TẠNG LUẬN
SỐ 1795 - ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG VIÊN GIÁC TU ĐA LA LIỄU NGHĨA LƯỢC SỚ
Kim Tử Quang Lục Đại Phu Thủ Trung Thư Thị Lang Thượng Thư Môn hạ Bình Chương Sự Sung tập Hiền Điện Đại Hịch sĩ Bùi Hưu soạn.
SỐ 1795 - KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG VIÊN GIÁC TU ĐA LA LIỄU NGHĨA
SỐ 1795 - LƯỢC SỚ CHÚ KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG VIÊN GIÁC TU-ĐA-LA LIỄU NGHĨA
KHUÊ PHONG ĐỊNH TUỆ THIỀN SƯ DAO BẨM THANH LƯƠNG QUỐC SƯ THƯ
Loài khí huyết chắc chắn có sự hiểu biết, hễ có thể hiểu biết thì phải đồng thể, cho nên nói chân tịnh minh diệu hư triệt linh thông tuyệt vời mà riêng còn, là bản nguyên của chúng sinh cho nên gọi là tâm địa, là sở đắc của chư Phật, cho nên gọi là Bồ-đề, thấu triệt dung nhiếp lẫn nhau cho nên gọi là pháp giới, thường lạc vắng lặng, cho nên nói Niết-bàn, không nhơ không lọt rớt, cho nên nói thanh tịnh, không dối không đổi, cho nên nói chân như, xa quấy lìa lỗi cho nên nói Phật tánh, giữ lành ngừa xấu cho nên nói tổng trì, ngầm kín ẩn chứa, cho nên nói Như Lai tạng, siêu vượt huyền bí, cho nên mật nghiêm quốc, bao gồm các đức mà đầy đủ, soi chiếu các tối tăm mà riêng sáng, cho nên nói Viên giác, kỳ thực điều là nhất tâm. Trái là phàm phu, thuận là bậc Thánh, mê thì sinh tử bắt đầu, ngộ thì luân hồi chấm dứt, tự cầu thì chỉ quán định tuệ, suy rộng thì sáu độ muôn hạnh, dẫn ra là trí, sau đó là chánh trí, nương đó làm nhân, sau là chánh nhân, kỳ thực đều là một pháp. Trọn ngày Viên giác, mà chưa từng Viên giác là phàm phu, muốn chứng giác nhưng chưa cùng tột viên giác là Bồ-tát. Viên giác đầy đủ mà giữ gìn viên giác là Như Lai. Lìa Viên giác không có sáu đường, bỏ viên giác không có ba thừa, không viên giác chẳng có Như Lai, mất đi viên giác không có chân pháp, kỳ thật đều là nhất đạo. Sở chứng của chư Phật ba đời, đều chứng ở đây. Như Lai vì một việc lớn mà ra đời. Tất cả kinh điển, mười hai bộ kinh trong ba tạng. Nhưng thừa giáo của Như Lai, tông chỉ pháp có hiển mật, lập nghĩa có rộng lược, thừa thì có trước sau, đương cơ có sâu cạn, chẳng phải thượng căn viên trí, người nào có thể đại thông? cho nên Như Lai đối với Quang Minh tạng cùng mười hai đại sĩ ngầm nói mà diễn bày rõ ràng, tiềm ẩn thông suốt mà rộng rãi, để ấn định pháp kia, là tông chỉ của tất cả kinh. Thiền sư Khuê Phong đắc pháp với Hà Trạch, là cháu đích tôn của nam ấn thượng túc Hòa thượng Đạo Viên, một ngày kia theo chúng tăng ở Châu Thị tại nhậm quán gia phó trai, ngồi ở dưới theo thứ lớp nhận kinh, tình cờ được viên giác liễu nghĩa, quyển cuối, cảm ngộ rơi nước mắt, quay về đem chỗ ngộ thưa với thầy, thầy vỗ về nói: Ông sẽ mở rộng giáo pháp viên đốn, kinh này chư Phật trao cho ông. Thiền sư khâm phục nam tông mật ấn, được viên giác huyền ký, bấy giờ xem Đại tạng kinh luật, duy thức, luận khởi tín... sau đó đốn ngộ pháp giới Hoa Nghiêm, ngồi yên nơi viên giác diệu tràng, nghiên cứu chỗ thấm của giọt mưa, cùng tột sự khác nhau của năm giáo, chính là sớ giải. Phàm đại sớ ba quyển, đại sao mười ba quyển, lược sớ hai quyển, tiểu sao sáu quyển, đạo tràng tu chứng nghi mười tám quyển
SỐ 1795 – ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa.. Tựa Kinh 5 đều truyền bá ở đời. Giáo ấy là viên, kia thấy pháp cũng triệt, giải thích nghĩa cũng như chẻ củi, nhập quán cũng rõ như cầm đuốc, từ ngữ cũng cùng cực nơi lý mà thôi, không luống dối, văn đó cũng nâng đỡ giáo mà thôi, không tùy tiện, không vì sở trường của người bệnh kia cho nên không bài bác, không vì chưa được đến chỗ bao trùm người, cho nên không bàn luận đến hoài bão, rõ ràng là mắt của mười hai bộ kinh, cốt tủy của ba mươi lăm vị tổ, đại bổn của sinh linh, đạt đạo của ba đời. Đời sau tuy có người làm, nhưng cũng không thể hơn, là một trong bốn chỗ nương, hoặc đích thân nghe ở cõi tịnh độ ư! Làm sao cùng tận nghĩa lý như thế.
Có người nói:
-Đạo không hình tướng, người nhìn chẳng thể thấy; đạo không nơi chốn, người đi chẳng đến; huống chi văn tự ư! Ở nơi tánh mà thôi! Đâu dùng mấy muôn lời mà nói được ư!
Đáp: Than ôi! Không đáng nói, trước không nói hay sao! Gom chung các đức mà đầy đủ soi chiếu chỗ tối tăm mà riêng sáng là Viên giác. Bởi Viên giác có công năng lưu xuất ra tất cả pháp. Tất cả pháp không hề rời Viên giác. Nay văn ba tạng kinh, luật, luận truyền đến Trung Quốc hơn năm ngàn quyển, giải thích những gì? Chỉ là giới, định, tuệ mà thôi! Tu giới, định, tuệ cầu cái gì? Chỉ là cầu Viên giác mà thôi.
Mở ra muôn hạnh mà cầu cái gì? Căn khí của chúng sinh khác nhau, nhưng Đại tạng đều là kinh Viên giác, sớ này là sớ của Đại tạng. Văn khắp năm ngàn quyển dùng sớ vài quyển mà thông hiểu, đâu không đơn giản ư! Sao nói là phiền toái, và sự phiền toái ấy làm mất đường nói năng, dứt tâm suy nghĩ, quên năng sở, diệt ảnh tượng, sau mới đạt được. Cố nhiên không giải thích bên ngoài, than ôi! Chỗ qua lại của sinh linh là sáu đường, quỉ thần chìm trong khổ u sầu, chim thú ôm ấp lo buồn của khỉ, Tu-la mới tức giận, các trời ưa vui, hãy sửa tâm suy nghĩ Bồ-đề, chỉ loài người là có khả năng mà thôi, thân người mà không làm, thì cuối cùng thế nào? Nghỉ ngơi thường dạo chơi ở cõi Thiền sư, được nghe sự giảng nói của Thiền sư, không nhờ tự mình so sánh, chắc chắn là khen ngợi pháp ấy, mà bày tỏ khắp đại chúng, thật ra họ có đủ bài tựa gốc.
----------------------
Sa-môn Tông Mật chùa Thảo Đường ở núi Chung Nam đời Đường soạn.
Nguyên hanh lợi ích cho Đức của Trinh càn, bắt đầu một hơi thở, thường, lạc, ngã, tịnh là đức của Phật, vốn ở nhất tâm, chuyên một hơi mà đến cùng, tu nhất tâm mà thành đạo tâm, dựa vào hư không thuần túy sáng suốt linh minh không đi không đến, ngầm thông ba cõi, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài thấu suốt mười phương; không diệt không sinh, đâu thể bị bốn núi làm hại? Lìa tánh lìa tướng, đâu thể bị năm màu làm mù? Trong lòng sống chết, hạt châu ngựa ô chiếu rọi nơi biển xanh, ngồi bờ Niết-bàn, mặt trăng chiếu sáng trên trời xanh thật lớn thay! Muôn pháp luống dối duyên hội mà sinh, pháp sinh vốn không, tất cả Duy thức, thức như huyễn mộng, chỉ là nhất tâm. Tâm vắng lặng mà biết, soi thấy viên giác, đầy khắp thanh tịnh, trong đó không dung vật khác, cho nên dụng của đức vô biên, đều cùng một tánh, tánh khởi là tướng, cảnh trí rõ ràng, tướng được tánh dung, thân tâm rộng rãi, ấn chứng khắp nơi, vượt qua thái hư kia, lồng lộng, chói chang! Ra ngoài sự nghĩ bàn. Phật của ta chứng đây, thương xót loài mê tình, lại khen ngợi lạ thay! Ba lần suy nghĩ việc lớn, đã đầy đủ mười lực, có thể hàng phục ma quân dưới cội cây, thương mến khởi tứ tâm, muốn chỉ bày kho báu trong nó, nhưng mê đầu bỏ cha, ngộ có khó dễ, vườn lộc dã là đạo tràng giác ngộ, giáo khởi đốn tiệm, tiệm lập năm thời khác nhau, không hữu nhiều lần rõ ràng, đốn không có sự khác nhau của hai đế, bặt dứt đối đãi linh hồn, nay kinh này thuộc loại đốn, cho nên Như Lai vào cõi Tịch quang, Phàm Thánh một nguồn hiện thân thọ dụng, chủ bạn đồng hội, đại sĩ Văn-thù mở đầu hỏi lý do của bổn khởi, Bạc-già Chí tôn, ban đầu nêu lên quả rốt ráo, chiếu chân thể này, dứt mộng mị kia, biết không nhân ngã, ai chịu trôi lăn, các thứ huyễn hóa sinh trong tâm giác, hết huyễn thì giác viên, tâm không pháp biến, tâm vốn là Phật, do niệm khởi mà chìm đắm, bờ thực không dời do thuyền đi mà thấy bở chạy, mau dứt bỏ vọng tưởng, hư không không sinh hoa đốm, dần dần hết nguồn ái, vàng không có quặng. Lý bặt dứt tu chứng, trí như bực thềm khác nhau, giác trước thì trước quấy, gọi là vị sau này, huống gì là vọng tưởng sinh diệt, các đức tròn sáng ư! Nhưng ngựa giỏi ra khỏi chuồng, đã xa thấy bóng roi, chôn báu lớn dưới bụi đất, mới lập ra cách chữa trị.
Cho nên ba quán trong suốt, chân giả đều nhập vào, các luân tốt đẹp, đơn kép tròn tu, bốn tướng ẩn trong tâm, chẳng giác chống trái, bốn bệnh sinh ra, hoa lòng nở tươi, lại khiến thời gian dài nhớ niệm nhiếp niệm mà gia hạnh, huân tập riêng lẫn nhau nghiệp chướng mê hoặc, chướng mới tiêu mất thành tựu tuệ thân, yên tĩnh giác khắp, trăm ngàn thế giới cảnh Phật hiện ra, chính là do nghe năm thứ danh, vượt cõi báu thí phước, nói nghĩa
SỐ 1795 – ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa.. Tựa Kinh 9 nửa bài kệ, hơn cả Tiểu thừa hà sa, thật là do chẳng pháp nào không giữ, không có căn cơ nào không trùm! Than ôi! Ba ca hòa chúng, giống như tâm vượn rong ruổi, tuyết khúc là ít, liễu rõ nghĩa ẩn ở long tạng, đều chìm trong nôm lưới, chỉ vị cám gạo, may ở trên sông bồi hợp nhau thì gặp nhau, thiền gặp nam tông, giáo gặp kinh này, một lời nói tâm địa mở mang, trong sách vở, nghĩa trời soi sáng, khoảnh khắc đạo chẳng phải đạo thường, các hành pháp là vô thường, nay biết tâm là tâm Phật, chắc chắn sẽ thành Phật, nhưng Phật gọi là chủng trí, tu nhờ học rộng, cho nên lại đi đến trăm thành, ngồi thăm dò sách vở, giảng tuy rộng khắp, học khởi lại ân sư, được tắm gội nạp thọ như ta, lầm làm con dấu của chân tử, lại gặp bạn thân, càng cảm ơn Phật, giây lâu than thở cô đơn nghèo khổ, trình bày pháp thí, thu thập Bát-nhã, xâu suốt Hoa Nghiêm, nắm dắt Tỳ-ni, phát minh Duy thức, nhưng thuốc chữa muôn bệnh, nên chọn đối trị, báu biển ngàn thứ, trước tìm như ý, quán xét văn dồi dào nghĩa rộng khắp, thật nhường tạp hoa chỉ thể gieo cơ, không phải đều là viên giác, cho nên tham khảo các luận rõ ràng, các nhà hiểu biết cẩn thận kỹ càng, để lợi ích chúng sinh mới soạn sớ giải, suy nghĩ Thánh chỉ, nghiên cứu đến cùng, nghĩa đủ tánh tướng, thiền gồm đốn tiệm, gom thành ba quyển, để truyền gắng học, nhưng phẩm thượng trung hạ, căn cơ tánh dục khác nhau, nay đem pháp đó thành cong, theo sự dễ dàng, càng tìm tòi chỗ tinh yếu, chú thích thẳng kinh này, ngõ hầu ngay nơi sự là tâm, ngày càng lợi ích, ngày càng tổn giảm.
Sa-môn Tông Mật chùa Thảo Đường núi Chung Nam đời Đường soạn.
1. Mười môn để giải thích kinh này:
Để giải thích kinh này, có chia làm mười môn.
1. Nhân duyên có kinh này.
2. Thuộc về tạng thừa nào.
3. Phân biệt quyền thật.
4. Bờ mé sâu xa.
5. Trùm khắp cơ nghi.
6. Thể tánh Năng thuyên.
7. Tông thú chung riêng.
8. Tu chứng thềm bậc khác nhau.
9. Giải thích chung tựa đề.
10. Giải thích riêng nghĩa văn.
Môn thứ nhất: Ban đầu có chung riêng, chung nghĩa là nhân đáp trả, do đáp trả nên thỉnh cầu nói về lý độ sinh, giáo pháp một đời hưng thịnh đều nhờ đó. Bản ý của Phật chỉ vì một lý do lớn. Riêng thì có mười việc làm cho nên nói kinh này.
1. Nói lên nhân hạnh có nguồn gốc, chiếu soi tròn đầy tịnh giác, hiểu rõ vô minh là không, phát tâm thanh tịnh mới tu muôn hạnh.
2. Dứt bặt quả tướng thành viên, vốn không có Bồđề, Niết-bàn, chỉ là giác tánh thanh tịnh, cho nên không có trước, sau, thêm, bớt, mới là quả rốt ráo.
3. Quyết định lựa chọn ngộ lý nên tu. Ý Phổ Hiền hỏi rằng: giác tánh vốn tròn đầy, tất cả như huyễn, huyễn không vô thể, ai là người tu hành? Nếu như không tu thì nhờ đâu chứng giác! Phật nói do khởi huyễn trí để dứt các huyễn, huyễn hết trí mất, giác tâm tròn sáng. Nhưng nay chỉ nói không huyễn, chìm trong vô tu, những người tu tập bị ràng buộc bởi hữu đắc, do ngộ ý tu, dường như trái mà lại phù hợp. Cho nên rất khó rõ, lý phải lựa chọn. 4. Cùng tận sâu sa niệm nghi ngờ, Bồ-tát vặn hỏi ý rằng: Chúng sinh vốn là Phật, nay đã là vô minh, Như Lai trong mười phương sau ứng với phiền não, Phật đáp ý rằng: ngay nơi phân biệt này chính là vô minh, cho nên thấy được viên giác cũng đồng trôi lăn, như do mây trôi mà thấy mặt trăng đi, chỉ một niệm bất sinh, thì mé trước, sau dứt, như mắt lành bệnh thì hoa đốm biến mất... chúng sinh tức là Phật, ít người có khả năng biết được, biết mà ít tin, tin mà ít hiểu, hiểu cũng khó đạt đến cảnh giới này, nay kinh giải quyết rõ, nói thật cùng nguồn, nếu tinh thông được thì các nghi ngờ tự cởi mở.
Dứt trừ cội gốc luân hồi, phát nghiệp thành chủng vô minh là gốc, thấm nhuần nghiệp thọ sinh, tham ái là gốc, nếu không biết tướng thì liền thành kẻ giặc. Nếu chẳng đạt được "không" thì không bao giờ dứt trừ, cho nên trả lời với ngài Văn-thù, Di-lặc, nghiên cứu cùng tột cội nguồn của nó.
5. Tìm tòi Bồ-đề ẩn chướng, nói ngã nhân chúng sinh thọ mạng, tuy gọi đồng các giáo, mà hành tướng sâu kín từ thô đến tế xoay vần khó dứt, cho nên một chương tịnh nghiệp tìm kiếm nhiều lớp.
6. Văn ít mà có khả năng thâu nhiếp nhiều môn, văn chỉ có hai mươi tám tờ, nghĩa đầy đủ đốn tiệm không hữu ngộ tu tánh tướng.
7. Trong mỗi pháp, mỗi văn chỗ nào cũng nêu y viên giác kiết vào viên giác, khéo trùm ba căn, môn phổ nhãn quán bao trùm thượng căn, các luân ba quán bao trùm trung căn, đạo tràng gia hạnh bao trùm hạ căn.
8. Dạy tu xứng tánh đi sâu vào thiền, ba pháp quán đều dùng ngộ tịnh viên giác làm gốc.
9. Khuyến khích việc lìa tướng, rõ minh sư, "Phật vốn là" mà lại khuyên tu, hoặc vốn không mà phải dứt, không có khuôn phép để bắt chước, không dấu vết để nương theo, quyết phải lìa tướng, minh sư dẫn dụ, cho nên dạy gần gũi, suốt đời quên thân.
Môn thứ hai. Thuộc về tạng thừa nào: Trong ba tạng thuộc về tạng kinh. Trong hai tạng thuộc về Bồ-tát tạng, trong các thừa thuộc về Nhất thừa, trong mười hai phần:
1. Khế kinh.
2. Ứng tụng.
3. Thọ ký
4. Phúng tụng.
5. Nhân duyên.
6. Tự thuyết.
7. Bổn sự.
8. Bổn sinh.
9. Phương quảng.
10. Vị tằng hữu.
11. Thí dụ.
12. Luận nghị.
Khế kinh, Phương quảng thuộc về hai phần.
Môn thứ ba. Phân biệt quyền thật: Nhưng Tây Vực và phương Đông (Ấn độ, Trung quốc) các bậc tôn đức xưa nay lập tông phán giáo đều ly, hiệp khác nhau. Hoặc nhất vị không phân, hoặc khai tông phân biệt, nay sẽ nói lược, lại chia ra hai môn, ban đầu thì không phân, sau nói rõ phần giáo.
Ý không phân chia có năm:
1. Lý vốn một vị khác nhau đồng quay về.
2. Một âm ứng khắp, một giọt mưa thấm cùng.
3. Vốn bản ý của Phật là một việc.
4. Tùy theo mỗi văn mà mọi người hiểu khác nhau.
5. Nhiều cách nói pháp thành dòng nhánh cho nên không thể phân, tức là Lưu-chi đời hậu Ngụy, La-thập Diêu Tần, lập một âm giáo, chính là ý này. Phân chia giáo có tám ý, ban đầu là năm phiên, trước sau có ba thuyết khác nhau.
1. Lý tuy một vị, giải thích có cạn sâu.
2. Phật tuy một âm giáo nhưng tùy căn cơ khác nhau.
3. Bổn ý chưa nói, tùy theo ý ngữ của người nghi.
4. Nói có chung riêng thì nói theo hiển.
5. Do phân biệt quyền thật, không trụ ở dòng nhánh.
6. Mật ngữ của vua, lời tuy đồng mà việc khác.
7. Không biết ơn Phật, cho sâu là cạn, mất lợi ích lớn, cho cạn là sâu, luống mất công đức.
8. Chư Phật, Bồ-tát cũng tự phân chia, do các ý này, khai thì được nhiều mà mất thì ít, hiệp thì được ít mất nhiều, chỉ có thể luống mình cầu đồng phần, cũng đâu trái với ý chính, cho nên nay phân.
Nhân phân giáo, lại các đức khác nhau, ở đây theo Đại sư Hiền Thủ, gom chung làm năm:
1. Tiểu thừa giáo.
2. Đại thừa thỉ giáo.
3. Chung giáo.
4. Nhất thừa đốn giáo.
5. Viên giáo.
1. Ban đầu tùy theo căn cơ, tùy theo tiếng nói của họ mà nói các pháp số hoàn toàn khác nhau, vì để phân biệt tà chánh, phân biệt phàm Thánh, phân biệt ham thích nhàm chán, nói về nhân quả, nhưng pháp số sở thuyết có bảy mươi lăm, chỉ nói người không, chẳng nói pháp không, chỉ nương vào sáu thức ba độc, lập ra nhiễm tịnh căn bản, chưa cùng tận cội nguồn các pháp, cho nên có nhiều tranh luận.
2. Thỉ giáo: cũng gọi là phần giáo, vì thâm mật thứ hai, thứ ba, thời giáo cùng cho là định tánh, vô tánh đều không thành Phật, nay hợp chung lại thành một giáo, đây đã chưa rõ pháp lý Đại thừa cho nên lập làm ban đầu có người không thành Phật, nên gọi là phân, nói rộng pháp tướng, lược bỏ chỗ rườm rà ghi số còn một trăm, ít nói pháp tánh, pháp tánh đã nói tức là pháp tướng số, lựa chọn rõ ràng cho nên ít tranh luận.
3. Chung giáo: cũng gọi Thật giáo, chủ trương Nhị thừa định tánh, Xiển-đề vô tánh, đều sẽ thành Phật, mới nói thuyết cùng tột Đại thừa, cho nên lập thành Chung, vì xứng với thật lý cho nên gọi là thật, ít nói pháp tướng phần nhiều nói pháp tánh, đã nói pháp tướng cũng sẽ quy về tánh, cho nên không tranh luận. Hai giáo trên đều y theo địa vị thứ lớp tu thành, chung gọi là tiệm. Nhưng Đại thừa giáo gồm có ba tông, cho rằng pháp tướng bác bỏ tướng, cả hai đều là bắt đầu của Tiệm giáo, tức là hai vị Luận sư Giới Hiền và Trí Quang, mỗi vị y theo một kinh lập ba thời giáo, bác bỏ lẫn nhau, mà người truyền bá tu tập đều theo kinh pháp tánh, thành lập nghĩa của tông mình.
Pháp tánh có cả đốn tiệm, Tiệm tức Chung giáo, Chung với Thỉ, đốn ở sau sẽ nói.
Nay pháp tánh là phân biệt với hai tông, tức là hai môn: Một là đối pháp tướng; hai là đối phá tướng. Trong phần đầu, hai tông tánh tướng có nhiều khác nhau, ở đây tùy theo loại thúc lược mà trình bày mười điều.
1) Ba thừa, tánh có năm, trước là tiểu, kế là một bất liễu, sau đủ ba thừa là liễu, Thâm mật...
Nhất thừa: Tánh là một, trước là Tiểu, kế là hai bất liễu, sau chỉ có nhất thừa là liễu, như Pháp Hoa...
2) Năm tánh: trong kinh Lăng-già... đều nói năm tánh.
Nhất tánh: kinh Pháp Hoa, Lăng-già, Niết-bàn đều chỉ nhất tánh. Thanh văn thú tịch các cõi Phật khác, Bồtát được thọ ký cũng sẽ thành Phật. Xiển-đề có Phật tánh, Nhiếp luận lập pháp, một ở ba sau cho nên Pháp Hoa bác bỏ ba, thường oán trách ganh ghét.
3) Duy tâm vọng: tám thức từ hoặc nghiệp sinh ra. Chân: tám thức có cả Như Lai tạng.
4) Chân như bất động: tám thức sinh diệt, cho nên chẳng phải tùy duyên.
Tùy duyên: tám thức nương vào tạng tánh, cho nên chỉ là chân như tùy duyên thành lập.
5) Ba tánh không hữu lìa, biến kế không nương vào viên hữu, tức là vô tánh tức viên.
6) Chúng sinh và Phật không thêm không bớt, định tánh, vô tánh chắc chắn không thành Phật. Thế giới chúng sinh không diệt, một lý đều ngang nhau, không thêm không bớt.
7) Hai đế không hữu lìa, chân-tục rõ ràng, tức là không Đệ nhất nghĩa, bao gồm chân vọng.
8) Bốn tướng trước sau, diệt biểu, sau vô. Đồng thời thể tánh liền diệt.
9) Năng sở đoạn chứng lìa, sau căn thì duyên cảnh dứt hoặc, dùng trí hữu vi chứng lý vô vi, nghĩa là hoặc tức Bồ-đề, kiến là chân như.
10) Thân Phật hữu vi, bốn trí nương thức chủng sinh diệt. Báo thân hữu vi.
Vô vi: Trí nương Như Lai tạng, hóa thân Phật tức thường, tức pháp, không rơi vào các số, huống chi là báo thể!
Nếu biết quyền giáo thật giáo thì hai tông cũng không trái nhau. Nghĩa là theo căn cơ thì có ba, nói về pháp thì một, mới huân thì năm, sẵn có thì không hai... hai là đối phá tướng, lược có năm thứ khác nhau:
1. Vô tánh vì các pháp vô tánh là bổn tánh chân như, chân tâm thường trú là chân như.
2) Chân trí: có công năng hiểu rõ vô tánh. Chân tri: nhất tâm chân thật vốn tự có thể biết, có cả lý và trí, thấu suốt nhiễm tịnh, như phẩm Vấn Minh trong kinh Hoa Nghiêm nói.
Hai thứ hai đế sắc... là tục, không tức là chân.
3) Đế: Thêm Đệ nhất nghĩa đế, nghĩa là nhất chân tâm tánh chẳng phải không, chẳng phải sắc, có thể là không, có thể sắc, như sự trong sáng của gương.
4) Ba tánh không hữu, không có không hữu nghĩa là y chế, không nghĩa là viên thành tánh tông, tức biến kế (chấp) tình thì có, lý thì không, y tha thì tướng có, tánh vô, viên thành tình không lý có, tướng không tánh có.
5) Năm đức của Phật là không, mặc dù nói thân Phật năm cầu không được, đắc thì luống dối, vô đắc mới chân, lìa tất cả tướng gọi là công đức của Phật.
Hữu: Chư Phật đều có thường, lạc, ngã, tịnh công đức chân thật, thân trí thông quang mỗi đứa vô tận, tánh tự vốn có, không đợi cơ duyên. Phân biệt sơ lược năm thứ này, còn lại so sánh mà biết, nhưng được ý thì cũng không trái nhau, nghĩa là tất cả pháp đã đều là chân tâm duyên khởi, duyên khởi vô tánh lại tức là chân tâm. Thỉ không khác bổn, ngoài biết chẳng có trí, các đế tánh... lệ theo có thể rõ. Nhưng pháp môn này khác với trước sau, nhưng giáo có sự khác nhau giữa đốn tiệm, thỉ chung, pháp chẳng khác nhau về sâu cạn.
4. Đốn giáo: chỉ một niệm không sinh thì gọi là Phật. Không nói theo địa vị thứ lớp cho nên lập ra đốn. Kinh Tư Ích chép: Được chánh tánh các pháp không từ một địa đến một địa. Kinh Lăng-già chép: Sơ địa tức là Địa thứ tám, cho đến không thật có, làm sao có thứ lớp?
Nói chung không nói pháp tánh, chỉ nói chân tánh, tất cả sở hữu chỉ là vọng tưởng. Tất cả pháp giới chỉ là bặt lời, năm pháp, ba tự tánh đều không, tám thức, hai vô ngã đều bỏ đi. Trách giáo khuyên lìa, hủy tướng mất tâm, tâm sinh tức là vọng, không sinh tức là Phật, bặt dứt dấu vết mới hiển bày chân tánh.
5. Viên giáo: Nói một vị tức là tất cả vị, tất cả vị tức là một vị. Vì vậy tâm tràn đầy mười điều tin, liền nhiếp năm vị thành chánh giác... chủ bạn đầy đủ cho nên gọi viên giáo, tức là kinh Hoa Nghiêm. Chỗ nói chỉ là pháp giới vô tận, biển tánh viên dung, duyên khởi vô ngại, như cái lưới bằng hạt châu của trời Đế Thích nhiều lớp vô tận. Đã biết năm giáo thấu suốt ở chỗ những lời giải thích, chẳng hay kinh này và kia thuộc về giáo nào? Ở đây hiển rõ nghĩa này chia làm ba môn.
1) Kia hoàn toàn thuộc về đây, phần này nhiếp kia, nghĩa là Viên giáo.
2) Phần đây thuộc về kia, kia không thuộc đây, nghĩa là hai thứ đầu.
3) Kia đây khắc thể, hoàn toàn thuộc vào nhau, tức chung đốn.
Phân biệt quyền thật xong.
Môn thứ tư: Bờ mé sâu xa, y theo luận Khởi Tín nói về các pháp nhiễm bổn mạt năm lớp, để nói sở thuyên của các tông bờ mé sâu cạn, trong luận:
a) Ban đầu chỉ lấy nhất tâm làm cội nguồn.
b) Hai y vào nhất tâm chia ra hai môn:
- Tâm chân như môn: tâm tánh không sinh không diệt.
Tâm sinh diệt môn: nương vào Như Lai tạng hợp với sinh diệt, gọi là thức A-lại-da. c) Ba là nương vào thức này nói hai nghĩa:
- Nghĩa giác: (bổn giác, thỉ giác), là tâm thể lìa niệm...
Nghĩa bất giác: nghĩa là không biết pháp như thật chân như là một, bất giác tâm khởi... d) Bốn là nương vào nghĩa sau mà sinh ba thứ nhỏ nhiệm:
- Nương vào bất giác cho nên tâm động, gọi là nghiệp tướng.
- Y theo động cho nên có thể thấy, gọi là chuyển tướng.
Y theo thấy cho nên vọng hiện cảnh giới gọi hiện tướng. e) Năm: y theo sau cùng sinh ra sáu thô.
- Một là: trí tướng, nương cảnh phân biệt, tức là pháp chấp đều sinh.
- Hai là: Tương tục tướng: nương vào trí khởi niệm không dứt, tức phân biệt pháp chấp.
- Ba là Chấp thủ tướng: tâm khởi mê đắm, tức ngã chấp đều sinh.
- Bốn là: kế danh tự tướng: ngã kiến phân biệt, bốn việc trên đều mê hoặc.
- Năm là: khởi nghiệp tướng, chính là nghiệp.
- Sáu là: nghiệp hệ khổ tướng là báo, nói bờ mé sở thuyên của các tông, nghĩa là nhân thừa thiên thừa chỉ đều là nghiệp báo. Tiểu thừa chỉ có bốn thô sau. Pháp tướng cùng tột đối với ba nhỏ nhiệm. Chung giáo, đốn giáo đều giải thích bổn mạt mới cùng tận, ban đầu là nguồn nhất tâm, ban đầu là nguồn nhất tâm tức kinh này là viên giác diệu tâm. Kinh nêu viên giác làm tông bổn, nói pháp tịnh nhiễm đều từ giác tâm hiện khởi là lớp thứ nhất.
Cuối chương Văn-thù tức môn chân như, kinh gọi là Như Lai tạng khác nhau, tức sinh diệt môn. Đây là lớp thứ hai. Chương Phổ Nhãn: ngay nơi thỉ là bổn giác, nêu lên giải thích vô minh, tức là bất giác. Đây là lớp thứ ba. Chương Tịnh nghiệp tức là ba tế hai thô. Đây là lớp thứ tư. Chương Di-lặc: trước là nói về nhân quả luân hồi, tức bốn thô sau.
Đây là lớp thứ năm.
Môn thứ năm: Cho nên biết Viên giác cùng tột năm lớp. Nêu rằng: sâu xa là ở tại đây. Năm thứ bao trùm các ăn cơ, lược có hai thứ: ban đầu chọn lựa, sau nhiếp khắp, ban đầu nói đắm ưa danh tướng dùng văn giải thích. Là vướng mắc hạnh vị, cao suy Thánh vị tình còn nơi không, lời nói chạm đến người khác, tự cây thiên chân nhàm chán tiến lên tu tập. Như trên trên chẳng phải là khí (tài năng), trái với trên tức là khí sau thu, khắp là: tất cả chúng sinh đều sẵn có Phật tánh, chỉ được nghe đều được lợi ích, nghĩa là người căn cơ sâu xa ở đời trước thì ngộ nhập, người căn cơ cạn cợt thì tin hiểu, người đời trước không có hạt giống, cũng đều huân thành chủng tánh viên đốn, như kinh ví dụ ăn Kim cương trong Hoa Nghiêm.
Môn thứ sáu: năng thuyên thể tánh, lược làm bốn môn:
1. Tùy tướng môn: có hai thứ:
a) Thanh danh cú văn thể: thể dụng giả thật giúp nhau, cho nên kinh Thập Địa dụ vẽ gió trong hư không...
Thông nhiếp sở thuyên nghĩa, nếu không giải thích văn nghĩa thì chẳng phải giáo.
2. Duy thức môn: hai thứ trước không lìa thức, nhưng có sự khác nhau giữa gốc và bóng.
3. Quy tánh môn: thức này vô thể, chỉ là chân như.
4. Vô ngại môn: tâm cảnh lý sự thấu suốt dung nhiếp lẫn nhau. Vì pháp nhất tâm có hai môn, bảy tông, là chỗ y cứ của bộ, sở quy của tông.
Môn thứ bảy: Chung riêng: chung: là nói về Phật giáo lấy nhân duyên là tông, trong đó có Tiểu thừa không tông, pháp tướng, pháp tánh viên dung khác nhau, ở đây là pháp tánh.
-Riêng: nói kinh này lại có chung riêng, chung do tâm cảnh vắng lặng. Biến kế như rắn quỉ... dưới đây nói: chẳng làm cho nên vô...
* Tịch: y tha như cảnh tượng... ở dưới nói: bốn đại không động...
Giác tánh tròn đầy: do vắng lặng cho nên tròn đầy thành thật.
Phàm Thánh bình đẳng làm tông, ở dưới nói: giác tròn đầy, cho đến căn trần trùm khắp pháp giới. Khiến người tu hành quên tình, do ngộ tông liền cởi bỏ sự trói buộc của tám bất đẳng, Phật là do tình mất.
Quán hạnh mau thành làm thú hướng, lại lấy thú hướng trước làm tông, làm cho hoặc nghiệp tiêu diệt, dứt hẳn luân hồi, khởi thần dụng rộng lớn, an vui tự tại làm thú hướng.
Về riêng: có năm cặp:
1. Cặp Giáo nghĩa: Giáo thuyết làm tông, ý nghĩa làm thú hướng.
2. Cặp Lý sự: nêu sự làm tông, hiển lý làm thú hướng.
3. Cặp Cảnh hạnh: lý cảnh làm tông, quán hạnh làm thú hướng.
4. Cặp Hạnh tịch: quán hạnh làm tông, tuyệt quán làm thú hướng.
5. Cặp Tịch dụng: dứt quán tâm vắng lặng làm tông, khởi thần dụng rộng lớn làm thú hướng.
Năm cặp này cũng là từ trước khởi sau dần dần nương nhau. Tám thềm bậc tu chứng khác nhau là y theo văn giáo chỉ sinh hiểu nghĩa, quên thuyên tu chứng lại có pháp môn kia, cho nên dùng tâm truyền tâm nhiều đời không dứt. Từ Phật thuộc Ca-diếp xoay vần đến nay, đèn sáng nương nhau rõ ràng không dứt, nhưng nương pháp sở truyền không ngoài định, tuệ, ngộ, tu, đốn, tiệm. Vô định vô tuệ là cuồng là ngu, tu riêng một môn là vô minh tà kiến, hai pháp này nương nhau vận hành thành đấng Lưỡng túc (phước đức, trí tuệ) cho nên sự tu hành của tông Thiên Thai ở chỉ quán, đốn, tiệm, ngộ, tu của chỉ quán ấy.
Môn thứ tám: Đốn ngộ: mặt trời mọc trẻ em sinh, tiệm tu: sương tan trẻ lớn. Vì hiểu rõ tiệm tu đốn ngộ: chặt gỗ đem về kinh đô.
Đốn tu tiệm ngộ: chùi gương học bắn. Tiệm tu tiệm ngộ: như lên đài chín tầng, chân bước dần lên cao thì thấy dần dần xa, đồng thời chứng ngộ, hoặc đốn ngộ đốn tu, dứt sợi tơ nhiễm. Cho nên có cả ba nghĩa là ngộ ở trước, rõ ràng là đến hiểu. Sau tu, không đắm, không chứng, thênh thang hợp đạo, vì hiểu ngộ trước tu (uống thuốc) ngộ sau (lành bệnh) là tu chứng ngộ, vô tâm quên chiếu ngộ, nhậm vận biết vắng lặng. Cùng lúc liền thông hiểu chứng ngộ, hoặc nói sẵn có tất cả đức của Phật là ngộ như uống nước biển.
Nhất niệm muôn hạnh là tu, được vị trăm sông, cũng thông hiểu chứng, kinh Viên giác này đủ các thuyết trước. Chương Văn-thù chính là đốn giải ngộ, phổ nhãn quán thành là đốn chứng ngộ. Tam quán các luân là chứng ngộ tiệm.
Lại, ba quán mỗi quán nêu nêu ngộ tịnh viên giác, kế là nói hành tướng, sau hiển rõ công thành. Trong cặp đối đầu là đốn ngộ tiệm tu, chặng giữa và sau là đối chính là tiệm tu đốn ngộ, các đốn tiệm này đều nói dụng tâm, không đồng môn trước, chỉ là phán giáo. Nếu được ý kia đều thành định tuệ, như kia mất tôn chỉ vọng tưởng vô ký, mong các người học hiểu rõ mà tu, thứ chín, thứ mười hai môn kia, tùy theo bản văn chú giải, cho nên không có khoa đoạn.
Môn thứ chín giải thích tên kinh:
Kinh Đại Phương Quảng Viên Giác Tu-đa-la Liễu Nghĩa, năm chữ Đại phương Quảng Viên Giác là sở thuyên, nói viên giác là pháp, Đại phương quảng là nghĩa, cho nên trong văn nêu kiết thúc, ý chỉ được trình bày, mỗi lần chỉ nói Viên giác không nói đại... sáu chữ dưới thuộc về năng thuyên, nói kinh là giáo pháp, Tuđa-la liễu nghĩa là khen ngợi giáo có công năng thù thắng. Kinh có năm tên: đầu đề chỉ có hai, vì tông bổn thể dụng là cương yếu rộng lớn của pháp nghĩa, thuyên chỉ công năng là gương sáng của lời nói và cảnh tượng. Sự cùng nghĩa tận, nên lập năm tên, tiêu đề giản đơn còn giữ hai hiệu, ba chữ đại... là thể tướng dụng, mỗi chữ có hai nghĩa. Đại do đương thể mà được tên, thường khắp là nghĩa. Đương thể: Không đồng với tông pháp tướng, lựa chọn chữ đại của tiểu, ngoài "đại" có "tiểu" để chọn vẫn còn là phần hạn, đâu phải là chí đại! Nay do thể viên giác không bờ mé, dứt các phần lượng, gắng gượng gọi là đại. Thường khắp: thường thì dọc suốt ba đời, khắp thì ngang khắp mười phương. Thụ là quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung. Không có một pháp nào trước, chỉ trước với các phước đây, cho nên gọi là Đại. Kinh Niết-bàn chép: đại gọi là thường. Hoành là mười phương cùng tột không có bờ mé. Niết-bàn lại chép: nói đại là tánh nó rộng lớn giống như hư không. Phương theo pháp đặt tên, giữ gìn khuôn phép là nghĩa, liền sinh hiểu biết, nhậm trì tự tánh. Trì tự tánh là tất cả chúng sinh đều có bổn giác, mặt dù trôi dạt trong sáu đường thọ nhiều thân nhưng giác tánh này không hề mất đi. Sinh hiểu nghĩa là chúng sinh ngộ nhập tri kiến, tuy nhờ bạn lành chỉ bày: nhưng trí giải kia từ giác tánh sinh ra, như nước thấm vào đất sinh ra mầm, mầm từ giống sinh không từ nước đất, cho nên văn nói: Viên giác lưu xuất từ Bồ-đề, Niết-bàn và Ba-la-mật, chỉ dạy Bồ-tát. Quảng là từ dụng đặt tên, rộng rãi to lớn là nghĩa. Rộng lớn là tánh viên giác này: vốn có diệu dụng hơn bụi nhỏ, ngầm hưng thịnh, bí mật tương ứng không có ngơi nghỉ, không có cùng tận. Rộng lớn là dụng của vô tận, mỗi mỗi đồng với giác tánh, không có bờ mé, không có giới hạn.
Văn chép: giác tánh cùng khắp tròn đầy không giới hạn, nên biết sáu căn trùm khắp pháp giới. Viên giác là: chỉ thẳng pháp thể, nếu không khắc thể nêu chỉ, thì không biết hướng đến nói pháp nào lớn, pháp nào rộng. Viên là đầy đủ cùng khắp, ngoài ra không còn pháp nào khác. Giác là vắng lặng sáng rõ soi chiếu, không có niệm tưởng phân biệt, cho nên luận chép: nói nghĩa giác là nói tâm thể lìa niệm, tướng lìa niệm bằng thế giới hư không, tức là pháp thân bình đẳng của Như Lai, nương vào pháp thân, gọi là bổn giác. Giải thích: đây là giải thích văn của bản giác trong Như Lai tạng tâm sinh diệt môn, cho nên biết giác đây chẳng lìa phàm mà hạn cuộc Thánh, chẳng lìa cảnh mà hạn cuộc nơi tâm, tâm cảnh phàm Thánh vốn không, chỉ là linh giác, cho nên nói là viên.
Văn sau chép: Niết-bàn như giấc mộng, thế giới như hoa đốm trong hư không, chúng sinh vốn thành Phật đạo. Lại chép: nhất thiết giác. Lại nói: huyễn diệt, giác tròn đầy, hoặc chỉ một chữ giác là pháp, bốn thứ khác đều là nghĩa. Ý nói: giác này có nghĩa rộng lớn, có nghĩa vuông tròn, nghĩa là thể lớn và dụng rộng, lý vuông và nghĩa tròn, vuông là ngay thẳng không nghiêng, không tà, tròn là đầy đủ không thiếu không khuyết, cũng có thể là lớn. Vuông là thể rộng, viên là dụng, nghĩa là thể lớn mà vuông, chính là không nghiêng, dụng rộng mà tròn đủ không thiếu, cho nên lại dùng vuông liền với lớn, dùng tròn liền với rộng. Lại ba chữ trên là riêng, chữ viên là chung, ý rõ ràng, giác này có đủ đức của ba đại, môn của pháp nghĩa chỉ cho cả hai nên gọi là Đại phương quảng Viên giác, sau là năng thuyên ba chữ "Tu-đa-la" chỉ chung các kinh, hai chữ Liễu Nghĩa khen ngợi một bộ này là nghĩa quyết yếu của các kinh. Cho nên văn sau nói: chính là mắt thanh tịnh của mười hai bộ kinh.
Chữ kinh chính là bộ kinh này. Tu-đa-la, Hán dịch là Khế kinh. Khế: nghĩa là khế lý khế cơ, kinh nghĩa là nhiếp hóa xuyên suốt, nghĩa là xuyên suốt nghĩa nên biết, che chở chúng sinh được hóa độ. Liễu nghĩa là quyết lựa chọn rốt ráo nói hiển rõ, chẳng che đậy tướng rộng lớn của mật ý hàm ẩn, nhưng trong các kinh thì kinh nào là liễu nghĩa? Kinh nào không liễu nghĩa?
Đại sư Thanh Lương đáp: Thuận Tông Hoàng Đế Vấn Chư Kinh Liễu Nghĩa chép: giáo pháp một đời của Phật, nếu y theo việc gốc thì tám muôn độ môn đều là liễu nghĩa, nếu viên khí thọ pháp thì pháp nào cũng viên, được do người cũng đều là liễu nghĩa, hai điều này không đủ để phân biệt. Nay y theo pháp môn phương tiện chỉ bày tính chân thật, thì có liễu, bất liễu. Cho nên các kinh: Tịnh Danh, Niết-bàn, Bảo Tích đều chép: y vào kinh liễu nghĩa, không nương vào kinh bất liễu nghĩa. Kinh bất liễu nghĩa là nói Tiểu thừa giáo, Kinh liễu nghĩa gọi là giới Đại thừa. Đại thừa lại có liễu, không liễu, nghĩa là Đại thừa tuy sáu Độ, bi, trí, gồm tu, mà định nói tam thừa chẳng phải một, cũng chẳng liễu nghĩa, nếu có hội quy nhất cực. Vì Huyền Lô Đào đối với các tượng. Biển trí chung ở muôn dòng! Không hai, không ba không phải không thành Phật, lý quán trung đạo không chung với Nhị thừa, mới là liễu nghĩa. Lại, trong kinh Đại Bảo Tích chép: Xá-lợi-phất! Đối với kinh nào gọi là liễu nghĩa? Đối với kinh nào gọi là bất liễu nghĩa?
Xá-lợi-phất! Nếu các kinh nói về thế tục gọi là bất liễu nghĩa, nói thắng nghĩa gọi là liễu nghĩa, nói về tạo nghiệp gọi là bất liễu nghĩa, nói nghiệp phiền não hết gọi là liễu nghĩa, nói nhàm chán xa lìa sinh tử, thẳng cầu Niết-bàn gọi bất liễu nghĩa. Nói: sinh tử và Niết-bàn không hai không khác gọi là liễu nghĩa, nói các văn cú khác nhau gọi là bất liễu nghĩa, nói sâu sa khó thấy khó biết gọi là liễu nghĩa.
Giải thích rằng: y theo trên nói thì hành tướng liễu nghĩa, đều tương đương với Viên giác. Ngay nơi Phật tự chọn lựa cho nên lẽ ra không có hoặc. Kinh là Khế kinh, cũng như trên giải thích, liền theo sự đơn giản, lại lược bỏ chữ Khế.
Hỏi: Tu-đa-la và kinh chỉ là văn khác nhau của tiếng Phạm đời Đường, nay cả hai để vào đề mục, đâu chẳng phải rườm rà ư?
Đáp: Trên thì chỉ chung các bộ, ở đây thì chỉ kinh này, đối chung khen riêng, cho nên chẳng phải rườm rà. Cũng như kinh Đại Phương Đẳng Tu-đa-la vương, đâu chẳng phải cũng bốn chữ Tu-đa-la vương là chỉ chung các bộ để khen ngợi kinh ấy ư!
2. Nói về người dịch kinh:
Sa-môn nước Kế Tân là Phật-đà-đa-la dịch. Trong Khai Nguyên Thích Giáo Mục Lục chép: Phật-đà-đa-la đời Đường dịch là Giác cứu, người nước Kế Tân bắc Ấn Độ, ở đông đô chùa Bạch Mã, dịch bộ Kinh viên giác, không ghi năm tháng, Tục Cổ Kim dịch kinh đồ kỷ, và trinh nguyên mục lục cũng giống nhau. Bản sớ của Pháp sư Đạo Thuyên chùa Tạng Hải ở bắc đô lại chép: Tam tạng Pháp sư Phật-đà-đa-la người Yết thấp di la, vào năm Quý Tỵ thuộc niên hiệu Trường Thọ thứ 2 đem bản tiếng Phạm đến thần độ, ở chùa Bạch Mã truyền dịch hai quyển, tổng cộng hai mươi tám tờ. Trong đó sự ghi chép, chứng nghĩa, nhuận văn, các đức đủ như lục khác. Dưới đây chính thức giải thích văn kinh, chia làm ba phần, đó là phần tựa, phần chính, và phần lưu thông. Trong bài tựa thì chứng tín là phát khởi, nói Phật nhập đại quang minh tạng, cùng tất cả Phật đồng trú trong giác địa thanh tịnh của chúng sinh, hiện khắp các cõi, Bồ-tát chủ bạn đều vào chánh định, cùng một cảnh Phật để nói lên nhân quả không khác, phàm Thánh cùng nguồn, hiển phát chỉ thú kinh này như thế. Nhưng bài tựa chứng tín các kinh đều giống nhau, là A-nan thưa thỉnh, Phật dạy để nhập, cũng là dứt sự nghi ngờ, tranh chấp và các điều tà vạy khác. Nhưng tuy có sáu thứ thành tựu, nhưng ở đây tùy theo văn đều chia ra rộng-lược, có ba phần:
3. Nói về sáu thứ thành tựu:
1. Tín văn thời chủ.
2. Thuyết xứ y chân.
3. Pháp chúng đồng thể. 1) Trước là tín văn thời chủ.
a) Tín thành tựu: Như vầy: lại gồm cả tôi nghe hợp lại giải thích, tức là từ chỉ pháp. Pháp như vầy tôi nghe Đức Phật nói. Luận Phật Địa chép: nghĩa là khi kiết tập các chúng Bồ-tát đều thỉnh nói, như điều ông đã nghe sẽ nói như thế, Bồ-tát truyền pháp liền cho phép kia nói, như vậy sẽ nói: Như điều ta đã nghe, giải thích rằng vì kinh Phật Địa được nói ở tịnh độ, luận giải thích người kiết tập nói là Bồ-tát
Lại, Toản linh ký chép: Tạng Đại thừa, Văn-thù-sưlợi và A-nan-hải kiết tập ở giữa núi Thiết vi. Ly thích như thế là tín thành tựu. Trí luận chép: Phật pháp như biển lớn, tin thì vào được, có trí thì qua được. Tín, ý nói việc này như vậy, không tin ý nói việc này không như vậy, cho nên tăng Triệu nói: Từ ngữ tin thuận, tin cho nên lý nói ra là thuận, thuận thì đạo thầy trò được thành. Lại nữa, bậc Thánh nói pháp chỉ vì nói lên chân như, chỉ như là thế, cho nên gọi là như thế, lại nữa chân không trái tục, gọi như, tục thuận theo chân là thị, lại như: là nói theo lý, thị là chẳng phải vô.
b) Văn thành tựu: Lại nữa "hữu vô" không hai là như, như chẳng phải hữu vô là thị, nếu chỉ y theo kinh này thì Phàm Thánh, nhân, quả không khác viên giác gọi là như, chỉ có nhân quả này mới lìa lỗi lầm là thị. Tôi nghe là nghe thành tựu, tôi tức là Văn-thù và A-nan-hải, Năm Uẩn giả vì sao nói tôi? Ngã có bốn thứ:
1. Biến kế của phàm phu.
2. Chấp tông của ngoại đạo.
3. Các bậc Thánh tùy theo thế tục nên giả chia ra chủ khách.
4. Pháp thân chân ngã.
Ở đây chính là hai thứ sau, cho nên không lỗi. Nghe nghĩa là nhĩ căn phát thức, tuy nhân chỗ tai, bỏ riêng theo chung nên gọi là tôi nghe, chẳng phải tâm tà mạn mà có sở thuyết, nếu là tông vô tướng thì tôi đã không, tôi nghe cũng không nghe, từ duyên không cho nên không hoại giả danh tức không nghe mà nghe như vậy, nếu y theo pháp tánh thì chỉ thú kinh này là Bồ-tát truyền pháp, do sự nhiệm mầu chân ngã của ngã, vô ngã không hai, căn cảnh chẳng phải một, chẳng phải khác nên tai nghe pháp môn chân tục không ngại.
Môn thứ mười là đi vào chánh văn:
c) Thời thành tựu: Một thuở nọ là thời thành tựu, thầy trò hội họp nói nghe rốt ráo, nói chung là một thuở nọ. Một thuở nọ để phân biệt với các thuở khác, thuở là tùy theo thế tục giả lập, Như Lai nói kinh có vô lượng thuở, không thể nêu riêng, một lời nói sơ lược mà cũng khắp nên chỉ nói một thuở nọ. Như kinh Niết-bàn chép: "Một thuở nọ, Phật ngự bên bờ sông Hằng...". Lại, các nơi chia thuở ra dài ngắn khác nhau, cho nên chỉ nói một thuở nọ, nếu y theo đương tông, tức là thuở nọ của nghe, tâm cảnh bị mất nơi lý, trí dung cả phàm Thánh, như bổn giác thỉ giác hội lại, các thứ hai pháp này đều là thuở nọ của một.
d) Chủ thành tựu: Bà-già-bà là chủ thành tựu. Kinh Niết-bàn chép: có khả năng dứt bỏ phiền não gọi là Bà-già-bà, tức là đức dứt, để hiển bày pháp thân, các kinh nói về Tịnh độ thì không chia pháp thân, báo thân, chẳng phải ứng thân hóa thân.
Cho nên kinh Phật Địa chép: "Bạc-già-phạm này là tịnh giác thanh tịnh bậc nhất", cùng tột pháp giới, cùng tận hư không, cùng tận vị lai, nếu theo các kinh, thì chữ Phật này, thường dịch là giác giả. Nghĩa là tâm thể lìa niệm vì hiểu rõ chân vọng tánh tướng. Giác có ba nghĩa: tự giác, giác tha, giác mãn.
Nếu y theo luận Phật Địa thì có mười nghĩa, nghĩa là có hai trí lìa hai chướng, đối với tất cả tánh tướng có khả năng tự khai giác, cũng có khả năng khai giác cho tất cả hữu tình, như ngủ thức giấc, như hoa sen nở, nên gọi là Phật. Nếu theo Hoa nghiêm thì nói mười loại Phật, nghĩa là thành chánh giác Phật, nguyện Phật, nghiệp báo Phật, trú trì Phật, Niết-bàn Phật, pháp giới Phật, tâm Phật, Tam-muội Phật, bổn tánh Phật và tùy nhạo Phật, nếu ra khỏi thể ấy tức là viên giác. Như trong đề giải thích hai thuyết trong tựa đề. Nương chân là xứ thành tựu, nghĩa là Phật nhập nguồn pháp tánh, hiện vô biên vô ngại cõi, cũng không định phân tự tha thọ dụng, cho nên nói nương chân. Nhưng các kinh Đại thừa nói trong tịnh độ, nay lược nêu mười kinh để làm ví dụ: kinh Thâm mật, kinh Pháp tập, kinh Xưng tán Đại thừa, kinh Mật nghiêm, kinh Tâm ấn, kinh Hưng hiển, kinh Đại Tỳ-lô, kinh Nhập ấn pháp môn, kinh Hư không tạng, kinh Phật địa. Nói: Tôi nghe như vậy, một thuở nọ Bạc-già-phạm, trụ trong ánh sánh rực rỡ nhất, phát ra ánh sáng soi chiếu khắp vô biên thế giới, trùm khắp không có bờ mé, vượt qua ba cõi, chỗ đã đi qua, luận ấy giải thích rằng: cõi này thuộc về cõi thọ dụng, Phật nói kinh này là thân thọ dụng, tịnh độ này bờ mé vô biên tế cho nên như vậy. Là cõi lẽ ra Bồ-tát Địa thượng phải thấy nghe, vì sao ở trong cõi hóa này kiết tập truyền bá?
Luận tự đáp rằng: Phật nói cho các Bồ-tát Địa thượng nghe, dạy truyền pháp là kiết tập lưu thông, lại nói: khi Phật nói kinh này thì đại chúng Địa tiền, thấy thân biến hóa ở cõi uế này nói pháp cho họ nghe. Đại chúng Địa thượng thì thấy thân thọ dụng ở tịnh độ của Phật nói pháp cho họ nghe. Chỗ nghe tuy đồng, nhưng chỗ thấy đều khác, vì khiến cho chúng sinh nghe nguyện cao siêu chứng đắc công đức của Phật, cho nên y theo sự cao siêu ấy mà được kiết tập, nói Bà-già-phạm trụ trong tối thắng... Trong văn có hai:
- Trước là nhiếp tướng về chân
- Sau là xứng chân hiện cõi. Trong phần đầu có ba:
1. Nêu nhập vào nguồn trí dụng.
2. Nói đồng thể với Phàm Thánh.
3. Nói chung về xứng thể trùm khắp.
- Ở đây trước nêu nhập vào nguồn trí dụng, vào trong thần thông đại quang minh tạng, tạng: là kho tàng bảo tánh pháp giới, khởi tín tâm chân như, là cội nguồn của chư Phật và chúng sinh tánh thể thần thông quang minh, đức dụng như cát bụi đều chứa đựng trong đó. Trăm ngàn ánh sáng đều từ đây sinh ra, cho nên nói Tạng, cũng gọi pháp tánh, độ cũng gọi cõi Thường tịch quang, dứt các phân biệt, trí và lý thầm hợp, gọi là nhập. Nhưng chư Phật có thường quang, phóng quang nếu nói về thường quang thì quang tức là Tạng, nghĩa là tâm tánh vốn sáng suốt vì mê nên dường như tối tăm, vọng tưởng đã trí tuệ ánh sáng rực rỡ chiếu khắp pháp giới, nếu nói theo phóng quang và khởi thần thông thì tức là kho thần thông quang minh.
Tam-muội chánh thọ: là nêu cả Hán và Phạm, chánh thọ là An trú trong tạng không nhận các thọ. Lại Tammuội, Hán dịch chánh tư, nghĩa là khi ở trong định đối với cảnh sở duyên suy nghĩ quán sát chân chính.
- Nói về Phàm Thánh đồng thể: đã vào nguồn ấy thì tức là đồng với thể ấy, cho nên luận chép: vô lậu vô minh bao nhiêu nghiệp huyễn đều đồng tánh tướng chân như, Hoa Nghiêm cũng chép: Tâm, Phật và chúng sinh, ba thứ không khác nhau, trong văn có hai: Trước nói Thánh đồng. Tất cả Như Lai mười phương ba đời. bổn giác gọi Như, Thỉ giác gọi Lai, Thỉ, bổn không hai gọi là Như Lai, cho nên chúng sinh có bổn không thỉ, như này không lai. Quang Nghiêm là lớp lớp ánh sáng xen nhau chiếu soi rực rỡ. Trú là an trú dứt hẳn phan duyên. Trì là giữ gìn không mất không hoại, sau nói về phàm đồng.
Các chúng sinh này thanh tịnh giác địa, quên chân khởi vọng, vọng thấy chúng sinh, thể vọng vốn không, toàn là bản giác, tâm địa vọng không bị nhiễm nên nói thanh tịnh. Luận chép: tất cả chúng sinh xưa nay thường trụ Niết-bàn, nhưng Thánh chứng cảnh này, nói thẳng là trú trì. Phàm phu không biết đồng, chỉ cho giác địa.
- Nêu chung về xứng thể trùm khắp: Thân tâm vắng lặng bình đẳng bổn tế, phàm Thánh thân tâm chấp tướng nên dường như khác, tướng đều luống dối, đương thể vắng lặng, vắng lặng cho nên bình đẳng đều đồng. Một bản tức mé gốc viên giác. Đầy khắp mười phương, đã không khác thể giác, theo thể tròn đầy trùm khắp pháp giới.
Không hai thuận theo là thuận theo không hai, là từ ngữ nói ngược của Tây Vực, người dịch đảo văn không hết. Sinh tử, Niết-bàn là hai, phàm phu thuận theo sinh tử, Nhị thừa hướng Niết-bàn, nay đều không trụ cho nên nói thuận theo. Lại nữa, y báo thì tịnh và uế không hai, chánh báo thì chúng sinh và Phật không hai, khắc thể thì thân tâm không hai, gồm chung thì tự tha không hai, tương ưng với ở đây là thuận theo. e) Xứ thành tựu: Hai: xứng chân hiện cõi: đối với cảnh không hai, Phật không có ý niệm hiện cõi, như gương sáng vô tâm.
Hiện các tịnh độ: vô niệm, mà ứng duyên, như gương sáng vô tâm mà hiện hình ảnh. Cho nên Tăng Triệu nói: cõi tịnh hay cõi uế là tùy theo sở thích của chúng sinh. Tịnh là dùng ngọc báu hiển bày, uế: dùng ngói gạch để hiển bày. Tốt xấu tự kia với ta bất định. Cõi bất định mới gọi là tịnh độ, tùy loại ứng khắp nên nói là các. Nhưng cõi tuy nhiều thứ nhưng không ngoài ba thứ sau:
1. Pháp tánh 2. Thọ dụng
3. Biến hóa.
Nếu chia ra thọ dụng tự tha thì thành bốn cõi. Chung lại chỉ có hai thứ: là tịnh và uế, hoặc tánh và tướng. Nhưng hai thứ này:
- Chất không thành tịnh uế, đầy vơi, khác chất không thành một, lý là bình đẳng, có chất không thành, tìm nguồn thì mờ tối, không có chất thì bất thành, duyên khởi muôn hình, hình đoạt viên dung không có chướng ngại. Phàm Thánh một thể là từ tự thọ dụng nhập vào cõi pháp tánh. Ở đây lẽ ra các Bồ-tát từ pháp tánh hiện tha thọ dụng. Cho nên lại nói: cùng đại Bồ-tát cho đến đồng trú trong pháp hội bình đẳng của Như Lai, ba pháp chúng đồng thể. Văn có ba:
- Nêu chung: Cùng với Đại là cùng các vị đăng địa trở lên.
- Bồ là Bồ-đề, Hán dịch là Giác, tức quả Phật sở cầu.
- Tát là Tát-đỏa, Hán dịch là Hữu tình, tức chúng sinh được hóa độ, lại nữa người này có sự hiểu biết của liễu ngộ, các tình duyên lự khác. Lại nữa, đây là hữu tình cầu Bồ-đề.
- Ma-ha-tát: Ma-ha là Đại, nghĩa là hữu tình nầy tin pháp Đại thừa, hiểu nghĩa Đại thừa, phát tâm Đại thừa, hướng quả Đại thừa, tu hành Đại thừa, chứng đạo Đại thừa. Cho nên, trong Hoa nghiêm phần địa tiền nói Ma-ha-tát, nhưng nay nêu lên chỉ là địa thượng, đủ mười muôn người (nêu số lượng) một thời gian, một nơi chốn, một nêu riêng.
Tên là: bậc Thánh vô danh, được chúng sinh gọi tên, phần nhiều y theo đức hạnh, tùy nghi nêu riêng, lập ra ngàn muôn khác nhau đều có chỗ biểu hiện, ở đây đều dùng luận nói pháp nghĩa để giải thích tên gọi ấy, văn lý rõ ràng, chẳng phải gượng xuyên tạc.
