TẠNG LUẬN
SỐ 1812 - THIÊN THAI BỒ-TÁT GIỚI SỚ
Sa-môn Minh Khoáng ở Thiên thai san bổ. (Thảo Thư Diệt Pháp truyền giả Tu
I. THẬP TRỌNG, TỨ THẬP BÁT KHINH GIỚI
Chân)
Phật tánh thường trụ, giáo khởi từ các duyên khác nhau, nên nghĩa có rộng, lược. Hoặc dẫn các chú thích để hiển bày khác nhau, hoặc phá những kinh nghiệm không đầy đủ từ trước đến nay, hoặc dẫn những câu văn hay để tô điểm chỗ thiếu sót, hoặc giữ chất đại chủng thành sâu xa. Tất cả những việc đó đều đều làm sáng tỏ giáo chỉ.
Nay tôi tùy chỗ, loại bỏ những câu văn trái với bậc tiên kiến, dùng tông Tông Thiên Thai làm chính, vì duyên đầy đủ của Thiên cung, tham cứu các nhà để bổ khuyết, giải thích, mục đích giúp thêm cho bản văn được đầy đủ, nhưng vẫn lo ngại còn thiếu sót, nên không dám thố lộ với người. Bỗng tiết lộ duyên thấy nghe đến, may mắn thay biết được nguyên ý. Giới Bồ-tát vận chuyển việc lành trước, tức vòng ngoài của việc ác, hạnh Thanh văn nhỏ hẹp mà còn quý trọng Ba La-đề-mộc-xoa, huống chi bậc Đại sĩ mang hoài bão lớn lẽ nào không tinh chuyên giới phẩm hay sao? nên được thế giới Liên
Hoa tạng treo trời trăng soi đến cây. Bồ-đề mở cửa cam lộ để cứu giúp. Ngàn hoa ngàn Trăm Ức-Lô-Xá-Na là bản thân. Mười giới trọng, 48 giới khinh Đức Thích-ca là mạt hóa. Không thể nói pháp môn Tâm Địa chừng đầu sợi lông. Nêu thân hoa không thể nghĩ bàn ở đảnh của của Sắc giới. Nơi đó, các Bồ-tát Viên giáo và Biệt giáo đồng tu. Tám muôn oai nghi Thánh hiền đồng tu, huống chi Hằng sa giới phẩm, tất cả được tóm thu trong Ba nhóm tịnh giới, gồm cả sáu độ, như mành lưới của Nhânđà-la không đồng mà đồng, biển Tát-Bà-Nhã khác mà chẳng khác, giống như mưa báu rưới khắp nhân gian. Như chuỗi anh lạc để trang sức thân, công đức thành Diệu giác. Ở đó năm giai vị Bồ-tát đều dựa vào viên nhân này. Như lai Ba đời đều từ giới đó mà được quả mãn. Giới Bồ-tát này là con đường thẳng của đạo tràng, chỉ là khuôn phép lớn thành Chánh giác, rất khó nói được thay. Tựa đề là Phạm Võng Kinh Lô-Xá-Na Phật Thuyết Bồ-tát Tâm Địa
Phẩm Đệ Thập, “Phạm” là từ người đương thể thanh tịnh mà đặt tên, “Võng” thí dụ rõ ràng công năng lập hiệu. Nghĩa là chư Phật đối cơ để lập giáo, thuốc bệnh nhiều mối như mành lưới của vua trời Đại Phạm, nên gọi là “Phạm Võng”. “Kinh” nghĩa là kinh giáo, giải thích phân biệt Phật tánh thường trụ nên gọi là Kinh, “Lô-XáNa”, Kinh Bảo Lương dịch là Tịnh Mãn. Ba hoặc dứt sạch nên gọi là Tịnh. Muôn đức đều tròn đầy, nên gọi là Mãn. Trí Tịnh Mãn tự giác giác tha nên gọi là Phật. Tám âm tuôn ra gọi là nói? “Bồ-tát” v.v... Đại sĩ ở nhân vị trước của diệu giác khuôn phép của giới pháp này, cho nên nêu Bồ-tát. Luật nghi Bồ-tát ngăn ngừa ba nghiệp tâm ý làm chính, nêu một nhiếp tất cả. Như quả đất bao trùm cả muôn vật nên gọi là Tâm địa. “mười trọng” v.v... là phân biệt pháp khác người. Pháp cấm tuy nhiều nhưng không ngoài hai thứ khinh và trọng, nên nói giới phẩm mười trọng, bốn tám khinh.
Pháp La-thập sư đã trình bày pháp tướng xuất xứ từ phẩm Luật Tạng trong kinh Phạm Võng,. Phạm Võng Đại Bản có 152 quyển, 61 phẩm. Chỉ có phẩm thứ chín hoàn toàn nói về Bồ-tát Tạng Tâm địa Khinh Trọng luật Nghi Giai Vị khác nhau. Một phẩm có hai quyển. Đây là quyển 10. Gọi là Phạm Võng Kinh Lô-Xá-Na Phật Thuyết Bồ-tát Tâm Địa Giới Phẩm Thập Trọng Tứ Thập Bát Khinh Đệ Thập.
Giải thích kinh này thành bảy môn khác nhau. 1-Danh thể.
2- Tông dụng
3- Thuộc về giáo nào.
4- Thọ pháp.
5- Truyền dịch.
6- Lược phân biệt.
7- Tùy văn giải thích.
1/ Danh thể có hai: Giải thích danh và nêu thể.
Giải thích danh là một chữ Giới. Hán dịch âm tiếng Phạn là Thi-la, cũng gọi là Tỳ-ni-Ba-la-đề-mộc-xoa,
Hán dịch là Thanh lương, diệt lỗi của ba hoặc giữ được giải thoát.
Nay nói có công năng ngăn ngừa ba nghiệp, dứt ba hoặc quấy nên đặt tên là Giới. Đại khái không ngoài bốn thệ nguyện và Ba nhóm tịnh giới, thành tựu đạo pháp, tức là giới Nhiếp Thiện Pháp. Thệ nguyện dứt trừ phiền não, tức là Giới Nhiếp Luật Nghi. Nguyện độ chúng sinh, tức giới Nhiếp Chúng Sinh. Huống chi mỗi thệ nguyện đầy đủ ba nhóm, mỗi nhóm có đủ ba tâm, như giữ giới Không sát sinh thì các nghiệp chấm dứt, giới thể đều thanh tịnh, tức là “giới Nhiếp Luật Nghi, đây là nhân của Pháp thân, quy định làm các việc lành, biết pháp, chứng chân, cảm báo tồn tại tức là “Nhiếp Thiện Pháp”, đây là nhân của Báo thân. Dứt việc ác, làm việc lành, lấy từ bi làm căn bản, lợi ích cho chúng sinh tức là” Nhiếp Chúng Sinh, đây là nhân của Ứng thân. Theo Luận Đại Trí Độ thì Ba nhóm tịnh giới có mười nghĩa:
1. Không thiếu: nghĩa là giữ đủ mười giới tánh thiện cho đến mười giới trọng, nếu hủy phá thì không được thọ dụng.
2. “Không vỡ”:
3. “Không thủng”: tức 48 giới khinh, nếu hủy phạm tức như đồ đựng bị sứt mẻ, thủng chảy.
4. “Không lìa niệm”, tức dục niệm không khởi
5. Tùy đạo.
6. Không đắm: nghĩa là thấy được lý Chân Đế, lìa hoặc Kiến Tư trong ba cõi.
7. Được người hiểu biết khen ngợi.
8. Tự tại. Đây là đứng về Bồ-tát lợi tha được người hiểu biết khen ngợi.
9. Tùy định.
10. Đầy đủ.
Về chứng thiền Thủ-lăng-nghiêm Trung đạo, không khởi Diệt định hiện oai nghi, thị hiện thân tùy loại mà giáo hóa chúng sinh trong ba cõi. Mười giới trọng này ngăn cấm ba nghiệp, được gọi chung là Giới, làm thuyền bè chở thân tâm đến bờ Niết-bàn lại gọi là Thừa. Thừa có năm bậc khác nhau như: người, trời, Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát. Nay trì giới là đứng về Sự để đạt lý. Một sát na tâm đủ mười giới. Sự trì là bốn nhân duyên (không thiếu, không phá, không thủng và không lìa niệm) là cảnh. Lý trì là sáu nhân duyên (Tùy đạo, không đắm, được người, Trí khen ngợi, Tự tại, Tùy định và Cụ túc) rõ cảnh Trung đạo Phật tánh thường trụ. Thể chỉ có một, tâm gồm đủ phàm, thánh, y báo, chánh báo, nhân quả. Tuy có mà không, đó là pháp giới, gọi là Quán, tức là một tâm ba quán. Không là Không quán, quán tánh chân đế, nắm giữ hai giới: Tùy Đạo và không đắm. “Cụ” tức là giả quán, quán tánh Tục đế, giữ hai giới “Trí thắng” và “Tự tại”, pháp giới Phật tánh tức là Trung quán, quán tánh Trung Đạo Đệ Nhất Nghĩa Đế. Giữ hai giới “Tùy Định và Cụ Túc, nên Trung Luận nói rằng:”
Pháp do Nhân duyên sinh
Ta nói tức là không
Cũng gọi là giả danh
Cũng gọi nghĩa Trung Đạo
Cảnh trí đều do một tâm năng sở, một mà chẳng phải một, thì mười nhân duyên nói trên cũng giống như vậy, tức đứng về danh tự quán hạnh vị, đều giữ mười giới gọi là Bồ-tát. b) Nêu ra thể:
Ban đầu phát viên tâm theo thầy xin thọ, giới tác động trên thân, miệng, ý gọi là tác giới, sắc tâm làm nghiệp thể. Ba lần yết-ma xong nạp pháp nhớ giữ. Tác giới đã dừng, dụng vẫn còn tiếp diễn ở vị lai, gọi là giới Vô tác. Chỉ có thật tướng tâm lấy đó làm Thể, nên Kinh Anh Lạc nói rằng: “ giới của Tất cả phàm thánh đều lấy Tâm làm thể. Tâm vô tận nên giới cũng vô tận. Các kinh Đại thừa không có nhóm thứ ba, khác với nhóm Phi sắc phi tâm của luật nghi Thanh văn cho là giới thể.
2/ Tông dụng. Có 2 loại: Tông và Thể.
“Tông” là thiết yếu, là đi đến, trước sau đều nương theo mà giữ gìn, mong muốn đến Viên qua.
Gọi là “Tông, ” Dụng”, thân mang Thánh pháp, đức tốt sáng rực bên ngoài. Oai nghi rất trang nghiêm, mẫu mực cung kính đáng sợ. Ba hoặc nghiệp đã dứt sạch khiến chúng sinh kính tin quy về, nên gọi là “Dụng”.
3/ Thuộc về giáo nào:
Đức Thích tôn một đời giáo hóa, hiện thân nói pháp có trước có sau. Bốn thứ khác nhau, nghĩa là Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo. Ba tạng là Câu-Xa, Tỳ-Bà-Sa, và giai vị bảy hiền của Thanh văn bảy thánh khác nhau. Duyên giác khác nhau ở chỗ có gặp Phật hay không. Bồ-tát thì Ba A-tăng kỳ trăm kiếp tu nhân tướng tốt, đều đồng học ba tạng Tỳ-ni, Tỳ-đàm, Tu-đa-la, cho đến dưới gốc Bồ-đề một niệm tương ưng, 34 tâm dứt hoặc Kiến, tư trong ba cõi.
Việc tu học chấm dứt gọi là Phật. Đồng với tăng Bốtát luật nghi Bồ-tát. Nên Kinh Pháp Hoa nói: Không gần gũi người học ba tạng Tiểu thừa mà được gọi là Ba tạng. Tức nêu ứng thân ở vườn nai thị hiện thành kim dung một trượng sáu, cho đến trong hội Phương Đẳng, hàng Tiểu cơ thấy tượng Tỳ-kheo là Phật.
Thông giáo như Phương Đẳng, Bát-nhã nói Ba thừa cùng thực hành mười Địa:
1. Càn tuệ địa (nội phàm) 2. Tánh địa (ngoại phàm)
3. Tám nhân địa.
4. Kiến địa (Không ngoài quán và dứt kiến hoặc, bằng với sơ quả của Ba tạng)
5. Bạc địa: (ba người đồng dứt sáu phẩm Tư hoặc trong cõi Dục, hai quả đồng)
6. Ly dục địa: (dứt chín phẩm tư hoặc trong cõi Dục đồng với ba quả của Ba tạng)
7. Dĩ biện địa: (dứt hết hoặc Kiến tư, đồng với Lahán của Ba tạng).
8. Bích-Chi Phật địa (phước đức sâu dùng, có khả năng xâm tập)
9. Bồ-tát địa(từ Không ra Giả, xâm tập khí Tiểu thừa và các pháp giới nội, vô tri học Phật, mười lực v.v...
10. Phật địa (Một niệm tương ưng tập khí dứt sạch, ngang với Phật của ba tạng.
Trước Thập Địa không có tên Trụ, Hạnh, Hướng, sau không có giai vị Đẳng Giác, Diệu giác. Ba bậc nhân quả phần lớn đồng nhau, gọi là Thông Giáo. Thị hiện ứng thân tốt đẹp uy nghiêm đường đường như mặt trăng trong các vì sao. Tức chung với tướng Phật. Bồ-tát cũng đồng với luật nghi của Thanh văn.
- Biệt giáo: như Kinh Anh Lạc, Nhân Vương nói về 52 giác vị. Địa tiền thuộc về phàm gọi là Hiền, Đăng địa thuộc về Thánh, hoặc gọi là Thất địa nhập Vô công dụng. Thập Tín chợt tiến chợt lùi, gọi là ngoại phàm. Thập Trụ vào “Không” mà dứt Kiến Lư và dứt trần sát na thượng phẩm của giới ngoại. Thập Hạnh ra khỏi “Giả” dứt Trần sa Trung phẩm. Biết khắp thuốc bệnh của bốn giáo, mười giới. Thập Hồi hướng dứt Trần sa hạ Phẩm. Sau quay về bên trong tu phục vô minh giới ngoại. Một phần thô lạc thì nhập vào sơ địa. Tám tướng thành đạo, nhân quả số kiếp xa xôi không thể lường, quán hạnh trải qua, khác trước khác sau. Nên gọi là Biệt, thị hiện thành Báo thân, tức là tướng ấy.
- Viên giáo là viên tín, ba chướng tức là ba đức, báo chướng là Pháp thân. Phiền não là Bát-nhã. Kết nghiệp tức giải thoát, y theo Tín khởi hành. Ba quán viên tu, sát na không Dục đó là:
1. Phẩm Tùy Hỷ.
2. Thọ trì đọc tụng
3. Giảng nói sao chép
4. Tu cả sáu độ
5. Thực hành đủ sáu Độ, giống như Kinh Pháp Hoa. Đệ tử Năm phẩm này hàng phục hết vô minh, tức địa vị ngoại phàm ở giai. Vị Thập Tín Kiến Tư hết trước, nên “Kinh Nhân Vương” nói “Bồ-tát tu mười điều lành phát đại tâm lâu dài trong biển khổ của ba cõi, tức giai vị Nội phàm, ngang với Thập Trụ của Biệt giáo và Phật của Tạng thông. Sau Thập Tín, tâm phá một phẩm vô minh ở giới ngoại. Sơ trụ vị trước thành tám tướng. Như Kinh Hoa Nghiêm đã phân biệt, đồng với công dụng sơ địa của Biệt giáo, trước sau gồm phá 42 phẩm vô minh giới ngoại mới thành Diệu Giác. Biệt nhưng không biệt, lý mầu không hai, nên gọi là Viên. Thượng căn nhất sinh nghĩa là vào Sơ Trụ. Bốn giáo này đứng về năm thời có nhiều có ít. Hoa Nghiêm Viên giáo gồm có Biệt, vườn Nai chỉ Tạng. Phương Đẳng đối với Bán mà nói Mãn, bốn giáo đầy đủ. Các bộ Bát-nhã mang Bán nối Mãn. Ba giáo: Thông, Biệt, Viên. Nay giới kinh này kết hội Hoa Nghiêm, tức Biệt giáo, Viên giáo khinh trọng đốn chế Bồ-tát Luật Nghi. Kinh Pháp Hoa chính là nói ý Phật. Bỏ phương tiện quy về thật, chỉ một Viên thừa. Nhân pháp đều khai, y chánh không hai. Nên nói: ta thường ở thế giới Ta-bà này, việc làm của các thầy là đạo Bồ-tát. Năm vị Phật đều khiến tất cả chúng sinh khai thị ngộ nhập tri kiến Phật. Niết-bàn tuy nói bốn giáo là dứt quyển phô luật bàn thường. Mỗi mỗi đều nghe Phật tánh, nên hai kinh đồng vị, đều ví như đề hồ. Nay theo ý Phật giải thích Viên giáo.
4/ Nói về người thọ pháp. Chỉ y theo các văn của Kinh Anh Lạc Địa Trì bản Cao Xương gồm có 12 môn khác nhau:
1. Khai ngộ
2. Ba quy y
3. Thỉnh sư
4. Sám hối
5. Phát tâm
6. Hiện tướng hỏi già nạn
7. Truyền giới
8. Chứng minh
9. Hiện tướng
10. Trình bày Trì Phạm
11. Nguyện rộng.
Dạy trì giới. l. Khai ngộ: Xét giới đức khó lường, công cao như muôn tượng, là khuôn phép của chín thừa, là thuyền bè chuyên chở Tam bảo, nên kinh nói: “Tất cả chúng sinh nhờ giới mà có. Nên Kinh Tát-giá-ni-Kiền tử nói: “Nếu người không giữ giới thì thân ở nơi hoang vắng còn không được, huống chi thân công đức. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là căn bản của Vô Thượng Bồ-đề, nên phải giữ giới cấm đầy đủ. Kinh Niết-bàn nói: “Nếu trì kinh này mà không giữ giới, thì gọi là quyến thuộc của ma, chẳng phải đệ tử ta, ta cũng không cho thọ trì kinh này. Còn Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội nói: “Tuy có sắc tộc và học rộng, nhưng nếu không có giới trí thì dụ như loài cầm thú. Dù ở vị trí thấp hèn, ít nghe thấy nhưng có thể trì tịnh giới thì cũng được gọi là Thắng sĩ.
Cụ giới có nhiều đường. Đủ năm giới, tám giới, mười giới, giới cụ túc khắc luận công báo, tùy theo tâm người thọ. Nay giới Bồ-tát quả báo là viên thành quả Phật, tướng tốt vô biên. Tất cả công đức! Ba đạt, Năm nhãn, mười lực, Vô úy, đã phát đại tâm tức Thượng phẩm tâm, thọ giới Bồ-tát. Bồ-tát có 51 giai vị, luật nghi của Bồtát thừa thuộc về Viên giáo. Cho nên kinh nói rằng: “Người ở biên địa, Trung quốc hoặc nhân hay phi nhân, hiểu hết được lời của Pháp sư truyền giới đều được thọ. Mỗi người phải chánh tín phát tâm chí thành, Chư Phật viên chứng rốt ráo đủ bốn đức thì ở Thường Tịch Quang. Đối với pháp thân địa khởi lòng từ vô duyên, nhớ nghĩ chúng sinh như con đỏ. Chúng ta thường ngày dùng sự ngu tối đâu thể biết được. Ba cõi luân hồi, bốn loài chìm đắm, chỉ có bậc Viên diệu giác biết được cùng tận vô minh, nên phát viên tâm mà mong cầu viên hạnh. Biết nhân cảm quả, cảnh giác thường tình, nên gọi là khai ngộ. Phần khai ngộ xong.
2. Quy y Tam bảo, nói lược về ba loại Tam bảo được quy y:
- Trụ trì,-Biệt tướng,-Nhất thể.
- Trụ trì Tam bảo: Là người có khả năng mở mang đạo truyền bá muôn đời. Đạo được người mở mang thì Tam Bảo mới thường trụ ở đời. Cạo tóc, mặc áo nhuộm là Tăng bảo, tượng đúc bằng đất, gỗ, là Phật bảo.
- Biệt tướng Tam bảo: Mười phương ba đời pháp Báo Ứng, Hóa là Phật bảo. Pháp môn được nói là pháp bảo, trừ Diệu Giác ra thì Bồ-tát và Nhị thừa là Tăng bảo.
- Nhất thể Tam bảo: Nhất thể Tam bảo là Thật tướng viên lý gọi là nhất thể. Tức một mà ba đều là Bí tạng, như vật châu báu, quý lạ của thế gian nên gọi chung là Bảo. Vì sao? Vì tâm thể giác biết gọi là Phật, tánh thể lìa niệm gọi là Pháp, tâm thể không tranh cãi là Tăng. Phàm thánh trước sau đầy đủ ba thứ này. Phật đã tu đã chứng ứng vật hiện hình. Biệt tướng trụ trì công phu từ một thể. Lẽ ra chúng ta phải như thế, như băng ở trong nước, nếu muốn nước thành băng thì phải dùng phương tiện. Muốn đến quả Phật mà không tu thì không thành. Nay mới biết Tam bảo là chỗ quy y đúng hướng.
Dạy đệ tử... nguyện từ đời này cho đến tận bờ mé đời vị lai, quy y Phật lưỡng túc tôn. Quy y Pháp ly dục tôn, quy y Tăng chúng Trung tôn (nói 3 lần)
Đệ tử... nguyện từ đời nay cho đến tận cùng bờ mé đời vị lai, quy y Phật rồi, quy y pháp rồi, quy y Tăng rồi (nói ba lần). Từ nay làm đệ tử Phật rồi, không quy y các tà ma ngoại đạo. Cúi mong Tam bảo từ bi nhiếp thọ. Xin thương xót cho con (lễ Tam bảo) thọ Ba quy y xong.
3. Thỉnh sư, hễ làm thầy phải có năm đức:
- Kiên trì tịnh giới.
- Đủ mười hạ.
- Khéo hiểu luật tạng.
- Các sư truyền nhau.
- Định tuệ cùng huyền.
Sư phải dạy đệ tử: “Đệ tử... nay theo Đại đức cầu thọ giới Bồ-tát, Xin đại đức vì con mà không ngại mệt nhọc, xin thương xót con (ba lần).
Kế đến thỉnh Hòa-thượng: “Đệ tử... kính thỉnh Đức Thích-ca Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác làm Hòathượng. Con nương theo Hoà-thượng được thọ giới Bồtát, xin thương xót con (lễ một lạy) Văn-thù-sư-lợi làm yết-ma A-Xà-Lê.
Bồ-tát Di-lặc làm thầy Giáo thọ. Tất cả Như lai Ưng chánh Đẳng giác làm tôn chứng. Tất cả Bồ-tát Ma-ha-tát làm bạn lữ đồng học (nói giống như trên) Kế phải dạy xin giới rằng: “Bạch Đại đức! nay đúng là phải thời, xin trao giới Bồ-tát cho con”. Kế là giới sư phải đứng lên bạch Phật, Xướng rằng: “Cúi đầu lễ tất cả Chư Phật trong mười phương và các Bồ-tát tăng khắp quả đất. Các Bồ-tát này xin con là..... muốn theo các Bồ-tát tăng xin thọ giới Bồ-tát. Các Bồ-tát này đã chân thật tin sâu, thành tựu nguyện Bồ-đề, cúi xin Chư Phật thương xót bố thí cho giới Bồ-tát (nói 3 lần) Thỉnh sư làm thầy chứng minh xong, Chư Phật mười phương thần thông đạo nhãn đều nghe thấy con nói như đối trước mặt, hướng về Phật sám hối.
4. Sám hối.
Giới là pháp thanh tịnh, thân khí thanh tịnh mới thọ nhân được, nên trước phải sám hối để rửa sạch thân tâm, như giặt y cũ rồi mới nhuộm mầu được. Nhưng Như lai thị hiện tịch diệt đã hai ngàn năm rồi, chánh pháp đắm chìm ngọn gió tà thổi rộng, chúng sinh phước mỏng sinh gặp thời này, dù có nghe cũng không tin nhận, bởi vì hoặc chướng sâu nặng, kiến chấp bền chắc, nếu không sửa đổi thì tội từ xưa đến nay không nhờ đâu mà diệt.
Nếu tội không diệt thì giới không thể phát, nên khó mong giải thoát. Nhưng pháp sám hối có ba phẩm:
Thượng phẩm sám: Là gieo mình xuống đất như núi lớn sụp lở, lỗ chân lông ra máu.
Trung phẩm sám: Tự trình bày lỗi đã phạm, khóc lóc rơi lệ.
Hạ phẩm sám: Theo thầy trình bày tội cũ. Nay xin Chư Phật, các Bồ-tát làm người chứng minh. Các Đức Phật, các Bồ-tát đại bi thệ nguyện rộng lớn, muốn khiến cho chúng sinh bằng như Phật không khác. Nhưng người tu hành ba nghiệp thanh tịnh mới được đắc giới. Như thỉnh nhà vua trước phải trang nghiêm nhà cửa, cũng như nước sông đục thì mặt trời không hiện. Chư Phật Ba đời đều nhờ giới này mà được Bồ-đề, nên trước phải vận mười tâm thuận nghịch làm căn bản sám hối. Sư phải dạy rằng: Đệ tư... cùng chúng sinh trong pháp giới cúi đầu đảnh lễ mười phương tận hư không giới, tất cả Tam bảo, Phật Thích-ca Mâu-ni, đương lai Di-lặc, mười hai phần giáo biển chân như Tạng, các Đại Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn chứng minh đệ tử cố tâm sám hối. Từ vô thỉ đến nay buông lung thân, miệng, ý. Trong chấp nhân ngã, ngoài thêm bạn ác, gây ra mười việc ác, năm tội nghịch, bốn tội trọng, hủy báng chính pháp tội Nhấtxiển-đề, giết hại cha mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng. (Khi Phật còn tại thế riêng hành năm pháp Bồ-tát yết ma) làm thân Phật ra máu, phá hoại hòa hợp tăng, thiêu đốt kinh tượng. Bốn oai nghi của thân tổn thương hàm thức. Trộm vật của Tam bảo và tiền của các cõi khác. Điên đảo tà dâm, ô nhiễm phạm hạnh, mê hoặc Tam bảo, dối trá ăn uống máu thịt không có lòng từ bi thương xót, hoặc ăn năm thứ rau cay nồng, xông lên hôi hám ngôi Tam bảo. Uống rượu say sưa phá hoại pháp lành. Xâm phạm tăng, cướp vật đánh mắng quở trách người xuất gia, tại gia giữ, giới phá giới, hoặc cướp đoạt cà-sa, bắt buộc hoàn tục, hách dịch xua đuổi. Hoặc cắt đứt mạng sống, không tùy hỷ một việc lành nhỏ nào của người. Chỉ tạo nhiều tội lỗi khắp ba nghiệp. Việc tuy không thiện ác nhưng tâm trải khắp. Ngày đêm nối nhau không xem hở, che kín tội lỗi không muốn người biết. Lỗ-Hỗ-Đề-Đột không sợ đường ác, không biết hổ thẹn, bác không có nhân quả, thành Nhất-xiển-đề, cho nên ngày nay đối với Chư Phật mười phương, từ đó ông trở thành tin sâu nhân quả, sinh tâm hổ thẹn, sinh tâm sợ hãi. Phát lộ sám hối, dứt tâm nối nhau, phát tâm Bồ-đề, bỏ ác làm lành. Siêng năng sách tấn ba nghiệp, đổi lỗi nặng ngày xưa, tùy hỷ phàm thánh dù một chút việc lành. Nhớ nghĩ Phật mười phương có phước tuệ sống lớn. Biết tất cả pháp bản tánh vắng lặng, cứu vớt tất cả chúng sinh từ biển hai sinh tử đặt lên bờ ba đức. Cúi xin Tam bảo từ bi chứng minh (1 lần). Sám hối xong thân khí thanh tịnh kham nhận pháp thực.
5. Phát tâm. Nói phát tâm là phát tâm Bồ-đề. Bồ-đề là âm tiếng phạn, Hán dịch là Đạo, Đạo tâm nói chung nay y theo viên Phật phát viên đạo tâm. Viên đạo tâm là tâm ta, tâm Phật và tâm chúng sinh, ba tâm không khác nhau. Lý tuy không khác nhưng Sự chứng ngàn thứ khác nhau, (583) nên học từ bi của Phật, phát thệ nguyện rộng lớn của Phật, dứt ác làm lành, công phu chỉ có Bồ-đề.
