TẠNG LUẬN
SỐ 1813 - SỚ GIẢI GIỚI BẢN BỒ TÁT TRONG KINH PHẠM VÕNG
Sa-môn Pháp Tạng ở chùa Ngụy Quốc tây soạn
IV. NÓI LÊN CÁC CĂN CƠ ĐƯỢC BAO TRÙM:
VII. GIỚI KHEN MÌNH CHÊ NGƯỜI.
VIII. GIỚI TIẾC LẪN MÀ CÒN HỦY NHỤC
4. GIỚI ĂN NĂM THỨ RAU CAY NỒNG.
8. GIỚI BỎ CHÁNH HƯỚNG THEO TÀ
9. GIỚI KHÔNG CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH KHỔ
10. GIỚI CHỨA DỤNG CỤ SÁT SANH
11. GIỚI THÔNG TIN CHO NƯỚC MÀ VÀO QUÂN TRẬN
12. GIỚI MUA BÁN TỔN THƯƠNG LÒNG TỪ
13. GIỚI VÔ CĂN CỨ VU BÁNG NGƯỜI
14. GIỚI PHÓNG HỎA THIÊU ĐỐT TỔN HẠI
17. GIỚI CẬY THẾ LỰC CỦA QUAN ĐỂ XIN
18. GIỚI KHÔNG HIỂU BIẾT GÌ MÀ LÀM
19. GIỚI DẤU TRANH KHINH KHI NGƯỜI
21. GIỚI THÙ OÁN KHÔNG CÓ TÂM TỪ
26. GIỚI TIẾP ĐÃI KHÁCH TĂNG TRÁI NGHI THỨC
30. GIỚI TRÁI GIỚI CẤM, LÀM VIỆC PHI PHÁP
35. GIỚI KHÔNG PHÁT ĐẠI NGUYỆN
36. GIỚI KHÔNG KHỞI MƯỜI NGUYỆN
38. GIỚI CHÚNG NGỒI TRÁI OAI NGHI
39. GIỚI NÊN GIẢNG HAY KHÔNG NÊN GIẢNG
41. GIỚI KHÔNG CÓ ĐỨC MÀ GIẢ LÀM
42. GIỚI NÓI GIỚI CHẲNG ĐÚNG CHỖ
45. GIỚI KHÔNG GIÁO HÓA CHÚNG SANH
47. GIỚI LẬP CHẾ KHÔNG ĐÚNG PHÁP:
Pháp thân vốn rỗng ứng, thấu suốt bờ giác bằng chân hình, trí mầu ngầm thông vô biên cùng cực, mà chiếu soi ảnh tượng, sáng tỏ lý thật. Ngay nơi sự có lý, vượt ngoài sự thấy nghe, phương tiện thầm hiểu sự, ngay nơi lý mà có sự. Khác xa lưới thỏ, nơm ca, Nên được Liên Hoa Tạng giới treo cao nhật nguyệt chiếu soi. Cội Bồ-đề mở cửa cam lộ để cứu giúp chúng sinh. Ngàn hoa ngàn trăm ức Lô-Xá-Na là “bản” thân. Mười giới trọng 48 giới khinh Đức Thích-ca văn là “Mạt” hóa, nói pháp khai mở tâm địa chứng đầu sợi lông. Ánh sáng không thể suy nghĩ bàn luận nêu Hoá thân ở đảnh cõi sắc. Ở đó có 42 vị Đại sĩ đồng tu, tám muôn oai nghi, Thánh hiền cùng đến. Huống gì Hằng sa giới phẩm nhưng chỉ gom vào trong 3 nhóm giới, vô số nghiêm khoa bao gồm 6 vị, như mành lưới của Đại Phạm Thiên Vương đồng mà bất đồng, như biển Tát-Bà-nhã khác mà chẳng khác. Ví như mưa báu rơi ngọc ma-ni xuống thấm ướt trăm họ, như chuỗi anh lạc trang sức thân Diệu Giác.
Thế nên năm quả vị Bồ Tát đều nhờ vào “nhân viên” này, ba đời Như-lai đều do giới nầy mà “quả mãn” là con đường thẳng của đạo tràng, là khuôn phép tốt của hạt giống giác ngộ. Lành thay! Khó nói hết được. “Phạm” là đứng về đương thể, lìa nhiễm đặt tên. “Lưới” dụ cho chói sáng rực rỡ, theo công năng mà lập hiệu. “Kinh” là xâu lại, khâu lại. Thể và Dụng đồng hiểu rõ. “Lô-Xá-Na” “quả viên” chiếu khắp, “thuyết” là y cứ vào các căn cơ mà giảng nói. Bồ-tát thì nêu “nhân”, khác “quả”, rõ ràng giúp cho người có thể hành trí. Mười loại giản pháp dị nhân, hiển rõ pháp được hành trì. Mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh ngăn dứt việc ác, nên gọi là Giới. Không có hai quyển nên gọi là một, gọi “Phạm Võng Kinh Lô Xá Na Phật Thuyết, Bồ-tát thập Trọng Tứ Thập Bát Kinh Giới một quyển.
Giải thích sơ lược Kinh này thành 10 môn:
1. Nguyện sở nhân khởi giáo.
2. Thuộc về tạng nào.
3. Giới hạn nhiếp giáo
4. Các căn cơ được bao trùm 5. Giáo thể năng thuyên
6. Tông thú sở thuyên.
7. Giải thích đề mục kinh
8. Giáo khởi gốc ngọn
9. Bộ loại truyền dịch 10 Tùy văn giải thích.
Vì sao phân biệt giới Bồ-tát này?
Giới Bồ-tát này được phân biệt bằng 10 nguyên nhân được kể sơ lược sau đây:
1. Pháp nên như thế.
2. Chỉ bày bản hạnh
3. Nhiếp đại cơ
4. Trao pháp mạng
5. Thắng pháp bao trùm
6. Khiến thành hạnh
7. Được các vị
8. Diệt chướng nặng
9. Hiển chân tánh 10. Đắc thắng quả.
1. ”Pháp nên như thế”: Bồ Tát lấy ba nhóm tịnh giới làm đạo tràng, con đường thẳng đến giác ngộ là viên nhân. Cho nên tất cả Chư Phật ra đời làm lợi lạc chúng sinh đều y theo cổ pháp. Pháp nhĩ, ban đầu Phật kết Bồtát Ba-la-đề-mộc-xoa là điều quan trọng của Tông này. Như con đường của Đại vương pháp nhĩ là quy tắc thường nên phải nói.
Cho nên v.v... trở xuống là nói: “Đều ngồi dưới cội Bồ-đề mà tụng giới của Bản sư” Lại nói: “là Phật Lô-xána tụng, nay ta cũng tụng như thế”.
Giải thích: “Đã là giới của Phật Bản sư”.
Chỉ nói “Tụng” mà không nói “Thuyết”. Nghĩa là nói pháp này chẳng phải mới chế. Lại nói Chư Phật ba đời đã nói, đang nói, sẽ nói. “Nên biết là đồng nói”.
2. Bày bản hạnh, Ngày xưa, Chư Phật ba đời đồng tu hành giới này mà thành Tối Chánh giác. Cho nên trước khi thành đạo thì Phật đã chỉ bày điều quan trọng này khiến các Bồ-tát tu học.
Văn sau nói: “Tất cả bản nguyên của Chư Phật là hành đạo Bồ-tát”. Lại nói: “Tất cả các Bồ-tát đã học, đang học và sẽ học”.
Giải thích: “Nếu không có giới pháp này thì không có Bồ tát nào được thành Phật đạo.
3. Nhiếp đại cơ: Như lai ra đời, nếu không hiểu rõ Tỳ-ni Bồ-tát này, thì các chúng sinh mới phát tâm Bồđề, làm sao biết được điều nào phải làm, điều nào không nên làm, rồi đưa đến chỗ không nơi nương tựa, cho nên phải chế ra học xứ Bồ tát, giúp họ biết tiến tu. “Luận Đại Trí Độ” quyển 13 chép: “ Ví như không có chân mà muốn đi, không có cánh mà muốn bay, không có thuyền mà muốn qua sông, là không thể được. Nếu không giữ giới mà muốn cầu quả tốt thì cũng giống như thế. Nếu người bỏ giới này, thì dù ở trong núi tu khổ hạnh, ăn trái cây, uống nước muối, cũng không khác gì loài cầm thú.
4. Trao pháp mạng: Nghĩa là các chúng sinh không có giới này, thì pháp mạng không lập, có khác gì loài phi tình và súc sinh. “Kinh Anh Lạc” quyển hạ chép: “Nầy các Phật tử, nếu quá khứ, hiện tại, vị lai tất cả chúng sinh không thọ giới Bồ-tát thì không gọi là hữu tình thức giả, đâu khác gì loài súc sinh. Không gọi là người, thường lìa biển Tam bảo, chẳng phải là Bồ-tát, chẳng phải nam, chẳng phải nữ, v.v...
5. Lợi ích cao quý: Nghĩa là đem giới Bồ-tát trên hết này để thấm nhuận chúng sinh, giúp họ thành Chánh giác.
“Kinh Anh Lạc” nói: “Lại nữa, nếu Pháp sư nào ở trong cõi nước giáo hoá được một người xuất gia thọ giới Bồ-tát, thì bằng với phước đã xây tám muôn bốn ngàn ngôi tháp. Huống gì giáo hóa được hai người, ba người cho đến trăm ngàn người thì quả là phước đó không thể nào lường được.
6. Thành các hạnh. Nghĩa là tất cả Bồ-tát đại hạnh vô biên, đều lấy Đại giới làm căn bản.
“Luận Đại Trí Độ” quyển 13 chép: “Ví như quả đất, tất cả muôn vật loại hữu hình đều bám trên đất mà sống, giới cũng như thế, là trụ xứ của tất cả pháp lành.
“Kinh Hoa Nghiêm” chép: “Ví như muốn xây cung thất, trước phải đắp nền cho vững chắc, giữ giới cũng như thế”
603-Gốc các Chúng Hạnh của Bồ-tát: “Kinh này... nói tất cả Bồ-tát đã học, đang học, sẽ học.
7. Thành tựu các giai vị: Nghĩa là Bồ-tát do đầy đủ giới, tín, hạnh được thành, nên mới được vào các giai vị Thập trụ. “Kinh Anh Lạc” nói: “Mới phát tâm xuất gia muốn nối giai vị Bồ-tát thì trước phải thọ đúng giới pháp, giới là tất cả hạnh công đức tạng căn bản, chánh hướng về con đường quả Phật.
Hỏi: Vị dùng trí mà thành, vì sao phải nói giới?
Đáp: Giới đủ ba nhóm. Trong giới Nhiếp thiện pháp có đủ Đại trí, lý cũng không trái phạm. Văn sau đây có mười Phát thú, mười Trưởng dưỡng v.v... đều do giới nầy mà thành.
Hỏi: Vì sao biết được giới Bồ-tát này phần nhiều là giới mà Bồ-tát Trụ Tiền hành trì?
Đáp: “Kinh Anh Lạc” quyển hạ chép: “Ta nay ở dưới cội cây này nói cho mười bốn ức Bồ tát Thập Tín mới thọ giới pháp. Phật tử là Bồ-tát Thập Tín trong mười ngàn kiếp tu hành mười giới pháp sẽ vào Thập trụ tâm. Đây chính là ý nghĩa đó.
8. Trừ diệt chướng nặng: Trọng chướng nặng có hai: Đó là Hoặc và Nghiệp, nay đã ngăn ngừa đầy đủ, ba nghiệp. Trong Luật Nghi giới, việc ác đều dừng, hạt giống hoặc nghiệp được trừ diệt. Nên “Kinh Anh Lạc” quyển hạ chép: “Thọ mười giới vô tận rồi, người thọ giới đã qua được bốn ma, vượt khỏi ba cõi. Từ đời này đến đời sau không mất giới này, giới nầy thường theo người tu hành cho đến khi thành Phật.
9. Hiển bày chân tánh nghĩa là do đủ tịnh giới Bồ-tát này, khiến cho nghiệp chướng tiêu diệt, tu thành tánh lìa rốt ráo. Dưới đây nói: “Phật tánh thường trụ, giới pháp lưu thông.
10. Được quả cao siêu: nghĩa là nhân vị rốt ráo của tịnh giới này chắc chắn phải được thắng quả Như lai viên minh. “Kinh Hoa Nghiêm” chép: “Giới là căn bản của vô thượng Bồ-đề, nên phải giữ tịnh giới đầy đủ. Kinh này nói tiếp: “chúng Bồ-tát nhiều như cát bụi do giới này mà thành Chánh giác. Đây là ý nghĩa đó.
Tạng có bốn loại
1/ Về hai tạng có hai: Đại thừa và Tiểu thừa đều có Bồ-tát và Thanh văn tạng. Trong bốn tạng này, Bồ-tát Tạng xếp vào Đại Thừa, hoặc xếp chung với Thanh văn tạng vào Đại Thừa. Vì trong Đại Thừa Thanh văn được chấp nhận thành Phật. Ở đây giới pháp này cũng thọ trì, cũng xếp chung Bồ-tát trong Tiểu thừa. Dùng ba mươi bốn tâm kia các việc lìa thật giới này càng không có, hoặc cũng chung cho cả Tạng Thanh văn kia. Vì bảy chúng đã trì Biệt giải thoát đều xếp vào luật nghi Bồ-tát.
Cho nên pháp kia cũng ở trong đây.
2. Về ba tạng cũng có hai:
Chỉ có Đại thừa Tỳ-nại-đại chủng-tạng, vì giảng đầy đủ để điều phục hạnh.
a) Hoặc chung cho hai tạng khác. Vì giới gồm đủ ba nhóm luôn cả ba việc học. Thành nhân Ngũ vị đủ các tạng khác.
3. Về mười tạng cũng có hai:
a) Chỉ cho giới tạng
b) Hoặc chung các tạng khác.
Vì trong ba nhóm tóm thu các hạnh.
4. Mười hai phần giáo cũng có hai:
1. Thuộc về kinh duyên khởi
2. Cũng chung phần còn lại. Như lý nên biết.
Thánh giáo nhiều như cát bụi, tóm lược thành hai giáo: Hoá giáo và chế giáo. Hai giáo này được chia thành bốn môn:
1) Pháp khác: “Hoá giáo” nghĩa là Như lai ra đời nói pháp nhân, quả, lý, sự cho tất cả chúng sinh. “Chế giáo” là nêu lỗi bày quấy, lập chánh pháp ngăn phi lý, trái phạm thì kết tội, phân tích phạm tội khinh hay trọng đối với năm thiên bảy tụ
2. Cơ khác: Nghĩa là giáo chung cho tất cả chúng, không kể trong hay ngoài Phật giáo. Hoá giáo thì nói chung mọi căn cơ. Còn chế giáo chỉ bí mật dành riêng cho chúng trong Phật Pháp.
3. Ích khác: “Hóa giáo” chỉ giúp hành giả xa lìa tánh ác mà khởi lòng tin Phật pháp. Còn “Chế giáo” khiến rời cả Tánh giới và già giới để giữ gìn oai nghi khuôn phép, không bị người đời chê bai. Để chúng sinh tin được ánh sáng hiển bày của chánh pháp, tự mình phải tu hành để giáo hóa người.
4. Chủ khác: Có năm hạng người được làm việc “Hóa giáo” như:
1) Phật
2) Bồ-tát
3) Đệ Tử
4) Thần tiên.
5) Người Biến Hoá.
Còn “Chế giáo” chỉ có Phật mới được nói, vì không ai ngoài Phật được chế giới khinh trọng. Do bốn dị nói trên mà hai giáo (hóa giáo và chế giáo) trở thành khác nhau. thuộc về chế giáo trong hai giáo này, nhưng chế giáo chung cho Đại Tiểu, vẫn thuộc về Đại.
Có bốn loại: có 4 loại
1. Y cứ vào tánh
2. Y cứ vào Về già nạn
3. Y cứ vào phát tâm
4. Y cứ vào gia vị hiện tại. Về thiện tai vị
1. Trong y cứ vào tánh có 2:
a) Về Quyền giáo: Trong năm tánh thì nhị thừa Định tánh và Vô chủng tánh không được làm, vì hai hạng này chẳng phải pháp khí. Chủng tánh Bồ-tát được làm. Bất định tánh cũng được xếp vào như các thuyết của Du-già v.v...
Về Thật Giáo: năm tánh đều được làm việc này, vì Phật tánh tất cả đều có. Dùng thân định nầy để vào vắng lặng, nên gọi là Định tánh nhị thừa. Chẳng phải nói cuối cùng mà không thú hướng Đại Bồ-đề, như các thuyết của Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng-già, Luận Bảo Tánh v.v... Lại vì chê bai người Đại thừa là Nhất-Xiển-Đế vì y theo vô lượng thời nên nói vô tánh. Chẳng phải nói rốt ráo vô thanh tịnh tánh như luận Bảo Tánh và luận Phật tánh nói. Lại theo luận Phật tánh tự đoán nói không Phật tánh vì chẳng rõ được giáo khác như đã nói ở trước. Cho nên tất cả chúng sinh đều làm được.
2. Về già nạn: cũng có hai:
a) Tuy muốn phát tâm, nhưng có bảy già nạn hiện thân chẳng phải là pháp khí.
b) Thâm tâm cần phải sám hối dứt trừ già nạn, tướng tốt tương ưng phát tâm thuần thục mới có khả năng làm pháp khí.
3. Về phát tâm, cũng có hai:
a) Tuy trong tâm có chủng tánh nhưng chưa thể phát Đại Bồ-đề tâm hiện tại, cũng chưa có khả năng làm pháp khí giới Bồ-tát.
b) Phải phát tâm thẳng đến chánh hạnh không có các lỗi tà cấu danh lợi mới có khả năng làm pháp khí của giới Bồ-tát.
4. Về giai vị Hiện tại, cũng có hai vị:
a) Chung
b) Thỉ.
“Chung” là từ “Tam Hiền” trở lên, Pháp Vân trở xuống, là giai vị cuối cùng của Bồ-tát. Tuy cũng thọ trì tịnh giới Bồ-tát, nhưng đã thọ nhiều đời thì chẳng gọi là mới được, vì tánh giới đầy đủ, chẳng phải là việc chánh.
“Thỉ” là từ Sơ phát ý Thập Tín trở xuống. Ở giới phẩm này có thọ, có tùy, có trì, có phạm, cho nên là việc chánh. Vì theo “Kinh Bản Nghiệp” thì Thập Tín sơ phát tâm thọ mười giới này. Nhập vào vị đó chỉ có việc tu thêm là khác thôi.
Lược có mười môn,
1. Môn Năng thuyên: Nghĩa là chỉ lấy tên câu văn làm thể. Dùng năng thuyên để tiêu biểu cho sở thuyên.
Môn Quy thật: Nghĩa là chỉ dùng âm thanh làm thể. Vì danh theo thanh giả lập chứ chẳng có tự thể riêng. Kinh nói rằng: “Dùng âm thanh làm Phật sự”.
2. Cụ nhĩ môn: Nghĩa là âm thanh và danh, phải đủ hai thứ này mới thành thuyên, biểu không lìa nhau. “Luận Thập Địa” chép: “Nói là lấy hai việc này để nói, nghe là lấy hai việc này để nghe”.
3. Câu phi môn: Nghĩa là thanh và danh đều không mất. Nói tức không nói, không nói tức là nói, thuộc về vô ký tánh. Kinh nói: “Như lai thường trụ không nói một chữ”. Bốn môn trên, ba môn chung cho Tiểu thừa. Đủ cả bốn môn là Đại thừa, thế nên đều hợp thành một việc, đều lìa cả có, không nên biết.
4. Môn Biến thông: Hương thơm, ánh sáng, tất cả các pháp đều là giáo thể. Đều giải thích lý lợi ích chúng sinh. Trong kinh nói dùng hương thơm, ánh sáng làm Phật sự.
5. Môn Thuyên chỉ: Nghĩa là năng thuyên, sở thuyên hợp lại thành tánh, vì nó không thể lìa nhau.
“Khế Kinh” chép: “Thể tánh lược có hai thứ”: Văn và Nghĩa. Văn là năng y, nghĩa là sở y.
(604) 7. Môn Duy tâm: Nghĩa là năng thuyên, sở thuyên như danh... thanh... đều do tâm thức nói, nghe. Lại làm duyên lẫn nhau. Mà hiển hiện, nếu rời tâm thức này thì chẳng có tánh nào khác.
Kinh nói: “Ta nói thức duyên, Duy thức hiện”
8. Môn Quy chân: Nghĩa là danh..., thức... tất cả đều là chân như. Vì các tướng luống dối vốn tự nó chấm dứt. Tánh chân như thật thể tự hiển bày. Kinh nói: “tất cả pháp tức như, v.v...
9. Môn Vô ngại: Nghĩa là tướng của chân, tướng không ngại tồn tại, tức ngôn của vô ngôn đồng pháp giới, tức chân của tướng chân đều không hiển bày. Tức nói vô ngôn mà không lời nào chưa từng nói. Đã nói vô ngôn thì chẳng phải hai. Từ thuyết vô thuyết đều tồn tại, không ngăn ngại, thong dong cho là giáo thể.
Có hai ý Trước hết giải thích Tông, sau hiển bày thú. Hỏi: Tông và Thú khác nhau chỗ nào?
Đáp: Chỗ biểu thị cho lời nói gọi là Tông, chỗ trở về của Tông gọi là Thú.
Giải thích chữ Tông là ngay lời nói được tôn trọng. Thú tức là nêu ý nghĩa của nó. “Tông” cũng có hai nghĩa: Chung và riêng.
“Chung” là lấy ba nhóm tịnh giới của Bồ-tát làm Tông, lấy chánh văn để giải thích rõ chỗ tôn sùng để thực hành. Trong “Riêng” có năm nghĩa:
1. Thọ tùy
2. Chỉ tác
3. Lý sự
4. Tạo tu
5. Duyên thu
1. Phát khởi thệ nguyện lớn phải nhờ ba nhóm tịnh giới, lập chí thành tựu, nạp pháp ở trong tâm, nên gọi là “Thọ” Thọ khởi ở trước, trì tâm, sau khởi, thuận với sở thọ gốc, khiến cho giới sáng sạch, nên gọi là “Tùy”. Lại “Thọ” là phát chứng chung muôn hạnh từ đời sống. “Tùy” là riêng tu thuận thành bản thệ. Phải đủ hai thứ Tùy và Thọ mới thành chánh hạnh nên gọi là Tông.
2. Chỉ tác là chớ làm các việc ác lỗi nhỏ không lợi ích. Tu muôn điều lành các đức viên tu. Phải đầy đủ hai hạnh thành tựu sáng sạch nên gọi là Tông
3. Lý Sự: Nghĩa là Sự đề phòng ba nghiệp, tức dứt ác hành thiện. Dùng lý chế ngự tâm, khiến hoặc diệt, trí lập. “Luận Trí Độ” chép: “Bồ-tát cũng trì lý tánh giới. Còn trước lìa nghiệp chướng khiến phước tròn đầy, sau trừ diệt hoặc chướng thành mắt trí tuệ. Đây tức lìa hai chướng thành hai nghiêm mới là rốt ráo, nên cho là Tông.
4. Tạo tu, có bốn:
- Pháp
- Thọ
- Tướng
- Hành
1. Được thọ giới pháp.
2. Chánh thọ tương ưng
3. Biện giới tướng 4. Đối duyên trì phạm.
Tuy giải thích rõ nhiều thứ nhưng gồm nhiếp chỉ có bốn môn, nên gọi là Tông.
5. Tổng thu: Nghĩa là chư Bồ Tát Ba La mật hạnh đều đầy đủ ba nhóm. Nghĩa là nhập ba nhóm tâm, tu ba hạnh, thành ba hồi hướng. muôn hạnh Bồ-tát không gì hơn những việc này, nên lấy đó làm Tông. “Thú” là ý là trí. Nghĩa là trì ba giới này tăng trưởng ba việc học, thành tựu giai vị Tam hiền Thập thánh. Cuối cùng khiến được ba đức, ba thân, quả Phật vô ngại, là nghĩa của Thú.
1. Luật nghi: lìa lỗi hiển bày pháp thân Đoạn đức.
2. Nhiếp thiện: tu muôn hạnh lành để thành báo thân Trí đức.
3. Nhiếp chúng sinh giới thành tựu Ân đức hóa thân. Tông thú đã xong.
có hai:
1. Phân tích một bộ đều là danh.
2. Giải thích mục khác của đương phẩm. Trong phần một có hai:
1) Phạm võng là nghĩa sỡ thuyên, kinh là giáo năng thuyên. “Phạm”: An-độ âm gọi đúng là “Phạm-lâm-ma”, phiên dịch tỉnh lược nên chỉ còn một chữ Phạm, Hán dịch là cực tịnh, vì rất trong tịnh, nên y cứ theo văn trên dưới có bốn loại:
1. Đứng về dụng hành lễ: “Phạm” nghĩa đương thể là mắt lìa nhiễm. Võng nghĩa là dụ cho công năng cao siêu. Trong đây, Phạm có một nghĩa. Nghĩa là nói năm vị hạnh thể bình đẳng tròn sạch trong sáng. Võng có hai nghĩa:
1) Nghĩa khác nhau.
2) Nghĩa Gạn lọc
Câu đầu dụ cho năm vị khác nhau như Tín. Câu sau dụ cho năm vị gạn lọc chúng sinh từ nhân đến quả, rốt ráo giải thoát. “Phạm” có ba nghĩa là Thể, Tướng, Dụng.
Trong “Võng” có sự sai biệt là Tướng. Đây là y thể khởi dụng. Vì “Phạm” thành “Võng”, cho nên gọi “Phạm võng” là thuộc về giải thích là trì nghiệp. Lại cũng là nêu cả pháp lẫn dụ làm tên.
2. Đứng về nghĩa: Đây là nêu mành lưới của Phạm vương, dụ cho nghĩa sở thuyên. Đều từ dụ gọi nên nói là Phạm Võng. Vì sao? Kinh quyển thượng chép: “Khi nhìn thấy mành lưới của trời Đại phạm, nhân đó Phật nói vô lượng thế giới giống như các lỗ lưới, nhiều vô lượng khác nhau. Giáo môn của Phật cũng giống như thế.
Giải rằng: “Vì Phạm vương dâng mành lưới này cúng Phật để nghe pháp. Phật nhìn thấy các lỗ lưới kết ngọc khác nhau, ảnh hiện lẫn nhau, tầng tầng lớp lớp, Phật liền lấy đó dụ cho chúng sinh mê ngộ tự tánh mà tạo nghiệp thiện ác, khổ vui lên xuống, y báo chánh báo đan xen lẫn nhau nhưng có phạm vi riêng biệt khác nhau, nên Phật nói rằng: “Thế giới giống như các lỗ lưới, nên gọi là Phạm Võng. Dựa theo đó giải thích là của cải, đó là Dụ.
Hỏi: Lưới Phạm ở đây và lưới Nhân-đà-la trong Kinh Hoa Nghiêm khác nhau thế nào?
Đáp: Kia là lưới Đế-thích võng, ở đây là lưới Phạm vương. Phạm ở tại điện, lưới nầy ở trên cột, ý nghĩa Dụ cũng khác. Lưới Đế-thích dùng ngọc báu kết thành, các lỗ lưới ảnh hiện lẫn nhau, nói nhiều tầng lớp vô tận, khác với lưới Phạm vương dùng các lỗ lưới có nghĩa khác nhau.
3. Đứng về giáo: Phạm giải thích giáo là tịnh, Võng nói lên giáo có công năng, nên Kinh Hoa Nghiêm chép: “Mở rộng lưới bủa xuống biển sinh tử, cứu vớt trời, người đặt lên bờ Niết bàn. Đó là ý nghĩa này. Cũng như Phật đã nói giáo môn nhiều như các lỗ lưới”.
4. Đứng về giới: “Phạm” có hai nghĩa:
a) Về vị: Tại gia trì không gọi là Phạm hạnh.
b) Về thật: Thanh văn tiểu giới không ngại ý ác không phá các kiến. Không gọi là thật Phạm. Các Bồ-tát trì ba nhóm giới, đầy đủ ngăn ngừa ba nghiệp phá kiến, nhập lý, mới gọi là thật Phạm. Ở đây như phẩm Phạm Hạnh, trong Kinh Hoa Nghiêm chép: Lưới có ba nghĩa:
1) Dụ cho giới tướng Bồ-tát như cát bụi nhỏ nhiệm khác nhau, xem lẫn nổi chìm quanh co khó biết như lỗ lưới.
2) Dụ như công năng của luật nghi giới ngăn trở hữu tình làm ác như màng lưới.
3) Dụ cho giới Nhiếp thiện pháp, cứu với chúng sinh lặn hụp trong hai thứ sinh tử, gạn lọc mình và người đều ra khỏi, cho nên trong đây giải thích Võng trì nghiệp thích vừa Phạm vừa.
Hỏi: Vì sao không chỉ có cách giải thích này mà còn chung ba thứ trên?
Đáp: Đây là một bộ tên chung, chẳng phải chỉ nói giới không, nên phải phân biệt chung.
“Kinh” là xâu kết lời Phật nói lại, nhiếp giữ nghĩa nên nói và chúng sinh được giáo hóa nên nói là Kinh.
2. Trong tên riêng có ba nghĩa: a) Phật Lô-xá-na là nêu vị giáo chủ. Nói phẩm Tâm Địa Pháp Môn là một phẩm tên chung. Bồ-tát Giới Bản là trong phẩm mục khác. Trong Kinh tiếng Phạm gọi là Tỳ-lô-giá-na. Hán dịch là Quang Minh Biến Chiếu, nhưng có hai nghĩa:
1) Bên trong dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp pháp giới. Đây là đứng về nghĩa tự thọ dụng.
2) Bên ngoài dùng ánh sáng trí tuệ chiếu ứng đại cơ. Đây là đứng về nghĩa tha thọ dụng. Vì sao ở đầu kinh nêu tên gọi này, là phân biệt khác với kinh do hóa thân Đức Thích-ca nói. Còn Phạm Võng trở xuống nêu tên này là các (605) phẩm khác. Trong Đại Bản Kinh Phạm Võng chỉ có phẩm này là do Phật Lô-xá-na nói. Phẩm khác là Đức Thích-ca nói. “Thuyết” là viên âm ứng cơ diễn bày lý mầu này nên nói là Thuyết. Bồ-tát như thường đã giải thích. “Tâm” là 50 tâm như Tín, v.v... mà Bồ-tát nầy khởi lên. “Địa” tức là, các vị như Tín, v.v... gọi chung là “Địa”. Trong “Luận Thập Địa”, Địa tiền được gọi chung là Tín hạnh địa, nên câu hữu sinh thành gọi chung là Địa, đều là khuôn phép tốt, gọi là pháp. Thông trí đi dạo sâu là “môn”. Khác loại gọi là phẩm. Nay ở trong phẩm giải thích riêng như giới phẩm Bồ-tát nầy, cho nên nêu riêng. Nghĩa ngăn quấy dứt ác là “giới”. Sơ lược khác với đầy đủ gọi là “bản”.
Có hai nghĩa: Trước nói giới này, sau hiển bày loại khác.
1) Chỗ đến của giới này: Đây là giới bản của Chư Phật trong pháp giới ba đời chứ chẳng phải mới chế. Xánặng Bồ-tát tu hành giới này vị mãn thành Phật. Trên thế giới Liên Hoa Đài Tạng, vì muốn lợi lạc chúng sinh, nên tụng ra truyền trao hóa thân, khiến cho mọi người ở cõi Diêm-Phù-Đề vì chúng sinh phương tiện tụng ra, nên có được giới bản này. Tương truyền bản của ngài La-thập Tây Vực có 6 muôn bài tụng 61 phẩm, phiên dịch đầy đủ thành ba trăm quyển, chưa truyền đến cõi này nên không đầy đủ.
2) Loại giới khác: Như trong “Lương triều Nhiếp Luận giới học” có dẫn Kinh Tỳ-Nại-Da-Cù-Sát na-TỳPhật-Lược chép: “Bồ-tát giới có mười muôn thứ khác nhau, Như Đại bản này chưa truyền bá ở khu vực này. Tương truyền, Tam tạng Chân Đế chở Tạng luật Bồ-tát đến Trung Hoa. Trên đường đi Nam Hải, thuyền sắp chìm, người trên thuyền vứt bớt các đồ vật khác xuống vẫn không chạy nổi, cuối cùng phải ném bộ luật xuống biển thuyền mới chạy tới được. Ngài Chân Đế than rằng: “Giới luật Bồ-tát không có duyên với đất Hán, thật đáng buồn”. Tương truyền ở châu Tây Lương có Sa-môn Pháp Tấn đến cầu Tam tạng Đàm-Vô-Sấm thọ giới Bồ-tát và thỉnh Ngài dịch giới bản. Sấm nói: “Tánh tình người nước này phần nhiều xảo trá, lại không có khuôn phép, đâu có khả năng làm đạo khí Bồ-tát, bèn không cho thọ. Tấn thỉnh mãi không được, bèn ở trước tượng Phật lập lời thệ nguyện tha thiết cầu giới. Vừa được bảy ngày, Đạo Tấn nằm mộng thấy đức Di-lặc đích thân trao giới luôn cả quyển giới bản, sau khi tụng xong thì tỉnh giấc, Đạo Tấn đến gặp Đàm-Vô-Sấm. Sấm nhìn thấy Đạo Tấn có tướng khác lị, nên thốt lời khen rằng: “Đất Hán cũng có người”. Rồi ngài liền dịch một quyển giới bản, văn nghĩa giống như trong giấc mộng của Đạo Tấn. Nay bài kệ quy mạng được đặt ở đầu quyển giới bản Địa Trì đó. Lại nghe các chùa Tiểu thừa ở An-độ tôn ngài Tân-ĐầuLô làm Thượng tọa, các chùa Đại Thừa tôn ngài Vănthù-sư-lợi làm Thượng tọa. Khiến chúng đồng trì giới Bồ-tát, Yết-ma thuyết giới đều làm pháp sự Bồ-tát. Luật tạng thường tụng không dứt. Nhưng năm luật bốn bộ của Thanh văn Trung Hoa lưu hành đã lâu, còn Luật tạng Bồ-tát từ xưa chưa có lưu hành. Đàm-Vô-Sấm nói ở đây đã chứng nghiệm. Đến nỗi xưa nay có người phát tâm thọ giới, nhưng ở về trì phạm còn mịt mờ chưa được nghe. Than thở rất nhiều, không thể được, tâm nhỏ hẹp mong muốn hạnh cao quý này, mỗi khi có điều gì không hiểu chỉ biết hướng về phương Tây nguyện cầu nhưng không toại ý, mà lòng vẫn không thôi. Về sau, tìm kiếm được đầy đủ Tạng kinh, nhặt nhanh được những chỗ còn bỏ sót, ghi chép thành Bồ-tát Tỳ-ni Tạng, 20 quyển. Trong đó nhận thấy Giới bản Bồ-tát từ trước đến nay chưa được các thiền đức giải thích đầy đủ. Nay mạo muội đem sự ngu dốt cùng cực của mình để thuật tán, ngõ hầu cùng các đồng nghiệp biết sơ về trì phạm mà thôi.
Đời Diêu Tần, vua Diêu Hưng, niên hiệu Hoằng Thỉ thứ 3, có Tam tạng pháp sư Cưu-ma-la-thập, Hán dịch là Đồng Thọ, người ở Tây Vực, Pháp sư giữ giới Bồ-tát nên thường tụng phẩm Tâm Địa Pháp Môn nầy. Nội dung Phẩm này nói lược về giới tướng Bồ tát. Hầu hết người An-độ giữ giới Bồ-tát đều tụng. Lúc đó, Sa-môn Tuệ Dung, Đạo Tường, v.v... cùng hơn 800 người xin thọ giới Bồ-tát với ngài La-thập. Pháp sư liền ở tại vườn Tiêu Dao (có người nói là chùa Thảo Đường) thuộc Trường An, cùng các học sĩ phiên dịch hơn 50 bộ kinh. Bộ Kinh Phạm Võng là bộ được dịch cuối cùng của ngài La-thập. Trong việc phiên dịch đó có ngài tuệ Dung làm người ghi chép, cũng đồng tụng trì. Và được chép riêng thành quyển hạ nầy. Bài kệ tụng giới tướng là một quyển. Sau này gọi là quyển giới tướng 10 trọng 48 khinh. Quyển đầu riêng nêu các mục đương thời thọ giới yết-ma. Nhưng nói trong phẩm “Yết Ma Xuất Phạm Võng Kinh Luật Tạng”. Phật Lô-xá-na là Diệu Hải Vương trao giới pháp Bồ tát cho Thiên Tử, có khoảng hơn 800 người tụng giới bản này.
Trong văn này chia làm ba phần:
1-Bài kệ, 11 hàng rưỡi là phần nêu nguồn gốc khen ngợi giới. 2-Từ bấy giờ trở xuống là phần đối duyên chánh thuyết.
3-Từ nay tà mạng ở dưới cội Bồ-đề nầy trở xuống, là phần kết thuyết khuyến trì.
GIẢI THÍCH:
Phần giới khởi phải theo. Phần đối duyên chánh nói
Phần kết nói khuyến học
Trong phần 1 chia làm hai nghĩa:
Có năm bài kệ nói về nguồn gốc hiển giới. 6 bài kệ rưỡi là khen giới khuyên trì.
Giải thích năm giới trước chỗ phải theo là tốt đẹp. Giới Sỡ lưu là cao quý.
