TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN

BỘ LUẬT SỚ

SỐ 1811 - BỒ-TÁT GIỚI NGHĨA SỚ

Đại sự Trí Giả ở núi Thiên Thai đời Tùy giảng. Đệ tử là Quán Đảnh ghi chép.

MỤC LỤC

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ

I. CHÁNH THUYẾT:

1. KHÔNG ĐƯỢC SÁT SINH:

2. KHÔNG ĐƯỢC TRỘM CƯỚP

3. KHÔNG ĐƯỢC DÂM DỤC

4. KHÔNG ĐƯỢC NÓI DỐI.

5. KHÔNG ĐƯỢC BÁN RƯỢU

6. KHÔNG ĐƯỢC NÓI LỖI CỦA BỐN CHÚNG:

7. KHÔNG ĐƯỢC TỰ KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI.

8. KHÔNG ĐƯỢC BỎN XẺN LẠI HỦY BÁNG.

9. KHÔNG ĐƯỢC GIẬN DỮ KHÔNG NHẬN LỜI SÁM HỐI

10 KHÔNG ĐƯỢC PHỈ BÁNG TAM BẢO

1. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG KÍNH THẦY BẠN

2. KHÔNG ĐƯỢC UỐNG RƯỢU

3. KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT.

4. KHÔNG ĐƯỢC ĂN NĂM THỨ RAU CAY NỒNG

5. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG KHUYÊN DẠY SÁM HỐI

6. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG CẦU CHÁNH PHÁP

7. KHÔNG ĐƯỢC BIẾNG NHÁC KHÔNG ĐI NGHE PHÁP.

8. KHÔNG ĐƯỢC BỎ ĐẠI THỪA THEO TIỂU THỪA.

9. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG SĂN SÓC NGƯỜI BỊNH.

10. KHÔNG ĐƯỢC CHỨA ĐỰNG CỤ SÁT SINH.

11. GIỚI ĐI SỨ CHO QUỐC GIA

12. KHÔNG ĐƯỢC MUA BÁN

13. KHÔNG ĐƯỢC PHỈ BÁNG

14. KHÔNG ĐƯỢC NỔI LỬA THIÊU ĐỐT

15. KHÔNG ĐƯỢC CHỈ DẠY SAI LỆCH

16. KHÔNG ĐƯỢC VÌ LỢI MÀ NÓI PHÁP ĐIỆN ĐẢO.

17. KHÔNG ĐƯỢC Ỷ THẾ MÀ CẦU XIN:

18. KHÔNG ĐƯỢC CHẲNG HIỂU BIẾT MÀ LÀM THẦY

19. KHÔNG ĐƯỢC NÓI HAI LỜI:

20. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG PHÓNG SINH

21. KHÔNG ĐƯỢC GIẬN ĐÁNH TRẢ THÙ

22. KHÔNG ĐƯỢC KIÊU NGẠO KHÔNG THƯA HỎI PHẬT PHÁP

23. KHÔNG ĐƯỢC KIÊU MẠN KHÔNG NÓI PHÁP:

24. KHÔNG ĐƯỢC Không HỌC TẬP GIỚI CỦA PHẬT

25. KHÔNG KHÉO TRI CHÚNG:

26. KHÔNG ĐƯỢC THỌ LỢI DƯỠNG MỘT MÌNH.

27. KHÔNG ĐƯỢC THO THỈNH RIÊNG BIỆT

28. KHÔNG ĐƯỢC THỈNH TĂNG RIÊNG:

29. KHÔNG ĐƯỢC SỐNG BẰNG TÀ MẠNG

30. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG KÍNH NGÀY TỐT.

31. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG CỨU CHUỘC

32. KHÔNG ĐƯỢC LÀM TỔN HẠI CHÚNG

33. KHÔNG ĐƯỢC TÀ NGHIỆP GIÁC QUÁN:

34. KHÔNG ĐƯỢC TẠM THỜI NGHĨ VỀ TIỂU THỪA.

35. GIỚI KHÔNG PHÁT NGUYỆN

36. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG PHÁT THỆ

37. KHÔNG ĐƯỢC ĐẾN CHỖ MẠO HIỂM TAI NẠN:

38. KHÔNG ĐƯỢC TRÁI VỚI TÔN TY THỨ

39. GIỚI PHÁI TU PHƯỚC TUỆ.

40. KHÔNG ĐƯỢC LỰC CHỌN TRUYỀN GIỚI

41. KHÔNG ĐƯỢC VÌ LỢI MÀ LÀM THẦY

42. KHÔNG ĐƯỢC NÓI GIỚI CHO NGƯỜI ÁC

43. GIỚI THỌ THÍ KHÔNG BIẾT HỔ THẸN.

44. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG CÚNG DƯỜNG KINH LUẬT

45. KHÔNG GIÁO HÓA CHÚNG SINH.

46. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP KHÔNG ĐÚNG PHÁP

47. KHÔNG ĐƯỢC CHẾ HẠN KHÔNG ĐÚNG

48. KHÔNG ĐƯỢC PHÁ HOẠI ĐẠO PHÁP

II. CHÁNH LƯU THÔNG: có ba phần:

 


QUYỂN THƯỢNG

Giới Bồ-tát là chương đầu để vận hành điều lành, là trận trước để dứt ác, thẳng đường mà trở về nguồn sống có thể cùng tận, Thanh văn là hạnh nhỏ mà còn tôn kính Ba-la-đề-mộc-xoa, huống chi hàng Bồ-tát mang hoài bão, lại không chuyên trì giới phẩm hay sao? Cả hai bậc đều cung kính vâng giữ, từ vua chúa cho đến thứ dân đều cung kính. Như thế mới đi đến thắng nhân cực quả, kết diệu nghiệp của đạo tràng.

Kinh luận ghi chép giới tướng có nhiều loại, thọ pháp được truyền ký giải thích có giống có khác, do căn cơ tỏ ngộ khác nhau, nên có người nghe đầy đủ, có người nghe sơ lược. Từ ngữ không nói lại hai lần, việc không cùng thực hành. Nay chỉ xét pháp tướng do ngài La-thập đã trình bày, xuất xứ từ Kinh Phạm Võng trong tạng luật. Đời Diêu Tần, niên hiệu Hoằng thỉ năm thứ 3, ngài Lathập đến đất Hán, làm sáng tỏ nghĩa Đại thừa, mở mang Thánh giáo, ngài đã truyền dịch khoảng 300 bộ kinh luận, Kinh Phạm Võng là bản dịch cuối cùng của Ngài, tụng ra lời thệ nguyện rộng lớn, nên Ngài rất thận trọng từng câu chữ, suy nghĩ đến 3 lần mới đặt bút. Nên văn nghĩa của Ngài rất kín đáo, chỉ thú sâu xa, văn kinh rõ ràng dể hiểu, giúp người đời sau hiểu được dễ dàng. Kinh Phạm Võng muốn nói các giáo pháp khác nhau của Chư Phật như những mắt lưới của vui mừng trời Đại Phạm. Phẩm Tâm Địa Giới Bồ-tát nói về luật nghi của Bồ-tát để ngăn ngừa ba nghiệp. Tâm, Ý, Thức, thể một mà tên khác, trong ba nghiệp, thân, miệng và ý theo thứ lớp thì ý nghiệp là chủ, nói theo chỗ cao siêu thì gọi là Tâm địa.

Nay giải thích giới kinh này thành ba lớp huyền nghĩa:

1. Giải thích tên gọi.

2. Nêu thể.

3. Phân biệt.

Giải thích tên gọi: Giải thích tên người, pháp hiệu và địa vị. Ma-ha Bồ-đề chất-đế tát-đỏa là dịch âm tiếng Phạn, gọi tắt là Bồ-tát, tức là lược bỏ những chữ khác, Hán dịch là Đại Đạo Tâm Thành Chúng Sinh, cũng dịch là Khai sĩ, là Đại dõng tâm, lại nói rằng: Thiện, mỹ, tùy theo hạnh mà đặt tên. Vì sự vận hành rộng rãi của tâm nên do đó mà đặt tên.

Kinh Đại Phẩm nói: “Người này có đạo tâm rộng lớn không thể hư hoại giống như kim cương. Từ mới phát tâm cuối cùng đến Đẳng giác, đều gọi là Bồ-tát, còn gọi là Phật tử, vì có nghĩa là nối dõi. Ba thừa đều từ Phật sinh, hiểu biết tất cả gọi là Tử.

Kinh Pháp Hoa nói rằng: “Như con của ta” Bồ-tát nối tiếp là tốt nhất, nên gọi là Chân tử. ” Ba thừa đồng tu đạo, nên có nghĩa này. Hai thừa tự thông, Tiểu quả hẹp mà lại ngắn. Đại sĩ rộng lớn tự thông, còn giúp cho người khác thông, nên được gọi là Phật tử.

Đại Kinh nói rằng: “Mới phát tâm đã là thầy trời người, cao hơn Thanh văn và Duyên giác, nên gọi là Đại tâm. Kế là phân biệt pháp hiệu tức nghĩa là giới. Thi-la là phiên âm tiếng Phạn.

Đại Luận nói rằng: đời Tần dịch là Tánh thiện, cũng dịch là Thanh lương. Vì giới có công năng phá tan nóng bức, từ thể mà được tên, còn gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa, dịch là Bảo giải thoát, còn gọi là Tịnh mạng. Cũng gọi là Thành tựu oai nghi vô sở thọ xúc, đời vị lai không đọa vào ba đường ác, mà được thọ thân ở Tịnh độ, chấm dứt tà mạng, ngăn quấy dứt ác, cũng gọi là giới, nghĩa là dùng nghĩa mà giảng nghĩa. Lại nói nghĩa là lặc, nghĩa là cấm, tùy theo nghĩa mà đặt tên.

Đại Kinh nói rằng: “Như Phật cấm vô thường ông vẫn nói, tức là phá giới cấm của Phật về miệng thì đọa lạc. “Lại nói: “Người này không giữ giới cấm đầy đủ, quả Nhị thừa còn không được, huống chi là quả Vô thượng Bồ-đề.

Nay nói Giới có Đạo cộng giới, Định cộng giới. Tên này vốn xuất xứ từ trong ba tạng. Luật là nghi ngăn dứt, là hình nghi có công năng dứt điều ác của thân, nên gọi là Giới, cũng gọi là Oai nghi, oai là trang nghiêm đáng sợ, nghi là khuôn phép. Người tu hành nghiêm túc đáng đáng sợ, cũng gọi là Điều Ngự, khiến tâm hành điều lành. Định là an tĩnh, khi nhập định tự nhiên điều hành được điều lành, ngăn quấy dứt ác. Đạo là năng thông, sau khi phát chân tự không hủy phạm. Sơ quả cày đất trùng lìa bốn tấc, là do năng lực của Đạo cộng giới. Hai giới pháp này là năng lực cao quý của tâm, phát giới Đạo và Định cùng lúc với Luật nghi, nên gọi là Cộng.

Tát-bà-đa bộ nói: “Luật nghi giới, Thiền giới, Vô lậu giới. Ba tân gọi này xuất xứ tứ ba tạng, nay giới Bồ-tát cũng có 3 tên gọi này. Nếu do yếu thệ mà được thì gọi tên là Luật Nghi. Định cộng của Bồ-tát Đạo cộng, đều dứt ba nghiệp, gọi chung là Giới. Như giới Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp, giới Nhiếp chúng sinh, đây là tên của ba nhóm giới, xuất xứ từ Kinh Phương Đẳng Địa Trì, không chung với ba tạng. Còn luật nghi Bồ-tát dứt cả ba nghiệp. Từ tướng thân, miệng hiển bày ra, đều gọi là Luật nghi. “giới Nhiếp Thiện Pháp” là đối với luật nghi khởi tâm Đại Bồ-đề, dứt được tất cả việc ác mà siêng tu các việc lành, đầy đủ hạnh nguyện Bồ-đề.

“Giới Nhiếp chúng sinh”: Bồ-tát có 11 việc lợi ích chúng sinh, đều là lợi ích rộng lớn cho chúng sinh. Giới phẩm đã nêu đầy đủ tất cả giới của Bồ-tát xong. Tổng kết 9 loại giới đều được xếp vào trong ba loại giới này. Luật Nghi giới, làm cho tâm an trụ, giới Nhiếp thiện pháp, tự thành Phật pháp. Giới Nhiếp chúng sinh, thì thành tựu chúng sinh. Ba giới này gồm hết các giới của Bồ-tát.

Kinh Anh Lạc nói rằng: “Luật nghi giới gồm mười

Ba-la-di, giới Nhiếp thiện pháp gồm tám vạn bốn ngàn pháp môn. Giới Nhiếp chúng sinh gồm từ bi, hỷ xả, giáo hóa chúng sinh, giúp họ được an vui. Giới phẩm của Đại Luận nêu mười loại giới: 1. Không thiếu, 2. Không phá, 3. Không xuyên, 4. Không tạp, 5. Tùy đạo, 6. Không dính mắc, 7. Được người Trí khen ngợi, 8. Tự tại, 9. Tùy định, 10. Cụ túc. Mười giới này được giải thích như sau: “Không thiếu”: Giữ gìn tánh giới, tánh trọng thanh tịnh, như giữ gìn viên ngọc sáng. Nếu phá giới như đồ vật đã bị sứt mẻ, trở thành người ở bên ngoài Phật pháp.

“Không pha”: giữ 13 việc không phá tổn.

“Không xuyên”: Các giới Ba-dật-đề v.v... Nếu có phạm thì như đồ vật bị thủng chảy, không còn thọ nhận được đạo pháp.

“Không tạp”: Giữ gìn Định cộng giới, tuy giữ luật nghi nhưng tâm nghĩ việc phá giới, gọi đó là Tạp. Tâm giữ Định cộng thì dục niệm không khởi. Đại Kinh nói: “Nói lời giễu cợt, tiếng vòng xuyến ngoài tường, man nữ đuổi nhau, đều làm ô nhiễm giới thanh tịnh.

“Tùy đạo”: Thuận theo đế lý có công năng phá được kiến hoặc. “Không dính mắc”: Thấy chân thành thánh, đối với suy nghĩ hoặc không thể đắm nhiễm. Hai giới này là y cứ vào Chân đế trì giới.

8. “Giới được người trí khen ngợi: là “giới Tự tại”: Nói về Bồ-tát giáo hóa chúng sinh được Phật khen ngợi, ở trong thế gian mà tự tại, hai giới này là y cứ vào Tục đế mà nói về trì giới.

9. 10. “Tùy định” và” Cụ túc”: tức là y theo Thủlăng-Nghiêm không khởi Diệt định, hiện các oai nghi, thị hiện hình tượng của mười pháp giới dẫn dắt chúng sinh. Tuy khởi động oai nghi, nhưng nhậm vận thường tịnh, nên gọi là Tùy định giới. Các giới trước đây, Luật nghi là ngăn dứt, gọi là không đầy đủ. Giới của Trung đạo không giới nào không đầy đủ, nên gọi là không đầy đủ. Dùng trí tuệ Trung đạo vào khắp các pháp, nên gọi là Cụ túc. Đây gọi là trì giới Trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Kế là nói về Giai vị: Đức Phật một đời giáo hóa đã nói giáo môn, chia thành bốn giáo: Tạng, Thông, Biệt, Viên. Như Đại Luận dẫn “Ca-chiên-diên nói sáu Độ đều tu”. Thi-tỳ thả chim bồ câu là Đàn mãn. Tu Ma Đề Vương không nói dối là Thi mãn, vị tiên Nhẫn Nhục bị vua Cao quý-lợi cắt thịt, nhưng tâm không động là Nhẫn mãn. Bố thí chứa nhiều như biển là Tấn mãn, Xà-lê Điểu Sào là Thiền mãn. Đại thần Cù-tân chia đất, chấm dứt sự tranh chấp gọi là Trí mãn. Đây là Bồ-tát Tạng giáo. Như Đại Phẩm nói: “Có Bồ-tát phát tâm tương ưng với Tát-bà-nhã, là Bồ-tát Thông giáo. Có Bồ-tát phát tâm du hý thần thông, thanh tịnh cõi nước Phật. Trong Tịnh Danh được Giải thoát không nghĩ bàn biến thân thăng tòa bị quở trách, là Bồ-tát Biệt giáo. Phát tâm liền ngồi đạo tràng thành Chánh giác, đó Bồ-tát Viên giáo. Trong 4 giai vị Bồ-tát, hạnh vị có cạn, có sâu. Trước hết nói ba tạng chính là Tiểu thừa, Thanh văn có 7 Hiền, 7 Thánh. Ngoại phàm có 3:

1. Năm dừng tâm, 2. Biệt tướng niệm xứ, 3. Tổng tướng niệm xứ. Kế là nhập nội phàm có bốn thiện căn: 4. Noãn, 5. Đảnh, 6. Nhẫn. 7. Thế đệ nhất. Hành giả vượt qua các gia hạnh này thì vào Thánh vị:

- Tùy tín hành.

- Tùy pháp hành.

- Tín giải-Kiến đắc.

- Thân chứng

- Giải thoát về thời.

Giai vị của Thanh văn như thế, Bồ-tát bất luận giai vị không dứt phiền não, chỉ tu sáu độ. Nếu nói theo thứ lớp chỉ có thể y theo Tát-bà-đa bộ của Tiểu thừa mà thôi. Từ Sơ phát tâm khởi từ bi thệ nguyện quán sát Bốn đế, dùng Đạo đế làm pháp môn đầu tiên để tu sáu độ. Đàn phá ngạ quỉ, thi cứu địa ngục, giúp chúng sinh, tiến bạt Tu-la, Thiền tĩnh trong là người. Tuệ chiếu các trời. Từ ban đầu là Thích-ca đến Kế-Na-thi-Khí, gọi là Đệ nhất a-tăng-kỳ, được 5 thứ công đức:

- Không đọa vào đường ác.

- Không sinh vào biên địa.-Các căn đầy đủ.

- Không làm thân người nữ-Thường biết túc mạng.

Tự mình không biết thành Phật hay không thành Phật, hướng về giai vị năm pháp quán dừng tâm, biệt tổng niệm xứ. Từ Phật Thi-khí đến Phật Nhiên Đăng gọi là Đệ nhị a-tăng-kỳ. Bây giờ tự biết thành Phật mà miệng không nói, hướng lên giai vị Noãn pháp tánh địa, đã có niềm tin chứng pháp, phải biết thành Phật tu hạnh sáu độ. Tâm chưa hiểu rõ thì không được đến nói với người khác. Từ Đức Phật Nhiên Đăng đến Đức Phật Tỳ-bà-thi là mãn ba a-tăng-kỳ kiếp, lúc đó trong tâm biết rõ ràng, miệng tự phát ra lời. Hướng về Đảnh pháp vị, hiểu rõ tu hành sáu độ Bốn đế. Như người lên đĩnh núi thấy rõ khắp nơi, nên đến nói với người khác. Nếu qua ba a-tăng-kỳ kiếp gieo trồng 32 tướng nghiệp, hướng về đây là Hạ Nhẫn. Một sát-na nhập chân, 34 tâm dứt kết được TamBồ-đề thì thành Phật, Bồ-tát thông giáo tức tam thừa cộng Thập địa.

Càn Tuệ địa: Tên sự tướng đồng ba tạng, tâm quán hạnh khác nhau. Thể của mười tám giới vào như huyễn như hóa. Phá chung Kiến ái tám đảo, danh thân, niệm xứ. Tâm thọ pháp cũng giống như thế. Trụ là Trung quán, tu chỉ siêng năng như ý, căn, lực, giác, đạo. Tuy chưa được Noãn pháp tương tự nước lý. Tổng tướng trí tuệ sâu sắc, gọi là Càn Tuệ địa.

Tánh địa: Vượt qua Càn tuệ địa được Noãn pháp rồi, sẽ tăng thêm tâm đầu, giữa, sau vào Đảnh pháp, cho đến Thế đệ nhất pháp, đều gọi là Tánh địa, được nước tánh vô lậu, nên gọi là Tánh địa.

Bát nhân địa: Tín hạnh và pháp hạnh của Ba thừa, thể thấy giả phát, thật dứt hoặc. Trong Tam-muội Vô gián có đầy đủ tám nhẫn. Một phần trí nhỏ, gọi là Bát nhân địa.

Kiến địa: Ba thừa đồng thấy lý Đệ nhất nghĩa Vô sinh Tứ đế.

Đồng dứt hết Kiến hoặc, 88 sử.

Bạc địa: Thể ái giả phát thật, dứt tư hoặc cõi Dục, chứng Giải thoát thứ sáu, phiền não nhẹ mỏng

Ly dục địa: Thể ái giả tức chân, dứt 5 phần kết sử sau của cõi Dục: Thân kiến, Giới thủ, si, tham, sân, nên gọi là Ly dục địa.

Dĩ biện địa: Người Ba thừa thể sắc, vô sắc ái tức chân phát vô lậu

Công đức lực lớn dứt trừ được tập khí.

Bích-chi-Phật địa: Duyên giác phát chân vô lậu. Công đức lực lớn dứt trừ được tập khí.

Bồ-tát địa: Từ không vào giả, quán đạo song lưu. Quán sâu hai đế, tiến lên dứt trừ tập khí, Sắc tâm vô tri đắc pháp, nhẫn đạo chủng trí. Du hí thần thông, thanh Tịnh cõi nước Phật, thành tựu chúng sinh học Phật, mười lực, bốn vô sở úy. Tập khí dứt sắp hết.

Phật địa: Sức công đức lớn giúp trí tuệ. Một niệm tương ưng tuệ quán Chân đế rốt ráo, tập khí cũng không còn. Như kiếp lửa đốt cháy, vốn không trở thành tro than. Con voi lội qua sông đến bờ bên kia. Tuy Phật và Bồ-tát là tên khác của Nhị thừa, quán chung vô sinh thể pháp. Đồng là Vô học, cùng quy về tro đoạn, chứng quả một chỗ gọi là Thông. Biệt giáo có 52 giai vị:

Ngoại phàm Thập Tín: 1. Tín, 2. Niệm, 3. Tấn, 4. Tuệ, 5. Định, 6.

Bất thối, 7. Hồi hướng, 8. Hộ pháp. 9. Giới, 10. Nguyện.

Nội phàm: Tập chủng tánh Thập trụ: 1. Phát tâm, 2. Trị địa, 3. Tu hành trụ, 4. Sinh quý, 5. Phương tiện cụ túc, 6. Chánh tâm, 7. Bất thối,

8. Đồng chân, 9. Pháp Vương Tử, 10. Quán đảnh. Hết 30 tâm đều gọi là Giải hạnh vị. Tất cả đều là tên gọi của Nội phàm.