Như gân sư tử dùng làm dây đàn thì nghe khắp tất cả, sinh ra các điều lành. Như Na-la-diên bắn tên suốt núi Thiết Vi dứt khắp các điều ác. Nên Kinh Mật Tạng nói rằng: “Diệt mười điều ác phát quyền đạo tâm, rốt ráo không dư. Huống chi phát viên tâm sau cùng của các thứ phát. Không phát mà phát khắp pháp giới gọi là viên phát.
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ là độ chúng sinh trong mười cõi.
Phiền não vô số thệ nguyện dứt, dứt ba hoặc trong mười cõi. Pháp môn vô tận thệ nguyện biết, dứt hoặc thành trí.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành, ngay nơi sinh thành diệt. Bốn tâm này hạt giống Chư Phật nối tiếp giai vị Tam bảo. Tất cả Chư Phật v.v... chứng ba thân đều do đây.
1) Sau khi phát tâm rồi cho đến Niết-bàn thệ không lui sụt. Còn Bồ-tát phải phát bốn tâm như sau:
1. Quán chúng sinh như Phật.
2. Như nhà vua.
3. Như cha mẹ.
4. Như đại chúng.
Các thầy có phát được tâm này không? (Đáp: mô Phật. Phát được).
6. Đã phát tâm. Kế đến hỏi về tướng già nạn, Tướng tức ba nhóm, già là bảy già, nói ba nhóm, “Kinh Anh Lạc” nói: Nhiếp luật nghi giới tức mười Ba-la-mật dứt ác. “Giới Nhiếp Thiện Pháp” nghĩa là tám mươi bốn ngàn pháp môn hành điều lành. “Giới Nhiêu Ích hữu tình nghĩa là Từ bi hỷ xả lợi lạc hữu tình, đã biết giới tướng lại phát đạo tâm, sám trừ tội lỗi mới được thọ giới. Nếu có bảy già không ở thọ hạn sám cũng không diệt. Nay ta hỏi ông hãy đúng như sự thật mà trả lời:
1. Ông có làm thân Phật chảy máu hay không”? (Đáp: không).
2. Ông có giết cha không?
3. Ông có giết mẹ không?
4. Có giết Hòa-thượng, không?
5. Có giết Xà-lê không?
6. Có phá yết ma chuyển pháp luân tăng không?
7. Có giết bậc Thánh không? (chứng bốn qua, đều đáp không?)
Nếu không có bảy gia này thì được thọ giới, khởi tâm sâu nặng chuyên chú lắng nghe đừng sinh duyên khác. Nay khi đắc giới phải hết lòng kính ngưỡng đối với thầy-Như đồ chứa vật, nguyên vẹn không tư tưởng nào khác, đã hỏi về tướng già.
7. Thọ giới.
Các ông lắng nghe! Nay ông cầu xin tôi trao cho tất cả tịnh giới Bồ-tát. Cầu thọ tất cả học xứ Bồ-tát, gọi là giới Nhiếp luật nghi, giới Nhiếp thiện pháp, giới Nhiêu Ích hữu tình. Các tịnh giới này, các học xứ nầy quá khứ tất cả Bồ-tát đã thọ, đã hiểu, đã thực hành. Vị lai tất cả Bồ-tát sẽ thọ, sẽ hiểu, sẽ hành, sẽ thành. Hiện tất cả Bồtát đang thọ, đang học, đang hiểu, đang hành đương lai thành Phật. Các ông từ thân nầy cho đến tận đời vị lai, khoảng giữa không được phạm, có hành trì được không? (3 lần hỏi, 3 lần đáp).
Khi lần thứ nhất xong thì các thế giới mười phương, giới pháp mầu nhiệm rót vào thân tâm các ông.
Khi lần thứ hai cùng khắp giới pháp mầu nhiệm nầy đầy khắp hư không, nhóm họp trên đảnh. (Kế đến nói lần thứ hai) Lần thứ hai xong lại nói một lần cùng khắp tức vào nhân đẳng thân tâm thanh tịnh đầy đủ. Đừng lo nghĩ điều gì khác. Nhưng giới pháp này không có hình sắc rót vào thân tâm các vị không hay không biết có các hình sắc giống như một tiếng trời long đất lở. (Kế đến nói lần thứ hai).
Ba lần yết-ma xong đầy đủ giới pháp thì thành Bồtát, Đại Kinh nói rằng phát tâm rốt ráo cả hai không khác. Như thế hai thứ tâm trước tâm nạn v.v.. Đã đắc giới rồi.
8. Tướng chứng minh. Đệ tử chúng con cúi đầu lễ tất cả các Đức Phật các vị đại Bồ-tát mười phương tận hư không khắp pháp giới. Châu Thiệm Bộ ở thế giới Tabà này, nhân chủ, địa đại, đường quốc, châu, huyện, chùa, Tăng-già-lam, tượng Phật trước có nhiều Phật tử. Nay đối với tôi đã thọ giới Bồ-tát xong. Tôi đã chứng minh, cúi xin Chư Phật, Chư đại Bồ-tát từ bi chứng minh (nói ba lần). Đã chứng minh xong.
9. Hiện tướng.
Nếu khi Thượng phẩm tâm thọ giới thì trước các Phật mười phương có các tướng như: Gió mát, mùi thơm lạ, tiếng lạ, ánh sáng. Bồ-tát bạch Phật: Vì sao có các tướng này. Phật kia đáp rằng: “Tướng này hiện khắp nơi có nhiều chúng Bồ-tát”. Đối với vị sư đã ba lần nói Bồtát xong. Nay xin chứng minh nên có hiện tướng này, các vị Bồ-tát kia đều sinh tâm vui mừng đều nói. Các chỗ cực ác như thế đầy đủ phiền não. Chúng sinh ác nghiệp có thể phát tâm cực thắng như thế thọ giới Bồ-tát rất là ít có rất sinh tâm thương xót. Các vị đã khởi tâm phạm hạnh bền vững, nên phải hết lòng hộ trì, không tiếc thân mạng, đừng để hủy phạm.
10. Trình bày rộng sự trì phạm giải thích như sau: Chỉ dạy mười giới trọng. Nếu các Bồ-tát đối với giới sư đã nói ba lần thọ giới Bồ-tát xong rồi, nếu tự mình giết người, xúi kẻ khác giết người thì chẳng phải Bồ-tát chân thật, là Bồ-tát giả danh, không có tâm hổ thẹn, phạm Ba-la-di, quá báo đọa địa ngục bất như ý. Các ông từ thân này cho đến tận đời vị lai, trong thời gian đó không được phạm. Có giữ được không? (Đáp giữ được). Trộm đủ năm tiền, dâm, đại vọng ngữ, bán rượu. Nói lỗi Bồ-tát, Thanh văn danh đức, bốn chúng. Tự khen công lao của mình, chê bai sự vượt hơn của người khác. Mắng nhiếc người đến xin, tiếc lẫn tài pháp, sân với bậc Thượng, Trung, không chịu sám hối đối với chúng, hủy báng Đại thừa Tam Bảo. Nếu tự mình chê, hoặc dạy người chê bai (câu từ đồng như trước) đã nói về trì phạm.
11. Dạy phát nguyện rộng. Trên nói về phát tâm, bốn nguyện chung rộng lớn, thọ luật nghi giới gọi, là khởi hạnh. Nay lại chung riêng phát nguyện lại, hồi nhân hướng quả, hồi hướng mình đến người khác, thành đức của Bồ-tát. Đệ tử... nguyện hồi thí công đức thọ giới cho chúng sinh trong pháp giới. Chưa lìa khổ thì nguyện được lìa khổ, chưa được vui nguyện được vui, chưa phát tâm Bồ-đề, nguyện phát tâm Bồ-đề chưa dứt ác làm lành thì nguyện cho dứt ác làm lành, chưa thành Phật thì nguyện sớm thành Phật. Còn nhờ sám hối thọ giới sinh ra công đức, nguyện xả thân rồi cho tất cả chúng sinh, sinh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A-di-đa. Trước ngộ Vô Sinh nhẫn được thần thông rộng lớn. Đi khắp mười phương kính thờ Chư Phật. Thường nghe chánh pháp đại thừa vô thượng. Chư Phật hạnh nguyện tròn đầy cụ túc. Còn nhờ sám hối thọ giới này sinh ra công đức, nguyện cùng tất cả chúng sinh, từ bỏ thân này rồi lìa khỏi ba thân ác, lìa hẳn thân thấp hèn, lìa hẳn thân không tự tại. Thường ở trong Phật pháp thanh tịnh xuất gia, tu hành phạm hạnh, làm thiện tri thức cho tất cả chúng sinh. Lại nguyện tất cả chúng sinh nghe danh hiệu ta mà phát tâm Bồ-đề. Thấy thân ta mà dứt ác làm lành. Nghe ta nói thì được trí huệ rộng lớn. Biết tâm ta thì sớm được thành Phật. Phát nguyện rồi lễ Tam Bảo, đã phát nguyện xong.
12. Dạy trì tụng giới bản: có giới nào không hiểu thì được thông suốt. Niệm Phật tụng kinh suy nghĩ tu tập, dưới đây sẽ tùy theo giới mà giải thích đầy đủ.
5/ Thời đại truyền dịch
Đời Dao Tần, niên hiệu Hoằng Thỉ thứ ba, có Tam tạng Cưu ma-la thập(Hán dịch là Đồng Thọ), người An độ đến cảng vùng Đạt Hán làm rạng rỡ Đại thừa, sửa truyền bá thánh giáo. Tại vườn Tiêu Dao (hoặc chùa Thảo Đường) truyền dịch hơn 300 bộ kinh luận, hơn 50 bộ. Quyển thượng nói giai vị Bồ-tát, Quyển hạ nói về luật nghi của Bồ-tát. Vừa mới dịch xong, sa-môn Tuệ Dung là người ghi chép, cùng với Đạo Tường và khoảng 800 người theo thọ giới và cùng tụng trì. Nhưng ở Quyển hạ, sau phần kệ tụng có một quyển riêng. Các giới tướng này xuất từ trong phẩm Luật Tạng. Trong kinh Phạm Võng Lô-xá-na là vua Diệu Hải và ngàn người con của vua, trao giới pháp Bồ-tát.
6/ Phân biệt:
Hỏi: Giới thể Vô tác chỉ cho tâm thật tướng, duyên theo thể hộ trì, nhân quả Tông thú cũng chỉ là thật tướng, vì sao khác nhau?
Đáp: Thể là Tông của tông giáo, không tức không lìa, như ngôi nhà trống cùng với kèo cột, “không” dụ cho Thể, kèo cột dụ cho Tông. Không tức không lìa có thể thấy, nên biết Thể là tâm năng trì, năng lãnh. Tướng Tông là giới pháp sở trì, sở lãnh.
Hỏi: Niết Bàn năm thiên bảy nhóm đều là Luật Nghi của Bồ-tát.
Biệt giáo, vì sao nói giới Bồ-tát này Bồ-tát Biệt Viên đồng bẩm thọ.
Đáp: Bồ-tát Biệt giáo tu theo hành Bố. Bốn giáo pháp đều là hành học, nên Niết-bàn thứ lớp ngũ hành, làm khuôn phép cho hàng Biệt giáo, mới phát tâm chán đời đi xuất gia, bạch bốn lần yết-ma, trước vâng lãnh luật nghi của Tạng giáo, Thông giáo; Ngăn cấm ba nghiệp, nên trước hết nói năm thiên bảy nhóm cho đến mười giới năm chi, gọi là giới Thánh hạnh. Há chẳng phải là mười giới trọng, 48 giới khinh hay sao? Nên biết hai nghĩa này là tạng Tỳ-ni của Bồ-tát Thông, Biệt, Viên.
Hỏi: Như vậy giáo lợi căn xếp vào Biệt, Viên, thì có phần của luật nghi này không?
Đáp: Y cứ vào đương giáo độn căn, chưa lãnh thọ giới của Phật tánh đồng y theo luật nghi Ba tạng, lợi căn được tiếp nhập Biệt Viên gọi là hàng Biệt, Viên. Hoặc có nghĩa tiếp nhận, nên ngoài Bốn giáo lập riêng tên các giai vị.
Hỏi: Thanh văn chế giới ở thân, miệng. Bồ-tát chỉ chế giới ở tâm, vì sao Ba tạng, Ba thừa đồng nhân lãnh năm thiên bảy nhóm?
Đáp: Luật Nghi Đại thừa và Tiểu thừa đều chế ba nghiệp, khác với tự hành hóa tha, nên được gọi là Đại thừa, Tiểu thừa.
Tiểu giới nếu không cấm, thì tâm phương tiện tốt dưa vào đâu mà lập. Bồ-tát tuy nói sát na tạo tội đọa vào Vô gián. Nhưng nói sát-na là nhân Vô gián. Mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh đều từ thân miệng đủ duyên mà kết, huống chi ba tạng Bồ-tát là Đại trong Tiểu, đối với phân biệt này đâu không tương ưng.
Hỏi: Như mười giới trước nương vào giới mà Thông lẫn nhau, vì sao lại chọn Biệt?
Đáp: “Chế giáo” đã nói theo cấm ác mà được gọi là giới. “Hóa giáo” đã nói từ tu thiền học tuệ mà đắt tên Thừa, đây chính là Biệt. Nếu cùng thông thì ba việc học giúp nhau như mắt, chân và có thể chuyên chở đến chỗ chung gọi là Thừa. Và dứt được mười việc ác gọi chung là Giới, nay giới Bồ-tát có ba nghĩa chung lẫn nhau. Từ chế chỉ cấm ác là giới, theo chế khởi hạnh thường trụ từ bi là là Thừa. Nên mỗi giới nương giới cụ túc. Giới là Pháp thân thừa tức Bát-nhã, Thừa giới từ bi ứng hóa không hai tức là giải thoát. Đức giải thoát Giả quán là nhân, Ứng thân là quả, đức Pháp thân Trung quán là nhân, báo thân là quả. Nên biết các giới ba nhóm dung nhiếp lẫn nhau. Ba quán, ba thân tức nhóm, ba nhóm, ba thân không hơn kém, bốn mươi tám giới khinh, mười giới trọng, giữ tâm tánh bình đẳng đâu có sâu cạn. Giả phân ra hai tên thừa giới, mỗi mỗi đều là thật tướng, mới là giới Bồ-tát viên dung. Nên trong lời tựa nói:” Tất cả sắc tâm là tình, là tâm đều vào trong giới Phật tánh. Lời nói có thể nghiệm được. Không biệt mà biệt, khinh trọng cũng giống như vậy. Dứt ác là chánh văn rộng, khởi quán là lời bên cạnh nói lược. Phần nhiều theo chánh luật nghi, phòng ngừa ngăn cấm, nghĩa biên của ba nghiệp gọi là giới Bồ-tát.
7/ Tùy việc y văn giải thích: Một phẩm của Phạm Võng Đại Bản, chỉ là chánh thuyết, ở đây chia thành ba đoạn.
1) Từ bài kệ đầu xong, văn xuôi thanh tịnh là tựa.
2)” Phật bảo.... xong, các Bồ-tát hiện tại đang tụng” là Chánh thuyết.
3)Từ đây trở xuống đến hết quyển là phần Khuyến hóa lưu thông.
-Tựa có hai:
1. Kệ tụng Lô-Xá-Na phát khởi.
2. Đức Thích-ca khuyến phát.
- Văn kinh thứ nhất có bốn giới, ba khuyên: Bốn giới là:
- Xá-Na.
- Thích-ca
- Bồ-tát-Chúng sinh. Ba khuyên là:
- Khuyên thọ
- Khuyên trì-Khuyên tụng.
Bốn giới này được gọi là lý do, truyền trao Căn bản, được thọ ký thành Phật, cho nên khuyên thọ, thọ rồi phải trì, trì rồi phải tụng, không đề hạt giống Phật bị hư thối. Ban đầu 11 hàng rưỡi kệ chia làm ba:
Ba hàng, ba câu nói về Lô-Xá-Na nói giới truyền trao cho Đức Thích-ca
“Bấy giờ...” ba hàng, ba câu nói về Phật Thích-ca cũng trao cho các Bồ-tát, các Bồ-tát trao cho chúng sinh. Lắng nghe... đến hết bài kệ là khuyên nên kính tin thọ trì.
Ba tựa này đều do Phật Thích-ca nói, thỉnh thoảng có xen lời của người chép kinh.
- Sớ chia làm hai:
Hai hàng rưỡi đầu nói về “Bản Tích” Một hàng một câu nói về người, pháp.
- Sớ lại chia làm ba:
Nửa hàng nói “bản thân” của Phật Lô-Xá-Na Một hàng rưỡi nói Đức Thích-ca cũng giáo hóa Nửa hàng là tổng kết về “Bản Tích”.
Văn kinh ban đầu, câu trên nói về bản thân Phật Lôxá-na, câu dưới nói bản độ của Phật Lô-xá-na, đây là y báo và chánh báo.
Câu: “Nay ta” là ngã trong bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh. Kinh nói rằng: “Trong pháp vô ngã có chân ngã. Nghĩa là báo thân Như lai trí đoạn đều viên, bốn đức hoàn toàn, nên gọi là Tịnh Mãn. Nêu một mà nhiếp cả ba, nên nói là” nay ta”. Nhiếp Luận nói: “Báo thân có hai:
Tự thọ dụng báo: nghĩa là xứng pháp giới Thật thành y chánh vô ngại. Chỉ có Phật độc cư Diệu Giác, đồng loại mới thấy nhau.
Tha thọ dụng báo, là Bồ-tát Địa thượng ở cõi Thật Báo hiện thân nói pháp, khiến họ thấy. Báo thân của Tự Tha này hành bố giáo ứng cơ của Tạng Thông. Báo thân và Ứng lấy pháp thân làm gốc. Pháp thân là Phật Tỳ-lôgiá-na, Hán dịch là Biến nhất thiết xứ. Cơ ứng đều tròn đủ, dụ như hư không, không chọn thời xứ. Một và ba giúp nhau, nêu một đủ ba, không co lại, không duỗi ra. Dùng cơ Biệt hiển bày, nên nêu Báo thân và nói chủ bạn, câu dưới nói y báo. “Phương tọa đẳng”: phương là đang. Chánh pháp đặt tại đài Hoa Sen, nên nói là “tọa”. “Hoa sen” là Như lai đã cảm thế giới Hoa Sen. Phần dưới của Hoa Sen là đài, nên gọi là Đài Hoa Sen, nên Kinh Hoa Nghiêm nói:” Hoa nâng mười thế giới, tiêu biểu bằng hai nghĩa:
1. Lô-Xá-Na ở chỗ nhơ uế cũng không nhiễm. Nhân có công năng cảm quả.
Hoa Sen có bốn loại:
- Hoa sen cõi người: có mười cánh trở lên
- Hoa sen cõi trời: có trăm cánh trở lên
- Hoa sen của Bồ-tát có ngàn cánh trở lên
- Hoa sen của bậc Diệu giác số lượng cánh nhiều bằng pháp giới.
Mỗi cánh dung hợp lẫn nhau có thể nói y báo và chánh báo viên mãn. Còn nói Hoa tạng là có công năng bao trùm pháp giới mười phương. Pháp giới mười phương hiện trong một hạt bụi, dụ như màng lưới của trời Đại phạm nhiều lớp vô tận. Tiêu biểu cho không dọc, không ngang, không thể nghĩ bàn, nên gọi là Hoa tạng. “Châu tráp” v.v... là nói Phật Thích-ca cũng giáo hóa trong một ngàn trăm ức cõi nước Thích-ca thì ngàn Thích-ca là “Bản”, ngàn trăm ức là “Tích”, thành hai lớp “Bản Tích”. Như Kinh Pháp Hoa nói Tích trong Tích, trong đó lại có ba:
1. Bản trong Tích.
2. Tích trong Bản
3. Bản và tích đều thành Phật đạo.
Ban đầu nói trên ngàn cánh hoa đó hiện ra ngàn Phật Thích-ca. Một cánh hoa, một Đức Phật ngàn thế giới Đại Thiên nên có ngàn Tịnh Độ Phật. Đây tức là Nhị trụ: nói về phân thân.
1. Sơ Trụ phân thân trong trăm thế giới Phật.
2. Nhị Trụ gấp mười lần hơn. Theo Hoa Nghiêm, Nhị Trụ đã nói nhiều về nghĩa riêng. Nên ở trong Nhị Trụ phân biệt tướng Viên thành. Vị sau thân độ không thể lường. Kế là nói Tích trong Tích, câu đầu nêu một hoa một Phật sinh trăm ức cỏi nước. “Quốc” là tên của một Tứ Thiên hạ nên gọi Tam thiên đại thiên thế giới, Tiểu thiên có có một ngàn Tứ thiên hạ, Trung thiên có ngàn ngàn, ngàn ngàn tức là mười ức. Đại thiên gắp ngàn lần, tức có muôn ức Tứ Thiên hạ. Kinh nói Bách ức tức Tiểu số muôn muôn ức, ức có trăm trăm. Đại số của trăm trăm là trăm. Nên nói “Trăm ức”. Ở muôn ức nước của chân Thiệm-bộ ở phía nam đều có một Đức Thích-ca. Nên nói một nước một Phật Thích-ca là muôn ức châu Bồ-đề ở phía Nam, dưới cây một Thích-ca cùng một hoa một Thích-ca đồng thời thành Phật. Ngàn Phật thế giới chung có ngàn muôn ức Đức Thích-ca cùng ngàn Đức Thích-ca phát ra ánh sáng soi chiếu lẫn nhau. Đài hoa gọi là Xá-na, lá hoa gọi là Thích-ca. Thích-ca là bạn, Xána là chủ, Chủ bạn tương quan, thọ chức Pháp Vương, đồng thời thành Phật, nên gọi là các tòa.
3. “Như thế”... là kết. Một. Kết Tích thân. Hai. Kết bản thân, nói một ngàn Thích-ca và ngàn trăm ức Thíchca, đều lấy Lô-Xá-Na làm gốc, nên nói “như thị đẳng”.
“Trăm ngàn ức...” nói nhân pháp, trong đó có hai: 1.
Người, 2. Pháp.
Câu đầu có ba:
1. Nói về chủ năng hóa.
2. Nói về căn cơ được hóa
3. Nói về năng hóa, sở hóa đều đến chỗ Phật.
Ngã sở tức là Phật Lô-Xá-Na. “Thính ngã” v.v... đứng về pháp có hai:
Câu bảo hãy lắng nghe: giới này là pháp của chư Phật mười phương ba đời, chỉ được xưng tụng chứ không được nói. “Môn cam lộ” là thuốc bất tử của các vị trời thí như giới này được đến lý bốn đức của Niếtbàn. Gia môn cam lộ gọi là môn cam lộ. Môn nầy dùng năng thông làm nghĩa, giáo là lý năng thông.
“Thị thời”... Thích-ca Tích Phật truyền trao cho Bồtát, Bồ-tát trao cho các chúng sinh. Trong đó có ba nghĩa:
1. Người dịch kinh gia trình bày duyên truyền thọ của Đức Thích-ca.
Nói về Thích-ca truyền thọ cho các Bồ-tát.
2. Khuyên Bồ-tát trao cho chúng sinh. Câu đầu có ba nghĩa:
- Xuất xứ từ vài giới tướng nặng, nhẹ.
- “Giới như trở xuống là” khen công dụng của giới.-“Vi trần trở xuống là” Khuyên Bồ-tát thọ trì.
Ba câu trình bày ngàn trăm ức mỗi vị đều trờ lại bản vị. Hai câu kế: Trình bày tụng giới bản. Nghĩa là giới pháp này Chư Phật đã dạy: Nên nói là giới Bản sư.
Khen ngợi giới dùng trong luật nghi giới có thể hoàn toàn chấm dứt điều ác của ba hoặc, như mặt trời, mặt trăng xua tan bóng tối. Giới thiệu pháp giới có thể tu điều lành đầy đủ của ba quán. như mặt trời, mặt trăng chiếu sáng. Làm lợi hữu tình giới, chỉ quán gồm đủ, có công năng trang nghiêm pháp thân. Như chuỗi anh lạc, cho nên kinh nói: “Già, trẻ, trung niên mặc đều đẹp. ”
3. Khuyên Bồ-tát thọ trì, có 2 nghĩa:
1. Hai câu nêu chung công năng.
2. Hai câu chánh khuyên.
Hai câu. “Lắng nghe...” khuyên tin thọ trì, chia làm ba:
a) Nói pháp sở tụng.
b) “Đại chúng” trở xuống là khuyên tin thọ trì.
c) Đại chúng trở xuống là kết khuyên.
“Giới tạng” giới này phần nhiều gồm ba nhóm muôn điều lành nên gọi là Tạng. Biệt biệt giải thoát từ quả vị gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa. Mộc xoa là giải thoát, kia đây âm khác, kế là khuyên người tin nhận là ba:
1) Khuyên tin.
*2) “Tất cả trở xuống là...” khuyên thọ, “Nhiếp” tức thọ.
*3)” Chúng sinh vị “... giải thích nghĩa kết khuyên.
Câu “Liền nhập Phật vị” là tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, Y theo tánh phát tâm thọ ba nhóm giới. Bẩm thọ giới pháp của Phật gọi là nhập Phật vị, nên Đại kinh nói rằng: “Học Đại thừa tuy là mặt thịt nhưng gọi là mắt Phật. Hai câu đầu dùng đồng phương tiện vị. Hai câu kế nói đồng chứng Chân vị. Phật vị gọi chung có chân có tự. Ban đầu từ danh từ quán hạnh tương tự, trong một niệm chứng được pháp thân bản, ban đầu và sau là phần chứng Đại giác, gọi là chân Phật tử. “Bấy giờ trở xuống là thứ hai”...
Tựa Thích-ca chia làm hai:
- Người chép kinh trình bày.
- Đức Thích-ca tự nói
1. Người chép kinh trình bày có ba ý:
a. Phật muốn kết giới
b. Phát ra ánh sáng nói lên điều lành.
c. Đại chúng xin nghe. Câu đầu lại chia làm bốn:
Nêu thời, nêu hóa chủ. “Bấy giới là” Đang lúc đó. Nghĩa là Tích Phật từ Bản Phật Xá-na trao giới lúc đó. “Thích-ca” là họ, Hán dịch là Năng nhân, “Mâu-ni” là tên dịch âm, dịch nghĩ là Tịch Mặc. Thân, miệng, ý thanh tịnh nên được gọi tên như vậy.
Mới ngồi trở xuống là nêu xứ, tức cây Bồ-đề, cũng gọi là Đạo thọ. Dưới gốc cây thành đạo. Đạo và Bồ-đề, kia đây âm khác. Tại nước Ma Kiệt Đà, dưới cây này có tòa Kim cương, ngàn Đức Phật ở Hiền kiếp đều ngồi dưới tòa này mà được đạo Bồ-đề. Nay Đức Thích-ca chủ bạn tích thị hiện mới chứng, nên nói “Mới ngồi, thành Vô Thượng giác.
Nơi đắc đạo, nghĩa là hội Hoa Nghiêm thị hiện mới thành là Đại căn tánh kết giới Bồ-tát.. Nên Kinh Hoa Nghiêm nói: “ Ở Bồ-đề tràng mới thành Chánh giác.
Phẩm Danh hiệu nói: “ Lô-Xá-na tích tên Thích-ca Mâu-ni, hàng Tiểu cơ thấy mới thành ở vườn Nai, sau mới do việc đặt ra năm thiên bảy tụ. Thích-ca tên đồng, mới thành thấy khác. ” Nay giải thích khác với kia”, văn nói rằng: “Mới kết Ba-la-đề-mộc-xoa cho Bồ-tát.. ”Mới kết trở xuống là nêu ra...” rút chỗ kết pháp sơ kết, trong đó có bốn ý:
1. Nêu tên gọi:
2. “Hiếu thuận”... nói về thành tựu nhân cao quý.
3. “Hiếu thuận chí đạo...” nói về thành tựu quả cao quý.
4. “Hiếu danh...” kết luận tên khác.
1. “sơ kết”. luận Thập Địa nói: Sau khi Phật thành đạo 14 ngày, kế là nói về hiếu thuận. Hiếu nghĩa là dốc lòng cúng dưỡng. Thuận nghĩa là vâng mạng. Theo người để hiếu thuận lược nêu ba cảnh:
1. Ân cha mẹ sinh dục.
2. Ân sư tăng dạy dỗ.
3. Ân Tam bảo.
1. Cha mẹ quá khứ, hiện tại đã sinh ra ta, nuôi dưỡng ta. Chúng sinh luân hồi trong sáu đường đều là cha mẹ, nghĩa này sinh khởi vô duyên từ bi, cực thành kính dưỡng khiến phát đạo tâm, cứu khổ ban vui.
