TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN

BỘ LUẬT SỚ

SỐ 1806 - GIỚI BẢN TỨ PHẦN LUẬT TỲ-KHEO HÀM CHÚ

Sa-môn Thích Đạo Tuyên ở soạn tại núi Thái Nhất.

MỤC LỤC

BÀI TỰA

SỐ 1806 - TỨ PHẦN LUẬT TỲ-KHEO HÀM CHÚ GIỚI BẢN

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN TRUNG

QUYỂN HẠ

 


BÀI TỰA

Về Giới bản Tứ phần, có nghe rằng con đường ngã tư chung cho cả muôn hạnh, dẫn ra khuôn phép Ba thừa. Từ bậc Pháp Vương sự lợi sinh rộng lớn là ở tại duyên. Nói lên nỗi lo canh cánh của bậc thượng Thánh, thương kẻ tiểu phàm đắm chìm trong biển khổ. Cho nên mở ra cánh cửa không trái, mở bày pháp siêu xa bí mật, nói ra thuyết vô vấn mà nói lên bờ bến cho người mới học. Từ nơi tĩnh xứ mà hiển bày nguồn gốc giáo pháp. Nhóm chúng để giảng nói khuôn phép. Trước nói bài tựa này, trình bày rộng về công năng phát trí. Sau đó nêu lên Đại tông, bao gồm các căn cơ được độ. Y cứ vào thời mà phô diễn chỗ thông hành, nương theo đó mà hòa hợp thông suốt.

Có nghe chánh pháp nhờ đây mà trụ lâu, chỉ vì lúc đến không tranh theo tình biến mà lưu chảy. Trong kinh trình bày để làm chứng. Luật thì lấy phân trượng làm dụ. Giáo pháp tùy văn kết lý mà tình chấp có thay đổi. Vân phi có hai bộ, năm bộ khác nhau. Sơn Trương thập bát, ngũ bá khác nhau. Lấy những thứ từ nguyên thỉ bao trùm thảy đều là tình chấp. Cùng tận tâm yếu hội đều chung cho chánh nghiệp.

Thế là cuối thời Tào Ngụy giới bản này được sáng lập truyền bá, cuối cùng thì vào đầu đời Tùy. Sự thay đổi đó rất nhiều, hoặc y theo phạm bản, hoặc viết theo văn chữ Lệ, hoặc dùng nghĩa mà cầu. Hoặc y cứ vào duyên. So sánh các thuyết mà thành việc rõ ràng. Lạm dụng chỗ tu ở trước mà che lấp lu mờ kẻ hậu học, Phạm bản thì văn nghĩa yếu chỉ trái ngược, tiếng nói địa phương chưa thể dung thông. Y cứ theo luật thì ở tại tông quy, có lỗi đối với giải thích tướng, nghĩa cầu tuy có hội sâu nhưng chưa rảnh nói về đầu mối, duyên y cứ theo đó dường như đầy đủ. Dừng lại ở biệt kiến, nguyên là chánh giới minh cấm, chỉ có Phật mới chế khai, các Hiền Thánh thì im lặng. Chỉ biết vâng theo. Cho nên luật luận trình bày, đều là Tông bản của kinh. Từ các ban vị khác không hề so lường, nêu chung các kiến, Sư tâm thì nhiều. Xét định theo duyên xưa, bởi chưa rảnh rỗi. Nay đem giới bản mà lược bỏ chỗ rườm rà, ẩn nghĩa mà hạn cục văn. Dụng thì thất nghi, xả thì không có y cứ. Nếu không hiển tướng, thì người khó mà y cứ theo đầy đủ.

Tôi ít ngưỡng theo giáo lý, chí muốn làm hưng thạnh

SỐ 1806 – GIỚI BẢN TỨ PHẦN LUẬT TỲ KHEO HÀM CHÚ, Bài tựa 957 giới luật. Xưa ở tại đế kinh chu du giảng nói khắp nơi, có tâm thỉnh nghiệp ghi chép suy tầm, đâu từng không cầm sách xem văn. Lòng cảm khái không nguôi. Thế nên vào năm Canh Dần niên hiệu Trinh Quán thứ tư, ngao du khắp sông núi, rộng phê bình về luật tông, vì thấy lời văn còn lộn xộn nên chưa nghĩ đến việc mở mang xa rộng.

Cao đàm có sự việc dùng vô thí, mới nêu lên được sự dụng vô thí, vừa bao gồm năm bảy danh từ, vọng ở đầu một chữ, nói lại cương yếu hành tạng. Từ khai tâm quyết chánh, hỏi thì giới luật có hưng thạnh hay không, diệu thì dựa vào sơ giải, y cứ vào tình thông căn bản. Không có văn nào để nương. Tự có bậc bác học biết về hành danh đều rõ ràng. Mà thần dụng chẳng chuẩn, đình thì trái với trời. Nay ý đó chưa an, nghĩa nên y theo pháp làm quy tắc nhất định mà tranh luận thì đâu đợi gì từ ngữ rườm rà. Nay thử y theo luật bản ghi đầy đủ theo chánh kinh. Vẫn lấy từ thời Phật mà giải tức là chú thuật. Văn chỉ có một quyển, đồng theo sở truyền từ xưa. Cả hai trì, phạm đều rõ ràng. Nay thì khác với xưa, ngõ hầu giúp cho người mới học và kẻ trí người ngu đều vâng theo đó. Người biết thô thì có ba thứ trì luật. Tinh luyện thì là một Đại sư giáo hóa. Vì dụng này, mà cầu thành tựu chí cực, lại đem các duyên khởi của luật mà vọng nói phi vô. Nếu không chiếu soi thì cuối cùng quy về luống dối. Cho nên tùy theo giới loại mà dẫn những chỗ quan trọng rồi có thêm bớt. Giúp cho hiển tướng thông ban khinh trọng đều chiếu hiện, đủ làm cho thân tỏa sáng đức độ, đủ làm hộ pháp khuông thời, đối với văn không chấp lầm lời văn. Từ nghĩa thì không giúp nghĩa khác, đâu tự để sót vô lậu, cũng giúp kẻ hữu duyên, nay kính ghi lời tựa nầy.

****

SỐ 1806 - TỨ PHẦN LUẬT TỲ-KHEO HÀM CHÚ GIỚI BẢN

QUYỂN THƯỢNG

Giới bản tứ phần, xuất xứ từ luật của bộ Đàm-Vô-Đức (đời Đường dịch là pháp Hộ)

Cúi đầu lễ Chư Phật
Và Pháp, Tỳ-kheo tăng
Nay giảng pháp Tỳ-ni
Khiến chánh pháp còn lâu.
Giới như biển không bờ
Như báu cầu không chán
Muốn giữ pháp tài Thánh
Chúng nhóm nghe tôi nói
Muốn dứt bốn tội khí
Và diệt pháp Tăng tàng
Chướng ba mươi xả đọa.
Chúng nhóm nghe tôi tụng.
Tỳ-bà-thi, Thức-khí
Tỳ xá, Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm-mâu-ni.
Ca-diếp Thích-ca Văn
Các Đại Đức Thế tôn
Nói việc này cho tôi
Nay tôi muốn khéo nói
Các vị Hiền cùng nghe.
Ví như người què chân
Không thể nào đi được
Người phá giới cũng thế.
Không được sinh trời, người,
Muốn sinh lên cõi trời
Hay sinh vào loài người
Thì phải thường trì giới
Chớ nên làm hủy tổn.
Như xe vào đường hiểm
Lo mất chốt gãy trục
Pháp giới cũng như thế
Khi chết tâm sợ hãi.
Như người tự soi gương
Đẹp xấu sinh vui buồn.
Nói giới cũng như thế
Được mừng, mất thì lo
Như hai binh đánh nhau
Mạnh tiến, nhác thối lui.
Nói giới cũng như thế
Tịnh an, uế sinh sợ.
Thế gian vua trên hết.
Các dòng, biển là lớn.
Các sao, trăng là sáng.
Các Thánh Phật là tột.
Trong tất cả các luật.
Giới kinh là trên hết
Như lai lập giới cấm
Nửa tháng tụng một lần.

Đã nói xong bài kệ do Tôn giả Pháp Hộ soạn. Vì rộng lược bài tựa chung cho cả Nhị giáo. Trước khai lời trì hủy (trì giới và phá giới), để thành ra gốc của việc nói nghe. Sau khi hòa hợp Nhị giáo rồi thì Đại tông chia ra làm ba phần gồm: phần tựa, phần chánh tông và phần lưu thông.

Hòa hợp: lúc này bậc đồng sư tri thức, nói giới pháp của bộ khác, phải nên tôn trọng thừa sự cung kính. Cùng hòa hợp một chỗ nói giới, nếu trái thì phạm tội.

Phật bảo: "Có ba thứ hòa hợp.

- Một là người nên đến thì đến.

- Hai là người gởi dục thì cho gởi dục.

- Ba là hiện tiền đáng quở trách thì quở trách, nếu trái thì thành biệt chúng."

Tăng nhóm hội: Bấy giờ, có Tỳ-kheo, vào ngày nói giới, ở trong giới nội có giới tràng mà không đến chỗ nói giới. Phật bảo: "nên cầu nên gọi, đó là giáo pháp của ta. Nếu ra ngoài giới, hoặc đến mà không ngồi, thì đúng như pháp mà trị tội. Từ nay trở đi, tùy theo trụ xứ có một Tỳ-kheo, đến ngày nói giới, trước phải đến nhà Bồ-tát quét dọn sạch sẽ, trải đồ ngồi, thay nước đốt nhang v.v... Nếu có khách đến, bốn người hoặc hơn nữa thì cũng một người tụng giới. Cho đến dù một người tâm niệm cũng thanh tịnh. Nếu có người biệt chúng mà tụng giới phi pháp, thì đúng như pháp trị tội.

Người chưa thọ đại giới đi ra: Bấy giờ, có Tỳ-kheo, khiến người khác ngăn việc thuyết giới. Phật cũng bảo người chưa thọ giới đi đến chỗ không thấy không nghe. Chẳng có người đến nghe, lại không nên tụng giới ở trước ni chúng.

Không đến chỗ các Tỳ-kheo thuyết dục và thanh tịnh. Bấy giờ, ngày tụng giới có Tỳ-kheo bịnh. Nếu người khám bịnh và người bận việc Tam Bảo không đến nghe giới, Phật bảo: Nên gởi dục và thanh tịnh, tùy theo đó mà rộng lược. Nếu thân tướng không hiện, không dùng miệng nói thì không thành. Nếu người bịnh nặng đến trong tăng, sợ bịnh càng nặng thêm thì ra khỏi giới mà tụng, không dùng phương tiện để được biệt chúng tụng giới Yết-ma. Chúng Tỳ-kheo ni có sai người đến không?

Phật bảo: Nếu có thì nên đứng dậy bạch rằng: Tỳ-kheo ni tăng hòa hợp nên lễ dưới chân Tỳ-kheo Tăng. Rộng như trong San Bổ Yết-ma. Nếu người có ai đến, thì đáp là: Không có ni đến thỉnh giáo giới.

Nay tăng hòa hợp ở chỗ nào? Kia nên đáp rằng:

Tụng giới Yết-ma. Phật bảo: nếu ngày tụng giới không được ở trong phòng, cùng nhau kiểm xem ai đến ai không. Trước nên tác bạch rồi mới tụng giới. Nếu Tỳ-kheo si mê thì nói trước không tụng, hoặc có ai quên thì không thành. Tụng giới nên nướng vào người có khả năng tụng giới. Các Tỳ-kheo năm hạ phải tụng cho thông thuộc. Nếu ở chỗ gần thì tụng lời tựa giới cho đến các pháp khác, rồi trở về bản xứ lần lượt tụng giới mà không nên trùng tụng. Nếu không được thì chỉ nói pháp tụng kinh, đứng dậy khỏi chỗ ngồi, nếu không thì đúng như pháp mà trị.

Đại Đức tăng xin lắng nghe: Nay là ngày mười lăm chúng tăng Bồ-tát tụng giới. Nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến tăng bằng lòng cho phép. Bồ-tát tụng giới, xin tức bạch như vậy.

Phật bảo: Nên tùy theo vua thì hoặc ngày mười bốn, hay ngày mười lăm thì nên thực hành số pháp, như ngày có trăng, không trăng đều là ngày mười lăm, tùy theo trăng mà gọi. Nếu được bốn người thì nên thực hành như thế! Ba người trở xuống thì ba lần nói tụng giới.

Thưa Chư Đại đức! Ta tôi sắp tụng Ba-la-đề-mộcxoa.

Phật bảo: Người mới thọ giới, chưa nghe giới không biết học pháp gì. Nghe có chỗ nhóm họp hòa hợp tụng giới. Ba-là-đề-mộc-xoa là giới. Đến trụ xứ tự nhiếp giữ oai nghi, trụ xứ hành căn đầu mặt, nhóm các pháp lành thành tựu tam-muội. Nên kiết giới, nên giảng nói, nên phát khởi, giảng nói khai hiện và phận biệt trở lại.

Các Tỳ-kheo cùng nhóm họp ở một chỗ. Phật bảo: Đồng Yết-ma nhóm họp một chỗ. Cho đến người đáng quở trách mà không quở trách, đó gọi là như pháp. Nếu chúng nhiều mà tiếng nhỏ, thì trải tòa ở chỗ cao để nói. Tám nạn và các duyên khác đều tùy thời mà nói lược. Nếu khách cực trụ mà số nhóm họp có nhiều ít, thì nói qua bài tựa này, nói thanh tịnh thì liền nghe, các pháp khác như trong luật có nói rộng.

Các ông nên nên lắng nghe và khéo suy nghĩ. Phật bảo:-Chuyên tâm nhất ý mà lắng nghe pháp.

Nếu tự biết mình có phạm tội thì phải sám hối.

Phật bảo: Nghĩa là có phạm tội mà chưa sám hối. Có hai hạng người có trí mình phạm tội thì thấy được, thấy tội thì đúng như pháp mà sám hối. Nếu muốn sám hối, nên đến vị Tỳ-kheo thanh tịnh trình bày việc mình phạm, đúng như pháp mà dứt tội rồi, sau đó mới nghe tụng giới. Cho đến nghi có tội cũng nói như thế. Nếu vị tăng kia cùng phạm không có người để sám hối. Không hỏi mà biết nghi, thì bạch sám hối rồi mới nói.

Người không phạm thì im lặng, vì im lặng nên biết các Đại đức thanh tịnh.

Phật bảo: Người không phạm có hai loại. Đó là người vốn không phạm, và người phạm mà đã sám hối.

Nếu có người khác hỏi, cũng đáp như thế. Phật bảo:

Như hai Tỳ-kheo hỏi đáp nhau.

Tỳ-kheo như thế, ở trong chúng cho đến ba lần hỏi, nghĩ nhớ có tội mà không sám hối thì phạm tội nói dối, người nói dối Phật cho là pháp chướng đạo.

Phật bảo: Lúc Tăng tụng giới mà nói dối bằng cách im lặng thì phạm Đột-Cát-la.

Nói chướng đạo là chướng ngại Tứ thiền, Ba không, bốn quả.

Phật bảo các Tỳ-kheo: Như biển lớn không dung nạp thây chết. Giáo pháp ta cũng như vây, không chấp nhận xác chết. Vì thây chết chẳng phải sa-môn phạm hạnh, mà nói là sa-môn phạm hạnh. Người phạm giới ác pháp thì uế trược không thanh tịnh, bị tà kiến che lấp. Bên trong thì mục nát, bên ngoài ra vẻ thanh tịnh, như thân cây bộng. Tuy ngồi trong chúng mà thường xa lìa chúng, chúng cũng xa cách họ. Cho nên biết sám hối tội thì mới thành việc nghe giới.

Nếu Tỳ-kheo kia nhớ việc có tội, muốn đến vị thanh tịnh để cầu xin Sám hối. Sám hối xong thì được an vui.

Phật bảo: Vì giới học thanh tịnh, cho nên được định tuệ thanh tịnh.

Đạt được thiền quả thì an vui.

Thưa các Đại đức! Tôi đã tụng bài tựa giới kinh xong rồi, các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (ba lần) Các đại đức trong đây thanh tịnh vì im lặng, việc nầy hành trì đúng như thế. Từ đây về trước, là nói rộng về bài tựa riêng. Văn nói sau đó tức là phần chánh Tông của quảng giáo.

Thưa các Đại đức! Bốn pháp Ba-la-di này nửa tháng tụng một lần như trong giới kinh.

- Một là giới đại dâm: Bấy giờ, Phật ngự tại Nước Tỳ-xá-ly. Lúc ấy, có Tu-Đề-Na sau khi xuất gia, khi trở về nhà cũ đã làm việc bất tịnh với vợ. Chúng Tỳ-kheo biết được bạch lên Đức Như lai. Sống trong pháp thanh tịnh, đối với dục hay vô dục, mà dứt được sự khát ái, phá trừ hết hang ổ, diệt hết kiết phược, ái tận đến Niết Nàn. Vì sao lại làm việc xấu xa như thế! Người ấy trình bày tội của mình với Phật, Phật nhóm họp chúng tăng, quở trách rằng:

- Việc của ông làm là sai trái, là phi oai nghi, phi Samôn, phi tịnh hạnh, chẳng hạnh tùy thuận, là việc không nên làm.

Phật lại bảo các Tỳ-kheo: Ta dùng vô số phương tiện nói phải dứt dục, dứt hết sự ái kiết.

Lại nói: Dục này như lửa như đuốc, cho đến như đao, như kiếm. Phật quở trách đây là kẻ si mê, gây ra nhiều hữu lậu. Đây là người phạm giới đầu tiên. Nay nên kiết giới, nhóm họp mười cú nghĩa là:

1-Nhiếp thủ chúng tăng. 2-Khiến tăng vui mừng.

3- Khiến cho tăng an vui.

4- Người chưa tin khiến cho tin.

5- Người đã tin làm cho đức tin thêm sâu.

6- Khó điều thuận làm cho điều thuận.

7- Người biết hổ thẹn được an vui. 8-Dứt hết hữu lậu hiện tại 9-Dứt hữu lậu vị lai.

10-Giúp cho chánh pháp tồn tại lâu dài.

Các giới trình bày như thế. Phần sau đều có nói lược. Người muốn tụng giới nên tụng như thế.

Nếu Tỳ-kheo: Phật bảo: Tỳ-kheo gồm có Tỳ-kheo danh tự, Tỳ-kheo tương tự, Tỳ-kheo tự xưng, Tỳ-kheo khất câu, Tỳ-kheo y cắt tiệt, Tỳ-kheo phá kiết Sử, Tỳ-kheo Thiện lai. Tỳ-kheo thọ đại giới bạch tứ yết-ma thành tựu đắc được xứ sở.

Trong đó Tỳ-kheo, nếu Tỳ-kheo thọ đại giới bạch tứ yết-ma như pháp thành tựu đắc xứ sở, đó là nghĩa Tỳ-kheo.

Cộng Tỳ-kheo:

Phật bảo: Nếu cùng Tỳ-kheo khác thọ Đại giới bạch tứ Yết-ma cho đến trụ trong pháp Tỳ-kheo, đó là nghĩa cộng Tỳ-kheo.

Đồng giới:

Phật bảo: Phật vì hàng đệ tử kiết giới này rồi. Thà chết không phạm giới. Đây là giới cùng Tỳ-kheo khác đồng cùng một giới. Đó là nghĩa Đồng giới.

Nếu không hoàn giới:

Phật bảo: Nếu có Tỳ-kheo không thích sống đời phạm hạnh, muốn xả giới hoàn tục. Sau đó lại muốn xuất gia trong pháp Phật tu phạm hạnh, thì nên độ cho họ được xuất gia và thọ đại giới.

Vì sao không gọi là xả giới? Nếu tự tâm điên cuồng, não loạn, các bịnh câm điếc. Nếu hướng về người đó hoặc người ở bên cạnh mà xả giới lẫn nhau thì không thành. Nếu nói chơi, hoặc lúc ngủ, nếu người không biết gì, hoặc không tự nói, nếu trước người mà không hiểu. Đều không thành xả. Nếu nói ta bỏ Phật, bỏ pháp, bỏ Tăng, Hòa-thượng giới luật, ta thọ gia pháp v.v... Đó gọi là xả giới.

-Giới ốm bất tự hối: (Giới thiếu sót mà không hối lỗi)

Phật bảo: Vì sao phạm giới mà không xả giới? Nếu có Tỳ-kheo thường có tâm sầu não, không thích tu phạm hạnh, nhàm chán đời sống Tỳ-kheo, ý muốn hoàn tục nên nói rằng: Tôi nhớ đến cha mẹ vợ con, làng xóm vườn rộng, và thân bằng quyến thuộc. Tôi muốn bỏ Phật và các pháp học v.v... Vì vậy, nên tôi muốn xả giới. Đó là do giới ốm mà xả bỏ.

Phạm bất tịnh hạnh: Phật nói: đó là pháp dâm dục. Nam thì hai đường, nữ thì ba đường. Nếu từ đạo nhập vào đạo, từ đạo nhập vào phi đạo, từ phi đạo nhập vào đạo. Nếu vào có giới hạn, hoặc nhập vào hết: cho đến nhập vào như đầu sợi lông đều phạm Ba-la-di.

Nhẫn đến cùng với loài súc sinh: Phật bảo: là nơi có thể hành dâm. Có ba thứ hành dâm. Đó là nhân, phi nhân và súc sinh.

Lại có năm loại: Phụ nữ, đồng nữ, người có hai hình, huỳnh môn và người nam. Tỳ-kheo tâm dâm, hướng về tiền cảnh, nơi ba chỗ, hai chỗ vừa nhập liền phạm, có cách cũng phạm. Nếu hướng về người ngủ, người chết chưa hoại hay chưa hoại nhiều, hành dâm ở ba chỗ, hai chỗ, mới nhập vào liền phạm. Nói rộng như thế. Nếu Tỳ-kheo-ni bị kẻ thù đem đến chỗ đó rồi ép buộc bắt nhập vào ba chỗ hai chỗ. Khi mới làm có cảm giác vui thì phạm, không vui thì không phạm. Hoặc ngăn che hay không ngăn nghe cũng như trên. Nếu kẻ thù bắt buộc Tỳ-kheo làm việc bất tịnh, cảm giác vui hay không vui, có cách không cách cũng giống như trên.

Tỳ-kheo nầy phạm tội Ba-la-di: Phật nói: Cũng như người bị chặt đầu không thể sống được. Tỳ-kheo cũng giống như thế. Người phạm pháp này không thành Tỳ-kheo, cho nên nói như thế. Nếu phương tiện muốn làm việc bất tịnh, thành thì phạm Ba-la-di, không thành thì phạm Thâu-lan-già. Nếu xúi giục Tỳ-kheo thực hành, nếu người xúi giục phạm Thâu-lan-già, không thực hành thì phạm đột-cát-la. Trừ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, các chúng khác xúi giục nhau làm hay không làm đều phạm Độtcát-la. Nếu xác chết hoại phân nửa hay hoại tất cả, hoặc trong xương, hoặc bùn đất, làm bất tịnh với người thì đều phạm thâu-lan-gia. Như đường tưởng là đường, hoặc nghi hoặc tưởng chẳng phải đường, đều phạm Ba-la-di. Nếu chẳng phải đường tưởng là đường, nghi là đường thì cùng phạm thâu-lan-gia. Tỳ-kheo-ni phạm Ba-la-di. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni thì phạm Đột-cát-la diệt tẩn, đó gọi là phạm. Về không phạm, nếu lúc ngủ không hay biết gì, không thọ vui, tất cả không có ý dâm. Vì không phạm, là lúc chưa chế giới, tâm si loạn điên cuồng, bị bịnh khổ ràng buộc.

Bất cộng trụ: Phật bảo: Có hai pháp cộng trụ:

- Là đồng một Yết-ma, đồng một thuyết giới, không được trụ trong hai việc này, nên gọi là bất cộng trụ.

- Hai là giới trộm cắp. Phật khi ở thành La-duyệt, có Đàn-ni-ca, vào một ngôi nhà tranh vắng vẻ ngồi thiền. Rồi bị người cho đến làm lại nhà ngôi bằng ngói. Phật bảo phá bỏ. Người này dối nói là lệnh vua bảo giữ đó làm thôn. Bị vua quan, người dân quở trách không cho vào xóm, không được an ổn. Tỳ-kheo đem việc đó bạch lên Đức Phật. Do đây mà Phật chế giới.

Nếu Tỳ-kheo: Ý nghĩa ở trên.

Tại thôn xóm: Thôn xóm có bốn loại:

- Một là có bốn phía có tường bao bọc.

- Hai là có hàng rào.

- Ba là không có vách tường bao quanh.

- Bốn là nhà cửa bao bọc bốn bên.

Như ở chỗ nhàn tịnh: tức là vùng đất thanh tịnh ở ngoài thôn.

Xứ là ở trong đất hay chỗ trên đất. Hoặc cỡi, hoặc gánh vác, như ở trên không, trên giá, ở thôn, ở A-lan-nhã, chỗ ruộng đồng, ở trên thuyền, hoặc trên nước. Như vượt qua trạm, không đóng thuế. Nếu lấy tín vật của người gởi. Hoặc lấy nước, tăm xỉa răng, hoặc cây cỏ hoa trái. Nếu các chúng sinh hai chân, bốn chân hoặc nhiều chân. Nếu là tài sản chung, hoặc cùng yêu cầu, hoặc dò xét, hoặc giữ gìn hoặc ngăn che. Đó gọi là.

Không cho: Là người không bỏ. Như vật của người tưởng người giữ hộ, tưởng có chủ. Chẳng phải vật của mình chẳng tưởng tạm dùng, chẳng đồng ý.

Tâm trộm cắp: có tâm trộm cướp mà lấy. Gồm có năm loại: Tâm tối tăm, tâm tà, tâm tà vạy, tâm sợ hãi, tâm thường trộm của người.

Lại có năm thứ lấy: Quyết định lấy, sợ hãi lấy, gởi vật mà lấy, thấy liền lấy, dựa thế mà lấy, hoặc dựa vào bạn thân, hoặc dùng lời nói biện thuyết cuồng hoại để lấy.

Tùy theo pháp mà không cho lấy: Theo pháp vua lập ra: Nếu lấy năm tiền, nếu vật trị giá năm tiền, tội đáng chết. Phật tùy theo pháp vua, trộm đủ thì phạm tội trọng. Nếu là Vua: Được tự tại không lệ thuộc người. Đại thần của vua: Các bậc đại thần phò tá vua.

Hoặc bắt, hoặc giết, hoặc trói hoặc, đuổi ra khỏi nước và bảo: Ông là giặc là kẻ ngu si không hiểu biết, Tỳ-kheo nầy phạm tội Ba-la-di.

Tỳ-kheo như trên đã giải thích. Các vật lấy được, nếu trộm vật trị giá năm tiền hay hơn năm tiền thì phạm tội Ba-la-di, phương tiện thì phạm Thâu-lan-già. Lấy vật dưới năm tiền thì phạm Thâu-lan-già, không được thì phạm đột-cát-la. Dạy người lấy trộm, nếu lấy được vật, cả hai đều phạm Ba-la-di. Người nghe lời xúi giục trộm mà tự lấy các vật khác, hoặc đến chỗ khác lấy vật, người lấy thì phạm tội trọng.

Người xúi lấy thì phạm Thâu-lan-già. Nếu bị bắt buộc lấy mà không có tâm trộm, người dạy phạm Ba-ladi, người lấy không phạm. Nếu xúi giục người lấy vật, nghĩa là lấy trộm vật, thì người lấy phạm tội trọng, người dạy không phạm. Nghĩ có chủ thì phạm tội trọng, nếu nghi phạm Thâu-lan-già. Vật vô chủ mà nghi tưởng có chủ thì phạm Thâu-lan-già. Tỳ-kheo-ni và bốn chúng đều đồng như giới trên.

Không phạm là tưởng cho mình, tưởng mình có, tưởng đồ phấn tảo, tưởng lấy tạm, tưởng chỗ thân tình sâu dày.

Bất cộng trụ: Nghĩa như trên đã giải thích.

-Ba là giới đại sát: Phật ngự tại nước Tỳ-xá-ly, vì chúng Tỳ-kheo nói pháp quán Bất tịnh. Có vị Tỳ-kheo tu tập thiền định nhàm chán thân mạng, khen ngợi và khuyến khích việc chết. Tỳ-kheo Nan-đề nghe lời bèn cố giết người. Các cự sĩ kinh hãi. Phật biết việc này liền giảng nói về pháp Thiền. Chúng Tỳ-kheo tụ tập đều chứng được thượng quả.

Phật do đó quở trách lỗi trên mà chế ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo cố tự tay mình cắt dứt mạng sống. Đó gọi là hành sát. Nếu tự giết hoặc xúi giục người giết, hoặc sai bảo giết, hoặc qua lại khiến người giết, hoặc lần lượt bảo giết, hoặc cầu người Nam giết, hoặc xúi giục người cầu nam tử giết. Hoặc cầm dao đưa cho người giết. Hoặc xúi giục người cầm dao đưa cho người giết, hoặc hiện ra thân tướng, hoặc miệng nói giết. Hoặc hiện ra tướng thân miệng. Hoặc dạy người khen ngợi giết. Hoặc gởi thư, hoặc xúi giục người gởi thư. Hoặc rơi xuống hầm hố, hoặc cậy bới. Hoặc cho thuốc, hoặc đặt dụng cụ giết và dùng các phương tiện khác để giết.

Mạng người: Từ sơ thức đến hậu thức mà cắt dứt mạng sống của mình.

Cầm dao đưa cho người, khen ngợi chết, khuyên người chết. Dùng lời ác khuyên chết rằng: Nầy người nam! Sống như thế thì sống làm gì? Thà chết chứ không nên sống. Suy nghĩ tìm các phương tiện, khen ngợi chết, khuyên nhủ chết, Tỳ-kheo này phạm tội Ba-la-di.

Nếu dùng các phương tiện giết người như trên mà không chết thì phạm Thâu-lan-già.

Nếu giết loài phi nhân, hoặc loài súc sinh có trí, hiểu được tiếng người. Hoặc loài có khả năng biến hình.

Dùng phương tiện giết thì phạm Thâu-lan-già. Không chết thì phạm Đột-cát-la. Loài súc sinh không thể biến hình, nếu giết thì phạm Ba-dật-đề. Thật là người mà tưởng là người phạm Ba-la-di. Phi nhân, mà tưởng là người, nghi là người phạm Thâu-lan-già. Bốn chúng phạm thì cũng như trên.

Không phạm là làm rớt dao gạch, cây đá lỡ làm chết người. Hoặc khi xây sửa phòng ốc nhà cửa lở làm rớt cây đá mà chết. Như dìu người bịnh vào phòng, qua lại tất cả không có tâm hại mà chết đều không phạm.

-Bốn là giới Đại vọng ngữ: Phật ngự tại nước Tỳxá-ly. Bây giờ, gặp năm mất mùa, lúa gạo kém. Việc đi khất thực rất khó khăn. Bên sông Bà-Cầu có người an cư, cùng nhau khen ngợi là được pháp của bậc thượng nhân. Có vị cư sĩ tín tâm giảm phần ăn đem cúng dường. Sau đến chỗ Phật, Phật hỏi biết nhân đó quở trách mà đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo-ni thật không hiểu biết gì, nghĩa là thật không có pháp tri kiến. Mà tự xưng ta đã được pháp của bậc Thượng nhân.

+ Tự xưng nói: Có người nghe tín giới thí, trí tuệ biện tài hơn người.

+ Nhân pháp: là nhân ấm, nhân giới, nhân nhập. Pháp của bậc Thượng nhân: Các pháp có công năng thành tựu xuất yếu.

+ Ta đã nhập vào pháp Thánh trí thù thắng, tự nói.

Có niệm ở thân. Hoặc là chánh nhớ niệm, hoặc kiên trì giới, hoặc có dục, hoặc không buông lung, hoặc tinh tấn, hoặc đắc tịnh. Hoặc chánh thọ. Hoặc có đạo. Hoặc có tu, hoặc có tuệ, hoặc có kiến, hoặc có đắc, hoặc có quả.

Ta biết như thế, ta thấy như thế!

Hoặc nói: Hàng trời, rồng, quỉ thần đến cúng dường ta, hoặc nói được pháp quán bất tịnh, bốn thiền, bốn không định, v.v...

Người kia vào lúc khác, hoặc có người hỏi, hoặc không ai hỏi, muốn tự thanh tịnh nên nói ta thật không biết không thấy mà nói thấy, ý muốn dùng sau hối trước thật là chuyển hư. Do miệng tạo nghiệp, nói rồi thì kết trọng.

Trừ người Tăng thượng mạn: Tỳ-kheo có tâm kiêu mạn tự nói mình đắc đạo. Sau đó tinh tấn tu chứng quả tăng thượng, sinh nghi đến bạch lên Đức Phật. Phật dạy: Người Tăng thượng mạn thì không pha-m.

Tỳ-kheo nầy phạm Ba-la-di: Nếu sự thực hành là hư giả mà nói với người, người hiểu thì phạm tội Ba-la-di, người không hiểu thì phạm tội Thâu-lan-già. Hoặc dùng ấn tay, hoặc sai người, hoặc viết thư, hoặc ra dấu, người biết thì phạm cũng giống như vậy. Hoặc nói với Súc Sinh không thể biến hình thì phạm Đột-cát-la. Bốn chúng sinh ở dưới cũng như trước đã nói, không phạm là những người tăng thượng mạn, hoặc do nghiệp báo, hoặc không nói ta được, hoặc vui cười mà nói, nói lúc bịnh, muốn nói lời đối gạt với người kia.

Bất cộng trụ: Các Đại Đức! Tôi đã nói bốn pháp Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo phạm một pháp Ba-la-di nào thì không được ở chung với các Tỳ-kheo. Trước sau cũng như vậy. Tỳ-kheo phạm Ba-la-di không được ở chung. Nay xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không (ba lần)? Các Đại đức trong đây thanh tịnh vì im lặng, việc này đúng như thế mà hành trì.

Thưa các Đại đức, mười ba pháp Tăng-già-Bà-thi-sa nầy, nửa tháng tụng một lần.

*1/ Giới cố ý làm xuất chất bất tịnh.

Phật đến đến thành Xá-vệ. Bấy giờ, Ca-lưu-Đà-di vì dục ý phát lên mạnh mẽ làm cho thân sắc tiều tụy. Một mình ở căn phòng đẹp, giường tốt đầy đủ, chăn mền ấm áp, ăn uống thì đầy đủ vị ngon, tùy theo ý niệm buông lung, các căn vui vẻ, nhan sắc rực rỡ. Các Tỳ-kheo cử người đến bạch lên Đức Phật, Phật dùng vô số phương tiện quở trách xong, bèn đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo cố ý lộng âm làm cho ra chất bất tịnh, vì thật tâm làm mà ra chất bất tịnh. Tiền Cảnh có sáu, hoặc đối với nội sắc ngoại sắc, nội ngoại sắc, hoặc nước hoặc gió, hoặc hư không. Tùy theo các phương tiện, nếu xuất ra liền phạm.

Trừ trong mộng:

Phật bảo: Khi ngủ nghỉ có năm lỗi:

1/ Gặp mộng xấu.

2/ Các vị trời không hộ niệm.

3/ Tâm không nhập vào pháp.

4/ Không suy nghĩ rõ ràng.

5/ Ở trong mộng bị xuất tinh.

Ngủ nghỉ với thiện ý có năm công đức, trái với năm câu trên.

Tăng-già Bà-thi-sa: các tỳ kheo tự xúi giục nhau, nếu xuất thì phạm Thâu-lan-già, nếu không xuất thì phạm Đột-cát-la. Tỳ-kheo-ni thì phạm Ba-dật-đề. Ba chúng dưới phạm Đột-cát-la. Không phạm là khi tất cả đều không cố ý xuất tinh.

*2 Giới xúc chạm người nữ:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Khi Phật chưa đặt ra giới này thì Tỳ-kheo Ca lưu lúc ấy ở bên ngoài cửa, rình bắt phụ nữ đem vào phòng sờ mó cười vui rất thích chí. Có người không chịu nổi sân lên mắng chửi. Các Tỳ-kheo đến bạch lên Đức Phật, Phật nhóm chúng đặt ra giới này. Nếu Tỳ-kheo có ý dâm dục: Tâm ô nhiễm ái dục.

Cùng người nữ: Nghĩa là cảnh có bốn. Là lúc thức, lúc ngủ, lúc mới chết và thân bị hoại ít, Thân là từ tóc đến chân.

Tương xúc (xúc chạm nhau). Hoặc cùng xúc chạm nhau. Hoặc lôi kéo, hoặc đẩy tới, xúc chạm nghịch thuận. Hoặc đưa lên, hoặc để xuống, hoặc vuốt ve, hoặc mơn trớn, hoặc dùng các phương tiện khác xúc chạm.

