TẠNG LUẬN
SỐ 1799 - KINH THỦ LĂNG NGHÊM NGHĨA SỚ CHÚ
Sa môn Tử Tuyền ở Trường Thủy soạn tập
BÀI TỰA KINH THỦ LĂNG NGHIÊM SỚ
SỐ 1799 - KINH THỦ LĂNG NGHÊM NGHĨA SỚ CHÚ
LỜI BẠT KINH ĐẠI PHẬT ĐẢNH THỦ LĂNG NGHIÊM NGHĨA SỚ CHÚ
Trung Tán Đại Phu Thủ Ngự Sử Trung Thừa Sung Lý Kiểm Sử Quyền Phán Lại Bộ Lưu Nội Thuyên Thượng Hộ Quân Lang Da quận, Khai Quốc Hầu hưởng bổng lộc một ngàn chín trăm hộ, thực phong hai trăm hộ, được ban đẫy có hình cá vàng là Vương Tùy soạn.
Kinh Đại Phật Đảnh Mật Nhân Liễu Nghĩa Thủlăng-nghiêm là phép tắc rộng lớn ở Trúc Càn, là kinh điển báu của vườn pháp. Xưa bậc Năng Nhân xuất hiện ở đời làm rung chuyển năm xứ Ấn-độ, là bậc độc tôn trong ba cõi. Mượn Kim Luân để khai mở muôn vật, hiện tướng lông trắng để ứng thế, quán thọ khổ để cứu giúp mọi vật, thương xót chúng sinh còn đang chìm trong biển khổ chưa được giải thoát. Bởi thế xem xét chí lý, giảng nói lời mầu nhiệm, mở cửa đại từ, bày biển chân như, cho là tất cả pháp chỉ do vọng niệm mà sinh khởi. Tất cả chúng sinh không ngoài nhân duyên mà có. Mới biết sinh tử luân hồi cội gốc chính là sinh tử, tu chứng thường lạc, thường tuệ là tông yếu, chính là kinh này.
Có khả năng phân biệt các ma, phá diệt bảy đường, chính là chỉ và quán. Tu tâm viên giác diệu minh phát chân về nguồn, chứng Thượng thừa đến chỗ tột cùng sự tốt đẹp này là Bát-thích-mật-đế dịch ra nghĩa này, Tể
Tướng Phòng Dung ghi nói văn. Nay sư Thích Tuyền ở Giang Ngô là người có học thức cao, biện tài vô ngại. Bởi thế chính là lấy kinh điển làm thời giáo cho một đời. Ngài chia diệu lý thành mười môn, công cứu giúp lớn lao, truyền đạo không hại để trừng mắt chắp tay nói về vọng, hoặc hủy tướng lắng tâm để hội tông, người tin nhận thì làm rường cột cho đời, người khai ngộ thì nhập vào tri kiến Phật. Mới hiển rõ văn này làm trụ cột cho sớ. Nhờ sớ để nói về lý, cho nên sớ này có công năng trước khai mở nghi hoặc, sau là giải quyết sự dính mắc, ngõ hầu vạch đám mây mờ để thấy mặt trời trí tuệ. Sau đo, biết sắc không khác, đồng quy về bờ thật. Chúng sinh và Phật không lìa gan tấc, tùy theo ý chí mà ở ngoài hộ vệ, dần dần vào chỗ Vô học, nhờ xem qua sớ này bèn thuật lời tựa dẫn, quy y pháp bảo, mong sao nghiên cứu chân thật rõ ràng, khen ngợi Phật thừa, nguyện làm thấm nhuần khắp đến quả vị cao siêu.
Ngày hai mươi mốt đầu Đông năm Canh Ngọ, niên hiệu Thiên Thánh Thanh long, năm thứ tám đời Đại Tống, năm Tân Sửu Ngài Đạo Trai Đông Can soạn lời tựa.
Duy Tịnh Thượng Vương Trung Cúc thư dịch Tam Tạng Kinh, Đại Phu Triều Tán, Thí Hồng Lô Khanh, Đại Sư Quang Phạm ban cho danh hiệu là Tử Duy Tịnh, trình lên Thượng Thư Trung Thừa Các Hạ để nhờ đó sau lời tựa sớ Kinh Thủ-lăng-nghiêm mới soạn. Đặc biệt ban cho sự sủng ái. Đại Sĩ Hồng nho khen ngợi thừa báu. Kẻ tu hành học thức cạn cợt xem cú pháp, thân tâm an vui, chủng trí thêm sáng, lãnh thọ quy y, đều ưa thích.
Xem kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ-tát Vạn Hạnh Thủ-LăngNghiêm là hạnh môn của Bồ-tát, tâm ấn của Chư Phật, khai pháp hữu vi tức là trần sa diệu dụng, trở về vô tướng tức là chân nguyên của pháp giới, chẳng phải có, chẳng phải không, dứt bặt danh tướng, ngoài lưới ngôn giáo, hiện nhân bày quả, phân giai vị trong thần hóa, cảnh không ngại tâm, mê hoặc không ngại trí, tánh bảy đại không có đối đãi, tám pháp trở về, không trở về đâu được, cho nên hiểu rõ tâm chân như, dứt gốc luống dối, khởi tuệ phương tiện, giảng nói lời bí mật, muôn Pháp viên dung, Chư Phật tự tại, vào hai đế của không hai, ngộ ba không của bất không, thật vĩ đại thay Chân tông không thể suy nghĩ bàn luận, Cao Sĩ Duật Hữu biên soạn chương sớ giải thích rõ ràng chớ bí mật, nói lược về yếu chỉ của Phật. Cung kính Trung thừa, chấp vào tri kiến Phật, hiểu nhân duyên các pháp, học Phật tu hành, trừ bỏ căn bệnh có không, giảng nói tánh tướng của muôn pháp, nói rõ đầu mối sinh diệt, xây bức thành hộ pháp, làm người bạn không mời, Cao Sĩ soạn lời tựa dẫn, mở rộng thừa giáo, làm lộ trình cho muôn đời, làm ngọn đuốc soi đường cho đêm dài. Còn về Duy Tịnh, cung kính với đạo lại quen với văn lạ, khâm phục đội ơn nhưng không ưa thích, nên không giảng nói thuận theo, Duy Tịnh cúi đầu.
Sa môn Tử Tuyền ở Trường Thủy soạn tập
Đảnh lễ Đức Đại sư
Bậc Điều Ngự mười phương Phật đảnh Thủ-lăngnghiêm Kho Như Lai Đại giác
Các Thánh Chúng tròn sáng Các vua rồng Thượng
Thủ Thường mở cửa đại từ
Cứu giúp các chúng sinh Cúi xin che chở con
Bày nói mầu khó nghĩ Cùng khắp các hàm linh Mau chứng biển chân như.
Để giải thích Kinh này, nên chia ra mười môn:
1. Nhân duyên giáo khởi
2. Thuộc về Tạng thừa nào
3. Phạm vi giáo nghĩa
4. Cơ nghi bao trùm
5. Thể tánh năng thuyên
6. Tông Thú được giải thích
7. Giáo tích trước sau
8. Năm tháng Truyền dịch
9. Dịch chung tựa đề
10. Văn nghĩa giải thích riêng
-Trong phần nhân duyên giáo khởi có hai phần chung và riêng:
a. Chung: Theo nhân mà đáp thỉnh, bày lý độ sinh, hưng khởi giáo lý một đời đều do đây. Như bổn ý của Phật chỉ là một việc nhân duyên lớn muốn giúp cho chúng sinh khai thị ngộ nhập tri kiến Phật. Tuy hứa cho ba xe nhưng chỉ cho một xe trâu trắng là nhất thừa, không có ba thừa và hai thừa
b. Riêng: Có mười lý do cho nên nói kinh này
1. Vì chỉ bày Tam-muội chân thật: Nghĩa là A-nan gặp nạn bởi không có định chân thật cho nên thỉnh phương tiện đầu tiên thành Bồ-đề diệu Xa-ma-tha, Tammuội, thiền na của Chư Phật, và Phật nói có Tam-ma-đề tên là Đại Phật Đảnh Thủ-lăng-nghiêm Vương, đầy đủ muôn hạnh, là con đường trang nghiêm mầu nhiệm duy nhất để vượt ra sinh tử của các đức Như Lai trong mười phương, lại xin trách mình, làm ân huệ cho con nói kệ khen ngợi ít có.
Cho đến Như Lai khen ngợi gọi là Tam-muội Kim Cương Vương như huyễn, khuyên nói viên thông, Vănthù chọn lựa chỉ ra Chư Phật ba đời đồng một pháp môn này. Đạo tràng gia hạnh, thành tựu Thánh vị, đặt tên kinh này phá diệt bảy đường, phân biệt các ma đều là đây.
2. Vì phá hết các vọng chấp: Nghĩa là A-nan chấp vọng mê chân, vua Ba-tư-nặc chấp thường là đoạn, bảy chỗ gạn tâm, ba lần nghi thưa hỏi,, Phật lại nói rằng: Nếu ông chấp phân biệt giác quán là tâm ông. Cho nên y theo tâm thấy hai môn tùy chấp mà phá đủ, tướng chấp này không lìa người và pháp.
3. Vì khai bày tâm mầu sáng: Nghĩa là A-nan ban đầu thỉnh Tam-muội, Phật trước xét hỏi về phát tâm. Đã trình bày nguồn gốc của ái kiến toàn là mê thể chân thật, bèn nói: Chúng sinh từ vô thỉ sinh tử nối nhau, đều do không biết chân tâm thường trụ, mầu nhiệm sáng suốt này chính là Bồ-đề Niết-bàn thể vốn thanh tịnh, cho nên A-nan tự trách không biết vắng lặng thường hằng. Như Lai hứa khả phát tánh diệu minh, trước là tâm thấy hai môn vừa nêu, vừa bày, sau là y theo ba khoa bảy đại, hiển hội rõ ràng (tám trăm hai mươi bốn), làm cho đối với các pháp đều thấy tánh thường, đều cùng khắp, đều dung chứa vô ngại, chúng đều lãnh ngộ, tự biết tâm trùm khắp mười phương, tất cả vật đều là thể mầu Bồ-đề, vốn là minh tâm trùm khắp cả mười hư không, mười phương, thân, cõi, hư không hiểu rõ không thật có, chỉ có một bổn diệu thường trụ bất diệt, lòng từ tràn đầy, nghi ngờ đối với tướng, có A-nan lại trách nhân duyên, Phật tùy theo mở bày, giúp cho được tri kiến.
4. Vì quyết dứt nhiều lưới nghi: Nghĩa là Phật hiển bày cái thấy chân chánh, A-nan hễ đâu thì sinh nghi đó, hoặc dứt, lìa thân, nhân duyên tự như vậy. Hoà hợp, phi hợp tướng chấp, tánh nghi, các đại biến viên, dứt vọng sinh vọng, thành chân, không chân, tu nhân vô thường được quả thường trụ.
Lưới nghi đã nhiều, Phật tùy theo mà cắt đứt.
5. Môn phân tách tu hành: Nghĩa là Phật chỉ rộng về tạng thể, thích nêu ví dụ hiểu sâu hiện tiền: Thiên Vương ban cho ngôi nhà đẹp, tuy biết việc ban cho sẽ vào cửa không, đã được học rộng không tu tập bằng, cho nên thưa hỏi rằng:
Từ đâu mà nhiếp phục phan duyên xưa nay để nhập vào tri kiến Phật? Phật nói hai nghĩa quyết định để phát giác tâm ban đầu, đó N là chỉ và quán, đây là then chốt. Trước làm cho dừng lặng xoay về vọng, thành bất sinh diệt. Kế là suy xét tường tận về phiền não, biết nguồn gốc mà hàng phục chúng. Một căn đã trở về thì các căn khác cũng tự xoay về, các vọng dứt mất, không chân làm sao đối đãi.
6. Vì phân biệt tà chánh để tu hành: Nghĩa là A-nan đã ngộ, tu hành. Đời sau không biết tà chánh, tuy mong chánh đạo nhưng thường rơi vào tông tà. Nước rưới tràn ra ngoài hoặc cho là đủ. A-nan lại thỉnh rằng: Chúng sinh cách Phật ngày càng xa, thầy tà nói pháp rất nhiều, muốn làm cho tâm chúng sinh nhập vào Phật thừa, lìa ma không lui sụt.
Phật nêu bốn thứ khuyên dạy rằng các Thánh cùng một đường, giới căn không thiếu, định tuệ đáng y cứ.
Nếu không giữ giới cấm, thiền tuệ sâu rộng thì quyến thuộc của ma, dân ma khó thể tránh khỏi, mong tiến lại lùi, thật là đáng buồn.
7. Vì hiển rõ công năng cao siêu của thần chú: nghĩa là Khánh Hỷ (A-nan) mắc nạn Ma-đăng-già, Như Lai sai đem thần chú đến cứu, nương thần lực tuy đến nhưng mật ngữ còn thiếu cái nghe. Thần chú có công năng giữ gìn cửa căn, phòng cứu thói quen đời trước.
Trai giới không bẩm thọ mà tự đầy đủ, quả chứng không xa mà chứng đắc, được tiêu nạn được lợi, tự thực hành rồi giáo hóa người, nhân người, quả người đều do đây mà thành việc.
8. Vì chứng nhập có thứ lớp: Nghĩa là lý bặt tu chứng, sự còn thứ lớp, nghiên về một thì bệnh không hơn, viên thông thì dung cả chân, tục. Cho nên Không tổn vắng lặng mà lập ra các giai vị.
A-nan biết căn cơ liền thưa hỏi. Như Lai liền khai thị, bắt đầu từ thứ lớp, cuối cùng ở quả cùng tột. Đối với Vô Sinh nhẫn, lập năm mươi bảy giai vị không dứt, mà dứt hoặc chướng sẽ mất. Không chứng mà chứng, thần dụng ngay đây được đầy đủ, đâu đồng với tà ma ngoại đạo đều không có thứ lớp ư?
Văn kinh nói: Các địa nầy đều dùng Kim Cương quán sát mười ví dụ sâu xa như huyễn. Trong Xa-ma-tha dùng Tỳ-Bà-Xá-Na của các Như Lai thanh tịnh tu chứng, thứ lớp thâm nhập.
9. Vì chỉ rõ các cảnh ma: Nghĩa là người tu thiền quán có lúc mới bắt đầu, mà ít người có chung, cuộc, vì không rõ cảnh ma, sinh chắp đắm.
Không rõ duy tâm nên phân phái các đạo.
Lòng từ của Phật không có duyên, không hỏi mà tự nói, trong quán phá ấm, mỗi ấm có mười thứ.
Năm mươi cảnh giới phân tách nguồn gốc của tà, đời Mạt pháp tu thiền khỏi bị mê hoặc.
10. Nghiên cứu tận nguồn gốc vọng tưởng: Nghĩa là năm ấm các kinh đều nói, chưa nghe thì thành năm vọng tưởng. Nay nói rõ phá một ấm thì sinh ra một vọng tưởng, phá thì từ thô đến tế.
Khởi thì từ tế mà hiện thô. Nguồn gốc của nó chỉ một thức ấm. Thức ấm không có thật thể chỉ là viên thường. Văn kinh nói: Vắng lặng vào hợp, vắng lặng trở về bờ mé của thức. Đã biết năm ấm đều là vọng tưởng. Năm ấm thu nhiếp pháp, đâu có gì không bao gồm.
Luận nói: Tất cả các pháp chỉ nương vào vọng niệm mà có khác nhau. Nếu lìa tâm niệm thì không có tướng của tất cả các pháp. Do mười ý ấy mà nói kinh này.
Thuộc về Tạng thừa nào? Nghĩa là trong ba tạng thì thuộc về Tu-đa-la. Trong hai tạng thuộc về Tạng Bồ-tát. Như đây nhiếp kia thì gồm đủ hai Tạng, ba Tạng.
Vì trì giới chứng quả có Tiểu Thừa, vì nhỏ nhiệm khó phân tách rõ ràng, các thừa đều thuộc về nhất Thừa, như đây nhiếp kia cũng bao gồm các thừa.
Trong mười hai phần giáo thì thuộc về hai phần Khế kinh, Phương Quảng, sự nhiếp ấy như trước.
-Giới hạn của ba giáo: Theo Đại sư Hiền Thủ thì chia ra hai nghĩa.
1. Y theo giáo giải thích thông cục bày rõ phạm vi:
Nghĩa là dùng phân giáo có nghĩa để phân giáo. Giáo có năm thứ:
1. Tiểu Thừa giáo, chỉ nói ngã không, dẫu ít nói pháp không cũng không hiển rõ, chỉ y theo sáu thức ba độc mà lập ra nhiễm tịnh căn bản, chưa tận nguồn pháp, cho nên có nhiều tranh luận.
2. Đại Thừa Thỉ giáo: Cũng gọi là phần giáo. Chỉ nói các pháp đều không, chưa cùng tận lý của pháp Đại thừa, nên gọi là Thỉ. Chỉ nói tướng của tất cả pháp có thành Phật hay không thành Phật, nên gọi là phần.
3. Đại Thừa Chung giáo: Cũng gọi là Thật giáo, nói Như Lai Tạng tùy duyên thành thức a-lê-da, duyên khởi vô tánh, tất cả đều Như như. Nhị thừa Định tánh, xiểnđề vô tánh, đều sẽ thành Phật. Mới cùng tận được thuyết của Đại thừa, cho nên gọi là Chung, và xứng với thật lý nên gọi là Thật.
4. Đại thừa Đốn giáo: Đều không nói về pháp tướng, chỉ nói về chân tánh, cũng không có tướng khác nhau của tám thức, trách giáo khuyên lìa, hủy tướng mất tâm chỉ một niệm bất sinh thì gọi là Phật, không nương vào địa vị thứ lớp nên nói là Đốn.
5. Nhất Thừa Viên Giáo: Nói chỉ là một pháp giới, biển tánh viên dung duyên khởi vô ngại, tức nhau nhập nhau, lưới trời lớp lớp, chủ bạn vô tận.
Nếu ở trong năm thứ này hiển rõ phạm vi của kinh này thì chỉ là Chung giáo, gồm cả đốn viên. Nếu dùng kinh này và năm giáo nhiếp lẫn nhau thì trong năm thứ chỉ nhiếp ba thứ sau, ở đây nhiếp chung các giáo kia.
1. Y theo pháp sinh khởi, gốc ngọn hiển rõ phạm vi, theo luận Khởi Tín nói về các pháp nhiễm, gốc ngọn có năm: Trong tâm quán, chỉ có nhất tâm làm gốc.
2. Y theo một tâm chia thành hai môn.
a) Môn Tâm chân như: Gọi là tâm tánh bất sinh bất diệt.
Môn Tâm sinh diệt: Nghĩa là y theo Như Lai tạng và sinh diệt hợp lại gọi là thức a-lê-da.
3. Y theo thức này nói về hai nghĩa:
a) Nghĩa giác: Là tâm thể lìa niệm.
Nghĩa bất giác: Là biết không như thật một pháp chân như, bất giác tâm động v.v...
4. Y theo nghĩa sau sinh khởi ba tế.
Vì y theo bất giác cho nên tâm động, gọi là Nghiệp tướng.
Vì y theo động cho nên thấy được, gọi là Chuyển tướng.
Y theo thấy nên cảnh giới vọng hiện, gọi là Hiện tướng.
5. Y theo sau cùng mà sinh khởi sáu thô.
Trí tướng (y cảnh phân biệt, tức pháp chấp đầu sinh).
Tướng tướng tục (y theo trí khởi niệm không dứt, tức là pháp chấp phân biệt).
Tướng chấp thủ (vì tâm khởi chấp đắm tức là ngã chấp câu sinh).
Tướng kế danh tự (ngã chấp phân biệt; bốn loại trên đều là mê hoặc)
a) Tướng Khởi nghiệp (là Nghiệp).
b) Tướng Nghiệp hệ khổ (là quả báo).
Nếu dùng các tông chính là y theo năm tông nầy mà hiểu rõ phạm vi. Nghĩa là trời, người chỉ đồng nghiệp báo. Tiểu thừa đồng với bốn loại thô sau. Pháp tướng cùng tột trong ba tế. Chung đốn, viên thông giải thích gốc ngọn mới cùng tột nguồn gốc của một tâm ban đầu. Nguồn gốc của một tâm ban đầu tức là chân tâm thể minh tánh tịnh thường trụ của kinh này. Kinh nêu lên tâm này làm gốc cho tông, vì tất cả nhân quả thế giới như cát bụi do tâm mà thành.
2. Trong căn bản nói là Bồ-đề Niết-bàn vô thỉ, vốn nói lên thể:
Y theo thấy, y theo tâm, hoặc phá hoặc hội, cho đến đủ cả ba khoa bảy đại đều nói về tánh nhiệm mầu chân như, tức là môn tâm chân như. Kinh ví dụ liếc mắt chắp tay nhìn ánh sáng đèn, vì tánh sáng do ánh sáng mà phát tánh (tám trăm hai mươi lăm). Thức tình vốn là tánh sáng, tất cả tâm là môn sinh diệt.
Mãn Từ rất nghi ngờ, Phật nêu bổn giác trong sáng nhiệm mầu, tánh giác chắn chín là sáng, vọng thành làm sáng cái giác. Giác chẳng phải sáng, do sáng mà lập, tức bổn giác là bất giác, rõ ràng tự biết.
Phát chân về nguồn, biết mê thì mê diệt v.v... tức là Thỉ giác.
3. Tướng bốn luân: Mờ mịt là không, trong sự mờ tối kết mờ tối thành sắc v.v... tức là ba tế:
Dẫn khởi trần lao phiền não nhóm duyên bên trong, xao động hướng ra bên ngoài rồi buông lung, hai thứ nghiệp quả và chúng sinh nối nhau tức là năm thứ thô sau. Do đó, kinh này nói về gốc ngọn, người học xem đủ thấy sự sâu kín ấy.
4. Cơ nghi bao trùm: Y theo kinh Viên Giác Sớ lược có hai thứ:
1. Phân biệt.
2. Cùng khắp.
Trong phần chọn lựa, nghĩa là thích mê đắm danh tướng, dùng văn giải thích, ràng buộc vướng mắc vào hành vị suy cao cảnh Thánh, tình còn ở nơi không, xúc chạm nói không có khách. Tự nương thiên chân, khinh chán tiến tu, cố chấp những điều nghe trước kia, gánh gai bỏ vàng. Như trên đều chẳng phải pháp khí, trái lại là dụng khí trong phần thu lấy, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều được nghe điều ấy và được lợi ích. Nghĩa là hạt giống xưa sâu thì ngộ nhập, can thì tin hiểu. Người không có hạt giống cũng thành chủng tánh Viên đốn.
Như Kinh Hoa Nghiêm nói ví dụ ăn kim cương, Nếu theo năm tánh thì chính là tánh Bồ-đề, và tánh bất định, gồm cả tánh khác làm nhân duyên xa. Trong ba nhóm là nhóm chánh định làm cho thêm lớp hạnh mầu, lấy bất định làm cho tu tín tâm, là người tà định làm nhân duyên xa.
5. Thể tánh năng thuyên: Lược chia thành bốn môn:
1. Môn Tùy tướng lại có hai:
Thể của Thanh danh, cú văn: Vì thể dụng nhờ vào hai tướng giả, thật.
Nhiếp chung thể sở thuyên: Nếu không giải thích văn nghĩa thì chẳng phải giáo.
2. Môn Duy thức: Vì hai thứ trước không lìa thức mà biến hiện, nhưng có khác về ảnh tượng bản chất.
3. Môn Quy tánh: Vì thức này vô thể, chỉ là chân như
4. Môn Vô ngại: Tâm cảnh lý sự nhiếp chung nhau, vì một tâm pháp có hai môn:
6. Tông thú sở thuyên, có chung và riêng:
Trước là nói chung nhân duyên của Phật giáo làm tông, vì Thánh giáo của Phật từ cạn đến sâu nói tất cả pháp không ngoài nhân duyên. Nếu sau khi Phật diệt độ, đệ tử Thánh Hiền kế thừa có cả Đại thừa, Tiểu thừa. Tông đồ có năm như Luận Khởi Tín sớ nói: Nói riêng về kinh này lại có chung, chung là cho rằng tâm, cảnh là không, ép ngặt như quỉ rắn.
Kinh nói: như hoa đốm hư không vốn chẳng thật có, lại kinh nói: Vọng là sắc, không cùng với thấy nghe.
Tịch: Y tha như bóng hình v.v... Kinh nói hễ sinh, chỗ nào thì diệt hết chỗ đó.
Tánh tạng tròn đầy: Do vắng lặng nên tròn đầy thành thật. Kinh nói: Cái thấy này và duyên vốn là thể sáng suốt, thanh tịnh Bồ-đề.
Tông là Phàm Thánh bình đẳng, dưới nói mê ngộ, sinh tử hiểu rõ không thật có. Lại, Thánh phàm không hai đường, sinh tử Niết-bàn đều là sóng cuồng. Làm cho người tu hành quên tình (do ngộ tông dưới nói: Tức là trong tâm ông tánh cuồng tự dứt, xoay vần không vọng tưởng).
Giống như Phật (do tình quên, kinh nói dứt vọng chính là Bồ-đề, tức đồng với Như Lai)
Quán hạnh mau thành: Văn nói phương tiện dễ thành tựu làm thú hướng, lại dùng thú hướng trước làm tông, giúp cho hoặc nghiệp tiêu trừ (vì ba duyên dứt nên ba nhân chẳng sinh) dứt hẳn luân hồi (nếu được diệu phát Tam-ma-đề thì diệu thường tịch có không cả hai đều không, không hai cũng diệt) khởi thần dụng rộng lớn (không cần mắt trời, tự nhiên quán thấy) thân tâm an vui, được an ổn tự tại hoàn toàn (một là trong vô lượng nhỏ lại hiện lớn v.v...) làm tông thú. Có năm cặp riêng:
1. Giáo nghĩa
2. Sự lý
3. Cảnh hạnh
4. Hạnh tịch
5. Tịch dụng
Đều là trước Tông sau thú.
Năm thứ này cũng là từ trước mà khởi sau, dần dần có lý do lẫn nhau. Tóm lại, không ngoài giải hạnh tu chứng. Trước giải thích tông là Như Lai tạng, thực hành Thủ-lăng nghiêm làm thú. Nghĩa là Phật hứa mở bày chân tu. Lại y theo tâm thì thấy hiểu thông suốt. Kế tu chân định làm tông, chứng thể của tàng kia làm thú. Cho nên dưới thỉnh nói: Tuy được căn nhà lớn nhưng phải có cửa mới vào được v.v....
7. Giáo tích trước sau:
Phật nói kinh này chẳng nói ngay trong một lúc thì phải nói lần lượt. Sự nhóm họp theo loại, chung thành một bộ. Nghĩa là trước Phật nói vua Ba-tư-nặc trong pháp hội trình bày điều nghi, phá bỏ chấp đoạn kia. Sau đo, đến A-nan nghi hỏi bảy đường. Nêu việc vua Lưu-ly giết cả giòng họ Thích, Tỳ-kheo Thiện Tinh nói càn về pháp không, cả hai còn sống đã rơi vào địa ngục. Lưu-ly há chẳng phải là con của vua Ba-tư-nặc ư? Sau khi vua băng, ông lên ngôi giết sạch dòng họ Cù-đàm, chẳng lẽ có việc chưa hình thành mà hỏi trước ư? Nên biết kinh nầy chẳng phải nói ngay trong một lúc. Nếu dùng văn nghĩa đi đến định tức là Pháp Hoa có sau, Niết-bàn có trước.
Văn kinh nói Da-thâu được thọ ký, Trì địa chứng kinh, dùng nghĩa đi đến suy luận, tựa khen Thanh văn, chẳng phải y cứ vào hạnh nhỏ, ứng thân vô lượng đô thoát chúng sinh. Vì trước Pháp Hoa thì không có lời khen thế, Thanh Văn vào chân thật, Pháp Hoa cũng không hiển bày. Vì Kinh nầy có nên đều nói về viên thông. Những người tu Tiểu thừa đều trình bày lúc đó, hoặc thuật lại nay gặp đều là chứng tận viên diệu.
Trước Pháp Hoa không có, nên biết ở sau. Nhưng lại không tuyên bố lúc nào nhập diệt, chắc chắn trước Niếtbàn, hai kinh đồng bộ, trong kinh này đều là vị đề hồ không có nghi ngờ.
8. Thời gian truyền dịch:
Ở dưới nói: Ngày hai mươi ba tháng năm, năm Ất Tỵ, niên hiệu Thần Long năm đầu đời Đại Đường, Samôn Bát-thích-mật-đế người Trung Thiên-trúc dịch tại đạo tràng Chế Chỉ ở đất Quảng Châu, trước là đem ba Tạng bản Phạm vượt biển đến chùa Chế Chỉ ở Quảng Châu, gặp Tể tướng Phòng Dung biết tiếng Nam Thuyên, nghe có kinh này bèn thỉnh đối dịch.
Phòng Dung làm người ghi nói, Sa-môn-Di-giàthích-ca nước Ô-trường dịch ngữ. Lúc phiên dịch kinh mới xong, ba tạng bị Bổn Quốc đến lấy. Tần Vương nghiêm chế trước không cho phép ra khỏi nước, Tam Tạng, âm thầm đến biên giới thì bị quở trách, vì giải nạn này bèn bỏ trở về. Phòng Dung mới đến đất Tần, lại gặp Trung Tông mới nối ngôi, chưa rảnh tuyên bố, mục lục thiếu sách. Bấy giờ, người học thiền nhờ vào đạo tràng nên được bổn truyền viết, hay lại bí mật bèn đưa về đất Bắc. Đại Thông ở trong đó, đích thân gặp vua Tần, lại nói kinh mang theo mình, trở về chùa Độ Môn ở Kinh Châu, có Sa-môn Tuệ Chấn Quán Đào thời Bắc Ngụy tìm hỏi linh tích, thường kính mến kinh này, ở chùa Độ Môn bèn gặp bổn này. Mới được phân khoa. Lại theo sa môn Trí Thăng ở Khai Nguyên soạn Thích Giáo Mục Lục, hai mươi quyển.
Trong quyển thứ chín nói: Kinh Đại Phật Đảnh Thủlăng-nghiêm mười quyển, do sa-môn Hoài Địch dịch ở Quảng Châu đời Đường. Hoài Địch theo người Quảng Châu trụ chùa Nam Lâu núi La-Phù học kinh luận trong thời gian khá lâu, đủ vận năm Phạm. Do đến Quảng Phủ bèn gặp một vị Phạm tăng chưa rõ tên tuổi, bèn đối văn cùng dịch, khắc thành mười quyển. Đề mục của kinh, chỉ số câu văn không khác với bổn của Ngài Phòng Duy, Ngài Hoài Địch ghi lại yếu chỉ của kinh, tiếp nối văn lý. Nay rõ hai kinh, người dịch tuy khác nhưng bản dịch thì đồng. Hoặc sợ Hoài Dịch nhân chứng nghĩa đều y theo lưu hành, cho nên nay mục lục ghi nói có khác. Nếu không như thế chẳng lẽ không có chỗ khác nhau nào, tên người chủ dịch há chưa rõ hay sao? Hai bổn đã đồng nay giải bổn của Phòng Dung.
9. Giải thích chung tựa đề:
Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ-tát Vạn Hạnh Thủ-lăng-nghiêm.
Kinh có năm tên, đề mục có ba tên.
Nghĩa là người đủ giáo hạnh lý, nhân quả hiển mật đều phải đầy đủ, trước là lược phối. Ba chữ trên là chung, tức là một thể của kinh pháp, bao gồm cả giáo, lý, hạnh, quả. Giáo hạnh là chỉ rõ, lý quả nghĩa là bao gồm.
Chỉ rõ: Văn nói có Tam-ma-đề tên là Đại Phật Đảnh, đây là chỉ cho hạnh. Lại nói: Nhờ thần chú của Chư Phật Đảnh Như Lai. Lại nói, cũng gọi chú này là Như Lai Đảnh. Đây là chỉ cho Giáo, giáo gồm có hiển và Mật. Hiển là hiểu rõ chỉ bày giúp cho ngộ, tu hành không có vọng tưởng. Tức là lần lượt các văn, bí mật thọ trì làm cho chướng ngại tiêu trừ, công đức thấm nhuần chính là lời của thần chú.
Nghĩa hàm: Nghĩa là tịch chiếu, chứa đựng hư không nên gọi là đại. (tám trăm hai mươi sáu)
Tánh giác mầu nhiệm cho nên gọi là Phật. Đây là nói về lý. Ta vì bất diệt, bất sinh. Hợp với Như Lai tạng trùm khắp pháp giới, nên gọi là Đại.
Sáng cùng tột tức là Như Lai, nên gọi là Phật, đây là nói về quả. Đảnh nghĩa là nghĩa ấy chí cực vô thượng, nếu dùng ba chữ này hoàn toàn nói theo lý thì thể của Tạng trùm pháp chứa đựng tất cả nên gọi là Đại, tức là thể đại linh chiếu không mờ, lìa các vọng tưởng nên gọi là Phật. Phật có hai nghĩa:
Là nghĩa tự tánh hiển chiếu tức là tướng Đại.
Là nghĩa tùy duyên hiện lợi ích tức là Dụng đại. Cái Đại này bằng với Phật, là pháp chí tôn chí cực, vô thượng không gì hơn. Chư Phật tôn làm thầy, nên gọi là Đảnh.
Ba nghĩa Đại này không lìa nhất tâm nên gọi là Nhất tâm, là Đại Phật đảnh.
Câu Như Lai v.v... là nói riêng về công năng cao quý, tám chữ đầu y theo quả, người tự hành trì tu chứng thuyết giáo lợi tha để hiển bày riêng, tức là Như Lai mười phương nương vào pháp môn này tu nhân chứng quả, nói lên giảng nói rốt ráo lợi tha.
Tám chữ Chư Bồ-tát v.v... là y theo nhân, người tu tập đầy đủ tự lợi, lợi tha để hiển bày riêng. Hạnh môn của Bồ-tát là tự lợi, lợi tha rộng lớn vô lượng. Vì định chân thật đều đầy đủ nên ngài Văn-thù khen rằng:
Đây là một con đường đi đến Niết-bàn của vô số Chư Phật. Kế giải thích rộng:
Đại là ngay nơi thể mà được tên, nghĩa là thường biến.
Đương thể nghĩa là không đồng với Tông Pháp Tướng, phân biệt với Tiểu gọi là Đại. Ngoài Đại có Tiểu để phân biệt, vẫn là giới hạn, đâu chẳng phải chí đại hay sao?
Nay lấy thể tánh của Tạng thể vô bờ bến, bặt các phần lượng, gượng gọi là Đại. Thường biến: Thường thì dọc hết ba đời, biến thì ngang khắp mười phương.
Dọc: Là quá khứ vô thỉ, vị lai vô chung, không có một pháp nào trước nó, chỉ có trước các pháp này nên gọi là Đại.
Kinh Niết-bàn lại nói: Đều gọi là Đại, gọi là thường biến, là mười phương cùng tột không có bờ mé.
Kinh Niết-bàn lại nói: Nói là Đại tức là tánh ấy rộng lớn, kinh nay nói thường biến rộng có văn ấy vẫn đủ ba nghĩa, như ở dưới rất dễ thấy.
Phật Đảnh: Là giáo rốt ráo, giáo có hai nghĩa.
1. Bổn
2. Thỉ.
Bổn là thể Tạng, sáng suốt không mờ tối, dứt bặt các vọng tưởng vì đầy đủ vô lượng tánh chất công đức.
Luận Khởi Tín nói: Nói nghĩa giác là tâm thể lìa niệm, lìa tướng niệm, đồng với các thế giới hư không, trùm khắp tướng của nhất pháp giới, là pháp thân bình đẳng của Như Lai. Nương vào pháp thân này ma gọi là Bổn giác, nghĩa Thỉ giác là: Vì y theo Bổn giác mà có bất giác, y theo bất giác mà có Thỉ giác. Thỉ giác là dụng, Bổn giác là thể. Khi dụng hợp với thể, Bổn giác và Thỉ giác không hai, nên gọi là giác rốt ráo.
Giác rốt ráo: Tức là trước khi tánh của Tánh hiển hiện vô thượng tối cực gọi đó là Đảnh. Đây là y theo quả vị để hiển bày pháp thể nên gọi là Phật Đảnh.
Nếu y theo hiện sự tức là nay Phật Đảnh phát ra ánh sáng hóa Phật nói về giác hạnh. Bởi vậy, giác hạnh đều gọi là Phật Đảnh.
Như Lai: Như là bổn giác, Lai là thỉ giác, Thỉ giác và bổn giác hợp chung gọi là Như Lai.
Đây chỉ là một Phật mà đủ các Phật.
Dưới nói giáo hạnh vì điều y theo Chư Phật để nói lên sự đồng nhau. Nhân mật, có hai:
1. Giáo.
2. Hạnh.
Giáo: Dưới nói tâm chú, là mật ngữ của Phật, chỉ có Phật và Phật mới biết được, người khác không thể hiểu. Chỉ tin mà thọ, suy nghĩ mà trì, dứt chướng thành đức.
Hạnh: Định Chân thật này có đủ cả không, gia, tức là nhất tâm, chẳng phải dọc ngang đều riêng, không thể suy nghĩ bàn, luận đầy đủ muôn hạnh, Chư Phật ba đời đồng một pháp môn này. Khi hạnh này thành tựu gọi là ba bí tạng nên gọi là Mật. Tu là nhân của hạnh, chứng là quả, hai loại Địa tiền, Địa thượng duyên chân đều gọi là Tu. Diệu giác ở giai vị Sơ địa phần tròn đầy đủ hai quả, đồng gọi là Chứng, sở tu sở chứng đều là Đại Phật Đảnh, đây là tự hạnh, như Quán Âm viên thông.
Liễu nghĩa: Thuyết giáo hóa độ người, giải thích nghĩa lý không có sự che lấp, cùng lý tận tánh gọi là thật đàm, cho nên văn dưới nói: Tánh nghĩa chân thắng trong nghĩa làm cho Thinh Văn định tánh trong hội của ông đều được Nhất thừa vắng lặng tràng địa, chẳng có thuyết khác, nên nói là Liễu nghĩa
Muôn hạnh của các Bồ-tát: Nghĩa là người tu nhân trong ba đời đều tu hạnh này, tự lợi lợi tha, có vô lượng nghĩa, nay nêu số lớn nên gọi là muôn.
Tam-muội này có nhiều nghĩa như thế cho nên văn dưới nói: Có Tam-ma-đề tên là Đại Phật Đảnh Thủ-lăngnghiêm Vương đầy đủ muôn hạnh.
Thủ-lăng-nghiêm là tiếng Phạm.
Kinh Niết-bàn nói: Thủ-lăng là Nhất Thiết sự cánh, Nghiêm là Kiên.
Tức là tất cả việc rốt ráo bền chắc. Được Tam-muội này quán pháp như huyễn, đối với pháp tự tại, có khả năng phá tan vô minh sâu kín sau cùng, có thể được hai nghĩa cao siêu, hiện thân nói pháp, vô ngại tự tại, cho nên trong kinh ở dưới gọi là Như huyễn Kim Cương
Vương Phật mẫu diệu liên hoa. Tam-muội này dùng trí vô phân biệt tịch dụng làm thể, vì tất cả pháp đều đồng trí tánh, cùng tận pháp giới, lại không dư sót nên gọi là tất cả việc rốt ráo. Tất cả việc là nói không lìa nhiễm tịnh, khi trí này hiện thì nhiễm tịnh đều dứt.
Pháp không lập, lại pháp nhiễm rốt ráo dứt, tịnh dùng rốt ráo hiển? Như văn dưới nói: Ta vì bất diệt bất sinh hợp với Như Lai tạng mà Như Lai tạng là Diệu giác chiếu sáng giới. Bởi vậy một làm vô lượng. Lại nói: Bụi nhơ ứng niệm tiêu mất, thành tròn sáng mầu nhiệm. Đã quán như huyễn, không để bị hoại, có công năng dứt trừ vô minh nên gọi là Kiên cố.
Kinh: Là huấn pháp, huấn thường là quán, là nhiếp. Nghĩa là y theo lời nói này hiển rõ tánh tướng, giúp cho chúng sinh hiểu rõ, nên gọi là Pháp. Tất cả Chư Phật đều đồng thuyết này, nên gọi là thường, có khả năng làm cho nghĩa lý không tán mất cho nên gọi là Quán. Dùng hóa sinh này không điên đảo, không đọa, nên gọi là Nhiếp. Nếu nói theo thể của Như Lai tạng sở thuyên mà nói Kinh thì cũng có đủ bốn nghĩa. Nghĩa là tâm tánh này Chư Phật, bậc thầy đăng làm khuôn phép nên gọi là Pháp, không sinh không diệt không có thay đổi nên gọi là Thường, trên Thánh dưới phàm, tình và phi tình đều đồng ở đây, cho nên nói là Quán. Đầy đủ các đức, dung chứa đủ nhiễm tịnh nên gọi là Nhiếp. Tâm tánh đã vậy, thì tất cả pháp cũng như vậy, cho nên văn dưới nói: Năm ấm, sáu nhập, sinh diệt, đến đi, vốn là Như Lai tạng cho nên tất cả pháp mặc cho xoay vần đều có bốn nghĩa, đều gọi là Kinh. Một gọi là Kinh của đại đạo tràng Na-lanđà ở Trung Ấn Độ, nơi bộ Quán Đảnh ghi ra hạnh riêng, đó gọi là riêng.
Ấn-độ nguyệt danh: gọi đủ là Ấn-đặc-già, Hán dịch là Nguyệt Bang, dùng nước lớn này để hình dung các nước nhỏ như vầng trăng giữa các vì sao.
Kia có năm ấn, đây đúng là Trung Ấn, đều là tên của một khu vực, trong khu vực này có nhiều nước riêng, nước lớn nhất là Ma-Kiệt-Đà, Hán dịch là Đại thể. Vì nhiếp chung, hoặc nói bất hại, đều là nghĩa dịch ra.
Na-lan-đà, Hán dịch là Thí Vô Yếm, là tên rồng. Tây Vực Ký nói: Nước Am-một-la có một cái ao, trong ao có con rồng tên là Thí Vô Yếm, chùa gần ao ấy nên dùng tên rồng đặt tên chùa.
Đại đạo tràng: Là nơi thể tâm tu đạo của sa-môn. Sau khi Phật diệt độ, sáu vì vua hưng tập nơi vùng xa xôi, rừng cây khắp hợp, đều xây một cửa, chủ khách muôn tăng, trụ trì Tăng trưởng, Ấn-độ gọi là chùa, chẳng phải trước tiên ở đây, nên gọi là Đại (tám trăm hai mươi bảy) Bộ quán đảnh. Gồm có năm bộ, một bộ này Tỳ-lô làm chủ, đã nêu chỗ bộ, tìm kiếm so sánh để nương, không cho là phiên dịch gần đây, nghi không phải là chánh thuyết.
Ngày hai mươi ba năm Tân sửu Ất mão, tháng năm, năm Ất tỵ long tập đầu niên hiệu Thần long đời Đại Đường, niên hiệu Thần Long năm thứ ba năm Tân sửu thì trời bãi chánh, Trung Tông kế vị, năm ấy đổi thành niên hiệu Thần Long năm đầu.
Long Tập: gọi là long tinh, tuế tinh, tuế hạnh, là lần thứ nhất Ất tỵ tức là kế chỗ ở, Sóc Là Tô. Tháng chết lại sống, tức là sống lại. Sa-Môn Bát Thích-Mật-Đế người Trung Thiên-trúc dịch tại đạo tràng Chế Chỉ ở Quảng Châu.
Thiên-trúc cũng nói là Càn-trúc, Càn-đậu, Thân-độc, Ấn-độ.
Sa-môn: Hán dịch là Cần Tức, là sinh thiện diệt ác; Bát-Thích-Mật-Đế, Hán dịch là đáo bỉ ngạn, người dịch có tài trí, thông hiểu tiếng bốn phương, gọi là cái học sâu xa. Bốn phương đều có tên, nay lấy ngôn ngữ phương Bắc.
Đệ tử thọ giới Bồ-tát trước Chánh Nghị Đại Phu đồng là Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự, Phòng Dung ghi nói ở Thanh Hà.
Tuy làm Tể quan mà thọ giới Đại thừa
Kinh nói: Khi muốn thọ nhận địa vị quốc vương, cho đến khi trăm quan nhận địa vị, thì trước phải thọ giới Bồtát, tất cả quỉ thần cứu hộ thân vua, thân trăm quan. Nhờ vào sư trưởng, dùng đạo cha anh tôn thờ, nên nói là Đệ tử.
Chánh Nghị: Nay bàn luận, cử người hiền hiểu biết và người có tài năng.
Đại phu: Người tiến bộ nên nói là Đại phu. Trung Thư, Môn hạ: Là tên hai tỉnh.
Bình Chương: Là nói về việc chánh trị của nước nên gọi là bình Chương Sự.
Ghi nói: Nghĩa là thể văn của cõi này dùng bút viết tiếng Phạm thu thập tinh ba giúp cho thuận ý chúng sanh nhưng không mất chánh lý.
Sa-môn Di-gia-thích-ca nước Ô-trường dịch ra tiếng Hán, tên nước thì chưa rõ Di-già Thích-ca: Hán dịch là Năng hàng phục, dịch tiếng Phạm thành Hán nên nói là dịch ra tiếng Hán.
Trong đó, chứng nghĩa phải có ghi riêng. Ngoài ra, như về thuyết năm phiên dịch có nói. Dưới đây là thứ mười, giải thích riêng văn nghĩa, y theo thường chia làm ba phần: là phần tựa phần chánh từng và phần lưu thông. Trong phần tựa có hai: chứng tín và phát khởi, lập chứng tín do A-nan hỏi, Phật gác qua một bên, ý là dứt nghi, dứt tranh luận và tà khác nhưng ở đây tuy có sáu thứ thành tựu, nay đều lược đủ, chia chung thành hai.
1. Thời gian, nơi chốn nói kinh.
2. Dẫn chứng đồng nghe, đây là phần một.
Như vầy: Nếu gồm cả tôi nghe hợp với giải thích, tức là từ chỉ cho Pháp, Pháp ấy tôi nghe từ Đức Phật. Luận Phật Địa nói: Khi kiết tập, đại chúng cùng thỉnh rằng: Như điều ông nghe phải nói như vầy: Bồ-tát truyền pháp cho phép được nói: Phải nói là như điều tôi nghe, là lìa giải thích.
Như vầy: là Tín thành tựu.
Luận Trí Độ nói: Biển lớn Phật pháp tin thì vào được, trí là tài năng.
Người tin thì nói việc này là đúng, còn người không tin thì nói rằng việc này không đúng.
Ngài Tăng Triệu cũng nói lời Tin thuận, tin thì lý được nói là thuận, thuận thì đạo thầy trò thành tựu. Cho nên trong muôn hạnh lấy Tín làm đầu. Cho nên nói như vầy.
Lại khế lý, khế cơ gọi là Như, lìa hẳn sai trái gọi là Vầy. Như lý mà nói, như lý mà tin, cho nên nói là như vầy. Nếu theo kinh nay thì: Như Lai tạng tâm, thể tánh bất động gọi là Như. Nghĩa chân thật gọi là Vầy. Lại tất cả các pháp vốn vô sinh diệt, đều là Như Lai tạng, cho nên gọi là Như, lìa tất cả tướng tức tất cả pháp, nên gọi là Vầy. Lại có nghĩa khác rườm rà nên không nói.
Tôi nghe: Là nghe thành tựu. Tôi chính là A-nan tự chỉ cho năm uẩn giả nhưng tất cả pháp Phật nói vô ngã, ở đây xưng là ngã (tôi). Ngã có bốn thứ:
1. Chấp khắp của phàm phu
2. Chấp của Tông ngoại đạo
3. Các bậc Thánh tùy thế gian giả lập khách chủ
4. Pháp thân chân ngã.
Ý chỉ kinh sau đây có hai:
Chẳng phải tâm tà mạn mà có nói, cho nên không lỗi, nghe là nhĩ căn phát thức nghe nhận. Tuy do tai mà bỏ riêng theo chung, nên nói là tôi nghe không có tướng tông để nói, ta đã vô ngã, nghe cũng không nghe, vì từ duyên sinh cho nên không hoại giả danh, tức là không nghe mà nghe. Nếu theo pháp tánh thì chỉ thú của kinh này, Bồ-tát truyền pháp vì chân ngã "ngã và vô ngã" không hai, vì sự nhiệm mầu. Căn cảnh chẳng phải một chẳng phải khác, nghe pháp môn chân tục vô ngại.
Một thời tức là thời thành tựu.
Thầy trò hợp hội, nói nghe rốt ráo, nói chung là một thời: một là phân biệt với lúc khác.
Thời là tùy thế gian giả lập.
Như Lai nói kinh có vô lượng thời, không thể nêu riêng, một là lược khắp, nên chỉ nói một thời.
Kinh Niết-bàn nói: Một thời, ở bên bờ sông Hằng. Lại ở các địa phương, thời phần chia không nhất định, cho nên nói một thời. Nếu nghĩa giải thích theo pháp thì nói lúc nghe, tâm hoại mất, lý trí dung, phàm Thánh như, bổn thỉ hội các thứ hai pháp này đều là một thời.
Phật: Là chủ thành tựu.
Phật, nói đủ là Phật-đà. Hán dịch là Giác giả (bậc giác ngộ), nghĩa là người hiểu rõ tánh tướng chân vọng tức là giác rốt ráo.
Luận nói: Vì giác ngộ nguồn tâm nên gọi là giác rốt ráo, chưa giác ngộ nguồn tâm nên chẳng phải giác rốt ráo nhưng có đủ ba nghĩa:
1. Tự giác: Giác biết tâm mình vốn vô sinh diệt.
2. Giác tha: Giác biết tất cả pháp đều như vậy
3. Giác mãn: Lý của tự giác, giác tha tròn đầy gọi là Mãn.
Trong Luận Phật Địa nói có mười thứ: Nghĩa là có đủ Nhất thiết trí, Nhất-thiết-chủng-trí, dứt bặt chướng phiền não và chướng sở tri, biết rõ tánh tướng tất cả pháp, có khả năng tự khai giác, cũng có khả năng khai giác cho tất cả hữu tình. Như ngủ say mà thức dậy, như hoa sen nở, nên gọi là Phật
Ở tịnh xá Kỳ-hoàn trong thành Thất-la-phiệt: Là xứ thành tựu, xứ có hai loại:
1. Chỗ hóa độ, tức là La-phiệt
2. Chỗ ở, tức là Kỳ-hoàn.
Thất-la-phiệt gọi đủ là Thất-la-phiệt-tất-để, Hán dịch là Phong Đức, hoặc dịch là Văn vật, hoặc dịch là Hảo đạo. Đây là tên thành, không phải tên nước. Vì trong thành này có nhiều tài vật, thích cảnh dục, nhiều người học rộng.
Phong là đạo giải thoát.
Đức là tên gọi, là năm vị trời cùng nghe, có người nói nghe là thành, ngày xưa có vị tiên già ở đây tu đạo, sau đó có vị tiên nhỏ theo hầu thọ học quyết gọi là Nghe. Vị tiên già sau khi chết, vị tiên nhỏ ở đây xây dựng thành mà ở, nên nêu tên là thành Kỳ-hoàn, nói đủ là Kỳ-đà hoặc nói là Thệ-đa, Chế-đa. Hán dịch là Chiến Thắng, là tên vị Thái tử, Chủ rừng là thái tử nên gọi là Thắng Lâm.
Hoàn: Nghĩa là lâm.
Tịnh Xá: Tức là chỗ ở của Sa-môn tu hành, là Tuđạt mua vườn làm nhà, Thái tử xả cây làm cửa.
Hai người kết hợp để thỉnh Phật, Tăng, hai người dẫn chúng đồng nghe, chúng đồng nghe không phải chỉ có Ba thừa, mà còn đủ các đường, dưới đủ tám bộ trời rồng, vua quan Bồ-tát phát khởi trong phần Tựa. Nay văn chỉ có hai thứ: Vì người dịch khéo lược bỏ, Văn có hai:
- Thanh Văn.
- Duyên Giác.
1. Thanh Văn đầu có ba:
1) Nêu loại, nêu số, cùng chúng đại Tỳ-kheo là nêu loại:
Cùng: Đều đến.
(Tám trăm hai mươi tám) Phật, A-nan và Đại Tỳ-kheo chứng tỏ không phải sai lầm. Phạm là Ma-ha, ở đây có ba nghĩa, nghĩa là đại đa thắng. Khí lượng tôn trọng được vua trời, đại nhân cung kính nên nói là Đại.
Biết khắp kinh sách trong ngoài nên gọi là Đa, xuất xứ từ chín mươi lăm thứ ngoại đạo nên gọi là Thắng.
Tỳ-kheo gồm có ba nghĩa: Khất sĩ, Bố ma, Phá ác, nghĩa là người xuất gia trên cầu pháp Chư Phật, dùng tư chất bên trong làm cho tuệ mạng thêm lớn, dưới đến nhà đàn việt lìa tà, chánh mạng đi xin ăn, dùng tư chất bên ngoài làm cho sắc thân không tổn giảm, nên nói là Khất sĩ.
Lại người xuất gia, trước phát tâm xuất gia hoặc tâm Bồ-đề, hoặc chí thành với đạo, làm cho ma sợ mất quyến thuộc, nên gọi là Bố ma.
Lại dứt được bỏ bảy chi thân miệng, chín mươi tám kiết sử nghiệp phiền não, nên gọi là Phá ác.
Bốn vị trở lên cho đến vô lượng, có khả năng làm pháp yết-ma tự tứ nên gọi là Chúng.
Một nghìn hai trăm năm mươi vị là nêu số chúng khi Phật mới thành đạo, trước độ năm anh em Kiều-trầnnhư. Kế là độ ba anh em Ca-diếp và đồ chúng của họ, gồm một ngàn vị. Kế nữa, độ Xá-lợi-phất và Mục-kiềnliên và đồ đệ của họ gồm một trăm vị, kế là độ Trưởng lão Da-Xá và năm mươi vị. Kinh nêu số tròn, cho nên giảm năm vị, chúng này trước đều tôn thờ ngoại đạo, siêng năng khổ nhọc nhiều kiếp, không hề chứng đắc được gì, mới thấy Phật bèn đắc quả cao thượng, cảm được ơn sâu dày của Phật nên thường theo Phật hóa độ, là chúng thường theo.
2) Khen ngợi đức hạnh.
Đều là bậc đại A-la-hán vô lậu là chỉ chung.
Lâu có ba thứ: Vì đều dứt hết, vì A-la-hán gồm ba nghĩa. A-la-hán dịch là Ứng. Vì Ứng đã giết chết giặc phiền não. Vì ứng nên không chịu sinh tử phân đoạn, vì ứng nên xứng đáng thọ nhận sự cúng dường của trời người, ở đây đều là vô ngại, nên gọi là Đại. Trở xuống là khen ngợi riêng Phật tử trụ trì khéo thoát khỏi các cõi, từ miệng Phật sinh, từ pháp hóa sinh, đắc phần pháp của Phật, nối tiếp làm hưng thạnh hạt giống Phật, nên gọi là Phật tử. An trụ giác tánh ba đức bí mật sâu kín, khéo giữ công đức, muôn điều lành không mất, nên gọi là Trụ trì. Các Hữu: là hai mươi lăm Hữu đều đắc hai mươi lăm thứ Tam-muội, không bị cõi ràng buộc, nên gọi là khéo vượt qua: Đây là khen ngợi tự lợi, trở xuống là khen ngợi lợi tha có thể ở nơi cõi nước thành tựu oai nghi, chẳng có cõi nào không hiện, cho nên nói có thể ở nơi cõi nước có oai đáng sợ, có nghi đáng kính, đi đứng ngồi nằm đều thành khuôn phép, xứng đáng làm tiêu chuẩn, cho nên nói thành tựu v.v...Tịnh Danh nói: Gọi là không khởi Diệt định, hiện các oai nghi. Oai nghi nầy đáng quán sát. Theo Phật xoay bánh xe phép, có khả năng nhận lãnh di chúc của Phật: là người trí, có khả năng nhận lãnh sự dặn dò, thường theo Phật xoay bánh xe Đại pháp, pháp là dứt bỏ nghiệp phiền não. Dụ như bánh xe. Tự đã phá bỏ hoặc chướng, cũng có thể chuyển dạy làm cho người phá hoặc, đối với một pháp mà nói vô lượng, mỗi pháp đều hợp cơ, mỗi pháp đều xứng tánh, dùng phương tiện khéo léo giúp cho được vào tri kiến của Như Lai, khéo léo kham nhậm, giữ gìn kho pháp, làm cho các ngọn đèn nối nhau, sáng mãi không dứt, dặn dò truyền bá chánh pháp, khiến độ chúng sinh, gọi chung là di chúc.
Nghiêm tịnh Tỳ-ni: Khuôn phép rộng lớn cho ba cõi, giới đáng nương theo. Tỳ-ni là luật, là luật pháp, cắt dứt khinh trọng, khai, giá, trì, phạm, phi pháp, bất định.
Hoằng là rộng lớn. Quỹ là khuôn khép.
Đã nghiêm trì giới cấm thanh tịnh, thân tâm không trái, xứng đáng làm khuôn phép cho thế gian, chính là giềng mối trong chánh pháp.
Ứng thân vô lượng, độ thoát chúng sinh, chắc chắn có khả năng hiện hóa. Trụ Thủ-lăng-nghiêm, hóa lại làm hóa, hiện sắc thân khắp, tùy theo cơ nghi của mười cõi, hiện thân tướng nào mà nói pháp. Vì giúp cho chúng sinh thoát khổ, giải thoát hoặc nghiệp, được tự tại. Kinh Pháp Hoa gọi là trong ẩn ngoài hiện, từ pháp thân địa tùy duyên ứng khắp, như một mặt trắng không giáng xuống, như trăm dòng nước không bay lên, năng lực gốc lành từ bi như thế.
Nếu không phải sau khi phát tích, không có khen ngợi như thế thì giáo vị đề hồ hiện ra ở đây.
Cứu giúp vị lai, vượt các trần lụy, là kết tâm bi giáo hóa vô tận. Bạt: là làm cho thoát khổ.
Tế: là làm cho được an vui
Sau khi Phật diệt độ cho nên nói là vị lai, phiền não và nghiệp nhiễm ô ràng buộc dụ cho trần lụy, đều làm cho thanh tịnh tự tại vô ngại, nên gọi là vượt.
3) Nêu chúng thượng thả:
Ấy là Đại trí Xá-lợi-phất, gọi đủ là Xá-lợi-phất-đátla, Hán dịch là Thu Tử. Mắt của mẹ Ngài tròng đen tròng trắng phân ra rõ ràng, chuyển động lanh lợi từ nơi bà mẹ mà sinh ra, nay từ bà mẹ mà có tên, cũng gọi là Thân tử, là đệ tử như cánh tay mặt của Phật, có trí tuệ hơn người, nên gọi là Đại trí. Kinh Tăng Nhất nói: Trong Phật pháp của ta, Xá-lợi-phất là người trí tuệ vô song, giải quyết các nghi ngờ bậc nhất.
Ma-ha Mục-kiền-liên: Nói đủ là Ma-ha Một-đặcgià-la, Hán dịch là Thải Thúc Thị. Còn gọi là Hồ Đậu, tức là Tôn giả lấy họ mẹ, là vị tiên già thời thượng cổ, do đó mà lấy làm họ, là đệ tử cánh tay trái của Đức Phật, thần thông không ai bằng. Ở dưới Kinh nói:
Ta đến khắp mười phương, không hề quái ngại, thần thông phát minh được suy tôn là Vô thượng.
Ma-ha Câu-hy-la: Hán dịch là Đại-tất, là cậu của Xálợi-Phất, đương thời ngài tranh luận hơn cả chị mình. Lúc bà mang thai Xá-lợi-Phất thì ông lại tranh luận không bằng chị, biết chị khi có thai có người trí tuệ gá vào miệng chị để biện luận, huống chi là khi ra khỏi thai. Sau đó, ông bèn đến Nam Thiên học mười tám bộ kinh, người đời cười nói rằng: "Nhiều đời khó thông, một đời không thành tựu". Ngài nghe nói vậy, liền lập thệ học không bao giờ nghỉ, không rảnh để cắt móng tay, người đời gọi ông là Phạm Chí Trường Trảo. Ngài học xong rồi trở về nhà, biết cháu mình làm đệ tử Phật bèn sanh tâm kiêu mạn, đến chỗ Phật, Phật bảo lập luận, ngay nghĩa lý bèn bị thua, hổ thẹn cúi đầu, được mắt pháp thanh tịnh, thành A-la-hán, được bốn biện tài, gặp sự khó khăn đều đáp được Thiên Vương Phương Nam thường theo hầu Ngài. Phú-lâu-na Di-Đa-la-ni tử: Phú-lâu-na là tên, Hán dịch là Mãn. Cha là Mãn Giang, cầu trời mà sinh được Ngài, chính gặp con sông đầy, lại nguyện được mãn, mẹ nằm mộng thấy bình đầy báu vào trong bụng bà liền mang thai, do các ý nghĩa ấy mà được tên gọi như vậy.
Di-da-La-ni là tên mẹ, Hán dịch là Từ, cũng dịch là tri thức, mẹ Ngài có hạnh từ, vẫn tụng phẩm Vi-đà Tri Thức, là ni nữ thanh. Khi sinh ra, cha mẹ gọi là Mãn Từ Tử. Ngài là người nói pháp bậc nhất trong các đệ tử của Như lai. Kinh ở dưới nói: Ta nhiều kiếp đến nay biện tài vô ngại, giảng nói khổ không, đạt sâu tướng thật, pháp môn bí mật của Hằng hà sa Như Lai, ta ở trong chúng khai thị mầu nhiệm, không hề sợ hãi.
Tu-Bồ-đề: Hán dịch là Không Sinh, hoặc dịch là Thiện Kiết, Thiện Hiện. Khi sinh Ngài, kho tàng, bình sành ở trong nhà bỗng nhiên đều biến mất. Người xem tướng nói: Đặt tên cho đứa bé này là Thiện Kiết, vì tướng thiện kiết này hiện nơi bình khí từ đó mà đặt tên cho Ngài như vậy. Ngài là người giải không bậc nhất, nhập định Vô Tránh, thích nói pháp Không, về hạnh tu hành lấy "Không" làm gốc.
Như kinh ở dưới nói: Ta nhiều kiếp đến nay tâm được vô ngại, khi ở trong thai mẹ đã biết được sự vắng lặng, như vậy cho đến mười phương đều thành không, cũng làm cho chúng sinh chứng được tánh không, tánh không tràn đầy, đắc quả A-la-hán.
Ưu-ba Ni-sa-đà v.v... là Thượng Thủ. Hán dịch là Cận Thiểu, dịch nghĩa là (tám trăm hai mươi chín) Trần Tánh. Vì quán cát bụi là không mà đắc đạo. Cát bụi là phần rất gần của sắc, gần với hư không, là bờ mé của sắc, nên gọi Trần Tánh là Cận Thiểu.
Như ở dưới kinh nói: Ta ngộ tánh sắc từ xương trắng bất tịnh, cát bụi trở về hư không, không và sắc cả hai đều không, thành đạo Vô học. Như Lai ấn khả cho ta tên là Ni-sa-đà. Lại có vị khác, kinh không nói đủ nên nói là vân vân. Tức là ba anh em Ca-diếp đều là Thượng thủ, là bậc tri thức trong chúng, làm giềng mối trong Phật pháp, mỗi vị đều có đệ tử nên gọi là Thượng thủ.
2. Chúng Duyên Giác:
Lại có vô lượng vị Bích-chi Vô học, đều là sở tâm, đồng đến chỗ Phật.
Bích-chi nói đủ là Bích-chi-già-la, Hán dịch là Duyên Giác, vì quán mười hai nhân duyên mà giác ngộ. Đây là bộ hành, khác với ví dụ đồng với hư không, ngợi khen các bậc nêu tên là có đức. Vì nhàm chán ồn ào thích yên tĩnh, không phải là tri thức của chúng, chủ bạn đều nhóm họp cho nên nói đồng với sơ tâm. Gặp Phật hồi hướng sẽ chứng đại quả, cho nên kinh ở dưới nói:
Người Hữu học Nhị thừa và các Bồ-tát mới phát tâm đều được bổn tâm, xa lìa bụi nhơ, được mắt pháp thanh tịnh. Tựa chung đã rồi, hai lời tựa đều khác, các kinh không đồng, phát khởi đều khác, hoặc phát ra ánh sáng mỉm cười, khất thực nhập thiền, tự nói giai vị, khuyên người thưa hỏi v.v...
Kinh nầy, do mãn hạ chúng tăng nhóm họp, vua quan thiết lễ cúng dường. Ngoại trừ Khánh Hỷ không dự cúng dường, do đi khất thực nên gặp dâm nữ mê hoặc bằng tà thuật. Tự mình không có định, không thể hàng phục được. Do vậy bên ngoài giả bí mật nhiếp hộ làm cho trở về, ý nói lên sinh tử luân hồi, không gì qua dâm ái, chứng lên Thánh vị, đâu gì hơn định tuệ?
Bên trong định tuệ có đủ, bên ngoài bí mật có thừa, bụi bay thuận gió có gì gian hiểm.
Văn có bốn:
1. Kiết chế hạ an cư viên thành, chúng cầu mật nghĩa.
Dặn dò các Tỳ-kheo cuối hạ tự tứ. Dặn dò: Là gặp gỡ nhau.
Đức Phật cấm chế đủ ba tháng, hôm nay là ngày cuối nên gọi là xong hạ.
Tự mê nên phạm, khi tự tứ bị Tăng nên tội phải sám hối cho thanh tịnh nên gọi là Tự tứ. Pháp chế tự tứ như luật có nói.
Các Bồ-tát ở mười phương thưa hỏi giải quyết tâm nghi, khâm phục vâng theo nhưng lời nghiêm khắc đầy lòng từ, sẽ cầu mật nghĩa.
Bồ-tát gọi đủ là Bồ-đề Tát-đỏa. Hán dịch là Giác hữu tình.
Ở đây có ba giải thích:
Bồ-đề là quả sở cầu, Tát-đỏa là độ sinh.
Bồ-đề là quả sở cầu, Tát-đỏa là người năng cầu. Bồđề là trí giác ngộ, Tát-đỏa là tình lự thức.
Y cứ chung vào bi trí, năng sở, chân vọng để đặt tên. Điều này an cư chẳng phải chỉ một chỗ, nên gọi là mười phương. Hạn chế bên trong tu hành thông đạt bất tận, theo thầy được thầy dạy trao, mãn hạ mới toại ý. Cho nên nói quyết hỏi tâm nghi ngờ.
Cung kính vâng theo gọi là kính vâng.
Ân niệm oai trọng nên gọi là nghiêm khắc, lòng từ sẽ cầu mật nghĩa. Ý thỉnh giảng nói mật nghĩa của Như Lai là nhân tu chứng pháp môn liễu nghĩa.
2. Thầy trò cảm ứng, giảng nói thừa chân thật:
Tức thời Như Lai trải tòa và ngồi, không phải thiền, chẳng phải tuệ cho nên trước nhập định, sau làm khuôn phép, liền trải ni-sư-đàn an tọa tĩnh lặng như kinh Kim Cương và Pháp Hoa nói trước nhập định, sau đó mới giảng nói. Cách thông thường như vậy. vì trong các hội chỉ bày chỗ sâu kín, trước cầu mật, nay giảng nói chỗ sâu kín, tùy theo lời hỏi, mà chỉ bày cho, như Kinh Pháp Hoa trước nói Kinh Vô Lượng Nghĩa, cho là gốc của Nhất thừa. Nay trong hội này cũng như thế, chắc chắn là có mục đích của kinh ẩn mà không nói. Chúng thanh tịnh được điều chưa hề có, Giáo chủ chẳng phải tâm hành sinh diệt, nói pháp thật tướng, nhưng chúng có khả năng nghe điều đó, đại chúng cũng không có một pháp để lãnh thọ, xứng thật nói nghe không có nhiễm nhỏ, cho nên nói là chúng thanh tịnh. Đây là pháp hội rốt ráo vô thượng, cho nên nói chưa hề có.
Tiếng tiên Ca-lăng trùm khắp các cõi mười phương, âm thanh Phật mềm mỏng, chúng rất ưa thích, nghe mãi mà không thoả mãn. Như chim Ca-lăng-tần-già còn ở trong trứng mà tiếng hót đã hay hơn các loài chim khác, cho nên đúng dụ cho âm thanh của Phật. Loài chim này phi thường nên gọi là Tiên.
Trùm khắp các cõi mười phương: Nói lên ý nghĩa tròn đầy. Như Lai là âm Phạm, là cao quý nhất trong các tướng rất như chỗ khác có nói.
Hằng sa Bồ-tát nhóm đến đạo tràng, Văn-thù-sư-lợi là bậc Thượng thủ.
Nói đúng là Mạn-thù-thất-lợi, Hán dịch là Diệu Cát Tường, hoặc Diệu Đức, Văn dưới dùng thần chú chọn viên thông và hiểu tâm chúng, vô tư không hàng phục, bậc tôn trí đức, cho nên nêu là Thượng thủ.
Văn trước nói Bồ-tát ở mười phương thưa hỏi giải quyết tâm nghi, nay ở đây lại nói hằng sa đến nhóm hội, hoặc nhân kết Thượng thủ mà chỉ lại văn trước, hoặc do trước là nói pháp âm thanh cùng khắp mười phương, sau mới nhóm hội. Hai nghĩa ấy đều không có.
3. Vua quan thỉnh cúng, chủ bạn đều đến.
Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc đến ngày húy nhật vua cha bèn thiết trai cúng dường, thỉnh Phật vào cung, đích thân đón rước Như Lai, dọn bày thức ăn ngon quý và đích thân thỉnh các đại Bồ-tát.
Gọi đủ là Bát-la-tư-na-thị đa: Hán dịch là Thắng Quân, sáng ngày húy kỵ vua cha băng nên gọi là húy nhật, là một ngày sau ngày tự tứ là húy kỵ, vì kỵ là nêu việc tốt, húy là tránh gọi tên. Cung dịch tức là nội đình, là chỗ hậu phi ở, ở hai bên thiên tử như khuỷu tay. Cung cấm của vua cấm người ở.
Trong thành lại có Trưởng giả, cư sĩ đồng thời cúng dường tăng, đang đợi Phật đến, Phật bảo Văn-thù phái các Bồ-tát và A-la-hán đến ứng trai ở nhà các trai chủ. Mười đức đầy đủ, ba phẩm cư tài, gọi là Trưởng giả, cư sĩ. Lại giữ đạo tự vui, ít dục ẩn đức nên gọi là Cư sĩ. Phật là hóa chủ, vua thỉnh phải đến, quan là phụ tá, bậc Thánh khác có thể đến.
Khánh Hỷ không thọ trai, vào thành khất thực, có hai lý do: a) Trở về Kỳ Viên không thọ thỉnh:
Chỉ có A-nan trước thọ thỉnh riêng, đi xa chưa về không được xếp vào thứ lớp chúng tăng
A-nan, Hán dịch là khánh Hỷ. Khi Phật mới xuất gia, vua Tịnh Phạn lo buồn, nghe con thành đạo, vua rất vui mừng. Lại có Hộc Phạn tâu rằng sinh bé trai cả nước rất vui (hỷ) do đó dặt tên là Khánh Hỷ. Lại A-nan khôi ngô, nói nín đi đứng nằm ngồi, cử chỉ hành động mọi người thấy đều ưa thích nên nói là Hoan Hỷ.
Trước thọ thỉnh riêng: Kinh Niết-bàn nói không thọ thỉnh riêng là không theo Phật mà thọ thỉnh riêng, hoặc do việc người mà không phải trai.
Hoàng là rảnh rang.
Đã không có Thượng tọa và a-xà-lê, giữa đường trở về một mình.
Ngày ấy không được cúng, đồng bậc thượng hạ, gọi là Thượng tọa.
A-xà-lê: Hán dịch là Quỹ phạm, nghĩa là làm khuôn phép trong chúng. b) Vào thành khất thực theo thứ lớp: Khất thực bình đẳng có hai:
-Chánh hạnh bình đẳng theo thứ lớp khất thực:
Tức thời A-nan ôm bình bát vào thành thứ lớp khất thực. Ngày đó mới phân khất thực dễ được, nên nói là tức thời.
Bát-Đa-la Hán dịch là ứng lượng khí, sắc và thể lượng đều đúng pháp, bất luận tịnh uế nên nói là thứ lớp thuận theo khuôn phép, cho nên nói theo thứ lớp khất thực.
Khất thực có mười điều lợi, như kinh Bảo Vũ nói: (tám trăm ba mươi) Trong tâm mới cầu đàn việt cuối cùng để làm trai chủ, bất luận hỏi tịnh uế. Là dòng họ tôn quý Sát-đế-lợi và dòng thấp hèn chiên-đà-la. Phương pháp thực hành bình đẳng từ bi không phân biệt giàu nghèo, phát ý viên thành, tất cả chúng sinh công đức vô lượng.
Đàn Việt, Hán dịch là Thí giả.
A-nan khất thực: Ý là mong người cuối cùng thỉnh tăng, ta sẽ đến đó, nên gọi là Trai chủ.
Tịnh uế: Tức là sát lợi và chiên-đà-la.
Sát-đế-lợi: Hán dịch là Điền chủ, tức là dòng dõi vua, nên nói là dòng họ tôn quý.
Chiên-đà-la: Hán dịch là sát giả, tức là nhà giết mổ rượu thịt.
Phương: là pháp. Khuôn phép của Như Lai thực hành lòng từ bình đẳng không phân biệt giàu nghèo, khiến cho người bố thí, người được bố thí đều được phước vô lượng.
-Kính phục mà theo không ngăn ngại để dứt trừ chê bai:
A-nan đã biết Như lai, Thế tôn quở trách Tu-Bồ-đề và Đại Ca-diếp là A-la-hán mà tâm không bình đẳng, khâm phục Như Lai khai mở không ngăn, vượt qua các nghi ngờ và chê bai.
Ca-diếp gọi đủ là Ca-diếp-ba, Hán dịch là Ẩm Quang, thời thượng cổ nguyên tổ là Tiên, thân có ánh sáng, sáng hơn ánh đèn, người thấy ai cũng cho là lạ. Nói tiên Âm Quang do đó mà đạt lên dòng họ, Tôn giả hành đầu-đà đệ nhất nên gọi là "Đại".
Không bình đẳng: Ngài Thiện Hiện chê nhà nghèo, đến xin nhà giàu. Ca-diếp thì xin nhà nghèo, không khất thực nhà giàu, đều bị ngài Tịnh Danh quở trách. Nay nói là Như Lai, liền ấn khả, công đức quy về Phật nhưng Phật khất thực không phân biệt, vì có năm nghĩa.
Vì trong chứng lý bình đẳng, ngoài không thấy tướng giàu nghèo.
Tâm lìa tham, mạn lòng Từ không nghiêng làm lợi ích cho người giàu hay kẻ nghèo.
Biểu hiện oai đức không sợ voi dữ, nhà dâm nữ, quán rượu v.v...
a) Dứt sự chê bai của phàm phu.
Phá sự phân biệt của người hai thừa, Cho nên được kính ngưỡng, thực hành bình đẳng.
1. Vượt ngoài chê bai: Tức là dứt sự chê bai của phàm phu. Trải qua thành hoàng kia, từ từ bước vào cửa quách. Sửa sang oai nghi, cung kính trai pháp.
Rãnh nước bao quanh thành gọi là Hoàng, trang nghiêm ngay ngắn, không mất oai nghi, an tĩnh cung kính, đủ thành khuôn phép. Vì khi khất thực như vậy vật gì cũng lấy, đầy đủ tôn nghi, nên gọi là Trai pháp.
2. Chỉ dạy gặp duyên ác:
Bấy giờ, A-nan do khất thực nên lần lượt đến nhà dâm nữ, gặp nữ đại huyễn thuật Ma-đăng-già, cô ta dùng thần chú Sa-Tỳ-Ca-la-tiên Phạm Thiên, dẫn vào phòng dâm, vuốt ve mơn trớn, sắp phá hoại giới thể.
Bấy giờ tức là lúc ấy.
Ma-đăng-già dịch nghĩa là Bổn tánh.
Ở dưới Kinh kinh nói: Là tánh Tỳ-kheo-ni.
Sa-Tỳ-Ca-la cũng âm là kiếp-Tỳ-la, Hán dịch là Kim Đầu, hoặc dịch là Hoàng Phát, ăn gạo giống như ngoại đạo, thờ Phạm Thiên làm thầy mà được thần chú nầy, Thần chú là do tiên Phạm Thiên nói: Ngoại đạo thi hành, thế gian học theo để làm huyễn thuật.
Sắp phá hoại giới thể: Giới Biệt giải thoát, do bạch bốn lần yết-ma mà phát, hình nguyện nghiệp thể, thể là vô tác, từ giới mà sinh, là nhóm thứ ba phi sắc phi tâm là sở y của giới. Trì giới thì mập, phạm giới thì ốm, nên gọi là giới thể.
A-nan vô tâm, bi bức ép vào nhà, sắp phạm mà chưa phạm, nên nói là sắp hoại.
Nếu theo dưới đây nói: Trong tám muôn hạnh chỉ phá một giới, vì tâm thanh tịnh nên chưa bị chìm.
Nên biết A-nan không hủy Cát-la, duyên khởi như chỗ khác.
3. Phật giũ lòng thương xót cứu giúp có ba: a) Thọ trai xong về Kỳ Viên.
Như Lai biết dâm thuật kia, nên thọ trai xong liền trở về. Vua và Đại thần, Trưởng giả, Cư sĩ đều đi theo Phật, vì muốn nghe pháp yếu.
Như Lai biết: Biết tức là thấy, Nghĩa là dùng mắt trời thấy sinh tử, trí minh không hai. Theo pháp bình thường của Như Lai thì thọ thỉnh trai rồi, thì Ngài nói pháp cho gia chủ nghe. Hôm nay, vội vàng trở về, thì biết chắc Phật có lý do. Cho nên theo Phật về, vì muốn nghe pháp yếu.
Nhưng đại chúng căn cơ thuần thục, diệu ngộ là lúc này.
Không có nhân duyên thì không nhờ đâu phát khởi, cho nên lấy việc Khánh Hỷ bị dâm bức hại Ma-đăng-già bị tình ái trói buộc khiến cho biết sinh tử luân hồi, tham dục là gốc, tu chứng thường lạc, thiền tuệ là nền tảng, cho nên trong văn ở dưới nói tám bộ trời rồng, hữu học Nhị thừa và tất cả Bồ-tát mới phát tâm, số ấy có mười Hằng hà sa, nghe pháp này rồi đều được bổn tâm. Xa lìa bụi nhơ, được mắt pháp thanh tịnh. Tánh Tỳ-kheo-ni thành quả A-la-hán, vô lượng chúng sinh phát tâm đạo vô thượng.
Cho nên biết cơ ứng hợp nhau, mổ đáp đồng thời, hình đối bóng hiện, nên không sai lầm. b) Phát ra ánh sáng nói thần chú:
Bấy giờ, trên đỉnh đầu Thế tôn phát ra ánh sáng vô úy trăm báu, trong tia sáng ấy hiện ra hoa sen báu ngàn cánh, có Phật hóa thản ngồi kiết già nói thần chú.
Trở về Kỳ Viên rồi: chủ bạn đều đến. Ngay lúc ấy: gọi là bấy giờ.
Phật đảnh: Là thể.
Vì vắng lặng nên vô tướng, ánh sáng là tướng, vì có đủ tánh đức. Hoa sen là dụng, vì thành muôn hạnh, hóa Phật là quả. Vì lý trí hạnh đều thành tựu, nói ra thần chú: Vì quả của mình đã tròn đầy nên nói là lợi tha.
Lại Thích-ca hiển bày biển quả không nói, đảnh ánh sáng hiện hoa sen, biểu thị cho ba pháp: Đại định, đại trí, đại bi huân tập mà khởi đại dụng, cho nên hiện hóa Phật nói thần chú. c) Sai Văn-thù đem thần chú đến cứu.
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi đem thần chú đến cứu hộ, chú ác tiêu diệt, dẫn A-nan và Ma-đăng-già trở về chỗ Phật.
Đề: Là dắt. Tưởng: Là khuyên.
Văn-thù hiển truyền ý chỉ của Phật, thầm che chở Anan, trước làm cho Ma-đăng-già thấy Phật, lìa dục nghe pháp tiến đạo, ý là hiển bày năng lực của chú không thể suy nghĩ bàn luận. Như văn ở dưới nói: Còn dâm nữ kia, vô tâm tu hành, nương vào thần lực mau chứng Vô học, huống chi ông ở trong hội Thịnh Văn cầu thừa Tối thượng, chắc chắn thành Phật?
Phần tựa đã xong, kế là phần Chánh tông, do A-nan chánh thỉnh, Như Lai chánh thuyết giải hạnh tròn đầy, không nghiêng lệch không tà vạy, đương cơ được lợi ích.
Văn có ba:
1. A-nan buồn rầu, hối hận, xin Phật được tu Tammuội: A-nan thấy Phật, buồn khóc đảnh lễ, hối hận vì từ vô thỉ đến nay chỉ lo học rộng nên chưa có đạo lực, học rộng tu định, chỉ quán song tu. Nếu chỉ nghiêng về công thì đâu có đủ đạo lực. Cho nên kinh Niết-bàn nói: Trước dùng định lay động, sau dùng tuệ khơi dậy. Định như trói giặc, tuệ như giết giặc, định tuệ liền nhau, chân tay nhờ cậy, đến ao mát mẻ, bảo đảm không hề có hoạn nạn. Phật và A-nan vào thời Phật Không Vương cùng phát đại tâm, A-nan thích học rộng, còn Phật siêng năng tu tập, nay Phật thành đạo, còn A-nan mới Nhập Lưu, nên chợp gặp duyên ác không thể thoát khỏi, là do sai lệch, thật đáng thương xót. Cho nên văn ở dưới nói: Ông nghe tất cả môn bí mật của vô số Phật, dục lậu không gột trừ thì nghe nhiều thành sai lầm.
Hết lòng thưa thỉnh, các Như Lai ở mười phương được thành phương tiện đầu tiên Xa-ma-tha, Tam-ma, thiền na của Bồ đề mầu nhiệm.
Như Lai: Là người chứng tột cùng.
Người và pháp đều nêu, chọn lựa thỉnh thực hành chẳng phải kém.
Xa-ma-tha: Hán dịch là Chỉ, Tam-ma-đề: Hán dịch là Quán. Thiền-na Hán dịch là Tĩnh lự.
Giải thích tướng ấy như kinh Viên Giác nói: Đây có ba nghĩa chỉ ở nhất tâm, chẳng phải ba mà là ba, chẳng phải một mà là một, nêu một tức đủ ba, cho nên nói là Diệu, tức là Nhất tâm. Ba quán của tông Thiên Thai, nếu quán này thành thì chứng ba đức Niết-bàn gọi là tạng Bí mật, cho nên nêu các Như Lai ở mười phương được thành Bồ-đề.
Phương tiện đầu tiên: Phương tiện có nhiều thứ, nay hỏi hạnh mầu thành Phật, lại nói đầu tiên, ý thỉnh thành hạnh mầu phương tiện. Sâu cạn tuy khác nhau nhưng phương tiện đều như thế.
Như Kinh Viên Giác nói: Phương tiện thuận theo viên nhiếp sở quy có ba loại. Ở đây chỉ cho hạnh mầu, tức là Phương tiện. Như Văn kinh ở dưới nói:
Phật hỏi về viên thông từ phương tiện nào mà nhập vào Tam-ma-địa: là chỉ cho phương tiện nhập vào hạnh mầu.
Văn nầy thỉnh là hỏi chung, văn dưới đáp là nói riêng. Như Văn ở dưới nói: Có đại Phật Đảnh Thủ-lăngnghiêm v.v... tức là hứa nói hạnh mầu thành đạo.
Lại trước hỏi về phát tâm, chạy theo vọng chấp, phá bỏ các nghi, hiển bày tạng tánh, làm cho tin hiểu không nhầm, A-nan do đây mà liễn ngộ, phát tâm Bồ-đề, đây là tin hiểu chân chánh thành gốc khởi nhân. Nếu không có nhân này thì dù trải qua nhiều kiếp tu các hạnh môn cũng đều thành tà ngụy. Giống như nấu cát mà muốn thành cơm thì không thể được. Cho nên trong kinh Viên Giác nói rõ ba quán, hiển bày các luân, mỗi luận đều nói ngộ viên giác thanh tịnh. Kinh này cũng vậy, từ đầu đến nửa quyển thứ tư về sau là nói chung về tin hiểu chân chánh, là phương tiện đầu tiên. Tin hiểu tuy biết rõ về tạng tâm, nhung học rộng không có công phu thì chẳng bằng tu tập, như được ngôi nhà lớn mà không biết cửa vào, cho nên thưa hỏi tu hành tu đâu mà nhiếp phục. Phật liền giải thích về chỉ quán, là pháp tu chân chánh, chỉ quán thành tựu gọi là Tam-muội chân thật, khi nhập vào hạnh này phải có phương tiện. Pháp phương tiện không lìa các căn, vào một căn không luống dối thì các căn còn lại đều thanh tịnh. Cho nên hỏi hai mươi lăm vị Thánh, lại sai Văn-thù chọn lựa. Đây là dùng các căn thuận cơ làm phương tiện đầu tiên. Như văn dưới nói: Nay ta muốn giúp cho A-nan khai ngộ, hai mươi lăm vị Thánh ai làm gốc, phương tiện nào dễ được thành tựu. Đây là từ văn, tư, tu, làm phương tiện đầu tiên. Nghĩa của đầu tiên trước phải hiểu, sau mới thực hành, không ngoài điều này. Hoặc có thể đầu tiên là nghĩa vô thượng bậc nhất, tức là chỉ cho định chân thật làm phương tiện, nếu có thuyết khác thì tôi không biết.
2. Đồng thời đại chúng đều muốn nghe:
Lúc ấy, lại có hằng sa Bồ-tát, và đại A-la-hán, Bíchchi-Phật mười phương đều ưa thích nghe, như khát nước được uống nước mát, như đói được ăn cơm ngon, như bệnh được trị thuốc hay, như ong được hút mật, chúng con cũng thế, xin được nghe pháp cam lộ.
Mỗi vị trở về chỗ mình ngồi im lặng, thừa nhận ý chỉ của Thế tôn. Đại chúng muốn nghe phải nhờ người đứng ra thưa thỉnh. Hiền Thánh Ba thừa, tám bộ vua quan tâm đều rỗng rang, chăm chú im lặng lắng nghe.
Kệ Trí Luận nói: Người nghe phải lắng lòng như khát được uống nước, nhất tâm nhập vào ngữ nghĩa, vui mừng nghe pháp, tâm vừa mừng vừa vui. Người như thế đáng nói cho họ nghe. Nay thọ ý chỉ của Phật, chẳng lẽ khiến cho không đúng như vậy. Dưới đây Như Lai y theo các căn cơ giảng nói rộng. Người xưa phán quyết đều là một đường, lan mùa xuân, cúc mùa thu đều làm đẹp lẫn nhau. Trong tám đoạn của Chấn Công đều giúp trung bày xứng. Nay nói rõ văn kinh lại có lý. Trong văn trước sau hai lần nói kinh. Bắt đầu từ đây trở đi là nêu tên kinh, là hỏi đáp về phần chánh thuyết. Kế là từ nói lời này trở xuống, cho đến không lưu luyến ba cõi. Vì thỉnh được lợi ích nên phải trình bày, phần đầu có bốn đoạn.
- Mở khai hiểu-Chỉ hạnh mầu-Bày vị cao.
- Đặt tên hay.
Bốn đoạn này là năm khoa trước trong tám đoạn, khai hợp, khác nhau, kế là trong phần trình bày, có hai:
Nói về sinh vào các đường khác nhau:
3. Chỉ bày sự khác nhau giáo thiền và cảnh, tức là ba đoạn sau trong tám đoạn. Nhưng khai phán quyết đều tùy theo mỗi người. Nay ta theo người xưa y vào Chấn Công mà phán đoán, lược bỏ đoạn thứ tám. Chỉ lấy đoạn bảy. Nay trước nói tâm Như Lai Tạng, có hai:
Phá A-nan nhận vọng mê chân, nói kho Như Lai có hai:
1. Y theo tâm thấy để phá hiển, có năm:
-Xét tâm ban đầu có hai:
1. Hỏi về lúc mới phát tâm:
Phật bảo A nan! Ông và Như Lai là bà con, tình đồng anh em.
Khánh Hỷ là em họ của Phật. Ông nội truyền lại cũng gọi là đồng khí. Hoặc có thể chỉ là anh em đồng một loại khí. thứ lớp anh em, trên dưới kế nhau, ân ái lệ thuộc nhau, bởi tự nhiên như vậy, chẳng phải khiến như vậy, nên nói là anh em.
Luân: Là lý Quân: Là đồng
Ông mới phát tâm, ở trong pháp của ta thấy tướng cao quý gì mà xả bỏ ân ái sâu nặng ở thế gian: Cha mẹ vợ con là ân ái sâu nặng nhất.
Xả ân ái sâu nặng ở thế gian là chí đạo nhưng không biết tu hành thấy ái còn là tâm vọng, cho nên trước xét hỏi rồi mới phá.
2. Đáp về duyên xả ái:
A-nan bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn con thấy ba mươi hai tướng của Như Lai cao quý tuyệt vời, hình thể sáng rực dường như lưu ly. Như Lai có ba mươi hai đại tướng, đó là dưới chân bằng phẳng lên đến đảnh thành nhục kế, đồng thời có tám mươi vẻ đẹp phụ, đó là đảnh không thấy, được cho đến tay chân có đức tướng. Từ biển tướng lớn lưu xuất ra tướng phụ nên gọi là (tốt).
Thích Phạm, Luân Vương cũng có đại tướng, nhưng không có tướng tốt, lờ mờ không thấy rõ nên không gọi là cao quý tuyệt vời, hình trạng thể chất thanh tịnh không dơ bẩn dụ cho lưu ly.
Thường tự suy nghĩ tướng này không phải do dục ái sinh ra vì từ giới, định, tuệ mà thành tựu cho nên nói là phi dục ái.
Vì sao? Vì khí dục nhơ bẩn, tanh hôi nương vào nhau, máu mủ lẫn lộn dục ái sinh ra, thuần là bất tịnh. Trong Kinh Đại Tập có nói đủ, thọ sinh đều do cha mẹ và thức tình của mình mà sinh ra ái dục. Bởi vậy, gá vào hai giọt trắng đỏ kia làm chỗ nương cho thức, hòa hợp một chỗ gọi là Ca-ma-la, và dần dần thêm lớn, sau đó ra khỏi thai. Năm thứ hạt nuôi lớn tuy thành tướng người nhưng giống như túi phân, cho nên nói là máu mủ lẫn lộn.
Không thể phát sinh thắng tịnh diệu minh tử kim quang tụ: Vàng Diêm-phù-đàn lần lượt so sánh với thân Ca-diếp, thì Vàng dụ như đống mực, nếu so sánh với thân Phật, thì Ca-diếp như mực, dục ái cảm vời, không bao giờ được như thế.
Cho nên khát ngưỡng, theo Phật xuất gia: tướng cao quý tuyệt vời biết chẳng phải do ái sinh.
Suy nghĩ khao khát chiêm ngưỡng, cho nên cầu xả ái, nguyện được Phật hoá độ, giúp đổi thân mầu nhiệm: ở đây không biết dùng ái xả ái, làm tăng thêm vọng.
2. Giải thích lý do, có hai:
1) Mê chân:
Đều do không biết chân tâm thường trụ, tánh tịnh minh thể, mê bổn chân của mình. Vô thỉ mờ mịt cho nên nói không biết. Bất sinh bất diệt, gọi là Thường trụ. Lìa các vọng ngụy, sáng suốt không mờ tối, nên gọi là chân tâm. Ba đức đầy đủ là chỗ y chỉ của tất cả pháp, cho nên nói là tánh tịnh minh thể, chúng sinh đều như vậy nên nói là đều do.
2) Nhẫn vọng:
Theo các vọng tưởng, tưởng này không chân thật cho nên nói có trôi lăn, nhẫn vọng tưởng luống dối khác. (Tám trăm ba mươi hai) Văn kinh ở dưới nói: Đây là tưởng tướng luống dối, vọng trần mê hoặc chân tánh của ông, từ vô thỉ đến nay nhận bọn cướp làm con, mất đi nguyên thường của ông cho nên chịu trôi lăn: Cả đời tu hành phần nhiều đồng với chấp này cho nên nhờ Anan mà rõ được lỗi ấy.
3. Khuyên nói thẳng, có ba:
1) Chánh khuyên:
Nay Ông muốn nghiên cứu về vô thượng Bồ-đề phát minh tánh chân chánh, nên phải đáp cho ngay thẳng những lời ta hỏi.
Văn dưới nói về thức tinh nguyên minh, tức là Bồđề Niết-bàn vô thỉ, thể vốn thanh tịnh, thể ấy không vọng, không có thay đổi, nên nói là chân tánh.
Nghiên cứu cùng tận: là nghiên cứu cùng tột.
Tịnh Danh nói: Trực tâm là đạo tràng, vì không luống dối, nay suy bổn ý đâu được phát ngôn tưởng khác.
Muốn tu hành đúng pháp nên phải xác thực, cho nên nay khuyên.
2) Dẫn chứng:
Vì các Như Lai ở mười phương đồng một đường, xa lìa sinh tử đều dùng trực tâm.
Chư Phật cùng một đường, thoát khổ được vui đều do trực tâm. Ở đây có hai thứ:
Nói ra không luống dối. Như đạo tràng Tịnh Danh mà văn này khuyên.
Tâm hướng lý: Không có ngã rẽ khác.
Tức là như khởi trực tâm trong ba tâm của Khởi Tín, cho nên luận nói:
Một là trực tâm vì hướng về pháp chân như, đây là hai hạnh căn bản. Nay ý kinh này phải đủ cả ha, mới làm cho phát ngôn không luống dối, cuối cùng thành hướng lý tâm bặt, mới là mười phương cùng một đường.
3) Kết thúc lợi ích.
Vì lời nói của tâm thẳng như thế cho đến giai đoạn trung gian không bao giờ có các tướng tà vạy.
Do mạ mà làm đất, lời ngay tâm thẳng, nếu trái với điều này thì tội chẳng phải nhẹ.
Như kinh ở dưới nói: Nếu nói dối nghiêm trọng thì Tam-ma-đề không được thanh tịnh, thành ma ái kiến, mất hạt giống Như Lai. Nếu các Tỳ-kheo tâm thẳng như dây đàn, tất cả chân thật, nhập vào Tam-ma-địa, không bao giờ có việc ma. Ta ấn khả cho người này thành tựu Bồ-đề vô thượng tri giác: Phát tâm gọi là Thỉ, rốt ráo gọi là Chung. Trong thời gian búng ngón tay se được siêu sanh, nên nói là tà vạy.
4. Hỏi về ái kiến, có hai:
1. Hỏi:
A-nan! Bây giờ ta hỏi ông: Ngay khi Ông phát tâm thì duyên với ba mươi hai tướng của Như Lai là dùng cái gì, mà thấy? Ai là người ưa thích, tâm thấy hai cửa.
Do lời hỏi này, dưới đã do tâm không lỗi, chỉ cái thấy lầm xưng cho nên thành hai chướng ràng buộc, chẳng khế hợp với ba không. Cho nên ở dưới hỏi đều biết nguồn gốc của vọng.
2. Đáp: A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!
Sự ưa thích đó là dùng tâm mắt của con: chỉ nhắc lại hai ngón tay, khéo léo lược bỏ. Do mắt nhìn thấy tướng cao siêu của Như Lai mà tâm sinh ưa thích cho nên phát tâm nguyện bỏ sinh tử. Đây là trình bày thể của vọng, mắt là nhãn căn, tâm là ý thức. Căn thức luống dối giống như hoa đốm trong hư không. Nếu chấp có thân để thấy để ưa, thì đâu chỉ mê lầm pháp không mà còn khởi kiến ái nhân ngã. Cho nên văn dưới nói: Sáu căn làm môi giới cho bọn cướp tự cướp tài sản trong nhà, tập khí luống dối từ vô thỉ, trụ địa vô minh đều do căn thức, chẳng phải vật nào khác. Tướng của tưởng là trần, thức tình là cấu, sinh tử trôi lăn đều do đây mà ra. Cho nên ở dưới nảy sinh, giúp cho biết là luống dối.
5. Nói về chân vọng, có hai:
Suy chỗ ở của vọng, có bảy:
1) Phá ở bên trong, có hai: a) Lập: có bốn: b) Nhắc lại trước để nói:
Phật bảo A nan như lời ông nói sự ưa thích do tâm mắt, nếu không biết chỗ ở của tâm và mắt, thì không thể hàng phục được trần lao.
Tâm và mắt là gốc, trần lao là ngọn. Nếu mê chỗ nương của gốc thì các ngọn khó dứt, vì nhiễm ô nên nói là Trần, Ưu não nên gọi là lao, tức là chỉ chung hai chướng.
2) Nêu việc để so sánh:
Thí như nhà vua là chân tánh.
Bị giặc xâm chiếm là phiền não mê chân. Dấy binh dẹp trừ, là dùng trí.
Binh này phải biết chỗ ở của giặc: là khí cụ mà người đánh giặc cầm.
3) Chỉ lỗi để hỏi:
Khiến cho tâm mắt ông trôi lăn là lỗi: Là chỉ bày sai lầm. Nay ta hỏi ông có tâm và mắt này hiện giờ ở đâu? Là hỏi chung chỗ ở.
4) Dẫn dụ để đáp, có hai: a) Dẫn cái khác làm dụ:
A-nan bạch Phật! Bạch Đức Thế tôn mười loại di sinh trong tất cả thế gian đều cho thức tâm ở trong thân, dù cho nhìn thấy đôi mắt như hoa sen xanh của Như Lai cũng ở trên mặt Phật: văn dưới có mười hai loại. Nay nêu số lớn, phàm phu tạo nghiệp khác nhau, cảm quả khác nhau, gọi là Dị sinh.
Tất cả thế gian: Nêu chỗ nương để hiển bày chánh, trước nêu tâm phàm ở trong, sau chỉ mắt Phật ở ngoài, muốn so sánh rằng mình cũng như vậy. b) Chỉ rồi kết đáp:
Nay con quán phù căn bốn trần này là ở bên ngoài, còn thức tâm như thế thật ở trong thân, dùng nhãn sắc thì không thể thấy, cho nên chỉ cho phù trần căn: Thánh phàm đã vậy thì ở mình cũng vậy, mặt và tâm mắt ở trong thân là chỗ nhất định.
5) Phá có hai:-Chánh phá, có ba:
a) Hỏi vì cảnh trong ngoài:
Phật bảo A nan! Nay ong hiện đang ngồi trong giảng đường của Như Lai, thấy rừng Kỳ-đà hiện giờ ở chỗ nào? Bạch Đức Thế tôn! giảng đường đại trùng các thanh tịnh ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng ở ngoài giảng đường, trong ngoài đã phân, chấp thật rõ ràng.
b) Định thấy trước sau:
A-nan! Nay ông ở trong giảng đường thấy cái gì trước?
Bạch Đức Thế tôn con ở trong giảng đường thấy Thế tôn trước, kế thấy đại chúng. Như thế nhìn ra ngoài mới thấy rừng Kỳ-đà vườn Cấp Cô Độc.
Định trước sau: Muốn phá tâm ở trong thân của Anan không thể thấy lần lượt như thế.
c) Lý do thấy:
A-nan! ông nhìn kỹ rừng Kỳ-đà và vườn Cấp Cô Độc do đâu mà thấy?
Bạch Đức Thế tôn: Cánh cửa đại giảng đường mở rộng cho nên con ở trong giảng đường được nhìn thấy xa: Giảng đường chính là thân.
A-nan: là tâm
Như Lai và đại chúng là năm tạng phủ, cánh cửa là căn.
-Chỉ rõ sự lợi ích an vui:
Bấy giờ, Đức Thế tôn ở trong đại chúng duỗi cánh tay mầu vàng ròng xoa đầu ngài A-nan.
Dùng lòng từ thâu nhiếp, như cha dặn con nói năng vỗ về, ở đây có ba ý:
a) An ủi tâm A-nan, bảo đừng sợ hãi.
b) Dặn dò nhớ lấy đừng quên mất.
Dạy nay hứa nói không luống dối, cho nên duỗi cánh tay là hiện tướng đại bi.
Bảo A-nan và đại chúng có Tam-ma-đề tên là Đại Phật Đảnh Thủ
-lăng-nghiêm Vương, đầy đủ muôn hạnh, các Đức Như lai trong mười phương cùng một cửa siêu xuất, con đường diệu trang nghiệm. Dưới nói Bạc-già-Phạm mười phương một đường đến Niết-bàn, đường thẳng không khác, thông đến đảo châu báu nên nói là một cửa. Biển quả thanh tịnh, đức chúng đầy đủ, cho nên nói là trang nghiêm, Tam-ma-địa chân thật, do chỗ mang dép đi nên gọi là Đường.
Nay ông lắng nghe! A-nan đảnh lễ kính thọ ý chỉ của đấng Từ phụ, ý phá vọng, (tám trăm ba mươi ba) vì muốn hiển bày chân, lược nêu tông khen đức, làm cho kính mến, đâu phải là uổng phí, trách không biết chỗ trở về.
Lúc ấy, A-nan cung kính thọ lãnh.
6) Ví dụ hiển rõ chỗ mất: có ba Dẫn ví dụ hỏi:
Phật bảo A nan! Như lời ông nói, thân ông ở trong giảng đường vì cánh cửa giảng đường mở rộng nên nhìn xa thấy được rừng cây thái tử Kỳ-đà vườn ông Cấp Cô Độc, vậy có chúng sinh nào ở trong giảng đường này lại không thấy Như Lai mà lại thấy người ở ngoài giảng đường hay không? Trái với lý thường dẫn đến hỏi, dẫn Khánh Hỷ để đáp thẳng.
Đáp theo lý:
A-nan đáp rằng: Bạch Đức Thế tôn! ở trong giảng đường lại không thấy Như Lai, chỉ thấy rừng suối bên ngoài thì không có việc ấy: là chỉ biết y theo lý trình bày thẳng, không biết suy tính, thật sai lầm.
7) Hợp dụ đoạt phá, có ba: a) Chính là bác bỏ.
A-nan! Ông cũng như thế, tâm ở ngoài thân, như người ở trong giảng đường, tâm linh của ông, tất cả đều thấy rõ. Nếu ông hiện tiền hiểu rõ tâm thật ở trong thân thì bấy giờ trước phải biết rõ trong thân, có nhiều chúng sinh trước thấy trong thân, sau mới thấy vật bên ngoài, tâm có thể lanh lợi, trong ngoài đều duyên cho nên nói tất cả hiểu rõ, hướng bên ngoài đã hiểu rõ muôn duyên, nếu ở trong thì phải biết tạng phủ.
Rất giống như hãy, cũng là ngữ tà ông thấy chúng sinh đáng có điều này.
b) Phá dọc:
Dẫu không thể thấy tim gan, tỳ, bao tử, móng dài ra, tóc dài, gần chuyển mạch động, thì cũng phải hiểu rõ, vì sao lại không biết? Bên trong phủ tạng kín đáo, dù cho không biết gân mạch, da mỏng cũng đâu phải khó hiểu.
c) Trở lại trách:
Nếu không biết bên trong, làm sao biết bên ngoài: năm tạng phủ ở chung, đích thân nhìn thấy muôn vật lìa khác, thật cho rằng sơ là xa. Nếu không hiểu rõ trong thân thì làm sao thấy được vật bên ngoài.
1. Kết thúc bác bỏ:
Cho nên biết, ông nói tâm giác liễu tâm bất ở trong thân ông thì không có việc ấy. Cảnh gió động bên ngoài, vọng tưởng huân ở bên trong, sóng thức thầm sinh ra là tướng của tự tâm, hoa đốm trong hư không huyễn hóa, sinh diệt không từ đâu, không hiểu rõ bổn như, trở thành vọng chấp, và suy chỗ của vọng cho là ở trong thân. Trái lại, che lấp lý cùng tột không có chỗ y cứ, cho nên Phật kết, giúp cho ngộ được sự sai trái.
2. Bác bỏ bên ngoài, có hai:
1. Lập có hai:
a) Chính là lập:
A-nan cúi đầu bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn, con nghe pháp âm như thế của Như Lai, con ngộ được tâm con thật ở ngoài thân, Trong thân không chống chế, ngoài thân cũng vậy. Không nghe được lời nói của Thế tôn, thì không ngộ được yếu chỉ này. Cho nên cúi đầu trước Phật, chẳng phải là đứng, mà là đầu cúi sát đất trong thời gian ngắn, nên gọi là cúi đầu.
b) Giải thích thành, có hai:
- Dẫn dụ lãnh ngộ sự sai trái ở trước.
Vì sao? Vị ví như đèn sáng ở trong nhà, đèn nầy phải chiếu sáng ở trong nhà trước, sau đó mới đến ngoài sân: Cách dẫn dụ so sánh theo pháp, khiến cho nhận lỗi ở trước.
- Nhiếp dụ thành lập nghĩa nay:
Tất cả chúng sinh không thấy trong thân, chỉ thấy ngoài thân, cũng như ánh đèn ở ngoài nhà không thể chiếu sáng trong nhà được, đèn ở ngoài nhà không thể chiếu sáng trong nhà được. Tâm ở ngoài thân làm sao phản chiếu được: ở đây chấp tâm có lỗi lìa thân, cho nên dưới đây là phá.
Nếu rõ nghĩa này thì không bị mê hoặc, đồng với sự hiểu nghĩa của Phật, chẳng phải luống dối ư?
Lý ở ngoài thân, pháp dụ cho ngang bằng, dùng đây để quán phải không có nghi ngờ tối tăm, Phật nói hiểu nghĩa có thể đồng hay sao?
2. Bác bỏ, có hai: a) Chính là bác bỏ có hai:
-Dẫn ví dụ để lập lý, có hai:
+ Hỏi một người ăn, nhiều người đều no:
Phật bảo A-nan: các Tỳ-kheo này vừa rồi theo ta khất thực theo thứ lớp trong thành Thất-la-phiệt, trở về rừng Kỳ-đà, ta đã thọ trai, ông hãy xem các Tỳ-kheo khi một vị ăn thì những vị kia có no hay không?
Trước nói phó thỉnh, Hán dịch là khất thực, khất thực là nghi thức bình thường, nêu rộng làm ví dụ. Lại trước tuy phó thỉnh nhưng chưa hẳn là Tăng tận.
Người khác khất thực cho nên nêu việc này. Túc là chuẩn bị.
+ Đáp: A-nan đáp rằng, Bạch Đức Thế tôn không vì sao? Vì các Tỳ-kheo này tuy là A-la-hán nhưng thân mạng khác nhau, làm sao một vị ăn mà làm cho nhiều vị khác no được.
Trước hỏi một vị ăn nhiều vị no, nay đáp thân mạng khác nhau là trái với lời hỏi trước.
Ý hiển rõ tâm, nếu lìa thân thì đồng với vị khác ăn. Người khác ăn no thì không phải là ta no, tâm biết đâu có quan hệ gì với thân ta, thân tâm ngoài nhau tự tha có thể so sánh theo đó.
-Y theo lý mà suy phá, có hai:
1) Dùng lý định ngoài nhau:
Phật bảo A nan: Nếu tâm biết rõ thấy được của ông thật ở ngoài thân: đây là nhắc lại.
Thân tâm ở ngoài nhau thì tự nó không liên quan nhau, chắc chắn ở ngoài nhau, ở ngoài thì giống như lìa. Tâm đã lìa thân thì không liên can nhau: Như trước đáp khi một vị ăn thì không thể làm cho nhiều người no, tâm biết mà thân không biết, biết là ở thân, tâm không thể biết, giải thích thành tướng ấy.
Nếu tâm ở ngoài thì lý phải như thế, văn nói rất dễ thấy. b) Y theo cái thấy nghiệm về biết nhau:
Nay ta hỏi ông! cánh tay đâu-la-miên này, khi mắt ông nhìn thấy, thì tâm có phân biệt chăng?
A-nan đáp rằng: Bạch Đức Thế tôn có phân biệt. Phật bảo A nan! Nếu biết sao lại nói ở ngoài thân.
Đâu-la-miên: Hán dịch là Sương, là cánh tay của Phật mềm mại như đâu-la-miên, là một tướng trong ba mươi hai tướng. Mắt thuộc về phần thân. Nếu tâm lìa thì phải không có phân biệt. Nếu phân biệt thì phải chẳng lìa thân, vì không lìa nên gọi là biết, cho nên ở đây trách nói nếu biết thì làm sao gọi là ở ngoài.
2) Kết thúc bác bỏ:
Cho nên biết, ông nói tâm giác liễu biết được ở ngoài thân, thì không có việc ấy, rất dễ hiểu.
1. Bác bỏ căn sâu kín có hai:
-Lập có ba:
1. Nói về lập chung một chỗ đã bác bỏ ở trước:
A-nan bạch Phật Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! như lời Phật nói vì không thấy ở trong cho nên tâm không ở trong thân, thân tâm biết nhau, vì không lìa nhau cho nên tâm không ở ngoài thân, nay con suy nghĩ biết nó ở một chỗ: hai sự trình bày biệt lập, văn rất dễ hiểu.
2. Hỏi về sở lập ở đây, đáp ở các căn: (834) Phật hỏi, nó ở chỗ nào?
A-nan đáp: Biết rõ tâm này, đã không biết trong mà lại thấy được ở ngoài. Như con suy nghĩ nó núp ở sau con mắt, biết ngoài mà chẳng biết trong, không phải căn thì là gì? Đây chính là thức tâm vọng chấp tiềm lực trong năm căn.
3. Nêu ví dụ thành lại đưa đến ý tiềm ẩn, có hai:
a. Nêu ví dụ hợp pháp:
Như có người để cái chén lưu ly trước hai mắt, tuy có chén nhưng không trở ngại, mắt người kia hễ thấy, liền phân biệt.
Lưu ly: dụ cho căn, mắt dụ cho thức, mắt, căn, sắc thanh tịnh thì không thể ngại tâm, đồng với cái chén lưu ly không trở ngại mắt, hễ soi chiếu một cảnh nào thì tâm biết theo căn. Nếu sự thành lập này vừa quán liền được, như vậy thì đưa đến sự bác bỏ đồng dụ không thành.
b. Thành lập theo lý:
Nhưng con có thể biết rõ tâm không thấy ở bên trong vì nó núp ở sau con mắt cho nên nhìn rõ bên ngoài không chướng ngại, vì nó núp sau con mắt chỉ biết vọng chấp, không biết theo lời nói mà lỗi sinh ra. Văn dưới là bác bỏ.
2. Bác bỏ có hai:
1. Nhiếp dụ định đều thấy.
Phật bảo A-nan: Như lời ông nói tâm núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly là lược nhắc lại lời phân biệt, dùng ý để biết.
Người này úp chén lưu ly, lên con mắt, khi thấy núi sông, đất đai thì có thấy chén lưu ly hay không?
A-nan trả lời: Bạch Đức Thế tôn! người này úp chén lưu ly lên mắt thật có thấy chén lưu ly, xa thì thấy tướng vật, gần thì thấy chén lưu ly. Hỏi đáp cực thành cho nên nói như thế.
2. Y theo pháp trách chỉ thấy.
Phật bảo A-nan: Nếu tâm ông đồng với chén lưu ly thì khi thấy núi sông đất đai, sao không thấy con mắt? Dụ thì gần xa đều thấy, pháp thì chỉ thấy núi sông.
Đã mất cái thấy gần, làm sao thành đồng dụ, pháp và dụ không bình đẳng, lý núp sau con mắt bị thiếu.
Dưới lại bác bỏ dọc làm cho không có chỗ nương.
3. Dẫu thấy hay không thấy đều có lỗi.
Nếu thấy con mắt thì mắt đồng với cảnh, không được thành nghĩa theo, dù cho thấy con mắt thì thành đối địch, vì sao trước nói tùy tức là phân biệt. Điều này có lỗi "lời nói của mình trái nhau".
Nếu không thể thấy thì làm sao nói điều này biết rõ, vì cái thấy núp sau con mắt như con mắt bị úp chén lưu ly là kết thành lỗi pháp dụ không hợp nhau.
Lỗi đã rõ bày, căn tiềm phục thì lý mất.
4. Kết thúc bác bỏ:
Cho nên biết, ông nói biết rõ tâm năng tri núp sau con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly thì không có việc đó: là bác bỏ Phá cái thấy bên trong, có hai:
1. Y theo thấy tối để thành lập:
A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nay Con lại nghĩ như vầy: Thân của chúng sinh nầy phủ tạng ở trong, khiếu huyệt ở ngoài. Có tạng thì tối, có khiếu huyệt thì sáng. Nay con đối diện Thế tôn, mở mắt thì thấy rõ, gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong, nghĩa nầy thế nào?
Trong đây lập ý, lại quy về ở trong.
Đầu tiên là chấp tâm ở trong thân, Phật liền bác bỏ không phải ở trong, vì không thể thấy vật ở trong thân. Do dần dần chấp tâm ở ngoài thân, tâm núp sau con mắt cho đến nghiên cứu cùng tột cả hai đều không đúng. Lại suy nghĩ về lý ở trong, bèn lập "che thì tối, mở thì sáng", trách lỗi không thấy ở bên trong. Bảy khiếu huyệt sáng, năm tạng tối tăm, mở mắt duyên rõ, nhắm mắt thấy tối.
Nếu thấy sáng tối, thì trong ngoài đều duyên, do đó ở trong chắc chắn là không lầm.
2. Y theo đối mắt để suy ra bác bỏ, có hai:
a) Nạn phá, có hai:
a.1) Phá chấp ở trước, có hai:
a.1.1) Nêu cả hai.
Phật bảo A-nan! Khi ông nhắm mắt thì thấy tối, cảnh giới tối này là đối trước mắt hay không đối trước mắt?
Nêu nghĩa đã xong.
a.1.2) Phá cả hai, có hai:
-Phá đối diện, có hai:
+ Đối trước mắt không thuộc ở trong:
Nếu đối trước mắt, cái tối ở trước mắt làm sao thành ở trong? Đối ở trước mắt, trước thì đâu thành ở trong?
+ Ngoài nhà thành trong:
Nếu thành ở trong thì ở trong nhà tối, không có mặt trăng mặt trời, ánh đèn, trong nhà tối này đều là tạng phủ của ông. Nếu cho rằng bất luận trước sau chỉ là thấy tối tức là thấy trong thì ông ở trong nhà tối khi không có mặt trời, mặt trăng, các sao thì tối hơn nữa. Phải là bên trong của ông, vì đồng với bóng tối.
Tạng phủ tức là ở trong.
Nên lập lượng rằng: Ông ở trong nhà tối hợp với bên trong của ông, vì bóng tối này đồng với cái thấy tối của ông.
-Bác bỏ không đối diện:
Nếu không đối thì làm sao mà thành thấy? Thật chưa hề thấy có cảnh không đối mắt mà gọi là thấy vật.
Phá chuyển chấp, có hai: b.1) Nhắc lại chấp đoạt phá:
Nếu lìa cái thấy ở ngoài thì cái đối bên trong thành là nhắc lại chuyển chấp. Chấp này do tối trước nhà tối, ví dụ mắt ở trước bóng tối thì không thành bên trong. Sợ kia chấp rằng: Ta thấy bóng tối và nhà tối, hai thể sáng tối khác nhau, nhà tối kia tối là tối ở ngoài thân, gọi là thấy ở ngoài, vì mở mắt thì duyên. Tối mà ta thấy là cảnh ở trong thân gọi là đối ở trong, cho nên phải là sở duyên của mắt. Nay chấp "phải là cái tối đối trước mắt" gọi là thấy bên trong, chẳng đồng với cái thấy bóng tối ở trong nhà. Vì sao? Vì không thấy được bóng tối gọi là trong? Vì chính là chuyển chấp này. Nhưng các sự trình bày chấp khác, không rõ ràng, vì người dịch khéo lược chỉ nói chuyển chấp mà thôi. Người có trí xin hiểu ro, không chấp chặt.
Nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân, mở mắt thấy sáng sao không thấy cái mặt: Nếu không thấy cái mặt thì đối bên trong không thành, đoạt tức là bác bỏ.
Dù cho nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong thân, thì lẽ ra cũng phải mở mắt đối với ánh sáng mà thấy mặt mình.
Trong thuộc về tối, còn cho thấy trở lại cái mặt thuộc về sáng, chẳng lẽ không thấy trở lại ư? Một thành thì hai đều thành, một bác bỏ thì cả hai đều bác bỏ. Cho nên nói nếu không thấy cái mặt thì bên trong đối không thành. b.2) Dần dần phá theo chiều dọc, có bốn:
1. Ở ngoài hư không chẳng phải trong đồng với người khác bác bỏ, thấy cái mặt nếu thành thì tâm biết rõ này và nhãn căn là ở ngoài hư không, đâu thành ở trong. Nếu ở ngoài hư không thì tự không phải là thể của ông.
Nếu ông chấp rằng có thể thấy cái mặt thì tâm và mắt ông lẽ ra ở ngoài hư không. Vì căn và cảnh đối nhau mới thành thấy. Nếu ở ngoài hư không thì rõ ràng là ở ngoài, vì sao chấp tâm ở trong thân. Lại nếu ở trong hư không thì đồng với người khác rồi.
Tự nhiên không phải là tâm thể của ông: hai lỗi này nên lập lượng rằng: Tâm linh của ông chắc chắn không, ở bên trong vì thấy mặt ông giống như người khác.
Bác bỏ lỗi kế chỉ đổi tông là:
Chắc chắn chẳng phải thể của ông. Nhân dụ như trước:
2. Phá cái thấy người khác lại đồng với thể của mình: Tức ứng với Như Lai nay thấy mặt ông cũng là thân ông, hoặc ông chấp rằng: Tuy thấy mặt tôi chắc chắn là thể của tôi, liền lại phá rằng: Phật cũng thấy ông, lẽ ra là thân ông. Nên lập lượng rằng thân Như Lai chắc chắn là thể của ông, vì thấy mặt ông, như tâm mắt của ông, dù cho không nói thân Phật là ông, thì tâm mắt của ông cũng chẳng phải là ông đồng với văn trước, tự không phải là thể của ông.
3. Căn thân thiếu lẫn nhau: là bác bỏ năng tri:
Mắt ông đã biết thì thân phải không biết. Lại nếu tâm ông thấy được mặt thì thân xứ bổn phần phải không hay biết, vì ở nhãn căn xứ hư không, nếu thân có biết thì mắt phải không biết, ở một chỗ hoặc không ở một chỗ vì văn kinh khéo lược. Cho nên không nói. (835)
4. Bác bỏ hai cái biết lẽ ra thành hai Phật:
Hẳn là ông chấp nói thân và mắt cả hai cái biết thì lẽ ra có hai cái biết, tức là một thân của ông lẽ ra thành hai Đức Phật, ông hiện nay nhãn căn tự biết, chỗ của thân tự biết tự giác chẳng thiếu lẫn nhau, phải có hai tâm, biết tức là tâm. Hễ có tâm thì đều sẽ thành Phật, chẳng lẽ một thân của ông thành hai Đức Phật ư?
Bốn đoạn này dần dần phá đều do văn trước đối bên trong thành chấp thấy mặt, vọng tình quấy phá chấp đắm nhiều mối. Cho nên bác bỏ hết làm cho không có chỗ chống chế.
Kết thúc bác bỏ:
Vì thế nên biết! ông nói thấy tối gọi là thấy trong thì không có việc đó.
5. Bác bỏ tùy theo chỗ mà hợp, có hai:
1. Dẫn kinh thành lập.
A-nan thưa: Bạch Đức Thế tôn! Con thường nghe Phật chỉ dạy bốn chúng. Vì tâm sinh nên sinh ra muôn pháp. Do pháp sinh nên muôn thứ tâm sinh, đây là dẫn giác. Bổn thức thứ tám biến sinh ba cảnh. Cho nên nói tâm sinh nên pháp sinh. Cảnh giới gió động có thể vượt qua sóng thức. Cho nên nói do pháp sinh nên tâm sinh. Nay tuy nêu chung nhưng phải chọn câu sau là do pháp sinh nên tâm sinh để làm y cứ.
Nay Con suy nghĩ thì cái thể suy nghĩ nầy thật là tâm tánh của con, tùy theo chỗ mà hợp, tâm thì tùy theo mà có cũng không phải ở ba chỗ: trong, ngoài, giữa. Hiện nay suy nghĩ, thật có duyên lự và phá cho dứt. Ba chỗ vốn không, nên biết tùy cảnh mà sinh tâm hợp với cảnh, cảnh đã chẳng phải một, tâm cũng có nhiều theo điều này rất hợp với lời Phật nói, chắc chắn không phải nói suông.
2. Chuyển chấp bác bỏ, có hai:
Chính là bác bỏ có hai: a.1) Bác bỏ vô thể.
Phật bảo A-nan! Nay ông nói do pháp sinh cho nên các thức tâm sinh, tùy theo chỗ hợp mà tâm có theo.
Tâm này vô thể thì không có chỗ hợp, đã nói do pháp mà có tâm thì biết tâm ấy vốn vô thể.
Vô thể mà nói hợp lý không đúng, một pháp làm sao mà hợp?
Nếu không có tự thể mà hợp được thì mười chín cõi do bảy trần mà hợp, nghĩa này không đúng. Nếu ông cố chấp vô thể mà hợp được thì giới thứ mười chín, trần thứ bảy, thể nó hoàn toàn không có lẽ ra cũng hợp được. Người học thế gian ai tin có điều này, cho nên nói không đúng. a.2) Bác bỏ hữu thể, có hai: a.2.1) Bác bỏ trong ngoài xuất nhập không thành, có hai:
- Chính là đoạt phá:
Nếu có tự thể thì như ông lấy tay tự xúc chạm vào thân thì tâm sở tri của ông là từ trong ra, hay từ ngoài vào? nếu từ trong ra thì phải thấy trong thân, nếu từ ngoài đến thì trước phải thấy cái mặt, xúc là đụng chạm, tay xúc chạm thân thì trước phải biết. Đã nói có tự thể thì chẳng có điều gì không lại cắt đứt. Hai chỗ trong ngoài phải từ một duyên. Cho nên nay hỏi hai điều khó, đồng với bác bỏ trước.
- Bác bỏ chuyển chống chế, có hai:
+ Chống chế:
A-nan thưa: Thấy là mắt, tâm biết chứ không phải thấy: phi nghĩa chuyển tức là chống chế.
Nếu khó như trước làm cho thấy cái mặt, lý e rằng không đúng, vì tâm biết rõ, chỉ gọi là biết. Mắt có thể chiếu sáng, mới gọi là thấy, nếu cho cái tâm là biết, mắt thấy chắc chắn không có lý này. Cho nên nói phi nghĩa.
+ Bác bỏ:
Phật bảo nếu mắt thấy, thì ông ở trong nhà, cửa có thể thấy được không? Dẫn dụ rất khó.
Như người thế gian cho rằng thấy bên ngoài thì phải đợi ra ngoài cửa thì mọi người mới thấy. Nếu người ở trong nhà, cửa đâu có tự thấy? Cửa tức là mắt. Người chính là tâm. Ông nói mắt thấy lý e không đúng.
Người chết vẫn còn mắt lẽ ra phải thấy vật, nếu thấy vật thì đâu gọi là chết. Nêu việc chính là bác bỏ. Nếu mắt gọi là thấy, thì người chết mắt còn, tâm thức lìa thể đâu nói có thấy? Có thấy thì không chết, chết phải không thấy. Cho là cái thấy ở mắt không phải sai lầm hay sao? a.2.2) Bác bỏ một nhiều biến cục phi lý:
1. Nêu chung:
Nầy A-nan! Cái tâm giác liễu năng tri của ông nếu có tự thể thì là một thể hay nhiều thể. Nay ở thân ông là biến thể hay không biến thể, một nhiều tức là Tâm và Thể. Biến cục là thân và thể, ngoài ra văn rất dễ hiểu.
2. Bác bỏ riêng, có hai:
a) Lỗi của nghĩa một thể, nhiều thể.
Nếu một thể thì khi tay ông xúc chạm vào một chi, thì bốn chi lẽ ra đều biết, nếu điều biết thì nghĩa xúc chạm thật không còn. Nếu có chỗ xúc chạm thì một thể của ông tự không thể thành, tức là bác bỏ một. Nếu tâm thể là một thì bốn chỗ đều đồng, một chi thọ xúc thì bốn chi đều biết. Nếu đều biết thì mất đi chỗ xúc chạm cũ. Cho nên nói không còn. Nếu biết vốn là chỗ xúc chạm thì nghĩa một thể đâu còn.
Nếu nhiều thể thì thành nhiều người vậy thể nào là thể của ông? đây là phá nhiều. Tâm ông duy nhất đâu hợp với nhiều thể? Nếu là nhiều tâm thì ông cũng nhiều thể, vậy trong cái nhiều thể ấy ai là A-nan? Cho nên nói thể nào là của ông?
b) Lý khắp và không khắp là sai lầm:
Nếu thể là khắp thì đồng với xúc chạm trước, tức là bác bỏ khắp. Khi xúc chạm một chi thì bốn chi đều biết, cho nên nói đồng với trước.
Nếu không khắp thì ông xúc chạm cái đầu thì cũng xúc chạm khắp chân. Đầu có chỗ biết, chân lẽ ra không biết, nay ông không phải như vậy là phá không khắp. Nếu tâm ông có chấp không khắp thân thì sự xúc chạm đầu và chân đồng thời mà xuống, phải một biết, một không biết. Nay ông đều biết thì chấp thành không khắp?
Cho nên nói nay ông không đúng.
Kết thúc bác bỏ:
Cho nên biết tùy theo chỗ hợp, tâm tùy theo đó mà có là không có việc ấy.
6. Bác bỏ trung gian, có hai:
1. Dẫn kinh thành lập:
A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Khi con nghe Đức Phật và các vị Pháp Vương Tử như ngài Vănthù nói về tướng Thật, thì Thế tôn cũng nói tâm không phải ở trong, cũng không phải ở ngoài (dẫn văn giáo).
Như con nghĩ: Bên trong không thấy được, bên ngoài không biết nhau. Vì trong không biết nên ở trong không thành, thân tâm biết nhau nên ở ngoài là phi nghĩa, là hợp với giáo lý.
Cũng không biết nhau: phải nói ngoài lại biết nhau, e rằng văn lầm. Vì nay biết nhau lại ở trong không thấy thì phải ở trung gian, chính là lập trung.
2. Y theo lý bác bỏ có hai:
a. Bác bỏ có hai:
a.1) Y theo thân xứ để tùy phá, có hai:
a.1.1) Quyết định trung vị.
Phật bảo: Ông nói trung gian, trung thì phải không mê, đều là có chỗ. Nay ông bác bỏ ở giữa, giữa ở chỗ nào? Là ở xứ hay ở thân. Nếu tâm ở giữa thì giữa phải không lầm, phải có chỗ nơi.
Thế nào là ở giữa? Cho nên nêu thân xứ để quyết định trung vị (chỗ ở giữa).
a.1.2) Tùy chấp mà bác bỏ, có hai:-Bác bỏ ở thân không ở giữa.
Nếu ở thân thì ở một bên không phải ở giữa, ở giữa là đồng với ở trong. Nếu ông đối với thân mà ở giữa thì thân có giữa, có bên. Nếu ở giữa thân thì đâu khác với ở trong, phải thấy ở trong, nếu đến bên thân, bên thì chẳng phải ở giữa, lại trái với lời mình nói.
-Bác bỏ có chỗ bất định.
Nếu có chỗ thì có tiêu biểu hay không, không có tiêu biểu thì đồng với không, có tiêu biểu thì không nhất định, vì sao? Vì như người khi dùng tiêu biểu, tiêu biểu là ở giữa, thấy Đông thành Tây, thấy Nam thành Bắc. Thể của biểu đã ổn, tâm là tạp loạn. Nếu thân ở ngoài mà đứng ở giữa thì phải y theo biểu. Chỗ nào là giữa, nếu không thể tiêu biểu thì rốt ráo là không, giống như sừng thỏ. Nếu có tiêu biểu thì thành bất định, vì Đông Tây Nam Bắc đều có thể nói, năng biểu đã loạn thì tâm phải lẫn lộn, về lý lẽ ra là không đúng.
b. Nương căn cảnh để lập ở giữa, có hai:
b.1) Lập:
A-nan thưa! Cái con nói ở giữa chẳng phải hai thứ này, như lời Thế tôn nói, nhãn sắc là duyên sinh ra nhãn thức, mắt có phân biệt, sắc trần thì không biết, thức sinh ở giữa đó chính là tâm ở nơi hai thứ thân và xứ, chẳng phải ý con lập.
Nhãn sắc là duyên sinh nhãn thức, đâu chẳng phải lời Thế tôn nói: Nay y theo hai chỗ căn và cảnh để lập ra chính giữa là tâm ở tại đây. Căn có khả năng chiếu cảnh, nên nói là phân biệt.
b.2) Bác bỏ có hai:
b.2.1) Nêu chung.
Đức Phật nói, Tâm ông nếu ở giữa căn và trần thì thể của tâm ấy có gồm cả hai hay không? Cho ở đây là giữa, là gồm cả hai pháp căn và trần hay là không gồm cả hai pháp: Căn và trần.
b.2.2) Bác bỏ riêng, có hai:
* Bác bỏ gồm cả hai, có hai:
-Nếu gồm cả hai thì thành tạp phá, có hai:
+ Nếu gồm cả hai, thì vật thể tạp loạn, nhân tâm gồm cả căn trần lẫn lộn, trần cũng phân biệt, căn cũng không biết, vật tức là trần, thể tức là căn.
+ Phá không lẫn lộn chẳng phải ở giữa:
Vật chẳng phải thể biết, thành địch hai lập, làm sao gọi là giữa? Nay nếu không xen lẫn thì vật tự không biết, thể tự chiếu cảnh, rõ ràng thành đối địch nhau, chỉ có hai tướng, ở giữa làm sao còn?
-Phá không gồm:
Gồm cả hai không thành, chẳng phải biết, không biết, tức không có thể tánh, ở giữa làm sao có tướng?
Vì không gồm căn nên gọi là chẳng biết, vì không gồm cảnh nên gọi là chẳng phải không biết. Hai nghĩa đã không thì lấy gì biểu thị cho thể tánh của tâm?
Thể tánh không có thì ở giữa tự không.
* kết thúc bác bỏ:
Cho nên biết tâm ở giữa thì không có việc đó.
7. Bác bỏ không dính mắc, có hai:
1. Dẫn kinh thành lập:
A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Con xưa thấy Phật và bốn vị đại đệ tử của Phật là Đại-Mục-liên, Tu-Bồ-đề, Phú-lâu-na, và Xá-Lợi-Phất. Cùng xoay bánh xe pháp, thường nói tâm tanh giác biết phân biệt đã không ở trong, cũng không ở ngoài, không ở giữa đều không có chỗ. Tất cả đều không dính mắc gọi là Tâm, thì con không dính mắc có gọi là Tâm không?
Đã chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa tức là biết tâm không dính mắc. Nhưng không biết ý Phật phá vọng vô thể làm cho biết được bổn chân, ba đời tìm tâm, tâm không thật có, vì tâm không thật có cho nên vọng vốn không, tâm vọng không có chỗ tức là Bồ-đề, sinh tử Niết-bàn vốn bình đẳng, không rõ được ý này thì lầm ý chỉ của văn. Vọng lập không dính mắc bèn cho là hợp với giáo.
Suốt đời tu hành thường có chấp này, nhưng bất cứ lúc nào không có dính mắc tức là chân tâm của ta. Nhưng chẳng biết chấp vào cái không dính mắc này cũng là vọng tưởng.
Kinh Lăng-già nói: "Vô tâm làm tâm lượng, ta nói là tâm lượng", cho nên dưới phá.
2. Y theo lý mà bác bỏ, có hai:
1. Bác bỏ có hai:
a) Nhắc lại chấp, nêu cả hai:
Phật bảo A-nan! Ông nói tâm tánh giác biết phân biệt đều không có, các vật tượng hư không, thủy lục phi hành ở thế giới gọi là tất cả.
Ông không có dính mắc thì chúng có hay không? Ông nói tất cả không dính mắc, tất cả không ngoài thủy lục không hành tức là tâm không dính mắc của ông, quyết định đối với tất cả pháp ấy là có hay không có. Có tức là dính mắc. Nếu có, không có, cả hai đều có lỗi. Như ở dưới bác bỏ điều đó.
b) Xoay vần bác bỏ có ba:
b.1) Phá không có đồng với vô.
Không thì đồng với lông rùa sừng thỏ, làm sao nói là không dính mắc? Vô tức là không có, nếu ở đây quyết định không dính mắc các pháp thì chỗ nào là tâm mà gọi là không dính mắc, lại đồng với lông rùa sừng thỏ thế gian, hoàn toàn vô tự thể.
Thể đã hoàn toàn vô thì gọi ai là người không dính mắc?
b.2) Phá có tự thể thành dính mắc:
Có việc không dính mắc thì không thể gọi là vô. Nếu tâm không dính mắc này có tự thể thì chẳng thể nói là không có tất cả. Vô vẫn là không có.
b.3) Chỉ cả hai lỗi, kết trách lỗi trước:
Vô tướng thì vô, là chỉ lỗi trước, vô tức là không có, tướng tức là tất cả, Không ở các tướng thì là vô thể, như sừng thỏ v.v...
Phi vô tức là tướng, chỉ lỗi kế. Chẳng phải vô thì có tự thể, nếu thể chắc chắn là có thì ở tất cả, cho nên nói tức tướng.
Tướng có thì có, sao nói là không dính mắc là kết lỗi trước.
Tướng nếu có tâm thì gọi là dính mắc, vì sao vọng lập nghĩa không dính mắc?
2. Kết thúc bác bỏ:
Cho nên biết tất cả không dính mắc gọi là tâm giác biết thì không có việc đó.
Bảy đoạn trên đây là phá chỗ nương của vọng, nhưng sở chấp của phàm tình tuy có muôn vàn sai khác nhưng chỗ nương không ngoài bảy đoạn này. Muốn tìm thể của vọng thì trước phải bác bỏ chỗ nương. Giống như thành bị tàn phá thì giặc chết, tổ nghiêng thì trứng đổ. Bác bỏ tuy có bảy, chỗ thì có năm vì xứ thứ năm và thứ bảy không khác, tùy hợp không dính mắc, tợ phá năng ý chánh là ở đây, rõ ràng rất dễ thấy.
8. Kế là phá vọng bày chân, có hai:
1. Phá tâm vọng bày tâm chân, có ba:
1) A-nan lại thỉnh, có hai: a. Trách mình gặp nạn.
Bấy giờ, A-nan ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi: Dưới đây đều là nghi thức cung kính cầu pháp yếu, hai nghi thức Phạm và Hán. Chúng nghe đều ngồi, có điều gì muốn thưa hỏi thì từ chỗ ngồi mà làm, nếu lễ thỉnh thì đứng dậy, lại oai nghi đứng dậy thì sẽ có điều lắng nghe, nghe thì phải lại ngồi.
Kinh nói lùi lại ngồi sang một bên, Nhà Nho thì có ngồi mới cho ông nói, đều làm cho thu nhiếp oai nghi thọ pháp, không có sai lầm.
Nói từ chỗ ngồi đứng dậy: Tức là từ thể không của pháp khởi lên dụng bi cứu giúp.
Vén y bày vai phải, bày gọi là vén, tỏ ý cung kính là phong tục của người phương Tây, thấy vua thì phải bày thịt, biểu thị chẳng dám trái phạm, Phật giáo cũng dùng theo này. Nhưng điều này để biểu thị sẽ gánh vác trọng trách Đại pháp.
Gối phải chấm đất: là cách quỳ của người Hồ, trí chịu khuất thành tựu được lý, vì mong chứng nhập điều nói bên phải là thuận, không nghịch chắp tay, tin hiểu phù hợp, đều giúp ngộ nhập. Trên đây đều là thân nghiệp.
Cung kính thuộc về ý nghiệp. Kính gọi là cung, trọng gọi là kính. Mà bạch Phật rằng: trên đây đều la nhà dịch kinh trình bày nghi thức cung kính, dưới dây là khẩu nghiệp.
Con là em út của Đức Như Lai: A Nan là con vua Hộc Phạn, A-nan sinh vào đêm Phật đắc đạo, trong các người em, A-nan là nhỏ nhất. Nay con mong Như Lai thương xót, con tuy xuất gia nhưng còn ỷ lại cho nên học rộng chưa được vô lậu. Kiến hoặc tuy dứt nhưng câu sinh vẫn còn, về sau mới đắc Nhị quả, không thể chiết phục được thần chú của tiên Sa-Tỳ-la, bị thần chú ấy chuyển, rơi vào nhà dâm, do không biết mé chân là chỉ cho bờ chân thật, tức là nghĩa tột cùng, đây là chỗ Đại giáo chỉ bày. Hối hận trách mình gặp nạn mà lại chưa chứng đắc. Bởi không biết đến chỗ này tức là thể của Tạng Như Lai. Hai lần thỉnh chỉ dạy tu hành, chỉ mong Thế tôn từ bi thương xót chỉ bày cho chúng con, con đường Tam-mađề (thiền định), làm cho các xiển-đề đọa di-lệ-xa.
Kinh Niết-bàn nói: Nhất-xiển, Hán dịch là Tín. Đề: Hán dịch là bất cu (không có), không có lòng tin nên gọi là Xiển-đề, hoặc dịch là thiêu đốt gốc lành, ở đây chỉ cho chúng sinh dứt mất gốc lành.
Di-lệ-xa, Hán dịch là: người ưa thích nhơ bẩn. Những người này hoàn toàn không biết Phật pháp, tức là cái thấy bất chánh nghiêng về tà. Do cái thấy bất chánh tức là chê bai chánh pháp, chết đọa biên địa, không bao giờ biết Phật, đọa tức là hủy. b) Ý A-nan thưa hỏi tự được tu chân chánh, biết được bờ chân là lìa tà kiến, ngõ hầu thành Phật, cũng muốn dần dần làm cho chúng sinh không có gốc tin, dứt mất điều lành, hủy diệt tà kiến, biết được chánh pháp Phật, tự lợi lợi tha mới là chánh thỉnh.
Nói lời này rồi năm vóc gieo sát đất, cùng các đại chúng khát khao được nghe lời dạy.
Thỉnh xong rồi mới lễ, rất thích được nghe. Hết lòng khát ngưỡng, đứng lâu trông mong, kính nghe lời chỉ dạy làm cho được ngộ nhập.
2) Như Lai hiện điềm lành:
Bấy giờ, từ trên mặt Đức Thế Tôn phát ra các thứ ánh sáng, ánh sáng ấy rực rỡ như trăm ngàn mặt trời.
Sắp trình bày về pháp lợi thì trước nói về quả báo để thức tỉnh làm kinh động lòng tin. Trước phát ra ánh sáng trên đỉnh biểu thị thể vô thuyết. Đây là từ miệng phát ra muốn nói lên lời nói rõ ràng trong tiếng sắc dụng đều có trí thể, các thứ trăm ngàn đầy đủ các đức, phá tối vô minh như mặt trời chiếu. Sáu thứ rung chuyển khắp các thế giới Phật, ba thứ thế gian không lìa bổn giác gọi là thế giới Phật, bốn đại phân tán, các căn vọng sinh cho nên nói sáu thứ vô minh sâu dày bền chắc, đất đá hình thành, rung chuyển là thuộc về ánh sáng của Phật, gốc vọng bị lôi kéo, sáu cách rung chuyển như Kinh Hoa Nghiêm nói. Cõi nước mười phương nhiều như cát bụi như thế cùng lúc khai hiện, sáu căn vọng cách, cõi nước khác hình dạng, vọng chấp đã dung, mười phương khai hiện.
Oai thần Phật làm cho các thế giới hợp thành một cõi, vọng chấp chưa dung, sáu căn ngăn cách, chân trí vừa phát thì pháp giới rỗng rang, ai là mình người, cho nên thành một cõi, tức là muốn nói điềm lành của tâm Như Lai tạng.
Tất cả các đại Bồ-tát trong các thế giới ấy đều ở nước mình chắp tay lắng nghe. Nhân quả không hai, thể không hai vốn cùng khắp khắp pháp giới gọi là Đại Bồ-tát, vô minh tức là minh, không dời động gọi là trụ ở nước mình, thầm hợp lý này, thuận theo không trái gọi là chắp tay lắng nghe. Đại chúng ngộ được lý này cho nên ở đây biểu thị trước điều này.
Kinh Pháp Hoa nói Nhất thừa xong, các thế giới ở mười phương chung thành một cõi Phật, cũng nói lên trong các cõi Phật ở mười phương chỉ có pháp Nhất thừa. Cuối kinh quyển ba, đại chúng lãnh ngộ là nói lên điều này.
3) Chính là khai thị, có ba:
Chỉ bày hai nguồn chân vọng, có hai: a.1) Bác bỏ chung không hiểu rõ:
Phật bảo A-nan! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay các thứ điên đảo, hạt giống nghiệp tự nhiên, như chùm trái ác-xoa: phàm phu ngoại đạo thường đồng với bốn điên đảo, cho nên Thanh văn, Duyên giác không đồng với bốn đảo cho nên nói muôn thứ. Vô minh vô thỉ huân tập thành hạt giống, hạt giống chắc chắn có quả, các hạt nối nhau sinh, huân tập không đứt quãng, như sợi dây xỏ chuỗi thứ lớp liền nhau gọi là chùm trái ác-xoa. Ác-xoa là tiếng Phạm, Hán dịch là Tuyến Quán Châu Kinh.
Nói các pháp đối với thức tạng, tạng đối với pháp cũng vậy, lại làm tánh quả cho nhau, cũng thường làm tánh nhân.
Ứng Pháp Sư nói: Ác-Xoa là tên loài cây, hình dạng trái như loại trái không ăn được. Nước ấy thường gom quả ấy để bán, như hạnh nhân ở đây, cho nên lấy làm ví dụ, dụ cho hoặc nghiệp khổ.
Những người tu hành không thể thành vô thượng Bồ-đề, cho đến chẳng thành Thanh Văn, Duyên giác mà thành ngoại đạo, chư thiên, ma vương và quyến ác thuộc, mất chánh rơi vào đường tà. Không kể tâm năm đường nên nói cho đến. Tâm hành của Nhị thừa lý ngoại cũng đồng với tà kiến. Không nhập chánh lý gọi là Ngoại, chỉ tu nhân tà nên gọi là Đạo.
Tiếng Phạm là Ma-la, Hán dịch là sát giả.
Đều do không biết hai thứ căn bản, tu tập nhầm lẫn, giống như nấu cát mà muốn thành cơm, dù trải qua nhiều kiếp cũng không thể được, đó là do sáng mất, mê chân theo vọng, như gieo giống đắng mà mong trái ngọt, cát và cơm khác nhân, đâu luận về kiếp số, tâm mong thành Chánh Giác, quả vào vùng mê, tự cho là chân tu, đâu biết theo vọng, không theo giác, chỉ luống nói suông, một khi mất con đường thông suốt, chỉ quay lại con đường tối tăm, thật là đáng buồn. a.2) Khai riêng về hai nguồn chân vọng, có hai: a.2.1) Khai nguồn vọng:
Thế nào là hai thứ? Nầy A-nan! Một là căn bản sinh tử từ vô thỉ: đây là nêu ý chỉ.
Như ông hôm này cùng các chúng sinh tâm phan duyên là tự tánh.
Đây chính là hiển bày.
Chúng sinh chịu thân luân hồi trong năm đường, không cùng tận bờ mé, nên gọi là vô thỉ.
Nhóm duyên bên trong lay động, hướng ra bên ngoài buông lung, nên nói là phan duyên. gây nhân thiện ác chịu báo khổ vui, chết đây sinh kia, đều do tâm này, cho nên nói là căn bản. Không rõ vọng này, lấy mê làm cho tâm, chắc chắn lầm là ở trong sắc thân, nói làm tự tánh. Chấp tâm vọng làm tâm Phật, nương vào đó mà tu hành, lại thêm ngã mạn. Kinh Niết-bàn nói: Chẳng có một pháp nào không từ duyên sinh mà các ngoại đạo này, cho là thường, đều là điên đảo. a.2.2) Khai nguồn chân, có hai:
* Chánh khai:
Hai là Bồ-đề Niết-bàn vô thỉ, thể vốn thanh tịnh, đây là nêu ý chỉ.
Bồ-đề là quả thuộc về trí, Niết-bàn là quả thuộc về đoạn, hai quả vốn đầy đủ cho nên nói vô thỉ. Tánh sở y xưa nay không tương ứng với vọng chấp. Cho nên nói thể vốn thanh tịnh, vì sao? Vì ở dưới nói:
Cho nên nay ông thức tinh vốn sáng có công năng sinh ra các duyên, duyên bị sót mất: Đây là chánh hiển.
Thức A-lại-da thứ tám trong các thức rất sâu kín nên gọi là Thức tỉnh, Thức sâu kín này có hai nghĩa:
- Nghĩa giác.
- Nghĩa bất giác.
Nghĩa giác là văn nầy vốn rõ, Vốn rõ là bổn giác. Bất giác là vô minh sinh diệt, nghĩa là bất sinh bất diệt và sinh diệt chẳng phải một, chẳng phải khác, nên gọi là Thức tỉnh. Từ đây biến khởi căn thân, hạt giống khí thế giới, v.v... gọi là sinh các duyên. Tướng của thức đã hiện, nguyên tánh bèn ẩn nên nói duyên sót mất. Di là mất, cho nên văn dưới nói tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay quên mình làm vật, đánh mất bổn tâm. Kinh Đối Pháp nói: "Cõi vô thỉ đến nay, chỗ nương tất cả pháp. Do đây có các đường, và chứng đắc Niết-bàn" là nói việc đó.
* Bác bỏ mê:
Do các chúng sinh sót mất bổn minh này, tuy lúc nào cũng tu hành mà không tự biết, luống vào đường: Bổn minh tâm cùng khắp bao trùm không sót. Diệu giác vắng lặng đây phải chịu xa lìa, mỗi bước đều là đạo cho nên nói tuy lúc nào cũng tu hành. Nhật dụng không biết cho nên nói mê không tự biết. Thật gọi là ôm châu đi xin, ôm vật báu mê đường, chịu sự trở ngại, thật đáng thương xót.
b) Chính là phá hai thể chân vọng, có bốn:
b.1) Nêu thể của vọng, có bốn:
b.1.1) Co ngón tay để nêu, có bốn:
b.1.1.1) Giơ nắm tay để hỏi:
A-nan! Nay Ông muốn biết con đường Xa-ma-tha mong ra khỏi sinh tử: Xa-ma-tha là con đường ra khỏi sinh tử, đến Niết-bàn. Nay lại hỏi Ông: Tức thời Như Lai đưa cánh tay sắc vàng rồi có năm ngón tay lại bảo A-nan rằng: Nay Ông có thấy chăng? Đất, nước, lửa, gió không luân, mỗi thứ đều đối với một ngón tay, lại mỗi đầu ngón tay có hình bánh xe ngàn căm, cho nên nói ngón tay bánh xe. Co tay hỏi thấy, là ý muốn nêu tâm.
b.1.1.2) Y theo cái thấy để dạy:
A-nan nói thấy. Phật nói: Ông thấy cái gì?
A-nan thưa: Con thấy Như Lai đưa ngón tay ra và co ngón tay lại là nắm tay ánh sáng soi chiếu tâm mắt của con. Ánh sáng vàng tay Phật soi sáng tâm mắt của con; đây là tâm và mắt đều thấy.
b.1.1.3) Lại xét cái gì là duyên:
Phật bảo: Ông dùng cái gì để thấy?
A-nan thưa: Con và đại chúng đồng dùng mắt thấy. Đưa nắm tay, trước hỏi lại nói soi sáng tâm con. Lại xét cái gì thấy. Lại riêng không nói tâm. Ý dẫn đã nêu hiển rõ vọng tưởng, thầy trò khéo léo cùng phá chấp tình, hay thay đại quyền, xa biết ngày nay.
b.1.1.4) Nêu riêng tâm thấy:
Phật bảo A-nan! Nay Ông đáp lời ta, Như Lai co các ngón tay lại thành nắm tay chiếu sáng tâm mắt của ông, mắt ông có thể thấy, lấy gì làm tâm? Lúc nắm tay ta chiếu sáng là lúc còn đối.
Mắt ông rõ ràng nên nói có thể thấy.
Lại mắt ông có thể thấy tướng nắm tay của ta, ý muốn nêu tâm. Lại cho là mắt, mắt thì có thể thấy. Thế nào là tâm, nghiên cứu đến cùng, vọng tưởng phải hiển bày.
b.1.2) Trình bày thể của vọng:
A-nan thưa: Như Lai hiện nay nêu chỗ ở của tâm. Mà con dùng tâm suy cùng chạy tìm, tức các năng suy con cho là Tâm, tâm năng suy phan duyên vọng tưởng, sinh tử trôi lăn đây là gốc. Cố chấp đã sâu cát sông chẳng thể tính kể, cho nên nay lộ trình phải đợi phá trừ.
b.1.3) Quở trách khiến hỏi:
Phật bảo: Thôi đi A-nan! Đó không phải là tâm ông. A-nan sợ hãi liền rời khỏi chỗ ngồi, chắp tay đứng dậy bạch Phật: Đây không phải là tâm của con thì gọi là gì? Đức Thế tôn hiện tướng để quở trách lỗi rất sâu. A-nan sợ hãi đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi là chấp nặng. Chủ tể của tình đều gọi là tâm con. Nay bị quở trách ai mà không kinh ngạc về lời quở trách, nên sợ hãi giật mình đứng dậy.
b.1.4) Chỉ rõ chẳng phải chân.
Phật bảo A-nan! Đây là tướng tưởng luống dối của tiền trần mê hoặc chân tánh của ông.
Tướng tiền trần vốn tự luống dối, từ thức biến hiện sinh khởi. Giống như hình bóng, mà lại dẫn khởi niệm tưởng, duyên lự gọi là Tâm, tâm và cảnh đều luống dối. Tâm này và cảnh la chùm bọt trong cảnh biển chân như. Cho nên văn dưới nói: "Thân ông, tâm ông đều là vật hiện trong diệu tâm chân tịnh diệu minh, phù trần đã hiện, thật thể liền ẩn, làm cho che lấp, làm cho mờ tối. Cho nên nói mê hoặc chân tánh của ông. Do ông từ vô thỉ đến nay nhận kẻ cướp làm con, mất đi cái vốn thường của ông cho nên chịu trôi lăn. Vọng tưởng này làm tổn giảm pháp thân, làm tổn thương tuệ mạng, công đức pháp tài do đây mà mất hết, nên gọi là kẻ cướp. Mê nên không biết, cho là chân thường, muốn cho người con đầu lòng nối đời, trái lại bị phá mất, trải qua nhiều kiếp nghèo cùng cho nên nói mất cái vốn thường, chịu trôi lăn. Cho nên văn dưới nói: tướng mờ mịt quấy nhiễu cho là tâm tánh, lấy mê làm tâm, quyết định mê hoặc cho là trong sắc thân. Không biết ngoài sắc thân cho đến núi sông, hư không, mặt đất đều là biển lớn trong chân tâm diệu minh. Chỉ nhận bọt nước, còn hơn người trong mê, thật là đáng thương.
b.2) Hiển bày chân tâm:
Thể của chân tâm vốn trùm khắp pháp giới, chẳng phải vọng, chẳng phải chân, bặt lời lìa tướng, có công năng gom nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Nhưng phải đủ ba đại, thông hai môn.
Nói tâm này theo môn chân như thì dứt nhân quả, bặt nhiễm tịnh, miệng nói thì lời mất, tâm duyên thì lự mất, không có pháp để phá, không có pháp để hội, đây là đại nghĩa hiển thể.
Nếu nói tâm này theo môn sinh diệt thì làm rõ nhiễm tịnh, sáng thể dụng, bày chân vọng, luận phân quả, có tu có chứng, hoặc phá hoặc hội, hiển bày như thế đều là thuận theo nhập vào chân như. Thể của chân như là nhất tâm. Nhất tâm chân như không hai, không khác với tướng sinh diệt. Ngay nơi ba mà nói một, ngay nơi một mà nói ba, cho nên sinh sống bằng nghề gì đều không trái với tướng thật. Cõi mình, cõi Phật, chúng sinh cũng vậy. Nay hiển rõ tướng chân tâm, y theo môn sinh diệt để dứt vọng tưởng. Nhưng về tướng phá hội trong các kinh luận đều có hai thứ này. Vì tùy theo tâm chấp nặng nhẹ, căn có lợi độn, thừa thì có đốn tiệm, giáo chia ra quyền thật. Nếu chấp nặng về căn độn thì lý phải dứt bỏ. Như thuốc, không phải hoa mắt thì bịnh không thể lành. Nếu căn tánh ôn hòa, vọng tình nhẹ mỏng, ngay nơi tướng là tánh, tất cả đều như, giống như ngựa giỏi thấy bóng roi huơ liền đi thẳng. Nay kinh trước phá, sau hội, hai chấp nặng nhẹ đều hết, hai căn lợi độn đều nhập vào. Đoạn kinh như thế là nói tâm năng sinh pháp, tự tánh là vốn thường, không đồng với tiền trần phân biệt ảnh sự. Nhưng tùy cảnh mà chuyển thể là vô thường. Ở dưới Kinh lại nói thấy và duyên thấy vốn không thật có, vốn là Bồ-đề diệu tịnh minh thể. Lại nói: Sinh diệt đến đi vốn là Như Lai Tạng.
Đây là trước làm cho biết rõ chân vọng, sau đó làm cho biết vọng tức chân, đi đến khai ngộ không có vọng để rõ, tức là nói đều là Bồ-đề diệu minh nguyên tâm.
Kinh Duy-ma, Kinh Pháp Hoa đều có ý này, như người điều khiển ngựa, thầy thuốc giỏi đúng thời chế ngự chúng sinh, ở nơi tòa căn tánh đã khác, người nói lý phải gồm cả hai.
Như Lai khéo léo, đạt được thời cơ. b.3) Văn có hai: b.3.1) A-nan lại nghi lần nữa, có hai: b.3.1.1) Trình bày nghi riêng, có ba:-Nghi về phát tâm tu hành:
A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn, con là em họ của Phật, vì tâm kính mến Phật nên con mới xuất gia, hầu hạ Chư Phật và các thiện tri thức. Con đã phát tâm mạnh mẽ, thực hành tất cả pháp sự khó hành đều dùng tâm này, khởi ý tu hành, gần gũi ban lành, tức là phát tâm, Bồ-đề Như Lai thường dạy phải phát tâm này, nay vì sao nói chẳng phải tâm cho nên nói về sự khó. Theo Kinh Niết-bàn thì phát tâm Bồ-đề không phải là tánh Phật.
Kinh Sư Tử Hống nói: Nếu tất cả chúng sinh trước có Phật tánh, vì sao lại có mới phát tâm Bồ-đề?
Phật nói: Tâm Bồ-đề thật không phải Phật tánh, vì là vô thường, cho đến niệm niệm diệt, nối nhau không dứt, gọi là tu đạo. Giống như đèn sáng, tuy niệm niệm diệt có công năng xua tan bóng tối. Tâm Bồ-đề cũng giống như thế. Kinh này muốn nói tâm Như Lai tạng thường trụ (tám trăm ba mươi chín) chân tánh, chính là Niết-bàn chánh nhân Phật tánh, phát tâm Bồ-đề chính là duyên liễu, thể là vô thường. Bởi vậy, A-nan đồng như Sư tử hống, duyên với liễu tánh, khó chánh nhân tánh, đây là nghĩa không thể giải thích được ba nghĩa nhân, thường, vô thường, vọng cho là khó.
- Chê bai chánh pháp lui sụt gốc lành:
Dù làm cho chê bai chánh pháp, lui sụt hẳn gốc lành, cũng do tâm này, tu hành theo đây thì sẽ thành Phật đạo. Vì chê bai chánh pháp, mãi mãi làm xiển-đề, Phật nói phi tâm thật là khó tin.
- Nghi vô tâm đồng với đất cát, gỗ đá:
Nếu phát minh này không phải tâm thì con không có tâm, đồng với đất cát, cây đá.
Đất cây không có cái biết, không thể tu, không thể chê bai, vì không có tâm này. đây nếu là phi tâm thì đâu khác gì đất cát, gỗ đá. b.3.1.2) Tổng kết thỉnh:
Lìa cái giác biết này thì không có gì, vì sao Như Lai nói đó chẳng phải tâm, còn thật kinh sợ, cả đại chúng này chẳng có ai không nghi ngờ, xin Phật rũ lòng đại bi khai thị cho người chưa ngộ, không rõ thể chánh nhân có ở cả hữu tình và vô tình, chỉ chấp vào tâm tu rồi chê bai, bèn thấy cỏ đất đều vô tánh. Đến khi bị quở trách đó không phải là tâm ông, do không giải thích sớm mà đưa đến kinh sợ. Nhưng A-nan đâu phải là không biết mà chính là vì chúng sinh đời sau này phần nhiều chấp chặt điều này. Cho tâm vọng tức là tâm Phật, mê hoặc đã nhiều, thật khó lãnh ngộ, cho nên nghi tới nghi lui, xin Phật chỉ bày. b.3.2) Như Lai chánh hiển bày, có hai: b.3.2.1) Y theo hiện pháp, tùy duyên hiển tâm:
Bấy giờ, Đức Thế tôn chỉ dạy cho A-nan và các đại chúng muốn cho tâm nhập Vô sinh nhẫn. Ngài ngồi trên tòa sư tử xoa đầu A-nan mà bảo rằng: Xoa đầu tức là an ủi.
A-nan nghi hỏi, cho là vô tâm, nay nếu chỉ bày sẽ biết biết thể cùng khắp, sẽ hợp với lý này. Rõ pháp vô sinh, ấn khả quyết định, gọi là Vô sinh nhẫn. Khi đắc Vô sinh nhẫn này thì thông đạt tất cả pháp môn, thành tựu tất cả Phật pháp, đây không phải duyên nhỏ. Cho nên Phật an ủi, làm cho sinh khởi ý này, nên Phật xoa đầu.
Như Lai thường nói các pháp sinh khỏi do tâm biến hiện, tất cả nhân quả thế giới bụi nhỏ do tâm mà thành thể, đây là nêu chung về sắc tâm, nên gọi là các pháp, không có chỗ sinh khác nên nói là do tâm. Pháp sinh khởi này là do chân như không giữ tự tánh làm nhân, vọng tưởng vô thỉ huân tập làm duyên, nhân duyên hòa hợp thành thức A-lại-da. Từ đây mà sinh ra hạt giống căn thân, khí thế gian, v.v... Như nước dậy sóng, như gương hiện bóng. Cho nên nói do tâm hiện.
Tất cả nhân quả: Là nêu riêng chánh báo. Phàm Thánh đều có cho nên nói tất cả bụi cát thế giới, chỉ riêng cho y báo, nói tất cả cũng có ở chuyển này.
Đã do chân tâm tùy duyên hiện, cũng nương vào chân tâm cho là tự thể, như bóng không lìa gương, sóng không lìa nước. Như văn dưới nói:
Ta thường nói rằng: các duyên sắc tâm và tâm sở làm cho các pháp sở duyên do tâm mà hiện. Ngoài đến núi sông, hư không, mặt đất đều là vật trong diệu minh chân tâm, cho nên nói do tâm mà thành thể. b.3.2.2) Y theo tự tánh bất biến để nói về tâm, có hai:-Nêu so sánh.
A-nan! Nếu tất cả các vật có trong các thế giới, trong đó cho đến cỏ lá, tơ lụa. Hỏi về nguồn gốc đều có thể tánh, dù là hư không cũng có tên gọi dung mạo: Thế gian là vọng có, không ngoài sắc không, trong sắc ít là cỏ lá tơ lụa.
Cỏ lá có căn chủng, tơ lụa là do tơ gai, gọi là bầu trời hiển sắc là mạo. Tướng vọng còn như vậy huống gì chân tâm ư?
-Hiển chánh:
Huống chi là tất cả tâm thanh tịnh tịnh minh tâm tánh mà không có tự thể hay sao? Thanh tịnh khác vọng nhiễm, diệu tịnh minh tâm là ba đức đầy đủ, sáng suốt không mờ tối. Tuy có khả năng tùy duyên thành tất cả pháp mà tất cả pháp không thể thay đổi dao động. Nếu thay đổi, dao động thì không có các pháp. Vì bất biến cho nên là tánh của các pháp. Như gương hiện bóng, không bị bóng làm thay đổi. Nếu bị hình bóng thay đổi thì không thể hiện tất cả các hình. Vì bất biến cho nên làm chỗ nương của bóng.
Điều này cũng thế, cho nên nói tánh tất cả, đâu được vọng tưởng không thật, chân cũng vô thể. Cho nên trách nói mà tự vô thể.
9. Lại phá chấp tình, có hai:
1. Chấp nhất định có tánh:
Nếu ông chấp chặt phân biệt tánh giác quán rõ biết là tâm. Nhắc lại sở chấp, giữ chắc không xả bỏ cho nên nói chấp chặt, suy nghĩ tầm tư nương gá vào duyên trần, như vạch nước ấn trên hư không vừa qua tay liền diệt. Ông hẳn cho đây là chân tánh, ở dưới nói rằng.
Tâm này phải lìa tất cả các sự nghiệp trần như sắc, hương, vị, xúc, mà có toàn tánh riêng, đây là xác định về có tánh. Sắc, hương, v.v... là sự cảnh, có tâm dụng lôi kéo nên gọi là Nghiệp. Đã do cảnh mà có, tự tánh vốn không, nếu giữ gìn làm chân, lìa bỏ trần cảnh lẽ ra phải còn.
2. Y theo nhân nói chỉ có trần, có hai:
1. Chánh bày chỉ có trần, có hai:
a) Nêu bày đối với năm trần:
Như nay ông nhờ nghe pháp của Như Lai, đây là do tiếng mà có phân biệt: Do tiếng phân biệt, toàn tánh vốn không, sắc hương vị xúc xếp vào đây rốt dễ thấy.
b) Chỉ y theo pháp trần để hiển bày:
Dù diệt tất cả thấy nghe hay biết mà, bên trong còn giữ sự vắng lặng rảnh rang thì vẫn là hình bóng phân biệt của pháp trần. Năm cảnh không đối, hiểu rõ không hành, đã bặt duyên bên ngoài nên nói là bên trong giữ sự u nhàn. Lúc bấy giờ đều phân biệt, nếu dùng tâm phân biệt bên trong này làm toàn tánh, đây cũng phi lý mà không biết toàn tánh này là do sự cảnh bóng dáng pháp trần thứ sáu hiện phát, cũng chẳng phải toàn tánh mới là ý thức ở vị độc tán. Tỷ lượng phân biệt duyên chấp riêng cảnh bóng, chẳng phải liễu rõ đồng cả năm điều chấp lấy, cho nên nói dẫu diệt thấy nghe hay biết.
2. Bảo tự suy xét, có hai:
Một trần mất thể còn là chân thường, ta không bảo ông chấp là chẳng phải tâm. Nay ta chẳng phải không vâng theo lý đạo gượng ép bảo ông chấp chẳng phải tâm. Ý là nói lên lời của Như Lai không có ép ngặt, nhưng ông đối với tâm suy xét nhỏ nhiệm. Chữ Đãn giống như chữ Độc. Quán này không do người, chỉ đối với tâm mình xét rõ suy lường nghiên cứu lý nầy chính là lý tăng trưởng tức thành tựu, đâu hẳn là cầu ở ngươi.
Nếu lìa tiền trần mà có tánh phân biệt thì đó là tâm ông. Nếu ông nghiên cứu cùng tột về thể phân biệt này, lìa sáu trần bên ngoài mà thật có tánh, ta cho đó là chân tâm của ông. Người thế gian chỉ biết tức tâm là Phật, không hề suy xét kỹ lưỡng. Tâm này trong sát-na thay đổi, giống như vượn hại ngựa, quấy nhiễu loạn tưởng chẳng khi nào tạm dừng. Cho nên Kinh Lăng-già nói:
Phải ở chỗ vắng lặng, quán vọng tưởng này trôi chảy sinh diệt, kẻ phàm phu không biết vọng, mà cho là bất động. Cho nên kinh ở dưới nói: Như dòng nước chảy xiết mà nhìn dường như đứng lặng, vì chảy nhanh không thấy chứ chẳng phải không chảy.
Luận Khởi Tín cũng nói: Tất cả chúng sinh không gọi là Giác, vì từ vô thỉ đến nay niệm niệm nối nhau không hề lìa niệm. Vì nói vô minh vô thỉ nên Phật lại bảo suy xét kỹ càng để định chân ngụy.
10. Cảnh đi tâm không, đủ hiểu rõ luống dối, có bốn:
1. Chính là chỉ bày (tám trăm bốn mươi):
Nếu tánh phân biệt lìa trần cảnh không có tự thể. Đây là bóng dáng phân biệt của tiền trần, nếu lìa tiền trần thì không có phân biệt này, đủ nói lên phân biệt rõ ràng là vọng tưởng. Tự tánh vốn không, thuộc về tiền trần, nên gọi là bóng dáng phân biệt. Như văn ở dưới nói: Nếu là tâm ông thì không có đi làm sao nói lìa tiếng không có tánh phân biệt. Đây là đâu phải chỉ tiếng mà phân biệt tâm, Phân biệt ngã dễ lìa các tướng của sắc tướng không có tánh phân biệt.
2. Giải thích thành:
Trần chẳng phải thường trụ, nếu khi biến diệt thì tâm này đồng với lông rùa sừng thỏ.
Tâm do trần mà có, trần thuộc về vô thường, Trần đã vô thường thì quy về biến diệt, da không còn thì lông sao còn được.
Thì pháp thân của ông đồng với đoạn diệt, ai tu chứng Vô sinh pháp nhẫn: Nếu ông cố chấp tâm vô thường là chân tánh, nếu khi pháp thân đoạn thì nương vào đâu để tu hành, chứng Vô Sinh nhẫn nếu hiểu rõ tâm Như Lai tạng vốn trùm khắp pháp giới, vốn vô sinh diệt, bao trùm mười phương thì đâu có nơi chốn. Thân tâm phàm phu như bóng theo hình, chấp hình bóng này là Phật tánh, thật ngu dại biết bao.
3. Nói về chỗ sai của mình:
Bấy giờ, A-nan và các đại chúng im lặng tự biết sai. Trước nghe Phật phân tích đây không phải tâm ông thì nghi ngờ khó hiểu, cho rằng vô tâm, đến khi hiển bày tánh thanh tịnh diệu minh, tất cả tâm xưa nay trùm khắp tròn đầy, và thể tánh của thế giới nhân quả cát bụi đều bình đẳng.
Phật tuy chỉ bày lại sợ chấp chặt nên lại theo duyên trần xét lại vọng tưởng, lìa trần thì không có tự thể, đâu phải là nguyên chân, chấp chặt không dung thông, pháp thân nên dứt, tu chứng pháp Vô sinh nhẫn sẽ không có chỗ nương. A-nan tuy chưa ngộ chân tâm nhưng biết vọng chấp là sai cho nên nói im lặng tự biết sai quấy.
4. Kết bày về lỗi chấp vọng:
Phật bảo A-nan! Tất cả những người tu học trên thế gian này hiện tiền tuy thành tựu chín định thứ lớp, nhưng không được lậu tận mà thành A-la-hán Bốn thiền, Bốn không và định Diệt thọ tưởng gọi là chín định, gọi chung là Thứ đệ. Nếu khi nhập thiền trí tuệ bén nhạy có thể từ một thiền nầy nhập vào một thiền khác, tâm tâm nối nhau, lại vì không có niệm khác xen lẫn, nhưng tu định này sẽ thành vô lậu, nay nói không được lậu tận. Tức là chỉ chung cho người tu tâm cõi Dục hữu lậu thế gian chưa đạt đến Bốn thiền và Bốn không định. Kẻ phàm phu tu thiền thường sinh mê đắm, tùy theo thiền mà cảm quả, không ra khỏi ba cõi, nên chẳng phải vô lậu.
Không chỉ riêng về chín định như định Diệt tận v.v... cũng có thể phân tách riêng về chín định trước. Tuy có cả vô lậu nhưng đều là không hiểu rõ.
Hỏi: Tu định này sẽ được vô lậu, vì sao kinh nói không được lậu tận, thành A-la-hán?
Đáp: Ở đây nói là không được A-la-hán của Đại thừa. Trong kinh Anh Lạc nói địa Sơ Hoan Hỷ gọi là Cưu-ma-la-già, Hán dịch là Nghịch lưu, cho đến Thất địa gọi là A-la-hán. Hán dịch là qua ba cõi. Nên biết nay nói không được lậu tận là chỉ không dứt hai chướng lậu, không chứng A-la-hán của Đại thừa. So với rốt ráo Vô học thì địa vị Phật mới xứng, cho nên trong ba hiệu của Phật có A-la-hán.
Đây đều do chấp sinh tử vọng tưởng này là chân thật, bởi vậy nay ông tuy học rộng nhưng không thành quả Thánh, nếu hiểu rõ chân vọng, thông hiểu tánh pháp giới, cái thấy và duyên thấy, vì cảnh trước mắt vốn là giác minh của ta thì đều không chấp lầm căn bản sinh tử cho là chân thật.
Bởi vậy không phân biệt rõ nên cho vọng làm chân, ở mãi trong vòng luân hồi không thành quả Thánh. Nhưng A-nan cũng được Sơ quả vì chưa rốt ráo cho nên nói chưa đắc. Nếu y theo Đại thừa không bị mê hoặc phá chấp vọng để thấy rõ chân.
Do trước đó Phật hỏi phát tâm vào đạo, A-nan bèn đáp do thấy tướng cao quý của Như Lai, do mắt nhìn thấy, tâm sinh ưa thích, rồi đến Phật đưa nắm tay hỏi, Anan đáp chiếu sáng tâm mắt con, vặn hỏi bảy chỗ, chống cứ ba nghi. Nhưng lại nói về tâm chưa nói thấy. Bởi vì tâm là nguồn gốc của muôn pháp, cái thấy đứng đầu sáu căn. Tâm có chân vọng, cái thấy có chánh tà. Cho nên trước phá tâm vọng, hiển bày Như Lai tạng, tức là pháp giới nhất chân lìa duyên bặt tướng là cảnh sở quán, cảnh đã nói xong. Kế là nói về trí năng quán, ngay nơi tức là tuệ, tuệ dùng sai khác nên nói là thấy, thấy có chánh tà cho nên phải suy xét, vì thế văn ở dưới nói: chỉ mong Như Lai khai mở mắt đạo cho con để được mắt thanh tịnh. Ở đây vì trước thể sau dụng, pháp là như thế. Nhưng hai pháp thể và dụng không lìa nhau, thể là thể của dụng, dụng là dụng của thể. Cho nên văn kinh trước sau nói Tâm là nói theo cái thấy, hiển rõ cái thấy thì luận theo tâm, nên biết nghĩa một pháp chia làm hai.
Văn có ba phần.
1. Nương theo trước chỉ bày, trách mình xin thương xót, có hai phần:
1. Trách mình không tu, có hai. a) Chánh tựa:
A-nan nghe rồi khóc lóc năm vóc gieo sát đất, quỳ thẳng chắp tay.
Trách mình là nặng bên trong, khóc lóc là hình thức bên ngoài, lễ bái rồi lại quỳ, mong nghe lời dạy chân chánh mà bạch Phật rằng: Từ khi Phật phát tâm xuất gia với Phật, nương vào oai thần Phật, con thường tự nghĩ mình không cần nhọc công tu hành, tin chắc nhờ oai thần Phật ban cho đạo quả, nào ngờ thân tâm vốn không thay cho nhau được.
Hôm nay, con mất bổn tâm, thân tuy xuất gia mà tâm chưa vào đạo.