Tánh chủng tánh thập hạnh: 1. Hoan hỷ, 2. Nhiêu Ích, 3. Vô nhuế hận, 4. Vô tận, 5. Ly si loạn, 6. Thiện hiện, 7. Vô trước, 8. Tôn trọng, 9. Thiện pháp, 10. Chân thật.

Thập hồi hướng: 1. Cứu hộ nhất thiết chúng sinh ly chúng sinh tướng, 2. Bất hoại. 3. Đẳng nhất thiết Chư Phật, 4. Biến chí nhất thiết xứ, 5. Vô tận công đức tạng, 6. Tùy thuận kiên cố bình đẳng nhất thiết thiện căn, 7. Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sinh, 8. Chân như tướng, 9. Vô phược vô trước giải thoát. 10. Pháp giới vô lượng.

Thánh chủng tánh thập địa: 1. Hoan hỷ, 2. Ly cấu, 3. Minh, 4. Diệm, 5. Nan thắng, 6. Hiện tiền. 7. Viễn hành, 8. Bất động, 9. Thiện tuệ, 10. Pháp vân.

- Đẳng giác địa: Gọi là Kim cương tâm Bồ-tát, cũng gọi là Vô cấu địa. Lân chân cực Thánh là đảnh của chúng học.

- Diệu giác địa: Tức thấy tánh quả rốt ráo Phật Bồđề. Thấy tánh rõ ràng gọi là Diệu giác. Tánh và Tập, nếu y cứ theo giai vị mà phân thì Tập chủng ở trước, Tánh chủng ở sau. Nếu nói theo hạnh thì trước sau không nhất định. Theo thể khởi dụng thì trước nói tánh chủng, sau nói tập chủng. Tìm dụng chọn thể. Trước Tập sau Tánh thì tương tự với giáo đạo và thể đạo. Nói theo vị thì Giáo đạo ở trước, Chứng đạo ở sau. Nói theo thực hành thì Chứng đạo và Giáo đạo đồng thời trước sau không nhất định, theo thể khởi dụng thì trước Chứng đạo, sau Giáo đạo. Tìm dụng chọn thể thì trước Giáo đạo, sau Chứng đạo. Trong giải hạnh có 4 tên gọi: 1. Giải hạnh, 2. Phát tâm, 3. Hồi hướng. 4. Đạo chủng.

Đối với đạo xuất thế hiểu mà siêng năng thực hành, gọi là Giải hạnh. Nơi đạo Bồ-đề khởi ý thú cầu, gọi là Phát tâm. Dùng pháp lành của mình xu hướng Bồ-đề, nên gọi là Hồi hướng. Ngay trong phần như lập quán đạo, nên gọi là Đạo. Hướng về sau quả Phật sẽ sinh, gọi là Chủng. Tập chủng tánh sẽ sinh ra báo Phật. Tánh chủng tánh sẽ sinh ra pháp Phật. Xưa nói là thối trong 6 tâm của vương tử Pháp Tài, tức là tâm thứ 6 của Thập trụ.

Hỏi rằng: Thập Trụ gọi là Tánh địa, Tánh lấy không đổi làm nghĩa. Sao gọi là Thối làm Nhị thừa còn một.

Đáp: Tánh là không làm Nhất-xiển-đề, không ngại thối Đại thừa hướng về Tiểu thừa. Cuối cùng là khó thông. Các sư Chỉ Quán nói: “Chỉ là Tâm thứ 6 trong mười pháp Tín bị thôi. ” So với các Sư Thích luận và các Sư Kim cương Bát-Nhã Luận, đều giải thích như thế. Từ tâm thứ 7 trở lên thì xa lìa hẳn Nhị thừa, bấy giờ vì lợi hoằng kinh đều nhẹ nhàng và tâm độ vật không mất, thường được gọi là Bồ-tát. Viên giáo nói về vị, biệt giáo nói 52 vị thứ lớp tu hành. Viên giáo tu một tâm đủ muôn hạnh, khác với tu hành theo thứ lớp. Năm phẩm ngoại phàm, tất cả Tùy hỷ tâm. Nếu người có trồng sâu gốc lành đời trước, hoặc gặp thiện tri thức, hoặc nghe lý mầu văn kinh đầy đủ. Một pháp là tất cả pháp, tất cả pháp là một pháp. Chẳng phải một, chẳng phải tất cả, không thể nghĩ bàn. Khởi tâm tin hiểu tròn đủ, tin rằng trong một tâm thể có đủ 10 pháp giới. Như trong một hạt bụi có chứa quyển bằng cõi Đại thiên, muốn mở rộng tâm này để tu viên hạnh. Viên hạnh là tất cả hạnh, tóm lại thành mười. Nghĩa là hiểu một niệm bình đẳng đầy đủ không thể nghĩ bàn. Thương xót mình và tất cả bị đắm chìm. Còn biết một tâm tức tất cả tâm, hoặc thông hoặc bít. Có khả năng đối với tâm này đầy đủ đạo phẩm đi đến con đường Bồ-đề. Còn hiểu pháp này là chánh trợ của tâm, biết tâm mình và tâm phàm thánh. Còn an tâm không động, không đọa, không lùi, không tán. Tuy biết một tâm có vô lượng công đức nhưng không sinh đắm nhiễm. Mười tâm thành tựu, tâm mình niệm niệm đều tương ưng với các Ba-la-mật.

Về đọc tụng, tròn đủ mới sinh ra các điều lành, phải nuôi dưỡng, quán việc lăng xăng, phiền động khiến cho đạo hé mở, chỉ có được khi bên trong tu lý đế quán, bên ngoài đọc tụng Đại thừa, cho có năng lực giúp quán, nội quán nương nhau, tín tròn đủ càng sáng. Mười tâm vững chắc, như mặt trời soi sáng thấy các vật sắc.

Người nói pháp: Nội quán chuyển mạnh cùng giúp thêm bên ngoài, hiểu đầy đủ đối với hoằng thệ huân động, lại thêm nói pháp truyền bá như thật, nhưng dùng pháp Đại thừa để đáp, lập ra phương tiện cuối cùng giúp cho đại ngộ. Nói pháp thanh tịnh, thì trí tuệ thanh tịnh, nói pháp khai đạo là trước người đắc đạo có nhân duyên Cùng giáo hóa quy về mình, mười tâm ba dần dần chuyển sáng.

Thực hành cả sáu: Từ trước đến nay, quán tâm thành thục không liên quan đến việc này. Nay chánh quán hơi rõ, tức nương tựa gồm lợi vật. Có thể thí một chút bằng với hư không. Khiến tất cả pháp thú hướng về đến đàn.

Đàn là giới pháp, sự tướng tuy xoay vận ít nhưng hoài bão rất lớn. Lý quán là chánh, sự hạnh là phụ, nên gọi là kiêm hành. Sự phước giúp lý mười tâm tròn đầy.

Chánh hành sáu độ: Viên quán muốn thành thục, thì Sự lý phải viên thông. Sự không ngại lý, lý không ngại sự, thực hành sáu độ đầy đủ. Hai trí quyền và thật hoàn toàn thông đạt. Sản nghiệp trị sinh không trái với thật tướng. Giải thích đầy đủ tri kiến Phật, và chánh quán như lửa đốt củi, lực dụng sáng suốt mạnh mẽ.

Thứ nhất: Nội phàm Thập tín, nghe và tin đầy đủ, thực hành đầy đủ. Khéo tăng thêm lợi ích rất rõ. Vì thế viên hạnh được nhập viên vị. Khéo tu bình đẳng tức pháp giới, nhập vào Tín tâm. Khéo tu thương xót nhập vào niệm tâm. Khéo tu vắng lặng tức vào Tấn tâm. Khéo tu phá pháp tức nhập vào Tuệ tâm. Khéo tu thông bất thì vào Định tâm. Khéo tu đạo phẩm tức nhập vào tâm Bất thối. Khéo tu chánh trợ tức nhập vào Hộ tâm. Khéo tu Bất động tức vào Giới tâm, khéo tu không chấp trước tức vào Nguyện tâm. Như thế gọi là Viên giáo thiết luân Thập tín vị. Viên giáo giống như giác sáu căn thanh tịnh.

Thứ 2. Thánh vị. Trước nói về chân trí trong Thập Trụ, ở Phát tâm trụ có 3 thứ tâm:

1. Duyên nhân thiện tâm phát.

2. Liễu nhân tuệ tâm phát.

3. Chánh nhân lý tâm phát.

Tức là cảnh trí hành diệu tâm phát, có 3 thứ:

“Duyên nhân tâm phát”, tức là trụ trong định Thủlăng-nghiêm giải thoát không thể suy nghĩ bàn luận. “Liễu nhân tuệ tâm phát”: tức là Ma-ha-Bát-nhã rốt ráo Không. “Chánh nhân duyên tâm”: tức là trụ thật tướng pháp thân Trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Kinh Hoa Nghiêm nói: Sơ trụ có bao nhiêu công đức, Chư Phật Ba đời khen ngợi không thể kể hết. Vừa mới phát tâm liền thành Chánh giác. Rõ biết tánh chân thật của các pháp. Nhưng nghe pháp không theo người khác mà tỏ ngộ, “Tịnh Danh” nói rằng: “Biết tất cả pháp là ngồi đạo tràng, cũng là nhập vào pháp môn không hai. Đại phẩm, lúa mới phát tâm liền ngồi đạo tràng, xoay bánh xe pháp độ chúng sinh thành Phật. Tự môn “A” nghĩa là tất cả pháp Không sinh. Thứ 3: Nói về Thập hạnh, tức là sau Thập Trụ, thật tướng hiện rõ không thể nghĩ bàn. Mười phen dứt phá mười phẩm vô minh. Một hạnh là tất cả hạnh, niệm niệm tiến thú, chảy vào pháp giới bình đẳng, các Ba-la-mật nhậm vận sinh ra và lớn lên. Tự hành hóa tha chẳng đồng với hư không.

Thứ 4: Thập Hồi hướng: Sau Thập hạnh là Vô công dụng đạo không thể nghĩ bàn. Chân minh niệm niệm khai phát, tất cả pháp giới nguyện hạnh sự lý, tự nhiên dung hòa hồi nhập vào biển pháp giới bình đẳng. Lại chứng 10 phen trí đoạn phá, 10 phẩm vô minh, nên gọi là Hồi hướng.

Thứ 5: Thập Địa: tức là vô lậu chân minh nhập vào đạo vô công dụng, giống như mặt đất sinh ra tất cả Phật pháp, gánh vác chúng sinh trong pháp giới, nhập khắp Phật địa ba đời. Lại chứng mười thứ trí, cắt đứt mười phẩm vô minh.

Thứ 6: Đẳng giác địa. Quán đạt được nguồn cội của vô minh vô thỉ. Bờ mé trí mãn rốt ráo thanh tịnh. Dứt hẳn cội nguồn của vô minh sâu kín, lên tận đỉnh Trung đạo, khác với cha mẹ vô minh, đây gọi là Hữu sở đoạn, là Hữu thượng sĩ.

Thứ 7: Diệu giác địa, rốt ráo giải thoát trí, Phật Vô thượng nên gọi Vô sở đoạn là Vô Thượng sĩ. Đây chính là 3 đức: Đoạn đức (không dọc, không ngang, không đồng không khác, rốt ráo hậu tâm Đại Niết-bàn. Tất cả đại lý, đại thệ nguyện, đại trang nghiêm, đại trí đoạn, đại biến tri, đại đạo, đại dụng, đại quyền thật, đại lợi ích, đại vô trụ, tức là 10 quán thành thừa viên cực rốt ráo ở Phật, không có tên gọi để nói. Lô-Xá-na gọi là Tịnh Mãn. Tất cả đều đầy đủ. Đại sư Nam Nhạc nói rằng: “42 tự môn là mật ngữ của Phật. Cần gì tiêu biểu 42 vị. Các người học Thích luận chấp đắm không hiểu chỗ này, phần nhiều không dùng. Nhưng bản văn luận có cả ngàn quyển. Ngài La-thập 9 lần lược lại, làm sao không hiểu chỗ này. Ứng sâu thầm biết, vì sao Kinh nói: “Một chữ A sau chữ Đồ chính giữa 42 tự môn, đủ công đức các chữ. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Từ Sơ địa đầy đủ công đức các địa. Nghĩa này là đồng. Tự môn A, các pháp ban đầu bất. Đây há chẳng phải Viên giáo sơ trụ, mới được Vô sinh nhẫn hay sao? Không có chữ để nói, há chẳng phải quả Diệu Giác Vô Thượng hay sao? Phẩm Quảng Thừa nói tất cả pháp đều là Đại thừa, tức nói 42 tự môn. Há chẳng phải viên Bồ-tát từ sơ phát tâm được Thật tướng các pháp hay sao? Nghĩa này và với Viên giác rất rõ ràng. Kế là phẩm Phát Thú nói 10 địa của Biệt giáo.

Cuối cùng nói Ba thừa cộng Phật địa, giai vị của Tam giáo, văn có nói rõ.

Thứ hai: Xuất thể, ban đầu nói Vô tác, kế là nói Chỉ thiện và Hành (566) thiện.

Giới thể, không khởi thì thôi, khởi thì tánh vô sắc nương sắc. Các Kinh Luận đấu nói tranh cãi về Hữu vô: Đều vô vô tác, sắc tâm giả hợp chung thành chúng sinh. Thiện ác vốn do tâm khởi, không nên có riêng thiện không ngỏ, ngoan ác, đều chỉ cho tâm. Thệ không làm ác tức là thọ giới. Kinh Anh Lạc nói: “Tất cả giới của thánh phàm đều lấy tâm này làm thể. Vì tâm vô tận, nên giới vô tận, hoặc nói giáo là giới thể, hoặc nói nguyện là giới thể. Vô biệt vô tác, Đại kinh Thánh hạnh quán chiết phục vô thường, vua A-Xà-thế quán chiết phục cảnh giới. Nhưng nói Sắc tâm bất đạo vô tác. Năm ấm giáo thông cả Đại thừa, Tiểu thừa, chỉ có một sắc bốn tâm. Tiểu thừa dẫn dắt tiểu căn e họ xem thường nhân quả. Phương tiện nói ác khẩu nặng sẽ sinh một pháp riêng là vô tác khiên báo. Pháp hành phải hành, pháp ác phải dứt. Hành một thì có hai sức, đâu không thể không hận. Phương tiện giả nói thích hội một thời. Luận chân như nói một đời thành 4 quả pháp, thẳng ra có pháp phàm phu riêng. Đâu thể y theo đây chính là thật. Nếu trong nhân riêng có điều lành không ngỏ, cộng làm nhân Phật. Phật địa cũng riêng có điều lành này, cộng làm quả Phật. Nên biết, Tâm là Nhân, quả không có pháp nào khác.

Kinh nói rằng: Kinh luận Đại Tiểu thừa, đều vô tác, đều là Thật pháp. Vì sao tâm lực rộng lớn. Có công năng sinh ra các pháp, có thể lôi kéo quả báo. Tiểu thừa nói.

Ở đây có riêng một pháp lành có công năng chế định Phật pháp, nương thầy thọ phát đến trọn đời. Hoặc nương Định cộng, Đạo cộng phẩm sinh riêng, đều dùng tâm lực phát dụng có cảm phát này. Luận Thành Duy Thức có phẩm Vô Tác nói về nhóm Phi sắc phi tâm tụ. Luật sư dùng nghĩa cũng y theo thuyết này, như nghĩa Tỳ-đàm thì giới là Sắc tụ, Vô tác là Giả sắc, cũng nói Vô giáo chẳng phải đối nhẫn sắc. Đại thừa nói Giới là sắc pháp. Đại Luận hỏi rằng: “Giới là sắc pháp có thể luận, suy nghĩ nhiều là tâm sở, vì sao lại nói là nhiều? Nghĩa của Quán luận. Vì giới là Sắc, đây nghĩa là số. Đại thừa vì sao dùng nghĩa số. Giải rằng: “Nếu dùng phi sắc phi tâm là giống với luận Thành thật, vẫn là Tiểu thừa. Nay nói tự gia là số sắc. Sắc Đại thừa đâu có quan hệ về số nhà. Trung Luận nói rằng: Ngôn ngữ tuy đồng nhưng tâm thì khác. Nay Đại thừa nói giới là sắc tụ, đại thừa tâm mong cực quả, nương thầy hễ thọ thì xa đến Bồ-đề. Tùy định tùy đạo, thệ tu các điều lành, thệ độ các loài hàm thức, cũng dùng năng lực rộng lớn của tâm này riêng phát giới thiện. Vì hành giả đã duyên các ác của chỉ dứt. Kinh Ưu-bà-tắc Giới nói rằng: “Thí như có mặt, có cảnh thì có hiện tượng, như thế làm thì có vô tác. Đại Luận giải thích giới độ: “Tội hay không tội thì không được giới Cụ túc. Đây là giới độ chánh thể. Lại nói: “Vì sao gọi là Giới? Vì tâm sinh miệng nói. Nay thọ dứt pháp ác của thân miệng, đó gọi là Giới. Đã có năng trì sở trì, thì có pháp riêng, tức là Vô tác. Phẩm Địa Trì nói rằng: Hạ nhuyễn tâm sau khi phạm bốn tội trọng không mất luật nghi. Nếu đều là Vô vô tác, vì sao nói là mất. Đại Bản Phạm Võng tức Đại thừa giáo. Văn sau nói rằng: “Nếu không thấy tướng tốt thì, dù thọ trước Phật và Bồtát cũng không gọi là đắc giới. ” Lại nói: “Nếu có 7 già nạn, dù phát tâm muốn thọ cũng không gọi là đắc giới. Nếu ngay nơi tâm cho là giới, thì phát tâm chính là Giới. Vì sao nói không được? Đại Kinh nói rằng: “Chẳng phải sắc khác làm nhân quả, bị trong niệm giới, tuy không hình sắc mà có thể hộ trì. Tuy không xúc đối khéo tu phương tiện thì sẽ khiến đầy đủ. Lại như đao kiếm nước tro, gót chân cầu rường. Nếu ngay nơi tâm là Giới, vì sao giả nói không hình không sắc không xúc đối, cho nên biết có vô tác riêng. Tâm trì giới cho là chân giới. Trong Thánh hạnh và Thế vương, không có Đạo quán phân tích vô tác, cứ nêu sắc tâm làm toát yếu để quán thôi, cũng không nói là vô vô tác. Tiểu thừa nói Bốn quả, Đại thừa khai bốn quả là quyền. Lai đã thiện không ngỏ thành Phật, vì thế không trở ngại cho mình, điều lành như Vô thường cũng làm nhân thiện thường, tức từ chỗ đó nêu ra. Nhưng hai cách giải thích này từ xưa đã gây tranh luận, câu không khó ở lý, mà có thể khó ở chỗ văn không hợp lý. Câu có ở lý khó thì văn chỗ nào cũng dễ. Đã đều có văn đâu phải là đạo lý. Nhưng lý được hay không được. Đều được luận lý giáo nghĩa, Lý là thật, giáo là quyền. Thật tuy không có nhưng giáo môn thì có. Nay dùng có Vô tác, kế là nói Đạo cộng giới và Định cộng giới đều lấy Vô tác làm thể. Định cộng giới ở trong tâm định phát ra vô tác, không trở lại các việc ác. Đạo cộng giới ở trong đạo Kiến đế đã phát ra cùng lúc trên tâm thắng đạo, nên nói là Đạo cộng. Các Sư Chỉ Quán giải thích, chưa phải Kiến đạo, đã phát ra vô tác là Đạo cộng giới, cầu giữ trong tâm chánh quán Trung đạo phát vô tác này, có nghĩa ngừa quấy dứt ác, nên gọi là Đạo cộng. Đại Kinh nói rằng: “1. Đắc chánh pháp giới. 2. Thọ thế giáo giới. Bồ-tát đắc chánh pháp giới, nghĩa là Đạo cộng giới, được giới này, rốt ráo không làm việc ác. Được từ thầy trao, nên gọi là Đắc. Trong tâm Trung đạo phát được giới này. Thọ thế giáo giới, nghĩa là bạch bốn lần Yết-ma, rồi sau mới vay nhờ mượn từ thầy mà được, nên gọi là Thọ, sai khác đứng về chỉ bày, nên gọi là Thế giáo. Định cộng và Đạo cộng chung cho cả Đại thừa, Tiểu thừa. Đạo cộng giới và Định cộng giới của Dại thừa xếp vào giới Nhiếp thiện pháp. Có vị Sư nói chỉ nhập Thiền định mới phát ra vô tác. Định cõi Dục không phát ra vô tác, chỉ có nhờ vào không giải mới phát ra vô tác. Có câu: “Chỉ khiến cho chứng được Định Đạo này, theo khả năng có thể dừng phục phẩm thô thành tựu liền phát ra Vô tác. Ban đầu luật Bồ-tát nghi phương tiện cầu thọ, thể của nó sẽ hưng thạnh. Nếu bỏ Bồ-đề nguyện, thì như tăng thượng phiền não phạm 10 giới trọng, thể của nó bị phế bỏ. Nếu không có hai duyên này thì đến thành Phật mới phế bỏ. Định cộng giới và Đạo cộng giới, đắc Định, đắc Đạo là nhân. Niệm ban đầu Định và Đạo chưa cùng lúc với giới. Đầy đủ tâm trước làm Nhân, niệm thứ hai mới có cùng lúc với giới, bấy giờ là Hưng. Một niệm cuối cùng xuất định, xuất đạo, bấy giờ liền phí bỏ.

Câu 2. Khi nhập định, nhập đạo giới và tâm cùng có, lúc đó gọi là hưng. Khi xuất định, xuất đạo, giới và tâm đều xả. Lúc đó gọi là phế, đều gọi là tâm có chung với giới.