Hoặc nắm tay nắm tóc, hoặc các phần trên thân thì phạm tăng-già-Bà-thi-sa. Nếu đụng vào áo người nữ thì phạm Tăng-tàng, người nữ đụng thân Tỳ-kheo thì cũng đồng phạm. Nếu không đụng vào thân thì phạm Đột-cátla. Trước có tâm nhiễm thì phạm Thâu-lan-già. Cùng xúc chạm mà có y phục thì phạm Thâu-lan-già. Đều có y phục thì phạm Đột-cát-la. Nếu xúc chạm với người hai hình thì phạm Thâu-lan-già. Nếu vì tâm dục mà xúc thân người nam hoặc y áo đồ nằm, cho đến tự mình xúc chạm hay với loài súc sinh thì phạm Đột-cát-la. Tỳ-kheo-ni phạm Ba-la-di. Ba chúng dưới phạm Đột-cát-la.

Không phạm là lúc vui đùa đụng chạm.

*3/ giới nói lời thô tục với người nữ.

Phật ngự tại nước Xá-vệ, Ca-lưu-đà-di nghe Phật chế ra hai giới trước, liền dùng lời thô tục với người nữ mà mình có tâm dục trước kia. Các Tỳ-kheo bạch lên Đức Phật, Phật liền đặt ra giới này.

Tỳ-kheo có ý dâm dục với người nữ. Nữ nhân có trí hoặc mạng sống chưa dứt.

Dùng lời thô ác dâm dục. Dùng lời thô ác thì chẳng phải phạm hạnh. Lời dâm dục gọi là hai đường tốt xấu. Hoặc tự cầu, hoặc dạy người cầu. Hoặc hỏi hoặc đáp, hoặc giải hoặc nói, hoặc dạy hoặc mắng. Nói cầu, cùng hai đường của ta làm việc như thế. Hoặc nói lời khác, cứ giải thích như thế.

Tùy theo lới nói thô ác dâm dục mà phạm Tăng-già-bà-thi-sa.

Nếu một lần dùng lời thô ác tăng tàn thì phạm tội

Tăng tàng. Tùy theo lời nói ít nhiều, rõ ràng thì phạm Tăng tàng, không rõ ràng thì phạm Thâu-lan-già. Nếu dùng thư từ qua lại khiến cho người nữ kia, biết thì phạm Tăng tàng, không biết thì phạm Thâu-lan-già. Trừ đường lớn nhỏ, nói các đường khác phạm Thâu-lan-già. Cùng nói lời thô với loài hai hình, huỳnh môn, phi nữ nhân, biết thì phạm Thâu-lan-già. Với loài súc sinh không thể biến hình, hoặc dùng lời thô với người Nam thì phạm Đột-cát-la. Tỳ-kheo-ni thì phạm Thâu-lan-già. Ba chúng dưới thì phạm Đột-cát-la. Cho đến các giới sau cũng vậy. Không phạm là nói pháp quán Bất tịnh, hoặc nói Tỳ-ni, thọ kinh hỏi đáp không có ý dục.

*4 Giới tự khen mình với người nữ để mong cầu sự cúng dường:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Lúc này, Ca-lưu-đà-di nghe Phật đã đặt ra ba giới trước rồi, ông bèn dắt người nữ vào phòng rồi, nói lời khen ngợi thân mình và bảo: Cô tùy ý nên cúng dường cho ta. Các phụ nữ lấy lấy làm lạ quở trách. Tỳ-kheo bạch lên Đức Phật, nhân đó mà Phật chế giới.

Nếu Tỳ-kheo có ý dâm ở trước người nữ: Nữ nhân như trên đã giải thích.

Tự khen thân: Khen thân mình khôi ngô, nhan sắc tốt đẹp, ta thuộc dòng sát-đế-lợi, là Trưởng giả, Cư sĩ, Bà-la-môn thuộc dòng họ lớn.

Nói: Em gái ơi! Ta đây tu phạm hạnh, siêng năng tu tập, xa lìa uế trược.

Tinh tấn giữ giới, không có thiếu sót, không hữu lậu, không nhiễm ô.

Tu pháp lành, ưa thích chỗ thanh tịnh, tới giờ đi khất thực, mặc y phấn tảo, không ăn phi thời, giữa ngày ăn một bữa, ngồi thiền dưới gốc cây trong gò mả. Thường ngồi thì tùy ngồi, trì giữ ba y. Lễ bái học rộng, có thể nói pháp, trì Tỳ-ni, ngồi thiền.

Khởi ý dâm dục nói cúng dường ta là cúng dường tối thượng bậc nhất, phạm tăng-già-Bà-thi-Sa.

Nếu tự khen ngợi cúng dường mình, không nói dâm dục thì phạm Thâu-lan-già. Trừ các cảnh tạp khác thì như trước đã nói.

Không phạm là nếu Tỳ-kheo nói với người nữ rằng:-Đây là chỗ diệu tôn tối thượng. Tỳ-kheo này tinh tấn giữ giới tu pháp lành. Các thầy nên dùng thân miệng ý nghiệp cúng dường Tỳ-kheo ấy.

Nếu ý của người nữ nói rằng: Vì tôi mà khen ngợi thân mình, hoặc nói Tỳ-ni. Nói đây kia để khen ngợi thân, hoặc nói lầm thì không phạm.

* 5/ Giới làm môi giới cho người:

Phật ngự tại thành La-duyệt-kỳ. Có Tỳ-kheo Ca-la vốn là một vị Đại thần, kheo biết các pháp thế tục, các việc mối mai ở trong thành đều đến hỏi ông. Lúc ấy, có vợ chồng gặp điều tốt xấu gì cũng đến ông để nói sự khổ vui. Các cư sĩ chê trách, Tỳ-kheo đến thưa với Phật. Phật do đây mà đặt ra giới.

Nếu Tỳ-kheo qua lại làm môi giới cho người là làm cho người hòa hợp.

Đem lời người nam nói với người nữ, đem lời người nữ nói với người nam: Người nữ có hai mươi loại: Được cha hộ, mẹ hộ, hoặc anh em hộ, Anh hộ, em hộ hoặc anh em hộ, Tự hộ, pháp hộ, dòng họ hộ, Tôn thân hộ. Tự thích làm thị nữ hay y theo thị nữ. Cùng tài của với tôi tớ, đồng nghiệp với tôi tớ, qua sông không đóng thuế. Phóng thích, dung tác tôi tớ. Có người hộ một bên mới được.

Người nam cũng có hai mươi loại như thế, hoặc làm thành vợ chồng, cho đến trong khoảnh khắc thì phạm Tăng-già-Bà-thi-sa.

Nếu mới nói lần đầu thì phạm Đột-cát-la. Nói qua rồi mà không báo thì phạm Thâu-lan-già. Nếu báo ân lại thì phạm tăng tàng. Hoặc sai người, hoặc viết thư hiện tướng chỉ ra. Tùy làm mai mối nhiều ít mà nói ra rõ ràng. Tùy theo qua lại mỗi việc đều phạm tội Tăng tàn. Nếu không rõ thì phạm Thâu-lan-già. Trừ hai đường mà nói các chi tiết khác trên thân để làm mai mối thì phạm Thâu-lan-già. Nếu mai mối cho loài phi nhân, Huỳnh môn, hai căn đều phạm Thâu-lan-già. Nếu môi giới súc sinh và người nam thì phạm Đột-cát-la. Nếu nhận thư người gởi đến mà không xem, nếu làm tay sai cho người tại thì phạm Đột-cát-la. Tỳ-kheo-ni cũng đồng phạm như vậy.

Không phạm: Như nam, nữ trước tư thông, sau ly cách rồi hợp lại. Nếu vì cha mẹ bịnh hoạn buộc ràng xem thư rồi gởi lại. Người thế tục do tín tâm tinh tấn cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo vì Phật pháp làm sứ giả cũng như vậy.

*6/ Giới không làm phòng thất quá lượng ở chỗ không có chủ:

Phật tại thành La-duyệt, nghe nói chúng Tỳ-kheo làm phòng thất riêng. Tỳ-kheo ở nơi đồng vắng trống trải cũng làm phòng nhà lớn đi khất cầu vật dụng rất nhiều, làm não loạn khó khăn cho cư sĩ nên xin khó được. Do đó mà họ tìm chặt các cây thần. Thần và Tỳ-kheo đem việc này bạch lên Đức Phật. Phật do đó quở trách, dẫn dụ và đặt ra giới này, hoặc Tỳ-kheo tự cầu: là đi đến các nơi để cầu xin.

Tác ốc là làm nhà, nhà là phòng.

Vô chủ: là chỗ ở không có chủ, hoặc một hoặc hai, hoặc vô số. Tự vì mình: Không vì người khác mà làm.

Thường ứng lượng làm là dài khoảng mười hai khuỷu tay Phật, bên trong rộng bảy khuỷu tay, nên bạch với chúng Tỳ-kheo chỉ chỗ cho làm. Vị Tỳ-kheo kia tìm được chỗ không bị ngăn ngại khó khăn rồi đến chư tăng cởi bỏ giày dép đi chân đất, mặc y bày vai phải lễ bái, lạy vị Thượng tọa. Gối phải sát đất chắp tay bạch rằng:-Đại đức tăng nghe... tôi là Tỳ-kheo... xin được cất phòng thất, ở chỗ vô chủ đã làm xong. Nay con từ nơi chúng tăng mà cầu xin làm ở chỗ không khó khăn trở ngại gì. (Bạch ba lần).

Tỳ-kheo kia nên chỉ rõ nơi chốn: Bấy giờ, chúng tăng quán xét vị Tỳ-kheo này. Nếu tin thì cho làm, không tin thì sai chúng tăng đến xem. Nếu tăng không tin thì nên sai vị tăng đáng tin cậy đi xem. Nếu thấy có chướng nạn thì không cho làm. Trong chúng nên sai vị có khả năng làm pháp Yết-ma. Hoặc vị Thượng tọa hoặc kế Thượng tọa. Hoặc tụng luật hoặc không tụng luật. Nên tác bạch rằng:-Đại đức lắng nghe! Con là Tỳ-kheo... xin làm phòng thất. Ở chỗ không có chủ đã làm rồi, nay xin chúng tăng phân xử xét đây là nơi không chúng nạn không chướng ngại. Nếu tăng đi đến, tăng vẫn nghe, nên cùng Tỳ-kheo xử phân chỗ không nạn không ngại.

Bạch như vầy: Đại Đức tăng lắng nghe: Tỳ-kheo... xin làm phòng thất... nay tăng cho Tỳ-kheo này làm nhà ở chỗ không có chướng ngại gì? Các Trưởng lão bằng lòng vì chúng tăng mà cho thì im lặng, ai không cho thì nói: Tăng đã bằng lòng, việc nầy rõ như vậy. Vì Tỳ-kheo làm phòng nhà trước phải biết tìm chỗ an ổn và hào đất để trộn bùn, cho đến cuối cùng là trét bùn xong.

Chỗ không có nạn: là chỗ không có các loài thú dữ như cọp báo, sư tử cho đến các loài côn trùng. Nếu không có các loài trùng thú này làm hại thì nên san bằng đất đai. Nếu có cây đá, gai gốc thì sai người chặt phá đào bới lên. Nếu có hầm hố, nương rạch, ao vũng thì lấp lại. Nếu sợ nước tràn vào thì nên làm đê điều để ngăn phòng. Đất đó nếu có người đến nhận thì nên bỏ đi, không lời qua tiếng lại. Vì đó là nạn xứ (nơi khó khăn hiểm nạn).

Chỗ không có chướng ngại: là nơi có cỏ lá và xe qua lại.

Nếu Tỳ-kheo ở chỗ hiểm nạn trở ngại không có chủ làm nhà ở, mà không có chúng tăng chỉ bảo và làm quá lượng cho phép thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa.

Nếu Tỳ-kheo làm nhà ở hai chỗ đó thì phạm hai Độtcát-la. Quá lượng mà không xử phân thì phạm hai tăng tàng. Cùng nhau có không, tùy theo chỗ mà phạm. Nếu sai người làm thì phạm cũng giống như vậy. Vì người khác làm thì phạm hai tội Thâu-lan-già và hai cát-la.

Nếu dùng dây đo đất, nghe lời người làm quá lượng thì phạm Tăng tàn. Không trở lại báo, lại không hỏi người kia, đều phạm cát-la. Tỳ-kheo-ni thì phạm Thâu-lan-già. Không phạm là đúng theo lượng mà làm, hay giảm số lượng và nơi tăng phân xử cho làm không có trở ngại, không có hiểm nạn, đúng như pháp mà làm. Nếu vì tăng chúng, vì Phật pháp muốn làm giảng đường. Hoặc làm nhà tranh nhỏ để dung thân, hoặc làm cho nhiều người cùng ở thì làm.

*7/ Giới: Đất có chủ làm rồi, không phân xử mà xây dựng phòng nhà.

Phật ở tại nước Câu-diệm-di. Bấy giờ, vua Ưu-điền xây phòng nhà cho Xiển-đà, cho người chặt phá cây cối của thần, bị người quở trách. Tỳ-kheo nêu lỗi Phật quở trách xong. Nếu phá cây thần thì phạm Đột-cát-la. Phật liền đặt ra giới này.

Hoặc Tỳ-kheo làm phòng nhà lớn, làm phòng lớn thì dùng nhiều vật dụng.

Có chủ: là trái với việc không chủ ở trên. Vì muốn làm cho mình, nên vâng theo lời chỉ dạy của chúng Tỳ-kheo. Tỳ-kheo như trên đã giải thích. Nên ở trước tăng lễ dưới chân vị Thượng tọa, cầu xin ba lần. Văn này cũng đồng như trên, chỉ có chủ là khác.

Vị Tỳ-kheo kia nên chỉ thọ nơi chốn, chỉ ra nơi chốn: tăng nên quán xét, nếu có người trí tuệ tin tưởng, tức là tin người kia mà cho bạch hai lần. Nếu không tin thì bảo dừng lại.

Chỗ không có hiểu nạn: Nghĩa là có các loài thú dữ, nếu không khuấy nhiễu thì làm ở. Cho đến sợ, người biết nhận, cũng bỏ đi như trước.

Chỗ không có chướng ngại: là chỗ chiếc xe xoay đầu được.

Nếu Tỳ-kheo làm phòng nhà cho mình ở chỗ có chủ, có sự trở ngại hiểm nạn mà không có Tỳ-kheo khác đến chỉ bày nơi chốn thì phạm Tăng-già-Bà-thi-sa. Giới này cũng giải thích tướng khai thông như trước, chỉ có việc không quá lượng là khác.

*8/ Giới vô căn cứ hủy báng Ba-la-di:

Phật ngự tại thành La-duyệt-kỳ. Bấy giờ, Tôn giả Đạp-ba đắc quả La-hán rồi, từ các ngón tay phát ra ánh sáng, làm Tri sự trong Tăng, Phật khen ngợi là bậc nhất. Từ Địa ở trong chúng theo thứ lớp gặp căn phòng xấu và thức ăn dở, liền xúi giục em gái là một vị Tỳ-kheo-ni hủy báng chúng Tăng. Chúng Tăng hỏi thì tự nói ra, Tỳ-kheo cử tội, nhân đó mà đặt ra giới này.

Như Tỳ-kheo bị sân giận che lấp: Có mười nhân duyên pháp ác, cho nên tức giận. Tùy theo có hai trong mười việc này mà sinh ra tức giận, đối với Tỳ-kheo chẳng phạm Ba-la-di, mà không căn cứ hủy báng là phạm pháp Ba-la-di.

Căn cứ có ba thứ là thấy nghe nghi. Căn thấy (Kiến) là thấy phạm phạm hạnh, thấy trộm năm tiền, thấy cắt đứt mạng sống người. Nếu nghe người khác mà thấy nghe thì gọi là nghi căn. Nghe phạm phạm hạnh, nghe trộm năm tiền, nghe cắt đứt mạng sống người. Nghe người tự nói là được pháp hơn người.

Như người kia nói nghe từ người khác, đó gọi là Văn Căn (Căn nghe).

Nghi có hai căn: từ thấy mà sinh ra, thấy cùng phụ nữ ra vào trong rừng không có y phục, thân nhiễm ô bất tịnh. Cầm dao vấy máu, làm bạn với người ác.

Từ nghe mà sinh ra, như nghe tiếng động của giường từ chỗ tối. Nghe âm thanh chuyển động, như tiếng động cựa mình, tiếng nói chuyện. Như nghe tiếng nói ta chẳng trái phạm phạm hạnh. Cho đến nghe nói ta được pháp hơn người. Trừ ba căn này, nếu dùng các pháp khác hủy báng đều là vô căn cứ.

Muốn phá hoại hạnh thanh tịnh của Tỳ-kheo kia. Nghĩa là nói với chúng tăng nên diệt tẩn Tỳ-kheo này thì ta mới trụ an vui. Nếu vào lúc khác, hoặc hỏi hoặc không hỏi, Phật sai Tỳ-kheo hỏi việc hủy báng đó có thật hay không? Nếu vô căn cứ mà hủy báng người là phạm tội trọng.

Biết việc này không có y cứ mà nói: Là nói Tỳ-kheo Đạp Bà là người thanh tịnh không có việc như thế.

Ta tức giận nên nói như vậy: Do lần trước ở phòng xấu, ăn thức ăn dở, có tâm tức giận cho nên hủy báng.

Nếu Tỳ-kheo nói và làm như thế thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu dùng bốn việc vô căn cứ này hủy báng người mà rõ ràng thì phạm tội Tăng Tàn, không rõ ràng thì phạm Thâu-lan-già. Nếu dùng tay ấn khiến cho biết nhau hay không biết nhau cũng phạm như thế. Dùng mười ba việc nạn hủy báng cũng đồng phạm. Ngoài việc chẳng phải pháp Tỳ-kheo này lại dùng các pháp vô căn cứ khác để hủy báng. Tùy theo các việc đã phạm ở trước. Nếu hủy báng Tỳ-kheo-ni cũng phạm như trước. Hủy báng ba chúng sau thì phạm Đột-cát-la, Ni phạm Tăng tàn.

Không phạm: Là ba căn đều đều thật, là nói chơi, nói khi bịnh, nói một mình, nơi yên tịnh và nói lầm, v.v...

*9 Giới: Dựa vào căn cứ hủy báng phạm Ba-la-di: Phật ngự tại thành La-duyệt-kỳ. Tỳ-kheo Từ Địa trông thấy các con dê đang hành dâm, bèn nói dê này là Đạp-Bà, mẹ của con dê này là Ni Từ Địa (mẹ của Từ Địa).

Rồi lại đến nói với Tỳ-kheo: nay Tôi chính mắt nhìn, chứ chẳng phải vô căn cứ như trước. Tỳ-kheo cật vấn biết chuyện liền đến bạch lên Đức Phật, do đó mà Phật đặt ra giới này.

Tỳ-kheo vì tâm tức giận, như trên đã nói. Lấy một phần trong việc khác.

Dị phần: là dựa vào tội khác, cảnh khác, người khác. Như vốn ở tại nhà, hay dựa vào âm thanh.

Đối với Tỳ-kheo chẳng phạm Ba-la-di, dùng pháp

Ba-la-di không y cứ, để phá hại hạnh thanh tịnh của người kia. Vào lúc khác hoặc có người hỏi, hoặc không ai hỏi, biết việc ấy là dựa vào một phần trong việc khác. Tỳ-kheo tự nói tôi vì tức giận nên nói như vậy. Tỳ-kheo này phạm Tăng già Ba thi Sa. Về giải thích tướng khai thông cũng đồng như giới trước.

*10/ Giới: Phá tăng

Phật ngự tại nước Di-Ni-lâu, độ cho tám vị họ Thích. Các vị này đến nước Chiêm-ba đều chứng quả Tăng thượng Địa, chỉ có Đề-Bà-Đạt-Đa là chứng thần túc. Phật trở về thành La-duyệt-kỳ, Đề-Bà xúi giục người đến hại Phật. Việc này đồn xa làm cho ông không còn được lợi dưỡng nên ông ăn riêng chúng, bị Phật quở trách. Do việc phá tăng này, Phật sai người đến can ngăn và đặt ra giới này. Như Tỳ-kheo-ni muốn phá hoại. Nói phá hoại ở đây có mười tám việc: pháp phi pháp, luật phi luật, phạm hay không phạm, hoặc nhẹ hoặc nặng, hữu tàn vô tàn, thô ác và phi thô ác, thường hành trì hay không thường, chế phi chế, thuyết phi thuyết.

Hòa hợp: Yết-ma đồng thuyết giới. Tăng: có bốn, năm, mười cho đến vô số Tỳ-kheo. Dùng phương tiện phá hoại hòa hợp bền chắc không bỏ, nghĩa là trụ vào mười tám pháp để phá tăng.

Tỳ-kheo kia can ngăn vị Tỳ-kheo này rằng: Đại đức chớ phá hòa hợp tăng. Chớ tìm phương tiện phá hòa hợp tăng. Chớ theo pháp hoại tăng bền chắc không bỏ. Đại đức nên hòa hợp với chúng tăng, vui vẻ không tranh cãi. Đồng học một thầy như sữa hòa với nước, ở trong Phật pháp mới được thêm lợi ích an vui.

Lại nên nói với Tỳ-kheo kia rằng: phải bỏ việc này, chớ để chúng tăng quở trách, khuyên can mà phạm tội nặng. Nếu nghe theo lời này thì tốt, bằng không thì nên nhờ Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-Bà-di, hoặc vua, hoặc quan, các dị đạo Sa-môn, Bà-la-môn đến can ngăn.

Nếu Tỳ-kheo ở các phương khác nghe biết người ấy tin theo lời nói thì nên cầu can ngăn, đó là cùng can ngăn. Tỳ-kheo nầy, lúc can ngăn như thế mà giữ chắc không bỏ là trái với việc can ngăn.

Tỳ-kheo nên ba lần can ngăn cho bỏ việc này, cho đến ba lần can ngăn bỏ là tốt. Tỳ-kheo nên nhóm họp chúng tăng Yết-ma. Như can ngăn tác bạch xong rồi thì lại cầu, cho đến một lần, hai lần Yết-ma cũng vậy.

Không xả là trái với lời tăng can ngăn. Giới sau cũng nói như thế. Tăng-già-Bà-thi-sa. Nếu lúc tăng can ngăn, bạch hai lần xong, bỏ thì phạm ba tội Thâu-lan-già, cho đến bạch xong xả thì phạm giới một tội Thâu-lan-già. Bạch chưa xong mà xả thì chỉ phạm một Đột-cát-la. Nếu trước chưa bạch mà phá Tăng pháp kiên trì bất xả thì cũng phạm Đột kiết la. Ni thì đồng phạm Tăng Tàn.

Không phạm là lúc mới can ngăn liền bỏ. Hoặc lập phi Yết-ma quở trách can ngăn. Nếu phi pháp, phi luật, phi lời Phật dạy. Nếu phá ác hữu tri thức, hoặc muốn phá Tăng, hoặc làm phi pháp. Hoặc Tháp Tăng Hòa Thượng A-Xà-lê tri thức mà phá thì không phạm.

*11 Giới: trợ giúp việc phá tăng trái lời khuyên can.

Phật ngự Tại Nước La-duyệt-kỳ, bấy giờ Đề-Bà-đạtđa chấp vào năm pháp, trọn đời khất thực, đắp mặc y phấn tảo. Thường ngồi chỗ đất trống. Không ăn thịt cá, muối và sữa. Rồi dạy chúng Tỳ-kheo cũng thực hành như vậy. Lúc chúng tăng can ngăn, các Tỳ-kheo bè đảng cũng tán trợ theo đó. Chúng Tỳ-kheo nên tội. Phật quở trách xong lại đặt ra giới này.

Như Tỳ-kheo có đồng bạn từ một hai cho đến vô số người. Nói bạn là từ bốn người hoặc hơn. Có hai điều thuận theo.

Pháp thuận theo: dùng pháp dạy trao, để tăng giới tăng tâm, tăng tuệ phúng tụng vâng theo.

Y thực thuận theo: là cấp cho y phục, mùng mền, thức ăn uống, giường nằm đồ ngồi, thuốc men.

Tỳ-kheo kia bảo Tỳ-kheo này rằng:-Đại đức chớ khuyên can vị Tỳ-kheo này, vị Tỳ-kheo nầy là Tỳ-kheo nói đúng pháp nói đúng luật. Những lời của Tỳ-kheo này nói, chúng tôi đều vui mừng tin theo.

Các đồng bạn xấu lại bảo: Vị Điều-đạt này hiểu rõ pháp luật. Nay Tôi rất vui mừng, vì sao còn bày chuyện can ngăn lỗi lầm.

Tỳ-kheo kia nói: Đại Đức chớ nói như thế, vì lời Tỳ-kheo nầy nói là lời phi pháp phi luật. Đại Đức chớ nên phá hòa hiệp tăng. Các vị nên ưa thích hòa hợp tăng, Đại đức hòa hiệp với chúng tăng, vui mừng không đua tranh, cùng học một thầy, như sữa hòa với nước, sống trong Phật pháp mới thêm lợi ích an vui. Đây gọi là Thiện Tỳ-kheo, dùng pháp để can ngăn nhau. Điều-đạt nói điều là phi pháp chớ nên nghe theo.

Lúc Tỳ-kheo can ngăn như thế mà giữ chắc không bỏ. Vì Tỳ-kheo kia nên can ngăn ba lần cho bỏ việc này. Nếu bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm Tăng-già-Bà-thi-sa. Giải thích tướng như trên.

*12 Giới: Làm nhơ bẩn nhà người bị đuổi rồi hủy báng, trái lời can ngăn.

Phật ngự tại nước Xá-vệ, các vị A-thấp-ba cỡi xe vào xóm làng làm việc xấu xa dơ bẩn nhà người. Chúng Tỳ-kheo nêu tội, Phật sai ngài Xá-lợi-phất đến đuổi các vị ấy đi. Lúc tác pháp, họ hủy báng tăng không chịu nhận tội. Chư Tăng bạch lên Đức Phật. Phật quở trách rồi đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo nương ở trong xóm làng, xóm làng có bốn loại, như trên đã nói.

Hoặc nương vào thành ấp mà ở: là nói thuộc về vua. Làm nhơ nhà người, nhà thì có nam có nữ, nhơ nhà người có bốn thứ:

1- Ở nhà làm dơ nhà: Được vật nhà nầy lại cho một nhà khác, nhà không được vật thì không thích, nhà được cho thì nghĩ sẽ báo ân.

Nghĩ thế nên nói: Người cho ta, ta sẽ đáp lại, nếu không cho thì ta cần gì phải báo lại.

2- Dựa vào lợi dưỡng làm nhơ bẩn nhà người, đúng như pháp được lợi. Và trong bát có dư thì đem cho một người cư sĩ. Người được thì sinh tâm nghĩ rằng. Nên báo đáp ơn này, nếu không cho thì ta đâu có báo đáp.

3- Nương vào bạn thân làm nhơ bẩn nhà người. Nếu Tỳ-kheo nương vào Vua Quan hoặc cư sĩ, hoặc chẳng phải Cư sĩ, liền sinh tâm nghĩ rằng: Kia vì ta thì ta nên cúng dường, kia không vì ta thì ta không cúng dường.

4- Nương vào Tăng-già-lam làm dơ bẩn nhà người: Nếu Tỳ-kheo đem hoa quả của tăng cho cư sĩ nầy, mà không cho cư sĩ khác. Người được cho thì nghĩ nên cúng dường, người không được cho thì ta không cúng dường. Thực hành hạnh ác: Tỳ-kheo làm các việc như thế là thực hành hạnh ác. Tự trồng hoa quả, tự tưới bón, tự cắt hoa, tự làm hoa man, dùng chỉ khâu lại, rồi đem cho người. Nếu lại dạy người làm các việc như trên là thực hành phi pháp.

Trong thôn xóm thì có phụ nữ, ngồi chung trên giường, ăn chung mâm, nói cười đùa giỡn. Hoặc ca mua hát xướng. Hoặc người bắt giọng mình xướng họa theo, hoặc làm hát bè, hoặc đàn trống thổi kèn, làm các tiếng chim kêu. Hoặc chạy hoặc nhảy, hoặc tự lắc mình, hoặc là vui cười.

Làm nhơ nhà người ai cũng thấy, ai cũng nghe, thực hành hạnh ác ai cũng thấy, ai cũng nghe. Lúc ấy, có Tỳ-kheo ngủ nghỉ ở chỗ kia, đắp y ôm bát vào xóm khất thực, pháp phục nghiêm chỉnh đi đứng đàng hoàng, mắt nhìn thẳng không liếc ngó hai bên, theo thứ lớp đi khất thực. Các cư sĩ thấy rồi hỏi nhau: Đây là người nào, mà đi thì mắt nhìn xuống, không liếc ngó hai bên, cũng không nói cười, không giao tiếp với người, cũng không khéo hỏi thăm, chúng ta không nên cúng dường thức ăn cho người này. Không bằng ông A-Thấp-Bà v.v... giao tiếp nói chuyện với người, thì nên cúng dường. "Khi đó vị Tỳ-kheo này khất thực rất khó khăn, lúc thầy đến chỗ Phật. Phật hỏi: Nơi ở có vui không? Tăng có hòa hợp không? Đi khất thực có khó khăn không?

Người kia bạch lại sự việc, Phật quở trách các vị kia và đặt ra giới này, cho người đến đuổi đi.

Các Tỳ-kheo nên nói với vị Tỳ-kheo ấy rằng:-Đại đức làm nhơ bẩn nhà người, làm điều xấu ác, ai cũng thấy ai cũng nghe. Đại đức! Thầy làm nhơ nhà người, gây ra việc xấu, nay nên lìa xa xóm làng thành ấp này.

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất, nói pháp cho các cư sĩ nghe khiến ai cũng được an vui, tin tưởng theo. Ăn xong thì nhóm họp chúng tăng nêu tội của Tỳ-kheo kia. Sau đó, lâm pháp Yết-ma đuổi ra khỏi xóm làng. Khi tác pháp, người kia đứng dậy phỉ báng rằng: những người đồng phạm kia sao không đuổi ra mà đuổi tôi?

Sau đó, lại nói với các Tỳ-kheo khác: Các Tỳ-kheo có tâm thương người nầy, giận người kia, sợ người nọ, si người khác. Có người đồng tội như tôi mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi.

Bấy giờ, ngài Xá-lợi-Phất trở về bạch lên Đức Phật đầy đủ sự việc trên. Phật liền quở trách.

Chư Tỳ-kheo can ngăn vị kia:-Đại đức! Chớ nên nói chúng tăng có người thì thương, giận, sợ, si v.v... Chớ nói có những người đồng tội mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi, thật ra các Tỳ-kheo nầy không có thương giận sợ si. Đại đức làm nhơ nhà người, làm việc xấu ai cũng thấy nghe. Các Tỳ-kheo khuyên ngăn như thế mà ông không bỏ việc này. Can gián ba lần cho bỏ việc. Bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm Tăng-già-Bà-thi-sa.

Nếu khi chưa bạch mà nói tăng có thương, giận, sợ, si, hoặc không xem thư đem đến và làm người sai việc cho người tại gia, tất cả đều phạm Đột-cát-la. Ni cũng đồng phạm như tăng.

Không phạm: là lúc vừa nói liền bỏ, nghe lời can ngăn quở trách đó là phi pháp. Hoặc được y thực, cho cha mẹ hay cho người bịnh, cho trẻ con hay phụ nữ mang thai, cho người bị tù tội lao ngục, khách làm công quả trong chùa. Hoặc trồng hoa cỏ và hái hoa, cho đến dạy người xâu hoa để cúng dường Phật pháp tăng, tất cả đều không phạm. Nếu người vì trốn tránh nạn trộm cướp hay thú dữ đuổi bắt thì không phạm. Nếu đồng bạn còn ở sau, quay lại tìm không thấy, kêu lên thì không phạm. Nếu cha mẹ, hoặc người bịnh, hoặc kẻ tù tội, có vị dốc tín ưu-Bà-tắc bị bịnh. Hoặc ở trong ngục, xem thư gởi đến. Nếu vì việc Tỳ-kheo bịnh, hay Tháp Tăng mà mang thư qua lại thì thì không phạm.

*13 Giới: Có tánh xấu, chống trái sự can ngăn của tăng.

Phật ngự tại nước Câu-Diệm-Di, bấy giờ Tôn giả Xiển-đà sinh ra tánh xấu, chống lại lời can ngăn, nói rằng: lẽ ra tôi dạy bảo các Đại đức mới phải vì sao? Vì tôi là Thánh chủ chứng đắc chánh giác. Chúng Tỳ-kheo nêu lỗi rồi bạch lên Đức Phật, Phật liền quở trách và đặt ra giới này.

Như Tỳ-kheo có tánh xấu, không nghe lời người, không nhận lời dạy bảo của người.

Ở trong giới pháp: Dùng giới luật đúng như pháp, dạy cho người, gồm có bảy nhóm phạm là: Ba-la-di, Tăng-già-Bà-thi-sa, Ba-dật-Đề đề xá-ni, Thâu-lan-già, Đột-cát-la, ác thuyết.

Chúng Tỳ-kheo đúng như pháp can ngăn rồi: Đúng như pháp, như luật, như lời Phật dạy. Tự thân không nghe lời can ngăn và nói:-Đại đức chớ nói với tôi việc xấu việc tốt. Đại đức hãy thôi đi chớ can ngăn tôi. Đây chính là việc được can ngăn. Phần dưới là dẫn dụ trong điều can ngăn thứ hai. Các Tỳ-kheo can ngăn Tỳ-kheo này rằng:-Đại đức nên nghe lời can ngăn nầy. Đại đức đúng như pháp mà can ngăn các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo cũng đúng như pháp mà can ngăn Đại đức, như thế đệ tử Phật nhờ can ngăn lẫn nhau, dạy bảo nhau, mới tăng thêm nhiều lợi ích. Lúc can ngăn như vậy mà Tỳ-kheo giữ chắc không bỏ. Tỳ-kheo kia nên ba lần can ngăn việc này. cho đến ba lần bỏ thì tốt, không bỏ thì phạm Tăng-già-Bà-thi-sa. Trước khi chưa bạch mà tánh xấu nổi lên mà không nghe lời người can ngăn, tất cả đều phạm Độtcát-la. Ni cũng đồng phạm như vậy.

Không phạm là khi vừa nghe khuyên can liền bỏ.

Phi pháp phi luật phi lời Phật dạy: Nếu là người vô tri can ngăn, thì nên nói với người kia rằng:-Ông là Hòa-thượng A-xà-lê mà việc làm cũng như vậy, ông phải học hỏi tụng kinh thêm. Nếu sự việc như thế, hoặc nói lầm đều không phạm.

Thưa các Đại đức! Tôi đã nói mười ba pháp Tăng-già-Bà-thi-sa, chín giới trước vừa can ngăn một lần liền phạm, bốn giới sau can ngăn đến lần thứ ba mới phạm. Nếu Tỳ-kheo phạm bất cứ một pháp nào, hoặc biết mà che giấu đều phạm tội. Nên cho thực hành Ba-lợi-Bà-sa. Thực hành xong thì tăng thêm thực hành pháp mạnh mẽna đỏa trong sáu đêm. Thực hành Ma-noa-đỏa rồi mới khỏi tội. Phải ở trước hai bộ tăng đủ hai mươi vị người để giải tội cho Tỳ-kheo này, không được thiếu, các Tỳ-kheo cũng phải quở trách vị này, đây là đúng thời. Nay xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (ba lần). Các Đại đức trong đây thanh tịnh vì im lặng, việc này rõ như vậy.

Các Đại Đức! Hai pháp bất tịnh nầy, nửa tháng thường tụng xuất xứ từ trong giới kinh.

+ Giới ở chỗ vắng bất định: Phật ngự tại nước Xávệ. Ca-lưu-đà-di trước kia có người yêu là Ưu-Bà-tư, hình dáng rất xinh đẹp. Hai người rất thương yêu nhau, bèn dẫn đến chỗ khuất ngồi nói chuyện phi pháp. Mẹ của Tỳ-xá-khư trông thấy liền mau chóng đến bạch lên Đức Phật. Do đó Phật quở trách rồi chế giới.

Nếu Tỳ-kheo cùng người nữ: Người nữ có trí chưa qua đời. Độc: là một vị Tỳ-kheo, và một người nữ.

Ở chỗ khuất: chỗ khuất có hai loại: Một là ở chõ khuất không thấy: Như hạt bụi, như sương mù, hoặc nơi tối tăm không thấy nhau. Hai là ở chỗ khuất không nghe: nơi thường nói mà không nghe tiếng.

Phú xứ: nơi phía trên có vật che đậy.

Chướng xứ: Hoặc cây, hoặc tường, hoặc hàng rào, hoặc y phục và các vật che chướng khác.

Có thể làm chỗ ngồi hành dâm: Nơi hành dâm được. Nói lời phi pháp: Là nói về pháp dâm.

Có vị trụ tín Ưu-Bà-tư: Nghĩa là người tin Phật pháp Tăng. Quy Phật, quy pháp, quy Tăng. Quy Phật, quy pháp, quy Tăng, không sát, không trộm, không tà dâm, không uống rượu, không nói dối. Khéo ghi nhớ thọ trì chớ sai lầm. Đây là lời chân thật không dối.

Trong ba pháp, nói từng pháp một. Hoặc Ba-la-di, hoặc Tăng-già-Bà-thi-sa, hoặc Ba-dật-đề.