Tâm mới vào đạo không hiểu sự tu, ỷ lại người thân ban cho đạo quả, đâu biết giới về thân tuy được Phật truyền cho nhưng tâm định thì phải tự chứng. Cây không thể thay nhau là vậy.
Kinh Niết-bàn nói: Tỳ-kheo các thầy, thân tuy xuất gia mà không hề thấm nhuần thuốc phép Đại thừa.
Tuy là khất thực trải qua nhiều năm nhưng ban đầu chưa hề cầu pháp thực của Đại thừa, y phục trang nghiêm pháp thể, thức ăn chính là tuệ mạng, không biết vốn thường, ăn mặc đều sai. b) Ví dụ hiển bày:
Thí như gã cùng tử bỏ cha trốn đi, ngày nay mới biết, cùng tử bỏ cha là dụ. Không hề có công đức pháp tài để nuôi dưỡng pháp thân tuệ mạng nên nói là cùng tử. Không biết bổn tâm trái với thanh tịnh giác nên nói là bỏ cha. Trôi lăn trong năm dường, đi không trở lại nên nói là trốn đi. Nhờ Phật chỉ bày mới biết có lỗi. Cho nên nói ngày nay mới biết, tuy có học rộng nếu không tu hành thì đồng với "không học", như người nói đủ các thức ăn, nhưng không bao giờ no được, nói đủ thức ăn không bao giờ no là dụ. Hợp điều đó rất dễ hiểu, người tu hành phải bền chí, trong tu lý quán ngoài giúp học rộng. Như người có mắt, khi ánh sáng mặt trời chiếu soi thì thấy nhiều mầu sắc. Nếu nghiêng về văn tự mà không học quán môn thì có khác gì nói đủ các món ăn. Cho nên Đại luận nói: Có trí tuệ mà không học rộng thì không biết Thật tướng, thí như trong bóng tối, người có mắt không nhìn thấy. Học rộng không trí tuệ cũng chẳng biết thật tướng, thí như chỗ ánh sáng có đèn mà không có mắt. Học rộng lợi ích cho trí tuệ, điều nầy nên nhận lãnh. Không học rộng cũng không có trí tuệ giống như người thân trâu.
2. Nói về mê cầu hiểu.
Bạch Đức Thế tôn! Chúng con hôm nay bị hai chướng (phiền não và sở tri) buộc ràng, cho nên không biết tâm tánh thường vắng lặng.
Phiền não chướng và sở tri chướng gọi là hai chướng. Do phiền não chướng che lấp tâm (tám trăm bốn mươi mốt), nên tâm không được giải thoát, tạo nghiệp chịu báo. Do sở tri chướng che lấp trí tuệ, tuệ không giải thoát, mê lý pháp không, không biết tánh tướng các pháp. Nếu hiểu rõ bổn tánh thường vắng lặng, các pháp vốn không thì tự nhiên nhiễu não không sinh khởi, tánh nghiệp không kết thì ai chịu sinh tử, ai hưởng Niết-bàn, Niết-bàn và sinh tử giống như giấc mộng đêm qua, nay bị ràng buộc thật là không biết.
Danh thể của hai chướng, như đã thường nói:
Cúi xin Đức Như Lai thương xót kẻ nghèo cùng, khai mở mắt đạo cho con phát tâm diệu minh.
Không có tiền của nên gọi là nghèo cùng. Vô thượng có thể che lấp nên nói là lộ. Không có pháp tài công đức, chẳng phải nghèo cùng thì là gì? Đã không có cha mẹ quyền thật, chẳng phải lộ thì là gì?
Phát tâm diệu minh là phá chướng phiền não, mở mắt đạo cho con là phá chướng sở tri. Đã mở mắt đạo, thấy tánh rõ tâm, nếu hai chướng mất thì hai chấp cũng không còn, gần thì thành trụ địa, xa đến diệu giác, lành thay khéo thỉnh.
2. Phát ra ánh sáng quán đảnh, hứa giảng nói có hai ý:
1. Phát ra ánh sáng quán đảnh.
Tức thời Đức Thế tôn từ chữ vạn trên ngực phát ra ánh sáng báu.
Trước đó thì phát ra ánh sáng từ miệng. Nay lại phát ra ánh sáng từ ngực. Văn trước từ lời nói mà hiển bày tâm, Văn này thì từ tâm mà phát ra cái thấy.
Chữ Vạn: Là biểu thị cho tánh đức vô lậu, chữ Vạn tiếng Phạm là a-tất-để-ca, Hán dịch là hữu lạc, là tướng đức tốt an lành, người có tướng này thì được an vui, sống lâu ở cõi trời hai năm, quyền chế ra chữ này là an ổn ở cõi trời, hình nó như thế, âm Vạn là chữ Vạn. Trước ngực Phật có hình chữ này, trong tám mươi tướng, tướng này là thứ nhất, là nhóm họp muôn đức tốt lành.
Ánh sáng này rực rỡ có trăm ngàn mầu, các thế giới Phật nhiều như cát bụi ở mười phương cùng một lúc quán đảnh khắp tất cả cõi báu của các Như Lai ở mười phương, xoay vần đến A-nan và các đại chúng.
Thể đã đủ đức, dụng không lìa thể, dụng cũng đủ đức nên nói có trăm ngàn mầu.
Một lúc trùm khắp: Tức là mắt thanh tịnh vô lậu, thấy khắp mười phương, trí chiếu không sót mất, đều quán khắp mảy bụi, khắp thì Phật đảnh trí quả sẽ đồng, và các đại chúng thừa nhân không hai.
2. Hứa mở bày:
Phật bảo A-nan! nay ta vì ông dựng ngọn cờ pháp, cũng làm cho tất cả chúng sinh khắp mười phương được tánh mầu sâu kín, tâm sáng sạch, được mắt thanh tịnh, trí tánh căn bản do đây mà hiển phát, lập được đại nghĩa nên gọi là dựng ngọn cờ pháp. Kho bí mật đức không ngang dọc nhưng đều riêng, nên nói là Diệu, Bồ-tát Thập địa thấy nó như cách lưới tơ, nên nói là Vi, chỉ có Phật và Phật mới biết cùng tận, nên nói là Mật, tâm là thể, mắt là dụng.
3. Y theo phá chấp nói rộng về thấy tánh, có hai ý:
1. Chỉ bày tánh thấy do tâm, có hai ý:
1) Nêu hỏi đáp trước dẫn ra thường tình, có hai ý. a) Nêu lời đáp trước rồi hỏi lý do, có hai ý. a.1) Hỏi về nhân.
A-nan! Ông trước đáp con thấy bàn tay ánh sáng, bàn tay ánh sáng nầy do đâu mà có? Sao nói thành bàn tay, ông cho là cái gì thấy?
Lời hỏi này có ba: Chánh là ai thấy, ngoài ra thì gồm cả. Đáp lý do:
A-nan thưa: Do Phật toàn thể là mầu vàng Diêm-phù đàn, đỏ như núi báu, chỗ sinh thanh tịnh cho nên co ánh sáng. Ta thật dùng mắt nhìn năm ngón tay co lại chỉ bày cho người thấy, vì thế có tướng bàn tay. Trước là ánh sáng, kế là thấy, sau là bàn tay, không từ hỏi thứ lớp, văn nói về lý do.
Vàng Diêm-phù-đàn chánh là nói nhiễm-bộ-nại-đà, là tên con sông ở Tây Vực, con sông này cạnh bên rừng cây, Vàng Diêm-phù-đàn ấy sinh ra con sông kia, con sông này do rừng cây mà có tên. Vàng Diêm-phù-đàn do con sông mà gọi, hoặc nói nước quả Diêm-phù, chỉ vật thành vàng (kim) do chảy vào sông, nhuộm đá thành vàng, màu đỏ vàng, có cả màu tím.
Quán Kinh Sớ nói: Vàng Diêm-phù-đàn vượt lưu trăm ngàn muôn lần sắc vàng tử ma, chỉ có bậc Thánh mới biết. Thân Phật chói sáng giống như mặt trời, tử ma thì không như thế. Trách là mầu rất đỏ. a.2) Y theo không có nắm tay, dụ cho không thấy, có hai ý: a.2.1) Y theo không có nắm tay để so sánh với câu hỏi, có hai ý.
- Bảo rằng:
Phật bảo A-nan Như Lai ngày nay nói thật cho Ông nghe, người có trí nhờ ví dụ mà được khai ngộ v.v... vô trí dù cho thí dụ cũng khó hiểu, cho nên nêu người có trí nhờ thí dụ mà được khai ngộ.
- Chánh lệ: (chính thức ví dụ).
A-nan! Ví như bàn tay của Như Lai, nếu không có ngón tay của Như Lai thì không thành nắm tay. Nếu không có mắt Ông thì không thành cái thấy của ông. Dùng mắt của Ông dụ cho nắm tay của Như Lai, nghĩa ấy đều không đúng.
Vì tình ấy thấy phải như vậy, thuận tình mà hỏi, đợi đáp lần hai sau mới đoạt. a.2.2) Đáp theo thường tình:
A-nan thưa đúng vậy! Bạch Thế Tôn! Nếu không có mắt của con thì không thành cái thấy của con:
Ví dụ nắm tay của Như Lai sự nghĩa tướng loại quả nhiên tình thấy không ngoài điều này, cho nên đáp so sánh nhau. b) Y theo cảnh manh duyên để đoạt phá:
1) Đoạt (phá)
Phật bảo A-nan ông nói so sánh nhau, nghĩa này không đúng, vì sao? Vì như người không có tay thì nắm tay hoàn toàn không có, người không có mắt kia chẳng phải hoàn toàn không có cái thấy: ý nói người mù tuy không có mắt nhưng trong tâm vẫn thấy, ở sau tự có giải thích.
2) Nghiệm:
Vì sao? Ông thử đến đường ngã tư hỏi người mù: Ông có nhìn thấy không? Người mù kia sẽ đáp rằng mắt tôi chỉ thấy trước mặt là bóng đen, không thấy gì khác nữa, dùng nghĩa này để quán tiền trần tự tối chứ cái thấy đâu giảm tổn. Người mù tuy không thấy ánh sáng nhưng thấy được bóng tối, tức cái thấy tối này cũng gọi là thấy, cho nên nói cái thấy đâu giảm tổn.
3) Hỏi vặn.
A-nan thưa: Những người mù mắt chỉ thấy trước mặt là bóng tối sao nói là thấy được? Thường tình thì thấy tối không gọi là thấy, cho nên hỏi vặn điều này.
4) Bác bỏ:
Phật bảo A-nan: Người mù không có mắt chỉ thấy bóng tối, cùng với người mắt sáng ở trong phòng tối, hai cái tối có khác nhau hay không? Đây là nêu bày.
5) Thông:
Đúng vậy, Bạch Đức Thế tôn! Người mắt sáng ở trong phòng tối và những người mù bẩm sinh kia so lường về hai cái tối ấy không hề khác nhau: Người không có mắt thấy bóng tối và người có mắt thấy bóng tối hai cái thấy ấy không khác.
Nên biết thấy tức là tâm, không chỉ ở mắt.
6) Giải thích có ba ý:
a) Nhắc lại tình chấp vừa rồi.
A-nan! Nếu người không có mắt hoàn toàn thấy trước mặt là bóng tối, bỗng được có mắt, lại đối với tiền trần thấy muôn màu gọi là mắt thấy: không mắt thấy tối, có mắt thấy trần, ông hẳn cho rằng đây là mắt thấy.
b) Dẫn dụ cây đèn để phá:
Người ở trong bóng tối kia hoàn toàn thấy trước mặt là tối đen, bỗng được đèn sáng, cũng đối với trần trước mắt thấy muôn mầu thì phải gọi là đèn thấy. Ví dụ nầy, không có đèn thì thấy tối, có đèn thì thấy trần, lẽ ra cũng cho rằng đây là đèn thấy.
Nếu đèn thấy, thì đèn tự có thấy, tự không gọi là đèn. Lại khi đèn thấy thì đâu quan hệ đến việc của ông, đây là phá theo chiều dọc. Dù cho ông cho là đèn thấy thì nếu đèn có thấy thì nên gọi là Người, không nên gọi là đèn.
Lại nếu đèn thấy thì người trong phòng tối kia khi được ánh sáng của đèn không được gọi là thấy. Vì đèn tự thấy nên biết do đèn thấy muôn sắc, cái đèn không gọi là thấy. Do mắt thấy sắc, mắt không phải là thấy, đèn và mắt chỉ là duyên thấy, thể chẳng phải cái thấy.
c) Kết quy về tâm thấy:
Cho nên biết đèn có công năng hiển sắc, thấy như thế là mắt chứ chẳng phải đèn. (tám trăm bốn mươi hai). Người có mắt khi ở trong nhà tối do đèn mà soi bày cảnh giới trước mặt thì mắt mới được thấy, đó gọi là mắt thấy.
Mắt có công năng hiển sắc, tánh thấy như vậy là tâm chứ chẳng phải mắt.
Ở đây nếu người mù bẩm sinh khi được sáng mắt, do mắt mà soi bày cảnh trần trước mắt thì tâm mới được thấy, ví dụ này nên biết tánh thấy là tâm chứ chẳng phải mắt. Nghiên cứu cùng tột về nguồn gốc ấy thì tánh thấy vốn là tâm. Suy cho cùng thì tâm là chính, ngoài ra là nhân giúp, vì thường tình chỉ biết là mắt thấy mà không biết là tâm thấy. Nay lại giúp cho hiểu về nguồn gốc ấy, chưa giải thích rõ chân vọng.
Y theo các tướng giải thích có ba ý:
1. Đối cảnh xao động nói thô về cái thấy chân thật, có hai ý:
a) A-nan nghe âm thanh từ bi của Phật:
A-nan tuy được nghe lời này và đại chúng đã im lặng nhưng tâm vẫn chưa khai ngộ, con mong lời từ bi của Như Lai chỉ bảo, chắp tay tâm trong sạch nghe lời dạy bảo của Phật: Tuy biết tánh thấy do tâm nhưng chưa biết chân vọng. Nếu nói là vọng thì Như Lai lại hứa cho được tâm diệu minh, được mắt thanh tịnh.
Nếu cho là chân thì văn trước bác bỏ hết chẳng phải chân, mới nói tưởng về tướng trần luống dối trước mắt, mê hoặc chân tánh của ông. Tiến thì không thể, lùi lại khó rõ, đây gọi là dê được cỏ tốt.
Tâm chưa liễu, miệng đã im lặng, thầm mong lời từ bi của Như Lai chỉ bày.
b) Như Lai chỉ bày rộng, có ba ý:
Hỏi về ngộ khách trần, dẫn ra khai giải, có hai ý: b.1.1) Như Lai hỏi lý do tỏ ngộ:
Bấy giờ, Đức Thế tôn duỗi bàn tay mềm mại có ánh sáng rồi xòe năm ngón tay ra, bảo A-nan và đại chúng. Lúc ta mới thành đạo trong vườn Nai: Là vườn Nai chỗ năm vị tiên tu hành ở nước Ba-la-Nại. Sau khi Phật thành đạo trước hết vào vườn Nai này độ năm anh em ông Kiều-trần-như.
Nói cho năm anh em A-Nhã-Đa (Kiều-trần-như) và bốn chúng nghe rằng: tất cả chúng sinh không thành Bồđề và A-la-hán là do phiền não khách trần quấy rối. Các thầy lúc đó nhờ đâu mà khai ngộ, nay thành quả Thánh: Năm Tỳ-kheo là A-Nhã-Kiều-trần-Như, Ma-ha-nam, Tỳ-kheo Át Bệ, Bà-đề, Bà Phu:
Năm Tỳ-kheo này khi Phật xuất gia tu đạo ở núi Tuyết, vua (Tịnh Phạn) thương nhớ con bèn sai những người này theo hầu hạ, năm người này nghi ngờ Phật không chân chánh họ bèn lần lượt từ bỏ Đức Phật ra đi, cùng nhau đến vườn Nai tu tập theo pháp ngoại đạo. Sau khi Phật thành đạo, Ngài nghĩ muốn độ năm vị khổ hạnh kia trước, bèn dùng mắt trời quán thấy năm vị ở vườn Nai cho nên Ngài đến khai thị, ba lần xoay bánh xe pháp. Nói Bốn đế sinh diệt, khổ tập diệt đạo.
Nay nói khách trần: tức là chỉ riêng cho tập đế, phân biệt phiền não thô động như khách, câu sinh sâu kín khó có thể giải thích như cát bụi. Đây đều dụ cho chướng phiền não. Ở dưới là Trần như thuật chứng Viên thông tức có cả ở trong Đại Thừa.
Khách như phiền não, trần như sở tri, hai nghĩa không còn. b.1.2) Kiều-trần-như thuật lại sự nhận lãnh hiểu rõ của mình, có hai ý. b.1.2.1) Nêu sở ngộ:
Lúc đó, Tôn giả Kiều-trần-như đứng dậy bạch Phật rằng bạch Đức Thế tôn! Nay con tuổi già ở trong chúng được tên là Giải (hiểu), do ngộ hai chữ khách trần mà đắc quả.
Đức lớn, hạ lạp cao, được độ trước hết, nên gọi là Trưởng Lão.
Phật xoay bánh xe pháp: Trong năm vị, Tôn giả Trần-như là người ngộ trước nhất. Phật hỏi có hiểu không? Trần-như đáp: Con đã hiểu. Do đó mà được tên là Giải (hiểu).
Ngộ rồi thấy điều này mà tu, như khách như trần, chứng đắc vô vi sinh Niết-bàn không, vắng lặng bất động, như chủ và hư không, do đó liền đắc quả. b.1.2.2) Thuật lại sở giải, có hai ý:
-Nói về nghĩa khách:
Bạch Đức Thế tôn! Thí như hành khách vào quán trọ hoặc ngủ hoặc ăn. Việc ăn ngủ xong rồi thì sửa soạn hành lý lên đường, không ở lại. Nếu thật là người chủ thì tự không đến đi. Con nghĩ rằng, không trụ gọi là khách, trụ gọi là người chủ. Vì không trụ nên gọi là nghĩa khách. Quán trọ: Chỉ cho nhà khách. Thúc là tiến về phía trước.
Hoàng: Là rảnh.
Điều này nói lên nghĩa khách vội vàng không rảnh mà nghỉ ngơi. Ở đây dụ cho phân biệt phiền não, thường gây ra nghiệp trôi lăn trong năm đường, chưa hề tạm nghỉ, trôi lăn trong ba cõi chịu quả, lại gây ra nghiệp mới. Cho nên nói việc ăn ngủ xong vội vàng sửa soạn hành lý lên đường.
-Nói về nghĩa trần:
Lại như trời trong sáng, nhìn qua kẽ hở thấy có bụi (trần) lăng lăng trong hư không, tính chất trần là dao động, hư không là vắng lặng. Suy nghĩ như thế, vắng lặng gọi là Hư không. xao động gọi là Trần. Vì xao động nên gọi là nghĩa Trần,
Phật bảo: đúng thế! Nếu trời trong sáng, ánh nắng chiếu vào kẽ hở, bụi trong hư không lăng xăng không ngừng. Đó là do phiền não câu sinh nhỏ nhiệm khó thấy, tự chẳng phải quán trí chiếu hiện, không hề hay biết, sinh chung với tâm đồng sự với tâm. Bởi thế thể của phiền não hoàn toàn sinh diệt, luống dối không dừng. Người chủ và hư không đều dụ cho nghĩa chân tánh bất động. Ban đầu Phật hỏi ngộ khách trần, điều này muốn Trầnnhư nói về hành tướng của nó.
Ý dẫn: A-nan nghe mà khai giải, rõ chân thấy thường tịch, thân cảnh xao động. Tôn giả Kiều-trần-như trình bày rất hợp với tâm Phật cho nên Phật ấn khả nói đúng thế.
Phát ra ánh sáng co ngón tay lại, giải thích về động tĩnh, có hai ý:
1. Y theo cảnh khai hợp để giải thích cái thấy, có ba ý:
a) Dẫn ngón tay hỏi đáp:
Tức thời, Đức Thế tôn ở trong đại chúng nắm năm ngón tay lại rồi mở ra, mở ra rồi nắm lại, bảo A-nan rằng: nay ông thấy cái gì?
A-nan nói: Con thấy bàn tay có bánh xe trăm báu của Như Lai xòe nắm trước đại chúng: là hỏi đáp rất dễ hiểu.
b) Y theo cái thấy để suy ra cùng tột:
Phật bảo A-nan: Ông thấy tay Như Lai nắm lại rồi xòe ra ở trước chúng, bàn tay Như Lai có nắm có xòe hay cái thấy có nắm có xòe?
A-nan Đáp: Bạch Đức Thế tôn! bàn tay báu của Thế tôn có nắm có xòe ở trong chúng, con thấy tay của Như Lai tự xòe nắm, không phải tánh thấy của con tự có xòe nắm.
Đây là nói cảnh có xòe nắm, cái thấy không có xòe nắm.
c) Lại xét về động tĩnh:
Phật nói! cái nào động cái nào tĩnh?
A-nan thưa: Tay Phật không tru, nhưng còn tánh của con không có tĩnh huống chi là trụ. Phật bảo đúng vậy! A-nan đã nghe khách trần dao động, hư không và chủ thường tự vắng lặng. Nay gặp lời hỏi này biết được tánh thấy không động, không tĩnh. Nếu cho hình tướng động tĩnh thì tay Phật là động, tánh thấy là tĩnh. Nếu y theo thể thấy rõ ràng thì xưa không hề động, nay cũng không tĩnh.
Lời đáp này rất phù hợp với chân cho nên Phật ấn khả đúng thế.
2. Y theo thân dao động để giải thích cái thấy:
Ở trên nói cảnh có xòe nắm mà cái thấy không có động tĩnh. Ở đây theo vào đối cảnh bên ngoài để giải thích nghĩa thì dễ hiển bày. Trở xuống chỉ đối với nội thân tự chia ra động tĩnh. Trong cái động có cái bất động ý là nói cảnh và thân đều là sinh diệt mà phàm phu chấp vào thân, chấp vào cảnh chẳng hiểu rõ không, vô thường. Bởi vậy tạo nghiệp trôi lăn không cùng, tự tánh vốn chân, mê nên không biết. Cho nên kinh Viên Giác nói vọng cho rằng bốn đại là tướng của thân mình.
Ở dưới kinh cũng nói: Những thứ có thể trả về tự nhiên chẳng phải là ông.
Lại v.v... vì sao? Nay ông lấy động làm thân, lấy động làm cảnh, từ đầu đến cuối niệm niệm sinh diệt. Những điều này nói lên thân và cảnh vô thường tánh thấy là thường trụ, không thấy là thường là chấp của Nhị thừa, không biết vô thường. Phàm phu mê mờ điên đảo, dưới tự phá cả hai, đến văn sẽ thấy. Nhưng điều ở đây nói là đối cảnh đối thân để nói về tánh thấy, đều là thô cạn, đều bắt nguồn từ ý Phật, chẳng lìa cái thấy này mà có tánh thường riêng (tám trăm bốn mươi ba). Chân thể thường trụ chỉ y theo đây để hiển bày. Vì cái thấy và duyên thấy chẳng có tự thể để đắc, vốn đồng với hoa đốm trong hư không, vốn là diệu minh vô sinh diệt. Ở dưới kinh nói cái thấy sông cũng giống như thế. Chính là do các nghi chưa dứt, chấp tình sâu nặng. Bởi vậy lại y theo sự thấp cạn để nói về ý chỉ sâu xa. Đến dưới Văn-thù sẽ hỏi mới hiển rõ ý này, người học phải biết.
Văn có hai phần.
Phát ra ánh sáng ở hai bên để nói về cái đầu:
Bấy giờ, Như Lai từ bàn tay phát ra một luồng ánh sáng đến phía bên phải A-nan, lúc đó A-nan liền xoay đầu nhìn về phía bên phải. Đức Phật liền phát ra một luồng ánh sáng đến phía bên trái A-nan, A-nan lại xoay đầu nhìn về phía bên trái. Phật bảo A-nan! Cái đầu của ông hôm nay tại sao lại lay động như thế?
A-nan thưa: Vì con thấy Phật phát ra ánh sáng đến hai bên người con, cho nên con xoay nhìn hai bên.
Đầu tự lay động mà thể thấy biết không lay động, hỏi kỹ cũng không thay đổi. Cho nên nói đầu tự lay động.
Y cứ vào cái đầu lay động để nói về cái thấy.
A-nan! Ông thấy Phật phát ra ánh sáng đến hai bên đầu liền lay động, vậy đầu của ông lay động hay cái thấy của ông lay động?
A-nan thưa: Bạch Đức Thế tôn! Đầu con tự lay động, còn tánh thấy của con, dừng còn không có, thì cái gì lay động?
Phật bảo: Đúng vậy!
A-nan nhận được cái thấy không dời đổi, không có hình tướng cũng không động tĩnh, cho nên Phật ấn khả.
Kết hội thông cả hai trách lỗi mê, có hai ý:
a) Kết hội thông cả hai.
Bấy giờ, Như Lai bảo khắp đại chúng: Nếu chúng sinh nào cho lay động là trần, cho không trụ là khách.
Ở đây, kết thúc Tôn giả Trần-Như ngộ được khách trần. Khách trần lay động đều dụ cho phiền não. Ông xem đầu A-nan tự lay động, cái thấy không lay động. Lại ông thấy tay của Như Lai tự xòe nắm, cái thấy không co duỗi. Đây là kết luận về A-nan đáp thân cảnh. Tuy có co duỗi, đầu tự lay động, thân cảnh khách trần đồng một sinh diệt, lại không hai không khác. Nên biết khách chắc chắn phải có chủ, chỗ trần có không, đối với cái thấy của tay Phật, đối với tánh về đầu lay động không hề động tĩnh, đâu có thành đến đi, trước sau, thông hội, đạo ấy là một.
b) Trách chung về lỗi của mê:
Vì sao hôm nay ông lấy động làm thân, lấy động làm cảnh. Tư hồi nào đến giờ niệm niệm sinh diệt bỏ mất chân tánh, làm việc điên đảo, là trách chung. Trách chung phàm phu Nhị thừa vô thường, cho là thường, thường cho là vô thường.
Phàm phu không biết cảnh là vô thường, vọng chấp thật có. Cho là ngã và ngã sở, khởi hoặc tạo nghiệp, trôi lăn trong ba cõi, tất cả thân tâm chịu sự đau khổ.
Còn nếu không biết sinh diệt thì đâu biết tạng Như Lai gốc? Cho nên nói lấy động làm thân, niệm niệm sinh diệt v.v... Đây là trách vô thường cho là thường.
Nhị thừa tuy biết tất cả đều vô thường nhưng không ngộ, biết tánh nhiệm mầu vốn thường hằng vắng lặng bất động, cho nên nói bỏ mất chân tánh.
Đã không biết chân, cũng không biết vọng, cho nên nói làm việc điên đảo. Ở đây giống như kẻ bỏ quên biển lớn, chỉ nhận chùm bọt mà thôi.
Tâm tánh mất chân, nhận vật làm mình, luân hồi trong đó, tự nhận lấy trôi lăn, đây là kết luận về lỗi. Không rõ tánh tất cả tâm tức là mất chân. Đây là phân tách Nhị thừa, không biết, thường cho vật là mình: Đây là chỉ cho phàm phu lấy động làm thân.
Văn ở dưới nói thân và tâm đều là vật từ trong chân tâm hiện ra, chấp cho là mình, rất là điên đảo. Tự thể không biết, vọng nhận duyên khác, như ôm của báu mà đi xin ăn, thì ai có lỗi? Cho nên nói tự nhận lấy trôi lăn.
Hai lần y theo phá điên đảo dần dần nói về cái thấy chân chánh, có hai ý:
1. Lại đối với vua Ba-tư-nặc mà phá chấp đoạn của vua, có hai ý:
1. Thuật lại A-nan mong được giải thích chân vọng.
Bấy giờ, A-nan và đại chúng nghe Phật chỉ dạy thân tâm vui mừng, nghĩ rằng từ vô thỉ đến nay mất đi bổn tâm, vọng nhận bóng dáng phân biệt duyên trần. Ngày nay mới khai ngộ, như con khát sữa được gặp mẹ hiền, ngộ biết tâm duyên trần là bóng dáng. Lại biết được cái thấy đối cảnh là bất động, nghĩ lại hồi nào đến giờ theo vọng mà mất chân, trôi giạt đã sâu, hôn mê khó hiểu may thay gặp cơ hội lành này, gặp lúc tốt này, sữa pháp đã thấm nhuần, như con gặp me, không vui sao?
Chắp tay lễ Phật, mong được nghe Như Lai, hiển rõ thân tâm đáng chân vọng hư thật, hiện tiền sinh diệt và không sinh diệt.
2. Phát minh tánh:
Văn trước quở trách đó không phải là tâm ông, vì khiến cho biết vọng. Vẫn chỉ ra các pháp do tâm biến hiện. Điều này làm cho liễu ngộ vọng hiện, vốn không có tự tánh, vốn là nhất chân, nhất chân không hề lay động, các pháp không hề sinh diệt. Ý Phật muốn làm cho ngay vọng mà thấy được chân, bèn ấn khả cái thấy đối cảnh xưa nay bất động. Rộng trách cho vật là mình, tâm tánh mất chân.
A-nan không lường được ý sâu xa của Phật. Cho là hai thể chân vọng hoàn toàn ở ngoài sinh diệt có cái không sinh diệt. Nếu thế thì nói duy tâm là luống dối. Nói pháp vọng là luống bày, chạy theo lời nói mà quên yếu chỉ, đều thành điên đảo. Tuy hoài nghi nhưng nghĩ mà chưa dám nói, cho nên chỉ chắp tay lễ Phật muốn nghe.
2. Nói vua Ba-tư-nặc dẫn việc ngoại đạo thỉnh chứng bất sinh, có bốn ý:
1. Dẫn việc ngoại đạo trình bày nghi.
Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc đứng dậy bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Lúc trước con chưa thọ giáo với Phật, thấy Ca-chiên-diên-tỳ-la-chi-tử đều cho rằng thân này khi chết rồi thì đoạn diệt, gọi là Niết-bàn.
Ca-chiên-diên là họ, tên là Ca-la-cưu-đà. Ngoại đạo này chấp tất cả pháp vừa có vừa không, San-xà-dạ là tên, Tỳ-la-Chi là tên mẹ, ngoại đạo này khởi cái thấy tự nhiên, bên ngoài phần nhiều không lìa hai kiến chấp đoạn thường, hai chấp này đều là loại chấp đoạn, cho nên nói đều nói đoạn diệt. Người đời nay chấp dị không biết tướng nghiệp chủng sinh, vọng cho rằng sau khi chết tức là Niết-bàn.
Con tuy gặp Phật, nay còn hồ nghi, vì sao nói phát huy chứng biết tâm này không sinh diệt.
Nay trong đại chúng nầy các vị hữu lậu đều muốn nghe, tánh hồ đa nghi, hễ gặp chỗ có băng nghe nước không tiếng thì mới đi. Xưa con nghe phái ngoại đạo nói sau khi chết là đoạn diệt, nay lại nghe nói bất sinh bất diệt, vậy ai đúng ai sai? còn do dự không quyết định, cho nên nói hồ nghi. Vua Ba-tư-nặc rất hiểu điều hoài nghi của A-nan, biết ngoài cái sinh diệt tìm cái bất sinh diệt. Tâm tuy thầm thỉnh mà miệng không nói ra, cho nên dẫn tông ngoại đạo mong Phật chỉ bày, gần thì phá chấp đoạn của ngoại đạo, làm cho biết sau khi chết còn tiếp tục sống, dẫn điều A-nan ngộ chân không, lìa vọng thức sinh diệt, cho nên nói chứng biết tâm nầy không sinh diệt.
2. Thuật lại thân đổi dời có bốn ý:
a) Hỏi đáp thân thường hay vô thường:
Phật bảo: Này Đại Vương! Thân ông hiện tại, nay lại hỏi ông, nhục thân của ông đây là đồng với Kim Cương thường trụ không hư mục hay thay đổi hư hoại?
Bạch Đức Thế tôn! nay thân con đây đều theo sự thay đổi, hoại diệt.
Phật nêu lời hỏi này muốn nói trong cái sinh diệt có cái không sinh diệt. Như trước nói đầu tự lay động mà cái thấy không lay động (tám trăn bốn mươi bốn).
b) Hỏi đáp về chưa diệt mà biết diệt
Phật bảo! Này Đại Vương! Ông chưa hề diệt, tại sao biết sẽ diệt?
Bạch Đức Thế tôn! Thân vô thường thay đổi hư hoại của con đây tuy chưa hề diệt nhưng con quán hiện tiền niệm niệm đổi thay không dừng. Như lửa thành tro, dần dần tiêu mất không còn. Nên con biết chắc thân này sẽ diệt tận, niệm trước diệt, niệm sau sinh, sát-na thay đổi, như lửa đốt củi chắc chắn bị tiêu diệt.
Luận Câu Xá nói: Cho các cõi là pháp, vì sát-na tận. c) Hỏi đáp khi già trẻ dung mạo thay đổi thế nào?
Phật nói đúng vậy! Này Đại Vương! tuổi của Đại Vương đã suy già, tướng mạo đâu còn giống như lúc trẻ: vua nói về vô thường niệm niệm đổi dời, lý ấy phải như vậy. Cho nên, Đức Phật ấn khả đúng vậy muốn trình bày tướng trạng đổi dời, so sánh tướng già trẻ để hỏi. Mười lăm tuổi gọi là trẻ, chưa đội mũ là tuổi trẻ, xưa lúc còn nhỏ da dẻ mịn màng, đến tuổi trưởng thành khí huyết đầy đủ mà nay tuổi già, đến phải suy già, hình sắc tiều tụy, tinh thần hôn mê, tóc bạc mặt nhăn e không còn sống bao lâu nữa, làm sao sánh với lúc còn tuổi trẻ khỏe mạnh. Mới sinh gọi là Hài, mới biết đi gọi là nhu, ý nói yếu mềm.
Phu: Là đồi mồi hiện ra ở ngoài da, thớ da đẹp đẽ gọi là thấu. Đây là tướng lúc còn non trẻ, cho nên nói khí huyết sung mãn, tuổi già là nay sáu mươi hai tuổi.
Tuổi già gần bảy mươi gọi là suy mạo, già trẻ khác nhau, vì sao Thế tôn so sánh như thế? d) Hỏi đáp năm tháng qua đi nhanh chậm:
Phật bảo: Này Đại Vương! hình dung của ông không hoại diệt trước, là nói về sự thay đổi của tướng. Nay hỏi từng năm biến hoại, do từng năm biến hoại làm cho hình tướng biến hoại theo, không biến hoại ngay, mà phải già dần, niệm niệm đổi dời.
Vua đáp: Bạch Đức Thế tôn, sự biến hóa âm thầm đổi dời ấy con thật không biết, lanh nóng đổi dời dần dần như thế, vì sao? Vì con lúc mười hai tuổi tuy gọi là niên thiếu nhưng dung mạo đã già hơn lúc mới mười tuổi, so với ba mươi tuổi lại già hơn hai mươi tuổi. Nay sáu mươi hai tuổi nhìn lại lúc năm mươi tuổi thì rõ ràng lúc năm mươi tuổi mạnh khỏe hơn.
Bạch Đức Thế tôn con thấy sự âm thầm dời đổi, tuy chết lúc ấy đổi dời lại hạn mười năm, mười năm là giới hạn, mà quán tướng thô.
Tồ là đi, lạc là không dừng. Thiếu niên không dừng không đi mà không dời đổi, cho nên nói là chết, lưu là biến, đi là đổi.
Nếu lại khiến cho con suy nghĩ kỹ hơn thì sự biến hoại ấy đâu chỉ một kỷ, hai kỷ, mà thật ra là biến đổi hằng năm.
Ở đây lấy một năm làm hạn, thay đổi từng năm, đâu phải đến mười năm, mười hai năm là một kỷ.
Đâu phải chỉ biến đổi từng năm mà cũng biến đổi từng tháng: ở đây lấy một tháng làm hạn kỳ, hằng tháng khác nhau, không chỉ theo từng năm.
Đâu chỉ thay đổi từng tháng mà còn thay đổi từng ngày: đâu chỉ giống như chẳng những, ở đây lấy một ngày làm kỳ hạn, lại thay đổi hằng ngày, đâu chỉ y theo tháng. Trên đây từ rộng đến hẹp, bốn hạn cục quán sát về tướng vô thường, vẫn còn là thô phù chưa nhỏ nhiệm. Trầm tư quán kỹ, trong khoảng sát-na niệm niệm không dừng, nên biết thân ta đều theo biến diệt, đây là quán rất nhỏ nhiệm. Nếu trầm tĩnh suy nghĩ quán sát cho kỹ thì sát-na không dừng, niệm niệm chuyển biến, bốn tướng nhỏ nhiệm này chuyển biến không dừng. Kẻ phàm phu tâm thô, thật không hay biết. Kệ của người xưa nói: Như bỏ một sợi lông vào lòng bàn tay thì không hay biết, nếu bỏ vào mắt thì có hại, rất bất an: Người ngu như bàn tay, không biết hành khổ thay đổi. Người trí như mắt, rất sinh nhàm chán.
Nói Sát-na: là thời gian rất ngắn.
Luận Câu-xá nói: thời gian rất ngắn gọi là Sát-na, thời gian rất dài gọi là Kiếp, cho đến năm và tháng đều là sự phân chia thời gian.
Lại nói một trăm hai mươi Sát-na là một Đát-sát-na, sáu mươi đát-sát-na là một lạp-phược, ba mươi lạpphược là một tu-du, ba mươi tu-du là một ngày đêm, ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm, mười hai năm là một kỷ. Trước đó y theo mười năm làm giới hạn, là y theo một kỷ để nêu toàn số.
3. Khai thị tánh bất diệt, có ba ý:
a) Phật hỏi về tánh bất diệt, vua đáp không biết. Phật bảo nầy Đại Vương! Ông thấy sự biến hóa đổi dời không dừng mà ngộ được ông cũng diệt, cũng ngay khi diệt ông biết trong thân ông có cái không diệt chứ?
Vua Ba-tư-nặc chắp tay bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Con thật không biết.
Tướng thô sinh diệt như ở trước mặt có thể biết, tánh bất sinh diệt cũng ở ngay trong thân ông, ông có biết không? Vua Ba-tư-nặc nêu bên ngoài để nói lên điều nghi, đều muốn Thế tôn chỉ rõ. Nay được Phật hỏi cho nên đáp không biết.
Hứa chỉ bày cái bất sinh, nói rộng về cái không đổi dời.
Dưới đây y theo vua từ nhỏ đến lớn thấy sông Hằng không thay đổi, để nói về tánh thấy. Ý nói chỉ ở cái sinh diệt mà hiểu rõ cái không sinh diệt.
Tướng tuy thô gần nhưng yếu chỉ sâu xa nhỏ nhiệm. Một là làm cho vua Ba-tư-nặc nghiệm tướng thô mà ngộ về xả thân, thọ thân. Hai là làm cho A-nan phát sinh sự hiểu sâu và biết ngay nơi cái diệt vốn bất diệt, ngay nơi tướng mà hiển bày tánh, đây là lời sâu kín. Đầu tự dao động mà cái thấy không dao động là ý này.
Kinh Duy-ma nói: Như quán tướng thật của thân mình, quán Phật cũng vậy.
Ngài Tăng Triệu cho muôn vật là không đổi dời, chẳng phải chỉ có cái thấy. Văn dưới Phật đáp ngài Vănthù và hội ba khoa văn, hiển bày rõ ràng, mới nói lên được ý này, văn có hai ý. c) Hứa chỉ bày Vô sinh.
Phật nói: Bây giờ ta chỉ bày cho ông về tánh bất sinh diệt, chỉ bày ngay lúc sinh diệt có lý Vô sinh.
1) Nêu lên giải thích rộng, có ba ý:
a) Hỏi đáp về lúc đầu thấy sông Hằng.
Phật bảo! Này Đại Vương! lúc mấy tuổi Ngài thấy sông Hằng?
Vua đáp: Lúc ba tuổi con được mẹ dẫn đến yết kiến thần Kỳ-bà có đi qua sông này, nên lúc ấy con đã thấy có sông Hằng.
Kỳ-bà: Hán dịch là Mạng, phong tục ở Tây Vực đều thờ thần Trường Thọ thiên. Đứa con sinh ra được ba tuổi phải yết kiến thần miếu này, tạ lễ điều mình mong cầu đã được. Đây là dùng năm để hỏi về cái thấy, ý nói thay đổi từng năm mà cái thấy không thay đổi.
b) Hỏi đáp thấy sông Hằng đồng hay khác:
Phật bảo này Đại Vương! Như lời ông nói lúc hai mươi tuổi già hơn lúc mười tuổi, cho đến sáu mươi hai tuổi. Ngày giờ, năm tháng niệm niệm đổi dời, thì khi lúc ông ba tuổi đã thấy sông Hằng này, đến lúc mười ba tuổi thì Ngài thấy sông ấy thế nào?
Vua đáp: Giống như lúc ba tuổi rõ ràng không khác, đến lúc sáu mươi hai tuổi cũng không khác: Nói không khác thật khéo suy nghĩ, một là đi đến thô phù, hai là suy nghĩ có ý chỉ.
c) Hỏi đáp thấy có già trẻ:
Phật bảo: nay Ngài tóc bạc mặt nhăn, mặt Ngài chắc chắn nhăn hơn lúc trẻ, nay Ngài thấy sông Hằng này và cái thấy sông Hằng lúc trẻ, cái thấy đó có già trẻ hay không?
Vua đáp: Bạch Đức Thế tôn! Cái thấy đó không có già trẻ, sắc thân tướng thô già trẻ dễ biết. Còn tánh thấy không đổi dời thật khó biết rõ. Ở đây đối với sự biện luận khác này giúp cho ngộ được Vô sinh. (tám trăm bốn mươi lăm)
2) Chỉ bày tánh thường còn phân tích điều nghi:
Phật bảo này Đại Vương! Mặt ông tuy nhăn mà cái thấy ấy không hề nhăn: Nhăn là thay đổi, không nhăn là không thay đổi. Biến là thọ diệt, cái bất biến kia vốn không sinh diệt, thì làm sao nói ở trong đó chịu cái sinh tư của ông, đây là chỉ rõ tánh thường.
Sinh diệt là pháp hữu vi thay đổi, vô vi thì không bị sinh tử. Nếu biết không biến diệt tức là thấy Vô sinh mà dắt dẫn ngoại đạo Mạt-già-lê v.v... kia, đều nói thân này sau khi chết là hoàn toàn diệt, tức là bác bỏ điều nghi kia. Mạt-già-lê là tự, tên mẹ là Câu-xa-lê, ở đây chỉ cho khác với điều mà vua Ba-tư-nặc dẫn, ngoại đạo đều hướng về.
Sắc thân biến đổi có thể nói là vô thường, tánh thấy không dời đổi lý chẳng đoạn diệt.
3) Tin ngộ có đời sau:
Vua nghe lời này, tin biết khi xả thân này rồi còn có thân sau. Vua và các đại chúng vui mừng được điều chưa từng có là trình bày sự giác ngộ cạn, chỉ nói xả thân này có thân khác, hỏi văn ý sâu xa kia ắt biết cái diệt vốn không thật diệt, tùy nghi lãnh giải, chủ bạn đồng nhất, chưa phải hiển lời.
4) Chánh đối A-nan phá chấp thường, có hai ý: a) A-nan thừa trái nêu câu hỏi:
A-nan đứng dậy khỏi chỗ ngồi, lễ dưới chân Phật, chắp tay quỳ thẳng bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn, nếu cái thấy nghe này không sinh diệt, sao Thế tôn nói chúng con mất chân tánh, làm việc điên đảo. Mong Thế tôn từ bi rửa sạch bụi nhơ cho con. Y theo cái thấy sông Hằng và cái thấy nghe của con không khác, đối với Vua thì nói bất diệt bất sinh, đối với con thì nói mất chân tánh, Vua và con ai thân ai sơ?
Nếu khác đường làm sao phân biệt, nhưng ý câu hỏi này xưa nay đã lâu, ban đầu do tay tự xòe nắm, cái thấy không có xòe nắm, đầu tự dao động, cái thấy không dao động, mỗi việc ấn khả Đức Phật đều nói như thế. Đây là Như Lai làm cho đối với cái thấy vọng được cái thấy đúng, không lìa sinh diệt mà có cái bất sinh diệt. A-nan không biết ý chỉ của Phật. Giống như nói sinh diệt khác với bất sinh diệt, bèn chắp tay lễ Phật mong được nghe Như Lai hiển bày hai tánh thân tâm chân vọng hư thật, hiện tiền sinh diệt và không sinh diệt. Vua Ba-tư-nặc biết hoài bão ấy mà không phát ý hỏi lại, dẫn việc sáu vị giáo chủ ngoại đạo chấp thân sau khi chết là đoạn diệt. Điều mà mong Phật đích thân chỉ bày chính là chân vọng. Trách dẫn A-nan không chấp cả hai khác nhau. A-nan là cổ Phật, chẳng lẽ nay không liễu ngộ, vì ngày nay hoặc nặng tình sâu, phải chỉ bày cho họ đích xác về sự tranh luận, cho nên nay hỏi.
b) Như Lai nghiệm phá tình chấp, có ba ý.
b.1) Nghiệm ra khỏi chấp tình, có hai ý:
Duỗi tay để hỏi, dẫn ra khỏi thường tình, có bốn ý:
b.1.1.1) Hỏi: Đức Như Lai liền duỗi cánh tay mầu vàng chỉ xuống đất, hỏi A-nan: nay ông thấy cánh tay Mẫu-Đa-la của Như Lai là xuôi hay ngược?
Hạ chỉ: Là tay chỉ xuống.
Mẫu-Đà-La, Hán dịch là ấn, ý này muốn nói cái thấy cánh tay không đồng với có xuôi có ngược, để so sánh cái thấy ấy cũng có xuôi ngược.
b.1.1.2) Đáp: A-nan thưa! Chúng sinh ở thế gian này cho như thế là ngược, còn con thì không biết thế nào là ngược, thế nào là xuôi:
Đây là suy ra người thế gian cho như thế là ngược, còn con thì không biết ra sao.
b.1.1.3) Bác bỏ: Phật bảo A-nan! Người thế gian cho như thế là ngược thì họ cho như thế nào mới là xuôi: Nếu rũ tay xuống cho là ngược thì cho như thế nào mới là xuôi:
Giải thích: A-nan thưa: Thế tôn đưa cánh tay lên năm ngón chỉ thẳng lên hư không thì gọi là Xuôi.
Đưa tay lên cho là ngược, ngược lại là xuôi, vì không thuận theo thân. Đây là A-nan không giải thích được chân vọng, chấp vọng mất chân. Cho nên Như Lai trách là hành sự điên đảo, đã hiểu rõ vọng vốn không có tự thể, thì biết chân tự vắng lặng, bèn theo cái thấy đầu dao động và tánh thấy sông Hằng tức là tánh chân, là không khác chân.
A-nan vẫn không hiểu rõ, cho ngoài vọng có chân, bèn không cho ta là người điên đảo, Vua là tánh vô sinh, A-nan đã trình bày tranh hỏi. Như Lai lấy việc để nghiệm, cảnh nghịch thuận không giải thích được thì tình điên đảo khó thoát, văn dưới là bác bỏ.
b.1.2) Đưa cánh tay lên đễ nêu cái thấy điên đảo, Phật liền đưa cánh tay lên rồi bảo A-nan rằng: Cũng cánh tay này không khác, chẳng qua chỉ đổi đầu làm đuôi, đổi đuôi làm đầu mà thôi, thế mà người thế gian đều cho rằng đưa tay lên là xuôi: Phật bèn đưa cánh tay lên, theo đó mà trách như thế này là ngược, thế này là xuôi, ngón tay rũ xuống, nay lại đưa lên cho nên nói đổi đầu làm đuôi, đổi đuôi làm đầu. Người thế gian không y theo bổn phận cho xuôi là xuôi, mà sinh ra cái thấy khác, cho ngược là xuôi, cho nên nói đều xem nhìn.
Cho nên so sánh phát minh thân ông và pháp thân thanh tịnh của Như Lai thì thân Như Lai gọi là Chánh Biến Tri, còn thân các ông gọi là tánh điên đảo.
Nếu dùng điều này để nghiệm thì biết so sánh hiển rõ, thân Phật là xuôi, thân ông là ngược, cũng có thể nếu dùng cái thấy tay của thân Phật để nói lên thân Phật thì biết thân Phật gọi là Chánh Biến Tri. Nếu so cái thấy tay ông với thân ông thì biết rõ thân ông gọi là tánh điên đảo, ông đâu chẳng phải là hành sự điên đảo ư? Chánh Biến Tri: Lìa đảo gọi là chánh, cùng tận pháp giới gọi là Biến. Phàm phu, Nhị thừa không có tên gọi này, cho nên đều điên đảo.
b.2) Nêu chỗ điên đảo, có hai ý:
b.2.1) Nêu chỗ điên đảo:
Tùy ông quán cho kỹ, thân ông và thân Phật gọi là điên đảo, vậy danh tự ở đâu mà gọi là điên đảo. Tùy là tùy theo.
Tùy trong tâm ông quán sát kỹ càng, nếu Phật là điên đảo thì ông hãy nói thân Phật điên đảo chỗ nào? Nếu ông là điên đảo thì ông cho thân ông điên đảo ở chỗ nào?
Đây là làm cho A-nan biết được chỗ điên đảo. Danh tự: Giống như nói danh mục.
Người xưa ở đây mà hiểu được tướng, bèn cho là kinh ở dưới giải thích điên đảo, mạch máu không thông, trở thành cô khởi. Đã bặt ngược xuôi thì vì sao Như Lai lại nói điên đảo. Xin người học xem xét kỹ, nếu không thì chẳng thấy sự vẽ vang của người xưa. b.2.2) Trình bày về sự không biết.
Bấy giờ, A-nan và đại chúng nhìn Phật sửng sốt, mắt không hề nháy, vì không biết thân tâm điên đảo ở chỗ nào: là nhìn thẳng như là mê mờ không hiểu rõ, nghe bác bỏ chỗ điên đảo lại mịt mờ không hiểu, không đặt một lời, chỉ biết nhìn thẳng Đức Phật. b.3) Mở rộng tướng điên đảo: có hai ý. b.3.1) Phát khởi lòng từ để nói về điều thường nói:
Phật khởi lòng từ bi thương xót A-nan và đại chúng, phát ra tiếng nói như sóng biển bảo khắp trong hội rằng: Này các thiện nam! Ta thường nói rằng các duyên sắc tâm và tâm sở sai sử các pháp sở duyên, chỉ do tâm hiện, trống trời vô tư, tùy người phát tiếng, sóng biển không có ý niệm, phải không mất thời: Đây là nói lên từ bi vô duyên ứng cơ mà nói không đợi thỉnh.
Sắc có mười một thứ, Tâm là tám thức lâm Vương, các duyên là chỉ chung cho sắc và tâm, hoặc có thể chỉ riêng cho pháp bất tương ưng hành. Tâm sở là năm mươi mốt món tâm sở. Các pháp sở duyên là sáu pháp vô vi. Trên đây năm vị, một trăm pháp gồm nhiếp hết các pháp, đều là chỗ hiện khởi của chân tâm (tám trăm bốn mươi sáu), như gương hiện hình, không thể lìa gương mà có được tự thể.
Hỏi: Năm vô vi trước danh và thể đều là giả, có thể đồng với pháp trước, vô thể như hình với bóng. Chân như vô vi, danh giả mà thể thật, là tánh của các pháp, sao lại nói vô thể như là hình bóng?
Đáp: Tông này nói chân như dường như là đối vọng mà lập. Đã do đối đãi lại thành pháp vọng, như ở dưới kinh nói: Nói vọng hiển bày các chân, vọng chân cả hai đồng là vọng. Lại nói vô vi vô sinh diệt, không thật như hoa đốm.
Kinh Viên Giác nói: Viên giác lưu xuất ra tất cả chân như thanh tịnh, Bồ-đề Niết-bàn. Do năm vị này mà các pháp từ tâm hiện khởi, đều đồng là hình bóng. b.3.2) Bày chân bỏ vọng, phân tách điên đảo, có hai ý: b.3.2.1) Y theo pháp mà giải thích mê tình, có năm ý.
- Nêu ý chỉ.
Thân tâm ông đều là vật do diệu tâm chân tinh diệu minh hiện ra: tâm hiện thân tâm hiện thân tâm, như gương hiện vật, Vật không phải gương. Vì thể của vật là hư giả, gương không phải vật, vì thể của gương là thật. Hư thật đã giải thích, do đó điên đảo ngay đây có thể biết.
- Trách lỗi:
Vì sao các thầy lại bỏ bản thể chân tâm, các thầy vẫn ở trong cái ngộ mà lại ôm lấy cái mê, tức tâm là tánh, vì thể trùm khắp cho nên tròn đầy, vì không mờ cho nên sáng. Vì Pháp đáng trong nên gọi là báu. Xưa nay tự như vậy, chẳng phải thích hợp với ngày nay, cho nên nói "Vốn", đường nói năng dứt, chỗ tâm hành bặt, cho nên nói là Diệu, hai, ba lần khen ngợi cho nên nói lặp lại.
Ngộ là giác, là tánh tròn sáng, mê là bất giác, là thân tâm vọng. Bất giác ở ngay trong giác như hình ở trong gương, hư thật có thể phân biệt, nay bỏ đi bổn tánh như gương, chấp thân tâm tợ hình, không phân biệt được hư thật. Đây là sự mất đi chân tâm lớn lao. Cho nên nói nhận cái ngộ trong mê. Trước nói danh tự ở đâu mà gọi là điên đảo, nay chính là chỉ chỗ điên đảo nầy.
-Trình bày vọng:
Mê mờ là không, trong hư không mờ tối, kết tối thành sắc, sắc xen lẫn với vọng tưởng. Tướng của tưởng là thân nhóm duyên ở bên trong cho nên dao động, rong ruổi bên ngoài, thể của vô minh đen tối, cho nên nói mờ ám. Bên trong có vô minh, bên ngoài hiện tướng không, nên nói là không. Đây là kiếp trược đầu tiên. Văn ở dưới nói: Mê vọng có hư không. Lại nói: Ông thấy hư không khắp các thế giới ở mười phương, hư không và cái thấy chẳng phân biệt, có không vô thể, có thấy không giác, dệt nhau vọng thành. Lớp thứ nhất gọi là kiếp trược.
Trong ba tế này, hai tướng nghiệp và chuyển cũng gọi là đồng khác, cũng gọi là động tĩnh. Do động tĩnh này mà đối đãi nhau trong hai tướng đen tối này, kết thành hình sắc, tức là căn thân và khí giới. Hình sắc đã hiện thì tưởng ở trong đó. Sắc tưởng lẫn lộn, chỗ có hay biết thì thành căn thân, chỗ tưởng lắng đọng thì thành khí giới, đây chính là hiện tướng thứ ba. Vì có cảnh giới duyên nên sinh khởi thức thô, niệm niệm phân biệt nối nhau không dứt cho nên nói nhóm duyên bên trong, lay động ở đây chỉ cho hai thô trước. Do niệm nối nhau huân tập không dứt, nên thành chia lìa. Chấp chặt tướng sáu trần trôi lăn các cõi không dứt cho nên nói rong ruổi hướng theo bên ngoài, hai tướng thô này phân ly thức, từ phá đến chấp trước ba tế, bốn thô là đường phiền não đều ở đây.
- Nói về chấp:
Tướng mờ tối cho là tâm tánh, lấy mê làm tâm, chắc chắn hoặc ở bên trong sắc thân.
Người thế gian không biết vốn là vô minh chuyển dần đến thô động, rồi cho tướng mờ tối này là tâm tánh chân thật. Chạy theo mê chấp quyết định sửa đổi, cho là tâm tà ở trong sắc thân bèn khởi lên sự khác nhau về hữu tình vô tình, có tánh không tánh, cho tâm vọng làm tâm Phật, thật là nông nổi.
- Kết mê.
Không biết thân này, tâm này, cho đến núi sông thế giới và hư không đều là vật từ chân tâm hiện ra.
Hạt giống căn thân thuộc về bên trong, duyên mà chấp thọ, núi sông đất đai thuộc về bên ngoài. Nhưng duyên không phải là chấp thọ. Ba cảnh này đều là tướng phần của A-lại-da. Lại không giới này từ mê vọng sinh ra, do thức biến hiện, thức năng biến hoàn toàn là vô minh, mê chân mà khởi, cũng không có tự thể, năng biến sở biến đều do gương tâm hiện ra hình bóng. Cho nên văn trước nói. Thân tâm ông đều là vật do chân tâm hiện ra, không biết lý này lại chấp tâm mình ở trong sắc thân, cho nên ở đây chỉ bày. b.3.2.2) Y theo dụ để kết luận chỉ ra tướng điên đảo: Ví như bỏ trăm ngàn biển lớn trong xanh mà cho rằng một hòn bọt là toàn thể của biển.
Như Lai tạng có bốn nghĩa cho nên dùng biển để dụ cho dứt hẳn trăm phi như biển rất sâu, bao gồm muôn hữu như biển rộng lớn, chẳng đức nào không đầy đủ như châu báu ở dưới biển, chẳng có pháp nào không hiện như biển hiện bóng. Thể ấy vắng lặng không tương ứng với vọng nhiễm. Cho nên nói trong xanh tức là nghĩa rất sâu ở trước mắt.
Trăm ngàn nghĩa là rộng lớn, không biết thể vốn thanh tịnh cho nên nói bỏ biển lớn, chỉ lấy tướng tối tắm nhiễu động làm tâm tánh. Cho nên nói chỉ nhận v.v... toàn triều, Đại luy. Bột giải là tên riêng khác của biển, Các ông là người trong mê, như ta rũ tay xuống không khác. Như Lai nói về thương xót A-nan và đại chúng tức là kết chỉ ở trước. Bỏ biển lớn chính là bội mê, nhận bọt biển là tội mê. Rũ tay là xuôi, chấp là ngược, là một mê. Đưa tay lên là ngược, cho rằng xuôi là bội mê. Trước nêu sự để nghiệm, sau dẫn dụ để so sánh. Ở giữa dùng pháp tiến thối so sánh nhau. Xuôi chỉ tướng ngược, rõ ràng sao gọi là tướng lẫn lộn ư? Người có trí xin hiểu rõ. Rộng y theo duyên trần để nói lên cái thấy chân chánh, vì trong văn trước. Y theo tay mà thấy sông, chỉ rõ cái thấy vô sinh, tướng cạn mà ý sâu, như thành ẩn mật, chưa hiển rõ thì không gọi là hiển chánh, cho nên khoa nói luận thô dần sáng. Nay dưới đây đối khắp duyên trần, dứt trừ danh tướng, hiển tánh thấy này không rơi vào nói lời vô nghĩa. Sau đó theo đoạn mà hội thông, làm cho biết các pháp luống dối vốn là không chỉ có một
Bồ-đề diệu tịnh minh thể, phân minh rõ ràng. Cho nên nói chính là hiển bày cái thấy chân chánh.
Văn có bốn ý:
1. Nói lên duyên tâm chẳng phải tánh, có hai ý là: Anan thuật ngộ và bày nghi:
a) Thuật ngộ.
A-nan nương lòng từ bi chỉ dạy của Phật, rơi lệ chắp tay bạch Phật rằng: Con tuy nương lời nói nhiệm mầu ấy của Phật, ngộ tâm diệu minh vốn là tâm thường trụ trọn đầy, nhân Phật chỉ rõ điên đảo, hiển bày chân tâm, đối với ngôn âm năng thuyên ngộ được tâm địa sở thuyên.
b) Bày nghi.
Nhưng con ngộ pháp âm của Phật hiện nói, hiện để duyên tâm, gọi là chiêm ngưỡng. Đã được tâm này cũng chưa dám nhận là tâm địa bổn nguyên. Mong Phật thương xót chỉ dạy viên âm, để giúp con dứt nghi, trở về vơi đạo vô thượng. Phật dùng lời nói để nói chân tánh này. Nay con lãnh giải lại là duyên tâm sở ngộ chân tánh. Sở ngộ là chân tánh, năng ngộ là duyên tâm, lại đồng với Như Lai trước đã quở trách. Như ông ngày nay được nghe pháp của ta, đó chính là do âm thanh mà có phân biệt, có phân biệt gì? Do đó chưa dám cho là bổn nguyên tâm địa, tâm năng sinh có nghĩa là đáng nương tựa nên dụ như đất.
Nói viên âm: vì mỗi lời nói của Phật trùm khắp các thế giới chúng sinh, nhưng âm vận ấy thường không lẫn lộn, như sớ giải Luận Khởi Tín có nói.
2. Như Lai y theo dụ để giải thích rõ, có hai ý:
1) Chỉ định chỗ sai.
Phật bảo A-nan! Nếu các ông còn dùng duyên tâm để nghe pháp, thì pháp này cũng thành duyên, không thể nghe được pháp tánh. (tám trăm bốn mươi bảy) do âm thanh mà có phân biệt, tánh phân biệt này là sinh diệt.
Kinh Duy-ma nói: Không dùng tâm hành sinh diệt để nói pháp thật tướng, nói đã không thể được, thì nghe đâu thể được?
Tâm duyên: Chỉ cho duyên theo lời nói, văn tự cho nên nói không được pháp tánh. Nếu không để tâm vào việc gì, thầm hợp với đạo, lìa tướng năng sở, một niệm bất sinh, dứt được mé trước sau, đó gọi là thật đắc pháp tánh
2) Dụ để hiển rõ chỗ sai, có hai ý:
Chấp ngón tay quên mặt trăng, phân tách nhân năng thuyên, có hai ý:
a.1) Dụ, có hai:
a.1.1) Ngón tay và mặt trăng đều mê:
Như người dùng tay chỉ mặt trăng cho người thấy, người kia nhờ ngón tay mà nhìn thấy được mặt trăng, nếu nhìn ngón tay cho là thể của mặt trăng thì người này chẳng những quên mất trăng mà cũng mất luôn ngón tay, vì sao? Vì nêu ngón tay là mặt trăng. Ngón tay dụ cho ngôn giáo năng thuyên, mặt trăng dụ cho chân lý sở thuyên.
Nếu muốn thấy mặt trăng thì phải quên ngón tay để nhìn mặt trăng. Nếu muốn thấy tánh phải quên lời nói và thể của nó. Nếu không quên lời thì đâu thể thấy tánh, không thể quên ngón tay thì đâu biết được một trăng?
Kinh Viên Giác nói: Tu-đa-la giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, Nếu lại thấy trăng, biết rõ chỗ nêu rốt ráo chẳng phải mặt trăng. Các thứ lời nói của tất cả Như Lai chỉ dạy cho Bồ-tát cũng thế, ngón tay và mặt trăng đều mê, chỉ rõ cả hai đều sai, trong văn kinh rất dễ thấy.
a.1.2) Sáng tối đều mất:
Chẳng những mất ngón tay, mà còn không biết sáng và tối. Vì sao? Vì dùng thể của ngón tay làm tánh sáng của mặt trăng, vì hai tánh sáng và tối đều không liễu rõ, cho nên ngôn giáo thuộc về hữu vi. Vì vô ký cho nên tối, chân lý thuộc về vô vi, vì tánh thiện cho nên sáng, ví dụ, rất dễ hiểu.
a.2) Hợp:
Ông cũng như thế, là pháp hợp dụ như giải thích ở trên.
Khách đi chủ ở lại, trách dính mắc vào duyên tưởng, có hai ý.
a.3) Y theo pháp dụ thuận suy có tự thể, có ba ý:
a.3.1) Pháp:
Nếu lấy phân biệt pháp âm ta nói do làm tâm ông thì tâm này tự nó nên lìa âm phân biệt mà có tánh phân biệt, hay là do pháp Phật nói mà sinh tâm phân biệt? Tâm phân biệt này vốn không có tự tánh cho nên thuộc về duyên trần. Tùy theo trần có hay không, chẳng phải thường trụ, chỉ như khách.
a.3.2) Dụ:
Thí như có người khách ngủ tạm ở quán trọ, tạm dừng rồi đi, không phải ở luôn, vì chủ quán không có đi đâu, gọi chủ quán ở đây là nói tâm duyên tùy cảnh qua lại, chân tâm vắng lặng, thường trụ, khách dụ cho vọng, chủ dụ cho chân.
a.3.3) Hợp:
Ở đây cũng thế, nếu thịt là tâm ông thì không hề đi đâu như ở kinh dưới nói: Tiếng vô đã không diệt, tiếng hữu cũng chẳng sinh, sinh diệt cả hai đều lìa, chính là thường chân thật.
a.4) Y theo duyên trần, lại trách vô tánh, có ba ý:
a.4.1) Ví dụ thành vô tánh:
Vì sao nói lìa tiếng thì không có tánh phân biệt, điều này chẳng những đối với tiếng mà có tâm phân biệt, phân biệt ngã dung, lìa các sắc tướng không có tánh phân biệt, tâm duyên nếu là chân tánh lẽ ra như chủ, đâu được theo tiếng có đến đi. Vì khi lìa tiếng không phân biệt, đâu đồng với chân tâm trùm khắp pháp giới vắng lặng thường trụ.
Tâm tùy theo tiếng đã như vậy thì tâm tùy theo sắc cũng như vậy, cho nên nói chẳng những.
a.4.2) Chỉ ra đồng với ngoại tông:
Như thế cho đến phân biệt đều không: Trước nêu sắc thanh hiển bày tâm vô thể, cũng hợp với hương vị xúc pháp, nay ở đây vượt qua, cho nên nói cho đến phân biệt đều không.
Phi sắc phi không, câu-xá-ly v.v... lấy mờ mịt làm Minh đế, vì không thể thấy cho nên chẳng phải sắc, vì duyên hội thì có cho nên chẳng phải không.
Nói Minh đế: Hoặc nói minh tánh, hoặc nói tự tánh, tiếng Phạm của minh đế là Tăng-già-Xà-tát-đát-la, Hán dịch là Số luận, lập hai mươi lăm đế, đế thứ nhất là Minh tánh, chấp cho là Thường, đế thứ hai mươi lăm gọi là Thần ngã. Cũng chấp là thường, ngã suy nghĩ thắng cảnh tốt đẹp. Minh tánh là biến hai mươi ba đế thành ngã thọ dụng. Ngã đã thọ bị cảnh ràng buộc, không được giải thoát. Ngã nếu không suy nghĩ thì Minh đế bất biến. Đã không ràng buộc ngã tức là giải thoát gọi là Niết-bàn, như chỗ khác nói.
Câu-Xá-Lê: chẳng phải tức Số luận, là loại kia hướng đến mà nêu. b.2.3) Kết trách chẳng phải chủ:
Lìa các duyên pháp, không có tánh phân biệt, thì tâm tánh của ông đều có chỗ trả về. Thế nào là Chủ? Chân tâm là chủ, vọng tưởng là khách. Khách có đến đi, chủ không dời đổi. Nếu lìa duyên pháp không có tánh phân biệt thì nói lên tâm tánh của ông theo trần mà trả về, đò là khách, đâu gọi là Chủ.
2. Nói thấy tánh không có chỗ trả về, có hai ý:
1. A-nan nương theo trước trình bày về nạn:
A-nan thưa! Nếu tâm tánh của con có chỗ trả về thì nguyên tâm diệu minh mà Như Lai nói sao không trả về. Mong Như Lai rũ lòng thương xót chỉ bày cho con: Nói về tâm tánh là có cả chân và vọng. Điều A-nan chấp là vọng, điều Như Lai chỉ bày là chân. Nay vì chấp vào sinh diệt, nghi vào sự chỉ bày diệu minh, cho nên nói Như Lai nói làm sao không trả về, trả về có nghĩa là diệt.
2. Như Lai giải thích theo tướng có ba:
a) Y theo quyền nêu ngón tay để hứa nói.
Phật bảo A-nan! Lại ông thấy ta, kiến tinh minh nguyên.
"Lại" là từ ngữ quyền nghi. Quyền chỉ cho tâm thấy được của A-nan, là nguyên minh. Cái thấy này tuy không phải diệu tinh minh tâm như mặt trăng thứ hai không phải là bóng trăng, Ông hãy lắng nghe nay Như Lai sẽ chỉ bày cho ông cái không thể trả về.
Nguyên minh này chẳng phải là chân tánh sẵn có, điều đó giống như mặt trăng do ấn con mắt mà thấy. Vốn không thật có. Chẳng phải bóng trăng là chẳng phải bóng trăng đáy nước. Bóng trăng đáy nước từ trăng thật mà hiện xuống, có thể dụ cho diệu ứng cảm mà lại thông, ấn mắt nhìn thấy toàn thể là luống dối, từ mắt bệnh mà sinh ra, dụ cho vọng thấy vốn chẳng thật có. Chỉ y theo quyền kiến này mà chỉ dạy cái không thể trả về.
b) Y theo cảnh có chỗ trả về giải thích rõ, có hai ý:
1. Nói cảnh có thể trả về, có hai ý:
1. Tám cảnh:
A-nan! Đại giảng đường này mở rộng, cửa về phương Đông, mặt trời lên cao thì có ánh sáng, nửa đêm mặt trăng tối, sương mù bao phủ thì lại tối om, nơi ngách cửa thì lại thấy thông, giữa tường vách thì lại thấy bít, chỗ phân biệt thì lại thấy duyên. Trong cái không ngơ khắp là tánh không, hình uất kết thì uất kết ở các trần mờ tối. Mưa tạnh đều là khí lại quán thanh tịnh, là nêu sáng tối, thông bít này không có tám tướng nhiễm tịnh, đều nương vào nhân duyên để lập nên tượng ấy.
2. Nói đều có chỗ trả về:
A-nan! Ông đều thấy các tướng biến hóa này, nay ta đều đem các vật này cái nào trả về cho nhân gốc cái ấy. Thế nào là nhân gốc? A-nan các vật biến hóa nầy, cái sáng trở về cho mặt trời, vì sao? Vì không có mặt trời thì không sáng, cái sáng thuộc về mặt trời, bởi vậy nó được trả về cho mặt trời, cái tối trở về với trăng tối, (tám trăm bốn mươi tám) thông trở về với cửa, bít trả về cho tường vách, duyên trả về cho phân biệt, không ngơ trả về với không, uất kết trả về với trần, trong sáng trả về với mưa tạnh, tất cả các vật trong thế gian không ngoài tám thứ này. Tám cảnh này đã từ duyên mà có, lại từ duyên mà không, có đi có đến, chẳng đồng với cái thấy chân chánh.
Chỉ bày cái thấy không có chỗ trả về, có ba ý:
1. Nêu lên:
Ông thấy tám thứ, còn kiến tịnh minh tánh ông muốn trả nói về chỗ nào? Có thể quán cái thấy tám thứ gọi là kiến tịnh minh tánh, đã chẳng phải duyên sinh thì trả về chỗ nào? Đâu đồng với tám cảnh, mỗi cảnh đều có chỗ trở về.
Giải thích: Vì sao? Nếu trả về cho sáng thì khi không sáng sẽ chẳng thấy tối. Tuy sáng tối v.v... các thứ khác nhau nhưng cái thấy không có khác nhau: Cái thấy chân chánh lìa duyên, duyên trả về, cái thấy thì còn, nếu theo cảnh mà đi thì sau đó ai là người quán. Cảnh tự có khác nhau, cái thấy thì không khác.
3. Kết luận:
Những thứ có thể trả về tự nhiên chẳng phải là ông, còn cái chẳng thể trả về chẳng phải ông thì là ai. Tám cảnh có thể trả về, tự chẳng phải la cái thấy của ông, tánh không thể trả về của ông chính là chân tánh của ông. Đây nếu không phải chân thì cái gì là chân ư? 3. Y thao thật nói về mê để kết trách:
Cho nên biết tâm ông vốn là diệu minh tịnh, vì ông tự mê muội làm mất bổn chân phải chịu luân hồi trong sinh tử, thường bị nổi trôi. Bởi vậy Như Lai nói là đúng thương xót: đem tám cảnh trước để đối vọng thấy quyền, chỉ bày chỗ bất diệt. Do đó nên biết bổn diệu minh tâm không hề sinh diệt, vốn có chân tánh, mê mà không biết. Lại chấp duyên trần tự chuốc lấy trôi lăn.
Như văn trước nói: Do ông từ vô thỉ đến nay nhận bọn cướp làm con, mà mất đi cái vốn thường, cho nên chịu trôi lăn. Nhưng tuy quyền chỉ, nhưng ý chính là hiển, vì ngọn không lìa gốc.
3. Lại y theo thể dụng để nói lại, có hai ý: 1) Hỏi lại lần nữa:
A-nan thưa: Bạch Đức Thế tôn! con tuy biết tánh thấy này không chỗ trả về nhưng làm sao biết được là chân tánh của con?
Ý A-nan hỏi: Đối với tám cảnh trước quyền chỉ vọng thấy có nghĩa không trả về, do đây biết được tánh chân nguyên sẵn có, bất sinh bất diệt, lại chỉ có điều này nói lên biết có tánh thường, hay là nghĩa có diệt, riêng được chân vọng, cho nên nói: Làm sao được biết v.v... ở dưới lại y theo dụng có hơn kém thể không khác nhau. Dụng y theo người để giải thích, thể đối với vật mà nói. Đây là lần lượt dùng ba nghĩa để giải thích chân. Một là nói lên cái bất sinh diệt, hai là nói có thắng dụng, ba là chỉ bày cái không phân biệt. Bởi vậy giải thích và đáp điều này chia làm hai khoa.
2) Y theo dụng hơn kém để nói lược:
Phật bảo A-nan! nay ta hỏi ông: nay ông chưa được quả vô lậu thanh tịnh, nương oai thần Phật thấy Sơ thiền không hề chướng ngại: chứng được Sơ quả mới dứt phân biệt cho nên nói chưa được vô lậu. Tự không có định lực, nhờ vào người khác mà thấy, cho nên nói nhờ thần lực Phật. Nhờ thông khiến được thấy, ý muốn A-nan tin biết chính mình thấy cái dụng chân chánh có như thế, đứng đầu cõi Sắc là Phạm chúng, Phạm Phụ, Đại phạm đều gọi là Sơ thiền.
Nhưng A-na-luật, thấy cõi Diêm-phù-đề như thấy trái am-ma-la trong lòng bàn tay.
A-na-luật: Hán dịch là Như ý, cũng gọi là Vô Bần. Ở thời quá khứ Ngài đã cúng dường cơm cho vị BíchChi-phật nên trong chín mươi mốt kiếp được sinh lên cõi trời thọ vui như ý, không hề thiếu thốn. Khi chưa vào đạo, vì tánh thích ngủ nhiều, ngài bị Phật quở trách, do đó Ngài không ngủ, nên bị mù mắt. Phật dạy tu thiên nhãn để thấy việc thế gian. Nhờ đó mà tu đắc, thấy cõi Tam Thiên như thấy trái am-ma-la trong lòng bàn tay. Đại Luận nói bậc Đại A-la-hán thấy Tiểu thiên giới, Đại Bích-Chi-Phật thấy trăm cõi Phật, Chư Phật thấy tất cả cõi Phật. Riêng Na-luật chỉ thấy cõi Đại thiên vì Ngài khắp tu tác ý thiên nhãn bậc nhất trong hàng Thanh Văn.
Nay nói Diêm-phù: Vì các cõi Đại Thiên đều có Diêm-phù, vì nói lên riêng chung đều không trái nhau.
Các Bồ-tát trăm ngàn cõi, bậc Sơ Địa thấy trăm cõi Phật, bậc Nhị địa thấy ngàn thế giới cho đến bậc Thập Địa thấy vô lượng không thể nói cõi Phật số cát bụi thế giới.
Các Đức Như Lai mười phương cùng tận các cõi nước nhiều như cát bụi thanh tịnh, chẳng có nơi nào không nhìn thấy.
Phật có đủ năm thứ mắt và ba thứ trí, thấy cùng tận pháp giới, bốn vị kể trên giai cấp thì thấy được, nhưng sâu cạn khác nhau, vì dụng của cái thấy chân chánh tùy theo chỗ chứng đắc rõ và dần dần xa lìa.
Chúng sinh thấy không quá phân tấc, cách tờ giấy thì không thể thấy vật ở bên kia, cách da lông thì không thấy năm tạng, đâu đồng với dụng về cái thấy chân chánh của các bậc Thánh trước. Đây là thấy chân thấy vọng lần lượt có năm lớp, rõ ràng có thể giải thích mà nói sao biết được chân tánh con, sao không quán sát?
4. Y theo thể phi vật để giải thích rộng, có hai ý:
1. Giải thích thể cái thấy chẳng phải vật, có ba ý:
a) Nêu trần:
A-nan! Ta và ông quán thấy cung điện của bốn vị vua trời ở trong đó thấy khắp thủy, lục, không hành.
Tuy có tối sáng các thứ hình tượng nhung đều là phân biệt tiền trần còn lưu lại.
Phân biệt tức là khác nhau.
Hoặc có thể trần trước mặt trở ngại tức là cảnh phân biệt.
b) Khuyên chọn lựa:
Ông nên ở ngay đây để phân biệt mình và người.
Đây là nêu để khuyên. Ông nên ở ngay đây tức là đối với cảnh sở duyên, thử chia ra mình người làm cho khác nhau. Tự là tánh thấy, tha là vật tượng.
Nay ta nói ông phân biệt trong cái thấy, cái nào là thể của ta, cái nào là vật tượng.
Bảo tức là thỉnh, thùy là cái nào.
Nay ta bảo ông đối với cái thấy rõ ràng mà chọn lựa, cái nào là thể cái thấy của ông, cái nào là vật tượng. Đây là khuyên chọn lựa.
c) Chính là giải thích, có hai ý:
5. Nói vật chẳng phải cái thấy là tiền trần.
A-nan! Cùng cực cái thấy của ông từ cung mặt trời, mặt trăng, là vật chẳng phải ông, cho đến bảy lớp núi vàng quán rõ khắp, tuy các thứ ánh sáng cũng là vật chẳng phải ông. Dần dần lại quán mây trôi chim bay gió động, bụi bay cây cối, núi sông hoa lá, người, súc vật đều là vật chẳng phải ông, cực là cùng là nghiên cứu tánh thấy của ông, từ xa đến gần, thấy cái gì đều là vật tượng, chẳng phải là tánh thấy của ông, giới là cỏ nhỏ.
Nói cái thấy không phải vật là chân tánh.
A-nan! Tất cả các cảnh vật tuy có xa gần, cao thấp, các tánh vật tuy lại có ngàn sai muôn khác, đồng với sở thuộc về tánh thấy thanh tịnh của ông. Thì các loài vật tự có khác nhau nhưng tánh thấy của ông thì không khác. Tinh diệu minh này là tánh thấy của ông, vật loại tuy khác, nhưng tánh thì thường nhất, không theo cảnh khác, tức là chân tâm của ông, đây chính là cái thấy chân chánh bình đẳng không khác nhau. Trước kia ông hỏi rằng:
Làm sao biết được chân tánh của ông: Nay nói cảnh tự khác nhau, mà tánh thấy không khác, bởi vậy biết được chân tánh của ông.
Rộng phá tính chấp xoay vần, có hai ý:
1. Phá thầy trò năng kiến duyên lẫn nhau, có hai ý:
a) Chính là phá:
Nếu cái thấy là vật thì ông cũng thấy được cái thấy của Như Lai. Nếu ông chấp vào lời nói thì ông sẽ thấy tâm đồng với vật bị thấy cũng có khác nhau: Đây chính là cái thấy tức là vật, tánh thấy của Phật cũng phải là vật, nên bị ông thấy.
b) Chuyển phá:
Nếu đồng với cái thấy gọi là thấy ta, khi ta không thấy sao chẳng thấy chỗ không thấy của ta (tám trăm bốn mươi chín) ông chấp vào lời nói. Khi con và Thế tôn đồng duyên với vật, cái thấy của Thế tôn: đã dính mắc vào vật kia. Khi con thấy vật chính là thấy cái thấy của Thế tôn. Văn trong kinh lược bớt chỉ nói thấy ta, đây là nhắc lại sở chấp, tức là phá rằng: Khi ta không thấy sao chẳng thấy cái mà ta không thấy. Ý nói khi ta không duyên với vật kia thì gọi là không thấy, đây là thể không thấy, lẽ ra ông phải thấy sao lại không thấy?
Nếu thấy chỗ không thấy thì tự nhiên chẳng phải là tướng không thấy kia. Đây là bác bỏ chuyển chấp, nếu ông chấp vào lời nói con cũng thấy cái thể không thấy của Phật thì có lỗi gì? Cho nên nói thấy cái không thấy. Tức là bác bỏ rằng tự nhiên chẳng phải là tướng của cái không thấy kia, ý nói thể của không thấy đã bị thấy.
3. Kết thúc bác bỏ:
Nếu không thấy chỗ không thấy của ta thì tự nhiên chẳng phải vật, sao nói chẳng phải ông.
Ý của văn này kết dần dần trả về, đều có năm lớp hợp, nói: Nếu không thấy chỗ không thấy của ta, thì cũng không thấy chỗ thấy của ta. Đã không thấy chỗ thấy của ta thì cái thấy của ta tự nhiên chẳng phải vật. Cái thấy của ta nếu chẳng phải vật thì cái thấy của ông cũng chẳng phải vật, sao nói chẳng phải cái thấy chân chánh của ông.
a) 2. Phá tâm cảnh lại quán tạp loạn, có ba ý: chính là bác bỏ:
Lại nay khi ông thấy vật, ông đã thấy vật, vật cũng thấy ông, thể tánh lộn xộn, thì ông cùng ta và tất cả chúng sinh trong thế gian không thành an lập.
Lại nếu ông chấp tánh thấy là vật, và vật kia cũng thấy ông như thế thì khi ông thấy vật, vật cũng thấy ông, thế thì người và vật làm sao phân biệt được? thể của vật và tánh thấy tự nhiên lộn xộn, vật chính là ông, ông tức là vật. Tất cả muôn vật trong thế gian đều không thành lập thì sao gọi là an lập?
b) Nói lên tánh thấy:
A-nan! Nếu khi ông thấy tức là ông, chẳng phải là ta, nhưng tánh thấy ấy bao trùm khắp nơi chẳng phải ông thì là ai?
Nếu khi ông thấy vật, phân biệt rõ ràng.
A-nan chẳng phải Phật, Phật cũng không phải Anan: Chính là tất cả muôn vật trong thế gian tự nhiên an lập, đều là tánh thấy của ông biết rõ cùng khắp.
Tánh biết cùng khắp này nếu chẳng phải là chân tâm của ông thì là gì? Cho nên kết luận rằng chẳng phải ông thì là ai?
c) Bác bỏ điều nghi:
Vì sao tự nghi chân tánh của ông, tánh ông không chân mà chấp vào ta để cầu thật: Trách không chấp nhận, đây là chân tánh của ông, tánh ấy đối với ông cho là tánh của tất cả tâm.
Trước đó nói thân tâm ông đều là vật ở trong diệu minh chân tinh diệu tâm, mà không tự biết, lại cầu người khác, đâu không mê mờ điên đảo hay sao? Đại ý này nói cái thấy chân chánh lìa duyên thì trùm khắp pháp giới, vắng lặng thường trụ, diệu dụng vô biên, bình đẳng thanh tịnh thể chẳng có khác nhau, giải thích văn trước rằng: Làm sao biết được chân tánh của con.
3. Y theo nghi nạn mà giải thích rộng, có bốn ý:
Nghi tánh thấy rút ngắn, có ba ý: a.1) Nghi lần nữa:
A-nan bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Nếu tánh thấy này chắc chắn là con không khác thì con và Như Lai xem điện báu thắng tạng của bốn vị vua trời trụ ở cung Nhật Nguyệt, thì cái thấy này trùm khắp cõi Ta-ba, khi trở về tịnh xá chỉ thấy già-lam, tâm thanh tịnh ở cửa giảng đường thì thấy mái hiên, đây là tự trình bày thấy xa gần. Vì ở trước khai thị tuy hiển rõ là chân, đến quán xa gần đều nghi hối. Cung điện của bốn vị vua trời và mặt trời, mặt trăng ngang nhau, đều là bốn muôn do tuần.
Ta-bà Hán dịch là Kham Nhẫn, đều gọi là cõi Đại thiên, nay nêu chung bày riêng.
Tăng-già-lam-ma, Hán dịch là Chúng Viên. Vũ: là dưới giảng đường.
Bạch Đức Thế tôn! Cái thấy này như thế, thể nó xưa này cùng khắp một cõi. Nay ở trong nhà chỉ đầy một nhà, là cái thấy này rút thành nhỏ, rút tường vách hẹp lại làm cho bị cắt đứt. Nay con không biết nghĩa ấy thế nào, mong Thế tôn từ bi giảng nói cho con được rõ.
Một cõi là tầng trời thứ nhất. Một nhà là giảng đường.
Nhờ rằng lực mà thấy rộng, tự lực mình thì thấy hẹp. Rộng hẹp đã dính mắc, rút ngắn cắt đứt đáng nghi, vẫn còn do dự hoài nghi cho nên nói không biết nghĩa ấy thế nào, vì A-nan chưa chứng chân như, chưa phát chân dụng. Phật tùy theo tướng bên ngoài mà đối vật nói chân. Đã chưa đích thân chứng cho nên khó lãnh hội.
Ý nghi này cũng y theo tướng bên ngoài để nói về cắt đứt, nương vào khởi nạn ở trước để gội sạch tình chấp của chúng sinh. a.2) Chính là bác bỏ có ba ý: a.2.1) Phân tích chung về điều sai:
Phật bảo A-nan! Trong thế gian tất cả cảnh vật có lớn nhỏ, trong ngoài, tốt xấu v.v... đều thuộc về trần cảnh hiện tiền, chớ không phải cái thấy của ông có lớn nhỏ, tóp lại hay kéo dài ra.
Lớn nhỏ trong ngoài đối đãi giả lập đều thuộc về trần cảnh hiện tiền, thấy được chân tâm làm sao tóp lại hay sao kéo dài ra. Cho nên ở đây trách chung, làm cho biết được điều sai trái. a.2.2) Nêu ví dụ giải thích nghĩa, có bốn ý: a.2.2.1) Hỏi cả hai:
Thí như trong cái hộp vuông thì thấy hư không vuông. Ta lại hỏi ông! trong cái hộp vuông này thấy hư không vuông la nhất định vuông hay là không nhất định vuông. Cái hộp dụ cho trần cảnh hiện tiền, hư không dụ cho tánh thấy. Cái vuông tròn của hư không dụ cho nghi cái thấy có tóp lại, có kéo dài ra. a.2.2.2) Bác bỏ cả hai:
Nếu nhất định là vuông thì để vào cái chén tròn lẽ ra nó phải không tròn.
Nếu không nhất định vuông thì khi để vào cái hộp vuông nó phải không vuông. Hư không ở trong cái bình vuông nếu nhất định là vuông, đập vỡ cái bình vuông để vào cái bình tròn. Chỗ này hư lẽ ra không có tướng tròn. Nếu nói hư không chẳng nhất định vuông thì rõ ràng bình vuông chứ chẳng phải hư không vuông. a.2.2.3) Hợp hiển:
Ông nói không biết nghĩa ấy thế nào: tánh nghĩa như thế, làm sao nói là ở đâu?
Ông nghi tánh thấy bị cắt đứt phải quyết định bởi một nghĩa. Nghĩa của tánh thấy giống như hư không, hư không đâu có vuông tròn mà có chỗ ở?
Đây là nói cái thấy chân thật cùng khắp không có nơi chốn, như hư không kia. Cho nên Kinh Niết-bàn nói: Pháp hữu thường trùm khắp mọi nơi vì hư không là thường cho nên chẳng nơi nào không trùm khắp.
Như Lai cũng vậy, trùm khắp tất cả mọi nơi cho nên là Thường, pháp vô thường đây có kia không, Như lai thì không như thế, cho nên là thường. a.2.2.4) Hội giải thích:
A-nan! Nếu lại muốn làm cho nhập vào không vuông tròn thì chỉ cần đập vỡ cái hộp vuông, thể của hư không chẳng vuông, không nên nói đập bỏ tướng vuông của hư không để hiểu được.
Nếu muốn hiểu được nghĩa không vuông tròn chỉ cần đập vỡ sự vuông tròn của cái hộp chứ không thể đập vỡ hình dáng vuông tròn của hư không. Nếu muốn thông hiểu nghĩa không lớn nhỏ chỉ dứt bỏ trần cảnh lớn nhỏ, không thể nói tánh thấy có rộng hẹp. a.3) Y theo nghi để nạn pha, có hai ý: a.3.1) Nghi dùng kéo dài để bác bỏ rút ngắn:
Nếu ông hỏi khi vào nhà thì rút ngắn cái thấy làm cho nhỏ lại. Khi ngước lên nhìn mặt trời chẳng lẽ ông kéo cái thấy dài ra cho tới mặt trời. Nếu ông chấp vào lời nói rút ngắn cái thấy thành nhỏ, thì có thể kéo cái thấy cho dài ra đến mặt trời hay sao?
Diện là một bên. a.3.2) Nghi dùng nối dài để bác bỏ cắt đứt:
Nếu khi vào nhà ông cho cái thấy bị cắt đứt, xuyên thành một lỗ nhỏ thì sao không có dấu nối, nghĩa nầy không đúng.
Đâu là cái lỗ, nếu chấp khiến cho cái thấy bị cắt đứt thì lẽ ra phải có nối dài làm cho cái thấy có dấu nối, nếu nối nhau thì lẽ ra có dấu nối.
Hội thông, có hai ý:
1. Mê tâm chấp cảnh: (tám trăm năm mươi)
Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay quên mình theo vật, bỏ mất bổn tâm bị vật xoay chuyển. Bởi vậy ở trong đó thấy có lớn nhỏ: quên chân tánh rồi thành vật có sắc tâm. Sắc tâm đã thành, chân tánh liền ẩn, cho nên nói mất bổn tâm. Văn trước nói năng sinh ra các duyên, sở duyên mất, cảnh từ tâm biến hiện, tâm chuyển theo cảnh. Cho nên thấy lớn nhỏ khác nhau, trong ngoài khác nhau, không thể lìa duyên quán tánh, chỉ biết sinh chấp theo cảnh, cho nên có các thứ nghi ngờ điên đảo ở trước.
2. Ngộ vật đồng chân:
Nếu chuyển được vật thì đồng với Như Lai, thân tâm tròn sáng, đạo tràng bất động, đầu sợi lông có thể chứa đựng khắp các cõi nước ở mười phương. Nếu hiểu rõ sắc tâm nhân duyên hòa hợp luống dối mà có sinh khởi. Nhân duyên không lìa luống dối gọi là diệt, sinh diệt đến đi.
Như Lai tạng, sẵn có trong tánh chân thường mà tìm cầu đến đi, mê ngộ sinh tử thì hoàn toàn không thật có. Đây là nói vọng chỉ có chân, không có vật để chuyển là chuyển vật, chân thật, trái trần hợp giác, đồng với chư Phật.
Thân tâm tròn sáng, Thân tròn sáng thì đầu sợi lông hiện được cõi nước. Tâm tròn sáng thì soi chiếu khắp pháp giới, đây chính là ngộ vật đều là chân thì thành diệu dụng. Cho nên văn dưới nói: Ta vì không sinh không diệt hợp với Như Lai tạng, mà Như Lai tạng chỉ là diệu giác tròn sáng chiếu soi pháp giới. Bởi vậy ở trong đó một là vô lượng. Cho đến ngồi trong hạt bụi mà xoay bánh xe đại pháp v.v... Xong các văn trên điều y theo đối cảnh để giải thích cái thấy, hiển rõ cái bất sinh diệt như bàn tay xòe nắm, thân thay đổi vật khác nhau của vật mà giải thích tướng thô, thầm bày sinh diệt tức không sinh diệt, còn thấy cảnh bên ngoài là pháp sinh diệt, nay hội thông điều nầy làm cho rõ tâm và cảnh đều do mê mà thành, không có một pháp ngoài tâm để đối nhau, thì các pháp đều như, các trần đều khắp, rõ ràng hiển bày làm cho ngộ bổn chân đồng với Như Lai.
Văn dưới dù có phá các nghi hỏi, mỗi nghi hỏi tùy theo văn hội thông đều là ý này.
Phá nghi "tánh thấy lìa thân":
Nghi này, do ở trước Phật bảo chuyển được vật thì đồng Như Lai thân tâm tròn sáng, không hội thông rõ yếu chỉ muôn pháp bèn cho là Như Lai, làm cho chuyển vật hiện tiền thành cái thấy chân thật của ta.
Nếu vật là cái thấy thì tánh thấy này lìa thân mà có, cho nên thành cái nghi này.
Văn có ba ý:
1. Lại nghi, có ba ý:
1. Nghi:
A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! nếu cái thấy này chắc chắn là tánh nhiệm mầu của con, nay tánh nhiệm mầu này hiện ở trước con, cái thấy chắc chắn là chân tâm của con, nay thân tâm con là vật gì? Nếu vật này ở trong kiến tinh thì chắc chắn là tánh chân thật của con, rõ ràng tánh này đang ở trước mắt con, đã lìa thể của con. Cái thấy trước mắt này đã là chân ngã, nay thân tâm không phải là con, thì là vật gì?
2. Hỏi vặn:
Mà nay thân tâm phân biệt là có thật, cái thấy kia không có phân biệt riêng về thân con, nếu thật là tâm con thì làm cho thấy, cái thấy thật là con mà thân chẳng phải con. Nếu dùng lý mà suy thì nay thân tâm này phải thật có phân biệt, duyên theo cảnh giới, cái thấy ở trước mắt kia lại không biết phân biệt đối với thân con.
Cái thấy kia nếu thật là chân tâm của con thì khiến cho con thấy.
Kia đã thật là con thì con lẽ ra chẳng phải là con.
3. Kết thúc:
Đâu khác Như Lai trước đó hỏi vặn rằng, vật có thể thấy ta, cúi mong Như Lai từ bi khai phát cho người chưa ngộ, dù cho cái thấy kia có khả năng phân biệt thì đâu khác trước đó hỏi ông đã thấy vật, vật cũng thấy ông, thì các thế gian không thành an lập.
2. Phá rộng có ba ý:
1. Như Lai bác bỏ nghi, có ba ý:
a) Nêu chỗ sai lầm.
Phật bảo A-nan! Nay ông nói cái thấy ở trước ông, nghĩa này không đúng.
Trước nói các pháp đều do tâm, cho nên nói nếu chuyển được vật, không hiểu rõ ý này vọng cho rằng cái thấy ở trước mắt, tuy lời hình thành nhưng thật không có việc này.
b) Nhắc lại nghi để lập lý:
Nếu thật ở trước ông mà ông thật thấy, thì cái thấy này đã có nơi chốn, chẳng phải không chỉ bày ra được, dù cho trước mắt thấy được thì lẽ ra có nơi chốn để chỉ ra, đâu thành cái thấy chân thật lìa danh bặt tướng.
c) Y theo lý chánh bác bỏ, có hai ý:
Y theo lìa vật để suy ra cái thấy này, có ba ý: c.1.1) Nêu ra thể, có bốn ý:
- Dạy quán vật tượng:
Lại, nay ta và ông ngồi trong rừng Kỳ-đà thấy khắp rừng rậm và các điện đường, trên đến trời trăng, trước mặt đối diện sông Hằng. Nay ông ở trước tòa sư tử của ta đưa tay chỉ từng món, chỗ im mát kia là rừng, chỗ sáng nọ là mặt trời, chỗ ngăn ngại này là vách, chỗ trống là hư không. Như thế dù cho cỏ cây hoa lá, lớn nhỏ tuy khác. Nhưng đều có hình tướng để chỉ ra được cả.
Vật tượng khác nhau, lớn nhỏ tuy khác, hình tướng đã chia ra phải quy về ngón tay chỉ.
- Khuyên chỉ tánh thấy.
Nếu cái thấy đó hiện ở trước mặt ông, ông nên dùng tay chỉ cho xác thật, cái nào là cái thấy: Nếu tánh thấy ở trước mắt ông thì đồng với vật tượng, hãy chỉ ra tánh thấy như thế nào.
- Dùng lý để nêu lên.
A-nan! nên biết, nếu hư không là cái thấy, đã thành cái thấy thì làm sao là hư không? Nếu vật là cái thấy, đã là cái thấy thì làm sao là vật? Các vật tượng tuy khác nhau mà chẳng lìa có không, cho nên dùng hai việc để giải thích cái thấy này.
- Khiến cho chỉ rõ:
Đối với các cảnh vật sum la, muôn tượng ông nên chín chắn phân biệt rõ ràng chỉ cho ta xem, đồng với các vật kia phân tích không mê hoặc.
Phi là mở, bác là tách, tích là chia chẽ, vật tượng trước mắt bao la đều thấy, phải ở chỗ này phân tách phân biệt làm cho cái thấy này xuất hiện rõ ràng. Như các vật tượng không bị mê loạn. c.1.2) Đáp giải thích không có khả năng có hai ý:-Thuật rồi không có khả năng:
A-nan thưa! nay con ở trong giảng đường lầu gác này, xa đến sông Hằng, trên thì thấy trời trăng, đưa tay để chỉ, dùng mắt để thấy, ngón tay đều là vật chẳng phải cái thấy. Mắt nhìn ngón tay chỉ là thấy duyên trần, đối với các vật không giải thích được cái thấy này.
-Dẫn cái khác để so sánh:
Bạch Đức Thế tôn! Như lời Phật nói so với các Thanh Văn mới học hữu lậu như con đây, cho đến các Bồ-tát cũng không có khả năng ở trước muôn cảnh tượng phân tách cái thấy, lìa tất cả vật thì không có tự tánh. Nếu Phật nói chỉ ra cái kiến tịnh rõ ràng không mê hoặc, cho đến Đại Bồ-tát chứng chân cũng không thể đối với các vật tượng mà phân ra cái thấy ấy, huống chi chúng con là Thanh Văn mới học ư? c.1.3) Ấn thành khó phân ra:
Phật nói: Đúng thế! Đúng thế! Ấn ấy không thể phân ra tánh thấy. c.2) Y theo tức vật để bác bỏ chẳng phải cái thấy, có bốn ý: c.2.1) Nhắc lại trước là không đúng:
Phật lại bảo A-nan! Như lời ông nói không có cái kiến tinh lìa tất cả vật có tự tánh riêng; cho nên trong các vật mà ông chỉ ra không phải cái thấy. Đã không thể đối với cảnh vật mà biện ra tánh thấy. Đây là cái chỉ ra đều là vật, không phải cái thấy này. Đã không phải cái thấy tức là chẳng thấy, cho nên ở dưới nêu ra. c.2.2) Nêu cái hữu nầy là sai:
Nay ta lại bảo ông, ông và Như Lai ngồi trong rừng Kỳ đà, thấy vườn rừng cho đến (tám trăm năm mươi mốt) các thứ, cảnh tượng khác nhau như trời trăng v.v... chắc chắn là không có cái kiến tịnh được ông chỉ ra, ông lại phát minh, trong các vật nầy cái gì không phải tánh thấy, nếu hiểu rõ duy chân, lại không phải thấy, chẳng thấy. Vì không hiểu rõ cho nên tùy lời nói mà sinh chấp. Còn nêu lên câu hỏi không biết từ đâu, xuống đến hội thông sẽ thấy rõ ràng. c.2.3) Đáp giải thích không biết.
A-nan thưa! Bạch Đức Thế tôn! con thật thấy khắp rừng Kỳ-đà này, nhưng con không biết trong đó cái nào chẳng phải cái thấy, vì sao? Vì nếu rừng cây kia không phải cái thấy thì làm sao thấy được rừng cây, nếu rừng cây kia là cái thấy thì sao gọi là rừng cây, như thế cho đến nếu hư không chẳng phải cái thấy thì sao nói là thấy hư không? Nếu hư không là cái thấy thì sao gọi là hư không? Con lại suy nghĩ trong muôn tượng sum la này phát minh vi tế thì cái nào cũng là cái "thấy" cả. Trước đáp không biết, dưới giải thích lý do không biết. Nếu rừng cây không phải cái thấy, vì sao gọi là thấy cây? Lại nếu rừng cây này là cái thấy thì vì sao gọi là rừng cây? Hư không co sánh với giải thích lìa này nó đã không thể, được tức lại khó rõ, tiến lùi nghiên cứu chưa biết chỗ thích hợp. c.2.4) Ấn thành khó hiểu:
Phật bảo A-nan! Đúng thế! Đúng thế! Đúng như ông giải thích cái nào cũng là cái thấy cả, về đúng như vậy cho nên nói đúng thế.
Đại chúng hoang mang:
Bấy giờ, trong đại chúng những người không phải là bậc Vô học nghe Phật nói lời này hoang mang không biết nghĩa này ngã ngủ ra sao: hễ sợ hãi thì hoang mang. Hoang mang: Là mờ mịt không sáng suốt, nghĩa của cái thấy nầy đã mất, chẳng có lý cái thấy lại trái ngược, đầu cuối khó rõ. Quy về đâu mà không biết cái năng thấy, sở duyên đều là tướng mệt nhọc, đúng sai liền lìa, đều là duyên trần, tuệ của pháp không chưa mở, mê hoặc trí chướng khó phá, do đó những vị chưa phải là bậc Vô học nhất thời hoang mang.
Đấng Pháp Vương an ủi tâm ý:
Như Lai biết tâm niệm của A-nan và đại chúng hoang mang nên sinh tâm thương xót, an ủi A-nan và đại chúng: Nầy các thiện nam! Đấng Pháp Vương vô thượng là Đấng Chân Thật Ngữ. Lời Như Lai nói không dối, không vọng, không phải bốn thứ luận nghị không ngả ngũ của Mạt-già-lê. Ông hãy suy nghĩ kỹ, chớ có xao động tâm tư.
Tập: Là sợ.
Vua thế gian còn không nói hai lời, huống chi là vua Pháp, đích thân chứng đắc mà nói, nên gọi là lời Như Lai nói.
Phật nói có năm thứ ngữ: Chân ngữ, thật ngữ, như ngữ, Bất cuống ngữ, và bất dị ngữ. Không luống dối gọi là Chân, xứng lý gọi là Thật, bất biến gọi là Như, tâm cảnh tương ứng gọi là bất cuống, cái thấy xa chưa được như vậy gọi là bất dị. Bất thời, biết cơ ứng căn mà nói, đâu đồng với luận thuyết không ngả ngũ của ngoại đạo.
Câu bốn thứ luận thuyết không ngả ngũ sẽ giải thích: Ý này phải làm rõ, đúng sai đều lìa, tâm cảnh đều dung thông, nói lên thể chân diệu không có lời nói vô nghĩa. Cho nên bảo suy nghĩ cho kỹ, không phải ý hời hợt.
Hội thông, có hai ý:
1. Văn-thù đứng bên vì đại chúng thưa hỏi, có ba ý:
a) Nói về chưa ngộ.
Bấy giờ, Pháp Vương Tử Văn-thù-sư-lợi thương xót bốn chúng ở trong đại chúng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng, Bạch Đức Thế tôn! Các đại chúng này chưa ngộ được lời Như Lai phát minh hai thứ kiến tinh sắc không là cái thấy hay chẳng phải cái thấy, đại chúng hoang mang không biết ra sao. Tuy nghe Đức Như Lai an ủi, bảo suy nghĩ cho kỹ. Nhưng trí tuệ không sáng suốt, nên chưa hiểu được câu hỏi. Văn-thù là bậc trí đức nên phụ phát cơ.
Trước nói chưa ngộ, sau mới thỉnh chỉ dạy. Nói hai thứ là đối với sắc không nói về hai nghĩa kiến tinh có phải cái thấy hay không phải cái thấy.
b) Nêu lý do:
Bạch Đức Thế tôn! Các cảnh tượng sắc không duyên trước mặt, này nếu là cái thấy thì phải chỉ ra được. Nếu không phải cái thấy thì không thể thấy được. Mà nay không biết nghĩa này thế nào, cho nên mới sợ hãi. Không phải là ngày xưa gốc lành kém cỏi, tự là đúng sai khó rõ, chẳng phải nói gốc lành ít ỏi cho nên sợ hãi.
Trù tích: Tức là ngày xưa. c) Vì đại chúng thưa hỏi:
Mong Đức Như Lai đại từ phát minh các cảnh vật này và kiến tịnh này vốn là vật gì? Trong đây không có cái phải và cái không phải.
A-nan trước đó nói chẳng phải là cái thấy, chẳng phải không có cái thấy. Như Lai ấn khả từng thứ ý muốn đối với pháp giới chân thật đật được chẳng phải cái thấy, cũng chẳng phải không là cái thấy.
Cho đến hoang mang sợ hãi, lại đặn ông suy nghĩ cho kỹ. Điều này Như Lai muốn làm cho liễu ngộ pháp giới là Nhất tướng.
Văn-thù-sư-lợi thương xót đại chúng, xin Phật chỉ rõ cái thấy này và duyên vốn là vật gì, chẳng phải cái thấy, cũng chẳng phải không phải cái thấy.
2. Như Lai hội thông cho, có ba ý: a) Nói các pháp đều là chân thật, đúng sai đều dứt bặt.
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi và các đại chúng, các Đức Như Lai và Đại Bồ-tát mười phương an trụ trong Tamma-đề, định tự tại tức là Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm các pháp như huyễn, pháp giới nhất tướng.
Luận Khởi Tín nói: "Chư Phật đã lìa nghiệp thức, không có cái thấy về tướng mình và người. Bậc Đăng Địa trở lên chứng được từng phần pháp này. Cũng như cái thấy của Phật, cái thấy và duyên thấy đều là tưởng bị tưởng. Cái thấy là thể của thức. Duyên thấy tức là căn, là duyên Tăng thượng, vì có công năng sinh ra thức nên tướng của cái bị tưởng tức là cảnh, là duyên sở duyên.
Vì lôi kéo sinh ra thức cho nên văn dưới nói: Tướng của tưởng là thức tình của trần cảnh thuộc về cấu, hoặc có thể cái thấy là căn, duyên thấy là cảnh. Tướng bị tưởng là thức. Căn cảnh và thức này là mười tám giới, nhiếp hết tất cả. Tức là pháp do nhân duyên sinh trong bốn câu của Ngài Long Thọ là.
Như hoa đốm trong hư không vốn không thật có: Căn, cảnh và thức này từ vọng tâm mà có, thể của nó vốn không. Như hoa đốm trong hư không: Là khi bị nhặm mắt cho nên thấy.
Văn dưới nói: Thấy nghe như mắt nhặm. Vì ba cõi như hoa đốm trong hư không, đây chính là ta nói tức là không. Cái thấy và duyên này như hoa đốm trong hư không, vốn không có tự thể. Trong thế tục đế gọi là căn cảnh, cũng gọi là Giả danh. Vốn là Bồ-đề diệu tịnh minh thể, vì sao ở trong đó có phải cái thấy, không phải cái thấy.
Các Pháp vô thể, vì bất giác cho nên có: Bất giác tức là giác, vốn là Bồ-đề.
Luận Khởi Tín nói: Niệm không có tự tướng, không lìa bổn giác, nếu lìa tánh giác thì không có bất giác.
Ở dưới kinh cũng nói: Cái thấy và duyên thấy giống như cảnh hiện tiền vốn là giác minh của ta, cũng là nghĩa Trung đạo.
Trước đó, Văn-thù hỏi các vật tượng này và kiến tinh này vốn là vật gì. Cho nên Phật đáp: Vốn là Bồ-đề diệu tịnh minh thể. Đây là nói nhất chân pháp giới lìa tánh lìa tướng, thu nhiếp hết các pháp, thảy đều như thế, sao lại nói là cái thấy, không phải cái thấy, tức là gội trừ duyên trần xưa nay để giải thích cái thấy, hoặc là cái thấy, hoặc là trần, tướng của cái thấy, của không phải cái thấy.
Nếu không dùng Tam-muội để gội trừ làm sao khế hợp với Nhất như cho nên Ngài Tịnh Danh dứt lời, ý là như thế.
Dẫn ý Ngài Văn-thù làm ví dụ hai tướng vốn không, Có ba:
b.1) Dẫn dụ, có hai ý:
Hỏi: Phật hỏi Ngài Văn-thù! Thì còn có Văn-thù Văn-thù, vậy có thể nói Ông thật là Văn-thù, nay không phải Văn-thù hay không? Ý Phật hỏi rằng: Như Ông là Văn-thù là một thể tánh. Ta muốn ngay đây lại đặt tên là Văn-thù. Lại muốn (tám trăm năm mươi hai) ngay đây đặt một tên gọi là Văn-thù, đã được rồi không. Ý nói về một chân thể, không đặt tên, không lập vô tướng, đúng đối với sai để lập, vô đối với có mà gọi.
Cái thấy đúng sai, có không, nói lời vô nghĩa đâu hội nhất chân.
Trước y theo quán môn, không có tướng đúng sai, chỉ có chứng mới biết được. Nếu không chỉ ra việc để làm sáng tỏ thì chưa chứng làm sao lãnh hội. Cho nên nhờ Ngài Văn-thù để nói về Nhất tướng.
Đáp: Đúng thế! Bạch Đức Thế tôn, chính con là Văn-thù, thì không thể nói thật là Văn-thù được, vì sao? Vì nếu có thật Văn-thù thì có hai Văn-thù. Nhưng con ngày nay là Văn-thù rồi thì không thể nói hai tướng thật hay không được. 1) Trước đáp không phải, nếu lập là x tức x đối với tướng không mà có, cho nên nói là hai Văn-thù.
Kế đáp là chẳng phải không, nếu lập là không thì thành đoạn diệt, lấy gì gọi là chính thể của Văn-thù, nhưng đối với chân thể không có phải hay không phải. Cũng có thể nói chân, thể hoàn toàn không, cái thấy và duyên thấy cũng thế, vì đồng là nhất chân nên không có hai tướng.
2) Hợp hiển:
Phật bảo: cái thấy diệu minh này và các trần cảnh cũng thế, vốn là chân tâm diệu minh vô thượng Bồ-đề tràn đầy, vọng thành sắc không và sự thấy nghe.
Cái thấy này và duyên đều do vọng tâm phân biệt mà có, sao nói là phải mà lại lập sai. Nếu hiểu rõ một tướng của pháp giới đều là nhất như thì đồng với Văn-thù không có sự đúng sai. Cho nên nói cũng thế.
3) Ví dụ lại:
Như mặt trăng thứ hai, cái gì là mặt trăng, cái gì không phải mặt trăng.
Văn-thù: chỉ có một mặt trăng, trong đó không có cái phải mặt trăng hay không phải mặt trăng, vốn chỉ là một mặt trăng, không hề có hai. Người bị bệnh không rõ thì hai tướng bỗng sinh. Đã biết mặt trăng thứ hai không có tự thể, thể thì muốn gọi cái nào là phải mặt trăng, cái nào không phải mặt trăng.
Chỉ vọng bày chân, kết thành được mất.
Cho nên, nay ông xem cái thấy và trần phát minh muôn thứ, gọi là vọng tưởng, không thể đối với các đó sinh ra phải hay không phải. Bởi vậy do tinh chân diệu giác minh tánh nên làm cho ông sinh ra ngón tay hay không phải ngón tay. Nếu còn vọng tưởng thì tâm cảnh khó thoát. Cho nên không thể sinh ra tướng phải hay không phải. Nếu một niệm không sinh thì dứt bờ mé trước sau, chỉ có một diệu giác vắng lặng cùng khắp, ở trong đó không có tướng phải hay không phải, chỉ thì thấy, không chỉ thì không thấy, chỉ có văn thay đổi.
Nhưng Pháp sư Văn Tự khó khăn về chương cú hoàn toàn không thể thông một tướng một vị, không ai chẳng đua nhau chấp vào hoa đốm trong hư không, rồi chạy theo hai mặt trăng, tìm cầu mối lạ. Kia và ta cách nhau như trời với vực, nếu trong bất cứ lúc nào cũng không khởi vọng niệm thì đối với tâm vọng cũng không dứt diệt. Sống trong cảnh vọng tưởng không hề biết rõ, đối với không hề hiểu rõ không giải thích chân thật. Đó là thuận theo giác tánh, vì sao nói có tướng phải hay không phải ở đây?
Bác bỏ nghi nhân duyên, tự nhiên, có hai:
1. Bác bỏ tự nhiên, có hai ý:
1. Trình bày vặn hỏi, có ba ý: a) Nạn ngoại đạo chấp đồng chân:
A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Thật như lời Thế tôn nói, duyên của cái biết trùm khắp các thế giới ở mười phương, vắng lặng thường trụ, tánh không sinh diệt. Duyên của cái biết do hành tướng, trùm khắp không sinh chính là duyên này Và phạm chí Bà-Tỳ Ca-la luận về minh đế: có gì khác với loại ngoại đạo bôi tro vào người, nói có chân ngã trùm khắp mười phương?
Bà-la-Môn, Hán dịch là Phạm Chí, hoặc là Tịnh chí, bôi tro vào thân, tức là tu khổ hạnh lõa hình bới tóc, dùng gai đánh vào thân, đốt thân bằng năm nguồn nhiệt.
Ngã trùm khắp mười phương: Ngoại đạo này không biết thức A-lại-da là giới thú hướng về sinh, vốn chứa đựng hạt giống tăng thức mê hoặc tươi nhuần thọ sinh.
Rồi chấp rằng trong thân có một thần ngã thường trụ bất diệt, thọ sinh khắp nơi, trùm khắp các cõi mười phương. Điều ấy là nói chấp về hành tướng của ngã.
Dường như lạm vào chân giác. Cho nên nói có gì khác nhau.
b) Bắt bẻ trái với lời nói của mình:
Bạch Đức Thế tôn! Ngày trước Phật từng ở núi Lăng-già vì Bồ-tát Đại Tuệ mà trình bày nghĩa này. Ngoại đạo kia thường nói tự nhiên, còn ta thường nói nhân duyên chứ không phải cảnh giới ấy.
Tỳ-lăng-già: Hán dịch là Năng chủng chủng hiện. Phật nói kinh Lăng-già cho Bồ-tát Đại Tuệ nghe ở núi ấy, nói về các nhân duyên. Ngoại đạo kia chấp vào cái thấy Tự nhiên.
Nghĩa nhân duyên là cảnh giới mà ngoại đạo không thể biết được.
c) Hai lần kết thỉnh chỉ dạy:
Nay Con quán giác tánh tự nhiên này không sinh không diệt, xa lìa tất cả luống dối điên đảo. Dường như không phải nhân duyên và tự nhiên kia, làm sao nói chỉ dạy không vào các tà được tâm chân thật, tánh diệu giác minh. Nay quán sát giác tánh vốn vô sinh, lìa các luống dối, có khi khác với kinh Lăng-già nói, với ngoại đạo kia chấp cái thấy tự nhiên thì làm sao phân biệt. Điều này không biết Như Lai tùy nghi nói pháp. Khi ở núi Lănggià vì phá ngoại đạo không hiểu rõ nghiệp chủng huân tập, chiêu cảm tăng thượng bên ngoài, bèn vọng chấp là quạ tự nhiên là đen, hạc tự nhiên là trắng. Cho nên Phật nói có nhân duyên, y theo duyên khởi lý của tướng thế gian, nay ở đây nói thẳng pháp tánh nhất chân đâu đồng với nhân duyên tùy theo lời ý người khác ư?
2. Chính là bác bỏ có hai ý:
a) Nhắc lại nghi để xét định:
Phật bảo A-nan! Nay ta dùng phương tiện chân thật như thế mà chỉ bày cho ông, ông vẫn chưa ngộ, lại còn mê muội chấp là Tự nhiên. Này A-nan! Nếu chắc chắn là tự nhiên thì ông phải phân biệt rõ có tự thể tự nhiên.
Chỉ bày phương tiện: Y theo lý, y theo sự, y theo dụ, về cảnh mỗi mỗi đều hiện rõ tánh chân thật, còn ở đây không liễu ngộ, mê chấp là Tự nhiên, nếu đúng là tự nhiên thì phải có tự thể, làm sao phân biệt?
b) Y theo duyên để bác bỏ, có hai ý:
b.1) Nêu lên:
Ông lại xem trong cái thấy diệu minh này cái gì là Tự nhiên: Cái thấy nầy cho cái sáng là tự nhiên hay cho cái tối là tự nhiên, hay lấy cái trống rỗng làm tự nhiên, hay lấy cái ngăn bít làm tự nhiên? Thể của Tự nhiên là ở chỗ nào? Cho nên, y theo bốn cảnh mà hỏi để nói lên thể vô đắc.
b.2) Bác bỏ:
Nầy A-nan! Nếu cho sáng là tự nhiên thì không thấy được tối. Nếu rỗng không là tự thể thì không thấy ngăn bít.
Như thế cho đến các tướng như tối, v.v... cho là tự nhiên thì khi sáng v.v... tánh thấy liền mất, làm sao thấy sáng. Nếu bốn cảnh chính là tự thể của cái thấy thì cũng trái ngược nhau, là tự không thành.
Hễ thuộc một cảnh thì không thấy ba, nay Ông không phải như vậy vì sao vọng chấp?
2. Bác bỏ nhân duyên, có hai ý:
1. Trái với trước là khó, có ba:
a) Nêu lời hỏi vặn:
A-nan nói: Hẳn là tánh của cái thấy nhiệm mầu nầy chẳng phải tự nhiên, nay con phát minh là nhân duyên sinh, tâm vẫn còn chưa rõ, thưa hỏi Như Lai nghĩa nầy thế nào hợp với tánh nhân duyên. (853) Đã không phải tự nhiên thì chắc chắn là nhân duyên. Nghĩa của nhân duyên vô thường sinh diệt, đây có kia không, thể không trùm khắp, đâu đồng với giác tánh vắng lặng thường trụ đầy khắp các cõi nước trong mười phương.
Vì hành tướng trái nhau cho nên nói làm sao hợp với tánh nhân duyên.
b) Chính là bác bỏ có hai ý.
b.1) Phá về nghĩa nhân, có hai ý.
b.1.1) Nêu lên:
Phật nói: Ông nói nhân duyên sinh, vậy ta lại hỏi ông: Nay Ông do thấy cái thấy hiện tiền, cái thấy này là do ánh sáng mà có hay là do cái tối mà có, hay là do rỗng không mà có, hay do ngăn bít mà có, cho nên nói do cái thấy, hay lấy cảnh làm nhân mà có cái thấy này? Lại dùng bốn cảnh để gạn về nhân của cái thấy. b.1.2) Bác bỏ:
A-nan! Nếu do ánh sáng mà có thì phải không thấy tối. Nếu do tối mà có thì phải không thấy sáng. Như thế cho đến do rỗng không, ngăn bít đồng với sáng tối.
Bốn cảnh trái nhau, một và ba đều thiếu thì nhân không thành.
b.2) Bác bỏ duyên, có hai ý.
b.2.1) Nêu lên:
Lại nữa! Này A-nan! Cái thấy này duyên vào sáng mà có? Hay duyên vào tối mà có? Hay duyên vào rỗng không mà có? duyên vào ngăn bít mà có?
Nhân là thân, duyên là sơ, chia làm hai môn, bác bỏ trái nhau rồi, bốn nghĩa đã gạn xong.
b.2.2) Bác bỏ:
A-nan! Nếu duyên vào rỗng không mà có thì lẽ ra phải không thấy ngăn bít. Nếu duyên vào ngăn bít thì lẽ ra phải chẳng thấy không. Như thế cho đến duyên vào sáng, duyên vào tối đồng với rỗng không và ngăn bít. Như văn kinh.
c) Hội thông, có hai ý:
c.1) Quên tướng bày pháp:
Phải biết cái tinh giác diệu minh nầy chẳng phải nhân, chẳng phải duyên, chẳng phải tự nhiên, cũng chẳng phải chẳng tự nhiên, không phải phi, không phải bất phi, không phải thị, không phải phi thị, lìa tất cả tướng, tướng của cái mất có chung tám câu, đó là: Nhân duyên, tự nhiên, thị, phi. Bốn điều này là bệnh, không phải nhân duyên, không phải tự nhiên, không phải thị, không phải phi, bốn điều này là thuốc. Văn Kinh từ ba câu dưới phi nhân duyên, đều mất thuốc và bệnh của nhân duyên tự nhiên, nghĩa là phi nhân duyên, phi tự nhiên, phi không nhân duyên, phi không tự nhiên.
Nghĩa không nhân duyên ở trong cái tự nhiên, hai câu dưới phi không tức là mất bệnh thuốc về thị phi nghĩa là vô phi, vô bất phi, vô thị, vô bất thị. Bệnh thuốc đều mất, không có dấu vết để ngưng trệ, chỗ tâm hành diệt, đường nói năng dứt, cho nên nói là tất cả tướng. Vì các tướng trước mắt đều là chấp biến kế luống dối.
Tức tất cả pháp, tinh giác diệu minh, không phải chỉ riêng các pháp xa lìa chấp biến kế luống dối tức là viên thành diệu giác tánh minh, cho nên Luận Khởi Tín nói. Bởi vậy tất cả pháp xưa này lìa tướng nói năng, lìa tướng danh tư, lìa tướng tâm duyên. Cho đến chỉ là nhất tâm, nên gọi là chân như.
Duy Thức cũng nói: Thắng nghĩa của các pháp này cũng chính là chân như. Vì tánh ấy thường như, tức là tánh Duy thức.
Lại nói: Viên thành thật đối với cái thường xa lìa tánh trước, ở dưới kinh giải thích rộng phải biết trước điều này. c.2) Kết thúc quở trách tình chấp vướng mắc:
Nay Ông vì sao đặt tâm trong đó, dùng danh tướng nói suông của tất cả thế gian mà được phân biệt. Như dùng tay nắm hư không, chỉ tự mệt nhọc, làm sao ông muốn nắm lấy hư không thì nắm được?
Nhân duyên tự nhiên đều là danh tướng nói suông của thế gian, vì sao ở trong chân giác lại khởi tâm phân biệt. Như văn dưới nói: Tâm ông vừa khởi thì trần lao khởi trước, tay nắm chân giác hư không thì tự làm cho mình nhọc, không có ích gì.
2. Dẫn kinh để hỏi lại.
a) Nêu câu hỏi.
A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Chắc chắn tánh Diệu giác chẳng phải nhân, chẳng phải duyên, sao Thế tôn thường nói tánh thấy có bốn duyên cho Tỳ-kheo nghe, đó là nhờ hư không, nhờ ánh sáng, nhờ tâm và nhờ mắt. Nghĩa này thế nào?
Điều này theo thế tục đế đủ duyên mà thấy là khó. Duy Thức nói có chín duyên, ở đây chỉ nêu bốn duyên, y theo nghĩa của Tiểu thừa giảm năm duyên lớn, tâm là duyên phân biệt.
b) Chính là bác bỏ, có ba ý.
b.1) Chỉ bày chung, gạn lại hai điều.
Phật nói: A-nan! Các tướng nhân duyên của thế gian chẳng phải là Đệ nhất nghĩa. Nói Đệ nhất nghĩa cho nên không có các tướng. Nay cho nhân duyên thế đế là khó, như nói thể của gương sáng sạch lấy hình bóng khác nhau làm khó, đối với lý thì thế nào? A-nan: Nay ta hỏi ông, người đời thường nói tôi thấy, Vậy thế nào gọi là thấy? thế nào là không thấy? Đây là gạn hỏi lý do về thấy và không thấy của thế đế.
b.2) Đáp riêng thưa hỏi cả hai:
b.2.1) Đáp: A-nan thưa: Người thế gian do ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đèn mà thấy các vật thì gọi là thấy. Nếu không có ba thứ ánh sáng nầy thì không thấy được. Đây là nêu do một duyên sáng để đáp thấy các tướng, pháp thế gian là nương gá vào duyên mới gọi là thấy, chẳng phải là cái thấy vắng lặng lìa tướng. Như văn ở dưới nói: Duyên vào cái thấy, do ở cái sáng, tối thì thành không thấy, không sáng tự phát, thì tướng của cái tối không bao giờ tối.
b.2.2) Bắt bẻ, có hai:
- Chính là bắt bẻ:
A-nan! Nếu khi không có ánh sáng thì gọi là không thấy, đáng lẽ cũng không thấy cái tối. Nếu thấy tối nầy chỉ là không sáng. Sao gọi là không thấy. Nếu không có tướng mà gọi là không thấy thì khi tối không có ánh sáng lẽ ra không thấy tối. Nếu thật thấy tối, chỉ có thể nói không thấy sáng, chẳng thể nói là không thấy.
- Bắt bẻ lại:
A-nan! Nếu khi tối vì không thấy sáng nên gọi là không thấy thì nay khi sáng, không thấy tối cũng gọi là không thấy, hai tướng ấy đều gọi là không thấy.
Nếu ông chấp vào lời nói, tuy rằng thấy tối chỉ gọi là không thấy, vì không thấy sáng đây là chuyển chấp.
Kế liền bác bỏ rằng: Nay tuy thấy sáng cũng phải gọi là không thấy, vì không thấy tối. Nếu lập thấy sáng làm cái thấy thì thấy tối cũng phải gọi là thấy. Nếu cho thấy tối làm cái thấy thì thấy sáng cũng phải gọi là không thấy, cho nên nói đều gọi là không thấy. b.3) Kết thành cả hai đều thấy:
Nếu lại tự tướng của hai tướng xâm đoạt lẫn nhau thì chẳng phải cái thấy của ông tạm thời không có trong đó. Như thế thì biết cả hai đều gọi là thấy, sao nói không thấy, sáng tối tự có xâm đoạt nhau, tánh thấy không hề dời đổi. Đây là tướng thấy, thấy tối đều gọi là thấy, chẳng thể nói khi thấy tối gọi là không thấy.
c) Hội thông, có hai ý:
c.1) Kết hiển hội thông, có ba ý.
c.1.1) Hội tánh thấy trước mắt chẳng phải nhờ cái khác mà thành.
Bởi vậy A-nan! Nay Ông nên biết khi thấy sáng, thì cái thấy không phải sáng, khi thấy tối thì cái thấy không phải tối. Khi thấy không suốt thì cái thấy không phải không suốt, khi thấy ngăn bít thì cái thấy không phải ngăn bít, bốn nghĩa này thành tựu, bốn cảnh sáng như v.v... tự thuộc vào tiền cảnh, tánh thấy không hề sinh diệt, tuy thấy bốn cảnh mà chẳng phải bốn cảnh thành tựu ở cái thấy. Người dịch khéo lược bỏ cho nên không trình bày mà chỉ kết luận chung.
Nếu muốn văn kinh đủ câu, thì nên nói: khi thấy sáng thì cái thấy chẳng phải là cái sáng thành tựu, cho đến chẳng phải là cái do ngăn bít thành tựu. Bốn cái thấy này xưa nay giải thích nhiều cách không xem văn trước và không có chỗ này, chỉ thấy lời nói thành tựu rồi tự ý giải thích. Văn không hợp lý yếu chỉ không nêu hết, lẻ loi mà giải thích thì đâu xứng với tâm Phật. Nhưng ý kinh này nói cái thấy chân chánh không nhờ vào duyên sáng tối, nhưng thể nó vẫn thường chiếu. Cho nên ở dưới kinh nói: Không do cái thấy biết do cảnh trần ở trước khởi sáng không thuận theo căn, nhờ vào căn mà phát sáng thì tướng tối không bao giờ tối.
Tánh thấy đã vậy thì tánh nghe cũng vậy,(854) Cho nên ở dưới văn chép: Tiếng vô đã vô diệt, tiếng hữu cũng chẳng sinh, hai tướng sinh diệt đều lìa thì đó là thường chân thật, đâu được lại nói do không, do ánh sáng, do tâm do mắt?
c.1.2) Khai thị thể của cái thấy lìa tướng tự thấy: Ông lại nên biết! Khi thấy cái thấy thì thấy không phải là cái thấy. Trước y theo hạnh vị tin hiểu để nói về cái thấy chân chánh này, không chạy theo duyên sinh, không do cảnh mà khởi, nó vẫn giữ lại ở cái thấy chân chánh mà không mất tự tướng. Nay nói điều này y theo thấy đạo rồi thẳng đến quả vị. Chân dụng hiển phát, khi chiếu vào chân thể thì dụng đều không có tướng thấy. Nếu cái thấy ở trên là dụng, cái thấy ở dưới là thể, khi dụng chiếu thể thì lý trí rỗng rang. Chẳng có tự thể để được, tướng dụng cũng mất cái thấy chẳng phải thấy.
Nếu cái thấy trên là thể, cái thấy dưới là dụng thì khi thể phát dụng không có pháp để chiếu cũng không gọi là thấy. Nếu cái thấy trên là chân, cái thấy dưới là vọng, thì khi chân biết vọng, không có vọng để được cũng không gọi là thấy, vì chỉ một pháp giới không có hai tướng. Đây là do cảnh vô tướng phát trí vô duyên. Trí vô duyên duyên với cảnh vô tướng thì cảnh trí đều hợp. Như nước thêm vào nước không thể phân biệt gọi là thấy.
Duy Thức nói: Nếu khi đối với trí sở duyên đều không có sở đắc, bấy giờ trụ Duy thức, lìa hai tướng chấp đắm. Thấy còn lìa thấy, cái thấy không thể bằng. Tự thể của cái thấy chân chánh còn lìa tướng thấy, không có tự thể để đắc, thì đâu thể làm cho dụng của cái thấy chiếu kịp. Lại thể của cái thấy còn vô thể, đâu bằng với cái dụng có thấy. Lại sự luống dối của sở giác còn không co tự thể, thì cái thấy của năng giáo đâu thể bằng được?
Sao lại nói nhân duyên, tự nhiên và tướng hòa hợp. Đây chính là kết thúc quở trách.
Dùng danh tướng nói suông của thế gian để phân biết chân kiến, hoặc có thể từ cái thấy còn lìa cái thấy ở dưới gọi là kết chân lìa vọng. Ý nói: Tự thể của cái thấy chân thật lìa tướng tự thấy.
Còn không dùng danh tự về cái thấy để so sánh, vì sao lại nói thuộc về nhân duyên và tự nhiên?
Trách hẹp hòi không biết khuyên tiến lên con đường rộng lớn.
Thanh Văn các thầy hẹp hòi không biết, không thể thông đạt thật tướng thanh tịnh. Nay ta dạy ông phải khéo suy nghĩ, không được biếng nhác trên con đường diệu Bồ-đề: tướng Thật vô tướng, ngay nơi thấy mà không thấy, thức cạn trí mê, không có trí tuệ chánh pháp thì không làm sao thông đạt, cho nên khuyên khéo suy nghĩ, không được biếng nhác, được như vậy thì đại hạnh hy vọng đạt được. c.1.3) Đáp thỉnh giải thích rộng, có ba ý: c.1.3.1) Nương lời thỉnh trước:
A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như Phật, Thế tôn vì chúng con mà giảng nói nhân duyên và tự nhiên. Chỉ cho đã nghe, đã biết cái thấy chân thật chẳng phải tướng nhân duyên và tự nhiên. Các tướng hòa hợp và bất hòa hợp, tâm còn chưa nghe: là nói chưa ngộ.
Trong tâm còn nghi cái thấy hòa hợp và không hòa hợp này, chưa được khai mở: Đây là một mê muội, mà nay lại nghe nói thấy cái thấy chẳng phải cái thấy, thì càng tăng thêm mê muội.
Nghĩa hòa hợp v.v... còn chưa sáng tỏ làm sao lại nghe cái thấy chẳng phải cái thấy cho được.
Ở đây chính là say lại thêm rượu, làm sao tỉnh ngộ được. Cho nên nói tăng thêm mê muội, cúi mong Đức Thế tôn rũ lòng từ bi bố thí mắt đại tuệ khai thị cho chúng con tâm giác thanh tịnh sáng suốt. Nói lời ấy xong, khóc lóc đảnh lễ, thọ nhận Thánh chỉ.
Cầu trí pháp không gọi là bố thí mắt đại tuệ, thấy lý thật tướng gọi là tâm sáng suốt thanh tịnh. Đây là nói cái thấy chân thật lìa duyên bặt tướng, dùng nói năng, suy nghĩ không thể được, chẳng phải cảnh giới Nhị thừa cho nên tăng thêm mê muội.
Không nương quyết chọn thì làm sao thông hiểu, cho nên rơi lệ đảnh lễ mà thỉnh. c.1.3.2) Hứa chung giảng nói:
Bấy giờ, Đức Thế tôn thương xót A-nan và các đại chúng mà trình bày con đường tu hành vi diệu đại Đàla-ni, các Tam-ma-đề.
Đà-la-ni: Hán dịch là Tổng Trì nhưng có một chữ, nhiều chữ, không chữ khác nhau. Nếu chỉ cho thần chú ở văn dưới thì nhiều chữ. Nếu hiển về tướng thật lý mầu tức là vô chữ. Nay nói rõ diệu tâm chân giác, đây là nền tảng môn tu hành Tam-muội mầu nhiệm, cho nên nếu không thông đạt mà tu hành đều là tà ngụy. Cho nên chỉ có pháp này là con đường chung.
Phật bảo A-nan! Ông tuy nhớ dai, chỉ giúp ích cho việc học rộng, mà đối với xa-tha-ma quán chiếu sâu kín tâm còn chưa liễu ngộ. Nay Ông lắng nghe, Như Lai sẽ chỉ bày phân biệt cho ông hiểu. Cũng giúp cho kẻ hữu lậu đời tướng lai được quả Bồ-đề.
Tâm nhiệm mầu này vì muốn chúng sinh sinh tín hiểu cho nên giải thích rõ và mở bày bằng nhiều cách.
Nếu muốn minh chứng đích thân chứng hiển bày rõ cảnh giới này nên hiên vô lượng sở đắc trong vị mật quán chiếu Xa-ma-tha, lìa các phân biệt mới gọi là đích thân chứng, nên Luận Khởi Tín nói: Lìa lời nói chân như là cảnh trí quán chân như. Ý theo lời nói là cảnh sinh tín. Nay phân tích học rộng nhớ dai, không tu lý quán cho nên đối với cảnh này tâm vẫn chưa liễu rõ.
Nên kinh Bát-nhã nói: Vì vô sở đắc cho nên đắc Vô thượng Bồ-đề. c.1.3.3) Nêu việc khai hiểu, có ba ý:
* Nêu cả hai cái thấy:
A-nan! Tất cả chúng sinh luân hồi trong thế gian do hai thứ điên đảo phân biệt vọng thấy, ngay đó phát sinh ngay nơi nghiệp mà luân hồi.
Hai cái thấy ấy gồm?
Một là chúng sinh nghiệp riêng vọng thấy. Hai là chúng sinh phần chủng vọng thấy.
Một niệm tâm động gọi là phân biệt, vì động cho nên có thấy, đều không có thật thể, nên nói vọng thấy. Một niệm này động không có sở y khác, chỉ mê nhất chân bỗng nhiên khởi lên cho nên nói ngay đó phát sinh. Đây chính là nghĩa vô minh vô thỉ.
Luận Khởi Tín nói: Vì không đạt được nhất pháp giới nên bỗng nhiên niệm khởi, gọi là vô minh, tức là vô minh này động tâm gọi là Nghiệp. Động thì có khổ, quả không lìa nhân. Cho nên nói nghiệp trôi lăn. Đây là nói căn bản vô minh từ vô thỉ, cũng gọi là Nghiệp, cũng gọi là vọng thấy. Như văn dưới nói: Ông thấy hư không trùm khắp các cõi mười phương, không thấy thì không phân, có không chẳng có tự thể, có thấy không biết gọi là kiếp trước. Vọng thấy là một, y theo phần người là hai, cho nên có tên đồng khác. Chúng sinh hướng về Phật, thấy vô thấy khác, lại chúng sinh vọng thức, cảnh duyên có khác, nên gọi là nghiệp riêng. Như văn dưới chép: Thấy ta và ông cùng chúng sinh trong thế gian đều là cái thấy của người mù bẩm sinh, tánh không phải bẩm sinh, cho nên không gọi là thấy.
Luận Khởi Tín nói: Nếu lìa nghiệp thức thì không có tướng thấy. Nên biết chưa lìa nghiệp thức thì đều có thấy. Không thấy tức là chân, có thấy đều là vọng, cho nên nói vọng thấy. Cái vọng thấy này y theo cõi chúng sinh, kia kia đều như vậy. Cho nên nói đồng phần. Cái biết này vọng thấy là một, y theo người gọi là khác. Cho nên không thể phối hợp với hai nghiệp thường tình, e rằng mất đi ý chỉ của kinh. Văn dưới nói một người bị bệnh nhặm mắt, đồng với một nước của họ. Người kia thấy hình bóng tròn, do mắt đau sinh ra. Chúng đồng phần này hiện điều không tốt, đồng thấy trong nghiệp có khí độc khởi lên, đều là vọng thấy từ vô thỉ sinh ra.
Hỏi: A-nan hỏi thấy cái thấy chẳng phải cái thấy này cho nên xin Đức Thế tôn chỉ dạy: Vì sao Như Lai không đáp thẳng mà lại nói rộng hai thứ vọng kiến ư?
Đáp: Nếu không chỉ bày rộng về "cái thấy vọng thì thấy hữu" thì không thể hiển bày rõ cái thấy chân thì thấy vô. Nếu y theo đều A-nan nghi đã gọi là thật thấy thì phải có thấy. Sao lại nói, thấy cái thấy không phải thấy. Nếu thấy cái không thấy thì lẽ ra không gọi là kiến tinh minh nguyên, vì không biết tịch và thường chiếu, nên gọi là chân thấy. Chiếu mà thường tịch nên không phải là thấy, vì vậy Phật y cứ rộng vào một người, nhiều người, đối giải thích chân vọng, thấy và không thấy có khác. Nên biết chưa lìa bệnh vô minh thì đều gọi là có thấy, nếu bệnh sai lầm mất đi thì cái thấy kia là tinh chân. Cho nên không gọi là thấy. Như ở dưới có giải thích kỹ.
* Giải thích cả hai có thể ví dụ có hai ý:
-Nghiệp riêng, có ba ý:
+ Nêu riêng, lược chỉ bày:
Thế nào gọi là nghiệp riêng vọng thấy? A-nan! Như người thế gian mắt bị đỏ, ban đêm nhìn ánh đèn thấy có quầng ánh sáng tròn năm mầu nhiều lớp.
Mắt dụ cho cái thấy chân thật, bệnh dụ cho tướng nghiệp, bệnh đỏ mắt là do khí nóng bức phát thành. Nghiệp do vô minh mà động. Đèn dụ cho pháp tánh. Ban đêm thấy là dụ cho vọng thấy. Bóng tròn dụ cho năm uẩn. Đó là do không biết đúng như thật về chân như pháp nhất, cho nên bất giác tâm động mà gọi là Nghiệp.
Vì nương vào cái động cho nên thấy, vì nương theo năng thấy pháp nhất, nên cảnh giới vọng hiện, vì có duyên cảnh giới nên khởi tâm phân biệt.
+ Bác bỏ rộng tức lìa, có hai ý:
- Bác bỏ riêng, có hai ý: Bác bỏ đèn là cái thấy.
Ý ông thế nào, ánh đèn ban đêm nầy hiện ra vầng ánh sáng tròn, đây là mầu của đèn hay mầu của cái thấy. A-nan! Đây nếu là mầu của đèn thì người không bị nhặm mắt sao không đồng thấy, mà bóng tròn này chỉ người bị bịnh nhặm mắt mới thấy. (Nếu bóng tròn này hiện ở trên đèn, thì người không nhặm mắt phải đều thấy. Vì sao chỉ có người bị nhặm mắt thấy, còn người khác không thấy?) Nếu là mầu của cái thấy thì cái thấy đã thành sắc, người bị nhặm mắt ấy thấy bóng tròn gọi là gì? Nếu bóng từ người bị nhặm mắt kia thì khi cái thấy phát, cái thấy lúc đó đã thành bóng không thể gọi là Thấy, người thấy bóng tròn lại là vật gì? Sắc tức là bóng.
- Bác bỏ lìa đèn, lìa cái thấy:
Lại nữa, này A-nan! Nếu bóng tròn này (cái vầng đỏ) lìa đèn này có riêng, thì lẽ ra ông thấy bàn ghế chung quanh đều có bóng tròn cả. Còn nói bóng tròn lìa cái thấy mà có riêng thì không cần phải mắt thấy, sao nói là người nhặm mắt thấy có bóng tròn. Nếu lìa đèn có bóng tròn riêng thì nhìn vật khác chung quanh sao không có bóng xuất hiện?
Nếu sắc lìa cái thấy mà có tự thể riêng thì không thể gọi là mắt nhặm thấy bóng tròn, bàn ghế thuộc về chiếu. + Tổng kết:
Cho nên phải biết: Sắc thật ở đèn, cái thấy bịnh là bóng, bóng thấy đều là nhặm.
Sắc là ánh đèn, đèn thật có ánh sáng, không hề có bóng. Nay thấy bóng chính là bệnh nhặm làm cho như vậy. Từ đây mà suy ra, cái bóng của bị thấy và cái thấy của năng thấy đều là bệnh nhặm.
Nhặm thấy chẳng phải bệnh, không bao giờ được nói đèn là cái thấy, ở trong đó có cái chẳng phải đèn, chẳng phải cái thấy: Thấy người không nhặm mắt tự nhiên không có bóng để duyên thì cái gì là đèn? cái gì là thấy? Cái gì chẳng phải đèn? Không phải thấy, cũng có thể thấy nghĩa là rõ biết, rõ biết năm bóng do nhặm mắt mà thành, thì không có bệnh chấp vào bóng, không bao giờ được nói bóng có chỗ sinh ra.
Văn dưới chép: Nhưng nhặm thấy không phải là lỗi của cái thấy.
-Lại dùng ví dụ để làm sáng tỏ có hai ý:
Dụ: Như mặt trăng thứ hai chẳng phải thể, chẳng phải bóng vì sao? Vì là mặt trăng thứ hai có ấn mắt mà thành, chẳng phải thể của mặt trăng thật. Lại không phải bóng dưới đáy nước, chỉ là ấn mắt căn thức khác nhau cho nên có hai tướng, thật ra nó không có tự thể, như bóng tròn kia do mắt nhặm nên không thật có tự thể.
Người có trí không nên nói ấn mắt vốn là hình, không phải hình, lìa cái thấy, chẳng phải thấy.
Nắm kéo là mặt trăng, chẳng phải hình là cái thấy, người hiểu biết không nói chỗ sanh ra mặt trăng này là hình, là cái thấy, lìa hình, lìa cái thấy, người dịch dùng khéo léo sửa đổi văn ấy.
* Hợp:
Ở đây cũng vậy, do mắt nhặm thành. Nay muốn nói cái nào là đèn, cái nào là cái thấy, huống chi phân biệt không phải đèn, không phải cái thấy, dùng dụ hiển dụ hợp với ở trước rất dễ thấy.
-Đồng phần, có hai ý:
+ Nêu chung quả báo bên ngoài:
Thế nào là đồng phần vọng thấy? A-nan! Cõi Diêm-
Phù đề này, trừ nước biển lớn, khoảng giữa đất bằng có ba ngàn châu. Ở giữa là đại châu. Đông Tây bao gồm các lượng. Các nước lớn gồm có hai ngàn ba trăm châu, các châu nhỏ còn lại ở trong các biển. Giữa đó hoặc có ba ngàn hai trăm nước, hoặc một hoặc hai, đến ba mươi, bốn mươi, năm mươi; trụ ở giữa nước gọi là Châu. Ba ngàn là gọi chung. Cõi Diêm-Phù nằm ở giữa mà lại lớn là năm thiên này.
Bao gồm là Kết. Lượng là số.
Nước là khu vực (cõi), có giới hạn.
+ Chỉ bày riêng về nghiệp duyên:
A-nan! Nếu trong đó lại có một tiểu châu chỉ có hai nước, nhưng người của một nước đồng cảm duyên ác, thì chúng sinh đương độ ở tiểu châu kia nhìn thấy tất cả cảnh giới không rõ ràng. Hoặc thấy hai mặt trời, hoặc thấy hai mặt trăng, trong đó, cho đến quân địch. Hai nước là hai cõi.
Chúng sinh cõi uế thì thể là thức hữu lậu, vì phiền não gây ra nghiệp mà cùng chiêu cảm. Cõi tịnh của Chư Phật thì thể là trí vô lậu vì do dụng của chân như thanh tịnh hiện ra.
Vựng thích: Là ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Thích là gần, gần mặt trời mặt trăng.
Bội quyết là ngọc khí, yêu khí gần mặt trời, mặt trăng như hình bội quyết (ngọc), được người quý trọng, hoặc vòng ngọc, hoặc ngọc côn, hoặc ngọc quyết, nay khí ấy giống như vậy.
Sao chổi quét sạch: đây đều là sao xấu. Ánh sáng của nó giống như cây chổi. Bỗng nhiên xuất hiện, rồi mất dấu vết gọi là Phi. Dấu vết ánh sáng liền nhau gọi là Lưu. Tai mang cầu vồng: Khí bám bên mặt trời, giống như trái tai có vòng đeo. Hùng là cầu vồng, thử là (cầu vồng), là khí âm dương.
Các thứ tướng xấu, chỉ có nước này thấy. Chúng sinh nước kia vốn không thấy, cũng không còn nghe: các việc hiện ra không phải một, cho nên nói các thứ đều là tai họa xấu, biểu thị các tướng trước. Phàm phu năm trược đồng nghiệp cộng cảm, như cõi nước có tướng xấu, tịnh độ Chư Phật chỉ một bề thanh tịnh, như cõi nước không thấy.
Nêu bày ví dụ, có hai ý:
1. Nêu chung:
A-nan! Nay ta vì ông dùng hai việc này tiến lùi đều sáng tỏ, Tiến tượng trưng cho Pháp, lùi tượng trưng cho Dụ, cùng nhau hợp hiển để nói rõ thấy và không thấy.
2. So sánh riêng có hai ý:
a) So sánh hợp với nghiệp riêng, có hai ý:
a.1) Nêu dụ so sánh pháp, có hai ý:
a.1.1) Ví dụ nhặm mắt nhìn đèn, có hai ý:
Chỉ vọng: Nầy A-nan! Như chúng sinh kia do nghiệp riêng mà vọng thấy, khi nhìn đèn thì hiện bóng tròn. Tuy hiện giống như cảnh, nhưng cái thấy kia do mắt nhặm mà thành. Nhặm thì thấy nhọc, chẳng phải do sắc tạo, tâm vọng biến khởi dường như có mà không chân thật, do nhặm mắt sinh ra cho nên chẳng phải sắc tạo ra.
a.1.2) Bày chân:
Nhưng nhặm mắt thấy đều chẳng phải do lỗi của cái thấy. Nếu biết năm bóng do mắt nhặm cho nên thấy. Hoàn toàn không chấp bóng là thật có tự thể, đã không có cái bị thấy thì cái năng thấy làm sao lập, cho nên nói không có lỗi của cái thấy. Đây là y theo dụ để giải thích thấy và không thấy.
a.2) Tâm cảnh sở dụ, có hai ý.
a.2.1) Chỉ vọng:
Như ông ngày nay dùng mắt mà thấy thì núi sông đất đai và các chúng sinh đều do bịnh nhặm mắt từ vô thỉ mà thành. Cõi nước chúng sinh có chánh báo và y báo đều do vọng niệm phân biệt mà có, nếu lìa niệm thì không có tất cả cảnh giới.
Kinh Hoa Nghiêm nói: Chúng sinh do vọng niệm phân biệt mà thấy có Phật, có thế giới. Nếu hiểu rõ pháp tánh chân thật thì không có Phật, không có thế giới.
a.2.2) Bày chân:
Cái thấy và duyên thấy dường như hiện ra cảnh trước mặt, vốn là Giác minh của ta. Cái thấy và cảnh đều như hoa đốm trong hư không chẳng thật có. Cho nên nói dường như hiện ra cảnh trước mặt. Cái thấy và duyên này vốn là Bồ-đề diệu tịnh minh thể, cho nên nói vốn là giác minh của ta.
b) Giải thích lại kết đáp, có hai ý:
b.1) Nương vào dụ mà giải thích lại:
Sở duyên của cái thấy mờ tối, giác thấy tức là nhặm mắt, giác vẫn là thấy. Nếu cái thấy thật có cảnh sở duyên và cái thấy năng duyên thì đều là bệnh nhặm mắt. Vì năng duyên và sở duyên như hoa đốm giữa hư không, hoặc cái thấy và sở duyên đều là nhặm mắt, hoặc khởi giác trí, biết cả hai thứ này đều không.
Năng giác này cũng là mắt nhặm.
Kinh Viên Giác cũng cho rằng nói theo huyễn thì giác cũng gọi là huyễn.
Bổn giác minh tâm giác duyên chẳng phải nhặm, đây là nói chân giác diệu minh, chẳng sinh chẳng diệt, xa lìa tất cả luống dối điên đảo vắng lặng thường trụ, cho nên không phải nhặm mắt.
Nói duyên của giác là do hành tướng. Như văn trước nói: Thật như lời Đấng Pháp Vương nói: Giác duyên trùm khắp các thế giới mười phương.
Cái biết và cái bị biết đều là nhặm mắt, cái giác biết không phải ở trong cái nhặm mắt.
Cái kiến kiến chân thật này vì sao gọi là thấy nghe hay biết: Vì đây không có năng sở, bổn giác minh tâm gọi là thấy cái thấy. Vì vắng lặng mà thường chiếu soi, chiếu soi mà thường vắng lặng. Ngay đây tâm gọi là thấy nghe hay biết. Nhưng tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay do thấy nghe hay biết cho là gốc của bệnh, phân năng lập sở, điên đảo từ đó sinh khởi. Nay nghe chẳng phải thấy thật trái với chí trước. Bấy giờ mê muội, do đây chỉ bày rộng vọng này, cho nên có cái thấy vốn không thấy. Cho nên chỉ nói: Thật thấy cái thấy này làm sao lập thấy nghe hay biết cho được!
Trong kinh Viên Giác không biết giác minh, chính là đồng với ở đây. b.2) Nương vào dụ để kết đáp:
Cho nên nay ông thấy ta và ông cùng mười loại chúng sinh trong các thế gian đều là do nhặm mắt mà thấy. Không nhặm mắt mà thấy tức là cái thấy chân tinh, tánh không nhặm, nên không gọi là thấy. Phân biệt đây kia sinh ra có Phật, có chánh báo y báo, đều thuộc về vọng thấy. Không vọng thấy nên gọi là chân tinh, cho nên cái chân tinh này không có cảnh để thấy, nên không gọi là thấy. Như trước thấy đèn có quầng sáng tròn đều thuộc về nhặm mắt. Cái thấy nếu không nhặm thì gọi là chân nhãn thanh tịnh. Cái chân nhãn tịnh này không có quầng sáng có thể thấy cho nên không gọi là Thấy. Đây là kết đáp lời hỏi trước "cái thấy không phải là thấy".
Lệ hợp động phần, có hai ý:
1. Nêu dụ so sánh với pháp; có hai ý: a) Năng dụ một nhiều lý ngang bằng:
A-nan! Như chúng sinh kia đồng phần vọng thấy. Ví dụ một người nghiệp riêng vọng thấy kia, một người bệnh đau mắt đồng với một nước của họ, cái thấy quầng sáng tròn kia do nhặm mắt vọng sinh ra. Chúng đồng phần này hiện khởi không rõ mà khởi chướng ác trong nghiệp đồng kiến.
Một người thấy đồng với nhiều người thấy, vì bệnh nhặm mắt thấy quầng sáng tròn xuất hiện, do chướng ác nên với lấy tai ương.
Chướng là bệnh, sẽ có bệnh xấu ác nên thấy trước việc này.
Đều do vô thỉ vọng thấy mà sinh ra. Y theo pháp mà kết cả hai thì ông và chúng sinh. Một nhiều tuy khác nhưng phân biệt nghiệp quả chúng sinh thế gian thì không có khác. Đây đều là do vô minh từ vô thỉ phân biệt vọng thấy, lại nói lên chân tâm vốn chẳng phải cái thấy. b) Sở dụ tâm cảnh đều vọng:
Ví như trong ba ngàn châu ở Diêm-phù-đề gồm có bốn biển lớn. Thế giới Ta-bà, các cõi nước hữu lậu mười phương và các chúng sinh đồng là giác minh vô lậu diệu tâm. Thấy nghe hiểu biết duyên theo bệnh luống dối hòa hợp vọng sinh, hòa hợp vọng tử. Từ một chúng sinh đến các chúng sinh mười phương, từ ít đến nhiều, hoặc y báo, hoặc chánh báo, đều do không hiểu rõ tướng Nhất pháp giới. Đối với tâm vô lậu bỗng khởi vọng thấy mà phân biệt thấy nghe hay biết. Cho là luống dối bệnh duyên, bèn thấy tất cả cảnh giới khác nhau. Sinh và tử đều không lìa vọng. Cho nên nói hòa hợp. Hòa hợp là không lìa nhau, cho nên văn ở dưới nói: Thấy nghe như mắt nhặm, ba cõi như hoa đốm trong hư không.
Luận Khởi Tín cũng nói: Ba cõi luống dối do tâm làm ác, lìa tâm không có cảnh giới sáu trần.
2. Dứt vọng về chân:
Nếu xa lìa được các duyên hòa hợp và không hòa hợp, thì dứt trừ các nhân sinh tử, tánh Bồ-đề tràn đầy, không sinh không diệt, bổn tâm thanh tịnh, bổn giác thường trụ. Ba tướng ứng nhiễm gọi là hòa hợp, ba không tương ứng thì gọi là không hòa hợp.
Đây là vọng niệm thô tế. Luận Khởi Tín gọi là tâm nhiễm, là gốc sinh tử, là nhân luân hồi. Nếu xa lìa tức là diệt sinh diệt. Sinh diệt đã diệt, vắng lặng hiện tiền, hai quả chuyển y là Bồ-đề, và Niết-bàn ngay đây được thành tựu, nên nói là tràn đầy. Tức đồng với Khởi Tín vì xa lìa niệm sâu kín cho nên thấy được tâm tánh. Tâm là thường trụ gọi là giác rốt ráo.
Phá nghi hòa hợp không hòa hợp, có hai ý:
1. Nhắc lại trước chưa hiểu:
A-nan! Ông tuy trước ngộ tánh bổn giác diệu minh, chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên mà vẫn chưa rõ giác nguyên như thế không hòa hợp sinh và không hòa hợp diệt. Văn trước chép rằng: Các tướng hòa hợp và tướng không hòa hợp tâm vẫn chưa khai mở cho nên nay nhắc lại.
Nhưng nhân duyên, tự nhiên, hòa hợp, không hòa hợp, nghĩa tuy không khác nhưng lời giải thích có khác Cho nên tùy theo môn ấy mỗi môn phá khắp vì người thế gian nói có thể chứng biết là tâm Bồ-đề, nhờ nhân nhờ duyên hòa hợp mà sinh ra lý chứng ấy, gọi là Niếtbàn, không theo nhân duyên chỉ hiểu rõ nhân ban đầu, hoàn toàn chấp nghiêng về hai tánh hữu vi và vô vi đều khác nhau.
Mà không biết Như Lai thường y theo hai đế: Chân như đế và Thế tục đế để nói pháp, trở thành nói suông, đều chướng ngại đối với pháp giới Nhất chân, năng sở rõ ràng, pháp chấp sâu kín cho nên ở đây bác bỏ.
2. Bác bỏ riêng nghi tình, có hai ý:
a) Bác bỏ nghi hòa hợp, có hai ý:
a.1) Chỉ ra nghi tình:
A-nan! Nay ta lại hỏi ông về trần cảnh: Nay ông còn cho tất cả chúng sinh ở thế gian vọng tưởng hòa hợp với tánh các nhân duyên mà tư nghi ngờ, chứng tâm Bồ-đề, hòa hợp sinh khởi; chấp vào giáo phương tiện, nương vào thuyết an lập. Bèn nghi thắng nghĩa, nhất chân Bồđề từ hòa hợp mà có. Sinh trụ dị diệt là tánh vô thường, tức trái với sự vắng lặng của ngài Tịnh Danh là Bồ-đề nầy dứt các tướng, cho đến vô vi là Bồ-đề vô sinh, vô trụ, vô dị, vô diệt.
a.2) Chính là bác bỏ hòa hợp, có hai ý:
a.2.1) Phá hòa hợp, có hai ý:
a.2.1.1) Gạn chung:
Cho nên nay cái kiến tinh diệu của ông tịnh hòa hợp với sáng, hay hòa hợp với tối, hay hòa hợp với thông, hay hòa với bít. Nếu cái thấy là hòa thì hòa ấy chắc chắn phải theo cảnh, cho nên nêu bốn thứ này là gạn chung.
a.2.1.2) Bác bỏ riêng, có hai ý:
* Y theo minh để bác bỏ có bốn ý:
-Nói về tướng thấy xen lẫn hình tượng gì:
Nếu hòa với minh thì ông hãy quán xem cái sáng ấy hiện tiền thấy lẫn lộn ở chỗ nào.
Tướng thấy giải thích được, xen lẫn hình tượng gì, sáng thuộc về trần cảnh, trước mắt cái thấy thuộc về nội tâm thì chỗ nào mà nói về sự xen lẫn ấy.
Cái thấy và tướng chính mắt trong nhìn có thể giải thích, nếu tạp tướng thì đó là hình tượng gì.
-Thấy hoặc không thấy đều phi lý:
Nếu không phải có thấy thì vì sao thấy sáng. Nếu tức cái thấy thì sao nói thấy cái thấy. Nếu tướng xen lẫn này không thể thấy thì lẽ ra cũng không thấy tướng sáng, sao nói hiện thấy cái sáng. Nếu tướng xen lẫn này thấy được thì trong cái xen lẫn có cái thấy, lẽ ra phải thấy cái thấy.-Mất khắp nghĩa hòa lẫn nhau:
Nếu hẳn là cái thấy tràn đầy thì chỗ nào hòa với cái sáng, nếu cái sáng tràn đầy, không hòa hợp với cái thấy. Nếu tất cả chỗ trùm khắp là cái thấy, thì cái tướng không sáng có thể hòa hợp, nếu tất cả chỗ đều là cái sáng thì không có cái thấy để xen lẫn.
-Đều mất lập lý không thành:
Cái thấy phải khác với cái sáng, xen lẫn mất đi tên gọi sáng và tánh kia, xen lẫn mất đi tánh sáng mà hòa với cái sáng thì vô nghĩa. Tâm cảnh khác nhau, thể năng sở đều khác. Cho nên nói phải khác với cái thấy, nếu sáng xen lẫn thì đều mất nghĩa ấy. Cái sáng không phải cái sáng, cái thấy không phải cái thấy, hai nghĩa đã mất thì danh tự cũng mất, giống như bụi hòa với nước chỉ gọi là một nắm bùn, không gọi là bụi nước. Cái thấy sáng đã mất thì làm sao gọi là Hòa, nên nói là phi nghĩa.
* Lược bày các trần khác:
Tối, thông và ngăn bít kia cũng như thế, tướng sáng đã như vậy thì cảnh khác cũng như vậy.
b) Bác bỏ hợp, có hai ý:
b.1) Gạn chung:
Lại nữa, này A-nan! Nay, cái kiến tinh tịnh diệu của ông là hợp với sáng hay hợp với tối, hợp với thông, hay hợp với bít. Hòa thì như nước xen lẫn với bụi cát, hợp thì như cái hộp và cái nắp, cho nên thành hai môn.
b.2) Bác bỏ riêng, có hai ý:
b.2.1) Y theo sáng mà bác bỏ có hai:
b.2.1.1) Chính là bác bỏ:
Nếu sáng hợp, cho đến khi tối thì tướng sáng mất, cái thấy này sẽ không hợp với tối, làm sao mà thấy tối? cái thấy hợp với sáng, khi tướng tối hiện thì sáng sẽ mất. Đã hợp sáng thì cái thấy phải diệt theo sáng, lẽ ra không thấy tối, Dù cho không diệt cũng không thấy tối. Vì không hợp với cái tối này nên hợp thì thấy, không hợp thì không thấy. Như mũi ngửi mùi.
b.2.1.2) Bác bỏ chuyển sang chống chế:
Nếu khi thấy tối mà không hợp với tối thì khi hợp với sáng lẽ ra phải không thấy sáng. Đã không thấy sáng thì làm sao hợp với sáng? hiểu rõ sáng chẳng phải tối, nếu người kia chống chế rằng: Tánh thấy này của tôi tuy không hợp với tối nhưng không ngại thấy tối, điều này có lỗi gì?
Cho nên nhắc lại rằng: Nếu khi thấy tối thì không hợp với tối, theo đó liền bác bỏ, nói hợp với sáng lẽ ra phải không thấy sáng. Nếu không hợp mà có thấy thì hợp phải không thấy. Lại sao nói thấy hợp với sáng, hiểu rõ cái sáng chẳng phải tối. Nên biết thấy sáng thì không có nghĩa hợp, tánh thấy hòa hợp đã không thành thì tâm chứng Bồ-đề do hòa hợp mà có, từ đây mà bác bỏ.
Lược nêu các trần khác:
Cái tối, thông bít kia cũng như thế, như văn kinh chép. Bác bỏ nghi phi hòa hợp, có hai ý:
1. Trình bày điều giải thích:
A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như con suy nghĩ cái diệu giác nguyên và các duyên trần cùng tâm niệm lự không hòa hợp nhau?
Do trước bác bỏ tâm Bồ-đề không từ nhân duyên hòa hợp mà được, bèn chấp lìa duyên thì không có thể tánh. Chấp tâm Bồ-đề có tướng khác nhau, từ phân biệt mà sinh, lại thành chấp pháp chướng ngại nhất chân tánh, cho nên ở đây bác bỏ điều đó. Ngài Tịnh Danh nói phải làm cho các vị trời bỏ đi cái thấy phân biệt Bồ-đề.
2. Bác bỏ sở chấp, có hai ý.
a) Bác bỏ phi hòa, có ba ý.
a.1) Nhắc lại chấp, gạn chung.
Phật nói: Nay ông lại nói giác chẳng phải hòa hợp. Nay ta lại hỏi ông: Cái kiến tinh mầu nhiệm này chẳng hòa hợp, vậy nó là không hòa hợp với cái sáng, hay không hòa với cái tối? Hay không hòa với cái thông? Hay không hòa với cái bít?
Đây là nhắc chung gạn riêng, như văn kinh rất dễ hiểu.
a.2) Y theo minh mà bác bỏ có hai ý:-Không hòa hợp rõ ràng thành bờ mé.
Nếu chẳng hòa với sáng thì cái thấy và sáng phải có ranh giới. Ông lại quán kỹ, chỗ nào là sáng, chỗ nào là cái thấy, ở chỗ cái thấy, ở chỗ cái sáng, từ đâu làm ranh giới. Nếu khi thấy sáng thì cái sáng ấy không hòa với cái thấy. Cái thấy và cái sáng phải chia ra ranh giới.
Nay Ông xét kỹ, ở chỗ cái thấy và cái sáng thì phân chỗ nào mà nói về ranh giới. Cả hai không có nghĩa ranh giới thì hoàn toàn sai.
A-nan! Nếu trong mé sáng hẳn không thấy thì không thể sánh được, tự không biết chỗ ở của tướng sáng ấy thì ranh giới làm sao thành.
Nếu định không hòa hợp thì cái thấy lẽ ra phải duyên với cái sáng, còn tự không biết tướng sáng thì y theo cái gì để phân nghĩa ranh giới. a.3) Lược bày các trần khác:
Cái tối, thông, bít kia cũng như thế, như văn kinh chép.
b) Bác bỏ phi hợp có ba ý:
b.1) Gạn chung:
Lại cái kiến tinh mầu nhiệm chẳng hòa hợp, là chẳng hợp với sáng? Hay chẳng hợp với tối? Hay chẳng hợp với thông? Hay không hợp với bít? Bốn nghĩa đã nêu xong.
b.2) Bác bỏ riêng:
Nếu không hợp với sáng thì tánh tướng của cái thấy và cái sáng trái nhau. Như tai và cái sáng rõ ràng không xúc chạm nhau. Cái thấy lại không biết, không biết chỗ ở của tướng sáng thì làm sao nói hợp lý, không hợp lý. Nếu khi thấy sáng thì không hòa hợp với cái sáng.
Với hai tánh thấy sáng lẽ ra trái nhau. Như hai sừng con bò. Đối địch đều lập, không hề tương ưng. Cũng như nhĩ căn đối với duyên sáng, không hề xúc chạm nhau.
Tai chỉ nghe tiếng vì không duyên với cái sáng, cho nên lấy đây để dụ cho cái thấy, phải không biết chỗ của tướng sáng. Như tướng không sáng cũng không hiển bày cái thấy, cái sáng và cái thấy đã không, làm sao phân biệt nghĩa của hai thứ hợp và không hợp.
b.3) So sánh với trần khác:
Tối, và thông, bít kia cũng như thế. Ở trên bỏ vọng bày chân, chỉ y theo hai môn tâm và cái thấy, dùng duyên đối với cảnh để giải thích. Dù có hội thông nhưng chỉ y theo một môn mà hiển bày.
Kế dưới y theo tất cả pháp như ba khoa, bảy đại, tức y theo vọng mà hiển bày chân, ngay nơi tướng mà hiển bày tánh, phân tích rộng chúng sinh ở thế gian luống dối phân biệt nói có nhân duyên và tánh tự nhiên mà không biết sinh diệt, đến đi vốn là Như Lai tạng, đâu phải chỉ ở tâm thấy là tánh của Như Lai tạng ư?
Cho nên đoạn kế trước có văn này.
Văn có năm ý:
1. Y theo ba khoa để hiển bày tánh, có hai ý:
1. Hội duyên vào cái thật để nêu chung, có bốn ý: a) Chỉ chung đều là chân.
A-nan! Ông vẫn chưa hiểu rõ tất cả các tướng phù trần huyễn hóa. Đây là chỉ chung các tướng, văn trước tuy y theo một môn của mắt, hiển bày thể của cái thấy chân thật, lìa duyên, bặt tướng, chẳng sinh, chẳng diệt. Lược hội cái thấy và duyên vốn là Bồ-đề diệu tịnh minh thể, mà không rõ các pháp ba khoa như huyễn hóa, vì thế chỉ cho điều này.
Hư giả không thật làm nhiễm ô chân tánh, nên gọi là phù trần. Giả tạo luống dối vọng lập tình nên gọi là huyễn. Không mà chợt có, hoàn toàn vô the, nên gọi là Hóa.(858)
Hễ sinh ra chỗ nào, thì diệt tận chỗ đó, huyễn vọng gọi là Tướng, tánh chân là diệu giác minh thể. Các tướng huyễn này vốn không có chỗ nương.
Chỉ do mê chân bổng nhiên sinh khởi. Cho nên nói ngay đó sinh ra.
Sinh tức không sinh, vốn tự vắng lặng, cho nên nói chỗ nào cũng diệt tận.
Kinh Lăng-già nói: Tất cả pháp bất sinh, ta nói là nghĩa sát-na có sinh phải có diệt, không phải người ngu nói.
Trung Luận nói: Các pháp không tự sinh, cũng không từ khác sinh, không chẳng phải vô nhân, cho nên biết vô sinh.
Cái vô sinh ấy chính là cái diệt tận này. Vì kiến chấp vọng dường có phù tướng, nhưng hoàn toàn vô thể, giống như việc huyễn. Cho nên nói huyễn vọng tương xứng.
Chỗ của vô thể vốn là Bồ-đề diệu giác minh tánh, cho nên nói tánh chân ấy là diệu giác minh thể.
Hỏi: Tướng huyễn không thật, hoàn toàn vô thể, đâu được lại nói tánh chân thật ấy là diệu giác minh thể?
Đáp: Thí như hoa đốm trong hư không, vì mắt nhặm mà thấy cho nên có, lìa hư không thì chẳng có tướng hoa đốm. Hoa đốm trong hư không tuy chẳng có tự tánh, nhưng hư không là thể của chỗ nương. Nếu mắt nhặm hết thì tướng hoa tuy diệt nhưng tánh hư không chẳng diệt. Tánh tướng của các pháp cũng như thế, tướng huyễn tuy diệt mà tánh chân thật bất động.
Hỏi: Nếu thế thì chân như tức muôn pháp, muôn pháp tức chân như, đâu được một thể mà lập chân, lập vọng?
Đáp: Cũng như mắt nhặm thấy hoa đốm trong hư không, nếu mắt không nhặm thì chỉ thấy trời xanh trong, không có các hoa đốm. Nên biết muôn pháp tuy chân thật nhưng chỉ người chứng ngộ mới biết, chẳng phải là năng kiến, sở kiến của tâm thức. Vì phàm phu tâm thức thô động, chỉ thấy tướng thô động của thế gian. Chấp vào tướng thô này làm tướng nên chướng ngại không thấy chân tánh. Cho nên văn trước nói: Mê mình làm vật, vì thế trong đó quán lớn quán nhỏ, cho nên nay rộng bác bỏ, chấp mất ánh sáng, hư không, do đây mà ngộ nhập tri kiến Phật.
Nên kinh Hoa Nghiêm nói: Tất cả pháp vô sinh, tất cả pháp vô diệt. Nếu hiểu được như thế, Chư Phật thường hiện tiền.
Văn ở trước cũng nói: Nếu chuyển được vật thì đồng với Như Lai đều là nghĩa này.
b) Nêu riêng các vọng.
Như thế cho đến năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ cho đến mười tám giới, nhân duyên hòa hợp, luống dối có sinh, nhân duyên riêng lìa luống dối gọi là Diệt. Các pháp gọi là thường, không thể nói hết. Chỉ nêu ba khoa nhưng tự nhiếp tất cả, nên nói cho đến. Ba khoa: Là uẩn, xứ, giới. Nay ở trong xứ lại sinh ra sáu căn. Nếu có sáu nhập thì ba khoa này chính là thế gian luống dối phân biệt.
Nhân duyên huyễn hợp giả gọi là Sinh, nhân duyên huyễn lìa giả gọi là Diệt. Nhưng duyên không có tự thể, nên có sinh, có diệt.
c) Bác bỏ mê viên thật:
Thật không thể biết sinh diệt, đến đi vốn là Như Lai tạng, thường trụ diệu minh, bất động mà tròn khắp, tánh chân như mầu nhiệm.
Thật không biết: nghĩa là phân tích sự khác nhau ấy rất dễ hiểu. Tất cả các pháp vốn tự bất sinh nay cũng không diệt, không phải là pháp ba đời cho nên không có đến đi. Sinh diệt đến đi đã không thật có thì tánh Như Lai tạng vốn tự thường trụ, vốn không hề dao động, vắng lặng trùm khắp. Chúng sinh mê mờ, điên đảo nên bị vật xoay chuyển. Thật không hay biết là mê viên thật.
d) Kết thúc hiển bày vượt ngoài tình chấp:
Trong tánh chân thường mà tìm cầu đến đi, mê ngộ sinh tử, rõ ràng không thật có.
Hiểu rõ rốt ráo thì, mê và ngộ, chúng sinh và Phật cũng là chân vọng. Chúng sinh và Phật chân vọng, đến đi, sinh tử, tất cả đối đãi, vì tình chấp cho nên có. Còn không có tên gọi Nhất tánh chân như huống chi là có tướng các pháp đối đãi ư?
Tình quên thì thể hiện, hoàn toàn không thật có.
2. Bả chấp bày chân để giải thích riêng, có bốn ý:
a) Bác bỏ năm ấm, có hai ý:
a.1) Gạn chung:
Nầy A-nan! Thế nào là năm ấm vốn là Như Lai tạng tánh chân như mầu nhiệm.
Năm ấm: Tiếng Phạm là Tắc-Kiện-đà, Hán dịch là Uẩn. Người xưa dịch là Ấm. Uẩn là chứa nhóm, ấm là che đậy. Chứa nhóm hữu vi, che lấp chân tánh. Ấm này có năm: nhiếp hết hữu vi.
Văn trước nêu chung cho đến năm ấm v.v... đều là Như Lai tạng. Nay nêu riêng đều này, y theo khoa mà suy nghiệm, giúp cho biết luống dối vốn chẳng phải do nhân duyên và tự nhiên mà có, vốn là Tạng thể mầu nhiệm chân như tánh.
a.2) Bác bỏ riêng, có năm ý:
a.2.1) Sắc ấm, có ba:
a.2.1.1) Nương vào ví dụ để nêu chung.
