TẠNG LUẬN
Sa-môn Hoài Tố chùa Thái Nguyên ở phía Tây soạn tập.
THIÊN THỨ CHÍN: THỌ TỊNH Y, BÁT, THUỐC
THIÊN THỨ MƯỜI MỘT: Y CÔNG ĐỨC
THIÊN THỨ MƯỜI LĂM: DIỆT TRÁNH
THIÊN THỨ MƯỜI BẢY: TÔN KÍNH VÂNG LÀM
(Xuất xứ từ Luật Tứ Phần)
Khởi đầu ở thành Lộc Uyển Long, đã khai mở dấu vết mầu nhiệm của Thi-la, đảnh Linh thứu, núi Tượng, chỉ bày tông yếu mầu nhiệm về giải thoát. Bởi vậy Tam thiên đại thiên thọ nhận sự mát mẻ mà ra khỏi nhà lửa. Trên trời, dưới trời đều cưỡi chiếc bè giới mà vượt qua bến mê. Chúng bên trong nhờ đó mà được thăng hoa, kẻ bên ngoài do đây mà được an lạc. sau đó, với nỗi lo vi tế đa văn khúc chiết, cùng với che lấp cái phao nổi ngôn từ mầu nhiệm ít thấy này. Ngay lúc đó, liền có Ẩm Quang Tu xuất hiện ở đời, dứt bặt những sự tìm cầu luống dối, Ba-ly luật hưng khởi, chấn chỉnh cương yếu suy đời mờ tối. Đuốc tuệ từ đây sáng lại, biển giới do đây mà thanh tịnh lại, luật giáo ấy cũng mở mang sâu rộng. Vững chắc khó được mà lại lan khắp. Yết-ma nầy chính là yếu thuật chơn chánh để nối tiếp làm hưng thạnh dòng Thánh, giúp cho phép tắc rộng lớn, tông chỉ rườm rà nên quy về năm thiên, lạm xướng khởi lên Tứ Phần, thật là cơ yếu của Bồ-đề, chính là bến bờ của Niết-bàn. Vốn là tuổi kém mà suy nghĩ bén nhạy lưu lại ở tông chỉ này. Xem kỹ giáo nghĩa sâu xa, khảo xét cùng nghĩa, trải qua nhiều thay đổi, cho nên không có lỗi lầm lớn. Nhưng các bậc tiên đức từ xưa chấp vào sự hiểu biết khác nhau, mỗi người thuật một kiểu riêng, tổng cộng có năm bản; một bản một quyển.
Luật sư Khải đời Tào Ngụy soạn ở Hứa Đô, (tựa đề là Đàm Vô Đức Tạp Yết-ma, lấy kết giới trường làm đầu, thọ nhật, xin thêm không vào trong phần yết-ma). Phần nhiều có thêm bớt nên trái với văn luật).
Một bản một quyển của Đàm Đế đời Tào Ngụy soạn tập ở Lạc Dương. (Đề là Đàm Vô Đức Tạp Yết-ma, lấy kết đại giới làm đầu, thọ nhật thêm xin nhập vào phần yết-ma. Luật sư Lê đời Ngụy trì bản này. Tư tưởng sắc bén bao gồm khuôn phép, tuy bỏ nhưng chưa bỏ những lỗi nhỏ. Chia làm hai quyển và tạo nghĩa giải thích.
Một bản một quyển của Luật sư Quang đầu đời Ngụy soạn tập ở Quách Hạ (quyển này đồng với quyển Đàm Đế nhưng không thuận chánh văn).
Một bản hai quyển của Luật sư Nguyện đời Tùy ở Bình Châu soạn. Đề là Yết-ma một quyển, xuất xứ từ luật của ngài Đàm-Vô-Đức. Luật sư Nguyện tuy tự rõ y vào văn không thêm bớt. Nhưng, rõ ràng luật bản đều có tổn và lợi. Đồng thời soạn chương sớ phổ biến thịnh hành.
Một bản một quyển của luật sư Đạo Tuyên đời Đường ở Kinh Triệu soạn. Đề rằng: San bổ Tùy cơ Yết-ma, đây có chánh văn, gần thì bỏ nghĩa phụ của bộ mình, xa thì lấy nghĩa của tông khác. Giác môn đã tạp loạn, chỉ sự có sai trái. Đồng thời Ngài soạn nghĩa sớ truyền bá ở đời. Tìm tòi soạn tập của các nhà, không ai chẳng nghiên cứu tìm tòi, so lý cầu văn thì trái rất nhiều; nên không dám thuật nhưng điều sâu kín, chia làm ba quyển góp thành một bộ. Ngõ hầu lấy việc không thêm bớt để thích ứng với thời cơ, chỉ lấy thành văn không dám xuyên tạc. Chỉ mong giới châu càng sáng, hợp cùng sáng với trời trăng, phát cỏ truyền thơm cùng trời đất mà đồng hủy hoại. Người xem sau này biết được chí này.
Tăng nhóm:
Luật nói: Người nên đến thì đến. Lại nói tăng có bốn loại: bốn vị, năm vị, mười vị, hai mươi vị.
Tăng bốn vị: Trừ thọ đại giới, tự tứ, xuất tội. Ngoài ra tất cả yết-ma khác đều làm được.
Tăng năm vị: Trừ thọ đại giới (ở nơi thành phố), xuất tội, còn tất cả yết-ma đều làm được.
Tăng mười vị: Trừ xuất tội, còn tất cả yết-ma đều làm được.
Tăng hai mươi vị: Tất cả yết-ma đều làm được. Huống chi hơn hai mươi vị. Nếu trong bốn vị tăng mà thiếu một vị thì tác pháp không thành, là phi pháp, phi Tỳ-ni.
Hòa hợp:
Luật nói: Đồng một yết-ma, hòa hợp nhóm một chỗ. Người không đến gởi cho người đang hiện tiền, người đáng quở trách không quở trách được. Lại nói: Có năm pháp nên hòa hợp.
Như pháp nên hòa hợp.
Hoặc ngồi im lặng.
Hoặc gởi dục.
Hoặc nghe theo người đáng tin.
Năm việc như thế nên hòa hợp.
Người chưa thọ đại giới ra chưa?
Luật nói: Không nên ở trước người chưa thọ giới mà yết-ma thuyết giới. Lại nói: chỉ trừ người chưa thọ đại giới, ngoài ra ở trước làm yết-ma thuyết giới.
Lại nói: Có bốn người đủ số, người đủ số không nên quở trách. Có người mà không được đủ số thì nên quở trách.
Có người không được đủ số cũng không nên quở trách, có người được đủ số cũng nên quở trách. Vì sao những người này được đủ số mà không nên quở trách? Vì nếu làm yết-ma quở trách, yết-ma tẫn xuất, yết-ma y chỉ, yết-ma ngăn không cho đến nhà người tại gia. Vì sao những người này không được đủ số mà đáng quở trách? Nếu người muốn thọ đại giới, vì sao những người này không được đủ số cũng không được quở trách? Vì nếu làm yết-ma Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni không được đủ số cũng không được quở trách. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di ni, hoặc nói người phạm tội, hoặc bị cử, hoặc tẫn xuất, hoặc đáng tẫn xuất, hoặc biệt trụ, hoặc ở trên giới trường, hoặc thần túc ở trên hư không, hoặc ẩn mất, hoặc lìa thấy nghe, hoặc bị người làm yết-ma. Những người này được đủ số cũng được quở trách. Nếu thiện Tỳ-kheo đồng trụ trong một giới trường, không dùng thần túc ở trên hư không, không ẩn mất, không lìa chỗ thấy nghe, cho đến với người bên cạnh.
Các Tỳ-kheo không đến có thuyết dục và thanh tịnh không? Chỉ trừ kết giới không được thuyết dục. Dục ấy phải thuyết hợp với thanh tịnh. Nếu khi tự tứ nên gởi dục tự tứ, nếu có việc Phật, Pháp, Tăng, bệnh hoạn, săn sóc người bệnh thì cho gởi dục.
Luật nói: Gởi dục có năm loại: 1-Hoặc nói gởi dục cho ông.
2- Hoặc nói tôi thuyết dục.
3- Hoặc nói thuyết dục giùm tôi.
4- Hoặc hiện thân tướng gởi dục.
5- Hoặc nói gởi dục đầy đủ như nghi thức.
Nếu không hiện thân tướng, miệng không thuyết dục thì không thành gởi dục, phải gởi dục lại: Người thọ dục ấy thọ dục rồi liền qua đời, hoặc đi nơi khác, hoặc hoàn tục, hoặc theo ngoại đạo, hoặc theo chúng của bộ khác, hoặc lên trên giới trường, hoặc tướng sáng xuất hiện, hoặc tự nói phạm biện tội trong mười ba già nạn, hoặc bị cử, hoặc diệt tẫn, hoặc đáng diệt tẫn, hoặc thần túc trên hư không, hoặc lìa chỗ thấy nghe thì không thành gởi dục. Phải gởi dục lại cho người khác. Hoặc đi giữa đường, hoặc vào trong tăng cũng vậy. Nếu người thuyết dục đầy đủ nên đến chỗ người đầy đủ oai nghi nói rằng:
- Đại đức nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo..., việc tăng đúng như pháp gởi dục thanh tịnh.
Bấy giờ, Tỳ-kheo trì dục có việc đứng dậy đi, người không kịp đến trong tăng cho pháp chuyển dục gởi người khác. Khi chuyển dục nên nói:
- Đại đức nhất tâm niệm, tôi Tỳ-kheo... thọ dục của Tỳ-kheo mỗ. Thanh tịnh, người kia và tôi việc tăng như pháp gởi dục và thanh tịnh.
Tỳ-kheo giữ dục khi đến trong tăng nói, nếu nhớ tên họ thì nói đầy đủ với tăng:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo... có thọ dục thanh tịnh của Tỳ-kheo mỗ. Nếu không thể nhớ tên họ chỉ nói nhiều người. Nếu người gởi dục ngủ say, hoặc nhập định, hoặc quên, hoặc không cố ý làm như vậy thì thành gởi dục. Nếu cố ý không nói thì phạm đột-cát-la. Tăng nay làm gì?
Nhưng việc làm có ba loại:
1. Tình sự: như thọ sám v.v...
2. Phi tình sự: như kiết các giới, v.v...
3. Tình phi tình sự: như xử phân lìa y, v.v...
Những việc làm này ủy. Cho tăng lượng, phải đối chúng hỏi việc làm ấy, yết-ma gì đó.
Yết-ma y cứ vào thể, chỉ có ba:
Nghĩa là đơn bạch, bạch nhị, và bạch tứ.
Luật nói: Có bảy thứ yết-ma không nên làm: yết-ma phi pháp, phi Tỳ-ni, yết-ma biệt chúng phi pháp, yết-ma hòa hợp phi pháp, yết-ma pháp biệt chúng, pháp tương tự yết-ma biệt chúng, tương tự pháp yết-ma hòa hợp, quở trách không bạch yết-ma, nên yết-ma như, như Tỳ-ni, nên bạch nhị, yết-ma. Như bạch thì tác bạch, như pháp yết-ma thì yết-ma, bạch tứ yết-ma cũng như vậy.
Đây là yết-ma đúng như pháp, đúng như Tỳ-ni, phương tiện này có sáu, khắp cả các pháp chỉ trừ kiết giới, nếu thiếu thì không thành.
Pháp kết đại giới:
Luật nói: Phải trải chỗ ngồi, đánh kiền-chùy, nhóm họp hết. Cùng nhóm một chỗ không cho thọ dục. Trong đó, Tỳ-kheo cựu trụ nên xướng tướng bốn phương của đại giới. Nếu phương Đông có núi thì nói núi, có hào thì nói hào, hoặc xóm làng, hoặc tòa thành, hoặc bờ đê, hoặc vườn, hoặc rừng, hoặc ao, cây, hoặc đá, hoặc tường, hoặc nhà thờ miếu, như tướng phương Đông, Phương khác cũng vậy. Nhưng chỗ kết giới không được hai giới tiếp nhau, nên có khoảng trung gian, không được cách dòng nước chảy mạnh mà kết, thường có cầu, thuyền. Về cách xướng tướng, nên đứng dậy lễ tăng bạch:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo Cựu trụ tên là... (nếu chẳng phải Cựu trụ, nhưng biết xướng giới thì bỏ hai chữ “Cựu trụ”).
Vì tăng xướng tướng bốn phương đại giới, (bạch rồi nên xướng: Nghĩa là từ góc Đông nam v.v... thứ lớp mà xướng cho đến nói ba lần. Trong chúng sai người có khả năng làm yết-ma, hoặc Thượng tọa, hoặc thứ tòa, hoặc tụng luật, hoặc không tụng luật nên làm như vầy:)
- Đại đức tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo chỗ này xướng tướng bốn phương đại giới, nếu thời giờ của chúng tăng đã đến tăng bằng lòng cho, nay tăng ở trong tướng bốn phương này kết đại giới, đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới, tác bạch như thế.
- Đại đức tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo ở trú xứ này xướng tướng bốn phương đại giới, nay tăng ở trong tướng bốn phương này kết đại giới, đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới. Trưởng lão nào bằng lòng cho tăng nay ở trong tướng bốn phương này kết đại giới, đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói. Tăng đã bằng lòng ở trong tướng bốn phương này, đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới kết đại giới rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này thực hành như thế.
Pháp giải đại giới:
Bấy giờ, các Tỳ-kheo có người muốn đổi giới rộng thành giới hẹp.
Phật dạy: Muốn làm lại giới: phải giải giới trước, sau đó làm giới rộng, tùy ý nên làm, bạch nhị giải, nên tác bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nay Tỳ-kheo trú xứ này đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới. Nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng cho giải giới, tác bạch như thế.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo trú xứ này đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới nay giải giới. Trưởng lão nào bằng lòng cho tăng đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới giải giới thì im lặng, ai không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng cho đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Pháp kết giới riêng đồng một thuyết giới, đồng một lợi dưỡng:
Bấy giờ, có hai chỗ lợi dưỡng riêng, thuyết giới riêng cùng một giới lợi dưỡng. Phật dạy: Từ nay về sau cho mỗi bên tự giải giới, sau đó bạch nhị để kết, phải trải chỗ ngồi v.v... như trước, nên bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nói như phần giới tướng, nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, nay tăng ở chỗ này, chỗ kia kết đồng một giới, đồng một lợi dưỡng, tác bạch như thế.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, như nói về giới tướng, nay tăng ở chỗ này chỗ kia kết giới đồng một thuyết giới, đồng một lợi dưỡng. Trưởng lão nào bằng lòng cho tăng ở chỗ này, chỗ kia kết giới đồng một thuyết giới, đồng một lợi dưỡng thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng ở chỗ này, chỗ kia kết giới đồng một thuyết giới, đồng một lợi dưỡng rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Pháp kết giới đồng một thuyết giới, lợi dưỡng riêng:
Có hai trụ xứ thuyết giới riêng, lợi dưỡng riêng. Ý của Tỳ-kheo muốn đồng một thuyết giới, lợi dưỡng riêng. Phật dạy: Cho mỗi bên giải giới, sau đó kết. Cách kết như trước, chỉ đổi một nói đồng một thuyết giới, lợi dưỡng riêng, tác bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, nay tăng ở trú xứ này, trụ xứ kia kết giới thuyết giới riêng, đồng một lợi dưỡng, vì muốn giữ gìn trụ xứ, tác bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, tăng nay ở trú xứ này, trú xứ kia kết giới thuyết giới riêng, đồng một lợi dưỡng vì giữ gìn trụ xứ. Trưởng lão nào bằng lòng cho tăng ở trú xứ này, trú xứ kia kết giới thuyết giới riêng lợi dưỡng chung vì giữ gìn trú xứ thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng ở trú xứ này, trú xứ kia kết giới thuyết giới riêng, đồng một lợi dưỡng vì giữ gìn trụ xứ rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như vậy.
Đây và hai luật trước không có cách giải. Nếu muốn giải, y theo kết lại, giải lại, tương ưng mà biết.
Pháp kết giới trường:
Bấy giờ, các Tỳ-kheo có khi cần bốn chúng Tỳ-kheo, có khi cần năm chúng Tỳ-kheo, mười chúng Tỳ-kheo, hai mươi chúng Tỳ-kheo khởi việc yết-ma. Trong đó, đại chúng nhóm họp mỏi mệt. Phật dạy: Cho kết giới trường, xướng tướng giới bốn phương, hoặc cắn cọc, hoặc để đá, hoặc bờ đê, hoặc ranh giới. Trong đó kết giới, đặt ba lớp tướng, một lớp trong hết là tướng giới trường, một lớp ở giữa là tướng nội đại giới, đây và tướng giới trường không được sát vào nhau, nên để lại ở giữa. Lớp ngoài cùng là tướng ngoại đại giới, trước xướng tướng kết giới trường, cách xướng như trên, nên xướng như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo ở trú xứ này xướng tướng tiểu giới bốn phương. Nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng nay ở trong tướng tiểu giới bốn phương này kết làm giới trường, tác bạch như thế.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo ở trú xứ này tướng tiểu giới bốn phương, tăng nay ở trong tướng tiểu giới bốn phương này kết làm giới trường. Trưởng lão nào bằng lòng tăng ở trong tướng tiểu giới bốn phương này kết làm giới trường thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng ở trong tướng bốn phương này kết làm giới trường rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này cứ thực hành như thế. (kế là xướng tướng trong ngoài đại giới, xướng và kết như trên).
Pháp giải giới trường:
Văn lược không giải, nếu muốn giải nên kết rằng:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, giới trường của Tỳ-kheo ở trú xứ này, nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng cho giải giới trường, tác bạch như thế.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, giới trường của Tỳ-kheo ở trú xứ này, tăng nay ở đây giải giới trường. Trưởng lão nào bằng lòng cho tăng ở đây giải giới trường thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng ở đây giải giới trường rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Pháp khó kết tiểu giới truyền giới:
Bấy giờ, có người muốn thọ giới đến ngoài giới, nhóm Tỳ-kheo sáu vị đến ngăn. Phật dạy: Các thầy khéo lóng nghe, từ nay về sau người không đồng ý chưa ra giới cho ở ngoài giới, hãy mau chóng nhóm họp một chỗ kết tiểu giới, tác bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, tăng nhóm họp một chỗ kết tiểu giới, nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng cho kết tiểu giới, tác bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nay một chỗ này nhóm họp kết tiểu giới. Trưởng lão nào bằng lòng cho tăng nhóm một chỗ kết tiểu giới thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng kết tiểu giới rồi, vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Pháp kết tiểu giới truyền giới:
Luật nói: Từ nay về sau nên giải giới rồi đi, không được không giải giới mà đi, nên giải như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nay chúng tăng nhóm họp giải giới, nếu thời giờ của tăng đã đến, xin tăng bằng lòng cho giải giới, tác bạch như thế.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nay chúng tăng nhóm họp giải giới, trưởng lão nào bằng lòng cho tăng nhóm họp giải giới thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng giải giới rồi, vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Pháp kết tiểu giới thuyết giới:
Luật nói: Nếu ngày bố-tát mà đi trong chỗ không có làng xóm, chốn hoang vắng, chúng tăng nên hòa hợp nhóm lại một chỗ cùng thuyết giới. Nếu tăng không được hòa hợp, thì tùy ý cùng với Hòa-thượng, nên xuống đường, mỗi nơi nhóm một chỗ kết tiểu giới thuyết giới, nên kết như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nay có Tỳ-kheo nhóm họp. Nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho kết tiểu giới, tác bạch như thế.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nay có Tỳ-kheo nhóm họp kết tiểu giới. trưởng lão nào bằng lòng cho các Tỳ-kheo nhóm họp kết tiểu giới thì im lăng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo nhóm họp kết tiểu giới xong. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như vậy.
Pháp giải nạn kết tiểu giới thuyết giới:
Không nên không giải giới mà bỏ đi, nên giải như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nay có chừng ấy Tỳ-kheo nhóm họp, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, giải tiểu giới chỗ này, tác bạch như thế. Đại đức tăng xin lắng nghe, nay có chừng ấy Tỳ-kheo nhóm họp giải tiểu giới này, Trưởng lão nào bằng lòng tăng giải tiểu giới này thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng giải tiểu giới ở chỗ này xong. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Pháp kết tiểu giới tự tứ:
Luật nói: Nếu có nhiều Tỳ-kheo trong ngày tự tứ, chẳng phải thôn, a-lan-nhã, hoặc chỗ chưa kết giới đi đường. Hoặc hòa hợp được tự tứ thì tốt, nếu không được hòa hợp thì tùy theo sự hòa đồng ở trên, dời chỗ khác kết tự tứ, nên làm như vậy!
- Đại đức tăng xin lắng nghe, chỗ ngồi của các Tỳ-kheo đã đủ, giống chỗ ngồi của Tỳ-kheo như thế, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, tăng nay ở chỗ này kết tiểu giới, tác bạch như thế. Đại đức tăng xin lắng nghe, ngang bằng chỗ ngồi của Tỳ-kheo như thế, tăng ở chỗ này kết tiểu giới, Trưởng lão nào bằng lòng ngang bằng chỗ ngồi của Tỳ-kheo, tăng ở chỗ này kết tiểu giới, Trưởng lão nào bằng lòng ngang bằng chỗ ngồi của Tỳ-kheo như thế, tăng ở chỗ này kết tiểu giới thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng ngang bằng chỗ ngồi của Tỳ-kheo như thế kết tiểu giới xong. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Pháp giải kết tiểu giới tự tứ:
Không nên không xả giới mà đi, nên xả như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, chỗ ngồi của Tỳ-kheo ngang bằng như thế, nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, tăng nay giải tiểu giới chỗ này, tác bạch như thế:-Đại đức tăng xin lắng nghe, chỗ Tỳ-kheo ngồi đều như thế, tăng nay giải tiểu giới chỗ này, Trưởng lão nào bằng lòng cho tăng giải tiểu giới chỗ ngồi của tất cả Tỳ-kheo như thế thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng cho giải tiểu giới tất cả chỗ ngồi của Tỳ-kheo như thế đã xong. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc này cứ thực hành như thế.
Pháp kết giới không mất y:
Bấy giờ có Tỳ-kheo tu hạnh nhàm lìa, thấy ở A-lan-nhã có một cái hang đẹp, tự nghĩ: Nếu ta được ngủ lìa y sẽ ở hang này. Phật bảo: Từ nay về sau phải kết giới không mất y, bạch nhị yết-ma, nên tác bạch như vầy.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, chỗ này đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho kết giới không mất y, tác bạch như vậy.-Đại đức tăng xin lắng nghe, chỗ này đồng một trụ xứ, đồng một thuyết giới, nay tăng kết giới không mất y, các trưởng lão nào bằng lòng cho tăng ở chỗ này đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới kết giới không mất y thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng ở chỗ này đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới kết giới không mất y. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như vậy. Bấy giờ các Tỳ-kheo giải y để trong nhà người tại gia, khi mặc khi giải, thân hình lộ ra. Phật cho phép kết giới không mất y, trừ giới ngoài thôn, cách kết như trên, chỉ thêm một câu là giới ngoài mé thôn, tác bạch như thế.
Cách giải giới không mất y.
Văn lược không giải nên phiên-kiết nói:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, chỗ này đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho giải giới không mất y, tác bạch như thế!
- Đại đức tăng xin lắng nghe, chỗ này đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới. Nay giải giới không mất y, Trưởng lão nào bằng lòng cho tăng ở chỗ này đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới giải giới không mất y thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng ở chỗ này đồng một trú xứ, đồng một thuyết giới, giải giới không mất y đã xong. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên thực hành như vậy (cách giải có thôn xóm cũng đồng ở đây).
Pháp kết tịnh địa:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo bị nôn mửa, sai người trong thành Xá-vệ nấu cháo. Có nhân duyên trời tối mới mở cửa thành, chưa kịp có cháo dùng thì Tỳ-kheo đã qua đời. Phật bảo: Cho ở trong Tăng-già-lam kết tịnh địa bạch hai lần yết-ma. Xướng phòng hoặc chỗ, hoặc nhà để nước, hoặc chỗ kinh hành. Phải một Tỳ-kheo đứng dậy sửa sang oai nghi, ở trong tăng xướng. Vật gì đó và chỗ như trái cây, rau cải, v.v... làm tịnh địa, xướng rồi nên tác bạch như vầy!
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, tăng nay kết chỗ nào đó kết làm tịnh địa, tác bạch như vậy.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nay tăng kết chỗ nào đó làm tịnh địa, trưởng lão nào bằng lòng, tăng kết chỗ này làm tịnh địa thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng kết chỗ này làm tịnh địa rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc nầy nên thực hành như thế.
Luật nói: Có bốn thứ tịnh địa:
1. Đàn-việt hoặc người kinh doanh làm Tăng-giàlam chia chỗ nói như vầy: Chỗ nào đó làm tịnh địa cho tăng.
2. Nếu vì tăng làm già-lam nhưng chưa cúng cho tăng.
3. Hoặc một nửa có rào ngăn, hoặc phần nhiều không có rào ngăn đều không được, hoặc là tường, hoặc là hào cũng giống như thế.
4. Tăng tác bạch nhị yết-ma mà kết.
Pháp giải tịnh địa:
Văn lược không giải nên kết là:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, nay tăng giải tịnh địa chỗ nào đó, tác bạch như vậy.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nay tăng giải tịnh địa chỗ nào đó, Trưởng lão nào bằng lòng cho tăng giải tịnh địa ở chỗ nào đó thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng giải tịnh địa chỗ nào đó rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Pháp khéo đến truyền giới:
Theo luật thì bấy giờ người nghe pháp đối với Thượng tọa các bụi nhơ đã hết, đắc pháp mắt trời thanh tịnh, thấy pháp đắc pháp, thành tựu các pháp rồi, được quả chân thật, trước bạch Phật rằng: nay Con muốn ở chỗ Như lai xuất gia tu phạm hạnh. Phật bảo lành đến Tỳ-kheo, ở trong pháp ta vui thích, tu phạm hạnh dứt hết nguồn khổ.
(Xướng lời này rồi râu tóc tự rụng, đắp ca-sa, tay ôm bình bát, liền được gọi là xuất gia thọ giới cụ túc).
Pháp trao giới ba quy y:
Bấy giờ, có người nghe pháp được lòng tin, muốn thọ giới cụ túc, các Tỳ-kheo dẫn đến chỗ Phật, giữa đường họ mất niềm tin không được thọ giới cụ túc. Phật bảo: Từ nay về sau cho phép các thầy xuất gia trao giới cụ túc, dạy họ cạo tóc đắp ca-sa, cởi giày dép, chân phải quỳ sát đất chắp tay nói như vầy:
Con tên là... quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Nay ở chỗ Như lai xuất gia, Như lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, là Thế tôn của con (nói ba lần). Con tên là... quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Ở chỗ Như lai xuất gia, Như Lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, là Thế tôn của con (nói ba lần).
Pháp yết-ma trao giới và độ người:
Nếu Tỳ-kheo ngu si độ người mà không biết dạy bảo, truyền trao, vì không biết dạy bảo truyền trao, không theo oai nghi, khất thực không đúng như pháp, khắp nơi thọ thức ăn bất tịnh, hoặc thọ bát bất tịnh, ngồi tiểu thực, đại thực trên chỗ cao, kêu to gọi lớn như pháp nhóm họp của Bà-la-môn. Phật bảo: Cho tăng trao giới cụ túc, bạch nhị yết-ma. Người kia đến trong tăng oai ghi nghiêm trang, tác bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo... cầu chúng tăng xin độ người trao giới cụ túc, mong tăng bằng lòng. Tôi là Tỳ-kheo... độ người trao giới cụ túc (nói ba lần).
Tăng nên quán sát người này xem có khả năng dạy bảo truyền trao hay không, và có khả năng về hai pháp nhiếp thủ hay không. Nếu không thì nên nói thôi đi chớ độ người. Nếu có trí tuệ có khả năng dạy bảo truyền trao về hai pháp nhiếp thủ, thì nên cho pháp như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo mỗ giáp này theo chúng tăng xin trao giới cụ túc cho người. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, nay tăng cho phép Tỳ-kheo mỗ giáp trao giới cụ túc cho người, tác bạch như thế.
Đại đức Tăng xin lắng nghe. Tỳ-kheo mổ giáp này nay theo chúng tăng xin trao giới cụ túc cho người. Nay Tăng cho Tỳ-kheo mỗ trao giới cụ túc cho người, Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo mỗ trao giới cụ túc cho người thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo mỗ trao giới cụ túc cho người rồi, tăng bằng lòng về im lặng, việc này nên thực hành như thế.
(Pháp y chỉ xà-lê cũng đồng như vậy).
Pháp độ sa-di và hình đồng:
Bấy giờ, có nhà kỹ thuật đến tăng già-lam, xin các Tỳ-kheo xin xuất gia hành đạo, các Tỳ-kheo liền cho xuất gia hành đạo.
Cha mẹ ông ấy khóc lóc, đến tăng-già-lam hỏi các Tỳ-kheo. Có thấy đứa trẻ như vậy như vậy đến đây hay không? Người không thấy thì đáp không thấy. Cha mẹ tìm thấy ông ấy trong phòng. Các Trưởng giả chê bai. Phật bảo: Từ nay về sau nếu muốn cạo tóc trong Tăng-già-lam thì phải bạch với tất cả tăng. Nếu các phòng không được hòa hợp nhau thì nói cho tăng biết. Nếu hòa hợp nên bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, mổ giáp này, muốn xin tôi cạo tóc, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho cạo tóc cho mỗ giáp, tác bạch như vậy (tác bạch rồi sau đó cạo tóc).
Pháp độ Sa-di và pháp đồng thỉnh Hòa-thượng:
Nếu người muốn xuất gia trong tăng-già-lam, trước thỉnh Hòa-thượng, sửa sang oai nghi bạch như vầy:
- Bạch Đại đức nhất tâm niệm, con tên là... nay thỉnh Đại đức làm Hòa-thượng truyền mười giới, mong Đại đức vì con làm Hòa-thượng truyền mười giới, con y chỉ Đại đức nên được thọ giới Sa-di, xin thương xót con (nói ba lần). Đáp rằng: Được.
Pháp thỉnh xà-lê:
Sửa sang oai nghi, thỉnh như vầy:
- Bạch Đại đức nhất tâm niệm, con tên là... nay thỉnh Đại đức làm A-xà-lê truyền mười giới, mong Đại đức vì con làm A-xà-lê truyền mười giới. Con nương theo Đại đức, nên được thọ giới Sa-di. Xin thương xót con (nói ba lần). Đáp rằng: Được.
Pháp bạch tăng:
Nếu không được hòa hợp, nên nói cho tất cả trong tăng biết. Nếu hòa hợp nên bạch như vầy.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, mỗ giáp này xin xuất gia với tôi, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tôi xuất gia cho mỗ giáp, tác bạch như thế.
Pháp truyền giới:
Dạy đắp ca-sa, sửa oai nghi ngay ngắn nói như thế này: Tôi tên là... quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, theo Như lai xuất gia, vị ấy làm Hòa-thượng, Như lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, là Thế Tôn của tôi (nói ba lần). Tôi là Tỳ-kheo... quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, theo Như lai xuất gia rồi, vị ấy làm Hòa-thượng, Như Lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, theo Như lai xuất gia rồi, vị ấy làm Hòa-thượng, Như lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, là Đức Thế tôn của tôi (nói ba lần). Trao cho mười giới tướng nói rằng: Suốt đời không sát sinh, là giới Sa-di, có thể giữ được không? Đáp: giữ được.
- Trọn đời không trộm cắp là giới của Sa-di, có thể giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Trọn đời không nói dối là giới của Sa-di, có thể giữ được không?
Đáp: Giữ được.
- Trọn đời không uống rượu là giới của Sa-di, có thể giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Trọn đời không được đeo tràng hoa, xoa dầu thơm vào mình là giới của Sa-di, có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Trọn đời không được ca múa, hát xướng và cố đi xem nghe là giới của Sa-di, có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Trọn đời không được nằm giường cao tốt, rộng lớn là giới của Sa-di, có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Trọn đời không được ăn phi thời là giới của Sa-di, có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Trọn đời không cầm giữ vàng bạc, vật báu là giới của Sa-di, có giữ được không? Đáp: Giữ được.
Đây là mười giới của Sa-di, trọn đời phải giữ không được phạm.
Có giữ được không? Đáp: Giữ được.
Ông đã thọ giới xong, phải cúng dường Tam bảo, thường giữ ba nghiệp, ngồi thiền, tụng kinh, siêng làm việc chúng.
Trao giới rồi dạy tụng mười số, mười số gồm:
1. Tất cả chúng sinh đều nương vào uống ăn mà sống còn.
2. Danh sắc.
3. Ba tâm thọ
4. Bốn Thánh đế.
5. Năm ấm.
6. Sáu nhập.
7. Bảy giác chi.
8. Tám Thánh đạo.
9. Chín chỗ chúng sinh ở.
10. Mười tất cả nhập.
Pháp độ ngoại đạo:
Luật nói: Từ nay về sau cho ngoại đạo ở chung bốn tháng trong chúng tăng, bạch nhị yết-ma nên như vậy mà cho, trước cạo tóc rồi đắp ca-sa, cho đến chắp tay dạy nói như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi ngoại đạo tên là..., quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, tôi ở chỗ Thế tôn cầu xuất gia hành đạo. Thế tôn là Như lai Chí Chân Đẳng Chánh Giác của tôi (nói ba lần).
- Tôi ngoại đạo tên là... quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng rồi, theo Như lai xuất gia học đạo, Như lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác của tôi.
(Kế cho giới tướng, đồng với pháp ở trên).
Pháp cho ở chung bốn tháng.