Câu 3. Sau khi phát thì ra vào thường có. Sau nhập thắng định thắng đạo, tùy theo chỗ ngay đó mà đặt tên. Bấy giờ, thường hưng khỏi thối định thối đạo. Ba Tạng đều thọ, Bồ-tát đến Bồ-đề, bấy giờ liền bỏ, pháp Nhiếp thiện sinh ra cùng với luật nghi. Tùy thọ thì hưng, hai duyên thì phế. Kế đến ba nhóm giới thể. Luật nghi là pháp thức nghi tắc, giúp cho người tu hành vào đạo. Lại nói Luật là bờ tường. Như thế nếu bỏ tường thì ngựa chạy thẳng. Luật cũng giống như thế. Điều phục người tu hành không làm việc ác. Bồ-tát thệ nguyện dứt ác làm lành. Nếu không động thân miệng tức là dứt ác, phát giới ngăn động, không động tức là Luật Nghi giới. Như phải động thân miệng tức là làm lành, nay phát khởi giới này để ngăn ngừa bất động đó, Nhiếp thiện chúng sinh giới tức là động phải hợp với sự. Nên khai ra làm hai, chọn sách lệ các điều lành y theo nhóm môn bốn thệ nguyện rộng lớn, gọi là Nhiếp chúng sinh, tức là vì người nên hành động, dưới là hóa độ chúng sinh tu muôn điều lành, trên nương về quả Phật, Luật nghi phần nhiều đứng đầu về nội đức. Nhiếp chúng sinh bên ngoài là nhiếp hóa điều lành cả trong lẫn ngoài, nên phải lập nhóm giới. Kế là chỉ thiện và hành thiện. Như có nói về dứt ác không làm, gọi là chỉ. Tin thọ tu tập gọi là Hành. Phật giáo tuy nhiều nhưng tóm gọn vào hai môn chỉ và hành. Các điều ác không làm tức là giới môn, các điều lành khuyên giữ tức là Khuyến môn. Nghĩa Vô tác bao trùm thiện ác, nghĩa thiện ác vô tác bao gồm hành thiện và chỉ thiện, Nay trước nói về thiện, thiện giới không khởi mà đã khởi thì phải dứt ác, đều là nghĩa chỉ, đều có tiến thú, đều là nghĩa Hành. Chạy theo mạnh yếu. Có hành thiện và chỉ thiện khác nhau. Chạy theo sự khởi tâm dứt ác vô tác là chỉ thiện. Hưng tâm vô tác là hành thiện. Giới nghi Đạo cộng giới và Định cộng giới xếp vào Chỉ, Đạo và Định xếp vào nghĩa hai tâm là hành. Tìm vô tác từ nhân duyên dứt, từ chỉ duyên dứt, sau đó sinh Vô tác là chỉ thiện. Tất cả Khuyến môn đều thuộc về hành thiện, còn giải hành chỉ là tác. Chấm dứt là chỉ vô tác. Lại nói: Chỉ thiện và hành thiện đều có Vô tác. Chúng Thanh văn đều là luật nghi giới. Thể chỉ cho dứt ác trên thân và miệng. Luật nghi Bồ-tát ngăn ngừa 3 nghiệp. Lại nêu ra dài ngắn rộng hẹp. Vô tác nghĩa là sau khi phát tâm duyên tăng thượng thì thấp kém liệt không phát, tâm Vô ký yếu kém không phát ra vô tác, như dứt hoặc cõi Dục có 9 phẩm. Sáu phẩm trước phát ra vô tác. Ba phẩm sau không phát, nên nói Tư-đà-hàm ra khỏi biểu vô tác, A-na-hàm ra khỏi biểu bất thiện, La-hán ra khỏi biểu Vô ký. Thiện ác Vô tác đối với tâm mà luận, đều có 4 câu, bốn câu thiện là:

1. Giới phi vô tác: Tâm dứt ác có công năng chỉ nên gọi là giới.

2. Vô tác phi giới: nghĩa là đào giếng xây cầu, tùy việc tùy dụng vô tác, v.v... không thể chỉ ác, chẳng phải là giới.

3. Giới là vô tác: nghĩa là Thiện luật nghi, v.v...

4. Phi giới phi vô tác: tâm lành khác. Ác giới có 4 câu:

Giới phi vô tác, nghĩa là dứt tâm lành.

Vô tác chẳng phải giới, nghĩa là các tội sát, đạo, tùy dụng vô tác. Giới là vô tác, nghĩa là Ác luật nghi, v.v...

Phi giới phi vô tác, nghĩa là dứt tâm ác. Giới có hai loại:

1/ Mười sáu ác luật nghi 2/ Tà giới của ngoại đạo.

Ác luật nghi như Đại kinh. Ngoại đạo ác giới có 95 thứ. Đều có giới pháp. Hoặc khổ hạnh làm giới, hoặc giữ giới trâu ngựa, thờ lửa, uống gió, thường đứng một chân, chạy vào lửa, nhảy xuống sườn núi. Lấy đây làm giới, tức là tà giới. Tùy theo chỗ vận tâm dài ngắn, đều là ác giới.

Thứ 3. Phận biệt: lại chia làm 3: Phải có tín tâm.

Không có 3 chướng. Nhân pháp làm duyên.

Tín tâm là theo môn Ba tạng, lược nêu 3 thứ: Tin nhân quả, thiện ác phải có chỗ vời lấy. Tin Quan đế đắc đạo.

Ta có khả năng quán

Thánh đế sẽ đắc đạo.

Tin có giới, là quán đế nhập đạo sơ môn.

Y theo giới Phương đẳng.

Phải đầy đủ 3 tánh này.

Lại thêm ba loại:

Tin tâm thức của tự tha đều có Phật tánh.

Tin siêng hành thắng thiện thì chắc chắn đắc quả.

Tín chỗ đắc quả Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.

Kế là không có ba chướng:

Chúng sinh chướng ngại mới có ba loại, Phiền não thường có nên không nói chướng. Nghiệp chướng mới có nặng nhẹ, nghiệp nặng chướng ngại giới, nghĩa trở ngại nhân, đó là bảy tội nghịch, mười giới trọng, hiện thân có thứ này, thế là chướng, thân trước chẳng còn trở lại biết gì, cách đời việc xa. Về bảy tội nghịch: Sám hối diệt phi chướng,

Phạm một sám hối và không sám hối, đều có chướng nầy, sau khi sám hối thì không chướng ngại, không sám hối thì chướng ngại.

Bốn tội trước phải sám hối, thấy tướng thì chẳng chướng ngại. Sáu tội sau không sám hối cũng không chướng ngại.

Mười tội trọng không sám hối thì đều chướng ngại, sám hối rồi thì không chướng ngại.

Báo chướng là hai đường địa ngục, ngạ quỉ. Tội khổ nặng tự ngăn cách từ, nhiều mà phán, không gọi là Nhân. Phi nhân, súc sinh chỉ cần hiểu được tiếng nói thì được giới thọ. Phi nhân là quỉ thần và Tu la, rồng là súc sinh, trong loài người thì có nam nữ, huỳnh môn, hai căn. Trời thì có từ trở lên đến 18 cõi trời Phạm, đều gói là Nhân. Tứ không xứ có thể nghe pháp, nhưng nghiệp báo mầu nhiệm nên lược không nói. Từ trời Phi tưởng là đảo chấp, nếu hơn tâm mến thiện cũng có thể đắc giới. Kinh nói ba đường, trời Trường thọ, Biên địa là đất nạn. Y cứ vào nghĩa không thể tu đạo mà thôi. Luận Tát-bà-đa nghi rằng: Rồng, được thọ Bát quan trai, chỉ là được Thiện, chứ không được gọi là Trai. Nay y theo văn mà chuẩn lý. Năm giới, là giới Bồ-tát căn bản, còn không biểu định Phật pháp, năm giới, giới Bồ-tát cho phép bốn đường đều được. Từ tám giới trở lên đến giới Cụ túc, đã là xuất gia biểu định oai nghi, chỉ có tầng trời thứ ba trong cõi người trở xuống mới có thể cảm, các đường khác không có nhân này. Đại Luận nói rồng được thọ giới Bát quan trai. Kế đến nói pháp Nhân duyên.

Nhân duyên có 3 bậc được giới Bồ-tát:

1. Chư Phật, 2. bậc Thánh, 3. Phàm sư. Chư Phật có 2:

Chân Phật như Vương tử Diệu Hải thọ giới Bồ-tát với Phật Lô-xá-na.

Tượng Phật đồng, vàng, ciment.

Trong ngàn dặm không có Sư thì cho phép cầu được tướng tốt tự thệ mà thọ. Xá lợi, tóc móng, Bát, tích trượng, răng, đều khởi tâm kính trọng, có thể làm duyên. Nhưng Xá-lợi khó biết giả thật, hoặc Tiểu thánh được kính trọng như Phật, liền có thể bằng đối. Kế là kinh sách Đại thừa, giải thích có 3:

1/ Không cho phép,

2/ Cùng Phật tượng khác thứ lớp thọ.

3/ Bất luận là có Phật hay không Phật, đối với kinh điển Đại thừa làm duyên. Kinh điển đại thừa ở đâu thì cũng như tháp Phật ở đó. Hai vị Thánh có Thật thánh hoặc Tượng thánh.

Thật Thánh là Bồ-tát Thập địa, đối với đây làm duyên nên hợp với phát giới. Tượng Thánh nghĩa là tượng Bồ-tát bằng vàng, đồng. Kinh này cũng nói: Đối trước Phật, Bồ-tát tự mình thệ nguyện thọ giới, nếu chỉ đối trước tượng Bồ-tát thì e có sẽ coi thường. Nếu phàm phu phát tâm Bồ-tát thì tượng người nầy không thể phát giới. Nói Phật, Bồ-tát là bên Phật có Bồ-tát. Địa Trì chỉ nói Phật, chứ không nói Bồ-tát.

Phàm sư có nội phàm và ngoại phàm, lấy người thật làm tượng. Không cho gọi hình tượng trong kinh là người trí, số bao nhiêu người. Địa Trì và Anh Lạc chỉ một Sư. Phạm Võng thọ pháp cũng chỉ có một Sư. Sau đây chế giới Trung đạo Hòa Thượng, A xà lê, thành bảy tội nghịch, cũng không thấy pháp thỉnh Hòa-thượng. Có nói: “Hòa-thượng, thỉnh Chư Phật làm Hòa-thượng. Văn còn nói: Hai thầy nên hỏi rằng:

Ông có phạm bảy tội nghịch chẳng? Dường như chẳng chỉ Phật. Tuy có trí giả hiện tiền, vẫn phải ở trước tượng Phật, hoặc trước quyển kinh giúp làm phát khởi. Bấy giờ, người trí ở trước tượng Phật. Nếu có người trí, không có kinh tượng cũng không đắc giới. Đủ 18 vật, chế tượng Phật kinh điển luôn phải tùy theo. Kế là (568) nói về Đức nghiệp. Kinh Phạm Võng ghi: “Làm thầy phải là vị Bồ-tát xuất gia, có đủ 5 tính chất:

- Trì giới

- Mười hạ lạp

- Hiểu Luật tạng

- Thông Thiền tư

- Tuệ Tạng cùng tận chỗ sâu kín.

Ngài La-thập nói, Sư ghi chép, truyền bá cho đến này. Kế là Địa Trì nói rằng: “Giới đức phải nghiêm minh, hiểu rõ ba tạng, có khả năng làm được đối với sự cung kính kia, mới theo thọ được. Không như thế thì mắc tội. Kế là nói về pháp duyên. Đạo và tục đều dùng phương pháp khác nhau. Sơ lược có 6 bản:

- Phạm võng

- Địa Trì

- Cao Xương

- Anh Lạc

- Tân Soạn

- Chế chỉ

Kinh Ưu-bà-tắc Giới trao cho tại gia, Phổ Hiền Quán Thọ Giới pháp, thân dường như ở địa vị cao tự thệ thọ giới pháp. Nay không nêu đầy đủ. Phạm Võng Thọ Pháp là giới của Phật Lô-Xá-na trao cho Vương tử Diệu Hải. Phật Thích-ca nhận đọc tụng từ Phật Lô-Xá-na, kế đến chuyển cho Bồ-tát A-Dật-Đa, như thế là 25 vị Bồ-tát. Kế đến giao phó cho ngài La-thập truyền bá, xuất xứ từ phẩm Luật Tạng. Trước là thọ ba quy y: Con tên là......... từ thân này đến thân thành Phật. Trong thời gian đó Quy y thường trụ Phật, Quy y thường trụ pháp, Quy y thường trụ tăng (nói 3 lần). Sau cùng là kết (3 lần). Kế đến sám hối mười nghiệp ác (lạy ba lạy). Khen ngợi tán thán lắng nghe lời răn dạy (ba lần), nói 10 giới trọng. (Hỏi: Có giữ được không? Đáp: Giữ được) Sau đó kết thúc lời khen ngợi phát nguyện. Ngoài ra chỗ chưa hiểu, Sư sẽ chỉ dạy như văn sau: “Người muốn thọ giới, phải sắm sửa nhang đèn thỉnh Sư đến trước Phật truyền giới cho. Sư phải hỏi: “Ong có chịu đựng được mười việc không? Cắt thịt cho chim ưng ăn, xả thân cho cọp đói. (Phải từ Tánh địa trở lên mới chế được.) Cũng nói rằng: “Trong 10 ngàn dặm không có Sư, thì cho phép đối trước tượng Phật mà thọ. Ba quy y, sám hối, nói 10 tội trọng giống như trước, chỉ có nói ra là khác mà thôi.

Kinh Địa Trì tương truyền do ngài Di-Lặc nói: “Nguyên bản là Nhật nguyệt Đăng Minh nói: “Bồ-tát Liên Hoa Tạng thọ trì, kế là hơn 30 Bồ-tát truyền hóa, về sau có Bồ-tát Y-Ba-la-di-lặc mượn dấu viết truyền hóa đến cõi này. Nhưng Kinh Địa Trì là do ngài ĐàmVô-Sấm dịch. Nghi rằng Đàm-Vô-Sấm tức Y-Ba-lặc. Giới phẩm thứ tư nêu ra pháp thọ giới. Nếu Bồ-tát phát nguyện rồi Vô Thượng Bồ-đề. Người đồng pháp Bồ-tát đã phát nguyện, có trí, có lực thiện ngữ, thiện nghĩa thì có thể tụng, có thể trì. Trước hết phải lễ dưới chân người này mà thưa rằng: “Con tên là.......... Theo Đại đức xin theo giới Bồ-tát, Đại đức đối với con không nề mệt nhọc, xin thương xót con (nói 3 lần) Kế đến đứng lên lễ Chư Phật mười phương, rồi thỉnh Sư: “Cúi mong Đại đức trao giới cho con (3 lần)Kế đến sinh niệm “Không bao lâu sẽ được nhòa công đức lớn vô tân vô lượng. Sư phải hỏi: “Ong có phải là Bồ-tát chăng? Đã phát nguyện Bồ-đề chưa? Hỏi xong phải nói: Này pháp đệ! Ong muốn thọ tất cả giới Bồ-tát với ta, nghĩa là giới nhiếp luật nghi giới, Nhiếp Thiện pháp và giới Nhiếp chúng sinh. Giới này là quá khứ, vị lai, hiện tại tất cả các Bồ-tát am trụ giới này. Bồ-tát quá khứ đã học, tất cả Bồ-tát vị lai sẽ học, các Bồ-tát hiện tại đang học. Ong có thọ được không? (Đáp: thọ được (3 lần). Sư phải đứng dậy lễ Phật, xong rồi, nói rằng: “Bồ-tát mỗ ở trước tôi Bồ-tát mỗ của tôi, nói 3 lần thọ giới Bồ-tát. Rồi sau mới kết thúc khen ngợi. Ba chữ hiệp chú “Tiên tán tịch”, theo pháp thọ của kinh bản như thế.

Bản Cao Xương, hoặc bản Đề xướng pháp sư. Nguyên tông xuất xứ từ trong Kinh Địa Trì mà làm pháp nhỏ hay rộng. Trước hết là thỉnh Sư:

Thưa quý Đại đức, con pháp danh là........... nay theo Đại đức xin thọ giới Bồ-tát, cúi xin Đại đức cho phép con thọ, xin thương xót con (3 lần). Kế là xin giới rằng:

Thưa quý Đại đức, nay đã đến giờ, xin cho con thọ giới Bồ-tát (nói 3 lần) Kế là hỏi già pháp (gồm 10 câu). Sư phải thay Chư Phật xướng rằng: “Tất cả Chư Phật và các Bồ-tát tăng trên mặt đất lắng nghe! Bồ-tát nầy cầu ta giới Bồ-tát nay bố thí cho Ong giới Bồ-tát, ông theo tất cả Chư Phật và Bồ-tát tăng thọ giới Bồ-tát, giới nhiếp luật nghi. Giới Nhiếp Thiện pháp, giới Nhiếp chúng sinh, giới này của Chư Phật, đây là giới mà tất cả Chư Bồ-tát, quá khứ, vị lai, hiện tại đã am trụ, là giới mà các Bồ-tát quá khứ đã học, Bồ-tát vị lai sẽ học, Bồ-tát hiện tại đang học, ông cũng đang học như thế, ông có giữ được không? (Đáp giữ được 3 lần) Bạch xong, xướng rằng: “Bồ-tát mỗ này. Ở trước tất cả Phật Bồ-tát, theo tôi là Bồ-tát.... Đã hai ba lần theo giới Bồ-tát rồi. Tôi là Bồtát mỗ. Là người chứng minh. Lại bạch Vô lượng Chư Phật trong mười phương, vị thầy bậc nhất, bậc nhu hòa giác ngộ của tất cả chúng sinh. Bồ-tát nầy đã ở trước Bồtát mỗ đã 3 lần nói thọ tất cả luật nghi giới của Bồ-tát rồi (nói 3 lần), kế là nói 10 tướng trọng xong, kết thúc khen ngợi. Từ đời Tề Tống trở đi phần nhiều dùng pháp này, tức là bản Cao Xương. Kinh Địa Trì do Đàm Vô Sấm ở Hà Tây dịch, có Sa-môn Đạo Tấn, cầu Đàm-Vô-Sấm thọ giới Bồ-tát, Sấm không cho mà còn dạy phải sám hối.

Sau 7 ngày, 7 đêm đến Đàm-Vô-Sấm cầu thọ, Ngài rất giận không trả lời, Đạo Tấn tự nghĩ, chính là do mình nghiệp chướng chưa tiêu mà thôi. Lại càng hết sức chí thành lễ sám suốt 3 năm, Tấn nằm mộng thấy đức Phật Thích-ca trao giới pháp cho mình. Hôm sau đến chỗ Đàm-Vô-Sấm định kể điềm mộng, đi chưa được vài mươi bước thì ngài Đàm-Vô-Sấm ngạc nhiên kêu lên: Lành thay! Ong đã cảm được giới rồi, tôi sẽ chứng minh cho ông. “, kế đó ngài đứng trước tượng Phật nói giới tướng. Bấy giờ, có pháp sư Đạo Lãng là bậc cao túc ở đất Hà Tây, khi Đạo Tấn cảm giới thì Đạo Lãng cũng nằm mộng thấy, Pháp sư bèn hạ thấp giới lạp xuống xin làm pháp đệ của Đạo Tấn, lúc đó có hơn ngàn người theo Đạo Tấn thọ giới, Vương Tự Cừ ở Hà Tây, Cảnh Hoàn con của Mông Tốn, sau dời về Cao Xương cũng thờ Tấn làm thầy. Tấn cũng theo đến, thấy Cao Xương bị nạn đói. Đạo Tấn cắt thịt trên thân mình để cứu người đói, vì thế mà bỏ mạng. Đệ tử của Đạo Tấn là Tăng Quân, họ Triệu, người ở Cao Xương, truyền giới pháp của Sư. Lại có Đàm Cảnh, cũng truyền pháp này. Tông xuất xứ từ quận đó, nên gọi là Bản Cao Xương.

Cuối đời Nguyên có bản của Pháp sư Huyền Sướng. Bản này xuất xứ từ bản của ngài Đàm-Vô-Sấm nhưng hơi rộng hơn bản Địa Trì, e ngài Đàm-Vô-Sấm thệ nguyện phát khởi nhân tình vì có chỗ trùng phức nầy.

Về pháp Thọ Giới Bồ-tát trong Kinh Anh Lạc, trước lễ Tam bảo ba đời (nói 3 lần), kế thọ bốn bất hoại tín, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, quy y giới, (nói 3 lần), kế sám hối m điều ác, năm tội nghịch (nói 3 lần) và 10 giới trọng. Người phạm mất đi 42 pháp hiền thánh. Hỏi có giữ được không? (Đáp giữ được) Cuối cùng kết thúc ba quy y. Lặp lại 10 giới trọng rồi phát nguyện. Người thọ giới Bồ-tát vượt khỏi bốn ma, vượt khổ 3 cõi, đời đời không mất đi thường theo người tu hành cho đến (569) thành Phật. Nếu không thọ giới thì không gọi là tri thức, không khác gì loài súc sinh, thường lìa biển Tam bảo, chẳng phải Bồ-tát, là ngoại đạo tà kiến. Không gần gũi nhân tình, công đức khuyến hóa người thọ giới nhiều hơn xây cất 8 vạn 4 ngàn ngôi tháp báu. Người có giới mà phạm vẫn còn hơn người không có giới mà không phạm. Nếu thọ giới trước Phật và Bồ-tát thật, gọi là Thượng phẩm giới. Nếu sau Phật diệt độ, trong một ngàn dặm không có Phật Bồ-tát, thì được theo người thọ trước làm thầy, gọi là Trung phẩm giới. Nếu trong một ngàn dặm không có pháp sư, được đối trước tượng Phật tự thệ thọ giới, gọi là Hạ phẩm giới.

Bản mới soạn là do các Sư thời cận đại biên tập, gồm có 18 khoa:

Sư vào đạo tràng lễ Phật, rồi ngồi trên tòa ở bên Phật. Đệ tử vào đạo tràng lễ Phật quỳ thẳng Sư thỉnh Tam bảo:

Khởi tâm niệm Tam bảo như ở trước mặt

Sám hối 10 nghiệp bất thiện

Thỉnh các bậc thánh làm thầy

Thỉnh Sư hiện tiền

Sư khen ngợi đệ tử có khả năng phát thắng tâm Đúng lúc xin giới này.

Dạy phát tâm Bồ-đề

Hỏi già pháp (có 15 câu hỏi)

Nghĩ tưởng đắc giới

Lúc phát giới lập thệ

Thọ ba quy y của Bồ-tát

Sư khởi xướng yết-ma cũng dùng yết ma phát giới

Kết xong

Sư lại ngồi xuống khuyên học

Nói tướng của 10 giới tướng trọng kết thúc khen ngợi làm lễ rồi đi.