4. Các vị Bồ-tát nghe kinh: f) Chúng thành tựu: Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Hán dịch là Diệu Thủ, cũng nói Diệu Cát Tường, biểu hiện trí tin hiểu. Cũng dịch là Diệu Đức: tiêu biểu cho chứng trí. Trong văn nói bổn khởi nhân địa, rốt ráo chân vọng để thành chánh giải, thành tựu tín căn, người thưa hỏi lẽ ra là vị Bồ-tát này.
Bồ-tát Phổ Hiền: lược có ba giải thích.
1. Giải thích theo tự thể: thể tánh trùm khắp gọi là Phổ, tùy duyên thành đức gọi là Hiền.
2. Giải thích theo các giai vị: cong ngay không sót gọi là Phổ, gần bậc á Thánh gọi là Hiền.
3. Giải thích theo đương vị: đức đều trùm khắp gọi là Phổ, mềm mại thuận hòa gọi là Hiền, biểu hiện lý hạnh, nay trong môn này y theo viên giác Diệu tâm nêu lên huyễn pháp, mà rõ được chánh hạnh, cho nên Bồ-tát kia hỏi hạnh giải không hai, tức là Tỳ-lô-giá-na, đó là ba vị Thánh, cho nên xếp kế sau Bồ-tát Văn-thù.
Bồ-tát Phổ Nhãn: từ pháp môn này dạy quán thân tâm không có tự thể, căn thức trần cảnh, thế và xuất thế, thân mình thân người, tất cả thanh tịnh trùm khắp pháp giới, khắp đồng chư Phật, quán hạnh thành tựu mau thấy cảnh giới như thế, chính là Phổ Nhãn chân thật. Ở đây bao gồm bi trí, nghĩa là khắp thấy các pháp thanh tịnh là Đại trí Phổ Nhãn, khắp thấy chúng sinh thành Phật, là đại bi Phổ Nhãn.
Bồ-tát Kim cương Tạng: từ dụ mà đặt tên, Kim cương cứng mà lại sắc bén, cứng nên không vật nào phá vỡ được, sắc nên có khả năng phá vỡ tất cả, Trí của Bồtát này cũng giống như vậy. Phiền não không thể xâm hại, ma bên ngoài không thể lay động gọi "kiên", có khả năng phá các chướng, dứt nghi hoặc của người, gọi là "sắc", cho nên khởi khó khăn sâu xa ba lần để tiêu trừ nghi ngờ của thời mạt pháp. Tâm nghi đã không, thì có công đức vô tận, cho nên lại gọi là "tạng".
Bồ-tát Di-lặc: Hán dịch là Từ Thị, Từ là họ, tên là A-dật-đa, Hán dịch là Vô Thắng, đức tốt hơn người. Nay gọi theo họ nên chỉ nói Di-lặc, từ môn này nghiên cứu sâu xa gốc ái, gột trừ hoặc nhỏ nhiệm, cho nên năm tánh tu chứng đều thuộc về luân hồi. Di-lặc là Bồ-tát Đẳng giác Nhất sinh bổ xứ (một đời nữa là Bổ xứ thành Phật) biểu hiện dứt trừ hoặc tập nhỏ nhiệm thì được Chánh giác tròn sáng.
Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ: biểu hiện trong tướng nhân quả địa vị tu chứng ở pháp môn này, trí tuệ không trụ, không đắm, tâm rỗng rang quên tướng, không bị tướng hạnh vị khác nhau làm nhiễm.
Bồ-tát Oai Đức Tự Tại: thành tựu ba quán, công dụng lợi ích mạnh mẽ, tà ma không thể nhiễu loạn, mộng tưởng mê hoặc không thể xâm lấn.
Bồ-tát Biện Âm: Phật nói bằng một âm thanh mà hợp cơ muôn loài tuy môn này nói chung về ba quán mà tùy căn cơ cạn thấp khác nhau, vì thế hai mươi lăm luân mỗi vị đều chứng nhập, Bồ-tát này khéo Biện biệt tùy loại âm thanh tròn đầy, cho nên có câu hỏi ấy.
Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng: Tất cả nghiệp chướng đều hết, nương bốn tướng sinh ra, môn này hỏi đáp trừ hết các nghiệp, tự nhiên thanh tịnh.
Bồ-tát Phổ Giác: Các lỗi lầm trước đây đã lìa, bốn tướng lại trừ hết, nhưng với dụng ý tâm hạnh vẫn trừ bệnh "tác chỉ nhậm diệt", giác vẫn chưa khắp, đến đây phải chọn bốn bệnh, giác tánh không dấu vết, hiểu khắp các bệnh, cho nên ngay đây hoặc chỉ đủ, hiểu hết gốc ngọn, hiểu khắp thô tế, hiểu rõ cạn sâu.
Bồ-tát Viên Giác: Nhưng các vị Bồ-tát trong phần chánh tông này hỏi đáp với Phật, nêu ra bổn ý, muốn hiển bày viên giác, nhưng vì nhiều lỗi lầm chưa hết, ý nghĩa chưa tròn, thu nạp căn cơ chưa khắp, cho nên bày tỏ pháp của Bồ-tát mà chưa nêu tên viên giác. Ở đây có ba ý được gọi viên giác:
1. Trước tuy bệnh hết lý viên, nhưng sợ căn cơ bậc hạ khó nhập, ở đây lại mở ra phương tiện quanh co ba kỳ đạo tràng, tức là thượng căn, trung căn, hạ căn khắp trở về viên giác.
2. Từ trước thứ mục, hạnh giải đã viên, đến đây gọi là chứng cực, cảnh của chứng cùng cực lại không có thể tách riêng, chỉ là viên giác.
3. Đầu tiên nêu lên ý chỉ viên giác là môn Đà-la-ni: từ gốc sinh ngọn, nay nói lên nghĩa đã cùng khắp trở lại viên giác, nhiếp ngọn về gốc, biểu hiện ba ý ở đây cho nên tương đương với môn này.
Bồ-tát Hiền Thiện Thủ: Điều nhu thiện thuận gọi là Hiền, Hiền và Thiện ý nghĩa không khác nhau, Hiền thì á Thánh, Thiện thì thuận lý, thủ là đứng đầu, muốn cho muôn thiện đều hưng thịnh, đều thuận chân lý thành chánh nhân vị, á là thứ Thánh quả, phải mượn kinh giáo truyền bá, kinh giáo được truyền bá là đứng đầu của Hiền Thiện, trong phần lưu thông thì tương đương với Bồ-tát này.
Đẳng: có hai ý:
1. Đẳng sở liệt 2. Đẳng sở dư.
Là bậc Thượng thủ, là nêu lên cương lãnh của mười muôn.
3. Khen ngợi chung.
5. Quyến thuộc của các Bồ-tát:
Cùng các quyến thuộc, chúng xứng tánh, thì phải có chủ bạn. Như kinh Hoa nghiêm chép: Đây y theo tự tha dung nhiếp, nếu chỉ y theo tự tâm, thì trí độ là mẹ... Đều vào chánh định, do vào chánh định nên được trụ cảnh Phật. Đồng an trú trong pháp hội bình đẳng của Như Lai, ngay lúc ấy phàm Thánh đồng thể, nhất tướng nhân quả nên gọi là pháp hội, hội của pháp tánh không ngã không nhân, từ đó trở xuống trong phần chánh tông có mười một lần hỏi đáp. Gom lại làm hai: Ban đầu một lần hỏi đáp, khiến tin hiểu chân chánh thành nhân bổn khởi. Sau mười lần hỏi đáp, khiến y vào hiểu tu hành, tùy căn cơ chứng nhập.
Ban đầu đốn ngộ viên giác diệu tâm sẵn có, vốn không có vô minh, sinh tử mới gọi là tin hiểu chân chánh, không theo vọng niệm, không chấp dị kiến. Thành bổn khởi nhân: là nhân phát khởi đầu tiên, nhưng nhân địa đốn giáo gồm có ba lớp, ban đầu liễu ngộ giác tánh, kế là phát tâm Bồ-đề, sau đó tu hạnh Bồ-tát, nghĩa là nếu không hiểu tự tâm làm sao biết được chánh đạo? cho nên nhiều kiếp tu hành chẳng phải Bồ-tát chân thật. Kế không phát tâm rộng lớn thì không nhờ đâu khởi hạnh, vì thế trước Thiện Tài trình bày đã phát mới hỏi hạnh môn. Trong luận trước cũng chỉ bày hai giác, kế là dạy phát ba tâm, sau mới tu năm hạnh. Nay nhân bổn khởi tức là hai hạnh đầu. Cho đến văn sẽ chỉ bày, trong văn có bốn:
1. Thân thỉnh.
2. Khen ngợi, hứa khả.
3. Lắng nghe.
4. Chính nói.
Dưới bốn đoạn này có mười phần đều giống nhau. Trong phần đầu có ba:
a) Hỏi oai nghi
b) Trình bày từ cú.
c) Ba lần thành kính.
Mười đoạn sau đây, đều có ba điều này, ở đây:
* Trước hỏi oai nghi, bấy giờ chỉ cho từ chú thích. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi: Danh nghĩa đã giải thích như trên, sau đây là nói nghi thức cầu pháp cung kính.
6. Đảnh lễ dưới chân Phật:
Ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cùng tất cả phàm Thánh đồng an trú trong pháp hội bình đẳng, từ thể của pháp không liền khởi dụng thương xót cứu giúp.
Đảnh lễ dưới chân Phật: dùng đảnh tôn quý nhất của mình, lễ dưới chân là chỗ thấp hèn nhất của Phật là rất cung kính. Cung kính là ý nghiệp, ý nghiệp không có hình tướng, do thân miệng biểu hiện, kinh nêu lời rõ ràng và sau đây khen ngợi bi tức là khẩu nghiệp. Hữu nhiễu là nghĩa thuận theo, biểu hiện thuận với giác tánh. Tam táp là ba vòng, nói lên Phật một lễ, ba ngôi báu, ba thân, ba đức, tiêu biểu tự nguyện dứt trừ ba đường,... có số ba bày rõ nghĩa so sánh rất dễ hiểu. Trường quỳ là quỳ thẳng: an ổn nguy khốn không đổi, xoa thủ là chắp tay: Tin hiểu hợp với thể, tâm cảnh xen nhau. Bạch Phật rằng: Ở trên đều là do người dịch kinh thêm vào. Kế đến là Bồ-tát trình bày từ cú, văn chia làm ba.
Một là hỏi về tâm bổn khởi:
Đại bi: Thưa hỏi pháp yếu, vốn vì chúng sinh, cho nên nêu riêng đức đại bi. Kinh Lục Ba-la-mật chép: Vì sao đại bi có công năng để xuống gánh nặng, chỉ bày nghĩa cao siêu? Vì thành tựu hữu tình an trú pháp tánh.
Thế Tôn là hiệu thứ mười, đủ chín hiệu trên được người đời tôn kính, nguyện vì hội này là pháp hội bình đẳng. Các chúng đến nghe pháp đều xưng pháp tánh. Nói về là chỉ cho pháp được giảng nói dưới đây.
7. Bồ-tát Văn thù thưa hỏi pháp yếu:
Bổn khởi của Như Lai là pháp đầu tiên do căn bản xưa của Phật khởi lên.
Thanh tịnh là bản thể viên chiếu vốn không có phiền não.
Nhân địa là tâm địa mà nhân hạnh nương vào, văn trên nói: là giác địa thanh tịnh của các chúng sinh.
Pháp hành xứng với hạnh chân pháp, kinh đại tập chép: Nếu có Tỳ-kheo đọc tụng mười hai bộ kinh của Như Lai, ưa vì bốn chúng giảng nói rộng suy nghĩ nghĩa ấy, đó gọi là ưa đọc cho đến đó gọi là suy nghĩ. Không gọi pháp hạnh: Nếu có Tỳ-kheo quán xét thân tâm, cho đến cảnh giới đều dứt, lìa hẳn phiền não, tâm kia vắng lặng thì ta nói gọi đó là pháp hạnh. Nhưng điều Bồ-tát thưa hỏi ý nói muốn cầu quả phải quán nhân nếu nhân chẳng thì quả trở thành vọng, như đúc tượng Phật bằng vàng ròng, trước phải làm được vàng thật, khi thành tượng thì thể không thêm bớt, thỉnh nói nhân địa bổn khởi là chỗ muôn hạnh nương vào. Văn sau Phật trả lời: soi chiếu tịnh giác vốn không vô minh... là thể chân. Tức là liễu ngộ giác tánh bậc nhất ở trước.
Hai là hỏi phát tâm lìa bệnh: Và nói: và có hai nghĩa: 1. Phân biệt với nghĩa trước, nói lên hai lần hỏi. 2. Hợp với nghĩa tập, chẳng những thỉnh nói nhân địa mà cũng đề cập thỉnh nói phát tâm. Bồ-tát đối với Đại thừa, thể của Đại thừa là bổn giác, thỉ giác, nay thỉnh đối với tâm giác ngộ nói là phát tâm.
Ba là Phát tâm thanh tịnh: Tức là phát tâm Bồ-đề thứ hai ở trước. Thẳng tâm chánh niệm chân như cho nên thanh tịnh, vì thế trong kệ nói: tâm Bồ-đề.
8. Dẫn kinh làm sáng tỏ:
Kinh Hoa nghiêm chép: Quên mất tâm Bồ-đề mà tu các gốc lành là bị ma nhiếp giữ, đã bị ma nhiếp giữ tức là rất nhiều lỗi lầm. Cho nên nhân duyên xin phát tâm là khiến được xa lìa hẳn, hơn nữa bên trong quên mất gốc lành còn bị bị ma nhiếp giữ huống gì đều chưa phát tâm các hạnh, đâu lìa được nghiệp kia. Xa lìa các bệnh, sau khi phát thì không bao giờ quên mất, không quên mất cho nên ma hoặc không quấy nhiễu, dưới đây Phật trả lời: hữu vô (có không) đều xa lìa giác chiếu cũng dứt, năng sở bặt dứt tức lìa các bệnh. Đây là không phát tất cả tâm, gọi là chân phát tâm thanh tịnh. Ba là nói xa trùm đương lai. Có công năng khiến chúng sinh thời mạt pháp ở đời vị lai, sau Phật diệt độ, chánh pháp, tượng pháp mỗi thời kỳ một ngàn năm, mạt pháp mười ngàn năm. Mạt pháp tức là thời cuối cùng, cách Thánh rất xa lo nghĩ sâu xa, cho nên nói lên trong lợi ích riêng kiết thúc chỉ bày. Lại, trước nêu hội này, sau kiết thúc đương lai, sơ lược mà nói, hiện tại, vị lai đều lợi ích. Trong kinh Kim cương Tam-muội, Bồ-tát Giải Thoát cũng là chúng sinh cõi đời có năm thứ uẩn đục thời Mạt kiếp, thỉnh nói một vị quyết định chân thật giúp cùng nhau giải thoát.
Cầu Đại thừa: không rơi vào tà kiến, nghĩa là trong thời mạt pháp chánh giải khó được, bị vọng hoặc mê tâm năm dục, hoặc huân tập đạo khác, hoặc mắc kẹt Nhị thừa, đặt ngoài lời nói, dù có phát ý cầu Đại thừa, nếu không nghe pháp môn này thì cũng rơi vào tà kiến, lìa ngoài bổn tâm có sở cầu riêng, thấy vọng thấy chân đều là tà kiến, sau ba lần thành kính.
Nói lời ấy rồi: Nói lời chân chánh mà đảnh lễ, chẳng có nghi thức. Năm thể tức hai tay, hai chân và đầu. Gieo xuống đất: không chỉ tay vái mà thôi.
Như thế ba lần xin, cuối cùng trở lại đầu. Nếu chỉ một lượt thì chưa cung kính thành thật, hoặc quá ba lần lễ phiền phức thì lộn xộn, cho nên đầu cuối ba vòng, hiển bày chân tâm, Phật tuy đã biết, làm khuôn phép như thế. Hai là khen ngợi, hứa khả.
Lúc bấy giờ: là lúc Văn-thù lễ xong.
9. Phật đáp lời ngài Văn thù:
Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi rằng: Trước khen ngợi sau hứa khả. Lành thay! Lành thay. Luận Trí Độ giải thích: Lời nói lại rất tốt. Liễu nghĩa Đại thừa lý hợp tuyên dương, hạt cải trên đầu kim chưa hợp nhau lại im lặng pháp yếu. Đã mở pháp hội căn cơ thuần thục đều đến, sẽ giảng nói diệu môn hẳn là giúp nêu câu hỏi lời thỉnh hiện nay sự thật bắt đầu ở ta, lợi lạc thật nhiều lại khen là tốt.
Thiện nam các ông, các vị Bồ-tát tuy lời của một người mà nói ý của nhiều người. Vì các vị Bồ-tát thưa hỏi nhân địa pháp hạnh của Như Lai và ví tất cả chúng sinh đời mạt pháp cầu Đại thừa dưới đây cho đến không rơi vào tà kiến. Là từ ngữ nhắc lại lời thưa hỏi là nói về lý do của điều lành.
Được chánh: chẳng trụ vào pháp. Trụ: Là an tâm vào biển giác, dứt hẳn phan duyên. Trì: Là giữ gìn muôn hạnh không lọt không mất. Không rơi vào tà kiến, là giải thích thành chữ chính. Nay các ông hãy lắng nghe, sẽ giảng nói cho các ông: là hứa khả, bảo hay suy nghĩa kỹ chớ xen lẫn các duyên, không dùng tâm hạnh sinh diệt nghe pháp thật tướng. Luận Trí Độ: Có bài kệ rằng: Người nghe nhìn thẳng như khát cần uống nước, nhất tâm vào trong ngữ nghĩa, hớn hở nghe pháp tâm vừa vui vừa buồn, người như vậy mới nói cho nghe, ba là lắng nghe: Bấy giờ, là lúc Phật khen ngợi, hứa khả.
10. Đại chúng vui mừng lắng nghe:
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi vâng lời dạy vui mừng, và các đại chúng im lặng lắng nghe, đã hứa nói nguyện xin muốn nghe, trong sạch tâm rỗng rang lắng nghe, là văn khen ngợi hứa khả lắng nghe, mười một đoạn dưới đây đều cùng giải thích điều này. Bốn là chánh thuyết, văn mười đoạn dưới đây đều có hai: Trước là văn xuôi kế là kệ tụng. Nay trước chia làm bốn.
1. Nêu bày chân tông.
2. Suy cứu tận cùng nguồn gốc của vọng.
3. Giải thích thành nhân địa.
4. Kiết thúc nhắc lại lời thưa hỏi. Trong phần một lại có hai:
- Trước là nói tâm giác sẵn có.
- Sau nói ngộ thì thành Phật. Trong phần đầu lại có hai:
- Chỉ ra bản thể
11. Chúng sanh nào cũng có Viên giác:
Này thiện nam: Vô thượng Pháp vương là Phật, đối với các pháp được tự tại lại không có người nào trên. Nhưng mặc dù không có một chúng sinh nào không đủ có viên giác, hơn nữa bụi trần chưa ra khỏi, kho báu còn âm u, vì không tự biết nên luống chịu nghèo khổ, chỉ Phật hoàn toàn được dụng kia, nên chỉ nói đấng Đại giác là có.
Hữu đại: đương thể là vô biên.
Đà-la-ni: Hán dịch là Tổng trì, nghĩa là trong thể Viên giác có đức dụng nhiều như cát, từ xưa đến nay giữ gìn không mất, nhưng Tổng trì không mất, Tổng trì có ba: thứ là chữ đa, chữ nhất, chữ vô, ở đây chính là chữ vô. Cho nên phẩm Đà-la-ni trong kinh Bảo Tích chép: Trí của Như Lai gồm nhiếp các sự khéo léo, lời nói ra đều thanh tịnh không có chút pháp sở đắc, đều trở về "không", cho đến các vị Bồ-tát này nhập vào môn Đàla-ni. Nếu theo luận Trí Độ thì tiếng Phạm Đà-la-ni hơi khác một chút luận này tự dịch là Năng trì, cũng dịch là Năng già, nghĩa là các pháp lành giữ gìn không để mất, tâm ác bất thiện ngăn ngừa không cho sinh. Đã nói giữ lành ngăn ác, tức là gốc của muôn hạnh, nên ở đây nêu lên.
Môn: nghĩa là ra vào, Xuất: tất cả các pháp nhiễm tịnh đều từ trong đó lưu xuất ra, kế nữa văn nói: lưu xuất ra tất cả... dưới đây nói chúng sinh huyễn hóa vô minh... Nhập: nếu liễu ngộ thể dụng Viên giác thì trăm ngàn muôn pháp thảy đều ngộ nhập, cho nên văn sau nói: giác tròn sáng nên hiển bày tâm thanh tịnh, cho đến trùm khắp... cho nên biết muốn liễu ngộ muôn pháp, phải từ trong viên giác mà vào, lại từ gốc khởi ngọn là xuất, gom ngọn về gốc là nhập. Lại mê thì xuất, ngộ thì nhập, có nghĩa xuất nhập nên gọi là môn, trong đây môn là nghĩa căn bản, không đồng với pháp thế gian rằng môn nghĩa là hẹp và sâu. Kinh Bảo Tích hợp với trước lại chép: từ nơi môn sinh ra giác tuệ rộng lớn khác nhau, đây là môn của không môn, môn thanh tịnh. Hình tướng môn: giống như hư không, tất cả các pháp nương vào hư không mà có sinh diệt. Lại, Hà Trạch nói: một chữ biết là cửa của các điều mầu nhiệm, đều nói là căn bổn. Gọi là Viên giác, trên chỉ nói nghĩa tướng, còn ở đây là chỉ bày pháp thể, đã như trong tựa đề giải thích. Hai là nói về đức dụng.
12. Tâm đồng thì vọng nhiễm:
Lưu xuất chẳng phải có riêng, pháp từ trong lưu xuất ra ngoài, chỉ nương vào giác tánh hiển bày các môn, công đức không cùng tận, ứng dụng không nhàm mỏi, gọi là lưu xuất, vì thế luận chép: nếu tâm có động thì có nghĩa vọng nhiễm nhiều hơn cát sông hằng... đối với nghĩa này, tâm tánh không động thì có quá các công đức thanh tịnh nhiều hơn cát sông Hằng, nghĩa tướng thị hiện như vậy.
Tất cả thanh tịnh, là phân biệt với các pháp hữu lậu. Trái với chân lý, tánh vốn là không.
Chân như: Tự tánh viên giác vốn không có luống dối thay đổi, tức là chân như. Chân nghĩa là chân thật, nói lên chẳng phải luống dối. Như là như thường, nói lên không thay đổi, nghĩa là chân thật này đối tất cả vị thường như tánh của nói. Lại, chân: thể chẳng phải luống dối. Như: tánh không đổi khác, ngụy là trá ngụy. Dụ giống như vàng ròng, vọng là luống dối, ảnh như bản chất, khác là nói ngang, nhiều vật đồng thời mà mỗi vật thay đổi khác nhau, y theo chiều dọc và nói về nhất thể trước sau thay đổi, nay đều xa lìa các thứ này nên nói là chân như, nghĩa là thật thể này đối với vị lai thường như quá khứ, ở trong sắc thường như trong thọ, tướng chân thật là như chẳng phải vọng giống.
Luận chép: tâm chân như: tức là nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể. Cái gọi là tâm tánh không sinh không diệt, cho đến cuối cùng không biến hoại. Chỉ là nhất tâm nên gọi là chân như. Lại nói: dụng chân như: chư Phật nhân địa nhiếp hóa chúng sinh không chấp tướng, vì các Đức Phật biết chúng sinh và chính thân mình, chân như bình đẳng chẳng có sự khác nhau, vì có trí phương tiện lớn như vậy, trừ diệt vô minh, thấy pháp thân sẵn có. Tự nhiên có công dụng của nghiệp chủng không thể suy nghĩ bàn luận.
Bồ-đề: Hán dịch là Giác, nghĩa thấy trong đề, thỉ giác bổn giác không hai, không pháp nào không biết, vốn không có vô minh cho nên gọi là giác. Hai, ba, bốn trí và phát tâm, phục tâm, minh tâm, vượt đến năm thứ Bồ-đề vô thượng, đều thuộc ở đây. Nhân tròn quả đầy đều đi qua. Nghiệp dụng vô biên không thể nói hết.
Niết-bàn: Hán dịch là Vắng lặng, chấp nghĩa loại nên có nhiều tên, đều dùng nghĩa dịch gọi là viên tịch, nghĩa là giác tánh đã viên thông thì pháp nào không vắng lặng, vốn không sinh tử, đầy đủ ba đức, bỏ ba tạp nhiễm... cho nên hai, ba, bốn thứ đều thuộc ở đây. Vì thế kinh kia chép: có thể lập nghĩa lớn, lại, kinh Hoa nghiêm chép: không làm Bồ-tát thị hiện Niết-bàn, muốn khiến cho thường thấy Phật tròn đầy. Nhưng vì khiến chúng sinh ưa thích lưu luyến nên hiện ra, rồi biến mất, Phật hằng ngày thường hiện trong pháp khí có tâm tịnh, người có tâm ô trược thì khí thân hoại vỡ không thấy được.
Và: để phân biệt với nghĩa nhân quả khác nhau, lại chẳng phải chỉ lưu xuất ra. Lý quả mà cũng nói về nhân. Ba-la: Hán dịch là Bỉ ngạn. Mật, nói đủ mật-đa, Hán dịch là đáo. Nếu văn thuận với phong tục Trung quốc thì nên nói đáo bỉ ngạn. Nghĩa là xa lìa sinh tử bờ này, vượt qua dòng phiền não, đến Niết-bàn bờ kia. Nhưng tất cả chúng sinh chính là tướng vắng lặng lại không còn diệt nữa, vì mê mờ điên đảo vọng thấy sinh tử gọi là bờ này. Nếu ngộ sinh tử xưa nay vắng lặng gọi là đến bờ kia. Lại nữa, y theo đối dịch, sáu tế lược có sáu thứ, nghĩa là tính không san tham, hủy cấm, sân nhuế, biếng nhác, loạn động, ngu si, thuận theo bổn tánh tu hành-thí, giới, nhẫn, tấn, định, tuệ, đã xứng tánh mà tu, tức đều đến bờ bên kia. Trong luận Bồ-đề Tư Lương thì Tuệ là đầu tiên, do tuệ thành năm, năm giúp tuệ. Vì thế luận kia chép: đã là mẹ Bồ-tát, cũng là mẹ các Đức Phật, Bát-nhã ba-la-mật, là giác tư lương ban đầu, thí, giới, nhẫn, tấn, định và năm thứ còn lại này đều nhờ trí độ nên đều thuộc Ba-la-mật. Khởi tín nhiếp là năm, chỉ quán tướng do định tuệ tướng, tức là Duy thức. Được chia làm mười, giúp trị mười chướng, chứng mười chân như, nếu dịch chung các nhiễm tức là tám mươi bốn ngàn, nghĩa như dưới đây sẽ giải thích.
Giáo thọ Bồ-tát: là nói lên nghiệp dụng của pháp chân như nói ở trên. Bồ-tát là sở giáo, chân như... là năng giáo, cho nên nói chân như là lý. Kế là hai quả Ba-lamật là nhân lý, thật nhân quả, đáng làm khuôn phép. Nghĩa là y theo tình chấp kia thì dường như đều vô tình, đã vốn là không, đây chẳng phải mới được. Đốn ngộ lý ấy nương đó tu hành có thể sinh vật giải (hiểu biết) gọi là giáo thọ. Luận chép: thuận bổn tánh cho nên tu hành đàn độ... Niết-bàn cũng nói pháp là thầy của các Đức Phật. Sau nói ngộ thì thành Phật, trên lại nêu tông chưa được trả lời, nay nói lên ngộ thành Phật mới gọi là nhân bổn khởi. Nhân địa bổn khởi của tất cả Như Lai là nhắc lại lời hỏi.
Đều nương: Chẳng Đức Phật nào không như vậy.
Viên chiếu: tức là năng chiếu, xa lìa thiên chấp cục bộ. Tướng Thanh tịnh giác: tức là sở chiếu, vắng lặng rỗng không, chẳng liên quan năng-sở, chỉ vì ban đầu ngộ năng sở chưa quên cho nên nói tướng, đây chính là đồng với Thiện Tài ban đầu gặp Văn-thù, rõ ràng tìm hiểu thấy thân tướng kia, sau thấy Văn-thù, bày tỏ chứng trí, không thấy thân tướng.
13. Nhân để thành Phật:
Dứt hẳn vô minh, bản giác đã bày, vô minh vốn không, cuối cùng không sinh gọi là dứt trừ hẳn. Mới thành Phật đạo: các Đức Phật nhiều như cát bụi lấy đây làm nhân.
- Thứ hai: dứt sạch vọng tưởng, văn có hai, trước chỉ bày tướng ấy, sau hiển bày trí vốn không. Luận chép: Phật có hai cách nói pháp, trước phân biệt các pháp, sau nói rốt ráo không, chính là ở đây. Trong phần đầu có ba: nghĩa là nêu lên giải thích kiết thúc, ở đây trước nêu lên. Thế nào là vô minh? Là nêu lên để giải thích ở đây: có hai ý:
Một do trước nói dứt hẳn vô minh, sợ rằng định có thể dứt ham muốn, đợi dứt hết mới thành Phật đạo. Nay nêu lên để giải thích vô minh vốn không
- Hai cho rằng vô minh này là gốc của tám muôn trần lao, đứng đầu mười hai nhân duyên. Hằng sa phiền não do đây mà sinh, luân hồi nhiều kiếp không dứt, sau khi ở tầng trời Phi tưởng định sanh xuống lại làm thân chồn, trong hầm vô vi vẫn gọi bệnh hành. Nay muốn sáng tỏ giác tánh thanh tịnh. Muốn hiển bày viên đốn là pháp môn vi diệu, trước không xóa bỏ vô minh, việc làm đều hết, giúp cho điên đảo, vì thế chắc chắn chân tâm sẵn có, liền xua tánh vọng, vốn không nương gá ở đây, liễu ngộ rõ ràng mới được gọi là nhân địa. Hai giải thích về vô minh: vô tha thì trí sáng, nghĩa là tuy có sáng của bản giác, mà không có sáng của thỉ giác. Thỉ giác theo duyên mới hiển rõ, đối với bổn nên gọi là Tha, luận gọi bất giác, chỉ văn khác mà thôi, cũng gọi là mê, cũng gọi là điên đảo, luận nói: không biết đúng như thật pháp chân như là "một" cho nên bất giác tâm khởi... rõ quên chính mình. Đây nói vọng nhận bốn đại,... rõ ràng là nhận tha. Nhưng quên tự thì phải nhận tha, nhận tha thì phải quên tự. Hai: văn nêu lẫn nhau. Nghiệp dụng luận chép: sinh ra ba tế ở đây nói: do đây nên có sinh tử luân hồi. Nhưng tất cả pháp hữu lậu đều giữ gìn đây, đều là phát khởi đây, cho nên luận lại: phải biết tất cả cảnh giới của thế gian đều nương vô minh mà được giữ gìn. Văn ở dưới nói: các tướng thân tâm đều là vô minh. trong văn có ba.
1. Xét định kia là sai.
2. Giải thích tướng ấy.
3. Nêu ra lỗi lầm.
-Một xét định kia là sai: chỉ nói điên đảo, chưa hiển bày tướng ấy.
14. Chúng sanh từ vô thỉ đến nay chưa hề giác ngộ:
Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh, ngoài tánh viên giác, còn lại đều bao gồm. Từ vô thỉ đến nay, chưa hề giác ngộ. Các thứ: như ở dưới sẽ nói. Điên: tâm thức cuồng loạn; đảo: bỏ giác theo trần, đảo có sở chấp, điên chỉ mê loạn, từ điên cuồng cho đến đảo loạn, như do mê mình cho nên nhận nó, giống như người mê bốn phương khác chỗ, như người vừa đến nguồn sông, hoặc vào làng xóm, thì bỗng nhiên tâm mê lầm cho Đông là Tây. Đã một phương mê ba phương khác đều chuyển, cho nên nói khác chỗ, nhưng khi đang mê phương hướng cũng không đổi, bổng nhiên tỉnh ngộ thì trở lại nơi cũ. Trở lại tìm mê này hoàn toàn không có dấu vết, không có chỗ xưa nay, không có chỗ hiện nay quá khứ.
Hai là giải thích tính tướng ấy: tức là quên pháp thân chân trí của mình, nhận bốn đại duyên niệm khác là tướng của vô minh. Cho nên Tăng Triệu nói: pháp thân giấu trong hình tướng, chân trí ẩn trong duyên lự. Văn có hai.
-Pháp: vọng nhận bốn đại làm tướng tự thân, cho là ngã. Nhưng bốn đại từ các duyên hòa hợp mà có, vô ngã vô chủ, rốt ráo là "không" lìa ngã, ngã sở. Lại, như văn dưới đây: da, thịt, gân, xương đều trở về đất, nhưng phàm phu gây ra các thứ nghiệp, nhiều kiếp luân hồi, do quên pháp thân của mình, chấp bốn đại này là ngã. Sáu trần duyên theo bóng dáng làm tướng tâm mình, ở đây có hai cách giải thích:
15. Nói duyên theo bóng dáng sáu trần:
- Sáu trần là cảnh, thức thể là tâm, tâm đối căn trần có tướng duyên lự, tướng duyên lự như bóng dáng, nêu thể hoàn toàn vô. Tâm tự sáng rõ, vốn chẳng phải duyên, nay cho duyên lự là tự tâm, mỗi niệm, mỗi niệm tùy theo chìm nổi biển khổ, như hạt châu trong sáng vốn không sinh vàng, khi đối trước màu xanh... liền có ảnh tượng. Người ngu chấp màu sắc kia cho là hạt châu. Như mê tự tâm mà nhận lấy duyên ảnh. Cho nên Duy thức nói: Các tâm vương, tâm sở nương vào trần mà khởi, cũng như việc huyễn chẳng phải thật có, vì kiến chấp ngoài tâm, tâm sở thật có cảnh, nói chỉ có thức. Nếu chấp duy thức là thật có thì cũng là pháp chấp. Kinh Phật Đảnh chép: đây là bóng dáng phân biệt của tiền trần, cho nên biết duyên ảnh chắc chắn là không. Nếu chân tâm thanh tịnh thì vốn không duyên lự, tinh thần sáng suốt không mê muội, không trụ không căn, nay duyên theo tâm thật là luống dối.
- Một câu này người dịch kinh dịch không hết, ý nên nói duyên bóng dáng sáu trần, bóng dáng sáu trần là sở duyên, vọng thức là năng duyên, sáu trần không thật, giống như ảnh tượng. Từ thức sở biến, nêu thể tức không, cho nên duyên tâm này cũng là vô thể, ngoài ra giống như trước đã giải thích. Trước nêu điên đảo nói có các thứ, nói chung thì chấp ngã, chấp pháp, trong đó mỗi thứ có các tướng chuyển và phàm phu Nhị thừa, mỗi thứ đều có bốn đảo. Nếu y theo văn này thì tức là trên quên thân quên tâm, gồm có bốn cặp điên đảo. Đó là bốn đại chẳng phải ngã mà cho là ngã, pháp thân chân ngã mà không nhận, đó là cặp thứ nhất, bốn đại như huyễn, vốn không mà thấy có, pháp thân chân thật vốn có mà thấy không, đó là cặp thứ hai. Duyên niệm sinh diệt cho là chân tâm, chân tâm rõ ràng mà không tự nhận, đó là cặp thứ ba. Duyên niệm như màu đen trong hạt châu, hoàn toàn không mà chấp có, chân tâm như tướng sáng trong hạt châu, thật có mà thấy không, đó là cặp thứ tư.
16. Nếu ví dụ để làm sáng tỏ:
Một, ba ngã chấp; Hai, bốn pháp chấp, các kiến chấp này không nhân tông chỉ của thầy, chỉ là phàm ngu nhậm vận như thế. Đã bốn đối tám chiếc khác nhau cho nên nói các thứ. Hai là dụ, văn chia làm hai:
-Ban đầu dụ thẳng văn trước.
Thí như bệnh mắt kia thấy trong hư không có hoa đốm và mặt trăng thứ hai. Này người thiện nam! hư không thật không có hoa, người bệnh chấp có, mắt mờ nhìn trong hư không không có hoa vọng cho là có, ấn mắt nhìn mặt trăng, bên cạnh mặt trăng thấy có mặt trăng khác, hoa đốn trong hư không và mặt trăng huyễn ấy đều dụ cho thấy nhầm, chúng sinh vì một niệm quên tâm, tự che lấp giác tánh tròn sáng, mà ở trong thể tròn sáng vọng thấy thân tâm sinh diệt, cho nên nói hư không thật không có hoa mà người bệnh vọng chấp, lời chấp lầm chính là lời (nhận sai) ở đối trước, nếu ngộ chân như không tướng thì chỉ là nhất tâm, như hư không vốn không có hoa, trời chỉ có một mặt trăng. Kinh Thủ-lăngnghiêm chép: Thấy nghe như màng che mắt, ba cõi như hoa đốm trong hư không, nghe lại thì màng che mắt hết, bụi sạch hết thì giác tròn sạch.
17. Tất cả mọi hiện tượng đều nằm trong tâm nhiệm mầu chân tịnh:
Lại nói: thân ông tâm ông, bên ngoài cho đến núi sông, hư không, mặt đất, đều là vật hiện ra trong tâm mầu chân tinh, cũng có thể phối riêng hai ví dụ: nghĩa là hoa dụ nhận thân, mặt trăng dụ cho nhận tâm, thân thì chỉ vì tâm mê nên ngay đương thể mà nhận lầm, như hoa đốm trong hư không chỉ vì mắt bị che lấp, ngoài không chỗ nương khác. Tâm thì nội căn ngoại trần nương nhau sinh khởi. Như mặt trăng thứ hai vì ấn mắt mà từ mặt trăng thật nương nhau sinh ra, cho nên phối với thân tâm soi chiếu hiện nghĩa. Nhưng mặt trăng dụ như hoa cũng nên nói: mặt trăng thật không có hai. Ấn là vọng chấp, văn kinh tóm lược nên không đầy đủ. Lại vì vừa hiểu, màng mắt, ấn mắt đều dụ cho kiến phần, mắt dụ cho trí tuệ, hư không và mặt trăng dụ cho chân lý, luận Bát-nhã của ngài Thế Thân lấy sự che lấp dụ cho tướng phần, theo ý của chỗ giải thích, lấy hoa của sở kiến, sau xoay vần thấy ngược.
Vì vọng chấp nên nhắc lại nguyên nhân sinh khởi chuyển chấp.
18. Chỉ trách trong hư không có hoa chẳng biết trong mắt có màng:
Chẳng phải chỉ mê lầm tự tánh hư không này, tính của hư không thanh tịnh không có sự vật, nay chấp hoa sinh trong hư không, tức giống hư không biến thành hoa, thấy nhầm hoa trong hư không, không sinh mà sinh, vô vật mà thành vật, chính là tánh của hư không bị mê hoặc. Cũng lại mê chỗ hoa thật sinh kia, đã chấp hoa từ hư không sinh, thì không biết từ sự che lấp mà khởi, che lấp thì thật là chỗ sinh của hoa, chẳng phải là hoa chân thật. Nếu đủ pháp hợp lại lẻ ra nói: chẳng phải chỉ mê hoặc tự tánh chân không này, mà còn mê chỗ sinh thân tâm kia, đây chỉ trách trong hư không có hoa, bất giác trong mắt có màng, ngoài hiềm thân tâm khổ não, không biết bên trong có chứa mê tình.
Ba Sinh ra lỗi lầm: Do đây, vì trước vọng nhận tướng thân tâm.
Vọng có: sinh tử không thật.
Trôi lăn trong sinh tử: Vọng chấp thân tâm. Nếu không có lỗi lầm thì mặc tình chấp mãi, không cần thay đổi. Vì do chấp này nên trong số kiếp nhiều như cát bụi luân hồi không dứt, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, tám khổ năm suy làm hại, cho nên phải chỉ bày. Ba là kiết thúc, cho nên gọi là vô minh, minh tức là giúp người giải thoát, cho nên biết người trôi lăn thì gọi là vô minh. Hai là nói lên vốn không, văn có ba:
19. Bản tế vốn là diệu minh:
- Trước là nêu định.
Này người thiện nam! vô minh này, chẳng có thật thể, nói không có thật thể, chỉ là giả danh. Tìm cầu trong ngoài hoàn toàn không thật có. Suy ra bản tế vốn là diệu minh, cho nên luận chép: niệm không tự tướng không lìa bản giác, lại nói: y giác cho nên quên, nếu xa lìa giác tánh thì là giác, rõ các hạnh vô thể này là không sinh, không sinh cho nên không diệt, sinh diệt dứt rồi vắng lặng là vui, là biết mười một chi pháp đều có sở nhân. Chỉ do vô minh này từ hư không sinh khởi một cách ngang trái, nay ngộ vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, cho đến già, chết diệt.
- Kế là ví dụ giải thích.
Như người trong lúc ngủ mộng khi mộng chẳng phải không và cho đến khi tỉnh thì hoàn toàn không thật có.
Trước nói các lỗi lầm đều quy về vô minh. Nay lại nói vô thể, đạo lý khó thấy, lời nói bặt dứt, cho nên căn cứ vào dụ mà giải thích, nói khi ngủ nằm mơ thấy vật là có, cho nên các thứ trước nói về hành tướng kia khi thức muốn tìm lại thì không thật có, cho nên ở đây hiển rõ là vô thể.
20. Hỏi đáp về hoa đốm diệt:
Hỏi: Cầu không được thì diệt đi chỗ nào?
Cho nên kế lại đáp: Như hoa đốm trong hư không biến mất giữa hư không, không thể nói chắc chắn có chỗ diệt đi. Vì sao? Vì nêu ý rằng: Nếu không có chỗ diệt, thì lẽ ra nên thật có, vì sao nói hư không là vô.
Vì không có chỗ sinh: ý nói khi thấy hoa hư huyễn, nếu thật là có thì nay khi không thấy liền nói có chỗ diệt, khi thấy vốn không có chỗ sinh, không thấy làm sao tìm chỗ diệt?
Hỏi: Trước nói thật có chỗ sinh ra hoa, ở đây làm sao giải thích?
Đáp: Y theo lúc vọng chấp ở trước mà nói có. Ngộ rồi mới biết khi có vốn không, vì các pháp hòa hợp rõ ràng có thể thấy, cho nên kinh Lăng-nghiêm chép: mê này không có bổn tánh, rốt ráo là không. Xưa vốn không mê, mà dường như có mê tánh giác, giác mê thì mê diệt, giác không sinh mê, đây chính là lý vô sinh. Nếu quyết định nhẫn chịu ở tâm, gọi là vô sinh nhẫn. Kinh Hoa nghiêm chép: Tất cả pháp không sinh, tất cả pháp không diệt, nếu hiểu được như vậy, chư Phật thường hiện tiền. Sau khi dứt nghi, nghi rằng: trước nói sinh tử, do nơi vô minh, vô minh đã không, đâu có sinh tử? cho nên giải thích rằng:
21. Cái thấy ngang trái gọi là sinh tử:
Tất cả chúng sinh ở trong vô sinh vọng thấy sinh diệt, vô minh và sinh tử bổn mạt tất cả đều không. Chúng sinh ở trong không này mà mê tình, thấy có sinh tử một cách ngang trái, trước y theo cái thấy ngang trái cho nên nói có, ở đây thì thật luận cho nên nói không. Thế nên gọi là sinh tử luân hồi, chỉ cho văn trước, do bởi cái thấy ngang trái, cho nên văn trước gọi là sinh tử. Thứ ba giải thích thành nhân địa. Trên đây đã nói vọng, không, chân, hữu, có Phật, không Phật, tánh tướng vẫn như vậy, nay nói nương đây thông suốt, tâm ý thầm hợp mới thành nhân địa bổn khởi. Giải thích thành chánh đáp câu hỏi, trong văn chia làm ba:
22. Nói về nhân địa tu viên giác của Như lai:
-Trước là nương chân, ngộ vọng, mau chóng ra khỏi sinh tử. Này người thiện nam! nhân địa của Như Lai tu viên giác: Văn như trước đã nêu, tức là nương chân.
Biết là hoa đốm trong hư không là ngộ vọng, đều mau ra khỏi sinh tử, tức là không có trôi lăn thì không có pháp sinh tử. Đã biết muôn pháp như hoa đốm trong hư không, thì đâu còn thấy có trôi lăn, một hạt hoàn đơn chỉ sắt thành vàng, chân lý một lời biến phàm thành Thánh. Cũng giải thích nhân không khác quả, nhân địa như vậy mới gọi là chân tu.
Cũng không có thân tâm chịu sinh tử kia: người không sinh tử. Nghĩa là nếu chấp có ngã mà thoát khỏi luân hồi, thì đó là chưa khỏi ngã chấp. Ngã, ngã sở mất mới được giải thoát, tức là soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua tất cả khổ ách. Bên ngoài để lại thế giới, bên trong thoát khỏi thân tâm. Không chấp thân, thân đồng hư không. Không chấp tâm tâm đồng pháp giới.
Chẳng làm cho nên không, bổn tánh là không. Chẳng do ta làm quán hạnh mới được, thân tâm rỗng không, bản tánh vắng lặng, xưa nay là không. Cho nên kinh Kim cương Tam-muội chép: Như chúng sinh được hóa độ mà không có chúng sinh được cảm hóa, không chúng sinh không hóa độ, hóa độ kia mới lớn! Kế là xoay vần phủi đi dấu vết, giải thích thành chánh nhân. Phủi có bốn lớp: Tri giác kia kia giống như hư không, một là phất nhẹ trí biết vọng, nghĩa là có thể biết thân tâm tánh vốn không, cũng như hư không đều chẳng thật có.
23. Xóa bỏ tâm phủi:
Biết hư không tức là tướng hoa đốm trong hư không, hai là xóa bỏ tâm phất. Biết năng giác là vô, tức đồng với hoa đốm trong hư không, tức là vô. Cũng không thể nói không biết tánh giác. Ba là ngăn dứt đoạn diệt, chỉ không khởi niệm phân biệt không hữu, không phải là không tâm, có không đều mất. Bốn là tổng kiết lìa lỗi.
24. Tổng kết lìa lỗi:
Ấy gọi là thuận theo tịnh giác. Giải thích thành nhân. Có-không đã không hợp lý, đây tức là đường tâm tư lời nói dứt bặt. Giác thể thanh tịnh từ đây hiển rõ, nhưng không bỏ giác theo trần, thì gọi là thuận theo, cũng chẳng có năng thuận riêng, cho nên ngài La-thập nói: vô tâm nơi hợp, hiệp ấy là hợp ư! Thuận theo tịnh giác nên nói tịnh giác thuận theo, như thế chấp hết thì bệnh trừ. Nhưng sâu hưng tâm vận hành, thì nhóm cát vẽ đất, chắp tay cúi đầu đều thành Phật đạo. Tu tập như vậy đáng gọi là chánh nhân, sau nêu lý do phất nhẹ. Giải thích trở về viên thật.
Vì sao? Vì thân tâm giả huyễn có thể nói là hoàn toàn không. Tri giác xứng lý vì sao lại phải bỏ! Hữu vô đều dứt thì y theo cái gì tu hành? Kế lại giải thích ý nói: tướng nhân đối đãi đều là theo duyên. Pháp của theo duyên đâu có thật thể! Sinh tâm động niệm thì trái với bổn tánh, mất đi chánh niệm. Tánh thể viên thật đều không như vậy...
Tánh hư không, tất cả pháp không bất sinh diệt, nghĩa là tướng như trên nhân các tướng, giống như hư không, vốn tự không sinh nay không thể diệt, chẳng phải phủi bỏ mới làm cho không. Vì thế kinh Phật Tạng chép: Tất cả pháp không không, chẳng có mảy may tướng...
Thường bất động, tất cả pháp vắng lặng không đến, đi. Chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại. Vì thế kinh Pháp Cú chép: các pháp từ xưa đến nay vắng lặng không hề lay động. Kinh Pháp Hoa cũng chép: tướng thường tự vắng lặng.
25. Nói về Như lai tạng:
Trong Như Lai tạng, hai câu trên nói về các pháp, dưới đây đều hiển rõ nhất tâm. Luận Chỉ Nhất Tâm chép:
Như Lai tạng. Kinh Lăng-già cũng chép: vắng lặng: gọi là nhất tâm. Nhất tâm: gọi Như Lai tạng. Kinh này ở dưới chép: viên giác, diệu tâm, Niết-bàn tức gọi Phật tánh. Nay một câu này là nêu chung, hai câu tiếp là "không tạng", ba câu sau là "bất không tạng". Gọi chung là Như Lai tạng: do ba nghĩa.
1: Nghĩa che lấp: nói che lấp Như Lai cho nên nói tàng, vì thế kinh Lý Thú Bát-nhã chép: tất cả chúng sinh đều Như Lai tạng. Kinh Thắng-man chép: hai pháp sinh, tử gọi là Như Lai tạng. Pháp thân Như Lai không lìa khi phiền não, gọi là Như Lai tạng. Kinh Như Lai tạng chép: trong các phiền não tham, sân, si của tất cả chúng sinh có thân Như Lai, cho đến thường không nhiễm ô, đầy đủ đức tướng, như ta không khác, liền dùng chín ví dụ để ví dụ.
26. Nêu chín ví dụ:
1. Ủy hoa Phật thân.
2. Nham phong thuần mật.
3. Khang hội canh mễ.
4. Vàng ròng rơi xuống bùn nhơ.
5. Nhà nghèo được kho báu.
6. Hạt trong quả am-la.
7. Tượng vàng trong áo rách.
8. Bần nữ của Luân vương.
9. Tiêu mô đúc tượng.
2. Nghĩa gồm nhiếp: nghĩa là pháp thân Như Lai thâu nhiếp chứa nhóm thân tướng, cõi nước, thần thông đại dụng công đức vô lượng. Lại cũng gồm nhiếp tất cả chúng sinh, đều ở trong tạng Như Lai.
3. Nghĩa sinh ra: nghĩa là pháp thân này đã bao trùm các đức, hiểu rõ chứng nhập thì sẽ sinh ra. Luận Thập Địa chép: địa trí có công năng sinh ra nhân quả vô lậu, cũng có thể sinh khởi đạo hạnh của trời, người. Ba nghĩa này trước y theo khi mê, sau y theo khi ngộ, ở giữa là khắc thể nhưng y theo chân vọng hòa hợp, thì gồm có hai hình tướng, nghĩa là trong kinh này nói: Như Lai tạng tự tánh khác nhau, luận chép: Chân như sinh diệt, nhưng chân vọng mỗi thứ đều có hai nghĩa, chân nghĩa là tùy duyên bất biến, vọng: nghĩa là thể không thành sự, trong chân không thay đổi, trong vọng thể không tức tự tánh chân như. Trong chân tùy duyên, trong vọng thành việc, tức là sinh diệt khác nhau.
27. Tính chân như có hai tướng:
Ban đầu trong tính chân như, lại có hai tướng. Kinh Thắng-man nói: có thứ hai Như Lai tạng không trí, đó là Không Như Lai tạng và Thoát ly nhất thiết phiền não tạng. Bất không Như Lai tạng, có hằng sa không thể suy nghĩ bàn luận Phật pháp. Trong luận cũng nói như thật không-như thật bất không, nghĩa hoàn toàn giống như ở đây. Sau trong sinh diệt cũng có hai tướng, đó là hữu lậu, và vô lậu, vô lậu lại có hai. Hữu vi và vô vi, hữu lậu cũng có hai là thiện và bất thiện, những hành tướng này đều có nghiệp dụng. Ban đầu là chân tánh, chân tánh có hai nghiệp.
28. Có hai thứ nghiệp:
- Tự thể năng trì, công đức hằng sa, từ xưa đến nay không mất, không hoại.
- Có khả năng chế ngự hằng sa phiền não khách trần, từ vô thỉ đến nay không nhiễm không ô, sau sinh diệt cũng có hai nghiệp:
1. Có công năng khởi hoặc gây nghiệp, nhiều kiếp chịu khổ sinh tử trong sáu đường. Cho nên kinh Lănggià nói: Như Lai tạng: là nhân của lành, không lành, có công năng tạo ra tất cả đường cho đến hoặc sinh hoặc diệt.
2. Có công năng biết chân đạt vọng, phát tâm tu hành chứng quả ba thừa. Như luận Thập Địa ở trước đã dẫn... nói do hai nghiệp. Luận bảo tánh dẫn bài kệ trong kinh chép: tánh từ vô thỉ đến nay, làm chỗ nương cho các pháp, pháp tánh có các đạo và chứng quả Niết-bàn. Văn xuôi dẫn lời giải thích của kinh Thắng-man chép: Tánh là Như Lai tạng. Y chỉ là Như Lai tạng, là nương tựa, là giữ gìn, là kiến lập. Các đường là có Như Lai tạng cho nên nói sinh tử, ấy gọi là khéo nói. Chứng Niết-bàn, nếu không có Như Lai tạng thì không được nhàm chán khổ, ham cầu Niết-bàn, là chỗ nương từ đầu đến cuối trong nhân quả của chư Phật, vì thế người vào đạo trước phải tin hiểu. Lìa đây mà tin khác thì rơi vào tà kiến. Vì thế kinh Mật Nghiêm quở trách là ác tuệ. Hoa Nghiêm cũng chép: không thể rõ tự tâm, làm sao biết chánh đạo. Kia vì điên đảo tuệ, nuôi lớn tất cả ác, căn cứ đây mà rõ mới biết chánh đạo. Cho nên kinh Thắng-man chép: nếu đối với Như Lai tạng mà bị vô lượng phiền não trói buộc không nghi ngờ thì đối với tạng pháp thân vô lượng phiền não xuất triền cũng không nghi ngờ. Hội ban đầu trong Hoa Nghiêm, Phổ Hiền liền nhập Tam-muội Như Lai tạng thân là ý ở đây. Nhưng dù tâm này phàm Thánh đều có, nhưng quả hiển rõ dễ tin, vì ẩn nên khó rõ, vì hiểu biết cạn cợt. lưu truyền khinh nhân trọng quả. Nguyện các đường là tin sâu tự tâm.
29. Nói về tính chất của Như lai tạng:
Không khởi diệt: giải thích sinh tử sở tri ở trên... Vì không tri kiến: giải thích tri giác giả ở trên...
Hai câu trên đây giải thích không tạng. Nghĩa là thấy sinh tử khởi, thì gọi là chấp tình, thấy sinh tử diệt, thì gọi là tri giác, nay vì trong Như Lai tạng đã không thể khởi, không thể diệt thì làm sao có năng chấp, năng tri? Lại, khi mê sinh tử chẳng khởi, khi tịnh tâm chẳng phải diệt, cho nên vô mê. Khi ngộ thì tịnh tâm chẳng khởi, sinh tử chẳng diệt, cho nên chẳng có ngộ. Vì chẳng có ngộ cho nên vô tri kiến, đây chẳng phải chỉ không thể biết thức, đè nén cũng không thể biết trí, thức và trí đều như, mới là tự thể hiểu biết chân thật, ánh sáng đại trí tuệ chiếu khắp, vì ba câu dưới đây nói về "bất không tạng".
30. Hai điểm khác nhau giữa pháp giới tánh và Như lai tạng:
Như pháp giới tánh: pháp giới tánh và Như Lai tạng thể đồng nghĩa khác, khác có hai:
1. Trong số hữu tình gọi Như Lai tạng, trong số phi tình (chẳng phải hữu tình) gọi pháp giới tính. Như luận Trí Độ nói sự khác nhau giữa Phật tánh và pháp tánh.
2. Nói pháp giới thì tình thế gian, khí thế gian thông suốt tâm cảnh không phân, Như Lai tạng thì chỉ nói các Đức Phật và chúng sinh tâm thể cội nguồn thanh tịnh, như nói rằng có thể làm thiện ác, có thể khởi nhàm chán mong cầu, nói theo pháp giới, thì không có nghĩa đây. Căn cứ theo đây thì tạng tâm đảm đương cội nguồn, giới tánh hỗn hợp gốc ngọn, hỗn hợp thì nghĩa trùm khắp khắp dễ tin, đảm đương thì lý biến khắp khó rõ, vì thế chỉ tạng tâm như pháp giới tánh. Cũng là thâu nhiếp sự khác nhau của hai nghĩa kia, trở về đồng một thể, mới hiển rõ giác vọng nhờ nương thật chẳng phải rốt ráo viên thật.
Rốt ráo dọc cùng ba đời, đầu cuối thường như vậy. Viên là trùm khắp hư không, mãn là các đức đầy đủ. Vì khắp mười phương cho nên không bờ mé, vì tánh Như Lai tạng vốn tự như thế, đâu cần giảm cũ, thêm mới, diệt hoặc, sinh trí? Vì thế ba lần mất đi thầm hợp tâm giác, lấy đó làm gốc tu hành mới được chính gọi là nhân địa.
31. Kết thúc nhắc lại đáp:
Thứ tư kiết thúc nhắc lại lời hỏi đáp.
Cho nên là pháp hạnh nhân địa, Bồ-tát do đây, đối với Đại thừa phát tâm thanh tịnh, chúng sinh đời mạt pháp nương theo đó tu hành, không rơi vào xuống là kệ tụng, văn chia làm hai:
-Nêu lên: Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên nói kệ rằng: nhưng kệ có hai loại:
1. Già-đà: Hán dịch là phúng tụng, tức là kệ cô khởi.
2. Kỳ dạ: Hán dịch là xưng tụng, là tụng theo văn xuôi, hoặc vì người độn căn nói lại, hoặc vì những người đến sau, hoặc vì làm rõ thêm đều nói ở trước. Nay kệ kinh này điều đã là kỳ-dạ. Nhưng hễ nói văn xuôi thì kệ tụng đối nhau. Có ví dụ về năm cặp, đó là: có, không, rộng, lược, ly, hợp, trước, sau, ẩn, hiện. Vấn mục kinh này là có văn xuôi không có kệ.
Đáp: Đều là văn xuôi rộng, kệ lược, ngoài ra tùy theo đối văn tương đương đang chỉ.
-Chính thức trình bày: nhưng trong đoạn này có năm bài kệ, chỉ phúng tụng lại trường hàng, không có nghĩa riêng, cho nên như thứ hai y theo bốn đoạn trước mà xét. Nhưng văn kinh thêm bớt, cho nên tên khoa đoạn cũng khác nhau chút ít. Bốn thứ là:
32. Các bài tụng về liễu ngộ bản giác:
-Phúng tụng liễu ngộ bản giác.
* Văn-thù ông nên biết, tất cả các Như lai, từ nơi nhân địa gốc, đều nhờ trí tuệ giác. Nghĩa chẳng khác trước.
-Phúng tụng dứt trừ vô minh.
* Thấu rõ các vô minh:
Biết kia như hoa đốm, Thì thoát khỏi trôi lăn,
Lại như người trong mộng, Thức dậy chẳng thật có.
Hai đoạn trên đều lìa trường hàng, hợp với kệ.
-Phúng tụng phủi dấu vết thành nhân:
Người giác như hư không, Bình đẳng không lay động, Biết khắp cả mười phương, Liền được thành Phật đạo, Dứt các huyễn không còn.
Hai câu trên, trước văn xuôi sau kệ.
Thành đạo cũng không được, văn xuôi không kệ có, vì Bổn tánh tròn đầy, bốn đọc bài kiết thúc nhắc lại hỏi rằng.
Bồ-tát đối với đây, Nặng phát tâm Bồ-đề Văn xuôi kín, kệ hiển rõ.
Chúng sinh đời mạt pháp, tu đây khỏi tà kiến.
Dưới đây là đoạn lớn thứ hai, dạy nương vào sự hiểu biết tu hành tùy căn cơ chứng nhập, nghĩa là mở đầu người pháp gương sáng soi chiếu tâm, mau được tin hiểu, cho đến tu chứng lâu dài, nên từng tiết mục khác nhau, vì chướng có cạn sâu, căn cơ có lợi độn, thói quen có dày mỏng, tâm hạnh trái nhau, cho nên chỗ nào cũng phải tùy theo căn cơ dẫn dắt khiến được ra khỏi. Nhưng sự tu chứng kia giai cấp cao thấp tuy khác nhau nhưng phải nhờ bổn nhân, cho nên nói nương vào giải thích. Trước là tin hiểu. Ở đây là hành chứng cho nên bộ Hoa nghiêm cũng chỉ có bốn điều này, trong văn có hai:
1. Nêu lên giải thích dụng tâm.
2. Nói rộng hành tướng.
Sở dĩ như thế, vì lý ngộ tu một khác khó rõ, ý phù hợp với thật tướng mà dường như trái, vì thế phải nêu lên giải thích khiến hiểu dụng tâm. Nhưng sau tùy tánh tùy duyên, nói rộng về hành tướng. Ở đây trước hết nêu lên giải thích bốn đoạn của khoa lớn trong văn không khác môn đầu, trong phần bày thỉnh có ba cũng giống như trước nêu. Ở đây:
1. Trước là hỏi về oai nghi: Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Hiền ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: Phổ Hiền chính là thể trong hạnh, nêu đầu tiên làm chỗ nương chung, quán môn riêng không lìa ở đây.
2. Hai Thánh biểu pháp rồi đầy đủ văn trước. Kế là trình bày, trong văn có bốn:
1) Một là y theo căn cơ đương thời nêu lên. Xin Đại bi Thế Tôn! vì các chúng Bồ-tát trong hội này và vì tất cả chúng sinh đời mạt pháp tu hạnh Đại thừa: nghe cảnh giới viên giác thanh tịnh này mà nói tu hành như thế nào? Tin hiểu viên giác tức là căn cơ đương thời, dù đạt được thiên chân vẫn chưa rõ duyên khởi, đại sĩ thương xót tiếp dẫn rủ lòng, trưng hỏi kỹ lưỡng dụng tâm giải hạnh khế hợp như thế nào?
2) Hai là hỏi giải hành trái nhau. Trong đó lại chia hai: Huyễn huyễn tu như thế nào?
Thế Tôn! Nếu chúng sinh kia: Là chỉ cho căn cơ đương thời ở trước. Biết như huyễn: thân tâm cũng huyễn (là giải thích) vì sao dùng huyễn trở lại tu huyễn? (Là hành). Nghĩa là tất cả như huyễn chính giải mới thành. Pháp huyễn chẳng chân làm sao tu tập? Cho nên giải và hành tới lùi trái nhau, nêu lên giải thích dụng tâm thật do ở đây. Đây hỏi từ trước biết là hoa đốm trong hư không tức là do các văn nói về không còn trôi lăn... mà có. Ý nói thân tâm đã như huyễn, năng tri cũng là huyễn, dùng huyễn lại trừ huyễn, huyễn huyễn làm sao cùng tận. Huyễn nghĩa là thế gian có pháp huyễn, nương theo cỏ cây... huyễn làm người, súc sinh rõ ràng dường như có tướng của động tác qua lại. Chốc lát pháp tàn tạ lại thành cỏ cây. Nhưng các kinh giáo dụ huyễn rất nhiều, bởi vì năm thiên ở đây nói rất nhiều, thấy nghe đã xét pháp lý dễ rõ, và truyền đến Trung quốc trở thành khó hiểu. Nay y theo văn của các Đại sư xưa giải thích Hoa Nghiêm như huyễn. Pháp dụ mỗi thứ chia ra năm pháp, trong ví dụ có năm, như cột một chiếc khăn huyễn.
a) Con ngựa, một khăn sở y.
b) Pháp ảo thuật của nhà ảo thuật.
c) Ngựa ảo.
d) Ngựa có liền không.
e) Người ngu chấp là ngựa, trong pháp có năm:
- Chân tánh.