Kế nên dạy nói như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là ngoại đạo tên là..., theo tăng xin ở chung bốn tháng, mong tăng mỡ lòng từ bi thương xót, cho tôi ở chung bốn tháng (nói ba lần). Nên dẫn người nầy đến chỗ mắt thấy tai không nghe, tăng nên tác pháp như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, ngoại đạo tên là... nay theo chúng tăng xin ở chung bốn tháng, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho ngoại đạo tên là... được ở chung bốn tháng, tác bạch như vậy! Đại đức tăng xin lắng nghe, ngoại đạo tên là... nay theo chúng tăng xin ở chung bốn tháng, nay tăng cho ngoại đạo kia ở chung bốn tháng. Trưởng lão nào bằng lòng nay tăng cho ngoại đạo kia ở chung bốn tháng thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng cho ngoại đạo kia ở chung bốn tháng rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như vậy.
Người ấy đến ở chung rồi, làm cho các Tỳ-kheo tâm vui vẻ, sao đó phải ở trong tăng thọ giới cụ túc. Thế nào là ngoại đạo không thể làm cho tâm của Tỳ-kheo vui mừng? Là tâm ngoại đạo kia cố chấp pháp của ngoại đạo, không gần gũi Tỳ-kheo mà gần gũi ngoại đạo. Không thuận theo Tỳ-kheo mà tụng tập luận khác, hoặc nghe người nói việc không tốt của ngoại đạo liền khởi tâm tức giận, hoặc nghe người hủy báng sự dạy bảo của ngoại đạo cũng khởi tâm tức giận. Nếu có ngoại đạo khác đến, khen ngợi việc tốt của ngoại đạo, thì hoan hỷ vui mừng. Nếu có thầy của ngoại đạo đến, nghe khen ngợi việc ngoại đạo, cũng hoan hỷ vui mừng. Nếu nghe nói Phật, pháp, tăng là việc phi pháp cũng hoan hỷ vui mừng. Cho rằng ngoại đạo không thể làm cho Tỳ-kheo ưa thích, vì sao ngoại đạo có thể làm cho Tỳ-kheo ưa thích, tức là trái với trên. Cho rằng ngoại đạo ở chung tâm ý hòa hợp đều làm cho các Tỳ-kheo ưa thích.
Pháp thỉnh Hòa-thượng trao giới cụ túc.
Nên vén y bày vai phải thỉnh như vầy:
- Đại đức nhất tâm niệm, tôi tên là..., nay thỉnh Đại đức làm Hòa-thượng, mong Đại đức vì con làm Hòathượng, con nương theo Hòa-thượng được thọ giới cụ túc, xin từ bi thương xót con, ba lần nói “Được” hoặc nói “đúng vậy”, hoặc nói nên truyền trao cho người, hoặc nói: thanh tịnh chớ buông lung.
Pháp thỉnh Giới sư:
Đầy đủ oai nghi thỉnh như vầy:
- Đại đức nhất tâm niệm! Nay con thỉnh Đại đức làm yết-ma A-xà-lê, mong Đại đức vì con làm yết-ma A-xàlê, con nương theo Đại đức, được thọ giới cụ túc, xin từ bi thương xót con, nói ba lần, nên đáp “Được”.
Pháp thỉnh thầy giáo thọ (sửa oai nghi thỉnh như vầy).
Đại đức nhất tâm niệm, con pháp danh là... nay thỉnh Đại đức làm A-xà-lê giáo thọ, mong Đại đức vì con làm A-xà-lê giáo thọ, con nương theo Đại đức được thọ giới cụ túc, cúi mong thương xót con, (nói ba lần) nên đáp “Được”.
Pháp an trú chỗ cho người thọ giới:
Phải dẫn người thọ giới ấy đến chỗ mắt thấy tai không nghe, nếu ở trên hư không, hoặc ẩn mất, hoặc lìa chỗ thấy nghe, hoặc ở ngoài giới, thì không gọi là thọ cụ giới. Hòa-thượng và Tỳ-kheo đủ số cũng giống như thế.
Pháp sai thầy giáo thọ:
Y cứ theo luật có dạy như vậy, tất cả người làm ô nhục chúng tăng, không được thọ giới cụ túc. có người muốn thọ giới cụ túc, các Tỳ-kheo, đem đến ngoài giới giải y xem, người thọ giới hổ thẹn suy xét việc thọ giới. Phật bảo: Không được lộ hình mà xem như thế. Từ nay về sau trước hỏi mười ba việc nạn, sau đó trao giới, là giới sự hỏi.
Trong chúng ai có thể vì mỗ giáp làm thầy giáo thọ. Nếu có khả năng làm thầy thì nên đáp tôi có khả năng, đáp rồi giới sư nên bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, người kia tên là... theo tôi cầu thọ giới cụ túc, nếu thời giờ của tăng đã đến, xin tăng bằng lòng cho tôi làm thầy giáo thọ, tác bạch như thế.
Pháp đến người kia hỏi già nạn:
Bấy giờ, thầy giáo thọ đến người kia nói: Đây là anđà-hội, uất-đa-la tăng, Tăng-già-lê, đây là y bát của ông phải không? Người kia đáp phải, lại nói:
- Nầy người Thiện nam hãy lắng nghe, nay là lúc chí thành, phải nói lời thật, tôi hỏi ông theo lời tôi mà đáp, nếu không thật phải nói không thật, nếu thật thì nói thật.
- Ông có phạm biên tội không?
- Ông có ô phạm Tỳ-kheo ni không?
- Ông có tâm giặc vào đạo không?
- Ông có phải phá nội đạo, ngoại đạo không?
- Ông có phải Huỳnh môn hay không?
- Ông có giết cha không?
- Ông có giết mẹ không?
- Ông có giết La-hán không?
- Ông có phá hòa hợp tăng không?
- Ông có tâm ác làm thân Phật chảy máu không?
- Ông có phải phi nhân không?
- Ông có phải súc sinh không?
- Ông có phải người hai hình không?
- Pháp danh ông là gì? Hòa-thượng ông hiệu là gì?
- Ông đủ hai mươi tuổi chưa? Y bát có đủ không?
- Cha mẹ ông có cho xuất gia hay không?
- Ông có phải là trượng phu không?
Trượng phu có những bệnh như: ung thư, bạch lại, gầy ốm, điên cuồng, ông có những bệnh như vậy không? (Đều đáp không). Như nay tôi hỏi ông trong tăng cũng hỏi như vậy, ông trả lời cho tôi, như thế nào thì trong tăng ông cũng phải trả lời như vậy.
Pháp hỏi rồi bạch tăng:
Vị sư giáo thọ kia hỏi rồi, trở lại trong tăng, oai nghi như thường, đứng cách nhau duỗi tay đến, bạch như vầy:-Đại đức tăng nghe, người kia tên là... theo tôi cầu thọ giới cụ túc, nếu thời giờ của tăng đã đến, xin tăng bằng lòng cho, tôi đã hỏi rồi, xin cho đem đến, tác bạch như thế.
Pháp thọ tăng xin giới.
Người kia nên gọi rằng “ông đến đây”. Khi đến rồi nên cầm y bát giùm, dạy lễ tăng. Lễ trong, đến trước giới sự oai nghi ngay ngắn dạy nói như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, con pháp danh là... nay theo tăng xin thọ giới cụ túc, vị ấy Hòa-thượng, mong tăng từ bi thương xót, cứu giúp con (nói ba lần).
Nếu dạy xin giới hay không xin giới, mặc y phục thế tục, v.v... hoặc ngủ say, điên cuồng, lõa hình, tức giận vô tâm, thân tướng không đủ, mượn y bát của người, hoặc không có Hòa-thượng, hoặc nhiều Hòa-thượng, đều không gọi là thọ giới cụ túc.
Pháp giới sư bạch:
Giới sư muốn hỏi trước bạch rằng:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, vị... này theo tôi xin thọ giới cụ túc. Vị nầy nay theo tăng xin thọ giới cụ túc, tôi làm Hòa-thượng, nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tôi hỏi các việc nạn, tác bạch như vậy.
Pháp Giới sư hỏi:
Nói rằng: Nầy người thiện nam hãy lắng nghe, nay là lúc chí thành, phải nói lời chân thật, nay theo lời tôi hỏi, ông phải đáp cho thật.
- Ông có phạm biên tội không?
- Ông có ô phạm Tỳ-kheo-ni không?
- Ông có tâm giặc vào đạo hay không?
- Ông có bị hoại hai đường không?
- Ông có phải huỳnh môn không?
- Ông có giết cha không?
- Ông có giết mẹ không?
- Ông có giết A-la-hán không?
- Ông có phá hòa hợp tăng không?
- Ông có tâm ác làm thân Phật chảy máu không?
- Ông có phải phi nhân không?
- Ông có phải súc sinh không?
- Ông có phải hai hình không?
- Pháp danh ông là gì, Hòa-thượng ông hiệu là?
- Ông đủ hai mươi tuổi chưa? Y bát có đủ không?
- Cha mẹ có cho ông xuất gia không?
- Ông có mắc nợ người không?
- Ông có làm quan không?
- Ông có phải là Trượng phu không?
Trượng phu có những thứ bệnh như: bệnh ung thư, bạch lại, gầy ốm, điên cuồng. Nay Ông có bị các chứng bệnh này không? (Lại phải tùy theo việc mỗi mỗi đều đáp không).
Pháp chánh thức trao giới:
Giới pháp khó sinh, các duyên phải đầy đủ, dùng pháp khai dẫn làm cho phát khởi thượng thượng phẩm: Tâm chí thành nghe nhận, phải bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, vị... này theo mỗ cầu thọ giới cụ túc, vị này nay theo tăng xin thọ giới cụ túc, mỗ làm Hòa-thượng, vị nầy tự nói mình thanh tịnh không có các việc nạn, đủ hai mươi tuổi, y bát đầy đủ, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho trao cho vị ấy giới cụ túc, mỗ làm Hòa-thượng, tác bạch như thế.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, vị này theo mỗ giáp cầu thọ giới cụ túc, vị này nay theo tăng xin thọ giới cụ túc, mỗ làm Hòa-thượng, vị ấy tự nói mình thanh tịnh không có các việc nạn, đủ hai mươi tuổi, y bát đủ, nay tăng trao giới cụ túc cho vị ấy, mỗ làm Hòa-thượng. Trưởng lão nào bằng lòng tăng trao giới cụ túc cho vị ấy, mỗ làm Hòa-thượng thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần). Tăng đã bằng lòng trao giới cụ túc cho vị ấy, mỗ làm Hòa-thượng rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như thế (tác pháp này rồi, nên phải ghi nhớ thời biên thọ không khác với đây).
Pháp truyền giới tướng:
Bấy giờ, có vị Tỳ-kheo thọ giới cụ túc rồi, tăng đều bỏ đi, người vợ cũ của thầy ấy ở cách đó không xa, liền cúng nhau hành bất tịnh. Phật bảo: Từ nay về sau làm yết-ma rồi, trước phải nói bốn Ba-la-di, nên nói như vầy!-Nầy người thiện nam lắng nghe, Như Lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác, nói bốn pháp Ba-la-di, nếu Tỳ-kheo phạm bất cứ pháp nào đều, chẳng phải Sa-môn, chẳng phải dòng họ Thích. Tất cả không được phạm dâm, làm bất tịnh hạnh. Nếu Tỳ-kheo phạm hạnh bất tịnh, thọ pháp dâm dục cho đến cùng súc sinh thì chẳng phải Sa-môn, chẳng phải dòng họ Thích. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói ví dụ:
- Giống như có người cắt đầu mình thì không thể sống được. Tỳ-kheo cũng như, vậy phạm pháp Ba-la-di rồi không thể trở lại hạnh Tỳ-kheo, thầy phải trọn đời không được làm, có giữ được không? Đáp: Giữ được. Tất cả không được trộm cắp, dù cho cỏ cây, hoa lá. Nếu Tỳ-kheo trộm cắp của người năm tiền hoặc hơn năm tiền, hoặc tự lấy, hoặc xúi giục người lấy, hoặc tự phá, hoặc xúi giục người phá, hoặc thiêu, hoặc chôn, hoặc hoại sắc thì chẳng phải Sa-môn, chẳng phải dòng họ Thích.
- Thí như chặt ngọn cây đa-la, thì không thể nào sống được. Tỳ-kheo cũng giống như vậy, phạm pháp Ba-ladi rồi hoàn toàn không thể trở lại hạnh Tỳ-kheo, thầy trọn đời không được làm, có thể giữ được không? Đáp: giữ được. Tất cả không được cố ý cắt đứt mạng sống súc sinh, dưới đến loài kiến, nếu Tỳ-kheo cố tự tay cắt đứt mạng người, tìm dao đưa cho người, xúi giục chết, khen ngợi chết, khuyên chết, cho người uống thuốc độc, hoặc làm đọa thai, hoặc nhàm chán cầu chết, tự làm phương tiện, hoặc xúi người làm, thì chẳng phải Sa-môn, chẳng phải dòng họ Thích. ví dụ nói: Giống như kim bị sứt lỗ không thể dùng được nữa. Tỳ-kheo cũng giống như vậy, phạm pháp Ba-la-di rồi thì không thể nào thành hạnh Tỳ-kheo nữa, thầy trọn đời không được làm có thể giữ được không? Đáp: Giữ được.
Tất cả không được nói dối, cho đến nói chơi. Nếu Tỳ-kheo không chân thật, điều mình không có, tự nói ta được pháp hơn người, được thiền, được giải thoát, được định, được định bốn không, đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, trời đến, rồng đến, quỉ thần đến cúng dường ta, thì chẳng phải Sa-môn, chẳng phải dòng họ Thích. Ví dụ nói: Giống như khối đá lớn bị bể làm hai phần, không thể liền lại được. Tỳ-kheo cũng như vậy, phạm pháp Ba-la-di rồi thì không thể nào thành hạnh Tỳ-kheo lại. Thầy trọn đời không được nói dối có giữ được không? Đáp: giữ được.
Pháp trao bốn y:
Có một ngoại đạo trẻ tuổi đến xin xuất gia, các Tỳ-kheo liền xuất gia cho, trước cho bốn y, ngoại đạo kia nói: Đại đức! Tôi chỉ thọ hai y, khất thực, ngồi dưới gốc cây, mặc y bá nạp, uống thuốc mục nát. Tôi không kham hai việc này. Vì sao? Vì đâu ai có thể tự đụng vào vật của mình, liền thôi tu đạo, không xuất gia nữa. Phật bảo ngoại đạo này không xuất gia là mất điều lợi lớn. Nếu người xuất gia phải được chứng đạo, từ nay về sau, trước phải thọ giới, sau đó thọ bốn y, nên nói rằng:
- Nầy người thiện năm hãy lắng nghe, Như Lai là bậc Chí Chân Đẳng Chánh Giác nói pháp bốn y, Tỳ-kheo nương vào đây được xuất gia thọ giới cụ túc, thành pháp
Tỳ-kheo. Thầy trọn đời có thể giữ được không? Đáp:
Giữ được. Nếu được lợi nhiều, đàn-việt thí y, cắt hoại y, thì được y theo đó khất thực. Tỳ-kheo y đây được xuất gia thọ giới, thành pháp Tỳ-kheo. Thầy trọn đời giữ được không? Đáp: được.
Nếu được lợi nhiều, hoặc tăng sai ăn, đàn-việt đưa thức ăn, thức ăn ngày mùng tám trong tháng, thức ăn ngày mười lăm, thức ăn ngày mồng một trong tháng. Hoặc tăng thường ăn, đàn-việt thỉnh ăn thì được thọ, ngồi dưới gốc cây. Tỳ-kheo y vào đây được xuất gia thọ giới cụ túc, thành pháp Tỳ-kheo, thầy trọn đời có giữ được không? Đáp: Giữ được.
Nếu được lợi nhiều, hoặc phòng riêng, hoặc thất nóc nhọn, phòng nhỏ, thất đá, hai phòng một cửa được thọ, nương vào thuốc vữa nát. Tỳ-kheo nương vào đây được xuất gia thọ giới cụ túc, thành pháp Tỳ-kheo, ông trọn đời có giữ được không? Đáp: giữ được. Nếu được lợi lớn, như dầu tô, sinh tô mật, thạch mật thì được thọ, thầy thọ giới rồi, bạch tứ yết-ma như pháp thành tựu được nói chốn, Hòa-thượng đúng như pháp, A-xà-lê đúng như pháp, chúng tăng đây đủ, thầy phải khéo lãnh thọ giáo pháp, nên phải khuyến hóa làm phước sửa tháp, cúng dường Phật, pháp, chúng tăng, Hòa-thượng, A-xà-lê tất cả đều dạy đúng như pháp. Không được trái nghịch, nên học hỏi tụng kinh, khuyên tìm cầu phương tiện, ở trong Phật pháp chứng quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán. Ông mới phát tâm xuất gia, công đức không luống uổng, quả báo không dứt mất, ngoài ra, những điều chưa biết nên hỏi Hòa-thượng, Axà-lê (từ nay về sau bảo người thọ giới cụ túc đi về phía trước).
Pháp trao đại giới thỉnh yết-ma xà-lê cho ni:
Người thọ giới kia cùng Tỳ-kheo ni tăng đến trước A-xà-lê oai nghi ngay ngắn thỉnh rằng:
- Đại đức nhất tâm niệm, con pháp danh là... nay thỉnh Đại đức vì con làm yết-ma A-xà-lê, mong Đại đức vì con làm yết-ma A-xà-lê, con nương theo Đại đức, được thọ đại giới, cúi mong từ bi thương xót (nói ba lần, người kia nên đáp “được”).
Pháp xin giới:
Người kia lễ tăng rồi, oai nghi ngay ngắn nói như vầy.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, con pháp danh là... theo Hòa-thượng-ni hiệu là cầu thọ đại giới. Con pháp danh là... nay theo tăng xin thọ đại giới, Hòa-thượng ni hiệu là... mong tăng cứu giúp con, cúi mong từ bi thương xót (nói ba lần).
Pháp giới sư bạch:
Trong đây, giới sư trước bạch, sau hỏi rằng:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, mỗ giáp này, theo Hòathượng ni hiệu là cầu thọ đại giới, mỗ giáp này nay theo tăng xin thọ đại giới, Hòa-thượng ni hiệu là.... nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tôi hỏi các việc nạn, tác bạch như thế.
Pháp giới sư hỏi:
Nói rằng: Ông hãy lắng nghe, nay là lúc chí thành, hãy nói cho thật. Nay Tôi hỏi ông, có phải nói có, không phải nói không:
- Ông có phạm biên tội không?
- Ông có ô phạm Tỳ-kheo ni không?
- Ông có tâm giặc vào đạo không?
- Ông có phá nội ngoại đạo không?
- Ông có phải Huỳnh môn không?
- Ông có giết cha không?
- Ông có giết mẹ không?
- Ông có giết A-la-hán không?
- Ông có phá hòa hợp tăng không?
- Ông có tâm ác làm thân Phật chảy máu không?
- Ông có phải là phi nhân không?
- Ông có phải là súc sinh không?
- Ông có phải hai hình không?
- Ông pháp danh gì? Hòa-thượng hiệu là gì?
- Ông đủ hai mươi tuổi chưa? Y bát có đủ không?
- Ông cha mẹ, có cho xuất gia không?
- Ông có mắc nợ người không?
- Ông có phải là tôi tớ không?
- Ông có phải là người nam không?
Người nam có những chứng bệnh như: bệnh ung thư, bệnh gầy ốm, điên cuồng, hai đường hiệp một, đại tiểu tiện thường chảy ra, đàm dãi thường xuất, ông có những bệnh như vậy không? (Tùy theo việc mà đáp không). Lại hỏi rằng: ông học giới chưa? Thì đáp học giới rồi. Lại hỏi: Ông thanh tịnh không? Lại đáp: thanh tịnh.
Lại hỏi người khác, mỗ giáp học giới chưa, (người khác đáp) học giới rồi.
Lại hỏi: thanh tịnh không? Người khác lại đáp: thanh tịnh. Pháp chánh thức truyền giới:
Đã phương tiện đầy đủ như trước khai dẫn dạy thành thọ phải làm như vậy.
- Đại đức tăng nghe, vị này theo Hòa-thượng ni... cầu thọ đại giới. Vị này nay theo tăng xin thọ đại giới, Hòa-thượng ni hiệu là..., vị ấy nói thanh tịnh không có các việc nạn, tuổi đủ hai mươi, y bát đầy đủ, đã học giới thanh tịnh, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, tăng nay truyền Đại giới cho vị ấy, Hòa-thượng hiệu là... tác bạch như thế.
Đại đức tăng xin lắng nghe, mỗ giáp này theo Hòathượng... cầu thọ đại giới. Vị này nay theo tăng xin thọ đại giới, Hòa-thượng... vị ấy nói thanh tịnh không có các việc nạn, tuổi đủ hai mươi, y bát đầy đủ, đã học giới thanh tịnh, nay tăng truyền đại giới, cho vị ấy, Hòathượng hiệu là... trưởng lão nào bằng lòng cho vị ấy thọ đại giới và Hòa-thượng hiệu là... thì im lặng, ai không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần). Tăng đã bằng lòng truyền đại giới cho vị ấy xong, Hòa-thượng hiệu là... tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên hành trì như thế. Trong luật nói: Tự nói thanh tịnh, tuổi đủ hai mươi, nay trao cho vị đó giới cụ túc, văn của hai bên tùy theo đó mà tụng không mất. Tác pháp này rồi nên nhờ thời thọ không khác với ở đây.
Pháp trao giới tướng:
Nên nói với người kia rằng:
- Nầy người Thiện nữ hãy lắng nghe, Như lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói tám pháp Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo-ni nào phạm thì chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích, không được làm pháp bất tịnh, hành hạnh dâm dục. Nếu Tỳ-kheo-ni làm hạnh bất tịnh, hành pháp dâm dục, cho đến với súc sinh. Tỳ-kheo-ni kia chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích. Cô trọn đời giữ gìn không phạm có được không? Đáp: Giữ được.
- Không được trộm cắp, dù cho lá cây cọng cỏ. Nếu Tỳ-kheo-ni lấy của người năm tiền hoặc hơn năm tiền, hoặc tự lấy, hoặc xúi giục người lấy, hoặc tự phá, hoặc xúi giục người phá, hoặc thiêu, hoặc chôn, hoặc hoại sắc, người ấy chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích. Cô trọn đời không được phạm có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Không được cắt mạng sống súc sinh, cho đến loài kiến, nếu Tỳ-kheo-ni cố tự tay cắt đứt mạng sống của người, cầm dao đưa cho người, xúi giục chết, khen chết, khuyên chết, cho người uống thuốc độc, hoặc làm đọa thai, hoặc yếm đối chú thuật, hoặc tự làm phương tiện, hoặc bảo người làm, thì người ấy chẳng phải con gái dòng họ Thích. Cô trọn đời không được phạm có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Không được nói dối cho đến nói chơi. Nếu Tỳ-kheo ni không chân thật điều mình không có mà tự xưng là được pháp hơn người, được thiền, được giải thoát, được Tam-muội chánh thọ, được quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đàhàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, trời đến, rồng đến, quỉ thần đến cúng dường ta, người kia chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích. Cô trọn đời không được phạm có giữ được không? Đáp: giữ được.
- Không được thân xúc chạm, cho đến xúc chạm với súc sinh. Nếu Tỳ-kheo-ni tâm nhiễm ô, cùng người nam có tâm nhiễm ô thân xúc chạm nhau, từ nách trở xuống, từ đầu gối trở lên, hoặc mơn trớn, hoặc vuốt ve, hoặc xoa lui, hoặc xoa tới, hoặc kéo hoặc đẩy, hoặc nâng lên, hoặc để xuống, hoặc nắm hoặc bóp, người ấy chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích. Cô trọn đời không được phạm có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Không được phạm tám việc, cho đến cùng với súc sinh. Nếu Tỳ-kheo-ni có tâm nhiễm ô, cho người nam có tâm nhiễm ô nắm tay, nắm áo, vào chỗ khuất, đứng nói chuyện chung ở chỗ khuất, cùng đi thân dựa vào nhau, cùng hẹn hò. Phạm tám việc này, người kia chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích. Cô trọn đời không được phạm có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Không được che giấu tội nặng của người khác, cho đến đột-cát-la ác thuyết. Nếu Tỳ-kheo-ni biết có Tỳ-kheo-ni phạm Ba-la-di không tự nêu, không bạch tăng, không nói cho người biết. Về sau vào lúc khác, Tỳ-kheo ni này hoặc thôi tu, hoặc diệt tẫn, hoặc ngăn không cho làm việc với tăng, hoặc theo ngoại đạo. Tỳ-kheo-ni kia nói như vầy: Tôi biết người này trước đây phạm tội như vậy, như vậy. Tỳ-kheo-ni ấy chẳng phải Tỳ-kheo, chẳng phải con gái dòng họ Thích, bởi vì che giấu tội nặng của người khác. Cô trọn đời không được phạm có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Không được tùy theo người bị cử Tỳ-kheo cho đến Sa-di. Nếu Tỳ-kheo-ni biết thầy Tỳ-kheo bị chúng tăng cử tội đúng như pháp, như luật, như lời Phật dạy, phạm oai nghi chưa sám hối không làm phép mà ở chung, bèn thuận theo lời của Tỳ-kheo kia, các Tỳ-kheo-ni can ngăn Tỳ-kheo-ni này nói: Đại tỷ! Thầy Tỳ-kheo kia bị tăng cử tội, như pháp, như luật, như lời Phật dạy, phạm oai nghi chưa sám hối, chúng tăng chưa làm pháp sám hối không được chung. Chớ có thuận theo lời của Tỳ-kheo kia. Khi các Tỳ-kheo-ni can ngăn Tỳ-kheo-ni này mà Tỳ-kheo-ni này giữ chắc không bỏ, Tỳ-kheo-ni kia nên can ngăn ba lần cho bỏ việc đó. Can ngăn ba lần bỏ thì tốt, không bỏ, thì người ấy chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải con gái dòng họ Thích, vì phạm tội tùy cử. Cô trọn đời không được phạm, có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Nầy người thiện nữ hãy lắng nghe, Như lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói bốn thí dụ. Nếu phạm tám việc như người bị chặt đầu không thể mọc lại nữa, như cây đa-la bị chặt ngọn không thể sống được nữa. Như cây kim sứt lỗ không thể dùng lại được. Như khối đá lớn bị vỡ làm hai phần không thể hợp lại được. Nếu Tỳ-kheo-ni phạm tám việc này rồi không thể trở lại hạnh Tỳ-kheo-ni. Cô trọn đời không được phạm, có giữ được không? Đáp: Giữ được.
Pháp trao bốn y:
Nên nói với người kia rằng:
- Nầy người thiện nữ hãy lắng nghe, Như lai Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói bốn y. Tỳ-kheo-ni y nương theo đây xuất gia thọ đại giới, thành pháp Tỳ-kheo-ni, nương vào y phẩn tảo xuất gia thọ đại giới là pháp của Tỳ-kheo-ni, trọn đời cô có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Nếu được lợi nhiều, đàn-việt thí y, cắt y, nên thọ. Nương vào khất thực xuất gia thọ đại giới là pháp của Tỳ-kheo ni, cô trọn đời có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Nếu được lợi nhiều, tăng sai thọ thực, đàn-việt đưa thức ăn đến, thức ăn ngày mồng tám mỗi tháng, thức ăn ngày mười lăm hàng tháng, thức ăn ngày đầu tháng. Nếu chúng tăng thường thọ thực, đàn-việt thỉnh thọ thực thì nên thọ. Nương dưới gốc cây mà ngồi xuất gia thọ đại giới, đây là pháp của Tỳ-kheo-ni, trọn đời cô có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Nếu được lợi nhiều, phòng riêng, thất nóc nhọn, phòng nhỏ, thất đá, hai phòng một cửa nên thọ. Nương vào thuốc mục nát mà xuất gia thọ đại giới là pháp của Tỳ-kheo-ni, cô trọn đời có giữ được không? Đáp: Giữ được.
- Nếu được lợi nhiều, bơ, dầu, bơ sống, mật, thạch mật thì nên thọ, đã thọ giới rồi bạch tứ yết-ma như pháp thành tựu được nơi chốn, Hòa-thượng như pháp, A-xàlê như pháp, đủ hai bộ đại tăng, cô phải khéo thọ giáo pháp. Nên khuyến hóa làm phước, sửa tháp, cúng dường Phật, Pháp, Tăng. Hòa-thượng, A-xà-lê, tất cả dạy bảo đúng pháp, không được trái nghịch, nên học hỏi tụng kinh siêng tìm phương tiện. Đối với trong Phật pháp đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, cô mới phát tâm xuất gia, công đức không luống uổng, quả báo không mất. Còn những điều chưa biết nên hỏi Hòa-thượng, A-xà-lê. Bảo người thọ giới đi trước.
Chế hành pháp Hòa-thượng:
Bấy giờ, các Tỳ-kheo chưa được người dạy bảo, không theo oai nghi, đắp y không ngay ngắn. Cho nên như cách nhóm họp của Bà-la-môn. Lúc ấy, có một vị Tỳ-kheo bị bệnh, không có đệ tử, không có người chăm sóc nên qua đời. Phật bảo: Từ nay về sau, cho phép có Hòa-thượng, Hòa-thượng phải xem đệ tử như con. Đệ tử phải xem Hòa-thượng như cha, cung kính tôn trọng, chăm sóc lẫn nhau. Như thế, Chánh pháp mới trụ lâu, tăng thêm lợi ích rộng lớn. Cách thỉnh như trên. Lại bảo các Tỳ-kheo! Từ nay về sau, cho Tỳ-kheo trí tuệ mười hạ trao giới cụ túc cho người. Lại đặt ra việc làm của Hòa-thượng đối với đệ tử. Pháp của Hòa-thượng nên thực hành như thế. Đối với Đệ tử, chúng tăng muốn làm bảy yết-ma quở trách, Hòa-thượng đối với việc đó phải lo liệu đúng như pháp. Lại tăng không cho đệ tử làm yết-ma, nếu làm thì bảo làm đúng như pháp. Kế đó, hoặc tăng cho đệ tử làm bảy yết-ma quở trách, Hòa-thượng đối với việc đó phải lo liệu đúng như pháp, bảo đệ tử thuận theo, đối với tăng không trái nghịch, cầu dứt tội. Bảo tăng mau cho giải yết-ma. Lại nữa, nếu đệ tử phạm tăng tàn, Hòa-thượng phải lo liệu như pháp. Hoặc nên cho ba-lợi-bà-sa thì phải cho ba-lợi-bà-sa, cho đến đáng cho xuất tội. Lại nữa, đệ tử bị bệnh. Hòa-thượng phải chăm sóc, hoặc nhờ người chăm sóc, cho đến bệnh lành, hoặc qua đời, nếu đệ tử không thích chỗ ở nên tự dời, hoặc nhờ người dời. Đệ tử có việc nghi, nên dùng pháp dùng luật đúng như lời Phật dạy như pháp mà trừ. Hoặc sinh ác kiến, dạy cho bỏ ác kiến, trụ vào cái thấy đúng, phải lấy việc để hộ, lấy pháp, lấy y, thức ăn để hộ. Trong đó, pháp nên che chở lẫn nhau. Nên dạy tăng giới, tăng tuệ, dạy học hỏi tụng kinh. Trong đó y thực phải giúp đỡ lẫn nhau, phải cho y thực, giường ghế, đồ nằm, bệnh thì cho thuốc. Tỳ-kheo khả năng mà làm. Từ nay về sau, chế pháp của Hòa-thượng như thế. Hòa-thượng nên thực hành, nếu không làm thì đúng như pháp mà trị.
Hành Pháp y chỉ A-xà-lê:
Bấy giờ, các Tỳ-kheo mới thọ giới, Hòa-thượng lại qua đời, không có người dạy bảo. Vì không được sự dạy bảo, thậm chí như Bà-la-môn nhóm họp. Phật bảo: Từ nay về sau cho có A-xà-lê, cho có đệ tử. A-xà-lê đối với đệ tử phải tưởng như con. Đệ tử đối với A-xà-lê phải tưởng như cha. Xoay vần tôn trọng cung kính lẫn nhau. Như vậy đối với Phật pháp càng được truyền bá rộng thêm. Nên thỉnh như vầy, sửa sang oai nghi bạch rằng:
-Đại đức tăng nhất tâm niệm, con pháp danh là.... nay cầu Đại đức làm y chỉ, mong Đại đức cho con y chỉ, con y chỉ Đại đức ở (nói ba lần) đáp “được”, hoặc nói: “Cho ông y chỉ”, hoặc nói “ông chớ buông lung, hành pháp của xà-lê đều đồng với Hòa-thượng”.
Chế hành pháp đệ tử:
Bấy giờ, các đệ tử không thực hành pháp đệ tử, không bạch Hòa-thượng mà vào xóm. Phật bảo các Tỳ-kheo từ nay về sau phải chế ra pháp đệ tử, làm cho đệ tử đối với Hòa-thượng thực hành pháp đệ tử, cùng thực hành tám pháp như trước. Lại không bạch Hòa-thượng thì không được vào xóm, không được đến nhà người, không được theo Tỳ-kheo khác, hoặc theo các Tỳ-kheo khác làm bạn, không được cho không được nhận, không được giúp đỡ các việc, không được nhận sự giúp đỡ các việc của người, không được cạo tóc cho người khác, không được nhờ người khác cạo tóc, không được vào nhà tắm, không được xoa chà thân cho người, không được nhờ người khác xoa chà thân mình, không được đến phòng trú xứ ban ngày, không được đến chỗ mồ mả, không được đến ngoài giới, không được đến phương khác. Người ấy lúc trời sáng ra phải vào phòng Hòathượng, thọ pháp tụng kinh, hỏi nghĩa, phải đem đổ đồ tiểu tiện. Nên bạch đã đến giờ cho đến nói rộng, đệ tử một ngày phải ba lần hỏi han Hòa-thượng, sáng trưa chiều, nên vì Hòa-thượng mà làm hai việc nhọc, không được từ chối: 1-Sửa sang phòng nhà; 2-Vá, giặt y phục. Hòa-thượng dạy đúng như pháp, đệ tử phải vâng làm, hoặc sai đi khắp nơi không được từ chối, giả mượn nhân duyên, nếu từ chối, thì phải đúng như pháp mà trị.