Tỳ-kheo tự nói rằng: Tôi phạm tội này, trong ba pháp, mỗi pháp đều bị trị tội, hoặc là Ba-la-di, hoặc Tăng-già-Bà-thi-sa, hoặc Ba-dật-đề. Như vị trụ tín ƯuBà-tư đã nói, nên đúng như pháp mà trị Tỳ-kheo nầy. Đó gọi là pháp bất định.

Trong đây tự nói chỗ hướng về, chỗ đi đến. Hoặc ngồi, hoặc nằm, nếu không tự nói thì đều đúng như ƯuBà-tư nói mà trị tội.

Giới ở chỗ trống bất định:

Phật ngự tại nước Xá-vệ: Ca-lưu-đà-di là người đầu tiên phạm giới này. Nhân duyên cũng giống như giới trước, chỉ có hai tội ở chỗ trống là khác.

Như Tỳ-kheo cùng người nữ ở chỗ trống thấy được: Nghĩa là không có tường vách và chỗ che khuất.

Không thể làm chỗ hành dâm: là chỗ không thể hành dâm.

Nói lời thô ác: Nói việc dâm dục, hành bất tịnh: khen ngợi sự đẹp xấu của hai đường.

Có vị trụ tín Ưu-Bà-tư trong hai pháp, đem một pháp ra nói: Hoặc Tăng giá Bà Thi Sa, hoặc Ba-dật-đề. Tỳ-kheo tự nói rằng: Tôi phạm pháp này trong hai pháp nên trị tội. Hoặc Tăng-già-Bà-thi-sa. Như trụ tín Ưu Bà Tư nói nên đúng như pháp mà trị tội. Đó gọi là Pháp Bất định. Trong đây, nếu tự nói chỗ hướng về, chỗ đến, hoặc ngồi hoặc nằm. Nếu không tự nói thì đều y như lời ƯuBà-tư nói mà trị tội. Vì ở trong pháp vô định nên gọi là Bất định. Nầy các Đại đức! Tôi đã nói hai pháp bất định. Nay xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (ba lần). Thưa các Đại đức trong đây đều thanh tịnh vì im lặng, nên thọ trì như thế.

Này các Đại đức! Ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, nửa tháng thường tụng, xuất xứ trong giới kinh.

*1 Giới: chứa y dư quá thời gian cho phép: Phật ngự tại nước Xá-vệ. Cho thọ trì ba y, không được chứa dư. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị chứa rất nhiều y dư. Hoặc y mặc buổi sáng, buổi trưa và tối. Các vị ấy thường kinh doanh y phục trang nghiêm nên chứa nhóm cất giấu. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền quở trách, do đó mà chế ra giới nầy.

Hoặc Tỳ-kheo y đã đầy đủ: là nói ba y.

Y Ca-Hy-Na đã xả: Nghĩa là đã đã xả y công đức.

Chứa y dư: Y có mười loại. Y dư y là y dài, tám ngón tay, rộng bốn ngón tay của Đức Như lai.

Bất tịnh thí được chứa y dư quá mười ngày. Trước chế giới không chứa y dư, vì ngài A-nan được một y phấn tảo rất quý, muốn dâng lên ngài Ca-diếp nhưng sợ phạm tội. Ngài Ca-diếp mười ngày nữa mới trở về, do đó Phật cho phép chứa y dư trong mười ngày.

Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Không phạm có tám việc, hoặc không được y, hoặc tịnh thí, hoặc đem cho người, hoặc mất y, hoặc y đã cũ, hoặc làm phi y. Hoặc ý của bạn thân. Hoặc quên mất. Trái với ở trên đều là ni-tát-kỳ.

Hoặc y xả đọa chưa xả mà đổi ý khác. Một phạm Ni-tát-Kỳ Ba-dật-đề, một phạm Đột-cát-la. Y xả đọa này nếu xả cho tăng, cho đến một người cũng không được biệt chúng. Xả không thành xả thì phạm Đột-cát-la. Tỳ-kheo ni cũng đồng phạm như vậy. Ba chúng dưới cho đến hạ giới cũng đều Không phạm: Trong mười ngày, nếu chuyển thành tịnh thí. Hoặc phạm Đột-kiết-la đem cho người, hoặc bị cướp giựt, hoặc nghĩ bị mất, hoặc bị cháy, bị trôi, bị đoạt, bị mất. Nếu cho người làm mền. Nếu giáo y cho người đi xa bị sông nước ngăn trở. Như thế thì không tịnh thí, không cho người không phạm.

*2 Giới ngủ lìa y: Phật ngự tại nước Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị đem y gởi bạn thân trong khi đi khỏi. Người kia đem y ra phơi, Tỳ-kheo trông thấy hỏi: Phật cho phép chứa ba y, không được chứa dư. Đây là y của ai? Người kia đáp và bị quở trách. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật do đó đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo, y đã xong, y Ca-hy-na đã xả, đều giải thích như trên.

Trong ba y: Tăng-già-lê, uất-đa-la-tăng, uất-đà hội gồm có mười loại.

Lìa các y ngủ chỗ khác: Không mất y là trong Tăng-già-lam có một giới. Mất y: trong tăng-già-lam có bao nhiêu ranh giới. Như thế từ cây cối, sân bãi, xe thuyền, làng xóm, nhà cửa, kho, lẫm cũng như vậy. Tăng-giàlam này có bốn thứ như trên.

Thọ (cây): Đủ cho mọi người ngồi. Tràng (Sân): Chỗ phơi ngũ cốc.

Xa (xe): Là chỗ chiếc xe quay đầu lại được. Thuyền giới: Cũng như vậy.

Xóm có bốn loại

- Đường (nhà): Phần nhiều thoáng mát.

- Kho: Nơi chứa các vật.

- Lẫm: chứa trữ gạo thóc.

- A-lan-nhã là vô giới. Trong khoảng tám cây phân biệt với bảy cung, mỗi cung là bốn tấc.

Già-lam giới: Già-lam giới chẳng phải là già-lam kia, chẳng phải thọ giới (cây kia), cho đến khố tàng giới. Làm ở nơi khác cũng vậy.

Già-lam giới: Người đứng ở ranh giới già-lam, ném cục đá ra xa, chỗ viên đá rớt gọi là y giới. Cho đến khố, tàng, thương cũng vậy. Tỳ-kheo để y trong già-lam, cho đến ngủ dưới gốc cây, sáng mặt trời chưa mọc, hoặc xả y, hoặc đưa tay đụng y, nếu không đến chỗ viên đá ném, hoặc không xả y, hoặc không đưa tay đụng y, không đến chỗ viên đá ném, mặt trời chưa mọc mà lìa y ngủ, thì phạm Ni-Tát-Kỳ Ba-Dật-Đề.

Trừ tăng có làm Yết-ma: Bấy giờ, có Tỳ-kheo bị bịnh thân ốm gầy, y phấn tảo Tăng-già-lê rất nặng, khi có duyên sự đi đâu mang theo không nổi. Tỳ-kheo bạch việc này lên Phật: Phật dạy tác bạch ba lần xin cho lìa hai y.

Ni-Tát-Kỳ Ba-dật-đề: Trừ ba y, nếu lìa y khác thì phạm Đột-cát-la. Ni cũng đồng phạm với tăng.

Không phạm: Khi tăng thực hành Yết-ma lúc mặt trời chưa mọc. Đưa tay đụng y, hoặc xả y, hoặc đến chỗ ném cục đá. Hoặc nghĩ y bị cướp, hoặc bị nạn sông nước cách trở, hoặc bị giặc cướp ác thú cướp mất, hoặc bị nạn phạm hạnh, tánh mạng. Hoặc không xả y, không đến chỗ ném đá làm đấu thì không phạm.

*3 Giới ba tháng mong được vải quá hạn:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhưng Tỳ-kheo ba y chỉ có Tăng-già-lê. Trong thời gian quá mười ngày thì không thể được. Nghe nói cho chứa y nhiều để cho đầy đủ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị chờ vải giống nhau không đủ, nên giặt nhuộm điểm tịnh, rồi đem gởi để đi du hành. Chúng Tỳ-kheo nêu tội, Phật quở trách rồi đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo y đã xong, y Ca-hy-na đã xả, nếu Tỳ-kheo được y phi thời.

Thời: là không phải y Ca-hy-na, tự tứ sau một tháng. Có y Ca-Hy-Na tự tứ sau năm tháng. Phi thời nghĩa là quá thời hạn nầy.

Khi cần thì thọ, thọ rồi thì nên may thành y. Nếu đủ thì tốt. Nếu trong mười ngày mà có đủ vải giống thì cắt may như trên. Không được để qua ngày thứ mười một, tùy ý nhiều ít đều phạm xả đọa.

Nếu không đủ thì cho chứa một tháng để đợi cho đủ. Nếu đồng ý không đủ thì cho mười một ngày cho đủ, tức để mười một ngày như trên. Nếu quá mười hai ngày thì bất cứ vải nào đều phạm. Cho đến hai mươi chín ngày cũng vậy. Đến ba mươi ngày, hoặc đủ hoặc không đủ, có vải giống hay không cũng đều như pháp trên.

Nếu chứa y quá thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-Đề. Tỳ-kheo-ni đồng phạm. Không phạm là trong mười ngày có đủ vải giống. Cho đến ba mươi ngày phải may cho thành y. Có duyên khác thì đồng với giới chứa y dư.

*4 Giới lấy y của ni không phải là bạn thân.

Phật ngự tại nước La-duyệt-kỳ, Tỳ-kheo-ni Liên Hoa sắc đi khất thực qua núi cùng các Thượng tọa. Có một vị Tỳ-kheo mặc y đã cũ rách. Liên Hoa Sắc cởi y quý tốt của mình đổi cho Tỳ-kheo. Sau đó, đắp y xấu vào người. Phật lấy làm lạ hỏi và biết chuyện bèn quở trách Tỳ-kheo, do đó mà Phật đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo từ Tỳ-kheo ni chẳng phải bà con.

Chẳng phải bà con: là chẳng phải cha mẹ và thân thuộc trong bảy đời, trái lại là bà con. Nếu chẳng phải bà con, thì không có sự trù lượng. Nếu là thân thuộc thì liền có sự trù lượng. Biết là không thể giữ cho dù là tốt xấu, mới cũ.

Thủ y: y có mười loại. Tỳ-kheo-ni đắp y cũ rách, bạch lên Đức Thế tôn. Phật bảo: Không nên như thế, cho phép chứa năm y chắc chắn để đắp, các y dư được phép tùy ý đem cho. Vì sao? Vì phụ nữ đắp y phục bậc thượng còn không tốt, huống chi đắp các y phục cũ xấu.

Trừ Đổi chác

Bấy giờ, hai bộ tăng được y cùng phân chia, hai bộ được y xấu. Phật bảo: cho phép trao đổi qua lại, nói trao đổi là lấy y đổi y. Hoặc chẳng phải y. Hoặc đem phi y đổi lấy y. Hoặc đổi sắt, đồng, dao, chỉ, hoặc đoạn vật nhỏ, cho đến một viên thuốc đổi y.

Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề: Tỳ-kheo-ni phạm Cát la.

Không phạm: Là có thân thuộc với ni mà giữ, hoặc trao đổi. Hoặc vì Phật vì tăng mà giữ thì không phạm.

*5 Giới: Nhờ ni không bà con giặt y dùm:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, Ca-lưu-đà-di và ni Thâula-nan-đà dung mạo đều rất xinh đẹp cả hai đều có ý với nhau.

Khi ngồi ra chất bất tịnh làm ô uế y An-Đà-hội. Ca-lưu bèn nhờ ni Nan-đà giặt giũ giùm. Các Tỳ-kheo đem lỗi đó bạch lên Đức Phật: Phật quở trách và đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni chẳng phải bà con v.v... Như trên đã nói.

Tỳ-kheo-ni: Nếu chẳng phải thân thuộc mà sai Thứcxoa-ni và sa-di-ni giặt nhuộm y dùm thì phạm Đột-cátla.

Giặt y cũ: y cũ là y dù chỉ mặc qua thân một lần, y mới đã đem giặt nhuộm đập thì phạm Đột-cát-la. Hoặc giặt, hoặc nhuộm, hoặc đập thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-Dật-đề. Hoặc nói người giặt, nhuộm, đập, cùng làm cả ba thì phạm ba tội ni-tát-Kỳ Ba-Dật-đề.

Không làm thì tùy theo mà phạm Đột-cát-la.

Không phạm: Như lúc bịnh nhờ người giặt, nhuộm, đập, hoặc vì chúng tăng, vì Phật pháp nhờ người giặt nhuộm đập thì không phạm.

*6 Giới xin y người thế tục không phải bà con:

Phật ngự tại Nước Xá-vệ. Bấy giờ, Bạt-Nạn-đà nói pháp cho người nghe. Vì muốn xin y, nên chỉ mặc y mỏng đi vào thành nói với mọi người rằng:-Trong tịnh xá Kỳ-hoàn bị cướp.

Người thế tục chê bai, Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo xin y với vợ cư sĩ hoặc cư sĩ chẳng phải bà con: giải thích như văn trên.

Trừ lúc khác thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng đồng phạm.

Lúc khác là như y bị cướp, bấy giờ, Tỳ-kheo bị giặc cướp mất y, lõa hình mà đi. Phật bảo:-Không nên như thế! Nếu để lõa hình Phạm tội Đột-cát-la. Nếu bị như vậy thì lấy cỏ mềm, lá cây che thân lại. Hoặc đến chùa có y dư, hoặc nhờ bạn ở bên lấy. Nếu không thì ở trong tăng được phép chia y, nếu không thì hỏi lấy y phục, đồ nằm của tăng. Còn không cho thì tự mở cho xem. Hoặc dùng mền nệm da len cắt ra làm y. Đi ra ngoài xin y. Được y rồi thì trở về giặt nhuộm, may mặc, trở về bản xứ. Nếu không trở về bản xứ thì đúng như pháp mà trị.

Nếu y bị mất, bị cháy bị trôi thì nhân duyên cũng giống như trên. Đây gọi là lúc khác. Về Không phạm:

Nếu bị đoạt y, mất y v.v... duyên cũng từ việc xin y với người không phải bà con. Nếu xin y từ người bà con, hoặc xin y của người xuất gia, hoặc xin của người khác, Người xin cho mình, hoặc không mong mà được, đều không phạm.

*7 Giới lấy y quá phần:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, có nhiều Tỳ-kheo bị giặc cướp mất y. Các vị này đi đến Kỳ-hoàn. Có vị tín thí nghe chuyện bèn đem đến cúng dường nhiều y. Tỳ-kheo nói: Tôi đã có đủ ba y nên không cần nữa.

Nhóm Tỳ-kheo sáu vị bèn nhờ người lấy cho mình. Chúng Tỳ-kheo nêu tội, Phật do đó đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo bị mất y, bị cướp y, y bị cháy, y bị trôi.-Nếu mất một y thì không nên lấy. Hai y kia nên may dày ba bốn lớp thì nên trích ra để làm y tăng-già-lê, Uất-đa-la tăng hoặc an-già-hội.

Nếu cư sĩ, vợ cư sĩ chẳng phải Bà con? Như trên đã giải thích:

- Nếu tha hồ thỉnh cho nhiều y: Nếu tha hồ thỉnh có nhiều y, hoặc nhỏ, hoặc mỏng, hoặc không chắc thì may thành hai, ba, bốn lớp. Nên may có viền. Nếu chỗ vải trên vai bị dơ, thì nên đặt móc lên đó. Nếu bị rách chỗ khác thì nói với cư sĩ:-Chỗ y rách này phải cắt ở đâu để vá? Nếu Đàn Việt nói: Chúng tôi không vì mất y cho nên cho, chúng tôi sẽ tự cho Đại đức.

Nếu muốn thọ thì nên thọ.

- Tỳ-kheo nên biết đủ mà thọ y: Nếu mất cả ba y, thì kia nên biết đủ để thọ. Biết đủ có hai loại: Người tại gia biết đủ, thì tùy người cho bao nhiêu thì thọ lấy bấy nhiêu. Người xuất gia biết đủ thì chỉ có ba y.

- Nếu quá: Nghĩa là nếu mất một thì thọ một, ba y đều mất thì thọ cả ba.

- Ni-tát-Kỳ Ba-dật-đề: Tỳ-kheo-ni đồng phạm.

Không phạm: là thọ vừa đủ hoặc thọ ít, hoặc nhiều thì đem cho lại. Nếu y mỏng, nhỏ, không chắc, thì may hai, ba lớp. Có dư thì như trên đã nói.

*8 Giới khuyên cư sĩ thêm giá tiền y:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, có vợ chồng cư sĩ bàn với nhau:

- Bạt-Nan-Đà là cậu của ta, vậy nên may chiếc y có giá trị để cúng dường thầy ấy.

Có vị Tỳ-kheo tu hạnh khất thực nghe được chuyện này, sau đó đến nói với Bạt-nan-đà, Bạt-nan-đà bèn đến nhà vợ chồng cư sĩ đó nói tôi cần y rộng dài, tốt đẹp, bền chắc. Bị người thế tục chê trách. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới nầy.

- Hoặc Tỳ-kheo, cư sĩ, vợ cư sĩ: như đã giải thích ở trên.

Vì Tỳ-kheo mà chuẩn bị giá tiền sắm y: Nghĩa là dùng tiền, vàng, bạc, chân châu, lưu ly, ngọc đá, hoặc anh lạc sinh tượng, cho đến mười thử vải đầy đủ giá tiền y như thế để cúng dường vị Tỳ-kheo ấy, Tỳ-kheo ấy trước không tha hồ thỉnh: Như hỏi thầy cần loại y gì? Phật dạy Tỳ-kheo ít muốn biết đủ thì không cầu xin như thế.

- Đến nhà cư sĩ mà nói rằng: Lành thay! Cư sĩ vì tôi mà sắm sửa giá tiền y như thế để cúng dường tôi, thật là rất tốt:-Việc cầu xin có hai thứ: Nếu cầu giá trị đó là Đàn việt cho y có giá trị lớn, dù chỉ cầu thêm một phần mười sáu giá trị một đồng tiền.

Còn nói cầu y là nói cư sĩ may y rộng dài, dù chỉ thêm một sợi chỉ, nếu được thì phạm Ni-tát-Kỳ Ba-Dật-đề. Tỳ-kheo ni cũng đồng phạm.

Không phạm: Trước khi thọ Tự tứ thỉnh mà đến xin biết đủ. Đối với việc cầu xin mà giảm ít, xin từ bà con, từ người xuất gia, hoặc xin cho người khác. Người khác xin cho mình, hoặc không xin mà tự được.

*9 Khuyên hai nhà cùng thêm giá tiền y:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Có hai gia đình của hai cặp vợ chồng cư sĩ nọ, vợ chồng bàn tính với nhau may y cho Bạt-Nan-Đà. Có vị Tỳ-kheo tu hạnh khất thực đi khất thực nghe được chuyện đó bèn nói với Bạt-nan đà, Bạt-nan-đà bèn đến hai nhà kia bảo chung nhau làm. Bị các cư sĩ chê trách, Tỳ-kheo nêu tội, Phật do đó quở trách và đặt ra giới này.

- Nếu có hai gia đình của hai cặp vợ chồng cư sĩ nọ chuẩn bị giá tiền y, may chiếc y như thế cúng dường cho Tỳ-kheo ấy, Tỳ-kheo này trước đây không được tha hồ thỉnh, bèn đến nhà hai gia đình cư sĩ nói như vầy: Lành thay cư sĩ, sắm giá tiền y như thế cho tôi, hai gia đình nên cùng nhau sắm một y cho thật tốt. Nếu nói như vậy mà được y thì phạm Ni-Tát-Kỳ Ba-Dật-Đề. Giới tướng thành phạm, khai thông đều như giới trước.

*10 Giới y thí gấp quá hạn

Phật ngự tại thành La-duyệt-kỳ ở nước Xá-vệ. Có một vị Đại thần qua lại rất thân thiết với Bạt-nan-đà, mới may y có giá trị đem cho. Người kia đã đủ giá y cho tịnh chủ rồi. Do vì muốn gấp đến cầu khiến cho kia bị phạt. Các Cư sĩ chê trách, Tỳ-kheo nêu tội, Phật nhân đó đặt ra giới này.

- Hoặc Tỳ-kheo, hoặc Vua, được tự tại không bị lệ thuộc.

- Hoặc Đại thần, hoặc hầu cận của vua.

- Hoặc Bà-la-môn: là Bà-la-môn có mạng sống.

- Hoặc cư sĩ: trừ vua, Đại Thần và các vị Bà-la-môn, còn lại đều là cư sĩ tại gia.

Cư sĩ phụ: Là người phụ nữ tại gia.

- Sai sứ đem giá tiền y cho Tỳ-kheo: Như trên đã nói. Đem giá tiền y như thế cho vị Tỳ-kheo đó. Người kia đến nói với Tỳ-kheo rằng:-Đại đức, tôi trao giá tiền y này cho Đại đức, Đại đức nên thọ nhận.

Tỳ-kheo nói: Tôi không nên nhận giá tiền y này. Nếu khi cần y, hợp thời thanh tịnh mới nhận. Người kia bảo: Đại đức có người chấp sự không?

Tỳ-kheo nói: Có, hoặc có người trong Tăng-già-lam, hoặc ưu-Bà-tắc là người chấp sự của Tỳ-kheo. Bấy giờ, người kia đưa giá tiền y cho người chấp sự, rồi trở lại thưa với Tỳ-kheo: Đại đức đã chỉ người chấp sự, tôi đã đưa giá tiền sắm y cho ông ta rồi. Đại đức cần thì đến kia lấy.

Khi cần y, Tỳ-kheo nên đến người chấp sự kia nói tôi cần y. Nếu không được y thì đến chỗ người kia hai, ba lần nói tôi cần y, khiến cho người kia nhớ lại.

- Nhớ nghĩ: là người chấp sự hoặc ở tại nhà, hoặc ở chợ, hay ở nơi làm việc, nên đến chỗ kia nói tôi cần y từ một, hai đến ba lần.

Nếu hai ba lần khiến cho kia nhớ lại, được y thì tốt. Nếu không được y, thì bốn phen, năm phen, sáu phen, ở trước người kia đứng làm thinh. Người chấp sự kia hoặc ở nhà, ở chợ, hoặc nơi làm việc, thấy người này đứng làm thinh bèn hỏi: Vì sao đứng đây? Tỳ-kheo đáp:

- "Ông tự biết". Kia đáp: "Tôi không biết". Nếu có người khác thì Tỳ-kheo nên nói. Người kia biết, đó là tướng im lặng. Nếu bốn phen, năm phen, sáu phen trước người đứng làm thinh được y thì tốt, không được y thì một lần nói, hai lần im lặng. Cho đến ba lần nói, sáu lần im lặng.

Nếu không được y, quá sáu lần cầu cho được y thì phạm Ni-Tát-Kỳ Ba-Dật-Đề. Tỳ-kheo ni cũng phạm như tăng.

Nếu không được y, thì tự mình đến, hay bảo người đến nói với người kia rằng: Ông đem giá tiền y cho Tỳ-kheo mà Tỳ-kheo rốt cuộc không được y. Ông nên lấy lại chớ để mất, đó là đúng cách.

Không phạm: Hoặc sai sứ đến bảo cho biết, hoặc kia nói nay tôi không cần y, đã đem bố thí. Tỳ-kheo dùng lời nhỏ nhẹ phương tiện đòi lại y, hoặc vì làm Ba-lợiCa-la. Cho dùng lời nhỏ nhẹ đòi, hoặc phương tiện đòi.

*11 Giới: Dùng tơ tằm làm đồ nằm.

Phật tại nước Khoáng Dã, Bấy giờ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị đến chỗ nuôi tằm, xin các loại chưa thành sợi cùng các loại đã thành sợi, cùng các tạp loại khác đem về làm đồ nằm. Các Cư sĩ chê trách nói như vậy là hại sinh mạng, không có chánh pháp. Các Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

- Nếu Tỳ-kheo tạp: Hoặc lông, hoặc kiếp cụ, hoặc y và các loại sợi tạp khác.

- Dùng các loại tằm làm đồ ngồi thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề: trong đây, xả là hoặc dùng búa chặt nhỏ ra, hòa với bùn để trát tường.

- Ba-dật-đề: Tự làm, dạy người làm. Nếu thành thì đồng phạm.

Không thành thì phạm Đột-cát-la.

Không phạm: Nếu thành rồi dùng búa chặt hòa với bùn để trét.

*12 Giới làm đồ nằm bằng lông dê đen:

Phật ngự tại nước Tỳ-xá-ly, các người Lê-xa phần nhiều hành tà dâm, may mền dạ bằng lông dê đen mặc vào người để đi đêm, cho người không thấy. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị liền bắt chước làm theo, bị những người Lêxa chê trách. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo dùng lông dê mới thuần mầu đen: đen tự nhiên hay nhuộm thành đen.

Nếu dùng lông dê làm đồ ngồi thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề:-Tự làm hay dạy người làm, vì người mà làm, cũng phạm như giới trước. Ni thì phạm Đột-cát-la. Không phạm: Nếu được đồ ngồi đã thành rồi, hoặc cắt hoại ra. Hoặc mỏng may lại thành hai lớp, hoặc làm đồ ngồi nhỏ, hoặc làm mền, làm mũ, làm khăn v.v... thì không phạm.

*13 Giới làm đồ nằm bằng lông dê trắng:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị dùng lông dê thuần trắng để làm đồ ngồi mới. Các cư sĩ chê trách cho là như bậc vua quan. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo làm đồ nằm mới, nên dùng thuần hai phần lông dế đen và ba phần lông dê trắng: hoặc thuần trắng hoặc nhuộm trắng.

Bốn phần lẫn lộn: là Lông trên đầu, trên tai, hoặc lông trên chân. Hoặc các mầu lông lẫn lộn. Nếu muốn làm đồ nằm bốn mươi bát la thì gồm hai mươi Bát-la màu đen mười Bát-la mầu trắng, mười bát-la lẫn lộn.

Cho đến làm Bát-la chuẩn là hai mươi bát-la, thì như trên có thể tính biết.

Nếu Tỳ-kheo làm đồ ngồi mới không dùng hai phần đen, ba phần trắng, bốn phần lẫn lộn thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề.

Tự làm, dạy người làm, hoặc làm cho người, cũng đồng như trên.

Ni thì phạm Đột-cát-la.

Không phạm: Hoặc làm đúng theo lượng, hoặc khi được thì đã thành rồi. Cái khác cũng đồng như trước.

*14 Giới: Đồ nằm chưa đầy sáu năm:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị chê đồ ngồi cũ, hoặc nặng, hoặc nhẹ, hoặc dày, hoặc mỏng. Không xả cái cũ mà muốn làm cái mới. Lại còn xin cầu chứa để cho nhiều. Các Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền quở trách rồi đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo làm đồ ngồi mới phải dùng đến sáu năm. Nếu chưa tới sáu năm, không xả cũ mà làm cái mới:-Nếu tự làm, bảo người làm, đều đồng phạm như trước. Trừ tăng có làm Yết-ma: Có Tỳ-kheo bi bịnh thân ốm gầy, đồ ngồi bằng phấn tảo quá nặng không thể mang theo khi đi đường.

Phật dạy: Xin chúng tăng ba lần rồi được may y mới.

Tăng nên bạch hai lần mà cho.

Ni-Tát-Kỳ Ba-dật-đề: Ni thì phạm Đột-cát-la. Không phạm: là Tăng cho, hoặc dưới hoặc đủ sáu năm xả bỏ rồi làm cái mới. Hoặc được đồ ngồi đã thành rồi, hoặc được người cho đều không phạm.

*15/ Giới Không đồ ngồi không may xếp chồng:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, có người đi nhận thức ăn về. Theo pháp thường của Chư Phật thì khi chư tăng đi phó trai, Phật sẽ đi xem xét các phòng. Ngài nhìn thấy đồ ngồi bỏ bừa bãi lung tung, không có người dọn dẹp. Do các Tỳ-kheo chê các đồ ngồi dày mỏng nhẹ nặng nên làm mới hết. Phật bèn chế ra cái cũ may xếp chồng lên cái mới. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị trái với lời Phật chế. Các Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo làm đồ ngồi mới, thì lấy cái cũ khoảng một khuỷu tay đắp lên cái mới để làm cho hoại sắc, lúc làm đồ ngồi mới, hoặc cái cũ chưa bị hoại chưa bị lủng lỗ, thì đem giặt nhuộm lại. Cắt ra một đoạn đắp vào chỗ mới chừng khoảng một khuỷu tay, hoặc đắp vào chỗ giữa để làm cho hoại sắc.

Nếu làm đồ ngồi mới mà không theo như trên thì phạm ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Tự làm, dạy người làm thì phạm như trên. Ni thì phạm Đột-cát-la. Không phạm: là cắt cái cũ đắp lên cái mới, hoặc kia tự không có phải làm cái mới, hoặc người may cho, hoặc được cái đã thành, hoặc thuần là cái cũ, đều không phạm.

*16 Giới: mang lông dê đi quá hạn:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Bạt-nan-đà có được lông dê bèn xỏ trên đầu gậy mà đi. Các cư sĩ chê trách, nói là người buôn bán lông dê. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo đi trên đường được lông dê. Nếu không có người xách thì được mang xách trong khoảng ba do-tuần: Như trên đường, hoặc ở trụ xứ có được lông dê, nếu cần thì nên lấy. Không có người cầm thì tự mình xách cho đến ba do-tuần. Như có người nói: Tôi có vật này có thể giúp Ngài đem đến chỗ kia. Tỳ-kheo trong khoảng này không có người giúp thì phạm Đột-cát-la. Nếu bảo ni và bốn chúng khác cầm xách quá ba do-tuần thì phạm Đột-cát-la. Trừ lông dê ra thì phạm các vật khác như y, gai vải đều phạm Đột-cát-la. Nếu mang các vật trên đầu thì phạm Đột-cát-la.

Nếu không có người cầm, hoặc tự cầm quá ba dotuần thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Tỳ-kheo ni thì phạm Đột-cát-la. Không phạm là mang đi ba do-tuần, có người nói cầm mang trong khoảng đó không có người giúp thì cho ni và bốn chúng mang trong ba do-tuần. Nếu mang hành trang dây bằng lông nhỏ, hoặc mang lông trên đầu làm khăn thì được.

*17 Giới: Sai ni không phải bà con giặt lông dê:

Phật ngự tại thành Ca-duy-la-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị nhờ ni giặt nhuộm lông dê cho mình. Bấy giờ, Di Mẫu Ni vì nhuộm lông cho nên tay bị dính mầu nhuộm, đến chỗ Phật làm lễ rồi đứng sang một bên. Phật biết mà cố hỏi, quở trách rồi chế giới.

Nếu Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni chẳng phải bà con giặt nhuộm lông dê thì phạm Ni-tát-Kỳ Ba-dật-đề. Tỳ-kheo ni thì phạm Đột-cát-la. Việc thành phạm, khai thông như giới giặt y cũ.

*18 Giới chứa để tiền bạc, vật báu:

Phật ngự tại thành La-Duyệt, có một vị Đại Thần vì Bạt-Nan-Đà mà để dành phần ăn. Một đứa bé ăn thức ăn đó và trả năm đồng tiền. Bạt-Nan-Đà đến lấy tiền đó gởi trên chợ, các cư sĩ đều hiềm nghi. Tỳ-kheo quở trách. Vua và các quan bàn luận. Phật nói rộng ví dụ, nhân đó quở trách và chế giới.

Nếu Tỳ-kheo tự tay cầm tiền, cũng như văn trên đã nói.

Như vàng bạc v.v... hoặc bảo người cầm, hoặc để dưới đất thì pha-m Ni-tát-Kỳ Ba-dật-đề: Trong đây, xả là người kia tin giao cho người giữ vườn hoặc Ưu-Bàtắc và nói: "Đây là vật mà tôi không nên giữ, ông nên giữ dùm. Nếu người kia lấy trả lại cho Tỳ-kheo thì nên nhận rồi giao cho tịnh nhân giữ. Nếu được y bát thanh tịnh thì đem trao đổi và thọ nhận. Nếu Ưu-Bà-tắc đem giao y bát thanh tịnh cho Tỳ-kheo thì nên nhận lấy.

Ba-Dật-đề: Tỳ-kheo-ni đồng phạm. Nếu không nói cho người biết và xem qua thì phạm Đột-cát-la.

Không phạm: Như nói: "biết đó, giữ đó" như pháp xả ở trên. Nếu người kia không chịu cho y áo. Các Tỳ-kheo nên nói:-Phật có dạy: Vì thanh tịnh nên đem cho ông, nên hoàn trả vật cho người. Nếu không cho lại thì tự đến nói:-Phật dạy Tỳ-kheo tác tịnh cho ông. Ông nên cho Tăng, tháp, Hòa-thượng, tri thức và bản thí chủ. Không để cho tín thí kia bị mất.

*19 Giới: Đổi chác tiền bạc, vật báu:

Phật ngự tại La-duyệt-kỳ. Bấy giờ, Bạt-Nan-Đà đến chợ dùng tiền đổi tiền. Các cư sĩ chê bai, nói là mua bán giỏi chê. Các Tỳ-kheo nghe việc bạch lên Đức Phật, Phật liền quở trách và đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo buôn bán các thứ: Hoặc đã thành vàng hay chưa thành. Bạc có ba loại, tiền chỉ có một loại, mua bán trao đổi với nhau. Tiền thì có tám loại là: vàng, bạc, đồng, sắt, bạch lạp, tiền gỗ, thiếc, Hồ dao...

Ni-Tát-Kỳ Ba-dật-đề, Tỳ-kheo ni cũng đồng phạm. Các pháp xả bỏ, khai thông khác về phương tiện xin tìm vật báu cũng như giới trên.

Không phạm: Hoặc dùng tiền, vàng bán đổi ra anh lạc. Dùng tiền đổi tiền, vì Phật pháp Tăng, v.v...

*20 Giới mua bán:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Bạt-Nan-Đà đi vào các thôn xóm không có trú xứ, đem các loài gừng sống để đổi thức ăn, ăn rồi thì đem đi. Sau đó, ngài Xálợi-phất đi khất thực. Đàn việt nói lại việc của Bạt-NạnĐà, Ngài hổ thẹn không nói gì. Chúng Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo các thứ: dùng thuốc đúng thời đổi thuốc phi thời, thuốc bảy ngày, thuốc suốt đời, phạm Balợi-Ca-la. Các vật trao đổi như thế cho đến đem y đổi y.

Phiến mãi: Nghĩa là vật trên dưới một tiền. Tăng mãi là giá trị một tiền, nói thẳng ba tiền. Trùng tăng mãi: Là Tăng giá trị một tiền nói giá năm tiền. Mại (mua) cũng phạm như thế.

Ni-Tát-Kỳ Ba-dật-đề:-Tỳ-kheo ni đồng phạm. Không phạm là: cho phép năm chúng xuất gia trao đổi với nhau, nên tự xét định. Trong Phật pháp không tính toán, mua bán cao thấp như ở chợ. Không được trao đổi với người, không được bảo tịnh nhân trao đổi. Nếu hối hận thì cho đổi lại. Nếu đem bơ dầu cùng trao đổi thì không phạm.

*21 Giới chứa, bát quá hạn lượng:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị chứa bát, bát xấu thì bỏ lại để tìm bát mới tốt hơn. Do đó mà bát càng nhiều. Các cư sĩ đi qua thấy vậy liền quở:-Chẳng khác gì tiệm bán đồ gốm! Tỳ-kheo nêu tội, Phật quở trách rồi đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo chứa bát dư: Ở đây có sáu loại: Bát sắt, Bát đen, Bát đỏ, bát nước Tô-ma, bát nước Ô-già-la, bát nước Ưu-già-xa.

Đại yếu thì có hai: Bất sắt và Bát bằng đất bùn. Lớn thì ba đấu. Nhỏ thì một đấu rưỡi, đó là lượng của bát. Như thế nên thọ trì, nên tịnh thí. Bất tịnh thí: Tịnh thí, không tịnh thí đều đối với tám môn. Như giới chứa y dư không khác.

Đủ mười ngày: Bấy giờ, ngài A-nan có được một cái bát quý muốn dâng cho ngài Ca-diếp. Vì ngài Ca-diếp mười ngày nữa mới trở về. Sợ phạm xả đọa nên A-nan bạch lên Đức Phật, Phật liền chế được để mười ngày.

Nếu quá thì phạm Ni-Tát-Kỳ Ba-Dật-Đề. Ni cũng đồng phạm. Về biện tướng khai thông như giới chứa y dư.

*22 Giới: Xin Bát quá phần:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, Bạt-Nan-Đà bị vỡ bát, xin được nhiều bát chứa để. Hàng cư sĩ xem xét mới biết ông thọ nhiều liền chê trách nói: Tỳ-kheo này thọ giữ không biết nhàm chán. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật liền chế giới.

Nếu Tỳ-kheo chứa bát dưới năm chỗ hàn chưa bị chảy: Cách khoảng hai ngón tay chưa bị nứt.