Chế chỉ pháp thọ giới, đây đủ phương pháp xuất gia và tại gia. Văn nhiều không thể kể hết được. Đề kinh này gọi là Phạm Võng. Quyển thượng: Đức Phật nhìn mành lưới của vua trời Đại Phạm, mành lưới ấy các mắt kết ngọc khác nhau mà hiện bóng lẫn nhau. Ngài nói mọi thế giới cũng giống như vậy, vô cùng vô tận. Trang nghiêm thân Đại phạm chẳng chỗ nào chướng ngại, y theo thí dụ mà đặt tên. Dụ chung cho một phần đã chứng, so ra bất đồng như mành lưới của vua trời Đại Phạm.

Phẩm gọi là “Tâm Địa Bồ-tát”, cũng là lấy Dụ đặt tên. Trong phẩm đã nói về dụng thiết yếu của Đại sĩ như tâm của thân người có thể thu hết muôn sự vật, có thể sinh ra thắng quả là chỗ được Đại sĩ nương tựa, nghĩa là như đất. “Lô-Xá-Na, “ Kinh Bảo Lương dịch là Tịnh Mãn, vì các họa hoạn đều dứt, nên gọi là Tịnh, các đức đầy đủ gọi là Mãn.

Thích-ca Mâu Ni: “Kinh Thụy Ứng” dịch là Năng Nhu, cũng dịch là Năng nhân, Năng nhẫn, còn dịch là Trực lâm.

Mâu-ni là thân miệng ý mãn, Hoặc gọi là Ốc tiêu. Đây là thuyết khác. Phẩm danh hiệu, trong kinh Hoa Nghiêm hoặc gọi là Lô-Xá-Na, hoặc gọi là Thích-ca. Nay nói chẳng một chẳng khác cơ duyên nên nghe mà thôi. Đức Thích-ca ở tại cung Ma-hê-thủ-la, đệ Tứ thiền nói phẩm Pháp Môn Tâm Địa này. Xét văn từ đầu đến cuối, có một ngàn vị Thích-ca cùng với ngàn trăm ức Đức Thích-ca, đều dắt dẫn người có duyên đến chỗ Phật Lô-Xá-Na, thọ giới Bồ-tát. Rồi sau đều ngồi đạo tràng thị hiện thành Chánh giác. Lại nói pháp gồm có 10 nơi:

- Tại Diệu Quang Đường, nói về Thập Thế Giới Hải.

- Tại cung Đế-thích nói về Thập trụ

- Tại Cung Dạ-Ma nói về Thập Hạnh

- Tại trời Đâu-Suất-Đà nói về Thập Hồi Hướng

- Tại trời Hóa Lạc nói m Thiền định

- Tại trời Tha hóa nói về Thập địa

- Tại Sơ thiền nói Thập Kim cương

- Tại Nhị Thiền nói Thập Nhẫn

- Tại Tam Thiền nói Thập Nguyện

- Tại Tứ Thiền nói Phẩm Pháp Môn Tâm Địa.

Ở hội thứ 10 nói chung 30 tâm địa trước, đều đứng về nghĩa Vô tướng để giải. Sau đó lại nói: “Đức Thíchca ban đầu ở thế giới Liên Hoa Tàng vào lên cung trời, xuống Diêm-Phù-Đề thành đạo, hiệu là Thích-ca. Đầu tiên ở Đạo tràng nói pháp cho đến 10 nơi. Lại từ cung trời xuống dưới cây Bồ-đề, phẩm Pháp Môn Tâm Địa này, Đức Lô-Xá-na đã tụng mười giới trọng 48 giới khinh. Hoa Nghiêm nói nhưng văn chưa hết, chỉ có 7 chỗ 8 hội, phần nhiều đạo không thể khởi ở tòa nầy, không nói pháp tại trời Hóa Lạc, mà kinh này phần nhiều nói từ chỗ ngồi đứng dậy đến chỗ khác. Ở trời Hóa Lạc nói Thập Thiền định. Còn các địa phần nhiều không tương ưng. Trước sau tòa tịch hoặc đồng hay khác. Do dấu vết bậc Thánh khó suy tư, tùy theo cơ mà nói khác thôi.

Trong 3 giáo thuộc về Đốn giáo, Nói diệu chỉ Nhất thừa của Phật tánh thường trụ. Người được truyền là Đại sĩ chứ không phải Nhị thừa.

Hoa Nghiêm nói rằng: “Nhị thừa ở tại chỗ ngồi không biết không hiểu. Vì giai vị của Đại sĩ thì Nhị thừa chẳng thể thực hành được, chế giới khinh trọng Tiều thừa chẳng thể học được, chế pháp của Đại thừa, Tiểu thừa khác nhau, Bồ-tát tạm thời chế 58 điều, Thanh văn trì phạm tùy theo đó mà kết giới. Lý luận giải quyết cơ nghi. Sự luận gồm có 3 nghĩa:

Đại sĩ tin sâu nghe nhanh không trái nghịch. Thanh văn tin cạn nghe nhanh thì không thọ.

Đại sĩ không thường hầu hai bên, không có tùy theo việc mà bạch, cho nên tạm thời chế ngay. Thanh văn thường được theo hầu có thể ít muốn bạch Phật, nên đợi phạm mới chế.

Phạm Võng được chế, Lô-Xá-Na cho Vương Tử

Diệu Hải thọ giới Bồ-tát. Bấy giờ, các Đại sĩ lẽ ra phải nói 58 điều này. Nên tạm thời chế ngay. Đại bản Phạm Võng 112 quyển, 61 phẩm. Chỉ có phẩm Bồ-tát Tâm Địa thứ 10, của ngài La-thập tụng ra. Hai quyển thượng, hạ. Tựa trước nói về giai vị Bồ-tát, tựa sau nói giới pháp Bồtát từ Đại bản, Lời tựa và lưu thông đều thiếu, khác bộ ngoài gọi là Bồ-tát giới kinh. Văn có 3 phần:

TỰA: Từ bài kệ thứ nhất, văn xuôi thanh tịnh.

CHÁNH THUYẾT: Từ 10 giới trọng..... nay Bồ-tát đang tụng.

LƯU THÔNG: Còn lại cho đến hết quyển là khuyên nói.

Giải thích:

Phần tựa: Bài kệ thứ nhất nói Phật Lô-Xá-Na phát khởi. Văn xuôi nói Phật Thích-ca khuyến phát. Trong bài kệ có bốn giới, ba khuyến.

Bốn giới là:

1/ Giới Xá-Na.

2/ Giới Thích-ca

3/ Giới Bồ-tát

4/ Giới Chúng sinh.

Lô-Xá-Na là “Bản”, Thích-ca là “Tích”, Phật Thíchca được giới này liền trao cho các Bồ-tát, Bồ-tát trao lại cho chúng sinh phàm phu

Ba khuyến là: 1/ Khuyến thọ 2/ Khuyến trì 3/ Khuyến tụng

Bốn giới này có lý do chứng đắc phẩm giới, căn bản thầm truyền. Từ đó trở xuống là lời Phật trao, cho nên khuyên phàm phu thọ. Đã thọ phải trì, đã trì phải tụng, vì muốn cho sự truyền bá không dứt.

Hàng giữa bài kệ chia làm 3 đoạn:

Ba hàng ba câu: Phật Lô-Xá-na nói giới truyền cho Phật Thích-ca.

Từ câu “bấy giờ, trăm ngàn ức”....... Ba hàng ba câu: Đức Thích-ca truyền trao cho các Bồ-tát, Bồ-tát truyền cho chúng sinh.

Từ “Lắng nghe ta chánh tụng “ đến hết bài kệ:

Khuyên tin, thọ trì.

Một câu ba tựa là hai đức Phật nói.

Hai câu tựa là phật Lô-Xá-Na tự nói, còn lại là Đức Thích-ca cõi này nói. Xen vào lời của nhà chép kinh. Hai hàng rưỡi trên nói về “Bản, Tích”. Hàng kế nói về nhân, Pháp.

Ban đầu có ba: Nửa hàng nói [bản] của Lô-Xá-Na, hai hàng rưởi nói [tích ]của Phật Thích-ca. Ba hàng rưởi tổng kết [bản, tích]. Câu trên nói bản thân Lô-Xá-Na, câu dưới nói bản độ của Lô-Xá-Na, tức Y báo, Chánh báo. Thân Phật có 4 loại:

1/ Pháp thân

2/ Chân ứng 3/ Pháp báo ứng.

Tỳ-Lô-Giá-na chánh pháp thân, Lô-Xá-Na làm cho chánh pháp rực rỡ khắp nơi là thân, Thích-ca ứng tích cảm đến là thân. Kim Quang Nhiếp Luận gọi là pháp ứng hóa. Còn lại là Ứng thân thọ Thuần-đà cúng dường 4/ Hóa thân thọ đại chúng cúng dường.

“Ngã kim” là tánh tự tại của Ngã, cũng là Lô-Xá-Na, bụi nhỏ vô minh đã dứt sạch, trí tuệ công đức đầy đủ, như trăng tròn sáng, dùng (570) tên tiêu biểu cho đức. “mới ngồi hoa sen là y nói y báo, “Phương” là chánh, ở trong chánh pháp, nên gọi là “Tọa”. Vì sao ngồi trên đài hoa, Hình tướng của thế giới dường như hoa sen, nên gọi là Liên hoa tàng. Hoa Nghiêm nói rằng: “Hoa tại hạ kỉnh”. Liên hoa có 2 nghĩa:

Ở chỗ nhơ bẩn mà không nhiễm: Thí dụ Xa-na ở chỗ dơ bẩn mà không nhiễm.

“Tàng”: Bao gồm cả pháp giới 10 phương. Tiêu biểu cho nhân sinh quả nên thí dụ là đài. Còn lấy Phật vốn ngồi trên đài hoa, tiêu biểu cho Giới là gốc của các đức. Chung quanh ngàn Đức Thích-ca nhìn thấy trăm nước Thích-ca. “Thiên” là bản, “Trăm ức” là tích, Hai lới bản tích có 3 nghĩa một: Bản trong tích.

Hai. Tích trong bản

Ba. Bản và tích đều thành Phật đạo.

1- Bản trong tích: Ngàn cánh, hoa ở cõi người có hơn mười cánh, hoa ở cõi trời có trăm cánh, hoa của Phật, Bồ-tát có ngàn cánh, mỗi cánh có một thế giới Phật, nên có ngàn Tịnh độ Phật, tiêu biểu cho 10 địa, 10 Ba-la-mật viên nhân. Khởi bản địa của ứng quả, hiện ngàn Thíchca. Mỗi cánh là một Tịnh độ, tức là một thế giới Phật khởi Ung thân tròn đầy. Còn một cõi nước Phật trong một thế giới, đây là nói sơ lược. Hoa Nghiêm thế giới nhiều như bụi nhỏ. Mười phương, mỗi phương đều có một trăm, Mỗi hoa có trăm ức cõi nước...

2- Tích trong bản: Một cánh là một thế giới có trăm ức cõi nước.

Trăm ức cõi Ta-bà chỉ trên một cánh mà thôi. “Các tọa” là nói bản tích đều thành Phật đạo.

3- Bản và tích đều thành Phật đạo: là Tổng kết bản tích, là ngàn trăm ức kiếp, kết thân tích. “Lô-xá-na, v.v...” là câu kết thân bản, nói ngàn trăm ức kiếp đều lấy Lô-Xá-Na làm bản.

Về nhân pháp: thì văn chia làm hai: 1. Nhân. 2. Pháp. Trong Nhân, có 3 câu:

1- Người năm tiếp

2- Người sở tiếp

Kết người năng tiếp và người ở tiếp đều đến chỗ Phật. “ Người năng tiếp” là ngàn trăm ức Đức Thích-ca. “Các tiếp” v.v... trở xuống là nói người sở tiếp người được tiếp. “Tiếp” nghĩa là nắm lấy người có duyên. “Vi trần” ý nói thính chúng rất nhiều. “Lai chí “ trở cuống là. Thứ 3 kết người năng tiếp, sở tiếp, đều đến chỗ LôXá-Na. “Thính ngã trở xuống là thứ hai nói về” Hai câu nói pháp, câu trên nói giới, câu dưới chánh là khen giới. a. Răn dạy Bồ-tát nghe người tụng giới Phật.

Hỏi: Đây là pháp của Chư Phật trong 3 đời 10 phương, chẳng phải mới tự chế, nên chỉ được tụng, chứ không được nói. “môn Cam lộ” là khen giới, thí như uống nước Cam lộ để được sống lâu. Đại Kinh nói rằng: “Có núi từ bốn phía ép vào, chỉ nên giữ giới bố thí.

“Bấy giờ ngàn năm ức”..... Thứ 2 là Thích-ca tích Phật truyền cho Bồ-tát, Bồ-tát truyền cho chúng sinh. Lại chia làm ba:

- Nhà chép kinh trình bày lý do Phật Thích-ca truyền trao.

- Thích-ca thuyết giới truyền cho các Bồ-tát.

- Khuyên Bồ-tát truyền hóa cho chúng sinh.

Giải thích: 1. Nhà chép kinh trình bày ba câu do Đức

Thích-ca truyền: Trăm ngàn ức Phật đều trở về bản xứ. Nhưng pháp thân vô tại, nay nói về giới tích truyền bản, thì bản là tích. Sư dùng tích tụng bản đó. Văn truyền giới Bồ-tát chia làm ba: 1-Giới thể.

2- Giới dụng

3- Khuyên Bồ-tát thọ trì. “Mười trọng, bốn mươi tám”......

Giới thể: Mười giới trọng là giới thể, “Giới như trời trăng sáng”

Khen ngợi dụng của giới, trì giới này trừ tội sương, dụ như mặt trời, khiến được mát mẻ, dụ như mặt trăng, phải có pháp lành như chuỗi Anh lạc. Mặt trời có công năng nuôi lớn muôn vật, cũng như giới có thể nuôi dưỡng muôn điều lành. Chuỗi Anh lạc có thể nói chung công đức giúp nghèo cùng, giới cũng như thế, có thể giúp cho kẻ nghèo cùng thêm nhiều pháp tài. Lại như chiêm ngưỡng ánh sáng mặt trời, mặt trăng đầy trời. Trì giới đối với thể đều quy kính. Chuỗi Anh lạc là vật trang điểm quý báu nhất cho thân, Giữ giới lìa hồn như đoan chánh, “Vi trần chúng Bồ-tát.. ” thứ ba là khuyên Bồ-tát thọ trì, như người đi qua biển phải nhờ thuyền, nếu qua biển sinh tử, nhân quan trọng là giữ giới. Đại Kinh nói rằng: “Như bằng thuyền bè, lại dụ cho phao nổi. Lại chia làm ba: Trước nêu chung công năng, kế đến nói về người trao, sau hết nói người thọ. Như: Lô-Xá-Na là người trao, tân học là người thọ, Thọ trì là khuyến phát truyền trao cho chúng sinh, 30 tâm Bồ-tát, Truyền trao Đại thừa, phát tâm Đại thừa.

Thứ ba là: Khuyên tin thọ trì, văn chia làm ba: Khuyên người thọ trì, văn chia làm ba:

1. Nêu pháp sở tụng 2. Khuyên người tin nhận

3. Kết khuyến.

“Lắng nghe nêu pháp sở tụng”: Giới này phân biệt khác với các giới gà, chó, của ngoại đạo. Tịnh giới là Nhân, Mộc-Xoa là quả. “Đại chúng”, thứ hai là khuyên người tin nhận, lại chia làm 2: một. Khuyên tin, hai. Khuyên nhận.

1. Khuyên tín cho nên “nhĩ” tin là cửa thứ nhất để vào đạo, đại luận nói rằng: “Tín thì vào được. Ta giữ giới này được thành Chánh giác, ông cũng phải như vậy. “Nhất thiết hữu tâm là “thứ hai, khuyên thọ: hễ có người phát tâm đều được thọ giới Bồ-tát Đại thừa thường lạc. Nói chúng sinh phát tâm có Phật tánh, sẽ thành Phật, phải thọ ba giới. “Đại chúng” là thứ 3, kết giới. Câu trên kết, câu dưới khuyên nghe. Tựa chung chư Phật truyền thọ giới pháp phát khởi xong.

Văn xuôi, v.v... là bài Tựa, Đức Thích-ca ở cõi này, chia làm hai: Ban đầu là từ ngữ của nhà chép kinh, kế là lời của Đức Thích-ca nói. Có ba giai đoạn:-Từ của nhà chép kinh.

- Phóng hào quang biểu thị điềm lành.

- Đại chúng xin nghe. Bốn giai cấp khác nhau:

Nêu vị Hóa chủ là Đại Thánh Thích Tôn

Nêu nơi chốn, nghĩa là ngồi dưới cây Bồ-đề đắc đạo, do đó gọi là nhân danh đạo thọ, cũng gọi là Tư duy. Am Phạn là Bối-đa.

Đắc đạo là thành Chánh giác, tức hiệu là Chánh Biến Tri.

Nêu ra pháp dở kết: Nghĩa là Ba-la-đề-mộc-xoa của Bồ-tát. Thứ 4, là Tự đổi bốn câu:

1. Nêu sở kết danh, tức là Mộc-Xoa nầy.

2. Năng thành nhân cao quý, nghĩa là hiếu sự.

Kinh Bảo Tạng nói: Hiếu thờ cha mẹ là bậc thiên chủ Đế-thích trong nhà ngươi. Còn thể thực hành việc hiếu là Đại Phạm Tôn Thiên ở trong nhà ngươi. Lại tận hiếu với Phật Thích-ca trong nhà Ong. Bồ-tát Diêm-ma lành bệnh mắt, đồng tử từ tâm xe lửa diệt nhanh chóng, tức linh nghiệm. Nhĩ Nhã nói rằng: Khéo thờ cha mẹ là hiếu. Hiếu tức là thuận. Thái sử Thúc nói dùng chữ hiếu thuận giải thích chữ Hiếu. “ Hiếu Kinh Câu Mạng Quyết” nói rằng: “Chữ Hiếu dạy cuối cùng là hoàn tất, trước sau sắc dưỡng, cũng có thể dạy độ. Độ là nghi pháp. Am áp trong lành hợp nghi.

3. Sẽ được thắng quả: nghĩa là pháp chí đạo.

Kết tên chữ: là chế giới, trong ánh áng của Phật phát ra, từ từ buông ra ánh sáng tiêu biểu cho điềm lành. “Thụy” là lành, muốn nói việc lớn trước hết phải phát ra ánh sáng cao quý của sắc tượng, vời gọi chúng sinh có duyên đồng đến nghe giới. Giới là Bồ-tát cao quý có diệt ác sinh thiện. “Khẩu phóng” tiêu biểu cho Đức Thích Tôn, hôm nay giảng nói giới pháp Bồ-tát Đại thừa. Bấy giờ trăm ức trở xuống là Hậu giai “. Trình bày đại chúng xin nghe. Văn chia làm 3: một. Nói chung về đại chúng, hai. Nói riêng về bốn chúng.

- Bồ-tát

- 28 trời Phạm

- Sáu tầng trời cõi Dục.

16 Quốc vương. Tổng kết muốn nghe như vậy, tên 16 nước là xuất xứ trong Trường A-hàm.

(571) 1. Sử Già, 2. Ma-Yết-Đề, 3. Ca-thi, 4. Câu-tátla, 5. Bạt-đề

6. Mạt-la, 7. Chi-đề, 8. Bạt-sa, 9. Ni-lâu, 10. Bànxà-la,

11. A-thấp-bà, 12. Bà-tha, 13. Tô-bà-la, 14. Càn-đà-la,

15. Kiếm-phù-sa, 16. A-bàn-đề.

An độ rất nhiều nước, nhưng chỉ lược nêu những tên này thôi. Cơ ứng Thanh văn tự nhiên nhóm họp. Chắp tay tức thời thứ ba của chúng thích nghe. “Thưa với Bồtát rằng”: Đức Thích-ca tự nói cũng có 3 giai đoạn: Một. Nêu tự tụng. Hai. Thích-ca phát ra ánh sáng nhân duyên. Ba. Khuyên vật tôn học, tức là y theo trước. Ba việc trong lời tựa của Chư Phật cũng thành ba ý của nhà chép kinh. Trước hết nêu thí dụ khen ngợi. Ở đây Đức Thíchca phát ra ánh sáng tức là khen ngợi. Ba giai đoạn này đều có hai việc khác nhau. Giai đoạn một có hai:

- Một. Trình bày ngã tự tụng

- Hai. Khuyên người khác tụng. Trung phàm nêu 5 hạng người:

1. Là phát tâm, tức Bồ-tát cộng địa

Thập Phát thú, nghĩa là mười tâm đầu. Kinh Phạm Võng có nêu tên: 1. Xả, 2. Giới. 3. Nhẫn, 4. Tấn, 5. Định, 6. Tuệ, 7. Nguyện, 8. Hộ,

9. Hỷ, 10. Đảnh tâm. Ba mươi trưởng dưỡng nghĩa là trong 10 tâm: 1. Từ, 2. Bi, 3. Hỷ, 4. Xả, 5. Thí, 6. Hảo ngữ, 7. Ích, 8. Đồng, 9. Định. 10. Tuệ.

Mười tâm sau, 40 Kim cương: 1. Tín, 2. Niệm, 3. Hồi hướng, 4.

Đạt. 5. Trực, 6. Bất thối, 7. Đại thừa, 8. Vô tướng, 9. Tuệ, 10. Bất hoại tâm.

50 địa, là từ Đăng địa trở lên.

- Thể tánh bình đẳng địa

- Thể tánh thiện phương tiện địa

- Thể tánh quang minh địa

- Thể tánh Nhĩ Viêm địa-Thể tánh Tuệ chiếu địa

- Thể tánh Hoa quang địa

- Thể tánh mãn túc địa

- Thể tánh Phật hống địa

- Thể tánh Hoa nghiêm địa-Thể tánh nhập Phật giới địa.

Thế nên từ câu: “Giới quang” là giai đoạn giữa. Giải thích nhân duyên phát ra ánh sáng cũng có hai thứ khác nhau:

Nhân duyên, về nêu liệt nhân duyên, trong đó có hai nhân duyên:

1/ Biểu đắc quả,

2/ Biểu thành nhân, đều có ba câu đắc quả là:

- Chẳng phải sắc tâm xanh vàng.