2. Ân sư tăng: Hòa-thượng, A-Xà-Lê đều gọi là Sư tăng. Hòa-thượng dịch là Lực Sinh, đạo lực do vị ấy mà thành. Xà-lê gọi là chánh hạnh, làm chánh hạnh ta. Nên Kinh Thư nói rằng: “Không cha mẹ thì không ai sinh. Không sư trưởng không lấy gì thành. Không quân vương lấy gì làm vinh, đời người ở trong ba yếu tố này. ”
Nay A-Xà-lê Hoà-thượng dạy giới, định, tuệ. Ba thân do đây mà sinh ra. Dẫn dắt từ đầu đến cuối, ba đức do đây mà thành. Tự hành hóa tha làm rạng rỡ thánh chỉ. Trụ trì Phật nhật gọi là Phổ văn. Nhập vị chứng cùng cực nhờ thầy bạn. Như thế vinh quang khắp pháp giới, thể bằng hư không. Là đồng với đời, vẻ vang cả một nước. Nên biết sư Tăng có khả năng sinh, có khả năng thành, có khả năng làm vinh hiển, đầy đủ ba việc. Từ chẳng phải duyên lý trì giới, ba tụ làm tâm, dùng pháp cúng dường là hơn hết. Ngoài ra đâu thể báo ân trạch
3. Tam bảo là Như lai ba đời tự chứng thường lạc rũ hình xuống mười cõi, xem xét cơ duyên. Nhiều đêm chỉ niệm phá hoặc thọ ký giảng nói năm vị pháp cứu giúp cùng cực vô biên. Mở tám giáo giềng mới làm hạt giống giải thoát thuần thục, lưu thông nhiều kiếp do Bồ-tát tăng, hoặc thật, hoặc quyền. Dùng Đại thừa và Tiểu thừa phụ giúp đấng Pháp Vương. Tượng pháp, Mạt pháp biên phương cảm ngụ di phong, một kinh lọt vào tai ngàn kiếp không mất, huống gì nhân lành suy nghĩ tu tập giải thoát. Há chẳng phải năng lực của ngôi Tam bảo, nên phải học hạnh Từ Bi của Phật, hành hạnh Bồ-tát gọi là Hiếu thuận Tam bảo.
Hỏi: Tăng bảo và Sư tăng ở trước khác nhau thế nào? Đáp: Sư Tăng gọi là Khoáng thể, hạn cuộc ở Ngã sở thừa, Tăng Bảo gọi là Thể, bao gồm cả ba đời, v.v...
“Năng thành trong thắng quả, hiếu thuận chỉ đạo, v... v... “ nghĩa là thuận theo pháp cực đạo.
“ Hội dị danh” nghĩa là thực hành hiếu này tức là thuận theo hiếu, gọi là giữ giới. Nên nói Hiếu gọi là Giới. Giới có công năng chế ngự ba nghiệp, dứt các nghiệp ác, nên cũng gọi là chế chỉ.
“Phật tức”... trở xuống là thứ hai, phát ra ánh sáng tiêu biểu điềm lành. Phật sắp nói giới này thì phát ra ánh sáng là tiêu biểu cảnh giác thường tình nhóm họp lại.
“Bấy giờ”. Từ chúng nhóm họp xin nghe có ba ý: a) Nêu chung:
b) “Các Bồ-tát”... nêu tên gọi..
c) “Chắp tay”... Tổng kết muốn nghe.
1. Như văn.
Kế là nêu tên Bồ-tát mới phát tâm là đạo tâm chúng sinh. Các tầng trời cõi sắc.
Sáu tầng trời cõi Dục. Vua cõi người.
Nói về mười tám cõi trời Phạm là cõi sắc, Bốn thiền gồm có mười tám tầng trời.
-Sơ thiền có ba tầng trời:
*) Phạm chúng (nghĩa là phạm dân)
*) Phạm phụ (nghĩa là phạm thần) *) Phạm vương (nghĩa là phạm chủ)-Nhị Thiền có ba tầng trời:
*) Diệu quang (thân sáng).
*) Vô Lượng Quang (số lượng ánh sáng nhiều) *) Cực Quang (thể sáng khắp)-Tứ Thiền có chín tầng trời:
*) Vô Vân (hạ địa có mây, trên đất không mây, nên gọi là Vô Vân)
*) Thiền sinh (có phước lành vãng sinh) *) Quảng quả.
*) Vô Tưởng (Tu vô tâm định để sinh lên cõi trời kia, nên gọi là trời Ngoại Đạo)
-Năm tầng trời Tịnh Cư, lìa dục phiền hoặc, gọi là Tịnh, nơi tịnh thân dừng ở gọi là Cư:
*) Vô Phiền (Sơ Thiền lìa phiền, nên gọi là Vô phiền)
*) Vô Nhiệt (lìa sự nóng bức ở hạ địa nên không có phiền não)
*) Thiện hiện (Quả đức dễ hiển)
*) Thiện Kiến (tạm thấy trong sáng)
-Năm tầng trời sắc cứu cánh cõi sắc, cũng gọi Đại Tự Tại (Năm thứ thanh tịnh cùng cực). Chánh lý luận sớ nói rằng: “Qua cõi trời Tịnh cư có cõi trời tên là Đại Tự
Tại. Bồ-tát Sơ địa hóa độ ở đó”-Sáu tầng trời cõi Dục là: *) Trời Tứ Thiên Vương.
*) Trời Đạo-Lợi (cũng gọi là tầng trời 33).
*) Trời Dạ-ma (Đây gọi là Thời phần)
*) Trời Đâu-Suất-Đà (Hán dịch là Tri Túc)
*) Trời Hóa Lạc
*) Trời Tha Hóa Tự Tại.
-Mười sáu vị đại quốc vương:
1. Ương-già
2. Ma-kiệt
3. Ca-Thi
4. Ni-tát-la
5. Bạt-Kỳ
6. Mạt-La
7. Chi-Đề
8. Bạt-Sa
9. Lâu-Cư
10. Bàn-Xà
11. A-thấp-Bà
12. Bà-tha
13. Tô-la-Bà
14. Càn-Đà-la
15. Kiếm-tịnh-Sa
16. A-lê-Đề
Các nước ở An-độ rất nhiều nhưng lược nếu công năng mười sáu nước lớn như trên.
Hỏi: Các kinh nhóm chúng hoặc có người đến mà không bàn luận việc nầy vì sao?
Đáp: Nghe pháp do “thừa gấp”, trời người giúp giới giúp. Thừa giới đều gấp dùng thân trời người gặp Phật nghe pháp. “Thừa gặp giới hoãn” là thân cõi khác gặp Phật nghe pháp. “Giới gấp thừa hoãn” tuy sinh lên cõi trời, cõi người nhưng không thấy Phật, không nghe pháp. “Thừa giới đều hoãn” quả báo sinh cõi khác, không được nghe Phật pháp. Thừa có Đại thừa, Tiểu thừa tin pháp khác nhau. Giới có ba phẩm thọ báo có hơn kém, nên khiến các kinh nói đồng, người nghe nhiều ít khác nhau v.v... “Chắp tay là...” thứ tư, khi tổng kết thì chúng muốn được nghe được thấy. “Phật bảo...” là Đức Thích-ca nói, văn kinh chia làm ba:
*) Tự tụng.
*) Giải thích phát ra ánh sáng.
*) Khuyên thọ học.
Ba điều này đều có hai nghĩa: Câu đầu có hai ý:
*) Nêu tự tụng. “Các vị trở xuống thứ hai là...”
*) Khuyến hóa, nói tất cả phát tâm là nêu chung Bạc địa.
Phát viên tâm lãnh thọ giới này thì phải tụng trì. Ban đầu của ngoại phàm, trong giai vị danh tự. Nên nói tất cả phát tâm. Vượt qua ngoại phàm, năm phẩm đệ tử, và Thập Tín vị vượt qua các vị, nên nói “Cho đến”. Thập Trụ mới nghe lý mấu nên nói là Phát thú. Kế đến vào mười hạnh tu thêm gốc lành nên gọi là Trưởng dưỡng. Giai vị Thập Hồi hướng tu thêm Thiện căn gọi là Kim cương. Sau tâm Kim cương càng thù thắng nên gọi là Thập địa. Từ chân vị không nói là Thập Tín, nay sơ lược kể tên để biết các vị Viên thừa từ đầu đến cuối. Nói Thập Tín là trong mười tâm lấy tin làm căn bản, nên gọi là Thập Tín.
1. Tín
2. Niệm
3. Tấn
4. Tuệ
5. Định.
6. Bất thối.
7. Hồi hướng.
8. Hộ pháp.
9. Giới.
10. Nguyện.
Bắt đầu từ danh tự, năm phẩm ngoại phàm đều có mười. Ba hoặc hoàn toàn chưa được mười tên. Mười tâm này mỗi tâm đều có mười, nên Kinh Anh Lạc chép: “ Một Tín có mười, mười Tín có trăm trăm pháp làm gốc. Nên mỗi vị đều nói mười, cho đến Diệu Giác khác tên nhưng nghĩa đồng. Mười pháp đều đại chuyển gọi là Mười đại, tức là mỗi vị dùng mười pháp thành một Bồtát Viên giáo Đại Thừa. Đây tức là nghĩa đại xa của Kinh Pháp Hoa.
Cao lớn ví như lý mầu của Đức Phật, tánh là cảnh không thể nghĩ bàn, tức nhập “Tín tâm”.
Giương màn lộng như lòng từ vô duyên cứu khổ ban vui, tức nhập vào “Niệm tâm”.
Đặt gối son, như chấm dứt ác hạnh thiện, an tâm định tuệ tức nhập vào “Tấn tâm”.
Chạy nhanh như gió, ví như trí huệ minh đạt, phá hết ba hoặc, tức nhập vào Tuệ tâm.
Chiếc đòn ngoài xe như biết trì phạm, thông bít, tức nhập vào định tâm.
Trâu trắng lớn ví như điều hòa chánh ngữ, chánh kiến trong 37 phẩm trợ đạo, tức nhập vào tâm bất thối.
Nhiều tôi tớ theo, ví như khởi thệ nguyện cứu giúp mở ra, tức nhập vào tâm Hồi hướng.
Di khắp bốn phương, như biết thứ vị Thập Phát thú, tức nhập vào tâm Hộ phát.
Tự tại vô ngại như An nhẫn ngoại phàm, trái với danh lợi, tức nhập vào giới tâm.
Thẳng đến đạo tràng như lìa Thập Tín pháp ái khiến đến Phát thú, tức nhập vào Nguyện tâm. Một Tín có mười Tín, một pháp có mười pháp. Một tín như vậy thì chín tâm kia phải y theo đây mà biết. Kế là nói trong giai vị Thập Trụ. Thập Phát thú tâm y theo Kinh Phạm Võng mà nêu tên.
Xả, nghĩa là ba nhân khai phát, chứng lý bình đẳng, tức là quán cảnh không nghĩ bàn.
Khởi Đại từ bi trì ba nhóm giới
Nhẫn tức Xảo an chỉ quán, tự lợi lợi tha Tấn tức Phá pháp biến.
Định tức là Biết thông bít. Tuệ tức Đạo phẩm điều hòa.
Nguyện tức Đối trị, giúp khai mở đều do nguyện lực Hộ pháp tức Thức, thứ lớp khiến pháp không xen lạm Hỷ tức An nhẫn, trái thuận do pháp giới hỷ.
Đảnh tức là lìa Trung Đạo pháp ái ở trên đảnh chín tâm.
Trong mười hạnh vị, Thập Trưởng dưỡng là Từ bi hỷ xả, thí lời nói tốt đẹp, lợi ích đồng đều và định tuệ khéo quán cảnh mầu, vào Vô duyên từ. Phát hoằng thệ vô tác, nhập tâm Đại bi. Khéo léo an tâm mà xứng pháp giới hỷ gọi là hỷ tâm. Duyên tánh phá pháp ba hoặc đều đổi tên là Xả tâm. Đối với các việc Khổ Tập, v.v... đạt Đạo Diệt v.v... lý gọi là thức thông bít, tức nhập vào Thí tâm. Đạo phẩm Vô tác khéo có thể điều đình chánh ngữ nghiệp, mệnh danh tâm hảo ngữ, dùng điều lành trợ giúp Viên gọi là tâm lợi ích. Tám là biết thứ vị bất đồng mà đồng. Viên lý không hai gọi là đồng tâm. An nhẫn trái với thuận gọi là định Lăng-nghiêm, không dính mắc pháp ái gọi là Trung Đạo tuệ-Thập Hồi hướng vị là Thập Kim cương:
1. Tín
2. Niệm
3. Hồi hướng
4. Đạt
5. Tròn đầy, thẳng suốt.
6. Bất thối
7. Đại thừa
8. Vô tướng
9. Tuệ
10. Bất hoại
Viên trí quán cảnh gọi là Tín tâm, vững chắc từ bi gọi là Niệm tâm. Pháp giới gọi là Hồi hướng, viên thể Ba hoặc gọi là Đạt tâm, đối với tâm được thông gọi là tâm viên trực. Đạo phẩm thú hướng về trước gọi là tâm Bất thối. Chánh trợ hợp hạnh đều là Ma-ha-diễn gọi là Tâm Đại Thừa. Duyên lý phân biệt vị gọi là tâm Vô tưởng. Vững chắc an nhẫn gọi là Tuệ Tâm. Pháp ái vô trước gọi là Tâm Bất Hoại.
“Thập địa” có mười địa:
Thể tánh bình đăng địa, Cảnh trí không hai. Thể tánh thiện tuệ địa: Duyên lý phát tâm.
Thể tánh quang minh địa, khéo dùng chỉ quán nên gọi là Quang Minh.
Thể tánh nhĩ diệm địa. Viên phá pháp khắp hết như thiêu đốt. Thể tánh tuệ chiếu địa: khéo biết được thông bít.
Thể tánh hoa quang địa: Đạo phẩm Trong nhân gọi là Hoa Quang.
Thể tánh mãn túc địa: Chánh trợ không quan hệ.
Thể tánh Phật không địa. Quyết định phân biệt thư lớp không xen lạm.
Thể tánh Hoa Nghiêm địa, an nhẫn trái thuận, thân tâm trang nghiêm đẹp đẽ như tô điểm hoa lên.
Thể tánh nhập Phật cảnh giới địa: lìa chân pháp ái tâm hơn một lần chuyển nhập đẳng giác, Diệu giác gọi là cảnh giới Phật. Nên Phật có mười pháp mà được đại danh:
1. Quán cảnh giới không nghĩ bàn là lý Đại.
2. Phát tâm từ bi gọi là Thệ nguyện đại.
3. Xảo an định tuệ gọi là Trang nghiêm đại.
4. Phá pháp biến gọi là Trí đoạn đại.
5. Thức thông bít gọi là Biến Tri đại.
6. Đạo phẩm đều hóa gọi là Đạo đại.
7. Đối trị giúp khai gọi là Dụng đại.
8. Biết thứ vị gọi là Quyền thật đại.
9. Năng định nhẫn gọi là Lợi ích đại.
10. Vô pháp ái gọi là Vô trụ đại.
Nên biết Viên thừa mười pháp trước sau tự tha đầy đủ. Ngự xa đạt đến còn gọi là Xa. Cho nên các vị Bồ-tát đều tụng.
Hỏi: Ở trên đã giải thích mười pháp đối danh khác nhau là sao?
Đáp: Một pháp có đủ mười pháp, các pháp dung hòa lẫn nhau, tùy nghĩa chuyển thích, không được chấp nhất định.
Hỏi: Hoa Nghiêm Kinh nói rằng: “Bồ-tát Sơ trụ được pháp thân bản, Phân thân trăm cõi giống như Phật. Lợi sinh các vị, công đức đầy đủ, vị hậu hậu đâu có lý do phải không?
Đáp: Nói cụ túc là phần cụ túc. Như đèn soi bóng tối. Tối nhiều đèn nhiều, một ngọn đèn tuy sáng đâu tới được hậu hậu, Cho nên phát ra ánh sáng. Có hai nghĩa:
Nêu thẳng.
“Có duyên...” nêu ra tướng nhân duyên:
*) Nói về giới quang là giới có công năng phá hoặc, nên thanh quang làm đại biểu.
*) Văn chia làm hai:
- Khen thể đức.
- Nêu tông thú.
1. Người hữu duyên tức Thánh ứng, cơ ưng tương quan, cho đến giới quang duyên lý mà tụng. Thật lý vô tác nên chẳng phải thanh. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói: “Biết pháp thường vô tánh, hạt giống Phật từ duyên khởi, cho nên nói Nhất thừa. Giới thề vô tận nên nói quang quang. Giới thể này phàm thánh như một, nên khuyên đại chúng thọ trì, tụng học.
Hỏi: Như trên đã giải thích giới thể là thật tướng tâm. Nay nói là bi tâm làm sao đồng được?
Đáp: Tâm thật tướng không đồng với ngu ngơ si nên nói là phi sắc. Bất đồng thọ v.v... là vọng tình phân biệt nên nói là phi tâm. Bất đồng với hữu trong sáu đường. Bất đồng với “không” của Nhị thừa. Lẽ ra nên gọi là Phi nhân phi quả. Từ mê để phân biệt khác, cho nên nói là phi, theo ngộ bản đồng tâm đều như thế. Không tức không lìa vi diệu ở trong đó. Diệu tâm thật tướng cả hai chẳng phải tất cả cho là giới thể, Song chiếu tất cả gọi là Tông gọi là Dụng, v.v.. “Kế đến các Phật tử...” nêu trong
Tông thú. Câu “các Phật tử”. Chư Phật nêu chân nhân cực quả của Bồ-tát, tức từ Sơ trụ trở lên, Đẳng giác trở xuống. Đại chúng, bao gồm cả nội phàm lẫn ngoại phàm. Lược nêu ba việc này. Tu và cực phân, phân ra định tuệ mà thành lập do giới làm gốc. Gốc từ đầu đến cuối là Tông thú.
2. “Cho nên...” là khuyên học, chia làm hai: Khuyên thọ trì tụng học. “Phật tử” v.v... trở xuống Giải thích nêu ra ý khuyên.
Một. Thọ là thọ giới, ba nghiệp lãnh nạp gọi là Thọ. Thuận thọ phòng hộ gọi là “Trì”, nhìn văn xướng lên gọi là Đọc, không nhìn văn đọc thuộc lòng gọi là Tụng, tu tập nghĩa lý gọi là Học.
Hai. Văn trước khuyên nghe giới. Như người thọ xếp hàng thọ. Nêu một nhiếp nhiều nên chỉ nói Thọ. Đầy đủ phải nói nếu thọ trì đọc tụng, khéo học giới Phật. Nước nhỏ thì gọi là bang, nước lớn gọi là Quốc.
3. Dương đều nêu đạo Tượng Càn, thành ba:
Năng tam sơ là, Tam tài là thiên, địa, nhân. Dùng một quán ba gọi là quốc vương, Vua sinh ra nên gọi là Vương tử. “Bá quan” là nêu chung toàn số các quan, nên gọi là Bá. Như nói Bá tánh, tức chẳng phải trăm người mà thôi. “Tể tướng” là phụ vua luận đạo kinh vĩ, quốc sự hợp lý âm dương. Tướng của tể chủ nên gọi là Tể tướng. Tỳ-kheo, Hán dịch là Cần sự nam, Tỳ-kheo ni Hán dịch là Cần sự nữ. Từ nhỏ vào lớn. Hai chúng cần thông, vô sắc vô thân chỉ xếp vào sắc dục, chẳng phải trước sau cùng loại gọi là thứ dân. Dân là người, sinh bằng năm loại hoàng gia chưởng môn, gọi là Hoàng môn, nam nữ cõi Dục chung có tham dâm. Ở đây nêu tối đa cho đến mua bán dâm nam nữ, ngày xưa vì phạm tội mà thân thuộc về người để làm kẻ sai khiến, gọi là tôi tớ. Tám bộ là:
1. Trời.
2. Rồng
3. Dạ-xoa
4. Càn-Thát-Bà
5. A-tu-la
6. Ca-lầu-la
7. Khẩn-Na-la
8. Ma-hầu-la-già
Ma-hầu-la-già trên đầu có sừng, ngoài ra đều giống với người. Phi nhân trong đường quỉ, biến thần thông gọi là Thần. Loài trung hạ gọi là quỉ, loài thiện thần Kim cương Mật Tích gọi là Thần Kim cương. Tuy là Bồ-tát Đại quyền thị hiện làm cũng phải dẫn thật thọ ba nhóm tịnh giới. Các trời rồng hiện thân làm người thọ giới Bồtát, gọi là người biến hóa. Súc sinh lợi căn hiểu được tiếng người cũng được thọ giới. Các loại còn nhiều lược kể ra như trên, nên nói “cho đến”. Giới là nhân phục đoạn nên nói đệ nhất thanh tịnh (văn tựa đã xong).
Từ câu: “Phật bảo...” là phần chánh thuyết chia làm hai: 1/ Mười giới trọng, 2/ Là bốn mươi tám giới khinh.
-Ban đầu có ba:
1) Nêu số khuyên trì.
2) Giải thích riêng.
3) Kết khuyên.
-Câu đầu chia làm bốn:
1) Nêu số
2) “Như thọ...” là “Nếu thọ” khuyên tụng giới: Không tụng giới có sự tổn hại đối với lòng từ bi hoằng thệ, chẳng phải Bồ-tát. Thân miệng lìa văn biết được tâm sơ giả. Suy nghĩ tu Phật tánh giác ngộ trái tình, chỉ duyên theo sáu đường làm hư hoại, nên nói chẳng phải hạt giống Phật. Ta cũng như thế là nêu quả khuyên nhân này.
3). Tất cả, v.v… trở xuống là nêu khuyên học.
4). Kết khuyên trì
“Mười trọng” là mười giới trọng.
1. Giới giết hại người, Bồ-tát lấy muôn hạnh từ bi làm căn bản, xem chúng sinh như cha mẹ, Luân hồi sáu đường không biết nhau. Nên văn sau nói: Mà giết mà ăn là giết cha mẹ ta, rất thương tổn lòng từ bi, nên Phật đặt ra giới này trước hết. Đã nói giết là cắt đứt mạng sống kia, từ thức ban đầu nương gá nhưng đối với già chết làm cắt đứt mạng sống tương tục của người kia đều gọi là sát, duyên chung có hai:
a) Lãnh thọ luật Nghi của Bồ-tát
b) Trụ tự tánh không điên cuồng.
Chung các giới này nên gọi là duyên chung.
Sau đây không nói lại nữa. Duyên riêng có bốn:
- Người.
- Tưởng là người.
- Có tâm sát hại.
- Cắt đứt mạng sống liền phạm.
Thiếu duyên kết tội nhẹ, trong mỗi giới không đủ ba ý.
- Đặt ra dứt ác.
- Đặt ra làm lành
- Nêu lỗi kết phạm.
Văn đầu chia làm ba:
- Nêu người xếp vào việc sát.
- “Nhân trở xuống là “ xếp thành nghiệp sát.
- “Cho đến trở xuống là” Nêu khinh so sánh với trọng.
(588) 1. “Nếu Phật tử” là từ chỉ chung, nghĩa là phát tâm Bồ-đề thọ giới Bồ-tát. Theo Phật pháp gọi tên chung là Phật tử. “Nếu tự sát”. Xếp vào việc ác có năm câu khác nhau.
2. Tự giết có 2:-Tự giết.
-Giết người.
Tự giết có ba nghĩa:
a. Tâm ác tự giết.
b. Nhàm chán thân tự giết.
Trái Thánh giáo đều kết tội khinh, nên kinh nói: “Nói thân vô thường, không nói nhàm chán thân.
Sống vì đạo quên thân cứu chúng sinh, như Bồ-tát Vương Tử, nên văn sau nói xả bỏ mạng mình thì được phước, không phạm.
Mình giết người khác, đủ duyên thì phạm tội Ba-la-di. Kế đến xúi giục người giết, xúi dục người khác giết kẻ khác khiến kẻ kia chưa chết mà người đối diện chết cũng phạm tội nặng. Vì sao giới vô tận nên bất đồng tiểu thừa thuận phương tiện, văn nói qua đời giới kết tội phương tiện hợp nhau.
- Phương tiện khen ngợi giết, có năm cách:
a. Thấy người khác giết khen ngợi đức của họ.
b. Khen ngợi người năng giết.
c. Khen ngợi cách giết.
Như trong luật nói rằng dùng việc ác này để nuôi sống là tương đương với phương tiện khen ngợi giết.
d. Thấy giết vui theo, là đối với đã giết mà vui theo, hoặc thấy, hoặc nghe đều vui theo.
e. Cho đến chú sát.
Tướng sát còn có nhiều loại như: đao gậy, hầm hố, thuốc độc. Chú sát ít có nên bỏ qua nhiều thứ, chỉ dùng “ cho đến”, Như trì chú trớ khiến cho người chết. Kế là kể ra bốn câu trong thành nghiệp sát khác nhau. Tự có tâm giết làm nhân, dao gậy v.v... làm duyên. Tạo đường phương tiện làm Pháp, lấy việc giết làm mục đích gọi là Nghiệp
3. Nêu khinh so sánh với trọng nên nói cho đến có mạng sống. Nên biết trừ người ngoài ra đều phạm tội nhẹ. Văn dưới tuy không có điều riêng nghĩa chỉ suy ra phải như vậy. Như cấm mùa Xuân, mùa Hạ không được đốt lửa, không hộ sinh cây cỏ, và che chở sự tổn thương sinh mạng loài vật, chỉ kết tội nhẹ. Kế là Bồ-tát nầy Chế ra tu thiện, “ Thường trụ tâm từ bi” là lòng từ vô duyên, tương xứng với lý, thể đồng thật tướng pháp giới nên gọi là Thường trụ
“Nếu trái lại trở xuống...” là nêu lỗi kết tội, phạm “Ba-la-di”, Hán dịch là Tha thắng xứ.
Duyên lý trì giới chiêu cảm quả thánh gọi là “Phật sự”, tức là Tự thắng xứ. Hủy giới cấm đọa địa ngục gọi là việc ma, tức là Tha thắng xứ.
2. Giới không cho mà lấy. Phi lý xâm đoạt, mất mạng tổn đạo, không có tâm nhân từ. Điều này, người thật đức chưa tránh khỏi, nên Phật đặt ra giới này, phạm tội có đủ bốn duyên:
- Trộm vật có chủ trị giá năm tiền trở lên. Nếu trộm vật của mình không thành tội nặng.
- Tưởng có chủ-Có tâm trộm cắp.
- Lấy lìa chỗ cũ liền phạm tội nặng, thiếu duyên phạm tội nhẹ, văn cũng chia làm ba:
1. Chế khiến dứt ác.
2. “Mà Bồ-tát” trở xuống là chế khiến hành thiện.
3. Mà trái lại trở xuống là nêu lỗi kết phạm, văn chia làm ba:
1. Nêu tên xếp vào việc trộm.
2. Xếp thành nghiệp trộm.
3. Cho đến trở xuống là nêu khinh so sánh với trọng. Câu đầu nói tự trộm cắp vật của người đáng giá năm tiền trở lên. Xúi người trộm cắp, dù không nhuận thân tổn cảnh hễ quá sâu thì kết tội nặng. Phương tiện trộm cắp, hoặc gửi gắm, hoặc vì đổi chác, dùng ngắn đổi dài, dùng thô đổi tế. Chỉ có tâm trộm cắp năm tiền trở lên đều kết tội nặng. Chú thuật lấy vật gọi là chú đạo. Kế là nói nhân trộm cắp là tự tâm làm Nhân, bên ngoài trợ giúp là Duyên. Ra công đào đường là cách thức trộm cắp. Thường nghĩ đến việc ăn trộm làm mục đích gọi là Nghiệp
Nêu khinh so sánh với trọng. Quỉ thần làm chủ không ném thẻ.
Từ vật cướp được tâm này chưa dứt.
Một cây kim, một ngọn cỏ, giá năm tiền trở xuống, đều phạm tội nhẹ. Nên nêu để so sánh. Kế là chế khiến hành thiện. Phật tánh v.v... là duyên với lý Phật tánh, thuận với giáo pháp Phật. Đồng thể từ bi lấy đó làm gốc, giúp thành tùy hỷ, tất cả người khiến sinh an vui phước đức trí tuệ, nên nói “phải sinh, v.v...”.
Là nêu lỗi kết phạm như văn.