Vì muốn tốt mà xin bát mới: Nếu đủ năm chỗ hàn chưa chảy mà cầu bát mới thì phạm Đột-cát-la.

Ni-Tát-Kỳ: Trong đây, Xả là xả bát trong tăng: ở trú xứ nầy đã đơn phương tác bạch thọ sám. Liền nói tên tội chủng tướng. Trách tâm sinh nhàm chán xa lìa. Bát nếu còn tốt thì giữ lại theo thứ lớp đổi từ Bát vị Thượng tọa cho đến bát vị hạ tọa, đem cho Tỳ-kheo ấy.

Ba-Dật-Đề: Tỳ-kheo-ni đồng phạm. Tỳ-kheo kia nên đến trước tăng, đem bát lần lượt đổi cho đến bát của vị hạ tọa, rồi trì lấy. Cho đến vỡ, nên trì bát như thế.

Tăng bạch hai lần đem bát vị hạ tòa cho vị ấy. Vị Tỳ-kheo nên trì lấy, không được để dao gậy, gạch đá rớt vào. Không được để bát ở giữa đường, trên tảng đá, dưới gốc cây và nơi đất không bằng phẳng. Không được để trên ngạch cửa sổ, dưới ngạch cửa, ở dưới giường hay góc giường, trừ lúc để tạm. Không được để giữa hai giường, không được đứng rửa bát, cho đến dùng chân đạp. Nếu dùng phi bát thì phạm Đột-cát-la.

Không phạm: Như năm chỗ hàn bị chảy mà xin bát mới, hoặc xin của người bà con, hoặc xin từ người xuất gia, hoặc xin cho người, hoặc người xin cho mình, không cầu mà được. Hoặc cúng dường thứ lớp mà được, nếu tự có giá mua mà chứa thì đều không phạm.

*23 Giới xin chỉ nhờ người chẳng phải bà con dệt y:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Bạt-Nan-Đà may Tăng-già-lê, đi xin chỉ. Chỉ xin được nhiều bèn nhờ người dệt thành vải, tự làm khung cửi, xem coi thợ dệt. Các cư sĩ chê trách, Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền quở trách rồi đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo tự xin chỉ sợi: là đến các nơi để xin, có mười thứ chỉ vải.

Nhờ thợ dệt chẳng phải bà con dệt y: Nếu thợ dệt và người cho là bà con thì không phạm. Chẳng phải bà con thì phạm Đột-cát-la. Tự dệt, xem người dệt, làm khung dệt đều phạm Đột-cát-la. Ni-tát-Kỳ Ba-dật-đề: Tỳ-kheo-ni đồng phạm. Không phạm: Cả hai đều là bà con. Nếu tự dệt để làm túi đựng bát, bện dây làm thắt lưng, làm khăn mũ thì được.

*24 Giới khuyên thợ dệt, thêm sợi:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, Cư sĩ đưa sợi cho thợ dệt, dệt y cho Bạt-Nan-Đà. Vị này sau đó đến nhà thợ dệt lựa những loại sợi tốt đưa cho thợ dệt, bảo dệt và hứa cho thêm tiền. Các cư sĩ chê trách, các Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo, có cư sĩ hoặc con cư sĩ bảo thợ dệt may y cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo trước không được tha hồ thỉnh. Nếu cư sĩ cho Tỳ-kheo giá tiền y, ít muốn biết đủ, cầu xin, không được thì tùy ý.

Tỳ-kheo tìm đến thợ dệt mới nói: Y này dệt cho tôi đó, nên dệt cho thật đẹp, rộng dài, bền chắc, tôi sẽ cho ông thêm tiền, dù chỉ một bữa ăn, nếu được y thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nếu cầu y không được thì phạm Đột-cát-la, ni cũng đồng phạm.

Không phạm: xin giảm ít, xin của bà con, xin người xuất giá, người khác xin cho mình.

*25 Giới giật y Tỳ-kheo:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Đệ tử của Nan-đà giỏi về hạnh khuyến hóa. Bạt-Nan-Đà ý muốn cho đi theo du hóa nên cho y trước. Có Tỳ-kheo khác nói: Người đó ngu si không biết tụng giới, thuyết giới, Bồ-tát Yết-ma, đi sau mà không theo. Người ấy liền giật lại y. Tỳ-kheo quở trách, Phật do đó chế giới.

Nếu Tỳ-kheo trước cho y Tỳ-kheo kia, sau đó vì tức giận giật lại hay bảo người giật lại:-Trả y lại cho tôi không cho ông đâu. Nếu tức giận giật lại hay bảo người giật lại và che giấu thì phạm. Giật mà chứa giấu thì phạm Đột-cát-la. Nếu lầy mà bỏ trên ghế, trên cây, trên giường nằm và đi chỗ khác thì phạm xả đọa. Không lìa chỗ thì phạm Đột-cát-la.

Kia nếu trả y mà lấy y thì phạm Ni-tát-Kỳ Ba-dật-đề. Ni cũng đồng phạm như tăng.

Không phạm là không tức giận nói rằng:-Ta hối hận, ta không cho ông đâu. Trả y lại cho ta. Người kia biết tâm nầy hối hận thì trả y lại. Nếu có người khác nói: Tỳ-kheo này hối hận muốn lấy y lại, vô đạo lý giựt lại thì không phạm vì sợ mất, sợ hoại. Nếu người kia phá giới, phá kiến, phá oai nghi. Nếu đáng diệt tẩn thì nên diệt tẩn. Nếu vì việc này mà bị phạm nạn. Tất cả giật lấy không che giấu thì đều không phạm.

*26/ Giới chứa thuốc quá hạn:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, có vị Tỳ-kheo bị bịnh phong vào mùa Thu mình mẩy khô gầy sinh ra lở loét.

Phật bảo: Có dầu sữa, bơ sống, mỡ mật cho người bịnh dùng đúng thời hoặc phi thời.

Khi Phật ngự tại La-duyệt-kỳ, đồ chúng của ngài Tất-lăng-già chứa các loại sữa mật chảy tràn lan, bị người đạo tục chê trách, bạch lại với Phật: Phật liền đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo bị bịnh: Nghĩa là thầy thuốc bảo uống các loại thuốc như thế.

Chứa các loại thuốc, bơ dầu, bơ sống, mật thạch v.v... được dùng trong bảy ngày. Nghĩa của câu tám môn đều như giới y ở trước.

Nếu dùng quá bảy ngày thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Ở đây nên xả cho tăng. Bạch trị tội xong thì trả lại thuốc cho người kia. Đúng theo pháp thì đến bảy ngày xả cho Tỳ-kheo. Người kia nên lấy dùng. Nếu quá bảy ngày thì dầu bơ quét lên cửa; Mật, thạch mật thì cho người giữ vườn. Dưới bảy ngày, bạch hai lần thì trả lại, Tỳ-kheo nên lấy dùng để đốt đèn.

Ba-dật-đề: Tỳ-kheo-ni đồng phạm.

Không phạm: Như xả dùng ở trên không khác nhau.

*27 Giới: quá trước một tháng xin áo tắm mưa, trước nửa tháng dùng tắm.

Phật ngự tại nước Xá-vệ, bà Tỳ-xá-khử thỉnh Phật và chúng tăng. Khi người hầu đến bạch thỉnh, thấy các Tỳ-kheo lõa hình tắm. Nhân đó mà phát tám nguyện được Phật khen ngợi. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị thường đến đó xin áo mưa. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Nếu Tỳ-kheo sau mùa xuân một tháng thì xin áo tắm mưa.

Ao tắm mưa: là Tỳ-kheo mặc áo tắm mưa. Có mười loại: Nên xin vào ngày mười sáu tháng ba.

Nửa tháng dùng áo tắm mưa để tắm, vào ngày mùng một tháng tư thì dùng.

Nếu Tỳ-kheo xin áo tắm mưa hơn trước một tháng là xin trước ngày mười sáu tháng ba.

Dùng tắm quá trước nửa tháng: Nghĩa là dùng trước ngày mùng một tháng tư.

Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề: Tỳ-kheo-ni phạm Đột-cát-la. Không phạm là: Nếu xả để làm cái khác, hoặc mặc tắm, hoặc giặt giũ thì không phạm.

*28 Giới: Thọ cấp y chứa quá trước quá sau:

Phật ngự tại Tỳ-lan-nhã, cho phép chúng tăng thọ y mùa hạ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị thường xin y, thọ y. BạtNan-đà an cư ở chỗ khác, thọ y ở chỗ khác. Khi ấy, Phật ở tại nước Xá-vệ. Có vị đại thần cúng dường an cư. Phật nhân đó khai ra mà chế giới này.

Nếu Tỳ-kheo còn mười ngày nữa chưa đủ ba tháng hạ. Nghĩa là sau ngày mười sáu và trước ngày mười lăm. Các Tỳ-kheo được y thí gấp: Nếu thọ thì được, không thọ thì mất, nên gọi là gấp. Y này có mười loại. Tỳ-kheo biết y thí gấp nên thọ. Thọ rồi thì nên chứa đúng thời y.

Y thời: là tự tứ xong không thọ y Ca-hy-Na. Một tháng thọ y năm tháng. Nếu tự tứ mười ngày, được y thí gấp, thọ rồi thì chứa từ một tháng đến năm tháng, cho đến ngày mai tự tứ thì nên thọ. Ngoài một tháng năm tháng thì tăng thêm chín ngày.

Nếu chứa quá thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề: Là thọ y thí gấp quá hơn trước hoặc quá hơn sau đều phạm xả đọa. Tỳ-kheo-ni cũng đồng phạm. Không quá trước không quá sau thì không phạm. Nếu bị cướp y, mất y, giữ hơn trước thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo đi xa gởi lại y, bị ngăn trở sông nước, đường xá quá thời về sau thì không phạm.

*29 Giới: ở lan-nhã có nghi ngờ, lìa y quá hạn:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Các Tỳ-kheo ở trong lan-nhã, bị bọn giặc đánh, đồng thời cướp mất đồ vật. Phật bèn bảo lưu lại một y gởi trong thôn xóm. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị gởi y đi du hành. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo, ba tháng hạ đã xong. Ca-đề một tháng đã đủ. Nghĩa là từ nửa tháng tám về sau.

Tại A-lan-nhã: Cách làng xóm năm trăm cung. Ở nước Giá-ma-la một cung dài bốn tấc. Dùng trong lượng tấc.

Nếu có nghi: Nghi có trộm cắp.

Nơi có sự sợ hãi: Trong chỗ có trộm cắp sợ hãi, Tỳ-kheo ở chỗ như thế, trong ba y muốn để lại một y gởi trong thôn xóm, thôn nghĩa là xóm vậy.

Các Tỳ-kheo có nhân duyên lìa y ngủ cho đến sáu đêm. Nếu có nhân duyên lìa y ngủ bảy đêm, sáng ra trước khi mặt trời mọc thì phải xả y, hoặc đụng y, hoặc đến kịp chỗ ném đá thì không phạm.

Nếu quá thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Khai duyên cũng giống như giới lìa y ở trước.

*30 Giới: Xoay vật của tăng về mình:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Có cư sĩ cúng dường y cho Phạm tăng. Bạt-Nan-đà nghe biết liền nói: Bố thí cho tăng đã nhiều, nay nên bố thí cho tôi. Về sau, cư sĩ thấy Tỳ-kheo Trưởng lão oai nghi đầy đủ liền hối hận than thở. Tỳ-kheo nêu tội, Phật do đó, đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo biết: Không biết thì không phạm.

Là vật của Tăng: Có ba thứ. Vật của Tăng; đã hứa cho Tăng, vì tăng: Vì tăng mà làm nhưng chưa hứa cho tăng. Đã cho Tăng rồi: Đã hứa cho tăng rồi thì xả cho. Vật của Tăng: cho đến các vật đựng ăn uống.

Tự cầu về cho mình: Nếu hứa cho Tăng thì chuyển cho tháp. Nếu hứa cho tăng bốn phương thì chuyển cho Tăng hiện tại. Hoặc tăng ni, hoặc chỗ khác. Hoặc trái với trên, hoặc nghi tưởng lẫn nhau, đều phạm Đột-cát-la.

Ni-tát-Kỳ Ba-dật-đề: Không phạm là: Nếu không biết, hoặc làm mà không nghĩ hứa. Hoặc hứa ít mà khuyên nhiều. Hứa ít người mà khuyên nhiều người cho vật tốt. Hoặc nói vui, nói lộn thì không phạm.

Các Đại đức! Tôi đã nói ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nay xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không (ba lần). Thưa các Đại đức! trong đây thanh tịnh vì im lặng, việc nên thọ trì như vậy.

QUYỂN TRUNG

Thưa các Đại đức! Đây là chín mươi pháp Ba-Dật-đề, nửa tháng thường tụng, xuất xứ từ trong giới kinh.

1. Giới cố nói dối: Phật ngự tại nước Thích sí-sấu: Thích tử Tượng lực giỏi về đàm luận, luận nghị với ngoại đạo bị thua, bèn nói trái lại những lời trước.-Nếu trong tăng hỏi thì nói ngược lại. Các Phạm chứ chê bai không có chánh pháp. Tỳ-kheo nêu tội bạch lên Đức Phật: Phật liền đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo biết: Nghĩa là thấy nghe xúc biết và không thấy biết, gồm có tám loại: Kiến là nhãn thức thấy được, cho đến ý thức biết được, không thấy là trừ năm thức như nhãn thức v.v...

Mà nói dối: Hoặc cảnh giới thấy nghe xúc biết. Hoặc tưởng hoặc nghi, bèn nói không thấy nghe xúc biết phạm Ba-Dật-Đề, cho đến không thấy nghe v.v... cũng thuộc giống như trên. Nếu vốn có ý muốn nói dối, và khi nói dối mà không nhớ thì phạm Đột-cát-la. Nếu trước sau không nhớ, thì ngay lúc nói dối mà biết thì phạm Ba-dật-đề.

Nếu chỗ thấy khác, chỗ nhẫn khác, chỗ mong muốn khác, chỗ xúc chạm khác. Chỗ nghĩ tưởng khác, chỗ tâm khác. Các việc nầy đều là nói dối, lúc nói giới cho đến ba lần hỏi nhớ nghĩ có tội, mà không nói thì phạm Độtcát-la.

Ba-dật-đề: Nếu nói không rõ thì phạm Cát-la. Ni cũng đồng phạm.

Ba chúng dưới phạm Cát-la.

Không phạm: Có tám thứ: không thấy nói không thấy, cho đến biết nói biết. Nếu ý có thấy nghĩ thì nói không phạm.

2. Giới mắng nhiếc:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị mắng chửi những người xử đoán sự việc trước kia. Các Tỳ-kheo bạch lên Phật. Phật lấy thí dụ các con vật. Loài súc sinh bị hủy nhục còn không thể chịu nổi, rồi Phật đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo chủng loại: Có nhiều chủng loại thấp hèn, giòng họ gia thế, hành nghiệp cũng thấp kém. Về kỹ thuật khéo léo cũng thấp. Hoặc nói:

-Ông phạm lỗi, hoặc nói nặng về kiết sử, hoặc nói đồ đui mù, v.v...

Đều dùng lời hủy nhục, mắng nhiếc Tỳ-kheo khác bằng sáu loại như thế. Hoặc mắng trước mặt, mắng bằng ví dụ, tự mắng đều phạm đọa. Nói không rõ thì phạm Đột-cát-la.

Ba-dật-đề: như nói pháp lành mà mắng trước mặt. Nói ta là, A-lan-nhã, cho đến ngồi thiền. Hoặc ví dụ mà mắng. Ông dường như ngồi thiền. Hoặc tự so sánh mà mắng chửi: nói ta chẳng phải như vậy. Nói rõ hay không đều phạm Đột-cát-la. Ni thì phạm xả đọa. Ba chúng khác phạm Đột-cát-la.

Không phạm: Vì làm lợi ích cho nên nói. Vì pháp, vì luật, vì dạy bảo, vì người thân hậu cho nên nói. Hoặc lúc cười vui lỡ nói. Hoặc nói lầm.

3 Giới hai lời:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị đem lời người này nói với người kia, làm cho chúng đấu tranh không thể nào dứt diệt. Các Tỳ-kheo bạch lỗi này lên Đức Phật. Phật liền dẫn dụ hai con thú dã can ưa đánh nhau, huống gì là con người. Sau đó Phật quở trách và đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo nói hai lưỡi: Nghĩa là mười chúng đấu loạn, muốn kia đây chia lìa...

Ba-dật-đề: Không phạm là muốn phá tri thức xấu ác, bè đảng xấu ác. Các vị Hòa-thượng, đồng sư, tri thức, bạn thân, nên dùng những lời nói vô nghĩa vô lợi, muốn dùng phương tiện mà không có lợi ích ý nghĩa, phá người như thế thì không phạm.

4. Giới ngủ chung một nhà với người nữ:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, A-Na-luật đi hành hóa ngủ lại nhà một dâm nữ, người nữ khỏa thân đến quấy nhiễu. Tôn giả bay lên hư không. Người nữ xấu hổ xin sám hối. Tôn giả nói pháp cho nghe, được đắc đạo. Các Tỳ-kheo nêu tội, Phật quở trách rồi đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo cùng với phụ nữ: Người nữ có sự hiểu biết, mạng căn không dứt.

Đồng thất: Bốn bên có mái tường, trên có che. Hoặc phía trước không có tường. Hoặc che mà không kín hết, hoặc che kín mà có chỗ khai.

Túc (đêm): Hoặc đến trước sau, hoặc đến một lượt, hoặc hơi hoặc nằm, hễ hông chạm đất, hoặc chuyển nghiêng đều phạm.

Ba-dật-đề: Hoặc ngủ chung với nữ phi nhân, Súc sinh cái, Hoàng môn nữ, người hai căn, đều phạm Độtcát-la. Ban ngày người nữ đứng, Tỳ-kheo nằm thì phạm Đột kiết la.

Không phạm: là không biết nhà kia có người nữ. Như phòng không che, hoặc che ít, che phân nửa, hoặc che hết. Các cú đều y cứ theo như trên. Hoặc lúc bịnh nằm, bị trói buộc nạn phạm hạnh, nạn sinh mạng thì cho khai.

5. Giới ngủ quá hạn với người chưa thọ giới cụ túc:

Phật tại thành Khoáng Dã, nhóm Tỳ-kheo sáu vị cùng với Trưởng giả ngủ ở giảng đường. Lúc ngủ tâm tán loạn nên mình mẩy lõa lồ ra bị họ chế nhạo. Các Tỳ-kheo bạch lên Đức Phật, nhân đó Phật đặt ra giới. Lúc Phật ở nước Câu-Diệm-Di lại khai cho hai ba đêm, kết lại giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo cùng người chưa thọ đại giới: Trừ Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni là những người chưa thọ đại giới.

Cùng ngủ: Là ngủ chung nhà như ở trước đã nói: Quá hai đêm cho đến ba đêm, hoặc hai đêm, hoặc ba đêm, sáng mặt trời chưa mọc thì tránh đi. Đến bốn đêm, hoặc tự đi, hoặc bảo người chưa thọ đại giới đi.

Ba-dật-đề: Nếu ngủ quá ba đêm với phi nhân, Súc sinh đực, tất cả đều phạm Đột-cát-la. Khai duyên đồng như giới trước.

6. Tụng giới với người chưa thọ giới cụ túc:

Phật ngự tại thành Khoáng Dã, nhóm Tỳ-kheo sáu vị cùng các vị Trưởng giả tụng kinh ở Giảng đường. Âm thanh quá lớn làm động các vị ngồi thiền. Tỳ-kheo nêu tội, bạch lên Đức Phật, Phật do đó mà đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo cùng với người chưa thọ đại giới: Như trên đã nói.

Cùng tụng: Nghĩa là tụng cú nghĩa, chữ nghĩa câu cú. Chẳng phải cú nghĩa cũng như vậy.

Nói cú nghĩa, là đồng tụng không trước, không sau.

Phi cú nghĩa: Như một người nói: "các điều ác chớ làm" chưa xong thì người thứ nhất tiếp ngay.

Cú vị: Là nhãn vô thường, v.v... Phi cú vị: Là sao lại trước.

Tự nghĩa: Là đồng tụng chữ A, phi tự nghĩa là sao lại chữ A ở trước.

Pháp: Nghĩa là Phật nói chánh pháp cho Thanh văn, các vị tiên, các vị trời nghe.

Ba-dật-đề: Nếu cùng tụng một thuyết, hai ba thuyết, hoặc miệng trao, sách trao. Hoặc rõ hay không rõ và súc sinh, phi nhân đều phạm tội Đột-cát-la. Hoặc thầy không dạy rằng: Ta nói xong ông hãy nói, thì Thầy phạm Cátla.

Không phạm: Ta nói xong ông hãy nói, một người tụng xong một người đọc. Nếu đồng nghiệp, đồng tụng, hoặc do vui cười mà nói, nói lầm kia đây, đều không phạm.

7. Giới nói tội thô:

Phật ngự tại thành La-duyệt, có Tỳ-kheo Ba-lợi-Bàsa ma-na-đỏa đang hành tọa ở dưới. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị vì có phạm tội nên nói với những người tại gia. Người có lỗi và các Tỳ-kheo đều hổ thẹn! Tỳ-kheo nêu tội, Phật quở trách và đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo biết người đó: Không biết thì khai.

Có tội thô ác: Phạm bốn Ba-la-di, Tăng-già-Bà-thi-sa.

Hướng về người chưa thọ Đại giới. Trừ Tăng có làm Yết-mạnh mẽ, phạm ba-dật-đề. Trừ tội thô, đem tội khác mà nói đó: Tự nói thô tội, tội người khác. Tất cả phạm Đột-cát-la. Không phạm là nếu không biết, hoặc chúng tăng sai, hoặc tưởng chẳng phải tội thô, hoặc nghe người tại gia nói trước rồi thì không phạm.

8. Giới: Nói thật đã đắc đạo với người tại gia.

Phật ngự tại Tỳ-xá-ly. Vì trước có duyên đại vọng ngữ, liền hợp tăng lại quở trách rồi đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo hướng về người chưa thọ đại giới nói pháp hơn người, nói tôi thấy như vậy, biết như vậy là thật, đó là phạm Ba-dật-đề, đồng thời như thiên đầu ở trên, hoặc nói nghiệp báo, hoặc vui cười nói lầm thì không phạm.

9. Giới nói pháp riêng cho người nữ.

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Ca-lưu-Đà-Di ở trước người Cô cùng với các bé gái nói pháp. Do người cô hỏi han. Tỳ-kheo nêu tội. Phật do đó đặt ra giới. Sau khai ra năm sáu lời và người có trí nói quá hạn, v.v... Nếu Tỳ-kheo cùng người nữ: như trên.

Nói pháp quá năm: Là sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô ngã. Sáu lời: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý vô thường.

Trừ người nam có trí: Hiểu việc nào thô ác, việc nào không thô ác.

Ba-dật-đề! Nếu nói không rõ thì phạm Đột-cát-la.

Nếu nói lỗi với phi nhân, súc sinh thì cũng vậy.

Không phạm: Nếu nói năm, sáu lời và người nam có sự hiểu biết: Nếu không có thì tùy theo lời hỏi mà đáp. Hoặc thọ năm giới ưu-Bà-di. Cho đến nói năm giới pháp và thọ giới Bát quan trai, nói pháp Bát quan trai, tám thánh đạo, mười pháp bất thiện. Người nữ hỏi nghĩa không giảng nói rộng ra, đều được.

10. Giới đào đất:

Phật ngự tại thành Khoáng Dã, nhóm Tỳ-kheo sáu vị vì Phật mà lo sửa sang giảng đường, rào chung quanh rồi tự đào đất, các vị Trưởng giả chê trách rằng, không biết chánh pháp, cắt đứt mạng sống vật khác, bèn bạch lên Đức Phật, Phật nhân đó đặt ra giới này. Sau, nhóm Tỳ-kheo sáu vị dạy người sửa lại giảng đường, nói Quật nghĩa là đặt (trí) an trí, các trưởng lão lại chê trách. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Như Tỳ-kheo tự tay đào, hoặc dùng cuốc xẻng đào xới cho đến hái rau quả làm thương tổn sinh vật, bổ cuốc vào đất, nổi lửa trên đất và tưởng có đất.

Đất: là đất chưa đào hoặc đất đã đào, vào tháng tứ gặp trời mưa dầm thi hoàn lại như cũ.

Hoặc dạy người đào: Nếu không nói rằng xem đây biết đây thì phạm Đột-cát-la.

Ba-dật-đề: Hai chúng dưới phạm Đột-cát-la, thiên dưới cũng đồng như vậy.

Không phạm: Nếu nói "biết đây xem đây", hoặc kéo cây trong xóm, hoặc dùng làm rào, hoặc lấy gạch đá giữ phân bò, hoặc phá vỡ đất núi, hoặc hang chuột v.v... Trừ chỗ kinh hành và đất trong nhà, hoặc qua lại kinh hành quét đất, không cố ý đào tất cả không phạm.

11. Giới phá hoại hạt giống chúng sinh:

Phật ngự tại thành Khoáng Dã, họp tăng lại bảo rằng: Có một Tỳ-kheo sửa sang phòng ốc mà tự chặt cây, đó chẳng phải pháp sa-môn, Ngài quở trách rồi chế giới.

Nếu Tỳ-kheo hoại: Nếu chặt phá làm rơi rớt đều gọi là Hoại. Quỷ thần: Là phi nhân.

Xóm: Là nơi nương ở của cây cỏ, súc sinh, quỉ thần. Xóm có năm loại là: Căn chủng (gốc), chí chủng (cành), tiết chủng, phú la chủng, và tử tử chủng.

Ba-dật-đề: Hoặc nghĩ là có chủ, tự chặt hoặc bảo người chặt, tự đốt bảo người đốt, đều phạm xả đọa, sinh nghi thì phạm Đột-cát-la. Cây cỏ có bảy thứ sắc, tự hoại bảo người hoại thì phạm xả đọa. Sinh nghi và tưởng thì phạm Đột-cát-la. Hoặc đóng đinh cột ở chỗ sinh cỏ cây, hoặc đốt lửa đều phạm xả đọa. Nếu chặt đứt phần nhiều cỏ cây sống thì phạm xả đọa. Chặt đứt nửa làm khô cây và không nói "biết đó xem đó" thì phạm Đột-cát-la.

Không phạm: Nếu nói "xem đó biết đó", hoặc chặt cây cỏ khô héo. Nếu nơi có cỏ cây xanh mà chặt cây chặt trúc. Làm hàng rào, đẽo đá lấy phân bò. Hoặc nơi cỏ cây sinh trưởng dùng cây gậy ngăn chặn. Hoặc dùng gạch đá che chắn làm bị hư hoại cây cỏ. Hoặc trừ chỗ đất kinh hành, hoặc quét chỗ kinh hành. Hoặc dùng gậy cắm xuống đất lỡ làm hại cỏ thì không phạm.

12. Giới dùng lời nói làm xúc não:

Phật ngự tại nước Câu-Diệm-tỳ, Tỳ-kheo Xiển-đà phạm tội, Tỳ-kheo khác vặn hỏi thì lấy việc khác để đáp. Đem lỗi đó bạch lên Phật, Phật liền quở trách, sau Xiểnđà lại dùng lời khác làm xúc não tăng, bảo đến không đến, cho đến không nên nói mà nói. Các Tỳ-kheo bạch lỗi đó lên Đức Phật, Phật quở trách rồi lại xúc não, do đây mà Phật đặt giới.

Nếu Tỳ-kheo nói vọng lời khác, Tăng chưa bạch trước lại nói lời khác:-Ông nói ai? Nói việc gì? Luận theo lý gì? Vì tôi hay vì người khác mà nói, tôi không thấy được tội này, tất cả đều phạm Đột-cát-la. Nếu tác bạch rồi mà nói như thế thì phạm xả đọa.

Xúc não người: Như trong duyên trước, cho đến không nên nói mà nói. Tất cả phạm Đột-cát-la. Bạch rồi mà nói thì phạm Ba-dật-đề.

Ba-dật-đề: Nếu Thượng tọa gọi mà không đến phạm Cát-la.

Không phạm: Nghe lại vì không rõ, lời nói trước có sai lầm. Ông nói ai, cho đến nói tôi không thấy tội này. Hoặc làm yết-ma phi pháp không có lợi ích, không hòa hợp nhau, gọi đến không đến. Hoặc làm Yết-ma phi pháp. Nếu không muốn biết, dạy chớ đến lại đến. Nếu một chỗ ngồi thọ thực, hoặc không làm các pháp thọ thực khác. Hoặc bịnh kêu dạy không dạy. Bị nạn về phạm hạnh, về tánh mạng, bảo chớ dậy mà dậy. Nếu có tâm ác hỏi mà không cho nói. Hoặc làm việc phi pháp liền quở trách hoặc nói ít, hoặc nói lầm, tất cả đều không phạm.

13. Giới: chê mắng vị Tri sự:

Phật ngự tại thành La-duyệt. Tỳ-kheo Đạp-Bà-ma, Tăng sai làm Tri sự. Tỳ-kheo Từ Địa theo chỗ nhãn kiến bình đẳng của mình mà bị chê trách. Đem lỗi đó bạch lên Đức Phật, Phật liền chế giới. Sau lại bị mắng chửi về chỗ nghe. Lại bạch lên Đức Phật, Phật chế lại giới trước. Nếu Tỳ-kheo chê bai: Nghĩa là diện kiến chỗ không nghe nói là có thương giận sợ si...

Mắng: Đối với điều không thấy nghe mà mắng chửi. Ba-dật-đề: Nếu không nghe lời Thượng tọa dạy mà hiềm trách thì phạm Đột-cát-la.

Không phạm: là thật có việc ấy, sợ sau hối hận, khiến cho đúng như pháp mà phát lồ, liền nói có thương giận sợ si. Nếu vui cười nói lỡ lời thì không phạm.

14. Giới: ở chỗ đất trống bày vật của tăng:

Phật ngự tại Xá-vệ: có vị Trưởng giả thỉnh tăng. Nhóm Tỳ-kheo mười bảy vị bày đồ ngồi của tăng ra đất để đi kinh hành. Đến giờ thọ thực lại không thu dọn, bị gió bụi trùng chim làm cho dơ bẩn. Chúng tăng đem lỗi này bạch lên Đức Phật: Phật quở trách rồi đặt ra giới nầy. Nếu Tỳ-kheo lấy vật của tăng: Vật chúng tăng là thuộc tăng, có ba loại.

Thằng sàng (giường dây) có năm loại: gồm chân xoay, chân đặt, chân cong, đặt vào bệ, không chận.

Giường cây: Cũng như trên đã nói. Hoặc đồ nằm:

Dùng để nằm, hoặc ngồi. Đồ ngồi: Thường dùng để ngồi. Trải ra đất hoặc bảo người trải rồi bỏ đi, không tự dọn dẹp hay nhờ người dọn dẹp, phạm Ba-dật-đề.

Kia đem vật của tăng giao cho Tri sự và nói: Ta giao cho ông trông coi giữ gìn. Nếu không có người dùng thì đưa chỗ khác che đậy. Nếu không có (chỗ che) thì biết là vô hại. Nếu lấy vật thô che trên vật tốt. Nếu trở lại ngay thì nên đi, tùy nhanh kịp lúc mưa và trở lại kịp thì nên đi. Người kia lần lượt phương tiện làm như thế rồi đi. Nếu không làm thì vừa bước ra cửa liền phạm xả đọa. Nếu phương tiện hoàn trả lại tất cả phạm Đột-cát-la.

Nếu hai người ngồi chung, thì vị hạ tọa nên thâu lại, nếu không thì phạm hai tội.

Thượng tọa phạm một xả đọa. Nếu đều không thâu thì cả hai đều đọa.

Nếu là giường ngồi, giường cây v.v... không thâu và đồ nằm thì tất cả phạm Đột-cát-la. Nếu trải bày vật của chúng tăng mà không vào phòng tư duy phạm Đột-cátla

Không phạm: Đi lúc bày vật tăng ra, nói với người đến trước, người kinh doanh Ma-ma-đế kinh doanh khiến cho cho biết. Tất cả các phương tiện như trên đều không phạm.

15. Giới: Trải vật chúng tăng ở chỗ có che đậy:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Có khách tăng ở phòng bên trải đồ nằm ngủ nghỉ, không nói mà bỏ đi, đồ nằm bị trùng dế cắn hư nát. Tỳ-kheo bạch lên Đức Phật, do đó chế ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo vào phòng tăng trải đồ ngồi: nghĩa là giường cây, giường dây, mùng mền, chiếu gối trải dưới đất, cho đến nệm nằm.

Nếu tự trải hay bảo người trải, hoặc ngồi hoặc nằm, khi bỏ đi không dọn dẹp hay nhờ người dọn dẹp: Kia nên nói với vị Tỳ-kheo cựu trụ rằng: Cho tôi trải ngồi. Nếu không có người thì không sợ mất. Nên dời giường cách với tường chân giường cao lên. Đặt gối mền vào trong, dùng các vật thô đậy lên. Nếu sợ hư hoại, thì đem đồ nằm và các vật dụng để trên giá y, dựng đứng giường lên rồi đi. Nếu không thì vừa ra khỏi giới liền phạm tội đọa. Muốn đi mà hối hận trở lại thì phạm Đột-cát-la. Nếu trở lại không bao lâu thì cho hai đêm ở bên ngoài. Đêm thứ ba, khi mặt trời chưa mọc thì không được tự đến, không nhờ người giữ thì phạm đọa.

Ba-dật-đề: trong không phạm: Như phương tiện ở trên là ở ngoài giới bị ngăn cách bởi đường xá sông nước, bị các duyên nạn sinh mạng, nạn phạm hạnh thì khai cho.

16. Giới trải đồ nằm đại:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo mười sáu vị và mười bảy vị đi chung đường, đến chỗ không trụ xứ, mười bảy vị tự tìm được chỗ ở, con sáu vị biết tìm được chỗ ngủ đêm, bắt buộc trải đồ ngồi trong đó ngủ nghỉ. Tỳ-kheo bạch Phật: Phật liền chế giới.

Nếu Tỳ-kheo biết, không biết thì khai, Tỳ-kheo trước đến trụ, người đến sau cưỡng bức ở trong đó, hoặc bên đầu, hoặc bên chân, hoặc hai bên hông.

Trải đồ ngồi: trải có lá cho đến trải nệm dưới đất để nằm.

Người kia trải đồ ngồi ngủ nghỉ và nói: Người đó sẽ chê chật bỏ đi. Nhân duyên như thế là chẳng đúng oai nghi, phạm Ba-dật-đề. Nghĩa là tùy theo vừa đặt lưng nằm xuống thì phạm kiết la.

Không phạm: Trước không biết hoặc nói đã trụ, trước cùng mở ra, hoặc rộng hẹp không có trở ngại. Hoặc người thân cựu dạy rằng:-Hãy trải ra, rồi tôi sẽ nói với chủ. Hoặc bịnh, hoặc té dưới đất. Nếu bị thế lực níu kéo, hoặc bị buộc ràng, hai nạn sinh mạng và phạm hạnh thì không phạm.

17. Giới: Kéo người ra khỏi phòng:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị và mười bảy vị cùng đi trên đường. Đến một ngôi nhà nhỏ, nhóm mười bảy vị đi trước vào chùa quét dọn sạch sẽ. Nhóm sáu vị biết chỗ đó tốt bèn vào xua đuổi, lôi kéo các vị ra. Tỳ-kheo đem lỗi ấy bạch với Đức Phật: Phật liền đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo tức giận không muốn Tỳ-kheo kia ở trong phòng, tự kéo ra hay bảo người kéo ra: Nếu tự làm, bảo người làm, tùy theo nhiều ít mà phạm tội xả đọa. Nếu ném vật của người ra khỏi phòng, đóng cửa nhốt người ở ngoài đều phạm Đột-cát-la.

Ba-dật-đề: Không phạm là không có tâm tức giận đuổi ra, đuổi người chưa thọ giới, hoặc người phá giới, phá kiến, phá oai nghi và bị diệt tẫn. Do đây mà đuổi người bị nạn phạm hạnh, nạn sinh mạng thì đều khai cho.

18. Giới ngồi trên giường sút chân:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, các Tỳ-kheo ở trên lầu, ngồi giường sút chân, chân giường sứt ra đè lên các Tỳ-kheo làm thân thể bị thương chảy máu, ông tức giận ngửa mặt lên mắng chửi. Chúng Tỳ-kheo nêu tội, Phật quở trách rồi đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo ở trong phòng: Nghĩa là phòng Tăng hoặc phòng riêng.

Hoặc trên lầu nhiều tầng: Nghĩa là đứng, đầu không đụng ở trên. Giường dây hoặc giường cây chân rời: chân rời là chân tra vào bệ.

Hoặc nằm hoặc ngồi: lưng đặt xuống giường.

Ba-dật-đề: Trừ bước chân lên giường rồi, nếu ngồi riêng trên giường, hoặc giường một ván, giường tục, tất cả phạm Đột-cát-la.

Không phạm: Nếu ngồi trên chân giường xoay, chân giường đặt yên, chân còng, giường không chân, v.v...