- Tâm thức.
- Y tha khởi.
- Ngã pháp tức là không.
- Mê chấp ngã pháp, các ví dụ ảo thuật dưới đây đều dựa theo đây mà biết.
3. Ba Hỏi đoạn diệt ai tu.
Nếu các tánh huyễn tất cả diệt hết thì không có tâm, vậy ai là người tu hành, vì sao lại nói tu hành như huyễn?
Câu hỏi này cũng từ việc phủi dấu vết ở trước mà có. Nghĩa là nếu vì như huyễn nên tất cả đều không, năng sở đều không, vậy dạy ai tu tập? Vì sao lại nói tu hành như huyễn? Kinh Kim cương Tam-muội chép: Tâm tính chúng sinh vốn vắng lặng, tâm vắng lặng thể không sắc tướng, vì sao nói tu tập được bổn không tâm.
4. Bốn là ngăn lỗi không tu.
Nếu các chúng sinh vốn không tu hành, đối với sự sinh tử thường ở trong huyễn hóa, sẽ không biết rõ cảnh giới như huyễn, khiến tâm vọng tưởng làm sao giải thoát. Ý nói sợ hãi mê hoặc. Lại nói: Tất cả như huyễn, thảy đều là không, giác tính vô sinh xưa nay thanh tịnh, biết kia tức là mình thì làm sao có tu hành? Cho nên ở đây ngăn rằng: bổn không vốn không tu, nhiều đời khổ sinh tử, nay không, nay không tu, thì làm sao thoát khổ? Không rõ cảnh giới như huyễn là chưa đạt đến duyên khởi sự tướng. Từ xưa đến nay không thông hiểu vọng tưởng, không được giải thoát. Nay lại không biết rõ, như thế làm sao được giải thoát? Ý đắm chìm thời cận đại rất nhiều, chỉ cậy vào thiên chân mà không quán lực dụng.
5. Năm Phương tiện thỉnh tu.
Xin vì tất cả chúng sinh đời mạt pháp, dạy phải làm phương tiện gì tu tập dần dần, khiến các chúng sinh lìa hẳn các huyễn.
Như trên là ngăn lỗi không tu, đã biết thì quyết định nên tu. Hỏi: Pháp môn đối trị làm thế nào lìa hẳn các huyễn?
Đáp: Luận chép: nếu người chỉ nhớ nghĩ chân như, không dùng các thứ phương tiện huân tu, thì không bao giờ được thanh tịnh, đối với dần dần xa lìa cho nên nói là lìa hẳn, nghĩa là trước quán nhất thể, dù giác ngộ được toàn chân, sau gặp tám thứ gió thì lăng xăng khởi lên vọng tưởng, hạnh như cùng tử, hiểu như ánh điện chớp dùng pháp gì tu trị? Để trừ hẳn gốc bệnh. Nhưng kinh nói: tất cả chúng sinh làm phương tiện gì? Giữa hai câu ý văn dứt bặt, dịch quá sơ lược, nên nói rộng thêm giải thích các lời, ý thì nối nhau, thông suốt rõ ràng? Sau cũng thường như vậy, dưới đây là ba lần xướng văn kinh, mô phỏng theo khoa đoạn ở trước.
Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối rồi trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ Hiền rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Các ông mới có thể vì các Bồ-tát và chúng sinh mời mạt pháp, mà tu tập Tam-muội như huyễn của Bồ-tát: Tam-muội. Hán dịch là Chánh thọ, do thấu đạt thân tâm Như Huyễn thì thầm hợp với bổn giác chân như, như gương nhận bóng, chẳng phải nhận, chẳng phải chống cự, vì thế gọi là chánh thọ.
Phương tiện dần dần khiến các chúng sinh được lìa các huyễn. Nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho ông nghe. Lúc bấy giờ, Bồ-tát Phổ Hiền vui mừng vâng lời chỉ dạy, và các đại chúng im lặng lắng nghe: là phần giảng nói, trong văn xuôi có bốn.
1. Nêu huyễn từ giác sinh để làm nghĩa gốc.
2. Nói huyễn hết thì giác tròn đầy, để giải thích nghi ngờ ở trước.
3. Khiến lìa huyễn, hiển bày giác, là chỉ bày dụng tâm.
4. Nói huyễn và giác không đi chung. Kết thúc đáp lời thỉnh mời.
Ở đây, trước là phần thứ nhất nói nghĩa gốc: vì Phổ Hiền chỉ nêu lên tu huyễn, không hỏi chỗ sinh ra huyễn, Phật dạy sinh trong tâm giác, không vì chính đáp lời hỏi, hơn nữa phải nêu lên làm gốc, dựa vào đó nói lên huyễn hết thì giác tròn đầy, vì thế có tu thì nghĩa huyễn thành. Huyễn hết vốn chẳng phải đoạn diệt, cho nên luận chép: Tâm tự tánh thanh tịnh do vô minh lay động, cho đến vô minh diệt trí tánh không hoại, như gió ngừng thổi tánh ướt không mất.
Này người thiện nam, tất cả chúng sinh tạo ra các thứ huyễn hóa, như năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới hữu lậu... Kệ chép: huyễn vô minh. Đều sinh: các pháp hữu lậu đều từ tánh tịnh chân tâm mà sinh, nương chân khởi vọng.
Như lai: Tâm này tùy phàm Thánh đồng nương, chỉ có Phật chứng đắc tròn đầy, y theo Phật mà nêu.
Viên: Là lìa tướng, giác: Thì chẳng phải không; Diệu: là nhiễm mà không nhiễm. Tâm: trong thật thần giải, tiếng Phạm là Càn-lật-đà, là tâm chắc thật, không đồng nghĩa của duyên lự lập khởi. Nói đều sinh: tâm thể bản giác là nhân. Căn bản bất giác là duyên sinh, nghiệp thức ba đời là nhân, cảnh giới là duyên sinh sáu thô. Vì thế kinh Lăng-già chép: Này Đại tuệ! Không thể suy nghĩ bàn luận, không thể suy nghĩ bàn luận biến là nhân hiện thức. Chọn lấy các bụi trần và vọng tưởng từ vô thỉ mà huân là nhân của phân biệt sự thức. Cho nên biết các pháp đều không có tự thể, phải mượn chỗ nương, nương tâm viên giác mà sinh khởi. Như ngựa ảo thuật không có thật thể, phải nương vào khăn, khăn dụ chân tâm, ngựa tức là năm uẩn, mười tám giới. Phối hợp với năm pháp trước gốc ngọn nên biết.
Hỏi: Chân có thể sinh vọng, chân là nguồn vọng, vì sao ở trước nói vô minh không có thật thể?
Đáp: Vọng gá vào chân mà khởi nên nói chân là nguồn, hiện trở lại mê chân, chân vốn không vọng, như mặt trăng thứ hai nương vào mặt trăng thật mà sinh ra, nói mặt trăng thật làm chỗ nương cho mặt trăng thứ hai. Mặt trăng thật không có vầng thứ hai, tức là mặt trăng thứ hai không có thật thể của nó. Cho nên kinh nói: Các thứ sinh nơi tâm giác, không phải tâm sinh các thứ, nhưng các kinh luận đều nói "Muôn pháp nhất tâm, ba cõi duy thức". Tông đồ có khác, người học ít biết, nay y theo năm giáo lược nêu chỗ khác nhau.
1. Ngu pháp Thanh văn giáo: giả nói nhất tâm, nghĩa là thật có cảnh ngoài, chỉ do tâm gây ra nghiệp mà chiêu cảm ra.
2. Đại thừa quyền giáo: nói A-lại-da chín muồi gọi là nhất tâm, ngăn dứt vô cảnh.
3. Đại thừa thật giáo: cho Như lai tạng là nhất tâm, lý không hai.
4. Nhất thừa đốn giáo: Dứt bặt nhiễm tịnh, chỉ là nhất tâm, bác bỏ các số.
5. Nhất thừa Viên giáo: bao gồm muôn hữu, tức là nhất tâm, lý-sự-bổn-mạt chẳng khác nhau.
Năm giáo trên đây sau cùng sâu, sau thâu tóm trước, trước không nhiếp sau, nhưng đều nói nhất tâm, có sự khác nhau này. Vì kinh nói theo căn cơ, luận suốt thì kinh thông, người theo luận chấp, đến nỗi khiến đời mạt pháp chấp chặt sự cạn cợt tạm bợ, nay bổn mạt thông suốt, khiến năm môn đều hiển rõ tông chỉ, đối nhau lại là ba môn.
Y theo sở thuyên: trái thứ tự thuận pháp, từ bốn đến một, xoay vần khởi mạt. Nghĩa là vốn chỉ chẳng phải nhiễm chẳng phải tịnh, tâm nhất pháp giới, do tên gọi bất giác, Như lai tạng cùng sinh diệt hợp nhau thành thức Alại-da (thức thứ tám).
Lại do chấp đây làm ngã pháp, chuyển khởi bảy thức còn lại thành tám thức. Mỗi thức đều do thức thể khởi năng kiến phần, do năng kiến nên dường như ngoại cảnh hiện, chấp lấy cảnh này làm định thật, tạo ra các nghiệp chung, nghiệp riêng, vì thế trong thì mê ra tự thân, ngoài thì chiêu cảm khí giới tất cả các pháp.
1. Y theo năng thuyên: văn thuận pháp nghịch, từ một đến bốn, xoay vần cùng tột cội gốc. Nghĩa là Đức Phật đối với căn tánh thấp kém chưa thể mau thông đạt cội gốc sinh khởi ra muôn pháp: hơn nữa nói từ nghiệp chiêu cảm, đây là Thanh văn giáo đầu tiên. Kế là căn cơ hơi tốt. Nói năng sở chiêu cảm, tất cả duy thức, xoay vần cho đến chỉ một chân tâm, gọi là đốn giáo... đều do căn có cao thấp, khiến nói có cạn sâu, nếu chấp đắm thì mê sau sau. Thông hiểu đầu cuối mới cùng tột nguồn gốc.
2. Năng thuyên sở thuyên: nghịch thuận, bổn mạt đều không chướng ngại, vì xứng pháp tánh thẳng nói không theo căn cơ nên nói là khác, tức là Viên giáo. Nghĩa của Duy tâm kinh luận đã nêu rõ. Mê thì hướng mặt vào tường, hiểu thì muôn pháp trước gương, huống nữa đây nêu làm nghĩa gốc như thế sao không rõ tận cội nguồn? Người thông suốt hãy xét kỹ! Chớ trách bày ra đầy đủ. Dưới đây là phần thứ hai, nói về huyễn hết thì giác tròn đầy, để giải thích nghi ngờ trước. Nhưng trên nói huyễn từ giác sinh, duyên nhiễm sinh khởi. Ở đây nói về huyễn hết giác tròn đầy, duyên tịnh sinh khởi, cho nên luận chép: Có bốn pháp huân tập nghĩa, nhiễm pháp tịnh pháp khởi lên không chấm dứt. Pháp nhiễm: do nương pháp chân như có ra vô minh, vô minh huân tập chân như nên có vọng tâm, vọng tâm huân tập vô minh, không rõ pháp chân như, bất giác vọng khởi hiện cảnh giới vọng, cảnh giới vọng làm nhiễm pháp duyên, tức là huân tập vọng tâm, khiến niệm mê đắm, tạo ra các nghiệp, phải chịu tất cả các khổ thân tâm. Vì thế kinh Thắng-man chép: không nhiễm mà nhiễm, pháp thân không thêm không bớt. Kinh chép: pháp thân trôi lăn trong năm đường, gọi là chúng sinh. Kinh Hoa Nghiêm chép: Tâm như người thợ vẽ... tịnh duyên khởi:
Luận chép: Do có pháp chân như nên huân tập vô minh, khiến cho vọng tâm nhàm chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn, do nhàm chán ham cầu tức là huân tập chân như. Tự tin, đã tin, biết tâm vọng động, không có cảnh giới trước, tu pháp xa lìa, các thứ phương tiện khởi hạnh thuận theo, không chấp không niệm, cho đến năng lực huân tập lâu dài. Vô minh thì diệt, vì vô minh diệt nên tâm không khởi, cảnh giới diệt theo. Tướng Tâm đều cùng tận, gọi là được Niết-bàn, thành nghiệp tự nhiên, nhưng duyên thanh tịnh khởi trái với duyên nhiễm ở trước, duyên không tự tánh, nhiễm tịnh đều dung hợp tánh pháp giới, khởi chỉ do tánh khởi cho nên không dứt hết. Như Kinh Hoa nghiêm chép: y theo phương này gọi là huyễn hết giác tròn đầy, trong văn chia làm ba:
- Nêu ví dụ bao gồm văn giải thích trước.
- Pháp hợp chỉ nói về nghĩa gốc.
- Gồm cả, giác đồng với huyễn, nay đầu tiên giống như hoa đốm trong hư không từ hư không mà có, dụ cho nghĩa gốc ở trước, nghĩa là hoa đốm trong hư không rốt ráo thật không có sanh diệt, nhưng vì mắt bị màng nên thấy hoa. Khi bị màng che thì hoa nương hư không mà hiện, nói từ hư không mà có, như diệu tánh viên giác rốt ráo không sinh, chỉ vì tâm mê trong tánh vọng thấy, khi đã mê thì vọng nương giác hiện, nói sinh ra ở giác.
Hoa huyễn tuy diệt nhưng tánh hư không chẳng hoại, chính là dụ đoạn này giải thích văn nghi ngờ, nghĩa là che lấp khác nhau thì thấy hoa tan biến trong hư không. Hoa tuy diệt mà hư không thường còn. Nhưng hoa khi sinh không sinh, khi diệt không diệt, có che lấp có khác nhau, thấy sinh, thấy diệt. Hai pháp hợp lại chỉ nói nghĩa gốc. Chúng sinh tâm huyễn lại nương huyễn diệt, nghĩa là tâm huyễn này do trí rõ suốt mới được trừ diệt. Sở liễu là huyễn, năng liễu cũng huyễn, thì ở trước nghi rằng huyễn huyễn làm sao tu? Nay đáp ý rằng: Không ngại dùng huyễn trừ huyễn, lại ở trước nói: huyễn hết thì đoạn diệt, kế ở dưới đây đáp rằng: Các huyễn diệt hết, tâm giác bất động, đây là năng sở đều quên, liền khế hợp Viên giác. Giống như sóng do nước dậy, sóng tan nước còn, huyễn từ giác sinh, huyễn diệt thì giác tròn đầy.
Kế gồm cả phất, đồng với giác của huyễn, phất có ba lớp: Nương huyễn, nói giác cũng gọi là huyễn, phất giác là giác của vọng, đối duyên mà khởi nên cũng là huyễn.
Nếu nói có giác vẫn chưa lìa huyễn, người sợ tu tập liền nghĩ rằng: giác đối với vọng gọi là huyễn, giác không đối vọng vốn có thì chẳng phải hư huyễn, nếu sanh tâm này, sanh thì như huyễn.
Nói vô giác cũng giống như vậy, hoặc nói hai giác đều vô tức gọi là chân. Ý này cũng vẫn như huyễn, tóm lại: khởi tâm động niệm nói vọng nói chân đều là huyễn, đuổi nhau khởi niệm, thế cùng cực có ba lớp.
Cho nên huyễn diệt gọi là bất động, hoặc dứt bặt không nương nhờ, phân biệt không sinh, chân tâm viên giác tự nhiên hiển hiện. Vốn không huyễn hóa, nên nói bất động.
Kế là giúp cho lìa huyễn bày giác, chính là bày dụng tâm, là trả lời ý hỏi tu tập ở trước. Trước không nghi ngờ hợp với tu không tu, nhưng đối với tu nghi ngờ dụng tâm trái nhau, một bề chỉ thỉnh tu hành như thế nào để lìa huyễn? Gồm lỗi tự mình che lấp không tu, vì thế đoạn trước giải thích nghi ngờ rồi, đoạn này chính là chỉ bày dụng tâm, đoạn sau liền thông hiểu. Lời nói phương tiện thứ lớp, đã khiến lìa huyễn tu hành, bèn thông hiểu được lỗi nghi ngờ không tu. Vì thế không có văn trả lời riêng, trong văn có ba: nói pháp dụ hợp, trong pháp chia làm hai: Trước xoay vần lìa huyễn.
"Này người thiện nam! Tất cả Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, là nêu chỉ cho đương cơ". Phải nên là lời khuyên nhắc xoay vần bốn lớp.
Xa lìa tất cả cảnh giới huyễn hóa luống dối.
1. Lìa các cảnh huyễn, do giữ chắc xa lìa tâm, tâm như huyễn cũng lại xa lìa.
2. Xa lìa "tâm lìa huyễn", nói như huyễn là để phân biệt với chẳng phải tâm huyễn, xa lìa là huyễn cũng lại xa lìa.
3. Khiến xa lìa "lìa huyễn", lìa xa lìa huyễn cũng lại xa lìa.
4. Khiến xa lìa "lìa cái lìa", cũng có thể một là lìa vọng, hai là lìa giác, ba là khiến xa lìa, bốn là bỏ cái khiến. Đều nói xa lìa có hai: một là chỉ; hai là quán. Chỉ lìa: dừng tâm dứt ý không bao giờ phan duyên như người gặp kẻ thù không nên ở chung. Quán lìa: pháp luống dối đều không có thể tánh, như mộng thấy gông xiềng, thức dậy thì đã lìa, vì thế văn dưới đây nói: biết huyễn tức lìa, sau thầm hiển bày chân giác.
Một là, được không chỗ lìa tức dứt các huyễn, trong mộng thấy mộng xoay vần biết trước đó là chẳng đúng, đến khi thức thì thấy biết mới thật, cho nên nói như vậy. Không chỗ lìa có hai ý:
a) Thầm hợp với chân giác, chân giác thì không thể lìa.
b) Đến trong chân giác, tự nhiên không như trên là các thứ huyễn có thể xa lìa. Hà Trạch nói: vọng khởi liền giác, vọng diệt giác diệt, giác vọng đều diệt tức là chân như.
Hai là, ví dụ: thí như dùi lửa, hai cây cọ nhau mà phát ra lửa, gỗ hết tro bay khói tắt. Như có một khúc củi khô, dùng một khúc gỗ khác dùi thì lửa phát ra, trở lại đốt hai khúc gỗ, gỗ lửa đã hết khói tự nhiên tắt, đã thành tro bụi mặc cho bay đi, hai cây khác nhau hình chất làm ngại, như kế là bốn việc phối với pháp, khúc gỗ dụ cho pháp được tu là huyễn vọng. Gỗ đồ lấy lửa dụ cho năng tu huyễn trí, khói dụ cho xa lìa, tro dụ xua đuổi. Văn kinh trước nói: Tro bay là dịch ngược, hợp lại là khói diệt trước, các tro bay đi. Trong thí dụ thiếu ở bày giác, vì văn lược bỏ, trước pháp sau hợp, đều có đủ, nếu muốn đầy đủ, thì nên dùng đất dụ cho Viên giác, do gỗ... từ đất sinh ra, cháy hết sạch chỉ còn đất, như các thứ huyễn hóa sinh trong diệu tâm viên giác, huyễn hóa thường động hết, viên giác xưa nay bất động.
Ba là, hợp dùng huyễn tu huyễn cũng giống như vậy, các huyễn tuy hết nhưng không vào đoạn diệt. Ba câu trên là chính văn hiện của hợp dụ, một câu dưới gồm cả ở trước thầm bày chân giác.
Bốn là, nói huyễn và giác không đi chung, kết thúc đáp lời thỉnh. Này người thiện nam! Biết huyễn tức lìa, không hành phương tiện, lìa huyễn tức giác, cũng không thứ lớp, trước nói thực hành phương tiện gì để thứ lớp tu tập? Nay các chúng sinh xa lìa hẳn các huyễn, cho nên Đức Phật chỉ bày dụng tâm xong. Kết thúc trả lời không thực hành phương tiện cũng không thứ lớp, như vậy mới xa lìa được các huyễn, thông hiểu việc hỏi trong văn. Nhưng biết được đó là huyễn thì mình gọi là lìa, nhưng xa lìa được huyễn tức vốn là giác. Lại không có thứ lớp, dần dần biến thành giác. Như người mộng thấy thân lở loét, hỏi bác sĩ thuốc chữa, tỉnh dậy đã biết là mộng, thì đâu còn thực hành phương tiện gì? Nếu đợi phương tiện tu dần dần xa lìa tức là thật pháp, đâu gọi là huyễn hóa, nếu chấp thật có thì lại thành vọng chấp, đâu gọi là tu hành? Cho nên nói như thế.
Tất cả Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, y theo đây tu hành, như thế mới lìa hẳn các huyễn, kết quả thành xa lìa chân thật, cũng là chung kết văn của dụng tâm ở trước.
Kế là bốn đoạn trong kệ tụng, theo thứ lớp kệ phúng tụng, lại văn xuôi, khoa văn hoàn toàn giống nhau, không phiền nói lại.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này bèn nói kệ rằng, lại nêu lên, văn sau mô phỏng theo đây.
Phổ Hiền ông nên biết,
Tất cả các chúng sinh,
Huyễn vô minh vô thỉ,
Đều từ các Như lai,
Lập ra tâm Viên giác.
Nêu chỉ cho sinh: Nói về vô minh thì văn xuôi không, kệ có.
Như hoa đốm trong hư không, Nương không mà có tướng, Hoa giữa không nếu diệt,
Hư không vẫn bất động. Huyễn từ các giác sanh Huyễn diệt giác tròn đầy Vì tâm giác bất động.
Xoay vần phủi dấu vết văn xuôi có, kệ không. Nếu các Bồ-tát kia, và chúng sinh đời mạt, thường nên xa lìa huyễn, các huyễn thảy đều lìa, như trong gỗ sinh lửa, gỗ hết lửa lại tắt.
Văn xuôi lìa kệ hợp, lại pháp hợp và thầm hiển bày chân giác văn xuôi có, kệ không.
Giác thì không thứ lớp, Phương tiện cũng như vậy.
Văn kết thúc trả lời,
Văn xuôi có, kệ không,
Nêu lên giải thích dụng tâm xong.
Dưới đây là đoạn văn lớn. Thứ hai nói rộng về hành tướng, có chín câu hỏi đáp, gom lại làm ba.
-Ban đầu bốn lần hỏi đáp nói chung về quán hạnh, thượng căn tu chứng. Kế là bốn lần hỏi đáp, nói riêng về quán hạnh, trung căn tu chứng, sau là một lần hỏi đáp, nói về đạo tràng gia hạnh, hạ căn tu chứng. Nhưng ba môn này trước trước không nhờ sau sau, sau sau phải theo đuổi trước trước, trong phần đầu có bốn.
1) Mở bày quán môn đồng với Phật.
2) Gạn hỏi giải thích mê ngộ, đầu cuối.
3) Nghiên cứu sâu cội gốc luân hồi.
4) Lược chia địa vị tu chứng. Y theo của môn đầu có bốn, ba đều giống như trước.
Ở đây trước hỏi oai nghi.
Bấy giờ, Bồ-tát Phổ Nhãn ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi quanh theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: nghĩa cũng đồng như trên, kế là trình bày bốn trường hợp, trong đó có ba.
1. Nêu pháp thỉnh.
Đại bi Thế Tôn! Xin vì các chúng Bồ-tát trong hội này, và tất cả chúng sinh đời mạt pháp, giảng nói thứ lớp tu hành của Bồ-tát. Nêu thỉnh tu hành theo thứ lớp, do câu hỏi của Phổ Hiền rất sâu xa, Như lai xứng lý trả lời, trước muốn tiêu trừ tâm bệnh, sau đó muôn hạnh đều tu. Hoặc có nghe trước nói rằng biết huyễn tức lìa, không hành phương tiện, cũng không thứ lớp, nghĩa là nói biết huyễn tức đã lìa đều không nhờ tu. Phổ Nhãn muốn giúp cho giáo pháp tròn đầy nên thưa hỏi pháp môn khởi hạnh. Vì thế Phật dạy giữ giới, ngồi thẳng, thường nghĩ như vầy... xoay vần cho đến quán hạnh thành tựu.
Vì sao? dưới đây đều nêu riêng.
Suy nghĩ: Quán sát chân vọng tức là tư tuệ.
Thế nào là trụ trì? Ngộ được cảnh giới mầu nhiệm an trú trong đó, giữ gìn không mất, tức là tu tuệ. Ở dưới là lắng nghe Phật dạy là sinh văn tuệ. Từ phàm đến Thánh phải nhờ ba tuệ, vì thế Phổ Nhãn vì chúng mong cầu xin, trên đều hỏi về trí, dưới đây là hỏi về bi rằng. Chúng sinh chưa ngộ, phải thực hành phương tiện gì? Giúp mọi người khai ngộ, ở đây đồng với Pháp Hoa, muốn giúp cho chúng sinh "khai thị ngộ nhập", dùng khai để thâu nhiếp Thị, dùng Ngộ thâu nhiếp nhập, vì khai thị y theo năng hóa, ngộ nhập y theo sở hóa. y theo kinh này thì dưới đây Phật trả lời hoàn toàn dùng Như lai thanh tịnh tâm viên giác đã hiển bày ở trước làm căn bản. Do quán nhân, không, pháp không, và diệt ảnh tượng, hư không vô biên giác được hiển phát. Viên giác sáng tỏ cho nên hiển bày tâm thanh tịnh, cho đến ngang bằng với chư Phật, tức là khắp khiến khai ngộ.
2. Lại hiển bày thưa thỉnh.
Bạch Đức Thế Tôn! Nếu chúng sinh kia không có phương tiện chân chính và suy nghĩ chân chính, nghe Phật, Như lai nói Tam-muội này thì tâm sinh mê muội liền không thể ngộ nhập viên giác, trái lại nếu được nghe Phật dạy phương tiện suy nghĩ liền khai ngộ. Nói nghe Tam-muội này, chính là trước lìa pháp môn huyễn ảo. Vì thế Phật trước nói: Ông hãy tu tập Tam-muội Như Huyễn.
3. Kết thúc thưa thỉnh: Xin khởi lòng từ bi, vì chúng con và tất cả chúng sinh đời mạt pháp mà giả nói phương tiện. Giả nói, vì tánh giác vốn tròn đầy, pháp vọng vốn vắng lặng thật không có tu. Chỉ vì người mới ngộ thói quen mê mờ khó dứt ngay, vì thế cầu thỉnh đối với vô tu giả nói phương tiện tu tập, dưới đây xướng ba lần mô phỏng theo trước.
Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như vậy, đến cuối rồi trở lại đầu.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ Nhãn rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Các ông mới có thể vì các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, hỏi Như lai thứ lớp tu hành, suy nghĩ trụ trì, cho đến giả nói các thứ phương tiện, nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho ông nghe. Lúc bấy giờ, Bồ-tát Phổ Nhãn vâng lời dạy bảo vui mừng, và các đại chúng im lặng lắng nghe. Thứ tư là chính nói, trong văn xuôi có bốn.
1. Phương tiện khởi hạnh.
2. Quán hạnh Thành tựu.
3. Mau đồng cảnh Phật.
4. Kết thúc nhắc lại lời thưa hỏi.
1. Đây là mở đầu.
Này người thiện nam! Các Bồ-tát mới học kia và tất cả chúng sinh đời mạt pháp, muốn cầu tâm viên giác Thanh tịnh của Như lai, chỉ nêu đương cơ.
Phải nên chính niệm, xa lìa các huyễn, trước chỉ nêu ra giải thích lìa huyễn, để làm gốc cho khởi hạnh. Nếu chấp pháp chắc chắn là thật, thì quán hạnh không thành. Vì thế trước phải thực hiện phương tiện chánh niệm thì được vô niệm. Cho nên luận Trí Độ chép: hữu niệm là nghiệp ma, vô niệm là pháp ấn.
Luận chép: lìa tướng niệm sánh bằng hư không giới. Lại nói: Tất cả chúng sinh không gọi là giác, vì từ xưa đến nay niệm niệm nối nhau không hề lìa niệm, cho nên biết vô niệm là chánh niệm. Nhưng chánh niệm và lìa huyễn thành tựu lẫn nhau, do lìa huyễn cho nên chánh niệm, chánh niệm nên lìa huyễn. Vì sao! Vì bên ngoài còn có pháp thì bên trong khởi duyên niệm, bên trong có duyên niệm thì bên ngoài thấy có pháp, do đây chỉ cho cả hai, đứng đầu các hạnh.
2. Văn quán hạnh thành tựu có hai:
-Đầu tiên là giới, định:
Trước nương hạnh Xa-ma-tha của Như lai, Xa-matha, Hán dịch là chỉ, chỉ là định nghĩa. Văn sau giải thích rằng: Rất yên tĩnh là hành, định có cạn sâu, cho nên nêu Như lai để phân biệt với chẳng phải định thô cạn, tà, nhỏ. Nếu loạn tâm giữ giới thì không thể nhập vào quán môn này, vì thế trước định sau giới, cũng có thể văn tuy trước sau nhưng tu không có trước sau.
Giữ gìn giới cấm, một bề bặt duyên, không nghĩ phạm, gọi là giữ vững, ngăn ngừa căn môn, răn dè thân miệng, nên gọi là cấm giới. Giới phẩm tuy nhiều nhưng gồm thành ba nhóm:
1. Nhiếp luật nghi.
2. Nhiếp thiện pháp.
3. Nhiếp chúng sinh.
Ở đây ý nói luật nghi, nghĩa có cả hai. Luật nghi giới nghĩa là mười vô tận, tóm lại chỉ có bốn trọng, bốn trọng này thanh tịnh thì tất cả nhánh lá không sinh.
Xếp đặt yên ổn đồ chúng, tức là người đồng hành, đồng kiến. Hành nghiệp đã đồng, thì thay nhau đẽo gọt, cùng thương lượng, vì làm lớn thêm duyên đạo, vì thế phải xếp đặt yên ổn cho nên kinh Bảo Tích quyển bảy mươi hai chép: được thân người, kia nên nương Thiện tri thức mà nghe pháp bình đẳng của Phật ba đời, nghe rồi nên phát tâm siêng năng tinh tấn, nương vào thành ấp, làng xóm cùng đại chúng ở chung bốn bộ, lại nêu thắc mắc lẫn nhau, bàn luận Phật pháp, học hỏi khó trả lời, pháp bình đẳng của ba đời Phật hiện ra ở trước, hiểu tất cả pháp không có tự tánh, tu theo sự hiểu biết này thì phiền não dần dần dứt trừ.
Yên vui tĩnh thất là yên lặng, ngồi là nhiếp thân, thân trú thì tâm an, tâm nhàn thì cảnh vắng lặng, muốn an trú thân tâm nên phải yên ổn, ở trong thất yên lặng hay ở trong chúng đâu không trái nhau. Ở đây có hai cách giải thích:
1. Căn tánh khác nhau, nên hoặc thường hôn trầm, được chúng sách tấn, hoặc thường trạo cử nên tự mình dứt, duyên chẳng phải một người mà làm hai việc.
2. Định học tuệ học đồng đều: Nói quán hạnh viên thông, chỉ quán phải giúp nhau, phải nương bạn tốt, hoặc đồng kiến đồng hạnh, suốt ngày thảo luận pháp môn, không để dụng tâm sai lầm, sai một mảy may cách xa ngàn dặm, nên kinh Tịnh Danh chép: Không cần phải ngồi là ngồi yên, tuy cùng chúng an trú, không ngại ở phòng mình, đầu hôm, nửa đêm, gần sáng ngoài bàn luận Phật pháp chuyển đọc tôn kinh thì phải ngồi yên, suy nghĩ văn tư tu tuệ tròn sáng, đầu nên lơ là qua buổi vì thế không trái nhau. Ở đây y theo định giữ giới, ở trong chúng ngồi yên trả lời trú trì hỏi. Hai là quán tuệ, văn có hai.
1. Nói về quán hai không.
2. Sau nói về quán pháp giới.
-Trước là hai không: Chúng sinh nhiều kiếp chìm đắm, hoặc rơi vào tà kiến Tiểu thừa, không thành chủng trí, là do hai chướng. a. Chướng không dứt do hai chấp, muốn dứt hai chấp, phải nhờ hai không, cho nên đối với pháp giới ở văn trước, trước thực hành hai không quán trí, chấp quên chướng hết, thì tánh Thánh hiện ra, ứng dụng số cát sông Hằng, được gọi là Phật, trong văn có hai: 1. Phá chấp. 2. Bày lý. Trong phần một có hai:
- Ngã không.
- Pháp không.
Ngã không, lại có hai:
- Quán thân vô ngã.
- Quán tâm vô ngã.
Chấp ngã đều do năm uẩn, tự tướng năm uẩn chỉ có thân và tâm, nay có đoạn lớn mở bày. Nhưng bắt đầu phân tích riêng từng thứ, rong ruổi như thế vọng chấp chạy đường nào? Hoặc nói về thân là chung, thì sắc tâm là riêng, nay nói về ngã là chung, thân tâm là riêng. Ở đây trước quán thân, thân là cội gốc các ái, rõ ràng luống dối, thì tất cả phiền não tự dứt, nếu kia mê đắm thì khởi vô lượng lỗi lầm, nên ngài Tịnh Danh nhờ bệnh mà nói rộng về vô thường, khổ, không, vô ngã, khuyên khiến nhàm chán. Niết-bàn có thì dụ dùng bốn con rắn cũng khiến lìa bỏ. Kinh Kim Quang Minh, luận Trí Độ đều nói bội ân, trong văn có hai: Trước là tìm cầu quán sắt, sau là như thật quán. Trước là do tìm cầu xem xét, mới thấy lý như thật, đây là phần đầu.
Thường nghĩ như thế, đi, đứng, nằm, ngồi bất cứ lúc nào cũng thường quán như thế.
Nay thân ta đây chấp thọ đã bền chắc nên quán nghiêng lệch. Bốn đại hòa hợp, cứng ướt, nóng động, giả hòa hợp. Nên kinh Bảo Tích chép: Khi thân này sinh ra cùng với bốn đại chủng tánh của cha mẹ, một loại là CA-la-la thân, nếu chỉ kéo địa đại mà không có thủy giới (cõi nước), thí như có người nắm bột gạo rang và tro cuối cùng không trộn lộn, hoặc chỉ có thủy giới không có địa giới, thí như dầu và nước không chắc thật, liền bị trôi chảy, nếu chỉ có đất, nước mà không có lửa thí như mặt trăng mùa hạ ở chỗ bóng râm, cục thịt mà không có ánh sáng mặt trời tức liền hư thối, nếu chỉ có đất, nước, lửa không có gió, thì không lớn lên. Kinh Tịnh Danh cũng chép: Bốn đại hòa hợp giả gọi là thân, bốn đại không chủ tể, thân cũng không ngã, cho nên văn kinh này trở lại chia bốn đại mỗi đại trở về chỗ cũ, đó là lóc, lông, móng, tay, răng, da, thịt, gân, xương, tủy não cáu bẩn đều trả về với đất, cứng chắc thuộc về đất.
Đờm, mũi, máu, huyết, nước bọt nước dãi, đờm mũi tinh khí, đại tiểu tiện đều trở về nước, trơn ướt thuộc về nước.
Hơi nóng trở về lửa rất dễ hiểu, nhưng khí (hơi) là gốc của bốn đại, không chỉ là gió. Vì thế đối với thủy đại, hỏa đại cũng gọi là khí.
Động chuyển trở về gió, kinh Tịnh Danh chép: Thân này vô tác, bị năng lực của gió xoay chuyển, nghĩa là mê tánh khởi tâm, tâm vận động năng lực gió chuyển ba đại còn lại, mà có động tác, tác không có tự tánh, cho nên nói là không, bốn đại đều nói trở về, thân này do bốn đại hòa hợp mà thành, nay nói thân vô chủ cho nên trở về bốn đại.
Bốn đại mỗi đại đều xa lìa, khi chánh quán mỗi thứ đều có chỗ trả về, tức gọi là lìa, không nói khi chết mới gọi là lìa, vì kinh am-đề-già Nữ Liễu Nghĩa nói về nghĩa sinh tử rằng: Nếu biết rõ bốn duyên đất, nước, gió, lửa rốt ráo không hề tự được có sự hòa hợp cho là nghĩa sinh, nếu biết đất, nước, gió, lửa rốt ráo không thật có, có chỗ tan rã chính là nghĩa tử. Ý này nói về ngay nơi hợp là tan, ngay nơi tan là hợp, cho nên văn nói hợp tan, đều không thật có. Nay thân huyễn đang ở chỗ nào? Hơn nữa đất có hình ngại nên bị dính mắc, gió không hình ngại nên nhẹ nhàng, thể tự trái nhau, nước lửa xâm phạm lẫn nhau, cho nên biết bốn đại trái nhau, mỗi đại khác nhau, không hề xét xem thân ta thuộc đại nào? Nếu thuộc tướng chung, thì có bốn ngã, nếu không thuộc chung, thì nên xa lìa bốn đại mà ngã thân có, nên nói như vậy. Sau quán như thật.
Tức biết thân này rốt ráo không có tự thể, hòa hợp thành tướng, thật đồng huyễn hóa, nói do trước tầm từ, thấy lý như thật, chắc chắn biết bốn đại chẳng phải ngã, chỉ y theo hòa hợp giả gọi là thân, cũng không có thật thể. Luận Trí Độ quyển mười bốn hỏi: Nếu tự thân không ngã mà chấp ngã thì thân người là vô ngã lẽ ra cũng nên chấp ngã mới phải chứ?
Đáp: Cũng có người đối với vật khác chấp là ngã, như ngoại đạo ngồi thiền lúc nhập vào quán đất thấy đất tức là ngã, nước, lửa, gió, hư không, thức cũng giống như vậy. Lại như có người đi xa ngủ một mình trong ngôi nhà trống, ban đêm thấy một con quỉ vác một thây chết vào nhà, lại có một con quỉ khác đến tranh giành. Lại, chỉ duyên chấp ngã mà làm tự thân, liền cho thân khác là tha nên sinh ra khó. Sau quán tâm vô ngã, tâm không tự tướng, nương cảnh mới sinh, tánh cảnh vốn không, do tâm mà hiện, căn trần hòa hợp, dường như có tâm duyên, trong ngoài từ chối, cái gì là thể kia? Sinh tử đắm chìm nhiều đời, do không rõ tâm, nếu hiểu được viên giác tự hiện, thì như kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: tánh cuồng tự hết, hết tức Bồ-đề, cao quý nhiệm mầu, không từ người mà được. Trong văn có hai:
Một là Quán Tầm tứ.
Bốn duyên (bốn đại) giả hợp, vọng có sáu căn, bốn đại hòa hợp thành một sắc. Đối với sắc này mới có sáu căn, lìa sắc thân này căn vốn vô thể. Các đại trả về bốn đại, sắc còn không giữ, thì lỗ hổng sáu căn nương vào đâu? Sáu căn, bốn đại trong ngoài hòa hợp thành, bốn đại là trong, căn là ngoài, trong ngoài giả hòa hợp thành thân này. Chấp có duyên khí chứa nhóm ở trong, dường như có tướng duyên giả gọi là tâm, nhờ nương bốn đại, sáu căn hòa hợp thành thân, nên có sáu trần vọng hiện. Do căn trần trong ngoài này mà dẫn khởi vọng tâm, duyên lự không dứt, niệm niệm sinh diệt, sát-na không dừng, duyên hợp thì có, duyên tan thì không, chối bỏ tự thể, hoàn toàn không thật có, nên nói giả gọi là tâm. Tâm luống dối tuy do giả duyên sinh, nhưng không lìa khí phần chân tâm, nên nói duyên hơi thở. Dường như là nói rõ chẳng phải thật có. Duyên tướng là tướng của duyên lự, sau quán như thật.
Này người thiện nam! Tâm luống dối này, nếu không có sáu trần, thì không thể có, phân tích bốn đại, không trần nào thật có, trong đó duyên (bốn duyên) trần (sáu trần) mỗi thứ trở về tan diệt. Tâm nương sáu trần, trần nương bốn đại, bốn đại không tự thể, sáu trần tức không, nên nói tan diệt.
Rốt ráo không có duyên tâm để thấy, duyên trần đã diệt tâm thể tức không, nên quyết phán rằng rốt ráo không thật có. Nói duyên tâm là tâm duyên khí ở trước.
Hỏi: Không trần nào thật có, ba câu ở dưới cũng nói pháp không, đâu được một bề xếp vào nhân không?
Đáp: Ở đây chỉ cho duyên trần đều tan rã, chính là nói lên tâm không, cho nên kết luận rằng: không có tâm để thấy. Thân và tâm đều thuộc ngã chấp.
Thứ hai là pháp không.
Này người thiện nam! Chúng sinh kia thân huyễn diệt thì tâm huyễn cũng diệt, tâm huyễn diệt rồi thì trần huyễn cũng diệt, trước đối với thân tâm, tìm cầu vô ngã, nên gọi ngã không, ở đây thì thân tâm và cảnh mỗi thứ tự không nên gọi là pháp không. Nhưng thân... vốn không, chẳng phải nay mới diệt, cho nên kinh nói: sắc tức là không, chẳng phải sắc diệt không, chỉ vì khi mê chấp có, nay chấp hết mới không, nghĩa nói là diệt.
Huyễn trần diệt rồi, thì huyễn diệt cũng diệt, có tâm biến kế thì thấy huyễn sinh, có trí quán sát thì thấy huyễn diệt, đối huyễn sinh nên nói huyễn diệt. Đối với tình chấp nên nói trí tuệ, pháp đối đãi đều thuộc duyên sinh, duyên sinh thì vô tướng, nên đều nói diệt. Bát-nhã Tâm Kinh chép: "Vô nhãn giới cho đến vô trí, cũng không có đắc". Kinh Lăng-già chép: "Tất cả pháp như huyễn, xa lìa các tâm thức, trí chẳng thật có không, dấy lên tâm đại Bi, trong đoạn văn lớn thứ hai nói về lý. Tức là lý chân như do hai không hiển bày, do trước chấp cùng tận nên lý này hiện, như mây tan mặt trăng hiện, sạch bụi thì gương sáng, chẳng phải nói không mây mà gọi mặt trăng. Nhưng đối chỗ không mây mà thấy mặt trăng. Chẳng phải nói không huyễn thì đó là chân như. Nhưng đối với chỗ không huyễn thì thấy chân lý, trong văn có hai:
Trước nói về pháp.
Vì Huyễn diệt diệt (thuộc trước), chẳng phải huyễn không diệt, chính là hiển bày, nói lên tánh viên giác vốn tịnh, tròn sáng riêng thể, toàn chân không nhờ tu mà được, các huyễn tuy diệt tự tánh thường còn, không do duyên sinh, nên nói không huyễn. Kinh Kim cương Tam-muội chép: nếu được không tâm, tâm bất huyễn hóa, nhưng đối vọng trước hết thì giải thích là chân như.
Nếu do bổn tông thì chỉ gọi viên giác, sau là ví dụ.
Thí như lau gương sạch bụi thì bóng hiện, tuy nói lau gương trái lại lau bụi, cái gọi là tu đạo chỉ là không theo vọng, tánh gương vốn sáng chẳng phải từ ngoài được, bụi trần che lấp thì ẩn, lau thì hiển ra, ẩn hiện tuy khác nhau nhưng tánh sáng không khác, ở đây nói chấp nhân, chấp pháp là cấu bẩn, tầm từ như thật là lau (chùi), chân tâm bản giác là nói người không pháp không toàn hiện. Dưới đây là đoạn văn lớn thứ hai nói về quán pháp giới, văn chia làm ba. Đầu tiên là ấn trước bày sau. Thứ hai phủi dấu vết vào huyền diệu, thứ ba: Là nói về pháp giới. Trong phần đầu nói về ấn, trước là hai không hiển, sau là viên thông pháp giới, trong văn lại chia hai: đầu tiên là nêu.
Này người thiện nam! Nên biết thân tâm đều là huyễn cấu, đây là ấn trước, huyễn là hư huyễn, không có thật thể, cấu là bụi trần nhơ bẩn làm tên, vì mê huyễn tướng chấp lấy trói buộc, ô uế tâm tịnh nên nói là huyễn cấu. Chư Phật, Bồ-tát tuy có thân tâm, nhưng nhờ biết như huyễn nên không chấp vào tướng, nghĩa là không bụi dính nên chẳng phải bụi, nhờ biết huyễn không nên chẳng phải huyễn.
Tướng cấu diệt hẳn, mười phương thanh tịnh, ở đây hiển bày ở sau. Các pháp căn trần pháp giới mười phương trùm khắp thanh tịnh. Đó là thân tâm bị bụi che lấp vọng chấp tự tha nên thành hạn cuộc chướng ngại. Nay đã ngã không pháp lặng, chỗ nào mà không thông? Sau giải thích văn có hai. Trước là ví dụ.
Này người thiện nam! Do hai vật hạt châu và gương đã ví dụ không giống nhau, cho nên lại nêu lên nói cho biết.
Thí như hạt châu ma-ni trong sạch chiếu ra năm màu, tùy theo các góc cạnh mà hiện ra, các người ngu si thấy ma-ni kia thật có năm màu, nghĩa là thể tánh ma ni sáng rõ trong suốt, tuyệt đối không hề có vết bẩn, không có sắc tướng, do tánh trong sạch. Tất cả sắc đối nhau thì hiện trong đó, năm màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen mỗi mầu tùy theo phương hướng mà hiện. Ví dụ này vừa dụ ấn trước, vừa dụ hiển sau. Nói ấn trước là năm màu dụ cho năm đường, tùy theo phương hướng dụ cho tùy nghiệp, người ngu không biết thể của hạt châu, chỉ thấy toàn là xanh vàng, đã là xanh vàng thì không thấy thật thể của hạt châu, vì thế kinh Hoa Nghiêm chép: Phàm phu thấy các pháp, chỉ tùy theo các tướng chuyển, không rõ pháp vô tánh, vì thế không thấy Phật, nếu phối hợp với ba tánh thì ma-ni dụ cho tánh viên thành thật, tức là lý đã nêu ở trước. Hiện sắc dụ cho tánh y tha khởi, tức huyễn ở trước. Người ngu chắc chắn thấy có xanh, vàng, dụ cho tánh biến kế sở chấp, tức bụi nhơ ở trước. Nếu xa tức là tướng thân tâm... ở trước. Vì văn này ấn định nghĩa của văn trước, cho nên chỉ ở trước. Nói hiển sau, nhưng hạt châu này do người ngu kia chấp chắc chắn sắc, vì bác bỏ sắc nên phối ba tánh để ấn văn trước, nhưng chỉ có người không kế chấp, tức là các thứ màu sắc của các hạt châu này mỗi màu đều trong sạch, mỗi màu đồng thể, thảy là diệu dụng ứng hiện của hạt châu, không có thể để phá, đem dụ cho văn sau, pháp giới mười phương tất cả thanh tịnh tròn đầy, không lay động, xen nhau vô ngại, cho nên hiển ở sau, nhưng trước dụ cho gương sáng, chỉ một mặt sáng, lại nói nhơ lau chùi mà hiện, bày tỏ lý hai không phá chấp mới hiển bày, đối chấp mà được tên, nay ngọc ma-ni vốn trong sạch vốn sáng rõ, mười phương đều chiếu, để nói lên tông của pháp giới ở sau. Sau là pháp.
Này người thiện nam! Tánh tịnh viên giác hiện ở thân tâm, tùy loại đều ứng hiện, tức là các thứ huyễn hóa trước hóa sinh trong tâm giác. Nghĩa như kia đã giải thích. Người ngu si kia nói viên giác thanh tịnh thật có tự tướng thân tâm như vậy, là nói viên giác tuy hiện nhưng chẳng phải kia chắc chắn là thật, vì thế cho rằng: Người ngu nói.
Luận chép: Tất cả pháp nhiễm không thể làm cho nhiễm, thể của trí là bất động, đầy đủ vô lậu huân tập chúng sinh.
Cũng giống như vậy, là hợp với ví dụ ở trước, trong ví dụ về nghĩa khác để đối giải thích, rõ ràng rất dễ hiểu, thứ hai là phủi dấu vết nhập vào huyền diệu.
Do ở đây không thể xa lìa huyễn hóa, cho nên ta nói thân tâm huyễn cấu đối lìa huyễn cấu. Gọi là Bồ-tát, trên đây trước nói vì sao có dấu vết như vậy, dấu vết kia cũng khởi theo, cũng phủi gốc đi, vì chúng sinh vọng chấp huyễn hóa. Phật nói là huyễn cấu, chúng sinh nương giáo pháp lìa nhơ bẩn, lại gọi là Bồ-tát, dưới đây chính là phủi dấu vết ấy rằng:
Cấu hết: Huyền cấu như màu sắc trong hạt châu, hiểu nó vốn là không cho nên nói là hết.
Đối trừ: Cấu bị lìa đã không, trí đối lìa làm sao mà lập? Tức là không có vô cấu mà nói tên ấy, chữ giả là chung cho cả hai câu. Nghĩa là người đối cấu là Bồ-tát. Nói danh là Phật. Đã không có trí đối trị thì làm sao có người khởi trí, chấp sâu cạn vốn không, làm sao có người nói giáo? Cho nên đều là vô. Phật đối cơ cũng không thật có mới thấy pháp thân, pháp thân nói kinh là nghĩa ở đây. Nhưng người pháp ở trên đầu có ba, ba cặp sáu câu cùng tận là dấu vết của chỗ phủi qua. Nghĩa là pháp có chấp cấu, lìa cấu và danh số. Người có chúng sinh, Bồtát và Phật.
Hỏi: Người tự có khác nhau, pháp vốn không khác, sao nói ba tên?
Đáp: Khắc thể tuy không nhưng nghĩa nói thì có, vì đối người pháp mỗi thứ đều có chia năng sở.
Kế là làm sáng tỏ pháp giới, văn có hai:
- Trước là pháp giới nhất chân.
- Sau pháp giới ba lớp.
Nói nhất chân là chưa nói lý sự, chẳng nói có không, chỉ thẳng bản giác linh nguyên, dưới đây đối các pháp mất trọn, thâu trọn. Mới nói ba lớp khác nhau, ở đây là phần đầu.
Này người thiện nam! Bồ-tát và các chúng sinh đời mạt pháp này là nêu lên và chỉ ra sở chứng của đương căn, vì muốn nói về cảnh giới không thể suy nghĩ bàn luận, cảnh giới đặc biệt ở trước, lại y theo công dụng ở trước để nói được nhập, vì thế phát khởi ra thế văn ở sau:
Chứng được các huyễn,
Quán hạnh thành tựu,
Diệt mất ảnh tượng,
Y tha cũng mất.
Lúc bấy giờ, liền được vô phương thanh tịnh, y theo thân là chính ngoài thấy đồ vật, tướng ngã đã không, thì còn có phương sở gì?
Vô biên hư không do giác hiển phát, nhưng hư không lìa thức cũng chẳng thật có. Cho nên kinh Thủlăng-nghiêm chép: Nếu có một người phát chân về nguồn thì hư không mười phương đều tiêu mất cùng lúc, nghĩa là bị mê tình che lấp, chỗ giác thấy không, trần ảnh đã tiêu, "không" vốn là giác, hiển nghĩa là không tiêu thì giác hiện, phát nghĩa là vọng hết tâm mở, quán xét kỹ lưỡng đều không có bờ mé. Kinh Thủ-lăng-nghiêm lại chép: Nghe lại thì chỗ che lấp hết, trần tiêu thì giác tròn tịnh, tịnh cùng tột thì ánh sáng thông suốt, vắng lặng soi chiếu bao trùm hư không, lại quán thế gian, giống như việc trong giấc mộng, cho nên biết không hữu đều mất cả hai, chỉ là tâm giác, siêng soi sáng rõ ràng, linh tri bất muội. Sau là pháp giới ba lớp:
1. Quán Chân không tuyệt tướng.
2. Quán Lý sự vô ngại.
3. Quán Châu biến hàm dung.
Ý nghĩa trong đây hoàn toàn đồng với hành tướng ba lớp của môn quán pháp giới trong Hoa nghiêm, vì thế nương vào khoa kia, ở đây thứ nhất là quán chân không: Trong môn quán kia có bốn câu, đó là:
Quán Hội sắc quy không Quán Minh không tức sắc. Hai câu trên đều phân biệt với quán tình hiển giải ba không sắc vô ngại, hiểu thì cuối cùng thú hướng hành trì, bốn là quán Dẫn tuyệt vô ký, hành khởi thì hiểu dứt. Ở đây văn kinh có hai:
1. Sắc tướng không tịnh.
2. Không sắc đồng như vậy.
Ở đây, trước hết văn kinh đều nói thanh tịnh: nghĩa là do môn quán hai không ở trước phân biệt với tình hiển giải.
Kế là phủi dấu vết mất hình bóng, đồng với hạnh khởi giải bặt, cho nên đều thanh tịnh là chân không. Luận Trí Độ chép: Rốt ráo không tức là rốt ráo thanh tịnh. Thanh tịnh và không đều là nghĩa bặt tướng, nếu y theo tâm thì như kinh Tịnh Danh, cho rằng vọng tưởng là cấu, không vọng tưởng là tịnh... nên nói thanh tịnh, trong văn có bảy, một là nội thân căn thức:
Giác tròn sáng: y theo trước để hiển bày nhân thanh tịnh, do phủi mất... nên được tròn sáng.
Hiển bày tâm thanh tịnh, so với mê tâm giác, trong tâm chấp pháp, nay thấy pháp tánh, pháp tức đều không, cho nên nói thanh tịnh. Như người không biết thể của hạt châu, chỉ chấp xanh vàng, phải thấy ma-ni tức là sắc thanh tịnh, trong bảy đoạn đều đồng với ở đây. Nhưng xoay vần y theo trước để hiển rõ thanh tịnh, nghĩa như ở sau giải thích. Nay lại trừ bỏ danh thể của pháp số. Tâm là tướng chung nói về tâm ta, tức thể của Lại-da.
Luận Thành Duy Thức chép: Thức thứ tám có nhiều tên khác nhau, trong đó có bốn tên, chung cho tất cả vị, tâm chính là một. Khi mê do chấp tàng và năng sở tàng, cho nên gọi Lại-da. Nay quán trí thành tựu tánh giác tròn sáng, nên chỉ nói tâm, không gọi Lại-da. Tâm đã thanh tịnh đồng vô cấu thức, cho nên văn dưới đây đốn đồng với cảnh Phật.
Vì tâm thanh tịnh, là nhắc là văn trước, dưới đây đều y theo trước.
Thấy trần thanh tịnh, dưới đây nghe biết v.v... lệ theo đây đều nói là trần. Nghĩa là do tâm ta chấp đắm, thấy tất cả sắc tướng, do chấp tướng tức kiến... là trần, không chỉ nói sắc bên ngoài... gọi là trần, cũng không nói riêng căn thức gọi là trần... thể trở lại là tâm của ngã chấp, chỉ do y theo chỗ chấp tướng sinh lỗi mà đặt tên riêng. Lại cũng không lìa ba thứ căn, cảnh, thức mà có thể riêng, như pháp của năm uẩn và ngã ở trong uẩn chẳng phải khác chẳng phải giống nhau.
Vì thấy thanh tịnh, chỉ nhắc lại chữ thấy không nói trần, đủ nói lên ngay nơi thấy là trần chẳng phải trần bên ngoài, nghe... cũng như vậy.
Nhãn căn Thanh tịnh, năm thứ còn lại cũng lệ theo đây. Sáu thứ đều gọi là căn là chỗ nương của thức, có công năng phát ra thức, năm thứ trước mỗi thứ đều từ tự chủng sinh tự hiện hành, bốn đại sở tạo tịnh sắc làm thể. Ý căn tức là thức thứ bảy, do đây vin theo bên ngoài khởi ý thức.
Vì căn thanh tịnh, nên nhãn thức thanh tịnh, năm thứ còn lại ở dưới cũng lệ theo đây. Đều gọi là thức, tùy theo cảnh của sáu căn chủng loại khác nhau. Do đủ năm nghĩa nêu đặt tên theo căn.
1. Thức nương vào căn, chẳng phải do cảnh sắc mà thức chắc chắn sinh nhau, như người mù không thấy...
2. Căn phát ra, thức do căn thay đổi khác nhau, nên thức cũng phải đổi. Khác như nhãn căn bị đau thấy màu xanh là vàng, chẳng phải sắc hoại mà là thức hoại.
3. Thức thuộc căn, do hạt giống của thức chạy theo căn mà được sinh, chẳng phải hạt giống của sắc, thức chủng tùy theo.
4. Thức giúp căn: vì căn hợp thức, chỗ thức lãnh thọ khiến cho căn bị tổn hại hay lợi ích, chẳng phải cảnh giới.
5. Thức như căn: Hai pháp căn, và thức đều có tình số, chẳng phải sắc pháp kia chắc chắn là hữu tình, căn năm nghĩa tốt đẹp cho nên nói nương căn, nếu theo luận Khởi Tín đều gọi ý thức. Sáu thứ này đều nương ý khởi là thức của ý, vì thế kia giải thích nhân duyên sinh diệt rằng: Cái gọi là chúng sinh nương tâm ý, ý thức chuyển, tâm thức là tự thể của Lại-da, ý thức là năm ý, vì trong hai nghĩa Lại-da có nghĩa bất giác, bất giác mà khởi, có thể thấy, có thể hiện, có thể nhận cảnh giới, khởi niệm nối nhau. Ý thức: tức là thức nối nhau này, nương các phàm phu chấp đắm càng sâu, chấp ngã, ngã sở, các thứ vọng chấp theo việc phan duyên. Phân biệt sáu trần gọi là ý thức, cũng gọi là thức phân ly, lại gọi là thức phân biệt sự.
Vì thức thanh tịnh, nên văn trần thanh tịnh, vì văn thanh tịnh. Nên nhĩ căn thanh tịnh, vì căn thanh tịnh, nên nhĩ thức thanh tịnh, vì thức thanh tịnh, giác trần thanh tịnh. Như thế cho đến mũi, lưỡi, thân, ý cũng giống như vậy, trên đã giải thích xong. Nhưng trong tám thức không nói thức thứ bảy: nghĩa sẽ thấy nghe... là trần. Vì thức thứ bảy hợp với thức thứ tám, gọi là như thấy trần.
Cho nên Du-già chép: Thức Lại-da khởi chắc chắn hai thức tương ưng. Lại nữa, thức thứ bảy hợp với thức thứ sáu, gọi là các trần như thấy v.v... vì khi ý thức duyên cảnh ngoài, quyết phải ở trong nương mạt-na làm căn nhiễm ô mới sinh khởi được. Vì thế ở trên dẫn các luận chép: chính là nương thức nối tiếp này, cho đến gọi là ý thức. Luận và kinh này đã nêu không có mạt-na riêng, Lăng-già cũng như vậy, đều do thức thứ bảy chấp trong làm ngã hợp với chuyển tướng, chấp ngoài ngã sở hợp với sự thức, nêu không nối trước dính sau, thì hiển bày tâm sở theo đuổi sinh khởi, nghĩa không tiện.
-Sáu trần cảnh bên ngoài:
Này người thiện nam! Căn thanh tịnh nên sắc trần thanh tịnh, vì sắc thanh tịnh nên thanh trần thanh tịnh, hương, vị, xúc, pháp cũng giống như vậy. Sáu thứ đều gọi là trần làm nhơ tâm thức, là nói theo phàm phu cũng gọi là sáu cảnh, cho cả phàm Thánh đều có nói sắc..., là cái mà nhãn... chấp lấy, sắc có chung riêng, ở đây là riêng. Nghĩa là chỉ có nhãn chấp lấy tướng thay đổi trở ngại hữu kiến hữu đối là hiển bày thô thiển nhất. Thanh... rất dễ hiểu, chỉ là cái mà ý chấp, cảnh pháp trần chung cho với tất cả. Ba là bốn đại trong ngoài.
Này người thiện nam! Sáu trần thanh tịnh, nên địa đại thanh tịnh, vì địa thanh tịnh nên thủy đại thanh tịnh, hỏa đại, phong đại, cũng giống như vậy. Tức là đối với căn trần không chấp lấy nghĩa của phát thức dẫn tâm, chấp lấy thể của bốn đại. Kinh Bảo Tích chép: Bốn đại mỗi đại có hai: nghĩa là trong và ngoài. Địa giới có hai: trong đó là trong tự thân, tha thân có cái cứng chắc, đó là tóc, lông... bên ngoài nói ngoài thân có cái cứng chắc: đó là đất, gỗ... Thủy giới có hai: Tánh ướt trong thân như nước bọt, mồ hôi... tánh ướt ngoài thân như mưa móc... Hoả giới có hai: trong thân thể nóng: tướng nóng có thể tiêu thức ăn... ngoài thân thể nóng: tướng nóng có công năng thành thục... Phong giới có hai: thể gió trong thân, như gió gọi nhanh chóng trụ bốn chi... thể gió ngoài thân... bốn là các pháp thế gian.
Này người thiện nam! Bốn đại thanh tịnh (nhắc lại trước) mười hai xứ, sáu căn, sáu trần là chỗ sinh thức, xứ là nghĩa môn sinh, cũng gọi là người, ý thức thường mê muội căn trần nhập vào nhau.
Mười tám giới: Trong sáu căn môn thì ba thứ căn, thức, trần mỗi thứ đều có phần giới, cũng là nghĩa nhân, nghĩa chủng tộc.
Trước là sáu hai, người hiểu thì dứt ở nghiệp nhân, đây là sáu ba. Quán sát đối trị ở ngã chấp, gồm cả năm uẩn, tức đủ ba khoa. Các tông Đại thừa, Tiểu thừa đều y theo đây để nói các nghĩa, trước nói nhận lầm thân tâm của bốn đại, và nói trong ngoài hợp thành... tức là nghĩa năm uẩn, cho nên ở đây lược bỏ.