Nầy A-nan! Thí như có người mắt thanh tịnh thấy bầu trời trong sáng, chỉ một bầu trời trong, xưa nay không thật có. Dụ cho chân tánh vốn không, mắt dụ cho trí, hư không dụ cho lý, vì biển quả không khác sắc thịnh, chỉ có lý như như và trí như như.
Người này vô cớ, hai mắt bất động, nhìn lâu phát mệt, thì nhìn thấy hoa đốm lăng xăng trong hư không, lại có tất cả cuồng loạn không có tướng. Sắc ấm nên biết cũng như vậy, đây là dụ cho mê chân khởi vọng. Cố là sự.
Trừng: là nhìn thẳng, không do việc khác chỉ do tự bất động mắt nhìn thẳng hư không. Mắt sinh mỏi mệt nên thấy các hoa đốm, hoặc thấy mặt trăng thứ hai v.v... Cho nên nói tất cả sắc ấm cũng vậy. Vì không biết như thật có chân như pháp nhất bất giác động niệm, hiện sáu trần cảnh, tức là sắc ấm khởi.
a.2.1.2) Y theo dụ để bác bỏ rộng, có hai ý:-Nêu vô sinh:
Nầy A-nan! Các hoa lăng xăng này chẳng phải từ hư không đến, chẳng phải từ mắt mà ra. Hư không vốn chẳng có hoa đốm, vì vọng thấy nên sinh khởi, nói cái gì là đến, chân vốn vô sắc, vọng chia ra chất ngại, lại từ đâu ra.
-Bác bỏ chỗ sinh.
Thế nên A-nan! Nếu từ hư không đến, đã từ hư không đến, thì lại trở vào hư không. Nếu có ra vào thì chẳng phải hư không. Nếu hư không chẳng phải hư không thì tự nó không dung chứa về sự sinh diệt của tướng hoa. Như thể của A-nan không dung chứa A-nan, đây là bác bỏ từ hư không sinh.
Thấy hoa đốm từ hư không sinh ra thì lẽ ra phải trở vào hư không. Hư không chẳng có trong ngoài, đâu có sự ra vào, nếu có ra vào thì là thật sắc, chẳng được gọi là hư không.
Đã chẳng phải hư không thì làm sao hoa đốm sinh ra, vì khi thấy vật thật thì chẳng có hoa đốm sinh. Như thể của A-nan là thật sắc, khi thấy thể của ông thì đâu có việc có ra A-nan?
Nếu từ mắt sinh ra, đã là từ mắt sinh ra thì phải trở vào mắt. Tức tánh hoa đốm này từ mắt sinh ra, đáng lẽ hoa đám phải có thấy, Nếu có thấy thì đã là hoa hư không, xoay lại phải thấy cái mặt của mình, Nếu không thấy thì khi ra đã che con mắt, khi vào phải che con mắt.
Lại khi thấy hoa đốm đáng lẽ mắt không bị nhặm. Sao nói trời xanh gọi là mắt trong xanh. Dưới đây là bác bỏ mắt sinh ra. Như người từ nhà ra đi thì chắc chắn có trở về. Mắt đã có thấy thì sẽ sinh ra hoa đốm, hoa đốm lẽ ra có thấy, từ mắt đi ra có thể là hoa đốm ở hư không, từ hư không trở vào mắt, thì phải thấy con mắt. Nếu tánh hoa đốm này tuy từ mắt sinh ra, nhưng không có thấy. Đây chỉ là nhặm mắt, đã từ mắt ra thì phải che hư không. Khi trở vào phải che con mắt. Nếu ông chấp rằng thật không thành nhặm mắt thì chẳng ngại thấy hoa đốm.
Đã là mắt không nhặm mà thấy được hoa đốm, thấy hư không trong xanh phải là mắt nhặm, vì sao nói thấy hư không gọi là mắt trong xanh? a.2.1.3) Kết thành luống dối:
Cho nên biết sắc ấm luống dối vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
Hoa đốm không từ đâu sinh ra, sắc ấm bất sinh vốn là chân thường mầu nhiệm, không hề sinh diệt (859) mà có thuyết nói là nhân duyên, tự nhiên, thật là luống dối. a.2.2) Thọ ấm, có ba ý: a.2.2.1) Nương vào dụ để nêu chung:
A-nan! Thí như có người, tay chân đang để yên: trăm đốt xương điều hòa, bỗng như quên sống, tánh không trái thuận, đây là dụ cho nhất chân. An tĩnh, điều hòa. Thích là vui, hài là thể. Quên sống là quên thân, thân chi an tĩnh, rỗng rang vui sướng mà không bị hai cảnh khổ vui ép ngoặt. Bỗng nhiên giống như không có thân. Trạng thái này chỉ tương ưng với xả thọ, bất giác có sinh thân này.
Lý Lăng nói: Mỗi niệm đến bỗng như quên sống, trong pháp mới biết.
Người ấy vô cớ xoa hai tay trong hư không. Trong hai tay vọng sinh các tướng trơn nhám, lạnh nóng. Thọ ấm nên biết cũng như thế, dụ cho khởi vọng. Vì vọng vốn vô nhân cho nên nói vô cớ. Chân vọng hòa hợp như hai tay xoa vào nhau, thức A-lại-da biến khởi ra thế gian cho nên nói sinh ra trơn nhám v.v... Hoặc có thể hai tay và hư không dụ cho căn, cảnh và thức. Căn, cảnh và thức hòa hợp sinh ra xúc. Xúc là nhân của thọ ấm, từ đây lãnh nạp, nên biết thọ ấm do vô minh vọng niệm, mê chân hòa hợp vay mượn mà sinh, cho nên bác bỏ điều này. a.2.2.2) Y theo dụ mà bác bỏ rộng, có hai ý.-Nêu vô sinh:
Nầy A-nan! Các huyễn xúc này chẳng phải từ hư không đến, chẳng phải từ tay sinh ra. Lạnh nóng vốn không, vì tay xoa vào nhau nên có, cho nên nói huyễn xúc. Thọ ấm không thật, vọng duyên giả sinh cho nên không có chỗ đến.
-Bác bỏ chỗ sinh:
Cho nên A-nan! Nếu từ hư không đến, đã có thể xúc chạm bàn tay, sao không xúc chạm thân? Chẳng lẽ hư không chọn lựa để xúc chạm, là phá cái không sinh. Hư không bình đẳng không đâu chẳng có, đâu thể chọn lựa không xúc chạm thân mà xúc chạm tay?
Nếu từ bàn tay sinh ra thì chẳng đợi xoa vào nhau, ở dưới bác bỏ từ bàn tay sinh ra, Nếu cái trơn nhám này từ bàn tay sinh ra thì khi bàn tay chưa xoa nhau đâu có trơn nhám.
Lại vì từ bàn tay sinh ra, xoa nhau thì bàn tay biết, lìa nhau thì xúc nhập, cánh tay xương tủy lẽ ra cũng phải biết dấu vết khi nhập vào, chắc chắn có tâm biết ra biết vào, trong thân tự có một vật qua lại, đâu đợi xoa vào nhau mới gọi là xúc. Nếu Ông chấp vào lời nói bàn tay tuy sinh ra xúc, mà phải đợi khi xoa nhau thì xúc này mới phát sinh, như vậy xoa nhau có xúc phát sinh thì khi rời ra đáng lẽ là xúc nhập vào. Nếu khi xúc nhập vào thì chỗ đi qua phải biết dấu vết của nhập xúc vào. Nếu thật biết xúc là thể thường còn, thì lẽ ra phải thường biết, đâu đợi xoa nhau mới biết. a.2.2.3) Kết thành luống dối:
Cho nên phải biết, thọ ấm luống dối vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
Đã biết huyễn xúc làm sinh ra thọ, suy ra tánh xúc này đều không, cho nên biết thọ ấm luống dối.
Tưởng ấm, có ba ý:
1. Nương vào ví dụ để nêu chung.
A-nan! Thí như có người nghe nói me chua thì trong miệng chảy nước miếng, tâm nghĩ đi trên sườn dốc thì lòng bàn chân nghe rờn rợn, tưởng ấm nên biết cũng như thế.
Tưởng là chấp vào hình bóng, tưởng tượng không thật, từ luống dối mà có. Cho nên nghe nói me chua thì nước miếng chảy ra, đi trên sườn dốc để làm ví dụ. Do nói nghe mà tưởng me chua, nên nghĩ là chua, cho nên có nước miếng. Lấy tưởng dụ cho tưởng, gần lấy làm ví dụ.
2. Y theo dụ để bác bỏ rộng, có ba ý.
a) Nêu vô sinh:
A-nan! Nghe nói chua như thế không từ me sinh, không vào miệng. Nước dụ cho tưởng, nay đã nói me, nói đã không có thì nước từ đâu sinh.
b) Bác bỏ chỗ sinh.
Đúng vậy A-nan! Nếu từ me sinh thì me phải tự nói, đâu đợi người nói. Nếu vào trong miệng, thì tự ngậm miệng mà nghe, đâu cần đợi tai nghe nói.
Nếu xúc chạm tai nghe thì nước này sao không từ tai ra, do người nói me, me đâu có nói, cho nên không phải từ me sinh ra.
Nếu do người nói thì từ miệng chảy nước, miệng đã chảy nước thì lẽ ra phải nghe nói, đâu cần tai nghe. Nếu miệng không nghe, chỉ có tai nghe. Tai đã nghe nói thì cũng phải chảy ra nước, cho nên nói nước này sao không từ tai chảy ra. Nói không có me, me không đến miệng, tai tự nghe nói, nước lại từ miệng chảy ra, nói me và nước hai tướng đều không thật có.
Nghĩ đi trên bờ dốc:
Tưởng đi trên bờ dốc giống như nghe nói, lẽ ra nên nói: tưởng dốc cao như thế, không sinh từ bờ, không vào trong chân.
Nếu từ bờ sinh, thì bờ phải tư suy nghĩ, đâu đợi người tưởng. Nếu vào trong chân thì chân phải có suy nghĩ, đâu cần tâm tưởng. Nếu chỉ tâm suy nghĩ, thì lo toan này lẽ ra chỉ trong tâm tự có, đâu cần lòng bàn chân có trơn rít. c) Kết thành luống dối:
Cho nên biết tưởng ấm luống dối, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
Nói me chua nghĩ bờ dốc, nước trong miệng chảy, tưởng tượng luống dối, năng sở đều không, vốn là Bồđề diệu giác minh tánh, đâu có nhân duyên, tự nhiên?
Hành ấm: có ba:
1. Nương vào ví dụ để nêu chung:
A-nan! Thí như nước chảy mạnh, sóng vỗ nối nhau, mé sau không vượt mé trước, nên biết Hành ấm cũng như thế. Hành là nghĩa trôi lăn tạo tác, sát-na vô thường, niệm niệm chuyển đổi, sinh tử, tử sinh như vòng lửa xoay không dứt, lấy nghĩa nước chảy mạnh, sóng vỗ liên tục không vượt qua được làm ví dụ.
2. Y theo dụ bác bỏ rộng, có hai ý:
a) Nêu vô sinh.
Nầy A-nan! Tánh chảy như thế, chẳng do hư không mà sinh, không do nước mà có, cũng chẳng phải tánh nước, chẳng lìa hư không, chẳng lìa nước. Tức hư không, tức nước, lìa hư không, lìa nước mà tìm thể của dòng nước chảy đều không thể được. Hành ấm cũng như vậy, vốn không từ đâu sinh ra.
b) Bác bỏ chỗ sinh.
Cũng thế, nầy A-nan! Nếu từ hư không sinh thì vô tận hư không ở mười phương đã thành dòng chảy vô tận, thế gian tự nhiên đều chịu sự chìm đắm. Đây là bác bỏ dòng nước từ hư không sinh.
Dòng chảy từ hư không sinh ra, thể của hư không là thường, đáng lẽ dòng chảy phải thường sinh, tánh hư không cùng khắp, dòng chảy lẽ ra cũng phải khắp, ở đây chỉ thấy dòng nước chảy, đáng lẽ không có thế giới, làm sao phân ra thủy lục, không hành?
Nếu do nước mà có, thì tánh của dòng nước chảy này đáng lẽ chẳng phải nước, tất cả tướng nay lẽ ra phải hiện tiền, đây là bác bỏ dòng nước sinh. Dòng chảy từ nước mà sinh. Nước và dòng chảy, thể của hai thứ ấy lẽ ra phải khác. Nước là năng sinh, dòng chảy là sở sinh. Như cây sinh quả, quả không phải cây, cả hai đều hiện tại. Ở đây không như vậy, vì sao lại do nước?
Nếu tức là tánh nước thì khi lắng trong lẽ ra không phải thể của nước, bác bỏ dòng chảy tức là nước, tưởng của dòng chảy là trôi đi, tướng của nước thì lắng trong. Nếu cái lay động này là tướng nước, đến khi lắng trong lẽ ra không phải nước, vì dòng nước mạnh lay động đã là nước, cho nên nếu lìa hư không và nước, chẳng có gì ở ngoài hư không, ngoài nước không có dòng chảy. Đây là bác bỏ lìa hư không, lìa nước. Lìa hư không có dòng chảy, lại không có gì ngoài hư không, đâu có gì lìa, nếu lìa nước mà có, thì ngoài nước tìm sóng lẽ ra là phi lý.
Chảy đã không sinh thì hành ấm vốn vắng lặng.
3. Kết thành luống dối:
Cho nên biết hành ấm luống dối vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên, như trước rất dễ hiểu.
Thức ấm, có ba ý:
1. Nương ví dụ để nêu chung.
Nầy A-nan! Thí như có người bịt hai lỗ của bình Tần-già, khi lấp đầy rồi mang hư không đi xa ngàn dặm, tặng cho nước khác. Thức ấm cũng như thế.
Tần già là loại chim có tiếng hót rất hay, bình Tầngià hình dáng như con chim. Tần-già, Thức ấm vô hình, ở thân hữu tình như bình đầy hư không.
Đến chỗ xa tặng cho nước khác: thức A-lại-da bị nghiệp sai sử, thọ sinh bất cứ chỗ nào. Nếu Ấm này diệt thì ấm kia liền sinh.
Như người mang hư không đi xa ngàn dặm, khi chết các căn không thông, như lấp hai lỗ, 2. Y theo dụ để bác bỏ, có hai ý:
a) Nêu vô sinh:
Nầy A-nan! hư không ấy chẳng phải từ kia đến, không phải từ xứ này vào. Hư không chẳng ra vào dụ cho thức không có đến đi, đã không đến đi thì làm sao biết mà phân biệt?
b) Bác bỏ chỗ sinh:
Cho nên A-nan! Nếu từ nơi kia đến thì vốn trong cái bình chứa hư không đi, ở chỗ cái bình lẽ ra phải thiếu một khoảng hư không. Nếu từ xứ này vào thì khi mở lỗ nghiêng bình phải thấy hư không chui ra.
Nơi kia là nơi mà bình đến nên gọi là Bổn bình.
Nếu Hư không từ xứ kia đến xứ này thì chỗ đến của bình phải thiếu một chút hư không. Bổn xứ đã không có thiếu, nên biết chẳng phải từ xứ kia đến, chỗ mà bình đổ ra gọi là xứ này. Nếu hư không ở xứ này vào trong bình, trước phải thấy hư không từ bình chui ra, mới biết hư không chui vào. Hư không ra đã không thì hư không vào đâu có. Hư không đã chẳng ra vào thì thức không hề đến đi. Lại xứ này vào là vào xứ này, văn rất dễ hiểu.
3. Kết thành luống dối:
Cho nên biết thức ấm luống dối vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên, rất dễ hiểu.
Thứ hai là bác bỏ sáu nhập, Tiếng Phạm là Bát-laphệ-xa, Hán dịch là Nhập, cũng dịch là Xứ, là chỗ cảnh nhập, cũng là chỗ thức sinh.
Nhưng hai pháp: Căn và cảnh đều là chỗ thức sinh.
Nay vì chia ra sáu căn bác bỏ riêng, chỉ lấy căn làm nhập. Văn có hai ý:
1. Gạn chung:
Lại nữa này A-nan! Thế nào là sáu nhập vốn là Như Lai tạng diệu chân như tánh. Như năm uẩn đầu tiên giải thích
2. Bác bỏ riêng, có sáu ý:
1. Nhãn nhập, có ba ý.
Nêu không có tự thể, có hai: a.1) Nêu dụ bày vọng:
Nầy A-nan! Như người mắt sáng kia nhìn thẳng chằm chằm thì bị mỏi, mắt và sự mỏi đồng là Bồ-đề. Nhìn chằm chằm bị mệt, do sắc ấm nên thấy hoa đốm, mắt nhìn thẳng lấy làm dụ. Mắt trong xanh dụ cho tánh giác. Nhìn thẳng phát mỏi dụ cho vọng niệm chợt sinh.
Mắt và sự mỏi tức là năng kết và sở kết của nhãn căn nầy, không xa lìa chân cho nên nói đồng là Bồ-đề.
Văn trong kinh nói lược. Nếu nói kỹ thì nói mắt thanh tịnh dụ cho tánh giác.
Do nhìn thẳng nên mắt bị mỏi dụ cho vì vô minh không sáng suốt nên trở thành động niệm.
Do phát ra sự mỏi nên thấy hoa đốm trong hư không. Dụ do niệm động cho nên vọng hiện cảnh giới và căn thân. Mắt và sự mỏi là y theo vào dụ để chỉ cho pháp. Mắt là vô minh động, tâm mệt nhọc tức là căn cảnh sở hiên và tâm năng thấy. Tâm, cảnh này và động niệm đều là sự mệt nhọc vô minh trong tánh Bồ-đề, không có tự thể thật có phát sinh, giống như nhìn sửng lâu thấy hoa đốm trong hư không đều là mệt nhọc. a.2) Y theo trần để nói về không:
Do hai thứ vọng trần sáng tối, phát ra cái thấy trong đó, thu hút thần tượng nầy gọi là tánh thấy. Cái thấy này lìa hai trần sáng và tối kia, thì hoàn toàn vô thể. Đã do động tâm mà vọng hiện ra cảnh giới, đối với vọng cảnh này chia thành căn trần, đối đãi nhau để thành lập, vốn vô tự tánh, thể không thật có: Văn dưới nói:
Do trần mà phát ra cái biết, do căn mà có tướng, tướng thấy vô tánh, giống như bó lau. Cho nên nói do tối sáng phát ra cái thấy trong đó, Trần đã phát căn, căn lại chấp vào căn, căn cảnh đầy đủ mới thành tánh thấy. Cho nên nói thu hút trần này gọi là tánh thấy. Đã do chấp vào cảnh mà được gọi là thấy v.v... Nên biết cái thấy này từ trong bóng hình sinh ra. Hình dụ cho trần.
Luận Khởi Tín chép: Giống như gương sáng hiện hình sắc, hiện thức cũng vậy. Tùy theo năm trần đối tượng đến liều hiện. Sáng tối còn như hình bóng không có tự thể thật có, huống chi là chỗ phát ra cái thấy mà có tự thể ư? Cho nên nói lìa vô thể kia.
b) Phá thành vô tướng, có hai ý:
b.1) Nêu vô sinh:
Cũng thế, này A-nan! Nên biết cái thấy này chẳng phải từ sáng, tối đến, chẳng phải từ căn sinh ra, không phải từ hư không sinh. Văn trước nói do sáng tối để hiển bày rõ căn tánh vốn không nhờ vào cái khác mà có, y theo vọng phân biệt thì dường như có nhân. Nay suy cùng tự thể bốn chỗ không thật có sinh. Cho nên nêu ở đây.
b.2) Bác bỏ chỗ sinh:
Vì sao? Vì nếu từ sáng đến thì lúc tối liền diệt theo, lẽ ra chẳng thấy tối. Nếu từ tối mà đến thì lúc sáng liền diệt theo, lẽ ra không thấy sáng, nếu từ căn mà sinh thì chắc chắn không có sáng và tối. Như thế tánh thấy vốn không có tự tánh. Nếu từ hư không ra thì khi nhìn trần cảnh phải quy về căn thấy.
Lại hư không tự thấy đâu quan hệ gì với ông. Trước bác bỏ cảnh sinh. Trong cảnh tự có sáng tối chống trái nhau. Do sáng thì không thấy tối, khi tối thì không thấy, sáng, cái tối diệt theo cái sáng, do tối trái với điều mới nói trên.
Kế bác bỏ căn sinh.
Căn sinh là không nhờ vào tối sáng. Sáng tối không đến, căn không có tự tánh. Ở đây nói căn sinh, là tự mình nhìn mình, chẳng gọi là bác bỏ thức. Vì cũng có thể là thắng nghĩa, mong vào căn của thế tục, nên nói là căn sinh.
Kế là bác bỏ hư không sinh, nếu nói hư không có khả năng sinh ra thắng nghĩa trong phù trần, tiến lên thì quán hình tượng, lui thì nên quán căn.
Lại trong hư không tự có cái thấy, đâu liên quan gì đến nhãn nhập của ông. c) Kết thành luống dối:
Cho nên biết, nhãn nhập là luống dối, vốn không có tánh nhân duyên, không có tánh tự nhiên, như trước đã giải thích.
2. Nhĩ nhập, có ba.
a) Nêu vô thể, có hai ý:
a.1) Nêu dụ bày vọng:
A-nan! Thí như có người dùng hai tay bịt tai lại. Vì nhĩ căn bị ù nên trong tai có tiếng. Tai và mỏi đồng là Bồ-đề, do nhìn sửng mà phát mỏi, tai dụ cho chân tánh, tay dụ cho vô minh, chân vọng hòa hợp gọi là bít lấp, động niệm mới khởi gọi là mệt. Do niệm động cho nên hiện cảnh. Như đầu phát ra tiếng, gồm tai và mệt, động niệm này và cảnh giới vọng, tâm năng kết và cảnh sở hiện đều là tướng vô minh mệt nhọc trong tánh Bồ-đề, trong đó bịt tai đồng với cái nhìn chăm chăm kia, nên nói là nhìn sửng.
a.2) Y theo trần để giải thích không:
Do hai thứ vọng trần động tĩnh mà phát nghe trong đó, hấp thu trần tượng này gọi là tánh lắng nghe. Cái nghe này lìa hai trần động tĩnh, nó hoàn toàn vô thể. Trần đã phát căn, căn lại chấp cảnh, căn cảnh đối đãi nhau thì nghe mới được thành. Cho nên nhĩ căn này lìa cảnh trần thì không có tự thể.
b) Phá thành vô tướng, có hai ý:
b.1) Nêu vô sinh:
(Tám trăm sáu mươi mốt) cũng thế này A-nan! Phải biết cái nghe này không phải từ nơi động tĩnh mà đến, chẳng phải từ căn mà sinh, chẳng phải từ hư không mà có.
b.2) Bác bỏ chỗ sinh:
Vì sao? Vì nếu từ tĩnh mà đến, thì động liền diệt theo, lẽ ra phải không nghe động. Nếu từ động đến thì tĩnh liền diệt theo, lẽ ra phải không biết tĩnh. Nếu từ căn sinh thì lẽ ra không có động tĩnh, như thể của cái nghe này vốn không có tự tánh. Nếu từ hư không sinh ra thì có cái nghe thành tánh, tức chẳng phải hư không.
Lại hư không tự nghe đâu liên quan gì đến nhĩ nhập của ông.
Trước bác bỏ do cảnh sinh ra. Cảnh thì có động tĩnh, nghe một thì không nghe một. Vì tùy theo nơi năng sinh mà có sinh diệt.
Kế là bác bỏ do căn sinh, không nhờ động tĩnh thì nghe cũng chẳng có.
Sau là bác bỏ từ hư không sinh, nếu hư không có nghe thì tự thành ở căn, lại hư không tự nghe, đâu liên quan gì đến tai? c) Kết thành luống dối:
Cho nên biết, nhĩ nhập là luống dối, vốn chẳng có tánh nhân duyên, chẳng có tánh tự nhiên.
3. Tỷ nhập, có ba ý:
a) Nêu vô thể, có hai ý:
a.1) Nêu dụ bày vọng:
Này A-nan! Thí như có người nín thở hít sâu vào, hít vào lâu thì mệt, ngay trong mũi nghe có hơi lạnh. Do hơi lạnh mà phân biệt thông, bít hư thật, như thế cho đến các mùi thơm, hôi.
Mũi và sự mệt đồng là Bồ-đề, do chứa lâu mà phát ra sự mệt nhọc.
Mũi dụ cho chân tánh, gió bên ngoài dụ cho vô minh, súc là hít khí, dụ cho chân vọng hòa hợp, mệt dụ cho tâm động, xúc hơi lạnh, mùi thơm hôi dụ cho cảnh vọng. Văn còn lại như trước.
a.2) Y theo trần để nói về vô:
Do hai tướng thông bít vọng trần mà phát ra cái nghe, trong đó hấp thu những trần tượng này gọi là tánh ngửi. Cái ngửi này lìa hai trần thông bít, hoàn toàn vô thể. Giải thích như văn trước:
b) Bác bỏ thành vô tướng, có hai ý:
b.1) Nêu vô sinh:
Nên biết cái ngửi này chẳng phải từ thông bít mà đến, chẳng phải từ căn sinh, chẳng phải từ hư không mà có. Thông bít, căn hư không đều không có chỗ sinh.
b.2) Bác bỏ chỗ sinh:
Vì sao? Vì nếu từ thông mà đến, khi bít thì cái ngửi diệt, làm sao biết bít? Nếu từ bít mà có, khi thông thì không có ngửi, làm sao phát ra các xúc như thơm hôi v.v... Nếu từ căn sinh ra thì chắc chắn không có thông bít. Cơ ngửi như thế vốn không có tự tánh.
Nếu từ hư không sinh ra thì cái ngửi ấy phải quay lại ngửi cái mũi của ông. Hư không tự không có ngửi, đâu có liên quan gì đến tỷ nhập của ông.
Trước bác bỏ cảnh sinh, thông bít phá lẫn nhau rất dễ hiểu, điều này đã nói rõ.
Kế bác bỏ từ căn sinh: Căn sinh ra thì không có cảnh, không có cảnh thì không có căn, do trần mà phát ra cái biết.
Cơ cũng là căn.
Kế bác bỏ từ hư không sinh. Trước thì nghe cảnh, quay lại ngửi căn, hư không tự ngửi mùi, đâu cần đến cái mũi của ông. c) Kết thành luống dối:
Cho nên biết tỷ nhập là luống dối, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
4. Thiệt nhập, có ba ý:
Nêu vô thể, có hai: a.1) Nêu dụ bày vọng:
Này A-nan! Thí như có người đưa lưỡi liếm mép. Liếm lâu thì nói. Nếu Người ấy bệnh thì có vị đắng, người không bệnh thì có vị ngọt. Do ngọt và đắng nói lên chiếc lưỡi này khi bất động thì tánh lạt thường trụ, lưỡi và sự mệt đồng là Bồ-đề, là tướng nhìn thẳng phát mệt.
Chiếc lưỡi bất động dụ cho tánh chân, mép dụ cho vô minh, ngọt dụ cho chân và vọng hợp thành. Một là động niệm, vì động niệm cho nên cảnh sinh, như ngọt, đắng, lạt.
Hỏi: Ngọt và đắng do mệt nhọc sinh ra, có thể dụ cho cảnh vọng. Lạt là chiếc lưỡi bất động, phải dụ cho chân tánh, vì sao dụ cho cảnh?
Đáp: Xưa nay bất động có thể dụ cho chân, Nay vì động cho nên hiển bày cái bất động, đã là đối đãi bên ngoài cho nên thành vọng. Như ở dưới nói.
Nói vọng hiển các chân, vọng chân đều là vọng, còn lại như văn có nói. a.2) Y theo trần nói về vô:
Do hai thứ vọng trần ngọt đắng và lạt mà phát ra cái biết ở trong đó thu hút trần tượng này, gọi là tánh biết vị. Cái tánh biết vị này lìa hai trần là ngọt đắng và lạt kia nó hoàn toàn không có tự thể.
b) Bác bỏ thành vô tướng, có hai ý:
b.1) Nêu vô sinh:
Bởi vậy A-nan! Nên biết vị đắng lạt như thế chẳng phải từ ngọt đắng đến, chẳng phải do lạt mà có. Lại chẳng phải do căn sinh, không phải do hư không mà có.
b.2) Bác bỏ chỗ sinh:
Vì sao? Vì nếu từ ngọt đắng mà có, thì lạt sẽ diệt theo, làm sao biết lạt? Nếu từ lạt mà sinh ra thì khi ngọt liền mất, làm sao biết hai tướng đắng ngọt. Nếu từ lưỡi sinh ra thì chắc chắn không có các trần ngọt lạt và đắng. Cái căn bản biết vị này không có tự tánh. Nếu từ hư không mà có, thì hư không tự biết vị, không cần từ miệng ông mà biết, lại hư không tự biết, đâu liên quan đến thiệt nhập của ông. Từ cảnh, từ căn, từ hư không cũng như trước giải thích.
Hư không tự có vị: vị giống như nếm. c) Kết thành luống dối:
Cho nên biết thiệt nhập là luống dối, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
5. Thân nhập, có hai ý:
a) Nêu vô thể, có ba ý:
a.1) Nêu dụ bày vọng:
A-nan! Thí như có người áp một bàn tay lạnh vào một bàn tay nóng. Nếu thế lạnh nhiều thì nóng biến thành lạnh. Nếu thế nóng nhiều thì lạnh biến thành nóng. Như thế dùng xúc chạm hợp thì biết này để nói lâu cái lìa mà biết, thế thiệt nhập nếu thành thì do lao nhọc mà xúc chạm. Thân và lao nhọc đồng là Bồ-đề, là tướng mắt nhìn sửng phát mệt. Hai tay dụ cho chân vọng, hợp dụ cho chân vọng hòa hợp. Chân có mà không giữ tự tánh, tùy duyên thành căn cảnh, như tùy duyên lạnh nóng mà thành tay lạnh nóng.
a.2) Hỏi: Trong hai tay, tay nào dụ cho chân?
Tay nào thế yếu thì dụ cho chân. Suy nghĩ điều đó, ngoài ra như trong văn.
a.3) Y theo trần để nói về vô không:
Do hai thứ vọng trần lìa hợp mà phát ra cái biết ở trong đó và thu hút trần tượng này, gọi là tánh giác biết, thể của giác biết này lìa cái kia, lìa hợp hai trần trái thuận, hoàn toàn không có tự thể.
b) Bác bỏ thành vô tướng, có hai ý:
b.1) Nêu vô sinh:
Cũng thế này A-nan! Nên biết cái biết này không phải lìa, hợp mà đến, không phải từ trái thuận mà ra, không phải từ căn mà có, lại không phải từ hư không sinh.
b.2) Bác bỏ chỗ sinh:
Vì sao? Vì Nếu khi hợp đến thì lìa đã diệt, làm sao biết là lìa, hai tướng trái thuận cũng như thế.
Nếu từ căn sinh ra thì chắc chắn không có lìa hợp, bốn tướng trái thuận thì thân ông biết vì nó vốn không có tự tánh, chắc chắn từ hư không sinh ra thì hư không tự biết, đâu liên quan gì đến thân nhập của ông.
Bác bỏ chỗ sinh, lại y theo hai tướng thuận nghịch, nói rộng về đạo lý ấy, ví dụ ly hợp ở trước.
Kế là từ căn sinh, từ hư không sinh đều như trong văn kinh.
c) Kết thành luống dối:
Cho nên biết thân nhập là luống dối, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
6. Ý nhập, có ba:
1. Nêu vô thể, có hai ý: a) Nêu ví dụ bày vọng:
Này A-nan! Thí như có người mệt mỏi liền ngủ, ngủ say rồi dậy, thấy trần thì nhớ, mất nhớ là quên.
Người dụ cho chân tánh, vì vốn tự biết. Mệt mỏi liền ngủ, dụ cho vô minh vì mê chân, tánh không hiểu rõ.
Ngủ say dụ cho động niệm hiện cảnh, nghĩa là vì ngủ say nên thành mộng. Mộng có tâm và cảnh. Tâm dụ cho nghiệp chuyển, cảnh dụ cho hiện tướng.
Ngủ dụ cho sự thức, sự thức chấp hiện cảnh, phân biệt nhiễm và tịnh, không rõ từ tâm hiện, thấy từ ngoài đến, như nhớ việc trong mộng không được rõ ràng. Cho nên nói thấy trần nhớ này, mất nhớ là quên.
Là điên đảo sinh trụ dị diệt, thu hút trong đó không vượt qua nhau, xứng ý biết căn. Ý và mệt nhọc đồng là Bồ-đề, là tướng mắt nhìn sẵn phát mệt ở trên chỉ chung cho sinh diệt, kết thành ý căn.
Trong mộng hiện cảnh, vì ngủ cho nên có.
Thoát lễ là giả, đã thức dậy rồi không hiểu là giả có. Nhìn mà nhớ tưởng là thật gọi là điên đảo, sinh trụ dị diệt. Ngủ thức, nhớ quên đều là sinh diệt. Trong pháp cũng vậy, động tâm hiện cảnh đã là luống dối, biết việc không rõ, thấy cảnh thật co, gọi là điên đảo. Cảnh và phân biệt, lần lượt thay thế, niệm niệm đổi dời, gọi là sinh trụ dị diệt.
Xét về sự sinh diệt này hoàn toàn quy về ý căn, huân tập không ngừng, niệm niệm phân biệt. Gọi là ý căn, năng phân biệt ý, sở phân biết cảnh, đều là tướng mệt nhọc vô minh trong tánh giác. b) Y theo trần để giải thích vô:
Do hai thứ vọng trần sinh diệt huân tập biết ở trong đó, thu hút trần tượng bên trong.
Tập là nhóm, giữa giống như ở trong thu hút đều là lấy.
Do cảnh sinh diệt, dẫn phát ra tánh biết nhóm họp bên trong, thường chấp đắm phân biệt, đối với phân biệt, không đồng với năm thứ trước chiếu soi cảnh giới bên ngoài, cho nên nói là nội trần. Vì ý căn duyên bên trong mà không duyên bên ngoài tức văn ở trước nói nhóm họp duyên bên trong xao động.
Thấy nghe ngược dòng, chảy không đến đất, gọi là tánh biết. Tánh biết này lìa hai trần thức ngủ, sinh diệt kia, thì hoàn toàn không có tự thể.
Nghịch dòng giống như trái duyên, đất là chỗ. Năm thứ trước chỉ thuận thấy cảnh bên ngoài, không thể phản duyên nội trần gọi nội trần này là duyên không đến chỗ. Không đến chỗ này chỉ hợp với ý căn, tức là chỗ hợp này, là căn ý biết.
3. Bác bỏ thành vô tướng, có hai ý:
1. Nêu vô sinh:
Cho nên A-nan! Nên biết cái căn biết như thế không phải từ năm thức đến, không phải từ sinh diệt có, không phải từ căn sinh, cũng không phải từ hư không sanh.
2. Bác bỏ chỗ sinh.
Vì sao? Vì Nếu từ thức đến thì khi ngủ sẽ diệt theo, lấy gì làm ngủ, ắt khi sinh thì có, diệt đồng với vô thì làm cho ai chịu diệt. Nếu từ diệt mà có thì khi sinh liền diệt vô, ai là người biết sinh. Nếu từ căn sinh thì hai tướng thức ngủ tùy thân mà khai hợp.
Lìa hai thể này thì cái biết này đồng với hoa đốm trong hư không, hoàn toàn không có tự tánh. Nếu từ hư không sinh thì tự hư không biết, đâu liên quan gì đến ý nhập của ông.
Trước y theo thức và ngu, kế là y theo pháp sinh diệt, dụ tuy cả hai đều bác bỏ cảnh sinh ra, nhưng đều còn mất lẫn nhau.
Kế phá căn sinh, ý căn vô tướng, y theo thức ngủ để hiển, thức có công năng để suy xét, ngủ thì thành mộng, biết là ý căn, Nay bác bỏ ngủ thức tự là sự khai hợp của thân, ấy cũng là thân giao nhau. Giao là giao hợp.
Trang Tử cũng nói: Ngủ súc giao, thức là hình khai, ý nói ngủ thức vô thể, tự tùy theo thân, không phải ý căn, nên biết ý căn hoàn toàn không thật có, vì từ hư không sinh ra cho nên không thật có.
4. Kết thành luống dối:
Cho nên biết ý nhập là luống dối, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
Phá mười hai xứ, đây chính là bác bỏ cảnh, văn có hai phần:
1. Nêu chung.
Lại nữa, này A-nan! Thế nào là mười hai xứ bổn Như Lai tạng diệu chân như tánh?
Trước đã nêu chung, nay nêu riêng để nói lên Tạng tánh.
2. Bác bỏ riêng, có sáu:
1. Nhãn sắc xứ, có ba:
a) Nêu việc để gạn.
Nầy A-nan! Ông lại xem rừng cây Kỳ-đà và các con suối, ao này. Ý ông nghĩ sao? Những thứ này là sắc sinh ra nhãn kiến, mắt sinh ra sắc tướng. Xứ nghĩa là cửa sinh. Sáu căn, sáu trần là chỗ thức sinh ra. Căn đã bác bỏ trước, ở đây là bác bỏ cảnh. Nhưng cũng lấy căn đối nhau mà phá, cho nên hỏi là sắc sinh, mắt sinh v.v...
b) Tùy chấp mà nhắc lại để bác bỏ.
Nầy A-nan! Nếu nhãn căn sinh ra tướng sắc thì thấy hư không chứ chẳng phải thấy sắc, tánh sắc lẽ ra phải tiêu mất, tiêu mất thì nói lên tất cả đều vô.
Tướng của sắc đã vô, thì ai rõ được tính chất không, hư không cũng như thế, đây là phá căn sinh ra cảnh.
Hai câu đầu là nhắc lại. Câu thấy hư không chẳng phải sắc là bác bỏ cảnh có sắc không. Nay dùng sắc, không đối nhau mà phá, đây là phá sắc.
Nếu khi thấy không thì không có sắc. Căn đã sinh ra sắc gọi là tánh sắc, lẽ ra phải tiêu mất. Cái năng sinh đã mất thì cái sở sinh đâu có, nên nói nói lên tất cả đều không. Đây là cái không hiện thì sắc tiêu mất.
Câu tướng của sắc, v.v... trở xuống có hai nghĩa:
- Cái không chẳng tự hiển bày, do sắc mà hiển bày. Nay đã không có sắc thì từ cái gì mà hiển bày không.
Lại căn năng sinh đồng là sắc pháp, tướng của sắc đã mất thì căn cũng diệt theo. Căn đã diệt thì lấy gì để hiểu rõ tính chất của không. Đây là cái không chẳng có sắc hiển bày.
- Cái không cũng thế: Nghĩa là so sánh bác bỏ sinh không, hành tướng như sắc.
Nếu lại sắc trần sinh ra mắt thấy thì thấy không chẳng phải sắc, thấy liền tiêu mất, mất thì đều vô, ai rõ không sắc, đây là phá cảnh sinh căn. Hai câu đầu là nhắc lại, quán không trở xuống là bác bỏ. Đây cũng là sắc không đối nhau mà bác bỏ, đây là bác bỏ sắc.
Sắc đã sinh căn thì khi quán không sắc liền tiêu diệt, vậy từ cái gì sinh căn, mà hiểu rõ được không.
Lại sắc có công năng bày không, thì khi thấy không, sắc đã tiêu diệt, từ đâu mà bày không.
Một chữ sắc dưới nghĩa nó bao trùm, hư không có công năng sinh ra thấy, dụ như sắc nên biết, chỉ bác bỏ hai kết, giải thích yếu chỉ tường tận. c) Kết bày luống dối:
Cho nên biết thấy và thấy không đều chẳng có nơi chốn, tức hai chỗ sắc và thấy đều luống dối, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên. Không có nơi chốn là không có chỗ sinh. Ngoài ra văn kinh rất dễ thấy.
2. Nhĩ thanh xứ, có ba ý:
a) Nêu dụ để gạn lại:
A-nan! Ông lại nghe tiếng trống đánh nhóm chúng trong rừng Kỳ-đà, âm thanh chuông trống nối nhau dồn dập. Ý ông nghĩ sao? Những thứ đó là tiếng đến bên tai hay tai đến chỗ tiếng.
Đây là y theo tai nghe hai âm thanh chuông trống, để phá tướng căn cảnh đến đi. Nếu biết cả hai đều luống dối thì cái gì đến, cái gì đi.
b) Tùy chấp nhắc lại để phá:
Này A-nan! Nếu tiếng này đến bên tai. Như ta khất thực trong thành Thất-la-phiệt, thì ở rừng Kỳ-đà không có ta. Nếu tiếng này đến chỗ tai A-nan thì Mục-kiền-liên, Ca-diếp lẽ ra đều không nghe. Huống chi trong đó một ngàn hai trăm năm mươi vị Sa-môn, vừa nghe tiếng chuông đều đến chỗ ăn. Đây là phá tiếng đến bên tai.
Hai câu đầu là nhắc lại, Như ta v.v... trở xuống là bác bỏ. Trước nêu ví dụ âm thanh của Phật.
Thành là nhĩ căn, rừng là chuông trống, âm thanh này là so sánh theo mà bác bỏ. Tiếng đã đến bên tai ông, tiếng này đã lìa chuông trống, chỉ cần một mình ông nghe, không cần người khác cũng nghe. Nay thì không đúng, tất cả đều nghe, nên biết tiếng không đến đi.
Nếu tai ông đến bên tiếng kia, như ta trở về rừng Kỳđà, thì ở thành Thất-la-phiệt không có ta, ông nghe tiếng trống, tai ông đã đến chỗ đánh trống, khi ấy tiếng chuông đồng thời phát ra, đáng lẽ không nghe chuông, huống chi trong đó voi ngựa, trâu, dê các thứ âm thanh, đó là phá tai đến chỗ tiếng. Hai câu đầu là nhắc lại, như ta v.v... trở xuống là bác bỏ.
Trước nêu dụ, Phật dụ cho Nhĩ Căn, vườn Kỳ-đà dụ cho trống.
Thành dụ cho A-nan.
Câu ông nghe v.v... là so sánh theo mà bác bỏ, nhĩ căn đã đến chỗ trống, A-nan đáng lẽ thiếu nhĩ căn. Tiếng chuông và tiếng trống đều vang, thì không được lại nghe tiếng vang của chuông, huống chi là tiếng khác?
Nếu không có đến đi, cũng lại không nghe, kết cả hai không thành nghĩa nghe. c) Kết luận chỉ bày sự luống dối.
Cho nên biết, cái nghe và âm thanh đều không có nơi chốn, tức là hai thứ chỗ nghe và tiếng đều luống dối, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
3. Tỷ hương xứ, có ba:
a) Nêu việc để gạn lại:
A-nan! ông lại ngửi mùi chiên-đàn trong lò này, hương nầy chỉ cần đốt một thù thì thành Thất-la-phiệt trong cùng bốn mươi dặm, cùng lúc đều nghe mùi. Ý ông nghĩ sao? mùi thơm này sinh từ cây chiên đàn, hay sinh từ mũi của ông, hay sinh từ hư không?
Trong đó chỉ hỏi chỗ sinh của cảnh, không giống như căn cảnh đối phá ở văn trước.
b) Tùy chấp mà nhắc lại để phá:
Nầy A-nan! Nếu mùi thơm này sinh ra từ mũi ông thì lẽ ra mùi thơm phải từ mũi ra. Mũi chẳng phải chiên đàn, thì làm sao trong mũi có mùi chiên đàn? Lẽ ra ông nghe mùi thơm phải từ mũi vào, trong mũi ra mùi thơm, nói nghe là không đúng nghĩa, đây là bác bỏ căn sinh ra. Trước nhắc lại, câu đáng lẽ mũi v.v... chính là phá. Câu lẽ ra ông v.v... là phá theo chiều dọc, dù cho mũi của ông sinh ra mùi thơm thì nghĩa sinh tuy thành mà nghĩa nghe không lập được, vì chỉ có thể sinh ra mùi thơm, không từ ngoài vào thì phải hợp với mũi.
Nếu sinh từ hư không thì tánh hư không thường hằng, mùi thơm lẽ ra phải thường có, đâu nhờ cây khô này đốt ở trong lò. Đây là bác bỏ từ hư không sinh. Tánh hư không thường trụ, lẽ ra thường có mùi thơm, nếu thường có hương thơm thì đâu cần đốt gỗ mới nghe mùi thơm.
Nếu sinh ra từ cây thì chất thơm này do đốt mà thành khói. Nếu mũi được nghe thì phải nhờ vào mùi khói. Khói ấy bay trong hư không chưa kịp bay xa vì sao trong bốn mươi dặm đã nghe. Đây là bác bỏ từ cây sinh. Đây là y theo thấy tướng khói thô trông thấy mà bác bỏ. Bất luận mùi thơm. Nếu dùng khói biểu thị, thật cho là chưa thông. Cho nên nói khói ấy bay trong hư không chưa kịp đi xa. Khói vẫn còn ở gần, nghe đã thông xa, nên biết mùi thơm ấy không từ cây mà ra.
c) Kết luận chỉ bày luống dối:
Cho nên biết, hương, mũi và ngửi đều không có nơi chốn, tức hai chỗ ngửi và mùi đều luống dối, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
4. Thiệt vị xứ, có ba ý:
a) Nêu việc để gạn lại:
A-nan! Ông thường vào hai thời ở trong chúng ôm bát, lúc đó hoặc gặp bỏ, lạc, đề hồ gọi là thượng vị, ý ông nghĩ sao? Vị ấy từ hư không sinh, hay từ lưỡi sinh, hay từ thức ăn sinh.
b) Tùy chấp nhắc lại mà bác bỏ:
A-nan! Nếu vị này sinh ra từ lưỡi ông, thì ở trong miệng của ông chỉ có một cái lưỡi, Cái lưỡi ấy bấy giờ đã thành vị bỏ, gặp hắc thạch mật, lẽ ra không thay đổi. Nếu không thay đổi thì không gọi là biết vị. Nếu thay đổi thì lưỡi chẳng phải nhiều thể, làm sao một lưỡi mà biết nhiều? Đây là bác bỏ từ căn sinh.
Trước nêu câu trong miệng ông, v.v... là bác bỏ căn sinh, một lưỡi không thể biết được nhiều vị. Nếu vị từ lưỡi thì vị lẽ ra không khác.
Nếu không thay đổi v.v... là bác bỏ theo chiều dọc. Nếu ông cho vị là không khác, vị đã không phân biệt thì đâu thành biết vị.
Câu nếu thay đổi v.v... là bác bỏ vị thay đổi lẽ ra lưỡi phải nhiều thể. Hai câu đầu lại bác bỏ. Hai câu sau là kết thúc bác bỏ. Đây chính là cho lưỡi từ vị, lưỡi lại thành nhiều. Nay ông không phải như vậy. cho nên nói làm sao một lưỡi mà biết nhiều vị.
Nếu sinh ra từ thức ăn, thì thức ăn không có thức, làm sao tự biết, lại thức ăn tự biết tức là đồng với người khác ăn, đâu can dự gì đến ông, gọi là biết vị, đây là bác bỏ từ cảnh sinh.
Ba câu đầu chính là phá. Nếu Vị sinh từ thức ăn thì lẽ ra không nhờ vào căn, không có căn, không có thức ăn thì làm sao thành vị. Nếu thành vị thì thức ăn phải có thức. Nếu không có thức làm sao nói tự biết.
Câu lại thức ăn tự biết v.v... là bác bỏ theo chiều dọc. Nếu cho rằng thức ăn tự biết thì đồng với người khác nếm vị, đâu có liên quan đến cái biết của lưỡi ông.
Nếu sinh từ hư không, thì ông nhai xem hư không có mùi vị gì? nếu hư không là vị mặn thì đã làm mặn cái lưỡi ông, cũng làm mặn cái mặt của ông, thì người ở cõi này đã đồng với cá biển. Đã thường nếm mặn, rõ ràng không biết lạt. Nếu không biết lạt cũng không biết mặn thì chắc chắn không biết gì, làm sao gọi là vị. Đây là bác bỏ hư không sinh.
Ba câu đầu là nhắc lại chấp để xét vị.
Câu nhất định hư không ấy v.v... trở xuống chính là phá.
Bốn câu đầu là thân và mặt đều mặn, hai câu sau mặn đồng với biển.
Nếu đều mặn thì không khác với cá biển.
Câu đã thường nếm mặn v.v... tức là bác bỏ theo chiều dọc.
Bốn câu đầu bác bỏ cả hai đều mất. Dù ông thường nếm mặn thì hoàn toàn không thể biết lạt. Nếu không có vị lạt, làm sao hiển bày vị mặn. Mặn và lạt đều không an lập, hai câu chắc chắn không biết gì, v.v... là kết luận chẳng thể biết vị. Mặn lạt đã không phân biệt được thì không thể gọi là biết vị. c) Kết luận chỉ luống dối.
Cho nên biết: vị, lưỡi và nếm đều không có nơi chốn thì nếm và vị cả hai đều luống dối, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
5. Thân xúc xứ, có ba:
a) Nêu việc để gạn lại:
A-nan! thường vào buổi sáng ông đưa tay xoa đầu, ý ông nghĩ sao? Cái xoa đó biết cái gì là xúc chạm, là ở tay hay ở đầu?
Xét cách xoa thức thường đều như vậy, cho nên xoa đầu.
Đây là gạn lại cái năng xúc ở đầu, ở tay, cả hai đều có lỗi.
Như ở dưới phá.
b) Tùy chấp nhắc lại để bác bỏ:
Nếu ở tay thì đầu không biết, làm sao thành xúc chạm? Nếu ở đầu thì tay vô dụng, làm sao gọi là xúc. Đây là bác bỏ có mất lẫn nhau, căn cảnh hiển nhau, xúc mới được thành, một có một không, nên không gọi là xúc.
Nếu mỗi thứ đều có thì A-nan phải có hai thân, đây là bác bỏ đều có hai chất. Đầu và tay đều có thì có hai cái biết, hai cái biết thành hai thân A-nan, thì thể nào là của ông?
Nếu đầu và tay do một xúc sinh ra thì tay và đầu phải là một thể, nếu một thể thì xúc không thành. Đây là bác bỏ cùng thành một thể.
Bốn câu đầu chính là bác bỏ, nếu đầu và tay cùng sinh một xúc thì làm cho hai thứ hợp thành một thể. Nếu là một thể thì xúc tự không thành. Đây là kết thúc bác bỏ.
Nếu hai thể thì xúc đâu còn, ở chẳng phải sở, ở năng sở chẳng phải năng, chẳng thể hư không và ông thành xúc, đây là bác bỏ chuyển sang chống chế. Hai câu đầu là nhắc lại chống chế để gạn lại chúng. Nếu ông chống chế rằng sở sinh tuy một, năng sinh tự có hai, làm sao làm cho đầu tôi, tay tôi không khác. Đây là xúc một thể ở chỗ nào? Cho nên nói xúc làm sao còn, hai câu tại năng v.v... trở xuống là đồng với bác bỏ ở trước.
Trước đó nói: Nếu ở tay, ở đầu thì vô dụng v.v... câu không nên v.v... trở xuống là bác bỏ từ hư không sinh. Pháp có hình tướng còn không thể sinh huống chi hư không vô hình mà có thể thành xúc hay sao. c) Kết luận chỉ ra luống dối:
Cho nên biết, giác xúc và thân đều không có nơi chốn, tức thân và xúc đều luống dối, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
6. Ý pháp xứ, có ba:
a) Nêu việc để gạn lại:
A-nan! Thường trong ý của ông có sở duyên là ba tánh thiện, ác vô ký, sinh thành phép tắc. Pháp này là do tâm sinh ra hay lìa tâm mà có nơi chốn riêng.
Sở duyên trong ý là pháp của ba tánh, nhiếp hết tất cả. Tự nhiên như vậy nên nói là sinh thành.
Pháp sở (tám trăm sáu mươi tư) duyên nầy tức tâm lìa tâm cả hai đều có lỗi, văn dưới là bác bỏ.
b) Tùy chấp mà nhắc lại để bác bỏ:
A-nan! Nếu tức tâm thì pháp tắc chẳng phải trần, chẳng phải sở duyên của tâm thì làm sao thành xứ. Đây là bác bỏ tức tâm. Một câu đầu là nhắc lại, một câu kế là định.
Chẳng phải tâm v.v... trở xuống là bác bỏ, đã tức là tâm thì chắc chắn chẳng phải trần. Nếu chẳng phải trần thì không phải cảnh sở duyên của tâm nầy, đâu gọi là pháp xứ, ở dưới bác bỏ lìa tâm.
Nếu lìa tâm thì không có nơi chốn, cho nên tự tánh của pháp là biết hay không biết. Đây là nhắc lại chấp phá cả hai. Hai câu đầu là nhắc lại, câu pháp tắc là bác bỏ.
Pháp này đã lìa tâm, bèn dùng cái biết và không biết mà bác bỏ. Biết thì gọi là tâm, khác với ông chẳng phải trần, đồng với tâm lượng khác. Tức ông tức tâm thì làm sao tâm ông lại có hai ở ông. Đây là bác bỏ có biết.
Câu đầu bác bỏ thành tâm lượng. Nếu pháp lìa tâm có biết thì lẽ ra gọi là tâm. Khác với ông v.v... trở xuống là phân tức dị để phá. Hai câu đầu là phá dị. Nếu pháp có biết khác với tâm ông, tức là đồng với người khác. Vì khác với tâm ông nên lại có biết. c) Câu tức ông tức tâm, v.v... trở xuống là bác bỏ tức tâm.
Câu đầu là nửa nhắc lại, nửa nhất định, hai câu sau là bác bỏ. Pháp có biết tức tâm ông thì lẽ ra bên ngoài tâm ông lại có tâm ông. Cho nên nói lại có hai ông.
Nếu chẳng biết thì trần này đã chẳng phải sắc, thinh, hương, vị, xúc, li hợp, nóng lạnh và tướng hư không. Phải ở chỗ nào. Nay sắc không đều chẳng biểu thị, chẳng phải nhân gian lại có bên ngoài cái không. Tâm chẳng phải sở duyên thì xứ từ đâu mà lập, đây là bác bỏ cái không biết. Năm câu đầu chắc chắn là chẳng phải sắc không, một câu kế là xét hỏi ở đâu, hai việc sắc không thu nhiếp hết các pháp.
Đã chẳng phải sắc không, nay ở chỗ nào?
Hai câu nay sắc không v.v... là bác bỏ vô sở biểu. Nếu pháp trần này cũng thuộc về sắc không, vì sao biểu thị biết là pháp trần. Hai câu không phải nhân gian v.v... là bác bỏ ngoài không thì chẳng thành. Trong sắc không đã chẳng biểu thị, chẳng thành trần này thì ở ngoài không. Vì không chẳng có ngoài. Hai câu tâm không phải sở duyên v.v... trở xuống là kết thúc về nghĩa vô xứ. Như trên mà suy nghiệm, pháp trần không có thì tâm không có cảnh sở duyên, từ đâu mà lập xứ?
3. Kết thúc chỉ bày luống dối:
Cho nên biết pháp tắc và tâm đều không có nơi chốn thì ý và pháp đều thành luống dối, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
4. Bác bỏ mười tám giới, có hai ý:
1. Bác bỏ chung.
Lại nữa, này A-nan! Thế nào là mười tám giới vốn là Như Lai Tạng diệu chân như tánh.
Tiếng Phạm là Đà-đô, Hán dịch là giới. Giới là nhân. Vì ba thứ căn, cảnh, thức làm nhân cho nhau.
Lại có nghĩa là chủng tộc. Căn, cảnh, thức mỗi thứ có một chủng tộc. Lại nhãn v.v... là sáu chủng tộc riêng.
2. Bác bỏ riêng, có sáu ý:
a) Nhãn thức giới, có ba ý:
a.1) Nhắc lại chấp đề bác bỏ cả hai.
Nầy A-nan! Như ông đã nói nhãn sắc làm duyên sinh ra nhãn thức. Thức này lại do mắt sinh ra, lấy mắt làm giới, hay là do sắc mà sinh, lấy sắc làm giới? Phật đối với người Tiểu thừa mà phương tiện dạy, nói các pháp nhân duyên. Nay nói nghĩa đế đệ nhất. Nhân duyên, tự nhiên đều là lời nói vô nghĩa. Cho nên ở đây nhắc lại để qua:
a.2) Tùy chấp nhắc lại để bác bỏ:
A-nan! Nếu do mắt sinh, đã vô sắc không chẳng thể phân biệt, dù có thức của ông cũng chẳng dùng được. Cái thấy của ông lại chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng không có chỗ biểu thị thì từ đâu mà lập giới.
Đây là bác bỏ từ căn sinh, câu đầu là nhắc lại.
Bốn câu đã chẳng có sắc không v.v... trở xuống là chẳng có cảnh, nhưng có thức, cần gì bác bỏ. Đã từ căn sinh ra thì không cần cảnh. Nếu không có cảnh thì làm sao phân biệt. Sở duyên đã không, năng duyên đâu cần.
Bốn câu ông thấy lại không phải xanh vàng đỏ trắng v.v... là bác bỏ năng sinh thức căn vô thể.
Nếu cho là căn sinh thì căn chẳng phải mầu xanh v.v... là không thể thấy, lại không có biểu thị, căn còn không lập thì thức từ đâu mà có. Dưới bác bỏ do cảnh sinh, nếu do sắc sinh ra, khi cái sinh vô sắc, thì thức của ông phải diệt, làm sao thức biết là tánh hư không.
Nếu khi sắc biến thì thức của ông cũng thay đổi. Thức ông không biến thì giới từ đâu mà lập. Sắc nầy không tướng, bác bỏ không có thức.
Một câu đầu là nhắc lại, bốn câu khi cái không vô sắc v.v... trở xuống là lập chính lý bác bỏ. Đã từ sắc sinh, không hiện thì sắc mất, thức lẽ ra phải diệt theo thì ai hiểu rõ hư không.
Năm câu nếu khi sắc biến v.v... trở xuống là y theo lý chất để bác bỏ.
Nếu sắc thay đổi thì ông hiểu rõ sự thay đổi. Thức vốn không đổi dời. Đã không có sắc tướng thì từ đâu mà lập giới.
Từ biến thì thay đổi, tướng giới tự vô, bất biến thì hằng còn. Đã từ sắc sinh, lẽ ra không biết chỗ ở của hư không. Đây là bác bỏ tùy biến, bất biến chẳng phải giới. Hai câu đầu là bác bỏ tùy biến vô thức. Nếu khi sắc biến thì thức cũng biến theo, thì cái gì là thức.
Bốn câu bất biến v.v... trở xuống là bác bỏ bất biến vô tri.
Nếu không biến theo thì thức thường tại, vốn từ sắc sinh thì không được biết không.
Nếu gồm hai thứ mắt và sắc cùng sinh, hợp thì giữa lìa, lìa thì cả hai đều hợp, thể tánh lẫn lộn, làm sao thành giới. Đây là bác bỏ cùng sinh. Nếu căn cảnh hợp sinh ra trung giới, thì giới trong thức này có biết và không biết khác nhau, cho nên nói trung lìa. Nếu thành khác thì một nửa giới trong thức này hợp với căn, một nửa hợp với cảnh, cho nên nói cả hai đều hợp.
Nếu cả hai mà hợp thành thì có lỗi lẫn lộn, vì biết và không biết đồng một giới. Nghĩa của giới lẽ ra không đúng, hoặc lìa nghĩa là khai, hoặc giống như vô. a.3) Kết luận chỉ bày luống dối:
Cho nên biết, nhãn sắc là duyên sinh ra nhãn, thức, giới, ba chỗ đều không thì mắt và sắc và sắc giới vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
b) Nhĩ thinh giới, có ba:
b.1) Nhắc lại chấp để bác bỏ cả hai:
A-nan! Lại điều ông nói nhĩ thinh làm duyên sinh ra nhĩ thức. Thức này do tai sinh ra, lấy tai làm giới, hay do thinh sinh ra, lấy thinh làm giới?
b.2) Tùy chấp nhắc lại để bác bỏ:
Này A-nan! Nếu do tai sinh ra thì hai tướng động tĩnh đã không hiện tiền, thì căn không thành biết, không hề biết gì, biết còn không thành, thì đâu có hình mạo. Trước bác bỏ căn sinh, đây là thắng nghĩa. Câu đầu là nhắc lại. Ba câu hai tướng động tĩnh v.v... trở xuống chính là bác bỏ năng sinh. Nếu không có tiền cảnh thì căn tự không thành. Do trần mà phát ra cái biết. Câu ắt không có chỗ biết là so sánh bác bỏ chỗ sinh. Nếu thật không biết thì căn không lập, huống chi là có thức.
Nếu chấp tai nghe, vì không có động tĩnh nên cái nghe không thành, vì sao tai lẫn lộn, sắc xúc trần gọi là thức giới. Cho nên nhĩ thức giới từ đâu mà lập. Đây là bác bỏ phù trần. Ba câu đầu là bác bỏ theo chiều dọc. Nếu chấp vào tai phù trần dung chứa cái nghe, nếu không có động tĩnh cũng không thành nghe.
Ba câu vì sao trở xuống, v.v... là quở trách bác bỏ, thì lấy gì để thấy phù trần tạp sắc xúc pháp làm thức giới. Hai câu thì nhĩ thức giới, v.v... là hai căn hai chất, từ đâu làm giới mà sinh ra nhĩ thức?
Nếu sinh từ thinh vậy thức do thinh mà có thì không quan hệ gì đến cái nghe, không nghe thì mất tiếng, về chỗ tướng là bác bỏ cảnh sinh. Câu đầu là nhắc lại. Câu thức do v.v... trở xuống là bác bỏ căn cảnh đều mất. Tiếng (tám trăm sáu mươi lăm) có công năng sinh ra thức, đâu nhờ vào cái nghe. Đây là mất căn. Nếu không có ở căn thì tiếng cũng không có. Đây là mất cảnh, căn cảnh đều mất thì thức từ đâu sinh.
Thức từ tiếng sinh ra, cho là tiếng do nghe mà có tiếng, cái nghe lẽ ra là nghe thức. Đây là bác bỏ nghe tiếng đồng với thức.
Ba câu đầu là nhắc lại cả hai. Ông cho rằng thức do tiếng mà sinh ra, lại cho rằng do căn mà có tướng. Nay khi nghe tiếng tức là nghe thức.
Không nghe thì chẳng phải giới, nghe thì đồng với tiếng.
Câu đầu là bác bỏ không nghe thì không có giới. Nếu không nghe thức thì cũng không nghe tiếng. Cái năng nghe và sở nghe đều không có nghĩa giới.
Một câu sau là bác bỏ nghe thức đồng với tiếng, rất dễ hiểu. Thức đã bị nghe thì ai biết nghe thức, đây là bác bỏ thành sở, không có thức năng liễu làm cảnh cho sở năng thì ai năng tri, biết cái nghe thức này.
Nếu không biết thì hoàn toàn như cỏ cây, tức là bác bỏ cỏ cây vô tri. Liễu biệt đã vô có thì đâu khác với cỏ cây. Không nên nghe tiếng lẫn lộn thành trung giới.
Giới không có trung vị. (địa vị ở giữa) thì tướng trong ngoài từ đâu mà thành? Là bác bỏ cùng sinh. Hai câu đầu là bác bỏ trung giới. Căn cảnh đều sinh còn không, cùng sinh đâu có lý này. Ba câu sau là nói không có căn trần, đối một bên mà lập ở giữa. Giữa đã không thành thì một bên cũng không lập được. b.3) Kết luận chỉ rõ luống dối:
Cho nên biết nhĩ, thinh là duyên sinh ra nhĩ thức giới, ba chỗ đều không thì nhĩ, thinh và thinh giới. Vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
c) Tỷ thức giới, có ba:
c.1) Nhắc lại chấp để gạn lại cả hai:
A-nan! Ông nói tỷ hương (mũi ngửi mùi) làm duyên sanh ra tỷ thức. Thức này do tỷ sinh ra, lấy tỷ làm giới, do hương sinh ra, lấy hương làm giới.
c.2) Tùy chấp nhắc lại để bác bỏ:
A-nan! Nếu do tỷ sinh, thì trong tâm ông lấy gì làm mũi, là chấp về tướng thịt, hình hai ngón hay là chép về tánh. Ngửi biết lay động. Trước bác bỏ từ căn sinh ra, ở đây là dùng căn phù trần và căn thắng nghĩa để hỏi, cả hai đều có lỗi.
Nếu chấp vào thân thịt thì chất thịt là thân, thân biết tức là xúc, gọi là thân chứ chẳng phải mũi. Gọi là xúc tức là trần, mũi còn không có tên thì làm sao lập giới. Đây là phá phù trần.
Câu đầu là nhắc lại, hai câu kế là bác bỏ. Nếu chấp vào hai ngón thì đây thuộc về thân, không thuộc tỷ căn.
Nếu có sở tri, chỉ gọi là biết xúc, không gọi là biết hương.
Hai câu từ thân không v.v... trở xuống là kết thúc chẳng phải tỷ hương.
Câu mũi còn v.v... trở xuống là chỉ cho ý nghĩa không có giới, dưới đây là căn thắng nghĩa. Nếu chấp vào ngửi mà biết, lại trong tâm ông lấy gì làm biết.
Lấy thịt làm biết thì cái biết của thịt vốn là xúc chẳng phải tỷ. Ba câu đầu là nhắc lại chấp để hỏi chung.
Câu dùng thịt làm cái biết v.v... là bác bỏ.
Phù trần là biết, thân tự biết xúc, chẳng phải tỷ căn. Lấy hư không làm cái biết, hư không là thân biết, thịt lẽ ra chẳng biết. Như thế thì đáng lẽ hư không là ông, thân ông chẳng biết, ngày nay A-nan lẽ ra không có. Đây là bác bỏ hư không là cái biết, ba câu đầu bác bỏ căn không hay biết.
Hai câu như thế v.v... trở xuống là bác bỏ hư không tức là thân, ba câu thân ông v.v... trở xuống là kết thúc không có bản thể.
Lấy hương làm cái biết, biết tự thuộc về hương, thì đâu liên quan đến mũi của ông, là bác bỏ hương là cái biết, đây chính là phá.
Hương tự có cái biết, đâu quan hệ gì đến cái mũi của ông, nếu mùi thơm hôi chắc chắn sinh ra từ mũi ông, cho nên hai mùi thơm hôi kia không sinh ra cây y lan và chiên-đàn, đây là bác bỏ chuyển chấp.
Hai câu đầu là nhắc lại chấp.
Nếu ông nói đều tương quan nhau, do có mũi ông nên mùi thơm hôi mới lập, giống như tỷ căn do hương cho nên có.
Câu thì hai loại mùi thơm hôi kia v.v... trở xuống là phá.
Nay bốn câu bác bỏ chất không thể sinh ra hương. Hai vật không đến, mũi ông tự ngửi cho hương là thơm, là hôi đây là bác bỏ căn ngửi mùi gì?
Hôi thì chẳng phải thơm, thơm chẳng phải hôi, đây là bác bỏ tướng thơm hôi, chẳng phải là vô, chẳng phải không nghe.
Nếu hai mùi thơm hôi đều nghe thì lẽ ra một mình ông có hai cái mũi. Đối với ta hỏi đạo có hai A-nan, thì ai là thể của ông. Đây đều bác bỏ hai thể. Nếu thơm sinh từ mũi thì phải không nghe mùi hôi, nếu mũi sinh ra mùi hôi thì phải không nghe mùi thơm. Nay nghe được cả hai thì phải có hai cái mũi, nếu hai mũi lập thì hai thể lại thành, chính là thể gì?
Nếu tỷ (mũi) là một thì thơm hôi không hai. Hôi đã là thơm, thơm lại thành hôi, hai tánh không có thì giới từ đâu mà lập? Đây là bác bỏ cả hai đều mất. Nếu ông không cho rằng mũi có hai thì thơm hôi lẫn lộn đều chẳng khác nhau. Vì từ một cái mũi mà lưu xuất ra, nếu không có thơm hôi, vì sao nói biết gọi là sinh ra thức giới. Nếu do thơm mà sinh ra thì thức do hương sinh ra, thì thức do hương mà có, như mắt thấy vật khác mà không thể tự thấy nó. Vì do hương mà có lẽ ra không biết hương đây là bác bỏ cảnh sinh ra.
Câu đầu là nhắc lại, năm câu thức do hương mà có v.v... là nêu ví dụ để bác bỏ. Mắt có thể thấy, cái thấy thì không thấy mắt, hương có thể sinh ra thức, mà thức không biết hương.
Biết thì chẳng phải sinh, không biết thì chẳng phải thức, hương chẳng biết có, hương giới không thành. Thức không biết hương, nhân giới thì không phải từ hương mà kiến lập, đó là phá theo chiều dọc.
Dù cho thức của ông biết được hương, thì đây cũng không nên nói từ hương sinh ra, cho nên nói biết thì chẳng sinh. Nếu không biết mùi thơm, hôi này thì làm sao gọi là Thức, xưng là biết rõ?
Cho nên nói không biết thì chẳng phải thức, hương không do căn thì không có hương giới, cho nên nói hương chẳng biết có thì hương giới không thành, thức không biết về hương thì không thể nói do hương mà có thức.
Đã không có trung gian thì không thành trong ngoài, các tánh nghe kia hoàn toàn luống dối. Đây là tổng kết bác bỏ.
Thức đã vô sinh, thì căn cảnh không lập, dù có tánh nghe đều thành luống dối. c.3) Kết thức chỉ bày luống dối:
Cho nên biết, tỷ hương là duyên sinh ra tỷ thức giới. Ba chỗ đều không thì tỷ, hương và hương giới vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
d) Thiệt thức giới, có ba ý:
d.1) Nhắc lại chấp để bác bỏ cả hai.
Này A-nan! ông biết lưỡi nếm vị là duyên sinh ra thiệt thức. Thức này lại do chỗ sinh của lưỡi, lấy lưỡi làm giới, hay do chỗ sinh ra vị, lấy vị làm giới?
d.2) Tùy chấp nhắc lại để bác bỏ:
Này A-nan! Nếu do lưỡi sinh thì mía, ô mai, hoàng liên, muối, tế tân, gừng, quế trong thế gian đều không có vị. Ông hãy tự nếm cái lưỡi của mình xem là ngọt hay đắng? Đây là bác bỏ từ căn sinh. Câu đầu là nhắc lại.
Câu thì các thứ mía, ô mai v.v... trở xuống là nêu không có năm vị, để hỏi về thiệt căn, thức là hỏi không có vị tự nếm. Nếu tánh của lưỡi là đắng, thì lưỡi của ai đến nếm? Lưỡi không tự nếm thì ai là người tự biết.
Tánh của lưỡi không đắng, mà vị tự chẳng sinh, thì làm sao lập giới. Đây là bác bỏ không tùy chấp. Nếu lưỡi có vị, thì căn đã thành cảnh, ai là người biết căn. Khi không có, thì vị chắc chắn do căn cảnh sinh, chỉ có căn của ông đâu thể sinh ra thức.
Dưới là bác bỏ từ cảnh sinh. (tám trăm sáu mươi sáu) Nếu do vị sinh, thì thức tự là vị, đồng với cái lưỡi lẽ ra không tự nếm, làm sao thức biết là vị, chẳng phải vị. Đây là dẫn dụ để phá cái không biết. Từ chỗ sinh của vị đâu được gọi là Thức, cho nên nói Thức tự là vị. Dù cho gọi là Thức, cũng không tự nếm. Dẫn ví dụ rất dễ thấy. Lại tất cả vị chẳng phải do một vật sinh ra, vị đã do nhiều sinh ra thì thức lẽ ra phải nhiều thể. Như năm vị trước mỗi vị đều sinh ra một vật, thì thức phải do cảnh sinh, lẽ ra cũng nhiều thể, tức thức từ vị, thức tức thành nhiều.
Nếu thể của thức là một thì chắc chắn vị sinh, mặn, lạt, ngọt cay hòa hợp đều sinh ra các tướng thay đổi, đồng là một vị đắng lẽ ra không phân biệt.
Phân biệt đã không thì chẳng gọi là Thức, làm sao gọi là lưỡi nếm vị thành thức giới. Nếu thức là một thể thì từ cảnh sinh ra. Cảnh năng sinh lẽ ra cũng là một thể, đâu chia thành năm thứ khác nhau.
Câu phân biệt đã không v.v... là bác bỏ theo chiều dọc. Năm vị không phân thì sao gọi liễu biệt là thức?
Đây chính là vị từ thức, vị lẽ ra không khác.
Hai câu sao gọi là liễu biệt là trách chung về thức thể từ hai pháp này mà được tên gọi. Vì căn sinh, cảnh sinh cả hai đều có lỗi.
Chẳng phải hư không sinh ra tâm thức của ông, là bác bỏ hư không sinh. Lưỡi và vị hòa hợp, tức là trong đó vốn không có tự tánh, làm sao giới sinh. Đây là bác bỏ cộng sinh, đã từ hợp sinh thì tự tánh thuộc về ai mà gọi là giới? d.3) Kết luận chỉ ra luống dối:
Cho nên biết lưỡi nếm vị là duyên sinh ra Thiệt thức giới. Ba chỗ đều không thì lưỡi, vị và thiệt giới vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
Thân xúc giới, có ba: e.1) Nhắc lại chấp để bác bỏ cả hai:
A-nan! Nếu do thân sinh ra, thì chắc chắn không có hợp ly hai giác quán duyên, thân nhờ đâu mà có thức. Đây là bác bỏ từ căn sinh ra.
Quán: Là đối đãi.
Không hai sở giác là duyên đối đãi nhau. Chỉ có thân căn này không sinh ra thức lý. Dưới là bác bỏ cảnh sinh. Nếu do xúc mà sinh thì chắc chắn không có thân ông, vậy ai là người chẳng có thân mà biết hợp ly.
Đây là bác bỏ không thân chẳng phải giác. Có thân không xúc chạm còn không thành biết, vì có xúc mà không có thân nên chẳng thể biết. Phi thân là vô thân.
Dưới là bác bỏ căn cảnh đều mất.
Nầy A-nan! Vật không xúc chạm biết, thân biết có xúc chạm, ở đây chỉ hiện đạo lý. Vật không biết về cái biết của xúc, thân thì có thể biết xúc, lý này rõ ràng, rất dễ thấy.
Biết thân tức là xúc, biết xúc tức là thân. Dưới đây là y theo lý mà bác bỏ. Hai câu này căn cảnh qua lại lẫn nhau. Nếu nay nông cho rằng xúc có công năng sinh ra thức, xúc thì có biết, đâu khác với thân, lẽ ra thân cũng gọi là Xúc, xúc cũng gọi là Thân. Vì cả hai đều có cái biết. Nên lập lượng rằng: Thân căn của ông chắc chắn thuộc về xúc vì có cái biết, như thân căn của ông, đây chính là xúc đã sinh ra thức, bèn làm cho tức nhau, vì thế làm cho cả hai đều không, thì xúc không thành xúc, thân không thành thân. Nên lập lượng rằng:
Thân căn của ông chắc chắn thuộc về thân căn, vì nó có cái biết. Như thân căn của ông, đây là xúc đã sinh ra thức, bèn làm cho qua lại với nhau.
Tức xúc chẳng phải thân, tức thân chẳng phải xúc, hai tướng thân và xúc vốn không có nơi chốn. Thân và xúc đều không, vì qua lại với nhau nên làm cho cả hai đều không, thì xúc chẳng thành xúc, thân không thành thân. Nên lập lượng rằng: Thân căn của ông chắc chắn chẳng phải thân căn. Vì nó có cái biết. Như chấp vào xúc, ông chấp xúc chắc chắn chẳng phải xúc. Vì nó có cái biết. Như thân căn của ông dùng một nhân của ông thành bốn lượng của ta, làm cho ông qua lại với nhau, cũng làm cho cả hai đều mất.
Hai câu thân xúc hai tướng của nó v.v... là kết luận không có vị. e.2) Dưới là bác bỏ ly hợp:
Hợp thân là thể tánh của tự thân, lìa thân là tướng hư không.
Hai câu đầu là bác bỏ hợp là chỉ có thân. Xúc đã hợp với thân, hợp lẽ ra là không hai, chỉ một thân căn không có xúc vị. Hai câu sau là bác bỏ lìa, lẽ ra không có xúc. Nếu xúc lìa thân thì đâu thành xúc. Như tướng hư không cũng chẳng có xúc vị.
Trong ngoài không thành, ở giữa làm sao lập? Đây là so sánh theo bác bỏ thể của thức. Xúc lập thì căn lập, trong không thì ngoài không, căn cảnh không còn, thì thức không thể là tướng ư?
Giữa không còn lập, tánh trong ngoài không, thì thức ông từ đâu mà lập giới? Đây là nhắc lại cả hai để hỏi ngược lại. Ba vị đều không, thức từ đâu lập. e.3) Kết luận chỉ bày luống dối:
Cho nên biết, thân xúc chạm làm duyên sinh ra thân thức giới, ba chỗ đều không thì ba thứ thân, xúc và thân giới vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
f) Ý thức giới, có ba:
f.1) Nhắc lại chấp để gạn lại cả hai:
Nầy A-nan! ý pháp mà ông nói là duyên sinh ra ý thức. Thức này là do ý sánh ra, lấy ý làm giới, do pháp sinh ra lấy pháp làm giới.
f.2) Tùy chấp nhắc lại để bác bỏ:
Này A-nan! Nếu do ý sinh thì trong ý của ông phải có sự suy nghĩ, phát minh ý của ông. Nếu không có pháp ở trước thì ý không từ đâu sinh ra, lìa duyên vô hình, thì thức để làm gì?
Trước bác bỏ từ căn sinh, ở đây là bác bỏ lìa trần vô thể.
Một câu đầu là nhắc lại. Năm câu như trong ý ông v.v... là bác bỏ năng sinh. Vì pháp sinh cho nên các thứ tâm sinh khởi. Nếu không có pháp trần thì ý căn không khởi.
Hai câu lìa duyên vô hình v.v... trở xuống là bác bỏ chỗ sinh, lìa duyên pháp ở trước còn không có hình mạo của căn, huống chi chỗ sinh ra thức, lấy gì để khởi dụng. Lại tâm thức ông và các tánh tư lương gồm rõ biết là đồng hay khác?
Dưới đây là bác bỏ đồng khác đều sai. Đây là hỏi chung về đồng khác. Thức tâm là thứ tám. Tư lương là thứ bảy, Liễu biệt là thứ sáu. Hai thức thứ bảy và thứ tám đều là căn thứ sáu, cũng đều gọi là Ý.
Cho nên hỏi cả hai, cả hai đều có lỗi.
Đồng ý tức là ý, làm sao sinh ra. Đây là bác bỏ đồng. Nếu thức và ý thể của nó là đồng thì thức tức là ý, làm sao nói lại chia ra năng sinh, sở sinh. Dưới đây là bác bỏ khác. Ý khác là không đồng, lẽ ra không có thức. Nếu không có thức thì làm sao nói là Ý sinh. Đây là phá không có thức thì không có sinh. Nửa câu đầu là nhắc lại, nửa câu sau là định. Câu lẽ ra không có thức v.v... là bác bỏ thức khác với ý, lẽ ra có một sở thức và một không biết rõ. Nếu không có rõ biết làm sao nói là ý sinh. Vì ý có cái biết.
Nếu có thức làm sao nói thức ý. Nếu thức này có rõ biết thì vì sao nói khác với thức. Đây là bác bỏ có thức không có khác.
Nhưng hai tánh đồng và khác không thành thì giới làm sao lập. Là kết cả hai không thành. Đồng nghĩa không nương nhờ khác, lại phi lý, hai tánh không lập thì làm sao thức sinh, từ căn của ông sinh ra, ở dưới là bác bỏ cảnh sinh.
Nếu do pháp sinh thì các pháp ở thế gian không lìa năm trần. Ông xem sắc pháp và các thinh pháp, hương vị, xúc pháp tướng trạng rõ ràng để đối với năm căn, chẳng thuộc về ý. Đây là nói năm trần không tức là thuộc về ý, vì mỗi thứ đều có sở đối.
Thức của ông chắc chắn (tám trăm sáu mươi bảy) nương vào pháp mà sinh. Nay ông quán kỹ tướng trạng các pháp thế nào? Đây là hỏi chung về pháp trần, Vì pháp của pháp trần gọi là pháp pháp, dùng riêng để phân biệt chung.
Nếu lìa sắc không, động tĩnh, thông bít, hợp ly, sinh diệt thì vượt hơn các tướng này, hoàn toàn không thật có. Sinh thì sinh các pháp sắc không. Diệt thì diệt các pháp sắc không.
Năm câu trước là chánh hiển vô thể, Pháp trần tức là bóng dáng của năm trần trước, cho nên lìa năm thì vô thể.
Bốn câu sinh thì sinh các pháp v.v... trở xuống là nhắc lại để bác bỏ chuyển sang chống chế. Nếu ông chống chế rằng: Sắc và pháp khác tuy chẳng phải ý cảnh, nhưng hai loại sinh diệt chính là pháp trần. Nếu sinh diệt là vô thể, hoàn toàn là sắc v.v... hoặc khởi hoặc dừng, không có sinh diệt khác ở ngoài sắc v.v... Sở nhân đã không, nhân sinh có thức, làm gì có hình tướng, tướng trạng không có thì giới làm sao sinh. Đây là bác bỏ thức giới vô thể.
Sở nhân là pháp trần. Pháp trần còn không thật có, thì đâu sinh ra thức của ông. Năng sở đều không lập thì giới làm sao có. f.3) Kết luận chỉ ra luống dối:
Cho nên biết ý pháp làm duyên sinh ra ý thức giới, ba xứ đều không thì ý, pháp và ý giới vốn chẳng phải tánh nhân duyên, chẳng phải tánh tự nhiên.
Lại y theo hội tướng của bảy đại. Nhưng lấy Đại làm tên vốn là ở thế đế. Pháp tướng của Tiểu thừa nói các sắc pháp bốn đại hòa hợp mà thành, lại chia ra trong ngoài, nói đây gọi là tự tướng các pháp vắng lặng mà không tròn đầy, còn bị cộng tướng của các pháp phân biệt.
Thô mà lại cạn, là Phật Như Lai tùy theo ý người mà nói. Thế gian an lập hữu danh vô thật, tuy gọi là Đại mà nghĩa Đại không thành tựu. Trong nghĩa đế cao siêu thì nói không phải như vậy, cho là gồm nhiếp trùm khắp, thể trùm khắp mọi nơi, là tất cả vật. Chẳng phải nhân đối đãi với Tiểu, đương thể được tên gọi, nên gọi là Đại.
Nay trong kinh nói có bảy nghĩa đều gọi là Đại.
Trong bảy nghĩa gồm nhiếp tất cả pháp, nghĩa là không có căn trần, sắc tâm, tánh tướng.
Trần trần pháp pháp trùm khắp tất cả, chẳng chỗ nào không dung chứa. Đây là bác bỏ cái thấy quyền kia, làm cho biết rõ nghĩa thật.
Như văn dưới nói: Đều gọi là bảy đại, tánh chân viên dung, đều là Như Lai tạng. Người thế gian không biết, mê hoặc cho là tánh duyên và tánh tự nhiên đều là thức tâm phân biệt so lường, chỉ có lời nói đều không có nghĩa thật. Đây là hội tướng tức tánh. Tánh trùm khắp, tướng trùm khắp mới gọi là chí cực đại của thắng nghĩa, đâu đồng với quyền giáo nói danh Tự tướng?
Văn có ba:
1. Vặn hỏi:
A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như Lai lại thường nói nhân duyên hòa hợp, thì tất cả các thứ biến hóa đều do bốn đại hòa hợp phát minh. Đây là kể lại xưa được nghe. Vì sao Như Lai đối với nhân duyên, tự nhiên cả hai đều bác bỏ. Nay con không biết nghĩa này thuộc về đâu là vặn hỏi nay nói. Bác bỏ là dẹp bỏ.
Cúi mong Như Lai rũ lòng từ bi thương xót chỉ dạy, cho chúng sinh pháp liễu nghĩa Trung đạo không nói lời vô nghĩa. Đây là cầu mong chỉ bày. Phương tiện an lập nói có bốn đại nhân duyên hòa hợp mà thành các thứ biến hóa. Trong đệ nhất nghĩa các pháp xưa không sinh thì nay không diệt. Sinh diệt, đến đi vốn là Như Lai tạng. Nay dùng Thế đế để nghi Đệ nhất nghĩa. Cho nên có câu hỏi này.
2. Hứa giảng nói, có ba ý:
a) Chỉ ý nêu bày.
Bấy giờ Thế Đức Thế tôn bảo A-nan! Ông trước phải nhàm chán xa lìa các pháp Tiểu thừa: Thanh Văn và Duyên Giác, Phát tâm cầu Vô thượng Bồ-đề. Cho nên ta nay chỉ bày Đệ nhất nghĩa đế cho ông. Nhân duyên hòa hợp bốn đại phát minh đều là pháp Tiểu thừa. Các pháp bất sinh chỉ là Như Lai tạng, tức nghĩa Đệ nhất.
b) Nhắc lại nghi nêu trách.
Tại sao lại dùng nhân duyên vọng tưởng nói lời vô nghĩa của thế gian mà tự ràng buộc. Ông tuy học rộng, như người nói thuốc, khi thuốc thật ở trước mặt thì không thể phân biệt. Như Lai nói thật đáng thương.
Ràng buộc tức là nghi ngờ, bí mật của Chư Phật không ai biết được, nên nói là thuốc.
Nay nghe các pháp đều là Như Lai tạng, gọi là thuốc thật ở trước mặt. Nêu phương tiện ngày xưa nghe chân thật ngày nay, nên gọi là không thể phân biệt.
Khuyên bảo lắng nghe.
Nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói rộng chỉ bày cho ông. Cũng làm cho người tu hành Đại thừa ở đời tương lai thông đạt được thật tướng. A-nan im lặng nhận lãnh ý chỉ của Phật; Khuyên nghe, hứa nói tức là làm cho đời hiện tại và tương lai đều được lợi ích.
Chánh thuyết, có hai: c.1) Lập lý bác bỏ chung:
A-nan! Như lời ông nói, bốn đại hòa hợp phát minh các thứ biến hóa thế gian. A-nan! Nếu thể của đại tánh kia không hòa hợp thì không thể hòa lẫn với các đại được. Giống như hư không chẳng thể hòa với các sắc. Nếu hòa hợp thì đồng với biến hóa, tướng đầu cuối thành.
Sinh diệt nối nhau, sinh tử tử sinh, sinh sinh tử tử, như bó đuốc xoay tròn không dứt. Nầy A-nan! Như nước thành băng, băng lại thành nước.
Bốn câu đầu là nhắc lại chấp. Sáu câu sau lược bác bỏ không hòa hợp. Nếu tánh bốn đại tự thể không hòa thì không hòa với các đại, như hư không và sắc, ngại vô ngại khác nhau.
Câu nếu hòa hợp v.v... trở xuống là bác bỏ hòa hợp, nếu tánh thể của Đại tự là hòa hợp thì thành sinh diệt. Đầu cuối tức là sinh diệt.
Câu sinh diệt nối nhau v.v... là giải thích tướng. Câu đầu giải thích tướng thành. Câu kế giải thích sự nối nhau nghĩa là sinh có thể thành tử v.v... tử có thể nối tiếp với sinh, nghĩa là đời hiện tại nối tiếp đời quá khứ.
Câu như bó đuốc xoay v.v... trở xuống là hai dụ. Câu đầu dụ cho sự nối nhau, câu kế dụ cho tướng thành. Như văn kinh chép. c.2) Nêu tánh bác bỏ riêng, có bảy ý: c.2.1) Tánh đất, có bốn:
- Nêu việc để tiêu biểu.
Nầy A-nan! Ông xem tánh đất, thô là mặt đất, tế là bụi cát, hạt bụi rất gần hư không, phân tích cực vi ấy là tướng bờ mé của sắc, do bảy phần hợp thành, lại phân tích gần vơi hư không.
Hạt bụi gần với hư không chẳng thể nào phân nhỏ nữa, là chỉ cho cực vị. Các tướng giáp ranh giới của sắc, vi trần có thể phân nhỏ. Nay kinh chỉ cho có thể phân nhỏ gọi là tướng ranh giới của sắc. Tùy kinh trích không cần hòa hợp.
- Lập lý bác bỏ rộng.
A-nan! Vì lân hư này phân tách thành hư không, nên biết hư không sinh ra sắc tướng. Y theo tiêu đề mà lập lý. Đã không thể phân tách sắc thành không, cũng có thể hợp không thành sắc. Mới gọi là thành nhau, nối nhau.
Nay ông hỏi rằng: Do hòa hợp cho nên sinh ra các tướng biến hóa, trong thế gian. Đây là nhắc lại khởi nghi, muốn bác bỏ nhắc lại ở trước.
Ông lại xét một lân hư trần này dùng bao nhiêu hư không hòa hợp mà thành, không phải lân hư hợp thành lân hư. Dưới đây là y theo lý để bác bỏ rộng.
Ở đây hợp hư không nầy thành sắc thì phi lý. Ông cho rằng phân tách sắc thành hư không, lẽ ra cho rằng hợp hư không thành sắc. Lân hư cực nhỏ dùng bao nhiêu hư không. Nếu hợp lân hư, tự thành mới phân, chẳng thành lân hư. (tám trăm sáu mươi tám). Lại lân hư trần phân tách nhập vào hư không thì dùng bao nhiêu sắc tướng để hợp thành hư không. Hợp sắc thành hư không là trái nghĩa. Hư không rất lớn, lân hư rất nhỏ, tách nhỏ thành lớn, thì dùng bao nhiêu bụi.
Nếu khi sắc hợp, hợp sắc chẳng phải hợp hư không, nếu khi hư không hợp thì hợp hư không chẳng hợp sắc. Cả hai chẳng phải sắc, hư không thành lẫn nhau. Sắc hợp thành sắc, hư không hợp thành hư không, hợp theo từng loài, chẳng phải lẫn nhau.
Sắc còn phân tích được thì hư không làm sao hợp. Lại trách hợp hư không thì nghĩa mất. Phân tích sắc rõ hư không, giáo quán đều có. Hợp hư không thành sắc trong ngoài không có chỗ y cứ. Văn trước nói: giống như hư không chẳng hòa các sắc. Nếu nói hòa hợp, thành nhau nối nhau đều là luống dối.
- Hội thông thật lý:
Ông vốn không biết trong Như Lai tạng có tánh sắc chân không, tánh không chân sắc, thanh tịnh bổn nhiên, trùm khắp pháp giới, tuỳ tâm chúng sinh, ứng với lượng sở tri mà phát hiện theo nghiệp. Đây là nói về chân sắc, một câu đầu chỉ cho bổn mê, Ba câu trong Như Lai tạng v.v... là nói lên thể của pháp. Như Lai tạng tức là tâm Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế trong một pháp giới. Tánh sắc chân không chính là chân của tục, tánh không chân sắc là tục của chân.
Đều nói tánh: Là nói lên chân tục trong đó, đây là nêu một mà đủ cả ba, nói ba thể tức là một. Không phải ngang dọc, gọi riêng là Bí mật tạng. Đây là đại địa chân thật. Hai câu Thanh Tịnh bổn nhiên, v.v... là nói về đức lượng, vì không có tướng vọng, đủ pháp vô lậu nên gọi là thanh tịnh. Chẳng phải là hữu vi nên nói là bổn nhiên. Chẳng nơi nào không có cho nên nói trùm khắp. Đây là chủng tánh thể đức thể lượng đều đủ. Nếu biết pháp này thành ba quán nhiệm mầu mới biết một trần đủ tất cả Phật pháp, tất cả tâm pháp, tất cả pháp chúng sinh, đều ở trong một hạt bụi, tức thấy Lô-Xá-Na, tức thấy chính mình, tức thấy tất cả pháp, như một hạt bụi, tất cả pháp cũng vậy. Ở dưới đều y theo đây. Câu tùy chúng sinh v.v... trở xuống là nói về tùy duyên. Chúng sinh mười cõi, lậu khác với vô lậu, nghiệp cũng khác nhau nên cảm sắc pháp, tịnh uế đều khác v.v...
- Kết trách mê tình:
Người thế gian không biết, bị tánh nhân duyên và tánh tự nhiên mê hoặc, đều do thức tâm phân biệt so lường, đều không có thật nghĩa. Phàm phu, ngoại đạo,
Tiểu thừa bẩm thọ quyền giáo đều gọi là không hiểu biết (vô tri). Vì không hiểu rõ nghĩa thật nên gọi là hoặc, chấp thành danh tướng nên gọi là vi.
Câu đều là thức tâm v.v... trở xuống: Là phân tách chung về luống dối. Thức tâm luống dối, điên đảo theo đó mà sinh khởi, do mê chứa mê thì đâu thật có. c.2.2) Tánh lửa: có bốn.-Nêu chung về vô tánh:
Nầy A-nan! Tánh lửa vô ngã, nương vào các duyên, duyên sinh ra lửa vốn không có chủ tể, không có chủ tể tức là vô tánh, nhân duyên hòa hợp luống dối mà có.
-Nêu sự bác bỏ rộng, có hai:
+ Nêu sự để gạn hỏi:
Ông xem trong thành này những ngôi nhà chưa nấu cơm, khi muốn nấu nướng thì tay họ cầm cái kiếng (dương toại) đưa ra dưới ánh mặt trời để lấy lửa. Đây là nêu sự.
Dương toại: Là gương phát ra lửa.
Nầy A-nan! Gọi là hòa hợp, như ta và ông, một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo nay thành một chúng, chúng tuy là một, nhưng khi hỏi về nguồn gốc thì mỗi vị đều có thân khác nhau, đều có nơi sinh ra khác nhau, dòng tộc, tên họ khác nhau. Như Xá-lợi-Phật là dòng bàla-môn, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp cũng thuộc dòng bà-lamôn. Cho đến A-nan là chủng tánh Cù-đàm. Đây là dẫn ví dụ, nêu chúng để nói hòa hợp, do riêng mà thành chung, chung chắc chắn có riêng. Cho nên dẫn ba vị để nói lên sự khác nhau.
Cù-đàm, Hán dịch là Địa Tối Thắng, cũng dịch là Nhật Chủng. Ưu-lâu-tần-loa, Hán dịch là Mộc Qua lâm. A-nan! Nếu tánh lửa này do hòa hợp mà có thì người tay cầm gương phát lửa kia ở trước mặt trời tìm lửa, lửa này từ trong gương sinh ra, hay từ cái mồi lửa mà có, hay từ mặt trời đến: nhắc lại để gạn hỏi rất dễ biết.
+ Y theo lý mà bác bỏ:
Nầy A-nan! Nếu từ mặt trời đến thì sẽ đốt cháy cái mồi lửa trong tay ông, rừng cây chỗ nào nó đến đều phải bị đốt. Đấy là phá từ mặt trời sinh ra.
Từ mặt trời đến tay cách xa bốn muôn do-tuần, chỗ nào nó chiếu đến sao không bị nóng, mà chỉ đốt cái mồi lửa trong tay ông?
Nếu từ gương sinh ra đốt cái nhúm lửa, thì sao không làm chảy gương, tay ông cầm gương còn không bị nóng, làm sao nói gương chảy. Đây là phá từ gương sinh ra.
Bốn câu trước chính là bác bỏ, Ba câu sau là bác bỏ theo chiều dọc, lửa có thể nấu vàng, gặp thì chảy tan. Ngoài có thể đốt cháy cái mồi lửa, trong có thể nung chảy gương.
Nay ông không phải như vậy, lẽ ra chẳng phải gương sinh ra.
Nếu sinh ra từ bùi nhùi mồi lửa thì đâu nhờ ánh sáng mặt trời, mới sinh ra lửa. Đây là bác bỏ từ cái mồi lửa sinh. Nếu cái mồi lửa sinh ra lửa thì khi gương và mặt trời không hợp, sao không có lửa sinh ra, mà phải đợi hợp mới có lửa sinh, điều này nói lên không phải từ cái mồi lửa sinh ra.
Ông lại xem kỹ, gương do tay cầm, mặt trời từ trên trời đến, cái mồi lửa vốn từ đất sinh, lửa từ nơi nào mà đến đây? Đây là tổng kết không từ đâu đến. Ba chỗ không sinh thì lửa từ đâu sinh, phải biết chắc chắn không thật có.
Mặt trời và gương cách xa nhau, chẳng hòa chẳng hợp, chẳng lẽ lửa không từ đâu mà tự có. Đây là bác bỏ hòa hợp không có nhân. Mặt trời và gương chẳng gần nhau nên không có nghĩa hòa hợp. Trong duyên đã không có, chẳng phải duyên có lửa thì không có lý này.
-Hội thông thật lý:
Ông vẫn không biết trong Như Lai Tạng tánh lửa là chân không, tánh không là chân lửa, thanh tịnh bổn nhiên, trùm khắp pháp giới: Đây là nói về chân lửa. Câu đầu chỉ cho bổn mê.
Ba câu trong Như Lai tạng v.v... là nói lên thể của pháp.
Hai câu thanh tịnh bổn nhiên v.v... là nói về lượng của đức, đều như trước đã giải thích.
Tùy theo tâm chúng sinh, ứng với lượng sở tri. Anan nên biết người thế gian một chỗ cầm gương thì một chỗ lửa sinh, khắp pháp giới cầm gương thì khắp thế gian sinh, khởi lên khắp thế gian, đâu có nơi chốn, theo nghiệp phát hiện, là nói tùy duyên, cũng như trước đã giải thích.
- Kết trách mê tình:
Thế gian vô tri bị tánh tự nhiên và tánh nhân duyên mê hoặc, đều là tâm thức phân biệt so lường, chỉ có lời nói, đều không có nghĩa thật, như lời kinh rất dễ hiểu. c.2.3) Tánh nước: Có bốn ý-Nêu chung vô tánh.
Này A-nan! Tánh nước không nhất định, chảy dừng không thường. Vì duyên nước vô thường cho nên nói bất định, tùy vật chảy dừng là tướng không nhất định.
- Nêu sự bác bỏ rộng, có hai ý:
+ Nêu sự để gạn lại:
Như các nhà Đại ảo thuật ở trong thành Thất-la như: tiên Ca-tỳ-la, tiên Chiết-Ca-la, Bát Đầu-Mà-ha-tát-đa v.v... các vị này cầu Thái âm tinh hòa với thuốc huyễn. Họ chờ đêm nào trăng sáng tay cầm ngọc phương chư, hứng nước trong trăng. Nước này là từ trong hạt châu sinh ra, hay trong hư không tự có, hay từ mặt trăng xuống?
Ca-tỳ-la, Hán dịch là Hoàng Xích Sắc. Chiết-ca-la, Hán dịch là Luân.
Bát-đầu-ma, Hán dịch là Xích Liên Hoa. Ha-tát-đa thì chưa rõ.
Các vị này đều là ngoại đạo. Thái âm tinh là mặt trăng.
Ngọc Phương chư sinh ra từ thủy châu.
Vào đêm trăng sáng đưa ngọc châu hướng về phía mặt trăng để lấy nước. Ba chỗ là mặt trăng, hạt châu, và hư không đã bác bỏ xong.
+ Y lý suy bát bỏ. (tám trăm sáu mươi chín)
Nầy A-nan! Nếu nước từ mặt trăng đến, từ nơi xa cho hạt châu ra nước, thì các rừng cây trải qua đều bị ngập hết, đâu đợi hạt ngọc Phương chư sinh ra. Vì không chảy nên rõ ràng nước không từ mặt trăng xuống. Đây là bác bỏ nước từ mặt trăng sinh ra. Năm câu trước là nhắc lại để bác bỏ, mặt trăng cách nhân gian cũng bằng mặt trời cách nhân gian cho nên nói ở nơi xa.
Chỗ ánh sáng mặt trăng chiếu đều hợp thành dòng, đâu cần hạt châu sinh ra.
Bốn câu chảy thì đâu đợi v.v... trở xuống là cả hai đều sai, chỗ nào chiếu soi đều chảy, đâu cần hạt châu sinh ra. Nếu không chảy thì thấy hiển rõ tánh nước này không từ mặt trăng đến.
Nếu từ hạt châu sinh ra thì trong hạt châu này thường phải chảy nước đâu đợi nửa đêm ở dưới trăng sáng. Đây là bác bỏ nước từ hạt châu sinh ra. Nếu hạt châu sinh ra nước thì thường có dòng chảy. Không đợi mặt trăng chiếu, đâu không có nước sinh.
Nếu từ hư không sinh, vì tánh của hư không vô biên, nước phải vô bờ, thì từ cõi người đến cõi trời đều bị nhận chìm, vì sao lại có đường bộ, đường hư không? Đây là bác bỏ hư không sinh ra nước. Nếu hư không sinh ra nước thì hư không đều có nước, vậy ai không bị nhận chìm. Vì hư không trùm khắp cho nên nước cũng trùm khắp. Người, trời, thủy lục lẽ ra không tồn tại. Thao là nhận chìm.
Ông lại nhìn kỹ, mặt trăng ở trên hư không, hạt ngọc do tay cầm, nương vào viên ngọc mà có nước, còn chiếc mâm vốn do người đặt, thì nước từ đâu chảy đến đây. Đây là tổng kết không từ nơi nào đến.
Trăng ở trên hư không, châu cầm trong tay, đây là do người đặt để, nước từ đâu đến, trăng và hạt ngọc cách xa nhau không hòa hợp, không phải từ mặt trăng, không từ đâu tự có. Đây là phá hòa hợp không có nhân. Nói thủy tinh là chỗ mặt trăng lưu xuất. Trong duyên mới có, chẳng có duyên thì đâu có.
- Hội thông thật lý:
Ông vẫn chưa biết trong Như Lai tạng tánh thủy chân không, tánh không chân thủy, thanh tịnh bổn nhiên trùm khắp pháp giới, tùy tâm chúng sinh, ứng theo lượng sở tri, một chỗ cầm viên ngọc, một chỗ nước chảy ra, khắp pháp giới đến thì cầm, nước sinh đầy pháp giới, sinh đầy thế gian đâu có nơi chốn, theo nghiệp phát hiện, giải thích tỷ mỹ giống như trước.
- Kết trách mê tình:
Người thế gian không hiểu biết bị tánh nhân duyên và tánh tự nhiên làm mê hoặc, đều là tâm thức phân biệt so lường, chỉ có lời nói, đều không có nghĩa thật. c.2.4) Tánh gió, có bốn:
- Nêu chung vô tánh.
A-nan! Tánh gió không có tự thể, động tĩnh không thường, tánh gió không hình dáng, động tĩnh có tiêu biểu.
- Nêu sự để rộng phá, có hai ý:
+ Nêu sự để gạn lại:
Ông thường sửa y vào trong đại chúng, cái góc y Tăng-già-lê của ông phất qua người bên cạnh, thì có một chút gió phất vào mặt người đó. Vậy gió này từ góc y bay ra hay từ hư không bay đến, hay từ mặt người kia?
Tăng-già-lê là Đại y. Ca-sa, Hán dịch là hoại sắc, y động ở đây, gió phất đến người kia, hai chỗ và hư không cả ba đều bất sinh, phải biết là luống dối.
+ Y theo lý để bá bỏ:
Nầy A-nan! Nếu gió này từ góc ca-sa bay ra, thì ông mặc gió, cái y này dao động lẽ ra phải lìa thân ông. Nay ta ở trong hội xổ cái y ra, ông xem y của Như Lai gió ở chỗ nào, không phải trong y có cất gió. Đây là phá y sinh ra gió.
Năm câu đầu là bác bỏ mặc y lìa thể. Tánh gió không yên tĩnh. Nếu gió sinh ra trong y thì lẽ ra phải thấy nó bay động, nay thì không phải như vậy. Sáu câu nay ta nói pháp trong hội v.v... Là nêu dụ để bác bỏ không có gió.
Nay Phật xổ y không thấy gió bay lay động, nhưng ca-sa của ông thì sao có gió sinh ra. Trong y chưa hẳn có chỗ cất gió làm cho y không động.
Nếu hư không sinh ra gió, thì y của ông không động đâu phải do không phất. Đây là bác bỏ hư không sinh ra gió, là nhắc lại để bác bỏ, nếu hư không sinh ra gió thì đâu cần nhờ ông động y mới có gió.
Tánh hư không là thường trụ thì gió phải thường sanh. Đây là xoay vần thưa hỏi. Hai câu nay sao không như vậy v.v... là gạn hỏi tùy theo hư không thường có. Tánh hư không không diệt, gió hợp thì thường có. Khi không động y thì đâu không có gió sinh ra.
Nếu khi không có gió thì hư không lẽ ra phải diệt. Đây là hỏi không có gió thì hư không sẽ diệt. Nếu hư không sinh ra gió, khi gió không khởi thì lẽ ra chẳng có hư không.
Nếu gió lặng thì có thể thấy được, còn hư không mất thì có tướng trạng gì. Đây là gạn hư không diệt không giải thích được. Khi vật không động thì lẽ ra phải biết gió lặng. Nếu khi hư không diệt thì lấy gì để biểu thị mà giải thích.
Nếu có sinh diệt thì không gọi là hư không. Đây là gạn sinh diệt chẳng phải hư không. Hư không là vô vi, là vô sinh diệt, nay có sinh diệt thì không gọi là vô vi. Gọi là hư không, thì làm sao sinh ra gió, lại kết luận hư không chẳng sinh ra gió. Tánh gió lay động, mà hư không vắng lặng, đâu thể vắng lặng mà sinh lay động.
Nếu gió tự sinh bị phất qua mặt, từ mặt kia sinh thì lẽ ra phải phất ông, tự ông sửa y vì sao lại phất. Đây là bác bỏ từ mặt sinh ra. Hai câu đầu là nhắc lại. Bốn câu từ mặt kia sinh ra là bác bỏ. Nếu mặt người bị phất sinh ra gió thì lẽ ra phải thuận thổi, đáng lẽ ông phải bị phất, ông tự sửa y không can hệ gì đến gió sinh ra, sao nói gió kia trở lại thổi mặt kia.
Ông xét cho kỹ, sửa y là ở ông, còn mặt thuộc về người khác, hư không vắng lặng không tham gia vào sự lưu động, gió từ nơi nào thổi đến đây, xét kỹ lại thì y, mặt, hư không có khác, thể của động tĩnh có khác, gió từ đâu thổi đến phất vào mặt người kia.
Tánh gió và hư không cách nhau, không hòa hợp, không phải gió thì tâm không từ đâu mà có.
Đây là bác bỏ hòa hợp không có nhân, vì động tĩnh khác nhau cho nên tánh cách nhau, tâm tức là tánh, Vì văn thay đổi nên như vậy.
- Hội thông thật lý:
Ông rõ ràng không biết trong Như Lai tạng tánh gió là chân không, tánh không là chân gió, thanh tịnh bổn nhiên, trùm khắp pháp giới, tùy tâm chúng sinh, ứng theo lượng sở tri. Này A-nan! như ông động nhẹ cái y thì có gió nhẹ sinh ra, khắp pháp giới đều phất thì khắp pháp giới đều có gió, trùm khắp thế gian, đâu có nơi chốn, theo nghiệp mà phát hiện.
- Kết trách mê tình.
Người thế gian không biết bị tánh nhân duyên và tánh tự nhiên làm mê hoặc, đều là thức tâm phân biệt so lường, chỉ có lời nói, đều không có nghĩa thật. c.2.5) Tánh không, có bốn ý:
- Nêu chung về vô tánh:
A-nan! Tánh hư không chẳng có hình tướng, do sắc mà hiển phát, hư không chẳng có thật. Chỗ lìa sắc là hiển bày cái không này. Vì đối đãi cho nên vô tánh.
- Nêu sự bác bỏ rộng, có hai:
+ Nêu sự để gạn lại:
Như ở trong thành Thất-la, cách con sông rất xa. Các chủng tộc như Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, gồm cả phủ-la-đọa, toàn-đà-la, v.v... khi mới lập nên nhà cửa họ đào giếng lấy nước: Đây là nêu việc.
Sát-đế-lợi, Hán dịch là điền chủ. Bà-la-môn, Hán dịch là Tịnh Chí. Tỳ-xá, Hán dịch là Tọa Cổ.
Thủ-đà, Hán dịch là Nông giả.
Phả-la-đọa, Hán dịch là lợi căn, cũng dịch là tiệp tật. Chiên-đà-la, Hán dịch Sát giả.
Đào đất ra một thước thì trong đó có một thước hư không, như thế cho đến đào đất ra một trượng thì trong đó được một trượng hư không. Hư không sâu cạn tùy theo đào bao nhiêu đất. Hư không này là do đất sinh ra, do đào mà có, hay không có nhân mà tự sinh? Đây là nêu lên để gạn lại, tùy theo đào đất nhiều ít, thì thấy hư không sâu cạn bấy nhiêu (tám trăm bảy mươi) hư không và sắc cả hai đều là giả, cùng nhau nhờ nhân mà có, thể không lìa sắc, nay ở đây bác bỏ làm cho biết luống dối.
+ Y theo lý để bác bỏ.
Nầy A-nan! Nếu hư không này chẳng có nhân mà sinh thì khi chưa đào đất sao chẳng thấy vô ngại, chỉ thấy đất cứng, lại không thông đạt. Đây là bác bỏ không có nhân sinh ra. Nếu hư không có nhân thì khi chưa đào sao lại không có, khi đào rồi sao lại có, không có nhân thì không thành.
Nếu do đào đất thì khi đất ra đáng lẽ phải thấy hư không chạy vào, nếu đất ra trước, không có hư không vào thì tại sao nói hư không do đất mà ra.
Đây là bác bỏ do đất sinh ra, chính là bác bỏ.
Ba câu trước là nhắc lại để bác bỏ. Nếu đất sinh ra hư không thì khi đào giếng, đáng lẽ phải thấy hư không vào trong giếng.
Bốn câu nếu đất v.v... trở xuống là kết luận chẳng đúng, nếu thấy đất ra mà chẳng thấy hư không vào thì làm sao nói hư không từ đất mà có cho được?
Nếu không ra vào thì lẽ ra hư không và đất vốn chẳng khác nhân, chẳng khác thì đồng, cho nên khi đất ra hư không sao không ra. Đây là chuyển bác bỏ. Nếu không thấy hư không ra, đất vào trong giếng thì nhân đất và quả hư không cả hai không khác. Đất tức là hư không, hư không tức là đất, khi đất ra giếng sao không thấy hư không từ giếng ra?
Nếu do đào mà ra thì đào ra hư không, đáng lẽ không ra đất.
Không do đào mà ra, đào tự ra đất vì sao lại thấy hư không?
Ba câu trước chính là bác bỏ đào ra. Nếu đào ra hư không thì đào tự ra hư không tại sao thấy đất từ giếng mà ra? Ba câu không do đào mà ra v.v... là lại bác bỏ không có nhân.
Đất do đào mà ra, hư không do đâu mà có? Ông lại xét cho tường tận, đào là từ tay người, tùy phương vận chuyển. Đất do đất mà dời, như thế hư không do đâu mà sinh ra, lại xét kỹ hai chỗ.
Đất từ trong đất đào mà dời ra. Cho nên nói đất dời, đào hư không dụng thật không có tướng, không hòa không hợp, chẳng lẽ hư không chẳng từ đâu tự ra. Đây là bác bỏ hòa hợp, lại kết luận không có nhân. Đào và hư không là hai thể, hai nghĩa hư thật đâu có phù hợp nhau mà gọi là hòa hợp? Ngoài ra lời kinh rất dễ hiểu.
-Hội thông nghĩa thật: Có bốn.
+ Nếu tánh hư không này tròn đầy trùm khắp, vốn không lạy động phải biết hiện tiền đất, nước, gió, lửa đều gọi là năm đại, tánh nó tròn khắp, đều là Như Lai tạng vốn không sinh diệt.
Ba câu đầu nói về nghĩa Đại của hư không. Nếu hư không từ nhân duyên mà sinh thì thể nó không trùm khắp, lại là lay động thì đâu gọi là Đại?
Hễ nói là Đại thì nghĩa là thường khắp. Vì thường nên không sinh diệt xao động. Vì khắp nên bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu đều có. Nếu nhân duyên sinh thì đây có kia không, hiện tại có, vị lai không. Duyên hội thì sinh, duyên lìa thì diệt. Ở đây thì không như vậy, bổn Như Lai tạng vốn tự trùm khắp, vốn không lay động, nên gọi là Đại.
Sáu câu phải biết v.v... trở xuống là bốn tánh trước đều được xếp vào Đại, đều gọi là Đại, vì đều trùm khắp, vì không lay động, vì là công đức chân thật. Trong tánh tạng này vì đại dụng vô phương, khắp tất cả chỗ làm lợi ích đâu đồng với phương tiện hữu danh vô thật mà gọi là Đại.
+ Phân tách khuyên nghiên cứu rõ ràng:
A-nan! Tâm ông hôn mê, không ngộ bốn đại vốn là Như Lai tạng, phải xem hư không là ra, hay vào, hay không ra vào. Vì không có trí viên thật nên gọi là hôn, vì không hiểu rõ thường khắp nên gọi là mê. Nếu tánh hư không có ra vào, thì thể nó không thường, cũng không có nghĩa là khắp, đâu gọi là Đại. Cho nên khuyên xét tường tận.
+ Chánh hội lý nay:
Ông hoàn toàn không biết trong Như Lai tạng tánh giác chân không, tánh không chân giác, thanh tịnh bổn nhiên trùm khắp pháp giới, tùy tâm chúng sinh, ứng theo lượng sở tri. Này A-nan! Như một cái giếng hư không, hư không sinh ra một cái giếng, mười phương hư không cũng giống như thế, tròn khắp mười phương, đâu có nơi chốn, theo nghiệp mà phát hiện, ví dụ như trước rất dễ hiểu.
+ Kết trách mê tình:
Người thế gian không biết bị tánh nhân duyên và tánh tự nhiên làm mê hoặc, đều là do tâm thức phân biệt so lường, chỉ có lời nói, đều không có nghĩa thật.
Về tánh của sáu căn, Tiểu thừa thường nêu bốn đại. Đại giáo mới có danh từ Không. Căn và thức đồng gọi là Đại, không thấy kinh trích dẫn.
Các giáo Viên thật, các pháp Viên quán, ba thứ căn, cảnh, thức trùm khắp bất động. Tuy có nghĩa này mà không đạt ra danh từ ấy. Nay ở đây đặc biệt nêu ra chính là khuôn phép rốt ráo sau cùng, văn có bốn.
Nêu chung vô tánh:
Này A-nan! Thấy biết vô tri, do sắc không mà có.
3. Nếu việc bác bỏ rộng, có hai:
a) Nêu vậy để gạn hỏi:
Như nay ông ở trong rừng Kỳ-đà, sáng sớm chiều tối, vào ngày rằm trăng sáng, mùng một trời tối, thì sáng tối v.v... do thấy mà phân tách. Cái thấy này cùng với tướng sáng tối và bầu hư không là đồng một thể, hay không đồng một thể, hoặc đồng hoặc chẳng đồng. Hoặc khác, chẳng phải khác. Đây là y theo bốn câu để bác bỏ. Nghĩa là một, là khác, vừa một vừa khác và chẳng phải một, chẳng phải khác.
b) Y theo lý để bác bỏ:
Nầy A-nan! Cái thấy này nếu vốn là một thể với sáng tối và hư không thì hai thể sáng tối đều mất. Khi tối thì không sáng, khi sáng thì không tối. Nếu là một với tối thì khi sáng cái thấy sẽ mất, nếu là một đối với sáng thì khi tối sẽ mất, mất thì sao lại nói thấy sáng thấy tối.
Nếu thấy sáng và tối khác, cái thấy không sinh diệt, một làm sao thành, đây là phá một.
Bốn câu đầu là nhắc lại chấp: Bốn câu thì sáng v.v... trở xuống là lập lý.
Sáu câu nếu cùng với v.v... trở xuống là bác bỏ.
Cái thấy là một với cảnh, cảnh diệt thì cái thấy mất, làm sao phân biệt sáng và tối.
Ba câu nếu sáng v.v... trở xuống là kết luận rằng sai. Sáng tối khác nhau, cái thấy không mất theo, nên biết cái thấy này chẳng phải một với cảnh.
Nếu cái thấy này và sáng và tối không phải một thể, thì ông lìa sáng tối và hư không, phân tích xem nguồn gốc cái thấy hình tướng ra sao? Lìa tối lìa sáng và lìa hư không cái thấy này vốn đồng với lông rùa, sừng thỏ.
Ba việc sáng, tối và hư không đều khác, thì từ đâu mà lập cái thấy. Đây là bác bỏ khác.
Ba câu đầu là nhắc lại chấp, bốn câu ông lìa sáng tối v.v... trở xuống là đâu có lìa cảnh tướng nào. Bốn câu lìa sáng tối v.v... trở xuống là lìa hư không, là kết thành rốt ráo vô thể. Ở trên đều chính là bác bỏ. Ba câu sáng tối và hư không v.v... trở xuống là kết phá rất dễ biết.
Sáng tối trái nhau, sao nói là đồng, lìa ba việc vốn không, sao nói là khác.
Phá cả hai cũng vậy. Đồng tức là một. Vì sáng tối diệt lẫn nhau nên nói trái nhau. Nếu với một đồng thấy tức là mất theo, như trước đã bác bỏ, sáng tối hư không lìa cái không thấy này cũng khác không thể. Phân hư không, phân cái thấy, vốn không có bờ mé. Vì sao nói chẳng đồng, thấy tối, thấy sáng, tánh không đổi dời, vì sao nói chẳng khác. Đây là phá cả hai đều sai. Phá cả hai đều sai, thấy không chẳng thể nói, cho nên chẳng phải không phải một, sáng tối tự đổi dời, cái không có sanh diệt, nên chẳng phải không khác.
Ông lại xét cho rõ ràng, sáng thì từ mặt trời, tối thì theo tháng trời tối, đều thuộc về hư không. Che lấp trả về mặt đất, cái thấy như thế do đâu mà sinh ra. Lại xét kỹ, khuyên xét cho tường tận.
Trong bốn cảnh từ đâu mà có cái thấy.
Thấy biết không ngơ chẳng hòa chẳng hợp, chẳng lẽ cái thấy không từ đâu mà tự sinh ra. Đây là bác bỏ hòa hợp không có nhân. Hội thông thật nghĩa, có ba ý.
Xếp loại thông nghĩa ở trước.
(Tám trăm bảy mươi mốt) Nếu tánh thấy nghe biết trùm khắp, vốn không lay động, phải biết hư không vô biên, không động, lại sự lay động là đất, nước, lửa, gió đều gọi là sáu đại, tánh chân viên dung, đều là Như Lai tạng vốn vô sinh diệt. Thấy nghe hay biết cũng gọi là Đại. Vì nó bao trùm thường khắp. Như văn trước có giải thích.
4. Phân tích khuyên nghiên cứu rõ ràng:
Nầy A-nan! Tánh ông bị đắm chìm, không ngộ được cái thấy, nghe hay biết của mình vốn là Như Lai Tạng. Ông phải xét xem cái thấy nghe hay biết này là sinh hay là diệt, là đồng hay khác, là phi sinh diệt, hay phi đồng dị. Sinh diệt là đồng, phi sinh diệt là khác, là đồng là khác cả hai cũng vậy. Thấy nghe đã chân thật, bốn câu. Không thật có, bất động trùm khắp là Đại.
5. Chánh hội lý nay:
Ông không hề biết trong Như Lai tạng có cái thấy biết, minh giác thanh tịnh bổn nhiên trùm khắp pháp giới, tùy theo tâm của chúng sinh mà ứng theo lượng sở tri, cái thấy như một, cứ thấy trùm khắp pháp giới. Nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, thấy biết là đức mầu sáng rực, trùm khắp pháp giới, tròn đầy khắp hư không mười phương, đâu có nơi chốn, theo nghiệp mà phát hiện.
Chữ từng nghĩa là thì.
Nghe ngửi nếm xúc chạm: Mũi, lưỡi và cảnh hợp với thỉ giác, nên gọi là nếm xúc chạm.
Giác xúc là thân, giác tri là ý.
6. Kết trách mê tình:
Người thế gian không biết mình bị tánh nhân duyên và tánh tự nhiên làm mê hoặc, đều do thức tâm phân biệt so lường, chỉ có lời nói, đều không có nghĩa thật.
7. Tánh thức, có bốn:
a) Nêu chung vô tánh:
Nầy A-nan! Tánh của thức không có nguồn gốc, do sáu thứ căn trần sinh ra.
b) Nêu sự bác bỏ rộng, có hai ý:
b.1) Nêu sự để gạn lại:
Nay ông xét xem khắp các Thánh Chúng trong hội nầy, dùng mắt xoay vần, mắt ấy nhìn khắp chỉ giống như trong gương, không phân biệt được. Trong thức của ông, thứ lớp nêu bày. Đây là Văn-thù, Phú-lâu-na, Mục-kiềnliên, Tu-Bồ-đề, Xá-lợi-phất. Thức biết rõ này sinh ra cái thấy hay sinh ra tướng, hay sinh ra hư không, hay không có nhân bỗng nhiên sinh ra, căn có công năng soi chiếu cảnh như gương có công năng soi chiếu vật.
Thức có công năng rõ biết cảnh, phân biệt mình người. Thức phân biệt này từ đâu sinh ra?
b.2) Y theo lý để bác bỏ:
Nầy A-nan! Nếu thức tánh của ông sinh ra trong cái thấy, như không có sáng tối và sắc không. Bốn thứ không có thì vốn không có cái thấy của ông, tánh thấy còn không có thì từ đâu mà sinh ra thức? Đây là bác bỏ từ căn sinh ra, có tướng thì thấy có tướng, không tướng thì thấy không, tướng căn còn vô hình thì thức từ đâu sinh.
Nếu thức tánh của ông sinh ra từ tướng mà không từ cái thấy sinh ra. Đã không thấy sáng, cũng không thấy tối, sáng tối không nhìn thì chẳng có sắc không. Tướng kia còn không thì thức từ đâu sinh. Đây là bác bỏ cảnh giới. Tướng và cái thấy đối đãi nhau, không thấy thì chẳng có tướng, tướng còn không lập được, thì từ đâu mà có thức?
Nếu sinh từ hư không thì không có tướng, không có thấy, không thấy thì không bàn luận được, tự không thể biết sáng tối, sắc không, chẳng có tướng diệt duyên, thì thấy, nghe hay biết, không có chỗ an lập. Đây là bác bỏ hư không sinh ra, hai câu đầu là xét định không do căn cảnh.
Câu không thấy v.v... trở xuống chính là bác bỏ, ba câu trước chẳng thấy không giải thích là bác bỏ bốn cảnh. Ba câu không có tướng diệt duyên v.v... trở xuống là bác bỏ phi tướng, không lập năm căn. Tướng tức là duyên, bốn cảnh đã là không, tức là cảnh diệt của sở duyên. Sở duyên đã không thì năm căn làm sao có. Trên đây đều là nhắc lại để bác bỏ không nương vào căn cảnh. Hai cái phi ở đây, không thì đồng với vô, có thì đồng với vật. Dù phát sinh ra thức của ông, làm sao phân biệt? Đây chính là bác bỏ thức từ hư không sinh.
Phi tướng, phi kiến cho nên nói cả hai đều sai, tức là chỉ cho cái không.
Đồng với cái không nghĩa là như lông rùa sừng thỏ, không bao giờ có. Nếu nói cái không ấy là có tự thể, thì đâu đồng với vật tượng có hình tướng? Lại hư không này mê mờ không giải thích được, hư không chẳng giải thích được, nếu có chỗ sinh thì lẽ ra cũng không phân biệt được, cho nên nói làm sao phân biệt.
Nếu không có chỗ sinh, đột nhiên sinh ra thì sao giữa ban ngày không phân biệt được mặt trăng sáng.
Đây là bác bỏ không có nhân, giữa ban ngày không có trăng. Đã không có thức thấy trăng thì lẽ ra phải biết là chẳng phải không có nhân mà có.
Ông lại suy xét kỹ càng, cái thấy gá vào mắt ông đây là bác bỏ tiền cảnh. Có hình dáng thì thành có, không có tướng thì thành không. Như thế thức và duyên nhân vào đâu mà sinh ra. Thức động, thấy cái trong lặng, không hòa không hợp, lại xét chỗ sinh.
Tình (mắt) là phù trần, cảnh là sáng tối, thành có, thành không tức là hư không.
Hai câu thức động trở xuống v.v... là kết luận chẳng hòa hợp, động là năng liễu biệt.
Trong lặng nghĩa là chỉ soi chiếu cảnh. Nghe biết cũng như thế, không ứng với thức duyên, không từ tự sinh.
Hai câu trước so sánh để bác bỏ phá thức khác, nghe tức là tai và mũi, hay biết là lưỡi, thân, ý thức.
Hai câu không nêu v.v... trở xuống là kết luận không có chỗ sinh.
Thức khởi là lý do cho nên nói thức duyên.
Hội thông nghĩa thật, có ba ý:
1) Loại thông với nghĩa trước.
Nếu tâm thức này vốn không từ đâu có, nên biết tánh rõ biết thấy nghe hay biết tròn đầy vắng lặng, không từ đâu có. Đây là gồm hư không, đất, nước, lửa, gió gọi là bảy đại. Tánh chân viên dung, đều là Như Lai tạng, vốn không sinh diệt.
Hai câu đầu là năng loại, câu nên biết v.v... trở xuống là sở loại. Rõ biết nghĩa là thức. Thấy nghe nghĩa là căn, là gốc sinh ra thức, cho nên nói rõ biết thấy nghe v.v...
2) Phân tích khuyên nghiên cứu rõ ràng.
Nầy A-nan! Tâm ông thô phù, không ngộ được thấy nghe, phát minh rõ biết vốn là Như Lai tạng. Ông phải quán sáu chỗ thức tâm này là đồng hay khác, là không hay có, hay là phi đồng khác, hay là phi không hữu.
Đây là đồng dị như đã bác bỏ trong căn.
Không là từ hư không sinh ra, hữu là căn cảnh. Phi không hữu là vô nhân.
3) Chánh hội lý nay:
Ông vốn không biết trong Như Lai tạng có tánh thức minh tri giác minh, chân thức, diệu giác vắng lặng, trùm khắp pháp giới, chứa đựng mười phương hư không, đâu có nơi chốn, theo nghiệp mà phát hiện.
4) Kết luận trách mê tình:
Người thế gian không biết bị tánh nhân duyên và tánh tự nhiên làm mê hoặc, đều do thức tâm phân biệt so lường, chỉ có lời nói, không có nghĩa thật.
Nương vào lời chỉ bày ở trước mà được ngộ, có hai ý: Kể lại đại chúng lãnh ngộ, có hai ý:
Lược kể dứt nghi.
Bấy giờ, A-nan và các đại chúng nhờ lời chỉ bày mầu nhiệm của Như Lai, thân tâm an vui được vô quái ngại, ba khoa bảy đại tức tướng tức tánh, từ xưa bất sinh, nay thì vô diệt. Sinh diệt đến đi đều là Như Lai tạng tròn khắp bất động, thanh tịnh bổn nhiên. Đây là Như Lai nói về tánh chân thắng nghĩa trong thắng nghĩa, cho nên nói lời chỉ bày mầu nhiệm. Thân tâm tròn sáng nên nói an vui, lại không có các pháp bị ngăn ngại, nên nói là vô quái ngại.
Nói rộng về được lợi ích, có bốn: Tâm ngộ lợi ích rộng lớn.
Các đại chúng này, mỗi vị đều tự biết tâm trùm khắp mười phương, thấy hư không mười phương (tám trăm bảy mươi hai) giống như nhìn chiếc lá trong lòng bàn tay. Hoàn toàn chấp tâm ở trong thân, cho là chân tánh của mình, nay biết chẳng ở trong tâm. Như vật nhỏ cầm trong tay. Văn dưới cũng nói: Hư không sinh trong đại giác, như một hòn bọt giữa biển khơi.
Rõ vật đều là lợi ích chân thật.
Tất cả các vật trong thế gian này đều là nguyên tâm Bồ-đề diệu minh, tâm tinh tròn khắp, bao trùm mười phương, hoàn toàn chấp ngoài tâm có pháp. Nay ngộ pháp do tâm tạo, lìa tướng thật thì không có pháp để đắc. Cho nên các vật trong thế gian đều là Bồ-đề.
Bồ-đề, Hán dịch là Giác. Nếu chấp vô tình không có Phật tánh xin xem văn này. Dù tin vô tình có Phật tánh, nhưng nói không có đủ các pháp, bèn làm cho Phật tánh chia thành hai.
Cụ pháp Phật tánh: Nghĩa là tánh hữu tình. Bất cụ pháp Phật tánh: Nghĩa là tánh vô tình.
Việc phân chia này đâu khác thuyết khác, nói rằng cỏ cây vô tình không có Phật tánh. Nay lập lượng chỉ bày rằng:
Tông: Tất cả cỏ cây vốn là hữu pháp vì chắc chắn có các pháp. Nhân: Nói vì có Phật tánh.
Đồng dụ: Như hữu tình.
Chánh Giáo Lượng nói: Đất, nước, gió, lửa đều gọi là bảy đại, tánh viên dung chân thật đều là Như Lai tạng. Diệu giác vắng lặng, cùng khắp pháp giới, bao trùm khắp mười phương, đâu có nơi chốn. Y theo những lời nói kia sẽ rõ được điều này.
Xét lại di thân được lợi ích:
Xét lại thân này do cha mẹ sinh ra, giống như trong mười phương hư không thổi một hạt bụi, hoặc còn hoặc mất, như giữa biển lớn nổi một hòn bọt sinh diệt không từ đâu. Hư không ở trong tâm ta, giống như một vật nhỏ trong lòng bàn tay. Lại xét chất nhỏ nhiệm sinh ra, đối với tâm lớn nhỏ ra sao, cho nên nêu một hạt bụi trong hư không, còn mất đâu nói được, dụ cho rất nhỏ. Câu như giữa biển lớn nổi một hòn bọt là dụ cho thân này vô sinh. Trước dụ vẫn còn tướng nhỏ. Nay dụ tướng vốn vô sinh. Hai dụ này đều nói lên một ý.
Khéo được lợi ích nguyên tâm:
Rõ ràng tự biết được bổn tâm mầu nhiệm, thường trụ bất diệt.
Liễu là hiểu rõ, giống như rõ ràng.
Nhiên là ngữ từ. Vì hiểu rõ tâm cho nên nói tự biết, hoạch là được. Mê vọng là mất, liễu ngộ là đắc. Đã nói thường trụ bất diệt cho nên không phải đích thân được, chỉ là hiển hiện.
A-nan nói kệ khen ngợi thuật lại, có hai:
1) Nêu lên:
Lễ Phật chắp tay, được điều chưa từng có, ở trước Như Lai nói kệ khen Phật.
Được lợi ích bởi nương vào lời chỉ dạy cho nên đảnh lễ, lại khen ngợi thuật lại sự lợi ích của phát tâm.
2) Chánh thuyết, có bốn:
Khen ngợi Phật pháp ít có, có hai ý: a.1) Chánh khen ngợi.
Đấng vắng lặng Tổng trì bất động. Thủ-lăng-nghiêm vua ít có ở đời.
Câu đầu là khen ngợi Phật. Phật có ba thân là pháp thân, báo thân và ứng thân, nay đều khen ngợi.
Vắng lặng là pháp thân. Pháp thân vô tướng vắng lặng thường tịch. Vì vô tác vô vi, ở khắp tất cả mọi nơi bất sinh bất diệt.
Tổng trì: Là báo thân. Nghĩa là hiển phát trải qua vô lượng kiếp tu hành các độ, nhiếp chung tất cả công đức vô lậu, tận đời vị lai giữ gìn không mất, không có hoại diệt, là trả lời nhân kia.
Bất Động tôn: Là ứng thân, nghĩa là tùy cơ cảm, chán cầu hơn thua, là dụng tướng chân như từ trong tâm chúng sinh hiện ra. Gọi là ứng.
Thể của Phật là bất động, không có tác ý. Như trăng không xuống, trăm dòng nước không lên.
Căn lực từ thiện pháp nhĩ như vậy, cũng như gương bóng tùy hình mà hiện, gương vẫn bất động. Cho nên lấy bất động làm ứng thân. Lại chữ Diệu và chữ Tôn thông trên lẫn dưới. Nghĩa là ba thân một thể, không ba mà ba. Thể, tướng, dụng pháp đầy đủ tất cả nghĩa, cho nên gọi là Diệu, là rất rốt ráo, cực chúng sở hiển nên gọi là Tôn. Câu dưới khen ngợi pháp, tức là hành pháp, hễ hiển hiện thì chỉ có Tam-muội này. Tối tôn tối thắng tự tại đối với pháp, nên gọi là Vương (vua).
Câu trên bày quả, câu dưới là hạnh. Lý quả hạnh là nghĩa sở thuyên, phải nhờ vào năng thuyên và sở thuyên mới hiển bày. Cho nên bốn pháp đều khen ngợi đầy đủ. a.2) Thuật lại điều lợi ích:
Giúp con tiêu sạch vọng tưởng điên đảo ức kiếp.
Làm cho con chứng được pháp thân không trải qua A-tăng-kỳ kiếp.
Câu đầu là đoạn chứng, tức là thân tâm an vui được vô quái ngại.
Kinh ở dưới chép: Từ vô thỉ đến nay điên đảo, chìm đắm. Nay nói ức: Là nêu con số lớn. Vọng nhận bóng bốn đại sáu trần duyên làm tướng của thân tâm, quên mình cho là vật, thấy lớn xem nhỏ đều là điên đảo, vọng động loạn tưởng. Nay nghe chỉ bày, vì không chấp không nhận nên gọi là Tiêu.
Câu dưới là ngộ đạo, tức là dược bổn tâm mầu nhiệm thường trụ bất diệt.
A-tăng-kỳ, Hán dịch là Vô số.
Kiếp-ba, Hán dịch là Thời Phần. Phương tiện dạy nói tất cả Chư Phật tu Ba-la-mật trong vô số kiếp, sau mới thành Phật. Nay ở trong hội nầy nói bỗng ngộ là được bổn tâm mầu nhiệm thường trụ bất diệt. Đâu có trải qua tăng-kỳ ư? Cho nên văn dưới nói: Dứt tức là Bồ-đề. Không từ nơi người mà được, đâu nhờ vào sự nhọc nhằn tu chứng. Lại nói: Trong khoảng búng ngón tay vượt lên bậc Vô học.
Lại Kinh Viên Giác nói: Biết huyễn liền lìa, không thực hành phương tiện. Lìa huyễn tức giác, cũng không tiệm thứ,đều là nghĩa này. Nhưng theo văn nầy, lại trình bày về giải ngộ. Như văn nói mỗi người đều tự biết tâm trùm khắp mười phương. c.3) Biết tức là hiểu.
Trình bày tuy luận giải chẳng thể không chứng ngộ. Vì tùy theo người nhập vào địa vị sâu cạn khác nhau.
Lại như Bồ-tát bẩm quyền của hai giáo hai thừa, Viên giáo do căn tánh chưa phát lòng tin, ngộ cảnh giới này tức là giải ngộ. Nếu từng nhập vào hành vị Tín giải nghe pháp khai ngộ, tức là chứng ngộ.
Lại có người nhập vào địa trụ, tức tăng đạo mà tổn đời, cho đến Diệu giác, phá hoặc chứng lý, phát diệu dụng chân thật, đều tùy theo địa vị sâu cạn mà nói về rộng hẹp. Đây là chúng trong một hội đều được lợi ích mầu nhiệm. c.4) Nguyện đắc quả độ sinh, có bốn ý: c.4.1) Trình bày sở nguyện, có hai:
-Trình bày nguyện:
Nguyện nay đắc quả, thành Bảo vương. Trở lại độ hằng sa chúng như thế.
Câu đầu là nói về trí. Tức là Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Tức ngay thân đời này mong được chứng, cho nên nói nguyện nầy.
Câu kế là nói về tâm bi, tức là chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
Dưới nói dứt mê hoặc, tức là phiền não vô tận thệ nguyện dứt. Bi và trí tức là tâm Bồ-đề, chính là thể của đạo. Lại dùng thệ chung mà giữ nó.
Tức ba pháp đủ khắp, bốn nguyện đầy đủ, phát tâm Bồ-đề đều ở ngay đây.
Theo sớ kinh Viên Giác: Nhân địa Đốn giác gồm có ba lớp.
1. Liễu ngộ giác tánh, tức là trước được bổn tâm mầu nhiệm, được pháp thân.
2. Phát tâm Bồ-đề tức nay là hai nguyện bi và trí.
Sau là tu hạnh Bồ-tát, tức về sau hỏi phương tiện tu hành. Nghĩa là không liễu rõ tự tâm làm sao biết chánh đạo. Cho nên nói nhiều kiếp tu hành không phải là Bồtát chân thật.
Kế là nếu không phát đại tâm thì không do đâu mà khởi hạnh. Cho nên Thiện Tài trước nói đã phát tâm, sau mới hỏi về tu hành. Tu chứng viên đốn không gì hơn đây.
-Thuật lại ý:
Đem thâm tâm này thờ phụng chúng sinh nhiều như bụi, để báo đền ơn đức của Thế tôn.
Câu trên đồng với hóa Phật. Trên cầu quả Phật dưới hóa độ chúng sinh, đủ hai tâm bi và trí, nhất nhất trước ngộ diệu giác minh tánh. Từ lý sâu xa sinh ra gọi là thâm tâm. Dùng hai tâm này, thuận theo Chư Phật hóa hạnh trong các cõi nhiều như cát bụi, không hai không khác. Cho nên gọi là phụng.
Câu dưới là kết luận báo ơn. (tám trăm bảy mươi ba) Đại Luận nói: Dù cho thọ trì trải qua nhiều số kiếp, thân làm giường ghế khắp tam thiên, nếu không truyền pháp độ chúng sinh thì hoàn toàn không thể báo ân Phật được. Lại thỉnh chứng minh:
Lại thỉnh Thế tôn chứng minh cho con. Đời năm trược ác con thệ vào trước. Nếu có một chúng sinh chưa thành Phật thì con sẽ không ngay đây mà nhập Niết-bàn: Con nguyện thành đạo vốn là độ sinh, tâm độ sinh không phải tạm thời, mà chúng sinh tận đời vị lai hết con mới mới nhập Niết-bàn. Nguyện này rất sâu nặng cho nên thỉnh Phật chứng minh.
Xin dứt mê hoặc, mau thành tựu. Đại hùng, đại lực đại từ bi
Mong được gội sạch hoặc sâu kín. Cho con sớm lên Vô Thượng giác Ngồi đạo tràng thế giới mười phương.
Câu đầu là khen ngợi đức. Uy đức mạnh mẽ như sư tử đầu đàn nên gọi là Hùng, mười nghĩa đầy đủ không thể khuất phục, nên gọi là Lực. Từ bi là cứu khổ ban vui, không có duyên cũng cứu hết, đều nói
Đại là nói lên vô thượng. Câu kế xin dứt trừ mê hoặc, tự nhờ tu mê hoặc sở tri của Đại thừa đều gọi là nhỏ nhiệm. Hai câu dưới xin mau được thành tựu.
Văn trước đã nguyện đắc quả. Nay lại nói, vì độ sinh nên tâm mới tha thiết nguyện sớm đắc. Câu trên là chân thân, câu dưới đều phải chứng thành. Đạo tràng hiện tám tướng. Trước nói chưa thành tựu đạo quả thì chưa nhập Niết-bàn là nói theo chiều dọc của thời gian. Nay nói thế giới mười phương là nói theo chiều ngang của nơi chốn, tức giải thích thành trên cầu quả vị, dưới hóa độ chúng sinh. d) Cho đạo tâm không lay động.
Tánh hư không có thể tiêu mất mà tâm con vững chắc không động chuyển. Thuấn-nhã-đa, Hán dịch là Không. Tánh của hư không chẳng thể nào tiêu diệt, nay còn có thể diệt. Trên cầu quả vị, dưới hóa độ chúng sinh, tâm Bồ-tát không thể nào dời đổi. Cho nên nói không động chuyển.
Thước-Ca-ra, dịch là bền chắc không hư hoại.
Lại dịch là bánh xe, bánh xe có công năng nghiền nát. Nghĩa là tâm bi trí tự lợi lợi tha, đều có công năng nghiền nát hoặc, nghiệp, khổ.
Bác bỏ Mãn Từ chấp tướng hỏi tánh, hiển bày Nhưlai tạng, có bốn ý:
1. Thưa hỏi có ba:
1. Nói chung về chưa liễu ngộ, có ba: a) Bày tỏ cung kính khen ngợi:
Bấy giờ, Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử ở trong đại chúng, đứng dậy khỏi chỗ ngồi, vén y bày vai phải, gối phải sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật: Rằng bạch Đại oai Đức Thế tôn, xin Ngài giảng nói đệ nhất nghĩa đế cho chúng sinh nghe.
Như-lai nói pháp, đại chúng đều ngồi, có điều gì muốn hỏi trước phải đứng dậy cung kính. Cách thức cung kính không lìa ba nghiệp.
Quỳ thẳng chắp tay thuộc về thân. Cung kính thuộc về ý.
Thưa bạch thuộc về miệng.
Tâm Như-lai tạng chẳng phải không, chẳng phải có, tức tánh tức tướng, gọi là đệ nhất nghĩa.
Đây là điều Phật chứng, chắc chắn không luống dối, xem xét đúng như thật gọi là Đế. b) Dẫn dắt nói lại sự mê:
Đức Thế tôn thường khen con là người nói pháp bậc nhất, trong những người nói pháp nay nghe pháp âm mầu nhiệm của Như-lai, giống như người điếc, ngoài trăm dặm nghe được tiếng con ve. Vốn không thấy được huống chi được nghe. Phật tuy giảng nói làm cho con dứt trừ mê hoặc, nay còn chưa rõ nghĩa này, rốt ráo không có nghi ngờ.
Mãn Từ Tử là người khéo nói pháp yếu, đại chúng suy tôn Ngài là vô thượng. Nay nghe lời Phật nói, chưa ngộ giải hết, giống như người tai điếc với tiếng nhỏ xíu xa hơn trăm bước, làm sao phân biệt rõ được. Đệ nhất nghĩa đế nhiệm mầu vắng lặng, là tiếng nhỏ nhiệm, nghe mà không hiểu và không nghe là giống như người điếc. Đường ngôn dứt, chỗ tâm hành diệt là qua trăm bước nói pháp này để cho con dứt hết mê hoặc, vẫn còn dính mắc vào lưới nghi, chưa kết hối, cho nên dẫn ra so sánh. c. So sánh nói về được mất:
Bạch Đức Thế tôn! Các vị như A-nan v.v... tuy là khai ngộ mà tập khí hữu lậu chưa dứt. Chúng con ở trong hội đã được vô lậu. Tuy dứt trừ các lậu, nay nghe pháp âm của Như-lai nói vẫn còn khúc mắc nghi ngờ.
Khai ngộ: Như trước được bổn tâm nhiệm mầu thường trụ bất diệt. Người Tiểu thừa hữu học mới dứt phân biệt, câu sinh vẫn còn. Gọi là tập khí hữu lậu chưa dứt. Ngài Mãn Từ Tử là bậc Vô học dứt kết câu sinh. Đây là nói theo chướng phiền não của Tiểu Thừa.
Hỏi: Tại sao bậc Vô học mà còn nghi ngờ khúc mắc, mà người chứng Sơ quả lại giải ngộ không nghi ngờ?
Đáp: Hai chướng: Phiền não và sở tri khác nhau, do nhân chấp pháp nặng nhẹ khác nhau.
Cho nên luận Chánh Lý chép: Có khi đối với cảnh mà người trí không bằng người ngu. Ấy gọi là phàm phu khéo thông Ba tạng. La-hán không biết muối đỏ, vì chướng sở tri làm chướng ngại lý pháp giới.
La-hán tuy được vô lậu, phiền não nhẹ, còn khúc mắc nghi ngờ sở tri rất nặng, A-nan tuy được khai ngộ sở tri nhẹ, tập khí hữu lậu chưa dứt nên phiền não nặng.
2. Trình bày riêng về điều nghi, có hai: a) Nghi tạng tánh sinh ra tướng:
Bạch Đức Thế tôn! Nếu tất cả căn trần, ấm, xứ, giới trong thế gian đều là Như-lai tạng thanh tịnh bổn nhiên, tại sao bỗng sinh ra các tướng hữu vi núi sông đất đai, lần lượt trôi lăn, đến cuối rồi lại đầu?
Năm câu đầu là dẫn ra điều đã nghe. Tức đồng với Viên Giác, lương Tạng chép: Nếu các chúng sinh xưa nay thành Phật. Câu vì sao bỗng sinh v.v... trở xuống là nói về nghi hỏi, tức đồng với kia nói vì sao lại có tất cả vô minh, kia hỏi lại rằng: Nếu các chúng sinh vô minh vốn có thì vì Như-lai lại nói xưa nay thành Phật. Nay kinh không có hỏi điều này, vì ý đã chứa đựng rồi, lại có nhắc lại mà tha hồ trách lỗi vô cùng, tức đồng với văn dưới đáp riêng có ngăn ngại.
Nhưng điều Cương Tạng hỏi tỉ mỉ thành khó, văn nhóm một chỗ nối tiếp liền nhau. Như-lai đáp giải thích cũng chỉ chung rằng. Thế gian đầu cuối, niệm niệm nối tiếp nhau, tất cả đối đãi, đều do nói về tánh giác thì tánh giác trở thành các thứ trôi lăn. Cho đến kết thúc rằng:
Phân biệt như thế chẳng phải hỏi đúng. Nay kinh hỏi đã lần lượt, đáp cũng tùy theo câu hỏi. Ý của hai kinh đáp đủ, lược tuy khác nhưng yếu chỉ lại đồng.
Như kinh ấy chép: Các thứ lấy bỏ đều là luân hồi, chưa ra khỏi luân hồi mà nói về Viên giác thì tánh Viên giác kia đồng với trôi lăn, nếu thoát khỏi luân hồi thì không có việc đó. Đây là trách Cương Tạng không rõ tự tánh viên giác dứt bặt các đối đãi, sinh tử và Niết-bàn giống như giấc mộng đêm qua, rồi dẫn vô minh, sinh tử, hữu vi trở lại thành nghi để gạn hỏi chúng sinh xưa nay thành Phật. Cho nên Phật bác bỏ đây chính là tâm cấu. Sinh tử phân biệt vọng thấy, rồi làm cho viên giác thành trôi lăn, do đây nêu ví dụ về Vân sử, Nguyệt Vận, Đan Hành, Ngạn Di v.v... (tám trăm bảy mươi bốn) Kinh nay thường nói bổn tánh giác thể diệu minh, minh diệu mà trở lại trách, nói ngài Mãn Từ Tử dứt được tâm mê hoặc. Dứt thì giác biết thể bổn diệu vô minh vốn không, núi sông đất đai như hoa đốm trong hư không, thì đâu dẫn đến sự nghi ngờ. Mê hoặc thì năng sở vọng phân, giác mạnh bỗng khởi, ba tế làm gốc, bốn luân thành giới. Bèn có thế giới chúng sinh nghiệp quả nối nhau.
Đây là chưa ra khỏi luân hồi mà nói về tánh Viên giác thì tánh Viên giác kia đồng với trôi lăn, cho nên ý hai kinh hỏi đáp đều đồng. Nhưng đây là nghi nạn rất lớn môn pháp không, rất chướng ngại cho sự tu chứng. Dấu vết của ngài Mãn Từ Tử tuy là Tiểu Thánh, kinh nay viên thông thuật ngộ đều là then chốt, cho nên điều trình bày gạn hỏi Cương Tạng không khác, đến đây người học xin xem cho kỹ. b) Nghi đại tánh đều cùng khắp:
Lại, Như-lai nói bổn tánh của đất nước lửa gió viên dung trùm khắp pháp giới, vắng lặng thường trụ. Bạch Đức Thế tôn! Nếu tánh địa trùm khắp làm sao lại dung chứa được nước. Tánh nước trùm khắp thì lửa không sinh, làm sao nói về hai tánh nước lửa?
Hai tánh nước lửa trùm khắp hư không, chẳng xung đột nhau.
Bạch Đức Thế tôn! tánh đất chướng ngại, tánh hư không thông suốt, vì sao nói cả hai đều trùm khắp pháp giới? Đây là y theo thế đế tánh nước lửa khác nhau mà hỏi về tánh tướng của đệ nhất nghĩa đều dung thông. Văn dưới đáp rằng: Quán tướng vốn vọng, không thể chỉ bày, quán tánh vốn chân chỉ là diệu giác minh.
Diệu giác minh tâm trước không phải là nước lửa, vì sao lại hỏi về nghĩa xung đột nhau?
Kết cả hai, xin chỉ dạy.
Mà con không biết nghĩa này thế nào, cúi mong Như-lai rũ lòng đại từ, vẹt tan đám mây mù cho con và các đại chúng. Nói xong, năm vóc gieo sát đất lắng lòng nghe những lời chỉ dạy vô thượng của Như-lai.
Du nghĩa là chỗ. Y theo lời nói thì bổn nhiên thanh tịnh khắp nhau dung nhau. Y theo đây thì rõ ràng như vậy, núi sông rất trái với nước lửa, không biết chỗ đến thì ai đúng ai sai, nguyện rũ lòng từ bi chỉ dạy, hy vọng không còn mê hoặc.
2. Hứa giảng nói, có ba:
1. Giải thích:
Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Phú-lâu-na và các vị A-la-hán Vô học, lậu tận trong hội rằng: hôm hay Như-lai giảng nói về tánh của thắng nghĩa chân thật trong các thắng nghĩa cho đại chúng khắp trong hội này. Như-lai thường y theo hai đế nghĩa thế tục đế và thắng nghĩa đế để nói pháp. Nhưng điều ở đây nói khác với điều thường nói, đó là thắng nghĩa đế trong thắng nghĩa đế, thật tướng Trung đạo nhất chân pháp giới chẳng có pháp nào không thu nhận, chẳng có pháp nào không trùm khắp. Trên Thánh dưới phàm, tình và vô tình đều thành Phật đạo. Đây là nêu lên quy cách cuối cùng.
2. Nói về lợi ích:
Giúp cho con là Thanh Văn định tánh trong hội và tất cả A-la-hán chưa được hai không hồi hướng vô thượng đều được Nhất thừa vắng lặng trường địa chân A-luyện-nhã chỗ tu hành chân chánh, phương tiện dạy nói, Nhị thừa định tánh. Xiển-đề Vô tánh không được thành Phật như những hạt giống mầm mộng đã bị hư thối. Nay ở đây là hội thông, đều trở về Nhất thừa rốt rác Niết-bàn. Kinh Niết-bàn chép: Ta đối với kinh khác có nói Thanh Văn không được thành Phật, không phải đối với kinh này nói như thế, Niết-bàn Phật tánh tức Như-lai tạng, cũng gọi là Nhất thừa, cũng gọi là Thủ-lăngnghiêm, hai kinh đồng vị, không thích hợp hay sao?
Đây chính là hội thông năm tánh, dung thông ba thừa, bàn luận liễu nghĩa, không gì hơn ở đây.
A-lan-Nhã, Hán dịch là vô huyên tạp. Thủ-lăngnghiêm Vương: là định rất vắng lặng của Chư Phật, là chỗ tu hành chân vô ngại tạp chánh.
3. Khuyên nghe:
Nay ông lắng nghe ta sẽ nói cho.
3. Lắng nghe:
Phú-lâu-na v.v... khâm phục pháp âm của Phật, im lặng lắng nghe.
4. Đáp giải thích, có hai:
1. Đáp nghi tạng tánh sinh tướng, có hai:
a) Chánh đáp Thắng nghi, có ba:
a.1) Nhắc lại nghi:
Phật bảo: Này Phú-lâu-na, như lời ông nói, thanh tịnh bổn nhiên tại sao bỗng sinh ra núi sông đất đai.
a.2) Chánh đáp, có hai:
-Chỉ có một chân tâm.
Thầy thường không nghe Như-lai nói về giác tánh diệu minh bổn giác minh diệu hay sao?
Phú-lâu-na thưa: Vâng! Bạch Đức Thế tôn, con thường nghe Phật nói về nghĩa này: tâm nhất chân như là Phật thường nói, hoặc gọi là pháp giới, hoặc gọi là tướng Thật, hoặc gọi là tánh Như-lai tạng, hoặc là Diệu tịnh minh tâm. Trong một kinh còn có nhiều tên, huống chi là nhiều kinh? Tên tuy có khác nhưng cùng một thể không khác nhau, đều là nói về Nhất tướng của pháp giới vốn bình đẳng. Ba khoa bảy đại luống dối có sinh, luống dối có diệt. Sinh diệt đến đi vốn là Như-lai tạng bất động chân viên, tánh diệu chân như, trong tánh chân thường mà tìm đến đi, mê ngộ, sinh tử, hoàn toàn không thật có. Nếu hiểu rõ ý chỉ này thì vì sao núi sông bỗng khởi, hữu vi trôi lăn, đâu cần thưa hỏi Như-lai? Cho nên nay trách hỏi, đã giải thích nghi rồi. Ở đây đáp theo môn Chân như, theo thể bặt tướng.
Tánh giác vốn giác là chỉ cho thể. Diệu minh minh diệu là dụng. Hiển bày không nhờ người khác nên nói là tánh giác. Vì tánh nó tự giác, vì tánh tự sáng, đâu từ người, vì hiển bày rõ không có thỉ giác nên gọi là Bản giác, vì vốn là giác, vì vốn là minh, đâu thể do thỉ giác mà có, lại vì thể không thay đổi nên gọi là tánh giác. Vì tướng chẳng sinh khởi nên gọi là Bản giác. Thể tướng vắng lặng, suy nghĩ hay dùng lời nói không thể diễn tả được, nên gọi là Diệu.
Sáng suốt không mờ tối, mê hoặc không thể làm cho tối tăm nên gọi là minh, diệu minh, minh diệu lời nói qua lại. Hoặc có thể vắng lặng mà thường chiếu soi, nên gọi là diệu minh, chiếu soi mà thường vắng lặng nên gọi là minh diệu. Đây là nói về Nhất tướng của pháp giới chân giác không hai.
Kinh Viên Giác chép: Vì tất cả giác cho nên viên giác chiếu khắp vắng lặng không hai. Người xưa giải thích mỗi người tùy theo ý của mình, v.v... ở trong đó, không thể trình bày đủ.
Khởi các pháp vọng tức y theo môn sinh diệt tùy duyên thành sự để giải thích, văn có ba:
-Hỏi chung về giác minh.
Phật dạy: Ông gọi là giác minh, là tánh minh gọi là giác, hay là giác không minh mà gọi là minh giác. Một lời hỏi này để quyết định giải mê hoặc ấy.
Giải thì không hợp với điều nghi, mê hoặc thì không phải hỏi đúng. Ý nói ông nghe ta nói tánh giác diệu minh là làm sao hiểu, hay giác thể này bổn tánh tự sáng gọi là giác minh, hay là giác tự không sáng do giác tha mới sáng, giác và minh khác nhau nên gọi là minh giác. Tên giác minh do đâu mà lập ra. Cho nên nói ông gọi v.v... Hai ý này, một chánh một tà, nhất định Mãn Từ Tử đáp là đắc ý nào, được điều này thì không nghị, nhận tà thì sinh vọng, cho nên một lời hỏi này chắc chắn là giải trừ mê hoặc. a.3) Đáp do sở giác.
Phú-lâu-na nói: Nếu giác này không sáng mà gọi là giác thì không có chỗ sáng.
Y theo ý này để đáp thể của giác tự không thể giác, chắc chắn phải nhờ vào cái sáng khác làm sở giác. Nếu không có cái sáng của sở giác thì chỉ có thể gọi là Giác, không thể gọi gồm là giác minh. Nếu muốn gọi gồm là giác minh thì về phải có minh làm sở giác. Đây chỉ là nhận tà, cho là gốc sinh khởi vọng pháp. Bổn ý của Phật là tánh giác vốn sáng, không cần nhờ vào cái khác mà gọi là minh giác, giác diệu minh diệu, giác viên minh viên, một tướng minh giác không hai không khác. Đây chỉ là chân giác không có pháp nào khác, trừ một tướng Thật đều là việc ma. Ngài Mãn Từ Tử khởi giáo, chỉ bày tự biết, vọng nhận sở minh, bèn thành mê hoặc điên đảo. b) Y theo chấp trình bày vọng: (Tám trăm bảy mươi lăm)
-Phá kiến chấp năng sở của Mãn Từ Tử, có ba:
+ Phật bảo: Nếu chẳng có sở minh thì chẳng có giác minh, có chỗ chẳng phải giác. Hai câu đầu nhắc lại chung sở chấp. Nếu chấp vào lời nói của ông, phải có sở minh mới gọi là minh giác. Nếu người không có sở minh thì không có minh giác.
Phật liền bác bỏ rằng: Có sở chẳng phải giác, ý nói nếu có năng và sở thì đâu gọi là chân giác. Chân giác là lìa tướng năng, sở.
Bài kệ thấy đạo rằng:
Nếu lúc đối sở duyên Trí đều không thật có. Bấy giờ, trụ duy thức Vì lìa tướng hai chấp.
Kinh nói: Không rõ tâm và duyên thì hai vọng tưởng sinh ra, rõ tâm và cảnh giới, thì vọng tưởng không sinh.
Văn trên nói: Lỗi của năng giác và sở giác, giác không phải ở trong lỗi lầm. Cho nên biết có sở chẳng phải chân giác.
+ Bác bỏ tánh vi diệu chẳng phải vắng lặng sáng suốt:
Không có sở thì chẳng có minh, chẳng có minh thì không có tánh vắng lặng sáng tỏ của bản giác. Một câu đầu là nhắc lại riêng sở minh, nếu như lời ông nói, chắc chắn có sở minh, mới gọi là giác minh, nếu không có sở minh chỉ gọi là Giác.
Hai câu kế bác bỏ rằng: Như-lai thường nói tánh vắng lặng sáng tỏ của bản giác, điều không phải minh cho được!
Nếu Phật không phải minh thì không gọi là tánh vắng lặng sáng tỏ của bản giác.
+ Kết luận chỉ ra hai giác chân và vọng.
Vì tánh giác là minh, vọng cho là minh giác. Câu trên là kết thúc chân, câu dưới là kết thúc vọng. Tánh giác chắc chắn có chân minh. Cho nên nói tánh giác diệu minh, bổn giác minh diệu. Vọng cho là minh khác với giác, cho nên ông nói: Nếu có sở minh thì không có minh giác. Vì có sở minh mới gọi là giác minh, cho nên hiểu được kiến hoặc thì khả năng thể phân biệt.
5. Chính là hiển bày nguồn gốc mê chân khởi vọng, có hai ý:
1) Nói chung vọng giác nhờ tướng của chân.
Bổn giác không phải sở minh, do minh mà lập sở. Thể của chân giác vốn có diệu minh, do minh mà lập sở. Thể của chân giác vốn có diệu minh, không chạy theo duyên sinh, không do cảnh khởi lên, xưa nay pháp giới Nhất tướng vắng lặng chiếu soi. Cho nên nói giác không phải sở minh, do chân minh này, không rõ vô minh nên vọng chấp là sở. Do đó một niệm vừa khởi thì bốn hoặc đều sinh, vốn là tướng ban đầu của thức đều là đây.
Luận Khởi Tín nói: Do biết không đúng như thật đối với chân như pháp nhất, cho nên bất giác tâm móng khởi mà có niệm kia.
Lại nói: Bất sinh bất diệt hòa hợp với sinh diệt, chẳng phải một chẳng phải khác, gọi đó là thức A-Lạida. Do chân minh này bị chấp mà lập sở minh, đây là chân như không giữ tự tánh. Vì vọng kiến nên cho là sở tướng. Như ở trước ánh đèn vì bị nhặm mắt nên thấy có quầng ánh sáng tròn. Đó gọi là vô minh trụ địa từ vô thỉ. Kinh Anh Lạc nói: Bốn trụ địa trước làm cho không có pháp khởi lên. Cho nên nó rất sâu kín, tức là sở tướng này.
2. Nói rộng về ba tướng, xoay vần sinh ra lý do, có hai ý:
a) Lập ra tướng nhân, có hai.
Chỉ riêng về ba tướng, có ba: a.1.1) Tướng khác:
Sở đã vọng lập, thì sinh ra cái năng minh luống dối của ông, đối với không đồng khác, rõ ràng thành khác.
Luận Khởi Tín gọi là tướng nghiệp, cho nên luận chép:
Vì nương vào bất giác cho nên tâm động gọi là Nghiệp, giác thì không động, động thì có khổ, vì quả chẳng lìa nhân. Kinh này gọi là dị tướng, dị có hai nghĩa:
- Tướng vọng luận dị: Bất giác thì động, giác thì bất động, vì động dị chẳng động.
- Đương thể luận dị: Vì tướng nghiệp này có năng và sở, vì có sinh có diệt.
Nay kinh này nói: Sở minh đã vọng lập thì sinh ra cái năng minh luống dối của ông, tức là Đương thể luận dị. Chân giác diệu minh vốn chẳng phải tướng năng sở, vô minh bất giác vọng nhân là sở. Vì vọng thành nên vọng năng sinh theo, hai tâm năng sở không lìa nhau, đối với không đồng khác mà vọng chấp thành khác, tức là Tướng vọng luận dị.
Thể của Nhất chân xa lìa sự nói năng, xa lìa tướng tâm duyên, cho nên chẳng có đồng và khác, vọng phân biệt năng sở, hai tướng bỗng khởi lên, rõ ràng thành lập tướng dị vô tướng, cũng gọi là tướng động, vì khác với tâm yên tĩnh. a.1.2) Tướng đồng:
Khác với sở dị kia, do dị mà lập đồng. Luận Khởi Tín gọi là chuyển tướng, cho nên luận rằng: Vì nương vào động cho nên thấy được, không động thì không thấy. Chuyển là khởi, vì chuyển trước tâm động khởi lên trước liền thành năng kiến, nay nói khác với sở dị kia. Năng dị tức là tướng đồng, sở dị tức là tướng khác, muốn khác với tướng dị phải đặt tên đồng. Khác trước là đối với chân, dị ở đây là đối với khác, đối đãi với khác để lập động. Lại vì hiển hiện thô cùng gọi là tướng vắng lặng, vì tĩnh khác với động, tĩnh này đối đãi với động, nhưng không phải tĩnh dứt đối đãi, cho nên nói nhờ dị mà lập đồng. a.1.3) Tướng không đồng khác:
Tướng đồng khác đã sinh, từ đó lại lập ra cái không đồng khác. Luận Khởi Tín gọi là hiện tướng, cho nên luận rằng: vì nương vào cái năng thấy mà vọng hiện ra cảnh giới, lìa cái thấy thì không có cảnh giới. Cho nên ba cảnh của thức A-lại-da hiện ra. Nay nói tướng đồng khác đã sinh, do so sánh với hai tướng đồng và khác ở trước phát ra, làm cho tâm tướng chuyển thô tạo thành cảnh bên ngoài, hình đối với hai tướng trước mà đặt ra tên gọi này, chẳng phải tướng yên tĩnh ở trước nên nói chẳng đồng, chẳng phải tướng xao động ở trước nên nói không khác.
Đây là đồng khác đối đãi với không đồng khác, không có bặt dứt đối đãi với không đồng khác, cho nên nói tướng đồng khác đã sinh. Ba tướng này là giới hạn của bản thức, sinh diệt trôi lăn niệm niệm không ngừng, không phải sở giác năng giác của phàm phu, Nhị thừa, do một niệm vô minh khởi lên, luận Khởi Tín gọi là bất tương ưng nhiễm, chỉ có Phật mới biết cùng tận, nên văn dưới nói: Nương vào vô minh huân tập khởi lên thức, phàm phu không thể biết, trí tuệ của hàng Nhị thừa cũng không biết được. Nghĩa là nương vào Bồ-tát từ lúc mới chánh tín phát tâm quán sát, nếu chứng được pháp thân biết được chút ít, cho đến Bồ-tát ở địa rốt ráo cũng không thể biết hết, chỉ có Phật mới hiểu hết.
Chỉ chung giải thích thành.
Nhiễu loạn như thế đối đãi nhau sinh ra mỏi mệt, mỏi mệt lâu phát ra trần, tự lẫn lộn nhau. Hình thể đối đãi không dứt bèn thành mỏi mệt, như dụi mắt thì có hoa đốm lăng xăng. Ba tướng luống dối làm nhiễm ô chân tánh, nên gọi là trần. Cản trở tự thể thanh tịnh làm mất đi sự trong sáng, gọi đó là trược. Thô tế của trược, gọi là năm trọng tướng, như ở dưới nói rộng, đều do ba tướng này là căn bản.
b) Nói về tướng quả, có hai ý:
b.1) Do nhân dẫn đến quả, có hai. Từ tế dẫn đến thô. Do đó, phát khởi trần lao phiền não, do ba tế trước mà sinh ra bốn tướng thô, nghĩa tướng của trí nối nhau chấp vào tên. Bốn thô này là thể của hai chướng, vì huân tập vọng tưởng bên trong và cảnh giới bên ngoài nhân duyên đầy đủ, do đó mới sinh, cho nên nói dẫn khởi, nhiễm ô, mệt nhọc, tạo nghiệp, chịu báo, trôi lăn không cùng đều do đây, tức là con đường phiền não.
Nghiệp chủng của chúng sinh là hai tướng thô sau.
Luận Khởi Tín nói: Vì có duyên cảnh giới lại sinh ra sáu tướng, ở đây là sáu tướng thô.
Từ trong cảm đến ngoài.
Khởi sinh thành thế giới, vắng lặng thành hư không, hư không là đồng, thế giới là khác, không có đồng khác là pháp hữu vi. Khởi là động, động là tướng khác, khác là sai biệt, là thể của thế giới. Thể là dời đổi, giới là nơi chốn, lần lượt chuyển dời cách biệt khác nhau, nên gọi là thế giới, đều do bên trong có tướng khác làm gốc (tám trăm bảy mươi sáu). Cho nên nói khởi thành thế giới, tĩnh là tướng đồng gọi là không khác, hình thể ở trước loạn động khác nhau, nên gọi vắng lặng, là thể của hư không. Luống dối không chuyển động khác nhau, do bên trong có tướng đồng. Tĩnh đối với động là nhân này, cho nên nói vắng lặng thành hư không. Hai câu từ hư không, v.v... trở xuống là kết do hai tướng. Từ hai câu kia không phải đồng v.v... khác trở xuống là chỉ cho hiện tướng, cũng gọi là hiện thức. Đây là y theo ba tướng A-lại-da mà đầy đủ thành tựu vị, đó là chân pháp hữu vi, vì có công năng thành tựu tám thức, sáu trần và hạt giống căn thân.
Hai tướng trước, tuy cũng là hữu vi nhưng chưa đủ ba tướng, chưa làm được việc, nên thành tựu vị mới gọi là hữu vi. Lại một tướng này gọi là không đồng khác, lạm dụng thể giác chân như đã nói ở trước cũng chẳng đồng khác. Cho nên ở đây đặc biệt chỉ là pháp hữu vi, tức biết chẳng phải thật vô đồng khác.
Không đồng khác: Là nói chân vọng đều có, do sự lựa chọn này nên chẳng có sự lạm dụng nhau. Nhưng ba tướng này tuy nói có thứ lớp nhưng khởi lên thì cùng một lúc, ngoại khí hư không cảm được và căn của hữu tình, một niệm chợt hiện hành, cũng chẳng có trước sau, chẳng thể nói theo thứ lớp mà đòi hỏi sự hiện hành trước sau.
Nói về tướng quả, có ba:
1. Thế giới nối nhau, có hai:
a) Nói về tướng kia, có hai
a.1) Nói bốn luân khởi lên, có bốn:
a.1.1) Phong luân:
Giác minh không muội đối đãi nhau mà thành dao động, cho nên có phong luân giữ gìn thế giới, do trước đã vọng lập sinh ra vọng năng của ông.
Sở tức là ảnh minh, năng tức là vọng giác, giác minh này hoàn toàn là vô minh. Vô minh tối tăm trùm khắp pháp giới, liền thành hư không tối tăm. Nên văn dưới nói: Ông thấy hư không trùm khắp các cõi mười phương, cái thấy rỗng không chẳng có sự phân biệt. Thấy tức vọng giác, một sáng một tối, một động một tĩnh, sát-na sinh diệt đối đãi chẳng dứt. Sinh diệt ở bên trong gọi là dao động, bên ngoài thì thành phong luân sơ khởi, cho nên phong luân ban đầu của thế giới gọi là thỉ. Hư không là chỗ nương của thế giới, nên văn dưới nói: Mê vọng có hư không, nương vào hư không mà lập ra thế giới.
a.1.2) Kim Luân:
Do hư không sinh dao động, giữ chặt các sáng suốt lập thành chướng ngại, Kim bảo kia là minh giác lập thành cứng chắc, cho nên có Kim luân giữ gìn cõi nước, vô minh sinh diệt đối đãi không dứt, nên nói do tánh sinh dao động, cố chấp cái sở minh, giữ chặt không bỏ, cho nên nói giữ chặt minh lập thành chướng ngại, đối với bên trong là chấp chặt giác minh, ở bên ngoài thì thành thứ lớp khởi lên kim luân. Cho nên nói váng báu kia là minh giác lập thành cứng chắc, nên biết tánh báu nhờ giác minh mà có. Vì thế các vật báu đều có tự thể cứng chắc mà dụng thì sáng tỏ.
a.1.3) Hỏa luân:
Giữ vững tánh giác thì báu thành, minh dao động thì gió nổi lên, Kim luân và phong luân cọ xát nhau, nên có ánh lửa làm thành tánh biến hóa. Hai câu trước chỉ cho hai tánh trước. Về nguyên nhân sinh ra lửa, bên trong thì sinh diệt không dừng, giữ chặt không bỏ, bên ngoài dao động không dứt, cứng chắc khó phá hoại, khi xúc chạm nhau thì sinh ra lửa, như cách lấy lửa cọ sát mạnh vào cây lấy lửa, sức nóng phát ra nấu đốt được các vật. Nên gọi là tánh biến hóa.
a.1.4) Thủy luân:
Châu báu sáng ngời sinh ra đượm nhuần, ngọn lửa xông lên, nên có thủy luân khắp cả các thế giới ở mười phương, bên trong ưa thích sáng ngời chấp giữ tâm lẫy lừng mạnh mẽ, bên ngoài thì châu báu đượm mát hơn lửa chảy ra thành dòng nước, như người thế gian khi nấu vật gì thì có dòng nước bẩn. Cho nên tất cả nghiệp chủng chẳng có ái thì không sinh, tất cả cỏ cây chẳng có nước thì không lớn, do đó bốn tánh nương nhau nhưng thể không lìa nhau. Vì cùng một vọng tâm biến khởi, như hoa đốm trong hư không, chẳng lìa nhặm mắt. Người ngu không rõ, chấp cảnh ngoài tâm vì cái thấy điên đảo, nhưng tông Tiểu thừa cho rằng thủy luân ở trước, kim luân ở sau không giống như ở đây, mà không biết phong luân giữ gìn nước tức là giữ chặt sự chướng ngại. Y theo tướng thì ở sau, y theo tánh thì ở trước, cho nên sau phong luân là nói Kim luân. Lại họ chỉ biết tăng thêm nghiệp cảm, mà không biết do nguyên nhân nào, dùng giáo lý bất liễu nghĩa mà nói tướng thô.
a.2) Nói về các tướng sinh ra.
Lửa bốc lên, nước chảy xuống, giao xen phát ra mà lập nên sự vững chắc, ẩm ướt gọi là biển lớn, chỗ khô khan là cồn đảo, do nghĩa nầy nên trong biển lớn kia ánh lửa thường phun lên, trong cồn đảo kia sông ngòi thường chảy, lửa bốc lên thì thành khô khan, nước chảy xuống thì thành dòng ẩm ướt, giao xen lẫn nhau lập thành chướng ngại vững chắc.