19. Giới dùng nước có trùng:

Phật ngự tại Câu-Diệm-Di, Xiển-đà xây thất, hòa bùn nước có trùng và dạy người hòa. Các Trưởng giả trông thấy chê trách là làm hại chúng sinh, không phải chánh pháp. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo biết: không biết thì không phạm. Nước có trùng hoặc tưới lên bùn, lên cỏ, dạy người tưới. Hoặc ném cỏ đất vào đất có trùng. Hoặc nước có trùng bỏ vào nước sữa, hoặc tưới vào bùn cỏ. Tất cả đều phạm xả đọa, dạy người cũng như vậy.

Ba-dật-đề: Không phạm: là không biết nước có trùng nghĩ là không trùng. Hoặc loài trùng lớn dùng tay khuấy lên cho nó bò đi, nếu lọc nước rưới lên đất hoặc dạy người rưới, tất cả đều không phạm.

20. Giới lợp nhà quá hạn lượng:

Phật ngự tại nước Câu-Diệm-di, Xiển-đà xây thất, lợp nhiều lớp làm cho nhà bị sập. Cư sĩ chê trách, bảo đàn việt tuy cúng dường cũng phải biết đủ. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo xây phòng xá lớn: phải dùng nhiều vật liệu. Cửa lớn, cửa sổ và các món trang sức phải chạm khắc, sơn vẽ.

Chỉ cho lợp bằng tranh: có hai hình thức là lợp ngang và lợp dọc.

Chừng hai, ba bóp tay, nếu quá: Tỳ-kheo kia trao cho chừng ba lóng tay chưa xong thì đến chỗ không thấy, không nghe. Nếu không đến chỗ không thấy nghe thì khi ba lóng tay xong liền phạm đọa.

Ba-dật-đề: Hoặc bỏ chỗ thấy nghe thì phạm Kiết la. Không phạm: Như trên chỉ trao cho chỗ lìa xa thì khai cho.

21. Ni đón rước giáo thọ:

Phật ngự tại nước Xá-vệ: ni Đại Ái đạo đến thỉnh giáo thọ. Phật sai tăng đến, Tăng theo thứ lớp Bàn-Đà đến đó nói pháp. Đến lượt nhóm Tỳ-kheo sáu vị đến thì toàn nói thế luận. Bà Ái Đạo bạch với Phật, Phật liền Yết-ma sai và đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo tăng: Một nói giới, một Yết-ma. Bất sai: Không ở trong tăng bạch hai lần Yết-ma.

Giáo thọ: Có tám điều không trái luật, văn nói ra đầy đủ.

Tỳ-kheo-ni phạm Ba-dật-đề: Hoặc lúc nói giới, trên tòa hỏi đáp rồi, hoặc tăng sai. Hoặc tùy theo ni thỉnh, Tỳ-kheo đúng thời đến.

Ni cũng đúng lúc đón rước, nếu trái đều phạm Cátla. Nếu nghe tăng đến nên ra ngoài nửa do-tuần đón rước, cung cấp những vật cần dùng, không thì phạm Cátla. Nếu tăng không sai, chẳng dạy trao cho nói tám điều không trái pháp thì phạm Đột-cát-la. Nếu không Yết-ma sai mà nói pháp thì bị đọa. Nếu tăng bịnh không hòa hợp, chúng không đầy đủ, nên sai người đến lễ bái thăm hỏi. Nếu không thì phạm Cát-la. Hai chúng Tỳ-kheo v.v.. phạm Cát-la.

Không phạm: Tỳ-kheo-ni đã y các phương tiện ở trên rồi mà vì ngăn trở đường xá sông nước khó đến thăm hỏi lễ bái thì khai cho.

22. Giới nói pháp cho ni đến tối:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Tăng sai Nan-đà làm giáo thọ cho ni. Bà Ái Đạo lại thỉnh nói pháp nữa, cho đến khi trời tối. Các ni ra ngoài thành Kỳ-hoàn tạm ngủ qua đêm. Các cư sĩ chê bai, Tỳ-kheo bạch lên Phật, Phật liền quở trách chế giới.

Nếu Tỳ-kheo vì tăng sai: một là giáo thọ, hai là Yết-ma. Giáo thọ: Trong chúng tăng sai bạch nhị Yết-ma.

Tỳ-kheo-ni cho đến chiều tối: vị kia được tăng sai làm Giáo thọ cho Ni, xong nên trở về lúc mặt trời chưa lặn. Giáo thọ trừ khi thọ kinh, tụng kinh, hoặc hỏi, hoặc làm việc khác cho đến chiều tối. Ni nếu vì người nữ thọ kinh của người khác cho đến chiều tối thì phạm Đột-cát-la.

Ba-dật-đề: Chúng ni phạm kiết la.

Không phạm: Là giáo thọ ni chưa tối đã nghỉ dạy, trừ phụ nữ đã vì người khác, nếu nói pháp phải qua thuyền, Ni tự đến nghe, hoặc nói pháp qua đêm cho cổ khách, hoặc trong chùa ni, hoặc nhân người thỉnh thì khai.

23. Giới chê bai giáo thọ:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, ni nghe giáo thọ ni đến liền ra ngoài đón rước.

Nhóm Tỳ-kheo sáu vị sinh tâm ganh ghét nói: Vị kia không thật vì muốn ăn mà làm Giáo thọ ni. Tỳ-kheo bạch lỗi lên Đức Phật, Phật liền đặt ra giới.

Nếu Tỳ-kheo nói: Các Tỳ-kheo vì muốn uống ăn mà làm giáo thọ ni thì phạm Ba-dật-đề. Nếu nói không rõ ràng thì phạm Đột-cát-la.

Chúng Tỳ-kheo ni phạm Cát-la. Không phạm là khi sự thật như thế. Vì muốn cúng dường thức uống ăn nên làm Giáo thọ. Vì việc uống ăn nên dạy tụng kinh, thọ kinh. Hoặc hỏi, hoặc cười, hoặc nói lầm thì không phạm.

24. Giới đem y cho Ni chẳng phải bà con:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Có vị Tỳ-kheo đi khất thực oai nghi đầy đủ. Ni trông thấy sinh tâm kính tin và thường thỉnh. Tỳ-kheo không nhận, sau tăng chia y cho, liền đem y đó cho Ni, ni liền nhận. Người kia đem việc đó nói với người khác và chê trách ni. Tỳ-kheo đem việc ấy bạch lên Phật. Phật quở trách và đặt ra giới này.

Y của Tỳ-kheo-ni: Có mười loại như trên.

Trừ trao đổi: Đem y đổi y, đổi tiền bạc đồ vật, hoặc tơ sợi cho đến cỏ thuốc, v.v...

Ba-dật-đề: Chúng Tỳ-kheo-ni phạm Cát-la. Không phạm là cho ni là bà con hoặc trao đổi với nhau. Nếu vì tháp, vì Phật, Tăng thì không phạm.

25.May y cho ni không bà con: Phật ngự tại nước Xá-vệ, Ca-lưu-đà-di may chiếc đại y, có thêm hình hai người đang hành dâm. Xong rồi giao cho ni mặc ngồi ở sau chúng. Người thế tục chê cười, các ni đến thưa với Phật. Do đó Phật đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo may y cho Tỳ-kheo ni chẳng phải bà con thì phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo kia dùng dao cắt nhiều ít, hễ một nhát cắt, một mũi kim đều phạm xả đọa. Nếu lại mặc xem kéo ra cho thẳng, dùng tay sờ mó kéo góc đầu ra v.v... đều phạm Đột-cát-la. Ni cũng phạm kiết la.

Không phạm: May y cho ni bà con, may cho tăng, hoặc vì tháp, hoặc giặt nhuộm để trả cho chủ thì không phạm.

26.Giới ngồi với ni:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, Ca-lưu-Đà-di và ni Luânlan-nan-đà dung mạo xinh đẹp, hai người khởi dục ý ra ngoài cửa ngồi với nhau. Các cư sĩ chê cười gọi là đôi uyên ương, Tỳ-kheo nghe liền bạch lên Đức Phật, Phật liền đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni: Một chỗ nghĩa là một Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo ni.

Ở chỗ che khuất: Có hai thứ: thấy chỗ che khuất, là nơi tăm tối khói sương che mù không thấy.

Nghe có chỗ che: cho đến không nghe mà thường nói nghe.

Chướng: Hoặc cây, hoặc tường, hàng rào hay là y áo, hoặc dùng vật che chắn.

Hoặc ngồi: Hoặc người thứ ba mù mà không điếc, điếc mà không mù. Hoặc đứng: tất cả phạm Cát-la.

Ba-dật-đề: Ni phạm Cát-la.

Không phạm: Nếu Tỳ-kheo có bạn, có người có trí không mù không điếc. Nếu đi qua bị ngã xuống đất, hoặc bịnh, hoặc bị thế lực níu kéo. Nạn tánh mạng, phạm hạnh thì khai cho.

27. Giới đi chung với ni:

Phật ngự tại Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị và nhóm Tỳ-kheo-ni sáu vị du hành trong nhân gian. Các Cư sĩ chê trách, Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền quở trách chế giới.

Nếu Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni: là nói cùng đến thành ấp, xóm làng đó.

Cùng đi chung một đường: là chỗ có phạm vi trong xóm.

Từ một làng đến một làng, tùy theo ranh giới mà phân chúng nhiều, mỗi mỗi phạm xả đọa.

Nếu đến nơi không có làng xóm, cho đến mười dặm thì phạm xả đọa. Nếu dưới một làng, dưới mười dặm, nhiều làng đồng một giới mà đi, và phương tiện cùng hẹn đi. Tất cả phạm Đột-cát-la. Trừ thời khác phạm Ba-dật-đề. Thời khác đó có cùng khách đi, hoặc nghi có bọn trộm cướp

Sợ hãi: sợ có bọn trộm cướp.

Đó gọi là khác thời: các ni thì phạm Đột-cát-la.

Không phạm: là không hẹn nhau. Cùng các bạn đi đông vì nghi có sợ hãi, nếu đến kia được an ổn, hoặc bị thế lực níu kéo, bị nạn mạng sống, phạm hạnh thì khai cho.

28. Giới ngồi chung xe thuyền với ni:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị và nhóm Tỳ-kheo-ni sáu vị cùng ngồi chung thuyền qua lại trên sông. Các cư sĩ chê bai, Tỳ-kheo nêu tội bạch lên Đức Phật. Do đây Phật chế giới.

Nếu Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni hẹn nhau cùng ngồi thuyền qua sông. Nếu đã lên thuyền thì phạm xả đọa, các phương tiện khác thì phạm Đột-cát-la.

Trừ đi thẳng qua, phạm Ba-dật-đề: Chúng ni phạm Cát-la.

Không phạm: Không hẹn hoặc đi thẳng qua bên kia, hoặc đến bờ kia không được an ổn. Hoặc bị thế lực níu kéo. Bị nạn duyên phạm hạnh, tánh mạng thì không phạm.

29. Giới được ni khen ngợi mà có thức ăn:

Phật ngự tại Xá-vệ, có cư sĩ thỉnh ngài Xá-lợi-phất và chư tăng thọ thực trên những đồ ngồi tốt đẹp. Ni Luận-lan-Nan-Đà nhìn thấy liền vọng nói: người được thỉnh đó đều là thấp hèn, nếu ta thỉnh thì chỉ thỉnh ngài Điều-đạt là bậc long tượng.

Chư tăng thọ thực xong về bạch lên Đức Phật, Phật quở trách chế giới. Nếu Tỳ-kheo biết: không biết thì không phạm.

Tỳ-kheo ni khen ngợi giáo hóa. Nghĩa là người khất thực trong A-lan-nhã, cho đến cầm ba y khen ngợi kệ, khen ngợi Pháp sư học rộng, ngồi thiền trì luật.

Nhân duyên được ăn: Từ sáng đến giờ ngọ được ăn. Trừ đàn việt có ý trước thì phạm Ba-dật-đề. Nghĩa là mỗi miếng ăn phạm một tội đọa. Trừ khi ẩm thực, hơ y lõa hình thì phạm Cát-la. Ni phạm Cát-la.

Không phạm: Hoặc không biết, hoặc đàn việt có ý trước, hoặc không nghĩ là giáo hóa, hoặc ni tự làm. Hoặc đàn việt bảo ni sửa soạn. Nếu không cố ý giáo hóa, mà khất thực cho thì không phạm.

30. Giới đi chung với người nữ.

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Những người phụ nữ tranh nhau trở về Tỳ-xá-ly. Bấy giờ, A-na-luật muốn đi đến nước kia nên theo cô gái này làm bạn. Người chồng đuổi theo đánh A-Na-luật, gần như mất mạng. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch lên Đức Phật, Phật liền đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo cùng phụ nữ: Như trên.

Cùng hẹn đi trên một đường, cho đến vào trong làng, phạm Ba-dật-đề.

Hoặc đi trong một ranh giới trong làng cùng bốn chúng như ni v.v... đều phạm Đột-cát-la.

Không phạm: Trước không biết, không có hẹn, cần đi đến kia được an ổn. Nếu bị thế lực hay các nạn thì khai cho.

31. Giới: Thọ quá thực xứ:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Ở nước Câu-tát-la có làng Vô Trụ. Có cư sĩ làm trụ xứ thường cúng dường chúng tăng một bữa ăn. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị thường đến thọ.

Cư Sĩ nói: Tôi vốn chỉ cung cấp chỗ ngủ một đêm. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền kiết giới.

Nếu Tỳ-kheo, chỗ bố thí thọ thực một chỗ. Ở trong đó một đêm cũng là thọ thực, cho đến thời thực.

Vô hình: Người bịnh lìa xa làng xóm càng dữ dội.

Tỳ-kheo nên thọ một lần. Nếu thọ quá thì mỗi miếng ăn phạm một tội đọa. Trừ thọ thực, tho sấn, y áo, đèn đuốc thì phạm Đột-cát-la.

Ba-dật-đề: Ni cũng đồng phạm.

Không phạm: Thọ thực bị bịnh ở qua đêm, hoặc cư sĩ thỉnh trụ, ta là Sa-môn Thích tử nên sửa soạn bữa ăn này. Hoặc đàn việt theo thứ lớp thỉnh, hoặc trẻ con phụ nữ theo thứ lớp thỉnh. Hoặc bữa nay thọ người này, mai thọ người khác. Hoặc đường xa khó khăn ngăn trở.

32. Giới bối thỉnh:

Phật từ La-duyệt-kỳ đi du hành trong nhân gian đến nước A-na-Tần-đà. Sa-nâu được thí chủ cúng cháo, Ngài liền thọ cháo đặc. Lại do lễ tiết nên đàn việt đem thức ăn đến. Người thế tục chê trách nhân đó Phật chế giới.

Nếu Tỳ-kheo xoay vần: Nghĩa là thỉnh.

Có hai loại: Như tăng thứ lớp thỉnh, thỉnh riêng. Thực: Các món bún miến, cơm khô...

Trừ thời thực, phạm Ba-dật-đề. Thời khác là lúc bịnh không thể ăn một lần.

Thí y thời: Tự tứ xong, không có y Ca-Hy-na tháng một mà có tháng năm. Hoặc có thí thực và y khác.

Là thời: Hoặc không xả trước khi thỉnh thọ, sau khi thỉnh mỗi miếng ăn phạm một tội xả đọa. Nếu không xả, thỉnh sau lại thọ thỉnh trước thì mỗi miếng ăn phạm một tội Cát-la.

Không phạm: Lúc người bịnh thí y, nếu trong một ngày có nhiều người thỉnh. Tự thọ một nơi còn những nơi khác thì bố thí cho người khác. Hoặc cho phi thực, hoặc không đủ, hoặc người không thỉnh thọ thực. Hoặc ăn rồi lại được thọ thêm, hoặc một chỗ có thọ trước thọ sau thì khai cho thọ.

33. Giới thọ thực riêng chúng:

Phật ngự tại nước La-duyệt-kỳ, Đề-Bà-đạt-đa xúi người hại Phật. Lại bảo vua A-xà-thế giết cha. Tiếng ác truyền khắp nơi và việc lợi dưỡng bị cắt đứt Ông và năm vị Tỳ-kheo đi khất thực. Tỳ-kheo đem lỗi này bạch lên Đức Phật, Phật quở trách rồi chế giới.

Hoặc Tỳ-kheo riêng chúng: Bốn người hoặc hơn bốn người. Thực: Làm món cơm cốm bánh v.v... Trừ thời khác thì phạm Ba-dật-đề. Thời khác là lúc bịnh.

Thời may y: Bạch tự tứ xong không có y Ca-Hy-na một tháng, mà có y Ca-hy-na năm tháng.

Cho đến trên y may một đường như răng ngựa. Thời thí y: Đồng như giới trước.

Lúc đi đường: dưới đến nửa do-tuần có đến có đi. Lúc đi thuyền: nửa do-tuần lên xuống xe thuyền.

Lúc đại chúng nhóm họp: Ăn đủ bốn người, thêm một người thì lo năm người, mười người cho đến trăm người, thêm một người là hoạn.

Lúc sa-môn thí thực: Ngoài người xuất gia là Samôn Thích tử và xuất gia từ ngoại đạo.

Đây là thời: Nếu không thọ thực riêng chúng, thì đứng lên bạch rằng: Tôi ở đây không có nhân duyên trong thọ thực riêng chúng. Muốn cầu ra khỏi, hoặc người khác không có duyên cũng cho ra. Hoặc hai người, ba người tùy ý thọ thực. Bốn người hoặc hơn, nên chia làm hai bộ cùng nhập vào thọ thực. Nếu có nhân duyên riêng chúng muốn vào thì đứng dậy bạch. Tôi có nhân duyên thọ thực riêng chúng muốn cầu nhập.

Phật bảo: Nên theo Thượng tọa thứ lớp mà vào. Có duyên không nói tốt, tùy thọ thực riêng chúng, mỗi miếng ăn phạm một tội đọa. Ni cũng đồng phạm.

Không phạm: Như khai duyên trình bày đầy đủ ở trên, nếu hai người, ba người cùng ăn. Nếu có nhân duyên đi thì khai cho.

Giới: Nhận thức ăn của phụ nữ đi đường quá hạn:

Phật ngự tại Xá-vệ, có người phụ nữ sắp về nhà chồng, làm thức ăn cúng dường Tỳ-kheo. Cô đi không trở lại. Người chồng bèn đi tìm vợ. Lại có thương khách làm thức ăn cúng dường, bị cướp giựt mất. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Như Tỳ-kheo đến nhà người tại gia: Là có nam, có nữ.

Thỉnh Tỳ-kheo cúng bánh, cốm, cơm v.v... nếu Tỳ-kheo cần thì nên nhận hai ba bát đem về Tăng-già-lam chia cho Tỳ-kheo khác dùng.

Nếu không mang thức ăn, trở về báo với các Tỳ-kheo: Nhà kia có thức ăn về nhà chồng. Có thường mang lương thực đi đường. Nếu thọ thực xong rồi thì về, đem về chùa hai, ba bát. Nếu đem một, hai bát về thì thưa lại. Cho đến đã thọ ba bát, cẩn thận chớ mang về.

Nếu Tỳ-kheo không bịnh: Nghĩa là không thể ngồi một chỗ ăn hết thức ăn ngon.

Quá hai ba bát thọ thì đem về chùa: Đem ra khỏi cửa thì phạm tội đọa, phương tiện hối hận thì phạm Cát-la. Không chia cho Tỳ-kheo khác ăn, mà ăn một mình thì phạm Cát-la.

Ba-dật-đề: Hoặc biết luận vợ về nhà chồng và người khách buôn mà ăn. Hoặc bất luận Tỳ-kheo khác thì phạm Đột-cát-la.

Không phạm: là thọ hai ba bát, hoặc bịnh mà thọ quá. Hỏi đã chia phần chưa khiến cho kia biết chỗ làng xóm.

Nếu đưa ni đến chùa thì được thọ, không phạm.

34. Giới thọ thực đầy đủ:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nói pháp nhất thực cho chúng Tỳ-kheo.

Có năm thứ khiến cho no đủ. Sau vẫn có vị còn tiều tụy.

Phật bảo: Cho phép nuôi bệnh, lại ăn thức ăn dư của người bịnh. Phật còn khai cho làm pháp thức ăn dư. Có người không biết pháp thọ thực, do đó Phật chế ra giới này.

Như Tỳ-kheo ăn xong hoặc lúc thọ thỉnh: Thực là trong năm thứ, hoặc ăn mỗi món như cơm, cốm, bún, bánh khô vừa no đủ.

Không làm pháp thức ăn dư: Vị kia mang thức ăn trở về tác pháp nói rằng: Đại đức tôi đã thọ đủ, đã biết qua xem qua, làm pháp thức ăn dư.

Vị này nên lấy một ít và nói tôi dùng bao nhiêu đây thôi, ông hãy giữ lại để dùng.

Mà thọ thực, phạm Ba-dật-đề. Trong việc đi đứng nằm ngồi, mỗi pháp đều làm vài câu phạm túc. Như trong luật pháp xà-ni thực có gốc rễ cành lá hoa quả dầu bột mè đen thạch mật, ma tế mạt... Tỳ-kheo kia ăn đủ rồi, không tác pháp dư thực mà ăn thì mỗi miếng phạm một tội đọa. Nếu ăn rồi vì người khác làm. Nếu biết người làm ăn đã ăn đủ, tự tay làm thức ăn, đặt thức ăn xuống đất mà làm, bảo tịnh nhân làm, tịnh nhân trước đã làm. Bỏ thức ăn không ngon lên trên. Nếu đem đi mà không thành pháp dư thực thì phạm Cát-la. Ni và bốn chúng cũng phạm Cát-la.

Không phạm: Thực mà tưởng là phi thực. Không thọ pháp dư thực mà chế ra văn như trên. Nếu người bịnh không tác pháp. Người bịnh ăn thêm, không làm pháp thức ăn dư. Nếu đã làm pháp thức ăn dư thì không phạm.

35. Giới: Khuyên phạm túc thực:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Có hai anh em đều là Tỳ-kheo. Vốn có tánh tham ăn, ăn không biết đủ. Dù thức ăn dư hay không dư, hễ được thì ăn hết. Vị kia do lỗi đó tự trách, tâm này cứ ôm lòng tức giận. Thấy người ăn thì đoạt lấy xin ăn. Lại do lỗi mà tự trách. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Nếu Tỳ-kheo biết: không biết thì không phạm.

Tỳ-kheo khác ăn no rồi: Ăn có năm thứ như trên đã nói. Nếu thọ thỉnh: Cũng có năm thứ như trên.

Không làm pháp thức ăn dư, hết lòng thỉnh cho vị Trưởng lão thức ăn đó, vì nhân duyên đó nên chẳng phải dư.

Nếu trước không biết, không tưởng đủ ăn. Nếu khiến cho bỏ, hoặc khiến cho nêu ra, hoặc bảo đem cho người. Hoặc chưa làm pháp thì khiến cho làm pháp. hoặc người bịnh ăn dư để tác pháp thọ thực, không để cho người phạm.

Muốn làm cho người phạm: Nếu người kia đã thọ thực, mỗi miếng ăn cả hai đều phạm tội đọa. Nếu cho thức ăn mà người kia đem bỏ đi, hoặc thọ mà để đó, hoặc thọ mà cho người khác. Hoặc kia thọ rồi mà làm pháp tác thực. Nếu người bịnh ăn muốn cho người kia phạm, thì đem thức ăn dư của người bịnh mà cho, hoặc làm pháp thức ăn dư rồi và muốn cho người kia phạm, tất cả các duyên trên đều phạm Cát-la.

Ba-dật-đề: Ni và các chúng sau phạm Đột-cát-la.

36. Giới thọ thực phi thời:

Phật ngự tại thành La-duyệt. Lúc này nhằm ngày lễ hội của người dân. Hai vị Thích tử là Nan-đà và Bạt-nanđà cùng đứng xem kỹ nhạc. Sau đó cùng thọ thực và cho đến tối mới trở về núi. Ca-lưu-Đà-di ban đêm vào thành khất thực. Người nữ nhìn thấy lập lòe cho là ma quỉ,

Tỳ-kheo nêu tội bạch Phật, Phật quở trách rồi chế giới.

Nếu Tỳ-kheo phi thời:

Thời: Là lúc mặt trời chưa mọc cho đến giữa ngày, xét thời này là đúng theo pháp. Việc ăn trong bốn thiên hạ đều như vậy.

Phi thời: Từ giữa ngày cho đến hôm sau mặt trời chưa mọc.

Thọ thực: Có hai loại: Khư-xà-ni thực cũng như trên, Phô-xà-ni có năm thứ thực cũng như trên.

Nếu ăn thì phạm Ba-dật-đề. Vị kia thọ thực phi thời là phạm đọa. Nếu phi thời, quá phi thời, bảy ngày, quá bảy ngày cũng đều phạm đọa. Thuốc suốt đời không có nhân duyên uống, phạm Cát-la. Không phạm là cách làm thạch mật đen cũng như vậy. Có người bịnh nhổ thuốc ra, ngày đó nấu lúa mạch và nước cho uống, như vậy thì không phạm.

37. Giới ăn thức ăn dư cách đêm:

Phật ngự tại nước La-duyệt-kỳ, ngài Ca-la ngồi thiền, vì khất thực cực khổ nên chỉ ăn thức ăn dư hôm trước còn lại. Chúng Tỳ-kheo lớn nhỏ đi khất thực mà không thấy ông, tìm gặp và hỏi lý do. Chúng tăng bạch Phật, Phật liền quở trách nói:-Ông tuy ít ham muốn, nhưng cũng nên làm tướng pháp cho chúng sinh đời sau mà đi khất thực. Sau đó Phật liền đặt ra giới nầy.

Tỳ-kheo thức ăn để qua đêm: Hôm nay thọ rồi lại để dành ngày mai. Đối với Sa-môn Thích tử đã thọ Đại giới mà như vậy là không thanh tịnh.

Thực có hai thứ: Phi chánh thực là căn thực cho đến tế mạt thực. Chánh thực: Từ bún miến cho đến thịt.

Mà ăn: Ăn mỗi miếng phạm một tội đọa. Phi thời quá hạn bảy ngày cũng phạm tội đọa. Thuốc trọn đời mà không có nhân duyên bịnh mà uống thì phạm Cát-la.

Ba-dật-đề: Không phạm: ban đêm thọ thực với cha mẹ, hoặc làm tháp nhà, tính theo giá trị cho ăn. Sau đó, Tỳ-kheo khất thực theo người làm này mà được. Hoặc bình bát có lỗ hở để đưa thức ăn vào, đúng như pháp tẩy rửa không bỏ cái khác ra thì được. Ban đêm được xài dầu xức mũi, hoặc ho thì được khạc nhổ ra.

38. Giới không thọ thực:

Phật ngự tại thành Xá-vệ, có người vì cha mẹ cúng dường ở các ngã tư đường cho đến cúng tế trong miếu. Tỳ-kheo đắp y phấn tảo đến đó khất thực về ăn, các cư sĩ chê bai, Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Nếu Tỳ-kheo không thọ: Người chưa cho thức ăn thì chưa thọ.

Thọ có năm: Tay trao tay thọ, tay nắm vật thọ, cần vật cùng tay thọ, hoặc trao vật lấy vật, hoặc người ở xa đưa vật cho người thọ. Cả hai đều biết qua trung gian, không có xúc chạm tay trong đó.

Lại có năm thứ là: Thân y áo, khuỷu tay cong, đưa lấy vật cho, hoặc trả lại. Hoặc có nhân duyên đạt trên đất mà cho, đó là năm thứ.

Thực: Khư-xà-ni ăn gốc cho đến ngọn. Lại gọi là ăn cơm, bún, cơm, khô, v.v...

Hoặc thuốc: xà-da-ni ăn là: bơ, dầu, bơ sống, mật, thạch mật.

Để vào miệng: Nếu không cho thức ăn, tự lấy đưa vào miệng thì phạm tội đọa. Phi thời bảy ngày, nếu quá hạn cũng phạm tội đọa. Thuốc trọn đời, nếu không có nhân duyên không thọ mà dùng cũng phạm Đột-cát-la. Trừ nước và nhành dương, đều phạm Ba-dật-đề. Không phạm là: Giữ cành dương nước tịnh, nếu không thọ bơ dầu xức mũi, cùng khạc nhổ ra hết thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo khất thực cho chim bên đường ăn. Nếu gió thổi rớt bụi vào bát rồi bỏ thức ăn này đi, cho đến một móng tay cũng bỏ, còn dư thì không phạm.

39. Giới xin thức ăn ngon:

Phật ngự tại Xá-vệ. Có vị khách buôn là đàn việt của Bạt-Nan-Đà, liền nói rằng: Muốn được ăn tạp.

Thương chủ kia hỏi: việc nầy có đáng lo hay không? Đáp rằng: không đáng lo, chỉ là ý muốn vị Thương chủ chê bai. Tỳ-kheo bạch Phật, Phật liền chế giới.

Nếu Tỳ-kheo được thức ăn ngon: là ăn các loại sữa, lạc, cá, thịt.

Bịnh: Người bịnh thì không thể ăn xong một lần.

Vì mình mà xin thì phạm Ba-dật-đề, chúng ni phạm Cát-la.

Không phạm: Người bịnh tự xin, vì người bịnh xin được mà ăn.

Hoặc mình vì người, người vì mình, hoặc không xin mà được thì không phạm.

40. Giới cho ngoại đạo thức ăn:

Phật dẫn chúng đệ tử từ Câu-Mạnh mẽ-la đến nước Xá-vệ. Phật và chúng tăng phần nhiều đều ăn bánh, đồng thời bảo A-nan chia cho những người xin ăn. Ông đem ít bánh cho người nữ, lại có ngoại đạo được ăn, bèn gọi: Cư sĩ trọc đầu.

Phật nhóm họp tăng và nghe báo lại, do đó mà đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo, ngoại đạo nam, ngoại đạo nữ: Người lõa hình dị học tên Ba-Tứ-Ba-la-xa: là người xuất gia ngoài chúng nầy.

Tự tay: muốn cho thì đặt dưới đất mà cho.

Cho thức ăn: Khư-xà-ni thực ăn gốc rễ cho đến trái quả, ăn dầu cho đến các loại mạt dầu.

Ăn có năm thứ: Cũng như trên đã nói. Ba-dật-đề: chúng ni phạm Cát-la.

Không phạm: Nếu để dưới đất cho, hoặc bảo người cho, hoặc cho cha mẹ. Làm tháp làm phòng được người cho riêng, bị thế lực cướp bỏ thì không phạm.

41. Giới trước sau bữa ăn mà đến nhà người:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Có Trưởng giả vì Bạt-NanĐà nên cúng dường trai phạn chúng tăng, khi ấy giờ ngọ sắp qua, Bạt-nan-đà mới đến, làm cho chúng tăng ăn không đủ.

Lại, trong thành La-duyệt có vị Đại thần có được cây quả mới nhờ Bạt-Nan-Đà phân chia cho tăng. Sau khi ăn xong lại đến nhà khác.

Tỳ-kheo bạch lên Phật hai việc này, Phật liền chế giới.

Nếu Tỳ-kheo trước thọ thỉnh rồi mà ăn trước: Là ăn lúc mặt trời chưa mọc.

Hậu thực: Từ mặt trời mọc đến giữa ngày. Đến nhà khác: nhà có nam, nữ ở.

Không dặn các Tỳ-kheo khác: Hoặc ở trong phòng độc nhất, dặn dò người ở gần: Là đồng trụ một giới.

Trừ lúc khác, phạm Ba-dật-đề: lúc khác là lúc bịnh như ở trên. Lúc may y: Cũng như trên.

Lúc thí y: Sau tự tứ có y một tháng, có y năm tháng. Trừ đây rồi thì các thời khác đều khuyến hóa làm thức ăn, đều cúng dường y cho.

Gọi là thời: Kia trước thọ thỉnh rồi sau mới ăn. Không dặn mà vào cửa thì phạm tội đọa, phương tiện khác thì phạm Cát-la.

Không phạm: như trên khai duyên dặn bảo Tỳ-kheo. Nếu Tỳ-kheo không dặn bảo, đến chỗ kho phòng bên xóm làng. Nếu đến chùa ni, đến dặn dò nhà người. Nếu nhiều nhà trải đồ ngồi thỉnh Tỳ-kheo, nếu có nạn duyên thì khai.

42. Giới cố ngồi trong thực gia:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, Ca-lưu-Đà-di vốn là bạn của vợ Ưu-Ba-tư. Cả hai nhan sắc đều khôi ngô xinh đẹp, đều có ý ràng buộc nhau. Sau khi ông đến nhà này, người vợ tô điểm thân được chồng rất mực thương yêu. Tỳ-kheo ăn xong vẫn ngồi đó, người chồng liền nổi giận đuổi đi. Chúng Tăng bạch việc này lên Đức Phật, Phật do đây liền đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo ở nhà thực gia: Nam lấy nữ làm thức ăn, nữ lấy nam làm thức ăn.

Nhà: như trên để giải thích.

Có vật báu: Xa cừ, mã não, chân châu, Hổ phách, vàng bạc. Cố ngồi lì: Duỗi tay ra tới đâu thì ngồi tới đó. Ba-dật-đề: Hoặc đui điếc thì phạm Cát-la.

Không phạm: như nhà ăn có vật báu, ngồi duỗi tay đến cửa. Nếu có hai Tỳ-kheo làm bạn, có người trí thức, hoặc có người khách ở một bên.

Nếu không đui điếc, hoặc trước đã qua mà không trụ, bị bịnh té dưới đất, thế lực lôi kéo, hoặc bị ràng buộc, nạn sinh mạng, phạm hạnh thì không phạm.

43. Giới ngồi chỗ khuất trong nhà ăn:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Ca-lưu-Đà-di nghĩ Phật đặt ra giới trước từ cửa duỗi tay ngồi. Thế là ông ra sau cửa cùng Ưu-Bà-tư ngồi nói chuyện chung. Tỳ-kheo nghe nói quở trách bạch lên Đức Phật. Do đây Phật đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo trong nhà ăn, có vật báu: đều như giới trước.

Tại chỗ khuất: Hoặc cây tường, vách rào giậu, hoặc y phục hay các vật làm chướng ngại.

Mà ngồi thì phạm Ba-dật-đề: Nếu trong nhà ăn duỗi tay đến cửa khiến Tỳ-kheo khất thực không thấy: Giải thích tướng khai duyên đồng như giới trước.

44. Giới ngồi nơi chỗ trống với người nữ:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, Ca-lưu-đà-di và Ưu-Ba-tư ngồi chung giữa chỗ trống. Tỳ-kheo đi khất thực trông thấy chê bai, về thưa lại với chúng tăng. Chúng tăng đem lỗi đó bạch lên Đức Phật, Phật nhân đó đặt ra giới nầy.

Nếu chỉ có Tỳ-kheo: một người nữ, và một Tỳ-kheo. Và người nữ: Người nữ có hiểu biết, mạng căn chưa dứt. Lộ địa tọa: Nghĩa là ở chỗ thấy nghe bị che khuất.

Ba-dật-đề: Giải thích tướng, khai duyên cũng giống như giới trước.

45. Giới đuổi người ra khỏi xóm làng:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, Bạt-Nan-Đà gây gổ với một Tỳ-kheo, nuôi hận trong lòng liền đem đến trong thành chỗ không có thức ăn. Khi qua khỏi Kỳ-hoàn liền nói:-"Ông thật quá độc ác, làm cho tôi không được ăn, mau đi đi".

Người kia không được ăn, rất đói. Tỳ-kheo nêu tội, Phật quở trách và chế giới.

Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác rằng: Đại đức đi với tôi vào xóm làng.

Có bốn thứ làng: Như ở trên.

Nên cho ông thức ăn: Là thời thực.

Tỳ-kheo đến nơi lại không cho ăn, mà nói: Thầy đi đi, tôi và thầy ngồi nói chuyện một chỗ không vui, tôi ngồi một mình vui hơn. Vì nhân duyên đó tìm cách đuổi đi, từ chỗ thấy đến chỗ nghe phạm Cát-la. Làm lẫn nhau cũng như thế thấy nghe đều lìa, mới phạm tội đọa. Không dùng phương tiện khác đuổi người đi thì phạm Ba-dật-đề.

Không phạm: là cho ăn rồi bảo đi, hoặc bịnh. Hoặc người không có oai nghi, thấy không thích, tự đưa thức ăn cho. Nếu người phá giới, phá kiến v.v... Hoặc nạn sinh mạng, phạm hạnh dùng phương tiện đuổi đi, không vì thù hận.

46. Giới xin thuốc quá hạn:

Phật ngự tại nước Thích sí Sấu, Ma-ha-nam xin tăng cung cấp thuốc. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị than phiền là xin khó được thuốc, bèn ra chợ xin, liền bị quở trách. Ma-ha-nam không còn cung cấp thuốc cho tăng, các Tỳ-kheo nêu tội, Phật do đó đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo bốn tháng: Bốn tháng hạ. Cho thuốc: Duyên là xin thuốc!

Tỳ-kheo không bịnh: Người bịnh được thầy thuốc cho thuốc uống.