Còn trước là người truyền giới cao quý. Sau là giới được truyền cao quý. Trong phần trước có bốn:
Tụng nói Lô-xá-na chân thân khởi ngàn hóa Phật
Một bài tụng nói về ngàn hóa Phật đều hóa thành trăm ức Thích-ca.
Một bài tụng nói hóa thân có truyền thông giới nầy.
Hai câu trên nói: Bản nguyên thật thân,
Hai câu dưới là Hiện ngàn Phật
Trong đây Phật Lô-xá-na có ba nghĩa: Có người giải thích rằng:
Lô xá na trên đài hoa ngàn cánh là thân Tự thọ dụng, Phật trên hoa ngàn cánh là thân Tha thọ dụng. Trăm ức Thích-ca là thân biến hóa, giải thích này e không hợp lý, vì Phật trên đài hoa cũng là Thân tùy tha thọ dụng. Nay giải thích, trong Đức Phật này tự Thật thành và Ứng cơ hóa cảnh. Trong các Thánh giáo có năm thuyết:
1. Về các bộ Tiểu Thừa. Trong Đại thiên có trăm ức Diêm phù, chỉ có Đức Thích-ca của Diêm-phù này là Thật báo thành Phật, Châu khác đều là Hóa võng. Vốn không nói về Phật Lô-xá-na.
2. Nếu nói theo các thuyết Đại thừa thì trên cõi trời Ma-hê-thủ-la có một vị Thật báo thành Phật, lấy một Đại thiên thế giới làm cảnh sở duyên, hóa thành trăm ức Thích-ca nhất thời thành Phật.
3. Theo kinh này, thì thế giới Liên Hoa Đài tạng thân thật ngồi trên đài hoa thành Phật gọi là Lô-xá-na, trên ngàn Đức Thích-cao quý trên ngàn cánh hoa thì ngàn Ma-hê-thủ-la trên trời đều có một đức Thích-ca. Ngàn Thích-ca này mỗi vị đều hóa thành trăm ức Đức Thíchca. Có trăm ngàn ức Thích-ca ở ngàn trăm ức nước dưới cây Bồ-đề đồng thời thành Phật. Y theo đây thì khi một thân thật thành Phật lấy thế giới tam thiên làm cảnh hóa chủ, hợp với ngàn trăm ức thân, gàn Phật Thích-ca là Thật báo, Ngàn trăm ức Đức Thích-ca là hóa thân
(606) 4/. Theo Nhiếp Luận, thì thân thọ dụng có hai thứ:
1. Tự Thọ dụng, là thật thân thành Phật gọi là Pháp giới thành. Thân và cõi tương xứng, y báo và chánh báo vô ngại, chỉ có Phật độc trụ, không có Bồ-tát.
2. Tùy thân Tha thọ dụng, là Bồ-tát a thượng ở trong Tịnh độ hiện thân nói pháp, là căn cơ địa tiền hiện hóa thân Phật, sở chủ hóa cảnh còn rộng hơn trước. Luận Đại Trí Độ nói: “Số Tam thiên đại thiên thế giới này, như Hằng sa là một thế giới chảy. Số thế giới chảy này khắp mười phương Hằng sa là một thế giới Phật, là cảnh giới của Phật Thích-ca hóa hiện.
5. Theo Kinh Hoa Nghiêm thì không ai thành, không ai chẳng thành, nên Lô-xá-na ở tất cả nơi đều thật thân thành Phật. Lại vì Lô-xá-na tức là Thích-ca không phân biệt Báo và Hóa cảnh vô biên vô tận, và như loại núi Tudi, số thế giới cùng tận mười phương khắp hư không khắp pháp giới. Còn một loại hình cây thế giới cũng khắp pháp giới. Đứng cạnh thế giới ngửa, thế giới úp, các thế giới chúng sinh có vô lượng loại hình.
Mỗi loại hình này đều trùm khắp pháp giới. Nhưng không chướng ngại lẫn nhau. Còn nhiều loại khác đều xếp vào bên thế giới Liên hoa tạng, do đó nên Kinh Hoa Nghiêm cũng nói là Vô tận. Lại dùng Hoa tạng giới trong mỗi cát bụi hiện ra tất cả thế giới, như mành lưới của trời Đại Phạm thiên, lớp lớp vô tận. Vô tận biểu thị vượt qua suy nghỉ bàn luận. Những chỗ này đều là nơi xoay bánh xe pháp của Phật Lô-xá-na. Nay trong văn vẫn y như nghĩa thứ ba nói ở hai câu trên.
Câu 1: Hiển bày bản thân Phật. Câu 2: Nói về nguyên độ.
Câu thứ 1: Vì Phật Lô-xá-na tự nói, nên nói: nay ta. Nhưng phân biệt chung thì “Ngã” lược có 6 nghĩa:
1. Chấp ngã: là phân biệt, câu sinh ở phàm vị.
2. Mạn ngã: chỉ cho câu sinh ở địa vị hữu học.
3. Tập khí ngã: Hai ngã tập khí còn lại ở vị Vô học
4. Tùy thế lưu bố ngã: Chư Phật tùy theo thế gian giả gọi.
5. Tự tại ngã: Tự tại Như lai lấy trí Hậu đắc làm tánh.
6. Chân ngã: Chân như thường lạc ngã tịnh làm tánh. Trong đây gọi Ngã chung cho ba loại sau. Tùy theo nghĩa nên biết, “Lô-xá-na” nghĩa như trước đã giải thích.
Câu thứ hai: Nói “đang ngồi đài hoa sen” phương có hai nghĩa:
Tương dục, nghĩa là phương hướng b) Chánh trụ, nghĩa là đang ngồi.
Nay theo nghĩa sau. Vì đang ngồi trên hoa nên gọi là đang ngồi vậy.
“Đài Hoa sen” là y chỉ viên mãn trong 18 viên mãn. Các luận giải thích chung có ba nghĩa: Y cứ vào sự Y cứ vào lý Y cứ vô ngại.
“Nói về Sự”: Nghĩa là Như lai đã cảm được Đại bảo liên hoa Vương làm chỗ y chỉ. Nhưng phân biệt chung hoa sen gồm có bốn loại. Luận Đại Trí Độ chép:
1. Hoa sen của loài người có mười cánh trở lên.
2. Hoa sen cõi trời có trăm cánh trở lên.
3. Hoa sen của Bồ-tát có ngàn cánh trở lên
4. Nghĩa y cứ theo hoa sen Phật là vô hạn lượng.
Nên trong Kinh Hoa Nghiêm, tòa hoa sen lớn không nói số cánh.
Chỉ nói rằng: “Mỗi cánh hoa đều đầy khắp pháp giới.
2. Nói về lý: Như lai trí thân y theo nghĩa chân lý nên dùng hoa sen để tiêu biểu cũng có bốn nghĩa. Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép:
1) Như hoa sen ở thế gian trong bùn mà không nhiễm ô. Thí như pháp tánh chân như ở thế gian mà không bị làm ô nhiễm.
2) Như hoa sen tánh tự khai mở. Thí như chân như tự tánh khai ngộ chúng sinh, nêu chứng thì tự tánh khai mở.
3) Như hoa sen được bầy ong đến hút mật. Thí như chân như được các thánh sở dụng.
4) Như hoa sen có bốn tính chất: Hương, tịnh, mềm mại và đáng yêu.
Thí như Chân như có bốn đức: Thường, lạc, ngã, tịnh
3-Lý sự vô ngại: nghĩa là quả Phật viên dung lý sự hỗn hợp (thông), y chánh tự tại tức nhau vô ngại. Suy nghĩ điều này rất dễ hiểu.
Trong hai câu dưới:
1. Nói chỗ mà Phật an trụ: nghĩa là trên ngàn cánh hoa, hoặc nói rằng: “ Thiên liên”, câu dưới là Phật sở hiện. Ngàn này vẫn là xếp vào thân thọ dụng. Có người giải thích rằng: “Nếu đứng về tướng hiển bày thì thân Lô-xá-na là Thập địa sau vị Bồ-tát Đẳng giác hiện. Ngàn Đức Thích-ca này là Bồ-tát Sơ địa trở lên hiện, ở đây cũng không trái.
2. Một bài tụng, một câu thứ hai nói ngàn Phật lại hiện trăm ức Thích-ca. Bốn câu trước giải thích một hoa đã hiện. Câu sau kết thúc các hoa khác. Câu đầu nêu một hoa đứng đầu trăm ức cõi nước. Ở châu Thiệm bộ phía Nam, dưới gốc cây Bồ-đề có một Đức Thích-ca, đồng thời thành Phật nên nói đều ngồi, v.v..
“Loại kết” nói như thế. Chính là ngàn trăm ức.
3. 1 tụng 2 câu thứ ba nói Hóa Phật từ Báo Phật lãnh thọ giới pháp.
Câu đầu nêu bản thân Phật Lô-xá-na là chỗ của Hóa Phật xuất ra cho nên phải nêu. Câu kế nêu số hóa thân, câu kế nữa nói chủ tể nắm đầy đủ Đại chúng quyến thuộc. Câu kế nói lên chủ bạn đều đến chỗ Lô-xá-na. Câu kế chánh thọ giới pháp. Câu kế nói lợi ích của giới, nghĩa là giới mầu này trong các thuyết đó rất giống với chữ Cam lộ. Vị ngon trong các vị, ở đây đầu tiên nói ra nên nói khai môn.
Giải thích: “Cam lộ có ba nghĩa:
1) Ăn được no đủ, nhiếp thiện bên trong đầy đủ.
2) Uống vào dứt bệnh khát, đồng với nhiếp sinh cứu giúp 3)Uống thuốc vào hết bệnh tật, đồng với luật nghi dứt ác, nên gọi là Dụ.
Cam Lộ là thuốc tiên. Uống vào sống mãi không chết.
Được giới mang này, cùng tận đời vị lai.
4) Hội bài tụng, 1 câu nói hóa y cứ vào có truyền thông bản giới, câu giữa đều trở về bản vị.
(607) Hai câu sau truyền chung giới này, nghĩa là giới pháp này Chư Phật làm thầy nên gọi là giới Bản Sư. 10 giới trọng xuất xứ từ số giới tướng khinh trọng. Từ trước đến nay nêu nguồn gốc hiển bày giới đã xong. Từ đây trở xuống là Thứ hai khen giới khuyên trì, trong đó có hai:
Có ba hàng một câu, khen ngợi lợi ích khuyên tho, ba hàng sau một câu nêu pháp khuyên tin. Trong câu đầu có sáu ý:
1. Hai câu: Giải thích giới đức viên mãn. Trong phần đầu phá được vô minh tăm tối lớn, ra khỏi đêm dài sinh tử. Hiển bày không trụ Niết-bàn, nên nói như “nhật nguyệt”.
2. Có thể trang nghiêm hành giả. Khiến Chư Phật hộ niệm người trời vui vẻ, nên nói như “chuỗi anh lạc”.
Giải thích, ban đầu là tuệ nghiêm, sau là phước nghiêm.: “Luật Nghi giới vì có công năng phá tối tăm, xấu ác cho nên ví như “mặt nhật”, “giới Nhiếp chúng sinh” lấy đại bi mát mẻ làm tướng nên nói giống như “mặt nguyệt”. “giới Nhiếp thiện pháp” vì có công năng nhiếp tu đầy đủ các pháp tốt đẹp để tự mang bên mình nên nói như “chuỗi anh lạc”. Hai câu kế nói: “Giới dụng sâu rộng, nghĩa là Bồ-tát nhiều như cát bụi là nhiều người đồng hành cho nên cao quý. Do đây thành Chánh giác có thể thành Đại quả nên thông gọi là, cũng vì câu trước là rộng, câu sau là sâu.
3. Hai câu kế nói người đại tụng trì nên gọi là “Thắng”, câu đầu là Báo Phật, câu sau là Hóa Phật.
4. Hai câu kế: Nêu lợi ích khuyên học, thành hạnh tự lợi.
5. Hai câu kế: Giáo lệnh chuyển trao thành hạnh lợi tha.
6. Ba câu kế: Răn nghe lời Phật tụng, vì trong giới này chứa nhóm đầy đủ các đức nên nói là “Tạng”. Lại còn phân biệt Định cộng giới và Đạo cộng giới nên nói giới là Ba-la-đề-mộc-xoa. Phạm ngữ là Ba-la-đề, Hán dịch là Biệt, gọi đủ là Tỳ-mộc-xoa, Hán dịch là Giải thoát
Trì giới hạnh này, đối với các cảnh phạm đều biệt biệt giải thoát cho nên gọi như vậy. Lại có thể ngay trong sinh tử mà được giải thoát.
2. Trong nêu pháp khuyến tu chia làm ba:
a) Năm câu nói tin pháp thành lợi ích.
b) Khuyên chung sinh tin
c) Hai câu nêu ra cảnh sở tín, lại là phương tiện sinh tín. Nghĩa là tin chính mình có Phật tánh, tức là quyết định tương lai thành Phật. Hai câu phân biệt tin ích, nghĩa là tín tự có tánh trụ Phật tánh. Tin Phật là chỉ đắc quả tánh. Nghĩa là khởi tin này tức là phát nhập vào lý Bồ-tát tâm, đây là đắc giới. Nên Kinh Vô Cấu Xưng chép: “Phát tâm Bồ-đề là xuất gia, tức là thọ giới cụ túc, thành tánh Tỳ-kheo. Đây chính là nghĩa đó.
2. Có sáu câu khuyên chúng thọ giới, trong đó có hai:
1. Hai câu khuyên chung thọ giới.
Tức là văn dưới chỉ giải lời Pháp sư nói thọ hết được hành nên nói tất cả có tâm. Phàm những người có tâm đều nói có Phật tánh. Có Phật tánh nên có khả năng làm đạo khí. Nên nói rằng: “Nhiếp Phật giới”. Còn trước là Phật sẽ thành là y cứ thể Phật tánh. Đây nói người hữu tâm, đều thuộc về Phật giới, là dụng của Phật tánh.
2. Bốn câu kế, giải thích lợi ích nhiếp giới. Nghĩa là vào trong ba nhóm giới Bồ-tát, tức là vị của Phật bản nhân, nên gọi là Phật tử. Dưới đây các giới đầu đều gọi là Phật tử.
3. Hai câu sau vì có lợi ích này nên khuyên chúng nghe tụng, từ trước đến nay chính là phần thứ nhất, nêu nguồn gốc khen ngợi giới đã xong.
I. ĐẠI ĐOẠN CHÁNH THUYẾT, chia làm ba:
1. Nói về việc đương thời là bài tựa của người kết tập
2. ”Bảo các Bồ-tát v.v...” là chánh tụng.
Từ tà mạng đã nói, v.v.. trở xuống là kết khuyến thọ trì
-Trong phần đầu có bốn:
1. Bài tựa về thời gian nơi chốn thành Phật
2. Bài tựa về giới tướng đã kết
3. Bài tựa ánh sáng nơi miệng tiêu biểu cho lời nói
4. Tựa chúng nhóm họp nghe thọ
Trong phần đầu, “bấy giờ” là hóa thân nầy từ ý chí mà Báo Phật đã thọ trở lại đến đây, nên nói: là bấy giờ. Đức “Thích-ca” Hán dịch là “Năng”, thuộc về “Tánh”. “Mâu-ni” Hán dịch là “Tịch”. Cây Bồ-đề ở nước Magià-đà. Ở dưới gốc cây này có tòa Kim cương. Ngàn Phật ở kiếp Hiền đều ở trên tòa này thành đẳng Chánh giác, dưới gốc cây này được Bồ-đề nên gọi là cây Bồ-đề. Bắt đầu ngồi thành Phật, nên nói là sơ tọa.
-Tựa đã kết giới, có hai ý: 1. Biện tướng
2. Hội danh.
Trong phần trước cho là giới này chẳng phải đợi phạm rồi mới chế. Trước lúc thành Phật đã kết giới này. Không đồng với giới Thanh văn, nên nói ban đầu kết Ba-la-đề-một-xoa. “Hiếu” là đối với bậc trên khởi tâm sâu. Nhớ ân tôn kính vui kinh mến cúng dường. “Thuận” là lìa bỏ cái thấy của mình, thuận theo lời dạy của bậc trên. Hiếu thuận với ai? Lược ra ba cảnh:
- Ân cha mẹ sinh dục
- Ân thầy tổ dạy bảo
- Ân cầu Tam bảo che chở. Nhưng cha mẹ có hai vị:-Cha mẹ hiện đời.
- Cha mẹ quá khứ. Nghĩa là tất cả chúng sinh đều được cha mẹ sinh ra. Nay do giữ giới đối với cha mẹ rất sinh tâm kính dưỡng. Nay tu gốc lành phát tâm Bồ-đề. Đời nay, đời sau lìa khổ được an vui. Nay do phát tâm Bồ-đề giữ giới Bồ-tát, cứu giúp tất cả chúng sinh đều là hiếu thuận. Còn do giữ giới Bồ-tát thanh tịnh nên được đạo lực cứu hộ tất cả chúng sinh. Nên đối với cha mẹ quá khứ, hiện tại cũng là hiếu thuận, lại cúng dường hiếu thuận sư tăng, Tam bảo, văn dưới đây có nói đủ. Còn vì đúng như lời tu hành là báo đáp ân đó nên thuộc về hiếu thuận. “pháp Chí đạo” là đạo chí cực, chẳng gì trước pháp này. Còn tu theo đạo này sẽ được đến quả nên nói là chí đạo. Nghĩa là thực hành liễu nhân đến quả Niếtbàn, còn thực hành sinh nhân đến quả Bồ-đề.
2. Hội danh, nghĩa là thực hành hạnh hiếu này, tức là thuận theo lời dạy không trái với tên gọi là trì giới, nên Hiếu gọi là Giới. Giới nghĩa là chế ngự ba nghiệp dứt bỏ các điều ác. Nên nói giới cũng gọi là chế chỉ.
3. Tựa ánh sáng nơi miệng Phật: Như lai sắp nói giới pháp, trước hết nơi miệng vàng phát ra ánh sáng rực rỡ, giật tỉnh khiến chúng sinh biết, nên từ miệng Ngài nhã ra giới pháp chiếu sáng vào tâm Ngài, nên hiện ra tướng này khiến chúng sinh nhóm họp lại.
4. Tựa chúng sinh tụ tập nghe, trước hết nhóm chúng.
-Phân biệt kính nghe. Chắp tay nghi thức thân không kiêu mạn, dốc lòng trụ niệm không tán loạn.
Thứ 2: Trong đối cơ chính tụng có hai:
Giới pháp rất cao quý.
Cho nên các Phật Tử phải chánh thọ khuyên tu học.
Câu một, có hai ý:
Y cứ vào người nói lên sự thù thắng.
Cho nên giới, v.v... trở xuống là đứng về pháp giải thích cao quý. Câu trước có hai ý:
Đứng về Phật tự thông, nói lên người cao quý tụng nên nói giới cao quý.
a) Đứng về năm vị Bồ-tát chúng tụng. Nói nhiều người tụng nên nói giới cao quý vậy. Vì tín hành không thành vị nên chỉ nói phát tâm. Vì Thập trụ là mới vào vị Tam hiền nên nói là Thập Phát Thú. Thập hạnh tu thêm gốc lành nên gọi là Trưởng Dưỡng, Thập Hồi hướng là thế gian tu rốt ráo vững chắc không hoại nên gọi là Thập Kim cương. Đây là Thập Địa nên biết. Cho nên “giới quang từ miệng phát ra” là trước từ từ mới phát tâm cho đến hết Thập Địa.
Từ vô số kiếp thường tụng trì. Đến sau khi tụng ánh sáng trong miệng phát ra mỗi khi nói giới. Như “Luận Trí Độ” nói: có ba hạng Tỳ-kheo nhờ nhiều đời nói pháp nên từ miệng thoảng ra mùi thơm, cũng giống như thế.
Giải thích, vì giới pháp nầy phá tối vô minh, theo dụng gọi là ánh sáng. “có duyên chẳng phải vô cớ” là nay tụng giới này miệng phát ra giới quang chẳng phải không có nhân duyên. Vì nhiều kiếp chứa nhóm nhân duyên rất chắc chắn đến đổi được như thế.
Giải thích: Đây thuộc về thứ hai, đứng về pháp giải thích sự cao quý, trong đó có ba nghĩa:
1) Nói về giới không tự tánh, khởi nhờ nhân duyên, nghĩa là giới pháp này đã từ nhân duyên, phi tự tánh.
Giới vô tự tánh gọi là giới quang. Vì Phật nói là duyên, cơ cảm là nhân, hoặc thầy trao là duyên. tâm Bồ-đề là nhân. Giới vô tự tánh mới được phát khởi. Nên nói rằng: “Có duyên chẳng phải không nhân.
2) Giới thể sâu kín. Câu “Cố quang quang đẳng”, “Quang” dụ cho giới, nghĩa là nhân duyên phát ra giới thể nhiều vô lượng vô số nên nói: “Quang quang”. “Cố” là lý do. Nghĩa là giới quang này là nhân duyên sinh. Cho nên vô tánh, vì lìa tướng nên nói chẳng phải xanh v.v... Trong đó ba câu:
Lìa sắc tâm nghĩa là chân giới tánh này chẳng phải chất ngại còn chẳng phải duyên lự. Nên nói “chẳng phải sắc tâm”.
Giải thích, giới ở tư chủng mà dựng lập. Nên dùng tư chủng làm thể, nên nói là “phi tâm”.
2. Lìa hữu vô, nghĩa là giới duyên khởi không có tự tướng, tức duyên chẳng phải giới, lìa duyên vô giới. Dứt tức dứt lìa (608) không được trung gian. Cầu giới như thế không phải là hữu vô. Nhưng giới này chẳng phải vô, giới này là bất hữu. Vì bất đồng sừng thỏ không nhân duyên, cho nên giới này dứt hết hữu vô. Lại có thể chẳng phải sở chấp nên bất hữu. Từ duyên khởi nên chẳng phải vô. Lại từ duyên khởi nên chẳng có. Chẳng phải sở chấp nên chẳng phải vô, nên nói rằng phi hữu phi vô. Vì giới xứng tánh lìa năng sở sinh nên chẳng phải nhân quả Lìa nhân quả.
Giải thích, vì giới có công năng thành quả Đại Bồđề quả kia nên chẳng phải quả pháp. Lại nhờ Bồ-đề tâm làm nhân khởi nên pháp phi nhân. Vì quả chẳng phải quả, tức là nhân. Nhân đây chẳng phải nhân tức quả. Cho nên khắc tánh chẳng phải nhân quả.
3) “Bản của Chư Phật”... v.. v.... trở xuống là nói rộng về dụng của giới.
Trong đó có ba ý:
Nói về giới tuy chẳng phải quả mà có khả năng làm quả, nên nói rằng: Bản nguyên của Chư Phật.
a) Nói về giới tuy chẳng phải nhân mà có khả năng làm nhân, nên nói rằng căn bản của Bồ-tát, vì Bồ-tát là nhân vị.
3. Tuy đều chẳng phải nhân quả, nhưng có thể chung làm gốc cho đại chúng.
2. Cho nên, v.v... trở xuống là kết khuyên tu học. Nên thọ, nên trì, nên tụng văn, nên học nghĩa.
Thứ hai: Nói trong giới có duyên đầy đủ.
1. Nêu thọ giới Phật.
2. Phân biệt giới có khác nhau. Có 20 chúng, ở trong người biến hóa. Như có thể biến thành người, Tiểu thừa nhập vào khó. Trong đây là chung. Sau chỉ hiểu lời Pháp sư... trở xuống là kết chung nhiều môn. Nghĩa khác có thể biết.
II. TRONG PHẦN CHÁNH THÔNG GIỚI TƯỚNG THỨ 2:
Có hai:
Trước giải thích chung tướng tùy giới, lược chia thành sáu môn: lược làm 6 môn:
1. Giải thích tên
2. Chia ra khinh trọng
3. Nói về phương tiện đủ thiếu
4. Trì phạm thô tế.
5. Các bộ chủng loại.
6. Đối với Tiểu phân biệt khác.
-Điều như nói riêng.
Trong phần giải thích riêng giới tướng cũng có hai:
a. Nói mười giới trọng,
b. Nói 48 giới khinh. Trước có ba:
1) Nêu số khuyên trì
2) Lập danh giải thích tướng.
3) Tổng kết khuyên trì Lại cũng có thể chia ra:
1) Tụng chung.
2) Tụng riêng.
3) Kết khuyên
1. Trong chung chia làm bốn:
1) Nêu số
2) Nếu thọ, v.v... trở xuống là khuyên tụng văn đó. Trong đó trước nói không tụng có tổn. “Phi Bồ-tát” là trước hiện hành tâm Bồ-đề. Chẳng phải hạt giống là hạt giống trái với tâm Bồ-đề. Lại trước mất vị sau mất hạnh, sau nêu Phật tự tụng rõ ràng mà có lợi ích.
3) Khuyên học nghĩa của nó. Nghĩa là nêu ba đời đều học khuyên thọ học.
4) Đã nói lược v.v... trở xuống là kết nói khuyên trì. Đều nên biết.
Trong phần lập danh giải thích tướng, trước dùng nghĩa để phân biệt, sau là giải thích bản văn. a) Ban đầu mười giới trong thứ lược làm mười môn.
1- Giải thích tên
2- Nói nhân phạm
3- Nói vật phạm
4- Nói cảnh phạm
5- Tạo cảnh tự, tha.
6- Tự làm, xúi giục người làm
7- Tướng phạm đầu cuối
8- Nói phạm khinh trọng
9- Các bộ nhiếp nhau
10- Nói thu nhiếp ba nhóm.
Ban đầu giải thích tên, trước hết giải thích tên chung, nghĩa là một châu viên số. 2 lần 5 là 10, “Ba-la-di” Hán dịch dịch là Tha thắng xứ, lược có ba giải thích.
5) Đứng về pháp, nghĩa là Đệ tử Phật vì trì giới Phật gọi là Tự. Chẳng hủy giới Phật là Tha, nếu chuyên tinh không phạm thì Tự thắng Tha. Nếu phá căn bản của giới Tha thắng Tự. Lấy giới làm học xứ, trì phạm y theo đó nên gọi là Xứ.
6) Đứng về nghiệp, nghiệp ma là Tha.
7) Nói về báo, rơi vào chỗ bất như ý là Tha, đều nên biết. Đây là từ nghĩa số để rõ tên tức dùng số để giải thích.
- Tên khác như giải thích sau đây.
- Nói về nhân phạm, nghĩa là phạm mười giới trọng này đều là nhân ba độc. Trong đó có hai:
a) Y cứ vào tướng thô
b) Y cứ vào tế để giải thích.
1) Trong mười giới này, sát, hủy và sân phạm ba nhân nầy do sân mà phạm. Thế nên chế giới này để ngừa sân. Trong đây y cứ vào ba nghiệp động để chia làm ba đó là Thân, ngữ, ý theo thứ lớp nên biết. Còn trong ngoài chia làm hai:
Hai thứ đầu y cứ bên ngoài 2. Một thứ sau y cứ bên trong.
Sắc, thanh ngoài trong chia ra khác nhau. Còn trộm, dâm và xan ba nhân này phạm tham. Nhưng hai thô đầu, sau hiện một tế, còn đứng về tài sắc thì chia làm hai:
1. Trộm cắp, san tham đều tham của cải người khác. Tự, Tha, nghĩa là trộm thì mong tiền của người khác. San tham thì mong vật của mình. Còn trộm thì mong cái chưa được, san thì mong cái đã được. Vì sao tài vật chia làm hai, còn sắc không chia? Vì của chấp nhận nuôi chứa đúng như pháp. Mong đã được chưa được chia làm hai: Sắc không chung với nghĩa súc nên chỉ một cấm đoán. Còn có của ăn trộm và thí nên được chia làm hai: Sắc không thí cho cùng nghĩa nên càng không chia làm hai. Còn nói dối, uống rượu và hủy báng thì phạm ba nhân si này. Đối với uống rượu chỉ là nhân si. Nói dối, hủy báng là quả si. Trong quả vọng từ tà kiến, vọng thân mình không chứng thánh mà nói chứng Thánh. Báng từ tà kiến vọng thấy Tam bảo khác thật thánh nói chẳng phải Thánh. Nên chia thành hai: Quả si đã hiển bày rõ ràng.
Đứng về cảnh lại chia làm hai: Dụng của nhân si còn ẩn, đứng về sự chỉ lập một. Lại nói: Quả chung ba độc, nên biết đây tức là điều phục ba độc, lập mười giới này.
2. “Đứng về tế phân biệt” là trong mười giới này, mỗi giới đều không phạm ba độc
-Trong sân có khi do tham si kia đưa đến nên cũng được có ba, cho nên đều khiến được ba độc nên gọi là Tỳ-ni, Hán dịch là Điều phục
2. Nói phạm đủ gọi là ba nghiệp. Trong mười giới này, ba cấp đầu và rượu đều y thân phạm, nên Luận Trí Độ, quyển 13 chép: “Rượu và ba giới trước đều là giới của thân. Nay ở đây giải thích có bốn nghĩa:
1- Đứng về tự tha, ba giới đầu thành tự hại, một giới sau tha hại.
Dùng được rượu rồi mới thành tội trọng.
2- Đứng về y chánh có ba câu: a) Trộm tức là y báo.
b) Sát, dâm, vọng tức là chánh báo.
c) Rượu chung cho cả y và chánh báo
Cho là uống rượu và mua bán rượu không được nuôi chứa cũng được xếp vào chánh báo. 3-Đứng về trái thuận cũng có ba câu: a) Sát, đạo, vọng trái tình. Dâm phạm thuận mê tình. Mua bán rượu chung cho cả trái, thuận. Vì thường mê tình nên thuận. Chọn lấy ngay thẳng cho nên trái.
4-Đứng về nhân quả.
Hai câu đầu hao tổn tiền của đoạn mạng. Trong quả khổ cùng cực nên đều thành tội trọng. Sau dâm, uống rượu, thuận với mê. Nhân khổ cùng cực nên đều thành tội nặng. Cho nên người xưa dạy rằng: Dâm là gốc sinh tử, rượu là nguồn họa hoạn. Trong luật, hai giới này không lập cảnh tướng nghĩa tồn ở đây. Còn nói dối là hủy báng. Bốn giới này là phạm ngữ nghiệp, tức là nói bốn lỗi.
1. Nối dối.
2. Nói chia rẽ, vì nói lỗi làm cho xa lìa
3. Ác khẩu,
4. Dùng lời chê bai, độc hại.
-Giải thích:
Lỗi trái cảnh
Lỗi trái lời dạy. Nghĩa là chỗ khác rao lỗi Hai là hiện tiền khen chê
Một lỗi sau trái với lý.
Đều có thể biết còn 2 giới san tham là phạm ý nghiệp. Trong đây vì sao sân theo tên tự tánh san tham mà nói. Nghĩa là sân chướng ngại lòng từ bi trái hành trở ngại tội trọng. Tham có chỗ cho là có thuận lòng thương xót, cho nên đứng về san trái với lòng từ bi cứu giúp mà nói. Nếu nói kỹ mười giới. Mỗi giới đều có ba nghiệp thành phạm, dùng dẫn dắt lẫn nhau như văn giải thích ở dưới nói, cũng nằm dưới ba nghiệp gọi là Điều phục.
-Nói về cảnh phạm khác nhau, có bốn:
1) Đứng về cảnh tình phi tình, nghĩa là chín giới trước hoàn toàn và giới thứ mười một chút phần là đứng về tình cảnh phạm, vì Phật bảo và Tăng bảo cũng xếp về tình. Dâm và sân mỗi thứ đều có một nghĩa, và phần ít thứ mười y cứ vào phi tình mà phạm. Vì chê bai pháp bảo, dâm thi, sân khối đều đồng phạm.
2. Đứng về cảnh hơn kém: nghĩa là nói chê bai hai giới hạn cuộc phạm thắng cảnh. Vì muốn nói các lỗi của Bồ tát học và chê bai Tam Bảo thành phạm. Giới mua bán rượu chỉ phạm cảnh kém yếu vì các thắng vị của bậc Thánh không uống rượu. (609) 7 giới khác có chung cả hai vị, vì đều có nghĩa phạm.
3. Y cứ vào cảnh nhân quả. Nghĩa là giới chê bai chút phần chỉ là của cảnh phạm. Vì trừ tăng bảo. Nhân khác cảnh phạm.
4. Đứng về phàm thánh cảnh phạm.
Trong phần thứ mười Phật bảo hạn cục ở thánh
Thứ năm hoàn toàn hạn cục ở phàm. Vì thánh không uống rượu, không thể đổi thành việc mua bán. Chỗ còn lại chung cho cả thánh phàm. Trong phàm chung cho cả bốn cõi, trừ địa ngục. Vì khổ báo kia không thể đối, có chỗ chung cho cả năm. Vì quỉ v.v... trì giới cũng đối với kia mà thú hướng. Trong bậc thánh quả Nhị thừa hướng về 10 Thánh Đại Thừa, 6 vị nhân quả, nói chung đều thành cảnh phạm.
Hỏi: Đối với thánh tha tâm có thành lừa dối hay không?
Đáp: Chỉ cần đối cảnh nói rõ ràng thì thành phạm, bất luận dối tượng tin hay không.
Còn đối với Thánh nói dối lý nặng hơn nói dối phàm. Chẳng lẽ không phạm hay sao? Lại giải thích trong cảnh lược có mười cảnh. Nghĩa là năm cõi sinh là năm. Luôn cả y báo chẳng phải tình là sáu. Còn Nhị thừa Phật pháp có bốn nên có mười. Trong mười giới chỉ có sân là chung cho mười cảnh. Vì ở loài phi tình, lấy vật không có chủ thì không phạm. Trộm vật của pháp thành nên thành trộm pháp. Dâm chung cho cả tám cảnh, trừ Phật pháp, lấy thây phi tình chết cũng thành phạm nên không trừ. Sau cũng chung cho cả tám cảnh, trừ pháp và phi tình vì không cầu xin nên cảnh khác đều thành cảnh phạm sát. Vọng nói chê bai bốn thứ này chung cho cả bảy. Trừ Phật pháp phi tình. Lý do nên biết. Mua bán rượu chung cho năm cõi, trừ những chỗ khác. Chê bai Tam bảo, cũng trừ những chỗ khác. Lý do đều nên biết.
-Tạo cảnh trong tự tha có bốn thí dụ:
1. Tự tạo tha cảnh
2. Tha tạo tự cảnh
3. Tự tạo tự cảnh 4. Tha tạo tha cảnh.
Mười nên phối hợp giới với nó. Và thí dụ thứ một đủ mười thành phạm, nên biết. Hai thí dụ chỉ có mốt phạm. Nghĩa là giới dâm có phạm chỗ khác không phạm, nên biết Trong mười dụ chỉ có bốn dụ phạm, nghĩa là: Sát, dâm, san, sân. Vì Bồ-tát lý ra không bỏ sinh tử làm vật thọ thân, mà lại nhóm chán thân mà tự sát nên cũng mắc tội. Còn vì ý dâm tự thương thân mình. Và như trong luật, trẻ già tự dâm v.v... “Kinh Thiện Sinh” chép: “Tự thí không thành thí. Tự san không thành xan. Còn như có một chút không vừa ý đấm ngực tự sân, cho nên bốn thứ này chung cho cả tự làm cảnh. Thí dụ thứ 4, trong
10 giới tất cả đều phạm nghĩa là dạy người thù hướng về cảnh khác tự phạm
- Tự làm dạy người, có bốn câu:
1. Tự làm không xúi giục người khác
2. Xúi người làm, không tự làm
3. Vừa tự làm, vừa dạy người làm.
4. Chẳng phải tự làm chẳng phải xúi người làm.
Hai câu đầu có thể biết. Trong câu ba có hai ý:
a) Như phạm dâm, dạy người khác y theo mình. Một lần phạm mắc hai tội. Nếu y theo ngủ quên hoặc bị kẻ thù ép buộc, thì không có nghĩa là xúi giục người
b) Xúi người khác và tự làm thì phạm riêng hai tội.
Thấy làm vui theo và khen ngợi làm. Tuy chẳng phải tự làm, cũng không xúi người làm, nhưng cũng là phạm. Cho nên bốn thứ này phạm khắp mười giới đều kết tội trọng.
- Tướng phạm đầu cuối, có ba thí dụ:
1. Thỉ
2. Chung
3. Cứ trung
Trong đây, phạm dâm y cứ vào (Thỉ), vào bằng đầu sợi lông thì kết tội phạm. Không đợi ra tinh và vui. Sát phạm y cứ vào chung. Phải là mạng chấm dứt mới kết thúc. Còn về cứ trung như ăn trộm rời chỗ cũ tuy đã thành phạm còn chưa được dùng. Giới khác nên y cứ theo đây mà biết. San, sân cũng phạm vào chỗ ban đầu. Vì khởi niệm liền phạm
Môn khinh trọng có 2: Trước hết phân biệt chung, sau nói riêng. a) “Giải thích chung về mười giới khinh trọng” là mười giới này có mấy nghiệp đạo trọng? Có năm nghĩa là ban đầu có 4 và 10, có chướng đạo trọng có ba nghĩa là hủy báng, san và sân. Mấy tội trọng cũng tiểu khinh có hai nghĩa là nói mua bán. Lại chia làm ba:
1. Trong bốn giới trước sát nhân, ăn trộm đủ năm tiền cho đến nói dối nghiêm trọng thừa là nặng nhất
2. Bốn giới sau hoàn toàn là tội trọng:
3. Giới 5 và 6 hoàn toàn và 4 giới đầu là ít phần. Nghĩa là y cứ theo phi nhân, phá ngũ, phi đạo tiểu vọng nhưng thứ này phải tiểu khinh. Còn năm giới trước vời lấy thêm nhiều chê bai. Năm giới sau phải là ít. Còn mua bán chỉ đứng về Già (ngăn), giới khác chung cho Tánh và Già, có nghĩa mười giới đều có cả hai tội.