3. Giới thực hành phi phạm hạnh.
Luận Đại Trí Độ nói:” Dâm dục tuy không não hại tâm chúng sinh, nhưng ràng buộc tâm chúng sinh. Tình riêng buông lung nhân quả luân hồi. Trôi nổi đắm chìm theo sông ái, lăn theo năm đường đều do đây. Nên Phật đặt ra giới trọng này, kết thành tội phạm đủ bốn duyên
1. Là Nam nữ hữu tình.
2. Có tâm dâm.
3. Cùng phương tiện
4. Hợp với cảnh liền phạm.
- Thiếu duyên phạm tội nhẹ, văn đầu cũng chia làm ba:
1. Việc đã phạm.
2. Thành nghiệp
- “Cho đến.. ” là gồm cả người nữ, là so sánh.
1. Tự dâm như xương sống mềm cũng phạm tội nặng.
2. Tự dâm người khác đủ duyên phạm tội nặng.
Dạy người dâm thân không vui, chỉ mắc tội nhẹ đồng với Thanh văn. Tất cả người nữ v.v... trừ người mê cuồng. Kế là nói về nhân duyên: Tâm nhiễm tư duy là “Nhân”, tà tưởng tô điềm là” Duyên”. Phép tắc uy nghi là “cách thức”, niệm niệm thành tựu việc trước là “Nghiệp”.
3. Phi nhân nữ v.v... là quỉ thần nữ. Rõ ràng trong tâm mình xin người kia hiện thân làm việc phi phạm hạnh, và hai nam hai nữ gọi là phi đạo, đều mắc tội nặng. Ngoài ra kết tội nhẹ. Mà “Bồ-tát” trở xuống là chế khiến hành thiện “Nói Tịnh pháp” là khởi Phật tánh quán thể lìa ba hoặc. Tự hành hóa tha nên nói tịnh pháp cho người.
3. Trong nêu lỗi kết phạm nói “sáu thân “ là sáu loại sau đây:
- Người thân của cha, gọi là ông nội bà nội và cô chú.
- Người thân của mẹ là dì, cậu
- Người thân của mình là cha mẹ, anh em và vợ con.
- Người thân của vợ là em vợ chị vợ
- Người thân của nam nữ là rễ
- Người thân của anh em là dâu Ở đây có hai nghĩa:
1. Tâm nhiễm đối với người đó tức sinh tâm nhiễm với tất cả người không kể sáu thân, nên nói là trái lại khởi. Khởi tức là sinh.
2. Tự mình đối với tất cả khởi phi phạm hạnh, không kể súc sinh, các cảnh sáu thân làm nhân khởi ác đối với người, nên nói “lại sinh ra tất cả”. Đây tức là pháp uế khiến người khác khởi uế. Trái với pháp tịnh ở trên khiến người dứt ác nên gọi là “lại sữa”. Mà kết lỗi.
4. Giới Đại Vọng Ngữ, chưa được nói được lừa thánh dối phàm, hoặc đồng thế tục mà vời lấy danh lợi nên mắc tội nặng, đủ năm duyên:
- Là chúng sinh
- Tưởng là chúng sinh
- Khởi tâm lừa dối
- Nói có pháp hơn người
- Người đối diện nghe hiểu thì phạm. Thiếu duyên kết tội nhẹ, văn chia làm ba:-Nêu tên chế khiến dứt ác-Chế khiến làm lành.
- Nêu lỗi kết phạm. Văn đầu cũng chia làm ba:
- Phạm việc
- Thành nghiệp
- Nêu khinh so sánh với trọng
1. Tự mình nói dối: Như nói được bốn quả Bát nhân kiến địa trở lên, cho đến sáu căn thanh tịnh, Sơ Trụ trở lên, theo thứ lớp mắc tội nặng, như nói được các phương tiện vị, như ngũ đỉnh niệm xứ, Noãn, Đảnh, nhẫn Thế độ Nhất, còn Tuệ địa, là pháp phàm, chỉ phạm tội nhẹ.
2. Dạy người. Dạy người nói được pháp thánh, danh lợi thuộc người, chỉ phạm tội nhẹ. Nếu dạy người nói mình là thánh thì phạm tội nặng. Phương tiện nói dối là mượn phá việc khác khiến họ sinh hiểu là bậc Thánh. Như nói nay tôi không nhập vào định sơ địa nên phương tiện nói. Kế văn nói trong tâm nổi điên cuồng là Nhân, ngoài mong danh lợi là Duyên. Khéo lập phương tiện là Cách thức, thường ôm ấp làm việc này là Nghiệp.
Cho đến trở xuống là nêu khinh so sánh với trọng, tức tiểu vọng ngữ. Như nói ai được Bất tịnh quán ở trong chúng khởi, gọi là thân nói dối. Nói thầm không nghe gọi là Thân nói dối. Nói rõ không trả lời gọi là Tâm nói dối. Không nói được quả thánh đều kết tội nhẹ. Kế là trong việc dạy làm việc lành. “chánh ngữ chánh kiến” là lấy tâm Trung đạo như việc như tưởng biết nói thấy. Tự hành khuyến tha nên nói thường sinh và cũng sinh.
3. Nêu tội kết phạm. Không phải chánh nên gọi là Tà, chung với giới nói dối của Đại, Tiểu thừa. Nay từ Đại vọng đại tà cho nên kết phạm.
5. Giới bán rượu. “Cô” là mua bán, “rượu” là thuốc say mê muội. Uống rượu có ba mươi sáu lỗi, là cửa ngõ buông lung, cho nên xếp vào tội nặng. Có bốn duyên thành phạm tội:
1) Thật là rượu.
2) Nghĩ là rượu
3) Có ý buôn bán
4) Trao rượu cho người thì phạm.
Thiếu duyên thì phạm tội nhẹ.
Văn kinh chia làm ba: Nêu tên, ngăn khiến dứt ác.
Ngăn khiến làm lành. Nêu lỗi kết phạm.
1) Câu đầu chia làm ba: việc phạm
2) Thành nghiệp
3) Nêu khinh so sánh với trọng.
Tự mua bán nên biết. “Dạy người” Dạy người bán giùm mình thì phạm tội nặng, dạy người tự bán thì phạm tội khinh.
Thành nghiệp. Tự mình kinh doanh, gạo, bún là Nhân, ngoài dụng cụ đong đo là Duyên, điều đình phương tiện gọi là Cách thức, thường làm việc mua bán là Nghiệp.
Tất cả trở xuống là nêu khinh so sánh trọng. Ngũ cốc, cây cỏ hòa hợp thành, chẳng phải thật là bún gạo. Nhưng tương tự với rượu thì mắc tội nhẹ, còn không được mua bán, huống chi thật là rượu ư?
“Mà Bồ-tát” trở xuống là ngăn khiến hành thiện, nói đạt tuệ là Thật tướng Bát-nhã
3. Mà trái lại v.v... trở xuống là nêu lỗi kết phạm, nên biết.
6. Giới Rao Lỗi Bốn Chúng.
Bồ-tát vận chuyển hoài bão rộng lớn che chở giữ gìn ngôi Tam bảo ác dương thiện, vì sao lại nói lỗi bôi lọ tín tâm, trái hạnh lợi tha, cho nên Phật đặt ra giới này, kết thành tội nặng đủ bảy duyên:
1. Nói là của Bồ-tát, Thanh văn danh đức bậc thượng trong bốn chúng thì phạm tội nặng. Trung.
2. Nghĩ là tướng các ngài
3. Dùng tâm ác nói lỗi
4. Đối với người ngoài
5. Nghĩ là người ngoài
6. Nói rõ ràng
7. Người đối diện nghe hiểu thì phạm.
-Thiếu duyên phạm tội nhẹ. Văn cũng chia ba:
1. Nêu danh, ngăn khiến dứt ác.
2. ”Mà Bồ-tát trở xuống là ngăn” khiến hành thiện
3. ”Mà Bồ-tát trở xuống là” nêu lỗi kết phạm.
Câu một có hai ý:
1. Nói việc phạm.
2. Thành nghiệp.
1. Tự nói dạy người nói đều kết tội nặng. Cảnh tổn là đồng nên Kinh Thập Luân nói:” Hoa chiêm-bặc dù héo vẫn hơn các loài hoa khác. Các Tỳ-kheo phá giới vẫn hơn các ngoại đạo. Nên Kinh Anh Lạc nói:” Có phạm gọi là Bồ-tát, không phạm là ngoại đạo. Cho nên dù phạm cũng không thể khinh. Kế đến nội tâm là Nhân, nói về cảnh tội kia là Duyên. Lập bày khuôn phép là Cách thức. Mục đích nói người là Nghiệp. Kế là ngăn khiến hành thiện, nói ngoại đạo là trừ bảy nhóm ra đều gọi là Ngoại đạo. Ngoại đạo tức là người ác. Người ác Nhị thừa chán khổ Tập đế mà tu đạo Diệt, chỉ ra khỏi sinh tư gọi là Thanh văn thừa. Quán mười hai nhân duyên hoặc nghịch hoặc thuận, ý cầu thoát khổ. Tâm lợi tha kém gọi là Duyên giác thừa. Tâm này ác gọi là người ác. Không tin Đại thừa nói phi pháp luật, phải rơi vào khổ. Nên khiến bi tâm nói Đại sinh tín. Bi có công năng nhổ gốc khổ.
3. Kết như văn.
7. Giới tự khen mình chê người.
Tự khen mình đức hạnh hơn người, rất tổn hại chúng sinh, nên Phật chế giới trọng. Kết thành tội phạm đủ có năm duyên:
1. Là cảnh thọ giới có đức đồng với duyên ban đầu.
2. Nghĩ là người đó.
3. Đủ cả khen chê.
4. Tâm ác khen chê đối với người.
5. Người đối diện nghe hiểu thì phạm
- Thiếu duyên phạm tội nhẹ, văn cũng chia làm ba:
1. Nêu danh, ngăn khiến dứt ác.
2. Ngăn khiến làm lành.
3. Nêu lỗi kết phạm.
- Câu đầu chia làm hai:
Tự làm, xúi người làm đều mắc tội nặng.
Thành nghiệp, trong tâm tham mạn là Nhân, ganh ghét người khác làm lợi là Duyên, lập phương tiện khéo léo là Cách thức, lấy đây làm mục đích gọi là Nghiệp. “Mà Bồ-tát” trở xuống là ngăn khiến làm lành.
3. Nếu tự v.v... trở xuống là kết phạm, như văn.
8. Giới Tiếc Lẫn lại Chê Bai.
Bồ-tát nhiếp chúng sinh là đầu muôn hạnh, há lại tiếc lẫn lại hủy nhục hay sao? Nên Phật đặt ra giới này, đủ sáu duyên thành phạm.
1. Cảnh thượng và trung
2. Tự có tài pháp
3. Có hai tưởng
4. Thêm nhiều tâm ác, hủy nhục đánh mắng
5. Người đối diện nghe hiểu.
6. Khiến người khác không trở lại thì phạm.
-Thiếu duyên phạm tội nhẹ, văn chia làm ba:
1. Nêu danh, ngăn khiến dứt ác.
2. Ngăn khiến làm lành.
3. Nêu lỗi kết phạm.
-Câu đầu chia làm hai:
Tự mình tiếc lẫn không dạy cho người, đầy đủ duyên trên mới kết thành tội nặng.
Trong thành nghiệp, tâm tiếc lẫn là Nhân, tài pháp là Duyên, giữ gìn kín đáo là Cách thức, mục đích tiếc lẫn là Nghiệp. “Mà Bồ-tát” là ngăn khiến hành nghiệp, thiếu tài pháp đều là nghèo. Ta tu hành chưa sâu làm sao bỏ được. Tùy theo tâm nói lời lành an ủi, xin lỗi thì không phạm.
“Mà Bồ-tát” v.v... trở xuống là nêu lỗi kết phạm. Câu kệ là câu nêu có thể y cứ một ít phần kệ giải thích toàn nghĩa trong giáo, như “thân Diệu sắc của Như lai, nhẫn đến “cho nên con quy y”, là khen ngợi ba thân Phật đầy đủ. Một pháp vi trần là nêu một lời nói lành để so sánh.
9. Giới Tâm Sân Không Nhận Lời Sám hối:
Bồ-tát lấy nhẫn nhục làm hoài bão, mà lại giận dữ chứa nhóm trong tâm, làm tổn thương lòng từ của đạo, cướp lấy công đức của mình không gì hơn giận dữ. Nay sinh giận nhỏ mà làm oán lớn, nên Phật đặt ra giới nầy tội nặng, đủ sáu duyên thì thành phạm:
1. Đối cảnh Thượng, Trung.
2. Nghĩ là đối tượng
3. Tâm sân không dứt Người đối diện sám hối Biểu thị không thọ tưởng.
Người đối diện hiểu rõ thì phạm.
Thiếu duyên phạm tội nhẹ, văn cũng có ba: 1. Nêu danh, ngăn khiến dứt ác
2. Ngăn khiến làm lành.
3. Nêu lỗi kết phạm.
Câu đầu có hai ý:
a) Phạm việc tự sân, dạy người khác, đủ duyên đều phạm tội nặng.
b) Thành nghiệp.
Trong tâm là Nhân, cảnh trước mắt làm Duyên, kết nhóm nghi quỹ là Cách thức. Lấy sân làm mục đích gọi là Nghiệp. “Mà Bồ-tát” v.v... trở xuống là ngăn khiến làm lành. Như văn có ba: “mà trái lại” v.v... trở xuống là nêu lỗi kết phạm, “cho đến “ đối với phi chúng sinh nghĩa là sân vô tình. Như người tâm giận dữ đánh đập tôi tớ, cho đến dùng cây, đá, chân tay đánh đập chúng sinh. Đây là nêu tội nhẹ để so sánh. Dùng lời ác, chánh thức kết tội.
10. Giới giúp Hủy Báng Tam Bảo. Thắng đức đáng quý gọi là Bảo. Phi lý nhiều phiền nhiễu nên gọi là Báng.
Thành tội phạm có đủ sáu duyên:
1. Đối chúng trợ giúp chê bai.
2. Là nhất thể Đại thừa và Biệt tướng Tam bảo
3. Sinh hai ý nghĩ trên
4. Có tâm chê bai, hủy báng.
5. Nói lời rõ ràng
6. Người đối diện hiểu rõ thì phạm.
- Thiếu duyên phạm tội nhẹ. Văn cũng chia làm ba:
1. Nêu danh, khiến dứt ác.
2. Khiến làm lành.
“Huống là miệng v... v... trở xuống là” nêu lỗi kết phạm, văn có hai ý:
Tự chê bai, xúi người chê bai đều kết tội nặng_ Thành nghiệp.
Nội tâm Nhân. Tà kiến làm Duyên, khéo léo lập giả làm cách thức. Tâm nầy là pháp vụ gọi là Nghiệp. Mà Bồ-tát v.v... trở xuống là ngăn khiến làm lành. “ Trung ngôn ngoại đạo là ngoài du tâm viên lý cho đến ngoài ngoài ba tông đều gọi là ngoại đạo”. Nói chê bai Phật thường phải nghĩ đến đau đớn, nên dụ như mâu đâm. Mâu là binh khí dài hai trượng dùng để lập binh xa.
- Kết phạm như văn. “Khéo học”, v.v... trở xuống, Thứ 3 là kết khuyến, có ba:
1. Nêu pháp được giữ.
2. Khuyên răn.
3. Chỉ rộng ba câu, văn đều có hai:
-Câu văn đầu. Nêu chung người.
Khéo học là từ khen đẹp. Kế là “ Bồ-tát”.... Trở xuống là nêu pháp trong nhân nói quả nên nói Mộc-xoa, Mộc-xoa là giải thoát.
Kế “ là phải nên, v.v... trở xuống là” khuyên răn, có hai: Khuyên học trì.
Nếu có v.v... trở xuống nêu lỗi hiển trì.
(590) Câu đầu nói “vi trần” như thế tục nói: Thần đối với nước không có chút công lao nào”. Kinh Niếtbàn nói: “Như giữ phao nổi, một lỗi nhỏ như hạt bụi cũng không phạm. Đây là nêu chỗ cực nhỏ để làm tình huống. Kế là nêu phạm tội, có hai quả báo:
1. Hiện tại mất mười lợi thứ lợi ích.
2. Quả báo trong ba đường.
Câu văn đầu trái với thệ nguyện rộng lớn căn bản, không hối không thất tâm Bồ-đề dứt, nên nói không được phát tâm Bồ-đề hiện tiền. Quốc vương Lật Tán và vua Chuyển luân do giới làm Nhân. Nhân mất thì quả không có, nên nói là “diệt thất”. Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni đã mất giới thi quả báo vào ba đường ác, đâu được làm người chứng thứ lớp, nên nói cũng mất Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. “Mười phát thú” là dụ cho mất thứ vị. Trước là nhân Phật tánh thường trụ, ”diệu quả” là quả Diệu giác. Phật tánh thường trụ hằng ở trước sau. Nay đối với giai vị cùng cực cho là Phật tánh thường trụ gia quả, nên nói Diệu Quả-Cũng như Nhân vương không biết Đẳng giác. Kế là đọa vào ba đường ác. Hủy giới cấm khác nhau nên quả báo vào ba đường ác, không được nghe pháp, không được nghe tên cha mẹ là người có ân sâu nuôi dưỡng, cũng không được Tam bảo cứu giúp. “ Kiếp” là thời gian, thành Trụ Hoại Không đều có hai mươi lần tăng giảm. Một lần tăng giảm là một Tiểu kiếp, hai mươi lần tăng giảm là một Trung kiếp. Tám mươi lần tăng giảm là một đại kiếp,..v.v… “Vì các lý do đó...” là kết khuyên. “ Đẳng” là chỉ cho rộng.
2/. Khuyên học và chỉ ra Quảng bản.
Quảng Bản của kinh này có Phẩm Bát vạn oai nghi.
KẾ LÀ BỐN MƯƠI TÁM GIỚI KHINH: Giản dị hơn mười giới trọng nên được gọi là khinh, có lỗi nên gọi là cấu. Văn kinh chia làm ba:
1. Trước kết sau sinh.
2. Giải thích riêng.
3. Tổng kết.
-Ban đầu như văn, kế là giải thích, chia làm năm:
Ba mươi, chia làm ba. Hai mươi chín, chia làm hai. a) Giải thích b) Kết khuyên chỉ rộng.
1. Giới Không kính Sư Trưởng:
Bồ-tát lẽ ra phải nhúm mình cung kính tất cả hữu tình, huống chi khinh mạn Sư trưởng, rất trái với người tu hành, nên Phật đặt ra giới này đầu tiên, kết tội phạm đủ bốn duyên:
1. Sư trưởng.
2. Biết là sư trưởng.
3. Cố ý khinh mạn.
4. Thân tâm bất kính thì phạm.
-Văn chia làm ba:
1. Nêu danh khuyên tho.
2. Đã được, v.v... trở xuống là biểu thị hành trì.
3. Mà Bồ-tát v.v... trở xuống là chỉ, tác kết phạm.
Câu văn đầu: Quốc vương Lật-tán, tức vua loài người, vua Chuyển Luân là các vua thánh vương như: Vua Thiết Luân cai trị một thiên hạ, vua Đồng Luân cai trị hai thiên hạ, vua Ngân Luân cai trị ba thiên hạ.
Vua Kim Luân cai trị bốn thiên hạ. “Bá quan văn võ” ở đây nếu không có thọ giới thì quỉ thần không hộ, làm sao thống lãnh chế ngự được trăm họ. Nên khuyên trước phải thọ giới Bồ-tát. Chư Phật vui mừng” là thuận với luật nghi nên Chư Phật vui mừng.
- “Thượng tòa” là vị Thượng thủ trong tăng, khéo chế ngự đại chúng, cũng đúng nghĩa là Sư. ”Hòa-thượng A-Xà-lê như “trước đã giải thích. Đồng học Thượng tòa gọi là Đại đồng học. Đồng một chánh kiến gọi là đồng kiến. Đồng một hạnh thì gọi là đồng hạnh. “Mà Bồ-tát” v.v... trở xuống là chỉ tác kết phạm, “Kiêu tâm” là tâm tự cao, khinh khi người khác, gọi là” mạn”. Sân si do không hiếu thuận cho nên “kiêu mạn”. “Vì tự mình v.v... trở xuống” là nêu trọng so sánh với khinh. Lẽ ra phải bán thân để báo đáp ân sinh thành, huống chi sinh khinh mạn, nên Phật kết phạm.
Bảy báu là:-Vàng,-Bạc.
- Lưu ly.
- Pha lê
- Xích châu
- Xa cừ
- Mã não
“Trăm vật” là kể chung tất cả. Nếu không như thế là không hiếu thuận cung kính cúng dường.
2. Giới Không Uống Rượu:
Rượu là thứ nước làm cho người uống mê cuồng. Tất cả tội nặng do đây mà sinh, nên Phật đặt ra giới này, kết thành tội phạm đủ bốn duyên:
1. Rượu thật
2. Nghĩ là rượu thật.
3. Không bị bệnh nặng.
4. Uống vào miệng thì phạm.
-Trong luật không cho uống lầm. Văn kinh có hai nghĩa:
1. Nêu tên, nêu tội, ngăn khiến dứt ác.
2. Nếu cố tình ăn vắng lặng v.. v.. trở xuống là khiến chế kết phạm.
Câu đầu nói: “Tửu khí” là bình đựng rượu, bình không còn phạm huống chi mời uống rượu ư? Ra khỏi địa ngục quả báo đọa vào nhiều loại, cho đến lươn lịch, nên nói không tay. Dạy người uống rượu còn không được, huống chi tự mình uống, nên đều kết phạm. Kết phạm nên biết.
3. Giới Ăn Thịt:
Bồ-tát lẽ ra phải quên mình cứu giúp chúng sinh, vì sao lại ăn thịt chúng sinh? có ba duyên thành phạm:
1. Thịt hữu tình
2. Nghĩ là thịt hữu tình 3. Ăn vào miệng thì phạm-Văn chia làm hai:
1. Nêu người nêu tên, ngăn khiến dứt ác.
2. Nếu cố v.v... trở xuống là trái chế kết phạm.
4. Giới ăn năm thứ rau cay nồng:
Bồ-tát thân miệng phải thơm sạch, lại ăn cay hôi, khiến Hiền Thánh xa lìa, nên Phật đặt ra giới này, kết tội có đủ bốn duyên:
1. Năm thứ tân rau cay nồng.
2. Nghĩ là năm thứ rau cay nồng.
3. Không bị bệnh nặng
4. Ăn thì phạm
-Văn chia làm hai:
1. Nêu người, nêu tên, ngăn khiến dứt ác.
2. Nhược cố v.v... trở xuống là chế kết phạm. Câu đầu:
- Đại toán (quen gọi là tỏi lớn)
- Cách thông (là hẹ)
- Giới (là kiệu)
- Lan thông (tỏi nhỏ)
- Hưng cừ (sống, chín đều cay nồng)
3. Kết phạm như văn.
5. Giới Không Dạy Sám hối:
Bồ-tát thương xót chúng sinh, nên nêu lỗi để chỉ dạy khiến họ sửa đổi, trở lại con đường chân chánh thanh tịnh, dưới là cứu với chúng sinh, trên dùng pháp thánh để báo ân Phật rất là lợi ích. Nên Phật đặt ra giới này khiến phải cẩn thận. Phạm đủ năm duyên kết tội:
1. Cảnh phạm giới
2. Biết họ đã phạm
3. Không có duyên trái nghịch (nghĩa là ác luật nghi)
4. Tâm che giấu
5. Cùng chung pháp sự cho nên phạm-Văn chia làm hai:
1. Nêu tên nêu việc chế tác
2. Mà Bồ-tát v.v... trở xuống là chỉ tác kết phạm Năm giới:
- Không sát sinh
- Không trộm cắp.
- Không tà dâm.
- Không nói dối.
- Không uống rượu, ăn thịt trọn đời, gọi là năm giới Tám giới:
- Không sát sinh.
- Không trộm cắp.
- Không dâm dục.
- Không nói dối.
- Không uống rượu.
- Không ngồi giường cao rộng lớn.
- Không đeo tràng hoa, xức nước hoa.
- Không ăn phi thời.
Tám giới này tùy theo thọ nhiều, ít. Như giữ đủ 8 giới hay một giới đều được. Thêm giới không cầm nắm vàng bạc, vật báu và quá ngọ không ăn thì thành mười giới.
“Huỷ cấm” là phạm 250 giới. “Bảy tội nghịch” như đã giải thích ở trước.. ”Tám nạn” là:
1) Địa ngục
2.) Ngạ quỉ
4. 3) Súc sinh) Châu Câu-lô ở phía Bắc) Trời Trường Thọ
6) Trí tuệ thế gian thông minh.
7) Các căn không đầy đủ.
8) Trước Phật sau Phật.
Tám thứ này là quả, quả từ nhân mà có, do có phạm mới dạy sám hối. Nhân là gì? Nghĩa là nhân hủy giới đọa địa ngục. Tham là nhân ngạ quỉ, không hổ thẹn là nhân súc sinh, vì cầu sống lâu ở nhân gian mà thọ trì ba quy y, năm giới là nhân của châu câu-lô ở phía Bắc. Vì cầu vui cõi trời nên giữ tam giới là nhân của trời Trường thọ. Không vì giải thoát học tập thế tục mà giữ gìn ba nghiệp tức là nhân của trí tuệ thế gian thông minh, tổn hại thân phận hữu tình, hủy báng chánh pháp do các căn không đủ. Không suy nghĩ tu tập quán pháp của Đại thừa, Tiểu thừa, là nhân sinh trước Phật sau Phật. Nên Phật từ bi chỉ bày cho sửa đổi. Là tông thú của muôn hạnh, là chỗ nương của ba đức. Hoặc tự mình hoặc người khác nêu tâm ngũ hối, sám hối đứng đầu, nêu một mà nhiếp nhiều nên nói: “Phải dạy sám hối”.
Kế đến là “đồng trụ”, đồng ở một chỗ, đồng tên đồng tăng lợi dưỡng. Bồ-tát, Hán dịch là Tịnh trụ, văn khác đều có thể thấy.
6. Giới Không cung cấp thỉnh Pháp.
Tôn người, trọng pháp, tấn đạo, hạ tâm, mà lại kêu ngạo khinh mạn người nói pháp. Căn bản đầu tiên của đạo là lòng nhân từ. Nên Phật đặt ra giới này. Kết tội phạm đủ bốn duyên:
1. Thấy người giải hạnh Đại thừa
2. Biết đúng
3. Nên khởi tâm kiêu mạn
4. Không cúng dường thỉnh pháp liền phạm-Văn chia làm hai:
a) Nêu danh trình bày việc khuyên làm.
b) Chỉ tác kết phạm.
Câu văn đầu: Ấp là thôn, cho nên Quản Trọng họp ba mươi nóc gia thành một ấp. “Ba thời” là trung thực, tiểu thực và nước trái cây phi thời. “Mỗi ngày ăn hai ba lưỡng vàng” là nêu trọng chú khinh. Mạt pháp thay thế Phật bổ xứ, Ba-luân chẻ tủy ở Vô-kiệt, Thiện Tài quên mệt nhọc ở pháp giới, huống chi là xả vàng v.v..., huống gì là pháp nặng tình sâu, nêu lên để so sánh. “Ba thời” trong một ngày chia làm, đầu, giữa, cuối, nếu không trở xuống v.v... là chỉ tác kết phạm, như văn
7. Giới biếng nhác không chịu nghe pháp.
Bồ-tát sơ tâm gặp việc quay mặt vào vách, lẽ ra phải tìm thầy học đạo khắp nơi. Mà ở trụ xứ có giảng kinh lại không chịu nghe. Ngày đêm ôm mê, thân tâm buông lung, luống thọ của tín thí, không báo đáp cho người, nên Phật đặt ra giới này. Kết tội phạm có bốn duyên:
1. Tự không hiểu pháp 2. Có chỗ giảng Đại thừa
3. Tự biết là có.
4. Cố ý không nghe Văn chia làm hai:
1. Nêu nhân pháp, nêu nơi chỗ mà khuyên nghe nhận, chế tác thành trì.
2. Nếu không, v.v... trở xuống là chỉ tác kết phạm. Trước sau lệ theo đây mà biết.
Câu 1 nói: “Có giảng pháp” là nêu chung pháp Giới, Định, tuệ “Tỳ-Ni” nêu riêng. Tỳ-ni là luật, phần nhiều nói về giới học. Kinh nói Giới, Định, tuệ tức là ba việc học lớn. Kế là văn nên biết.