Nếu thọ hoặc thọ quá: Nếu thuốc ban đêm có giới hạn, bốn tháng hạ nên thọ. Hoặc ban đêm không có giới hạn, tùy lúc bố thí nên thọ, bất luận giới hạn thuốc.

Trừ thường thỉnh: Thường nói với người: Tôi thường đem cho thuốc.

Lại thỉnh: Đoạn rồi sau lại xin cho.

Phần thỉnh: Đem thuốc đến Tăng-già-lam phân chia. Thọ thỉnh suốt đời: Tôi sẽ cho thuốc trọn đời.

Ba-dật-đề: Không phạm như ở trước đã khai.

47. Giới: Xem quân trận:

Phật ngự tại Xá-vệ: Vì người dân phản loạn nên vua thống lãnh lục quân đi chinh phạt. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị đến xem quân trận. Vua Ba-tư-nặc thấy vậy không vui. Ông dâng đá mật lên Phật đồng thời trì danh, lễ bái. Ông đến chỗ Phật trình bày nhân duyên này. Phật quở trách rồi chế giới.

Nếu Tỳ-kheo đến xem quân trận, hoặc cười đùa, hoặc chiến đấu, quân là chỉ cho một ngựa, một xe, một bộ.

Trừ lúc có nhân duyên: Nếu cần thì bạch, nếu có thỉnh thì kêu.

Ba-dật-đề: Nếu không tránh phạm Cát-la. Từ thấp lên cao, từ đường đến không phải đường không thấy thì phạm Cát-la. Phương tiện không thấy cũng vậy. Nếu thấy thì phạm tội đọa. Không phạm: Nếu có việc phải đến, hoặc bị thỉnh đi. Bị thế lực níu kéo. Hoặc đi trước, xe quân đi sau thì đứng bên đường để tránh. Hoặc bị ngăn trở vì sông nước thú dữ, giặc cướp, nạn nước lụt lội. Nếu bị thế lực níu kéo, nạn phạm hạnh, sinh mạng v.v... thì không phạm.

48. Giới: Ngủ qua đêm trong quân trận.

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị có duyên đến trong quân trận ngủ đêm. Cư sĩ nói: chúng ta vì ái dục cho nên có việc này, còn Sa-môn vì sao lại có việc như thế? Tỳ-kheo nêu tội bạch Phật, Nhân đó Phật đặt ra giới này.

Hoặc Tỳ-kheo có nhân duyên đến ngủ trong quân hai ba đêm, phạm Ba-dật-đề. Không phạm: Đã hai đêm, đến đem thứ ba lúc mặt trời chưa mọc thì phải lìa khỏi chỗ thấy nghe. Nếu bị ngăn trở bởi sông suối, bị nạn sinh mạng, phạm hạnh không lìa thì không phạm.

49. Giới xem hai bên chiến đấu với nhau:

Phật ngự tại Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị có duyên vào trong quân trận để xem thế lực đánh nhau. Trong đó có một người bị tên bắn, người bạn dùng áo khiêng đi. Các cư sĩ thấy vậy lấy làm lạ. Tỳ-kheo bạch lên Đức Phật, Phật liền chế giới.

Nếu Tỳ-kheo ở trong quân hai ba đêm. Hoặc xem quân trận, hoặc xem chiến đấu tượng mã thế lực thì phạm Ba-dật-đề. Ở đây cũng như giới trước.

50. Giới uống rượu:

Phật ngự tại nước Chi-đà, Sa-già-đà làm thị giả hầu Phật, đến ngủ trong nhà của một Phạm chí bện tóc, đêm đó hàng phục rồng dữ, sáng ra báo tin cho vua CâuDiệm-Di. Sau tôn giả lại đến nước đó uống rượu say nằm giữa đường. Phật nói mười lỗi của việc uống rượu, sau đó đặt ra giới nầy.

Hoặc Tỳ-kheo uống rượu: Rượu gồm các loại làm từ lúa mạch, gạo tẻ, cây quả.

Ba-dật-đề: là các loại rượu phi rượu có sắc, hương, vị. Nếu chẳng phải rượu mà có sắc hương vị của rượu, cũng không được uống. Nếu nấu rượu hòa hợp với các thức ăn thì phạm tội đọa. Nếu uống rượu của vị ngọt, vị chua, rượu gạo có men, đều phạm Cát-la, ba câu tưởng nghi đều phạm tội đọa.

Không phạm: Nếu bị bịnh dùng thuốc rượu, dùng rượu làm thuốc, dùng rượu bôi lên vết thương thì không phạm.

51. Giới đùa giỡn trong nước:

Phật ngự tại Xá-vệ. Mười bảy vị Tỳ-kheo ở dưới dòng sông A-Kỳ-la-Ba-Đề, bơi lội cười giỡn trong đó. Vua Ba-tư-nặc và phu nhân Mạt-lợi đang ở trên lầu nhìn thấy.

Vua nói: Phu nhân xem kia kìa.

Phu nhân nói: Đó là những vị mới xuất gia, nên còn si mê chưa biết gì. Bà liền đem thạch mật dâng cúng Phật và thưa lại mọi chuyện. Phật quở trách và đặt ra giới nầy. Nếu Tỳ-kheo đùa giỡn trong nước, buông lung đùa nghịch, tạt nước từ đây đến kia, bơi lội qua lại chìm nổi lên xuống, cho đến dùng bình bát đựng nước để chơi đùa.

Ba-dật-đề: Trừ nước ra thì các thứ như sữa lạc, rượu mạnh, bỏ vào bình đựng nước để vui chơi thì phạm Độtcát-la. Không phạm là: Nếu đi đường phải lội qua nước, hoặc từ bờ này đến bờ kia, hoặc mang xách các loại tre trúc qua lại trên sông, hoặc dùng thạch sa, hoặc làm rớt vật dưới nước lặn xuống lấy. Hoặc học được cách bơi và đưa tay vọc nước khuấy nước thì không phạm.

52. Giới bắt trói giam cầm người:

Phật ngự tại Xá-vệ, một vị trong nhóm Tỳ-kheo sáu vị, bắt trói một vị trong nhóm Tỳ-kheo mười bảy vị, làm người này gần như sắp chết. Tỳ-kheo bạch việc này lên Đức Phật. Phật nhân đó đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo dùng ngón tay: Tay chân gồm mười ngón.

Nếu trói buộc thì phạm Ba-dật-đề. Trừ tay chân thì dùng gậy, phất, cột nhà và các vật để trói đều phạm Cátla. Không phạm là: không cố ý làm, như ngủ đụng làm cho thức. Nếu vào ra đi lại, cầm chổi quét đụng đầu người thì không phạm.

53. Không nghe lời can ngăn:

Phật ngự tại nước Câu-Diệm-Di, Xiển-đà sắp phạm giới. Tỳ-kheo khuyên ngăn rằng:-chớ có ý này, không nên như vầy, nếu không nghe lời can ngăn sẽ phạm các tội.

Tỳ-kheo đem lỗi này bạch lên Đức Phật. Phật quở trách và chế giới.

Tỳ-kheo không nghe lời can ngăn phạm Ba-dật-đề. Người khác bảo chớ làm và không nên làm. Nhưng vẫn cố làm là phạm tội căn bản.

Vì không nghe lời nên phạm tội Đột-cát-la. Nếu tự biết mình gây ra tội, nhưng vẫn cố làm là phạm căn bản. Không nghe lời can ngăn thì phạm Ba-dật-đề.

Không phạm là: Nếu không có người trí can ngăn, bảo rằng: xin hỏi thầy là bậc Hòa-thượng có học vấn, biết tụng kinh, biết can ngăn đúng pháp thì nên nghe theo. Nếu cười giỡn chỉ nói lời trong mộng, muốn nói này nói kia thì không phạm.

54. Giới làm cho Tỳ-kheo sợ hãi:

Phật ngự tại nước Ba-la-lê-tỳ, Na-Ca-Bà-la làm thi giả hầu Phật. Theo pháp thường của Chư Phật là lúc đi kinh hành, người cúng dường đứng đầu đoạn đường kinh hành. Vị kia sau đêm đầu tiên bạch Phật xin trở về, rồi cầm móc câu làm cho Phật sợ hãi. Sáng ngày Phật nhóm họp chúng tăng, nhân đó đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo dọa nạt, làm cho Tỳ-kheo khác sợ hãi thì phạm Ba-dật-đề. Hoặc dùng sắc, hương, vị, xúc làm cho người sợ hãi. Người kia sợ hãi hay không sợ hãi đều phạm tội đọa, không biết thì phạm Cát-la. Nếu nói sáu trần như sắc, hương, v.v... nói khủng bố rõ ràng thì phạm Ba-dật-đề. Nói không rõ thì phạm Đột-cát-la. Không phạm là: Hoặc trời tối không có lửa đèn, hoặc đi đại tiểu tiện cho là thú dữ làm cho sợ hãi. Cho đến nghe tiếng đi, tiếng ho, tiếng đụng chạm mà sợ hãi. Nếu dùng sáu trần bảo người chớ có ý sợ hãi. Nếu thật có tướng, trong mộng thấy người chết, thấy cha mẹ, Hòa-thượng bị bịnh nặng hay qua đời. Nói khiến cho kia biết, hoặc che giấu, hoặc sai lầm đều không phạm.

55. Giới nửa tháng tắm gội một lần:

Phật ngự tại La-duyệt-kỳ, ở trong vườn Trúc có ao. Vua Bình-sa nghe nói Tỳ-kheo thường đến đó tắm, nhóm Tỳ-kheo sáu vị vào lúc gần sáng xuống ao tắm gội. Vua và thể nữ xuống ao, gặp họ nên vua không tắm. Các Đại thần chê trách, Tỳ-kheo bạch lên Phật. Phật quở trách và đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo không bịnh thì nên nửa tháng tắm gội một lần không được quá. Nghĩa là trong nửa tháng tắm gội gọi là quá.

Trừ lúc khác thì phạm tội Ba-dật-đề. Thời lúc đó là nóng, tháng đầu tiên của mùa hạ sau xuân.

Lúc bịnh: Khi thân thể dơ bẩn. Làm việc: Quét đất trước nhà.

Lúc mưa gió: Khi gió thổi làm mưa ướt thân. Lúc đi đường: Qua lại trong nửa do-tuần.

Lúc phải thời: Nếu tắm khắp mình hay nửa mình đều phạm tội đọa, phương tiện hối hận thì phạm Cát-la.

Không phạm: Khai duyên như trên thường tắm, hoặc bị bắt buộc tắm.

56. Đốt lửa ở chỗ đất trống:

Phật ngự tại thành Khoáng Dã. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị bảo nhau rằng: Chúng ta ở trên tòa không được tự do nói năng, bèn rủ nhau ra chỗ trống, gom cỏ khô lại rồi đốt lửa lên. Các loài rắn độc trong cây sợ lửa nên bò ra, mọi người sợ hãi ném lửa làm cháy giảng đường của Phật. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền quở trách, chế giới.

Nếu Tỳ-kheo không bịnh: Khi bịnh thì cần lửa hơ thân.

Ở chỗ đất trống tự đốt hay bảo người nổi lửa lên. Trừ lúc có nhân duyên, phạm Ba-dật-đề.

Vị kia ở chỗ đất trống, hoặc dùng cỏ khô, cây cối, cành lá, cỏ gai v.v... Hoặc phân bò, thóc trấu để đốt đều phạm tội Ba-dật-đề. Đặt lửa lên cỏ cây cũng phạm tội đọa. Nếu bị đốt cháy phân nửa rồi ném đi và đốt than thì phạm Đột-cát-la. Nếu không nói với người "biết đây xem đây" cũng phạm Cát-la.

Không phạm: là có nói "biết đây xem đây", hoặc người bịnh tự đốt hay dạy người đốt. Lúc có nhân duyên săn sóc người bịnh mà nấu cháo, hoặc trong nhà bếp, nhà tắm hun khói, nấu nhuộm, đốt hương thì không phạm.

57 i giấu vật của người:

Phậ ự tại nước Xá-vệ, cư sĩ thỉnh tăng, nhóm Tỳ-kheo mười bảy vị đem y bát, đồ ngồi ống kim đi kinh hành quanh co rồi bỏ quên. Lúc này, nhóm Tỳ-kheo sáu vị lấy đồ vật đem giấu. Tỳ-kheo biết chuyện bạch lên Đức Phật, Phật liền quở trách rồi biết giới.

Nếu Tỳ-kheo giấu y bát, đồ ngồi của Tỳ-kheo khác, tự giấu hay xúi người giấu, cho đến đùa giỡn cũng phạm Ba-dật-đề.

Không phạm: là hoặc biết vật kia cùng thể mà lấy lên, hoặc để giữa đất trống gió mưa thổi ướt nên lượm lên. Nếu y vật chủ để lộn xộn vì muốn khuyến cáo cho nên giấu. Nếu mượn y của người mà họ không lấy lại, sợ mất cho nên lấy, hoặc y bát này có nạn mạng sống, phạm hạnh cho nên giấu, tất cả đều không phạm.

58. Giới chân Tịnh thí chủ không biết liền lấy y:

Phật ngự tại Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị chân tịnh thí y cho Tỳ-kheo bạn thân. Về sau không hỏi chủ mà lấy lại đắp. Tỳ-kheo nêu tội bạch lên Phật, Phật liền đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo cho y Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Thức-xoama-na, sa-di, sa-di-ni, sau không hỏi chủ lấy lại đắp thì phạm Ba-dật-đề.

Không phạm: Chân thật thí rồi nói với chủ, xoay vần bố thí thì tùy ý lấy.

59 i đắp y:

Phậ ự tại Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị đắp y trắng đi kinh hành. Các cư sĩ chê bai cho là không phải chánh pháp, chẳng khác nào như vua, đại thần. Tỳ-kheo bạch lỗi đó lên Đức Phật. Phật đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo được y mới, hoặc thể là y mới. Hoặc đầu tiên từ người mà được.

Nên làm ba thứ hoại sắc, mỗi sắc đều tùy ý hoại, hoặc xanh, đen, mộc lan.

Trong luật chú nói: Ở đây nói Tịnh là hoặc nhuộm thành mầu gọi là Tịnh, hoặc đã thành sắc gọi là tịnh y. Nên lấy vật khác mầu đắp lên một chỗ làm chỗ nêu, nên gọi là Tịnh. Từ phía dưới hoặc y hay phi y là không dùng vật kết thì nên điểm tịnh. Nói trùng: là may thêm nhiều lớp trong y.

Nếu Tỳ-kheo không dùng ba thứ hoại sắc, hoặc xanh, đen, mộc lan, mà đắp y thì phạm Ba-dật-đề. Kia không làm ba loại sắc mà đắp mặc thì phạm tội đọa. Nếu y nặng nhẹ không làm điểm tịnh mà đắp thì phạm Độtcát-la. Nếu các loại vật dụng khác chẳng phải như túi đựng y bát, giày da, kim chỉ thắt lưng, mũ khăn không làm tịnh súc thì phạm Cát-la. Nếu thu y chưa nhuộm gởi người tại gia thì phạm Cát-la.

Không phạm: người tại gia đã nhuộm thành ba mầu hoại sắc, nhẹ nặng khác nhau, cho đến khăn cũng làm tịnh súc.

60 i cố giết súc sinh:

Phậ ự tại Xá-vệ, Ca-lưu-Đà-di không thích nhìn thấy quạ, bèn dùng cung trúc bắn chúng chất thành đống. Cư sĩ đến lễ bái nhìn thấy chê bai. Tỳ-kheo nêu tội, Phật do đây liền đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo ni: Bấy giờ các Tỳ-kheo tới lui qua lại dẫm đạp nhiều loại côn trùng nhỏ, có vị thực hành sám hối Ba-dật-đề, hoặc có vị lo sợ cẩn thận. Phật dạy: Không biết thì không phạm.

Hoặc tự tay giết, hoặc xúi người giết. Súc sinh: là loài không thể biến hóa.

Phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo ni cũng đồng phạm, khai duyên giống như giới giết người.

61. Giới uống nước có côn trùng:

Phật ngự tại Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị uống dùng nước có tạp trùng, các Cư sĩ chê trách, các Tỳ-kheo nêu tội, bạch Phật, Phật quở trách rồi đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo biết: Không biết có trùng thì không phạm.

Nước: Trừ nước uống thì các loại khác như sữa, rượu, dầu v.v... có trùng uống vào cũng phạm.

Uống nước có trùng phạm Ba-dật-đề, Ni cũng đòng phạm. Không phạm: là do trước không biết, hoặc tướng không có trùng.

Hoặc trùng thô, khuấy nước liền bỏ đi. Hoặc lọc nước dùng thì không phạm.

62. Giới nghi ngờ xúc não Tỳ-kheo:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm Tỳ-kheo mười bảy vị nói với nhóm Tỳ-kheo sáu vị rằng:-Thế nào là nhập vào Sơ thiền, cho đến hỏi làm sao chứng quả La-hán. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị bảo: lời ông hỏi đó đã phạm Ba-la-di.

Các vị này đến hỏi Tỳ-kheo khác, các Tỳ-kheo quở trách rồi, Phật liền chế giới.

Nếu Tỳ-kheo: Bấy giờ có nhiều chúng Tỳ-kheo cùng nhóm họp lại một chỗ, bàn luận về pháp luật. Có một vị lui ra, trong tâm nghi chúng Tỳ-kheo cùng nghi với ta.

Phật bảo: Không cố làm thì không phạm.

Xúc não Tỳ-kheo khác: xúc não là hoặc năm sinh, hoặc thọ giới, hoặc làm Yết-ma, hoặc là phạm, hoặc là pháp.

Làm cho trong khoảnh khắc không vui, phạm Ba-dật-đề: Ni cũng đồng phạm. Không phạm: chuyện đó là sự thật. Không cố làm. Người kia chẳng phải như vậy. Sợ nghi hối về sau nên không thọ lợi dưỡng của người, không nhận sự lễ kính của Đại Tỳ-kheo, bèn nói rằng: ông chưa đủ tuổi thọ nhận, sợ sau nghi hối thọ lợi dưỡng cúng dường của người, nay ông chưa đủ hai mươi tuổi, biệt chúng trong giới, sợ sau này nghi hối, thọ lợi dưỡng lễ kính.

Nói rõ cho kia biết, quay trở lại bản xứ thọ giới, việc ấy thật như vậy. Bạch không thành thì Yết-ma không thành, chẳng đúng pháp, biệt chúng. Sợ về sau nghi hối, thọ lợi dưỡng lễ kính. Nói cho kia biết, trở lại bản xứ thọ giới. Sự thật là như vậy. Phạm Ba-la-di cho đến ác thuyết. Sợ sau này nghi hối thọ lợi dưỡng của người, thọ lễ kính của Tỳ-kheo trì giới. Muốn khiến cho biết đúng như pháp sám hối. Nói cho biết phạm cho đến ác thuyết. Lại có người tánh thô sơ không biết, thì nói với họ rằng: Điều thầy nói đó tự xưng là pháp của bậc thượng nhân. Nếu cười vui hay lầm thì không phạm.

Giới che giấu tội Tỳ-kheo:

Phật ngự tại Xá-vệ, Bạt-Nan-Đà là bạn thân của một Tỳ-kheo. Người kia phạm tội thì che giấu không nói cho người biết. Tỳ-kheo nêu tội, bạch Phật, Phật liền quở trách chế giới.

Nếu Tỳ-kheo biết: Nếu không biết thì không phạm.

Tỳ-kheo khác phạm tội thô: Tội thô là bốn Ba-la-di, Tăng-già-Bà-thi-sa.

Che giấu: Nếu biết người phạm tội thô, giờ tiểu thực biết thì sau giờ ăn nói. Sau giờ ăn biết đến đầu hôm nói. Đầu hôm biết đến nửa đêm mới nói, thì phạm Đột-cátla. Nếu nửa đêm biết, đến gần sáng muốn nói mà chưa nói, khi mặt trời mọc thì phạm Ba-dật-đề. Trừ tội thô và che giấu. Tỳ-kheo ni che giấu tội của người, tất cả phạm Đột-cát-la.

Ba-dật-đề: Ni cũng đồng phạm.

Không phạm: Trước không biết không nghĩ là tội thô. Nếu nói với người, không có người để nói. Nếu phát tâm nói, lúc mặt trời mọc bị hai nạn sinh mạng phạm hạnh thì không phạm.

63. Giới độ người chưa đủ tuổi thọ giới cụ túc:

Phật ngự tại thành la-Duyệt, lúc này có mười bảy đồng tử, đa số tuổi chừng mười bảy, nhỏ thì mười một tuổi. Có niềm tin xuất gia, Tỳ-kheo liền độ cho thọ đại giới. Vì không thể ngày ăn một bữa nên nửa đêm các đồng tử này kêu khóc. Phật thức dậy hỏi biết, đến sáng nhóm họp chúng lại và lập ra pháp chế này. Tuổi đủ hai mươi mới thọ Đại giới.

Phật bảo: Nếu tuổi chưa đủ hai mươi, không thể chịu đựng sự đói khát, nóng lạnh, gió mưa muỗi mòng rắn rít và các lời nói nặng. Lại thân thể gầy ốm không thể chịu đựng, và không giữ giới, giữa ngày ăn một bữa. Nếu tuổi đủ hai mươi thì mới chịu đựng được các sự khổ như trên. Nếu Tỳ-kheo biết. Nếu không biết thì không phạm.

Tuổi không đủ hai mươi mà thọ đại giới: Người này không đắc giới, Tỳ-kheo kia đáng quở trách ngu si thì phạm Ba-dật-đề. Người thọ giới biết tuổi không đủ. Hòathượng và tăng cũng biết. Nhưng trong chúng hỏi: nay ông có đủ tuổi không?

Đáp rằng: Đủ hoặc không đủ, hoặc nghi hoặc không biết, hoặc tăng không hỏi. Đối với bốn thứ hoặc biết hoặc nghi. Hòa-thượng phạm Ba-dật-đề. Chúng tăng phạm Đột-cát-la. Nếu nói không biết thì không phạm. Nếu thọ ba lần Yết-ma xong thì Hòa-thượng phạm tội đọa. Nếu trung gian, hoặc bạch chưa xong, hoặc làm vì phương tiện, hoặc lúc cạo tóc, hoặc nhóm tăng, Hòa-thượng tất cả đều phạm Cát-la. Chúng tăng cũng như vậy. Tỳ-kheo-ni phạm Ba-dật-đề. Không phạm là: trước không biết, tin theo lời người nói. Hoặc có người bên cạnh làm chứng, hoặc tin lời cha mẹ, hoặc thọ giới rồi nghi.

Phật dạy: Tính năm tháng kể cả tháng nhuần, đều thuyết giới vào ngày mười bốn. Đó là số năm, đủ thì khai.

64. Giới phát khởi bốn thứ tranh chấp:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị ưa việc đấu tranh, đúng như pháp diệt rồi, sau lại phát khởi ra nữa. Tỳ-kheo nêu lỗi, bạch lên Đức Phật, Phật liền đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo biết: Nếu không biết đúng như pháp diệt thì không phạm.

Tránh sự: có bốn thứ là: Ngôn tránh, mích tránh, phạm tránh và sự tránh.

Đúng như pháp sám hối rồi: là đúng như pháp, đúng như luật, đúng như lời Phật dạy.

Sau còn phát khởi lên nữa thì phạm Ba-dật-đề. Nói không rõ thì phạm Đột-cát-la. Trừ người tranh cãi phát khởi lên. Tất cả phạm Đột-cát-la. Ni cũng đồng phạm.

Không phạm: Là nếu trước không biết, hoặc quán làm mà không quán tưởng, hoặc sự thật là như thế, nói là không khéo quán, v.v... Hoặc nói chơi, hoặc nói lầm thì không phạm.

65. Cùng hẹn đi chung với giặc:

Phật ngự tại Xá-vệ, có nhiều chúng Tỳ-kheo đi đến Tỳ-xá-ly, những người lái buôn đi qua cửa ải không nộp thuế cho vua, họ làm bạn với Tỳ-kheo. Sau đó, cả bọn bị người giữ quan ải bắt đưa đến nhà vua, tội này đáng chết, vua quở trách. Tỳ-kheo nêu tội, bạch lên Đức Phật. Phật liền đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo biết: Nếu không biết, không kết theo yêu cầu thì đều không phạm.

Bạn giặc: Hoặc làm giặc trở lại, hoặc là muốn đi.

Ước hẹn cùng đi chung: Kết yếu là ước hẹn nhau đi vào thành hay vào làng. Đạo (đường) là: Các con đường trong làng.

Cho đến một làng thì phạm Ba-dật-đề: hoặc đi đến những con đường trong làng, đi đến một con đường thì phạm. Chỗ hoang vắng không có làng, không có chia ranh giới mà đi chung mười dặm thì phạm. Hoặc cùng đi trong làng nửa đừng. Hoặc chưa tới mười dặm, hoặc trong làng, hoặc tìm phương tiện cùng đi, hoặc không đi đều phạm Cát-la.

Chúng ni cũng đồng phạm. Không phạm là: Hoặc đi có nơi đến an ổn, hoặc bị thế lực nguy hiểm đến tánh mạng phạm hạnh thì không phạm.

66. Giới: nói hành dâm dục không phải pháp chướng ngại đạo, trái lời tăng can ngăn:

Phật ngự tại thành Xá-vệ. Có người tên A-lê-hất sinh ác kiến nói: Tôi biết Phật nói hành dâm dục không phải là pháp chướng đạo, Tỳ-kheo giải thích khuyên can vẫn không chịu bỏ, chúng tăng bạch lên Đức Phật, Phật hỏi tự nói rồi, khiến tăng bạch bốn lần can ngăn, Phật quở trách và đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo nói như thế: là nói Tôi biết trong Phật pháp, hành dâm dục chẳng phải là pháp chướng đạo, Tỳ-kheo can ngăn vị Tỳ-kheo này rằng:-Đại đức chớ nói như vậy, chớ hủy báng Đức Thế tôn. Hủy báng Đức Thế tôn là không tốt, Đức Thế Tôn không nói như vậy, Đức Thế tôn dùng vô số phương tiện nói phạm dâm dục là pháp chướng đạo.

Tỳ-kheo kia can ngăn mà Tỳ-kheo này quyết không bỏ, cho đến ba lần can ngăn việc này. Nếu can ba lần bỏ thì tốt, không bỏ phạm Ba-dật-đề. Ni đồng phạm như tăng. Ngoài ra như giới can ngăn chỉ có tội danh hơn kém.

67. Giới theo Tỳ-kheo bị cử:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Lê-Sất sinh tâm ác kiến, tăng can ngăn mà không bỏ. Phật bảo bạch bốn lần nêu tội. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị cung cấp cũng đồng bị Yết-ma. Tỳ-kheo nêu tội. Phật nhân đó quở trách và đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo biết: Nếu lúc đầu không biết thì sau không phạm. Nói với người như vầy: Là nói như vầy: Tôi nghe Đức Thế tôn nói:

Hành dâm dục chẳng phải là pháp ngăn đạo.

Chưa làm pháp: Hoặc bị nêu lên chưa giải thích rõ.

Tà kiến như thế: Là chấp như vầy: biết pháp do Đức Thế tôn nói là không có chướng ngại. Mà không bỏ: Chúng tăng can ngăn quở trách mà không có ác kiến.

Cung cấp việc cần dùng: Có hai thứ: Hoặc pháp, hoặc tài. Pháp là dạy tụ tập, tăng thêm giới, ý trí, học vấn, tụng kinh.

Tài: Là cung cấp y phục, ẩm thực, thuốc men, mền chiếu.

Cùng chung Yết-ma: chung nói giới, v.v...

Chỉ túc (nghỉ đêm): nhà có bốn vách.

Tất cả đều chướng ngại.

Hoặc che tất cả, hoặc không che hết.

Ngôn ngữ: Nếu Tỳ-kheo vào nhà trước, người kia vào sau. Nếu người đến trước, hoặc cùng đến, lưng vừa đụng đất liền phạm tội đọa.

Ba-dật-đề: Ni cũng đồng phạm.

Không phạm: Là hoặc không biết, hoặc trong nhà tất cả đều che không có bốn chướng. Hoặc phân nửa chướng, hoặc ít chướng, hoặc tất cả chướng. Không che, che ít hoặc che phân nửa. Hoặc che phân nửa, che chướng ít, hoặc che ở chỗ trống. Hoặc bị bịnh trói buộc, bị nạn liên quan đến tánh mạng, phạm hạnh thì không phạm.

68. Giới theo Sa-di bị diệt tẫn.

Phật ngự tại Xá-vệ, Bạt-Nan-Đà và hai Sa-di làm việc bất tịnh với nhau, tự nói rằng: Tôi nghe Phật nói pháp: Hành dâm dục chẳng phải là pháp chướng đạo.

Tỳ-kheo nêu tội, Phật dạy bạch bốn lần can ngăn, vì không bỏ nên bị diệt tẫn. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị dụ dỗ nuôi chứa. Tỳ-kheo lại nêu tội. Phật do đó quở trách và chế giới.

Nếu Tỳ-kheo biết Sa di nói như vầy: Tôi nghe Phật nói pháp như vầy: Hành dâm dục chẳng phải là pháp ngăn đạo. Tỳ-kheo nên can ngăn Sa-di như vầy: Ông chớ nên hủy báng Đức Thế tôn, hủy báng Đức Thế tôn là không tốt, vì Đức Thế tôn không nói như thế, nầy Sa-di! Đức Thế tôn dùng vô số phương tiện nói dâm dục là pháp ngăn đạo. Tỳ-kheo can ngăn mà Sa-di nhất định không bỏ. Tỳ-kheo nên can ngăn ba lần cho bỏ việc này. Nếu can ngăn ba lần bỏ thì tốt, không bỏ thì Tỳ-kheo nên nói với Sa-di rằng:-Từ nay trở đi ông chẳng phải đệ tử Phật, không được theo Tỳ-kheo khác. Như Sa-di ni được theo ngủ, hai ba đêm. Nay Ông không được như thế! Ông hãy đi đi không nên ở đây nữa. Nếu Tỳ-kheo biết: Không biết thì không phạm. Sa-di bị diệt tẫn trong chúng như thế.

Tẫn: Tăng làm pháp diệt tẫn bạch bốn lần Yết-ma-mà dụ dỗ dung chứa:-Hoặc tự nuôi chứa, hoặc cho người khác chứa. Dụ là tự mình làm hoặc xúi người làm. Cùng nghỉ đêm: Như trên đã giải thích.

Ba-dật-đề: Ni đồng phạm. Khai duyên đều như trên.

69. Giới chống cự khuyến học:

Phật ngự tại Câu-Diệm-Di. Bấy giờ, Tỳ-kheo đúng như pháp can ngăn Xiển-đề, ông lại nói:-Nay Tôi không học giới này, mà nên hỏi người trì luật có trí tuệ. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới. Nếu Tỳ-kheo khuyên ngăn Tỳ-kheo khác đúng như pháp: là đúng như pháp, đúng như luật, đúng như lời Phật dạy.

Nếu nói như vầy: Nay Tôi không học giới này, mà nên vặn hỏi Tỳ-kheo trì luật có trí tuệ: Phạm Ba-dật-đề. Nếu nói không rõ thì phạm Cát-la. Tỳ-kheo ni đồng phạm. Nếu vì học hỏi cho nên phải thưa hỏi.

Không phạm: Là người khuyên mà ngu si không hiểu, lại nói: ông nên trở về học hỏi Hòa-thượng, A-xàlê để học vấn tụng kinh. Nếu sự thật như vậy thì không phạm.

70. Giới phá Hủy Tỳ-ni:

Phật ngự tại Xá-vệ. Các Tỳ-kheo cùng nhóm họp tụng pháp tỳ-ni. Nhóm ty-kheo sáu vị nói với nhau rằng:-Các Tỳ-kheo nhóm họp tụng luật, những người lanh lợi sẽ nêu tội ta, nói các Trưởng lão dùng các giới tạp tụng đọc đến mười ba việc. Tỳ-kheo biết pháp diệt, nên đem lỗi này bạch lên Đức Phật. Phật quở trách và đặt ra giới nầy.

Nếu lúc Tỳ-kheo nói giới, hoặc lúc tự nói giới, hoặc lúc người nói giới, hoặc lúc tụng giới, nói rằng: Đại đức dùng giới tạp nhạp này làm gì. Nếu muốn tụng thì nên tụng bốn việc, hoặc muốn tụng thì nên tụng bốn việc, mười ba việc. Những giới khác, không cần tụng, vì sao? Vì lúc nói giới nầy khiến cho người ôm lòng xúc não hoài nghi quở trách giới nên Phạm Ba-dật-đề.

Nếu không rõ ràng phạm Cát-la. Nếu phá hủy tỳ-ni thì phạm Ba-dật-đề. Hủy A-tỳ-Đàm và các khế kinh khác thì phạm Cát-la. Ni cũng đồng phạm. Không phạm: là nếu nói trước tụng A-tỳ-đàm, rồi sau tụng luật. Các khế kinh khác cũng vậy. Nếu người bị bịnh cần sai mình tụng luật. Nếu siêng cầu phương tiện trong Phật pháp, thành tựu bốn quả Sa-môn. Sau nên tụng luật vì không muốn pháp diệt. Nếu nói lầm thì đều khai cho.

71. Giới sợ nêu ra nên nói trước:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Trong nhóm Tỳ-kheo sáu vị có một người, khi tụng giới tự biết tội chướng, sợ bị nêu ra nên đến trước một vị Tỳ-kheo thanh tịnh nói rằng:-Nay Tôi mới biết pháp này chép trong giới kinh, nửa tháng tụng một lần. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới nầy.

Như Tỳ-kheo lúc tụng giới: Hoặc tự nói, hoặc người nói, hoặc lúc tụng giới. Nói như vậy: Nay Tôi mới biết pháp này xuất xứ từ giới kinh, nửa tháng tụng chép ra từ giới kinh. Tỳ-kheo khác biết vị Tỳ-kheo này, hai ba lần ngồi trong chỗ tụng giới, huống chi là nhiều lần. Tỳ-kheo kia không biết, không hiểu, phạm tội nên đúng như pháp mà trị, lại chồng thêm tội không biết.

Chồng thêm tội Ba-dật-đề:

Nếu không cho thì phạm Đột-cát-la. Nói rằng: Trưởng lão: Ông không lợi không tốt. Lúc tụng giới, ông không dụng tâm nghĩ nhớ, dụng ý tư duy. Không nhất tâm lắng nghe pháp, vì kia vô tri nên phạm Ba-dật-đề. Ni cũng đồng phạm. Không phạm: là nếu chưa từng nghe nói rộng, nay mới nghe, hoặc nói lầm thì khai cho.

72. Giới đồng Yết-ma sau hối hận:

Phật ngự tại La-duyệt-kỳ, Đáp-Bà-ma-la coi sóc việc tăng, ngoại thí mà không đến. Y phục bị hư rách, sau tăng được y quý, liền bạch hai lần mà cho. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị sau đó hối hận. Tỳ-kheo bạch lên Đức Phật, Phật quở trách rồi chế giới.

Nếu Tỳ-kheo cùng nhau Yết-mạnh mẽ, về sau lại nói:-Các Tỳ-kheo dị tình bạn thân, Đồng Hòa-thượng A-xà-lê, đều là chỗ thân hậu.

Lấy vật của chúng tăng: Vật của tăng như trên đã nói. Vật là y bát, kim chỉ, ni sư đàn, cho đến đồ đựng nước uống. Cho thì phạm Ba-dật-đề. Nếu nói không rõ ràng thì phạm Cát-la. Ni cũng đồng phạm. Không phạm: là sự thật có như vậy. Di tình bạn thân đem vật của tăng mà cho. Hoặc nói chơi, hoặc nói lầm, thì khai cho.

73. Không gởi dục:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Nhiều Tỳ-kheo nhóm họp lại bàn luận pháp Tỳ-ni. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị nói với nhau: Dường như các Tỳ-kheo làm pháp Yết-mạnh mẽ cho chúng ta. Thế là họ đứng dậy khỏi chỗ ngồi bỏ đi. Tỳ-kheo kêu lại mà cố bỏ đi, bèn bạch việc này lên Đức Phật, Phật liền chế giới.

Nếu Tỳ-kheo chúng Tăng: Một nói giới, một Yết-ma.

Xử đoán việc chưa xong: có mười tám việc phá tăng, pháp phi pháp cho đến nói, không nói.

Không gởi dục: Hoặc lo việc tăng, chùa tháp, săn sóc người bệnh thì cho gởi dục.

Liền đứng dậy bỏ đi thì phạm Ba-dật-đề. Hoặc xử đoán việc chưa xong, vừa bước chân ra khỏi cửa thì phạm tội đọa. Một chân còn ở trong cửa, phương tiện muốn đi mà không đi thì phạm Cát-la. Ni phạm Ba-dật-đề.

Không phạm: là gởi dục, hoặc im lặng, hoặc làm pháp Yết-ma, hoặc xây chùa tháp cho tăng, Hòa-thượng, A-xà-lê, làm giảm tổn người đồng học, không gởi dục mà đi thì được.