Từ nay về sau, chế pháp cho đệ tử tu hành, nếu không tu nên đúng như pháp mà trị. Điều này đối với sự tu hành của A-xà-lê cũng như vậy. Văn đồng cho nên không chép ra.
Pháp quở trách đệ tử:
Bấy giờ các đệ tử, không thờ phụng cung kính Hòathượng, A-xà-lê, cũng không thuận theo cách của đệ tử, không biết hổ thẹn, không thọ giáo, làm những việc phi oai nghi, không cung kính, khó dạy bảo, làm bạn với người ác, thích đến nhà dâm nữ, nhà phụ nữ, nhà đại đồng nữ, nhà Huỳnh môn, tinh xá Tỳ-kheo-ni, tinh xá Thức-xoa-ma-na, thích đến xem rùa ba ba, có các lỗi này nên tác pháp quở trách. Có ba thứ hiện tiền: 1-Đệ tử; 2-Nêu lỗi; 3-Quở trách. Từ quở trách có năm, nên nói:
-Nay Tôi quở trách ông, ông đi đi, ông chớ vào phòng tôi, ông chớ làm cho tôi, ông đừng đến chỗ tôi, tôi không nói chuyện với ông (là pháp Hòa-thượng quở trách đệ tử, A-xà-lê quở trách đệ tử cũng có năm từ đồng, chỉ đổi câu thứ tư chớ đến chỗ ta). Ông chớ y chỉ ta. Người kia suốt đời bị quở trách, Phật bảo không nên như vậy, an cư xong quở trách cũng không nên như vậy.
Người bệnh cũng không nên quở trách.
Pháp đệ tử sám hối:
Người kia bị quở trách rồi không sám hối Hòathượng và A-xà-lê. Phật bảo bị quở trách rồi nên sám hối Hòa-thượng và A-xà-lê. Phải sám hối như vầy (oai nghi ngay ngắn nói): Bạch Đại đức nay con sám hối không còn phạm nữa. Nếu cho sám hối thì tốt, bằng không cho thì mỗi ngày phải ba thời sám hối sáng trưa chiều. Nếu cho sám hối thì tốt, bằng không cho nên hạ ý thuận theo tìm cách giải thích điều mình phạm. Nếu người kia hạ ý thuận theo không trái nghịch mà Hòa-thượng, A-xà-lê không chấp nhận thì phải đúng như pháp mà trị.
Pháp đệ tử lìa Hòa-thượng sám tạ! Hòa-thượng có năm điều phi pháp, đệ tử nên sám hối mà đi, nên nói với Hòa-thượng rằng:
Con đúng như pháp Hòa-thượng không biết, con không đúng như pháp Hòa-thượng cũng không biết, nếu con phạm giới, Hòa-thượng không dạy không quở trách, hoặc con phạm Hòa-thượng cũng không biết, nếu con phạm mà sám hối Hòa-thượng cũng không biết. Sám tạ như thế phải nói lời nhẹ nhàng, nếu Hòa-thượng không chấp nhận thì nên bỏ đi xa, y chỉ xà-lê, nên mang y bát ra ngoài giới qua đêm rồi, sáng lại về y chỉ Tỳ-kheo khác mà ở.
Pháp tăng thuyết giới:
Trong ba ngày mười bốn, mười lăm và mười sáu, các Tỳ-kheo không biết thuyết giới ngày nào. Phật bảo cho phép ngày bố-tát, Thượng tọa xướng lên rằng:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nay tăng vào lúc ấy, ngày ấy, tháng ấy, nhóm họp tại chỗ đó thuyết giới. xướng như thế rồi, đến lúc thuyết giới, Tỳ-kheo trẻ tuổi trước đến giới đường quét dọn, trải chiếu, dụng cụ nước rửa, chậu rửa chân, đèn đuốc, chuẩn bị thẻ. Nếu Tỳ-kheo trẻ tuổi không biết thì Thượng tọa phải dạy, nếu Thượng tọa không dạy thì phạm đột-cát-la. Nếu không theo lời Hòa-thượng dạy phạm đột-cát-la. Khi thâu cất cũng như thế. Bấy giờ, các người tại gia hỏi Tỳ-kheo, khi thuyết giới có mấy vị. Vì không biết, nên Tỳ-kheo hổ thẹn. Phật bảo: Cho đếm, tuy đếm nhưng vẫn quên. Phật dạy: Phải đủ thẻ, thẻ phải làm bằng đồng, bằng sắt, tre, cây, không được làm bằng vật báu. Nếu sợ khô héo nên làm hộp, hộp cũng không được làm bằng vật báu. Khi tăng nhóm họp, Tỳ-kheo phải xem xét nhau. Biết có đến hay không, nên trước bạch, sau đó thuyết giới, bạch đúng như phép tắc oai nghi, đầy đủ như giới kinh.
Pháp giáo giới Tỳ-kheo-ni:
Khi thuyết giới, Thượng tọa hỏi:
- Chúng Tỳ-kheo ni sai người nào đến, trước nhận lời dặn, nên đứng dậy lễ tăng, oai nghi ngay ngắn bạch:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo-ni tăng ở chỗ nào đó hòa hợp, sai Tỳ-kheo ni tên là... lễ dưới chân tăng cầu xin giáo giới (nói ba lần), Thượng tọa lại hỏi: Ai là người giáo giới Tỳ-kheo ni?
Nếu có người nên sai, người giáo giới rất nhiều, nên gởi tin nói với Tỳ-kheo-ni tăng, ở đây có nhiều người giáo giới, cô thích thỉnh ai? Nếu ni kia nói: “Tôi thỉnh vị này”, thì y theo ni nói mà thỉnh sai.
Nếu ni nói rằng: Tôi tùy tăng xử phân, tăng nên tùy thường giáo giới Tỳ-kheo thứ lớp sai. Phật bảo: Nếu có Tỳ-kheo có đủ tựu mười pháp: 1-Giới luật đầy đủ; 2-Học rộng; 3-Tụng làu hai bộ giới; 4-Quyết đoán không nghi; 5-Nói pháp giỏi; 6-Xuất gia từ dòng họ danh tiếng; 7-Tướng mạo đẹp đẽ, chúng Tỳ-kheo-ni thấy liền vui mừng; 8-Có khả năng nói pháp cho Tỳ-kheo-ni nghe, khiến họ vui mừng. 9. Không vì Phật xuất gia mà mặc pháp phục phạm tội nặng; 10-Hoặc đủ hai mươi hạ, hoặc hơn hai mươi hạ, nên sai giáo giới Tỳ-kheo-ni. Nên sai như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, tăng sai Tỳ-kheo... giáo giới Tỳ-kheo-ni, trưởng lão nào bằng lòng tăng sai Tỳ-kheo... giáo giới Tỳ-kheo-ni thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng sai Tỳ-kheo... giáo giới Tỳ-kheo-ni rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như thế. Người được sai kia dẫn một Tỳ-kheo làm bạn đến trú xứ Tỳ-kheo-ni, phải đến đúng giờ, Tỳ-kheo-ni cũng phải lo đón rước. Nếu Tỳ-kheo không đến thì phạm đột-cát-la. Ni không đón rước cũng phạm cát-la. Bấy giờ, sư giáo giới thấy chúng nhóm họp rồi thì nói tám pháp cung kính và nói pháp rằng tám pháp cung kính không thể vượt qua.
Tuy Tỳ-kheo-ni trăm tuổi hạ thấy Tỳ-kheo mới thọ giáo giới cũng phải đứng dậy đón rước, lễ bái, và trải tịnh tòa mời ngồi. Pháp nầy nên tôn trọng, cung kính khen ngợi, trọn đời không được trái.
Tỳ-kheo-ni không được mắng nhiếc, quở trách Tỳ-kheo. Không nên phỉ báng rằng nói phá giới, phá kiến, phá oai nghi. Pháp nầy nên tôn trọng v.v... (như trên). Tỳ-kheo ni không nên vì Tỳ-kheo mà tác cử, tác ức niệm, tự nói. Không nên ngăn người khác tìm tội, ngăn thuyết giới, ngăn tự tứ. Tỳ-kheo-ni nên trách Tỳ-kheo. Tỳ-kheo nên trách Tỳ-kheo ni. Pháp nầy nên tôn trọng v.v... (như trên). Thức-xoa-ma-na học giới rồi theo Tỳ-kheo tăng xin thọ đại giới, pháp như thế nên tôn trọng, v.v... (như trên)
Tỳ-kheo-ni phạm tội tăng tàn nên ở trong hai bộ đại tăng thực hành pháp ma-na-đỏa, pháp nầy nên tôn trọng, v.v... (như trên)
Tỳ-kheo-ni nửa tháng theo tăng xin giáo giới, pháp nầy nên tôn trọng, v.v... (như trên)
Tỳ-kheo-ni không nên hạ an cư ở chỗ không có Tỳ-kheo, pháp nầy nên tôn trọng, v.v... (như trên)
Tỳ-kheo-ni tăng hạ an cư xong nên đến Tỳ-kheo tăng cầu ba việc: thấy, nghe, nghi, pháp nầy nên tôn trọng, v.v... (như trên)
Như trên thứ lớp mà nói pháp, lượng cơ dẫn dắt. Về pháp lược giáo giới: Nếu không có người giáo giới ni, thỉnh khắp mà không được thì ở đây nhận gởi gắm cho
Tỳ-kheo, lại đến trước Thượng tọa bạch, Thượng tọa nên nói người kia rằng:
Ở đây không có người giáo giới Tỳ-kheo ni, và không có người nói pháp, nói chúng Tỳ-kheo siêng tu chớ buông lung.
Ngày mai ni đến chỗ Tỳ-kheo này truyền đến Thượng tọa.
Pháp nói thanh tịnh:
Nếu ngày mười bốn, mười lăm, mười sáu, Tỳ-kheo cựu trụ muốn thuyết giới, có Tỳ-kheo khách đến, đã thuyết giới rồi, hoặc ít hoặc nhiều, nên theo Tỳ-kheo cựu trụ thuyết giới lại. Nếu không thì đúng như pháp mà trị. Hoặc khách đông, Tỳ-kheo cựu trụ nên cầu khách hòa hợp. Nếu không được nên ra ngoài giới thuyết giới. Nếu Tỳ-kheo cựu trụ đã thuyết giới xong, Tỳ-kheo khách đến muốn thuyết giới hoặc ít hoặc nhiều, nên cầu Tỳ-kheo cựu trụ hòa hợp. Nếu không được nên ra ngoài giới thuyết giới. Nếu Tỳ-kheo khách nhiều nên theo Tỳ-kheo khách thuyết giới lại. Nếu không thì đúng như pháp mà trị. Nếu ngày đồng giờ, Tỳ-kheo cựu trụ đã thuyết lời tựa xong, Tỳ-kheo khách đến ít, nói thanh tịnh, nên nói như vầy:
-Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo thanh tịnh. Nói như vậy rồi, còn lại phải thứ lớp nghe. Nếu thuyết giới xong, cả chúng chưa đứng dậy, hoặc nhiều người chưa đứng dậy, hoặc đều đứng dậy, cũng nói thanh tịnh. Nếu không, thì trị đúng như pháp. Nếu nói lời tựa xong, khách đến nhiều, Tỳ-kheo cựu trụ phải thuyết lại. Nếu không, thì trị đúng như pháp. Nếu thuyết giới xong, cả chúng chưa đứng dậy, hoặc nhiều người chưa đứng dậy, hoặc tất cả đều đứng dậy, cũng thuyết lại. Nếu Tỳ-kheo khách nhóm họp rồi thuyết lời tựa, Tỳ-kheo cựu trụ đến cũng như vậy.
Pháp lược thuyết giới:
Luật nói: Nếu có tám nạn và duyên khác thì cho lược thuyết giới.
Tám nạn là: Hoặc vua, hoặc giặc, hoặc lửa, hoặc nước, hoặc bệnh, hoặc người, hoặc phi nhân, hoặc côn trùng độc.
Duyên khác: Hoặc đại chúng nhóm họp đông đảo mà giường ghế ít, hoặc chúng nhiều người bị bệnh, cho lược thuyết giới. Hoặc đại chúng nhóm họp mà trên tòa che không khắp, hoặc trời mưa, hoặc bố-tát nhiều đêm đã lâu, hoặc việc đấu tranh, hoặc luận bàn A-tỳ-đàm, tỳ-ni, hoặc nói pháp đêm đã lâu thì cho, tất cả chúng chưa đứng dậy, tướng sáng chưa xuất hiện, nên làm yết-ma thuyết giới, lại không có phương tiện để được ngủ, thọ dục thanh tịnh, lược phương tiện trước, pháp rộng như một, lượng nạn xa gần, hoặc nói tựa giới, hỏi thanh tịnh rồi, nạn đến nên nói: Các Đại đức, bốn pháp Ba-la-di nầy, tăng thường nghe. Nếu nạn duyên ép ngặt đến gần không kịp nói lời tựa thì nên bỏ đi.
Pháp đối thú thuyết giới:
Nếu có ba vị, mỗi vị hướng vào nhau mà nói như vầy:
Hai Trưởng lão nhớ nghĩ, nay ngày mười lăm tăng thuyết giới, tôi Tỳ-kheo... thanh tịnh (nói ba lần, hai người cũng vậy).
Pháp tâm niệm thuyết giới:
Nếu có một người, tâm nên nghĩ rằng: Nay ngày mười lăm chúng tăng thuyết giới, tôi Tỳ-kheo... thanh tịnh (nói ba lần).
Pháp thuyết giới thêm bớt:
Nếu có Tỳ-kheo thích đấu tranh mắng chửi phỉ báng nhau miệng nói ra lời dao kiếm, muốn đi đến đây thuyết giới, nên nói hai, ba lần “Bố-tát”. Nếu ngày mười lăm thuyết ngày mười bốn tác, nếu ngày mười bốn thuyết thì ngày mười ba tác, hoặc nghe hôm nay đến thì mau mau bố-tát.
Nếu đã vào giới trường thì nên ra ngoài giới mà thuyết giới.
Nếu được như thế thì tốt, nếu không có khả năng thì nên tác bạch thuyết giới, tác bạch như vầy.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, nay tăng không thuyết giới, đến ngày mười lăm tháng trời tối phải thuyết giới, tác bạch như thế. Nếu Tỳ-kheo khách không đi thì nên tác bạch lần thứ hai, lại bạch như vầy.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, tăng nay không thuyết giới, đến ngày mười lăm tháng trăng sáng phải thuyết giới, tác bạch như thế.
Nếu Tỳ-kheo khách cố không đi đến tháng trăng sáng, Tỳ-kheo cựu trụ nên như pháp cưỡng hỏi đáp với Tỳ-kheo khách.
Pháp hòa hợp phi thời:
Hoặc vì nêu việc mà có đấu tranh, năng sở không hòa hợp, với bộ khác để thuyết giới. Nếu có thể sám hối sửa lỗi theo tăng xin giải, giải rồi tác bạch yết-ma hòa hợp bố tát, tác bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, người kia nhân việc làm cho tăng đấu tranh, phỉ báng, tìm ưu khuyết của nhau, làm cho tăng bị phá, làm cho tăng ở riêng, làm cho tăng nhơ bẩn. Người kia bị tăng nêu tội rồi, lại được giải rồi, diệt nhơ bẩn của tăng, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, tăng hòa hợp bố-tát, tác bạch như thế (tác bạch rồi hòa hợp bố-tát).
Pháp thuyết giới phi thời:
Nếu do đấu tranh làm cho tăng không hòa hợp, làm cho tăng chia làm hai hệ khác nhau, người kia tự biết, việc phạm tội, nay đã sửa đổi, trừ diệt sự nhơ bẩn tăng, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng nay hòa hiệp thuyết giới, tác bạch như thế (tác bạch như thế rồi sau đó hòa hiệp thuyết giới).
Pháp đối thú:
Phật bảo các Tỳ-kheo: Các thầy không nên trong tất cả mùa xu-ân, hạ, đông đi khắp trong nhân gian. Từ nay về sau, cho các Tỳ-kheo an cư ba tháng hạ, nên nói như vầy: Trưởng lão nhất tâm niệm! Tôi là Tỳ-kheo.... nương Tăng-già-lam.... nếu ở trong xóm làng nên nói: xóm làng nào đó. Nếu ở phòng riêng nên nói phòng..., tiền tam ngoạt hạ an cư, vì phòng xá cũ sửa sang lại (nói ba lần).
Vì an cư nương vào Luật sư thứ năm cho nên phải nói rằng: Ông nương ai trì luật? Người kia nên nói nương luật sư..., sau đó nên nói: Có nghi nên hỏi. Người kia nên đáp: vâng (hậu tam ngoạt hạ an cư cũng như vậy). An cư có hai thứ: 1-Tiền an cư; 2-Hậu an cư. Hoặc tiền an cư trước ba tháng, hoặc hậu an cư sau ba tháng.
Pháp tâm niệm:
Luật nói: Từ nay cho các Tỳ-kheo, nếu không người nương tựa, cho tâm niệm an cư, cách tác bạch giống như trước. Chỉ trừ câu đầu và sau hỏi đáp, nói ba lần.
Pháp quên thành:
Bấy giờ, các Tỳ-kheo ở trú xứ muốn an cư, không có người nương tựa, tự quên không tâm niệm, chẳng biết có thành hay không. Phật bảo: Nếu vì an cư mà đến thì thanh an cư.
Pháp đến giới trường:
Bấy giờ, các Tỳ-kheo đến chỗ an cư để an cư, vào giới trường tướng sáng liền xuất hiện. Người kia nghi ngờ, chẳng biết có thành an cư hay không. Phật bảo: Nếu vì an cư mà đến thì thành an cư. Kế vào khuôn viên cũng đồng, kế một chân vào giới, một chân vào khuôn viên cũng như thế.
Pháp đối thú:
Nếu có việc Phật, Pháp, Tăng, đàn-việt, cha mẹ mời thọ sám, hoặc lo bệnh hoạn, bệnh cầu đồng nghiệp v.v... không đến và trong ngày trở về thì cho, thọ bảy ngày rồi đi, nên bạch như vầy:
- Trưởng lão nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo..., thọ bảy ngày ra ngoài giới, vì việc gì đó. Xong việc trở lại đây an cư, xin bạch cho Trưởng lão biết (nói ba lần), không nên vì ăn uống mà đi.
Pháp yết-ma:
Vì duyên trước đi xa trong bảy ngày không về kịp. Phật bảo: Có việc như thế thì được thọ quá bảy ngày, hoặc mười lăm ngày, một tháng, bạch nhị yết-ma. Nên tác bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo... thọ quá bảy ngày, mười lăm ngày, một tháng ra ngoài giới, vì việc gì đó, xong việc trở lại đây an cư. Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo... thọ quá bảy ngày, mười lăm ngày, một tháng ra ngoài giới, vì việc gì đó, xong việc trở lại đây an cư thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo... thọ quá bảy ngày, mười lăm ngày, một tháng ra ngoài giới, vì việc gì đó, xong việc trở lại đây an cư rồi. Vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Pháp bạch tăng khi tự tứ:
Từ nay về sau cho an cư xong rồi tự tứ, cho ngăn tự tứ, không nên cầu nghe. Vì sao? tự tứ tức là nghe. Lại các Tỳ-kheo không biết hôm nay tự tứ, ngày mai tự tứ. Phật bảo: Từ nay về sau cho lúc tiểu thực, hoặc thượng trung thực, Thượng tọa xướng rằng:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nay tăng ngày đó giờ gió, ngày đó tháng đó nhóm họp chỗ nào đó tự tứ. ngoài ra nghi quỹ đều đồng với thuyết giới.
Pháp sai người thọ tự tứ:
Các Tỳ-kheo cùng một lúc tự tứ gây náo loạn, lại không cầu thứ lớp tự tứ, Thượng tọa mỏi mệt. Phật bảo: Không nên như vậy. Cho sai người thọ tự tứ, bạch nhị yết-ma. Có năm pháp nên sai là: không ái, không sân, không sợ, không si, biết đã tự tứ chưa tự tứ. Nên sai như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, nay tăng sai Tỳ-kheo.... làm người thọ tự tứ, Trưởng lão nào bằng lòng tăng sai Tỳ-kheo.... làm người thọ tự tứ thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng sai Tỳ-kheo... làm người thọ tự tứ rồi, vì tăng bằng lòng nên im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Pháp bạch tự tứ:
Luật nói: Cho Tỳ-kheo biết có đến hay không. Trước bạch, sau tự tứ, tác bạch như vậy: Đại đức tăng xin lắng nghe, ngày nay chúng tăng tự tứ, nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng hòa hợp tự tứ, tác bạch như vậy.
Pháp tăng tự tứ:
Luật nói: Cho từ từ nói ba lần rõ ràng rồi tự tứ, không nên vắt y trên cổ, nên vén y bày vai phải, nói như vậy: Bạch Đại đức! Chúng tăng ngày nay tự tứ, tôi là Tỳ-kheo. Cũng tự tứ, nếu thấy tội, nghe tội, nghi tội, xin Đại đức trưởng lão vì thương xót nói cho con, nếu con thấy tội nên như pháp sám hối, ba lần nói. Nếu Tỳ-kheo bệnh thì Phật cho ở tại chỗ tự tứ, cùng nói duyên thanh tịnh và nói một pháp giống như thuyết giới.
Pháp lược tự tứ:
Phật nói: Nếu có tám nạn và duyên khác, thì cho lược tự tứ. Nếu nạn sự còn xa, được thuyết rộng thì nên thuyết rộng. Nếu việc nạn đến gần không thể nói ba lần, thì phải nói hai lần. Nếu không nói được hai lần thì nên nói một lần. Nếu không thì đúng như pháp mà trị. Nếu việc nạn đến gần không thể nói một lần, thì các Tỳ-kheo nên tác bạch, đều cùng ba lần nói tự tứ, tác bạch như vầy:
-Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng nay mọi người cùng nói ba lần tự tứ, tác bạch như thế. Bạch như thế rồi, mọi người cùng nói ba lần tự tứ; nói hai lần, nói một lần cũng như vậy. Nếu việc nạn đến gần không thể, mọi người nói ba lần tự tứ, cũng không bạch được, thì nên vì việc này mà đi.
Pháp đối thú tự tứ:
Nếu tăng có bốn vị mỗi vị cùng hướng vào nhau nói như vầy: Ba trưởng lão nhớ nghĩ, ngày nay chúng tăng tự tứ, tôi là Tỳ-kheo... thanh tịnh tự tứ, nói ba lần, nếu ba người, hai người cũng như vậy.
Pháp tâm niệm tự tứ:
Nếu có một người nên tâm niệm miệng nói: Nay chúng tăng tự tứ, tôi là Tỳ-kheo... tự tứ thanh tịnh, nói ba lần.
Pháp tăng lợi ích tự tứ:
Luật nói: Nếu có nhiều chúng Tỳ-kheo, kết an cư siêng năng hành đạo, được quả chứng tăng thượng. Các Tỳ-kheo nghĩ như vầy: nếu ngày nay chúng tôi tự tứ, lại phải dời đến chỗ khác, sợ không được vui như thế. Tỳ-kheo kia nên tác bạch tăng ích tự tứ, nên bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng ngày nay không tự tứ, đủ bốn tháng mới tự tứ, tác bạch như thế.
Tác bạch như thế rồi, đến mãn bốn tháng mới tự tứ.
Pháp thêm bớt tự tứ:
Luật nói: Nếu ngày tự tứ, nghe Tỳ-kheo chỗ khác đấu tranh, không hòa hợp muốn đến đây tự tứ. Tỳ-kheo kia nên làm hoặc hai hoặc ba bớt tự tứ. Nếu phương tiện làm như thế thì tốt. Nếu không thể, thì người kia nên tác bạch tăng thượng tự tứ, tác bạch như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho, tăng ngày nay không tự tứ, đến ngày mười lăm tháng trời tối mới tự tứ, tác bạch như thế. Tác bạch rồi thêm lên tự tứ.
Nếu Tỳ-kheo khách ở đến ngày mười lăm tháng trời sáng sau phải tự tứ.
Nếu Tỳ-kheo khách vẫn không đi, Tỳ-kheo cựu trụ nên như pháp như luật ép buộc hòa hợp tự tứ.
Pháp thọ Tỳ-kheo-ni tự tứ:
Bấy giờ, Tỳ-kheo tăng nhóm họp đủ. Vị nào không đến, thì dặn dò Tỳ-kheo-ni kia, ở trong thuyết tự tứ rồi, Thượng tọa ở trong tăng nói rằng:
Đại đức tăng chúng, không thấy chúng Tỳ-kheo ni có tội thấy, nghe, nghi để nêu, nói với chúng Tỳ-kheo-ni, nên như pháp tự tứ, cẩn thận chớ buông lung (sai ni lễ dưới chân tăng rồi trở về).
Pháp thọ ba y:
Theo luật Thập Tụng thì bạch rằng: Trưởng lão nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo..., đây là y Tăng-già-lê, đây là y cắt tiệt, bao nhiêu điều, dài bao nhiêu, rộng bao nhiêu (nói ba lần), thọ hai y dưới cũng như vậy.
Pháp xả ba y: Ứng phiên thọ chép:
Trưởng lão nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo...., đây là y Tăng-già-lê, đây là y cắt tiệt, bao nhiêu điều, dài bao nhiêu, rộng bao nhiêu, nói ba lần, xả hai y dưới cũng như vậy.
Pháp thọ ni-sư-đàn:
Nên nói: Trưởng lão nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo..., ni-sư-đàn này là y giúp thân, nói ba lần, y giúp thân khác thọ đồng, pháp này xả dịch là thọ, nên biết.
Pháp thọ bát:
Luật nói: Bát có hai loại: 1-Bằng sứ; 2-Bằng sắt. Mầu cũng có hai loại: 1-Màu đỏ; 2-Màu đen.
Loại lớn chứa ba thăng, loại nhỏ chưa một thăng rưỡi. Ở đây nên trì, nên tịnh thí. Luật Thập Tụng nói:
Trưởng lão nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo, thọ bát đa-la ứng lượng này, vì xả lượng lâu dài, nói ba lần, xả dịch là thọ, nên biết.
Pháp thọ thuốc phi thời:
Luật nói: cho uống tám thứ nước cốt trái cây:
1-Nước lê; 2-Nước quả diêm-phù; 3-Nước táo chua; 4-Nước mía ngọt; 5-Nước quả trưng; 6-Nước xảlâu-ca; 7-Nước quả ba-lầu-sư; 8-Nước quả nho.
Nếu không làm say người thì cho uống phi thời. Nếu say người thì không nên uống. Nếu uống thì đúng như pháp mà trị. Nên theo tịnh nhân tay nhận, kế đối Tỳ-kheo gia pháp rằng:
Bạch Trưởng lão nhất tâm niệm, tôi là Tỳ-kheo... bị duyên bệnh..., nước cốt trái cây phi thời..., vì uống phi thời, nay ở bên Trưởng lão nhận, nói ba lần, pháp thọ hai thứ thuốc khác cũng đồng với thuốc bảy ngày, nên nói: Vì uống bảy ngày chung cho ban đêm.
Suốt đời nên nói: Vì uống dài hạn chung cho ban đêm.
Thuốc bảy ngày là bơ, thuốc suốt đời là tất cả giấm chua v.v... để làm thức ăn.
Pháp chân thật thanh tịnh:
Nên nói:
- Bạch Đại đức nhất tâm niệm, tôi có y dư này chưa tác tịnh. Vì tác tịnh nên đưa cho Đại đức làm chân thật tịnh. Làm chân thật tịnh nên hỏi thí chủ sau đó được mặc. Loại bát, thuốc cũng giống như vậy.
Pháp xoay vần thanh tịnh:
Nên nói:
- Bạch Đại đức nhất tâm niệm, đây là y dư của tôi chưa tác tịnh. Vì tác tịnh nên đưa cho Đại đức, vì để xoay vần thanh tịnh. Người thọ tịnh kia nên nói: Trưởng lão nhất tâm niệm, ông có y dư nay chưa tác tịnh, nên đưa cho tôi tác tịnh, nay tôi nhận. Thọ rồi nói: Ông cúng dường cho ai? Người kia nên đáp: Cúng cho người tên...
Người thọ tịnh nói: Bạch trưởng lão nhất tâm niệm, đây là y chưa tác tịnh của ông, vì tác tịnh nên đưa cho tôi, nay tôi nhận nó. Thọ rồi nói: Ông cho ai? Y này tôi đã có, ông vì tôi khéo hộ trì, sử dụng tùy nhân duyên. Tác tịnh xoay vần, hoặc hỏi hoặc không hỏi, cho phép tùy ý, bát và thuốc đồng, việc thì khác.
Pháp thí nhiếp thời hiện tiền:
Luật nói: Từ nay về sau, không nên trong tất cả mùa xuân hạ đông mà xin y hạ. Lại không nên chỗ này an cư, chỗ khác nhận phần y hạ. Lại có Tỳ-kheo ở trú xứ khác kiết hạ an cư rồi, lại ở trú xứ khác, người ấy không biết nhận vật an cư ở trú xứ nào.
Phật bảo: Cho phép lấy vật ở trú xứ nào nhiều ngày. Nếu hai trú xứ bằng nhau thì cho phép mỗi trú xứ lấy một nửa. Lại nói: Chúng tăng được y hạ an cư, tăng phá làm hai bộ. Phật bảo: Nên đếm người bao nhiêu để chia, hoặc chưa được y hạ, hoặc được y hạ, và chưa được y hạ, tăng phá hai bộ cũng đếm người mà chia, đây đều là thí hiện tiền, đây là pháp chia và không chia.
Pháp nhiếp thí hiện tiền phi thời:
Bấy giờ, thành Vương-xá các Ưu-bà-tắc nghe các Tỳ-kheo được đàn-việt cúng y, liền sai người đem đến nhiều loại y tốt đẹp cúng dường các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không biết làm sao. Phật bảo cho chia. Các Tỳ-kheo không biết làm sao chia, Phật bảo phải đếm người bao nhiêu để chia. Hoặc mười người là mười phần, cho đến trăm người là trăm phần, tốt xấu xen nhau, phải chia ứng lượng không nên tự lấy, chia khiến người khác lấy, không nên tự ném thẻ, sai người không thấy ném thẻ. Đây là đếm người cũng không có pháp chia.
Pháp khi nhiếp tăng thí:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo chưa phân y hạ bèn bỏ đi. Sau đó, Tỳ-kheo chia y hạ, không dám lấy đi chia, các Tỳ-kheo không biết có thành chia hay không. Phật bảo thành chia, phải nên đợi nhau, cũng nên dặn dò người sau nhận phần y hạ. Luật nói: Nếu một Tỳ-kheo an cư, Đại đức được vật y hạ an cư, Tỳ-kheo kia nên tâm niệm nói: Đây là vật của tôi, người kia yết-ma pháp đối thú. Y cứ đồng với phi thời tăng thí, vì không khác nên không nêu ra.
Pháp nhiếp tăng phi thời nhiếp sai người chia vật:
Bấy giờ, có trú xứ tăng hiện tiền được chia y vật. Phật bảo cho chia. Lúc chia có một số Tỳ-kheo khách đến, chia y rất mệt, nên sai một người chia, người này phải đủ năm pháp như trên, nên tác bạch rằng:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho cho tăng sai Tỳ-kheo... làm người chia vật cho tăng, tác bạch như vậy rằng:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, tăng sai Tỳ-kheo... làm người chia vật cho tăng, trưởng lão nào bằng lòng tăng sai Tỳ-kheo... làm người chia vật cho tăng thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng sai Tỳ-kheo... làm người chia vật cho tăng rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Vì tăng mà chia cháo, chia tiểu thực; khư-xà-ni sai thỉnh chia trải đồ ngồi, chia đồ nằm, giặt y. Phân y đáng cho đáng lấy, sai Tỳ-kheo, sai Sa-di, sai tất cả, cũng giống như thế, có năm pháp chia cháo cho tăng bị đọa vào địa ngục như tên bắn. Nghĩa là có ái, v.v... Có năm pháp sinh lên cõi trời cũng nhanh như tên bắn. Nghĩa là không ái, v.v... cho đến sai Sa-di cũng như vậy.
Pháp chia chia y cho người:
Đã sai người rồi, thì nên phải giao vật phân phó như vầy.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, trú xứ này, hoặc y hoặc không phải y, nên chia cho tăng hiện tiền. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng nay cho Tỳ-kheo..., người kia phải cho tăng, tác bạch như thế.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, trú xứ này, hoặc y hoặc chẳng phải y, nên chia cho tăng hiện tiền. Nay Tăng cho Tỳ-kheo..., người ấy phải cho tăng. Trưởng lão nào bằng lòng ở trú xứ này, hoặc y hoặc chẳng phải y, nên chia cho tăng hiện tiền, tăng cho Tỳ-kheo..., người kia phải cho tăng thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo..., người ấy phải chia cho tăng rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Tác pháp này rồi, y theo người nhiều ít mà chia đồng cho Sa-di. Hoặc hòa hợp bình đẳng, nếu không hòa hợp thì hai phần cho một.
Hoặc không hòa hợp thì ba phần cho một. Hoặc không cho thì không nên chia cho người Tăng-già-lam, bốn phần cho một, hoặc không cho thì không nên chia.
Pháp bốn người nhiếp thẳng vật:
Nếu chỉ bốn phần thì không thành sai, không thành giao thẳng, làm pháp nhiếp, tác bạch như vậy.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, trú xứ này, hoặc y hoặc chẳng phải y nên chia cho tăng hiện tiền, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho nay chia cho tăng hiện tiền nầy y vật, tác bạch như thế.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, trú xứ này, hoặc y hoặc chẳng phải y nên chia cho tăng hiện tiền, nay chia cho tăng hiện tiền là y vật, Trưởng lão nào bằng lòng trú xứ này, hoặc y hoặc chẳng phải y nên chia cho tăng hiện tiền, nay chia cho tăng hiện tiền là y vật thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng nay chia cho tăng hiện tiền là y, vật rồi. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên thực hành như thế. Làm Tác yết-ma rồi, cách chia như trước.