Do lửa đốt cháy liền xảy ra sự kích động nhau, cuối cùng thì nước hơn. Cho nên có biển cả rộng lớn thì cồn đảo hẹp, đều do tánh vọng không thường, trước sau đổi khác, vì tâm tham ái nặng cho nên thành biển lớn, vì tâm chấp mạnh mẽ nên thành cồn đảo, bản tánh tức giận sinh ra ngã mạn, tánh cố chấp sinh ra tức giận, đối với sắc khởi lên dòng nước trong đảo tham ái, trái với ái sinh ra ngọn lửa trong biển sân, ở giữa nước ở được gọi là cồn đảo, trong nước cát nhóm lại gọi là Đảo.
Thế nước yếu hơn lửa, thì kết thành núi cao, nên khi đập đá núi thì có tia lửa xẹt ra, hòa vào thì thành nước, bên ngoài thì thế nước yếu hơn thế lửa, bên trong thì giận nhiều hơn thương. Tức giận lại tăng thêm ngã mạn, nên kết thành núi cao.
Thế đất yếu hơn thế nước, thì bị rút lại thành cỏ cây, cho nên khi đốt cây cối thì thành đất, do vắt chặt mà thành nước, bên ngoài thì thế đất yếu hơn thế nước, bên trong thì tham ái tăng thêm, ngã mạn nhẹ dần, ái sinh ra nước, nước có công năng nuôi dưỡng cỏ cây. Ba thứ tức giận, tham ái, ngã mạn cùng tưới tâm nên chúng sinh thành hình, cỏ, cây, núi, sông ngàn muôn sai khác. b) Kết thúc nối nhau:
Vọng tưởng xen nhau mà phát sinh làm hạt giống cho nhau.
Do nhân duyên này mà thế giới nối nhau. Trước kia là từ sáng tối lay động nên có phong luân, gió lay động rõ ràng thành vàng bạc, vàng và gió chạm nhau thì bản tánh lửa sinh ra, nung vàng chảy ra thì sinh ra lửa, nước lửa giao nhau, thế nó có hơn có thua, nước hơn lửa thua thì thành biển cả, cồn đảo, lửa hơn nước thua thì thành núi đá, đất thua nước hơn thì thành cỏ cây v.v...
Tướng bên ngoài tuy như vậy, nhưng đều do tâm bên trong, trong tâm không thay đổi thì bên ngoài đâu có khác nhau. Kinh lại y theo bên ngoài, nên nói làm hạt giống cho nhau.
Chúng sinh nối nhau, có ba:
1) Nói về tướng kia, có hai:
a) Nói về sự trói buộc của căn trần, có hai:
a.1) Chỉ ra tướng của nhân trước.
Lại nữa, nầy Phú-Lâu-Na! cái minh luống dối này không có gì khác, do giác minh mà thành lỗi, sở vọng đã lập, minh lý không vượt hơn. Minh là hiển phát, phát ra vọng tưởng phân biệt chẳng phải duyên khác, chỉ do mình một niệm không hiểu rõ thì vọng chia ra năng sở, cho là lỗi lầm, giác minh tức năng sở, sở minh đã thành lập, sinh ra tâm năng giác, niệm niệm nối nhau, không thể lìa niệm. Cho nên chân minh diệu lý bị niệm làm ngại, bị ẩn che thì sớm phế bỏ, không thể vượt qua mà hiển hiện.
a.2) Kết thành căn trần:
Do nhân duyên nầy mà nghe không ngoài tiếng, thấy không vượt khỏi sắc, sáu thứ sắc, hương, vị, xúc, thành tựu luống dối, do đó chia ra thấy nghe hay biết, vô minh là nhân, sở minh là duyên, xoay vần hình thành nhau cho đến không có đồng khác, ở đây một tướng chia ra căn trần, căn trần đã gặp nhau thì thức sinh trong đó. Ba pháp căn, cảnh và thức là tánh của nghiệp, đều tự hấp thụ chẳng thực hành duyên khác, nên nói không vượt khỏi v.v... tức sở minh ở trước chia ra sáu trần, đối với vọng giác ở trước chia ra thành thấy nghe v.v... Do đó ở trước nói giác minh là lỗi.
Nói về nhân ban đầu của sinh loại, có hai: Đưa ra loại để nêu chung.
Đồng nghiệp ràng buộc lẫn nhau mà hợp ly thành hóa, loài sinh từ thai, trứng phải nhờ cha mẹ đồng nghiệp cảm ứng nhau, nên nói đồng nghiệp ràng buộc nhau. Loài hữu tình thấp sinh và hóa sinh chỉ do tình tưởng ly, hợp của chính mình. Chỗ hợp là thấp sinh, chỗ ly là hóa sinh, chẳng do cha mẹ đồng nghiệp cảm ứng nhau, cho nên nói hợp, ly thành hóa. Hóa là gọi chung các loài đều gọi là biến hóa.
2. Y theo nhân để nói riêng, có hai:
Chấp lấy trần cảnh biến thành hạt giống, có hai: a.1) Nhân của tình tưởng:
Do kiến chấp của sở minh nên sinh khởi sắc tướng, do năng minh của kiến chấp nên thành tư tưởng, ý kiến khác với mình thành ghét, tư tưởng đồng với mình thì thành thương. Kiến là vọng kiến, minh thành sở minh, do kiến mà có minh, minh có công năng phát ra sắc, nhờ minh mà khởi kiến, kiến chấp có công năng sinh ra tưởng, cảnh khác với tưởng. Khác là trái nghịch mà thành ghét, sắc đồng với tâm, đồng thì thuận theo, liền sinh ra thương yêu, khác thì chỉ tưởng mà không thương, đồng thì tư tưởng thương yêu cùng hiện hành. Do đó khi thọ thai phải nhờ tưởng ái.
Kết thành chủng loại.
Ái thành hạt giống, thu nạp tư tưởng thành thai, giao cấu phát sinh, lôi kéo đồng nghiệp, nên có nhân duyên sinh ra yết-la-lam, Át-bồ-đàm, v.v...
Chủng là đã thấm nhuần ái thủ, khác với hạt giống cũ, nên nói ái làm hạt giống.
Thai là y theo một niệm hiện hành khi tâm thức khởi lên, nhưng hạt giống tức tưởng ái đều là hạt giống.
Thai: Là tưởng ái đều thành thai.
Văn Kinh có lược bỏ, nên mỗi thứ nêu ra một, tình tưởng ba chỗ cha, mẹ và con giao xen gặp lẫn nhau, dẫn phát hấp thụ vào con đường cộng nghiệp, làm cho quy về một chỗ, kết thành bào thai. Cho nên nói giao cấu phát sinh, lôi kéo cộng nghiệp. Tự nghiệp là nhân ba chỗ tình tưởng làm duyên.
Yết-la-lam dịch là đặc lại.
Át-Bồ-Đàm dịch là bào. Ở trong bào thai mười bốn ngày đầu cho đến hai mươi mốt ngày liền chia ra thai sinh, noãn sinh, nên nói theo hai vị chưa phân ở trước.
Chia thành bốn loài sinh.
Các loài thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh tùy theo sự cảm ứng mà thành. Noãn do tưởng niệm mà sinh, thai do ái tình mà có, thấp sinh do hợp mà cảm ứng, hóa sinh do tách ly mà hiện, nói lược bốn loài sinh, nói rộng có mười hai. Như dưới đây là nói rộng, khi bốn loài sinh khởi lên, nghiệp đã tạo tương ưng với tình tưởng, thì liền thọ sinh. Cho nên nói tùy theo sự cảm ứng mà thành, tình tưởng hợp ly bốn loài đều đủ. Nay đều nêu ra một thứ, phần nhiều y theo lời nói.
Dưới đây chính là tình tưởng nhiều ít, v.v... Lại loài sinh bằng trứng phần nhiều là tưởng, như chim bay, cá, rồng liệng đều nhanh chóng, nên gọi là tưởng sinh.
Loài sinh trong thai thì tình nhiều tưởng ít, vì tình thường kéo nặng xuống không nhấc nhẹ lên được, nên gọi là tình hữu.
Trong loài thấp sinh, không do cha mẹ, chỉ từ tình tưởng hợp với khí ẩm, lập tức thọ sinh, nên nói là hợp cảm.
Hóa sinh cũng tự tưởng, vì tưởng mạnh nên yêu thích cảnh ấy, tức liền hóa sinh, nên gọi lìa mà ứng hiện. a.2) Kết luận nối nhau:
Tình tưởng hợp ly, biến đổi lẫn nhau, các loài thọ nghiệp theo đó có sự thăng trầm của chúng, do nhân duyên này nên chúng sinh nối nhau, tình tưởng không thường sát-na thay đổi, hoặc thai trước, noãn sau, hoặc thấp trước hóa sau, các loài chịu quả báo tùy theo nghiệp thiện hay ác, nên nói tùy theo sự nổi chìm của chúng. Do nhân duyên ấy nên chúng sinh bỏ thân này chịu thân khác, nối nhau không dứt, cho nên nói chúng sinh nối nhau.
Nghiệp quả nối nhau, có hai: Nói về tướng, có hai:
Chính là giải thích, có ba. Gốc dục:
Nầy Phú-lâu-na! Tưởng và ái đồng kết, ái không thể lìa, cha mẹ, con cháu ở thế gian sinh nhau không dứt, đó là do dục tham làm gốc, ái dục tình thâm trói buộc lẫn nhau, kết chặt khó bỏ nên nói không lìa. Cha mẹ sinh con, con lại sinh cháu, con con cháu cháu sinh nhau không dứt, đều là gốc của dục.
Gốc sát sinh:
Tham và ái giúp nhau lớn lên, tham không thể dừng, thì các loài noãn, hóa, thấp, thai trong thế gian, tùy theo năng lực mạnh yếu, ăn nuốt lẫn nhau, đều lấy sát tham làm gốc. Vì tham cho nên sát sinh, để nuôi mạng sống mình, ỷ mạnh hiếp yếu, giết hại không ngừng, cho nên nói là gốc của sát sinh.
Gốc trộm cướp:
Bởi người ăn thịt dê, dê chết rồi làm người, người chết làm dê, như vậy cho đến mười chúng sinh, tử tử sinh sinh, ăn nuốt lẫn nhau, nghiệp ác lan tràn cùng tận đời vị lai. Ấy là do lấy trộm tham làm gốc, không cho mà lấy, nên gọi là trộm. Nay ăn thịt loài khác chẳng hợp đạo lý, là cướp đoạt mạng sống loài khác, vì nghiệp ác nên sống chung một đời, làm cho oán đối nhau, lại trả nợ nhau đến cùng tận đời vị lai, cướp đoạt nhau mãi không thôi, đều do trộm làm gốc.
Giải thích thành tựu:
Người nợ mạng ta, ta lại nợ người, do nhân duyên này trải qua trăm ngàn kiếp thường ở trong sinh tử. Trên đây là giải thích về sát sinh và trộm cướp.
Người yêu tâm ta, ta ưa sắc người, do nhân duyên này trải qua trăm ngàn kiếp thường ở trong sự trói buộc. Trên đây là giải thích về tham dục.
Kết luận về sự nối nhau.
Do ba nghiệp ác sát sinh, trộm cướp, dâm dục làm căn bản, do nhân duyên này mà nghiệp quả nối nhau.
Ba nghiệp ác sát, đạo, dâm chính là nghiệp đạo do tham ái làm duyên, nên ba thứ này đều gọi là tham. Nghiệp nhân khổ quả nối tiếp nhau không dứt, cho nên gọi là nối tiếp.
Kết luận trả lời:
Nầy Phú-lâu-na! Ba thứ điên đảo nối nhau như vậy, đều do lỗi lầm của giác minh cho là có tánh biết rõ của năng minh, rồi biến hiện sắc tướng, từ vọng tướng đó mà vọng thấy sinh ra, các tướng hữu vi như núi sông, đất đai, theo thứ lớp đổi dời, vì sự luống dối nầy mà đến cuối thì trở lại đầu. Giác minh diệu thể vốn có tánh biết rõ của năng minh, tức là tánh giác diệu minh. Do vốn biết rõ, mê thành ra sở tướng, tức do minh mà lập sở, cho nên nói do biết rõ mà phát ra tướng. Sở tướng này do vọng mà phân biệt, cho nên nói từ vọng thấy mà sinh. Đây tức là tổng kết ba thứ nối nhau từ trước đến nay. Đều do mê muội chân minh sẵn có mà vọng thành sở tướng, sở sẽ sinh ra năng, xoay vần thô thiển, tham đắm liền thành nghiệp quả thứ lớp dời đổi của chúng sinh trong thế gian, đều chẳng lìa một niệm vô minh vọng giác.
Đáp riêng về sự ngăn ngại, có hai ý: Ngài Mãn Từ thưa hỏi.
Phú-lâu-na nói: Nếu Diệu giác bản Diệu giác minh này cùng tâm Như-lai chẳng thêm chẳng bớt, không có hình dáng bỗng sinh ra các tướng hữu vi như núi sông, đất đai. Nay Như-lai đã chứng diệu không minh giác, Núi sông, đất đai và các tập khí hữu lậu còn được sinh trở lại, Diệu giác minh tâm đồng thể với Phật, xưa nay không vọng, do cưỡng lại giác bỗng cho là sở tướng lại có vọng sinh. Nay Phật đã chứng được tâm Diệu không trong sáng, lúc nào thì các vọng lại khởi lên? Đây là nhắc lại theo chiều dọc, trách lỗi vô cùng, Đồng với Cương Tạng nói: Chúng sinh khắp mười phương vốn thành Phật đạo về sau khởi vô minh, vậy tất cả Như-lai lúc nào thì sinh tất cả phiền não trở lại?
Như-lai dẫn dụ giải thích có hai: Giải thích theo môn chân Như. Giải thích theo môn sinh diệt.
Môn Chân như dẫn tướng để hiển bày thật, nên y theo sự mê muội phương hướng, hoa đốm trong hư không, để dụ cho vô minh và núi sông, v.v... xưa nay chẳng khởi, bản thể không thật có: Tâm mê mắt nhặm tuy có sinh diệt, nhưng hư không chẳng hề dời đổi, tâm vọng cảnh vọng dường như có sinh diệt, Diệu giác minh chân thật không hề thay đổi.
Môn Sinh diệt là chuyển lý thành sự, cho nên dựa vào quặng vàng, tro cây có thể luyện, có thể đốt, để dụ cho quả thành thì hoặc diệt, hai môn bốn dụ, (tám trăm bảy mươi tám) tuy mỗi thứ khác nhau, nhưng đều nói lên sau khi ngộ không còn mê lầm nữa.
Văn trước có hai:
Dứt sự mê lầm, phương hướng mới đúng, dụ cho vô minh vốn không, có hai:
Chánh dụ, có hai:
Hỏi đáp mê vốn vô nhân.
Phật bảo Phú-lâu-na, thí như người mê ở trong một ngôi làng nhận lầm phương Nam là phương Bắc, vậy sự mê lầm này từ mê ra hay do nơi ngộ mà ra?
Phú-lâu-na đáp: Người mê như vậy không từ mê ra, cũng không từ ngộ ra, vì sao? Vì mê vốn không có gốc, làm sao từ mê ra? Ngộ chẳng sinh thì mê làm sao từ ngộ ra? Chỗ đông người có thể ở, nên gọi là xóm làng, người mê là chúng sinh, xóm làng là Như-lai tạng.
Nam là tánh minh, Bắc là sở minh, hoặc là vô minh, tướng Nam bất động, thì mê hoặc nên thấy Bắc, tánh minh không thay đổi, vì mê mà lập sở, do mê này mà vọng sinh ra, cho nên nay nêu điều đó, giúp cho biết vô sinh, tức thấy vô minh vốn không.
Hỏi đáp sau khi giác ngộ là không có vọng.
Phật hỏi: Người mê kia đang trong lúc mê, bỗng có người giác ngộ chỉ bày cho ngộ. Phú-lâu-na, ý thầy thế nào?
Người này dẫu mê nhưng đối với xóm làng nầy còn sinh ra mê không?
Phú-lâu-na đáp: Bạch Đức Thế tôn! không.
Người ngộ là bạn lành, chỉ bày là giáo hành, giúp cho các Đức Như-lai trong mười phương giác ngộ. Ngài Mãn Từ Tử có sự nghi ngờ đối với Phật pháp, đối với dụ hiểu rõ, cho nên Đức Phật nêu thí dụ để hỏi, giúp cho hiểu pháp như thí dụ. b) Hợp hiển:
Nầy Phú-lâu-na! các Đức Như-lai ở mười phương cũng như vậy, sự mê này vốn không có gốc, tánh nó rốt ráo không. Xưa vốn không mê, dường như có mê giác, biết mê thì mê kia liền diệt, giác không sinh ra mê. Mê là vô minh, cũng gọi là si, cũng gọi là Bất giác. Bất giác tức giác, nên nói tánh rốt ráo không. Môn chân Như thì xưa vốn không mê, theo môn Sinh diệt thì dường như có mê giác. Giác là bổn giác bị mê, cũng là thỉ giác, biết mê thì mê diệt, trí thỉ giác khởi, giác hết thì vọng niệm từ vô thỉ, khi hợp, với bổn giác không còn có sự khác nhau về thỉ giác và bổn giác, chỉ có một diệu giác, đâu còn sinh vọng? Cho nên nói giác không sinh mê.
Hết nhặm mắt hoa đốm mất, dụ cho núi, sông không thật, có hai: Y theo dụ hỏi đáp, có hai.
Nương vào hoa đốm để hỏi người ngu hay trí.
Cũng như người dụi mắt, thấy hoa đốm trong hư không, nếu không dụi mắt nữa thì hoa đốm trong hư không liền mất. Chợt có người ngu ở chỗ hoa đốm trong hư không đã diệt kia đợi hoa đốm sinh lại, ông xem người này là ngu hay trí?
Dụi mắt dụ cho vọng thấy, hoa dụ cho núi sông, nếu cái thấy vọng mất đi thì núi, sông tự tan biến. Cho nên văn dưới nói: Thấy nghe như dụi mắt, ba cõi như hoa đốm trong hư không. Nghe lại thì mắt hết xốn, trần tiêu thì giác viên tịnh, hư không chẳng có hoa đốm, nên nói là không địa.
Đáp điên đảo cuồng si.
Phú-lâu-na thưa: Hư không vốn chẳng có hoa đốm, mà vọng thấy sinh diệt, thấy hoa đốm tan biến thì hư không đã là điên đảo, bảo lại đưa ra thật cuồng si này, thì làm sao gọi người cuồng như thế là ngu hay trí được nữa.
Chân vốn vô tướng, vọng thấy khởi diệt, thấy núi sông tan biến đã là cái thấy điên đảo rồi, lại còn mong hoa đốm lăng xăng trở lại, đây đồng với người cuồng.
2. Trở lại bản chất, kết đáp:
Phật bảo: Như sự hiểu biết của ông, vì sao hỏi rằng Diệu Giác Minh không của Chư Phật Như-lai, sao lại sinh ra núi, sông, đất địa. Y theo ví dụ ông đã hiểu, không hòa hợp lại nghi ngờ không giác của Như-lai sinh ra núi sông.
Kinh Duy-ma chép: Phật vì người tăng thượng mạn nói lìa bỏ dâm dục, tức giận, ngu si. Nếu không phải người tăng thượng mạn thì Phật nói tánh dâm dục, tức giận, ngu si tức là giải thoát. Nên biết như mộng thêm mộng, hư không gọi là dứt hoặc, nhân huyễn đã đủ, thì cảnh gương quả tròn, hễ là đoạn chứng thì thể hội được yếu chỉ này.
Giải thích theo môn sinh diệt để giải thích, có hai:
1. Dụ, có hai:
a) Dụ cho quả thành.
Lại như trong quặng có lẫn vàng ròng, vàng ấy thuần nhất không thành lẫn lộn. Giác của chúng sinh ẩn náu như vàng ở trong quặng. Giác của Chư Phật hiện rõ như quặng đã luyện thành vàng, đã vào biển quả không trở thành nhân, cho nên nói không thành tạp chất nữa, nhưng nhân quả tuy khác mà tánh giác bình đẳng.
b) Dụ cho hoặc diệt.
Như cây đốt thành tro không trở lại thành cây, giác tánh như đất, mê hoặc chướng ngại như cây, gia hạnh như bó đuốc, trí chiếu soi như lữa, Niết-bàn như tro, bó đuốc động thì lữa nổi lên, cây hết thành tro, tro trở về với đất, không trở lại thành cây. Tu hành thì trí khởi lên, mê hoặc diệt thì giác hiên, chỗ hiển hiện chỉ là chân, không còn khởi vọng nữa.
2. Hợp.
Bồ-đề Niết-bàn của Chư Phật cũng như vậy. Bồ-đề là quả trí, Niết-bàn là quả đoạn, hoà hợp cả hai dụ, nhưng bốn dụ trên, ý của bốn dụ giống nhau, ở trước y theo lý viên ngộ, chúng sinh và Phật đều là bản chân. Vì thành tựu thanh tịnh bổn nhiên của văn trước, đều là Như-lai tạng và tâm Như-lai không thêm không bớt, cho nên nêu ra mê lầm phương hướng, hoa đốm trong hư không, xưa nay không khởi, nên chẳng phải sau có diệt. Cho nên hợp pháp nói: Mê này không có gốc, tánh rốt ráo không. Lại nói: Hư không vốn chẳng có hoa đốm, vọng thấy sinh diệt, thì ở đây trách Mãn Từ Tử thấy vọng có diệt còn là điên đảo, huống chi là đợi tập khí hữu lậu sinh trở lại.
Về sau dựa vào tướng tu chứng nhân quả bất hoại, cho nên nói quặng hết sinh ra vàng, cây cháy thành tro.
Mê mới có hoa đốm trong hư không, đầu cuối vốn không có. Vàng nhờ luyện, tro nhờ đất mới hiện ra. Ý nói lý viên đốn tuy ngang nhau, nhưng mê ngộ không ngại thành khác, đã có nhiều tập khí chướng ngại sinh ra, phải quay lưng với tập tục để hiển chân, chân hiển thì rốt ráo thanh tịnh, không mê lại nữa. Nếu chỉ bày hai dụ trước, thì phá bỏ tướng nhân quả mê ngộ, trở thành tà kiến. Nếu chỉ dùng hai dụ sau, thì thành giác tánh xưa nay bất tịnh của chúng sinh, mất lý chân thường, cũng thành tà kiến, đạo lý nhiệm mầu, dụ cho khó phân, cho nên nói bốn việc đều dụ cho một pháp, dùng hết lý kia.
Đáp nghi đại tánh đều cùng khắp, có hai:
1. Giải thích hai gốc nghi, có hai:
a) Nhắc lại sự nghi ngờ.
Này Phú-lâu-na, lời thầy hỏi về bản tánh viên dung cùng khắp pháp giới của đất, nước, lửa, gió. Nghi rằng tánh nước và lửa không đoạt mất nhau, lại gạn hỏi hư không và các đại địa đều trùm khắp pháp giới, không dung nạp nhau.
Trước đã nói về nghi, bây giờ sẽ đáp giải thích, cho nên ở đây nhắc lại nêu ra.
b) Chánh giải thích, có hai.
Dựa vào thí dụ để lược giải thích, có ba: b.1.1) Nêu ví dụ, có hai:
* Nêu chung nguồn gốc của dụ, có hai:
- Nêu:
Nầy Phú-lâu-na! thí như thể hư không chẳng phải các tướng mà không chống cự các tướng phát huy trong nó. Hư không là tánh tạng, các tướng là bảy đại, chân vốn không có tướng, không giữ tự tướng, tùy theo duyên mà hiện tướng, cho nên nói không chống cự, phát là hiển, huy là dương (phát huy tức là hiển bày).
Giải thích: Vì sao? Nầy Phú-lâu-na! vì hư không kia, mặt trời soi chiếu thì sáng, mây che thì tối, gió thổi thì động, trời tạnh thì trong, khí ngưng thì đục, bụi thổi thành mù, nước lặng thành trong. Ở đây nếu ra bảy việc, dụ cho bảy đại, tùy theo nghĩa đối pháp rất dễ hiểu sương gió thì mưa bụi, trời tạnh thì mưa dứt, thuần là nhóm họp.
- Hỏi lược về tướng dụ, như sau:
+ Ý thầy nghĩ sao?
Các tướng hữu vi khác nhau như vậy là từ kia sinh, hay từ hư không mà có?
Phương là pháp, tức các pháp như Minh v.v... kia tức mặt trời, v.v... Nêu các tướng này để nói về bảy đại tướng không đều là pháp chẳng thật, hư không vô tướng, không ngăn ngại các tướng hiển phát.
+ Thưa hỏi:
Nầy (tám trăm bảy mươi chín) Phú-lâu-na, nếu từ mặt trời sinh ra thì lúc mặt trời chiếu, đã là mặt trời chiếu sáng thì các thế giới mười phương đồng với mầu của mặt trời, vì sao còn thấy mặt trời tròn trên hư không?
Nếu hư không tự sáng thì hư không phải tự chiếu sáng. Tại sao lúc giữa đêm mây mù lại không sinh ánh sáng? như văn kinh chép.
Kết luận: Nên biết cái sáng nầy chẳng phải mặt trời, chẳng phải hư không, cũng không ngoài mặt trời và hư không. Lời kết luận.
Này tức là lìa đều không sinh từ cả hai. Lại chẳng phải mặt trời, chẳng phải hư không, hiển bày chỗ vô sinh, chẳng khác hư không và mặt trời, tùy duyên dường như có.
* Chỉ ra pháp, có ba:
- Tướng không thể chỉ bày:
Xét các tướng ấy vốn luống dối không thể chỉ bày, cũng như hoa đốm trong hư không kết thành quả hư không. Thì sao còn hỏi về nghĩa xâm đoạt nhau? Bảy tướng vô sinh vốn tự vắng lặng, đã gọi là luống dối, thì đâu thể chỉ được? Chỉ bày còn không được thì đâu thể làm cho xâm đoạt nhau, đâu khác gì mong hoa đốm trong hư không kết trái.
- Bản tánh vốn không dung chứa.
Xét bản tánh vốn chân, chỉ có diệu giác minh, tâm diệu giác sáng trước không phải từ nước lửa, vì sao về nghĩa lại đều không dung chứa nhau?
Tánh chân của bảy đại vốn là Như-lai tạng, ở trong Như-lai tạng không có nước, lửa khác. Đối với Nhất diệu giác, y theo các nghĩa nào nói không dung chứa nhau? Giống như thể của hư không chẳng phải các tướng thì nói xâm đoạt nhau?
* Hợp hiển, có hai:
-Hợp đúng với văn trước:
Chân Diệu Giác Minh cũng như vậy, ông cho là hư không sáng tỏ thì có hư không hiện ra, đất, nước, lửa, gió, mỗi thứ đều phát minh thì mỗi thứ đều hiện ra, nếu cùng phát minh thì đều hiện ra. Chân Diệu Giác Minh hợp với hư không vô tướng. Câu ông cho hư không sáng là hợp tướng sự phát huy của các tướng, tâm ông phân biệt có hư không phát minh, diệu giác minh tâm, tùy tướng không hiện, đất, nước, lửa, gió trong tâm ông, đều phát hiện lẫn nhau, tùy tâm đều hiện, trong tâm đều hoạt, bảy đại đều hiện. Lại tùy theo mỗi người đều phát ra, mỗi người thấy khác, nhiều người cùng phát ra đều hiện một tướng, đây là chân như chẳng giữ tự tánh, tùy theo duyên mà hiện các tướng.
Văn trên nói: Tùy tâm chúng sinh, ứng với lượng sở tri, theo nghiệp phát hiện.
Luận Khởi Tín nói: Nhờ huân tập các cảnh giới hiện ở trong gương, cũng là ý này.
* Lại dụ đều hiện, có hai:
1. Chánh dụ: Thế nào là đều hiện? Nầy Phú-lâu-na! như trong một dòng sông hiện ra bóng mặt trời, hai người cùng nhìn bóng mặt trời dưới nước, rồi một người đi về hướng Đông, một người đi về hướng Tây, thì mỗi người đều thấy mặt trời đi theo mình, một người đi về hướng Đông, một cái đi về hướng Tây, không có tiêu chuẩn nhất định. Thể của bảy đại như bóng mặt trời, tùy theo phương Đông, phương Tây mà đi, như chia làm bảy phần riêng, tùy chỗ tuy khác nhưng không lìa một bóng. Bảy đại tuy phân ra nhưng không lìa một luống dối, hướng Đông có thể làm tiêu chuẩn, hướng Tây thì thế nào? Vì như là một, không hòa mỗi bóng đi một phương, nếu đó là bóng, thì một nhiều tự mất.
-Chính là thưa hỏi:
Không nên hỏi rằng: mặt trời là một, sao lại có mỗi mặt trời đi theo một người? Bóng mặt trời trên sông có hai, sao trên trời chỉ có một? Rõ ràng là luống dối, không thể y theo. Một đã là bóng thì lại hiện tùy theo nó đi, bóng lại hiện bóng, sao thật có thể y cứ mà muốn gạn hỏi? Chỉ có một sở minh lại hiện ra bảy đại, đại và sở vọng chỉ có một hình bóng, không thật có, cho nên nói rõ ràng là luống dối.
2. Y theo nghĩa giải thích rộng, có hai:
a) Y theo thể dụng để giải thích, có hai.
Y theo mê ngộ để bày dụng, có hai: a.1.1) Mê thành tướng thế gian:
Nầy Phú-lâu-na! ông cho là tướng sắc, không khuynh đoạt lẫn nhau, đối với Như-lai tạng mà Như-lai tạng tùy theo sắc không trùm khắp pháp giới, nên ở trong đó gió động, hư không thì trong lặng, mặt trời thì sáng, mây mù thì tối, chúng sinh mê muội, trái giác tánh hợp cảnh trần, nên phát ra tướng trần lao thế gian. Ông dùng tâm phân biệt sắc không, đối với chân giác mà có sự khuynh đoạt. Tánh chân giác kia, theo đó mà thành sắc, không lấn diệt lẫn nhau, sắc không tức là địa đại và không đại, hai đại đã như vậy, ngoài ra đều dụ như vậy. Nên nói bởi thế trong đó v.v...
Văn ở trên nói: Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay quên mình làm vật. Cho nên ở trong đó thấy các vật có lớn, có nhỏ.
Kinh Viên Giác nói: Tự tánh viên giác chẳng phải tánh, tánh có là theo các tánh mà khởi. Đây là chúng sinh khởi lên ngọn gió vô minh, đánh động biển lớn thành sóng tám thức, biển khởi các tướng thế gian, bị tướng làm chướng ngại mất đi bổn tâm. Cho nên nói trái với tánh giác, hợp với cảnh trần, có tướng thế gian.
Giác ngộ thành dụng xuất thế.
Ta dùng diệu minh bất sinh bất diệt hợp với Như-lai tạng, thì Như-lai tạng chỉ có diệu giác viên minh chiếu khắp pháp giới. Ngộ thể của tạng, bất sinh bất diệt là trí vô sinh, Như-lai tạng là lý vô tướng, lý trí thầm khế hợp, nên nói là hợp. Lúc bấy giờ, chỉ có một diệu tâm, không có lý trí khác, tức thỉ giác hợp với bản giác, không có Bản giác và Thỉ giác khác, vì chỉ có một giác, cho nên nói chỉ có diệu giác tròn sáng chiếu khắp pháp giới.
Cho nên trong đó, một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, đạo tràng Bất động, trùm khắp các thế giới mười phương, thân bao trùm vô tận hư không mười phương, trên đầu một sợi lông hiện ra cõi Phật, ngồi trong hạt bụi xoay bánh xe pháp Đại thừa, khởi lên diệu dụng. Năm câu trước nêu ra hai thứ tự tại, hai câu đạo tràng Bất động v.v... trở xuống là giải thích một và nhiều tự tại.
Câu thân bao trùm khắp mười phương v.v... trở xuống là giải thích lớn nhỏ tự tại. Hai câu trước ở trong chánh báo hiện ra y báo, đối với câu một và câu hai ở đầu sợi lông là ở trong chánh báo hiện ra y báo và chánh báo, cũng là ở trong y báo hiện ra y báo, chánh báo.
Hai câu dưới ngồi trong hạt bụi là ở trong y báo hiện ra chánh báo, câu khác bao gồm ở trong đó, có thể đắc ý, Kinh Hoa Nghiêm nói mười thứ tự tại không ngoài đây. Bỏ trần về giác, nên hiện ra tánh chân như diệu giác sáng tỏ, đây là kết luận nguyên nhân.
Văn dưới nói: Nghe lại thì hết nhặm mắt, trần tiêu thì giác tròn đầy, thanh tịnh cùng cực ánh sáng thông đạt, vắng lặng bao trùm hư không, không thể câu nệ vào lớn hay nhỏ, chẳng có giới hạn một hay nhiều, hạt bụi, đầu sợi lông, cõi nước nhiều như số giọt nước biển đều trùm khắp, vì bản tánh bổn nhiên, dẫn đến quả rõ ràng như vậy. a.1.2) Y theo ba đế chỉ bày thể, có ba:
-Dựa vào phi tướng để nói về Chân-đế.
Như-lai tạng vốn là tâm tròn mầu, chẳng phải tâm, chẳng phải không, chẳng phải đất, chẳng phải nước, chẳng phải gió, chẳng phải lửa là chẳng phải bảy đại. Tâm là thức đại cũng tức là năm ấm, chẳng phải mắt, chẳng phải tai, chẳng phải mũi, lưỡi, thân, ý. Phi sắc, phi thanh, hương vị xúc pháp. Phi nhãn thức giới, như thế cho đến phi ý thức giới. Đây là chẳng phải mười tám giới, thâu nhiếp mười hai xứ.
Phi minh, vô minh, phi minh, vô minh tận, như thế cho đến chẳng già chẳng chết, chẳng phải hết già chết. Đây là phi mười hai nhân duyên trôi lăn, hoàn diệt.
Phi khổ, phi tập, phi diệt, phi đạo, phi trí, phi đắc. Đây là chẳng phải bốn đế và năng chứng, sở chứng.
Phi đàn-na, phi Thi-la, phi Tỳ-lại-da, phi Tỷ-đề, phi Thiền-na, phi Bát-thích-nhã, phi Ba-la-mật-đa. Đây là phi sáu Ba-la-mật. Như thế cho đến tức vượt qua ba mươi bảy phẩm và tất cả nhân, hạnh, quả đối với nhân và mười lực, bốn vô úy và mười tám pháp bất cộng v.v... và ba hiệu: phi Đát-thát-a-kiệt, phi A-la-ha Tam-daTam-Bồ, và phi Như-lai. (Tám trăm tám mươi) Phi Đại
Niết-bàn, phi thường, phi lạc, phi ngã, phi tịnh. Đây là bốn đức Niết-bàn. Vì nó đầy đủ phi thế gian và xuất thế gian, từ đế duyên quán trí và đạo diệt sáu độ trở xuống, đều là pháp xuất thế gian. Khổ tập, mười hai nhân duyên, ba khoa, bảy đại đều là pháp thế gian. Trên đây là nói chung về phi tướng, y theo môn Chân như, hiển bày nghĩa Chân-đế, tất cả đều không, tất cả tướng đều luống dối, vì tướng đối đãi, chỉ có tên gọi, Danh tự là không. Nay thứ lớp phi là ban đầu do vô minh nên có vọng thức, vọng thức đã biến đổi thì có không giới, vì không giới hiện ra nên kết thành bốn đại. Vì bốn đại khởi lên thì có căn trần, vì căn trần hòa hợp thì có các thức. Vì ba pháp căn, cảnh, thức làm tánh nghiệp, mới tạo thành mười hai nhân duyên trôi lăn trong sinh tử, vì có đối trị thì có các pháp quán trí xuất thế gian. Lợi căn, độn trí đối với pháp xuất thế gian là khác nhau, được chia ra thứ lớp ba thừa, hội đủ ba thừa về Nhất thừa, tức là quả Phật. Quả có năng chứng và sở chứng, liền chia ra Bồ-tát, Niết-bàn. Bốn đức Niết-bàn tức là thường, lạc, ngã, tịnh. Cho nên chuyển dần mà đặt tên gọi, nó đều không có tự tánh, tất cả đều không.
- Y theo tướng nói về tục đế:
Như-lai tạng vốn là tâm mầu nhiệm sáng tỏ; tức tâm, tức không, tức đất, tức nước, tức gió, tức lửa, tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tức sắc, tinh, hương vị, xúc, pháp, tức nhãn thức giới, như vậy cho đến ý thức giới, ngay nơi minh tức là vô minh, minh là vô minh hết, như thế cho đến tức già tức chết, tức hết già chết. Tức khổ, tập, diệt, đạo, tức trí, tức đắc, tức Đàn-na, tức Thi-la, tức Tỳnại-da, tức Tỷ-đề, tức Thiền-na, tức Bát-Thích-Nhã, tức Ba-la-mật-đa. Như thế cho đến tức Đát-thát-a-kiệt, tức A-la-hán Tam-da-tam-bồ, tức Đại Niết-bàn. Tức là tức thường, tức lạc, tức ngã, tức tịnh, vì nó đầy đủ các pháp thế gian và xuất thế gian. Trước y theo chân như bất biến bặt tướng. Đây là y theo tùy duyên mà thành môn Sinh diệt, là hiển bày tục đế. Đây là không lìa nhất chân, theo nhiễm huyễn khác nhau mà thành các thứ tướng, phi tướng mà hiện tướng, chẳng phải danh mà hiện danh, tùy theo thế gian mà kiến lập, không phá hoại giả danh, nên gọi là Tức.
- Y theo sự che lấp và chiếu soi để nói về Trung Đạo: Tức là Như-lai tạng diệu minh tâm nguyên, lìa tức lìa phi, thị tức phi tức. Đây là y cứ hai môn chỉ là một tâm, cả hai che lấp Chân-đế và tục đế, cho nên nói lìa tức lìa phi, cả hai chiếu sáng Chân-đế và Tục đế, nên nói là thị tức phi tức. Một thể ba đế, nên đều gọi là Tức Nhưlai tạng. Pháp giới như một, vốn không có danh tướng, do mê có vọng, đối với vọng mà nói chân, hình tướng danh ngôn chân vọng không dứt, theo danh chấp tướng điên đảo đâu cùng? Cho nên do nhận lời bỏ lời, cho đến không bỏ. Ban đầu dùng phi bỏ tướng, kế là dùng tức bỏ phi. Cuối cùng dính mắc danh ngôn, yếu chỉ chưa cùng tột nhất chân. Lìa tức phi tức, đường nói năng dứt, tâm hành bặt, mới hiển bày tâm nhất chân pháp giới Như-lai tạng. Cho nên Kinh Duy-ma nói: Ba mươi hai vị Bồ-tát nói pháp môn không hai, đều dùng lời nói xả tướng, ngài Văn-thù-sư-lợi dùng lời nói xả lời nói.
Đại Sĩ Duy-ma không lời xả bỏ lời, mới gọi là rốt ráo, ba nghĩa này cũng giống như vậy. lại như Thiên Thai giải thích kinh Pháp Hoa có mười nghĩa như thị: Dùng một tâm ba quán giải thích nó, trước nói tướng như này cho đến gốc ngọn như, tên gọi của như không khác, tức là nghĩa không. Kế nói như thị, xét tánh tướng không của các tướng nghĩa là giả. Nếu nói các tướng như vậy, tức là tướng như thật Trung đạo, là nghĩa trung. Nêu một tức ba, nói ba tức một, tánh tướng các pháp mầu nhiệm như thế, chỉ có Phật và Phật mới biết cùng tận rốt ráo. a.2) Nêu pháp dụ để kết trách, có bốn ý:
a.2.1) Trách chung:
Tại sao chúng sinh ba cõi thế gian và các vị Thanh Văn Duyên Giác xuất thế gian, dùng tâm sở tri để so lường Bồ-đề Vô thượng của Như-lai, dùng lời nói thế gian để nhập tri kiến Phật, cảnh giới mầu nhiệm, tâm nghĩ và lời nói không so lường được. Kẻ phàm phu chấp đắm sự việc thì nghiêng về Tiểu, dính mắc không, đều là tâm sở tri, chẳng phải cảnh này. Cho nên kinh Viên Giác nói: Chỉ cảnh giới tròn đầy của các vị Thanh Văn, thân tâm lời nói đều dứt bặt, rút không bao giờ đến chỗ đích thân chứng đắc Niết-bàn sở hiện kia, huống chi có thể dùng tâm suy nghĩ, so lường cảnh giới Viên giác của Như-lai, như dùng lửa đom đóm đốt cháy núi Tu-di, không bao giờ được. Vì tâm luân hồi nên sinh ra cái thấy luân hồi, nhập vào biển vắng lặng hoàn toàn của Nhưlai, không thể nào đến được.
a.2.2) Nêu ví dụ:
Thí như các đàn cầm, sắt, không hầu, Tỳ-bà, dù có âm thanh hay mà không có sự khéo léo của ngón tay thì cũng không bao giờ phát ra được. Các thứ đàn như:Tỳbà v.v... chỉ cho chúng sinh, âm thanh hay là tạng tánh, sự khéo léo của ngón tay là thật trí, phát khởi ra dụng.
a.2.3) Hợp hiển:
Ông và chúng sinh cũng như thế, bảo giác chân tâm đều tròn đầy. Ông và chúng sinh cũng như thế, thật biết chân tâm đều tròn đầy. Như khi ta ấn ngón tay thì biển ấn phát ra ánh sáng, còn ông vừa móng tâm thì trần lao đã khởi. Ông và chúng sinh hợp với các thứ đàn cầm v.v... bảo giác chân tâm hợp với âm thanh hay ở trước, búng ngón tay là y theo dụ để chỉ cho pháp, tức là trí vô sinh. Hợp với lý vô tướng, đại dụng hiện tiền.
Tức ở trước nói: Ta vì bất diệt bất sinh nên hợp với Như-lai tạng, mà Như-lai tạng chỉ cho Diệu giác tròn sáng, chiếu khắp pháp giới, cho đến trong đó lấy một làm vô lượng v.v... Ông vừa móng tâm hợp với trước, không có ngón tay khéo léo.
Tức ở trước nói: Ông dùng tướng sắc không khuynh đoạt lẫn nhau đối với Như-lai tạng mà Như-lai tạng tuy thành sắc không v.v...
Nói về Hải ấn: Kinh Đại Tập nói: Tất cả sắc tượng của cõi Diêm phù, ở trong biển lớn đều có ấn văn. Dụ cho biển tánh pháp thân của Như-lai ánh sáng diệu dụng hiện khắp tất cả. a.2.4) Kết thúc bác bỏ:
Do bất động cầu đạo giác Vô Thượng, ưa thích Tiểu thừa, được ít cho là đủ, Vô thượng Bồ-đề như đảo châu báu, Niết-bàn của Tiểu thừa như hóa thành. Chỉ là biến quyền thừa, không cầu rốt ráo, được ít cho là đủ, cho nên phát ra trần lao.
* Giải thích riêng về nghi, có hai:
-Giải thích Mãn Từ tử nghi ngờ nhân của vọng, có hai:
+ Trình bày nghi:
Phú-lâu-na nói: Giác báu tròn sáng, chân tâm diệu tịnh của con và Như-lai tròn đầy không hai. Đây là nói thể không hai.
Mà con xưa kia chạy theo vọng tưởng từ vô thỉ, chịu luân hồi đã lâu, nay dù chứng được nhưng chưa rốt ráo. Đây là chỉ cho mình còn mê. Thế tôn thì tất cả vọng tưởng đều dứt, chân thường độc diệu: là nói Phật đã hết chướng ngại, xin hỏi Như-lai tất cả chúng sinh vì sao có vọng tự che khuất diệu minh, cam chịu sự chìm đắm này. Chướng hết: Nghĩa là chắc chắn biết vọng ở trước, nên hỏi điều này. Do Mãn Từ trước hết dẫn đến nghi ngờ rằng đã là thanh tịnh bổn nhiên, vì sao bỗng sinh ra núi sông, đất đai? Như-lai liền nêu ra tánh giác mầu nhiệm để xem xét mê, ngộ kia, Mãn từ tử đã mê tánh minh cho là sở minh. Phật liền bác bỏ rằng. Tánh giác chắc chắn là minh, vọng cho là minh giác, sở đã vọng lập nên sinh ra các vọng năng của ông, do đó xoay vần nối nhau trôi dạt đều do luống dối sinh khởi, dẫu biết năng sở vọng lập, lại nghĩ vọng từ đâu sinh ra? Cho nên ở đây thưa hỏi về sở nhân của vọng.
+ Giải thích có hai:
-Bảo chung:
(Tám trăm tám mươi mốt) Phật bảo Phú-lâu-na: Dù cho thầy dứt được tâm nghi nhưng còn mê hoặc chưa dứt sạch. Nay ta hỏi ông những việc hiện tiền của thế gian. Dẫu biết các pháp đều vọng, do vọng mê hoặc mà có sở nhân, cho nên nói còn mê hoặc chưa dứt, các việc hiện tiền là việc thấy trước mắt.
b) Giải thích riêng, có hai:
Nói vọng vốn vô nhân, có ba: b.1.1) Nêu việc hỏi đáp, có hai:
- Nêu việc:
Chẳng lẽ thầy không nghe trong thành Thất-la có chàng Diễn-Nhã-Đạt-đa, mỗi buổi sáng bỗng lấy gương soi mặt, thích nhìn mặt mày đáng yêu trong gương, rồi tự trách đầu mình không thấy được mặt mũi, cho là ly mị, không có hình trạng, bèn điên cuồng bỏ chạy.
Diễn-Nhã-Đạt-đa, Hán dịch là Từ Thọ, vốn đầu và gương đều dụ cho tánh giác, soi mặt dụ cho gượng giác, chợt sinh vọng lập sở tướng. Ưa thích dụ cho chấp chặt không bỏ, cho tướng là chân, đã thích hữu tướng, lại ghét vô tướng, cho nên ghét đầu mình không thấy mặt mày. Chân là vô hình tướng, không thuận theo vọng tình, liền sinh sợ hãi, chấp tướng mê tánh luân hồi không dứt. Cho nên nói điên cuồng bỏ chạy. Ly mị là loài yêu quái ở núi đầm.
- Hỏi đáp:
Ý thầy thế nào? Người ấy vì sao vô cớ bỏ chạy? Phúlâu-na đáp: Người ấy tâm điên cuồng đâu có duyên cớ gì, tâm điên cuồng bỏ chạy, không có lý do khác, cho nên không có duyên cớ gì. Do sức mạnh sinh ra sự phân biệt, nên gọi là Vọng, đâu có nhân khác. b.1.2. Y theo pháp nói thẳng, có ba:
- Y theo danh để trách nhân.
Phật nói: Diệu giác tròn sáng vốn tròn sáng mầu nhiệm, chỉ một chân tâm vốn không có pháp vọng.
Đã gọi là vọng vì sao có nhân? Nếu có sở nhân làm sao gọi là vọng?
Từ các vọng tưởng xoay vần làm nhân cho nhau, mê càng thêm mê, trải qua vô lượng kiếp. Đây là nói thẳng vọng không có nhân, vọng chắc chắn không có nhân, có nhân thì chẳng phải vọng, một chữ vọng phải suy nghĩ kỹ. Nếu rõ được tên gọi này thì tự không có pháp khởi.
Lại nghi có nhân, đâu chẳng phải mê hoặc điên đảo, như người trước bỗng nhiên nói dối, lần lượt nối nhau từ dối nói dối, và suy xét nguồn gốc của nó, lần lượt đều luống dối, cho đến người đầu tiên và người cuối cùng, cả hai đều là vọng, làm sao gọi là Nhân? Cho nên trải qua nhiều kiếp nối nhau cuồng vọng, chẳng thể giác ngộ.-Dẫn ngộ giải thích tướng.
Dù được Phật phát minh, còn không thể bỏ nhân mê như thế, do mê mù tự có, biết cái mê không có nhân, vọng không có chỗ nương, sinh còn chẳng có, lấy gì để diệt. Văn này giải thích có hai lớp: Trước y theo tự ngộ của Phật để giải thích.
Phát minh giống như khai ngộ, Phật tuy khai ngộ, các vọng đều diệt, còn không thể trở lại giác đến gốc của vọng, vì vọng không có nhân mà có thể giác, cho nên nói còn không thể trở lại nhân mê như thế.
Lại nối liền câu nhân mê như thế với câu dưới, nên nói như vầy: nhân mê do mê mà tự có. Ý nói: Nếu y theo pháp vọng xoay vần sinh khởi mà nói nhân. Ở đây ngay nơi nhân mà vọng nói nhân, chẳng phải vọng có nhân ban đầu, cho nên nói do mê tự có, đã biết mê không có nhân, thì biết vọng không có chỗ nương, nói cái gì sinh mà lại có diệt? Cách giải thích này dựa vào sự tự giác ngộ của Phật, không có nhân vọng để trở lại. Kế là y theo Phật nói pháp cho người nghe, không thể bỏ mê thành ngộ.
Phát minh giống như giảng nói, tuy Phật nói rộng cho Mãn Từ nghe vẫn không khổ tự mình có khả năng bỏ mê về ngộ. Cho nên nói vẫn không thể trở lại, như thế v.v... trở xuống là giải thích ý như trước, do lý này khó nói, người nặng về mê hoặc, như vì người dụi mắt nói không có hoa đốm trong hư không, làm sao có thể lãnh ngộ được, người bi vọng chấp nói không có các vọng thì ai chịu tin theo. Nếu liễu ngộ tự biết không có nhân thì lấy gì làm vọng mà có sinh diệt?
-Thêm ví dụ để so sánh hiển bày.
Người đắc đạo Bồ-đề như người tỉnh giấc nói việc trong chiêm bao, tâm dù sáng suốt nhưng làm sao lấy được những vật trong chiêm bao ra? Huống chi không có nhân, vốn không thật có? Người trong mộng nhớ việc trong mộng, tuy có thể nói như vậy, nhưng chấp thì không được, vì cảnh mộng hoàn toàn không thật có. Người đắc Bồ-đề lại quán nhân thì dứt các vọng mê hoặc, dẫu có thể nói như vầy, nhưng vì rốt ráo không có tự thể để đoạn diệt, lấy gì cho là vọng mà suy ra nhân đó.
Luận Khởi Tín nói: Giác tâm mới khởi, tâm không có tướng ban đầu.
Lại nói: Vì bốn tướng xưa nay bình đẳng đồng một giác. b.1.3) Nêu dụ hợp hiển:
Như chàng Diễn-Nhã-Đạt-Đa ở trong thành kia, đâu có nhân duyên gì mà tự sợ đầu mình bỏ chạy. Nếu chợt hết điên, cái đầu đâu phải từ ngoài mà được, dù chưa hết điên nhưng đầu cũng đâu mất. Nầy Phú-lâu-na! tánh vọng như thế do đâu mà có? Vì cuồng điên nên sợ cái đầu, nhân duyên đâu có, đầu không thể mất được, cuồng điên tự mình lại thực hành, mê hoặc chỉ là vọng nên có sinh diệt, tánh chân làm sao khi có khi không? Ông quán xét vọng như cuồng điên, nay chỉ chỗ nào là nhân?
* Hiển bày chân vốn vô đắc, có hai:
-Chánh nói, có hai:
+ Khuyên dứt duyên vọng.
Ông chỉ cần không phân biệt theo ba thứ nối nhau về nghiệp quả thế gian chúng sinh và, vì ba duyên cắt dứt nên ba nhân bất sinh, tánh điên cuồng của Diễn Nhã Đạt Đa trong ông tự dứt, phiền não là duyên, vì có công năng thấm nhuần nghiệp.
Sát sinh, v.v... là nhân, vì chính là nghiệp, phân biệt là thức, có công năng sinh ra phiền não.
Ba thứ nối nhau là sở phân biệt, vì phân biệt ba thứ này, nên gọi là Duyên.
Ba tức là duyên, có lúc trợ duyên cho ba thứ sát, đạo, dâm. Nên ba duyên phân biệt đã mất, nghiệp nhân không tạo tác, tâm cuồng điên trong ba cõi tự dứt.
Nên Luận Khởi Tín nói: Tất cả chúng sinh không gọi là giác, vì xưa đến niệm niệm nối nhau, không hề lìa niệm, gọi là vô minh vô thỉ.
Lại nói: Vì xa lìa niệm nhỏ nhiệm, gọi là rốt ráo giác, niệm tức phân biệt, do một niệm bất sinh nên gọi là Phật, chính là nghĩa này.
+ Hiển bày chân thể của mình:
Dứt phiền não tức Bồ-đề, tâm cao siêu thanh tịnh sáng suốt vốn trùm khắp pháp giới, không từ người mà được, điều nhờ nhọc nhằn khẳng khái tu chứng mà có, phân biệt không sinh thì bờ trước sau đoạn, nên gọi là Dứt.
-Bồ-đề, Hán dịch là Giác.
Luận Khởi Tín nói: Nói về nghĩa giác, nghĩa là tâm thể lìa niệm. Tướng lìa niệm: Là đồng với hư không giới, biến hiện cùng khắp, pháp giới Nhất tướng tức là pháp thân bình đẳng của Như-lai, nương vào pháp thân này mà gọi là Bổn giác. Cho nên, tâm cao siêu thanh tịnh sáng suốt vốn trùm khắp pháp giới, không từ người mà được. Đã nói từ người được là nói không do duyên khác mà vốn tự biết. Nhọc nhằn tu chứng vốn dứt sự phân biệt chỉ là hiển rõ giác. Nay phân biệt đã mất, tánh giác tự hiển cho nên nói đâu nhờ. Nhưng chẳng phải hoàn toàn không tu hành, chỉ ngồi không sừng sững. Nếu vọng tưởng rõ ràng tự cho là đúng thì thật là lầm lẫn.
Nói khẳng khái là: Chút thịt nhỏ dính ở xương, Trang Tử nói chưa từng trải qua sự khẳng khái huống chi là xương to?
Nếu chấp vào mê hoặc có tự thể thật thì không thể đạt vọng tức không, bốn tướng bình đẳng, tất cả chỉ có Giác. Lại nói từ thô đến tế dứt hết vô minh mới đến Diệu giác, khác nào mổ bò không thể dao đâm ở chỗ huyệt thì không thể chết, thấy toàn con bò, chỉ róc da thịt cho đến tận xương, đâu gọi là khéo được lý của bò?
* Dụ hiển:
Thí như có người ở trong áo mình: là bị năm ấm che lấp, buộc hạt châu Như ý, là tánh giác tròn sáng mà tự mình không hay biết. Đây là do vô minh không hiểu rõ. Làm thuê làm mướn khắp nơi, đây là luân hồi lưu lạc trong sáu đường không dứt. Người ấy tuy nghèo nhưng hạt châu không hề mất, tuy trôi lăn trong sinh tử nhưng tánh giác vẫn thường nhiên. Bỗng có người biết chỉ cho hạt châu, là được Phật chỉ bày, sở nguyện tùy tâm, trở nên giàu có, là đại dụng hiện tiền, mới ngộ ra hạt châu không phải từ bên ngoài mà có, khi thỉ giác mới hợp, vốn không bị dao động. Nay vô thỉ thanh tịnh, trong kinh Pháp Hoa cũng có dụ này, kia y theo kết duyên, đây y theo bổn hữu, ý khác nhau.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Nghĩa Sớ Chú, quyển bốn Phần một.
Giải thích duyên khởi Ngài A-nan mắc nạn, có hai ý:
I. Trình bày điều nghi, có bốn ý:
1. Thuật lại điều đã nghe:
Bấy giờ, A-nan ở trong chúng đảnh lễ dưới chân Phật, đứng dậy Bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nay Đức Thế tôn nói vì ba duyên của nghiệp sát, đạo, dâm bị cắt đứt cho đến ba nhân chẳng sinh, tánh điên của DiễnNhã-Đạt-Đa trong tâm con tự dứt, dứt tức là Bồ-đề, không từ người mà được, như văn kinh nói.
2. Sinh ra thưa hỏi:
Thế thì nhân duyên này rõ ràng như thế, vì sao Đức Như-lai lại bác bỏ nhân duyên? Con từ nhân duyên mà tâm được khai ngộ, do không có ba duyên mới dứt ba nhân, Nhân duyên đều diệt, Bồ-đề mới hiện, nên nói là rõ ràng sáng suốt. Người Tiểu Thừa khai ngộ đều do nhân duyên, nên dẫn dụ cái khai ngộ xưa kia để thành lời gạn hỏi này.
3. Dẫn để so sánh với người khác:
Bạch Đức Thế tôn! Nghĩa này đâu chỉ các Thanh
Văn Hữu học tuổi trẻ như chúng con. Nay cả Đại-Mụckiền-liên và Xá-lợi-phất, Tu-Bồ-đề ở trong hội này, đều từ một lão Phạm Chí nghe nói nhân duyên của Phật, mà tâm được khai ngộ, đắc quả vô lậu.
Lão Phạm Chí: Là người lớn tuổi, từ ngoại đạo đến, nghe nhân duyên của Phật, bỏ tà về chánh, thành quả vị Vô học.
4. Trói buộc đều là tà:
Nay Phật nói Bồ-đề không do nhân duyên, vậy thì thuyết về thành Vương Xá, Câu-Xá-lợi tự nhiên thành đệ nhất nghĩa.
Cúi mong Phật rũ lòng thương xót, chỉ dạy sự mê muội cho chúng con: Nhân duyên tự nhiên nương vào giả để kiến lập, các tướng Bồ-đề chân tánh đều mất, sợ lạm dụng lẫn nhau, cho nên ở đây lại nghi ngờ, trước để gội rửa tình chấp của chúng sinh.
II. Đáp giải thích, có hai:
1. Chánh phá nghi tình, có hai:
a. Bác bỏ, có ba:
a.1) Nêu tính chất nghi ngờ.
Phật bảo A-nan: Như chàng Diễn-nhã-đạt-đa ở trong thành nếu dứt trừ được nhân duyên tánh điên thì không có tánh điên tự nhiên hiện ra, lý cùng tột của nhân duyên và tự nhiên là như vậy. Nếu nhân duyên tánh điên cuồng được dứt, thì tự nhiên không điên cuồng sẽ hiện, sở chấp không nêu ra ý này, cho nên lý cùng tột là như vậy.
Bác bỏ năm sự nghi ngờ, có hai. a.2.1) Phá cả hai nhân duyên và tự nhiên, có hai.
- Dùng nhân duyên phá tự nhiên:
Này A-nan! Nếu đầu của Diễn-Nhã-Đạt-Đa vốn là tự nhiên, vốn là tự nhiên, không nhiên chẳng phải tự vì sao lại sợ đầu rồi chạy? Hai câu đầu là nhắc lại, hai câu vốn tự v.v... trở xuống là định, tự là vốn, nhiên là vậy, đều vốn như thế, không có đầu như thế thì không phải là nguồn gốc, cho nên nói: Không có nhiên thì chẳng có tự, câu vì sao v.v... trở xuống là bác bỏ, rất dễ hiểu.
- Dùng tự nhiên phá nhân duyên.
Nếu do nhân duyên mà đầu tự nhiên phát cuồng, tại sao không tự nhiên do nhân duyên mà mất? Gốc vốn không mất, vì cuồng sợ mà vọng sinh ra, không hề thay đổi, thì đâu nhờ nhân duyên?
Hai câu đầu là nhắc lại, hai câu sau là bác bỏ. Nếu đầu tự nhiên do nhân duyên thành mà bỏ chạy, thì lẽ ra tự nhiên không mất, do nhân duyên mà đầu mình mất.
Bốn câu vốn đầu v.v... trở xuống là kết thúc. Nay đầu không mất mà cuồng tự vọng sinh. Điên và đầu hoàn toàn không xúc chạm nhau, không hề thay đổi mà nhờ nhân duyên. a.2.2) Chỉ bác bỏ chuyển chấp tự nhiên:
Vốn cuồng tự nhiên là vốn có cuồng sợ, vậy khi chưa điên sợ cái điên ẩn núp ở đâu? Nếu tánh không điên là tự nhiên thì đầu vốn không vọng, sao lại cuồng chạy?
Nếu ông chấp rằng: Đã chẳng phải nhân duyên, thì thuộc về tự nhiên, cuồng cũng tự nhiên không cuồng.
Cũng tự nhiên: Là trước bác bỏ cái cuồng tự nhiên, một câu đầu là nhắc lại, câu kế là định. Hai câu chưa cuồng v.v... trở xuống là bác bỏ, như văn kinh chép, không cuồng v.v... trở xuống là bác bỏ không cuồng tự nhiên, câu đầu là nhắc lại. Đầu vốn v.v... trở xuống là bác bỏ. Ở đây là nói thể của nhất chân vẫn không có chân vọng nhau khác đâu lập ra nhân duyên, tự nhiên. Đây cũng là nói lên vọng vô nhân. a.3) Kết quy về yếu chỉ ngộ:
Nếu ngộ được cái đầu biết điên bỏ chạy, nhân duyên tự nhiên đều là nói lời vô nghĩa. Cho nên ta nói: Vì ba duyên dứt tức là tâm Bồ-đề, bổn chân bất động, vọng tự sinh ra, nói ai là nhân duyên và tánh tự nhiên. Nếu biết nhân duyên tự nhiên đều là nói lời vô nghĩa thì phân biệt tự mất, chân giác tự bày, ở đây chính là ta nói ba duyên dứt tức là Bồ-đề.
Kết thúc chỉ bày, có ba ý:
Sinh diệt đều hết, nói lên không có công dụng.
Nếu tâm Bồ-đề sinh, tâm sinh diệt dứt. Đây chỉ là sinh diệt, sinh diệt đều sạch thì là đạo vô công dụng. Nếu có người chấp rằng chân tâm có thể phân biệt, có thể mất, thì đây là tâm Bồ-đề sinh, tâm sinh diệt diệt, chỉ là sinh diệt, không có Bồ-đề sinh, vô sinh diệt dứt, mới gọi là vô công dụng.
Như kinh Viên Giác nói: Có chiếu có giác đều gọi là chướng ngại, cho nên Bồ-đề thường giác không trụ, chiếu và người chiếu vắng lặng cùng một lúc.
Ở đây là nói tu chứng địa thượng, lý Vô sinh được vô công dụng.
Dẫu lập tự nhiên nhờ hiển bày sinh diệt, có hai:
Dẫu lập chánh hiển:
Nếu có tự nhiên như thế thì rõ ràng tâm tự nhiên sinh, tâm sinh diệt dứt. Đây cũng là sinh diệt, cái vô sinh diệt gọi là Tự nhiên. Nếu như giáo pháp của ta có tự nhiên, thì cũng đâu có sinh diệt gọi là Tự nhiên.
Nay ông đã rõ được tâm tự nhiên sinh, tâm sinh diệt dứt, đây cũng là sinh diệt, sao gọi là Tự nhiên?
Hễ tự nhiên thì chắc chắn không có sinh diệt, cho nên nói không sinh diệt gọi là Tự nhiên.
So sánh làm sáng tỏ lại.
Như các tướng thế gian lẫn lộn thành một thể, gọi là tánh hòa hợp, cái không hòa hợp gọi là tánh bổn nhiên. Đây là nêu cạn so sánh với sâu.
Người thế gian nói sinh diệt hoà hợp gọi là tánh hòa hợp, không hòa hợp thì không có sinh diệt mới gọi là Tự nhiên.
Người xưa đối với việc nầy không nói dù lập, chấp nhận chân tự nhiên. Như thế, không chỉ tăng thêm tâm nói lời vô nghĩa, ngược lại làm cho văn đầy đủ thành giáo lý của ngoại đạo, làm sao dám nghe theo.
Cả hai chẳng lìa hai chính là nói lên vọng tình.
Bổn nhiên chẳng phải nhiên, hòa hợp chẳng phải hợp, hợp nhiên đều lìa, lìa hợp đều không. Câu này mới được gọi là pháp không nói lời vô nghĩa.
Bổn nhiên là tự nhiên. Hòa hợp là nhân duyên, cả hai đều không lập, cho nên nói đều lìa, lìa này cũng lìa (883), nên nói đều phi.
Văn này lược nói: Phải nói đầy đủ là lìa hợp với lìa, nhiên và lìa cũng đều không, thuốc bệnh đều mất, không bệnh cũng không.
Kinh Viên Giác cũng nói: Xa lìa là huyễn, cũng lại xa lìa, lìa xa lìa huyễn, cũng lại xa lìa.
Đây là nói đường nói năng dứt, chỗ tâm hành bặt, mới không nói lời vô nghĩa.
b) Bác bỏ rộng về kiến chấp: có năm.
b.1) Bác bỏ thành nói lời vô nghĩa:
A-nan! Ông đối với Bồ-đề, Niết-bàn của Phật vẫn còn cách xa lắm, nếu ông chẳng trải qua nhiều kiếp chịu cực nhọc tu hành thì dẫu cho có nhớ giữ nghĩa lý nhiệm mầu thanh tịnh trong mười hai bộ kinh của các Đức Phật mười phương như số cát sông Hằng, chỉ giúp thêm cho việc nói suông mà thôi. Nếu chấp nhân duyên, tự nhiên, chấp lấy quả Phật thì dẫu ông trải qua nhiều kiếp siêng năng khổ công tu tập, rốt cuộc chẳng giúp gì cho ông. Cho nên nói vẫn còn cách xa lắm. Nhớ giữ là lý mầu, phân biệt không mất, buộc niệm nối nhau, chỉ thêm sinh tử, không thể vô tâm quên chiếu, trở lại tánh tự nghe, không hiểu rõ không phân biệt được chân thật, cho nên kinh Viên Giác nói: Muôn thứ lấy bỏ đều là luân hồi, chưa ra khỏi luân hồi mà nói về Viên Giác thì tánh Viên Giác kia liền đồng với trôi lăn, nếu thoát khỏi luân hồi thì không có việc đó. Cho nên nói chỉ làm lợi ích cho việc nói suông.
b.2) Dẫn việc để nghiệm biết:
Dẫu ông nói lý nhân duyên tự nhiên, chắc chắn người đời khen ông là học rộng bậc nhất, với cái huân tập học rộng nhiều kiếp này, vẫn không thể tránh khỏi nạn Ma-đăng-già, cần gì phải nhờ đến thần chú Phật đảnh của ta, khiến Ma-đăng-già kia lửa dâm bị dập tắt, chứng quả A-na-hàm, ở trong pháp của ta tinh tấn tu hành, sông ái khô cạn giúp cho giải thoát, chứng quả Bồđề của Phật. Nếu dùng nhân duyên tự nhiên mà được chứng, ông đối với nghĩa này được thấu suốt thì làm sao không thoát khỏi nạn mà chứng đốc một cách nhanh chóng, lại phải nhờ thần chú của ta mới giải thoát được? Nên biết lý quán cộng thêm tu định tuệ thì thực hành cả hai, đâu chỉ bàn luận nghĩa nói về văn mà thôi.
Hỏi: A-nan vẫn còn ở Sơ quả, Ma-đăng-già nhờ đâu mà chứng được quả thứ ba?
Đáp: Y theo quyền thật.
A-nan thị hiện ứng tích, nói lên học rộng không có lợi ích gì. Cho nên ở Sơ quả.
Ma-Đăng-già là người thật, hiển bày công năng của thần chú rất lớn, nên mau chóng chứng được Tam thiền. b.3) Dựa vào căn hạnh,
A-nan căn cơ viên đốn phát sinh, văn trước nói ngộ giải, hoặc nhập vào Tín trụ, Ma-đăng-già căn cơ yếu kém, dẫu được quả Tam thiền nhưng khác xa như trời và vực với Tín trụ của Viên giáo.
Kết luận khuyến khích tu hành chân chính.
Cho nên A-nan, ông dẫu nhiều kiếp ghi nhớ, những lời bí mật nhiệm mầu của Như-lai, chỉ bằng một ngày tu tập nghiệp vô lậu, xa lìa hai khổ yêu, ghét của thế gian, học rộng mà vô dụng, đâu bằng năng lực của định.
Thủ-lăng-nghiêm Vương gọi là nghiệp vô lậu, người được định này thì biết rõ tất cả các pháp đều như huyễn hóa, đâu thể sinh ra hai khổ thương và ghét? b.4) Nêu người khác làm chứng.
Như Ma-đăng-già, xưa kia là dâm nữ, do năng lực thần chú nên tiêu diệt lòng ái dục. Nay trong pháp ta gọi là Tánh Tỳ-kheo-ni và Gia-thâu-Đà-la mẹ của La-hầula, cùng ngộ nhân xưa, biết được nguồn gốc nhiều kiếp đều do tham ái là gốc khổ, chỉ một niệm huân tu pháp hành vô lậu, mà được ra khỏi tình cảm ân ái trói buộc, được Phật thọ ký. Quá khứ là Bà-la-môn tên là Bản Tánh, nay theo người xưa mà lấy tên là Tánh Tỳ-kheo-ni.
Gia-thâu-đà-la, Hán dịch là Hoa Sắc, là Ma-đăng-già thoát khỏi ràng buộc, là Da-du được thọ ký. b.5) Quở trách chạy theo trần cảnh.
Sao ông còn tự đối, dính mắc thấy nghe?
Người kia còn là người nữ, hễ tu vô lậu liền được quả Thánh. Nay sao ông lại nhàm chán, xa lìa Tiểu Thừa, chí cầu đại đạo, mà dùng danh tướng nói suông tự nhiên, nhân duyên thế gian để tự ràng buộc, chạy theo căn trần bị cảnh làm chướng ngại, không thể vượt qua. Cho nên nói còn dính mắc thấy nghe, trên đây là phá chấp phá nghi, hiển bày Như-lai tạng. Y cứ vào sự tin hiển chân chánh làm gốc tu hành.
Đáp phương tiện đầu tiên xong, kế dưới là y theo giải tu hành thành tựu chỉ quán, làm phương tiện nhập lý, có khả năng tín hiểu thể của Như-lai tạng trùm khắp mười phương, bản tánh thanh tịnh bặt danh lìa tướng. Tại sao chúng tôi tu các phương tiện tương ưng với ở đây? Cho nên nói phương tiện tu hành thứ hai này.
Văn có hai:
A-nan lãnh ngộ cầu tu hành, có bốn ý:
* Khen ngợi lòng từ bi sâu xa của Phật, có hai:
- Nhà dịch kinh nêu chung.
A-nan và các đại chúng nghe lời Phật dạy, nghi ngờ dứt trừ, tâm ngộ tướng thật, tâm ý nhẹ nhàng được pháp chưa hề có, lại rơi lệ đảnh lễ dưới chân Phật, quỳ thẳng chắp tay: trước đã bác bỏ hết nhân duyên tự nhiên, nay lại bỏ đi sự nghi ngờ nhỏ nhặt không chướng ngại, cho nên nói nghi ngờ tiêu trừ. Tâm ngộ thật tướng: Thật tướng vô tướng xa lìa nói suông, nay lìa hý luận tức ngộ thật tướng.
Lại rơi lệ: Là vui ngộ tạng tâm, vì tiếc không thực hành pháp.
- A-nan khen ngợi riêng:
Mà bạch Phật rằng: Đấng Vô thượng Đại bi Thanh Tịnh Bảo Vương khéo khai ngộ tâm con, dùng các thứ nhân duyên và phương tiện như thế để dìu dắt kẻ chìm đắm ra khỏi biển khổ, vượt qua tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, nên nói là vô thượng. Các ông đức của Phật lấy đại bi làm đầu, cho nên riêng gọi, Ngọc Châu ma-ni vô cấu tùy ý sinh ra cung cấp cho đầy đủ, Đức Phật cũng thế, nên gọi là Bảo Vương, thí dụ ngôn từ y theo sự và lý. Cho nên nói các thứ phương tiện.
Trầm: Là chìm đắm trong sinh tử đã lâu. Minh là: mãi mãi bị vô minh che lấp, phương tiện có thể khai ngộ dẫn dắt ra khỏi đều gọi là dẫn dắt.
* Thuật lại cái được mất, có hai:
- Thuật đúng.
Bạch Đức Thế tôn! Nay Con dù được nghe pháp âm như thế, nhận biết diệu giác minh tâm của Như-lai tạng trùm khắp các thế giới mười phương, bao trùm các cõi nước thanh tịnh trang nghiêm, các cõi Phật Diệu giác ở khắp mười phương như thế. Như-lai lại trách học nhiều mà không tu chẳng bằng người lo tu tập. Tâm Như-lai tạng, trùm khắp mười phương, đức bao trùm tất cả. Tuy tin hiểu, mà không thực hành thì không có kết quả, cho nên nay nói lại điều này, để làm rõ được, mất.
- Dụ hiển bày.
Nay con như người nghèo cùng không nơi nương tựa, bỗng được thiên vương ban cho ngôi nhà đẹp, dẫu được nhà lớn nhưng phải biết cửa vào. Thiên Vương là Phật, ban cho là chỉ bày, nhà đẹp là tạng thể, dẫu được là tín hiểu, cửa vào là tu hành. Hành có công năng thông với lý nên gọi là Môn.
* Chính là thỉnh Phật chỉ bày con đường tu tập.
Cúi mong Như-lai từ bi chỉ bày cho con và những kẻ mê muội ở trong hội, lìa bỏ Tiểu thừa, đều được bước lên con đường đã phát tâm, thẳng đến Niết-bàn Vô dư của Như-lai, làm cho người Hữu học nhiếp phục được tâm phan duyên từ lâu đời, được Đà-la-ni, chứng nhập tri kiến Phật.
Quyên là bỏ, tất là đều, trù tích là ngày xưa, vô dư là hết hẳn vô minh, hai tử đã mất, rốt ráo không còn. Vậy, xin Như-lai chỉ bày cho chúng con con đường phát tâm, để được vào Niết-bàn, tức là Tam-muội chân thật, cho nên nói: con đường phát tâm xưa kia, phan duyên là vọng tưởng vốn có từ vô thỉ, nên nói từ xưa, làm sao nhiếp phục, khiến được trí tuệ Phật, cho nên nói nhập tri kiến Phật
Đợi nghe yếu chỉ.
Nói xong năm vóc gieo sát đất, cả chúng trong hội một lòng mong đợi lời nghe dạy của Phật, như văn kinh nói.
Như-lai trình bày rộng về tu chứng, có hai ý.
* Bảo chung giảng nói, có hai:
- Trình bày ý kinh.
Lúc bấy giờ, Đức Thế tôn thương xót các Thanh văn, Duyên giác trong hội chưa được tự tại đối với tâm Bồđề. Và các chúng sinh phát tâm Bồ-đề trong đời Mạt pháp mà chỉ bày cho con con đường thực hành thượng thừa mầu nhiệm. Tâm Bồ-đề đủ bi trí, trí nguyện cầu Phật đạo về việc tu chứng, nếu có người không rõ đối với tâm Bồ-đề thì gọi là chưa tự tại.
- Nêu nghĩa hứa giảng nói:
Phật bảo A-nan và đại chúng rằng: Các thầy quyết định phát tâm Bồ-đề, đối với pháp Tam-ma-đề nhiệm mầu của Chư phật không sinh mệt mỏi, trước tiên nên biết hai nghĩa quyết định phát giác sơ tâm. Tam-ma-đề nhiệm mầu là định Thủ-lăng-nghiêm tức quán chân như, muốn tu pháp này thì trước phải dùng phương tiện, nếu phương tiện thành tựu thì tu hành chân thật sẽ được hy vọng, cho nên dùng hai môn chỉ và quán gọi là phát giác sơ tâm, tức phương tiện đầu tiên. Nhưng hai môn này, là các pháp Chư Phật ba đời tu hành cùng chung một con đường chứng đạo.
Kinh Hoa Nghiêm nói: Thí như vị vua có năng lực cả nước đều quý trọng, chỉ quán cũng như vậy. Tất cả dựa vào chỗ nương, nên hai môn này gọi là nghĩa quyết định sơ tâm.
1. Quán xét nhân địa và quả tâm, khởi hạnh thuận theo, là nương vào môn Chân như để tu chỉ, chân như là vô tướng, hướng về thì tâm dứt, cho nên Luận Khởi Tín nói: Nói Chỉ là dứt tất cả tướng cảnh giới, vì thuận theo nghĩa Quán (Xa-ma-tha).
2. Quán xét nguồn gốc kết giải phiền não, khởi lên đối trị, tức nương vào môn sinh diệt để tu quán. Pháp tướng, sinh diệt, nhiễm tịnh khác nhau, khởi lên trí phân biệt, đối trị làm cho cắt đứt.
Nên Luận Khởi Tín nói: Đã nói quán nghĩa là, phân biệt tướng sinh diệt về nhân duyên, vì nghĩa quán thuận theo Tỳ-Bát-Xa-Na, tu phương tiện trước vì chưa có khả năng, nên gọi là thuận theo, tu hành thành tựu, tức ngay nơi quán mà rõ chỉ, ngay nơi chỉ mà rõ quán, chỉ và quán không hai nên gọi là chánh tu, tức thành tựu Tam-muội. Nay vì mới tu nên gọi là phát giác.
2. Nói riêng hai nghĩa, có ba:
a) Nói về hai nghĩa, có hai:
a.1) Môn nhân quả đồng khác, có ba:
a.1.1) Nêu nghĩa khuyên chung:
Thế nào là hai nghĩa quyết định lúc mới phát tâm?
Nầy A-nan! Nghĩa thứ nhất, nếu các thầy muốn lìa bỏ Thanh Văn, tu thừa Bồ-tát, nhập tri kiến Phật. Nên xét kỹ nhân địa phát tâm và sự giác ngộ của quả địa, là đồng hay khác, đã tin hiểu biển quả vô niệm, bặt danh lìa tướng vốn chẳng sinh diệt, sẽ khế hợp với tâm nầy, phải quên sinh diệt tương ưng với quên sinh diệt, cho nên văn trên nói: Vì ta bất sinh bất diệt, nên hợp với Như-lai tạng mà Như-lai tạng chỉ cho diệu giác viên minh chiếu khắp pháp giới. Nếu khác với đây thì tâm vừa khởi, trần lao đã khởi trước, hợp với trần trái với giác, đâu gọi là chánh tu.
a.1.2) Y theo nghĩa hiển rõ sai lầm.
Nầy A-nan, nếu ở nhân địa, dùng tâm sinh diệt làm gốc tu nhân mà cầu Phật thừa bất dinh bất diệt thì không có việc đó.
Kinh Duy-ma nói: Nếu không dùng tâm hạnh sinh diệt để nói pháp Thật tướng, vẫn không thể dùng sinh diệt để nói, huống chi dùng sinh diệt làm nhân mà cầu chứng đắc hay sao?
Phổ Hiền Quán nói: Nhân Đại thừa là tướng các pháp, quả Đại thừa là Thật tướng các pháp, nếu không dùng chỉ môn tương ưng thì tâm sinh diệt này không bao giờ dứt.
Nếu lại dùng tâm này để tu hành thì nhân quả trái nhau, không bao giờ chứng được, như văn trên bác bỏ rộng. a.1.3) Nói về nhân hạnh, có hai: * Phân biệt nhân môn, có hai:
- Nêu ví dụ nói chung về sinh diệt.
Vì nghĩa này, ông nên xét kỹ các pháp về khí thế gian có thể tạo ra đều y theo đó mà biến diệt. A-nan, ông hãy xem các pháp được tạo ra trong thế gian đâu có pháp nào chẳng hoại? Nhưng không bao giờ nghe nói hư không, biến hoại, vì sao? Vì hư không chẳng phải cái do làm ra, cho nên trước sau không bị hoại diệt. Vọng tâm như khí giới, vì là tánh được làm ra, chân tâm như hư không, vì lý do vô vi, tánh thường vô thường đâu có thể biết.
- Y theo thân nói rộng về luống dối, có hai:
+ Nói chung, có hai:
- Chỉ bày nhân vẩn đục kia.
Cho nên, trong thân ông tánh cứng là đất, ẩm ướt là nước, hơi ấm là lửa, lay động là gió. Do bốn thứ trói buộc này mà chia ra tâm diệu giác minh tròn đầy của ông là thấy, là nghe, là hay, là biết từ đầu đến cuối năm lớp vẩn đục. Vắng lặng Vô sinh, vọng thành sở tướng, đã vọng lập sinh ra vọng năng, đối với sở minh chia thành bốn đại, đối với dòng năng giác chia thành sáu căn, sáu căn và bốn đại xen lẫn nhau. Từ nơi vắng lặng tròn sáng đi đến thành tướng vẩn đục, tức đồng với luận Khởi Tín nói bất sinh bất diệt và sinh diệt mà hòa hợp gọi là thức ALại-da. Từ thức tâm này biến khởi thế gian, tức là nghĩa vẩn đục.
- Dẫn dụ tướng vẩn đục kia.
Sao gọi là vẩn đục? Nầy A-nan, thí như nước trong, bản tánh trong suốt, là tánh giác ngộ vắng lặng.
Tức những thứ bản chất ngăn ngại như bụi, đất, tro, cát, v.v... là hai thứ thể và pháp của đất, nước, gió, lửa, tự nhiên như vậy.
Tánh không theo nhau, vâng là thuận theo, pháp nhũ giống như tự nhiên, chân vọng nhiễm tịnh, bán tánh trái nhau, chẳng thể khiến cho như vậy, pháp nhĩ như thế. Có Người thế gian, vô minh không rõ, chẳng phải trí xuất thế, bỏ đất bụi kia vào nước sạch, làm cho đất mất ngăn ngại, nước mất trong suốt, bất sinh bất diệt, hòa hợp với sinh diệt, chẳng phải một, chẳng phải khác.
Dung mạo lẫn lộn nên gọi là vẩn đục, năm lớp vẩn đục của ông cũng giống như vậy. dung mạo là tướng về sắc tâm, chữ mịch là rối loạn.
Nói riêng, có năm ý. b.1) Kiếp trược
Nầy A-nan! Ông thấy hư không trùm khắp các thế giới trong mười phương. Hư không và cái thấy chẳng phân, có không, vô thể, có thấy mà không có biết, đan dệt thành vọng, đây là lớp thứ nhất gọi là kiếp trược.
Kiếp trược, tiếng Phạm là Kiếp-ba, Hán dịch là Thời phần, luận Pháp Hoa chép: Ngày, tháng, năm đều gọi là Kiếp, cho đến thành, trụ, hoại, không chẳng lìa Thời phần. Nay trong kinh này nói nghĩa Kiếp trược, là mê chân khởi vọng, thế giới chưa hình thành, chỉ có hư không và vọng thấy.
Cái thấy và hư không là một thể trùm khắp pháp giới mê mờ chưa hình thành hai thứ khác nhau, nên gọi là chẳng phân.
Lại hư không chưa chia thành bốn đại, cái thấy chưa chia thành sáu căn, cũng gọi là Bất phân.
Cho nên kế là giải thích rằng: Hư không vô thể, có thấy mà không có giác.
Thể tức bốn đại thành chất, giác là sáu căn chấp, cảnh là không có cái khác nầy, đều thành ra đần độn, nên gọi là vẩn đục. Một niệm mới khởi là mở đầu cho vô minh, thời mới phân gọi là Kiếp, chẳng phải kiếp trược của kiếp cuối cùng. b.2) Kiến trược:
Bản thân ông hiện lấy bốn đại làm thể, thấy, nghe, hiểu, biết, che lấp làm cho ngăn ngại, nước lửa, gió, đất, xoay chuyển làm cho hay biết, đan dệt nhau mà vọng thành lớp thứ hai, gọi là Kiến trược.
Tính chất ngăn ngại của thân do thấy, nghe, hiểu biết, kết với nước, lửa, gió, chấp lấy làm tắc nghẽn không thông, liền hiện ra bốn thứ nhỏ nhiệm như hình tướng thể chất.
Sự hiểu biết của bản thân, do tánh nước, lửa đan dệt thành cái thấy vọng kia, xoay chuyển, dời đổi lại thay nhau chia thành sáu căn, thấy nghe hay biết, thấy như sợi chỉ dọc ngang đan xen với nhau, nên gọi là vẩn đục, trước là nghiệp chuyển, nay thì hiện tướng. b.3) Phiền não trược.
Lại trong tâm ông nhớ biết tụng tập tánh phát ra cái thấy, biết dung nạp sáu trần, lìa trần thì không có tướng, lìa giác thì không có tánh, đan dệt với nhau mà vọng thành lớp thứ ba, gọi là phiền não trược.
Sáu thức phân biệt nhân duyên trùm khắp ba đời, nhớ là cảnh quả khứ, biết là trần cảnh hiện tại, tụng tập là cảnh giới của các cõi ở đời vị lai, có công năng phân biệt được thể, trừ sự hay biết của kiến trược ở trước khởi lên.
(Tám trăm tám mươi lăm) Hình tướng do sở phân biệt là sáu trần hiện ra, gọi là tánh phát dung hiện. Dung là tướng, lìa trần là giác, vô tướng vô tánh, giao kết nhau khuấy rối nối nhau, gọi là phiền não trược, tức bốn thứ trước trong sáu thô. b.4) Chúng sinh trược.
Lại tâm ông ngày đêm sinh diệt không ngừng, tri kiến thì muốn ở mãi trên thế gian, nhưng nghiệp báo xoay vần thường chuyển dời ở cõi nước, những thứ đó đan kết với nhau vọng thành. Đây là lớp thứ tư, gọi là Chúng sinh trược.
Sinh diệt là hành, hành là nghiệp chúng sinh chấp ái, chỉ muốn ở lại, tánh nghiệp thường vận động dời đổi một đi, một ở, một động dừng, các pháp sinh diệt giao kết nhau, gọi là Chúng sinh trược, là tướng tạo nghiệp. b.5) Mạng trược:
Cái thấy nghe của ông vốn không có tánh khác, do sáu trần ngăn cách không có hình dáng, không có dị sinh, tướng trong tánh biết tướng ở trong dụng trái nhau, đồng khác mất tiêu chuẩn, đan dệt với nhau vọng thành, đây là lớp thứ năm, gọi là Mạng trược.
Mạng là báo pháp, nương vào nghiệp mà dẫn ra, thức thứ tám luôn giữ sắc tâm, công năng không dứt gọi là Mạng. Sáu cái thấy nghe ở trước, vốn là một bản thức, do sáu căn khác nhau mà thành chia ra, dụng của thức tuy chia ra, nhưng thể chỉ một loại, như thế chính là lập khác trong đồng, đối với chỗ khác thấy đồng, đồng khác mất tiêu chuẩn, đan xen lẫn nhau, đối với báo thể chung lại lập ra mạng căn, gọi là Mạng trược, tức tướng khổ do nghiệp ràng buộc, năm lớp trên đều do năng sở vọng giác bóng dáng xoay vần nối nhau, từ tế đến thô, đối đãi lẫn nhau, thứ lớp chuyển sinh, lẫn lộn với chân thành trược, nên có năm nghĩa nầy.
1) Tu nhân khế hợp với quả, có hai: a) Khuyên bỏ vọng nương chân.
Nầy A-nan! Nay ông muốn cho cái thấy, nghe, hay, biết khế hợp với bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh của Đức Như-lai, trước phải loại bỏ cội gốc sinh tử, nương theo tánh trong lặng bất sinh diệt mà thành mê chân khởi vọng, thấy nghe hay biết, bỏ vọng về chân, thường, lạc, ngã tịnh, không y theo sinh diệt, chỗ chứng mầu nhiệm sẽ đạt đến. Nếu theo trần lao thì chân thường càng xa, cho nên khuyên bỏ vọng, nương vào cái bất sinh diệt.
Chỉ bày tu định xoay về giác, có hai: b.1) Chỉ bày dụng tâm:
Dùng sự vắng lặng xoay cái luống dối sinh diệt trở về với bổn giác, được tánh bất sinh diệt của bản giác làm tâm cho nhân địa, sau đó mới viên thành sự tu chứng của quả địa.
Mới tu tập gọi là Chỉ, thành tựu gọi là Định, trước tu tập sau thành tựu gọi là Trạm.
Luận Khởi Tín nói: Nói Chỉ nghĩa là dừng, tất cả tướng cảnh giới. Cảnh giới bất sinh, thấy nghe không khởi, dần dần hàng phục thô cấu tự dứt.
Kinh Viên Giác nói: Dùng tâm tịnh giác chấp yên tĩnh làm hạnh, do lóng lặng các niệm, giác thức khuấy động, tịnh tuệ phát sinh, thân tâm khách trần dứt hẳn từ đây. Lại bên trong có thể phát ra sự vắng lặng khinh an, do vắng lặng nên tâm các Đức Phật ở khắp các thế giới trong mười phương hiển hiện như bóng hiện trong gương. Phương tiện này gọi là Xa-ma-tha (định). Nếu bất cứ lúc nào tâm không khởi vọng niệm, đối với các vọng tâm cũng không dứt hết, trụ vào cảnh vọng tưởng, không thêm sự hiểu biết, đối với người không hiểu biết thì không nói về chân thật, nên gọi là thuận theo tánh giác. Được tánh vô sinh là tâm Nhân địa, do đó dần dần tu chứng đến chỗ cùng tột, thành quả viên diệu, tu tập lần lần như Thiên Thai Viên đốn chỉ quán rộng sáng. b.2) Nêu dụ giải thích thêm.
Như lóng nước đục, để một cái chậu yên mãi chẳng động đậy, cát đất từ chìm lặng, nước trong hiện ra, đó gọi là hàng phục khách trần, phiền não, gạn bùn sạch hết, chỉ còn nước trong, gọi là dứt hẳn vô minh căn bản, tướng của minh thuần nhất, tất cả biến hiện đều không gây ra phiền não đều hợp với đức nhiệm mầu thanh tịnh của Niết-bàn.
Chân giác như nước, thấy nghe như nước đục, thân định như bình sạch, pháp định như nước lắng sạch, cát như phiền não, bùn như vô minh, Địa Tiền gọi là hàng phục, Địa Thượng gọi là dứt trừ, rốt ráo gọi là thuần nhất, biến hiện tức là khởi dụng như trước đã nói. Đây là đồng với cái bất sinh bất diệt hợp với Như-lai tạng, mà Như-lai tạng chỉ là Diệu giác tròn sáng chiếu khắp pháp giới, cho đến trái với trần, hợp với giác. Cho nên phát ra tánh chân như diệu giác minh.
2. Môn căn trần kết giải, có ba:
a) Nêu nghĩa khuyên chung.
Nghĩa thứ hai: Nếu các ông muốn phát tâm Bồ-đề, đối với Bồ-tát thừa sinh tâm mạnh mẽ quyết định lìa bỏ các tướng hữu vi thì phải xét rõ ràng gốc rễ phiền não. Từ vô thỉ đến nay nghiệp (vô minh) và nhuận sinh (vô minh) phát ra thì ai làm người ấy chịu? Nghĩa quyết định thứ nhất làm cho dứt vọng tâm, hàng phục để trở về nguyên giác, tức là tu chỉ, nghĩa thứ hai này làm cho thấu rõ phiền não, quán sát đội trị là tu quán.
Trước chỉ sau quán, pháp lẽ ra như thế, vô minh phát nghiệp, ái thủ nhuận sinh, sáu thức là năng tác, thức thứ tám là năng thọ, ở đây chỉ có môn quán này phân biệt biết được. Cho nên luận Khởi Tín chép: Nói nghĩa quán, là vì phân biệt tướng sinh diệt nhân duyên.
Kinh Viên Giác nói: Dùng tâm tịnh giác biết tánh tri giác và căn trần đều là huyễn hóa, tức là khởi các huyễn để dứt huyễn, biến hoá các huyễn để khai mở các huyễn v.v...
b) Y theo nghĩa để nói lên sai lầm, có hai:
b.1) Chánh hiển.
Nầy A-nan, ông tu đạo Bồ-đề, nếu không xét quán cội gốc phiền não thì không thể biết căn trần luống dối điên đảo ở chỗ nào? Chỗ còn không biết thì làm sao hàng phục nó và chứng nhập quả Như-lai.
Căn trần luống dối là nhà phiền não, điên đảo trôi lăn đều do đây, nếu biết được nguồn gốc của nó, chỗ trói buộc nó, thì sẽ hiểu được sự rối rắm, để hàng phục được nó.
b.2) Thí dụ giải thích.
Nầy A-nan, ông xem những người kết giải trong thế gian này, nếu không thấy kết thì làm sao biết mà mở, không nghe hư không bị ông phá hủy, vì sao? Vì hư không chẳng có hình tướng không thể kết và giải, văn hiển rõ rất dễ hiểu.
3. Chính là nói về hàng tướng, có ba:
a) Nêu chung lỗi của sáu căn:
Cho nên hiện tiền sáu căn của ông là mắt, tai, mũi, lưỡi cùng với thân, ý làm mai mối cho giặc, tự cướp của báu trong nhà. Do đây nên thế giới chúng sinh từ vô thỉ tự sinh ràng buộc, không thể vượt khỏi khí thế gian. Sáu căn là môi giới của bọn cướp.
Dẫn cướp bên ngoài tức là sáu trần. Nổi cướp bên trong tức là phiền não.
Giặc cướp trong và ngoài cướp mất chân tánh, nếu biết nguồn gốc thì cướp không thể hại được.
Nêu kinh Niết-bàn nói: Nhóm không sáu nhập nên có sáu đại, thì bọn cướp độc ác sẽ cắt đứt mạng sống của ông, phải lìa bỏ ngay, vì huân tập tướng của căn trần, nhập thức thành hạt giống vô thỉ nối nhau đều do đây mà thành, không biết điều phục sẽ bị hại.
b) Nêu riêng dụng hơn kém của căn, có hai.
* Y theo sự thay đổi của thế giới để nói chung về công đức, có ba.
-Giải thích tên gọi, nói về tướng.
Nầy A-nan! sao gọi là thế giới chúng sinh?
Thế là dời đổi, giới là phương vị. Nay ông nên biết, Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, phương trên phương dưới là Giới, quá khứ vị lai là Thế.
- Về phương vị của không gian có mười thứ, sự trôi lăn của thời gian có ba. Tất cả chúng sinh giao kết vọng tưởng thành trong thân có sự dời đổi, thế giới lẫn lộn nhau. Thế giới có ba, đó là khí giới, năm ấm và chúng sinh, chọn lựa hai thứ kia, cho nên nêu ra chúng sinh. Nếu vượt qua một căn nào thì các căn còn lại đều giải thoát.
- Bốn câu trước là giải thích tên gọi, câu này ông nên biết là giải thích tướng, câu tất cả chúng sinh vọng kết với nhau mà thành v.v... trở xuống là kết luận sự chỉ bày, trong thân là Giới, (tám trăm tám mươi sáu) dời đổi là Thế. Thế giới đan dệt lẫn nhau cho nên nói giao nhau, ngoài ra như văn kinh chép.
4. Chọn phương vị nhất định:
Tánh giới này tuy là mười phương định vị có thể nói thế gian nhưng chỉ có Đông, Tây, Nam, Bắc, phương trên, phương dưới không có vị trí, chính giữa, không có phương hướng nhất định. Thể tánh của giới nương vào giả mà lập, tuy nói mười phương. Nhưng nếu dùng vị trí thứ lớp, thì quyết định rõ ràng bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc có thể làm chuẩn, còn các phương khác đều không nhất định.
5. Thay đổi thành công:
Bốn số phải rõ, liên quan với thế gian, ba nhân bốn, bốn nhân ba, xoay vần thành số mười hai, trôi lăn rồi nhân lớp thứ ba từ một, mười, một trăm, một nghìn, bao gồm đầu cuối, trong sáu căn mỗi căn có đến một ngàn hai trăm công đức. Nghĩa ba lần thay đổi xưa nay đã giải thích nhiều, đều thấy văn đó không thể kể lại đầy đủ, nay đã giải thích nghĩa không thêm pháp khác, do số nó thay đổi, nay chỉ dùng văn quá khứ, hiện tại, vi lại để tính ngang dọc, liến thành một ngàn hai trăm công đức, như vị trí thứ nhất. Ba đời nhân với bốn phương thành số mười hai, thành lớp thứ nhất. Toán vị tức là một ngang hai dọc, đã thành quá khứ. Thứ hai là biến thành một đời quá khứ cho là hiện tại. Tiến động toán vị một dọc hai ngang thành một trăm hai mươi là lớp thứ hai, thứ ba lại biến thành đời hiện tại cho là vị lai.
Tiến động toán vị, một ngang hai dọc thành một ngàn hai trăm là lớp thứ ba, pháp năng biến chỉ có trong ba đời, số sở biến cũng dừng ở một ngàn hai trăm, cho nên không thêm không bớt.
Hỏi: Văn kinh đã nói: Thế giới giao nhau ba đời bốn phương thành số mười hai. Sao gọi là Biến số? Chỉ y theo luận thế gian, không lấy phương để nói ư?
Đáp: Thế của phương thường nhất định, nghĩa thế gian chuyển động, vì nhất định nên không thay đổi, vì động nên dời đổi. Nay đã đổi mười thành một ngàn, biến nhiều từ ít, y theo thế gian thì thuận, khác về nghĩa phương hướng thì không phù hợp. Chẳng phải chỉ có nghĩa không phù hợp nhau mà số lớp cũng khó hợp.
Văn kinh nói ba lớp thay đổi, há không phải chỉ y theo ba đời mà nói ư? Hỏi: Ba đời dời đổi, phải từ vị lai biến thành hiện tại, từ dời hiện tại đổi thành quá khứ, sao văn này nói ngược lại?
Đáp: Nay y theo chỗ sâu kín dẫn đến đắm trước, biến ít thành nhiều, đã là số mười hai nên thành một ngàn. Cho nên không thể trước y theo vị lai để đối đãi lớp ban đầu. Vì vị lai chưa thấy số, nên phải trở lại đối, vì thay đổi là nghĩa nghịch.
Văn dưới nói: Sinh từ thuận theo huân tập, tử từ biến đổi, Văn kinh đã nói thay đổi, nên cần phải nghịch tăng con số ấy. Nay y theo sáu căn trong thân chúng sinh duyên lấy cảnh vốn phân ra công năng. Dụng gọi là công đức, chẳng phải giống như trì kinh Pháp Hoa đã huân tập giúp cho dụng thanh tịnh, nhiễm tịnh dẫu khác nhưng đều nhờ năng lực huân tập xưa nay mà thành. Cho nên số lượng không khác với văn này.
Y theo về sự hơn kém của căn và dụng để chỉ riêng công đức, có sáu.
1) Nhãn căn:
Nầy A-nan, ông đối với sáu căn xác định sự hơn thua, như nhãn căn quán thấy, sau thì tối trước thì sáng, phía trước hoàn toàn sáng, phía sau hoàn toàn tối, nhìn qua hai bên chỉ thấy hai phần ba. Tóm lại công đức không hoàn toàn, ba phần nói công, một phần nói đức, nên biết mắt chỉ có tám trăm công đức.
Hai câu trước là bảo chung, câu như nhãn căn v.v... trở xuống là chỉ bày.
Câu ngó qua hai bên hai phần ba, là nêu một phương trong ba trăm phương, hai trăm hoàn toàn gần, chỉ có hai trăm năm mươi công đức, một phương đã như vậy, các phương khác cũng vậy. Nay nhìn hai bên, mỗi phương được hai trăm toàn phần, gần chỉ có hai mươi lăm công đức, cộng thành năm trăm công đức và nói đủ ba trăm công đức, đều thành tám trăm.
Ba phần nói công là thấy ba phương, còn lại đều rất dễ hiểu.
2) Nhĩ căn:
Như nhĩ căn nghe khắp mười phương không sót, lúc động dường như có xa gần, lúc tỉnh không có bờ mé, nên biết nhĩ căn đầy đủ một ngàn hai trăm công đức, mười phương đều đánh trống, thì mười phương đều nghe, động có phần hạn cho nên nói xa gần. Tĩnh chẳng có số lượng nên không bờ mé, vì vậy nói là không có bờ mé, đồng với cảnh của nhĩ căn, cho nên ở đây hiển hiện cả hai.
3) Tỷ căn:
Như mũi ngửi mùi có cả thở ra hít vào, có ra có vào, mà sót khoảng giữa, nghiệm về tỷ căn có ba phần mà thiếu một phần, nên biết tỷ căn chỉ có tám trăm công đức. Ra vào khoảng giữa giao tiếp thành ba phần, một phần có bốn trăm, vì thiếu khoảng giữa, cho nên chỉ có tám trăm công đức.
4) Thiệt căn:
Như lưỡi giảng nói cùng tột các trí thế gian và xuất thế gian, lời nói có phương phần, nhưng nghĩa lý vô cùng tận, nên biết được thiệt căn có đầy đủ một ngàn hai trăm công đức. Cảnh sở tri của thế gian và xuất thế gian, chỉ có thiệt căn mới hiển rõ, lời nói năng thuyên còn có phần hạn. Lý sở thuyên không thể cùng tận, cho nên có một ngàn hai trăm công đức.
5) Thân căn:
Như thân căn xúc chạm biết thuận nghịch, khi hợp thì biết, khi lìa thì không biết, lìa một hợp hai, nghiệm về thân căn ba phần thiếu một, nên biết thân chỉ có tám trăm công đức. Hợp đủ nghịch và thuận lìa chỉ xả thọ, cho nên nói là không biết. Nay y theo chỗ biết nghịch thuận đều có bốn, cho nên được tám trăm, thiếu đối với lìa biết cho nên thiếu bốn trăm.
6) Ý căn:
Như ý căn thầm lặng chứa đựng tất cả trí thế gian và xuất thế gian trong ba đời mười phương, chỉ có Thánh và phàm đều bao gồm tận bờ mé, nên biết ý căn có một ngàn hai trăm công đức.
Ý căn có công năng trùm khắp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian trong ba đời ba tánh, thảy đều đầy đủ, văn nói rất dễ hiểu.
* Chọn viên căn tu chứng, có hai.
-Khuyên khiến chọn, có bốn.
+ Khuyên lựa chọn kỹ càng.
Nầy A-nan! nay ông muốn ngược dòng sinh tử trở về nguồn cội, đến chỗ không sinh diệt, thì nên xét kỹ sự thọ dụng của sáu căn này, cái nào hợp, cái nào lìa, cái nào sâu, cái nào cạn, cái nào là viên thông, cái nào không tròn đầy, bỏ vọng về chân. Chân là nguồn chân, cho nên nói đến chỗ bất sinh diệt. Đây là dùng nguồn rõ giác, gọi là rốt ráo giác. Muốn được giác này, phải chọn viên căn làm cốt yếu hướng về đạo. Nếu mười phương đều nghe thì chỉ có nhĩ căn là hơn hết, ý khiến chọn lựa để nhập viên thông.
Như Văn dưới nói: Cách vách nghe tiếng vang, xa gần đều nghe được, năm căn không bằng nhau, cho nên thông chân thật.
+ Chỉ bày riêng công năng.
Nếu ông ngay nơi các căn này, ngộ được căn nào viên thông mà xoay ngược dòng nghiệp luống dối từ vô thỉ kia thì lần lượt được viên thông, một ngày hơn một kiếp so với căn không viên thông. Đó là do Như-lai biết thời biết cơ, làm cho tự chọn lựa ưa thích, khởi hạnh thuận theo tương ưng.
Như Văn dưới nói: Nay ta muốn khai ngộ cho Anan, hai mươi lăm hạnh cái nào sẽ là căn của A-nan, lại sau khi ta diệt độ chúng sinh trong thế giới này sẽ nhập Bồ-tát thừa và cầu đạo Vô Thượng, thì môn phương tiện nào được dễ thành tựu? Cho nên nói một ngày hơn một kiếp.
+ Hứa sẽ giảng nói.
Nay ta hiển bày đầy đủ công đức vắng lặng tròn sáng của sáu căn, số lượng như thế, tùy ông lựa chọn căn nào để nhập, thì ta sẽ phát minh làm cho ông được tinh tấn thêm, nói đủ công đức sâu cạn của sáu căn, tùy theo ý chọn lựa của ông, muốn đối với một căn mà được nhập Tam-muội. Ta sẽ khai phát hiển rõ, giúp cho ông được tăng tấn Thánh đạo vô thượng.
+ Phải phân biệt nguyên nhân.
Các Đức Như-lai trong mười phương đối với mười tám giới tu hành giới nào cũng, đều được viên mãn Vô thượng Bồ-đề, ở trong đó cũng không hơn kém, nhưng ông căn cơ thấp kém, chưa thể phát huy trí tuệ tự tại. (tám trăm tám mươi bảy) Cho nên ta giảng nói, giúp cho ông chỉ vào sâu một cửa, vào một cửa không luống dối, thì tất cả sáu căn cùng lúc đều thanh tịnh. Nếu y theo sự vô ngại của Phật thì sáu căn đều được viên thông, tức là đồng với kinh Ương-Quật nói: Cái gọi là nhãn căn kia, đối với các Đức Như-lai thường đầy đủ sự tu hành vô giảm, thấy rõ ràng cho đến sáu căn đều nói như thế. Cho nên nói cũng không có hơn kém. Chỉ có ông căn tính kém cỏi phải chọn lựa, căn chẳng phải đường tắt, thì tu trong một kiếp cũng vô ích. Nếu được viên môn thì một ngày hơn một kiếp, cho nên một căn trở về nguồn thì sáu căn thanh tịnh?
-Nói rộng sự thưa thỉnh, có hai:
+ Trình bày thưa thỉnh.
A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Vì sao lại ngược dòng sinh tử đi sâu vào một môn, có thể làm cho sáu căn cùng lúc thanh tịnh? Trước kia, Đức Phật khuyên ý nói rõ, thể của Như-lai tạng thanh tịnh bổn nhiên. Do giác mạnh nên chia thành sáu vọng, nếu soi chiếu lại thì từ một căn đi vào biển nhất tánh, pháp giới nhất tướng. Lại không có sự khác nhau giữa sáu căn và một căn. Cho nên nói đi sâu vào một môn thì sáu căn thanh tịnh. Nay thật khó nói, sáu căn thật có vốn là một thể, nếu là một thể sao lại chia làm sáu? Cho nên nay chỉ bày nguyên nhân giữa một căn và sáu căn.
* Giải thích rộng, có bốn:
Lại phá cái thấy về một căn và sáu căn, có ba: So sánh hiển bày các pháp chấp chưa mất:
Phật bảo A-nan, nay ông đã chứng quả Tu-Đà-hoàn, đã dứt được kiến hoặc của chúng sinh trong ba cõi trên thế gian nhưng vẫn chưa biết các tập khí luống dối đã chứa nhóm trong căn từ vô thỉ, tập khí kia phải từ tu mới dứt bỏ được, huống chi quá trình dời đổi phân chia của sinh. Trụ, dị, diệt ở trong đó. Việc một căn là sáu căn chính là pháp chấp, vì chấp căn là thật có một là sáu. Ngài A-nan chứng được Sơ quả dù phá được ngã chấp, nhưng chưa dứt được phiền não câu sinh, huống chi pháp chấp này là sở tri chướng vô minh trụ địa, chướng này rất sâu kín, gọi là quá trình dời đổi phân chia của sinh, trụ, dị, diệt ở trong căn.
Phá trừ nghi tình về một căn và sáu căn, có ba.
1) Gạn lại:
Nay ông hãy xem sáu căn hiện tiền là một hay sáu? Như văn kinh nói: 2) Bác bỏ, có hai: a) Bác bỏ một.
Nầy A-nan, nếu cho là một thì tại sao không thấy? Mắt sao không nghe? Đầu sao không đi? Chân sao không nói? Nếu nói một, thì sáu có công dụng lẽ ra khác nhau, mắt hợp với năng nghe, đủ để giải thích nay ông không đúng. b) Bác bỏ sáu.
Nếu sáu căn này quyết định thành sáu, như nay ta ở trong hội giảng nói pháp môn mầu nhiệm cho ông nghe, vậy sáu căn của ông căn nào lãnh thọ?
A-nan trả lời: Con dùng tai nghe.
Phật nói: Tai ông tự nghe, có liên quan gì đến thân miệng, mà miệng thì hỏi đạo, thân tỏ sự cung kính?
Nếu nói là sáu khác thì lẽ ra không liên quan nhau, một chỗ nghe kinh, vì sao lại kính hỏi?
Kết luận: Cho nên biết, chẳng phải một cuối cùng thành sáu, chẳng phải sáu cuối cùng thành một, không phải căn nguyên của ông vốn một vốn là sáu. Hai câu trước là kết luận trước kia, phá lẫn nhau, hai câu sau hiển rõ không có một hay sáu, thể của căn vốn không, đâu có một và sáu ư?
3. Giải thích thành một và sáu đều là vọng, có hai.
a) Giải thích thành.
A-nan, nên biết! căn này chẳng phải một, chẳng phải sáu, do vọng chấp điên đảo đắm chìm từ vô thỉ, cho nên đối với bản tánh vắng lặng sinh ra nghĩa một, sáu. Ông là bậc Tu-đà-hoàn, dù được tiêu sáu, nhưng chưa mất một, tạng thể tròn sáng, không có sự khác nhau giữa một và sáu, sáu căn điên đảo từ vô thỉ gượng sinh ra. Nghe nói hiểu sáu lại chấp là một, một và sáu đối đãi do luống dối mà sinh nhau, chìm trong bốn dòng đổi dời không dứt, tri kiến dời đổi biến một thành sáu, cho nên nói đắm chìm, dẫu được tiêu sáu nhưng chưa mất một, theo điều ông hiểu, dù muốn trừ sáu mà không trừ được một, vì chấp sáu căn là một thể.
Lại nữa, người chứng Sơ quả, không chấp sáu trần gọi là sáu tiêu mất. Chấp căn có tự thể gọi là chưa mất một. Kinh Niết-bàn chép: Tu-đà-hoàn, Hán dịch là Nhập Lưu, mà không có chỗ nhập, không nhập sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
Kinh Niết-bàn cũng chép: Người chứng quả Tu-đàhoàn, dẫu sinh vào cõi nước hung ác, nhưng nhờ năng lực tu tập nên không làm các điều ác, không bị sáu trần mê hoặc, không gây tạo nghiệp mới. Có chỗ cho rằng chỗ sáu trần tiêu thì kiến hoặc không sinh, chấp một không cho là thể của quả. Cho nên nói chưa mất một.
b) Dụ hiển:
Ví như đặt hư không vào nhiều bình chứa, do bình chứa khác nhau, nên nói hư không có khác, nếu đập bỏ hết bình chứa xem hư không rồi nói hư không là một, hư không kia làm sao vì người mà thành đồng, hay khác, huống chi lại gọi một hay chẳng phải một. Cho nên, ông biết rõ sự thọ dụng của sáu căn cũng như vậy.
Hư không là Như-lai tạng, nhiều bình chứa là sáu trần, hư không khác nhau là sáu căn, pháp giới tạng thể chẳng phải một, chẳng phải sáu. Do trần phát ra cái biết thành sáu căn khác nhau. Nếu trần không duyên với ý căn thì không hợp nhau, sáu đã không lập thì một cũng không thành, đâu có tên gọi đồng hoặc khác, sao lại đạt ra tướng một và sáu?
* Nói rộng về nguyên nhân ràng buộc của căn, có hai.
-Nói riêng, có sáu.
+ Nhãn căn.
Do hai thứ sáng tối v.v... làm tỏ rõ lẫn nhau, ở trong sự vắng lặng phát ra cái thấy, bản tánh nhất viên, thường diệu tròn sáng, vọng hiện ra tướng phân biệt sự khác nhau giữa sáng và tối, sáng tối làm lay động tánh giác trạm lẫn nhau, tánh tướng hòa hợp chấp thành vọng giác. Cho nên nói tánh vắng lặng phát ra cái thấy. Đây là sở đã vọng lập sinh ra vọng năng của ông.
Kiến tính ánh sắc, kết sắc thành căn, kiến tinh tức vọng giác, năng sở huân tập đan dệt vào nhau, căn buộc liền thành, nên nói kết sắc thành căn.
Gốc của căn gọi là bốn đại thanh tịnh, đã giác minh lẫn nhau, nên chính là do vắng lặng hợp thành, do đó gọi là bốn đại thanh tịnh, tức là Thắng nghĩa căn.
Do đó gọi là thể của mắt, như trái nho tươi, phù trần căn là bốn trần trôi lăn theo sắc trần, sắc của thắng nghĩa căn thuộc về cái không thể thấy, mà có sự ngăn ngại. Cho nên nhờ tướng trái nho làm chỗ nương cho căn thế tục, biểu hiện cho thắng nghĩa chạy theo bổn cảnh của sự sáng tối. Cho nên nói trôi lăn theo sắc trần. Đại ý của năm căn ở dưới cũng như vậy, nên không giải thích tỉ mỉ, ví như dưới đây rất dễ hiểu.
+ Nhĩ căn:
Do hai thứ động và tĩnh đối chọi lẫn nhau, ở trong diệu viên, lóng lặng phát ra cái nghe, cái nghe gặp thanh trần lôi cuốn thanh trần thành căn, gốc của căn gọi là bốn đại thanh tịnh, gọi là thể của lỗ tai như lá sen non, phù căn bốn trần còn trôi lăn theo thanh trần. Nghe thanh tịnh tức là vọng giác.
Đã là đông tĩnh kích phát lẫn nhau, bỏ chân thành vọng, mất đi tánh vắng lặng của chân liền phát ra cái nghe cuộn vào bóng của tiếng kia, kết bóng thành căn, tánh của tiếng hư tán. Cho nên phải cuộn nhiếp để thành nghĩa của cái nghe. Đã cuộn thành căn giống như lá sen non.
+ Tỷ căn:
Do hai thứ thông bít kích phát nhau mà phát ra trong diệu viên, lóng lặng mà phát ra cái ngửi, ngửi hương tinh anh, do hương mà thành căn. Gốc căn gọi là bốn đại thanh tịnh nhân gọi thể của tỷ căn, như hai ngón tay duỗi xuống. Phù căn bốn trần chạy theo hương, thông bít phát ra, giác minh theo hương, ở chỗ diệu viên vắng lặng kết thành tỷ căn. Mùi hương dâng lên, căn chấp duỗi xuống, như hai ngón tay duỗi xuống.
+ Thiệt căn:
Do điềm tĩnh và biến động giao xen nhau, ở trong diệu viên lóng lặng rồi phát ra, nếm vị tinh anh, cuốn vị thành căn. Gốc của căn gọi là bốn đại thanh tịnh, nhân gọi thể của lưỡi như trăng nửa vầng, phù căn bốn trần chạy theo vị, hai thứ điềm tĩnh và biến động giao xen nhau, xen vọng dính vào chân, hợp với tướng tâm và cảnh, kết lấy để thành. Căn y theo sở y. tướng như trăng nửa vành.
+ Thân căn: (tám trăm tám mươi tám)
Hai thứ ly hợp chạm vào nhau, ở trong diệu viên lóng lặng sinh ra cái biết, cái biết gọi là xúc, buộc xúc thành căn. Căn vốn gọi là bốn đại thanh tịnh. Nhân gọi là thể của thân như lưng đeo trống, phù căn bốn trần chạy theo xúc, lìa hợp, xúc chạm, viên trạm chạy theo vọng, giác xúc đối đãi nhau ràng buộc chấp lấy thành căn, năng tạo sở tạo cả hai có tám pháp, pháp ấy không thể thấy, gá vào chỗ nương như lưng đeo trống.
+ Ý căn.
Do hai thứ sinh diệt nối nhau, ở trong diệu viên lóng lặng phát ra cái biết. Cái biết gọi là pháp, chấp lấy pháp thành căn, căn vốn gọi là bốn đại thanh tịnh. Nhân gọi là ý tứ suy nghĩ như ở trong nhà tối mà thấy, phù căn bốn trần rong ruổi theo pháp. Diệu viên không xao động, sinh diệt vọng bày, hòa với cái lóng lặng thành cái biết, cái biết lại chấp pháp, căn cảnh đã ràng buộc, chạy mãi không thôi. Vì trong sáu căn hễ nhiếp bất cứ một căn nào thì năm căn trước cũng gọi là bốn đại, nó ở trong thân không rõ tướng bên ngoài, như ở trong nhà tối mà thấy, nhưng ý căn này vốn do vọng trần sinh diệt trói buộc, vọng trần không lìa hình bóng vọng giác. Nếu dùng cái hữu sắc, vô sắc làm tranh luận, giống như chờ hoa đốm trong hư không kết thành quả hư không. Cho nên sở minh của sáu căn đều là bốn đại, không trái nhau.
Tổng kết, có hai:
1. Kết do mê mà phát hiện:
Nầy A-nan! Sáu căn như thế do giác minh kia. Có minh và minh giác, mất đi sự tinh liễu kia, luống vọng phát sáng, thể của tánh giác vốn có chân minh, do vọng giác kia mà bóng sáng bỗng khởi. Bèn làm cho chân giác ẩn vào tinh liễu, mất đi tánh chiếu soi chân thật, vọng giác bóng sáng tự chấp vào nhau huân tập thay đổi mà kích phát, kết thành sáu thứ ánh sáng tri kiến. Cho nên sáu căn này do mê mà phát hiện, tướng phát hiện thấy rộng khắp, thấy trong Văn trên.
2. Kết lìa trần vô thể:
Cho nên nay ông lìa sáng lìa tối không có tự thể của cái thấy, lìa động lìa tĩnh vốn không có tính chất của cái nghe, không thông, không bít thì tánh ngửi không sinh khởi, không biến động, không điềm tĩnh thì tánh nếm không có chỗ sinh ra, không lìa không hợp thì giác xúc vốn không, không diệt không sinh, biết rõ làm sao gá. Do cảnh có căn. Như gió dậy sóng, cảnh gió không dứt, sóng thức đâu cùng. Cho nên lìa trần cảnh thì không có căn thức.
Chỉ bày môn nhập vào một:
Ông lại không theo động tĩnh, hợp ly, điềm biến, thông bít, sinh diệt, sáng tối, mười hai tướng hữu vi ấy không theo sáu cảnh.
Hễ dứt được một căn nào thì bên trong hàng phục, hàng phục trở về nguyên chân, phát bổn minh diệu, tánh diệu (sáng) phát minh. Năm căn còn lại phải dứt bặt mới viên thoát. Viên thoát là tiêu mất. Chấp cảnh thành căn, do căn mà bị ngại. Giữ tâm không khởi thì các cảnh tự mất. Đã không nối nhau thì tự nhiên sẽ mất.
Văn dưới nói: Thấy nghe như mắt nhặm. Ba cõi như hoa đốm trong hư không, nghe lại nhặm thì căn trừ, trần tiêu thì viên giác tịnh, tịnh cùng cực thì ánh sáng thông đạt, cho nên nói phục quy về nguyên chân phát bổn minh diệu.
Kinh Lăng-già chép: Không rõ tâm và duyên thì sinh hai vọng tưởng, liễu tâm và cảnh giới thì vọng tưởng bất sinh. Vọng tưởng bất sinh thì phát minh ra diệu, đều là nghĩa này.
* Kết hiển lý chân giác có hai.
- Lược nêu bày.
Sự thấy biết không do tiền trần sinh khởi, sáng không theo căn, nương vào căn mà phát sáng.
Do sáu căn này làm dụng cho nhau. Thấy nghe biết do trần mà phát sinh, hoàn toàn không có tự thể, nay chẳng phải là những điều này. Đây là phân biệt với vọng. Câu sáng không theo căn v.v... trở xuống là nói về chân, nghĩa là Chân diệu giác minh không theo căn và cảnh, tức là không theo duyên sinh, không do cảnh khởi, rõ ràng tự giác tức là tánh minh.
Kinh Viên Giác cũng nói: Không biết giác minh không dựa vào các ngại. Đây cũng xét không biết hiển bày chân minh, này đâu nương vào căn trần mới hiển phát. Cho nên nói nương gá. Vì nương gá nên nó làm dụng cho nhau.
- Giải thích rộng về sự thành tựu, có bốn:
+ Y theo người để nói về dụng:
Nầy A-nan! Ông đâu không biết A-na-luật-đà ở trong hội này không có mắt mà thấy.
A-Na-luật-đà: Hán dịch là Vô Diệt, con Vua Bạch Phạn, vì hay ngủ nên bị Như-lai quở trách. Từ đó, Ngài tinh tấn tu hành suốt bảy ngày đêm không ngủ. Vì vậy nên đôi mắt bị mù. Phật dạy A-na-luật-tu thiên nhãn, buộc niệm vào duyên, bốn đại tịnh sắc nửa đầu mà phát. Thấy chướng ngại trong ngoài, sáng tối đều nhìn kỹ, chiếu soi thấy được thế giới Tam thiên như thấy trái xoài trong lòng bàn tay. Cho nên nói không mắt mà thấy.
Rồng Bạt-nan-đà không có tai mà nghe được. Bạtnan-đà: Hán dịch là Hiền Hỷ.
Rồng Bạt-nan-đà và Nan-đà thường hộ trì nước Maca-đà. Lúc bấy giờ, trời mưa khắp nơi trong nước, dân chúng bị mất mùa đói khát. Vua Bình sa lập hội báo ân rồng, mọi người đều ưa thích. Từ đó, có tên như vậy.
Nan-đà, Hán dịch là Hoan Hỷ, bị Mục-kiền-liên hàng phục. Còn nói không tai mà nghe thì chưa rõ duyên khởi. Thần Nữ Khắc-Ca không có mũi mà ngửi được. Khắc-ca cũng gọi là Đát-ca, Hán dịch là Thiên Đường lai. Con sông này từ miệng voi bạc phía Nam ao Vô nhiệt não chảy ra, chảy về phía Đông Ấn-độ. Vị Thần Nữ này là thần chủ sông ấy. Là người nữ nên gọi là Thần nữ. Không có mũi mà ngửi mùi được thì chưa thấy duyên khởi ấy.
+ Kiều-phạm-bát-đề không lưỡi mà biết vị.
Kiều-phạm-bát-đề dịch đúng là Cấp-phòng-bát-để. Hán dịch là Ngưu Tướng. Kinh nói: Ta bị khẩu nghiệp, vì ở thời quá khứ chế giễu Sa-môn cho nên đời đời kiếp kiếp bị bệnh nhai lại như trâu bò. Nhai: Bò sau khi ăn thường nhai lại cho tiêu.
Bấy giờ mọi người gọi ta là Ngưu ty. (Nhai lại như trâu bò)
Về có lưỡi khác lạ thì chưa thấy duyên khởi, hoặc có lẽ đã nói ngưu tướng tức là lưỡi bò và có khả năng nói rõ vị về mùi vị của thức ăn con người, cho nên nói không lưỡi mà biết vị.
Thần Thuấn-nhã-đa không có thân mà biết xúc chạm, trong ánh sáng của Như-lai phát ra làm cho tạm hiện. Đã là chất gió, thể nó vốn không. Thuấn-Nha-Đa Hán dịch là không, tức là vị thần hư không. Các tầng trời cõi Vô Sắc cũng thuộc loại nầy. Tùy theo vị chủ ấy cũng không có chất sắc.
Đã là chất gió: Ở đây y theo thể không thể thấy cho nên nói vốn không. Nhờ năng lực Phật cho nên tạm hiện, cũng hiển sắc định tự tại, sắc Vô nghiệp. Các vị trời cõi Vô Sắc rơi lệ như mưa chính là việc này.
Các vị Thanh Văn định Diệt Tận được vắng lặng, Như-Ma-ha Ca-diếp ở trong hội này đã diệt được ý căn từ lâu.
Tròn sáng biết rõ không nhờ tâm niệm. Được định Diệt Tận thì Đại thừa, Tiểu thừa đều có, nhưng tu ý khác nhau. Nghĩa là diệt sáu thức hoàn toàn hết bảy phần nhiễm.
Ma-ha Ca-diếp vào núi Kê Túc đợi Phật Di-lặc ra đời. Luận-câu-Xá thì nói đã nhập Niết-bàn, các thuyết khác thì nói nhập định. Tuy Bậc Thánh nói như vậy nhưng nếu nêu các kinh nay phó chúc cho A-nan nên biết nhập định, nhập Niết-bàn đều không thể suy lường.
Đã biết thân còn mà ý căn diệt, tròn sáng biết rõ không ngại tác dụng. Cho nên kinh Duy-ma nói: Không khởi Diệt định mà hiện các oai nghi tức là nghĩa này. Nhưng ở trên nói muốn hiển bày chân giác không nhờ căn trần, lại trích dẫn sáu vị lược để so sánh. Trong đó, có người nghiệp báo, có người tu đắc, có người phát chân, tu đắc phát chân toàn là chân dụng nghiệp báo mê hoặc, lấy cạn để so với sâu, đều không do căn mà giác biết không mất.
+ Y theo pháp dung thể.
Nầy A-nan! Nay các căn của ông nếu dứt rồi thì bên trong phát sáng, như thế các tướng biến hóa như phù trần căn và khí thế gian giống như nước sôi tan băng, ngay một niệm hóa thành tri giác vô thượng. Muôn pháp ba cõi đều do vô minh vọng niệm mà thành phân biệt.
Nay sáu căn đã nhổ bặt, trần không có sự dính mắc, vọng niệm chẳng sinh thì bên trong tánh sáng suốt, cho nên tướng huyễn phù trần khí thế giới, hư không, một thể viên thành, trở về vô thượng giác.
Cho nên văn dưới nói: Cái nghe trở lại hết nhặm mắt. Trần tiêu mất thì giác viên tịnh, khi cực tịnh thì ánh sáng thông đạt, vắng lặng chiếu soi bao trùm khắp hư không, trở lại quán sát thế gian, như việc trong mộng. Lại nói các thầy một người phát chân về nguồn thì mười phương hư không thảy đều tiêu mất, huống chi là các thế giới, hư không?
Đây là muôn pháp dung chân, tất cả thường trụ, vô tình thành Phật đâu có lạ gì.
Nếu cho rằng vô tình không thể khởi hạnh, không thể thành Phật thì đâu khác gì mong hoa đốm trong hư không kết thành quả hư không. Pháp không trị lấp bít, ngã tướng thấy sâu xa, nếu vô tình không thành Phật thì ngoài tâm có pháp rõ ràng như vậy. Bàn suông về viên thật, tâm và lời trái nhau, đâu không sai lầm ư?
+ Nêu việc để so sánh hiển bày.
Nầy A-nan! Như người thế gian kia tụ cái thấy ở mắt, nếu làm cho phù hợp thì tướng tối hiện ra, sáu căn mờ tối, đầu và chân không phân. Người ấy dùng tay lần theo thân mà buộc bên ngoài, người ấy tuy không thấy nhưng đầu chân phân biệt rõ, thấy biết là đồng: Đây là dùng sáu căn của người thế gian cách xa không thông dung nhau. Nếu có tri giác đồng thì chẳng lẽ so với chân giác phải nhờ vào căn trần? Sáu căn không phân biệt được nên nói là mờ tối. Đầu chân không phân nên gọi là giống nhau. Nếu dùng tay sờ mó, đầu chân phân biệt rõ thì không khác với cái thấy, cho nên nói tri giác là đồng.
* Chỉ vọng kết chân:
Duyên với cái thấy là do cái sáng, tối thì thành không thấy, không sáng tự phát, thì các tướng tối không thể mờ tối. Căn trần đã tiêu mất thì làm sao giác minh không thành viên diệu.
Hai câu đầu là chỉ ra vọng, nghĩa là cái thấy từ căn cảnh duyên mà sinh ra, cho nên nói duyên theo cái thấy. Câu không sáng v.v... trở xuống là phát là kết thúc về chân, nghĩa là không chạy theo duyên sinh không do cảnh khởi, vắng lặng thường chiếu. Cái sáng không thể phát, cái tối không thể mờ, thuần nhất chân giác, bên trong sáng suốt thanh tịnh. Thể này phát hiện, căn trần thức tâm viên diệu trong nhất thời, cho nên văn trước nói: Ngay trong một niệm hóa thành trí giác vô thượng.
* Phá riêng nghi tình, có ba:
-Chân thức đoạn diệt nghi, có hai:
+ A-nan trình bày nghi, có hai: Nhắc lại điều đã nghe.
A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như lời Đức Thế tôn nói, do tâm địa giác mà muốn cầu thường trụ, muốn tương ưng với quả vị, như văn kinh nói.
* Trình bày nghi nạn, có bốn:
-Nêu quả thường trụ:
Bạch Đức Thế tôn! Như trong quả vị Bồ-đề, Niếtbàn, chân như, Phật tánh, thức am-ma-la không Như-lai tạng, trí đại viên cảnh. Bảy loại này tên gọi tuy khác nhau nhưng thể tánh thanh tịnh tròn đầy vững chắc thường nhiên. Như Kim Cương Vương thường trụ chẳng hoại.
Bồ-đề Hán dịch là Tri giác, tức là trí quả.
Niết-bàn dịch là tịch diệt, tức là đoạn quả, lìa bỏ ngụy vọng không thay đổi nên nói là chân như:
-Chiếu soi bất biến gọi là Phật tánh.
Am-ma-la: Hán dịch là Vô cấu, lìa chướng ngại thì hiển hiện, tức là thức bạch tịnh vô cấu.
Không tương ưng với vọng nhiễm, chứa đựng vô lượng công đức nên gọi là không Như-lai tạng.
Có thể hiện thân cõi, lìa điên đảo mà thành, soi khắp muôn vật gọi là trí Đại viên cảnh.
Bảy thứ này tuy tên gọi khác nhau nhưng là một thể chẳng khác. Vững chắc vắng lặng, thường trụ bất động, như kim cương.
Nói lên nhân vô thường.
Nếu cái thấy nghe này lìa sáng tối, động tĩnh, thông bít, hoàn toàn vô thể. Giống như tâm niệm lìa trần cảnh thì vốn không có. Lìa trần vô thể sáu căn đều như vậy, cho nên trước nêu cái thấy và nghe, sau thì chỉ cho ý căn.
"Giống như" là chỉ từ.
-Tiến lùi thành nghi ngờ.
Vì sao dùng cái rốt ráo đoạn diệt này cho là nhân tu, muốn được bảy quả thường trụ của Như-lai.
Bạch Đức Thế tôn! Nếu lìa sáng và tối thì cái thấy không bao giờ có, nếu không có trần cảnh thì niệm tự tánh diệt. Tiến lùi tuần hoàn suy tìm sâu kín, vốn không có ngã tâm, và ngã tâm sở, thì do đâu mà lập nhân cầu Vô thượng giác.
Nhân duyên khởi, tự thể vốn không, cho nên nói rốt ráo đoạn diệt.
Tiến lùi suy tìm không có ngã tâm, vì phân biệt không mất thì chân giác khó hiển bày, chỉ có đoạn diệt bất giác diệu thường. Cho nên nói nhờ vào đâu mà lập nhân cầu Vô thượng giác.
-Kết lời gạn hỏi, xin chỉ bày.
Như-lai trước nói trạm tinh viên thường, trái với lời chân thật, cuối cùng thành nói suông, thế nào là Như-lai là Đấng chân thật ngữ? Cúi mong Thế tôn rũ lòng từ bi mở bày sự mê muội cho con. Như-lai nói có viên thường vắng lặng. Đến nay những điều bác bỏ chỉ là đoạn diệt. Rõ ràng lời nói tuy có, nhưng tìm xét sự thật thì vốn không, trái nhau như thế thì chân thật đâu còn, đâu không đồng với sự nói đùa của trẻ con hay sao?
* Như-lai dứt nghi ngờ cho A-nan, có hai:
-Phân tích mê, hứa giảng nói:
Phật bảo A-nan! Ông học rộng mà chưa dứt hết các lậu, trong tâm luống biết điên đảo sở nhân, khi chân đảo hiện tiền thật không thể biết. E rằng tâm ông thật vẫn chưa tin phục. Nay ta lấy các việc thế tục để dứt nghi cho ông. Phân biệt thấy vọng, năng sở phát sinh mạnh mẽ làm nhân cho điên đảo, mê thường chấp đoạn gọi là chân đảo.
Nay lấy việc hiện tại xem xét làm cho biết đều không còn chấp, đoạn diệt. Cho nên nói để dứt nghi cho ông.
Y theo sự để nói rộng, có hai:
* Y theo thanh trần để hiển rõ tình chấp điên đảo, có hai.
- Hỏi đáp, có hai:
+ Y theo căn để hỏi đáp, có hai:
- Hỏi đáp có không.
Bấy giờ, Phật sai La-hầu-la đánh một tiếng chuông, rồi hỏi A-nan: Ông có nghe không?
A-nan và đại chúng đều đáp thưa con có nghe.
Khi tiếng chuông dừng không còn vang, Phật lại hỏi: Bây giờ ông có nghe không?
A-nan và đại chúng thưa: Chúng con đều nghe.
La-hầu-la đánh một tiếng nữa. Phật lại hỏi: Bây giờ ông có nghe không?
A-nan và đại chúng đều bạch Phật rằng: Con không nghe.
- Hỏi đáp lý do.
Phật hỏi A-nan! Theo Ông thế nào là nghe, thế nào là không nghe?
A-nan và đại chúng thưa: Bạch Đức Thế tôn! nếu đánh tiếng chuông lên thì con có nghe, đánh lâu tiếng chuông dứt, không còn tiếng vang thì gọi là không nghe. Ba lần hỏi về tiếng chuông, xét định gọi là nghe. Muốn chuyển hỏi tông, lại giải thích thêm, một là bác bỏ thành lời nói không ngả ngũ, hai là nói lên tánh thường, làm cho biết trong cái sinh diệt có cái không sinh diệt, không do tiếng mà diệt, không do tiếng mà sinh. Nếu lìa sinh diệt thì thường chân thật. Đây là rõ ràng thường trụ đâu có đoạn diệt?
+ Y theo trần để hỏi đáp có hai:
- Hỏi đáp có không:
Thế tôn lại bảo La-hầu-la đánh chuông. Phật lại hỏi: Bây giờ có tiếng không?
A-nan và đại chúng thưa: Có tiếng.
Chốc lát tiếng chuông dứt, Phật lại hỏi: Bây giờ có tiếng không? Không tiếng.
Chốc lát, La-hầu-la lại đánh chuông. Phật lại hỏi: Bây giờ có tiếng không? Có tiếng.
Tiểu Tuyển: Là chốc lát.
Hữu khoảnh: Cũng chốc lát là chút ít thời gian. Ba lần hỏi ba lần đáp chỉ là xác định về tiếng chuông ấy.
Hỏi đáp lý do:
Phật hỏi A-nan! Ông cho thế nào là có tiếng? thế nào là không tiếng?
Nếu đánh chuông thì gọi là có tiếng, tiếng chuông dứt rồi thì gọi là không tiếng.
Hỏi tiếng có không để giải thích lý do.
Trước đáp có không về nghe, cũng lấy tiếng chuông vang và dứt để giải thích. Nay đáp có không về tiếng, cũng dùng tiếng chuông vang, dứt để giải thích, ắt nghiệm tình ấy tùy theo lời nói mà ấn khả chấp thuận.
-Bác bỏ:
Phật bảo A-nan và đại chúng: nay vì sao ông tự nói lời lộn xộn. Đại chúng và A-nan đồng một lúc hỏi Phật nay vì sao Phật gọi chúng con là nói lời lộn xộn?
Phật nói: Ta hỏi ông về cái nghe thì ông nói là nghe, ta lại hỏi ông về tiếng thì ông nói về tiếng. Chỉ có cái nghe và tiếng mà trả lời không nhất định. Như thế làm sao không gọi là nói lời lộn xộn? Bác bỏ ý: Cái nghe này nếu do tiếng mà có thì không được lìa tiếng. Nếu lìa tiếng mà có thì đó là cái nghe chân thật. Nay Ông chỉ chấp theo cái nghe về tiếng. Cái nghe này đã không lìa tiếng, chỉ nên gọi là Tiếng, không nên gọi là Nghe. Vừa nói là tiếng, vừa nói là nghe, đã tùy theo lời nói mà ấn khả chấp thuận cho nên thành lời nói lộn xộn.
* Y theo tánh nghe để phá chấp đoạn, có ba:
-Chánh bác bỏ, có ba:
+ Bác bỏ chấp đoạn:
Nầy A-nan! Âm thanh mất thì không có tiếng vang, ông nói không nghe. Nếu thật không nghe thì tánh nghe diệt, đồng với cây khô, lại đánh tiếng chuông thì sao ông biết, biết có biết không là do thanh trần có hoặc không. Đâu phải tánh nghe kia vì ông mà có không, nghe đã không thì ai là người biết không.
Hai câu đầu là nhắc lại sở chấp. Câu nếu thật không nghe v.v... là bác bỏ đoạn vô. Nếu thật cái nghe này diệt theo âm thanh thì thân ông lẽ ra phải như cây đá, lại khi đánh thêm tiếng chuông nữa làm sao nghe tiếng vang.?
Câu biết có biết không v.v... là giải thích Vô sinh.
Cái biết có tiếng không tiếng tự thuộc về thanh cảnh, không liên quan gì đến cái nghe. Cho nên nói tự là thanh trần, hoặc có tiếng hoặc không tiếng, tánh nghe thường nhiên không hề sinh diệt. Cho nên nói chẳng lẽ tánh nghe kia vì ông mà có không. Câu cái nghe thật v.v... trở xuống là lại kết luận về có tánh. Nếu cái nghe thật là không thì ai là người chứng không gì là không. Nếu đã biết đây là cái không nghe nghiệm biết không diệt thì đâu thể theo tiếng mà không có.
+ Hiển rõ vốn là thường:
Cho nên, A-nan! Tiếng từ cái nghe tự có sinh diệt, chẳng phải ông nghe tiếng sinh tiếng diệt, làm cho tánh nghe của ông thành có thành không. Tánh nghe bất động, giống như gương sáng, sự sinh diệt của tiếng giống như bóng hình, đâu do bóng hình mà có đến có đi, làm cho gương sáng kia là sinh, là diệt.
Cho nên văn dưới nói: Tánh của âm thanh động tĩnh, trong cái nghe là có, không. Chẳng có tiếng gọi là không nghe, chẳng thật nghe là vô tánh. Lúc tiếng không có cũng chẳng diệt, mà lúc tiếng có cũng chẳng sinh, sinh diệt cả hai đều lìa, ấy là thường chân thật.
+ Kết luận bác bỏ, khuyên răn:
Ông còn điên đảo, bị tiếng mê hoặc cho là cái nghe, đâu ngại gì hôn mê cho thường là đoạn, đều không nên nói lìa các động tĩnh, đóng lấp khai thông nói cái nghe vô tánh. Gương sáng bất động, bóng thường theo thân. Nếu thấy sự đến đi của thân mà cho là gương sinh diệt thì thật là điên đảo. Tiếng, nghe không phân biệt, vì đoạn thường bèn mê. Đây là kết khuyên không thể lại nói lìa âm thanh thì vô tánh.
-Giải thích thành, có ba:
+ Dẫn người ngủ giải thích thành không dứt.
Như người nằm ngủ say trên giường. Nhà ấy có người khi người ấy ngủ, bèn giã gạo, người này trong mộng nghe tiếng giã gạo cho là tiếng khác, hoặc tiếng trống, hoặc tiếng chuông, lúc mộng thì tiếng vang của cây, đá ngỡ rằng tiếng chuông. Lúc ấy, bỗng thức dậy, thì biết tiếng chày, tự nói với mọi người: khi mộng tôi thật mê hoặc, tiếng giã gạo này mà cho là tiếng trống.
Nầy A-nan! Người nay trong mộng đâu có nhớ động tĩnh, mở đóng, thông bít, người tuy ngủ mà tánh nghe không hôn mê. Người ngủ sáu thức trở về hạt giống, cái suy nghĩ biết không hiện hành, chỉ nhậm vọng nghe, tức là tánh nghe chân thật. Nếu chỉ y theo dụ, người ngủ lẽ ra không có tánh nghe, chỉ y cứ không theo căn khởi, chẳng phải do tác ý. Cho nên là cái nghe chân thật.
Như văn dưới nói: Dù làm cho đang mộng tưởng, không làm không suy nghĩ về cái không, giác quán sinh ra suy nghĩ, thân tâm không thể sánh bằng, nên biết tức là nói lên cái nghe chân thật. Không cần phải y theo dụ. + Lệ với người chết để giải thích thành không dứt.
Dù thân ông tuy diệt, tánh nghe nầy đâu có vì ông mà mất.
Hình mạng tuy thay đổi, chân thường bất động, vọng thức vẫn còn. Huống chi là tánh nghe theo ông mà diệt. + Kết thúc bác bỏ mê đảo không theo diệu thường.
Vì chúng sinh từ vô thỉ đến nay chạy theo các sắc thanh, chạy theo niệm trôi lăn, không hề khai ngộ, tánh tịnh diệu thường, không theo cái thường, chạy theo sinh diệt. Do đó đời đời trôi lăn trong tạp nhiễm, sinh diệt theo trần, chạy theo niệm lưu động, từ vô thỉ đến nay không hề dừng, không thể đối với diệu thường tịch dứt niệm mà đến được chân giác minh, quên duyên mà soi chiếu, tạp nhiễm trôi lăn sinh rồi lại sinh, như thế làm sao mà chứng đắc.
3. Kết khuyên:
Nếu bỏ sinh diệt, mà giữ chân thường, thường quang hiện tiền, căn trần, thức, tâm ngay đó tiêu mất.
Tướng của tưởng là trần, thức tình là cấu. Cả hai đều xa lìa thì pháp nhãn của ông ngay đó sáng sạch, làm sao không thành tri giác vô thượng. Nếu mất duyên bên trong soi chiếu, không theo trần cảnh, trần đã không duyên thì căn không có chỗ nương, chia dòng hoàn toàn, công dụng một sáu không hiện hành, tịnh giác hiện tiền, chiếu soi lộ rõ. Đây là giữ chân thường căn trần tiêu mất. Tướng của tưởng tức là cảnh, tình là căn, căn cảnh thức đều có thể nhiễm ô, chướng ngại Bát-nhã, đối với pháp Vô sinh không thể tỏ rõ, nên nói là bụi nhơ. Nay đã xa lìa đối với pháp thấy rõ, tức là chứng Vô sinh nhẫn cho nên nói mắt pháp ngay đó sáng sạch, đối với đại Bồ-đề mong sẽ đạt đến.
Nghi mở và gút đồng thể
1. A-nan bày thỉnh, có hai:
2. Thuật rồi vẫn còn mê:
A-nan bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn: Như-lai tuy đã nói nghĩa môn thứ hai, nhưng nay con quán xét người trong thế gian mở hay thắt gút. Nếu không biết đầu tiên buộc gút ở chỗ nào thì con tin rằng người ấy không bao giờ được. Ở trước nghi nhân quả có đồng và khác, nay nghi căn trần có gút có mở, cho nên nói nghĩa môn thứ hai. Nhưng nguyên nhân căn khởi lên trước kia tuy đã chỉ bày rộng, mà chẳng chỉ chỗ nào là gút, là mở gút, giải thích vẫn chưa rõ ràng, hy vọng được trình bày rõ mới biết được, cho nên dẫn ví dụ mà Phật đã nêu ở văn trước để so sánh với sự mê mờ của mình. Bạch Đức Thế tôn: Con và các Thanh Văn Hữu học ở trong hội cũng như vậy. Từ vô thỉ cùng diệt cùng sinh với các vô minh, tuy được gốc lành học rộng như thế gọi là Xuất gia, nhưng giống như người rốt rét cách ngày.
Các vô minh: Là toàn bộ vô minh trong thế giới, nhiếp chung tất cả hai chướng kiến hoặc và tư hoặc, nên gọi là từ vô thỉ tự mê chân tánh, chạy theo sự sinh diệt của loài hữu tình không lìa bỏ. Nên văn trên chép: Hòa hợp vọng sinh, hòa hợp vọng tử, nên nói cùng diệt cùng sinh. Sơ quả của người Hữu học tuy chưa dứt trừ tư hoặc, đã gọi là phá tất cả chướng phiền não, chứng được Nhân không, mà hoàn toàn chưa phá sở tri chướng, pháp chấp vẫn còn. Cho nên nói giống như người rốt rét cách ngày. Thỉnh Phật chỉ bày về thắt gút và mở gút:
Cúi mong Đức Thế tôn từ bi thương xót chúng sinh đang bị chìm đắm trong bể khổ, chỉ bày thế nào là gút của thân tâm hiện nay, muốn mở phải bắt đâu từ đâu? Cũng làm cho chúng sinh khổ não ở đời vị lai được thoát khỏi luân hồi không rơi vào ba cõi. Nói lời ấy rồi, cùng với đại chúng năm vóc gieo sát đất cung kính rơi lệ, mong lời chỉ bày vô thượng của Như-lai. Sinh tử từ vô thỉ không thể thoát khỏi, do bị trói buộc. Nay đợi giải trừ không ngăn ngại không trói buộc, chẳng vì khẩn cầu thì không do đâu khai hiểu được, cho nên rơi lệ xin chỉ bày.
Đức Phật giảng rộng, có năm:
1. Đức Thế tôn xoa đầu:
Bấy giờ, Đức Thế tôn thương xót Ngài A-nan và các vị Hữu học trong hội, cũng vì tất cả chúng sinh ở vị lai, làm nhân xuất thế gian, làm mắt cho tương lai. Ngài phát ra ánh sáng tỏa khắp cõi Diêm-phu-đề, tay xoa đầu Anan.
Đảnh là gọi chung các căn, tuy là yếu chỉ mở và thắt gút, ma là kích động, sẽ có thời hạn mở, vỗ về và an ủi làm cho họ biết được ý chỉ sâu xa.
2. Chư Phật phát ra ánh sáng:
Khi ấy, các thế giới Phật ở mười phương rung chuyển ánh sáng, các Đức Như-lai nhiều như cát bụi ở trong các cõi ấy, mỗi Đức Như-lai từ đỉnh đầu đều phát ra ánh sáng. Ánh sáng ấy đồng thời ở cõi kia chiếu đến rừng Kỳ-hoàn, rồi rót vào đảnh Như-lai, cả đại chúng này đều được pháp chưa từng có. Vô minh trụ địa thành sáu căn, rung động là bất an, do đây mà mở gút. Chư Phật phát ra ánh sáng rót vào đỉnh đầu mỗi Đức Phật, để biểu thị một hay nhiều đều vô ngại, mình và người bình đẳng.
Văn dưới Chư Phật nêu rõ, ở đây Đức Phật giải thích thành, cùng nói cùng chứng, không có con đường nào khác.
Hỏi: Kinh này từ trước đến nay, bốn lần phát ra ánh sáng nhưng chỉ có văn này Chư Phật cùng phát ra, nhưng lại đồng nói, ở đây có gì khác nhau?
Đáp: Trước là nói giáo phá tà; kế là nói các vọng để hiển bày lý, kế nữa là định kiến để sinh trí. Nay là nhập quán thành hạnh. Trước ba lần y theo giáo phát giải, chưa thể dứt được chướng. Văn này quán thành phá hoặc, chánh động vô minh nhập vào lý pháp giới, cho nên Chư Phật phát ra ánh sáng, đồng chỉ bày ngọn nguồn của thể buộc, mở không hai. Nên biết, nói giáo phá tà, bày chân rõ vọng, lập tín thành giải, đều là việc thành hạnh thủ chứng. Ngày nay, chẳng phải việc như vậy, cho nên khác với văn trước.
3. Đồng nói về các căn bị ràng buộc.
Bấy giờ, Ngài A-nan và các đại chúng đều nghe các Đức Như-lai nhiều như cát bụi ở khắp mười phương, miệng đồng thanh bảo A-nan rằng:
Lành thay! A-nan! Ông muốn biết câu sinh vô minh là gốc ràng buộc làm cho ông trôi lăn trong sinh tử luân hồi phải chăng? Đó chính là do sáu căn của ông, chứ chẳng phải vật nào khác. Ông lại muốn biết Vô Thượng Bồ-đề làm cho ông mau chứng được an vui giải thoát, vắng lặng thường trụ phải chăng? cũng chính là sáu căn của ông, chứ chẳng phải vật nào khác. Giác minh đầu tiên khởi lên năng sở vọng sinh, tánh vắng lặng đã chia sáu căn thành khác, căn trần gặp nhau nghiệp tánh liền sinh, trôi lăn không cùng, sinh tử buộc ràng mãi. Sáu căn này là cội gốc trói buộc trong sinh tử, một niệm, vô niệm năng sở đều mất, căn trần thức tâm ngay đó tiêu tan, không có chân thật, không có vọng để dứt, tánh giác tròn sáng mắt pháp thanh tịnh.
Sáu căn này là nguồn gốc của tự tại, giải thoát, an vui diệu thường, giống như băng do hơi nước bốc lên, tướng trạng tuy thay đổi có khác nhau, nhưng tính chất ướt là giống nhau, cột mở cùng một chiếc khăn cũng như vậy.
4. A-nan lại thưa thỉnh:
A-nan tuy nghe pháp âm như thế, Tâm vẫn chưa rõ, liền cúi đầu bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Cái gì làm cho con bị sinh tử luân hồi, hoặc được an vui, diệu thường, đều là do sáu căn, chẳng phải vật gì khác?
Căn bản nhiễm tịnh chỉ có sáu căn này, không còn pháp nào khác.
Ở đây khởi lên cái thấy sinh tử luân hồi, ở đây quên tình được Niết-bàn thường lạc, chấp pháp chưa bỏ, ai thấu rõ được, cho nên thưa hỏi mong được chỉ dạy.
5. Đức Phật giải thích chung, có hai:
Văn xuôi, có hai: a.1) Nêu chung:
Phật bảo A-nan: căn trần đồng nguồn, buộc và mở không hai, tánh thức luống dối như hoa đốm trong hư không, căn, cảnh, thức không có tự thể riêng, chỉ có một chân giác, cho nên nói đồng nguồn.
Chấp vào cái thấy không mất, vọng sinh chấp chặt, gượng chia ra nhiễm tịnh, buộc vào thân tâm, từ đầu đến cuối từng niệm sinh diệt, nên gọi là buộc. Rõ tướng vô tướng, phân biệt chẳng sinh, năng sở vắng lặng, niệm tưởng vắng lặng, một pháp chẳng chấp, thể của nhất chân hiển hiện, tâm và hư không, chẳng có khác nhau, nên gọi là mở.
Tánh thức luống dối như hoa đốm trong hư không: Nghĩa là cùng với căn trần ở trên nương nhau như bóng theo hình.
Nói căn trần ở trên: Nghĩa là bóng của tánh thức này. Nay nói tánh thức tức là nói bóng căn trần ở trước, cho nên ba pháp đồng nguồn, cũng đồng với luống dối, nên văn trước nói: Cái thấy và duyên thấy đều là tướng tưởng, như hoa đốm trong hư không, đây là tánh thức luống dối.
Lại nói: Cái thấy này và duyên vốn là thể sáng suốt của Bồ-đề Diệu tịnh, tức là căn trần đồng nguồn này. a.2) Giải thích cả hai, có hai: a.2.1) Nói chung về vô tánh:
A-nan, do trần phát trí, vì căn có tướng, tướng và cái thấy không có tự tánh, đồng như bó lau. Do trần thành căn, đối căn có tướng mà lập căn cảnh, vọng thức sinh khởi. Vọng thức có công năng biến hiện ra hai pháp căn và cảnh, cho nên căn, cảnh và thức nương gá nhau, mỗi thể là không, từng thứ thành lập nên giống như bó lau. a.2.2) Nói riêng về buộc mở:
Cho nên nay ông tri kiến mà chấp thấy biết, tức là gốc vô minh, đối với tri kiến mà không chấp tri kiến, ấy là Niết-bàn vô lậu chân tịnh, làm sao trong đó có thể dung chứa vật khác.
Do A-nan hỏi lại: Cái gì làm cho con sinh tử luân hồi hay an vui, diệu thường, đều là do sáu căn, chẳng phải vật khác, nên Đức Phật trước chỉ bày ba pháp: căn, cảnh, thức chỉ có một luống dối (892) đồng một nguồn tánh. Mê là ràng buộc, biết là giải thoát, thật chẳng phải cái gì khác. Do đó chỉ bày riêng câu trả lời về kết, giúp cho không còn nghi, nhờ giải thành quán, quả mầu sẽ chứng được.
Nói tri kiến là: Lược nêu ra hai căn trong sáu căn.
Lập tri là: lược bỏ chữ kiến, giải thích ở văn kế. Ý cho rằng như trong ba việc của sáu căn, chẳng rõ được tự tánh vô lập mà thật có khởi chấp biến kế. Hoặc nghiệp do sinh, tự chịu lấy luân hồi, rơi vào các cõi. Đây chính là sáu căn, là gốc của vô minh sinh tử trói buộc. Nếu đối với thể chân đạt này, mà vọng chấp là bất sinh, vọng thấy biết giác vắng lặng. Chỉ có một tịnh bảo giác viên thành, thì sáu căn ấy là Bồ-đề Niết-bàn, vốn là thể tánh thanh tịnh, lại muốn vật gì nói là nhân khác, cho nên Kinh Bátnhã nói: Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức là thấy được Như-lai.
Ở trên nói: Cái thấy này và duyên vốn là thể bồ đề thanh tịnh mầu nhiệm, ở đây bác bỏ ngay pháp chấp vô minh, thành tựu quán môn viên thông.
Kệ tụng, có hai: b.1) Nêu lên:
Bấy giờ, Đức Thế tôn muốn nói lại nghĩa này, bèn nói kệ rằng: Nói rộng kệ tụng, đều có bốn thứ.
1. A-nậu Tốt-đổ-bà tụng, bất luận văn xuôi và kệ, chỉ đếm đủ ba mươi hai chữ thì thành một bài kệ.
2. Già-đà, Hán dịch là phúng tụng hoặc Trực tụng, nghĩa là dùng bài kệ nói pháp, chẳng bài tụng văn xuôi.
3. Kì-dạ, Hán dịch Ứng Tụng.
4. Uẩn-đa-nam, Hán dịch là Tập Thí Tụng.
Nghĩa dùng ít lời mà nhiếp nhiều nghĩa, vi cúng dường người khác tụng trì, vi sao kinh đặt nhiều bài tụng, lược có tám nghĩa.
1. Vì ít chữ mà nhiếp nhiều nghĩa.
2. Vì khen ngợi nên thường dùng kệ tụng.
3. Nói lại cho người độn căn nghe.
4. Vì người học sau này.
5. Tùy theo ý ưa thích.
6. Vì dễ thọ trì.
7. Vì làm sáng tỏ thêm lời nói trước.
8. Vì văn xuôi chưa rõ.
Nay trong kinh này, bốn thứ trước được xếp vào loại thứ hai, thứ ba, trong tám ý chính thì chỉ có ý thứ ba và ý thứ bảy, gồm thứ hai, năm, tám, nhưng nhìn lại bài tụng văn xuôi nêu ra có năm cặp. Nghĩa là có không, nói đủ nói lược, ly và hợp, trước và sau, ẩn hoặc hiển, dẫn đến văn rất rõ ràng dễ hiểu. Bài tụng văn xuôi, Ứng Tụng, Phúng tụng này lẫn lộn nhau, nối nhau khởi lên, lại xoay vần sinh ra. Đại ý là bác bỏ vô minh pháp chấp, làm cho quán môn rõ ràng, tu hành thanh tịnh chứng nhập nhất chân pháp giới. b.2) Chính là tụng, có sáu: b.2.1) Hai câu tụng đầu nêu ra tông phá chấp, có hai:-Tỷ lượng chánh bác bỏ:
Chân tánh hữu vi không Duyên sinh nên như huyễn Vô vi chẳng sinh diệt Không thật như hoa đốm.
Văn này chính là bác bỏ vô minh pháp chấp, chấp vô vi có thật thể, đều mê lầm chân tánh, pháp giới nhất chân vốn chẳng phải đối đãi, cho nên trong đó phá cả hai, tức là nguyên nhân của mở gút.
Bốn câu trong đây, hai câu trước là bác bỏ hữu vi, hai câu sau là bác bỏ vô vi. Cả hai trước sau này không lập mới hiển rõ nghĩa pháp giới nhất tướng.
Nói tánh hữu vi vốn không là nói tánh chân, thật chính là nêu tông chọn pháp, chung cho cả lượng chuyển thứ hai ở dưới. Nghĩa là nói về đệ nhất nghĩa đế Trung đạo nhất chân nên lập lượng rằng: Chân tánh hữu vi vốn chẳng thật có, vì từ duyên giống như việc hư huyễn. Chân tánh vô vi xưa nay chẳng thật có, vì không sinh diệt, như hoa đốm trong hư không. Bởi vậy, ba chi trong hai lượng thức này không thiếu, nêu ra lựa chọn rõ ràng, không có các lỗi. Trong luận Chưởng Trân chấp cho là khéo lập ra, trong lượng thức thứ hai, nêu ra Nhân trước Tông sau, người dịch lại nói cũng không sai, nghĩa này đã bày rõ. Nhất chân bình đẳng không có các sự đối đãi chân vọng, nhiễm tịnh, sinh tử, Niết-bàn, phàm Thánh, Chư Phật đều như hoa đốm loạn khởi loạn diệt. Nên văn dưới nói: Tất cả thế giới núi sông, đất đai, sinh tử, Niếtbàn đều là tướng trạng cuồng loạn điên đảo. Cho nên Trung Luận nói: Nếu pháp là đối đãi mà thành, thì pháp đó lại thành đối đãi. Nay thì không có nhân đối đãi, cũng không có pháp để thành, nói lên trong Đệ nhất nghĩa đế này, lìa tất cả tướng, nói năng, đoạn diệt chỗ tâm hành, vô minh pháp chấp ngay đây cùng tận.
-Hiển bày lỗi so sánh để bác bỏ:
Nói vọng để bày chân, vọng chân đều là vọng, vẫn chẳng chân, phi chân, đâu có kiến sở kiến?
Hai câu đầu lại bày lỗi trước, vì hữu vi, vô vi là đối đãi, cũng là bác bỏ chấp chân tánh là có, lại đồng với luống dối, người mê hoặc bàn luận rằng: Đối với chân tánh tuy mất hưu vi, vô vi, nhưng chân tánh này lẽ ra có sở đắc, đây là điều Phật chứng, xa lìa các tà ngụy luống dối, nên gọi là chân. Tánh các pháp đó rốt rốt ráo lẽ ra là có, nên ở đây rằng: Nếu nói có chân tánh do lìa vọng hiển bày thì lại đồng với pháp vọng, cả hai đều là vọng. Vì đây là cảnh biến chấp sở duyên, chân lìa vọng, lại nhân vọng mà hiển bày, như văn trước nói: Tâm Bồ-đề sinh, tâm sinh diệt diệt, ở đây cũng sanh diệt.
Luận Khởi Tín nói: Nói chân như, cũng không có tướng, nghĩa là cùng cực của lời nói, là nhân lời nói mà điều khiển lời nói, thể của chân như này không thể sai khiến, vì tất cả pháp đều là chân, cũng không thể lập, vì tất cả pháp đều như nhau. Nên biết tất cả pháp không thể nói, năng, không thể suy nghĩ, bàn luận, cho nên gọi là chân như. Nên biết, nếu có chân như làm sở đắc đều là vọng, cho nên nói vọng chân đều là vọng.
Hai câu vẫn chẳng chân, phi chân v.v... là so sánh bác bỏ chấp vọng, câu đầu thuộc về sở phi ở trước, vẫn còn vô chân và bất chân. Bất chân tức là vọng.
Câu kế là so sánh đúng: Làm sao còn năng kiến, sở kiến? Căn và thức đều gọi là kiến, sở kiến tức là cảnh, ở đây phá chung cả hai tâm chân và vọng, các pháp đối đãi đều không có gì, mới gọi là hiển bày pháp giới thanh tịnh, nhất chân bình đẳng.
Hai câu tụng trên đây, chính là tụng căn trần đồng nguồn ở trước. Bổn nguyên tự tánh vẫn chẳng phải chân và vọng, đâu được có trong ba pháp căn, trần, thức, cho nên căn, cảnh, thức đồng với nhất nguyên này. b.2.2) Hai câu tụng nói về gút và mở đồng thể:
Trong đó chẳng thật tánh, cho nên như bó lau, tụng căn trần trước, kích phát, nhìn thấy lẫn nhau, vô tánh như bó lau.
Cột mở đồng sở nhân, phàm Thánh không hai đường, tạng mở gút trước cũng là một. Phàm phu trong sáu đường bị nghiệp mê hoặc trói buộc không được tự tại, nên gọi là Buộc.
Hiền Thánh ba thừa dứt hoặc chứng lý không bị nghiệp ràng buộc. Đó gọi là mở. Ở đây đều do sáu căn dẫn đến mê hoặc ngộ. Chẳng còn có lối rẽ khác, nên nói không hai đường.
Ông xem tánh giao nhau, không và hữu đều phi, trong sự xen nhau vô tánh, dùng cái gì khiến có mà lại còn vô, trong một tánh không có đối đãi.
Triệu Công nói: Hữu đã vô thì không cũng vô, đây là nói ngay Trung đạo của căn trần, cũng là nghĩa đồng nguồn của căn trần ở trên.
Mê muội tức vô minh, phát minh liền giải thoát, văn tụng tri kiến chấp tri kiến ở trước v.v... là mê căn chấp cảnh, chẳng rõ tánh không vọng chấp là có, tức là vô minh.
Rõ tánh là không tánh chân, vọng như một, ba pháp căn, cảnh, thức không thể nào trói buộc, đó gọi là giải thoát. Đây là Niết-bàn chân tịnh vô lậu b.2.3) Một bài tụng làm sinh khởi văn dưới:
Mở gút mở thứ lớp, sáu mở một cũng mất, làm sinh sự nghi ngờ sáu mở một mất.
Nhờ thứ lớp là: Văn dưới chép: Căn này ban đầu giải thích trước được nhân không. Tánh không, tròn sáng, thành tựu pháp giải thoát. Pháp giải thoát đã chẳng phải không bất sinh.(Tám trăm chín mươi ba) gọi là Bồ-tát từ Tam-ma-địa được Vô sinh nhẫn. Một cũng mất: nghĩa là Văn dưới nói: Ngày nay nếu Đức Như-lai giải trừ chung, nếu kết không sinh thì không có kia đây, còn không gọi là một, sáu làm sao thành.
Căn chọn lựa viên thông, nhập lưu thành Chánh giác, làm sinh khởi văn dưới viên thông, tu chứng, liền chấp vào Quán Âm thanh theo môn nhĩ căn mà nhập vào Tamma-địa. Ngài Văn-thù đã chọn, có thể cùng ngài A-nan và mọi người ở cõi này nhập lưu thành Chánh giác. b.2.4) Một bài tụng về vô minh tập khí:
Thức Đà-na nhỏ nhiệm, tập khí thành dòng thác, Ađà-na Hán dịch chấp trì, là thức thứ tám, vì hạt giống năng chấp tri mà khởi lên hiện hành, thức thứ tám có nhiều tên, tên này là thông dụng nhất, trong địa vị thứ ba là địa vị nối nhau chấp trì huân tập hạt giống vô minh không dứt.
Như dòng thác, nước chảy xiết không dứt, cảnh giới sâu kín chỉ có Phật mới biết. Cho nên Luận Khởi Tín nói: Thức do vô minh huân tập sinh khởi phàm phu không thể biết, trí tuệ của hàng Nhị Thừa cũng không thể biết. Nghĩa là nương vào Bồ-tát từ chánh tín ban đầu mà phát tâm quán sát. Nếu chứng được pháp thân, được chút hiểu biết, cho đến ở địa vị rốt ráo của Bồ-tát cũng không thể biết hết, chỉ có Phật mới biết tận cùng. Sợ chấp chân phi chân, nên ta không giảng nói. Nghĩa là thể của thức này chỉ có chân thì không thể lập, chỉ có vọng thì không thể thành, chân vọng hòa hợp lại mới có hành vi. Luận Khởi Tín nói: Nghĩa bất sinh diệt và sinh diệt hòa hợp lại chẳng phải một, chẳng phải khác. Đó là thức Alại-da.
Nếu nói tức chân thì vọng tập làm sao hết được. Phàm phu ngoại đạo sinh khởi thường chấp là chân ngã. Nếu nói là vọng, sợ bác bỏ cho là đoạn diệt. Vì chân pháp không diệt, cho nên nói với tạng giáo của Tiểu thừa và quyền giáo Đại thừa không nói thức thứ tám.
Kinh Thâm Mật nói: thức A-đà-na rất sâu kín, tất cả hạt giống thành giòng thác. Ta không giảng cho kẻ phàm ngu nghe, sợ họ phân biệt chấp cho là ngã. Văn trước ý hiển bày, ba pháp căn, cảnh, thức và sáu thứ ràng buộc ở trước, đều do thức này huân tập biến hiện ra. Chấp chân chấp vọng thấy có thấy không, chỉ có hình bóng của thức này, cho đến Bồ-tát Thập địa được thấy thân Phật, thấy nghiệp thức ở trên. Nếu Đức Như-lai đã lìa nghiệp thức thì không thấy tướng mình và người.
Như Luận Khởi Tín nói: Như thế hiển ngay sự đã xa lìa câu sinh vô minh. b.2.5) Một bài tụng, một câu làm cho huyễn thành chẳng phải huyễn, tâm chấp tự tâm, phi huyễn thành pháp huyễn, tất cả các pháp chỉ do thức biến hiện, cho nên nói đều do tự tâm. Sáu bất liễu ở trước, cái thấy từ bên ngoài đến, chấp lấy mà phân biệt. Nên Luận Khởi Tín nói: ba cõi luống dối chỉ do tâm tạo ra, lìa tâm thì không có cảnh giới sáu trần, vì tất cả pháp đều từ tâm niệm vọng khởi mà sinh ra. Phân biệt tất cả tức là phân biệt tự tâm, nên nói là tự tâm chấp tự tâm. Nếu dùng diệu tánh viên minh lìa các danh tướng, xưa nay không có thế giới, chúng sinh, thì gọi là phi huyễn. Do vọng thấy chớ sinh ra tướng giác minh hiển hiện. Bốn đại chia ra nhiều thứ, căn trần hình thành, cho nên nói thành pháp huyễn. Nhưng nói là huyễn: Vì mỗi pháp đều chẳng có tự tánh. Chẳng chấp thì đều là huyễn, phi huyễn còn chẳng sinh, pháp huyễn làm sao lập? Phân biệt bất sinh, dứt bờ mé trước sau, chân còn không có, vọng lập ở đâu? Cho nên đối với tánh chân thường cầu mê ngộ, đến đi, sinh tử, hoàn toàn không thật có, cho nên Nhất tướng bình đẳng.
Mê, ngộ đều mất, sinh tử Niết-bàn như giấc mộng đêm qua. Nên Tăng Triệu nói: Hễ chẳng còn, thì không quán pháp, có thể gọi là thấy tướng thật các pháp. b.2.6) Một bài tụng ba câu khen ngợi pháp làm cho vui mừng:
Đó gọi là Diệu Liên Hoa, quán tánh bình đẳng này, có công năng phá trừ vô minh, khai tri kiến Phật. Tánh tri kiến này, chỗ vọng thường chân, ở chỗ nhiễm mà không bị dơ bẩn, nay được hiện phát như hoa sen nở ra trên mặt nước, nên lấy đó làm ví dụ.
Kim Cương Vương Bảo Giác: Vô minh bền chắc, rất khó hủy hoại, một niệm phá được, định lực kim cương, định này rất cao siêu, không thể nào vượt qua, đối với pháp tự tại, thật đáng quý trọng, như ngọc Ma-ni tùy theo ý muốn sinh ra quả Vô thượng giác, gọi là Vương Bảo Giác.
Tam-ma-địa như huyễn: Ở đây quán hiện tiền, biết rõ tất cả pháp đều như huyễn hóa, như gương sáng hiện các sắc tượng, thể tánh mỗi sắc tượng chẳng thật có, đồng một gương sáng, chẳng tức chẳng lìa, Tam-ma-đề, Hán dịch là chánh thọ, nghĩa là không thọ các thọ.
Búng tay vượt Vô học: Ở đây hiển rõ sự nhanh chóng đạt đến Đại giác, cho nên một niệm không sinh gọi là Phật, vượt qua lời nói địa vị số kiếp, như văn trước nói: dứt bặt tức Bồ-đề.
Kinh Viên Giác cũng nói: Lìa huyễn tức giác, cũng không có thứ lớp, đều là nghĩa này. Nhưng đến lúc giác ngộ cũng không phải quả của mình để làm sở đắc, nên gọi là Siêu Vô học, cũng y theo nhanh chậm để so sánh, cho nên nói là siêu, chẳng phải đều vượt qua địa vị, thẳng đến bậc Vô Thượng giác.
A-tỳ-đạt-ma này: Chư Phật ở mười phương, chỉ một đường Niết-bàn. A-tỳ-đạt-ma, Hán dịch vô Tỷ pháp, chỉ có Tam-muội này, cũng gọi Đối pháp, tức dùng đại tuệ bình đẳng của Đại thừa hướng về Nhất chân pháp giới. Thể dụng hiển hiện, lý trí như một, nên gọi là Đối pháp. Bạc-già phạm nói đủ có sáu nghĩa, đó là: Tự tại, xí thạnh, đoan nghiêm, danh xưng, cát tường và tôn quý. Chư Phật mười phương chứng được quả mầu nhiệm Bồ-đề Niếtbàn, chỉ có con đường này, có khả năng thông suốt đến bờ kia, nên gọi là Môn. Do lời thỉnh trước nói phải từ cửa để vào, nên chỉ bày Kim Cương Tam-muội này, mới được nhập môn.
Nghi sáu mở một mất, có hai:
1. Nghi quyết định thỉnh, có hai:
a) Kể lại niềm vui đã nghe:
Lúc bấy giờ, A-nan và đại chúng nghe lời dạy vô thượng và bài tụng tinh túy nói về lý mầu sáng suốt của Phật rồi, tâm được sáng tỏ, khen ngợi là pháp chưa từng có, văn năng thuyên: Giữa bốn câu và ứng tụng xen câu từ tuyệt diệu. Lý sở thuyên rõ ràng thấu suốt, sáng sủa rất dễ thấy, nên làm cho tâm khai ngộ như tấm gương trước mặt.
b) Trình bày ý nghi ngờ:
A-nan chắp tay bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn, nay con dẫu nghe tánh đại từ, lời lẽ chân thật mầu nhiệm trong sáng của Phật, nhưng tâm con vẫn chưa rõ nghĩa "sáu mở một mất", về thứ lớp của nghĩa ấy, xin Phật rủ lòng từ bi thương xót cả hội này và chúng sinh đời tương lai, mà bố thí pháp âm, gội sạch bụi trần. Vâng theo lời bài kệ trước nói, nguyên nhân thứ tư "sáu mở một cũng mất" về mở gút. Ý ngài A-nan nghi ngờ, văn trước đã nói, căn trần cùng nguồn, buộc mở không hai, mê mờ là vô minh, phát minh là giải thoát, đây là buộc không có thứ lớp, mở cũng không theo thứ lớp. Nếu sáu căn mất đi một thi giác lẽ ra hiển bày. Vì sao lại nói: buộc mở do thứ lớp, sáu mở một mất, bởi vậy, nói tâm vẫn chưa rỏ, xin Đức Phật rủ lòng thương xót rửa sạch bụi nhỏ.
2. Nêu ra việc nói rộng, có ba:
a) Lại nói về nhân khởi kết, có hai:
Nêu việc, có hai: a.1.1) Hỏi đáp về tên kết, có hai: * Hỏi về cột gút, có hai:
- Trước hỏi về cột gút:
Bấy giờ, Như-lai ngồi trên tòa sư tử, sửa lại Niết-bàn tăng, kéo lại tăng-già-lê, xoay mình trên chiếc ghế bảy báu, tay đặt trên ghế, dùng chiếc khăn bông kiếp-Ba-La do cõi trời cúng dường (tám trăm chín mươi bốn) ở trước đại chúng thắt một cái gút rồi bảo A-nan: Đây là cái gì? A-nan và đại chúng đều bạch Phật rằng: Đây gọi là gút. Niết-bàn-tăng là: Áo trong, Tăng-già-lê là: Đại y. Kiếpba gọi là Thời phần, khăn này được người cõi trời cúng dường, chưa rõ duyên khởi.
- Lại gút lại hỏi:
Bây giờ, Đức Như-lai lại thắt thêm một cái gút trên chiếc khăn bông nữa, lại hỏi A-nan. Đây gọi là gì?
A-nan và đại chúng lại thưa: Đây cũng gọi là gút.
Đức Phật lần lượt gút trên chiếc khăn bông thành sáu gút, mỗi khi thắt xong một gút, đều hỏi A-nan về cái gút vừa thắt xong: Đây gọi là gì?