- Chẳng phải hữu vô

- Chẳng phải pháp nhân quả Ba câu hành nhân:

Bản nguyên của Chư Phật Căn bản của Bồ-tát

Căn bản của đại chúng

Hoặc câu “Biểu thị cho hai đế chân tục, cho nên đại chúng Chư Phật tử hậu giai”, Khuyên chúng sinh học tập, cũng có hai loại khác nhau: Một. Nêu, bốn khuyên, hai giải thích:

Nêu là: 1. Khuyên thọ, 2. khuyên trì, 3. Khuyên đọc tụng, 4 khuyên học. Trong phần giải thích sau, chỉ khuyên một việc thọ, còn những việc khác đều lược qua.

Bồ-tát Giới Nghĩa Sớ quyển thượng (xong)

QUYỂN HẠ

I. CHÁNH THUYẾT:

Đây là 10 giới trọng, văn chia làm hai phần: 10 giới trọng.

48 giới khinh.

-Gồm ba chương:

1/ Nêu chung.

2/ Giải thích riêng.

3/ Tổng kết

1. Nêu chung: nếu thọ giới Bồ-tát chấp chẳng đúng, ta cũng tụng như thế, hiển thị gọi là nêu quả, khuyên tất cả Bồ-tát trong ba đời ý khiến suy nghĩ đồng với khuyên người thọ lược nói Mộc-Xoa, tức là tướng mạo đốn giới, kệ há đi đến đây, khuyên người học tâm phải cung kính vâng làm.

GIẢI THÍCH RIÊNG: có 10 giới.

1. KHÔNG ĐƯỢC SÁT SINH:

Bắt đầu bằng 10 giới trọng, như Thanh văn phi phạm hạnh, một người vì nhiều người phạm lỗi. Địa hệ phiền não nặng nên chế giới này. Sát tuy là tánh tội, nhưng người xuất gia ít gây ra tội này, cũng dễ ngăn dứt. Dâm dễ sinh khởi nên đặt ra giới này, dâm dục chẳng phải tánh tội, sát mới là tánh tội, nên Đại thừa quy định giới này đầu tiên. Nay nói về việc giết hại mạng người, năm ấm nối nhau mà có chúng sinh, nay làm đứt mất sự nối nhau này, nên gọi là Sát. Đại kinh nói: “Ngăn sự nối nhau ở vị lai gọi là Sát.

Đạo tục đồng chế, như 5 giới, 8 giới. Bồ-tát lấy tâm từ bi làm gốc

Nên phải chấm dứt. Bảy chúng đồng phạm, năm chúng Thanh văn về đạo thể thì đồng, về chi tiết thì khác. “Đồng” là đồng ở chỗ không cho Sát, “Dị” là lược có ba việc:

- Khai già khác

- Sắc tâm khác

- Khinh trọng khác

“Khai già khác” Bồ-tát thấy cơ được giết, Thanh văn tuy thấy nhưng không cho giết.

“Sắc tâm khác” Bồ-tát chế phục tâm, Thanh văn chế phục sắc.

“Khinh trọng khác” Bồ-tát giết hại Sư tăng phạm năm tội nghịch. Thanh văn không phạm năm tội nghịch. Đại sĩ hai tội trọng, Thanh văn một tội trọng.

Văn chia làm ba thứ:

- Nêu người như Phật tử

- Tự sự hỏi kể ra-Kết tên tội Ba-la-di.

Tự sự, có ba:

- Bất ưng

- Ưng.

- Kết.

“Bất ưng” có:

a. Sáu câu nói về Sát;

b. Bốn câu thành nghiệp Sát;

c. Một câu nêu khinh huống cho là trọng.

1. (6 câu đầu) Tự sát: nghĩa là tự mình hại mạng người, gồm có ba pháp:

Nội sắc, ngoại sắc, nội ngoại sắc, tất cả đều phạm.

2. Giáo tha sát: cũng là giết, miệng dạy là tội giết, chẳng phải làm bị thương. Luật bộ phân biệt rất nhiều về tự sai khiến.

Phương tiện giết: tức là tiền phương tiện giết, gọi là sự trói buộc Khen ngợi giết cũng mắc tội.

Tùy hỷ khuyên khiến chấm dứt mạng sống cũng phạm; Trì chú cho chết, nghĩa là Tỳ-Đà-la.

Tuy nhờ các duyên khác cũng đều phạm. Trong luật nói Sát có mười lăm thứ, gọi là Ưu-đa-đầu-đa huyền huyền phát, Tỳ-đa-la v.v..., Luật bộ có nói đầy đủ v.v... Từ nghiệp sát trở xuống có ba giới trọng. Tướng thứ hai thành nghiệp, ba nghiệp thành sát, tự động dụng là Chánh thân nghiệp. Giết người và miệng trì chú là nghiệp tạo ra thân nghiệp. Tâm niệm muốn giết, quỉ thần tự nói toại ý. Ý nghiệp tạo ra thân nghiệp. Ba giai đoạn này ở trong duyên tạo tác đều là nghĩa của nghiệp.

Cách giết bằng đao kiếm, hầm hố, cung tên, đều là nghĩa của nghiệp, đều có pháp thể nên gọi là Pháp.. Nhân giết, duyên giết, thân sơ hai đường. Chánh nhân giết thì tâm là Nhân, người khác giúp thành việc là Duyên. Thân tạo tác đến quả là nghiệp.

Có 4 duyên: 1/ Chúng sinh.

2/ Tưởng là chúng sinh

3/ Giết hại

4/ Mạng căn chấm dứt.

“Chúng sinh” tuy nhiều nhưng gồm trong ba phẩm:

1. Thượng phẩm: Giết hại, Chư Phật, bậc Thánh, Sư tăng, cha mẹ thì phạm năm tội nghịch. Hàng Tam quả thì có 2 cách giải:

Đồng với tội nghịch: là khi giết hại Thanh văn đã là trọng trong trọng.

Phạm tội trọng, Đại kinh nói: “Ba loại giết, giết người đã đắc quả thứ ba chỉ vào trong giết chứ không ở trên giết. Nên biết chẳng phải năm tội nghịch.

Bồ-tát đã có giải hạnh trở lên, Đại kinh nói: “Chắc chắn Bồ-tát đồng với khoa trên. Nay chọn lấy nhị thừa bất tác là giai vị nhất định, Hoặc bảy tâm trở lên, đều có thể dứt bỏ.

Mẹ dưỡng mẫu:

Không có năm tội nghịch Phạm năm tội nghịch.

Giới trọng của Đại sĩ là giới trọng của Thanh văn.

2. Trung phẩm: tức trời người, có tâm hại phạm tội nặng.

3. Hạ phẩm: 4 cõi.

Có 2 cách giải:

Đồng trọng: Bồ-tát giữ giới sát nghiêm trọng, nên nói: “Tất cả có sinh mạng, không được cố giết, tức chứng minh điều đó.

Chỉ phạm tội khinh. Trong giới trọng kiêm chế, vì chẳng phải đồ đựng đạo. Văn nói có sinh mạng là nêu khinh so sánh với trọng mà thôi.

Tâm giết có 2: Một. Tự tâm giết. 2. Giáo tha giết. Tự tâm giết có hai loại là Thông tâm hay cách tâm, “Thông tâm” là như buông lung đào hầm hố, làm cung tên hay chặt phá, thiêu đốt rừng cây, chung cả ba tánh đều phạm. Nếu duyên người này mà giết người kia, khởi tâm hại như đã nói trên là thuộc về thông tâm, tuy đã đối cảnh mà mạng không còn sống, hành động không xứng đều xếp vào chánh phạm. “Cách tâm” là muốn giết người này mà lầm giết người kia, người kia chết cũng phạm tội nặng, người kia không chết thì phạm tội nhẹ. Trên đường đi có nhiều người qua lại, vì giết người này mà lầm giết người kia, cũng phạm tội nặng, vì đã cụ thể giết người, đủ duyên vẫn thuộc về thông tâm. Nếu định chém người phía đông, lại chém người phía Tây, vì không có tâm giết hại, trường hợp này thuộc về cách tâm.

Mạng căn có 2 thời: 1. Sát sinh và sau khi sát sinh.

“Sát sinh” có hai: 1. Có giới thì phạm tội nặng. 2. Không có giới, giết mà không chết thì phạm tội nhẹ.

Mạng căn chấm dứt, kết tội đồng như trước. Thanh văn xả giới cụ túc, thọ năm giới, cũng kết tội như thế, “Sau khi sát sinh có 2:

1. Tự nhớ, 2. Không tự nhớ.

“Tự nhớ” trước bất cứ thế lực nào. Nếu thêm phương tiện phải biết trước bị thương không chết. Sau khi phương tiện không nhớ, chỉ phạm tội nhẹ. “Mạng căn” Số Luận gọi là Phi Sắc Phi tâm, Luận Thành Duy Thức và Đại thừa gọi là chẳng khác phi sắc phi tâm, chỉ cho sắc tâm nối nhau không dứt là mạng thôi. Đại Luận cũng như vậy. Sáu nhập, sáu thức nối nhau mà sống, giả gọi là Mạng, “cho đến tất cả có mạng sống. “

-Nêu nhẹ so sánh với nặng: Bồ-tát nầy trở xuống đều nói, lẽ ra có ba câu:

Thường trụ từ bi, có 2 giải thích: Nên học theo Phật luôn khởi từ bi. Tâm phải thường trụ từ bi.

Tâm hiếu thuận, không não hại người khác.

Phương tiện cứu giúp, không nên như thế, không não loạn là phải hợp với việc cứu giải.

“ Tâm buông lung trở xuống, thứ ba là Kết “ không nên”. Cho nên thành tội, cũng có ba câu:

Tâm buông lung nghĩa là tâm tham sát. “Khoái ý” gọi là tâm Sân sát.

Sát sinh là nêu việc sát.

Ba câu này là rơi vào tội không như ý.

2. KHÔNG ĐƯỢC TRỘM CƯỚP

Đạo là không cho mà lấy. Trộm cướp y báo, chánh báo thì mắc tội. Giới này, bảy chúng đồng phạm. Năm chúng Thanh văn có giống có khác. Đồng là đều không được trộm cướp, khác có ba:

Khai già khác: Như thấy động cơ được hay không được, hoặc nói thấy động cơ trộm cướp, nhưng không có tâm trộm cướp. Đại sĩ vì chúng sinh chuyển vận các thứ đều được, Thanh văn tự độ phải y theo phép tắc. Đại sĩ không sợ tội, chỉ giúp cho người có lợi ích mà làm, Thanh văn, sau khi Phật diệt độ trộm vật của Phật phạm tội nhẹ, vật của Bồ-tát thì phạm tội nặng, còn cho người khác cả thân mạng, mà lại lấy của người, đâu phải tâm của Đại sĩ? Tự sự có ba giai đoạn:

1. Bất ưng. Câu thứ 11 chia thành ba: Bốn câu đầu, sáu câu kế, một câu sau cùng.

Nghiệp đạo, nói riêng tướng thành nghiệp, có bốn câu giống như trước.. Đưa tay lấy vật của người khác rời khỏi chỗ cũ thành nghiệp trộm cướp, nghiệp là tạo tác, vật trọng là năm đồng tiền. Luật nói “ Một đồng tiền lớn, giá trị bằng mười sáu đồng tiền nhỏ. Trong đó, đồng tiền có quý có thường, chỗ lấy trộm là cắt đứt. Tội trọng của Bồ-tát là tội nặng của Thanh văn. Hai tiền trở lên là nặng. Có người cho lời nói này, nay không còn dùng nữa. Lấy năm tiền là phạm tội trọng, lìa chỗ tội trộm quyết định vào lúc này, Bồ-tát phải học những việc này, nên nói như vậy.

“Bất ưng” là không nên làm việc sát sinh và trộm cướp. Hai môn này khuyên đừng sát sinh, trộm cướp, khuyên làm việc lành. Từ bi hiếu thuận là học tánh thường trụ Phật, thực hành các hạnh của Phật, đều là pháp lành, là hiếu thuận. Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, Tánh nghĩa là không sửa đổi mà thôi. “Trở lại thứ ba là kết “bất ưng”. Hiểu vật Tam bảo như luật nói.

3. KHÔNG ĐƯỢC DÂM DỤC

Gọi là Phi phạm hạnh, việc xấu xa nên gọi là phi tịnh hạnh. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đều cấm, mà chế có nhiều ít. Năm chúng tà chánh đều cấm, hai chúng chỉ cấm tà dâm, cùng với Thanh văn đồng và khác, đại khái như trước. Tự sự có ba giai đoạn:

- Bất ưng

- Ưng

- Kết

Người xuất gia không nên làm việc dâm dục, phải học hạnh thanh tịnh của Bồ-tát, như giáo môn ở trước không khác.

Bất ưng có ba:

1/ Ba câu đầu nêu việc dâm.

2/ Bốn câu nói thành nghiệp

3/ Ba câu nêu nhẹ so sánh với nặng.

Văn có hơi lẫn lộn không thứ lớp, giới này có đủ ba nhân duyên thì thành tội nặng.

1/ là đường 2/ Tâm dâm 3/ Việc toại ý Hoặc đầy đủ có năm:

1. Chúng sinh

2. Tưởng chúng sinh 3, 4, 5. Nêu kém kết lỗi.

Tự vợ mình phi đạo, thời gian sinh sản, thai nghén, cho con bú. Đại Luận đều gọi là giới Ưu-bà-tắc. Kinh nói: “Sáu giới trọng để ngăn giới tà dâm, lại chế phi thời, phi xứ, như với vợ mình phi thời, làm việc bất chánh phạm tội nặng. Dạy người dâm tự không mê nhiễm, chỉ phạm tội nhẹ, hoặc nói Bồ-tát tức trọng. Nay giải thích Thanh văn, Bồ-tát đồng như vậy. Không nêu chung với tội sát sinh, trộm cướp. Người, súc sinh, quỉ thần, huỳnh môn, hai căn, chỉ khiến ba đường đều phạm tội nặng. Ngoài ra khen ngợi, xúc chạm, ra chất bất tịnh, đều là phương tiện của giới này, nên phạm tội nhẹ Bồ-tát trở xuống là thứ hai đều nói là nên.

Trái lại trở xuống thứ ba là kết.

Trong đây quy định đều không nên làm, làm thì phạm tội, nên kết luận là (không nên).

4. KHÔNG ĐƯỢC NÓI DỐI.

Nói vọng là nói không thật, không chứng Thánh mà nói chứng Thánh để mê hoặc người, cho nên PHẠM tội. Giới này, bảy chúng đồng phạm, Đại thừa, Tiểu thừa đều chế, cùng Thanh văn đồng và khác như giới Sát ở trước, thứ lớp có ba đoạn. Trong “bất ưng” có ba thứ:

Ba câu nói về nói dối, bốn câu kế nói thành nghiệp, ba câu sau nêu nhẹ so sánh với nặng “Tự nói dối” là nói được pháp trên. “Giáo tha” là dạy người khác nói dối. Phương tiện nói dối như mật bôi lên cây, bầy ong kéo đến. Giới này đủ năm duyên thành phạm tội nặng căn bản. Đến Chư Phật có hai cách giải:

- Nhập vào nhân nặng:

- Người này không mê hoặc.

Còn có khả năng dùng thần lực ngăn người khác khiến cho họ không nghe, chỉ phạm tội nhẹ. Bậc Thánh có Đại thừa, Tiểu thừa, có người có tha tâm trí, có người không được. Nay thường dùng điều lệ này.

Nếu đến nói với bậc La-hán và bậc giải hạnh trở lên thì phạm tội nhẹ. Trở xuống những người tha tâm, hoặc không được, thảy đều phạm tội nặng. Chính là giới hạn, hoặc đồng tội trọng. Nay giải thích tội nhẹ.

“Chúng sinh tưởng” có đúng, có nghi, có (Sai lầm). Đại khái đồng như trước. Có khi nói dối tâm thông bản. Đến người này nói người này không nghe, người kia nghe cũng đồng phạm tội nặng. Nay giải thích không phải tội nặng là vì đối với người vô tâm. “Tâm dối gạt” là nghiệp chủ. Nếu khó tránh và tăng thượng đều không phạm. Kinh Địa Trì nói: “Bồ-tát vị của thiền thạch nhiễm ô phạm. Nên biết Bồ-tát khởi tăng thượng mạn cũng phạm tội nhẹ. Về sai sử có hai cách giải thích

Dạy người nói ta là bậc Thánh cũng phạm tội nặng, vì Bồ-tát không nói giá trị của ngọc khuê bích. Người bên cạnh khen hơn đạo mình, dạy đạo bậc thánh, danh lợi không ham, chẳng phải tội nặng.

Thánh pháp ta thầm chứng, phải tự mình nói mới tội nặng, người khác nói thì tội nhẹ.

- Nói tội nặng đầy đủ, nghĩa là thân chứng mắt thấy. Nếu nói được bốn quả, mười địa, tám Thiền định thông suốt, hoặc nói thấy trời, rồng, quỉ thần, tất cả đều phạm tội nặng, hoặc nói chứng Tánh địa, hoặc nói pháp phàm phạm tội nhẹ.

- Nói trước người nghe hiểu thời tiết kết tội nhiều ít, có hai cách giải:

- Tùy người.

- Tùy lời kết.

Giới này chế cho khẩu nghiệp, lẽ ra phải theo lời nói xa là phòng tổn hại phải nên thông người. Giới tiểu vọng ngữ phải theo người tùy lời nói. Nếu tăng thượng phiền não phạm thì mất giới lại nói chỉ phạm tánh tội. Nếu người đối diện không hiểu và kết phương tiện. Sau suy nghĩ lời nói trước mà hiểu, thì phá tội nhẹ kết tội nặng. Mười giới trọng đều có nhân duyên. Nay giải thích bốn tội trọng, các giới khác lệ theo đây mà biết.

Nói thẳng là “Ngôn”, trình bày lại là “Ngữ”. Luận nói có chỗ tiêu biểu rõ ràng, có thể chỉ bày Sự, Lý gọi là Ngữ.

5. KHÔNG ĐƯỢC BÁN RƯỢU

“Cô” là mua bán, “Tửu” là vật được bán. Chỗ bán có nhiều thứ. Rượu là thứ nước vô minh làm cho con người mê muội. Đại sĩ là người trí tuệ, nếu trao thuốc vô minh cho người uống là không phải hạnh Bồ-tát. Đại luận nói: “Rượu có 35 lỗi, cho nên xếp giới này vào 10 giới trọng của Bồ-tát. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa, Tiểu thừa đồng chế. Chỗ giống và khác nhau của Tiều thừa là:

Đồng là không nên uống rượu. Bồ-tát vì lợi ích chúng sinh nên phạm giới trọng. Thanh văn dứt bỏ không nên làm, mua bán chỉ phạm thiên thứ ba trong bảy nhóm. Giới mua bán này chế, nếu Bồ-tát ở nhà dâm hoặc bán rượu thịt phạm tội khinh. Vì mời gọi dẫn đến không giống như giới rượu. Lời văn đồng như trước. “Cô” là cầu lợi, “giáo nhân” là xúi giục người khác bán rượu cũng đồng phạm tội trọng. Dạy người bán rượu phạm tội nhẹ. “Người bán rượu”... bốn câu nói thành nghiệp.

Nghiệp là trao cho người, pháp là dùng pháp phương tiện bán rượu. Nhân duyên đầy đủ có năm:

- Chúng sinh

- Tưởng chúng sinh

- Vì lợi mà mua bán

- Thật là rượu

- Trao cho người đối diện.

“Chúng sinh”: là người của ba cảnh ở trước:

“Thượng phẩm”, không say là tội nhẹ, say là tội nặng.

Cảnh “Trung phẩm” là Trời người, chính là sở chế nên phạm tội nặng.

“Hạ phẩm” là bốn đường, loạn đạo yếu hèn, bán thì phạm tội khinh. Tưởng là chúng sinh có đúng, nghi, lầm, đồng như trước. Nếu cách tâm cũng phạm tội nặng, vì muôn được chất chứa nhiều.

“Thật rượu” nghĩa là có thể làm say loạn người. Thuốc rượu tuy có lợi không làm say loạn người, mua bán, không tội. Hoàn toàn không uống thì ai kết tội nặng?

6. KHÔNG ĐƯỢC NÓI LỖI CỦA BỐN CHÚNG:

“Thuyết” là đàm đạo, “Bốn chúng” nghĩa là bốn chúng đồng pháp. “Lỗi” là bảy tội nghịch, mười tội trọng. Vì chỉ không có người trước mặt, tổn chánh pháp nên mắc tội. Giới này bảy chúng đồng phạm. Đại thừa, Tiểu thừa đều chế. Đại sĩ che giếm điều ác, phô bày điều lành, nên phạm tội nặng.

“Thượng phẩm” phạm tội trong thiên thứ hai. “Trung phẩm” phạm tội trong thiên thứ ba “Hạ phẩm” phạm tội trong thiên thứ bảy.

Pháp Thanh văn như thế, đâu có khác với Bồ-tát. Câu văn đồng như trước, giới này đủ sáu duyên thành tội nặng.

- Chúng sinh

- Chúng sinh tưởng

- Có tâm nói tội-Lời nói ra là tội.

- Đến người nói

- Người đối diện nghe hiểu

“Chúng sinh “Thượng phẩm, Trung phẩm giữ giới Bồ-tát thì mới phạm tội nặng, vì ngăn ngừa nghiệp trên thân người đó. Không có giới Bồ-tát, chỉ có giới Thanh văn. Và Hạ phẩm có giới hay không có giới đều phạm tội nhẹ. Giới này gồm chế để ngăn ngừa nghiệp duyên. Văn nói: “Bồ-tát tại gia là sĩ nữ thanh tín. Bồ-tát xuất gia là mười giới, giới cụ túc. Còn gọi là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni.

Giống như Bồ-tát xuất gia thọ giới cụ túc mà thôi, cũng gọi là Tăng Ni Thanh văn. Nếu nói người này tội nặng cũng phạm tội nặng. Đây là hành pháp hơn, cũng tổn pháp sâu.

“Tưởng Chúng sinh”, có đúng, có nghi, có lầm, đại ý giống như trước.

“Nói lỗi” có 2:

1. Tâm nhận chìm, muốn cho người đối diện mất danh lợi.

2. Tâm trị phạt, muốn cho người trước mặt bị liên lụy.

Hai tâm này đều là nghiệp chủ, nên phạm giới này. Nếu dùng tâm khuyên nói và được sai nói tội đều không phạm. “Nói lỗi” nghĩa là bảy tội nghịch và mười tội trọng. Người nói phạm danh từ giới này là phá chánh chế. Nếu nói tâm trị phạt ở 48 giới là phá pháp chế. Nếu nói làm thân Phật ra máu là phá Tăng. Y theo luật bộ bản chế. Đến tăng nói là báng, tăng biết việc ra máu ít có là tội nặng. Giới này đến nói với người không thọ giới nên mắc tội nặng. Nếu tội nặng thì nói là đúng, nhưng nay tâm trọng, việc trọng đều đồng phạm tội nặng, đây gọi là lầm. Nếu tâm có khinh trọng thì phạm tội nặng, như làm người đưa thư.