Hai mươi lăm hữu thanh tịnh, bốn châu, bốn đường, bốn cõi thiền, bốn Không, Vô tưởng, Tịnh Cư, Phạm Vương, sáu tầng trời cõi Dục là hai mươi lăm hữu, đây đều là hữu, mỗi thứ đều y cứ về thật báo, chẳng thuộc về chánh trí. Nhưng Phạm vương ở Sơ thiền, Vô tưởng, Tịnh cư ở thiền thứ tư, trong giai vị bốn thiền nêu riêng trường hợp này Phạm vương hữu kiến, ngoại đạo Vô
Tưởng, Tịnh Cư chỉ có bậc Thánh, khác với các tầng trời khác. Năm là các pháp xuất thế.
Vì kia Thanh tịnh là nghĩ nhắc lại các pháp thế gian ở trước. Mười Lực: Nhưng Như lai duy nhất trí lực thật tướng các pháp, năng lực này có mười dụng nên nói là mười, gọi chung là lực: có khả năng xua đuổi kẻ thù, không thể khuất phục.
1. Biết chỗ chẳng phải chỗ: nghĩa là đều biết nhân duyên nghiệp báo của tất cả các pháp, thời hàng phục vô nhân, ác nhân, biết người nào có thể độ, không thể độ.
2. Biết ba thứ nghiệp như việc tốt quá khứ, hiện tại, vị lai... và ba báo thuận hiện... biết chỗ độ có chướng ngại hay không.
3. Biết các thiền giải thoát Tam-muội cấu tịnh và biết các quả nương đây mà chứng được.
4. Biết năm căn như tín căn... thượng, trung, hạ.
5. Biết các thứ ưa thích, khiến xả bỏ bất tịnh, tăng thêm tịnh.
Biết nhất thừa, ba thừa, năm thừa, tham, sân, si... các thứ tánh dục, biết tức thời, khác thời ai có thể độ, không thể độ...
6. Biết tất cả đường cho đến chỗ.
7. Biết chỗ ở đời trước.
8. Biết chết đây sinh kia, tức thiên nhãn trí, riêng ở đây từ sở y mà có tên gọi.
9. Biết mình được giải thoát không nghi ngờ, cũng biết chúng sinh hết hữu lậu được Niết-bàn. Nhưng Phật lực vô lượng, nhân duyên độ người nên chỉ nói mười mà phân biệt đủ việc ấy.
-Bốn Vô sở úy:
1. Biết tất cả pháp, nghĩa là Phật răn dạy rằng ta là bậc Nhất thiết chánh trí...
2. Hết các lậu và tập, ý nói ta hết pháp hữu lậu...
3. Nói tất cả các pháp chướng đạo.
4. Nói ra đường khổ, Đức Phật răn dạy nói bốn pháp này, quyết định không sợ.
Bốn Vô ngại trí: trí duyên bốn cảnh không trở ngại.
1. Pháp: như nói đất, nước, gió, lửa...
2. Nghĩa: như cứng, ướt, nóng, động...
3. Từ: nghĩa là được kia mới bàn về để nói đất...
4. Đối với ba thứ trí ưa thích nói, trên nương luận Trí Độ, nếu y theo kinh Hoa nghiêm thì hai thứ đầu khác với ở đây.
1. Nói biết tự tướng.
2. Biết tướng riêng.-Lại nữa:
1. Biết tự tánh.
2. Biết sinh diệt.-Lại nữa:
1. Pháp trí.
2. Tỷ trí.
-Lại nữa:
1. Biết một tướng.
2. Biết uẩn giới...-Lại nữa:
1. Biết tánh nhất thừa bình đẳng.
2. Biết tánh các thừa khác nhau, hai thứ sau thì giống nhau, nghĩa là "từ" thì nói pháp nghĩa, lạc thuyết là nghĩa khác trong từ.
Mười tám pháp Bất cộng của Phật như lực v.v... hai thừa có phần, ở đây không có phần. Một, hai, ba như thứ lớp phối hợp thân, miệng, niệm không lỗi. Bốn là vô dị tưởng, năm là không tâm bất định, sáu là vô bất tri dĩ xả, bảy là dục, tám là tinh tấn, chín là niệm, mười là tuệ, mười một là giải thoát, mười hai là giải thoát tri kiến. Sáu thứ trên đều nói không giảm, mười ba, mười bốn, mười lăm tất cả thân, miệng, ý nghiệp thực hành theo trí tuệ, mười sáu, mười bảy, mười tám, nhờ trí tuệ mà biết quá khứ, vị lai, hiện tại thông suốt không ngại. Hỏi vô kiến đảnh tướng... cũng không cùng chung, vì sao không nói? Đáp: Trong mười tám thứ này chỉ nói công đức trí tuệ, không nói pháp quả báo tự nhiên. Trên từ lực... đến đây bốn khoa hoàn toàn y theo luận Trí Độ.
Ba mươi bảy phẩm Trợ đạo: trợ là giúp đỡ, giúp đỡ chính đạo, đạo tức là nhân, đó là chỉ quán. Phẩm tức là loại, chính nhân loại, cũng nói Bồ-đề phần, phần cũng nhân với nghĩa. Ba mươi bảy pháp là: bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Thần túc, năm Căn, năm Lực, bảy Bồđề phần, tám Chánh đạo phần. Nhưng chỉ lấy mười pháp làm thể, nói tinh tấn, định tuệ, mỗi thứ có tám, niệm bốn, giới ba, tín hai, khinh an, hỷ, xả, tư duy mỗi thứ có một. Trước là bốn niệm:
1. Quán thân năm thứ bất định, là trụ xứ hạt giống tự tướng tự tánh rốt ráo.
2. Quán ba thọ đều khổ, nghĩa là khổ thọ, lạc thọ, xả thọ.
3. Quán tâm từng niệm từng niệm vô thường.
4. Quán các pháp vô ngã, ở đây đối trị bốn điên đảo của phàm phu. Lại, quán thân rốt ráo là không, quán thọ trong ngoài không, quán tâm không thật có, quán pháp chỉ có tên gọi, đây là đối trị bốn điên đảo của Nhị thừa.
Bốn chánh cần, bốn niệm xứ hỏa. Nếu có gió mạnh thì gió không chỗ nào không đốt, cho nên kế là phân biệt rõ. Tinh tấn làm thể nên gọi chung là cần, khác với cần của ngoại đạo nên gọi là chánh, tuy là nhất cần, nhưng tùy theo nghĩa chia làm bốn.
1. Điều ác chưa sinh không để cho sinh.
2. Điều ác đã sinh rồi dứt bỏ không để tiếp tục.
3. Điều thiện chưa sinh làm cho phát sinh.
4. Điều thiện đã sinh rồi làm cho rộng lớn. Bốn thần túc:
Dục cần tâm quán, Dục là ưa muốn, Cần là không xen hở, Tâm là định. Chuyên một cảnh tánh, Quán là tuệ, bên trong tự lựa chọn, vì cần vượt qua tán loạn mà lửa trí yếu ớt nên phải định chế, vì sở dục tự tại. Thần tức là thần thông, túc tức là định, do pháp xuất thế tự tại thù thắng nhất, bốn định như dục... có thể chứng đây, gọi là thần túc, cũng gọi như ý túc, đều ham muốn như tâm.
Năm căn: tín, tấn, niệm, định, tuệ, năm căn này đều sinh ra pháp xuất thế gian, do ba khoa trước ở đây không thể loại bỏ, ba thứ trước đến đây được gọi chung là căn. Năm lực: tức là năm căn trước thêm lớn, ma phạm... không thể khuất phục, lại có thể bị tổn giảm không tin... là chướng ngại, nên gọi là lực.
Bảy Giác chi: là chỗ nương của niệm, do buộc niệm, nên khiến cho các pháp lành đều không quên mất. Trạch pháp là chi tự thể, hiểu rõ tự tướng. Tinh tấn là chi xuất ly, do thế lực này mà năng đáo sở đáo. Hỷ là chi lợi ích, nhờ tâm mạnh mẽ vui vẻ, thân thể điều hòa. Khinh an định xả đều là chi bất nhiễm ô, có thể dứt bỏ thô xấu, nương định chuyển y. Hành xả bình đẳng xả bỏ hẳn tham ái, vì thế bảy việc đều gọi là giác chi. Tuy trong một sátna bảy pháp đều khởi, tùy theo hình tướng mỗi chi mà nói về công năng.
Tám Chánh đạo: là chánh kiến là chi phân biệt, nương vào chỗ chứng chân thật ở trước mà lựa chọn, bảy chi còn lại mỗi chi cũng gọi là chánh. Tư duy là chi dạy bảo người khác như chỗ chứng kia phương tiện lập ra, danh nghĩa suy nghĩ phát ra lời nói. Ba điều dưới đây là chi khiến cho người khác tin. Ngữ là khéo nương vào chỗ chứng hỏi đáp lựa chọn, giúp cho người tin có cái thấy thanh tịnh. Nghiệp là thân nghiệp, chánh hạnh mọi oai nghi đều đầy đủ, khiến người khác tin có giữ giới thanh tịnh. Mạng là khất cầu đúng pháp, y theo Thánh chủng mà an trụ, xa lìa năm tà mạng. Tinh tấn là chi thanh tịnh phiền não chướng, do đây xa lìa hẳn tất cả ràng buộc. Niệm là chi thanh tịnh tùy phiền não chướng, do không quên mất, chính chỉ nêu tướng, không bao giờ để cho hôn trầm, trạo cử... Định là chi làm cho thanh tịnh, công đức cao quý nhất, do đây dẫn phát thần thông... vô lượng công đức cao quý, bảy thứ trên theo thứ lớp, nghĩa là nghe pháp rồi trước phải ghi nhớ giữ gìn, kế là siêng năng tu tập, siêng năng thâu nhiếp tâm, điều hòa nhẹ nhàng, nhẹ nhàng nên tín... thành căn, căn thêm lớn là lực, phân biệt bảy giác, chánh hạnh tám điều chân chính, nói chung dùng ví dụ hiển rõ. Pháp tánh như đất, niệm xứ như hạt giống, chánh cần là trồng trọt, thần túc như đâm chồi, năm căn như bắt rễ, năm lực như nhánh lá lớn dần, nở hoa bảy giác, kết quả tám Chánh đạo.
Thanh tịnh là gọi chung lực... đều thanh tịnh.
Như thế cho đến: Vượt hơn nhiều pháp. Nghĩa là ba thân, bốn trí, năm nhãn, sáu thần thông địa, độ, quả, hướng, duyên, đế xứ định...
Tám mươi bốn ngàn: nhưng pháp môn nói rộng vô lượng, vô biên, nay đều ở đây kết số, đối trị trần lao, trần lao đã có tám mươi bốn ngàn, mỗi pháp đối phiên tức đều là thanh tịnh pháp, nhiễm và tịnh số không thêm bớt, luận nói bất giác niệm khởi thấy các cảnh giới, cho nên nói vô minh cho đến có nghĩa nhiều hơn số cát sông hằng... vọng nhiễm, đối nghĩa này nên tâm tánh không lay động, tức là hơn số cát sông hằng... các công đức thanh tịnh tướng nghĩa thị hiện.
Đà-la-ni: được Tổng trì, Bồ-tát đối với mỗi mỗi pháp giữ gìn tất cả pháp.
Môn: từ mỗi mỗi pháp, nhập vào tất cả pháp. Tất cả thanh tịnh là tổng kết.
Hỏi: Hai tướng Pháp thế gian, và xuất thế gian có khác nhau như thế vì sao kinh này đều nói thanh tịnh?
Đáp: Trước đã nói, ở đây giải thích lại, nghĩa là nếu đối trị phàm Thánh, tức là cao quý hay thấp kém hoàn toàn khác nhau, nếu xứng pháp giới mà quán một loại, thì đều là huyễn hóa, đều từ duyên khởi không có tự thể, như có một cái gương hiện các thứ quý báu cao siêu mầu nhiệm, trẻ con ngu si không hiểu sang hèn khác nhau, người trí thông suốt không chút khác nhau. Quán trí tròn sáng tâm thức thanh tịnh, cũng giống như vậy, thấy thế gian và xuất thế gian hoặc Thánh hoặc phàm, tất cả đều không. Không là thể giác, nên văn sau nói: thấy thế giới Phật như hoa đốm trong hư không. Sinh tử, Niết-bàn giống như giấc mộng, chỉ duyên xứng lý bình đẳng, vì thế gọi là bậc Thánh nếu kia trọng Thánh khinh phàm ưa chân chán vọng, dù cho tu tập, cũng đâu chứng được chân nguyên? Nhưng trên từ hiểu rõ tròn sáng nên lần lượt y theo lý do ở trước để hiển bày rõ các pháp thanh tịnh thế gian và xuất thế gian, cho đến năm đoạn này rõ ràng các pháp đầy đủ.
Ngoài hai đoạn sáu, và bảy, chỉ là kết chung thân khác, cõi khác, không có nghĩa nào khác.
Do năm đoạn ấy: là tâm vốn thanh tịnh, vì bất giác nên gọi là thức Lại-da, tương ưng với ý lại nói kiến trần, khởi ra hiện hành có căn thức cảnh. Trung hữu năng tạo cho nên nói bốn đại. Vì đó đầy đủ các pháp hữu lậu xứ, giới, các hữu, đối trị những điều này có tu có chứng, lại thành quả đức nhân hạnh vô lậu, nay đã hiểu rõ vô minh. Tâm, ý, thức và chỗ thay đổi (sở biến)... lần lượt được thanh tịnh. Da không còn, lông không chỗ nương gá, nhưng pháp vô lậu nếu y theo người tu chứng, thì nhân trước quả sau. Nay y theo pháp bổn mạng, nên quả trước nhân sau. Cũng như trong luận căn bổn diệt nên thô nhiễm diệt theo, sáu tự tha chánh báo: Này người thiện nam! Tất cả thật tướng, nhưng hễ cái gì có tướng đều là luống dối, từ nhân duyên sinh. Hội duyên vào thật tức là thật tướng, nên luận Trí Độ chép: soi thấy sắc... là không tức gọi là thật tướng. Thật lý tánh không xa lìa điên đảo, chẳng luống dối nên đối với không thấy không cũng gọi điên đảo, đối với không mà không mê đắm mới là thật pháp. Thật tướng này tức là phi tướng, cho nên Như lai gọi là thật tướng, không dời không đổi, rốt ráo thường còn. Kinh Vô Lượng Nghĩa chép: Vô tướng như vậy là bất tướng, bất tướng là vô tướng, đó gọi là thật tướng.
Vì Tánh thanh tịnh, thật tướng này từ xưa đến nay tự tánh thanh tịnh, tất cả pháp vọng không thể làm nhiễm, so với mê dường như nhiễm, nay ngộ vốn thanh tịnh gọi là thanh tịnh.
Một thân thanh tịnh, do trước ngộ được các pháp căn, thức, trần, đại, thế gian, xuất thế gian đều trở về thật tướng thanh tịnh, mới thành tựu người này. Một thân thanh tịnh nên các đoạn thanh tịnh, đều nhắc lại văn trước, nhưng ở đây chỉ riêng thật tướng, để làm lý do thanh tịnh.
Vì một thân thanh tịnh, nhiều thân thanh tịnh, đã đối với tự thân chứng lý thật tướng, cũng thấy tất cả chúng sinh đồng một thật tướng thanh tịnh, để quán tất cả chúng sinh không chấp tướng, đồng tròn đầy tánh giác. Ngài Chí Công nói: Do thân ta là không nên các pháp đều không, ngàn muôn phẩm loại thảy đều giống nhau. Lại, văn sau nói: viên giác soi khắp vắng lặng không hai, mới biết chúng sinh xưa nay thành Phật.
Vì nhiều thân thanh tịnh, như thế cho đến chúng sinh mười phương thanh tịnh viên giác. Dùng chánh trí Bátnhã để quán khắp chúng sinh, Bồ-đề Niết-bàn trí tánh vô lậu xưa nay đầy đủ, đây là một người ngộ tánh, biết tất cả chúng sinh bản tánh thanh tịnh, chẳng phải nói một người tu đạo nhiều người thành Phật.
Kế là một nhiều y báo.
Này người thiện nam! Một thế giới thanh tịnh thì nhiều thế giới thanh tịnh vì nhiều thế giới như thế cho đến tận hư không ba đời, trong lý tròn đầy cõi nước tịnh uế đều do tự tâm, chúng sinh kiếp thiêu cõi ta an ổn, hai tướng xấu xí và xinh đẹp không giống nhau, ấn ngón chân xuống đất thì mặt đất trang nghiêm quý báu như ngồi trên hoa sen không khác. Huống chi tâm thầm hợp tánh giác, thức trí không sinh, thân cõi nương chân, nhiễm tịnh đều mất, thông suốt pháp giới, thanh tịnh vắng lặng. Viên là tròn khắp hư không, lý: nghĩa là bao trùm ba đời, dọc suốt cùng cực, hư không là ngang khắp. Tất cả: ngang dọc bao gồm, bình đẳng: bổn mạt vị đồng, thanh tịnh: đều kết bảy đoạn, bất động: thầm hợp nhất như. Nhưng bảy đoạn trên khi ngộ đã thanh tịnh lẫn nhau, khi mê thì cấu nhiễm lẫn nhau. Nên nói: Vì giác không sáng tỏ nên khiến tâm không thanh tịnh, tâm không thanh tịnh nên thấy trần bất tịnh vì thấy trần bất tịnh nên nhãn căn bất tịnh, như thế cho đến một, nhiều thế giới bất tịnh, thế văn và ý nghĩa đối lại với kinh rất dễ hiểu.
Thứ đến không sắc đồng như bảy đoạn trước, tức là không sắc vô ngại, ở đây sẽ bặt dứt không nương gá. Quán kia nói: động niệm liền trái với pháp thể, lại hiển rõ pháp thể vốn không lay động.
Này người thiện nam! Hư không bình đẳng bất động như thế, nhiếp trước khởi sau. Do trước nói tận cùng hư không bình đẳng thanh tịnh, liền biết tướng đều đồng với hư không.
Hư không đã vốn vô sinh diệt, lay động, nên biết các pháp cũng vốn không sinh, cũng không đợi diệt, nhất nhất đương thể như như bất động.
Nên biết tánh giác bình đẳng không động, nhưng tất cả pháp chỉ nương tánh giác mà sinh diệt chuyển động. Các pháp đã tận cùng hư không đều không lay động, cho nên tánh giác bất động. Như sóng không vỗ thì nước vắng lặng bất động, lý đều nên nói bình đẳng. Cho nên kinh Pháp Hoa nói là "Pháp ấy trụ ngôi pháp, tướng thế gian thường trú." Kinh Pháp Cú chép: các pháp từ xưa đến nay không phải cũng không trái, tướng phải trái vắng lặng, xưa nay không lay động. Nhưng các pháp bình đẳng với tánh giác, chưa gọi là lý sự vô ngại pháp giới, nói rằng lý sự vô ngại thì cần phải nhiều việc hoàn toàn đồng một lý mà vắng lặng. Một lý hoàn toàn thành tựu nhiều việc mà thay đổi, ngay nơi động là tĩnh, ngay nơi tĩnh là động, sinh diệt rộng hẹp tất cả đều như vậy. Biến đổi vô ngại, nay chỉ một bề bất động, chỉ là thâu nhiếp sắc... sự đồng chân không, cho nên chỉ gọi là quán chân không.
Bốn đại bất động, nên biết tánh giác bình đẳng bất động. Như vậy cho đến tám mươi bốn ngàn Đà-la-ni môn bình đẳng bất động. Nên biết tánh giác bình đẳng bất động, lại như bảy đoạn trước trải qua các pháp môn, kinh sợ văn rườm rà nên lược nêu đầu và cuối, nghĩa bao gồm chặng giữa nên nói cho đến, đoạn sau nói cho đến cũng lệ theo ở đây mà biết.
Thứ hai lý sự vô ngại pháp giới.
Này người thiện nam! Tánh giác trùm khắp thanh tịnh bất động, tròn đầy không bờ mé, nên biết sáu căn trùm khắp pháp giới, vì căn trùm khắp nên biết sáu trần trùm khắp pháp giới vì trần trùm khắp nên biết bốn đại trùm khắp pháp giới, như thế cho đến Đà-la-ni môn trùm khắp pháp giới. Y theo pháp giới quán ở đây có mười môn.
1. Lý trùm khắp sự.
2. Sự trùm khắp lý.
3. Nương lý thành sự.
4. Sự hiển bày lý.
5. Dùng lý đoạt sự.
6. Sự ẩn che lý.
7. Chân lý tức sự.
8. Sự pháp tức lý.
9. Chân lý chẳng phải sự.
10. Sự pháp chẳng phải lý.
Nay nói đầy khắp pháp giới: chính là hành tướng của môn thứ hai, bao gồm nghĩa lý môn khác. Nghĩa là ở đây các pháp tức lý không khác với lý, mỗi pháp tự cùng khắp pháp giới, không đồng môn trước, không có thể để xếp vào trong lý, nên đây gọi là lý sự vô ngại. Dã trùm khắp pháp giới, liền biết động tĩnh vô ngại mỗi pháp cùng khắp. Nói tánh giác tròn đầy không bờ mé cho nên biết sáu căn trùm khắp, do môn trước đã hiển rõ sáu căn... bình đẳng với tánh giác, bình đẳng: tức là không khác nhau mảy may, tức không khác với tánh giác, tánh giác tròn đầy không ngằn mé, nên biết sáu căn cũng tròn đầy không ngằn mé, vì thế đầy khắp pháp giới, nếu nói không trùm khắp tức là có ngằn mé, có ngằn mé tức khác với tánh giác, khác nhau thì trái với môn trước, nên ở trước nói: tròn đầy không ngằn mé. Vì thế kinh Thủlăng-nghiêm chép: Tánh thấy là giác sáng, giác tinh là cái thấy sáng, thanh tịnh bổn nhiên trùm khắp pháp giới, sáu trần về sau đều lệ theo trước.
Thứ ba Châu biến hàm dung quán, tức sự sự vô ngại. Nghĩa là hễ nêu bất một trần nào cũng bao trùm khắp tất cả pháp. Lại bao trùm tất cả pháp trong tự trần, một trần đã như vậy, tất cả pháp đều như vậy, cho nên nói trùm khắp bao gồm.
Này người thiện nam! do tánh diệu giác kia trùm khắp, là nêu tánh sở y, làm lý do của sự sự trùm khắp vô ngại. Căn tánh trần tánh: đây là mỗi mỗi chỉ cho tự tánh căn trần, chẳng phải nói mất căn nhiếp trần trở về một tánh.
Không hư hoại không xen lẫn vì căn trần không hoại. Như thế cho đến đa la ni môn, nghĩa là căn và trần đều là sự pháp, lệ như bảy đoạn trước, sự sự đều như vậy, nên nói cho đến... vô hoại vô tạp: y theo ví dụ giải thích. Như trăm ngàn ngọn đèn chiếu sáng một căn phòng, ánh sáng đèn kia trùm khắp không hoại, không xen lẫn.
Như một ngọn đèn ánh sáng đã khắp một căn phòng, lại có một ngọn đèn, ánh sáng cũng hoàn toàn trùm khắp. Trăm ngàn ngọn đèn mỗi ngọn cũng như vậy, mỗi ngọn không làm ngại nhau, cũng không lẫn lộn nhau, hư không trong phòng ví dụ cho pháp giới, ánh sáng của đèn ví dụ cho căn trần, nghĩa là ánh sáng của một ngọn đèn chứa nhiều ánh sáng. Tức là một ánh sáng trùm khắp trong nhiều ánh sáng, mỗi pháp đều như vậy, lớp lớp vô tận, bảy đoạn trước là sự pháp mỗi mỗi nêu ra so sánh với đây rất dễ thấy, đó là nghĩa bao trùm cùng khắp nghĩa là như thế. Sở dĩ như vậy, chỉ là chân tâm sở hiện, đều như ảnh tượng huyễn mộng, chẳng phải một với tánh sở y, chẳng phải khác, cho nên được gom nhiều vào một, một dung chứa nhiều... Thứ ba đoạn văn đốn đồng cảnh Phật trong đó có ba:
1. Dụng tâm đồng.
2. Thấy cảnh đồng.
3. Xứng thật đồng, trong phần đầu có hai:
a) Pháp: Này người thiện nam! Giác thành tựu, chỉ chung cho pháp giới tròn đầy hiển bày, văn trở xuống, do đây nên được đồng với cảnh giới Phật. Nên biết Bồtát không bị pháp trói buộc, không cầu pháp giải thoát, không nhàm chán sinh tử, không ưa thích Niết-bàn, không cung kính giữ giới, không coi trọng tu tập lâu, không khinh người mới học. Vì sao? Vì tất cả là giác. Với bốn cặp pháp đối không có tâm hơn kém, như Phật đối với cảnh ba niệm, cho nên nói là đồng. Lý do của đồng kinh tự nêu lên giải thích rằng: do tất cả giác, nên luận chép: Cái gọi là nghĩa giác: chính là tâm thể lìa niệm, ở đây thì lìa tám niệm ở trước chán, yêu, kính, ghét, trọng, khinh... Nêu tám cảnh ấy để hiển rõ tâm, ví dụ rằng ánh sáng không ghét yêu, sau nói tu tập tâm này. Thứ hai là ví dụ.
Thí như mắt sáng thấy rõ cảnh trước, ánh sáng kia tròn đầy không có ghét yêu. Vì sao? Thể ánh sáng không hai, vì không ghét yêu. Ánh sáng tức nhãn thức hiện lượng sở đắc nên không ghét yêu. Kinh Thủ-lăngnghiêm chép: Mắt kia nhìn khắp, chỉ như trong gương không phân tách riêng. Ở trong thức ông thứ tự nêu lên, nói mắt kia là ý chấp lấy nhãn thức, nói thức ông: tức là ý thức cũng có thể tùy theo tình kiến của phàm tục cho tròng mắt là ánh sáng. Như kinh Pháp Hoa chép: Phạm Vương là cha của chúng sinh.
b) Thấy cảnh đồng: Này người thiện nam! Bồ-tát này và chúng sinh đời mạt pháp, tu tập tâm này được thành tựu là gồm kết tám cảnh an tâm, xa kết quán hạnh thành tựu, ở đây không tu, cũng không thành tựu, dứt dấu vết tâm ở trước, khởi y chánh ở sau. Văn Phàm Thánh bình đẳng, nếu không dứt thì tuy không ghét kính, còn thấy giữ giới, phá giới,... nên phải dứt bỏ, mới đồng cái thấy của Phật, dưới đây là hiển rõ cái thấy đồng ấy.
Viên giác chiếu khắp, vắng lặng không hai, do tự tâm đã không nên chỉ là giác chiếu, đâu có phàm Thánh khác nhau? Thầm hợp với vô tâm nhất như, tức thường vắng lặng của muôn vật, chiếu khắp là dụng, vắng lặng là thể, chỗ cùng tột của Phật đến tận cùng nơi vắng lặng soi chiếu, vì thế kinh Anh Lạc chép: Đẳng giác soi chiếu vắng lặng, Diệu giác vắng lặng soi chiếu. Ở đây nói đồng với Phật, nghĩa là Đẳng giác, cho nên nói vắng lặng chiếu khắp. Kinh Kim Quang Minh, luận nhiếp Đại thừa đều nói quả Phật không khác công đức sắc thanh. Chỉ như như và trí như như riêng còn. Ba thứ thế gian dung nhiếp không ngăn ngại. Thế giới tức khí thế gian, chúng sinh tức hữu tình thế gian, thành Phật tức trí chánh giác thế gian. Trong đó: tức trong vắng lặng soi chiếu, tròn đầy không ngằn mé. Trăm ngàn muôn ức là số ở Trung Quốc. A-tăng-kỳ: Hán dịch là vô số, chính là số đầu tiên trong mười số lớn của Hoa nghiêm, kinh luận phần nhiều dùng nên nêu ra. Mười là nói A-tăng-kỳ: vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết, bất khả thuyết. Không thể nói: là số lớn thứ chín, hằng hà sa, nghĩa là tất cả cát trong sông Hằng. Sông này từ phía Đông ao a-nậu lưu xuất ra, ban đầu xuất ra miệng voi chu vi bốn mươi dặm, cát vàng trôi vẫn lộn, cát mịn như bột rang, vì mịn nên số nhiều.
Các thế giới Phật: tăng-kỳ nói ở trên... là số tính ở thế giới này, nghĩa là có trăm ngàn muôn ức tăng-kỳ... số con sông trong mỗi sông một hạt cát là một cõi, để nói thế giới nhiều như thế. Nhưng ý trong đây thẳng đến cùng tột hư không trùm khắp pháp giới tất cả thế giới, không phải là tính toán số lượng kia, vì muốn dẫn căn cơ tạo ra vô biên cảnh, giả định chứa nhóm thêm số nhiều như vậy. Nhưng các cõi tịnh uế... thì cõi Phật gồm nhiếp, cho nên nói cõi Phật giống như hoa đốm, duyên không tự tánh, toàn thể tức chân, chân tánh đoạt lấy chẳng sót, nên được tướng đều hư huyễn, như trong môn lý đoạt sự ở trước nói, cũng như Thiện Tài cầu pháp, lần lượt chỗ Ma-da... hội duyên nhập thật, được môn nguyện trí huyễn giải thoát, thấy tất cả thế giới đều như huyễn trụ, loạn khởi loạn diệt, ở đây có ba ý:
1. Tất cả thế giới đều nương theo vọng niệm, niệm sát-na không dừng trụ thì thế giới cũng khởi diệt không dừng.
2. Kinh Hoa Nghiêm chép: chúng sinh trú nhiễm ô, thế giới thành nhiễm ô, chúng sinh phước lớn trụ nên thành nhiễm tịnh, Bồ-tát tín giải trụ nên thành tịnh nhiễm...
3. Tướng thành hoại, nhưng thành, trụ, hoại, không, mỗi tướng tuy có hai mươi lần tăng giảm, mà thế giới vô lượng vô số, quán chung khởi diệt lăng xăng.
Hỏi đáp về cõi Phật:
Hỏi: Nhưng cõi Phật giáo hóa cho phép như thế, trong tự thọ dụng khởi diệt như thế nào?
Đáp: Y theo thật giáo sẽ rõ, vô hình là tịnh độ.
Sinh công nói: chúng sinh hữu hình nương gá vào cõi nước để ở, Phật là pháp thân thường trú, cần gì cõi nước? Cho nên kinh Hoa nghiêm nói nương chân mà trụ, chẳng cần cõi nước.
Kinh này chép: vào trong đại quang minh tạng, các nghĩa còn lại đã nói rõ như trước.
Hỏi: Kinh Pháp hoa nói: Cõi ta đây an ổn, trời người thường đông vầy thì làm sao hiểu?
Đáp: Kia y theo môn lý tức sự, ở đây y theo môn lý đoạt sự, cả hai đều vô ngại. Bất tức bất ly: Nói về thế giới này không tức viên giác cũng không lìa viên giác, như hoa đốm và hư không, như vàng và vật trang sức, do không lìa cho nên tánh giác, đoạt thì thành hoa đốm trong hư không, do bất tức, nêu thế giới không ngại có khởi diệt. Không trói buộc không giải thoát: văn chung cả trên dưới, trên thì do thế giới vô tịnh uế, sau vì chúng sinh vốn thành Phật.
Mới biết chúng sinh xưa nay thành Phật, mới biết tức là mới giác, quán hạnh thành tựu mới biết được. Vốn thành tức bản giác. Biết và không biết vốn là Phật. Phật là rốt ráo giác, thỉ giác và bổn giác chẳng phải hai giác.
Sinh tử, Niết-bàn giống như giấc mộng đêm qua: cũng không khác với thỉ giác, bốn tướng xưa nay đồng một giác, lại vắng lặng không hai, là tự giác, thế giới và chúng sinh là giác tha, hai chữ thành Phật và sinh tử Niết-bàn như mộng huyễn, là giác mãn, thành tựu nghĩa là tròn đầy. Động tĩnh cả hai đều mất mới tròn đầy. Nhưng nói chúng sinh vốn thành Phật, chỉ là Hoa nghiêm, viên giác còn lại các nghĩa khác bao gồm mà không chỉ ra hoặc chú thích, nhưng vì tiếng làm kinh giác, kẻ phàm lý vượt thường tình. Phật thì nói ít, người ngu thì bàn nhiều. Nay xét kỹ giáo lý lược nêu sáu môn:
1. Tiểu thừa hữu bộ, chỉ có Thái tử Tất-đạt một đời thành Phật, ngoài ra đều không có phần.
2. Đại thừa thỉ giáo: ba vô số kiếp hạnh vị đầy đủ mới được thành Phật.
3. Chung giáo: tướng hết tánh bày mới gọi là thành Chánh giác.
Hoa nghiêm nói: Địa vị thập tín tròn đầy mới phát tâm trụ tức thành chánh giác.
4. Đốn giáo: khi một niệm ngộ liền gọi là Phật.
5. Viên giáo: xưa nay thành Phật, nên Hoa nghiêm chép: khi Như lai thành chánh giác, ở trong thân kia thấy khắp chúng sinh thành Chánh giác, cho đến thấy khắp tất cả chúng sinh nhập Niết-bàn, đều cùng một tánh, cái gọi là vô tánh.
Lại nói: Bồ-tát Ma-ha-tát nên biết tự tâm, niệm niệm thường có Phật thành chánh giác. Vì sao? Vì chư Phật Như lai không lìa tâm này mà thành Chánh giác. Như tự tâm tất cả chúng sinh tâm cũng giống như vậy, đều có Như lai thành chánh giác. Nay văn kinh, nếu y theo quán thành mới biết được nên phải hai môn bốn, năm, nếu y theo sở tri, thì chúng sinh xưa nay là Phật, thời chỉ thứ sáu. Ba xứng thật đồng, xứng pháp giới chân thật tánh.
Này người thiện nam! Như giấc mộng đêm qua: Do thấy sinh tử, Niết-bàn như mộng, tức xứng viên giác thật tánh đồng cảnh Phật. ở đây có hai ý:
1. Chỉ có mộng năng y thì phải có người sở y, mộng là thần thức của người dạo chơi, cũng là khí phần của thấy nghe, không có tự thể riêng.
2. Chỉ hiểu thể của mộng là không vô, liền chứng tự thân chân thật, vì quên Tự thân, do chấp đắm mộng nên cảnh đại mộng chắc chắn là có, đại giác thì tròn sáng nên biết ở dưới có bốn tiết. Ban đầu nói chung về xứng thật: Nên biết sinh tử và Niết-bàn không khởi không diệt, khi mê thì sinh tử không khởi Niết-bàn không diệt. Khi ngộ chẳng diệt, sinh tử lại phát khởi Niết-bàn, xứng thể mà quán đều không khởi diệt.
Không đến không đi, pháp Thánh chẳng phải mới đến, phàm tâm chẳng phải diệt đi. Lại nói thẳng thể, không khởi diệt đến đi, không y theo phàm Thánh, hai là chỉ riêng năng sở:
Sở chứng không được không mất, không lấy không bỏ, cảnh sở chứng chẳng phải được chân mất vọng, bỏ thô lấy diệu.
Người năng chứng không làm không dừng, không mặc ý, không diệt mất, tâm năng chứng đều không phân biệt, lìa bốn lệnh.
3. Mất cả năng sở:
Đối với chứng này không năng không sở, rốt ráo vô chứng, cũng không người chứng. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chép: nếu thấy có chánh giác giải thoát, xa lìa các lậu, không mê đắm tất cả thế gian thì người ấy chẳng chứng đạo nhãn.
4. Tổng kết xứng thật nói: tất cả pháp tánh bình đẳng không hư hoại, rất dễ hiểu bốn kết thúc nhắc lại câu hỏi. Này người thiện nam! Các Bồ-tát kia tu hành như vậy, thứ lớp như vậy, suy nghĩ như vậy, trú trì như vậy, phương tiện như vậy, khai ngộ như vậy, cầu pháp như vậy cũng không mê muội, rất dễ hiểu trong kệ chỉ có ba: lược bỏ phương tiện khởi hạnh thứ nhất, nên ban đầu phúng tụng quán hạnh thành tựu có hai, hai thứ còn lại như thứ lớp hoàn toàn đồng với văn xuôi.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này, nên ngài nói kệ rằng:
Phổ Nhãn ông nên biết
Tất cả các chúng sinh.
Thân tâm đều như huyễn
Thân tướng thuộc bốn đại.
Tâm tánh về sáu trần
Bốn đại thể đều lìa
Ai là người hòa hợp?
Hai là nói không quán,
Như thế dần tu hành,
Tất cả đều thanh tịnh,
Không động khắp pháp giới.
Pháp giới quán cũng văn xuôi rộng, kệ lược. Không tác chỉ, nhậm diệt, cũng không người năng chứng, tất cả thế giới Phật, như hoa đốm trong không, ba đời đều bình đẳng, chẳng bao giờ đến đi, Bồ-tát mới phát tâm và chúng sinh đời mạt, muốn cầu vào Phật đạo, nên tu tập như vậy.
Thứ đến là nêu giải thích mê ngộ, thỉ chung, văn có bốn, ban đầu có ba ở đây là phần đầu.
Bấy giờ, Bồ-tát Kim cương Tạng ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: Rất dễ hiểu.
-Hai là trình bày trong câu có ba.
1. Vui mừng sở ngộ kia:
Đại bi Thế Tôn, khéo vì tất cả các chúng Bồ-tát, tuyên dương viên giác thanh tịnh đại Đà-la-ni nhân địa pháp hạnh của Như lai, đây là cội gốc của tất cả hạnh vị, sau phải theo trước cho nên chỉ lại.
Thứ lớp phương tiện mở mang tối tăm cho các chúng sinh, ở trong hội, pháp chúng vâng lời chỉ dạy của Phật, mắt che được sáng tỏ như mắt trí tuệ thanh tịnh rất dễ hiểu.
2. Thưa hỏi thắc mắc: Thế Tôn, nếu các chúng sinh xưa nay đã thành Phật, là xếp đoạn văn trước vào gốc nghi này. Vì sao lại có tất cả vô minh: nghi ngờ cho là chân có thể sinh vọng.
Nếu các vô minh chúng sinh vốn có thì vì sao? Như lai lại nói xưa nay thành Phật, nghi rằng nói vọng là chân.
Chúng sinh mười phương vốn thành Phật đạo, sau lại khởi vô minh thì tất cả Như lai lúc nào sinh tất cả phiền não trở lại? Là nhắc lại và nêu lên, trách lỗi vô cùng.
Đây là ba điều khó ở trên, ý nói xưa nay là Phật thì phiền não làm sao sinh? Nếu trong vô sinh mà vọng sinh khởi thì Như lai thành Phật đồng với vốn không sinh. Trong vô sinh lẽ ra lại nên khởi vọng, nghĩa thành Phật... sinh không nên bằng nhau, bằng với chúng sanh quả Phật đâu có tôn quý gì? Nếu bằng thì nhân trái với việc hiện tại, tiến lùi đều không thể, nên có lời ấy.
3. Kết thúc thưa thỉnh giải thích chung.
Cúi mong không bỏ lòng đại từ vô già, vì các Bồ-tát mở kho bí mật tạng. Y theo ba việc khó này các kinh sách không có. Chỉ Phật biết rõ, bước lên các địa mới nhận. Đây là thỉnh nói thành giáo, khắp chỉ bày phàm phu đời mạt pháp, nên nói vô già (không gì ngăn được), mở kho bí mật, chẳng phải pháp khí thì không truyền, mật nghĩa là che giấu tướng mà nói. Và vì tất cả chúng sinh đời mạt pháp: nếu bí tàng không mở: kho bí mật thì một pháp bao gồm nhiều. Nay xin không phân biệt đời mạt pháp thì mở kho bí mật, hiển rõ mà nói thì mở kho bí mật.
Được nghe kinh giáo, pháp môn liễu nghĩa như thế, do đây nêu ở đề kinh.
Dứt hẳn nghi ngờ, là nói chung về nghi, đối với các đế lý do dự làm tánh, làm chướng ngại tín tâm, thiện phẩm làm nghiệp. Riêng hiển bảy thì năm cái. Trong nghi có ba:
1. Nghi mình: nghĩa là mình không thể nhập lý.
2. Nghi thầy: nghĩa là thầy không có khả năng khéo chỉ dạy.
3. Nghi pháp: nghĩa là với sở học vì khiến xa lìa, vì không xa lìa, như người bị bệnh tự nghi mình, nghi thầy, nghi thuốc, bệnh cuối cùng không lành, ở đây trong ba nghi tức là nghi pháp, nghi này lại có đã khởi, chưa khởi, ở đây đều bao gồm. Bồ-tát Kim cương Tạng vì người khác xin hỏi giúp dứt bỏ hẳn, nhưng phương tiện dứt nghi thì hoặc nghi cảnh giới khiến ngộ duy tâm, hoặc nghi pháp tánh khiến quán không được, ngoài ra đều lệ theo mà biết.
Hối: hối là pháp bất định, hối điều lành là ác, hối điều ác là lành, nay xin dứt hẳn, tức thuộc về ác. Nhưng người vào đạo nếu chưa thông thì quyết chúng sinh và Phật đồng khác, hoặc có khi dụng công nhiều lại tự nghi ngờ hối hận, sau đây xướng ba lần như trước.
Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, ba lần thỉnh như vầy, đến cuối lại trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Kim cương Tạng rằng: Lành thay, lành thay!
Này người thiện nam! Các ông mới có thể vì các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp hỏi Như lai phương tiện rốt ráo bí mật sâu xa. Bí mật có hai:
1. Mật tạng của Như lai, nghĩa là tri kiến của Nhất thừa Như lai. Phật đối với pháp môn tiệm giáo lặng lẽ đã lâu im lặng chỗ quan trọng này, nên nói phương tiện rốt ráo. Sau đây là trả lời Diệu giác viên chiếu, lìa hoa đốm bị màng che lấp...
2. Như lai tức bí mật, do chứng mật tạng, năng sở không hai.
3. Nghiệp nghiệp đầy đủ, đều là bí mật. Thân mật nghĩa là chẳng phải sắc hiện sắc, như ma-ni... Nói mật ở trong một lời nói mà giảng bày biển pháp vô biên, như tiếng vang trong hang trống... ý mật vô tâm thành việc... trong hai nghĩa thì kinh hiển rõ sở chứng.
Các Bồ-tát này chỉ dạy Đại thừa liễu nghĩa trên hết, có thể khiến Bồ-tát tu học trong mười phương, và tất cả chúng sinh đời mạt pháp được quyết định tin thì lập tức đồng với cảnh Phật, nghĩa là phải tín căn thành tựu mới phát tâm trụ. Nay chỉ chung cho quyết nghi thì khó để thành nghĩa trước.
Dứt hẳn nghi hối, nay ông lắng nghe, sẽ nói cho ông: lúc bấy giờ, Bồ-tát Kim cương Tạng vâng lời chỉ dạy vui mừng và các đại chúng im lặng mà nghe. Thứ tư là nói văn xuôi, có bốn:
1. Cội gốc của nhiều lần khởi nghi.
2. Ví dụ giải thích nghi ngờ hiện khởi.
3. Hiển bày cạn cợt khó tạo sâu sắc.
4. Kết thúc lời hỏi không hợp lý.-Trong phần đầu lại có ba:
1. Chỉ chung luân hồi.
2. Chân theo vọng chuyển.
3. Kết thúc chỉ ra nghi ngờ trước. Ở đây là phần đầu. Này người thiện nam! Tất cả thế giới: là chỉ chung hữu tình thế gian và khí thế gian, luận Kim cương của Vô Trước nói dùng bốn uẩn làm thế giới, nếu không y theo tình sao thì đâu luân hồi? Thứ hai: sáu đối sau đây làm rõ luân hồi kia, nghĩa là chỉ trụ hữu vi liền thuộc về tâm luân hồi.
Trước (bắt đầu biến đổi) sau (chứng cùng cực) mới sinh khởi, diệt: niệm niệm tàn tạ.
Trước quá khứ, sau quá khứ vị lai, có trụ kiếp, vô kiếp không, tụ kiếp thành, tán-kiếp hoại, khởi-hiện hạnh, chỉ-điều phục niệm niệm nối nhau tình giới, khí giới đều nương vọng niệm, sở y đã không dứt thì năng y cũng giống như vậy.
Tuần hoàn qua lại, khí giới là đã không lại thành, tình giới đã diệt lại sinh, hoặc nghiệp huân tập, báo luân hồi, trần sa kiếp-ba cũng chẳng dứt được, hai câu trên là chánh tông, chỉ rõ sự luân hồi.
Các thứ lấy bỏ đều là luân hồi, lấy là chấp lấy, chấp ngã, ngã sở, xả là nhàm chán xa lìa, nhàm chán sở y của khổ, lại đối với căn thân thì nhàm chán khổ thô chướng là bỏ, ưa thích tịnh diệu lìa là lấy, đối với khí giới thì nhàm chán xa lìa Ta-bà này là xả, ưa thích Cực lạc kia là lấy, hoặc lấy hoặc bỏ các thứ khác nhau, đều là vọng tâm điên đảo biến hiện ra sự luân hồi, nên luận chép: tất cả phân biệt tức là tự tâm phân biệt, tâm chẳng thấy tâm, pháp chẳng phải tướng nào thật có. Kinh Thủ-lăngnghiêm chép: Tự tâm chấp tự tâm, chẳng huyễn thành pháp huyễn.
-Kế là Chân tùy vọng chuyển, văn có ba:
1. Pháp:
Chưa ra khỏi luân hồi mà bàn luận viên giác thì tánh viên giác kia liền đồng với trôi lăn, thoát khỏi luân hồi thì không có việc đó, năng quán là tâm luân hồi, viên giác sở quán cũng giống như vậy. Như mộng thấy vật thật thì vật cũng là mộng. Hai là ví dụ. Thí như mắt động đậy thì có thể lay động nước trong, do mắt thường động nên, nước trong như sóng lay động, lại như định nhãn do vòng lửa xoay tròn, kế là nhãn thức chậm chạp nên lửa thành tướng vòng tròn, mây trôi thì thấy mặt trăng đi, thuyền lướt thì thấy bờ chạy cũng giống như vậy, tưởng có thể thấy ba hợp.
Này người thiện nam! Các vòng lửa chưa dứt thì mắt thấy mây, thuyền, dụ cho tâm sinh tử cấu bẩn, vật kia trước trụ còn không thể được là nước lửa trăng bờ, dụ cho viên giác, huống chi sinh tử trôi lăn, tâm cấu chưa từng thanh tịnh, quán Phật viên giác mà không xoay lại, chính là hợp. Ba kết thúc chỉ ra điều nghi ở trước.
Cho nên các ông liền sinh ba hoặc, tức là ba thứ nghi ở trước. Y theo ý chỉ ra của văn kết thúc này, liền biết định là gốc ngọn của trách trước khởi nghi, là trả lời các vấn nạn. Nếu là trả lời riêng một việc khó trong ba, tức là không hợp kết thúc chung ba hoặc. Người trí thì biết rõ rõ, nhưng tuy chẳng chính thức trả lời nhưng đã là nêu lên thế lực xây dựng nghĩa trả lời, ý khiến chấm dứt ý nghĩ như trên, tức là nghi ngờ ở trước sớm hợp tự mất, huống chi hoa đốm trong hư không, vàng quặng rõ ràng nói lên ví dụ.
2. Văn ví dụ giải thích nghi ngờ hiện khởi, có hai:
a) Ví dụ hoa đốm trong hư không chẳng khởi diệt.
Ví dụ quặng trong vàng không sinh lại. Trong phần đầu có ba:
Một là giải thích ví dụ, hai là hợp pháp, ba là kết thành. Ở đây trước chia nhỏ làm hai:
- Ví dụ bỏ màng che mắt thì hoa mất.
- Ví dụ hư không chẳng sinh ra hoa.
Này người thiện nam! Thí như mắt bị màng huyễn che lấp lầm thấy hoa đốm trong hư không, nếu cạo bỏ màng huyễn thì không thể nói che lấp này đã diệt lúc nào lại khởi tất cả các màng che, nghĩa là không biết hoa là do bị màng che. Vọng chấp từ hư không mà sinh, không biết mê chân nên vọng sinh, chấp ngang trái chân có khả năng sinh ra vọng, đã bị che lấp đều không thấy hoa. Nghe nói do che lấp mà sinh, lại chấp lúc nào lại che, để ví dụ so sánh mê làm điên đảo vọng thấy luân hồi, nhờ nghe pháp môn Phổ nhãn, liễu ngộ căn trần thanh tịnh, nghe đạo nhờ đó trừ tâm mê nên được thanh tịnh, không phải mới được diệu môn. Lại chấp sớm muộn lại mê, giống như lúc nào lại che lấp, hỏi khi che lấp hết thì lúc khác có lại sinh hay không? không cần quyết định mãi mãi là không, làm sao lấy đây làm ví dụ?
Trả lời: Ví dụ nhưng chỉ lấy việc ngay lúc ấy, không nói trọn đời, nhưng vì người ngu lúc sáng sớm, sáng sớm chỉ thấy hoa, giờ ăn mắt hết, thấy hoa sinh diệt lăng xăng, nghĩa là nói che lấp cũng mau khởi mau dừng, niệm niệm đợi chờ, nên nói rằng không thể, vì thế các kinh luận ví dụ giải thích lời Phật dạy như tỉnh giấc mộng lớn, đâu thể hỏi vặn rằng ngủ dậy tỉnh mộng. Ngại gì nói đêm lại ngủ lại mộng nếu hỏi vặn như thế thì đâu biết ví dụ! Vì sao? Vì hai pháp màng che và hoa chẳng đối đãi nhau, màng che không hẹn với hoa, hoa không sinh theo màng che, nhưng vì che nên vọng thấy, chẳng phải hoa thật sinh. Hai pháp mỗi pháp đều không biết nhau, huống chi một không một có, cho nên nói không đối đãi nhau. Dù cho tâm mê sinh tử cũng vắng lặng, vì duyên mê nên dường như sinh tử, chúng sinh vốn tự không sinh, hoa huyễn không bao giờ khởi, đừng đem màng che đối đãi, đừng dùng mê mà cầu. Kim cương Tạng hỏi mục đích chính là ở đây, sau đây là ví dụ hoa đốm trong hư không rằng:
Cũng như khi hoa đốm trong hư không biến mất trong hư không, không thể nói rằng hư không lúc nào lại sinh hoa đốm nữa. Vì sao? Vì hư không vốn không có hoa nên chẳng khởi diệt. Ví dụ này trước đã bao gồm giải thích, văn rất dễ hiểu. Hai là hợp pháp.
Sinh tử, Niết-bàn đồng với khởi diệt, diệu giác viên chiếu xa lìa màng che và hoa đốm. Mê thì thấy sinh tử giống như hoa khởi, ngộ thì được Niết-bàn giống như hoa diệt, nói viên giác lìa hoa lìa màng che, thì phủi cả hai sinh tử và vô minh, hư không chẳng tạm có không, tánh giác đâu quan hệ gì đến mê ngộ? Chúng sinh đã như hoa khởi, y theo đâu mà vặn hỏi vô minh? Vô minh sinh tử đã không, trách gì xưa nay thành Phật? Hoa đốm trong hư không chẳng bao giờ sinh trở lại, quả vị đâu còn trở lại mê? Vì mình chấp chặt không ngừng, thấy người khác tánh giác trôi lăn, nếu hiểu như thế thì sẽ dứt ngay ba nghi. Ba nghi móc xích nối nhau không phải là ba khoa đáp riêng, sau đây là ví dụ quặng vàng, tức là đáp thành Phật rồi không mê trở lại, nghi này quá sâu, nên ví dụ lại. Ba là kết thành.
Này người thiện nam! Nên biết hư không chẳng tạm có, cũng chẳng tạm không, huống chi Như lai thuận theo viên giác, hư không bản tánh bình đẳng, hư không của thế pháp còn không đồng với hoa khởi diệt, huống Như lai thuận theo viên giác chân thường vắng lặng, là thể tánh của hư không ư?
Giác là tánh không: Kinh Phật đảnh chép: Hư không sinh trong đại giác, lại nói: vắng lặng soi chiếu bao trùm hư không. Lại nói bình đẳng là viên giác tuy là tánh của hư không, mà lại thầm hợp với không phân trùm khắp pháp giới vô phân, vô hạn, không khác, năng y, sở y, nên nói là bình đẳng. Ý này nói: Hư không ở trong giác hư không còn thường vắng lặng, huống chi giác là không tánh, đâu có thêm bớt, dụ như không bằng cho nên nói huống nữa, sau ví dụ quặng vàng.
Này người thiện nam! Như luyện vàng, vàng chẳng phải do luyện mà có, vàng ở trong quặng, loại bỏ quặng thì vàng hiện, chẳng phải quặng tiêu mới có, nếu do luyện mà có thì luyện đá... cũng sẽ được vàng. Cho nên biết tuy là giả luyện vàng nhưng tánh vàng phải sẵn có mới thành vàng được, nếu không luyện thì quặng, có trải qua vô cùng thời kiếp tánh vàng cũng không hoại. Đây là nói ở quặng thì ẩn, ra quặng thì hiển rõ, ẩn và hiển tuy khác nhưng tánh vàng xưa nay bình đẳng.
Không nên nói rằng vốn chẳng sẵn có: giải thích tánh vàng sẵn có.
Như lai viên giác cũng giống như vậy là hợp pháp, quặng dụ phiền não, vàng dụ tánh giác, luyện ra trong sạch liền có ánh sáng, và có thể tùy thợ, tùy khuôn, thành tượng Phật... hoặc các dụng cụ, dụ cho ba thân Phật. Nhưng ví dụ này chỉ đáp hỏi vặn là thành Phật rồi thì không còn mê trở lại, trước thì y theo lý viên ngộ, chúng sinh và Phật đều là vốn chân, để thành nghĩa chúng sinh xưa nay thành Phật trong đoạn Phổ Nhãn, cho nên nêu hoa đốm trong hư không xưa nay không khởi không diệt, chẳng phải sau mới diệt, hợp pháp: sinh tử, Niết-bàn đồng với khởi diệt, cho nên đều chung cho ba câu vặn hỏi, ở đây y theo tướng bất hoại nhân quả, nên nói luyện quặng ra vàng. Hoa thì đầu cuối vốn không, quặng thì do luyện mới hết, ý nói: lý viên đốn tuy giống nhau nhưng mê ngộ không ngại thành khác, đã có nghiệp chướng huân tập nhiều đời, trở lại phải trái với huân tập hiển rõ chân thật, chân hiển rõ thì rốt ráo thanh tịnh, nếu chỉ dùng dụ ở trước thì bác bỏ không có tướng nhân quả mê ngộ. Liền thành tà kiến nếu chỉ dùng dụ này, thì thành tánh giác của chúng sinh xưa nay bất tịnh, mất lý chân thường, cũng thành tà kiến, đạo lý mầu nhiệm một ví dụ khó sáng tỏ vì thế nói hai việc, cho nên biết ví dụ này chỉ trả lời câu hỏi vặn thứ ba. Ba là hiển rõ cạn cợt khó tạo sâu xa. Văn có hai:
1. Sở tạo lìa niệm: Này người thiện nam! Tất cả Như lai tâm viên giác mầu nhiệm, trước nêu tâm giác làm tống, sau mới phủi dấu vết để nói chẳng phải đoạn diệt, nhưng lìa chỗ được phủi thì đều là tâm giác, phủi nhẹ có ba tiết:
Vốn không có Bồ-đề và Niết-bàn, phủi tên chuyển y, do chuyển phiền não sinh tử nên gọi là Bồ-đề Niếtbàn, thể tuy tức gọi là chân nhưng nhờ vọng mà được.
Cũng chẳng có thành Phật và không thành Phật, không có vọng luân hồi và chẳng luân hồi, hai tiết này đều phủi bỏ đối đãi. Trong tánh viên giác đều không, việc này nếu có cái thấy hẹp hòi thì mê viên giác. Nên kinh Hoa Nghiêm chép: đối với pháp, nếu có cái thấy này thì chưa phải thấy, nếu không có thấy như thế là thấy Phật.
2. Năng tạo làm ngưng trệ tình cảm, văn có bốn:
a) Nêu sự cao quý nêu sự yếu kém.
b) Nêu ví dụ, hiển bày tình cảm.
c) Ngăn ngừa dứt tâm vọng tâm.
Lại làm sáng nghĩa vọng. Đây là phần đầu, văn có hai cặp.
-Cặp lý trí tiểu Thánh.
Này người thiện nam! Nhưng cảnh giới sở viên của Thanh văn thì thân tâm lời nói thảy đều đoạn diệt, chìm không đắm lặng, nguội thân bặt trí, không bao giờ đến được Niết-bàn do thân chứng của kia hiện ra. Nếu chưa nhập diệt tức là Niết-bàn Hữu dư, hoặc đã nhập diệt tức là Vô dư Niết-bàn, sau đây là đối phàm tâm chân giác.
Huống chi dùng tâm có suy nghĩ, các thứ chấp đắm để so suy lường cảnh giới viên giác của Như lai, hai cặp trên đây ý nói: chân trí hàng Tiểu Thánh còn không thể đích thân đến được lý của tiểu Thánh, huống chi là phàm tâm thấp kém hơn trí ở trước, chân giác lại vượt lý trước, xoay vần cách xa làm sao có thể tạo ra ư! Như Bách liêu còn sợ tể tướng, trăm họ đâu dám gần thiên tử! Đây đồng với người chứng bốn quả của kinh Kim cương còn vô tâm nói ta chứng được bốn quả, há là Như lai có định pháp chứng được vô thượng Bồ-đề ư! Hai là nêu ví dụ hiển bày tình cảm, như lấy lửa đom đóm đốt núi Tu-di, không bao giờ được, nêu ví dụ, sau đây là hiển bày tình cảm.
Vì tâm luân hồi sinh ra cái thấy luân hồi, nhập vào biển vắng lặng hoàn toàn của Như lai, thì không bao giờ đến được, liền biết trước nêu thù thắng, ở đây nêu ví dụ và chính là nói lên tâm phân biệt không thể chứng giác, thầm chê bai ba thứ nghi ngờ vặn hỏi ở trước nói có tâm suy nghĩ, chính là đây nói dùng tâm luân hồi, trước nói cảnh giới viên giác, tức là ở đây nói hiển bày vắng lặng hoàn toàn. Có thể soi chiếu sâu xa, ba là ngăn dứt vọng tâm.
Cho nên ta nói: tất cả Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp trước dứt bỏ cội gốc luân hồi từ vô thỉ, chỉ cho văn chưa ra khỏi luân hối... ở trước, nếu xa chỉ tức là chương Văn-thù trước dứt trừ vô minh, hoặc chỉ cho các kinh khác thì đều nói như thế, lại nói lên nghĩa vọng, văn có hai:
1. Không có thật thể.
Này người thiện nam! Có ý suy nghĩ từ có tâm khởi, nêu lên căn thức hữu của năng khởi, tâm là biết, khởi là tâm sở, đều là duyên khí vọng tưởng của sáu trần, nêu lên trần cảnh có công năng lôi kéo, chẳng thật có tâm thể, thật tâm vô niệm.
Đã như hoa đốm trong hư không, dùng suy nghĩ này nói về cảnh Phật, giống như hoa đốm trong hư không lại kết quả không, xoay vần vọng tưởng thì không có việc ấy, dù thật có suy nghĩ nhưng suy nghĩ còn không thể chứng giác, huống chi tâm này sớm đã như hoa đốm trong hư không? Tự không có thật thể, hướng thượng càng muốn cầu chứng, đâu khác gì kết quả như hoa đốm trong hư không? Nên nói xoay vần vọng tưởng.
2. Không có tác dụng cao siêu.
Này người thiện nam! không thể thành tựu phương tiện viên giác, từ căn bổn của nghi ngờ đối chiếu khảo sát tỉ mỉ thứ nhất, bao gồm một đoạn thứ ba này, đại ý đều là trách hỏi đắm tình phân biệt lỗi lầm, cho nên trong đó thì tiết này gần nhất. Do ba phe nghi ngờ trước tiện đều dừng nhưng tâm thô phù khéo thấy vẫn không thể chứng giác.
Kết thúc lời hỏi không đúng lý, phân biệt như thế chẳng phải là hỏi đúng, vừa xem kinh nhiều lần, tức là dường như chỉ văn kết thúc cái thấy khéo léo, nghĩa ấy rõ ràng đều kết thúc một đoạn thứ ba, trước hỏi khen ngợi lành thay, ở đây trách chẳng đúng. Vì sao?
Đáp: trước khen ngợi khởi giáo tốt đẹp. Ở đây trách là hiển bày thật lý đó, ngờ một đoạn nghi này rất chướng ngại việc tu chứng, nếu không nêu lên, thì đời mạt pháp mê mãi nêu lên có ích lợi này, nên trước khen ngợi. Chỗ nêu của Kim cương Tạng ý là ở Phật trách, cho nên biết lỗi trách này, mới nêu lên có công, vừa xem như trước sau trái nhau, rõ ràng chính là trước sau phù hợp, có thể xét nghĩ, nhiệm mầu là ở đây! Bốn đoạn trong kệ, ba đoạn trước hoàn toàn giống văn xuôi, hai câu sau hoàn toàn khác nhau.
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên Ngài nói kệ rằng:
Kim cương Tạng nên biết!
Như lai tánh vắng lặng,
Không hề có trước sau,
Nếu đem tâm luân hồi,
Suy nghĩ liền trói buộc,
Chỉ đến bờ luân hồi,
Không thể vào biển Phật.
Văn xuôi trước nêu lên tướng vọng,
văn kệ trước nêu lên thật tánh.
Thí như luyện quặng vàng,
Vàng chẳng do luyện có.
Tuy xưa nay là vàng,
Cuối cùng luyện mà thành,
Vừa thành thể vàng ròng,
Không còn trở lại quặng.
Lược bỏ không có bài tụng về hoa đốm trong hư không, rõ ràng ở đoạn sau.
Sinh tử và Niết-bàn, phàm phu và chư Phật, đồng là tướng hoa đốm, sở tạo lìa niệm bởi do Văn xuôi hoa không khởi diệt, trong ví dụ văn kết thúc giống với đoạn này, vì thế ở đây cũng lấy ví dụ hoa đốm trong hư không, ý bao trùm trước sau.
Suy nghĩ như huyễn hóa, Huống chi hỏi luống dối, Tạo ra trệ ngại tình cảm, Nếu rõ được tâm này, Thì sau cầu viên giác.
Một đoạn thứ tư này là y vào hiểu biết khởi hạnh.
Cùng với Văn xuôi thứ tư lẫn nhau có không.
Thứ đến nghiên cứu sâu, cội gốc luân hồi, nghĩa là cùng tột xoay vần cội nguồn. Suy ra chủng tánh khác nhau của nó, trong đó văn có bốn: ban đầu có ba, đây là phần đầu:
1. Bồ-tát Di lặc đảnh lễ Phật, thưa hỏi pháp:
-Bấy giờ, Bồ-tát Di-lặc ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: giống như trên.