A-nan và đại chúng cũng tuần tự trả lời rằng: Đây gọi là cái gút, như văn kinh chép. a.1.2) Y theo thể để hỏi tên:
Phật bảo A-nan: Khi ta mới thắt cái khăn thì ông gọi là thắt gút, chiếc khăn bông này vốn chỉ có một, lần thứ hai, lần thứ ba các ông cũng gọi là thắt?
A-nan bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn: chiếc khăn báu này do dệt mà thành, tuy vốn là một thể, nhưng con nghĩ rằng: Như-lai thắt một lần thì gọi là một gút, nếu thắt đến trăm lần thì phải gọi trăm cái gút, huống chi khăn này chỉ có sáu gút, không đến bảy gút, cũng không dừng ở năm gút.
Vì sao Như-lai chỉ cho cái gút đầu tiên được gọi là gút, còn cái thứ hai, thứ ba thì chẳng gọi là gút. Khăn dụ cho chân tánh, gút dụ cho sáu căn, bèn gút mà hỏi. Tướng do vọng phân biệt, làm cho căn vốn là một niệm vọng kết sinh ra sáu căn, trong cái không có đồng khác nhưng phút chốc thành khác, nên mỗi gút đều gọi là gút.
b) Giải thích về đồng và khác, có hai:
b.1) Hỏi đáp:
Phật bảo A-nan: Thật ra chiếc khăn hoa báu này, ông biết khăn này vốn chỉ là một, khi ta thắt sáu lần thì gọi là gút. Ông hãy nhìn kỹ, thể của khăn là đồng, do thắt mà thành khác, ý ông thế nào? Cái gút đầu tiên gọi là gút thứ nhất, như thế cho đến gút thứ sáu sinh ra. Nay ta muốn đem gút thứ sáu làm gút thứ nhất được không?
A-nan trả lời: Bạch Đức Thế tôn, không thể được, sáu gút còn thì gút thứ sáu này rốt ráo chẳng gọi là gút thứ nhất được, dẫu cho con dùng hết biện tài nhiều kiếp để làm sáng tỏ nghĩa lý, chẳng thế nào làm cho sáu gút lộn tên được. Thể tuy là một, vọng gút thành sáu căn, đã thành căn rồi, sáu thứ danh tướng theo tâm chấp đắm không thể dời đổi, cho nên nói không thể gọi lộn tên được
b.2) Ấn thành:
Phật bảo: Đúng thế, sáu gút khác nhau, y theo nguyên bản nhân, chỉ do một khăn tạo ra, làm cho lẫn lộn chẳng bao giờ được thành, như văn kinh chép.
c) Hợp hiển:
Cho nên sáu căn của ông cũng như vậy, trong rốt ráo đồng sinh ra rốt ráo khác, tâm mê chấp cảnh, không khác cũng thành khác, cho nên văn dưới nói: Vốn nương vào một phần tinh minh chia thành sáu hòa hợp, tức là nghĩa này.
Chỉ thẳng sáu mở một mất, có hai:
1. Y theo việc để hỏi đáp:
Phật bảo A-nan: Ông hẳn sợ sáu gút này không thành mà mong muốn thành một, thì làm sao được?
A-nan thưa: nếu gút này còn, thì đúng sai móng khởi, trong đó tự sinh gút này chẳng phải gút kia, gút kia chẳng phải gút này. Hôm nay Như-lai giải tỏa tất cả, nếu gút chẳng sinh thì không có kia đây, còn có một tên thì làm sao thành sáu.
Trong đây nhà phiên dịch góp nhặt thiếu, nên nói: Muốn được không thành, mong thành một thì làm sao được?
Ý Phật nói: Ý ông sợ rằng sáu căn này vọng ngăn cách, muốn thành một thể, có cách nào mới thành một thể được?
Ý đáp: Nếu mở sáu căn cũng không thành một, dùng một đối sáu mà lập ra, nếu sáu căn chẳng sinh thì không có đối lập, cho nên không có một nghĩa.
2. Nêu ví dụ để giải thích thành tựu:
Phật nói nghĩa "sáu mở một mất" cũng như vậy, do tâm tánh ông từ vô thỉ cuồng loạn, vọng phát trí kiến, phát vọng không dứt, nhìn lâu mỏi mệt cái thấy phát ra cảnh trần, khi mắt nhìn mỏi thì có hóa đốm lăng xăng, trong sự vắng lặng tinh minh, không có nguyên nhân thế gian núi sông, đất đai loại khởi, sinh tử Niết-bàn đều là hoa đốm điên đảo mỏi mệt cuồng loạn sinh ra, tâm tánh phát cuồng loạn, vọng ngăn cách sự thấy, nghe, ba pháp căn, cảnh, thức đều hiện ra cùng lúc. Sinh tử là sáu, Niếtbàn là một, do đối đãi mà thành, vốn không thật có. Nên như tướng hoa đốm luống dối mệt mỏi sinh ra. Vì ba thứ thế gian gọi là tất cả cõi Phật, cõi chúng sinh, tất cả cảnh giới đều chẳng lìa ở đây, như thế vì khởi lên vọng niệm phân biệt, vì lìa tâm thì không có sáu trần cảnh.
Lại nói về thứ lớp mở gút, có hai:
1. Chỉ bày nguyên nhân mở, có ba: a) Chọn sai bày đúng, có hai:
-Hai bên đều sai.
A-nan hỏi: Cái mỏi mệt nầy đồng với cái gút kia làm sao mở được? Như-lai dùng tay kéo lệch chiếc khăn đã thắt gút về bên trái, rồi hỏi A-nan: Như thế này có mở được chăng?
A-nan đáp: Bạch Thế tôn, không được.
Phật lại dùng tay kéo lệch về bên phải hỏi A-nan: Thế này có mở được chăng?
A-nan đáp: Bạch Thế Tôn, không mở được.
Nếu người chấp căn này có thật thể, thì rơi vào chấp thường. Nếu cho rằng những thứ đó đều không, tạo thành chấp không một cách sai lầm, Chư Phật chẳng giáo hóa được, thì khởi chấp cố như núi Tu-di, chẳng khởi lên chấp không dù nhỏ như hạt cải, vì rơi vào chấp đoạn, đã có tướng bên trái thì bên phải rơi vào cửa không, chẳng có hai bên, đều không thấy tánh. Gốc vô minh đã cột làm sao mở? Nên bài kệ trước nói: Ông quán tánh bó lau, không hữu cả hai đều sai, cho nên nói hai bên không thể làm cho giải thoát, hai tâm giữa mới là đúng.
Phật bảo A-nan: Nay ta dùng tay kéo mối về hai bên mà chẳng mở được. Vậy, ông có cách nào mở được chăng?
A-nan bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn, phải mở ở tâm buộc mới mở được.
Phật bảo A-nan: Đúng thế! Đúng thế! Nếu muốn mở gút thì phải kết tâm, ý nói hai bên không hữu đã không thể mở được, phải là Trung đạo, quán chiếu chân chánh, gốc kiết từ vô thỉ chẳng phải có, chẳng phải không, không khác mà khác, thấy toàn bồ pháp tánh vô minh, dứt tất cả vô minh pháp tánh không dứt mà dứt, chẳng dứt mà chứng mới mở được.
b) Chỉ bày nhân duyên chân thật, có hai:
b.1) Hiển hiện ý nói này:
Nầy A-nan! Ta nói Phật pháp từ nhân duyên sinh, chẳng phải dùng tướng thô hòa hợp của thế gian, biết rõ được nhân gốc của nó theo duyên gì sinh ra chính. Quán Trung đạo Tam-muội Như huyễn, có thể mở cái gút cội gốc vô minh từ vô thỉ, có khả năng ở trong thời gian búng ngón tay mà vượt lên chứng bậc Vô học, hay không có chỗ khởi lên dụng không thể suy nghĩ bàn luận. Đây gọi là Phật pháp từ nhân duyên sinh, hòa đồng với tướng thô mà thế gian nói. Vì Đức Phật dứt hẳn hết vô minh, được Nhất-thiết-chủng-trí, nên biết được nguyên nhân mở gút này chẳng phải cảnh giới khác.
b.2) Chỉ bày riêng về sở tri:
Như thế cho đến giọt mưa ở ngoài hằng sa thế giới cũng biết được số, trước mắt các thứ thông thẳng, gai cong, cò trắng, quạ đen v.v... đều rõ lý do, tất cả các cảnh giới sắc tâm, tịnh nhiễm của thế gian đều nương vào vô minh mà được trụ trì. Nay vô minh đã biến thành minh, minh là trí Nhất thiết chủng. Đức Phật đã chứng được tất cả cảnh giới, điều đó có gì là khó hiểu, bởi vậy sẽ rõ được lý do.
c) Nêu chung lợi ích của mở:
Bởi vậy A-nan! Trong tâm ông chọn lựa sáu căn, nếu gốc căn dứt được thì tướng trần tự dứt, vọng tưởng liền tiêu, không chân thật làm sao đối đãi?
Văn trên nói: Nếu ngay đây ngộ được căn Viên thông, trái với vọng nghiệp trôi lăn diệt vô thỉ kia kết hợp nên, lần lượt được viên thông (tám trăm chín mươi lăm) ngày càng gấp bội với căn không viên thông, chỉ vì kẻ thấp hèn như ông chưa có khả năng đối với trí tuệ tự tại tròn đầy, nên ta mới giảng nói, giúp cho ông chỉ cần thâm nhập một môn, thâm nhập một môn rồi thì chẳng vọng phân biệt nguồn gốc của sáu căn kia thanh tịnh cùng một lúc, cho nên nói chưa chọn.
Văn ở dưới nói: Thấy nghe như mắt nhậm, ba cõi như hoa đốm trong hư không, nghe lại thì căn trừ, trần tiêu giác vắng lặng, nên các vọng tiêu mất chẳng phải chân thật làm sao đối đãi.
2. Nói thứ lớp, có hai:
a) Y theo việc mà hỏi đáp:
A-nan: nay ta hỏi ông, cái khăn sáu gút của cõi trời kiếp-ba-la này hiện tiền một lúc mở ra có được cùng lúc tiêu trừ hay không?
A-nan đáp: Bạch Đức Thế tôn, không được.
Kết này khi thắt có thứ lớp, nay mở cũng phải theo thứ lớp, sáu gút đồng thể, nhưng gút chẳng đồng một lúc thì làm sao cột mở đồng một lúc? Nên nói làm sao đồng tiêu trừ. Điều này nói lên sáu căn không thể mở cùng lúc, nhưng phải từ cửa một căn, liền được sáu căn giải thoát, chẳng phải sáu căn đối nhau thành thứ lớp, chỉ hợp lại quán xét rõ thì nghĩa tự sáng tỏ.
b) Y theo pháp, hợp lại hiển bày:
Phật nói: Mở bỏ sáu căn cũng như vậy, căn này mới mở thì trước được người không, tánh không tròn sáng thì thành pháp giải thoát, pháp giải thoát thành tựu, cả hai đều chẳng phải sinh, ấy gọi là Bồ-tát từ Tam-ma-địa được pháp Vô sinh nhẫn. Đây chính là nói thứ lớp.
Như văn ở dưới nói: Đầu tiên ở trong cái nghe vào dòng quên sở, sở nhập đã vắng lặng thì hai tướng động tĩnh rõ ràng, chẳng sinh. Như vậy, lần lần tăng lên, cái nghe và cái được nghe cùng tận. Như thế căn này vừa mở trước liền được người không, nghe tận không trụ, giác là giác không, ngay đó thành pháp giải thoát, không giác cực tròn đầy thì không, sở không diệt, tức đều không bất sinh, sinh diệt đã diệt, vắng lặng hiện tiền, liền được Vô Sinh nhẫn.
Kinh Duy-ma nói: Lại bệnh này khởi lên đều do chấp ngã, vì thế đối với ngã không nên sinh tâm mê đắm, biết được gốc bệnh thì liền trừ được ngã tưởng, pháp tưởng sẽ khởi lên, nên nghĩ rằng: Chỉ vì các pháp hợp thành thân này, khởi chỉ có pháp khởi, diệt chỉ có pháp diệt, nên nghĩ rằng: Pháp tưởng này chính là điên đảo, ta nên xa lìa, làm sao xa lìa được?
Nghĩa là không nghĩ nhớ các pháp trong ngoài, thực hành bình đẳng, nghĩa là ta bình đẳng với Niết-bàn v.v... Vì sao? Vì ta và Niết-bàn cả hai đều không, cho đến được bình đẳng này chỉ có bệnh không, bệnh không cũng không, cho nên thành tựu ngay ở thân, thực hành ba môn quán không. Nên theo thứ lớp quán xét và thứ lớp lìa.
Kinh này chỉ nhập vào một căn, tự nhiên chấp thô, trước dứt thứ lớp chứng đắc, quán hành tuy có khác, nhưng đắc thì đồng, chính là y cứ theo pháp quán viên đốn, nhưng từ nơi một căn mà vào chẳng phải y theo sáu căn đốn giải.
Cho nên nói thứ lớp, không đồng với thứ lớp tiệm thứ là nói theo độn căn.
Các giải thích v.v... không thể trình bày đủ.
Dẫn rộng về tu chứng, có bốn.
1. A-nan thưa hỏi về căn Viên thông, có bốn:
a) Trình bày sự nghi ngờ:
A-nan và cái đại chúng, nhờ Phật chỉ bày tuệ giác viên thông, chẳng còn nghi ngờ bèn cùng nhau chắp tay, đảnh lễ bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn, nay chúng con thâm tâm rỏ ràng vô ngại, dẫu ngộ được nghĩa "một sáu đều mất", nhưng con chưa thấy được căn bản của viên thông, tuệ giác Viên thông nhờ đó được chỉ bày, nguồn gốc lối vào chưa được sáng suốt. Cho nên hôm nay lại mong được hiểu thấu suốt.
b) Thuật lại còn đang mê được gặp Phật:
Bạch Đức Thế tôn chúng con bị trôi lăn, lẻ loi từ nhiều kiếp, ngờ đâu lại được làm đệ tử Phật, như đứa con khát sữa bỗng được gặp mẹ hiền. Trái với sự hiểu biết, hợp với trần cảnh gọi là lẻ loi, trôi nổi trong sáu đường gọi là trôi lăn, bỗng nhiên gặp được Phật làm em họ Phật, gọi là dự vào thiên luân do sự gặp gỡ này, như con được gặp mẹ, pháp thân được lâu dài.
c) Tổng kết hiển bày lợi ích:
Nếu nhân cơ hội này mà thành đạo, được mật ngữ của Phật đồng với bổn ngộ của con, thì chẳng khác gì người chưa nghe. Lúc gặp tức là hội ngộ, lúc gặp là gặp Phật, mới biết hòa hợp với mình, hoặc không hề mê mờ nên gọi là bổn ngộ, giác ngộ. Đã không hề mê, chỉ là một cái biết. Sao lại có sự khác nhau về thấy, nghe? Cho nên nói chẳng có gì khác với người chưa nghe. Ở đây lược nêu nhĩ căn trong sáu căn. Điều A-nan đã thỉnh, ý ở căn này, xin Phật chỉ bày rõ về cơ yếu mầu nhiệm đó.
Như-lai biết điều mầu nhiệm, ngài bèn dạy đại chúng mỗi người nói về sở ngộ của mình. Ngài Quán Âm và Văn-thù nhân cơ yếu thuật lại, vi cảm ứng mà cứu giúp cho chúng sinh, hóa đạo được thành tựu, đối với ngày nay nhận và ban, đâu được quên gốc?
d) Xin chỉ bày pháp môn:
Cúi xin Phật rủ lòng thương xót ban sự bí mật, trang nghiêm cho con, để con thành tựu được lời chỉ dạy cuối cùng của Như-lai. Nói xong, năm vóc gieo sát đất thối tạng bí cơ, mong Phật thầm trao. Bí là mật, diệu là nghiêm là định Thủ-lăng-nghiêm, chỉ bày cuối cùng tức là nơi cuối cùng. Nghĩ đến yếu cơ mầu nhiệm tinh tế, vắng lặng bất động, đó gọi là Thối tạng, tức muốn đem vắng lặng trở về với sự luống dối, sinh diệt kia để điều phục cái biết đầu tiên, cho nên mong Phật thầm trao.
2. Đức Như-lai hỏi các Thánh chúng:
Lúc bấy giờ, Đức Thế tôn bảo khắp các vị đại Bồ-tát và các vị Đại A-la-hán vô lậu ở trong đại chúng rằng: Các thầy là Bồ-tát và A-la-hán, sinh vào trong pháp ta, đã chứng quả Vô học. Nay ta hỏi các thầy, lúc mới phát tâm, ngộ mười tám giới, thì ai được viên thông, từ phương tiện gì được nhập vào Tam-ma-địa?
Từ miệng vàng của Phật sinh ra, từ pháp hóa sinh được phần pháp của Phật, gọi là sinh vào pháp của ta. Phía dưới tuy có hai mươi lăm môn, các bậc Thánh vào đạo nhiếp chung chẳng lìa mười tám giới, cho nên nêu ra để hỏi, giúp cho mỗi vị tự kể lại.
3. Các bậc Thánh đều nói pháp môn tu chứng, có năm:
a) Bỏ trần theo giác để chứng, có sáu:
Kiều-trần-như: có ba: a.1.1) Gặp Phật được ngộ:
Năm anh em Kiều-trần-như, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật bạch Đức Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Lúc con ở vườn nai và vườn gà, quán thấy lúc Như-lai mới thành đạo, đầu tiên do âm thanh Phật mà con ngộ Bốn Thánh đế. Kiều-Trần-Na là họ, Hán dịch là Hỏa Khí, trước kia thờ lửa, là từ dòng tộc này.
Năm Tỳ-kheo: Ban đầu Phật bỏ nước vào núi tu đạo, Vua Tịnh Phạn sai ba vị trong dòng tộc là A-Thấp-bà, Bạt-đề, Ma-ha-nam Câu-lợi và hai người cậu (em của mẹ) là Kiều-trần-na và Thập Lực Ca-diếp.
Vua ra lệnh cho họ đi theo bảo vệ Thái tử, năm vị vâng lệnh, về sau đều bỏ đi tu, ở trong vườn nai cùng tu đạo khác. Khi Đức Như-lai đã đắc quả ngài suy nghĩ xem nên độ người nào trước. Phật lại nhớ đến năm vị này trước kia đã từng bảo vệ, che chở ngài, liền đến xoay bánh xe pháp ba lần để độ họ.
Đức Như-lai hỏi: Các thầy hiểu không?
Trần-na trả lời trước: Dạ đã hiểu đã biết, các vị trời ở trên hư không cũng nói hiểu, nên Phật ban cho họ tên la A-nhã-đa. A-nhã-đa, Hán dịch là Giải, hoặc dịch là đã biết. Vườn gà là tên một ngôi Tinh xá. a.1.2) Trình bày về yếu chỉ giác ngộ:
Phật hỏi các Tỳ-kheo, con là người ngộ giải đầu tiên, nên Như-lai ấn chứng cho con tên là A-nhã-đa, được diệu âm mật viên, nhờ âm thanh mà con đắc quả A-lahán. Dẫu ngộ được bốn Thánh đế, lại hiểu rõ âm thanh vốn thường sâu kín mật viên đầy đủ, không hề sinh diệt, chỉ một tánh giác. Ở đây rõ được tánh rỗng không của âm thanh, chỉ cho Như-lai tạng, cho gọi là Diệu Âm Mật Viên.
Pháp môn viên thông mà kinh này nói, chỉ chấp vào thật chứng thì không thể y theo tướng mà giải thoát. Văn dưới nói: Đức Như-lai dạy ngài Văn-thù rằng:
(Năm trăm chín mươi sáu) Hai mươi lăm vị Vô học đều nói tu tập viên thông chân thật, họ đều tu hành, thật ra chẳng có hơn kém, trước sau khác nhau. Nên biết văn này chính là nhập vào pháp môn Âm thanh tuệ, hiểu rõ thật tướng của âm thanh. a.1.3) Kết những điều đã hỏi:
Phật hỏi về viên thông, như sở chứng của con thì âm thanh là hơn cả, như văn nói: a.2) Ưu-Ba-Ni-sa-đà, có ba: a.2.1) Gặp Phật hiển ngộ:
Ưu-Ba-Ni-sa-đà liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn, con cũng được nghe lời dạy của Phật khi mới thành đạo, con quán tướng bất tịnh, sinh tâm nhàm chán, ngộ được các tánh sắc: Cũng gọi Ưu-ba-ni-sát-đàm, Hán dịch là Cận Thiểu, hoặc dịch là Trần Tánh. Nghĩa cát bụi là phần gần với sắc, do quán xương trắng bất tịnh, rồi thành cát bụi, nên dùng đó để đặt tên. Do năng về tham dục, bởi thế ở đây quán xét để đối trị. Lại hiểu rõ sắc trần vốn là Như-lai tạng, cho nên nói ngộ được tánh các sắc. a.2.2) Trình bày về yếu chỉ giác ngộ, có hai:-Quán thành đắc đạo:
Từ xương trắng bất tịnh hóa thành cát bụi, rồi cuối cùng trở về với hư không, sắc và không cả hai vốn không thật có, nên thành đạo Vô học. Trước quán tưởng bất tịnh, sau nhập vào xương trắng để quán, đều là đối trị tham. Lại nhờ xương cốt, mà nhập vào sắc để rõ không. Lại nhờ không này, thấy được thật tướng của sắc, ngộ được lý Trung đạo, sắc không chỉ có một Thật tánh, cho nên nói: Không và sắc cả hai đều vô.
-Chỉ lại, giải thích thành tựu:
Đức Như-lai ấn chứng cho con tên là Ni-sát-đà, sắc trần đã diệt thì diều sắc mật viên. Con từ tướng sắc mà được quả A-la-hán, do ngộ mà được tên, chân thiện diệu sắc, tức là rốt ráo không, Tướng sạch tánh bày, ngộ Nhưlai tạng trùm khắp pháp giới. Nên nói Mật viên thành tựu Vô học. a.2.3) Tổng kết đáp các câu hỏi:
Phật hỏi về viên thông, như sở chứng của con, thì sắc tướng là hơn hết. a.3) Đồng tử Hương Nghiêm, có ba: a.3.1) Thuật lại sự nương vào giáo lý của Đức Thế tôn:
Đồng Tử Hương Nghiêm liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Con nghe Như-lai dạy quán các tướng hữu vi, quán hương ngộ được đạo, được địa vi đồng chân, nên gọi là Đồng tử. Ban đầu Đức Phật dạy chung, quán tướng hữu vi, không đích xác là Hương. Như nói tất cả pháp hữu vi như mộng huyễn, bọt nước, như sương, cũng như ánh chớp, hãy quán chiếu như vậy. a.3.2) Nương vào giáo lý tu quán, có ba: * Nêu ra cảnh để quán.
Lúc con từ biệt Đức Thế tôn trở về trai đường tĩnh tọa, thấy các Tỳ-kheo đốt hương trầm thủy, mùi hương lặng lẽ bay vào mũi con. Con tĩnh tọa trong phòng yên tĩnh, phòng thanh tịnh chính là chỗ gội rửa tâm. Đó gọi là thanh trai. Ở trong phòng yên tĩnh nghe mùi hương, đó là tướng hữu vi, là cảnh sở quán.
* Chính là Quán sát, có hai:
- Quán hành: Con quán mùi hương này, chẳng phải từ gỗ, chẳng phải từ hư không, chẳng phải khói, chẳng phải lửa, chẳng đi đâu, chẳng từ đâu đến. Gỗ là không, khói, lửa, dùng lý suy cho cùng chẳng phải chỗ nương sinh khởi, đã chẳng từ đâu đến, lại chẳng đi đâu. Vậy, vì sao mùi hương lại xông vào mũi con? Đây là quán sát mùi hương vô sinh.
- Quán lợi ích:
Do đó, ý diệt, phát minh vô lậu. Như-lai ấn chứng cho con hiệu là Hương Nghiêm. Hương đã vô sinh, thì do đâu mà phân biệt, đó gọi là ý tiêu diệt, phân biệt chẳng có, năng sở đều mất, chân giác chẳng động, vắng lặng thường khắp, bụi nhơ đã tiêu, tròn sáng thanh tịnh mầu nhiệm, nên gọi là Hương Nghiêm.
* Lại giải thích thành tựu.
Hương trần đã diệt, diệu hương mật viên, con từ mùi hương trang nghiêm mà đắc quả A-la-hán. Tướng đều trở về như, chân hương diệu phát, một niệm chẳng sanh thì chứng Vô học. a.3.3) Kết đáp lời hỏi:
Dược Vương Dược Thượng, có ba:
Như-lai hỏi về viên thông, như sở chứng của con thì Hương Nghiêm là trên hết.
1. Kể lại nhân duyên đời trước:
Hai vị Pháp Vương Tử là Dược Vương và Dược Thượng cùng với năm trăm vị Phạn Thiên trong hội liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn! Con làm thầy thuốc ở thế gian từ vô lượng kiếp đến này, trong miệng đã nếm các thứ cỏ cây, vàng đá ở cõi Ta-bà này, số ấy có mười muôn tám ngàn thứ. Như thế đều biết hết các vị đắng, chua, mặn, lạt, ngọt, cay v.v...và năng lực hòa hợp câu sinh thay đổi. Đây là lạnh nóng, có độc không độc, thảy đều biết cả, có khả năng làm vị Bồ-tát Bổ xứ. Vì nối tiếp hạt giống Phật không thể bị cắt đứt, nên gọi là Pháp Vương Tử. Năm trăm vi Phạm thiên là quyến thuộc của Pháp Vương Tử, chưa rõ duyên khởi. Vị ấy kể lại xưa kia làm thầy thuốc chữa bệnh cho mọi người, từng nếm thuốc phân biệt vị, phân biệt tánh dụng đối trị không sai lầm. Xưa kia đã nói về vị trần mầu nhiệm, nay cũng do đây mà phát ngộ.
2. Được giác ngộ ở kiếp hiện tại: Có hai:
a) Trình bày về yêu chỉ của ngộ:
Thờ phụng Đức Như-lai, rõ biết tánh của vị, chẳng phải không, chẳng phải có. Không tức là thân tâm, không là lìa thân tâm, do phân biệt nhân của vị, từ đó được khai ngộ, quán nguyên nhân của vị do đâu mà có, không có thân tâm, hoặc tức, hoặc lìa không có chỗ sinh, biết rõ lập tức là quán sát, vì không có chỗ sinh nên trần vị vắng lặng, phân biệt liền dứt, năng sở đều mất, cả hai đều dứt, chỉ có một vị bảo giác thanh tịnh. Cho nên nói từ đây được khai ngộ, liền chứng pháp Vô Sinh nhẫn.
b) Nhờ ấn chứng được lợi ích:
Được Như-lai ấn chứng cho anh em chúng con danh hiệu Bồ-tát Dược Vương và Dược Thượng, nay trong hội này làm Pháp Vương Tử. Chúng con do vị trần mà được giác ngộ, lên bậc Bồ-tát, giác ngộ nhờ hiểu rõ vị thuốc, nên mới ấn chứng tên gọi Dược Vương, Dược Thượng cho những vị này thành Bồ-tát.
Kết luận đáp câu hỏi:
Phật hỏi viên thông, như chỗ chứng của chúng con nhân của vị là hơn hết.
Bạt-Đà-Ba-la, có ba:
1. Gặp Phật hiển ngộ:
Bạt-Đà-Bà-la cùng sáu mươi vị khai sĩ liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn! Chúng con trước kia ở chỗ Phật Oai Âm Vương nghe pháp xuất gia, đến giờ chúng tăng tắm, chúng con theo lệ vào phòng tắm, bỗng nhiên ngộ được nhân của nước.
Bạt-đà-bà-la, Hán dịch là Hiền Hộ, kinh Pháp Hoa nói: Phật Oai Âm Vương có hai muôn ức, vị nối nhau ra đời.
Những vị này trước thời Tượng pháp của Phật, là những vị thượng mạn, chê bai Bồ-tát Thường Bất Khinh, do đó mà bị đọa vào địa ngục trải qua ngàn kiếp, lúc tội hết sẽ thoát khỏi địa ngục. Sau đó, gặp Phật Oai Âm Vương xuất gia được giác ngộ. Chúng con theo thứ lớp vào tắm, quán tánh nước hoàn toàn không thật có, không từ nhân sinh ra, cho nên ngộ được nhân của nước.
2. Trình bày về ý chỉ của ngộ, có hai:
- Kể lại lợi ích được ngộ.
Đã không rửa bụi, cũng chẳng rửa thân, khoảng giữa an nhiên vốn không thật có, tập khí đời trước không quên, cho đến hôm nay theo Phật xuất gia vì sự huân tập đời xưa chẳng quên, khiến đắc quả Vô học. Trần không có tự tánh, vừa sinh liền diệt, thể là huyễn có, tánh tướng vốn không, nước không có sở nhân, an nhiên bất động, cả ba đều vô đắc thì ai làm việc tắm gội. Từ vô thỉ vọng huân tập bỗng nhiên tiêu mất, cho đến ngày nay mới chứng quả Vô học.
- Chỉ bày Lại giải thích thành tựu.
Đức Phật kia đặt tên cho con là Bạt-đà-bà-la, giảng nói về diệu xúc, thành Phật Tử trụ, do đây quán xét xúc trần đã hết, diệu xúc hiện tiền, đắc Vô Sinh Nhẫn, nên gọi là Phật Tử Trụ, vì khéo giữ gìn làm cho luống dối chẳng sinh, khiến giác bất động, gọi là Bạt-Đà-Bà-la.
(Tám trăm chín mươi bảy) 3. Kết luận đáp chung lời hỏi.
Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thi nhân xúc là trên hết, nhờ xúc mà ngộ đạo, cho nên gọi là nhân xúc.
Ca-diếp, có ba:
1. Kế lại nhân duyên tốt đẹp, có ba: a) Việc học nương vào Đức Phật.
Ma-ha Ca-diếp và Tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang v.v... đứng dậy khỏi chỗ ngồi đảnh lễ bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn: Vào kiếp xa xưa ở thế giới Tabà này có Phật Nhật Nguyệt Đăng ra đời, con được gần gũi nghe pháp tu học.
Ma-ha Ca-diếp, Hán dịch là họ Đại Ẩm Quang, tên là Tất-bát-la, là bậc thượng hạnh đầu-đà được đại chúng suy tôn là Vô Thượng.
Tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang lúc còn tại gia là vợ, Ma-ha-ca-diếp, duyên khởi như thường, đã được gần gũi nghe pháp tu học với Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng.
b) Vâng theo truyền thừa sau khi Phật diệt độ:
Sau khi Phật diệt độ, con cúng dường xá-lợi, đốt đèn sáng liên tục, lại dùng vàng ròng đắp vẽ hình tượng Phật. Thất-lợi-la dịch là xương cốt của Như-lai, đốt đèn đắp vàng đều là nguyên nhân làm cho thân vàng ròng chiếu sáng rực rỡ, nhiều kiếp đều như vậy, chẳng phải chỉ có một Đức Phật cho nên được như vậy. Kinh xuất xứ từ nhân duyên khác nhau nhưng đều từ một thuyết.
c) Do nhân cảm quả:
Từ đó đến nay, đời đời kiếp kiếp thân thường đầy đặn, sáng ngời như đống vàng ròng. Tỳ-kheo-ni Tử Kim Quang v.v... là quyến thuộc của con cùng thời phát tâm khi xưa, như văn kinh có nói.
2. Trình bày về yếu chỉ giác ngộ, có hai:
a) Trình bày quán hạnh:
Con quán sáu trần thế gian biến hoại, chỉ theo pháp vắng lặng, tu định Diệt Tận, thân tâm trải qua trăm ngàn kiếp như búng ngón tay, sáu trần sinh diệt là cảnh, là nhà, là ý. Nay quán pháp này, xưa tự bất sinh nay thì vô diệt. Vì tâm sinh cho nên muôn pháp sinh, vì tâm diệt nên các pháp diệt. Tâm chẳng thấy tâm, chẳng có tướng thật có, năng sở đều vắng lặng, pháp tánh hiện tiền, thân tâm xưa nay bất động. Nên làm cho vượt qua nhiều kiếp như thời gian búng ngón tay.
b) Lại giải thích thành tựu:
Con do quán pháp không, mà đắc quả A-la-hán. Thế tôn khen con tu hạnh đầu-đà bậc nhất, pháp mầu mở sáng, dứt trừ các lậu, pháp trần đã không, pháp mầu giảng nói, nên được vô lậu, thành quả Vô học.
3. Tổng kết trả lời câu hỏi:
Phật hỏi về Viên thông, như chỗ chứng của con thì nhân của pháp là trên hết, sáu vị trên nương vào tâm mà khai ngộ.
Căn trở về tánh để chứng, có năm:
1. A-Na-luật-đà có ba:
a) Kể lại nguyên nhân giác ngộ:
A-Na-luật-đà liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn, lúc con mới xuất gia, thường ham ngủ nghỉ, Như-lai quở trách con là đồ súc sinh, con nghe Phật quở trách, khóc lóc tự trách mình liền trong bảy ngày đêm không ngủ, mù cả hai mắt. Đức Thế tôn dạy con tu pháp "Tam-muội Lạc Kiến Chiếu Minh Kim Cương". Hoặc A-nê-lâu-đậu, thành A-nậu-lâu-đà, đều là âm Phạm chuyển thành, Hán dịch là vô Diệt, hoặc dịch Như Ý, là anh em chú bác với Phật, con vua Bạch Phạm, thường ham ngủ. Như-lai quở trách con ngu như loài ốc trai, một lần ngủ là mê muội cả ngàn năm, chẳng nghe danh hiệu Phật, cho nên quở con là loài súc sinh, thường nói là Bán đầu thiên nhãn, nên gọi Tam-muội Kim Cương. Ở đây nói lên thật chứng này khác với xưa, nên dùng ý để đắc.
b) Trình bày ý chỉ giác ngộ.
Con chẳng nhờ mắt quán thấy mười phương, tịnh chân rỗng suốt như thấy trái cây trong lòng bàn tay. Nhưlai ấn chứng cho con đắc quả A-la-hán. Dụng do Tammuội kim Cương phát ra đều với dụng mà Phật thấy, cho nên nói cái thấy rỗng suốt khắp cả mười phương.
c) Kết luận đáp những điều đã hỏi:
Phật hỏi về viên thông như chỗ chứng của con thì xoay cái thấy trở về bản tánh là hơn hết. Xoay cái vọng thấy đó trở về với chân nguyên, thì thấy trần cảnh tiêu diệt, tịnh chân rỗng suốt, phát ra tất cả chẳng ngăn ngại, đâu chỉ làm chướng ngại cái sắc nhỏ nhiệm bên ngoài mà thôi.
2. Châu-lợi-bàn-đạc-ca, có ba:
a) Nói lại nguyên nhân được giác ngộ:
Châu-lợi-bàn-đặc-ca liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn: Con thiếu sót sự trì tụng, không có tánh học rộng. Lúc gặp Phật nghe pháp xuất gia, con cố nhớ một câu kệ của Như-lai nêu ra, trong một trăm ngày, hễ nhớ trước quên sau mà nhớ sau thì quên trước, Phật thương xót vì con ngu muội, dạy con ở một chỗ tu pháp quán Sổ tức.
Châu-lợi-bàn-đặc-ca, Hán dịch là Xà-nô, tức là sinh ra ở giữa đường, hoặc gọi là Kế Đạo, tánh thường ngu độn, thời quá khứ làm một vị Đại Pháp Sư, khéo hiểu rõ kinh, luận, có năm trăm vị đệ tử, nhưng Ngài lại giữ kín giáo pháp Phật, chẳng dạy cho người. Về sau, sinh ra bị tối tăm ngu độn, vì nhân linh ngày xưa nên gặp Phật xuất gia, năm trăm vị Tỳ-kheo đồng dạy một bài kệ, trải qua chín mươi ngày mà chẳng được thành tựu, để đối trị tâm tán loạn, nên dạy quán Sổ tức.
b) Trình bày ý chỉ giác ngộ:
Khi con quán hơi thở, sâu kín cùng tận sinh trụ dị diệt thay đổi trong từng sát-na, tâm con bỗng ngộ được vô ngại, hoàn toàn cho đến các lậu dứt sạch, đắc quả A-la-hán. Trước pháp tòa của Phật, được ấn chứng cho con thành bậc Vô học. Trước quán gió dứt, niệm niệm sinh diệt, sâu kín cùng tận, sinh diệt chẳng đến, gió dứt đã không, tâm mất sự phân biệt, rỗng rang đại ngộ tất cả chẳng ngăn ngại, cho nên đâu chỉ đối trị tán loạn mà cũng thấy được tướng thật của tự tâm.
c) Tổng kết đáp các câu hỏi:
Phật hỏi về viên thông như chỗ chứng của con thì xoay hơi thở trở về với tánh không là hơn hết. Xoay hơi thở, sinh, diệt, trở về với vô sinh không, từ hơi thở phát minh, đây là Vô thượng.
3. Kiều-phạm-bát-đề, có ba:
a) Kể lại nguyên nhân giác ngộ.
Kiều-phạm-bát-đề liền đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn: Con có khẩu nghiệp, ở kiếp quá khứ, chế nhạo sa-môn, nên đời đời kiếp kiếp bị bệnh nhai như trâu. Đức Như-lai dạy con môn" Nhất Vị Thanh Tịnh Tâm Địa" tâm con được diệt, nhập Tam-ma-địa. Cũng âm là Cấp-phòng-bát-để, Hán dịch là Ngưu Ty. Hễ trâu không ăn miệng cũng nhai nhop nhép, miệng người này như miệng trâu. Đại Luận nêu ra nhân duyên khác với kinh, dạy quán chiếc lưỡi, nếm vị nhập đạo, sẽ được pháp môn "Tâm Địa Nhất Vị", biết rõ vị từ đây dứt hẳn, cho nên nói diệt tâm nhập Tam-ma-địa.
b) Trình bày về ý chỉ giác ngộ, có hai:
b.1) Nói về quán hành:
Con quán biết vị chẳng phải thể, chẳng phải vật, ngay đó được siêu thoát các lậu thế gian. Quán căn nếm vị này, chẳng từ thể sinh, cũng chẳng phải từ vật khác sinh ra, mỗi thứ dường như vô sinh, làm sao có chung được? Trong duyên không được, chẳng phải duyên cũng vô, biết rõ vị rồi thì từ đâu mà có?
Một căn đã như vậy, thì nhiều căn cũng vậy, do đó được thoát khỏi các lậu.
b.2) Nói về ích lợi của quán:
Bên trong giải thoát thân tâm, bên ngoài lìa bỏ thế giới, xa lìa ba cõi như chim sổ lồng, lìa cấu tiêu trần, mắt pháp thanh tịnh, thành quả A-la-hán. Như-lai ấn chứng cho con lên bậc Vô học. Căn trở lại nên bên trong giải thoát, trần tiêu nên bên ngoài lìa bỏ, trong ngoài đã mất,(tám trăm chín mươi tám) thì ai ở được trong ba cõi? Nên gọi là xa lìa. Tướng của tưởng là trần, thức tình là cấu, xa lìa cả hai thì được pháp Vô Sinh nhẫn, nên nói là mắt pháp thanh tịnh.
c) Kết đáp về lời hỏi:
Phật hỏi về Viên thông, như sở chứng của con, thì xoay cái biết trở về tự tánh là trên hết, xoay cái vọng căn trần, trở về với tướng chân thật, pháp môn tâm địa cùng một lúc mở bày, đây là trên hết.
4. Tất-lăng-già-Bà-ta, có ba:
a) Nói lại nguyên nhân giác ngộ.
Tất-lăng-già-Bà-la liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn, khi con mới phát tâm theo Phật xuất gia, thường nghe Như-lai dạy về những việc chẳng vui trong thế gian. Lúc đi khất thực trong thành đang suy nghĩ về pháp môn, bất giác giữa đường bị gai độc đâm vào chân, khắp thân đau nhức.
Tất-lăng-già-Bà-la, Hán dịch là Dư Tập, Ngài gọi vị thần sông Hằng là Tiểu tỳ, chẳng phải cố tâm, do đời quá khứ làm Bà-la-môn mà vẫn còn tập khí ngã mạn. Lúc mới xuất gia, nghe Phật nói về khổ không, vô thường, bất tịnh của thế gian đều không đáng ưa thích, nhân đi khất thực, suy nghĩ pháp quán này, bỗng gặp duyên khổ sở, nên nói là đau nhức.
b) Trình bày ý chỉ giác ngộ, có hai:
b.1) Nói về quán hành: Con nghĩ có cái biết mới biết sự đau đớn này, dẫu biết cái biết là đau đớn, nhưng bản giác trong sạch vốn chẳng có năng đau và sở đau. Con lại suy nghĩ rằng, một thân đâu có hai cái giác, đó là niệm giác, tri giác. Do đau mà khởi quán, quán thân này của con, có tri giác mới biết được sự đau đớn này, nhưng dù khởi quán sát, quán giác và đau đớn, quán tâm trong sạch, chẳng đau chẳng biết. Căn trần này suy nghĩ vọng thân tâm thì có, tâm chân tịnh thí không. Lại quán sát về niệm cái biết đau và cái biết của tâm tịnh, lúc đó thành hai cái giác, giác từ đâu mà có? Một thân hai giác lẽ ra thành hai Đức Phật. Nên biết giác này đều là hư huyễn, trong tâm thanh tịnh, chẳng có gì thật có.
b.2) Nói được giác ngộ:
Nhiếp niệm chưa lâu, thân tâm bỗng nhiên thành không, trong hai mươi mốt ngày các lậu đều dứt sạch, đắc quả A-la-hán, được Như-lai ấn chứng cho con lên bậc Vô học. Có tâm sở đắc, không khởi một niệm, gọi đó là nhiếp, trong thời gian đó. Năng giác, sở giác, năng quán, sở quán cùng lúc đều vắng lặng, không có trí phân biệt, liền được hiện tiền, chứng Vô Sinh nhẫn, cho nên nói thân tâm bỗng nhiên thành không.
c) Kết đáp lời hỏi:
Phật hỏi về viên thông, như chỗ chứng của con thì thuần giác quên thân là bậc nhất.
Năng quán, sở quán, năng đau và sở đau vắng lặng không có một pháp, nên gọi là thuần giác quên thân.
5. Tu-Bồ-đề, có ba:
a) Kể lại sự giác ngộ ở quá khứ:
Tu-Bồ-đề liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn, con từ nhiều kiếp đến nay tâm được vô ngại, tự nhớ thọ sinh nhiều đời như số cát sông Hằng, lúc còn trong thai mẹ đã biết vắng lặng.
Tu-Bồ-đề, Hán dịch là không sinh, cũng dịch là Thiện Hiện v.v... Vì lúc Ngài sinh ra thì hiển hiện tâm rỗng không, thấu suốt đối với không, thường tu tập hạnh không, cho nên có tên là Không Sinh, đã nói nhiều kiếp như số cát sông Hằng, lại biết tánh không, đâu chỉ có ngày nay, mới chứng đắc.
b) Nói về ý chỉ giác ngộ, có hai:
b.1) Ngộ đãn không.
Như thế cho đến mười phương thành không, cũng làm cho chúng sinh chứng được tánh không, vì tu quán không mà rõ tâm tánh không, tất cả y báo, chánh báo, mình người, nhiễm tịnh, cho đến mười phương do tâm biến hiện đều thành tánh không. Tự mình thực hành như vậy, cũng giúp cho người chứng được tánh không, chỉ hướng về tánh không này, chưa có đủ pháp, cho nên nói đãn không.
b.2) Ngộ trung không:
Nhờ Như-lai phát minh giác tánh, vì chân không nên tánh không được sáng tỏ, đắc quả A-la-hán, đốn nhập biển không bảo minh của Như-lai, đồng với tri kiến Phật, con được ấn chứng thành bậc Vô học. Về giải thoát tánh không, con là trên hết. Tánh giác chân không tức lý Trung đạo, vì không chính là Như-lai tạng. Cho nên đầy đủ trùm khắp tất cả pháp, vì ánh sáng chiếu khắp pháp giới tánh, như châu Ma-ni tùy theo ý muốn mà sinh ra, như biển lớn rộng sâu, chứa đựng hết tất cả, tánh trí bình đẳng thấu hiểu hết cảnh trí như một, gọi là tri kiến Phật, dẫu chứng được tánh không, nhưng bị tánh không ràng buộc, nên gọi là giải thoát.
c) Kết đáp về lời hỏi:
Phật hỏi về viên thông như chỗ chứng của con thì các tướng nhập không, chẳng có điều gì không cùng tận, xoay pháp trở về không là trên hết.
Ban đầu chỉ là đơn không, không đối với các tướng, cho nên gọi là nhập phi.
Kế lại nói về không, không đối với tướng không cho nên gọi là chẳng cùng tận.
Vô cũng không, năm người kể trên nương vào căn mà chứng nhập đã xong.
Thức lặng trở về nguồn để chứng, có sáu:
1. Xá-lợi-phất, có ba:
a. Kể lại sự giác ngộ ở đời trước:
Xá-lợi-phất liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, Bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn: Con từ nhiều kiếp đến nay tâm và cái thấy thanh tịnh, thọ sinh như thế như số cát sông Hằng, đối với các pháp biến hóa của thế gian và xuất thế gian, hễ thấy thì liên thông suốt, được vô ngại.
Xá-lợi-phất, Hán dịch là Thu Tử, cũng gọi là Thân Tử, tâm thấy thanh tịnh: Nghĩa là nhãn thức phát trí, thấy tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, đều thông suốt được lý do căn bản, được trí thế tục phân biệt các pháp, nên gọi là mắt pháp.
b. Nói về sự giác ngộ ngày nay, có hai:
- Được mắt tuệ.
Giữa đường con gặp anh em Ca-diếp-ba, bèn đi theo xin được Ca-diếp giảng nói về nhân duyên, ngộ tâm không bờ mé. Anh em Ca-diếp tức là ba anh em Ca-diếp. Giảng nói nhân duyên tức là pháp Ba đế, nhờ nói rõ sinh mà ngộ lý chân không, chứng được Sơ quả tức là mắt tuệ. Chỗ khác thì nói gặp Mã Thắng, hoặc đồng thời gặp, chẳng phải riêng một người, Kinh đã nêu, đã nghe nhân duyên, nhân duyên tức không, liền được mắt tuệ, thấy lý Chân-đế.
- Được mắt Phật.
Con theo Phật xuất gia, thấy biết tròn sáng, được không sợ hoàn toàn, đắc quả A-la-hán, làm Trưởng tử Phật, từ miệng Phật sinh ra, từ pháp hóa sinh, thấy biết tròn sáng, tức thành tựu chân giác mầu nhiệm tròn đầy. Từ nhãn thức hiển hiện, ở đây do Như-lai chỉ bày pháp mầu nhiệm giúp cho con được chứng, cho nên nói từ miệng Phật sinh ra, từ pháp hóa sinh. c. Kết luận đáp câu hỏi.
Phật hỏi viên thông, như sở chứng của con thì tâm thấy phát quang, ánh sáng cùng cực của tri kiến, đây là bậc nhất.
Từ nhãn thức phát ra trí sáng suốt, trí sáng tỏ đến chỗ cùng cực tức là tri kiến Phật, tức là ba trí năm mắt cùng lúc đầy đủ, đó gọi là cùng cực.
2. Bồ-tát Phổ Hiền, có ba:
a) Thờ Phật, phát hạnh nguyện:
Bồ-tát Phổ Hiền liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn; Con đã từng làm Pháp Vương Tử cho hằng sa Như-lai, các đức Như-lai ở mười phương dạy các đệ tử có căn cơ Bồ-tát của các Ngài tu hạnh phổ Hiền, hạnh đó từ con mà đặt tên.
Hạnh khắp pháp giới gọi là Phổ, địa vị rất gần bậc Thánh gọi là Hiền, Pháp Vương Tử của hằng sa Phật, các đệ tử Phật phát hạnh nguyện của con đều được gọi là Phổ Hiền.
b) Hạnh thành khởi dụng, có hai:
b.1) Chỉ ra thể, lược nêu:
Bạch Đức Thế tôn! Con dùng tâm nghe phân biệt tất cả tri kiến của chúng sinh. Tâm nghe là nhĩ thức phát minh, từ nhĩ thức mà được chân viên thông, nhập vào lý pháp giới, thức sinh diệt diệt, vắng lặng hiện tiền, cảnh và trí thầm hợp nhau, một thể không hai, trở lại ở tâm nghe mà khởi dụng, phân biệt tri kiến của chúng sinh, phát minh (tám trăm tám mươi chín) được tức là hiện thân đó.
b.2) Y theo căn cơ giải thích rộng.
Nếu ở phương khác ngoài hằng sa thế giới, mỗi thế giới đều có một chúng sinh phát tâm theo hạnh Phổ Hiền, thì ngay lúc đó con cưỡi voi sáu ngà phân thân thành trăm ngàn đều đến chỗ đó, dẫu cho họ nghiệp chướng con sâu, chưa thấy được con, con cũng thầm xoa đầu họ, ủng hộ an ủi, giúp họ được thành tựu hạnh nguyện, đã dùng tâm nghe, hợp với thể của pháp giới cảnh trí không hai. Cho nên tất cả chúng sinh trong pháp giới trong tâm đều khai ngộ hạnh Phổ Hiền, đều biết rõ, đều khởi ứng, hai cơ yếu hiển rõ đều được lợi ích.
3. Kết đáp về lời hỏi:
Phật hỏi về viên thông, nói nhân gốc của con thì tâm nghe khai ngộ phân biệt tự tại là bậc nhất, như văn kinh có chép.
3. Tôn-đà-la-nan-đà, có ba:
a) Kể lại sự kế thừa giáo pháp của Đức Thế tôn.
Tôn-đà-la-nan-đà liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn: Lúc con mới xuất gia với Phật, dẫu giữ đủ giới luật, nhưng đối với pháp Tam-ma-địa tâm thường tán loạn, chưa được vô lậu, Đức Thế tôn dạy con và Câu hy-la quán ở chót mũi.
Tôn-đà-la-nan-đà: Hán dịch là Diễm Hỉ, cộng thêm tên vợ mà được gọi như thế. Đó là em họ của Phật. Trước quán sổ tức liền y theo căn để nói, nay y theo quán thức, duyên chót mũi trú vào tâm mình không cho tán loạn.
b) Nương vào giáo lý tu quán, có hai:
b.1) Nói về quán hạnh:
Lúc con mới tu quán này, trong hai mươi mốt ngày, thấy hơi thở ra vào như khói, trong thân tâm sáng tỏ, chiếu khắp thế giới thành rỗng không, trong sạch như lưu ly, khói ấy dần tiêu, hơi thở hóa thành trắng. Trước là quán tướng trắng trong hai mươi mốt ngày, sau thấy hơi thở như khói, khi quán này thành thì thân tâm nội phát, hoặc thân, hoặc dụng cụ đồng một lúc rỗng không, trong ngoài thanh tịnh như lưu ly, đây là nhờ quán sát hơi thở sinh diệt, quán tâm rõ ràng, phát tuệ rỗng không chiếu khắp thân giới, giống như ở phương tiện chưa thể quên duyên. Cho nên thấy khói kia biến thành mầu trắng.
b.2) Nói lợi ích giác ngộ:
Tâm khai thì lậu tận, các hơi thở ra vào hóa thành ánh sáng, chiếu khắp các thế giới mười phương, đắc quả A-la-hán. Đức Thế tôn thọ ký cho con sẽ đắc Bồ-đề: Vô sinh không tuệ đã hiện ra trước mắt, các hơi thở bất sinh thuần là trí tuệ, ánh sáng trí tuệ chiếu khắp tất cả đều như vậy. Thế giới chúng sinh đều mầu nhiệm tròn đầy, do đây mà lậu tận, sẽ được Bồ-đề.
c) Kết đáp lời hỏi:
Đức Phật hỏi về viên thông, con đã tiêu diệt hơi thở, hơi thở phát minh đã lâu, rõ ràng dứt sạch lậu là bậc nhất, như văn kinh.
4. Phú-lâu-na, có ba:
a) Kể lại sự biện luận đời trước, có hai.
a.1) Bàn luận đầy đủ về quyền thật:
Phú-lâu-na-Di-Đà-la-ni Tử liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Con từ nhiều kiếp đến nay biện tài vô ngại, giảng nói khổ không, đạt sâu thật tướng.
Phú-lâu-na dịch là Mãn, Di-da-la dịch là Từ, Ni Tử dịch là Thanh, được bốn biện tài, có từ nhiều kiếp, chẳng riêng gì ngày nay, thật tướng của khổ không là pháp quyền thật.
Trong ẩn ngoài hiện, thành tựu chúng sinh, nhiều kiếp như vậy.
a.2) Giảng nói đủ pháp môn.
Như thế cho đến pháp môn bí mật của hằng sa Nhưlai, con chỉ bày pháp mầu nhiệm cho chúng sinh, được hoàn toàn không sợ, chẳng phải pháp môn ngày nay một Đức Phật đã nói, pháp bí mật hằng sa Phật đã nghe, con đều nói về nghĩa không sợ cho chúng sinh nghe.
Nói mầu nhiệm nghĩa là: Khéo dùng lời nói thí dụ phương tiện, thuận theo cơ cảm.
b) Nói về hiện chứng:
Đức Thế tôn biết con giỏi về biện tài, dạy con dùng âm thanh xoay bánh xe pháp, mở mang chánh pháp, con ở trước Phật, giúp Phật xoay bánh xe pháp, nhờ có âm thanh sư tử hống mà đắc quả A-la-hán. Đức Thế tôn ấn chứng cho con nói pháp không ai hơn. Như-lai biết con có trí biện tài, bèn dạy con dùng miệng nói pháp. Đây là chỉ bày làm họ chẳng dùng tâm hạnh sinh diệt nói pháp Thật tướng, cho nên nếu tùy theo nói pháp thanh tịnh thì trí tuệ thanh tịnh, tùy theo trí tuệ thanh tịnh mà tâm họ thanh tịnh. Sư Tử Hống là thuyết vô úy.
c) Kết đáp về lời hỏi:
Phật hỏi về viên thông, còn dùng pháp âm hàng phục ma oán, tiêu diệt các lậu, đây là bậc nhất.
Bên trong dùng trí tuệ thiền định hàng phục dứt trừ ái kiến, bên ngoài dùng thần thông nói pháp hàng phục chế ngự tà ma ngoại đạo, thì thành Niết-bàn còn, Tam bảo chẳng dứt.
5. Ưu-ba-ly, có ba:
a) Gặp Phật thọ giáo.
Ưu-ba-ly liền đứng dậy chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật mà Bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn: Con theo Phật vượt thành xuất gia, đích thân con thấy Như-lai sáu năm khổ hạnh, đích thân thấy Như-lai hàng phục các ma oán chế ngự các ngoại đạo, giải thoát tham dục, phiền não thế gian, được Phật chỉ dạy. Ưu-Ba-ly, Hán dịch là Cận Chấp, là vị quan làm việc gần gũi lúc Như-lai còn làm Thái tử, còn tại gia thì làm việc, xuất gia cũng giống như vậy. Mới thấy Như-lai tu hành hàng phục ma oán, chế ngự ngoại đạo, dứt trừ mê hoặc được thành Phật đạo, cho nên thờ phụng lời dạy của Đức Như-lai bằng cách trì giới.
Trong luật nói: Độ những người thuộc giòng họ Thích thì Ưu-Ba-ly là người được độ trước, vì trước theo Phật sau mới được độ.
b) Nhờ giới được chứng đắc:
Như thế cho đến ba ngàn oai nghi, tám muôn hạnh nhỏ nhiệm, tánh nghiệp và gia nghiệp đều thanh tịnh, thân tâm vắng lặng, đắc quả A-la-hán. Con là người điều hành kỷ luật trong chúng, Thế tôn ấn chứng cho con là người giữ giới tu thân bậc nhất. Có oai đáng sợ, có nghi đáng noi theo, hai trăm năm mươi giới, mỗi giới đều có bốn oai nghi, lại đối với ba nhóm, cho nên thành ba ngàn. Lại phối hợp ba ngàn với bảy giác chi, thân và miệng, bốn phần phiền não, chuyển thành tám mươi bốn ngàn oai nghi, nay nêu số chẵn mà thôi.
Tánh sát, đạo, dâm, vọng vốn là tội, chẳng đợi chế ra, phạm liều thành nghiệp, nên gọi là tánh nghiệp. Ngoài ra do có lỗi mới chế, nếu phạm khi chưa chế giới thì không có tội, cho nên gọi là quá nghiệp. Nhờ giữ giới nên chẳng phạm các trần, trần không sinh, cũng không đắc, cho nên thân vắng lặng, thân con chẳng có thì tâm con nương vào đâu. Căn trần đã mất, tâm chẳng thật có, nên cũng vắng lặng, các pháp như thế cùng lúc thanh tịnh, chỉ có một giác báu xưa nay vô nhiễm, đây là giữ giới chân thật do đó được chứng.
Nói kỷ luật là: chỗ kết yếu, vì quyết đoán được nhẹ, nặng, khai, già trì, phạm, chế ra cho chúng thực hành, khiến cho pháp của người cao thượng, để làm khuôn phép cho người đời sau.
c) Kết đáp về lời hỏi:
Phật hỏi về viên thông, con do giữ thân, thân được tự tại, kế đến giữ tâm, tâm được thông suốt, sau đó tất cả thân tâm đều lanh lợi, đó là bậc nhất. Giữ giới tu thân, đề ngăn ngừa trần nhiễm, quán tướng thật của thân thì trần tự chẳng sinh, có khả năng phân biệt, tâm nương vào chỗ nào mà có? Do đó thân tâm thông suốt tự tại.
6. Mục-kiền-liên, có ba:
a) Gặp nhân duyên được nghe giáo pháp:
Đại Mục-kiền-liên liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn: Trước kia con khất thực giữa đường, gặp ba anh em ngài Ca-diếp-ba-la, Ưu-lâu-tầnloa, Già-da-na-đề giảng về nghĩa nhân duyên sâu xa của Như-lai. Mục-kiền-liên là họ, dịch là Thái Thúc, tên Câu-luật-đà, dịch là Vô Tiết Thọ. Ưu-lâu-tần-loa, Hán dịch là mộc-cô-lâm. Già-da dịch là Thành, Na-đề dịch là Giang, duyên như hòa hợp trong Xá-Lợi-phất.
b) Nhờ lời được thông suốt giác ngộ, có hai:
b.1) Được giác ngộ mà vào đạo:
Còn đốn phát tâm, được thông đạt hoàn toàn, Nhưlai ban cho con áo cà-sa đắp trên mình, râu tóc tự rụng, trước nghe nghĩa sâu xa của nhân duyên, tức nhờ nhân duyên mà hiểu sâu được thật tướng, thật tướng vô tướng, thân tâm vắng lặng, do đó khai ngộ gọi là Thông đạt hoàn toàn.
b.2) Nhờ giác ngộ mà được thông suốt:
Con đi khắp mười phương không hề quái ngại, phát ra thần thông, được suy tôn bậc nhất, đắc quả A-la-hán.
Cúi mong Thế tôn và các Đức Như-lai mười phương đều khen ngợi thần lực của con tròn sáng thanh tịnh tự tại, không sợ sệt. Nghĩa là do khai ngộ mà không sinh phân biệt, ý thức không khởi, liền xoay ý sinh diệt luống dối hàng phục trở lại nguyên giác. Tánh vắng lặng đã sâu, tâm mầu sáng tỏ, đại dụng của thần thông nhờ đây hiện ra, có thể đi khắp mười phương vô ngại tự tại.
c) Kết luận đáp về lời hỏi, lại chỉ ra:
Phật hỏi về viên thông, con xoay ý thức lăng xăng trở về vắng lặng, tâm mầu sáng tỏ, như nước đục để lắng, lâu thành nước trong, đây là hơn hết. Xoay về vắng lặng tức là định, ánh sáng tâm tức tuệ, nhờ định phát tuệ, thần dụng vô biên, như nước lắng trong muôn tượng hiện ra.
Sáu hạng người trên nương vào thức mà ngộ nhập.
Bổn chứng giống nhau, có bảy: 1. Hỏa Đầu Kim Cương, có ba:
a) Gặp Phật được nghe giáo pháp:
Ô-xô-sắt-ma ở trước Đức Như-lai, chắp tay đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn: Con thường nhớ nhiều kiếp xa xưa nặng về tham dục. Lúc ấy, có Phật ra đời hiệu là Không Vương, nói người nặng về dâm thì thành đống lửa dữ.
Ô-xô-sắt-ma, Hán dịch là Hỏa Đầu, do nặng nề tham dục, nghe lời dạy tu quán, từ đó được giác ngộ, người tham dục hừng hực là nhân ngạ quỉ địa ngục, nhân là lửa dục hừng hực, quả là lửa nghiệp thiêu đốt, tướng của cả hai nhân quả đều gọi là đống lửa.
b) Nương vào giáo pháp tu quán, có hai:
b.1) Quán thành thì được giác ngộ.
Dạy con quán khắp hài cốt tứ chi, các hơi lạnh nóng, ánh sáng tinh thần lóng lặng bên trong, tâm nặng về dâm hóa thành lửa trí tuệ, trước là quán thân tâm, chỉ thấy xúc ấm. Sau quán về hơi ấm, vô tướng vô sinh, thân con rỗng không, thì hơi ấm nương vào đâu, thân tâm vắng lặng, tánh lửa khéo phát ra. Cho nên nói ánh sáng tinh thần lóng lặng ở trong thành lửa trí tuệ.
b.2) Chỉ lại giải thích thành tựu.
Từ đó, Chư Phật đều gọi con là Hỏa Đầu, con dùng năng lực "Tam-muội Hỏa Quang" đắc quả A-la-hán, tâm phát nguyên lớn, Chư Phật thành đạo, con sẽ làm đại lực sĩ đích thân hàng phục ma oán. Nhờ quán tánh lửa, được Tam-muội chân thật, cho lửa là cửa đầu tiên vào đạo, nên gọi là Hỏa đầu. Lửa có công năng phá hoại tất cả các pháp, nên mới phát nguyên lớn, làm lực sĩ phá ma, ủng hộ Phật pháp.
c) Kết đáp về lời hỏi:
Phật hỏi về viên thông, con quán kỹ hơi ấm trong thân lưu thông chẳng ngại, các lậu dứt sạch, phát lửa trí tuệ, lên Vô Thượng giác, đây là bậc nhất. Hơi ấm tức là tánh không, cho nên nói không ngăn ngại, tánh lửa khéo phát, nên gọi là lưu thông, bên trong lóng lặng, bên ngoài hiện hành, cho nên sinh ra lửa báu.
2. Bồ-tát Trì địa, có ba:
a. Gặp Phật thọ giáo, có ba:
a.1) Từng gặp Chư Phật tu tập đầy đủ phước nghiệp.
Bồ-tát Trì Địa liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn: Con nhớ kiếp xa xưa có Đức Phật Phổ Quang ra đời, còn làm Tỳ-kheo, thường hay sửa sang cầu đường, bến nước, nơi gập ghềnh lồi lõm, cản trở xe cộ, con đều san bằng, hoặc làm cầu cống, hoặc gánh cát đất, siêng năng chịu khổ, trải qua vô lượng Đức Phật xuất hiện ở đời như vậy. Hoặc có chúng sinh ở trong chợ búa cần người mang đồ. Con mang đến chỗ kia bỏ vật rồi đi, mà chẳng lấy tiền, siêng năng khổ nhọc làm lợi ích các chúng sinh, trải qua vô lượng Đức Phật thực hành pháp thí vô uý, nhờ đó được nhiều phước đức. Tường chợ gọi là Hoán, cửa chợ gọi là Hội.
a.2) Gặp riêng Tỳ-xá, đích thân được sự chỉ bày.
Khi Phật Tỳ-Xá-Phù ra đời nhằm lúc đói kém, con cõng giúp người, chẳng kể xa gần, chỉ lấy một xu, hoặc có xe ngựa bị sa xuống bùn lầy, còn dùng thần lực đẩy xe lên khỏi chỗ bị lún giúp họ thoát khổ não. Thuở đó, vua nước đó thiết trai cúng dường Phật. Bấy giờ, con san bằng đất đợi Phật đi qua, Tỳ-Xá Như-lai xoa đỉnh đầu con bảo: Nên làm cho đất tâm bằng phẳng thì tất cả đất trên thế gian đều bằng phẳng, Tỳ-Xá-Phù, Hán dịch là Biến Nhất Thiết Tự Tại, con sửa sang lại đường xá, đợi Phật đi qua. Phật dùng pháp môn mình đã chứng làm cho chúng sinh bình đẳng đất tâm, thì tất cả đều bình đẳng: Tâm là chỗ nương của muôn pháp, bình đẳng bao gồm nuôi dưỡng tất cả, đó gọi là đất. Nếu quán xét tánh hay bình đẳng này tương ứng với ở đây, thì tất cả pháp bình đẳng, tự tại vô ngại, do đó Đức Phật gọi là Nhất Thiết Tự Tại.
b. Nhờ giáo lý được giác ngộ, có hai.
b.1) Trình bày ý chỉ giác ngộ.
Tâm con liền khai ngộ, thấy thân nhiều như bụi nhỏ với tất cả cát bụi tạo ra thế giới bình đẳng không khác nhau. Vi trần tự tánh không xúc chạm nhau, cho đến đao binh xúc chạm nhau, nghe bình tâm địa, liền ngộ tâm mình xưa nay bình đẳng. Hoặc thân, hoặc cát bụi của thế giới đều chẳng có tự tánh, nhưng từ luống dối phân biệt mà hiện khởi, chỉ có một Thật tướng, vốn là Như-lai tạng, giống như bị nhặm mắt nên vọng thấy hoa đốm trong hư không, hư không vốn chẳng có hoa thì tại sao lại chướng ngại nhau? Do đó đao binh chẳng xúc chạm nhau.
b.2) Nhờ ngộ mà được chứng.
Con đối với pháp tánh ngộ được Vô sinh nhẫn, đắc quả A-la-hán. Nay hồi tâm vào địa vị Bồ-tát, nghe Chư Phật giảng nói Diệu pháp Liên Hoa nhập tri kiến Phật, con phát minh trước là bậc thượng thủ: hai trần thân thể và thế giới nhiễm tịnh các pháp vốn không có tự tánh, chỉ là tướng thật, tánh Như-lai tạng, nên gọi là Pháp tánh, đối với pháp nhẫn này vốn chẳng sinh diệt, chắc chắn không sai lầm, nên gọi là Vô Sinh Nhẫn. Người này giác ngộ lý Đại thừa mà bước lên quả Tiểu thừa, tùy theo ý ưa thích kia muốn vào thì vào, như các Bồ-tát ở Tây Vực v.v... đều giác ngộ giáo lý Đại thừa, bèn chê bỏ Tiểu thừa như nhổ nước bọt, thường nhờ vua thỉnh mới chứng quả Tiểu thừa, do ý ưa thích của người đâu chẳng phải như vậy. Xưa kia, Ngài Trì Địa chứng đắc Kinh Pháp Hoa, thấy nói trong phẩm Phổ Môn. c) Chỉ bày lại về kết đáp:
Phật hỏi về viên thông, con quán kỹ thân và thế giới hai thứ cảnh trần chẳng khác nhau, vốn là Như-lai tạng, do luống dối phát ra cảnh trần, trần tiêu thi trí tròn đầy, thành đạo vô thượng, đây là bậc nhất: lời như văn rất dễ hiểu.
3. Đồng Tử Nguyệt Quang, có ba:
a) Gặp Phật thọ giáo.
Đồng Tử Nguyệt Quang liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn: Con nhớ hằng sa kiếp trước, có Phật Thủy Thiên ra đời, dạy các Bồ-tát tu tập Quán nước, nhập Tam-ma-địa. Nguyệt là mặt trăng, có khả năng sinh ra trong nước và được gặp Phật, đều nhờ tu tập mà được tên gọi ấy.
Nương vào giáo lý mà tu quán, có hai: b.1) Trình bày đầy đủ về việc tu hành, có hai:
* Thành tựu tưởng nước có hai:
- Thực hành quán tưởng:
Con quán tánh nước trong thân chẳng đoạt mất, bắt đầu từ nước mũi, nước miếng, cùng tận như vậy. Các thứ dịch vị, tinh huyết, đại tiểu tiện trôi chảy trong thân, đồng một tánh nước. Thấy nước trong thân cùng nước các biển nước thơm cõi Phù Tràng Vương, bên ngoài thế giới đều bình đẳng chẳng khác nhau. Tánh nước một vị, lại chẳng bị tướng khác làm cho nghiêng động, nên gọi là không xâm Đoạt Biển nước thơm cõi Phù Tràng Vương: Theo kinh Hoa Nghiêm thì: Trong biển Hoa Tạng có hoa sen lớn, trong hoa sen đó có các biển nước nước thơm, mỗi biển nước thơm là hạt giống của các thế giới Chư Phật. Nay quán nước trong thân giống như nước trong biển kia, nên nói chẳng khác nhau.
- Nói về sự chứng đắc nghiêng về:
Khi con mới tu thành quán này, chỉ thấy nước, chưa được không thân, khi tưởng nước thành tựu, chỉ được vô ngã, còn chấp tướng nước hoàn toàn ở thân, chưa mất pháp chấp, nên chưa quên thân.
* Nhờ quán mà gặp được duyên, có bốn:
- Nhập quán gặp duyên.
Lúc ấy, con là Tỳ-kheo ngồi thiền trong phòng, đệ tử con đứng bên ngoài nhìn vào cửa sổ, chỉ thấy nước trong đầy khắp phòng, chứ hoàn toàn chẳng thấy gì, vì chúng nhỏ dại không biết bèn lấy một miếng ngói ném vào nước, nghe một tiếng chủm rồi bỏ đi. Ban đầu tưởng về giả, tuy thấy nước kia và biển nước thơm không khác nhau, chỉ tâm mình thấy, còn người chẳng thấy. Nay nhờ năng lực định chuyển thành cao quý, quả sắc cũng cao quý, mới hiểu thấu cái thấy của người, tức thật sự là quả định, không cùng với tưởng về mười biến xứ thành cái thấy của mình.
- Khi Xuất quán dường như bị bệnh.
Khi con xuất định thấy tim đau như Xá-lợi-phất bị quỉ Vi hại đánh, con nghĩ: Nay mình đã đắc quả A-lahán, lìa duyên bệnh đã lâu, sao nay bỗng nhiên tim bị đau, e rằng đã lui sụt rồi chăng? Lúc ngài Chân Tử nhập định bên bờ sông Hằng bị quỉ đánh, lúc xuất định bị đau đầu, Phật bảo rằng: Nếu ông không định thì sẽ bị nát thân, nay con cũng vậy, e rằng đã lui sụt đạo quả đã chứng.
- Xét nhân duyên rồi chỉ bảo:
Lúc bấy giờ, Đồng tử đến kể lại việc trên, con bèn bảo nó. Nếu sau này ngươi lại thấy nước thì nên mở cửa vào nước lấy cục gạch ra.
- Lại định được an.
Đồng tử vâng lời, khi con nhập định, nó lại thấy nước và cục gạch rõ ràng, bèn mở cửa lấy ra, sau đó con xuất định thì thân thể lại bình thường như cũ. b.2) Nhờ tu mà được chứng đắc:
Trải qua nhiều kiếp con đã gặp vô lượng Phật, như thế đến đời Đức Phật Sơn Hải Tự Tại Thông Vương Như-lai thì con mới được quên thân, cùng các biển nước thơm ở các thế giới trong mười phương, tánh hợp với chân không, chẳng hai chẳng khác. Nay ở chỗ Như-lai được hiệu là Đồng chân, dự vào hội Bồ-tát. Trước vẫn quán nước nay hợp với chân không, chẳng thật có nước, đều là Như-lai tạng, cho nên nói quên thân liền chứng pháp không. c) Kết thúc những điều đã hỏi:
Phật hỏi về viên thông, con do quán tánh nước một vị lưu thông mà được Vô Sinh Nhẫn, Bồ-đề tròn đầy, đây là bậc nhất.
4. Bồ-tát Lưu Ly Quang, có ba: a) Gặp Phật thọ giáo.
Pháp Vương Tử Lưu Ly quang liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân phật bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn: Hằng sa kiếp trước, có phật Vô Lượng Thanh ra đời, chỉ bày bảo giác diệu minh cho hàng Bồtát, quán thế giới và thân chúng sinh này đều theo sức gió vọng duyên xoay chuyển.
Lưu-ly gọi đủ là phệ-lưu-ly, Hán dịch là Viên Sơn Bảo, nhờ quán sức gió của thân tâm xoay chuyển, quán thành tựu thì được dụng, thân tâm trong suốt như lưu-ly kia, nên gọi như vậy. Đức Phật đã được danh hiệu Vô Lương Thanh cũng nhờ quán gió mà được gọi tên như vậy.
Khai thị bản giác mà quán gió: Gió là tướng động, đã thuộc về vọng, xưa nay chẳng động, không động tức bản giác, do đo muốn hiển hiện cái không động mà quán động.
Nương vào giáo lý tu quán, có hai: b.1) Chánh tu quán hạnh:
Bấy giờ, con quán sự an lập thế giới, quán khí thế giới động, quán thân động dứt, quán tâm động niệm, các động ấy không hai, bình đẳng chẳng khác nhau, đây là nêu cảnh sở quán.
Lúc đó, con hiểu rõ các tánh động này, chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu, chúng sinh điên đảo như cát bụi ở mười phương đồng một luống dối, như thế cho đến tất cả chúng sinh trong Tam thiên Đại thiên thế giới, như trong một cái bình đựng trăm con muỗi kêu vo ve, ở chỗ nhỏ hẹp phát ra cũng cuồng náo, chính là quán sát.
Đã là thân tâm thế giới đều do gió động, gió từ đâu sinh mà động các vật, khi vật chẳng động thì đi về đâu?
Gió đã không từ đâu đến mà vật thành vọng động, cho nên thấy tất cả chúng sinh trong mười phương tự phát ra cuồng náo, đồng một luống dối, vốn chẳng có sở nhân. b.2) Quán xét thành tựu thì được lợi ích.
Con gặp Phật chưa bao lâu thì được Vô Sinh Nhẫn, lúc bấy giờ tâm khai ngộ, mới thấy cõi Phật Bất Động ở phương Đông, làm pháp Vương Tử, thờ phụng Chư phật ở mười phương, thân tâm phát ra ánh sáng thấu suốt không ngăn ngại, chưa bao lâu giống như gần, nương vào giáo lý quán sát, thọ giáo chưa bao lâu liền chứng được Vô Sinh Nhẫn, nhờ quán sinh diệt mà chứng bất Sinh diệt, nên thấy cõi Phật Bất Động ở Phương Đông.
Thân con và tất cả đồ đựng vốn là bản giác diệu minh nguyên thể, cho nên nói phát ra ánh sáng thấu suốt chẳng ngăn ngại. c) Kết đáp lời hỏi.
Phật hỏi về viên thông, con do quán sát sức gió không nương vào đâu, ngộ tâm Bồ-đề, nhập Tam-mađịa, khế hợp với Chư Phật mười phương truyền một tâm mầu, ấy là bậc nhất.
5. Bồ-tát Hư Không Tạng, có bốn:
a) Sở đắc đồng với Phật.
Bồ-tát Hư không Tạng liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn! Con và Như-lai chứng vô biên thân ở thời Đức Phật Định Quang. (Phật Định Quang tức là Phật Nhiên Đăng): do quán bốn đại luống dối có sinh mà không có vật để được đồng với hư không, nên được thân tướng như hư không trùm khắp, vô ngại.
b) Nói lại đầy đủ thần dụng:
Lúc bấy giờ, tay con cầm bốn hạt châu lớn, chiếu sáng vô số cõi Phật trong mười phương hóa thành hư không, lại trong tự tâm hiện các gương tròn lớn, bên trong phát ra mười thứ ánh sáng báu nhiệm mầu, rưới khắp mười phương và các cõi Tràng Vương tận hư không, đều vào trong gương, xen lẫn vào thân con, thân con đồng với hư không, chẳng ngăn ngại nhau, thân con có khả năng đến vô số cõi nước, làm nhiều Phật sự, được thuận theo hoàn toàn. Quán tánh bốn đại cho đến tự tâm chỉ là bảo giác, tròn sáng thanh tịnh, thể giác vô ngại, trùm khắp tất cả. Cho nên có khả năng dùng hạt châu soi chiếu khắp các cõi mười phương, hóa thành hư không, ở trong tâm hiện ra gương, ánh sánh soi các cõi, đến vào trong gương, xen lẫn vào thân, chẳng ngăn ngại nhau, thuận theo bố thí rộng khắp, làm các Phật sự. Mười thứ ánh sáng là: mười thân Lô-xá-na. c) Nhờ quán mà được chứng:
Thần lực rộng lớn này, do con quán kỹ bốn đại chẳng nương vào vọng tưởng, sinh diệt hư không chẳng hai, cõi Phật vốn đồng, do đồng mà phát minh, được Vô sinh Nhẫn.
Ở đây nói lại sự quán xét thành tựu được Vô Sinh Nhẫn phát ra đại dụng này. Bốn đại, thân tâm, hư không cõi Phật đồng là luống dối chỉ là viên thường, việc phát dụng này đâu câu nệ vào nơi chốn? d) Kết đáp lời hỏi:
Phật hỏi về viên thông, con do quán sát hư không vô biên, nhập vào Tam-ma-địa,(chín trăm lẻ hai) năng lực mầu tròn sáng, đây là bậc nhất. Vì quán không, mà hiện thân, hiện cõi nước xen lẫn nhau, nương vào đây mà là được hiệu là Hư Không Tạng.
6. Bồ-tát Di-lặc, có ba.
a) Gặp Phật thọ giáo:
Bồ-tát Di Lặc liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn, con nhớ vô số kiếp trước có Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra đời, con xuất gia với Đức Phật ấy. Còn ham danh dự thế gian, thích đến nhà giàu sang. Lúc ấy, Đức Thế tôn dạy con tu tập định duy tâm thức, nhập vào Tam-ma-địa. Gọi đủ là Mai-tử-lợi-duệ-na, Hán dịch là Từ Thị.
Vào Thời Phật Đăng Minh, Bồ-tát Diệu Quang có tám trăm vị đệ tử, trong số đó có vị tên là Cầu Danh, chính là vị này. Tâm nặng về tiếng tăm thế gian, thích đến nhà giàu sang. Vì, tâm thấy cảnh bên ngoài rong ruổi không dứt, phân biệt chủng loại danh tướng các pháp mà không biết tự tâm huân tập hiện hành, tức là không hiểu rõ tâm và duyên, sinh ra hai thứ vọng tưởng, vì để đối trị mà dạy Quán Duy Thức.
b) Nương vào giáo tu quán, có hai.
b.1) Tu lâu lìa lỗi.
Từ nhiều kiếp đến nay, dùng Tam-ma-địa thờ phụng hằng sa Chư Phật, tâm ham cầu tiếng tăm thế gian đã hết không còn. Khi mới tu quán này đã được đối trị, biết danh lợi có không, dày mỏng của thế gian đều do thức mình biến ra, không từ người mà đến. Do đây mà rong ruổi theo sự tìm cầu chợt dứt như vậy.
b.2) Quán thành tựu thì đắc đạo, có hai.-Chứng Duy tâm:
Đến khi Phật Nhiên Đăng xuất hiện ở đời, con mới được thành "Tam-muội Vô Thượng Diệu Viên Thức Tâm", cho đến ngộ hết các pháp có không, dơ sạch của cõi Phật, đều do tâm con biến hiện, thì quán này mới thành tựu, ở địa vị tương đương giải hạnh. Nay được Tam-muội là đang nhập Sơ địa gọi là chân Kiến đạo. Vì trí thật căn bản vô phân biệt thầm hợp với pháp giới. Năng và sở như một, không có hai tướng. Cho nên Duy Thức Tụng nói: Bấy giờ, đối với sở duyên, trí đều không thật có.
Bấy giờ trụ Duy Thức, vì lìa hai tướng chấp, bấy giờ mới gọi là đích thân chứng, cho nên ngộ hết các pháp có không, dơ sạch của cõi Phật, đều do tâm con biến hiện ra. Nên gọi là vị Thông Đạt trong năm vị kia.
-Chư Phật xuất hiện:
Bạch Đức Thế tôn, vì con ngộ Duy Tâm thức như thế, tánh thức hiện ra vô số Như-lai, nay được thọ ký, kế bổ xứ Phật, đích thân chứng được lý chân Duy Thức, y báo, chánh báo, tịnh uế đều duy tâm hiện, cho nên vô lượng Phật đều từ thức tánh hiện ra, nay được bổ xứ Phật cũng do thức của con biến hiện, chẳng phải do người. c) Chỉ lại kết đáp:
Phật hỏi về viên thông, con quán mười phương Duy thức, tâm thức tròn sáng nhập vào Viên Thành Thật, xa lìa y tha khởi và biến kế chấp, được Vô Sinh Nhẫn, đó là bậc nhất.
Ban đầu quán chánh báo, y báo, nhiễm, tịnh đều do thức hiện, vốn chẳng có tự tánh, tức không khởi biến kế chấp, ngã và pháp luống dối, tức là lìa chấp biến kế, chắc chắn hiểu rõ năng biến, sở biến vốn là tánh sáng tỏ của Bồ-đề Diệu giác, tức lìa y tha khởi, chỉ một báu viên thành trong sạch, vì là giác, nên nói là xa lìa y tha khởi và biến kế chấp.
Duy thức nói: Ban đầu ngay nơi tướng là vô tánh, kế là không có tánh tự nhiên. Về sau, do xa lìa tánh ngã pháp sở chấp ở trước, tức là nghĩa này.
7. Bồ-tát Đại Thế Chí, có ba:
a) Gặp Phật thọ giáo, có hai:
a.1) Nêu ra ý chỉ.
Pháp Vương Tử Đại Thế Chí và năm mươi hai vị Bồ-tát đồng tu một pháp môn, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn, con nhớ hằng sa kiếp trước có Phật Vô Lượng Quang ra đời, thuở đó có mười hai vị Như-lai nối nhau ra đời trong một kiếp. Vị Phật sau cùng hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang, Đức Phật ấy dạy con tu "Tam-muội Niệm Phật". Cũng hiệu là Vô Lượng Quang, Đắc Đại Thế, như Quán Kinh có giải thích, Tam-muội niệm Phật như ở dưới có nói.
Nói lại lời dạy, có hai: a.2.1) Ví dụ để hiển bày, có hai:
- Dụ cho lỗi không niệm Phật.
Thí như có một người lúc nào cũng nhớ, còn một người lúc nào cũng quên, hai người như thế, nếu gặp hay không gặp, hoặc thấy hay chẳng thấy. Người lúc nào cũng nhớ như Phật, người lúc nào cũng quên là người không niệm Phật, những chúng sinh như thế không chắc chắn thấy Phật, nên nói hoặc gặp hoặc không gặp.
- Dụ cho công đức của niệm Phật:
Hai người nhớ nhau, hai cái nhớ càng tha thiết, như thế cho đến đời này đời khác như hình với bóng, chẳng cách xa nhau. Phật và chúng sinh, nhớ nghĩ tương ứng, cho nên Phật và chúng sinh như bóng với hình. a.2.2) Hợp với pháp, có hai:
* Hợp với chẳng nhớ niệm Phật:
Các Đức Như-lai Mười phương tưởng nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con, nếu con trốn tránh thì mẹ dù có nhớ cũng chẳng làm gì, được như mẹ nhớ con đó là Phật, như con trốn mẹ là chính chúng sinh, dẫu nhớ cũng chẳng làm gì được, tức là không gặp nhau.
* Hợp với nhớ niệm Phật, có hai:
- Nêu ví dụ để hợp.
Nếu con nhớ mẹ, như mẹ nhớ con thì đời đời mẹ con chẳng cách xa nhau. Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật niệm Phật, thì hiện tại hay tương lai chắc chắn thấy Phật, cách Phật không xa, không nhờ phương tiện mà tự được tâm khai: trước nêu ví dụ, câu nếu chúng sinh trở xuống là hợp, không nhờ, v.v... trở xuống là được lợi ích.
- Nhờ ví dụ lại hiển rõ:
Như người xông hương thì thân có mùi thơm, đó gọi là Hương Quang Trang Nghiêm: xông hương có mùi thơm, niệm Phật được thấy Phật, nhân quả tương xứng, ai không cho là như vậy?
b) Tu tập được chứng:
Nhân địa gốc của con là nhờ tâm niệm Phật mà được Vô Sinh Nhẫn, nay ở cõi này dắt dẫn người niệm Phật về tịnh độ. Niệm Phật nhập Vô sinh: Nghĩa là trước dùng tâm sinh diệt, duyên theo tướng tốt niệm Phật, chuyên chú một cảnh, tâm không xen hở, thấy tướng tốt y báo trang nghiêm sáng sủa của Phật, quyết thuộc đều vui vẻ. Như đứng trước gương sáng tự thấy mặt mình, mắt nhìn thấy tất cả đều là quả Phật. Sau đó lại quán các cảnh giới Phật được niệm đều là luống dối, vốn chẳng có tự tánh, vì từ tưởng niệm hiện ra, do tâm năng niệm khởi ra, nếu chưa khởi từ đâu có được?
Chẳng thấy một pháp rốt ráo vắng lặng, vì tâm chẳng thấy tâm, chẳng có tướng để đắc, cho nên năng và sở cả hai đều vắng lặng, xưa nay lìa niệm, tướng lìa niệm đều bình đẳng với hư không, không nơi nào chẳng trùm khắp.
Pháp giới Nhất tướng tức là pháp thân bình đẳng của Như-lai, ấy là do nhớ đến tướng tốt, thấy pháp thân Phật, tức niệm chẳng sinh, cho nên dùng tâm niệm Phật nhập Vô Sinh Nhẫn, con đã được độ thì pháp thân của chúng sinh không khác với con, tánh không khác có quan hệ lẫn nhau, vì thế người niệm Phật con đều nhiếp lấy, cho nên nói nhiếp người niệm Phật về tịnh độ.
c) Kết đáp lời hỏi:
Phật hỏi về viên thông, con không lựa chọn, nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối nhau, được Tam-ma-địa, đó là bậc nhất. Niệm thuộc về ý căn, ý căn là chỗ nương của các căn, cho nên nhiếp sáu căn.
Niệm là vô niệm, nên nói là tịnh niệm, niệm không xen hở, nên gọi là nối nhau. Đây là người căn đại tánh được ngộ nhập.
Nghe lại chứng chân thật: thứ lớp môn này hợp với luật nào ở kế, cho nên nhĩ căn trong sáu căn, nay dùng nghĩa viên thông để nói rộng, nối nhau tục khuyên suy xét, cho nên sau cùng, vi biểu thị cái chân thật đạt đến chỗ cùng tột cho nên như vậy. Nếu ở trước nói, Chư Phật phát ra ánh sáng khen ngợi phép môn này, thì bậc Thánh khác chẳng có công đức. Nếu không khen ngợi, thì chẳng biểu thị được môn này, đó là viên thông chân thật. Cho nên khoa này là nghe lại chân thật, văn có hai. I. Trình bày tu chứng, có ba.
1. Gặp Phật bẩm thọ lời dạy.
Bấy giờ, Bồ-tát Quan Thế Âm liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn: Con nhớ khi xưa từ vô số Hằng hà sa kiếp, bấy giờ có Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm, con phát tâm Bồ-đề với Đức Phật ấy. Đức Phật ấy dạy con từ văn, tư, tu nhập Tam-ma-địa. Tiếng phạm Ana-bà-lâu-để-du, Hán dịch là Quán Thế Âm. Từ cảnh trí của năng và sở mà đặt tên, gặp Phật quán pháp, đều là những việc của thầy, thầy trò kế thừa chẳng trái nhau. Con đường lớn thực hành các tuệ Văn, tư, tu không có một, Đức Phật nào không dùng âm thanh để giáo hóa chúng sinh, có người nào không từ nhĩ căn nghe giáo lý tỏ ngộ. Do đó Đức Phật kia dạy con nhập Tam-ma-địa này.
2. Như lời dạy mà tu quán:
Trước con từ trong tánh nghe được vào dòng quên chỗ, chỗ vào đã vắng lặng thì hai tướng động tĩnh rõ ràng bất sinh, như thế dần dần tiến lên thì nghe và chỗ nghe đều hết. Nhập lưu: Là vào dòng, trước là quán tánh nghe, phản chiếu lìa duyên, chẳng thuận theo trần trước mà trôi lăn sinh, diệt. Cho nên nói vào dòng quên chỗ. Vì tướng âm thanh của sở duyên chẳng động nên vắng lặng bất sinh.
Khởi tức là động, tướng động đã mất thì tĩnh cũng không sinh, vì cảnh động tĩnh là chỗ nhĩ căn duyên theo. Nay quán vô tánh vốn chẳng thật có thì không thể rốt ráo được, cho nên nói rõ ràng bất sanh.
Kinh Viên Giác nói: lẽ ra phải xa lìa tất cả cảnh giới huyễn hóa, luống dối, lại thêm quán hạnh, sở duyên đã mất thì tướng nghe không khởi. Tướng năng nghe này chính là văn tuệ. Năng sở đều vắng lặng, cho nên nghe và chỗ nghe đều hết, thì bỏ văn tuệ này. Một căn đã như vậy, thì căn khác cũng vậy, cũng là trước căn này mới mở, trước được người không.
Kinh Viên Giác nói: "Tâm như người huyễn cũng lại xa lìa", đầu nghe mà không trụ, giác và sở giác đều không, chỗ nghe hết tức tư tuệ là thể, gọi đó là Giác.
Giác tuệ này thuộc về thức thứ sáu, như thế thì xả bỏ sự nghe mà quán nghĩa, nay lại không trụ vào chỗ đều nghe ấy. Lại tiến đến quán hạnh, quán bỏ cái nghe của năng giác và sở giác này, cả hai đều không lập, nên gọi là không, mất tư tuệ này tức văn trước nói: Tánh không tròn sáng thành pháp giải thoát.
Kinh Viên Giác nói: Xa lìa là huyễn, cũng lại xa lìa. Giác không cực viên: năng không sở không diệt, chỗ giác không, tư tuệ đã dứt, chỉ tương ưng với Tu tuệ, Quán hạnh tăng tiến thì tu tuệ cực tròn đầy. Cho nên nói giác không cực tròn đầy. Năng không tu tuệ và sở không giác này, cũng đều không còn, cho nên nói năng không sở không diệt, tu tuệ này mất: Tức là pháp giải thoát ở văn trước, đều là không, bất sinh.
Kinh Viên Giác nói: Lìa viễn lìa giác cũng lại xa lìa, sinh diệt đã diệt, vắng lặng hiện tiền, sinh diệt đã diệt, tức là trói buộc ba tuệ trước thì ba không diệt, không đã xoay chuyển, đều thuộc về sinh diệt, đến đây đã cùng tột rồi, nên nói đã diệt. Chân lý vô sinh tánh vắng lặng thường diệu, hiển hiện rõ ràng, cho nên nói vắng lặng hiện tiền.
Cho nên văn trên nói: Đây gọi là Bồ-tát từ Tam-mađịa nhập Vô Sinh nhẫn. Đây là quán pháp về tánh nghe tròn đầy, không có cảnh giới ở trước, lắng dần niệm thô, hơi dứt trừ tưởng sâu kín, cho đến vô niệm. Như văn trên nói: Lắng sâu bất động, cát đất tự chìm thì nước trong hiện ra. Đó mới gọi là hàng phục được khách trần phiền não, bỏ bùn còn nước trong, đó là dứt trừ hẳn vô minh căn bản, tướng sáng tinh thuần, tất cả biến hiện không phải phiền não, đều hợp với đức mầu thanh tịnh Niếtbàn. Đây là bắt đầu từ quán hạnh đến giác tương tự gọi là giai vị sinh diệt. Nhập vào bất cứ phần giác nào mà chứng Vô Sinh Nhẫn, gọi là địa vị Vô Sinh, nhưng mới chứng được cảnh giới không thể suy nghĩ bàn luận này không khác với Phật.
Nên kinh nói: Tâm ban đầu, tâm sau cuối cả hai không khác, hai tâm như thế thì tâm trước khó vào địa vị này, tâm sau là tâm vắng lặng, tự nhiên chảy vào biển Tát-bà-nhã. Quán môn này tức là tu đầy đủ" một tâm ba quán". Nay cho từ văn, tư, tu phản chiếu lìa duyên, hiển rõ tánh tự nghe, niệm thô không khởi, niệm tế chẳng sinh, cho đến vắng lặng, là nói theo nghĩa không, đó là một không thì tất cả không, tánh nghe hiển bày ở giữa thì đạo lý hiện, gọi là vắng lặng hiện tiền.
II. Nói về quả đức, có hai:
1. Được quả đức.
Bỗng nhiên siêu việt thế gian và xuất thế gian, mười phương tròn sáng được hai thứ tốt đẹp.
Trên khế hợp với bổn diệu giác tâm của Chư Phật mười phương, đồng một từ lực với Như-lai.
a) Dưới khế hợp với tất cả chúng sinh trong sáu đường ở mười phương với tất cả chúng sinh đồng một bị ngưỡng. Vắng lặng hiện tiền ở trước là đức đoạn. Bổn giác diệu tâm là đức trí, cả hai năng lực từ và bi đều là ân đức, đã là viên tu thì chứng đủ cả ba đức, cho nên vượt phàm phu thế gian và Ba thừa xuất thế gian. Đây là Tối Thượng thừa. Chỉ có Phật và Phật mới nghiên cứu được cùng tột.
Mười phương tròn sáng nghĩa là: Chứng cảnh giới này, thấy ba thứ thế gian trong mười pháp giới đều như thế, đều được thành Phật. Vì Viên nên không có đức nào chẳng đầy đủ, vì Minh nên chẳng chướng ngại, chẳng cùng tận. Từ bi vô duyên là tướng tâm của Phật, đứng đầu trong các đức là pháp cao quý trong các pháp cao quý, nên nói là cao quý.
Bổn Diệu Giác tâm: Tức là tâm mình và các Như-lai đầy đủ không hai. Nay đích thân chứng nên gọi là khế hợp, vì khế hợp nên được an vui, vì đồng từ lực nên tất cả chúng sinh cũng là tâm này không hai không khác, nên cũng khế hợp với tâm ấy. Vì khế hợp nên thấy mình vốn thành Phật đạo, uổng phí sự lưu lõng của mình cho nên đáng Bi Ngưỡng. Từ đây ứng hiện để cứu khổ chúng sinh, đều nhờ hai đức này mà truyền rộng.
Nói về diệu dụng, có ba. 1) Ba mươi hai ứng thân, có ba: a) Nêu tiêu đề:
Bạch Đức Thế tôn! Do con cúng dường Quán Âm Như-lai, được Đức Phật ấy dạy con Tam-muội như huyễn, Văn Huân Kim Cương, vì đồng một lực từ với Chư Phật, nên giúp con được thành tựu ba mươi hai ứng thân, đến các cõi nước. Vì như huyễn lực huân tu văn, tư, tu tuệ thành tựu Tam-muội Kim Cương, sẽ dứt được vô minh nhỏ nhiệm từ vô thỉ, viên chứng thể Như-lai tạng, nương thể khởi dụng, có khả năng tùy duyên ứng thân vào các cõi nước. Kinh Hoa Nghiêm nói: Pháp thân mầu thanh tịnh, vắng lặng ứng tất cả. Nay nói ba mươi hai ứng thân là: Vì loại năng cảm, chẳng nêu ra số này, chẳng phải ứng hiện có hạn lượng.
Nêu ra giải thích, có bốn. b.1) Thân của bậc Thánh, có bốn:
* Thân Phật:
Bạch Đức Thế tôn: Nếu các Bồ-tát nhập vào Tamma-địa, tiến tu vô lậu, thắng giải hiện đầy đủ, con hiện thân Phật nói pháp giúp cho họ được giải thoát. Bồ-tát ở địa thứ mười, ngồi trên tòa Hoa Vương mà thành Chánh giác, cũng phải phân biệt được lời dạy của Đức Phật, huân tập tánh nghe giúp họ dứt trừ vô minh sâu kín cuối cùng. Nên ngài Quán Thế Âm lại hiện lại thân tha thọ dụng thứ mười mà nói pháp cho họ nghe. Nói thắng giải là: Đối với cảnh giới quyết định nhẫn được ấn trì, không bị chuyên khác dần dắt xoay chuyển, đây chỉ cho lúc trí vô phân biệt cực căn bản sắp tròn đầy, nên gọi là thắng giải. Nhưng vì Bồ-tát này, bước lên Thập trụ rồi mà bỏ tuy là Nhẫn vị bèn hiện thân, nói pháp cho họ nghe, vì giai vị viên chứng này, không có sâu cạn, cho nên năng hiện.
* Độc giác:
Nếu các vị Hữu học vắng lặng tròn sáng, thắng diệu hiện tiền, thì còn hiện ở trước họ làm thân Độc giác, nói pháp giúp họ được giải thoát, giác ngộ một mình, không có Phật ra đời, nhàm chán ồn ào, ở nơi thanh vắng, nên một mình ở chốn núi rừng, hai địa vị ấy là bậc Hữu học, sau đó dứt trừ sự mê hoặc, liền chứng Vô lậu. Y theo lý trí của mình sẽ chứng, chưa chứng, gọi là vắng lặng tròn sáng. Bồ-tát hiện thân đồng loại, trước nói về cội gốc tu tập, sau được gần gũi Phật.
* Duyên Giác:
Nếu có người Hữu học cắt đứt mười hai nhân duyên, duyên dứt tánh cao quý, nhiệm mầu hiển hiện đầy đủ, thì con ở trước họ hiện thân Duyên giác nói pháp giúp họ được giải thoát. Bích-chi-ca-la, Hán dịch là Độc Giác, cũng dịch là Duyên Giác. Trước chỉ tự ngộ, nay nương theo giáo mà ngộ. Quán mười hai nhân duyên, thực hành hai pháp quán lưu chuyển và hoàn diệt, xếp Tập đế vào môn đầu tiên. Khi chân chưa phát khởi gọi là Hữu học, sẽ đầy đủ lý trí đồng với thân Bồ-tát, chắc chắn sẽ tinh tấn.
* Thanh Văn:
Nếu các vị Hữu học được bốn đế không, tu đạo nhập diệt, thắng tánh hiện tiền thì con sẽ hiện ở trước họ làm thân Thanh Văn nói pháp cho họ nghe, giúp họ được giải thoát. Nhờ nghe giáo lý Bốn Thánh Đế mà ngộ, nên gọi là Thanh văn, ba quả ba hướng khi phát chân rồi gọi là Hữu học, khi chưa phát chân, còn ở Nhẫn vị, thì dùng trí hữu lậu. Lại quán Bốn đế thành ba mươi hai hành tướng, Kiến đạo mười sáu tâm đạo vô lậu phát. Từ dứt bốn đế trở xuống là tám mươi tám kiết sử phiền não phân biệt. Chứng lý sinh không, gọi là bốn đế.
Khi từ Sở quả đến dứt câu sinh, chứng lý Diệt đế gọi là Tu đạo nhập diệt, sẽ lên bậc Vô học, đó gọi là thắng tánh hiện đầy đủ, hiện thân nói pháp làm cho họ chứng đắc nhanh chóng, nhưng sau dẫn dắt, chẳng dính mắc vào hóa thành, làm cho tiến đến quả Đại thừa. b.2) Tính chất cõi trời: có hai:
* Đối với Thích Phạm, Tự Tại:
Nếu có chúng sinh, muốn tâm mình ngộ, không phạm dục trần, muốn thân thanh tịnh thì con hiện thân Phạm Vương nói pháp cho ho nghe, giúp họ được giải thoát. Nếu dục nhẹ, tâm sáng khai ngộ, thân trong sạch thì sinh lên cõi Tứ Thiền, không bị nhiễm trần lao phiền não của dục, vì họ hiện thân Phạm Vương, nói pháp Tứ Thiền, ra vào Thiền Chi tu chứng thứ lớp, làm cho họ xa lìa cõi Dục, sinh lên tầng trời Phạm Thế.
Nếu có chúng sinh muốn làm Thiên chủ, thống lãnh các vị trời thì con hiện thân Đế-thích, nói pháp cho họ nghe giúp họ được thành tựu. Chúng sinh thích thống lãnh các vị trời. Bồ-tát vì họ hiện làm Đế-thích, nói mười điều lành Phẩm Thượng, làm cho giới căn thanh tịnh liền sinh lên cõi trời địa cư, ở cung Thiện Kiến, làm vua tầng trời Đao-lợi.
Nếu có chúng sinh muốn được thân tự tại, đi khắp mười phương, con liền hiện thân trời Tự Tại mà nói pháp cho họ được thành tựu. Muốn thân được tự tại đi khắp mười phương, hiện thân Nhị Thiền nói pháp giáo hóa, tức là trời Dạ-Ma, Đổ-Sử gọi là Tự Tại. Từ Ân nói: Đắc quả dị thục, tuỳ theo ý muốn khởi lên niệm cao quý là hai tầng trời dưới, quả của hai tầng trời dưới nương vào cây mà được, nay tùy ý muốn được, đó gọi là Tự Tại.
Nếu có chúng sinh, muốn thân được tự tại, bay khắp hư không, thì con sẽ hiện thân trời Đại Tự Tại mà nói pháp cho họ nghe, làm cho được thành tựu. Trời Lạc Biến hóa, Tha Hóa Tự Tại hiệu là Đại Tự Tại, không thích quả dị thục, thích mình thích người, biến đổi đầy đủ các niềm vui thọ dụng, gọi là Đại Tự Tại. Nhưng nếu chỉ phối hợp hai tầng trời Hóa Lạc và Tha Hóa với nhau thì chẳng nhiếp hết nghĩa, nên từ nơi Từ Ân thâu nhiếp bốn tầng trời.
* Cặp thống nhiếp quỉ thần:
Nếu có chúng sinh nào muốn thống lãnh quỉ thần, cứu giúp cõi nước thì con hiện thân Thiên Đại Tướng Quân nói pháp cho họ nghe, giúp họ được thành tựu. Thiên Đại Tướng Quân là nơi Đế-thích cai quản, ở tầng trời ba mươi hai đều thống lãnh quỉ thần, trấn nhậm bốn phương. Nếu có chúng sinh thích thống lãnh thế giới, bảo vệ chúng sinh thì con hiện thân bốn vị vua trời, nói pháp cho họ, nghe giúp họ được thành tựu.
Bốn vị vua trời là những vị đứng đầu cõi trời, Sơ thiền là của cõi dưới. Đối với núi Tu-di ở mỗi vùng đất rắn, đã thống lãnh hai bộ quỉ thần và mỗi vị vua cùng tám bộ chúng cứu giúp cõi nước. Nếu có chúng sinh thích sinh lên cõi trời sai khiến quỉ thần thì con hiện thân Thái Tử của bốn vị vua trời, mà nói pháp cho họ, nghe khiến được thành tựu. Thái Tử của vua trời là Na-tra giúp đỡ thống nhiếp chính sự, vượt qua quỉ vật hộ đời ích người, đồng với thân Bồ-tát, trước giúp cho thành tựu, sau khiến nhàm chán xa lìa. b.3) Địa vị người, có ba: * Cặp Đế Vương, thần tá:
Nếu có chúng sinh muốn làm chủ cõi người thì con hiện thân vua, nói pháp cho họ nghe, khiến họ được thành tựu: là vua đến, mọi người đều nhóm họp về. Tứ Luân Túc Tán đều làm chủ cõi người, dùng ở trên giáo hóa ở dưới, mọi chúng sanh đều theo.
Nếu có chúng sinh muốn làm chủ các dòng họ, được mọi người cung kính, thì con hiện thân Trưởng giả nói pháp cho họ nghe, giúp họ được thành tựu. Trưởng giả phải có đủ mười đức, là dòng họ tôn quý, có địa vị cao, giàu có, uy đức mạnh mẽ, trí tuệ sâu sắc, lớn tuổi, hạnh thanh tịnh, lễ nghi đầy đủ, trên khen ngợi, dưới quy phục. Đủ mười đức ấy mới gọi là Trưởng giả.
Nếu có chúng sinh thích bàn luận những lời hay, giữ mình trong sạch, thì con hiện thân Cư sĩ, nói pháp cho họ nghe, giúp họ được thành tựu. Người học rộng hiểu nhiều, chẳng muốn làm quan, giàu có của cải, giữ ý liêm trinh, đó gọi là Cư sĩ.
Nếu có chúng sinh thích cai trị đất nước, trông coi các xóm ấp, thì con thị hiện thân Tể Quán ở trước họ nói pháp cho họ nghe, giúp họ được thành tựu. Lãnh thổ của đất nước, lớn gọi là bang, bang là phong, như ban chức tước cho người có công thời bấy giờ. Ấp là huyện, năm quan sáu quan mỗi vị có ấn điển đều được làm Tể Quan. Đây là cai trị bang ấp, nước nhà thay đổi phong tục, xử đoán rõ ràng, dân chúng ai cũng kính phục. Nếu có chúng sinh thích các số thuật, tự nhiếp tâm giữ thân, thì con hiện thân Bà-la-môn, nói pháp cho họ nghe, giúp cho họ được thành tựu.
Bà-la-môn, Hán dịch là Tịnh hạnh, phương pháp điều dưỡng, chú, cấm bói toán điều dưỡng, đều là số thuật. Bồ-tát thừa cơ hiện tướng, cũng là gắng sức thành tựu, cũng là chúng sinh nào mà không giáo hóa.
* Hai chúng xuất gia và tại gia.
Nếu có người thiện nam, thích tu xuất gia, giữ gìn giới luật thì con hiện thân Tỳ-kheo, nói pháp cho họ nghe, giúp cho được thành tựu.
Thi dịch là giới, Tỳ-Ni dịch là luật, do nương vào luật pháp ngừa quấy ngăn ác nên gọi là Giới, gồm có hai trăm năm mươi giới.
Nếu có người nữ thích học giữ các giới cấm của người xuất gia, con hiện thân Tỳ-kheo-ni nói pháp giúp họ được thành tựu. Ni là nữ thinh, tức là nữ Tỳ-kheo, giữ năm trăm giới, giới đã tự nghiêm thì quỹ đắc tự thành, tiến hành nhanh chóng, ra khỏi ba cõi.
Nếu có người nam thích giữ năm giới con liền hiện thân Ưu-bà-đắc nói pháp cho họ được thành tựu. Nếu có người nữ thích giữ năm giới thì con hiện thân Ưu-bà-dị nói pháp giúp họ được thành tựu.
Năm giới gồm: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không uống rượu.
Đức Phật vì chúng tại gia như Trưởng giả v v... mà cho thọ ba quy y rồi, thì thọ năm giới để làm Ưu-Bà-tắc. Kinh nói: năm giới là điều thiên hạ rất cấm kỵ, nếu phạm năm giới này ở trên cõi trời trái với năm tinh (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) ở dưới đất trái với năm Nhạc (Đông Nhạc Thái Sơn, Tây Nhạc Hoa sơn, Nam Nhạc Hành Sơn, Bắc Nhạc Hằng Sơn, Trung Nhạc Tung Sơn) ở địa phương thì trái với Năm đế, ở thân thì trái với Năm Tạng. Như thế, ở thế gian trái phạm vô lượng.
Nếu y theo xuất thế gian thì hoại tất cả pháp, của năm phần pháp Thân. Vì năm giới là giới căn bản, của Đại thừa và Tiểu thừa. Người thích học giới này thì hiện thân người nam, người nữ nói pháp cho họ nghe.
Ưu-Bà-Di, Hán dịch là Thanh Tịnh Nữ, cũng dịch là Cận Sự Nữ. Cặp Nữ Chủ, đồng thân.
Nếu có người nữ nào chánh trị bên trong lập thân để tu gia quốc, con liền hiện thân nữ chủ và Quốc Phu Nhân mạng phụ (vợ quan) đại gia mà nói pháp cho họ nghe, giúp họ được thành tựu, người kiểm soát nội chánh của vua gọi là Nội tể.
Chính là để sửa sang cái bất chánh. Khanh đại phu gọi là gia.
Thiên Tử Chư hầu gọi là Quốc Hậu phi của thiên tử gọi là Nữ Chủ Chư Hầu gọi là Quốc Phu Nhân.
Ngoài ra, hễ tôn trọng triều đình thì vợ được tôn vinh là Thất, chịu sự sai khiến của hậu phi, nên nói là mệnh phụ.
Đại gia: Tức là người con gái của hậu phi như: Tào Tuệ Cơ, Cung Cấm Quốc vi, Thanh Sắc Tăng Dật, Bất Tư Thánh Hóa, Hạt Mộ Thanh Trinh.
Nếu có chúng sinh nào không có nam căn thì con hiện thân đồng nam nói pháp cho họ nghe, giúp họ được thành tựu.
Nếu có xử nữ thích ở một mình, không cầu xâm bạo. Con liền hiện thân đồng nữ nói pháp cho họ được thành tựu. Đồng nam đồng nữ trinh tiết hơn người thế tục, nhân cách hơn người, Bồ-tát ở chỗ họ khuyên răn đốc thúc. b.4) Quỷ thần, có ba:
* Loài thần nhạc như trời, rồng, Dược-xoa:
Nếu có các vị trời muốn ra khỏi loài trời, con liền hiện thân trời nói pháp cho chúng được thành tựu.
Nếu có loài rồng nào muốn ra khỏi loài rồng, con liền hiện thân rồng nói pháp cho chúng được thành tựu.
Nếu có Dược-xoa thích ra khỏi loài Dược-xoa, con liền hiện Dược-xoa nói pháp cho chúng được thành tựu. Nếu có Càn-thát-bà nào thích thoát khỏi loài Cànthát-bà, con hiện thân Càn-thát-bà nói pháp cho chúng được thành tựu.
Trời có thể chán vui, rồng có thể sợ khổ, Nhạc thần là loài buông lung, Dược-xoa thì mạnh mẽ, loài nào cũng muốn ra khỏi, chẳng phải bậc Thánh thì không cứu được. * Loài vô tửu Nghi thần hình rắn:
Nếu có A-tu-la nào thích thoát khỏi loài A-tu-la, con liền hiện thân A-tu-la nói pháp giúp họ được thành tựu.
Nếu có loài Khẩn-na-la nào thích thoát khỏi loài chúng, con liền hiện thân Khẩn-na-la nói pháp cho chúng được thành tựu.
Nếu có Ma-hô-la-già nào thích thoát khỏi loài Mahô-la-già thì con liền hiện thân Ma-hô-la-già nói pháp cho chúng được thành tựu.
A-tu-la hình dạng xấu xí nặng nề ngã mạn.
Nghi thần thì gần giống người nhưng có sừng, còn hình rắn là loài đi bằng bụng. Do hủy giới mà đọa vào đường này, mỗi loài đều nguyện ra khỏi loài ấy đều được như sở nguyện.
* Các Loài lẫn lộn như người, chẳng phải người v.v...
Nếu có các chúng sinh thích làm người tu nhân con liền hiện thân người nói pháp cho họ nghe, giúp họ được thành tựu.
Nếu có chẳng phải người hoặc có hình, không hình, có tưởng, không có tưởng, thích thoát khỏi loài ấy con liền hiện thân ấy nói pháp giúp họ được thành tựu.
Thân người khó được, gặp Phật được giáo hóa, không mê đắm cõi trời, ngoài ra đều nhiều khổ cho nên thích tu, có thân có sắc uẩn. Như dưới dứt lỗi thì được tinh minh v.v...
Không thân là không có sắc uẩn. Như không tán tiêu trầm ở dưới.
Có tưởng là có bốn uẩn. Như quỉ thần tinh linh ở dưới.
Vô tưởng là không có bốn uẩn, tức là tinh thần hóa thành đất đá cây vàng. Trên đây đều là chẳng phải người, đây là tạp loại hình tưởng, vật đều thấm nhiều, mỗi thân ấy thừa cơ liền hóa. c) Kết thành:
Đây gọi là ba mươi hai thân diệu tịnh nhập vào cõi nước, đều dùng Tam-muội văn huân văn, tu vô tác diệu lực, tự tại thành tựu, dùng năng lực như huyễn huân tập văn tư tu thành Tam-muội Kim Cương. Chứng chân khởi dụng, tư tại như thế.
Hai mươi bốn Vô Úy, có nạn thì vớt, có nguy thì cứu, sợ hãi được an ổn, gọi chung là Vô úy, thể là đại bi, văn có ba:
1) Nêu lên:
Bạch Đức Thế tôn con lại dùng cái nghe này mà huân tu Tam-muội Kim Cương, vô tác diệu lực, và tất cả chúng sinh ba đời mười phương trong sáu đường đồng một bi ngưỡng, làm cho các chúng sinh đối với thân tâm con được hai mươi bốn thứ công đức không sợ. Do quán hạnh trước mà chứng chân, đầy đủ công đức, từ thể khởi dụng giúp cho chúng sinh được hai mươi bốn thứ công đức không sợ.
2) Trình bày giải thích, có bốn: a) Thanh Văn lìa khổ.
Một là do ta không từ Quán Âm dùng quán để quán, khiến cho chúng sinh khổ não trong mười phương Quán Âm thanh liền được giải thoát, do chẳng quán, âm thanh đã nghe, chỉ quán tánh nghe, âm thanh tự nó vắng lặng, tướng nghe không sinh khởi, cảnh trần không câu nệ, tự nhiên giải thoát. Tự đã như thế nên giúp cho tất cả chúng sinh mười phương nghe âm thanh của con liền được hết khổ.
b) Gặp nạn tiêu nguy, có ba:
b.1) Ba tai nạn xấu trong nước: tri kiến xoay trở lại: làm cho tất cả chúng sinh dù bị xô vào lửa lớn thì lửa lớn không thể đốt cháy được. Vốn do bốn đại vắng lặng, xoay vần làm cho hay biết.
b.2) Nay vốn làm cho vốn nghe biết thấy trở về vắng lặng, tánh vắng lặng trùm khắp, chẳng trần nào thật có, lửa trần đã dứt thì vật gì cũng đốt được, nên làm cho tất cả chúng sinh lửa lớn không thể đốt được. quán tiếng xoay trở lại, làm cho tất cả chúng sinh không bị nước lụt cuốn trôi, tiếng có thể ào ạt như sóng nước, quán tiếng xoay trở lại tướng trần không khởi, rỗng trong vắng lặng thì vật nào cuốn trôi được? Cho nên làm cho người niệm không bị nước lụt nhận chìm.
b.3) Cắt dứt vọng tưởng, tâm không giết hại, làm cho tất cả chúng sinh lạc vào cõi nước quỉ, quỉ không hại được. Vọng tưởng sinh diệt có công năng giết chết pháp thân, có thể hại tuệ mạng. Nếu các hoặc bị cắt đứt thì chân tánh không bị tổn thương, cho nên lạc vào cõi nước quỉ, quỉ không hại được.
Năm là huân tập cái nghe thành nghe, sáu căn tiêu diệt đồng với tiếng nghe, làm cho chúng sinh lúc bị chặt chém đao gãy từng khúc, làm cho binh đao kia giống như cắt nước, như thổi ánh sáng.(Chín trăm lẻ sáu) tánh không dao động, huân tu vọng nghe, thành tánh thật nghe. Một căn mất thì các căn còn lại cũng dung thông, nước, tâm trong sáng, ánh sáng trí vô động. Ai vì mình người thì sẽ bị hại. Cho nên xúc chạm vật không dính mắc thì đi qua dao cũng thừa khả năng.
c) Nạn ngạ quỉ, địa ngục trộm cướp:
Sáu là nghe huân tinh ròng sáng suốt: sáng suốt trùm khắp pháp giới thì các tánh tối tăm không thể toàn vẹn, giúp cho chúng sinh nếu quỉ Dược-xoa, la-sát, Cưu-bàntrà, và Tỳ-xá-già, phú-đơn-na tuy ở gần bên chúng nhưng mắt chúng không thấy, nghe huân quán môn thành tựu tinh ròng, sáng suốt, trí chiếu đã dung thông, pháp giới trùm khắp và vô minh tối tăm không bao giờ sinh. Dược-xoa v.v... đều thọ khí ở chỗ tối tăm, sáng có công năng phá tối nên làm cho mắt quỉ không thấy được. Bảy là tánh của âm tiêu hết, quán tiếng trở vào, lìa các trần vọng, làm cho chúng sinh gông cùm xiềng xích dính vào thân, tướng trần lụy xoay vần buộc sáng. Sáu căn chất ngại như gông cùm, đã nhập vào dòng, mất chỗ buộc ràng thì ngăn ngại không thành. Cho nên người niệm thoát khỏi gông cùm xiềng xích.
Tám là diệt âm, nghe tròn đầy, khắp sinh năng lực từ, làm cho chúng sinh qua đường hiểm cướp bóc không hại được, tiếng có thể cướp tâm, hại lành là giặc, tiếng mất ý tịnh, năng lực từ bi huân khắp bình đẳng sinh khởi, thiện ác đồng quán nên giúp cho đi qua chỗ cướp bóc nguy hiểm mà chúng không cướp bóc được.
d) Ba nạn tâm ác độc:
Chín: Là huân nghe xa lìa trần cảnh, sắc không bị cướp, làm cho tất cả chúng sinh nặng về dâm dục xa lìa tham dục, thinh trần đã mất, cảnh sắc tiêu dứt thì niệm lự tham dục từ đâu sinh khởi, nên làm cho chúng sinh ra xa lìa tham dục.
Mười: Là thuần âm không có trần, căn cảnh viên dung, không có năng đối đãi, sở đối đãi, làm cho tất cả chúng sinh phẫn hận xa lìa các thứ sân nhuế, âm thanh khác nhau. Tam-muội có thể thuần, trần đã bất sinh. Căn không chỗ nương, cảnh thuận nghịch không có được, thì tâm sân nhuế tự mất, nên giúp cho người niệm xa lìa các sân nhuế.
Mười một: Là tiêu trần xoay về sáng, thân tâm pháp giới giống như lưu-ly, trong suốt vô ngại, làm cho tất cả chúng sinh có tánh tối tăm chướng ngại các a-điên-ca xa lìa hẳn si ám, tiêu trừ trần ám, xoay lại chân minh, thân tâm thế giới rỗng rang vô ngại, tất cả chỉ có giác thì cái gì là si ám, cho nên khiến kẻ xiển-đề đều sinh tâm thật tin.
3. Tùy theo ham muốn nên cầu:
Mười hai: Là thân dung thông, trở lại cái nghe, bất động đạo tràng, bước vào thế gian, không hoại thế giới, trùm khắp mười phương. Cúng dường vô số Chư Phật, Như-lai làm Pháp Vương Tử bên mỗi Đức Phật, làm cho chúng sinh trong khắp thế giới cầu sinh con trai thì sinh con trai phước đức trí tuệ. Dung thông thân hình chướng ngại xoay lại cái nghe chân chánh cho nên bất động đạo tràng thiện nhập vào thế giới, thân không hạn lượng đến khắp mười phương, nối tiếp hạt giống Pháp Vương tánh không dứt, do năng lực Tam-muội phước tuệ đầy đủ, nên cầu con trai đều không luống nguyện.
Mười ba: Là sáu căn viên thông, chiếu sáng không hai, bao trùm các thế giới mười phương, lập đại viên cảnh không Như-lai tạng, thuận theo các Đức Như-lai mười phương nhiều như cát bụi.
Pháp môn bí mật, thọ lãnh không mất, làm cho chúng sinh trong thế giới không có con, muốn cầu con gái thì sinh con gái xinh đẹp phước đức nhu thuận với mọi người. Sáu căn viên thông, dung thông chiếu sáng bao trùm, hiện cả mười phương không hai không khác, chỉ một bảo giác. Gọi là Đại Viên cảnh, lại có khả năng thuận theo vô số Chư Phật, thọ lãnh chứa đựng vô lượng pháp môn không mất không hoại. Gọi là Không tạng, vì đức người nữ thuận nghi, giúp chúng sinh thuận theo, nhu mì trinh chánh, tướng tốt đầy đủ, do đây mà niệm cầu thì nắng sinh.
4. Xưng tên được phước:
Mười bốn: Là Tam thiên Đại thiên thế giới trăm ức mặt trời mặt trăng, hiện các Pháp Vương Tử trú ở thế gian, có sáu mươi hai ức Hằng hà sa số, tu pháp thuận theo khuôn phép, giáo hóa chúng sinh, thuận theo chúng sinh phương tiện trí tuệ các pháp khác nhau, so sánh nhiều chúng.
Phương tiện là quyền, trí tuệ là thật. Dưới hãy so sánh một tên.
Do con sở đắc viên thông, bổn căn phát diệu vào tai. Sau đó thân tâm mầu nhiệm, chứa đựng trùm khắp pháp giới, trước nêu lý do, sở tu của Quán Âm từ ba tuệ mà vào, đây là căn bản các hạnh. Phật Phật giảng giáo đều dùng âm thanh, cơ cơ lãnh ngộ đều do văn tuệ người nào ra mà không từ cửa này, như thế ai cũng từ con đường này. Huống chi đối với thanh trần mà mất sở đắc, lại căn kết quy về chân tế, tâm mầu vốn sáng, cảnh một nhiều dung thông, vốn vắng lặng giác viên, tên gọi kia đây bình đẳng vì tất cả thân là tức là một thân, cho nên nói mầu nhiệm. Chứa đựng một thân tức là tất cả thân, cho nên nói khắp pháp giới. Đây là lý do phước bình đẳng, làm cho chúng sinh trì niệm danh hiệu con, cùng người trì niệm sáu mươi hai hằng hà sa các Pháp Vương tư, hai người phước đức bằng nhau không khác.
Bạch Đức Thế tôn! Một danh hiệu con, và nhiều danh hiệu của các vị Pháp Vương Tử kia không khác, do con tu tập được chân viên thông, chính là phước ngày trước.
Nghĩa là do tự chứng lý bình đẳng bèn giúp cho họ được phước bình đẳng.
Câu do con được viên thông v.v... trở xuống là kết luận lại lý do.
Kết thành: Đây gọi là mười bốn thí Vô Úy của chúng sinh có đầy đủ phước lực, như văn kinh có chép.
Bốn không thể suy nghĩ bàn luận, đức dụng rất riêng khác, chẳng nói người có trí bằng được, tức là hiển thể đại viên cảnh, tướng của công đức.
Nhưng lực dụng công đức, thể ấy là một.
Vì uẩn bên trong gọi là Đức, bố thí bên ngoài gọi là Dụng, trước tuy tùy cơ hiện ứng hợp thời, chế ngự chúng sinh, cứu khổ ban vui, số vẫn có hạn nhưng chưa đủ trình bày tự tại hiện hóa, đức diệu vô phương, diệu không gì so sánh được, khó suy nghĩ, bàn luận. Cho nên nay nói lại, văn có ba phần:
1. Nêu tiêu đề.
Bạch Đức Thế tôn! Con lại được đạo viên thông tu chứng vô thượng nầy, lại khéo được bốn công đức mầu nhiệm vô tác không thể nghĩ bàn luận, đức bên trong không đầy đủ, dụng bên ngoài không khởi, dùng Tammuội Kim Cương xông ướp bốn tâm vô lượng, do quả chứng này mà thật đức hiện tiền, cho nên thành bốn công đức vô tác không thể suy nghĩ bàn luận, mà hiện.
Trình bày giải thích, có bốn: a) Hiện thân nói pháp.
Là do con mới được tâm nghe diệu diệu, tâm tinh sót mất cái nghe, thấy nghe hay biết không thể phân cách, thành một giác báu viên dung thanh tịnh. Đây là trình bày gốc đức.
Tánh của nghe vốn là chân, chẳng thô chẳng diệu, do dứt bặt đối đãi nên nói là diệu diệu, chẳng thô gọi là Tinh, lìa tướng nên nói là sót, một căn đã trở về thì sáu căn đều giải thoát. Cho nên không phân cách, thành một giác báu. Dưới đây là nêu sở hiện:
Cho nên con hiện được nhiều dung mạo tốt đẹp, có khả năng nói thần chú bí mật vô biên, đó là nêu dung mạo đẹp mà hiện nhiều, không thể y theo hình lượng mà câu nệ, mật chú vô biên không thể dùng lời nói hết, đây là do năng lực của Tam-muội huân vào tâm từ vô lượng, hiện các thứ thân hình, nói các thần chú làm cho những ai thấy nghe đều được niềm vui mầu nhiệm.
Trong đó hoặc hiện một đầu, ba đầu, năm đầu, bảy đầu, chín đầu, mười một đầu, (chín trăm lẻ bảy) như thế cho đến một trăm lẻ tám đầu, một ngàn đầu, một muôn đầu, tám muôn bốn ngàn đầu. Thước-ca-la, hai tay, bốn tay, sáu tay, tám tay, mười tay, mười hai tay, mười bốn, mười sáu, mười tám, hai mươi, cho đến hai mươi bốn tay, như thế cho đến một trăm lẻ tám tay, ngàn cánh tay, muôn tay, tám muôn bốn ngàn tay Mẫu-đà-la. Hai mắt, ba mắt, bốn mắt, chín mắt, như thế cho đến một trăm lẻ tám mắt, ngàn mắt, muôn mắt, tám muôn bốn ngàn mắt báu thanh tịnh. Hoặc từ, hoặc oai, hoặc định, hoặc tuệ. Cứu giúp chúng sinh được tự tại hoàn toàn, đầu sinh ra các Thánh, là pháp thân, tay có thể nâng nên nhận lấy. Là hóa thân. Mắt nhìn sáng suốt, đây là trí thân. Vật không luống thấy, thấy chắc chắn được lợi ích nên có khả năng cứu giúp.
b) Chúng sinh không sợ hãi:
Hai là nhờ con văn, tư mà thoát khỏi sáu trần, như âm thanh qua tường vách không thể làm ngăn ngại, nên con khéo léo có thể hiện mỗi thân tụng mỗi chú, thân ấy chú ấy có khả năng bố thí vô úy cho chúng sinh. Bởi vậy mười phương vô số cõi nước đều gọi con là Thí Vô úy Giả. Do năng lực như huyễn huân tập lòng từ cho nên một thân hiện vô lượng thân, vô lượng thân hiện một thân, vô số cõi ở mười phương, chẳng cõi nào không hiện. Nói mỗi chú là cứu giúp nhiều khổ não, chúng sinh Vô úy được tự tại hoàn toàn.
c) Xả báu cầu thương xót:
Ba: Là do con tu tập căn bản thanh tịnh bổn diệu viên thông, đến khắp thế giới đều làm cho chúng sinh xả thân, châu báu, cầu lòng thương xót của con. Do năng lực của Tam-muội huân vào tâm hỷ cho nên có khả năng đến khắp các thế giới, chúng sinh thấy con đều sinh vui mừng, không tiếc thân của để cầu sự thương xót.
d) Mong cầu theo sở nguyện:
Bốn: Là con được tâm Phật, chứng được rốt ráo, có thể khả năng dâng châu báu lên cúng dường các Đức Như-lai ở mười phương. Bên cạnh cùng chúng sinh trong sáu đường ở khắp pháp giới cầu vợ thì được vợ, cầu con thì được con, cầu Tam-muội được Tam-muội, cầu sống lâu được sống lâu. Như thế cho đến cầu đại Niết-bàn được đại Niết-bàn. Do năng lực chiếu soi tròn đầy huân vào tâm xả, đã chứng quả rồi liền dâng châu báu lên cúng dường trên Chư Phật, dưới đến các chúng sinh, đều làm cho họ cầu pháp thế gian và xuất thế gian, tùy theo sở nguyện.
Hai đoạn hỷ xá sở trên nói qua lại đều được. Lại nữa, tổng hợp về các văn trên đối với ba quán, do quán tướng mất thần lắng cho nên vắng lặng hiện ra. Do quán khởi huyễn, dứt trừ trần lao cho nên được hai thứ cao quý. Do quán tâm lịnh thiêng dứt bặt đối đãi cho nên được bốn thứ không thì suy nghĩ bàn luận, cũng chính là quán không, quán giả, quán trung, văn rõ ràng rất dễ hiểu.
3) Tổng kết giải thích thành, có hai: a) Kết đáp lời hỏi:
Phật hỏi về viên thông con từ nhĩ môn viên chiếu Tam-muội, duyên tâm tự tại, nhân tướng nhập lưu được Tam-ma-đề, thành tựu Bồ-đề đây là Đệ nhất. Viên chiếu Tam-muội: Là Tam-muội Nhất Hạnh, là mới duyên với tướng thật, cảnh tạo tức Trung, đều là chân thật, buộc duyên pháp giới, nhất niệm pháp giới, cho nên nói duyên tâm tự tại. Đây là định Thủ-lăng-nghiêm mà kinh nầy y theo. Điều Văn-thù khen ngợi được viên thông chân thật, ánh sáng Chư Phật giao nhau đồng vui với lời này, người học sau đến đây xin hãy lưu tâm, không cho là luống uổng. b) Trình bày sự hoan hỷ mà được tên gọi:
Bạch Đức Thế tôn! Lại Đức Phật kia khen ngợi con khéo léo được pháp môn viên thông, ở trong hội thọ ký cho con hiệu là Quán Thế Âm. Do con quán nghe âm thanh mười phương tròn sáng, cho nên danh hiệu Quán Âm vang khắp các cõi mười phương.
Nhãn quán tai nghe, lược nêu hai căn trong sáu căn, hoặc quán cái nghe này, một căn xoay trở lại, không thành sáu dụng, cho nên mười phương tròn sáng chỉ một giác báo. Do đây mà được tên gọi là Biến Nhất Thiết, Nhất Khánh Thuyết nan tư, chính là Quán Âm, gồm các bậc Thánh khác.
Văn có bốn.
1. Ánh sáng của Chư Phật giao nhau:
Bấy giờ Đức Thế tôn ngồi trên tòa sư tử, từ năm thể đồng phát ra ánh sáng báu, xa thì quán đảnh mười phương vô số Pháp Vương Tử của Như-lai, và các Bồtát.
Các Đức Như-lai kia: Cũng từ năm thể đồng phát ra ánh sáng báu, từ vi trần mới đến rót trên đảnh Phật, lại rót trên đảnh các vị đại Bồ-tát và A-la-hán ở trong hội, rừng cây ao hồ đều giảng nói tiếng pháp, ánh sáng đan xen nhau như lưới tơ báu.
Nhĩ căn viên thông thì năm căn đều nhiếp, xứng đáng gọi là Chư Phật, nói chứng đều đồng.
Đại Bồ-tát A-la-hán, tức là nói người viên thông hai mươi lăm vị Thánh ở trước, ấn khả đều là viên thông, cho nên phát ra ánh sáng báu rót trên đảnh.
Rừng cây ao hồ giảng nói tiếng pháp: Đã gọi là viên thông, người và ta đều thông suốt, trùm khắp muôn vật pháp nào mà không giảng nói. Ánh sáng giao nhau: Như lưới giăng khắp Đại giáo.
2. Đại chúng được lợi ích:
Các đại chúng này được điều chưa từng có, tất cả đều được Tam-muội Kim Cương, tại nghe viên quán đảnh chạm ánh sáng trí. Tam-muội Quán Âm cùng được cùng lúc. Đây là hai mươi bốn vị Thánh đồng hội một môn Quán Âm, đều được gọi là Tam-muội Kim Cương.
3. Hoa rơi như mưa, tô điểm thế giới:
Ngay lúc ấy, trời mưa xuống hoa sen trăm báu, xanh vàng đỏ trắng lẫn lộn rơi lả tả, mười phương hư không thành mầu bảy báu, thể Pháp thân trong trắng.
Trời rồng bỗng nhiên yếu kém, nay sẽ hiển hiện, như không bảo nghiêm, muôn hạnh tập thành nên hoa rơi xen lẫn.
Hợp cõi nước để giảng nói:
Núi sông, đất đai của thế giới Ta-bà này đều không hiện, chỉ thấy vô số cõi nước trong mười phương hợp thành một cõi, tán tụng ca ngâm tự nhiên cùng tấu, căn trần tiêu tan, pháp giới viên thành, cho nên núi sông không hiện, hợp thành một cõi.
Phạn-ma, Hán dịch là Tịnh, nói đủ là Bái-nặc, dịch đúng là bà sư, Hán dịch là tán thán.
4. Phật bảo Văn-thù chọn lựa, có ba:
a) Phật bảo ngài Văn-thù, có hai:
a.1) Chỉ nói hiển đồng:
Bấy giờ, Như-lai bảo Pháp Vương Tử Văn-thù-sưlợi: Nay ông hãy xét xem hai mươi lăm vị Bồ-tát và A-la-hán Vô học này, mỗi vị đều nói về phương tiện thành đạo trước tiên, đều nói tu tập chân thật viên thông. Họ tu hành thật không có hơn kém, trước sau khác nhau, yếu chỉ tu hành là nhập vào chân thật. Nay đều được chứng cho nên nói không hơn kém. Nhưng có ngày dài hơn một kiếp cho nên thành trước sau sai khác nhau, hoặc có thể đến chỗ họ đều thành tựu, cũng không có sự khác nhau trước sau.
a.2) Ứng căn, sai lựa chọn.
Nay ta muốn làm cho A-nan khai ngộ hai mươi lăm hành, ai phải ứng căn ấy, sau khi ta diệt độ chúng sinh ở thế giới này nhập vào thừa Bồ-tát cầu đạo vô thượng, cửa phương tiện nào được thành tựu dễ dàng. Nếu dùng ba khoa bảy đại chuyên môn, chỉ khéo tùy theo căn mà vào. Đây đều là phương tiện, nếu ở cõi này, hiện tại, vị lai, lập giáo thông phương, các cơ thượng trung hạ đều được ngộ nhập, mãi mãi làm phương tiện cho chúng sinh thành đạo. Trong hai mươi lăm môn thì môn nào là cao quý, do trước đó có thưa hỏi các Đức Như-lai mười phương về phương tiện đầu tiên được thành Bồ-đề Diệu Tam-ma-đề. Cho nên nay sai chọn lựa pháp môn khai thông, để được thành tựu.
b) Nói kệ lựa chọn, có hai:
b.1) Vâng chỉ tỏ bày cung kính.
Pháp Vương Tử Văn-thù-sư-lợi vâng yếu chỉ từ bi của Phật, liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi đảnh lễ dưới chân Phật, nương oai thần Phật nói kệ đáp lời Phật.
Văn-thù đứng đầu về Trí Đức, ngôn dụng không ai lường, dứt trừ không còn nghi, thấu các tâm ai không im lặng. Cho nên nương ý chỉ Phật cung kính mà nói kệ.
b.2) Nói về từ của kệ, có ba:
Tụng về hai nguồn chân vọng, có hai: Nói lược về chân vọng:
Sắp chọn hành môn, thì trước nói rõ chân vọng, nếu không mê ngộ thì đâu có tu hành, bởi mê nhất chân, nên thành các vọng, vật không có cuối cùng hay chăng? Cho nên có lúc ngộ, ngộ chạy theo căn môn nên chia ra mau chậm, ngộ đến chỗ cùng cực gọi là Đại Niết-bàn. Cho nên văn dưới nói: Diệu tánh tròn sáng lìa các danh tướng, xưa nay không có chúng sinh và thế giới, do vọng mà có sinh, do sinh mà có diệt, sinh diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chân. Đây gọi là Như-lai Bồ-đề Niết-bàn Nhị Chuyển Y, cho nên nói trước.
Văn có ba:
1. Chỉ một nguồn chân:
Tánh biển giác lắng trong tròn đầy, đầy lắng giác vốn diệu: Đây là hiển bày biển tánh chân, lìa danh bặt tướng, chẳng chân chẳng vọng, không ngộ không mê, chỉ một viên thường, ngoài ra không sở đắc, tức ở dưới nói diệu tánh tròn sáng, lìa các danh tướng. Xưa nay không có chúng sinh và thế giới. Giác tánh trùm khắp vắng lặng, cho nên nói giống như biển, câu dưới khen ngợi lại lần nữa, không thể suy nghĩ bàn luận dứt các đối đãi, nên nói là Diệu.
2. Do mê khởi vọng, có hai:
a) Nói về khởi vọng:
Nguyên minh chiếu sinh sở, chỗ lập tánh chiếu mất, thể giác tròn lắng xưa nay chiếu sáng, vọng giác không rõ, nhận làm tướng sở, sở đã vọng lập mà sinh ra vọng năng, từ rốt ráo không thành rốt ráo có cho nên nói chỗ sinh chẳng gọi từ chân mà sinh. Bóng tối đã hiện, ánh sáng liền ẩn, vi ẩn nên nói mất. Mê vọng có hư không, nương vào hư không mà lập thế giới, tưởng lắng thành cõi nước, tri giác chính là chúng sinh. Thế giới mới khởi, không ngơ hiện hiện trước, từ vọng tưởng sinh, nên nói mê vọng mà có.
Như văn dưới nói: Cho đến hư không đều do vọng tưởng sinh khởi. Nương vào hư không lập thế giới: Thể của thế giới là bốn luân, đều nương vào hư không mà có. Như văn ở trước nói: Giác minh không muội, đối đãi nhau thành dao động, cho nên có gió chuyển, chấp giữ thế giới v.v... Vọng tưởng ngưng kết thành cõi nước bên ngoài, vọng tâm giác biết thành chúng sinh bên trong, y báo chánh báo đã rõ ràng gọi chung là thế giới.
b) Nêu ví dụ để giải thích thành tựu:
Hư không sinh trong Đại giác, như hòn bọt giữa biển, hữu lậu vô số cõi, đều nương hư không sinh. Hư không tối tăm, thể là bất giác, bất giác sinh giác như một hòn bọt.
Luận Khởi Tín nói: Vì nương vào giác mà có bất giác. Văn dưới nói: Nên biết hư không sinh trong tâm ông giống như áng mây trên bầu trời xanh, huống chi là các thế giới ở trong hư không ư? pháp dụ rất dễ thấy.
3. Quay vọng về chân:
Bọt tan, không vốn vô, huống là các ba cõi. Văn dưới nói:
Các thầy mỗi người phát chân về nguồn thì hư không mười phương đều tiêu mất, sao nói tất cả các cõi trong hư không mà không hơn kém, là do vọng vốn không có gốc, rốt ráo bất sinh. Cho nên nói hư không như bọt biển không diệt mà diệt, ba cõi như huyễn, chẳng vô mà vô.
Tu chứng đồng khác, có hai: a) Lý đồng hành khác:
Về nguồn tánh không hai, phương tiện có nhiều môn, đồng trở về một lý, lý thì không khác, hành có Thiên Viên, nhanh chậm khác nhau.
Kinh Viên Giác nói: Vô Thượng Diệu Giác trùm khắp mười phương, sinh ra Như-lai và tất cả pháp đồng thể bình đẳng, đối với các sự tu hành, thật không có hai, phương tiện thuận theo, số ấy vô lượng. b) Thánh đồng phàm khác:
Tánh của Thánh đều thông, thuận nghịch đều phương tiện, sơ tâm nhập Tam-muội, thứ lớp chậm nhanh khác. Nếu căn tánh của bậc Thánh hoặc đã chứng tánh Thánh, hoặc thuận hoặc nghịch đều được vào giác, cũng không có sâu cạn.
Ban đầu tâm vào đạo cho nên phải chọn lựa làm cho tiến nhanh. Như văn ở trên nói: các Đức Như-lai mười phương trong mười tám cõi, mỗi cõi đều tu hành, đều được tròn sáng Vô thượng Bồ-đề. Ở trong đó cũng không có hơn kém, chỉ có ông hơn kém, chưa thể ở trong đó tuệ tròn đầy tự tại, cho nên nay ta tuyên dương giúp cho ông chỉ nhập sâu một môn.
Phân biệt các Thánh, có bốn:
1. Môn nương vào trần mà hiển ngộ, có sáu:
1. Cảnh sắc: sắc tưởng kết thành bụi trần, tinh liễu không thấu suốt, nếu không thấu suốt rõ? Làm sao được viên thông?
Ưu-ba-ni-sa-đà nhờ quán sự bất tịnh cho đến tướng xương trắng, bụi cát, phân tích sắc rõ không, sắc trần đã hết, sắc mầu thầm viên dung.
Nay ở đây phân biệt rằng: Sắc do vọng tưởng kết thành, làm ô nhiễm chân tánh. Thể ấy vốn thô, tánh là chất ngại, không thể thấu suốt sáng tỏ, không thấu suốt pháp này làm sao được Viên thông?
2. Cảnh thinh: Âm thinh, ngữ ngôn lẫn lộn, chỉ nương danh cú vị, một chẳng bao gồm tất cả, làm sao được viên thông? Ngài Trần-như-ngộ Bốn đế, thinh diệu âm mật viên, nhờ vậy mà đắc đạo. Nay ở đây phân biệt rằng: Âm thanh không lìa các lời nói lẫn lộn, lời nói chính là danh thân, văn thân, cú thân. Danh thân, văn thân hiển rõ, mỗi thứ đều có phần hạn, vì danh nói về tự tánh, cú thân nói về sự khác nhau. Văn thân chính là chữ, làm hai chỗ nương tựa. Cho nên chẳng phải một có thể bao gồm tất cả. Y nghĩa là "là".
3. Cảnh Hương: Hương lấy cái biết trong sự hợp, lìa thì vốn không có, không hằng biết được, làm sao được Viên thông. Đồng tử Hương Nghiêm phán đoán được thanh trai, ngửi hương vào mũi. Quán đều này không từ đâu đến, không đi về đâu, không chỗ nào đến, khí trần đã tan, mùi hương vi diệu, chu mật viên dung. Nay ở đây phân biệt rằng: Một pháp hương hợp thì có, lìa thì không, đã chẳng thường, thì chưa được viên quán.
4. Cảnh Vị: Tánh của vị chẳng phải bổn nhiên, khi dùng vị thì có, cái biết ấy không thường nhất, làm sao được viên thông? Ngài Dược Vương, Dược Thượng, do nếm các mùi vị, rõ được mùi vị vô sinh, chẳng phải tức thân tâm, chẳng phải lìa thân tâm. Do vị mà biết rõ, bước lên vị Bồ-tát nay nói tánh vị vốn không, đợi căn mới biết, vô căn chẳng biết, nên chẳng phải viên thông, khi có vị là khi nếm.
5. Cảnh Xúc: Xúc do xúc chạm mà biết rõ, chẳng có chỗ nào không nói về xúc, tánh hợp lìa không (chín trăm lẻ chín) chẳng nhất định làm sao được viên thông? BạtĐà-Bà-la bỗng ngộ được nhân của nước, đã không rửa bụi trần, cũng không tắm gội thân thể. Ở giữa an nhiên được điều chưa hề có, xúc vị diệu sáng tỏ, do đó mà chứng quả. Nay nói xúc này do thân bị xúc chạm mà được hiển phát, không xúc chạm thì không hiển rõ, tánh nó chẳng thường nhất định, cho nên không viên thông.
6. Cảnh Pháp: Pháp gọi là nội trần, nương vào trần chắc chắn có chỗ, năng sở không trùm khắp, làm sao được viên thông?
Ngài Ma-ha Ca-diếp do quán sự biến hoại của sáu trần trong thế gian, chỉ tu vắng lặng mà được định Diệt Tận.
Pháp mầu nhiệm giảng nói, tiêu trừ các lậu. Nay phân biệt tuy gọi là pháp mầu chính là nội trần, nương vào đây tu hành, đâu vượt qua được năng sở? biết chẳng phải năng sở, cho nên chẳng viên thông, tròn khắp thông suốt.
2. Môn nương căn chứng nhập, có năm:
1. Mắt:
Thấy tánh tuy rỗng rang, trước rõ sau không rõ, bốn phía thiếu một nửa, làm sao được viên thông:
Tôn-giả A-na-luật-đà do tu Tam-muội Nhạo Kiến Chiếu Minh, thấy khắp xoay vần, nhờ đó mà được chứng.
Nay nói tánh thấy tuy có nghĩa rỗng rang soi tỏ mà lại phía trước hoàn toàn sáng, phía sau toàn toàn tối.
Nhìn qua hai bên hai được phần ba cho nên nói bốn duy thiếu một nửa.
2. Tai:
Hơi thở ra vào, hiện tiền không có hơi thở qua lại, có thời gian ngắn đứt quãng, làm sao được viên thông: Tôn giả Châu-lợi-bàn đặc nhờ quán hơi thở, sinh trụ dị diệt sâu kín cùng tận, lại thở theo hư không, nhờ đó đắc đạo. Nay nói: Mũi thở tùy thông ra vào. Ra vào mỗi hơi thở đều có y cứ mà không giao nhau, phân chia đã lìa đâu thành viên quán.
3. Lưỡi:
Lưỡi chẳng vật không biết, nhờ vị mà biết rõ, vị mất thì không có, làm sao được viên thông: Kiều-phạm-bátđề quán vị, biết chẳng phải thể chẳng phải vật, quay lại vị liền biết, thật không hề biết quả. Nay nói lưỡi vào chẳng phải không có lý do tự có, do vị cảnh hợp lại mới biết, cảnh mất thì quên, chưa phải là thông quán.
4. Thân:
Thân đồng với xúc chạm, chẳng phải quán viên thông, lượng bờ mé không thần hội, làm sao được viên thông? Tôn Giả Tất-Lăng-già-Bà-ta nhờ quán cái biết đau, biết tâm thanh tịnh, không giác không đau, để lại thân thuần giác, được quả Vô học.
Nay nói: Có thể biết thân và cái biết xúc chạm vay mượn mà có, đều không có tự tánh, nghĩa xếp vào cùng loại, đều chẳng phải viên quán, biết và không biết khác nhau, đều có bờ mé suy lượng, không thầm hợp nhau, cho nên được phân biệt.
5. Ý:
Biết căn kia suy nghĩ tạp loạn, vắng lặng hoàn toàn không thấy, nghĩ tưởng không thể thoát, làm sao được viên thông. Tôn giả Tu-Bồ-đề nhiều kiếp tâm được vô ngại. Do đó, quán sát mười phương thành không, tánh của không tròn sáng, thuần vào biển không Bảo Minh Như-lai, đồng với cái thấy biết của Phật. Nay gọi là ý căn lìa suy nghĩ lẫn lộn, hoặc do thiền định vắng lặng, rốt ráo không có thấy biết. Nương vào đây mà tu hành, nghĩ tưởng đâu bỏ, cũng có thể mong được vắng lặng rõ ràng chân chánh, chắc chắn không thấy biết, tức là giác minh vô tri, nên biết người có tri kiến, chưa thoát khỏi vọng tưởng.
3. Môn y theo thức tu đoạn, có sáu:
1. Nhãn thức:
Thức thấy tạp ba hòa, vốn không có hình tướng, tự thể trước vô định, làm sao được viên thông: Tôn giả Xálợi vô lượng kiếp đến nay tâm thấy thanh tịnh. Do gặp Phật, thấy biết tròn sáng, thấy biết sáng suốt. Nay phân biệt: Nhãn thức lẫn lộn ở trong ba hòa, nghiên cứu cùng tột bổn tánh ấy, chẳng có tướng thật có, tự thể chẳng thường, làm sao được viên thông.
2. Nhĩ thức:
Tâm nghe khắp mười phương, sinh ở sức nhân lớn.
Ban đầu tâm không thể nhập, làm sao được viên thông? Bồ-tát Phổ Hiền vốn dùng tâm để nghe, phân biệt tất cả sự thấy biết của chúng sinh, được tự tại hoàn toàn. Nay phân biệt: Rất cao thâu cơ bất tận, đã lấy pháp giới làm thể, tâm nghe làm dụng. Cho nên thông suốt mười phương. Đây là do Phổ Hiền nhân tu lấy sự cảm hóa làm đại hạnh. Cho nên căn cơ trung hạ ở đây không có phần. Cho nên nói: Không thể nhập vào, hạnh nguyện Phổ Hiền trong tâm chúng sinh mới hiện thân này, chẳng đồng với Quán Âm hễ tiếp xúc với loại chúng sanh nào thì hiện loại chúng sanh ấy.
3. Tỷ thức:
Tưởng của mũi vốn là quyền cơ, chỉ khiến nhiếp tâm một chỗ, tâm trụ vào chỗ trụ, làm sao được viên thông?
Tôn giả Tôn Đà-la-nan-đà quán chóp trắng trên đầu mũi, thấy hơi thở ra vào, hoá thành ánh sáng, trong thân được sáng tỏ, tròn đầy rỗng rang, thế giới biến thành hư không thanh tịnh. Nay phân biệt quán mũi chẳng phải cảnh rốt ráo. Cho nên nói: Quyền cơ, hoặc làm cho nhiếp tâm, chắc chắn thành sở trụ, chân nguyên vô trụ, sở trụ chẳng còn. Kinh chép: nếu tâm có trụ thì chẳng phải trụ.
4. Thiệt thức:
Nói pháp cầu âm văn, khai ngộ trước tiên thành, danh cú, chẳng vô lậu, làm sao được viên thông?
Tôn giả Phú-lâu-na biện tài vô ngại, pháp môn bí mật, chỉ bày mầu nhiệm, được không sợ hãi. Nay nói pháp không lìa âm thanh, danh thân, cú thân, văn thân.
Người được khai ngộ trước phải thành thục, chẳng thể không gieo giống mà được nhập đạo. Nếu tán tâm nói, chỉ thành hữu lậu, chẳng gọi là Viên thông.
5. Thân thức:
Trì phạm chỉ buộc thân, chẳng thân không chỗ buộc, vốn chẳng khắp tất cả. Làm sao được viên thông. Tôn giả Ưu-ba-ly vì trì giới thanh tịnh, do đó chấp thân, thân được tự tại, thứ lớp chấp tâm, tâm được thông đạt. Sau đó, thân tâm, tất cả vô ngại, nay phân biệt: Trì phạm tế hạnh chỉ xem xét ở thân, nếu thân bất sinh khởi thì lấy gì kiểm chế. Bởi vậy pháp pháp không thể viên thông.
6. Ý thức:
Thần thông là nhân kiếp xưa, dùng cách gì phân biệt, nghĩ duyên chẳng lìa vật, làm sao được viên thông? Tôn giả Mục kiền liên do tu định, ý thức vắng lặng, ánh sáng tâm phát sáng, được thần thông rộng lớn. Nay nói: Thần thông chính là nhân kiếp trước mà có, do sự hiển phát năng lực gia hạnh, làm sao tu định quỹ tắc ý thức sau đó được sinh? Pháp là khuôn phép.
Cái phân biệt là ý thức.
Ý thức nghĩ duyên phân biệt tất cả, không lìa trần cảnh cho nên chẳng viên thông.
4. Môn Y vào tánh đại quy, có bảy:
1. Địa đại:
Nếu quán sát tánh đất, bền chắc chẳng thông đạt, hữu vi chẳng tánh Thánh, làm sao được viên thông?
Bồ-tát Tri Địa do bình đẳng tâm địa, thấy các trần trong ngoài vốn vô tự tánh, không xúc chạm nhau, đều là Như-lai tạng, nay phân biệt: Tánh đất bền chắc ngăn ngại hữu vi, thể chẳng thông đạt, không thành tánh bậc Thánh, cho nên chẳng viên thông.
2. Thủy đại:
Nếu quán tánh của nước, nghĩ tưởng chẳng chân thật, như như chẳng giác quán, làm sao được viên thông? Đồng tử Nguyệt Quang nhờ quán tánh nước, thấy nước trong thân và tánh nước thơm bên ngoài hợp với chân không, một vị lưu thông, được Vô Sinh nhẫn. Nay nói pháp quán này không lìa tưởng niệm tâm tư, đâu phải tánh chân thật như như, giác quán tức là tầm tư.
3. Hỏa đại:
(chín trăm mười). Nếu quán tánh của lửa, chán hữu chẳng thật lìa, chẳng phương tiện sơ tâm, làm sao được viên thông?
Hỏa Đầu Kim Cương quán tâm nặng về dâm dục thành lửa trí tuệ, thân tâm ấm lại, xúc chạm vô ngại lưu thông, sinh ra lửa đại bảo. Nay cho rằng: Do nặng về dâm này sinh tâm nhàm lìa quán thành tánh lửa. Đây tức là tâm nhàm chán mong cầu, đâu gọi là viên thông chiếu soi, chẳng phải môn chân thật lìa niệm, người sơ cơ không hợp. Cho nên phải phân biệt.
4. Phong đại:
Nếu quán tánh gió, động tịch đều là đối, đối chẳng phải Vô thượng giác, làm sao được viên thông? Bồ-tát Lưu Ly Quang nhân là quán thân tâm, thế giới đều là duyên vọng, sức gió chuyển động, sức gió không nương tựa vốn chẳng thật có, đối động thấy không động, liền chứng tướng thật. Nay nói: Tánh gió là động, do động có tĩnh, động tĩnh đối nhau, đối tức chẳng chân, đâu đồng với viên quán, vào dòng thì quên sở.
5. Không đại:
Nếu quán tính không, hôn mê trước chẳng giác, vô giác khác Bồ-đề, làm sao được viên thông? Bồ-tát Hư Không Tạng! Do quán bốn đại không có nơi nương tựa vọng tưởng sinh diệt, hư không chẳng hai, cõi Phật vốn đồng, được Vô Sinh nhẫn. Nay nói hư không mờ tối, do vô minh sinh ra, chẳng phải giác minh, khác với bổn giác, cho nên phải phân biệt.
6. Thức đại:
Nếu quán tánh của thức, quán thức chẳng thường trụ, có tâm là luống dối, làm sao được viên thông: Bồ-tát Dilắc tu quán Duy Thức, cõi nước Như-lai đều không có tịnh uế, có không đều do tâm ta biến hóa ra. Nay nói tánh thức niệm niệm sinh diệt, phan duyên không dừng, thể chẳng thường trụ. Nếu chỉ mất cảnh, tâm mình không mất, lại thành luống dối, đâu phải viên thông.
7. Căn đại:
Các hành là vô thường, tánh niệm vốn sinh diệt, nhân quả nay chiêu cảm khác, làm sao được viên thông?
Bồ-tát Đại Thế Chí do Tam-muội Niệm Phật nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối nhau, nhập Vô Sinh nhẫn. Nay phân biệt: hễ là hữu vi đều thuộc về hành ấm biến chuyển, tánh niệm sinh diệt, chính là vô thường, làm sao dùng nhân vô thường mà được quả thường trụ? cho nên chẳng viên thông. Nhưng Pháp môn niệm Phật, cõi này rất quan trọng, tuy nói sinh diệt, phải do niệm tưởng, chuyên chú trong tâm, gồm nguyện lực Phật sinh về tịnh độ, vãng sinh về tịnh độ rồi, tiến hành càng nhanh liền có lúc chứng, nay nói căn tánh viên dung, Quán Âm thanh là trên hết, con đường ức dương, nên phải phân biệt.
5. Bài tụng nói về Quan Âm viên thông, có ba:
1. Hiển bày rộng về viên môn, có bốn:
a) Nêu lên khen ngợi pháp sở nhập:
Nay con Bạch Thế tôn Phật ra đời ở cõi Ta-bà, cõi này là thể chân giáo, thanh tịnh về âm thanh và tánh nghe, muốn chứng Tam-ma-đề thì nên dùng cái nghe để vào, lìa khổ được giải thoát. Thế giới Ta-bà này nhĩ căn lanh lợi. Cho nên dùng âm thanh làm Phật sự. Vì từ nhĩ căn phát ra cái biết, nghe tiếng sinh khởi văn tuệ, trong thức thứ sáu duyên với danh thân, văn thân, cú thân huân thành hạt giống giải tâm, nhận làm giác thể. Cho nên nói: Giáo thể ở tiếng nghe, giáo thể đã thành, sau đó tu tập suy nghĩ nhập vào Tam-ma-đề, thành giải thoát hoàn toàn.
b) Lược khen người có khả năng nhập:
Lành thay! Quán Thế Âm, trong hằng sa kiếp, vào cõi Phật nhiều như số cát bụi, được sức năng lực tại, hoàn toàn ban sự không sợ hãi cho chúng sinh. Diệu Âm Quán Thế Âm, tiếng Phạm, tiếng sóng biển, cứu đời đều an ổn? Xuất thế được thường trụ, một câu đầu là nêu khen ngợi chung. Hai câu kế khen ngợi ứng hóa ba mươi hai thân. Hai câu kế khen ngợi mười bốn thứ không sợ hãi, thêm bốn thứ không thể suy nghĩ bàn luận. Hai câu kế khen ngợi đức hiệu Diệu Âm là thể. Quán Thế Âm là dụng, cũng là hai đế, chân và tục cũng là tự lợi và lợi tha. Phạm nghĩa là tịnh, giải thích thành thể, tiếng sóng biển chẳng lúc nào mất, giải thích thành dụng.
Hai câu cứu thế v.v... là kết thúc khen ngợi lợi ích, dầu được an vui cho thế gian. Cuối cùng được rốt ráo Niết-bàn.
Nói rộng về căn viên thông, có hai: c.1) Hiển bày tánh nghe, có hai:
* Đối biện chân thật, có ba:
- Viên chân thật.
Nay con bạch Như-lai, như lời Quán Âm nói: Như người ở chỗ vắng, mười phương đều đánh trống, mười chỗ nghe cùng lúc. Đây là viên dung chân thật, là đức giải thoát như trước Quán Âm đã trình bày, Tam-muội được cao siêu. Đến cảm ứng không sai, khắp nơi đều ứng hiện. Mười phương là mười cõi, đánh trống là máy động. Nghe cùng lúc là ứng không mất. Đây là ứng thân vô lượng không cảm thì không ứng. Cho nên nói: Viên chân thật.
- Thông chân thật.
Mắt chẳng nhìn thấy bên ngoài chướng ngại. Miệng mũi cũng như vậy, thân có hợp mới biết, tâm niệm rối ren không có đầu mối, cách tường nghe tiếng vang, xa gần đều nghe được, năm căn không ngang nhau. Chính là thông chân thật, là đức bát nhã.
Bốn câu trước phân biệt không thông. Hai câu dưới là miệng mũi, văn kinh nói lộn. Cho nên trước nêu miệng mũi sở liệt, sau nêu vào thân căn năng liệt. Cho nên người dịch hơi thuận theo thứ lớp của căn.
Bốn câu cách tường v.v... trở xuống là nói nhĩ căn khác với năm căn trước. Do đó được gọi là thông chân thật.
- Thường chân thật, có hai: c.2) Chánh hiển bày:
Tánh âm thanh động tĩnh, trong cái nghe có hữu vô, không có tiếng nên gọi là không nghe, chẳng thật nghe, không có tánh, tiếng vô đã không diệt, tiếng có cũng chẳng sinh sinh, diệt cả hai đều lìa viên dung. Đây là thường chân thật, là đức pháp thân.
Tiếng trong cái nghe tự có động tĩnh, nói là có và không, chẳng gọi tánh nghe là hữu vô. Người đời nếu khi không nghe tiếng gọi là không nghe, tánh nghe đã diệt, thanh trần lại khởi, khiến người nào lại nghe, cho nên có tiếng thì tánh nghe bất sinh, không có tiếng thì tánh nghe cũng không diệt, sinh diệt đã lìa khắp, do đó được gọi là thường chân thật.
Giải thích thành:
Dù cho đang mộng tưởng, chẳng phải không suy nghĩ, giác quán vượt ngoài tư duy, thân tâm không sánh bằng. Như trước tâm ngủ mê thì tưởng không hiện hành, nghe tiếng giã gạo cho là tiếng khác. Lúc này đâu nhớ động tĩnh. Nên biết tánh nghe không dứt. Cho nên nói: chẳng phải vì không suy nghĩ mà không có, giác quán ra ngoài tư duy. Điều này đã không tương ứng với niệm tưởng, tức là biểu thị ra khỏi giác quán tư duy. Người dịch chuyển văn không hết ý, nên làm cho lời nói đảo lộn, giác quán tức là tâm tư. Tư duy tức là trùm khắp, là thực hành tư duy, đều là tâm sở, đều không tương ứng nên gọi là Xuất. Lại giác là bản giác, tức là tánh nghe.
Quán là chiếu, ở đây thuận với văn này.
Bỏ sai bày đúng.
Nay cõi Ta-bà này, thanh luận được giảng nói. Chúng sinh quên nghe gốc, vì theo tiếng nên trôi lăn, Anan dù gượng nhớ nhưng không khỏi rơi vào suy nghĩ tà, đâu chẳng theo đắm chìm, xoay vần được không dối.
Hai câu trước nói cõi này từ thanh giáo mà vào. Tiếng là danh, cú văn, là pháp năng thuyên, chúng sinh nhờ đây mà nghe mà hiểu, cho nên nói là giảng nói.
Bốn câu kế là phân biệt sai trái. Nếu tùy theo thanh giáo không thể mất duyên, vào dòng quán chiếu trở lại, tức quên cái nghe gốc, tánh chuyển theo âm thanh. Cho nên nêu A-nan tuy được học rộng nhưng không thể quên tướng, bị tiếng xoay chuyển, sinh diệt vọng tưởng, không do đâu thoát khỏi.
Hai câu sau là kết luận chẳng phải nói đúng.
Xoay vần tức là trôi trở lại. Đây là vào dòng quên sở, chỉ quán chiếu tánh nghe, sinh diệt đã diệt, vắng lặng hiện tiền, nên nói là không luống dối.
Nói về quán hạnh, có bốn:
1) Lời khuyên bảo: (chín trăm mười một):
Nầy A-nan! ông hãy lắng nghe! Tôi nương oai lực Phật, giảng nói Kim Cương Vương, như huyễn không thể suy nghĩ bàn luận, Tam-muội Phật mẫu Chân. Kim Cương như huyễn đã thấy ở văn trên. Một cửa vượt ra của các Đức Như-lai ba đời. Nên gọi là Phật Mẫu. Lại Kim Cương là không, là như huyễn giã, trong Phật Mẫu cũng có hai, bác bỏ lỗi.
Ông nghe tất cả môn bí mật của các Phật nhiều như cát bụi, dục lậu không dứt trước, chứa cái nghe thành lỗi lầm.
Dùng cái nghe mà trì Phật. Phật đâu không tự nghe cái nghe, tuy trì pháp Tạng không thể xả cái nghe mà quán tự tại, cho nên thành lỗi. Nếu dùng tướng chạy theo âm thanh thế gian mà trì Phật pháp khác thì không bằng quán chiếu lại tánh nghe của mình thành Tam-muội chân thật. Cho nên nói nghe lại cái nghe
2. Chánh tông, có hai:
Nói về quán hạnh, có ba: a.1) Pháp, có ba:
* Thoát trần xoay về căn.
Cái nghe chẳng phải tự nhiên sinh, do tiếng mà có tên gọi, nghe trở lại và tiếng thoát ra, ai người thoát được dục, một căn đã về nguồn, sáu căn thành giải thoát. Cái nghe về thấy nghe hay biết tùy tiếng mà có, chẳng phải tánh bổn nhiên. Như văn trên nói. Như nay ông nghe được pháp ta. Đây là do tiếng mà có phân biệt. Nếu lìa duyên quán tánh, tướng nghe không sinh khởi, cảnh động tịnh mất, năng sở không chấp, nên gọi là giải thoát, ràng buộc cũng không được, giải thoát cũng không tên gọi, một căn đã như vậy, sáu căn đều như vậy.
* Trần tiêu giác bày:
Thấy nghe như huyễn, ba cõi như hoa đốm trong hư không, nghe lại căn nhặm hết, trần tiêu giác tròn sạch: thấy, nghe, biết mê thì thành mắt nhặm. Ba cõi hữu pháp đều là hoa đốm trong hư không, thấy nghe thể của nó rỗng không vốn chẳng thật có, lại cho thêm ví dụ về huyễn. Cho nên Luận Khởi Tín nói: Ba cõi luống dối, chỉ do tâm tạo tác. Văn trên nói: Thấy nghe biết luống dối là duyên bệnh. Cho nên có các cõi nước hữu lậu mười phương, mắt nhặm hết, hoa đốm diệt, cái nghe trở lại, trần tiêu trừ, diệu giác minh tâm rõ ràng tròn sáng.
Đây là phần chứng.
* Giác cực vô ngại:
Ánh sáng tịnh thông đạt, tịch chiếu trùm hư không, xưa nay quán thế gian, giống như việc trong mộng, Mađăng-già trong mộng, ai giữ lại thân hình ông.
Thanh tịnh cùng cực là mãn tịnh giải thoát viên. Quang thông đạt, là mãn giác, Bát-nhã đầy đủ. Tịch chiếu là pháp thân tột cùng chân lý.
Ba đức đã tròn đầy, ba chướng đã dứt hết, như đại mộng mà thức dậy, như hoa sen nở, trở lại quán thế gian, muốn ai giữ lại sự trở ngại. Đây là cực chứng.
Dụ: Như nhà ảo thuật giỏi ở đời, huyễn hóa các nam nữ, tuy thấy các căn động, phải dùng một máy kéo, máy dứt về vắng lặng, các huyễn thành vô tánh. Sự huyễn là chân tánh, có nghĩa là tùy duyên, nên gọi là huyễn, pháp huyễn là vô minh, nam nữ là sáu căn. Một cơ là pháp huyễn, cơ dứt huyễn không còn, vọng diệt căn trở về. Hoặc nhà ảo thuật vô minh, pháp huyễn là tâm thức. Ngoài ra đồng với sự phối hợp ở trước, việc huyễn nam nữ phải có chỗ nương tựa, dụ là chân tánh.
Hợp: Sáu căn cũng như thế, vốn nương một tinh minh, chia thành sáu hoà hợp.
Một chỗ thành dừng lại, sáu dụng đều không thành.
Câu đầu là nêu chung, câu kế bao gồm nhà ảo thuật, hai câu kế bao gồm nam nữ, hai câu sau bao gồm dứt cơ v.v...
Nếu vô minh của Nhĩ căn phá bỏ thì căn khác cũng phá bỏ, cho nên đều không thành. a.2) Quán thành lợi ích:
Trần cấu theo niệm tiêu, thành tròn sáng tịnh diệu, trần khác còn các học, minh cực là Như-lai.
Nếu một căn trở lại, bụi nhơ tự tiêu mất. Văn trên nói: Tướng của tưởng là trần, thức tinh là cấu, cả hai đều xa lìa thì mắt pháp của ông ngay đó trong sáng. Cho nên nói thành tròn sáng nhiệm mầu. Đây là ba đức tròn đầy hiển bày, không ngang dọc khác nhau, nên gọi là Diệu. Hai câu sau là kết thành giai vị, câu trước đức dứt chưa viên dung, câu sau đức trí đầy đủ, bày hiện lẫn nhau rất dễ hiểu.
Khuyên tu:
Đại chúng và A-nan xoay vần cái nghe đảo lộn căn cơ của ông, lại nghe tự tánh cái nghe, tánh thành đạo vô thượng viên thông thật như thế, khuyên trở lại điên đảo, căn nghe quán lại tánh nghe, tánh nghe viên thành, Bồđề có thể mong, một câu sau kết thúc chỉ ra ấn khá thành tựu.
Kết hiển đồng chứng nầy.
Đây là một cửa Niết-bàn của các Phật nhiều như cát bụi. Các Như-lai quá khứ, thành tựu từ cửa này. Các Bồtát hiện tại, nay đều nhập tròn sáng, người tu học vị lai, phải nương vào pháp này, ta cũng từ trong đó mà chứng, chẳng phải chỉ Quán Thế Âm.
Hai câu trước chỉ chung cho tất cả Chư Phật, đều từ cửa này mà được Niết-bàn, Quá khứ v.v... trở xuống là xếp riêng ba đời, đồng thời dẫn Văn-thù đều đồng chứng như thế.
Nói lại về sai đúng
Thật như Phật Thế tôn hỏi con các phương tiện, để cứu người đời Mạt pháp ra khỏi thế gian, thành tựu tâm Niết-bàn, Quán Thế Âm là trên, ngoài ra các phương tiện, đều là oai thần Phật, chính là việc bao gồm trần lao, chẳng phải tu học lâu dài, sâu cạn đồng nói pháp.
Bốn câu tụng trước là Phật bảo chọn lựa.
Hai câu dưới là thành tựu v.v... Chính là chỉ cho cửa viên dung.
Hiển bày sự thanh nhã. Năm câu tự dư v.v... trở xuống là nói hai mươi bốn vị Thánh, mỗi vị tuỳ theo nhân sự tướng mà thành quán hạnh, đều là oai thần Phật. Phương tiện giúp cho đắc đạo, chẳng phải pháp môn tu học lâu dài, hai cơ sâu cạn đồng vào, lại hiển bày Quán Âm tức là pháp môn hai cơ sâu cạn đồng thuyết đồng nhập, tu học lâu dài a.3) Kết nguyện khuyên học:
Đảnh lễ Như-lai tạng, vô lậu không nghĩ bàn, nguyện che chở đời vị lai, đối với pháp môn này không mê hoặc, phương tiện dễ thành tựu, đáng để dạy A-nan và các chúng sinh đắm chìm thời Mạt pháp, chỉ dùng gốc này mà tu viên thông siêu việt các thứ khác, tâm chân thật như thế. Như-lai tạng là nhất thể Tam bảo, chính là lý để vào vì đầy đủ công đức, tánh vô lậu.
Năm câu nguyện gia hộ v.v... trở xuống là kết nguyện.
Hai câu chỉ dùng v.v... trở xuống là khuyên học. Một câu sau cùng Văn-thù chỉ tâm viên thông do mình chọn, vì chân thật không vọng chẳng đi đôi với tình chấp.
3. Đại chúng đương thời được lợi ích:
Bởi vậy, A-nan và các đại chúng, thân tâm tỏ rõ được chỉ bày rộng khắp. Quán Bồ-đề Phật và đại Niết-bàn. Giống như có người vì việc đi xa chưa được về, rõ được chỗ trở về con đường của nhà mình. Đại chúng khắp trong pháp hội, tám bộ trời rồng, bậc hữu học, nhị thừa và tất cả Bồ-tát mới phát tâm số ấy gồm có mười hằng hà sa, đều được bổn tâm, xa lìa bụi nhơ, được mắt pháp thanh tịnh.
Tánh Tỳ-kheo-ni nghe nói kệ đã thành A-la-hán, vô lượng chúng sinh đều phát tâm Vô đẳng dẳng A-nậu-Đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề. Chúng cả hội mỗi người căn khí đều khác, lớn nhỏ khác nhau.
Ở văn trước, khi Quán Âm nói xong, Chư Phật phát ra ánh sáng đều đến rót vào đảnh, quán cả đảnh của các đại Bồ-tát và A-la-hán.
Người thọ ánh sáng kia cùng lúc đều được Tammuội Kim Cương. Đây là nói hai mươi bốn vị Thánh trong hội, các môn quán riêng, cùng lúc viên dung nhập vào sự tu chứng của Quán Âm. Nay đây A-nan và những người mới phát tâm nghe nói kệ rồi, tùy theo giai vị thứ lớp ngộ nhập có khác. A-nan v.v... mới ngộ viên thông, từ nhĩ căn vào, vẫn chưa chứng đắc, cho nên nói biết rõ đường về nhà mình. Chúng trời rồng ấy và vị Hữu học nhỏ, địa Đại thừa và mười hằng hà sa vị ở trước được mắt pháp thanh tịnh, liền nhập vào giai vị Sơ địa thấy đạo.
Tánh Tỳ-kheo-ni là người chứng quả thứ ba, nay thành Vô Học. (Chín trăm mười hai). Người chưa phát tâm số nhiều vô lượng, đều phát ý đạo, liền ngộ giải Đại thừa.
Nói về lìa hạnh nghiệp ma. Trước tuy nói rộng về viên thông tu chứng. Phàm phu mới học, chướng nạn càng nhiều. Huống chi thời Mạt pháp tông tà đua nhau sinh khởi, tà nói mê hoặc chánh, ma nói ép ngặt chân chánh.
Lạm thuật đã nhiều, các bạn càng đông. Nếu không phân biệt thì ngăn ngại cho sự tu hành chân chánh. Cho nên dùng giới, định, tuệ để nghiệm, tà vốn tự hiển bày.
Cho nên ngoại đạo đều có khả năng tu thiền mà không có giới đức.