3. Đồng tội nặng

4. Tội nhẹ

Nhưng Phạm bảy tội nghịch và mười trọng là trước khi người đó mất giới, sau khi mất giới thì phạm tội nhẹ.

5. Đến nói với người Thượng phẩm và Trung phẩm không thọ giới Bồ-tát thì phạm tội nặng, rất tổn hại pháp vì Hạ phẩm đều phạm tội nhẹ, hủy tổn chẳng nặng lắm. Văn nói: Bồ-tát nghe ngoại đạo, Nhị thừa nói lỗi Phật pháp, phải từ bi giáo hóa, trái lại còn đến người kia nói lời hủy nhục là quá lắm.

6. Trước người nghe hiểu lời mình nói là khẩu nghiệp, việc toại ý. Thì y cứ theo lúc đó mà kết tội. Kết bao nhiêu tội? 1/ Tùy theo người. 2/ Tùy theo khẩu nghiệp.

7. KHÔNG ĐƯỢC TỰ KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI.

“Tự khen” là tự xưng công đức mình, “hủy báng người” là chê bai người tội ác. Đủ hai việc này gọi là phạm tội nặng. Bồ-tát nói thẳng cho người, dẫn quanh co về mình. Đâu được phép thương mình chê người, nên mắc tội, bảy chúng đồng phạm. Đại thừa, Tiểu thừa đều chế. Nhưng Bồ-tát lấy việc lợi ích an ổn làm căn bản, nên khen chê là phạm tội nặng. Thanh văn không lợi vật, nên hủy báng người chỉ phạm thiên thứ ba, khen mình phạm nhóm thứ bảy, câu văn đồng như trước. Giới này đủ năm duyên thành tội nặng:

- Chúng sinh

- Tưởng chúng sinh

- Có tâm khen chê

- Nói lời khen chê đầy đủ

- Người đối diện nghe hiểu. “Chúng sinh”:

Chê bai người Thượng phẩm, Trung phẩm là phạm tội nặng. Từ chữ “Hủy” trở xuống phạm tội nhẹ.

Bậc Thượng phẩm và Trung phẩm có thọ giới Bồtát mới phạm tội nặng, vì não hại rất sâu. Nếu không có giới và hạ phẩm có giới đều phạm tội nhẹ, vì não hại rất cạn.

“Tưởng chúng sinh” có đúng, có nghi, có lầm, đại ý đồng như trên.

“Tâm khen chê”: là đưa mình lên, dìm người xuống, vì muốn não hại người, Nếu chiết phục thì không phạm. khen mình chê người. Tâm chính là nghiệp chủ. “Xúi giục người” có hai cách:

Bảy phạm tội nặng Phạm tội nhẹ

“Nói khen chê đầy đủ “ ở đây là nói hủy nhục người, theo luật bộ có tám việc.

“Người đối diện nghe hiểu “ là người này hiểu lời khen chê. Tùy theo lời nói mà kết tội nặng. Người Tăng thượng phạm giới rồi mất giới chỉ còn tánh tội, giới trước chế đến người này nói lỗi người kia. Phạm trong tám việc, đến nói với người không thọ giới phạm tám việc.

8. KHÔNG ĐƯỢC BỎN XẺN LẠI HỦY BÁNG.

“Bỏn sẻn” là tiếc rẽ, “Thêm hủy báng” là miệng nói lời hủy nhục.

574) Người đến xin tiền vật, thỉnh pháp, tiếc rẽ không cho, còn lại hủy nhục là việc trái đạo. Giới này bảy chúng đồng phạm, Đại thừa và Tiểu thừa không hoàn toàn giống nhau. Bồ-tát không lựa chọn thân sơ, hễ xin đều phải cho, không cho lại còn hủy nhục đều phạm tội nặng. Vì bản thệ Bồ-tát là làm lợi ích chúng sinh. Đệ tử Thanh văn không dạy giáo pháp cho đệ tử, phạm bày nhóm. Ni chúng trong hai năm không cho tài pháp thì phạm thiên thứ ba. Ngoài hai năm không cho thì phạm bảy nhóm. Thêm hủy nhục tùy việc đều kết, không phải tội nặng. Giới này đủ năm duyên thành tội nặng:

- Chúng sinh

- Tưởng là chúng sinh

- Tâm tiếc lẫn, hủy nhục

- Hiện tướng tiếc lẫn

- Người đối diện nghe hiểu.

“Chúng sinh” là cảnh Thượng, Trung thì tội nặng, Hạ cảnh thì tội nhẹ.

“Tưởng chúng sinh”: giống như trước.

“Tâm tiếc lẫn lại thêm hủy nhục, nghĩa là tiếc lẫn tài pháp, thêm đánh mắng là phạm tội nặng. Nếu người đó không nghe pháp đắc tài, không thấy mình bị hủy nhục đều không phạm. Tự tiếc lẫn, tự hủy nhục chính là nghiệp chủ, phạm tội khinh cấu vì người đối diện dạy không phạm “Hiện tướng tiếc lẫn”, hoặc lẫn tránh không cho tài pháp, hoặc nói không có, hoặc dùng tay gậy đánh đuổi, hoặc nói lời hung dữ mắng nhiếc, đều gọi là hiện tướng, hoặc thân thị hiện, hoặc sai người đánh mắng đều phạm tội nặng, hoặc người kia sai khiến cầu tài thỉnh pháp. Đối với người bỏn xẻn, hoặc nói lời hung dữ mắng nhiếc đều không phạm tội trọng, chẳng phải trước mặt não hại người kia là tội nhẹ. Kinh Quyết Định Tỳ-ni nói: “Bồ-tát tại gia phải thực hành hai thí: Tài thí và pháp thí.

Bồ-tát xuất gia thực hành bốn thí:

- Giấy

- Mực

- Bút

- Pháp.

Bồ-tát đắc nhẫn thực hành ba thí:

- Ngôi vua

- Vợ con

- Đầu mắt, da xương.

Nên biết Bồ-tát phàm phu tùy nghi tuệ thí, đều dứt bặt cho nên phạm.

“Người đối diện nghe hiểu: Biết tướng bỏn xẻn, nhận lãnh lời mắng nhiếc. Tùy việc tùy lời kết tội nặng. Giới này cũng xếp vào kết tội nặng.

9. KHÔNG ĐƯỢC GIẬN DỮ KHÔNG NHẬN LỜI SÁM HỐI

Không nhận lời sám hối, là trái đạo tiếp người, nên mắc tội. Giới này bảy chúng đồng phạm. Đại thừa Tiểu thừa không đồng, Bồ-tát vốn tiếp độ chúng sinh, mà sân cách phạm tội nặng. Thanh văn tự lợi phạm bảy nhóm. Văn đồng như trước, giới này đủ năm duyên thành tội nặng:

- Chúng sinh

- Tưởng chúng sinh

- Sân cách tâm

- Hiện tướng không nhận

- Người đối diện nghe hiểu

“ Chúng sinh” Thượng, Trung cảnh phạm tội nặng, Hạ cảnh phạm tội nhẹ.

“Tưởng chúng sinh” có đúng, có nghi, có lầm, đồng như ở trên. “Sân cách tâm” không muốn và hiểu, phạm tội nặng, nếu người kia không có khả năng nhận sám hối thì không phạm. “Hiện tướng không nhận”, hoặc vào phòng đóng cửa lại làm hai bên cách nhau, nói cách gì cũng không nghe,

Người đối diện mặt nghe hiểu”, biết người kia không nhận, thân miệng thêm khổ ép nhặt, tùy theo thân nghiệp khẩu nghiệp nhiều ít mà kết tội nặng.

10 KHÔNG ĐƯỢC PHỈ BÁNG TAM BẢO

Cũng gọi là rằng chê bai pháp Bồ-tát, hoặc gói là tà kiến, tà thuyết; bàng là trói lại “Khuê” là hiểu không đúng lý, nói không đúng sự thật. Nói cách khác là phỉ báng.

“Dị giải thuyết” đều gọi là phỉ báng. Trái với tông mình nên mắc tội, bảy chúng đồng phạm. Đại thừa, Tiểu thừa đồng chế. Đại sĩ lấy việc giáo hóa người làm trách nhiệm. Nay nói tà loạn chánh nên phạm tội nặng. Thanh văn khác với ở đây. “Can ngăn không dứt, phạm thiên tội thứ ba. Câu văn đồng như trước. Giới này đủ năm duyên thành tội nặng:

- Chúng sinh

- Tưởng là chúng sinh-Có tâm muốn nói.

- Đang nói

- Người đối diện nghe hiểu. Tùy lời nói mà kết tội nặng. Nếu nói tà kinh muốn cho người kia hiểu, tùy họ đọc sách mà hiểu. Tà kiến có nhiều đầu mối mới. Lược có bốn loại:

a. Tà kiến bậc thượng

b. Bậc trung

c. Bậc hạ bậc tạp.

Tà kiến bậc Thượng” như bác bỏ không có nhân quả, như xiển đề. “tà kiến bậc Trung”, không nói chẳng có nhân quả. Nhưng có nghĩa Tam bảo không bằng ngoại đạo. Có hai tướng:

Pháp tướng khác, nghĩa là Tam bảo không bằng ngoại đạo, như thế là tâm xấu xa hẹp hòi, chấp thì thành mất giới.

Phi pháp tướng, biết Tam bảo là cao quý, miệng nói không thể hết, không quy về giới lành không mất. Tùy lời nói phát ra phạm tội nặng, nên giới này được đặt ra.

“Hạ phẩm tà kiến”: không nói Tam bảo không bằng ngoại đạo, nhưng lại bỏ Đại chọn Tiểu, trong tâm nói Nhị thừa hơn, Đại thừa không bằng. Nếu chấp chưa thành phạm tội nhẹ, tự bỏ Đại hướng Tiểu, trong giới này có nói đầy đủ. Tạp tà kiến có bốn loại:

Thiên chấp Tạp tín

Tạm tín Tiểu thừa

Suy nghĩ, bàn luận lầm lẫn. “Thiên chấp” có hai:

-Chấp Đại báng Tiểu”, chấp rằng chỉ có Đại thừa, không có Tiểu thừa, Tiểu thừa chẳng phải Phật nói. Đây là chê bai Thanh văn tạng, phạm tội nhẹ.

“Chấp nghiên về mặt bộ”, đối với Phương đẳng nói nghiên về một bộ, chẳng phải Phật nói. Nếu chấp thành tội nhẹ, không mất giới

“Tạp tín” Trong tâm không trái với nhân quả và Đại Thừa Tam bảo, chỉ nói ngoại đạo quỉ thần có oai lực, liền tấu chương giải thần, hoặc khuyên người khác. Tất cả đều phạm tội nhẹ.

Tạm tín Tiểu thừa”, biết Đại thừa cao hơn và muốn dứt phiền não, trước chọn Tiểu quả, sau lại tu Đại thừa. Đây gọi là niệm thoái, nếu chấp thành phạm tội nhẹ.

“Từ nghĩa sai lầm”, theo nghĩa giải thích cạn của năm, ba nhà đời nay, chỗ này chẳng phải không tội. Trí lực của tôi kém cõi, nên chẳng dám bài bác. Còn theo nghĩa khinh để giải, lại biết họ chỉ gượng lập dị, đều là hạng tà hoạch, phạm tội nhẹ. Khéo học mười tội trọng. Đoạn tổng kết có ba chương:

- Trước nêu pháp trì.

- Nêu người: Nghĩa là khéo học các người là mỹ từ.

- Nêu pháp: Bồ rát Ba la đề mộc xoa, Hán dịch là Bảo giải thoát là “Quả”, giới là “Nhân”. Trong nhân nói quả. Nên phải trở xuống khuyên răn phạm trì cũng có 2:

- Khuyên học trì

- Nêu riêng được mất.

Nếu có trở xuống: thứ nhất là nêu được mất. Các thầy trở xuống: thứ hai là không khuyên học trì. “Tám muôn”, Tổng kết chỉ nói sau phần Huyền chỉ của Đại bản.

- Phẩm Bát Vạn Oai Nghi sẽ nói ba đoạn trước của giới khinh.

1. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG KÍNH THẦY BẠN

Kiêu ngạo không thể làm tăng trưởng, vì chướng ngại cho việc tiến thiện, cho nên chế. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa đồng chế. Từ đây trở xuống, các giới đều có ba chương: Một. Nêu người, như nói Phật tử.

Hai. Tự sự là ở giữa đã nêu. Kết tên tội là tội khinh. Trong tự sự hoặc sai xuống không đồng với Tam giai.

1/ Khuyên thọ 2/ Nên.

3/ Không nên.

Cũng giống như 10 tội trọng.

Trước là giải thích “khuyên thọ” là kết giới duyên xa, sinh ra không tu giới hạnh nên khuyên. Vua tuy nắm giữ hành pháp nhưng giết hại vẫn có tội có phước như bậc Thánh đã nói. Nếu thọ đắc giới, thì phi nhân sẽ che chở, phước thiện tăng thêm nhiều, giai đoạn này chia thành ba:

-Nêu người được khuyên-Chánh khuyên thọ trì.

Thọ giới lợi ích, các quỉ thần vui mừng, trên giữ gìn Phật pháp. Có người nói văn nầy khuyên chung thọ giới, nếu thế tại sao có cao thấp? Riêng khuyên cung vua là chế khiến cung kính, vì sợ vua kiêu xa nên nói lên đầu tiên. Đã được rồi trở xuống là thứ hai nói” nên “, nghĩa là nên thực hành sự cung kính, cũng có ba: Tựa: đã được giới thiện. Nên sinh hiếu kính Rêu ra cảnh sở kính.

Bồ-tát trở xuống là thứ 3, không sinh kiêu mạn, trước phải thực hành, kính nhường thầy bạn. Từ đây trở xuống các giới đều có ý này.

2. KHÔNG ĐƯỢC UỐNG RƯỢU

Rượu mở ra cánh cửa buông lung cho nên chế. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa, Tiểu thừa đồng chế. Chỉ nhỏ một giọt vào cổ cũng phạm tội nhẹ. Tự sự có ba giai đoạn:

- Nói lỗi

- Chế không nên.

- Nêu tội, kết lỗi.

Đưa chén rượu cho người có hai cách giải thích:

- Cầm chén rượu đưa cho người.

- Đưa chén không để họ tự rót. “Tầm”... huống chi giải thích như sau:

Đưa chén cho người còn như thế, huống chi bảo người uống, cho nên kết giới. Có 5 lần 500 năm, 500 năm thứ nhất ở địa ngục Bã rượu, 500 năm thứ hai ở phẩm sôi, 500 năm thứ ba đọa vào loài giòi, 500 năm thứ tư đọa vào loài ve ruồi, 500 năm thứ năm đọa vào loài trùng ngu si không biết gì, đây là 500 năm cuối cùng. Đưa thuốc ngu si cho người nên bị đọa vào loài si trùng nầy.

2. Không nên. Dạy người và phi nhân, đồng thời tự uống đều cấm. Nếu thế trở xuống là

Thứ 3: Nêu lỗi kết tội. Tự làm, dạy người làm đồng phạm tội nhẹ. Bệnh nặng phải uống thuốc và không gây ra lỗi đều cho phép, chưa từng trải qua, không vì lợi mà uống rượu thấy động cơ nầy càng không giống như thường lệ.

3. KHÔNG ĐƯỢC ĂN THỊT.

An thịt làm mất lòng từ bi, Đại sĩ lấy từ tâm làm căn bản nên phải dứt ăn thịt. Thanh văn Tiệm giáo, ban đầu khai cho ăn ba thứ thịt thanh tịnh. Về sau lại dứt tất cả. Văn nói: “Nên biết đoạn nghĩa ăn thịt ở hiện tại. Phẩm Tứ Tướng trong Đại Kinh, nói đầy đủ ba thứ, chín thứ, mười thứ. Tự sự có ba giai đoạn:

-Nói lỗi

Nói không nên. Nêu lỗi kết tội

Nếu bị bệnh nặng phải dùng thuốc rượu mới chữa được, y theo luật cho uống, hoặc lẽ ra không cấm.

4. KHÔNG ĐƯỢC ĂN NĂM THỨ RAU CAY NỒNG

Năm thứ rau hôi nồng làm chướng ngại pháp cho nên cấm. Bảy chúng Đại thừa, Tiểu thừa như trước, Bồ-tát ít tội nặng phát sắc. Tự sự có ba giai đoạn:

Riêng một thứ rau cay không nên ăn Tạp thực không nên ăn

Nêu lỗi kết tội

Cựu dịch “Ngũ tân”, là hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ. Văn nấy chỉ nói một tên lan thông là đủ năm thứ, gồm danh từ huân là để phân biệt với Ngũ tân: Hồ tân là củ tỏi lớn, thông là hành, lan thông là củ tỏi nhỏ, hưng cừ là tắc tật, sống hay chín đều cay nồng, những thứ này đều không được ăn. Nếu bị bệnh nặng phải ăn như uống thuốc thì được. Như Thân tử hành pháp Bồ-tát cũng không cấm.

5. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG KHUYÊN DẠY SÁM HỐI

Việc ác nuôi lớn tội lỗi cho nên cấm. Hai chúng xuất gia đều phạm. Ba chúng khác và tại gia, tuy chưa được hưởng lợi dưỡng của Tăng sự, thấy lỗi không dạy sám hối phạm tội nhẹ. Đại thừa, Tiểu thừa đồng cấm. Tự sự có ba giai đoạn:-Phạm sự-Nên.

- Không nên..

“Phạm sự” là phạm tám giới, năm giới, mười giới. Đại thừa, Tiểu thừa đều có,

Tám giới của Tiểu thừa gọi là Trai pháp, tám giới của Đại thừa Kinh Địa Trì gọi là Tám trọng. Năm giới của Tiểu thừa, nam nữ thanh tín, “Kinh Ưu-bà-tắc” nói: “Năm tội nghịch của Tiểu thừa, bảy tội nghịch của Đại thừa, như văn sau đây phải dạy sám hối. “mà Bồ-tát” là nói Bất ưng. Không nên, không nên có ba câu:

- Không nên đồng trụ

- Không nên đồng lợi

- Không nên đồng pháp

Từ trước đến nay, nếu một lần thấy phạm không nêu là một tội.

Lại im lặng cùng sống chung, lại thêm một tội nữa.

6. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG CẦU CHÁNH PHÁP

Hết ô nhiễm giúp lợi ích cho tinh thần cho nên cấm. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa, Tiểu thừa không chung. Đại sĩ thấy có người hiểu thường phải cung cấp khải thỉnh, muốn cho việc lành không nhàm chán. Thanh văn có hiểu đầy đủ hay sơ lược pháp Bồ-tát phải cung cấp, năm tuổi hạ chưa hiểu năm pháp thì phải thưa hỏi, không thì phạm bảy nhóm, trong tự sự có ba:

1/ Sư Đại thừa đến, Đại thừa đồng kiến, đồng hành, phân biệt với Tiểu thừa.

Nói về nên, nên nghĩa là phải cung cấp thỉnh pháp, nói hai, ba lượng vàng cực thế. Nếu có giấy thỉnh phải nên xả hai, ba lượng vàng như kệ núi Tuyết làm mất thân này, huống chi ít cung cấp.

Thời là đầu, hôm, nửa đêm, gần sáng thưa hỏi.

7. KHÔNG ĐƯỢC BIẾNG NHÁC KHÔNG ĐI NGHE PHÁP.

Cấm chế nghĩa đồng như trước. Tự sự có ba đoạn:

- Có nơi giảng pháp.

- Nên.

- Không nên.

“Tỳ-ni kinh luật”. Tỳ-ni kinh luật Đại thừa chẳng phải Tỳ-ni trong ba tạng. Kinh Đại thừa có nghĩa là Diệt ác, nên gọi là Tỳ-ni. Người bên cạnh thỉnh người giảng pháp phải đến nghe, mà biếng nhác không đi mỗi ngày phạm một tội nhẹ. Kinh Địa Trì nói có chỗ giảng kinh không đến nghe, tâm tức giận ngã mạn mắc tội. Kinh

Ưu-bà-tắc đi một do-tuần làm giới hạn

8. KHÔNG ĐƯỢC BỎ ĐẠI THỪA THEO TIỂU THỪA.

Đối với giới này còn do dự chưa quyết định, ở đây trở xuống là phương tiện tà kiến, Như nói Đại thừa hơn, Tiểu thừa kém, chấp thì thành mất giới. Nếu tâm tà chưa thành thì phạm tội nhẹ, đồng với chế giới này. Nay nếu bỏ Đại thừa hướng về Tiểu thừa là nói Bồ-tát phàm phu phần nhiều mắc lỗi này. Nói rõ hơn có hai cách: Pháp tưởng là pháp phạm mười giới trọng, nhưng hàng Nhị thừa lại muốn học ác kiến của ngoại đạo, có hai cách giải:

Nhị thừa nhìn về Đại thừa cho là ngoại đạo.

Trái với Đại thừa muốn thọ pháp của sáu vị giáo chủ ngoại đạo, chấp chưa thành là tà kiến phương tiện phạm tội nhẹ, nên đặt ra giới này.

9. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG SĂN SÓC NGƯỜI BỊNH.

Trái với lòng từ nên đặt ra. Bảy chúng đồng phạm,

Đại thừa, Tiểu thừa đồng cấm. Đại sĩ nên săn sóc tất cả, Thanh văn dừng ở chỗ thầy bạn cùng sống chung phòng và tăng sai. Ngoài ra không chế, vì bản này không kiêm vật. Tự sự có ba lớp:

Nêu người bệnh là ruộng phước cao quý.

Nên cúng dường người bệnh rất cung kính như Phật. Đây là ở trong tâm, chứ không ở trong ruộng. Như Anam chia cơm cho con chó đói. Vì tâm tốt nên bình đẳng với Phật. Bồ-tát thấy tất cả người bệnh tùy sức mình mà chăm sóc. Trong văn nêu cha mẹ, sư tăng, đệ tử. Từ gần mà bắt đầu, cuối cùng bắt đầu nói thành ấp, đồng nội, hễ có người bệnh đều cứu thì biết thông tất cả. Nếu tâm tức giận buông lung thì tùy người mà kết tội nhẹ, nếu sức không đủ khả năng thì khởi lòng từ không phạm. Những vụn vặt của giới này giống như trong Luật bộ.