8. Giới Bỏ Chánh theo tà.
Bồ-tát lẽ ra phải lấy Phật tánh làm tâm, lại bỏ Đại thừa, học tập tà pháp của Tiểu. Bảy tội nghịch và ngoại đạo là một loại, nên Phật đặt ra giới này, kết tội phạm đủ bốn duyên.
1. Pháp giới, định, tuệ của Đại thừa
2. Khởi tưởng
3. Trái với tâm.
4. Xả Viên học Thiên thì phạm.-Văn chia làm hai:
1) Nêu tâm niệm bỏ chánh
2) “Mà thọ trì”. v.v... trở xuống là nêu lỗi kết phạm.
Câu đầu: Thường trụ kinh luật v.v... đều là Đại thừa. Giảng về lý thật tướng gọi là Thường trụ. Văn nói “ác kiến” la ác không biên của Nhị thừa. Ngoại đạo có ác hữu biên, đều gọi là ác. Nên kinh Niết-Bàn Ca-diếp tự trình bày. Trước khi chưa nghe bốn Đức Viên Thường là người tà kiến, ta chính là ác. Câu “mà thọ trì ba tự quan” trở xuống là Thọ trì tất cả giới cấm, chẳng phải chánh luật nghi. Các giới gà, chó chẳng phải là giải thoát đều gọi là tà kiến, tà kiến có nhiều thứ nên nói “Tất cả”
9. Giới Không săn sóc người bịnh khổ:
Bồ-tát lấy đại bi làm thể, thấy người bệnh mà không cứu là thương tổn lòng từ, lui sụt Bồ-đề, là do ở chỗ này, nên Phật đặt ra giới này, kết tội phải phạm đủ bốn duyên: Tâm chê bai bỏ đi thì phạm, văn chia làm hai:
Nêu tên, trình bày việc chế tác, “mà Bồ-tát” trở xuống không làm thì kết phạm Tám ruộng phước là:
- Phật
- Pháp
- Tăng
- Cha
- Mẹ
- Người bệnh
- Đào đường xây giếng.
- Bắc cầu ở bến sông
Bốn quả Thánh và Hòa-thượng đều xếp vào Tăng bảo. Nên kinh Đại thừa nói:' Bồ-tát, Nhị thừa đều gọi là Tăng”. Mục đích là cứu giúp chứ không phải vì ruộng phước nhiều ít. Cũng như Kinh Pháp hoa nói: “Mắng Phật tội nhẹ, chê bai người tội nặng. Có thân đối đãi khen chê, duyên tâm dễ chuyển, kế là văn rất dễ thấy.
10. Giới Chứa Dụng Cụ sát sinh:
Dụng cụ giết hại chúng sinh gọi là “sát cu”. Chất chứa, gom nhóm gọi là “súc”, Bồ-tát thường phải xả các sở hữu, mà lại cất chứa dụng cụ sát sinh, nghĩ làm tổn hại chúng sinh. Ngày đêm tăng thêm tội gọi là Ác vô tác, cho nên Phật đặt ra giới này, kết tội phạm đủ bốn duyên:
1. Dụng cụ sát sinh.
2. Biết là dụng cụ sát sinh.
3. Không có khai duyên (trong luật khai cho chứa, vì ngăn ngừa kẻ trộm).
4. Chứa qua một ngày-Văn chia làm ba:
1. Nêu tên, nêu việc ngăn dứt.
2. Nêu trọng so sánh với khinh.
3. Trái phạm quy chế kết phạm.
Câu đầu nói: Đao gậy v.. v...... vốn là tác giả làm hại chúng sinh. Nhưng dụng cụ sát sinh đều không được chứa, nên nói “Tất cả”. Câu kế “ mà Bồ-tát” trở xuống là nêu trọng so sánh với khinh. Luật nói:” Lấy oán trừ oán, oán đó không bao giờ dứt. Chỉ có giải oán oán mới dứt mà thôi. Nếu oán chưa hại thì thành tâm kính dưỡng. Nếu bị hại rồi tự đạt túc duyên, lại lấy oán báo thù nhau, nên biết cha mẹ chết cũng không nên báo oán. “Nếu cố” trái phạm quy chế thì kết phạm. “Như thế v.v... trở xuống là” kết khuyến.
Chỉ rộng về sáu phẩm, Phạm Võng Đại Bản có Lục Lục Phẩm, có lẽ là tên phẩm, Vì trong phẩm đó có nói sáu căn bình đẳng với sáu mươi sáu pháp nên gọi là Lục Lục phẩm, dụ cho giải thích rộng, cho nên chỉ cho phẩm đó.
Giới thứ hai chia làm hai ý:
1. Giải
2. Kết khuyến chỉ rộng câu văn ban đầu từ mười giới.
11. Giới Sứ Mạng Của Nước.
Đưa thư qua lại gọi là “thông quốc sứ mạng”, Mạng” tức là sứ. Lệnh của người cấp trên gọi là “sứ”. Bồ-tát lẽ ra phải thanh tịnh các duyên, tinh tấn tu nghiệp lành và khéo hòa giải tranh chấp, dùng từ bi cứu giúp làm bản hoài. Nay lại đưa tin khắp nơi làm sứ mạng giao chiến. Trở thành tà mạng, trái với đạo nghi, nên Phật đặt ra giới này. Kết tội phạm đủ bốn duyên:
1. Vận động hai nước-
2. Lợi dưỡng.
3. Truyền lời nói giữa bên này, bên kia.
4. Hai nước giao chiến thì phạm.-Văn chia làm hai:
Nêu người bày lỗi, “Hưng Sư” là Thượng sư
“Mà Bồ-tát” v.v... trở xuống là nêu sự so sánh để kết phạm. “Quốc tặc” là hội hợp giết nhau, nghĩa đó như giặc.
12. Giới Mua Bán làm Thương tổn lòng từ.
Bồ-tát nuôi thân lẽ ra phải đúng pháp, không trái với lòng từ bi cứu giúp. Nay mua bán người, súc vật, đổi chác ngoài chợ, quan tài, với lấy sự chê bai của thế gian. Rất trái đạo trông mong, cho Phật đặt ra giới này, kết tội phạm đủ bốn duyên:
1. Vật phi pháp
2. Biết là vật phi pháp.
3. Trao đổi, mua bán.
4. Việc thành thì phạm.
-Trong văn chia làm hai:
1. Nêu tên hiển lỗi.
2. Nêu lỗi kết phạm.
Câu đầu nói: Người lành và tôi tớ là hai loại khác nhau. Người khác qua lại trao đổi mua bán. Hoặc cướp thuộc về giới trộm cắp. “Lục súc” là: Trâu, ngựa, heo, dê, gà, chó. Và y cứ theo người nuôi chúng trong nhà mà nói: “ Nếu cố” trở xuống, v.v... là kết phạm như văn.
13. Giới dùng Tội nặng vô căn cứ để Hủy Báng Người:
Không thấy, nghe, nghi là vô căn cứ. Dùng tội nặng vu khống thêm gọi là Báng. Bồ-tát vận tâm khen ngợi lẫn nhau. Khiến đức tốt của pháp môn rạng rỡ. Nay lại vu báng làm nhơ nhuốc bậc hiền thiện, vời lấy sự chê bai. Cảnh phiền não chẳng phải nhẹ nên Phật đặt ra giới nầy, kết tội phạm đủ tám duyên:
1) Người đối diện không có việc phạm.
2) Biết không phạm.
3) Không thấy, nghe, nghi.
4) Biết không thấy nghe nghi.
5) Khởi tâm ác.
6) Tâm vu báng tội nặng.
7) Có đối cảnh.
8) Nói rõ ràng thì phạm.
-Văn chia làm ba:
1. Nêu tên bày lỗi.
2. Giáo khởi đối trị.
3. Nêu lỗi kết phạm.
Câu đầu nói Tâm ác là ganh ghét người hiền, không làm lợi ích gọi là ác. “ Lương nhân”: tướng bên ngoài không ác gọi là Lương, trong tâm điều nhu là Thiện. Pháp giới, Định, tuệ của Đại thừa tự làm phép tắc và làm phép tắc cho người. Thọ trì đọc tụng, giải thích viết chép đều gọi là Pháp sư. Từng được dạy bảo. Ba tôn bảy chứng y chỉ thượng kinh đều thuộc về sư tăng. Đời Mạt, Phật pháp phó chúc cho vua chúa, Đại Thần, quan lớn, hàng người cao quý. Ân ngoại hộ phải vác trên đảnh, hạnh nguyện giúp nhau và lỗi lầm không quên, đâu cho nói lời chê bai. Kế là đối với cha mẹ dạy cách đối trị, hiếu thuận với người trên, từ bi với kẻ dưới. Đã lãnh thọ giới của Phật đối với sư tăng, giống như sáu thân nên nói là cha mẹ, nghĩa là Hòa-thượng đồng như cha mẹ, A-Xàlê như chú bác, anh em.
Mà trái lại, v.v... trở xuống là nêu lỗi kết phạm, rơi vào chỗ bất như ý, là tên khác của địa ngục, nói lời chê bai người khác khiến ý tốn giảm, gọi là Bất như ý. Đây tức là Nhân. Ngay trong quả báo ba đường tự không như ý tức là quả.
14) Giới châm lửa thiêu đốt.
Tánh lửa thiêu đốt tổn hại chúng sinh chẳng phải nhẹ. Đã là phi thời thì đâu cho nên đốt, cho nên kết phạm, có năm duyên:
1. Núi rừng.
2. Biết là núi rừng.
3. Khởi tâm tội ác.
4. Chẳng phải lúc khai.
5. Nếu đốt thì phạm.-Văn chia làm ba:
1. Nêu tên, nêu lỗi.
2. “Không được”: chánh ngăn dứt ác.
3. “ Nếu cố thiêu đốt”: trái với chế kết phạm.
-Văn chia làm hai:
Câu đầu” là vật không chủ”, “tâm ác” là báo thù ganh ghét ruộng vườn săn bắn v.v... vì hộ sinh mạng hữu tình vô tình lúc đó đông đúc cho nên đặt ra. Kế là nếu thiêu v.v... trở xuống là nêu vật có chủ, y cứ vào hao tốn tiền của, bất luận thời tiết.
Câu (2), (3) như văn.
15. Giới hóa pháp trái tông:
Trao cho người khuôn phép gọi là hóa pháp, trái với sở học gốc gọi là trái tông. Đại sĩ có nguyện rộng phải trao Đại thừa giúp chúng sinh về nguồn. Tam bảo không khen ngợi, nay lại dạy Tà tiểu. Nhận chìm người đối diện, tội lỗi không nhẹ, cho nên Phật cấm. Ngài Tịnh Danh nói:” Dùng tâm Đại bi khen ngợi Đại thừa, nghỉ báo ân Phật, khiến Tam bảo không dứt, sau đó nói pháp. Kết tội phạm đủ bốn duyên:
1) Đối với duyên trước
2) Khởi tâm ác
3) Dạy pháp tà tiểu
4) Người đối diện hiểu được hiền phạm.
-Văn chia làm hai:
Nêu tên, bày việc đặt ra giáo pháp
“Mà Bồ-tát” trở xuống, v.v... là nêu lỗi kết phạm.
Câu đầu “Tự” là từ. Ban đầu từ đệ tử Phật, cuối cùng đến tất cả, khiến phát tâm Bồ-đề là chung cho cả người mới phát tâm. Kế là nêu ba giai vị, sơ lược mười địa v.v... và nên khiến cho biết, nên nói “nhất nhất” v.v...
Văn rất dễ hiểu.
16. Giới không được nói pháp rối loạn
Nhận pháp cầu tiền của nên nói là “quy lợi”, trước sau không thứ lớp tự gọi là “đảo thuyết”, quên thân cứu chúng sinh là bản hoài của Bồ-tát, thuận theo giáo pháp để giảng nói không trái với thánh chỉ, nay vì tiền của mà nói đảo lộn chân thừa. Kiêu căng nói dối là Phật dạy, tự vời lấy tội còn vùi lấp người khác, nên Phật đặt ra giới này, kết phạm tội đủ bốn duyên:
1. Có người cầu pháp
2. Tự hiểu đại pháp
3. Vì lợi dưỡng
4. Rối loạn chánh pháp thì phạm.
-Văn chia làm ba:
1. Nêu tên, phải học
2. Thấy sau, v.v.. trở xuống là dạy dùng hóa phương “Mà Bồ-tát” v.v... trở xuống là nêu lỗi kết phạm
Câu đầu nói tâm tốt là duyên lý phát tâm, tự tha đều giúp, gọi là tâm tốt. Trước chế Bồ-tát tập học luật nghi nên nói Đại thừa. Kế dạy khắp chúng sinh nên gọi là mở rộng nghĩa vị. Tông chỉ được giảng giải là nghĩa, nghĩa lý thích hợp tinh thần gọi là “vị”. Kế là dạy dùng hóa pháp. Trước hết nói nghĩa khổ hạnh khiến họ trọng pháp khinh thân. Chẳng phải nói xả thân mạng, thiêu thân, đốt ngón tay. Nếu xả thân thì pháp nói cho ai, kế là sau đó trở xuống là dạy họ nghi thức nói pháp. Nói thứ lớp là Viên thừa giai vị, hành giải rõ ràng. Khác với người tối tăm, nói không tu chứng, mê chân đế, tục đế, ba phép học mất nghi, phạm nói không phạm, không phạm nói phạm, lấy không làm co, hiện có nói không. Thuận vật trái thánh ý, cẩu thả chẳng có thứ lớp. Chẳng thứ lớp gọi là Đảo, nên kết phạm, nói hủy báng Tam bảo” là nói Tam Bảo luống suông, đều là nhân đây mà chê bai, há chẳng phải là lỗi hay sao?
17. Giới Ỷ thế cầu tài:
Dựa vào uy quyền của quan chức, gọi là cậy thế, đòi hỏi lấy vật gọi là cầu tài.
Bồ-tát lẽ ra phải cứu giúp chúng sinh không tiếc rẽ thân mạng. Nay lại dựa vào người khác để xin tài vật. Bức não người đối diện, không màng có nên làm hay không, thế nên Phật đặt ra giới này. Kết tội phạm đủ sáu duyên:
1. Tự vì danh lợi 2. Gần gũi vua, v.v...
3. Bức não cầu tài
4. Người đối diện gượng cho
5. Lãnh thọ thì phạm.
-Văn chia có hai nghĩa: 1. Nêu tên nêu lỗi.
2. Đều không, v.v... trở xuống là nêu lỗi kết phạm
Câu đầu nói “Tự vị v.v...” là cầu danh lợi cho mình. ”Ác cầu” là tà mạng tự nuôi sống đều. Không thỏa mãn nên gọi là “hay mong cầu”.
Kế là nói “không có từ tâm” là đối với cảnh sinh não gọi là không có từ tâm. Không theo lời Phật dạy, ít muốn biết đủ gọi là không “hiếu thuận”.
18. Giới không hiểu biết mà làm thầy:
Không hiểu biết gọi là “Vô tri”. Dối xưng là khuôn phép của chúng sinh nên gọi là Sư. Bồ-tát lẽ ra phải giấu tên che đức, nhân. Nay lại không học, không biết, dối trá làm sư phạm, tự bị lụy mà còn làm lụy người, nên Phật đặt ra giới này. Kết tội phạm đủ bốn duyên:
1. Tánh chẳng phải ám độn
2. Cố ý không học tập
3. Ẩn ngu dối là trí
4. Tự làm thầy người khác thì phạm.
-Văn chia làm ba:
1. Nêu tên, khuyên học
2. “Mà Bồ-tát” v.v... trở xuống là thị hiện lỗi quấy.
3. “Nhất nhất”. v.. v.... trở xuống là nêu lỗi kết phạm. Câu đầu chế chung cho ba việc học, nên nói mười hai bộ kinh. Kế là ngày đêm trở xuống, v.v... Biệt chế tụng giới. Mười hai bộ kinh, tên mới là mười hai phần giáo, nghĩa là Đại, Tiểu giáo đều có chia ra khai quyền hiển thật, đủ mười hai phần.
Tu-đa-la, Hán dịch là Pháp bản, tức là văn xuôi.
Già-đà, Hán dịch là Trùng tụng, tức kệ Cô khởi. Như đạt sâu tướng tội phước.
Bản sự: Âm Phạm là Y-đế-mục-đa-già, là nói việc nhân duyên của các Bồ-tát.
Bản sinh: âm Phạm là Đà-xà-già, Đức Phật tự nói nhân duyên đời trước của Ngài.
Vị Tăng hữu: âm Phạm là A phù đà đạt ma, tức Phật hiện thần thông biến hóa, khiến chúng sinh kinh hãi, mà có tên này.
Nhân duyên: âm Phạm là Ni-đà-na., cho việc mà đặt ra giới, do có người hỏi Phật mới nói Thí dụ: âm Phạm là A-bà-đà-na.
Kỳ-dạ: Hán dịch là Trùng tụng, tụng lại văn xuôi.
Ưu-Ba-Đề-Xá, Hán dịch là Luận nghị. Hỏi, đáp qua lại.
Phương Quảng, âm Phạm là Tỳ-Phật-lược, là lý rộng khắp bình đẳng.
Vô vấn tự thuyết: âm Phạm là Ưu-đà-na. Thọ ký: Phạn âm là Hòa-già-la-na.
Nên biết giới này kết Kinh Hoa Nghiêm gồm đủ mười hai thể loại này, suy nghĩ rất dễ biết. Tánh của Phật tánh, giải lý tức Phật tánh, Phật tánh là tánh của chúng ta.
Nguồn gốc của giới nên nêu riêng mà thôi, kế là “kệ văn ngôn”: Như trước đã lược thích. “Nhân duyên” như mười giới trọng, mỗi giới đều có nhân duyên. Nêu lỗi kết phạm như văn.
19. Giới chia rẽ người hiền thiện.
Bẩm tánh nhu hòa gọi là “Hiền thiện”, chia rẽ người này và người kia gọi là ly gián. Khéo hòa giải sự tranh chấp, mới thích hợp với Bồ-tát. Nay lại chia rẽ, lừa dối, chê bai, bỏ phế chánh tu nên Phật đặt ra giới này. Kết tội phạm đủ bốn duyên:
1. Hiền thiện
2. Khởi tâm nói hai lưỡi chia rẽ.
3. Truyền nói qua lại
4. Người đối diện nghe hiểu.
Tỳ-kheo dịch là Khất sĩ, phá phiền não, bố ma.
20. Giới không phóng sinh. Đủ bốn duyên thành phạm:
1. Thấy sát sinh
2. Không có từ tâm 3. Có tử vong nguy nạn.
4. Có Pháp sư đúng pháp mà không thỉnh giải thích thì phạm.
-Văn chia làm hai:
1. Nêu danh bày việc
2. Nếu không, v.v... trở xuống chỉ tác kết phạm.-Câu đầu chia làm hai nghĩa:
1. Từ bi cứu giúp chẳng phải người thân
2. Nếu cha mẹ v.v... trở xuống là nói về từ bi cứu vớt sáu thân.
Câu đầu: “tất cả đất nước, v.v.. Nghĩa là thân chúng sinh đều lãnh thọ bốn đại. Quá khứ, hiện tại tuy khác nhau, nhưng sự lãnh thọ thì giống nhau. Cho nên, giết bốn đại của kẻ đó, tức là giết thân cũ của ta trong quá khứ.
Hai câu còn lại như văn. Kế là “Như vậy, v.v... trở xuống là” Kết khuyên chỉ rộng, như văn.
-Ba mươi chia làm hai:
1. Giải thích
2. Kết khuyên chỉ rộng. Như văn tự có mười.
21. Giới không có từ bi báo thù.
Hành trái với vui gọi là không có tâm từ bi. Cố tâm phục oán, gọi là báo thù. Bồ-tát lẽ ra phải oán thân bình đẳng, thường có tâm nhẫn nhục không bỏ lòng từ bi. Nay lại phục thù tỏ ra đắm chìm trong biển khổ, nhiều kiếp oán thù, làm sao gọi là người xuất gia nhập đạo, nên Phật đặt ra giới này, kết thành phạm tội đủ bốn duyên:
1. Là đối tượng oán thù.
2. Khởi tâm tức giận.
3. Khởi phương tiện 4. Trả thù xong thì phạm.-Nêu văn chia thành ba:
1. Nêu tên nêu lỗi để cấu ngăn.
2. Còn không v.v... trở xuống là nêu khinh so sánh với trọng.
3. Mà xuất gia v.v... trở xuống là nêu lỗi kết phạm.
Câu đầu nói: “Sát sinh để báo sinh”, giết mạng để sống lâu là trái hẳn với tông chỉ của Phật giáo. Không do... đâu oán dứt, cho nên nói không thuận hiếu đạo. Kế là nói “Còn không thể” là xuất gia Phật cấm không được nuôi súc vật. Tại gia khai cho nuôi, không được vô lý đánh đập chúng. Huống chi cố ý, v.v... là đang tình huống phục thù. Tất cả nam nữ là cha mẹ ta, là thân cũ của ta. Nay giết hại báo thù nhau nghĩa ở “Tích” cho nên nói chung là bảy, ngoài trọng thêm một tội khinh.
Kết trong phạm có “bản” không có chữ xuất gia, Thiên cung nói:” Theo Phạm Võng Đại bản thì phải có. Hễ phát Đại tâm lãnh thọ giới Bồ-tát đều gọi là Bồ-tát xuất gia. Nên ngài Tịnh Danh nói: “Xuất gia là pháp vô vi v.v...
22. Giới khinh mạn pháp sư:
Dạy bảo giáo dục, gọi là “Pháp sư”, không cung kính gọi là “khinh mạn”, Bồ-tát lẽ ra phải khinh thân trọng pháp, Tuyết Sơn theo quỉ xin nghe pháp, Thiên-đế bái súc sinh làm thầy. Kiêu mạn như núi cao, nước mưa không dừng, sớm sẽ thành sông, muôn dòng đổ về biển. Nay bỏ quán sự tri của mình, sẽ mất đi hạt giống lợi ích lớn của Đại pháp, cho nên Phật đặt ra giới này. Kết thành tội phạm đủ bốn duyên:
1. Mới tân học, không hiểu biết.
2. Người kia thấp hèn nhưng có đức.
3. Tự ỷ sinh kiêu mạn.
4. Không đến thưa hỏi thì phạm tội.
Giới trước nói hiện giảng không nghe, giới này cấm không thưa hỏi rộng, văn chia làm ba:
1. Nêu tên bày tội.
2. Câu Pháp sư ấy, v.v... trở xuống là chỉ ra cảnh kiêu mạn.
3. Câu “Mà mới học v.v... trở xuống là” nêu lỗi kết phạm.
Câu đầu nói: Người có trí v.v... hiểu biết thế pháp. Không còn xem văn nữa nên nói thông minh. Từng có chức nhậm mà nói “cao quý”. Hiện đời thuộc gia tộc của bậc Thánh nên nói là Đại tánh. Thông đạt kinh sử gọi là Đại giải. Vời lấy tiền của, thức ăn của thế gian gọi là “Đại phước”. “Nhiêu tài” là giải thích nghĩa Đại phước. Do đây, v.v... trở xuống là kết chung ý kiêu mạn để dẫn dụng. Dùng sự thông minh này cho đến Đại phước mà sinh kiêu mạn.
Văn rất dễ thấy.
1. Trong phần kết phạm nói “Đệ Nhất Nghĩa Đế” là lý viên thường làm gốc của giáo hạnh, nên nêu riêng, giáo hạnh không chỗ nương chẳng phải là vị thầy tốt.
23 Giới khinh người, không truyền kinh.
Bồ-tát lẽ ra phải khiêm tốn nhiếp chúng sinh, không ngại nhọc nhằn. Nay ỷ mình học nhiều, quen biết người quyền thế mà khinh thường người đến cầu học.
Kết thành tội phạm đủ bốn duyên:
1. Tự xưng Đại thừa
2. Người mới học thưa hỏi
3. Ỷ thế khinh mạn
4. Không chịu trả lời liền phạm.-Văn chia làm ba:
1. Nói về người cầu pháp.
2. “Nếu Pháp sư”... v.v... trở xuống là nói về việc tự ỷ mình.
3. Mà người học v.v... trở xuống là nêu lỗi kết phạm. Trong văn đầu nói về thời tiết nên nói “Sau Phật diệt độ” phát tâm tu đủ ba nhóm, bốn thệ nguyện rộng lớn, cho nên nói được. Câu “ Nói đối với các.....” là nói lên thắng cảnh của nó. Nên kinh nói: “Thắng tượng như Phật thật được phước cũng giống như vậy. Trước tượng Phật tự chế thời kỳ cần thiết lãnh nạp giới phẩm gọi là tự thệ. “Tướng tốt” như nói dưới đây, “Thì được thọ giới” là được tướng tốt rồi thì tự thọ ba quy y, tự nói sám hối, tự thọ mười giới, tự làm yết-ma. Nhưng xuất tự miệng khác với thầy. Câu “Nếu hiện tiền...” từ thầy mà có giới nên không cần tướng tốt. Hai câu còn lại như văn.
24. Giới bỏ sách chân học sách ngụy:
Bồ-tát lẽ ra phải y theo liễu nghĩa xả bỏ gạch ngói Tiểu thừa Phàm phu mà chọn lấy châu báu như ý. Nay lại bỏ chân, học ngụy làm chướng đạo, nên Phật đặt ra giới này, kết thành tội phạm đủ bốn duyên:
1. Có Đại thừa
2. Không tu học
3. Học tập tà tiểu thì phạm.
-Nên chia làm ba:
(1). Nêu tên chung, đưa ra pháp không học tập.
(2). Mà bỏ, v.v... trở xuống là nêu thí dụ để làm rỏ việc bỏ chánh học tà.
(3). “Đoạn nầy”, v.v... trở xuống là nêu lỗi kết phạm. Câu đầu nói “chánh kiến đẳng”, “chánh kiến” là trí nhận biết, “Chánh tánh” là cảnh sở duyên, “ Chánh pháp thân” là cảnh và trí không hai. Ứng vật hiện hình, đều là chánh pháp. Nên kinh nói rằng: nay thân này của ta tức là pháp thân. Tông cựa mà Đại thừa giải thích là ở đây.
Từ nhân đến quả không ngoài ba thân. Cho nên nêu không học khuyên khiến tu tập, hai là vô tác đạo phẩm bảy khoa pháp môn dụ cho bảy báu. Từ đây ngoài Viên thật đạo ra còn lại đều gọi là tà kiến. Do không có tự thể phương tiện. Cho nên kết tội Phạm. Đạt đến quyền thì thuận với Phật hóa nghi cả bốn duyên thích hợp với thời chánh trợ hợp thành, lý Tà chánh là một thì chẳng phải giới hạn của tội phạm. Nên kinh nói:” Dùng phương tiện độ sinh là sợ hiểu biết của Bồ-tát”.
3. Trong kết phạm là nói cắt đứt Phật tánh. Lý tánh thể cùng khắp Thiên, Viên. Từ tâm ngăn cách dễ bỏ Đại thừa, Tiểu thừa. Hành ba nhân tánh mà không hiện hành cho nên đoạn. Tánh đức thiên nhiên thường trụ bất biến làm sao cắt đứt được. Nay từ tu mà được nên kết không phạm.
25. Giới không khéo hòa chúng:
Chế ngự pháp lữ hành tàng gọi là “Hòa chúng”. Thống lãnh mà trái với giới thì gọi là “Bất thiện”. Đã là chúng sinh thì phải hợp với nghi quỉ giữ gìn của cải, khéo điều hòa sự tranh tụng. Nay lại xúi giục trái với phi pháp, trái với tăng đồ. Cho nên Phật chế giới này. Kết thành tội đủ ba duyên:
1. Đứng đầu chúng 2. Không có tâm từ hộ.
3. Khiến chúng bất hòa và tổn hại vật của Tam bảo thì phạm.
-Văn chia làm ba:
1. Nêu ra chúng chủ.
2. Nên sinh v.v... trở xuống là chế khiến y pháp.
3. Nhưng trái lại trở xuống là trái chế, kết phạm.
Ban đầu đưa ra thời tiết, tức sau khi Như lai diệt độ, Di pháp trụ trì phải nhờ chúng chủ nên riêng nêu.
Người truyền giáo nghĩa là nói Pháp Chủ. Người chủ trì nghĩa là hành Pháp chủ.
Cương duy xứ chúng nghĩa là chủ Tăng phường.