Nếu nói riêng thì trong mỗi giới đều có khinh trọng.
Đến văn dưới đây sẽ phân biệt điều đó.
- Nhiếp các môn có bốn:
1) Đứng về mười ác, trong đó hiển bày mười giới. Ý chê bai là phần tà kiến. Chê bai là từ ngư, ác khẩu. Rượu là nhân si. Chê bai là quả si, “chỗ khác” như chín giới khác nên biết
2) Theo Kinh Bồ-tát Thiện Giới thề. Bồ-tát Xuất gia có tám giới trọng, tức 4 giới đầu và 4 giới sau của kinh này. Vì Bồ-tát xuất gia trước hết phải thọ giới Thanh văn đủ như bốn giới trọng ở trước, sau khi thọ giới Bồ-tát lại thêm bốn giới sau.
Theo Kinh Thiện Sinh, Bồ-tát tại gia có sáu loại: tức là sáu giới ban đầu của kinh này.
3) Theo Du-già Địa Trì có bốn trọng, tức là bốn giới sau của kinh này. Còn bốn giới trọng của Tiểu thừa tức là giới trước của kinh này, cho nên giới này phần nhiều chung cho cả đạo tục ghi chép đầy đủ Đại Tiểu Thừa nên có 10 giới mà thôi.
- Nhiếp ba nhóm giới, có hai nghĩa:
1- Nếu nói theo sự cao quý thì mười giới đây chính là thuộc về Luật Nghi, vì đều dứt việc ác.
2- Thuộc về Bất phạm luật nghi giới. Tụ giới đó đối trị thực hành mười tội ác. Nhiếp pháp lành nghĩa là:
1. Hạnh Từ bi
2. Hạnh Thiểu dục
3. Hạnh Tịnh phạm
4. Hạnh Đế ngữ
5. Hạnh Thị minh tuệ
6. Hạnh Hộ pháp
7. Hạnh Tức ác suy thiện
8. Hạnh Tài pháp câu thi
9. Hạnh Nhẫn nhục
10. Hạnh Tán phạm bảo
Hai giới này dạy chúng sinh khác như mình đã làm tức là giới Nhiếp chúng sinh. Cho nên mười giới mỗi giới đều có ba nhóm giới. Nghĩa khác nên biết.
- Giải thích văn là giải thích riêng mười giới trọng, tức là mười đoạn. Vì sao gọi là mười? như nữa bài tụng nói rằng: “Sát, đạo, dâm, vọng, tửu”, nói hủy, san, sân báng.
Giải thích giới này lược thành 10 môn:
1. Chế ý
2. Thứ lớp
3. Thích danh
4. Cụ duyên
5. Thiếu duyên
6. Khinh trọng
7. Được báo
8. Thông bít
9. Đối trị
10. Thích văn
1) Chế ý: Lược có mười ý:
1- Do đoạn sinh mạng nghiệp đạo trọng, phụ vào nghiệp nặng này không có khả năng nhập đạo, cho nên Đại thừa, Tiểu Thừa, đạo tục các giới đều đồng chế.
2- Phạm giới này tổn hại tâm Đại bi. Du-già chép: “Nếu có người hỏi rằng”: Bồ-tát lấy gì làm thể, phải đáp rằng: lấy Đại bi làm thể, còn phải vì chúng sinh mà xả bỏ thân mạng, huống gì lạm hại mạng họ.
3- Trái với ân nuôi dưỡng. Văn sau nói rằng: “chúng sinh trong sáu dưỡng đều là cha mẹ ta, đời đời kiếp kiếp ta đều từ cha mẹ mà sinh ra, đâu nên giết hại.
4- Trái với duyên tốt. Luận Trí Độ chép: Những đàn kiến kia có thể thành Phật trước mình, mình sẽ nhờ nó cứu độ. Việc ấy đâu biết được. Nếu hại mạng nó thì không có duyên với nó, không được nó cứu giúp”.
5- Đều có Phật tánh, đều là pháp khí đương lai, như Bồ-tát Bất Khinh cung kính chúng sinh. Bất kính còn không được, lẽ nào cho làm hại chúng sinh?
6- Trái phạm lỗi Bồ-tát vô úy thí. Kinh chép: “Cho nên giữ giới sát, là ban cho chúng sinh sự vô úy. Kinh Niết-bàn phẩm Như Lai Thọ Mạng không có hạn lượng đều nhờ bất sát.
7. Trái với bốn hạnh Nhiếp. Luận chép:” Trong hai thứ lợi của Bồ-tát thì lợi tha là nhất. Nếu có hại chúng sinh thì pháp thí không có chỗ giáo hoá. ”
8- Tổn hại của báu. “Luận Trí Độ” chép: Dù cho châu báu vô giá đầy khắp Diêm-Phù-Đề cũng không có thể trị giá được thân mạng. Cho nên cắt đứt mạng căn kia cũng (610) như mắc tội trộm vật báu. “Kinh Niết-bàn lại chép:
Tất cả sợ dao gậy
Đều yêu tiếc thân mạng Cứ lấy mình làm dụ.
Chớ giết chớ đánh đập.
9- Vì báo ân, nghĩa là Bồ-tát đại hạnh theo chúng sinh còn nghĩ việc báo ân, đâu cho phép gây hại.
10- Pháp nhĩ: Chư Phật ba đời gia nghiệp “pháp nhĩ” không nghĩ đến việc thêm lợi ích của chúng sinh.
2) Thứ lớp. Giới tướng nhiều như cát bụi, nhiễm ô vô biên, vì sao lại phân biệt giới bất sát này trước tiên?
1. Bồ-tát muôn hạnh đều lấy tâm đại bi làm gốc, vì để giữ hạnh gốc nên Phật đặt ra giới này trước tiên.
2. Hữu tình xem trọng nên đều lấy thân hình, mạng sống làm đều, vì cứu mạng sinh vật làm trước. Nếu thế, vì sao giới Thanh văn khác với giới này? Nghĩa chỗ này là vì hạnh cứu độ chúng sinh là trước hết. Họ lấy tự hành làm trước. Giải thích. Thanh văn phạm tội rồi Phật mới chế, giới dâm phạm đầu tiên nên chế giới bất sát trước.
Luật Tăng-kỳ chép: Phật thành đạo năm năm mới chế giới bất dâm. Năm thứ sáu chế bất dâm và sát. Bồtát thì không như vậy. Đứng về mười nghiệp đạo đây là đầu tiên. Nhưng giới bản Ba đời chẳng phải mới đặt ra.
3) Giải thích tên gọi: Gió hơi thở gọi là sự sống, dựa vào thân tâm mà chuyển. Cắt đứt không nối nhau gọi là sát sinh, giới có công năng làm việc đối trị. Từ chỗ đối trị đặt tên gọi là giới bất sát. “Kinh Niết-bàn” chép: “Phật tánh của Chúng sinh trụ trong năm ấm”. Nếu hoại năm ấm gọi là sát sinh. Nếu có sát sinh thì rơi vào đường ác. Tức có ba thứ quá khứ, hiện tại thì không thể Sát. Ngăn vị lai nên gọi là Sát. Vả lại chúng sinh gọi là hơi thở ra vào, cắt đứt hơi thở ra vào nên gọi là Sát. Chư Phật cũng tùy theo thế tục gọi là Sát.
Hỏi: Hơi thở chấm dứt gọi là Sát. Nhập định Diệt tận há không phải là chết sao?
Đáp: Vì sau đó thở trở lại, cho nên chẳng gọi là cắt đứt.
Hỏi: Hơi thở này dứt sau hơi thở sinh, chẳng phải sát hay sao? Đáp: Vì mạng căn dứt không thể thí dụ như Diệt định.
Hỏi: Sát sinh đã như vậy, theo duyên phải không tự tánh, không tự tánh thì phải không có tội
Đáp: Có tự tánh mắc tội. Còn không tự tánh mắc báo, tất cả các pháp đều như vậy.
Hỏi: Đã tự tâm biến ra chúng sinh, còn tự sát thì không thật có chúng sinh chết. Vì sao có tội?
Đáp: Còn tự tâm biến ra tội. Như chúng sinh đến đòi, chịu tội nên biết cũng như vậy.
Hỏi: Biết sát sinh là tánh không, Sát sinh phải vô tội. Đáp: Không là tội trị. Biết không thì không sát, ắt chẳng rõ không. Nên cũng có tội. Nếu nói không tội mà làm việc sát. Vì tà kiến nên tội phải nặng hơn tội khác, làm sao nói là vô tội được.
4) Cụ duyên, có hai:
Chung Riêng Chung có ba:
a) Người thọ giới Bồ-tát, vì không thọ giới nên không phạm. Kinh nói rằng: “Có phạm gọi là Bồ-tát, không phạm gọi là ngoại đạo.
Tánh tự tánh, nghĩa là chẳng phải điên cuồng. Vì nó không phạm.
Không khai duyên, nghĩa là cứu độ chúng sinh chịu khổ vô gián. Đây là thông các giới.
3. Duyên riêng.
Theo Luận Du-già Sư Địa có năm duyên: 1-Tha thân, phân biệt với tự.
2- Chúng sinh, phân biệt với các căn cơ vậy.
3- Tưởng là chúng sinh, vì phân biệt với mê tâm 4-Khởi tâm hại, phân biệt với ý vô sát hại.
5-Chánh đang hại, phân biệt với chưa hại: Theo Luận Đối Pháp cũng có năm duyên:
1) Sự nghĩa là số Hữu tình
2) Ý lạc, nghĩa là khởi tưởng này và phải có ý hại.
3) Phương tiện, nghĩa là hại nên dùng dao gậy.
4) Phiền não, nghĩa là tham, sân, si.
5) Rốt ráo: nghĩa là hữu tình đó do phương tiện, hoặc vô gián tử, hoặc hậu thời tử. Cả hai hợp lại nói chung đủ bảy duyên:
1- Tha thân
2- Chúng sinh
3- Tưởng là chúng sinh 4-Có tâm sát
5-Dùng dao gậy 6-Có ba độc
7-Cắt đứt mạng sống chúng sinh
Duyên chung trong đây có mười thứ nên biết:
5) Thiếu duyên:
Thiếu duyên chung nên biết. Trong riêng, nếu thiếu duyên đầu thì có ba nghĩa:
Phải mắc tội khinh cấu, nghĩa là vì tâm ác tự giết thân mình,
2. Phải mắc tội khinh cấu, nghĩa là vì tâm lành nhàm chán thân nên tự sát, đây là trái với hạnh Bồ-tát. Kinh chép: “Nói thân vô thường nhưng không khen ngợi nhàm chán thân. Trong đây có nghĩ trước có sân, nên sáu duyên khác đều đủ.
3. Được phước thánh trí, nghĩa là vì pháp diệt thân. Vì chúng sinh xả mạng như Vương tử Tát-đỏa. Nếu không xả thì mắc tội. Trong đó chẳng phải không có ba độc. Cũng cùng với trí hòa hợp nên thành trì, cũng là thiếu duyên đầu và duyên thứ 6.
Thiếu duyên thứ 2, có hai thứ khác nhau:
1. Nếu các đường khác nhau đều mắc tội trọng vì bảy duyên không thiếu.
Phi tình đến thay thế, có hai tội: a) Loài hoàn toàn không phân biệt là phi tình, đứng về tâm nên mắc tội nặng phương tiện, Như Luận Duy Thức chép: “Ban đêm đạp nhằm vỏ dưa chết vào đường ác. Đây chỉ là cảnh thiếu mắc tội nặng phương tiện.
2. Nếu sau đó biết là phi tình, trái với trước suy nghĩ, được trung phương tiện. Nếu thiếu duyên mắc ba tội này. Như trên ba vị gồm khởi tâm nghi cũng mắc ba tội. Nghĩa là nếu ở vị ban đầu muốn sát sinh có người đến thế, đối với việc đó sinh nghi, chẳng biết là súc sinh hay là người, mà cắt đứt mạng sống họ, thì tuy cảnh đổi tâm dời, mạng đồng hại cũng đều trọng. Nếu ở vị kế mà muốn sát sinh, có cơ đến thế, đời sau sinh nghi, chẳng biết là sinh hay là cơ. Hại mình suốt đời không quyết định. Vì thiếu chút tâm nên mắc tội nặng phương tiện. Nếu ở vị sau muốn sát sinh. Cơ thế sau sinh nghi. Sau khi hại biết cơ thì mắc tội nhẹ phương tiện
Hỏi: Trong đây thiếu tâm và hậu vị, thiếu cảnh cùng tiền vị. Mỗi thứ vì sao lại khác nhau?
Đáp: Ở đây cảnh khác khởi nghi nên không đồng với ban đầu. Vì kia mà khởi tưởng này. Nghi đang ở trong cảnh khác nên chẳng đồng với nhau. Vì kia ở cảnh này sinh nghi
Hỏi: Vì sao trong thiếu điều đó lại nghi là phi tướng Đáp: Vì tưởng không có thiếu cả hai. Như muốn sát sinh cơ đời sau, đây là thiếu cảnh. Đối với việc đó khởi tưởng đây là thiếu tâm. Nếu hại thì không tội. Cho nên tưởng thiếu cả hai. Trong nghi trái với sự mong này nên thiếu cảnh, có tâm do dự nên thiếu tâm. Cho nên đơn và song thiếu mỗi duyên đều có ba, hợp lại thành sáu.
Thiếu duyên thứ ba có tưởng và nghi khác nhau. Trong tưởng có bốn:
1. Nếu vốn mê sinh là cơ hại mình không tội. Vì ba tâm đều thiếu.
2. Nếu vốn muốn sát sinh vào đến cảnh chuyển thành cơ tưởng.
Hại rồi không biết mắc tội phương tiện vì không rõ, thiếu giữa và sau. Đứng về tiền phương tiện kết một tội nhẹ phương tiện
3. Nếu hại mình rồi biết rõ khởi tâm vui mừng thì kết tội nặng phương tiện. Vì thiếu chính giữa, đủ trước, sau.
4. Nếu đối với người khởi tưởng là súc sinh. Mê này chuyển tưởng đều nặng. Trong nghi có hai:
1-Trong cảnh này nghi khởi có ba:
Nghi sinh là cơ, suốt đời không quyết tội phương tiện
Sau biết rõ ràng, vui mừng, phạm tội nhẹ phương tiện
Nghi là súc sinh là người đều phạm tội nặng phương tiện.
-Thiếu duyên thứ tư, có bốn:
1) Hoàn toàn không phạm.
2) Lìa tâm bất sát sinh mà có các cớ đánh, nên mắc tội khinh cấu.
Thiếu duyên thứ năm mắc tội nặng phương tiện. Vì tuy không khởi phương tiện mà có tâm sát sinh.
Thiếu duyên thứ sáu, có hai:
1. Dùng tâm vô ký sát vẫn mắc tội nặng.
2. Không tham da thịt nên sát, cũng không sân hận thù oán nên sát. Không si thờ cúng nên sát. Nhưng vì tâm Đại bi cứu khổ không tránh được tội khổ nên cũng không phạm. Đây là giải thích theo Du-già.
Thiếu duyên thứ bảy, có hai:
Rốt ráo không biết không phạm, phạm tội nặng phương tiện. Biết không phạm, được trung phương tiện.
6) Khinh trọng: có hai:
- Thô
- Tế
Trong thô có ba:
Y cứ vào chúng sinh bị giết. Y cứ vào người có tâm giết. Cách thức giết.
Các loài chúng sinh bị giết tuy không bờ bến, cõi này gồm có bảy, nghĩa là sáu đường và bậc thánh, nhưng đứng về khinh trọng có bốn:
1. Y cứ vào sinh, cắt đứt mạng sống tất cả Hỏi: Vì sao có giết chúng sinh địa ngục,
Đáp: Bồ-tát cũng có dạo chơi trong đó cứu giúp chúng sinh, cho nên đối với họ cũng có bất sát. Huống gì có Bồ-tát ở trong địa ngục mở lòng từ bi, thành tựu sơ tâm.
2. Y cứ về báo, nghĩa là người trọng, súc sinh khinh, vì người ở trong hai Thừa Đại và Tiểu kia chung đạo khí.
3. Đứng về đức, nghĩa là giết hại người phát tâm Bồđề thì nghiệp đạo thêm nặng, bất luận là người hay súc sinh. Nên kinh nói rằng: “Giết súc sinh phát tâm Bồ-đề, tội nặng hơn giết người tà kiến.
4. Đứng về tội nghịch, nghĩa là trong bảy tội nghịch của văn dưới đây, trừ tội phá tăng. Vì không mạng có tôn chỉ nghịch không còn gì khác. Làm thân Phật ra máu là tội nghịch và tội nặng phương tiện. Vì không thể giết nên chẳng khác. Năm vị còn lại đều mắc hai tội nặng, đó là Nghịch và Di. Trong đó cha mẹ và hai thầy đều mắc ba tội:
1- Di
2- Nghịch, nghĩa là bốn người này có người đắc quả A-la-hán:
1. Giết cha mẹ
2. Giết La-hán
3. Cắt đứt mạng sống chúng sinh nên mắc ba tội. “Kinh Niết-bàn” chép: “Một là giết phụ vương. Hai giết Tu-đà-hoàn. ”. Nếu theo “Luận Câu-Xá” chỉ mắc một tội Vô gián vì y chỉ một.
Đứng về tâm nói khinh trọng, nhưng trong một niệm sát sinh tuy nhiều nhưng không quá ba tánh. Thiện ác vô ký tức là ba phẩm. Trong thiện, ác, vô ký trở xuống v.v... hoặc không báo, Trong đó hai:
1. Phân biệt.
2. Xen lẫn.
Trong tội ác trước, ba độc dẫn dắt nhau thành bảy nghiệp. Cũng có ba phẩm. Nghĩa là ba đơn khinh, ba song kế một hợp thành trọng. Trong đơn cũng có ba: tham hạ, sân thứ, si trọng. Vì sao? Vì cơ hoang bên ngoài đến, lửa tham bên trong thiêu đốt. Tuy rõ nghiệp đạo nhưng không thể tự chế. Tham da thịt kia để tự giúp thân mình, biến đoạn mạng kia nên chẳng phải cực nặng.
2. Tuy cũng hiểu biết nhân quả, nhưng tức giận khó chế phục, bèn sân đoạn mạng, đạo còn hơn trước. Nên là thứ hai.
3. Không tin nhân quả, cho rằng vô tội có đức. Buông lòng sát sinh lại xúi giục người giết. Luận Tỳ-BàSa chép: “Hổ báo, lang sói, rắn rít làm tổn hại, giết nó vô tội. Cha mẹ già yếu và bệnh tật, nếu có thể giết thì được phước vô lượng. Còn sát sinh để cúng trời là phước đức. Còn sát chấp sát sinh có phước vô tội. Như vị tiên Bà-tẩu nhiều kiếp chịu khổ. Cho nên si rất nặng. Kinh Thiện Sinh chép: “Tâm tham, sát sinh, sân, tội nhẹ. Còn si nhân rất nặng. Kinh Kinh Thiện Sinh chép: tâm Tham sát sinh, tâm sân nhẹ, kế đến tâm si là nặng.
1. Hợp thành đẳng phần là thượng thượng. Đây là y cứ vào phần nghiệp đạo khinh trọng. Nếu y cứ vào phần trái với giáo thì đều phạm tội nặng.
2. Tâm lành là có tâm lành mà sát sinh, như thấy người bệnh lâu rất khổ, chúng sinh không chịu được nỗi khổ đó. Bèn dùng lòng từ cắt đứt mạng căn kia. Lại như trong luật, Tỳ-kheo lại phạm tỳ kheo tử tội, nói xin cho tôi một dao. Đây đều là nghiệp đạo khinh, đều phạm tội trọng.
3. Tâm vô ký, hoặc không thành phạm. Vì vô ký không thành nghiệp, hoặc cũng có nghiệp, vẫn mắc quả báo. Như Tỳ-kheo ở núi xô đá giết kiến, kiến thọ thân heo cũng vẫn xô đá giết hại Tỳ-kheo kia. Đều là tâm vô ký âm thầm chịu báo. Đây là ở giới tuy không phạm. Nhưng nghiệp sát như thế không dứt nên chẳng thể tội khinh. Đời có người ngu uống dùng nước có trùng nói rằng:
“Tôi chỉ dùng nước vốn không hại trùng, trùng tự chết chắc chắn chẳng phải lỗi của tôi. Đây là không biết nghiệp đạo, chẳng thấy thánh giáo, rất là đáng thương.
1. Ngu
2: Lẫn lộn phân biệt cũng có bảy:
Y cứ vào tâm ba thời, nghĩa là sắp làm, đang làm và đã làm, đây là tâm tánh trong ba thời khởi nên nghiệp có nặng nhẹ. Nghĩa là trong ba thời:
1/Ác 2/. Vô ký khinh; 1/. Ác. 2/. Thiện thứ; 1/. Thiện 2/. ác nặng. Lại 1/ Thiện, 2/ điều vô ký khinh; 1/ Vô ký, 2/ Thiện; 1/ Vô ký, 2/ Ác nặng. Lại cả ba đều ác nặng đều thiện thứ, đều là vô ký khinh, như trên đã giải thích riêng
2- Y cứ vào tâm sát 3 thời đều thiếu. Thiếu hai tâm khinh. Thiếu một tâm thứ. Đủ ba trọng, ba trọng này chung cho môn tánh biệt ở trên. Trong tâm đều có ba thứ này. Tùy theo khinh trọng nên biết.
3- Dùng cách sát khinh trọng có hai: 1) Y cứ vào ba nghiệp 2) Y cứ vào khổ não.
Ban đầu là ba nghiệp đơn, song đều có bảy, Ba đơn là:
1. Thân nghiệp sát. Trong nói thêm dao gậy hoặc thân hiện tướng khiến sợ hãi rơi xuống chỗ hiểm hóc, hoặc thị hiện tướng dạy người thành giết, hoặc viết thư xúi giết, hoặc đào hầm hố, giăng lưới, bắn tên thuốc độc, đưa dụng cụ giết, dưới nước trên cạn, hư không, có người đến chết, phạm tội khinh nên biết
Ngữ sát: hoặc dùng lời khuyên nhàm chán thân mà chết, hoặc dạy người khiến chết, hoặc chú đất, hoặc quát tháo khiến chết. Trong lời giết này, ban đầu là khinh, sau giữa là trọng.
Ý sát, như 20 vị tiên trong Luận Duy Thức, vị tiên sân, giết đồng loạt chúng sinh chết, cho đến cây cỏ cũng chết theo. Cho nên biết rằng:” Ý là quan trọng nhất. Trong đây ngữ ý đồng là thân nghiệp. “Nhị song” là đầy đủ thân sát ngữ sát, nghĩa là thân thêm lời chú là khinh, hoặc đầy đủ thân sát ý sát là thứ. Hoặc nói ngữ sát ý sát là trọng.
1. Nặng nhất
2. Đứng về khổ não. Nghĩa là từng phần cắt thân khiến lâu ngày mạng chấm dứt. Khổ não này phần nhiều tâm oán đã sâu nên tội nặng. Trái lại là khinh. Còn về có ân vô ân, có lỗi hay vô lỗi đều có khinh trọng nên biết.
2. Giải thích kỹ: Nhưng nghiệp đạo khinh trọng sâu kín này. Đứng về cảnh mà khai tâm, nên y cứ theo thiện ân mà thôi.
7. Được báo, có hai loại:
1- Đứng về phạm trái với lời dạy là già tội. Văn sau nói rằng: “Đọa vào ba đường ác trong hai kiếp ba kiếp.
2- Đứng về nghiệp đạo tánh tội. Theo Luận Thập Địa, Luận Đối Pháp thì được ba thứ quả.
1. Quả Dị thục, nghĩa là tùy theo ba đường ác.
2. Quả Đẳng lưu, nghĩa là trong đời sống con người nhiều bệnh chết yểu.
3. Quả Tăng thượng, nghĩa là chỗ cảm vật bên ngoại đều ít ơn trạch, không trụ lâu. Theo Kinh Ưu-Bà-Tắc Giới quyển 4 chép: “Vì sát sinh nên hiện tại mắc mầu ác, sức ác, tên ác, yểu mạng. Tài vật tổn giảm, quyến thuộc chia lìa, Hiền thánh quở trách, người không tin dụng, bị người khác gây (......) tai ương cho, thế nên bị quả nghiệp ác hiện đời, bỏ thân này phải đọa địa ngục, chịu nhiều khổ não, đói khát mà sống lâu các việc mầu ác, sức ác, tên ác. Đó gọi là quả nghiệp ác đời sau. Nếu được thân người về sau chịu ác sắc, đoản mạng. Đây là một năng lực nhân duyên của người ác, khiến cho bên ngoài tất cả ngũ cốc, quả dưa đều giảm ý. Người này gieo tai ương khắp thiên hạ. Còn Luận Trí Độ quyển 13 chép: “Như Phật bảo Ưu-bà-tắc Nan-Đề-Ca: Sát sinh có mười tội:
(612)
1. Tâm thường độc ác, đời đời không dứt.
2 Chúng sinh ghét bỏ, mắt không muốn nhìn. 3. Thường có tâm ác, suy nghĩ việc ác
4. Chúng sinh sợ như thấy cọp, rắn.
5. Khi ngủ tâm sợ sệt, thức không an.
6. Thường gặp ác mộng
7. Khi chết điên cuồng sợ hãi, chết dữ
8. Các nhân duyên nghiệp chết yểu
9. Khi chết đọa vào địa ngục
10. Sinh ra làm người thường chết yểu.
8. Thông cuộc. Trong đó có hai: Trước thông, sau cục. Thông là hoặc có sát sinh mà không phạm giới, sinh ra nhiều công đức. Như “Du-già giới phẩm” chép: “Như Bồ-tát thấy trộm cắp, cướp bóc. Vì tham tiền nên muốn giết nhiều chúng sinh, lại muốn hại Đại đức, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, hoặc lại muốn gây ra nhiều nghiệp Vô gián. Thấy việc liền khởi tâm nghĩ rằng. Nếu ta giết được mạng của chúng sinh ác kia phải đọa địa ngục. Nếu không giết được người đó thì nghiệp Vô gián thành phải chịu khổ. Ta thà giết người đó rồi đọa vào nặng-lạc-ca, chứ không đề cho người chịu khổ triền miên. Bồ-tát ý lạc tư duy như thế. Ở chúng sinh kia hoặc dùng tâm thiện, hoặc tâm vô ký biết việc này. Đã là đương lai nên rất sinh hổ thẹn. Vì tâm thương xót mà không giết người kia. Do nhân duyên đó đối với giới Bồ-tát hoàn toàn không trái phạm, sinh ra nhiều công đức. Còn Kinh Niếtbàn 12 cũng đồng với câu hỏi này, nên biết.
“Cuộc” có hai nghĩa:
1 Trái phạm: nghĩa thấy nguy ách không cứu, thấy người giết mình thì oán hận, không đem chút lòng từ bi cứu giúp khởi thuận tình, tất cả những trường hợp này đều phạm.
2. Thuận trì, nghĩa là nếu không thường khởi Đại bi ân trọng. Thân tâm nghĩ đem thân mạng thay chết thay khổ v.v... Thường nghĩ không quên, không như thế liền phạm. Như thế v.. v... nên biết.
9. Đối trị hành giả, có hai: Trước hết nói về khởi tâm, sau nói hành tướng ở trước. Như Kinh Thập Địa chép: “Bồ-tát này lại đối với tất cả chúng sinh sinh tâm an ổn, tâm an vui, tâm từ bi, tâm thương xót, tâm lợi ích, tâm che chở, tâm ngã, tâm thầy, tâm sống còn. Luận chép: Tập là y theo tâm từ bi tăng thượng, lại vì nhớ nghĩ chúng sinh nên sinh mười thứ tâm. lại nữa tâm này lấy tám thứ chúng sinh.
1. Đối với chúng sinh ác hạnh, muốn cho trụ trong thiện hạnh. Như Kinh nói An ổn tâm
2. Đối với chúng sinh muốn cho an vui bất tận.
3. Đối với chúng sinh không nghĩ đến báo thù, như Kinh Từ tâm.
4. Đối với chúng sinh nghèo cùng muốn cho họ xa lìa hằn nỗi khổ kia. Như kinh nói bi tâm.
5. Đối với chúng sinh muốn cho họ không buông lung như kinh nói tâm thương xót.
6. Đối với chúng sinh ngoại đạo, muốn cho họ hiện tin Phật pháp. Như Kinh nói lợi ích tâm
7 Đối với chúng sinh đồng hành, giúp họ không lui sụt, như kinh nói tâm che chở.
8. Đối với tất cả nguyện nhiếp Bồ-đề, chúng sinh như thân mình, chúng sinh này như thân ta, như kinh nói ngã tâm “Sinh hai tâm khác” là quán chúng sinh thừa kia, tiến thú đạo Đại thừa chứa nhóm đầy đủ công đức, như kinh nói Sư tâm.
2 “Mỗi hành tướng” nói xưa nay Bồ-tát duyên theo hạnh chúng sinh, lược nêu 3, 5 lời. Như ngày xưa có hai vị Tỳ-kheo đến thăm viếng Phật, một vị chết dọc đường, một vị đến chỗ Phật. Phật hỏi người đó: “Bạn của thầy đâu?” Đáp: Bạch Đức Thế tôn, vì không uống nước có trùng bên đường nên thầy ấy đã chết, còn con vì sợ không được gặp Phật, bèn uống nước có trùng mà còn sống đến đây. Phật liền đưa cánh tay sắc vàng lên nói rằng: “Ngươi không giữ giới gặp ta nào có ích gì? Người chết dọc đường đó đã đến đây trước, nghe pháp và đắc quả. Lại như Tỳ-kheo Nga Châu, hộ mạng chúng sinh không tiếc thân mạng, Bồ-tát Nai đầu đàn thay thế mạng nai mẹ, Nai đầu đàn dùng thân làm cầu để cứu độ cả bầy thú, cuối cùng nai đầu đàn tự vẫn v.v... Lại sự nữ Bồ-tát Nguyệt Thượng gặp lúc đói kém, thấy người phụ nữ mới sinh đói khát muốn ăn thịt con, Bồ-tát tự cắt vú mình cho người phụ nữ đó ăn để cứu mạng đứa bé kia. Bồ-tát Vương tử xả thân mạng mình để cứu cọp đói. Vua Thitỳ xả thân để cứu chim Bồ câu. Như thuyền đang đi trên biển bị thủng, mọi người chết sắp chìm. Bồ-tát Thương Chủ bảo mọi người hãy núm tóc ta v.v... nay ta nín hơi chết, thuyền sẽ trôi vô bờ để vớt mạng mọi người. Hạng người như thế ngày xưa rất nhiều, khiến chúng sinh học tập theo. Phải khéo suy nghĩ điều đó.
10. Giải thích văn, từ trong mười giới này, văn khác có ba.
1- Chế khiến dứt ác, tức giới Nhiếp luật nghi
2- Chế tu hạnh lành, tức giới Nhiếp thiện pháp. Hai thứ này đổi thành giới Nhiếp chúng sinh
3- Trái chế kết phạm, thị hiện tên tội.
Câu 1. “Phật tư”
Giải thích có chung có riêng. Trong phần chung có hai nghĩa:
Từ Phật pháp sinh, nghĩa là phát tâm Bồ-đề thọ giới Bồ-tát được pháp phần của Phật nên gọi là Phật tử. Như người từ cha mẹ sinh được một phần thân thể kia gọi là nhân tử. Đây thì Phật là năng sinh, Tử là sở sinh.
Tử nghĩa là nhân. Nghĩa là vi tu hạnh Phật sẽ sinh ra quả Phật gọi là Phật tử. Như hạt giống sinh ra quả. Đây tức tử là năng sinh, Phật là sở sinh, từ quả đặt tên. Hai từ này đều là Phật, nên thuộc về y chỉ thích. Vì sao như vậy? Vì nếu không từ Phật sinh thì không sao thành Phật được. Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: “Đều từ pháp thân này có ra, rồi trở lại chứng pháp thân này.
Trong phần “Riêng” có năm nghĩa như Nhiếp Luận chép:
Phương tiện là cha Bát-nhã là mẹ Thiền định là thai Từ bi là nuôi nấng.
Tin ưa Đại Thừa làm hạt giống
Lại có 4 nghĩa như Luận Phật Tánh:
Tịnh tín là hạt giống Bát-nhã là mẹ Thiền định là thai Từ bi là nuôi nấng.
Như kế đây tức là 4 vị Địa tiền, nên biết
Hỏi: chẳng hay Bồ-tát đến giai vị nào mới được gọi là Phật tử. Đáp: Các thuyết thánh giáo có nhiều thứ:
1. Y cứ vào dứt công dụng không hành. Đồng tác dụng của Phật gọi là Phật tử. Như “Kinh Lăng-già” chép: Bồ-tát Bát địa gọi là Tối thắng tử.
2. Y cứ vào chứng đắc Phật pháp phân danh là Phật tử. Như Luận Phật Tánh nói Sơ địa gọi là Phật tử.
Y cứ vào Phật pháp Bất Thoái gọi là Phật tử, như
Kinh Anh Lạc chép: “ Thập Trụ được gọi là Phật tử. ”
4. Y cứ vào Nhập Đại Thừa, phát Bồ-đề tâm thọ Bồtát giới, thì gọi là Phật tử. Như trong lời tựa của Luật Tứ Phần chép: Nay đây chung cho bốn thứ trước, các vị đồng trì giới nầy nên cũng chung cho năm vì nhiếp Tiểu khiến trở về, trong văn có hai ý:
1. Nêu lỗi
2. Chế đoạn-Câu đầu có bốn:
1. Nói về giai vị năng sát
2. Tướng sát khác nhau
3. Việc sát đã làm
4. Giải thích về chúng sinh bị giết.
- Câu đầu có bốn cách sát:
1. Tự giết, rất dễ hiểu
2. Xúi giục người giết có hai nghĩa:
- Xúi giục người khiến cho tự chết.
- Xúi giục người khiến họ giết.
Hỏi: Tự giết hoặc xúi giục người giết nhưng chưa chết, tự thân trước khi chết, sau khi bị giết mới chết, chẳng biết có mắc tội nặng hay không?
Đáp: Nếu theo Tiểu thừa, không phạm Ba-la-di. Vì người đó chưa qua đới thành tội. Qua đời rồi về sau giới đã mất. Giới Bồ-tát đã sinh không mất nên vẫn mắc tội Ba-la-di.
Hỏi: Nếu xúi giục người sát sinh, người đó nhận lời rồi không giết. Người dạy có mắc tội không?
Đáp: Y cứ về tâm thì mắc tội nặng. Sau nếu biết không sát sinh mà tâm vui mắc tội khinh phương tiện, sinh sân phạm tội trọng phương tiện.
3. Phương tiện khen ngợi Sát cũng có hai nghĩa: 1-Khen ngợi người sát, có đức tốt.
2-Khen ngợi cách giết pháp có công năng.
Hai nghĩa nầy mỗi nghĩa đều có hai:
1) Nhìn về chưa sát khen ngợi đức khiến sát
2) Nhìn về đã sát khen ngợi đức khiến vui, đều khéo léo xảo dụ dỗ khen ngợi cái hay của việc sát, nên nói rằng phương tiện sát.
Giải thích: Như trong luật nói khen chết, khuyên chết cũng giống như vậy
4. Thấy giết vui theo cũng có hai:
1- Thấy nghe việc giết này đều sinh vui.
2- Thấy nghe người kia chết cũng đều sinh vui.
Hỏi: Ba vị trên đây khác nhau thế nào? Đáp: có ba việc khác nhau:
1- Y cứ theo ba thời, nghĩa là ban đầu chưa y cứ vào dạy giết, sai giết.
2- Y cứ vào chánh giết, khen ngợi có đức. Sau y cứ vào đã sát sinh mà tùy hỷ.
Y cứ vào ba loại:
1- Y cứ vào người hạ vị liền sai sát.
2- Y cứ vào người trung vị tuy không thể sai giết nhưng phương tiện khen ngợi khiến thành sát.
3- Đứng về người thượng vị không thể đối khen nhưng thấy người kia giết lại sinh vui theo, đều mắc tội trọng, nên biết
2. Cho đến chú sát là nơi tướng giết khác nhau, nghĩa là việc mà bốn giai vị trên đã làm. Hoặc dùng dao chém, gậy đánh cho đến chú sát, dùng rất nhiều tướng chú sát rất ít có, nên nói rằng: “cho đến” Như chú vào loài rồng khiến nó chui vào cái vạc.
3. “Nhân sát” v.v... trở xuống là nói việc giết đã làm, nhưng bốn việc giết này lược có bốn cách giải thích.
1- Y cứ vào làm, nghĩa là tự sát là nhân, dạy người là duyên, khen ngợi pháp kia, duyên theo nghiệp đó.
2- Y cứ vào người bị giết.
1) Sai cắt đức mạng sống nên gọi là nhân sát.
2) Cướp vật thực làm dứt duyên sống, khiến cho chết nên gọi là duyên sát.
3) Dùng pháp thành trị. Như mua bán pháp quan, dùng pháp thành sát nên gọi là pháp sát.
4) Như các nhà giết mổ, săn bắn, thường làm nghiệp giết.