Pháp đối thú nhiếp vật:
Hoặc có ba người, tất cả cùng nói ba lần thọ, nên nói như vầy: Bạch hai Trưởng lão nhớ nghĩ, trú xứ này, hoặc y hoặc chẳng phải y, nên chia cho tăng hiện tiền. Chỗ này không có tăng, đây là phần chúng ta. Hai người cũng vậy, cách chia như trước.
Pháp tâm niệm nhiếp vật:
Nếu có một người thì nên tâm nghĩ miệng nói: Trú xứ này, hoặc y hoặc chẳng phải y nên chia cho tăng hiện tiền, nơi chốn này không có tăng, đây là phần tôi, nói ba lần, cách chia như trước.
Pháp nhiếp hai bộ tăng được cúng thí:
Bấy giờ, có trú xứ khác, lúc hai bộ tăng được chia nhiều y vật. Tỳ-kheo tăng nhiều, Tỳ-kheo-ni ít, Phật nói: nên chia làm hai phần. Nếu không có Tỳ-kheo-ni thuần là Thức-xoa-ma na, cũng chia ra hai phần, và thuần là Sa-di-ni cũng chia ra hai phần. Hoặc không có Sa-di-ni, thì tăng nên chia. Nếu Tỳ-kheo ít, Tỳ-kheo-ni nhiều cũng chia làm hai phần. Hoặc không có Tỳ-kheo, thuần là Sa-di cũng chia làm hai phần. Hoặc không có Sa-di, Tỳ-kheo-ni nên chia ra hai phần, mỗi bên đến bản xứ, làm yết-ma chia đều ba phần. Bấy giờ tăng được cúng thí cũng vậy, cấp cho hai bộ hiện tiền thí, đều đến người để chia.
Pháp nhiếp vật của Tỳ-kheo qua đời:
Bấy giờ, các Tỳ-kheo chia cây trái, ruộng vườn của tăng, lại chia phòng riêng. Lại chia bình đồng, chậu đồng, búa rìu và vật khác. Lại chia võng giường, nệm gối. Lại chia nệm y lê-diên-đà-kỳ, la-kỳ, kỳ-la. Lại chia xe cộ, người giữ tăng-già-lam. Lại chia bình nước, chậu tắm, tích trượng, quạt. Lại chia bình sắt, bình làm bằng gỗ, hoặc bình sành, bình xứ, bình trúc. Phật bảo: Không nên chia, thuộc tăng bốn phương. Nệm chăn rộng ba khuỷu tay, dài năm khuỷu tay, nệm lông dài ba ngón tay, dao cạo, y, bát, đồ ngồi, ống đựng kim, rương chứa y, bình cụ-dạ-la, nên chia cho tăng hiện tiền, trước làm thẻ này, sau đó tác pháp.
Pháp người săn sóc bệnh đối tăng xả vật:
Bấy giờ, người săn sóc bệnh đem vật ở trong tăng, đầy đủ oai nghi, xả rằng:
-Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo tên..., nếu chết chỗ khác thì nói người kia qua đời ở trụ xứ, tất cả y bát, đồ ngồi, ống đựng kim, rương đựng y. Đây tùy hiện tác pháp có sáu vật. Nếu có thiếu thì nên bỏ. Lại nếu loại vật nhiều ở đây nói nhiếp. Không hết nên nói hoặc y, hoặc chẳng phải y. Nên chia cho hiện tiền, nói ba lần.
Pháp thưởng vật cho người săn sóc bệnh:
Luật nói: Tăng hỏi người săn sóc bệnh rằng: Người bệnh có dặn dò không? Ai mắc nợ vật của người bệnh? Người bệnh mắc nợ vật của ai? Có năm pháp nên cho người săn sóc bệnh đồ vật.
1. Biết món nào người bệnh ăn được hoặc không ăn được, ăn được thì cho ăn.
2. Không chê người bệnh nghèo, đại tiểu tiện, ói mửa.
3. Có tâm thương xót không vì y phục, thức ăn.
4. Có thể lo liệu thuốc thang, cho đến hoặc chết.
5. Có thể nói pháp cho người bệnh, làm cho người bệnh vui mừng, thân thêm lớn pháp lành. Người có năm pháp này nên nhận y, vật của người bệnh. Vật như y bát, v.v... tùy hiện có thì thưởng, nếu không thì không được lấy, đem vật khác thay thế nên thưởng đúng như pháp.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo... qua đời, tất cả y bát, đồ ngồi, ống đựng kim, rương đựng y, nay chia cho hiện tiền tăng đây. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng nay cho Tỳ-kheo... săn sóc bệnh, tác bạch như thế.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo... qua đời, tất cả y bát, đồ ngồi, ống đựng kim, rương đựng y, nên chia cho tăng hiện tiền, nay tăng cho người săn sóc Tỳ-kheo bệnh, Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho người săn sóc Tỳ-kheo bệnh, y bát, đồ ngồi, ống đựng kim, rương đựng y thì im lặng, ai không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng cho y bát, đồ ngồi, ống đựng kim, v.v... cho người đã săn sóc Tỳ-kheo bệnh rồi. Tăng bằng lòng im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Pháp sai người chia y:
Đủ đức như trước nên sai như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng sai Tỳ-kheo... làm người chia vật cho tăng, tác bạch như thế.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, tăng sai Tỳ-kheo... làm người chia vật cho tăng thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng sai Tỳ-kheo... làm người chia vật cho tăng rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên thực hành như thế.
Pháp giao vật chia y cho người:
Sai rồi nên giao như vầy:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo... qua đời, tất cả hoặc y hoặc chẳng phải y nên chia cho tăng hiện tiền, nay tăng cho Tỳ-kheo..., Tỳ-kheo đó phải đưa cho tăng. Trưởng lão nào bằng lòng Tỳ-kheo... qua đời, tất cả hoặc y hoặc chẳng phải y nên chia cho tăng hiện tiền, tăng cho Tỳ-kheo..., Tỳ-kheo đó phải đưa cho tăng thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì nói. Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...., Tỳ-kheo đó phải đưa cho tăng rồi. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên thực hành như thế (cách chia như trước).
Pháp vật nhiếp thẳng bốn người:
Vì không thành sai, nên chia thẳng rằng:
- Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo... qua đời, tất cả hoặc y hoặc chẳng phải y nên chia cho tăng hiện tiền. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng cho chia cho tăng hiện tiền y vật nầy, tác bạch như thế.
- Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo... qua đời, tất cả hoặc y hoặc chẳng phải y nên chia cho tăng hiện tiền, nay chia cho tăng hiện tiền là y vật. Trưởng lão nào bằng lòng, cho Tỳ-kheo... qua đời, tất cả hoặc y hoặc chẳng phải y nay chia cho tăng hiện tiền y vật nầy thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng nay chia cho tăng hiện tiền y vật nầy rồi. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên thực hành như thế. Làm yết-ma rồi, cách chia như trước, có người săn sóc bệnh thì nên miệng hòa mà thưởng.
Pháp đối thú nhiếp vật:
Nếu có ba người, tất cả đều ba lần nói thọ, nên nói như vậy:
Bạch hai trưởng lão nhớ nghĩ: Tỳ-kheo... qua đời, tất cả hoặc y hoặc chẳng phải y nay chia cho tăng hiện tiền. Chỗ này không có tăng, đây là phần của chúng tôi, nói ba lần, hai người cũng vậy, cách chia như trước, có người săn sóc bệnh miệng cũng hòa mà thưởng.
Pháp tâm niệm nhiếp vật:
Nếu có một người thì nên tâm niệm nói: Tỳ-kheo... qua đời, tất cả hoặc y hoặc chẳng phải y nay chia cho tăng hiện tiền. Chỗ này không có tăng, đây là phần của chúng tôi, ba lần nói, cách chia như trước.
Pháp không có trú xứ nhiếp vật:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo đến chỗ không có Tỳ-kheo ở, đến rồi thì qua đời, không biết ai được chia y bát này.
Bèn Bạch lên Đức Phật! Phật bảo chỗ kia nếu có Ưubà-tắc đáng tin ưa hoặc người giữ vườn, thì người kia được thưởng lấy. Nếu có người trong năm chúng xuất gia, nên cho người đến trước. Nếu không có người đến nên đưa cho Tăng-già-lam gần đó.
(xuất xứ từ Luật Tứ Phần)
Pháp bạch thọ y công đức:
Luật nói: Nếu được vải mới, y đàn-việt cúng dường, y phẩn tảo, hoặc y mới, hoặc y cũ. Vật mới đã tác tịnh, hoặc đã giặt, giặt rồi may và tác tịnh. Y đó chẳng phải do tà mạng mà được, chẳng phải do hiện tướng mà được, chẳng phải do gợi ý mà được. Y đó chẳng phải để cách đêm, chẳng phải y do xả đọa rồi tác tịnh. Y đúng pháp, may viền bốn bên, năm điều có mười bức, nếu hơn cũng được thọ. Tự mình giặt, nhuộm, trải ra để cắt may thành mười khoảng cách. May xong, Tỳ-kheo nên ở trước tăng bạch rằng:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, hôm nay chúng tăng thọ y công đức, nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, tăng chấp thuận. Chúng tăng hòa hợp thọ y công đức, đây là lời tác bạch.
Pháp sai người giữ y công đức:
Luật nói: Tăng nên hỏi: “Vị nào giữ được y công đức?” Nếu có người nói: “Tôi giữ được”. Nên bạch nhị yết-ma để sai người nầy giữ y công đức, bạch thế này:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, xin tăng chấp thuận, cho tăng sai Tỳ-kheo tên......, vì tăng giữ y công đức. Đây là lời tác bạch.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng chấp thuận, tăng sai Tỳ-kheo......, vì tăng giữ y công đức, trưởng lão nào bằng lòng tăng sai Tỳ-kheo......, vì tăng giữ y công đức thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng sai Tỳ-kheo......, vì tăng giữ y công đức rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp giao phó y công đức cho người giữ y:
Yết-ma sai Tỳ-kheo giữ y công đức rồi, nên bạch nhị giao y cho Tỳ-kheo đó, tác bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, trú xứ này tăng được y vật để chia, nên chia cho tăng hiện tiền. Nếu thời giờ của tăng đã đến, xin tăng chấp thuận, cho tăng giao y này cho Tỳ-kheo...... Tỳ-kheo đó nên giữ y này, vì tăng nhận làm y công đức, giữ gìn ở trú xứ này, đây là lời tác bạch.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, trú xứ này tăng được y vật để chia, nên chia cho tăng hiện tiền. Nay đem y này giao cho Tỳ-kheo...... Tỳ-kheo đó nên giữ y này, vì tăng nhận làm y công đức, giữ gìn ở trú xứ này. Trưởng lão nào bằng lòng tăng giao y này cho Tỳ-kheo...... nhận làm y công đức thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng giao y cho Tỳ-kheo...... rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp Tỳ-kheo giữ y công đức thọ ở trước tăng:
Vị Tỳ-kheo giữ y nên đứng dậy cầm y đến chỗ các Tỳ-kheo đưa tay đụng y, trình bày rõ điều tướng của y, rồi bạch như sau:
Y này chúng tăng sẽ thọ làm y công đức; y này nay chúng tăng thọ làm y công đức; y này chúng tăng nay đã thọ làm y công đức rồi (nói ba lần).
Các Tỳ-kheo kia nên nói như vầy:
Người thọ đã khéo thọ, trong đây các công đức có được đều có phần của ta.
Vị giữ y nên trả lời: Được! Như vậy thứ lớp cho đến vị hạ tọa.
Thọ y rồi được hưởng năm điều lợi: 1-Được chứa y dư; 2-Được ngủ lìa y; 3-Được ăn riêng chúng; 4-Được ăn nhiều lần; 5-Vào xóm làng không dặn các Tỳ-kheo khác.
Pháp sai người may y công đức:
Luật nói: Nếu được vải chưa may thành y, thì tăng nên bạch nhị yết-ma sai người may y công đức, nên bạch sai như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, xin tăng chấp thuận, cho tăng sai Tỳ-kheo...... may y công đức cho tăng. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tăng sai Tỳ-kheo...... may y công đức cho tăng. Trưởng lão nào bằng lòng thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng sai Tỳ-kheo...... may y công đức cho tăng rồi, tăng đã bằng lòng vì im lặng, việc đó như vậy mà thọ trì. (Tác pháp như trước)
Pháp xả y công đức:
Nhóm Tỳ-kheo sáu vị không xả y công đức, vì ý muốn được hưởng năm điều lợi. Phật bảo: “Này các thầy Tỳ-kheo! Không nên có ý nghĩ như vậy”. Mùa đông bốn tháng đã xong, tăng nên làm lễ xả y công đức, nên tác bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, nay ngày chúng tăng xả y công đức. Nếu thời giờ của tăng đã đến, xin tăng chấp thuận. Nay Tăng hòa hợp xả y công đức. Tác bạch như thế.
Nếu không xả, quá giới hạn của y công đức đã quy định thì phạm đột-cát-la. Có tám nhân duyên xả y công đức: 1-Đi; 2-Xong; 3-Chưa xong; 4-Mất; 5-Không còn hy vọng; 6-Nghe; 7-Ra ngoài giới; 8-Cùng ra ngoài giới.
Pháp trừ tội Ba-la-di:
Theo luật, sám hối có năm loại: Có trường hợp phạm tội tự tâm niệm sám hối; có trường hợp phạm tội nhẹ theo người khác sám hối; có trường hợp phạm tội vừa và nặng cũng theo người khác sám hối; hoặc có trường hợp phạm tội không thể sám hối. Ở đây không thể sám hối, nghĩa là tội Ba-la-di. Phạm tội Ba-la-di không thể sám hối. Được tác pháp có ba: 1-Phạm mà che giấu cho yết-ma diệt tẫn; 2-Phạm mà không che giấu cho yết-ma suốt đời học hối; 3-Người học hối phạm lần nữa cho yết-ma diệt tẫn.
Pháp diệt tẫn cho người phạm tội mà che giấu:
Nếu Tỳ-kheo phạm Ba-la-di mà che giấu, thì tăng cho làm pháp nêu tội, tác pháp ức niệm cho tội lỗi, nên tác bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... nầy, phạm tội Ba-la-di, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng chấp thuận, nay tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma diệt tẫn tội Ba-la-di, không được ở chung, không được làm việc chung, tác bạch như thế. Đại đức tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo... nầy phạm tội Ba-la-di, nay tăng cho Tỳ-kheo phạm tội Ba-la-di nầy yết-ma diệt tẩn tội Ba-la-di... không được ở chung, không được làm việc chung, các trưởng lão nào bằng lòng thì im lặng, ai không bằng lòng thì nói. Đây là yết-ma lần thứ nhất (lần thứ hai, lần thứ ba cũng vậy).
Tăng đã bằng lòng vì im lặng, việc đó như vậy mà thọ trì.
Pháp suốt đời học hối cho người phạm tội không che giấu:
Luật nói: Nếu Tỳ-kheo chưa phạm Ba-la-di thì trọn đời không được phạm. Nếu Tỳ-kheo đã phạm hoàn toàn không có tâm che giấu, như pháp sám hối thì cho phép tăng cho Tỳ-kheo đó yết-ma giới Ba-la-di. Tỳ-kheo đó ở trong tăng, oai nghi ngay ngắn, tác bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, con là Tỳ-kheo...... phạm tội Ba-la-di, hoàn toàn không có tâm che giấu. Nay con đến tăng xin giới Ba-la-di. Xin tăng cho con là Tỳ-kheo...... giới Ba-la-di. Xin thương xót con (nói ba lần).
Tăng nên tác pháp cho như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo tên...... này, phạm tội Ba-la-di... hoàn toàn không có tâm che giấu, nay đến tăng xin giới Ba-la-di. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng chấp thuận, nay tăng cho Tỳ-kheo...... giới Ba-la-di. Đây là lời tác bạch.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này, phạm tội Ba-la-di... hoàn toàn không có tâm che giấu, nay đến tăng xin giới Ba-la-di. Nay Tăng cho Tỳ-kheo...... giới Ba-la-di. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... giới Ba-la-di thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... giới Ba-la-di rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Tỳ-kheo kia được giới Ba-la-di rồi, phải suốt đời mọi việc đều thuận theo mà thực hành. Pháp thuận theo thực hành: Không được truyền giới cụ túc cho người; không được nhận y chỉ; không được nuôi Sa-di; hoặc sai ai đi giáo giới Tỳ-kheo ni; không được nhận lời sai, nếu đã sai đi thì không nên đi giáo giới; không được thuyết giới cho tăng; không nên ở trong tăng hỏi đáp Tỳ-ni; không được làm Tri sự cho tăng, không được làm người xử đoán việc tăng; không được nhận làm người đại diện cho tăng; không được sáng sớm vào xóm làng chiều tối mới về; nên gần gũi các Tỳ-kheo; không được gần gũi ngoại đạo, người tại gia; nên thuận theo pháp Tỳ-kheo; không được nói chuyện thế tục; không được ở trong chúng tụng luật, nếu không người có khả năng tụng thì cho phép tụng; không được phạm tội này lại; không được phạm các tội tương tự khác và tội tùng sinh, hoặc tội trọng như vậy; không được ngăn tăng yết-ma và làm người yết-ma; không được nhận đồ ngồi, nước rửa chân, lau giày, guốc, xoa chà thân thể và lễ bái, đưa rước, chào hỏi của Tỳ-kheo thanh tịnh; không nhận y bát do Tỳ-kheo thanh tịnh đưa; không được nêu tội Tỳ-kheo thanh tịnh, hoặc làm pháp nhớ nghĩ, làm pháp tự ngôn trị; không nên làm chứng việc của người khác; không được ngăn Tỳ-kheo thanh tịnh thuyết giới, tự tứ; không được tranh luận với Tỳ-kheo thanh tịnh. Tuy cho Tỳ-kheo đó giới Ba-la-di, nhưng lúc tăng thuyết giới và yết-ma, người đó dù đến hay không, chúng tăng cũng không phạm lỗi.
Pháp diệt tẫn cho người học hối phạm tội lần nữa: Các Tỳ-kheo nói: Nếu cho Tỳ-kheo giới Ba-la-di rồi, mà họ phạm lại lần nữa, thì được cho giới Ba-la-di nữa không? Phật dạy: Không được như vậy, phải làm yết-ma diệt tẫn và nêu tội, tác bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... phạm tội Ba-la-di hoàn toàn không có tâm che giấu, đã đến tăng xin giới Ba-la-di. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... giới Ba-la-di. Tỳ-kheo này trong thời gian học hối lại phạm Ba-la-di lần nữa. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng chấp thuận. (522) nay Tăng cho Tỳ-kheo...... lại phạm tội Ba-la-di yết-ma diệt tẫn, không được ở chung, không làm việc chung. Đây là lời tác bạch.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội Ba-la-di hoàn toàn không có tâm che giấu, đã đến tăng xin giới Ba-la-di, tăng đã cho Tỳ-kheo...... giới Ba-la-di. Tỳ-kheo này trong thời gian học hối, lại phạm tội Ba-la-di, nay Tăng cho Tỳ-kheo...... lại phạm tội Ba-la-di yết-ma diệt tẫn, không được ở chung, không làm việc chung. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... lại phạm tội Ba-la-di yết-ma diệt tẫn, không được ở chung, không làm việc chung thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì nói (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... lại phạm giới Ba-la-di yết-ma diệt tẫn, không được ở chung, làm việc chung rồi. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp trừ tội tăng tàn:
Yết-ma có năm: 1-Che giấu; 2-Trong lúc thực hành lại phạm che giấu bản nhật trị; 3-Ma-na-đỏa; 4-Trong lúc thực hành lại phạm, thực hành Ma-na-đỏa bản nhật trị; 5-Xuất tội. Nhưng người che giấu có hai hạng: 1-Được phép yết-ma phạm tội lại, hoặc yết-ma thứ tư, thứ năm; 2-Được phép yết-ma không phạm tội lại. Có ba cách phát lồ, cũng có hai hạng: 1-Được phép yết-ma phạm tội lại có ba; 2-Được phép yết-ma không phạm tội lại, có hai.
Pháp cho tội che giấu:
Luật nói: Nếu Tỳ-kheo phạm tội tăng tàn, phạm Ba-la-di, Thâu-lan-già cho đến ác thuyết mà che giấu, hoặc không che giấu. Nếu Tỳ-kheo phạm tội tăng tàn, hoặc nếu phạm tăng tàn có ý che giấu, nên dạy làm pháp sám hối đột-cát-la, rồi làm pháp cho tội che giấu. Phạm Ba-dật-đề cho đến ác thuyết cũng giống như vậy. Nếu phạm tăng tàn, không nhớ số lần phạm, không nhớ số ngày phạm, thì nên cho sám hối thanh tịnh, rồi đến yết-ma che giấu. Hoặc nhớ số lần phạm, không nhớ số ngày phạm, cũng cho sám hối thanh tịnh, rồi đến yết-ma che giấu. Hoặc nhớ số ngày phạm, không nhớ số lần phạm, nên tính số ngày cho tội che giấu, nghi không nghi, biết không biết cũng giống như vậy. Tỳ-kheo ấy nên ở trong tăng oai nghi ngay ngắn, tác bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn mà che giấu (bao nhiêu ngày, nên tùy theo năm tháng, số ngày che giấu lâu hay mau mà nói, về sau đều giống như vậy).
Tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày, nay đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Xin tăng cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma che giấu (bao nhiêu) ngày. Xin thương xót cho (nói ba lần, tăng nên làm pháp cho như sau).
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này, phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày, nay đến tăng xin yết-ma che giấu, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma che giấu tàng (bao nhiêu) ngày, tác bạch như thế.
Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này, phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày, nay đến tăng xin yết-ma che giấu. Tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp bạch tăng thực hành che giấu.
Vị kia được pháp rồi, muốn thực hành ngay, nên ở trong tăng oai nghi ngay ngắn tác bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Con là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã xin tăng cho yết-ma che giấu. Tăng đã cho tôi Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Nay Con hành pháp che giấu. Xin tăng nhớ cho việc này (nói ba lần).
Vị kia bạch tăng thực hành che giấu rồi, thực hành đủ ba mươi lăm việc, ba mươi lăm việc như đã nêu trên. Vị này đến chỗ Tỳ-kheo thanh tịnh, mỗi việc đều đúng như pháp đệ tử đối với Hòa-thượng, pháp làm đệ tử có tám việc mất đêm: 1-Đến chùa khác không bạch; 2-Có Tỳ-kheo khách đến không bạch; 3-Có việc ra ngoài giới không bạch; 4-Không bạch với Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đi bách bộ trong chùa; 5-có bạch không nhờ người tin cậy bạch; 6-Hai, ba vị ngủ chung một nhà; 7-Ở nơi không có Tỳ-kheo; 8-Mỗi nửa tháng tăng thuyết giới không bạch. Đây là tám việc mất đêm, hễ trái một việc thì mất một đêm, phạm tội đột-cát-la.
Pháp bạch nửa tháng thuyết giới:
Phật dạy: Khi nửa tháng thuyết giới, người kia đến trong tăng, oai nghi ngay ngắn bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Con đã đến tăng xin yết-ma che giấu, tăng đã cho tôi Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... đã thực hành được (bao nhiêu) ngày, còn (bao nhiêu) ngày chưa thực hành. Xin bạch Đại đức tăng biết cho, con thực hành tội che giấu.
Đến chùa khác v.v... pháp bạch cũng giống, nên biết như vậy.
Pháp bạch đình chỉ pháp hành:
Nếu đại chúng khó nhóm họp, hoặc không muốn thực hành, hay người kia yếu đuối, thường hổ thẹn, nên đến chỗ Tỳ-kheo thanh tịnh, oai nghi ngay ngắn bạch rằng:
Bạch Đại đức Thượng tọa, tôi là Tỳ-kheo...... ngày nay xin bỏ lời dạy, không làm theo pháp hành.
Nếu khi muốn thực hành, nên đến chỗ một Tỳ-kheo thanh tịnh, oai nghi nghiêm chỉnh bạch rằng:
- Bạch Đại đức Thượng tọa, tôi là Tỳ-kheo...... ngày nay sẽ làm theo lời dạy, thực hành pháp hành.
Nói như vậy rồi, như trước mà làm.
Pháp pháp hành đã xong bạch Tăng đình chỉ:
Nếu hành pháp (thực hành tội che giấu) xong, nên bạch với tăng.
Vị kia nên đến trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh bạch rằng:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội che giấu, che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội che giấu...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Con đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu, Tăng đã cho con Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Nay con thực hành pháp che giấu đã xong, xin tăng nhớ cho con (nói ba lần).
Pháp cho người hoại che giấu bản nhật trị:
Trong thời gian Tỳ-kheo kia thực hành che giấu, lại phạm tăng tàn. Phật dạy: Cho tăng vì người kia bạch bốn lần yết-ma bản nhật trị. Đây là trị chung cả tội mới và tội cũ. Vị kia nên đến trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, tác bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho tôi Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... trong thời gian thực hành che giấu, lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, khoảng giữa, lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị.
(Nếu phạm lại tội mới không che giấu, thì chỉ xin cho tội cũ bản nhật trị, và người cho nên biết việc đó).
Xin tăng cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, khoảng giữa, phạm lại che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị, xin thương xót con.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này trong thời gian thực hành che giấu, lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, ở khoảng giữa phạm lại tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng chấp thuận, tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, ở giữa lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Đây là lời tác bạch.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo đó đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này trong thời gian thực hành che giấu, lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Nay đến tăng xin yết-ma phạm tội trước, ở khoảng giữa lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, ở khoảng giữa lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, ở khoảng giữa lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, ở khoảng giữa lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị rồi. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Nếu phạm lại rồi, lại phạm nữa, thì cho pháp bạch y theo như trước, tùy theo việc mà trình bày cho đầy đủ.
Pháp cho người không hoại che giấu pháp Ma-na-đỏa:
Nhưng Ma-na-đỏa có hai: 1-Không hoại pháp che giấu; 2-Hoại pháp che giấu. Vị kia không hoại pháp che giấu. Tỳ-kheo đó thực hành che giấu xong. Phật dạy: Tăng nên cho thực hành sáu đêm Ma-na-đỏa, vị đó nên ở trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, tác bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, con là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Con là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Con đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... thực hành tội che giấu xong, nay đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Xin tăng cho con là Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa, xin thương xót cho con (nói ba lần).
Tăng nên cho pháp như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này thực hành che giấu xong, nay đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu, tăng đã cho Tỳ-kheo...... này yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này thực hành che giấu xong, nay đến xin tăng sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng cho Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa. Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần). Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp bạch tăng thực hành Ma-na-đỏa:
Tỳ-kheo kia được pháp rồi, muốn thực hành nên bạch với tăng. Nhưng Ma-na-đỏa bạch chung có bốn: 1-Pháp bạch phạm tăng tàn che giấu không hoại; 2-Pháp bạch phạm tăng tàn che giấu bị hoại; 3-Pháp bạch phạm tăng tàn, không che giấu không hoại, sáu đêm (Ma-na-đỏa; 4-Pháp bạch phạm tăng tàn, không che giấu bị hoại, sáu đêm Ma-na-đỏa.
Pháp bạch phạm tăng tàn che giấu không hoại:
Tỳ-kheo phạm tội nên đến trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, ba-ch rằng:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... thực hành che giấu xong. Đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa. Nay tôi thực hành pháp Ma-na-đỏa, xin tăng thương xót con (nói ba lần).
Phật cho phép Tỳ-kheo thực hành Ma-na-đỏa, cũng thực hành ba mươi lăm việc như trên, mỗi việc đều như pháp thực hành che giấu. Còn các lời bạch khác tùy theo việc mà nêu.
Pháp bạch trong tăng mỗi ngày:
Tỳ-kheo thực hành Ma-na-đỏa được ngủ trong tăng, bạch tăng mỗi ngày, lúc bạch nên ở trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, bạch rằng:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Con Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... thực hành che giấu xong, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa. Tôi là Tỳ-kheo...... thực hành Ma-na-đỏa, đã thực hành được (bao nhiêu) ngày, còn (bao nhiêu) ngày chưa thực hành.-Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, biết cho con thực hành Ma-na-đỏa.
Nếu qua kỳ thuyết giới và đến các chùa khác v.v... lời bạch giống như trước. Lại có các duyên như: chúng khó nhó họp, thì pháp xả tội và pháp thực hành cũng giống như trước.
Pháp bạch thực hành sáu đêm Ma-na-đỏa đã xong:
Nếu Tỳ-kheo phạm tội, thực hành sáu đêm Ma-na-đỏa xong, nên thưa với tăng, đến trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, bạch rằng:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... thực hành che giấu xong, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa. Nay tôi thực hành Ma-na-đỏa xong, xin tăng thương xót tôi (nói ba lần).
Cho người hoại che giấu pháp, Ma-na-đỏa:
Tỳ-kheo kia đến trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... trong lúc thực hành tội che giấu, lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trung gian lại phạm, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tôi là Tỳ-kheo...... thực hành yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Nay đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Xin tăng cho tôi là Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa, xin tăng thương xót cho (nói ba lần).
Tăng nên cho pháp, tác bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này yết-ma theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này trong thời gian thực hành che giấu, lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn..... che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tăng cũng cho Tỳ-kheo này yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày, che giấu bản nhật trị, nay đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này trong lúc thực hành che giấu, lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn..... che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tăng cũng cho Tỳ-kheo....... này yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tỳ-kheo...... này thực hành yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị xong. Nay đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng cho Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa. Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
(Cách bạch các pháp hành đều giống như cách tác pháp ở trước, chỉ cần tùy theo việc mà nêu).
Pháp cho hoại che giấu và hoại Ma-na-đỏa:
Bản nhật trị có hai: 1-Hoại che giấu và hoại Ma-na-đỏa; 2-Không hoại che giấu, hoại sáu đêm Ma-na-đỏa. Ở đây hợp cả cũ và mới làm pháp trị. Người kia hoại cả hai, nên ở trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng (524) xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... trong lúc thực hành che giấu, lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tăng cũng cho con là Tỳ-kheo....... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị xong, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa, tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa. Tôi là Tỳ-kheo...... trong lúc thực hành Ma-na-đỏa, lại phạm tội tăng tàn không che giấu.
(Trong đây y cứ theo người phạm lại không che giấu mà tác pháp, sau đều giống như ở đây, người phạm lại che giấu cũng trị phạt chung, nên trị y theo đây).
Nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị, xin thương xót tôi (nói ba lần).
Tăng nên cho pháp như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu, tăng đã cho Tỳ-kheo...... này yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... nay trong lúc thực hành che giấu, lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày, cũng đến tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn..... che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tăng cũng cho Tỳ-kheo....... này yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tỳ-kheo...... này thực hành yết-ma phạm tội ở trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị xong. Đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo...... trong lúc thực hành Ma-na-đỏa, lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu. Nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này trong lúc thực hành che giấu, lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn..... che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tăng cũng cho Tỳ-kheo....... này yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tỳ-kheo...... này thực hành yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị xong, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo...... nay trong lúc thực hành Ma-na-đỏa, lại phạm tội tăng tàn không che giấu. Nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo...... này yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị rồi. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
(Cách bạch các hành pháp cũng giống như trước).
Pháp cho không hoại che giấu, hoại sáu đêm Ma-na-đỏa:
Người kia đến trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu, tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... thực hành che giấu xong, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa. Tôi là Tỳ-kheo...... trong lúc thực hành Ma-na-đỏa, lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Xin tăng cho tôi là Tỳ-kheo....... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Xin thương xót tôi (nói ba lần).
Tăng nên cho pháp như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... nay thực hành che giấu xong, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo...... trong thời gian thực hành Ma-na-đỏa, lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. (Đây là lời tác bạch).
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu, tăng đã cho Tỳ-kheo...... này yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này thực hành che giấu xong, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo...... này trong lúc thực hành Ma-na-đỏa, lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu. Nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tăng cho Tỳ-kheo...... này yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm (525) Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị rồi. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
(Cách bạch các hành pháp cũng như trước).
Pháp xuất tội cho hoại che giấu và hoại sáu đêm Ma-na-đỏa:
Pháp xuất tội này có bốn: 1-Pháp hoại che giấu, hoại sáu đêm Ma-na-đỏa; 2-Pháp hoại che giấu, không hoại sáu đêm Ma-na-đỏa; 3-Pháp không hoại che giấu, hoại sáu đêm Ma-na-đỏa; 4-Pháp không hoại che giấu và Ma-na-đỏa.
Người kia hoại cả hai, nên ở trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho con Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... trong thời gian thực hành tội che giấu, lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày, cũng đến tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tăng cũng cho tôi là Tỳ-kheo....... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tôi là Tỳ-kheo....... thực hành yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị xong, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa. Tôi là Tỳ-kheo...... trong lúc thực hành Ma-na-đỏa, lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tăng cũng cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tôi là Tỳ-kheo...... thực hành yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị xong. Nay đến trong tăng xin yết-ma xả tội, xin tăng cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma xả tội. Xin thương xót cho tôi (nói ba lần).