Dẫn đạo nội ngoại sửa sang chùa tháp gọi là “chủ giáo hóa”. Truyền thọ thiền yếu gọi là “chủ Tọa thiền”
Lãnh chúng điều lành khắp nơi gọi là “hành chủ” Kế văn có hai ý:
- Chế khiến hòa chúng.
- Chế giữ tài vật.
Kết trong phạm, do không pháp dạy chúng khiến mình và người không dùng mà dùng thì gọi là vô độ. Từ không có tâm trộm cắp chỉ kết tội nhẹ. Nếu nó đã nhuần rồi nhưng Tam bảo hỗn hợp cũng đồng với Thanh văn dùng lẫn lộn mắc tội nặng.
26. Giới không tiếp đãi khách Tăng, trái với phép tắc:
Hễ là khách tăng, ở phương ngoại thì y bát họ tự mang theo mình. Là chủ pháp giới thì có cách tiếp đãi, mới biết được sự thiếu thốn mà cung cấp cho họ. Nay mới biết vượt quá Tăng pháp lợi không chia đều. Nghĩa đồng với sự trái hẳn. Thứ lớp mười phương Tăng luống lập. Tổn tài mất pháp cho nên Phật đặt ra giới này. Thành tội có đủ bốn duyên:
1. Trước ở trong phòng.
2. Có Bồ-tát tăng xuất gia
3. Biết đúng.
4. Không cung cấp chỉ thọ lợi dưỡng riêng thì phạm.
-Văn chia làm ba:
1. Nêu chỗ người đồng loại.
2. Ở trước v.v... trở xuống là chế khiến cung cấp, theo thứ lớp sai thỉnh.
3. Mà ở trước v.v... trở xuống là nêu lỗi quấy kết phạm. Câu đầu có năm chỗ.
Tăng phường là nơi của Bồ-tát xuất gia cư trú, cũng là nhà thế tục có chỗ tăng ở.
Làng xá thành ấp, tức là nơi Bồ-tát tại gia cư trú. “ Nhà Quốc Vương” tức là nhà cửa của vua
“Cho đến” nghĩa là rất thường ở một hạ đồng trụ, trụ xứ nhiều không thể kể hết, nên nói “cho đến”
Trong đại hội nghĩa là lập ra hội xứ, thấy Bồ-tát đến sau đều phải tiếp đãi.
Kế là trong văn mới đặt ra việc đón tiếp, cung cấp: Tất cả mọi việc đều phải cung cấp.
Nếu không có tài vật thì phải cắt thịt bản thân, nghĩa là bán thân mới đủ sức cung cấp, chung cho cả hai chúng xuất gia và tại gia. Nam nữ bán thân phần nhiều hạn cục tại gia, nếu có v.v... là chế đồng lợi dưỡng, nên nói có phần lợi dưỡng.
Kết trong tội phạm, bất nhân cho nên dụ như súc sinh, chẳng phải đồ chúng cấu chứng quả thánh nên nói rằng phi Sa-môn. Sa-môn, Tăng môn là hiệu chung của người xuất gia ở Trung Quốc.
Bốn họ xuất gia đều gọi là Thích chủng. Trái với pháp thức Thích môn không thâu nên nói chẳng phải dùng họ Thích.
27. Giới thọ thỉnh riêng:
Phật tánh bình đẳng, tăng quý ở chỗ hòa đồng. Tài lợi như sữa hòa với nước. Nay biệt thọ thỉnh khiến của thí ra không đồng đều tự mắc lỗi xâm phạm cướp đoạt. Thí chủ mất phước bình đẳng. Cả hai đều tổn hại nên Phật đặt ra giới nầy. “Kinh Ưng Cúng hành” nói:” Thọ thỉnh riêng” chắc chắn mất bốn quả, bảy kiếp không thấy Phật. Năm trăm đại quỉ đứng án trước người đó, năm trăm đại quỉ theo sau người đó. Vì trong tăng bảo có Phật hóa thành thất hiền tăng, phàm phu tăng, muốn cho thí chủ bốn phương được phước như thế, nên Phật chế không được Thọ thỉnh riêng. Kết thành tội phạm đủ bốn duyên:
1. Thân ở trong chúng 2. Thí chủ thỉnh riêng.
3. Thọ
4. Lấy vật thì phạm.-Văn chia làm hai:
1. Ý nói không bằng lòng.
2. “Tự mình dùng” là nêu lỗi kết phạm.
Câu đầu thuộc mười phương hiện tiền tăng, câu “tám ruộng phước” là bậc Thánh tức bốn quả và các sư được xếp vào Tăng bảo. Tăng tuy một nghĩa trong tám ruộng phước nhưng bao gồm nhiều hạng người. Phật cũng thị hiện trong tăng nên nói Chư Phật Tăng. Tức cha mẹ, Tăng, người bệnh trong mười phương đều có phần vật. Không ra khỏi pháp và luôn cả ba ruộng phước. Nghĩa là Tăng mười phương không thiếu, nhưng chung cả năm phước điền nên nói Tám ruộng phước cho đến cha mẹ, người bệnh. Kế là “Kết phạm” là nhiều người trong mười phương, nếu không có tâm trộm thì phải phạm tội nhẹ mà thôi.
28. Giới không được thỉnh tăng riêng:
Hễ muốn được nhiều phước thì phải thỉnh tăng ruộng phước để cầu nguyện, tình không quanh co thì cúng thí mới bình đẳng. Nay thỉnh riêng mình, lựa bỏ người khác, không có tâm chung thì thiếu pháp cúng. Bởi vì quanh co thì cả hai bên đều vời lấy họa, cho nên Phật đặt ra giới này. Kết thành tội phạm đủ sáu duyên:
1. Tự là thí chủ.
2. Lập ra chúng hội.
3. Có tăng chúng 4. Cố thỉnh riêng.
5. Hành thân
6. Lấy vật thì phạm.
Nếu ngoài thứ lớp tăng và bị sức người bắt buộc phải thỉnh riêng thì không phạm. Nên văn chia thành ba nghĩa:
1. Sắp xếp người thỉnh Tăng nên cầu chỉ dẫn
2. Tri sự v.v... trở xuống là nói về thỉnh pháp
3. Nếu riêng v.v... trở xuống là trái với quy chế, kết phạm. Câu 1. Nêu ba thứ phạm này để hạn cuộc hai chúng.
Tất cả Đàn việt không thọ giới, người nghe theo lời dạy được phước. Trái phạm phép tắc không phạm tội.
Câu 2: “Thì được Hiền Thánh Tăng mười phương” tâm thông tất cả lý, một nhiếp tất cả. Câu” “nhưng người đời v.v...” nên kinh Ưu-Bà-tắc Giới nói:” Lộc Tử Mẫu thỉnh năm trăm vị La-hán. Lộc Tử nhờ A-nan dâng thức ăn cho Phật. Phật hỏi A-nan: Lộc Tử Tăng có thứ lớp thỉnh một vị không? A-nan thưa: “Người ngu si thỉnh năm trăm La Hán, không bằng Phật thứ lớp thỉnh một vị”
3. Kết phạm nói là pháp ngoại đạo: ngoài Phật pháp gọi là “Pháp ngoại đạo”. Chẳng phải là ngoại đạo. Luật đứng về Thanh văn khai cho thọ thỉnh riêng. Nên biết bảy Đức Phật đều đứng về Bồ-tát, không có pháp thỉnh riêng. Bảy Đức Phật đều ở tại cõi này. Ứng hóa thị hiện “Tích”, sống lâu trong trăm kiếp các vị trời đều hội kiến, phần nhiều dẫn việc nầy để làm chứng. “Nếu muốn người tin” thì có bằng cứ. Nghĩa là quá khứ kiếp thứ chín mươi, ban đầu có một Đức Phật hiệu là Tỳ-Bà-thi, cũng gọi là Duy-vệ. Khoảng giữa các kiếp không có Phật, đến kiếp thứ ba mươi mốt có hai Đức Phật ra đời: 1/. Thikhí, cũng gọi là Thức-khí. 2/. Tỳ-xá phù, cũng gọi là Tùy-Diệp. Đây là kiếp Hiền thứ chín mươi mốt có ngàn Đức Phật ra đời, bốn Đức Phật đã qua là:
1. Câu-Lưu-tôn
2. Câu-na-hàm-mâu-ni
3. Ca-diếp
4. Thích-ca
29. Giới tự nuôi sống bằng tà mạng:
Tà pháp để nuôi mạng sống gọi là “tà mạng”, có bốn thứ:
1). “Phương tà” là đi sứ thông tin cho hai nước. 2). “Duy tà” là thuốc thang, xem tướng 3). “Ngưỡng ta”: là coi sao.
4). “Hạ tà” nghĩa là gieo trồng các thứ ngũ cốc.
Bồ-tát lẽ ra phải từ tâm thương vật. Các thứ phước còn vất bỏ, sao lại vì lợi mà tìm kiếm bất chánh, luôn cả các nghề ác không trong sạch để nuôi sống, không có lòng từ làm tổn hại chúng sinh. Dưới tín tâm, trên trái với thánh chỉ, cho nên Phật đặt ra giới này, kết thành tội phạm đủ ba duyên:
1. Lợi dưỡng.
2. Học tập kỹ thuật tội ác.
3. Làm việc xong thì phạm.-Văn chia làm ba:
1. Nêu tâm tà mạng
2. Lại buôn bán, v.v... trở xuống là xếp vào việc tà mạng
3. Đều không, v.v... trở xuống là nêu lỗi kết phạm.
Ban đầu như văn, kế là xếp vào phương pháp tà mạng, ngồi ở quán xá chợ búa mê hoặc người gọi là mua bán nam nữ, cũng có bán nam sắc và nữ sắc. Tự tay làm thức ăn, ác xúc phi pháp. Tự xay giả hư hoại sự sống gồm cả ác xúc. Ở đây, v.v... trở xuống là Tà tuỳ theo loại thanh tịnh thì tự tay tránh khỏi chê bai. Xem tướng phán đoán tài lộc được mất của nam nữ, bỏ chánh về tà cầu quan hộ chức, hoặc tự nhiễm tập tổn hoại đạo nghiệp, hoặc làm người đoán mộng nói lành nói dữ, khiến người đó cầu thần nguyện quỉ, hoặc xem thai là trai hay gái. “Chú” nghĩa là chú trớ tã đạo, vì lợi mà tổn vật, tàn sát sinh mạng. “Thuật” tức là tà thuật phù thư ếm, cấm đoán thắng duyên, hoặc làm xáo động người đạo kẻ tục đều xếp vào Duy tà và ngưỡng tà, thuật thông tinh tường. Nói “Công xảo” thư họa điêu khắc thạch cao, tre gỗ, duyên việc trở ngại đạo. “Điều thuận” đề nghị làm ruộng, đi săn. Hoà hợp trăm thứ thuốc độc, tổn mạng hại vật gọi chung là độc. Rắn độc lấy độc của rắn làm tổn hại sinh mạng chúng sinh. Độc sinh kim ngân là tên thuốc. Độc sinh kim ngân là “Độc sâu cổ”, là những thuốc độc khác nhau đều làm tổn hại mạng sinh vật, cũng xếp vào loại Tà.
Kết phạm như văn.
30. Giới làm mai mối:
Giữ giới như giữ gìn ngọc sáng, nay lại hủy báng nói “không”, làm mai cho nam nữ. Đến khiến cho sáu tháng ba năm làm việc sát đạo, chẳng phải trái pháp mạn thời nuôi lớn việc ác của mình và người cho nên Phật đặt ra giới này, kết thành tội phạm đủ bốn duyên:
1. Ác nói “không”.
2. Đưa tin cho cả nam nữ.
3. Thời gian sáu tháng ba năm
4. Mình và người đều làm việc sát sinh, trộm cắp thì phạm. Tự hành thì kết cả hai tội:
Làm nhân vì người khác kết tội nhẹ, văn chia làm ba:
1. Nêu chung cảnh phạm.
2. Sáu ngày trai nhật v.v... trở xuống: chỉ thời gian phạm tội
3. “Sát sinh” trái với quy chế kết phạm.
Nói tâm ác là nói “không có Tam bảo”. Bên trong không có tín tâm chấp không làm việc ác, bài bác dưỡng sinh, nên nói là Dối hiện gần gũi.
Nói tướng xuất ở trong hữu, nên nói là người tại gia. Văn Kinh nói:
Sáu ngày trai là: 8, 14, 15, 23, 29, 30. Theo Luận Trí Độ:”
Hỏi: Vì sao trong sáu ngày trai đó lại đặt ra thọ tám giới?
Đáp: vì đó là ngày không tốt, ác quỉ đoạt mạng. Vào kiếp sơ bậc Thánh khuyên nhau trì trai thọ giới tránh tám việc hung suy. “Kinh Tứ Thiên Vương” nói: trong sáu ngày này, sứ giả Thái Tử và bốn vị vua trời xuống xem xét nhân gian. Nếu người nào trì trai giới hiếu thuận với cha mẹ, thì các vị đó sẽ tâu lên trời Đế-Thích, lúc đó các vị trời vui vẻ, thêm lợi ích cho chúng trời. Giảm bớt Tu-la, quỉ thần đi xa khiến cho trụ xứ an ổn. Nếu không như thế thì các vị trời không vui. Câu “Giảm ít” các vị trời, Tu-la đông đúc, “Kinh Thiên Địa Bản Khởi” nói: “Kiếp sơ có một vị Phạm Tử lạ tu hạnh ngoại đạo, vào sáu ngày này, cắt thịt ra máu rồi bỏ vào lửa, qua mười hai năm bị Thiên Vương quở trách, ngoại đạo này nguyện sinh làm đứa con dữ. Lúc đó trong lửa có tám con quỉ xuất hiện thân hình đen nhánh, mắt đỏ rực sáng. Tất cả quỉ thần đều từ đây sinh ra. Do đó mà vào kiếp sơ bậc thánh chế giới trì trai trong sáu ngày nầy. “Kinh Thiện Sinh” nói:
“Là ngày của ngoại đạo thờ cúng. ”
Ba tháng: trường trai trong năm là:
Tháng giêng: Là đầu tiên hiện sinh của chúng sinh.
Tháng năm: Là trong hưng thịnh.
Tháng chín: Là khởi đầu của sự cất giữ.
Tương truyền, Thiên đế chia tháng để phán xét bốn thiên hạ như: Tháng hai chiếu châu Thiệm-Bộ ở phía Nam, Tháng ba chiếu châu ngưu hóa ở phía Tây, Tháng tư chiếu châu Câu-lô ở phía Bắc, tháng năm chiếu Đông Thắng Thân ở phía Đông, rồi trở lại châu Thiệm-Bộ ở phía Nam, nhưng thuyết này không thấy nói trong kinh điển Phật giáo.
*) Kết phạm như văn. “Như vậy” là kết khuyên chỉ rộng, “Phẩm chế giới” nói trong Đại Bản có phẩm này. Kế nói hai hai chín là hai: một/ chín lại chia làm hai:
1. Chánh giải thích 2. Kết khuyên chỉ rộng.
31. Giới không thực hành cứu chuộc:
Bồ-tát phát tâm từ bi cứu giúp chúng sinh là căn bản, huống chi thấy bậc tôn quý bị nguy ách mà tâm khinh thường bỏ qua. Trong thiếu tâm hiếu, ngoài trái với lòng từ xót thương, nên Phật đặt ra giới này, kết thành hạm có bốn duyên:
1. Thấy Tam bảo đang bị nguy ách
2. Sinh tưởng tri kiến
3. Không có lòng thương xót 4. Không cứu chuộc thì phạm.
-Văn chia làm ba:
Nêu tên y cứ vào thời, xếp vào việc nguy nạn. Nói cha mẹ là Chư Phật, Bồ-tát có khả năng sinh ra pháp thân, nên hình tượng kia tức là hình tượng cha mẹ.
Câu mà Bồ-tát v.v... trở xuống chế tác thành trì.
Nếu không, v.v... trở xuống là trái phạm quy chế đều như văn.
32. Giới tổn hại chúng sinh:
Bồ-tát cất chứa vật gì phải hợp với nghi quỹ, trong có nhân từ, ngoài không xâm hại. Nay lại chứa vật phi pháp bán cho người, mình và người tăng tội lỗi, nên Phật đặt ra giới này, phạm kết thành tội có đủ bốn duyên:
1. Vật phi pháp.
2. Cậy thế.
3. Tâm ác.
4. Cất chứa để mua bán thì phạm.
-Văn chia làm hai:
1. Nêu tên xếp vào việc không nên.
2. Nếu cố v.v... trở xuống là trái vi phạm quy chế kết phạm có sáu loại:
1. Mua bán dụng cụ sát sinh
2. Chứa cân non giạ thiếu.
3. Nhân thế lực lấy tài vật
4. Tâm sát hại bắt buộc người chứa
5. Phá hoại thành công.
6. Nuôi mèo chó.
Sáu vật này đều làm tổn hại nên Phật cho chứa dùng, của cải vào tay thuộc về giới trộm cắp ở trước, nay từ câu “không nên”... nên kết tội nhẹ, kết phạm như văn.
33. Giới xem nghe làm ác:
Bồ-tát lẽ ra phải ở nơi yên tĩnh, suy nghĩ giữ gìn kinh sách Phật. Nay trở lại xem nghe, thân phi pháp làm việc ác, trái pháp vời lấy chê bai, nên Phật đặt ra giới này. Kết tội phạm đủ ba duyên:
1. Có việc sở đối.
2. Tâm ác xem nghe 3. Thấy nghe thì phạm.-Văn chia làm ba:
1. Nêu tâm năng phạm.
2. Quán tất cả, v.v... trở xuống là nêu lỗi đễ ngăn cấm.
3. Nếu cố ý, v.v... trở xuống là trái chế kết phạm.
Câu đầu “tâm ác” là không hòa giải vô minh gọi là tâm ác. Kế là văn có nhiều ý. Ở đầu “xem đấu”, đấu nghĩa là đấu đả, chung cả thân, miệng. “Quân trận binh tướng tức vương là vua”, là quân giặc cướp. “Đấu” là các quân giặc, hoặc tự làm, hoặc xúi giục người làm đều không được xem nên nói là “đẳng”.
Không được xem nghe âm nhạc, nếu người khác làm cúng dường, thuận đời xem nghe không đắm nhiễm thì không phạm. “Bất đắc”... là chấm dứt chơi đùa. Đánh xu bồ, xổ vi kỳ (những hình thức cờ bạc) nên biết.
“Ba là” cờ tướng, diễn binh của An độ. Hai người mỗi bên đều sai hai mươi con cờ tiện hình con voi bằng ngọc. Trung quốc cũng có bàn cờ, dùng nga voi tiện hình con cờ, hễ bên nào tranh được con đường quan trọng thì thắng.
“Đàn kỳ” dùng ngón tay búng con cờ văng ra xa là thắng. “Lục bát” có sáu cặp.
“Phách cúc” là thảy cầu, đánh cầu, đá cầu cùng một nghĩa. “Trịch thạch” có khi nói là ném đá, có khi gọi là quăng đá (rớt xuống dội lại)
“Đầu hồ” ném đồng tiền, gậy vào lỗ hổng là thẻ.
“Khiên đạo” gọi là vị trị. Hai bên mỗi bên có mười ba con, thắng thì kéo bên thua, gọi là khiên đạo.
“Bát đạo, hành thành”: Dọc ngang có tám đường giao xen lẫn nhau, dùng con cờ đi trong các đường ấy như cách đi trên thành.
“Trảo cảnh” v.v... để dứt tà thuật của An độ, thuốc dùng bôi lên móng tay, làm cho móng tay sáng rực lên như gương, trong đó hiện ra việc lành dữ.
“Độc lâu”: ngoại đạo ở An Độ gõ vào đầu lâu người chết để đoán biết nhân duyên sống chết. Trung quốc cũng có việc gõ vào sọ người mới chết, nghe thần nói vào tai việc lành dữ.
“Bốc phệ”: “bốc” là mai rùa, “phệ” là cỏ thi. Hai vật dùng để coi bói. Những thứ này đều là tà thuật dối gạt mê hoặc lòng người, đời đời tập nhiễm vô ích cho mình và người, nên Phật đặt ra giới này.
“Tay sai cho kẻ cướp” là bị giặc sai làm việc trộm. Từ bên trợ duyên nên kết thành tội nhẹ. Nếu vì nghiệp đạo lẽ ra phải xếp vào tội nặng.
3. Trái với quy chế kết phạm, như văn.
34. Giới nhớ nghĩ tiểu thừa:
Tâm Bồ-tát không xen dở bốn thệ nguyện rộng lớn, đúng sai xen lẫn, đại đạo khó mong, nên Phật đặt ra giới này, kết thành phạm tội đủ ba duyên:
1). Không siêng năng giữ gìn Đại thừa 2). Duyên niệm Tiểu tông
3). Một niệm bỏ Đại thừa hướng về Tiểu Thừa thì phạm.
-Văn chia làm hai:
1. Nêu tên lập chế.
2. Từ câu “nếu khởi” là trái phạm quy chế, nên kết phạm tội.
Câu đầu “Hộ trì”, “ hộ là thủ hộ”, trì là niệm trì. Trì có hai nghĩa:
Nhờ dứt ác nên giới thể đầy đủ, gọi là chỉ trì. Thuận theo giáo mà tu khiến ánh sáng giới trong sạch gọi là Tác trì.
Trì danh giới đều do giữ gìn mà thành.
Ba nghiệp đều vận dụng gọi là hộ trì giới cấm, cho nên y cứ vào bốn oai nghi để ràng buộc thân tâm. Sáu thời đọc tụng để cấm khẩu, mưa pháp bên ngoài giúp tâm duyên lý tánh. Vững chắc khó lay động nên dụ như cương cang. Đại thừa và Tiểu thừa đều giữ như phao nổi. “Kinh-Niết-bàn” nói rằng: Thí như có người muốn mang phao nổi qua biển, bấy giờ có một một con quỉ La-sát đến xin phao nổi, ban đầu xin nguyên cái phao, cho đến xin một chút xíu như hạt bụi cũng không cho, đây là dụ cho sự trì giới của Đại Thừa và Tiểu Thừa. Sinh tư phần đoạn và sinh tử Biến dịch rộng sâu ví như biển cả, chứng quả ba đức dụ như bờ bên kia. Giữ giới như phao nổi không thủng, thì mong sẽ đến bờ bên kia. Phá giới như châm vào phao một lỗ, nước ái kiến dần nhập vào thân tâm, nhân từ nhỏ đến lớn. Sáu đường luân hồi, tan mất tuệ mạng, gọi là chìm xuống biển mà chết. Như Tỳ-kheo bị buộc bằng dây cỏ nói rõ nghĩa trên. Vì giữ giới khinh mất mạng chứ không hủy phạm. Luận Trang nghiêm nói giặc trộm vật của vua, gặp Tỳ-kheo sợ lộ việc này, mới nghĩ rằng: “Ta nghe nói Tỳ-kheo không làm hư hại một cọng cỏ sống, nên dùng cỏ trói vị Tỳ-kheo này lại rồi kéo bỏ bên đường. Lúc đó, vua đi săn qua đó thấy vậy bèn nói kệ hỏi:
Ta thấy Tỳ-kheo này,
Mập mạp có sức khỏe
Vậy vì lý do gì,
Cột cỏ không cựa động?
Tỳ-kheo này đáp:
Ta xem cọng cỏ này
Cỏ này rất mỏng manh
Nếu như ta cựa động
Trái với Như lai
Vua liền đến cởi trói cho Tỳ-kheo, rồi phát nguyện hộ pháp. “Niệm niệm bất khử tâm” là xả, tâm tâm nối nhau không rời một sát na. Duyên nhất thể Tam bảo, phát bốn thệ nguyện, rộng lớn nên nói thường sinh v.v... Kế trong phần kết phạm nói “ngoại đạo”, nhị thừa tức ngoại đạo. Ngoài Viên đạo nên gọi là Ngoại đạo.
35. Không phát mười nguyện:
Bồ-tát phát nguyện khiến tâm không lui sụt, hành có chỉ quy. Nên không phát nguyện, Phật chế giới này, kết tội phạm đủ hai duyên:
Không phát nguyện
Phát mà quên mất thì phạm. Văn chia làm ba:
Nêu chung con số nhiều gọi là “tất cả”
Kế là “Hiếu thuận” v.v... trở xuống là nêu riêng mười loại nếu tất cả trở xuống là trái với quy chế.
Kết phạm như văn. Hiếu thuận cha mẹ, Hiếu thuận sư tăng
Nguyện được thầy bạn tốt. Nguyện thường dạy ta Đại Thừa Nguyện thường dạy ta Thập trụ. Nguyện thường dạy ta Thập hạnh
Nguyện thường dạy ta Thập hồi hướng. Nguyện thường dạy ta Thập địa.
Nguyện thường khai mở cho ta pháp tu hành. Nguyện giữ vững giới Phật.
Giữ vững giới Phật thông cả đầu cuối, nên biết nhân quả mười nguyện đầy đủ. Diệu giác rất mong tu chứng rốt ráo, cho nên lược không nêu, đã đầy đủ tự hành nhân quả, tự lợi lợi tha tức giáo hóa nhân đầy đủ năng sở. Khai mở tu hành, không pháp nào không có. Mong được Hóa pháp đều thuộc trong đó, cho nên giới khuyên một sátna cũng không bỏ, nên nói “niệm niệm không lìa”. Kết phạm như văn.
36. Giới đối cảnh không phát thệ nguyện:
Mười nguyện trước là phát chung. Nay đối cảnh khởi hạnh, phải chế ngự thân tâm mới làm được việc khó, mà đưa ra sự giữ giới để hiểu được tội lỗi của việc hủy phạm giới cấm. Nên chế riêng ở cảnh, đối trị lời sở độc mà được việc này. Biết chẳng phải giữ tâm nối nhau, con người phần nhiều biếng nhác không thệ nguyện, kết phạm đủ ba duyên:
1. Đối trị cảnh khởi lỗi tín thí, v.v…
2. Không phát lời thệ riêng
3. Dù phát nhưng chóng quên thì phạm.-Văn chia làm ba:
1. Ban đầu nêu tên, kết trước sinh sau.
2. Tác thị v.v... trở xuống là nêu lời thệ nguyện khác.
3. Mà Bồ-tát v.v... trở xuống trái lời quy định, kết phạm. Ban đầu kết trước, giữ giới cấm của Phật sinh sau.
-Văn có mười ba bài:
Ban đầu đối sắc cảnh lập, lửa dữ, núi dao, thệ nguyện đặt ra cho thân nghiệp.
Kế là năm cặp tín tâm cúng dường, phát nguyện chế thân nghiệp khẩu nghiệp.
Kế nữa là đối với tín tâm lễ kính cảnh châu báu, chùy sắt đập nát thân, thệ nguyện đặt ra cho thân nghiệp.
Kế là năm cặp bốn việc:
1. Y phục là một
2. Ăn uống thuốc men 3. Phòng xá
4. Đồ nằm.
1. Một cặp bố thí đồ nằm thệ nguyện nằm trên sắt nóng.
Bốn cặp bố thí thuốc thang thệ nguyện trăm mậu đâm vào thân.
Năm cặp thí phòng xá thệ nguyện gieo mình vào vạc sắt nóng. Kế là như văn: Kế là trong năm cặp năm trần. Đối thấy sắc tâm phát thệ nguyện, như dùng đao nhọn chọc vào tròng mắt.
2. Đối với nghe tiếng phát thệ, tâm như ngàn dùi móc lỗ tai. Nên trong tam-muội giác ý đứng về sáu căn đối với sáu trần bên ngoài đứng về sáu tác động, nghĩa là đi, đứng, ngồi, nằm, nói, nín mỗi động tác đối với tâm này đạt đức được pháp giới, sáu độ đầy đủ. Pháp giới không dính mắc tức là bố thí, chẳng tổn hại không hữu tức là trì giới. Nhẫn ở hai bên không nhục Trung đạo tức là nhẫn nhục. Không xen lẫn hữu vô gọi là Tinh. Niệm niệm trong các đường gọi là tấn, tức là tinh tấn. Thể pháp giới vắng lặng tức là thiền định. Tịch mà thường chiếu tức là trí tuệ, sáu độ dung hội nhau thành ba mươi sáu thứ.
Một niệm đầy đủ gọi là Trì tâm, nghĩa là văn nầy không phá giới nghĩa. Kế là nguyện tất cả đều thành Phật đạo, tức thệ nguyện trong bốn thệ nguyện phải Tam tư tức thuộc về bốn. Vì sao? Vì không dứt phiền não thì đâu thể độ người khác. Kinh nói rằng:” Nếu mình có sự ràng buộc mà cởi mở sự ràng buộc cho người kia thì không có việc đó, không học pháp môn tối tăm ở thuốc bệnh thì không nguyện thành Phật độ chúng sinh không cùng. Còn ba thứ kia xen nhau đầy đủ, y theo đây mà làm. Đây là bản hoài của Đại sĩ đối trị tốt nhất. Nên xếp sau phần tựa ở trước.