3. Y cứ vào đủ duyên
1-Tâm giết làm nhân, dao gậy làm duyên, tạo cõi phương tiện làm giết. Chánh cắt đứt mạng căn làm nghiệp. Bảy duyên nói trên thu nhiếp lẫn nhau, nên biết.
4. Y cứ vào hành, nghĩa là trong Luận Thập Địa gom thành ba ý: 1-Hữu có hai:
Nghĩa là lìa tham, ngoài lìa dao gậy, như thế trong đây lìa nhân lìa duyên.
2- Từ bi là đối trị lìa, là trong đây lìa pháp giết não hại chúng sinh còn không, huống gì có giết, vì lìa quả hạnh, là trong đây lìa nghiệp giết.
Phán biệt trong đó giết chúng sinh, cho đến loài có mạng sống.
Đây có hai nghĩa:
1) Rộng. Nghĩa là nhiếp chung tất cả bảy loại chúng sinh, nên nói là cho đến.
2) Hẹp. Nghĩa là phân biệt với cỏ cây, nên nói “hữu mạng” Du-già chép: “Nghĩa là hơi ấm thọ mạng hòa hợp, hiện còn sống nên gọi là Mạng. “Không được cố giết”, nghĩa là không có nghĩa hại, nên nói không được giết, nhưng lầm với không phạm, nên lại nói rằng:
3) Thứ ba là Bồ-tát nầy trở xuống là nói chế tu thiện hạnh Trong đó có hai:
-Chế khởi thắng tâm-Chế làm việc cứu độ.
Trước nói là Bồ-tát, là nêu người tri giới. “Ưng khởi” là từ ngữ chế lệnh. “Thường trụ” có hai nghĩa:
1) Khởi lòng từ này, v.v... thường ở trong tâm không có lúc nào tạm thời quên, nên nói là Thường trụ. Trước tụ nối nhau, sau thuận với bất động. Lại trước là vô gián sau là thậm thâm. Dùng lòng từ bi sâu dày duyên chung với tất cả chúng sinh hạ vị. Nghĩa là cứu khổ ban vui. Lại dùng tâm hiếu sâu dày duyên riêng thượng vị cha mẹ, sư trưởng, để báo ân cúng dường. Giải thích: Duyên với chúng sinh ở ba giai vị khởi ba tâm này.
1- Đối với oán khởi tâm từ
2- Đối với khổ khởi tâm bi
3- Đối với thắng vị khởi tâm hiếu.
Giải thích: Gồm chung hai loại chúng sinh đều có ba tâm, vì tất cả chúng sinh đều là cha mẹ. Nếu theo Hoa Nghiêm, thì khởi mười tâm. Như trước đây đã nói trong trị hạnh.
2. Phương tiện cứu hộ. Y theo tâm khởi hạnh làm việc lợi ích, phương tiện có hai nghĩa:
1-Khéo léo muốn cho việc làm lợi ích thành tựu.
Khéo muốn làm lợi ích không kèm theo tội lỗi. Cứu hộ có năm nghĩa:
1) Đối với chúng sinh hạ vị làm việc cứu khổ, thuận với tâm từ bi ở trước. Đối với chúng sinh thượng vị làm việc hộ trì thuận với tâm hiếu ở trước
2) Đối với người khổ thì cứu họ khiến được giải thoát, người chưa bị khổ thì đừng để họ khởi.
3) Đối với người khổ thì cứu giúp họ được an vui, đó là cứu hộ.
Vì cứu giúp lìa khổ được vui, vì hộ nên khiến bỏ ác làm lành.
4) Cứu hộ là một việc, nghĩa là cứu vớt chúng sinh vậy
3. Thứ ba trở xuống là tự nói trái với quy chế kết phạm, trong đó trước nói trái phạm quy chế có bốn nghĩa:
1. Đối với chúng sinh không khởi tâm từ đã là lỗi lớn, huống gì làm việc giết. Giết rồi là trọng. Huống gì lại tâm trộm, tâm trộm rất nặng. Huống gì từ chỗ quyết tâm, cho nên sát này rất nặng, còn tâm trộm: tâm giết không hạn lượng, duyên các cảnh không biết đu. “Quyết ý” là tâm giết mạnh mẽ xứng tình với ba thời không xen hở.
“Bồ-tát Ba-la-di-” là kết tên tội. Như trước đã giải thích. Hết phần một Sớ giải Bồ-tát giới Bản
THIÊN THỨ NHẤT
1. Giải thích giới này thành mười môn đồng như trước.
2. Chế ý: Giải thích sơ lược thành mười loại:
3. Nghiệp đạo trọng, là vô lý trộm cắp chướng đạo rất sâu, tạo thêm tội nặng này, không thể nhập đạo.
4. Hoại pháp cấm. Xưa nay các nước đều quy định tội trộm cắp là tội nặng, giới Đại thừa và Tiểu thừa của Phật giáo cũng đều quy định đây là giới nặng của đạo, tục.
Sinh nhiều phiền não, tiền của là chỗ tham ái cùng cực của chúng sinh, vô lý đi cướp đoạt làm não hại người. Vì thế là việc không nên làm.
Tổn hại tiền của và sinh mạng. Tiền của nuôi sống thân mạng chúng sinh, nếu trộm tiền của tức là cướp đoạt mạng sống của họ.
Luận Trí Độ quyển 13, có bài kệ:
Tất cả các chúng sinh
Nuôi sống bằng cơm áo
Hoặc cướp, hoặc trộm lấy
Ấy gọi là cướp mạng
5. Mất giáo hóa: người trộm cắp, tất cả chúng sinh đều không muốn nhìn, huống gì chịu người đó giáo hóa.
6. Gây ra việc cực ác này khiến chúng sinh không còn tin tưởng nữa.
7. Nhơ uế cửa Phật, nghĩa là tiếng xấu vang xa, bị người đời chê bai. Sự nhơ uế này làm liên lụy đến cửa họ Thích, há chẳng phải là lỗi ở đây sao?
8. Trái với chánh hạnh; nghĩa là làm hại hạnh từ bi cứu giúp chúng sinh của Bồ-tát.
9. Mất sáu độ; Đàn ba-la-mật xếp vào sáu độ, trộm cắp thì Đàn ba-la-mật của sáu độ tan hoại.
10. Trái với bốn nhiếp pháp; nghĩa là xếp tiền của vào bốn nhiếp pháp. Nay lại ăn trộm thì bốn nhiếp pháp đều mất hết.
Ý nghĩa của việc chế giới rất nhiều. Nay phân biệt sơ lược mười giới này, nên y cứ theo đây để biết.
Giải thích tên gọi:
Trộm cắp có nhiều tên gọi:
- Cướp lấy, nghĩa là dùng sức mạnh dối, gạt cướp đoạt.
- Dọa lấy: nói việc bí mật gì đó khiến người đó sợ liền đưa vật.
- Trộm lấy: lừa lúc không có chủ lén trộm.
- Không cho mà lấy: nghĩa là vật có chủ, người ta không cho mà tìm cách để lấy.
Dùng bốn từ ngữ này để phân định việc trộm như sau: Cho mà lấy thì không phải trộm, nên biết.
Ở trên cho mà lấy là ăn trộm, như đếm lầm số dư đưa cho, im lặng mà nhận.
Không cho mà lấy là trộm, như đã nói trên.
Không cho mà lấy, không phạm tội trộm, vì tưởng là bạn thân hay tạm dùng.
Trộm lấy, nghĩa là phi lý hao tốn tiền của gọi là trộm. Bốn tên gọi trước hạn cuộc một tên chung nầy vì đốt chôn v.v... cũng ở trong (614) đó, cho nên bỏ một tên trước chỉ nêu một tên này. Ngăn ngừa trộm cắp gọi là giới, từ chỗ đó mà đặt tên, nên gọi là giới trộm.
Thứ lớp:
Là ở mười nghiệp đạo trước là Sát sinh, kế là trộm cắp. Giới này thứ lớp theo giới kia. Trước hại chánh báo, sau tổn y báo cũng thành thứ lớp.
Đủ duyên:
Ba duyên chung như trước đã phân tích, duyên riêng y cứ theo Luận Đối Pháp, mười địa xen lẫn nhau, bảy duyên đồng như trước
Chẳng phải vật của mình.
Nên biết có chủ. Tuy thật có chủ, nhưng nói lầm không chủ cũng không thành tội nặng.
Tưởng có chủ: Vì sao không nói biết mà chỉ nói tưởng? Vì “biết” chỉ là rõ cảnh, còn “tưởng” có cả mê lẫn ngộ. Thiếu duyên thuận theo đây nên có tưởng. Tuy tưởng có chủ nhưng không khởi tâm trộm nên không thành tội nặng.
Có tâm trộm cắp: Tuy tâm nghĩ đến việc trộm nhưng nếu không nêu phương tiện xâm tổn cũng không thành tội nặng.
Nêu phương tiện: Phương tiện tuy khởi nhưng vì tâm đại bi cũng không thành phạm tội.
Có tâm ba độc, tuy hiện hành nhưng nếu vật không lìa khỏi chỗ thuộc về mình thì không thành phạm tội.
Lìa khỏi chỗ.
Thiếu duyên thứ năm là duyên chung nên biết.
Trong duyên riêng, thiếu duyên một, có hai tội:
Trộm vật của mình mà không biết là vật của mình, y cứ theo tâm kết tội phương tiện nặng.
Sau biết là vật của mình, thì phạm tội phương tiện khinh.
Thiếu duyên hai, có 6 tội vì thiếu hai môn đơn và song này.
Y cứ vào cảnh thì có ba:
Muốn trộm vật của người, lấy súc vật thay thế. Trộm các súc vật tưởng vật của người, trộm rồi sau đó dù biết hay không biết đều phạm tội nặng, vì đều là cảnh phạm. Thay thế vật không có chủ. Trộm rồi không biết vật có chủ.
Y cứ theo tâm kết tội phương tiện nặng.
-Thiếu cả hai có ba:
Muốn trộm vật của người, thay thế súc vật là thiếu cảnh, trong đó lại nghi là vật của người là súc vật, là thiếu tâm. Trộm rồi sau đó quyết định hay không quyết định, tất cả đều phạm tội nặng vì đều là cảnh phạm.
Thay thế vật vô chủ, lại sinh nghi là chẳng biết có chủ hay vô chủ. Trộm rồi không biết mắc tội phương tiện nặng, vì một chút thiếu tâm.
Tâm nghi trộm rồi sau đó biết là vô chủ, phạm tội phương tiện nhẹ. Vì biết cảnh thiếu tâm hoàn toàn hay thiếu một phần, nên phạm tội khinh. Trong hai vị trên, mỗi vị đều có ba:
Hai Ba-la-di.
Hai phương tiện nặng. Hai phương tiện nhẹ.
Thiếu duyên ba, có hai thư như tưởng và nghi. Trong tưởng có năm câu:
Y cứ vào bản mê, bản mê có chủ tưởng không chủ, lấy rồi không phạm, vì ba tâm đều thiếu.
Khi biết có chủ không trả lại, kết tội nặng.
Y cứ vào chuyển tướng, nghĩa là muốn trộm vật có chủ, vào đến cảnh được chuyển lầm tưởng vô chủ. Lấy rồi không biết có chủ, mắc tội phương tiện, vì tưởng này không rõ ràng, thiếu phần giữa và sau. Đứng về tiền phương tiện, kết một tội khinh.
Khi biết có chủ không trả lại cũng mắc tội nặng.
Nếu ở người và vật khởi tưởng súc vật. Bản mê chuyển tưởng đều phạm tội nặng. Trong nghi cũng có năm câu:
Y cứ vào bản cảnh trên vật có chuyên, lấy rồi cuối cùng không quyết định thì mắc tội phương tiện nặng.
Lấy rồi sau quyết không trả mắc tội nặng, nếu trả thì mắc tội khinh, kế đồng như câu trước.
Đối với cảnh khác, vật vô chủ, lấy rồi không biết mắc tội phương tiện nhẹ.
Người và súc vật nghi lẫn nhau đều phạm tội nặng. Hỏi: Sao gọi là vật vô chủ?
Đáp: “luật Thiện Kiến” nói: “Con làm việc ác, cha mẹ bỏ đi, sau khi cha mẹ chết, vật này gọi là vật vô chủ, thì vô tội. “Luận Tát-Bà-Đa” chép: Giữa hai nước, trong khoảng trống có vật, gọi là vô chủ. Nếu nước mất, vua bỏ đi, vua sau chưa đến cai trị, trong đó có vật cũng gọi là vô chủ, có tâm lấy dùng đều không phạm.
Kế đến thiếu duyên thứ bốn, vốn không có tâm trộm, chính là vô tội.
Thiếu duyên thứ năm, có hai tội:
Tuy có tâm trộm cắp nhưng chưa khởi phương tiện, người khác gởi tặng vật đến, sinh tâm nhận phạm tội phương tiện.
Không có tâm trả lại phạm tội nặng.
Thiếu duyên thứ sáu có hai:
Tâm vô ký mà lấy cũng phạm tội trọng.
Dùng tâm lành đại bi cứu khổ, thì không phạm.
(614) Như trong phần khai duyên.
Thiếu duyên thứ bảy có hai:
Đến chỗ vật, tưởng là vật của mình thì phạm tội nặng.
Đến chỗ vật sinh nghi mắc tội phương tiện.
-Chủng loại:
Vật quý báu hay tầm thường có bốn loại:
Vật có chủ
Nói về thể của vật
Tâm trộm Cách trộm
Vật có chủ có hai loại: Vật Tam bảo và vật khác. Vật Tam bảo phân biệt có sáu môn:
1. Giải thích tướng
2. Dụng
3. Xuất hóa
4. Đãi tân
5. Chấp nhân 6. Nhẹ nặng.
1. Vật của Phật: Có thuyết cho rằng trộm vật không phạm tội nặng, vì vật của Phật không có tâm ngã sở, không não hại, như Kinh Niết Bàn nói phạm tội Thâu-lan-giá. Như Kinh Thiện Sinh nói:” Có chủ kết tội nặng, vì xâm phạm vật làm tổn hại người tầm thường còn kết tội nặng, huống gì tài vật của bậc tôn quý được trời người cúng dường, vô lý tổn hại há tội nhẹ sao? Tháp thì có thần giữ gìn, tức là có chủ. Nay y theo kinh Bồ-tát giới thì tất cả đều phạm tội nặng. Kinh Niết-bàn y cứ theo thuyết Tiểu thừa:” Nếu trộm vật của Phật và Xá-lợi Phật mà không tác ý thì không phạm. Theo Luận Tát-Bà-Đa chép: “Dùng tâm thanh tịnh cúng dường tự nghĩ rằng: “Người kia là đệ tử, nay ta cũng là đệ tử. ” nghĩ như vậy thì không phạm. Còn khởi tâm trộm lấy thì phạm tội nặng. Nên Luận Ma-Đắc-lặc-già chép: “Trộm tượng Phật và Xá-lợi đủ năm duyên phạm tội nặng, còn giới Bồ-tát này không đợi đủ năm duyên.
2. Pháp và vật đều phạm tội nặng: Nếu trộm kinh luận, Phật nói vì vô giá nên tính theo giấy mực, tất cả đều phạm tội nặng. Kinh Ngũ Bách Vấn chép: “ Không được dùng miệng thổi bụi trên kinh”, bụi trên tượng cũng như thế. Nếu đốt kinh cũ thì phạm tội nặng vì cũng như đốt cha mẹ, nếu không biết có tội thì phạm tội nhẹ. Mượn kinh luận của người khác để sao chép mà không trả lại, phạm tội nặng. Nếu làm hư rách mà người khác không biết, cũng phạm tội nặng. Y cứ theo đây nếu lén đọc rồi ghi lấy, hoặc lén sao chép, tuy không làm hư rách nhưng cách thức trực tiếp nơi vật, nên đều kết tội phạm. Hỏi: Tâm thanh tịnh lấy tượng không phạm, vậy tâm thanh tịnh lấy kinh có phạm không?
Đáp: Phạm, vì tượng là xa kính, còn pháp thì đích thân đọc, hiện đang đọc tụng thì phạm, nên kết tội nặng. Nếu tạo kinh chung cho mọi người, thì tâm thanh tịnh lấy không phạm. Còn tạo tượng tình giới hạn không thông, lấy rồi sinh phiền não, thì cũng phạm. Tăng vật có hai thứ: a.) Rộng lớn, b.) Hạn cuộc. Trong đó có hai trường hợp:
Thập phương thường trụ tăng vật, nghĩa là vật của Tỳ-kheo qua đời, chưa làm pháp thông với mười phương tăng có lấy phần chia nên nói là mười phương hiện tiền, lấy một chút trở lên mười phương, mỗi giới bên tăng đều phạm một tội Ba-la-di.
Hạn cuộc định có hai:
1. Vật của chúng tăng, nghĩa là vật của Tỳ-kheo qua đời, đã tác pháp xong, là thuộc về hiện tiền tăng, hoặc bảy ngày, hoặc mười bốn ngày đều chưa chia vật đó.
Vật của người khác, nghĩa là vật của một Tỳ-kheo và vật như trên đã chia đều phạm tội nặng. Kinh Thiện Sinh nói: “ Trộm vật của Tỳ kheo qua đời, nếu chưa yết-ma thì phạm tội với mười phương tăng. Nếu đã yết-ma thì phạm tội với hiện tiền tăng. Nếu khi qua đời tùy người mất trao vật trộm, theo chỗ đó kết tội nặng.
-Dụng lẫn nhau:
Có hai loại:
Dụng lẫn của Tam bảo Dùng lẫn của Đương phân.
Luật Tăng-Kỳ nói: “Ma-ha-đế dụng lẫn lộn của Phật, Pháp, Tăng, Phật nói phạm tội Ba-la-di. Nay xem xét lại tháp, tượng, kinh, lấy lương thực của tăng, cưỡi súc vật của tăng, sai tăng thanh tịnh, dù một chút cũng phạm tội nặng. Lại ở trong đất của tăng xây Phật đường, tháp, trong đất của tháp viện lấy nước giếng đều phạm tội nặng. Còn theo Lương Hoàng Sám chép:” Không được dùng lẫn lộn vật của Phật và Pháp, do không thể cùng với vật của Phật làm (615) chủ lại không có chỗ rõ ràng, khác với tăng vật thường trụ, chiêu đề lẫn lộn chỗ dùng. Tỳ-kheo làm việc hòa tăng yêu cầu phát thẻ hòa hợp được dùng, nếu dùng tăng vật để sửa chữa tháp Phật y theo pháp lấy, Tăng hòa hợp thì được dùng, không hòa hợp thì khuyên người thế tục sửa chữa. Nếu tháp Phật có vật cho đến một đồng tiền. Vì thí chủ tâm nặng nên xả. Các vị trời và người trong vật này nên tưởng là Phật, là tháp, cho dù bị gió thổi tan nát cũng không được trao đổi của báu để cúng dường. Vì vật trong tháp của Phật không được bán “. Nếu theo văn này, thì vật của tăng được hòa dùng cho Phật pháp, nhưng vật của Phật thì tăng không được dùng. Còn trong Phật đường trải chiếu tăng, trong tăng phòng tôn trí kinh tượng, ngăn ngừa việc tăng thọ dụng chung thành sử dụng lẫn lộn, do vị trí của Tam bảo khác nhau. Nếu tạm đặt hoặc không ngại dùng lý không phạm vậy. Còn Ngũ Bách Vấn Sự chép: “ Vốn chẳng phải Phật đường mà lập tượng trong đó, Tỳ-kheo đúng pháp ngủ trong đó có cách ngăn thì không phạm. ” Do Phật còn tại thế cũng cho đệ tử ngủ chung phòng. Còn Luận Tát-Ba-la-di-Đa nói: “Chung quanh đất tăng không hòa hợp thì không được xây tháp Phật và trồng hoa quả, nếu trong tăng phân chia thì cho, tùy ý cúng dường, hoa thường không giới hạn, tùy chỗ cần dùng mà cúng dường. Nếu trải qua thời hoang đói, ruộng vườn của Tam bảo không phân biệt được, cũng không thể hỏi ai được, nếu tăng hòa hợp thì tùy ý xử phân, nếu nước của tháp, công lực của tháp mà tăng dùng thì phạm tội nặng, nếu công sức do tăng phải trù lượng nhiều ít, không được quá hạn. Quá thì kết tội nặng. Nếu thí chủ cúng thí Tam bảo chung thì được sử dụng không phạm.
2. Nói về đương phân hỗ, trước hết phân biệt vật của Phật có sáu loại:
Vật của Phật bảo phải treo trong tháp cúng dường. Nên Luận Đại Trí Độ chép: “Khi Phật tại thế, thí chủ cúng dường thì sắc thân Ngài thọ dụng. Nếu Phật nhập diệt, nên treo móng tóc trong tháp, tâm thí cúng dường Pháp thân. Pháp thân còn mãi. ”
Vật của Phật thọ dụng, nghĩa là màn trướng, tòa và y bát của Phật, chỉ có kinh tượng là không được dời đổi vì là vật được tất cả trời người cung kính như tháp. Như Kinh Bảo Lương đã nói trên ở trước. Ngũ Bách Vấn chép:” Không được bán lụa trên thân cho Phật để may y cho Phật. Cột trụ ở Phật đường hư hại, thí chủ xin sửa chữa nên cúng thí, tăng không được dùng. Y theo văn này, nền đất của Phật đường, bùn gỗ vàng đá từng làm tượng Phật và thọ dụng, đều được cúng dường, không được chuyển dùng.
Vật của Phật, nghĩa là vật cúng thí cho Phật, khiến thu lợi thêm. Luật Thập Tụng chép: “Vật của tháp Phật cho vay để kiếm lời, Phật nói “cho phép”. Ngũ Bách Vấn chép:” Vật của Phật được bán làm dụng cụ cúng dường”. Lại y theo Hậu Phần Kinh Niết-bàn quyển thượng chép:” Phật bảo A-nan:” Nếu vật đã cúng thí cho Phật hiện tại, tăng chúng phải biết. Nếu sau khi Phật diệt độ, tất cả tín tâm cúng thí vật cho Phật thì nên dụng vào việc đức hình tượng Phật, may y, phướn lộng bằng bảy báu, mua hương dầu, hoa báu để cúng dường Phật. Ngoài ra, không được dùng, dùng thì phạm tội trộm vật của Phật. Còn Ngũ Bách Vấn chép: “Vật của Phật không được dời đến chùa khác, dời thì phạm tội khí. Nếu chúng tăng dời đi thì phải bạch tăng, tăng cho thì không phạm tội. Tỳ-kheo được phép làm tượng Phật, chép kinh, được cho vật không được lấy. Nếu được người nhà Phật thì chứa, không được sử dụng, sử dụng thì phạm tội lớn.
Cúng dường Phật các vật: Luật Tăng-Kỳ chép: “ Nếu cúng dường hoa cho Phật quá nhiều thì được phép đổi mua dầu cho hương đăng, vẫn còn lại nhiều thì nên bán nhập vào tiền của vô tận của Phật. Lại nói có Xá-lợi thì gọi là tháp, không có Xá-lợi thì gọi là Chi-đề. Chi-đề được đặt lọng hoa, vật dụng cúng dường. Nếu nói Phật tham dục, sân si đã dứt, mà dùng những vật cúng dường trong tinh xá là mắc tội việt Tỳ-ni, nghiệp báo nặng. Lại nói: Nếu ngày đại hội Phật đản, được mang đến cúng dường trong tháp Phật. Trên là cúng dường tháp Phật, dưới cúng dường Chi đề. Ngũ Bách Vấn chép: “ Nếu cờ phướn nhiều, muốn làm Phật sự khác, được hỏi thí chủ, thì chủ không cho thì không được làm. Còn Luận Trí Độ nói:” Như vẽ tượng Phật, vì không đẹp nên phá đi thì được, còn vì tâm ác mà phá đi thì phạm tội. ”
Vật cúng Phật: Luật Tứ Phần chép: cúng dường thức ăn tháp Phật, người sửa tháp được ăn. Luật Thiện Kiến chép: Trước Phật, Tỳ-kheo hầu Phật được ăn, nếu không có Tỳ-kheo, thì người tại gia hầu Phật cũng được ăn. Theo văn nầy, mâm dâng cúng Phật người quét dọn tháp được ăn. Sáu vật hạn cuộc Phật như vốn tạo tượng Thích-ca, sau đổi làm tượng Di-đà. Luận Thiện Kiến chép: “ Muốn cúng dường tượng này phạm tội nhỏ. Theo đây, trông cảnh lý thật nghĩa thông, đều trái với tâm thí phạm tội dùng lẫn lộn. Nếu tạo tượng tăng và thiên thần thì lẽ ra phải kết tội, Nếu tâm thí thông, ngưng hầu Phật cúng dường, lẽ ra cũng không phạm. Ngũ Bách Vấn chép:” Dùng sắc thái Phật làm hình chim thú mắc tội. Ngoài ra, vật được cúng dường Phật phải xem xét sáu việc nói trên, phải khéo phân biệt đừng để phạm tội sử dụng lẫn lộn.
-Pháp vật cũng có sáu loại:
1. Vật Pháp bảo phải treo trong tháp cúng dường. Luận Tát Bà Đa chép:” Nếu bố thí cho Pháp bảo phải treo trong tháp, không được viết kinh và nói giới cho người nghe.
2. Vật pháp thọ dụng như các loại pho trật, hòm rương, khăn phủ bàn. Theo như trên là không được dùng vào việc khác.
3. Vật bố thí cho pháp: Luận Tát-Bà-Đa chép:” Nếu nói thẳng, bố thí cho pháp có hai phần: Một phần cho kinh, một phần cho người đọc tụng kinh. Y theo trước, hư rách cũng được thay thế.
4. Vật cúng dường pháp.
5. Vật hiến cúng cho Pháp đều y theo Phật nên biết.
6. Trong vật hạn cuộc cho Pháp.
Nếu vốn là Kinh Đại Phẩm sửa làm Kinh Niết-bàn, lẽ ra chẳng phải tội nặng, nếu sửa luận gom thành ngụy kinh, quyết phán phạm tội nặng. Nếu viết để thí chung thì không phạm tội nặng.
-Vật của tăng có năm loại:
1. Vật của Tăng bảo, Luận Tát-Bà-Đa chép: “Nếu thí cho Tăng bảo thì phàm phu tăng, Thánh tăng không được lấy phần, vì vật này đã thí cho Tăng bảo, vật này phải trả lại cho thí chủ, nếu không thì phải treo trong tháp để cúng dường Đệ nhất nghĩa Tăng. Nếu nói thí cho chúng tăng thì Thánh tăng, phàm tăng đều được lấy phần. Vì nói không rõ, nên người thọ thí phải khéo biết.
2. Vật của Thường trụ tăng: Luận Ma-Đắc-lặc-già nói: “Tâm trộm cắp vật của bốn phương Tăng cho chùa khác, mắc tội nhỏ, trái lại dùng cho tăng nên không phạm tội nặng, dù có đánh chuông cũng phạm tội trộm, tùy theo chỗ xếp vào mà định. Còn Ngũ Bách Vấn chép: “Nếu xin cho Tăng, thì phải bạch Tăng, đem thức ăn cho Tăng ở tại đường, nếu tăng không cho mà mang đi thì phải bồi thường. Không bồi thường thì phạm tội nặng. Y theo văn nầy, nếu vì tăng khiến nhà không có chỗ xin ăn thì cho phép hòa tăng được ăn, không cần đánh chuông. Nếu nhà Tăng trang nghiêm thì đánh chuông được ăn, không cần hòa tăng, nếu đem thức ăn của chùa này nuôi vật chùa khác, theo Luận Ma-Đắc-lặc-già nói trên thì phạm tội nhỏ. Nếu được chùa này sai đi, thì không phạm tội. Nếu lén dùng một chút trở lên đều phạm tội nặng. Lại phá giới và toàn giới phi thời đều thành phạm tội. Nếu có người thỉnh thọ thực đến phòng phi thời an nhiên mà ăn.
3. Vật của tăng mười phương hiện tiền, đem vào của thường trụ cũng phạm tội nặng. So với việc tri kiến giữ lòng người tốt phương tiện hồi thí tăng vật hiện tiền. Vật cúng cho thường trụ mà đem làm lợi ích cho tăng, đều phạm tội nặng, hoặc vì tăng xâm tục, vì tục xâm tăng. Hoặc phi pháp yết ma chia y vật, đều trộm tăng vật mười phương hiện tiện. Hãy khéo suy nghĩ điều này, còn chia ra tội nặng nhẹ, trái với văn đều phạm tội nặng, hãy khéo suy nghĩ việc đó. Tăng vật của bốn chúng, như Tỳ-kheo qua đời đúng pháp làm yết-ma xong thuộc chúng hiện tiền, hoặc không chia mà trộm bán, hoặc chia không đều, hoặc không hòa tăng mà thưởng cho người khác là phạm tội nặng. Xin hãy suy nghĩ kỹ.
4. Vật của chúng tăng: như vốn cúng thí cho tăng chùa này lại đem cho chùa khác, hoặc Duy-na chấp sớ, vượt thứ lớp sai tăng. Hoặc người khác được sớ lén riêng thọ, đều vì tình thí chủ gồm cả Tăng, trái nghịch với thứ lớp, nên phạm tội nặng. Nếu trước đã thọ thỉnh riêng thì sau phạm giới.
5. Là Xuất hóa: Luật Tăng-Kỳ chép: “ Vật của tháp và Tăng hư hỏng bán lẫn lộn phải ghi chép rõ ràng là bán khi nào và trả lúc nào, nếu có việc thay thế giao lại phải ở trong tăng đọc sớ, nói rõ là giao phó cho người sau, trái lại thì kết phạm. ”
Luật Thập Tụng chép:” Vật của tháp hư hỏng thủ lợi, lại dính mắc vào tài sản vô tận của tháp. ”
Luật Thiện Kiến chép: Được bán vật của tăng để làm phòng riêng.
Kinh Thiện Sinh chép:” Người bệnh bán vật của Tam Bảo phải trả lại mười lần. Ngoài ra, Tăng không bệnh thì không khai cho. Trên đây đều chẳng phải là vật quý báu của Phật thì chẳng phải vật của Phật pháp được sử dụng, vì không có nghĩa hồi chuyển”.
Ngũ Bách Vấn Sự chép:” Vật của Phật hư hỏng người nào bán để tự sử dụng thì đồng tội với tội hoại pháp thân, nếu có vật cúng thí cho Phật thì những ngưu nô không được thọ dụng và mua bán đổi chác vật đó. Nếu khí vật bố thí cho quân đội cũng không được thọ dụng. Thứ 4 là Pháp chiêm đãi, y theo văn dưới đây. Có Pháp Sư Đại thừa đến, đón rước cung kính, cấp cho trăm vị vàng ròng. Thập Tụng Luật chép:” Vì người này thay thế bổ xứ vào chỗ ta nên phải cung cấp, bất kể dùng vật gì để cung cấp, lẽ ra phải là vật của hiện tiền tăng, làm pháp hòa được dùng. Luật Ngũ Phần chép:” Nếu người tại gia vào chùa tăng không cho ăn liền khởi tâm chê bai.
Phật nói: “Hãy nên mang cho, còn xấu thì đựng thức ăn”. Lại cho sinh chê bai, Phật nói: “Đồ tốt cho người đó. Y theo đây phải là người ác tìm lỗi tăng, không biết nghiệp đạo. Nếu hai chúng tại gia và các chánh sĩ hiểu biết rõ được vật tăng khó tiêu, tức không nên cho. Kinh Đại Tập chép:” Chỉ là vật của chúng tăng không được cho người thế tục, cũng phải nói đây là vật của ta riêng chúng cho ăn, nhưng ở trong chúng tăng có tổn ích trong pháp cho, nên Luật Tăng-Kỳ chép: “Tổn ích thì nên cho. Tổn là giặc đến chùa đòi các thứ ăn uống, nếu không cho thì chúng sẽ đốt chùa, tuy không nên nhưng phải tùy theo việc mà cho nhiều hay ít. Ích là thợ giỏi sửa chữa tăng phòng, loại liệu công việc của chúng tăng, nên cùng ăn trước hay sau bữa ăn, đầu thoa chân, nước uống phi thời, như ăn uống với cùng vua và các người có thế lực lớn. Đây gọi là ích. Luật Thập Tụng chép: “Cung cấp củi lửa, đèn đuốc cho vua chúa Đại thần, được dùng 19 tiền không cần bạch tăng. Nếu cần dùng nữa thì nên bạch tăng rồi cho. Còn có bọn cướp hung dữ biết thức ăn Tỳ-kheo cần ăn, Tỳ-kheo nói:” Làm thức ăn này cho tăng, không phải làm cho các ông. ” Phật nói: “ Nếu sợ hãi như thế, thì khi họ xin chút ít nên cho, xin phân nữa cũng cho, còn xin hết thì cũng nên cho luôn, đừng vì nhân duyên này mà mắc tội suy não. Luật Thập Tụng chép: “ Người làm thuê suốt ngày, chết không được trong sạch, Phật lượng công của người đó mà cho. Luật Thiện Kiến chép:” Pháp tiếp đãi tịnh nhân, như chia phần cao thấp cao như bậc Sư trưởng thì cúng y thực, thấp thì không được. Y cứ theo các văn như trên. Ngoài ra bất luận là có thể theo đó để thí dụ.
Hỏi: Các chỗ trích dẫn này phần nhiều là Tiểu thừa, làm sao lấy tánh giới Bồ-tát được.
Đáp: Tánh giới Bồ-tát cùng học. Nhiếp Luận chép: “ Văn nên được dùng”.
Hỏi: Bồ-tát giữ tăng vật không cho người nghèo thiếu, há không trái phạm, tổn hại lòng từ bi sao?
Đáp: Đây tức là bi, vì sao? Nếu lấy vật tăng cho người thì cả hai đều mắc tội nhiều kiếp chịu khổ, làm sao gọi là đại bi, vì thế không cho.
-Là người giữ vật của Tam bảo. Kinh Đại Tập 32 chép:” Phật nói: Có hai hạng người có khả năng làm việc Tăng:
1. Bậc có tám giải thoát A-la-hán.
2. Học nhân chứng ba quả như Tu-Đà-Hoàn, v.v.. có khả năng làm việc, Tăng, cúng dường chúng Tăng. Kinh Bảo Lương quyển thượng chép: Phật bảo Ca-diếp: Ta cho hai hạng Tỳ-kheo được làm các việc:
1. Có khả năng trì giới
2. Sợ đời sau dụ như kim cương.-Lại có hai loại:
1. Hiểu được nghiệp báo.
2. Có tâm hổ thẹn và tâm sám hối.
-Lại có hai loại:
1. A-la-hán
2. Tu tám Bối xả.
Nầy Ca-diếp! Ta cho hai hạng Tỳ-kheo này làm việc, tự không phải ung nhọt. ” Phật dạy như thế tức là lời răn mãi mãi, nếu sợ quả báo thì phải đắn đo suy lường.
Thứ 6: là Khinh trọng, môn này đứng về cảnh có ba vị đều phạm tội nặng. Vì tánh và giá đều đầy đủ. Trong ba thứ vật báu và vật Phật pháp thọ dụng luôn cả Tăng vật thường trụ, tăng vật hiện tiền. Đàn việt dốc tin tâm coi nặng về thí vật, hoặc các thứ vật hoa trái, tất cả việc cần dùng riêng tự phí dụng, hoặc đem ra ngoài cho tri thức và bà con Tại gia, tội nặng này chịu quả báo ở địa ngục A-tỳ. Kinh Phương Đẳng chép: “Bồ-tát Hoa Tụ nói rằng: “Năm tội nghịch bốn tội trọng ta cứu được, nhưng trộm vật của Tăng thì ta không cứu được”. Kinh Đại Tập chép:” Tội Trộm vật của tăng tội đồng với năm tội nghịch. Kinh Quán Phật Tam-muội chép: Trộm vật của tăng nặng hơn giết tám mười bốn ngàn cha mẹ. Linh Nham Tự chép:” bây giờ có Tỳ-kheo khách qua đời, đến gặp Quán Thế Am, thấy ghi tội trên bảng đá là lấy củi của tăng để nhuộm đồ, đều bị tội nặng, chẳng nên vì một chút mà không bồi thường. Vào thời Phật Ca-diếp có một vị Tỳ-kheo điều lành trong đám ruộng thấy lúa nhiều, liền lấy bảy hạt để vào miệng; bị đọa vào loài trâu, dùng thân để bồi thường. Luận Đại Trí Độ chép: Vì năm, sáu hạt gạo mà phải đọa làm trâu. Trải qua 500 đời tu chứng quả A-la-hán vẫn còn tự nhai như trâu, đó là Tỳ-kheo Ngưu Ty. Đây là lời răn dạy nghiêm khắc, phải khéo suy nghĩ việc này.
-Nói về trong loại vật khác, có hai:
1. Chủ khác nhau.
2. Phân biệt nghiệp khinh trọng, ở trước nói có 10 thứ:
Giữ gìn vật có chủ. Như Luật Thiện Kiến chép: “Tỳ-kheo vì Tam bảo mà giữ gìn tiền của người. Nếu cẩn thận giữ gìn đóng cửa khóa lại chắc chắn, nhưng kẻ trộm cắp theo lỗ hỏng trộm lấy, hoặc cưỡng bức, giới hạn của chủ chẳng thể cấm được, không cho người giữ vật, nếu trái thì phạm, Tỳ-kheo giữ vật phải bồi thường, không thường thì kết phạm. Luật Thập Tụng chép: “ Nếu nhận vật ký gửi, trông coi cẩn thận, mất thì không thường, không trông coi cẩn thận thì mất phải thường. Nếu có lòng tốt mà làm hư bể thì không phải thường, nay có lòng tốt rửa bát cho người lỡ tay làm vỡ, bồi thường hễ được thì phạm tội nặng.