2. Chính thức trình bày cú văn có hai:
a) Chúc mừng trước:
Đại bi Thế Tôn, xin rộng vì Bồ-tát mở bày mở kho bí mật, giúp các đại chúng ngộ sâu luân hồi, nhờ các ví dụ như thuyền đi mà thấy bờ chạy... mà ngộ được chân theo vọng chuyển, phân biệt tà chính, có thể bố thí cho tất cả chúng sinh đời mạt pháp không sợ quyết định đạo nhãn tuệ nhãn, đủ cả chân tục, đối đại Niết-bàn sinh tâm quyết định tin, không bao giờ tin khác. Kinh Thủ-lăngnghiêm chép: Diệu tín thường trú tất cả vọng tưởng dứt hết không còn.
Không còn tùy cảnh giới luân chuyển, khởi kiến chấp tuần hoàn, không chấp thuyền đi thấy bờ chạy...
b) Thỉnh sau văn có hai:
b.1) Nêu pháp hỏi.
b.2) Kết thúc lợi ích thưa thỉnh.-Trong phần đầu có hai:
+ Hỏi về cắt dứt luân hồi.
+ Muốn được Niết-bàn làm sao cắt đứt gốc luân hồi: Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, muốn đến chỗ đại vắng lặng của Như lai đại BátNiết-bàn. Biển: đầy đủ ba đức, lập ra nghĩa lớn, thể sâu dụng rộng cho nên như biển.
Làm sao để cắt đứt cội gốc luân hồi, nhân chương trước nói: Trước là cắt dứt cội gốc luân hồi từ vô thỉ, cho nên nay hỏi phương pháp cắt đứt.
Đối với các luân hồi, trước nói các thứ lấy bỏ đều là luân hồi, cho nên ở đây nói các.
Có bao nhiêu chủng tánh, tất cả đều là sự luân hồi, chưa xét kỹ có bao nhiêu chủng tánh.
-Hỏi về tu bi trí:
3. Tu pháp Phật có bao nhiêu thứ?
Tu pháp Bồ-đề của Phật có bao nhiêu thứ khác nhau, pháp môn vô biên thệ nguyện học, tức là từ giã không vào thành đại trí, trở lại trần lao, sẽ lập ra bao nhiêu phương tiện giáo hóa độ các chúng sinh. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ, tức là từ không vào giả, thành đại bi, hoặc bệnh đã nhiều, thuốc hay chẳng phải một. Nếu không có phương tiện ít nước nóng thêm băng, sợ rơi vào ái kiến đại bi cho nên phải hỏi.
-Kết thúc lợi ích thưa thỉnh.
4. Thỉnh Phật thương xót cứu giúp:
Cúi mong đại bi không bỏ cứu, giúp thế gian, những người tu hành, tất cả Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, mắt trí tuệ có khả năng soi chiếu.
Yên tĩnh lặng trong duyên trần không lẫn lộn, chiếu sáng gương tâm tức là sở chiếu. Lòng sạch như gương, bài kệ của Lục Tổ nói: tâm như gương sáng sạch, thân như đài gương sáng, viên ngộ tri kiến vô thượng, không năng không sở, tự tại tròn sáng của Như lai, tức là đồng với Pháp Hoa, cả hai mở bày Bồ-đề Niết-bàn là nghĩa vô thượng. Sau đây xướng ba lần phỏng theo trước. Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồtát Di-lặc rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Các ông mới có khả năng vì các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp mà thưa hỏi Như lai nghĩa mầu nhiệm, bí mật sâu kín, luân hồi vốn thanh tịnh, không có chủng loại khác nhau, khiến các Bồ-tát mắt trí tuệ trong sáng và khiến tất cả các chúng sinh đời mạt pháp, dứt hẳn luân hồi, tâm ngộ thật tướng, có vô sinh nhẫn, chân tánh không sinh, xưa nay thanh tịnh. Chúng sinh chưa ngộ, tâm vọng thấy sinh, sinh thì phải diệt, cho nên luân hồi. Nay ngộ thật tướng, rõ tâm vô sinh, tâm đã không sinh luân hồi dứt hẳn, nhẫn như thế gọi vô sinh nhẫn, trên đều khen ngợi.
5. Phật hứa khả nói pháp:
Bây giờ, ông hãy lắng nghe, sẽ nói cho ông. Lúc ấy, Bồ-tát Di-lặc vâng lời dạy vui mừng, và các đại chúng im lặng lắng nghe. Dưới đây chính thức nói Văn xuôi, trong đó có hai:
1. Trả lời cắt dứt luân hồi.
2. Trả lời tu bi trí, trong phần trước có hai:
a) Tìm gốc ngọn dạy chặt bỏ.
b) Nói về chủng tánh cho biết, trong phần đầu có hai:-Chỉ bày sở đoạn.
- Khuyên dạy dứt bỏ. Trong phần đầu có bốn:
+ Chỉ ra ái là gốc.
+ Muốn giúp thành nhân.
+ Xoay vần nương nhau.
+ Khởi các nghiệp báo, trong phần đầu có hai:
- Y theo tham dục để nêu lên, chỉ ra:
6. Do có ân ái tham nên chúng sanh bị luân hồi:
Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh từ đời vô thỉ, do có các ân ái tham dục nên có luân hồi, nghĩa là đối năm dục sở tham, nêu chỉ ra ái của năng tham là gốc luân hồi. Kinh Thủ-lăng-nghiêm chép: ái chảy thành hạt giống lãnh nạp tưởng thành thai, giao cấu phát sinh hấp dẫn đồng nghiệp, do nhân duyên ấy nên có sinh tử. Lại kinh Niết-bàn chép: do ái sinh lo, do ái sinh sợ, nếu lìa tham ái, lo gì sợ gì? Lại nữa, kinh Phật Danh chép: có ái thời sinh, ái hết thời diệt, cho nên biết sinh tử tham ái là gốc. Trước dạy dứt bỏ: như cây chặt gốc... là do năm dục dẫn khởi tâm ái, làm cho chúng sinh sinh tử không dứt. Nói chủng chủng: hoặc ân thuộc trời như cha mẹ..., hoặc ân cảm của việc như được ân huệ nho nhỏ... hoặc nhậm vận sinh ái, tức là tự thân và danh, lợi, sắc, vị, lục thân... hoặc do cung kính thành ái, do ân thành ái, hoặc do ái hết ân, ân và ái ứng thành bốn câu. nghĩa là ân chẳng phải ái... Lại nữa, cảnh sở tham các thứ rất nhiều, nên ái (yêu) của năng tham không phải một, nhưng tham và ái cũng có bốn câu. Nghĩa là tham chẳng phải ái... nếu đối trị phân biệt với cảnh thì có thuận có trái, nếu y theo tâm phân biệt luống dối thì đều là lỗi lầm. Lại nữa, chỉ y theo ái lại có ba.
1. Thích cái xấu, nghĩa là cầm hoang, sắc hoang và danh lợi...
2. Yêu cái đẹp: nghĩa là tham dẫn đến quả báo thực hành thí, giữ giới,...
3. Pháp ái: Ưa thích danh nghĩa và tham quả Thánh mà tu hành... nên sau đây nói: pháp ái không còn trong lòng, lần lần có thể thành tựu, thân ta vốn không có, yêu ghét từ đâu sinh. Sau y theo thọ sinh để kết định.
7. Nói về bốn cách sanh:
Nếu tất cả chủng tánh ở các thế giới: sinh bằng trứng, sinh bằng thai, sinh chỗ ẩm ướt, hóa sinh đều do dâm dục mà có tánh mạng, nên biết luân hồi thì ái là gốc, bốn loại sinh như noãn sinh... thọ sinh khác nhau. Vì thế Dugià giải thích chúng sinh rằng: tư nghiệp là nhân, vỏ, thai, thấp nhiễm làm duyên, năm uẩn mới khởi là sinh, nếu phối hợp bốn sinh với sáu đường thì trời và địa ngục là hóa sinh, quỉ có thai có hóa, nghĩa là quỉ con và địa hành la-sát là thai, ngoài ra đều hóa sinh, người và súc sinh mỗi đường có bốn, người đủ bốn là mẹ Tỳ-xá-khư sinh trứng ba mươi hai con, thai là người thường, thấp là nại nữ, hóa là kiếp sợ. Súc đủ bốn thứ: Kim-sí điểu (chim cánh vàng) và rồng, thú khác đều có thai, các loài chim đều sinh bằng trứng. Nhưng đi trên đất bay trên không hoặc đường thủy, hoặc đường bộ, các loài nhỏ nhiệm hoặc noãn thai (bằng trứng, bằng thai), hoặc loài ẩm ướt, hoặc hóa sinh. Không thể đủ phần phẩm loại, đều do dâm dục mà có tánh mạng.
8. Nguyên nhân luân hồi của chúng sanh:
1. Dâm: nghĩa là đắm nhiễm ái trước, nhưng là tình nhiễm đều được gọi là dâm. Dù cho hóa sinh cũng nương vào nhiễm nghiệp, chỉ y theo nặng nhẹ của cõi Dục: Luận Câu-xá chép: sáu thọ dục là giao hợp, ôm nhau, cầm tay, cười, nhìn nhau là dâm, người ở bốn châu cùng thế giới của Tứ vương. Ngoài ra các loại khác noãn thấp thai hình, nhiễm tâm khí truyền khó phân tích đủ, được tánh bẩm mạng, đều có lý do? tánh mạng đã do dâm, dâm lại do ái, nên nói ái là cội gốc.
2. Dục giúp thành nhân, do có các ham muốn nên giúp sinh tánh ái, tâm tức là hạt giống của ái, cho nên làm cho sinh tử nối nhau, do ham muốn ngoại trần dẫn ra tâm ái, cũng do tâm ái tham đắm nơi ham muốn, tham muốn nên gây ra nghiệp, gây ra nghiệp nên chịu báo, do sinh tử này không dứt, nên Triệu luận chép: chúng sinh sở dĩ bị trôi lăn lâu dài: đều do tham dục. Nếu ham muốn dừng ở tâm, thì không còn sinh tử, tiềm thần huyền mặc hợp với đức của hư không, ấy gọi Niết-bàn.
3. Xoay vần nương tựa.
Dục do ái sinh, mạng do dục mà có, chúng sinh ái mạng, lại nương dục làm gốc. Ái dục là nhân, ái mạng là quả, dục nghĩa là tham dục, mạng nghĩa là thân mạng, không có ái dục thì không sinh, không ham muốn thân thì không có, nên biết dục do ái mà có, thân do dục mà sinh, đã có thân này thì lại sinh ra ái, do ái thân nên lại làm nhân của Dục, lại cảm quả báo sinh tử đời vị lai, lần lượt như thế, nối nhau không cùng.
4. Khởi các nghiệp báo trong văn có hai.
a) Giải thích riêng.
b) Kết thúc chung,
- Trong phần giải thích riêng có ba.
- Khổ báo của nghiệp ác.
9. Cảnh thuận và không thuận đối với tâm dục:
Do cảnh dục mà sinh khởi các trái ý không vừa lòng, thuận cảnh vừa ý, trái với tâm ưa thích mà sinh chán ghét, tạo ra các nghiệp, do cảnh kia, cảnh không thuận với tâm sinh phiền não, chửi mắng rủa nộp, các thứ nghiệp ác từ đây liền nổi lên, cũng có thể cảnh vừa ý sinh ra mê đắm, dâm, đạo, ăn uống, lấn cướp, lời nói thêu dệt, các thứ nghiệp ác, văn lược bỏ. Nói chủng chủng: mười bất thiện... cho nên lại đọa vào địa ngục, ngạ quỉ: ba ác báo. Không có súc sinh, lấy văn kia nhuận thành câu, do hai ví dụ rất dễ hiểu, cũng có thể do phiên dịch, truyền chép bỏ sót, nghĩa phải hợp với có. Nên kinh Hoa Nghiêm chép: mười nghiệp đạo bất thiện, bậc Thượng là nhân địa ngục, bậc trung là nhân súc sinh, bậc hạ là nhân ngạ quỉ. Hai là nghiệp lành thì quả báo vui.
10. Biết tâm ái dục là nhân đường ác:
Biết dục đáng nhàm chán, biết tâm ái dục là nhân đường ác, đối với cảnh dục kia rất sinh nhàm chán xa lìa. Yêu chán nghiệp đạo, sợ đường ác kia không gây nhân ác, lìa pháp môn ác, rất sinh yêu thích, bỏ ác ưa thiện, do ưa muốn nên làm ác, nay biết ham muốn đáng nhàm chán, bỏ mười điều ác ưa mười việc lành.
Lại hiện trời người: Quả báo vui. Kinh Hoa Nghiêm chép: mười nghiệp lành là nhân thọ sinh trời người, xếp vào quả báo vui, là nói tướng thô. Nếu luận về tám khổ nhân gian, năm suy cõi trời ở địa cư chặt đứt tàn hại xua đuổi, đâu thể khỏi khổ? Khổ ở trong trời, ngạ quỉ, súc sinh, chia ra Tu-la thì thành sáu đường. Ba là nghiệp báo bất động. Lại biết các ái đáng nhàm chán, nên bỏ ái lạc trở lại làm tươi nhuần gốc ái, biết ưa xấu ưa tốt đều không khỏi khổ, bỏ đi tâm ái ưa tu pháp xả. Pháp xả tức là bốn thiền tám định, mà không biết tâm ưa xả lại đồng với ái kia, cho nên nói trở lại làm tươi nhuần gốc ái.
Liền hiện có làm quả lành tăng thượng, hai cõi trên tốt đẹp là Y báo, Chánh báo, do ở cõi Dục tu được định này, mỗi thứ tùy theo địa của mình mà sinh lên cõi trời.
11. Kết thúc chung:
-Kết thúc chung: Đều là luân hồi, ái là cội gốc cho nên đều luân hồi.
Không thành Thánh đạo, trước chỉ cho vô minh, ở đây nêu lên tham ái phát sinh đầy đủ. Nhưng mười nghiệp ác xưa nay phải dứt, mười điều lành, tám định thì chỉ trừ bệnh ấy thứ hai khuyên dứt bỏ, văn có ba:
1. Chính khuyên.
Cho nên chúng sinh muốn thoát vòng sinh tử, khỏi các luân hồi thì trước phải thoát khỏi các luân hồi và dứt bỏ khát ái, đã biết sinh tử đều do tham ái thì muốn thoát khỏi sinh tử trước phải dứt hai thứ này. Luận Viễn Công Báo Ứng chép: Các việc phát ra đều do tâm kia, báo ứng phải do ở việc cho nên tự chịu báo, phải xét việc mà việc có thể thay đổi, nêu việc để trách tâm mà tâm có thể ngược lại. Khát: là dụ cho chỗ chí thiết của nó.
2. Đề phòng chung, sợ có hỏi vặn rằng: nếu như vậy thì vì sao Bồ-tát cũng có tham ái nên thọ sinh, cho nên ở dưới nói chung.
12. Bồ-tát hóa hiện ở thế gian chẳng phải ái là gốc:
Này người thiện nam! Bồ-tát biến hóa thị hiện ở thế gian, chẳng phải ái là gốc, chỉ vì thương xót khiến kia bỏ ái, mượn các ham muốn mà vào sinh tử, Bồ-tát thị hiện thọ sinh, cội gốc chẳng phải ái, chỉ vì từ bi, làm lợi ích cho người, muốn thực hành giáo hóa, phải hiện thọ sinh, thị hiện đồng với phàm phu, cùng làm việc lợi ích chúng sinh. Nên kinh Tịnh Danh chép: Chúng sinh bệnh thì Bồtát bệnh, thị hiện... thương xót sâu sắc, người chẳng có ái thì trí sâu xa.
3. Hiển bày rõ lợi ích.
Nếu tất cả chúng sinh đời mạt pháp, xả bỏ các ham muốn và dứt bỏ yêu ghét, dứt hẳn luân hồi, siêng cầu cảnh giới Viên giác của Như lai, với tâm thanh tịnh liền được khai ngộ, trước dứt bỏ được mới siêng cầu được, có ra vàng từ quặng mới làm đồ dùng, vì thế kinh Thủlăng-nghiêm chép: Tham dục như thế gọi là quỉ luân, không gọi là đường trời, tướng hữu vô làm sinh khởi tánh luân hồi, hữu và vô cả hai đều không, không hai cũng diệt, đối với Bồ-đề Phật mới có thể mong được.
13. Hỏi đáp về tham ái:
Hỏi: Ở trước chỉ nói tham ái, vì sao đây nói cho đến trừ yêu ghét?
Đáp: Yêu thân yêu cảnh, cảnh trái với tình hoặc thân bị phiền não, nên sinh chán ghét. Chính là biết chán ghét chỉ nói yêu. Cũng do ái vì thế tuy bao gồm ý ghét chỉ nói ưa. Hai là: Làm rõ chủng tánh cho biết, nghĩa là do ở trước nói, đầu cuối động tĩnh, cho đến so lường cảnh Phật đều là luân hồi, vì thế Di-lặc hỏi về chủng tánh ấy, ý nói: Nghe các giáo chỉ nói luân hồi năm đường, vì sao ở đây hành nhân ba thừa cũng chưa thể tránh khỏi, cho nên Phật nói cho nghe, do vốn do tham đắm hiển ra năm tánh, nên thuộc luân hồi, không do ngộ viên giác thanh tịnh làm bổn nhân. Nhưng hành tướng tu chứng trong tánh Bồ-tát, chỉ trừ bệnh ấy không bỏ pháp kia, ngoài ra như sớ có nói rộng, trong văn có hai:
-Nêu chung nhân nương tựa.
14. Chúng sanh gốc do tham dục:
Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh gốc do tham dục mà, phát huy vô minh, hiển ra năm tánh khác nhau, chán xấu ưa tốt, huân tập giáo pháp ba thừa, chứa nhóm đã sâu nên thành tánh riêng. Kinh Lăng-nghiêm chép: tùy nói kia mà thành, đều gọi giáo huân khởi.
Nương: hai thứ chướng mà hiện cạn sâu, nếu gặp lời dạy của thầy tà, thì đối với ngã chấp và pháp ngã rất chấp chặt gọi là sâu. Nếu gặp hàng Nhị thừa người nói lý nhân không, đối pháp tuy chưa lìa ngu, với người đã không chấp chặt, đối trước là cạn, nếu gặp Bồ-tát và Phật thì tướng sâu cạn đối nhau sẽ biết được.
-Giải thích riêng khác nhau... văn có hai:
1. Sở y.
2. Chướng.
Thế nào là hai chướng? Y theo luận Khởi Tín giải thích.
Lý chướng ngại chánh tri kiến, là cội gốc vô minh, không thông đạt tánh tướng pháp giới, chính là ngại nghĩa chánh tri kiến, vì thế luận ấy chép: tâm ấy từ xưa đến nay tự tánh thanh tịnh, vì không thông đạt nhất pháp giới, tâm không tương ưng, bỗng nhiên niệm khởi gọi là vô minh.
15. Chướng sanh tử nối nhau:
- Sự chướng nối nhau các sinh tử, là sáu thứ nhiễm tâm. Ba tế cho đến khởi nghiệp thọ báo, là nghĩa sinh tử nối nhau, nên luận ấy chép: tâm thanh tịnh này bị vô minh làm nhiễm, có nhiễm tâm ấy, nghĩa của nhiễm tâm gọi là phiền não ngại... rộng như luận ấy nói.
- Năng y năm tánh, văn có hai:
1. Nêu ra: năm tánh gồm những gì: đây đều mới huân, không đồng thuyết của bản hữu của tông pháp tướng, nghĩa hai tông năm tánh thấy nói cao xa, nay đây lại cùng chỗ dẫn kinh Lăng-già... phần lớn giống nhau, chỉ khác chút ít, như văn có nói.
Giải thích trong văn có hai: a) Nói chung chưa huân.
16. Hai chướng chưa dứt thì chưa thành Phật:
Này người thiện nam! Nếu hai tướng này chưa được dứt bỏ gọi là chưa thành Phật, vốn để phát tâm tu chứng thì y theo dứt bỏ hai chướng nên thành năm tánh, ở đây đều không dứt nên chẳng phải năm số, cũng chưa phát tâm được sự chỉ dạy, nên nói chưa huân, nếu y theo kinh Lăng-già, thì tương đương với vô tính thứ năm.
2. Huân thành năm tánh, văn có bốn: tánh Nhị thừa hợp lại phân biệt, có hai:
Nêu các chúng sinh bỏ hẳn tham dục, trước dứt bỏ sự chướng, lý chướng, biết khổ sinh tử, dứt bỏ phan duyên, nên nói trừ sự. Thật ra chưa thể dứt trừ ba tế. Ý trách không trước ngộ lý, nhưng trước trừ sự, cho nên có nói trước trừ chưa dứt.
17. Bốn chủng tánh:
1. Chỉ có thể ngộ nhập Thanh văn Duyên giác, chướng có sự lý, chấp có người pháp, nay chỉ dứt ở trước, nên nói chỉ có thể. Chưa thể hiển rõ an trú cảnh giới Bồ-tát, tuy đến nhà Trưởng giả nhưng vẫn còn ở vườn sau hốt phẩn, ngủ lại am trành chưa dám lên nhà trên, nên nói như thế.
2. Tánh Bồ-tát.
Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh đời mạt pháp, muốn hiện ra biển viên giác lớn của Như lai thì trước phải phát nguyện siêng năng dứt trừ hai chướng, hai chướng đã hàng phục, thì sẽ ngộ nhập cảnh giới Bồtát, đây y theo địa trước để làm rõ tướng kia, nên nói đã hàng phục.
Nếu sự chướng, lý chướng đã dứt bỏ hẳn thì liền vào viên giác mầu nhiệm của Như lai, đầy đủ Bồ-đề và đại Niết-bàn, đây là y theo nhập địa cho đến quả vị để phân biệt tướng kia, nên nói dứt hẳn và Bồ-đề...
3. Tánh bất định.
Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh đều chứng Viên giác, chắc chắn biết tự tâm xưa nay sẵn có, vì đã chứng biết tất cả hữu tình đều là giác, người dịch kinh lầm. Lẽ ra phải nói chứng các chúng sinh đều có viên giác.
Gặp Thiện tri thức, nương vào nhân địa pháp hạnh đã làm ấy, lúc bấy giờ tu tập liền có đốn tiệm, tánh giác tuy viên gặp giáo khác nhau, nên ưa thích có khác nhau.
Nếu gặp con đường tu hành chân chánh Vô thượng Bồ-đề của Như lai, căn không lớn nhỏ, đều thành quả Phật, gặp được thắng giáo đều thành, tức là nói không có định tánh riêng. Trái lại nói không gặp duyên tốt thì tùy theo chỗ nghe thành tiểu, văn không có là lược bỏ. Do đó gọi là bất định tánh, vì thế chỉ nêu đốn tiệm.
4. Ngoại đạo tánh.
Nếu các chúng sinh tuy cầu bạn tốt, nhưng gặp người tà kiến nên chưa được chánh ngộ, đó gọi là chủng tánh ngoại đạo. Trong tâm tuy thù thắng nhưng đời trước gặp thầy tà đã huân tâm của họ, chứa nhóm thành hạt giống, vì thế Thánh đạo khó sinh tín tâm.
18. Nói về lỗi của thầy tà:
Trên là nói về hạt giống tà, sau đây là nói lỗi của thầy: lỗi của thầy tà chẳng phải lỗi của chúng sinh. Ý hiển bày tánh này chắc chắn mới huân, chẳng phải tự sẵn có, nên nói chẳng phải lỗi của chúng sinh, các chủng tánh ở trước cũng nêu ra đây để biết, nhưng văn lược bỏ. Cho nên biết chúng sinh vốn đồng tánh giác, chỉ gặp sự chỉ dạy thành khác có Đại, có tiểu, có tà, có chánh, nên biết người phát tâm, phải khéo phân biệt tông đồ. Nhưng các kinh luận khác gọi tánh thứ năm nói vô tánh, chỉ nói xưa nay nhiễm tâm bất giác nối nhau, chưa được tà sư, chánh sư, dạy bảo huân tập, không có hạt giống ba thừa, nên mở ra cũng không tin, do đây lạm vào bổn hữu, ở đây nói tánh ngoại đạo là quyết làm rõ nghĩa mới huân, ba là kết thúc. Đó gọi là chúng sinh năm tánh khác nhau.
- Trả lời tu bi, trí, đã biết bệnh dụng tâm của luân hồi, khỏi rơi vào tông khác, thì phải nương hiểu biết tu hành mau cầu chứng nhập. Nhưng Bồ-tát tu hành không ra ngoài hai việc lợi ích bi, trí cho nên phải nói. Trong lời hỏi trước thì trí trước bi sau, nay trả lời thì bi trước trí sau. Ý tiêu biểu là bi của trí, tức là trí của bi, không trước không sau, nên làm rõ lẫn nhau, trong văn có hai:
- Bi:
19. Bồ-tát chẳng nhiễm thế gian:
Này người thiện nam! Bồ-tát chỉ dùng đại bi phương tiện, nhập vào các thế gian, lời hỏi ở trước nói: nên lập bao nhiêu phương tiện giáo hóa? Nay đáp ý nói: chỉ dùng đại bi phương tiện thị hiện các thứ hình tướng, thuận nghịch tùy lúc, không định số thứ, nói chỉ dùng đại bi phương tiện là tuy gặp căn cơ các loại, chỉ dùng hai thứ này mỗi thứ tùy theo kia mà xứng hóa. Chỉ có đại bi mới có công năng giáo hóa khắp, chỉ có phương tiện chắc chắn xứng với căn cơ, thích hợp không có lỗi, nên kinh Tư Ích chép: Chúng sinh thực hành ở thế gian mà không biết thế gian, Bồ-tát hành ở thế gian hiểu rõ tướng thế gian, tướng hư không thế gian, hư không cũng vô tướng, Bồ-tát biết như vậy, chẳng nhiễm đối với thế gian.
Khai phát cho người chưa ngộ, khiến biết pháp vọng vốn không, pháp chân vốn tịnh, cho đến thị hiện các thứ hình tướng, như Quán Âm có ba mươi hai thứ thân mà ứng hiện thân.
Cảnh giới nghịch thuận, luận chép: hoặc là quyến thuộc, bạn thân, hoặc là kẻ thù, giúp cho chúng sinh thêm lớn gốc lành, hoặc thấy hoặc nghe, được lợi ích.
Cùng với đồng sự là một trong bốn pháp nhiếp, ý bao gồm ba thứ khác, ba thứ ấy: bố thí, ái ngữ và lợi hành.
20. Giáo hóa chúng sanh thành Phật:
Giáo hóa cho thành Phật, không trụ ở các thừa khác, nên kinh Pháp Hoa chép: Ta vốn lập thệ nguyện, muốn khiến tất cả chúng, bằng như ta không khác. Đều nương nguyện lực thanh tịnh từ vô thỉ, khi nhân thì của Bồ-tát đã quyết phát nguyện độ sinh, nương nguyện lực đã sinh này, giữ vững không lui sụt, nếu tâm mệt mỏi liền nhớ nguyện lực xưa, để tự thúc đẩy việc làm, không phải theo tình nên nói đều nương nguyện lực. Lại chẳng hy vọng báo ân, cũng chẳng phải là ái kiến, nên nói là thanh tịnh. Nói vô thỉ: đại bi đồng thể xứng tánh đại nguyện tánh vốn đầy đủ, chẳng phải mới được, chỉ do mê ngộ, có phát không phát, phát tức là hai trí vô thỉ.
Nếu tất cả chúng sinh đời mạt pháp đối với đại viên giác, sau đây nói bậc đại trí trên cầu Bồ-đề, đối với đại bi ở trước, sau đó giáo hóa chúng sinh.
Khởi tâm tăng thượng, quyết định hướng về.
Nên phát đại nguyện thanh tịnh của Bồ-tát, lẽ thường các hạnh mau đến quả Phật, nếu không có nguyện lực thì thường lui sụt.
21. Điều nên cầu nguyện:
Nên nói như vầy: ta nguyện ngày nay trú viên giác Phật, cầu Thiện tri thức, chẳng gặp ngoại đạo và Nhị thừa, quyết định không hướng về các thừa khác, không giống như trước theo năm tánh, nên nói chẳng gặp...
Nương nguyện tu hành, cũng là chỗ làm không chạy theo tình niệm, chỉ nương nguyện lực mà tự đốc thúc, như trong bi trước đã nói. Nguyện là tướng chung, cả bi cả trí, cho nên trong hai đoạn đều nói nguyện lực, đầy đủ bi trí tức là đốn ngộ tâm Bồ-đề.
Lần lần dứt bỏ các chướng, lý tuy đốn ngộ không nhưng sự là trừ bỏ lần lần mới hết. Chướng hết, liền giải thoát, nguyện mãn: tức chứng đại Viên giác. Liền lên pháp điện giải thoát thanh tịnh, chướng hết thì đi, đứng, nằm, ngồi bất cứ lúc nào cũng chỉ hướng về giải thoát cho nên dùng mầu nhiệm pháp thanh tịnh để ví dụ. Chứng cõi đại viên giác diệu trang nghiêm, nguyện mãn thì đối cảnh chạm mắt, tất cả các pháp đều là viên giác, vì thế ví dụ là cõi mầu nhiệm trang nghiêm. Cõi nghĩa là chỗ hai nước giáp nhau. Trong kệ khen ngợi có hai, hoàn toàn đồng với Văn xuôi.
22. Đức Phật nói kệ:
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên ngài nói kệ rằng:
Di-lặc ông nên biết!
Tất cả các chúng sinh
Không được đại giải thoát
Đều là do tham dục
Đọa lạc vào sinh tử.
Chỉ bày chỗ bỏ, Văn xuôi lìa mà rộng, ở đây hợp mà sơ lược:
Nếu dứt được yêu ghét, Cùng với tham, sân, si. Không vì tánh khác nhau, Đều được thành Phật đạo. Hai chướng tiêu trừ hẳn, Cầu thầy được chánh ngộ. Thuận theo nguyện Bồ-tát, Nương ở đại Niết-bàn.
Khuyên khiến dứt bỏ, ở đây và nói về chủng tánh cũng lìa hẳn, ở đây hợp.
Các Bồ-tát mười phương, Đều dùng nguyện đại Bi, Thị hiện vào sinh tử, Hiện tại người tu hành Và chúng sinh đời mạt, Khuyên dứt các ái kiến, Trở về đại viên giác.
23. Lược phân vị tu chứng:
Trên đây là nghiên cứu cội gốc của luân hồi đã xong. Dưới đây là phần thứ tư, lược phân vị của tu chứng, đã nói về nguồn gốc của giác trí, lại nghiên cứu cội gốc của luân hồi, đã biết viên giác phàm Thánh không khác, nhưng chưa phân biệt tâm thuận theo viên giác từ phàm đến Thánh khác nhau như thế nào? Nên kế lại nói. Ý nói lược phân: là ba Hiền chung thành một vị, Thập địa Đẳng giác hợp thành một môn, tu thì tu viên giác, chứng thì chứng viên giác, viên giác không khác nhau, tùy theo tu trí để rõ vị địa, văn có bốn:-Phần đầu trong ba phần:
24. Bồ-tát Thanh tịnh tuệ trình bày về từ cú:
Bấy giờ, Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: Đồng như trên.
-Kế là trình bày về từ cú, trong văn có hai: Trước là chúc mừng. Đại Bi Thế Tôn vì chúng ta nói rộng việc không thể suy nghĩ bàn luận như vậy. Đối tịnh giác nhất vị, nói gốc ngọn luân hồi, chủng tánh khác nhau các pháp tạp nhiễm, mà không trái mất cho nên không thể suy nghĩ bàn luận.
Vốn không thấy, vốn không nghe, chỉ dạy lập tướng nhiễm tịnh rõ ràng, tông phá tướng nhiễm tịnh đều bặt dứt, nay nói lên tánh giác nhiễm tịnh dung thông, cho nên trước đây chưa hề nghe thấy.
Nay chúng ta nhờ Phật khéo chỉ dạy thân tâm thoải mái được lợi ích lớn, dứt sạch các hoặc nhỏ nhiệm, hai là thỉnh trong văn sau có hai: a. Chính hỏi.
25. Nêu sở chứng của bậc chánh giác:
Xin vì tất cả pháp chúng đến dự hội, nói lại tánh giác tròn đầy của Pháp Vương, tất cả chúng sinh và các Bồtát, sở chứng sở đắc của Như lai Thế Tôn khác nhau như thế nào? Nêu chánh giác sở chứng, hỏi: có thể chứng vị địa, tâm giác hoàn toàn nhân quả khác nhau, hai nghĩa thường trái nên phải nêu câu hỏi. b. Kết thúc lợi ích.
Khiến chúng sinh đời mạt pháp nghe được Thánh giáo này, thuận theo khai ngộ thứ lớp nhập vào.
Sau đây là ba lần xướng phỏng theo như trước.
26. Đức Thế tôn khen ngợi hứa nói:
Nói lời ấy rồi năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Các ông mới có khả năng vì chúng sinh đời mạt pháp mà thưa hỏi, Như lai thứ lớp khác nhau, nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho ông. Lúc bấy giờ, Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ vâng lời chỉ dạy vui mừng, và các đại chúng im lặng lắng nghe, trong phần chính nói, văn xuôi có hai:
1. Nói về viên giác vô chứng.
2. Nói về đối cơ nói chứng, trong phần đầu có hai là:
-Pháp và dụ. Pháp có hai: a. Nói về vô chứng. b. Nêu lên giải thích lý do. Ở đây là mở đầu:
27. Tự tánh viên giác là phi tánh:
Này người thiện nam! Tự tánh viên giác là phi tánh, chẳng phải năm tánh trước và các tánh luân hồi khác nhau như tham, ái...
Tánh hữu: tánh khác nhau ở trước đều có viên giác.
Theo các tánh khởi, viên giác không giữ tự tánh, tùy duyên biến các tánh khác nhau, khi các tánh khởi thì hoàn toàn từ tánh giác khởi cho nên pháp thân không thêm không bớt.
Kinh chép: pháp thân trôi lăn trong năm đường, gọi là chúng sinh.
Không thủ, không chứng, chẳng phải cảnh của đương tình. Đối với thật tướng, thật không có Bồ-tát và các chúng sinh, kế sau là tự nêu lên giải thích lý do rằng.
Vì sao? Vì sao không có Bồ-tát và chúng sinh? Bồ-tát, chúng sinh đều là huyễn hóa, huyễn hóa diệt nên không thủ chứng, y theo có huyễn cấu gọi là chúng sinh: Người xa lìa huyễn cấu gọi là Bồ-tát, cho nên cả hai đều không. Nhưng luân hồi ở trước và tu chứng ở đây đều nói là không, vì trước dường như bở chạy, ở đây như bóng trong gương, là hai dụ: Thí như mắt không tự thấy mắt, tánh tự bình đẳng. Vô bình đẳng là nói mắt có khả năng thấy tất cả, chỉ không thể tự thấy mắt, lại như ánh mắt khi nhìn ngắm cảnh vật thì muôn ngàn khác nhau nhưng thấy chỉ là một, nên nói là bình đẳng, chỉ đối với tâm không phân biệt phàm Thánh hơn kém, nói nghĩa bình đẳng, cũng không có người thực hành bình đẳng.
-Đối với căn cơ nói chứng, văn có hai:
1. Nêu chung đại ý.
2. Chứng vị đẳng cấp khác nhau.
Trong phần trước có hai: Ở đây trước nói công dụng có khác nhau.
28. Chúng sanh mê mờ điên đảo:
Chúng sinh mê mờ điên đảo, nếu chúng sinh không mê hoặc điên đảo, thì không có nghĩa khác nhau, nên trước nêu đây y theo đó để nói chứng giác khác nhau, mê theo thể điên đảo tức là vô minh căn bản và ba tế sáu thô. Trong luận cũng y theo cách dịch này, để nói về giai vị thỉ giác.
Chưa thể dứt hết tất cả huyễn hóa, chấp cho là thật, đối với diệt chưa diệt, tức là nói trong bốn vị thì ba thứ trước lại giác ở trước, không giác ở sau, nghĩa là chướng tập lần lần hết như một phần bụi trần hết thì một phần gương sáng.
29. Thất địa trở xuống là tu đạo trong mộng:
Trong công dụng luống dối, Thất địa trở xuống đều là tu đạo trong mộng, nên kinh Hoa Nghiêm có dụ trong mộng vượt qua biển lớn. Chứng ngộ tròn sáng mới biết phiền não vốn không, thì thấy công dụng của trí tuệ năng đoạn cũng là luống dối, như trong mộng lấy thuốc trị bệnh được lành, sau khi tỉnh thì thuốc, bệnh đều không, nên nói công dụng luống dối.
Liền hiển bày khác nhau, chính là nêu chung giai vị. Hai công dụng cùng cực chẳng khác. Nếu được sự vắng lặng của Như lai, thì chư Phật đồng chứng lý này.
Tùy là tương ưng với gốc.
Thuận là không trái, chẳng phải khởi tâm cầu vắng lặng riêng.
30. Không có pháp vắng lặng và người vắng lặng:
Thật không có vắng lặng và người vắng lặng, không có năng sở, ý rõ tâm niệm, không sinh không thấy có pháp vắng lặng.
-Chứng vị từng bậc khác nhau, trong văn có hai:
1. Nói nương vị từ từ tu chứng.
2. Nói vọng tâm đốn chứng, trong phần đầu có bốn: Một là Tín vị; Hai là Hiền vị; Ba là Thánh vị; Bốn là Quả vị.
Bốn thứ này trong luận thứ lớp trái nhau, y theo dứt trừ bốn tướng thô tế sinh, trụ, dị, diệt, nương nhờ hiển rõ ngược lại bốn vị để làm sáng tỏ bờ mé thỉ giác. Nhưng tâm tánh lìa niệm vốn không sinh diệt, vì do vô minh quên chân thể của mình, cổ động khởi niệm, có thể khiến tâm thể sinh, trụ, dị, diệt từ tế đến thô nhỏ nhiệm khác nhau trước sau khác nhau, bờ mé trước nhỏ nhất gọi là sinh tướng, hai và ba ở giữa gọi trú tướng, dị tướng, mé sau thô nhất gọi là diệt tướng. Ở đây vì bổn giác có năng lực huân tập không thể suy nghĩ bàn luận, khởi tâm nhàm chán mong cầu, lại vì chân như sở lưu huân nghe giáo pháp huân nơi bổn giác, tánh lợi ích năng lực hiểu biết, mất đi vô minh có thể lần lần hướng về nguồn tâm.
Ban đầu là dứt tướng diệt, cuối cùng dứt tướng sinh, hoát nhiên đại ngộ hiểu rõ nguồn tâm, vốn không lay động nay sự vắng lặng vô thỉ, bình đẳng, bình đẳng không khác với thỉ giác, đại ý như thế, nay dùng ý luận để giải thích, ban đầu là tín vị: nói về nương nhờ dứt tướng diệt, văn kinh chia làm ba:
1. Nêu lên đầy đủ phàm phu.
31. Thể của ngã vốn không, chúng sanh vọng tưởng là có:
Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay: đoạn đầu này chưa vào tín vị. Cho nên có văn này: không y theo phàm phu mê muội thì không có giai vị, nên trước nêu lên, ở đây dịch làm rõ tín, tức là văn luận dịch bốn tướng thành bốn vị.
Do vọng tưởng ngã, thể của ngã vốn không, vọng tưởng là có, bốn sinh chín loại đều như vậy. Và ái ngã vì chấp là ngã nên sinh yêu đắm, câu trên thể của ngã tức là sở chấp. Câu này ngã kiến tức là năng chấp, nói về nghĩa ngã, dưới đây có văn.
Không hề tự biết niệm niệm sinh diệt, thể ngã vốn không, duy tâm nên có. Tâm đã niệm niệm vô thường, ngã cũng niệm niệm sinh diệt, nên kinh Tịnh Danh chép: Thân này như điện chớp, niệm niệm không dừng trụ. Luận chép: Tất cả chúng sinh không gọi là giác, vì từ vô thỉ đến nay niệm niệm nối nhau, nên nói vô minh từ vô thỉ. Vì thế khởi yêu ghét, mê đắm năm dục: là lỗi mê chấp do chấp ngã nên thuận theo ngã thì yêu, trái với ngã thì ghét, cho nên mê đắm năm dục.
2. Nói về nghe pháp giác ngộ.
Nếu gặp bạn lành, chỉ dạy cho khai ngộ, tức văn huân (nghe huân tập).
32. Nói về nghe huân tập:
Tánh viên giác thanh tịnh tức là huân bên trong. Phát minh khởi diệt, tuệ soi sáng suốt, rõ phát tâm tánh. Vọng huân tập từ vô thỉ trong nhất thời ngộ hiện, như khi thức thì biết là mộng nhưng khi mê thì là sinh diệt. Vọng niệm là ta, cho nên vọng niệm không tự thấy vọng niệm. Như mắt không tự thấy. Nay đã khai ngộ tâm thầm hợp với chân giác, không cho vọng niệm là ngã, nên thầm hợp với tuệ của chân soi vào niệm khởi diệt. Khởi và diệt niệm niệm đều biết, trước không tự biết niệm niệm sinh diệt. Liền biết đời này tánh tự mệt nhọc, tức là tâm sinh diệt này, khi tánh mê tánh liền khởi diệt, vọng niệm trở lại mình, tâm suy nghĩ mệt nhọc, ngàn muôn mưu kế niệm niệm không dừng.
3. Nói về dứt vọng theo chân.
33. Phàm phu thuận theo tánh giác, kết thành tín vị:
Nếu lại có người dứt hẳn mệt nhọc: dứt trừ hẳn, tâm cầu làm, được pháp giới thanh tịnh, hoặc lý pháp giới, thì trong thể pháp giới bặt dứt các suy nghĩ mệt nhọc, trần cảnh không sinh, gọi là tịnh. Nếu sự pháp giới, thì tâm nhớ nghĩ phân biệt, pháp của trần cảnh khác nhau, mười tám giới... đương thể không sinh, gọi là Tịnh. Vì sao? Vì pháp giới tịnh uế đều do tự tâm, tâm uế thì uế, tâm tịnh thì tịnh. Liền hiểu tịnh kia là tự chướng ngại: niệm thô đã hết được chút nhẹ nhàng, khi đối tịnh kia tâm sinh yêu đắm, đối với tịnh khởi hiểu gọi là tịnh giải, tâm bị ràng buộc đối với tịnh nên thành chướng ngại, chẳng phải trần bên ngoài quấy nhiễu gọi là tự ngại, cho nên viên giác mà không tự tại, kết thành tướng chứng giác trong tín, tác ý đối với giác nên không tự tại.
Đây gọi là phàm phu thuận theo tánh giác, kết thành tín vị. Hai là Hiền vị: nói về nhờ dứt mà thành tướng khác. Văn nói: giác đối với niệm khác, niệm không tướng khác...
34. Tất cả Bồ-tát giác ở niệm khác:
Này người thiện nam! Tất cả Bồ-tát bị kiến giải làm ngại, thấy tịnh giải ở trước bị ngại. Chính là giác ở niệm khác.
Tuy dứt bỏ giải ngại, là vượt quá vị trước. Nói tuy là trước rõ sau kém, niệm không có tướng khác... do trú kiến giác chính là ở giai vị này.
Giác ngại là ngại không được tự tại, kết thành tướng chứng giác Địa tiền kém hơn Đăng địa. Sở giác là ngại nên năng giác cũng ngại, đây là dùng ngại trừ ngại, nên chẳng tự tại.
Đây gọi là Bồ-tát chưa nhập địa, thuận theo tánh giác. Kết thành hiền vị.
-Thánh vị: nói nhờ dứt mà trụ tướng, văn nói giác ở niệm trú niệm không trụ tướng, nay văn chia làm ba:
1. Ngộ trước kia là sai.
2. Nói về chứng tướng.
3. Kết thành vị. Đây là phần đầu. Này người thiện nam! Có soi chiếu: là tịnh giải trong tín. Có giác: giác của giác ngại trong hiền vị.
35. Nói về giác ở niệm trụ:
Đều gọi chướng ngại, chính là nói lên ở trước là chẳng đúng, chính là nói về giác ở niệm trú.
-Nói về chứng tướng, nghĩa là dùng trí chứng lý, lý trí hợp nhau, như mặt trời hợp với hư không, như hạt châu tự soi chiếu, chỉ là hiển hiện bản giác, chẳng có năng sở. Trong văn có hai:
1. Không trú chứng.
2. Không trụ giáo, trong đó có ba: nghĩa là pháp dụ và hợp. Đây là phần đầu.
-Cho nên Bồ-tát thường giác, không an trú nơi chiếu và người chiếu, đồng thời vắng lặng. Năng sở khế hợp, vậy nên bài kệ thấy đạo của Duy Thức chép: hoặc khi đối sở duyên, trí đều không sở đắc. Lúc bấy giờ, an trụ duy thức lìa hai tướng chấp, trí không sở đắc, thời nay thường giác không trú, thường giác tức là trí không phân biệt, không trú trú thì không chấp các tướng nói suông. Lìa hai chấp tướng, tức là chiếu này và người chiếu vắng lặng, trí và chân như bình đẳng bình đẳng, đều xa lìa tướng năng thủ, sở thủ. Văn kia tuy hạn cuộc ở thấy đạo, mà nghĩa của chứng lý thập địa không khác, cũng có thể không đồng với phàm phu, nên nói thường giác, không đồng với địa trước, nên nói không trú, ở đây thì niệm không trú tướng, giác trú tướng là không nên không trú. Thứ hai là Dụ.
36. Nêu ví dụ để làm sáng tỏ:
Thí như có người tự chặt đầu mình, đầu đã đứt rồi nên không thể chặt, như cầm dao kiếm tự chặt đầu, khi đầu chưa lìa thì không thể có nghĩa chặt đứt, nếu đầu đã rơi, thì không còn có người năng đoạn, sau là hợp, vì tâm ngại, là giác của giác ngại. Tự diệt các ngại, là ngại của sở giác.
Ngại đã đoạn diệt không còn diệt ngại, như lửa phát ra từ gỗ trở lại cháy gỗ thành tro bay đi.
-Không trụ giáo, nghĩa là địa trước chưa chứng nhân lý khó quên ngôn giáo, chứng lý đăng địa, không trụ lời nói, không trụ nên gọi chân giải giáo. Vì thế văn nói về Sơ địa trong kinh Hoa Nghiêm chép: được trí kinh luận. trong văn có hai:
1. Nêu lên để ví dụ giải thích.
37. Kinh giáo là phương tiện:
Kinh giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu lại thấy mặt trăng thì biết rõ chỗ nêu rốt ráo chẳng phải mặt trăng. Dù cho lời nói giống như đắc ý, không nói giống mà mê hoặc điên đảo, chấp lời nói giống mà mê chân, cho nên dùng ngón tay chỉ mặt trăng mà dụ cho ngôn giáo, là nghĩa thấy mặt trăng thì phải nhờ đầu ngón tay, tâm ngộ phải nhờ giáo của Phật, nhờ ngón tay mà thấy mặt trăng, thấy mặt trăng, thì quên ngón tay, nhờ nơm giáo mà tâm ngộ, tâm ngộ thì quên giáo, nếu chấp ngón tay thì mất mặt trăng thật, chấp giáo thì mất bổn tâm, ý khiến chứng thật quên nêu, nên nói chẳng hề có mặt trăng.
2. Đủ để hợp pháp.
38. Phật cũng dùng lời nói để hiển rõ lý:
Tất cả Như lai dùng các lời nói để chỉ bày cho Bồtát cũng giống như thế: ở đây nói các Đức Phật cùng dùng lời nói để hiển rõ lý, vì thế Văn-thù Bát-nhã chép: Tổng trì không có văn tự, văn tự nói lên tổng trì.
- Kết thúc thành vị: ở đây gọi Bồ-tát đã nhập địa thuận theo tánh giác luận cũng kết rằng: gọi là thuận theo giác.
- Quả vị: luận nhờ dứt tướng sinh. Văn nói: Như Bồtát Địa tận đầy đủ phương tiện, một niệm tương ưng tâm giác mới khởi, tâm không có tướng ban đầu, để xa lìa niệm nhỏ nhiệm, được thấy tâm tánh, tâm tức thường trú gọi rốt là ráo giác, nay văn chia làm ba:
1. Nói về cảnh: Này người thiện nam! Tất cả chướng ngại tức là rốt ráo giác: nêu chung, nghĩa là trí rõ viên giác không có tâm phân biệt. Nêu mười đối pháp đều đồng chân thật, tức là trong luận thấy tánh thường trụ... lại nữa, nếu thấy có chướng ngại để dứt, dứt rồi gọi là giác, giác chẳng phải rốt ráo nên chướng ngại, tức là giác mới rốt ráo. Chướng ngại: nêu mỗi cặp trong câu trên, rốt ráo giác tức là nêu câu dưới. Mười cặp: đắc niệm, thất niệm đều là giải thoát.
39. Nói về mười cặp:
Cặp thức và trí: không niệm thì được chánh niệm, đó là trí. Hữu niệm thì là thất niệm, là thức. Nên trong luận nói: giác thì lìa niệm, niệm thì bất giác... Nay rõ niệm vốn tự là không, vốn là vô niệm, nên đều giải thoát. Thành pháp phá pháp đều gọi Niết-bàn.
1. Cặp thành và phá: các duyên hội nhau gọi là thành, duyên lìa gọi là phá, lại tiến tu gọi là thành, chê bai là phá, duyên vô tự tánh, thành và phá như một, nên đều là Niết-bàn.
Trí tuệ, ngu si đều là Bát-nhã.
2. Cặp ngu và trí: Kinh Đại Bảo Tích chép: si từ phân biệt sinh, phân biệt cũng chẳng có, tánh si và tánh Phật si tánh và Phật tánh bình đẳng không khác nhau, pháp mà Bồ-tát ngoại đạo thành tựu đều là Bồ-đề.
3. Cặp tà và chính: kinh Tư Ích chép: an trú chánh đạo, không phân biệt là tà là chánh, cảnh giới vô minh chân như không khác nhau.
4. Cặp chân và vọng: kinh Niết-bàn chép: Bản tế vô minh tánh vốn giải thoát. Người xưa nói: mê thì chân như là vọng tưởng, ngộ thì vọng tưởng là chân như. Các giới, định, tuệ và dâm, nộ, si, đều là phạm hạnh.
5. Cặp nhiễm và tịnh: giới, định, tuệ ngược lại với ba độc, ba độc vốn không, vốn là phạm hạnh, kinh Chư Pháp Vô Hành chép: tham dục tức là đạo, nhuế si cũng giống như vậy. Trong ba việc như thế, có vô lượng Phật đạo. Chúng sinh, cõi nước đồng một pháp tánh.
6. Cặp y và chính: kinh Niết-bàn chép: ta dùng mắt Phật xem khắp ba cõi hữu tình vô tình, tất cả người pháp thảy đều rốt ráo. Rốt ráo: tức là pháp tánh. Địa ngục, cõi trời đều là tịnh độ.
7. Cặp khổ và vui: Nghiệp cực ác thành thì thấy cõi trời là địa ngục; nghiệp cực thiện chín muồi thì thấy địa ngục là cõi trời. Ý nghĩa của hai nghiệp do tâm, địa ngục cõi trời đâu chắc chắn. Tâm đã vốn không, tất cả thanh tịnh, cho nên kinh Bảo Tích có Tam-muội địa ngục Tammuội thiên cung, nhưng các pháp đều như vậy, chẳng phải chỉ cõi trời và địa ngục. Nay lại y theo pháp thích thể trái nhau để lệ cho những trường hợp nhau.
Hữu tánh, vô tánh đều thành Phật đạo.
8. Cặp hữu tánh và vô tánh: Hữu tánh: là tánh ba thừa.
Vô tánh: là tánh Xiển-đề, chẳng phải chỉ ngày khác hồi tâm, hiện tại đã thành Phật đạo. Tất cả phiền não rốt ráo giải thoát.
9. Cặp trói buộc và giải thoát: Kinh Phật Đảnh chép: căn trần đồng nguồn, gốc trói buộc giải thoát không hai, thức tánh luống dối giống như hoa đốm trong hư không. Nhưng phiền não nương thức, thức tánh đã không thì phiền não trói buộc chỗ nào? Mười cặp trên đây danh tướng tuy khác mà ý không khác, nhưng vì Phật chứng tâm giác, tâm không lấy bỏ, nên được các pháp khắp đều tròn mầu. Nên nay chỉ mỗi mỗi dẫn ví dụ mà thôi, chứ không mỗi mỗi tìm cầu tướng tức là nguyên do vô ngại.
2. Nói về tâm.
40. Nói về biển trí tuệ pháp giới:
Pháp giới biển tuệ: pháp giới sâu rộng nên giống như biển, còn tuệ là dụng, vì xứng với pháp giới nên gọi là pháp giới tuệ. Chiếu rõ các tướng giống như hư không, lý lượng xem ngang bằng, chánh trí không điên đảo, do tâm phân biệt các tướng khác nhau, nay biển tuệ lìa niệm nên các tướng như hư không. Lại tuệ của năng chiếu lìa niệm nên các tướng như không, tức không giống với tuệ vô ngại của kinh Tịnh Danh bao nhiêu. Như gương chiếu vật, gương tự vô tâm. Trên đây đều là trong luận, phương tiện đầy đủ, một niệm tương ưng, tâm giác mới khởi, tâm không có tướng ban đầu.
3. Kết vị:
41. Bình đẳng trong khác nhau:
Đây gọi Như lai thuận theo tánh giác: Hai là vọng tâm đốn chứng, trước do khắp chỉ bày giáo môn, y theo căn cơ nói có sâu cạn, nay sợ còn phân biệt thì không có lúc ngộ nhập, nên chỉ bày viên đốn an tâm, đối với giác thành chân thật thuận theo, trước là theo tướng, đây nên lìa tướng, cũng như Hoa nghiêm trước nói vị địa nhân quả khác nhau, sau dung thông bình đẳng nhân quả, tức là bình đẳng trong khác nhau, khác nhau trong bình đẳng. Trong đây, ý thú đồng với kia, văn có ba:
1. Quên tâm vào giác.
2. Nghiệm quả biết nhân.
3. Ấn thành trí Phật. Trong phần đầu có hai:
1. Chỉ bày an tâm.
42. Không để sanh khởi vọng niệm:
Này người thiện nam! Vì các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, là chỉ bày pháp an tâm đời mạt pháp, văn có bốn tiết mỗi tiết có hai câu, bất cứ lúc nào cũng không khởi vọng niệm, vọng niệm là phan duyên chấp đắm pháp bên ngoài, nghĩ thời trái giác, nên không để khởi.
Đối với các vọng tâm cũng không dứt diệt, nếu cầu chân xả vọng như bỏ bóng theo hình, nếu dứt vọng còn chân, thì giống như phát ra âm thanh mà dứt tiếng vang, trụ trong cảnh vọng tưởng không thêm hiểu biết, cảnh từ tâm hiện vốn là tự tâm. Nếu thêm hiểu biết tức là mê hiện lượng, nên kinh nói chẳng huyễn thành huyễn.
Luận chép: tâm không thấy tâm, chỉ không sinh tình tự nhiên như gương soi chiếu vật thể. Vả lại, tâm thể vốn tự hiểu biết, đâu cần phải gia thêm hiểu biết, trên biết khởi biết gọi là thêm.
Với không hiểu biết không phân biệt chân thật, rất dễ hiểu đã vắng lặng tức là biết chân thật, chân thật liền biết, ai biết chân thật như mắt không tự thấy mắt...
2. Nương pháp đốn nhập:
43. Chúng sanh nghe pháp môn này không sinh sợ:
Các chúng sinh kia nghe pháp môn này, tin hiểu thọ trì không sinh kinh sợ. Chính gọi là thuận theo tánh giác. Chúng đương căn kia, nếu nghe phương tiện này tâm không nghi ngờ, thể đạt rõ ràng lãnh thọ giữ gìn, thời thản nhiên hợp đạo, cũng giống như đối với kinh Kim cương không kinh, không sợ, không hãi, thật là ít có.
- Nghiệm quả biết nhân:
Này người thiện nam! Các ông nên biết, chúng sinh đã từng cúng dường trăm ngàn muôn ức hằng hà sa chư
Phật và Đại Bồ-tát như thế, gieo trồng các gốc đức, thành thật nói: nghiệm nay nghe ngộ mau hợp tâm Phật, mới rõ nhân đời trước, trước kia nhờ huân tập, nếu chỉ y theo đời hiện tại chính là đốn cơ (căn cơ nhanh) nếu suy tìm nhân đó đã là chứa nhóm, kinh Kim cương cũng chép: không đối một, hai Đức Phật...
- Ấn thành trí Phật.
44. Nhờ pháp môn này được nhất thiết chủng trí:
Phật nói người này gọi là thành tựu Nhất thiết chủng trí, nghĩa là Nhất thiết chủng trí do đây mà được, nhân quả dung nhiếp lẫn nhau, chắc chắn không nghi. Cho nên Như lai ấn ngôn thành tựu. Lại nữa, tông phần của kinh này đồng với Hoa Nghiêm, nhân trùm biển quả, quả suốt nguồn nhân, xứng tánh thâu nhiếp lẫn nhau, trước sau không khác. Kia nói: nếu các Bồ-tát có thể cùng quán hạnh tương ưng như thế, đối với các pháp không sinh hiểu hai, tức là đồng với văn nói về an tâm này. Liền được vô thượng Bồ-đề, đồng với Nhất thiết chủng trí này, trong kệ tán có ba: ban đầu hai, hoàn toàn đồng với văn xuôi, hai câu thứ ba tổng kết văn xuôi không.
45. Đức Phật nói kệ:
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên ngài nói kệ rằng:
Thanh Tịnh Tuệ nên biết,
Tánh Bồ-đề tròn đầy,
Không thủ cũng không chứng,
Không Bồ-tát chúng sinh.
Viên giác trên không chứng,
Đối cơ dưới nói chứng.
Khi giác và chưa giác, thứ lớp có khác nhau trên nêu chung đại ý, dưới chứng vị tầng bậc khác nhau, chúng sinh là giải ngại (tín vị), Bồ-tát chưa lìa giác (hiền vị) nhập địa mãi vắng lặng, không trú tất cả tướng (Thánh vị).
Đại giác đều tròn đầy,
Gọi là thuận theo khắp.
(Quả vị) các chúng sinh đời mạt pháp, tâm không sinh luống dối, vong tâm đốn chứng.
Phật nói người như thế,
Đời này là Bồ-tát,
Cúng dường số cát sông hằng Phật,
Công đức đã tròn đầy.
Ấn thành trí Phật.
46. Nói về trung căn tu chứng:
Dù có nhiều phương tiện, đều gọi trí thuận theo. Vì tổng kết đốn tiệm nên nói là nhiều phương tiện, trên đây bốn đoạn nói chung quán hạnh xong, kế là bốn câu hỏi đáp nói riêng về quán hạnh. Trung căn tu chứng là nói riêng: gồm có hai ý:
1. Do một hạng người nương vào môn trước chứng nhập không cần tu đây, nên đây gọi là riêng.
2. Môn này mỗi môn khác nhau, như ba quán có khi một người đủ cả ba, có khi một hoặc hai đơn kép xen nhau, thành hai mươi lăm thứ, mỗi thứ đều ứng với một căn cơ nên nói là khác. Chỗ lìa chướng kia cũng đều khác nhau, lại như bốn tướng, có khi một người đủ bốn, có khi ba, hai, một. Bốn bệnh mỗi người đều nhất định không gồm khác, vì trái nhau, nên đây hai-bốn đều là tướng riêng, không đồng với vô minh và ái ở trước hễ là phàm phu đều có. Trước là chung ở đây là riêng. Nhưng trong quán hạnh chung riêng, đều đồng khoa đoạn với hoặc chướng: do vậy hoặc chướng quán hạnh, hoặc được dứt trừ thì thành quán hạnh, văn có hai:
Hai câu đầu là hỏi đáp tu hành ba quán, hai câu sau là hỏi đáp hai lần trừ chướng.
Ban đầu trong đó có hai:
-Chỉ bày hành tướng ba quán, sau nói về đơn kép tu tập, ban đầu trong văn có bốn: Phần đầu của ba phần đầu:
47. Thỉnh Phật phân biệt rộng thuận theo tánh giác:
Bấy giờ, Bồ-tát Oai Đức Tự Tại ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: giống như trên, kế lại trình bày từ cú, có hai:
1. Chúc mừng trước.
Đại bi Thế Tôn! Xin rộng vì chúng con phân biệt thuận theo tánh giác như thế: Thọ lãnh y vị, trước dần dần chứng đắc.
Khiến các Bồ-tát tâm giác sáng rõ, nương viên âm của Phật, không nhờ tu tập mà được thiện lợi, thọ lãnh tâm vọng ở trước mà đốn chứng, tạm nghe rồi được thiện lợi, huống chi siêng năng thực hành.
2. Thỉnh văn sau có hai:
a. Hỏi chỗ tu.
b. Nói về việc phải làm, trong phần đầu có hai.
1. Lập lý.
48. Nêu ví dụ để làm sáng tỏ:
Bạch Đức Thế Tôn! Ví như ngôi thành lớn, ngoài có bốn cửa, tùy theo người ở các nơi đến, chẳng dừng dọc đường, như từ phía Đông đến không thể vào cửa phía Tây.
Tất cả Bồ-tát trang nghiêm cõi Phật và thành Bồ-đề chẳng phải một phương tiện, hợp pháp rất dễ hiểu. Nghĩa là trước nói quán hạnh lý thú rõ ràng, nay lại thưa hỏi, sợ liên quan không phân, nên trước lập lý thỉnh mời lại hợp cơ.
2. Chính thức thưa hỏi.
49. Thỉnh Phật giảng nói tất cả phương tiện thứ lớp: Cúi mong Thế Tôn, giảng nói rộng cho chúng con nghe tất cả phương tiện thứ lớp: là hạnh sở tu.
Và người tu hành gồm có mấy thứ, người năng tu, hai là nói việc phải làm, khiến Bồ-tát trong hội này và chúng sinh đời mạt pháp, người cầu Đại thừa mau được khai ngộ, dạo chơi trong biển lớn vắng lặng của Như lai. Sau đây là ba lần tuyên bố mô phỏng theo trước. Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trở lại đầu, lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Oai Đức Tự Tại rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Các ông mới có khả năng vì các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp mà thưa hỏi Như lai phương tiện như thế, nay ông lắng nghe! Ta sẽ nói cho. Lúc bấy giờ, Bồtát Oai Đức Tự Tại vui mừng vâng lời chỉ dạy và các đại chúng im lặng lắng nghe.
Kế là chánh nói, trong Văn xuôi có bốn.