10. KHÔNG ĐƯỢC CHỨA ĐỰNG CỤ SÁT SINH.

Vì thương tổn lòng từ cho nên cấm. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa, Tiểu thừa đồng chế. Tự sự có ba: Không nên chứa dụng cụ sát sinh. Dẫn sự việc Nêu lỗi kết tội.

Thù hận của cha mẹ còn không nghĩ đến việc trả thù, huống chi chứa dụng cụ giết hại chúng sinh, giăng lưới, bẫy rập. Đạo tục đồng cấm, rèn đúc cung tên, các Vương tử ngày xưa lập ra. Đây là tổng kết mười giới này. Như sáu phẩm dưới đây đã nói.

11. GIỚI ĐI SỨ CHO QUỐC GIA

Sai đi sứ ở nước địch, phải dò xét thật hư, sách lược chiến đấu hợp với chiến trận, tình còn hơn thua. Vì trái với lòng từ nên gọi là quốc tặc. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đồng cấm. Tự sự chia làm ba:

- Không nên

- Dẫn ra để so sánh.-nêu lỗi phi kết tội.

Tựa là lợi ác tâm, phân biệt với hòa hợp, không được vào trong quân đội nói nhiều thứ, chẳng phải là việc nên làm của người Phật tử. Dấy binh đánh nhau, trái với lòng từ bi nên không làm. Sứ này là nhân duyên hại nhau cho nên cấm.

12. KHÔNG ĐƯỢC MUA BÁN

Mong lợi tổn vật, trái với lòng từ cho nên cấm. Đại thừa, Tiểu thừa đồng phạm, bảy chúng không chung, tự sự chia làm ba:

- Không nên.

- Nêu lên để so sánh.

- Nêu lỗi kết tội

“Phẩm mại” là mua bán lục súc, vì mạng sống mà mua bán người lành, phần nhiều bị khổ vì có quyến thuộc chia lìa. Nếu mua bán quan tài thì tâm ác mong cầu mua bán, nên cấm đạo tục phải chấm dứt. Nếu mình làm và dạy người khác vì ta, hoặc vì họ mà làm đều phạm tội nhẹ. Bán súc sinh khiến cho nó bị giết. Chú nguyện cho người chết để bán quan tài. Đây là khác tội trộm, tội sát.

13. KHÔNG ĐƯỢC PHỈ BÁNG

Hãm hại người đối diện, tổn hại lòng từ cho nên cấm, Đại thừa, Tiểu thừa đồng chế, bảy chúng đồng phạm. Riêng chọn người Trời trở lên đồng có giới Bồ-tát. Nói bảy tội nghịch, mười giới trọng của người đó, hoặc hãm hại, hoặc trị phạt. Bất luận có căn cứ hay không có căn cứ, chỉ khiến pháp nhân khác mà nói đều phạm tội nặng, bất luận cảnh cao thấp, có giới hay không giới, “hãm hại người” giới này đồng phạm tội nhẹ. Tự sự có ba:

1/ Nêu việc hủy báng.

2/ Nên

3/ Không nên.

Nếu là tâm Đại sĩ thường quán tưởng tất cả chúng sinh là cha mẹ, anh em, bà con. Phải sinh tâm từ bi hiếu thuận, mà nay lại chê báng hãm hại. Thanh văn đến người đồng giới, đồng kiến, đồng chúng, bốn tội trọng Vô căn cứ là tội tăng tàn, ngoài ra các bộ luật khác đều có nói đầy đủ.

14. KHÔNG ĐƯỢC NỔI LỬA THIÊU ĐỐT

Vì làm thương tổn hàm thức cho nên cấm, Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa, Tiểu thừa đều cấm, Tự sự có ba giai đoạn:

1/ Đốt lửa

2/ Xa có thiêu đốt

3/ Nêu lỗi kết tội

Có Sư nói giết quỉ thần, súc sinh phạm tội nặng, giới ban đầu đã cấm. Giới này chỉ không được đốt rừng cây, là nghĩa xa của tổn hại. Nay giải thích giết quỉ thần, súc sinh không phạm tội nặng. Nay đốt rừng làm cho chúng sinh chết là đồng cấm với giới này. Tháng 4 đến tháng 9, sinh nhiều sâu trùng, lúc đó đạo tục đồng cấm. Không được đốt rừng xa có tổn hại. Bồ-tát tại gia làm nghề thiêu đốt không cấm, Bồ-tát xuất gia vì ngăn ngừa làm hại các việc, cũng không khai cho. Nếu không cẩn thận đốt thì phạm tội nhẹ, tất cả sinh vật đều có mạng sống. Nói có sinh lầm lẽ ra nói vật có chủ. Nếu đốt vật có chủ chẳng những tháng 4 tháng 9, mà phải biết là có sinh vậy.

15. KHÔNG ĐƯỢC CHỈ DẠY SAI LỆCH

Làm cho người mất chánh đạo nên cấm, bảy chúng đồng phạm, Đại thừa, Tiểu thừa không chung, vì sở tập khác. Tự sự có ba giai việc:

- Nêu việc phải dạy người.

Từ đệ tử Phật, nghĩa là nội chúng, ngoại đạo là ngoại chúng, sáu thân thiện tri thức chung cho cả nội ngoại

- Nên dạy cho họ kinh luật Đại thừa làm họ phát tâm Bồ-đề. “Thập tâm” là mười tâm phát thú, Khởi tâm Kim cương (mười tâm Kim cương) lược mười trưởng dưỡng. Ba mươi tâm này hành giả phải mau chỉ dạy.

- Không nên: Không nên có tâm ác dạy Nhị thừa ngoại điển, nếu thấy lợi ích cho chúng sinh thì không phạm.

16. KHÔNG ĐƯỢC VÌ LỢI MÀ NÓI PHÁP ĐIỆN ĐẢO.

Trái với đạo dạy trao cho nên cấm. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đồng chế. Giới trước ẩn Đại hiển Tiểu, giới này tuy nói Đại nhưng mong lợi bền chắc. An mất nghĩa vị nên không hiển bày. Thanh văn dạy bảo người khác ẩn mất nghĩa lý, phạm tội nhẹ. Tự sự chia làm ba việc:

Trước phải tự học

Vì người đời sau mà nói đủ.

Nói không nên vì lợi mà ẩn mất thì văn dễ thấy. Có Sư nói trong đây nêu chế độ khổ hạnh cấm để cứu chúng sinh. Không như thế thì phạm tội nhẹ. Lại giải là nêu, là từ so sánh Đại sĩ phải nên xả thân thí cho người, sau đó mới nói pháp cho họ nghe. Huống chi nói pháp vì mong lợi, Đoạn sau hiển thị có ba, văn rất dễ hiểu.

17. KHÔNG ĐƯỢC Ỷ THẾ MÀ CẦU XIN:

Vì làm não hại người cho nên cấm, Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đồng chế. Tự sự có ba:

Vì lợi mà gần gũi Phi lý mà cầu xin. Nêu lỗi kết tội

Cậy thế viết thư yêu sách, đòi hỏi. Nếu tự mình làm và bảo người khác làm cho mình, đều phạm giới này.

18. KHÔNG ĐƯỢC CHẲNG HIỂU BIẾT MÀ LÀM THẦY

Không hiểu mà chỉ dạy bừa làm cho người sai, làm cho người hiểu sai, hai chúng xuất gia đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đồng chế. Ba chúng và người tại gia, không có không phép nên không cấm. Đức làm thầy của Thanh văn là bảy pháp, do tụng thọ giới pháp chế ra. Bồtát Pháp sư phải đủ mười hạ, năm pháp như đã giải thích trước đây. Tự sự có ba:

Tụng chưa thuộc làu cần phải sáu thời, đã thuộc làu rồi thì không cần phải thường như thế.

Thường phải 6 thời

Nói không hiểu không nên làm thầy, trái với tâm mình là tự lừa dối, lầm người trước mặt là lừa dối họ.

19. KHÔNG ĐƯỢC NÓI HAI LỜI:

Đến người này nói người kia, đó là trái với hòa hợp cho nên cấm. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đồng chế. Tự sự có hai giai thứ:

1/ Nêu lỗi làm cho người đấu tranh, nghĩa là Bồ-tát trì giới, tay bưng lư hương, là nêu một việc làm lành.

2/ Không nên: không nên nói dâm thọc hai đầu, đem lỗi người này đến nói với người kia, gọi là nói hai đầu. Chê bai lừa dối người hiền. Không việc ác nào không gây ra từ lời hai lưỡi, nói thật mà hai lưỡi cũng phạm. Giới này nêu lỗi luống dối vì lời nói chê bai lừa dối, chữ “lỗi” hoặc viết chữ “lầm”. Văn nói: “Dùng lời châm chọc nói lỗi hai bên, đều là tiêu văn, hoặc viết chữ cấu (mất) là văn viết sai. Giới này gọi là ganh ghét người lành, nói lỗi xấu của họ, nói nhỏ hai đầu không tiện, nay cấm cả ganh ghét người lành, vì châm chọc bên này bên kia.

20. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG PHÓNG SINH

Thấy nguy không giúp, là trái với lòng từ cho nên cấm. Đại sĩ thấy nguy nên cứu giúp, bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa không đồng chế, Địa sĩ độ khắp tất cả chúng sinh. Thanh văn chỉ dừng ở quyến thuộc, chế nầy là tự độ. Tự sự có ba:

- Chẳng phải người thân nên độ

- Là thân nên độ

- Nêu lỗi kết tội

Ban đầu giới trọng có thể hiểu, trước nói nghĩ tưởng như người thân, tức là chế khiến nhớ nghĩ quán Từ bi. Như Đại Kinh nói: Tập cửu phẩm, thất phẩm” v.. v.....

Khiến thượng oán bình đẳng với thượng thân. Đại sĩ phải cho lợi ích giúp thân và lợi ích giúp thần, ở văn dễ thấy “Nếu cha mẹ” v.v... trở xuống.

Là thứ hai người thân nên độ, Đại sĩ thì người trước mình sau, nên người thân ở sau. Y theo trước cũng có ba, nay chỉ nói lợi ích giúp thần. Như thế v.v... trở xuống thứ ba là tổng kết, trong phẩm Diệt Tội có nói rộng.

21. KHÔNG ĐƯỢC GIẬN ĐÁNH TRẢ THÙ

Đã làm thương tổn từ bi nhẫn nhục lại kết oán, cho nên cấm. Sách ngoài có 2 đường:

1/ Lễ đã cho phép. 2/ Tiệm giáo đã cấm

Nay nội kinh đều cấm, bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đồng chế. Tự sự có ba:

Chế không nên trả thù, nghĩa là dùng tức giận để trả giận đánh, chẳng phải dùng đức để báo oán. “còn không nên chứa trở xuống là thứ hai”

Nêu tình huống, “ mà xuất gia” trở xuống là

Nêu lỗi kết tội: tôi tớ xuất gia, Bồ-tát không được nuôi, tại gia được nuôi, nhưng không nên đánh đập phi lý.

22. KHÔNG ĐƯỢC KIÊU NGẠO KHÔNG THƯA HỎI PHẬT PHÁP

“Mạn như núi cao, nước pháp không trụ vì trái với sự tuyên dương giáo hóa cho nên cấm. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa không hoàn toàn giống nhau. Đại sĩ thường nên thưa hỏi, Thanh văn nên thưa hỏi, nhưng vì kiêu mạn không thỉnh nên phạm tội nhẹ. Tự sự có ba:

Tự cậy kiêu mạn, tức là gồm cấm.

“Mới xuất gia” nhiễm pháp chưa sâu nên, có tự nên, hiểu chưa (577) đúng, tự cậy thông minh ở việc khác đối với biết. “Pháp sư” ấy trở xuống là cảnh ra khỏi kiêu mạn. Tánh nhỏ mọn thấp hèn cho nên khởi kiêu mạn, thật sự tự có hiểu cho nên không nên.

3. Nên tội kết lỗi. Đệ nhất nghĩa là thắng pháp của Bồ-tát đều gọi là “Đệ nhất nghĩa”. Giới này và giới thứ 6 ở trước đồng chế không thỉnh pháp lấy tâm làm khác. Ở trước cấm biếng nhác không thưa hỏi, ở đây cấm kiêu mạn không thưa hỏi. Nếu tâm kiêu mạn không thưa hỏi, không đến nghe thì đồng với giới này.

23. KHÔNG ĐƯỢC KIÊU MẠN KHÔNG NÓI PHÁP:

Trái với đạo dạy bảo cho nên cấm, bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đồng cấm. Tự sự có ba việc:

Người cầu pháp từ xa đến hỏi đạo, trong văn nói thứ lớp:

Bồ-tát tân học thọ giới xong, từ xa đến nghe pháp, pháp chủ nói là chẳng phải thầy mình, ỷ mình thông hiểu, ỷ mình có thế lực, tâm khinh mạn không thích hỏi đáp, khiến cho nghĩa lý của Đại thừa ẩn mất, pháp tướng điên đảo, cho nên phạm tội. Nếu trong ngàn dặm không có Pháp sư thì được ở trước tượng Phật thệ nguyện tự thọ, nhưng phải thấy tướng tốt mới được.

Các sư truyền thọ thì không cầm thấy tướng tốt, chỉ cần sinh tâm kính trọng. Nếu pháp sư này tự cậy cho nên nổi lên tâm kiêu mạn, “ mà tân học” trở xuống là

Nêu tội kết lỗi, họ từ xa đến hỏi nghĩa, cậy mình kiêu mạn không chịu đối đáp cho nên phạm tội.

24. KHÔNG ĐƯỢC Không HỌC TẬP GIỚI CỦA PHẬT

Không học việc nên học là trái với đạo xuất yếu cho nên cấm, bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa không hoàn toàn giống nhau. Bồ-tát trước phải học Đại thừa không giới hạn thời tiết. Thanh văn chưa đủ năm hạ, chưa đủ năm pháp thì không nói, nếu trước gắp học điều quấy thì phạm bảy nhóm. Ngoài ở đây không cấm vì tự tu tự mãn. Có ba việc:

1/ Nên học mà không học. Kinh Luật Đại thừa pháp của Phật là nêu chung Tạng Bồ-tát. Chánh kiến là hiểu muôn hạnh, chánh tánh nghĩa tánh chánh nhân. Chánh pháp là tánh của chánh quả.

2/ Tu muôn hạnh từ nhân đến quả, đây là điều cần phải biết, nay không học mà lại học Số luận của ngoại đạo, Nhị thừa làm dứt mất Phật tánh.

3, Nêu lỗi kết tội. Học Tiểu thừa để giúp cho Đại thừa thì không phạm. Nếu Bồ-tát bác bơ không có Nhị thừa thì cũng phạm. Nếu học pháp Nhị thừa là muốn dẫn dứt Nhị thừa giúp họ vào Đại thừa thì không phạm.

25. KHÔNG KHÉO TRI CHÚNG:

Tổn mình hại người cho nên cấm. Hai chúng xuất gia đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đều cấm. Ba chúng và tại gia chưa vào số chúng nên không cấm. Có ba việc: Xuất chúng chủ gồm có năm hạng người, câu đầu là hai phương tiện thành sáu người. Trong Luật có mười bốn người. Ở đây lược nêu sáu người.

2. “Nên sinh”, trở xuống thứ hai là nên, nên có ba việc: Từ tâm là muốn ban vui cho chúng sinh

Khéo hòa tranh tụng nghĩa là đúng như pháp Diệt tránh. Tránh có bốn, Tỳ-ni có bảy. Nên biết pháp trừ diệt không được sai trái

Khéo giữ cúng vật Tam bảo, ứng vật thi dụng không được lẫn lộn mà lại làm loạn chúng.

-Không nên: chỉ nêu hai câu sau, không nêu không sinh từ tâm.

Hai việc này tức là không từ có làng từ.

26. KHÔNG ĐƯỢC THỌ LỢI DƯỠNG MỘT MÌNH.

Thứ lớp thỉnh tăng bất luận khách tăng hay cựu trụ đều có phần. Mà người cựu trụ thọ một mình không chia phần cho khách, trái với tâm thí chủ, tham lợi cho nên cấm. Giới này hai chúng xuất gia đồng phạm, ba chúng và tại gia chưa biết việc tăng nên không cấm. Có ba việc:-Có khách đến. Trong văn tuy nói là Tỳ-kheo Bồtát, nhưng nếu Thanh văn Tăng dự lợi dưỡng chia cũng đồng thí dụ trên. “Cựu trụ “ trở xuống là thứ hai-Nên, nên hai:

Lễ bái đón rước cấp cho tăng đồ nằm:

Nên theo thứ lớp sai tăng.

Nói bán thân cung cấp là nêu lên lời so sánh. Trước tụ trở xuống là thứ ba

-Không nên: trong không nên chỉ nêu không thứ lớp sai tăng, y cứ sau để gồm trước. Nếu không chia tăng vật, không đón rước cũng đồng cấm. Nếu biết sai tăng theo thứ lớp, người kia không sai mà tự mình lấy thì người cựu trụ chỉ phạm tội nhẹ. Vì đến sai ngoài giới, hoặc đến nhưng chưa có phần. Sai xong giựt lại sai người khác. Người khác biết bấy giờ có thể sai, và được sai là phương tiện trộm. Sau được thức ăn của thì chủ cúng năm tiền vào tay đều kết tội nặng, như súc sinh không khác. Hoặc nói rằng “Đây là giới sai tăng không thứ lớp, sai thứ lớp có sáu loại như luật đã nói.

27. KHÔNG ĐƯỢC THO THỈNH RIÊNG BIỆT

Nếu mọi người thọ thỉnh riêng thì thí chủ không thỉnh tăng mười phương, khiến cho thí chủ mất đi công đức bình đẳng, do đó mười phương Tăng thường bị mất lợi bố thí nên đặt ra giới này. Năm chúng xuất gia đồng phạm, hai chúng tại gia không có lợi bố thí này nên không cấm, Đại thừa Tiểu thừa không đồng với Bồ-tát tăng.

1/ Trai hội lợi thí phải dứt tất cả thỉnh riêng, nếu thỉnh thọ giới, nói pháp thấy được căn cứ, so sánh biết người này vô ngã làm công đức, như thế thì không cấm.

2/ Từ bốn vị trở lên có thứ lớp tăng thì không phạm, đều không bị cấm. Nghĩa văn như trước đã giải thích. Có ba việc

- Nêu không nên

- Giải thích nghĩa không nên.

- Thí chủ tu phước, pháp phải rộng khắp. Nên biết lợi thí vốn chung cho cả mười phương. Do ông thọ thỉnh riêng nên mười phương không được, nghĩa là đoạt phần xa của mười phương nên nói không nên.

3. Tám ruộng phước trở xuống, ở đây là ba kết không nên. Tám ruộng phước này đều có được nghĩa thứ lớp của tăng, như Phật cũng là tăng. Tám ruộng phước gồm:

1/ Phật 2/ Bậc Thánh 3/ Hòa-thượng 4/ Xà-lê

5/ Tăng 6/ Cha. 7/ Mẹ. 8/ Người bệnh

Nhưng trong ba tạng, Phật thường thọ thỉnh riêng mà không phạm.

Phật là ruộng phước Vô thượng nên không làm giảm phước của các tâm.

Cõi này chỉ có một vị Phật nên không đoạt lợi thí của Phật khác.

28. KHÔNG ĐƯỢC THỈNH TĂNG RIÊNG:

Phân biệt ruộng hay không phải ruộng như Phẩm Đức Vương của Đại Kinh có nói, nên biết tâm nhỏ hẹp, mất bình đẳng. Đại thừa, Tiểu thừa không hoàn toàn giống nhau, Bồ-tát Đạo tục thỉnh tăng trai hội:

Đều không được thỉnh riêng, tất cả đều phải thỉnh tăng theo thứ lớp. Thỉnh một người thì phạm.

Một chỗ ăn bất luận số người nhiều ít, chỉ thỉnh một vị Tăng theo thứ lớp thì không phạm. Nếu đều không thì cấm, nếu đều thỉnh thì càng tốt. Ý nghĩa giống như đã giãi thích ở trên, có ba việc:

- Nêu nên: mà người đời trở xuống

Giải thích ý nghĩ nên: Thỉnh thứ lớp dù được phàm tăng vẫn hơn thỉnh riêng Thánh tăng. Chỗ khác nói: “Năm trăm vị A-la-hán không bằng một phàm tăng. “Đây là nói theo tâm không nói theo ruộng. Nếu thỉnh riêng trở xuống thứ ba là

- Không nên: không nên đồng pháp khác lạ với ngoại đạo. Mười Đức Phật là Ứng hóa tích trong trăm kiếp ở cõi nầy. Trời Trường thọ đã từng thấy nên phần nhiều dẫn bảy đức Phật để chứng minh, muốn cho người tin dễ hiểu. 90 kiếp ở quá khứ đầu tiên có một Đức Phật hiệu là Tỳ-Bà-Thi, còn gọi là Duy-Vệ, khoảng thời gian các kiếp giữa không có Phật. Đến kiếp thứ 31 có hai Đức Phật: 1. Thi Khí, 2. Tỳ-xá-bà (còn gọi Tùy Tỷ). Kiếp thứ 91 gọi là kiếp Hiền, xuất hiện bốn đức Phật: 1. Câulưu-tôn, 2. Câu-nặng-hàm-mâu-ni. 3. Ca-diếp. 4. Thíchca Mâu-ni.

29. KHÔNG ĐƯỢC SỐNG BẰNG TÀ MẠNG

Đại Luận nói rằng: “Tâm tham phát ra thân miệng gọi là Tà mạng, văn nêu bảy việc đều phạm, trái với Tịnh mạng, có ba việc:

1. Tâm ác vì lợi phân biệt thấy cơ lợi ích chúng sinh.

2. Nêu ra bảy việc

3. Nêu tội kết lỗi

Tức là không từ bi nên phạm, tà mạng của Thanh văn gồm có bốn cách ăn:

(578) Phương ngưỡng và trở xuống thứ tư, trong đây có năm việc chung với cách ăn trước:

- Mua bán nữ sắc

- Tự tay làm thức ăn cho người xuất gia, tại gia.

- Xem tướng lành dữ của người thế tục để sinh sống, không phạm vào điều mà đạo cấm

- Chú thuật

- Công xảo

Phương pháp điều y. Ba việc này đối với chúng sinh, không xâm phạm đúng như pháp tự nuôi sống. Tại gia không cấm, xuất gia đều dứt.