Tăng nên cho pháp như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu, tăng đã cho Tỳ-kheo...... này yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... nay trong lúc thực hành che giấu, lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tăng cũng cho Tỳ-kheo....... này yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tỳ-kheo...... này thực hành yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị xong, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo...... này trong lúc thực hành Ma-na-đỏa, lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tăng cũng cho tôi là Tỳ-kheo...... này yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tôi là Tỳ-kheo...... này thực hành yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị xong. Nay đến trong tăng xin yết-ma xả tội, nếu thời giờ của chúng tăng đã đến, tăng bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo...... xả tội. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này trong lúc thực hành tội che giấu, lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tăng cũng cho Tỳ-kheo....... này yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn, che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị. Tỳ-kheo...... này thực hành yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày và che giấu bản nhật trị xong, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo...... này trong lúc thực hành Ma-na-đỏa lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu; cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tỳ-kheo...... này thực hành yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị xong. Nay đến trong tăng xin yết-ma xả tội, tăng cho Tỳ-kheo...... xả tội. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... xả tội thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... xả tội rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
(Pháp vị thứ hai xả tội cũng y theo đây, nên biết).
Pháp cho không hoại che giấu và sáu đêm Ma-na-đỏa:
Người kia đến trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tôi là Tỳ-kheo...... thực hành tội che giấu xong, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa. Tôi là Tỳ-kheo...... thực hành sáu đêm Ma-na-đỏa xong. Nay đến trong tăng xin yết-ma xả tội, xin tăng cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma xả tội. Xin thương xót cho tôi (nói ba lần).
Tăng nên cho pháp như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu, tăng đã cho Tỳ-kheo...... này yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này thực hành che giấu xong, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo...... này thực hành Ma-na-đỏa xong. Nay đến trong tăng xin yết-ma xả tội, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... xả tội. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Đã đến trong tăng xin yết-ma che giấu. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này yết-ma tùy theo che giấu (bao nhiêu) ngày. Tỳ-kheo...... này thực hành che giấu xong, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo...... này thực hành Ma-na-đỏa xong. Nay đến trong tăng xin yết-ma xả tội, tăng cho Tỳ-kheo...... xả tội. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... xả tội thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì nói (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... xả (526) tội rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp cho phạm tăng tàn không che giấu, pháp Ma-na-đỏa:
Lúc bấy giờ, có Tỳ-kheo phạm tội tăng tàn không che giấu. Phật dạy: Tăng bạch bốn lần yết-ma cho Tỳ-kheo kia sáu đêm Ma-na-đỏa, người kia đến trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... không che giấu. Nay đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Xin tăng cho tôi là Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa. Xin tăng thương xót tôi (nói ba lần). Tăng nên cho pháp như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... không che giấu, nay đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa, nếu thời giờ làm việc của tăng đã đến, tăng bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... không che giấu, nay đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng cho Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... sáu đêm Ma-na-đỏa xong.
Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
(Cách bạch các pháp hành cũng giống như trước).
Pháp cho Ma-na-đỏa bản nhật trị:
Tỳ-kheo kia trong thời gian thực hành Ma-na-đỏa lại phạm tội. Phật dạy: Tăng bạch bốn lần yết-ma cho người kia Ma-na-đỏa bản nhật trị. Theo vàn chỉ nói lại phạm, không kể che giấu, không che giấu đều cho pháp bản nhật trị. Tức là tội mới, tội cũ nói riêng. Nay y cứ theo lại phạm không che giấu, tội mới tôi cũ nói chung. Người kia đến trong tăng, oai nghi đầy đủ, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... không che giấu, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa, tôi là Tỳ-kheo...... thực hành Ma-na-đỏa, lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu. Nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Xin tăng cho con yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và
Ma-na-đỏa bản nhật trị. Xin thương xót tôi (nói ba lần).
Tăng nên cho pháp như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... không che giấu, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo...... này trong lúc thực hành Ma-na-đỏa lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... không che giấu, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo...... này trong lúc thực hành Ma-na-đỏa lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị rồi. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
(Cách bạch các pháp hành đều giống ở trên).
Pháp cho hoại Ma-na-đỏa xả tội:
Ở đây xả tội có hai: (1)-Hoại pháp sáu đêm; (2)-Không hoại pháp sáu đêm ma-na-đỏa.
Tỳ-kheo hoại pháp kia nên đến trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội tăng tàn...... không che giấu. Đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tôi là Tỳ-kheo...... trong lúc thực hành Ma-na-đỏa lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tăng cũng cho tôi là Tỳ-kheo...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tôi là Tỳ-kheo...... thực hành yết-ma phạm lại tội tăng tàn...... không che giấu, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm (ý hỷ) Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị xong. Nay đến trong tăng xin yết-ma xả tội, xin thương xót tôi (nói ba lần).
Tăng nên cho pháp:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... không che giấu. Đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo...... này trong lúc thực hành Ma-na-đỏa lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tăng cũng cho Tỳ-kheo...... này yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tỳ-kheo...... này thực hành yết-ma lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị xong. Nay đến trong tăng xin yết-ma xả tội, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... xả tội. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội tăng tàn...... không che giấu, đã đến trong tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo...... này trong lúc thực hành Ma-na-đỏa lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tăng cũng cho Tỳ-kheo...... này yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tỳ-kheo...... này thực hành yết-ma lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, cũng đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, sáu đêm Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị xong. Nay đến trong tăng xin yết-ma xả tội, tăng cho Tỳ-kheo...... xả tội. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... xả tội thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... xả tội rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
(Không hoại Ma-na-đỏa, pháp xả tội cũng dựa theo đây nên biết như vậy).
Pháp cho Tỳ-kheo ni nửa tháng Ma-na-đỏa:
Tỳ-kheo-ni phạm tội tăng tàn nên trong hai bộ tăng đủ bốn mươi vị, nửa tháng thực hành Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo ni kia nên đến trong tăng quỳ xuống, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, con Tỳ-kheo-ni...... phạm tội tăng tàn...... Nay đến trong tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Xin tăng cho tôi là Tỳ-kheo ni...... nửa tháng Ma-na-đỏa. Xin thương xót tôi (nói ba lần).
Tăng nên cho pháp như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo-ni...... này phạm tội tăng tàn...... Nay đến trong tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo-ni...... (527) nửa tháng Ma-na-đỏa. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo ni...... này phạm tội tăng tàn...... Nay đến trong tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng cho Tỳ-kheo ni...... nửa tháng Ma-na-đỏa. Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo ni nửa tháng Ma-na-đỏa thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo ni...... nửa tháng Ma-na-đỏa rồi.
Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Người kia được pháp rồi, bạch các pháp hành đều giống ở phần Tỳ-kheo không khác.
Pháp cho Ma-na-đỏa bản nhật trị:
Người kia trong lúc thực hành Ma-na-đỏa, lại phạm tội tăng tàn, nên cho pháp bản nhật trị. Người kia đến trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, con là Tỳ-kheo-ni...... phạm tội tăng tàn...... đã đến trong tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã cho con là Tỳ-kheo-ni...... nửa tháng Ma-na-đỏa, Tỳ-kheo ni...... trong thời gian thực hành Ma-na-đỏa, lại phạm tội tăng tàn...... Nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn......, nửa tháng Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Xin tăng cho con là Tỳ-kheo ni...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn......, nửa tháng Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Xin thương xót con (nói ba lần).
Tăng nên cho pháp như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo-ni...... này phạm tội tăng tàn...... Đã đến trong tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa, tăng đã cho Tỳ-kheo-ni...... này nửa tháng Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo ni...... này trong lúc thực hành Ma-na-đỏa, lại phạm tội tăng tàn...... Nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn......, nửa tháng Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo ni...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn......, nửa tháng Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo ni...... này phạm tội tăng tàn...... Đã đến trong tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo ni...... này nửa tháng Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo ni...... này trong lúc thực hành Ma-na-đỏa, lại phạm tội tăng tàn...... Nay đến trong tăng xin yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn......, nửa tháng Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Tăng cho Tỳ-kheo-ni...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn......, nửa tháng Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo ni...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn......, nửa tháng Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần). Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo ni...... yết-ma phạm tội trước, trong thời gian đó lại phạm tội tăng tàn...... không che giấu, nửa tháng Ma-na-đỏa và Ma-na-đỏa bản nhật trị xong. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
(Cách bạch các pháp hành cũng giống trước, chỉ cần nêu đầy đủ lời văn).
Pháp cho không hoại Ma-na-đỏa xả tội:
Ở đây xả tội có hai: 1-Không hoại pháp Ma-na-đỏa;
2-Hoại pháp Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo-ni kia không hoại pháp Ma-na-đỏa thực hành Ma-na-đỏa xong, nên ở trong hai bộ tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, con Tỳ-kheo-ni...... phạm tội tăng tàn...... Đã đến trong tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã cho tôi là Tỳ-kheo-ni...... nửa tháng Ma-na-đỏa. Tôi là Tỳ-kheo ni...... thực hành Ma-na-đỏa xong. Nay đến trong tăng xin yết-ma xả tội. Xin tăng cho con yết-ma xả tội, xin thương xót tôi (nói ba lần).
Tăng nên cho pháp như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo ni...... này phạm tội tăng tàn...... Đã đến trong tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo...... này nửa tháng Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo ni...... này thực hành Ma-na-đỏa xong. Nay đến trong tăng xin yết-ma xả tội, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo ni...... xả tội. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo ni...... này phạm tội tăng tàn...... Đã đến trong tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa. Tăng đã cho Tỳ-kheo-ni...... này nửa tháng Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo ni...... này trong lúc thực hành Ma-na-đỏa xong. Nay đến trong tăng xin yết-ma xả tội, tăng cho Tỳ-kheo-ni...... xả tội. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo ni...... xả tội thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo ni...... xả tội rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy. (Pháp hoại Ma-na-đỏa, xả tội cũng y cứ theo đây, nên biết như vậy).
Pháp trừ tội Thâu-lan-giá:
Theo đây thì Thâu-lan-già có hai loại: 1-Căn bản; 2-tùng sinh.
Trong hai loại này, về tầng bậc sám hối có ba phẩm:
1. Phẩm thượng: Đối với đại chúng sám hối. Đó là các tội: chủ phá pháp luân, trộm bốn tiền, giết trời người thuộc căn bản Thâu-lan-già. Sau phạm Ba-la-di, quan trọng là Thâu-lan-già thuộc tùng sinh Thâu-lan-già.
2. Phẩm trung: Đối với tiểu chúng sám hối. Đó là các tội chủ phá yết-ma tăng, bạn phá pháp luân tăng, trộm hai, ba tiền thuộc căn bản Thâu-lan-già. Sau phạm Ba-la-di, không quan trọng là Thâu-lan-già, sau phạm tăng tàn, quan trọng là Thâu-lan-già thuộc tùng sinh Thâu-lan-già.
3. Phẩm hạ: Sám hối đối với một người. Đó là các tội: cạo lông, lõa hình, da người, bát đá, ăn thịt, huyết sống, mặc y ngoại đạo, trộm một tiền, thuộc căn bản Thâu-lan-già. Sau phạm Ba-la-di, không quan trọng là khinh Thâu-lan-già, thuộc tùng sinh Thâu-lan-già.
Pháp đối với tăng xin sám hối:
Tức là Tỳ-kheo phạm tội Thâu-lan-già thượng phẩm nên đối trước tăng sám hối. Người kia đến trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh xin sám hối, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội Thâu-lan-già, nay đến trong tăng xin sám hối. Xin tăng cho tôi là Tỳ-kheo...... được sám hối. Xin thương xót tôi (nói ba lần).
Pháp thỉnh chủ sám hối:
Người muốn sám hối, nên đối trước Tỳ-kheo thanh tịnh, không được đến người phạm tội để sám hối. Người phạm không được nhận sự sám hối của người khác. Nếu tất cả tăng đều phạm thì không được sám hối. Nếu có Tỳ-kheo khách đến thanh tịnh (không phạm), thì nên đến chỗ Tỳ-kheo ấy mà sám hối. Nếu không có Tỳ-kheo khách đến thì nên sai hai, ba người đến trong chúng thanh tịnh ở gần đó mà sám hối. Các Tỳ-kheo này sám hối xong nên trở về trụ xứ, các Tỳ-kheo khác nên hướng về Tỳ-kheo thanh tịnh này mà sám hối, oai nghi nghiêm chỉnh, thỉnh như sau:
- Bạch Đại đức một lòng nhớ nghĩ, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội Thâu-lan-già. Nay thỉnh Đại đức làm chủ sám hối. Xin Đại đức vì tôi làm chủ sám hối. Xin thương xót tôi (nói ba lần).
Pháp bạch tăng nhận chủ sám hối:
Vị nhận chủ sám hối chưa được hứa ngay, mà phải bạch với tăng, bạch rằng:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... phạm tội Thâu-lan-già. Nay đến trước tăng xin sám hối. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tôi là Tỳ-kheo...... nhận Tỳ-kheo...... sám hối. Tác bạch như thế.
(Tác bạch xong, đáp rằng: “được”).
Pháp chánh sám hối:
Người kia sám hối, trước sám hối các tội che giấu. Pháp sám hối như sau, sau đó trừ tội căn bản, nên bạch rằng:
- Bạch Đại đức một lòng nhớ nghĩ, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội Thâu-lan-già. Nay đến Đại đức sám hối không dám che giấu. Sám hối thì an vui, không sám hối thì lo buồn, nhớ nghĩ mình phạm nên phát lồ, biết mà không che giấu. Xin Đại đức nhớ cho tôi thanh tịnh, giới thân đầy đủ, thanh tịnh bố-tát (nói như thế ba lần). Vị chủ sám hối bảo rằng: Thầy nên tự trách tâm mình, nên sinh nhàm chán, xa lìa. Người sám hối đáp: “Xin vâng”.
Pháp đối với ba Tỳ-kheo sám hối:
Tức là tội Thâu-lan-già trung phẩm, nên đối với tiểu chúng mà sám hối. Tiểu chúng là, nên đối với ba người. Người kia nên đến chỗ ba Tỳ-kheo thanh tịnh, thỉnh một vị làm chủ sám hối. Người chủ nhận sám hối không được hứa ngay, thay đơn bạch để hỏi người bên cạnh, nên hỏi hai Tỳ-kheo kia rằng:
Nếu hai Trưởng lão cho tôi nhận Tỳ-kheo...... sám hối thì tôi sẽ nhận, hai vị Tỳ-kheo kia đáp: “Được”.
Vị chủ sám hối được Tăng chấp nhận, mới đáp với người sám hối rằng: Được.
(Pháp sám hối như trên, phần đối với hai vị sám hối không có gì khác, chỉ có pháp xả đọa được dùng chung, đối với hai người mà thực hành pháp sám hối).
Pháp đối với một Tỳ-kheo sám hối:
Tức là tội Thâu-lan-già hạ phẩm, nên đối với một Tỳ-kheo mà sám hối. Tỳ-kheo kia đến chỗ một Tỳ-kheo thanh tịnh, thỉnh vị ấy làm chủ sám hối. Và chánh thức sám hối tất cả đều như trước, trừ hỏi người bên cạnh.
Pháp trừ tội ba-dật-đề:
Theo đây thì tội có hai loại: 1-Ba mươi xả đọa; 2-Chín mươi ba-dật-đề. Nhưng ba mươi xả đọa, lúc xả trừ hai vật: của báu (528) và đồ nằm bằng tơ tằm. Hoặc đối trước tăng, hoặc đối trước nhiều vị, hoặc đối trước một vị để xả, không được xả riêng chúng. Nếu xả thì không thành xả, phạm đột-cát-la.
Pháp đối với tăng xả tài vật:
Phạm y xả đọa thì không được không xả, làm tịnh thí đưa cho người khác may ba y. Y ba-lợi-ca-la nên cắt bỏ, nên đốt, hoặc dùng làm phi y, hoặc làm đồ đắp thường.
Tỳ-kheo kia nên đến trước tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, bạch để xả như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... vì chứa nhiều (bao nhiêu) y dư, (các vật khác tùy theo loại mà gọi) quá mười ngày, phạm tội xả đọa. Nay con xả cho tăng (nói một lần).
Pháp xả tội xin sám hối:
Người kia xả tài vật rồi, đến trước tăng xin sám hối, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... vì chứa nhiều bao nhiêu) y dư (các vật khác tùy theo loại mà gọi) quá mười ngày, phạm tội xả đọa. Y đó đã xả cho tăng. Trong đây có nhiều (bao nhiêu) tội ba-dật-đề. Nay đến trước tăng xin sám hối, xin tăng cho tôi là Tỳ-kheo...... được sám hối. Xin thương xót tôi (nói ba lần). Ở đây sám hối đối với tăng, phép tắc rất giống như trước. Vì tội xả đọa này, một người phạm nhiều lần, tác pháp khó, nên trình bày lại đầy đủ.
Pháp thỉnh chủ sám hối:
Người muốn sám hối, đến trước tăng thỉnh một Tỳ-kheo thanh tịnh làm chủ sám hối. Người kia đến trước Tỳ-kheo thanh tịnh sám hối, oai nghi nghiêm chỉnh, thỉnh như sau:
- Bạch Đại đức một lòng nhớ nghĩ, tôi là Tỳ-kheo...... vì chứa nhiều (bao nhiêu) y dư (các vật khác tùy theo loại mà gọi) quá mười ngày, phạm tội xả đọa. Y đó đã xả cho tăng, trong ấy có nhiều (bao nhiêu) tội ba-dật-đề (lại có tội khác cũng tùy theo loại mà gọi). Nay thỉnh Đại đức làm chủ sám hối. Xin Đại đức vì tôi làm chủ sám hối, xin thương xót tôi (nói một lần).
Pháp bạch tăng nhận chủ sám hối:
Vị nhận chủ sám hối, không được hứa ngay, nên bạch với tăng rằng:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... vì chứa nhiều (bao nhiêu) y dư (các vật khác tùy theo loại mà gọi) quá mười ngày, phạm tội xả đọa. Y đó đã xả cho tăng. Trong đó có nhiều (bao nhiêu) tội ba-dật-đề (tội khác cũng y theo tên mà gọi). Nay đến trước tăng xin sám hối. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho con là Tỳ-kheo...... nhận làm chủ sám hối cho Tỳ-kheo......, Tác bạch như thế.
(Tác bạch như vậy rồi, mới đáp rằng: Được).
Pháp chánh sám hối:
Trong đây, các tội ở đầu và cuối có sự sắp xếp khác nhau, có mười hai loại, mỗi loại có ba tội.
1. Ba tội thứ nhất: Đó là hai tội che giấu chứa y vật dư ba-dật-đề và căn bản triển chuyển.
2. Ba tội thứ hai: Lúc tăng thuyết giới nói thanh tịnh phạm tội ba-dật-đề và hai tội che giấu.
3. Đối thú thuyết giới tự nói thanh tịnh phạm ba-dật-đề và hai tội che giấu.
4. Lúc tăng tự tứ nói thanh tịnh phạm ba-dật-đề và hai tội che giấu.
5. Đối thú tự tứ tự nói thanh tịnh phạm ba-dật-đề và hai tội che giấu.
6. Tự mình có tội vì chúng tăng thuyết giới phạm tội đột-cát-la và hai tội che giấu.
7. Tự mình có phạm không cùng nghe giới phạm đột-cát-la và hai tội che giấu.
8. Lúc tăng thuyết giới hai chỗ, ba lần hỏi, im lặng, mắc tội nói dối phạm đột-cát-la và hai tội che giấu.
9. Tâm niệm thuyết giới tự nói thanh tịnh phạm độtcát-la và hai tội che giấu.
10. Tâm niệm tự tứ tự nói thanh tịnh phạm đột-cátla và hai tội che giấu.
11. Tự mình có tội, nhận sám hối của người khác phạm đột-cát-la và hai tội che giấu.
12. Mặc y xả đọa phạm tội đột-cát-la và hai tội che giấu.
Những tội này có, không bất định, lúc sám hối đều phải duyên theo đó để biết đủ, thiếu. Theo văn chánh giải thích sám hối có ba loại:
1. Cùng sám hối hai mươi bốn tội che giấu: Đó là từ tội chứa y vật dư cho đến tội mười hai mặc y xả đọa, che giấu và tùy theo che giấu, hai tội đột-cát-la. Vì các tội này chủng loại giống nhau.
2. Cùng sám hối bảy loại đột-cát-la không nên thuyết giới. vì bảy loại này giống nhau.
3. Cùng sám hối năm tội ba-dật-đề như chứa y dư, v.v...
Pháp sám hối hai mươi bốn tội che giấu:
Thực hành pháp sám hối này phải đầy đủ oai nghi, chí thành, tha thiết, hết lòng, hổ thẹn, cắt đứt sự tiếp diễn. Xin thỉnh chứng minh chung chung như vậy thì tội nhẹ chắc chắn không thể tiêu diệt. Nên bạch xin như sau:
- Tôi là Tỳ-kheo...... vì chứa nhiều (bao nhiêu) y dư (các vật khác tùy theo loại mà gọi) quá mười ngày, phạm nhiều (bao nhiêu) tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề. Đã phạm tội này, lúc tăng nói giới, nói là thanh tịnh, phạm nhiều (bao nhiêu) tội ba-dật-đề. Đối thú sám hối tự nói thanh tịnh, phạm nhiều (bao nhiêu) tội ba-dật-đề. Lúc tăng tự tứ nói thanh tịnh, phạm nhiều (bao nhiêu) tội ba-dật-đề. Đối thú tự tứ tự nói thanh tịnh phạm nhiều (bao nhiêu) tội Ba-dật-đề. Tự thân có tội vì chúng thuyết giới phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la. Tự thân có tội không cùng nghe giới phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la. Lúc tăng thuyết giới hai chỗ, ba lần hỏi phạm rất nhiều (bao nhiêu) lại im lặng, nói dối phạm tội đột-cát-la. Tâm niệm thuyết giới tự nói thanh tịnh phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la. Tâm niệm tự tứ tự nói thanh tịnh, phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la. Tự mình có tội nhận sám hối của người khác, phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la. Mặc y xả đọa, phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la. Các tội này đều biết, vì không phát lồ để ngủ qua đêm, phạm tội che giấu đột-cát-la. Không nhớ số (biết số thì nên nói biết số), trải qua hai đêm, lại phạm tội xoay vần che giấu đột-cát-la, không nhớ số (biết số nên nói), nay tôi xin sám hối không dám che giấu. Sám hối thì an vui, không sám hối thì lo buồn. Nhớ phạm tội phát lồ, biết mà không dám che giấu. Nay tôi tự trách tâm, sinh nhàm lìa.
(Nói một lần, tuy nói, trách tâm nhưng phải trình bày đầy đủ). Pháp sám hối bảy tội đột-cát-la không nên thuyết giới, v.v... Người phạm tội phải oai nghi nghiêm chỉnh, tha thiết chí thành, thỉnh chứng minh như trước,...... nên bạch như vầy:
- Tôi là Tỳ-kheo...... vì chứa nhiều (bao nhiêu) y dư (các vật khác tùy theo loại mà gọi) quá mười ngày, phạm nhiều (bao nhiêu) tội ni-tát-kỳ ba-dật-đề. Đã phạm tội này, mà vì chúng thuyết giới nên phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la. Lại tự mình có tội không nghe giới chung phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la. Lúc tăng thuyết giới hai chỗ, ba lần hỏi phạm (rất nhiều) tội im lặng nói dối phạm tội đột-cát-la. Tâm niệm tự tứ tự nói thanh tịnh, phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la. Tự mình có tội nhận sám hối của người khác, phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la. Mặc y xả đọa, phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la. Nay tôi xin sám hối tội giống như trước.
Pháp sám hối năm tội ba-dật-đề chứa y dư:
Người phạm tội chí thành, nên bạch như sau:
- Bạch Đại đức một lòng nhớ nghĩ, tôi là Tỳ-kheo...... vì chứa nhiều (bao nhiêu) y dư (các vật khác tùy theo loại mà gọi) quá mười ngày, phạm xả đọa, y này đã xả cho tăng. Trong đó có rất nhiều (bao nhiêu) tội ba-dật-đề. Đã phạm tội này, lúc tăng thuyết giới lại nói thanh tịnh, phạm nhiều (bao nhiêu) tội ba-dật-đề. Đối thú thuyết giới tự nói thanh tịnh, phạm nhiều (bao nhiêu) tội ba-dật-đề. Lúc tăng tự tứ nói thanh tịnh, phạm nhiều (bao nhiêu) tội ba-dật-đề. Đối thú tự tứ tự nói thanh tịnh phạm nhiều (bao nhiêu) tội ba-dật-đề. Nay đến trước Đại đức xin sám hối, không dám che giấu. Sám hối thì an vui, không sám hối thì lo buồn. Nhớ phạm tội phát lồ, biết mà không dám che giấu. Xin Đại đức nhớ nghĩ tôi thanh tịnh, giới thân đầy đủ, thanh tịnh bố-tát (nói ba lần).
Người nhận sám hối nên nói:
- Thầy nên tự trách tâm mình, nên sinh nhàm lìa. Người sám hối đáp: vâng!
Nếu vật xả đọa rồi, được dùng cho đến hư. Tội Ba-dật-đề không xả tài vật như các tội ở trước, cũng nên mỗi giới duyên theo để biết đủ hay thiếu và sám hối như trên.
Pháp trả y ngay tại chỗ:
Nếu chúng tăng nhiều khó nhóm họp, Tỳ-kheo này có nhân duyên muốn đi xa. Vị tăng thanh tịnh nên hỏi: “Y này của thầy cho ai?” Hễ người ấy nói cho ai thì cho người ấy. Nên bạch cho như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... vì chứa nhiều (bao nhiêu) y dư (các vật khác tùy theo loại mà gọi) quá mười ngày, phạm tội xả đọa. Nay xả cho tăng, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng chấp thuận, tăng đem y này cho Tỳ-kheo....... Kia, Tỳ-kheo...... kia nên trả lại y cho Tỳ-kheo...... này. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... vì chứa nhiều (bao nhiêu) y dư (các vật khác tùy theo loại mà gọi) quá mười ngày, phạm tội xả đọa, nay xả cho tăng, tăng đem y này cho Tỳ-kheo....... kia. Tỳ-kheo...... kia nên trả lại y cho Tỳ-kheo...... này. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng đem y này cho Tỳ-kheo....... Kia, Tỳ-kheo...... kia nên trả lại y cho Tỳ-kheo...... này thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo....... kia y, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Y một tháng, y cấp thí quá hạn, phần sau chứa bát dư và thuốc đều giống như vậy, chỉ có nêu việc khác mà thôi.
Pháp qua đêm trả lại:
Nếu không có duyên trên thì phải qua đêm rồi yết-ma trả lại cho chủ; y một tháng v.v... cũng như vậy. Trừ các vật này, còn vật khác thì trả lại tại chỗ. Hai pháp trả lại vật giống nhau, nên bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... vì chứa nhiều (bao nhiêu) y dư (các vật khác tùy theo loại mà gọi) quá mười ngày, phạm tội xả đọa. Y này đã xả cho tăng, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng đem y này cho Tỳ-kheo....... Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... vì chứa nhiều (bao nhiêu) y dư (529) (các vật khác tùy theo loại mà gọi) quá mười ngày, phạm tội xả đọa, y này đã xả cho tăng, tăng đem y này cho Tỳ-kheo....... này. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng đem y này trả lại cho Tỳ-kheo...... thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng trả y lại cho Tỳ-kheo....... Rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp không trả lại vật:
Tỳ-kheo phạm tội ở trong tăng xả rồi, người không trả y lại phạm đột-cát-la. Hoặc làm tịnh thí, hoặc đưa cho người, hoặc may ba y, hoặc may y ba-lợi-ca-la, hoặc cố hoại, hoặc đốt, hoặc may phi y, hoặc thường mặc, tất cả đều phạm đột-cát-la.
Pháp sám hối xả đọa với ba vị Tỳ-kheo:
Tỳ-kheo phạm tội nên đến chỗ ba vị Tỳ-kheo, oai nghi nghiêm chỉnh, xin xả như sau:
Bạch các Đại đức nhớ nghĩ cho, tôi là Tỳ-kheo...... vì chứa...... (các từ ngữ khác giống như trên, chỉ không được gọi là Tăng (vì chỉ có ba vị). Tiếp theo thỉnh một Tỳ-kheo thanh tịnh làm chủ sám hối).
Lời thỉnh giống như trước, vị chủ sám hối nhận lời thỉnh rồi, không được hứa ngay, phải đơn bạch hỏi người bên cạnh, hỏi hai vị Tỳ-kheo kia rằng: Nếu hai vị Trưởng lão cho tôi nhận sám hối của Tỳ-kheo...... thì tôi sẽ nhận.
Hai vị Tỳ-kheo đáp: Được.
Người nhận chủ sám hối được chấp nhận rồi, mới trả lời với người sám hối rằng: Được.
Pháp chánh thức sám hối:
(Lời thỉnh chánh sám hối...... giống như trước).
Pháp trả lại y:
(Vấn hòa giống như trên).
Pháp không trả lại y:
(Kết tội giống như trên, nếu đối với hai vị cho đến một vị sám hối xả đọa, thì mỗi trường hợp đều giống như ở đây (không có gì khác). Trong phần đối với một vị sám hối, chỉ trừ hỏi người bên cạnh).
Pháp xả xin bát:
Xả, thì phải đối trước tăng, lại xả ở trụ xứ này chẳng phải ở trụ xứ khác. Xả và sám hối lời văn giống như trước.
Pháp trả lại bát:
Bát của Tỳ-kheo này, nếu bát tốt thì nên giữ lại, lấy bát xấu của vị hạ tòa đưa cho vị Tỳ-kheo đó. Bạch hai lần yết-ma để đưa bát.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này, bát vỡ chưa đến năm lần nứt, lại tìm bát mới, phạm tội xả đọa, nay xả cho tăng, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, nay tăng cho Tỳ-kheo....... này bát. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này, bát chưa đủ năm chỗ nứt, lại tìm bát mới, phạm xả đọa, nay xả cho tăng, nay Tăng cho Tỳ-kheo....... này bát. Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo....... này bát thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo....... này bát rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp bạch hành bát:
Bát của Tỳ-kheo kia, nên tác bạch rồi thưa với tăng, tác bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng chấp thuận, lấy bát này thứ lớp thưa từ bậc Thượng tọa. Tác bạch như thế.
Tác bạch như thế rồi, nên lấy bát đưa cho vị Thượng tọa. Nếu Thượng tọa không nhận thì đưa cho vị Tỳ-kheo kia. Vị Tỳ-kheo kia nên nhận, không nên vì giữ cho chúng tăng mà không nhận. Cũng chẳng phải vì nhân duyên này mà thọ trì bát của vị hạ tòa, nếu thọ trì phạm đột-cát-la. Nếu Thượng tọa lấy, nên trao cho Thượng tọa, rồi lấy bát của Thượng tọa đưa cho thứ tọa. Nếu thứ tọa lấy giống Thượng tọa, thì cứ lần lượt đổi cho đến vị hạ tòa.
Pháp giao bát khiến phải giữ gìn:
Nếu đem bát của Tỳ-kheo này trả lại cho Tỳ-kheo này, hoặc đem bát xấu của vị hạ tọa cho Tỳ-kheo này, thì nên bạch hai lần yết-ma, bạch cho như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng chấp thuận, nay tăng lấy bát của hạ tọa (hoặc bát của Tỳ-kheo này, nên nói: Nay tăng lấy bát của Tỳ-kheo này cho Tỳ-kheo...... thọ trì cho đến lúc vỡ. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, nay tăng lấy (hoặc bát của hạ tọa, hoặc bát của Tỳ-kheo) này cho Tỳ-kheo...... thọ trì cho đến lúc vỡ. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... bát thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo....... bát rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Vị Tỳ-kheo giữ bát này, không được để bát ở chỗ có ngói, gạch rơi xuống; không được để dưới gốc cây, gậy, dao; không được treo dưới vật khác; không được để giữa đường đi, trên trụ đá, dưới cây có trái và chỗ đất gập ghềnh; không được một tay cầm hai bát, trừ ngón tay cách giữa bát; không được một tay cầm hai bát mở cửa, trừ có dụng tâm; không được để dưới cửa lớn, bậc cửa, cửa sổ; không được để dưới giường dây, giường cây, để ở giữa giường, góc giường, trừ khi để tạm; không được dùng làm đồ để rửa, cho đến rửa chân làm cho bát bị vỡ. Không nên cố ý làm vỡ, không được cố ý để cho mất để dùng làm phi bát.
Pháp đối với người thế tục xả vật báu:
Nếu Tỳ-kheo tự tay cầm vàng, bạc, tiền, hoặc bảo người cầm, hoặc bảo để dưới đất mà nhận, Tỳ-kheo kia có người giữ vườn có uy tín hoặc Ưu-bà-tắc, nên nói rằng: “Vật này không phải của tôi, ông nên coi chừng giùm”.
(Tác pháp sám hối đối với một vị giống như trên).
Pháp người thế tục trả lại vật:
Người kia nhận, rồi trả lại cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo nên nghĩ là vật của người kia mà nhận. Nên dạy tịnh nhân thường lại cho Tỳ-kheo. Nếu được y, bát, ống đựng kim, Ni-sư-đàn thanh tịnh nên thay mà thọ trì. Hoặc Ưu-bàtắc lấy rồi, cúng dường y, bát, ống đựng kim, Ni-sư-đàn thanh tịnh cho Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo nên lấy và thọ trì.
Pháp người thế tục không trả lại vật báu:
Nếu người kia nhận rồi không trả lại cho Tỳ-kheo, nên bảo Tỳ-kheo khác nói rằng: “Ông nên trả lại vật báu cho Tỳ-kheo này”.
Nếu Tỳ-kheo khác không nói, hoặc Tỳ-kheo khác nói nhưng người kia không trả lại, thì tự mình đến chỗ người ấy nói rằng: “Phật dạy Tỳ-kheo tác tịnh nên đưa cho ông, hoặc nói cho tăng, cho tháp, Hòa-thượng, v.v... cho những người quen biết, hoặc trả lại cho chủ”. Vì sao? Vì không muốn làm mất vật của tín thí.