1. Nêu gốc nêu số.
2. Chỉ bày quan môn.
3. Dẫn ví dụ làm rõ viên.
4. So sánh nói lên sự tốt đẹp, đầu tiên có hai:-Y theo xứng tánh để nêu gốc.
50. Diệu giác có ra Như lai mười phương:
Này người thiện nam! Diệu giác vô thượng trùm khắp mười phương, xuất ra Như lai, chư Phật mười phương đồng chứng đồng tu, nghĩa chứng như trước, ở đây là hỏi tu.
Đồng thể bình đẳng với tất cả pháp, đều cùng bình đẳng. Luận Trí Độ chép: Ở trong số chúng sinh gọi là Phật tánh, ở trong số không phải chúng sinh gọi là pháp tánh, trên đều là tánh sở xứng.
Đối với các hạnh tu hành thật không có hai, hạnh năng xứng tức là như môn hai quán không ở trước, căn trần sạch hết, tham ái đều vắng lặng, bi trí song hành, lìa tướng lìa tâm, thường không sở đắc. Tất cả Bồ-tát đều như thế, tùy việc tuy khác, ý này không hai. Hai là y theo hạnh tùy cơ để nêu số.
51. Có vô lượng phương tiện thuận theo:
Phương tiện thuận theo số ấy vô lượng, nhưng căn tánh của chúng sinh lợi độn khác nhau, phiền não dày mỏng nặng nhẹ đều khác nhau, theo căn tánh kia nói giáo nhiều mối, nếu không như vậy thật khó hướng về. Nên kinh Lăng-nghiêm chép: Sở thuyết chẳng phải sở ưng, đối kia là chẳng nói, những người bệnh kia, thầy thuốc là nơi chốn, Như lai vì chúng sinh, tùy tâm ứng tượng nói.
52. Quán môn có ba:
Viên nhiếp chỗ về, theo tánh có khác, nên có ba thứ: căn tánh chúng sinh tuy có muôn vàn khác nhau, nhưng ba môn này thâu nhiếp hết tất cả, phải có ba nghĩa như ở dưới giải thích. Hai chính là chỉ bày môn quán, có ba:
1. Quán tướng mất lắng thần. 2. Quán khởi huyễn tiêu trần.
3. Quán linh tâm dứt đối đãi.
Nhưng cương lãnh của thiền quán đã nói đầy đủ. Tu tập Bồ-đề chẳng phải đây không chứng, nhưng vì chỉ dạy tùy theo căn cơ khác xoay vần có các đường, tà chánh, phàm Thánh, đại tiểu, quyền thật, sự lý, tiệm đốn, có chung, không chung. Nay nương pháp này tấn tu, để thành quán hạnh viên đốn, tức sự lý định tuệ đều không trở ngại, cùng với tu tập Tam-muội chân như trong luận, thể tướng về đại thể thì đồng về chi tiết thì khác, khác chi tiết là kia không chia thành ba. Nay ban đầu bặt tướng, văn tự có ba.
-Nêu gốc.
53. Nói về hạnh mầu nhiệm:
Này người thiện nam! Nếu các Bồ-tát ngộ viên giác, thanh tịnh là phát tâm tu hành muốn thẳng đến quả Phật, trước phải hiểu rõ trong thân, làm thanh tịnh tánh viên giác lấy đó làm gốc, gốc tức là hiểu, nương vào hiểu mà tu mới là hạnh mầu nhiệm.
Nên dưới đây nêu gốc... đều đồng ở đây.
-Giải thích, có ba:
1. Khởi hạnh:
Để thanh tịnh tâm giác, y theo chỗ ngộ kia mà khởi hạnh. Phàm phu dùng vọng, Bồ-tát dùng giác, mê ngộ khác nhau.
Lấy yên tĩnh làm hạnh, tuy ngộ ngay nơi động là tĩnh, vì muốn đối trị thói quen loạn động, trước nay dùng cảnh yên tĩnh an tâm, từ từ tu hành mới được thành tựu. Không chấp pháp mà chấp tĩnh. Thành thật nói rằng: do tâm giác ban đầu năng lực thành lập còn nhỏ nhoi, lý nên giữ yên tĩnh khoan thai mới soi chiếu từ từ. Luận chép: nếu tu chỉ, trụ ở chỗ yên tĩnh ngồi thẳng chánh ý, không nương hơi thở, hình sắc, hư không, đất, nước, gió, lửa, thấy, nghe, hiểu, biết, cho đến nên biết duy tâm không có cảnh giới bên ngoài, chính là tâm này không có tự tướng...
Do lắng động các niệm, giác biết phiền động, do trước nhờ yên tĩnh lắng lòng, các niệm không khởi, tâm được yên tĩnh, thể chẳng phân biệt, nên thấy thức phân biệt, phiền lao nhiễu động. Khổ tự là biết thì không thể thấy biết, như mắt không tự thấy, nay do ý niệm sâu lắng, trí tuệ hiển rõ cho nên hiểu biết.
2. Công thành.
Trí tuệ yên tĩnh phát sinh, do ý nghĩa hiểu biết sâu lắng ở trước, tuệ tánh mở sáng, do tĩnh sinh tuệ nên gọi là tĩnh tuệ, so sánh kín đáo nay hiển rõ nên nói phát sinh. Thân tâm khách trần từ đây diệt hẳn, do tuệ phát sinh thân tâm đều hết, trần vọng không khởi, gọi là diệt hẳn, khách chẳng phải bổn tánh, bụi trần làm nhơ tự thể.
Lại có thể bên trong phát ra yên tĩnh nhẹ nhàng, do xa lìa căn cảnh trong tâm tự khép. Vắng lặng trong sạch nhẹ nhàng thông suốt, ồn ào dứt hẳn, loại bỏ thô xấu.
3. Cảm ứng.
Nhờ vắng lặng nên các Đức Như lai ở các thế giới trong mười phương hiển hiện trong tâm, thể tánh tròn sáng của chúng sinh không khác với Phật, chỉ vì vọng tình nên phàm Thánh dường như ngăn cách, nói theo lý thật thì ta biết thân tâm cũng hiện khắp trong mười phương, cho nên người xưa nói: hoàng hôn vắng lặng thân tâm rộng rãi vẫn không có vật, số cát sông hằng chư Phật vào thân ta, thân ta thường vào hằng sa Phật, nay chỉ nói về nhập quán làm chính, nên nói chư Phật hiển hiện trong đó.
Như bóng trong gương, như các gương vào trong một gương, các gương liền thành cảnh tượng, tâm chư Phật vào quán tâm hành nhân, như hình bóng. Nhưng tánh của gương bụi vốn sáng.
54. Tâm chúng sanh vắng lặng liền hiện Như lai:
Tự tâm chúng sinh cũng giống như vậy, tâm vắng lặng liền hiện Như lai, nên luận hỏi rằng: nếu chư Phật có nghiệp tự nhiên, có thể hiện tất cả mọi nơi làm lợi ích chúng sinh. Vì sao thế gian phần nhiều không thể thấy? Đáp rằng: Chư Phật Như lai pháp thân bình đẳng khắp tất cả mọi nơi, không có cố ý nên nói tự nhiên chỉ nương vào tâm chúng sinh mà hiện. Tâm chúng sinh: giống như chiếc gương, nếu gương có bụi thì cảnh tượng không hiện, tâm chúng sinh cũng giống như thế, nếu có nhơ bẩn thì pháp thân cũng không hiện. Kinh nói tâm Phật, luận nói pháp thân, thân tâm là một, đều y theo gốc của năng hiện, nếu y theo sở hiện thì nên nói ứng hóa, đây là nói về tâm yên tĩnh, cho nên biết tâm Phật cũng giống như vậy, nên gọi là hiện, chẳng nói tâm Phật có sở hiện, đây chính là gương sáng thì ảnh tượng rõ ràng, trí rõ thì tâm tâm soi chiếu nhau, nên kinh Tịnh Danh chép: Như tự quán tướng thật của thân, quán Phật cũng giống như vậy. Ba là kết danh.
55. Phương tiện tu chỉ:
Phương tiện này, gọi là Xa-ma-tha, Hán dịch là Chỉ, là tên khác của định, nghĩa là vắng lặng. Tức đối với cảnh nhiễm tịnh... tâm không vọng duyên, nếu theo sự giải thích của kinh Niết-bàn thì gọi là năng diệt năng điều tịch tĩnh viễn ly và năng thanh... Kết thúc nói: do nghĩa ấy nên gọi là tướng định. Hai khởi huyễn quán tiêu trần.
- Ban đầu nêu gốc.
Này người thiện nam! Nếu các Bồ-tát ngộ tịnh viên giác: giống như trên.
- Hai là chính giải thích, trong đó có năm:
1. Khởi hạnh.
56. Ba thứ: Thức căn, trần hòa hợp không có tự tánh: Do tâm giác thanh tịnh mà biết được tâm tánh và căn trần đều là nhân. Huyễn hóa: y theo trước nêu giải thích thì tâm tánh là thức, thức và căn, trần cả ba thứ hòa hợp mà có, mỗi thứ không có tự tánh, chỉ là vô minh mê chân mà khởi, nên gọi là huyễn hóa, liền khởi các huyễn hóa để trừ huyễn ấy, chính nói về khởi hạnh. Các huyễn tức là huyễn trí. Huyễn: chính là vô minh căn bổn, là người năng huyễn; trừ huyễn: nương năng lực thỉ giác như huyễn, phần giác căn bản bất giác, ban đầu dứt tướng diệt, cuối cùng dứt tướng sinh, tức là trừ huyễn.
Biến hóa các huyễn mà mở bày các huyễn, tùy theo căn cơ ứng hóa nói pháp chỉ bày chúng sinh như huyễn. Nếu quán tâm để giải thích thì, trí huyễn biến khởi khác nhau, quán khắp tất cả tám muôn trần lao, mỗi mỗi xứng chân, thanh tịnh không che không chướng, tức là khai mở.
2. Công thành.
Do khởi huyễn, nên có thể bên trong phát ra đại bi, căn trần đã tiêu, tự tha không hai, cho nên bên trong phát đại bi đồng thể.
Nhẹ nhàng: Do bi từ định khởi, chẳng phải ái kiến kia, nhẹ nhàng khoan khoái.
3. Kết thúc chung.
Tất cả Bồ-tát khởi hạnh từ đây, từ từ thêm lớn, nói các Bồ-tát từ môn quán này mới khởi được bi trí cho đến quả Phật.
4. Phân biệt quá lạm.
Quán huyễn kia: chẳng đồng với huyễn, nên phủi bỏ pháp huyễn, phân biệt thức khác với trí, năng, sở, hơn, kém khác nhau.
Chẳng đồng huyễn quán đều là huyễn, phủi bỏ trí huyễn. tướng huyễn lìa hẳn.
5. Tổng kết.
Các Bồ-tát này hạnh nhiệm mầu đã viên mãn, là kết thúc thành tựu hạnh xứng chân chẳng huyễn, như đất nuôi dưỡng mầm như các thứ, ngũ cốc nương đất nuôi dưỡng mầm mống khi thu hoạch thì mầm, đất đều bỏ. Hạt giống dụ cho tâm giác, đất dụ cho pháp huyễn, mầm dụ cho trí huyễn, nghĩa là ngộ viên giác thanh tịnh, nương pháp huyễn mà khởi trí huyễn, từ trí huyễn mà quên tâm vào giác, nhập giác thì hai thứ trước đều trừ bỏ.
-Kết danh:
57. Tam-ma-bát-đề, Hán dịch là Quán:
Phương tiện này: gọi là Tam-ma-bát-đề, cũng gọi Tam-ma-bát-để, Hán dịch là Đẳng chí, trong đẳng trì có khả năng đến địa vị cao quý. Lại "đẳng" nghĩa là ngang bằng... lìa sự chìm đắm. Chí nghĩa là đến, đến thắng định, nên trước có Tam-muội như huyễn. Ba quán linh tâm dứt đối đãi, văn có ba:
1. Nêu gốc.
Này người thiện nam! Nếu các Bồ-tát ngộ viên giác thanh tịnh: như trên. Trong chính giải thích có hai:
-Khởi hạnh.
Do tâm giác thanh tịnh: thuộc về sở y.
Không chấp lấy huyễn hóa: lìa quán thứ hai, và các tướng tịnh: lìa quán thứ nhất.
Biết rõ thân tâm đều là quái ngại, có thân có tâm, thảy đều là vọng, biết rõ là năng, thân tâm là sở, nương sở khởi năng cho nên cả hai đều ngại. Sau đây là nói sở dụng, trong đó lại có ba, đó là pháp dụ và hợp.
Không hiểu biết: tức là trên biết rõ thân tâm. Nghĩa là thân xúc chạm là giác, tâm duyên gọi là tri, do phân biệt này nên chướng ngại chánh tri kiến.
58. Nói về hình tướng của linh tâm:
Nói là hiển bày thể của linh diệu, nhưng trên linh tâm này không có đỉnh, dưới không có đáy, bên cạnh không bờ mé, chặng giữa không có chỗ, đã trong vô thường thì đâu có Đông, Tây, Trên, Dưới? Muốn nói vắng lặng thì không giống như hư không, muốn nói tướng dụng thì không từ duyên khởi, muốn nói thấy biết thì khác với phân biệt, muốn nói cố chấp ngu si thì khác với gỗ đá, muốn nói giác kia thì khác với mới tỉnh ngộ, muốn nói ánh sáng thì khác với mặt trăng, mặt trời. Cho nên các kinh giáo đối với vắng lặng không vô thì quở trách là tà tiểu. Đối với sự hiểu biết sáng rõ cùng diệt mất nhau cùng tồn tại lẫn nhau, đều có ý sâu sắc, nay đây muốn nhập quán môn, sợ biết chữ dẫn ý phân biệt, vì cho nên chỉ nói là sáng.
Không nương các trở ngại, các ngại là thân, tâm, năng, sở; không nương là thẳng làm; linh minh được hẳn, rốt ráo thường nhiên; vượt quá: khác hẳn đối đãi. Ngại: trước quán huyễn liên quan đến phiền não. Không ngại cảnh: trước giữa lấy yên tĩnh, đồng với Niết-bàn, thọ dụng: thuộc duyên riêng của mình.
Thế giới: làng nước cùng ở chung. Và thân: Hình chất rõ ràng.
Tâm: lại có thấy nghe. Tồn tại lẫn nhau: chẳng khác tầm thường.
Cõi trần không lìa chỗ cũ, đây là do chấp nhận không có tự thể, đồng với tha nay không sinh tình, đâu bị vướng mắc linh chiếu. Như trong khí cụ gõ tiếng phát ra ngoài, chữ hoàng không chắc chắn, sợ người dịch lầm, có ba nhà dịch.
59. Nói về chiết tự âm huấn:
-Y chữ hoàng âm hoành, theo thiết vận huấn và huấn lạc không phải là tiếng trong khí cụ. Ở đây ngu không xem rõ, lấy thế tiếng, không lấy chữ huấn, đây lẽ ra là tướng âm thanh trong vàng, đá... nay lại hiện nghe loại tiếng của chuông khánh, tiếng chuông kia như vậy. Cho nên biết chuông là tướng trạng của loại tiếng này, người dịch nhuận văn hơi vụng, nên nói như nay tiếng chuông phát ra ngoài. Hai là chữ hoàng âm đồng, tức là cái chuông lớn. Là một số trong các khí cụ, nên nói như chuông trong khí cụ, y theo đây thì thuận theo văn kinh này, nhuận văn không lỗi. Nhưng ghi lại hoặc viết chép, sai lầm dùng hoàng làm chữ hoàng như thế. Ba là đều hoàng âm hoàng, tức là loại sênh hoàng, vì các dụng cụ về hoàng chẳng phải một, không hạn cuộc nói hoàng trong sênh, chính nói hoàng trong đồ dùng, cũng như thuộc loại ống sáo, đều có thể phát ra tiếng ở bên ngoài, y theo theo đây thì người dịch không giỏi về văn tự thanh vận của Trung Quốc, nên chữ và âm đều lầm như vậy. Sau chính là giải thích ví dụ, ba thứ trước tuy khác hợp pháp đều thông, đều lấy dụng cụ thí dụ cho thế giới thân tâm, tiếng dụ cho quán trí linh minh, nghĩa là tiếng từ dụng cụ phát ra, dụng cụ không thể hạn chế, nên tiếng nghe xa bốn phương, dụng cụ hạn cuộc bổn xứ. Đem ví dụ quán trí y theo thân tâm tu đắc, thân tâm không thể hạn cuộc, quán trí rộng rãi như thế không bờ mé, thân tâm lìa chỗ cũ, nhưng thí dụ tương đương với cái gì, đâu phải dụ cho vật sở y. Nói thành thực: như tiếng chuông lớn của lầu dung tinh bị ngại, cái chày đánh một tiếng thì âm thanh vang cả khu vực lớn, tự thể gồm tha không thể trở ngại, đâu vì lầu hạn cuộc tướng chuông, khiến tiếng vang không thông? hình ngại tiếng sáo khiến cho âm thanh không thấu suốt, xem thế văn này chưa tránh khỏi hoài nghi. Lại không thể quyết thông, chần chừ xa vời vợi mà thôi. Ý cũng đồng với trước, nhưng pháp hợp rất đủ, nghĩa là thêm lầu dụ thế giới, còn lại y theo trên rất dễ hiểu.
60. Phiền não và Niết-bàn chẳng chướng ngại nhau:
Phiền não, Niết-bàn (như dụng cụ) chẳng chướng ngại nhau, như chuông. Hai là công thành.
Liền ở trong đó phát ra sự vắng lặng, không chấp huyễn hóa, huyễn hóa liền vắng lặng, không chấp tướng yên tĩnh, tướng yên tĩnh liền mất, chẳng phải cố làm mất mà làm mất nó được, lại chỉ là chân tâm thật lý chẳng đối với tĩnh huyễn. Nên kinh Lăng-già chép: vắng lặng gọi là nhất tâm, đây chẳng phải sự vắng lặng của dứt tiếng động, sinh rồi mà diệt, nên nói trong phát ra sự nhẹ nhàng (giống với ở trên) Diệu giác thuận theo cảnh giới vắng lặng, khi quán thì dụng tâm đồng với Phật cho nên thuận theo sự vắng lặng của Diệu giác. Thân tâm Tự tha không thể bằng, chỉ riêng tự biết rõ các việc khác, việc mà người không thấy, nên tha không bằng, lượng tâm thức của mình cũng không thể tạo ra. Như đom đóm thiêu đốt núi Tu-di, chắc chắn phải lìa tình mới khế hợp, nên tự mình không bằng. Lại, nương thể khởi trí là tự, y theo trần phát thức gọi là tha, không thể thức thức trí trí, nên đều không bằng.
Chúng sinh, tuổi thọ đều là ý tưởng thô phù, tuổi thọ của tất cả chúng sinh, chỉ vì nhậm trì ý tưởng thô phù, vốn không thật thể, nên kinh Hoa Nghiêm chép: Tất cả chúng sinh chỉ do tưởng giữ gìn, như mây giữa hư không là không, tuổi thọ của chúng sinh là ý tưởng thô phù của chân. Rõ chân vắng lặng, liền biết chúng sinh chẳng bao giờ là nhân.
61. Kết thúc đặt tên:
-Kết danh.
Phương tiện này gọi là Thiền-na, Hán dịch là Tĩnh lự, tức là suy nghĩ mà yên tĩnh, tức là yên tĩnh mà suy nghĩ, nên chẳng tán động, tức là nghĩa đang định, tức là yên tĩnh mà suy nghĩ cho nên chẳng phải vô ký, tức là nghĩa đương tuệ, nên bốn thứ tĩnh, lự, định, tuệ bình đẳng.
62. Hỏi đáp về định tuệ: Đã là định tuệ bình đẳng, vì sao khoa nói linh tâm dứt bặt đối đãi?
Đáp: Chính vì không mắc kẹt hai thứ này thẳng tạo nguồn tâm, nên định tuệ... là giải thích tướng ý nghĩa của dứt bặt đối đãi trong văn là rất sáng, chắc chắn không nghi. Nhưng giải thích trong tướng chỉ tu hành thì vọng tình dụng tâm, nên hiển rõ, cả hai đều mất, dứt bặt đối đãi, sau chỉ y theo nghĩa để kết thúc, cho nên lấy cả hai là đều dung thông, đều dung thông dứt bặt đối đãi, song là cả hai đều mất, đều là trung đạo nên giải thích tướng và kết danh, rõ ba quán văn ban đầu đều nêu ngộ là nhờ nghe kinh trước. Nghĩa là ban đầu yên tĩnh quán tu giải trong Văn-thù. Kế lại huyễn quán tu Phổ Nhãn hoàn toàn giải của nửa trước Phổ Nhãn, sau linh tâm quán tu nửa sau của Phổ Nhãn giải toàn chương của Kim cương tạng, phối hợp với kinh trước rất rõ ràng dễ thấy, nhưng ba môn này và kinh Niết-bàn ba tướng về đại thể giống nhau nhưng chi tiết khác nhau, cùng ba quán của Thiên Thai thì nghĩa lý đồng mà ý thú khác. Về đồng:
1. Mất tướng tức quán không.
2. Khởi huyễn tức quán giả.
3. Dứt đối đãi tức Trung quán.
Về khác thì ở đây nói hành nhân phương tiện dụng tâm, kia thì suy cùng các pháp tánh tướng, ở đây thường y theo tâm thành hạnh, nên không lập cảnh sở quán, kia phần nhiều y theo nghĩa sinh hiểu, cho nên đối với ba đế sở quán.
-Dẫn ví dụ làm rõ viên.
63. Ba pháp môn này đều hướng về Viên giác:
Này người thiện nam! Ba pháp môn này đều là viên giác, gần gũi thuận theo Như lai trong mười phương, do đây thành Phật, Bồ-tát mười phương các thứ phương tiện, tất cả đồng khác đều nương ba thứ sự nghiệp như thế. Ba môn này đều nương ngộ viên giác thanh tịnh mà khởi quán hạnh, quán hạnh cũng đều hướng về nhập vào viên giác, trước sau không lìa. Nói gần gũi thuận theo, Phật và Bồ-tát đồng chứng đồng tu, tùy căn cơ, tùy việc làm, hành tướng đều khác nhau. Hoặc nhiều người đồng tu một môn, hoặc một người tu đủ nhiều hạnh, hoặc ba, năm, hoặc trăm ngàn, đồng và khác tùy loại khó có tiêu chuẩn, nhưng phải đều nương ba nghiệp này. Trong ba nghiệp, hoặc nương đủ ba, hoặc một, hoặc hai, đồng thời trước sau đơn kép nương tựa lẫn nhau, đủ như hai mươi lăm luân đã nói, đây là sự nghiệp của người tu hành.
Nếu được viên chứng tức là viên giác của ta, thú nhập tuy từ một môn công thành thì cả ba đều viên chứng. Nếu tu riêng một hạnh chỉ gọi gần gũi, ba việc viên thông gọi là chứng viên giác.
Bốn là so sánh hiển rõ thù thắng.
64. Công đức tu tập pháp môn Viên giác:
Này người thiện nam! Nếu có người tu hành Thánh đạo, giáo hóa thành tựu trăm ngàn muôn ức vị A-la-hán, Bích-chi-phật, không bằng có người nghe, pháp môn viên giác vô ngại này trong một sát-na thuận theo tu tập, ban đầu nêu thấp kém, sau không bằng ở dưới là nói về cao quý. Lại như khuyên được một người, hai người giữ năm giới, mười giới, y theo theo các giáo nói: phước đã rất nhiều, huống chi giúp ức người như thế thành tựu quả Bích-chi, La-hán, đủ sáu thần thông, tám giải thoát, thoát hẳn mười triền trong ba cõi, nhưng không bằng có người tam thời tu tập Viên giác trong thời gian rất ngắn chỉ một sát-na, huống chi viên tu diệu quán trong thời gian lâu dài? Thành thật nói: dấu chân trâu đâu thể so sánh với biển lớn? Nghe văn tuệ, thuận theo tư tuệ, tu tập tu tuệ, trong kệ chỉ có ba, thiếu sự so sánh, các điều khác hoàn toàn đồng với Văn xuôi.
65. Đức Phật nói kệ:
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên Ngài liền nói kệ rằng:
Oai đức ông nên biết
Tâm Đại giác vô thượng.
Bổn tế không hai tướng
Tùy theo ở các phương tiện.
Số kia tức vô lượng
Như lai đều chỉ bày.
Tất cả gồm có ba thứ
Xa-ma tha vắng lặng.
Như gương soi hình ảnh
Tam-ma đề như huyễn.
Như mầm lần lần lớn
Thiền-na chỉ vắng lặng.
Như chuông trong vật kia
Ba pháp môn mầu nhiệm.
Đều thuận theo Viên giác
Các Như lai mười phương.
Và các Đại Bồ-tát
Nhờ đây được thành đạo.
Vì ba việc viên chứng
Gọi Niết-bàn rốt ráo.
Trên đây ba quán xong.
Dưới đây là thứ hai nói về đơn kép tu tập, văn có bốn: Trước là phần đầu trong ba phần.
66. Bồ-tát Biện Âm đảng lễ Phật:
Bấy giờ, Bồ-tát Biện Âm ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, nhiễu quanh Phật theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: giống như trên. Sau trình bày từ cú, trong đó có hai:
Trước là chúc mừng.
Đại bi Thế Tôn! Pháp môn như thế thật là ít có, rất dễ hiểu. Hai là thỉnh, sau có hai.
1. Hỏi pháp tu.
67. Thưa hỏi pháp tu tập:
Bạch Đức Thế Tôn! Các phương tiện này: chỉ cho ba quán ở trước.
Tất cả Bồ-tát đối với pháp môn Viên giác, là chỉ cho bản hạnh sở y ở trước, có bao nhiêu pháp tu tập, trước nói ba quán, tuy hành tướng rõ ràng, nhưng chưa xét pháp tu của các Bồ-tát, lại là một người đủ ba, là ba người đều có một, là trước sau, là đồng thời, là y theo thứ lớp, là vượt thứ lớp?
2. Nói về việc đã làm.
Xin vì đại chúng và chúng sinh đời mạt pháp, chỉ bày phương tiện khiến ngộ thật tướng, rất dễ hiểu, dưới đây là ba lần tuyên bố mô phỏng theo trước.
68. Đức Phật hứa nói:
Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Biện Âm rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Các ông mới có khả năng vì các đại chúng và chúng sinh đời mạt pháp thưa hỏi Như lai pháp tu tập như thế, nay ông lắng nghe ta sẽ nói cho. Lúc đó, Bồ-tát Biện Âm vui mừng vâng lời cùng các đại chúng im lặng lắng nghe. Chính thức nói, trong Văn xuôi có bốn:
1. Nêu ý nêu số.
2. Quán mành lưới đen xen.
3. Kết thành chánh nhân.
4. Chỉ bày chung về tu tập.
-Đây là phần đầu:
69. Trong pháp Viên giác không có tu tập và người tu tập:
Này người thiện nam! Viên giác thanh tịnh của tất cả Như lai, vốn không có tu tập và người tu tập, nói về gốc sở y.
Tất cả Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, nương vào huyễn lực chưa giác mà tu tập, chính là nói đại ý các luân, tu mà vô tu, nghĩa đồng với đoạn trước.
Lúc bấy giờ, liền có hai mươi lăm định luân thanh tịnh, luân: là bẻ gãy nghiền nát, có khả năng bẽ gãy hoặc chướng, làm cho chánh trí xoay chuyển, nên gọi là luân.
-Hai quán mành lưới đan xen, trong đó có ba: a. Có ba luân đơn tu ba quán.
b. Có hai mươi mốt luân, xen nhau ba quán.
c. Một luân viên tu ba quán.
Xét sớ đối với hai mươi lăm quán này y theo dụ đều đặt một tên, nay sử dụng hoàn toàn, trong phần đầu có ba:
-Quán lắng đục, dứt dụng.
70. Nói về hai mươi lăm luân:
Nếu các Bồ-tát, hai mươi lăm luân này đều có nêu ra kết thúc riêng, cũng nên nêu nói từng luân ngộ viên giác thanh tịnh để làm sở y khởi hạnh, vì trước có. sợ văn kinh rườm rà, nên lược bỏ không chép. Lại, hành tướng ba quán, đầu này trước đã giải thích đủ, ở đây chia thành số hai mươi lăm, nên lược nói để hiển bày tướng đơn kép. Vì thế ba quán đều nêu chỉ nói, kết thúc nói đơn, ý hiển rõ không gồm hai thứ khác. Khả năng chưa bao gồm, chẳng coi thường các hạnh khác, chỉ lấy cực tĩnh (yên tĩnh cùng tột), không gồm việc khác.
Nhờ năng lực yên tĩnh, dứt hẳn phiền não, rốt ráo thành tựu. Do năng lực của tâm yên tĩnh nên biết thân tâm là không, thoáng nghĩ còn không, thì phiền não đâu có chỗ y cứ? Phiền não không khởi tức là tâm giác, cho nên nói rốt ráo thành tựu.
Chưa rời khởi chỗ ngồi liền nhập vào Niết-bàn: không rời khỏi chỗ ngồi pháp không, liền vào Niết-bàn vắng lặng.
Bồ-tát này gọi là đơn tu Xa-ma-tha, kết thúc gọi cả hai bao Đinh tứ đao quán.
71. Bồ-tát đơn tu Tam-ma-bát-đề:
Nếu các Bồ-tát chỉ quán như huyễn là do năng lực Phật, thế giới biến hóa tác dụng các thứ, thực hành đầy đủ hạnh nhiệm mầu thanh tịnh của Bồ-tát, đối với Đàla-ni không mất ý niệm vắng lặng, và các tĩnh tuệ. Bồtát này gọi là đơn tu Tam-ma-bát-đề. Bao đinh là người làm nghề giết súc vật thời Tấn, mười chín năm dùng một cái dao mổ trâu mũi nhọn dao không mòn, dụ cho Bồ-tát lợi ích chúng sinh tu ứng muôn hạnh, nhân duyên vào đời, trí tự không tổn thương, nghĩa khác như trước đã giải thích.
-Quán trình âm xuất ngại: Nghĩa là chất lượng đồ dùng âm thanh dung thông, hễ gõ thì có tiếng vang.
Nếu các Bồ-tát chỉ diệt các huyễn, không giữ tác dụng, dùng các cảnh huyễn không ranh giới khó có thể nghiên cứu cùng tận, nên nói thẳng là diệt, diệt là, dứt ý nghĩ. Tác dụng, làm việc lại ngại thiền tịch, nên nói không thủ, kinh Nhập Phật Cảnh Giới chép: các pháp giống như huyễn, như huyễn không thật có, lìa các pháp huyễn nên kính lễ Vô sở quán.
Riêng dứt phiền não: riêng là không nhờ các hạnh, chính là nghĩa dứt bặt đối đãi.
Phiền não dứt hết liền chứng thật tướng, chỉ tương ưng với tâm linh, phiền não tự không thật có, không thật có chỗ tức là chứng.
72. Bồ-tát đơn tu thiền na:
Bồ-tát này gọi là đơn tu Thiền-na, kết thúc gọi tên.
Sau đan xen ba quán, mỗi quán dùng một quán làm đầu, gồm hai quán còn lại, đan xen thành bảy, ba bảy nên có hai mươi mốt luân, gồm trước ba đơn và sau một viên, đủ hai mươi lăm nhưng mỗi quán làm đầu, trong bảy đoạn đều có bốn tiết. Ban đầu hai đoạn, hai hai cộng hợp. kế lại hai đoạn, ba hành thứ lớp, kế có một đoạn trước một sau bằng. Sau có hai đoạn, trước bằng sau một. Nay mỗi quán là trong phần đầu, nhưng khoa dài bảy đoạn, lại duyên mỗi luân để nói về trước sau, mỗi mỗi phải nhắc lại tên quán, nay sợ văn rườm rà nên, mỗi quán chỉ nêu một chữ để nói thứ lớp của nó, nghĩa là trước là tĩnh, kế là huyễn, sau là tịch, Tịch và tĩnh khác nhau, tĩnh là cảnh của Nhị thừa, tịch là cảnh của Phật, lại tĩnh là thiền định, tịch là Niết-bàn, trong văn có ba:
1. Bảy luân đầu thì tĩnh quán làm đầu, gồm cả huyễn tịch.
Bảy luân kế thì huyễn quán làm đầu, gồm cả tĩnh tịch
2. Bảy luân sau thì tịch quán làm đầu, gồm cả tĩnh huyễn. Bảy quán trong phần đầu:
1. Quán vận chu kiêm tế, Bồ-tát tu định để xuất trần là vận chu, phát tuệ để giáo hóa chúng sinh là kiêm tế.
Nếu các Bồ-tát trước chọn chí tĩnh: nêu tĩnh quán làm đầu, dùng tâm tĩnh tuệ, từ tĩnh theo dấu vết mà khởi. Soi chiếu các huyễn, liền ở trong đó khởi hạnh Bồtát, gồm tu quán huyễn, nếu không tĩnh tuệ thì tự nơi huyễn hóa, đâu thể chiếu huyễn.
Bồ-tát này tên là trước tu Xa-ma-tha, sau tu Tamma-bát-đề. Kết thúc gọi tên.
73. Bồ-tát trước tu Xa-ma-tha, sau tu Tam-ma-bátđề:
2. Quán Trạm hải trừng không: biểu sâu thì sóng không lay động, trước tĩnh quán để trở lại dòng, trừng không (hư không trong veo) thì tánh nước trong sáng.
Sau tịch quán để hiển rõ tánh.
74. Bồ-tát trước tu Xa-ma-tha, sau tu thiền-ma.
Nếu các Bồ-tát nhờ tĩnh tuệ nên chứng đến tĩnh tánh, tịch là theo đuổi yên tĩnh gồm cả tu tịch, liền dứt phiền não thoát hẳn sinh tử.
Công dụng hai quán là dứt bỏ phiền não là nhân mất, thoát khỏi sinh tử là quả táng (nhân mất quả tan).
Bồ-tát này gọi là trước tu Xa-ma-tha, sau tu Thiềnna, là kết thúc gọi tên.
3. Thủ la tam mục quán: ba quán đều tu, như ba mắt trên mặt trời Ma-hê-thủ-la.
75. Bồ-tát trước tu Xa-ma-tha, giữa tu Tam-ma-bátđề sau tu Thiền-na:
Nếu các Bồ-tát dùng tịch tĩnh tuệ tĩnh, lại hiện năng lực huyễn các thứ biến hóa, độ các chúng sinh, sau dứt phiền não mà nhập vào vắng lặng (sau vắng lặng). Bồtát này gọi là trước tu Xa-ma-tha, giữa tu Tam-ma-bátđề, sau tu Thiền-na, kết thúc tên gọi.
4. Quán Tam điểm tề tu: ba điểm là chữ y của tiếng Phạm. Thành thật ý nói: một người tu cả ba quán, tức gọi là đều, chẳng nói cùng lúc.
76. Bồ-tát trước Xa-ma-tha, giữa tu Tam-ma-bát-đề: Nếu các Bồ-tát dùng chí tĩnh lực, dứt bỏ phiền não, sau khởi diệu hạnh thanh tịnh của Bồ-tát, độ các chúng sinh là huyễn, phiền não đã hết, ái kiến đã không, nên chỗ khởi hạnh không chỗ nào không tịnh diệu, có thể cởi mở sự trói buộc ấy.
77. Bồ-tát trước tu Xa-ma-tha, tu Tam-ma-bát-đề thiền na:
Bồ-tát này gọi là trước tu Xa-ma-tha, giữa tu Thiềnna, sau tu Tam-ma-bát-đề. Kết thúc gọi năm phẩm chữ đơn song quán, đơn tĩnh quán ở trên như một cái miệng như trên. Sau nói cả hai tịch và huyễn, như hai cái miệng ở dưới, nên nói là đơn song. Nếu các Bồ-tát dùng chí tĩnh lực, tâm dứt phiền não, lại độ chúng sinh, tạo ra thế giới, đều gồm huyễn tịch, câu đầu là tịch, hai câu sau là huyễn, trong dứt phiền não, ngoài độ chúng sinh.
Bồ-tát này gọi là trước tu Xa-ma-tha, tu cả Tam-mabát-đề, Thiền-na, kết thúc gọi tên.
6. Quán Độc túc song đầu: trong hình vẽ của Bạch Trạch có Sơn tinh dầu như cái trống có hai mặt, trước sau đều thấy, đây dụ cho tĩnh huyễn song chiếu, hai lợi ích đều chuyên chở giống như hai đầu. Đơn tịch quán giống như độc túc (một chân).
78. Tổng kết:
Nếu các Bồ-tát dùng chí tĩnh lực, giúp phát khởi biến hóa, nêu cả tĩnh và huyễn, dùng chí tĩnh lực giúp sức của sự đốc thúc phát sinh biến hóa, để độ chúng sinh. Sau dứt bỏ phiền não, gồm vắng lặng, đủ hai lợi ích trước nên vào trung khác với trước. Trước thì yên tĩnh độc là đầu, sau mới gồm tịch huyễn, ở đây thì tĩnh và huyễn đều là đầu, sau mới đơn kiêm với tịch. Bồ-tát này gọi là tu cả Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề, sau tu Thiền-na. Kết thúc gọi tên.
7. Quán Quả lạc hoa phu: tức là dùng cây tĩnh định, kết quả trung đạo vắng lặng. Sau nở hoa là lại dùng huyễn quán vào cõi hữu tình, độ các chúng sinh, đều giúp được quả Niết-bàn.
Nếu các Bồ-tát dùng chí tĩnh lực giúp cho vắng lặng (đều diệt) sau khởi tác dụng biến hóa thế giới (gồm huyễn). Bồ-tát này gọi là tu cả Xa-ma-tha, Thiền-na, sau tu Tam-ma-bát-đề. Kế là bảy luân mỗi luân nêu huyễn làm đầu, kế bao gồm hai thứ kia: Một là quán Tiên vũ hậu văn: Sau khi vua Vũ phạt Trụ, đúc các mâu kích làm nông khí (dụng cụ nhà nông). Dụ cho Bồ-tát này trước biến hóa các thứ rồi sau vào tĩnh quán, nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa, thuận theo các thứ (nêu huyễn) mà nhận lấy chí tĩnh (rất yên tĩnh) thì Bồ-tát này gọi trước tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-ma-tha; Hai là quán công thành thoái chức, Bồ-tát phát tuệ lợi vật tức là công thành, thực tập vắng lặng trong tu gọi là thối chức.
79. Bồ-tát trước tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Thiền-na: Nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa các cảnh giới (huyễn) mà nhận lấy vắng lặng thì Bồ-tát này gọi là trước tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Thiền-na; Ba là quán huyễn sư giải thuật.
Trước khởi biến hóa làm pháp thuật, sau trở về thể yên tĩnh vắng lặng cho nên hiểu phép thuật.
80. Bồ-tát trước tu Tam-ma-bát-đề, giữa tu Xa-matha, sau tu Thiền-na:
Nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa mà làm Phật (huyễn) sự an trú vắng lặng (tĩnh) mà dứt phiền não. Bồtát này gọi là trước tu Tam-ma-bát-đề, giữa tu Xa-matha, sau tu Thiền-na. Bốn là thần long ẩn hải quán: Khởi huyễn hóa sinh như rồng thần tuôn mây mưa, trở về thể, nhập yên tĩnh, như ẩn ở biển.
81. Bồ-tát trước tu Tam-ma-bát-đề, giữa tu thiền sau tu Xa-ma-tha:
Nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa, vô ngại tác dụng, dứt các phiền não, an trú chí tĩnh. Bồ-tát này gọi là trước tu Tam-ma-bát-đề, giữa tu Thiền-na, sau tu Xa-ma-tha.
Quán năm là Long Thọ thông chân: trước khởi huyễn, sau trở về yên tĩnh vắng lặng, như ngài Long Thọ ban đầu làm huyễn thuật, rộng giáo hóa người tà, sau tu tập chân thừa tự bước lên quả Thánh.
Nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa, tác dụng phương tiện cho đến yên tĩnh vắng lặng, cả hai đều thuận theo đều kiêm tĩnh tịch.
82. Bồ-tát trước tu Tam-ma-bát-đề, giữa tu cả Xama-tha Thiền-na:
Bồ-tát này gọi là trước tu Tam-ma-bát-đề, tu cả Xama-tha, Thiền-na.
Quán sáu là Thương-na thị tướng: Thương-na-hòA-tu tức là thầy của Ưu-ba-cúc-đa, trước dùng thần lực thị hiện tướng hàng phục đệ tử có tâm kiêu mạn là Cúc-đa, sau đó nhập định quy tịch.
83. Bồ-tát trước tu Tam-ma-bát-đề, Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na:
Nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa khởi các công dụng giúp cho chí tĩnh, sau dứt bỏ phiền não (gồm vắng lặng) Bồ-tát này gọi là tu cả Tam-ma-bát-đề, Xa-ma-tha, sau tu Thiền-na.
Bảy là quán Đại thông yến mặc: Đại thông Như lai trước hóa dụng lợi ích chúng sinh, sau trở về vắng lặng.
Nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa, giúp cho vắng lặng, sau trú thanh tịnh, vô tác tịnh lự, Bồ-tát này gọi là tu cả Tam-ma-bát-đề, Thiền-na, sau tu Xa-ma-tha.
Bảy Luân sau, mỗi luân nêu ra tịch làm đầu. Kế là gồm hai thứ còn lại:
1. Quán Bảo minh không hải: kinh Phật Đảnh chép: đồng vào biển không bảo minh của Như lai, ở đây linh tâm quán, tức là bổn giác minh như bảo minh. Sau tĩnh quán như biển không.
84. Bồ-tát trước tu thiền, sau tu Xa-ma-tha:
Nếu các Bồ-tát dùng sức vắng lặng (tịch) mà khởi chí tĩnh, trụ trong thanh tịnh (gồm tĩnh) thì Bồ-tát này gọi là trước tu Thiền-na, sau tu Xa-ma-tha.
85. Trước tu thiền sau tu Tam-ma-bát-đề:
2. Quán Hư không diệu minh: Linh tâm thể như hư không, khởi hóa tức diệu dụng, nếu các Bồ-tát dùng năng lực vắng lặng mà khởi tác dụng thì đối với tất cả cảnh tịch dụng thuận theo, Bồ-tát này gọi là trước tu Thiềnna, sau tu Tam-ma-bát-đề.
3. Quán Thuấn-nhã trình thiền: Thuấn-nhã là thần hư không, gặp ánh sáng của mặt trời thì tạm thời hiện như đây trước vắng lặng kế lại yên tĩnh, sau huyễn.
86. Bồ-tát trước tu thiền giữa tu Xa-ma-tha sau tu Tam-ma-bát-đề:
Nếu các Bồ-tát dùng sức vắng lặng, các thứ tự tánh, an trụ trong tĩnh lự mà khởi biến hóa thì Bồ-tát này, gọi là trước tu Thiền-na, giữa tu Xa-ma-tha, sau tu Tam-mabát-đề.
4. Quán Ẩm quang quy định: Đại Ca-diếp trước chứng thể, kế khởi thần thông, sau mới trở về định.
87. Trước tu thiền giữa tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-ma-tha:
Nếu các Bồ-tát dùng năng lực vắng lặng, tự tánh vô tác (vắng lặng) khởi các tác dụng cảnh giới thanh tịnh (huyễn) trở về tĩnh lự (yên tĩnh) thì Bồ-tát này gọi là trước tu Thiền-na, giữa tu Tam-ma-bát-đề, sau tu Xama-tha.
5. Đa Bảo trình thông quán: Phật Đa Bảo trước thành đạo chứng như thể (thể như) sau ở trong tháp phát khởi Pháp Hoa, như tĩnh huyễn vô ngại.
88. Trước tu thiền tu cả Xa-ma-tha, Tam-ma-bát-đề: Nếu các Bồ-tát dùng năng lực vắng lặng, các thứ thanh tịnh mà trụ tĩnh lự, khởi các biến hóa, gồm cả tĩnh huyễn. Bồ-tát này gọi là trước tu Thiền-na, tu cả Xa-matha Tam-ma-bát-đề.
6. Quán Hạ phương đằng hóa: tức là sáu muôn số cát sông hằng Bồ-tát trong kinh Pháp Hoa từ phương dưới hiện.
89. Tu cả thiền na Xa-ma-tha sau tu Tam-ma-bát-đề: Nếu các Bồ-tát dùng sức vắng lặng giúp cho chí tĩnh mà khởi biến hóa thì Bồ-tát này gọi là tu cả Thiền-na, Xa-ma-tha, sau tu Tam-ma-bát-đề.
7. Đế tâm hàm biến quán: Báu này bao gồm các vật tượng, đối tức là biến ứng, ứng trở về không. Như quán Linh tâm thành thì bao gồm đức dụng, ứng duyên khởi huyễn mà lại yên tĩnh.
90. Tu cả thiền na Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-matha:
Nếu các Bồ-tát dùng năng lực vắng lặng, giúp cho biến hóa mà khởi chí tĩnh trong sáng cảnh tuệ, Bồ-tát này gọi là tu cả Thiền-na, Tam-ma-bát-đề, sau tu Xa-matha, sau có một luân viên tu ba quán, đây gọi là như ý viên tu ba quán. Bảo châu như ý chiếu khắp bốn phương, đại trí đốn giác ba quán đều tu.
91. Nói về viên hợp:
Nếu các Bồ-tát dùng tuệ Viên giác, xứng viên giác mà phát tuệ. Viên hợp tất cả, viên dung hòa hợp tất cả các thứ sự, lý, tánh, tướng, chân, vọng, sắc, không, nếu thể tương ưng, ấy là viên hợp. Nghĩa là do viên giác hợp lý, lý tức chẳng phải lý, cho nên hoàn toàn tức sự, lại do hợp giác với sự, sự tức chẳng phải sự, cho nên hoàn toàn tức lý, các tánh tướng... đều đồng với thuyết này. Nghĩa đế Trung đạo bấy giờ hiện ra? Chẳng phải lý chẳng phải sự, cả hai ở trong ngăn hiển, tức lý tức sự, cả hai chiếu rõ trong hiển, ngăn chiếu đồng thời, ấy là viên giác.
Đối với các tánh, nương đây tu tĩnh quán. Tướng nương đây tu huyễn quán.
Không lìa tánh giác, nương đây tu tịch quán.
Khoa chép: Ba quán viên tu. Lại do viên giác hợp với tất cả nên từ thể khởi dụng, tánh tướng không khác tánh giác. Chính là gom dụng về thể. Thể dụng không ngại tịch chiếu đồng thời, chính là tròn đầy Diệu giác vô thượng. Bồ-tát này gọi là viên tu ba thứ lớp tánh thuận theo thanh tịnh. Ba là kết thành chánh nhân.
92. Tất cả Bồ-tát nên tu hành hai mươi lăm huân:
Này người thiện nam! Đó gọi là hai mươi lăm luân của Bồ-tát, tất cả Bồ-tát tu hành như thế, có thể thấy, bốn là chỉ chung về tu tập: Nếu các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, nương theo luân này, chỉ bày tu tập thì khi tu hai mươi lăm luân này, ở trong các việc oai nghi phép tắc và phương tiện dụng tâm ba nghiệp sự lý, đầy đủ ý của sự tu tập.
Nên giữ gìn phạm hạnh (giới), vắng lặng (định), suy nghĩ (tuệ), đủ giới, định, tuệ, tâm ở môn quán, tu hành như thế chắc chắn thành Phật.
Cầu xin sám hối trải qua hai mươi mốt ngày, nghiệp lụy nhiều đời sợ chướng ngại tâm tịnh, sám hối cầu xin phát lộ tội trước, nếu số ngày ít, suy nghĩ không tinh thành, trong hai mươi mốt ngày đã rõ ràng cầu nguyện, nghĩa của sám hối ở dưới đạo tràng thêm phần thực hành trong đó sẽ giải thích. Trong hai mươi lăm luân, mỗi luân đều có nêu ký hiệu, viết danh tự văn cú hai mươi lăm luân này, đặt vào trong đạo tràng, lễ niệm chí thành tinh ròng một hạnh. Dốc lòng cầu xin tiện tay kết lấy, nếu tự ưa thích một môn thì tùy theo sự chứa nhóm. Nếu hơn kém khó phân không thể tự quyết định thì nhờ năng lực bậc Thánh bốc thăm xem pháp nào nên tu, phải tiện tay bốc lấy không nên lựa chọn.
Y vào kết thúc chỉ bày liền biết đốn tiệm, nương vào thăm bắt được mà kết luận, mở ra xem đốn tiệm tự biết, không tham pháp quán khác.
Một niệm nghi ngờ hối hận thì liền không thành tựu, lòng hoài nghi ngăn cản thì mất công đức trước, dẫu cho tu lại cũng hơi khó thành tựu. Y theo gốc mà nghiệm lý, quyết ở tại đây. Chẳng phải lơ là, coi thường sự tướng.
Trong kệ cũng có bốn, hoàn toàn đồng với Văn xuôi.
93. Đức Thế tôn nói kệ:
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này ngài liền nói kệ rằng:
Biện Âm ông nên biết
Tất cả các Bồ-tát.
Tuệ vô ngại thanh tịnh
Đều nương thiền định sinh.
Dạy người tu quán, trước dùng thể sở y làm gốc mà khởi quán hạnh. Văn xuôi nói viên giác thanh tịnh, không năng tu sở tu, tâm nên dùng lý này, tức là nghĩa thiền định.
Cái gọi Xa-ma-tha, Tam-ma-đề, Thiền-na, tu ba pháp đốn tiệm, có hai mươi lăm thứ. Văn xuôi rộng, kệ lược:
Các Như lai mười phương,
Người tu hành ba đời.
Thảy đầu nhờ pháp này,
Mà được thành Bồ-đề.
Chính thức kết thúc những việc phải làm.
Chỉ trừ người đốn giác, không thuận theo pháp này.
Để phân biệt những việc chẳng nên làm. Văn xuôi không, kệ có, nay có hai giải thích.
1. Hai câu đều giải thích thượng căn, nghĩa là chỉ trừ người ngộ giải viên đốn thượng căn, và người không thuận theo tất cả pháp định tướng thì không cần phải nương hai mươi lăm luân và đạo tràng chọn lấy kết thúc... không thuận theo pháp là không chấp tướng, đã không theo tướng tức là theo chân giác, đây là đốn nhập tròn sáng, mọi việc nhìn thấy đều hợp đạo, không thể thêm thắt làm tổn thương lở loét. Cho nên trước biết huyễn liền xa lìa, không thực hành các phương tiện, cho nên trừ.
2. Câu dưới là giải thích tín bất tín hạ càn: nghĩa là không tin gì cả, không nghe mà không thuận theo, như thế thì thượng trí và hạ ngu không thể dời đổi. Trước giải thích không theo, không theo pháp điên đảo, ở đây giải thích không theo, không theo chánh pháp.
Tất cả các Bồ-tát
Và chúng sinh đời mạt pháp,
Thường nên giữ luân này,
Thuận theo siêng tu tập,
Nương sức đại Bi Phật,
Không lâu chứng Niết bàn.
Kế sau có hai câu hỏi đáp, hai lớp dứt trừ tướng.
Ban đầu chương Tịnh Nghiệp trừ ngã nhập giác, sau chương Phổ giác nương thầy lìa bệnh, đó đều là chướng ngại trong quán hạnh, cho nên đồng với khoa lớn. Trong phần đầu tuy y theo chấp đắm cạn sâu nói có bốn tướng khác nhau nhưng tuy là ngã kiến, nhưng văn kinh ngoài bốn tên nêu riêng, mỗi tiết đều có chữ "ngã", nếu trừ chấp này liền thành viên giác, nên nói nhập giác, văn có bốn: đây là phần đầu của ba phần đầu.
1. Bồ-tát Tịnh Chư nghiệp lễ Phật, thưa hỏi:
Bấy giờ, Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng ở trong đại chúng, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng, giống như trên, trình bày từ cú, trong đó có hai:
-Trước chúc mừng.
1) Xin Phật nói rộng việc không thể suy nghĩ bàn luận:
Đại bi Thế Tôn cho chúng rộng việc con nghe nói không thể suy nghĩ bàn luận như thế, trước là nói chung về quán hạnh, một bề xứng lý mà tu, nếu có thể hiểu rõ thì nay trong một về, rộng mở các luân vòng vo khác nhau, khác nhau nhưng không trái một vị, rất là khó thấy, cho nên không thể suy nghĩ bàn luận. Nhân địa hành tướng của tất cả Như lai, xa thành lời đáp cho câu hỏi của Văn-thù, khiến các đại chúng được điều chưa từng có. Nhìn thấy đấng Điều Ngự trải qua cảnh giới siêng khổ số cát sông hằng kiếp, tất cả công dụng giống như một niệm, Bồ-tát chúng con rất tự vui mừng an ủi, ngộ được nhân hạnh, quả đức xứng chân, y theo lý có thể chiếu, nhân hạnh trị nhiễm, hiểu được là khó, nay một niệm đủ biết sáng rõ đều hiện, như bình lưu ly đựng đầy hạt cải, nên rất vui mừng. Hai là hỏi, văn sau có ba:
2) Bản tánh thanh tịnh, vì sao nhiễm ô:
2) Chính hỏi: Bạch Thế Tôn! Nếu tâm giác này bản tánh thanh tịnh, vì sao nhiễm ô? Khiến các chúng sinh mê muội không nhập vào? Ý hỏi trong đây không nói xưa nay đều mê. Ý nói đã biết tánh giác tròn sáng các pháp thanh tịnh, đâu thể nào vào tâm phàm mà không hợp với nguồn, giác làm được việc gì lòng vẫn còn yêu, ghét. Mình, người hoàn toàn khác nhau khó tự nhiên dung hòa, đối với quả nhân cách xa như trời và đất. Tâm giác vốn thanh tịnh ngộ liền ứng đồng, lại có pháp gì nhiễm ô? Khiến ta dụng tâm khác Phật, nên nói vì sao mê muội không nhập vào? Hai là thỉnh sau.
3) Xin Phật giảng nói:
Cúi xin Như lai rộng cho chúng con khai ngộ pháp tánh nghe.
Pháp tánh: là tánh các pháp, nếu nói thẳng bổn thể thì gọi là tánh giác, nếu suy cùng pháp khác nhau, đều không có tự thể, đồng với nhất tánh, tức gọi là pháp tánh, nay phá bốn tướng, mở rộng dung thông các pháp, hoàn toàn đồng tánh giác, cho nên nói khai ngộ pháp tánh. Từ trước văn kinh chỉ nói tánh giác, chỉ có đoạn này nói pháp tánh, ý là ở đây.
3. Tổng kết.
4) Giúp chúng sanh đời mạt pháp:
Làm mắt sáng tương lai ở cho đại chúng và chúng sinh đời mạt pháp này cho, dưới ba lần tuyên bố, mô phỏng theo trước.
Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Ông mới có thể vì các đại chúng và chúng sinh đời mạt pháp, thưa hỏi Như lai phương tiện như thế, nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói cho: Lúc đó, Bồ-tát Tịnh Chư Nghiệp Chướng vui mừng vâng lời và các đại chúng im lặng lắng nghe, là chính nói, trong Văn xuôi có bốn:
1. Nói chung về lý do lỗi lầm.
2. Giải thích riêng bốn tướng.
3. Còn ngã mất đạo.
4. Dứt hoặc thành nhân.
Nói chung bốn tướng, là nguyên do lỗi lầm. Văn chia hai:
1. Nói về bổn khởi lỗi lầm.
2. Do chúng sanh chấp ngang trái:
Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, chưa hề chứng ngộ, nên ở dưới có ví dụ người mù bẩm sinh, vọng tưởng chấp hữu: đối với vô chấp một cách ngang trái.
Ngã, nhân, chúng sinh và tuổi thọ, là chỉ chung ngã tướng chỉ do xoay vần y theo nghĩa, nên có bốn tên gọi, bốn tên gọi lại có hai tướng:
1. Mê thức cảnh.
2. Mê trí cảnh.
Ban đầu nói nhận lấy tự thể làm ngã, chấp ngã xoay vần thẳng vào các đường làm người. Chấp ngã thạnh suy, các thứ khổ vui, thay đổi nối nhau làm chúng sinh, chấp ngã báo thân, mạng căn không dứt mà trú làm thọ: như hai luận Kim cương đã nói. Mê trí cảnh tức là kinh này nói, đến văn sẽ biết.
3. Cho rằng bốn điên đảo là nhân chân thật:
Cho rằng bốn điên đảo là ngã thể chân thật, chân ngã vốn có, mê nói là không, vọng ngã vốn không, chấp cho là có, cả bốn thứ đều chấp ngang trái, nên nói như vậy.
Hai là nói lỗi lầm, ở đây rất nhiều, văn có bốn:
1. Xoay vần sinh ra vọng.
2. Trái với tâm giác.
3. Động, dứt đều mê.
4. Kết thành chướng đạo.
Ở đây là mới xoay vần: bốn câu đầu do mê khởi hoặc, kế là hai câu, từ hoặc gây ra nghiệp, kế lại hai câu từ nghiệp vời lấy quả báo, sau một câu lại ở trang năm đường rơi vào Nhị thừa.
Từ đây liền sinh hai cảnh yêu ghét, nghĩa là do chấp bốn tướng là thật thể của ngã, vì thế với mình sinh yêu, với người sinh ghét, thuận với mình thì yêu, trái với mình thì ghét, yêu ghét như thế đều do chấp ngã, nên nói do đây. Với thể luống dối lại chấp luống dối, bốn đại, năm uẩn mê tánh nên vọng sinh, các duyên giả hợp đã là luống dối, lại đối với đó chấp ngã nhân, nên nói như thế. 4. Hai vọng tưởng nương nhau:
Hai vọng nương nhau sinh nghiệp đạo luống dối, do hai vọng trước, sinh khởi tạo tác các nghiệp luống dối. Nghiệp có công năng dẫn đến quả khổ vui, nên gọi là đạo, vì có vọng nghiệp nên vọng thấy trôi lăn, nghiệp thành liền chịu sinh tử trôi lăn, sinh tử trôi lăn là quả của chỗ đến.
Nhàm chán trôi lăn: nhàm chán ba cõi không an, đều như nhà lửa, dứt duyên đoạn hoặc.
5. Thanh văn nguội thân bặt trí:
Vọng thấy Niết-bàn, hướng đến vắng lặng, đắm mê chấp không, mục đích là nguội thân bặt trí, nhưng mười câu trên đều là bốn đế sinh diệt trong tông Nhị thừa. Nghĩa là ban đầu sáu câu tập đế, kế là hai câu khổ đế, kế là một câu đạo đế, sau một câu diệt đế. Hai là trái với tâm giác.
Do đây không thể nhập vào thanh tịnh giác, chính là kết thúc trả lời câu hỏi trước, câu hỏi trước nói vì sao mê muội không nhập vào? Nay trả lời: do nhận bốn tướng xoay vần sinh lỗi, dù lìa sáu đường lại rơi vào Nhị thừa, cho nên không nhập vào.
Chẳng phải giác chống lại những người năng nhập, trước hỏi nói nhân nào khiến các chúng sinh không nhập vào. Cho nên ở đây trả lời: chẳng phải giác chống lại không cho vào mà chỉ do nhân ngã nên không nhập vào được. Như nằm mộng thân chưa quên không thể hợp bổn thân, chẳng phải bản thân chống trái.
6. Có khi năng nhập chẳng phải giác nhập:
Có các năng nhập chẳng phải giác nhập. Giải thích thành chẳng phải giác chống trái, ý nói: khi nhập như là giác nhập, không nhập tức là giác chống trái, đã nhập tự là tín, giải, hạnh... giác thể vốn không ra vào, vào và không vào đâu trách gì giác được? Ba là động dứt đều mê, văn có hai: Chính nói: cho nên động niệm: tức là tám câu khổ, tập ở trước và dứt niệm: tức là hai câu diệt, đạo ở trước.
Đều trở về mê muội: kết thành không nhập, hai là nêu giải thích, văn có hai. ban đầu nêu ra: Vì sao? Động niệm đã là trái giác, dứt niệm liền hợp với chân, vì sao đều gọi là mê muội. Hai là phần giải thích, mỗi điều giải thích thẳng. Do có bổn khởi vô minh từ vô thỉ, từ cội gốc đầu tiên mà khởi lại từ bổn nguyên mà khởi.
Vì mình chủ tể do tướng vô thỉ trụ địa vô minh làm của ngã, động là ta động, dứt là (ngã) ta dứt, tướng ngã đã ở tại động dứt đều mê, hai là chuyển thích, trước là giải thích đối trưng, ở đây lại giải thích nghĩa của bổn khởi văn ở trước.
7. Chúng sanh không có mắt tuệ:
Tất cả chúng sinh không có con mắt trí tuệ, chưa hề giác ngộ. Như người hoặc mười tuổi hoặc hai mươi tuổi mới bị mù, trước mắt tuy không thấy vật, nhưng nói thì liền biết rõ, hoặc trong thai không có mắt, sinh ra đã bị mù, thì khi đối với các thứ sắc dù nói cho họ nghe cũng không hề có lợi ích, trước phải cạo bỏ màng che mắt, sau chỉ bày phải trái. Cho nên kinh Niết-bàn chép: Như người mù không thấy màu sữa, người khác nói cho nghe, lần lượt thí dụ vật báu, gạo, tuyết, hạc, cũng không bao giờ biết được màu trắng kia, tánh của thân tâm... đều là vô minh, trước được nhân địa bổn khởi, thời sở tu đều là nhân thành Phật.
Dụng này là bổn khởi vô minh, tất cả đều là nghiệp ma, lại trước do giác tròn sáng nên căn trần đều thanh tịnh. Kết thúc nói: tất cả đều là giác. Nay lấy vô minh làm gốc, nên nói đều là vô minh, trước như vàng làm ngàn thứ đồ dùng, mỗi đồ dùng đều bằng vàng, ở đây như đất làm ngàn thứ đồ dùng, mỗi đồ dùng đều bằng ngói gạch.
8. Ví dụ như người cắt đứt mạng sống:
Thí như có người không tự cắt đứt mạng sống, do ái nên có thân, nếu cắt đứt thân tức trái với ái. Như thân người dù xấu xa bệnh khổ cũng tự bảo vệ tánh mạng mình không bao giờ cắt đứt. Cắt đứt mạng sống người khác thì có thể còn tự cắt đứt mạng sống mình thì khó, nhận ngã cũng giống như vậy. Dứt bỏ tất cả nghiệp ác phiền não, thì có thể được, muốn dứt ngã thì khó thể được ư? Vì sao? Vì ngã không bao giờ lại cắt đứt ngã, lại có ngã nên chắc không giác ngã, như mắt không tự thấy, dứt tình quên tưởng thì đều một thể với giác. Giác là chân ngã thì vọng ngã vốn không, mới gọi là dứt. Như nằm mộng thân dù khiến yếu kém cho đến khổ, khi mộng cũng không bao giờ chịu cắt đứt, quyết phải giác đến hợp với bổn thân mới nhàm chán mộng khổ, lại không thể cắt đứt.