Ba việc này là đối với chúng sinh, không xâm phạm đúng như pháp tự sống. Tại gia không cấm, xuất gia đều dứt. Nếu thuốc thang thanh tịnh trị bệnh không mong cầu thì không phạm, xuất gia cũng khai cho.

Hòa hợp thuốc độc giết người thì phạm tội nặng.

30. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG KÍNH NGÀY TỐT.

Ba ngày trai, sáu ngày trai là ngày có thể lực của quỉ thần, những ngày này nên tu phước làm lành, trái lại là thiếu sót ngạo mạn càng phạm tội. Tùy theo việc phạm mà xếp vào thiên tội, thời nay không nên không biết thêm một giới.

- Bảy chúng đều chế phải cung kính thời.

- Chỉ chế cho tại gia

Một năm có ba tháng trường trai, một tháng có sáu ngày trai, vốn là tại gia. Người xuất gia thì hoàn toàn thọ trì trai, bất luận thời tiết. Có ba việc:

- Nêu chung phạm giới

- Hễ có phạm đều do lời nói và thực hành trái nhau, chánh chân đều hủy báng Tam bảo. Trong sáu ngày trai trở xuống

Là hai nói về kính thời, đó là 6 ngày trai, 3 tháng trường trai. Làm việc sát sinh trở xuống thứ ba là lại nêu chỗ phạm mà kết tội.

Sát sinh trộm cắp lược nêu 1/ hai tội nặng: Phá trai là ăn phi thời. Kinh “Ưu-bà-tắc giới nói rằng: “sáu ngày trai, ba tháng trường trai, thọ tám giới trì trai, Bồ-tát tại gia phải thực hành việc này, như vậy đây là tổng kết mười giới thứ ba.

31. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG CỨU CHUỘC

Thấy người mua bán tượng Phật, Bồ-tát mà không mua chuộc là rất tổn nhục, chẳng phải hạnh Bồ-tát. Phải tùy theo khả năng mà mua chuộc, nếu không thì phạm tội, cho nên chế. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa, Tiểu thừa không hoàn toàn giống nhau. Bồ-tát phải chuộc, Thanh văn thấy cha mẹ không chuộc phạm bảy nhóm.

Kinh tượng không thấy cấm. Có ba việc:

Trước có thể bán người nghĩa là giặc cướp.

Vật bán tức hình tượng Phật, Bồ-tát, cha mẹ. “Mà

Bồ-tát” trở xuống thứ ba Là nên mua chuộc.

32. KHÔNG ĐƯỢC LÀM TỔN HẠI CHÚNG

SINH ở đây có sáu việc xa phòng tổn hại, trái với lòng từ nên cấm, bảy chúng đồng phạm, Đại thừa, Tiểu thừa đều cấm. Có sáu việc:

- Mua bán dụng cụ sát sinh.

- Chứa cân, học, gậy, trượng, thước non thiếu, cũng từ đây mà chế ra.

- Dùng quan hình thế lực để kiếm tiền.

- Tâm hại ràng buộc

- Phá hoại thành công.

- Nuôi chứa mèo chồn.

Sáu vật này không nên chứa để gây tổn thương.

33. KHÔNG ĐƯỢC TÀ NGHIỆP GIÁC QUÁN:

Hễ có chỗ vận động đều không phải chánh nghiệp, tư tưởng giác quán làm loạn chân đạo cho nên cấm. Bảy chúng không hoàn toàn giống nhau, Đại thừa Tiểu thừa đều nhau, có ba việc:

- Trước nêu không nên, tâm ác, phân biệt thấy cơ.-Nêu việc.

- Tổng kết

Nêu việc lớn lại thành năm:

Hai việc khác nhau, xem xét đạo tục đồng cấm.

Thứ hai nếu tự làm vui đạo tục, thì đều không được làm, không được nghe. Nếu cúng dường Tam bảo, đạo tục đồng khai

Thứ ba là tám việc không được tạp hý

Thứ tư là sáu việc không được xem bói làm lợi. Đây là đạo tục đều cấm.

Thứ năm là Sứ mạng.

34. KHÔNG ĐƯỢC TẠM THỜI NGHĨ VỀ TIỂU THỪA.

Trái với căn bản của việc tu học cho nên cấm. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa, Tiểu thừa không chung. Vì học tập điều khác, muốn bỏ Đại thừa hướng về Tiểu thừa, tâm chấp chưa thành phạm. Giới thú tám ở trước đều bỏ Đại thừa hướng về Tiểu thừa, chấp thì thành mất giới, là thuyết của giới trọng thứ mười. Giới này chế muốn trái với Đại thừa chính là nói Tiểu thừa dễ thực hành, lại muốn dứt kiết rồi sau mới hoá sinh. Có hai việc:-Nên: nên niệm. Đại thừa lược nêu ba việc:

-Ủng hộ đại giới gồm 2 thí dụ: 1. Kim cương nghĩa là bền chắc. Thảo nổi như trong Đại bình nói, cỏ là xuất xứ từ kinh nhân duyên, không nên có một niệm tự độ. Ngoại đạo là chỉ cho Nhị thừa. Phương tiện vào đạo là hóa chứ không phải chế.

35. GIỚI KHÔNG PHÁT NGUYỆN

Bồ-tát thường phải nguyện cầu việc tốt. Duyên tâm vào cảnh lành, tương lai do đấy mà thành tựu, nếu không phát tâm nguyện cầu điều lành thì khó toại ý cho nên chế. Bảy chúng đồng phạm, Đại Tiểu thừa tu học khác nhau. Có ba việc:

1/ Nêu ra thể của nguyện 2/ Nên.

3/ Không nên.

Thể của nguyện có mười việc: Nguyện hiếu với cha mẹ sư tăng. Nguyện được thầy giỏi

Nguyện được bạn đồng học tốt. Nguyện cho tôi được kinh luật Đại thừa Nguyện hiểu mười Phát thú

Nguyện hiểu mười Trưởng dưỡng Nguyện hiểu mười Kim cương Nguyện hiểu mười Địa

Nguyện như pháp tu hành Nguyện giữ chắc giới

Phật.

Thà bỏ trở xuống thứ hai là nên, nên phát tâm nầy.

Nếu tất cả trở xuống là thứ ba không nên, không nên không phát tâm nầy.

36. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG PHÁT THỆ

Thệ là sự mãnh mẽ trong tâm nguyện vững chắc. Ban đầu hành tâm yếu hèn nên phải ngăn giữ. Nếu không phát tâm tác ý cũng sinh trái phạm cho nên chế. Bảy chúng đồng phạm, mà dụng không phải đều như thế. Đại thừa Tiểu thừa không chung, Nhị thừa không chế, tâm dễ phòng ngừa.

Có ba việc:

Một câu đầu là nêu khuyên Vĩ phát một nguyện trở xuống là nên phát thệ nguyện trì giới. Một câu sau kết không phát là tội. Giữa có mười ba. Lại chánh nói về thể của nguyện.

37. KHÔNG ĐƯỢC ĐẾN CHỖ MẠO HIỂM TAI NẠN:

Mới thực hành nghiệp Bồ-tát nhiều không nhất định, thân người khó làm đồ đựng đạo. Không thận trọng đến chỗ nguy hiểm có ngày chết mất. Ổ chỗ sống có tai, nghĩ đến việc tang thân là quan trọng. Vì không thận trọng cho nên cấm. Có ba việc:

Đi trong hai thời, 18 vật phải mang theo bên mình. Hai thời đầu-đà là khi du hành. Hai mùa Xuân, Thu đều thích du hành hóa vật không trở ngại hư tổn. Đầu-đà có mười hai hạnh. Đại luận có nói rộng. An có năm:

- Không thọ thỉnh riêng.

- Thường ăn một bữa

- Sau giờ Ngọ không uống nước trái cây ép-Ngồi thọ thực một chỗ.

- Tạo thực vừa no Trú xứ có năm:

- A-luyện-nhã

- Thường ngồi không nằm-Ở chỗ gò mả.

- Ngồi dưới gốc cây

- Ngồi ngoài trời

Thượng y có hai: a. Chỉ chứa ba y:

Thường mặc nạp y, mùa đông lạnh, mùa hạ nóng bức, thời gian này du hành gặp nhiều trở ngại, cho nên cấm. Nếu không y theo chế thì phạm tội nhẹ. Có người nói Bồ-tát lập thệ an cư có năm, ba tháng. Dưới phân nửa đến tháng 8 trên phân nửa. Văn nói: Thời này không tu hạnh đầu đà là giới hạn an cư, giới này là chế hạn.

38. KHÔNG ĐƯỢC TRÁI VỚI TÔN TY THỨ

LỚP.

Trái loạn thất nghi cho nên cấm, bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đều cấm. Có ba việc:

- Nên theo thứ lớp, không nên như ngoại đạo

- Không nên: không nên loạn thứ lớp, trong giáo pháp của tà mạng trở xuống

- Tổng kết nghĩa nên, không nên.

Thứ lớp của Thanh văn xuất xứ từ Luật bộ, pháp dùng đồ nằm lấy giới làm thứ lớp. Cho đến thời gian rất ngắn, đều nói chung cho chín chúng đạo tục:

1/ Tỳ-kheo

2/ Tỳ-kheo-ni 3/ Ni sáu pháp 4/ Sa-di

5/ Sa-di-ni 6/ Xuất gia

7/ Xuất gia ni 8/ Ưu-bà-tắc 9/ Ưu-bà-di

Chín chúng này có thứ lớp không được nối loạn, như Luật bộ nói.

39. GIỚI PHÁI TU PHƯỚC TUỆ.

Phước tuệ trang nghiêm như chim hai cánh, không thể không tu. Trái đạo xuất yếu cho nên cấm, bảy chúng đồng phạm, Đại thừa, Tiểu thừa không hoàn toàn giống nhau. Bồ-tát nhiếp tất cả điều lành cho nên tu. Thanh văn mùa hạ nên tu phước nghiệp.

Thời khác không cấm. Có ba việc:

Tự làm, bào người làm, trong văn lược nói bảy việc:

1. Tăng phường.

2. Núi rừng.

3. Vườn.

4. Ruộng.

5. Tháp.

6. Nơi ngồi thiền khi an cư mùa Đông, mùa Hạ.

7. Tất cả nơi hành đạo.

Tất cả những vật dể lại này đều phải kiến lập, nếu sức mình không làm nổi thì không phạm. “Mà Bồ-tát” trở xuống là thứ hai nên

Tu trí tuệ, cũng tự tụ dạy người tu. “Mà tân học” trở xuống Là nên tội kết lỗi, không tu thì lỗi.

“Chín giới như thế”: trong đoạn kết của phẩm Phạm tăng có nói đầy đủ.

40. KHÔNG ĐƯỢC LỰC CHỌN TRUYỀN GIỚI

Giới người nào có tâm muốn thọ đều phải cho, nếu sân ác lựa chọn trái với lời khuyên cho nên cấm. Hai chúng xuất gia đồng phạm. Ngoài ra người chưa có khuôn phép thì không chế. Đại thừa, Tiểu thừa không hoàn toàn giống nhau. Bồ-tát vốn gồm cả chúng sinh. Thanh văn cho phép mà trong lòng hối thì phạm, không hối thì không phạm. Có ba việc:

- Không nên lựa chọn

- Nên lực chọn, có hai: một. Thân hình không bằng thì nên lựa chọn. Hai

Nghiệp chướng không bằng thì nên lựa chọn. Trong y của Thanh văn mầu bùn xanh đậm. Bồ-tát cũng nên dùng, theo ý của văn này dường như không cần phải đầy đủ hết. Nhưng khác với người thế tục nên gọi là như pháp.

Đạo tục thọ giới đều phải mặc hoại sắc

Đó là chỗ hoại sắc, đạo tục đồng chế. Văn nói: “có khác với thế tục”. Nên biết Bồ-tát xuất gia phải mặc màu hoại sắc. “Xuất gia nhân pháp” trở xuống là thứ ba. Nêu tội kết lỗi.

41. KHÔNG ĐƯỢC VÌ LỢI MÀ LÀM THẦY

Bên trong không thật hiểu, bên ngoài vì lợi mà làm như thế. Gượng làm gây tội sai lầm cho người nên cấm. Hai chúng xuất gia đồng phạm, Đại thừa, Tiểu thừa không đồng chế. Ba chúng và tại gia không có không phép nên không cấm. Có ba việc:

-Nói về hiểu: Hiểu này gồm chế, không hiểu thì phạm vấn già đạo. Già đạo có 3:

1. Bảy tội nghịch

2. Mười giới trọng

3. 48 giới khinh.

Như thế 3 việc này mỗi việc phải hiểu được. Người không muốn thọ, không được ép bức, tội tăng thêm. “Nếu không hiểu Đại thừa”.

Không hiểu: không hiểu mà làm thầy cũng là gồm chế. “Mà Bồ-tát” trở xuống thứ ba là Nêu lỗi kết tội.

42. KHÔNG ĐƯỢC NÓI GIỚI CHO NGƯỜI ÁC

Phàm phu thọ giới Bồ-tát đều gọi là người ác, dự nói là sau khi thọ không ân trọng cho nên cấm. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đồng cấm. Có ba việc:

Không được nói cho ngoại đạo, người ác tức 95 hạng, trừ vua chúa, là bọn người ác trở xuống thứ hai

Không thọ đều là người ác, không sinh không tử đồng với súc sinh. “Mà Bồ-tát” trở xuống là thứ ba Nêu tội kết lỗi.

43. GIỚI THỌ THÍ KHÔNG BIẾT HỔ THẸN.

1. Nên chia ra phạm rồi tự kết tội, không hổ thẹn tự nhận lợi thí cho nên chế. Năm chúng xuất gia đồng phạm, Đại thừa, Tiểu thừa đồng chế, vì luống uổng ruộng phước. Văn nói: “Tín tâm xuất gia hủy chánh giới, “Tại gia chưa phải là ruộng phước cho, nên không cấm. Có ba việc: đất nước mang tội không hổ thẹn, không được thọ thí. Quốc vương nối dùng cấp thí cho người có đức. Người không đức hạnh không nên thọ dụng.

2. “Ngàn năm” trở xuống là thứ hai người có lỗi không biết hổ thẹn thì người, quỉ hủy báng, hoặc chánh giới

3. Nêu tội kết lỗi.

44. KHÔNG ĐƯỢC KHÔNG CÚNG DƯỜNG KINH LUẬT

Tam bảo đều phải cúng dường, nếu không tu thì trái với tâm cung kính cho nên chế, bảy chúng đồng phạm. Đại thừa, Tiểu thừa không hoàn toàn giống nhau. Bồ-tát phải tu năm việc, năm thiên của Thanh văn pháp khinh trọng phải tụng trì. Việc khác không chế, có ba việc:

Nêu khuyên, thọ trì trở xuống là Việc khuyên riêng, có năm thứ: Thọ trì.

Đọc Tụng

Biên chép Cúng dường

- Giải thích trở lên trong giới 39. “Nếu không trở xuống là thứ ba”

- Nêu lỗi kết tội.

Kinh điển là mẹ Chư Phật, phải nên cúng dường, nếu không thì phạm tội.

45. KHÔNG GIÁO HÓA CHÚNG SINH.

Bồ-tát phát tâm vì chúng sinh. Thấy có mà biết nó, phải nên giáo hóa khiến được ngộ giải. Nếu không, thì trái với hạnh Đại sĩ cho nên chế. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa không chung. Đại sĩ giáo hóa chúng sinh là chánh hạnh. Tiểu thừa tự độ, không giáo hóa không phạm. Có ba việc:

Khuyên khởi Đại bi không khởi gồm chê, tâm bi có thể cứu khổ, Đại sĩ thường nguyện cho chúng sinh lìa khổ. “ nếu nhập tất cả trở xuống là nêu”

Tâm bi gồm có 3 thứ:

Thấy loại người khiến thọ ba quy y, mười giới có hai cách giải: 1/. Thanh văn thọ mười giới. 2/. Bồ-tát thọ mười giới. Thấy phi nhân khiến phát tâm.

Thấy súc sinh khiến phát tâm là cấp yếu của người xuất gia, nên ba loại này đều chế chung cho xuất gia, tại gia

46. KHÔNG ĐƯỢC NÓI PHÁP KHÔNG ĐÚNG PHÁP

Gượng giải nói bên này và bên kia đều có lỗi mạn pháp cho nên cấm. Năm chúng xuất gia đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đồng chế. Tại gia không hoàn toàn, vì Pháp chủ nên nói một câu một kệ không đúng pháp cũng phạm. Có ba việc:

Phải có tâm Đại bi giáo hóa tức là gồm chế, không được lập bày nghi tắc nói pháp. Nói cho người tại gia không được đứng dựa. Đúng Pháp nên đồng ngồi hoặc cùng đứng cũng không lỗi. Trong đây nêu đứng nói. Nếu người nằm nghe, pháp chủ đứng thì đừng nói. Tăng Ni ó đạo mà đứng dựa nói, thì người nói cũng phạm tội nhẹ.

3. Nêu lỗi kết tội.

47. KHÔNG ĐƯỢC CHẾ HẠN KHÔNG ĐÚNG

PHÁP.

Thấy việc lành thì phải tùy hỷ, nay giăng lưới ngăn ngại, trái với sự trợ giúp nghĩa thiện cho nên chế. Hai chúng tại gia đồng phạm. Năm chúng xuất không tự tại cũng đồng chế. Đại thừa, Tiểu thừa đồng phạm Có ba việc:

1. Nêu người thọ giới, có hai cách giải thích:

Phật tử muốn tin tâm thọ giới mà ngăn trở không cho họ thọ.

Nêu người năng chế, Phật tử mới tín tâm thọ giới, chưa tiện lập phi pháp chế hạn nên nói là “nên”.

2. “Nếu vua chúa” chế hạn xuất gia, làm dứt mất tăng bảo. Không cho bảy bộ xuất gia: cư sĩ, cư sĩ phụ, đồng nam, đồng nữ. Không cho lập hình tượng là dứt mất Phật bảo. Không cho viết chép kinh luật là làm dứt mất Pháp bảo.

3. Nên dưới đây là nêu lỗi kết tội.

48. KHÔNG ĐƯỢC PHÁ HOẠI ĐẠO PHÁP

Nội chúng có lỗi thì theo nội pháp mà trị tội, lại đến người tại gia, ngoại đạo nói tội, khiến họ bị vua trị phạt làm xấu hổ, nhục nhã hạnh thanh tịnh, nên gọi là phá pháp, vì trái với tâm hộ pháp cho nên cấm. Năm chúng xuất gia đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đều chế. Tự sự có 3 giai đoạn:

- Không nên phá pháp

- Hộ pháp

- Nêu lỗi kết tội

Theo lời người xúi giục phá pháp, hoặc khiến cho người tổn não giới.

“Các Phật tử” Tông kết có 3:

- Nêu số

- Khuyến trì

- Khuyến tụng

“Nêu số” là 48 giới khinh, “Khuyên trì” tức các thầy phải hành trì tại tâm, “Khuyến tụng” là nêu Bồ-tát ba đời tụng là khuyên. Các Phật tử lắng nghe trở xuống là thứ ba đoạn lớn lưu thông, giới này chế khinh trọng, một phẩm có hai: phần lưu thông: Lưu thông, giới khinh trọng có bốn ý:

- Tụng

- Chánh lưu thông

- Lưu thông đắc

- Đại chúng phụng trì. Bốn ý này lại chia làm ba:

1. Nêu danh

2. Chư Phật ba đời tụng

3. Đức Thích-ca cũng tụng, là lưu thông khuyên tất cả bốn chúng

II. CHÁNH LƯU THÔNG: có ba phần:

1. Lưu thông người

2. Lưu thông tướng

3. Lưu thông việc

“Lưu thông người” là ngồi trong đại chúng. “Lưu thông tướng” là năm hạng Pháp sư. “Lưu thông việc” là giới pháp này lưu thông ba đời, giáo hóa không dứt. “Được thấy ngài Phật”... Đây là bốn chữ quan trọng, giai đoạn ba, lưu thông được lợi ích, được thấy ngàn Đức Phật là việc lợi ích. Câu văn có ba ý:

- Gặp bậc Thánh

- Lìa khổ

- Được an vui.

“Gặp Thánh” là thấy ngàn Đức Phật, nay nêu một ngàn Phật một đời mà thôi. “Phật Phật trao tay” chẳng phải đưa tay mà là nhận. Nói trao giới như gần gũi chư Phật, nên gọi là trao tay, đời đời lìa khổ, sống thường an vui. Chỗ rời được há chẳng phải là đây hay sao? Rồi nêu chỗ ưa chán của phàm tình lấy đó để khuyên. Nay ta ở dưới cội cây này phó chúc vâng lành. Sau đây không khai nữa. “Bấy giờ, Đức Thích-ca”. Chương 2: 1 phẩm nêu chung lưu thông. Quyển giới bản này thiếu vì sao chép không hết. Cũng có bốn việc:

Riêng kết thuyết phẩm Tâm Địa Lược nêu tổng kết mười chỗ nói pháp Pháp đã nói

Đại chúng cử hành. Giai đoạn đầu có hai:

Đây là Phật Thích-ca nói

Đây là Phật Thích-ca khác nói

Giai đoạn 2: Từ câu Ma-Hê v.v... là Tổng kết mười nơi nói pháp, cũng có hai:

1/. Nêu Đức Thích-ca nói 10 chỗ xuất xứ từ quyển thượng.

2/. Nêu Đức Phật Thích-ca khác nói, Ngoài ra văn này còn thiếu phần cuối cũng học như thế.

Giai đoạn ba: Gồm bảy câu nêu chỗ nói pháp cũng như vậy, sáu câu trước là riêng, một câu sau là chung.

“Ngàn trăm ức thế giới”

Đại chúng vâng làm cũng giống như vậy. Trước nói chúng sinh trong trăm ngàn ức thế giới, mỗi người đều nói, mỗi người đều vâng làm.

Chỗ khác có nói rộng. Phẩm Phật Hoa Quang Vương trong Đại Bản cũng khác. “Tam thiên” là Bồ-tát phải học ba ngàn oai nghi. “Ba năm là” Thanh văn học năm năm”, Tam sự” là Giới, Định, Tuệ.

Bồ-Tát Giới Nghĩa Sớ quyển Hạ xong.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Luật Sớ][Mục lục tổng quát]