37. Giới không được vào chỗ có nạn
Vì đạo nên nương thân để tiến tu. Vì có nạn duyên nên phải mạo hiểm vào chỗ nguy hiểm, trở ngại cho đạo, vời lấy sự chê bai của người đời, nên Phật đặt ra giới này, kết tội phạm đủ năm duyên:
1. Hai thời Đầu-đà.
2. Duyên du phương
3. Ngồi thiền
4. An cư
5. Bố-tát.
-Có đủ bốn duyên thành phạm:
1. Chỗ hiểm nạn
2. Biết có nạn
3. Vì tu hành
4. Cố vào thì phạm
Một. Dừng ở chỗ ưa thích.
Hai. Nếu điều lành, v.v... trở xuống là nêu ra chỗ nạn. Ba. Tất cả trở xuống v.v... là cấm không nên đến.
Bốn. Nếu thấy trái phạm thì kết phạm.
-Câu đầu chia làm hai:
Lược nêu ba hàng về thời tiết, đạo cụ, không nêu nơi thuyết giới, du phương.
Mà Bồ-tát v.v... trở xuống là giải thích riêng năm hạnh hạ an cư nhiếp ngồi thiền.
Câu 1 nói hai thời Đầu-đà, hai thời không lạnh không nóng, Đầu-đà du phương không có tổn hại, trở ngại. Mùa đông lạnh, mùa hạ nóng nhưng có thể ngồi thiền. “Đầu-đà” là âm tiếng Phạn, dịch là phủi dũ, phủi dũ là tu mười hai lỗi, khiến thành ba đức. “Luật Tứ Phần”: nêu đủ mười hai, biểu thành “đức Giải thoát”, ngăn thành ác. “Thực bốn” là thường khất thực, không tác pháp thức ăn dư, nhất tọa thực, nhất bát thực. Sáu chỗ là:
1. Lan-nhã (vắng lặng).
2. Chỗ gò mả.
3. Ngồi dưới gốc cây
4. Ngồi chỗ trống
5. Tùy ngồi
6. Thường ngồi, đồng thời duyên theo tánh Phật tánh.
Tu ba quán đủ để phá ba hoặc. “Không quán” phá hoặc kiến tư tức đức Bát-nhã thành “Báo thân”. Giả quán” phá hoặc trần sa tức đức Giải thoát, thành “Ứng thân”. Trung quán phá hoặc Vô minh tức đức Pháp thân, thành Pháp thân. Tuy ba mà một, một mà ba. Mười hai hạnh Đầu-đà có dấu yết khác nhau. Câu “kết hạ an cư”, phải mong ở đây. Phần nhiều đặt ra cho Bồ-tát xuất gia, Bồ-tát tại gia không có duyên khác thì an cư cũng tốt. Nên nói Bồ-tát Đại sĩ nhất tâm niệm (Ni thì nói Đại Tỷ) tôi là Bồ-tát giả danh... Nay nương theo tăng-già-lam cho đến nhà... tiền tam ngoạt hạ an cư. Sau ngày 16 tháng 4 phải nói hạ an cư ba tháng sau, vì phòng xá hư hao phải sữa chữa (nói ba lần, nếu tại nhà thế tục thì khỏi nói câu này).
Người đối thú hỏi rằng: ương theo ai làm người trì luật?
Đáp: “Hoà-thượng mỗ giúp.... ở đây thấy lạm dụng pháp giới an cư đã là trái với chân giáo, Nhân pháp đều trái. Lấy pháp giới làm chỗ an cư, cần gì phải dùng để kết. Nay văn khiến an mới thành, luống đặt ra làm hoại loạn thánh pháp. Chẳng phải ma thì là gì. “Hỏa toại” là vật lấy lửa. Nên Luận Đại Trí Độ nói:” Ngày xưa nhờ kính dương toại mà người ta lấy lửa, nên vật phát ra lửa gọi là hỏa toại. Kế là trong phần giải thích riêng có mười tám vật, Trong đó ba y là một, kinh luật là một, tượng Phật, Bồ-tát là một. Ngoài ra còn những tên khác rất dễ thấy.
“Kinh luật”, Kinh Pháp Hoa nói:” bỏ quyền bày thật, lý mầu không khác. Nay theo có thể khai là kinh luật Đại thừa. “Bố-tát”, Hán dịch là Tịnh trụ. Không giới hạn nhiều ít dưới đến một người, không đồng với pháp Thanh văn hạn cuộc có bốn vị: Như tâm niệm đối thú cũng đồng với văn này. Nghe kiền-chùy, vào nhà thiền nói kệ đồng với Thanh văn không xin vui mừng. Duy-na khi phát thẻ đổi La hán thành Bồ-tát, (phát thẻ xong đánh một tiếng...) Bạch các Phật tử chắp tay lắng nghe: Cõi Diêm-phù-đề này, nước Đại Đường, châu.., huyện..., chùa.., chỗ tăng-già-lam. Bản sư chúng ta là Phật Thíchca Mâu-ni di pháp 2 chúng đệ tử xuất gia và Bồ-tát tại gia, Tự nghĩ sinh tử nhiều kiếp là do không gặp Vô Thượng Từ tôn, đời này nếu không phát tâm ra khỏi thì vẫn lang thang, nên ở hôm nay đồng tôn sùng Tam bảo, kính ngưỡng Đại thừa cùng tuyên truyền tạng giới Bồtát, lấy công đức này giúp ích cho tám bộ trời rồng. Trí mong oai quang tự tại Hoàng Đế Thánh hóa vô cùng. Đại tử các vua phước diên muôn lá. Sư tăng, phụ mẫu thường bảo an vui, thấy nghe tùy hỷ, túc chướng tiêu tan như mây. Ba đường ác tai ương tự dứt hết. Hồi hướng công đức này thệ nguyện ra khỏi Ta-bà. Thượng phẩm thượng sinh cõi Phật Di-đà (đập xuống một cái) các Phật tử lắng nghe! Tạng Bồ-tát này Chư Phật ba đời đồng nói, các Bồ-tát ba đời đồng học, các Phật tử lắng nghe! trong chúng, người chưa phát tâm Bồ-đề, chưa thọ các giới Đại thừa của Chư Phật. Các vị từ thân này cho đến thân Phật, trong thời gian đó hãy bỏ tà về chánh, phát tâm Bồ-đề dứt ác làm lành, có thể giữ giới Bồ-tát, hành hạnh Bồ-tát được không? (Đáp được, đập một cái) các Phật tử lắng nghe! Trong chúng ai là người nhỏ nhất hãy thu hộ (nói ba lần, đập một cái) các Phật tử lắng nghe! Bên ngoài có Đại Bồ-tát Thanh tịnh vào (nói ba lần, đập một cái) các Phật tử lắng nghe! trong chúng người nhỏ đã thu hộ, bên ngoài có Đại Bồ-tát thanh tịnh đã vào, trong ngoài vắng lặng, không có các việc nạn, có thể phát thẻ Bố-Tát, con là Bồ-tát Tỳ-kheo giả danh... phát thẻ cho chúng, làm việc Bố-tát. Chúng phải nhất tâm niệm Bố-tát. Cúi mong Thượng, Trung, Hạ tòa mỗi vị theo thứ lớp đúng như pháp nhận thẻ (nói ba lần, phát thẻ xong, đập một cái) các Phật tử lắng nghe. Kế là phát thẻ cho Bồ-tát tại gia. (nói ba lần, đập một cái) các Phật tử lắng nghe.! Đây là một trụ xứ cùng một Bồ-tát, Bồ-tát xuất gia bao nhiêu người, Bồ-tát tại gia bao nhiêu người, đều ở trong Phật pháp thanh tịnh xuất gia, hòa hợp Bố tát. Trên thuận theo lời Phật dạy, báo đáp bốn ân, dưới vì hàm thức, đều niệm Phật A-di-đà, tất cả đều tụng (Kế đến thỉnh Thượng tòa nói giới đồng với pháp thỉnh của Thanh văn)
Kính bạch đại chúng! cung thỉnh Tỳ-kheo... vì chúng tụng giới. Tỳ-kheo... Phạm âm là Giới sư lên tòa cao (Người tụng giới đầy đủ oai nghi lễ ba lạy rồi quỳ thưa)
Con là Bồ-tát Tỳ-kheo giả danh... (từ ngữ đồng với Thanh văn hành hương nói kệ) Tụng giới xong đều nói kệ khen rằng:
Dịch nghĩa:
Chư Phật ra đời vui bậc nhất.
Nghe pháp vâng làm rất mừng vui.
Đại chúng hòa hợp vui vắng lặng
Chúng sinh hết khổ rất an vui.
Lễ tạ Giới sư nói: “Con là Bồ-tát Tỳ-kheo giả danh... cúi đầu hòa nam kính tạ Đại chúng, chúng sai con tụng giới phần nhiều không đúng pháp làm não loạn đại chúng. Xin chúng từ bi từ bi hoan hỷ thứ lỗi cho. Mỗi người đều đắp y chín điều (khứ thanh) khiến Bồ-tát xuất gia là không biết thọ Luật nghi Thanh văn, nếu thọ giới Bồ-tát cũng dễ phân biệt ba y, như pháp thọ trì, chẳng sinh mê đắm. Điều phẩm của ba y thọ pháp đồng với Thanh văn, chỉ có khác ở câu này: “Bồ-tát nhất tâm niệm, con là Bồ-tát giả danh... v.v... Câu “mỗi mỗi như pháp” là tổng kết năm hành pháp. Nghĩa là trụ xứ không có các nạn vi trùng, phạm mạng. Kế là kể ra trong nạn xứ gồm có mười hai chỗ:
1. Ác quốc giới, là hai nước chiến tranh.
2. Quốc vương không tin Tam bảo.
3. Đất đai cao thấp, ra vào nguy hiểm
4. Cây cỏ um tùm, là nơi sâu trùng, thú dữ nương ở.
5. Sư tử.
6. Cọp.
7. Sói.
8. Nước.
9. Lửa.
10. Gió.
11. Cướp bóc.
12. Rắn độc
Phật cấm không được vào các nơi kể trên, còn nhiều tên ở đây không thể kể hết. Hễ có tổn hại đều gọi là nạn nên nói “tất cả”. Câu cho đến là không nói du phương, Bồ-tát, ngồi thiền.
Ban đầu nêu hạnh Đầu-đà, bỏ nhập hạ nên nói: cho đến, kết phạm như văn.
38. Giới đại chúng ngồi trái pháp:
Khi nhập đạo thanh chúng khác với tà đồ, không lấy năm thế tục làm tôn ti, chỉ dùng giới pháp làm trước sau. Tôn sùng Thích văn nghi quỹ bẽ gãy cờ kiêu mạn của thế tục. Lấy thọ giới làm đời sống thật. Nên người thọ giới trước là lớn, đủ ba duyên:
1. Thân ở trong chúng
2. Biết thời gian thọ giới.
3. Ngồi không theo thứ lớp thì phạm.-Nên văn chia làm bốn:
1. Nêu tên, trình bày chung.
2. Đừng như v.v... trở xuống là nêu người ngoài để răn.
3. Trong Phật pháp của ta v.v... trở xuống là chỉ bày lại pháp đã chế.
4. Mà Bồ-tát v.v... trở xuống là trái qui định kết phạm
Câu đầu thứ lớp nêu trước nhỏ sau lớn, tất cả đều khai. Nếu trước lớn sau nhỏ ở lớn thì lớn, ở nhỏ thì nhỏ. Còn ở phương này lớn nhỏ không phân, cũng nên thuận với thời xứ. Tỳ-kheo v.v... ở đây cũng khác nhau. Nếu người xuất gia thì trong hai chúng tự phân ra trước sau. Nên nói “Vương tử xuất gia thì đồng loại với thứ nhân. Nếu họ là tại gia thì hai chúng ngoài làm thứ lớp. Vương gia, nam nữ tại gia cũng giống như vậy. Không phân tức chân mà tục, chẳng nói nam nữ y theo giới ngồi lẫn lộn. Ngoài ra câu ba y như văn.
39. Giới không khuyên tu phước, giảng giải lợi sinh:
Uy lực của Đại thừa khó thể nghĩ bàn. Chẳng phải chỉ giúp ích cho đường tăm tối, mà còn cứu nguy nạn hiện tại, không vì giảng giải u ẩn hiển bày mà không nghe, tự sẽ mất đi chỗ lợi ích sâu xa. Nên Phật đặt ra giới này, kết thành tội phạm đủ năm duyên:
1. Giảng giải đại pháp
2. Không có các nạn duyên
3. Gặp cảnh an nguy.
4. Không có tâm từ cứu độ.
5. Không giảng giải cho nghe thì phạm.-Văn chia làm ba:
1. Khuyên mình và người tu phước nghiệp.
2. Mà Bồ-tát v.v... trở xuống là chế lợi sinh tu trì nghiệp.
3. Mà tâm học v.v… trở xuống là trái quy chế kết phạm.
-Câu đầu trước kể bốn việc:
1. Xây dựng tăng phòng.
2. Núi rừng, vườn ruộng.
3. Xây dựng tháp Phật.
4. Tháp là nơi thờ cốt của bậc Thánh. Người cúng tháp có phước rất nhiều, đồng với xây cất điện đường.
Nên kinh A-hàm có kể câu chuyện Tỳ-kheo Phạm-NiThi, sau khi Phật Tỳ-Bà-Thi nhập diệt, Phạm-Ni-Thi tâm vui mừng cung kính cầm đèn soi tháp Phật. Về sau Phật Thích-ca ra đời, Phạm-Ni-Thi nhờ phước báo soi tháp mà thân thể sáng rực hơn thân của 28 vị trời. Kinh Thập Nhị Nhân Duyên nói:” Tám hạng người nên xây tháp thờ là Phật, Bồ-tát, Bích-Chi, bốn quả và vua Chuyển Luân. Tháp Phật có tám tầng, trở xuống thì giảm dần, cho đến Sơ quả có hai tầng. Sau đó được phân chia: Tháp vua Chuyển Luân không có tầng nào, tháp La-hán bốn tầng, tháp Bích-chi phật năm tầng, tháp Phật mười ba tầng. Cũng gọi là Chi-đề tức là người có Xá-lợi. Nay theo xá lợi của Tối Thắng Tạng Phật nên gọi là Phật tháp.
Lập nơi ngồi thiền an cư, Nhất thiết v.v... là tổng kết nói lên chỗ lập.
Tất cả nơi nào có thể hành đạo đều phải lập bốn thứ tăng phòng như trên để làm đạo duyên. nên Phật đặt ra giới này.
Kế là nói lợi sinh có hai loại:
1. Nêu tên khuyên chúng hễ thấy hữu tình nào đều làm cho lợi lạc, nên nói “ phải vì tất cả”. Kinh giảng nói hai môn Định, tuệ, học luật tức là học giới, luật nghi Bồtát là con đường chung đề lợi sinh, nên nêu ba pháp học, nói ba thân, ba đức. Giới học là Pháp thân, Định học là Giải thoát, tuệ học là Bát-nhã nếu bị bệnh v.v. v...... trở xuống là nêu riêng cảnh giảng, trong đó có ba:
Đối với báo chướng khuyên chỗ giảng vẫn thông.
Thông đều có nên cũng nêu chung kinh luật. Nghĩa là báo thân bệnh tật, vương quốc chiến tranh giặc cướp tranh nhau nổi lên. Sống duyên chết tán, Sư trưởng vong hóa, cúng kỵ 49 ngày, hoặc mình hoặc người, đều nên giảng nói Đại thừa. Khiến quán báo âm tức đức Pháp thân. Ư dùng Pháp thân đề đối trị.
“Trai hội” ở cảnh lợi, suy tức đối với Phiền não chướng khuyên giảng. Hễ là chỗ trai hội vĩnh phước, người đi xa trở ve, người thân mới gặp nhau. Đi làm ăn gặp tai nạn hỏa hoạn đốt thiêu, bị nước lụt trôi, hoặc khi gặp gió bão lớn thổi ghe thuyền, hoặc ở trên sông lớn, biển cả gặp quỉ La-sát. Gặp những cảnh phiền muộn ép ngặt như thế, cũng phải đọc tụng kinh luật Đại thừa này, Phật tánh khai giải nghĩa lý, xem phiền não tức đức Bátnhã. Nên nói đây là kinh luật, là dùng Báo thân để đối trị.
“Cho đến...” là đối với nghiệp chướng mà khuyên giảng. Phiền não nhiều không thể nói hết. Lược nêu ba mươi lăm, tiếp tục nêu nghiệp chướng nên nói: “Tất cả” là nêu chung. Nhân của ba nghiệp như sát, đạo, v.v... là riêng cho nên nói tất cả “Tam bảo” là tất cả nghiệp đều có ba báo: Thân này tạo nghiệp thì báo của thân nầy gọi là hiện báo. Thân này tạo nghiệp đời sau thọ báo gọi là Sinh báo, đời này tạo nghiệp hai, ba đời sau mới thọ báo gọi là Hậu báo. Thân có tám nạn gọi là tám nạn nghiệp, Phạm bảy tội nghịch gọi là nghiệp thất nghịch. Hoặc ở lao ngục bị người khác trói buộc tay chân, nên gọi là gông cùm, ba nghiệp độc đều nhiều, hoặc đơn, hoặc song, hoặc một người, hoặc bảy người, hoặc bệnh tật tức là nghiệp sát. Chỗ khác nhau nầy đều là nghiệp báo không chỗ nào tránh khỏi, cũng hạn cuộc ở chỗ nói giới khiến quán kết nghiệp, tức đức Giải thoát. Nên ba tạng Đại thừa đều nói ba thân đối trị khác nhau. Nên văn kể ra có riêng, có chung. Nếu thuận theo lời dạy lợi ích hữu tình đều được thánh Phật thầm che chở giải thoát các nạn. Nếu chưa cảm được thánh chỉ hại nhục thân. Khi qua đời mình và người nghe huân tập thành hạt giống. Sẽ được gặp Phật đều là do đây. Nên Phật chế Bồ-tát thường phải giảng nói nghĩa ba đức của Đại thừa.
Mà tân Giác v.v... trở xuống là kết phạm, hạnh giải chưa đủ, gọi là Tân,
2. Như thị v.v... trở xuống là kết khuyến.
Có giảng rộng trong phẩm Phạm Đàn Thanh Tướng, gần với Hán dịch là “mặc tẩn”. Ác khẩu não hại tăng nên thêm hình phạt này. Trong phẩm Phạm Đàn sau đây có giảng rộng việc này, cho nên trong đó chia làm hai phần:
1. Chánh thích
2. Kết khuyến
40. Giới làm thầy mà chọn lựa:
Bồ-tát lợi sinh nên gặp duyên liền ứng. Dẫu cho ngàn dặm cầu thỉnh mà lại khởi tâm giận dữ, trái với thệ nguyện rộng lớn. Nên Phật đặt ra giới này. Kết tội đầy đủ năm duyên:
1. Tự hiểu giới pháp.
2. Người đối diện cầu thọ.
3. Người kia không có bảy già nạn.
4. Lại khởi tâm giận dữ.
5. Không truyền cho nghe thì phạm.-Văn chia làm ba:
Nêu tên lập chế, người không nên chọn lựa.
Ứng giáo v.v... trở xuống là phải lựa chọn y phục nghiệp báo Chỉ hiểu v.v... trở xuống là hiển rõ vì phạm quy định kết phạm. Câu đầu như văn. Kế chia làm ba:
Chọn màu xanh không phải thuần xanh hay xanh đậm, mà xanh như màu bùn. Vàng không phải vàng đậm hay vàng nhạt mà có pha màu đỏ, cũng gọi là sắc Cànđà, mầu đen có pha mầu tím gọi là” ốc trần hắc sắc” v.v... Năm mầu này trộn lại nhuộm gọi là bất chánh sắc, hễ đắp mặc đều phải nhuộm hoại sắc nên nói tất cả.
Nếu muốn v.v... trở xuống là phân biệt nghiệp chướng, nói bảy tội nghịch là năm tội nghịch thêm hai tội giết Hoà-thượng và A-xà-lê. Làm thân Phật chảy máu, nay là đời Mạt pháp tuy không có việc này, là cùng loại với hủy phá hoại chùa, thiêu đốt kinh tượng. “Phá yết-ma chuyển pháp luận. Sau Phật diệt độ, tuy không tà yết-ma khác phá chánh yết ma và phá lý sơ chuyển Bốn đế, mà là già ngại. Cũng cùng với loại này mà thôi. Bậc Thánh là tăng đã chứng bốn quả.
“Xuất gia” v.v... trở xuống là nói lên chánh pháp. Đại tiểu luật nghi đồng với quy định này. Như trong kinh Tịnh Danh nói hai Tỳ-kheo lễ dưới chân ngài Duy-macật chính là cung kính nghe pháp. Kinh Pháp Hoa nói Bồ-tát Thường Bất Khinh lễ bái bốn chúng bởi là quán tánh bình đẳng biểu thị Pháp thân. Vì lợi ích chúng sinh mà quên mất, chẳng phải Phật chế. Trong đây chính là hằng thức của, Bồ-tát không được vọng dẫn văn khác mà nói Phật chế.
Nêu là hiển rõ chẳng trái với quy chế kết phạm, như văn.
41. Giới vi lợi làm thầy;
Nếu tu hành có thành tựu thì mới nói đến việc giáo hóa độ người. Nay không biết gì mà dám nói dối là được giải thoát, chỉ vì mong danh lợi chứ không vì lợi ích cho người, nên chẳng những tự mình đọa mà còn làm cho người đọa theo, nên Phật đặt ra giới này. Kết tội phạm đủ bốn duyên:
1. Bên trong thật không biết.
2. Bên ngoài cầu cảnh khác.
3. Vì là tham danh lợi
4. Truyền giới Bồ-tát thì phạm.
Nêu đề biểu thị chánh giải của nó. Nếu không, v.v... trở xuống là nêu ra tướng vô trí. Mà Bồ-tát v.v... trở xuống là trái phạm quy chế phạm.
Câu phạm Thất già là bảy tội nghịch, chướng giới nên gọi là già. Phạm mười giới trọng thì dạy pháp sám hối. “Ngàn Phật ba đời” nghĩa là lễ ngàn vị phật quá khứ, vị lai và hiện tại. Trong kiếp Trang nghiêm ở quá khứ, bắt đầu từ Hoa Quang Như lai cuối cùng đến Phật TỳBà-thi, trong kiếp Tinh Tú ở vị lai bắt đầu từ Nhật Quang Như lai đến Phật Tu-di tướng. Trong kiếp Hiền ở hiện tại bắt đầu từ Câu-lưu-tôn Phật cuối cùng đến Lâu Chí Như lai. Nói các thứ dị tướng, hoặc nghe trong hư không có tiếng nói Tỳ-ni Tạng hoặc được ấn trên cánh tay chữ diệt tội. Liền được diệt tội là tánh và Già đều diệt. Hoặc y Tiểu thừa làm pháp sám hối tánh tội không. Như dâm, sát, vọng các tánh vốn là ác gọi là tánh tội. Như uống rượu v.v... Phật chế khiến trì, trái với quy chế cho nên phạm gọi là già tội. Hễ là tánh tội thọ và không thọ phạm thì mắc tội, trì tức được phước. Nếu già giới không thọ thì không phạm tội. Nên người thọ giới ở trên tánh giới mỗi thứ thêm một già, già phạm tánh tội. Nên trên già giới chỉ hộ một già. Trì thì đức khắp hư không, phạm thì già tánh song kết. Sám mỗi giới trái với quy chế, trở lại bản cũ. Thanh Tịnh phụ tài phụ mạng, quả địa vẫn đền đáp. Nên biết Tiểu thừa tánh tội không mất. Hỏi: Già giới không thọ trì có được phước không?
Đáp: Tỳ-kheo giữ được một cảnh thì được một phước, khác với Yết-ma Thọ Khởi Tăng thượng Tâm v.v... trở xuống là khắp pháp giới phát, cho nên kinh nói: “Thà trong một lúc phát tất cả giới (do yết-ma) chứ không được trong một lúc phạm tất cả giới (không có yết-ma). Kinh Anh Lạc nói: “Có phạm gọi là Bồ-tát, không phạm là ngoại đạo. Nay từ Đại quả quán tướng cãi vãng song khiển nên khiến sám diệt”. Nói “ Nếu không có tướng tốt cho đến cũng không được diệt”. Nghĩa là sau khi thọ sẽ thối tâm Bồ-tát và gây ra tạo mười điều ác Tăng Thượng, phạm mười trọng. Người mất hai giới này luôn cả tâm trung, hạ thì pha-m mười trọng. Người không mất giới sám không thấy tướng tốt tội cũng không diệt gọi là vô ích. Đã chẳng phải bảy già thì cho phép tho lại, Nên nói được thêm thọ. Thiên Cung nói: xét “Kinh Phạm Võng”, quyển hạ cho rằng cũng không được diệt. Chữ “giới” là sai. Cho nên Bồ-tát thọ lớp lớp mà không xả pháp. Nói về mất giới, Thiện Giới Kinh chép:”
Có hai nhân duyên mất giới Bồ-tát như trên đã nêu. Trừ hai duyên này cho đến đời khác thường trôi lăn trong bốn đường, giới thể thường còn v.v... “Đối thú” là đối với Bồ-tát tăng có khả năng diệt ác thỉnh làm sám chủ, rằng: “Bồ-tát thương xót con..., nay thỉnh Bồ-tát làm sám chủ sám hối tội khinh cấu. Xin Bồ-tát vì con mà sám hối chủ, xin thương xót con (nói ba lần) Kế là Chánh sám hối (quỳ thằng chắp tay). Bồ-tát thương xót con là..... vì cố không nghe pháp Đại thừa phạm tội khinh cấu, nay đến trước Bồ-tát phát lộ sám hối. Sám hối thì được an vui, không sám hối thì không an vui. Nhớ nghĩ phát lộ, biết mà không dám che giấu. Xin Trường lão nhớ cho, thanh tịnh giới thân cụ túc thanh tịnh Bồ-tát (nói ba lần) Sám chủ nói: phải tự trách tâm Ong, nên sinh nhàm chán xa lìa (Theo Đường Tam Tạng Yết-ma).
Nói mỗi câu đều khó hiểu là phân biệt giải thích bảy già, mười trọng, bốn mươi tám giới khinh trước. Nên nói mỗi câu. Nếu không v.v... trở xuống là thứ lớp chỉ bày tướng vô tri, không hiểu giáo tướng Đại thừa, kinh Luật Tam học, nên nói không hiểu Đại thừa. không biết lý đầy đủ nên nói không hiểu Đệ Nhất Nghĩa Đế. Hai chữ Không hiểu là chung cho ở dưới. Không hiểu thứ lớp Đại thừa, nên nói không hiểu Tập chủng tánh v.v...
1) “Tập chủng tánh” là học tập để thành tánh tức, là vị phát thú giai vị Thập Trụ.
2) “Trưởng dưỡng tánh” là phân biệt thuốc bệnh đễ nuôi dưỡng hóa đạo. “Phạm Võng” quyển hạ có tánh chủng tánh. Nhờ tu tập tánh trước mà thành tánh này, nói rằng tánh chủng tánh, và giai vị Thập Hạnh
3) Bất khả hoại tánh và Đạo chủng tánh tức là Thập Hồi Hướng. Giai vị này rất sâu nên dụ với Kim cương không thể hoại, có thể thấy chủng tánh Trung đạo
Chánh Pháp tánh cũng gọi là Thánh chủng tánh, tức trong mười địa, Thánh đạo hiện tiền nên gọi là Chánh. Đây là đứng về hành bố mà ra lập danh mục giai vị Biệt Viên giáo, đầy đủ như Hoa Nghiêm. Mới phát tâm trụ tám tướng thành đạo được Pháp thân bản. Tên tuy đồng nhưng khác nghĩa, đều viên dung với bốn mươi hai giai vị phá trừ vô minh sâu kín. Lý chướng ngoại giới, đầy đủ như Pháp Hoa Huyễn Nghĩa giải thích v.v... Nói “Trong đó nhiều ít” là ám chỉ hành tướng pháp quán. Hoặc Biệt hoặc Viên, trí đoạn khác nhau. Truyền là nhiều ít. Thập trụ Không quán là nhập. Thập Hạnh Giả quán là xuất, nên nói rằng “xuất nhập”. Mười chi thiền là căn bản bốn thiền. Ba thừa thông tu, Thiên Viên không ngăn cách, phải khéo hiểu. Tỳ-Bà-Sa hỏi:” Thật thể của 18 chi thiền có mấy?. Đáp:” Chỉ có mười, ngoài ra các tên khác đều đồng.