Kinh Niết-bàn nói: ma còn có khả năng biến thân thành Phật, đâu không thể vì Bồ-tát bốn y mà hoặc loạn thế gian, cho nên Phật nói rộng, hoặc nói cho chứa tám vật bất tịnh, ấy là ma nói. Vật ngoài thân còn không cho chứa, huống chi dâm, đạo, sát, vọng là căn bản tham sân. Đời có người ngu bị ma mê hoặc, chê bai giới luật nói là Tiểu thừa, tự xưng là Đại thừa tự tại vô ngại. Kinh ở dưới bác bỏ rộng, ở đây đồng là nghiệp ma. Cho nên Phật hết lòng khuyên răn, đây là quyết định giáo rõ ràng về Đại thừa. A-nan đại quyền thương tưởng đời tương lai sẽ rơi vào nạn ma, cho nên hết lòng cầu thỉnh, mãi mãi là lời khuyên răn chân thật.
Văn có hai:
1. A-nan quán thời thưa hỏi, có ba:
a) Trình bày sở ngộ.
A-nan sửa lại y phục, ở trong chúng chắp tay đảnh lễ, dấu tâm tròn sáng, buồn vui lẫn lộn. Vì muốn lợi ích các chúng sinh đời vị lai, nên cúi đầu bạch Phật: Xin Đức Thế tôn rũ lòng đại bi, nay con đã ngộ pháp môn thành Phật, đối với pháp môn đó tu hành không còn nghi ngờ. Viên thông là đường đi của tâm sở. Cho nên nói là dấu tâm. Lãnh ngộ đã sâu không còn nghi ngờ, đời vị lai nhiều nạn, lại muốn trình thưa.
Buồn vui là: Vui về sở ngộ hôm nay, buồn về hành nhân sau này.
b) Trình bày sở nguyện:
Thường nghe Như-lai nói rằng: người chưa được độ mà trước độ người là Bồ-tát phát tâm. Tự giác rồi lại giác tha là Như-lai ra đời. Con tuy chưa được độ nhưng nguyện độ tất cả chúng sinh thời Mạt pháp, Bồ-tát có hai loại:
* Trí tăng. Trước thành quả Phật, sau độ chúng sinh.
Bi tăng: Tâm độ sinh tha thiết, cố ý để lại hoặc, làm tươi nhuần ba cõi. Nay nguyện chưa độ mà độ chúng sinh tức là bi tăng. c) Nói về điều thỉnh:
Bạch Đức Thế tôn! các chúng sinh này cách Phật rất xa, thầy tà nói pháp nhiều như số cát sông Hằng, muốn nhiếp tâm ấy nhập vào Tam-ma-địa. Làm sao an lập đạo tràng, lìa các việc ma, đối với tâm Bồ-đề không còn lùi sụt. Các chúng sinh này căn tánh thấp kém, thời kỳ cách Phật càng xa càng thấp kém, tà sư nói pháp nạn nhiều. Đây là lúc hiểu rõ mê muội, hoặc chướng càng nhiều, tu định nhiếp tâm, khó tiến lên được. Huống chi gặp ma hoặc tà kiến càng thêm, gia hạnh tu chứng làm sao không lui sụt.
Như-lai giảng nói rộng, có hai:
1. Tán thỉnh giảng nói:
Bấy giờ, Đức Thế tôn ở trong đại chúng khen ngợi A-nan. Lành thay! Lành thay! Như điều Ông hỏi, an lập đạo tràng cứu hộ chúng sinh thời Mạt pháp đắm chìm trong biển khổ. Nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho nghe: A-nan và đại chúng đều nói xin vâng phụng giáo. Đạo tràng gia hạnh, lý cả hai đều tu bên trong giữ gìn căn giới, bên ngoài nhờ tâm chú, tướng trong ngoài giúp cho đạo lực dễ thành, giảng nói cho ông nghe, phải khéo suy nghĩ.
2. Nói rộng cho nghe, có hai:
a) Tự hành lìa ma, có hai:
b) Nói chung về ba học vô lậu.
Phật bảo A-nan! Ông thường nghe ta nói ba nghĩa quyết định của việc tu hành trong tỳ-nại-da, đó là nhiếp tâm là giới, nhờ giới sinh định, nhờ định phát tuệ, đó gọi là ba học vô lậu. Các hành hoặc đối cơ khác nhau. Ba là quyết định phải nói, lại là nhân quyết định thành Phật. Các Phật đều như vậy, nên nói là ba nghĩa quyết định.
Hai lần chỉ bày về giới học, dùng hai môn định tuệ ở trước đã nói để phò luật, bàn thường, đồng với Niếtbàn.
Văn có bốn:
1. Nhân của sự lìa dục, có hai:
a) Nói về đúng sai, có ba
b) Nêu bày:
Nầy A-nan! Thế nào là nhiếp tâm? Ta gọi là giới, hoặc chúng sinh sáu đường trong các thế giới, tâm họ không dâm, thì không trôi theo sự sinh tử nối nhau ấy. Dâm dục là gốc sinh tử, trái lại thì không nối nhau.
Kinh Viên Giác nói: Tất cả chúng sinh đều do dâm dục mà thành tánh mạng. Nên biết ái là cội gốc luân hồi. Do có các dục trợ giúp nên tánh ái Phát khởi, bởi vậy làm cho sinh tử nối nhau.
Giải thích, có hai:
1. Nêu lỗi bày trái, có hai:
2. Dục là nhân ma:
Ông tu Tam-muội mục đích là để ra khỏi trần lao, nhưng nếu không dứt tâm dâm dục thì không thể ra khỏi trần lao, dù có thông minh thiền định hiện tiền nhưng nếu không dứt dâm dục thì sẽ rơi vào đường ma. Thượng phẩm là ma Vương, Trung phẩm là dân ma, Hạ phẩm là con ma, chắc chắn rơi vào đường ma. Các thứ ma ấy cũng có đồ chúng, đều tự cho mình đã thành đạo vô thượng: ma không dứt dâm dục nhưng tu thiền định, thiền định của ma thuận với hoặc dễ được thành tựu. Loài có công năng sâu là phẩm thượng, con công năng cạn là phẩm trung và phẩm hạ. Tuy không dứt dục, nhưng tu định và tu phước, tùy theo phước ấy hơn hay kém mà thành ba phẩm, nhờ năng lực tà định mà được quả báu năm thông, nhờ phước hữu lậu mà sinh lên cõi thiên ma, tùy theo được định nhiều ít, không phân biệt chánh tà, đều tự cho là đã được đạo vô thượng.
Vị lai nhiều mê hoặc:
Sau khi ta diệt độ, ở đời Mạt pháp, phần nhiều loại dân ma này lộng hành trên thế gian, làm nhiều việc tham, dâm cho là thiện tri thức, làm cho chúng sinh rơi vào hầm ái kiến, mất đường về Bồ-đề. Chúng sinh đời Mạt pháp không có mắt chánh pháp, thường bị ma mê hoặc, làm nhiều việc tham dâm, giả xưng là bạn tốt, dụ dỗ giáo hóa mà không biết, mất chánh gặp khổ, nên quan sát sâu, không để cho chúng có dịp làm hại.
Kết luận thành khuyên răn.
Ông dạy người đời tu Tam-ma-địa, trước phải dứt tâm dâm. Đây gọi là lời dạy quyết định thanh tịnh bậc nhất của Như-lai tiên Phật Thế tôn. Giới này tên đồng với Tiểu thừa, nhưng sự trì tùy theo có khác. Đây là từng việc bên trong phòng ngừa tâm niệm, khinh trọng giữ gìn như nhau, kia chính là theo duyên mà thành, khinh trọng tùy theo giới, cho nên nói trước dứt tâm dâm.
Luận nói: Tâm sinh thì muôn pháp sinh, tâm diệt thì muôn pháp diệt, cho nên với sự trì giới của Tiểu thừa hoàn toàn khác nhau.
Khuyên răn, có hai:
1. Nói lại về lỗi:
a) Dùng dụ để nói:
Cho nên A-nan, nếu người không dứt dâm mà tu hành thiền định thì như nấu cát mà muốn thành cơm, dù suốt trăm ngàn kiếp cũng chỉ gọi là nấu cát mà thôi. Vì sao? Vì đây chẳng phải cơm, vốn chỉ là cát.
Pháp giới, định, tuệ có công năng sinh ra pháp thân, gốc giới không hoàn toàn thì luống tu thiền tuệ đâu có thanh tịnh diệu thể từ dâm dục sinh ra, cát và cơm khác nhân, đâu luận về kiếp số.
b) Kết luận về lỗi:
Ông dùng thân dâm dục để cầu quả Phật thì dù cho ông được diệu ngộ đi nữa đều là gốc dâm, căn bản đã thành dâm, thì trôi lăn trong ba đường không thể nào ra được.
Huống chi quả Niết-bàn của Như-lai ông làm sao chứng được? Không giới thì không thiền, không thiền thì không có tuệ, gốc giới đã bất tịnh thì việc học thiền tuệ đâu được thanh tịnh? Vì bất tịnh nên tuy có mà như không, giới định tuệ mất thì thự thành trôi lăn, không bao giờ thành quả Thánh.
c) Khuyên nên dứt trừ.
Phải dứt trừ máy dâm, thân tâm đều dứt, tánh dứt cũng không, được như thế thì đối với quả Phật Bồ-đề mới có hy vọng.
Người trì giới chân chánh còn không có tướng trì, chẳng lẽ làm cho thân tâm phạm trọng cấm.
Như văn dưới nói: Sát, đạo, dâm v.v... gọi là quỉ luân, (chín trăm mười ba) không gọi là cõi trời, cả hai hữu vô đều không, không hai cũng mất, nên gọi là diệu phát Tam-ma-đề.
d) Kết luận quy về chánh tà.
Như lời ta nói là Phật nói, trái lại là ma Ba-tuần nói. Gọi đúng là Ba-ty-dạ, Hán dịch là ác, dịch Ba-tuần là lầm.
Lìa nhân sát, có hai.
1. Nói về đúng sai, có ba:
a) Nêu bày:
Nầy A-nan! Lại chúng sinh trong sáu đường ở các thế giới, tâm họ không sát thì không trôi theo sinh tử nối nhau, giết mạng đền mạng, kết thành mối họa. Nhờ dừng việc sát nên không nối nhau. Ngoài ra như văn kinh có nói.
b) Giải thích, có hai:
* Nêu lỗi bày sai, có hai.
-Sát là nhân quỉ.
Ông tu Tam-muội, mục đích là ra khỏi trần lao, nếu không dứt tâm sát, thì không thể ra khỏi trần lao. Dù có thông minh thiền định hiện tiền mà không dứt tâm giết hại thì sẽ rơi vào thần đạo. Bậc Thượng là đại lực quỉ, bậc trung là dạ-xoa biết bay và các loài quỉ soái, còn hạ thì làm la-sát đi trên mặt đất.
Các loài quỉ thần này cũng có đồ chúng, đều tự cho mình đã chứng được đạo vô thượng.
Mang tâm sát mà tu thiền thì quả báo là làm thần, công sâu phước dày là đại lực quỉ, được năm gò bốn hào thờ cúng. Công cạn phước mỏng là hạng trung và hạ, bị tám bộ trông coi và loại cõi nước la-sát ở bên bờ biển lớn là do tu định, đều có nghiệp thông, mau chóng vô ngại. Vì không dứt tâm giết hại cho nên đọa vào đường ác này, bị các vị trời sai sử.
Nếu không tu thiền định và không tu phước, chỉ làm việc giết hại thì thẳng vào địa ngục, không hề sai lầm.
-Vị lai nhiều hoặc, có ba:
+ Chánh nói:
Sau khi ta diệt độ, trong đời Mạt pháp, các quỉ thần này lừng lẫy ở đời, tự nói ăn thịt cũng được đạo Bồ-đề. Sát sinh ăn thịt là kẻ thù của chúng sinh, làm sao không dứt mà được đạo Bồ-đề?
+ Giải thích khác.
Nầy A-nan! ta cho phép Tỳ-kheo ăn năm thứ thịt thanh tịnh. Thịt này là do ta biến hóa ra, vốn không có mạng căn, Bà-la-môn các thầy, đất đai phần nhiều khô cằn sỏi đá, cỏ cây không mọc được. Ta dùng thần lực đại bi che chở, vì lòng đại từ bi giả gọi là thịt, các thầy được ăn, vì sao? Vì sau khi Như-lai diệt độ ăn thịt chúng sinh lại xưng là Thích tử.
Kinh Niết-bàn quyển bốn, Ca-diếp hỏi:
Vì sao trước kia Như-lai cho Tỳ-kheo ăn ba thứ thịt thanh tịnh?
Phật dạy: Tùy việc mà chế dần. Lại có bảy thứ, chín thứ, ở đây nói có năm thứ, tùy kinh mà thêm bớt, lấy ý phối hợp với số, Phật dùng phương tiện quyền biến mà cho ăn, chẳng phải thuyết rốt ráo.
+ Chỉ ra lỗi:
Các thầy nên biết người ăn thịt dẫu được tâm khai mở dường như Tam-ma-địa, đều là đại La-sát, quả báo đều đắm chìm trong biển khổ sinh tử, chẳng phải đệ tử Phật. Những người như thế giết nhau, nuốt nhau, ăn nhau chưa thôi, người này làm sao ra khỏi ba cõi được.
Dường như Tam-ma-địa là định của quỉ thần, cũng có công năng làm cho người biết được việc quá khứ và vị lai, tương tự như thiền định, như Luận Khởi Tín nói:
* Kết luận thành khuyên răn:
Ông dạy người đời tu Tam-ma-địa, kế là dứt tâm giết hại, đó là lời dạy rõ ràng quyết định thanh tịnh thứ hai của Như-lai Tiên Phật Thế tôn. Khuyên răn, có hai:
1. Lại bày lỗi, có hai a) Thuận nói lỗi của miệng, có hai.
- Dùng ví dụ để nói:
Cho nên A-nan, nếu ông không dứt tâm giết hại mà tu thiền định, thí như có người tự bịt tai mình, lớn tiếng gọi to mà muốn cho người không nghe. Người này gọi là muốn ẩn lại càng lộ. Bịt tai mà tu thiền, lớn tiếng làm việc giết hại, cầu đạo không nghe, càng hiển bày khổ, đâu không đáng thương xót!
- So sánh nói rõ:
Tỳ-kheo thanh tịnh và các Bồ-tát, đi trên đường còn không đạp cỏ tươi huống chi đưa tay nhổ. Vì sao nói là đại bi mà lại ăn máu thịt chúng sinh. Cỏ sống không được dẫm đạp, chẳng phải chỉ ngăn ngừa sự chê cười mà còn nghĩ về lòng từ sâu xa. Cỏ còn không đạp, huống chi làm tổn thương mạng sống. b) Lại bày lỗi của thân, có hai:
- Nói về chỗ lìa.
Nếu các Tỳ-kheo không mặc tơ lụa vải vóc của phương Đông và không mang các giày dép da, không ăn sữa, đề hồ ở cõi này, Tỳ-kheo như thế là giải thoát chân thật ở đời, trả lại nợ xưa, không ở trong ba cõi. Tơ lụa v.v... là thân phần của chúng sinh, thân đã không mặc là chân thật giải thoát, vì không ở trong ba cõi để đền trả nợ cũ.
Lời kinh rất lộn xộn, phải biết việc đó.
- Thí dụ ngược lại để nói lý do:
Vì sao, vì mặc thân phần đều là duyên kia. Như người ăn trăm giống lúa gạo ở trong đất mà chân không lìa đất, mặc thân phần của chúng sinh, là duyên với chúng sinh. Các loại lúa gạo muốn một thăng có khi còn không được đến, huống chi là ăn, huống chi là mặc mà được ra khỏi hay sao?
2. Khuyên phải dứt bỏ:
Nếu khiến cho thân tâm đối với các chúng sinh, hoặc thân, thân phần hai đường thân tâm không mặc không ăn, ta nói người này là giải thoát chân thật. Tâm không tham lam tính toán, thân cũng không mặc, đi lại, tánh dứt đều mất, tự nhiên giải thoát chân thật.
Kết quy về chánh tà.
Như lời ta nói gọi là Phật nói, không nói như thế tức là ma Ba-tuần nói.
Lìa nhân trộm cướp, có hai.
1. Nói về đúng sai, có ba:
a) Nêu bày:
Nầy A-nan! Chúng sinh sáu đường ở các thế giới, nếu tâm họ không trộm cướp thì không trôi theo sự sinh tử nối nhau. Không cho mà lấy, khởi tâm liền phạm, cho nên nói tâm họ không trộm cướp.
b) Giải thích, có ba:
-Nói về hạnh tà, có hai:
+ Trộm là nhân tà:
Ông tu Tam-muội mục đích là ra khỏi trần lao, nếu không dứt bỏ tâm trộm cắp thì trần lao không thể nào ra khỏi. Dẫu có thông minh, thiền định hiện tiền, mà tâm trộm cắp không dứt thì chắc chắn rơi vào đường tà, bậc thượng làm tinh linh, trung là yêu mị, hạ là người tà, bị các tà mị làm mê đắm. Các loài tà ấy cũng có đồ chúng, đều cho mình đã được đạo vô thượng, thiền định, thông minh tuy có nhưng tâm tham trộm không dứt, dẫu dâm sát không còn cũng rơi vào đường tà. Tinh linh yêu mị và các người tà đều có thể làm hoặc loạn, làm cho chúng sinh nương vào đó, không tiếc cơm áo, trọn đời cung cấp. Nếu không tu thiền thì thẳng vào địa ngục.
+ Nhiều mê hoặc ở Vị lai:
Sau khi ta diệt độ, trong đời Mạt pháp các loài yêu tinh tà mị này lừng lẫy ở đời, núp bóng gian xảo mà xưng là thiện tri thức, đều tự cho mình đã được pháp của bậc Thượng nhân, mê hoặc người không biết, sợ làm cho mất tín tâm, chỗ chúng đi qua làm cho hao tài tốn của, đầy rẫy sự gian trá, thầm kín biện hộ, giả làm hiền hòa, ra vẻ như vụng về. Nếu cầu lợi không cho thì dụ dỗ người không biết. Lòng tham lừng lẫy, hiển nói lời lạ, làm cho người ngu bỏ của cải tài sản, sẽ gặp nạn vua, nên nói hao tài tốn của. c) Chỉ bày chánh tu, có hai:
-Chỉ bày duyên hành, có hai:
+ Nói về chánh hạnh.
Ta dạy Tỳ-kheo thứ lớp khất thực, làm cho bỏ tâm tham, thành đạo Bồ-đề. Các Tỳ-kheo không tự nấu ăn, rồi tàn sát sự sống, xoay vần trong ba cõi, dạy rằng một khi đã đi thì không trở lại, Tỳ-kheo y pháp, đi khất thực không tự nấu ăn, để xả bỏ lỗi tham, rất chán lìa đời mạng nầy, không lưu luyến ba cõi. Như người nghỉ trọ một lần qua thôi.
+ Bác bỏ tà hạnh.
(Chín trăm mười bốn) Vì sao kẻ cướp mặc y phục của ta, mà buôn bán Như-lai, gây ra các nghiệp, đều nói là Phật pháp, lại chẳng phải Tỳ-kheo xuất gia thọ giới cụ túc, là đạo Tiểu thừa. Do đó làm nghi lầm vô lượng chúng sinh, đọa địa ngục Vô Gián. Thân tuy xuất gia mà tâm không vào đạo, mặc pháp phục để làm hình tướng, buôn bán Như-lai để tạo nghiệp, trở lại chê bai giới cụ túc cho là quyền tiểu, hiện oai nghi khác lạ cho là cùng tột, làm cuồng vọng người ngu, vào đường ác vô cùng.
Phẩm Chánh Tà trong kinh Niết-bàn nói: Sau khi ta diệt độ, ma Ba-tuần nầy sẽ làm hoại loạn chánh pháp của ta, cho đến hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni và A-la-hán, cho thân hữu lậu là vô lậu, hủy hoại chánh pháp của ta. Cho đến nói không có bốn tội trọng, tăng tàn, bất định, xả đọa, sám hối chúng học, diệt tránh, cũng không có tội Thâu-lan-giá, năm tội nghịch, Nhất-xiển-đề, dù cho phạm các tội như thế cũng không có quả báo. Nói như thế chính là ma nói. Trong Phật pháp của ta, nếu có phạm các tội như trên thì phải khổ trị, nếu không giữ giới làm sao thấy được Phật tánh.
2. Chỉ bày riêng về chuyển nghiệp, có hai:
a) Chỉ bày phương pháp:
Nếu khi ta diệt độ, có Tỳ-kheo phát tâm quyết định tu Tam-ma-đề thì hãy ở trước hình tượng Như-lai, trên thân đốt một ngọn đèn, đốt một lóng tay, và trên thân đốt liều. Ta nói người này, nợ kiếp trước vô thỉ trả xong một lúc, từ giã hẳn thế gian, thoát hẳn các lậu. Dẫu chưa rõ con đường nhưng giác ngộ vô thượng Người này đối với chánh pháp đã có tâm quyết định. Sát sinh, trộm cắp oán thù không mất, làm duyên cho ba cõi, chướng ngại con đường Bồ-đề, nhưng đốt thân khổ thể có công năng đều trả được nhân này. Nợ kiếp trước nếu dứt thì thoát hẳn thế gian, nên nói là thoát hẳn.
b) Lại kết luận về trả nợ cũ:
Nếu không xả thân này làm nhân mầu nhiệm thì dù thành vô vi cũng phải sinh trở lại đền trả nợ cũ cho người. Như ta ăn lúa ngựa v.v... không khác. Ở trước nói: Ma-đăng-già ở trong mộng ai có thể giữ được thân Ông. Nay nói: Dù thành vô vi cũng phải trả nợ cũ. Đây là nói nghiệp báo không mất, trở thành vô vi, sau đó hiện thân hữu vi còn phải trả nợ cũ. Huống chi là hoàn toàn chưa lìa hữu vi, mà muốn chạy trốn nghiệp quả, thì đâu thể được. Về dẫn chứng trả nghiệp như ở chỗ khác có nói
Kết thành khuyên răn:
Ông dạy người đời tu Tam-ma-địa, Sau là phải dứt tâm trộm cắp, đó gọi là lời dạy quyết định thanh tịnh thứ ba của Như-lai Tiên Phật Thế tôn.
Khuyên răn, có hai:
1. Ví dụ nói lên không dứt:
Cho nên A-nan. Nếu Ông không dứt tâm trộm cướp mà tu thiền định thì thí như người rót nước vào chén bể mà muốn cho đầy, dù trải qua số kiếp như bụi cũng không đầy được. Rót nước thiền định vào chén phá giới, muốn cầu quả viên mãn, thì trải qua số kiếp như cát bụi cũng không đầy, ai đi qua mà không thận trọng? Đây là đức bên trong không thật, tướng bên ngoài mê hoặc lòng người, bình giới đã bị thủng, pháp lành phần nhiều rỉ chảy.
2. Khuyên phải dứt trừ:
Nếu các Tỳ-kheo y bát dư thì dù phân tấc cũng không nên chứa, khất thực còn dư thì bố thí cho chúng sinh đói, ở trong đại hội chắp tay lễ chúng, có người mắng chửi đồng với khen ngợi, làm cho thân tâm đều tổn, xả bỏ thân thịt, xương máu cho chúng sinh, không lấy nghĩa bất liễu của Như-lai, làm sự hiểu biết của mình, làm cho người mới học nhầm lẫn.
Phật ấn khả người này được Tam-muội chân thật, văn này khuyên lìa bốn lỗi. Nghĩa là tham, mạn, sân, si phối hợp văn sẽ thấy, tâm không khởi sân, thân không bị quả báo. Cho nên cả hai đều xả bỏ để quán chúng sinh và thân ta bình đẳng không hai. Do thân tâm này không bị quả báo. Cho nến nói cùng với chúng sinh. Thuyết bất liễu nghĩa, cho là sự hiểu biết của mình, không đem phương tiện của Phật làm pháp ngộ riêng trong tâm mình dùng đây để mê hoặc người mới học không biết gì. Văn này cũng nói trong giáo bất liễu nghĩa được ăn các thứ thịt thanh tịnh.
Liễu giáo chắc chắn dạy chúng sinh đều phải dứt, không chấp vào giáo bất liễu giáo, cho là rốt ráo.
Chấp quyền chê bai sự thật cũng thuộc loại này.
Kinh Lăng-già nói: Phàm phu ngu si ác kiến buộc chặt tà vọng mê lầm, vọng nói là trí Nhất thiết.
Huy Giải chép: Người vô trí không hiểu rõ phương tiện nói pháp của Như-lai, mà vọng xưng là bậc trí Nhất thiết, cho là rốt ráo.
Kết luận bỏ tà về chánh:
Như lời ta nói gọi là Phật nói, không phải lời này tức là ma Ba-tuần nói.
Nhân lìa vọng, có hai: 1) Nói về đúng sai, có ba: a) Nêu bày.
Nầy A-nan! như chúng sinh trong sáu đường ở thế giới này, tuy thân và tâm không còn ba việc sát, đạo, dâm. Nếu đại vọng ngữ thì Tam-ma-đề không được thanh tịnh, thành ma ái kiến, mất hạt giống Như-lai. Do nói dối thì khởi tham si mạn. Nếu không dứt thì thành ái kiến.
Giải thích, có hai: Vọng là nhân khổ, có hai Đối giải thích, có hai: Nói lên ngụy tác, có hai:
Nêu lên sự điên cuồng: chưa đắc cho là đắc, chưa chứng cho là chứng, hoặc cầu tốt đẹp bậc nhất ở thế gian. Nghĩa là người trước nói ta đã đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, thừa Bích-chi-Phật, và các giai vị Bồ-tát: Thập địa v.v... cầu lễ sám kia, tham sự cúng dường, vì tâm ngu si sinh đại ngã mạn, nhân cầu tôn thắng. Tham sự cúng dường kia, đây là hoặc ái kiến, chúng rất lừng lẫy. Do khởi nói dối, cho là đã đắc quả hiền Thánh ba thừa, thật đắc đạo quả còn không cho nói, huống chi chưa đắc mà nói dối ư?
b) Kết thúc thành vời lấy khổ.
Là nhất-điên-ca, dứt bỏ hạt giống Phật. Như người dùng dao chặt cây đa-la, Phật nói người này, mất hẳn gốc lành, không còn tri kiến nữa, đắm chìm trong biển khổ, không thành Tam-muội.
Nhất-điên-ca là người dứt gốc lành, đại vọng ngữ đồng với tội này.
Phẩm Tà Chánh trong kinh Niết-bàn nói:
Nếu có người nói ta đã chứng Vô thượng Bồ-đề. Vì sao? vì có Phật tánh, có Phật tánh chắc chắn được thành Vô thượng Bồ-đề. Phải biết người này phạm tội ba-ladi, vì sao? Vì dù có Phật tánh nhưng chưa tu tập các phương tiện khéo, cho nên chưa thấy, vì chưa thấy, cho nên chưa được thành Vô thượng Bồ-đề. Nên biết, không tu dứt sạch mà xưng là Phật, đều là đại vọng ngữ, phạm tội ba-la-di, chẳng phải đệ tử Phật.
2. Nói về hóa độ chân chánh, có hai:
a) Nêu việc hóa độ:
Sau khi ta diệt độ, khuyên các Bồ-tát và A-la-hán, ứng thân sinh trong thời Mạt pháp, hiện các thứ thân, độ các chúng sinh đang đắm chìm, hoặc làm sa môn, cư sĩ tại gia, vua, tể quan, đồng nam, đồng nữ. Như thế cho đến dâm nữ, quả phụ, trộm cắp, giết mổ v.v... đồng nghiệp với họ, khen ngợi Phật thừa, giúp cho thân tâm họ nhập vào Tam-ma-địa, dùng bốn nhiếp để lợi người, thực hành các hóa độ, ban đầu cùng đồng với đạo, sau đó khuyên Phật thừa, đều vì lợi ích cho người, không tham lợi cho mình.
b) Nói về khuyên răn:
Hoàn toàn không tự nói tôi thật là Bồ-tát, thật là A-la-hán, tiết lộ nhân kín đáo của Phật, khinh người chưa học, chỉ trừ lúc qua đời thầm để lại, bậc Thánh chân chánh lợi ích chúng sinh đều không thể lường. Vì vậy theo Phật chế, không tiết lộ bừa bãi, bậc Thánh này là nhân chân chánh. Chỉ có bậc Thánh tự chứng, nên nói là nhân kín đáo. Tức đối với người chưa học không được đụng ai cũng nói, chỉ thầm để lại, không nói rõ ràng. Điều này khai cho lúc sắp qua đời thầm có biểu thị di chúc cho đệ tử, như cầu việc gì đó.
(Chín trăm mười lăm) Kết trách:
Vì sao người này làm hoặc loạn chúng sinh, thành nói đại vọng ngữ. Kết thành khuyên răn: Ông dạy người đời tu Tam-ma-địa, sau phải dứt trừ các đại vọng ngữ. Đây gọi là lời dạy quyết định thanh tịnh thứ tư của Nhưlai Tiên Phật Thế tôn.
3. Khuyên răn, có bốn:
a) Ví dụ về không dứt:
Cho nên A-nan! nếu ông không dứt bỏ đại vọng ngữ, thì cũng như người dùng phẩn tiểu làm hình chiên-đàn mà muốn có mùi thơm thì không có việc đó, hình chiên đàn tu thiền định là khắc hình người vọng ngữ bằng phẩn, đứng, xa nhìn cũng đáng yêu, nhưng đến gần thì ngửi thấy mùi xú uế, muốn cầu đạo thơm không bao giờ thể được.
Nêu lên sự chướng ngại nhỏ nhiệm.
Ta dạy các Tỳ-kheo, trực tâm là đạo tràng, đối với tất cả hạnh trong bốn oai nghi, còn không luống dối, sao lại tự xưng được pháp của bậc thượng nhân? Pháp mà ba thừa chứng là pháp của bậc thượng nhân, văn này nêu cạn mà ví sâu, nói dối thông thường, còn không nên nói, huống chi là đại vọng ngữ nghiêm trọng?
b) Lại dụ về lỗi lớn:
Ví như kẻ nghèo mà dối xưng mình là Đế vương, tự chuốc lấy tội tru lục, huống chi là Pháp Vương mà sao lại vọng trộm. Nhân địa không chân thật, quả vời quanh co, cầu Phật Bồ-đề, như người cắn rốn mình mà muốn thành tựu, trước ví dụ đại vọng ngữ chỉ thành gốc khổ, sau đó dụ cho cầu đạo hoàn toàn không có việc đó, như người cắn rốn mình không thể được.
Truyện Xuân Thu nói: Nếu không tính sớm, sau này anh sẽ cắn rốn.
c) Dứt thì thành lợi ích lớn.
Nếu các Tỳ-kheo tâm như dây đàn căng, tất cả đều chân thật, nhập Tam-ma-địa, không bao giờ có việc ma.
Ta ấn khả cho người này, thành tựu Bồ-đề vô thượng tri giác. Bất cứ lúc nào cũng đều không luống dối. Người này cũng là chân thật cầu đạo ư? Đâu không mau đến ư? Hoặc biểu tướng nêu hình, dối xưng là đắc đạo, bên trong khởi tâm tà vọng, bên ngoài hiện phép tắc, đâu gọi là tu hành. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: Tỳ-kheo đời vẩn đục, trí tà tâm dua nịnh, chưa được cho là được, tâm ngã mạn dẫy đầy, cho ta là nạp y, thường ở chỗ rảnh rang, giả danh A-luyện-nhã. Nên biết đây đều là thực hành nghiệp ma.
d) Kết thúc quy về tà chánh:
Như lời ta nói gọi là Phật nói, không phải đời này, chính là Ba-tuần nói.
Tha lực lìa ma: Đây là chướng nặng, giúp cho năng lực của chú. Văn có hai:
1. Thuật ý nói lược, có bốn:
1. Tổng kết văn trước.
Nầy A-nan! Ông hỏi nhiếp tâm, nay trước tiên ta nói nhập Tam-ma-địa tu học diệu môn, cầu đạo Bồ-đề, trước phải giữ bốn thứ luật nghi, sáng suốt như giọt sương, tự không thể sinh tất cả cành lá, ý ba, miệng bốn, sinh khởi chắc chắn không có nhân. Nầy A-nan! Bốn việc như thế, nếu không để mất, thì tâm không còn duyên theo sắc, hương, vị, xúc thì tất cả việc ma làm sao phát sinh được. Giới là gốc chánh thuận giải thoát, nương vào giới này sẽ có được định tuệ, cho nên biết Tam-muội, giới là đầu tiên. Trọng cấm này tuy y theo thân miệng, mỗi thứ đều phải sửa tâm, đã tương ưng với định tuệ thì sắc, hương, vị, xúc đều là thật tướng, đâu có việc ma khuấy rối hành giả.
2. Khuyến tụng thần chú:
Nếu có thói quen đời trước không thể dứt trừ, ông dạy người này nhất tâm tụng Phật đảnh quang minh Ma-ha-tát đát-đa-bát-đát-la vô thượng thần chú của ta, đây là tâm chú đảnh tướng vô Kiến của Như-lai, vô vi tâm Phật từ trên đảnh phát ra ánh sáng, ngồi trên hoa sen báu nói ra ở trước tuy nói rộng trì giới thanh tịnh sáng suốt như giọt sương, đã không tạo mới, cũng lìa việc ma. Nhưng có thói quen cấu chướng trần sa từ vô thỉ, như bóng theo thân, làm ngăn ngại đạo. Đối với người tu hành làm chướng ngại mọi lúc. Hoặc thường bệnh, thường não, nặng về dâm sân. Hoặc gặp thầy tà, hoặc gặp bọn ma, các nạn đua nhau sinh khởi. Đây đều là nhân bất thiện từ vô thỉ, hạt giống nghiệp tư duy tà đời trước huân tập hiện hành, thường là kẻ thù của chánh đạo.
Phàm phu mới học, đạo lực còn yếu kém, không thể sắp bày. Cho nên Phật có thần chú nhiệm mầu, có công năng dứt trừ thói quen ác đời trước làm cho không phiền nhiễu, đạo lực mau thành, không gặp lui sụt, trước nói định tuệ, phá chướng phiền não, lại nói về giới học, chỉ dứt tội nghiệp. Nay nói thần chú, có công năng phá bỏ ương lụy đời trước, trừ cả báo chướng, nếu ba chướng mất, không chứng thì còn đợi gì.
3. Chỉ bày công hiệu:
Lại ông đời trước nhiều kiếp có nhân duyên thói quen ân ái với Ma-đăng-già, chẳng phải là một đời, một kiếp. Ta vừa giảng nói, thì tâm ái dứt hẳn, thành A-lahán. Kia còn là dâm nữ không có tâm tu hành, nhờ thần lực thầm hợp mà mau chứng Vô Học, vì sao các thầy là Thinh Văn ở trong hội cầu thừa Vô thượng, chắc chắn thành Phật mà không được hay sao?
Thí như tung bụi thuận gió đâu có gì khó khăn. Mađăng-già kiếp trước có thói quen dâm dục, nay được lìa dục. Đây là dứt nghiệp phiền não chướng, hiện là dâm nữ, nay được Vô học, là chuyển báo chướng, không có tâm tu hành, gặp thần chú này còn được quả Thánh, huống chỉ là chí cầu giác đạo vô thượng, quyết định tu hành, chú lực gia trì, có gì khó khăn mà không được ư?
4. Lược bày cách thức giữ giới, có hai:
a) Chỉ bày hành nghi:
Nếu có chúng sinh đời Mạt pháp muốn ngồi đạo tràng, trước phải giữ giới cấm của Tỳ-kheo cho thanh tịnh, phải chọn một vị sa-môn giữ giới thanh tịnh bậc nhất làm thầy. Nếu không gặp vị tăng thanh tịnh chân chánh thì giới luật nghi của ông chắc chắn không thành tựu. Khi giới thành rồi đắp y mới giặt sạch, đốt hương chốn nhàn cư, tụng thần chú tâm Phật đã nói này một trăm lẻ tám biến. Sau đó kết giới, xây dựng đạo tràng, cầu các Đức Như-lai vô thượng hiện trụ ở các cõi nước mười phương phát ra ánh sáng Đại bi đến rót trên đảnh. Giữ giới không hoàn toàn, năm duyên liền thiếu. Huống chi làm phép tắc của vị thầy xoay vần truyền trao cho người. Giới mình không thanh tịnh thì làm sao giúp cho giới người khác thành tựu, vì thế phải chọn người thanh tịnh bậc nhất chân chánh truyền giới. Cho nên kinh Phạm Võng nói: Trong ngàn dặm không có giới sư truyền trao thì mới ở trước Phật tự thệ thọ giới. Trước sám hối bảy tội nghịch, sau cầu giới pháp. Nếu thấy điềm lành thì biết tội diệt đắc giới. Không thấy điềm lành thì không được. Giới đã thành tựu, nhàn cư chỗ yên tĩnh, đốt hương tụng chú, đủ số một trăm lẻ tám biến, để nói lên dứt trừ một trăm lẻ tám phiền não. Giới ở bên trong, tụng chú bên ngoài, loài ma quỉ không phát sinh. Sợ chướng ngại đạo tràng, cho nên trước phải cầu ánh sáng Phật hiện trụ chiếu sáng che chở, tâm được mạnh mẽ, tiến đạo nhanh chóng.
b) Nói về cảm ứng.
Nầy A-nan! Tỳ-kheo thanh tịnh thời Mạt pháp như thế, hoặc Tỳ-kheo-ni, tại gia đàn việt, tâm diệt tham lam, dâm dục, trì định giới của Phật, ở trong đạo tràng phát nguyện Bồ-đề, ra vào tắm gội, sáu thời hành đạo. Như vậy không ngủ, trải qua hai mươi mốt ngày, ta tự hiện thân, đến trước người, xoa đảnh an ủi, giúp họ khai ngộ, đạo tràng thứ lớp, nghi quỹ chu toàn. Như trong Khuê Phong Sơn Viên Giác Tu Chứng Nghi có nói, tụng chú gia trì, phát nguyện được thấy Phật. Phật hiện thân chính là cảm ứng. Nếu thấy cảnh khác, trái với sự tu tập của mình, việc trái với nguyện, chính là cảnh ma, chẳng phải cảm ứng chân chánh. Lại thấy cảm ứng chân chánh, tâm được khai ngộ, phiền não mỏng dần, trí tuệ sáng suốt. Hoặc nhờ thấy Phật, ngu si rõ ràng, bỗng nhiên phiền não nặng nề, đây đều là cảnh ma, chẳng phải Phật chân thật.
Thưa hỏi đáp rộng, có hai.
1. Nói về đàn pháp, có hai.
2. Thưa hỏi.
A-nan Bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! con nương vào lòng từ bi vô thượng của Như-lai dạy dỗ, tâm đã khai ngộ, tự biết tu chứng thành đạo Vô học. Thời Mạt pháp tu hành, xây dựng đạo tràng làm sao kết giới để hợp với phép tắc thanh tịnh của Phật Thế tôn, con sống vào thời có Phật, mong Phật đích thân thị hiện giúp con khai ngộ, đã biết tu chứng sẽ đến Vô học. Người học thời Mạt pháp phải gia công tu hành, xây dựng đạo tràng, có phương pháp nào chỉ bảo khuôn phép ấy. Hai là đáp giải thích, có hai:
Chỉ dạy phương pháp kiết đàn, có hai.
1. Kích thức móng của đàn tràng
Phật bảo A-nan: Nếu người thời Mạt pháp muốn lập đạo tràng thì trước lấy phân của con trâu trắng có sức mạnh ở núi Tuyết, trâu này ăn cỏ thơm xanh non trong núi ấy. Trâu này chỉ uống nước trên núi Tuyết. Phân của nó rất mịn, có thể hoà phân ấy với chiên đàn và bùn đất. Nếu không phải núi Tuyết thì trâu ấy hôi nhơ, không bôi đất được, chỉ ở chỗ đồng bằng, thường đào đất năm thước, lấy đất vàng ấy, hoà với chiên-đàn, trầm thủy, tô hợp huân lục, uất kim, bạch lục, thanh mộc, linh lăng, cam tùng và kê thiệt hương. Tán mười loại này thành bột, trộn với đất thành bùn, rồi bôi lên, mỗi cạnh vuông tròn một trượng sáu thành đàn tám gốc. Trâu ở núi Tuyết sữa thuần là đề hồ, tất cả mềm mại, rất là thơm sạch. Chỉ hòa một vị chiên-đàn có thể trộn với đất. Nếu không thế thì lấy đất chỗ trũng hoà hợp với mười vị hương khác bôi lên vách, đàn tám gốc, mỗi cạnh đúng lượng, trừ đất là đó, vẫn không có cấp số, tức nay là nơi cúng tế. Đàn tuy có tám góc, trên dưới là mười, để hợp với số tròn. Văn ở dưới nói có gương treo, đối nhau trên dưới xen lẫn, ánh sáng trong mỗi gương đều hiện các Đức Phật mười phương, để biểu hiển một thân là mười thân, mười thân là một thân, nhiều lớp vô tận cùng hiển hiện, dung thọ lẫn nhau, tức biểu thị cho tướng chứng cảnh giới tạng tâm không thể suy nghĩ bàn luận.
2. Văn dưới nói Chư Phật mười phương cùng một lúc đều hiện, ánh sáng xen lẫn nhau, chính là tướng này. Cách thức cúng dường, có hai:
1. Bày vật cúng dường, có hai
a) Vật cúng trong thời gian dài.
Ở giữa đàn đặt một hoa sen bằng vàng, bạc, đồng, gỗ. Trong hoa có đặt cái bát, trong bát chứa đầy nước sương bát nguyệt, trong nước chỗ nào cũng đặt tất cả cánh hoa, đặt tám cái kính tròn thành hình vuông vây quanh cái bát hoa, bên ngoài gương đặt mười tám hoa sen, giữa mười tám lư hương chưng hoa, trang nghiêm lư hương, đốt toàn trầm thủy, không để cho thấy lửa, đổ sữa trâu trắng vào mười sáu bình, sữa để nấu bánh. Đồng thời dùng đường cát, dầu, bánh, dầu, cháo sữa, bơ hòa với mật gừng, thuần bơ, thuần mật, bỏ ngoài hoa sen, mỗi thứ có mười sáu bình vây quanh ngoài hoa sen, để dâng lên Chư Phật và Bồ-tát. Chư Phật và Bồ-tát không ăn thức ăn này, vì làm cho phước thêm lớn mà thị hiện ăn nó, giúp cho người tu hành phước tuệ đầy đủ, mau được tràn đầy. Như Phật nhận thức ăn của Thuần-đà cúng dường lần sau cùng, giúp cho ông ấy đầy đủ đàn Ba-la-mật, ở đây cũng thế, cho nên phải cúng dường.
b) Tùy thời cúng Phật:
Khi lấy thức ăn, hoặc giữa đêm lấy nửa thăng mật, dùng sữa ba hộp để trước đàn, để riêng một lư lửa nhỏ, dùng hương đâu-lâu-bà nấu, dùng nước thơm tắm gội, tro của nó đốt làm cho hừng hực bỏ vào trong sữa mật, để trong lư lửa, đốt cho khói hết, dâng lên Phật và Bồtát.
2. Bày tượng:
Bên ngoài bốn phía treo phướn hoa, ở trong đàn thất bốn vách bày ra tất cả hình tượng của Như-lai và các Bồtát mười phương, nên trưng bày hình tượng Lô-xá-na, Thích ca, Di-lặc, A-di-đà và Quán Âm đại biến hóa, gồm Kim Cương Tạng, đặt ở hai bên. Đế-thích Phạm Vương, Ô-xu-sắt-ma và Lam-địa-ca, Các quân-trà-lợi, Tỳ-nicâu-chi, bốn vị vua trời, Tân-na-dạ-ca, đặt bên cạnh cửa, hai bên. Lại dùng tám gương úp lại treo trên hư không và trong đàn tràng có đặt cái gương. Mặt vuông đối nhau làm cho hình ảnh nhiều lớp liền nhau, treo phướn bày tượng làm cho bóng hiện trong gương, muốn làm cho hành nhân quen với cảnh giới này thì lý "sự sự vô ngại pháp giới" dễ chứng được. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, trong một niệm đi khắp mười phương, thấy khắp Chư Phật, làm nhiều Phật sự, được cúng dường rộng, một niệm đã vậy, trần trần cũng đều như vậy.
Nói về nghi thức tụng chú, có hai:
1) Nói về tu hành, có ba:
a) Tu trợ hạnh:
Trong bảy ngày, đảnh lễ các Đức Như-lai, Chư Bồtát, A-la-hán mười phương; thường trong sáu thời tụng chú nhiễu quanh đàn tràng, dốc lòng hành đạo, trong một thời thường thực hành một trăm lẻ tám biến. Trong thất thứ hai hoàn toàn chuyên tâm, phát nguyện Bồ-đề, tâm không xen hở.
b) Trong tỳ-nại-da của ta trước có nguyện giáo.
Trong thất thứ ba có hai mươi thời một bề trì chú bát-đát-la của Phật, đến thất thứ bảy, các Đức Như-lai mười Phương cùng lúc xuất hiện trong gương, được Phật xoa đảnh. Trong hai mươi mốt ngày việc làm đều khác. Trước lễ Phật, nhiễu quanh đàn tràng, tụng chú hành đạo. Trong đó phải thực hành năm sám hối, sám hối lễ Phật cầu thương xót che chở, lìa chướng ngã mạn v.v... Kế là xả bỏ những việc làm trước đó, thường phát nguyện lớn, vận chuyển tâm rộng khắp, lìa chướng thấp hèn, sau cùng, tâm hoàn toàn trì tụng chú, gia trì hạnh môn, ngăn các việc ma. Do ba hạn chế này giúp cho năng lực tu hành.
Đường Cảm ứng giao nhau, nói lên thọ Phật ứng, xoa đảnh an ủi.
2) Nhập quán hạnh.
Ở trong đạo tràng tu Tam-ma-địa, có công năng làm cho người tu học thời Mạt pháp thân tâm sáng suốt, giống như lưu ly, ma chướng đã lìa, lại được sự che chở rõ ràng, tu Tam-ma-đề mau được thành tựu, nên làm cho thân tâm sáng suốt như lưu ly.
Nói lên sự bất thành.
Nầy A-nan! Nếu Tỳ-kheo này, Bản thọ giới sư và mười vị Tỳ-kheo trong hội, trong đó có một vị không thanh tịnh, thì đạo tràng ấy không thể thành tựu.
Giới căn là gốc, vào đạo là cửa đầu tiên, Sư và người chứng minh bình đẳng thanh tịnh. Nếu Sư thiếu, trò không có chỗ kính thờ, đạo tràng không thành tựu, nên biết là do đây.
Nói về đắc quả:
Sau hai mươi mốt ngày, ngồi thẳng ở yên suốt một trăm ngày, người lợi căn ngồi tại chỗ đắc quả Tu-đàhoàn. Dẫu thâm tâm họ quả Thánh chưa thành, nhưng chắc chắn tự biết thành Phật không sai. Ông hỏi về đạo tràng, được Kiến lập như thế. Quả Tu-đà-hoàn ở Đại thừa và Tiểu thừa đều có, Tiểu thừa có thể biết..
Nay tu định Thử-Lăng-nghiêm Đại thừa, phát nguyện Bồ-tát, nên dùng thứ lớp Đại thừa, mà nói về quả vị. Hoặc theo kinh Anh Lạc Bổn nghiệp, thì Sơ địa gọi là Cưu-ma-la-già, cho đến Tứ địa gọi là Tu-đà-hoàn. Phật địa gọi là bà-già-bà-Phật-đà, phối hợp với kinh này e rằng sâu xa cao vời.
(Chín trăm mười bảy) Nếu y theo cái thấy đắc Vô Sinh nhẫn, chân thật gọi là Tu-đa-hoàn rất phù hợp, tức mới nhập vào Viên địa trụ vị khác, ở đây đồng với nghĩa Quán Âm tu chứng. Nếu phối hợp với giai vị dưới, e rằng không thích hợp. Vì trong kinh này nói là quả Thánh, là lợi căn tu. Lại kinh ở dưới nói được Vô Sinh nhẫn, thứ ba dần dần sẽ được chứng đắc. Đây là không ngăn ngại, chắc chắn không thể phối hợp với giai vị chưa chứng, xin xem cho kỹ.
Chánh nói thần chú, có ba:
1. Thưa hỏi, có ba:
a) Nói nương năng lực chú:
A-nan đảnh lễ dưới chân Phật, Bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn: Từ lúc con xuất gia đến nay nhờ vào sự thương mến của Ngài, vì cầu học rộng, nên chưa chứng quả, bị phạm thiên tà thuật kia hại con, tâm con tuy sáng suốt mà năng lực lại không tự do, nhờ gặp Vănthù giúp con giải thoát.
A-nan tuy được Sơ quả của Tiểu thừa, hoặc mong vào Đại thừa gọi là Trạch diệt, chẳng phải chân như vô vi, nên nói chưa chứng.
b) Nguyện nghe thần chú:
Tuy nương vào thần chú Phật đảnh Như-lai mà được năng lực này, còn chưa đích thân nghe. Chỉ mong ngài rũ lòng đại bi giảng nói lại, từ bi cứu người tu hành trong hội này và những người đời sau đang chìm đắm trong luân hồi đau khổ. Nương mật âm của Phật, thân ý giải thoát, Văn-thù mật tụng để cứu giải nạn dâm, cho nên nói chưa nghe, nay xin nói rõ, ý muốn truyền lại thông suốt đến đời sau.
c) Cả chúng đều nghe.
Bấy giờ, tất cả đại chúng trong hội đều làm lễ, lắng nghe Chương Cú bí mật của Như-lai.
Nói cho nghe, có hai:
1. Chánh nói thần chú, có hai
a) Hiện hóa Phật:
Bấy giờ, Đức Thế tôn từ trong nhục kế phát ra tia sáng trăm báu. Trong ánh sáng phát ra ngàn cánh sen báu, có hóa Như-lai ngồi trên hoa báu. Trên đảnh phát ra mười tia sáng trăm báu, mỗi tia sáng đều thị hiện khắp các vị Kim Cương Mật Tích nhiều bằng số cát của mười sông Hằng bưng núi cầm chày, trùm khắp các thế giới trong hư không, đại chúng ngước nhìn vừa mừng vừa sợ, mong Phật che chở. Nhất tâm nghe Đức Như-lai từ đảnh tướng vô kiến phát ra ánh sáng giảng nói thần chú: Lúc sắp nói thần chú thì hiện ánh sáng hoá Phật, hóa Phật lại biến thành hóa Phật trăm hằng sa chúng, đây là diệu dụng tâm tạng không thương nghĩ bàn luận của Như-lai, một tức tất cả, tất cả là một. Đại chúng sẽ chứng được lý này, cho nên thị hiện. Dưới nói thần chú, đây là mật âm nói cho đại chúng, biến hóa làm cho được lợi ích.
b) Nói lời chú:
Nam-mô tát đát tha, tô già đa da a la ha đế, tam miệu tam bồ đà tỏa, tát đát tha phật đà cu tri sắt ni sam. Nam mô tát bà bột đà bột địa tát đa bệ tệ. Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đà cu tri nẩm. Ta xá ra bà ca tăng già nẩm. Nam mô lô kê A-la-hán đa nẩm. Nam-mô tô lô đa ba na nẩm. Nam mô ta yết ri đà già di nẩm. Nam mô lô kê tam miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẩm. Nam mô đề bà li sắc nỏa. Nam mô tất đà da tỳ địa da đà ra lia sắt noả. Xá ba noa yết ra ha ta ha ta ra ma tha nẩm. Nam mô bạt ra ha ma ni. Nam mô nhân đà ra da. Nam mô bà già bà đế lô đà ra da. Ô ma bát đế, ta hê dạ da. Nam mô bà già bà đế. Na ra dả noa da. Bàn giá ma ha tam mộ đà ra. Nam mô tất yết rị đa da. Nam mô bà già bà đế. Ma ha ca ra da. Địa rị bát lặc na già ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi na sá na nê bà tất nê. Ma đát rị già noa. Nam mô tất yết rị đa da. Nam mô bà già bà đế. Đa tha già đa cu ra da. Nam mô bát đầu ma cu ra da. Nam mô bạc xà ra cu ra da. Nam mô ma ni cu ra da. Nam mô già xà cu ra da. Nam mô bà già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha sa noa ra sà da, đa tha già đa da. Nam mô bà già bà đế. Nam mô a di đà bà da, đa tha già đa da, a ra ha đế tam miệu tam bồ đa da. Nam mô bà già bà đế, a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da. Nam mô bà già bà đế, bệ sa xa da, cu lô phệ trụ rị da, bát ra bà ra xa da, đa tha già đa da. Nam mô bà già bà đế, tam bổ sư tỷ đa, tát lân nãi ra lặc xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế tam miệu tam bồ đà da. Nam mô bà già bà đế, Xá Kê dã mẫu na duệ, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da. Nam mô bà già bà đế, lặc đác na kê đô ra xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da, đế biều nam mô tát yết rị da, ế đàm bà giá bà đa, tát đát tha già đô sắt ni sam, tát đát đa bát đát lam. Nam mô a bà ra thị đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạc ra bỉ địa da sất đà nể, a ca ra mất rị trụ, bác rị đác ra da nảnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà đột sắc tra đột tất phạp, bát na nể phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẩm, yết ra ha ta sa tát ra nhả xà, tỳ đà băng ta na yết rị, a sắc tra băng xá đế nẩm, na xoa sát đác ra nhã xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắc tra nẩm, ma ha yết ra ha nhả xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô lô nể bà ra nhả xà, hô làm đột tất phạp, nan giá na xá ni, bí ra xá tất đác ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bác ra thị đa cu ra, ma ha bác ra chiến trì, ma ha điệp đa, ma ha đế xà ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt xa bàn đà ra bà tất nể, a rị da đa ra, tỳ ri cu trị, thệ bà tỳ xà da, bạt xà ra ma lễ để, tỳ xá lô đa, bột đằng dõng ca, bạt xà ra chế hắt na a giá, ma ra chế bà bác ba chất đà, bạt xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma lô ba, ma ha thuế đa, a rị gia đa ra (chín trăm mười tám), ma ha bà xa a bát ra, bạt xà ra thương yết xa chế bà, bạt xà xa cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà sa hắc tát đa giá, tỳ địa gia kiền giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đa na, bộ lô giá na cu ri da, dạ ra thố sắt ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, lô xa na bạt xà sa đốn trĩ giá, thuế đa giá ca ma ra sát xa thi ba xa bà, ế đế di đế mẫu đà ra yết noa, ta bệ ra sám, quật phạm đô, ấn thố na ma mạ tỏa.
Bài chú thứ hai: Ô hồng rị sắt yết noa, bác lặc xá tất đa, tát đát tha già đô sắt ni sam. Hổ hồng đô lô ung chiêm bà noa, hổ hồng đô lô ung tất đam ba noa. Hổ hồng đô lô ung ba ra sắt địa da tam bác xá noa yết ra. Hổ hồng đô lô ung, tát bà dược xoa hắc ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đà băng tát na yết ra. Hô hồng đô lô ung, giã đô ra thi để nẫm yết ra ha ta ha tát ra nẫm, tỳ đằng băng tát na ra. Hổ hồng đô lô ung, ra xoa, bà già phạm tát đát tha già đô sắc ni sam, ba sa điểm xà kiệt rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, cu tri ta ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca ma ha bạt xà lô đà ra, đế rị bồ bà na, man trà ra, ô hồng ta tất đế bạc bà đô, ma mạ, ấn thố na mạ ma tỏa.
Bài chú thứ ba: Ra xà bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tất đa ra bà dạ, ba ra chước yết ra bà dạ, đột sắc xoa bà dạ. A xá nễ bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà da, đà ra ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàn trà bà dạ, na dà bà da, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa từ yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra ha, tất kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha xa dạ yết ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xả đa ha rị nẫm, yết bà ha rị nẫm, lô địa ra ha rị nẩm, mang ta ha rị nẩm, mê đà ha rị nẫm, ma xà ha rị nẫm, xà đa ha rị nẫm, thị tỷ đa ha rị nẫm, tỳ đa ha rị nẫm, bà đa ha rị nẫm, a du giá ha rị nữ, chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẫm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà giã xà sân đà dạ di, kê ra dạ di. Trà diễn ni hất ri đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê sa dạ di. Ma ha bát du bát đát dạ. Lô đà ra hất rị đởm, tỳ già dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di na ra đa noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di.
Tát-đỏa già lô trà tây hất ri đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê sa dạ di. Ma ha ca ra ma đát rị già noa hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê ra da di, ca ba rị ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di. Xà dạ yết ra, ma độ yết ra, tát bà ra tha ta đạt na hất ri đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê ra dạ di. Giả đốt ra bà kỳ nê hất rị đởm đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di. Tỳ rị dương hất rị tri, nan đà kê sa ra đà noa bác đế, sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê sa dạ di. Na yết na xá ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê xa dạ di. A-la-hán hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê sa dạ di. Tỳ đa ra già hất rị đởm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê ra dạ di. Bạt xa ra ba nể, cu hê dạ cu hê dạ ca địa bát đế hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di kê sa dạ di, sa xoa võng bà già phạm, ấn thố na mạ mạ tỏa.
Bài chú thứ tư: Bà già phạm, tát đác đa bác đát ra, nam mô tý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ tra tỳ ca tát đát đa bác đế rị. Thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần dà ra tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, ta ha hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, ba ra bà ra đà phấn a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà na già tệ phấn, tát bà bệ tệ phấn, tát ba na già tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiến thất bà tệ phấn, tát bà bổ đơn na phấn. Ca tra bô đơn na tệ phấn, tát bà đột lan chỉ để tệ phấn, tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá tất ma lê tệ phấn tát bà xá na bà noa tệ phấn tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma đà kê tệ phấn, tát bà tỳ đà da ra thế giá lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra tát bà dạ tha ta đà kê tệ phấn, tỳ địa dạ già lê tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nể tệ phấn, bạt xà ra câu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn ma ha ba ra (chín trăm mười chín) đinh dương xoa kỳ rị tệ phấn, bạt xà ra thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà đạ phấn, ma ha ra ca dạ, ma ha mạt đát rị ca noa. Nam mô ta yết rị đa dạ phấn, tỷ sắt noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn trì duệ phấn, miệt đát rị duệ phấn, miệt đát rị duệ phấn, lao đát rị duệ phấn, giá văn trà duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bát rị duệ phấn, a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nễ duệ phấn, diễn kiết chất, Tátđỏa bà đỏa, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa. (Câu ba trăm hai mươi hai câu, đến đây xưng danh thọ trì).
Bài chú thứ năm: Đột sắt tra chất đa, a mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô địa ra ha ra, ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ đa ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bố sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tỏa ha ra, bác ba chất đa, đột sắt tra chất đa, lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sắt ta yết ra ha, bế lệ đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xà dạ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, trạch khê cách hà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, mộ đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, kiền độ ma ni yết ra ha, thập Phật ra yên ca hê ca, trị đế được ca, đát lệ dế lược ca, giả đột thác ca, nị thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra bạc để ca, tỷ để ca, thất lệ sắc mật ca, ta nể bát đế ca, tát bà thập phạt ra, thất lô kiết đế, mạt đà bệ đạt lô chế kiềm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô kiềm, yết ra ha yết lam, yết noa du lam, đãn đa du lam, hất ri dạ du lam, mạt ma du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ lật sắc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bạt tất đế du lam, ô lô du lam, thường già du lam, hắc tất đa du lam, bạt đà du lam, ta phòng án già bát ra trượng già du lam, bộ đa tỷ đà trà, trà kỳ ni thập bà ra, đà đột lô ca kiến đột lô kiết tri, bà lộ đa tỳ, tát bát lô ha lăng già, du sa đát ra, ta na yết ra tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liễm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ rị sắc chất ca, tát ba na cu ra, tứ dẫn già tệ yết ra, rị dược xoa đát ra sô, mạt ra thị phệ đế sam, ta bệ sam, tất đát đa bát đát ra, ma ha bạt xà lô sắc ni sam, ma ha bác lặc trương kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa, tỳ đà da bàn đàm ca lô di, đế thù bàn đàm ca lô di bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di đát điệt tha. Án a na lệ, tỳ xá đề bệ ra bạt xà ra đà rị, bà đà bàn đà nể, bạc xa ra bàn ni phấn. Hổ hồng đô lô ung phấn, ta bà ha(bốn trăm hai mươi bảy câu).
Bốn trăm hai mươi bảy câu chú này. Một số câu trước chỉ là quy mang Chư Phật, Bồ-tát và chúng Thánh Hiền. Và tựa chú nguyện che chở lìa các nạn, các bệnh ác quỉ.
Câu bốn trăm mười chín nói đát-điệt-tha: dịch là liền nói chú rằng, từ câu bốn trăm hai mươi là chữ án trở đi mới là chánh chú. Như trước nói sáu thời hành đạo tụng chú, mỗi thời một trăm tám mươi biến, tức là chánh tụng tâm chú này. Nếu tụng thuộc lòng thì rất tốt.
Nhưng ở đây chính là bí mật Thủ-lăng-nghiêm, từ xưa đến giờ không dịch, lược có năm ý:
Là mật ngữ của Chư Phật. Pháp bí mật chỉ có Phật và Phật mới hiểu rõ được, bậc Thánh khác không thể thông đạt.
2. Môn tổng trì:
Mỗi chữ, mỗi câu chứa đựng nhiều nghĩa. Như Bà-già-bà có sáu nghĩa.
3. Hoặc tên vị đứng đầu loài quỉ thần, kêu gọi họ khuyên răn để che chở người tu hành.
4. Mật ấn của Chư Phật.
Như Vua ấn tín cho người đáng tín cậy, hoặc không tín cậy đều thông suốt, u hiển tôn phụng. Các Đức Phật truyền nhau, không được đổi dời.
5. Năng lực không thể suy nghĩ bàn luận:
Được che chở, chỉ cần mật tụng thì diệt được tội lớn, mau chứng Thánh vị. Như vua ra lệnh xử tử hoặc xá tội cho người có công, vời đến nhận chức. Ở đây cũng thế, cho nên từ xưa đến nay không giải thích ra, bổn ấy hoặc có đồng khác, đều là lần lượt lời khác bên trong của ba tạng, phiên dịch sai ít, chỉ y theo một bổn tụng trì, không được chọn lựa.
Đầu quyển thứ mười bốn nói công năng của chú, có hai.
Nói Chư Phật thọ trì, có ba: 1) Người trì thành đức, có ba:
a. Tướng thành Phật nói pháp hàng phục ma:
A-nan! Chương cú vi diệu Phật đảnh quang tụ tấtđát-đa bát-đát-la bí mật già đà, sinh ra tất cả Chư Phật trong mười phương. Các Đức Như-lai mười phương nhờ tâm chú này mà được thành Vô thượng chánh biến tri giác. Các Đức Như-lai mười phương giữ tâm chú này hàng phục các ma, chế ngự các ngoại đạo. Các Đức Nhưlai mười phương nương vào chú này ngồi vào hoa sen báu ứng hiện khắp cõi nước nhiều như bụi. Các Đức Như-lai mười phương bao trùm tâm chú này. Ở cõi nước nhiều như cát bụi xoay bánh xe Đại pháp. Tất-đát-đabát-đát-ra, dịch là Bạch Tán Cái, tức chỉ cho tâm tàng, không tương ứng với vọng chấp, cho nên nói là Bạch, che khắp tất cả pháp cho nên nói là Cái (lọng). Từ đây lưu diễn thần chú bí mật cho nên nói tâm chú. Lại vì gom chung yếu chỉ trong tất cả chú, chẳng có một Đức Phật nào không nhờ chú này mà thành Chánh Giác, chế phục ngoại đạo, ứng vào các cõi nước, xoay bánh xe Đại pháp.
b. Tướng thọ ký bạt khổ thờ thầy:
Các Đức Như-lai mười phương trì tâm chú này, có khả năng ở trong mười phương xoa đảnh thọ ký, quả mình chưa thành tựu có thể ở khắp mười phương cứu giúp các khổ, là địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, đui mù, câm điếc, khổ oán ghét mà phải gặp nhau, khổ yêu thương mà chia lìa, khổ mong cầu mà không được, khổ năm ấm lẫy lừng, lớn nhỏ hoành hành, cùng lúc được giải thoát, nạn cướp bóc, đao binh, nạn vua, nạn ngục, nạn gió, lửa nước, đói khát nghèo cùng, ngay đó tiêu tan.
(Chín trăm hai mươi) Các Đức Như-lai trong mười phương, tùy tâm chú này, có thể ở trong mười phương thờ phụng thiện tri thức. Trong bốn oai nghi cúng dường như ý. Trong hội hằng hà sa Như-lai ở suy tôn con làm con của Đại Pháp Vương, thọ ký thì cho vui, trừ nạn thì nhổ gốc khổ, kính thờ cúng dường là con của bậc Đại Pháp Vương, tức nối tiếp bậc Pháp Vương, khiến cho hạt giống Phật không bị dứt, đều nhờ tâm chú này mà được như thế.
c. Tướng nhiếp thân, thị diệt, phó pháp.
Các Đức Như-lai trong mười phương, thực hành tâm chú này, có khả năng ở mười phương nhiếp thọ nhân gần gũi, làm cho người tu theo Tiểu thừa nghe tạng bí mật, không sinh sợ hãi. Các Đức Như-lai mười phương tụng tâm chú này mà thành Vô thượng giác, ngồi cội Bồ-đề, nhập đại Niết-bàn. Các Đức Như-lai trong mười phương truyền tâm chú này, sau khi diệt độ, việc giao phó Phật pháp rốt ráo trụ trì, trang nghiêm thanh tịnh giới luật đều được thanh tịnh.
Tứ Phạn chư tử và quyến thuộc khác đều được xuất gia, chứng Tiểu nghe Đại không có sợ hãi. Do năng lực nhiếp thọ thành Phật thị hiện diệt độ, phó chúc ở đời vị lai, làm cho đạo ta không bị suy vi, đều nhờ công năng của chú.
Chỉ rộng về công năng.
Nếu ta nói chú Phật đảnh quang tụ bát-đát-ra nầy từ sáng đến tối, âm thanh liền nhau, trong câu chữ cũng không trùng lắp, trải qua hằng sa kiếp, đều không cùng tận, bí mật vô cùng, công năng không cùng tận, Hằng ngày nối nhau để nói trong tuổi thọ một kiếp cũng không thể hết được.
Lỗi không thọ trì.
Cũng gọi chú này là Như-lai đảnh. Các ông là bậc Hữu học chưa dứt hết luân hồi, phát tâm chí thành, chứng A-la-hán, không trì chú này, mà ngồi đạo tràng, làm cho thân tâm xa lìa các việc ma thì không có việc đó.
Chú này nhiếp chung các bí tạng của Phật, đầy đủ muôn hạnh. Cho nên người học không trì chú này mà được thành đạo thì không thể được.
2. Khuyên chúng sinh thọ trì, có ba:
a) Khuyên chung thọ trì:
Nầy A-nan! Nếu các thế giới, tuỳ theo cõi nước mà có chúng sinh, tuỳ theo cõi nước da cây, lá bối, lụa trắng, viết chú nầy trên đó rồi bỏ vào túi thơm, người này, tâm hôn mê, chưa thể nhớ tụng, hoặc đeo trên thân, hoặc viết trong nhà, phải biết người này trọn đời tất cả các độc không thể hại được, đã không có tánh tụng, chỉ viết mang theo, thì một đời các chất độc cũng không hại được.
b) Nói riêng về công lực, có hai:
- Nêu lên:
Nầy A-nan! Nay ta nói chú này cho ông cứu giúp thế gian, được không sợ hoàn toàn, thành tựu trí xuất thế gian.
- Giải thích, có mười một.
+ Dứt trừ được các nạn:
Nếu sau khi ta diệt độ chúng sinh thời Mạt pháp có khả năng tự tụng, hoặc dạy người tụng thì phải biết chúng sinh tụng trì như thế, lửa không thể đốt được, nước không thể nhận chìm, độc lớn độc nhỏ cũng không thể hại. Như thế cho đến trời rồng quỉ thần, tinh kỳ quỉ mị, tất cả chú ác đều không hại được.
Tâm được chánh thọ: Tất cả chú yếm, thuốc độc, vàng độc, bạc độc, cây cỏ, trùng rắn, khí độc của muôn vật đó vào miệng người này liền thành vị cam lộ, tất cả sao xấu và các quỉ thần, người có tâm xấu ác, đối với người này không thể khởi tâm ác. Tỳ-na-da-ca các vua ác quỉ và quyến thuộc của vua quỉ đều thọ nhận ân đức sâu xa, thường luôn che chở, các quỉ ác độc, việc khó trên thế gian không thể xâm lấn, làm cho được chánh thọ, dùng oai lực thần linh, tâm từ nhiếp hộ, giúp cho họ được lợi ích cho nên lãnh thọ ân sâu, thường luôn che chở.
+ Sinh ra các trí.
A-nan nên biết! Chú này thường có tám mươi bốn ngàn na-do-tha hằng hà sa câu-chi chủng tộc làm Bồ-tát Kim Cương Tạng Vương, mỗi câu đều có các chúng Kim Cương làm quyến thuộc, ngày đêm theo hầu, nếu có chúng sinh nào tâm tán loạn, không có thiền định mà tâm nhớ miệng trì, Kim Cương Vương ấy thường theo các người thiện nam kia. Huống chi người có tâm quyết định đối với Bồ-đề, các Bồ-tát Kim Cương, Tạng Vương này, tịnh tâm nhanh chóng, phát khởi thần thức, người này ngay đó tâm nhớ được tám mươi bốn ngàn hằng hà sa kiếp, biết rõ khắp tất cả, không có nghi ngờ. Tán tâm trì tụng còn được che chở, huống chi người quyết tâm cầu Bồ-đề mà không che chở ư? Đã vì Bồ-đề, tâm tịnh cần huân vào thần thức mau được khai phát, tự nhiên nhớ việc hằng hà sa kiếp, không có việc gì chẳng biết rõ, lại mau chiêu cảm, âm thầm chiêu cảm làm cho khai phát.
+ Không rơi vào chỗ ác:
Từ kiếp thứ nhất đến thân sau: đời đời không sinh làm Dược-xoa, La-sát và Phú-đơn-na, Ca-tra-phú-đơnna, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-già và các ngạ quỉ, có hình không hình, có tưởng không tưởng, các chỗ ác như thế, người thiện nam này hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc viết, hoặc chép, hoặc mang theo, hoặc cất giữ, được các cõi Sắc cúng dường, kiếp kiếp không sinh vào chỗ nghèo cùng thấp hèn không đáng ưa thích.
Kiếp thứ nhất là thời kỳ đầu khi mới phát tâm tu hành cho đến thân sau cùng của Bồ-tát, nên gọi là thân sau. Trong đó không rơi vào tạp loại, hoặc sinh vào loài người cũng không nghèo hèn vì trì pháp tôn quý cho nên thân được tốt đẹp.
+ Các nhóm công đức:
Các chúng sinh này, dẫu tự thân họ không làm được phước nghiệp, nhưng công đức của người này đều đồng với tất cả: Các Như-lai mười phương. Bởi vậy, người này được sinh cùng một chỗ với Chư phật trong hằng hà sa A-tăng-kỳ không thể nói, không thể nói số kiếp, có vô lượng công đức.
Như dạ-xoa xấu ác tụ hội đồng một chỗ, huân tu mãi mãi không phân tán, tuy không tạo phước. Vì năng lực thọ trì phước đồng với Phật, đã sinh đồng với Phật, vẫn thọ giáo tu hành, thì phước nào không nhóm họp?
+ Các hạnh thành tựu:
Cho nên có công năng giúp người phá giới được giới căn thanh tịnh, người chưa đắc giới giúp cho họ đắc giới. Người không tinh tấn giúp cho họ tinh tấn, người không có trí tuệ làm cho họ có trí tuệ, người không thanh tịnh mau được thanh tịnh, người không trì trai giới tự thành trai giới, hạnh môn của Bồ-tát tùy theo hạnh mà đầy đủ, nay không thực hành mà đầy đủ. Bởi năng lực của thần chú đã đầy đủ muôn hạnh, lời này không dối.
+ Dứt tội khinh trọng:
Nầy A-nan, người thiện nam này, khi trì chú này, nếu phạm giới cấm khi chưa thọ giới thì khi trì chú rồi, các tội phá giới, bất luận trọng hay khinh, đều tiêu diệt cùng lúc, dẫu cho uống rượu, ăn năm thứ rau cay bất tịnh, tất cả Chư Phật Bồ-tát, Kim Cương Vương, trời tiên quỉ, thần không cho là tội. Dù cho mặc y phục bất tịnh phá trai, ngay cả đi đứng đều thanh tịnh. Dẫu không làm đàn tràng, không vào đạo tràng cũng không hành đạo mà tụng trì chú này đều đồng như vào đàn tràng, có công đức hành đạo. Nếu gây ra tội trọng, năm tội nghịch, Vô
Gián và bốn tội ba-la-di của tăng, tám tội ba-la-di của ni, nếu tụng chú này rồi thì nghiệp nặng như thế cũng giống như gió mạnh thổi cát bay, đều dứt trừ hết, không còn mảy may. Người khi chưa thọ, khi chưa thọ chú, ngoài ra như văn kinh có chép.
+ Nghiệp đời trước tiêu trừ:
Nầy A-nan! Nếu có chúng sinh, từ vô lượng, vô số kiếp đến nay, tất cả tội chướng khinh trọng, từ đời trước đến nay chưa kịp sám hối. Nếu đọc tụng ghi chép chú này, đeo trong người. Hoặc để ở chỗ ở, nhà cửa trang nghiêm, vườn quán, tích chứa các nghiệp như thế giống như nước sôi làm tan tuyết.
(Chín trăm hai mươi mốt) Thời gian không lâu đều được ngộ Vô sinh nhẫn, sinh tử đã nhiều, tạo nghiệp làm sao tính hết, không hề sám hối, chứa nhóm đến nay, đều là trọng chướng của việc thấy đạo, năng lực không thể suy nghĩ bàn luận, hừng hực như nước sôi, nghiệp luống dối lại tiêu trừ.
+ Cầu gì được nấy:
Lại nữa, này A-nan! Nếu có người nữ nào chưa sinh con trai, con gái, muốn cầu sinh con trai con gái, nếu chú tâm nhớ nghĩ chú này, hoặc đeo trong mình chú: Tấtđát-đa-bát-đát-la nầy. Thì sinh con trai, con gái phước đức và trí tuệ. Người cầu tuổi thọ thì được tuổi thọ mạng. Người cầu quả báo mau tròn đầy thì mau được tròn đầy, thân thể, sức khỏe cũng giống như thế, sau khi qua đời tùy theo nguyện của mình mà sinh về các cõi nước mười phương, chắc chắn không sinh vào chốn biên địa, thấp hèn. Huống chi tạp hình, qua đời còn có thể tùy nguyện vãng sinh về các cõi thanh tịnh của Phật, huống chi những điều mong cầu thế gian sở cầu mà không được hay sao?
+ Đặt thần chú này trong nhà trong xóm làng:
Nầy A-nan! Nếu xảy ra bệnh truyền nhiễm, đói kém ở các cõi nước, châu huyện, xóm làng, nạn giặc tranh đấu, đao binh và tất cả nơi nguy hiểm nếu đặt thần chú này ở bốn cửa thành, hoặc để trong tháp, hoặc trên thoát xà, làm cho tất cả chúng sinh ở nước ấy phụng thờ thần chú này, lễ bái cúng kính nhất tâm cúng dường, làm cho người dân nước đó đều kính phục, hoặc treo chú này trong đất nhà ở thì tất cả tai ách đều dứt hết.
Chi-đề: Là nơi đáng cúng dường.
Thoát xà là cái cờ, còn trừ được nghiệp, chẳng lẽ không thể trừ được nghiệp nhỏ của thế gian hay sao?
Cho nên tất cả đều tiêu diệt.
+ Năm được mùa, chướng tiêu diệt.
Nầy A-nan! Chúng sinh ở khắp các cõi nước, tùy theo chỗ nào có thần chú này thì trời rồng đều vui mừng, gió mưa thuận mùa, ngũ cốc được mùa, triệu dân làng được an vui, cũng có thể dẹp yên tất cả sao xấu, tùy phương mà biến quái. Nạn lửa không xảy ra, người không chết ngang trái, gông cùm, xiềng xích không trói buộc thân, ngày đêm ngủ yên, không có các mộng xấu.
Ngũ cốc là: Mè, lúa, lúa mạch, lúa tắc, đậu. Mười ức là một triệu.
Thánh pháp ở chỗ nào thì chỗ đó, còn không có ác mộng, huống chi các tai họa ngang trái.
+ Sao xấu không hiện.
Nầy A-nan! Thế giới Ta-bà này có bốn mươi tám ngàn tai biến sao xấu. Hai mươi tám ngôi sao xấu lớn là trên hết. Lại có tám ngôi sao xấu lớn là chính có nhiều hình dạng xuất hiện ở đời, có thể gieo rắc nhiều tai ách khác cho chúng sinh. Nếu chỗ nào có thần chú này, tai nạn đều dứt hết, mười hai do-tuần thành đất kiết giới, các tai nạn ác xấu không bao giờ vào được. Tám ngôi sao xấu lớn là: Kim, mộc, thủy, hỏa thổ, la hầu, kế đô, sao chổi, tuy có duyên lành đời trước, lành nhưng thay đổi thì thành hỏa hoạn. Chỗ nào có thần chú này thì lửa không thể xâm nhập.
Kết bày tướng lợi ích, có hai:
1. Trừ chướng não:
Bởi vậy, Như-lai giảng nói chú này, che chở người mới học ở đời vị lai. Những người tu hành nhập vào Tam-ma-đề, thân tâm được an ổn, không có các ma, quỉ thần, và kẻ thù ngang trái, ương lụy nghiệp cũ, nợ nần từ vô thỉ đến não hại. Đời có người tu hành tâm thành khẩn mà có nhiều chướng não là do nghiệp đời trước.
Hễ làm việc lành ở đời, còn có nhiều duyên trái, huống chi tâm xuất thế cầu thành giác đạo, kích động phát khởi, mà chống lại được hay sao? Không có công năng bí mật chẳng thể suy nghĩ bàn luận thì không thể sai khiến được.
2. Được tâm thông:
Ông và các bậc hữu học trong chúng, và các người tu hành đời vị lai, nương vào đạo tràng của ta, trì giới đúng như pháp, người truyền giới gặp được tăng thanh tịnh, đối với tâm chú này không sinh nghi ngờ. Người Thiện nam này, đối với thân do cha mẹ sinh ra không được tâm thông, các Đức Như-lai trong mười phương cho là nói dối.
Tâm thông là giai vị thông đạt.
Trong một trăm ngày như trước có người căn tính lanh lợi được quả Tu-đà-hoàn tức là sinh thân đắc nhẫn. Người có duyên tốt đầy đủ y theo pháp tu hành mà không được nhẫn, thì Phật thành nói dối, sao nói Như-lai là Đấng Chân Thật ngữ.
Hộ trì, có sáu:
1. Chúng Kim Cương:
Nói lời ấy xong, trong pháp hội có vô lượng trăm ngàn vị Kim Cương cùng lúc đảnh lễ trước Phật, bạch Phật rằng: Như lời Phật nói con sẽ thành tâm bảo vệ người tu hành Bồ-đề như thế. Thần Chấp Kim Cương vì hộ pháp nên cũng hộ người.
2. Chúng Thiên Vương:
Bấy giờ, Phạm Vương và trời Đế-thích, bốn vị vua trời cũng đến trước Phật cùng lúc đảnh lễ rồi bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Con xem xét có các thiện nhân tu học như thế, con sẽ hết lòng chí thành che chở, giúp họ trọn đời việc làm đều thành tựu như ý muốn.
3. Tám bộ chúng:
Lại có vô lượng vị Dược-xoa, đại tướng các vua lasát, vua phú-đơn-na vương, vua cưu-bàn-trà, vua Tỳ-xàgià, vua Tần-na-da-ca, các đại quỉ vương và thống lãnh loài quỉ cũng đến trước Phật chắp tay đảnh lễ bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn con cũng thệ nguyện, hộ trì người này, làm cho tâm Bồ-đề của họ mau được tròn đầy, soái tướng soái thủ lãnh.
4. Chúng thiên thần:
Lại có vô lượng vị Nhật thiên tử, Nguyệt Thiên tử, thần gió, thần mưa, thần mây, thần sấm, thần sét, các quan thần xem xét nhân gian và quyến thuộc của chúng, cũng ở trong pháp hội đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! con cũng che chở người tu hành này, an lập đạo tràng, được không sợ hãi, tinh của âm dương là mặt trời, mặt trăng, thần gió, thần mây, thần mưa, thần sấm đều có chủ đi tuần tra xem xét những người làm lành hoặc làm ác ở thế gian, gọi là quan tuần.
5. Các linh kỳ:
Lại có vô lượng thần núi, thần biển, tất cả thần thổ địa, thủy lục, ở hư không, muôn vật tinh kỳ và vua của loài thần gió ở các tầng trời Vô Sắc đều đến trước Nhưlai đồng cúi đầu bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn con cũng che chở người tu hành này, giúp họ được thành Bồđề, mãi mãi không có các việc ma, thần ngũ thổ, thần núi, thần biển, thiên thần địa lý, hư không, lục địa mỗi loài đều có chủ và các vật quái.
6. Chúng Tạng Vương, có hai:
a) Nói về ý giáo hóa.
Bấy giờ tám mươi bốn ngàn na-do-tha hằng hà sa câu-chi vị Bồ-tát Kim Cương Tạng Vương ở trong pháp hội liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn! Như chúng con công lực tu hành thời gian lâu thành Bồ-đề, không được Niết-bàn, thương theo chú này cứu hộ người tu hành chân chánh, chánh tu Tam-ma-đề ở đời Mạt pháp, vì nuôi lớn lòng từ bi cho nên không nhập Niết-bàn, vì hộ pháp cho nên theo trì chú.
b) Nói về hộ trì.
Bạch Đức Thế tôn: Người tu như thế tâm cầu chánh định, hoặc ở đạo tràng và chỗ kinh hành khác, cho đến tán tâm dạo chơi vào xóm làng, đồ chúng của chúng con thường phải theo che chở người này. Dù làm cho quỉ vương, trời Đại Tự Tại, tìm mọi cách khuấy rối cũng không bao giờ được, các tiểu quỉ thần ở cách chỗ người lành này ngoài mười do tuần, trừ người ấy tâm thích tu thiền định.
Bạch Đức Thế tôn! Ác quỉ hoặc quyến thuộc của ma như thế, muốn đến khuấy quấy rối người lành này mà dùng chày báu đập nát đầu họ ra như bụi (chín trăm hai mươi hai): thường giúp người này việc làm được như ý, tầng trời thứ sáu cõi Dục gọi là Đại Tự Tại, tức là chỗ của ma ở, chúng thường khuấy nhiễm người tu hành không cho thành tựu. Nếu tâm lành ưa thích tu hành thì không bị khuấy rối. Ngoài ra đều bị khuấy rối, đại thần chú này vốn là duyên tốt nhất của người tu Tam-muội, tối thượng cho nên trì chú này sẽ trừ các điều ác, huân tập các điều lành. Người ngu si không biết yếu chỉ này, thấy người trì chú thường chê bai, cho là chẳng phải tu hành. Chưa có một vị Phật nào không do chú này mà được thành đạo, hoá độ chúng sinh.
Những lời nói như trên xin xem kỹ để sửa đổi chỗ sai. Thứ tư đại văn: Là chỉ bày giai vị khác nhau.
Đã giải thích đủ về thông hành, bên trong đức đầy đủ, lại nhờ vào lời nói bí mật, bên ngoài giúp đạo lực, trong ngoài đều giúp nhau, đâu không như vậy? Chắc chắn là giai vị đều như vậy. Nhưng giai vị có nhân quả, mê hoặc có thô tế, trí có sáng tối, dứt bỏ có sâu cạn, chứng có ít nhiều, dụng có hơn kém. Nếu mê mờ yếu chỉ này thì chẳng phải tu hành chân chánh, rơi vào tăng thượng mạn.
Vì trong giáo pháp của ta tùy theo tiến đức tu nghiệp hơn kém khác nhau, cho nên trải qua năm mươi bảy giai vị, lần lần nhập vào sâu xa, không giống như ngoại đạo, ma trời đều không có vị thứ. Nếu không làm trước thì trái với cội nguồn, đã mê mờ chỗ dứt, nhận lầm được ít bèn cho là đủ. Như Thiền thứ tư, Tỳ-kheo ít học, nhận lầm sinh chê bai, đọa địa ngục A-tỳ, việc chẳng phải nhỏ.
Cho nên phải chỉ rõ để khỏi chiêu cảm lỗi lớn.
Văn có hai:
1. A-nan thưa hỏi, có hai:
1. Nói về lợi ích:
A-nan liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Chúng con ngu độn, thích học rộng, đối với tâm hữu lậu chưa cầu thoát khỏi, mong được Thế tôn từ bi chỉ dạy để được chánh huân tu học, thân tâm an vui, được nhiều lợi ích.
Chánh huân tu: Nghĩa là do trì giới thanh tịnh lại nhờ vào lời nói bí mật, bên trong ma chẳng sinh, bên ngoài chướng không khởi, do tu thiền này, lại không có tà ngụy, vui vẻ được lợi ích lớn.
2. Chánh thỉnh:
Bạch Đức Thế tôn! Tu chứng Tam-ma-đề như thế, chưa đến Niết-bàn, làm sao gọi là Càn Tuệ địa, bốn mươi bốn tâm, đến thứ lớp nào mới được mục đích tu hành? đến đâu mới gọi là Nhập địa, sao gọi là Đẳng giác, Bồđề?
Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo sát đất, đại chúng nhất tâm lắng nghe ngôn giáo từ bi của Phật, trông mong kính mến quả Niết-bàn cùng cực, là quả vị đạt được, Càn Địa là nhân trước tiên, tức là nền móng mới được phát khởi. Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập Hồi hướng và bốn gia hạnh vị, gọi là bốn mươi bốn tâm, tức Tín Giải Hạnh Địa, gọi là tu hành. Sơ địa Kiến đạo cho đến Đẳng giác gọi là chứng nhập, tức là quả chứng phần. A-nan tuy biết tên các địa nhưng chưa biết được nghĩa của tên và hành tướng tu chứng. Cho nên hỏi như vậy, là thị hiện không hiểu, vì đời vị lai. Hai là Như-lai nói rộng, có hai:
Khen thỉnh, hứa giảng nói.
Bấy giờ, Đức Thế tôn khen ngợi Ngài A-nan rằng: Lành thay! Lành thay! Các ông vì đại chúng và tất cả chúng sinh đời Mạt pháp mà tu Tam-ma-đề cầu Đại thừa, từ phàm phu đến chứng Niết-bàn. Chỉ bày con đường tu hành chân chánh vô thượng, nay ông hãy lắng nghe ta sẽ giảng nói.
A-nan và đại chúng chắp tay im lặng thọ giáo. Khoá, giống như hư không.
Thân tâm rỗng rang, các tạp niệm suy nghĩ dứt, lắng nghe pháp nghĩa.
2. Chính là phân biệt:
Mê chân khởi vọng: Là nhân của lập vị. Nhưng sự hưng khởi của địa vị vốn do mê ngộ, vọng do mê chân mà khởi, bổn tánh là huống dối, cho nên có đoạn phần. Đoạn tức là thành ngộ, ngộ có cạn sâu. Cho nên thành thứ bậc, cao thấp đã có phần gọi là giai vị khác nhau. Nếu không mê chân thì đâu có giai vị này, cho nên có thứ lớp, Văn có ba:
Nói chung về mê ngộ, Có hai:
1. Nói về nhất chân:
Phật dạy: Nầy A-nan! Ông nên biết tánh mầu tròn sáng lìa các danh tướng, xưa nay không có thế giới chúng sinh, thể nhất chân, vắng lặng tròn sáng, chẳng phải chân, chẳng phải vọng, danh tướng đều bặt. Chúng sinh ở đây dứt trừ, chúng sinh thế giới đã không lập, Phật và xuất thế tên gọi là gì. Vì chúng sinh vọng phân biệt nên thấy có Phật, có thế giới. Nếu hiểu rõ pháp tánh chân thật thì không có Phật, không có thế giới. Đây là pháp giới nhất chân, vốn không có địa vị.
2. Nói về hai tướng:
Do vọng mà có sinh, do sinh mà có diệt. Sinh diệt gọi là vọng, dứt vọng gọi là chân. Ấy gọi là hai: hai hiện chuyển y vô thượng Bồ-đề và đại Niết-bàn của Như-lai. Chân thể là thường trụ, vốn không sinh diệt, không như thật biết chân như nhất pháp, bất giác tâm động mà có nghi nhớ. Niệm là tướng sinh, có sinh thì có diệt, niệm niệm đổi dời chuyển dần đến thô, cho đến nghiệp quả trôi lăn trong ba cõi nên gọi là Vọng. Nếu biết niệm trước khởi ác, mà dứt được niệm sau làm cho không khởi, dần dần dứt phần hoặc thô cho đến hoặc sâu kín, vô minh dứt hẳn, hiển bày gọi là chân: Bồ-đề Niết-bàn cũng lập ở đây, hai chuyển y hiệu: Nghĩa là do ban đầu mê chân niệm động, cho đến trôi lăn gọi là bất giác, dịch là bất giác, biết rõ vốn vô sinh, tức gọi là giác, hiệu Bồ-đề nầy do bất giác mà lập, do mê mà có sinh, có sinh thì có diệt, dịch sinh diệt nầy nói lên bất sinh diệt, tức gọi là Niếtbàn. Đối với sinh mà lập diệt, lại không có chỗ nương nên gọi là Chuyển y. Cho chân như là mê ngộ y, chuyển mê y này cho là ngộ y? Nên gọi là Chuyển y. Cho nên biết Bồ-đề, Niết-bàn do mê mà có. Ví như người do ngủ mà có thức, ở đây cũng thế, chẳng phải vốn nhất chân, vốn có hai quả khác nhau, y cứ chung các vị, có sáu thứ chuyển y, như chỗ khác nói:
Khuyên biết nhân của vọng.
Nầy A-nan! Nay Ông muốn tu Tam-ma-địa thẳng đến đại Niết-bàn của Như-lai thì trước phải biết hai nhân điên đảo về chúng sinh và thế giới này. Điên đảo bất sinh ở đây chính là Tam-ma-địa của Như-lai. Ở trên nói ba thứ nối nhau. Nay nói hai thứ điên đảo. Vì chúng sinh điên đảo nên thuộc về nghiệp quả. Như văn ở trước nói: Ông chỉ cần không theo ba thứ nối nhau là phân biệt thế gian, nghiệp quả và chúng sinh. Vì ba duyên dứt cho nên ba nhân không sinh, trong tâm ông tánh cuồng Diễn-nhã Đạt-đa tự dứt, dứt chính là Bồ-đề. Không từ nơi người mà được nên gọi là điên đảo vô sinh, tức là Tam-muội chân thật.
Nói riêng về điên đảo, có hai:
1. Nói chung về nhân điên đảo:
A-nan! Sao gọi là chúng sinh điên đảo?
Nầy A-nan! Do tánh mà rõ tâm, tánh sáng tròn đầy, do sáng tỏ mà phát tánh. Tánh vọng thấy sinh, là rốt ráo không, thành rốt ráo có. Tâm Như-lai tạng bổn tánh chân minh, trùm khắp pháp giới. Cho nên nói tánh sáng tròn đầy. Do chân minh này từ tánh mà phát động, bèn thành sở tướng. Sở đã vọng lập, sinh ra vọng năng, năng là vọng thấy, hai tướng năng sở không lìa chân, cho nên nói nhân sáng tỏ mà phát tánh, tánh vọng thấy sinh. Vốn là nhất chân, xưa nay không hình tướng. Bổng nhiên hai tướng vọng động chợt sinh, từ vô tướng chân thật mà thành vọng có tướng. Cho nên nói thành rốt ráo có. Đây là tướng khác.
Đây có tất cả chẳng phải tướng nhân, sở nhân, tướng trụ, sở trụ, hiểu rõ không có căn bản đồng tướng. Dị tướng trên đây là năng có, nay đồng tướng sinh là sở hữu. (chín trăm hai mươi ba) tướng khác vốn chẳng có nhân mà được sinh khởi vì là nhân của đồng tướng. Đây là mê nhân như thế do nhân mê mà tự có ở trước, văn dưới cũng nói. Vọng vốn vô nhân, trong vọng tưởng lập tánh nhân duyên. Khác đã đồng sinh, đồng là năng trụ, khác là sở trụ. Cho nên nói tướng trụ của sở trụ, cái trụ của sở trụ này vốn đã không có nhân, lại có gì là căn bản, cho nên hai tướng rốt ráo vô trụ. Cho nên nói hoàn toàn vô căn bản. Vốn vô trụ này, xây dựng thế giới và các chúng sinh, là không đồng với tướng khác. Nương nơi đồng khác cho là căn bản, mà được sinh khởi không có đồng khác. Vì hai tướng trước chính là vô minh, thể của thức A-lại-da tuy chia ra đồng khác, một niệm chuyển thành sinh diệt sâu kín, toàn là vô minh, từ đây mà sinh ra núi sông đất đai, căn thân hạt giống. Cho nên Luận Khởi Tín nói: Vì nương vào bất giác cho nên tâm động, gọi là Nghiệp. Y theo động nên là năng kiến, vì nương vào năng kiến cho nên cảnh giới vọng hiện.
Kinh Duy-ma nói: Từ vô trụ vốn lập tất cả pháp.
Đây là vô minh, không có nhân cho nên vô trụ.
2. Nói riêng về nghĩa điên đảo, có ba: a) Chúng sinh điên đảo, có hai:
-Do mê mà có tướng.
Mê vốn tròn sáng, là sinh luống dối, tánh vọng vô tự thể, không có chỗ nương, chỉ lại tướng của nghiệp, mê mờ đối với tánh chân thật tròn sáng, thành năng sở luống dối, năng sở vọng động, vốn không có nhân nương tựa, vọng tưởng phát sinh, trong cái không có đồng khác rõ ràng thành khác, cho nên vô tự thể.
Đem dục trở lại chân, dục chân đã chẳng phải tánh chân chân thật: Là chỉ cho chuyển tướng. Do động ở trước nên giác động ít tĩnh, hiềm vọng dục chân, mong dục đã sinh, càng thêm mê đảo, không trở lại vắng lặng, chỉ được bóng chân, là do tâm luống dối biến khởi. Cho nên nói chẳng phải tánh chân như chân thật.
Chẳng phải chân mà cầu mong trở lại, rõ ràng thành phi tướng, chẳng sinh, chẳng trụ, phi tâm, phi pháp, chỉ cho hiện tướng, đây là bóng chân của sở biến, chuyển thành các tướng thế gian. Tướng thể ấy luống dối cho nên nói là phi tướng. Phi còn vọng, đây chính là nêu thể chung. Chẳng phải sinh v.v... trở xuống là nêu riêng.
Không mà bỗng có cho nên sinh, có mà tạm dừng gọi là Trụ, duyên lự nối nhau gọi là Tâm, nhiễm tịnh khác nhau nên gọi là Pháp. Thể vốn chẳng thật nên nói là phi, ở trong đó chẳng phải tâm, tức là hai thô trước trong sáu thô.
-Theo nghiệp thọ sinh:
Xoay vần phát sinh, sinh lực phát minh, huân tập để thành nghiệp, đồng nghiệp tương cảm, vì có nghiệp cảm, diệt nhau sinh nhau. Bởi vậy cho nên có chúng sinh điên đảo. Bốn loại thô sau, do tâm trước khởi phân biệt xoay vần dần thô, chấp thủ chấp danh gây ra các nghiệp hành, cho nên nói huân tập để thành nghiệp. Hai nghiệp yêu ghét mỗi nghiệp đều có giới thú, nghiệp cảm làm nhân, báo ứng là quả, nên có quả báo sinh nhau, diệt nhau. Dâm dục là nhân cho nên sinh nhau, Sát đạo là nhân cho nên diệt nhau. Đây là hai tướng nghiệp quả của chúng sinh nối nhau.
b) Thế giới điên đảo, có hai:
Nói về nhân của thế giới sinh khởi.
Nầy A-nan! Thế nào gọi là thế giới điên đảo, vì có tất cả, phần đoạn vọng sinh, do đó lập ra thế giới này, chẳng phải năng nhân sở nhân, vô trụ sở trụ, trôi lăn không trụ, do đó thành thế giới, ba đời bốn phương hòa hợp liên kết với nhau, chúng sinh biến hóa thành mười hai thứ, mê thì rốt ráo vô thành thì rốt ráo có, vì có cho nên lập giới, vì cách biệt khác nhau. Cho nên nói phần đoạn, chẳng phải nhân mà là nhân, vô trụ mà trụ, nhân có công năng sinh quả, quả trụ vào nhân, nhân quả sinh nhau, trôi lăn không dừng, thế giới do đây mà lập, ba đời bốn phương hòa hợp với nhau, xoay vần thành mười hai thứ hữu tình, biến hóa cũng có mười hai thứ.
c) Nói về điên đảo sinh nhau.
Bởi vậy, thế giới do động mà có âm thinh, do có âm thanh mà có sắc, do sắc mà có hương, do hương mà có xúc, do xúc mà có vị, do vị mà biết pháp, vì sáu loạn vọng tưởng thành nghiệp tánh, mười hai thứ khác nhau do đây mà trôi lăn. Bởi vậy thinh, hương, vị, xúc của thế gian cuối cùng có mười hai thứ biến, làm một vòng xoay tròn bên trong do tướng động, bên ngoài cảm gió mà lay. Cho nên có âm thanh hiện, do hư không mà sinh lay động, vững chắc rõ ràng lập ra ngăn ngại, cho nên có sắc lập, gió vàng có ma sát thì có ánh sáng của lửa, lửa thì có khí, khí thì có hương, bảo minh sinh ra tươi nhuận, ánh lửa cháy lên do đây chảy nước, nước có lạnh nóng cho nên thành xúc, xúc có trơn có rít, đối với lưỡi thì có vị sinh. Năm cảnh hợp ý thì gọi là pháp. Sáu trần cảnh này đối với nội căn bên trong vọng tưởng hòa hợp lẫn lộn. Do đó mà tạo ra tất cả các nghiệp. Cho nên thành nghiệp tánh, nghiệp chắc chắn có quả báo, mười hai phẩm loại do đây khác nhau. Cho nên thành trôi lăn. Bởi vậy kiết sự, phẩm hạ thành xoay vần lại xoay vần, cũng là trôi lăn. Thinh, hương, vị, xúc lược nêu y theo mười hai thứ.
Loại sanh khác nhau có ba:
1. Nêu chung:
Vì nương vào tướng điên đảo trôi lăn này mà có thế giới noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, hoặc chẳng phải có sắc, hoặc chẳng phải Vô Sắc, hoặc chẳng phải có tưởng, hoặc chẳng phải Vô Tưởng, tình và tưởng làm nhân cho nhau, hình đối đãi không dứt. Thế giới hữu tình không ngoài mười hai thứ, động niệm mới khởi, mê vốn viên thường, bóng sáng liền hiện, cho nên noãn sinh là ở đầu. Tình ái khởi sau, kế có thai sinh, dị ái khác nhau, kế chia ra thấp sinh, hóa sinh, tâm tưởng rối ren, lấy bỏ nhiều mối. Sau đó thành các thứ có sắc, không sắc, dưới tự giải thích.
2. Giải thích riêng mười hai thứ:
a) Loại động:
Nầy A-nan! Vì thế giới luống dối luân hồi xao động điên đảo, hòa hợp khí thành tám mươi bốn ngàn loạn tưởng lên xuống. Bởi vậy nên có noãn yết-la-lam trôi lăn trong cõi nước. Cá chim rùa rắn đều đầy dẫy. Thế giới mới sinh khởi vốn do luống dối, vì luống dối cho nên động, động tức là gió, gió tức là khí. Cho nên nói do khí hòa hợp mà thành. Mê là lý viên thường, thành là tưởng luống dối, tưởng khí hòa hợp thành noãn sinh. Cho nên động niệm đứng đầu, noãn sinh ở đầu. Do tám mươi bốn ngàn chủng loại này, mà thế gian lập bày lại nêu lên số này, lý thì vô lượng. Yết-la-lam: Hán dịch là ngưng hoạt, là lúc mới vào thai, thai noãn chưa phân, cá chim rùa rắn là loài bay trên không, lội dưới nước.
b) Loại dục:
Vì thế giới lẫn lộn, nhiễm ô luân hồi mà có dục điên đảo. Hòa hợp với ướt thành tám mươi bốn ngàn loạn tưởng ngang dọc. Như thế cho nên có thai yết-bồ-đàm trôi lăn trong cõi nước. Loài Người, súc sinh, rồng, tiên v.v... đầy dẫy khắp nơi.
Tạp nhiễm tức là ái, Ái gọi là dục, dục cho nên sinh thấm nhuần mới gọi là Thấp sinh.
Ngang dọc: Người thực hành chánh đạo, thẳng đầu mà đi, trái với chánh là tà, cho nên nói loài sinh ngang. Yết-bồ-đàm, Hán dịch là bào thai noãn phần.
c) Loài thú:
Vì thế giới chấp đắm luân hồi mà có thú hướng điên đảo, hòa hợp với hơi ấm thành tám mươi bốn ngàn loạn tưởng che lấp. Bởi vậy nên có tướng thấp, tế thi trôi lăn trong cõi nước, bao gồm bò bay máy cựa, loài này đầy dẫy khắp nơi.
Do chấp đắm cho nên nhất tâm hướng về cảnh, chỗ thấp, ấm tương ưng với tưởng thì liền thọ sinh, nên nói là noãn (ấm).
(Chín trăm hai mươi bốn) Mặc tình loạn tưởng: do đây trái với tâm, trái với tín. Phiên phúc: là mặc tình, liền cảm loại sinh, bay đi không nhất định.
Tế thi dịch là thịt mềm. Vì lúc đầu mới thọ thấp sinh, thân còn mềm mại, đã không nhập thai cho nên không có giai vị trước. d) Loại giả:
Vì thế giới thay đổi, luân hồi mà có giả điên đảo, hòa hợp xúc thành tám mươi bốn ngàn loạn tưởng mới cũ.
Thế nên có sắc tướng yết-nam trôi lăn trong cõi nước. Loài biết bay ở đầy khắp nơi, thay đổi không thường, mượn mới đổi cũ, chỗ xúc cảnh tương ưng với tưởng liền thọ sinh. Loạn tưởng mới cũ. Vì không vâng theo nhân nghĩa, chán cũ lấy mới, chỉ vâng theo ý mình thích đây ghét kia, giả mượn không thật, biến thọ thân khác. Lại hóa sinh lúc đầu tính chất gió xúc chạm liền cứng, đã không có thân gốc, do xúc chạm mà lập. Ở đây lấy chuyển thọ thân khác, gọi đó là hóa, nên nói là chuyển đổi.
Yết-nam dịch là thịt cứng. e) Loại chướng.
Vì thế giới ngăn ngại cho nên có chướng điên đảo, hòa hợp chấp trước thành tám mươi bốn ngàn loạn tưởng tinh diệu.
Vì vậy cho nên có sắc tướng yết-nam trôi lăn trong cõi nước, loại tốt xấu đầy khắp; ngăn ngại làm duyên, chướng ngại không quyết định.
Nếu gặp ánh sáng mà mê đắm thì thích thọ sinh ở đây, gọi là sắc tướng yết-nam, trời trăng sao. Kiết là tốt, hung là xấu. Dưới đến lửa đuốc v.v... đều là loại này v.v... Những thứ này đều do hữu tình biến sinh, ứng với tốt xấu của thế gian. f) Loại hoặc:
Do thế giới tiêu tan luân hồi mà mê hoặc điên đảo, hòa hợp tối tăm thành tám mươi bốn ngàn loạn tưởng sâu xa, cho nên có yết-nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước, hư không tiêu tán, chìm mất đầy dẫy. Tiêu tán là duyên, hoặc ám điên đảo, chán tướng hoại sắc, suy nghĩ hư không vô biên, sắc dứt tâm mất, chán tưởng hư không bặt dứt cho đến có cao thấp, sáng tối, tức là ngoại đạo Vô sắc giới. j) Loại ảnh:
Do thế giới không có hình tượng luân hồi, bóng dáng điên đảo, hòa hợp với nhớ nghĩ thành tám mươi bốn ngàn loạn tưởng thầm kín.
Nên có tưởng tướng yết-nam trôi lăn trong cõi nước, thần quỉ, tinh linh đầy khắp, hình bóng luống dối, dường như có dường như không, tin nhớ thì linh, dứt tin thì thôi, loại đạp gót thêm bóng đều từ nhớ tưởng sinh ra, nhân là phàm phu ngoại đạo, cầu thần cúng vái, thân còn thì bóng đứng, trọn đời thờ phụng, chí kính mến thần thông, tinh linh gá vào, nhân quả đền đáp nhau, sẽ sinh loại này. h) Loại si:
Do thế giới ngu độn luân hồi mà có si điên đảo, hòa hợp với ngu ngốc thành tám mươi bốn ngàn loạn tưởng khô héo như thế, cho nên có vô tưởng yết-nam trôi lăn trong cõi nước, tinh thần hóa thành đất, cây, vàng, đá đầy dẫy, đọa trong thế gian, ngu si là gốc, đã chẳng biết rõ, ngu độn thành nhau, hoặc là tu định nguội lạnh bất động như tro, nghĩ chuyên khô héo, tâm theo cảnh đổi, hóa vật thành thân, dụng không biết chân tu, cho ngu si là chí đạo. Cho đến như kiếp-tỳ-la hóa thành trụ đá ngàn năm, đất cây tinh quái v.v... đều là tâm cầu báo chất, chẳng phải rốt ráo vô tình, báo hết nhập luân hồi, như trời Vô Tưởng đọa.
k) Loại ngụy:
Do thế giới đối đãi nhau luân hồi mà có ngụy điên đảo, hòa hợp nhiễm thành tám mươi bốn ngàn nhân nương loạn tưởng, cho nên có phi hữu sắc tướng thành sắc yết-nam trôi lăn trong cõi nước, các loài sứa cho tôm là mắt rất nhiều. Do nương giả đối đãi, luống dối không thật, gá uế thành thân, mượn vật dẫn đường. Nhân là hòa hợp gian dối, đổi cũ thành mới, hoặc nương nhờ nhân gởi vào thế hình, nhờ thân nuôi mạng. Nghiệp quả nối nhau, như loài sứa lấy bọt nước làm thân, lấy tôm làm mắt, trong thân hữu tình có tám muôn côn trùng đều là loại này, khuấy vật thành thể, nhờ ăn loài khác, không theo tự loại thọ thân, nên gọi là Phi hữu sắc tướng.
l) Loại tánh:
Do tướng thế giới dẫn ra sự điên đảo của tánh luân hồi hòa hợp với chú thành tám mươi bốn ngàn loạn tưởng kêu gọi. Do đó có Phi vô sắc tướng, yết-nam vô sắc trôi lăn trong cõi nước, loại chú trớ chán sống đầy khắp, dẫn dụ lẫn nhau để thành tánh. Chú trớ lại vời thêm cho là loại, tuy từ âm thinh cảm nên, mượn chất của tự tánh, như ếch, nhái v v... lấy âm thinh phụ vào trứng, sau đó nuôi lớn, không phải tiếng thì hoại, nhân liền do ưa đắm cảnh âm thanh, hoặc trái lời thề, van vái cầu sinh, tâm miệng là tai ương, quả báo cảm vời những thứ xấu.
m) Loại vu khống:
Vì thế giới hợp vọng luân hồi mà có điên đảo, hòa hợp với cái khác mà thành tám mươi bốn ngàn loạn tưởng. Bởi vậy mà có tướng phi hữu tưởng thành tưởng yết-nam trôi lăn đầy khắp cõi nước, tướng chất khác thành loại đầy khắp, giao hợp luống dối, tướng vu khống thành tựu, lấy khác làm đồng, lấy cái khác làm của mình, vốn là tướng phi tưởng, sau giả tướng thành, chính là loại bồ-lô này. Bồ-lô là con tò vò, lấy sâu xanh làm con, chẳng phải do mình sinh ra, suy ra nhân, hoặc là trái với nghĩa, đích thân nhận rõ, bỏ gốc theo ngọn, kế thừa nhầm tông khác, vọng noi tộc khác, ứng nhân quả mà cảm sinh ra loại này
n) Loại giết:
Do thế giới oán hại luân hồi mà giết hại điên đảo, hòa hợp quái lạ thành tám mươi bốn ngàn tưởng ăn cha mẹ. Cho nên có tướng phi vô tưởng, yết-nam vô tưởng trôi lăn trong cõi nước. Như con chim đất v.v... gá vào cục đất làm con và chim ôm trái cây độc làm con mình, con thành cha mẹ đều gặp thức ăn này, loại này đầy khắp, oan đối vay trả lẫn nhau, tuần hoàn không dứt, gá vào cha con chí thân, phát sinh sự giết hại do oán hận, chẳng lẽ không quái lạ hay sao?
Lúc mới sinh gá vào chất mà có tưởng ái, lẫn nhau cho nên nói tướng phi vô tưởng, về sau thành cha mẹ gặp thức ăn này, nên nói là vô tưởng. Gò đất, gương vỡ làm thành một khối, ôm cây con con cháu cháu, thành nhau nối nhau. Nghiệp khiến như vậy, chẳng phải tự nhiên.
Hỏi: Đã là oán đối, không có nghĩa cảm sinh, vì sao được gá dùng mà sinh trọng oán có ái?
Đáp: Gá vào chất phải nhờ vào tưởng ái, giết hại là nghiệp trước kia, tưởng ái vô thường, do nghiệp phát khởi. Ban đầu tuy sinh thương nhưng sau biến thành ghét. Cho nên gặp thức ăn ấy.
Kết danh loại.
Đó gọi là mười hai chủng loại chúng sinh, như trong văn kinh có chép.
Bỏ vọng về chân, giải thích tướng địa vị, có ba:
1. Nói về tu hành thứ lớp:
Trước do vô minh làm động tâm vắng lặng kia, từ tế đến thô, bèn thành ba tướng và hai điên đảo. Lại do thế giới hòa hợp liên kết nhau, căn trần đối nhau mà thành nghiệp tánh.
(Chín trăm hai mươi lăm) Mười hai khu vực, loại sinh khác nhau, trôi dạt trong biển khổ, như múc nước giếng, giống như hoa đốm trong hư không, đối với "trạm tinh minh" loạn sinh loạn diệt, đây đều là trần lao phiền não ô nhiễm chân tánh không được thanh tịnh. Nay muốn chuyển nhiễm quy về tịnh, trở lại cội nguồn, cho nên lập ra thứ lớp tu hành để đối trị.
Ở dưới có ví dụ rằng: như trong bình sạch đổ bỏ mật độc, dùng nước sôi và mùi tro tạp rửa sạch bình này, sau đó đựng cam lộ, từ thứ lớp này để lập địa vị. Văn có hai:
1) Kết trước sinh sau, có hai:
a) Kết nhân điên đảo ở trước:
Nầy A-nan! Chúng sinh như thế, trong mỗi loài cũng đều có mười hai điên đảo. Giống như dụi mắt hoa đốm phát sinh, làm điên đảo tâm diệu viên chân tịnh sáng suốt, đầy đủ như loạn tưởng luống dối này. Chúng sinh vọng tâm, từ vô thỉ huân tập hạt giống nghiệp khổ nhiều như cát sông Hằng, đâu chỉ mười hai lần tám mươi bốn ngàn phiền não. Cho nên mỗi loại lại có mười hai điên đảo, ở trong diệu viên, đều là tướng hoa đốm luống dối cuồng lao.
b) Pháp thứ lớp sau khi sinh:
Nay ông tu chứng Tam-ma-đề, đối với nhân loạn tưởng, lập ba thứ lớp, mới được trừ diệt. Như trong bình sạch đổ bỏ mật độc, dùng nước sôi hương tro tạp rửa sạch bình ấy, sau đó đựng cam lộ, chân tâm như cái bình, điên đảo như mật độc, nước sôi là giới định định tuệ, rửa sạch là tu tập, cam lộ là Vô Sinh Nhẫn, hoặc vốn vô cấu, cũng không tu chứng, tức có tu chứng, phải đủ các nhân.
Cho nên ba thứ này làm gốc. 2) Nói về tu hành, có hai: a) Gạn nêu:
Thế nào là ba loại tiệm thứ? a.1) Tu tập để trừ trợ nhân.
a.2) Tu chân thật để bày chánh tánh:
Trước hỏi đến thứ lớp nào mới được mục đích tu hành, nay đây chính là tu hành chánh danh thứ hai. Cho nên nói tu chân thật.
a.3) Tăng tiến trái với hiện nghiệp:
Năm thứ rau cay gọi là trợ nhân, vì trợ giúp cho nghiệp phiền não. Dâm, đạo, sát, vọng làm chánh tánh. Vì cội gốc sinh tử chính là giải thoát, căn trần đối nhau, trôi dạt khắp nơi. Chính là nghiệp dụng hiện hành của vô minh, cho nên dứt trừ nó, mổ xẻ nó, chống trái nó, nếu ba hành dần dần mê đắm, công dụng dần dần thành tựu, sáu dụng không hiện hành, quay lại một dòng, tròn đầy bình đẳng, thân tâm vui vẻ, người này đạt được pháp nhẫn Vô Sinh.
Giải thích riêng, có ba: b.1) Dứt trợ nhân, có hai:
* Chỉ chung thức ăn là trợ nhân:
* Thế nào là trợ nhân?
Nầy A-nan! Như mười hai loại sinh của thế giới này, không thể tự toàn vẹn, y theo bốn thứ thực ăn mà trụ, đó là đoạn thực, xúc thực, tư thực, thức thực. Bởi vậy, Phật nói tất cả chúng sinh đều nương vào thức ăn mà trụ.
Đều nương vào thức ăn mà trụ: Thức ăn là tư liệu làm lợi ích các căn và đại chủng, pháp tâm, tâm sở có công năng sinh ra ưa thích chấp trì nối nhau. Cho nên có bốn loại:
Đoạn là chia đoạn, vì hương, vị, xúc ở cõi Dục khi nó tiêu hóa thay đổi thì có nghĩa giúp ích, mới gọi là Thực. Xúc thực là căn, cảnh, thức hòa hợp lại. Có công năng dẫn ý thức tương ưng xúc khởi. Xúc đối với cảnh trước mắt sinh ra ưa thích. Vì là chất liệu làm lợi ích các căn và tâm, tâm sở.
Tư thực: Tương ưng với ý thức, tư và dục đều chuyển, có thể đối với ý cảnh, hy vọng thù thắng, vì có nghĩa là giúp ích.
Thức thực: Là thức thứ tám. Do ba thứ thực trước làm duyên trợ giúp cho thế lực, làm cho thể của thức thứ tám có tăng thêm. Cho nên có công năng giữ gìn các căn và đại chủng, có thể làm nhân nuôi lớn các pháp, có nghĩa thâu nhiếp lợi ích, nên gọi là Thực. b.2) Chỉ riêng lỗi ăn năm thứ rau cay, có ba:-Khuyên dứt bỏ:
A-nan! Tất cả chúng sinh, ăn ngọt cho nên sống, ăn thức ăn độc cho nên chết. Các chúng sinh này mong được Tam-ma-đề thì phải dứt năm thứ rau cay. Vì có nghĩa giúp ích, đều gọi là ngọt, bất chánh tiêu biến làm hoại thân tâm, đều gọi là độc. Năm thứ rau cay là: Hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ. Năm thứ này tánh nóng, khí hăng vị cay. Người tu hành ăn nó thì giết chết pháp thân, như ăn chất độc, cho nên không được ăn.
-Chỉ lỗi, có hai:
+ Hiện đồng quỉ trụ:
Năm thứ rau cay này, ăn chín thì sinh dâm dục, ăn sống thì thêm tức giận, người thế gian ăn năm thứ rau cay ấy dù giảng nói được mười hai bộ kinh, nhưng mười phương thiên tiên đều chê hôi thối, thảy đều lánh xa. Các ngạ quỉ đến liếm môi người kia, thường ở chung với quỉ, phước đức ngày càng mất, không hề có lợi ích, căn bản sinh tử không gì hơn dâm và sát. Năm thứ rau cay này có công năng giúp sức, lại thêm mùi hăng uế, dẫn đến các tà ác làm ô uế đạo thanh tịnh. Cho nên các vị trời có phước đức lánh xa, không được lợi ích, ở chung với quỉ, tăng thêm sự si hoặc, mất đạo chân chánh. Người tu Tam-ma-địa đâu không cẩn thận?
+ Rốt cuộc làm dân ma:
Người ăn năm thứ rau cay này tu Tam-ma-địa, Bồtát thiên tiên, thiện thần mười phương không đến che chở. Đại lực quỉ vương được dịp hiện thân Phật đến nói pháp, chẳng hủy giới cấm mà khen ngợi dâm nộ, si. Khi người ấy qua đời tự làm quyến thuộc của ma vương, thọ phước của loài quỉ hết rồi, đọa vào địa ngục vô gián, mùi hăng nồng ấy chẳng phải Thánh ý, cho nên không che chở. Quỷ không trì giới, mà tu tà định và tu phước thế gian, liền chiêu cảm bọn ma, dùng năng lực phước định, lại thuận sinh báo, phá hủy cấm nghiệp, về sau mới thọ. Cho nên nói phước hết đọa địa ngục.
- Kết thành tu hành:
Nầy A-nan! Người Tu hành Bồ-đề bỏ hẳn không ăn năm thứ rau cay, đó chính là tăng tiến tu hành tiệm thứ, thứ nhất. b.3) Khai mở chánh tánh, có hai: * Khuyên trì giới, có hai:
- Chánh khuyên chỉ trì, có ba:
+ Chánh nói:
Thế nào là chánh tánh?
Nầy A-nan! Chúng sinh ấy nhập Tam-ma-địa trước phải nghiêm trì giới luật thanh tịnh, dứt hẳn tâm dâm, không uống rượu ăn thịt, dùng lửa nấu chín thức ăn, không ăn đồ sống.
Chánh tánh: Vì tánh của sát, đạo, dâm này là nguyên nhân gây tội, lại là tánh căn bản của sinh tử. Nhưng uống rượu hợp làm trợ nhân, nay vì chánh tánh tội ác còn sâu dày hơn năm thứ rau cay. Dùng lửa nấu chín thức ăn là so sánh cạn với sâu, quả sống còn phải nấu chín, huống chi uống rượu, ăn thịt, dâm dục, trộm cắp, giết hại, nói dối, Niết-bàn phải giữ giới ngăn ngừa chê bai, cùng với tánh trọng v.v... cho nên phải đề phòng để khỏi dẫn đến lỗi lớn.
+ Hiển bày ngược lại:
Nầy A-nan! Người tu hành nầy nếu không dứt dâm dục và tội sát sinh mà ra khỏi ba cõi thì không có việc đó, các công đức xuất ly đâu thể, từ trong dâm đạo, sát, vọng mà được? Chắc chắn không phải như vậy?
+ Thuận kết:
Phải quán dâm dục giống như rắn độc, như thấy kẻ thù, rắn độc và kẻ thù có công năng giết chết thân đời này mà không thương tổn đến pháp thể, nhưng dâm dục có thể làm thương tổn pháp thân tuệ mạng. Người tu hành chân chánh cần phải dứt bỏ.
Kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát quán ái có chín lỗi lớn.
Như nợ có dư
Như vợ của la-sát
Như cành hoa đẹp có rắn độc.
Như đồ ăn không nên ăn mà ăn đại.
Như dâm nữ
Như trái ma-lâu-ca
Như cục thịt trong ung nhọt Như gió mạnh Như sao chổi.
Văn dưới nói: Các Đức Như-lai mười phương mắt thấy sắc hành dâm đều gọi là lửa dục, Bồ-tát quán dục tránh xa như tránh hầm lửa.
Dạy thực hành thứ lớp:
Trước giữ bốn tội khí, tám tội khí của Thinh Văn, giữ thân bất động. Sau đó mới thực hành luật nghi thanh tịnh của Bồ-tát, giữ tâm không khởi. Tỳ-kheo bốn giới trọng, Tỳ-kheo-ni thêm bốn giới nữa.
Nghĩa là xúc chạm tám thứ che lấp, nên gọi là tám khí.
Tiếng Phạm là ba-la-di, Hán dịch là Khí. Nghĩa là người phạm giới này bị bỏ hẳn ra ngoài biển Phật pháp. Giống như biển lớn không chứa thây chết, nên gọi là Khí, người vào đạo Đại thừa thì phải học Tiểu thừa trước.
Kinh Thập Luân nói: Nếu không học Tiểu thừa trước mà học Đại thừa trước thì không có việc ấy, cho đến nói: Không có sức uống nước ao hồ thì đâu thể nuốt hết biển lớn.
Bởi vậy, tất cả Bồ-tát phải học ba thừa trước, chỉ không rốt ráo chứng ở Tiểu thừa.
Nói về lợi ích, có hai:
- Xa lìa nhiều tội lỗi.
Giới cấm thành tựu thì thế gian không bao giờ có nghiệp sinh nhau, giết nhau, trộm cướp không hoành hành, không có nợ nhau, cũng không còn nợ xưa với thế gian. Nếu ba duyên dứt thì ba nhân bất sinh. Bởi vậy, thế gian không có báo thù nhau, tất cả đều do giữ giới mà thành tựu.
- Được nhiều thần dụng.
Là người thanh tịnh tu Tam-ma-địa, nhục thân do cha mẹ sinh ra, không cần mắt trời, tự nhiên quán thấy các thế giới ở mười phương, thấy Phật nghe pháp, đích thân vâng theo ý Thánh, được thần thông rộng lớn, đi khắp các thế giới ở mười phương. Túc mạng thanh tịnh, không có gian nan. Đây là tăng tiến tu hành tiệm thứ thứ hai, người trì giới thanh tịnh việc ma không sinh khởi, quán hạnh thành tựu, cho nên sẽ phát dụng. Đối với thân do cha mẹ sinh ra được tương tự năm thông. Đây đồng với quán hạnh trì kinh Pháp Hoa, hiện đời được sáu căn thanh tịnh.
Văn nói: Tuy chưa được mắt trời nhưng dùng mắt do cha mẹ sinh ra, vẫn thấy hết khắp thế giới Tam thiên.
Trái với hiện nghiệp, có ba:
-Trở về dòng toàn nhất.
Thế nào là hiện nghiệp? Nầy A-nan! Người giữ giới cấm thanh tịnh như thế, tâm không tham dâm, đối với sáu trần bên ngoài không buông lung, là do trước mà khởi sau. Giới cấm thanh tịnh đã tròn đầy, quán hạnh đã thành tựu, đối với sáu trần cảnh đã biết là hư huyễn, không bao giờ tin tưởng, mặc tình buông lung vọng có chấp trước.
Vì không buông lung, tự trở về nguồn cội, trần đã không duyên, căn không có đối, trở về cội nguồn toàn nhất, sáu dụng không hiện hành, chính là trái với hiện nghiệp. Đã không theo trần, lại trở về nguyên tánh. Trong nguyên tánh vốn không có căn trần, lấy gì làm đối xứng. Căn cảnh không sinh thì sáu dụng không khởi, chỉ là một thể tròn đầy thường còn, diệu giác sáng rõ. Ở đây đồng với Quán Âm viên thông, sinh diệt đã diệt, vắng lặng hiện tiền. Cho nên kệ ở trên nói: Một xứ thành rồi trở lại, sáu dụng đều không thành, bụi nhỏ ngay đó tiêu tan, thành tròn sáng nhiệm mầu.
-Đắc Vô Sinh Nhẫn.
Các cõi nước mười phương rõ ràng thanh tịnh. Ví như trong viên lưu ly vầng trăng báu. Điều này nói lên chứng chân tướng, cõi nước dung thông chân thật, thể tròn sáng hiện cho nên như trong lưu ly có mặt trăng báu. Thanh tịnh là nghĩa không, là trong cái giả không của vầng trăng báu trong lưu ly, cho nên kinh Viên Giác nói:
Giác tròn sáng cho nên nói lên tâm thanh tịnh. Vì tâm thanh tịnh cho nên một thế giới hoặc nhiều thế giới cũng thanh tịnh v.v... Thân tâm vui vẻ, diệu viên bình đẳng, được an ổn hoàn toàn, trước thế giới tròn sáng thì thân tâm tròn sáng, vốn do me mờ điên đảo thân và tâm. Bên ngoài đến núi sông, hư không, mặt đất, đều là vật trong chân tâm mầu sáng, nay trở về nguồn. Cho nên thâm tâm thế giới đều tròn mầu bình đẳng, lại không có khác nhau, pháp giới một tướng, mới chứng cảnh này vui sướng an ổn, tức phần được chỗ Niết-bàn an vui.
Tất cả Như-lai mật viên tịnh diệu đều hiện trong đó, điều này được thắng đức, tức là sở chứng lý hiển.
Hiện là hiển phát, ba thứ lý, trí, hạnh gọi là mật viên tịnh, là ba đức của Niết-bàn. Trong mỗi đức có đủ tất cả pháp.
-Ba, một vô ngại nên gọi là Diệu.
Ba thứ pháp này là chỗ chứng của Chư Phật, là quả đức của Phật, nhiếp hết ba đời Phật pháp mười phương. Ngày nay đối với một niệm này hiển hiện thông đạt vô ngại. Cho nên nói đều hiện trong đó.
Người này được Vô Sinh Pháp nhẫn, cuối cùng sẽ chứng chân như thật tướng gọi là pháp Vô sinh. Chân trí Vô lậu gọi là Nhẫn, khi được trí này. Nhẫn có công năng ấn trì pháp không sinh lý, chắc chắn không sai, cảnh trí đều sáng gọi là Vô Sinh Nhẫn. Kinh Hoa Nghiêm nói là Sơ trụ, kinh khác là Sơ địa, là đắc Nhẫn vị. Nay trải qua tiệm thứ thứ ba nên được nhẫn này. Thuyết khác nói, trong Nhẫn này, tùy sở chứng được không khác mà khác, tức lập các giai vị, cho nên gọi là Thánh vị. Đây chính là sơ tiệm thứ chánh tu quán hạnh. Tiệm thứ thứ hai là quán thành nhập tợ. Tiệm thứ thứ ba đã nói được Vô sinh nhẫn. Tức đồng với
Sơ trụ đến giai vị Đẳng Giác.
Kết hiển lập vị:
1. Từ tiệm tu này, tùy theo phát hạnh mà an lập Thánh vị. Đây gọi là tăng tiến tu hành tiệm thứ ba. Từ tiệm thứ ba này, khởi bất cứ hạnh nào, tùy hạnh mà thêm nghĩa để lập danh vị, không lìa mật viên tịnh diệu cảnh trí hạnh ở trước.
2. Nói về địa vị khác nhau:
Hễ nói về địa vị đều là cảnh giới Chư Phật, Bồ-tát đích thân chứng đắc. Y theo thứ lớp đoạn phục, phát chân diệu dụng, công lực sâu cạn để lập vị thứ.
Luận Khởi Tín nói: Tương tự giác, Tùy phần giác,
Cứu cánh giác, để phân ra các giác vị địa tiền, địa thượng và rốt ráo vị.
Kinh Hoa Nghiêm và luận Trí Độ nói: Y theo nhập biển lớn, nói về công dụng sâu cạn, nhưng chậm mau có khác, chia ra căn tánh lợi độn. Như trải qua đường dài mà không biết số dặm. Các kinh Đại thừa nói: Nếu nói pháp giới bình đẳng, không có Phật, không có chúng sinh, thì không có địa vị để lập: Như Kinh Hoa Nghiêm nói: Chúng sinh vọng phân biệt có Phật có thế giới. Nếu liễu ngộ pháp tánh chân thật, thì không có Phật, không có thế giới.
Kinh Lăng-già nói: Không có Phật Niết-bàn, cũng không có Niết-bàn Phật, xa lìa giác, sở giác. Lại nói: Vắng lặng chân như có gì tiệm thứ?
Văn trên nói: Tánh mầu tròn sáng lìa các danh tướng. Xưa nay không có thế giới và chúng sinh. Điều này làm cho quán nhất chân pháp giới. Xưa nay bình đẳng, không tu không chứng cũng không mê ngộ. Cho nên không có địa vị để lập. Điều này hiển bày môn tâm chân như. Nếu y vào tâm sinh diệt môn thí có mê có ngộ, biết rõ tu chứng khác nhau. Lại, Viên đốn Đại thừa không gì hơn các kinh Hoa Nghiêm, Niết-bàn, Nhân Vương, Anh Lạc, Đại Phẩm, Pháp Hoa. Tuy nói pháp giới bình đẳng không nói không bày, mà hạnh vị Bồ-đề đều tự sáng tỏ. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: Không nói địa vị cho chúng sinh độn căn thấp kém nghe.
Kinh Nhân Vương nói: Nếu nói vượt qua địa vị này được thành Phật là lời ma nói. Điều này khác với ngoại đạo, thiên ma, chúng cho rằng được giác đạo vô thượng không nói địa vị. Nay nói lên Phật pháp có công đức không thể suy nghĩ bàn luận, vô lượng kiếp tu hành, nhân tròn quả đầy mới gọi là rốt ráo.
Lại các kinh luận kiến lập địa vị ít nhiều khác nhau. Kinh Nhân Vương có năm mươi mốt vị, kinh Anh Lạc có năm mươi hai vị, kinh Hoa Nghiêm có bốn mươi mốt vị, Đại Phẩm có bốn mươi hai vị, kinh này có năm mươi bảy vị. Văn dưới lại nói: (chín trăm hai mươi bảy) sáu mươi Thánh vị. Lời của các bậc Thánh khác nhau, hoặc khai hoặc hợp, đều là một ý. Nếu theo vị thứ Viên giáo của Thiên Thai đối với kinh này thì có đồng có khác. Vì đồng cho nên Địa Tiền đều là chứng vị. Vì khác nên tâm Càn Tuệ chính là tiệm thứ thứ ba. Đối với Vô Sinh nhẫn tùy nghĩa kiến lập, khác với Thiên Thai khi nhập Sở trụ mới chứng Vô Sinh Nhẫn.
Văn có chín:
1. Địa Càn Tuệ:
Nầy A-nan! Người Thiện nam này ái dục cạn khô, trì giới thanh tịnh, lìa hẳn tham dâm, nên gọi là Sơ càn, tức là dứt chướng phiền não.
Nghĩa càn có hai:
a) Dục hết nên gọi là Càn.
b) Chỉ có tuệ gọi là Càn.
Nay nghĩa đầu căn cảnh không đối, do năng lực Tam-muội trở lại cội nguồn, hoàn toàn đồng nhất phá sở tri chướng.
Chất dư tàn ở hiện tại, không còn tiếp tục sinh nữa, báo chướng đã hết. Vì quên dục ái, không có căn nhuận hoặc, căn cảnh không đối cho nên không có nghiệp tánh.
Dẫu có hạt giống nghiệp khổ, nhưng vô nhuận bất sinh, hết báo thân này không còn nối nhau, tức là sinh về cõi Thật báo trang nghiêm. Điều này chính là hoặc, nghiệp, khổ đã mất, không có lý nhuận sinh, tức là nghĩa càn. Tâm chấp rỗng rang sáng suốt, thuần là trí tuệ, tánh tuệ tròn sáng, chiếu khắp các cõi mười phương.
Giới định đã tròn, từ đây phát tuệ, tức là chuyển ba chướng, trước thuần thành trí tuệ, ánh sáng trí tuệ phát sáng, rực rỡ khắp các cõi mười phương, tức là nghĩa Tuệ. Căn có trí tuệ ấy gọi là địa Càn Tuệ: Là kết luận về tên, ở đây tức là có, nên ở trước nói Thuần.
Đã nói: Tùy chỗ phát hạnh an lập Thánh vị. Cho nên y theo dục thì khô cạn quy về một dòng, thuần thành trí tuệ, chưa thấm biển quả, và nước của dòng pháp, cho nên được gọi tên này. Đây y theo nghĩa nói trong Vô Sinh Nhẫn, cho nên như thế.
Chân nghĩa là viên dung không ngại hành bố. Ở dưới điều mô phỏng theo đây.
2. Vị Thập Tín, có hai: a) Nhiếp nêu bày chung ở trước:
Muốn học tập Sơ càn, chưa tiếp nối với dòng pháp của Như-lai:
Nghĩa là Nhiếp tiền Càn Tuệ, mới lập ra càn, dục ái, quả pháp chưa thấm nhuần, tức là dùng tâm này làm phương tiện cho tín. Nêu Như-lai để nói lên quả pháp này. Dưới đây là nêu chung.
Tức dùng tâm này, trung trung lưu nhập, mầu nhiệm mở bày: Đây là nêu, tức là dùng trí trong Càn tuệ này hợp với lý Trung đạo, lý trí đều Trung đạo, nên gọi là Trung trung.
Lại vì lìa tất cả tướng, hai bên đều chiếu soi, hai đế đều chân thật. Lại trí ở đây niệm niệm nối nhau mà tiên lên thượng vị cho nên nói trung trung lưu nhập. Nói lưu nhập là nói lên không có công dụng nhậm vận mà tiến, để chứng Trung đạo, tự nhiên chảy vào biển khổ Ta-bà. Đây là tăng thêm một lần trí đoạn Công năng. Cho nên nói mầu nhiệm mở bày. Đây là tâm Càn Tuệ, tăng thêm sáng suốt quán trí cho là phương tiện, được vào Thập Tín.
Từ Chân diệu viên, lại phát chân diệu là giải thích. Câu trên là giải thích tâm này lưu nhập, câu dưới là giải thích mầu nhiệm mở bày.
b.1 Chia ra mười tâm, có mười:) Tín Tâm:
Diệu Tín thường trụ, tất cả vọng tưởng dứt hết không còn, trung đạo thuần chân, gọi là Tín tâm trụ, dùng trí Trung đạo chứng nhất thể Tam bảo pháp giới, về thật đức có thể nhận sâu xa về lạc dục, thầm hợp với thường trụ, tâm mầu thanh tịnh, gọi là diệu tín. Tín này tức lý, cũng gọi là Thường trụ.
Tất cả vọng tưởng dứt hết không còn tức là dứt chướng sở tri, vô minh trụ địa dứt một thì dứt khắp. Ban đầu do mê giác mà thành bất giác. Nay trí viên diệu đã phát, lại bất giác thành giác. Cho nên nói tất cả dứt hết không còn.
Trung đạo thuần chân là diệu trí quyết định, không nghiêng lệch, không tà vọng, là chánh nhân của Phật, không tạp ngụy vọng, cho nên nói thuần chân, và pháp vô trụ tức là trụ trong đó, nên gọi là trụ. Trong kinh phần nhiều nói hai vị địa, trụ là chỗ phát chân. Nay đối với Càn Tuệ Tín vị mà lập, biểu thị là chứng chân, chẳng phải tợ giải.
b.2 Niệm tâm:
Chân tín minh liễu, tất cả viên thông, ba thứ ấm, xứ, giới không thể làm ngăn ngại, nhiếp tín tâm ở trước, diệu tín thường trụ, không lệch không tà, thuần nhất chân như, nên nói là chân tín minh liễu.
Nhất thiết viên thông: liễu rõ ba khoa pháp đều là như, vô minh vọng tưởng đã mất, ấm giới tự nhiên giải thoát, cho nên nói: không thể làm ngại.
Như thế cho đến trong vô số kiếp quá khứ vị lai, xả thân thọ thân tất cả thói quen, đều hiện ở trước. Người Thiện nam này có khả năng nhớ nghĩ không quên sót gọi là Niệm tâm trụ. Nếu Vọng tưởng còn, cõi âm làm ngại quên mất phiền não tùy theo đây mà sinh, nay đã vọng diệt ấm tiêu, quá khứ và vị lai như một, không xa không gần, chỗ trải qua chưa trải qua một niệm hiện tiền. Đây là túc mạng quá khứ, mắt trời ở vị lai nhớ rõ không mất, nên gọi là niệm.
b.3 Tâm Tinh Tấn.
Diệu viên thuần chân, chân tinh phát hóa, tập khí vô thỉ chung một tinh minh. Chỉ lấy tinh minh tiến đến chân tịnh gọi là tâm tinh tấn. Tịnh tịnh viên diệu không xen lẫn hai bên, không luống dối vọng tưởng, nên nói là thuần chân, hiện dụng tự tại, nên gọi là phát hóa, mới dụng thông được tập khí. Chỉ một tinh chân, dùng tinh tiến chân thật tiến lên lên hạnh chân tịnh, nên gọi là tinh tiến.
b.4 Tuệ tâm.
Tâm tinh hiện tiền, thuần dùng trí tuệ gọi là Tuệ tâm trụ, tâm chân tinh minh liễu hiển hiện. Tâm hiện tiền này thuần là viên trí, dụng gọi là tuệ tâm, trí và tuệ nói hai bên.
b.5 Định Tâm:
Chấp trì ánh sáng trí tuệ, vắng lặng khắp nơi, vắng lặng bất động gọi là Định Tâm trụ. Trí chiếu ngưng minh, không động không loạn, chiếu mà thường tịch, vắng lặng bất động, nên gọi là tâm định.
b.6 Tâm Bất thối.
Ánh sáng Định phát minh, tánh sáng thâm nhập, chỉ tiến không lùi, gọi là tâm Bất Thối.
Ánh sáng trí tuệ thiền định phát minh lẫn nhau, đối với lý, đối với hạnh càng sâu càng tiến nên gọi là Bất thối.
b.7 Tâm Hộ pháp:
Tâm tiến đến an nhiên, giữ gìn không mất, các Đức Như-lai mười phương phần khí giao tiếp gọi là Tâm Hộ Pháp. Tịch chiếu tăng tiến chẳng động, chẳng thối, nên gọi là an nhiên, bảo nhậm hộ trì, làm cho thông hợp sáng tỏ với Phật, nên gọi là giao tiếp, vì bảo trì nên gọi là Hộ Pháp.
b.8 Tâm Hồi Hướng:
Giác minh bảo trì, có thể dùng diệu lực, hồi hướng về ánh sáng từ của Phật, hướng về Phật an trụ. Giống như hai gương sáng đối nhau, trong đó hình ảnh đẹp đẽ nhiều lớp nhập vào nhau. Gọi là Tâm hồi hướng. Do tịch chiếu ở trước hiển phát bảo trì không lui sụt, diệu dụng mạnh mẽ sẽ cảm được quả đức, vì hiện ở trong tâm, nên nói là hồi hướng về ánh sáng từ của Phật. Tịch chiếu này nhân quyết định có thể cảm quả không có trái mất. Cho nên nói hướng về Phật an trụ. Trong quả hiện tướng nhân, trong nhân hiện tướng quả, nhân quả không hai, cùng hiện cùng nhập, Cho nên nói hình ảnh đẹp đẽ nhiều lớp nhập vào nhau gọi là Tâm Hồi Hướng.
b.9 Giới tâm:
Tâm quang mật hồi, được diệu tịnh vô thượng, thường bất động của Phật, an trụ vô vi, không bị sót mất, gọi là Giới tâm trụ: chính là tịch chiếu, nên gọi là Tâm quang. Chiếu tức tịch gọi là tâm quang, tịch tức chiếu gọi là thường bất động của Phật. Đây chính là định tuệ tròn đầy, lìa hai bên, tánh nhiễm đoạn cũng không (chín trăm hai mươi tám) nên gọi là Vô thượng diệu tịnh. Hai bên bất động gọi là vô vi tác, nên nói an trụ vô vi, được không sót mất là giới tròn sáng. Đây chính là định đạo viên dung, lìa nhiễm vọng tưởng, nên gọi là giới tâm.
b.10 Tâm nguyện:
Trụ giới tự tại, có khả năng đến khắp mười phương, việc đi tùy nguyện, gọi là tâm nguyện trụ, giới căn viên dung, quá nhiều không câu nệ, nên nói là tự tại. Lấy đây làm chân đi khắp các cõi, ở mười phương diệu dụng hiện tiền, làm được bất cứ lợi ích nào, nên nói là Tâm nguyện.
3. Thập Trụ, có mười: 1) Phát Tâm Trụ:
Nầy A-nan! Người thiện nam này dùng phương tiện chân chánh để phát mười tâm này, tâm tinh phát sáng, mười dụng khéo nhập vào một tâm viên thành gọi là Phát Tâm trụ, phương tiện là rỗng không, mười phương là giả mượn. Là trong một tâm, viên dung tuệ nhiệm mầu gọi là phương tiện chân thật. Do tuệ nhiệm mầu này mà phát khởi Thập Tín. Vì mười tâm này vốn là một tánh đầy đủ công đức, do tuệ nhiệm mầu phát làm cho mỗi tâm đều đủ mười tâm, mười dụng vô ngại, một nhiều qua lại với nhau, chỉ là nhất tâm. Tâm chính là bí tạng, nay đối với tạng này khai phát hiển hiện, vì không trụ pháp là trụ trong đó, nên gọi là Phát Tâm Trụ.
2) Trị địa trụ:
Trong tâm phát minh, như trong lưu ly sạch hiện vàng nguyên chất, dùng tâm mầu nhiệm ở trước bước lên đất thành. Gọi là trị địa trụ. Lưu ly như hư không, ở trong vàng nguyên chất. Hiện tức là giả, báu tịnh vàng nguyên chất ánh hiện lẫn nhau, vô ngại dung thông chẳng một chẳng khác, cùng tâm mầu ấy làm chỗ y cứ, sau đó sinh ra vô lượng đức dụng, nên gọi là Trị Địa.
3) Tu Hành trụ:
Tâm địa liên hệ đến cái biết, đều được hiểu rõ, đi khắp mười phương không hề ngăn ngại, nên gọi là Tu hành trụ. Tâm địa pháp giới chính là một tâm trước, hạnh mầu có liên kết, trí mầu có thể biết, lý trí hạnh tư tại viên dung không bị dính mắc hai bên, gọi là vô lưu ngại. Sự tu hành chân chánh này gọi là Tu Hành Trụ.
4) Sinh Quý trụ:
Hạnh đồng với Phật, thọ khí phần của Phật. Như thân trung ấm tự tìm cha mẹ, ấm tín thầm thông hợp, vào hạt giống Như-lai, gọi là Sinh quý trụ. Trí hạnh mầu nhiệm, quả đức minh thông. Cho nên nói hạnh đồng với Phật. Tự nhiên hợp với hạt giống từ của Phật, gọi là thọ khí phần của Phật.
Như thân trung ấm tự tìm cha mẹ, dùng hai trí quyền thật của Phật làm cha mẹ. Cho nên kinh Duy-ma nói: Trí là mẹ hoá độ Bồ-tát, phương tiện làm cha, đã phân vào quả trí thầm hợp quả đức. Cho nên nói thầm thông hợp vào hạt giống Như-lai.
5) Phương Tiện Cụ Túc Trụ.
Đã đi vào thai đạo, đích thân thờ phụng biết noi theo, nêu thai xong rồi thành tướng người không thiếu, gọi là Phương Tiện Cụ Túc Trụ, vì tự hành, hóa tha, Nhất-thiếtchủng-trí đầy đủ thành tựu, gọi là tướng người không thiếu.
6) Chánh Tâm trụ:
Dung mạo như Phật, tâm tướng cũng đồng gọi là Chánh Tâm trụ, Nhất-thiết-chủng-trí, tự lợi lợi thọ, tức dụng hiển hiện, gọi là dung mạo. Vô duyên từ bi gọi là Tâm. Cho nên Quán Kinh nói: Tâm Phật là đại từ bi. Bồtát này phân được dụng ấy, gọi là đồng.
7) Bất Thối trụ:
Thân tâm hợp thành, ngày càng thêm lớn gọi là Bất Thối trụ, Nhất-thiết-chủng-trí từ bi tướng dụng, hòa hợp thành tựu, mặc cho thêm lớn không có lui sụt gọi là Bất Thối.
8) Đồng Chân trụ:
Mười thân linh tướng, một lúc đầy đủ, gọi là Đồng Chân trụ. Mười thân linh tướng là mười thân Lô-xá-na. Đó là: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, thân Như-lai, pháp, trí, không, nghiệp, chúng sinh và cõi nước. Lại thân Như-lai đầy đủ mười loại: là Bồ-đề, nguyện, hóa, lực, trang nghiêm, oai thế, ý sinh, phước, pháp, trí. Mười diệu ứng này giống như màu sắc viên ngọc sáng hiển hiện tự tại. Tức là diệu dụng chủng trí không thể suy nghĩ bàn luận. Trí thể vốn đầy đủ, tùy theo chỗ nào chướng hết mà được hiển hiện. Đã dùng hai trí quyền thật đại bi huân tu, công dụng thuần hiển, tuy chưa vẹn toàn như Phật nhưng được từng phần diệu dụng, ngay một thân hiện vô lượng thân. Kinh Hoa Nghiêm nói: Tuy chưa đầy đủ Nhất thiết trí mà đã được năng lực tự tại của Nhưlai.
9) Pháp Vương Tử trụ:
Hình thành ra khỏi thai, đích thân làm Phật tử, gọi là Pháp Vương tử trụ. Mười thân đầy đủ nên gọi là hình thành. Xuất nhân hiển quả nên gọi là xuất thai, kham nhận kế thừa, nối tiếp làm hưng thạnh Phật pháp, gọi là Pháp Vương Tử trụ.
10) Quán Đảnh Trụ:
Bề ngoài đã thành người, như vua một nước, giao việc nước cho Thái tử. Thái tử con vua sát-lợi kia khi lớn lên được làm lễ Quán đảnh, gọi là Quán Đảnh trụ. Hạnh nguyện bên trong đầy đủ, từ bi bên ngoài hiển phát, đức tướng dần dần thành.
Công đức hóa độ đã thấm nhuần, nên gọi là bên ngoài thành người, Ở các thế giới mười phương kế là bổ Phật xứ, có khả năng phó chúc, truyền pháp lợi sinh. Cho nên giống như nhà vua giao việc nước cho Thái tử làm lễ quán đảnh.
Hỏi: Theo kinh Hoa Nghiêm thì Bồ-tát Sơ Trụ có khả năng thành Phật giáo hóa chúng sinh, vì sao đến trụ thứ mười mới gọi là làm lễ quán đảnh, biểu thị thành Phật ư?
Đáp: Giáo viên dung, hai kinh rất giống, vì hành bố không ngại Viên dung. Kinh Hoa Nghiêm nói Sơ Trụ có khả năng thành Phật. Vì Viên dung không ngại hành bố. Nay Thập Trụ mới xếp vào Quán đảnh. Cho nên kinh kia nói trụ xứ của Bồ-tát rộng lớn như hư không.
Lại nói: Khi mới phát tâm, liền thành Chánh giác, biết rõ tướng chân thật của các pháp, tất cả sự nghe pháp không do người mà ngộ. Tu đầy đủ mười thứ trí lực, rốt ráo lìa luống dối, chẳng nhiễm như hư không, thanh tịnh Pháp thân mầu, vắng lặng ứng tất cả. Cũng đồng với Đại Phẩm nói: Từ khi mới phát tâm liền ngồi đạo tràng, xoay bánh xe pháp độ chúng sanh, phải biết Bồ-tát này giống như Phật.
Nay kinh nói: Mười dụng liên kết nhập viên thành một tâm. Lại nói mười thân linh tướng một lúc đầy đủ. Trên đây là nói một vị đầy đủ các vị, tức là viên dung không ngại hành bố khắp nơi.
Lại Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ-tát Thập Địa mới nói về thọ chức.
Trụ thứ mười trong kinh này nói về trần liệt Quán đảnh, tức là Viên dung không ngại hành bố.
Viên dung là nói theo chiều ngang, hành bố là nói theo chiều dọc. Cả hai không chướng ngại, hai kinh rất giống nhau, nên nói là vô ngại.
Nói trần liệt quán đảnh, Kinh Hoa Nghiêm nói: Vua Chuyển Luân sinh Thái tử, mẹ là chánh hậu, thân tướng đầy đủ, ngồi trên voi trắng, toà vàng ròng, tấu các âm nhạc, Vua rót nước trong bốn biển vào bình vàng, rưới lên đầu Thái tử. Lúc đó, chính là thọ chức vị vua. Bồ-tát nhận chức cũng như thế, nước trí của Chư Phật rưới vào đầu Bồ-tát gọi là thọ chức Bồ-tát đại trí. Kia nói Địa thứ mười mới là thọ chức. Nay Thập Trụ này đã gọi là Quán đảnh. Cho nên nói thọ chức kia là y theo rốt ráo. Ở đây y theo phần đắc lại trong Vô Sinh nhẫn một vị đầy đủ các vị, cho nên nói chung là qua lại.
4. Vị Thập hạnh, có mười:
1) Hoan hỷ hạnh:
Nầy A-nan! Người thiện nam này thành Phật rồi, đầy đủ vô lượng đức mầu của Như-lai, mười phương thuận theo gọi là Hoan Hỷ hạnh.
Hai câu đầu kết luận về đầy đủ ở trước, câu dưới nói về chân Chánh. Ở đây có hai nghĩa nên gọi là Hoan hỷ.
Vì đầy đủ vô lượng công đức của Phật.
Cho nên như Quán Âm (chín trăm hai mươi chín) nói: Ta lại được viên thông này, vì tu chứng đạo vô thượng. Lại có thể được bốn thứ vô tác diệu đức không thể suy nghĩ bàn luận. Đã nói không nghĩ bàn tức là vô lượng đức của Phật. Đức mầu này, trước đây chưa từng được, nay tự đầy đủ nên nói là Hoan hỷ.
2) Chúng sinh được hóa độ cho nên Hoan hỷ.
Mười phương: Tức là hiện mười thân làm lợi ích chúng sinh. Tùy thuận, có hai:
a) Chúng sinh các đường khác nhau:
Căn hạnh có khác, Bồ-tát thuận theo hoặc dùng hình tướng, hoặc dùng lời để hóa độ. Đây là nói về năng hóa thuận theo.
Bồ-tát hiện hóa nhiều thứ:
Chúng sinh thuận theo mỗi vị được giáo hóa đều có lợi ích. Đây là nói về sở hóa thuận theo. Năng sở đã thuận theo, cơ ứng đều sinh hoan hỷ cho nên lấy tên gọi ấy
b) Nhiêu Ích hạnh:
Khéo lợi ích tất cả chúng sinh nên gọi là hạnh Nhiêu Ích. Như thuận theo chúng sinh ở trên chính là khéo làm lợi ích chúng sinh, khéo vui mừng sinh ra điều lành, cuối cùng khéo phá ác nhập lý, nên gọi là Nhiêu ích.
3) Vô Sân hận hạnh:
Tự giác giác tha, không có chống trái, nên gọi là hạnh Vô Sân hận. Vì tự giác nên vô minh không thể chống cự trí. Vì giác tha cho nên hữu tình không trái với sự giáo hóa. Chướng ngại không thể chống cự, chúng sanh không thể trái. Tự lợi, lợi tha đã có nên gọi là Vô Sân hận.
4) Hạnh Vô Tận:
Chủng loại sinh ra, cùng tận mé vị lai, ba đời bình đẳng, mười phương thông đạt, gọi là hạnh Vô Tận, tùy cơ tùy cảm, hiện các thứ thân, tận mé vị lai, hóa độ lại hóa độ. Ba đời v.v... trở xuống là giải thích lý do. Vì biết ba đời vắng lặng, được cùng tận mé vị lai, vì đạt mười phương vô ngại, hiện được nhiều loại thân. Hoặc thời, hoặc xứ hiện hóa không dứt, nên nói là Vô tận.
5) Hạnh Ly si loạn:
Tất cả đều đồng, các thứ pháp môn, không hề sai lầm, gọi là hạnh ly si loạn.
Hiện nhiều thứ thân là Tam-muội hiện khắp sắc thân, nói vô lượng pháp, không lìa bốn thứ biện tài, hoặc thân, hoặc lời đều là trí dụng quy về lý.
Kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát này ngay trong một niệm được vô số Tam-muội. Biết rõ Tam-muội này đồng một thể tánh, cho đến được tất cả pháp trí tuệ chân thật. Bởi vậy có thể hợp muôn thứ pháp môn, không hề sai lầm, do không sai lầm nên gọi là Ly si loạn.
6) Hạnh Thiện Hiện:
Ở trong đồng mà hiện nhiều thứ khác nhau, mỗi tướng khác đều đồng, gọi là hạnh Thiện Hiện.
Trong một hiện vô lượng, nên nói ở trong đồng hiện khác, thân và lời đều như vậy. Vì biết tất cả pháp đồng một pháp tánh, thực hành các thứ dị thuyết, mà không mất yếu chỉ một tánh, một tướng.
Kinh Duy-ma nói: Khéo phân biệt được tướng các pháp, đối với nghĩa đệ nhất bất động, nên gọi là Thiện Hiện.
7) Hạnh Vô Trước:
Như thế cho đến mười phương hư không đầy khắp cát bụi, trong mỗi hạt bụi hiện các cõi mười phương, hiện bụi hiện cõi không chướng ngại nhau, gọi là hạnh Vô Trước.
Trước là trụ trước, tức là trở ngại. Một hạt bụi hiện mười phương là hiện cõi, không hoại một tướng trần là hiện trần: thế giới vi trần không ngăn ngại nhau, đây là đại tiểu tự tại. Do Bồ-tát này trụ giải thoát không thể suy nghĩ bàn luận. Cho nên được dụng này.
8) Hạnh Tôn Trọng:
Chủng chủng hiện tiền, đều là Ba-la-mật-đa đệ nhất nên gọi là hạnh Tôn Trọng. Hiện trần, hiện cõi, hiện thân, hiện lời không trở ngại nhau. Vì thế nói các thứ hiện tiền đều từ ba đức Viên dung Bát-nhã phát hiện, cho nên nói bậc nhất. Diệu hạnh này vượt qua tất cả các pháp môn, nên gọi là Tôn Trọng.
9) Hạnh Thiện Pháp:
Viên dung như thế có thể thành khuôn phép của Chư Phật mười phương. Nên gọi là hạnh Thiện Pháp.
Sở hiện như trên, diệu dụng vô ngại, nên gọi là Viên dung, mỗi pháp đều hợp với khuôn phép lợi sinh của Phật, Như-lai nên gọi là pháp hành.
10) Hạnh Chân Thật:
Mỗi pháp đều là thanh tịnh vô lậu, nhất chân vô vi vì tánh vốn như vậy. Nên gọi là hạnh Chân Thật. Nương chân khởi dụng, dụng không lìa thể, thể tức là chân như vô lậu thanh tịnh, pháp giới nhất chân. Thể của Pháp giới này sẵn có như thế, diệu dụng vô phương, nên nói là bổn nhiên. Vì tức là thể nên gọi là chân thật. Mười hạnh này đều là Bồ-tát chứng tự lợi lợi tha vô ngại tự tại viên dung diệu hạnh chân thật. Mỗi pháp đều phá vô minh nhỏ nhiệm, hiển trí đức Phật dần dần tròn đầy, có mười công dụng trí đoạn này, niệm niệm tương ưng với Tát-bà-nhã. Kinh Hoa Nghiêm nói: Hạnh Bồ-tát này giống với pháp giới hư không. Vì dùng diệu hạnh không thể suy nghĩ bàn luận của Chư Phật cho nên mười hạnh này viên dung vô ngại, tức là một luận mười, mười không lìa một. Cho nên điều sau cùng này gọi là mỗi pháp đều là thanh tịnh, vì tánh chân như bổn nhiên.
5. Vị Thập Hồi Hướng, có mười:
1) Cứu hộ Nhất Thiết chúng sinh ly chúng sinh tướng hồi hướng.
Nầy A-nan! Người Thiện nam này, đầy đủ thần thông, thành Phật sự rồi, thuần khiết tinh chân, xa lìa các hoạn. Kết mười hạnh trước. Y theo thể khởi dụng, cho nên nói: Đầy đủ thần thông. Tự lợi lợi tha, hạnh mầu vô ngại, cho nên nói thành Phật sự rồi, Phật lấy việc độ sinh lợi tha làm sự nghiệp.
Thuần khiết tinh chân là nói về đức trí. Xa lìa các hoạn là nói về đức đoạn.
Mười trí đoạn này đều không chứng mà chứng, không dứt mà dứt, vì trí vốn chân, mê hoặc vốn vọng. Phải độ sinh dứt trừ tướng độ, hồi là tâm vô vi, hướng về đường Niết-bàn, nên gọi là cứu tất cả chúng sinh lìa tướng chúng sinh hồi hướng, đây là nói y theo dụng thành tựu thể, năng sở đều mất. Vì tướng chúng sinh là không, vốn là Niết-bàn.
Vì năng hóa duyên sinh vốn là vô tánh, cho nên nói dứt trừ tướng độ. Trong kinh Niết-bàn cũng có thuyết này, trí quên duyên gọi là tâm vô vi. Diệu lý Vô tác gọi là đường Niết-bàn, nhiếp dụng quy về thể nên gọi là hồi hướng, là quả Niết-bàn, đường tức là lý.
Vì nhiều lần thành địa đến chỗ rốt ráo, nên gọi là đường Niết-bàn.
Kết danh rất dễ hiểu.
Hỏi: Trong mười hạnh vị có tướng độ hay chăng?
Đáp: Trước đó là nương thể khởi dụng. Lại nói về thần thông chuyển hóa chúng sinh, chưa nói dứt trừ tướng độ. Nay nhiếp dụng quy về thể này thuận theo nghĩa vắng lặng, cho nên dứt tướng độ. Y theo nghĩa tuy khác, nhưng về hạnh thì giống. Nếu không như vậy thì đâu có bậc đại sẽ chứng chân còn khởi tướng độ sinh?
2) Bất Hoại Hồi Hướng:
Hoại cái có thể hoại, xa lìa các điều đáng xa lìa, gọi là Bất Hoại Hồi Hướng. Nên phải xa lìa tất cả cảnh giới huyễn hóa luống dối, cho nên nói hoại điều có thể hoại. Tâm như huyễn cũng lại xa lìa, cho nên nói xa lìa đều xa lìa, được không có chỗ lìa tức hợp với Niết-bàn, cho nên nói Bất Hoại Hồi Hướng.
3) Đẳng Nhất thiết Phật hồi hướng:
Bổn giác vắng lặng, giác bằng Phật giác nên gọi là Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng. Bổn tánh giác thể không hề sinh diệt. Cho nên nói là vắng lặng.
Giác thể vắng lặng này chư Phật ba đời tròn đầy không hai, cho nên nói giác bằng Phật giác. Đây là được bình đẳng giác đồng với Chư Phật, cho nên nói Đẳng nhất thiết Phật.
4) Chí nhất thiết xứ hồi hướng:
(Chín trăm ba mươi) Tinh chân phát minh, đất như đất Phật, gọi là Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng. Tinh chân phát minh là trí hiển, đất như đất Phật là lý hiện trí sáng, lý thể không hai không khác, trí lý trùm khắp nên gọi là Chí Nhất Thiết Xứ.
5) Vô Tận Công Đức Tạng hồi hướng:
Thế giới Như-lai liên hệ với nhau, được nhập vô quái ngại. Gọi là Vô Tận Công đức Tạng hồi hướng. Bồ-tát này được thân Như-lai và thân cõi nước cùng nhập vào vô ngại tự tại. Vì các pháp công đức trong Như-lai tạng thọ dụng vô tận.
6) Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng:
Đồng với Phật địa, đều sinh ra nhân thanh tịnh, y theo nhân phát huy, chứng đạo Niết-bàn, gọi là Tùy Thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng.
Đồng với Phật địa là Như-lai tạng, tức là địa trước như Phật địa, xưa nay có đủ tánh đức vô lậu. Đức này làm chỗ nương cho muôn hạnh, nên nói là nhân thanh tịnh, nương vào nhân này phát khởi hạnh quả, cho nên nói y theo nhân phát huy chứng đạo Niết-bàn, đường chính là nhân. Đây là muôn đức làm nhân cho muôn hạnh, muôn hạnh làm nhân Niết-bàn, hợp với hạnh lý, hạnh từ lý khởi. Cho nên nói thuận theo bình đẳng, sinh ra quả mầu, gọi là gốc lành.
7) Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sinh hồi hướng:
Căn chân chánh đã thành mười phương, chúng sinh đều là bổn tánh của ta, tánh viên thành tựu chúng sinh không mất, gọi là Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sinh hồi hướng. Câu đầu là nhiếp trước, mười phương là nói tất cả chúng sinh đều là tâm tánh của ta, tâm tánh không ngoài, thâu nhiếp cùng khắp. Bản tánh của ta tròn đầy thành tựu, chúng sinh cũng vậy, nên nói không mất. Đây là được đồng thể đại bi, cho nên như vậy.
8) Tướng chân như hồi hướng:
Tức tất cả pháp lìa tất cả tướng, nhưng tức và lìa cả hai đều không mê đắm, gọi là tướng chân như hồi hướng, bởi vậy chính là tất cả pháp. Vì chân cho nên lìa tất cả tướng. Thể chân như này cũng không thật có, cho nên nói cả hai không mê đắm, cũng tức là ba đế, đối văn rất dễ thấy. Bồ-tát này hiểu rõ tất cả pháp tức là pháp giới chân thật không có tướng để lìa gọi là tướng chân như.
9) Vô Phược giải thoát hồi hướng:
Thật được sở tri, mười phương vô ngại, gọi là Vô Phược giải thoát hồi hướng. Câu đầu nhiếp ở trước, mười phương vô ngại, đã năng tức pháp lìa tướng, cho nên không bị các pháp tâm cảnh ràng buộc, nên nói vô phược. Vì vô phược cho nên tự tại vô ngại, gọi là giải thoát. Tướng giải thoát này bổn tánh cũng lìa, cho nên đều không.
10) Pháp giới vô lượng hồi hướng:
Tánh đức viên thành, lượng pháp giới diệt, gọi là pháp giới vô lượng hồi hướng, là nghĩa nhân của pháp Thánh. Cho nên nói là pháp giới. Nhưng có bốn thứ là sự, lý, sự lý vô ngại, sự sự vô ngại. Nay đều là Nhất chân pháp giới. Cho nên nói lượng diệt. Đây chỉ là tánh đức viên thành, đối với Nhất chân pháp giới vô lượng có thể so lường. Cho nên nói: Pháp giới vô lượng. Lại chứng tánh đức mỗi pháp tròn đầy thành tựu, không thể tính kể, nhưng mười vị này tất cả hồi hướng không lìa ba thứ, là Bồ-đề thực tế chúng sinh. Nay, lại nói theo thực tế, hai thứ còn lại gồm nhiếp.
Đây là nương chân khởi dụng, đều là hướng về cõi đại Niết-bàn, thuận theo pháp giới, thể dụng tướng xứng, viên dung tự tại. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm nói: Việc tu hạnh nguyện của Bồ-tát này đồng với pháp giới, như sự rộng lớn của hư không, đều hồi hướng cho tất cả chúng sinh, đồng hướng đến một Bồ-đề rốt ráo, nên gọi là Hồi Hướng. Các giai vị trước sau đều là nghĩa này, để y theo tăng thắng mà đặt ra tên gọi này. Nhưng các vị này đều ở trong một Vô Sinh nhẫn, tùy chỗ phát hạnh, nghĩa đặt tên khác, đều có thể viên chứng Thánh tánh, không riêng mà riêng. Cho nên chia ra các vị, khác mà không khác chỉ là nhất tâm. Cho nên kinh Niết-bàn nói: Phát tâm rốt ráo, cả hai không khác, Địa Tiền đã vậy, hậu vị có thể biết. Văn trước nói người này liền chứng Vô Sinh nhẫn. Từ đây dần dần tu, tùy theo phát hạnh mà an lập Thánh vị. Đã nói Thánh vị đâu chẳng phải chứng hay sao? Kế là gia hạnh vị, Kinh luận Đại Thừa, Tiểu thừa có nói năm vị là: Tư lương vị, Gia hạnh vị, Thông đạt vị, Tu tập vị, Cứu cánh vị. Nhưng có khai có hợp, bất định minh hiển, các luận Tiểu thừa và pháp tướng Đại thừa là nói về bốn vị, gọi là bốn gốc lành, là phần quyết chọn lựa, nhất là kinh Anh Lạc, Nhân Vương, Hoa Nghiêm v.v... tức hợp mà bất luận nhiếp ở Hồi hướng thứ mười, chỉ có văn kinh này nói về bốn vị: vì giáo viên dung, một nhiều vô ngại. Chỉ đối với một nhẫn mà chia ra các vị, không chia thì thôi, chia thì đầy đủ rõ ràng. Cho nên ở phần hồi hướng thứ mười nói đủ bốn thứ gia hạnh diệu viên.
Lại văn kinh này nói: Trước thì viên dung, sau thì cách biệt, vì trong viên dung không ngại hành bố, ngay nơi một vị là tất cả vị, tất cả vị là một vị, một nhiều vô ngại. Kinh Hoa Nghiêm cũng đồng.
Văn có hai:
1. Kết trước sinh sau:
Nầy A-nan! Người thiện nam này đều có bốn mươi mốt tâm thanh tịnh, kế là thành tựu bốn thứ gia hạnh diệu viên. Chỗ khác nói gia hạnh thuộc về nội phàm vì chưa chứng Thánh tánh. Nay trải qua từ Địa Càn Tuệ trở xuống gọi là Thánh vị, đâu chỉ là gia hạnh? Cho nên ở đây đặc biệt nói là gia hạnh diệu viên.
2. Nói về gia hạnh, có bốn:
a. Noãn vị:
Tức dùng giác của Phật làm tâm của mình, hoặc xuất hoặc chưa xuất, như dùi cây muốn có lửa, nên gọi là Noãn địa. Phật giác là quả trí. Như văn trước nói: Bổn giác vắng lặng, giác bằng Phật giác, tinh chân phát minh, địa như Phật địa. Đây là dùng trí của quả Phật làm nhân tâm của mình. Nhưng vẫn chưa thể lìa nhân bày quả, nên nói hoặc xuất, hoặc chưa xuất, khi gần đăng địa sẽ phát trí này, cho nên nói hoặc xuất, giống như câu nệ vào tướng nhân còn chưa lìa được. Nên nói chưa xuất, giống như tướng nóng của cái dùi lửa, trước hiện ra lửa không lâu, lửa dụ cho Phật giác, dùi dụ cho gia hạnh, cây dụ cho tướng nhân, lửa xuất thì cây hết, giác hiện thì nhân mất, nhân mất là dụ cho hơi ấm. Đây là nói theo pháp trí.
b. Đảnh vị:
Lại dùng tâm mình thành Phật, hoặc nương hoặc không nương, như thân lên núi cao, vào hư không v.v... trở xuống có chút trở ngại nên gọi là Đảnh địa, trước đây dùng giác của Phật làm tâm mình, ngay nơi quả mà nói về nhân. Nay dùng tâm mình thành Phật tức là nhân hợp với quả. Tuy nhân quả hợp nhau, mà không mất hai tướng, cho nên nói hoặc nương, như ở đỉnh núi chân có mang giày, sẽ nói lên pháp giới không có phân biệt. Cho nên nói chẳng nương, như thân ở hư không. Ở dưới có chút trở ngại, dụ cho như nương, vì còn hai tướng, hai tướng là vô minh ngăn chướng nhập Sơ địa. Đây là nói theo lìa chướng.
c. Nhẫn vị:
Tâm và Phật cả hai đều đồng, khéo được Trung đạo, như người nhẫn việc không ôm ấp, không lộ ra ngoài. Gọi là Nhẫn địa. Trước thì chưa mất tướng nhân, kế thì chưa mất tướng quả, nay hai tướng nhân quả dung thành một thể, cho nên nói tâm Phật cả hai đều đồng.(Chín trăm ba mươi mốt).
Nhân quả đã mất, hai bên không lập, cho nên nói khéo được Trung đạo. Trung đạo này thể nó chứng không lâu, cho nên nói chẳng đeo mang. Nhưng còn chưa mất tướng Trung đạo, cho nên nói không lộ ra ngoài. Đây là nói theo hiển lý.
d. Thế đệ nhất vị:
Số lượng tiêu diệt, mê giác Trung đạo, cả hai không thể gọi tên. Cho nên gọi là Thế đệ nhất địa. Mê giác là hai, tức là nhân quả. Trung đạo là một, là lý sở chứng. Đây gọi là số lượng, Trung đạo không còn, nên nói cả hai không thể gọi tên. Vì không thể gọi tên nên nói là tiêu diệt. Số lượng thuộc về thế gian, nay tuy tiêu diệt, hoặc mong Sơ địa chứng chân, còn gọi là Tự. Vì có sở đắc, nên Sơ địa thấy đạo gọi là Xuất thế gian. Đây là bờ mé sau cùng của thế gian nên gọi là bậc nhất. Bốn vị trên đây trong Duy Thức nói hai vị đầu y theo minh được hai định càng thêm sáng quán pháp tầm tứ. Quán gọi là bốn pháp bình đẳng, năng sở đều không. Hai vị sau y theo hai định không ngừng của Ấn Thuận, phát quán bốn thứ như thật, tức hai thứ không ở trước v.v... Nhưng đều có sở đắc, chưa chứng pháp thân. Cho nên Duy Thức nói vì có sở đắc cho nên không thật trụ vào Duy thức, ở đây đều nói riêng. Nay trải qua viên dung không ngại hành bố cho nên được nói dùng viên so sánh phân biệt. Bởi vậy, địa này gọi là Thế gian.
Nói về Thập Địa, chia làm mười:
1. Hoan hỷ địa:
Nầy A-nan! Thiện nam này khéo thông đạt đại Bồđề, giác thông Như-lai, bao trùm cảnh giới Phật, nên gọi là Hoan Hỷ địa. Bồ-đề là Phật giác, trước thì hoặc xuất hoặc không xuất, như tướng trước lửa, gọi là noãn (hơi ấm). Nay như lửa tắt củi hết, tro bay, khói tận cho nên nói khéo được thông đạt, Sơ địa này gọi là vị Thông Đạt. Tận cùng cảnh giới Phật là lý hiển, vì được trí vô phân biệt, khéo đạt pháp giới nhất chân bình đẳng lìa tướng năng sở. Cho nên Duy Thức nói: Bấy giờ, đối với trí sở duyên đều không thật có. Bấy giờ, vì trụ Duy thức lìa hai tướng chấp đắm.
Lại nói: Khéo đạt pháp giới nhất chân bình đẳng, cho đến được biến thành chân như, lìa chướng tánh dị sinh, tu đàn Ba-la-mật tăng thượng. Nói biến hành là chân như này cùng khắp tất cả các hành pháp. Nhưng nay chứng đắc, tự lợi lợi tha được tự tại. Nên gọi là Hoan hỷ địa.
Kinh Hoa Nghiêm, kinh Nhân Vương có nói rộng về tướng này. Nay không ghi đủ, dưới đều mô phỏng theo đây.
2. Ly Cấu địa:
Dị tánh nhập đồng, tánh đồng cũng diệt, gọi là Ly Cấu địa. Địa trước đối với Đại Bồ-đề khéo được thông đạt, lìa tướng thế gian, được chánh tánh ly sinh, phá chướng tánh dị sinh, chứng Pháp giới nhất chân. Cho nên nói dị tánh nhập đồng. Địa này đối với đồng của khác. Cũng không thật có, cho nên nói tánh đồng cũng dứt. Nếu thấy đồng thì gọi là cấu, đã lìa đối đãi, nên gọi là Ly cấu. Lại địa này chứng được chân như trên hết, lìa chướng tà hạnh, trì giới Ba-la-mật thêm cao siêu, tánh giới hiển bày nên gọi là trên hết, dùng bốn tâm vô lượng để thực hành mười điều lành rộng lớn, được thành tựu tánh giới, đối với tánh trọng chê bai, bình đẳng không khác, cũng gọi là dị tánh nhập đồng, tánh dứt cũng không, mới lìa cấu phá giới nhỏ nhặt, gọi là đồng tánh cũng dứt, gọi là Ly cấu địa.
3. Phát Quang địa:
Tịnh cực thì minh sinh, gọi là Phát Quang địa, thành tựu thắng định, đại pháp tổng trì, phá giới phiền não rốt ráo bất sinh. Địa này chứng được chân như thắng lưu. Nghĩa là từ chân như này có ra giáo pháp. Vì đối với các giáo khác rất cao siêu, dứt chướng ám độn, thực hành nhẫn nhục Ba-la-mật thêm cao siêu.