74. Giới: Gởi dục rồi hối hận:

Phật ngự tại Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị sợ nêu sáu người theo nhau, không do đâu mà làm được. Vì sau vào lúc may y, tăng bảo thọ dục thì cho. Tỳ-kheo làm Yết-ma. Sau đó, nhóm sáu vị nói: Tôi vì việc kia mà gởi dục. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền quở trách và chế giới.

Nếu Tỳ-kheo gởi dục rồi sau đó hối hận, nói rằng: Ông làm Yết-ma phi pháp, Yết-ma không thành. Tôi vì việc kia nên gởi dục, chứ không vì việc này.

Ba-dật-đề: Hoặc nói không rõ thì phạm Cát-la. Ni cũng đồng phạm. Không phạm: Nếu đó là sự thật, làm Yết-ma phi pháp, hoặc nói lầm kia đây thì khai cho.

75. Giới xoay vần bốn tranh:

Phật ngự tại Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị nghe chúng Tỳ-kheo gây gổ rồi, lại hướng về những người kia nói, làm cho chúng gây gổ không dứt. Tỳ-kheo nêu tội, Phật nhân đó chế giới.

Nếu Tỳ-kheo gây sự với Tỳ-kheo khác rồi: Đấu tranh có bốn: Nói, tìm, phạm, sự.

Nghe lời này đến người kia nói.

Thính: Lần lượt nói với người, hoặc nghe lời kia nói, từ đường cho đến phi đường, từ cao đến thấp. Hoặc qua lại nghe được.

Ba-dật-đề: Nếu không nghe phạm Cát-la. Nếu phương tiện muốn đi mà không đi, hẹn đi mà không đi, tất cả đều phạm Cát-la. Nếu hai người cùng nói ở nơi khuất kín, cùng đi nói chuyện chung. Nếu không búng ngón tay tằng hắng, tất cả phạm Cát-la. Ni cũng đồng phạm như Tăng.

Không phạm: Là nếu làm không lợi thì chẳng phải Yết-ma. Muốn biết cho nên nghe.

76. Giới đánh đại Tỳ-kheo:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Một vị trong nhóm Tỳ-kheo sáu vị, tức giận đến đánh một vị tăng trong nhóm Tỳ-kheo mười bảy vị. Người bị đánh khóc to lên. Tỳ-kheo nghe và biết chuyện, bạch lỗi này lên Đức Phật, Phật liền chế giới.

Nếu Tỳ-kheo tức giận nên không vui mà đánh Tỳ-kheo khác, hoặc dùng tay đá, gậy đánh.

Ba-dật-đề: Trừ cầm gậy đá, nếu dùng khóa cửa, móc câu, cây phất, lư hương, cán chổi... Tất cả phạm Đột-cátla. Ni cũng đồng phạm.

Không phạm: bị bệnh cần vỗ vào xương sống. Hoặc khi ăn cần gõ vào cổ họng, sống lưng. Nếu cùng nói mà kia không nghe nên đánh nhẹ cho nghe. Hoặc lúc ngủ thân dựa trên người khác, hoặc đi đứng kinh hành đụng nhau. Hoặc lúc quét dọn, đầu chổi lỡ đụng vào người thì khai cho.

77. Giới đánh Tỳ-kheo khác:

Phật ngự tại Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị dùng tay đánh nhóm Tỳ-kheo mười bảy vị. Người bị đánh lớn tiếng kêu khóc. Tỳ-kheo nêu lỗi, bạch lên Đức Phật. Do đây, Phật quở trách và đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo tức giận không vui, dùng tay đánh Tỳ-kheo khác thì phạm Ba-dật-đề. Hoặc dùng tay đánh kia thì phạm tội đọa. Dùng đồ vật, ổ khóa đánh phạm Cátla. Ni cũng đồng phạm như tăng.

Không phạm: Hoặc có duyên sự phải giơ tay nên đụng chạm nhau.

78. Giới Tàn báng:

Phật ngự tại Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị tức giận, đem việc vô căn cứ hủy báng nhóm Tỳ-kheo mười bảy vị. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền quở trách và đặt giới này.

Nếu Tỳ-kheo tức giận đem việc vô căn cứ như trên đã giải thích.

Đem tội Tăng-già-Bà-thi-sa mà hủy báng thì phạm Ba-dật-đề. Ni cũng đồng phạm. Không phạm: Có ba căn, hoặc nói thật để cho người hối lỗi chứ không hủy báng, hoặc nói chơi, hoặc nói lầm thì khai cho.

79. Giới vào cửa cung vua:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Phu nhân Mạt-lợi cúng dường Phật rất tín tâm và khuyên vua tin vui theo, cho các Tỳ-kheo ra vào cung tự do.

Ca-lưu-Đà-di khi vào cung, phu nhân đang nằm trên giường, áo hở ra lộ bày thân thể. Các Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo, dòng vua sát-đế-lợi nước rưới đầu:

Nước rưới đầu: Lấy nước dưới biển lớn, đặt trên xe vàng, xe của các tiểu vương Đại Bà-la-môn dùng nước rưới trên đảnh vua, là dòng sát-lợi. Lập vua như thế, cho nên lấy đó gọi tên. Nếu các dòng Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-Đà mà lập như vậy thì cũng gọi là Quán đảnh.

Vua chưa ra: Vua chưa ra, người nữ chưa trở vào cung thất.

Chưa cất của báu: Các thứ vật báu như vàng bạc, chân châu, xa cừ, mã não, thủy tinh, lưu ly... Chưa được cất giữ.

Nếu bước qua ngạch cửa cung thì phạm Ba-dật-đề. Nếu một chân ở ngoài, một chân ở trong thì phạm Cátla. Phát khởi ý muốn đi thì phạm Cát-la. Trừ vua, còn các nơi của tiểu vương, hào quý, Trưởng giả mà vào quá hạn thì phạm Cát-la. Ni cũng đồng phạm. Không phạm: là nếu được tấu bạch thỉnh mời, gặp duyên nạn liên quan đến sinh mạng, phạm hạnh thì khai cho.

80. Giới cầm vật báu:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Có ngoại đạo đi trên đường. Do dừng lại nghỉ rồi để quên một ngàn lượng vàng.

Tỳ-kheo gặp, cầm lấy đem vàng về trả lại, nhưng ngoại đạo kia nói vàng bị thiếu, Vua xử đoán phạt tội, lấy vàng nhập cung. Tỳ-kheo nêu tội, bạch lên Đức Phật. Phật quở trách chế giới.

Nếu Tỳ-kheo vật báu: Là các thứ vàng bạc, châu báu, v.v...

Và các báu trang sức. Báu trang sức là đồng, thiếc, bạch lạp, v.v... Tự cầm hay bảo người cầm, trừ ở trong Tăng-già-lam: Bấy giờ, mẹ Tỳ-xá-khư, cởi áo quý đến chỗ Phật nghe pháp. Nghe xong thì quên chiếc áo, Tỳ-kheo bạch Phật, cho cầm giữ để trả lại chủ không mất.

Và gởi lại chỗ ngủ: Bấy giờ, Tỳ-kheo đi đường, ngủ nhờ nhà của người thợ kim hoàn. Các loại trang sức thành phẩm hoặc chưa thành bày ra trước mắt. Suốt đêm Tỳ-kheo không ngủ để giữ. Sáng ra, bạch Phật, Phật dạy:-Vì muốn chắc chắn cho nên được thâu cất.

Ba-dật-đề: Ni đồng phạm như tăng. Nếu ở trong tăng-già-lam và chỗ ngủ nhờ, cầm giữ vật báu và các món trang sức. Tự cầm hoặc bảo người cầm, đều là ý tốt. Hoặc chủ biết thì giữ.

Nếu hai chỗ được của báu thì nên giữ lấy. Biết trong túi số lượng nhiều ít. Nếu có người đến hỏi, thì đưa trả lại nếu họ nói đúng. Còn không đúng thì nói tôi không thấy. Nếu không biết trong túi đựng gì, không xem vuông tròn, mới cũ thì phạm Đột-cát-la.

Ngoài các nhân duyên như thế thì không phạm. Hoặc ngủ nhờ trong tăng-già-lam. Nắm giữ các phương tiện như trên. Nếu cúng dường chùa tháp vì muốn chắc cho nên thâu cất. Tất cả không phạm.

81. Giới phi thời vào xóm làng:

Phật ngự tại Xá-vệ. Bạt-Nan-Đà phi thời vào xóm, cùng cư sĩ đánh xu bồ và được thắng. Cư sĩ ganh ghét cố dùng lời chê trách. Tỳ-kheo nêu tội, bạch lên Đức Phật, do đó Phật đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo phi thời:

- Thời: Từ sáng đến giờ ngọ.

- Phi thời: Sau ngọ đến sáng hôm sau lúc mặt trời chưa mọc. Vào xóm: Xóm có bốn thứ: như trên.

Không dặn Tỳ-kheo: Bấy giờ, tăng có việc chùa tháp và săn sóc bịnh. Phật dạy: Nên dặn Tỳ-kheo khác, hoặc ở riêng một phòng thì nên dặn trao phòng lại.

Ba-dật-đề: Mới bước vào cửa làng thì phạm tội đọa. Một chân vào trong và phương tiện hẹn nhau thì phạm Cát-la. Ni cũng đồng phạm.

Không phạm: là hoặc làm chùa tháp, vì bịnh nên dặn dò Tỳ-kheo. Hoặc có bạch vào làng, hoặc được mời thỉnh, bị nạn duyên thì không phạm.

Giới nằm giường quá lượng:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, Ca-lưu-Đà-di biết trước Phật đi qua đường này, liền trải tòa cao, giường tốt giữa đường và bạch Phật rằng:

-Phật hãy xem giường tòa của con. Phật bảo: Nên biết rằng người ngu nầy bên trong thường có tâm tệ ác. Phật nhóm họp chúng tăng lại quở trách và đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo làm giường dây, giường cậy: Năm loại giường như trên.

Cao tám ngón tay của Đức Như lai, trừ chỗ để lên bệ, nếu quá thì phạm Ba-dật-đề: Nếu tự làm, bảo người làm thì phạm tội đọa. Nếu không thành, hoặc vì người khác mà làm thì phạm Đột-cát-la. Ni cũng đồng phạm không phạm là: Nếu làm chân cao tám ngón tay. Hoặc dưới, hoặc cắt bớt dùng, hoặc bỏ chân giường ra.

82. Giới làm nệm bằng bông đâu-la-miên:

Phật ngự tại Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị làm nệm bằng bông Đâu-la-Miên. Cư sĩ cho là không có từ tâm, làm hại chúng sinh. Các Tỳ-kheo nêu tội, Phật quở trách và chế giới.

Nếu Tỳ-kheo, bông đâu la: Là các loại hoa Bạch dương, thọ hoa, hoa liễu, Bồ đào.

Trừ giường dây, giường cây: Đều có năm loại: như trên. Nệm lớn nhỏ: làm đồ nằm ngồi.

Thành thì phạm Ba-dật-đề. Tự làm hay bảo người làm đều như trên. Ni cũng phạm. Không phạm: Khai duyên cũng giống như trên.

83. Giới: làm ống đựng kim bằng xương voi, ngà voi:

Phật ngự tại thành la-Duyệt. Có người thợ khéo léo làm cho Tỳ-kheo cái ống đựng kim bằng ngà voi. Sau đó gia nghiệp tàn lụi không đủ y thực. Người đời gièm chê, cho ông mong cầu được phước mà trái lại gặp tai ương.

Tỳ-kheo nêu tội, bạch lên Đức Phật. Phật quở trách rồi chế giới.

Nếu Tỳ-kheo làm ống đựng kim, thành thì phạm Ba-dật-đề. Nếu tự làm, bảo người làm thì phạm như trên. Tỳ-kheo-ni phạm Đột-cát-la. Không phạm: Là các loại bằng đồng sắt, v.v... Hoặc bằng trúc, bằng cây và dùng các loại cỏ làm ống đựng kim thì không phạm. Hoặc làm đầu tích trượng, làm cán dù cán dao. Hoặc như ý làm các loại đồ dùng móc áo, v.v... thì không phạm.

84. Giới: Ni-Sư-Đàn quá lượng:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Theo pháp thường của Chư Phật là không thọ thỉnh phòng xá ở những nơi hành hóa. Trông thấy đồ nằm của chúng tăng phơi bày đầy đường mà bị nhiễm ô. Phật bèn bảo các Tỳ-kheo: Các vị tiên nhân, ngoại đạo lìa dục còn không có việc này. Để che đậy y và đồ nằm nên Phật cho may ni-Sư-Đàn. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị làm ni sư đàn thật lớn. Tỳ-kheo nêu tội. Phật do đây chế giới.

Nếu Tỳ-kheo may ni-Sư-đàn: Dùng để trải ngồi.

Nên làm đúng lượng, dài hai khuỷu tay, rộng một khuỷu tay của Phật.

Bấy giờ, Ca-lưu-Đà-di thân thì lớn mà ni-Sư-đàn lại nhỏ. Ông đến bạch với Phật và cho làm rộng thêm. Phật cho tăng thêm mỗi bên nửa khuỷu tay. Nếu làm quá phạm Ba-dật-đề. Hoặc rộng dài đều quá. Tự làm, bảo người làm, nếu thành phạm xả đọa, không thành thì phạm Cát-la. Vì người làm thành hay không thành cũng phạm Cát-la. Ni phạm Cát-la.

Không phạm: là nếu giảm ít, hoặc cắt để đắp cho người.

85. Dùng vải băng vết thương quá lượng:

Phật ngự tại Xá-vệ. Có Tỳ-kheo bị mụn nhọt, máu mủ chảy ra làm nhơ bẩn cả đồ nằm của tăng. Phật cho may y lớn để che vết thương, mặc Niết-bàn tăng đến nhà người tại gia, nói tôi có vết thương nên đắp Niết-bàn tăng, dùng đây để che vết thương khi ngồi. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị liền may y thật lớn. Tỳ-kheo nêu tội, Phật do đây chế giới.

Nếu Tỳ-kheo may y che vết thương. Có các loại y may dùng để che vết thương trong thân, nên ứng theo lượng mà làm, lượng là dài bốn khuỷu tay, rộng hai khuỷu tay Phật, nếu quá thì phạm Ba-dật-đề. Cùng quá lượng hay cùng giảm, tự làm hay bảo người làm đều phạm tội đọa. Không thành thì phạm Cát-la. Vì người làm, thành hay không thành đều phạm Cát-la. Ni cũng phạm Cát-la.

Không phạm: Đúng với lượng, hoặc giảm lượng. Đã làm xong hoặc cắt theo lượng làm lại.

86. May áo mưa quá lượng:

Phật ngự tại Xá-vệ. Mẹ Tỳ-xá-khư đem đến áo tắm mưa. Phật bảo: Không được phân, tùy theo Thượng Tọa mà cho. Không đủ thì theo thứ lớp tăng mà đưa. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị may thật lớn, Tỳ-kheo nêu tội, Phật do đây mà chế giới.

Hoặc Tỳ-kheo may y tắm mưa: Là áo mặc tắm lúc mưa.

Nên ứng theo lượng mà làm: Lượng là dài sáu khuỷu tay, rộng hai khuỷu rưỡi. Nếu quá thì phạm tội Ba-dật-đề. Tự làm hay bảo người làm đều không được. Tỳ-kheo ni khai duyên cũng đồng như giới trước.

87. Giới ba y quá lượng:

Phật ngự tại Thích-Sí-Sấu: Nan-đà thấp hơn Phật bốn ngón tay. Các Tỳ-kheo nhìn thấy từ xa cho là Phật bèn cung kính đảnh lễ. Đến khi biết không phải thì mọi người đều mắc cỡ.

Phật chế: Cho Nan-đà đắp y đen, nhóm Tỳ-kheo sáu vị làm bằng lượng của Phật hoặc làm quá lượng. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Nếu Tỳ-kheo may y bằng lượng y của Như lai, hoặc may quá lượng thì phạm Ba-dật-đề.

Y lượng bằng với Như lai đó là dài chín khuỷu tay, rộng sáu khuỷu tay của Phật. Đó gọi là lượng y của Như lai. Nếu rộng dài cùng ứng lượng không ứng lượng đều phạm. Tự làm, bảo người làm, ni làm cũng như trên.

Không phạm: Từ người khác được chiếc y đã thành, cắt ra như lượng, hoặc may chồng lên hai lớp thì không phạm.

Nầy các Đại đức! Tôi đã nói chín mươi pháp Ba-dật-đề. Nay hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (ba lần).

Các Đại đức trong đây thanh tịnh, việc này rõ như vậy.

QUYỂN HẠ

Thưa Chư Đại đức! Bốn pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni nầy nửa tháng tụng một lần, xuất xứ từ trong giới kinh.

1. Giới: Nhận thức ăn của ni không phải bà con:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Gặp năm mất mùa, gạo thóc quý hiếm, người chết đói vô lượng. Tỳ-kheo Liên Hoa sắc đắp y ôm bát vào thành khất thực, cho đến ba ngày như thế ni đều đem cho các Tỳ-kheo bị đói bên đường, sau đó trét bùn lên mặt nằm ngủ, người thế tục thấy vậy chê bai, Tỳ-kheo nêu tội, bạch lên Đức Phật, Phật quở trách và đặt ra giới này.

Nếu Tỳ-kheo vào thôn xóm, xin người không phải bà con: như trên đã giải thích.

Nếu Tỳ-kheo-ni không bịnh: Cũng giống như trên.

Tự tay lấy thức ăn: hai loại thức ăn, cũng giống như trên.

Thực: là Tỳ-kheo nên hướng về Tỳ-kheo khác nói lời sám hối: Đại đức! Tôi phạm pháp đáng quở trách, là việc không nên làm. Nay tôi hướng về Đại đức nói lời sám hối. Đó gọi là pháp Hối quá. Nếu tự tay thọ thì mỗi miếng đều phạm đọa. Tỳ-kheo-ni phạm Đột-cát-la.

Không phạm: Thọ thức ăn từ ni bà con thuộc. Hoặc có bệnh, hoặc đặt trên đất, khiến người khác đưa qua. Nếu ở trong Tăng-già-lam cho, hoặc ngoài thôn cho, tại chùa ni cho, như thế mà nhận lấy thì không phạm.

2. Giới thọ thức ăn từ tay ni trao:

Phật ngự tại Xá-vệ, có rất nhiều Tỳ-kheo thọ thực với nhóm Tỳ-kheo sáu vị trong nhà người tại gia. Bấy giờ, nhóm Tỳ-kheo-ni sáu vị đem cơm canh khất thực cho nhóm Tỳ-kheo sáu vị và nói: Xin cho cơm và canh này. Tỳ-kheo nêu tội, bạch lên Đức Phật. Phật liền quở trách, chế giới.

Tỳ-kheo đến nhà người tại gia: có nam có nữ. Thực:

Như trên đã nói.

Ở trong nhà này có Tỳ-kheo-ni bảo thí chủ cúng Tỳ-kheo kia cơm canh. Tỳ-kheo nên nói với Tỳ-kheo-ni rằng:-Đại tỷ xin chớ làm như vậy.

Các Tỳ-kheo ăn xong, Tỳ-kheo này nên hướng về các Tỳ-kheo nói lời sám hối:-Đại đức tôi phạm tội đáng quở trách, là việc không nên làm, nay Tôi hướng về Đại đức cầu xin sám hối. Đó gọi là pháp hối quá.

Nếu không quở trách mà ăn, mỗi miếng phạm một tội đọa. Ni phạm Cát-la.

Không phạm: Hoặc nói đại tỷ xin chớ làm như vậy.

Nên để cho các Tỳ-kheo ăn xong. Nếu ni tự làm đànviệt. Nếu đàn-việt thiết trai nhờ ni đem phân chia, nếu không cố làm riêng tư kia đây thì không phạm.

3. Giới thọ thực ở nhà học giả:

Phật ngự tại thành La-duyệt. Có vợ chồng cư sĩ đều được thấy đế. Không còn ái luyến dù cho thân thể mình, nên đem cúng dường hết, không còn cả y thực. Các cư sĩ chê trách. Tỳ-kheo nêu tội. Phật dạy bạch hai lần để chế đoạn Tỳ-kheo, rồi đặt ra giới này.

Nếu trước làm Yết-ma Học gia, tăng bạch hai lần Yết-ma. Nhà: Như trên đã nói.

Nếu Tỳ-kheo trước không được thỉnh đến học gia:

Nếu được thỉnh thì cho đi.

Vô bịnh: cho Tỳ-kheo có bịnh đến ăn nhà người.

Tự tay thọ thực: Nếu đặt trên đất mà cho, hoặc bảo người cho thì được.

Thực: Tỳ-kheo nên hướng về vị Tỳ-kheo khác nói lời sám hối rằng:

-Đại đức, tôi phạm tội đáng quở trách, điều không nên làm tôi đã phạm. Nay xin hướng về Đại đức sám hối. Đó gọi là pháp hối quá.

Nếu tự tay nhận thì phạm, ni phạm Đột-cát-la. Không phạm là: Hoặc thỉnh trước, hoặc bịnh, hoặc đặt xuống đất rồi lấy. Hoặc theo người thọ. Hoặc bạch hai lần giải rồi mới thọ thực, tất cả không phạm.

4. Giới lan nhã khủng bố mà thọ thực:

Phật ngự tại nước Thích-sí-sấu, thành Ni-Câu-luật. Có người nữ đem thức ăn cúng dường, bọn giặc bên đường xúc nhiễu. Tỳ-kheo bạch việc này lên Đức Phật, Phật bảo: Nên nói cho biết, rồi Ngài đặt ra giới nầy.

Nếu Tỳ-kheo ở tại A lan nhã, cách xóm làng 500 cung, pháp theo lượng là trủy tay nước Già-ma-la.

Nơi xa có nghi ngờ sợ hãi: Nghi có giặc trộm cướp, làm sợ hãi. Nếu Tỳ-kheo trụ nơi A-lan-nhã như thế, trước không nói với đàn-việt. Phật bảo: Nên nói những người phụ nữ chớ đi ra đường, có giặc cướp sợ hãi.

Hoặc ngoài tăng-già-lam không có thọ thực. Nếu đã ra ngoài thành, nên nói rằng: Chớ đến trong tăng-giàlam, giữa đường có giặc cướp làm sợ hãi.

Trong Tăng-già-lam không bịnh: Nếu người cố đem thức ăn cho người bịnh thì nhận.

Tự tay nhận thức ăn: Nếu có thí chủ để thức ăn dưới đất, hoặc bảo người đem cho.

Thực là Tỳ-kheo nên hướng về Tỳ-kheo khác nói: Đại đức! Tôi phạm pháp đáng quở trách, làm việc không nên làm, giờ đây tôi hướng về Đại đức cầu xin sám hối. Đó gọi là pháp Hối quá. Ni phạm Cát-la. Không phạm: Hoặc đến thọ giáo, nghe pháp, tự ăn khiến người trao đến.

Các Đại đức! Tôi đã nói bốn pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni, nay xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (Ba lần)

Thưa các đại đức! trong đây thanh tịnh vì im lặng, việc này giữ gìn như vậy.

Thưa các Đại đức! Đây là pháp Thức-xoa-Ca-la-ni, nửa tháng tụng một lần, xuất xứ từ trong giới kinh.

1/ Giới mặc Niết-bàn-tăng ngay ngắn: Phật ngự tại nước Xá-vệ! Nhóm Tỳ-kheo sáu vị mặc Niết-bàn-tăng không ngay ngắn, nên cư sĩ chê cười. Vào ngày lễ hội vui chơi nói Tỳ-kheo này cũng như Vua chúa, Đại thần. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền quở trách và chế giới.

Phải ngay ngắn: y không ngay ngắn là nói y bị xệ xuống, dây buộc dưới thắt lưng. Cao là Áo bằng đầu gối, mũi voi, là một góc trước xệ xuống.

Lá cây Đa-la: hai góc trước xệ xuống.

Mặt Niết-bàn-tăng: Mặc không ngay ngắn phạm tội nên sám hối, đây là phạm Cát-la. Nếu cố làm cố phạm chẳng phải oai nghi thì phạm Đột-cát-la. Nếu không cố làm phạm Cát-la. Tỳ-kheo và bốn chúng cũng phạm Đột-cát-la. Các tướng thành phạm ở thiên sau đều y cứ theo đây.

Thức-xoa-Ca-la-ni: Không phạm: là trong bụng có sinh ghẻ thì mặc quần dưới. Nếu phần trên có ghẻ thì mặc cao lên. Hoặc ở trong tăng-già-lam, hoặc ở ngoài thôn. Hoặc lúc làm, hoặc hành đạo thì không phạm.

2/ Giới mặc ba y ngay ngắn:

Phật ngự tại Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị mặc y áo không ngay ngắn, các Trưởng giả trông thấy chê cười, thì họ nói: tôi tự biết chánh pháp. Như thế có chánh pháp nào mặc y không ngay ngắn như người đời không khác. Tỳ-kheo bạch lỗi ấy lên Đức Phật. Do quán ba đời mà đặt ra giới này.

Nên mặc ba y ngay ngắn Thức-xoa-ca-la-ni: mặc vừa chừng, bên dưới quá xệ để lộ hông sườn.

Cao là: Quá gót chân. Mũi voi: một góc trước xệ xuống. Lá đa-la: Hai góc trước xệ xuống, phía sau cao lên.

Tế niếp: Niếp là đã đặt viền. Không phạm: Vết thương từ vai cánh tay thì mặc dưới. Tướng khai đồng như trước.

3/ Giới: Lật ngược y vào nhà thế tục:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị lật ngược y vào nhà thế tục. Cư sĩ chê trách. Nói không biết hổ thẹn, như vua quan chẳng khác. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Không được lật ngược y: Hoặc lật ngược y, hai bên má trái từ vai lên.

Vào nhà người tại gia: là thôn xóm.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm: Hoặc bên lưng sườn bị bịnh ghẻ, hoặc ở trong già-lam. Hoặc trên đường, hoặc lúc làm.

4/ Không được lật ngược y vào nhà thế tục ngồi Thức-xoa-ca-la-ni.

5/ Giới: Y quấn cổ vào nhà người tại gia:

Phật ngự tại Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị quấn y vào cổ đến nhà cư sĩ. Các cư sĩ chê cười cho là như hàng cư sĩ Trưởng giả. Tỳ-kheo nêu tội. Phật liền chế giới.

Không được y quấn cổ: là không được nắm các góc y vắt lên vai.

Vào nhà người tại gia Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm. Hoặc hai vai bị đau, cánh tay có ghẻ lở. Hoặc trong chùa tăng, hoặc ngoài làng xóm, lúc làm việc hay ở ngoài đường.

6/ Không được y quấn cổ vào nhà người tại gia ngồi Thức-xoa-ca-la-ni.

7/ Giới che đầu vào nhà người tại gia:

Phật ngự tại Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị lấy y che đầu đi vào nhà người tại gia. Cư sĩ chê cười: Che đầu như trộm cướp, như vậy làm sao gọi là chánh pháp. Tỳ-kheo nghe nói liền nêu tội, Phật quở trách và chế giới.

Không được vắt ngược y. Hoặc dùng cây lá, hoặc dùng đồ vật cắt đoạn ra, hoặc dùng y che.

Vào nhà người tại gia Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm: Hoặc bị bịnh, hoặc sợ lạnh, hoặc trên đầu có mụt. Hoặc bị nạn sinh mạng, phạm hạnh che đầu mà đi.

8/ Không được che đầu vào nhà người tại gia ngồi.

9/ Không được vừa đi vừa nhảy vào thế tục:

Phật ngự tại Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị dù đi dù nhảy vào nhà thế tục. Các cư sĩ chê trách là không biết hổ thẹn, vào nhà người tại gia giống như chim sáo. Tỳ-kheo nêu tội, Phật do đó chế giới.

Không được dù đi dù nhảy: Nhảy hai chân mà đi.

Vào nhà người tại gia Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là bị bịnh hoặc bị người đánh. Có giặc đuổi hay bị thú dữ cắn. Nhảy qua mương ao hay chỗ bùn nước.

10/ Không được vừa đi vừa nhảy vào nhà thế tục mà ngồi:

11/ Ngồi xổm trong nhà cư sĩ:

Phật ngự tại Xá-vệ. Các cư sĩ thỉnh tăng đến nhà thọ thực. Nhóm Tỳ-kheo bảy vị ngồi chồm hổm, đưa tay lên tòa làm cho thân hình nghiêng ngửa ra. Các cư sĩ chê trách là không biết xấu hổ, lộ hình ra chẳng khác gì Bàla-môn. Tỳ-kheo nêu tội. Phật liền chế giới.

Không được vào nhà người tại gia ngồi xổm, hoặc trên đất hay trên giường ngồi mà không dính đất.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là lúc đó có mục ghẻ ở dưới, hoặc lễ, hoặc sám hối, hoặc thọ giáo giới.

12/ Không được chống nạnh vào nhà thế tục:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm sáu vị chống nạnh đi vào nhà thế tục. Các Cư sĩ chê cười nói: Sa-môn tự xưng là mình biết chánh pháp, lại đưa tay chống nạnh như người đêm tân hôn đắc chí kiêu ngạo. Tỳ-kheo nêu tội. Phật do đây chế giới.

Không được chống nạnh.

Thức-xoa-ca-la-ni đi vào nhà thế tục: Không phạm là: Hoặc bị bịnh, sau lưng có mụt. Trong tăng-già-lam, hoặc ngoài thôn, hoặc làm việc, hoặc đi đường.

13/ Không được chống nạnh, chống khuỷu tay lên làm trở ngại các vị Tỳ-kheo ở bên.

Đến nhà người tại gia, ngồi không được chống nạnh Thức-xoa-ca-la-ni.

14/ Giới không được lắc mình đi vào nhà thế tục:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Nhóm sáu vị đi lắc mình vào nhà thế tục. Các Cư sĩ chê cười nói: Thật không biết hổ thẹn, lắc mình đi như bậc vua quan. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền quở trách, chế giới.

Không được lắc mình đi: bước đi thân lắc qua hai bên.

Vào nhà người tại gia Thức-xoa-ca-la-ni. Không phạm: Là hoặc bị bịnh, hoặc bị người đánh, lách mình chạy tránh gậy. Hoặc bị thú dữ xúc não, hoặc tránh các vật đâm chém vào thân, hoặc lắc mình để qua hầm hố, hoặc mặc đồ ngắm lại cho ngay ngắn.

15/ Không được lắc mình đi vào nhà thế tục ngồi Thức-xoa-ca-la-ni.

16/ Không được đánh đàng xa vào nhà thế tục ngồi:

Phật ngự tại Xá-vệ, nhóm sáu vị lắc tay đi vào nhà thế tục. Các Cư sĩ chê cười:-Thật không biết hổ thẹn, đánh tay đi vào nhà cư sĩ, giống như vua quan, Trưởng giả. Tỳ-kheo nêu tội. Phật quở trách chế giới.

Không được đi đánh tay đằng xa: là duỗi tay ra trước sau mà đi. Vào nhà thế tục Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là: Hoặc bị bịnh, bị người đánh giơ tay đỡ, hoặc thú dữ xông vào người đưa tay đỡ. Hoặc qua ao rạch đưa tay vẫy gọi bạn.

17/ Không được tay đánh đàng xa đi vào nhà thế tục ngồi, Thức-xoa-ca-la-ni.

18/ Lộ thân đi vào nhà thế tục:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Nhóm sáu vị không thích che thân đi vào nhà thế tục. Các Cư sĩ chê trách nói: Y phục che thân không khéo chẳng khác gì Bà-la-môn.

Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới. Khéo che thân đi vào nhà thế tục: hoặc lộ ở trong làng xóm chỗ nào cũng lộ bày thân thể.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là: hoặc bị bịnh, hoặc bị ràng buộc, gió thổi làm y tung ra.

19/ Phải khéo che thân vào nhà thế tục ngồi Thứcxoa-ca-la-ni.

20/ Liếc ngó hai bên đi vào nhà thế tục:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm sáu vị liếc ngó hai bên đi vào nhà thế tục. Cư sĩ chê trách rằng như kẻ trộm. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Không được liếc ngó hai bên: Vào thôn xóm nhìn ngó các nơi. Vào nhà thế tục Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là: Hoặc bị bịnh, hoặc ngước nhìn trời xem thời tiết, hoặc bị nạn sinh mạng, phạm hạnh, nhìn ngó hai bên để tiện đường đi.

21/ Thức-xoa-ca-la-ni không được liếc ngó hai bên đi vào nhà thế tục ngồi.

22/ Lớn tiếng đi vào nhà thế tục:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm sáu vị lớn tiếng đi vào nhà thế tục. Các Cư sĩ chê cười: Như Bà-la-môn không biết hổ thẹn, không phải chánh pháp. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Im lặng thanh tịnh vào nhà thế tục: Trong đó không im lặng, cao tiếng nói lớn. Hoặc dặn dò trao đổi. Hoặc lớn tiếng thí thực.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là: hoặc bị bịnh. Hoặc điếc không nghe, phải lớn tiếng dặn dò trao đổi, hoặc cao tiếng thí thực. Hoặc bị hai nạn sinh mạng và phạm hạnh lớn tiếng mà đi.

23/ Im lặng vào nhà bạch y mà ngồi Thức-xoa-cA-la-ni.

24/ Cười giỡn vào nhà thế tục:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm sáu vị đùa giỡn đi vào nhà thế tục. Các Cư sĩ chê trách: Cười nói như khỉ vượn không biết hổ thẹn, làm sao có chánh pháp, Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Không được cười giỡn: là cười hở răng. Vào nhà thế tục Thức-xoa-ca-la-ni. Không phạm là: hoặc bị bịnh, hoặc môi hở răng không kín. Hoặc niệm pháp vui mừng mà cười.

25/ Không được cười giỡn vào nhà bạch y ngồi, Thức-xoa-ca-la-ni.

26/ Không dụng ý thọ thực (Phải chú ý thọ thực):

Phật ngự tại Xá-vệ, Cư sĩ thỉnh tăng cúng dường. Nhóm sáu vị không dụng ý thọ thực, làm rơi đổ cơm canh. Các Cư sĩ chê cười nói Sa-môn không biết thỏa mãn, tâm tham thọ nhiều như lúc lúa gạo kém thiếu. Các Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Dụng ý thọ thực: Vì không chú ý nên làm rơi đổ cơm canh.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là: Hoặc lúc bị bịnh, hoặc bát nhỏ nên lúc ăn bị đổ cơm, hoặc lượm rớt trên bàn.

27/ Giới thọ thực đầy bát:

Phật ngự tại Xá-vệ, có cư sĩ thỉnh tăng, nhóm sáu vị thọ thực đầy bát, làm cơm canh đổ ra ngoài. Các Cư sĩ chê trách nói: Không biết hổ thẹn, không biết thỏa mãn, như loài ngọa quỉ tham ăn. Tỳ-kheo nêu tội, Phật nhân đó quở trách, chế giới.

Nên để bình bát cho ngang bằng, không ngang bằng thì thức ăn tràn ra.

Mà thọ thực, Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm, là hoặc lúc bị bịnh, hoặc bình bát nhỏ, hoặc rớt trên bàn.

28/ Thọ canh đầy bát:

Phật ngự tại Xá-vệ, Cư sĩ thiết trai cúng dường. Nhóm sáu vị lấy cơm quá nhiều không thể chứa canh. Các Cư sĩ chê cười:-Người gì tham ăn như ngạ quỉ. Các Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Bình bát thọ canh làm tràn nước ra dơ.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là hoặc lúc bị bịnh, hoặc bát nhỏ làm đổ cơm trên bàn.

29/ Giới không theo thứ lớp thọ thực:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Cư sĩ thiết trai cúng dường, tự tay sớt thức ăn. Canh để ở dưới rồi bỏ cơm thêm, ăn cơm hết mà canh vẫn còn. Lại lấy thêm cơm. Canh hết mà cơm vẫn còn, tựa như người đói. Các Tỳ-kheo nêu tội, Phật quở trách rồi chế giới.

Nên cơm canh cùng ăn: Vì không ăn một lượt thì cơm hết hoặc canh hết.

Thức-xoa-ca-la-ni, không phạm: là hoặc bị bịnh, hoặc cần ăn canh hơn cơm, hoặc cơm hơn canh. Hoặc mặt trời sắp qua, hoặc bị hai nạn sinh mạng và phạm hạnh phải ăn cho mau.

30/ Thọ thực không thứ lớp:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Cư sĩ thiết trai cúng dường, tự tay sớt thức ăn. Nhóm sáu vị không theo thứ lớp gắp thức ăn. Các Cư sĩ chê bai, không biết thỏa mãn, chẳng khác nào như chó lợn, trâu lừa, diều qua chim chóc. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền quở trách chế giới.

Nên theo thứ lớp lấy thức ăn, kia không theo thứ lớp mà ăn, bỏ lộn lạo vào bát mà ăn.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là lúc bịnh. Sợ cơm nóng nên khều chỗ nguội ăn trước. Vì giờ ngọ sắp qua, hoặc bị nạn liên quan đến tánh mạng và phạm hạnh cần phải ăn mau.

31/ Giới moi cơm giữa bát mà ăn.