Pháp tịnh khí vật báu:
Nhân đây nói về cách thức tịnh thí, nếu theo bộ này, thì riêng khai cho Ưu-bà-tắc và người giữ vườn thân tín làm tịnh chủ. Tỳ-kheo lấy vật báu đưa cho người kia, nói với họ rằng: “Vật này chẳng phải của tôi, ông nên biết cho, hoặc nói thấy đó biết đó” hoặc việc của Phật, Pháp, Tăng v.v... lúc nhận nên nói tác tịnh, tịnh nên nói thấy đó biết đó, (nếu Tỳ-kheo không nói, người kia nói thấy đó biết đó, Tỳ-kheo phạm đột-cát-la.
Nếu theo thuyết Nhất thiết hữu bộ nói về pháp tịnh thí tiền và tất cả vật báu thì trước nên tìm một tịnh nhân người tại gia biết pháp nói với họ, làm cho họ hiểu ý mình, rồi nói rằng: “Theo pháp của Tỳ-kheo, không được cất chứa tiền bạc vật báu; Nay nhờ đàn-việt làm người chủ tịnh thí, sau này nếu được tiền bạc vật báu, thì tất cả đều gởi cho đàn-việt”.
Nếu người chủ tịnh thí qua đời, hoặc đến nước khác, nên tìm người chỉ tịnh thí khác. Nhưng thuyết tịnh có hai thứ: Hoặc là người tại gia cầm tiền bạc, vật báu đến cúng dường, Tỳ-kheo chỉ nói: “Vật bất tịnh này, tôi không nên cất giữ, nếu vật thanh tịnh thì mới nhận (tức là tịnh)”. Hoặc người tại gia nói cúng dường Tỳ-kheo vật báu, Tỳ-kheo nói: “Tôi không được cất chứa. Nếu vật thanh tịnh thì nên nhận (tức là tác tịnh, nếu người tại gia thay đổi lời nói, vật thanh tịnh nên cất giữ; Tỳ-kheo không nói tịnh thì để dưới đất rồi đi. Nếu có Tỳ-kheo khác nên hướng về nói tịnh, tùy theo cất giữ lâu mau, lời nói giống như phần trên.
Pháp xả đồ nằm làm bằng tơ tằm hoang nhiều mầu:
Tỳ-kheo tự mình đến nhà nuôi tằm xin tơ làm đồ nằm, làm xong tự lấy búa, rìu chặt hoại để xả, pháp làm như sau:
Hoặc lấy rìu, hoặc lấy búa chặt nhỏ trộn với bùn, bôi lên tường, hoặc bôi lên đất.
(Tự mình hoại xả xong, đối với một người sám hối, tác pháp giống như phần trên).
Pháp sám hối chín mươi tội ba-dật-đề:
Muốn trừ bản tội, trở lại, trước sám hối bao nhiêu phẩm che giấu, y theo trước nên biết. Trong đây, muốn trừ bản tội, trước thỉnh sám chủ (chủ sám hối). Pháp thỉnh như trên, thỉnh rồi, Tỳ-kheo phạm tội nên đối với sám chủ, sám hối như sau:
- Bạch Đại đức một lòng nhớ nghĩ, tôi là Tỳ-kheo...... cố ý nói dối, phạm nhiều (bao nhiêu) tội ba-dật-đề (các tội khác tùy theo tên loại mà gọi khác nhau), nay đến Đại đức xin sám hối, không dám che giấu v.v... giống như phần trên.
Pháp sám hối tội Ba-la-đề-đề-xá-ni:
Phẩm che giấu như trước, thỉnh sám chủ rồi sám hối như sau:
- Bạch Đại đức một lòng nhớ nghĩ, tôi là Tỳ-kheo...... không bệnh, cố vào trong làng xóm, thọ thức ăn của Tỳ-kheo ni chẳng phải bà con phạm (nhiều bao nhiêu) tội Ba-la-đề-đề-xá-ni (các tội khác tùy theo tên loại mà gọi khác nhau). Bạch Đại đức tôi phạm pháp đáng quở trách, là việc không nên làm, nay đến Đại đức xin sám hối, không dám che giấu v.v... giống như phần trên (nói một lần).
Pháp sám hối tội đột-cát-la:
Tất cả tội đột-cát-la, bất luận căn bản hay tùng sinh, cố làm hay nhầm lẫn làm mà che giấu; số phẩm che giấu, tùy theo che giấu như trên. Tỳ-kheo phạm tội phải tha thiết tự trách mình, mong cầu dứt trừ, sám hối như sau:
- Bạch Đại đức một lòng thương xót, tôi là Tỳ-kheo...... cố ý mặc y Tăng-già-lê không ngay ngắn phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la. Vì cố làm việc đó phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la phi oai nghi hoặc lầm phạm, tức là không cố ý phạm tội phi oai nghi, nên bạch rằng:
- Bạch Đại đức một lòng thương xót, tôi là Tỳ-kheo...... không cố ý mặc y Tăng-già-lê không nghiêm chỉnh phạm nhiều (bao nhiêu) tội đột-cát-la (các tội khác tùy theo tên loại mà gọi khác nhau). Nay tôi xin sám hối, không dám che giấu giống như phần trên.
Pháp tất cả tăng đều phạm biết tội phát lồ:
Luật nói: Các Tỳ-kheo lắng nghe, chúng tăng nhóm họp một chỗ muốn nói giới. Lúc sắp nói giới, tất cả chúng tăng đều phạm tội, mỗi người nên nghĩ: “Đức Phật chế giới, người phạm tội không được nói giới, không được nghe giới, không được đến người phạm tội sám hối, người phạm tội không được nhận người khác sám hối”. Tỳ-kheo phạm tội kia bạch rồi, nên sám hối, tác bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, ở đây tất cả chúng tăng đều phạm tội. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng chấp thuận cho tất cả tăng ở đây sám hối. Tác bạch như thế.
Tác bạch như thế xong, sau đó nói giới.
Pháp tất cả tăng đều phạm tội nghi phát lộ:
Luật nói: Các Tỳ-kheo lắng nghe, nếu chúng tăng nhóm họp một chỗ sắp nói giới. Lúc nói giới, tất cả tăng đối với tội có nghi ngờ, mỗi vị nên nghĩ: “Đức Phật đặt ra giới, người phạm tội không được nói giới v.v... như trước”. Tất cả tăng tác bạch rồi, nên nói tội đó, nên tác bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, ở đây tất cả tăng đối với tội có nghi ngờ. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng chấp thuận, chúng tăng ở đây tự nói tội. Tác bạch như thế.
Tác bạch rồi, sau đó nói giới.
Pháp người khắc nghi tội phát lồ:
Tỳ-kheo phạm tội đến chỗ một Tỳ-kheo thanh tịnh, oai nghi đầy đủ, thưa rằng:
- Bạch Đại đức nhớ nghĩ cho, tôi là Tỳ-kheo...... phạm tội ấy rất nhiều, nay tôi đến Đại đức phát lồ, sau sẽ sám hối đúng như pháp (nói một lần như vậy rồi, được nghe giới).
(530) Pháp người khác nghi tội phát lồ:
Tỳ-kheo nghi tội (lại) đến chỗ một Tỳ-kheo thanh tịnh, oai nghi đầy đủ, thưa như sau:
-Bạch Đại đức nhớ nghĩ cho, tôi là Tỳ-kheo...... đối với việc phạm tội ấy có nghi ngờ. Nay tôi đến Đại đức tự nói. Về sau không còn nghi ngờ, tôi sẽ sám hối đúng như pháp (nói một lần, rồi được nghe giới).
Pháp ngồi trong chỗ nói giới biết tội tâm niệm phát lồ:
Luật nói: Lúc đang tụng giới, có Tỳ-kheo phạm tội. Tỳ-kheo kia nếu có người nêu tội hay không có người nêu tội, hoặc làm cho nhớ lại hay không làm cho nhớ lại. Người đó tự nhớ tội mà phát lộ. Tỳ-kheo kia nên nói với người bên cạnh: “Bạch Đại đức! tôi phạm tội...... Nay đến Trưởng lão xin sám hối”. Người đó lại nghĩ: “Nếu ta nói với người bên cạnh, sợ sẽ làm cho chúng ồn ào, tụng giới không thành”. Tỳ-kheo kia nên tâm niệm rằng: “Tôi phạm tội...... phải đi khỏi chỗ này, tôi sẽ sám hối đúng như pháp. Nghĩ như thế, thì được nghe nói giới.
Pháp ngồi trong chỗ nói giới nghi tội tâm niệm phát lồ:
Duyên giống như trước, chỉ khác là nghi tội. Người kia tâm niệm rằng: “Tôi đối với tội...... có nghi ngờ, phải đi khỏi chỗ này, lúc không còn nghi, tôi sẽ sám hối đúng như pháp”. Nghĩ như thế rồi, thì được nghe nói giới.
(Xuất xứ từ Luật Tứ Phần)
Pháp cho yết-ma-quở trách:
Theo luật có hai pháp, tăng nên cho làm pháp yết-ma-quở trách. Phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp, cho đến nói, không nói cũng giống như vậy, cho đến yết-ma nêu tội cũng như vậy. Lại có ba việc, tăng nên cho làm pháp yết-ma-quở trách. Đó là: phá giới, phá kiến, phá oai nghi, cho đến yết-ma nêu tội cũng như vậy. Lại có Tỳ-kheo tánh ưa gây gỗ tranh chấp, ưa mắng nhiếc người, miệng nói ra lời như dao kiếm, moi móc chỗ hay chỗ dở của nhau. Lại có Tỳ-kheo khác ưa gây gỗ tranh chấp, đến người kia xúi giục họ gây gỗ tranh chấp. Cho nên, làm cho tăng chưa có việc gây gỗ tranh chấp thì xảy ra việc gây gỗ tranh chấp. Đã có việc gây gỗ tranh chấp thì không dứt được. Phật dạy: “Ta cho phép tăng làm pháp yết-ma-quở trách. Nhóm họp tăng bạch bốn lần yết-ma để thực hiện. Nhóm tăng xong, nêu tội đã phạm; nêu tội đã phạm rồi, làm cho họ nhớ nghĩ; nhớ nghĩ rồi mới nêu tội; nêu tội rồi, tác bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này ưa đấu tranh, mắng nhiếc nhau. Miệng nói lời hung dữ, tranh nhau hơn thua. Các Tỳ-kheo kia đấu tranh với nhau rồi, nếu có Tỳ-kheo khác đấu tranh, lại đến xúi giục rằng: “Các thầy có khả năng không như bọn họ, các thầy học nhiều, trí tuệ, giàu có hơn họ, có nhiều bạn bè. Chúng tôi sẽ làm bạn với các thầy”. Khiến cho trong tăng chưa có sự tranh cãi thì xảy ra sự tranh cãi, đã có sự tranh cãi thì không dứt được. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng chấp thuận, tăng vì Tỳ-kheo...... làm pháp yết-maquở trách. Nếu sau xảy ra sự tranh đấu lại, chúng tăng sẽ tăng thêm tội mà trị họ. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này ưa đấu tranh, mắng nhiếc lẫn nhau. Miệng nói lời hung dữ, moi móc lỗi xấu của người. Các Tỳ-kheo kia tranh chấp với nhau rồi, nếu có Tỳ-kheo khác tranh chấp lại đến xúi giục rằng: “Các thầy có khả năng hơn bọn họ, các thầy học nhiều, trí tuệ, giàu có hơn họ, có nhiều bạn bè. Chúng tôi sẽ làm bạn với các thầy”. Khiến cho trong tăng chưa xảy ra sự tranh cãi thì sinh ra sự tranh cãi, đã xảy ra sự tranh cãi rồi thì không dứt được. Tăng vì Tỳ-kheo...... làm pháp yết-ma-quở trách. Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo...... làm pháp yết-ma-quở trách. Nếu sau lại xảy ra sự tranh đấu thì chúng tăng sẽ tăng thêm tội mà trị họ thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng, vì Tỳ-kheo...... làm pháp yết-maquở trách rồi.
Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Người kia được pháp rồi, thực hành đầy đủ ba mươi lăm việc. Ba mươi lăm việc này đã nói trong phần trước.
Pháp giải yết-ma-quở trách:
Hoặc chúng tăng trong lúc dùng sáng, dùng trưa; hoặc lúc nói pháp; hoặc bố-tát. Người bị yết-ma-quở trách sửa sang y phục, cởi bỏ giày dép, quỳ thẳng chắp tay bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, xin Đại đức nhận sự sám hối của con. Từ nay về sau con sẽ trách tâm, không bao giờ tái phạm.
Phật dạy: Nếu người kia thuận theo chúng tăng, không có điều nào chống trái, mong được giải yết-maquở trách. Cho phép tăng bạch bốn lần yết-ma giải cho họ. Tăng phải quán sát, có năm pháp không giải yết-ma cho họ. Đó là: Trái với ba mươi lăm việc trên. Người bị yết-ma-quở trách nên đến trong tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... tăng cho làm pháp yết-ma-quở trách. Nay con thuận theo chúng tăng, không có điều gì chống trái, đến tăng xin giải yết-ma-quở trách. Xin tăng thương xót con, vì con mà giải yết-ma-quở trách (nói ba lần).
Tăng nên cho pháp như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... bị tăng làm pháp yết-ma-quở trách. Tỳ-kheo kia thuận theo chúng tăng, không có điều gì chống trái, đến tăng xin giải yết-ma-quở trách. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng giải yết-ma-quở trách cho Tỳ-kheo...... Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này bị tăng làm pháp yết-ma-quở trách. Tỳ-kheo đó thuận theo chúng tăng, không có điều gì chống trái, đến tăng xin giải yết-ma-quở trách. Trưởng lão nào bằng lòng tăng vì Tỳ-kheo...... giải yết-ma-quở trách thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên (nói ba lần).
Tăng đã bằng lòng giải yết-ma-quở trách cho Tỳ-kheo...... rồi.
Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp cho yết-ma tẫn xuất:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo làm việc xấu khiến nhơ bẩn nhà người. Việc xấu là: Tỳ-kheo tự trồng hoa, dạy người khác trồng v.v... Nhơ nhà người gồm: Có bốn việc: 1-Nương nhà người làm nhơ nhà người; 2-Nương lợi dưỡng làm nhơ nhà người; 3-Nương người thân làm nhơ nhà người; 4-Nương Tăng-già-lam làm nhơ nhà người. Tỳ-kheo này làm việc xấu khiến nhơ nhà người, ai cũng thấy ai cũng nghe. Phật dạy: Tăng vì Tỳ-kheo đó làm pháp yết-ma tẫn xuất, bạch bốn lần yết-ma để thực hiện. Văn làm yết-ma và văn giải này có nói rõ như trong luật.
Pháp cho yết-ma y chỉ:
Nếu Tỳ-kheo ngu si không biết gì, gây ra nhiều tội lỗi, sống chung với người tại gia, ưa thích gần gũi họ, không thuận với Phật pháp. Phật dạy: Cho tăng làm pháp yết-ma y chỉ cho họ, bạch tứ yết-ma để tiến hành. Nghĩa là chuyển họ đến y chỉ với người có đức, không được phân biệt địa phương, quốc độ. Văn tác pháp và giải cũng như trong luật.
Pháp cho yết-ma ngăn không được đến nhà người tại gia:
Người tại gia có năm pháp, tăng nên vì họ làm pháp yết-ma ngăn không cho đến nhà người tại gia. Người đó cung kính cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, việc nên giữ gìn, thì vững tâm giữ gìn không bỏ. Tỳ-kheo có mười pháp, tăng nên làm pháp yết-ma ngăn không cho đến nhà người tại gia. Nói xấu, mắng chửi nhà người tại gia; phương tiện làm cho nhà người tại gia mất mát thiệt thòi, làm mất lợi lộc, không có chỗ nương ở, đấu tranh làm não loạn người tại gia; ở trước người tại gia hủy báng Phật, Pháp, Tăng, ở trước người tại gia nói lời thấp hèn, mạ nhục; hứa với người tại gia như pháp mà không thực hành. Văn sai người đưa tin, sám hối và giải v.v... cũng giống như trong luật.
Pháp cho yết-ma không thấy tội đã nêu:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo phạm tội, Tỳ-kheo khác hỏi rằng: “Thầy phạm tội, có thấy hay không?” Tỳ-kheo phạm tội đáp: “Không thấy”. Phật dạy: Cho phép tăng bạch bốn lần yết-ma, làm cho pháp yết-ma không thấy tội đã nêu. Văn tác pháp và giải như trong luật.
Pháp cho yết-ma không sám hối tội đã nêu:
Có Tỳ-kheo phạm tội, các Tỳ-kheo nói rằng: “Thầy có tội sám hối” Tỳ-kheo phạm tội đáp: “Tôi không sám hối”. Phật cho phép tăng bạch bốn lần yết-ma, làm cho pháp yết-ma không sám hối tội đã nêu. Văn tác pháp và giải như trong luật.
Pháp cho yết-ma không bỏ ác kiến đã nêu:
Nếu có Tỳ-kheo sinh ác kiến như vậy, nói rằng: Tôi biết pháp Phật nói, phạm dâm dục chẳng phải là pháp chướng đạo. Phật cho phép tăng bạch bốn lần yết-ma, cho làm pháp yết-ma can ngăn quở trách. Pháp can ngăn như văn trước. Đối với Tỳ-kheo kia, tăng cho làm pháp yết-ma can ngăn quở trách, nhưng Tỳ-kheo cố không bỏ ác kiến. Phật dạy: Cho làm pháp yết-ma không bỏ ác kiến đã nêu, bạch bốn lần yết-ma để tiến hành. Văn tác pháp và giải như trong luật.
Pháp cho yết-ma cuồng si:
Có ba thứ cuồng si: 1-Lúc nói giới, hoặc nhớ hoặc không nhớ, hoặc đến hoặc không đến; 2-Hoặc nhớ mà đến; 3-Hoặc không nhớ không đến. Loại hai và ba không nên làm cho pháp yết-ma, loại thứ nhất bạch hai lần yết-ma, nên cho như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này tâm loạn cuồng si, hoặc nhớ thuyết giới, hoặc không nhớ thuyết giới, hoặc đến, hoặc không đến. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng chấp thuận, tăng cho Tỳ-kheo...... yết-ma tâm loạn cuồng si. Hoặc nhớ, hoặc không nhớ, hoặc đến, hoặc không đến. Tăng làm yết-ma thuyết giới, tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... nầy tâm loạn cuồng si, hoặc nhớ thuyết giới, hoặc không nhớ thuyết giới, hoặc đến, hoặc không đến. Tăng làm pháp yết-ma tâm loạn cuồng si cho Tỳ-kheo...... Hoặc nhớ, hoặc không nhớ, hoặc đến, hoặc không đến. Tăng làm yết-ma thuyết giới. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng làm pháp yết-ma tâm loạn cuồng si cho Tỳ-kheo......, tăng làm yết-ma thuyết giới thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng làm pháp yết-ma tâm loạn cuồng si cho Tỳ-kheo...... hoặc (531) nhớ, hoặc không nhớ, hoặc đến, hoặc không đến.
Tăng làm yết-ma thuyết giới rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp giải yết-ma cuồng si:
Nếu Tỳ-kheo...... bệnh cuồng si hết rồi, tăng nên bạch hai lần yết-ma để giải. Tỳ-kheo kia nên nghiêm chỉnh oai nghi, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... trước đây bị bệnh cuồng si, lúc thuyết giới hoặc nhớ, hoặc không nhớ, hoặc đến, hoặc không đến. Chúng tăng cho tôi yết-ma cuồng si. Bệnh đã lành, nay tôi đến trước tăng xin giải yết-ma cuồng si (nói ba lần).
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này trước đây bị bệnh cuồng si, Tỳ-kheo nầy lúc thuyết giới hoặc nhớ, hoặc không nhớ, hoặc đến, hoặc không đến. Chúng tăng làm cho pháp yết-ma cuồng si, tăng làm yết-ma cho rồi, bệnh cuồng si đã dứt, nay Tỳ-kheo...... đến trước tăng xin giải yết-ma cuồng si. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, cho giải yết-ma cuồng si, tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này trước đây bị bệnh cuồng si, Tỳ-kheo nầy lúc thuyết giới hoặc nhớ, hoặc không nhớ, hoặc đến, hoặc không đến. Chúng tăng làm cho pháp yết-ma cuồng si, tăng làm cho yết-ma rồi, bệnh cuồng si đã dứt, nay Tỳ-kheo...... đến trước tăng xin giải yết-ma cuồng si. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... giải yết-ma cuồng si thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng giải yết-ma tâm loạn cuồng si cho Tỳ-kheo...... rồi. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Phật dạy: Tùy theo lúc bệnh làm cho pháp yết-ma cuồng si, bệnh lành thì giải yết-ma cho.
Pháp cho yết-ma học gia:
Bấy giờ, có vợ chồng cư sĩ đều kính tin Phật pháp làm đệ tử Phật. Theo pháp thường của các đệ tử Kiến đế (chứng quả Dự lưu) của Chư Phật. Họ đối với các Tỳ-kheo không có gì luyến tiếc, dù cho lóc thịt thân mình.
Nếu các Tỳ-kheo đến nhà họ, thường cúng dường thức ăn và các thứ cần dùng khác. Vì thế gia đình họ trở nên nghèo cùng, đói cơm thiếu áo. Phật dạy: Cho phép tăng làm yết-ma học gia cho cư sĩ kia. Nên bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, ở trong thành...... vợ chồng cư sĩ...... có niềm tin làm đệ tử Phật, cúng dường các Tỳ-kheo, tiền của đã hết sạch. Nếu thời giờ của tăng đã đến xin tăng chấp thuận, nay tăng làm yết-ma học gia. Các Tỳ-kheo không được nhận thức ăn ở nhà cư sĩ ấy nữa. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, ở trong thành...... vợ chồng cư sĩ...... có niềm tin làm đệ tử Phật, cúng dường các Tỳ-kheo, tiền của đã hết sạch. Tăng nay làm yết-ma học gia. Các Tỳ-kheo không được nhận thức ăn ở nhà cư sĩ ấy nữa. Trưởng lão nào bằng lòng làm yết-ma học gia cho cư sĩ...... thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng làm yết-ma học gia cho cư sĩ...... rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Nếu có mời trước, hoặc bệnh, hoặc bỏ dưới đất mà cho, hoặc nhận từ người khác, hoặc học gia cúng dường, hoặc sau này tiền của họ có lại nhiều thì Tỳ-kheo nhận không phạm.
Pháp giải yết-ma học gia:
Nếu nhà học gia tiền của có lại nhiều, họ đến tăng xin giải yết-ma học gia. Thì tăng nên bạch hai lần để giải, tác bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, ở trong thành...... vợ chồng cư sĩ...... có niềm tin làm đệ tử Phật, ưa thích bố thí, tiền của đã hết sạch. Tăng trước đã cho làm yết-ma học gia. Nay gia đình cư sĩ...... tiền của có lại nhiều, đến tăng xin giải yết-ma học gia. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, giải yết-ma học gia. Tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, ở trong thành...... vợ chồng cư sĩ...... có niềm tin làm đệ tử Phật......, nay tiền của có nhiều, tăng giải yết-ma học gia cho cư sĩ......, trưởng lão nào bằng lòng tăng giải yết-ma học gia cho cư sĩ...... thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng giải yết-ma học gia cho cư sĩ...... rồi. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp làm yết-ma nói lời khác lạ:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo phạm tội, các Tỳ-kheo hỏi: “Thầy có tự biết mình phạm tội hay không?” Tỳ-kheo phạm tội đem việc khác trả lời với các Tỳ-kheo: “Các thầy nói ai? Nói về việc gì? Bàn về lý gì? Nói với tôi hay nói với người khác? Ai phạm tội? Tội từ đâu sinh ra? Tôi không thấy tội, vì sao nói tôi có tội?”.
Phật dạy: Từ nay về sau, cho phép bạch rồi, gọi là lời khác lạ.
Nên bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này phạm tội, các Tỳ-kheo hỏi: “Nay thầy có tự biết mình phạm tội hay không?” Vị Tỳ-kheo đó liền đem việc khác trả lời với các Tỳ-kheo: “Các ông hỏi ai? Nói về việc gì? Bàn về lý gì? Nói với tôi hay nói với người khác? Ai phạm tội? Tội từ đâu sinh ra? Tôi không thấy tội”. Nếu thời giờ của tăng đã đến xin tăng bằng lòng, nên gọi đó là Tỳ-kheo...... nói lời khác lạ. Tác bạch như thế.
Tác bạch rồi, gọi là lời khác lạ. Nếu chưa bạch, trước nói lời khác lạ, tất cả phạm tội đột-cát-la. Nếu tác bạch rồi, mà nói lời khác lạ, tất cả phạm ba-dật-đề.
Pháp làm yết-ma xúc não:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo sau khi tăng chế định không được nói lời khác lạ rồi, liền xúc não tăng bằng cách gọi đến không đến, không gọi đến lại đến; nên đứng thì không chịu đứng, không nên đứng lại đứng; việc đáng nói không nói, không đáng nói lại nói. Phật dạy: Cho phép tăng làm đơn bạch yết-ma cho Tỳ-kheo...... này, gọi là làm xúc não, tác bạch như vầy:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này, tăng gọi là nói lời khác lạ, liền xúc não chúng tăng, gọi đến không đến, không gọi đến lại đến; nên đứng thì không chịu đứng, không nên đứng lại đứng; việc đáng nói không nói, không đáng nói lại nói. Nếu thời giờ của tăng đã đến xin tăng bằng lòng gọi Tỳ-kheo mỗ là xúc não. Tác bạch như thế.
Bạch như vậy rồi, gọi là làm xúc não. Nếu chưa bạch, trước xúc não tăng, tất cả phạm đột-cát-la. Nếu bạch rồi, mà xúc não tăng, tất cả phạm ba-dật-đề.
Pháp trị ngựa dữ:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo tánh xấu không nghe lời can ngăn, phạm nhiều tội. Các Tỳ-kheo khác nói: “Thầy phạm tội có thấy hay không?” Tỳ-kheo phạm tội đáp: “Không thấy”. Tăng nên bỏ đi, không hỏi nữa, nói như sau:
- Nay thầy không thấy tội, chỗ thầy đến, ở đó cũng nêu tội thầy. Vì thầy nói như vầy: “Không cho ông làm A-nậu-bà-đà, không cho bố-tát, tự tứ”. Như người huấn luyện ngựa, gặp những con khó điều phục liền dùng dây buộc nó lại rồi đi. Thầy Tỳ-kheo không thấy tội cũng như vậy. Tất cả mọi người đều xa lìa, chỗ thầy đến, dù cho bố-tát, tự tứ cũng không cho.
Người đó không nên cầu thính. Đây tức là thính.
Phạm pháp trị phạt:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo tánh xấu phạm giới, lại không nghe lời can ngăn, chúng tăng nên mặc tẫn để trị. Nên thực hành như sau:
Tất cả Tỳ-kheo mặc tẫn không nói chuyện với Tỳ-kheo phạm tội. Đây là phạm phạt trị (nhưng không thay đổi). Nên dẫn đến trước chúng, mọi người cùng phê bình rồi đuổi đi, không cho thuyết giới, cũng không cho tham gia các pháp hội.
Pháp xả giáo thọ Tỳ-kheo ni:
Bấy giờ, nhóm Tỳ-kheo ni sáu vị, Sa-di-ni, Thứcxoa-ma-na đến chùa cùng Tỳ-kheo, Sa-di cùng ở; lại trêu chọc nhau, cùng nhau đọc kinh, khóc la, hoặc cười giỡn, làm não loạn các Tỳ-kheo ngồi thiền. Phật dạy: Nên gọi họ đến quở trách và trị phạt. Nếu không thay đổi, nên vì Hòa-thượng, A-xà-lê của Sa-di-ni làm yết-ma xả giáo thọ.
Pháp yết-ma úp bát cho nhà người tại gia:
Phật dạy: Nhà người tại gia có năm pháp, nên cho yết-ma úp bát: Không hiếu thuận với cha mẹ, không cung kính Sa-môn, Bà-la-môn, không tôn trọng Tỳ-kheo. Có năm pháp không nên làm yết-ma phú bát tức là ngược lại năm điều trên. Lại nữa, nhà người tại gia có mười pháp, chúng tăng nên làm yết-ma phú bát cho, là: Mắng nhiếc hủy báng Tỳ-kheo, làm cho Tỳ-kheo bị tổn hoại, làm việc không lợi ích, làm cho Tỳ-kheo không có nơi nương tựa, làm cho Tỳ-kheo đấu tranh rồi loạn, trước mặt Tỳ-kheo nói xấu Phật, Pháp, Tăng, dùng việc vô căn cứ về pháp bất tịnh để hủy báng Tỳ-kheo, xúc phạm Tỳ-kheo-ni. Người tại gia phạm một trong mười pháp này thì làm pháp yết-ma phú bát cho. Nên tác bạch cho như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này thanh tịnh, mà người tại gia tên là....... dùng tội Ba-la-di vô căn cứ hủy báng Tỳ-kheo. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng chấp thuận, nay tăng vì người tại gia...... này làm yết-ma phú bát, không qua lại, tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... thanh tịnh, mà người tại gia tên là...... dùng tội Ba-la-di vô căn cứ hủy báng Tỳ-kheo. Nay tăng vì người tại gia tên là...... làm yết-ma phú bát, không qua lại. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng vì người tại gia tên là...... làm yết-ma phú bát, không qua lại thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng vì người tại gia...... này làm yết-ma phú bát, không qua lại rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp sai một Tỳ-kheo đến nói với người tại gia:
Phật dạy: Tăng nên bạch hai lần yết-ma sai một Tỳ-kheo làm sứ giả, đến nói với người tại gia cho họ biết. Vị Tỳ-kheo sứ giả đó phải có tám tính chất, tám tính chất và pháp sai đã nói rõ như trong luật. Tỳ-kheo sứ giả này đến nhà người tại gia kia, không được nhận các thứ cúng dường như: giường, ghế, thức ăn v.v... gặp họ nên nói rằng: “Nay tăng vì ông làm yết-ma phú bát, không qua lại”. Người tại gia kia không hiểu, nên giải thích cho họ hiểu. Nếu họ nói: “Làm cách nào để giải yết-ma phú bát cho nhà tôi, để Tỳ-kheo lại qua lại như trước”? Tỳ-kheo sứ giả nên nói rằng: “Ông phải đến sám hối chúng tăng”. Người kia nếu sám hối, thuận theo chúng tăng không dám chống đối, thì đến tăng xin giải yết-ma phú bát, lại qua lại như trước, tăng nên giải yết-ma cho họ. Văn giải như trong luật.
Pháp can ngăn phá tăng:
Nếu Tỳ-kheo tìm cách muốn phá hòa hợp tăng, tìm cách phá hòa hợp tăng giữ chặt không bỏ. Tỳ-kheo nên can ngăn Tỳ-kheo này rằng: “Đại đức chớ (532) tìm cách muốn phá hòa hợp tăng, chớ tìm cách phá hòa hợp tăng giữ chặt không bỏ. Đại đức nên hòa hợp với tăng, vui vẻ không tranh cãi giống như sữa hòa với nước. Trong Phật pháp mới tăng thêm sự an vui mà ở. Đại đức nên bỏ việc này, chớ để tăng làm yết-ma quở trách mà phạm tội trọng. (Nếu họ nghe thì tốt, không nghe thì) lại khiến Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di; hoặc vua, đại thần, các đạo khác: Sa-môn, Bà-la-môn yêu cầu họ can ngăn, hoặc Tỳ-kheo ở phương khác biết người đó nghe lời nói của mình thì nên nhờ họ đến can ngăn. Người đó nghe thì tốt, nếu không nghe thì nên tác bạch (tác bạch rồi, nên yêu cầu nữa).
- Nầy Đại đức! tôi đã bạch rồi, chỉ còn yết-ma, giờ đây thầy nên bỏ việc này, chớ để tăng vì thầy làm yết-ma mà phạm tội trọng. Nếu người đó nghe lời thì tốt, nếu không nghe thì nên làm yết-ma lần thứ nhất, làm yết-ma lần thứ nhất rồi, nên yêu cầu...).
- Nầy Đại đức, tôi đã bạch yết-ma lần thứ nhất rồi, còn hai lần yết-ma nữa, thầy nên bỏ việc này, chớ để tăng vì thầy làm yết-ma mà phạm tội trọng. Nếu người đó nghe lời thì tốt, nếu không nghe thì nên làm yết-ma lần hai, làm yết-ma lần thứ hai rồi, nên yêu cầu: Nầy Đại đức! tôi đã bạch yết-ma lần thứ hai rồi, còn một lần yết-ma nữa, thầy nên bỏ việc này, chớ để tăng vì thầy làm yết-ma mà phạm tội trọng. Nếu bỏ thì tốt, nếu không bỏ thì cho bạch yết-ma lần thứ ba. Nói yết-ma lần thứ ba xong, thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Bạch hai lần yết-ma xong mà xả, phạm ba tội Thâu-lan-già. Bạch yết-ma lần thứ nhất xong mà xả, thì phạm hai tội Thâu-lan-già. Nếu tác bạch lần thứ nhất chưa xong mà xả, phạm đột-cát-la. Nếu chưa bạch, tìm cách muốn phá hòa hợp tăng, thọ cách phá hòa hợp tăng, giữ chặt không bỏ, tất cả phạm đột-cát-la. Pháp yết-ma cụ thể như trong luật đã nói).
Pháp can ngăn người giúp phá tăng:
Lúc chúng tăng can ngăn Tỳ-kheo phá tăng kia, lại có bè đảng Tỳ-kheo phi pháp, chúng có nhiều một, hai, ba người nói với các Tỳ-kheo rằng: Đại đức thầy chớ can ngăn Tỳ-kheo này, vì Tỳ-kheo này là Tỳ-kheo nói đúng pháp, Tỳ-kheo nói đúng luật. Những lời Tỳ-kheo này nói chúng tôi đều chấp nhận. Các Tỳ-kheo nên nói: Thầy chớ nói rằng: Tỳ-kheo này là Tỳ-kheo nói đúng pháp, Tỳ-kheo nói đúng luật, những lời Tỳ-kheo này nói ra chúng tôi đều chấp nhận. Thật ra, Tỳ-kheo này chẳng phải Tỳ-kheo nói đúng pháp, Tỳ-kheo nói đúng luật, các thầy chớ phá hòa hợp tăng mà phải hòa hợp với tăng, vui vẻ không tranh cãi, v.v... như trước. (Pháp yết-ma cũng như luật có nói).