Vật thí của kẻ trộm không nên nhận. Kẻ trộm vì thí mà trộm tức là duyên trộm. Nếu theo người khác xin tức là xúi giục người khác ăn trộm, nên đều không được nhận. Nên Du-già chép: “Nếu biết vật này là trộm thì không lấy không phạm. Nghĩa y cứ như kia sửa lỗi mà thí. Tính ra cũng nên nhận, vì lòng từ bi thương xót người kia cũng phải nhận, nhưng không theo người đó xin, có lẽ trộm đem đi cúng thí. Giới Tiểu thừa thì có chủ thí mới nhận. Luật Thập Tụng chép: “Giặc trộm vật đến, hoặc lòng tốt thí, hoặc vì người khác lo sợ thí thì được lấy vật này, đừng theo xin, nếu cho thì được lấy, lấy rồi đem nhuộm hoại sắc mà mặc. Có người biết xin lại thì nên trả cho họ.
Đoạt vật của giặc, có hai:
1. Tự
2. Tha
Trong đó có bốn câu:
Tự chưa xả tâm, tưởng trộm chưa thành, đoạt lấy không phạm tội nặng. Nên Luật Ngũ Phần chép: “ Có một Tỳ-kheo bị giặc trấn lột lấy y vật. Sinh nghi hỏi Phật, Phật dạy:” Không phạm, như giới Đại thừa thì phạm tội khinh, vì thuận theo san tham trái với bi tuệ, nên hai tự tâm chưa xả bỏ, giặc đã nghĩ là đã được, lấy cũng thành tội nặng. Vì giặc nghĩ là đã được nên vật thuộc về giặc, nghiệp trộm thành xong. Đoạt thì tự mình thành kẻ trộm, nên luật nói::”Giặc đoạt vật của giặc. ” Luận Tát-Bà-Đa chép: “ Mất vật tâm chưa xả vẫn lấy vật này, tính tiền thành tội nặng.
Tự tâm đã xả bỏ, giặc chưa nghĩ là được, lấy cũng thành tội trọng. Vì trái với tưởng này, nghĩa là đã xả tâm. Vật chẳng phải mình có, đâu cho được lấy. Lấy tính thành tội nặng. Vì trái với tưởng này, nghĩa là đã có tâm xả. Vật chẳng phải mình có, đâu cho được lấy. Lấy tính thành tội nặng, y cứ theo đây. Nếu chưa biết vật bị mất đem ra ngoài sử dụng, sau gặp vật này đoạt lại phạm tội nặng.
Tự tâm đã xả, tưởng giặc chưa được, thành tội nặng không nghi ngờ. Y cứ theo đây, nếu mất vật rồi sau biết chỗ chôn giấu, cũng không được lưu ý lấy và bảo cho người, cho đến chết phạm tội thứ hai của Ba-la-di. Còn Tỳ-Nại-Da chép: “Nếu mất vật, quan đoạt lại trả cho Tỳ-kheo, được lấy không phạm.
Vì người khác có hai:
Nếu đối với giặc khởi sân, đối với giặc khởi tham, là từ thân biết.
Đoạt vật giống như trước. Bốn câu y cứ theo đó.
Nếu khởi tâm từ bi ủng hộ vật Tam bảo thì đoạt lấy không phạm.
Trộm vật của người cúng thí. Nếu đã xả vật thí cho người sau lấy lại phạm tội nặng, nên Luận Đại Trí Độ chép: “ Thí rồi lấy lại cũng thành phạm.
Trộm vật của quan. Luật chép: “Tỳ-kheo không có pháp thu thuế, không đồng thuế quan của người tại gia. Vật của người thế tục, Tỳ-kheo nhận thì mắc tội nặng. Nay vật thuộc có quan, thu thuế hay không thu thuế, lẽ ra phạm tội nặng. Luật tăng-kỳ chép: Quan lấy thuế vật Tỳ-kheo, Tỳ-kheo tìm cách xin miễn, thì không phạm tội nặng.
Ta không cần thiết Vô lý thu thuế ta.
Tát-Giá-Niết-bàn-Kiền Tử chép: “ Không thâu vương khóa chẳng phải trộm.
Hỏi: Củi cây trong núi không thuộc quốc vương, vì sao lấy mà không phạm tội trộm?
Đáp: Ý vua vốn xả, nghĩ là cấp cho bá tánh, nên tùy theo lấy chiếm là chủ. Nếu trong núi có các thứ vật báu ẩn tàng vua không xả mà lấy thì phạm.
Trộm vật của người điên cuồng: Luận Du-già quyển 7 nói:” Y của người điên cuồng có được lấy hay không? Hoặc được không được, thế nào là được lấy? Vì không biết cha mẹ ở đâu, tự giữ vật thí Tỳ-kheo được lấy. Thế nào là không được lấy? Là có cha mẹ v.v... nên biết. Không tự tay cho không được lấy.
Trộm súc vật, Luận Tát-Bà-Đa nói: “Tất cả chim thú ăn còn dư, lấy thì phạm tội Đột-cát-la, y theo giới này mắc tội nặng, như trong ruộng đào hang chuột giấu cũng phạm tội nặng.
Trộm vật của thần, Luật Tăng-Kỳ chép: Trộm vật trong tháp Phật, trong đền thờ Phật mắc tội nặng. Văn Bồ-tát giới nói: “Cho đến vật của quỉ thần, v.. v.... nghĩa là nếu muốn biết quỉ thần cho hay không, phải bói để xả tiếc lẫn.
Trộm vật của quỉ.
Trộm vật của thần.
Đều y cứ theo đây nên biết.
Nói về nghiệp nhẹ nặng có sáu:
Về quả báo mạnh hay yếu, người và vật đều mắc tội nặng. Là tâm nhiếp hộ mạnh mẽ, đồng với Tiểu giới của Thanh văn, trừ các cõi trên cũng phạm tội nhẹ.
Về khổ não nhiều ít, bất luận các cõi, chỉ cần ưu khổ sâu cũng phạm tội nặng, ngược lại là nhẹ.
Về lỗi cứu giúp, bất kể sinh não nhiều ít, chỉ khiến nghèo cùng duyên trước thiếu gặp trộm cướp tánh mạng khó an toàn, lẽ ra tội càng phải nặng.
Về đức, bất luận nghèo giàu, chỉ cần trộm vật của bậc có đức đã phát Bồ-đề tâm, lý cũng nặng.
Về ân nghĩa là trộm vật Tam bảo rất nặng.
Giải thích chung có ba việc trọng khinh nên được biết. Khiến sinh tội nặng khổ não.
Người kia trước thiếu ít khiến mạng nạn hoàn toàn. Tam bảo là có đức hoặc sâu, hoặc cạn.
Cha mẹ, Sư tăng và các vị tu hành, hoặc trộm có đủ ba cảnh: Thiếu một là thứ, thiếu hai là hạ, thiếu ba là hạ hạ, đều y theo rồi dễ hiểu. Vật Tam bảo là trọng, vật của Tăng là tội nặng cùng cực. Những thứ này đứng về tội nặng trong nghiệp đạo lại nói là khinh trọng. Phạm giới nghĩa như thế nên nói là nặng.
Thứ hai: Y cứ vào về thể của vật đã trộm.
Chung cho, phi tình.
Trong phi tình có ba:-Y cứ vào tiền của.
- Y cứ vào sáu trần
- Y cứ vào sáu giới. Câu đầu cũng có ba:
Có tâm ngã sở, có vật giữ gìn, như gấm lụa trong rương. Có tâm ngã sở không vật thủ hộ như ngũ cốc trong ruộng.
Không tâm ngã sở, không giữ gìn vật, như kho tàng dưới lòng đất.
Trộm cắp theo ba dạng này đều phạm tội nặng, nếu y theo văn luật thì đất của Phật và Tăng nếu có kho tàng, tùy xuất thuộc hai vị Phật, Tăng cũng không trả lại chủ, bèn cho vua.
Trộm vật của sáu trần. Luận Minh Liễu chép: “Trộm sắc tội rất nhiều, đứng về sáu căn khởi hạnh phi pháp, như các vị tiên gọi là Hung hành thần thần (đi bằng bụng), người có nọc rắn, làm vị tiên thấy liền phạm. Theo đây, như Bí Phương Yếu Thuật, không cho người thấy trộm cũng phạm tội nặng.
Trộm thanh: Như đọc chú trị bệnh, muốn học phải trực tiếp, nghe thầm thì phạm tội nặng. Còn nghe trộm Kỳ-bà Dược Cổ được hết bịnh.
Trộm hương là ngửi mùi thơm. Trộm vị, nếm mùi.
Trộm xúc y theo thí dụ rất dễ biết.
(618) Về Trộm pháp, như Bí Phương Yếu Thuật người bệnh tâm duyên theo liền hết bịnh, được trực tiếp mới biểu thị cho viết trực tiếp. Tỳ-kheo thọ pháp từ thầy tâm duyên liền hết bịnh, không trả tiền nên phạm tội nặng.
Về sáu giới: Như Luật thập tụng chép: “Nếu ruộng nên nói với nhau được thắng thì phạm tội nặng, không bằng thì phạm tội khinh. Nếu làm tướng lạ quá phần là tội nặng. Đã không nói lý ngay cong thì mắc tội nặng Nghĩa y theo, nếu người kia đã ăn trộm đất của tăng thuộc tướng mình thành, theo lý thì mắc tội nặng. Nếu người kia chưa định thì mắc tội khinh. Nếu chẳng phải lấy phần đất, lẽ ra phạm tội nặng. Trộm nước là theo Luật Tăng-kỳ, nếu Tỳ-kheo vì Phật tăng, hoặc vì mình mà trộm, vũng nước lớn sụp lở đi qua, xuống ruộng phạm Thâu-lan-giá của Ba-la-di. Luận Du-già: “Tính ao chênh lệch quá phần mà dùng nước đầy là phạm tội nặng.
Trộm lửa, nếu lấy lửa trong tăng trù thì nồi lạnh, nên biết trộm gió, như Luận Minh Liễu chép:” Có chú quạt thuốc thoa, Tỳ-kheo trộm xa không cho giá trị phạm tội nặng.
Trộm hư không, nếu ở ranh giới của người khác mà xây dựng lầu gác, vào chỗ trống của người, ngăn cản việc xây cất của họ, nên gọi là trộm hư không.
Trộm hiểu biết là trí tuệ. Trong Luận Minh Liễu, người có thủ đoạn độ người. Tỳ-kheo học không trả tiền phạm tội trộm tri thức. Như thế tất cả phải cẩn thận y theo đó.
Trộm hữu tình, Luật Tăng-Kỳ trộm bốn chân, là đi đến chỗ hẹn, dở chân lên liền phạm tội nặng, chủ cũ đuổi theo, tâm chưa được mất thì phạm tội nhẹ. Luật Thiện Kiến chép: “Trộm chim trong hư không từ cánh đến cánh, từ đuôi đến đầu, trên dưới cũng giống như vậy, đều mắc tội nặng. Y theo giới này, dù chim không chủ nhưng thân chim tự làm chủ, nếu trộm thì phạm tội nặng. Y theo đây, nếu người thợ săn sát sinh mắc hai tội trộm và sát, nếu trộm cưỡi ngựa cũng phạm tội nặng, nghĩa là trộm công dụng.
Trộm vật không chân, Luật Tăng-Kỳ chép: “Rắn trong lồng trộm lấy phạm tội nặng. Hoặc sân mắng rằng:” Vì sao buộc trong lồng? Vì mở ra là chạy mất. Luật Ngũ Phần chép: “Nếu hoại sát cụ thì không phạm, không nên chỉ bày. Luật Thập Tụng, Luận Ma-Đắc-LặcGià chép: “Tự tâm phá lưới, mắc tội Đột-cát-la. Theo giới Bồ-tát này. Nếu dùng tâm trộm để lấy thì phạm. Vì lòng từ mà mở thả thì không phạm. Như trong phần khai duyên dưới đây.
Trộm vật 2 chân: Nếu trộm nam nữ hiền lương làm người thấp hèn, hể dở hai chân liền phạm tội nặng. Nên Kinh Bồ-tát Nội Giới nói:” Bồ tát không cướp lấy dân lành làm nô tỳ. Nếu cha mẹ dẫn đi chơi, không cứu giúp sau lưng lén dẫn trốn đi, đáng lý cũng phạm, phải dạy hiếu thảo dưỡng ngồi mới nhập vào đạo được, mới là chánh hạnh của Bồ-tát.
Hỏi: Lén dẫn nhập đạo, hiện thiếu lệnh của vua, tổn hại quốc vương, há chẳng phải phạm tội nặng hay sao?
Đáp: Nếu là phước của người thất hành tu đạo, giúp cho quốc vương mà được qua chỗ thu thuế. Nên cũng không phạm. Nếu tránh làm việc nặng nhọc cho vua, thân vào đạo lẽ ra cũng không được miễn. Còn nếu không có người sai sử thì phương tiện dẫn làm đệ tử. Nhưng mưu đồ lợi dụng sức của họ chứ không giáo huấn, tức trộm lực dụng vậy. Phải có thầy giúp đỡ, dùng pháp lý dạy bảo, đâu thiếu sai sử mà được báo ân, đâu cho phép họ có phạm. Luật Thập Tụng chép:” Giặc bắt đệ tử đem đi, sư đoạt trở lại phạm tội nặng. Giặc chưa quyết tưởng thì không phạm. Đệ tử tự trốn đi thì không phạm. Theo giới Bồ-tát thì phải chuộc đệ tử, hoặc dùng thân mình thay thế. Nếu đệ tử sau này bị khổ nhiều, chuộc hay thay thế không được, phải đoạt lại thì không phạm. Đồng khai duyên, Luật Thiện Kiến chép:” Trộm tôi tớ phạm tội nặng. ” Luật Thập Tụng chép:'“ Thấy tôi tớ của người bèn nói rằng: “Khổ quá, sao không bỏ điều lành”. Nếu họ giở một chân điều lành phạm Thâu-lan-già, giở hai chân phạm tội nặng, nếu tôi tớ phản bội bỏ đi không xúi giục thì không phạm.
Hỏi: Đuổi sứ đi há chẳng phải phạm công sức hay sao?
Đáp: Hoặc tôi tớ chưa đi tuần. Lực dụng thuộc về hội chủ, lén sai liền phạm. Theo đây thì chỉ trái với tôn chỉ lén sai tất cả đều phạm. Kế là vật khinh trọng đều phạm tội nặng. Nhưng cỏ lá là vật nhỏ nhặt làm tổn hại đạo nghiệp nên phạm tội nhẹ. Trái đây là phạm tội nặng.
-Tâm trộm cắp có hai:
1. Chung
2. Riêng
Trong chung có ba vị:
1. Y cứ vào ba tánh có thiện, ác, vô ký.
2. Y cứ vào ba độc là tham, sân, si.
3. Y cứ vào thời tâm là đầu, giữa và cuối. Trong ba vị đều có bảy câu, nghĩa là ba đơn, ba song, một hợp, gồm chung 21 câu. Các tướng khinh trọng y theo giới trước, đầy đủ trong Quảng Luận.
Trong riêng, Luật Thập Tụng nói có sáu thứ:
1. Khổ thiết thủ
2. Khinh mạn thủ
3. Dĩ tha danh tự thủ
4. Xúc ái thủ
5. Thọ ký thủ 6. Xuất tức thủ.
Trong đó, Xuất tức thủ là tội nhẹ, năm thứ còn lại đều phạm tội nặng. Ma-Đắc-Lặc-già chép:” Tâm cướp đoạt có ba thứ:
1. Cưỡng đoạt lấy. 2. Dùng lời nói lấy
3. Thí rồi đòi lại.
Luật Tứ Phần có mười thứ:
Tâm đen tối: nghĩa là tâm si mê ngu ngốc, giáo hóa chúng sinh nên học theo mê, tùy theo làm kết tội trọng như Ma-Ma-Đế dụng lẫn lộn vật Phật Pháp Tăng.
1. Tà tâm, nghĩa là tâm tham danh lợi, trá hiện thật đức. Tà mạng nói pháp, dối gạt người trước mà được lợi thì gọi là trộm.
2. Tâm Khúc lệ: nghĩa là cho ít, hiềm hận hiện sân đòi nhiều. Hoặc thị hiện uy nộ được tức thành trộm.
3. Tâm Khủng bố: nghĩa là áo bức quát mắng mà lấy, hoặc nói ác báo địa ngục mà lấy, hoặc dùng thế lực của vua quan mà lấy, đều phạm tội nặng.
4. Thường có tâm trộm, thường lấy việc cướp đoạt tài vật làm công việc.
5. Quyết định lấy, nghĩa là trong tâm sắp sẵn phương tiện đã thành. Vì phải khắc quả, động vật thành phạm.
6. Khủng khiếp lấy, nghĩa là thị hiện tướng thân miệng ý, khiến người sợ mà cho vật.
7. Gởi vật lấy, hoặc hoàn toàn chống cự lấy hết, hoặc dùng một chút rồi trả lại.
8. Thấy tiện thời liền lấy, nghĩa là dò xét thấy tiện dịp liền lấy.
9. Giữ gắm lấy, hoặc giả danh nghe uy đức, hoặc thị hiện thân hơn người, hoặc nương gá quan chức, hoặc truyền danh tự của người, hoặc dựa vào lời phân biệt của mình, như vậy các văn trong luật, luận nói đều có ý nghĩa sâu kín khuôn phép thuận theo tâm thanh tịnh của giới Bồ-tát. Nên ghi chép phụ lục điều đó. Mong rằng người tu hành thành thật giữ gìn.
4. Cách thức trộm, có mười thứ:
Viết xong liền phạm, nghĩa là đoạn vật khinh trọng của vị tăng qua đời, hạ bút viết liền phạm. Còn cương duy phán tăng vật phi lý mà dùng. Còn chữ trên sách thuộc về làm rồi có, còn vô lý đoạn được cho. Vô lý đoạn và cho cả hai đều kết tội nặng, Luật Thiện Kiến chép: “Cách ghi chép chữ, viết một đầu phạm tội nhẹ, viết hai đầu phạm tội nặng.
Nói xong thì phạm, nghĩa là đối với lời nói phi lý cắt đứt.
Luật Thiện Kiến chép: Nếu tâm trộm nói lên quyết định là đất của ta, chủ đất sinh nghi phạm Thâu-lan-giá, tên chủ đất quyết định mất thì phạm tội nặng. Nếu đến hỏi tăng.
Tăng Đáp: Đều phạm tội nặng. Nếu trộm hạ thọ thí, còn dùng lời phân biệt dối gạt hoặc không trả lại, đều phạm tội nặng.
Dời cọc phạm tội, Luật Thiện Kiến chép: “ Dời cọc một lần phạm tội Thâu-lan-già, dời hai lần phạm tội nặng. Dù chỉ một sợi tóc, một hạt gạo đều phạm tội nặng, đất sâu vô giá, dây đàn cũng thế. Đây là y cứ vào lượng của đất mà phân biệt.
Đứng về màu sắc khác nhau mà phạm tội: như Luận Tát-Bà-Đa chép: Trên Chiên nậu cù lũ có cây cành lá hoa, ăn trộm lá cho đến hoa trên cây đều phạm tội nặng, vì khác chỗ mầu sắc cũ.
Hoại sắc mà phạm, như mượn y vô ý làm hư rách. Tùy chỗ hư tổn mà kết tội nặng, nên luật nói: “Như hoại sắc”
Chỗ Thiêu chôn mà phạm, như phóng lửa thiêu đốt núi rừng, làm hao tổn tài sản của người, phạm tội trộm, không nên phóng lửa phạm tội khinh cấu.
Tùy trù mà phạm, như Luật Tứ Phần chép:” Trộm ghi số thẻ làm cho số thẻ chi vật bị thiếu, còn người chủ chia vật cho chúng không bình đẳng.
Chuyên xỉ phạm, như Luật Thập Tụng chép: “ Xu bồ, chuyển xỉ di, kỳ tử v.v... đều phạm tội nặng.
Đứng về chú phạm, nghĩa là chú làm hao tổn tài sản của người khác. Như văn chú ăn trộm.
Phạm chung: như thổi vật trong hư không, phá tài sản của người khác. Còn ở đây chưa phân biệt là loại đã có nhiều thứ, đều có thể y cứ theo đây mà biết. Những thứ này cũng nói chung là rời khỏi chỗ cũ. Nhưng giới ăn trộm rất sâu khó giữ dễ phạm, mong những người tu đạo suy nghĩ về điều đó. Nên Luận Thiện Kiến chép:” Giới luật nên suy nghĩ giữ gìn. ”
Giới trọng thứ hai này sự tướng khó hiểu, không thể phân biệt giải thích ý nghĩa vụn vặt của nó, phải khéo suy luận văn, Tiểu thừa còn trở ngại thân miệng như thế, huống chi giới Bồ-tát giữ gìn
Ba nghiệp ý địa rất sâu có thể tình được. Môn thứ sáu nói trên đã xong.
Thứ bảy là Nghiệp của trộm:
Theo Luận Thập Địa và Luận Đối Pháp, quả có ba loại: a/ Quả Dị thục, nghĩa là đọa vào ba đường ác, chịu khổ cùng cực.
Theo Kinh Ưu-Bà-tắc-Giới, quyển bốn chép: “ Nếu người ưa trộm cắp, người này cũng được mầu ác, sức ác, tên ác, đoản mạng. Tài vật tổn giảm, quyến thuộc chia lìa, người bị mất vật sinh nghi. Tuy người gần gũi cũng không ai tin, thường bị hiền thánh quở trách. Nên gọi là quả của nghiệp ác hiện tại. Nếu được thân người thì không có của cải quý giá, dù có được cũng theo đó mà mất hết. Không được cha mẹ, vợ con thương tưởng. Thân thường chịu khổ, tâm luôn sầu não, là một năng lực nhân duyên của người ác. Mọi người phàm chỗ ăn nuốt không có sắc lực, quả ác của người này tai ương lưu lại trong muôn họ.
Theo Luận Đại Trí Độ quyển 13, Phật nói không cho mà lấy có mười tội:
1. Chủ vật thường sân
2. Nghi người
3. Phi thời thực hành trù lượng
4. Bè đảng với người ác, xa lìa hiền thiện.
5. Phá gốc lành.
6. Mắc tội với quan
7. Tài vật không vào
8. Gieo nhân duyên nghiệp nghèo cùng
9. Chết đọa địa ngục
10. Nếu sinh làm người thì nghèo khổ, dù có tiền của cũng bị rơi vào năm nhà:
- Giặc cướp
- Nước lụt
- Lửa cháy
- Phép Vua
- Con hư phá hoại Dù cho cất giấu cũng mất.
Thông cuộc nghĩa là trước thông sau cuộc. Thông có ba loại:
- Về tưởng.
- Về Sự-Về mật ý.
Tưởng: Luật Tứ Phần: “Tưởng cho nên lấy, tưởng của mình, tưởng của phẩn tảo nên tạm lấy, tưởng của bà con đều không phạm. Trong Luật đủ bảy pháp gọi là bà con:
1. Việc khó làm mà làm được.
2. Việc khó cho mà cho được.
3. Việc khó nhẫn mà nhẫn được.
4. Việc bí mật nói với nhau
5. Giúp đỡ lẫn nhau
6. Gặp khổ không bỏ
7. Nghèo hèn không khinh.
Người thực hành được bảy pháp như thế là bạn thân, y cứ theo đây mà suy lường điều đó.
Về sự, như Du-già Giới Bản chép: “ Như Bồ-tát thấy giặc cướp đoạt vật của người, vật của tăng-già, vật của tháp, lấy nhiều vật đã chấp là mình có, buông lòng thọ dụng. Bồ-tát thấy rồi khởi tâm thương xót. Ở người đó phát sinh lợi ích an vui. Tùy theo bị áp bức đoạt lấy, chớ để cho thọ dụng. Tiền của như thế sẽ chịu vô nghĩa vô lợi trong đêm dài. Do nhân duyên này, nên tiền của quý báu đoạt được, nếu vật của Tăng-già thì trả lại cho Tăng-già, vật của tháp thì trả lại cho tháp, vật của hữu tình thì trả lại cho hữu tình. Còn thấy chúng chủ, hoặc viên lâm chủ lấy vật của Tăng-già, của tháp nói là mình có rồi tha hồ thọ dụng. Bồ-tát thấy rồi lựa bỏ việc ác, khởi tâm thương xót, chớ để vì nghiệp tà này mà phải chịu vô lợi ích lâu dài, tùy sức tùy khả năng mà phế bỏ chỗ y cứ của mình. Bồ-tát như thế tuy không cho mà lấy vẫn không phạm mà còn sinh nhiều công đức.
Về mật ý, như Nhiếp Luận dịch vào Đời Lương chép: Vì sao không cho Bồ-tát cướp đoạt của người khác? Vì Bồ-tát giáo hóa chúng sinh không từ vương chủ và cha mẹ mà được.
Hạn cuộc là dù chỉ một niệm khởi tâm lấy liền thành phạm. Kinh Văn-thù Vấn chép:” Nếu sinh ý nghĩ trộm phạm tội Ba-la-di của Bồ-tát.
Thứ chín. Đối trị hạnh, lược phân biệt tư duy mười thứ hành sự.
Khi Bồ-tát trì giới luật nghi cho đến trong mộng còn tưởng cỏ lá không cho mà lấy, huống gì việc đó.
Khi trì giới nhiếp thiện pháp cho đến thân mạng niệm niệm xả thí cho tất cả chúng sinh. Huống chi có lợi ích.
Giới Trì nhiếp chúng sinh, từ bi phương tiện thường niệm lợi ích, đâu thể có việc tổn ích.
Học tập hạnh ít muốn, nghĩa là thấy tài vật của người khác nhiều vô lượng trăm ngàn không có tâm dục, huống gì có việc trộm.
Người biết đủ tuy nằm dưới đất vẫn an vui.
Hạnh bất tham: nghĩa là dù có trăm ngàn tài vật của chúng sinh cũng không có một y nghĩ hướng về mình.
Hạnh đốn xả, nghĩa là đối với một chúng sinh, một niệm đốn xả, hằng sa thế giới tài bảo thân mạng. Như là niệm niệm tận kiếp vị lai ý còn không đủ, như một chúng sinh, tất cả đều như vậy.
Hạnh hoan hỷ, nghĩa là thấy chúng sinh hết nghèo khổ, được giàu sang vô lượng, vui mừng vô tận, được an vui cõi trời.
Hạnh thâm bi, nghĩa là thấy chúng sinh nghèo khổ lòng thương xót rơi lệ không thôi.
Hạnh thù thắng, nghĩa là lập sự giàu vui của trời, người và Niết-bàn Nhị thừa trao cho chúng sinh, chẳng phải cho là đủ, phải được Vô thượng Bồ-đề mới là rốt ráo, đem các hạnh mong muốn tu hành như thế, đâu có các việc trộm cắp. Thứ mười là giải thích văn, có ba nghĩa đồng như trước:
- Dứt nghiệp ác
- Tu hạnh lành.
- Trái quy chế kết phạm.
Trong câu đầu có hai:
Trước nêu lỗi, sau chánh chế. Trong nêu lỗi có bốn:
- Giải thích người trộm cắp.
- Cách thức trộm cắp-Hiển bày tướng trộm cắp.
- Vật bị trộm cắp.
Trong câu đầu tự trộm và xúi giục người trộm đều thành rốt ráo.
Trong đây có hai câu hỏi đáp đều đồng với giới trước rất dễ hiểu
Hỏi: Trước trong tâm sát có bốn, nghĩa là tự tha khen vui. Vì sao trong đây không có hai?
Đáp: Trong văn còn sơ lược, xếp vào phương tiện liền xâm tổn tài vật của người khác. Còn nhiều loại chẳng phải một nên gọi chung là phương tiện. “Trộm nhân... v.v...” là nói cách thức trộm
Bốn loại giải thích này cũng đồng như trước. Nghĩa là: Tự mình làm là Nhân, xúi giục người là duyên, phương tiện là pháp, rốt ráo là nghiệp.
Về chỗ trộm, nghĩa là:
a. Dụng công cướp đoạt tiền của người khác, cướp đoạt làm công của mình, nên gọi là nhân trộm. Còn như bí mật làm ổn định công diệu của mình, cướp lấy nhiều giá trị đều là trộm của người.
Người khác bị trộm phá hoại, khiến cho người đó không được, người trộm kia là duyên.
Về trộm, nghĩa là:
1. Là giặc
2. Giúp giặc làm bạn. Thiết lập là cách thức.
Nhà là nghiệp giặc.
Về cụ duyên
Bên trong có tâm trộm Bên ngoài thiếu tư cụ Thi công tạo tác.
Gởi lên rời chỗ cũ.
Luận Thập Địa chép:” Hai câu đầu là nhân lìa, câu kế là đối trị lìa, nghĩa là phải thí cho. Sau là quả hạnh lìa, huống chi là trộm lấy, đều phải nên biết.
Chỗ có tướng trộm. Trộm lấy vật đó, phương tiện có nhiều thứ. Dưới đến chú trộm nên nêu riêng ra điều đó, y theo giới trước có chữ “cho đến” nên được biết. Dùng tâm chú vật về mình, còn mượn duyên chú kia cướp lấy đều gọi là Chú đạo.
Cho đến hiển rõ chỗ trộm vật ở trong đó.
1. Về chủ, nghĩa là chung năm cõi, chỉ trừ địa ngục, ban đầu từ trời, người cho đến phi nhân, nên nói: “Cho đến quỉ thần”. Nhưng vật có chủ thì phạm, nên nói là có chủ. Lại đoạt vật người khác, còn có thể cướp được vật của người, nên nói cướp vật của giặc.
2. Về vật thể, nghĩa là vật rất nhỏ như đầu cây kim, ngọn cỏ còn không phạm huống gì phạm đủ cả năm.
Thứ hai. “Mà Bồ-tát” v.v.. trở xuống là nói chế tu thiện hạnh. Cũng là Nhiếp thiện giới hạnh, cũng là trị hạnh của người ác kia. Trong đó có hai:
1/. Khởi tâm
2/. Là làm lợi ích
Trong đó phải khởi bốn tâm, nhưng có bốn giải thích:
1. Khởi tâm Phật tánh.
2. Tâm hiếu thuận
3. Từ tâm Bi tâm.
Chữ sinh ở trên quán hạ, trở xuống chữ tâm chung với ở trên. Nên 2 duyên đầu thượng vị còn phải cúng dường, vì sao lại ăn trộm? Hai duyên sau hạ vị còn phải cứu giúp, đâu cho phép trộm cắp. Vì đối trị với trộm cắp nên khởi tâm nầy.
2. Y theo Phật tánh khởi hai tâm: nghĩa là sinh hiếu thuận Phật tánh từ bi. Hai tâm này tuy duyên hai loại chúng sinh thượng, hạ mà thường thuận theo bản tánh bình đẳng, nên nói là Phật tánh tức đồng với chữ Thường Trụ ở giới trước.
Vì Phật tánh này có hai nghĩa nên sinh hai tâm:
1. Nghĩa thường trụ. Kinh chép: Vì thuốc đó mọc ở trong núi. Đứng về nghĩa của bản tánh thanh tịnh này nên sinh tâm hiếu thuận mà tôn kính. Như Bồ-tát Thường Đề thương xót bốn chúng. Còn vì thường trụ tức tùy duyên, tùy duyên tức thường trụ không hai. Vị Bồtát này duyên chúng sinh thường đủ hai tâm. Còn y cứ theo chúng sinh có hai nghĩa:
Sở y Phật tánh có đủ hai nghĩa, như đã phân tích ở trên.
Y theo tạp nhiễm cũng có hai nghĩa:
Duyên thành dường như nghĩa có. Vô tánh tức nghĩa không.
Do đây, pháp nhiễm có tức là nghĩa không. Phật tánh tùy duyên thành nhiễm. Nay văn này không đứng về pháp nhiễm. Chỉ từ hai nghĩa của Phật tánh sau nói hai tâm.
Đứng về tự tánh trụ Phật tánh tại triền, sẽ thương xót sinh tâm từ bi. Về dẫn ra và đến được quả xuất chướng.
Có thể tôn sinh lòng hiếu thuận.
Thường giúp tất cả, v.v... trở xuống là nương theo tâm làm lợi ích, “Thường giúp” là nói lâu dài không đứt quãng. Mọi người là nhiếp không còn gì ở ngoài. “Sinh phước” là nói các thứ vui là nhân. “Sinh vui” là khiến được quả vui. Hai thứ này chung cho cả thế gian và xuất thế gian. Đại thừa và Tiểu thừa đều có thể biết. Theo Dugià, chỉ sinh hiện lạc, vô phước lợi, hoặc các Bồ-tát đều không làm. Cho nên trong đây sinh đầy đủ hai thứ phước vui.
Thứ ba. Mà trái lại trở xuống v.v... là vi phạm quy chế kết phạm, có ba nghĩa:
Trái phạm đoạn ác ở trước, còn phạm quy chế tu phạm sau., nghĩa là trộm vật của người khiến cho họ sinh khổ, sinh tội, trái với phước vui.
Phải lợi ích chúng sinh, nếu không lợi ích chúng sinh thì phạm giới Nhiếp chúng sinh. Đáng thí mà không thí phạm giới Nhiếp thiện pháp. Không nên trộm cắp mà trộm cắp phạm giới Luật nghi, do đó một tội trộm này trái phạm cả ba giới, nên kết tội nặng.
Cứu giúp chúng sinh được phước vui mà lại trộm cắp sinh tội khổ. Rất trái với điều đo nên kết tội nặng. Dưới đây đã chỉ bày tên tội nên biết.
Giải thích giới này thành mười môn đồng như trước: Chế ý: Lược có mười nghĩa:
Vì tội này nặng về nghiệp đạo nên xếp vào mười nghiệp ác. Người phạm tội dâm không thể vào đạo, nên Phật mới đặt ra giới này.
Trói buộc sâu nặng. Ai là gông cùm, xiềng xích trong lao ngục sinh tử. Luận Trí Độ chép:” Dâm dục tuy không não hại chúng sinh, nhưng có công năng trói buộc, nên tội ác rất lớn.
Cội gốc của sinh tử. Do dâm đãng nên sinh tử luân hồi, trôi giạt trong sông ái, chìm đắm trong biển dục vô bờ.
Phá hoại công đức. Luật Tăng Kỳ chép:
Việc đáng sợ nhất
Không gì hơn nữ
Bại chánh hoại, đức
Đều do người nữ.
Tâm ô nhiễm phạm tội Việt ty-ni, giới Tiểu thừa còn như thế, huống gì giới Bồ-tát Đại thừa. Kinh Địa Trì chép:” Bồ-tát sợ sinh tử hơn Thanh văn trăm ngàn vạn lần.
Phá hoại thế gian. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ chép:” ở thế gian, người nam đau khổ đều vì phụ nữ, bất luận thiếu niên hay trung niên, không ai chẳng do nguyên nhân này. Người nữ phá hoại thế gian làm cho pháp thảy đều diệt hết. Trói buộc lớn nhất trên cõi trời không gì hơn nữ sắc. Người nữ ràng buộc các vị trời dẫn đến ba đường ác.
Loạn tâm thanh tịnh. Nghĩa là lửa dục đốt tâm khiến cho mất thiền, mất niệm. Sóng biển dục phá nước định. Vào lưới ma. Liếm mật dính trên dao bén, tham sắc hoa độc. Tổn hại chúng sinh là ý nguyện của ma. Kinh chép: Năm dục là cảnh giới của ma.
Mất thần thông: Vị tiên thấy người nữ khởi tâm mê nên mất thần thông, bị đọa lạc. Như vị tiên Độc Giác có thần thông bay lên núi cao. Sau bị dâm nữ cưỡi cỗ đem xuống nhân gian.
Chướng Niết bàn: Trong luật Tỳ-kheo, dâm dục là giới đầu tiên.
Người phạm giới đời này không được Niết-bàn.
Chướng Bồ-đề. Kinh chép: Năm dục là pháp chướng đạo, làm chướng ngại việc sinh lên cõi trời. Vì nhiều tội lỗi như thế, nên Phật mới chế giới này.
1. Thích danh:
Dâm tức là dâm dục, nghĩa là nam nữ có tâm ái nhiễm mê đắm lẫn nhau. Bên người nữ dâm tư tưởng tà giới là dâm vũ. “Trệ Thư Đa” là tên quyển sách viết về việc dâm. Hoàng Phủ Sĩ An đọc sách này ba năm, say mê đến nỗi không còn biết mùa Xuân, mùa Hạ, cưỡi ngựa không biết ngựa đực, ngựa cái. Nay tâm dính mắc sắc dục cũng gọi là dâm sắc, cũng gọi là dâm hoang. Nên Kinh Thư chép:” Bên trong ho-ang mê theo sắc dục, bên ngoài hoang mê theo cầm thú. Nội điển gọi dâm dục là hạnh Bất tịnh. Nghĩa là tâm ái nhiễm ô gọi là “bất tịnh”, làm việc phi pháp cảnh ô nhiễm giới phẩm thanh tịnh, gọi là “hành”, hành tức là nghiệp, cũng tức là phi phạm hạnh. “Giới”, Phật lập ra để ngừa lỗi nên gọi là giới, từ đó mà đặt tên. Trong kinh này nói người xuất gia phải chấm dứt dâm dục, nên kinh không phân biệt tà chánh, vì tất cả dâm dục đều phải chấm dứt.