9. Kết thúc để thành chướng đạo:
Kết thành chướng đạo:
Vì cho nên biết: chỉ do thế của ý trước, từ khi ngã thể sanh yêu ghét đến nay, cho đến không cắt đứt mạng sống... đây đều kết thúc để thành chướng đạo, vì thế chép:
Có ái ngã thì ngã cùng thuận theo, với thuận sinh ái để làm rõ ngã, nếu chẳng thuận theo liền sinh oán ghét, đối trái sinh ghét để rõ ngã. Vì tâm yêu ghét nuôi dưỡng vô minh, trên chỉ cho cả hai thứ trên chỉ làm tươi nhuận. Vô minh, vì thế biết rằng tâm mê tu đạo, dù cho siêng khổ các hạnh môn, chỉ giúp cho vô minh đâu thành quả Phật?
Nối nhau cầu đạo đều không thành tựu, chính là nói về chướng đạo. Nói nối nhau: vốn từ vô minh mà sinh yêu ghét, yêu ghét lại huân tập vô minh, hạt giống hiện hành, nối nhau không dứt, dùng đây cầu đạo thì không bao giờ thành, nên kinh Bảo Tích chép: đối với thân sinh yêu quý, không lìa ngã nhân, kia tu hành như thế, do đó mà đọa vào đường ác.
10. Giải thích riêng bốn tướng:
Hai: giải thích riêng bốn tướng.
Nhưng hành tướng của chúng ta đây là khác với thường, thường là chỉ y theo mê chấp, sơ quả đã dứt được chấp này, đây mới thẳng đến thành tựu tu chứng. La-hán chưa hiểu, trong văn chia làm bốn đoạn:
1. Y theo sự mà nghiệm xét ngã.
2. Ngộ ngã thì thành nhân.
3. Rõ tích thì tích sinh.
4. Ngầm nối tiếp như mạng.
-Ban đầu nghiệm xét sự nhậm vận chia ra tự tha chính là ngã tướng kia. Trong văn có hai:
1. Nêu giải thích tướng thô
2. Kết thúc ý chỉ tướng tế. Trong phần đầu có hai:
a) Nêu ra chỉ bày:
Này người thiện nam! Vì sao tướng ngã nói tâm các chúng sinh chứng được, ngã khó tự thấy, y theo sự mà chứng biết, chỉ nghiệm mình người đều khác, tức là trong chứng tự có ngã. Nếu khiến cho tu đạo xả vọng chứng chân, chỉ biết có tâm, vẫn gọi là tướng ngã.
b) Y theo dụ để giải thích.
11. Ví dụ để làm sáng tỏ:
Này người thiện nam! Thí như có người thân thể điều hòa thích hợp, bỗng quên thân ta, tay chân như dây cung nhanh chậm, không vội vàng đều là chi thể, không điều thì tay chân mất nhịp độ, bảo dưỡng khác thường, thêm việc châm cứu thì biết có ngã, vì thế chứng lấy mới hiện ngã thể, đây là so sánh với đạo: ở yên trong thất vắng hoặc ẩn trong núi sâu, tâm dứt kinh doanh, cảnh không trái thuận, huân tập thành tánh tạm được quên tình, không biết mình người, cho là chứng vô ngã, nếu bị trái thuận ép ngặt thì rõ ràng tâm, sinh tâm, đã chưa ổn định thì biết ngã còn, ở dưới nói: nếu lại có người khen ngợi, chê bai pháp ấy thì tức là mừng, giận...
Kết thúc ý chỉ tướng tế.
12. Kết thúc về tướng tế:
Này người thiện nam! Tâm kia cho đến chứng là trên năng dưới sở, Như lai rốt ráo biết rõ, đối với sở chứng lại trên là năng liễu tri. Niết-bàn thanh tịnh là sở liễu tri.
Đều là ngã tướng, nghĩa là chẳng phải chỉ hiểu biết Niết-bàn của Nhị thừa là ngã tướng mà dù cho biết rõ Niết-bàn của Như lai cũng là ngã tướng, nhưng Niết-bàn chỉ là giác thể, chẳng riêng có thể chứng! Nay đã chứng được Niết-bàn không quên năng sở tức là ngã tướng.
Ngộ ngã thành nhân: ngộ trước là sai ấy là tướng này. Văn có hai:-Tướng thô:
Tướng người: Này người thiện nam! Thế nào là tướng người?
Nghĩa là các chúng sinh tâm ngộ chứng, biết trước là sai, chữ Giả chính là tướng người.
a) Tướng ngã: Này người thiện nam! Ngộ có ngã: thì không còn chấp ngã, không có tâm chứng, chỗ ngộ chẳng phải ngã ngộ cũng giống như thế, đồng với trước là sai.
Ngộ đã vượt quá tất cả chứng, bặt dứt lỗi sở chứng, trừ lỗi năng ngộ, đều là tướng người: kết thúc thành tựu.-Tướng tế.
Này người thiện nam! Tâm đó cho đến viên ngộ Niết-bàn, không chấp năng-sở, đều là ngã, tâm còn ít ngộ. Trí đây không bỏ là còn ngộ, chẳng có các khác nhau nên nói là ít.
Đầy đủ chứng lý, đều cùng tận nên nói là đủ, là hết cả. Đều gọi là tướng người, kết thành tướng tế.
-Rõ dấu vết thì dấu vết sinh.
Nghĩa là hai tướng ở trước đều là dấu vết của tâm, đều không chấp nên tránh khỏi lỗi ngã nhân. Nhưng rõ tâm này lại cũng là dấu vết, nên nói rõ dấu vết thì dấu vết sinh. Văn có ba:
1. Nêu ra chỉ bày. c) Tướng chúng sanh: Này người thiện nam! Thế nào là tướng chúng sinh? nghĩa là các chúng sinh tâm tự chứng ngộ chỗ không bằng, biết năng ngộ ở trước, ngộ là sở giác, ngộ đã thành sở giác lại gọi là năng, lần lượt không cùng, đều thành năng sở, năng sở và xứ (chỗ) đều là tướng đối đãi, rõ đây (đối đãi) là không chắc chắn, nên lìa lỗi trước, chấp sở không bằng, nghĩa là tánh khỏi các lỗi, không biết chấp này thì lại là chúng sinh, chúng sinh không chắc chắn chấp một.
2. Nêu ví dụ giải thích:
13. Mượn lời nói của người để làm nghĩa thế:
Này người thiện nam! Thí như có người nói như thế, mượn lời nói người đời để làm nghĩa thế, hiển rõ tướng chúng sinh.
Ngã là chúng sinh thì biết người kia nói chúng sinh chẳng phải ngã, chẳng phải kia, nêu cả hai đều sai. Dưới đây tự giải thích rằng:
Thế nào là chẳng phải ngã? Ngã là chúng sinh thì chẳng phải ngã, vì tự là chúng sinh nên chẳng phải ngã.
Thế nào là chẳng phải kia? Ngã là chúng sinh, vì nói ta là chúng sinh không nói kia là chúng sinh, nên chẳng phải kia, vì chẳng phải ngã của kia là chẳng phải ngã của người kia, lại nói mình đối với người kia không chấp ngã nhân, nên chẳng phải ngã kia.
3. Chỉ cho đối biện ở trước.
Này người thiện nam! Nhưng các chúng sinh liễu chứng (ngã tướng) liễu ngộ (tướng người) đều là ngã nhân: Chỉ cho hai tướng ở trước, sau đây trả lời để phân biệt tướng của chúng sinh rằng: tướng ngã nhân không bằng, liễu chứng là không thì ngã không bằng. Liễu ngộ là không thì người không bằng, không chấp thủ tể nên lìa ngã nhân. Còn có sở liễu gọi là tướng chúng sinh, vì tâm không quên cho nên tức chữ tứ, tiềm ẩn nối nhau như mạng sống, đều không sở chấp, chỉ nghĩ tu hành, do không khởi tâm nên tránh ba lỗi trước, tức là nghiệp trí vô chấp này nối nhau chưa quên. Chẳng phải cố sinh tâm nên nói tiếp tục tiềm ẩn nối nhau, văn có hai: d) Tướng thọ mạng:
Nêu ra chỉ bày: Này người thiện nam! Thế nào là tướng tuổi thọ? Nghĩa là chúng sinh tâm chiếu soi thanh tịnh, tức là sự chiếu sáng của tâm nên nói thanh tịnh, tức là tự giác.
Giác sở liễu: biết ba tướng trước tức là giác tha. Chứng ngộ... thấu suốt nguồn chân, không có năng giác riêng, cho nên ở trên nói tâm soi chiếu. Tất cả nghiệp trí: định đem trí này tu tập tất cả nghiệp vô lậu. Chỗ không tự thấy giống như mạng căn, tuy dứt được vọng mà vọng không tự trừ, nên chẳng tự thấy, không tự thấy nên giống như mạng căn, như mạng căn là gồm chấp lấy nghĩa nối tiếp không dứt.
Lần lượt giải thích tỉ mỉ, có ba: d.2.1) Dùng nghĩa để giải thích:
14. Giải thích lý do lỗi lầm:
Này người thiện nam! Nếu tâm soi thấy là tướng của môn này. Tất cả giác là ba tướng trước.
Đều là bụi nhơ: Cả hai chỉ cho lỗi lầm, dưới đây giải thích lý do lỗi lầm.
Giác, sở giác, không lìa trần, do dùng tâm này thấy các giác trước nên không lìa trần, vì tâm chưa quên.
Dùng dụ giải thích ngược lại.
15. Ví dụ nước sôi làm tan băng:
Như nước sôi làm tan băng: không có riêng băng biết băng tan: nước sôi làm tan hết băng thành chung một thứ nước. Lại không thể biết hết là nói: ngược lại nghiệp trí này đã soi chiếu ba tướng trước đều cùng tận, thì là bệnh ngã chưa hết. Nếu Như nói ta hết, tức là ở đây nói băng hết thì không hết, nếu phối hợp kỹ thì nước dụ cho chân tánh, băng dụ bốn tướng, nước sôi dụ cho trí tuệ, nước nấu gọi là nước sôi, tâm ngộ gọi là trí, nên nói nước đóng thành băng, trở lại nấu nước để nung chảy, băng nước sôi đều hết, riêng tánh ướt còn, do dụ tâm mê thành ngã, trở lại ngộ tâm, để tiêu ngã trí đều hết, chiếu thể độc lập. Phối hợp với Pháp.
Còn ngã biết ngã cũng giống như vậy. Hoặc dùng đồng dụ để phối hợp ngược lại, nên nói không có ngã riêng biết là ngã hết. Nay lại dụ thế, thuận theo trước mà giải thích, nên nói chánh hợp.
Còn ngã mất đạo văn, có hai:
1. Nêu chung mất đạo.
16. Tu hành còn năng sở thì không thành quả Thánh: Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp, không rõ bốn tướng. Tuy trải qua nhiều kiếp khổ công tu đạo, chỉ gọi là hữu vi, do bốn tướng trước đều có thủ chứng, không bao giờ thành tựu tất cả Thánh quả, đã đem tâm này tu hành, thì mỗi hạnh đều có năng sở, cho nên không thành Thánh, chính đồng với kinh Hoa nghiêm nói nhiều kiếp tu sáu độ mà không gọi là Bồ-tát. Cho nên gọi là chánh pháp đời mạt: chánh tông thời mạt pháp của Phật pháp. Thời chánh pháp tu thì đều chứng, thời Mạt pháp người thường chấp tướng. Nay đã thủ chứng tướng, thì chánh pháp cũng đồng đời mạt pháp, nếu gặp giáo này, hiểu rõ nguồn gốc bệnh, thì tuy với đời mạt pháp nhưng lại đồng chánh pháp. Sau xoay vần giải thích rộng, văn có bốn:
1. Cho ngã là chân.
2. Nói bệnh là pháp
3. Dùng phàm lạm Thánh.
4. Chấp quả mê chân. Một có hai:
a. Nêu giải thích lỗi.
Kết thúc thành chướng giác. Trong phần đầu có sáu:
1. Tu lâu vì sao không chứng.
2. Chấp ngã thủ chứng chẳng phải giải thích đúng đắn.
3. Thủ chứng vì sao ngại đạo.
4. Ưa vắng lặng, ghét ồn ào, chẳng phải giải thoát.
5. Vì sao biết chứng pháp chẳng giải thoát.
6. Khen ngợi, vui mừng, chê bai, sân giận, nghiệm ngã giải thích nay 1: Vì sao? Kiếp số đã nhiều thực hành lại vất vả, vì sao lại không chứng quả Thánh? Trong giải thích có hai:
1. Pháp:
17. Chấp ngã là Niết-bàn nên tu hành không lợi ích:
Cho rằng tất cả ngã là Niết-bàn, có chứng có ngộ gọi là thành tựu. Bởi chấp ngã là Niết-bàn nên mặc dù nhiều kiếp siêng năng tu hành mà không được lợi ích. Như chấp thân trong mộng cho là chính mình, mệt nhọc dưới mọi hình thức vì gia nghiệp, cuối cùng không một việc lợi ích với tư sản.
2. Dụ:
Thí như có người nhận kẻ cướp làm con, tài bảo nhà kia không bao giờ có được, nếu giặc ở ngoài còn có thể đề phòng, nuôi dưỡng làm con làm sao đề phòng được? Lại biết cướp là cướp, cướp không thể làm, nhận cướp làm con đâu tránh khỏi phá hoại, đem dụ sáu căn chấp lấy cảnh còn có thể chế ngự tàng thức vọng ngã khó có thể làm rõ, cho nên của báu của công đức trong Như lai tàng niệm niệm suy hao, do tham lam này khó chứa nhóm phước trí.
3. Chứng vì sao trở ngại đạo?
Vì sao? Vì dù chấp ngã thủ chứng, sao lại gây trở ngại cho đạo.
4. Ghét yêu chẳng phải giải thoát.
Có ngã ái thì cũng ái Niết-bàn, hàng phục gốc ngã ái là tướng Niết-bàn. Có ghét ngã thì cũng ghét sinh tử. Luân hồi sinh tử vốn từ yêu ghét, muốn cầu giải thoát phải dứt hết hai nguồn gốc. Nay yêu Niết-bàn lại là gốc ái, nay ghét sinh tử cũng là gốc ghét. Bỏ khổ ham vui tuy khác nhau, nhưng ghét yêu vốn là do huân tập. Chấp vào yêu ghét mà tu hành thì quả Phật làm sao thành? Nhổ sạch gốc ngã ái là Niết-bàn, do hàng phục nên yêu ghét không khởi, tướng không khởi giống tướng Niết-bàn, vì giống là chân nên nói như thế.
18. Ái chính là chân sinh tử:
Không biết ái là chân sinh tử. Riêng ghét sinh tử gọi là không giải thoát. Vốn ái Niết-bàn, quyết dứt sinh tử, tâm ái đã có tức là gốc sinh tử, gốc ái mầm ghét đâu thể gọi là giải thoát?
5. Vì sao biết chứng pháp chẳng giải thoát.
Thế nào là biết pháp mà không giải thoát? Pháp là Niết-bàn. Vì ở trước giải thích: ái Niết-bàn gọi là không giải thoát, cho nên ở đây nêu rằng: nếu ưa có sinh tử thì chính là ràng buộc, nay ngộ Niết-bàn là pháp vắng lặng, dùng tướng gì để biết là không giải thoát?
6. Khen ngợi chê bai nghiệm ngã giải thích.
Nghĩa là thật chứng thì quyết vô ngã, vì vô ngã nên không có sân giận, vui vẻ. Nay vì pháp có tức giận vui vẻ, nên biết pháp chứng chẳng thật, Ngã chưa hết, trong căn có hai:
1) Nêu ngã chưa hết.
19. Ngoài thì biết căn trần giả hợp, trong thì giác tánh thể vắng lặng:
Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp kia huân tập Bồ-đề vì đã nói chứng là tự thanh tịnh, ngoài thì biết căn trần giả hợp, trong thì tánh giác thể vắng lặng.
Vì chưa thể hết cội gốc ngã tướng, chính là nói chưa hết.
2) Do cảnh nghiệm biết.
Nếu lại có người khen ngợi pháp kia, thì sinh vui mừng liền muốn cứu độ. Nếu lại chê bai sở đắc kia thì liền sinh tức giận, nhưng cảnh đời trái thuận thô trọng thì dễ rõ. Chỉ y theo pháp môn rất khó xem xét, chỉ nói là pháp giận kia độ đây, không biết tâm này vốn là ngã tướng.
Cho nên biết ngã tướng chấp chặt bền chắc, nhân đối cảnh ngoài mà nghiệm được bên trong, ngã không xen hở. Ngầm chứa tạng thức: là hạt giống.
Các căn dạo chơi, không hề xen hở: là hiện hạnh. Gặp cảnh thì phát trôi lăn nối nhau, nói chung, thì do đối cảnh ngoài mà nghiệm được bên trong, ngã chấp còn vững chắc, nối nhau tiềm tàng. Tuy tuệ quân thường nêu mà ma chúng thường xô ngã. Vả lại thành A-lại-da khó tấn công chủ tể, mạt-na thường giữ gìn ngăn ngừa vững chắc mạnh mẽ, ý thức tính toán mưu làm công việc trong ngoài, tướng năm thức xem xét bên ngoài để giữ gìn cửa sáu thức, do đó giặc chủ nhiều lần dạo chơi thường cướp đoạt, mê hoặc Pháp vương của ta.
Thường xâm lấn quấy nhiễu cảnh quán của ta, tuy bên ngoài sợ Bát-nhã, ngày ẩn đêm đi, mà trong ôm vô minh ngày đêm không ngừng. Hai là kết thành chướng giác.
20. Không trừ tướng ngã thì không thể nhập thanh tịnh giáo:
Này người thiện nam! Người tu đạo ấy không trừ ngã tướng, cho nên không thể nhập thanh tịnh giác. Hai nói bệnh là pháp, văn có hai:
1. Giải thích kia là sai.
2. Kết thúc thành chướng giác. Trong phần đầu có hai:
1. Che đậy khước từ, theo đuổi trước là pháp tức giận, vui vẻ.
2. Suy cùng, để thành nói bệnh là lỗi của pháp.
Này người thiện nam! Nếu biết ngã không mà chẳng chê bai ngã: sợ nghe tức giận, vui mừng là ngã liền muốn nhẫn chịu không tức giận để làm vô ngã, nên từ chối rằng: nếu thấy kia chê bai nhân ngã, bị kia chê bai mà không tức giận thì đây cũng là ngã, nên nói: nếu biết ngã không mà không chê bai ngã, đã thấy có huỷ báng ngã báng ngã thì chưa được ngã không. Cũng nên nói: Nếu biết ngã không, vô ngã nói pháp, cho nên kế nói có ngã nói pháp thì ngã chưa dứt. Nhưng người chê bai là kia, người nói là ngã. Văn kinh với người chê bai nói không, là ngược nói lỗi. Nhưng người nói pháp thì nói có là thuận nói lỗi, khước trừ lỗi ấy, sau đây muốn quyết đoán là bệnh, chúng sinh tuổi thọ, là về tướng người, lấy văn kia để chải chuốt thành câu.
21. Nếu bốn tướng còn thì gọi chung là bịnh:
Cũng giống như thế: là ví dụ về ngã.
1) Quyết đoán.
Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp nói bệnh là pháp, chỉ lỗi của sự từ chối ở trước. Tức là bốn tướng, nếu bốn tướng còn thì gọi chung là bệnh.
Nên gọi là đáng thương xót: lấy bệnh làm pháp thật đáng thương xót, mặc dù siêng năng tinh tấn lợi ích các bệnh, nhưng vì mang bệnh tu hành nên thêm các bệnh, nói trái với đây thì xứng thật tu hành chỉ có ích cho thật đức. Như các vị thuốc... giống có ngọt đắng, đất nước tươi nhuần, đều thêm lợi ích. Đắng dụ cho ngã tướng làm gốc, ngọt dụ cho tịnh giác làm gốc, đất nước thì dụ cho muôn hạnh.
22. Kết luận thành chướng giác: 2) Kết thúc thành chướng giác.
Cho nên không thể nhập thanh tịnh giác,
3. Đem phàm lạm Thánh, văn có hai:
a) Nói về tướng lạm.
Kết thúc thành chướng giác. Trong phần đầu có hai: b.1) Hoặc Thánh đồng.
Không rõ bốn tướng thì tu hành không thành tựu: Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp không rõ bốn tướng, y theo Như lai giải và chỗ sở hành để tự tu hành, thì không bao giờ thành tựu, Phật nói pháp môn liễu nghĩa xứng lý, đều nói tâm cảnh vốn không, hoặc nghiệp vốn tịnh, phàm Thánh không khác, nhân quả đều tròn, y theo lý mà Phật thấy thì thật như thế, hơn nữa chúng sinh mê lầm điên đảo đã lâu, gốc huân tập sâu dày, cho dù khiến tin hiểu pháp môn, nhưng hiện dụng xưa nay tùy niệm. Chỉ do tâm thức phân biệt, hiểu thụ vô ngại nói giáo là nói ý Phật cũng chỉ như thế, tâm đã là niệm cho nên bất giác niệm, không biết ngầm thông, chứng nhập khác với tùy tướng tín tâm, chấp nhận Phật bình đẳng, không thể dứt hoặc cầu chứng, nên kinh nói cuối cùng không thành tựu. Kinh Hoa Nghiêm cũng nói: như kẻ nghèo đếm của báu cho người.
So sánh với bậc Thánh: b.2) Sánh mình bằng Thánh.
Trước thì sánh cao bằng đức, đây thì sánh dưới bằng cao, văn có hai:
1. Nhận Thánh trí kia.
Nếu có chúng sinh chưa được cho là được: là lý, cho đến công đức mà bậc Thánh có.
Chưa chứng cho là chứng là trí. Trí thân mà bậc Thánh thầm chứng nay nói được nói chứng là người tăng thượng mạn. Nếu tự biết không chứng mà nói chứng, thì thuộc về giới nói dối nghiêm trọng trong bốn giới căn bổn. Chẳng phải ý văn ở đây.
2. Nghiệm ra khỏi phàm tình.
Thấy người tốt tinh tấn lòng sinh ghen ghét. Nhưng các bậc Thánh hình loại không chắc chắn, đắc và không đắc nội chứng ở tâm. Đâu cần phải làm rõ tha chưa đắc chưa chứng, cho nên quán sát tâm hạnh để nghiệm chân hư. Bậc Thánh dụng tâm thấy người, mình không hai.
Thấy người tốt tinh tiến hoặc giáo pháp lưu hành, niệm niệm vui mừng quyết sẽ thuận theo, tự nghiệm trong tâm như thế, hoặc liền chứng ngộ không luống dối. Hoặc tự biết mình kém, người kia hơn thì ghen ghét, mình hơn kia kém thì vui mừng. Cho dù khiến hiểu sâu cảnh mầu nhiệm cũng chỉ là sở duyên của tâm, chớ lầm cho là được, cho là chứng.
25. Kết luận thành chướng giác:
Kết thúc thành chướng giác.
Do chúng sinh kia chỉ cho cả hai hạng người ở trước, chưa dứt ngã ái, ở trước nói cuối cùng không thành tựu, vì Phật không ngã ái, hễ có ngã ái nên nói... thấy thắng tấn thì ghen ghét, cũng do ngã ái, do ngã ái nên ở dưới nói:
Cho nên không thể nhập thanh tịnh giác. Bốn hướng đến quả mê nhân.
26. Mục đích tu hành của chúng sanh đời mạt pháp:
Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp hy vọng thành đạo hướng đến quả không phải để cầu ngộ, chỉ thêm nghe nhiều là nhân mê. Liền biết trước phải ngộ đạo, sau nghe nhiều thêm trí tuệ. Người đời mạt pháp thường lầm ý này, chỉ y theo danh số không cốt để rõ tâm, tâm đã không thông, thì hiểu nghĩa chỉ nhiều, ngã kiến chỉ lớn, nên sau đây nói:
Thêm lớn ngã kiến, Kinh Hoa nghiêm cũng chép: không thể rõ tự tâm thì thêm lớn tất cả điều ác. Lại, luận Trí Độ chép: nghe nhiều không có trí tuệ là không biết thật tướng. Thí như trong căn nhà tối lớn có đèn mà không có mắt...
Dứt hoặc thành chân, có hai: Giải thích thuận:
27. Những điều nên tu:
Chỉ nên tinh tấn: lời khuyên nhủ.
Hàng phục phiền não: nêu riêng cái phải dứt bỏ. Khởi tâm mạnh mẽ: khuyên chung tu đoạn.
Chưa được làm cho được: là tu, nghĩa là tất cả công đức diệu dụng trong cảnh chân thật.
Chưa dứt thì dứt: là dứt bỏ, là tất cả pháp chướng ngại trong cảnh điên đảo, tức là sau đây sẽ nêu ra rằng: tham, sân, ái, mạn ba thứ trong các phiền não căn bản, ái không có tánh riêng thuộc về tâm sở tham.
Dục nịnh ganh ghét: Là tiểu tùy phiền não.
Đối cảnh không sinh kia (tha) ta (tự) tất cả ân ái vắng lặng. Lại nêu đây là gốc rễ sinh tử khó nhổ nhất, niệm hết thì tự, tha đều vắng lặng.
28. Kết quả nếu tu như trên:
Phật nói người này lần lần thành tựu: kết thúc thành nhân.
Do trước nói dứt ngã dụng tâm, lúc đó tuy ngộ vẫn suy nghĩ thời gian dài khó lìa được sự huân tập của ngã, cho nên Phật răn rằng: chỉ được đốn ngộ ngã không, siêng năng dứt bỏ phiền não, thói quen chấp ngã lần lần hết sạch, quả Phật vô thượng tự nhiên dần dần thành.
Cầu Thiện tri thức, không rơi vào tà kiến, người buôn ra biển phải nhờ người thuyền trưởng, người học tu hành phải giúp bạn lành. Hai là giải thích ngược lại.
Nếu với sở cầu sinh yêu ghét, riêng thì không thể vào biển giác thanh tịnh, ngược lại nói không sinh yêu ghét thì vào biển giác. Trong kệ khen ngợi có bốn. Thứ lớp như trước, hoàn toàn giống với Văn xuôi, nên không nhọc chép lại.
29. Đức Phật nói kệ:
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên ngài nói kệ rằng:
Tịnh Nghiệp ông nên biết
Tất cả các chúng sinh.
Đều do chấp ngã ái
Vô thỉ vọng trôi lăn.
Chưa dứt bốn thứ tướng
Không được thành Bồ-đề
Yêu ghét sinh trong tâm
Siểm khúc còn các niệm.
Cho nên thường mê muội, không thể vào giác thành. Thành dụ cho giác, pháp dụ mỗi thứ có ba nghĩa.
- Một là rõ tâm tánh không, không vào các hoặc, như đề phòng kẻ địch bên ngoài.
- Hai là thấy đức số cát sông hằng thì muôn hạnh tròn đủ, như nuôi dưỡng mọi người.
- Ba là đạo đều thông suốt, như mở cửa dần vào.
30. Nêu hai trường hợp trái nhau:
Nếu trở về cõi ngộ.
Cõi là thế giới, như đến nước Trung Quốc, cõi ấy thuộc nhà Đường, nên biết nếu đến cảnh ngộ thì pháp pháp thuộc ngộ, cảnh mê cũng giống như vậy. Trước bỏ tham, sân, si: si văn xuôi không, kệ có, mạn thì Văn xuôi có, kệ không, văn rõ ràng lược bỏ.
Pháp ái: ái Niết-bàn. Không có tâm, dần dần có thể thành tựu. Ngã thân là gốc của yêu ghét, vốn không có, yêu ghét từ đâu sinh.
Sở y đã không, năng y làm sao có?
31. Kết quả của hai trường hợp trái nhau: Người này cầu bạn lành, không rơi vào tà kiến. Sở cầu riêng sinh tâm, rốt ráo không thành tựu.
Cõi Ngộ, ngã thân thì Văn xuôi không, kệ có. Từ đó về sau nương thầy lìa bệnh, nghĩa là rộng khuyên nương Thiện tri thức, trừ bỏ bốn bệnh và các hoặc nhỏ nhiệm, văn có bốn. Phần đầu của ba phần đầu thứ ba.
32. Bồ-tát Phổ giác lễ Phật thưa hỏi:
Bấy giờ, Bồ-tát Phổ giác ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: Trong phần trình bày có hai:
1) Trước chúc mừng.
Đại bi Thế Tôn! Xin nói về bệnh thiền (bốn tướng) giúp cho các đại chúng được điều chưa từng có. Tâm ý sảng khoái, được yên ổn hoàn toàn.
2) Sau thỉnh mời, lý do có ba:
Thế Tôn! Chúng sinh đời mạt pháp cách Phật quá xa, Hiền Thánh ẩn tránh, tà pháp tăng mạnh.
Nói ý của thưa hỏi: Như người có con bị bệnh rất lo buồn, Bồ-tát đại bi trước thương xót đời mạt pháp, hiền Thánh ẩn tránh, chánh pháp sắp chìm đắm, muốn khiến rộng lợi ích đời đương lai. Cho nên nêu lên lời hỏi này. Kế chính là thưa hỏi, trước đều có ngã tướng, chưa thể thi công, nay đã trừ chướng mới có thể tu tập, vận dụng theo đây lại có đúng sai, nên phải nương thầy, khỏi chìm đắm bốn bệnh.
33. Chúng sanh phải cầu người nào, nương vào pháp nào?
Khiến các chúng sinh phải cầu người nào: do trước nói cầu Thiện tri thức không rơi vào tà kiến, cho nên ở đây xin hỏi cầu người như thế nào là Thiện tri thức? Trong câu trả lời có đủ ý chỉ.
Nương vào pháp nào? Làm những hạnh gì? Trừ bỏ bệnh gì? Nói phát tâm như thế nào, văn đều hiển rõ.
Giúp cho những người mù kia không rơi vào tà kiến.
3. Nói về những việc phải làm: Sau đây là tuyên bố ba lần mô phỏng theo trước. Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trả lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Phổ giác rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Ông mới có khả năng thưa hỏi Như lai pháp tu hành như vậy, sẽ đen đến cho tất cả chúng sinh đời mạt pháp mắt đạo vô uý. Khiến chúng sinh kia được thành Thánh đạo, nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho. Lúc đó, Bồ-tát Phổ giác vui vẻ vâng lời chỉ dạy, và các đại chúng im lặng lắng nghe. Chính thức nói, trong văn xuôi có năm:
1. Chỉ bày minh sư lãnh sự.
2. Phân biệt bốn bệnh dạy trừ.
3. Phân biệt tâm thờ thầy.
4. Nói về hạnh trừ bệnh.
5. Hiển rõ phát tâm rộng lớn.
Như thứ lớp trả lời năm câu hỏi trước, nhưng lại có ít tướng lạm dụng, nên lại làm rõ văn kinh. Nay trước là trả lời câu hỏi thứ nhất, văn có ba: 1. Khiến biết, 2. Lãnh sự, 3. Hiển bày lợi ích.
34. Phật trả lời Bồ-tát Phổ Giác:
Đây là phần đầu: Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp nên phát tâm rộng lớn: Để phân biệt với các thừa khác, là nhân chính. Cầu Thiện tri thức: là duyên chánh. Khéo rất dễ hiểu chân, biết vọng, biết bệnh, biết thuốc, cho nên tâm đầu tiên khiến cầu. Vănthù bảo Thiện Tài rằng: Gần gũi cúng dường các Thiện tri thức, đầy đủ Nhất thiết trí, là nhân duyên đầu tiên. Nên kinh Quang Tán Bát-nhã chép: Muốn học sáu pháp Ba-la-mật, nên theo chân Thiện tri thức, thường nên kính thờ.
Muốn tu hành: là hạnh cầu giải thoát.
Nên cầu tất cả người thấy biết chân chánh: nêu ý chỉ. Khéo thông suốt giác tính không nhờ tu mà sinh, quyết giải thích không nghi ngờ, gọi là Chánh tri kiến. Kinh Pháp Cú chép: Khéo hiểu sâu pháp không, không tướng, không tác, không sinh, không diệt, liễu đạt các pháp từ xưa đến nay rốt ráo bình đẳng, không nghiệp, không báo, không nhân, không quả, tánh tướng như như trú vào thật tế. Trong rốt ráo không lại rõ ràng kiến lập, ấy gọi là chân Thiện tri thức. Kinh Hoa Thủ chép: có bốn pháp, nên biết là Thiện tri thức, nghĩa là khéo biết giáo hóa tu đạo và các lỗi lầm.
Tâm không trú tướng, lìa cảnh giới phiền não của phàm phu, nghĩa là không nên trú sắc sinh tâm...
Không đắm cảnh giới Thanh văn, Duyên giác, lìa cảnh giới mắc kẹt vào sự vắng lặng của Nhị thừa. Kinh Xưng Tán Đại Thừa chép: Thà ở địa ngục suốt trăm ngàn kiếp, chứ không bao giờ phát tâm Nhị thừa, cũng có thể Chánh tri kiến là phân biệt với ngoại đạo, không trú tướng phân biệt với phàm phu, không mê đắm... phân biệt với Nhị thừa, như trên là thuận hạnh, sau đây nghịch hạnh:
Tuy hiện trần lao: tức là tham...
Tâm thường thanh tịnh: Hiện ở trong nhiễm mà không nhiễm. Như kinh Tịnh Danh chép: tuy có vợ con nhưng thường tu phạm hạnh... kinh Hoa Nghiêm chép: Bồ-tát tại gia ở chung với vợ con, chưa hề xa lìa tâm Bồđề.
Thị hiện có các lỗi: muốn độ chúng sinh có lỗi, trước dùng đồng sự để nhiếp hóa tâm đã gần gũi mới có thể nhận lời chỉ dạy. Như kinh Tịnh Danh chép: vào các phòng dâm chỉ lỗi của tham dục... cũng đồng với Thiện Tài thiện hữu, Bà-tu-mật nữ trong kinh Hoa Nghiêm... khen ngợi phạm hạnh, không để chúng sinh rơi vào bất luật nghi, hoặc vì lợi ích, hoặc có duyên riêng, nên việc làm không đúng khuôn phép, tạm thời trái với chân giáo, thì phải chê bai đó là sai, không được ngụy biện lỗi lầm, nói lý để làm lầm kẻ phàm phu, ở đây không đồng với người tà kiến tự gây ra các lỗi lầm. Lại nói những việc chẳng phải phạm hạnh là chân thật, khiến cho vô lượng người rơi vào đường hiểm, chỉ vì đồng sự nhiếp, tuy hiện các lỗi lầm thường phải khen ngợi phạm hạnh chân thật, nên luận nói: người phá kiến tuy không phá phạm hạnh, nhưng không thể làm đạo nhãn cho các chúng sinh. Tuy phá phạm hạnh mà không phá chánh kiến, chính là ruộng phước chân thật cao quý của người trời.
Cầu người như thế, thì được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Kết thúc thành lợi ích lớn. Hai là lãnh sự, văn có hai:
1. Nêu cái khó của được thân mạng.
Ví dụ cái dễ ở ngoài thân. Trong phần đầu có hai: a) Chánh nêu.
35. Đối với người và pháp ấy:
Chúng sinh đời mạt pháp thấy người như cho nên phải cúng dường không tiếc thân mạng, như Tuyết Sơn bỏ thân, ở hương thành chẻ xương. Sách Nho còn khiến hết sức phụng dưỡng cha mẹ hết lòng nhờ vua, huống chi là chánh pháp? Cho nên kinh Đại Thừa Tứ Pháp chép: các Bí-sô suốt đời cho đến gặp nhân duyên mất mạng cũng chắc chắn không được bỏ Thiện tri thức. Hai là ngăn ngừa nghi ngờ.
Thiện tri thức kia trong bốn oai nghi thường hiện sự thanh tịnh: chỉ cho thuận hạnh ở trước, cho đến thị hiện các lỗi lầm: chỉ cho nghịch hạnh ở trước.
Tâm không kiêu mạn: nói về không nghi. Bồ-tát hóa hiện quyền đạo khó lường, chỉ nương pháp môn chẳng nghi dấu vết, không dùng thuận hạnh bắt chước cung kính, hoặc thấy nghịch hạnh liền sinh kiêu mạn. Cho nên luận Trí Độ chép: Đối với các thầy tôn kính tưởng như Thế Tôn, nếu có thể mở bày giải thích nghĩa sâu xa cởi mỡ nghi kết, với ta có lợi ích thì hết lòng cung kính, không nghĩ các việc ác khác, như túi xấu đựng đầy vật báu kia. Lại như đi đêm, đường nguy hiểm, người xấu cầm đuốc, không phải vì người xấu mà không nhận sự chiếu sáng của họ. Bồ-tát cũng giống như thế, ở thầy được trí tuệ sáng suốt, không chấp cái xấu của thầy, nhưng cái khó của thầy, làm đồ đệ không thay đổi, chớ vì sự răn dạy này mà làm lầm người thô kệch, muốn xét thật hư thì như trước mà phân biệt. Đã am hiểu đạo thì như thế mà vâng thờ. Lại, thuốc trị học trò này, thầy chớ lầm uống, uống vào thêm bệnh, không có thuốc để trị, mà dùng ràng buộc để cởi mở ràng buộc thì không có việc ấy!
Hai là ví dụ về sự dễ ở ngoài thân.
Huống chi lại cầm lấy: cầm lấy thức ăn, người dịch nhầm lược bỏ, nên nói đoàn thực.
Của cải (vải tiền) vợ con (thân nhất) quyến thuộc: người hầu đối trước cái khó của thân mạng, nên nói huống lại. Hai là nói về lợi ích.
Nếu thiện nam với bạn tốt kia không khởi niệm xấu, do trước không kiêu mạn. Nếu khởi kiêu mạn thì niệm ác liền sinh, chướng ngại che lấp tự tâm thì pháp nào được vào?
Liền rốt ráo thành tựu chánh giác, đã không che lấp niệm ác, liền được thành tựu chánh giác.
Hoa Tâm phát sáng, chiếu khắp các cõi mười phương, tâm giác đã sáng chính là ánh sáng trí tuệ phát ra, tiếp xúc không nhiễm, nên gọi là hoa tâm, xứng thể vô biên, chiếu các cõi mười phương. Hai là phân biệt bốn bệnh khiến dứt trừ. Trả lời câu hỏi thứ hai nêu ra pháp mầu nhiệm, giải thích nương viên giác. Viên giác là pháp sở y, pháp này xa lìa bốn bệnh mới đáng nương, hỏi về trừ bốn bệnh ở dưới tự có trả lời. Nhưng văn dường như lạm dụng, nên bao gồm mà chia khoa mục, văn có ba: b) Nêu chung về sinh khởi.
36. Nói về bốn bịnh:
Này người thiện nam! Pháp mầu mà Thiện tri thức kia chứng được nên xa lìa bốn bệnh, thế nào là bốn bệnh? Tâm bệnh vô biên quan trọng chỉ có bốn bệnh này, hễ có một trong bốn bệnh ấy thì không thể làm thầy.
Giải thích riêng hành tướng: đều gọi là bệnh: duyên chung là không lấy lời dạy làm dây mực, không đem thầy làm kim chỉ nam, chỉ tự nêu tâm tác ý như thế. Nên văn kinh đều nói: nếu lại có người nói như vầy: Nói là ý nói. Văn có bốn:
Bệnh tác: nếu lại có người nói rằng: Ta đối với bổn tâm làm các thứ việc, muốn cầu viên giác, là nói về tướng. Suy nghĩ, ước đoán, tính toán so lường, dấy tâm vận động làm các hành tướng, tạo tháp xây chùa, cúng Phật, trai tăng, trì chú tụng kinh, tăng giảng tục giảng, điềm nhiên ngồi thẳng, lập bày các thứ, dừng dứt nơi núi sâu, du lịch thế giới, siêng lo cơm áo cho là đạo duyên nên chịu đói lạnh, cho là công đức, quán không, quán hữu, yêu thân, ghét thân, đối với nhiều hạnh môn hễ chấp một trong các hạnh môn, nương vào một hạnh này mà muốn khế hợp với tâm giác, thì đã là tạo tác sinh tình, đâu hợp với vô vi tịch chiếu? Bệnh này từ trong quán huyễn ở trước sinh ra. Kia nói: Tất cả Bồ-tát khởi hạnh từ đây, cho đến trong các luận đều nói độ sinh, khởi hạnh khởi dụng, mất ý văn kia, thành bệnh tác này.
Tánh viên giác kia chẳng phải làm mà được, dựa vào thể để phá, tánh viên giác chẳng phải tạo tác, tạo tác thì làm sao khế hợp? Nếu rõ tánh giác vốn viên, không dấy tâm cầu lợi ích, không chỗ dấy tâm liền hợp với tâm giác, khi hợp với tâm giác tự không có các vọng, không có các vọng thì chỗ làm tương ưng, dồn đất nhóm cát đều thành Phật đạo, tức các hạnh trên đây, gặp sức duyên mà tiện làm, hễ bệnh nào thì chữa bệnh ấy không thuận theo vọng niệm, chỉ phải hết vọng tánh tự mở sáng, hết tức là Bồ-đề đâu từ ngoài được? Nói bệnh là kết thúc gọi tên, bốn tiết trên đây, ba thứ dưới đây cũng đồng. Hai là mặc ý chìm nổi.
Hai bệnh nhậm: nếu lại có người nói rằng: nay chúng ta không dứt sinh tử, không cầu Niết-bàn, Niết-bàn sinh tử không có niệm khởi diệt, ý nói: sinh tử là không, thì còn có gì để dứt? Niết-bàn vốn vắng lặng, thì còn gì để tu cầu, không nhàm chán không ưa thích, không có niệm sanh diệt.
Nhậm vận tất cả kia tùy theo các pháp tánh, như các loại lửa nóng, nước ướt các tánh đều khác nhau. Thời nay thấy có một hạng người nói vọng từ tha vọng, chân thì nhậm vận tha mà chân, đều xứng với tâm, cần gì sửa đổi? Làm cũng mặc làm, thích rỗi thì rỗi, gặp đói liền ăn, thấy áo liền mặc, việc tốt, việc xấu tất cả không biết, nhậm vận mà làm, tin duyên mà sống, muốn ngủ liền nằm, ngồi dậy liền đi, Đông, Tây, Nam, Bắc đâu chắc chắn đi hay ở? Bệnh này do trước nói viên giác thanh tịnh, vốn không tu tập nương theo chưa giác sức huyễn tu tập, mất ý văn kia, tự cho đã giác cần gì làm huyễn, nên thành bệnh nhậm.
Muốn cầu viên giác: nghĩa là cho rằng nhàn rỗi hợp với đạo. Tánh Viên giác kia chẳng phải do nhậm mà có, trước thì rong ruổi tìm Phật, đây là thân tâm buông lung, nếu thiện ác không trói buộc, thì gọi là tánh vô ký. Bảy hiền chẳng lẽ là đại đạo, tứ hạo đâu phải bậc Thánh, còn mê muội đối với các tầng trời cõi Dục, làm sao thầm hợp với giác thể.
Hành chân đến đây, nước chìm đắm thuyền, phải tự cảnh giác, chớ để mắc phải bệnh này, nên ở trước nói: nếu không tu hành, thường ở huyễn hóa, làm sao giải thoát được? Ba là ngừng dứt vọng tình.
Ba bệnh chỉ: Nếu lại có người nói rằng: Nay tự tâm ta dứt hẳn các niệm, sinh tâm thì sợ sai, theo tình thì lo mất, một bề chỉ dứt đâu hợp với nhậm vận? Nhưng dừng vọng tức chân, đâu cần riêng chiếu?
Được nhất thiết tánh: dứt niệm nên lìa tướng, lìa tướng nên được tánh, là tánh vô tánh của các pháp, chẳng phải là tánh giác.
Bình đẳng vắng lặng: Ý nói do ngã tâm sinh vọng tưởng, vời lấy khổ vui khác nhau, nay chỉ ngừng dứt vọng tâm, vọng hết thì tự nhiên bình đẳng, bệnh này từ trước trong tĩnh quán, ở trước sinh ra, mê kia lấy yên tĩnh làm hạnh, và lắng đọng lời nói của các niệm, do đó thành bệnh này.
Muốn cầu viên giác: Nghĩa là nói dứt vọng tức chân. Tánh viên giác kia không chỉ hợp, giác vốn vô niệm, thấy niệm đã trái, tánh vốn sáng suốt, mê chiếu cũng mất. Niệm vô mà có, đã dừng dứt khiến không, chiếu có mà ẩn, sao không quán sát để cho hiển rõ. Lại, chân vốn vô niệm, niệm đã trái chân, tánh vốn chẳng có chỉ, chỉ cũng trái tánh, nên nói không dừng hợp. Nên trước nói: đối với các vọng tâm cũng không dứt diệt.
Gọi là bệnh: bốn là dứt trừ tâm cảnh.
Bệnh diệt: trước chỉ ngừng dứt tâm niệm cho vắng lặng, ở đây thì chấp thân tâm căn trần xưa nay vắng lặng. Lại, trước không ngại thấy có căn trần, chỉ không tùy niệm ái nhiễm, nên nói ngừng dứt, ở đây thì với căn trần cũng không, giữ gìn tướng vắng lặng, do thấy không vô nên nói trừ diệt.
37. Hình thức khác của bịnh:
Nếu lại có người nói như vầy: Nay ta dứt hẳn tất cả phiền não, thân tâm rốt ráo là không, không thật có, huống chi là căn trần cảnh giới luống dối, ý nói: gốc phiền não chính là thân tâm, nếu chấp thân tâm thì phiền não làm sao dứt? Cho nên nêu dứt phiền não, giải thích thân là không, lại dứt hết phiền não không ngược với thân tâm, thân tâm còn không, căn trần làm sao có?
Tất cả hoàn toàn vắng lặng, muốn cầu viên giác, thân...vốn không nên gọi hoàn toàn vắng lặng, các tướng đã mất hẳn thì tướng vắng lặng hiện tiền, muốn đem tâm này cầu chứng viên giác, bệnh này từ trong quán tịch mà có ra. Trong các luân kia đều nói: vắng lặng và dứt phiền não, mê kia thành bệnh này.
Tánh viên giác kia chẳng phải sự vắng lặng, bởi giác thể sáng suốt không chỉ vắng lặng. Nay diệt hoặc, trụ tịch, đâu được tương ưng? Huống chi viên giác chẳng động chẳng tĩnh, vừa động vừa tĩnh, số cát sông hằng diệu dụng vô ngại khó nghĩ, trụ trong tâm vắng lặng đâu thể khế hợp? Nói thì dường như gần, lý thì là hoàn toàn xa, vì trái với lý nên nói chẳng phải.
Gọi là bệnh, là ba kết thúc nói về chân ngụy.
38. Lìa bốn bịnh thì biết thanh tịnh:
Lìa bốn bệnh thì biết thanh tịnh, dùng bốn hạnh trước tự nghiệm tâm mình, hễ rơi vào bất cứ một môn nào thì biết là bệnh, nên nói lìa thì biết thanh tịnh, nhưng bốn môn trên đều được các kinh khuyến khích khen ngợi, huống chi ba quán trước đầu có văn này. Nay ở đây cho là bệnh là có hai ý.
1. Trong bốn bệnh đều không có quán tuệ.
2. Chỉ hướng tâm riêng trụ một hạnh.
Không tìm bạn lành ý tốt, không nghiên cứu Phật giáo văn hay, vừa mới ngộ nghĩa của một môn, thì không thể thờ phụng minh sư lâu dài, mới thấy văn mầu nhiệm một kinh, liền không thể rộng nghiên cứu Thánh ý, chỉ tham lam riêng xét, chấp một làm viên, cho nên văn kinh đều trách là bệnh. Nếu có thể cả bốn đều thông suốt, không mắc kẹt vào một môn, chính là trong bốn môn này cùng ngang nhau đều nhập đạo, tuy nhiên thực hành các hạnh, xưa nay nhậm vận thanh nhàn, mặc dù đốn giác thân tâm vốn không, nhưng tập khởi cần phải dứt bỏ, lại phải thường thầm hợp với giác thể, không được nhận bốn làm tâm, thời tự nhiên lúc nghỉ chẳng phải nghỉ, khi làm chẳng phải làm, nên kinh Tịnh Danh chép: Chỉ trừ bệnh mà không trừ pháp.
39. Thực hành quán này gọi là chánh quán, quán khác là tà quán:
Thực hành quái này gọi là chánh quán, tức trên đã giải thích trừ bệnh pháp còn, chính là chánh quán, mặc dù không nhận bốn bệnh, mà tuệ giải chiếu rõ, nhưng không lo rơi vào trong bốn, liền không "kiến chí lập tiết". Nếu quán khác gọi là tà quán, lại có khi nghe đây bốn lỗi lìa bốn. Lại sinh tình liền tin vào lòng dạ làm kiến giải riêng, nên nói tà quán, lại người thực hành quán ấy, thì lìa bốn, người quán khác là nhận bốn, khi hỏi vì nói, để phân biệt với khi thầy cầu lìa bệnh ấy, vì nói người học tự lìa bốn bệnh, nếu nói bệnh của thầy thì đâu cần nêu riêng mục lục trong câu hỏi. Lại kết thúc nói thực hành quán ấy...
Nếu nói người học bệnh thì vì sao nêu pháp mầu của Thiện tri thức sở chứng lẽ ra lìa bốn bệnh?
Trả lời: Cả hai đều không khác, đã nghe kinh biết bệnh, phải cầu thầy lìa bệnh, đã thờ thầy này, tức là tu hành lìa bệnh, nhưng trong giải thích riêng, hoặc thầy hoặc trò bệnh không có tướng riêng, tuy hợp hai ý mà không hai đường. Trong văn giải thích kết thì phải phân biệt, nếu kết thúc hành nhân thì nương giải thích trước, hoặc kết thúc phân biệt với, thầy thì không có bốn bệnh, liền phải trở về nương, gọi là chánh quán, hoặc dù chí riêng cầu, gọi là tà quán, nên giới Bồ-tát nói: Pháp sư kia hoặc dòng họ thấp kém, tuổi nhỏ nghèo hèn, mà thật có đức, vì thế không được xem dòng họ của pháp sư, ý nói: Chỉ cần quán trong bệnh lìa và không lìa, chẳng quán chủng tánh sang hèn.
40. Nói về tâm thờ thầy:
Phân biệt tâm thờ thầy.
Ở đây sẽ trả lời câu hỏi thứ ba làm những hạnh gì? cho nên nói rằng: Muốn tu hành, kết thúc nói tu hành như thế, nhưng vả lại chỉ nói thờ thầy, không có hạnh khác, cho nên chỉ soạn khoa này chia ra để phải tu hành, nghĩa là hạnh môn Bồ-tát vốn không chắc chắn dấu vết cũ, tùy theo việc đương thời theo căn sơ khác nhau, chỉ khiến khéo kính thờ minh sư, minh sư sẽ tự gặp việc mà chỉ bảo, cũng giống như Thiện Tài với Văn-thù đối đãi phát tâm Bồ-đề rồi hỏi hạnh Bồ-tát, Văn-thù không nói đủ, chỉ dạy là gần gũi Thiện tri thức.
41. Cúng dường bạn lành, kính thờ thiện tri thức:
Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp muốn tu hành nên phải hết sức cúng dường bạn lành, kính thờ Thiện tri thức. Như Thiện Tài ở phía Nam đã qua Phổ Hiền ở phía Tây. Kinh Niết-bàn chép: Chính là đầy đủ nhân duyên, cho nên kinh Pháp Cú chép: Thiện tri thức như cha mẹ, mặt, mũi, tay, chân, bậc thềm, cơm áo, áo giáp, dao, thuốc... Cho đến nói: Này người thiện nam! Thiện tri thức có vô lượng công đức như thế, cho nên nay ta bảo người gần gũi, đại chúng nghe rồi cất tiếng than khóc...
Thiện tri thức kia muốn đến gần gũi, nên dứt kiêu mạn, thiện hữu độ người bằng nhiều phương tiện, thầy trò tâm khế hợp ý mới truyền pháp, vì thế y theo căn cơ chúng sinh, gần gũi lẫn nhau, người ngu không biết, liền sinh kiêu mạn, mạn đã che tâm thì không thể nhập đạo, vì thế nói nên dứt bỏ.
42. Cách tu để nhập vào Viên giác:
Nếu lại xa lìa nên dứt bỏ sân hận: hoặc muốn dứt trừ kiêu mạn, hoặc gặp duyên khác, cùng xa lìa nhau liền sinh tức giận, rằng sợ ta thân kia, nói yêu nói ghét đã một niệm sân thì trăm ngàn chướng khởi. Chẳng những mất đạo, mà còn rơi vào ba đường, nên ở đây dạy dứt bỏ. Luận ngữ nói: Chỉ có nữ giới (con gái) và Tiểu nhân là khó nuôi dưỡng, gần thì không khiêm nhường, xa lại oán trách, oán thì tức giận, không nhường thì kiêu mạn.
Hiện cảnh nghịch thuận, xa lìa gọi là nghịch, gần gũi gọi là thuận. Lại trái với tình gọi là nghịch, theo tình gọi là thuận, nên kinh Thắng-man chép: Người đáng nhiếp thọ thì nên nhiếp thọ.
Người đáng chiết phục thì nên chiết phục, Phật pháp tồn tại lâu dài giống như hư không, tâm không thay đổi.
Biết rõ thân tâm rốt ráo bình đẳng cùng các chúng sinh đồng thể không khác. Kết thúc chỉ bày bi trí đồng thể, sở dĩ như vậy. Vì nếu không hiểu thiện hữu và các chúng sinh và mình đồng thể thì tuy biết Bồ-đề có thể tiến, mà không thể khuất phục để thờ thầy, tuy biết Tátđỏa đáng thương, mà không thể quên thân mở đạo, nên ở đây chỉ bày.
Tu hành như vậy mới nhập vào viên giác, kết nhân thành quả, bốn gọi là hạnh trừ bệnh. Chính là trả lời câu hỏi thứ tư trừ bỏ bệnh gì, văn có hai: trước là nói chữa trị.
43. Lý do không được nhập vào Viên giác:
Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp không được thành đạo, do có (tự tha) mình, người, yêu, ghét, tất cả các hạt giống từ vô thỉ, chưa giải thoát, mình, người, yêu, ghét trước đã nhiều lần nói rõ nay lại nói nữa, do các hạt giống này là bệnh vi tế vào đạo, do các hạt giống này khó khế hợp tròn sáng, tùy theo pháp môn sở văn (đã nghe) liền sinh tâm tác ý, bỏ đây nhận kia, ghét vọng yêu chân, khó quên năng sở, nên sau có thể chữa trị, nói liền trừ các bệnh, hiện hạnh thô nên dễ biết, hạt giống nhỏ nhiệm nên khó rõ, vì thế chỉ riêng. Sau nói có thể trị, văn có hai:
44. Quán bình đẳng:
1) Đẳng tâm quán nhân (quán người và tâm bình đẳng) nếu lại có người quán kẻ thù kia, như cha mẹ mình tâm không có hai, liền dứt trừ các bệnh. Trong bảy phẩm hành từ, đây là kẻ thù bậc thượng, đồng với thân ở trước.
Quán đã đồng nên cùng vui trên.
2) Quán pháp và tâm bình đẳng.
Đối với các pháp mình, người, yêu, ghét cũng giống như thế, trước đã nói kẻ thù và cha mẹ không hai. Đây dụ cho quán pháp nên nói Niết-bàn, sinh tử không khác, không khác thì không tự, tha, yêu, ghét. Nên biết các bệnh chỉ do yêu chân ghét vọng, thấy mình, thấy người, không thể thờ thầy lâu dài, chỉ tự sinh tình khởi hạnh, nay đã dứt bỏ hạt giống này thì các bệnh tự trừ. Vì thế trong quán người tức trừ các bệnh, ở đây nói cũng giống như thế. Lại, trong các pháp này nói tự, tha, yêu, ghét rất khác ở đoạn trước, đoạn trước không nói pháp.
-Nói về phát tâm rộng lớn, là trả lời câu hỏi thứ năm, văn có ba:
1. Nêu chung phát tâm.
2. Nói riêng về tướng của tâm.
3. Kết thúc chung về lìa tà.
45. Muốn cầu Viên giác thì nên phát tâm:
1) Này người thiện nam! Chúng sinh đời mạt pháp muốn cầu viên giác, nên phải phát tâm nói như vầy: Nhân địa của chư Phật đều phát tâm này, nương đây nguyện tu mới thành chánh giác. Nếu không có tâm nguyện hướng dẫn, thì sự tu hành cũng không thành.
2) Nói riêng về tướng của tâm: Ở đây đồng với trong kinh Kim cương đủ bốn tâm, bốn tâm ấy: bài tụng của Ngài Di-lặc nói trong kinh ấy: rộng lớn bậc nhất, tâm kia thường không điên đảo, ở đây văn có hai, hai văn hợp.
a) Rộng lớn bậc nhất.
Tất cả chúng sinh Khắp cả hư không, tâm là rộng lớn. Kia nói bốn sinh chín loài.
Ta đều khiến nhập viên giác rốt ráo, tâm bậc nhất. Kinh ấy nói nhập Vô dư Niết-bàn, đều tùy theo tông. Nhưng Bồ-tát phát tâm đều không chia cắt. Bình đẳng với thế giới chúng sinh, không phân biệt oán thân, khắp khiến tu hành đồng trở về viên giác, hư không chúng sinh không có bờ mé. Bi nguyện Bồ-tát cũng giống như thế. Do phát nguyện này tự huân thành hạt giống, nương nguyện lực này nhậm vận hóa độ, không cần khởi tâm. Chư Phật ba đời đều đồng với ở đây, nếu không như thế, thì không khác Nhị thừa.
b) Thường không điên đảo.
Đối với viên giác không chấp giác, tâm là thường. Khi ngã nhập giác, ngã tức viên giác, chúng sinh cũng giống như thế, làm sao có thủ? Cho nên ngài Thiên Thân nói: Tự thân diệt độ không khác chúng sinh, nên gọi là thường tâm. Nếu có chúng sinh nhờ ngã nhập giác, thì chẳng phải thường.
Trừ tất cả các tướng ngã nhân kia, tâm không điên đảo, cho nên ngài Thiên Thân nói: xa lìa chỗ nương, đích thân thấy tướng chúng sinh... nên ngài Vô Trước nói: đã dứt ngã kiến, được tự hành ý tưởng bình đẳng, nên tin hiểu tự, tha bình đẳng. Trên đây đều là ý kinh thật không có chúng sinh nào được diệt độ. Nếu có các tướng ngã nhân... thì không phải Bồ-tát.
c) Kết luận chung về lìa tà.
Phát tâm như thế không rơi tà kiến: Rất dễ hiểu, trong văn kệ có năm: Hoàn toàn giống với Văn xuôi.
46. Phật nói bài kệ:
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên ngài nói kệ rằng: Lại nêu lên.
Phổ giác ông nên biết
Chúng sinh đời mạt pháp
Muốn cầu Thiện tri thức
Nên phải cầu chánh kiến.
Tâm xa lìa Nhị thừa.
Trong pháp trừ bốn bệnh, là tác, chỉ, nhậm, diệt.
Gần người không kiêu mạn, xa lìa không tức giận, thấy các thứ cảnh giới. Tâm nên sinh ít có, giống như Phật ra đời, là ba.
Văn xuôi thông suốt đã đồng phàm phu, đây là kính thầy như Phật.
Không phạm chẳng luật nghi, giới căn mãi thanh tịnh, là bốn chỉ tụng năng tri trước, vì sở trị yêu ghét là nhân phạm giới, nói rằng chưa giải thoát cũng trái với giới đức, ở đây nói không phạm và mãi thanh tịnh.
Độ tất cả chúng sinh, vào viên giác rốt ráo.
Không tướng ngã nhân kia, phải nương chánh trí tuệ liền thoát khỏi tà kiến, chứng giác nhập Niết-bàn, là năm, câu này văn xuôi không, ở đây có, nghĩa của bát Niết-bàn, để đối với Phật xuất hiện ở văn dưới, văn sẽ giải thích.
47. Hỏi đáp về gia hạnh:
Sau một câu hỏi đáp, đạo tràng gia hạnh, hạ căn tu chứng, chỗ đắc đạo gọi là đạo tràng, nghĩa là ở chỗ này ý chí thệ nguyện hạn kỳ, gia công dụng hạnh để cầu chứng nhập, nên gọi là gia hạnh. Hạ căn tu chứng: Nghĩa là tuy tin hiểu pháp trước, mà chướng nặng, tâm thô phù, phải vào đạo tràng tự theo khuôn phép, duyên mạnh cảnh tốt thì công dụng có lúc đạt được, ở đây hỏi vào đạo tràng chỉ là tu ba quán trước, đâu được làm khoa lớn riêng?
Trả lời: Pháp môn quán hạnh tuy giống nhau, nhưng phương tiện tu khác nhau, tùy căn cơ lập bày, cho nên văn đây hết trước nói không. Hoặc ở trong Già-lam (chùa) sắp đặt đồ chúng ở yên, tùy phần suy nghĩ quán sát, như ta đã nói, kết thúc rồi sau nói nghi thức đạo tràng, cho nên biết là một đoạn riêng. Bấy giờ, Bồ-tát Viên giác: Nghĩa như trước đã giải thích, văn có bốn:
Phần đầu của ba phần đầu.
48. Bồ-tát Viên giác lễ Phật, thưa hỏi:
Ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: là phần chính nói trong đó có hai:
1. Trước chúc mừng.
49. Xin Phật nói rộng phương tiện tịnh giác:
Xin Đức Đại Bi Thế Tôn vì chúng con nói rộng các thứ phương tiện của tịnh giác, khiến chúng sinh được lợi ích lớn, giải thích rất dễ hiểu.
Thỉnh mời sau.
Bạch Đức Thế Tôn! Nay chúng con đã được khai ngộ, theo văn chúc mừng trước.
Nếu sau khi Phật diệt độ chúng sinh đời mạt pháp những người chưa được ngộ: Nêu việc phải làm. Dưới đây chính thức thỉnh rằng: Vì sao an cư tu cảnh giới thanh tịnh viên giác này: Hỏi về đạo tràng.
Ba thứ tịnh quán trong viên giác này lấy gì làm đầu? Hỏi về gia hạnh. Cúi mong đại Bi vì các đại chúng và các chúng sinh đời mạt pháp làm lợi ích lớn, kết lời thỉnh mời, dưới đây xướng ba lần mô phỏng theo trước.