Pháp can ngăn người bị tẫn xuất hủy báng tăng:
Lúc bấy giờ, có Tỳ-kheo làm việc xấu, khiến nhơ nhà người, mọi người đều biết. Tăng làm yết-ma tẫn xuất, Tỳ-kheo phạm tội hủy báng tăng rằng: “Các Tỳ-kheo có thương, giận, sợ, si, có người đồng tội như tôi, sao có người đuổi, có người không đuổi”? Các Tỳ-kheo nên nói với Tỳ-kheo kia rằng:
- Đại đức làm nhơ nhà người, ai cũng thấy ai cũng nghe; làm hạnh xấu ai cũng thấy ai cũng nghe. Đại đức làm nhơ nhà người, làm hạnh xấu, nên bỏ việc này, chớ để tăng quở trách mà phạm tội trọng.
(Nếu người đó nghe lời thì tốt, không nghe lời thì cho bạch yết-ma đến lần ba như trên. Pháp bạch bốn lần yết-ma như luật có nói).
Pháp can ngăn người có tánh xấu không nghe lời can ngăn:
Nếu Tỳ-kheo có tánh xấu không chịu nghe lời người can ngăn, các Tỳ-kheo dùng giới luật, dạy bảo đúng như pháp, nhưng họ không nghe, lại nói với các Tỳ-kheo: “Đại đức chớ nói với tôi việc tốt việc xấu, tôi cũng không nói với các Đại đức việc tốt việc xấu. Các Đại đức hãy thôi đi, không nên can ngăn tôi”. Tỳ-kheo kia nên can ngăn Tỳ-kheo này rằng:
- Đại đức chớ tự mình không nghe lời can ngăn, mà phải nghe theo lời can ngăn. Đại đức đúng như pháp can ngăn các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo cũng nên đúng như pháp can ngăn Đại đức. Như thế chúng đệ tử Phật mới tăng thêm lợi ích, đệ tử Phật nên dạy bảo nhau, can ngăn nhau, sám hối nhau. Đại đức nên bỏ việc này, chớ để tăng quở trách mà phạm tội nặng.
(Nếu người kia nghe lời thì tốt, bằng không nghe thì nên làm yết-ma cho đến lần thứ ba như trên. Pháp bạch bốn lần yết-ma cũng như luật đã nói.
Pháp can ngăn người ác kiến nói dâm dục không chướng đạo:
Tỳ-kheo kia nói rằng: “Tôi biết pháp Phật nói, hành dâm dục chẳng phải là pháp chướng đạo. Các Tỳ-kheo chân chánh nên can ngăn Tỳ-kheo đó rằng:
- Thầy chớ nói như vậy, đừng hủy báng Thế tôn, hủy báng Thế tôn là không tốt. Đức Thế tôn không nói như vậy, Đức Thế tôn dùng nhiều phương tiện nói làm việc dâm dục là pháp chướng đạo. Nay thầy nên bỏ việc này, chớ để tăng quở trách mà phạm tội nặng.
Nếu người đó nghe nói thì tốt, không nghe thì làm yết-ma cho đến lần thứ ba như trước. Pháp bạch bốn lần yết-ma cũng như trong luật có nói. Pháp can ngăn Sa-di nói dâm dục chẳng phải là pháp chướng đạo, cũng giống như vậy không khác).
Pháp can ngăn người phạm tội:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo sắp phạm tội Ba-la-di cho đến ác thuyết (đột-cát-la). Các Tỳ-kheo nên can ngăn Tỳ-kheo đó rằng:
- Đại đức! Chớ nói như vậy, việc này không nên như vậy. Việc làm của Đại đức chẳng đúng pháp, chẳng đúng luật, chẳng đúng lời Phật dạy.
Nhưng Tỳ-kheo đó không nghe theo lời can ngăn, khuyên răn đúng như pháp của các Tỳ-kheo chân chánh thì phạm giới. Nếu Tỳ-kheo đó tự biết việc mình làm là đúng, lời can ngăn của người khác là sai, nên cố làm, thì phạm tội căn bản. Tỳ-kheo không nghe theo lời khuyên can phạm đột-cát-la. Nếu Tỳ-kheo đó tự biết việc mình làm là sai, lời can ngăn của người khác là đúng, mà cố làm thì phạm tội căn bản. Tỳ-kheo không nghe theo lời khuyên can phạm ba-dật-đề. Nếu người vô trí không biết pháp can ngăn thì nên nói với họ rằng:
Thầy nên hỏi Hòa-thượng, A-xà-lê của thầy, lại học hỏi tụng kinh, biết pháp can ngăn rồi, sau đó mới can ngăn.
Pháp cho Tỳ-ni hiện tiền:
Bấy giờ, các Tỳ-kheo, người phạm tội không có mặt làm pháp yết-ma. Phật dạy: Không nên, không được vắng mặt người phạm tội mà làm pháp yết-ma.
Từ này về sau, vì các Tỳ-kheo kiết tỳ-ni hiện tiền diệt tránh. Nên nói tỳ-ni hiện tiền như vậy.
Nhưng hiện tiền có năm: pháp, Tỳ-ni, nhân, tăng, và giới.
1. Pháp hiện tiền: là pháp diệt tránh sở trì.
2. Tỳ-ni hiện tiền: Tỳ-ni diệt tránh sở trì.
3. Nhân hiện tiền: Nói nghĩa qua lại.
4. Tăng hiện tiền: Cùng yết-ma hòa hợp ở một chỗ, người không đến gởi dục cho người hiện tiền, để người có tư cách ngăn không ngăn được.
5. Giới hiện tiền: Ở trong giới làm yết-ma để trị tội.
Pháp cho Tỳ-ni ức niệm:
Bấy giờ, các Tỳ-kheo thật không phạm tội nặng Ba-dật-đề, Tăng-già-bà-thi-sa, Thâu-lan-già. Các Tỳ-kheo khác đều nói phạm tội nặng, hỏi rằng: “Thầy có nhớ phạm tội năng hay không?” Các Tỳ-kheo không nhớ phạm bèn đáp: “Tôi không nhớ phạm tội như thế”, liền nói với các Tỳ-kheo rằng: “Trưởng lão chớ nhiều lần vặn hỏi tôi”, các Tỳ-kheo cố vặn hỏi không thôi.
Phật dạy: Cho phép tăng vì họ tác bạch bốn lần yết-ma Tỳ-ni ức niệm, như văn xin làm yết-ma.
Từ này về sau, kiết diệt tránh tỳ-ni ức niệm cho các Tỳ-kheo, nên nói tỳ-ni ức niệm như vậy.
Tỳ-ni ức niệm là thế nào? Tội của Tỳ-kheo kia không nên nêu, không nên làm ức niệm.
Pháp cho Tỳ-ni bất si:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo cuồng si tâm loạn, phạm nhiều các tội, chẳng phải pháp Sa-môn; nói năng không chừng mực; đến, đi, ra, vào trái với oai nghi. Sau đó, Tỳ-kheo kia tâm trở lại bình thường, bấy giờ các Tỳ-kheo nói: “Thầy phạm tội nặng ba-dật-đề, Tăng-già-bà-thi-sa?” hỏi Tỳ-kheo kia rằng: “Thầy có nhớ mình phạm tội nặng hay không?” Tỳ-kheo kia đáp: “Tôi lúc trước cuồng si tâm loạn, phạm nhiều các tội; chẳng phải tôi cố làm như vậy, chỉ tại cuồng si mà thôi. Các Trưởng lão không cần vặn hỏi nhiều lần, nhưng các Tỳ-kheo cố vặn hỏi không thôi. Phật dạy: Cho phép tăng tác bạch bốn lần yết-ma Tỳ-ni bất si, xin và tác như văn.
Từ nay về sau, kiết diệt tránh tỳ-ni bất si cho các Tỳ-kheo, nên nói Tỳ-ni bất si như vậy.
Thế nào là Tỳ-ni bất si? Tội này của Tỳ-kheo kia không nên nêu, không nên làm ức niệm.
Pháp cho Tỳ-ni Tự ngôn trị:
Tỳ-kheo dùng mặt trời thanh tịnh thấy Tỳ-kheo phạm giới; không giữ kín lại tự nói tội ra ngoài. Phật dạy: Không nên như vậy, nếu ở lúc khác cũng không nên như vậy. Tỳ-kheo phải làm cho người kia nhận tội, sau mới cho tội; không nên, người không nhận tội mà cho tội.
Từ này về sau, kiết diệt tránh tỳ-ni tự ngôn trị cho các Tỳ-kheo, nên nói Tỳ-ni tự ngôn trị như vậy.
Trong đây, là người hiện tiền, người nhận sám, người sám hối.
Thế nào là Tự ngôn? Là tự nói tên tội và chủng loại tội, sám hối là đúng. Thế nào là trị? Tự trách tâm thầy sinh nhàm chán.
Pháp Tỳ-ni lời của nhiều người:
Các Tỳ-kheo tranh sự hiện tiền, không thể diệt được, nên yêu cầu nhiều Tỳ-kheo biết pháp thực hành xá-la để dứt trừ. Vì thẻ xá-la nhiều biểu thị cho lời của nhiều người.
Từ này về sau, vì các Tỳ-kheo kiết diệt tránh dùng lời của nhiều người, nên nói dùng lời của nhiều người như vậy.
Thế nào là lời của nhiều người? Hoặc dùng nhiều người nói trì pháp, trì Tỳ-ni, trì Ma-di.
Pháp cho Tỳ-ni tội xứ sở:
Bấy giờ, các Tỳ-kheo phạm tội, trước sau trái nhau. Phật dạy: Cho phép tăng bạch bốn lần yết-ma tội xứ sở cho Tỳ-kheo kia. Nên như thế cho nhóm họp tăng, tăng nhóm họp rồi vì người kia nêu tội, nêu tội rồi cho làm ức niệm, làm ức niệm rồi cho tội. Làm pháp như văn, làm pháp rồi thuận theo ba mươi lăm việc.
Từ này về sau, kiết diệt tránh tội nơi chốn cho các Tỳ-kheo, nên nói kết tội nơi chốn như vậy.
Thế nào là tội nơi chốn? Tội này của Tỳ-kheo kia cho làm nêu, nên làm ức niệm.
Pháp cho Tỳ-ni như cỏ phủ đất:
Các Tỳ-kheo nghĩ rằng: chúng ta phạm nhiều các giới, chẳng phải pháp Sa-môn cũng làm cũng nói, ra vào không chừng đỗi. Nếu chúng ta lại cùng nhau khéo hỏi việc này; có thể sẽ khiến cho việc tranh cãi này, giống như cỏ phủ đất.
Từ này về sau, kiết diệt tránh như cỏ phủ đất cho các Tỳ-kheo, nên nói như cỏ phủ đất.
Thế nào là cỏ phủ đất: ở đây không còn nói tên tội, chủng loại tội, mà sám hối.
Tránh có bốn loại: Ngôn tránh, mích tránh, phạm tránh, và sự tránh.
1. Ngôn tránh: Tỳ-kheo tránh cãi với Tỳ-kheo, dẫn mười tám việc tranh cãi: pháp phi pháp cho đến thuyết bất thuyết. Dùng tướng như vậy tranh cãi nhau, thành kia đây đấu tranh.
2. Mích tránh: Tỳ-kheo và Tỳ-kheo tìm tội nhau, dùng ba việc nêu tội: phá giới, phá kiến, phá oai nghi; kiến, văn, nghi; làm tướng như vậy để tìm tội, nói chuyện chung không dối, tìm thế lực của bạn, an ủi ý mình; hoặc nêu làm ức niệm, hoặc an việc này, không an việc này, không si không thoát.
3. Phạm tránh: Phạm bảy loại tội, từ Ba-la-di cho đến ác thuyết.
4. Sự tránh: Việc làm trong ngôn tránh, việc làm trong mích tránh, việc làm trong phạm tránh.
Nêu thuốc đối tránh, văn luật có nói rộng.
Pháp kiết nhà thuyết giới:
Luật nói: Các Tỳ-kheo không biết thuyết giới ở chỗ nào. Phật dạy: Cho phép làm nhà thuyết giới. Nên cử một Tỳ-kheo oai nghi nghiêm chỉnh xướng nhà lớn, nhà có lầu, nhà kinh hành; hoặc ở bên sông, hoặc dưới cây, hoặc bên tảng đá, chỗ có cỏ tươi, nên tác bạch như vầy:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng ở chỗ...... làm nhà thuyết giới, tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, nay chúng tăng ở chỗ...... làm nhà thuyết giới, Trưởng lão nào bằng lòng, tăng ở chỗ...... làm nhà thuyết giới thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng ở chỗ...... làm nhà thuyết giới rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp giải nhà thuyết giới:
Bấy giờ, các Tỳ-kheo trước xây nhà thuyết giới rồi, lại muốn xây nhà thuyết giới ở chỗ khác. Phật cho phép giải nhà thuyết giới trước, sau đó kiết lại, nên bạch giải như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng giải nhà thuyết giới ở chỗ...... tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, nay tăng giải nhà thuyết giới ở chỗ....... Trưởng lão nào bằng lòng, tăng giải nhà thuyết giới ở chỗ...... thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng giải nhà thuyết giới ở chỗ...... rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp kiết nhà kho:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo khách đến, phải dời y vật để ở phòng khác không chắc chắn. Phật cho phép dùng một phòng khác làm nhà kho. Nên có một vị Tỳ-kheo xướng phòng...... hoặc nhà sưởi, hoặc nhà có lầu, hoặc chỗ kinh hành làm nhà kho. Xướng rồi nên bạch như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng cho tăng kiết phòng...... làm nhà kho, tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tăng kiết phòng...... làm nhà kho. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng kiết phòng...... làm nhà kho thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng kiết phòng...... làm nhà kho rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Nếu nhà kho không vững chắc, thì cho phép sai người giữ nhà kho. Người đó có đủ các tính chất tốt như trên. Nếu họ không chịu thì cho phước nhiều và cho cháo. Nếu họ vẫn không chịu, thì tất cả y thực nên chia cho họ hai phần. Nếu họ vẫn không chịu thì nên đúng như pháp mà trị).
Pháp giải nhà kho:
Văn lược không có văn giải, nên nói ngược lại văn kiết.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu thời giờ của tăng đã đến xin tăng chấp thuận, tăng giải nhà kho phòng......, tác bạch như thế.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tăng giải nhà kho phòng...... Trưởng lão nào bằng lòng, cho tăng giải nhà kho phòng...... thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng giải nhà kho phòng...... Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp không có chủ làm phòng xá cho mình:
Vị Tỳ-kheo kia xem chỗ không có nạn, không có hại, rồi vào trong tăng, oai nghi đầy đủ, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... xin làm phòng không có chủ tự làm cho mình. Nay tôi đến trước tăng xin làm chỗ này, chỗ không có nạn, không có hại (nói ba lần). Tăng nên xem xét Tỳ-kheo này có đáng tin hay không. Nếu thấy người đó đáng tin thì tăng nên cho phép làm. Nếu thấy người đó không đáng tin, thì tất cả tăng nên đến chỗ ấy xem xét. Nếu tăng không đi, nên sai người đáng tin trong tăng đi xem. Nếu chỗ kia có nạn, có hại thì tăng không nên cho làm chỗ đó. Nên làm như vầy để cho:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... tự xin làm phòng, không có chủ tự làm cho mình, đến tăng xin chỗ này, chỗ không có nạn, không có hại. Nếu thời giờ của tăng đã đến xin tăng chấp thuận, nay tăng cho Tỳ-kheo...... làm chỗ này, chỗ không có nạn, không có hại, tác bạch như vậy.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... tự xin làm phòng, không có chủ, tự làm cho mình, đến tăng xin chỗ này, chỗ không có nạn, không có hại. Nay tăng cho Tỳ-kheo...... làm chỗ này, chỗ không có nạn, không có hại. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... làm chỗ này, chỗ không có nạn, không có hại thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... làm chỗ này, chỗ không có nạn, không có hại rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
(Văn có chủ làm phòng cũng giống như vậy, chỉ có chủ là khác).
Pháp cho kiết giới không mất y:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo bị bệnh thân gầy ốm, có Tăng-già-lê phẩn tảo mang theo rất nặng, tự nghĩ: “Đức Thế tôn cho các Tỳ-kheo kiết giới ngủ không được lìa y, nay ta bị bệnh thân gầy ốm, có Tăng-già-lê phẩn tảo rất nặng nề. Lại có nhân duyên muốn du hành trong nhân gian, không thể đem theo được”. Phật dạy: Từ nay về sau cho phép tăng kiết giới không mất y cho Tỳ-kheo bệnh này, Bạch hai lần yết-ma để tiến hành. Tỳ-kheo bệnh nên đến trước tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... bị bệnh thân gầy ốm. Tăng-già-lê phấn tảo rất nặng, có duyên sự muốn đi trong nhân gian, không thể đem theo được. Nay con đến trước tăng xin pháp kiết giới không mất y (nói ba lần). Tăng cho pháp như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... bị bệnh thân gầy ốm, có Tăng-già-lê rất nặng, lại có nhân duyên muốn đi trong nhân gian, không thể đem theo được, đến trước tăng xin pháp kiết giới không mất y. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, cho Tỳ-kheo này kiết pháp không mất y, (tác bạch như thế).
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... bị bệnh thân gầy ốm, có y Tăng-già-lê phẩn tảo rất nặng, lại có duyên sự muốn đi trong nhân gian, không thể đem theo được, đến trước tăng xin pháp kiết giới không mất y. Nay tăng cho Tỳ-kheo..... pháp kiết không mất y.
Trưởng lão nào bằng lòng tăng cho Tỳ-kheo..... pháp kiết không mất y thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo..... kiết pháp không mất y rồi.
Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp cho làm đồ nằm mới:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo bị bệnh thân gầy ốm, có đồ nằm phẩn tảo rất nặng. Tự nghĩ: “Đức Thế tôn chế giới làm đồ nằm mới phải sài đủ sáu năm. Nếu chưa đủ sáu năm, chưa rách mà cố ý làm đồ nằm mới thì phạm ni-tát-kỳba-dật-đề. Nay ta bị bệnh thân gầy ốm, đồ nằm này quá nặng không mang theo được”. Đức Thế tôn dạy: “Cho phép tăng cho Tỳ-kheo kia bạch hai lần yết-ma làm lại đồ nằm mới”. Tỳ-kheo kia đến trước tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, tác bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... bị bệnh thân gầy ốm, có nhân duyên muốn đi trong nhân gian, nhưng đồ nằm phẩn tảo quá nặng, không thể đem theo được. Nay tôi đến trước tăng xin yết-ma cho làm đồ nằm mới (nói ba lần). Tăng cho như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này bị bệnh thân gầy ốm, muốn đi trong nhân gian, lại có đồ nằm phẩn tảo quá nặng. Nay đến trước tăng xin yết-ma cho làm đồ nằm mới. Nếu thời giờ của tăng đã đến, tăng bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... này yết-ma cho làm đồ nằm mới, (tác bạch như thế).
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này bị bệnh thân ốm gầy, có đồ nằm phẩn tảo quá nặng, lại muốn đi trong nhân gian. Nay đến tăng xin yết-ma cho làm đồ nằm mới. Tăng cho Tỳ-kheo...... này yết-ma cho làm đồ nằm mới. Trưởng lão nào bằng lòng, tăng cho Tỳ-kheo...... này yết-ma cho làm đồ nằm mới thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng cho Tỳ-kheo...... này yết-ma cho làm đồ nằm mới rồi. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc nên thực hành như vậy.
Pháp cho chứa túi dây và gậy:
Bấy giờ, có Tỳ-kheo già yếu cần phải có túi đựng bát, cần gậy để đi. Phật dạy: Cho phép tăng bạch hai lần yết-ma cho vị Tỳ-kheo già kia làm túi và gậy. Vị Tỳ-kheo già nên đến trước tăng, oai nghi nghiêm chỉnh, tác bạch xin như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, tôi là Tỳ-kheo...... già bệnh, cần có túi vải đựng bát, cần gậy để chống. Nay tôi đến trước tăng xin cất chứa gậy, túi vải. Xin tăng cho tôi là Tỳ-kheo...... chứa gậy và túi vải. Xin thương xót cho (nói ba lần), tăng nên cho pháp như sau:
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này già yếu, cần có túi vải đựng bát, cần gậy để chống. Nay đến trước tăng xin chứa gậy và túi. Nếu thời giờ của tăng đã đến xin tăng bằng lòng, cho Tỳ-kheo...... chứa gậy và túi, tác bạch như vậy.
- Bạch Đại đức tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo...... này già yếu, cần có túi vải đựng bát, cần gậy để đi. Nay đến trước tăng xin chứa gậy và túi. Nay Tăng cho Tỳ-kheo...... này chứa gậy và túi. Trưởng lão nào bằng lòng, Tăng nay cho Tỳ-kheo...... chứa gậy và túi thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.
Tăng đã bằng lòng nay cho Tỳ-kheo...... chứa gậy và túi rồi. Tăng bằng lòng vì im lặng, việc đó nên thực hành như vậy.
Pháp sáu niệm:
Theo luật Tăng-kỳ chép:
Niệm thứ nhất: Đó là biết ngày, tính tháng đủ, thiếu, trắng, đen, nói rằng: Tháng này đủ (tháng thiếu gọi là thiếu). Ngày mồng một tháng có trăng cho đến (534) ngày mười lăm tháng có trăng. (tháng không trăng nên nói) ngày mồng một tháng không trăng cho đến ngày mười bốn, mười lăm tháng không trăng.
Phương Tây vốn chế định tháng có tháng có trăng, tháng không trăng. Tháng có trăng hoàn toàn là tháng đủ, tháng không trăng có tháng đủ, tháng thiếu. Ở Trung quốc một tháng có ba mươi ngày. Cho nên chắc rằng, thông báo cho biết tháng đủ, thiếu chính là do phương này lập ra. Nói về tháng, riêng nói mồng một, hai tháng không trăng, có trăng v.v... lại thuận theo ngày tháng của phương Tây đặt ra.
Niệm thứ hai: Đó là biết chỗ của thức ăn, chỗ của thức ăn bất định, tùy theo chỗ thức ăn đó nói rằng: Hoặc ăn thức ăn thường của tăng, hoặc thức ăn thường khất thực, hoặc nhận lời mời của người kia, hoặc ăn thức ăn của mình, v.v...
Nếu chưa xác định thức ăn nên nói:
Ngày nay nghĩ rằng không trái với thức ăn được thỉnh.
Niệm thứ ba: Đó là biết ngày tháng năm lúc thọ giới nói rằng: Vào ngày ấy tháng ấy năm ấy, bóng cây một thước là bao nhiêu, tôi thọ giới cụ túc, không có hạ (nếu có hạ tùy theo bao nhiêu hạ mà nói).
Niệm thứ tư: Đó là biết y bát có không, đủ thiếu. Nếu y bát thiếu, tùy theo có mà nói rằng: Y và bát...... này đủ. Trường hợp không đủ thì nói rằng: Y bát, v.v... không đủ, nghĩ lúc này đủ. nếu tất cả đầy đủ nên nói: Ba y và bát đầy đủ.
Trường hợp y thuốc, bát dư, nghĩ biết đã tịnh thí hay chưa tịnh thí. Nếu (có) chưa tịnh thí thì nói rằng: Có y và thuốc, bình bát dư chưa tác tịnh, nghĩ sẽ thuyết tịnh. Nếu không có nên nói: Không có y thuốc, bát dư.
Niệm thứ năm: Đó là biết ăn chung với chúng, ăn riêng chúng, khuyên tăng ăn chung với chúng, nói rằng: Không nên ăn riêng chúng.
Niệm thứ sáu: Đó là biết bệnh, không bệnh. Có bệnh nói: Nay tôi bị bệnh, nghĩ sẽ trị lành. Không bệnh thì nói: Nay tôi không bệnh, theo chúng hành đạo.
Pháp xả thỉnh:
Nếu Tỳ-kheo không bệnh và trong một ngày thí y, có nhiều người thỉnh. Tỳ-kheo đó nên nhận một người thỉnh, còn những người khác thì chuyển nhường cho các Tỳ-kheo khác nói như sau:
- Thưa Trưởng lão, nhà ấy thỉnh tôi cúng dường năm thứ thức ăn chính. Tôi phải đến chỗ kia, nay tôi xin cúng dường Ngài.
Nếu không từ chối người thỉnh trước, nhận thức ăn của người thỉnh sau mà ăn; thì mỗi miếng phạm một tội ba-dật-đề. Nếu không từ chối người thỉnh sau, nhận thức ăn của người thỉnh trước, mà ăn thì mỗi miếng phạm một tội đột-cát-la.
Làm Pháp dư thực:
Thức ăn có hai loại: 1-Thức ăn chính; 2-Thức ăn phụ. Thức ăn phụ là: thức ăn bằng củ, cọng v.v... Thức ăn phụ này ăn không no. Thức ăn chính là: cơm, cốm, cơm khô, cá và thịt; hoặc cháo mới múc ra khỏi nồi, dùng cọng cỏ vẽ lên, không dính lại, đó là thức ăn chính không được ăn. Trong năm thứ thức ăn chính, nếu ăn một thức ăn chính nào no rồi, xả oai nghi, không làm pháp dư thực mà ăn nữa thì mỗi miếng phạm một tội ba-dật-đề. Nếu muốn ăn, Tỳ-kheo nên đem thức ăn đến chỗ một Tỳ-kheo ăn chưa no, nói như vầy:
- Thưa Đại đức! Tôi ăn no rồi! Xin đại đức biết đó xem đó. Thức ăn này xin làm pháp dư thực.
Tỳ-kheo kia nên ăn một chút, rồi nói với Tỳ-kheo này rằng:
- Thưa Trưởng lão! Tôi đã ăn rồi, Ngài nên lấy để dùng. Tỳ-kheo nên đáp: Vâng!
Làm pháp này rồi, được tùy ý mà ăn.
Pháp ăn riêng chúng bạch ra vào:
Chúng riêng: Hoặc bốn người, hoặc hơn bốn người, hoặc hai, ba vị ăn tùy ý. Bốn vị hoặc hơn bốn vị chia làm hai bộ thay phiên nhau thọ thực. Nếu Tỳ-kheo có nhân duyên ăn riêng chúng, muốn vào ăn nên đứng dậy bạch rằng: “Tôi có nhân duyên...... ăn riêng chúng, muốn vào ăn”.
Phật dạy: “Nên cho phép thứ lớp tùy theo vị Thượng tọa vào ăn riêng chúng”. Duyên là: lúc bệnh, lúc may y, lúc thí y, đi trên đường, đi thuyền, chúng đông nhóm hợp, Sa-môn thí thực. Nếu không có nhân duyên ăn riêng chúng. Tỳ-kheo kia nên đứng dậy thưa:
Tôi ở trong chỗ ăn riêng chúng này, không có nhân duyên, muốn ra ngoài.
Phật dạy: “Cho phép Tỳ-kheo đó ra ngoài”.
Nếu Tỳ-kheo ăn riêng chúng, mỗi miếng phạm một tội ba-dật-đề.
Nếu có nhân duyên không nói, Tỳ-kheo phạm tội đột-cát-la.
Pháp trước bữa ăn sau bữa ăn, đến nhà khác có dặn Tỳ-kheo khác:
Các Tỳ-kheo có nhiều thí chủ thỉnh, Tỳ-kheo sợ không dám vào thành. Phật dạy: Cho phép các Tỳ-kheo dặn nhau để vào thành. Nếu ở một mình nên dặn các Tỳ-kheo ở gần phòng mình, dặn như sau:
- Bạch Đại đức nhớ nghĩ cho, tôi là Tỳ-kheo...... đã nhận lời thỉnh của nhà ấy, nay có duyên...... vào xóm làng...... đến nhà ấy, Bạch cho Đại đức biết như vậy!
Lúc bệnh, lúc may y, lúc thí y thì khai cho không cần dặn Tỳ-kheo khác. Nếu dặn rồi, Tỳ-kheo muốn đến chỗ đó nhưng nửa đường trở lại, hoặc không đến chỗ đã dặn, lại đến nhà khác, cho đến chỗ nhà kho, phòng cạnh xóm làng và chùa ni; nếu đến chỗ đã dặn, vào nhà người tại gia rồi trở ra, v.v... tất cả đều mất lời dặn trước. Nếu muốn đến nên dặn lại.
Pháp phi thời vào xóm làng có dặn Tỳ-kheo khác:
Nếu có việc tăng, việc chùa tháp, việc Tỳ-kheo săn sóc bệnh. Cho phép Tỳ-kheo dặn Tỳ-kheo khác rồi vào xóm làng. Nếu ở một mình nên dặn Tỳ-kheo ở cạnh phòng mình, dặn như sau:
- Bạch Đại đức nhớ nghĩ cho, tôi là Tỳ-kheo...... phi thời vào xóm làng đến nhà ấy vì duyên...... Bạch cho Đại đức biết như vậy!
Nếu đường đi phải qua xóm làng, hoặc có thưa bạch, hoặc nói thọ thỉnh, hoặc vì thế lực lôi kéo, trói buộc v.v... thì không phạm.
Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo các thầy Tỳ-kheo: Các thầy hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ. Nếu Tỳ-kheo nói văn cú tương tự, ngăn che pháp tỳ-ni, Tỳ-kheo này khiến nhiều người không được lợi ích, tạo các nghiệp khổ vì phá diệt Chánh pháp. Nếu Tỳ-kheo thuận theo văn cú, không trái pháp Tỳ-ni, Tỳ-kheo như thế làm lợi ích cho nhiều người, không khiến họ gây ra các nghiệp khổ, Chánh pháp tồn tại lâu dài. Cho nên các Tỳ-kheo, các thầy nên thuận theo văn cú, chớ để cho thêm bớt trái với pháp tỳ-ni. Nên học như vậy. Phật nói như thế xong, các Tỳ-kheo nghe nhận, vui mừng ưa muốn thọ trì.
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: Như lai ra đời vì thấy chúng sinh gây ra nhiều tội lỗi, dùng mười cú nghĩa, kiết giới cho các Thanh văn. 1-Được tăng nhiếp thủ là nghĩa thứ nhất này, Như lai kiết giới cho các Thanh văn. Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong, vui mừng ưa thích thọ trì. Cho đến cú nghĩa thứ mười Chánh pháp tồn tại lâu dài, mỗi câu cũng giống như vậy.
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: Như lai ra đời, dùng mười cú nghĩa, vì các Tỳ-kheo đặt ra yết-ma-quở trách. Được tăng nhiếp thủ, đó là nghĩa thứ nhất. Như lai ra đời, vì các Tỳ-kheo đặt ra yết-ma-quở trách. Phật nói như thế, các Tỳ-kheo nghe xong, vui mừng ưa thích thọ trì. Cho đến cú nghĩa thứ mười Chánh pháp tồn tại lâu dài. Mỗi câu cũng giống như vậy.
Yết-ma diệt tẫn, yết-ma y chỉ, yết-ma ngăn không cho đến nhà người tại gia, yết-ma không thấy tội đã nêu, yết-ma không sám hối, yết-ma ác kiến không bỏ, xem xét lại pháp luật đã chế. Chế thọ y chỉ, chế phạm phạt, chế cử, chế ức niệm, chế cầu thính, chế tự ngôn, chế ngăn A-nậu-bà-đà, chế ngăn thuyết giới, chế ngăn tự tứ, chế giới, chế thuyết giới, chế bố-tát, chế yết-ma bố-tát, chế tự tứ, chế yết-ma tự tứ, chế đơn bạch yết-ma, chế bạch nhị yết-ma, chế bạch tứ yết-ma, chế cho che giấu, cho bản nhật trị, cho Ma-na-đỏa, cho xả tội, chế bốn pháp Ba-la-di, chế mười ba pháp tăng-già-bà-thi-sa, hai pháp bất định, ba mươi Ni-tát-kỳ, chín mươi Ba-dật-đề, bốn Ba-la-đề-đề-xá-ni, Thức-xoa-ca-la-ni, bảy pháp diệt tránh, mỗi câu như yết-ma-quở trách.