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Cư sĩ thiết trai cúng dường, tự tay dâng thức ăn. Nhóm sáu vị thọ thực, moi ở giữa ăn hết làm cho giữa bát trống rỗng. Các Cư sĩ chê bai nói: Ăn không biết thỏa mãn, như lừa ngựa heo chó. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Nhân đó Phật chế giới.

Không được khều giữa bát ăn: Moi cơm giữa bát cho đến tận đáy.

Mà ăn, Thức-xoa-ca-la-ni: không phạm là hoặc bị bịnh, sợ nóng ăn giữa cho nguội. Sắp qua giờ ngọ, hoặc lúc có nạn duyên cần ăn mau.

32/ Giới vì mình xin thức ăn:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Cư sĩ thiết trai, nhóm sáu vị tự xin ăn như lúc đói khát. Các Cư sĩ chê cười: Thọ thực không thỏa mãn như vậy làm sao đúng chánh pháp. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Vô bịnh: bị bịnh thì cho xin ăn.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không được tự mình xin cơm canh ăn. Không phạm là lúc bịnh, hoặc vì người, người vì mình, không mong mà được.

33/ Giới dùng cơm phủ canh:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Cư sĩ thiết trai cúng dường. Nhóm sáu vị ăn canh hết, cư sĩ lại châm thêm canh nữa. Sau đó Tỳ-kheo dùng cơm phủ lên canh. Cư sĩ trách rằng: Thọ dụng không biết thỏa mãn, như người đói khát, làm sao đúng chánh pháp. Tỳ-kheo nêu tội, Phật quở trách và chế ra giới này.

Thức-xoa-ca-la-ni không được dùng cơm phủ canh, ăn rồi xin canh nữa.

Không phạm: là hoặc bị bịnh, hoặc được mời thỉnh.

Hoặc có lúc cần ăn canh, có lúc cần ăn cơm.

34/ Giới: nhìn vào bát người ngồi bên cạnh:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, Cư sĩ thiết trai cúng dường, nhóm sáu vị được ít, phần người ngồi bên cạnh nhiều, nên nói với cư sĩ:-Nay ông thỉnh tăng mà có tâm cho người nhiều người ít. Cư sĩ bảo: Tôi cúng dường bình đẳng. Tỳ-kheo nêu tội, Phật quở trách rồi chế giới.

Không được nhìn trong bát người ngồi bên, xem ai nhiều ít.

Mà ăn, Thức-xoa-ca-la-ni. Không phạm là:-Vì người bên cạnh bị bịnh, hoặc mắt kém nên nhìn xem được thức ăn hay không được thức ăn, tịnh hay bất tịnh, thọ hay chưa thọ. Nếu bị bịnh thì khai cho.

35/ Giới duyên trong bát mà ăn:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, Cư sĩ thiết trai cúng dường, nhóm sáu vị ăn xong thì liếc ngó hai bên, không biết người ngồi bên cạnh lấy bát dấu đi. Tỳ-kheo bạch lên Đức Phật. Do đó mà Phật chế giới.

Nên duyên trong bát quán tưởng mà ăn: Là không được liếc ngó hai bên.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là lúc bị bịnh, người ngồi bên mắt kém, như các phương tiện trước, hoặc là xem giờ giấc, hoặc bị nạn duyên muốn chạy nhìn xem hai bên.

36/ Vắt cơm lớn miếng mà ăn:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, cư sĩ thiết trai cúng dường, nhóm sáu vị vắt cơm lớn miếng bỏ vào miệng nuốt không được. Các Cư sĩ chê cười cho là không biết thỏa mãn. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Không được vắt cơm lớn miếng mà ăn: Vì khó nuốt. Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm: là bị bịnh, giờ ngọ sắp qua, bị nạn liên quan đến tánh mạng, phạm hạnh, cần ăn nhanh.

37/ Giới: Há miệng lớn đợi cơm ăn:

Phật ngự tại Xá-vệ. Cư sĩ thiết trai cúng dường. Thức ăn chưa tới mà Tỳ-kheo há miệng lớn đợi ăn. Cư sĩ chê cười cho là không biết đủ, không nhàm chán. Tỳ-kheo nêu tội. Phật bèn quở trách, chế giới. Không được há miệng lớn đợi cơm ăn. Cơm chưa đến mà há miệng đợi. Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là: Hoặc bị bịnh, hoặc gặp nạn duyên muốn ăn nhanh.

38/ Ngậm cơm nói chuyện:

Phật ngự tại Xá-vệ, Cư sĩ thiết trai cúng dường, nhóm sáu vị miệng dù ngậm cơm dù nói chuyện. Các Cư sĩ chê cười. Tỳ-kheo nêu tội. Phật liền chế giới.

Không được vừa ngậm cơm vừa nói chuyện: Ngậm cơm thì nói không rõ làm cho người không hiểu.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là: Hoặc lúc bị bịnh, hoặc nghẹn xin nước. Hoặc bị nạn duyên nên nhai đồ ăn có tiếng.

39/ Vắt cơm ném vào miệng:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, các Cư sĩ thỉnh tăng, tự tay sớt thức ăn. Lục quần vắt cơm từ xa ném vào miệng ăn, các cư sĩ chê trách là không biết đủ, không biết thỏa mãn, chẳng khác gì nhà ảo thuật. Các Tỳ-kheo nêu tội. Phật liền chế giới.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không được vắt cơm từ xa quăng vào miệng mà ăn.

Không phạm: là bị bịnh, hoặc bị buộc vắt cơm ném ăn.

40/ Ăn cơm đổ rớt:

Phật ngự tại Xá-vệ, Cư sĩ thiết trai cúng dường. Nhóm sáu vị đưa cơm lên ăn, phân nửa đổ ra ngoài, các cư sĩ chê trách, các Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Ăn cơm không được để thừa lại: là phân nữa cho vào miệng, phân nửa cầm trên tay.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là bị bịnh ăn ít, ăn bánh hoặc trái cây nửa, rau quả, v.v...

41/ Ăn búng hai má:

Phật ngự tại Xá-vệ. Cư sĩ cúng trai phạn, nhóm sáu vị ăn ngốn nghiến, các cư sĩ hiềm trách, cho rằng Samôn không biết hổ thẹn. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Không được ăn cơm búng hai má: làm hai bên má phùng ra như loài khỉ vượn.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm: là lúc bịnh, sắp hết giờ ngọ, hoặc bị nạn liên quan đến tánh mạng, phạm hạnh nên ăn nhanh.

42/ Nhai cơm có tiếng:

Phật ngự tại Xá-vệ. Cư sĩ cúng dường trai phạn, nhóm sáu vị nhai cơm có tiếng. Cư sĩ chê trách. Tỳ-kheo nêu tội. Phật liền chế giới.

Thức-xoa-ca-la-ni: không được nhai cơm lớn tiếng mà ăn. Không phạm là: Khi bịnh nhai bánh khô và cơm cháy, mía, trái cây...

43/ Hớp cơm mà ăn:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Cư sĩ thiết trai cúng dường. Nhóm sáu vị hớp cơm lớn miếng mà ăn. Các Cư sĩ chê trách cho là không biết hổ thẹn. Các Tỳ-kheo bạch lên Phật, do đây Phật chế giới.

Không hớp cơm lớn miếng mà ăn: Há miệng lớn hớp cơm ăn.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là: Bị bịnh đau miệng, hoặc ăn canh, hoặc uống các loại nước sữa, rượu đắng, v.v...

44/ La lưỡi liếm mà ăn:

Phật ngự tại Xá-vệ, Cư sĩ thiết trai cúng dường. Nhóm sáu vị ăn dùng lười liếm. Các Cư sĩ chê cười, cho là không biết hổ thẹn. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Không được dùng lưỡi liếm thức ăn: Dùng lưỡi liếm cơm đưa vào miệng.

Thức-xoa-ca-la-ni, không phạm: là bị bịnh hoặc bị trói, tay dơ bẩn nên dùng lưỡi liếm thức ăn.

45/ Vung tay mà ăn:

Phật tại Xá-vệ. Cư sĩ thiết trai cúng dường và tự châm thức ăn. Lục quần lấy vung tay mà ăn. Các Cư sĩ chê bai, cho là không có chánh pháp, như vua đại thần.

Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Không được vung tay mà ăn Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm: là bị bịnh, hoặc trong cơm có cỏ trùng, hoặc tay có đồ dơ cầm vứt đi, hoặc tay chưa cầm thức ăn mà dơ nên phải rẫy tay.

46/ Tay lượm cơm đổ mà ăn:

Phật ngự tại Xá-vệ, cư sĩ thiết trai cúng dường, nhóm Tỳ-kheo sáu vị tay nhặt cơm đổ ăn. Các Cư sĩ chê cười, cho là như chim ăn. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Không được tay cầm cơm đổ ăn: là ăn làm rơi đổ.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là khi bịnh, hoặc trong thức ăn có cỏ, có đồ dơ, hoặc có thức ăn chưa thọ phải xả bỏ.

47/ Tay dơ cầm đồ đựng cơm ăn:

Phật ngự tại Xá-vệ, Cư sĩ thiết trai, nhóm sáu vị tay dơ mà cầm đồ đựng thực ăn. Các Cư sĩ chê cười, cho là không đúng pháp, giống như vua chúa, Đại thần. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Không được tay dơ cầm đồ đựng thức ăn: là Tay dơ mà cầm thức ăn.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm là bị bịnh hoặc là trên cỏ, trên lá, khi thọ có rửa tay.

48/ Nước rửa bát đổ vào nhà thế tục:

Phật ngự tại Xá-vệ. Nhóm sáu vị đổ nước rửa bát có lẫn lộn thức ăn vào nhà ăn của người. Các Cư sĩ chê trách, ăn nhiều như người đói. Tỳ-kheo nêu tội. Phật liền chế giới.

Không được đổ nước rửa bát: là nước có lẫn thức ăn. Đổ vào nhà bạch y Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm: là bị bịnh, hoặc lúc đậy nắp, hoặc rửa chậu đổ nước ra ngoài.

49/ Đại tiểu tiện trên cỏ tươi.

Phật ngự tại Xá-vệ. Nhóm sáu vị khạc nhổ và đại tiểu tiện trên cỏ tươi. Cư sĩ nhìn thấy cho là không biết hổ thẹn như loài vật. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới. Không được đại tiểu tiện và khạc nhổ trên rau cỏ tươi, trừ khi bịnh.

Vì bịnh không thể y theo lời Phật dạy nên không phạm.

Thức-xoa-ca-la-ni: Không phạm: Làm rớt trên lá cỏ tươi, hoặc hạt chim ngậm rơi xuống.

50/ Đại tiểu tiện, khạc nhổ vào nước sạch:

Phật ngự tại Xá-vệ, nhóm sáu vị đại tiểu tiện và khạc nhổ xuống nước. Cư sĩ chê trách, cho là như loài vật. Tỳ-kheo nêu tội. Phật liền chế giới.

Thức-xoa-ca-la-ni không được khạc nhổ và đại tiểu tiện xuống nước sạch. Không phạm là khi bịnh, hoặc đại tiểu tiện trên bờ chảy xuống nước, hoặc gió thổi chím ngậm làm rớt.

51/ Không được đứng đại tiểu tiện:

Phật ngự tại Xá-vệ. Nhóm sáu vị đứng đại tiểu tiện. Các Cư sĩ trông thấy cho là không biết hổ thẹn, không có chánh pháp, đứng tiểu tiện như loài vật. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Không được đứng đại tiểu tiện, trừ khi bịnh: Vì bịnh không thể ngồi.

Thức-xoa-ca-la-ni: không phạm là bị bịnh ràng buộc, hoặc chân đạp đồ dơ, hoặc bùn đất.

52/ Nói pháp cho người không cung kính:

Phật ngự tại Xá-vệ, nhóm sáu vị nói pháp cho người lật ngược y không cung kính nghe. Bấy giờ, Tỳ-kheo ít ham muốn nghe biết chuyện đó, lấy làm hổ thẹn nên nêu tội. Do đây Phật chế giới.

Không được nói pháp cho người lật ngược y không cung kính nghe, Thức-xoa-ca-la-ni.

Không phạm: hoặc người bị bịnh, hoặc là vua chúa, đại thần.

53/ Không được nói pháp cho người quấn y vào cổ nghe, trừ bịnh: Thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

54/ Không được nói pháp cho người che đầu nghe, trừ khi bịnh, Thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

55/ Không được nói pháp cho người bịt đầu nghe, trừ khi bịnh, Thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

56/ Không được nói pháp cho người chống nạnh nghe, trừ khi bịnh, Thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

57/ Không được nói pháp cho người mang giày da nghe, trừ khi bịnh, Thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

58/ Không được nói pháp cho người mang guốc cây nghe, trừ khi bịnh, Thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

59/ Không được nói pháp cho người đi xe nghe, trừ khi bịnh, Thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

60/ Ngủ đêm trong pháp Phật:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị vào ngủ đêm trong tháp Phật. Các Tỳ-kheo nêu tội, bạch lên Đức Phật, do đó mà Phật chế ra giới này.

Không được ở trong tháp Phật ngủ trừ khi giữ gìn.

Không phạm: Hoặc bị bịnh, hoặc giữ gìn thì nên vào ngủ, hoặc bị bắt buộc phải giữ gìn nên vào ngủ, hoặc bị bắt buộc phải chấp hành. Hoặc bị nạn duyên nên dừng lại ngủ.

61/ Không được giấu của cải trong tháp Phật: Tỳ-kheo ít muốn bạch lỗi này lên Đức Phật, Phật quở trách và chế ra giới nầy.

Thức-xoa-ca-la-ni: không được giấu tài vật trong tháp Phật, trừ cất cho chắc chắn. Không phạm là: Hoặc bị bịnh, hoặc muốn chắc chắn nên cất, hoặc bị bắt buộc, hoặc bị nạn duyên.

62/ Không được mang giày da vào tháp Phật: Có Tỳ-kheo hổ thẹn bạch lỗi này lên Đức Phật, Phật liền quở trách, chế giới.

Không được mang giày da vào tháp Phật: Không phạm là: Hoặc bị bịnh, hoặc bị bắt buộc vào.

63/ Không được xách giày da vào tháp Phật, thứcxoa-ca-la-ni: như trên.

64/ Không mang giày da vào đi nhiễu quanh tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

65/ Không được mang phú-la (hia ngắn) vào tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

66/ Không được xách hia vằn vào tháp Phật, thứcxoa-ca-la-ni: như trên.

67/ Không để thức ăn dơ dưới tháp Phật:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm sáu vị ngồi dưới tháp và để đồ dơ lại đó rồi đi. Tỳ-kheo bạch lên Đức Phật, Phật liền chế giới không được ngồi ăn dưới tháp. Lại lúc xây tháp, làm phòng, đào giếng, thí thực. Chúng tăng nhóm họp lại dưới tháp ăn uống không nên để đồ dơ dưới đất.

Không được ở dưới tháp để thức ăn và cỏ lại.

Không phạm: là ngồi mà không để thức ăn, bị bịnh, hoặc lúc bước vào trở ra cầm lấy đồ dơ đi.

68/ Không được khiêng thây chết đi qua dưới tháp Phật:

Phật ngự tại Xá-vệ, nhóm sáu vị khiêng thây chết đi qua dưới tháp Phật. Người giữ tháp tức giận đem lỗi này bạch lên Đức Phật. Phật liền chế giới.

Không được khiêng thây chết đi qua dưới tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

Không phạm là: Hoặc bị bịnh, hoặc cần đi qua con đường này.

Hoặc bị cưỡng bức kêu gọi mà đi.

69/ Không được chôn thây chết dưới tháp Phật thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

70/ Không được thiêu thây chết dưới tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

71/ Thức xoa không được thiêu thây chết trước tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

72/ Không được thiêu thây chết xung quanh bốn phía tháp, khiến hơi hôi bay vào, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

73/ Không được đem giường và áo người chết đi qua dưới tháp Phật.

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị đem áo và giường người chết đi qua dưới tháp Phật, làm cho thần trụ xứ nổi giận. Người tu hạnh đầu đà đem việc này bạch lên Đức Phật, Phật liền đặt ra giới này.

Không được đem y áo và giường người chết đi ngang qua dưới tháp, trừ đã giặt nhuộm xông hương.

74/ Không được đại tiểu tiện dưới tháp Phật, thứcxoa-ca-la-ni: như trên.

75/ Không được đại tiểu tiện trước tháp Phật, thứcxoa-ca-la-ni: như trên.

76/ Không được đại tiểu tiện xung quanh bốn phía pháp khiến hơi hôi bay vào, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

77/ Không được đem tượng Phật đến chỗ đại tiểu tiện, thức-xoa-ca-la-ni.

Như trên có ba việc. Không phạm là lúc bị bịnh, hoặc đường đi phải ngang qua đó, hoặc bị bắt buộc đi.

78/ Không được xỉa răng dưới tháp Phật, thứcxoa-ca-la-ni: như trên.

79/ Không được xỉa răng trước tháp Phật, thứcxoa-ca-la-ni: như trên.

80/ Không được xỉa răng xung quanh bốn phía tháp, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

81/ Không được khạc nhổ xung quanh bốn phía tháp, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

82/ Không được khạc nhổ dưới tháp, thức-xoa-cA-la-ni: như trên.

83/ Không được khác nhổ trước tháp, thức-xoa-cA-la-ni: như trên.

Phật ngự tại nước Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị khạc nhổ xung quanh bốn phía tháp Phật. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Không được khạc nhổ xung quanh bốn phía tháp Phật, thức-xoa-ca-la-ni.

Không phạm: là lúc bịnh, hoặc chim ngậm thả xuống, hoặc gió thổi đến.

84/ Không được duỗi chân trước tháp Phật:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Nhóm sáu vị ngồi duỗi chân trước tháp Phật. Người thích học giới nêu lỗi, bạch lên Đức Phật. Phật liền chế giới.

Không được duỗi chân trước tháp Phật, thức-xoa-cA-la-ni.

Không phạm là: Hoặc bị bịnh, hoặc trong đó có ngăn cách, hoặc bị bắt buộc.

85/ Để Phật phòng dưới, mình ở phòng trên:

Phật ngự tại nước Câu-la, nhóm sáu vị để tượng Phật ở dưới, mình ở phòng trên. Tỳ-kheo tu hạnh đầu-đà bạch lên Đức Phật, Phật liền quở trách và chế giới.

Không được để tượng Phật ở dưới, mình ở phòng trên thức-xoa-ca-la-ni. Không phạm là: Hoặc bị bịnh nên tượng Phật ở dưới mình ở phòng trên, hoặc có hai nạn phạm hạnh và tánh mạng.

86/ Người ngồi mình đứng không được nói pháp, trừ khi bịnh, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

87/ Người nằm mình ngồi không được nói pháp, trừ khi bịnh, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

88/ Người ngồi phải chỗ, mình ngồi không phải chỗ không được nói pháp, trừ khi bịnh, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

89/ Ngồi chỗ thấp không được nói pháp cho người ở chỗ cao nghe trừ khi bịnh, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

90/ Đi sau không được nói pháp cho người đi trước nghe, trừ khi bịnh, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

91/ Đi dưới thấp không được nói pháp cho người đi trên cao nghe, trừ khi bịnh, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

92/ Ở bên đường không được nói pháp cho người ở giữa đường nghe, trừ khi bịnh, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

93/ Không được nắm tay nhau đi trên đường:

Phật ngự tại Xá-vệ, nhóm Tỳ-kheo sáu vị nắm tay nhau đi ngoài đường, hoặc ngăn các nam nữ khác. Cư sĩ chê cười cho là không có chánh pháp, như là vua quan, bậc giàu sang. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Không được nắm tay nhau đi trên đường, thức-xoaca-la-ni.

Không phạm: là hoặc bị bịnh, hoặc Tỳ-kheo mắt kém nhờ dắt qua đường.

94/ Không được leo cây cao quá đầu người:

Phật ngự tại Xá-vệ. Tỳ-kheo ở trên cây đại thọ kiết hạ an cư, ở trên cây đó đại tiểu tiện. Vị thần tức giận muốn cắt đứt mạng căn của ông. Tỳ-kheo đem lỗi đó bạch lên Đức Phật, Phật liền chế giới không an cư trên cây và đại tiểu tiện trên đó. Nếu trước đã có chỗ đại tiểu tiện thì cho.

Không được leo cây quá đầu người trừ khi có nhân duyên, thức-xoa-ca-la-ni.

Không phạm là: Hoặc bị bịnh, hoặc bị nạn duyên nên leo lên cây.

95/ Vác gậy, mang đãy đựng bát:

Phật ngự tại nước Xá-vệ, Bạt nan Đà mang đãy trong đó có đựng bát treo trên đầu gậy mang trên vai mà đi. Cư sĩ cho là quan nhân nên lánh xuống đường. Tỳ-kheo nêu tội, Phật liền chế giới.

Không được mang túi đựng bát móc đầu gậy quảy trên vai đi.

Không phạm: là hoặc bị bịnh, hoặc bị cưỡng chế bức bách. Hoặc bị trói, hoặc bị nạn duyên.

96/ Cầm gậy không cung kính không được nói pháp cho người nghe, trừ khi bịnh:

Phật ngự tại nước Xá-vệ. Vì nhóm Tỳ-kheo sáu vị nói pháp cho người không cúng kính nghe, các Tỳ-kheo nêu tội, Phật quở trách và chế giới.

Người cầm gậy không cung kính thì không nên nói pháp cho họ nghe, trừ khi bịnh, thức-xoa-ca-la-ni.

Không phạm: Hoặc lúc bị bịnh, hoặc vì Vua và Đại thần.

97/ Không được nói pháp cho người cầm kiếm nghe, trừ khi bịnh, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

98/ Không được nói pháp cho người cầm nghe, trừ khi bịnh, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

99/ Không được nói pháp cho người cầm dao nghe, trừ khi bịnh, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

100/ Không được nói pháp cho người cầm dù nghe, trừ khi bịnh, thức-xoa-ca-la-ni: như trên.

Thưa các Đại đức! Tôi đã nói một trăm pháp thứcxoa-ca-la-ni rồi. Nay xin hỏi các Đại Đức trong đây có thanh tịnh không? (ba lần).

Thưa các Đại đức trong đây thanh tịnh, việc này giữ gìn như vậy.

Thưa các Đại đức! bảy pháp diệt tránh nầy xuất xứ từ trong giới kinh nửa tháng tụng một lần. Nếu các Đại đức có xảy ra việc tranh chấp thì nên dứt trừ.

Phật bảo: Tranh chấp có bốn loại: Ngôn tránh, mích tránh, phạm tránh, và sự tránh.

Ngôn tránh là: dùng hai thứ diệt là tỳ-ni hiện tiền và lời của nhiều người nói để trừ diệt.

Mích tránh: dùng bốn thứ diệt là ức niệm, hiện tiền, không có si và tội xứ để trừ diệt.

Phạm tránh: dùng ba thứ thứ diệt là tự ngôn trị, hiện tiền và như cỏ che đất để trừ diệt.

Sự tránh là: dùng tất cả diệt để diệt. Ba thứ tránh này, mỗi thứ chia ra làm ba phẩm thượng, trung, hạ, hợp lại thành chín loại. Một loại sự tránh, trải trên ba tránh kia, tùy chia ra làm chín phẩm. Nên tùy theo hiện tiền mà diệt trong ba loại hay năm loại. Thượng, trung, hạ là đối với bịnh mà cho thuốc, nên khéo quán sát, lý giải:

Đáng cho Tỳ-ni hiện tiền thì cho Tỳ-ni hiện tiền: Phật ngự tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, Ca-lưu-đà-di cùng với nhóm Tỳ-kheo sáu vị đang tắm. Ca-lưu-Đà-di mặc lầm đồ của người kia rồi bỏ đi. Nhóm Tỳ-kheo sáu vị sau đó nói vị ấy là ăn trộm, liền không hiện tiền mà Yết-ma diệt tẫn.

Ca-lưu-Đà-Di đem duyên sự nầy bạch lên Đức Phật, Phật liền quở trách rồi đặt ra giới này.

Có ba loại hiện tiền: Là pháp, Tỳ-ni, và người

Có năm loại hiện tiền: Pháp, Tỳ-ni, người, Tăng, và giới. Thế nào là pháp hiện tiền? Là chỗ trì pháp diệt tránh.

Thế nào là Tỳ-ni hiện tiền? Là chỗ trì Tỳ-ni diệt tránh. Thế nào là nhân hiện tiền? Là nói luận nghị qua lại.

Thế nào là Tăng hiện tiền? Nên đến thì đến. Nên gởi dục thì gởi dục. Muốn quở trách người thì quở trách.

Thế nào là giới hiện tiền? Là xướng Yết-ma chế hạn. Pháp hiện tiền này chung cho tất cả các Yết-ma. Đem Yết-ma sở khởi, phải ở tại giới tác pháp, chỉ trừ kiết giới ở trong giới tự nhiên.

Đáng cho Tỳ-ni ức niệm thì cho Tỳ-ni ức niệm: Phật ngự tại thành Vương xá. Bấy giờ, Đạp-Bà-ma-la tử làm tri sự tăng. Trong nhóm Tỳ-kheo sáu vị có vị gặp chỗ phòng nằm và đồ ngồi xấu liền nổi giận nói: Có thương, giận, sợ, si. Bèn đem việc dâm hủy báng người kia. Phật hỏi hư hay thật, vị kia nói: Con từ sinh đến giờ dù trong mộng cũng không có ý dâm, huống gì là lúc tỉnh.

Các Tỳ-kheo đem việc này vặn hỏi nhóm sáu vị, các vị nói: Đạp-Bà thanh tịnh không có việc này.

Phật bảo: Đạp-Bà là người không chấp trước, không có phạm giới, nên bạch bốn lần Yết-ma cùng pháp ức niệm.

Đáng cho Tỳ-ni bất si thì cho Tỳ-ni bất si: Phật ngự tại thành Vương Xá, Tỳ-kheo Nan-đề bị bịnh cuồng điên, đi đứng ra vào không thuận theo oai nghi, nên phạm nhiều tội. Các Tỳ-kheo vặn hỏi liền nói: "Lúc si thì tạo tội, lúc bịnh hết thì không làm". Các Tỳ-kheo đem việc này bạch lên Đức Phật.

Phật bảo: Có ba thứ cuồng si.

1/ Thường nhớ ngày thuyết giới nên thường đến.

2/ Không nhớ thuyết giới nên không đến.

3/ Hoặc nhớ hoặc đến hoặc không đến.

Nên bạch bốn lần Yết-ma bất si cho người này. Chứng biết lúc bịnh gây ra tội, nhưng sau đó không tạo, tăng chúng thanh tịnh, được đủ số cho nên chế.

Đáng cho Tự ngôn trị thì cho Tự ngôn trị: Phật ngự tại nước Chiêm-ba nhằm ngày mười lăm có trăng, chúng tăng thuyết giới. Phật ngồi trong chúng, im lặng không nói giới.

Đầu hôm đã qua, A-nan thưa thỉnh: Phật dạy: Muốn cho Như lai thuyết giới ở trong chúng bất tịnh, thật không có việc này.

Nửa đêm, gần sáng lại thỉnh. Phật cũng đáp như vậy. Bấy giờ, Ngài Mục-liên dùng mắt trời quán người phạm giới, ngồi cách Phật không xa trong lòng hủ lậu, ngoài hiện tướng thanh tịnh. Ngài liền kéo người ấy ra và bạch Phật: "Chúng đã thanh tịnh, Phật nên thuyết giới".

Phật bảo: Từ nay về sau không nên dùng Tự ngôn trị. Do đây Phật liền chế giới.

Đáng cho nhiều người nói thì cho nhiều nói: Phật ngự tại nước Xá-vệ. Bấy giờ, chúng Tỳ-kheo, đối với mười tám việc tranh luận không dứt, bèn đưa đến việc xử đoán không rõ ràng trong tăng, việc này được bạch lên Đức Phật, Phật bảo: Đáng cho pháp đa mích tội tướng (nhiều người tìm tướng tội), chẳng phải pháp ngữ đồng một chỗ. Nên sai Tỳ-kheo thực hành xá-la.

Hành có ba loại:

- Một là hiển bày.

- Hai là che giấu.

- Ba là nghe nói.

Hoặc là Thượng tọa, nêu vị Hòa-thượng, xà-lê, trí nhân, trụ vào như pháp địa, thì nên hiển lộ thực hành xála.

Nếu trụ phi pháp địa thì làm hai pháp dưới. Nếu nhiều người nói phi pháp, kia sẽ làm loạn đứng dậy bỏ đi. Việc này vốn gọi là: Cầu tìm tướng tội, ý cũng như vậy.

Đáng cho tội xứ sở thì cho tội xứ sở:-Phật ngự tại nước Thích-sí-sấu. Bấy giờ, Thích tử Tượng Lực giỏi về luận nghị, cùng ngoại đạo đặt ra câu hỏi trước sau đều trái nhau. Trong tăng cũng như vậy. Tỳ-kheo bạch việc này lên Đức Phật. Phật dạy:-Tăng nên bạch bốn lần Yết-ma cho người kia. Trị lấy bản tội này để đoạt ba mươi lăm việc. Hoặc người cúi đầu nhận tội, nên bạch bốn lần Yết-ma như pháp mà giải. Cho nên lập ra pháp này. Có người tìm tướng tội, tướng đó cũng đồng như trên, thứ lớp sáu lần diệt sự tìm tội tranh luận của phẩm Dược ở trên.

Đáng cho như pháp như cỏ che đất thì cho pháp như cỏ che đất: Phật ngự tại nước Xá-vệ. Các Tỳ-kheo tranh luận với nhau trải qua nhiều năm khó diệt, bèn bạch việc này lên Đức Phật. Phật liền cho hai chúng kia đây đối nhau cùng diệt. Một chúng ở trên tòa tác bạch: Chúng con trước nay ra vào phạm nhiều tội, ngăn trừ không đến nhà người tại gia, trừ tội cùng trưởng lão làm pháp như cỏ che đất để diệt. Một vị Thượng tọa ở trong chúng kia cũng tác bạch như vậy, kia đây đã hòa hợp. Tội tránh đều diệt, nên không cùng hỏi như cỏ che đất.

Thưa các Đại đức! Tôi đã nói bảy pháp diệt tránh rồi, nay xin hỏi các Đại đức trong đây có thanh tịnh không? (Ba lần)

Thưa các Đại đức, trong đây thanh tịnh, việc này rõ như vậy, đúng như pháp hành trì. Bắt đầu từ bốn tội trọng, cuối cùng là diệt tránh, gồm có tám thiên, nói rộng về chánh tông. Đều cho rằng phạm.

Lược chế rộng, bổ hành giáo này có cơ ích cho đương cơ.

Thưa các Đại đức! Tôi đã nói bài tựa giới kinh, nói bốn pháp Ba-la-di, nói mười ba pháp Tăng-già-Bà-thi-sa, nói hai pháp bất định, nói ba mươi pháp Ni-tát-Kỳ Ba-dật-đề, nói chín mươi pháp Ba-dật-đề, nói bốn pháp Ba-la-đề đề-xá-ni, một trăm pháp chúng học, thức-xoaca-la-ni, bảy pháp diệt tránh. Đây là lời Chư Phật dạy xuất xứ từ giới kinh nửa tháng tụng một lần. Trong văn này rộng giáo lưu thông, sợ rằng tình sơ với giáo nên tổng kết để chỉ bày ra. Lại có các pháp khác của Chư Phật trong đây đều phải hòa hiệp cần nên học. Đây gọi là phần tựa riêng của lược giáo. Khai sáng pháp Phật đối với người lợi căn ở vị lai. Thô hiển cùng nêu ra cương yếu, khiến người nghe đều hội đạo.

Nhẫn nhục đạo bậc nhất
Phật nói vô vi hơn
Xuất gia làm não người
Không gọi là Sa-môn

Đây là lời của Tỳ-Bà-thi Như lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói ra giới kinh này.

Vị Phật này ra đời vào kiếp Hiền trong chín mươi mốt kiếp trước.

Trong một trăm năm năm thường nói kệ này, sau đó mới nói rộng.

Ví như người mắt sáng
Tránh được đường hiểm ác
Đời có người thông minh
Xa lìa được việc dữ.

Đây là Đức Thi-khí Như lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói ra giới kinh này. Vị Phật này ra đời vào kiếp Hiền, ba mươi bốn kiếp trước. Trong tám mươi năm thường nói kệ này, sau mới nói rộng.

Không chê cũng không ghét
Nên vâng giữ giới này
Ăn uống vừa biết đủ.
Thường ở chỗ không nhàn
Tâm định ưa tinh tấn.
Đây chính lời Phật dạy.

Đây là Phật Thi-khí Như Lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói ra giới kinh này. Vị Phật này ra đời cũng đồng như trước. Khi kiếp người thọ bảy muôn tuổi, bảy mươi năm lược nói bài kệ này, sau mới nói rộng:

Ví như ong hút hoa
Không hoại sắc và hương.
Chỉ hút nhụy rồi đi
Tỳ-kheo vào làng xóm.
Không trái bỏ việc người.
Chẳng xét làm, không làm
Chỉ xét hạnh của mình
Là đúng hay không đúng.

Đây là Đức Câu-lâu-tôn Như lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói ra giới kinh này.

Đây là vị Phật đầu tiên của kiếp Hiền, lúc người thọ sáu muôn tuổi, trong sáu mươi năm thường nói kệ này, sau mới nói rộng:

Tâm chớ nên buông lung
Thánh pháp nên chuyên học
Như thế không lo buồn
Tâm định nhập Niết-bàn.

Đây là Phật Câu-na-hàm Mâu-ni Như lai vô sở

Trước Đẳng chánh Giác nói ra giới kinh này. Đây là vị Phật thứ hai trong kiếp Hiền khi người thọ bốn muôn tuổi. Trong hai mươi năm đầu thường nói kệ này, sau mới nói rộng:

Tất cả ác chớ làm
Nên làm các điều lành
Tự tịnh ý chí mình
Là lời Chư Phật dạy.

Đây là do Ca-diếp Như lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói ra giới kinh này. Đây là vị Phật thứ ba trong kiếp Hiền. Người thọ hai muôn tuổi, hai mươi năm đầu nói bài kệ này, sau mới nói rộng:

Khéo giữ gìn lời nói,
Tự tịnh ý chí mình
Thân chớ làm việc ác
Ba nghiệp được thanh tịnh
Nếu được hạnh như vậy
Là đạo đại tiên nhân.

Đây là do Phật Thích-ca Mâu-ni Như lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác, trong mười hai năm đầu vì chúng tăng vô sự mà nói ra giới kinh nầy, từ đây về sau mới phân biệt nói rộng. Đây là lời Phật lược dạy, tức là lược nói phần chánh Tông. Tiếp độ hàng lợi căn không còn tái phạm. Sau vì có tội trọng mà Phật dừng lại không nói. Tức đem hai giáo rộng lược mà giáo phó cho đệ tử nói.

Các Tỳ-kheo tự có ưa thích pháp, thích làm Sa-môn, có hổ có thẹn, thích học giới này, thì nên học trong đây.

Đây là phần lưu thông của lược giáo.

Người trí khéo giữ giới
Sẽ được ba điều vui
Danh dự và lợi dưỡng
Chết được sinh cõi trời
Phải xem chỗ như vậy
Hộ giới có trí tuệ
Liền được đạo bậc nhất.
Như Chư Phật quá khứ
Và Chư Phật vị lai
Chư Thế tôn hiện tại
Thắng được tất cả lo
Thảy đều tôn kính giới
Đây là pháp Chư Phật
Nếu có người vì mình.
Mong cầu được Phật đạo
Phải tôn trọng chánh pháp
Đây lời Chư Phật dạy
Bảy Đức Phật Thế tôn
Dứt trừ các kiết sử
Nói bảy giới kinh này.
Ràng buộc đều giải thoát
Ta nhập vào Niết-bàn.

Các hí luận dứt hẳn, Vâng giữ lời Đại tiên Thánh hiền khen ngợi giới Việc làm của đệ tử.

Nhập Niết-bàn vắng lặng Sinh khởi tâm đại bi Nhóm các chúng Tỳ-kheo Cùng dạy giới như vầy:

Chớ nói ta Niết-bàn
Mà không giữ tịnh hạnh
Nay Ta nói giới kinh
Cũng khéo nói Tỳ-ni
Tuy Ta nhập Niết-bàn
Phải xem như Thế tôn.
Kinh này ở đời lâu
Phật pháp được chói rạng
Vì cớ được chói sáng
Mà nhập vào Niết-bàn.
Nếu không giữ giới này.
Đúng vậy hành Bồ-tát
Thí như mặt trời lặn
Thế giới đều tối tăm
Phải giữ gìn giới này
Như trâu mao tiếc đuôi.
Hòa hợp ngồi một chỗ
Theo đúng lời Phật dạy.
Ta đã nói giới kinh
Chúng tăng Bồ-tát rồi
Nay Ta nói giới kinh
Các công đức nói được
Thí khắp cho chúng sinh
Đều được thành Phật đạo.

Văn nay do Tôn giả Pháp Hộ soạn ra, là hai giáo rộng lược, là lưu thông chung. Nay tôi chú thích mà không soạn ra, mong đem nghĩa sâu kín của luật học cho đời sau.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Luật Sớ][Mục lục tổng quát]