50. Phật trả lời Bồ-tát Viên giác:
Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, thỉnh ba lần như thế, đến cuối thì trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Viên Giác rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Ông mới có khả năng hỏi Như lai phương tiện như thế, làm lợi ích lớn cho các chúng sinh. Nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho. Lúc bấy giờ, Bồ-tát Viên giác vui mừng vâng lời chỉ dạy, và các đại chúng im lặng lắng nghe. Chính thức nói, trong văn xuôi có hai:
1. Trả lời đạo tràng.
Trả lời gia hạnh. Trong phần đầu có hai: a) Kết thúc trước.
Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh, hoặc Phật trụ thế, hoặc Phật diệt độ: Chánh pháp, tượng pháp.
Nếu khi mạt pháp có các chúng sinh có tánh Đại thừa, đời trước có nghe huân tập hạt giống. Không đồng với duy thức phân biệt với các tánh khác, tin Phật bí mật đại viên tâm giác văn tuệ mới mở.
51. Phải phát tâm Bồ đề:
Người muốn tu hành phát tâm Bồ-đề: Trên đều nói về đương cơ. Hoặc tại già-lam, xếp đặt đồ chúng ở yên, có duyên sự nên tùy phân suy xét như ta đã nói, nghĩa là Bồ-tát Viên cơ, không đắm nhàn rỗi, lập bày các việc lợi ích, rộng độ chúng sanh, pháp môn tu học, tùy theo trong phần nhàn rỗi kia, thì liền suy nghĩ quán sát ba quán, nên nói là tùy phần, chẳng gọi kiến giải chưa đủ, gọi là tùy phần. b) Chính thức nói, văn có ba:
1. Kỳ hạn đạo tràng.
2. Thời gian tu hành.
3. Khuyên răn về tà chánh.
-Nếu lại không có nhân duyên việc khác, Bồ-tát gặp lợi ích liền làm, gặp duyên liền đến, như những việc làm quan trọng trong kinh Pháp Hoa, liền lập đạo tràng, nên lập kỳ hạn nếu lập kỳ hạn dài một trăm hai mươi ngày, kỳ hạn vừa một trăm ngày, kỳ hạn ngắn là tám mươi ngày, nếu không thắng lợi, thì phải lập đạo tràng khắc phục ý chí gia công để đợi chờ Thánh quả, ba kỳ đều là tự lợi, vì để phân biệt với lợi tha cho nên gọi là không có việc khác. Cũng có thể vua, giặc, mạng nạn gọi là là việc khác. Hạn định là ba kỳ, nếu quá thì sinh tâm mệt mỏi, thiếu thì công hạnh chưa đủ nên lượng khắc ba kỳ cũng không có nghĩa khác, nhưng y theo phối với ba căn, kia có hai ý.
1. Nói về chướng hết khó dễ, phối với hạ căn thời kỳ dài, trung căn thời kỳ vừa, thượng căn thời kỳ ngắn.
2. Nói về phối hợp tinh tấn biếng nhác: tức là trái với ở đây, căn có lợi căn, độn căn, kỳ có xa gần, tùy bệnh cho thuốc chính là nghĩa ở đây?
52. Sắp đặt chỗ ở riêng:
Bố trí chỗ ở yên muốn cho trong ngoài thanh tịnh, thân tâm trong sạch, sự lý xứng hợp.
-Trong giới hạn tu hành, văn có hai:
1. Nói về hành tướng đạo tràng.
2. Nói về gặp hạ an cư.-Trước văn có hai:
a. Nói về tùy tướng dụng tâm.
Hoặc Phật hiện tại, đối với chúng Bồ-tát trong hội đương thời.
Nên chính suy nghĩ: Nói về không cần thiết tượng... nên biết duy tâm, không có cảnh giới bên ngoài.
Hoặc Phật diệt độ, đối chúng sinh thời mạt pháp lập bày hình tượng, tâm giữ mắt tưởng, sinh nhớ nghĩ chân chính, lại đồng với khi Như lai thường trụ, nói về ý nghĩa lập tượng, nghĩa là Đại sư qua đời, không thấy chân nghi, lập tượng đế quán dẫn tâm vào pháp, tướng tức vô tướng liền thấy Như lai, cũng có thể tưởng chân thân Phật thường còn không diệt. Nếu nói xứng lý là quán hạnh không dứt quãng chính là Phật hiện tại, khi dứt quãng là Phật diệt độ, sau khi dứt quãng lại thực hành quán là thực hành suy nghĩ. Là thiết tượng tồn tưởng, nay lại nương việc làm để giải thích.
b. Dưới đây là nói về nghi thức sám hối.
53. Cách lập đàn tràng:
Treo các phướn đẹp, sửa soạn đàn tràng, đầy đủ như kinh Phương đẳng nói. Trải qua hai mươi mốt ngày, cách thời gian lâu mau, kinh Phương đẳng ít nhất là bảy ngày, lâu thì không ngại. Kế lại sau đây nói về pháp sự, y theo kinh Ly Cấu Tuệ Bồ-tát Sở Vấn Lễ Phật Pháp thì gồm có tám điều quan trọng:
54. Kinh nói có tám điều quan trọng:
1. Cúng dường.
2. Tán Phật.
3. Lễ Phật.
4. Sám hối.
5. Khuyến thỉnh.
6. Tùy hỷ.
7. Hồi tướng.
8. Phát nguyện.
55. Nói về sám hối và lễ Phật:
Ở đây lược bớt chỉ còn hai:
Là sám hối và lễ Phật. Nhưng văn tuy lược pháp phải đủ hạnh. Trong luận cũng nói: nên phải siêng năng lễ Phật, sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng, thường không dừng nghỉ, được khỏi các chướng, thêm lớn gốc lành. Kinh Hoa nghiêm cũng dạy lễ kính, xưng tán, cúng dường, sám hối...
Đảnh lễ danh hiệu chư Phật mười phương là lễ Phật, dùng danh hiệu xướng lễ quán sát đảnh lễ. Theo lễ Phật quán môn của Tam tạng Lặc-na, thì có bảy thứ hơn kém.
1. Ngã mạn lễ.
2. Xướng họa lễ (hai cách này chẳng đúng).
3. Cung kính lễ: Kính từ trong tâm phát ra ở thân, miệng, năm luân gieo sát đất.
4. Vô tướng lễ: Vào sâu pháp tánh, lìa tướng năng sở.
5. Khởi dụng lễ: Quán thân và Phật đều từ duyên khởi, như huyễn như bóng, vận khắp thân tâm lễ khắp tất cả.
6. Nội quán lễ: Chỉ lễ pháp thân chân Phật, không duyên Phật khác.
7. Thật tướng lễ: Hoặc trong, hoặc ngoài, hoặc phàm, hoặc Phật đồng một tướng, thấy có Phật để lễ cũng là tà kiến, quán thân thật tướng quán Phật cũng giống như vậy, gọi là bình đẳng lễ, cho nên ngài Vănthù nói: Không sinh không diệt, kính lễ vô sở quán... nhưng bốn phép lễ sau đều thuộc quán hạnh, nghĩa là không quán lễ chân đế Phật thứ tư, là tánh của nhập pháp. Năm là giả quán lễ tục đế Phật, từ lễ khởi dụng. Sáu là trung quán lễ Đệ nhất nghĩa đế Phật: Chẳng chấp không, sắc, thấy thẳng bổn giác chân tánh. Bảy là Tam quán Nhất tâm lễ tam đế Nhất cảnh Phật. Không lấy chân bỏ giả, dứt bặt, không nương lựa. Nay kinh đã là trong môn tùy tướng, lại phải là lễ thứ ba, thứ năm. Các pháp lễ còn lại là lìa tướng nhiếp niệm trung.
56. Lại nói về sám hối:
Cầu xin sám hối, nói đủ là Sám-ma, Hán dịch là Hối quá, nếu nói riêng thì sám nghĩa là trình bày phát lộ tội trước, hối: chừa bỏ lỗi lầm về sau, chỗ sám pháp kia không ra ngoài ba chướng hoặc nghiệp báo... nay muốn sám phải biết nguyên nhân lần lượt phát sinh, do bất giác vô thỉ, khởi tham, sân, si, phát sinh thân, miệng, ý, gây ra tất cả nghiệp, chịu các khổ não, sám có hai ý: Hoặc nói trách tâm, ba chướng đều sám, hoặc y theo sở tác, chỉ sám nghiệp ác. Nghiệp ác lại có tánh tội, già tội. Già tội nương giáo thực hành pháp sám. Tánh tội thì phải khởi hạnh. Khởi hạnh có hai:
1. Sự hạnh: như kinh Phương Đẳng Phật Danh...
2. Lý hạnh: như kinh Tịnh Danh quán tội không ở trong, ngoài... ngoài ra ý như trên.
57. Các tướng lành của việc sám hối:
Gặp cảnh giới tốt là cảm ứng, hoặc thấy tượng Phật, hoặc thấy ánh sáng, không khởi tâm cho là mình chứng Thánh gọi cảnh giới tốt, nếu khởi tâm cho mình chứng Thánh liền rơi vào các tà, nên văn sau nói: chẳng có sở văn ấy, tất cả cảnh giới cuối cùng không nên che lấp, nếu theo ý của Thiên Thai thì liền tương ưng với tín... gọi là cảnh giới tốt.
Tâm được nhẹ nhàng: Được lợi ích. Thân tâm đều hòa thoải mái nhẹ nhàng, lợi ích an hòa. Tinh thần sảng khoái thanh thản (chi thể) nhẹ nhàng tươi mát.
58. Nói về lìa tướng dụng tâm:
Kế là nói về lìa tướng dụng tâm. Được hai mươi mốt ngày (theo ở trước) một bề nhiếp niệm, cũng gọi là hội duyên nhập thật, nghĩa là ban đầu dùng tâm trần thô trọng, để nương tướng tốt làm duyên. Tướng đã vắng lặng nên nhập thật. Về nhiếp niệm:
Luận chép: Nếu tu chỉ thì trú ở chỗ yên, ngồi thẳng chánh ý, cho đến nếu tâm rong ruổi, liền nên nhiếp về, trụ vào chánh niệm. Chánh niệm: nên biết duy tâm, không có cảnh giới bên ngoài, nhưng luận và kinh đều trước phải lễ sám... để trừ bỏ trược của hoặc nghiệp, kế là dùng chánh niệm thu nhiếp sự tán động rong ruổi vừa không lại vừa lặng, mới có thể hiện tượng Phật. Ba là nói về gặp hạ an cư, văn có ba:
59. Nói về gặp hạ an cư:
1. Nêu khác với Thanh văn: hoặc trải qua ba tháng hạ an cư, nên vì Bồ-tát thanh tịnh chỉ trụ. Song lập đạo tràng, hoặc lập ở chùa, hoặc ở chỗ khác, kỳ hạn chưa đủ đầu hạ đã đến, nhập chúng an cư thì trái thệ ước. Dấy niệm kết hạ thì lộn xộn quán tâm, người trong đạo tràng do đây nghi hoặc, xa nghĩ Như lai cho nên nói rõ, vì thế tục mà trái luật thì sai, vì việc lớn mà bỏ việc nhỏ thì không lỗi, cho nên kinh quyết định Tỳ-ni chép: Giữ giới Thanh văn là phá giới Bồ-tát, giữ giới Bồ-tát là phá giới Thanh văn. Tâm lìa Thanh văn: Đại tiểu khác nhau. Kế là ở dưới nói: Không nhờ đồ chúng không cần sáu hòa, đến ngày an cư liền ở trước Phật nói như vầy: Nói như dưới đây.
2. Chính thức trình bày câu.
Con là Tỳ-kheo: là tiếng Phạm, gồm có ba nghĩa nên giữ tiếng phạm không dịch. 1. Bố ma. 2. Khất sĩ. 3. Tịnh giới.
Tỳ-kheo-ni: ni là nữ, Tỳ-kheo nữ.
Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di: Hán dịch cận sư nam, cận sư nữ, nghĩa là gần gũi Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni mà giúp đỡ. Tức là người nam và người nữ đã quy y Phật, Pháp, Tăng và thọ trì năm giới cấm. Tiểu thừa hạn cuộc trong hai chúng, Đại thừa đạo tục đều thấm nhuần.
Tên là mỗi vĩ đều tự xưng tên mình.
Y cứ Bồ-tát thừa: Phân biệt với xe trâu, xe dê. Tu hạnh vắng lặng: Phân biệt với hạnh tứ đế.
60. Thân tâm an cư:
Đồng nhập vào thật tướng thanh tịnh trú trì: Để phân biệt với sự tướng trụ trì. Dùng đại viên giác làm già-lam của con: Hán dịch là chúng viên. Viên (vườn) là chỗ chúng ở, viên giác là sở y (chỗ nương) của muôn đức, do biển tám thức lóng trong chảy vào vắng lặng, thể trùm khắp pháp giới nên được gọi là đại, trong tứ trí thì thuộc về đại viên cảnh trí. Thân tâm an cư, thân là năm thức, nương sắc thức phát ra, tâm tức là ý thức, vì năm thức nhận trần, ý thức phân biệt huân.
Sóng từ đó sinh nên không gọi an. Nay ý không phân biệt, năm không vọng duyên, biết sóng vắng lặng, cùng thể nhất như, nên gọi an, thân an tức là thành sở tác trí, tâm an nên thành diệu quán sát trí.
Bình đẳng tánh trí: Ở đây do bốn hoặc tương ưng, vọng chấp lại-da làm ngã trong chính mình, đối với lý bình đẳng, khởi nên cái thấy không bình đẳng, nay sở duyên tánh đã vắng lặng, năng duyên bảy thức tự như, như tánh đều đồng, nên là bình đẳng.
Tự tánh Niết-bàn không bị hệ thuộc: Vì để phân biệt với Nhị thừa chấp đắm nơi chốn, nay thuận theo pháp tánh nên không sở thuộc.
61. Không an cư với Thanh văn, an cư với Phật và Đại Bồ-tát:
Nay con cung kính thưa thỉnh, không nương Thanh văn, nên cùng Như lai mười phương và Đại Bồ-tát an cư ba tháng, vì tu diệu giác vô thượng của Bồ-tát duyên lớn. Không hệ thuộc đồ chúng: Tiểu thừa, Đại thừa an cư, lược có tám dị:
1. Sở y dị: Biệt giới viên giác.
2. Giả thật dị: Định thật thị hiện.
3. Trú trì dị: Sự tướng thật tướng.
4. Kết an dị: Đối thú tác pháp riêng xưng danh hiệu mình.
5. Thành an dị: Thân không ra khỏi giới, tâm không khởi niệm.
6. Thất an dị: Thân ra khỏi giới, niệm khởi trái gốc.
7. Hoàn giới dị: Thân không vượt thời và giới, niệm không xen hở nên giác ngộ.
8. Sở kỳ dị: Quả A-la-hán, Vô thượng Bồ-đề, vì có tám điều dị này, nên nói không nương và làm chỗ tu.
Nhân duyên lớn: Ý không chấp tiểu tiết.
Kết thúc chỉ bày kỳ hạn nghỉ.
Này người thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát thị hiện an cư.
61. Nói thêm về an cư:
Quá ba kỳ, mỗi ngày trôi qua không ngại: Đạo tràng ba kỳ đã mãn, Tiểu thừa hạn định, mùa Hạ chưa xong, vì gốc không phải Tiểu thừa an cư cho nên không ngại, tùy đi không ngại.
-Răn dè chấp lấy tà chứng.
Này người thiện nam! Nếu chúng sinh tu hành đời mạt pháp kia, cầu đạo Bồ-đề, nhập vào ba kỳ: Chỉ cho hành nhân ở trước. Chẳng phải sở văn kia tất cả cảnh giới không hề đáng chấp lấy: Nêu chung cảnh sở chứng trong gia hạnh, răn nhắc sai lầm kia, nói tín giải hạnh chứng tuy giai cấp khác nhau mà pháp sở tín cho đến sở chứng xưa nay không khác, nghĩa là hiểu thì hiểu sở tín kia, tu thì tu sở giải kia, chứng thì chứng sở tu kia, nay nói chứng được cảnh giới, hoặc chẳng phải các pháp sở tín... thì không nên chấp. Hai là trả lời gia hạnh, văn có ba:
62. Nói về gia hạnh:
1. Tu riêng ba quán.
2. Tu cả ba quán.
3. Tu xen lẫn ba quán. Ban đầu, văn có hai:
- Giải thích riêng
- Kết thúc chung. Trong phần đầu có ba: a. Tĩnh quán.
b. Huyễn quán.
c. Tịch quán.
Trong phần đầu lại có ba: Một là Tu quán thành.
63. Tu-Xa-ma-tha như thế nào?
Này người thiện nam! nếu chúng sinh tu Xa-ma-tha, trước chấp lấy chí tĩnh, không khởi suy nghĩ: nghĩa như trên giải thích. Tĩnh cùng cực liền giác, thoát khỏi tướng động tĩnh, viên giác hiển hiện, như trước từ không nhập trung.
Sơ tĩnh như thế, từ một thân cho đến một thế giới, giải thích tướng tĩnh, ở trên tự tha trùm khắp, tĩnh trùm khắp tuy không trước sau, nhưng y theo hành nhân thú nhập, nên từ hẹp đến rộng.
Giác cũng giống như thế, ví dụ cho tĩnh: lẽ ra nói sơ giác như thế từ nơi một thân đến một thế giới. Tĩnh tức là thể, là định. Giác tức là tuệ, là dụng. Sơ quán thành không thấy tướng của tự thân. Gọi một thân tĩnh, do khi thân tĩnh thì đương thể là giác, gọi là nhất thân giác. Thế giới cũng vậy.
Hai là khởi công dụng.
Này người thiện nam! Nếu giác trùm khắp một thế giới, trong một thế giới có một chúng sinh, dấy một niệm thảy đều biết được, biết niệm chúng sinh, thế giới đã hoàn toàn thành giác, chúng sinh hoàn toàn ở trong giác, nên niệm sở khởi đều thông suốt, như bóng soi vào gương, gương chiếu không sót.
Trăm ngàn thế giới cũng giống như thế, giống như đây có thể hiểu, nói thời dùng một so sánh với cho nhiều, giác phát thì đồng thời đã trùm khắp.
Ba là răn dè tà chứng.
Chẳng phải tất cả cảnh giới sở văn kia đều không nên chấp lấy, văn nghĩa đều giống như trên.
Kế là huyễn quán, văn có hai:
1. Nói về chánh quán:
64. Tu-tam-ma-bắt đề như thế nào?
Này người thiện nam! nếu các chúng sinh tu Tamma-bát-đề, thì trước phải nhớ nghĩ Như lai mười phương, tất cả Bồ-tát mười phương thế giới, nương vào các môn, thứ lớp lần lần siêng năng tu hành Tam-muội. Trước đến tĩnh quán không nhờ duyên bên ngoài, trong huyễn môn đại khởi phải nương Thánh cảnh, trong đoạn oai đức ở trước nói viên, cho nên y theo đại bi hóa sinh. Nay trong đại tràng lại tự khắc tu, cho nên y theo đại trí cầu Phật, cũng có thể chư Phật, Bồ-tát sẽ dùng đại bi làm gốc. Nhưng nương vào Phật, Bồ-tát các thứ pháp môn tự nhiên có đủ đại bi. Trong đạo tràng lại học tâm từ bi, hạn đủ đối duyên liền đem ứng dụng giáo hóa. Thứ lớp: chí tĩnh ở trước quay về thể công thì đốn hiện. Nay theo tướng khác nhau cho nên thứ lớp. Cho nên trước có khởi công dụng, nay thì không có văn, chính là ý này.
Rộng phát đại nguyện, tự huân thành hạt giống: nguyện nghĩa là mong cầu ưa muốn, chúng sinh từ vô thỉ đến nay niệm niệm mong muốn cảnh cảnh năm trần, nay đã liễu ngộ, nên phát tâm niệm niệm mong muốn cảnh sáu độ bi trí... huân tâm thành quen, nên nói hạt giống.
2. Răn nhắc tà chứng.
Chẳng phải tất cả cảnh giới sở văn kia đều không nên chấp lấy: Đồng như trên.
Kế là Tịch quán, văn có ba:
-Tu quán thành.
65. Tu Thiền-na như thế nào?
Này người thiện nam! Nếu các chúng sinh tu Thiềnna, trước chọn số môn, đây có hai ý:
-Trước dùng sổ tức quán môn, trị các giác quán từ từ nhập diệu cảnh, nhưng tu hơi thở ra vào: Có sáu diệu môn:
1. Sổ.
2. Tùy.
3. Chỉ.
4. Quán.
5. Hoàn.
6. Tịnh.
Hoặc y theo thứ lớp, hoặc tùy tiện, như sớ có giải thích rộng.
-Dưới đây tâm niệm sinh diệt sở tri, bèn là sổ môn.
Trong tâm biết rõ giới hạn đầu số của sinh trụ diệt niệm, do tâm trước dứt tướng nương hơi thở điều tâm tịnh, nên biết rõ trong tâm sinh trú, dị, diệt, thô, tế, vọng, niệm, bổn, mạt, giới hạn, đầu mối, số lượng, nghĩa là sinh diệt mỗi thứ đều có một.
Trú: bốn, dị: hai kinh không có chữ "dị", hoặc thoát nghĩa hoặc sơ lược, nghĩa phải có đủ, y theo luận nói Thập tín, phàm phu biết được tướng diệt, tam hiền biết được tướng dị. Bậc Thập địa biết được tướng trụ, vị mãn biết được tướng sinh. Biết được tướng sinh: Động niệm đều hết, chỉ còn nhất tâm, nên luận nói tâm không sơ tướng, mà nói biết sơ tướng, tức là vô niệm, nếu được vô niệm thì biết tướng tâm. Sinh trú dị diệt cho đến đều không tự lập, xưa nay bình đẳng, đồng một giác. Giải thích rằng đã nói động niệm đều hết, xưa nay bình đẳng, đồng một giác. Chính ngay môn này quán trong sự dứt đối đãi.
Hỏi: Văn không nói vô niệm, làm sao mà đồng với đây.
Trả lời: Thể dụng của ba quán văn ở chương trước. Văn này chỉ nói phương tiện của tu. Kia có niệm dứt đối đãi, lại có văn vắng lặng, do đó khoa nói linh tâm dứt đối đãi, dứt đối đãi vô niệm nhất giác linh tâm đâu chẳng đồng với tà? Cho nên biết tuệ của dứt niệm, mới có công năng biết rõ sinh trụ diệt niệm. Cho nên ở đây nói về quán.
66. Giải thích thêm về pháp tu:
Trùm khắp như thế, trong bốn oai nghi phân biệt niệm số, đều biết rõ. Ban đầu thì ngồi yên soi thấy, sau thì đi đứng đều biết, biết tức không lo lắng. Thí như yêu mị muốn dựa người, nếu gọi đúng tên chúng thì chúng biến mất. Kinh Niết-bàn chép: Như người biết là cướp thì cướp không thể làm gì được. Thứ hai là khởi công dụng.
Thứ lớp tăng tấn cho đến biết được, một giọt nước mưa trong trăm ngàn thế giới, giống như mắt thấy vật thọ dụng: Tịnh tâm là tự thể viên giác, thế giới vốn ở trong đó, quán hạnh thành tựu, hoàn toàn hợp với linh nguyện, như giọt mưa chẳng phải chỉ giọt mưa, muôn vật đều như vậy. Nêu một dụ nhiều, lại nêu giọt mưa, phàm phu mê chân tâm này, tùy niệm sở tri, nên không có dụng kia.
Kế là Răn nhắc tà chứng:
Chẳng phải tất cả cảnh giới sở văn kia đều không thể chấp lấy, nghĩa văn y theo ở trước.
Kế là tổng kết:
Đó gọi là phương tiện đầu tiên của ba pháp quán, trước hỏi rằng: Ba tịnh quán lấy gì làm đầu? Nên đáp rồi, kết thúc rằng: Đó gọi là đẳng, liền biết đoạn trước ba quán các luân tuy giải thích tướng đầy đủ, phương tiện thú nhập ở đây sẽ nói.
Hai tu cả ba quán:
67. Nếu tu cả ba thứ thì gọi là Như lai xuất hiện ở đời:
Nếu các chúng sinh tu cả ba thứ, siêng năng tinh tấn, thì gọi Như lai xuất hiện ở đời. Như lai vốn thị hiện sinh, chỉ vì lý do khuyên chúng sinh tu tập. Nay ba quán đã tu thì muôn hạnh đã đủ. Cho nên người này được gọi là Phật ra đời. Lại chính người này bổn giác lìa niệm, gọi là Phật ra đời, nhưng trước lìa bốn bệnh, nói rằng chứng giác bát Niết-bàn. Nay tu ba quán gọi Như lai ra đời. Nay đem Niết-bàn xuất thế tương đối mà giải thích, có hai môn.
1. Y theo thật nghĩa.
2. Y theo đối cơ. Thật nghĩa có ba:
Chân đế duyên khởi tức không, thì chẳng phải ra đời, chẳng phải Bát-niết-bàn. Nên Đại kinh nói: Như lai không ra đời, cũng không có Niết-bàn.
a) Tục đế chân như duyên khởi: Cho nên niệm niệm, xứ xứ đều xuất hiện, niệm niệm xứ xứ đều Niết-bàn. Đại kinh lại nói: Bồ-tát nên biết, niệm niệm tự tâm thường có Phật thành chánh giác, như tự tâm tất cả tâm chúng sinh cũng giống như thế, tức là niệm niệm. Lại nói: Nên biết không có một chút hư không nào không có thân Phật, tức là xứ xứ. Niết-bàn tức là như trên khắp tất cả nơi thân Phật xuất hiện, đã là tướng của duyên khởi hữu vi, niệm niệm liền sinh liền diệt, bốn tướng đồng thời, nay vì sinh sinh liền diệt, vì niệm niệm xứ xứ đều nhập Niết-bàn.
b) Y theo Đệ nhất nghĩa đế: Chính là thường trụ thế, thường Niết-bàn. Nghĩa là vắng lặng mà thường chiếu là trụ thế, chiếu mà thường vắng lặng là Niết-bàn.
Đối căn cơ: cơ duyên cảm thì xuất hiện dưới cây Bồđề, cơ duyên hết thì Niết-bàn giữa song lâm. Nên Đại kinh chép: Này tác Phật tử! Chư Phật, Như lai vì khiến chúng sinh sinh tâm ưa thích nên xuất hiện ra đời, muốn khiến cho chúng sinh sinh tâm luyến mến nên thị hiện Niết-bàn, thí như mặt trời mọc chiếu khắp trong các chậu nước sạch ở thế gian, đúng ý kinh này phối hợp giải thích nên biết. Song ba quán này tuy mỗi quán có tướng chứng, nhưng lý thật khắp tu mới khế hợp viên giác Như văn trước nói:
68. Tu xen lẫn ba quán:
Ba Tu xen lẫn ba quán, văn có ba:
1. Nói về tu quán không thành.
Nếu chúng sinh độn căn ở đời mạt pháp sau này, tâm muốn cầu đạo không được thành tựu, bậc hạ trong bậc hạ năng lực không tùy tâm.
2. Dạy sám hối dứt trừ hoặc nghiệp.
Do nghiệp chướng xưa phải siêng sám hối, thường khởi hy vọng, trước dứt yêu ghét, ganh ghét, dua nịnh, cầu tâm thù thắng cao thượng, lại phát thệ nguyện quyết tâm muốn chứng. Gia công khích lệ, chí cầu sám hối nghiệp chướng, dứt các sai lầm. Trong luận cũng chép: Nếu người tu hành tín tâm, do tội nghiệp từ đời trước quá nhiều làm chướng ngại, nên phải mạnh mẽ lễ bái, sám hối...
3. Dạy tùy tiện tu xen lẫn.
Ba thứ tịnh quán, tùy học một quán, quán này không được, lại tập quán kia, tâm không buông bỏ, thứ lớp cầu chứng. Có người bị sắc tướng làm trở ngại, quán không tĩnh khó thành, trước quán sắc huyễn, huyễn tức hoàn toàn không, tĩnh quán mới thành. Lại có người chấp định là thật sắc, ngại ở tâm thức, khó tu huyễn quán, trước biết thể kia vốn không mà không ngại thấy tướng, mới thành giả huyễn. Lại có người trong tu khó thành dứt đối đãi, trước biết giả hoàn toàn không mà vô giả, không hoàn toàn giả mà chẳng phải không. Không giả đều không, bặt dứt ở đối đãi, mới thành vắng lặng. Lại, có người thấy thẳng nguồn tâm, mới biết các pháp tức tánh nên không, không hoại tướng nên giả, hoặc chỉ từ tánh hiện nên giả, không có sở hiện khác nên không, trước sau nương nhau như các luân nói. Trong kệ khen ngợi có hai, hoàn toàn giống như văn xuôi.
69. Đức Phật nói kệ:
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên ngài nói kệ rằng:
Viên giác ông nên biết
Tất cả các chúng sinh
Muốn cầu đạo Vô thượng
Trước phải kết ba kỳ.
-Kỳ là hạn.
Sám hối nghiệp vô thỉ, trải qua hăm mốt ngày, sau đó chánh suy nghĩ.
Tu hành trong thời hạn.
Chẳng phải cảnh sở văn, cuối cùng không đáng chấp, răn nhắc chấp lấy tà chứng.
Xa-ma-tha chí tĩnh, Tam-ma chính ghi nhớ. Thiềnna rõ nhiều môn, ấy gọi ba tịnh quán. Nếu siêng năng tu tập, ấy gọi Phật ra đời.
Độn căn chưa thành thục, thường nên siêng sám hối, tất cả tội vô thỉ, các chướng nêu tiêu diệt. Cảnh Phật liền hiện tiền.
Cùng tu kết thúc trước và pháp an cư, Văn xuôi có, kệ không. Cảnh Phật xuất hiện, trước Văn xuôi, sau kệ, ngoài ra chỉ có văn sơ lược.
70. Phần lưu thông:
Đoạn văn lớn thứ ba là phần lưu thông, nghĩa là phần chánh tông pháp nghĩa đã rộng khắp, muốn khiến cho lợi ích rộng lớn nơi khác, thấm nhuần lưu truyền đời vị lai thông thái xoay vần vô cùng, nên có phần này, đều không có người truyền là không lưu truyền, truyền thì không trụ, không trệ. Truyền gặp chướng nạn là không thông. Thông thì không lấp không bít, văn có năm:
1. Vui mừng nghe pháp sâu xa, thưa hỏi phần lưu thông.
2. Tỏ ý khen ngợi lắng nghe, giao cảm lưu thông.
3. Y vào lời hỏi nên nói nội hộ lưu thông.
4. Bẩm mạng gia vệ, ngoại hộ lưu thông.
5. Chúng đương thời thọ trì, tổng kết lưu thông. Ban đầu văn có ba đoạn: giống như trên.
71. Bồ-tát Hiền Thiện Thủ xin Phật khai ngộ pháp không thể suy nghĩ bàn luận:
* Một. Bấy giờ, Bồ-tát Hiền Thiện Thủ ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng: rất dễ hiểu.
* Hai: chính thức trình bày, trong đó có hai:
1. Vui mừng nghe giải thích.
Xin Đức Đại bi Thế Tôn rộng vì chúng con và chúng sinh đời mạt pháp, khai ngộ việc không thể suy nghĩ bàn luận như thế, gần chúc mừng đạo tràng xa trùm một bộ.
2. Thưa hỏi năng thuyên.
Thế Tôn, giáo pháp Đại thừa này, trong phần chánh tông chỉ hỏi pháp nghĩa sở thuyên, pháp nghĩa tuy đã đầy đủ. Phàm tâm khó có thể nhậm trì, khi nghe lãnh hội rõ ràng. Sau đó sợ lại quên lãng, sự phải giữ gìn giáo pháp, đem giáo pháp truyền bá thông suốt. Văn này không mất, theo văn hiển nghĩa, nương nghĩa khởi quán, mới thành tu hành chân chánh, nên đây hỏi về kinh giáo.
Danh tự là gì? Hiểu nghĩa trước phải biết tên, quên tên thì nghĩa không rõ, vâng giữ như thế nào? Trước tuy đã nói trì pháp, nay hỏi trì giáo.
Chúng sinh tu tập được công đức gì, y theo lý tu hành chứng Thánh, đã biết công đức vô biên, thọ trì danh giáo, sợ không lợi ích nên hỏi.
Vì sao dạy ta che chở người trì kinh? Dạy các Bồ-tát chúng ta... ở đời mạt pháp, hộ vệ người thọ trì kinh này? Truyền bá giáo này đến nơi nào? Mười pháp hạnh. Hoặc người một bề đối với kinh giáo liễu nghĩa này, cúng dường, viết chép, bố thí, thích thọ, chánh thọ, đọc tụng, giảng nói, giải thích, suy nghĩ, tu hành, phân bố, truyền bá như thế, chẳng hay trí tuệ, công đức của người này rốt ráo đến địa vị nào? Dưới đây là ba lần xướng mô phỏng theo trước.
72. Phật hứa khả nói pháp:
Nói lời như thế xong, năm vóc gieo sát đất, ba lần thỉnh như thế, đến cuối thì trở lại đầu. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Hiền Thiện Thủ rằng: Lành thay, lành thay! Này người thiện nam! Ông mới có khả năng vì các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, hỏi Như lai về danh tự, công đức kinh giáo như thế! Nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho: bấy giờ, Bồ-tát Hiền Thiện Thủ vui mừng vâng lời dạy và các đại chúng im lặng lắng nghe.
Kế là Y lời hỏi nên nói, văn có hai:
1. Nêu người năng thuyết, năng hộ.
73. Kinh này được chư Phật ba đời nhiều như số cát sông hằng nói ra và giữ gìn:
Này người thiện nam! Kinh này do trăm ngàn muôn ức chư Phật nhiều như sát sông Hằng nói ra, nói kinh này Phật đã là chân thân, chân thân vô ngại trần sa đồng thể, nên nói một tức là nói nhiều. Kinh Hoa Nghiêm chép: Các Đức Như lai trong mười phương đồng một pháp thân. Nhất tâm nhất trí tuệ, lực vô uý cũng như thế, lại kinh bất liễu nghĩa thì tùy phương có nói, không nói. Giáo pháp liễu nghĩa không Phật thì không nói, như Hoa Nghiêm chép: ta không thấy có cõi nước Phật, chẳng nói kinh này...
Được Như lai trong ba đời giữa gìn, cũng như kinh Hoa Nghiêm chép: Chư Phật của chúng ta hộ trì pháp này, khiến tất cả Bồ-tát đời vị lai chưa từng nghe thảy đều được nghe.
Chỗ quy y của Bồ-tát mười phương, trong nhân hạnh đều từ đây mà thành Phật.
Nhãn mục thanh tịnh của mười hai bộ kinh, vì suy cho cùng thì mê vốn chiếu suốt nguồn giác, là dùng lý xuyên suốt nghĩa các kinh đều cùng tận, như thế nếu hiểu thì các giáo sáng bừng lên, nếu không hiểu thì làm sao biết chánh đạo? Nên nói nhãn mục.
2. Trả lời pháp sở thuyết, sở hộ, văn có năm:
- Trả lời danh tự.
- Trả lời sở chí
- Trả lời vâng giữ-Trả lời công đức-Trả lời hộ trì.
Kinh này tên là Đại Phương Quảng Viên Giác Đà-la-ni, cũng gọi là Tu-đa-la Liễu Nghĩa. Kinh có năm tên.
Tên đã giải thích, cũng gọi Bí mật vương Tam-muội, chẳng phải pháp khí thì không nghe được gọi là bí, tùy theo pháp khí khác nhau mà nghe gọi là mật, tên Tam-muội kia có nhiều vô lượng. Tam-muội Viên giác là gốc, nên gọi là vương.
Cũng gọi là Như lai quyết định cảnh giới: Chỗ chứng cùng tột. Cũng gọi là Như lai tạng tự tánh sai biệt, Như lai tạng tức là tên của viên giác tại triền, vọng không thể thay đổi gọi là tự tánh, tùy duyên khởi vọng gọi là khác nhau. Lại, không Như lai tạng, bất không Như lai tạng, tức là khác nhau.
Ông nên vâng theo hành trì: Dạy khiến nương vào danh nghĩa này mà hành trì. Nghĩa là người đã ngộ thì văn tánh lìa mà trì pháp, người chưa ngộ không lìa văn mà trì nghĩa, là tướng của vâng giữ. Nhưng trả lời câu hỏi vâng giữ, hoặc dùng văn hiển bày thì không ngại. Nhân nói tên kinh, nương vào thế văn mà trả lời ở đây, nếu dùng nghĩa để cầu thì ở trong môn đốn tiệm ở sau.
Kế là trả lời chỗ đến, văn có hai: a. Nêu hạnh sở y:
74. Kinh này chỉ bày cảnh giới Như lai:
Này người thiện nam! Kinh này chỉ bày cảnh giới Như lai, chỉ có Phật, Như lai có khả năng nói hết. Trước nói giác địa thanh tịnh của các chúng sinh này. Lại nói vô minh, tham ái, bốn tướng, bốn bệnh. Nay nói chỉ hiển bày cảnh giới Như lai, câu sau tự giải thích. Chỉ có Phật năng thuyết, nên nói vô minh... đều không thật có, chính là cảnh Phật. Cảnh Phật nếu không hiển bày thì chúng sinh đâu thể đều không, nêu chúng sinh chẳng không thì đâu thấu suốt giác địa? Nên tín vị trong Hoa nghiêm tức là cảnh Phật sâu xa. Tuy trí và tri khác nhau, nhưng đều là cảnh giới Phật, là ý này. b. Nương tu sở chí:
Nếu các Bồ-tát và chúng sinh đời mạt pháp, nương đây tu hành là mười pháp hạnh.
Từ từ tiến đến Phật địa, do kinh chỉ hiển bày cảnh Phật nên tu sẽ đến Phật địa.
Kế là trả lời vâng giữ, văn có hai:
1. Pháp:
75. Kinh này là Đại thừa Đốn giáo:
Này người thiện nam! Kinh này gọi là Đại thừa đốn giáo, chúng sinh đốn cơ nhờ đây khai ngộ, cũng nhiếp tất cả các phẩm tiệm tu. Tông là đốn giáo, sự đủ tiệm môn, đã đốn, tiệm đều thâu, thì chậm mau đều được lợi ích. Nhập và không nhập đều hãy lưu tâm, nên trong phần chánh tông có chia thượng, trung, hạ.
2. Dụ:
76. Nêu ví dụ để làm sáng tỏ:
Thí như biển lớn không nhường dòng nhỏ, nói tiệm giáo thì trái đốn giáo, đốn môn phải đủ tiệm môn.
Cho đến muỗi mòng: Ở đây dụ cho Nhị thừa, thọ trì, và A-tu-la: ở đây dụ cho Bồ-tát thọ trì, uống nước ấy đều được đầy đủ, biển lớn có nước vô lượng, uống thì lượng bụng nhiều ít. Viên giác có vô biên pháp môn, lãnh thọ thì tùy căn khí đốn tiệm.
Kế là trả lời công đức: văn có ba:
1. So sánh bố thí tài bảo với nghe kinh cao quý, ý nói phước kia, dùng phước so sánh.
2. Lấy việc độ người so sánh với nói kinh cao quý, ý nói trí kia. Chẳng có trí không thể độ người, lại người nghe giả khiến thể không hiểu, cũng sinh vật ấy. Lại người nghe dù không hiểu nhưng cũng sinh phước. Người nói thì không gì không hiểu, nên chỉ có trí.
Dùng nhân đời trước trở lại nghiệm xét, hiển bày tin kinh cao quý đều nói phước trí. Trong phần đầu có hai: a) Nêu kém.
77. Công đức cao quý được nghe kinh này:
Này người thiện nam! Giả như có người, thuần chất bảy báu đầy tam thiên đại thiên thế giới, để bố thí, chứa phước nhiều như thế nào phải biết. b) Nói lên sự cao quý.
Không bằng có người nghe tên kinh này và nghĩa một câu, như kinh Kim cương so sánh văn ví dụ. Nghĩa là vật báu ở đời đầy cõi nước có thể giúp cho quả hữu lậu quả, một lời diệu pháp quyết được quả báo Bồ-đề.
-Lấy việc độ người so sánh, nghĩa là trước đem phước kém hiển bày phước thù thắng, ở đây dùng trí kém hiển bày trí thù thắng, văn có hai:
1. Nêu kém:
Này người thiện nam! Nếu có người dạy bảo trăm Hằng hà sa chúng sinh được quả A-la-hán, thì phải biết chứa nhóm công đức nhiều như thế nào.
2. Nói lên sự cao quý.
Không bằng có người giảng nói kinh này, phân biệt nửa bài kệ, hoặc cả bài kệ, đó là bốn câu; Câu có hai thứ, là văn cú và nghĩa cú. Nếu nói về văn cú, tức là hai câu là nửa bài kệ, hoặc nói theo nghĩa cú, tức là nói tất cả pháp xưa nay vắng lặng, là nửa bài kệ. Nói rõ thể "không" là bất "không" mới là cả bài kệ, hoặc vô thường, chân thường làm nửa bài kệ và cả bài kệ.
78. Nói lên tôn kinh cao siêu:
-Do nhân đời trước nói lên tin kinh cao siêu.
Cả hai nói về phước trí, văn kinh tự hiển rõ, văn có hai:
1. Nói về nghe tin: Này người thiện nam! Nếu lại có người, nghe tên kinh này tín tâm, không mê lầm.
2. Nghiệm xét nhân đời trước, văn có hai: Trở lại nói rõ:
Nên biết người này, chẳng phải đối với một Đức Phật, hai Đức Phật gieo trồng các phước tuệ.
Thuận nói:
Như thế cho đến đối với tận số cát sông hằng tất cả các Đức Phật, trồng các gốc lành, nghe kinh giáo này, cũng như thế văn Kim cương, nhưng tin tông này thì chắc chắn là tin hiểu. Tín bao trùm biển quả không phải duyên nhỏ, nên nghiệm nhân đời trước, cũng chẳng xem thường người.
Kế là trả lời hộ trì:
79. Phật bảo Bồ-tát nên hộ trì người tu hành đời Mạt pháp:
Thiện nam! Các ông nên hộ trì những người tu hành đời mạt pháp này, vì làm cho ác ma và các ngoại đạo, não loạn thân tâm người ấy làm cho lui sụt. Trước hỏi hộ trì như thế nào? Nay trả lời ý rằng: Không để cho ác ma ngoại đạo làm não loạn thân tâm, tức là hộ trì. Nhưng làm não loạn thân tâm đều chung cho tà ma ngoại đạo, nếu phối hợp nghĩa ấy thì ngoại đạo dùng tà trí mê hoặc người khiến nghi, đó là não loạn tâm. Ma dùng thần lực gây ra nhiều việc không yên, cho đến bệnh... là não thân. Nên kinh nói các ma ấy ưa sinh tử. Ngoại đạo: chấp đắm các kiến... Hai việc đều làm cho tâm ban đầu của người tu hành lui sụt. Thật nhờ hộ trì.
(Vâng) bẩm mạng ngoại hộ, văn có ba:
1. Chúng lực sĩ:
Lúc bấy giờ, trong hội có Hỏa Thủ: Thủ là đầu, vì trên đầu có ngọn lửa. Kim cương: Vì cầm chày này, nếu lấy tên thì gọi là lộ kiên thần. "Tồi toái Kim cương Nilam-bà" không rõ đời Đường dịch là gì.
80. Tám muôn vị Kim cương cũng phát nguyện hộ trì:
Tám muôn vị Kim cương như Kim cương... và quyến thuộc, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả chúng sinh đời mạt pháp về sau, có thể thọ trì Đại thừa quyết định này thì chúng con sẽ gìn giữ như giữ gìn tròng mắt, cho đến chỗ đạo tràng tu hành. Chúng con Kim cương tự lãnh đồ chúng, sớm tối che chở không để cho lui sụt: Vị thần này lúc mới phát tâm thường phát đại nguyện, nguyện làm lực sĩ che chở người tu hành. Nhà kia: là chúng tại gia.
81. Kết quả của việc hộ trì:
Cho đến không bao giờ xảy ra tai nạn, chướng ngại, tật bệnh tiêu diệt: Hễ phát đại tâm thì thường có chướng nạn, chướng nạn nhiều thứ lược nêu tai họa bệnh tật, nên nói cho đến. Nay được thần che chở tất cả đều tiêu trừ.
Tài bảo dồi dào: giúp duyên tu đạo, không cần phải giàu có mới gọi là dồi dào, nên kế chỉ nói: Thường không thiếu thốn, không thiếu hụt. Thẳng đến diệu môn không lui sụt.
82. Các vị khác cũng phát nguyện hộ trì:
2. Chúng Thiên vương.
Lúc bấy giờ, vua Đại Phạm: Chỉ riêng vua cõi Sơ thiền, đứng đầu thế giới Ta-bà.
Vua hai mươi tám tầng trời: Chỉ chung ba cõi. Và núi chúa Tu-di: Gọi riêng trời Đế Thích.
Hộ quốc Thiên vương... chỉ riêng bốn vua. Nêu riêng ba loại ấy, vì Phạm vương và Đế Thích, khi chư Phật xoay bánh xe pháp đều là thỉnh chủ, che chở thế gian, giữ gìn đất nước, khiến tai hại không sinh, ngoài việc nêu chung còn nói riêng.
Liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Con cũng che chở người trì kinh này, thường giúp cho an ổn, tâm không lui sụt, là nói về che chở.
3. Chúng quỉ vương.
83. Các quỉ vương cũng phát nguyện hộ trì:
Lúc bấy giờ, có quỉ vương Đại lực, tên là Cát-bàntrà, cũng gọi là Cưu-bàn-trà, ăn tinh huyết người, quỉ này đi nhanh như gió, biến hóa rất nhiều, trụ trong rừng vắng, cai quản các chúng quỉ, nên hiệu là vương, đi đến đạo tràng làm người đứng đầu.
Cùng mười muôn quỉ vương, có mười muôn vị, nhất nhất như ở đây, dựa vào núi sâu hoặc ở hang sâu, hình dáng quỉ này đáng sợ, thường hay thay đổi, không thuộc trời người, sống trong đường quỉ.
Liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu theo chiều bên phải ba vòng, bạch Phật rằng: con cũng giữ gìn là người trì giới kinh, sớm chiều bảo vệ không để lui sụt, không có chướng nạn nên không lui sụt.
Chỗ người kia ở, trong một do-tuần: Một do-tuần là bốn mươi dặm, có chỗ nói mười sáu dặm.
Nếu có quỉ thần nào xâm phạm cảnh giới người ấy, thì con sẽ làm cho họ bị nghiền nát như bụi nhỏ. Nghiền nát cảnh giới quỉ thần là che chở tâm Bồ-đề của Phật.
Kế là Chúng đương thời thọ trì.
84. Đại chúng trong hội thọ trì:
Phật nói kinh này rồi, tất cả Bồ-tát, trời rồng, quỉ thần, tám bộ quyến thuộc, và các Thiên vương, Phạm vương, tất cả đại chúng nghe Phật nói rồi đều rất vui mừng, tin nhận vâng làm. Kinh Văn-thù Sở Vấn chép: Có ba thứ nghĩa vui mừng vâng làm:
Người nói thanh tịnh, không bị chấp đắm danh lợi làm nhiễm.
1. Những điều nói ra thanh tịnh, vì đúng như thật biết pháp thể.
2. Được quả thanh tịnh, tức là lợi ích. Kệ:
Tự nhớ vô thỉ mê biển tâm
Nhiều kiếp trôi nổi sóng sinh tử
Chư Phật như Bụi hiện trong người
Cây nổi rùa mù khó gặp được.
May sao thân này gặp giáo pháp
Nghìn lớp nghi trệ đều tiêu tan
Suy nghĩ nhiều đời chứa hiểu biết
Hổ thẹn Thiện tri thức nhiều đời.
Thượng sĩ từ bi thương đời mạt pháp
Đầu cuối thứ lớp hỏi ý kiến
Năng nhân cảm ứng xứng nguồn tâm
Đầu cuối không ngăn liền giảng nói.
Đã nắm các nơm gõ lặng chân
Tùy ý chỉ Thánh giải văn này
Hồi hướng công đức khắp chúng sanh
Đồng nhập kho ánh sáng thần thông.
--------------------------------
Tông Mật chúc mừng may mắn, trộm bẩm văn sớ của Hoa nghiêm Hòa thượng, tuy nương lễ mà đủ để hiểu sinh ư. Tông mật hận vị nhiều lần có sự cố, không được sớm đi đến sinh hoạt thường ngày. Tình hình bên dưới thêm nhiều hoảng sợ, đã chưa nhắm mắt, dám tự bày tâm. Nếu không kể bổn duyên ban đầu thì làm sao nói lên bản chất thành thật? Muốn ghi lời thành thật, sợ cõi trần thấy nghe, tiến lùi không thôi. Cúi mong soi xét thứ lỗi?
Tông Mật vốn là một người nghèo ở Ba giang, chí hiếu đạo mà không thích nghệ thuật, dù vui chơi giải trí mà quyết dục căn với đạo. Từ tuổi thay răng sữa cho đến tuổi đôi mươi, mặc dù thi thư là nghiệp, nhưng thường giác không chỗ về, lại một bên cầu giải thích tông, mỏng manh dường như có nương nhờ, phải biết quả báo của nghiệp duyên, như bóng theo hình, vang theo tiếng, liền bỏ ăn mặn, nghiêng cứu kinh luận, gần gũi bậc thiền đức, nương tựa hàng danh tăng, nhà ở thường thiết lập pháp diên, cư sĩ thường đến nghe giảng. Nhưng nhờ may mắn học được giáo pháp cùng tột, ngộ chẳng phải là viên tông, không tạo nguồn tâm vọng, hoặc vẫn còn rõ ràng, sau gặp pháp môn của Viên Hòa thượng, chùa Đại Vân thuộc Toại châu, tức là con cháu của Hà Trạch, ngay lời nói khế hợp, đạo thầy trò hợp nhau. Một lòng sáng như muôn đức, đã biết công việc nghệ thuật ở đời vốn không liên quan nhau, nên cạo tóc xuất gia, siêng năng kính thờ, thói quen càng ngày càng bỏ bớt, giác trí càng luyện càng tinh, nhưng đối nhân quả thân tâm, giống như trong lòng vắng vẻ, lý sắc không, chưa từng ở trong lòng, nhiều lần bàn bạc tham khảo mới được trao cho. Quán môn pháp giới Hoa nghiêm của Đại sư núi Chung Nam là kho báu của Phật pháp, từ đây rõ ràng, bốn người cùng chí đẽo gọt nhiều năm, trong một câu lý luận thì "thông suốt chưa nghỉ", trong một việc nghĩa thì trần sa chẳng tính toán, biết nước thường ướt đâu nghi sự khác nhau của dáng sóng, ngộ gương thường sáng không sợ hãi sự thay đổi của hình bóng, cõi tịnh cõi uế chẳng hoại chẳng thành, chư Phật chúng sinh đâu có sanh diệt? Vì thế niệm trùm ba đời, đồng thời cùng ứng biến lẫn nhau, trần cùng mười phương toàn thể tức nhau nhập nhau nhiều đời, tính toán sai lầm, luống chịu đắm chìm, ngày nay chánh quán thỉ giác vốn đồng với đại dụng, sau đó mới hiển bày cảnh giới.
Lìa tình thì chỗ nào cũng soi chiếu rõ ràng, có khả năng giải thích đại kinh, phối hợp với văn thì khó thông hiểu. Chương tiết và câu cú rõ ràng thông suốt nhân quả nhiều lớp. Lý tuy một vị, thế thay đổi nhiều mối, nghĩa môn khác nhau, cùng tận huyết mạch, không biết khoa đoạn, ý chẳng liền nhau, dù cho trải qua các trường giảng, không thẹn đã ngộ, danh tướng phức tạp, khó khế hợp tự tâm. Tông Mật nói rằng ví dụ chương sớ chỉ như thế, liền dừng tâm truyền giáo, thỏa thích ý nguyện đi khắp bốn phương, chỉ lấy quán môn chung nam làm trợ duyên, nhờ lìa tình thuận trí làm tự lực soi chiếu dung thông, thông pháp giới mà nương cậy, chỉ sự lý nói xa, vì lợi tha dùng thân tâm mộng huyễn dạo chơi trong thế giới hình bóng. Thần thông cảnh mầu trí rõ nghĩa môn, trèo non lội suối đến Tương Hán, ở chùa Khôi Giác gặp Xà-lê Linh Phong, tức đệ tử của Hòa thượng là một vị có trí tuệ. Ngủ vùi vài tháng dần dần đến chỗ suy yếu, gặp nhau ba ngày mới hiểu lòng họ, nguyện đem phần kinh và sớ sao đã được trao cho, bàn bạc chưa chu đáo bỗng đã qua dời, đây là pháp hội kiếp trước nén chịu chết đợi đến nay, hoặc thấy hoặc nghe đều ngạc nhiên khen ngợi, Tông mật khác nào được uống cam lộ, nghèo mà được ngọc Ma-ni.
Lòng vui mừng cầm tay hớn hở, liền ở núi này chẳng hề trở về, quên ăn mất ngủ, đem trước phi tầm, dùng sớ thông kinh. Dùng sao giải thích sớ, tìm văn mà lìa tánh, chiếu lý mà quên tình, hợp ở tâm, hiểu ở giáo. Nghiên cứu nguồn gốc, tìm tòi ngọn ngành, tông đồ sáng rỡ, các việc nghi ngờ một đời gợi sạch vết bẩn che lấp, đã từng quen nghĩa ở đây thông hiểu. Trong tâm ngoài cảnh thông suốt không ngăn cách, thật nói rằng mặt trời lên mà trời, đất, Đông, Tây, Nam, Bắc chiếu sáng, biển lớn trong xanh, muôn tượng rõ ràng. đức mầu trí sáng lập tức mở bày, hạnh khắp của Phổ Hiền đều hiện, lưới của một bộ bốn phần năm châu ở tại giềng mối, các dòng Sáu tướng, mười huyền, ba thừa đều chảy về biển, nghĩa thì sắc không đồng với trung đạo, giáo thì quyền thật dụng ở viên tông, lý thì thể dụng liền vắng lặng, mà tánh, tướng rõ ràng; trí thì phàm, Thánh coi như nhau mà nhân quả không luống dối, nói lên tùy duyên mà bất biến. Kinh lớn thì nghĩa lý và thú vị vẹn tròn, chỉ huyễn mà biết chân, tu quán thì thiền tâm rộng mở, mênh mông văn kinh chín hội đều hợp với tâm, do đây đáng gọi là Khế kinh. Khiến tâm địa nhất chân đều ấn kinh, do đó đáng gọi là tâm ấn. Chính là biết chấp văn trong ba tạng quả thật là mất đạo, hạn chế nghĩa nhất tánh ấy vẫn chưa viên thông.
Thanh văn mù điếc chẳng lẽ không luống dối ư?
Tông mật khi chưa gặp sớ thường xem việc trước thuật xưa nay, đối với lý có lẽ thích hợp. Hận vì không biết hội nghị giảng hòa. Thiên thai, Thiền tông phần nhiều y theo chỉ quán. Đẹp thì đẹp, hơn nữa thế nghĩa lần lượt truyền xa, không chỉ bày thẳng hành tướng tự tâm chúng sinh. Tuy rõ ràng nhập xứ giống như trải qua thứ lớp đâu như hỏi rõ, giải thích kệ Văn-thù ấn linh tri mà tâm thức mau trừ bỏ. Nói mông lung mở chương rõ ràng, hiển bày chân không nên tướng dụng thường khởi, khởi chẳng khác tánh, sự sự dung thông, thông mà thu nhận lẫn nhau, lớp lớp vô tận, ngộ đây thì hoàn toàn đồng quả Phật, mới là nhân đầy đủ, tùy duyên tu tạo, đều xứng với thể, mở bày đốn tiệm thiền yếu, có thể lấy đây làm gương lưu truyền giáo môn quyền thật, có thể lấy đây làm phép tắc, vị thuốc được ở Tuyết Sơn khéo thấy thì các bệnh đều tiêu trừ, được vật báu Ma-ni ở biển xanh, ngàn vật quý báu tùy niệm. Huống chi là văn quyển rưỡi, bao gồm hết các nghĩa, đầy đủ nguồn dòng, khắp cùng danh thể, sau đó dung thông thành bộ này, hoàn toàn lựa chọn, hoàn toàn nhận. Nếu được tinh ròng, đã lãnh hội nghĩa văn của trăm nhà, công ít được nhiều, quan trọng là ở đây? Hễ nói giải thích lưu truyền sao không thể luyện tập? Tông mật đời trước gặp nhiều may mắn, cùng trồng gốc lành, gặp kinh như thế, gặp sớ như vậy. Vừa mới bữa cơm thịnh soạn chưa dám ăn liền, nay được có văn bản rõ ràng ấn quyết. Tâm ý bình tĩnh, thệ nguyện đời đời hy sinh tánh mạng mở rộng, đương thời liền được tăng ni đồ chúng. Do thỉnh mời khen ngợi, mục đích là tự mình ôn tập, khóa hư thuận mạng, chỉ nương văn phối hợp tụng đọc mà thôi, đâu đủ để phát minh ở người? Vì hiển rõ Viên tông, sợ nhiều người vỗ tay, nếu có duyên đời trước gieo trồng chắc chắn cái nghe tức là bẩm thừa. Từ đầu đến cuối có thể đếm được mười người thệ nguyện tu học, vì sớ văn này mầu nhiệm, lưu truyền không luống dối, đâu thể với chút tài mà cảm được như thế. Ở tương dương giảng, tạm đến Đông đô, lễ tháp Tổ sư, liền nghĩ rong ruổi, lại dừng ở chùa Vĩnh Mục, đồ chúng ở Tương dương đến tìm, lại mời lần thứ hai giảng khắp. Lại nghe kinh này bèn bằng lòng cho chúng thưa hỏi. Cuối cùng huyền sớ ngược lại đến Thượng Đô, ngày mồng bảy tháng này mới xong, nghe Đồ Thái Cung liền chặt một cánh tay, nói: Tự vui mừng đã gặp pháp, huyền diệu khó nghĩ bàn liền dùng biểu thành khẩn, thệ nguyện tu học, đây là do Hòa thượng oai đức rộng khắp, dạy phải thực hành, tông chi trong môn hạ có sự tinh khổ này. Anh ta lại chặt đứt tay chân, làm thương tổn gân cốt, đều không đau xót, thần sắc tự tại, từ đầu đến giờ thân tâm vẫn như cũ. Hoặc đạo, hoặc tục đều lấy làm lạ, công năng của quán trí cảm ứng rõ ràng. Bấy giờ, tỉnh Đài Loan có ứng nghiệm, sự tích rõ ràng, tôn kính lưu giữ đại kinh đã nói rõ trong sách của môn hạ, y theo theo bổn ý của nó, đâu phải đều hiển bày, biểu dương? Nhưng môn phát khởi cũng nhờ tinh biểu, theo nó tay loét chưa lành, đến quan đến chùa gởi để nuôi dưỡng, chưa tiện du hành. Dùng lễ này ra mắt, dẫn thầy chậm chạp trái nhau, chịu nhún nhường mà bày tỏ, che đậy thêm lo sợ, cẩn thận chớ nghe theo các học tăng huyền Khuê, Trí Huy, trước trình bày đầy đủ, Tông mật tài năng lời nói khiêm tốn lãnh ngộ, khó trình bày. Cúi xin từ bi đặc biệt nhiếp thọ ban cho, thật là may mắn! Học trò Tông Mật kính sợ lạy trăm lạy.
Hoa nghiêm sớ chủ quốc sư Thanh Lương đại Hòa thượng. Đời Đường ngày mười ba tháng chín năm Tân Mão niên hiệu Nguyên Hòa năm thứ sáu, tại Đông Đô, thượng Thanh Lương quốc sư trả lời.
Ngày mười hai tháng mười Huyền Khê, Trí Huy đến, được thư của ông, kính thầy ở xa, thuật đủ dấu vết hành trì lãnh huyền thú của đại giáo, nói lưu truyền khen ngợi việc thật đau thương cảm động, tâm nhận lãnh. Ta tự truyền bá, hoặc mặt nói, lòng trao cho, hoặc xoay vần phân chiếu đầy đủ ở cõi khác, nhưng Trọng Ni nghiêng về vì Bá Nha mà nối dây đàn, cũng nhờ hình thanh.
Không mặt mà truyền được ý chỉ là hệ biểu, ý vẫn còn trong lòng ta, chưa biết có. Chẳng dựa Thánh lực, phải nhờ nhân đời trước, nên tự an ủi. Chân tử chuyển luân có thể dùng để ví dụ.
Thái cung rất mực trọng pháp chặt cánh tay, thêm sự khẩn cầu nhưng nửa bài kệ quên đuổi một câu ném vào lửa, giáo có văn, ý còn ở ngoài thân, có của báu trọng pháp, nên cảnh cáo người học sau chớ nên bắt chước, nên dứt tình lự của họ, chớ cắt đứt hình hài của họ, nên dứt tâm vọng của họ, không chặt chi phần của họ, thì người hiểu biết cạn cợt dị học đâu thể không kinh sợ khi nhìn thấy. Nếu thế tục không có lời răn đối với tóc da, thời huyền hóa không rộng mà tự thông suốt. Ông nên dốc chí đến chỗ sâu kín. Nếu được một mặt ấn chứng thì được huyền giải, sao lại tán thưởng ư?
Như bỗng nhiên duyên trợ giúp, chỉ phải tâm khế hợp sâu xa cùng cực. Chẳng phải sông, núi, hình thanh mà ngăn cách được, gắng sức không nhiều, nói rằng: Lão tăng Trừng Quán giao cho.
Pháp tử Tông Mật kính nhận.
Ngày hai mươi ba tháng mười học trò Tông Mật vừa ghi lại kính bái.
Vốn giảng Hoa nghiêm sớ chủ, Huyền Khuê, Trí Huy trở về cúi đầu nhận lời chỉ bảo, lãnh nạp sở ngộ sâu xa, hứa khả pháp tịch, lãnh thọ vâng làm không mặc tình vui mừng lo sợ. Thường hổ thẹn tư chất xấu xí, chưa bắt chước sự siêng năng, không có (trong lòng) tấc lòng, ngồi nhờ thâu thể mà tự kinh sợ, may mắn. Mừng quá độ thành buồn rầu, cúi mong từ nguyện rộng lớn giáng xuống đây quá phần. Ấn quyết một kinh liền giác ngộ sáng suốt, hạng người có học thức thêm kính ngưỡng, rất may mắn! Tông mật liền muốn đến cung cấp phục vụ, vì cánh tay Thái Cung lở loét chưa lành, cẩn thận không dám mạo muội, hai ba lần rơi lệ.
Nguyện hầu hạ theo hạnh, nhớ dấu khổ của ông, chẳng nỡ bỏ sót, cúi xin chiếu xét học trò, Tông Mật lại bái tạ bổn giảng Sớ chủ Hoa Nghiêm.