-Sơ thiền có năm chi:
1. Giác
2. Quán
3. Hỷ
4. Lạc.
5. Nhất tâm
Tâm Thô gọi là “Giác”, tâm Tế phân biệt gọi là “Quán”. Tâm duyệt gọi là” hỷ”, thân duyệt gọi là “lạc”. Có công năng khiến cho tâm vương chỉ một tên, một tâm. Sơ thiền và Nhị thiền là đối trị hỷ lạc, là lợi ích. “Nhất tâm chi” là Nhị sở y.
-Nhị thiền có bốn chi:
1. Nội tịnh.
2. Hỷ.
3. Lạc.
4. Nhất tâm.
Xả bỏ dung chứa trong tâm tương ưng, khác với Tam thiền gọi là không khổ không vui. Một lợi ích này ngoài ba tên đồng với thí dụ ở trước, rất dễ thấy. Nay lược nêu thể báo nên gọi là mười chi, đó là:
Sơ Thiền có Năm chi Nhị thiền có Một chi Tam thiền có Ba chi Tứ thiền có Một chi
Quán pháp nhiều nên nói “tất cả pháp hạnh”, đây là kết hành tướng. Mỗi mỗi v.v... là kết không hiểu giáo lý hạnh vị.
Trái quy chế kết phạm.
42. Giới nó luật nghi của Bồ-tát cho người ác nghe. Giới luật là Bí tạng không thể vọng trao cho người, dùng sự thấy biết riêng, tông chỉ mê muội của ngoại tà, ám chỉ thông bít sai lầm sinh ra hủy báng, vô ích cho mình và người, nên Phật đặt ra giới này, kết phạm đủ bốn duyên:
1. Đối với người tà ác.
2. Biết là người tá ác.
3. Vì lợi dưỡng
4. Hễ nói bất cứ một giới nào liền phạm.
-Văn chia làm ba:
1. Nêu tên lập chế
Người ác nầy, v.v... trở xuống là nói lỗi không chịu thọ giới
Hỏi: “Chưa thọ giới Bồ-tát” thì không được nói, nhưng loại đó ở thế tục rất nhiều. Nay tụng nói không phân biệt trái phạm rất đông, nghĩa này như thế nào?
Đáp: Ý Phật bao gồm rất nhiều, phải theo nghĩa Kinh Địa Trì nói: Muốn thọ giới tướng, trước phải quán sát người đó có giữ giới được hay không, tức là vì người tín tâm chưa thọ mà nói. Còn hai chúng xuất gia trước vâng lãnh Luật Nghi Tứ phần, hoặc người hoặc giáo, đều khuyên phát tâm thượng phẩm. Vì Bồ-tát vô thượng cầu ba nhóm tịnh giới. Ba nhóm tịnh giới pháp nào mà không bao gồm. Tiểu thừa không có nghĩa ba nhóm, đều đã phát đầy đủ pháp tâm Bồ-đề, là tùy người. Năm thiên chung cho cả Đại Tiểu. Niết bàn Bồ-tát Thánh hạnh nêu đầy đủ mười giới, năm chi. Nên biết luật nghi Tứ Phần đều là giới Bồ-tát của tăng ni Trung quốc. Kinh Pháp Hoa khai hiển nhân pháp đều là Viên. Khác đường đồng quy thì có gì là Tiểu, nhưng không chê bai nói tụng thuyết đều khai, như vậy đâu cần phải thọ lẫn nhau?
Đáp: Thọ lẫn nhau là thêm điều phẩm, nghĩa tâm thể không phác hai lần, lại. Thân đều vô tác, y cứ vào sự hiện hành của thế gian và các nghiệp thể kia. Đạo cộng giới ngang dọc là một, phát khắp pháp giới là “ngang”, thế giới khác không mất là “dọc. ” “nói Đại giới của Thiên Phật” là nêu chung số của kiếp hiền. “Tà kiến” bên ngoài của ngoại đạo, người ác bình thường không tin gọi là Tà. Trừ vua chúa: giả sử vua có tà kiến cũng khai cho, e nghi ngờ nói vu báng đối với pháp làm tổn hại.
2. Nói về lỗi không chịu thọ giới: nêu chung tà ngoại v.v... gọi là người ác, không tin không thọ, không hổ không thẹn như súc sinh. Tuy có tâm mà không hiểu nghĩa, đồng với vô tâm, nên cũng như gỗ đá. Nội pháp không có phần, nên gọi là Ngoại đạo. Không có chánh kiến đầy đủ gọi là người tà.
3. Trái phạm quy chế kết phạm.
Bảy Đức Phật là tất cả Chư Phật đồng lãnh thọ giới này, theo gần mà lược nêu nên gọi là Bảy Đức Phật.
43: Giới cố phá hủy giới cấm:
Luật Nghi Bồ-tát nương giới có hai, thuyền bè của Nhị tư, bến cầu của bờ giải thoát bên kia. Nay lại cố tâm hủy phạm giới. Hoặc là ác thuyết không, không trì không phạm. Hoặc nói phương tiện Chư Phật sợ hãi mà vào, không tin minh phù của thần giới ngầm bảo vệ. Đây là thứ cỏ nhỏ trong ruộng tốt. Thây chết trong biển giới, xếp vào loại chê bai Đại thừa, hơn bảy tội nghịch. Ngoa tùy chỗ đã phạm chế riêng giới này có đủ bốn duyên:
1. Tín tâm thọ giới.
2. Có cảnh đối diện.
3. Cố khởi tâm hủy báng.
4. Hễ hủy bất cứ một giới nào liền phạm.-Văn chia làm hai: Nêu tên quở trách.
Nếu hủy v.v... trở xuống là vi phạm quy định, kết phạm.
Ban đầu chia làm ba:
Nói không tiêu lợi của người đời.
Năm thiên v... v.... trở xuống là nói quỉ thần quở trách.
Tất cả người đời, v.v... trở xuống là nêu sự chê bai của người đời.
- Văn đầu có hai lỗi: Mất tín thí hiện tại. Trộm nước, đất của vua.
Vì cõi nước quá khứ đã xả, đất nước cúng cho người trì giới. Người vô giới thì không có thuế, không gọi là trộm. Nay trộm thuế đường đi, trộm ăn uống. Nên các quỉ thần gọi người đó là tên giặc nguy hiểm. “quỉ thần quở trách” là giới đầy đủ, làm lợi ích cho chúng sinh, được thần hộ quỉ kính. Nay đã hủy phạm thì thần bỏ điều lành, quỉ khinh khi. Nên có 5000 quỉ dữ đứng án trước mặt mà mắng là giặc. Người phạm giới đi qua, quỉ dữ ở sau lưng chà quét hết dấu chân của người đó.
3. Nêu sự chê bai mắng nhiễu của người đời, kế là trái phạm qui định kết tội phạm, đồng như văn.
44. Giới không kính trọng kinh luật:
Hiểu biết không hẹp hòi nương theo giáo mà được. Pháp thân cha mẹ Chư Phật tôn sùng, kinh sách ở đâu là Tam bảo ở đó. Thân có hiểu ít trách người kia riêng cung kính, hiểu từ giáo sinh. Ở trong giáo khinh thường mình và người thất kính. Công phước đắm chìm nên xếp vào tội. Riêng có bốn duyên:
1. Có kinh luật của Phật.
2. Không viết chép truyền trì.
3. Không sinh tôn trọng.
4. Đặt ở chỗ thấp kém thì phạm.
- Văn chia làm bốn: Nêu tên khuyên trì.
Lột vỏ v.v... trở xuống là trước nêu hạnh khó làm để răn dè tâm. Như Luận Đại Trí Độ nói: Đời quá khứ có một vi Phạm chí tên là Ai Pháp, đi khắp cõi Diêm-phùđề suốt 12 năm để cầu Thánh pháp mà không được. Vì lúc đó chẳng những ở đời không có Phật, mà chánh pháp của Như lai cũng bị hoại diệt. Một hôm, có một Bà-lamôn nói với Phạm Chí rằng: “Tôi có bài kệ của Phật, nếu Ông thích thì tôi sẽ cho”. Phạm chí đáp:” Dạ thích”.
Bà-la-môn nói: “ Nếu thật thích thì phải lấy da làm giấy, lấy xương làm bút, lấy tủy làm nước, lấy máu làm mực mà biên chép”. Phạm chí liền làm theo lời người đó, chép được bài kệ như sau:
“Nên tu hành đúng pháp
Phi pháp không nên lành
Đời này và đời sau
Hành pháp được an ổn”
-Vỏ cây, v.v... trở xuống là nêu việc dễ làm để khuyên viết.
Khuyên dùng vàng bạc, hương hoa vô giá và tất cả châu báu làm hộp, rương bằng bảy báu để đựng kinh luật, để khỏi bị thất lạc và hư hoại. “Hương hoa vô giá” Chỉ cho loại quý giá nên nói là vô giá. Kinh Pháp Hoa nói:” Sáu thù hương này giá trị bằng thế giới Ta-bà.
Kết phạm như văn.
45. Giới không giáo hóa chúng sinh:
Bồ-tát thệ nguyện độ vô biên, tùy chỗ thấy nghe khuyến phát đạo tâm. Nên kinh nói: Không nói Bồ-đề gọi là sát. Mầm đạo tổn diệt do đây, nên Phật đặt ra giới này, kết phạm. Đủ ba duyên:
1. Đối với cảnh được giáo hoá
2. Không khởi từ bi.
3. Bỏ không khuyên đạo thì phạm.
- Văn chia làm ba:
Nêu tâm năng hóa, cứu vớt tất cả khổ nên nói là đại bi.
Kế là Nhập v.v... trở xuống là Đối cảnh lập thệ
Bồ-tát nầy, v.v... trở xuống là trái phạm quy chế, kết phạm.
- Câu đầu như văn, kế chia làm ba:
1. Thấy người khiến thọ quy giới.
2. Nếu thấy, v.v... trở xuống là thấy các loại khiến phát đạo tâm.
3. Mà Bồ-tát v.v... trở xuống là khuyên chung, hễ là hữu tình đều phát đạo ý.
Câu đầu nói ba quy y là Phật, pháp, Tăng Bảo là ruộng tốt cho thế gian. Nếu không quy y thì không do đâu được giải thoát. Nên Kinh Pháp Cú nói: Như lai tại thế, trời Đế-thích biết mạng sắp hết phải thọ báo làm lừa, liền quy y Phật, sau một phút lễ bái mạng Đế-thích liền dứt, thác sinh vào ấm lừa, lừa mẹ bứt dứt dây, đạp vỡ đồ gốm, bị người thợ đồ gốm đánh sảy thai, liền trở lại thân Thiên đế. Chưa đầy một bữa ăn thì trời Đế Thích sống lại. Mạng chết mà sống lại, nhờ quy y mà thoát khỏi khổ báo nầy, huống chi thời gian dài. Nên trước hết khuyên người thọ ba quy y, kế đến trao mười giới, ba quy y là thể của mười giới.
-Như văn.
46. Giới thuyết không đúng pháp:
Nói pháp lợi ích ở chỗ rộng lớn. Tôn ty có pháp tắc, kia đây thành kính. Nay mới thú hướng nói lên đầu mối oai nghi. Mình và người coi thường, nước pháp khó dừng, nên Phật đặt ra giới này Kết tội phạm đủ ba duyên:
1. Đối với người nghe.
2. Chẳng phải giường ghế.
3. Tùy nói kết phạm.
-Văn chia làm ba:
Nếu tâm nói đủ như Pháp Hoa, Đại từ bi là nhà, nhẫn nhục là y phục, các Pháp không là toà ngồi.
Nêu một nhiếp ba nên nói là Đại từ bi. Nếu nhập vào v.v... trở xuống là nói về nghi thức. “Như hiếu thuận cha mẹ” là khuyên người khác tôn trọng người nói pháp. “Kính thuận sư giáo” là khiến người kính thuận giáo do sư nói. Ngoại đạo của An-độ phần nhiều thờ thần lửa, chuyên chú, lễ kính từng niệm nối nhau, nên nêu việc này để so với pháp kính người.
Nói pháp, v.v... trở xuống là trái quy chế, kết phạm.
47. Giới không được lập chế diệt pháp:
Người có năng lực được Phật phó chúc, có khả năng lãnh thọ giới phải ủng hộ Tam Bảo, ngõ hầu làm cho Phật pháp tồn tại lâu dài, pháp tắc dẫn đường cho năm thừa. Nay lại cậy thế chế phi pháp trái với Phật phó chúc thọ trái bản tâm đến đổi khiến mặt trời lặn, thuyền từ chìm mất, mắt của chúng sinh đã nhắm lại, cho nên Phật đặt ra giới này. Kết phạm đủ bốn duyên:
1. Tín tâm thọ giới
2. Tự cậy cao uy
3. Lập chế phi pháp
4. Tổn diệt Phật pháp thì phạm.
-Văn chia làm ba: Nêu người có giới.
“Bốn tà” là bốn cách sống ta mạng của Tỳ-kheo đều làm cho hủy diệt Phật pháp.
Tự cậy, v.v... trở xuống là chế ra phi pháp. Chế đối với Tỳ-kheo đúng pháp bốn phép hộ tịch. Về người cạo tóc xuất gia, đã xuất gia thì không được học tập quyết nghi tu phước. Chỉ vì còn kinh doanh việc thế tục nên không cho xuất gia, cho đến phi pháp phi luật.
Mà Bồ-tát v.v... trở xuống là trái phạm quy chế kết phạm.
48. Giới không được tự phá hoại nội pháp:
Bồ-tát lẽ ra phải bảo vệ chánh pháp mà lại có các hành động phá hoại Phật pháp. Nay trước mặt vua chúa, các quan, vì cầu danh lợi mà vọng nói giới Phật, nên Phật đặt ra giới này, kết tội phạm đủ hai duyên:
1. Tự vì danh lợi.
2. Ở trước vua chúa vọng nói giới của Phật pháp liền phạm.
-Văn chia làm ba:
1. Có thể phá được nhân pháp.
2. Nếu thọ v.v... trở xuống là nêu đúng so sánh với sai.
3. Nếu cố v.v... trở xuống là trái phạm quy chế kết phạm.
Câu đầu là ngang trái, v.v... là nói ở ở trước vua chúa vọng nói giới Phật quanh co, thuận theo tâm vua, nói rằng Phật cho phép trói buộc, đánh đập Tăng Ni, nên gọi là ngang trái. Như Sư tử, Kinh Sư Tử Liên Hoa Diện nói: “Phật bảo: Này A nan! Sau khi Sư tử chết, thì tất cả loài thú hoặc ở trên không, hoặc ở dưới nước, hoặc ở trên cạn không dám ăn thịt sư tử. Nhưng các loài giời trong thân sư tử sinh ra lại ăn thịt sư tử. Nấy A-nan! Phật pháp của ta những người khác không thể phá hoại, mà chính là do các Tỳ-kheo tội ác trong Phật pháp phá hoại. Cũng như thế, các Phật tử tự hủy phá Phật pháp, các ma trời và ngoại đạo không thể phá được. Nhiều người không tin thế nên nói rằng sai. Người phá hoại nội chúng phần nhiều sinh tin. Thí như giời trong thân Sư tử tự ăn thịt nó.
Kế là nêu đúng so sánh với sai, như nhớ nghĩ đứa con một là như mẹ nhớ con. Vì xem đó như cha mẹ không để chê bai. Cha mẹ có thể sinh ra thân, Phật giới có công năng sinh ra pháp thân. Chê bai tổn thương, đau đớn làm vô cùng. Cho nên nói ba trăm cây giáo nhọn đâm vào mình, địa ngục chịu khổ trăm kiếp. Như so với nghe hủy báng một câu. Mà so sánh v.v... Tự làm dạy người làm là nhân phá pháp, thấy người nhìn lại nhân của mình, nên gọi là nhân duyên. Trái với lời Phật là không hiếu thuận. Kết phạm như văn.
1. Như thế, v.v... trở xuống là kết khuyên, như văn.
2. Các Phật tử v.v... trở xuống là Tổng kết, chia làm ba: Nêu số.
Các vị, v.. v.... trở xuống là khuyến trì “Quá khứ” v.v.. trở xuống là khuyến học.
3. Các Phật tử trở xuống thứ ba là. Đoạn lớn lưu thông chia làm hai:
1. Lưu thông một bộ kinh.
2. Lưu thông một phẩm.
- Ban đầu lại chia làm bốn:
1. Khuyên tụng.
2. Chánh lưu thông.
3. Lợi ích
4. Đại chúng vâng giữ, mỗi câu có ba:
- Khuyên tụng, có ba:
1) Nêu danh số.
2) Ba đời, v.v... trở xuống là nêu chư Phật ba đời đều tụng.
3) Nay ta, v.v... trở xuống là nếu Thích-ca tự tụng. Nêu hai câu này là lý do khuyên.
Các vị, v.v... là chánh lưu thông, có ba câu là:
Khuyên người lưu thông phải thọ trì Nói tướng lưu thông.
“Lưu thông”: đứng về thời đối cơ mà nói việc lưu thông. Trong lợi ích có ba:
Gặp Phật
Đời đời v.v... trở xuống là nói lìa khổ. Sẽ sinh v.v... trở xuống là nói được vui.
Nay tà mạng v.v... trở xuống là Đại chúng vâng giữ, văn có ba:
1. Nêu tự khuyên tha.
2. Như “vô tướng” v.v... trở xuống là chỉ nói rộng về vô tướng. Phải là Thiên vương gọi là tướng rút từ phẩm Thiên Mục. Các văn này đồng với cả chín giới trước, nên khi đến Trung quốc chỉ nói rộng thêm mà thôi.
3. “Tam thiên” v.v... trở xuống là đại chúng thọ trì, nói “Tam thiên học” nghĩa là tam thiên giới đã học (Có bản nói là “Sĩ Thiên Cung”) nói: do người sửa sai lầm. Xét Kinh Phạm Võng thì chữ “Tự” là đúng, lược nêu một hóa pháp, cho nên nói Tam thiên thời ngồi nghe, là nêu châu Thiệm-bộ ở phía Nam, cũng có giới bản không có đoạn này, nên văn không đầy đủ. Trước khuyên vâng theo, sau khuyên hành trì. Bấy giờ là lưu thông của một phẩm.
- Kết thuyết tâm địa-Tổng kết mười chỗ.
- Nói pháp được nói
- Đại chúng vâng giữ
Bốn câu văn chia làm hai: Câu đầu chia làm hai:
Văn đầu nói
Đức Thích-ca cõi này đã nói xong
Nêu ngàn trăm ức Đức Thích-ca là thí dụ
“Từ Ma-hê” v.v... trở xuống là Tổng kết mười chỗ
Câu đầu Phật Thích-ca nói mười chỗ. Kế ngàn trăm ức là nói ngàn trăm ức đã nói mười chỗ, lược nêu ba chỗ gom chung thành mười.
- Mười xứ:
1) Ngồi tòa Kim cương nói mười biển Thế giới.
2) Đến cung Đế-thích nói Thập Trụ.
3) Đến trời Diệm-ma nói Thập hạnh.
4) Đến trời Đâu-suất nói Thập Hồi Hướng.
5) Đến trời Hóa Lạc nói Thập Định
6) Đến trời Tha Hóa nói Thập Địa
7) Đến trời Sơ Thiền nói Thập Kim cương.
8) Đến trời Nhị Thiền nói Thập Nhẫn
9) Đến trời Tam Thiền nói Thập Nguyện
10) Đến trời Tứ Thiền nói Phẩm Bổn Nguyên Liên Hoa Tàng Thế Giới Tâm Địa Pháp Môn.
Tất cả là nói về pháp đã nói, có hai:
1. Nêu riêng năm tạng.
2. “Như như” v.v... trở xuống là tổng kết.
Câu tất cả Phật Tâm Tạng: giới pháp tức là ba thứ Tâm, Phật, Chúng sinh không khác nhau, gọi là tâm Phật. Tâm Phật thu nhiếp khắp cả đầy đủ như tâm thật tướng của Kinh Pháp Hoa đủ trăm giới ngàn như nên gọi là Tâm tạng. Tâm dụ như đất, có công năng chuyên chở muôn vật nên nói là Địa Tạng. Tâm này tức là giới, giới co` đủ Định tuệ chứa đựng ba đức gọi là giới Tăng. Y theo bốn hoằng, mười nguyện của Bồ-đề viên mãn đối với giới khinh và trọng. Mỗi mỗi tu hành nguyện nguyện dung nhau, giới giới nhiếp nhau, tất cả hạnh nguyện đều quy về đó, nên Luận Đại Trí Độ nói: Có thể dùng chút thí của tiểu giới vượt hơn Thinh Văn, Bích-Chi-Phật, nên gọi là vô lượng hạnh nguyện tạng. “Nhân quả v.. v.. là” Phật tánh thường trụ tạng trong nhân, Phật tánh thường trụ tạng trong quả. Đã nói nhân là nhân đối với giới pháp Nhập Thập phát thú, cho đến Đẳng giác gọi là Nhân, Diệu giác là Quả. Hoặc nhân, hoặc quả Phật tánh thường trụ, hạnh nguyện không giảm, gọi là Nhân quả Phật tánh thường trụ tạng vậy. Vì sao duyên lý trì giới
Phật tánh là Tâm, Y báo chánh báo như một, sắc hương Trung đạo pháp giới bất biến gọi là Thường. Tỳ-lô-giáma Biến Nhất Thiết Xứ há chẳng phải là Tàng hay sao? Pháp tánh, Tăng tánh một thể giống nhau đều gọi là Tăng. Vì sao? Về Giác tâm gọi là Phật, lìa nhiễm gọi là Pháp, vô tánh gọi là Tăng. Nên ngài Tịnh Danh nói rằng: “Phật tức là Pháp, pháp tức là Chúng. Nên Kinh Niếtbàn nói: “ Phật tánh giống như hư không, chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Nếu trong ngoài thì làm sao được gọi là Nhất Thiết Xứ có nghĩa chung. Hoặc không được vọng dẫn Luận Đại Trí Độ nói Phật pháp chia ra hai tánh hữu, vô. Lầm đem Kinh Niết-bàn quyền đối Cadiếp trừ vách tường ngói gạch, cho đó là khó, đủ như trong Luận Kim Tỷ có nói.
Kế là trong tổng kết nói: “Như Như” là văn trên tổng kết đều quy về một lý, lý không khác nhau nên nói là Như như., tất cả kết người, có thể nói tức là Đức Thíchca và ngàn trăm ức Thích-ca.
Hỏi: Trên đã kể có năm tạng, khác nhau như thế nào? Đáp: Ba tạng trước thuộc về Tánh đức, hai nhân sau tu được ba nhân. Lý tánh giác trí gọi là Phật tâm tạng, tức là Liễu nhân. Như tánh lửa trong cây, có thể dùng để soi. Lý tánh là thể của chánh nhân pháp thân trùm khắp nhưng bất động, giống như quả đất. Như lửa trong cây tánh nóng tự nhiên. Lý tánh giới tạng từ chỗ dứt hoặc, tức đức Giải tho-át. Đối với duyên nhân quả, tánh nóng trong gỗ làm chín thức ăn “vô lượng đẳng”, là nguyện tức Liễu nhân. Nguyện cho trí phát. Hành tức là duyên trong Nhân duyên của muôn hạnh, dứt hoặc tự tại, Phật tánh thường trụ, thường tức là chánh nhân. Pháp thể trùm khắp. Nên biết dùng tu để rõ tánh, dùng tánh để phát tu. Tu và tánh không hai, như cây phát ra lửa, trong ngoài không khác. Đối với tu và chưa tu không phân ra mà phân ba tánh. Chia mà không chia chung cho cả trước sau. Nên đứng về sáu vị mới tránh khỏi lạm nghi. Tất cả có tánh, đủ lý ba nhân. Hiểu rõ ba, không mê muội danh từ ba nhân. Quán ba không xem bỡ, nhập vào năm phẩm vị. Quán hành ba nhân. Được thanh tịnh sáu căn, vào Thập Tín của Viên giáo, Tương tự ba nhân. Phá hoặc giới ngoại, vào Sơ trụ của Viên giáo cho đến bốn mươi mốt gia vị Đẳng giác. Chia thể thành ba nhân, Diệu Giác Vô Thượng rốt ráo ba nhân. Lý như nên thông Sự khác có, sáu Sơ tâm lý đúng mà vô nghi, rốt ráo Diệu giác mà vô lạm.
4. Ngàn trăm ức v.v. v.. trở xuống là đại chúng vâng hành, có hai:
1. Ngàn trăm ức thế giới cơ duyên thọ hành.
2. Nếu rộng, v.v... trở xuống là chỉ rộng.
-----------------------------------------
Sa-môn Minh Khoáng thuộc tông Thiên Thai, người ở Địa Châu, huyện Chương An, huyện Lân, trong năm cánh ở Thiên Thai sư nối gót ở Tam Châu. Có lẽ đã quen biết nhau từ đời trước, nên nay vui mừng được gặp lại nhau.
Tuổi nhỏ, Sư học đạo ở Đông Nam, năm 20 tuổi trụ ở Diệm Ấp. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư trở về chùa Quốc Thanh, phía Bắc Hải Quan.
Sư theo học với ngài Kinh Khê Trạm Nhiên, trải qua 10 năm, được chỉ bày đường về cố viên.
Người ở nơi hoang vu, chỉ có kinh luật giới pháp để đền đáp ân địa, nên sư soạn Bộ Sớ giải kinh Phạm Võng Bồ-tát giới này, được người đương thời tìm xét những chỗ còn thiếu xót của Bộ Sớ, đồng chỗ thấy nghe giúp hoàn thành Bộ Sớ này.
Nguyện cầu mắt đạo của Đại Sư soi sáng lòng son, gặp Phật nghe kinh để làm gậy nương gá.
Ngày mồng một tháng 2 niên hiện Đại Lịch, năm thứ 12, tại chùa Tam Chương huyện Hoàng Nghiêm, ở Thai châu có ghi chép việc này.
Lược thích nghĩa 10 như:
“Tướng” y cứ bên ngoài. “Tánh” y cứ bên trong, chủ chất là “Thể”, công năng là “Lực”, tạo tác là “Tác”, tập nhân là “Nhân”, giúp nhân là “Duyên”. Học quả thành “Quả”, báo quả là “Báo”. Sơ tướng là gốc, hậu báo là “Ngạn”, Sơ hậu đều còn là rốt ráo v.v... Phẩm “Thiên Quang Vương” là lấy tên vị Bồ-tát đặt tên phẩm.
Hỏi: Tựa kể ra có mười nơi, nhiều chỗ như thế là sao?
Đáp: Ban đầu trình bày chung về đài sen và cánh sen cũng nêu ra mười chỗ như vậy.
Kế đến từ “Bấy giờ, v.v...” trở xuống cũng như thế. Sinh có 8 tướng, 10 chỗ, nhập cung trời tức lên Đâusuất. Mười chỗ đã nói tức xoay bánh xe pháp. Nhập thai, trụ thai, xuất thai, trở xuống đều xếp vào “sinh”. Còn xuất gia, thành đạo là tướng thứ 7 mà thôi. Ở đây lược bỏ phần Niết-bàn.
“Nay ta hạ sinh v.v..., cho đến thanh tịnh” lược nêu mười nơi sinh khác, chính thức nói nơi giáo hóa đời này, nên biết từng phen thị hiện thành Chánh giác, đều phải trải qua 10 nơi xếp vào các chỗ Phật có duyên. Đến chỗ Đức Phật Lô xá na thọ tạng Bồ-tát, và nói phẩm Tâm địa cho Bồ-tát Địa Thượng, cho đến Niết-bàn mới gọi là trở lại. Chỉnh đốn ban đầu nên lược bỏ bốn vị.
Hỏi: Chỗ kết hội Hoa Nghiêm nầy không bình đẳng hay sao? Đáp: Kinh độ không hết, nên có rộng lược khác nhau. Văn xuôi nói 5 chỗ: trời Hóa Lạc, Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. “Kinh Hoa Nghiêm” nói “không rời bản tòa” còn kinh này nói:
“Khởi thuyết Thánh hóa khó lường”, tùy cơ thấy mà trình bày, v.v...