4. Diệm Tuệ địa:
Minh cực thì giác mãn, gọi là Diệm Tuệ địa. Nhờ định mà phát tuệ, tuệ càng phát sáng. Cho nên nói minh cực, có công năng phá tan phiền não sâu kín, chướng hết nên gọi là giác mãn. Lửa giác đã thêm nên gọi là Diệm tuệ. Địa này chứng được vô nhiếp thọ chân như. Nghĩa là chân như này do hai thân kiến của thức thứ sáu dứt hết ở đây, vì không bị ngã chấp nhiếp lấy, có công năng dứt trừ chướng do phiền não nhỏ nhiệm hiện hành, tu tập tinh tiến Ba-la-mật thêm cao siêu.
5. Nan Thắng địa:
Tất cả đồng khác không thể đến gọi là Nan Thắng địa. Chân trí duy nhất, nên nói là đồng. Tục trí (trí thế tục) khác nhau nên gọi là khác. Hai trí chân và tục hành tướng trái nhau, không đồng mà chẳng khác cho nên nói đều không thể đến, rất là cao siêu. Lại không có điều nào hơn nên gọi là Nan Thắng. Địa này chứng được Chân như Vô Nhiếp Thọ. Nghĩa là chân như này, chẳng giống như mắt v v... vì có loại nhau, đoạn chướng Niết-bàn của thừa dưới, tu tập thiền Ba-la-mật thêm cao siêu.
6. Hiện Tiền địa:
Tánh vô vi chân như thanh tịnh, sáng suốt hiển bày, nên gọi là Hiện tiền địa. Nghĩa là trụ vào trí nhân duyên, dẫn Bát-nhã cao sâu vô phân biệt, làm cho được hiện tiền, Trí hiện, lý hiện, nên nói là Tánh vô vi chân như thanh tịnh sáng suốt hiển bày. Địa này chứng được chân như vô nhiễm tịnh. Nghĩa là bản tánh của chân như này vô nhiễm. Cũng không thể nói sau đó mới tịnh, dứt tướng thô, chứng hiện hành, tụ tập Bát-nhã Ba-la-mật thêm cao siêu.
7. Viễn Hành địa:
Tận bờ mé chân như, gọi là Viễn Hành địa. Vì Địa thứ tám được tâm nhất chân như, nên gọi là vô tướng vô công đức, vì địa thứ bảy này (Viễn Hành địa) từ mới phát tâm, hai vô số kiếp gia công dụng hạnh đến nay có tướng ở sau công dụng. Vì ra khỏi đạo Nhị thừa thế gian. Đến chân như này không có bờ mé của tướng, nên gọi là tận bờ mé chân như. Nhiều kiếp tu hành nên gọi là Viễn Hành. Chứng được pháp chân như không khác nhau. Nghĩa là chân như này tuy có nhiều giáo pháp an lập, mà không khác, tướng dứt chướng nhỏ nhiệm hiện hành, tu tập phương tiện khéo léo thêm cao siêu.
8. Bất Động địa:
Tâm nhất chân như gọi là Bất Động địa, chẳng nhiễm chẳng tịnh, nên gọi là Nhất. Lìa các luống dối nên gọi là Chân. Thường trụ bất biến nên gọi là Như, y theo nghĩa này gọi là Bất động. Lại trong địa này trí vô phân biệt mặc tình nối nhau, vì tướng dụng phiền não không thể làm xao động nên gọi là Bất Động địa. Địa này chứng được chân như bất tăng giảm. Nghĩa là chân như này lìa chấp thêm bớt, vì không theo nhiễm tịnh có thêm bớt, dứt chướng gia hạnh trong vô tướng, tu nguyện Ba-lamật thêm cao siêu.
9. Thiện Tuệ địa:
Phát dụng chân như gọi là Thiện Tuệ địa, nương thể của lý của chân như khởi dụng trí vô ngại, thành tựu bốn vô ngại giải mầu nhiệm. Vì có khả năng trùm khắp mười phương, khéo léo nói pháp, nên gọi là Thiện Tuệ địa. Địa này chứng được chân như trí tự tại. Nghĩa là chứng được chân như này rồi thì bốn vô ngại giải được tự tại, đó là pháp vô quái ngại, nghĩa vô ngại giải, từ vô ngại giải và lạc thuyết vô ngại giải. nghĩa là bốn thứ này dùng trí làm thể, gọi là trí tự tại, hành chướng vô dục trong môn tự lợi lợi tha, tu tập lực Ba-la-mật thêm cao siêu.
10. Pháp Vân Địa, có hai:
a) Nêu yếu chỉ.
Nầy A-nan! Các Bồ-tát này, từ đây đã trụ, tu tập công đức đã xong, công đức tròn đầy, cũng gọi địa này là Tu Tập vị. Ở đây chỉ cho hai địa này cho đến địa thứ mười nói các Bồ-tát là vị thứ tứ trong năm vị này, hoặc có thể chỉ chung lần lượt từ trước đến năm mươi lăm vị. Địa thứ mười này chính là tu tập bờ mé sau rốt. Cũng gọi địa này là Tu Tập vị.
b) Nói về Pháp Vân Địa:
Từ âm diệu vân che phủ biển Niết-bàn gọi là Pháp Vân địa, thể của tâm Bồ-đề không lìa hai thứ, đó là bi và trí, từ khi mới tu tập cho đến công rốt cùng này dung hợp thành biển quả, gọi là Pháp thân. Từ chính là bi, có công năng che phủ chúng sinh, nên gọi là Từ âm. Diệu vân là trí, Niết-bàn là lý, pháp thân là vô tướng. Chỉ ba thứ này cũng nói là trí tuệ đại định, tức là ba đức Niết-bàn, gọi là kho Bí mật, nay trong vị này giống như chỗ cùng tột của tu tập, còn có Phật địa chướng, chưa thể Thỉ giác hợp Bổn giác. Hai tướng còn cho nên nói lại che lấp biển Niết-bàn. Địa này chứng được nghiệp tự tại sở y chân như, nghĩa là chứng được chân như này rồi thì được bốn thứ tự tại:
1. Ba nghiệp.
2. Năm thông.
3. Tổng trì.
4. Thiền định: dứt được chướng chưa được tự tại đối với các pháp tu trí ba la mật thêm cao siêu.
Đẳng giác vị, có hai:
1) Nói về địa vị Đẳng giác:
Như-lai ngược dòng, Bồ-tát như thế thuận dòng mà đi, bờ giác giao nhập, gọi là Đẳng giác. Từ chân khởi ứng, trở lại vào sinh tử, từ quả bắt đầu vào nhân. Nên ngược dòng Như-lai. Quả pháp Thánh trí tức là dòng pháp. Từ nhân vào quả, từ sinh tử vào Niết-bàn nên gọi là thuận dòng mà đi, là chí cực bắt đầu khởi ứng, thực hành nhân cùng tột, thuận nghịch giao nhau chỉ một sátna, cho nên nói bờ giác giao nhập. Đây là đạo giải thoát, trước là đạo Vô gián. Chỉ ở chỗ này lập làm Đẳng giác. Kinh Hoa Nghiêm không nói, Đẳng giác, vì xếp vào địa thứ mười. Cho nên trong địa ấy lại nói thọ chức là Đẳng giác. Duy Thức chỉ phá mười một thứ chướng cũng là ý này. Ở đây nêu riêng, ý còn trong viên dung nói đủ hành bố.
2) Kết luận hiển bày.
Nầy A-nan! Từ Càn Tuệ tâm đến Đẳng giác rồi, giác mới được trong tâm Kim Cương. Tuy từ Sở tâm đến Đẳng giác này đều dùng Tam-muội Kim Cương quán sát các pháp đều như huyễn. Nhưng đến vị này có khả năng phá vô minh nhỏ nhiệm sau cùng, là bờ tối cực của Tammuội này. Lực dụng đầy đủ, đắc riêng gọi là tâm Kim Cương. Đây chính là Diệu giác mới vào tâm thuộc đạo Vô gián, liền gọi Đẳng giác. Cho nên nói mới được tâm Kim Cương, tức Duy thức nói Kim Cương dụ cho định lúc hiện tiền, dứt chướng ở Phật địa thì vào Diệu giác.
Diệu giác vị:
Càn Tuệ địa đầu tiên, lớp lớp đơn phức như thế có mười hai vị, mới tận Diệu giác, thành đạo vô thượng. Bắt đầu từ Càn địa cuối cùng đến Diệu giác, đơn Phức gồm nhau, tổng cộng có mười hai, Đơn có bảy. Nghĩa là Càn tuệ, Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất, Đẳng giác, Diệu giác. Phức thì có năm, đó là Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng và Thập Địa. Vì trong mỗi vị tự đầy đủ cả mười, nên gọi là phức. Địa vị thứ mười hai gọi là Diệu giác, là Vô thượng sĩ.
Vô Thượng sĩ nghĩa là không có chỗ dứt. Vô Thượng sĩ lại có nghĩa là người không có lỗi, như trắng rằm tròn đầy không khuyết. Cho nên nói mới tận Diệu giác, thành đạo Vô thượng. Thể chính là đại Niết-bàn, ba đức đầy đủ gọi là Bí Mật tạng.
Ba Kết y hạnh thành vị, có ba:
1. Kết dụng hạnh:
Là các địa vị, đều là Kim Cương, quán sát như huyễn có mười thí dụ sâu xa. Trong Xa-ma-tha, dùng các Tỳbà-xá-na Như-lai, thanh tịnh tu chứng thứ lớp sâu vào. Chỉ cho năm mươi bảy vị trước, cho nên nói là các thứ đối với mỗi địa đều dùng Tam-muội Kim Cương như huyễn, quán sát các pháp, hoặc hạnh hoặc trí, tất cả đoạn chứng đều như lửa huyễn, trăng đáy nước, như hư không, như tiếng vang, mộng ảnh, tượng hóa v.v... Cho nên có mười ví dụ sâu xa. Đây chính là bắt đầu từ tiệm thứ cuối cùng đến quả Phật, đều do Thủ-lăng-nghiêm Vương là chỉ tức quán, là quán tức chỉ, phá hoặc vô minh, khởi hạnh tu chứng. Cho nên nói Kim Cương quán sát. Tỳ-Bà-xá-na là chỉ quán song vận. Cho nên ngài Kinh Khê nói: Như mộng chỉ thêm tên suông hoặc dứt, nhân huyễn đã đầy, bóng gương là quả tròn. Ngài Thanh Lương nói: Tu tập muôn hạnh như hoa đốm trong hư không, an tọa đạo tràng như trăng đáy nước, hàng phục ma trời trong bóng gương, chứng đắc quả Phật trong mộng, đều là ý này.
2. Kết luận vị thứ:
A-nan! Như thế vì ba tăng tiến cho nên khéo thành tựu năm mươi lăm vị đường Bồ-đề chân thật. Tăng tiến là tiệm thứ, cho nên văn trước nói: Từ tiệm thứ này an lập đạo tràng. Năm mươi lăm vị là Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng và Thập Địa, công với Càn Tuệ Địa, Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế Đệ Nhất là năm mươi lăm vị. Bồ-đề là quả, đồng với Đẳng giác và Diệu giác. Năm mươi lăm tâm gọi là Đường. Nhờ đây sẽ đến quả Bồ-đề, tức là đường Bồ-đề.
3. Kết tà chánh:
Quán như thế gọi là chánh quán, nếu quán khác thì gọi là tà quán. Nếu hành nhân y theo đây để tu chứng, không dứt mà dứt, không đảo mà đảo, đây chính là người tu hành chân chánh. Cho nên nói là Chánh quán. Nếu nói không có địa vị, nhưng chỉ là lý, ở đây đồng với tà kiến, bỏ phế không có nhân quả, nên gọi là tà quán. Trong kinh Nhân Vương cũng có phân biệt này. Nói địa vị rồi chính là nói: Hoặc nói vượt qua điều này mà thành Phật, ấy là ma nói. Đại văn thứ năm Xuất ra Thánh giáo danh thù, các văn liền y giải khởi hạnh, tu hành tiệm thứ, do nhân mà được quả, một lúc xong xuôi. Pháp môn này phải truyền đến đời sau, phải đặt tên kinh. Nếu không có tên thì lấy gì để cảm vời mà truyền bá. Cho nên có văn này. Văn có hai: Văn thù hỏi:
Bấy giờ, Pháp Vương tử Văn-thù-sư-lợi ở trong đại chúng, đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nên đặt tên kinh này là gì? Con và chúng sinh phải vâng giữ thế nào?
Văn-thù là bậc trí đức, ở trong hội này biết trước Anan gặp nạn Ma-đăng-già. Phật bảo Văn-thù trì chú đến cứu A-nan. Đại chúng ngơ ngác không hay biết, cũng vì người bên cạnh mà hỏi về kiến nguyên. Các vị Thánh đều nói Viên thông. Như-lai khuyên chọn lựa, đến nay giải hạnh viên mãn, nhân quả tròn đầy. Cho nên hỏi tên kinh để truyền bá cho đời sau, một hội có thể thờ phụng quy về người này.
Như-lai đáp:
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: Kinh này tên là Đại Phật Đảnh Tất-Đát-Đa Bát-Đát-la Vô Thượng Bảo Ấn Thập Phương Như-lai Thanh Tịnh Hải Nhãn. Dưới đây có năm tên gọi vì Phật ở Đảnh vô Kiến phát ra ánh sáng Hóa Phật nói thần chú. Điều này nói lên nhất tâm đầy đủ thể tướng dụng, là đại thể, là Phật tướng, là đảnh quang, Hóa Phật tức là dụng.
Giải thích tỉ mỉ phối hợp với pháp tức là khai ở trong đề. Tất-Đát-đa Hán dịch là bạch tán cái.
Tạng tâm vô nhiễm gọi là Bạch. Che khắp tất cả gọi là tán cái (dù).
Thật tướng trí tuệ là tôn trọng pháp, định rõ chánh tà. Chỉ có Phật và Phật mới thấu rõ rốt ráo. Gọi là Vô thượng Bảo ấn, Chư Phật ba đời dùng đây soi sáng tướng thật các pháp, dọc ngang cùng khắp đầy đủ đức vô lậu. Gọi là thanh tịnh hải nhãn. Trên đây là y cứ chung vào lý trí mà đặt tên.
Cũng gọi là Cứu hộ Thân nhân. Độ thoát A-nan Cập Thử Hội Trung Tánh Tỳ-kheo-ni Đắc Bồ-đề Tâm Nhập Biển Tri Hải.
Cứu hộ Thân nhân là nêu chung, độ thoát là bày riêng, ở dưới. Đắc tam Bồ-đề là phát tâm Đại thừa. Vào khắp biển trí là chứng lý viên thường. Trên đây y theo công dụng để đặt tên.
* Cũng gọi là Như-lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa.
Quả ba đời của người nhập vào Bí mật tạng lấy đây làm nhân, là nhân bí mật. Lại đại định này đầy đủ tất cả hạnh, không phải là điều mà người phàm biết được, nên nói là bí mật, mật là nhân mà các Đức Như-lai ba đời lấy pháp môn này làm rốt ráo, nên nói là liễu nghĩa. Đây là y theo nhân pháp để đặt tên.
* Cũng gọi là Đại Phương Quảng Diệu Liên Hoa Vương Thập Phương Phật Mẫu Đà-la-ni Chú.
Quảng là không bờ mé, nên gọi là Đại.
Chánh pháp tự giữ nên gọi là Phương. Xứng thể mà cùng khắp nên gọi là Quảng, tức là không thể suy nghĩ bàn luận. Liên hoa dụ cho khai mở tri kiến Phật, ra khỏi phiền não ngại, trí ngại, vì thấy Phật tánh giống như nước chảy lan ra. Lại có khả năng tự tại đối với các pháp, đứng đầu các Tam-muội nên gọi là Vương. Sinh ra các Đức Phật nên gọi là Mẫu. Giữ thiện ngăn ác, nhiếp chung công đức, gọi là Đà-la-ni. Chú là chú trớ.
Ở đây y theo hiển bày lợi ích mà đặt tên.
* Cũng gọi là Quán Đảnh Chương Cú Chư Bồ-tát Vạn hạnh Thủ-Lăng-nghiêm, ông phải vâng giữ. Minh giáo mà đấng Pháp Vương ủy chánh, gọi là Quán đảnh chương cú.
Chư Bồ-tát: Đã giải thích như trên. Ở đây y theo giáo hạnh để đặt tên. Năm tên ở trên đáp câu hỏi đầu. Ông phải vâng giữ là đáp cho lần hỏi thứ hai. Nhưng y theo năm tên gọi trước, như lời nói mà thực hành, truyền bá cho đời sau giúp cho chúng sinh khai ngộ, chính là vâng giữ. Giải thích việc làm trên từ nhân địa đến quả, hiển rõ vị khác nhau, hỏi tên xin vâng giữ, cùng lúc đều khắp. Đây là một hội đã xong, phải nói đại chúng nghe lời Phật nói làm lễ mà lui ra.
Khánh Hỷ lại có hỏi rằng: thời tuy cách xa, hỏi lại nối nhau, cho nên người viết kinh y theo lời hỏi, theo nghĩa hợp thành một bộ, bởi chưa kết thành làm lễ mà đi.
Đại văn thứ sáu: Nói về thú sinh nhân khác. Từ đây trở xuống là hội thứ hai lại nói kinh. Vì A-nan hỏi lúc hiện sự đã thấy là riêng khác. Đã nói như trong giáo tích trước sau. Văn chia làm hai.
A-nan thưa hỏi, có hai: 1) Nói về đắc quả, có hai:
a) Nghe pháp giúp cho đạo lực thêm lớn:
Nói lời này rồi, lúc ấy A-nan và các đại chúng được
Như-lai chỉ bày nghĩa mật ấn bát-đát-la và nghe kinh này, hiểu nghĩa tỏ rõ, đốn ngộ thiền na, tu hành tiến lên Thánh vị, tăng thượng diệu lý, tâm tự rỗng rang, dứt trừ ba cõi, tu tâm dứt sáu phẩm phiền não nhỏ nhiệm, Tammuội chân thật. Cho nên nói đốn ngộ thiền-na. Đắc quả Tư-đà-hàm nên gọi là tu tiến Thánh vị, Chứng sâu vào diệt đế nên nói là Tăng thượng diệu lý, dần dần trí sáng chiếu, nên nói tâm lự rỗng rang, hạt giống câu sinh khó dứt cho nên nói nhỏ nhiệm, nói sáu phẩm nghĩa là y theo thuyết Đại thừa. Phiền não Câu sinh là ba cõi, chín địa tuy chia ra có chín phẩm, nếu người tri thì sẽ nhập địa vĩnh viễn. Nhưng y theo bốn quả thì mỗi địa dứt riêng. Cho nên trong thân người chứng Sơ quả dứt sáu phẩm hoặc trước trong một địa chín phẩm ở cõi Dục mới chứng quả thứ hai. Trong thân của nhị quả dứt ba phẩm dưới mà chứng quả thứ ba. Trong thân tam quả dứt bảy mươi hai phẩm của hai cõi trên thì là đắc La-hán. Nay chứng quả thứ hai cho nên dứt sáu phẩm.
b) Khen Phật nói về lợi ích.
Liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn, cúi mong Ngài dùng từ âm vô ngại, khéo mở bày các hoặc sâu kín cho chúng sinh, giúp cho chúng con hôm nay thân tâm an vui, được lợi ích lớn.
Tu đạo sở đoạn, hành tướng khó biết rõ, nên gọi là sâu kín, vô thỉ câu sinh, nên gọi là trầm hoặc.
Lưới nghi xé toang nên nói là an vui: Tăng tiến Thánh vị, nên nói là làm lợi ích.
2) Nói về điều nghi, có hai:
Trình bày nghi vấn, có hai: a.1) Hỏi chung về các đường.
Bạch Đức Thế tôn! Nếu diệu minh chân tịnh diệu tâm này xưa nay tròn khắp. Như thế cho đến mặt đất cỏ cây, bò bay máy cựa, hàm linh vốn là chân như, tức là Như-lai Thành Phật chân thể, Phật thể là chân thật, sao lại nói có các đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, A-tu-la trời, người v.v...
Bạch Đức Thế tôn! Con đường này vốn tự có hay do vọng tập chúng sinh sinh khởi.
Nghi này do trước Phật bảo A-nan:
Nay ông các căn dọn sạch thì bên trong phát sáng. Ông là các tướng biến hóa của phù trần và khí thế gian. Như nước sôi làm tan băng, ngay đó hoá thành tri giác vô thượng.
Đây là một người thành Phật, khí giới hữu tình cùng lúc thành Phật. Như-lai ngày nay thành Phật đã lâu, chẳng lẽ lại có thú thứ khí giới.
Cho nên nói thể của Phật là chân thật. Đâu nói lại có đường địa ngục v.v... nếu các đường này xưa nay tự có sao ở trước nói thanh tịnh bổn nhiên, xưa nay chẳng có chúng sinh, thế giới, cũng không thể nói một người thành Phật, y chánh dung giác, hoặc nói chúng sinh vọng tập sinh khởi, Vọng tập thì làm sao sinh khởi được? Tướng của sinh khởi nghĩa ấy làm sao nói. Nếu y theo ý đáp của Như-lai, thì chính là do chúng sinh luống dối tạo nghiệp, luống dối thọ sinh. Trong tâm Bồ-đề giống như hoa đốm trên hư không vọng thấy sinh diệt. Cho nên văn dưới nói:
Ông vọng tự tạo, chẳng phải lỗi của Bồ-đề.
Hỏi: Ở đây có khác gì với điều nghi của Mãn Từ?
Đáp: Trước nghi rằng lý vốn thanh tịnh sao bỗng sinh ra núi sông đất đai, thì y theo y báo làm đầu. Vì bản nhiên khó thanh tịnh. Cho nên Chư Phật giải thích nghi. Bởi gượng giác vọng chia ra năng sở, biến thành ba thứ nối nhau, từ vọng thấy sinh, do sự luống dối này, đến cuối thì trở lại đầu. Ở đây nghi Phật nay thành quả tất cả hợp dung quy giác, sao nói lại có bảy thú hướng khác nhau. Đây là y theo chánh báo làm đầu vì quả Phật khó, chỉ có chân, chân hợp không có bảy thứ khác nhau nầy. Lại nêu đường này là vốn có ư? Hay do vọng sinh khởi? Ý muốn Như-lai nói rộng nhân quả. Tuy đều luống dối, nghiệp duyên thiện ác thọ báo tốt xấu đều không sai lầm, làm cho chúng sinh tin rõ nhân quả không rơi vào tà kiến. Văn trước chỉ nói:
Từ vọng kiến sinh một thể luống dối, những người độn căn cho rằng đều mất nhân quả. Nay giải thích rõ điều này, nhân quả rõ ràng, biết ý trước hỏi làm sáng tỏ Chân-đế.
Nay ý nghi nói về tục đế, trước sau giúp nhau mới thành viên dung rõ ràng, tức là giải thích đầy đủ nghĩa đàn. a.2) Hỏi riêng về địa ngục:
Bạch Đức Thế tôn! Như Tỳ-kheo-ni Bảo Liên Hương giữ giới Bồ-tát, lén hành dâm dục, vọng nói hành dâm, chẳng phải sát sinh, trộm cắp, không có nghiệp báo, nói lời này rồi (chín trăm ba mươi bốn). Trước tiên ở nữ căn sinh ra lửa cháy hừng hực, sau đó đối với từng đốt xương lửa dâm lẫy lừng, đọa vào địa ngục Vô gián.
Nhà vua Lưu-ly, Tỳ-kheo Thiện Tịnh, Lưu-ly giết chết dòng họ Cù-đàm, Thiện Tịnh nói căn tất cả pháp không, đời này đọa địa ngục A-tỳ, các địa ngục này có chỗ nhất định, lại là tự nhiên, hai người kia phát nghiệp đều chịu tội riêng. Việc Tỳ-kheo-ni Bảo Liên Hương chưa biết xuất xứ từ đâu, y cho rằng sát, trộm có đối, tà hạnh không đối. Cho nên nói không có nghiệp báo.
Việc Thiện Tịnh ra khỏi Niết-bàn, duyên Lưu Ly như kinh nầy, vì có chỗ nhất định nên dưới đây ý hỏi có sáu, trong văn thấy chỉ có ba:
Sáu là:
Cho là có chỗ nhất định
Cho là không có chỗ nhất định Tự nhiên
Nhân duyên Thọ riêng Đống thọ
Văn dưới kết rằng: Không dứt ba nghiệp, mỗi thứ đều có riêng, vì có thọ riêng, nhiều riêng đồng phần, đều có chỗ nhất định.
Thỉnh nói về lợi ích.
Chỉ rũ lòng đại bi khai phát trẻ thơ không biết gì, làm cho tất cả chúng sinh giữ giới nghe nghĩa quyết định vui mừng lãnh tho, cẩn thận không để phạm. Ấu tiểu: là đứa trẻ
Tình mê muội gọi là mộng.
A-nan tự xem thường mình không có đại trí, nên xin Phật khai phát. Những người giữ giới nếu nghe nhân quả luống dối giống như hoa đốm trong hư không, thì giữ giới đâu có lợi ích gì. Nếu chỉ bày quyết định nghĩa môn thì chắc chắn làm cho trong sạch, không phạm.
Như-lai đáp, có hai:
Khen ngợi xin hứa khả giảng nói: Phật bảo A-nan! Lành thay! Ông hỏi điều này, làm cho tất cả chúng sinh không rơi vào tà kiến. Nay ông lắng nghe, ta sẽ nói cho ông rõ. Ngay nơi tục mà chân chỉ một diệu giác, ngay nơi chân mà tục, nhân quả đều không mất, ý nghĩa này đều dung thông mới là viên dung liễu nghĩa. Điều A-nan hỏi rất xứng với tâm Phật cho nên khen lành thay, tự dứt bỏ tà kiến.
Chánh là phân biệt, có ba: b.1) Y theo tình tưởng để nói chung, có ba:
* Chia chung hai phần, văn có hai:
-Nêu bày:
Nầy A-nan! Tất cả chúng sinh, thật vốn có chân tịnh. Nhân kia vọng thấy, có vọng tập sinh khởi. Do đây chia ra phần trong, phần ngoài.
Các pháp vốn chân, không hề sinh diệt. Do niệm phân biệt, thấy các pháp sinh. Nếu lìa niệm thì thấy chúng sinh, núi sông, cõi nước xưa nay thành Phật. Cho nên nói thật vốn chân tịnh.
Trở lại nguồn gốc, tuy vậy nếu chưa quay lại thì đều y theo thấy vọng, tạo nghiệp chịu báo. Cho nên văn dưới nói chúng sinh này không biết bổn tâm, chịu sự luân hồi, trải qua vô lượng kiếp không được chân tịnh, đều do thuận theo sát đạo, dâm. Nếu trái với ba thứ này thì không có sát, đạo, dâm. Có gọi là đường quỉ, không gọi là đường trời, có không nương nhau, khởi tánh luân hồi.
Cho nên nói nhân kia vọng thấy có vọng tập sinh, v.v...-Nói rõ, có hai:
+ Nội phần y theo, tình, có hai:
- Giải thích tướng.
Nầy A-nan! Nội phần tức là trong phần chúng sinh, do các ái nhiễm mà phát khởi vọng tình. Tình chất chứa không thôi, có công năng sinh nước ái, tình ái nhiễm chính là căn bản sinh tử của chúng sinh gọi là phần trong. Phần cũng có nghĩa là nhân, tình ái chìm xuống làm cho nhuần thấm nghiệp thọ sinh, nên nói như nước. Ngoại do nội cảm, cho nên có dòng biển khắp các cõi mười phương. Bởi vậy, chúng sinh tâm nhớ nghĩ đồ ăn ngon thì, chảy nước trong miệng, tâm nhớ người trước, hoặc thương hoặc thù thì trong mắt lệ tràn, tham cầu tiền của vật báu, tâm sinh khởi yêu thích thì toàn thân nhuần thấm, tâm mê đắm hành dâm, hai căn nam nữ tự nhiên tuôn ra chất dịch. Đây là dẫn việc để xem xét.
Nhớ là niệm, nhớ rõ là tánh, niệm có ưa ghét. Cho nên chia ra thương và ghét. Do yêu thương mà sinh tâm ghét, không lìa tình nhiễm, trong có tình nhiễm, ngoại có việc này, cho nên đều chảy thành dòng.
- Kết thành:
Nầy A-nan! Các ái tuy khác nhưng lưu kết lại thì giống, nhuần thấm không bay lên, tự nhiên rơi xuống. Đây gọi là phần trong. Cảnh sở ái tuy khác, nhưng tâm năng ái là một, cho nên nói lưu kết là giống. Lưu là chìm xuống, kết là ràng buộc. Nhân đã không bay lên thì, quả cũng rơi theo.
+ Phần ngoài y theo tưởng, có hai.
- Giải thích tướng.
Nầy A-nan! Phần ngoài là phần ngoài của chúng sinh, do các khát ngưỡng mà phát minh hư tưởng. Tưởng chứa nhóm lâu ngày không ngừng sẽ sinh thắng khí, sinh tử của chúng sinh vốn phân ra do tình, tình nhiễm đắm cảnh, nhân liền đọa theo. Nay lấy cảnh tịnh làm chỗ sở dục. Nhưng chỉ do tưởng này, không thuộc về tình, chính là việc phần ngoài của chúng sinh, cho nên nói ngoại phần, khí là khí sắc.
Cho nên chúng sinh tâm giữ cấm giới, thì toàn thân nhẹ nhàng thanh tịnh, tâm trì ấn chú, thì mắt thấy có thần, tâm muốn sinh lên cõi trời thì mộng thấy muốn bay cao, tâm nghĩ đến cõi Phật, thì cảnh Thánh hiện bày, thờ thiện tri thức, tự xem thường thân mạng, đây là dẫn việc để xem xét, thân nhẹ nhàng thanh tịnh, mắt thấy có thần, mộng thấy bay cao, cảnh Thánh hiện ra, xem nhẹ thân mạng. Năm điều này là sắc khí cao siêu, do tưởng mà có, nghị là dám.
- Kết thành:
Nầy A-nan! Các tưởng tuy khác, nhưng nhẹ bay lên là đồng, lay động không chìm tự nhiên vượt lên, đó gọi là phần ngoài, vui mừng cảnh đẹp bên ngoài, không do tình nhiễm, tưởng đã nhẹ nhàng thanh tịnh tự nhiên lay động, quả báo phải vượt lên. Đã tổng kết ở trên mà lược rõ, chưa phân biệt thiện ác tỉ mỉ.
* Nói riêng về đường sinh, có hai:
- Nói chung về nghiệp duyên thuận nghịch.
Nầy A-nan! Tất cả thế gian sinh tử nối nhau, sinh từ thuận tập, tử từ biến hóa mà ra. Khi qua đời chưa xả bỏ hơi nóng. Thiện ác một đời điều hiện. Chết nghịch sống thuận.
- Tập giao nhau. Thuận nghịch, có hai:
+ Y theo tình.
Tất cả chúng sinh ham sống sợ chết. Sinh là thuận tình, chết là nghịch tình. Cho nên nói sinh từ thuận tập, chết từ biến ra. Biến giống như nghịch. Lại khi thọ thai ba chỗ đều thuận. Cho nên được sống, chết thì không như vậy.
+ Y theo nghiệp:
Nghiệp có công năng cảm quả. Sống thì cảm thuận, do nhân mà đưa đến quả, nên nói là thuận tập. Chết thì trái với điều này, không có nghĩa sinh ra lớn lên. Cho nên nói biến lưu. Sống chết giao tế gió lửa chưa tan. Hành nghiệp thiện ác nhân duyên bình sinh lúc này đều hiện ra. Mạnh thì kéo trước, là tùy theo chỗ sinh.
- Nói riêng về tình tưởng thăng trầm, có năm:
+ Nói về thuần tưởng:
Thuần tưởng tức là bay, chắc chắn sinh lên cõi trời. Nếu trong lúc tâm bay gồm có phước, tuệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm khai mở, thấy các Đức Phật mười phương, tất cả tịnh độ tùy nguyện vãng sinh về. Ở đây có hai trường hợp:
- Nếu chỉ có tưởng mà không có phước tuệ, tức là chỉ giữ giới mà chán ghét thân này thì chắc chắn sinh lên cõi trời.
- Nếu giữ giới và tu cả phước tuệ, phát nguyện thấy Phật, nhàm chán ba cõi thì chắc chắn sinh về tịnh độ, thấy các Đức Phật mười phương, liền được Vô Sinh nhẫn, nên nói tâm khai, như Quán kinh có nói.
+ Tình ít tưởng nhiều:
Tình ít tưởng nhiều, nhẹ bay lên không xa, là năng lực bay lên của tiên, quỉ vương, phi hành dạ-xoa, địa hành la-sát, bay lên đến Tứ thiên, đến đâu cũng được vô ngại. Vì tưởng nhiều cho nên bay đi tự tại, vì tình ít cho nên làm thân tiên quỉ. Các loại này, phần nhiều do tưởng tà, không tu hành chân chánh. Tức là không tu giới tuệ mà tu tà định, vì không giữ giới nên đọa vào đường quỉ thần. Vì tu định cho nên có thần thông rộng lớn. Do khác nhau như vừa nói trên vẫn là tưởng nhiều tình ít.(Chín trăm ba mươi lăm) Trong đây, có bốn loài như tiên quỉ, v.v... được phối hợp với chín, tám, bảy, sáu tưởng. Nếu người nặng về tình mà không có giới định thì đọa vào ba đường ác.
Trong đó nếu có nguyện lành, tâm lành giữ gìn pháp của ta, hoặc giữ gìn giới cấm, tùy theo người trì giới, hoặc hộ thần chú, tùy theo người trì chú hoặc hộ thiền định mà được Pháp nhẫn. Như thế những người này đích thân ở dưới tòa Như-lai. Vì nặng về tưởng này vẫn gồm nguyện lành, tuy không giữ giới, lại có định nguyện, giữ gìn giới chú và thiền định. Điều này chính là do điều trước huân tập, cố hủy giới cấm vì biết lỗi cho nên phát nguyện, cũng nương vào giới mà được yên ổn, cho nên thân tám bộ mà được thấy Phật. + Tưởng và tình bằng nhau:
Tưởng và tình bằng nhau thì không bay lên, không đọa xuống, sinh ở nhân gian tưởng sáng suốt, tình u độn: không sinh lên cõi trời cõi tiên, không đọa vào ba đường, nhưng trong sự bằng nhau ấy nếu hơi mạnh về tưởng thì căn tánh không minh, nếu hơi nặng về tình thì căn sẽ ám độn. Tuy cùng là loài người cũng do tình tưởng có sự khác nhau này, tức là quả báo khác nhau.
+ Tình nhiều tưởng ít.
Tình nhiều tưởng ít thì rơi vào loài hoành sinh, nặng thì đọa vào loại có lông, nhẹ thì sinh vào loài lông cánh. Nếu xét theo văn dưới, thì ở đây phải là sáu tình, bốn tưởng.
Hoành sinh là bàng sinh, nhưng có nặng nhẹ. Nếu tình hơi nặng thì quả báo sẽ làm loài thú chạy, nên gọi là loài có lông. Nếu tưởng hơi mạnh thì thân làm chim bay, cho nên nói loài lông cánh. Suy luận kỹ có khác nhau như trong loại sinh mà văn dưới nói.
Bảy tình ba tưởng thì chìm xuống biển nước. Sống ở bờ lửa, phải chịu lửa mạnh, thân làm ngạ quỉ thường bị thiêu đốt, nước sẽ hại mình, không được ăn uống, trải qua trăm ngàn kiếp.
Bờ lửa là nơi ngạ quỉ ở, dòng nước hướng xuống đến bờ lửa gần địa ngục.
Bị hơi lửa mạnh thiêu đốt là do nghiệp lực, chịu lửa mạnh làm thân. Cho nên thường bị thiêu thân từng lóng đốt, lửa thì bốc lên. Nước làm hại mình là khổ vì không có nước. Nếu gặp thành lửa thì thân mình bị thiêu đốt nên nói là hại mình.
Chín tình một tưởng thì dưới lửa bốc cháy, thân vào gió lửa, cả hai xen nhau qua lại. Nhẹ thì đọa vào Hữu gián, nặng thì đọa vào Vô gián, là hai thứ địa ngục. Hai thứ giao nhau qua lại, là nơi gió lửa giao nhau, chính là nơi địa ngục nóng bức thứ bảy. Trong chín tình, nếu hơi giảm thì gọi là nhẹ, tức là tám tình đọa vào hữu gián, hơi tăng gọi là nặng, đọc vào Vô gián là chín tình. Nói Vô gián này là nói theo chịu khổ. Nhưng Vô gián này đối với Hữu gián mà có tên, Vì là địa ngục nóng bức thứ bảy, dưới tức là năm địa ngục Vô gián thứ tám, là tên khác của A-tỳ nặng nhất.
+ Thuần tình:
Thuần là tình thì chìm vào địa ngục A-tỳ. Nếu trong tâm chìm ấy có chê bai Đại thừa, hủy cấm giới của Phật, cuồng vọng nói pháp, tham ăn của tín thí, lạm được cung kính, năm tội nghịch, mười giới trọng, lại đọa vào địa ngục A-tỳ ở mười phương, A-tỳ Hán dịch là Vô gián, là địa ngục thứ tám, có đủ năm thứ là: chịu tội, khổ cụ, thân lượng, kiếp số, và thọ mạng.
Nếu theo Câu-Xá thì nghiệp báo Vô gián vì gây ra tội này chắc chắn đọa địa ngục, lại không có dư nghiệp, dư sinh có thể gián cách. Chê bai Đại thừa dưới các tội cực trọng, do đó đọa vào các địa ngục A-tỳ ở mười phương.
Kinh Pháp Hoa nói: Nếu khinh chê kinh này thì người ấy khi qua đời bị đọa vào địa ngục A-tỳ, đủ một kiếp, kiếp hết sinh trở lại, cứ như thế xoay vần đến vô số kiếp.
Luận Câu-xá nói: Tuổi thọ trong địa ngục A-tỳ là một trung kiếp, hai mươi lần tăng giảm là một Trung kiếp, đã nói vô số, thế giới này hư hoại, liền đến các địa ngục A-tỳ ở mười phương, vì tội chê bai chánh pháp, cắt đứt hạt giống Phật, vì làm cho vô lượng người đọa vào tà kiến.
Kết do nghiệp mình.
Chỉ thuần gây ra nghiệp ác, tuy là tự vời, trong chúng đồng phần gồm cả nguyên địa. Thuận theo làm ác, cho nên chịu khổ báo, nghiệp ác không đồng, thọ báo cũng khác. Cho nên nói là tự vời, trong chúng đồng phần có nguyên địa, nhiều tên không phải một, đồng là một nghĩa, chúng có tương tự, đồng lập phần danh.
Tạo nghiệp đồng: là cộng trung cộng biến, luận CâuXá nói: Có sai biệt đồng phần và vô sai biệt đồng phần. Đồng nghiệp cũng cảm nhiều khổ đều chịu khổ này, gọi là vô sai biệt đồng phận, nếu tùy theo nặng nhẹ chịu báo khác nhau, gọi là sai biệt đồng phần.
Nay nói nguyên địa chính tức là khác nhau.
Y theo nghiệp báo để nói riêng, có bảy:
1. Địa ngục, có ba:
a) Kết trước sinh sau.
Nầy A-nan! Đó đều là do tự nghiệp của các chúng sinh kia chiêu cảm, gây ra mười tập nhân, chịu sáu giao báo, do tình tưởng vọng tập các nghiệp, tùy nghiệp thiện ác, hoặc bay lên hoặc đọa xuống. Cho nên nói là do tự nghiệp chiêu cảm.
Mười tập nhân là chỉ riêng cho nghiệp ác, tức là mười sử phiền não, đối với cửa sáu căn phát thức tạo nghiệp, tự chịu quả báo. Từ sáu căn phát sinh ra báo và nghiệp giao nhau. Cho nên nói giao báo, đồng thọ địa ngục tức dẫn nghiệp chiêu cảm. Sáu căn thọ riêng là đưa đến mãn nghiệp, đều là chúng sinh vọng tình tập tạo.
Gạn lại nói riêng, có hai: b.1) Mười tập nhân, có mười:
* Dâm tập:
Thế nào là mười nhân? Là nêu chung. Phát nghiệp có hai:
- Chánh phát, tức là vô minh.
- Trợ phát, là dư hoặc câu phân biệt.
Nay mười nhân này, trừ dâm tập là nghiệp sở phát, còn chín nhân kia là hoặc năng phát, hoặc có căn tùy. Văn dưới tự chỉ. Mười đoạn văn dưới đây đều có ba:
Nầy A-nan! Một người do dâm tập giao tiếp phát tướng va chạm nhau, nghiên cứu sự va chạm nhau không thôi, vì thế nên trong ánh sáng lửa lớn phát động, như người xoa hai tay vào nhau thì có hơi nóng.
Do nhân đưa đến quả. Đây là nghiệp sở phát, đầy đủ tham si, sinh tử luân hồi lấy đây làm gốc, nội căn ngoại cảnh hợp nhau. Cho nên nói giao tiếp, trong ngoài cùng phát, trở thành lửa dục, dụ cho hiển bày rất dễ hiểu. Hai tập đốt nhau, cho nên có giường sắt cột đồng. b.2) Chiêu cảm tướng quả:
Căn cảnh đều có cho nên nói hai tập, năng xúc sở xúc đều là tâm ta huân tập lẫn nhau kết thành nghiệp dâm. Vì cảnh dục nên khởi tâm điên đảo, sinh tưởng ưa thích mình và người. Do nghiệp chủng này, sau đó chiêu cảm quả báo, từ năng xúc ấy hiện thân địa ngục, từ sở xúc này hiện đủ các khổ, đều là do nghiệp của mình tự huân
Chia hai tập này tự hại mình, người khác cũng mô phỏng theo đây.
Bởi vậy tất cả Như-lai mười phương mắt thấy sắc hành dâm, đồng gọi là lửa dục. Bồ-tát thấy dục tránh xa như tránh hầm lửa Kết bày tên tội:
Lửa làm biến hoại tất cả thế gian, dục làm phá diệt pháp lành xuất thế, cho nên hành giả phải xa lìa.
* Tập tham.
Tham tập giao kế phát ra sự hút nhau, hút mãi không dừng, như thế cho nên tích chứa hơi lạnh, đóng băng trong nước. Như người dùng miệng hút gió có hơi lạnh sinh ra, từ nhân đưa đến quả. Tham là căn bản của ái, có khả năng nhuận sinh, nhiễm đắm làm tánh. Do yêu đắm (chín trăm ba mươi sáu) cho nên có các thứ suy tính, cầu chấp lấy cảnh trước cho nên nói giao kế hút nhau, tham chấp không thôi, như nước đóng thành băng trụ chắc không tan, nên thành đông đặc. Giải thích sự tham này lâu thành nghiệp để đến được quả, văn ví dụ rất dễ thấy. Hai là tập xâm lấn nhau: Cho nên có các việc tra-traba, ba-la-la, sen xanh đỏ trắng, nước lạnh v.v... chính là nói về tướng quả, do nhân cảm quả, do trong cảm ngoài, tra-ba-la là tiếng bị lạnh, là địa ngục lạnh thứ tám.
Luận Câu-Xá nói: Át-bộ-đà, Hán dịch là Bào. NiSắc-bộ-đà Hán dịch là bào liệt, hai điều này từ tướng.
A-thệ-tra, đệ-đệ-bà, la-la-bà, ba điều này là từ tiếng, uất-bát-la v.v... là hoa sen xanh, trắng, hồng, ba điều này từ sắc. Vì rất lạnh, sắc thân cũng vậy, tương lăng là xâm lấn nhau.
Bởi vậy, mắt thấy sắc phần nhiều tìm cầu cho được, cho nên tất cả các Đức Như-lai mười phương đồng gọi là nước tham, Bồ-tát thấy tham tránh xa như tránh biển khí độc.
* Kết nêu tên lỗi.
Tham có công năng thấm nhuần, làm tăng thêm pháp ác, như nay có dòng nước uống thì tham, lại làm tổn hại pháp thân tuệ mạng, như có biển khí độc.
* Mạn tập.
Mạn tập xen nhau, phát sinh cậy nhau, chảy nhanh không dứt, vì thế cho nên có trôi nổi lưu lạc chứa sóng thành sông.
Như người tự cuống lưỡi, do đó mà có nước chảy ra, hai tập đánh nhau cho nên có sông máu, sông tro cát nóng, biển độc, đồng chảy rưới nuốt. Mắt thấy sắc ngã mạn nên các Đức Như-lai mười phương gọi là uống nước si.
Bồ-tát thấy mạn tránh xa như tránh biển lớn.
Ba là đoạn trích trên đây tánh của nó là cậy mình xâm lăng người, cống cao, cho nên gọi là Mạn.
Nay nói giao xen nương nhau rong ruổi trôi giạt là tướng mạn. Các việc như sông máu, sông tro, biển độc v.v... Đều do quả báo chiêu cảm, từ bên trong đưa đến bên ngoài, nhân quả xứng nhau, uống nuốt mê đảo nên gọi là nước si. Tây quốc có việc ấy, chìm đắm rất dễ hiểu.
* Sân tập:
Bốn là sân tập xen nhau nên phát sinh trái nghịch, trái nghịch buộc chặt không thôi, tâm nóng phát lửa, đúc khí thành vàng. Như vậy cho nên có núi dao sắt, cây là kiếm, bánh xe kiếm, búa rìu, cưa đục. Người này ngậm oán sát khí, bay động, hai tập đánh nhau Cho nên có các việc cung tên, chặt chém, đâm, đánh v.v... Cho nên tất cả Như-lai mười phương nói mắt thấy sắc là sân khởi, gọi là dao kiếm bén.
Bồ-tát thấy sân tránh xa như tránh chém giết, đối với các thứ khổ làm tăng sân nhuế cho thân tâm, nóng bức ôm ấp mãi, tánh không an ổn, trên đây đều là căn bản nhiếp hoặc, xung đột nhau kết thành nóng bức, nóng bức không dừng, khí phẫn nộ thành bền chắc, cho nên cảm được việc như vàng, đá, v.v... Cái cọc buộc chặt người tội vào. Hai hình phạt cung tên và cắt xẻo, nhà Tần có năm hình phạt, chặt chém đều là hình phạt chết mới, đâm là một thứ đo hình phạt từ ngày xưa. Nay có tội thì có hình phạt này, đánh là một loại gậy hình phạt mới như đời Mạt thế người khởi tâm tức giận dữ dội thì cầm có cây cỏ cây, đều thành đao kiếm, chẳng phải do nội tâm chiêu cảm hay sao?
* Tập khí gian dối:
Năm là tập khí dẫn dụ phát ra điêu ngoa, dẫn khởi không trụ, do thế đó nên có dây cây ràng rịt, như nước thấm vào ruộng, cỏ cây sinh ra và lớn lên, hai tập đối chọi nhau, vì thế có các việc như gông cùm, xiềng xích, roi gậy. Cho nên tất cả các Đức Như-lai ở mười phương nói mắt thấy sắc sinh ra gian ngụy, cũng gọi là giặc xấu. Bồ-tát thấy gian trá rất sợ như sợ cọp sói gọi là tà vọng, không giả mạo với người mà giả oai nghi khác lạ. Dua nịnh làm tánh, hoặc lấy của người, hoặc giấu lỗi mình, không chịu nghe lời thầy bạn khuyên dạy, đây là tùy số. Nay nói phát sinh ra tướng, dẫn khởi chẳng trụ, chính là đây, gian trá là nhiều đầu mối, làm khuấy rối người lương thiện. Dù có phương tiện dắt dẫn, cho nên nói dắt dẫn. Dây cây ràng rịt là dụng cụ chiêu cảm khổ, tâm ác thầm khắp như nước thấm vào ruộng.
Cọp sói đi thành bầy, lưỡi có gai nhọn mọc chĩa ra, đầu nhọn, trán trắng, đuôi lớn sống lâu, giống như con chó, gian ngụy thua chánh, giống như cướp nịnh.
* Cuồng tập:
Sáu là người cuồng tập xem thường qua lại phát ra dối vọng, dối gạt không thôi, tâm bay nhảy tạo ra gian trá như thế, cho nên có bụi đất, phẩn tiểu ô uế bất tịnh, như bụi theo gió không thể thấy được, hai tập xung đột nhau cho nên có các việc chìm chết, bay nhảy, nổi trôi. Bởi vậy tất cả Như-lai ở mười phương nói mắt thấy sắc khi cuồng đều gọi là cướp bóc, giết hai. Bồ-tát thấy cuồng tránh xa như tránh rắn độc ở đây cũng tùy số, cuồng là khi cuồng, tâm khởi mưu tính khác, phần nhiều hiện không thật, giả hiện có đức, tánh là dối trá, nghiệp là tà mạng. Nay nói khinh khi nhau, khi là dối lừa. Lừa dối tức là hiện việc tà mạng để dụ lợi, được khen, bụi, đất phẩn tiểu đều là khổ cụ. Thời kiếp đao binh người giết hại nhau, cho nên nói kiếp sát là loài rắn rít dài ba tấc, đầu như ngón tay cái.
* Oán tập
Bảy là oán tập hiềm nhau sinh ra hận thù, cho nên có đá bay, ngói ném, xe hư đựng đầy túi khăn, như che người độc, ôm ấp tâm ác, hai tập nuốt nhau cho nên có các việc liệng ném, kéo đánh, bắn rút v.v...
Bởi vậy, tất cả Như-lai ở mười phương nói mắt thấy sinh oán gọi là quỉ Vị Hại. Bồ tát thấy kẻ oán như uống rượu độc, oán chính là hận, do oán làm đầu, ôm ấp điều ác không xả bỏ.
Kết oán thành tánh không thể nhẫn được. Vì thường nóng bức. Túi khăn đều là dụng cụ trói buộc người tội, có lẽ viết nhầm chữ Pháo (đánh) kéo lui đều kéo buộc người tội, có lẽ viết nhầm chữ phao (ném). Như quỉ vi hại thường rình tìm dịp hại người, rượu độc là tên của chim Trấm, cánh lông của nó làm rượu, rượu này có thể giết người.
* Kiến tập:
Tám là kiến và tập xen lẫn nhau, như Tát-ca-da do giới cấm chấp lấy, tà ngộ các nghiệp, phát sinh chống cự nhau, sinh ra trái nhau. Bởi vậy mà có vua sứ, chủ sứ chứng cầm văn thư.
Như người đi đường qua lại thấy nhau, hai tập giao nhau. Cho nên có các việc quyền trá, khảo hỏi, đánh đập, tra xét, soi rõ thiện ác. Đồng tử tay cầm quyển sổ biện từ. Bởi vậy tất cả Như-lai mười phương nói mắt thấy sắc sinh ác kiến, đều gọi là hầm kiến. Bồ-tát thấy các thiên chấp luống dối như vào hang độc. Kiến là ác kiến, lấy các đế lý điên đảo, suy lường tuệ nhiễm làm tánh, làm chướng ngại thiện kiến, vời khổ làm nghiệp. Các hành tướng khác nhau của kiến này có năm:
Thân kiến là chấp ngã, ngã sở.
Biên kiến: là chấp đoạn, chấp thường.
Tà kiến: Chê bai cho rằng không có nhân quả.
Kiến thủ: nghĩa là các kiến và uẩn sở y chấp không có chỗ trên hết để được thanh tịnh, nghiệp là tất cả chỗ nương tựa đấu tranh.
Giới cấm thủ: Nghĩa là thuận theo các kiến giới cấm và uẩn sở y, chấp là trên hết để được thanh tịnh. Nghiệp của nó là sở y nhọc công vô ích.
Kiến tập này, đều chấp vào kiến giải của mình để phải quấy lẫn nhau, cho nên có các việc Vương sứ chủ lại.
Quyền trá: Là nương phương tiện để chấp tình. Chiếu minh là dẫn việc khác để y cứ chứng minh.
* Uổng tập.
Chín là cong vạy giao xen nhau, sinh ra chê bai. Như thế cho nên có hợp núi hợp cối đá, cày, mài. Như tên cướp gặp người lương thiện, hai tập bác bỏ nhau, cho nên có các việc buộc đè, kéo, đá, đo lường, v.v... Bởi vậy tất cả Như-lai ở mười phương nói, mắt thấy sắc sinh ra oán hận chê bai, (chín trăm ba mươi bảy) đồng gọi là sàm nịnh. Bồ-tát thấy tà vạy tránh xa như gặp sấm chớp. Cong vạy chính là ép ngặt hại người lương thiện tổn não người, tâm không thương xót, nhiếp những điều hại, ức hiếp người lương thiện, đè ép kẻ vô tội làm cho xứng tội. Cho nên chiêu cảm việc hợp núi, v.v... Túc: Là ép ngặt. Lộc: Là rung chuyển.
Hành: Là quyền hành. Độ: là Trượng, thước.
Dua nịnh làm hại điều lành, hổ có khả năng ăn người. Tụng tập:
Mười là tụng tập bàn nhau, sinh ra che giấu. Bởi vậy mà có gương soi đuốc chiếu, vì thế mặt trời giữa trưa không thể che bóng, nên có bạn ác, gương, nghiệp, ngọc, lửa, bày tỏ nghiệp xưa để đối nghiệm các việc. Bồ-tát thấy sự che lấp như mang núi cao, đeo biển lớn. Đây là tập che giấu, nhưng nói tụng là do che giấu mà sinh tranh cãi.
Tánh của che giấu là tự mình làm tội, sợ mất quyền lợi, mà che đậy, hối não làm nghiệp. Nghĩa là người giấu tội, sau đó phải hối não không an ổn. Mình có tội, không thể tự phát lộ bèn kiện tụng người. Tranh tụng này tức là một trong các pháp hối não, phẫn hận làm đầu, đuổi theo xúc chạm nóng nảy, tánh là oán hận, nghiệp là nọc độc, nghĩa là đuổi theo việc ác.
Xúc hiện trái với duyên, tâm liền nổi hận, thường phát ra lời thô bạo, thấp hèn thô xẵng, châm chích người nên gọi là Tụng, mình thì che lấp mà thưa hiện người, hai tập phát nhau nên chiêu cảm bạn ác gương nghiệp. Tội ác che giấu tự biết mà thôi. Như giặc ngầm không sợ chịu khổ, phải đọa đường ác, như đội núi đi trên biển.
Nói về sáu giao báo, có hai:
1. Nêu chung:
Thế nào là sáu gieo báo?
Nầy A-nan: Tất cả chúng sinh do sáu thức mà gây ra nghiệp, cảm vời ác báo từ sáu căn mà ra. Tạo nghiệp đã từ sáu căn đến, chịu báo cũng trở về sáu căn, nhân và quả giao nhau, nên gọi là giao báo. Lại một căn chịu báo thì tất cả sáu căn đều chịu, các căn đều như vậy. Nên gọi là giao báo, Hán dịch là sáu thức tạo. Nghiệp giả lại theo tướng chung thì nghiệp giả có nghĩa là chiêu cảm, nhưng có cả chung riêng, nếu có thể dắt dẫn nghiệp lành, không lành suy nghĩ chiêu cảm quả vô ký thứ tám ở tương lai, thì đó là nghiệp báo chung. Nếu là ba tánh của nghiệp đầy đủ suy nghĩ chiêu cảm quả khổ, hoặc vui ở tương lai thì gọi là nghiệp báo riêng, Thức thứ sáu ấy tạo cả chung lẫn riêng về báo nghiệp. Nếu năm thức trước chỉ làm trợ phát cho báo riêng, không thể phát chung vì hai thứ mạnh mẽ tùy chuyển khác nhau. Từ sáu căn phát ra: Nghĩa là sáu căn của người kia tạo nghiệp, đã tạo từ căn, thọ cũng là căn thọ. Cho nên nói từ căn ra.
2. Nói riêng, có sáu
a) Kiến báo, có hai:
a.1) Khi sắp qua đời thấy cảnh:
Thế nào là ác báo từ sáu căn mà ra? Một là kiến báo chiêu cảm quả ác, kiến này với giao nghiệp thì sắp qua đời trước thấy, thấy lửa mạnh khắp các cõi mười phương, thần thức người chết bay lên hoặc rơi xuống theo làn khói, vào ngục Vô Gián, khai ngộ hai tướng. Hai mắt gây tội là thấy nghiệp.
Lúc sắp qua đời thấy cảnh là do nghiệp báo giao nhau vì mắt chấp vào sắc, sắc có thể sai sử tâm tạo ra các nghiệp, cho nên thấy lửa mạnh ở các cõi mười phương, thần thức theo ngọn lửa vào ngục để chịu báo.
a.2) Tùy nghiệp chịu báo:
Một là thấy sáng thì thấy khắp các loài vật xấu ác rồi sinh ra vô lượng sợ hãi.
Hai là thấy tối, vắng lặng không thấy, sinh ra vô lượng sợ hãi. Cho nên thấy lửa thiêu đốt, nghe tiếng có thể là vạc dầu nước sôi, mầu thiêu đốt có thể là khói đen, khói tím, vị thiêu đốt có thể là nấu hoàn sắt, thiêu đốt, xúc có thể là lò than tro nóng, thiêu đốt tâm có thể sinh tinh hỏa, quạt lửa, đánh vào không giới. Hai trần sáng tối là sở thủ của mắt. Sáng có thể nói riêng, cho nên thấy tướng ác. Tối thì không phân biệt, chỉ sinh sợ hãi, như thế lan khắp sáu căn. Chỉ có bàng sinh là chánh, chánh do mắt phát thức tạo nghiệp. Cho nên trước là khắp hết các căn, nay ở đây không nói, vì văn lược bỏ. Văn dưới thì đủ. Trong đây cho lửa là dụng cụ khổ. Và hết các căn khác, tùy theo căn chuyển biến là cảnh không vừa ý.
b) Quả báo nghe, có hai:
b.1) Lúc sắp qua đời thấy cảnh:
Hai là quả báo nghe, chiêu cảm quả xấu, sự nghe này giao với nghiệp, thì khi sắp qua đời, trước hết thấy sóng lớn nhận chìm trời đất. Thần thức người chết trôi xuống theo dòng vào ngục Vô Gián, khai ngộ hai tướng.
Nghe làm đánh động biển tâm, như sóng lớn, chấp trước tạo ra nghiệp này, cho nên khi sắp qua đời thì thấy.
Giáng chú là chảy xuống. b.2) Tùy nghiệp chịu báo.
Một là khai mở cái nghe. Nghe các thứ ồn ào, tinh thần rối loạn.
Hai là đóng bít tiếng lại, yên lặng không nghe, hồn phách tối tăm chìm mất, như thế cứ nghe tiếng sóng, lắng nghe thì có thể là trách, là hỏi. Chú ý thấy thì có thể là tiếng sấm, tiếng rống, là khí độc. Khi hét thì có thể là mưa, là sương, rưới các côn trùng độc hại khắp thân thể. Nếu ngửi mùi thì có thể là máu mủ và tạp uế. Nếu xúc chạm thì có thể là súc sinh, ngạ quỉ, là phẩn tiểu. Chú ý là sấm chớp có thể làm nát tan hồn phách.
Căn chấp lấy cảnh động tĩnh, tạo ra các nghiệp, nay chịu báo này cũng là duyên.
Hai điều: Mở là động, đóng là tĩnh. Thọ riêng khắp các căn như thế.
Trong văn này vì căn đối với cảnh có khác nhau. E rằng sợ trở lại văn phạm, người dịch tùy theo không xem xét. Như điện chớp, tiếng rống, khí độc không phải là thứ mắt chấp lấy. Mưa, sương, trúng độc không phải là cảnh của mũi. Văn khác thì thuận, người có trí tự hiểu.
Quả báo ngửi, có hai:
1. Lúc sắp qua đời thấy cảnh:
Ba là quả báo ngửi, chiêu cảm quả ác, quả báo ngửi này và nghiệp giao nhau, thì khi qua đời thấy khí độc đầy khắp xa gần. Thần thức người chết từ đất vọt ra vào ngục Vô Gián. Khai ngộ hai tướng:
Mũi tạo nghiệp, tham ngửi các hương, phần thân của chúng sinh, và mùi hương nam nữ, tạo ra các nghiệp. Cho nên chiêu cảm khí độc để chịu báo ấy.
2. Theo nghiệp chịu báo.
Một là nghe thông, bị các khí độc xông vào khuấy rối tâm.
Hai là nghe bít, hít khí không thông, chết giấc trên đất. Như thế ngửi khí thì có thể là chất, là lớp dày xéo, thấy thì có thể là lửa, là đuốc. Nghe thì có thể là chìm, là chết, là sông, là hồ. Nếm vị thì có thể là đói, là sảng. Xúc chạm thì có thể là no, là vừa, là núi thịt lớn, có trăm ngàn mắt, vô lượng món ăn. Suy nghĩ thì có thể là tro, là khí chướng, là cát bay vào làm nát tan thân thể. Thông và bít là cảnh mũi chấp lấy. Y theo đây mà gây ra nghiệp, y theo đây mà chịu khổ. Cho nên có hai tướng. Như thế đến khắp các căn đều chịu riêng, là chất, là lớp, nghĩa là: Chất là ngại, lớp là thông.
Là đói, là sảng, nghĩa là cá bại, là thỏa lòng, là sai trái. Văn còn lại rất dễ hiểu.
Quả báo nếm, có hai:
1. Lúc sắp qua đời thấy cảnh: (Chín trăm ba mươi tám).
Bốn là quả báo ngửi mùi dẫn đến quả xấu ác. Ngửi mùi này giao với nghiệp thì khi sắp qua đời thấy lưới sắt lửa mạnh hừng hực trùm khắp thế giới. Thần thức người chết xuống đến trên mành lưới, đầu bị treo ngược, rơi vào ngục Vô Gián, khai ngộ hai tướng.
Lưỡi gây ra tội, tội ấy rất rộng.
Một là tham mùi vị là tội, giết hại rất nhiều. Hai là nói ra lời gây tội, tội ấy lại rộng. Vì nói dối, nói lời thêu dệt, nói lời hai lưỡi, nói lời ác độc, so với căn khác thì nó rất rộng, cho nên chiêu cảm lưới sắt trùm khắp thế giới.
2. Theo nghiệp chịu báo:
Một là hít khí, kết thành nước lạnh, đóng cứng trên thân trên thịt.
Hai là nhả khí bay thì lửa mạnh, nấu nát xương tủy. Như thế nếm vị, nếm thì thừa lãnh là nhẫn, thấy thì có thể là đá vàng nóng chảy.
Nghe thì có thể là binh đao bén nhọn.
Thở thì có thể là lồng sắt lớn trùm khắp cõi nước. Xúc chạm thì có thể là cung, là tên, là nỏ, là bắn. Suy nghĩ có thể là sắt nóng bay từ trên hư không xuống. Hít khí thì chấp vị mà chiêu cảm, nhả khí thì dẫn đến nói ra lời. Như thế thọ riêng khắp các căn.
Thừa nhẫn nghĩa là lãnh chịu đựng tất cả vị xấu ác. Khi gây ra nghiệp thì lưỡi thọ thức ăn biết vị, nhưng sau đó mới làm lợi ích cho các căn đại chủng. Lưỡi không lãnh thọ vị thì các căn không có lợi ích. Chịu báo cũng vậy.
Quả báo xúc, có hai:
1) Lúc sắp qua đời thấy cảnh:
Năm là xúc báo, vời lấy quả ác, xúc này giao với nghiệp thì khi sắp qua đời thấy bốn bề núi lớn hợp lại không rời ra, thần thức người chết thấy thành người sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, cọp sói, sư tử, ngục tốt đầu trâu, lasát đầu ngựa. Tay cầm chĩa ba đuổi vào cửa thành đến ngục Vô Gián khai ngộ hai tướng: Thân căn là tội, phần nhiều do xúc chạm nam nữ, dâm ái v.v... Tham đắm trơn láng, tùy theo lạnh nóng, cho nên bị việc núi hợp, v.v...
2) Theo nghiệp chịu báo:
Một là hợp xúc, hợp núi ép ngặt thân thể, xương máu thịt lan tràn. Hai là lìa xúc: đao kiếm chạm thân, tim gan tan nát. Như thế hợp xúc, tiếp xúc khắp thì sẽ bị đạo bị quán, bị sảnh, bị án, Thấy khắp thì bị thiêu, bị nhiệt. Nếu nghe thì có thể bị đánh, bị bắn. Nếu thở thì bị trói, bị khảo, bị buộc. Nếu nếm thì bị cày, bị bừa, bị chém, bị cắt. Nếu suy nghĩ thì bị đọa, bị bay, bị nung, bị nấu. Chỗ chấp lấy của thân chỉ có hợp và lìa, từ đó gây ra tội. Cảm quả cũng vậy. Như thế dưới đến khắp căn thọ riêng. Đạo, án, quán, sảnh đều là trị tội, văn còn lại rất dễ hiểu.
Quả báo tư, có hai:
a) Lúc sắp qua đời thấy cảnh.
Sáu là tư báo, chiêu cảm quả ác, tư này giao nghiệp thì khi sắp qua đời trước thấy gió mạnh thổi tan cõi nước. Thần thức người mất bị gió thổi lên hư không xoay vần rơi xuống, theo gió đọa vào ngục Vô Gián, khai ngộ hai tướng. Tư là ý nghiệp, không có ngăn ngại, nhanh chóng như gió, cho nên cảm vời quả báo này.
b) Theo nghiệp chịu báo.
Một là bất giác, mê cùng cực là mờ mịt, rong ruổi không thôi. Hai là không mê giác, biết là khổ, vô lượng nấu đốt, đau đớn khó chịu nổi. Như thế tà tư, kết tư thì có thể là nơi, là chỗ, buộc thấy thì có thể là giám là chứng, nghe thì có thể là hợp khối đá lớn, là nước, là sương, là đất là mù. Nghỉ thì có thể là xe lửa lớn, thuyền lớn, bè lửa. Nếm thì có thể là kêu la, là hối hận, là khóc lóc. Xúc chạm thì có thể là lớn, là nhỏ, là trong một ngày muôn lần sống, muôn lần chết, là cúi là ngước. Sở duyên của ý là hai trần sinh diệt. Lại có thể tùy theo năm minh liễu mà chấp lấy cảnh. Bất giác thì mịt mù, riêng mình tán loạn sở cảm. Chẳng mê giác khổ, biết rõ chỗ đến, đều là ý tà tạo nghiệp cho nên như vậy. Như thế v.v... trở xuống là khắp căn thọ riêng. Phương, sở là chỗ chịu khổ. Giám chứng là chứng cứ có tội trước. Một căn này thọ báo đầy đủ các căn khác. Nhưng căn đối với dụng cụ khổ có sai có đúng, không nhất định mỗi căn, cảnh thuận nhau, người học tùy văn mà bỏ, không nên chấp mắc.
Kết hiển nói lại, có ba:
1) Kết thành luống dối.
Nầy A-nan! Ấy là địa ngục mười nhân sáu quả, đều do chúng sinh mê vọng tạo ra, luống dối tạo nghiệp, luống dối chịu báo đều như hoa đốm trong hư không, nhưng đối với nhân quả không hề khác nhau.
2) Nói riêng về trọng khinh:
Nếu các chúng sinh, cùng gây nghiệp ác thì đọa vào địa ngục A-tỳ chịu vô lượng khổ, suốt trong vô lượng kiếp, sáu căn mười nhân đầy đủ, đồng gây ra nghiệp ác, vào ngục A-tỳ tức là Đại Vô Gián, đầy đủ có năm việc.
Sáu căn gây ra việc làm của chúng sinh gồm cả cảnh và căn, người này thì vào tám ngục Vô Gián, như thức thứ sáu, đồng với nhãn thức kia, chỉ chấp lấy cảnh của mình, gồm cả căn mà làm, không liên quan đến căn khác. Không đủ mười nhân, đây chính là sáu căn tạo đủ, chỉ khi tạo không gồm căn khác, vào tám địa ngục nóng. Kế nếu nhẹ thì như trước. Ba nghiệp thân miệng ý gây ra sát, đạo dâm, người này vào mười tám địa ngục, thân đều gây ra ba tội sát, đạo, dâm mà miệng ý không làm thì lại nhẹ hơn trước, vào mười tám địa ngục.
Không gồm ba nghiệp, trung gian hoặc là một sát, một đạo, người này đọa vào ba mươi sáu địa ngục. Như một mình thân gây ra một nghiệp sát, không gồm tội khác thì đọa vào ba mươi sáu địa ngục, lại nhẹ thì như trước, (tức vào địa ngục thứ tám). Kiến kiến một căn chỉ phạm một nghiệp, người này vào một trăm lẻ tám địa ngục, riêng một căn này chỉ phạm nghiệp sát, lại nhẹ thì như trước, vào một trăm lẽ tám địa ngục, nếu trong ý suy nghĩ tà, hoặc bất chánh kiến, chưa hình thành thân miệng, hoặc miệng giết người, thân tâm vô ký, đây đều là nhẹ.
Nói kiến kiến: thấy hiện âm thanh chỉ thấy một căn, không gồm căn khác cho nên nói kiến kiến.
3) Kết đáp những điều đã hỏi:
Bởi thế chúng sinh riêng làm riêng tạo, ở trong thế giới nhập vào địa đồng phần, vọng tưởng phát sinh, chẳng phải sẵn có xưa nay: Nghĩa là do không dứt ba nghiệp, mỗi nghiệp đều có riêng tư, cho nên nói tạo riêng. Nhân vị đều riêng, chúng đồng phần riêng, cho nên nói nhập vào địa đồng phần, nghĩa là đồng nghiệp cảm chung, không khác nhau đồng phần, biệt nghiệp đều cảm đồng phần khác nhau. Cho nên văn trước nói trong chúng đồng phần gồm có nguyên địa, đều do vọng tưởng phát khởi, cho nên chẳng phải vốn có.
Đường quỉ, có ba:
1) Nêu chung:
Lại nữa, Nầy A-nan! Các chúng sinh này chẳng phá luật nghi, phạm giới Bồ-tát, hủy Niết-bàn của Phật, các tạp nghiệp khác trải qua nhiều kiếp thiêu đốt, sau đó hết tội lại làm các thân quỉ. Người chẳng phá luật nghi là người chê bai không có giới luật.
Người phạm giới Bồ-tát: Là khinh trọng không cấm. Hủy Niết-bàn của Phật là không tin nhân quả, đây đều là cắt đứt gốc lành.
Các nghiệp khác có thể biết, địa ngục trị lâu, cho nên nói trải qua nhiều kiếp thiêu đốt. Lại làm loài khác cho nên nói vào đường quỉ, đường quỉ có mười loại do mười nhân ở trước. Mười nhân chánh báo có nói trong văn trước, cực khổ đối nhau, chẳng phải chịu nhẹ, cho nên nói sau đó tội hết rồi lại làm các quỉ.
2) Nói riêng:
Nếu đối với bổn nhân tham vật là tội, người này tội hết sẽ gặp lại vật thành hình. (chín trăm ba mươi chín) Nên gọi là quái quỉ. Đây là tham tập làm nhân. Đối với vật sinh tâm tham phi lý mà lấy, quả báo ở đường quỉ, lại gá vào vật, tức là vàng bạc, cỏ cây tinh quái, loại này chẳng phải một, nên nói là quái quỉ, chính là chịu quả báo khổ ở địa ngục lạnh giá.
Tham sắc là tội, người này chịu tội xong rồi, gặp gió lại thành hình, gọi là bạt quỉ, là dâm tập trước làm nhân, sắc làm động loạn thân tâm, như gió đánh vào vật, quả báo chiêu cảm làm quỉ, chất trở lại gá vào gió. Chất gió vốn rỗng không, do tập nhân mà ra. Nhân quả đối nhau, chẳng lẽ nói suông hay sao?
Tham lam mê hoặc là tội, người này chịu tội xong rồi lại gặp súc sinh mà thành hình gọi là mị quỉ. Tức là thói quen gian dối ở trước đó làm nhân. Nhân thành gian dối, mê hoặc chính là nương vào hư không, gá vào súc sinh liền thành chất quỉ, tức là chồn, chó, heo, và các vật linh thiêng kỳ lạ. Loại này chẳng phải một, nên nói là gặp súc sinh thành hình. "Mỵ là hiện thân đẹp đẽ để mê hoặc người"
Tham hận là tội, người này chịu tội rồi, gặp côn trùng thành hình gọi là quỉ trùng độc. Tức là thói quen oán ghét đời trước làm nhân, do giận dữ làm đầu, khởi tâm ác không xả bỏ, kết oán trong tâm, khởi lên nóng bức, khi chịu báo khác cũng mượn các loài độc, như rắn độc, trùng độc, loài có khí linh, thành quỉ trùng độc. Tham nhớ là tội, người này chịu tội rồi gặp suy thành hình gọi là lệ quỉ, tức là sân tập trước làm nhân, đối khổ tăng thêm tâm sân nhuế, hoặc do ganh ghét mà phát ra tức giận, sân nhuế không xả bỏ, gọi là tham nhớ, đến khi làm quỉ, gặp chỗ tai họa suy hao liền nhập vào thân ấy, gọi là lệ quỉ, tức là loài ung độc thương hàn, truyền thây cốt, đều do quỉ này gây ra.
Tham ngạo là tội, người này chịu tội rồi, gặp khí thành hình gọi là ngạ quỉ. Tức là mạn tập làm nhân, mạn là lăng nhục người, ngạo vật cống cao cho mình là mạnh, khi làm thân quỉ, gặp khí làm chất, bên trong không có thật đức, trong lòng cống cao, đói khát khốn khổ, nên gọi là ngạ quỉ.
Tham lam vu khống là tội, người này chịu tội rồi, gặp tối tăm làm thân, gọi là yểm quỉ, tức là cuống tập làm nhân, vì được lợi được khen, phần nhiều mưu mô tính toán, giả hiện có đức, lừa dối mọi người, làm cho họ tối tăm không hiểu việc mình, làm quỉ rồi gá vào chốn tối tăm yểm hoặc, nên gọi là Yểm quỉ.
Tham lam là tội, người này chịu tội rồi gặp sự tinh tế thành hình, gọi là quỉ vọng lượng, tức là kiến tập làm nhân, kiến chấp dị sinh, đều tự tỏ ngộ, phát sinh trái nhau, phát khởi chống cự, chiêu cảm vào đường quỉ, gặp nơi tinh minh lấy đó làm thân mình, tức là trời trăng, tinh phách, sông núi, minh linh, loại có tinh diệu gá vào chất đó. Nói vọng lượng là cây đá biến thành quái. Tham thành là tội: Người này chịu tội rồi gặp ánh sáng làm thân, gọi là quỉ Dịch sứ, tức là cuống tập làm nhân, uốn cho thành cong vạy, nương vào hư không, cấu thành nhọc tâm sai ý, phá hại người vô tội, khiến thành có tội, gặp ánh sáng bày cảnh gá để thành thân, chẳng phải loại tối tăm. Bọn đi sứ chiến trận, gánh cát vác đá gọi là dịch sứ.
Tham đảng là tội, người này chịu tội rồi gặp người làm thân, gọi là quỉ Truyền tống, tức là tụng tập làm nhân. Bè đảng che giấu tội mình rồi tranh tụng với người, chịu quả báo loài quỉ, gá chất vào người. Như thế gian có các đồng tử và loại bùa chú đều nói thần đạo truyền tống lành dữ, họa phước. Nên gọi là quỉ Truyền Tống. Loài quỉ nầy số rất nhiều, xét quả gạn nhân không ngoài mười thứ này.
3) Kết thúc chỉ bày:
Nầy A-nan! Người này đều do thuần tình mà đọa lạc, lửa nghiệp cháy khô rồi đọa vào loài quỉ, đây đều là vời lấy nghiệp tự vọng tưởng. Nếu ngộ Bồ-đề thì diệu viên minh vốn không có gì, mười nhân sáu báo đều là việc làm thuần tình. Tình đã chìm xuống cho nên đọa vào địa ngục. Địa ngục trị lâu, tình hết lại bay lên, cho nên nói nghiệp thiêu đốt khô rồi đọa vào loài quỉ, tâm quỉ khô nhẹ, còn lửa nghiệp từ vọng nghiệp mà vời lấy, chẳng phải sở đắc, trong tâm Bồ-đề đều như hoa đốm trong hư không.
Cõi súc sinh, có ba:
1) Nêu chung:
Lại nữa, A-nan, nghiệp quỉ đã hết thì tình và tưởng đều thành không, mới ở thế gian, vốn nợ người, oán đối gặp nhau, thân làm súc sinh để trả nợ cũ. Địa ngục trị tình, trong loài quỉ trị tưởng, tình tưởng đã hết cho nên nói thành không. Nhưng chỗ không đó là y theo tình, tưởng mà phát khởi nghiệp, nghiệp hai đường đã mất, lại làm súc sinh để trả nợ cũ làm thân lạc đà, trâu ngựa để trả nợ người, nếu ở loài khá thì tùy theo ứng thọ mà đối. 2) Nói riêng.
Loài quỉ vật quái, vật tiêu, báo hết, sinh ở thế gian, thường làm loài chim cú mèo. Tham tập thành quái quỉ, quả báo hết thì làm chim cú mèo, phụ thêm một khối đất làm con, tham vật mà có ra, tất cả loài quái dị đều xếp vào loài này.
Quỷ phong bạt, gió tiêu báo hết sinh ở thế gian, thường làm tất cả loài khác, do dâm tập làm nhân, quả báo chiêu cảm phong bạt, bàng là súc sinh, thọ cửu trưng, là tội lỗi xấu ác. Trưng là ứng nghiệm, hành vi ác chiêu cảm sẽ có tai họa khác, trước có điều này. Như bầy chim sẻ, bầy chuột, là điều năm mất mùa, hỏa tai nhạn múa là hạn hán, loại này chẳng phải một. Quỷ súc mị, quả báo hết đọa vào thế gian, thường làm loài chồn, quả báo của nhân dối gạt, làm quỉ làm mị, chỗ nương đã hết thì làm thân chồn. Quỷ trùng độc, độc diệt báo hết sinh vào thế gian, làm loài độc. Quả báo của oán tập, quỉ làm độc hại, súc sinh là loài độc, tức là loài bò cạp, rắn độc. Quỷ suy lệ, suy cùng báo hết đọa vào thế gian làm loài giun, nhân của sân tập, làm quỉ suy lệ, gieo tai họa cho người bị nhập trở vào thân, chuyển thọ thân súc sinh, lại gá vào thân, làm loài giun.
Quỷ thọ khí, khí tiêu báo hết đọa vào thế gian, thường là loại thức ăn, ngạ quỉ phụ thêm khí, mạn tập làm nhân, quỉ chịu sự đói khổ, súc sinh thì no đủ, nên gọi là loại thức ăn, tức là loại thức ăn súc sinh thế gian có thể ăn.
Quỷ tối tăm, u tiêu báo hết, đọa vào thế gian, làm nhiều loại y phục, tức là loài lừa ngựa, dâu tằm, làm dụng cụ cho người mặc. Miên là tức miên mật, không lộ rõ.
Quỷ hòa tinh, hòa tiêu báo hết, sanh lên thế gian thường làm loài đáp ứng, vì kiến tập làm quỉ vọng lượng, vật tinh diệu đã hết, làm súc sinh, thành loài đáp ứng, tức là ứng với bốn mùa, thời tiết đến thì kêu.
3) Nói hòa là tạp, chỗ tinh minh tạp mà thành quỉ.
Quỷ minh linh, minh diệt báo hết đọa vào thế gian làm các loại hưu trưng, tất cả các loài, tức là cong vạy ở trước. Quỷ gá vào ánh sáng đọa vào loài dịch sứ, nghiệp loài quỉ hết, súc báo hưu trưng, hưu là đẹp. Tốt đẹp sẽ đến, nên có điềm này, do sự chiêu cảm lấy hành tốt đẹp của người, tức là loài lân phượng. Quỷ nương người, người chết báo hết sinh lên thế gian làm loài phải vâng theo lời người, do tranh tụng mà ra, quỉ chiêu cảm truyền tống, người chết làm súc sinh nhưng có trí tuệ, nên gọi là loài phải vâng theo, tức là loài được người nuôi dưỡng nghe lời.
Kết luận chỉ bày, có hai:
1) Chánh kết luống dối:
Nầy (chín trăm bốn mươi) A-nan! Tất cả điều này đều do nghiệp lửa đốt khô, để trả nợ xưa.
Bàng là súc sinh. Đây cũng đều là chỗ do nghiệp luống dối của mình chiêu cảm. Nếu ngộ Bồ-đề thì duyên vọng này vốn không có gì. Hai đường địa ngục, ngạ quỉ bị lửa nghiệp thiêu đốt, tình tưởng khô khan, nay làm súc sinh để trả nghiệp dư, nên nói là bàng. Vì vọng tưởng có, giác tánh vốn không, giống như quầng ánh sáng tròn vì dụi mắt nên thấy.
2) Dẫn lời hỏi chỉ bày lại:
Như lời ông nói: Bảo Liên Hương và vua Lưu-ly, Tỳ-kheo Thiện Tình. Nghiệp ác như thế vốn tự gây ra, chẳng phải từ trên trời rơi xuống, không phải từ dưới đất lên, cũng chẳng phải người đem đến, tự vọng chiêu cảm, lại tự đến thọ, trong tâm Bồ-đề đều là phù hư, vọng tưởng ngưng kết, hỏi về ba duyên, thì những người này tự mình luống dối gây nghiệp phát sinh, chẳng do người mà có. Cho nên nói vốn chẳng phải từ trên trời rơi xuống. Vọng tạo vọng chịu, trong tánh giác đều như hoa đốm giữa hư không.
Cõi người, có ba: 1) Nói chung, có hai:
a) Trả nợ thừa, gạn lại:
Lại nữa A-nan! Từ súc sinh này trả nợ cho kiếp trước, nếu người kia đền trả được nhiều thì chúng sinh này được trở lại làm người, là gạn lại thừa ấy. Phân Việt: là quá phần, không y theo bổn phận, vượt quá mà làm. Nghĩa là phi lý khổ dịch bất luận nặng nhẹ, hoặc ngày đêm không nghỉ, ăn uống vô độ. Các loài như thế đều hợp với gạn lại thừa ấy. Nay có kẻ cậy vào tôn quý để buông lung, cậy hào thế để xa xỉ, tham lực ấy mà hầu hạ, thủ chấp vào vị mà giết chết sinh linh, không bỏ sáng chiều, không lường được sự khó nhọc, phước hết gạn thừa nên như thế ư?
Như người kia có năng lực, có cả phước đức, thì trong loài người không xả bỏ thân người, đền trả lại sức mình. Nếu người không có phước lại làm súc sinh để trả nợ cho người kia, người kia có tu điều lành mà chuộng phước, chỉ có thân người mới đền trả năng lực cho người kia. Nay thấy có người chưa nhóm điều lành mà tiền của phần nhiều hư hao, hoặc bị giặc cướp, hoặc bị thiếu nợ, hoặc sai sử làm việc nặng nhọc, hoặc bị đánh đập, đây đều là nghiệp trước phải xả bỏ thân này làm súc sinh để trả nợ cũ, do gieo trồng phước đức, trong loài người lấy để đền nợ cũ. Nếu thành súc sinh thì không có điều lành gì cả.
b) Quả báo bồi thường khó dứt.
Nầy A-nan! Nên biết nếu dùng tiền vật, hoặc sai làm việc nặng nhọc, bồi thường đủ thì thôi. Nếu ở khoảng giữa giết thân mạng kia, hoặc ăn thịt, như thế trải qua vô số kiếp, giết nhau ăn nhau. Giống như bánh xe quay, lên xuống qua lại không thôi, trừ Xa-ma-tha và Phật ra đời, thì không thể dừng nghỉ. Ông nợ tài vật của người, người thiếu sức của ông, nay đã trả nợ bồi thường, bồi thường nợ rồi thì thôi. Thế gian nuôi trâu bò ngựa là loài này. Nếu cố giết chúng rồi ăn thịt chúng, thì đây thành nghiệp sát, thân thân lấy nhau, mạng mạng đền nhau, vì người ăn thịt dê, dê chết thành người, đền nợ lẫn nhau không khi nào dứt. Vì trong các nghiệp thì giết hại thân mạng là nặng nhất, không gặp Phật ra đời, tu tập Xa-ma-tha, không bao giờ dứt.
2) Nói riêng:
Nay ông nên biết, loài chim kia, trả nợ đủ rồi trở lại thành hình, sinh lên làm người, hợp với loài ngu ngơ. Do tham vật, quỉ gá vào quái hình, súc sinh gá vào cục đất mà nuôi dưỡng, nay quy về loài người, tánh của chúng ngu ngốc, ở lẫn lộn với nhau, tâm quên nghĩa đức. Bởi do đó cho nên như vậy.
Nhưng nói tham hợp là trong loài người được quả báo lành, báo chung tuy đồng, nhưng mãn nghiệp đều khác, cho nên chia ra mười thứ:
Nay từ súc sinh này đến chính là nghiệp còn dư làm bàng sinh, chẳng phải do nghiệp lành chiêu cảm. Nhưng cũng thuận theo nghiệp cảm ở sau. Vì bất chánh nên nói tham hợp, kia đều mô phỏng theo đây.
Kia gạn về lỗi, trả đủ lại thành hình, sinh trong loài người thì ngu si bất chánh, bắt đầu do tham dục, quỉ thọ thân bạt, trên vì ứng với súc sinh tai họa tội lỗi, nghiệp hết lại sinh vào loài ngu si bất chánh. Vì dục nhiều không tu điều lành riêng, chỉ chuyên một cảnh, do không tu điều lành cho nên vời lấy ngu độn.
Ngoan: biết điều lành mà không theo, không nghe lời chỉ dạy.
Ngu là ám độn, biết độn khó tỏ, có khác điều này.
Loài chồn kia trả đủ rồi thì sinh lên làm người, xen lẫn trong các loài, vì từ tập khí dối trá, quỉ là loài yêu mị, thuộc về bàng sinh, chồn hoang. Nay bị người xen vào, kẻ ngang trái tự dụng, không chịu nghe lời can ngăn.
Độc luân kia trả nợ đủ rồi sinh lên làm người nhưng ngu si tầm thường, chánh nhân là oán tập. Quỷ là cổ độc, bàng sinh làm súc sinh, rắn rít là thân này. Lạc sinh lên làm người thì, ngu si tầm thường, tức là tánh ngu si, thô hèn.
Loài giun kia trả nợ rồi sinh lên làm người, ngu si do sân tập mà ra, quỉ ở suy lệ, giun làm súc sinh, làm người thì không được mọi người để ý.
Loài thực kia: Trả nợ rồi sinh lên làm người ngu si, do mạn tập làm nhân, quỉ chiêu cảm đói khát, kết khí mà thành, không có tánh thực thật, súc thọ loại thực, làm người thì hèn yếu, do nhân cống cao ngã mạn nên lại chiêu cảm quả báo yếu hèn.
Loài mặc kia: Trả nợ đủ rồi sinh lên làm người thì làm việc nặng nhọc, do cuống tập làm nhân, quỉ từ chỗ u ma, chứa làm y phục cho người mặc, thuộc về súc nô dịch, cực khổ mệt nhọc.
Loài ứng kia: Trả nợ đủ lại làm thân người, thuộc loài lao khổ ngu si, từ kiến tập làm nhân, quỉ rơi vào hòa tinh, chịu báo võng lượng rồi thì làm súc sanh, xen vào loài người có văn nhưng không có chương, nhân là chánh tập nên nói là tham hợp (ngu si).
Loài hưu trưng kia, trả nợ rồi sinh lên làm người, ngu si dua nịnh làm nghiệp, quỉ thọ minh linh, bị sai khiến làm việc nặng nhọc, không được tạm thời ngừng nghĩ, súc sinh cảm vời hưu ứng, người tạp thông minh, khảo quả từ nhân, chắc chắn không sai lầm.
Các loài tuần luân kia, trả nợ rồi sinh lên làm người, xen vào loài thông đạt, do nhân tranh tụng, quỉ nương vào người, truyền gá các thần từ, phát rõ họa phước, súc sinh chiêu cảm sự thông minh, người thông đạt cùng tận, sủng ái nhục nhã không sợ, an nhiên tự đắc, nên gọi là loài đạt.
3) Kết thúc chỉ bày:
Nầy A-nan! Các loài nầy đều trả xong nợ đời trước, lại sinh lên làm người, thì từ vô thỉ đến nay nghiệp hệ đều điên đảo, sanh nhau giết nhau, không gặp Như-lai không nghe chánh pháp, trôi lăn trong pháp trần lao, bọn này thật đáng thương xót.
Trong đường địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, trả xong nợ trước, ba đường báo hết trở lại làm người, thuận với chỗ cảm vời của nghiệp lành sau nầy, tùy khác lại chia thành mười loại, như thế đều là trôi lăn điên đảo. Muốn dứt điên đảo chỉ có giới, định, tuệ, nếu không có ba thứ này thì luân hồi mãi (chín trăm bốn mươi mốt) không dứt. Nếu Phật không ra đời, chỉ nói pháp này, giúp cho người tu học thoát khỏi luân hồi.
Cõi tiên có hai:
1) Nêu chung:
Nầy A-nan! Lại có kẻ theo người không y theo chánh giác, mà tu Tam-ma-địa, tu riêng vọng niệm, tưởng thân bền chắc đi khắp núi rừng và nơi con người không đến được. Có mười thứ tiên:
Không y theo Chánh giác: Hành pháp ba thừa đều là phép Phật dạy. Kinh này con chê bai Nhị thừa, nói rằng không biết căn bản sinh tử, tu tập lầm loạn, huống chi tu tiên đạo? Còn tưởng thân bền chắc nghĩa là: có tâm đối với sống lâu không chết, thân này bền chắc không hoại. Vọng niệm sở tu: nghĩa là mười pháp tu luyện, đây đều là hữu lậu, tiến lên thì không bằng trời, lùi lại thì hơn người, cho nên ở nơi núi rừng, là nơi người không đặt Chân-đến, nên gọi là đường tiên. Nhưng đường này kinh khác không nói vì quả báo đồng với người. Nay kinh khai vì y theo chỗ tu hành riêng, vì không thuộc hai đường người, trời, ở đây đều là loại ngoại đạo, nhưng cũng cấm ngăn vì chẳng phải chánh giới của Phật, chỉ cấm thô phù tức là giới cấm thủ.
2) Nói riêng.
Nầy A-nan! Các chúng sinh kia, giữ chắc ăn mặc mãi không thôi, đường ăn viên thành, gọi là tiên địa hành. ăn mặc là ăn mè nhân, thảo mộc, thân hình còn mãi, tuổi thọ lâu dài, nhấc thân lên chưa được. Nếu đạo này thành thì gọi là tiên Địa hành, cỏ cây bền chắc không thôi dứt, đạo dược viện thành gọi là tiên Phi hành.
Cỏ cây: Tức là loài tùng bách, vì cỏ cây nhẹ ăn nó thì thân thể nhẹ. Bởi vậy khi bay không rơi xuống đất, vàng đá bền chắc mãi không thôi, đạo hóa độ viên thành, gọi là tiên Du hành.
Vàng đá tức là uống loài đơn sa thành loại cửu chuyển hóa, có hai loại:
Có khả năng hóa xương làm cho tuổi thọ được lâu dài, xương cốt cứng chắc.
Có khả năng hóa vật, thấp hèn làm cho quý. Nếu đạo này thành thì đi khắp nhân gian, cứu kẻ nghèo nàn khổ cực được tự tại hoàn toàn.
Động chỉ bền chắc mãi không thôi, khí tinh viên thành gọi là tiên đi trên không, hơi thở dưỡng hòa, vận dụng tịnh nhuệ, thần khí lâu ngày sẽ che phủ hư không, công dụng đã thành, thân bền chắc, mạng sống lâu dài, gọi là tiên đi trên hư không.
Sông biển kiên cố mãi không thôi, đức thấm nhuần viên thành, gọi là tiên đi trên trời, đánh vào ao trời, uống hết sông biển, tinh hoa vững chắc, công dụng lâu năm thì thành đức thấm nhuần.
Nói thiên hành: đây chẳng phải sáu tầng trời cõi Dục, mà thế gian nói là chỗ ở của tiên linh, gọi đó là Trời. Như Trương Khiên tìm biển hồ đến Côn Lôn thấy loài thiên cung, hoặc sở hành không giao tiếp với cảnh Dục, như trời không khác, nên nói là thiên hành.
Tinh sắc vững chắc mà không dừng nghỉ, hít tinh túy viên thành, gọi là tiên Thông hành, uống hết tinh khí của trời trăng, tác ý biến chuyển để kéo dài mạng sống. Bởi vậy, công dụng lâu ngày bèn thấy vật tình khắp cả thế gian có khác, nên nói là Thông hành.
Chú cấm bền chắc không bao giờ dứt, pháp thuật viên thành, gọi là tiên Đạo hành.
Chú cấm là phép thuật của đạo tiên, để giữ gìn thân mạng được bền chắc, năng lực thành tựu gọi là Đạo hành.
Nghĩ ngơi bền chắc mà không dừng nghĩ, nghĩ nhớ viên thành gọi là tiên Chiếu hành, duyên niệm với cảnh trước, buộc tâm không quên, chuyên chú không dời, lâu ngày phát dụng. Cảnh giới chiếu sáng đều là nguồn gốc giáo hóa, như định phát tuệ, nên gọi là Chiếu hành.
Giao cấu bền chắc, không hề dừng nghĩ, cảm ứng viên thành, gọi là tiên Tinh hành. Thế gian có thuật xem âm dương gọi là giao cấu, lâu ngày công thành, đây cảm kia ứng. Hít tinh khí kia để làm cho thân mình bền chắc. Nên gọi là Tinh hành.
Biến hóa bền chắc mà không dừng nghĩ, giác ngộ viên thành, gọi là tiên Tuyệt hành, còn tưởng thế gian, đều thành biến hóa. Cảnh đã biến hóa, tâm tưởng cũng mất, giống như cây khô, vì có công dụng nên tạm được như thế, gọi là tuyệt hành. Như mười loại trên đều nói hành giả lâu ngày thành công lưu thông.
Kết luận chỉ bày:
Nầy A-nan! Đây đều là luyện tâm trong thân người, không tu chánh giác, được riêng về sinh lý, sống lâu ngàn muôn năm, ở trên núi sâu hoặc đảo dưới biển lớn, chỗ người chưa đặt Chân-đến. Đây cũng là vọng tưởng luân hồi trôi lăn, không tu Tam-muội, khi quả báo hết lại vào các đường, sinh lý là lý sống lâu. Tức là mười phép tu luyện thành trên,
Nói trong người: Vì đường trời không có quả báo riêng, tức là quả báo chung của thân người. Lại nữa, mười thứ tu luyện trước chuyển thành tiên, vọng tưởng không chân thật đều theo nghiệp mà đọa.
Đường trời, có hai:
Giải thích các vị trời, có ba:
1. Cõi Dục, có hai:
1) Liệt kê giải thích, có sáu:
a) Tầng trời Tứ Thiên Vương:
Nầy A-nan! Những người thế gian này không cầu thường trụ, chưa thể xả bỏ ân ái vợ con, tâm không buông lung với tà dâm, lắng trong sinh sáng suốt, khi qua đời gần gũi mặt trời trăng, loài như thế gọi là trời Tứ Thiên Vương. Không cầu thường trụ tức là không tu Chánh Giác, vì không có định lực cho nên không thể bỏ ái. Vì có giới lành, cho nên tâm không buông lung. Vì có gốc lành nên tâm lắng thân sáng. Đây là lắng dục tâm phát sinh tánh sáng suốt. Người này qua đời, sinh vào lưng chừng núi Tu-di, gần với trời trăng, tất cả chúng trời đều có cung trời này.
b) Trời Đao-lợi:
Chuyện phòng the, dâm ái đối với vợ mình mỏng dần, khi ở Tịnh Cư không được vị hoàn toàn. Sau khi qua đời vượt qua ánh sáng trời trăng, ở trên đỉnh nhân gian, loài như thế gọi là trời Đao-lợi. Dục ái nhỏ dần, đối với gia đình, vợ chồng của mình cũng giảm bớt ái dục, cho nên không có vị hoàn toàn.
c) Vị là mê đắm.
Nói Tịnh cư là không do tạp uế, phân biệt khác với tà hạnh. Vượt đến mặt trời mặt trăng: Vì điều lành càng tăng thêm.
Tâm ái lại giảm, thân thì lại thăng, cho nên sinh lên tầng trời Đao-lợi.
Đao-lợi: Dịch là tầng trời Ba Mươi Ba, là chỗ trời Đế-thích ở.
d) Trời Diệm-ma.
Gặp dục tạm giao hợp, dứt bỏ không nhớ nghĩ, đối với việc thế gian động ít tĩnh nhiều. Khi qua đời rồi, ở trong hư không sáng suốt an trụ, ánh sáng mặt trời mặt trăng không soi chiếu đến, các vị trời này tự có ánh sáng, loài như thế gọi là trời Diệm-ma, chưa lìa tâm dục, gặp cảnh tạm giao cấu, dần dần hơi mỏng, cho nên nói bỏ không nhớ nghĩ. Gặp dục còn giao hợp cho nên nói động ít. Bỏ đi không suy nghĩ nên nói là tĩnh nhiều. Đây lại là tăng thân thì lại hơn, cho nên sinh thời phần Diệm-ma, Hán dịch là Thời Phần.
Đây là tầng trời đầu tiên trong các tầng trời ở trong hư không.
e) Trời Đâu-suất:
Tất cả thời vắng lặng, có ứng xúc đến thì chưa thể trái, sau khi qua đời sinh về chỗ tinh vi, không giao tiếp với các cảnh trời người cõi dưới, cho đến kiếp hoại hỏa tai không đến, gọi là trời Đâu-suất là: hạnh cao siêu hơn trước. Cho nên nói tất cả thời vắng lặng. Ứng xúc: ứng là tương ứng, Xúc là cảnh dục, vẫn còn thuận theo. Cho nên nói chưa thể trái.
Qua đời dần dần thù thắng, cho nên sinh về cõi trời này, sinh lên chỗ tinh vi: Tức là noi theo ở Bồ-tát một đời bổ xứ, vì đồng tên Đâu-suất, Hán dịch là Tri Túc.
f) Trời Lạc Biến Hóa:
(chín trăm bốn mươi hai) Ta không có tâm dâm dục, ứng theo hành sự của ông, khi trình bày vị giống như nếm mật. Sau khi qua đời vượt sinh hóa địa gọi là trời Lạc Biến Hóa. Vô tâm đối cảnh, cảnh tự bày ra, cảnh tự có, tâm mình đâu có vị, cho nên nói vị như nếm mật, dùng cảnh năm dục của trời Lạc Biến Hóa mà thọ dụng
g) Trời Tha Hóa Tự Tại:
Không có tâm thế gian, làm việc chung với thế gian, đối với giao tế hành sự rõ ràng vượt hơn. Khi qua đời rồi sẽ vượt ra cảnh hóa, vô hóa gọi là trời Tha Hóa Tự Tại.
Hành sự giao tế ở đây cũng nói theo chiều ngang, trước tuy quên vị gặp cảnh còn khởi tâm dâm dục. Cho nên nói "rõ ràng vượt hơn". Nhưng nay nói theo không có tướng thô thì đâu mất ái dục nhỏ nhiệm, vì chưa lìa cõi Dục.
Hóa, vô hóa: Hóa là tầng trời thứ năm, vô hóa là các tầng trời dưới.
Luận Câu-xá nói: Vì thích thọ dụng cảnh năm dục biến hóa, vì có năng lực tự tại nên sai người khác biến hóa ra mà thọ dụng. Cho nên nói Tha Hóa Tự Tại.
Sáu tầng trời trên đều do tâm dâm dục nhẹ dần, được quả báo cao quý dần. Nếu người tình dục nặng thì chắc chắn không sinh lên cõi trời.
Bài tụng trong Câu-Xá nói: Sáu thọ dục giao nhau, nắm tay cười nhìn dâm, cũng nói rõ tướng nhẹ của thọ dục.
Kết luận chỉ bày:
Nầy A-nan! Sáu tầng trời này, thân tuy phát động dấu vết, tâm còn giao thiệp, từ đây trở xuống gọi là cõi Dục. Sáu tầng trời này thân có ánh sáng, bay đi tự tại, tuổi thọ lâu dài, thiện tốt đẹp dần dần, không đồng với cõi người, nên gọi là thân tuy phát động.
Lại cõi người tạp loại, tuổi thọ ngắn ngủi, thay đổi vô thường. Phước trời mạng hết khó có thể giao động, cho nên nói phát động, còn có cảnh dục kết cấu nhau nên nói dấu vết tâm còn giao thiệp, nếu đến định địa thì dứt hẳn không còn dục.
Nói về cõi sắc:
Vì trong cõi này, y báo và chánh báo cao quý, từ sự cao quý này mà đặt tên, gọi chung là Phạm Thế, Phạm là thanh tịnh, vì lìa dục nhiễm nên được thiền định, vì tán động khác nhau nên cảnh giới này có mười tám tầng trời. Như Luận Câu-xá nói: Ba tĩnh lự đều có ba, tĩnh lự thứ tư có tám, tức là trừ Vô Tưởng. Theo Đại Chúng bộ, thì đồng với kinh này, tức thêm Vô Tưởng.
Văn có ba:
1. Chỉ chung:
Nầy A-nan! Tất cả chúng sinh ở thế gian này tu tâm mà không nhờ vào thiền định thì không có trí tuệ. Nói chung điều này, người tu tâm phải nhờ thiền định, sau mới phát tuệ. Định tuệ ngang bằng mới gọi là Tĩnh lự. Nếu không như vậy thì không thể gọi là Thiền. Ý nói trong bốn vị này đều do thiền mà có tuệ. Nhưng trong đó chiết phục mê hoặc, thói quen sai, hàng phục có khác. Cho nên chia ra các cõi trời, ở dưới tự giải thích, hoặc có thể văn này y theo người thế gian không tu thiền định vô lậu, không phát chánh tuệ vô lậu, thì phải chiêu cảm quả báo Tứ thiền không thể ra khỏi. Kẻ phàm phu tuy nói tu thiền, những chỉ quán sáu hành sự hữu lậu, không lìa luống dối nên không gọi là Thiền na. Như văn dưới nói: Ba dòng cao quý này tuy chẳng phải tu Tam-ma-địa chân thật. Lại nói, chỉ giữ được thân không hành dâm dục v.v... lại ở dưới kết luận rằng: Đây đều do không rõ diệu giác minh tâm, chứa vọng phát sinh, vọng có ba cõi v.v...
2. Trình bày giải thích, có bốn.
1. Sơ thiền, có hai:
a) Giải thích, có ba:
a.1) Trời Phạm Chúng:
Chỉ giữ gìn thân không làm việc dâm dục. Hoặc đi hoặc ngồi tưởng niệm đều không, ái nhiễm bất sinh, không ở lại cõi Dục. Người này ngay đó thân làm bạn với trời Phạm Chúng, như thế gọi là trời Phạm Chúng. Chuyên ý ở đây cho nên nói chỉ giữ gìn thân.
Tưởng niệm đều không: Do thực hành sáu hạnh, nhàm chán cõi Dục ở dưới là vì khổ thô chướng, ưa lên cõi Sắc vì là tịnh diệu. Cho nên hàng phục được cõi Dục, hoặc gọi là ái nhiễm bất sinh. Bởi vậy khi qua đời liền sinh lên cõi Sắc. Cho nên nói không ở lại cõi Dục. Đây chính là khổ thô không khởi, tướng tịnh hiện tiền, tức là tịnh định, ở đây sống bằng ngửi mùi vị, nên gọi là Phạm Chúng, tức là sở cảm của phàm phu tu hành sáu hạnh hàng phục hoặc.
a.2) Trời Phạm Phụ:
Dục tập đã dứt, lìa dục tâm hiện, đối với các luật nghi ưa thích thuận theo. Người này ngay đó thực hành được phạm đức, đó gọi là trời Phạm Phụ. Đã hàng phục hoặc cõi Dục, nên gọi là dục tập đã dứt, được lên Sơ thiền, tâm định hiển hiện, cho nên nói lìa dục tâm hiện. Đây là kết luận ở trên.
Đối với các v.v... trở xuống là nói về tầng trời này, định cộng giới ưa thích thuận theo phạm hạnh thành tựu, ngừa lỗi không mất. Đây là gồm hộ luật nghi tịnh giới thành đức, giúp cho Phạm chủ, nên gọi là Phạm Phụ
a.3) Trời Đại Phạm:
Thân tâm diệu viên, oai nghi không thiếu, giới cấm thanh tịnh, lại thêm ngộ rõ.
Người này ngay đó có khả năng thống lãnh Phạm chúng, làm chủ Đại Phạm. Gọi là trời Đại Phạm.
Thiền quán dần dần cao siêu, thọ sinh mầu nhiệm, nên gọi là thân tâm tròn mầu. Lại có giới đức nên nói oai nghi không thiếu, đây là kết ở trước.
Thanh tịnh v.v... trở xuống là nói về tầng trời này, ở trong định, giới phát tuệ ngộ rõ. Đây là tuệ biết được lời người, có thể làm Phạm Chủ thống nhiếp Phạm Chúng.
Theo luận Câu-xá nói: Oai nghi sáng tỏ độc nhất an trụ, không có tầm, chỉ có định lực chiêu cảm nên.
Hai tầng trời dưới đều có tầm từ. Lại kiếp Hoại, sau đó đến kiếp Thành, ngoại đạo không lường được nên chấp là Thường. Lại do khởi niệm thấy có sinh lên cõi trời, bèn chấp năng sinh thế gian là chủ của một nhân. b) Kết.
Nầy A-nan! Ba dòng cao quý này tất cả khổ não không thể ép ngặt được. Tuy chẳng phải tu Tam-ma-địa, nhưng trong tâm thanh tịnh, các lậu bất động, gọi là Sơ thiền.
Đã lìa tám khổ cõi Dục cho nên nói không thể ép ngặt được. Nhưng là phục hoặc sáu hành nên gọi là chẳng phải Tam-muội chân thật. Người tu hành chân chánh không hiện thân ý ở ba cõi, tuy được cao siêu, tướng định hiện tiền, rõ ràng tự biết nhưng không chấp đắm. Nay ở đây tuy được thanh tịnh dường như Tamma-địa, nhưng vì không hiểu rõ, nên đắm mê mùi vị để thọ sinh, sẽ lìa dục tán tâm thô động, cho nên nói các lậu bất động.
Bởi vậy kết luận rằng: Ba dòng cao quý này gọi là Sơ thiền. Luận Câu-xá nói: Ly Sinh hỷ lạc địa là lìa cõi Dục, tạp ác sinh được vui khinh an, nhưng Sơ thiền này được công đức có năm chi lâm:
1. Giáo
2. Quán
3. Hỷ
4. Lạc
5. Chi nhất tâm, hành tướng như trong Thiên Thai Pháp Giới.
Thứ Đệ có nói.
2. Nhị thiền, có hai:
a) Giải thích, có ba:
a.1) Trời Thiểu Quang:
Nầy A-nan! Kế là Phạm Thiên, gồm nhiếp các vị trời ở cõi Phạm, tròn đầy phạm hạnh, tâm lặng bất động, tịch trạm sinh ra ánh sáng, như thế gọi là trời Thiểu Quang.
Vua là Phạm chủ, cho nên nói thống nhiếp, đầy đủ giới định tuệ, cho nên nói phạm hạnh tròn đầy. Đây là kết luận ở trước.
Lắng tâm v.v... trở xuống là nói tầng trời này tâm định càng cao siêu. Cho nên nói tâm lắng bất động. Định quang phát sáng, cho nên nói tịch sinh ánh sáng, cõi Nhị thiền trở lên vì lìa giác, quán nên không có lời nói. Nhưng vì tâm định phát ra ánh sáng, vì ánh sáng hơn kém nên chia ra vị thứ ấy. Cõi trời này tướng hỷ mới phát sinh nhưng ánh sáng tuệ còn kém nên gọi là trời Thiểu Quang.
a.2) Trời Vô Lượng Quang:
Ánh sáng sáng chói, chiếu soi vô lượng, khắp các thế giới mười phương, khắp thành lưu ly, gọi là trời Vô Lượng Quang. Từ trời Thiểu Quang ở trước, lại phát ra nhiều ánh sáng, ánh sáng càng tăng thân, gọi là ánh sáng sáng chói, tướng ánh sáng tròn sáng, chiếu khắp các thế giới mười phương.
Cảnh theo ánh sáng trùm khắp thành lưu ly. Do định tăng dần, ánh sáng định phát chiếu không có bờ mé, gọi là trời Vô Lượng Quang.
a.3) Trời Quang Âm:
Hít giữ viên quang, thành tựu giáo thể, phát hóa thanh tịnh, ứng dụng vô tận, gọi là trời Quang Âm.
Hít lấy giữ gìn vô lượng ánh sáng thanh tịnh, để biểu thị cho lời nói, gọi là giáo thể. Tầng trời này tiêu biểu cho lìa các thô trọng, nên gọi là phát hóa thanh tịnh. Tùy cơ chỉ bày đều hiểu rõ, nên gọi là ứng dụng vô tận. Vì cõi Nhị thiền không có năm thức, chỉ dùng ánh sáng để biểu thuyên, lấy ánh sáng làm tiếng nói nên gọi là trời Quang Âm.
b) Kết.
Nầy A-nan! Ba dòng cao quý này, không bị tất cả lo buồn ép ngặt, tuy chẳng phải chánh tu Tam-ma-địa chân thật nhưng trong tâm thanh tịnh, thô lậu đã hàng phục, nên gọi là Nhị thiền.
Nhị thiền của tầng trời thứ ba lại hơn vị ở dưới, cho nên gọi là dòng cao quý. Vì đắc cực hỷ nên nói là tất cả lo buồn không thể ép ngặt.
Cõi Sơ thiền tuy được chí hỷ nhưng cực hỷ chưa sinh, nơi thân vì thô, chỉ được lìa khổ, nhưng còn có ưu hỷ đối nhau. Nay cõi Nhị thiền này nước định thấm nhuần, tâm tuệ phát sáng. Chi hỷ điều hòa, lo buồn chẳng sinh, gọi là Định sinh hỷ lạc địa. Thô lậu đã hàng phục nghĩa là thích lên chán xuống, nên gọi là Phục, vì không dứt nên gọi là Vô lậu. Nhưng một địa này có đủ bốn chi lâm.
1. Nội tịnh.
2. Hỷ
3. Lạc
4. Nhất tâm, hành tướng như thường.
3. Tam thiền, có hai:
a) Giải thích, có ba:
a.1) Trời Thiểu Tịnh.
Nầy A-nan! Người trời như thế, ánh sáng tròn đầy thành âm thanh, phân tích âm bày diệu, phát thành tinh hành, vắng lặng an vui. Đó gọi là trời Thiểu Tịnh. Hai câu đầu nhiếp ở trên, phi âm v.v... trở xuống là nói về tầng trời này, nghĩa là bày rõ năng thuyên của giáo thể, để hiển lý mầu sở thuyên, thành hạnh mầu sở hành. Do ba tuệ này phát ra cái vui cao quý cho nên đều thông, Định tuệ hơn trước chi lâm càng cao siêu.
Nói vui vắng lặng: Nghĩa là diệt tướng hỷ ở trước mà sinh tịnh lạc. Vì tướng hỷ thô động nên dị thục này thích yên lặng tịch tĩnh, gọi là vắng lặng, Tướng định còn kém nên gọi là Thông, bắt đầu được lạc này chưa rộng khắp nên gọi là Thiểu tịnh, Tịnh cũng gọi là Tĩnh. Có chỗ cũng gọi là trời Thiểu Tĩnh.
a.2) Trời Vô Lượng Tịnh:
Tịnh không hiện tiền, dẫn phát vô bờ mé, thân tâm nhẹ nhàng, thành vui vắng lặng. Đó gọi là trời Vô Lượng Tịnh.
Tịnh không tức là tĩnh lạc. Tâm định càng cao siêu, dẫn phát lạc này làm cho nó không có bờ mé. Lạc đã vô bờ mới thành tựu nghĩa tịnh lạc, đó gọi là triệt ý địa lạc. Khắp thân nhẹ nhàng gọi là Vô Lượng Tịnh.
a.3) Trời Biến Tịnh:
Thế giới thân tâm tất cả tròn sạch, tịnh đức thành tựu, cao siêu hiện tiền, trở về vắng lặng, lạc loại này gọi là trời Biến Tịnh.
Trước tuy triệt ý địa lạc nhưng chỉ ở thân tâm nên chưa gọi là trùm khắp. Nay thì trùm khắp y báo và chánh báo, lạc tịnh viên dung, thế giới thân tâm chẳng nơi nào không khắp, cao quý vui sướng đề thành tịnh đức.
Nói cao siêu tức là tịnh lạc này, là chỗ cao siêu mà hành giả kia nương. Vì chứng lạc này nên gọi là trở về.
b) Kết luận:
Nầy A-nan! Ba dòng cao quý này, có sự thuận theo lớn lao, thân tâm an ổn, được vô lượng vui. Tuy chẳng phải chánh tu Tam-ma-địa chân thật nhưng trong tâm an ổn, vui mùng đầy đủ gọi là Tam thiền.
Nói đầy đủ thuận theo hoàn toàn là: Thuận theo thắng định, là lìa ưu, hỷ.
Ưu hỷ mong vui đều là chán ghét, chỉ là trái cảnh, cho nên nói không thuận theo.
Nay sự vui sướng này là bậc nhất của thế gian, lại người không có lỗi mới là nghĩa thuận theo đầy đủ.
Trong tâm an ổn vui mừng đều đủ, nghĩa là ý địa dị thục thuận theo tự tại. Cực vui ở đây tinh ròng không xen lẫn, nên nói là đều đủ. Vì cõi Tam thiền này tên là địa Ly hỷ diệu lạc, ở địa này chi thiền này có đủ năm thứ.
1. Xả.
2. Niệm
3. Tuệ.
4. Lạc
5. Chi nhất tâm.
4. Tứ thiền:
Nhưng một địa này nghiệp báo chung chỉ có ba phẩm, cảm xuống tầng trời thứ ba. Trời Vô Tưởng này chỉ là quả báo riêng của trời Quảng Quả. Cảnh giới phàm phu cùng tột ở đây.
3. Năm Bất Hoàn:
Tự là bậc Thánh tạp tu tĩnh lự, giúp cho trời Quảng Quả cho nên nghiệp làm cho năm phẩm cao quý. Chỉ đối với Quảng Quả, thân quả báo chung sinh lên năm tầng trời kia không giống với phàm phu. Do hướng xuống riêng một đoạn.
Văn có hai:
1. Bốn căn bản, có hai: 1) Giải thích, có bốn: a) Trời Phước Sinh:
Nầy A-nan! Trời, người không ép ngặt thân tâm, nhân khổ đã hết, lạc không thường trụ, lâu ngày sẽ hoại, sinh ra hai tâm khổ vui cùng lúc đều xả, tướng thô nặng diệt, tánh tịnh phước sinh, đó gọi là trời Phước Sinh.
Năm câu đầu kết trước sinh sau.
Luận Câu-xá nói: Thiền thứ tư lìa tám tai hoạ, đó là tầm tư, khổ lạc, ưu hỷ và hơi thở ra vào. Lại không bị ba tai khuấy động nên gọi là địa Bất Động. Nay nói không ép ngặt tức là lìa vị khổ dưới.
Nhân khổ v.v... trở xuống là giải thích lý do không ép ngặt. Tầm, tư, ưu, hỷ là nhân khổ.
Nay đã lìa cho nên không ép ngặt, lạc không thường trụ là nói riêng chi lạc để đối với khổ trước. Tam thiền tuy được triệt ý địa lạc nhưng không thường trụ, chắc chắn phải có hoại, hoại là khổ thành, đây gọi là khổ Hoại. Khổ lạc v.v... trở xuống là nói về tầng trời này. Nay thiền thứ tư này khổ vui đều xả, vì mỗi địa đều nhàm chán xuống chỗ chướng khổ thô, thích lên tịnh diệu.
Bỏ v.v... trở xuống là khổ lạc gọi là tướng thô nặng diệt, được định của địa trên gọi là tịnh phước tánh sinh. Vì thiền định này chỉ một xả thọ là thể của phước, đã lìa nhiễm cõi dưới nên gọi là Tịnh phước. b) Trời Phước Ái:
Xả tâm viên dung, thắng giải thanh tịnh, phước không ngăn che, được thuận theo khéo léo cùng đến đời vị lai, thế gọi là trời Phước Ái. Chỉ một xả thọ và tâm định viên dung, xả tất cả các pháp khổ vui, ở trong tâm xả vẫn sinh thắng giải, đối với quyết định này có thể ấn khả giữ gìn không bị duyên khác dẫn dắt, nên gọi là thắng giải thanh tịnh. Do năng lực của thắng giải, đối với định cao siêu viên dung này ưa thích thuận theo, làm cho định cao siêu này không còn trở ngại, tùy tâm tự tại, thọ dụng vô cùng. (chín trăm bốn mươi bốn) Cho nên nói được thuận theo khép léo đến tận đời vị lai.
Hỏi: Tuổi thọ của thiền hữu lậu này có hạn, làm sao đến tận đời vị lai được?
Đáp: Ở đây y theo được quả báo thiền định là sống lâu, trải qua vô số kiếp nên nói là đến tận đời vị lai, chẳng phải nói theo hậu báo.
Lại thiền định này tuy là hữu lậu nhưng có công năng thuận theo khéo léo tu hành. Y theo thiền thứ tư mà dẫn phát định, huân tập thiền vô lậu, tu định nguyện trí vô tránh biên tế, dưới năm Na-hàm cũng y theo định này khởi hữu lậu, vô lậu tạp tu tĩnh lự.
Nếu phàm phu được nên không còn tiến tu, tức là cho tuổi thọ có hạn. Nếu bậc Thánh tu thì được tận đời vị lai thì chung cho hai hướng này, phàm Thánh đồng tu. c) Trời Quảng Quả:
Nầy A-nan! Từ trong tầng trời này có hai ngã rẽ, nếu đối với tâm trước vô lượng tịnh quang, phước đức viên dung, tu chứng mà trụ, đó gọi là trời Quảng Quả, ở tầng trời Phước Ái chia làm hai hướng.
1. Thẳng đến đạo là đến trời Quảng Quả.
2. Xa với đạo là đến trời Vô Tưởng.
Đây là nêu, ở dưới giải thích, nếu từ phát tâm đến nay không dính mắc vào sự suy tính khác, thẳng tu căn bản, bốn thiền, bốn tâm vô lượng, huân xông phước đức của Thiền lìa xuống địa nhiễm, đầy đủ bốn vị, đến phước ái này thắng định càng tăng, cảm được phước rộng, được sinh vào chỗ cao quý, nên gọi là trời Quảng Quả. d) Trời Vô Tưởng:
Nếu đối với tâm trước, chán cả khổ vui, nghiên cứu tinh tế xả bỏ tâm nối nhau không xen hở, tròn đầy cùng cực thì xả bỏ đạo. Thân tâm đều diệt, tâm lự tro ngưng trải qua năm trăm kiếp: đây chính là nói.
Nếu có suy tính khác, sáu hạnh hàng phục hoặc, dần dần xả bỏ, đến tầng trời Phước Ái đắc xả viên dung, xả tâm nối nhau, trùm khắp cùng xả đạo. Tâm xả cũng quên không chấp thân tâm, nên gọi là đều diệt.
Chấp Vô Tưởng này là Niết-bàn, dùng tâm xả này làm phương tiện nhập định Vô Tưởng. Lúc đầu xả tâm thô, nhập vào tâm nhỏ nhiệm, lại xả tâm nhỏ nhiệm vào tâm nhỏ nhiệm hơn. Từ tâm nhỏ nhiệm hơn này thường tu không ngừng nghỉ liền nhập Vô Tưởng, đây đều là nhân tu.
Tâm lự trở xuống tức là Vô Tưởng báo, khi qua đời quả báo sinh lên trời Vô Tưởng này, thọ năm trăm đại kiếp, tâm tưởng không hành nên gọi là tro ngưng. Người này lấy sinh diệt làm nhân, không thể khai ngộ tánh bất sinh diệt, nửa kiếp đầu diệt, nửa kiếp sau sinh, đó là trời Vô Tưởng. Ở đây xếp vào luống dối, chẳng hiểu rõ thể của vọng tưởng là không, bèn chấp sinh diệt khổ nhọc, chán sinh diệt này lại cầu bất sinh diệt. Cho nên nói lấy sinh diệt làm nhân, xả sinh thú hướng bất sinh, chưa phải là thật bất sinh, thấy thức thứ sáu tạm như vậy. Không hành như cá gần nước, không biết sinh diệt nhỏ nhiệm, vọng cho là Niết-bàn, chẳng phải chân Niết-bàn, cho nên nói không thể khai ngộ tánh vô sinh diệt.
Nửa kiếp đầu v.v... trở xuống lại giải thích hành tướng, quả báo kia, theo Luận Câu-xá dẫn Bà-sa giải thích là trong vị sinh tử kia. Nhiều khi có tưởng, mới sinh lên tầng trời này, trải qua nửa kiếp mới vào vô tưởng dị thục, gọi là nửa kiếp đầu diệt. Khi sắp vô thường thì từ dị thục mà ra, trải qua nửa kiếp có tâm, sau đó mới chết, gọi là nửa kiếp sau sinh. Trong sự sinh diệt hoàn toàn vô tưởng, nên gọi là trời Vô Tưởng.
Kết.
Nầy A nan! Bốn thắng lưu này tất cả cảnh khổ vui của thế gian không thể nào lay động. Tuy chẳng phải địa Bất động chân thật, có tâm sở đắc, công dụng thuần thục gọi là Tứ Thiền. Đệ Tứ Thiền này lìa tám nạn hơn các địa dưới. Nên gọi là Bất Động địa. Nhưng có kiếp số, tuổi thọ hết phải xả bỏ nên nói chẳng phải bất động chân thật.
Luận Câu-xá nói: Nhưng bình kia vô thường, vì tình đều sinh diệt, phàm phu tu định, mê đắm mùi vị thọ sinh. Nên gọi là có sở đắc. Định tuệ ngang bằng xả bỏ khổ vui, hơn các tầng trời dưới nên gọi là công dụng thuần thục.
2) Năm tầng trời Bất Hoàn, có ba: a) Nêu bày:
Nầy A-nan! Trong đó lại có năm tầng trời Bất Hoàn, tập khí chín phẩm ở cõi dưới, đồng thời dứt hết, khổ vui đều mất, dưới không bói toàn chỗ ở, cho nên xả tâm, an lập chỗ ở trong chúng đồng phần.
Tập khí chín phẩm là: cõi Dục, Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền mỗi loại có chín phẩm. Chủng hiện đều vô, nên gọi là Diệt tận. Đây là bậc Thánh dứt, nên gọi là Diệt. Chẳng đồng với phàm phu tạm thời hàng phục nên gọi là Diệt. Tập khí đã không, khổ vui đều mất, lìa sự ràng buộc ở cõi dưới cho nên không bốc cư. Nhưng chưa tiến lên dứt hoặc của thiền thứ tư. Cho nên đối với tâm xả trong chúng đồng phần lập riêng chỗ ở.
Vì khi tu thiền, hữu lậu xen lẫn vô lậu, cho nên chỗ ở riêng này mà luận Câu-Xá nói: Tạp tu tĩnh lự năm phẩm khác nhau, sinh lên năm tầng trời Tịnh Cư, năm phẩm khác nhau là: phẩm hạ, phẩm trung, phẩm thượng, phẩm thượng thắng, phẩm thượng cực, hành tướng như chỗ khác có nói.
b) Giải thích tướng, có năm:
b.1) Trời Vô Phiền:
Nầy A-nan! Khổ vui đều dứt, tâm đấu tranh không giao nhau, đó gọi là trời Vô Phiền.
Tâm khổ vui đều dứt, dịch đối đều mất, thân đối đãi đã không. Cho nên nói không giao. Không giao nên không phiền. Mới dứt hai tâm khổ vui thân đối đãi, tạp tu phẩm đầu, hơi lìa chướng định, gọi là Vô Phiền.
Phiền là chướng. Nhưng cõi trời ở dưới cũng lìa khổ vui mà không gọi là Vô Phiền. Vì phàm phu thích chán tạm hàng phục, chẳng phải dứt hẳn, ở đây y theo rốt ráo bất sinh, cho nên được tên gọi này.
b.2) Trời Vô Nhiệt:
Nỏ tên độc hành, cứu giao vô địa, đó gọi là trời Vô Nhiệt.
Cơ là cái nỏ, quát là mũi tên, chỗ mũi tên nhận dây, đều dụ chỉ cho một tâm xả, mặc ý tự tại đi khắp, nên nói là độc hành, không tương ứng với hai cảnh trái thuận. Cho nên nói Nghiên giao vô địa. Tầng trời này dùng trung phẩm tạp tu tĩnh lự, tuệ dụng thanh tịnh rỗng rang, đều lìa chướng định, tạm được mát, nên gọi là Vô Nhiệt.
b.3) Trời Thiện Kiến:
Các thế giới mười phương diệu kiến tròn đầy lóng trong, không có cát bụi, giống như tất cả bụi nhơ, đó gọi là trời Thiện Kiến.
Các thế giới mười phương chỉ một tâm xả, chiếu soi mầu nhiệm tròn đầy, vắng lặng. Cho nên nói diệu kiến tịch khắp. Trần giống như chướng tuệ, bụi nhơ là chướng định, tạp tu phẩm thượng, công vô lậu mê đắm, chướng định tuệ đều quên, nên thấy được mầu nhiệm, vắng lặng thế giới mười phương, nên gọi là Thiện Kiến.
b.4) Trời Thiện Hiện:
Tinh kiến hiện tiền, un đúc vô ngại, gọi là trời Thiện Hiện. Un đúc là luyện, khuôn đất gọi là Đáo, nung vàng gọi là Đúc. Tĩnh lặng đã hiện rõ, công định tuệ đã khắp, nên có thể nung luyện tự tại, hiển hiện vô tận, nên nói là Thiện Hiện.
b.5) Trời Sắc Cứu Cánh.
Rốt ráo các căn cơ, cùng tận tánh sắc tánh, nhập vào vô bờ mé, gọi trời Sắc Cứu Cánh.
c) Rốt ráo là cùng tột.
Quần cơ là các căn cơ mầu nhiệm, lại bỏ không theo có, nghĩa là lý chưa hình thành. Nay tầng trời này cùng đến bờ mé, sắc lý chưa thành hình, nên gọi là rốt ráo quần cơ.
Tận cùng tánh sắc tánh, tức là thể tánh, suy đến nguyên thể của sắc tánh. Ý hai câu trước phần nhiều là ví dụ ở đây. Hoặc câu trước biết duyên sắc cùng tận, câu sau y theo đại chủng cùng tận, chia ra tầng trời này nhập vào Không xứ, nên gọi là không bờ mé.
Vì không là chỗ nương của đại chủng, nên gọi là sắc rốt ráo, như Mã Thắng hỏi Phật: Bạch Đức Thế tôn! Tánh của bốn đại phải ở vị nào mới dứt hết không còn?
Phật đáp: Không xứ cận phần chính là ở tầng trời nầy.
Kết thắng.
Nầy A-nan! Cõi trời Bất Hoàn này bốn vị vua trời ở cõi Tứ thiền kia chỉ có kính nghe, không thể thấy biết. Như nay ở thế gian, đất ở chốn hoang vắng núi sâu, đạo tràng của bậc Thánh đều là chỗ ở của A-la-hán, người thô tục thế gian không thể nào thấy. Tiếng Phạm là ANa-hàm, Hán dịch là Bất Hoàn, cõi trời này là chỗ ở của các bậc Thánh cũng gọi là Tịnh Cư, chẳng đồng với chỗ ở của phàm phu hữu lậu, vì định lực cao siêu nên y báo cũng cao siêu, đồng ở cảnh giới thế gian đều khác, nêu ví dụ rất dễ hiểu.
Tổng kết:
Nầy A-nan! mười tám tầng trời này, ở một mình không giao thiệp, không phải lụy suốt đời, từ đây trở xuống gọi là cõi Sắc: Thuần là do thiền định thiện tưởng chiêu cảm, không có dục đối của hữu tình. Cho nên nói ở một mình không giao thiệp, còn có sắc ngại, nên gọi là chưa suốt đời lụy, ba cõi Vô Sắc, bốn cõi Vô Sắc, vô nghiệp quả sắc này định nhiều tuệ ít chán xuống sắc ngại, tưởng không vô biên, kế nhàm chán Không xứ, cho đến nhàm chán Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Niết-bàn rốt ráo, có bốn loại này, phân ra vị thứ, tuy là quả sắc vô nghiệp nhưng có định quả sắc làm sở y của thức. Do sinh có bốn loại, y theo đồng phần và mạng làm cho tâm nối nhau. Kinh khác nói: Văn trước cũng nói các vị trời cõi Vô Sắc phát nguyện hộ trì chú.
Văn có hai:
1) Giải thích, có hai:
a) Nói về cảm báo, có hai:
a.1) Chỉ cho hồi tâm không nhập.
Lại nữa, A-nan! Từ trong bờ mé của sắc Hữu đảnh này chính giữa lại có hai ngã rẽ đây là nêu.
Hữu là Sắc. Đảnh là rốt ráo. Sắc ở đây trụ gọi là bờ mé của Sắc.
Đường rẽ: một là ra khỏi ba cõi tức là người hồi tâm, che lấp, hai là nhập vào đường Vô Sắc, tức là người tánh nhất định che lấp. Nếu phàm phu ngoại đạo không vào năm tầng trời này tức là vào hai tầng trời Quảng quả và Vô Tưởng, không ở hai chỗ này che lấp có hạn. Như ở dưới tự biết.
Nếu đối với tâm xả phát minh trí tuệ, ánh sáng tuệ viên thông liền qua khỏi trần giới, thành A-la-hán, nhập vào thừa Bồ-tát, đó gọi là đại A-la-hán hồi tâm, đây là nói về hồi tâm. Nếu ở trong thiền Hữu đảnh nên nói tâm xả, phát trí vô lậu, thuận dứt bốn địa, ba mươi sáu phẩm câu sinh phiền não ở cõi trên, chứng được Vô học, vẫn lại hồi tâm hướng về đạo Đại thừa, không còn vào những chỗ như Không thức v.v... Vì không có địa hoặc trên, nhưng hồi tâm nhập vào Đại thừa, có sâu có cạn. Nhưng tùy theo phá hoặc có sâu cạn, loại này vẫn là lạc tuệ Nahàm. Cho nên được tuệ quang viên thông, ra khỏi cõi trần.
b) Cõi Vô sắc:
Nói về loại người nhập vào khác nhau, có hai:
Nói riêng bốn tầng trời, có bốn:
1. Không xứ:
Nếu đối với tâm xả, xả chán thì thành tựu, biết thân là ngại, dứt ngại vào không, đó gọi là Không xứ. Hai câu đầu là nhiếp trước. Tâm xả, có hai:
a) Hữu đỉnh.
b) Vô tưởng.
Nếu đối với Hữu đảnh, dùng đạo vô lậu dứt hoặc hữu đảnh, dứt ngại nhập không, đây là định Na-hàm, tức là Thanh Văn định tánh.
Nếu đối với trời Quảng Quả Vô Tưởng, dùng đạo hữu lậu hàng phục hoặc nhập không, cũng gọi là tâm xả, tức là phàm phu ngoại đạo. Vì hai tầng trời này đều ở tâm xả cùng một địa. Biết thân v.v... trở xuống là nói về tầng trời này, dứt trừ ngại là nói cũng có cả hai loại trước. Nhưng hành nhân chán lo sắc pháp, như lao ngục, tâm dục chưa lìa tức tu quán trí phá sắc pháp, vượt qua tất cả sắc tướng, diệt tướng hữu đối, không nghĩ về các thứ tướng, nhập vô biên không xứ, tâm tương ưng với hư không, gọi là định Không xứ.
2. Thức xứ:
Các ngại đã tiêu, vô ngại không dứt, trong đó chỉ giữ lại thức A-lại-da hoàn toàn nương vào nửa phần sâu kín của thức mạt-na, đó gọi là Thức xứ.
Câu đầu kết luận về Không xứ ở trước, câu kế là phá Không nhập Thức, cái vô của tiêu phá cũng quên, nên nói là vô ngại vô diệt. Đây là chỉ quán thức, để phá không. Trong đó v.v... trở xuống là giải thích. Chỉ giữ lại thức A-Lại-da hoàn toàn mạt-na. Hai thức Mạt-na và A-lại-da này lại nương nhau. Tánh định, pháp ngu hoàn toàn không biết có, rõ ràng tự giữ lại.
Nửa phần sâu kín tức là thức thứ sáu. Nay giữ lại một duyên rưỡi của thức, không lưu lại phần duyên sắc không, nên nói là nửa phần. Vì thức thứ sáu này sắc tâm đều duyên, cho nên để lại một nửa.
Khi hành nhân nhập định này, nhàm chán hư không vô biên, duyên thường thì tán, có công năng phá định, tức xả hư không, chuyển tâm vô thức, tâm tương ứng với thức pháp, nên gọi là Thức xứ định.
3. Vô sở hữu xứ:
Không sắc đã mất, thức tâm đều diệt, mười phương vắng lặng không có chỗ đến. Đó gọi là Vô Sở Hữu Xứ Không xứ Vô Sắc mà còn không. Thức xứ quên không mà còn thức, đều gọi là sở hữu. Nay không thức này đều quên, cho nên nói không sắc đã quên thức tâm đều diệt. Hai câu này trước phá ba pháp, mười phương v.v... trở xuống là nói về hành tướng. Mười phương là các pháp. Sắc không, sở duyên, thức tâm v.v... chẳng có một pháp nào còn, nên nói là vắng lặng. Sở duyên đã vắng lặng, năng duyên không hiện hành, cho nên nói hướng về chỗ không đến. Vì hành nhân nhàm chán thức ba đời, vô biên duyên nhiều thì tán loạn, có công năng phá định. Cho nên xả duyên thức, chuyển tâm y theo pháp Vô sở hữu, tâm tương ứng với pháp vô sở hữu. Gọi là định Vô Sở hữu xứ.
Nhưng nay người tu Đại thừa phần nhiều lạm dụng định này. Nhưng tất cả tâm vô trước, vô sở hữu đều không có một vật, tức là Đại thừa, giống như không ngơ, mà không biết, khéo liễu đạt các cảnh giới thiền, đoạn phục trải qua các thứ lớp đạo phẩm như gương đại viên xem xét, đối với muôn tượng không sai lầm, mới là thiền chân tu của Đại thừa.
4. Phi phi tưởng xứ:
Thức tánh bất động, dùng diệt để nghiên cứu tận cùng, ở trong vô tận, phát minh tánh tận, như còn không còn, hoặc tận, không tận gọi là Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.
Hai câu đầu chỉ cho thể sở y, câu đầu là nêu cả hai, thức tánh là nêu có tưởng nhỏ nhiệm.
Bất động: Nêu lên tư tưởng không thô.
Câu kế, chuyển giải thích nghĩa bất động, Vô Sở Hữu Xứ, còn dụng tâm nghiên cứu cùng tột làm cho không duyên với thức tâm, tương ưng với pháp Vô Sở Hữu. Nay tầng trời này, nghiên cứu cùng tận tâm diệt, hàng phục làm cho bất động. Cho nên nói dùng diệt để nghiên cứu cùng tột. Đối với không ở dưới giải thích về hành tướng, là nương vào chỗ bất động của thước nầy, cho nên nói trong sự vô tận, giải thích là vô tưởng. Cho nên nói phát tuyên tận tánh, tuy thấy hết mà thức còn. Cho nên nói hoặc tận hoặc bất tận. Tuy kiến còn mà không khởi. Cho nên như còn mà không còn. Do nghĩa này nên gọi là Phi tưởng Phi phi tưởng. Đây là tưởng thô của thức thứ sáu không khởi.
Nhưng có phần tế và A-lại-da trôi chảy không dừng, cho nên y theo nghĩa này để đặt tên.
Theo Luận Câu-xá nói: Ba Vô Sắc trước y theo hạnh mà được tên. Địa Hữu đảnh này y theo đương thể đặt tên. Hành nhân khi nhập định này, chán ghét tưởng Vô sở hữu xứ như chỗ si mà có tưởng, như ung như nhọt, tức là xả bỏ Vô sở hữu xứ, duyên niệm với pháp Phi hữu tưởng, phi vô tưởng, tâm tương ưng với pháp này. Cho nên nói Phi hữu tưởng Phi vô tưởng.
Nói chung về hai loại.
Đây là cùng tận cái không, chẳng cùng tận lý không, diệt sắc chấp không, phi chân tánh không, vọng cho là tận, cho nên nói: bất tận. Vì không thể diệt tâm trí nguội lạnh như tro.
Nói ở đây là chỉ chung có bốn tầng trời.
Từ trời Bất Hoàn, Thánh đạo cùng tột, loại này gọi là A-la-hán bất hồi tâm độn, tức là từ trời Sắc Cứu Cánh, xả bỏ thành tựu, biết thân là ngại, dứt ngại nhập không. Đã không khai ngộ trí tuệ liền dứt hoặc, trên thành tựu quả Vô học, hồi tâm hướng về Đại thừa. Tức là thành đạo vô lậu tiệm thứ chán bỏ, tùy định chiêu cảm quả thì sinh lên bốn tầng trời này, thọ báo kiếp số mới dứt hoặc địa hữu đảnh, thành A-la-hán, nên gọi là độn.
Nói không hồi tâm: Là nói theo đối tiền lợi căn, chẳng phải rốt ráo không hồi tâm, đã nói như trước. Hoặc từ các vị trời Vô Tưởng của ngoại đạo, tận cùng không chẳng quy về, mê lậu không nghe, lại vào trôi lăn.
Nếu từ Vô tưởng, dùng đạo hữu lậu, thích lên chán xuống, dần dần đến Phi tưởng. Cho rằng hữu lậu này được hiểu là vô vi, bèn cho là Niết-bàn, đến đây không tiến, vì không nghe rộng về Thánh giáo, không hiểu hành tướng tu chứng hữu lậu và vô lậu, khi qua đời đều theo nghiệp mà sanh đến các cõi.
Nói từ Vô Tưởng đến: Chính là trời Quảng Quả đến đồng địa với Vô tưởng, đối với năm tầng trời Thánh này gọi là ngoại đạo, giống như ngoại đạo này cho nên nói từ Vô Tưởng đến. Nếu thật nhập vào Vô Tưởng, thì chắc chắn thối đọa không tiến tu được.
Theo Kinh luận giải thích ngoại đạo Vô tưởng, nghiệp hết thì đọa.
Vì không có nghĩa sinh lên.
Nói về sự khác nhau giữa vua và quan:
Nầy A-nan! Trên tầng trời này mỗi vị, trời chính là nghiệp quả phàm phu đều trả, khi trả hết thì vào luân hồi, Thiên Vương kia chính là Bồ-tát dạo chơi trong Tamma-đề, dần dần tăng tiến, hồi hướng vào con đường tu hành của Thánh luân. Bốn không, trời, người chính là nghiệp báo. Bốn vị vua trời kia là quyền hóa. Lấy nhập định Đại Thừa Thủ-lăng-nghiêm làm dục, du hý bốn thiền, bốn không các Tam-muội thành Phật sự.
Hỏi: Vua bốn Thiền ở trước cũng là quyền hóa chung với phàm phu phải không?
Đáp: Vua bốn Thiền thiên ở trước gồm cả phàm Thánh. Như văn trước nói: Năm tầng trời Bất Hoàn, vua trời bốn Thiền, chỉ có kính nghe không thể thấy biết.
Nay nói theo một phần phàm phu, cho nên biết gồm cả hai. Kết luận chỉ bày:
Nầy A-nan! Trời bốn không này, thân tâm dứt hết, định tánh hiện tiền, không có nghiệp quả sắc, từ đây đến hết gọi là cõi Vô Sắc.
Thân tâm dứt hết: Nghĩa là sắc thân đều dứt, tâm ấy hoặc cùng tận, không cùng tận, vọng cho là cùng tận.
Định tánh hiện tiền: Có định quả sắc, nếu không có sắc này thì bốn tâm nương vào đâu, cho nên biết có.
Tổng Kết về luống dối:
Nầy A-nan! Ở đây đều không hiểu rõ về Diệu giác minh tâm, chứa vọng phát sinh, vọng có trung quán ba cõi, vọng tùy theo bảy đường nhận chìm đắm bổ-đặcgià-la, đều từ loại này. Nếu không biết chân như một pháp như thật, nhận lầm chỗ rõ ràng, phân biệt đã sinh, từ vọng chứa vọng. Cho nên nói không hiểu rõ. Phải biết người tu thiền quán không thông đạt pháp môn này, hoặc Không xứ, hoặc Vô Sở hữu xứ, hoặc Phi tưởng, Phi phi tưởng xứ, lay động trải qua sáu muôn, tám muôn đại kiếp, thân tâm vắng lặng, quả báo hết rồi lại đọa, gọi chung là nạn trời Trường Thọ.
Đích thân Phật giảng nói, đâu thể không tin rõ. Bổđặc-già-la, Hán dịch la-sắc-thủ-thú.
Cõi Tu-la:
Lại nữa A-nan! Trong ba cõi này lại có bốn thứ A-tu-la, hoặc ở đường quỉ, dùng năng lực để hộ pháp, nương thần thông mà nhập vào hư không. Loại A-tu-la này từ Noãn mà sinh, thuộc về đường quỉ. Nếu ở cõi trời hết đức thì đọa, ở gần với mặt trời mặt trăng. A-tu-la này từ thai sanh ra, thuộc về đường người. Có vua Tu la giữ gìn thế giới, năng lực mãnh mẽ không sợ hãi, có khả năng đánh nhau với Phạm Vương và trời Đế-thích, bốn vị vua trời. Loại A-tu-la này do biến hóa mà có, thuộc về đường trời.
Nầy A-nan! Chỉ có một phần tu-la thấp hèn, sống dưới đáy biển lớn, chìm trong hang biển, sáng dạo chơi trên hư không, tối xuống biển ngủ, loại A-tu-la này do khí ẩm mà có, thuộc về đường súc sinh.
Kinh Pháp Hoa, Lăng-già cũng nói có bốn thứ A-tu-la giống như ở đây. Nói về A-tu-la, có chỗ cho là trời, có chỗ cho là quỉ đều không rõ ràng, kinh này nói có thể làm tiêu chuẩn.
Kết luận về nhân vọng để khuyên lìa, có hai:
1. Kết nhân vọng có bốn:
a) Kết luận chung về luống dối:
Nầy A-nan! Địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, người và thần tiên, trời cho đến Tu-la như thế: Là kết luận chỉ ra các đường:
Nghiên cứu tinh thông bảy đường, đều là các tướng hữu vi đắm chìm, đối với bản tâm tròn sáng vô tác, đều như hoa đốm trong hư không, vốn không có sự mê đắm. Nhưng một luống dối không có gốc rễ kết thành luống dối, nghiên cứu tinh thông vẫn tìm kỹ. Vọng tưởng chịu quả báo đọa vào bảy đường, vọng tưởng theo nghiệp nhân bảy đường. Nhân quả vọng này đều là vô minh, tướng rỗng không hữu vi, chẳng thật có. Nếu mong tròn sáng thì như hoa đốm trong hư không, vốn không thật có thì cội gốc đâu mà thật có ư?
b) Chỉ bày chung về nghiệp nhân:
Nầy A-nan! Các chúng sinh này không biết bổn tâm nên phải chịu sự luân hồi này, trải qua vô lượng kiếp không được chân tịnh. Đây là chỉ bày vọng tưởng thọ sinh, đều do thuận theo sát đạo dâm. Trái với ba thứ này thì chẳng sinh sát, đạo, dâm. Đây là chỉ bày vọng tưởng theo nghiệp. Có tên là loài quỉ, không gọi là đường trời, tướng có không lại khởi tánh luân hồi, là kết thúc trôi lăn.
Lược chỉ nêu hai đường là: đường quỉ và đường trời trong bốn ác ba thiện, tướng có không đối đãi nhau, thành khuynh đạt lẫn nhau, thăng lên rồi lại đọa xuống, xoay vần không có sự bắt đầu.
c) Hiển chánh tu hành:
Nếu người khéo phát khởi Tam-ma-đề thì nhiệm mầu thường vắng lặng, có không cả hai đều không, không hai cũng dứt, bất sát sinh, bất trộm, bất tà dâm còn không có, huống chi là làm những việc sát đạo dâm: Nếu phát Tam-muội, chỉ thấy một thế bí tàng của ba đức là diệu Bát nhã, pháp thân thường trụ, là giải thoát vắng lặng. Có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải sinh tử, không hai cũng dứt, chẳng phải Niếtbàn, chỉ một lý thật tướng trung đạo, lìa tướng thật không còn pháp khác. Cho nên nói làm sao gây ra những việc sát, đạo, dâm.
d) Chỉ riêng kết lại:
Nầy A-nan! Không dứt ba nghiệp, đều có riêng tư nên có chúng đồng phần riêng, chẳng phải chỗ bất định, từ vọng phát sinh, sinh vọng không có nhân thì không thể tìm tòi nghiên cứu. Ba thứ sát, đạo, dâm tùy theo người gây riêng nên nói là mỗi người riêng tư, việc gây ra đều đồng, nên nói là đồng phần, nghiệp khổ đối nhau, chắc chắn chẳng khác nhau. Cho nên nói chỗ nhất định (chín trăm bồn mươi bảy) tức là chỗ chiêu cảm.
Đã gọi là vọng vì sao nói có nhân, cho nên không tìm tòi nghiên cứu. Đây là kết thúc lời đáp. Văn trước là có chỗ nhất định, lại là tự nhiên, kia kia phát nghiệp, mỗi người đều có lời hỏi thọ nhận riêng.
2. Khuyên dứt trừ:
Ông tu hành muốn được Bồ-đề thì phải dứt ba hoặc, không dứt hết ba hoặc thì dù được thần thông đều là công dụng hữu vi của thế gian. Tập khí không dứt thì rơi vào đường ma, muốn dứt vọng nhưng luống dối càng thêm, Như-lai nói là người đáng thương xót. Ông tự gây ra vọng, chẳng phải lỗi của Bồ-đề, nói như vậy là nói đúng, nếu nói khác đi thì là ma nói. Nếu dứt ba hoặc thì là chánh khuyên.
Ở trước nói vì ba duyên dứt nên ba nhân chẳng sinh, tánh cuồng tự dứt tức là Bồ-đề v.v... từ bất tận tử v.v... trở xuống là nói lỗi của bất đoạn. Tu thiền không giữ giới chính là nghiệp ma, dùng vọng tu vọng, thật đáng thương xót. Từ chữ ông Vọng v.v... trở xuống là chỉ lại kết đáp, để chỉ bày chánh tà.
Trước hỏi rằng: Đạo này là xưa nay tự có hay do chúng sinh vọng tập mà sinh khởi?
Nay kết đáp rằng: Ông vọng tự tạo chẳng phải lỗi của Bồ-đề chính là dùng câu trước trả lời câu hỏi sau, câu sau trả lời câu hỏi trước.
Phần thứ bảy của văn lớn:
Trình bày thiền-na hiện cảnh. Cảnh giới này là người tu hành do tiệm tu giới, định, tuệ mà có năng lực, bên trong động phiền não, bên ngoài động quỉ vương. Trong quán hạnh thì năm uẩn dần dứt, từ thô đến tế, khi dứt một ấm thì có mười cảnh giới bị cảnh kích phát, hoặc phiền não, hoặc nghiệp chủng, hoặc tà tư, hoặc ma trời, quỉ thần v.v... trong thiền hiện các tướng lạ mà phát ra, nếu hành nhân không có trí tuệ học rộng thì không thể biết được, liền chấp đắm, trái mà cho là phải. Trước tuy tu chánh rồi trở vào đường tà, Phật thương xót hạng này nên không hỏi mà nói. Nhưng các kinh luận nói sẽ ngồi thiền, kế cũng nói lược, nói rộng nhỏ nhiệm không gì hơn kinh này. Thiên Thai Chỉ Quán, hoặc dẫn kinh thiền nói về cảnh giới ma, cũng trích ra ít phần.
Văn có hai:
1. Như-lai không hỏi tự nói, có ba.
a) Như-lai nói: có ba.
a.1) Kết trước sinh sau.
Tức thời Như-lai liền bãi pháp tòa, ở trên tòa sư tử, vịn ghế bảy báu, sửa lại tư thế ngồi rồi lại tựa vào ghế, bảo đại chúng và A-nan rằng:
Nhà dịch kinh này trình bày: Phật bảo A-nan, bảy đường đã nói xong. A-nan im lặng, chúng cũng không có lời nào, nên trụ nói pháp cho nên nói bãi pháp tòa, nhưng thiền phát cảnh giới, chẳng phải bậc Nhất thiết trí thì không ai biết được. Nếu không nói cho thì đời sau người tu hành sẽ gặp nạn này. Cho nên lại tựa ghế từ bi hiển bày sự thương xót sâu xa.
Các ông là người hữu học Duyên giác, Thanh văn ngày nay hồi hướng đến đại Bồ-đề Vô thượng Diệu giác. Nay ta đã nói pháp tu hành chân chánh, ông vẫn chưa biết việc ma nhỏ nhiệm khi tu Xa-ma-tha, tỳ-bà-xá-na: Là pháp tu hành chân chánh, tức là hai nghĩa quyết định ở trước, Quán Âm Quán Môn, trong giới, ngoài chú, gờm chánh giải ở trước, đều là phương pháp tu hành nhập giác.
a.2) Chỉ mê bày lỗi, có hai:
* Nhận biết cảnh ma:
Cảnh ma hiện tiền, ông không thể biết, gội rửa tâm không chân chánh, rơi vào tà kiến, hoặc ông là ấm ma, hoặc là ma trời, hoặc đắm trước quỉ thần, hoặc gặp li mị, trong tâm không sáng tỏ, nhận giặc làm con, tu diệu quán trí, tẩy rửa chướng cấu ở bên trong, cho nên nói gội rửa tâm. Do ma dẫn khởi phân biệt niệm mê đắm, cho nên nói là không chân chánh. Ấm ma: Thường nói là bốn ma, đó là ma phiền não là nhân sinh tử. Ma năm Ấm là ma chết, là quả của sinh tử. Ma trời, là duyên sinh tử. Nay nói quỉ thần v.v...tức là quyến thuộc của ma. Như kinh Niết-bàn nói: Đều là đời trước phạm trọng cấm cho đến các thiên khác mà hiện. Đây là hạt giống nghiệp nhân bị kích động mà sinh.
Bởi thế hành nhân trước phải phân biệt cho rõ ràng.
* Thủ chứng ít.
Lại ở trong đó được ít cho là đủ. Như Tỳ-kheo ít học đệ tứ thiền nói càn là mình đã chứng quả Thánh, thọ báo ở cõi trời đã xong, tướng suy hiện tiền, chê bai La-hán, thọ thân đời sau, đọa ngục A-tỳ.
Trí luận nói: Tỳ-kheo này không tìm tòi nhiều kinh luận, y theo tâm tu hành, không có trí tuệ nghe rộng, không biết địa vị ba cõi của các thiền. Chỉ siêng năng không ngừng nghỉ, chứng đắc Sơ thiền gọi là Sơ quả, cho đến Tứ thiền, lìa tám nạn bèn cho mình đã chứng quả A-la-hán. a.3) A-la-hán, Hán dịch là Vô sinh.
Ta đã chứng quả Vô Sinh, đã lìa sinh tử phần đoạn trong ba cõi, việc làm đã xong, bèn không tiến tu. Đến khi vô thường, trung ấm Tứ thiền thấy có chỗ sinh bỗng nhiên sanh tâm chê bai: "Ta nghe La-hán đã được Vô sinh, ngày nay vì sao lại có chỗ sinh. Nếu thế, Phật nói La-hán đều là luống dối, cho nên biết không có được Niết-bàn. Do đó, khởi chê bai, quyết định tà kiến, Trung ấm ở cõi trời diệt thì đọa vào ngục A-tỳ. b) Khuyên lắng nghe hứa nói:
Ông nên lắng nghe, nay ta phân biệt kỹ cho ông hiểu.
A-nan lắng nghe: A-nan đứng dậy, cùng các bậc Hữu học ở trong hội vui mừng đảnh lễ lắng nghe lời từ bi dạy bảo, như văn kinh, có chép.
Chánh là phân biệt, có ba:
1. Nói chung, có ba:
1. Nói chung về chân vọng, có hai:
a) Hiển rõ thể của chúng sanh đồng với Phật:
Phật bảo A-nan! Và các đại chúng: Mười hai loại sinh trong các thầy nên biết! thế giới hữu lậu, bổn giác diệu minh giác viên tâm thể, không khác với các Phật ở mười phương, diệu thế nhất chân, vốn không hai tướng.
Văn trước chép: Ta và Như-lai chân diệu tịnh tâm tròn đầy không hai. Đây là ba thứ: Tâm, Phật và chúng sinh không khác nhau.
Nói về mê vọng thành khác, có hai: b.1) Mê chân vọng khởi:
Do ông vọng tưởng mê lý là lỗi lầm, si ái phát sinh, phát sinh mê khắp, cho nên có tánh không, hóa thành mê không ngừng, có thế giới sinh, thì các cõi nước nhiều như cát bụi ở khắp mười phương này chẳng phải là vô lậu, đều là ngu mê, do vọng tưởng an lập, đây là chánh nói. Vô minh vọng tưởng mê lý chân thường thành ra bốn hoặc. Chỉ lược nêu hai thứ. Cho nên nói si ái phát sinh.
Nếu đối đủ thì trước do không biết như thật về chân như pháp nhất tức là ngã si. Kế là mê chỗ thấy có tướng tức là ngã kiến, tướng đã hiện chấp không bỏ tức là ngã ái. Nương đây làm thể chuyển tăng thô hiển, tức là ngã mạn.
Kinh Lăng-già nói: Bảy thức sinh diệt, Như-lai tạng không sinh diệt, hòa hợp hai thứ này thành thức A-lạida.
Đây là thành thức bên trong, nên nói là mê khắp, cho nên có, v.v... trở xuống là khí cụ bên ngoài. Thì đây v.v... trở xuống là chỉ lại, chẳng phải vô lậu. Lại nói lên tịnh độ của Chư Phật tức là do gương trí hiện.
Duy Thức nói: Trí Đại viên cảnh có công năng hiện ra, sinh ra thân cõi bóng trí. Nay hữu lậu này đều là vọng an lập. Nên biết hư không sinh trong tâm ông giống như áng mây hiện trên bầu trời xanh, huống chi các thế giới trong hư không ư. Đây là kết luận chỉ bày.
Văn trước nói: Hư không sinh trong đại giác như hòn bọt trong biển, phát vi trần cõi nước hữu lậu đều nương vào hư không mà sinh.
Văn dưới nói: Cho đến hư không đều từ vọng tưởng an lập, cho nên nói huống chi thế giới này ở trong hư không ư? b.2) Ngộ chân thì vọng dứt:
Các thầy mỗi người phát chân về nguồn, thì các thế giới ở mười phương này đều tan mất vì sao nói trong hư không có cõi nước mà không rung chuyển.
Văn trước nói: Bọt nước diệt, hư không vốn là không, huống chi ba cõi, nên biết chúng sinh công nghiệp vời lấy cõi nước và hư không. Một người bỏ vọng về chân, thỉ giác mới biết hợp bổn giác.
Nói chiêu cảm là theo vọng tan mất.
Văn trước nói các khí thế gian ngay đó hóa thành tri giác vô thượng. Nhưng người phát chân, khi hợp giác tuy chỉ thấy giác, mà không có vọng sinh.
Vọng vô sinh này chưa phát chân thấy là thật có, vọng ấy cảm vời cùng khắp cõi nước. Vì sở liễu của trí đâu không rung chuyển. Do đó Chư Phật thành đạo rung chuyển các thế giới, chắc chắn không luống uổng.
2. Chỉ bày riêng về hàng ma, có hai:
Đưa đến quỉ hưng thạnh, có hai: a.1) Do ngộ mà động mả, có hai:
* Nói rõ:
Các thầy tu thiền, tu Tam-ma-đề, Bồ-tát và các đại A-la-hán vô lậu mười phương, tâm tinh thông tập, ngay đó vắng lặng, đây là nói về ngộ. * Sức cũng là tu, tập là hợp.
Trong một pháp giới, thì tâm, chúng sinh và Phật đồng thể. Phật chứng rốt ráo, Bồ-tát và La-hán cũng đã phần chứng. Nay Tam-muội đồng với sở chứng kia, dung hợp một thể, vọng xứ toàn giác. Nên nói ngay đó vắng lặng.
Tất cả ma vương, quỉ thần và các trời phàm phu, thấy cung điện biến mất, ngã đổ, mặt đất rung chuyển, đất nước tung toé, thảy đều sợ hãi, đây là làm động ma.
Phàm phu tối tăm, không biết dối lừa, bọn kia đều được năm thứ thần thông, chỉ trừ lậu tận, đây là phân biệt. Ma và các vị trời đều tu thiền định, cho nên được năm thần thông, phàm phu phiền não chưa hề hàng phục cho nên nói là tối tăm. Các Ma Vương kia làm chủ cõi Dục thống nhiếp cõi nước này để làm chỗ ở, thống nhiếp hữu tình để làm dân chúng. Cho nên người đắc đạo chắc chắn ra khỏi cõi ma, cùng cảm cõi nước chắc chắn nghiêng đổ. a.2) Nói lại:
Luyến trần lao này, làm sao khiến ông phá nát chỗ ấy. Như văn có chép. Chánh làm trở ngại. Bởi vậy quỉ thần và các thiên ma, võng lượng yêu tinh lúc ở trong Tam-muội đều đến khuấy rối ông.
Thiêm: Là đều, những việc khác như văn kinh có chép:
Nói về hàng phục, có hai: b.1) Nói về thuận, có hai:
* Dẫn dụ nói rộng:
Nhưng bọn ma kia tuy có giận dữ trong trần lao, nhưng trong diệu giác của ông như gió thổi ánh sáng, như dao chặt nước, rõ ràng không xúc chạm nhau. Ông như nước sôi, kia như băng cứng, khí nóng đến gần không có mặt trời cũng tiêu tan, luống chi dựa vào thần lực chỉ là khách, thành tựu phá loạn do chủ nhân năm ấm trong tâm ông. Nếu chủ nhân mê thì khách được dịp phá hoại. Định Thủ-lăng-nghiêm trí tuệ thật tướng như ánh sáng, như nước, như nước sôi, như chủ, gió dao, băng khách làm sao động được? Đây là dùng đạo lực thanh tịnh, phá tâm ma tối tăm ở trước, như hư không vô ngại, vật đâu thể cản trở, hoặc một niệm động như chủ tâm mê, khách được dịp, liền thành phá loạn, không bao giờ thành tựu.
* Kết khuyên hàng phục:
Đương xứ thiền-na giác ngộ không mê hoặc, thì việc ma kia không làm gì được ông, tối tan thì vào sáng, các tà kia đều chịu khí tối tăm, sáng phá được tối, gần tự tiêu tan, làm sao dám quấy rối thiền định. Hai câu đầu là khuyên y theo bổn tu sửa đổi trí tuệ quán sát, cho nên kia v.v... trở xuống là nói ma không có dịp làm hại. Một người phát chân, cả thế giới đều tan mất. Nay nhập vào Tam-muội đâu không rung chuyển ma sao? Nếu nhập sâu vào thiền định chỉ quán tướng thật thì cõi ma cõi Phật, như một không khác, sinh tử Niết-bàn, núi sông, đất đai đều là tướng cuồng lao luống dối như hoa đốm trong hư không. Cho nên nói đâu dám quấy rối thiền định. b.2) Hiển bày ngược lại:
Nếu không ngộ rõ sẽ bị mê mờ, cho nên A-nan chắc chắn là đệ tử của ma, thành tựu người ma, hết lòng khai ngộ làm cho biết bị ma mê hoặc.
Năm ấm làm mê, ma được dịp làm hại.
Cho nên luận chánh lý nói: Năm uẩn chứa nhóm các nhân bất thiện. Giống như bọn cướp núp trong núi, bấy giờ xuống nhân gian cướp đoạt tài vật. Nên biết nếu quán phá được chỗ nương của năm ấm ma thì ma tự tan biến. 3) Dẫn việc làm chứng.
Như Ma-đăng-già là thấp hèn, kia chỉ có chú phá luật nghi của Phật, trong tám muôn hạnh chỉ hủy một giới, vì tâm thanh tịnh vẫn chưa chìm mất, đây là đọa toàn thân bảo giác của ông, như quan tể tướng bỗng gặp tài sản của người lấy làm của công, xoay vần tan tác, không thể thương xót cứu giúp. Thì là thấp kém, thù là khác, tức là thấp kém khác thường, quỉ ma nhìn nhau, ma hơn thì quỉ thua. Nay Đăng-già là người, nhưng có năng lực của chú, chẳng có năm thần thông, hoặc nhìn vào ma tức là trong thấp kém lại là thấp kém.
Kia chỉ là chú v.v... trở xuống là giải thích tướng thấp kém, y theo Ma-đăng-già, tâm mong cầu rất cạn cợt chỉ muốn hủy một giới dâm của ông, do ông vô tâm, vẫn không thành phạm.
Đoạn nầy chính là v.v... trở xuống là nói ma hơn, đây là nói về ma.
Ma muốn làm cho Tam-muội của ông không thành tựu trôi lăn pháp thân tuệ mạng tan biến hết sạch. Như quan Tể phụ phạm pháp nước bị chém chết không có bổng lộc, thật đáng thương xót.
2. Nói riêng, có năm:
1. Phá sắc ấm, có ba:
Tướng tận chưa tận, có hai: a.1) Nói về bờ cõi:
Nầy A-nan! nên biết ông ngồi đạo tràng dứt bỏ các niệm, nếu niệm ấy hết thì đều lìa niệm tất cả tinh minh, động tĩnh không dời, nhớ quên như một: Là chỉ bày phương tiện nhập chánh định. Như thế văn trước xoay vần luống dối này, sinh diệt hàng phục trở lại nguồn giác, tức văn này nói: dứt bỏ các niệm.
Kinh Viên Giác cũng nói: Bất cứ lúc nào cũng không khởi vọng niệm, không khỏi phân biệt, cho nên nói niệm hết. Lìa niệm tinh minh tức văn trước nói được giác vốn sáng, không có tánh sinh diệt là nhân cho tâm địa. Động niệm không dời là giải thích hành tướng của lìa niệm, vào dòng quên sở, cảnh không thể theo, cho nên nói động tĩnh không dời. Do lắng các niệm, phân biệt hơi lặng. Cho nên nói nhớ quên như một.
Luận Khởi Tín nói: dừng tất cả tướng của cảnh giới, nay kinh nầy nói dứt bỏ các niệm, hai duyên năng sở kinh luận đều nêu.
Phải trụ chỗ này nhập vào Tam-ma-đề, nương phương tiện trước nhập vào chánh định. Nên biết nương vào chỗ lìa niệm này đi sâu vào chánh thọ.
Như người mắt sáng ở chỗ rất tối tăm tinh tánh diệu tịnh, tâm chưa phát sáng, đây gọi là phạm vi sắc ấm, chính là nói chưa tận sắc ấm. Tâm vào chánh định như người mắt sáng, chưa phá sắc ấm như chỗ rất tối tăm.
Tinh tánh diệu tịnh: Là tâm định hiển hiện.
Tâm chưa phát sáng: Là tuệ chưa sinh khởi, phạm vi là bờ cõi đều bị một tầng trời che lấp, nên nói là vũ, Vũ là che lấp.
Nay hai chữ sắc ấm là đồng với bờ cõi. Vì đồng một ấm che lấp sắc riêng. Nêu ví dụ này nói lên ở trong đó. a.2) Nói về tướng tận:
Nếu mắt sáng suốt, mười phương mở rộng, không còn u tối, gọi là sắc ấm hết, chính là nói. Trước đã nói mắt sáng, này lại thầm phá cho nên không u tối.
Sắc đã chất ngại, ngăn cách không thông, cho nên thành u tối. Nay định tuệ khai ngộ, phá sự che lấp, mở rộng hiển rõ nên gọi là ấm hết. Người này có khả năng vượt qua kiếp trược. Quán lý do này, vọng tưởng vững chắc, làm gốc, là kết thúc lợi ích. Vượt qua kiếp trược, vì kiếp trước là thể của sắc ấm, trước hết một niệm năng sở mới lập, tức là không kiến không phân, nên gọi là kiếp trược, tức là từ không mà chợt có, có tức là sắc. Nay phá sắc ấm, bởi vậy vượt qua vọng tưởng bền chắc, tức là giác minh chấp chặt, chất ngại bèn trở thành thể của sắc, nên nói là bền chắc.
Hỏi: Sắc ấm thô hiển, trong quán trước phá kiếp trược rất nhỏ nhiệm, làm sao được siêu vượt kiếp?
Đáp: Vì khi khởi không có trước sau, cho nên khi phá gồm cả thô tế. Văn không viết rườm rà cho nên thấy sinh khởi có thứ lớp. Lại sắc ấm thuộc về hiện tướng, hiện tướng chính là bổn thức. Nay sắc ấm phá tức là hiện tướng phá. Hiện tướng phá tức là động bổn thức, bổn thức đâu chẳng phải Kiếp trược. Cho nên được siêu, lành thay! tâm ban đầu có công năng phá vô minh từng phần.
b) Nói về hiện cảnh, có mười.
b.1) Thân có khả năng thoát khỏi sự ngăn ngại.
Nầy A-nan! Phải ở đây nghiên cứu tinh ròng diệu minh, bốn đại không dệt, trong đó ít chọn lựa, thân vượt ra sự ngăn ngại, đây gọi là tinh minh, chảy đầy cảnh trước. Đây chỉ là công dụng tạm được, như thế, chẳng phải chứng Thánh, không có tâm cho mình chứng Thánh gọi là cảnh giới lành, nếu có tâm cho mình chứng Thánh, thì rơi vào các tà, đối với Tam-muội, nghiên cứu tinh thông diệu minh nguyên thể không có tướng sắc ấm. Do nghiên cứu này, quán sâu lý này cho nên được bốn đại không dệt vào nhau. Trong chốc lát thân vượt ra khỏi chướng ngại, như đi trên hư không, đây là tâm không có chủ hình. Bốn đại mất chất, quán tâm vô ngại, chảy khắp các trần ở trước, công dụng tạm thời được như thế, chẳng phải chứng Thánh, nếu biết đây là công lực của thiền, thì không có lỗi, nên nói là cảnh lành. Nếu bỏ chung hết là ma thì đè nén công dụng thiện. Nếu nói là Thánh lại chưa dứt hoặc, cho nên làm cho thức lành mà không lấy bỏ, ở dưới đều mô phỏng theo đây.
b.2) Thân lấy ra giun sán:
Nầy A-nan! Lại dùng tâm này nghiên cứu tinh ròng diệu minh, thấu suốt trong thân ấy. Người này bổng nhiên lấy giun sán từ trong thân ra mà vẫn như cũ, không hề tổn thương. Đây là gọi là tinh minh chảy khắp hình thể, đó chỉ thực hành tinh chuyên tạm được như thế chẳng phải chứng Thánh, không có tâm cho mình là chứng Thánh, thì gọi là cảnh giới lành. Nếu cho mình đã chứng quả Thánh thì rơi vào các tà, trùng giun ở trong bụng. Quán tâm tinh minh, bên trong dung thông thân thể. Bốn đại bên trong do quán mà biến, lấy ra được giun sán trong thân mà không tổn hại. Cảnh này hiện tiền không sinh lấy bỏ tức là cảnh lành, không như vậy thì rơi vào đường tà.
b.3) Nghĩa sâu kín nghe hư không nói pháp:
Lại dùng tâm này nghiên cứu tinh thông bên trong và ngoài, khi ấy tinh thần ý chí hồn phách, trừ chấp thọ thân, ngoài ra đều thiệp nhập làm khách chủ lẫn nhau. Bổng ở trên hư không nghe tiếng nói pháp hoặc nghe mười phương đồng phô bày nghĩa sâu kín, đó gọi là tinh phách lìa hợp với nhau. Thành tựu giống lành, tạm được như thể không phải chứng Thánh, không cho là mình chứng Thánh, nếu thì gọi cảnh giới lành, nếu cho là mình chứng Thánh thì rơi vào các tà. Mới đến khách chủ, rõ cảnh phát lý do.
Gan của chủ gọi là Hồn Phổi của chủ gọi là Phách.
Lá lách của chủ gọi là Ý. Thận của chủ gọi là chí.
Tim của chủ gọi là tinh thần.
Căn thân, hạt giống đều là chỗ chấp thọ thứ tám, định tâm nghiên cứu tinh thông, trong ngoài chỉ không nên làm cho chủ thần bên trong không nơi nương tựa lưu xuất ra ngoài, mất sự nương nhau ấy, cho nên nói làm khách chủ lẫn nhau.
Bốn câu bỗng ở trong hư không xuống v.v... là nói về phát tướng.
Đây là trước tu tập hạt giống văn tuệ, định lực kích động, trong thiền phát sinh, liền nương vào thần hồn mà hiện nói pháp.
Đây gọi là v.v... trở xuống là Kết phán tà chánh, lìa hợp tức là khách chủ, hoặc lìa tâm chủ và khách đối với gan v.v... Ngoài ra như văn kinh có chép. b.4) Phật ngồi đài hoa:
Lại dùng tâm này lắng trong bày tỏ, bên trong phát ra ánh sáng, khắp mười phương là màu sắc Diêm-phùđàn, tất cả chủng loại hóa thành Như-lai. Lúc ấy, bỗng thấy Tỳ-lô-giá-na ngồi đài Thiên Quang có ngàn vị Phật vây quanh, trăm ức cõi nước và hoa sen cùng lúc xuất hiện. Đây gọi là tâm hồn linh ngộ, tâm sở nhiễm sáng suốt chiếu soi các thế giới, tạm được như thế, chẳng phải chứng Thánh, không có tâm cho mình là chứng Thánh thì gọi là cảnh giới lành, nếu có tâm cho mình là chứng Thánh thì rơi vào các tà.
Ba câu đầu nói bên trong do quán tuệ, tâm định lắng tịnh, hiển bày sáng suốt, ánh sáng bên trong phát tướng bên ngoài thì biến.
Câu mười phương v.v... trở xuống tức là bên ngoài hiện tướng ấy, vì trước huân tập nên gọi là hạt giống lành, bóng nhiễm mà đến cho nên thấy mười phương như chủng loại vàng đều là Phật, tâm niệm bất động, đây phải tự diệt, nếu sinh chấp chặt, thì chánh định khó còn. Như tu niệm Phật Tam-muội, cảnh này hiện tiền hợp với Tuđa-la gọi là Tự thân chứng. Nếu tu quán cây mà thấy hình Phật cũng không phải chân thật, vì tâm cảnh không tương ưng, huống chi tu Tam-muội Nhất tướng pháp giới chân như, có điều chấp trước đâu chẳng phải tà hay sao?
Câu nầy gọi là v.v... là kết phán chánh tà.
Linh ngộ sở nhiễm: Linh là lành, trước huân nhiễm viên đốn giác tuệ, ngộ biết chúng sinh xưa nay là Phật, hạt giống này do định kích phát, cho nên hiện tướng này như văn khác. b.5) Trên hư không hiện sắc báu.
Lại dùng tâm này nghiên cứu tinh thông diệu minh, quán sát không thôi, đè nén hàng phục, chế chỉ vượt lên, lúc ấy bỗng nhiên hư không mười phương thành mầu bảy báu, hoặc mầu trăm báu, đồng thời trùm khắp, không có trở ngại, xanh vàng đỏ trắng đều hiện. Đó gọi là vượt qua phần công lực, tạm được như thế, chẳng phải chứng Thánh, không có tâm cho mình là chứng Thánh, gọi là cảnh giới lành, nếu cho là mình chứng Thánh thì rơi vào các tà. Trong định nghiên cứu, quán sát càng sâu, chế chỉ đã qua, sắc báu hiện từng phần, vốn là chế chỉ phân biệt. Nay do qua phần cảnh khác lại sinh, trái với tâm, đâu chẳng phải việc ma hay sao?