Hỏi: Vì sao Bồ-tát tại gia được có vợ con?
Đáp: Tại gia có hai loại: Người đã chứng đắc rồi, nhưng vì giáo hóa chúng sinh nên thị hiện có vợ con, đó là năng lực Phương tiện lực. Kinh Hoa Nghiêm chép:” Khi Bồ-tát Thập Hạnh trì giới thanh tịnh, thì có vô lượng ma nữ đến não loạn, nhưng Bồ-tát không sinh một niệm dục, tâm vẫn thanh tịnh như Phật. Ngoài phương tiện vì giáo hóa chúng sinh, Bồ-tát thà xả bỏ thân mạng chứ không gây thêm tội ác cho người. Như vậy y theo đó đều là phương tiện. Thật sự không có dục tưởng.
Còn giới bản Du-già cho phép Bồ-tát tại gia dùng phương tiện từ dục để giáo hóa chúng sinh. Phương tiện này không khai cho Bồ tát xuất gia, huống gì tâm người chưa được thanh tịnh đồng với Phật.
2. Thứ lớp:
Kinh Thập Thiện Giới chép: “Dâm chỉ ngăn tà dâm, khác với Sát và Đạo, cho nên giới Dâm xếp vào hàng thứ ba. ” Đây là thuận theo thứ lớp mà tổng đoạn là khác.
3. Giải thích:
Thân nghiệp trái phạm sát sinh là phiền não cùng cực, nên đặt ở đầu. Trộm cắp trái phạm kế, Dâm trái phạm kém hơn, hoặc thuận theo tâm tham, nên xếp vào thứ ba.
Hỏi: Như vậy trong giới Thanh văn vì sao giới này đứng đầu?
Đáp: Dâm dục là gốc sinh tử, vì muốn mau đến Niếtbàn nên Phật đặt ra giới này. Còn giới Bồ-tát thì khác nên giới này được xếp vào thứ ba.
Giới Thanh văn đợi phạm mới chế, mà giới bất dâm lại phạm đầu tiên nên Phật đặt ra giới Dâm trước hết. Còn giới Bồ-tát đặt ra không đợi phạm. Vì thuận theo mười nghiệp đạo nên giới này khác với giới Thanh văn.
4. Đủ duyên thành phạm: Trên đây đã giải thích duyên chung, còn duyên riêng y theo luận có cũng có bảy duyên:
Loại hữu tình: Vì không phạm tội nặng, nên thây chết chưa hoại được xếp vào loại hữu tình.
Hỏi: Chỗ này vì sao khác với hai giới trước, có phải phân biệt khác với tự thân lập duyên khác hay không?
Đáp: Vì tự trộm không thành trộm, tự dâm thì thành dâm. Như trong luật nói tự dâm đường sống thì thành tội nặng v.v... Cho nên khác nhau.
Chánh cảnh: Nghĩa là nữ có ba đường, nam có hai đường, chỗ khác không phạm tội nặng.
Khởi tưởng việc này ra việc kia, như chúng sinh tưởng là cây, đạo tưởng là phi đạo, đều không phạm tội Có tâm dâm, vì ngủ mê nên không phạm tội nặng.
Có ba độc, Bồ-tát tại gia có chánh tuệ chế ngự tâm, phương tiện giáo hóa chúng sinh, Phật khai cho không phạm. Còn về xuất gia chẳng khai thì không có duyên này.
Tạo thú: Vì không động thân nghi thì không thành tội nặng.
Hợp cùng cảnh: Nghĩa là vào chừng bằng đầu sợi lông. Nếu kẻ thù bắt buộc khai cho hợp với cảnh, nhưng không được thọ vui.
5. Thiếu duyên: nghĩa là thiếu chung nên biết.
Trong riêng nếu thiếu duyên 1 thì có 2 tội. Thiếu duyên 2 có 6 tội, đồng như trước, nghĩa là khác đường mà tưởng, hoặc biết chắc chắn hay không đều phạm tội nặng. Nếu phi đạo đồng sai, rốt ráo không quyết chắc, y cứ theo tâm thì phạm tội trọng phương tiện. Về sau nếu biết phi đạo thì phạm tội khinh phương tiện. Còn hai đường hiệp một sinh nghi, quyết hay không đều phạm tội trung phương tiện. Nếu quyết chắn thì phạm tội khinh phương tiện.
Thiếu duyên thứ ba, cũng tưởng nghi có hai khác nhau. Tưởng có bốn câu.
Vốn mê: nghĩa là vô tâm phạm tội nặng, ban đầu từ phi đạo, lầm xâm phạm chánh đạo. Sau đó không biết là lầm nên kết tội phương tiện.
Sau đó biết vào đường kết phương tiện nặng. Khác với Tiểu thừa, vì trong duyên thứ năm có khởi tưởng đó.
Còn nghiệp Đại thừa, suy nghĩ là nghiệp tại ý. Phần nhiều y cứ vào tâm mà kết nên khác nhau.
Tâm căn bản đi đến chỗ trọng. Vào đúng chính đường bỗng chuyển hướng tưởng lầm là chẳng phải đường. Phạm rồi biết đạo rõ ràng ngay bản tâm, dù một chút tâm lý cũng phạm tội nặng, vì tâm có nhiều cảnh. Tiểu thừa phải nói theo tâm này.
Hoàn toàn không biết tâm giữa và sau, mắc tội phương tiện. Hai câu giữa có hai nghi:
Nghi đạo là phi đạo, sau tâm biết đạo cũng kết tội nặng.
Sau hoàn toàn không biết nên mắc tội phương tiện. Ngoài ra đạo khác mà tưởng và nghi phạm tội nặng, vì đều là cảnh phạm.
Thiếu duyên thứ bốn có ba câu:
1. Kẻ thù đặt căn của Bồ-tát vào âm của người nữ. Do cắn tay v.v... cấm tâm không thọ vui thì không phạm. Trái lại thì phạm.
2. Nếu Bồ-tát ngủ quên bị người khác dâm, hoàn toàn không biết cũng không phạm.
3. Biết rồi không thọ vui không phạm, thọ vui thì thành phạm.
-Thiếu duyên thứ năm có hai câu:
Y cứ về vị, Bồ-tát tại gia thiếu duyên này không phạm, xuất gia thành phạm
Y cứ vào ba thời, hai tâm nói về tuệ:
Tâm khai hoặc nên phạm phương tiện nặng. Hoặc một tuệ lẽ ra phải thành tội nặng.
Thiếu duyên thứ sáu có hai câu:
Dù có động thân nghĩ đến cảnh chưa đến liền dừng lại thì phạm tội phương tiện.
Đến cảnh sắp và vào chừng đầu một sợi lông liền dừng lại phạm tội phương tiện nặng.
6. Nặng nhẹ: Sơ lược có sáu vị nói lên điều đó:
- Y cứ về cảnh
- Y cứ về tâm
- Hợp biện giải thích
- Y cứ về số
- Y cứ về tạo thú
- Y cứ về tổn Chủng loại. Cảnh phạm có mười:
- Thà chết chưa hoại
- Giao thông với quỉ
- Súc sinh
- Người
- Các người thân
- Em gái, con gái.
- Hai chúng tại gia giữ năm giới, tám giới.
- Hai chúng xuất gia
- Cha mẹ-Bậc Thánh.
Nếu phạm La hán ni thì trước phạm tội nhẹ, sau phạm tội nặng, nên biết.
Y cứ vào tâm cũng có mười thứ.
Có tâm tham tăng thượng, nghĩa là tâm tham mạnh mẽ đối với bậc trước cha mẹ, không có tâm hổ thẹn.
Trung phẩm tham, tuy có tâm hổ thẹn mà mê luyến sâu nặng. Hạ phẩm tham, nghĩa là có hổ thẹn mà không mê luyến sâu nặng.
Y cứ vào về tâm sân, nghĩa là sân tức người khác nên làm việc dâm.
Y cứ vào si, như nói Dục không làm chướng đạo, nên cố ý làm việc đó.
Đủ tham sân, nghĩa là tâm tham phương tiện rốt ráo.
Đủ tham si, nghĩa là lấy tâm si làm phương tiện rốt ráo. Đủ sân si, nghĩa là lấy tâm tham làm phương tiện rốt ráo.
Năm vị trên đều trước phạm tội nặng, sau phạm tội khinh, nên biết.
Vô ký phương tiện si tham rốt ráo.
Thiện tâm phương tiện từ bi tham rốt ráo.
Cũng trước phạm tội nặng, sau phạm tội khinh, nên biết.
Hợp giải thích: có mười loại.
Tâm nặng đối với cảnh nặng ở trước
Tâm vừa chừng đối với cảnh nặng ở trước Tâm nhẹ đối với cảnh nặng ở trước.
Tâm nặng đối với cảnh nặng vừa chừng.
Tâm vừa chừng đối với cảnh vừa chừng.
Tâm nhẹ đối với cảnh vừa chừng.
Tâm nặng cảnh nhẹ.
Tâm vừa chừng cảnh nhẹ.
Tâm nhẹ cảnh nhẹ.
Tâm thượng cảnh trung hạ
Mười loại này đều có nặng nhẹ, y cứ theo việc nên biết.
Đứng về số có năm loại:
Tạm phạm rồi sinh sợ mãi mãi chấm dứt Phạm vài lần về sau tự chấm dứt
Thường phạm vài lần sám hối nối nhau không dứt.
Phạm rồi tiếp tục trọn đời không sửa đổi.
Thấy phạm có ích, không có tâm trì giới, không có ý sám hối, chấp phạm là đúng, cuối cùng cho đến trọn đời, đều trước nhẹ sau nặng nên biết.
Về tạo thú có ba:
- Rất riêng tư
- Ít tránh người.
- Công nhiên hành.
Đều trước phạm tội trước nặng sau nhẹ. Về tổn có năm thứ:
- Như lửa dục thiêu đốt đền thờ trời.
- Phá hoại phạm hạnh của mình và người
- Việc ác lộ ra bị nhiều người chê bai
- Tiếng xấu đồn khắp, phá hoại tín tâm của người.
- Đều phạm tội trước nặng sau nhẹ, nên biết.
Đứng về các giới như xúc chạm, Lậu thất, nói lời thô, mai mối đều không nên phạm.
Kinh Niết-bàn quyển 31 chép: Nếu có Bồ-tát nào tự nói mình giữ giới thanh tịnh. Tuy không hòa hợp với người nữ, nhưng khi thấy người nữ sinh tâm diễu cợt, buông lời đùa bỡn. Như vậy là Bồ-tát đã thành tựu pháp dục, hủy phá tịnh giới, ô nhục phạm hạnh khiến cho giới tạp uế, không được gọi là tịnh giới cụ túc.
Đắc quả, Luận Thập Địa và Luận Đối Pháp cũng có ba thứ:
1. Quả dị thục, đọa ba ác thú chịu khổ dữ dội. quả đẳng lưu, nghĩa là ở trong loài người bị hai vợ tranh nhau, vợ không trinh tiết.
2. Quả tăng thượng, nghĩa là trong loài người bị nhiều kẻ thù bên ngoài tranh đua. Theo Kinh Ưu-Bà-tắc Giới thứ 4 chép:” Nếu vui là tà dâm, người này không thể giữ thân mình và người. Tất cả chúng sinh thấy đều sinh nghi. Nói dối đã nói trên, bất cứ lúc nào cũng thường chịu khổ. Tâm thường tán loạn không thể tu pháp lành. Tài vật tiêu tán hết, có nhiều vợ con mà lòng không tham luyến. Tuổi thọ ngắn, đó là quả ác hiện tại của tà dâm. Khi xả thân vào địa ngục, có thân hình xấu xa, đói khát, kéo dài mạng sống, chịu rất nhiều khổ não. Đây là quả báo nghiệp ác đời sau. Nếu được sinh lên làm người thì thân hình xấu xa, mọi người không muốn nhìn. Không thể giữ được vợ, con trai, con gái. Vì có nhân duyên ác nên đối với ngoại vật không được tự tại. Kinh Đại Bồ-tát Tạng quyển 10 chép: Nầy Xá-lợi Tử, người gần gũi dâm dục thì không việc ác nào chẳng dám làm. Khi quả báo chín muồi thì người đó sẽ chịu nhiều đau khổ. Cho nên ta nói chúng sinh trong thế giới Tam thiên oán ghét không gì bằng dâm dục, vợ con, nữ sắc. Lại nói:” Nếu có chúng sinh đắm trước các sắc dục, thê thiếp, vợ con, thì giống như liếm chút mật ngọt trên lưỡi dao bén, nuốt hoàn sắt nóng, ngồi giường sắt, uống nước đồng sôi. Lại nói: nên biết phụ nữ làm mất hết mắt tuệ của bậc Thánh, cho đến nói rộng hơn, như kinh Chánh Pháp Niệm Xứ chép:” Sắc đẹp, hoa độc, như xúc chạm lửa mạnh, Dục lạc cũng giống như thế, sau chịu nhiều khổ não. Như lửa càng nhiều củi thì lửa đó không thể dập tắt được. Mình và người đều bị thiêu đốt, dục lạc cũng giống như thế. Con thiêu thân cứ lao đầu vào lửa mà không hề biết cái hại của lửa, dục lạc cũng giống như thế, người ngu si không hiểu biết. Lại nói lưới dục người nữ ràng buộc rất chặt chẽ, làm cho chúng sinh trôi lăn trong địa ngục. Thân ràng buộc còn mở được, tâm ràng buộc không thể thoát khỏi, tâm bị sự ham muốn ràng buộc thường chịu nhiều khổ não. Kinh Chân Ngụy Sát na-Môn chép: “Tỳ-kheo có hai việc đọa vào địa ngục
Hoạch thang
Tâm thường nghĩ tâm ái dục. Thích ái kết bạn bè.
Lời của bậc Thánh như thế, ý niệm còn đọa địa ngục Hoạch thang, huống chi thân ngữ tội lỗi càng năng hơn. Luận Trí Độ 13 chép:
“ Lại có mười tội như vậy nên biết. Còn luật nói rằng:” Thà để nam căn vào miệng rắn độc chứ không nên gần người nữ. Vì rắn độc chỉ hại một đời người, còn người nữ thì hại nhiều đời. Rắn hại không vào địa ngục, người nữ hại sẽ vào địa ngục. Rắn độc chỉ hại nhục thân, còn người nữ hại cả pháp thân. Xin những người hiểu biết tự răn dè.
Thông bít. Trước nói về Thông: Bồ-tát tại gia vì giáo hóa chúng sinh nên khai cho không phạm. Như Du-già Giới Bản chép: “ Còn Bồ-tát tại gia thấy có mẫu ấp hiện không lệ thuộc. Tập khí cách thức dâm dục nối tiếp tâm Bồ-tát cầu phi phạm hạnh. Bồ tát thấy rồi nghĩ rằng, đừng để tâm sân hận nhiều mà mất phước. Nếu muốn được tự tại, phương tiện an xử khiến họ phải gieo trồng gốc lành, xả nghiệp bất thiện, trụ trong lòng thương xót, thực hành phi phạm hạnh. Còn Kinh Thanh Tịnh TỳNặng, hỏi: Có trường hợp nào hành dâm mà không phạm giới lại được thành tựu Thi Ba-la-Mật không?
Văn-thù-sư-lợi đáp: Có, trường hợp Bồ-tát vì muốn giáo hóa chúng sinh không tự quán giới.
“Bít” như Kinh Niết-bàn quyển 31 chép:” Lại có Bồtát tự nói tịnh giới, tuy không giao hợp với người nữ, nhưng đùa giỡn nói cười, chỉ nghe tiếng chuỗi anh lạc, vòng xuyến của người nữ cách vách tường liền sinh tâm ái nhiễm, tức thành dâm dục phá giới. Như thế Bồ-tát thành tựu pháp dục, phá hủy tịnh giới. Ô nhục phạm hạnh, khiến giới tạp uế, không được gọi là tịnh giới cụ túc. Nầy người Thiện nam, nếu có Bồ-tát trì giới thanh tịnh, mà không vì giới, không vì Ba-la-mật, không vì Bồđề, không vì Niết-bàn, không vì Thanh văn Bích-chiPhật. Chỉ vì Tối thượng Đệ nhất nghĩa mà giữ gìn tịnh giới. Nầy người Thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát tịnh giới đầy đủ. Tướng đã giải thích nên biết.
-Đối trị hành giả: Đứng về ba nhóm phân biệt, trước hết giới Nhiếp Luật Nghi có hai:
Y cứ về cảnh, nghĩa này như cứt đái bất tịnh v.v.. Trong quán Bất tịnh có nói đầy đủ. Luận Trí Độ có nói năm thứ bất tịnh cụ duyên.
Y cứ về tâm, nghĩa dục niệm này đều từ tà tư duy sinh khởi.
Nếu dừng thì tư dục này bất sinh, nên như thuyết tụng rằng:
Dục là gốc của ông,
Chỉ từ tư tưởng sinh
Nay tà mạng chẳng nghĩ ông
Ngã kim bất tư nhữ
Ông lại không được sinh.
3. Về giới Nhiêu ích hữu tình, Bồ-tát lẽ ra phải dùng vô lượng pháp lành thế gian và xuất thế gian để lợi ích chúng sinh. Chúng sinh khởi phiền não như thế, đáng lẽ phải cứu giúp họ. Vì sao lại tự đem sự ô uế đến cho họ. Cho nên kinh nói:” Thà xả bỏ thân mạng chứ không nên đem tội ác đến cho người. Nếu gây thêm tội ác cho người thì không có việc ấy. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ chép:” Cho đến tranh phụ nữ còn không muốn nhìn. Phá dục để được trí tuệ sáng suốt bền chắc, nên gọi là được giải thoát.
- Giải thích văn: Có ba nghĩa đồng như trước. Nêu lỗi chế đoạn giữa có hai:
- Nêu lỗi chế chung.
- Hiển bày tướng lỗi.
Trong câu đầu (a) là nêu lỗi chế chung. Câu kế (b) nghĩa là dâm uế nhiễm dục không hợp với phạm hạnh, nên nói không được dâm dục với tất cả người nữ, nhưng vì cố phân biệt với sai lầm nên nói không được. Y cứ theo văn này và tập luận v.v... nên biết có cảnh tưởng.
Chỉ bày trong tướng lỗi. Trước hết giải thích để rõ tự, tha trước làm vị trí có bốn trường hợp: Nhân, duyên, pháp, nghiệp cũng giống như bốn giải thích ở trước.
Đứng về năng thích, “Nhân” là bên trong khởi nhiễm tâm tà tư duy, “Duyên” là bên ngoài phấn sáp trang điểm khiến nhiễm. “Pháp” là tư thái, lại nói lời êm ái, lại còn lập các cách thức việc dâm. “Nghiệp” là lấy dâm làm nghiệp nhà.
Y cứ vào giải thích: “Nhân” là chỗ chính, “Duyên” là xoa chà, “Pháp” là cách thi đối, “Nghiệp” là chỉ bảo người khác hành động thành nghiệp.
Y cứ vào thông mà giải thích: “Nhân “ là trong khởi tâm tham. “Duyên” là ngoài cảnh hiện tiền, “Pháp” tạo cõi phương tiện, “Nghiệp” chánh phạm kết nghiệp.
Y cứ vào tự, mà tha giải thích: “Nhân” là tự làm, “Duyên” là giúp người khác thành tựu, “Pháp” là dạy người cách thức. “Nghiệp” là mình và người thành nghiệp.
Các giãi thích về mình và người đã xong.
Kế là giải thích tất cả người nữ nói trên, nghĩa là từ người cho đến súc sinh, nên nói là cho đến súc sinh. Trong Thông có nói mười loại:
1. Súc sinh
2. Trời
3. Quỉ
4. Thần
5. Người
6. Sáu thân
7. Chị em
8. Con gái
9. Mẹ
10. Phi đạo, nghĩa là hạ bộ và miệng đều phạm.
2. Từ câu “Mà Bồ-tát v.v... “ trở xuống là chế trong tu hành điều lành có hai: Trước khởi tâm, sau thành lợi ích. Trước kính bậc trên khởi tâm hiếu thuận, thương xót người dưới mà khởi tâm từ bi. Tâm này được trau chuốt bằng văn ghi chép sau đây, ở đây có đầy đủ.
Thành ích là cứu giúp cho họ hết khổ và đưa họ vào Phật pháp. Tịnh pháp cùng với người là trao cho tịnh giới, giúp cho họ tu hành phạm hạnh. Đây là điều Bồ-tát phải được hành.
3. Từ câu mà trái lại, v.v... trở xuống trái quy định thì kết phạm, trong đó có bốn tội nặng:
Không làm lợi ích trước là trái với chánh hạnh. Huống chi khởi pháp ác đối với người.
Huống chi tham dục lẫy lừng chẳng khác gì loài cầm thú.
Huống chi đối với cha mẹ. Bốn thứ này tuy tội nặng nhẹ khác nhau nhưng đều trái với chánh hạnh, nên đồng kết tội Ba-la-di.
Giải thích giới này thành mười môn đồng như trước.
Chế ý: có mười nghĩa:
Nghiệp đạo nặng, nghĩa là mười nghiệp bất thiện, đường ác nhân quả, mắc tội này không thể vào đạo.
Chẳng phải việc nên làm, nghĩa là dối gạt người tốt, chẳng phải việc của người thế gian làm, huống chi người vào đạo, thì sự thành thật là tốt nhất.
Đóng cửa con đường lành. Luận Đại Trí Độ quyển 13 nói: “Người nói dối, tâm không hỗ thẹn, đóng bít cửa Niết-bàn của cõi trời. Quán biết tội này, cho nên không làm.
Thật ngữ ích, Luận Đại Trí Độ chép: “Lại nữa, quán biết lợi ích của thật ngữ rất lớn. Lợi ích của thật ngữ do mình mà ra, rất dễ được, đó là sức mạnh của người xuất gia. Như vậy công đức của người xuất gia gồm có lợi ích này, tướng của người lành..
Dễ giải thoát. Luận Đại Trí Độ chép:” Lại nữa, tâm của người thật ngữ ngay thẳng dễ được giải thoát, giống như cây thẳng trong rừng rậm dễ lôi ra.
Pháp không nhập tâm. Luận Đại Trí Độ chép:” Phật tử La-vân, tuổi còn nhỏ chưa biết cẩn thận lời nói. Có người đến hỏi: Đức Thế tôn có ở đây không? thì ông nói dối là không có. Lúc không có Thế tôn thì ông nói dối là có. Có người bạch Phật việc này, Phật bảo La-vân đem chậu nước đến cho Ngài rửa chân. Rửa xong, Phật bảo La-vân úp chậu lại. La-vân nghe lời Phật úp chậu lại. Phật bảo đổ nước vào, La-vân theo lời dạy đổ nước vào. Phật hỏi nước có vào không? La-vân thưa không vào. Phật bảo La-vân: “ Người không biết hổ thẹn, nói dối che lấp tâm, đạo pháp không vào cũng giống như thế.
Hoại pháp hạnh. “Luận Đại Trí Độ chép:” Tỳ-kheo Ha-đa tuy hành pháp thí nhưng vì nói dối nên chết đọa vào địa ngục.
Khí u linh: Kinh nói người nói dối thì các vị trời, quỉ thần đều xa lìa không ủng hộ.
Mở cửa tội lỗi. các tội Sát sinh, trộm cắp đều do nói dối trợ giúp mà thành.
Đầy đủ tánh giới và già giới, cho nên thà xả bỏ thân mạng chứ không nên phạm. Bài Kệ trong Luận Bồ-đề Tư Lương chép:
Tuy do nói thật mà chết
Lui mất người vua chuyển luân
Cho đến các thiên vương
Chỉ nên nói lời thật
Giải thích: Vì phạm tánh giới là tội nặng, nên giới này không khai.
1. Giải thích tên gọi:
Chẳng phải xưng thật là dối, khiến cho người khác nghe hiểu là ngữ. Giới ngăn ngừa lỗi này. Đây là từ chỗ trị mà đặt tên. Luận Trí Độ 15 chép: “Nói dối là tâm không thanh tịnh. ”. Muốn dối gạt người nên che giấu sự thật, nói ra lời lạ sinh khẩu nghiệp, đó gọi là nói dối.
2. Giải thích: Trong đây cũng thuộc về ba tội: nói độc ác, nói hai lưỡi, nói thêu dệt. Từ đầu đặt tên vì tướng tội lỗi mà khởi. Luận Đại Trí Độ chép: Trong bốn tội về khẩu nghiệp thì nói dối là nặng nhất, nó nhiếp cả ba việc, trong các pháp nó chiếm nhiều nhất. Nếu thật ngữ thì bốn loại chánh ngữ đều nhiếp hết.
3. Thứ lớp: Trước hết là thân nghiệp, kế đến là ngữ nghiệp. Hỏi: Vì sao chế thân có ba, ngữ có bốn đồng là già giới. Đáp: Vì nó không có tướng nhiếp, nên ở đây xếp chung lại. Giải thích: Văn sau nói hủy và báng xếp vào ba loại khác.
4. Đủ duyên thành phạm. Duyên riêng cũng có bảy:
1. Đối với chúng sinh
2. Khởi tưởng kia
3. Khởi cuồng tâm 4. Che giấu thật sự
5. Đủ ba độc.
6. Nói rõ
7. Người nghe hiểu.
5. Thiếu duyên:
* Thiếu duyên một có ba nghĩa:
- Trung quốc và hiện đại khác nhau. nếu hiểu rõ đều phạm tội nặng. Nếu người nghe không hiểu thì phạm tội phương tiện nặng.
- Nếu phi tình khác nhau và không hiểu thì phạm hai tội phương tiện nặng và nhẹ.
- Nếu nghi thiếu cả hai duyên cũng có ba tội, nhẹ và nặng y cứ theo đó.
Thiếu duyên thứ hai cũng có ba tội:
- Khởi nghĩ trung quốc và biến địa khác khu vực.
- Hiểu rõ phạm tội nặng, không hiểu rõ phạm tội nhẹ.
- Bản mê chuyển tưởng đồng như trên, nên y cứ theo đó.
Thiếu duyên thứ ba, nói chung không phạm vì cuồng tâm, hoặc phạm tội nhẹ, vì không xem xét, nên lầm với người khác.
Thiếu duyên thứ tư có hai nghĩa:
- Đối với có không dối gạt nói có, đối với việc tuy không che giấu vì che giấu là tội nặng.
- Vốn mê tưởng chuyển và nghi đều phạm phương tiện.
Thiếu duyên thứ năm, có hai: nghĩa là không phạm vì tâm lành, hoặc sinh phước vì lợi ích như Du-già nhập vào khai duyên.
Thiếu duyên thứ sáu, mắc tội phương tiện nặng. Vì tuy nói nhanh nhưng người khác hiểu ý. Lại như người câm chỉ cho người cuồng, khiến họ hiểu được đồng với lời nói đều phạm tội nặng.
Thiếu duyên thứ bảy, có ba: Biết người khác không hiểu phạm phương tiện nhẹ, cũng không biết phạm phương tiện(624) nặng. Khiến người khác nghi cũng tội phương tiện nặng.
6. Nặng, nhẹ: Tội này khó giữ dễ phạm, trong đó có hai: Trước chung sau riêng. Luận chung có năm:
1. Vọng ngữ nghiêm trọng.
2. Vọng ngữ bình thường
3. Khởi tưởng nói dối đều trước nặng sau nhẹ
4. Thiếu duyên không phạm 5. Y cứ vào lời nói. Trong đó có ba: Cuồng ân cảnh tôn người, v.v...
Đại chúng nhiều người.
Đối với người khác rất phiền não.
Đáng lẽ mắc tội phương tiện nặng.
- Đứng về sự cũng có ba:
Đứng về pháp xuất thế
Đứng về tịnh pháp nói đắc thiền Đứng về thế sự không thấy nói thấy.
Đều là trước nặng sau nhẹ.
- Đứng về chỗ đã làm có bốn:
Do nói dối được danh lợi của bậc Thánh, và thấy công đức thường hành không dứt.
Được danh lợi thế gian rộng lớn vô lượng.
Suất nhĩ người khác, đối với mình vô ích.
Quy về tránh khổ trước nặng sau nhẹ.
Đứng về tâm, nghĩa là tâm tánh, đơn, song, hợp nhất. Tội nặng nhẹ y theo trước. Tâm ác cũng có ba: Đơn ba, song hợp, hợp khinh trọng, y cứ theo đó.
Y cứ theo lời nói: Luật Thập Tụng chép:” Có người nói nay ta không nhập thế định. Người đối diện hỏi: Ngày hôm qua thì sao? Đáp: Cũng không nhập, thì phạm Thâu-lan-giá. Đều nói tướng gần. Hoặc có người nói:” Tôi là người học. ” Người đối diện nhanh nhẹn hỏi:” Sao gọi là người học? “Liền đáp:” Tôi là người học rộng, lợi căn thiền tụng tuệ, phạm Thâu-lan-già. Nếu nói Vô lậu học thì phạm tội nặng. Hoặc nói: Tôi là Vô học “cho đến đáp rằng:” Biếng nhác không học, phạm Thâu-lan-già. Nói bậc Thánh Vô học, phạm tội nặng.
Giải thích: Theo tông này, y cứ theo nặng nhẹ, nên biết. Còn nói tiếp: Theo phẩm Điều Phục Tâm, Luận Thập Trụ quyển 8 chép:” Dùng năm thứ phân biệt nói dối nặng, nhẹ. Luận kia chép: “ Vì chúng sinh phân biệt, Sự phân biệt, Thời phân biệt, năm chúng phân biệt, Trụ xứ phân biệt thì có nặng nhẹ. Tuy nó dối nhẹ nhưng thói quen lâu ngày thành nặng, nặng thì mất đi tâm Bồ-đề.
Chúng sinh phân biệt là người tà kiến cắt đứt gốc lành và còn rất nhiều phiền não đó là trọng.
Sự phân biệt, như nói pháp hơn người và phá tăng.
Thời phân biệt, người xuất gia nói dối thì tội nặng.
Năm chúng phân biệt như Ba-la-di, Tăng-già-Bà-thi-sa thì phạm tội nặng.
Trụ xứ phân biệt: ở trong tăng nói dối, như nói chứng thì phạm tội nặng.
Giải thích: Văn đây cũng hiển bày rõ nên biết. Các giới khác cũng theo năm giới này nên biết.
7. Đắc quả: Già tội báo sẽ giải thích rõ sau đây. Tánh tội mắc ba thứ quả. Kinh Thập Địa chép: “ Tội nói dối cũng khiến cho chúng sinh rơi vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Hoặc sinh làm loài người có hai thứ quả báo:
Thường bị hủy báng.
Thường bị người dối gạt.
Luận Đối Pháp lại nói về Tăng thượng quả, nghĩa là hạt giống chẳng kết trái.
Luận Trí Độ 13 chép: Như Phật dạy, nói dối có mười tội:
Hơi miệng hôi thối.
Thiện thần xa lánh, phi nhân được dịp gần gũi người đó.
Dù có nói thật người cũng không tin.
Người trí bàn luận thường không tham dự
Thường bị phỉ báng, tiếng xấu đồn vang khắp nơi.
Nói người bất kính, tuy có dạy bảo họ cũng không thừa nhận Thường hay u sầu.
Gieo nghiệp nhân duyên phỉ báng.
Khi chết thường đọa vào địa ngục.
Nếu sinh làm người thường bị phỉ báng.
8. Thông cuộc Trước cuộc sau thông.
Cuộc tức là tự khởi niệm liền phạm. Kinh Văn-thù Vấn, chỉ khởi một niệm vọng tưởng liền phạm tội Ba-ladi.
Thông là vì người mà nói dối không phạm. Du-già Giới Bản chép: Bồ-tát thường vì giải cứu mạng nạn cho hữu tình như: nạn giam cầm của nhà tù, nạn chặt chân, tay, móc mắt, nên nói dối. Bồ-tát tuy bị mạng nạn cũng không nói dối. Nhưng vì cứu thoát hữu tình nên nói dối. Tóm lại, Bồ-tát chỉ vì việc nghĩa lợi ích cho hữu tình, còn tự mình thì không có tâm nhiễm, chỉ vì lợi ích hữu tình mà nói lời lạ. Do đó Bồ-tát nói dối mà không phạm tội lại còn sinh thêm công đức.
9. Đối trị hạnh: Đáng lý trong đây lìa cả bốn lỗi. Nhưng nói dối là đâu tiên nên nêu hết mà thôi. Bồ-tát Nhị địa trong Kinh Thập Địa lìa cả bốn lỗi. Kinh này nói: Lìa nói dối thường nói thật ngữ, đế ngữ, thời ngữ, là Bồ-tát dù cho trong mộng cũng không khởi phú kiến, nhẫn kiến, vô tâm dối gạt người, huống chi là nói dối. Lại lìa hai lưỡi không tâm phá hại, không có tâm khủng bố, không có tâm não loạn. Nghe người này không đến nói với người kia. Hoặc nghe người kia không đến nói với người này. Hoại ở đây nên kia không đến đây nói, kia hoại nên bất phá đồng ý. Mình phá bỏ không để thêm lớn không thích tâm chia lìa, không ưa tâm chia lìa, không thích nói lời chia lìa, không nói lời chia lìa, hoặc thật hoặc không thật. Lại không nói nhiều lời ác khẩu, nói xâm não, nói thô tháo, nói làm khổ người khác, dạy người khác tức giận, nói người trước mặt, lời bất đoạn, lời xấu ác, lời không ai thích nghe, lời không vui, lời sân não, lời như lửa thiêu, lời của tâm nhiệt não, lời không ái, lời không vui, lời không lành tự hại thân mà còn hại người khác. Các lời nói như thế đều xa lìa, chỉ nói những lời hay họ vui đẹp mà thôi. Gọi là nhuận ích ngữ, nhuyễn ngữ, diệu ngữ, hỷ văn ngữ, lạc văn ngữ, nhập tâm ngữ, thuận lý ngữ, đa nhân ái niệm ngữ, hòa duyệt ngữ, tâm biến ý ngữ, có thể sinh tự tâm, tha tâm hoan hỷ, kính tín. Thường nói các lời hay đẹp như thế thì sẽ lìa những lời thêu dệt, thường khéo tư ngữ, thời ngữ, thật ngữ, nghĩa ngữ, pháp ngữ, thuận đạo lý ngữ, Tỳ-ni ngữ, tùy thời trù lượng ngữ, thiện tri tâm sở lạc ngữ. Vị Bồ tát này không nó lời thêu dệt cho đến nói lời không thêu dệt huống gì cố ý nói thêu dệt.
Giải thích: Giải thích đầy đủ văn này như trong Luận Thập Địa quyển bốn nên biết. Còn câu:” Phú kiến, nhẫn kiến”, đều y cứ vào tâm vào cảnh nói có tám thứ phạm, không phạm.
Câu: Bốn thứ phạm là:
Thật có báo nói không Thật không báo nói có.
Hai tâm cảnh này đều trái.
Thật có nghĩa không báo mà nói có
Thật không nghĩa có báo mà nói không.
Hai tâm này không trái với cảnh, đều đứng về thứ lớp thấy tâm nên nói “phú kiến”. Trái với bốn thứ này thì phi phạm. Trong bốn thứ phi phạm, hai thứ trước vừa như tưởng vừa như sự, Hai thứ sau như tưởng mà không như sự, đều nên biết. Luận Kim Cương Bát-nhã Công Đức chép: Trong bốn ngữ v.v... xem xét mà thôi.
10. Giải Thích văn: Ba phần đồng như trước. Nêu lỗi chánh thức chế định, có ba:
Có thể tác phạm, nghĩa là tự mình làm, dạy người làm đều phạm tội nặng. “Phương tiện” nghĩa là mượn việc khác, khiến cho người hiểu khác, nghĩa là như trên đã nói “Nay ta không nhập định thế gian”.
Nhân nói dối, v.v... trở xuống là nói pháp vọng được dùng. Tự làm là “nhân”, dạy người là “duyên”, phương tiện gọi là “pháp”, việc thành gọi là “nghiệp”.
Giải thích:
Khởi tâm dối gạt.
Ngoài làm khuôn phép
Khéo nói pháp vọng
Thường làm thành nghiệp.
Bốn thứ này, mỗi thứ đều riêng, phạm rồi giải thích bốn thứ này thành một phạm, nên biết.
Cho đến v.v... trở xuống là nói dối, trong đó có ba nghiệp:
1/ Trong ngữ nghiệp chỉ sáu thức ở sáu cảnh đều thành nói dối. Nay chỉ bàn về mắt thấy, trừ những thứ khác nên nói cho đến. Về Thân nói dối như trong luật có nói:” Ai được quả La-hán là mặc y Tăng-già-lê. Có phi A la hán nên nói:” “Trước thoát”. Tuy không nói ra bằng lời nhưng thân thành nói dối. Lại như Kinh Thiện Sinh, thân làm khẩu nghiệp là đúng. Tâm nói dối là tâm dối gạt cũng như “phá kiến” nói trên.
“Mà Bồ tát” v.v... trở xuống là Phân biệt, giải thích sỡ hành. Bồ-tát đúng ra phải nói mười thứ chánh ngữ, nghĩa là như việc, như tưởng nên nói là chánh ngữ, chánh kiến. Không tổn ích nên nói là chánh, và khuyên người khác cũng làm việc này.