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: Có hai kiến chấp, người xuất gia không nên làm: Phi pháp chấp là pháp, pháp chấp là phi pháp. Lại có hai kiến chấp: Tỳ-ni nói phi Tỳ-ni, phi Tỳ-ni nói Tỳ-ni. Lại có hai kiến chấp: Không phạm chấp là phạm, phạm chấp là không phạm. Lại có hai kiến chấp: Nhẹ lại chấp nặng, nặng lại chấp nhẹ. Lại có hai kiến chấp: Hữu dư chấp là vô dư, vô dư chấp là hữu dư. Lại có hai kiến chấp: Thô ác chấp không thô ác, không thô ác chấp thô ác. Lại có hai kiến chấp: Pháp cũ thấy chẳng phải pháp cũ, không phải pháp cũ chấp là pháp cũ. Lại có hai kiến chấp: Chế chấp là chẳng phải chế, chẳng phải chế chấp là chế. Lại có hai kiến chấp: Nói chấp không nói, không nói chấp là nói. Lại có hai kiến chấp: Rượu chấp chẳng phải rượu, chẳng phải rượu chấp là rượu. Lại có hai kiến chấp: Ăn chấp không ăn, không ăn chấp là ăn. Lại có hai kiến chấp: Thức ăn chấp chẳng phải thức ăn, chẳng phải thức ăn chấp là thức ăn. Lại có hai kiến chấp: Thời chấp là phi thời, phi thời chấp là thời. Lại có hai kiến chấp: Tịnh chấp là bất tịnh, bất tịnh chấp là tịnh. Lại có hai kiến chấp: Trọng chấp không trọng, không trọng chấp là trọng. Lại có hai kiến chấp: Nạn chấp chẳng phải nạn, chẳng phải nạn chấp là nạn. Lại có hai kiến chấp: Phá chấp không phá, không phá chấp là phá. Lại có hai kiến chấp: Loại chấp chẳng phải loại, chẳng phải loại chấp là loại. Lại có hai kiến chấp: Đã hiểu nghĩa chấp chưa hiểu nghĩa, chưa hiểu nghĩa chấp hiểu nghĩa. Lại có hai kiến chấp: Đáng thân chấp không thân, chẳng thân chấp đáng thân. Lại có hai kiến chấp: Sợ chấp không sợ, không sợ chấp là sợ. Lại có hai kiến chấp: Đạo chấp phi đạo, phi đạo chấp là đạo. Lại có hai kiến chấp: Đáng làm chấp không làm, không làm chấp đáng làm. Lại có hai kiến chấp: Xa lìa chấp không xa lìa, không xa lìa chấp xa lìa. Lại có hai kiến chấp: Ba-la-di chấp chẳng phải Ba-la-di, chẳng phải Ba-la-di chấp là Ba-la-di. Lại có hai kiến chấp: Chấp thế gian là thường, chấp thế gian là vô thường. Lại có hai kiến chấp: Thấy thế giới có bờ mé, thấy thế giới không bờ mé. Lại có (535) hai kiến chấp: Thân này mạng này, thân khác mạng khác. Lại có hai kiến chấp: Có Như lai diệt độ, không có Như lai diệt độ. Lại có hai kiến chấp: Có không có Như lai diệt độ, và chẳng phải có không có Như lai diệt độ.
Trong Phật pháp có hai kiến chấp như thế, người xuất gia không nên chấp, nếu chấp thì đúng như pháp mà trị. Đức Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong, vui mừng ưa thích thọ trì.
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: Có hai hạng người sống không an vui: hay tức giận, luôn thù oán. Lại có hai pháp: Nóng nảy, và khó bỏ, lại có hai pháp: Keo kiệt, và ganh ghét. Lại có hai pháp: Lừa dối, và quanh co. Lại có hai pháp: Tự cao, và thích tranh cãi. Lại có hai pháp:
Thích trang sức và buông lung. Lại có hai pháp: Mạn, và tăng thượng mạn. Lại có hai pháp: Tham lam, tức giận. Lại có hai pháp: Khen mình, chê người. Lại có hai pháp: tà kiến, và biên kiến. Lại có hai pháp: khó dạy, và không chịu nghe lời chỉ bảo. Đức Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong, vui mừng ưa muốn thọ trì.
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: Người phá giới đọa vào hai đường: Địa ngục, và súc sinh. Người giữ giới sinh vào hai đường: Cõi trời, và cõi người. Tạo nghiệp ác ở chỗ khuất đọa vào hai đường: Địa ngục và súc sinh. Tạo nghiệp lành ở chỗ khuất được sinh vào hai đường: Trời và người. Người tà kiến rơi vào hai đường: địa ngục và súc sinh. Người chánh kiến sinh lên hai đường: trời và người.
Phật và Thánh đệ tử là tôn quý trong người, trời; Có hai pháp không được giải thoát: Phạm giới, không thấy phạm giới. Có hai pháp tự mình được giải thoát: Không phạm, và thấy phạm. Có hai pháp không được giải thoát: Phạm mà không thấy tội, thấy phạm mà không sám hối đúng như pháp. Có hai pháp tự mình được giải thoát: Thấy phạm tội, phạm lỗi mà biết sám hối đúng như pháp. Có hai pháp không được giải thoát: Thấy tội không sám hối đúng như pháp, hoặc sám hối đúng như pháp mà người đó không chịu. Có hai pháp tự mình được giải thoát: Thấy tội mà sám hối như pháp, sám hối đúng pháp thì người đó đúng như pháp thọ, ràng buộc, không ràng buộc cũng như vậy. Có hai hạng thanh tịnh: Không phạm tội, và phạm tội lỗi mà biết sám hối. Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong, ưa thích thọ trì.
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: Có hai chúng: Chúng nói pháp, chúng nói phi pháp.
Ở trong chúng không dùng pháp tỳ-ni, không dùng lời Phật dạy mà nói, nên người nghe lời dạy, ở chung với người không nghe lời dạy, người dứt trừ kiết sử ở chung với, người không dứt trừ kiết sử. Đó là chúng nói phi pháp.
Thế nào là chúng nói pháp? Ở trong chúng dùng pháp Tỳ-ni, theo lời Phật dạy mà nói, nên mọi người nghe lời dạy mà an trụ, mọi người dứt trừ kiết sử mà an trụ. Đó là chúng nói pháp.
Chúng nói pháp trong hai chúng này, ta khen ngợi và tôn trọng. Đức Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong, vui mừng ưa thích thọ trì.
Lại có hai chúng: Chúng đúng pháp, chúng phi pháp. Chúng không như pháp: Trong chúng người phi pháp có thế lực, người đúng pháp không có thế lực. Người phi pháp có bạn, người đúng pháp không có bạn. Làm yết-ma phi pháp, không làm yết-ma đúng pháp; làm yết-ma phi Tỳ-ni, không làm yết-ma như Tỳ-ni. Pháp sai thì hành trì, pháp đúng thì không hành. Đó là chúng phi pháp.
Chúng như pháp: Trong chúng, người đúng pháp có thế lực, người phi pháp không có thế lực. Người đúng pháp có bạn, người phi pháp không có bạn. Làm yết-ma đúng pháp, không làm yết-ma phi pháp; Làm yết-ma Tỳ-ni, không làm yết-ma phi Tỳ-ni, pháp đúng thì hành trì, pháp sai thì dứt trừ. Đó là chúng đúng pháp. Trong hai chúng này, chúng đúng pháp được ta khen ngợi và tôn trọng. Đức Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong, vui mừng ưa thích thọ trì.
Có hai chúng: Chúng bình đẳng, chúng không bình đẳng cũng như vậy.
Bấy giờ, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nếu đất nước vua thế lực yếu thì chúng giặc sẽ mạnh. Lúc ấy, Pháp Vương không được vào ra một cách an vui, vua nhỏ của nước giúp sinh không nghe theo mệnh lệnh. Người dân trong nước cũng ra vào không an vui; sự nghiệp phế bỏ, lo buồn khổ não, mọi việc đều tổn giảm, không được lợi ích. Cũng thế Tỳ-kheo phi pháp có thế lực, Tỳ-kheo đúng pháp không có thế lực, Tỳ-kheo đúng pháp không được an vui; hoặc ở trong chúng cũng không được nói; hoặc ở chỗ vắng vẻ. Lúc đó, làm yết-ma phi pháp, không làm yết-ma đúng pháp; làm yết-ma phi Tỳ-ni, không làm yết-ma tỳ-ni; phi pháp thì thực hành, đúng pháp không thực hành. Người kia không siêng năng tinh tấn, chưa đắc nói đắc, chưa nhập nói nhập, chưa chứng nói chứng, khiến cho các vị trời, người dân không được lợi ích, chịu khổ lâu dài. Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong, vui mừng ưa thích thọ trì.
Bấy giờ, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nếu đất nước vua có thế lực mạnh thì chúng giặc suy yếu. Tất cả đều quy phục hoặc chạy trốn. Lúc ấy, Pháp Vương ra vào an vui, không còn sầu lo. Vua nhỏ của nước giáp sinh vâng theo mệnh lệnh. Người dân trong nước cũng được an vui; sự nghiệp như ý không có các lo buồn, khổ não; phần nhiều được lợi ích không có tổn hại. Cũng thế, Tỳ-kheo đúng pháp có thế lực, Tỳ-kheo phi pháp không có thế lực, Tỳ-kheo phi pháp đến chỗ Tỳ-kheo đúng pháp thuận theo lời dạy dỗ không dám trái nghịch, hoặc sẽ chạy trốn không còn gây ra các nghiệp ác, giúp cho Tỳ-kheo đúng pháp được an vui, hoặc ở trong tăng được nói, hoặc ở chỗ vắng vẻ. Lúc đó làm yết-ma đúng pháp, không làm yết-ma phi pháp; làm yết-ma Tỳ-ni, không làm yết-ma phi Tỳ-ni; đúng pháp thì thực hành, phi pháp thì không thực hành. Người đó siêng năng tinh tấn, chưa đắc có khả năng đắc, chưa nhập có khả năng nhập, chưa chứng có khả năng chứng, sẽ làm cho các vị trời, người dân được lợi ích lớn. Đức Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong, vui mừng ưa thích thọ trì.
Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo: Các trưởng lão! Nếu có việc tranh đấu nên nêu tội Tỳ-kheo kia và Tỳ-kheo kia có tội. Họ không tự quan sát mình, nên biết việc nay sẽ thêm lớn, không diệt trừ đúng pháp, đúng tỳ-ni. Vì thế các Tỳ-kheo không an vui. Nếu Tỳ-kheo tranh đấu nhau, nêu tội Tỳ-kheo kia và Tỳ-kheo có tội, mỗi người tự quan sát lỗi mình. Nên biết việc tranh đấu này không thêm lớn, không sâu nặng hơn; được dứt trừ đúng pháp, đúng tỳ-ni. Các Tỳ-kheo sống an vui, các Tỳ-kheo tại sao phải tự quan sát lỗi mình? Vì Tỳ-kheo có tội nghĩ: “Ta phạm việc như vậy, người kia mới thấy ta phạm sai trái. Nếu ta không phạm, người kia không thể thấy ta phạm sai trái. Vì ta phạm nên người kia thấy ta phạm, nay ta nên tự sám hối, khiến người kia không dùng lời thô ác quở trách ta. Nếu ta làm như vậy thì pháp lành thêm lớn”. Đó là Tỳ-kheo có khả năng quán sát lỗi mình.
Vì sao phải nêu tội Tỳ-kheo kia tự quán sát lỗi mình? Người đó nghĩ rằng: “Tỳ-kheo đó phạm sai trái, ta mới thấy được, nếu người đó không phạm sai trái thì ta đâu thấy được. Vì Tỳ-kheo đó phạm sai trái khiến ta thấy được, nếu người đó biết chí thành sám hối, không để ta nói ra những lời thô ác. Như vậy khiến cho pháp lành thêm lớn, đó là nêu tội Tỳ-kheo kia phải tự quan sát lỗi mình.
Nếu Tỳ-kheo có sự tranh đấu, nêu tội Tỳ-kheo kia và Tỳ-kheo có tội tự quán sát lỗi mình như vậy. Nên biết lỗi này không thêm lớn, sẽ diệt trừ đúng pháp, đúng như tỳ-ni, như lời Phật dạy. Các Tỳ-kheo sống an vui. Ngài Xá-lợi-phất nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe (536) xong, vui mừng ưa thích thọ trì.
Bấy giờ, có chúng nhiều Tỳ-kheo đến chỗ Đức Thế tôn, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi sang một bên, bạch Phật rằng:
- Bạch Đức Thế tôn! Đó là pháp chủ yếu, nói về Học. Vậy thế nào là Học?
Phật bảo các Tỳ-kheo: Học về giới nên nói là Học. Thế nào là học giới? Đó là tăng giới học, tăng tâm học, tăng tuệ học, cho nên nói Học. Lúc người kia tăng giới học, tăng tâm học, tăng tuệ học, sẽ điều phục được tham dục, tức giận, ngu si không còn. Người kia tham dục, tức giận, ngu si được dứt trừ tận gốc; không gây ra các nghiệp ác, không gần gũi người ác, cho nên nói là Học. Đức Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong, vui mừng ưa thích thọ trì.
Bấy giờ, Đức Phật hỏi các Tỳ-kheo: Các thầy học thế nào? Các Tỳ-kheo bạch Phật:
- Bạch Đức Thế tôn! Đó là pháp căn bản, là pháp chủ yếu. Như lời Thế tôn nói, chúng con thọ trì nên nói học. Lại có ba học: Tăng giới học, tăng tâm học, tăng tuệ học.
Người học tam ba này, đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Cho nên Tỳ-kheo phải siêng năng tinh tấn tu học ba học này.
Bấy giờ, ngài A-nan ở Kê Viên, thành Ba-la-lợi-tử. Lúc ấy, có Bà-la-môn Khổng Tước Quan đến chỗ ngài A-nan thăm hỏi, rồi ngồi sang một bên, bạch ngài A-nan rằng:
- Thưa Tôn giả! Sa-môn Cù-đàm, vì sao đặt ra tăng giới học, tăng tịnh hạnh học, tăng Ba-la-đề-mộc-xoa học cho các Tỳ-kheo? Ngài A-nan đáp:
- Sở dĩ Thế tôn đặt ra như vậy, là vì điều phục tham dục, tức giận, ngu si làm cho dứt sạch, cho nên Đức Phật chế giới cho các Tỳ-kheo.
- Nếu Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán lậu tận, vị ấy còn tu học những gì?
- Tham dục, tức giận, ngu si đã hết, không gây ra nghiệp ác, không gần gũi các người ác, việc cần làm đã làm xong, gọi là Vô học.
- Như lời tôn giả nói là Vô học sao?
- Đúng vậy!
Bà-la-môn Khổng Tước Quan nghe rồi, vui mừng ưa thích thọ trì. Đức Phật bảo Tỳ-kheo Ca-diếp:
- Nếu Thượng tọa đã không học giới, cũng không khen ngợi giới; nếu có Tỳ-kheo khác ưa thích học giới, khen ngợi giới thì cũng không khuyến khích khen ngợi. Nầy Tỳ-kheo Ca-diếp! Ta không khen ngợi Thượng tọa như thế. Vì sao? Vì nếu ta khen ngợi thì các Tỳ-kheo sẽ gần gũi, Người gần gũi sẽ học theo pháp đó. Nếu học theo pháp đó thì sẽ chịu khổ lâu dài. Nầy Tỳ-kheo Cadiếp! Ta thấy lỗi của Thượng tọa như thế, cho nên không khen ngợi.
(Nếu Trung tòa, Hạ tọa cũng giống như vậy. Kế đến có Thượng tọa, Trung tọa, Hạ tọa đúng pháp, ngược lại các câu trên).
Bấy giờ, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Thí như có con lừa và con bò cùng đi, lừa tự nói: “Ta cũng là bò! Ta cũng là bò!”. Nhưng chân lừa không giống chân bò, không giống tiếng bò; cũng không giống bò nhưng đi chung với bò, tự nói mình là bò. Cũng vậy, có người ngu si theo Tỳ-kheo đúng pháp, tự nói mình là Tỳ-kheo. Người ngu si này, không có tăng giới, tăng tâm, tăng tuệ. Nếu Tỳ-kheo chân chánh đi chung với chúng tăng, tự nói: “Tôi là Tỳ-kheo”. Cho nên các thầy phải siêng năng tu tập tăng giới học, tăng tâm học, tăng tuệ học. Đức Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong, vui mừng ưa thích thọ trì.
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: Có ba học: Tăng giới học, tăng tâm học, tăng tuệ học.
Tăng giới học: Là Tỳ-kheo tôn trọng giới, lấy giới làm căn bản; không tôn trọng định, không lấy định làm căn bản; không tôn trọng tuệ, không lấy tuệ làm căn bản. Tỳ-kheo kia đối với giới này, nếu phạm nhẹ thì sám hối. Vì sao? Vì trong giới đó chẳng phải như phá đồ vật, phá đá gạch. Nếu Tỳ-kheo tôn trọng giới, luôn giữ gìn bền chắc, khéo trụ vào giới; nên có hạnh gần gũi, không có hạnh phá hủy, không có hạnh nhiễm ô, thường tu tập như vậy, Tỳ-kheo dứt được năm kiết sử hạ phần, đạt đến niếtbàn, không trở lại cõi này.
Tăng tâm học: Là Tỳ-kheo tôn trọng giới, lấy giới làm căn bản; tôn trọng định, lấy định làm căn bản; không tôn trọng tuệ, không lấy tuệ làm căn bản như trên.
Tăng tuệ học: Là Tỳ-kheo tôn trọng giới, lấy giới làm căn bản; tôn trọng định, lấy định làm căn bản; tôn trọng tuệ, lấy tuệ làm căn bản. Tỳ-kheo đó các lậu đã hết, được vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát; đối với hiện tại tự biết chứng đắc, ta sinh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm xong, không còn trở lại cõi này. Người thực hành đầy đủ sẽ thành tựu trọn vẹn; người thực hành thiếu sót thì thành tựu không hoàn toàn. Ta nói giới này không có tổn giảm. Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong, vui mừng ưa thích thọ trì.
Lại có ba học: Tăng giới học, tăng tâm học, tăng tuệ học.
Tăng giới học: Là Tỳ-kheo đầy đủ giới hạnh, thiếu thực hành định hạnh, thiếu thực hành tuệ hạnh. Tỳ-kheo đó dứt trừ năm kiết sử hạ phần; đạt đến niết-bàn, không còn trở lại cõi này. Nếu không thể đến chỗ như vậy, thì sẽ làm nhẹ ba kiết: tham dục, tức giận, ngu si; chứng quả Tư-đà-hàm, trở lại cõi người một lần nữa, dứt trừ tất cả nguồn gốc của khổ. Nếu không thể đến chỗ như vậy, dứt được ba kiết, đắc quả Tu-đà-hoàn, không đọa vào đường ác, quyết chí giữ đạo, bảy lần sinh lên cõi trời, bảy lần sinh trong loài người, dứt trừ tất cả nguồn gốc khổ. Nếu Tỳ-kheo đầy đủ giới hạnh, đầy đủ định hạnh, thiếu hành tuệ hạnh cũng giống như trên. Nếu Tỳ-kheo đầy đủ giới hạnh, đầy đủ định hạnh, đầy đủ tuệ hạnh cũng giống như trên.
Lại có ba học: Tăng giới học, tăng tâm học, tăng tuệ học.
Tăng giới học: Là Tỳ-kheo giữ gìn đầy đủ giới Ba-la-đề-mộc-xoa, thành tựu oai nghi, cẩn thận các giới nhẹ, quý trọng như kim cương v.v... tu học các giới, ấy là tăng giới học.
Tăng tâm học: Là Tỳ-kheo xả bỏ được các tham muốn xấu xa, cho đến được nhập vào thiền thứ tư, ấy là tăng tâm học.
Tăng tuệ học: Là Tỳ-kheo biết khổ đế đúng như thật, biết tập đế, diệt đế, đạo đế như thật, ấy là tăng tuệ học.
Bấy giờ, Đức Phật ở trong đại thành nước Bà-xà. Ngài bảo các Tỳ-kheo: Ta nói bốn thứ quảng thuyết. Các thầy hãy lắng nghe, ta sẽ giảng nói cho các thầy.
Các Tỳ-kheo bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Chúng con rất muốn nghe.
Bốn loại nói rộng là gì?
Tỳ-kheo nói như vầy: “Thưa các Trưởng lão, tôi ở thành...... thôn...... đích thân nghe lời Phật, thọ trì. Đây là pháp, là Tỳ-ni, là lời Phật dạy”. Nghe Tỳ-kheo kia nói, các Tỳ-kheo không nên sinh chê bai nghi ngờ, cũng không nên quở trách. Nên xác định rõ văn cú, nghiên cứu Tu-đa-la kinh), Tỳ-ni (luật), xem xét pháp luật. Nếu lúc nghe Tỳ-kheo kia nói, các Tỳ-kheo nghiên cứu kinh, luật, xem xét pháp luật, thấy không tương ưng với kinh, luật, pháp luật. Nên nói: Trưởng lão không nên tụng tập, cũng chớ dạy các Tỳ-kheo khác, nay nên bỏ điều đó đi. Nếu nghe Tỳ-kheo kia nói, các Tỳ-kheo nghiên cứu kinh, luật, pháp luật, thấy tương ưng với kinh, luật, pháp luật. Nên nói với Tỳ-kheo kia rằng: Trưởng lão! Những lời đó là do Đức Phật nói, xác định rõ là lời Phật. Vì sao? Vì tôi nghiên cứu kinh, luật, pháp luật, thấy tương ưng không trái nghịch. Trưởng lão nên khéo thọ trì, tụng tập, dạy bảo các Tỳ-kheo khác, chớ để quên mất. Đây là nói rộng thứ nhất.
Kế đến, nếu Tỳ-kheo nói như vầy: Thưa Trưởng lão! tôi ở thành...... thôn...... trước đây nghe Thượng tọa ở trong tăng hòa hợp nói: Đây là pháp, là tỳ-ni, là (537) lời Phật dạy. Lúc nghe Tỳ-kheo kia nói, các Tỳ-kheo không nên chê bai nghi ngờ, cũng không nên quở trách; nên xác định rõ văn cú, nghiên cứu kinh, luật, xem xét pháp luật. Nếu nghe Tỳ-kheo kia nói, lúc các Tỳ-kheo nghiên cứu kinh, luật, pháp luật, thấy không tương ưng, trái với pháp, nên nói với Tỳ-kheo kia rằng: “Trưởng lão! Đây chẳng phải lời Phật nói, đó là do chúng tăng và Thượng tọa không xác định rõ lời Phật. Trưởng lão cũng vậy. Vì sao? Vì tôi nghiên cứu kinh, luật, pháp luật, thấy không tương ưng với pháp. Trưởng lão không nên tụng tập, cũng đừng dạy bảo các Tỳ-kheo khác, nay nên bỏ điều đó đi”. Nếu nghe Tỳ-kheo kia nói, Tỳ-kheo nghiên cứu kinh, luật, pháp luật, thấy tương ưng với pháp. Nên nói với Tỳ-kheo kia rằng: Trưởng lão! Đây chính là lời Phật dạy, chúng tăng, Thượng tọa và Trưởng lão cũng đã xác định đúng là lời Phật. Vì sao? Vì tôi nghiên cứu kinh, luật, pháp luật, thấy tương ưng với pháp. Trưởng lão nên khéo thọ trì, tụng tập, cũng nên dạy bảo các Tỳ-kheo khác, chớ để quên mất. Đây là nói rộng thứ hai.
Nói rộng thứ ba, nghe từ rất nhiều Tỳ-kheo biết pháp, Tỳ-ni, Ma-di cũng giống như vậy. Nói rộng thứ tư, nghe từ một Tỳ-kheo biết pháp, Tỳ-ni, Ma-di cũng giống như vậy.
Đây là bốn thứ nói rộng, Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong, vui mừng ưa thích thọ trì.
Tỳ-ni có năm việc đáp: Tựa, chế, trùng chế, Tu-Đa-la và tùy thuận. Tu-đa-la có năm pháp, gọi là trì luật: Biết phạm, biết không phạm, biết nhẹ, biết nặng, đọc thuộc giới của hai bộ (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni).
Lại có năm pháp: Bốn pháp giống như trên. Pháp thứ năm là: Trụ tỳ-ni mà bất động.
Lại có năm pháp: Bốn pháp giống như trên. Pháp thứ năm: Việc tranh đấu khởi lên, hoàn toàn có khả năng trừ diệt.
Có năm hạng trì luật:
1. Thuộc giới từ bài tựa, bốn Ba-la-di, mười ba tăng tàn, hai pháp bất định, thông thuộc ba mươi pháp ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
2. Thông thuộc chín mươi ba-dật-đề.
3. Thông thuộc giới và tỳ-ni.
4. Thông thuộc giới của hai bộ (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni) và tỳ-ni.
5. Thông thuộc tất cả giới luật.
(Trong năm hạng trì luật này, mùa Xuân, Thu, Đông Tỳ-kheo nên nương bốn hạng trì luật trước. Nếu không nương ở, thì Tỳ-kheo phạm đột-cát-la. Hạ an cư Tỳ-kheo nên nương hạng trì luật thứ năm. Nếu không nương ở, thì Tỳ-kheo phạm ba-dật-đề.
Người trì luật có năm công đức: Giới phẩm vững chắc, hoàn toàn thắng được các oán thù, ở trong chúng quyết đoán không sợ hãi; nếu có nghi ngờ hối hận, có thể khai mở được, khéo trì luật giúp cho Chánh pháp còn mãi.
Lại có năm thứ phạm giới: Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-cát-la. Cũng gọi là năm loại giới được chế, năm nhóm phạm. Nếu người không thấy, không biết năm thứ phạm, ta nói người này ngu si (năm thứ phạm Ba-la-di cho đến độtcát-la).
Lại nữa, người chết có năm điều xấu: Dơ dáy, hôi thối, có sợ hãi, khiến người sợ hãi, ác quỉ có dịp làm hại, là chỗ của thú dữ, phi nhân. Người phạm giới có năm lỗi: thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp không thanh tịnh, như thây chết hôi thối kia. Ta nói người này cũng giống như vậy. Hoặc người thân, miệng, ý nghiệp không thanh tịnh, tiếng xấu đồn xa, như mùi hôi thối từ thây chết phát ra. Ta nói người này cũng giống như vậy.
Người có thân, miệng, y nghiệp không thanh tịnh, các Tỳ-kheo thanh tịnh sợ hãi tránh xa, như thấy chết kia khiến cho người sợ hãi. Ta nói người này cũng giống như vậy.
Người thân, miệng, y nghiệp không thanh tịnh, làm cho các Tỳ-kheo thanh tịnh thấy sinh tâm ác nói: “Tại sao ta lại thấy người ác này?”, như người thấy thây chết sinh sợ hãi, làm cho ác quỉ có dịp làm hại, ta nói người này cũng giống như vậy. Người có thân, miệng, ý nghiệp không thanh tịnh, ở chung với người ác, như chỗ thây chết kia thú dữ, phi nhân cũng ở. Ta nói người này cũng giống như vậy. Đó là người phạm giới có năm lỗi, như thây chết kia. Người phá giới có năm lỗi là:
Tự hại mình, bị người hiểu biết quở trách, tiếng xấu đồn xa, lúc qua đời sinh tâm hối hận, chết đọa đường ác. Người trì giới có năm công đức (ngược lại các câu trên). Lại có năm việc: Trước chưa được vật thì không thể được; đã được thì không giữ được; hoặc tùy theo các chúng: Sát-lợi, Bà-la-môn, hoặc chúng cư sĩ, chúng Tỳ-kheo, ở trong các chúng đó có hổ thẹn; trong vô số dotuần, Sa-môn, Bà-la-môn nói điều xấu ác đó; người ác phá giới chết đọa vào đường ác. người trì giới có năm công đức (ngược lại các câu trên).
Có năm cách tác tịnh quả: Hỏa tịnh, đao tịnh, sang tịnh, điểu tịnh, và bất nhậm chủng tịnh. Lại có năm cách tác tịnh: Bóc một ít vỏ, bóc hết vỏ, chín rục, làm hoại, bị hư.
Có năm pháp làm cho Chánh pháp mau diệt tận:
1. Có Tỳ-kheo không nghe rõ đọc tụng hay quên lộn, văn không đầy đủ; lại lấy đó dạy người khác. Văn đã không đầy đủ thì nghĩa sẽ thiếu sót.
2. Có Tỳ-kheo là Thượng tọa, người thù thắng trong tăng, như người chủ của một nước, mà phần nhiều không giữ giới, chỉ tu các pháp ác, buông thả giới hạnh, không siêng năng tinh tấn, chưa đắc nói đắc, chưa nhập nói nhập, chưa chứng nói chứng; làm cho các Tỳ-kheo hậu sinh nhỏ tuổi học tập theo hạnh đó. Phần nhiều họ cũng phá giới, làm các việc ác, buông bỏ giới hạnh, cũng không siêng năng tinh tấn, chưa đắc nói đắc, chưa nhập nói nhập, chưa chứng nói chứng.
3. Có Tỳ-kheo học rộng, trì pháp, trì luật, trì Ma-di; lại không lấy điều đọc tụng đó dạy bảo các Tỳ-kheo khác, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Người đó qua đời, khiến cho Chánh pháp bị dứt mất.
4. Có Tỳ-kheo khó dạy bảo, họ không nghe theo những lời hay, không thể nhẫn nhục. Các Tỳ-kheo thanh tịnh khác liền xả trí họ.
5. Có Tỳ-kheo thích tranh cãi, mắng nhiếc nhau; người này nói người kia bằng những lời độc ác, hơn thua lẫn nhau.
Lại có năm pháp khiến cho Chánh pháp tồn tại lâu dài (ngược lại năm điều trên).
Bấy giờ, có Tỳ-kheo khác đến chỗ Phật bạch rằng:
- Bạch Đức Thế tôn! Vì sao Chánh pháp mau diệt tận? Đức Phật bảo Tỳ-kheo:
- Nếu Tỳ-kheo đối với pháp luật xuất gia, không có tâm nói pháp cho người, cũng không có tâm nghe pháp, ghi nhớ; Dù có gìn giữ vững chắc cũng không thể suy nghĩ nghĩa lý. Người kia không biết nghĩa, không thể tu hành đúng như lời Phật dạy, không thể lợi mình, cũng không thử lợi người.
Đức Phật bảo Tỳ-kheo:
- Vì nhân duyên này, khiến Chánh pháp mau dứt mất.
- Bạch Đức Thế tôn! Lại làm sao khiến cho Chánh pháp tồn tại lâu dài? (Ngược lại điều trên).
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Tỳ-kheo đến trong tăng, trước phải có năm pháp: Phải có tâm từ; có tính khiêm nhường như khăn lau bụi; phải khéo biết ngồi, đứng; nếu thấy Thượng tọa phải đứng dậy; nếu thấy Hạ tòa không cần đứng dậy. Người kia vào trong tăng, không nói nhiều, không luận bàn việc thế gian; hoặc tự nói pháp; hoặc có người thỉnh nói pháp, hoặc thấy trong tăng có việc không thể giải quyết, tâm không chấp thuận thì nên im lặng. Vì sao? Vì sợ những điều mình nói sẽ khác với tăng, Tỳ-kheo trước nên có năm pháp này, sau đó mới vào trong tăng.
Bấy giờ, Đức Phật ở bên ao Già-già, thành Chiêmbà. Vào ngày mười lăm tháng có trăng thuyết giới, ở chỗ đất trống các Tỳ-kheo vây quanh Phật. Lúc ấy, có Tỳ-kheo nêu tội thấy, nghe, nghi của Tỳ-kheo kia. Lúc đang nêu tội, Tỳ-kheo kia dùng lời khác trả lời, rồi nổi lên tức giận.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
- Các thầy nên xét định rõ, rồi hỏi người kia. Người kia ở trong Phật pháp không làm được gì, không thể làm cho pháp lành thêm lớn. Thí như ruộng lúa non của người nông phu có cỏ đề, cỏ kê mọc nhiều. Nhưng lá lúa non giống như các loài cỏ nên không phân biệt được. (538) Do đó nó làm hại đến lúa non, cho đến lúc lúa trổ đồng đồng, người nông phu mới biết các cây cỏ đó chẳng phải lúa. Khi biết không phải lúa, họ liền nhổ tận gốc các loài cỏ đó. Vì sao? Vì sợ hại đến những cây lúa tốt. Tỳ-kheo cũng giống như vậy, có Tỳ-kheo xấu ác đến, đi, ngồi, đứng, nhiếp giữ y, bát; giống như Tỳ-kheo chân chánh không phân biệt được, cho đến không xả tội. Lúc xả tội, mới biết người ấy là người thấp kém trong hàng Tỳ-kheo. Đã biết sự khác nhau rồi, chúng tăng nên hòa hợp làm pháp yết-ma diệt tẫn người đó. Vì sao? Vì sợ hại đến các Tỳ-kheo chân chánh. Thí như (người) nông phu sảy lúa, lúc gió thổi đến những hạt chắc rơi xuống, còn những hạt lép theo gió bay đi. Vì sao? Vì người nông phu sợ nó làm dơ những hạt chắc. Cũng thế các Tỳ-kheo tội ác đến, đi, ra, vào giống như Tỳ-kheo chân chánh, không phân biệt được, cho đến không xả tội. Khi xả tội mới biết đó là những thứ xấu xa trong hàng Tỳ-kheo. Đã biết rồi, tăng nên hòa hợp làm yết-ma diệt tẫn người đó. Thí như có người cần gỗ để làm hàng rào xung quanh giếng. Người đó cầm búa bén ra khỏi thành, đến khu rừng kia, dùng búa gõ vào các cây. Nếu cây nào chắc thì nghe tiếng chắc, cây nào rỗng thì nghe tiếng rỗng. Nhưng gốc, thân, cành, lá của cây rỗng rất giống cây chắc. Cho đến lúc gõ vào, thì mới biết cây đó bên trong rỗng. Khi biết cây đó bên trong rỗng thì liền chặt cây đó, tỉa bỏ cành lá, tước đi phần thô, sau đó vót nhỏ, làm cho trơn láng, rồi dùng làm hàng rào xung quanh giếng. Cũng thế, Tỳ-kheo tội ác đến, đi, ra, vào nhiếp giữ y, bát, oai nghi như Tỳ-kheo chân chánh, cho đến không xả tội. Khi xả tội, mới biết đó là kẻ xấu xa trong hàng ngũ Samôn. Nếu biết rồi, tăng nên hòa hợp làm pháp yết-ma diệt tẫn. Vì sao? Vì sợ hại đến các Tỳ-kheo chân chánh.
Đức Phật nói kệ:
Sống chung biết tánh hạnh,
Ghen ghét hay tức giận.
Có người nói điều lành,
Chỗ vắng làm việc bậy.
Phương tiện nói dối người,
Nhưng không qua người trí.
Nên nhổ bỏ cỏ xấu,
Và cây rỗng ruột kia.
Tự xưng là Sa-môn,
Dối trá nên diệt tẫn.
Đã cho diệt tẫn rồi,
Làm việc ác phi pháp.
Người thanh tịnh ở chung,
Biết sẽ làm rạng rỡ.
Cùng hòa hợp diệt tẫn,
Hòa hợp dứt khổ đau.
Đức Phật nói như vậy, các Tỳ-kheo nghe xong, vui mừng ưa thích thọ trì.