Nay khởi tâm chấp trước, tự nhiên tiêu mất. Như văn trước nói không chấp trước đều là huyễn, pháp chẳng phải huyễn còn không sinh, pháp huyễn làm sao lập? b.6) Thấy vật trong tối:
Lại dùng tâm này nghiên cứu thấu suốt không loạn, bỗng hợp với ban đêm, ở trong nhà tối thấy nhiều vật chẳng khác gì ban ngày. Nhưng vật trong nhà tối cũng không mất. Đó gọi là tâm bí mật lắng trong, thấy khắp chỗ tối, tạm được như thế, chẳng phải chứng Thánh, không có tâm cho mình là chứng Thánh gọi là cảnh giới lành, nếu có tâm cho mình là chứng Thánh thì rơi vào các tà, ở trong định nghiên cứu ánh sáng tâm lóng lặng, do lắng lặng bỗng nhiên phát ra cái thấy. Trong bóng tối thấy vật, vật là cảnh thật, vì thế không tùy theo định mà xuất nhập, có không, cho nên nói cũng không dứt trừ tâm lắng trong sâu kín, là quán tâm sâu kín lóng lặng, ánh sáng thanh tịnh đã thanh tịnh, cảnh tối không ẩn, cho nên đêm thấy vật, ngộ thì không lỗi. b.7) Tổn thương thân thể mà không biết:
Lại dùng tâm này viên nhập vào hư không, bốn thể bỗng nhiên đồng với cỏ cây, lửa đốt dao chặt không hề hay biết, lại là ánh lửa không thể đốt cháy, dù cắt thịt cũng như chặt cây, đó gọi là các trần đều, tánh bày bốn đại một bề nhập thuần, tạm được như thế chẳng phải chứng Thánh, không có tâm cho mình chứng Thánh thì đó là cảnh giới lành, nếu cho là mình chứng Thánh thì rơi vào các tà. Viên là khắp, nhập quán tức là đạt, vì tâm định này rõ khắp tất cả, thân mình vật khác đều là vắng lặng, đây là tâm viên dung, suy nghĩ vắng lặng, chấp thọ không hiện hành, bốn đại năm trần bỗng nhiên bày ra, đã không nên chấp, cắt chặt như hư không, niệm tưởng thuần nhất nên tạm được như thế. b.8) Quán khắp các cõi:
Lại dùng tâm này thành tựu công đức của tâm thanh tịnh, công dụng tột cùng, bỗng thấy mười phương núi sông đất đai đều thành cõi Phật, đầy đủ bảy chất báu, ánh sáng cùng khắp. Lại thấy hằng sa các Như-lai đầy khắp hư không, lâu đài cung điện. Dưới thấy địa ngục, trên thấy cung trời, không hề chướng ngại. Đó gọi là ngưng tưởng chán thích ngày càng sâu mà hóa thành. Chẳng phải chứng Thánh, không có tâm cho mình chứng Thánh thì đó là cảnh giới lành, nếu có tâm cho mình là chứng Thánh thì rơi vào các tà, chán uế thích tịnh, các tưởng gom nhóm bất động, công phu viên định sâu xa, chiêu cảm cảnh mầu nầy, tâm thức thông linh, nhờ định mà công phát, bay ra khỏi cái thấy ngăn ngại, xa gần đều như vậy, công lực ép ngặt mạnh, chẳng phải nhân diệu chứng. b.9) Nhìn thấy phương khác vào ban đêm:
Lại dùng tâm nầy nghiên cứu sâu xa, bỗng trong đêm tối, nhìn thấy phương khác, chợ giếng ngõ hẻm, thân tộc, quyến thuộc từ xa, hoặc nghe họ nói chuyện, đó gọi là ép bức tâm cùng cực mà có ra, cho nên thường ngăn cách mà thấy, chẳng phải chứng Thánh, nếu không có tâm chứng Thánh thì gọi là cảnh giới lành, nếu nghĩ là mình chứng Thánh thì rơi vào đường tà: Thức tâm thông suốt linh thiêng, nhờ định mà công năng khai phát, thoát ra khỏi cái thấy cách ngại, xa gần đều như thế, do công năng bức ép cùng cực, chứ chẳng phải do khéo chứng. b.10) Thân thể thay đổi:
Lại dùng tâm này nghiên cứu tinh tế cùng cực, thấy thiện tri thức, hình thể đổi dời, ít chọn các thứ biến đổi vô cớ, đó gọi là tâm tà, bao hàm gặp ly mỵ, hoặc gặp ma trời vào trong tim gan mình, vô cớ nói pháp, thông đạt nghĩa mầu, chẳng phải chứng Thánh, không có tâm cho là mình chứng Thánh thì việc ma tan biến, nếu có tâm cho mình chứng Thánh thì rơi vào các tà. Người này từng có hạt giống tâm tà, hợp cảnh ma ngoài, do đó mà đến, nhưng chương này chẳng phải cảnh giới lành, thuần là ma quỉ, không giống với văn trước, đều gọi là hạt giống lành, khởi tâm cho là chứng mới thành ma.
Kết khuyên mở mang truyền bá:
Nầy A-nan! Hiện cảnh mười thứ thiền như thế đều là dụng tâm và sắc ấm giao nhau, cho nên hiện việc này, chúng sinh ngu mê không tự so lường, gặp nhân duyên này thì mê muội không tự biết, cho là chứng Thánh, thành đại vọng ngữ, đọa ngục Vô gián, các thầy sau khi Như-lai diệt độ trong thời Mạt pháp nên truyền bá nghĩa này, không để cho ma trời có dịp làm hại, che chở giúp đỡ thành đạo vô thượng. Đây là đối với quán hành.
Sắc ấm sẽ hết hoặc chưa hết dụng tâm khác nhau, có mười cảnh nầy, nếu không biết thì đều cho là chứng Thánh thì bị ma mê hoặc, vì thế Phật khuyên chỉ bày cho đời sau.
Hỏi: Đây không phải là quán môn năm ấm thứ lớp làm sao được ấm thứ lớp rõ hết cảnh này?
Đáp: Quán tuy tướng chung đồng quán năm ấm có tế có thô. Thô phải hết trước. Thí như giặt áo chất dơ thô tẩy đi trước. Ấm này đã chứa nhóm, do vọng mà thành, vọng hết tự nhiên ấm diệt, từ thô đến tế lý phải như vậy.
Thí thọ ấm, có ba:
1. Tướng tận, chưa tận, có hai:
1. Nói về phạm vi:
Nầy A-nan! Người thiện nam kia tu Tam-ma-đề, Xama-tha, thân sắc ấm hết, tâm thấy Chư Phật, rõ ràng như trong gương hiện rõ bóng mình. Nếu có sở đắc, mà chưa thể dùng, giống như người ma, tay chân rõ ràng, thấy tâm không mê hoặc, tâm xúc khách tà mà không xao động. Đây gọi là phạm vi thọ ấm.
Sắc ấm cùng tận: Là trong chỉ quán, quán năm ấm, quán tâm thuần thục không bị sắc làm ngăn ngại, cho nên nói ấm cùng tận.
Tâm thấy Chư Phật: Hiện rõ trong quán diệu giác minh tâm, là tướng của sắc cùng tận mà tánh của sắc hiện, trong quán tạm thấy, chẳng phải thấy chân thật. Cho nên như bóng trong gương, có sở đắc tức là tâm thấy Chư Phật ở trước, đã là quán tâm khắp ảnh mà duyên, chẳng phải quán chứng, cho nên chưa thể dùng. Vì dùng thọ ấm làm lãnh thọ, đích thân chứng thì sẽ có diệu dụng, chưa phá thọ dụng như người ma. Vì sắc ấm cùng tận cho nên tâm sẽ thấy Phật, như thấy nghe không mê hoặc.
Thọ ấm khách tà vẫn còn, động lực diệu dụng chưa thể bị thọ che lấp cho nên nói phạm vi.
2. Nói về sự cùng tận:
Nếu lỗi ma dứt sạch, tâm lại lìa thân trở lại quán mặt mình, đi đứng tự do không còn trở ngại, gọi là thọ ấm cùng tận, người này có khả năng vượt qua kiến trược, quán lý do đó, vọng tưởng rỗng sáng, cho đó là gốc.
Tâm mình lìa thân: vì khách tà không xúc chạm, tâm đối với căn môn được tự tại, không bị chướng ngại về lỗi ma cho nên sẽ phản chiếu mặt mình. Đây là nói thấy nghe có dụng. Hai câu đi đứng v.v... trở xuống là nói tay chân có dụng. Trên đây là y theo dụ mà hiển. Nếu y theo pháp, vì thọ ấm cùng tận cho nên tâm mất lãnh nạp. Đã không thể lãnh thọ, thì không có pháp được lãnh. Tâm pháp đã mất thì được tự tại.
Vượt khỏi kiến trược: Vì căn thân là thể của kiến trược, thấy nghe biết che lấp làm cho chướng ngại đất nước gió lửa, xoay vần làm cho hay biết. Đây là tướng chấp thọ vẫn trở thành chất của căn, thọ vọng lãnh nạp chấp cho là mình. Vi kiến là suy cầu chấp lấy làm nghĩa. Do thọ lãnh cảnh trước, chấp đắm sinh theo, thọ ấm đã mất tức là vượt khỏi kiến trược, tâm biết rõ thì lãnh nạp cùng khắp, cho nên nói vọng tưởng rỗng sáng.
2. Nói về hiện cảnh, có mười:
1) Thấy chúng sanh sanh tâm thương xót:
Nầy A nan! Người thiện nam này ở trong đây được sáng suốt mầu nhiệm, tâm họ phát minh, bên trong đè nén quá phần, bỗng ở chỗ ấy sinh tâm từ bi vô cùng, như thế cho đến quán thấy muỗi mòng giống như con đỏ, tâm sinh thương xót, bất giác rơi lệ: Đây là bày chánh. Trong Xa-ma-tha ánh sáng của định phát hiện, cuồng tuệ đã khởi. Bên trong đè nén quá phần, hạt giống ưu bi trong tàng thức bỗng nhiên hiện khởi. Hễ thấy các loài chúng sinh đều coi như con đỏ do mình sinh ra. Con đỏ là con trẻ. Ở đây gọi là công dụng đè nén quá phần, ngộ thì không có lỗi, chẳng phải chứng Thánh, biết rõ không mê lâu ngày tự tiêu mất. Nếu cho rằng mình chứng Thánh thì có con ma buồn thảm nhập vào tim gan người ấy, thấy người thì thương xót, khóc lóc vô hạn, mất đi chánh thọ, phải chịu đọa lạc, đây là phán kết. Ánh sáng của tâm bỗng hiện bên trong đè nén thái quá, hạt giống ưu bị phát sinh, chẳng phải chứng Thánh, nếu chấp thì thành ma, kia đều mô phỏng theo đây.
2) Dõng chí bằng bậc Thánh:
Nầy A-nan! Lại trong định kia các người thiện nam thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, tướng tốt đẹp hiện tiền, cảm kích quá phần, bỗng ở trong đó sinh ra mạnh mẽ vô hạn, tâm mình lanh lợi, chí bằng với Chư Phật. Nghĩa là ba tăng-kỳ một niệm có thể vượt khỏi, sắc tận thì thọ hiện, là tướng cao quý của định, trước chưa hề được nay đã được, bèn sinh cảm kích. Cảm cách quá phần chí mạnh mẽ liền phát, là nói ba kỳ một niệm có thể vượt khỏi, là ta bằng Phật không khác.
Đây gọi là công dụng xâm lấn quá phần, ngộ thì không lỗi, chẳng phải chứng Thánh, biết rõ không mê, lâu ngày tự tiêu trừ, Nếu cho là mình chứng Thánh thì có con ma cuồng nhập vào tim gan mình, thấy người thì khoe khoang, ngã mạn không ai bằng, tâm người ấy cho đến trên không thấy Phật, dưới không thấy có ai, mất đi chánh thọ, theo đó mà đọa lạc, Lăng là bọc người lại Suất là tự cường.
Tự thấy tướng cao quý, do đây mà cảm kích nên có đời này. Đó là hạt giống ngã mạn từ vô thỉ bị kích phát mà sinh, ngộ thì không lỗi.
3) Tâm khao khát nhớ lại:
Lại các người thiện nam ở trong định này thấy sắc ấm tiêu mất, thọ ấm rõ ràng, tiến lên thì không có chứng điều gì mới, quay lại thì mất chỗ chứng cũ, trí lực suy vi, vào trong đọa địa, quay lại không thấy, trong tâm bỗng sinh khao khát, bất cứ lúc nào cũng nhớ lại không tán mất, đem điều này cho là động tướng tinh tiến, thọ ấm chưa không.
Tiến tới trước thì không có chứng điều gì mới: Nghĩa là sắc ấm đã cùng tận. Lùi trở lại thì mất chỗ cũ, nghĩa là lần lượt mất đọa. Ở hai cái cột không có chỗ nương tựa. Gọi là trong đọa địa, đã ở chỗ này tâm không sai lầm, bèn sinh ra nhớ lại, cho đó là Tinh tấn.
Đây gọi là tu tâm không có tuệ tự có lỗi, ngộ thì không lỗi, không phải chứng Thánh. Nếu cho là mình chứng Thánh thì có con ma nhớ nhập vào tim gan mình, sáng chiều buộc tâm một chỗ, mất đi chánh thọ (chánh định), sẽ đắm chìm theo đó. Nếu đối với sắc thọ tận hay chưa tận, dùng tuệ vô tướng quán sát thể của ấm vốn tự bất sinh, nay thì không diệt, chỉ một thật tướng. Như thế thì đâu có mối lo không có điều chứng mới, mất chỗ cũ?
Ở đây thì không như vậy, cho nên thành lỗi mình.
4) Nghi tự quả thành:
Lại các người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm mất, thọ ấm hiện rõ ràng, năng lực tuệ hơn định, mất đi lanh lợi, do các tánh cao siêu nhớ ở trong tâm, tâm mình đã nghi là Lô-xá-na, được ít cho là đủ, mất đi lanh lợi. Nghĩa là lanh lợi hơn tuệ, tâm ôm ấp thắng tánh, nghi là Lô-xá-na, lại không cầu tiến, được ít cho là đủ.
Đây gọi là dụng tâm quên mất thường quán xét nhập vào tri kiến, ngộ thì không lỗi, không phải chứng Thánh, nếu cho là mình chứng Thánh, thì có con ma thấp kém dễ biết đủ nhập vào tim gan mình, thấy người tự nói tội được Vô thượng đệ nhất nghĩa đế, mất đi chánh định, phải đọa theo đó. Vì định lực nhỏ nên quên mất thường xét, năng lực tuệ nhiều nên chìm vào tri kiến, tức là mất đi sự bén nhạy ở trước. Đây chính là thắng giải bỗng sinh khởi hạt giống kiến thủ chấp kém là hơn, cho nên đây là hiện.
5) Ý lo buồn ép ngặt:
Lại các người Thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, điều chứng mới chưa được cho nên tâm đã mất, trải qua hai mé tự sinh gian hiểm, tâm bỗng nhiên sinh nỗi lo vô tận, như ngồi giường sắt, như uống thuốc độc, tâm không muốn sống, thường nhờ người hại mạng mình để sớm được giải thoát. Hai mé là hai điều chưa chứng đã mất, chắc chắn không có phương tiện để an nhẫn tâm mình bèn thành lo buồn, không chịu đựng được trong cuộc sống.
Đây gọi là tu hành mất phương tiện, ngộ thì không lỗi, không phải chứng Thánh, Nếu tự cho là mình chứng
Thánh thì có con ma một phần thường ưu lo, nhập vào tim gan mình, tay cầm đao kiếm tự cắt thịt mình, muốn xả bỏ thân mạng. Hoặc thường lo lắng đi vào núi rừng không thích nhìn thấy ai, mất đi chánh thọ, phải đọa theo đó. Hạt giống hối não bị kích động mà sinh, tu không có phương tiện cho nên dẫn đến ma quỉ. Như luật Tứ Phần nói: Các Tỳ-kheo tu quán bất tịnh bên sông Bà-Cầu, nhàm chán quá đỗi dùng dao tự hại, là do ma sai khiến như vậy, ngộ thì không có lỗi.
6) Sinh tâm vui mừng:
Lại các người thiện nam ở trong định này thấy sắc ấm tiêu trừ, thọ ấm rõ ràng, ở trong thanh tịnh, khi tâm an ổn, rồi bỗng nhiên tự có tâm hỷ phát sinh vô tận. Trong lòng vui thích không thể tự kiềm chế. Đây gọi là khinh an, không có tuệ tự làm chủ. Ngộ thì không lỗi, không phải chứng Thánh. Nếu cho là mình chứng Thánh thì có con ma một phần thích hỷ lạc, nhập vào tim gan mình, thấy người thì cười, tự ca tự múa ở bên đường. Tự cho là đã được giải thoát vô ngại. Mất đi chánh thọ, sẽ bị chìm đắm. Khinh an là thiền chi. Tuy do định mà sinh, phải dùng tuệ để quán sát, bỗng nhiên con ma hạt giống trạo cử quá phần, thích hỷ lạc do đây mà được dịp làm hại.
7) Vô cớ ngã mạn:
Lại các người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, tự cho là đã đủ, bỗng vô cớ sanh tâm ngã mạn. Như thế cho đến mạn và quá mạn, hoặc tăng thượng mạn, hoặc ty liệt mạn cùng lúc phát sinh. Trong tâm còn khinh thường các Đức Như-lai trong mười phương, huống chi hàng Thanh Văn, Duyên giác thấp kém. Ở đây có bảy mạn, cậy mình lăng nhục người, là tánh cống cao, gọi là Ngã mạn. Cho mình bằng người gọi là mạn, cho mình hơn người gọi là quá mạn, người hơn mình mà cho là mình hơn là mạn quá mạn, chưa đắc cho là đắc gọi là Tăng thượng mạn.
Tuy biết thấp kém nhưng lại tỏ ra tự kiêu căng gọi là Ty liệt mạn, khinh hủy kinh tượng là Tà mạn. Bảy thứ mạn này do trong thiền định bỗng sinh thắng kiến, không có tuệ giác chân chánh, cho nên sinh khởi.
Đây gọi là kiến thắng, không có tuệ tự cứu. Ngộ thì không có lỗi, không phải chứng Thánh, nếu cho là mình chứng Thánh thì có con ma một phần đại ngã mạn, nhập vào tâm người ấy, không lễ tháp miếu, đốt hủy kinh tượng, nói với đàn việt rằng đó là vàng, đồng hoặc là cây đất. Kinh là lá cây, hoặc là hoa điệp, nhục thân chân thường không tự cung kính lại tôn sùng tượng đất, tượng gỗ, thật là điên đảo. Người tin đều này, nên phá hủy tan nát, chôn bỏ dưới đất, làm nghi lầm chúng sinh, vào ngục Vô Gián, mất đi chánh định, sẽ bị đọa lạc. Người ngu tu thiền đều rơi vào chấp này, đều là hạt giống ma. Không biết ý tượng giáo của Như-lai. Lại Trụ trì đời Mạt pháp y theo nhân tượng giáo, xuất gia học đạo nương đây mà tu, ma phá hoại nhân kính tin, khiến hủy kinh tượng, cho nên kinh Lăng-già nói; nếu Phật không nói, thì giáo hoại diệt, nếu giáo hoại diệt thì có ai tu hành đắc đạo. Người ngu không thấy văn này, nêu hoàn toàn chê bai Phật không nói, cho nên biết nếu không nói pháp thì mười hai bộ kinh ngay đây sẽ tiêu diệt. Nên biết người hủy kinh tượng là ma quỉ nhập vào tâm họ, là tà kiến nghiêm trọng. Nên phải khéo xem xét, chớ có đồng như hủy báng này.
8) Mau được nhẹ nhàng:
Người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, đối với tinh minh ngộ lý tròn đầy được thuận theo hoàn toàn, tâm họ bỗng sinh ra vô lượng khinh an, rồi nói thành Thánh, được tự tại hoàn toàn. Trong tinh minh tức là trong định tròn đầy vắng lặng chiếu soi. Trong định phát tuệ, tạm khế hợp với lý, gọi là ngộ lý sâu xa tròn đầy. Tướng lý trí rõ ràng không còn chống trái, nên nói là thuận theo, thuận theo nên thân tâm như huyễn, bèn cho là thành Thánh.
Đây gọi là do tuệ mà được thanh tịnh khinh an, ngộ thì không lỗi, chẳng phải chứng Thánh. Nếu cho mình là chứng Thánh thì có con ma một phần thích thanh tịnh khinh an, nhập vào tâm họ, tự cho đã đầy đủ, không còn cầu tiến. Đây phần nhiều là do Tỳ-kheo ít học, làm nghi lầm chúng sinh đọa vào địa ngục A-tỳ, mất đi chánh theo sẽ bị đọa lạc.
Tự cho đầy đủ không cầu tiến: Nghĩa là không học tu thiền, thứ lớp không khéo thông đạt hành tướng của chi thiền. Tạm được khinh an liền cho là thành Thánh. Tỳ-kheo ít học ở một mình đều có, đời đời trôi lăn, huân thức thành nhân, tùy loại mà theo nhau, cuối cùng khó liễu ngộ.
9) Lầm nhập tâm không:
Các người Thiện nam trong định ấy thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, trong sự giác ngộ tỏ được tánh sáng suốt rỗng không, trong đó bỗng nhiên hướng về diệt hẳn, bác bỏ không có nhân quả, hoàn toàn nhập vào không, tâm không hiện tiền, cho đến tâm sinh trưởng sự hiểu biết đoạn diệt.
Được tánh sáng suốt rỗng không, tức là y theo định tròn đầy, phát ra không tuệ, ngộ lý tánh không, y theo đây khởi chấp, thành chấp không một cách sai lầm. Cho nên bác bỏ nhân quả, sinh ra hiểu biết đoạn diệt.
Đây là do không có phương tiện, liền sinh tà kiến. Ngộ thì không lỗi, chẳng phải chứng Thánh, nếu cho là mình chứng Thánh thì có con ma không nhập vào tâm, rồi chê bai người trì giới cho là Tiểu thừa. Bồ-tát ngộ Không, đâu có trì phạm. Người ấy thường được đàn việt tín tâm, uống rượu ăn thịt, làm nhiều việc dâm uế, vì năng lực ma nhiếp thọ người ấy không sinh nghi ngờ chê bai, tâm quỉ nhập vào lâu, hoặc ăn phần tiểu và uống rượu v.v... tất cả đều không, phá luật nghi của Phật, người nhầm mắc tội, mất đi chánh niệm, sẽ bị đọa lạc. Đây là bên trong do tà kiến, bên ngoài dẫn dắt ma không. Kinh Đại Bát-nhã nói: Ma có khả năng nhập vào tâm của tất cả chúng sinh, làm cho chúng sinh quy y với bọn ma như keo như sơn, chặt tay chặt chân không cho là khó, vì năng lực của quỉ nên người đều tin phục.
Kinh Pháp Hoa nói: Đắm mê pháp luống dối, giữ chắc thọ không xả bỏ, chê bai người trì giới. Loại ma này thời nào cũng có chúng xuất hiện. Nam Sơn nói: Giới là Tiểu thừa, khuyên làm cho xả bỏ, lại không chịu xả, khuyên cho giữ gìn, lại không chịu giữ đâu chẳng phải tương ứng với phiền não, cuối cùng khó có thể can ngăn, ma lực làm mê hoặc, ai có thể biết được.
10. Cuồng thành tham dục:
Các người thiện nam ở trong định kia thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm rõ ràng, mùi vị rỗng sáng thâm nhập vào tim vào xương. Tâm họ bỗng có sự thọ sinh vô hạn, thọ phát cuồng mạnh, trở thành tham dục, mùi vị rỗng sáng là ái trước, vào chỗ sắc ấm tận trong thiền cho là cảnh cao siêu. Do đây mà khởi ái, không có tuệ quán sát thì dẫn dắt hạt giống tham dục mà phát khởi, trở thành tham dục. Đây gọi là cảnh định an thuận nhập vào tâm, nhưng không có trí tuệ tự giữ mà lầm vào các dục. Ngộ thì không có lỗi, chẳng phải chứng Thánh, nếu cho là mình chứng Thánh thì có con ma dục nhập vào tâm họ, hoàn toàn nói dục là đạo Bồ-đề, giáo hóa các người tại gia bình đẳng hành dục. Người hành dâm ấy gọi là người trì pháp. Vì năng lực của quỉ thần ở thời Mạt pháp nhiếp kẻ phàm ngu đến cả trăm người. Như thế cho đến một trăm, hai trăm, hoặc năm sáu trăm, nhiều đến cả ngàn muôn. Vì tâm ma nên tự sinh chán lìa thân thể mình, oai đức đã không có, bị mắc vào nạn vua, làm cho chúng sinh nghi ngờ lẫm lẫn thì mắc vào ngục Vô Gián, mất đi chánh định, sẽ bị đọa lạc, loại tham dục này như lửa gặp củi bỗng nhiên phát ra, con ma dục được dịp làm hại, do đây mà nhập vào tâm. Như Tỳ-kheo ở trong rừng bỗng nhiên dục phát, không thể trốn tránh mà hành dâm với ngựa chết, do định mà dẫn ma. Loại ma này thu nhiếp các phàm ngu đến cả ngàn muôn người, dục vốn thuận theo tham, vì ma lừng lẫy, phàm phu ngu hoặc mê đắm, việc gì cũng theo. Lại ma do vọng khởi bổn tánh bất thường, thế lực hết thì chán sống, bỏ thân do nạn.
3. Kết khuyên mở mang truyền bá:
Nầy A-nan! Mười loại hiện cảnh của thiền-na như thế đều là dụng tâm thọ ấm giao nhau cho nên hiện ra việc này. Chúng sinh ngu mê không tự suy nghĩ, gặp nhân duyên này mê mờ không tự biết cho đã là lên bậc Thánh, thành tội nói dối nghiêm trọng, đọa ngục Vô Gián, các thầy sau khi ta diệt độ phải truyền khai nghĩa này cho chúng sinh thời Mạt pháp được khai ngộ, không cho ma trời được dịp làm hại, bảo vệ che chở để giúp họ thành Vô thượng đạo.
Thọ ấm giao nhau: Không thể có định, tuệ ngang bằng, khéo léo an nhẫn. Đã mất phương tiện, niệm khác liền sinh. Do đó cho nên có mười thứ cảnh giới, đều là bên trong thì tâm giao nhau, bên ngoài dẫn dắt các ma.
Nếu biết được điều đó thì không rơi vào tà kiến.
Phá tưởng ấm, có ba:
1. Tướng tận, chưa tận, có hai:
1. Nói về phạm vi:
Nầy A-nan! Người thiện nam kia tu Tam-ma-đề thọ ấm đã cùng tận, tuy lậu chưa cùng tận, tâm lìa thân như chim ra khỏi lồng, đã có khả năng thành tựu, từ thân phàm phu này lên đến sáu mươi giai vị Thánh của Bồtát, được thân ý sinh, tùy theo đó mà đến chỗ vô ngại.
Trong quán, vì hàng phục hoặc chưa dứt hoàn toàn nên nói lậu chưa cùng tận.
Tâm lìa thân: Nghĩa là thọ ấm đã phá, không có chấp thọ. Quán tâm tự tại, như chim ra khỏi lồng, nghĩa là không có chướng ngại.
Đã có thể lên đến địa vị Thánh: Đây là người lợi căn viên đốn được thọ ấm, phá các ấm tùy phá. Đối với thân phàm phu này có thể nhập vào Thánh vị, được thân ý sinh: Nghĩa là không bị ma mê hoặc làm cho lui sụt. Nếu là kẻ độn căn lại phá các ám dưới, tùy theo chỗ chưa cùng tận vẫn còn có việc ma, không được vô ngại. Nay nói theo người lợi căn thì là kẻ rất độn, phá bỏ thức ấm, được các căn dùng lẫn nhau, mới nhập vào Càn Tuệ. Hoặc lấy trước sau so với trung gian, hợp chỗ tưởng hành cùng tận cũng nói nhập vào Thánh vị. Người trung căn kinh nầy không nói, vì văn lược bỏ. Thí như có người ngủ say nói mớ, người này tuy không biết gì khác, nhưng lời nói ấy đã thành ấm vận thứ lớp, làm cho người không ngủ đều ngộ lời nói. Đây gọi là bờ cõi của tưởng ấm, đây là ví dụ cho năng lực quán của người độn căn yếu kém. Tuy thọ ấm cùng tận nhưng có phần thành tựu Thánh vị. Nhưng không phá tưởng ấm cho nên như người ngủ say nói mớ.
Âm vận thứ lớp: Như có phần thành tựu Thánh vị không có sở tri riêng: Nghĩa là tưởng ấm che lấp. Người không ngủ, nghĩa là như người lên Thánh vị, thì biết người này đã có phần thăng tiến lên Thánh vị.
Kinh Bát-nhã nói: Như-lai biết người này sẽ được thành tựu A-nậu Bồ-đề.
Hỏi: Khi phá sắc ấm đã là thành tựu quán hạnh, vì sao không nói lên Thánh vị?
Đáp: Sắc ấm tuy phá, nhưng chưa thể phá tâm, cho nên chưa lên Thánh vị. Vì nó rất thô, thọ ấm là bốn tâm làm đầu, cho nên phá thọ ấm được nói là bước lên sáu mươi Thánh vị.
Hỏi: Nếu nói phá sắc là thô nên không nói, nay phá thọ ấm mong ở tưởng hành cũng tức là thô, vì sao được nói lên Thánh vị?
Đáp: Tuy mong ấm khác cũng tức là thô nầy nhưng các ấm thọ, tưởng, hành, thức đồng là tâm pháp cho nên nếu người lợi căn phá thọ thì ba ấm cũng bị phá theo, không đồng với người độn căn phá sắc, chưa thể phá tưởng. Vì sức quán yếu cho nên ở trong phạm vi, lại giải thích trong dây không chia ra lợi độn nhưng chỉ nói Thánh vị này được thọ cùng tận, tức có thể đã đủ phần Thánh vị thăng tiến. Như kẻ sĩ đã được đỗ đạt thì sẽ có đủ phần quan vị. Nhưng (chín trăm năm mươi ba) chỉ đợi làm việc chính, công đức hơn kém mới trình bày dụng.
2. Nói về tướng cùng tận:
Nếu động niệm cùng tận, tưởng mông lung tiêu trừ, đối với tâm giác minh như phải bỏ bụi nhơ, một vòng sinh tử chiếu suốt đầu đuôi, nên gọi là tưởng ấm cùng tận.
Tưởng là chấp tướng, nghĩa là trước phải an lập cảnh phân rõ tướng, mới được tùy theo đó mà khởi các thứ danh ngôn. Niệm duyên không dứt gọi là phù động. Niệm chính là tưởng. Tưởng mông lung đã dứt, quán tâm càng thanh tịnh cho nên nói như trừ bỏ bụi nhơ.
Một vòng sinh tử nghĩa là loại hành ấm, đầu đuôi: Là gốc ngọn.
Vì hành là chuyển dời, mà chuyển dời chính là sinh diệt, nay không có tưởng ngăn ngại cho nên gốc ngọn đều hiện, tức là thể của sinh diệt hiển bày. Quán tâm thì thấy rõ, cho nên nói là viên chiếu.
Người này sẽ vượt qua phiền não trược, quán sát lý do ấy, dung thông vọng tưởng cho là gốc, tất cả phiền não lấy tưởng làm gốc, quấy nhiễu thân tâm, cho đến não loạn chân tánh, nên gọi là trược. Như văn trước nói: nay ông nhớ biết tụng tập, tánh phát tri kiến, dung hiện sáu trần, lìa trần cảnh không có tướng, lìa giác không có tánh. Tướng dệt thành vọng gọi là phiền não trược. Nay tưởng ấm cùng tận thì trược này cũng vượt qua.
Dung thông vọng tưởng: Tưởng có thể dung biến, thân tùy theo tâm. Tâm nghĩ me chua thì trong miệng ra nước miếng, dung thông chất ngại, nên gọi là dung thông.
2. Nói về hiện cảnh, có mười:
1. Tham cầu khéo léo, có hai:
a) Tâm ái bỗng sinh, ma được dịp làm hại.
Nầy A-nan! Người Thiện nam kia, thọ ấm rỗng rang, không gặp tà lự, định viên phát sáng trong Tam-ma-địa, tâm ái tròn sáng, suy nghĩ tinh nhuệ, tham cầu khéo léo. Tâm ái sinh khởi, mầu nhiệm vắng lặng, tà lự là mười thứ tâm, niệm trước là phát sinh tâm bi mạnh mẽ.
Ái tròn sáng là mê đắm cảnh định. Nhuệ: Là bén nhạy, tôi rèn tâm ái bén nhạy làm cho tinh diệu, nên nói tham khéo léo.
Bấy giờ, ma trời chờ dịp làm hại, tinh thần gá vào người, miệng nói kinh pháp, người ấy không biết đó là ma dựa, tự cho là đã được Niết-bàn Vô thượng. Đến chỗ người thiện nam kia trải tòa nói pháp, hiện đủ các thân hoặc làm Tỳ-kheo, cho người ấy trông thấy, hoặc làm Đế-thích, hoặc làm phụ nữ, hoặc làm Tỳ-kheo-ni, hoặc làm thân có ánh sáng ở trong nhà tối. Người này ngu mê cho là Bồ-tát, tin theo lời dạy của kẻ kia, xao động tâm tư, phá luật nghi của Phật, rồi làm việc tham dục, do đó ma được dịp làm hại. Đã tham tưởng lạ khéo léo thì rối ren. Ma dựa vào người khác, đến cầu khéo léo, thầy trò dẫn dụ nhau làm loạn tâm người ấy, phá oai nghi Phật cho nên thành nghiệp ma.
b) Miệng nói nhiều việc lạ, bỏ thân lưu nạn:
Miệng thích nói lời tốt xấu, lạ lùng, hoặc nói Nhưlai ra đời ở chỗ nào đó, hoặc nói kiếp hỏa, hoặc nói chiến tranh, để làm cho người sợ hãi, làm cho người tan nhà bại sản, tức là nói lắm lời.
Đây gọi là quỉ quái tuổi già thành ma, khuấy rối người này, sinh tâm nhàm chán, trừ bỏ thân người kia, đệ tử và thầy đều mắc vào pháp luật nhà vua, dẫn đến các nạn. Ông phải biết trước thì không vào luân hồi, mê hoặc không biết thì đọa vào địa ngục Vô Gián. Khuyên phải biết trước, các cảnh dưới đều mô phỏng theo đây.
2. Dục đã trải qua, có hai:
a) Tâm ái bỗng sinh, ma được dịp làm hại:
Nầy A-nan! Người thiện nam thọ ấm vắng lặng, không gặp tà lự, viên định phát minh, tâm ái rộng khắp trong Tam-ma-địa, suy nghĩ tinh tế, tham cầu trải qua tâm ái phát sinh. Kinh lịch là du hành.
Bấy giờ, ma trời chờ dịp làm hại, liền gá tinh thần vào người ấy, miệng nói kinh pháp, người ấy cũng biết ma dựa nhưng cũng tự cho là mình đã được vô thượng Bồ-đề, đến chỗ người thiện nam cầu đạo kia, trải tòa nói pháp, thân mình không biến hiện nhưng người nghe pháp bỗng tự thấy thân ngồi trên hoa sen báu, toàn thân hóa thành ánh sáng vàng tím, mọi người ngồi nghe cho là điều chưa từng có. Người ấy ngu mê, lầm cho là Bồtát, tâm mình buông lung dâm dật, phá luật nghi của Phật rồi hành tham dục. Hoặc đi đứng ở trong định, dạo đi lễ bái không hề ngăn ngại, hoặc buông lung khắp nơi, theo tình mất chí. Ma được dịp làm hại, người kia buông thả tâm dục, phá luật nghi của Phật, gây ra đủ các nghiệp.
b) Miệng nói nhiều việc lạ, bỏ thân lưu nạn:
Miệng ưa nói Chư Phật ra đời, chỗ nào đó người nào đó sẽ hóa thân Phật nào đó đến đây, người nào đó là Bồtát gì đó đến hóa độ nhân gian. Vì người kia thấy, tâm sinh khát ngưỡng, tà kiến sinh khởi, hạt giống trí tiêu diệt, đây gọi là bạt quỉ, tuổi già thành ma não loạn người này, tâm sinh nhàm chán lìa bỏ, thân người kia, đệ tử và thầy đều mắc nạn vua. Ông phải biết trước mới không rơi vào luân hồi, mê hoặc không biết thì đọa ngục Vô Gián, văn rõ ràng rất dễ hiểu.
3. Nguyện khế hợp, có hai: a) Tâm ái bỗng sinh, ma được dịp làm hại.
Lại người thiện nam thọ ấm vắng lặng, không gặp tà lự, viên định phát sáng, trong Tam-ma-địa, tâm ái miên tập, lắng đọng tinh tư, tham cầu khế hợp.
Miên là mật, tập là hợp.
Lắng động tức là ngưng tịch, tình tứ là tâm ái ở trước.
Quên cơ tịch chiếu, tướng niệm chẳng sinh, lý tự thầm hợp. Nếu mong cầu nhóm hợp, niệm ái tăng dần, tâm nghi liền sai, bèn chiêu cảm sự mê hoặc của ma.
Bấy giờ, ma trời chờ được dịp làm hại, liền gá tinh thần vào người ấy, miệng nói kinh pháp, người ấy thật biết ma dựa nhưng cũng tự cho là mình được Niết-bàn vô thượng, đến chỗ người thiện nam kia cầu hợp, trải tòa nói pháp, thân hình của chúng và người nghe pháp kia bên ngoài không thay đổi, làm cho người nghe khi chưa nghe pháp mà tâm đã tự khai ngộ, niệm niệm đổi dời, hoặc được túc mạng, hoặc có tha tâm thông, hoặc thấy địa ngục, hoặc thấy các việc tốt xấu ở nhân gian, hoặc miệng nói kệ, hoặc tự tụng kinh. Mọi người điều ưa thích cho là điều chưa từng có, người này ngu mê cho là Bồtát bèn buộc ái vào tâm, phá luật nghi của Phật, thực hành tham dục. Tâm mong kết hợp, làm cho người chưa nghe pháp tự được khai ngộ, cho đến tụng kinh được thông v.v... rất hợp với tâm cho nên sinh ra nhiều ái. b) Miệng nói nhiều việc bị bỏ thân lưu nạn:
Miệng ưa nói, mắt, tai, mũi, lưỡi đều là tịnh độ, hai căn nam nữ là chỗ chân chánh của Bồ-đề, Niết-bàn. Người kia không biết, tin lời uế ác ấy, đó gọi là trùng độc, còn hơn quỉ ác, tuổi già thành ma, khuấy rối người này, sinh tâm nhàm chán, dứt bỏ thân người kia, đệ tử và thầy đều mắc phải nạn vua. Ông phải biết trước mới không rơi vào luân hồi, mê hoặc không biết sẽ đọa ngục Vô Gián. Thế gian có Kim Cương thiền nhị hội tử, đều là loại này, đây đều bị ma dựa, đều bị nạn vua.
4. Ưa thích biện giải phân tích, có hai:
a) Bỗng nhiên sanh ra tâm ái! Thọ ấm vắng lặng không gặp tà lực, viên định khai ngộ trong Tam-ma-địa, cội gốc tâm ái, xem xét cùng cực giáo hóa chúng sanh, đầu cuối của tánh, tinh ròng sáng suốt tâm ấy, tham cầu phân tích: căn bản là cầu nghiên cứu căn bản, nguồn đáy các vật: giáo hóa chúng sanh là muôn cảnh, sảng là sáng suốt.
Bấy giờ ma trời đợi dịp làm hại, phi tinh gá vào người, miệng nói kinh pháp, người ấy trước không biết bị ma dựa, cũng nói mình được Niết-bàn vô thượng, đến chỗ người thiện nam cầu nguồn đáy kia, trải tòa nói pháp, thân có oai thần, hàng phục những người mong cầu, khiến cho những người dưới tòa dù chưa nghe pháp tự nhiên tâm cũng quy phục, những người này cho rằng Niết-bàn, Bồ-đề, pháp thân của Phật chính là nhục thân hiện tiền của ta, cha cha con con nhiều đời sanh nhau, chính là pháp thân thường trụ không dứt, đều cho rằng hiện tại chính là cõi nước Phật, không có cõi tịnh nào khác và tướng sắc vàng nào khác.
Người ấy tinh nhận, quên mất tâm trước, thân mạng quy y, được điều chưa từng có. Những người ngu mê này lầm cho là Bồ tát, suy cứu tâm mình, phá bỏ luật nghi của Phật, làm việc tham dục, tâm muốn mong cầu nguồn đáy, tinh khí của ma gá vào chúng sanh, nói nhục thân là gốc của ba đức, cho rằng sanh nhau là nhân thường trụ, cõi nước thanh tịnh chỉ là cảnh nhơ uế này, thể của tướng tốt hoàn toàn là thân ta. Ma đã nói gốc vọng thì tin tà liền phát, năng lực của ma áp chế nên không còn đổi dời, suốt đời quy tâm, theo tà bỏ chánh.
Miệng nói nhiều việc lạ khiến thân rơi vào các nạn:
Miệng ưa nói mắt, tai, mũi, lưỡi đều là tịnh độ, nam căn nữ căn, tức là chỗ chân thật Bồ-đề, Niết-bàn. Người ấy không biết bèn tin những lời ô uế này, đó gọi là trùng độc yểm thắng, quý ác tuổi già thành ma khuấy rồi người ấy, tâm sanh nhàm đủ, khi ma rời thân của người ấy thì đệ tử và Thầy đều rơi vào nạn vua. Ông nên biết trước để không rơi vào luân hồi, nếu mê hoặc không biết thì đọa địa ngục Vô gián: Ở thế gian có Kim Cương Thiền Nhị Hội Tử chính là loại này, đây đều là ma dựa, cuối cùng bị nạn vua.
5. Mong cầu thầm cảm:
a) Tâm ái bỗng sinh, ma được dịp làm hại:
Lại người thiện nam, thọ ấm vắng lặng, không gặp tà lự, viên định phát minh, trong Tam-ma-địa tâm ái xa ứng, tinh cứu cùng khắp, tham cầu thầm cảm ứng.
Công hạnh sâu xa, cảm ứng tự thầm hợp, khởi niệm vọng cầu, ma tinh thầm nhập, bấy giờ ma trời chờ được dịp làm hại, phi tinh gá liền nhập vào người kia, miệng nói kinh pháp, đến chỗ người thiện nam kia cầu cảm ứng, trải tòa nói pháp, làm cho người nghe tạm thấy thân ma như trăm ngàn tuổi, tâm người nghe sinh ái nhiễm không thể lìa bỏ, thân làm tôi tớ, cúng dường bốn thứ cần dùng không biết mỏi mệt, đều làm cho người dưới tòa tâm nghĩ là thiện tri thức, rồi sinh tâm ưa pháp cho là điều chưa hề có. Người này ngu mê, lầm cho là Bồ-tát rồi gần gũi họ, phá luật nghi của Phật, lén hành tham dục. Mong cầu đã khởi, ma được dịp làm hại bèn đến, dựa vào người kia làm thiện tri thức, cảm tâm kích động, tôn làm tiên sư, yêu pháp gấp bội, dính chặt đâu khác gì sơn.
b) Miệng nói nhiều việc lạ, bỏ thân lưu nạn:
Miệng ưa nói đời trước ta sanh ở chỗ nào đó, trước độ người nào đó. Bấy giờ, là anh em vợ con của ta, nay ta đến độ cho họ, cùng ông theo nhau về ở thế giới kia, cúng dường Phật nào đó, hoặc nói đặc biệt có trời Đại Quang Minh, Phật ở trong đó, là nơi nhóm học của tất cả Như-lai. Người ấy không biết, tin một cách hư cuồng, mất đi bổn tâm.
Đây gọi là ma quỉ, tuổi già thành ma, khuấy rối, người này, sau đó sinh tâm nhàm chán, xả bỏ thân người ấy, đệ tử và thầy đều mắc vào nạn vua.
Ông phải biết trước, để không rơi vào luân hồi, nếu mê hoặc không biết, sẽ đọa địa ngục Vô Gián.
Hưu cư địa: là chỗ Niết-bàn.
Niết-bàn Chân thật đâu có chỗ? Nay cho cõi trời là nơi viên tịch, chẳng phải ma là gì, tin thì đọa vào đường ma, thầy trò đều đọa.
6. Mong vắng lặng, có hai: a) Tâm ái bỗng sinh, ma được dịp làm hại.
Lại người thiện nam, thọ ấm vắng lặng, không gặp tà lự, viên định phát sáng trong Tam-ma-địa, tâm ái thâm nhập, nghiêm khắc với mình, thích ở ấm tịch, tham cầu yên lặng, yêu thích cảnh tịch, là chỗ chân tu.
Cho nên nói thâm nhập, hễ tâm mất thì cảnh tịch, đâu phải việc trần gian. Niệm động thì duyên rối, mặc tình ở chỗ hang hóc. Tĩnh muốn vừa nêu ma tinh liền đến, buộc thân tâm nên nói là nghiêm khắc với mình.
Bấy giờ, ma trời đợi được dịp làm hại bèn gá tinh thần vào người, miệng nói kinh pháp. Người kia vốn không biết là ma dựa cũng nói mình được Niết-bàn vô thượng.
Đến chỗ người thiện nam cầu ấm kia, trải tòa nói pháp, làm cho người nghe đều nghĩ nghiệp của mình, hoặc ở chỗ ấy, nói với một người rằng: Nay ông chưa chết đã làm súc sinh, rồi sai một người đạp cái đuôi ở phía sau, làm cho người ấy đứng dậy không được. Bởi vậy cả chúng đều kính phục. Có người vừa khởi tâm, chúng đã biết rồi. Ngoài luật nghi của Phật còn thêm siêng năng khắc khổ, chê bai các Tỳ-kheo, mắng nhiếc đồ chúng, bới móc việc người, không sợ chê cười, làm cho người biết về việc túc mạng, bổn nghiệp. Sai người đạp đuôi là hiện ra hậu báo. Khởi tâm biết sự tính toán là tha tâm thông. Bới móc việc người là thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông. Ma được tà định cho nên có thần thông này, làm nhiều việc như thế, ai mà không tin phục, rạch bày việc riêng gọi là bới móc. b) Miệng nói nhiều việc lạ, thân mắc lưu nạn.
Miệng thích nói họa phước chưa xảy ra, cho đến lúc xảy ra mảy may không sai. Quỷ đại lực này lâu năm thành ma khuấy rối người này, sinh tâm nhàm chán, rời bỏ thân người kia, đệ tử và thầy bị mắc vào nạn vua. Ông phải biết trước để không rơi vào luân hồi, nếu mê hoặc không biết đọa vào địa ngục Vô Gián.
Chưa xảy ra: là nói trước lành dữ, đúng không sai mảy may.
7. Cầu túc mạng, có hai: a) Tâm ái bỗng sinh, ma được dịp làm hại:
Lại người thiện nam thọ ấm vắng lặng, không gặp tà lự, viên định phát sáng, trong Tam-ma-đề, tâm ái tri kiến, khắc khổ nghiên tầm, tham cầu túc mạng. Thần thông như túc mạng thông v.v...
Thiền: tự có tĩnh lự lìa dục, nhậm vận hiện tiền. Nếu khởi niệm trước cầu, chẳng có công lao mà nhận bừa, chẳng phải chỉ chết mà còn thành ma.
Bấy giờ, ma trời đợi dịp làm hại, dựa vào người kia, miệng nói kinh pháp. Người kia thật không biết là ma dựa cũng nói mình đã được Niết-bàn vô thượng, đến chỗ người thiện nam cầu hiểu biết kia, trải tòa nói pháp. Người này vô cớ ở chỗ nói pháp được châu báu lớn. Ma ấy có khi biến thành súc sinh, miệng ngậm hạt châu và các thứ báu, cùng những cái thẻ, các vật kỳ lạ, trước đưa cho người kia, sau đó để dính vào thân. Hoặc dụ người nghe, chôn lấp dưới đất nơi có mặt trăng sáng, viên ngọc sáng chiếu soi. Người ngồi nghe cho là điều chưa hề có. Ăn nhiều cỏ thuốc, không ăn đồ ngon. Có khi ngày ăn một hạt mè, một hạt thóc mà thân hình vẫn mập mạp, do năng lực ma giữ gìn, rồi chê bai Tỳ-kheo, mắng chửi đồ chúng, không sợ sự chê bai, giản sách phù độc đều là vật quan trọng của quốc gia, ghi việc lớn nhỏ, hợp với sự tin tưởng của các quan cho nên dùng nó.
Trao vật lạ này làm cho tâm họ tin phục, sau đó mới để vào thân. b) Miệng nói nhiều việc lạ, bỏ thân lưu nạn:
Miệng ưa nói chỗ sâu kín của Thánh Hiền mười phương, kho báu ở phương khác. Đi theo sau người đó, thường thấy có người kì dị. Đây gọi là núi rừng, đất đá thành hoàng núi sông, quỉ thần tuổi già thành ma hoặc nói dâm dục để phá giới luật của Phật, người nghe theo lén làm việc năm dục, hoặc có người tinh tiến ăn toàn cỏ cây, (chín trăm năm mươi lăm) không có hạnh thiền định, làm việc khuấy rối người này. Khi người này sinh tâm nhàm chán, thì ma xả bỏ thân người ấy, thầy và đệ tử rơi vào nạn vua, ông phải biết trước để không rơi vào luân hồi, nếu mê hoặc không biết thì sẽ đọa ngục Vô Gián.
Lời văn rất dễ hiểu.
8. Cầu thần lực, có hai:
a) Tâm ái bỗng sinh, ma được dịp làm hại:
Lại người thiện nam, thọ ấm vắng lặng, không gặp tư tà, viên định phát sáng, trong Tam-ma-địa tâm thích các thứ thần thông biến hóa. Nghiên cứu hóa nguyên tham chấp thần lực. Hóa nguyện là gốc của thần biến, tham nầy là như ý thông.
Bấy giờ, ma trời chờ dịp làm hại, gá tinh thần vào người, miệng nói kinh pháp. Người ấy không biết ma dựa. Cũng nói là mình được Niết-bàn vô thượng, đến chỗ người thiện nam kia cầu như ý thông, trải tòa nói pháp. Người này hoặc tay cầm lửa sáng, tay chia lửa ánh sáng ra để trên đầu bốn chúng. Ánh lửa trên đầu người nghe này đều cao mấy thước, không hề có tánh nóng, lại không thiêu đốt, hoặc đi trên nước như đi trên đất, hoặc ngồi trên hư không bất động, hoặc vào trong cái bình, hoặc ở trong cái túi, vượt thành leo tường không chướng ngại. Chỉ đối với đao binh không được tự tại, tự nói mình là Phật, thân mặc áo người tại gia mà nhận sự lễ bái của Tỳ-kheo, chê bai thiền luật, mạ nhục đồ chúng, bới móc việc người, không sợ chê bai, thần cảnh thông lìa dục mới được, tâm tham gượng lấy tức Diêm-ma-la. Hẳn như chân thông, dao có thể cản trở. Lấy đây để xem xét, tà chánh có thể phân, thân mặc áo người tại gia mà nhận Tỳ-kheo lễ bái. Theo Kinh Nhân Vương, người tại gia ngồi tòa cao, Tỳ-kheo đứng dưới đất là tướng của Phật pháp diệt. Trong giới Bồ-tát cũng nói như vậy.
b) Miệng nói nhiều việc lạ, bỏ thân lưu nạn.
Miệng thường nói thần thông tự tại, hoặc lại khiến cho người đứng bên cạnh thấy được cõi Phật, năng lực quỉ mê hoặc người, chẳng hề chân thật, khen ngợi làm việc dâm, không hủy hạnh thô, cho những đều bỉ ổi là truyền pháp. Đây gọi là trời đất đại lực, núi tinh biển tinh, gió tinh, sông tinh, đất tinh, tất cả cỏ cây nhiều kiếp thành tinh mỵ, hoặc là rồng mỵ, hoặc vị tiên tuổi thọ hết lại làm ly my, hoặc vị tiên đến lúc chết, lượng năm mà chết, nhưng thân họ không hóa thành điều quái khác, tuổi già thành ma khuấy rối người này, rồi sinh tâm nhàm chán, xả thân người ấy, đệ tử và thầy đều rơi vào nạn vua.
Ông phải biết trước, không thì rơi vào luân hồi, mê hoặc không biết sẽ đọa ngục Vô Gián.
Bỉ ổi là việc thô uế, còn lại như văn kinh có ghi.
9. Ưa thích hư không sâu xa, có hai:
a) Tâm ái chợt sinh, ma được dịp làm hại:
Lại người thiện nam thọ ấm vắng lặng, không gặp tà lự. Viên định phát sáng, trong Tam-ma-địa tâm thích nhập diệt. Nghiên cứu hóa tánh tham cầu cái không sâu xa. Bấy giờ, ma trời đợi được dịp làm hại, gá tinh thần vào người, miệng nói kinh pháp. Người ấy hoàn toàn không biết ma dựa, cũng nói minh được Niết-bàn vô thượng, cũng đến chỗ người thiện nam kia mong cầu không, trải tòa nói pháp, ở trong đại chúng, thân chúng bỗng thành không, đại chúng không thấy, lại từ hư không bỗng nhiên xuất hiện, ẩn hiện tự tại, hoặc hiện thân mình sáng như lưu ly, hoặc rủ tay chân thành mùi chiên đàn, hoặc đại tiểu tiện như đường phèn, chê bai giới luật, xem thường người xuất gia.
Chân không chẳng ngại diệu hữu, hữu nhưng tánh thường tự không. Cho nên tu đủ muôn hạnh, hoàn toàn không mê đắm, hoặc muốn lấp hết các việc làm, cho là cái không sâu xa, tức là đồng với chấp đoạn của ngoại đạo, bác bỏ không có nhân quả. Ma được dịp làm hại, từ hư không ẩn hiện, huyễn hoặc tâm người.
b) Miệng nói nhiều việc lạ, bỏ thân lưu nạn:
Miệng thường nói không nhân không quả, chết rồi là mất hẳn, không có thân sau, không có phàm Thánh. Tuy được vắng lặng, Lén hành tham dục. Người thọ dục kia cũng được tâm không, bác không có nhân quả. Đây gọi là mặt trời, mặt trăng, bạc thực. Tinh khí vàng ngọc, cỏ cây, lân phượng, rùa nhạn trải qua ngàn muôn năm không chết thành linh, sinh ra cõi nước, tuổi già thành ma, khuấy rối người này, rồi sinh tâm nhàm chán, bỏ thân người ấy, đệ tử và thầy rơi vào nạn vua. Ông phải biết trước, không thì rơi vào luân hồi. Mê hoặc không biết sẽ đọa ngục Vô Gián. Miệng nói lý Không, chẳng có nhân quả. Do tâm mong cầu mà đưa đến bị ma mê hoặc.
Bạc thực tinh khí tức là sao xấu, tinh diệu có khả năng làm tinh thần, cũng là ma quái.
10. Thích sống mãi, có hai:
a) Tâm ái bỗng sinh, ma được dịp làm hại.
Lại người thiện nam, thọ ấm vắng lặng, không gặp tà lự, viên định phát sáng, trong Tam-ma-địa tâm thích sống lâu, khổ cực nghiên cứu, tham cầu sống mãi, bỏ sinh tử phần đoạn, cầu mong biến dịch tưởng tế thường trụ.
Bấy giờ, ma trời đợi được dịp là bay gá vào tinh thần người, miệng nói kinh pháp, người ấy không biết là ma dựa cũng tự nói là được Niết-bàn vô thượng, đến chỗ người thiện nam kia, trải tòa nói pháp, thích nói phương khác, qua lại không ngăn ngại, hoặc trải qua muôn dặm trong nháy mắt trở lại, đều ở xứ này lấy được vật ấy, hoặc ở một chỗ, ở trong một nhà khoảng chừng mấy bước, làm cho người kia đi từ Đông đến vách Tây, người này đi rất nhanh mà nhiều năm không đến, do đó mà sinh lòng tin, nghi Phật hiện tiền. Sinh tử phần đoạn, ba cõi mê hoặc cùng tận thì mới được lìa. Nhị thừa Vô học lên địa Bồ-tát đều được Biến dịch. Nay chưa lìa nhiễm bỗng muốn đối với thân phần đoạn biến thân thô thành chất tế, biến thân mạng ngắn ngủi thành tuổi thọ lâu dài, mong cầu quá phần cho nên bị ma dựa, tướng tế thường trụ. Tướng nhỏ nhiệm còn thì cầu sống lâu ở đời.
b) Miệng nói nhiều việc lạ, bỏ thân lưu nạn:
Miệng thường nói, chúng sinh mười phương đều là con ta, ta sinh ra Chư Phật, ta sinh ra thế giới, ta là Phật đầu tiên ra đời, tự nhiên không do tu mà được. Đây gọi là ma trời tự tại trụ thế. Sai quyến thuộc của chúng như Giá-văn-trà và bốn vị vua trời, đồng tử Tỳ-xá, người chưa phát tâm lanh lợi thì sáng rỗng, ăn tinh khí kia hoặc không do thầy mà người tu hành ấy, tự thân quán thấy, xưng là Chấp Kim Cương trao cho ông tuổi thọ lâu dài, hiện thân người nữ xinh đẹp thực hành tham dục, chưa quá ba năm, gan não khô héo, miệng nói lảm nhảm một mình, tiếng nghe như yểu mỵ, trước người chưa rõ phần nhiều rơi vào nạn vua. Chưa kịp thành hình thì trước đã chết khô, khuấy rối người kia cho đến chết.
Ông phải biết trước thì không rơi vào luân hồi, nếu mê hoặc không biết sẽ đọa vào địa ngục Vô Gián.
Giá-văn-trà chưa rõ tên.
Đồng tử Tỳ-xá tức là quỉ Tỳ-xá-già, Hán dịch là Thực tinh khí. Tần-na-dạ-ca cũng là loại này, việc làm của người thế gian cho là Thiện tri thức, đều là ma trời sáu tầng trời cõi Dục, cho đó là chủ.
Nói một mình tức là cô gái đẹp ở trước.
Kết khuyên mở mang truyền bá, có bốn:
1) Tổng kết các cảnh:
Nầy A nan! Nên biết mười thứ ma này vào thời Mạt pháp vào trong pháp của ta xuất gia tu đạo, hoặc dựa vào thân người, hoặc tự hiện thân, đều nói đã thành Chánh
Biến tri giác, khen ngợi việc dâm dục, phá luật nghi của Phật. Thầy của ác ma ở trước và đệ tử ma làm việc dâm truyền cho nhau. Như thế tà tinh mỵ tim gan của họ, gần thì chín đời, nhiều thì trăm đời. Khiến người tu hành chân thật đều là quyến thuộc của ma, khi qua đời rồi sẽ làm dân ma, mất chánh biến tri, đọa ngục Vô Gián. Văn này giống với kinh Niết-bàn nói: (chín trăm năm mươi sáu) Trong đời Mạt pháp, ma Ba-tuần kia dần dần phá hoại chánh pháp của ta. Cho đến hiện Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni và A-la-hán, phi pháp nói là pháp, hủy phạm giới luật, tự nói chứng được quả Thánh, mê hoặc nhiễu loạn thế gian. Dùng hai kinh này xét rõ thế gian, xưng là Thánh mà hủy giới, không phải ma thì là ai:
2. Khuyên mở mang truyền bá:
Nay ông không nên trước chấp vào vắng lặng. Dẫu được Vô học cũng nguyện vào trong thời Mạt pháp, khởi tâm đại từ bi cứu độ chúng sinh làm cho chánh tâm tin sâu, làm cho ma không dựa vào chánh tri kiến được. Nay ta độ ông ra khỏi sinh tử, ông vâng theo lời Phật mới gọi là báo ơn Phật. Đại Thánh lòng từ khuyên không nên chấp diệt, hết lòng dặn dò chính là lúc này. Nếu dùng văn nầy mong phát nguyện ở trước, như có một chúng sinh nào chưa thành Phật thì con sẽ không chứng Niếtbàn ở cõi này.
Đây là thầy trò làm thành lẫn nhau, từ bi cứu độ một lần, bốn phái nhập diệt, một phái làm sao hiện quyền.
3. Chỉ bày lại nhân mê:
Nầy A-nan! Mười thứ hiện cảnh thiền-na như thế, đều là tưởng ấm, dụng tâm giao nhau, cho nên hiện việc này. Chúng sinh ngu si không tự suy nghĩ, gặp nhân duyên này thì mê mờ không tự biết, cho là lên bậc Thánh, thành đại vọng ngữ, đọa ngục Vô Gián, như trong văn kinh có nói.
4. Lại khuyên cố gắng truyền bá:
Sau khi ta diệt độ các thầy phải truyền dạy lời nói của Như-lai, truyền dạy ở thời Mạt pháp, giúp cho tất cả chúng sinh khai ngộ nghĩa này, làm cho ma trời không có dịp làm hại, che chở giúp đỡ cho thành đạo vô thượng, y theo mở mang kinh này, hợp với Cung ma rung chuyển. Vì phàm phu không biết. Như nói bốn hạnh an vui, chính là giống với ý này. Cho nên Văn-thù hỏi: Vào đời vẩn đục về sau làm sao nói kinh này? Phật bảo trụ vào bốn hạnh an lạc, nói đủ lìa các duyên chê bai, đâu chẳng đồng với việc ma này?
QUYỂN 10 (Phần 1)
Phá hành ấm, có ba:
1. Tướng tận chưa tận, có hai:
1. Nói về phạm vi, có hai: a) Tướng lợi ích của tưởng cùng tận:
Nầy A-nan! Người Thiện nam kia, tu Tam-ma-đề, tưởng ấm đã cùng tận, đây là người bình thường, mộng tưởng tiêu diệt, năm thức hằng nhất. Nếu tưởng ấm còn, thức là tưởng tượng, ngủ thì thành mộng. Nay tưởng ấm cùng tận tức là không có mộng, vì tưởng ấm là gốc của mộng.
Ngủ thức: một người tuy có ngủ thức, vì không có tưởng nên thức cũng như ngủ, ngủ cũng như thức, nên nói là hằng nhất. Giác minh hư tĩnh giống như trời trong xanh, không còn thô nặng và bóng dáng tiền trần.
Tròn sáng là thể của tâm nên gọi là Giác minh. Lìa tưởng phù động nên gọi là Hư tĩnh. Hư không dụ cho giác minh, trong xanh dụ cho lìa tưởng, thô nặng tức là phiền não, vì tưởng ấm là vẩn đục về phiên não, bóng dáng tiền trần là cảnh sở tưởng, năng tưởng đã mất thì sở tưởng không lập, cho nên nói không còn.
Quán núi sông đất đai ở thế gian như soi gương sáng, xưa nay không dính bụi, không có dấu vết, rỗng không, chiếu ứng là quán duyên. Tuy có căn thức duyên với các cảnh giới, mà không có tưởng tượng buộc niệm vào ý, cho nên như gương soi vật, không có dấu vết, chỉ có thọ rỗng, soi rỗng, ứng rỗng mà thôi. Cũng có thể như gương soi ánh sáng, tuy soi mà không có bóng. Cho nên nói thọ rỗng.
Rốt ráo không có trần tập, chỉ một tinh chân. Liễu là rốt ráo. Võng là không.
Trần là cũ, tập là vọng tưởng.
Rốt ráo không có vọng tập từ vô thỉ, chỉ có một tánh linh thiêng chân như.
Lại liễu là rõ biết, tức là các thức. Võng là không hình tượng.
Trần tập là hạt giống vô thỉ.
Duy nhất tinh chân là chỉ cho một thức ấm.
Cũng như văn dưới nói hiểu rõ bên trong không có hình, tưởng tinh diệu nhỏ nhiệm hư vô, để đối với hành ấm, nên nói là tinh chân. Hiển rõ điều này, hành nhân dược tưởng ấm cùng tận, chỉ có thức ấm và hành ấm còn. Nay hành ấm này lại hiện bày, nên nói thức ấm là tinh chân. b) Tướng hành ấm hiện.
Nguồn gốc sinh diệt từ đây hiển bày, thấy mười hai loài chúng sinh khắp mười phương, tất cả là loại này. Tuy chưa thông nhưng mỗi sinh mạng đều do đầu mối, thấy đồng với nền tảng của sinh vật. Giống như ngựa hoang sáng láng lanh lợi, là phù trần căn rốt ráo chia phân giới hạn. Đây gọi là phạm vi hành ấm, hành ấm là nguồn gốc sinh diệt, vì nó biến chuyển tạo tác, tưởng ấm cùng tận, hành ấm hiện ra nên nói là lộ rõ.
Tất cả là loại này, tất cả nghĩa là đều, là mười hai loại sinh này đều từ hành ấm sinh ra, vì hành ấm là thể của nghiệp, không thông với các sinh mạng: nghĩa là biết rõ mười hai thứ sinh đều từ hành ấm sinh, nhưng chưa biết hạt giống riêng chủng của chúng sinh ở trong thức ấm. Đây là hạt giống bổn thức nghiệp khổ, chúng sinh đều có tánh mạng riêng, do nhiều mối rườm rà, thấy đồng với cơ thể sinh vật, nghĩa là đồng phân cơ thể sinh vật, tức là hành ấm. Mười hai phẩm loại đều lấy hành ấm làm nền tảng.
Giống như ngựa hoang: là trần hợp với khí dương cổ động mà thành.
Sáng láng là ánh sáng lóe lên tia chớp, dụ cho sinh diệt. Lanh lợi: là hành ấm này khuấy động sinh diệt nhỏ nhiệm không ngừng, vì không có bụi nhỏ của tưởng ấm, cho nên nói là thanh (sạch), làm phù trần căn rốt ráo ở hang chốt, then cửa gọi là chốt, viền cửa gọi là hang. Đây đều là chỗ quan trọng của động chuyển. Căn trần sinh diệt đều lấy hành ấm làm chỗ then chốt biết rõ đều này, chính là hành ấm, nên nói là phạm vi.
2. Nói về tướng cùng tận:
Nếu nguyên tánh sáng rỡ trong lặng này, tánh nhập vào vốn trong làng, một trong lặng nguyên tập, như sóng mòi lặng, hóa thành nước trong, gọi là hành ấm cùng tận. Người này có khả năng vượt qua chúng sinh trược. Quán lý do ấy, vọng tưởng u uẩn lấy đó làm gốc. Tánh nhập vào vốn trong lặng, nếu hành ấm cùng tận, tánh đổi dời lắng trong, trở về một tạng thức, gọi là nhập vào nguồn lắng.
Kinh nói: Biển tàng thức thường trụ. Vì quán hạnh thêm cao siêu thuần là tập khí cội nguồn sinh diệt, làm cho bất động quy về một thức ấm, giống như nước lắng trong. Vì hành ấm là nghiệp tánh biến chuyển của chúng sinh, nếu nó cùng tận thì vượt qua sự vẩn đục về chúng sinh. Hành ấm sinh diệt nhỏ nhiệm khó biết, nên nói là u uẩn.
2. Nói về hiện cảnh, có mười:
1. Nhị vô nhân luận, có hai:
a) Nêu lên:
A-nan nên biết! Người thiện nam nầy được chánh trí Xa-ma-tha, tâm chân chánh sáng suốt, mười loại ma trời không có dịp làm hại, mới được nghiên cứu cùng tột nguồn gốc các loài chúng sinh. Trong bổn loại thì sinh vốn lộ này, quán u uẩn sáng tròn khuấy động nguồn cội kia, trong nguồn tròn đầy khởi lên chấp đắm (chín trăm năm mươi bảy) người này rơi vào luận thuyết Nhị vô nhân. Chỉ quán thêm cao siêu, tưởng niệm không khởi nên nói là tâm chân chánh sáng suốt, ái nhiễm cõi Dục bất sinh nên nói ma không có dịp làm hại. Ngay đây suy cho cùng về nguồn gốc sinh loại chỉ một hành ấm u uẩn trong suốt, cho là gốc của tất cả sinh diệt, nay đã lộ bày, ngoài ra không có nguồn gốc của chúng sinh, bèn chấp thế gian không có nhân mà khởi, vì không biết nhân thiện ác do hạt giống khác nhau trong thức ấm, tức là luận của ngoại đạo do đây mà có, đều tu hành đến đây thì trí tuệ tà bỗng sinh khởi. Gọi là kiến phát, chẳng phải xưa nay có ngoại đạo riêng.
Giải thích, có hai: b.1) Chấp nhận vốn không, có hai:
* Giải thích:
Một là người này thấy vốn vô nhân. Vì sao? Vì người này đã được toàn phá về căn cơ chúng sanh, y theo tám trăm công đức của nhãn căn, thấy tám muôn kiếp tất cả chúng sinh nghiệp trôi lăn tuần hoàn, chết đây sinh kia, chỉ thấy chúng sinh luân hồi chỗ ấy. Ngoài tám muôn kiếp thì mịt mờ không thấy gì bèn nghĩ rằng: Chúng sinh mười phương trong thế gian này tám muôn kiếp đến nay không nhân mà có, đả phá về căn cơ chúng sinh thì hành ấm hiện.
Tám trăm công đức, là do định lực phát ra công đức bổn phận của nhãn căn, tốt đẹp hơn trăm lần, nương thần lực này thấy tám muôn kiếp chúng sinh sinh đây chết kia. Quá điều này thì không biết, cũng là chỗ thế lực của hành ấm cùng tận, không biết thức ấm sinh ra hạt giống nhân, vô minh huân tập, cảm quả khác nhau. Vì không biết bèn chấp xưa nay vô nhân mà có. Như thấy chỗ chim bay xa không thể đến được bèn cho là không. Vì nhãn căn chấp lấy trần vốn chỉ có tám trăm, năng lực thần thông của thế gian không thể vượt qua. Nếu năng lực thần thông của thế gian vượt qua thì vô ngại.
* Kết thành:
Do đó, so lường tính toán thì mất đi chánh biến tri, rơi vào ngoại đạo, mê lầm tính Bồ-đề, như văn kinh có chép. b.2) Chấp ngọn vô nhân, có hai:
* Giải thích:
Hai là người này chấp ngọn vô nhân. Vì sao? Vì người này đối với sự sống đã thấy được cội gốc, biết người sinh ra người, biết chim sinh ra chim, quạ thì mầu đen, ngỗng trời thì màu trắng, trời người thân đứng thẳng, súc sinh thân nằm ngang, mầu trắng không phải do tẩy mà thành, mầu đen không phải do nhuộm mà có, từ tám muôn kiếp không còn đổi dời nữa. Nay biết hình hài này cũng như thế. Nhưng ta vốn không thấy Bồ-đề, làm sao có việc thành Bồ-đề? Phải biết ngày nay tất cả loài vật đều vốn vô nhân.
* Hai câu đầu là nêu lên vì sao v.v... trở xuống là nêu ra lý do. Nay suốt đời trở xuống này là nói lên nghĩa ngọn vô nhân. Vì gốc chẳng có nhân nên ngọn cũng thế. Tám muôn kiếp trước không thấy Bồ-đề, tám muôn kiếp sau cũng như vậy, vì thấy gốc không, ngọn cũng không. Biết người sinh ra người v.v... là người chỉ sinh ra người, không có nhân sinh ra chim, chim cũng chỉ sinh ra chim, không có nhân sinh ra người. Đây đều không biết mới gây ra nghiệp khác thì cảm loại sinh khác, cho nên thành chấp nầy.
Kết thành:
Do sự so tính này mà mất Chánh biến tri, rơi vào ngoại đạo, mê hoặc tánh Bồ-đề thì gọi là đệ nhất ngoại đạo lập ra luận thuyết vô nhân.
2. Bốn biến thường luận, có ba:
a) Nêu lên:
Nầy A-nan! trong Tam-ma-địa, các người thiện nam tâm chân thật trong sạch, ma không có dịp làm hại, nghiên cứu cùng tận về nguồn gốc sinh loại, quán nguồn gốc u uẩn, thanh hư thường khuấy động. Trong cái viên thường khởi sự so tính người này rơi vào luận thuyết Bốn biên thường.
Viên thường là hành ấm sinh diệt nối nhau không dứt nên gọi là Thường, do suy tính bốn thứ trùm khắp tất cả pháp, nên gọi là Viên.
b) Giải thích, có bốn:
b.1) Thường trong hai muôn kiếp.
Một là người này nghiên cứu cùng tột tánh chất của tâm và cảnh, hai xứ không có nhân, tu tập sẽ biết được chúng sinh mười phương sinh diệt tuần hoàn trong hai muôn kiếp không hề tan mất, chấp cho là Thường hơn ở trong định, vì hai pháp tâm và cảnh là chỗ cùng tột, nhờ vậy mà quán thành. Biết chúng sinh mười phương sinh diệt tuần hoàn trong hai muôn kiếp không hề tan nát. Như nước thành băng, băng lại thành nước, tuy tuần hoàn mà thể không mất, nên gọi là Thường.
b.2) Thường trong bốn muôn kiếp:
Hai là người này nghiên cứu cùng tột bốn đại, tánh chất của bốn đại là tánh thường, tu tập sẽ biết chúng sinh mười phương có sinh diệt trong bốn muôn kiếp và thể thường còn không hề mất, bèn chấp cho là Thường. Người này đối với quán, lấy bốn đại làm sở quán, quán thành công thì biết chúng sinh sinh diệt trong bốn muôn kiếp nhưng thể thường còn. Vì chúng sinh đều lấy bốn đại làm thể, bốn đại đã thường thì chúng sinh cũng thường, cho nên nói không mất.
b.3) Thường trong tám muôn kiếp:
Ba là người này nghiên cứu cùng tận chỗ lý do gốc trong sự chấp thọ tâm ý thức của sáu căn mạt-na. Vì tánh thường hằng nên tu tập sẽ biết tất cả chúng sinh trong tám muôn kiếp tuần hoàn không hề tan mất. Xưa nay thường trụ, cùng tột tánh không mất, chấp cho là Thường. Tiếng Phạm ngạt-ly-sắt-tra-na-mạt-na, Hán dịch là ý nhiễm ô chấp thọ: Tức là thức thứ tám, tánh vốn là thường, do đó mà biết chúng sinh trong tám muôn kiếp sinh diệt không dứt không mất. Vì chúng sinh đều có tám thức, tám thức đã sinh diệt không mất thì chúng sinh cũng vậy, nên gọi là Thường.
b.4) Bất sinh diệt thường:
Bốn là người này nguồn tưởng đã cùng tận, sinh lý lại không trôi chảy vận chuyển. Tâm tưởng sinh diệt nay đã dứt hẳn. Trong các lý tự nhiên thành không sinh diệt, do tâm mà suy lường, chấp cho là Thường.
Sinh lý là hành ấm, vì chấp tưởng cùng tận, tưởng có khả năng vận động, nay đã dừng. Vận động đã không, cho nên lý bất sinh diệt tự nhiên. Đối với sinh diệt này chấp chẳng sinh diệt, cho nên chấp là Thường.
c) Kết luận:
Do chấp thường nầy nên mất đi chánh Biến tri, rơi vào ngoại đạo, mê hoặc tánh Bồ-đề. Đây gọi là ngoại đạo thứ hai lập ra luận thuyết viên thường, Chánh Biến tri là tánh Bồ-đề. Vì đảo lộn phân biệt cho nên mất chánh, chỉ hạn cục trong hai, bốn, tám muôn kiếp, ngoài ra thì không thể biết, cho nên mất Chánh biến tri, chánh biến tri đã mất thì thành tà luận của ngoại đạo.
3. Bốn luận thuyết một phần thường, có ba:
a) Nêu lên:
Lại các người thiện nam trong Tam-ma-địa chánh tâm bền chắc, bất động thì ma không có dịp làm hại, cùng tột nguồn gốc của sinh loại. Quán sự, trong sáng, kia thường khuấy động, đối với tự tha khởi lên chấp đắm. Người này rơi vào luận thuyết bốn thứ điên đảo chấp một phần vô thường một phần thường. Hoặc chấp ta có khả năng sinh ra người, ta thì thường còn, người thì không thường, hoặc chấp người sinh ta ra. Người thường ta vô thường, đều là luận thuyết chấp một phần vô thường một phần thường.
b) Giải thích, có bốn:
b.1) Ta thường người vô thường:
Một là người này quán tâm mầu nhiệm vắng lặng cùng khắp các cõi nước mười phương. Cho là thần ngã rốt ráo. Từ đây chấp ta trùm khắp mười phương, sáng suốt bất động. Tất cả chúng sinh trong tâm ta tự sống tự chết nên tánh của tâm ta gọi là Thường, người kia sinh diệt là tánh thật vô thường. Người này tu định chưa chứng chân, trong sự quán hữu lậu, quán tâm mầu nhiệm trùm khắp các cõi nước mười phương, giả tưởng mà thấy, không biết vô minh vọng thức biến ảnh dường như chân. Chấp tâm vọng này trùm khắp các cõi mười phương cho là chân ngã sáng suốt bất động, vì định lực giữ gìn thấy các chúng sinh tự sinh tự chết (chín trăm năm mươi tám) tức là vô thường. Còn Ngã bất động tức là thường.
b.2) Kiếp hoại kiếp chẳng hoại:
Hai là người này không quán tâm mình, quán khắp mười phương hằng sa số cõi nước, thấy chỗ kiếp rốt ráo vô thường, chỗ không hoại gọi là rốt ráo thường. Người này trong định nương thần lực thấy các cõi nước mười phương, trong đó thấy cõi chưa hoại bèn chấp là Thường, thấy chỗ nào hoại chấp là tánh vô thường. Ở đây tuy quán khí nhưng cũng mang chánh báo.
b.3) Ngã như cát bụi chuyển:
Ba là người này quán riêng tâm mình, mầu nhiệm sâu kín giống như bụi cát, trôi lăn mười phương, tánh không dời đổi, có công năng làm cho thân mình ngay lúc sinh liền diệt, nhưng tánh bất hoại, gọi tánh ngã là thường, tất cả tử sinh từ ta sinh ra, gọi là tánh Vô thường. Tâm ta như cát bụi: Vì tâm tánh nhỏ nhiệm khó thấy cho nên nói như cát bụi, chẳng phải nói là nhỏ.
Điều này chấp vào tâm tánh sâu kín cho là Ngã, ngã là tự tại, là nghĩa chủ tể. Cho nên tánh có thể trôi lăn mà không dời đổi. Lại làm cho sắc thân uẩn thô này có sinh có diệt. Vì uẩn thô này đều từ trong tâm ta sinh ra.
Cái được làm ra gọi là Vô thường, cái làm ra gọi là tánh thường. b.4) Hành là thường, ngoài ra là vô thường: Bốn là người này biết tưởng ấm cùng tận, thấy hành ấm lưu, hành ấm thường lưu, chấp cho là tánh thường. Sắc thọ tưởng v.v... nay đã diệt tận., gọi là vô thường, hành ấm bày rõ hiện thấy trôi lăn, cho nên chấp là thường, về tưởng v.v... trong khi quán tạm điều phục không khởi, cho nên chấp vô thường, bởi thế thân này một phần vô thường, một phần là thường.
Kết luận: Do suy tính một phần vô thường, một phần là thường, nên rơi vào ngoại đạo, mê hoặc tánh Bồđề, đây gọi là luận thuyết một phần thường của ngoại đạo thứ ba.
4. Luận thuyết tứ hữu biên, có ba.
a) Nêu lên:
Lại các người thiện nam trong Tam-ma-địa chánh tâm bền chắc, ma không có dịp làm hại, nghiên cứu cùng tột về nguồn gốc của sinh loại, quán nguồn gốc u uẩn thường khuấy động kia, ở trong phần vị phát sinh đối với phần vị chấp trước người này rơi vào luận thuyết Tứ hữu biên, chỗ tưởng ấm cùng tận có bốn phần vị, cho đây là hữu biên, vô biên.
b) Giải thích, có bốn:
b.1) Ba đời.
Một là người này tâm chấp lưu dụng của sinh nguyên nó không dừng, chấp chưa qua gọi là hữu biên, chấp tâm nối nhau gọi là vô biên. Tâm người này chấp hành ấm hiện nay trôi mãi không dứt gọi là vô biên, chưa quá thì không thấy, gọi là hữu biên. Đây là y theo lưu dụng sinh diệt không ngừng, không có bờ mé nên gọi là vô biên.
b.2) Chúng sinh:
Hai là người này quán trong tám muôn kiếp thì thấy chúng sinh, trước tám muôn kiếp thì vắng lặng không nghe thấy, chỗ không nghe thấy gọi là Vô biên, chỗ có chúng sinh gọi là Hữu biên. Tuy tám muôn kiếp thấy chúng sinh, nhưng có giới hạn, cho nên nói là hữu biên. Ngoài ra vắng lặng không thấy chúng sinh thì không có giới hạn, cho nên chấp vô biên.
b.3) Tâm tánh.
Ba là người này chấp ta biết khắp được tánh vô biên, tất cả người kia hiện trong cái biết của ta, ta không hề biết tánh biết của người kia, gọi là người kia không được tâm vô biên, chỉ có tánh hữu biên, ta có thể biết khắp tất cả chúng sinh. Vì tất cả chúng sinh hiện trong cái biết của ta, cho nên ta có được tâm vô biên.
Câu ta không hề biết trở xuống là tất cả người kia tuy có cái biết, cái biết này lại không hiện trong cái biết của ta, vì không hiện nên tức là hữu biên
b.4) Sinh diệt:
Bốn là người này nghiên cứu cùng tận về hành ấm không, vì chỗ thấy của người nầy, con đường tâm so lường tất cả chúng sinh. Trong một thân chấp có nửa sinh, nửa diệt, là nói biết tất cả những gì có trong thế giới, một nửa là hữu biên, một nửa là vô biên.
Cùng tột hành ấm không. Tưởng ấm cùng tận, hành ấm hiện ra. Nay trong sự quán nghiên cứu làm cho chấp không, vì nghiên cứu tâm cùng tột, chấp trước hành ấm, trong một thân của tất cả chúng sinh ngay lúc sinh liền diệt. Thế giới cũng vậy, chỗ sinh hữu biên, chỗ diệt vô biên. Vì sinh thì hiện thấy, diệt thì không thấy.
c) Kết luận:
Do đây mà chấp hữu biên, vô biên, rơi vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ-đề, cho nên gọi là luận thuyết hữu biên của ngoại đạo thứ tư.
5. Luận thuyết bốn thứ kiểu loạn bất tử, có ba:
a) Nêu lên:
Lại các người thiện nam, trong Tam-ma-địa chánh tâm bền chắc, ma không có dịp làm hại. Nghiên cứu cùng tột nguồn gốc của các loài chúng sinh. Quán nguồn gốc của u ẩn, thường khuấy động kia. Trong tri kiến sinh ra chấp người này rơi vào luận thuyết bốn thứ điên đảo bất tử lộn xộn chấp khắp rỗng không. Người này trong tri kiến không thể chọn lựa. Nếu có người hỏi thì đều đáp lộn xộn. Nói bất tử: Theo luận Bà-sa thì: ngoại đạo chấp trời là thường trụ, nên gọi là Bất tử.
Chấp đáp không lộn xộn được sinh lên tầng trời kia. Nếu thật không biết mà đáp sợ thành lộn xộn, cho nên có lúc hỏi, lời đáp bí mật, không nên đều nói, hoặc không nhất định đáp. Pháp Phật quở trách rằng: Đây thật là lộn xộn.
Giải thích, có bốn: b.1) Tám thứ cũng:
Một là người này, quán nguồn gốc của sự biến hóa, thấy chỗ dời đổi nên gọi là Biến. Chỗ thấy nối nhau gọi là Hằng. Thấy chỗ bị thấy gọi là Sinh, không thấy chỗ thấy gọi là Diệt. Chỗ tánh nhân nối nhau không dứt gọi là thêm. Chỗ bị lìa trong cái nối nhau gọi là bớt, các chỗ sinh gọi là có, các chỗ mất gọi là không, dùng lý để quán, dùng tâm thấy riêng, nghĩa riêng gọi là quán hành.
Đối với một hành ấm sinh diệt chia làm tám nghĩa thấy riêng: là thường, biến, sinh diệt, thêm, bớt, có không.
Điều không thấy mà thấy, thấy mà không thấy. Vì chỗ diệt không thể thấy, ngoài ra như văn kinh có nói.
Có người cầu pháp, đến hỏi nghĩa ấy. Đáp rằng nay tôi vừa sinh vừa diệt, vừa có vừa không, vừa thêm vừa bớt. Bất cứ lúc nào cũng đều nói lộn xộn như thế làm cho người nghe sót mất chương cú.
Y theo nghĩa đáp câu hỏi, lược nêu sáu nghĩa.
Vì không thể xác định được đạo lý ấy. Nhưng cả hai đều đáp cho nên nói: vừa sinh vừa diệt v.v...
Làm cho nghe đối với chương cú không được nghĩa lý, cho nên nói mất chương cú. b.2) Chỉ nói là Vô:
Hai là người nầy quán rõ tâm mình đều không có nơi chốn, vì không có chứng đắc nên có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là vô, ngoài chữ vô, không nói gì nữa cả. Chỗ niệm niệm diệt gọi là đều không, vì tâm vừa sinh liền diệt, vô thể để đắc, hành ấm đã vậy, các pháp cũng như vậy nên nói nhân không chứng đắc.
Cho nên có người hỏi chỉ đáp là Vô. b.3) Chỉ nói là Thị:
Ba là người này quán rõ tâm mình đều có chỗ, vì có đắc chứng nên có người đến hỏi chỉ đáp một chữ chỉ nói là Thị, ngoài chữ Thị thì không nói gì cả, chỗ niệm niệm sinh gọi là đều có, do đây mà được chứng tất cả đều có.
Có người đến hỏi chỉ đáp là Thị, nghĩa là tuy thấy tâm mình niệm niệm có sinh, ý chấp đều có.
Lại thấy diệt nên chẳng dám đáp có, cho nên chỉ đáp Thị, để ngăn ngừa lỗi. b.4) Đều thấy:
Bốn là người này có không đều thấy, vì cảnh phân tán nên tâm cũng loạn, có người đến hỏi liền đáp cũng có, tức là cũng không, trong cái cũng không chẳng phải là cũng có, tất cả không nả ngũ, không cho hỏi vặn ở đây có không đều chấp. Vì cảnh phân tán thì tâm cũng loạn: Nghĩa là vì không nhất định một nghĩa cho nên thành loạn.
Vì hai luận thuyết trước chỉ chứng nghiêng về có không, nay một luận thuyết này thì có không cùng lúc.
Cũng có tức là cũng không: ý suy tính trong cái cũng có tức là có đối với không, trở thành chấp có không. Trong cái cũng không chẳng phải cũng có:
Tuy trong cái có mà nói vô, hai tướng đều khác nhau, cho nên nói chẳng phải cũng có.
Không cho hỏi vặn: Nếu hỏi có tức là không, lại nói trong cái không chẳng phải cũng có.
Nếu hỏi về vô, chẳng phải là có, lại nói cũng có tức là cũng vô, vì ngăn ngừa cho nên hỏi vặn. c) Kết luận:
Do đây chấp đắm kiểu loạn hư vô, rơi vào ngoại đạo, mê hoặc tánh Bồ-đề. Đây gọi là luận thuyết bốn tánh điên đảo bất tử nối loạn chấp khắp ngoại đạo thứ năm rỗng không của bốn luận thuyết ấy, Trường A-hàm nói:
Một là nếu Sa-môn, bà-la-môn v.v... có kiến chấp rằng: "nếu không biết thiện ác thì có quả báo hay không?"
Nếu hỏi tôi như thế thì tôi không thể đáp, có hổ thẹn có sợ hãi, tôi phải đáp rằng việc này khác, việc này không khác. Việc này chẳng khác chẳng phải không khác. Đây là cái thấy ban đầu.
Hai là dùng đời khác để hỏi có không, cũng đáp rằng: Ba là vì sao hỏi thiện ác cũng đáp như vậy.
Thứ tư là ngu tối ám độn, nếu có người hỏi đều tùy theo lời hỏi mà đáp, chỉ nói như thế. Nếu có hỏi uẩn có mấy loại, người kia hỏi ngược lại: Ý ông cho là mấy loại? Người kia nói ý tôi cho là năm loại. Người kia nói như thế, có chỗ cho rằng việc này khác v.v...
6. Luận thuyết mười sáu Hữu tướng, có ba:
a) Nêu lên:
Lại các người thiện nam trong thiền định chánh tâm vững chắc, bất động ma không có dịp làm hại. Nghiên cứu cùng tột nguồn gốc các loài, quán nguồn gốc u ẩn thường khuấy động kia, đối với sự vô tận sinh ra chấp đắm. Người này sau khi chết có tướng phát tâm điên đảo. Vô tận lưu là hành ấm.
Nay, thấy hành ấm trôi lăn, lại chấp vào ngã, khi chết rồi có tướng: Vì hành ấm là sở hữu của ngã. Hành ấm đã chuyển dời không dứt cho nên khi ta chết rồi có tướng.
Giải thích, có hai: b.1) Bổn chấp:
Hoặc tự làm cho thân bền chắc nói sắc là ngã, (ta) hoặc thấy ta bao trùm khắp cõi nước nên nói là ngã, (ta) có sắc hoặc trước duyên kia tùy theo ta mà khôi phục lại, nói là sắc thuộc về ta, hoặc nói ta nối nhau trong hành ấm, nói là ngã ở sắc, đều là chấp đắm nói có tướng sau khi chết. Tuần hoàn như thế có mười sáu tướng.
Trước y theo sắc uẩn nêu ra đủ bốn câu đều nói khi chết rồi có tướng, tuần hoàn như thế là ví dụ mười ba câu về ba ấm sau.
Cố thân là làm cho thân bền chắc.
Kiên cố chấp hình sắc hiện, nay là bản thể của ta. Sắc ấm đã vậy, thì thọ, tưởng, hành cũng y theo đây mà thực hành, thành mười sáu câu.
Hỏi: Ba ấm trước cùng tận, chỉ có hành ấm và thức ấm, đâu thể còn chấp vào ba ấm trước, lại không nói thức?
Đáp: Ba ấm trước trong quán tuy phá, chỉ y theo phép quán tăng thắng không bị ấm mê hoặc, khéo léo an nhẫn không sinh lỗi, đâu thể không gọi là phá ư?
Nay quán hành ấm, y theo ba ấm trước chuyển dời nối nhau cho nên chấp vào ba ấm.
Không nói thức: Là vi hành ấm che lấp, do đây chung với trước mà không nói thức ấm b.2) Chấp riêng:
Từ đây hoặc chấp, rốt ráo phiền não, rốt ráo Bồ-đề hai tánh trái nhau, không xúc chạm nhau. Đã mười sáu tướng đều có sau khi chết. Phiền não cũng vậy, vì là nguồn gốc của sinh tử, Bồ-đề cũng vậy vì giác là vốn sáng, chân vọng theo nhau, rốt ráo không đổi, cả hai đều có tướng. c) Kết luận:
Do chấp đắm này mà khi chết rồi là có, rơi vào ngoài đạo, mê lầm đối với tánh Bồ-đề, ấy gọi là lập luận khi chết rồi có tướng tâm điên đảo trong năm ấm của ngoại đạo thứ sáu.
7. Luận thuyết Tám Vô Thường, có ba:
a) Nêu lên:
Lại các người thiện nam trong Tam-ma-địa chánh tâm vững chắc, ma không được dịp làm hại, cùng tột nguồn gốc các loài chúng sinh, quán nguồn gốc u ẩn thường khuấy động kia, trước là dứt trừ đối với sinh ra chấp trước sắc, thọ, tưởng. Người này rơi vào phát tâm điên đảo vô tướng khi chết rồi. Thấy ba ấm trước đã diệt, phải biết hành ấm cũng diệt theo, tức là chấp đoạn diệt khi chết rồi, gọi chung là Vô tướng.
b) Giải thích, có hai:
b.1) Bổn chấp:
Thấy sắc kia diệt, thân không có sở nhân, quán tưởng kia diệt, tâm không bị ràng buộc, biết thọ kia diệt, không còn nối nhau.
Tánh ấm tiêu tán, dẫu có lý sinh mà không có thọ tưởng, đồng với cỏ cây, chất này hiện tiền dường như chẳng thật có. Khi chết rồi làm sao có các tướng. Do đây so sánh, không có tướng khi chết rồi, tuần hoàn như thế, có tám vô tướng. Đây là y theo bốn ấm, nhân hiện tại mất, quả vị lai diệt, đều thành tám.
b.2) Chấp riêng:
Từ đây hoặc là chấp Niết-bàn nhân quả tất cả đều không, dù có tên gọi rồi cũng trở về đoạn diệt. Ấm nhân quả đều không, Niết-bàn nhân quả cũng đều đoạn diệt. Đây là các pháp nhân quả, nhiễm tịnh, hữu vi, vô vi đều không, cho nên nói tất cả đều không
c) Kết luận:
Do sự chấp đắm sau khi chết không còn nầy mà rơi vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ-đề. Đây gọi là lập luận trong năm ấm sau khi chết không có tướng tâm điên đảo của loại ngoại đạo thứ bảy.
8. Luận thuyết tám Câu phi, có ba:
a) Nêu lên:
Lại các người thiện nam trong thiền định chánh tâm vững chắc, ma không có dịp làm hại, nghiên cứu cùng tột nguồn gốc các loài chúng sinh, quán nguồn gốc u ẩn khuấy động kia trong hành ấm còn, gồm thọ tưởng ấm diệt, hai chấp có không, tướng tự thể phá, người này khi chết rồi đều chẳng khởi điên đảo. Ở đây trước đã diệt ba ấm, so sánh với hành ấm hiện còn, được bốn câu chẳng nghiêng về một bên, lại so sánh một ấm là thành so sánh với ba ấm đã diệt ở trước được bốn câu chấp nghiêng về một bên, trước sau hướng về nhau, được phi hữu phi không, thành bốn thứ đều không. Hiện tại đã như vậy, khi chết rồi cũng vậy, hiện tại vị lai cộng chung thành tám, cho nên nói khi chết rồi đều không.
Giải thích, có hai: b.1) Bổn chấp:
Trong sắc thọ tưởng thấy hữu, phi hữu, hành ấm trôi lăn, trong đó quán vô, bất vô. Xoay vần như thế, cùng tận ấm giới, cả tám đều chẳng phải tướng, tùy theo được một duyên, đều nói sau khi chết có tướng vô tướng. Ba ấm như sắc v.v... trước đó tuy có, mà nay phá hết nên nói là phi hữu, so với hành ấm nầy cũng vậy, đây là bốn phi hữu. Hành ấm trôi lăn, trong quán vô, bất vô: Nghĩa là nếu so hành ấm với trước là vô, lại niệm niệm đổi dời không dứt, đây lại là phi vô. Hành ấm đã phi vô, thì ba ấm trước cũng vậy, đây là bốn cái phi vô, xoay vần như thế, cùng tận ấm giới nghĩa là thứ lớp xếp đặt bốn ấm. Mỗi ấm đều thấy phi hữu phi vô. Cho nên nói xoay vần, suy đến khi chết rồi cho nên nói cùng tận ấm giới.
Hễ được một duyên: Tức là hễ được bất cứ một ấm nào trong bốn ấm này khi chết rồi đều phi hữu phi vô. Nay nói hữu vô, hữu tức phi vô, vô tức là phi hữu. b.2) Chấp riêng:
Lại vì tánh của các hành thay đổi, tâm phát ngộ suốt, hữu vô đều không, hư thật đều mất. Đây chỉ hiện thấy hành ấm biến chuyển, trong sinh có diệt, cho nên phi hữu, trong diệt có sinh cho nên phi vô. Do đó thông ngộ tất cả đều là phi hữu phi vô, đâu phải chỉ có tám. Hư thật tức là hữu vô, có chẳng nhất định có, thật chẳng hề thật, vô chẳng nhất định vô, hư chẳng hề hư, tất cả đều chẳng phải cho nên nói mất.
b) Kết luận:
Do chấp đắm này sau khi chết đều không, mé sau tối tăm không thể nói được, rơi vào ngoại đạo, mê lầm tính Bồ-đề. Đây gọi là luận thuyết trong năm uẩn khi chết rồi đều chẳng phải tâm điên đảo của ngoại đạo thứ tám.
Câu mé sau v.v... trở xuống là giải thích khi chết rồi phi nghĩa. Không thể nói: Ý nói hữu bất hữu, nói vô bất vô, hai đường hữu vô đều không nói được.
Hiện tại còn như vậy, huống chi khi chết rồi không hay không biết, mà nói hữu vô ư? Cho nên nói tối tăm.
9. Luận thuyết bảy đoạn diệt, có ba:
a) Nêu lên:
Lại, các người thiện nam trong lúc tu thiền, chánh tâm vững chắc, ma không có dịp làm hại, cùng tột căn bản các loài chúng sinh, quán nguồn gốc của u uẩn thường hay khuấy động kia, đối với hậu hậu vô sinh ra chấp trước, người này rơi vào luận thuyết bảy đoạn diệt. Người này thấy hành ấm niệm niệm diệt, gọi là hậu hậu vô, tức là bảy chỗ sinh, sau đó điều đoạn diệt cho nên thành luận thuyết này.
b) Giải thích:
Hoặc chấp thân diệt, hoặc dục diệt tận, hoặc khổ diệt tận, hoặc cực lạc diệt, hoặc cực xả diệt. Xoay vần như thế cùng tận bảy chỗ. Hiện tiền tiêu diệt, diệt rồi không trở lại. Hoặc chấp thân diệt tức là trời, người ở cõi Dục. Vì đồng giới địa, dục tận là Sơ thiền, khổ tận là Nhị thiền, Cực lạc tức là Tam thiền, Cực xả là Tứ thiền và Vô Sắc hiện tiền tiêu diệt tức là ba ấm đã diệt tận, hành ấm cũng vậy, bảy chỗ đều hiện đoạn diệt, khi chết rồi không sinh lại nữa.
c) Kết luận:
Do chấp đắm khi chết rồi đoạn diệt nên rơi vào ngoại đạo, làm mê hoặc tánh Bồ-đề. Đó gọi là luận thuyết tâm điên đảo trong năm ấm khi chết rồi đoạn diệt của ngoại đạo thứ chín.
10. Luận thuyết năm Niết-bàn hiện tại, có ba:
a) Nêu lên:
Lại các người thiện nam trong thiền định chánh tâm vững chắc, ma không có dịp làm hại, cùng tột nguồn gốc các loài chúng sinh, quán nguồn gốc u uẩn thường khuấy động, đối với hậu hậu hữu sinh ra chấp đắm, người này rơi vào luận thuyết năm Niết-bàn. Hành ấm diệt mà sinh lại, nên gọi là hậu hậu hữu.
b) Giải thích:
Có người cho cõi Dục là chánh chuyển y, quán thấy tròn sáng, vì sinh ái kính nên có người cho là Sơ thiền. Vì tính không lo lắng nên hoặc cho là Nhị thiền, vì tâm không khổ, hoặc cho là Tam thiền, vì tùy cực duyệt cho là Tứ thiền. Vì khổ vui đều mất, không thọ tánh sinh luân hồi diệt. Vì cõi Dục là chánh chuyển y, do tu quán hạnh phát ra định Vị Chí ở cõi Dục, ở trong tâm quán thấy tướng tròn sáng, không xả bỏ cõi Dục, tức Niết-bàn là chánh chuyển y, hoặc cho tánh của Sơ thiền là không lo lắng, đã lìa dục nhiễm, không còn tâm lo lắng, vì được khinh an, hoặc cho Nhị thiền tâm không khổ, tức là Cực Hỷ. Hoặc cho Tam thiền là Cực Vui, tức là Cực lạc. Hoặc cho Tứ thiền khổ vui đều dứt, tức là xả thọ.
Mê cõi trời hữu lậu, cho là vô vi, năm chỗ an ổn là thắng tịnh y, xoay vần như thế, năm chỗ rốt ráo không biết giáo tướng, được Tứ thiền này định của cõi Dục có chút an vui, bèn chấp Niết-bàn. Chấp trời hữu lậu là vô vi, nghĩa là do tu chánh định, bỗng phát ra thiền này, được chút khinh an, chẳng phải rốt ráo, bèn chấp lầm là Niết-bàn.
c) Kết luận:
Do chấp năm thứ Niết-bàn hiện tại này nên rơi vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ-đề, đây gọi là luận thuyết tâm điên đảo, hiện năm thứ Niết-bàn trong năm uẩn của ngoại đạo thứ mười.
Kết khuyên giảng nói, có hai:
1. Kết luận về các cảnh ở trước:
Nầy A-nan! Mười thứ hiểu sai về thiền-na như thế đều là hành ấm dụng tâm giao nhau, cho nên hiện ra ngộ này. Chúng sinh mê mờ không tự suy nghĩ, gặp cảnh này trước mắt cho mê là ngộ, tự nói mình chứng Thánh thành đại vọng ngữ, đọa ngục Vô Gián, mười thứ cảnh này đều là tà kiến, do tu Thánh định bỗng phát sinh ra cho nên nói là hiểu sai.
Do ba ấm diệt, biết đến hành ấm dụng tâm khác nhau, cho nên nói giao nhau. Nếu nhập sâu thiền định, dùng tuệ chiếu quán sát cảnh giới duy tâm, không chấp đắm tự nhiên tiêu tan. Nếu cho là chứng thì rơi vào tà kiến, thành nhân địa ngục.
2. Khuyên mở rộng:
Sau khi Như-lai diệt độ, các thầy phải truyền dạy lời nói của Như-lai cho chúng sinh thời Mạt pháp, giúp cho chúng sinh hiểu rõ nghĩa này, không để cho con ma tâm tự sinh khởi phiền não, che chở gìn giữ, dứt trừ tà kiến, dạy thân tâm họ mở giác nghĩa chân, đối với đạo vô thượng không gặp đường tẻ. Chớ để cho tâm cầu được chút ít cho là đủ, làm Đại giác Vương thanh tịnh nêu bày. Phiền não tức là tai vạ.
Tưởng ấm chưa hết thì vẫn còn dẫn ma bên ngoài, nay tưởng ấm hết hành ấm hiện rõ. Nhưng đối với cảnh giới bị thấy sinh ra cái thấy khác lạ.
Chấp điều này cho là đúng vì thế nói là con ma tâm, cho nên làm cho quán sát khéo léo để dứt trừ, không mất chánh kiến, sẽ đến được Vô thượng, cho nên Phật dặn dò truyền dạy lại cho đời sau.
Nếu người tu hành không rơi vào lưới tà, lạc nẻo Chánh giác, rơi vào đường tẻ tà đạo.
Phá thức ấm, có ba:
1. Tướng tận chưa tận, có hai:
Nói về phạm vi, có hai: a.1) Tướng lợi ích của hành cùng tận:
Nầy A-nan! Người thiện nam kia khi tu thiền hành ấm hết, nhưng tánh các thế gian u uẩn khuấy động đồng phần sinh cơ, bỗng nhiên đọa lạc, chìm vào lưới nhỏ nhiệm, ràng buộc bổ-đặc-già-la, trả nghiệp sâu xa, cảm ứng cách bặt, ba câu trước là nêu người.
Câu các thế gian v.v... trở xuống là nói hành ấm hết. Tánh thế gian là hành ấm chính là thể tánh của thế gian.
Thế gian có ba nghĩa:
1. Có sinh diệt.
2. Tánh hữu lậu.
3. Có thể bị phá hoại.
Đã đọa vào thế gian đồng lấy sự sinh diệt của hành ấm làm tánh.
Vì ẩn mật cho nên u tối, vì lìa tưởng cho nên sáng suốt, nhiễu tức là động. Đồng phần căn cơ chúng sanh, Trước là nền tảng, nay là cơ yếu, chợt vậy mà phá, cho nên nói bỗng nhiên xé rách. Câu chìm vào nhỏ nhiệm v.v...trở xuống là giải thích lại nghĩa tận.
Sợi dây lớn trên lưới gọi là cương, chỗ kết cổ áo gọi là nữu, đều dụ cho cơ yếu. Mười hai loại chúng sinh như mành lưới, như chiếc y, hành ấm quán thông, kết yếu nhỏ nhiệm, như lưới như khuy nút. Bổ-đặc-ca-la, Hán dịch là sắc thủ thú, chỉ chung mười hai loại. Vì hành ấm có công năng giữ gìn loại chúng sinh này. Cho nên nói chìm vào giềng mối nhỏ nhiệm, giữ gìn giềng mối là nghiệp nhân, Già-la là quả báo, nghiệp nhân mất thì ai dẫn quả. Quả báo dứt thì ai trả quả, nhân quả đã mất cho nên dứt bặt cảm ứng. Ngọn ngành sâu xa, cũng dụ cho hành ấm u uẩn. Đối với trời Niết-bàn sẽ ngộ tỏa sáng. Ngộ tỏa sáng như sau khi gà gáy nhìn về phương Đông đã có sắc sáng.
Niết-bàn gọi là Đệ nhất nghĩa thiên. Được Vô Sinh nhẫn gọi là Đại Minh ngộ sáng hoàn toàn. Ngộ sáng gần đến nên gọi là sẽ, sẽ là phải, là sắp.
Như khi gà gáy: Gáy lần thứ hai thì trời sắp sáng. Năm ấm còn thì như toàn ban đêm, năm ấm đều hết là trời sáng tỏ.
Hai ấm sắc thọ phá, giống như gà gáy canh đầu, trời hoàn toàn chưa thay đổi. Nay tưởng ấm hành ấm lại dứt, chỉ có thức ấm.
Ngộ tỏ: Tức là gà gáy canh cuối, trời đã có sắc sáng, nếu nói theo giai vị thì đây phải là người tiệm thứ thứ hai.
Văn kia nói: Giới cấm thành tựu, thì thế gian không bao giờ có nghiệp sinh nhau, giết nhau, cướp trộm không xảy ra ở đời, không có nợ lụy nhau, cũng đối với thế gian không còn nợ cũ chính là văn nầy nói trả nghiệp ngọn ngành sâu xa, cảm ứng dứt bặt.
Văn kia lại nói: Người thanh tịnh tu Tam-ma-địa chỉ dùng thân thịt do cha mẹ sinh ra, không cần mắt trời, tự nhiên quán thấy các thế giới mười phương, văn này nói: Nhìn thấy phương Đông đã có ráng hồng, đây là được tự vị, dường như phát chung. a.2) Tướng thức ấm hiện:
Sáu căn vắng lặng, không còn rong ruổi buông lung nữa, bên trong sáng lặng, nhập vào không có chỗ nhập.
Vì thuộc về định, không bị hành ấm sai sử, tuy còn sáu căn, thức không rong ruổi nên nói vắng lặng không còn rong ruổi buông lung nữa. Chỉ chuyên vào cảnh bên trong, tâm định thì bên trong chiếu, cho nên nói bên trong sáng lặng.
Lại nói trong trong: Nghĩa là vắng lặng chiếu soi sâu xa, cùng tột đến thức ấm, không còn thấy gì. Cho nên nói nhập vào chỗ không có chỗ nhập.
Đạt không còn do tuổi thọ của mười hai chủng loại ở khắp mười phương, quán nguồn gốc của sự chấp, các loại không chiêu cảm, lý do của tuổi thọ là thức ấm. Nay quán thức ấm đã là lý do hạt giống của các loài chúng sinh, không khởi phiền não, không gây nghiệp mới. Bởi vậy chấp trì không cho sinh quả, không có phần thọ sinh. Cho nên nói các loài không cảm vời. Ở các cõi mười phương đã được đồng nhau, tịnh sắc không chìm, phát hiện sâu kín. Đó gọi là phạm vi thức ấm. Đã biết thức là lý do của các loài chúng sinh, cho nên nói các cõi mười phương nương theo đây mà chánh, đều do thức biến hiện, đồng một thức thể. Đây là ba cõi do tâm, muôn pháp do thức. Trước tuy tin giáo, nay trong tâm quán thấy rõ. Ráng hồng không chìm mất là cảnh sở quán hiện. Do năng lực quán nên cảnh giới sáng sủa, vì thế nói là không chìm mất.
Phát hiện chỗ sâu kín: Giống như phát chung, chưa đến giai vị này, các căn tối tăm không thể quán xa. Cho nên nói sâu kín. Nay nhờ năng lực quán, sáu căn thanh tịnh, không do mắt trời mà thấy khắp các cõi cho nên nói phát hiện. b) Nói về tướng cùng tận:
Nếu đối với sự cảm vời đã được đồng, tiêu mất sáu môn, hợp khai thành tựu, thấy nghe chung khắp, thanh tịnh lẫn nhau.
Hai câu đầu chỉ cho trong thức ấm, nếu ở trong đó dùng năng lực định tuệ, làm tiêu ma căn cách, không để cho khai thông hợp thành một thể, thì thấy nghe biết làm dụng cho nhau, ở đây nói không y theo căn, nương vào căn mà phát ra rõ ràng, cho nên nói thanh tịnh lẫn nhau.
Thức này đều được chứng là lần lượt chứng pháp nhẫn Vô Sinh thứ ba. Cho nên văn nói: Người thanh tịnh giữ gìn giới cấm như thế, tâm không tham dâm, đối với sáu trần không buông lung. Nhân không buông lung mà tự quay về nguồn. Trần đã không duyên thì căn không có chỗ nương, trở lại dòng toàn nhất, sáu dụng không hiện, đã nói sáu dụng không hiện hành, chính là tiêu ma sáu môn: Đã nói trở lại dòng toàn nhất tức là hợp khai thành tựu thanh tịnh lẫn nhau, kia nói do giới cho nên khác với ở đây.
Mười phương thế giới và thân tâm như viên ngọc lưu ly trong ngoài trong suốt, gọi là thức ấm hết.
Thế giới, thân tâm đều do thức hiện, nay thức ấm hết chỉ là giác thể. Giác thể sáng mầu như viên ngọc lưu ly trong sạch không có vật gì chướng ngại được, nên gọi là trong ngoài sáng suốt. Thân tâm là bên trong, thế giới là bên ngoài, cả hai đều không có sở đắc, nên nói là trong suốt.
Văn trước nói: Các cõi nước mười phương sáng suốt thanh tịnh. Thí như lưu-ly, bên trong treo bảo nguyệt, thân tâm an vui diệu viên bình đẳng, được an ổn hoàn toàn. Tất cả mật viên mầu nhiệm của Như-lai đều hiện trong đó. Người này liền được Vô Sinh Pháp Nhẫn, biết thức ấm hết là giác tùy phần.
Bồ-tát Văn-thù cũng nói: Một chỗ thành không trở lại nữa, sáu dụng đều không thành, trần cấu liền đó tiêu, thành tròn sáng mầu nhiệm.
Người này sẽ vượt qua mạng trược, quán lý do ấy, giống như hư vô điên đảo vọng tưởng, lấy đó làm gốc. Thế của mạng tức là thức ấm, vì ba thứ Mạng, Noãn, Thức chuyển cùng lúc. Thức đã lìa mạng, noãn cũng mất theo cho nên vượt qua mạng trược.
Giống như hư vô: Đây là tướng hình bóng mới khởi của giác minh, nhận hình bóng hư vô vọng tưởng này làm thức, đó là hai tướng nghiệp chuyển.
QUYỂN 10 (Phần 2)
Nói về hiện cảnh, có mười:
1. Chấp nhân sở nhân, có hai:
a) Y theo sở giải:
Nầy A-nan! Ông phải biết người thiện nam này cùng tột các hành đều không, đối với thức trở về nguồn, sinh diệt đã diệt, mà đối với tịch diệt tinh diệu chưa tròn đầy. Hành ấm tuy hết, sinh diệt đã dứt, thức trở lại nguồn chưa quy về vắng lặng, nên gọi là tinh diệu chưa tròn đầy. Vì thức chưa phá, sinh diệt đang còn sâu kín. Tinh diệu tức là tinh chân diệu minh, có công năng làm cho thân căn mình ngăn cách khai hợp. Cũng cùng với các loại ở khắp mười phương thông giác, giác biết thông hợp có thể vào viên nguyên, trong quán tạm được như vậy, tạm ở trong quán giống như khai căn cách, chưa hoàn toàn dùng lẫn nhau, biết thông các loại: Nghĩa là trong tâm quán này đã thấy chúng sinh mười phương và thân mình đồng một tánh giác, dung hợp lẫn nhau chẳng biết giác khác, đây là năng nhập viên nguyên. Cảnh giới này toàn là bóng thức, chưa phải vắng lặng. Cho nên văn trước nói: Mà đối với vắng lặng tinh diệu chưa tròn đầy. Nếu đối với chỗ quy về lập nhân chân thường, sinh ra thắng giải chính là sinh chấp. Đối với cảnh thông giác của sở nhập này, cho là chân thường, bèn tập làm nhân, có công năng sinh ra tất cả, tức là chỗ được trở về rốt ráo, quyết định không lầm, nên nói là thắng giải.
b) Phán quyết thuộc về bọn tà:
Người này rơi vào chấp nhân, sở nhân, Bà-tỳ-ca-la trở về với Minh đế thành bạn lữ, mê Bồ-đề Phật, quên mất tri kiến, đây gọi là lập tâm, tâm sở, đắc thứ nhất thành chỗ quy về, quả trái với viên thông rất xa, trái với thành Niết-bàn, phát sinh hạt giống ngoại đạo. Đối với thức ấm sở nhân, chấp là chân thường, là nhân của muôn pháp cho nên nói chấp sở nhân, muôn pháp chẳng có nhân, luống dối sinh diệt. Nay chấp có nhân là tánh chân thường, tức là không khác với sở chấp của ngoại đạo Minh Đế có khả năng sinh ra tất cả. Đây là chấp ban đầu lại thức a-lại-da chưa có hình tượng, còn mù mịt tức là Minh Đế. (chín trăm sáu mươi hai)
Mê Bồ-đề Phật: Bồ-đề dịch là giác, thể của giác lìa niệm. Tướng lìa niệm đồng với cõi hư không chẳng có một tướng nào chẳng trùm khắp pháp giới. Nay chấp có pháp từ một nhân sinh ra năng sở khác nhau. Vì thế nói mê không biết như thật, cho nên nói quên mất tri kiến, tâm sở đắc chính là thức ấm. Làm sở đắc trong nhân, làm chỗ quy về trong quả. Ngoài ra văn rất dễ hiểu.
Hỏi: Y theo bảy đoạn dưới đều nói có thể, chẳng thể, chỉ có văn nay làm nhân cho sở nhân phải không?
Đáp: Vì tất cả các pháp đều từ thức biến, chính là sở nhân. Văn dưới nói thẳng đương thể là luống dối cho nên nói chẳng thể.
2. Chấp năng, phi năng, có hai:
a) Y theo sở chấp:
Nầy A-nan! Lại người thiện nam cùng tột các hành đều không, sinh diệt đã diệt, mà đối với vắng lặng mầu nhiệm chưa tròn đầy. Nếu ở chỗ quy về xem là tự thể thì tất cả chúng sinh trong mười hai thứ cùng tận cõi hư không, đều là một loại trong thân ta lưu xuất, sinh ra thắng giải. Chấp ở trước tuy là chấp thức ấm là nhân chân thường nhưng chưa chấp là tự thể. Nay chấp tức là tự thể của ta, tất cả chúng sinh đều từ ta sinh ra, ta có khả năng sinh ra người, chắc chắn không sai.
b) Xếp vào bọn tà:
Người này rơi vào chấp năng phi năng, ma-hê-thủla hiện vô biên thân thành bạn lữ, mê Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến, đó là thứ hai lập năng làm tâm có thể thành quả tôn sùng, quả trái với viên thông, trái với thành Bồ-đề, sinh lên cõi trời Đại Mạn, Ngã trùm khắp viên dung, thật chẳng thể sinh ra chấp lấy đó làm Năng, gọi là Năng, phi năng. Ma-hê-thủ-la là trời Đại Tự Tại, có ba mắt tám tay, ngoại đạo tôn sùng là nhân Năng sinh.
Hiện vô biên thân: Vì chấp Ngã có khả năng hiện khởi vô lượng chúng sinh, nhân đã làm được, quả thành đáng tôn sùng, nhân quả xứng nhau.
3. Chấp thường vô thường, có hai:
a) Y theo sở chấp.
Lại người thiện nam! Cùng tận các hành là không, đã diệt sinh diệt, đối với sự vắng lặng mầu nhiệm chưa tròn đầy. Nếu đối với sở quy, có chỗ nương về, tự nghi thân tâm từ người kia lưu xuất, hư không mười phương đều từ người kia mà sanh khởi: Tức ở nơi đó đều sinh khởi chỗ tuyên lưu, cho rằng thân chân thường vô sinh diệt. Đối với sinh diệt chấp là thường trụ, mê mờ đối với bất sinh, cũng mê mờ sinh diệt, an trụ chìm mê, sinh ra thắng giải.
Chỗ quy về là thức ấm, trước xem chỗ quy về là tự thân, nay nhận chỗ quy về là thể khác, cho nên nghi ngờ tự thân và tất cả pháp từ người kia sinh khởi. Đều là đất tuyên lưu: Tức là thức ấm. Vọng cho là người, là chân, là thường, là không sinh diệt. Mê mờ bất sinh tức là bổn giác thường trụ chẳng sinh ra các pháp, mê mà không hiểu. Cũng mê bất sinh. Vọng cho thức ấm là chân thường, cả hai đều không biết gọi là chìm vào mê, cố chấp không chuyển nên nói an trụ.
b) Xếp vào bọn tà:
Người này rơi vào chấp thường, chẳng thường, chấp trời Tự Tại thành bạn lữ. Mê Bồ-đề Phật, quên mất tri kiến, đây gọi là thứ ba lập loại nhân nương vào tâm thành vọng chấp, quả trái với viên thông, trái với thành Bồ-đề, sinh ra hạt giống viên thông đảo lộn.
Đối với vô thường vọng chứng là thường, gọi là chấp thường, vô thường.
Trời Tự Tại tức là Thủ-la.
Trước chấp người từ ta sinh ra, nay chấp ta từ người sinh ra, cho nên nói chấp Tự Tại, vì nương vào tâm tức là thức ấm.
Lập thành thể của người, chấp năng sinh ra Ngã, cho nên đồng với ngoại đạo, chấp người kia là thường.
4. Chấp biết không biết, có hai: a) Y theo sớ giải:
Lại người thiện nam! Tận cùng các hành là không, sinh diệt đã diệt nhưng đối với vắng lặng mầu nhiệm chưa tròn đầy: Nếu đối với sở tri biết tròn khắp, do biết mà lập giải. Mười phương cỏ cây đều gọi là hữu tình chẳng khác với người.
Cỏ cây là người, người chết trở lại thành cỏ cây mười phương; không phân biệt biết khắp, sinh ra thắng giải.
Sở tri tức thức ấm, là cảnh sở tri của quán hành kia. Thức ấm có khả năng biến ra tất cả các pháp, nên gọi là Biến viên.
Ngộ các pháp này từ cái chết biến khởi, lấy cái biết làm thể. Cho nên nói là nhân biết mà lập giải.
Câu cỏ cây mười phương v.v... trở xuống tức là giải về hành tướng, y báo, chánh báo này đều từ cái biết mà có, đâu được một biết một không biết ư? Cho nên nói không phân biệt, tất cả đều biết, tự cho là quyết định không sai nên nói Thắng giải. b) Xếp vào bọn tà.
Người này rơi vào các chấp biết và không biết. Bàtra, Tán-ni, tất cả đều biết, thành bạn của mình, mê lầm Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là thứ tư chấp tâm biết tròn đầy, thành quả sai lầm, trái với viên thông, trái với thành Niết-bàn, sinh ra hạt giống biết điên đảo, cỏ cây vô tri mà chấp có biết, cho nên nói chấp tri, vô tri. Về hai ngoại đạo Bà-tra và tán-Ni. Kinh Niết-bàn nói:
Ba-tư-tra và Tiên-ni, là âm Phạm tiểu chuyển, đã chấp vào tất cả giác, tức là cỏ cây có mạng sống, biết tròn đầy tức là biết khắp.
Quả sai lầm: Phân tách thành vọng tưởng. Đây là không biết rõ đều là vọng thức, sở biến vọng tưởng ngưng kết giả lập, vọng tưởng vô tình lưu động giả danh là hữu tình. Như văn trước nói: Tưởng lắng trong thì thành cõi nước, tri giác là chúng sinh. Vì vọng thức bất thiện luống dối có phần trong, phần ngoài, cho nên thành chấp trước.
5. Chấp sinh, vô sinh, có hai:
a) Y theo sở chấp:
Lại người thiện nam tận cùng các hành pháp là không, sinh diệt đã diệt, nhưng đối với vắng lặng mầu nhiệm chưa tròn đầy. Nếu đối với căn viên dung hỗ dụng đã được thuận theo, thì giáo hóa đầy đủ tất cả chúng sinh, tìm ánh sáng của lửa, thích sự thanh tịnh của nước, thích sự lưu động của gió. Quán trần thành tựu, thảy đều tôn sùng. Phát các trần này làm bổn nhân, cho là thường trụ. Đối với căn hỗ dụng được thuận theo, vì giống như quán tạm được tương ứng. Cho nên nói thuận theo.
Bèn đối với giáo hóa tròn đầy tất cả phát sinh, tất cả các pháp đều gọi là biến hóa, nên nói giáo hóa tròn đầy, đều có khả năng tu tập, đều thành quả Thánh. Cho nên nói tất cả phát sinh, vì đối với một căn tạm được các dụng, do đây mà biết. Tất cả cũng vậy, đều ở trong cái không thấy biết mà tu thành thấy biết, chấp quả thường trụ, cho nên tìm lửa, thích nước, yêu gió, quán trần.
b) Xếp vào bọn tà:
Người này rơi vào chấp sinh, bất sinh. Các vị Cadiếp ba và Ba-la-môn hết lòng thờ phụng thần lửa, thần nước, cầu ra khỏi sinh tử, thành bạn bè mình, mê Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến, đây gọi là thứ năm chấp trước tôn sùng tâm mê, theo vật lập vọng, cầu nhân cầu vọng, mong quả trái với viên thông, trái thành Niết-bàn, sinh ra hạt giống giáo hóa điên đảo.
Tánh của bốn đại thật không thể sinh ra quả thường trụ, chấp là Năng sinh cho nên nói chấp sinh vô sinh, tâm mê theo vật. Mê mất duy tâm sở hiện nhưng đều thuận theo tôn thờ để cầu thường trụ. Nhân quả đều luống dối, cho nên thành vọng cầu vọng.
6. Chấp trở về, không trở về, có hai:
a) Y theo sở giải:
Lại người thiện nam! Tận cùng các hành pháp là không, sinh diệt đã diệt, nhưng đối với sự vắng lặng mầu nhiệm chưa tròn đầy. Nếu đối với sự tròn sáng, chấp hư trong minh chẳng phải diệt các biến hóa, lấy chỗ nương diệt hẳn làm chỗ nương quy về, sinh ra thắng giải (chín trăm sáu mươi ba).
Trong sự sáng suốt rỗng không là lý tròn sáng, tức là thức sở quán. Sinh diệt đã diệt, cho nên trong sự sáng suốt mà rỗng không, chẳng phải tức là diệt, nên nói chẳng diệt. Sắc, thọ, tưởng, hành thuộc về tất cả pháp, nên gọi là quần hóa, chỗ nương diệt hẳn tức là hư trong hư. Đây là chấp không làm chỗ nương cho sở quy, tức là Niết-bàn.
b) Xếp vào bọn tà:
Người này rơi vào chấp quy, vô quy. Trong tầng trời
Vô Tưởng các Thuấn nhã-đa hợp thành bạn lữ, mê Bồđề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là tâm viên dung hư vô thứ sáu, trở thành rỗng không mất quả, trái với viên thông, trái với thành Niết-bàn, sinh ra hạt giống đoạn diệt
Trong sự sáng suốt mà rỗng không này, thật chẳng phải là chỗ quy về mà chấp là quy về. Cho nên nói là chấp quy, vô quy.
Trong tầng trời Vô Tưởng, năm trăm đại kiếp tâm tưởng không hiện hành.
Thuấn nhã-đa: tức là Bốn không xứ, tâm tròn sáng hư vô, nhân đoạn diệt, rỗng không mất quả, quả đoạn diệt.
7. Chấp tham, chẳng tham, có hai:
a) Y theo sở chấp:
Lại người thiện nam cùng tận các hành pháp là không, sinh diệt đã diệt, nhưng đối với sự vắng lặng mầu nhiệm chưa tròn đầy. Nếu đôi với viên thường, chấp thân này là bền chắc, là thường trụ, đồng với tinh viên, sống lâu không chết, sinh ra thắng giải, chấp thức ấm là viên thường, muốn giữ thân này bền chắc cũng đồng với thức ấm. Cho nên nói đồng với tinh viên, sống mãi không chết.
b) Xếp vào bọn tà:
Người này rơi vào chấp tham, vô tham, làm bạn với bọn A-tư-đà cầu mạng sống lâu, mê Bồ-đề Phật, quên mất tri kiến gọi là thứ bảy chấp đắm mạng sống, giữ chặt nhân vọng, hướng đến quả lao nhọc, trái với viên thông, trái với thành Niết-bàn, sinh ra loại vọng kéo dài mạng sống. Căn thân luống dối vốn là vô thường, thật không nên tham đắm cho là lâu dài.
Nay cố tham đắm vọng chấp sống lâu, cho nên nói chấp tham, không tham.
A-Tư-Đà: Hán dịch là Vô Tỷ, là vị tiên Trường Thọ. Quả lao nhọc: Lao là lao cố, chữ ấy là nhầm. Vọng chấp kéo dài tuổi thọ nên nói vọng kéo dài.
8. Chấp chân phi chân, có hai:
a) Y theo sở giải:
Lại người thiện nam! Tận cùng các hành pháp là không, sinh diệt đã diệt, đối với sự vắng lặng nhiệm mầu chưa tròn đầy, quán mạng sống thông nhau, để lại trần lao sợ này tiêu mất, ngay trong đời này ngồi trong cung hoa sen, rộng hóa thành bảy chất báu, thêm nhiều báu nữ, buông lung tâm mình, sinh ra thắng giải. Quán thức ấm là mạng sống của chúng sinh mười phương, vốn là chỗ quan trọng chung của mười hai loại sinh mạng. Bởi vậy mạng ta thông với người, mạng người thông với ta, cho nên nói thông nhau.
Nay quán nếu thức ấm cùng tận thì mạng chúng sinh mười phương đều cùng tận, mạng ta cũng cùng tận. Nếu cùng tận thì dạy ai chứng lý chân thường?
Ai: là chúng sinh được giáo hóa, luống có chân thường mà không ai chứng chân cho nên nói lưu lại ở trần lao, lại khởi tham dục, hóa ra cung hoa sen và cảnh dục, buông lung thọ dục lạc, mưu đồ mạng sống bất diệt, nếu muốn chứng chân phải khởi dùng hóa vật, chấp này cố định không dời đổi, cho nên nói thắng giải. Viện: Là báu nữ.
b) Xếp vào bọn tà:
Người này rơi vào chấp chân, vô chân, làm bạn với Tra-chỉ-ca-la, mê lầm Bồ-đề Phật, quên mất trí tuệ gọi là thứ tám phát nhân tà tư, lập quả trần lao dữ dội, trái với viên thông, trái với thành Niết-bàn, sinh ra hạt giống ma trời, khởi lên mê hoặc, buông lung tà dục, thật chẳng phải chứng chân, suy tính cho đây có thể chứng chân khởi dụng. Cho nên nói chấp chân phi chân.
Tra-chỉ-ca-la: Chưa thấy dịch đúng. Đây có thể là hóa thọ dụng của cảnh dục, tức là trời Tự Tại ở cõi Dục. Nhân tà tư: Tức là trong định phát ra tà niệm, không thể quán sát khéo léo. Do đó sinh khởi việc trần lao dữ dội, cho nên đồng với ma trời.
9. Thanh Văn định tánh, có hai: a) Y theo sở giải:
Lại người Thiện nam, tận cùng các hành pháp là không, sinh diệt đã diệt, nhưng đối với sự vắng lặng nhiệm mầu chưa tròn đầy. Đối với mạng mình, phân biệt tinh thô, quyết đoán chân ngụy, nhân quả đều trả nhau, chỉ cầu cảm ứng, trái với đạo thanh tịnh. Gọi là thấy khổ dứt tập, chứng diệt tu đạo, diệt đã diệt rồi, không còn tiến tới, sinh ra thắng giải. Thức ấm hiển bày nên nói là mạng minh, thức là loại bao gồm hữu lậu vô lậu. Nay ở đây phân biệt chọn lựa.
Khổ tập hữu lậu nên gọi là thô, gọi là ngụy.
Đao diệt vô lậu nên gọi là tinh, là chân, chọn lựa dứt bỏ khổ tập thô ngụy, giữ lại tinh chân đạo diệt, nên nói là phân biệt tinh thô.
Tu đạo là cảm, chứng diệt là ứng. Nhưng chấp đắm ở đây cho nên nói chỉ cầu.
Trái với đạo thanh tịnh: Nghĩa là vốn tu viên quán, pháp giới bình đẳng lìa nhơ hai bên, gọi là đạo thanh tịnh. Nay phát sự hiểu biết nhàm chán, ưa thích của Tiểu thừa nên nói là trái, cái gọi là v.v... trở xuống là giải thích nghĩa trước b) Xếp vào bọn tà:
Người này rơi vào Thanh Văn định Thánh, làm bạn với các vị Tăng Tăng thượng mạn, ít học, mê lầm Bồ-đề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là thứ chín viên tinh ứng tâm thành quả hướng về vắng lặng, trái với viên thông, trái với thành Niết-bàn, sinh ra hạt giống ràng buộc.
Định tánh: Lại y theo một thời kỳ thú hướng về sự vắng lặng không thay đổi, xếp vào định tánh, thật có kiếp số, cuối cùng hướng về Thượng thừa.
Tăng ít học: Nghĩa là không hiểu rõ thức ấm, mê làm Niết-bàn cho nên đồng với ở đây.
Viên: Là trùm khắp. Tinh: Là không thô.
Đã lìa hành ấm là nguồn gốc của các mạng, cho nên nói viên tinh.
Xứng với vọng chấp nên nói là ứng tâm.
10. Duyên giác định tánh, có hai:
a) Y theo sở giải:
Lại người Thiện nam, tận cùng các hành pháp là không, sinh diệt đã diệt, nhưng đối với sự vắng lặng mầu nhiệm chưa tròn đầy. Nếu đối với viên dung thanh tịnh giác minh, phát sinh sự nghiên cứu sâu mầu liền lập Niết-bàn mà không tiến lên. Sinh ra thắng giải: Bản giác viên dung, giác thể thanh tịnh. Nay thấy thức ấm, lìa hành sinh diệt. Cho nên vừa sâu xa vừa mầu nhiệm, lập thành Niết-bàn, không biết trôi lăn cho nên không tiến lên.
b) Xếp vào bọn tà:
Người này rơi vào Bích-Chi định tánh, làm bạn với Duyên giác, Độc giác, không biết hồi tâm, mê lầm Bồđề của Phật, quên mất tri kiến. Đây gọi là loại thứ mười viên giác hợp tâm, thành quả tròn sáng, trái với viên thông, trái với thành Niết-bàn, sinh cái biết tròn sáng, mà không biến hóa hạt giống tròn sáng. Cho thức ấm là viên giác, phù hợp vọng chấp là hợp tâm.
Vắng lặng bất động, chẳng có điều gì không biết rõ, cho nên nói là vắng lặng tròn sáng.
Chứng biết sự tròn sáng của giáo không có diệu dụng thương xót hóa độ cho nên nói không có hạt giống giáo hóa tròn đầy.
Luận Duy Thức nói: Thanh Văn sợ khổ chướng, Duyên giác xả sinh chướng, chính là loại này.
* Kết: Khuyên mở mang giảng nói, có bốn:
1. Kết luận bác bỏ lỗi ở trước:
Nầy A-nan! Mười thứ thiền-na giữa chừng thành cuồng như thế, do nương vào mê hoặc, đối với chưa đủ mà sinh chứng đầy đủ. Đây đều là do thức ấm dụng tâm giao nhau, cho nên sinh ra giai vị này, chúng sinh ngu mê không tự lường biết, gặp hiện tiền này đều đắm vào tâm mê tập khí trước kia mà tự thôi dứt, cho là rốt ráo trở về, tự nói đầy đủ Bồ-đề vô thượng, thành đại vọng ngữ, bị ngoại đạo tà ma chiêu cảm nghiệp, chết đọa ngục Vô Gián. Thánh văn, Duyên giác không thành tăng tiến. Nửa chừng thành vọng: Mới là tợ giác, chưa thành bất thối, tà tuệ phát sinh, cho nên nói thành cuồng, không quán sát sự sinh diệt nhỏ nhiệm của thức ấm bèn cho là đã chứng, cho nên nói nhân y theo mê hoặc v.v... văn còn lại rất dễ hiểu.
2. Khuyên mở mang, giảng nói:
Các thầy có tâm đến với đạo Như-lai thì sau khi ta diệt độ truyền bá pháp môn này cho đời sau, giúp cho khắp các chúng sinh hiểu rõ nghĩa này, không để cho các ma gây ra các yêu nghiệt. Che chở cứu giúp chúng sinh, dứt trừ tà duyên, giúp cho thân tâm ho nhập vào tri kiến Phật, từ đó thành tựu không gặp nhiều lối rẽ, tha thiết khuyên đời sau, làm cho chúng sinh biết rõ khi thức ấm chưa hết có mười cảnh này phát sinh, biết mà giác sát, thấy ma tự dứt, mê mà chấp đắm, chắc chắn rơi vào thiên tà.
Nhập vào tri kiến Phật là quả vị chứng chân. Từ đầu: là mới tu.
Thành tựu: tức là quả mãn.
Giữa đường không gặp lối rẽ: là không có tướng dua nịnh, tức mười loại trước.
3. Nói về sở thừa của Phật:
Pháp môn như thế, vô số Như-lai trong Hằng hà sa kiếp ở đời quá khứ, nhờ đây mà tâm khai mở, được đạo Vô thượng: Chẳng có Đức Phật nào, không nhờ năm ấm mà được Bồ-đề, đều có thể hiểu rõ cho nên tránh được ngả rẽ.
4. Công dụng ấm tận:
Nếu thức ấm cùng tận, thì các căn hiện tiền của ông hỗ dụng, từ trong hỗ dụng, có thể nhập vào Càn Tuệ Kim Cương của Bồ-tát.
Các căn hiện tiền hỗ dụng: Tức là tiệm thứ thứ ba ở trước chứng Vô Sinh pháp nhẫn. Văn trước đã thấy, từ trong hỗ dụng nhập vào càn tuệ, tức là hỗ dụng này chính đã nhập vào càn tuệ địa. Hỗ dụng là địa vị tự tại. Như văn trước nói: Trở lại dòng toàn nhất, sáu dụng không hiện hành, cho đến tất cả sự mầu nhiệm mật viên của Như-lai đều hiện trong đó. Người này liền được Vô Sinh pháp nhẫn. Từ sự tiệm tu này, tùy theo hạnh đã phát, an lập Thánh vị, đó gọi là tăng tiến thứ ba tu hành tiệm thứ. Đây là bắt đầu từ Càn Tuệ, cuối cùng đến Đẳng giác, đều không lìa tiệm thứ ba này mà kiến lập. Nay y theo chung mà vào riêng, cho nên nói từ trong hỗ dụng mà vào.
Nói Kim Cương: Vì hành nhân này từ đầu đến cuối do tu tập Tam-muội Kim Cương mà thành tựu. Cho nên văn trước nói: Các Địa đều là Kim Cương, quán sát mười dụ sâu xa như huyễn. Trong Xa-ma-tha, dùng Tỳ-BàXá-Na của các Như-lai, thanh tịnh tu chứng dần dần thâm nhập. Hoặc có thể ngay đây y theo người lợi căn đến Càn Tuệ địa tinh tâm phát hóa, vượt qua nhân vị, thẳng vào Diệu Giác cho nên được gọi là Kim Cương.
Nếu kẻ độn căn tùy theo hạnh đã phát, lại trải qua các giai vị, cho nên không được gọi là Kim Cương, chỉ gọi là Càn Tuệ. Nếu đem vị này lập trong tâm sau Đẳng giác, như văn trước nói thì ngược dòng Như-lai, bởi vậy Bồ-tát thuận hạnh mà đến. Bờ giác giao nhau gọi là Đẳng giác, đâu thể đối với giao nhau lại lập Càn Tuệ địa ư.
Người xưa mê lầm điều này, đối sau Đẳng giác lại lập một vị Kim Cương Càn Tuệ thật là nhầm lẫn cho người học sau, lý trình bày đều không, nên chẳng dám nghe theo, viên minh tinh tâm phát hóa trong đó, như trong tịnh lưu ly chứa đựng trăng báu, như vậy cho đến vượt qua. Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, bốn tâm gia hạnh. Bồ-tát sở hành, Kim Cương Thập địa, Đẳng giác tròn sáng, vào biển diệu trang nghiêm của Như-lai, Bồ-đề tròn đầy, trở về vô sở đắc, đối với tâm Càn địa đã chứng được tròn đầy mầu nhiệm. Tánh của tâm này thuần phát ra các hạnh, thuần đủ các đức. Cho nên nói phát hóa, tâm tuệ như lưu ly, nhân hạnh như vật báu, quả đức như trăng. Trong ví dụ này hiện một trong vô lượng vô lượng. Nhân hạnh quả đức này cùng lúc đầy đủ tròn sáng không ngăn ngại, cho nên nói trong lưu ly chứa đựng vầng trăng báu.
Vượt nhân vào quả: Do phát hóa nhân quả ở trước đầy đủ mới được vượt lên. Phước đủ nên gọi là biển Trang nghiêm. Tuệ đủ cho nên nói tròn đầy Bồ-đề. Lý cùng tột nên nói trở về vô sở đắc, tức là đại Niết-bàn thường vắng lặng vô đắc, đây là viên thuần hạ căn lại lợi ích. Do phẩm hạ nên đến khi thức ấm cùng tận mới được nhập vị. Vì lợi là đối với sự phát hóa này đã vượt qua các vị.
Hỏi: Thọ ấm trước cùng tận, tức là ta nói ở trên trải qua sáu mươi Thánh vị của Bồ-tát. Nay thức ấm đã cùng tận, vì sao nói vượt hơn?
Đáp: Trước là nói theo thượng căn lợi độn, nay cũng phải có người đốn siêu. Nay nói theo hạ căn lại lợi ích, nên nói là siêu việt. Thọ ấm phá cũng phải có năng lực Thánh vị, trước sau cùng hiện, tưởng ấm hành ấm cùng tận, phải là nơi trung căn trải qua. Vì lược bỏ cho nên không nói.
Kết thúc khuyên răn, có bốn:
1. Chỉ chung việc ma:
Đây là Tiên Phật, Thế tôn quá khứ, trong Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na giác minh phân tích việc ma sâu kín. Giác minh là quán tuệ.
2. Biết thì lìa tà:
Cảnh ma hiện tiền, ông có khả năng biết rõ, tâm nhơ gội trừ, không rơi vào tà kiến, ấm ma tiêu diệt, thiên ma tan nát, quỉ thần đại lực chết ngất, ly mị vong lượng không còn sống được, thẳng đến Bồ-đề không thiếu sót, thấp kém tăng tiến, tâm không mê muội đối với Niếtbàn, chữ sĩ tức là dứt trừ, hồn ma chạy đi mà trốn mất.
3. Nói riêng về công năng thần chú:
Nếu trong thời Mạt pháp các chúng sinh ngu độn chưa biết thiền là gì, không biết nói pháp, ưa tu Tammuội, ông sợ đồng với tà, nhất tâm khuyên họ trì chú Đà-la-ni Phật Đảnh của ta. Nếu không thể tụng thì viết ở thiền đường, hoặc đeo trong mình, tất cả các ma không thể nào động đến được, không tu định thứ lớp riêng, cho nên nói chưa biết thiền, chưa học trí tuệ phương tiện, cho nên nói không biết nói pháp. Định tuệ không học mà thích an thiền, cảnh ma hiện tiền ai phân biệt được chánh tà, phải khuyên họ trì chú, an ổn chánh giải ngăn ngừa tà lự thì không rơi vào đường ma.
4. Khuyên làm cho kính vâng lời làm theo:
Ông phải cung kính các Đức Như-lai mười phương rốt ráo tu tiến về phép tắc sau cùng của ta, đây là các Đức Như-lai nói về rốt ráo liễu nghĩa, lại là thời thuyết sau cùng khi ra đời, nên nói phép tắc sau cùng.
A-nan do nghe mà thưa hỏi, có hai:
1. A-nan hỏi, có ba:
a) Kính vâng điều nghe trước:
A-nan liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi nghe Phật chỉ dạy, đảnh lễ cung kính, nhớ giữ không để mất.
b) Ba lần thưa hỏi:
Ở trong chúng lại bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như lời Phật nói, trong tướng năm ấm có năm thứ luống dối làm gốc tâm tưởng, chúng con bình thường chưa được Như-lai chỉ bày sâu xa, là hỏi vọng tưởng, chưa nghe năm ấm đều là về vọng tưởng mà tên có khác. Lại năm ấm này dứt trừ hết, là thứ lớp hết, là hỏi dứt trừ đốn tiệm, đều tức là Đốn. Năm lớp như thế, đến đâu làm giới, là hỏi về bờ mé giới, tức là giới phần.
c) Cầu được mở bày:
Cúi mong Đức Như-lai đại từ giảng nói, vì đại chúng này mà làm sáng tỏ tâm mắt, làm con mắt cho tất cả chúng sinh đời Mạt pháp.
Nói hai bên mắt đều dụ cho tâm, tâm sáng suốt chiếu rõ như cái thấy của mắt.
2. Như-lai đáp, có hai:
Đáp ngay lời hỏi, có ba: a.1) Đáp vọng tưởng, có ba: * Nói chung, có hai:
- Bày chân giác viên tịnh:
Phật bảo A nan! Tinh chân diệu minh bổn giác viên tịnh, chẳng lưu lại sinh tử và các bụi nhỏ.
- Tinh chân là Pháp thân: Diệu minh là Bát-nhã.
Viên tịnh là Giải thoát.
Ba đức viên dung chỉ một bổn giác. Sinh tử là đường khổ.
Bụi nhơ là nghiệp phiền não.
Đây là diệu tánh tròn sáng, lìa các danh tướng.
* Nói về vọng tưởng phát khởi, có ba:
- Thuận bày vọng khởi:
Cho đến hư không đều do vọng tưởng sinh khởi.
Đây vốn là Bổn giác, diệu minh chân tinh vì vọng nên phát sinh các khí thế gian như Diễn-Nhã-Đa mê đầu nhận bóng: Không trình bày đầy đủ sắc tâm hai thứ nối nhau nên nói cho đến. Hư không vô vi còn do vọng sinh ra huống chi tất cả pháp cuồng si, cho nên giống như nhận bóng.
- Lại phá nhân vọng, có ba:
- Chỉ bày không có nhân:
Vọng vốn không có nhân, đối với vọng tưởng lập ra tánh nhân duyên. Đã gọi là vọng, làm sao có nhân? Nếu có sở nhân thì không gọi là vọng, cho nên nói không có nhân. Từ các vọng tưởng xoay vần nhân nhau giao vọng phát sinh, thứ lớp làm hạt giống cho nhau, cho nên nói ở trong vọng tưởng lập tánh nhân duyên.
- Phá vọng chấp:
Mê nhân duyên gọi là Tự nhiên. Tánh hư không kia dường như thật mà huyễn sinh. Nhân duyên tự nhiên đều do chúng sinh vọng tâm chấp trước, nói có nhân duyên còn là vọng chấp, lại chấp nhận tự nhiên thì càng gấp bội ở trong mê. Cho nên nói chúng sinh vọng tâm chấp trước.
- Tổng kết bác bỏ:
Nầy A-nan! Biết chỗ khởi của vọng, nói nhân duyên của vọng, nếu vọng vốn vô thì nói nhân duyên, vọng vốn chẳng thật có, huống chi không biết suy ra tự nhiên. Nếu biết vọng khởi mà cho phép nói nhân duyên, vọng vốn vô sinh, nói nhân duyên gì, nhân duyên còn được lập ra trong vọng, huống chi chẳng biết là vọng, suy ra tự nhiên hay sao?
* Kết luận thành vọng tưởng:
Cho nên Như-lai phát minh cho ông biết bản nhân của năm ấm đều là vọng tưởng. Nhân của năm ấm do vọng kết thành, đây là lập tánh nhân duyên trong vọng tưởng. Tánh nhân duyên này quyền lập trong vọng. Muốn làm cho rõ pháp vốn không thật có, cho nên đồng gọi là một vọng tưởng. a.2) Nói riêng, có năm: a.2.1) Sắc:
Thân ông trước do cha mẹ tưởng mà sinh ra, tâm ông chẳng tưởng thì không thể đến truyền mạng trong tưởng, chính là chỉ cho tưởng nầy. Nhận di thể của cha mẹ mà thành thân này, di thể tức là tưởng, ái lưu xuất. Cho nên nói do cha mẹ tưởng mà sinh ra. Ông gá vào ấm cũng là do tưởng ái mà có. Vì lấy di thể của tưởng làm cảnh cao quý, thức hướng về cha mẹ kết thành bào thai, cho nên nói tâm ông chẳng tưởng thì không đến truyền mạng.
Đây là ba chỗ vọng tưởng hòa hợp kết thành thân này. Như ta trước nói: tâm nghĩ đến me chua thì trong miệng chảy nước miếng, tâm tưởng bước lên cao, thì lòng bàn chân nghe rờn rợn, dốc núi không có, vật chua chưa đến, thân ông chắc chắn chẳng phải thông luân với luống dối. Nước trong miệng làm sao do nghe nói me mà chảy ra, dẫn trước giải thích thành, tức là văn dẫn phá tưởng ấm.
Sườn núi dốc, me chua đều không đến thân, chỉ do ông nghĩ mà trong miệng ông sinh ra nước miếng. Nếu không đồng loại với vọng tưởng thì đâu có nước sinh ra. Thông luận giống như đồng loại.
Cho nên biết, Ông hiện sắc thân gọi là vọng tưởng vững chắc bậc nhất. Kết quy để đặt tên, lấy đây để nghiệm thì thế nào là chẳng tưởng cho nên nói nên biết.
Vọng tưởng ngưng kết thì thành sắc ấm, cho nên nói vững chắc. a.2.2) Thọ: Tức là ở đây nói tâm tưởng lên cao làm cho thân ông chân thật cảm nhận chua chát. Do nhân thọ sinh làm khuấy động sắc thể, nay ông chạy theo hai thứ hiện tiền thuận ích trái tổn, gọi là hư minh vọng tưởng thứ hai.
Bốn câu trước nhiếp tưởng động thân về sắc ấm, tức nói thọ ấm chính là vọng tưởng.
Câu do nhân, v.v... trở xuống là nói về chánh. Vì tưởng me chua, v.v... mà có lãnh thọ, nếu chẳng lãnh nạp thì làm sao có nước mà sống. Lãnh thọ ở đây cũng là vọng tưởng chuyển biến vọng sinh ra lãnh nạp.
Hai thứ rong ruổi, tức là lãnh nạp pháp thuận nghịch này sinh ra pháp khổ vui mà thành tổn ích, bị chúng sai sử, cảnh chiếu soi mà lãnh nạp rỗng suốt vô ngại, nên nói là hư minh. a.2.3) Tưởng:
Do ông suy nghĩ khiến sắc thân ông, thân chẳng phải niệm, thân ông vì sao bị niệm sai sử, chấp đắm các cảnh tượng, tâm sinh ra chấp thân, tương ứng với niệm. Thức là tưởng tâm, ngủ là các giấc mộng. Chính là tưởng niệm của ông vọng tình xao động, gọi là dung thông vọng tưởng thứ ba: hai câu đầu là nêu, niệm lự là tưởng, thân tâm sai sử đều là hành vi của tưởng.
Câu: Thân không phải niệm trở xuống là giải thích.
Ba câu đầu là trái với chất, nếu chẳng thuộc loại tưởng, thì đâu phải theo niệm.
Năm câu các thứ v.v... trở xuống chính là hiển bày. Hễ chấp chặt tiền cảnh thì trước phải tưởng tượng, sau đó thân mới theo. Nếu tưởng là thật thì đâu cần thân để chấp. Nếu thân không phải tưởng thì chẳng thể hiện hành. Cả hai đã cần thì đâu chẳng phải luống dối ư? cho nên nói tương ưng với niệm. Ngủ và thức tuy khác nhưng đều do tưởng làm ra, ngủ đã thành mộng, mộng chẳng có thật, nên biết cái tưởng lúc thức đâu phải là thật? Câu thì cái tưởng của ông v.v... là kết. Cho nên biết cái tưởng tượng là hiện nay niệm lự, chính là do vọng tình dao động cho nên như vậy, đâu chẳng phải vọng, dung sắc chất, thông tâm niệm, biến cảnh tượng thành mộng mị, cho nên nói dung thông vọng tưởng. a.2.4) Hành:
Hóa lý không trụ, nhậm vận sâu kín, móng tay dài, tóc mọc, khí tiêu tan, dung mạo hủy hoại, ngày đêm thay nhau không hề giác ngộ. Đây là nói về tướng của hành, hai câu đầu là nêu. Hành ấm đổi dời, sâu kín khó biết, cho nên nói không trụ, đổi dời kín đáo. Câu móng tay dài v.v... trở xuống là giải thích.
Ba câu trước giải thích về bất trụ, một câu sau nói lên nghĩa chuyển dời kín đáo.
Nầy A-nan! Đây nếu chẳng phải thân ông vì sao nói tự thể đổi dời. Nếu chắc chắn là chân, sao ông không biết thì các hành của ông niệm niệm không dứt, gọi là u uẩn vọng tưởng thứ tư.
Chỉ bày luống dối, chân là thật, nếu hành ấm chẳng phải thể của ông vì sao lại thay nhau không dừng. Lại nếu thật là thân ông vì sao không hay biết sinh diệt, chẳng phải ông thì không được, là ông không có chỗ nương tựa, cho nên biết là luống dối.
Câu thì ông v.v... trở xuống là kết luận về tên gọi tưởng. Âm thầm đổi dời khó biết, nên nói là u ẩn. a.2.5) Thức, có hai:
* Nói về tướng:
Lại ông tinh minh vắng lặng, không có chỗ lay động gọi là thường hằng. Đối với thân không lưu xuất ra thấy, nghe, hay, biết, đây là nhắc lại cho thể của thức.
Ba câu đầu là nhắc lại chấp. Hành nhân cho rằng cái rõ biết sâu kín lìa hành ấm sinh diệt, vắng lặng bất động là thường tru, tức là thức ấm.
Câu đối với thân v.v... trở xuống là chỉ cho thể. Thức ấm đâu vượt qua thấy, nghe, hay, biết, đây là chỉ cho dụng. Nếu thật là tinh chân, không chứa tập vọng, thì do đâu mà các ông năm trước thấy một vật lạ, trải qua năm tháng nhớ quên đều không. Sau đó, bỗng nhiên thấy lại vật trước, ghi nhớ rõ ràng không hề mất. Cho nên trong cái tinh liễu vắng lặng không lay động, niệm niệm được huân, có gì phải tính toán, chính là nói về luống dối.
Hai câu đầu là nêu. Nếu cái vắng lặng tròn sáng này là tánh chân thật, không được dung thọ tập khí luống dối, tập khí là hạt giống.
Câu do đâu v.v... trở xuống là giải thích thuận chín câu.
Nhớ quên đều không: Nghĩa là lúc trước có nhớ thì có quên. Vốn đã không nhớ, cho nên không nói quên.
Thấy lai: Tức là thấy nữa, thấy nữa đã không sót mất, đây là dung thọ vọng tập.
Nên biết luống dối chẳng phải chân thật vắng lặng. Câu đây chính là v.v... trở xuống: là kết thúc chỉ bày.
Thọ huân trì chủng: phát khởi hiện hành, sinh diệt trôi chảy không nên chấp đắm.
Lại nói về sự sâu kín:
A-nan nên biết! Sự vắng lặng này không phải chân, giống như dòng nước chảy nhanh mong cho êm ả, chảy nhanh không thấy chẳng phải là không chảy. Nếu chẳng phải nguồn tưởng thì đâu có vọng tập, chẳng phải sáu căn của ông hỗ dụng hợp khai vọng tưởng này thì không lúc nào diệt được. Đây là nói về chỗ sâu kín.
Thức ấm lìa hành ấm nên gọi là vắng lặng, chẳng phải thường trụ cho nên nói chẳng phải chân. Dụ nước chảy nhanh: phàm phu Nhị thừa không thể biết được, giai vị Thập Địa trở xuống tuy giác chưa cùng tận cho nên nói chảy nhanh không thấy.
Nếu chẳng phải nguồn tưởng: Tức là nói đây chính là căn bản vọng tưởng, lấy thức thứ tám làm giới, là gốc thú sinh.
* Bốn câu chẳng phải ông v.v... trở xuống là nói về khó dứt:
Hỗ dụng hợp khai: Tức là nhờ căn mà phát minh. Cho nên nói hỗ dụng, khai là làm cho không ngăn cách. Hợp: là thành một thể.
Như văn trước nói: Ngược dòng toàn nhất, sáu dụng không hiện hành. Khai tức là hợp cho nên nói không khác. Nếu chẳng phải chứng chân thì điều này rất khó dứt.
Cho nên ông hiện tại huân tập cơ yếu trong sự thấy, nghe, hay, biết thì trong cái vắng lặng là võng tượng hư vô, tinh tưởng tinh diệu vi tế điên đảo thứ năm về hư không. Do nhỏ nhiệm mà được gọi tên, đây là huân tập cơ yếu trong các thức, cũng gọi là chỗ vắng lặng sáng suốt không lay động, cho nên nói là vắng lặng, tức là bổn thức. Có mà như không cho nên nói không võng tượng, tức là không.
Tượng là giống, không có hình chất, nên nói là hư vô.
Y theo hành ấm trước, rất là nhỏ nhiệm, hai, ba lần chỉ bày cho nên nói là nhỏ nhiệm tinh diệu. b) Tổng kết:
Nầy A-nan! Đây là năm thọ ấm, thành năm vọng tưởng, năm này chính là pháp chịu báo của chúng sinh, nên gọi chung là Thọ, cũng gọi là năm thủ uẩn, vì chúng sinh chấp vào đây làm tự thể.
Đáp về bờ mé:
Nay ông muốn biết cõi Nhân sâu hay cạn, thì đáp đến chỗ nào là giới. Giới nghĩa là nhân, cũng nghĩa là phần. Nhân nương vào giới mà phân chia bờ mé, giới hạn, nên nói là nhân giới. Chỉ có sắc và không, là bờ mé của sắc.
Sắc là hình sắc.
Không là hiển sắc, cả hai đều thuộc về sắc uẩn vọng sắc, vọng không, hiển hình lẫn nhau, lược nêu sắc không, nhưng thu nhiếp hết tất cả.
Chỉ có xúc và lìa là bờ mé của thọ.
Xúc có thuận, có nghịch, tức thành hai thọ khổ vui, lìa thì không có trái và thuận, chỉ có một xả thọ. Chỉ có nhớ và quên, là bờ mé của tưởng.
Nhớ quên là quên mất, phan duyên chấp đắm vào hình tượng đều là giới hạn của tưởng ấm. Chỉ có diệt và sinh là bờ mé của hành ấm. Sinh diệt đổi dời, bốn tướng sát-na chỉ là sinh diệt, đều là phần hành ấm.
Trạm nhập với hợp trạm, quy về bờ mé của thức. Trạm là hành ấm, hợp là quy về thức ấm.
Thấy biết bất động, cho là vắng lặng chân thật, đồng với ở đây gọi là bờ mé của thức ấm, vì thấy hành ấm là pháp sinh diệt, lìa chỗ sinh diệt tức là vắng lặng, đến chỗ tu là phạm vi của thức.
Đáp đốn tiệm:
Gốc của năm ấm này từ nhiều lớp sinh khởi, sinh do thức mà có, diệt từ sắc mà dứt.
Đáp trước là thuần tiêu trừ, là thứ lớp cùng tận. Sinh khởi thì từ tế đến thô, từ trong cảm ngoài, tất cả các pháp do thức biến hiện, cho nên nói sinh do thức mà có, dứt trì thì trước thô sau tế, từ ngoài vào trong như giặt áo mài gương, như bụi nhơ phải được gột rửa trước. Nhưng khi sinh khởi thật không có trước sau. Một niệm thuần biến là y theo thô tế để nói về pháp quán viên thuần này, dứt cũng chẳng có thứ lớp, khi công hạnh thành thì tự nhiên như vậy.
Lý thì đốn ngộ, nương vào ngộ đều tiêu. Sự chẳng đốn trừ nhân thứ lớp mà cùng tận.
Trước y theo sinh khởi mà dứt trừ, đạo lý hợp nhiên, nếu quyết định hiểu như thế thì đâu biết được luống dối cho nên phải là lý trước sự sau, đốn ngộ dứt dần mới hiểu rõ được nghĩa tu chứng.
Lý thì đốn ngộ. Nếu y theo viên lý chứng ngộ hễ một dứt thì tất cả dứt, không có trước sau, như văn trước nói: Một căn đã về nguồn thì sáu căn thành giải thoát, bụi nhỏ ngay đó, tiêu tan thành tròn sáng mầu nhiệm, giải ngộ cũng vậy.
Kinh Viên Giác nói: Biết huyễn liền lìa, lìa huyễn tức giác, cũng không có thứ lớp, vì tất cả pháp đều từ tâm khởi vọng niệm mà sinh. Niệm là vô niệm, tất cả mau chóng dứt hết. Vì trong chân tánh vốn không có vọng cho nên nói thừa ngộ đều tiêu. Sự không phải đốn trừ, do thứ lớp mà dứt hết. Nghĩa là người năm ấm vọng pháp gọi đó là Sự, ấm đã thô tế khác nhau, thì các pháp thô như vậy trước phải dứt trừ. Giải hạnh tuy đốn nhưng dứt có thứ lớp, mặt trời mọc, đứa trẻ mới sinh đều dụ cho điều này.
Ta đã dạy ông về gút khăn kiếp-ba, sao không rõ lại còn hỏi nữa.
Đây là dẫn lời nói trước, kết trách chưa rõ. Như văn trước nói: Thể của khăn là đồng, do gút mà có khác. Lại nói trong cái rốt ráo đồng sinh ra rốt ráo khác.
Lại nói: sáu gút đồng thể, khi gút khác nhau tức là khi cột mở đâu có đồng dứt. Đây đều là lý thì đốn ngộ, sự chẳng đốn trừ, thế nào lại hỏi nữa ư? Đốn tiệm ngộ tu như Viên Giác Sớ có nói.
Kết khuyên giảng nói, truyền bá:
Ông phải khai thông cội nguồn tâm vọng tưởng này, truyền dạy cho người tu hành trong thời Mạt pháp ở tương lai, làm cho chúng sinh biết luống dối tự sanh rất nhàm chán, biết có Niết-bàn, không lưu luyến ba cõi.
Như năm thứ vọng tưởng trên là căn bản của năm ấm, năm ấm nhiếp tất cả pháp, cho nên tất cả pháp đều là vọng tưởng.
Như văn trên nói: Thế giới Ta-bà cho đến các cõi nước hữu lậu và chúng sinh mười phương đồng là giác minh vô lậu diệu tâm, thấy nghe, hay biết bệnh duyên luống dối, hòa hợp vọng sinh, hòa hợp vọng chết. Ông đã ngộ điều này cho nên nói tâm được khai thông, cũng làm cho người hiểu, nên nói truyền dạy làm cho biết. Nếu biết y báo chánh báo, mình và người đều là một vọng tưởng thì hãy chán bỏ tự thể năm uẩn, cầu Niết-bàn thường lạc.
Ba cõi đâu đáng lưu luyến? Cho nên ở đây dặn dò khuyên mở mang giảng nói, mình và người đều được lợi ích.
Phần lưu thông, có hai:
1. Như-lai so sánh hiển bày công năng của kinh, có hai:
a) Nêu bố thí phước vô biên, có hai:
a.1) Hỏi về nhiều:
Nầy A-nan! Nếu lại có người, mười phương tất cả hư không, đầy khắp bảy báu dâng lên Chư Phật, nhiều như cát bụi thờ kính cúng dường, tâm không tính kể được. Ý ông nghĩ sao? người này đối với nhân duyên cúng dường Phật có được phước nhiều chăng?
So sánh văn này, văn tuy không nhiều nhưng ý đã cùng khắp, sự cao quý về tài của bảy báu đầy khắp hư không càng cao quý.
Chư Phật nhiều như cát bụi là ruộng phước cao quý. Kính thờ cúng dường không luống uổng là tâm cao quý, lại châu báu như hư không là tâm rộng lớn, dâng lên Chư Phật kính thờ cúng dường là tâm bậc nhất, tâm không luống uổng, tâm với một thời gian dài, bố thí như thế tâm cảnh đều cao quý, phước đức đạt được rất rộng lớn?
a.2) Đáp về cao quý:
A-nan đáp rằng: Hư không vô tận, châu báu vô biên. Thuở xưa, có chúng sinh cúng dường Phật bảy đồng tiền sau khi xả thân rồi được làm vua Chuyển Luân, huống chi hiện tiền hư không đã tận cùng với cõi Phật đầy khắp, đều bố thí châu báu cùng kiếp, suy nghĩ cũng không thể kịp. Phước này làm sao có bờ mé?
Cúng dường Phật bảy đồng tiền được làm vua Chuyển Luân là nói trong các ruộng phước cúng dường Phật là ruộng phước cao quý nhất.
Phước của Luân Vương bảy báu đầy đủ, ngàn người con vây quanh. So với dâng châu báu cùng tận hư không cúng dường Như-lai vật được thí còn cúng kiếp khó nghĩ. Điều đó cảm vời phước báu đâu có bờ mé, chẳng phải bậc Nhất Thiết Trí thì không ai biết được.
b) Nói về lợi ích cao quý vượt hơn của kinh, có hai:
Người nói chuyển nghiệp hiển bày muôn phước đức.
Phật bảo A nan! Chư Phật Như-lai nói không luống dối, lời nói này không luống dối làm cho chúng sinh tin sâu lời Phật là chân thật.
Nếu lại có người, thân có bốn tội trọng, mười ba-ladi trong nháy mắt liền qua địa ngục A-tỳ ở phương này phương khác, cho đến cùng tận ngục Vô Gián ở mười phương, chẳng có nơi nào không trải qua, là dạy người có tội cực trọng.
Ba-la-di: Hán dịch là Khí, hoặc dịch là không đáng ưa thích. Vì khí (bỏ) cho nên hiện tại không được tăng dùng. Không đáng vui tức là sẽ vào địa ngục. b.2) Tiểu thừa có bốn tội khí.
Đại thừa có mười tội trọng, phạm đủ bốn tội này thì chịu báo vô cùng. Cho nên trải qua mười phương nơi nào cũng đều đến, A-tỳ là năm ngục Vô Gián.
Có khả năng trong một niệm chỉ bày pháp môn này cho kẻ chưa học trong thời Mạt pháp: là nói lên mở mang truyền bá kinh trong thời gian rất ngắn, tức là bờ mé của một niệm tâm. Hễ mở mang truyền bá kinh thời gian phải lâu dài, đâu thể một niệm mà giảng nói. Nay nói năng lực của mở mang truyền bá kinh rất lớn. Cho nên nêu rất ít để nói lên sự cao quý.
Tội chướng của người này liền tiêu diệt ngay, biến nhân chịu khổ địa ngục thành nước an vui, đó là sự cao quý diệt tội. Người có tội nặng, trong một niệm mở mang truyền bá kinh, kinh có năng lực chuyển quả báo khổ nặng thành quả báo cực vui, được phước nhiều hơn trăm lần ngàn, lần ngàn muôn ức lần người bố thí ở trước. Cho đến tính đếm, thí dụ không thể được, đây là được phước cao quý.
Phước bố thí ở trước đã tự khó lường, nay lại vượt qua ngàn muôn ức lần, thí dụ không thể được sao lạ kỳ như vậy?
Hỏi: Người tội cực nặng có rất ít thời gian để giảng nói cho người nghe, vẫn chưa đáng nói, làm sao diệt nghiệp được phước cao quý như thế?
Đáp: Ở đây có nhiều nghĩa nên được quả báo cao quý, một là do mở mang truyền bá kinh là lời Phật, giáo lý hạnh quả đều không thể suy nghĩ bàn luận, nghĩa là nói lên tạng tâm Như-lai pháp pháp đều đúng, hữu tình vô tình, có tánh, vô tánh đều thành Phật đạo. Lý nầy không thể suy nghĩ bàn luận. Phật đảnh tâm chú nhân người quả người đều y theo pháp này để dứt ác sinh thiện, nhân lý giáo hóa người, phòng tà hộ chánh, tiến hành nhanh chóng để thành Bồ-đề, đây là giáo không thể suy nghĩ bàn luận.
Viên thông hạnh môn, hai mươi lăm bậc Thánh, Quán Âm cao quý nhất. Đây là hạnh không thể suy nghĩ bàn luận.
Sáu mươi Thánh vị, thứ lớp thứ ba chứng được vô sinh, lại nói Càn tuệ có khả năng vượt qua nhân vị, thẳng vào biển quả. Đây là quả không thể suy nghĩ bàn luận.
Hai là thời Mạt pháp có chướng nạn nhiều, có thể ngay lúc này mở mang truyền bá lời này, tin hiểu chân chánh thật ít có.
Ba là phước bố thí chỉ được quả báo sinh tử, vẫn là tự lợi, cái lợi là sự mở mang truyền bá kinh pháp sẽ đến được vô lậu, có năng lực làm cho người nghe tin hiểu không lầm, lần lần được lợi lạc vô cùng tận. Do đó, một niệm tuy ít nhưng lợi ích rất lớn. Bởi thế có thể hơn phước bố thí châu ở báu trước.
2. Người trì được quả nói về môn trí tuệ.
Nầy A-nan! Nếu có chúng sinh nào tụng kinh này, trì chú này, nếu ta nói rộng trong cùng kiếp cũng không hết, y theo giáo ngôn của ta, như giáo mà hành đạo thì thẳng đến Bồ-đề, không còn nghiệp ma nữa.
Nói rộng cùng kiếp cũng không hết, tức văn trước nói. Nếu ta nói chú Phật đảnh quang tụ tất-đát-đa, nầy từ sáng đến chiều âm thanh nối nhau, thì từng câu từng chữ không lặp lại, trải qua hằng sa kiếp cũng không thể cùng tận. Đây là nói nghĩa kinh và người trì công đức không thể lường được
Câu y theo ngôn giáo của ta v.v... là nói sẽ được quả báo rất lớn, có công năng xa lìa việc ma trong ngoài, dùng để khuyên đúng như lời nói mà thực hành. Đây là người mở mang thọ trì kinh được quả báo xa lìa việc ma, chỉ có Phật và Phật mới biết được.
Đại chúng kính nghe lễ bái rồi lui:
Phật nói kinh này xong, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưuBà-tắc, ưu-Bà-Di, tất cả trời người thế gian, A-tu-la và các Bồ-tát phương khác. Nhị thừa, đồng tử Thánh tiên cùng với quỉ thần đại lực mới phát tâm đều vui mừng, làm lễ lui ra: Hai mươi lăm vị Thánh và Diệu Cát Tường tuy mỗi người đều có nói, nhưng công đức thì quy về Phật, gọi chung là Phật nói.
Ba thứ thế gian cho nên nói tất cả. Khí giới là cảnh sở trụ, thuộc về Bồ-tát Nhị thừa Trí chánh giác, ngoài ra đều có hữu tình thế gian.
Đồng Tử Thánh Tiên: Là một trong các vị tiên vậy, trong kinh có nói chân ngôn này.
Đại hoan hỷ: Tức là gần thì được thế gian, xa thì được bậc Sơ địa xuất thế.
Do ba nghĩa nên nói vui mừng:
1. Người năng thuyết thanh tịnh
2. Pháp sở thuyết thanh tịnh
3. Quả sở đắc thanh tịnh
Do nghĩa này nên nói đều rất vui mừng. Gác bút tụng rằng:
Dùng ít phần này khen lực kinh Bố thí giảng nói vô cùng tận, Được lợi lạc đều hồi hướng
Bồ-đề mà thật cõi chúng sinh
-----------------------------
Nghĩa sớ chú kinh Thủ-lăng-nghiêm, bản gỗ được khai bản khắc đã lâu năm, bị mất bốn mươi chín trang, bên cạnh có bản chú thích nên nhờ người khắc in lại, lại thành bộ quyển, để truyền bá rộng. Cúi mong biển giáo mở rộng, pháp môn thấu suốt.
Năm Kỷ Dậu, niên hiệu Thuần Hựu, ngày Thượng Nguyên, Thẩm Nguyên Thạnh ở Thanh Hồ kính ghi.
Văn bảy lần nêu, tám lần giải thích, thật ra Như-lai chỉ chẳng chỗ quan trọng là chúng sinh ngay đó thành Phật. Các Tỳ-kheo thời Phật còn tự mờ mịt, huống chi là người trí cạn ở đời sau? Tôn giả Trường Thuỷ dùng trí tự nhiên vô sư để giảng nói chỗ sâu xa, mở rộng chỗ kín đáo, soạn sớ giải thích rộng. Rõ ràng có thể vẹt tan mây mù để thấy trời xanh, đâu có chỗ nào sáng tỏ, rõ ràng như thế. Khắc in lưu truyền, nhưng đã đánh mất từ lâu năm, thường là chỗ tiếc nuối của người học theo Hiền Thủ. Cư sĩ họ Thẩm thấy vậy thương xót bèn sưu tìm bản đầy đủ, nối tiếp thành sách vàng, giúp cho viên ngọc ma-ni đã vỡ lại lành. Có thể nói rằng biết được chỗ bố thí, kinh không nói hay sao? Nếu có một người khai ngộ được chân trở về nguồn cội thì hư không mười phương thảy đều tan biến. Đó là lợi ích, đâu phải là cạn thấp?
Trong năm Kỷ Dậu, niên hiệu Thuần Hựu, Tỳ-kheo Đức Vân trụ núi Thụy Nham ở Hòa Tiết kính ghi lời bạt.
Kinh Lăng Nghiêm Nghĩa Chú Sớ bạt khai nhiều năm nhưng đã chìm mất hơn bốn mươi chín năm, bên cạnh đó sưu tầm chú bổn sai người khắc chữ hợp lại thành bộ để lưu truyền rộng. Chỉ mong sự giáo hối tận, thì pháp môn mới sáng lạn.
Thanh Hồ Trầm Nguyên Thịnh ngày Thượng nguyên năm Kỷ Dậu niên hiệu Thuần Hựu kính ghi. Văn bảy trưng tám biện. Thật Như-lai chỉ thẳng cơ yếu của chúng sinh ngay đó thành Phật. Các Tỳ-kheo lúc Phật còn tại thế đã tự thấy bao la mịt mù, huống chi sau khi Phật diệt độ người trí cạn cợt ư?
Tôn giả Trường Thủy dùng trí tự nhiên vô sư, giảng nói chỗ tối tăm, mổ xẻ những điều huyền vi, mà soạn sớ để giải thích. Rõ ràng giống như vạch sương mù để nhìn trời xanh. Vì sao bày rõ thệ nguyện rõ ràng như thế. Khắc bản lưu truyền, nhưng nhiều năm tán mất ấy thường là sự hối hận của bậc hiền thư độc giả. Cư sĩ họ Thẩm thấy mà đau lòng, bên cạnh đó sưu tầm những bản hay tiếp tục làm thành (sách quý). Rồi sai ma-ni bảo Châu góp những vụn vặt thành hoàn hảo. Có thể nói là biết về sự bố thí, kinh không nói ư?
Nếu có một người phát chân về nguồn thì hư không mười, phương đều tiêu mất, ấy là lợi ích đâu có ít?
Tỳ-kheo Đức Vân ở núi vào tết Đoan ngọ Trung Hòa năm Kỷ Dậu niên hiệu Thuần Hựu kính ghi lời bạt.