Mà trái lại, v.v... là Trái với quy định kết phạm, nghĩa là lý phải chánh ngữ, lại khởi ngữ nghiệp tà kiến có hại rất nhiều, nên kết tội nặng. Lại dạy người khác nói dối. Người khác nói phải nên nói tà kiến. Thường làm hạnh điên đảo nên nói tà nghiệp. Bốn giới trên đây, Đại thừa, Tiểu thừa đồng phạm, gọi là cộng giới. Từ đây trở xuống sáu giới Tiểu thừa chẳng phải nặng, cho nên gọi là giới Bất cộng.
Giải thích giới này thành mười môn đồng như trước:
1. Chế ý:
Sơ lược phân biệt mười loại:
1. Thành nghiệp ác khác, nghĩa là say xỉn không việc ác nào không làm, cho đến làm năm tội nghịch.
Luận Đại Trí Độ quyển 13 chép: “Rượu có 36 lỗi:
Làm những việc bất thiện.
Mất hạnh lành khác, nghĩa là do uống rượu say buông lung nên không sinh được việc lành, Việc lành đã sinh đều mất. Luận Trí Độ chép:” Bè đảng với kẻ ác, xa lánh bậc hiền thiện. Không hổ thẹn, không giữ gìn các căn, buông lung sắc dục, bỏ phế pháp lành.
Tổn hại người, nghĩa là khiến người hiện tại tổn hại y báo, chánh báo. Luận Trí Độ chép:” Hiện đời tài vật hao mòn. Vì sao? Người uống rượu say tâm không tiết chế giới hạn, phí dụng vô độ, mở ngõ cho mọi bệnh tật, gốc của sự đấu tranh. Lõa lồ không biết xấu hổ, tiếng xấu đồn xa, không ai kính trọng. Những việc bí mật đều tiết lộ với người, thể lực ngày càng sút kém.
Mất lễ nghi, Luận Trí Độ chép: Không kính Phật pháp tăng, không kính cha mẹ và các bậc tôn trưởng. Vì khi say xỉn mê muội, không phân biệt được gì.
Phá hủy tịnh giới, nghĩa là khi say rượu thì không giữ được giới phẩm. Luận Trí Độ chép:” Làm người phá giới”.
Mất định tuệ, nghĩa là khi say rượu, tâm loạn mất đi trí tuệ sang suốt. Luận Trí Độ chép: Che lấp trí tuệ.
Mở cửa tội lỗi, nghĩa là do khi say xỉn mê muội dẫn đến tấc cả các nghiệp phiền não. Luận Trí Độ chép:
Không nên sân mà sân.
Gieo nhân duyên về sự cuồng si, nghĩa là rượu si khiến sinh ra nhiều cuồng ngu. Luận Trí Độ chép: “Gieo nhân duyên cuồng si. ”
Chướng ngại Thánh đạo, nghĩa là không thể tu tập các đạo hạnh.
Luận Trí Độ chép: Xa lìa Niết-bàn.
Đọa đường ác, Luận Trí Độ chép: Khi chết điều lành đọa vào địa ngục. Nếu được làm người thì thường điên cuồng lẫn thẫn. Vì những điều tác hại như thế nên không bán rượu, cũng không uống rượu. Bài kệ nói:
Rượu mất tướng hay biết
Thân sắc nhỏ mà xấu
Trí tâm động mà loạn
Hổ thẹn đã bị cướp
Thất niệm thêm sân hận
Mất vui hủy tôn tộc
Như vậy tuy gọi uống
Thật là uống chất độc
Không đáng giận mà giận
Không đáng cười mà cười
Không đáng khóc mà khóc
Không đáng đánh mà đánh
Không đáng nói mà nói
Chẳng khác chi người cuồng
Đoạt các công đức lành
Người biết thẹn không uống.
2. Giải thích tên gọi: Làm cho người say sưa mê muội gọi là rượu, mua bán với người gọi là Cô, dứt ác gọi l à giới. Cũng từ chỗ sửa trị đặt tên. chất Trí Độ chép:” Rượu làm cho người động tâm buông lung, vì thế nên không uống rượu.
Giải thích: Luận Đại Trí Độ y theo năm giới nên chỉ ngừa uống.
3. Thứ lớp: Bốn giới trước đồng với bốn giới trọng của Thanh văn. Giới này thì khác nên xếp vào hàng thứ năm. Còn trong năm giới, đây là giới thứ năm, không được uống rượu. Vì uống rượu chỉ tổn hại bản thân mình, tội chưa sâu, nên thuộc về hạ khinh cấu. Bán rượu gây hại cho nhiều người, nên chế tội nặng. Còn Bồ tát trong hai lợi thì lợi tha là nhất. Nhưng trái với lợi ích của chúng sinh
Đã phi lý rồi, huống chi còn làm cho tổn hại, thì chẳng phải là điều thích hợp. Cho nên chưa bàn đến việc tự uống mà trước chế trao cho người.
4. Đủ duyên thành phạm.
Duyên riêng có sáu:
Rượu.
Nghĩ là rượu. Bán rượu.
Tự uống rượu
Trao rượu cho người
Vừa nhận vào tay liền phạm.
5. Thiếu duyên, đều phạm tội nặng phương tiện, bị người ép buộc thì không thành tội bán rượu.
Nặng nhẹ. Lược từ năm vị để nói rõ nặng nhẹ.
Y cứ về sự
Y cứ về cảnh
Y cứ về tổn
Y cứ về tâm Y cứ về hợp biện.
Y cứ về sự có bốn:
Rượu có đậm đặc
Rượu có nhiều ít
Ba thời có ngon dở Có kỳ hạn không.
Đều có nặng nhẹ, y cứ theo nên biết. Y cứ về cảnh có bảy thứ:
Bán rượu cho súc sinh
Súc sinh
Người không có giới
Người năm giới, tám giới
Người xuất gia chưa thọ giới cụ túc Người đã thọ giới cụ túc.
Người thọ giới Bồ-tát đầy đủ.
Đều trước nhẹ sau nặng.
Trong đây có đủ bốn vị trước nhẹ sau nặng, nên biết.
Y cứ về tổn thì có hai:
Trước hết trái với Bồ-tát có bốn loại:
Khiến người uống rượu trở ngại tu nhân nghĩa.
Phế bỏ tu việc lành ở đời Mất việc lành của Nhị thừa Trái với tu đạo Bồ-tát.
Đều trước nhẹ sau nặng nên biết.
Kế đến nói khởi ác cũng có bốn thứ:
Làm cho người uống rượu sinh phiền não.
Gây ra mười nghiệp ác
Phạm bốn tội nặng Gây ra năm tội nghịch.
Đều trước nặng sau nhẹ nên biết.
Kế là nói khởi ác cũng có bốn thứ:
Khiến người uống rượu sinh các phiền não Gây ra mười nghiệp ác.
Phạm bốn tội nặng. Năm tội nghịch.
Đều trước nặng sau nhẹ nên biết.
Y cứ vào tâm có ba thứ: Y cứ vào ba tánh tâm.
Y cứ vào ba thời tâm Y cứ vào ba độc tâm.
* Thiện tâm phạm, nghĩa là hòa tránh còn thương xót người đó mệt nhọc, thiếu thốn và lạnh khổ thọ về rượu nên phạm tội nhẹ.
* Tâm vô ký phạm, nghĩa là tâm yếu cảnh mạnh.
* Ác tâm phạm, nghĩa là có ý tổn hại là tội nặng.
2. Đứng về ba thời, nghĩa là ba tâm tánh trước ở trong ba thời: đầu, giữa và cuối. Đều có nặng nhẹ nên biết.
3. Đứng về ba độc có: ba đơn, ba song, một hợp, nghĩa là tham nhẹ, sân vừa, si nặng.
Tham có hai: 1/ Nếu tham không tự cứu giúp, sợ mạng sống không tồn tại, tạm làm, thì phạm tội nhẹ. 2. Tư duyên không thiếu, tham lợi không chán, nên phạm nặng.
Sân cũng có hai:
Vì hiềm hận trao cho khiến tối tăm si mê, gọi là thuận bản tâm. Khởi Thượng phẩm sân tạo ác, trở ngại việc lành của bản tâm, nên trước nhẹ sau nặng.
Si cũng có hai:
Tự cho là chẳng phải niệm lập lại. Đây là do gạo và nước làm ra, nhưng làm cho người uống say, lẽ phải vô tội, cho nên phải chế.
Thấy có thắng đức, nghĩa là sắc, lực làm lợi ích chúng sinh, dù có ăn uống cũng không có lỗi. Chấp ác kiến này, tự làm hay dạy người, lẽ ra tội rất nặng. Ba song là tham sân (khinh), tham si (trung), sân si (trọng), một hợp là nặng nhất, trên đây có ba khinh trọng 626) nên biết. Ở đây có Cộng giới và Bất cộng giới, y theo đó mà biết.
6. Phạm tội mắc quả báo, như trong kinh có ba nghĩa: Như địa ngục Tửu hà, là tội của người nấu rượu. Địa ngục Tửu Trì là tội của người bán rượu.
Địa ngục Quán khẩu là địa ngục của người uống rượu.
Còn Kinh Thập Luân quyển bốn so sánh tội này bằng một bài tụng:
Mười tội là ép dầu
Đồng tội mở một dâm phòng
Tạo lập mười dâm phòng
Đồng tội mở một quán rượu.
7. Đối trị hành giả.
Bồ-tát nghĩ rằng: Ta phải dùng trí tuệ sáng suốt trao cho chúng sinh, há lại uống rượu điên cuồng với họ, khiến cho tội càng thêm lớn, không thể được. Sơ lược mười việc nên làm cho chúng sinh:
Ta nên trao cho họ thế trí, giúp họ biết được tôn ty, lễ nghĩa, hoặc tu các hạnh hiếu nghĩa.
Nên giúp họ tin sâu Tam bảo, tu các hạnh kính dưỡng, v.v... Nên khiến biết rõ nghiệp quả thiện ác, tránh tội tu phước.
Nên giúp họ biết nghiệp lành xuất thế, tu hạnh xuất ly.
Nên dạy cho biết tất cả hạnh quả của Nhị thừa
Nên dạy cho họ biết tướng thù thắng của hạnh quả Đại thừa.
Phải khiến cho họ biết địa vị, phạm vi của Bồ-tát, như Thập phát thú, v.v...
Dạy họ biết hạnh phải làm của Bồ-tát, nghĩa là nên làm hay không nên làm.
Phải biết quả Phật có thần lực giải thoát Bất tư nghị xứ, khiến họ biết sinh tâm ưa muốn.
Khiến họ biết pháp môn Pháp giới chân tục bình đẳng, vô ngại.
9. Thông cuộc:
“Thông”, nghĩa là khi cứu mạng nạn cho chúng sinh, thì rượu là thuốc nên khai, như sát, đạo, v.v... mà Mạtlợi Phu Nhân đã làm.
“Cuộc” dù cho khởi niệm chừng bằng đầu một sợi lông đều có nghĩa phạm, nên đều đồng như vậy.
10. Giải Thích văn: Có ba phần như trước: Nêu lỗi Chánh chế Giải thích ý. Nêu lỗi, có hai:
Trước nêu vị phạm, nghĩa là tự làm, dạy người làm đều thành phạm.
Phân biệt pháp phạm cũng có bốn trọng và bốn giải thích như sau:
Y cứ vào vị: Nghĩa là tự làm là Nhân, dạy người khác là “duyên”, khéo nói là “pháp”, đồng làm là “nghiệp”.
Y cứ vào năng: nghĩa là đặt men rượu, gạo là “nhân”, chứa các đồ đựng rượu là “Duyên”, hòa hợp là “Pháp”, thường mua bán là “Nghiệp”
Y cứ vào chỗ làm: nghĩa là bán các nhân duyên nói trên cho người là “Nhân”, tự mình đến bán cho người là “Duyên”, chỉ bày cho người cách thức là “Pháp”, đưa và nhận thành “Nghiệp”
Y cứ vào cụ: nghĩa là quy lợi và rượu là “nhân”, tha cầu là “duyên”, trị giá và hàm lượng là “pháp”, đưa và nhận thành “Nghiệp”.
Câu “Tất cả rượu, v.v.. trở xuống là” chánh chế. Theo Luận Trí Độ quyển 13, rượu có ba thứ: Cốc tửu, quả tửu và dược thảo tửu. Hoặc khô, hoặc ướt, hoặc trong, hoặc đục, đều không được uống, dù cho chừng đầu sợi lông, nên nói tất cả các thứ rượu đều không được bán.
Câu: Rượu, v.v... là giải thích ý, rượu là gốc của các thứ tội lỗi, có thể gây ra tội ác nặng nề, có thể phạm giới cấm, đều do rượu gây ra, nên nói sinh các tội duyên. Như Luận Đại Trí Độ quyển 13 chép: Câu “ mà Bồ-tát v.v.. trở xuống là nên sinh minh đạt tuệ giả của chúng sinh, nghĩa là các Bồ-tát pháp nhĩ đều phải khiến các chúng sinh biết rõ nhân qua khác nhau của Tục đế, nghĩa là thông đạt chân đế bình đẳng, nhất vị thắng tuệ, thành hạnh dứt hoặc đắc quả. Đâu cho phép trở lại trao thuốc mê làm cho họ thêm điên đảo. Rất trái với lý nên tội nặng, Văn rất dễ hiểu.
1. Chế ý: Lược có ba:
- Làm hoại tín tâm. Bồ tát lẽ ra phải ủng hộ Tam bảo rộng khắp, che ác bày thiện. Đâu cho phép nói lỗi chúng tăng, làm cho chúng sinh nhàm chán, mất hết tín tâm. Trái hạnh lợi tha, nên Phật chế ra giới này.
- Vời lấy lỗi nặng: Bồ-tát mới phát tâm đâu tránh được lỗi nhỏ nhiệm. Lẽ ra phải khen ngợi thật đức của họ để thành chánh hạnh của mình, nhưng trở lại dùng tâm ác cẩu thả để lột trần lỗi của họ, tự mình gánh thêm tội nặng.
- Trái với ân đức, nghĩa là do ân Tam Bảo và giới pháp phòng thân. Thêm thành thắng đức đại quả. Lẽ ra phải tan xương nát thịt để giữ gìn, mà nay lại dùng lời ác rao nói tội lỗi của người đó, là rất trái với ân đức, nên phải chế ngăn.
2. Giải thích tên gọi: Nói tội lỗi của Tăng ni Bồ-tát tại gia, xuất gia. Nhưng vị cư chưa đủ, nên không ai tránh khỏi tội lỗi. Chẳng phải xướng lên nên nói là “Nói”. Ngăn nghiệp quấy nên gọi là giới. Đây là lời nói, theo đó mà đặt tên. Giới là y cứ theo chỗ ngăn ngừa nên được gọi, đều y theo Luận chủ mà giải thích. Lại nói Tam bảo xấu tốt, như kinh v.v...
3. Thứ lớp: Trong mười giới này, mười giới đầu đồng với bốn giới trọng của Du-già Bồ-tát. Ở giữa lại nói thêm lỗi bán rượu. Bán rượu thô nên giải thích trước, còn thuyết là lời nói nhỏ nhiệm nên bàn đến sau.
4. Đủ duyên thành phạm: Có bảy duyên. Chánh cảnh, như bốn vị của văn.
Hỏi: Trong đây vì sao cấm Tiểu thừa nói lỗi của Tăng Ni?
Đáp: Vì Phật và pháp không có lỗi. Nếu không có lỗi mà nói là hủy báng, nên thuộc mười giới. Người tu hành vị thấp có lỗi, dễ bị chê bai nên chế ngăn.
Khởi tưởng kia Khởi ý nói lỗi
Đối với người ngoài Nghĩ là người ngoài Nói mà rõ ràng.
Người trước mặt hiểu rõ thì thành phạm tội.
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên một, có năm:
1. Từ bốn cảnh tướng khác nhau đều tội nặng:
Chẳng phải cảnh khác nhau nói rồi rốt ráo không biết là phi cảnh.
Đứng về tâm phạm tội nặng phương tiện.
Sau biết phi cảnh không vui, nên phạm phương tiện vừa. Vui tự không phạm nên tội nhẹ.
Mang nghi không biết phạm tội nặng phương tiện Sau biết phạm tội nhẹ phương tiện.
Thiếu duyên thứ hai, cũng có tưởng và nghĩ
1. Trong đó vốn mê sau không biết, sau biết sinh sợ sệt, đều không phạm, hoặc phạm tội nhẹ phương tiện.
2. Chuyển tưởng vì nói lỗi chúng tăng từ tâm vui của mình. Chẳng phải không lỗi.
Sau mới biết mắc tội nặng phương tiện, biết rồi liền phạm tội nặng. Tuy tâm ít nhưng phạm tội nặng.
Thiếu duyên thứ ba, nghĩa là không nói lỗi lầm thì không phạm. Hoặc đang nói pháp kế đến nói luận, hoặc giáo giới người học đều không phạm.
Thiếu duyên thứ tư: Từ chúng đến sai, rốt ráo không biết y cứ vào tâm lẽ ra mắc tội trọng. Sau biết vui hay không vui y cứ theo đây phạm hai tội nặng phương tiện. Nghi cũng đồng như trước, nên biết.
Thiếu duyên thứ năm. Tưởng và nghi y cứ theo trước nên biết.
Thiếu duyên thứ sáu. Nói nhanh không rõ ràng, mắc tội nặng phương tiện.
Thiếu duyên thứ bảy: Người nghe không hiểu rõ ràng cũng phạm tội nặng phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ: Lược có sáu vị:
- Y cứ vào cảnh đã nói
- Y cứ vào người đối diện
- Y cứ vào ngôn từ
- Y cứ vào tâm niệm-Hợp giải thích.
- Y cứ vào tự tha. Trong đó có sáu:
1. Thấy Bồ-tát Địa thượng vì chúng sinh mà tu nghịch hạnh.
Nghĩa là chẳng nói mà nói.
2. Nói lỗi nhỏ của Bồ-tát Tam hiền.
3. Nói lỗi Hòa-thượng, A-xà-lê.
4. Nói lỗi trụ trì truyền pháp
5. Nói lỗi người đồng tu tịnh giới
6. Nói lỗi người phá giới và người không giới.
Sáu thứ này đều là một là nặng, hai là nhẹ, nên biết. Về người đối diện, có năm:
a. Đối với quốc vương, đại thần nói lỗi quấy của các vị ấy, khiến cho họ không còn kính tin, phá hoại Tam bảo.
b. Đối với Ngoại đạo, tìm kiếm lỗi ác của họ để nói, khiến cho người đối diện càng thêm tà kiến, hủy báng Phật pháp.
Nói lỗi cho người tại gia nghe, làm phá hoại tín tâm của họ. Ba vị trên ban đầu thượng, kế đến trung, cuối cùng là hạ. d. Tuy từ chúng mà thích ý nói phạm tội phương tiện. e. Trong chúng nêu tội và nói với thầy của họ dạy dỗ, khiến họ không phạm các lỗi này nữa.
3. Về ngôn tư, có hai: Dùng lời ác thô bỉ để nói.
Dùng lời phù phiếm mà nói, nặng nhẹ nên biết. Nếu viết thư cho mọi người cũng đồng phạm.
Về tâm có ba:
* Về đơn.
Vì tâm si, nói là đức không sợ phá giới. Tâm sân thù oán nói đã rõ tình.
Vì tham lợi dưỡng, nên nói lỗi người khác khiến danh lợi về mình.
Đứng về ba đơn, ba song, một hợp. Đều y cứ theo trước.
Trên đây nặng nhẹ nên biết.
* Về vô ký, tâm khinh thường, vọng niệm mà nói cũng phạm chẳng phải ô nhiễm. Tâm lành vì điều phục nên phải đủ năm đức, v.v.. nếu xem xét mà lấy thì không phạm.
7. Về hợp biện. Là khởi thượng sơ tâm, dùng thượng sơ ngôn đối thượng sơ nhân, nói thượng sơ cảnh là nặng nhất. Ngoài ra tương hợp và phi hợp đều có nặng nhẹ nên biết.
Về tự tha. Mình tự nói lỗi còn nhẹ, dạy người, khuyên người truyền nói khắp nơi càng nặng hơn. Ngoài ra hợp nhau phi hợp nhau đều có nặng nhẹ nên biết.
Phạm tội báo, nói lỗi của Bồ-tát và Tăng ni, phạm tội rất nặng. Như kinh nói: Vào địa ngục Bạt thiệt, kéo lưỡi ra cho trâu cày trên đó, v.v...
Kinh nói Bồ-tát Bất Tư Nghị Quang, Bồ-tát Nhiêu Tài nói lỗi Bồ-tát Hiền Thiện, trong 91 kiếp thường rơi vào bụng của dâm nữ, đời đời bỏ đi, bị cáo sói ăn thịt. Nói lỗi bị khổ não như thế, đủ làm gương sáng cho đời.
8. Tu trị hành giả. Bồ tát thường phải khen ngợi các chúng sinh có công đức, huống chi Bồ-tát và trong tăng ni. Cho nên thường phải khen ngợi vui mừng công đức Tam bảo. Nếu thấy chúng sinh ít làm việc lành thì phải khen ngợi. Kinh Chư Pháp Vô Hành chép:” Nếu thấy người nói giới, thì không được nói lỗi xấu của người đó, phải nghĩ rằng người đó không bao lâu sẽ được đắc đạo. Kinh Niết-bàn chép:” Nếu thấy chúng sinh đó hoàn toàn không thiện, thì phải khen ngợi. Nên nghĩ đến điều lành của Phật tánh mà khen ngợi người đó. Đừng nói lỗi của người mà làm ô nhiễm tâm mình.
9. Thông cuộc:
Nếu với từ tâm nêu tội quở trách, vì điều phục việc ác của người, hoặc nương vào năng lực của vua, v.v... điều phục mà nói thì không phạm. Trái lại, nếu khởi niệm hiềm tâm mà nói, đều thành phạm.
10. Giải Thích văn: Ba phần đồng như trước.
Ban đầu nêu lỗi trong chánh chế có hai: Trước hai vị Tự Tha, nói bốn vị trì giới, nghĩa là ban đầu trì giới Bồtát, sau trì giới Thanh văn, đều là nội chúng trong Phật pháp làm ruộng phước cho trời người nên không cho nói lỗi. Kinh chép;
Hoa Chiêm-bặc dù héo Vẫn hơn các hoa khác Các Tỳ-kheo phá giới Vẫn hơn các ngoại đạo.
Trong kinh lại nói: Có phạm gọi là Bồ-tát, Không phạm gọi là ngoại đạo). Cho nên thấy người đó phạm không được khinh, tuy con bò đã chết, nhưng chất lưu hoàng trong thân nó vẫn lợi ích cho đời. Tỳ-kheo phá giới vẫn có mười công đức sinh lên cõi trời. Như Kinh Đại Bi chép:” Những người xuất gia, tuy tay trái bồng con trái, tay phải bồng con gái, từ quán rượu này đến quán rượu khác, nhưng chưa ra khỏi kiếp Hiền đã nhập Niết-bàn. ” Cho nên thấy có chút tánh Phật pháp đã được, đều phải khen ngợi. Hai tội dùng để nói pháp, bốn môn giải thích đồng như trước.
Về năng thuyết.
Ba độc nhiễm tâm là nói “Nhân” có lỗi.
Tội là vì sở cầu v.v... là nói “Duyên” có lỗi.
Phương tiện lập ra khiến người khác biết nói lỗi là “Pháp”. Thường nói lỗi là “Nghiệp”.
Về sở thuyết.
Không chính thức nói lỗi khác, chỉ nói ngay người đó khiến cho họ biết đó là Nhân có lỗi.
Cũng không chính thức nói lỗi, mà nói ngay nơi việc đã gây tạo của người đó, khiến cho kẻ thù trước mặt biết được tình trạng lỗi, đó là Duyên tội lỗi.
Nói sự trái phạm tịnh giới của người đó, chứ không nói lỗi nhưng người đó vẫn biết.
Nói chỗ thành tội của người, đó là Nghiệp tội lỗi.
-Hợp giải thích:
Trong có tâm nói là “Nhân”. Ngoài gặp cảnh ác là
“Duyên” Từng thấy lỗi là “Pháp” Trình bày thành “ Nghiệp”.
Trong phần giải thích những việc nên làm, trước phân biệt với phi, nghĩa là người ác ngoại đạo nói thông suốt Phật pháp, người trong đạo không trụ chánh pháp, không tu hành luật nghi. Người Nhị thừa không tin Đại thừa, cũng nói người hành Đại thừa phi pháp luật. Còn ở đây là nói về Bồ-tát, trước hết là tăng-ni, như có Tỳ-kheo oai nghi, v.v...
Giáo chính, nghĩa là Bồ-tát nghe đây liền phát bi tâm, không được khởi các tâm tức giận chê trách. Nhưng phải phương tiện giáo hóa khiến chỉ nói lỗi mà sinh niềm tin thanh tịnh. Đây là tạo nghiệp mà nói thường sinh”.
Trong trái với lý nên kết thành phạm, nghe người khác nói lỗi không chịu dạy khuyên, đã vô lý rồi, huống gì còn tự mình giúp các nói lỗi Phật pháp. Rất là tai hại, cho nên kết thành tội nặng.
1. Chế ý: Sơ lược có bốn ý:
Trái với chánh hạnh. Bồ tát lẽ ra phải chứa nhóm mật hạnh bên trong, tán dương tài đức của người. Đâu cho phép trở lại khen mình chê người, rất mất hạnh, nên Phật chế giới này là hủy tha. Vì ngăn ngừa lỗi này nên Phật mới chế giới.
2. Giải thích tên gọi: Nghĩa là không tài đức mà tự phô dương là khen, làm nhục người là hủy. Lại phô trương đức hạnh mình là khen mình, chê bai tài đức của người gọi là hủy tha. Ngăn ngừa lỗi này gọi là Giới.
3. Thứ lớp: Giới trước nói lỗi, tội còn nhẹ. Nay thêm hủy báng là tội càng nặng hơn, cho nên nói sau, giới này cũng nằm trong bốn giới Ba-la-di của Bồ-tát. Vì đặt ở đầu nên phải phân tích trước.
4. Đủ duyên thành phạm: Có đủ sáu duyên: Chánh cảnh tự tha.
Nghĩ là kia Ý khen chê
Đủ duyên thành phạm Chánh thức khen chê
Người đối diện nghe khen chê thì phạm
5. Thiếu duyên:
-Thiếu duyên một, có năm:
1. Tự khen ngợi cũng tội nặng, như Kinh Thiện Giới nói:” nếu Bồ-tát vì tham lợi dưỡng nên tự khen ngợi, thân phạm giới Bồ tát trụ địa.
2. Như thế gọi là Bồ-tát phạm trọng pháp thứ năm. Như vậy văn này nói người bị hủy báng thì phạm tội Nặng.
3. Hủy báng người dù Trương Nhân Vương và cõi khác đến thay thế cũng phạm tội nặng, vì đều là chánh cảnh.
4. Phi tình đến thay thế không biết nên phạm tội nặng. Về sau biết phạm tội vừa phương tiện.
5. Tự khen giới đức mà lầm khen các định cũng phạm tội nặng, vì đều là chánh cảnh.
- Thiếu duyên thứ hai có hai:
Nghĩa là cõi khác và nghi, nên hủy báng đều phạm tội nặng. Nghĩ là phi tình phạm phương tiện nhẹ, nghi phạm phương tiện vừa.
Còn vốn mê chuyển tưởng thì nên biết, đối với giới mà nghĩ là định đều phạm tội nặng.
- Thiếu duyên thứ ba có hai:
1. Tuy không phỉ báng người nhưng không giữ lỗi người khác khiến họ sinh phiền não, phạm tội nặng phương tiện.
2. Nêu tội quở trách vì lòng từ bi không có ý hủy báng, nên không phạm. Hoặc quở trách môn đồ cũng là sinh tín tâm cho người nên tự khen mình, hoặc người khác sinh chê bai, thì phạm tội phương tiện. Nếu sinh tín tâm thì không phạm.
- Thiếu duyên thứ bốn có ba:
Danh riêng, lợi riêng bằng sự tôn kính của môn đồ đáng lẽ cũng phạm tội nặng.
Vì tâm kiêu mạn không làm nên mắc tội nặng phương tiện.
Vì lợi ích chúng sinh nên không phạm. Nhưng vẫn phải suy lường khéo léo. Không được nói tôi chỉ vì lợi ích chúng sinh mà cứu họ, nên vô tội. Đó là tự nói không phạm. Nhưng danh lợi nhỏ nhiệm khó biết, chính mình là giặc phá hoại ở chỗ này. Xin phải tự dè dặt để còn lại đức bên trong.
- Thiếu duyên thứ năm.
Nói không rõ phạm tội nặng phương tiện.
- Thiếu duyên thứ sáu, có hai:
1. Người trước mặt chí lớn mạnh, chống lại không chấp nhận sự chê bai đó.
2. Dù tự khen đức mình nhưng người khác không tin, vẫn phạm tội nặng phương tiện.
6. Nặng nhẹ:
Trong đó có sáu:
- Y cứ theo cảnh-Y cứ theo lời nói.
- Y cứ theo sự đối diện
- Y cứ theo sự tổn giảm
- Y cứ theo tâm-Y cứ theo hạnh.
Câu đầu có hai: Trước nói về cảnh hủy phạm, gồm có bốn.
Người có 1, 2, 3 người hay nhiều người, đại chúng, riêng có bảy:
Bậc Thánh
Bậc Hiền
Thầy mình
Người trụ trì truyền pháp
Những người có đức
Người vô đức
Phi nhân, súc sinh.
Tự khen cảnh có ba:
Thật sự mình không có đức, tự phá giới, không hổ thẹn.
a. Tuy không phá giới nhưng không có đạo hạnh Có giới có hạnh.
Ba thứ này đều theo thứ lớp trước nặng sau nhẹ.
Về lời nói cũng có hai:
Chê bai người có năm:
Chê bai nói lỗi người có đức
Có đức nói không
Nhiều đức nói ít
Không tội nói có tội
Tội ít nói nhiều, khéo khiến cho người khác tin.
Hai cảnh Chung và riêng nói trên đều nằm trong ý này.
Kế là cùng với chẳng phải thứ lớp nặng nhẹ, nên có thể biết trong Tự khen mình có ba:
Tự nói chứng quả thánh
Nói đủ ba việc học
Nói cụ giới bằng vớt nhất học.
Nên biết khinh trọng, trải qua ba việc này ở ba cảnh trước, nếu nói đắc quả thánh. Thì cả ba đều là tên cướp nguy hiểm, xuất xứ từ trong Kinh Phật Tạng. Nếu nói đủ ba việc học và hai vị là giặc. Vị thứ ba thì phi hư. Về hai thứ sau chẳng phải luống dối. Nhưng trước hết người phá giới mà tự nói mình giữ giới thanh tịnh. Ở đây xét hai thứ trước còn chẳng phải là chỗ cực trọng. Nhưng trong Thánh giáo gọi là đại tặc. Huống gì hai vị trước rất là đáng sợ. Luật Thiện Kiến có năm thứ đại tặc:
Phạm bảy nhóm tự nói thanh tịnh v.v... cho đến năm. Theo người khác nghe pháp mà nói tự hiểu, đây là tự khen mình chê người, đều có đơn nhẹ, hai nặng. Trong hai đó có đều nặng mà không có đều nhẹ. Kế đó chẳng phải thứ lớp nặng nhẹ nên biết.
Về chỗ đối đãi trong loài người:
Đối với một người
Đối với nhiều người Đối với đại chúng.
Ba chỗ này có hiện tiền hay không hiện tiền hủy báng đều có tội nặng hay nhẹ.
Về tổn giảm có bốn:
Do hủy báng người truyền pháp khiến một phương không thực hành Phật pháp, tội này rất nặng. Việc này có nói đầy đủ trong Kinh Thập Luân.
Do hủy báng một chúng, khiến người khác bị phá hoại niềm tin mà thêm dị kiến.
Chê bai một vị có đức hạnh chẳng phải là người truyền pháp, khiến cho người sinh khổ não, đều trước nặng sau nhẹ, nên biết.
Tự khen khiến người khác học lối ngạo mạn, cũng có nhiều ít, vì tổn có nặng nhẹ, có nêu theo gốc lành kết thành tội nặng, nên biết.
Về tâm có bốn:
Nếu vì muốn người phát lòng tin nên khen mình chê người thì không phạm.
Nếu do buông lung không có tâm ghi nhớ thì phạm vào ô nhiễm.
Nếu vì người khác có thương giận thì phạm, là ô nhiễm chẳng phải tội nặng.
Tham nổi tiếng, lợi dưỡng, cung kính, là nặng chẳng phải nhẹ.
Trong bốn thứ này có ba phẩm:
Nếu do phiền não hiện hành, chẳng phải dữ dội, hoặc sinh hổ thẹn, đó là yếu phẩm.
Tuy cảm mạnh mẽ nhưng không hổ thẹn, chưa thấy là đức.
Còn có Trung phẩm.
Không hề hổ thẹn, sinh ra nhiều ái, lạc là công đức, gọi là Thượng phẩm tối trọng. Còn ở đây tâm sân si phạm là nặng nhất. Tâm khác thì nhẹ nên không phạm.. Nghĩa nên y cứ theo đây mà biết.
Về hành giả. Người trong Phật pháp phần nhiều y cứ vào bốn vị khởi hạnh, nghĩa là Ba học và Tạp hạnh.
Về kiểu dị có hai loại:
Kiểu dị: nghĩa là tuy không phá giới nhưng không ngay thẳng. Theo chấp tà tư duy, hiện oai nghi lạ lùng, mầu nhiệm huyền diệu của thế gian để cầu danh lợi. Vốn không có tâm thanh tịnh để cầu xuất ly. Nhưng khắp kính người khác chẳng khác, đây là giặc Sa-môn, cũng là giặc oai nghi, như Kinh Ca Diếp và Kinh Bảo Tích nói.
Về hiểu biết cạn cợt, nghĩa là tánh chẳng phải trí sâu, ỷ vào giới hạnh mình cho là xuất ly. Lăng nhục người khác, nương theo giới lăng nhục chúng. Nghe các pháp không liền sinh sợ hãi. Đây là giặc thù trong Phật pháp, xuất xứ từ trong Kinh Phật Tạng.
2. Về Định học có hai loại:
Đứng về tham cuồng, nghĩa là tánh ưa danh lợi sống lâu trong núi. Tâm có một chút bóng lặng, hiện được tướng định, mầu nhiệm của người đối với lấy nhiều danh tiếng. Khắp mọi người không có tướng này, đều cho là phi, đây là giặc A-lan-nhã, rút từ Kinh Hoa Thủ. Kinh này còn nói:” Nạp y ở chỗ vắng lặng, tự xưng là A-lan-nhã.
Về tà mạn, nghĩa là tánh chẳng phải học rộng, vào núi học định, quỉ thần khiến tâm thêm niệm định. Có người thấy họ không khéo giác biết, tức dựa vào đây mà khởi kiêu mạn, sẽ vời lấy nhiều danh tiếng. Lăng nhục Phật pháp, tất cả đều làm thương hại Phật pháp, đây là đại tặc, là bè đảng của ma. Luận Khởi Tín và Kinh Hoa Thủ đã nói.
Về Tuệ học cũng có hai loại:
*Theo nghĩa cạn, nghĩa là tánh kém thông minh, đọc học không thứ lớp, đó là danh lợi hành tâm, gấp dự giảng nói. Kiến chấp của mình ức đoán chẳng chê bai xưa nay, chỉ cầu danh lợi, vốn không ra ngoài ý. Tự ỷ lại mình không thực hành, cũng xem thường giới định. Đây là giặc mua bán Phật pháp, sẽ vời lấy nhiều khổ não, xuất xứ từ trong phẩm Ma Nghiệp của Kinh Hoa Nghiêm
* Về chiều sâu, nghĩa là tánh Sát na-môn phân biệt. Tuy ở Nhị thừa ba tạng ít thông, nên chưa hiểu được ý Phật. Đã phải truyền pháp chỉ khen ngợi tên gọi. lợi để khuyên hậu học, chẳng phải chê bai nguyện mình xưa nay chỉ có một. Ỷ lại đức là khởi kiêu mạn, lăng nhục người chỉ trì tụng thuộc pháp mà không diệt bệnh, lại gánh vác tội nhơ, huống gì trong pháp khởi bệnh, thật không thể nào cứu chữa được. Lạ thay! Trong nước sinh ra lửa, làm sao diệt được. Đây là giặc hại Phật pháp, xuất xứ từ Kinh Phật Tạng và Kinh Thập Luân.
Về Tạp Hạnh cũng có hai loại:
Về phước hạnh, nghĩa là tánh chẳng ngay thẳng, nếu chấp thế gian và tôn sùng phước của người đó, thế nhân mầu nhiệm, vòi lấy nhiều sự cúng dường, mục đích là dùng ít nhữ nhiều, lấy đây để nuôi sống. Được toại ý mong cầu, liền ở chỗ này mà khởi kiêu mạn, lăng nhục người khác không được lợi dưỡng. Nếu tất cả chẳng được lợi dưỡng như vậy, danh tiếng như vậy, dây là giặc bán Phật pháp, xuất xứ từ Kinh Ca-diếp
Về các hạnh, nghĩa là tánh chẳng phải tuệ ngộ. Hễ học được một pháp thì liền phong trước, xem trọng sở học này để vời lấy danh lợi, phế bỏ các chỗ tu đều chẳng phải là rốt ráo. Đây cũng là người ngu, là giặc sâu bọ phá hại Phật pháp.
Trên đây đã lược nêu bốn vị, đáng lẽ phải chung cho tất cả hành đều có cuồng ngụy, đều phải y cứ theo để chọn lựa. Khuyên hậu học đừng để tâm mình rơi vào đó. Xin các vị hãy đọc thêm Kinh Bảo Tích, Kinh Bảo Lương, Kinh Phật Tạng để nuôi dưỡng tâm Bồ-đề, mới có thể làm việc cần thiết.
7. Mắc quả báo: có ba:
Thông Luận, Kinh Hộ Quốc Bồ-tát chép: Bồ-tát có bốn pháp đọa lạc: Không cung kính người Bội ân tà vạy.
Cầu danh tiếng lợi dưỡng Làm ra vẻ tốt, nêu đức.
Chê bai kinh Phật, có mười người hủy báng pháp sư Biện Tích, khiến cho Phật pháp có một phần bị lăng nhục. Mười người này sau khi chết đọa vào địa ngục Bạt Thiệt, trải qua vô lượng kiếp chịu khổ rút lưỡi. Về sau đọa vào loài không có mắt. Cuối cùng gặp Phật Thíchca, xuất gia nhiều đời tu hành khổ hạnh, hoàn toàn không được gì, sau lại bị đọa lạc. Cho đến nói đầy đủ trong luật. Về tự khen, như năm người Phiến-Đề-la, bốn người ngồi trong rừng, một người vào xóm xướng lên rằng:” Trong rừng có các vị La-hán”, liền được sự cúng dường lớn. Sau đọa vào địa ngục chịu đủ khổ não. Sinh lên làm người khiêng kiệu cho thí chủ cũ và giữ các vật dơ bẩn, cho đến trong văn luật có nói đầy đủ.
Tu trị hành giả có ba nghĩa:
Bồ-tát thường tự hiển rõ lỗi mình khiến người khác nghe biết. Không có một niệm tâm che giấu, đêm rằng sẽ lớn thêm nên lo khó diệt. Đối với công đức của mình thường không nói rõ. Không khởi một niệm tâm khen mình, Lo sợ tổn giảm nên không dám thêm.
Bồ-tát đối với hữu tình, thường không thấy việc, xấu mà chỉ thấy việc lành. Cho nên nhận việc ác về mình, suy việc lành cho người, thì tâm thường thanh tịnh. Đây là việc thường thực hành.
Hỏi: Nếu tự mình không ác mà nhận, người không tốt lành mà suy, há chẳng phải tà vạy và nói dối hay sao?
Đáp: Tự mình không đủ, vọng được không mất. Nghĩa không mất đó chỉ có mình Đức Phật, vì hệ lụy đã hết. Còn người không tốt lành, nhưng còn có Phật tánh tức chân thiện. Nếu nghĩa đến đây mà suy, chẳng phải thật không tà vạy, cũng không nói dối, mới phát đủ vô lượng gốc lành, khiến cho giới thanh tịnh, nên gọi là Trì. Bồ tát thường phải nhờ tiếng tăm mà khởi lợi dưỡng, nhiều lợi dưỡng thì không ở chỗ đó, vì làm tổn hại. Luận chép:” Thương hại như sương móc, làm tổn mầm mộng công đức, như đầu sợi lông là tổn hại nhiều. Như pháp đã được còn phải tránh xa. Kinh chép: “Lợi dưỡng đến còn phải tránh xa ngoài ba do-tuần, huống gì dùng khen chê phi lý để được hay sao?” Cho nên Bồ-tát lẽ ra không nên làm. Kinh Bồ-tát Hộ Quốc chép:” Bồ-tát có bốn pháp phải xả bỏ:
Bồ-tát xả bỏ nhà mình ở.
Đã xuất gia rồi không còn ham lợi dưỡng
Xa lìa đàn việt
Không tiếc thân mạng
Đó là bốn pháp phải xả bỏ, y cứ theo như vậy. Thông cục có hai: Trước thông sau cục. “Thông” có ba:
Khen cũng có ba:
Khen pháp tu học của mình giúp người khác tu học.
Vì chúng sinh chưa tin thì sinh tin Đã tin rồi lại thêm vững chắc.
Nếu thật sự có lợi ích này mà không xen lẫn tham mạn, thì tự khen không phạm, không khen có tội trái lợi ích.
Nói chê bai người cũng có ba:
Chê bai tà đạo khiến họ quay về với chánh kiến Chê bai chấp kiến khiến lìa khổ
Chê bai hạnh vị xấu khiến họ lìa bỏ.
Nếu không có sân, mạn mà phải thời có lợi ích thì nên chê bai người không phạm, không chê bai có tội.
Cầu danh lợi có hai: Lợi ích chúng sinh
Cầu thật sự ra khỏi danh lợi thế gian, cầu việc này không phạm. Như thế nên y cứ theo đó.
Cục: Ba vị trên hoặc chung hoặc riêng, vì tâm tương ưng ràng buộc khởi niệm dục phạm. Tuy trái phạm chưa đến tội nặng như thế. Vì thế phải phòng hộ giữ gìn. Nghĩa khác nên biết.
Giải Thích văn:
Nêu lỗi chánh chế có hai, trước nêu lỗi cũng có hai:
Vi trái phạm: nghĩa là tự làm và bảo người làm, y cứ theo trước cũng có bốn, đồng sơ lược như trước.
Tướng phạm: bốn phạm đồng như trước, cũng đồng ba giải thích.
Lược không tự khen, lẽ ra phải đủ bốn: Đứng về năng, tham mạn là “Nhân”
Danh lợi là “Duyên”
Khéo lập quy mô thành ra tự phô trương để lăng nhục người là “Pháp”.
Thường làm việc như thế là “Nghiệp”. Y cứ về người, gồm có bốn:
Không chánh thức khen chê, chỉ nói nhân duyên để hiển bày đức tốt của mình. Người đó bị hủy nhục là “Nhân”
Chê bai người bị tội nặng, chê bai chủng tộc của người là “Duyên”,
Hủy báng sở y của người là “pháp”
Hủy báng nghiệp sở y của người là “Nghiệp”. Tự khen mình cũng vậy. Hợp giải thích:
Nhân bên trong
Cảnh bên ngoài
Hủy báng Thành nghiệp.
Tự khen mình cũng giống như vậy. Trên đây đã nêu lỗi xong.
2. Văn chính thức chế. Nên nói: “ Tất cả không nên khen mình chê người. Lại sơ lược không đầy đủ
Câu “ mà Bồ-tát v.v...” nói chỗ nên thi hành cũng là giải thích lý do chế thượng vị, nghĩa là Phật vì pháp chế giới không khen mình chê người. Vì pháp của các Bồtát là phải thay thế người chịu chê bai. Nếu không chịu thay thì trái với hạnh Bồ tát của mình, huống chi tự mình chê bai. Trái phạm hại định thật sâu, cho nên kết lại khoa văn ý nghĩa như thế, trong đó vô lý lăng nhục người gọi là hủy báng. Khiến họ hổ thẹn, quả báo bị nhục. Còn Bồtát vì chúng sinh mà phát tâm Bồ-đề, khiến chúng sinh bỏ ác dứt sạch kiết sử. Cho nên việc ác của chúng sinh Bồ-tát đã có, vì cho đó là trách nhiệm của mình. Đã vì chúng sinh tu gốc lành nên gốc lành của mình và người đều tu.
Câu nếu tự khoe khoang v.v... trở xuống là phi lý trái phạm đều nên biết.
1. Chế Ý:
Bố thí là đầu muôn hạnh, nên được xếp vào đầu của trong sáu. Đó là cách xả tham nên phải bố thí.
Phẩm Thập Hạnh của Kinh Hoa Nghiêm chép: Ban đầu khuyên hỷ hạnh rằng: Bồ-tát này là đại thí chủ, tất cả vật đều nên xa lìa, dùng tâm tuệ bố thí cho tất cả chúng sinh. Khi đã thí rồi thì không hối tiếc, không mong quả báo, không cầu tiếng tăm, không cầu sinh vào chỗ tốt, không cầu lợi dưỡng. Nói có mười ý là:
1. Chỉ muốn cứu giúp tất cả chúng sinh. 2. Muốn nhiếp lấy tất cả chúng sinh
3. Chân thừa ngoại đạo.
4. Muốn học tất cả bản hạnh của Chư Phật,
5. Muốn chánh tâm nhớ nghĩ bản hạnh của Chư Phật.
6. Muốn thanh tịnh bản hạnh của Chư Phật.
7. Muốn thọ trì bản hạnh của Chư Phật.
8. Muốn hiển bày bản hạnh của Chư Phật.
9. Muốn nói rộng bản hạnh của Chư Phật.
Muốn tất cả chúng sinh lìa khổ được Niết-bàn an vui.
Do mười việc này nên biết Bồ-tát vì sao phải thực hành bố thí.
2. Giải thích tên gọi:
Lẫn tiếc tài pháp không cứu giúp sự mong cầu của chúng sinh gọi là cố san, giới ngăn ngừa lỗi này cũng y theo ý nghĩa đó mà đặt tên.
3. Thứ lớp:
Trước nói khen mình chê người để cầu danh lợi. Lỗi khi đuổi theo tiền của mà chưa được, nay đã thuộc về mình rồi thì tiếc lẫn không xả. Lỗi khi chất chứa, giới trước thô giới này có phần nhỏ nhiệm hơn, cho nên xếp đặt hai giới trước sau như thế.
4. Đủ duyên thành phạm:
Nhưng trong giới này phạm có bốn chỗ: Tự tiếc lẫn Xúi giục người. Vui theo.
Khen ngợi tiếc lẫn.
Nay đứng về câu thứ nhất (Tự) để phân biệt đủ duyên, còn ba duyên kia thì y cứ theo mà biết. Tự đủ sáu duyên thành phạm tội.
1. Tự có tài pháp
2. Người xin hiện tiền.
3. Có đủ hai ý nghĩ trước 4. Khởi tâm tiếc rẻ
Trái phạm đối với duyên chánh
Người đến xin trở về tay không thì phạm.
5. Thiếu duyên:
- Thiếu duyên thứ nhất có ba nghĩa:
Nếu người kia không có một cây kim, ngọn cỏ thì nên bố thí cho. Nên dùng lời lành, thâm tâm rơi lệ an ủi cám ơn người xin. Nhưng nghĩ rằng: Nay tôi phước mỏng không thể làm toại nguyện sự mong cầu của chúng sinh. Đó là lỗi của tôi, tôi sẽ tinh tấn tu hành khiến cho nguyện đầy đủ. Nói lời mạnh dạn như thế thì không phạm.
Nếu cậy mình không có vật, tâm kiêu mạn không cám ơn, không hổ thẹn hối hận, nên phạm tội nhỏ.
Nếu bị người xin không tin mình, lại cầu xin liên tục, liền khởi tâm chê bai thì phạm tội trung. Nếu khởi sân thì phạm giới sân, pháp thí cũng đồng.
- Thiếu duyên thứ hai, có bốn nghĩa: Không người xin thì không phạm
Mình có tiền của thấy người nghèo khổ mà họ không thể xin, hoặc hổ thẹn không xin mà không thí cho cũng phạm.
Tự mình có tiền của mà thấy người đồng tu thiếu thốn cơm áo, bỏ phế việc tu chánh hạnh. Người đó xem xét mình mà không cầu xin, không cho cũng phạm.
Trước chứa nhiều tiền của, tuy không có người xin mà không xả thí ruộng phước, ba vị sau đây đều phạm tội phương tiện, chẳng phải phạm tội trọng căn bản.
- Thiếu duyên thứ ba. Có hai nghĩa:
Về hai vị trên tưởng và nghi có hai nghĩa khác nhau:
Nghĩa là không phạm. Nghi phạm tội phương tiện. Đều có y cứ theo đó.
- Thiếu duyên thứ tư có hai nghĩa:
a. Nếu dùng tâm từ bi điều phục họ, không cho thì không phạm
b. Nếu tâm vô ký thì phạm phương tiện, nên biết.-Thiếu duyên thứ năm có bốn nghĩa:
a. Hứa cho rồi không cho, phạm tội nặng.
b. Hứa cho nhiều nhưng cho ít.
c. Hứa cho hơn lại cho kém.
d. Lúc khác mới cho.
Ba câu sau đều phạm tội phương tiện.
- Thiếu duyên thứ sáu, có hai nghĩa:
Nếu chẳng để cho họ trở về tay không thì không phạm
a. Nếu họ trở về tay không, ý chưa dứt thì phạm tội nặng phương tiện.
6. Nặng nhẹ có năm:
- Về vật-Về ruộng.
- Về tổn
- Về tâm
- Về hợp thích.
Câu 1. Thí tài, thí pháp và thí vô úy. Tài thí có hai: nội tài và ngoại tài. Ngoại tài có mười:
1. Thức ăn
2. Thuốc men
3. Y phục
4. Tiền của
5. Súc sinh
6. Tôi tớ
7. Tiếng tăm
8. Ngôi vua
9. Vợ
10. Con trai, con gái.
Đều trước nhẹ, sau nặng cho nên phạm tội nhẹ.
- Nội thân có năm:
1. Tạm xin xua đuổi
2. Lấy tóc móng
3. Đem làm tôi tớ
4. Lấy lóng đốt, máu huyết
5. Lấy toàn thân mạng.
Trước trước không cho đều phạm tội nặng, sau không cho đều phạm tội nhẹ.
Thí pháp có ba:
- Xả ác-Xả khổ-Cứu mạng.
Hai vị trên đều trước không cho phạm tội nặng, sau không cho phạm tội nhẹ, nên biết.
- Về ruộng có bốn:
- Ruộng Ân là cha mẹ, Sư chủ.
- Ruộng Đức là Tam bảo.
- Ruộng Bi là chúng sinh đói khát, nghèo cùng.
- Ruộng Khổ là chúng sinh nguy khốn.
Đều trước không cho phạm tội nặng, sau không cho phạm tội nhẹ.
- Về tổn:
Bốn cảnh trên đều có hai thứ: Do không cứu vớt để cho họ chết
Dù cho còn sống nhưng họ rất đau khổ. Đều có trước nặng sau nhẹ nên biết.
Về tâm có ba độc, đơn song, một hợp.
Y cứ theo trên nên biết. Lại tiếc lẫn có ba phẩm: Như Trưởng giả Lô Chí tội nặng nhất. Trung, hạ nên biết.
-Về hợp biện:
Hoặc vật kém hơn khởi tâm tiếc lẫn, trên đối với thắng cảnh là tội nặng nhất. Hoặc vật kém hơn khởi tâm tiếc lẫn dưới thì phạm tội nhẹ. Các câu khác đều y cứ theo đây nên biết.
7. Mắc quả báo. Sơ lược phân biệt có mười loại:
Đoạn trong ngạ quỉ
Hoặc chịu khổ trong các cõi khác
Trong loài người chịu nghèo cùng khốn khổ Tổn giảm gốc lành đời trước.
Mất bố thí Ba-la-mật của Bồ-tát
Do tiếc lẫn tài pháp thực nên đời đời ngu si.
Kinh Thiện Sinh chép:
Nếu có tài pháp thực sinh lẫn tiếc, nên biết người này trong vô lượng đời mắc quả báo ngu si, nghèo nàn.
Do giấu mất pháp nên thường không có mắt.
Do không bố thí Vô úy nên thường bị làm cho sợ sệt, không lúc nào an ổn.
Thường bị kẻ thù được dịp làm hại.
Ba đàn sáu độ không thành. Ngoài ra như đã nói trên.
8. Tu trị hành giả: Lược hiển bày mười loại:
Tư duy thân mình vì tài vật đều là pháp vô thường, phiền não vô thường, trong một ngày hư hoại chẳng còn gì, cho nên tiếc lẫn đều không lợi ích gì.
Huống chi tài vật của này đều thuộc về năm nhà: Vua, giặc, nước, lửa, con hư phá hoại. Nay những thứ đó chưa xâm phạm ràng buộc, nên xả thí để cất giữ chắc chắn, khiến mãi mãi thuộc về mình.
Nếu tiếc rẻ không bố thí thì đời đời nghèo cùng đeo đuổi theo thân mình
Lại do đời trước không có thói quen bố thí, nên nay có tánh tiếc lẫn không thể thí được. Nếu đời nay không cố gắng thí, thì thói quen này không phá lại càng mạnh mẽ, sẽ làm chướng ngại đại bố thí. Nay ta phải cố gắng chống lại sự tiếc lẫn mà thực hành tuệ thí.
Nếu mình nghèo thiếu e không cứu giúp người được, mà tiếc lẫn không bố thí thì nên nghĩ rằng: “ Nghèo thì chướng ngại bố thí, lấy chướng phá chướng nên phải chịu khổ cố gắng thực hành bố thí. Ta vì túc nghiệp từng chịu các thứ khổ đói khát, nên không làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Nay ta thực hành bố thí để lợi ích cho nhiều người. Dù cho chịu các thứ khổ cho đến mất mạng, để cuối cùng khiến cho người đến xin không trở về với hai tay không, huống gì còn một cọng rau để nuôi sống thân mạng. Cho nên phải chịu sự nghèo khổ này mà thực hành bố thí.
Nếu tiếc thân mạng và tiền của mà không xả, thì phải nghĩ rằng: Ta ở trong ba cõi trước khi đại sư phát đại tâm Bồ-đề. Tất cả trong ngoài đều đã xong. Làm sao có thể trái với bản thệ mà trở lại cô phụ chúng sinh.
Còn khiến cho chúng ta phạm tội Ba-la-di của Bồtát, tức là lừa dối chư Phật mười phương, thật là không nên.
Ta nay xả thân hôi thối này là một vật không bền chắc. Nay ta sẽ được pháp làm cho pháp thân thanh tịnh vững chắc. Đây là lợi ích của tà mạng, nếu không thực hành bố thí thì sẽ mất lợi lớn.
Thân này và của cải nầy là vật luống dối, nếu không muốn thí xả hết cho chúng sinh thì đâu thể đem tâm Bồđề làm lợi ích chúng sinh.
Ta phải quan sát tát cả pháp không vô ngã sở, mà nay đối với thân luống dối này, tiếc lẫn của cải không thí xả, thì làm sao chứng nhập được pháp tánh bình đẳng.
Tư duy mười pháp đối trị như thế thì đối với sự tiếc lẫn đó đều sẽ xả bỏ được. Các thuyết này đều có nói đủ trong Kinh Hoa Nghiêm, Luận Đại Trí Độ, Du-già v.v...
9. Thông cuộc:
Theo Du-già thứ 39 có 30 trường hợp không bố thí không phạm. Nếu biết các vật thí nội, ngoại kia đối với các chúng sinh chỉ khiến cho họ an vui mà không lợi ích, hoặc không an vui, không lợi ích thì đều không nên thí. Nếu đến xin làm bạn lữ, muốn làm phi lý ép buộc tổn hại, mê hoặc dối gạt người, thì không đem thân bố thí cho họ.
Nếu các Bồ tát đối với việc hành thí mà tâm vui thanh tịnh. Thấy có vô lượng lợi ích cho chúng sinh đang hiện trước mắt, dù cho có đến xin từng lóng đốt trên thân mình cũng không nên bố thí cho họ, v.v...
Nếu chúng ma phá hoại não loạn tâm. Hiền tiền đến xin phần lóng đốt trên thân thì không nên thí cho. Vì tâm niệm của chúng sẽ phạm tội thượng phẩm, trở lại tổn hại mình.
Hoặc có chúng sinh cuồng si tâm loạn, đến xin lóng đốt trên thân Bồ-tát, Bồ-tát không nên cho.
Nếu có chúng sinh tự hại, hoặc làm hại người, đến xin các thứ chất độc như: thuốc độc, lửa, dao, rượu thì không nên cho.
Không lấy vật của người, nếu được người đồng ý mà thực hành tuệ thí.
Không làm mai mối, vì vợ con người khác mà bố thí. Không bố thí các vật ăn uống có vi trùng.
Nếu có chúng sinh đến xin các thứ, có thể dẫn đến sự vui đùa, có thể dẫn đến vô nghĩa thì không nên thí cho, vì khiến cho họ phần nhiều làm việc kiêu mạn, buông lung ác hạnh. Sau khi chết đi đọa rơi vào các đường ác.
Hoàn toàn không bố thí cho người săn bắt các vật.
Hoặc có chúng sinh sắp làm việc giết hại thì không nên thí cho.
Nếu có người đến xin lờ bắt cá, lưới săn thỏ vì hại chúng sinh và vì học tập, đều không nên thí cho.
Nếu có kẻ thù đến xin trả thù vì hiềm khích. Vì muốn quở trách, trói buộc trấn lột, giết hại đoạt tiền của trị phạt, không nên thí cho.
Nếu bị bệnh đến xin mà ăn uống không có chừng độ thì không nên cho.
Nếu có chúng sinh ăn rồi, tánh tham ăn, lại xin món ăn ngon quý, cũng không nên thí cho.
Nếu có người đế xin cha mẹ, sư trưởng thì quyết định không thí cho.
Còn các Bồ-tát đối với vợ con, tôi tớ, thân thích, quyến thuộc của mình. Trước hết phải dùng lời êm dịu để dẫn dắt khiến cho những người đó được vui vẻ. Hoàn toàn không ép buộc bố thí khiến cho người xin bị bực bội.
Tuy lại dùng lời êm dịu dắt dẫn khiến cho họ vui mừng, sinh tâm dục lạc. Nhưng không thí cho kẻ thù, bạn ác, dược nhận, La-sát.
Nếu có chúng sinh bức não Thượng phẩm ưa làm nghiệp bạo ác, đến xin vương vị thì hoàn toàn không thí cho. Nếu người ác trước ở ngôi vua, Bồ-tát có năng lực còn phải truất phế, huống chi là thí cho.
Còn các Bồ-tát hoàn toàn không xâm đoạt cha mẹ vợ con, tôi tớ, thân thích, quyến thuộc đem tài vật bố thí.
Cũng không bắt buộc cha mẹ, vợ con, tôi tớ khiến người thân thích quyến thuộc đem vật của họ bố thí cho người đến xin.
Không dùng của phi pháp, của tàn bạo, không ép ngặt tổn hại đối với người khác mà thực hành tuệ thí.
Còn các Bồ-tát nếu y theo lời Phật dạy Bồ-tát xuất gia, hoàn toàn không trái vượt các học xứ mà thực hành tuệ thí.
Các Bồ-tát đối với người đến xin, hoàn toàn không bố thí vật không thích hợp, nghĩa là bố thí cho người xuất gia thức ăn uống dư cách đêm, v.v... hoặc các tiện uế, phẩn giải, nước bọt, máu mủ vật tạp nhiễm không sạch sẽ. Lại không cáo bạch, không khiến cho hay biết như xả bỏ pháp thí cháo sữa, nghĩa là không ăn hành là bố thí thức ăn uống có lẫn hành. Không ăn thịt là bố thí thức ăn uống có tạp thịt nhiễm. Không uống rượu là bố thí uống rượu tạp nhiễm. Như thế đều không thí cho.
Các Bồ-tát không bao giờ dùng miệng trao tất cả chánh pháp tìm lỗi ngoại đạo.
Cũng không thí cho người đó được viết chép kinh điển.
Biết tánh thường tham cầu muốn cân bán kinh sách, cũng không nên thí cho.
Muốn biết bí mật cũng không nên thí cho. Không cầu thắng trí cũng không nên thí cho.
Còn như các thứ không bố thí nói trên, Bồ-tát không nỡ nói thẳng:
Ta không thí cho ngươi, phải phương tiện dắt dẫn, chỉ dạy. Các Bồ-tát đã nuôi chứa các vật và của cải. Vì đã làm tịnh thí nên trước phải xả cho Chư Phật, Bồ-tát trong mười phương. Như Bí-sô làm pháp tịnh thí, như quán sát người đến xin, xứng lý nên nghĩ rằng: Các Bồtát không có chút vật nào không bố thí cho chúng sinh. Như vậy là đã biết lấy vật thí cho. Nếu khi thí không quán xứng với chánh lý, thì trước phải nghĩ đến làm tịnh thí. Bảo rằng: “ Vật này là người khác đã có, không được thí cho ngươi. ” Cần phải dẫn dắt, phương tiện hỷ dạy. Còn Luận Thập Trụ chép:” Tuy Bồ-tát mới học có người đến xin đầu mắt, nhưng chưa thể thí cho. Phải nói kệ tụng rằng:”
Ta mới phát đạo tâm
Gốc lành chưa thành thục
Nguyện ta mau thành tựu
Rồi sẽ đem thí cho
-Cuộc: Nếu tự xem xét tâm ít thiểu não, thì phải thí cho. Nếu không như thế thì phạm. Còn y cứ theo về bí mật, Bồ-tát phải tiếc lẫn, nghĩa là đối với giới như chiếc phao nổi, dù xin một chút nhỏ như hạt bụi cũng không cho. Cho đến tội nhỏ còn có tâm rất kinh sợ.
10. Giải thích văn: Cũng có bốn nghĩa:
Nói vị phạm như tự làm và bảo người làm như trên đã giải thích. Nêu lỗi chánh chế, có hai nghĩa như sau:
Nêu lỗi, nghĩa là lẫn tiếc có bốn giải thích: Nhân, duyên, pháp và nghiệp. Đồng như trước nên biết.
a. Câu mà Bồ-tát thấy vậy rồi, v.v... trở xuống nghĩa là chế cho người nghèo đến xin. Nhưng người đời nghèo có hai loại:
Nghèo về tiền của. Nghèo về pháp.
Nên nói rằng: Tất cả nghèo, Bồ-tát bố thí hai pháp này nên nói rằng tất cả thí cho.
b. Câu mà Bồ-tát dùng ác v.v. là trái chế thành phạm. Nghĩa là tâm ác. “San” kết không phá, cũng là trái chế không thí, chung cho các phiền não khác. Sân tâm làm người xin tức giận mà không thí cho. Đây là tâm không thí dưới nói chỗ không vật thí. Trước tài sau pháp, cho đến không thí. Nêu việc nhỏ để chú thích việc nhiều, một cọng cỏ còn không cho huống gì là nhiều. Lại y cứ, v.v... trở xuống là rất nên nói cho đến một cọng cỏ, nghĩa là nói rất ít, chẳng phải trong pháp môn mà có hạt bụi. Đây là thuận theo Ngữ pháp của phương Tây, như trong Kinh Năng Đoạn Kim cương Bát-Nhã, Vô thiểu pháp, bản tiếng Phạn gọi là “Vô vi trần pháp “. Mà lại mạ nhục nên phạm tội nặng. Đây là đủ ba nghiệp nên biết.
c. Kết để chỉ tội, nên có thể biết.
1. Chế ý: Lược có mười nghĩa:
Nặng nhất trong có hoặc không gì hơi sân. Cũng thành nhân ác thú nghiệp đạo Tiêu diệt các gốc lành đời trước.
Có thể kết đại oán nhiều kiếp chồng chất khó giải.
Do đây sẽ hại các chúng sinh
Cho đến có thể gây ra tội Vô gián
Có thể chướng Nhẫn Ba-la-mật của Bồ-tát.
Hại Đại Bi tâm
Khiến chúng sinh được giáo hóa đều lìa bỏ. Giới cụ túc sẽ bị trăm ngàn chướng ngại.
Kinh Hoa Nghiêm có dẫn đầy đủ. Kinh còn chép: “ Ta không thấy pháp ác nào hơn tâm sân của Bồ tát. Rất tổn hại nên chế ra giới nầy.
Giải thích tên gọi: Nghĩa đối với cảnh trái với tâm tổn hại. Vì giới ngăn ngừa lỗi này nên đặt tên giới.
2. Thứ lớp: Trước san tham, kế đến là tức giận.
3. Đủ duyên:
Đối cảnh trái tâm Khởi nghĩ kia Không cấm tâm Khởi sân liền phạm.
Đây là đứng về tâm. Nếu chung thân miệng lại thêm đánh mắng. Đủ năm duyên liền phạm. Nếu nói đến chỗ cùng cực thì người đến tạ lỗi, sân vẫn không bỏ. Phải có đủ sáu duyên mới phạm.
4. Thiếu duyên:
Thiếu duyên một, có ba: Nghĩa là có tình tương khác nhau. Nếu vọng tâm hoặc đều nặng đối ngay thân miệng thì phạm tội khinh.
Thiếu duyên thứ hai, cũng có ba:
Nghĩa là vốn mê chuyển tưởng và nghi.
Y cứ vào tâm đều phạm tội nặng.
Thân miệng phạm tội nhẹ nên biết.
* Thiếu duyên thứ ba, có hai: a. Thường phải siêng tu sửa lỗi niệm phạm tội nhẹ phương tiện. b. Nếu không siêng tu sửa thì phạm tội nặng phương tiện.
Thiếu duyên thứ tư có ba:
Nghĩa là hạ, trung, thượng. Nếu khởi tâm sân bậc hạ liền sinh hối hận phạm tội nhẹ phương tiện.
Khởi tâm sân bậc hạ không sinh sám hối phạm tội nặng phương tiện.
a. Khởi sân bậc trung, liền sinh sám hối, phạm tội nặng phương tiện. Ngoài ra đều xếp vào tội nặng nên biết. Nếu xét theo thân miệng ý, thiếu đánh mắng phạm tội nặng phương tiện. Trái với đây thì phạm tội nặng. Nếu nói cùng cực thì càng sám hối, người đó càng sinh hối hận, phạm tội nặng phương tiện. Trái lại với đây thì thành tội nặng.
6. Nặng nhẹ: Sơ lược đứng về năm vị phân biệt.
- Y cứ vào cảnh
- Y cứ vào nhân sự
- Y cứ vào hoặc tướng-Y cứ vào thành tổn-Hợp biện.
Câu đầu là cảnh sân lược có mười thứ:
- Thánh hiền
- Hai thầy
- Cha mẹ
- Người truyền pháp
- Chúng tăng
- Người thế tục
- Đệ tử nam nữ của mình
- Tôi tớ
- Súc sinh-Phi tình.
Nhìn về giới đều phạm tội, nhìn về nghiệp đạo thì trước nặng sau nhẹ.
Y cứ vào hoặc tướng phân biệt có mười loại:
- Niệm động khởi sân, mặt không sắc lạ.
- Nhan sắc đổi khác
- Toàn thân chiến động
- Gồm cả đánh mắng
- Đối với việc đã khởi, tạm khởi liền hối.
- Trải qua đêm mới hối
- Trải qua thời gian lâu không bỏ.
- Người đối diện vừa xin lỗi liền bỏ.
- Người đối diện xin lỗi qua thời gian lâu mới bỏ.
- Trải qua thời gian lâu cũng không bỏ.
Đều trước nặng sau nhẹ nên biết.
Về tổn cũng lược hiển bày thành mười thứ:-Vì giận người nên khiến họ xả bỏ Phật pháp-Nói lời ác mắng nhiếc.
- Đánh đập trói buộc
- Hao tổn tài vật của người
- Cắt đứt từng phần thân người
- Cắt mạng sống của người
- Hại thân thuộc mình
- Bỏ hẳn Tam bảo
- Đốt chùa hại tăng
- Gây các tội nghịch Đều trước nặng sau nhẹ.
7. Hợp giải thích:
Cũng hiển mười vị. Nghĩa là trong bốn việc trước ở tôn cảnh và việc nhỏ khởi sân nặng làm tổn hại là tội nặng nhất. Ngoài ra, theo thứ lớp hợp nhau, và không thứ lớp đều có nặng nhẹ. Y cứ theo đây suy nghĩ rất dễ thấy biết.
8. Mắc quả báo:
Lược hiển có mười thứ:
Sân nhuế phạm mười tội như đã nói trong Luận Đại Trí Độ.
Do sân nên vào trong tám địa ngục lớn, như đã nói trong Kinh Thiện Giới, quyển 1.
Cũng đọa vào ngạ quỉ, súc sinh. Kinh Hoa Nghiêm chép:” Tội sân hận, bậc thượng là nhân địa ngục, bậc trung là súc sinh, bậc hạ là ngạ quỉ. Trên đây là quả báo. Quả đẳng lưu. Kinh chép:” Nếu sinh lên làm người sẽ mắc hai quả báo:
Thường bị người khác tìm lỗi tốt xấu của mình. Thường bị người não hại.
Quả tăng thượng là y cứ vào y báo.
Luận Đối Pháp quyển 7 chép: do sân nên khiến quả vị cay đắng.
Thân thường xấu xí không ai muốn thấy.
Mất vui Thiền của cõi trên.
Trái với giải thoát của Nhị thừa Hại hạnh tự lợi và lợi tha của Bồ-tát.
Mất năm chỗ của Bồ-tát, nên biết.
-Tu trị hành giả.
Lược phân biệt tư duy mười loại đối trị, khiến sân không khởi. Suy nghĩ tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, đã từng làm cha mẹ, thân thuộc và Hòa-thượng, Sư trưởng của ta. Cho nên phải sinh tâm hiếu, đâu được nổi sân mà đánh mắng.
Suy nghĩ vô thường, Du-già Giới Bản chép:” Các hữu tình kia hoặc sinh, hoặc trưởng, mỗi thứ đều là pháp chết vô thường. Báo oán cùng cực đó là cắt đứt mạng sống họ. Mạng của các chúng sinh này là niệm niệm đoạn. Người trí duyên nào lại muốn đoạn nữa. Như vậy đối với các hữu tình có pháp sinh tử vô thường. Bậc thượng trí thì không nên có tâm đắm nhiễm. Huống gì phải dùng tay gậy làm hại, cắt đứt hẳn mạng sống. Cho nên tất cả oán hại đều có khả năng nhẫn chịu.
Suy nghĩ khổ: Du-già Giới Bản chép: Còn tự thân người đó tất cả đều dùng tánh khổ làm thể. Họ vô tri nên đối với tánh không trong thân ta càng thêm cái khổ đó. Còn các hữu tình thì ba khổ lẫy lừng thường theo đuổi. Huống chi suy tổn. Nay chúng ta đối với khổ này phải siêng năng phương tiện lìa bỏ đừng cho tăng thêm.
Suy nghĩ nghiệp duyên.
Bài kệ trong Luận Tư lương chép:”
Đánh, mắng, sợ, giết, trói
Không hề oán trách người
Đều do tội của ta
Nghiệp báo ngày xưa hiện
Nghĩ khổ thêm nhiều: Nghĩa là ngày xưa ta đã hại khổ cho nhiều người, nên nay vời lấy nỗi khổ này. Nay ta không chịu thì càng trồng nhân khổ ở tương lai. Nếu ta không xả bỏ nhân khổ này thì tự mình làm việc không có tình thương. Tự mình sinh ràng buộc, tự gây nên oán hại, chẳng phải do người khác mang đến.
Suy nghĩ thương xót người ngu, Luận Trí Độ chép: “ Nếu bị người say rượu và quỉ nhập dựa đánh mắng, thì không nên tức giận họ, chúng sinh cũng như vậy. Vô minh, say rượu, phiền não, quỉ nhập bị nó sai sử không được tự tại. Nên không được sân, chỉ nghĩ rằng:” Tội lỗi này chẳng phải lỗi của chúng sinh. Ta nên cầu Bồ-đề vì các chúng sinh mà trị bệnh phiền não cho họ nên phải lìa bỏ hẳn.
Lại suy nghĩ: ta không sinh về Tịnh độ, nơi không có phiền não, mà lại ở cõi uế này, nên phải chịu khổ não, chỉ nên điều phục tự tâm để cầu ra khỏi, không nên tức giận với người. Như vào rừng gai bị gai đâm, ta chỉ cầu ra khỏi chứ không nên tức giận vì bị gai đâm.
Lại nghĩ: ta tự phát tâm Bồ-đề vì tất cả chúng sinh gánh vác trách nhiệm nặng nề. Dù cho địa ngục khổ còn vì họ mà chịu, huống chi do một chút khổ này mà trái với bản thệ không nhẫn được hay sao?. Nếu ta không nhẫn thì tự không điều phục, làm sao có khả năng khiến cho họ xả bỏ các phiền não, cho nên không giận dữ.
Lại càng suy nghĩ: nay ta nên học các hạnh Bồ-tát là hơn hết, giữ giới khổ hạnh không thể bằng. Hạnh này phải bị người não hại thì mới thành được. Nếu không bị người não hại thì hạnh ta không thành, vì người đó đã bố thí cho ta đại hạnh. Còn phải hổ thẹn xin lỗi, nếu không thì càng mang thêm tội ác, sao còn trái với người ân, lại tức giận, phiền não, đó là điều không nên. Kinh chép:” Đề-Bà-Đạt-Đa là đại thiện tri thức, chính là nghĩa đó.
Lại càng suy nghĩ: Nhân duyên vô tánh, kinh nói: Vì dùng tay, dao, gậy và thân ta nên thành đánh, nay ta không nên tức giận đối với người khác.
Giải rằng: Do người kia đánh thì sân với họ, còn do ta đánh thì sao không tự sân? Còn đánh theo duyên khởi, nên chẳng tự tại. Chẳng tự tại nên rốt cuộc là không. Đánh hay bị đánh nhiều ít, nhẫn còn không lập, thì đâu được sân. Kinh Pháp Cú chép:” Biết sân bằng ngọn lửa, nhẫn cũng không có sự nhẫn. Bài kệ Kinh Tư Ích chép:
“Thân oán và dao gậy
Đều từ bốn đại khởi
Đối đất, nước, gió, lửa
Không hề có thương tổn. ”
Dù cho thân thể rã rời từng lóng đốt, nhưng tâm người đó thường bất động. Biết tâm chẳng ở bên trong, cũng chẳng sinh ở bên ngoài, các pháp từng niệm diệt, nhưng tánh người đó thường không lập. Ở trong không mắng nhiếc hủy nhục, cũng không có cung kính.
9. Thông cuộc: Các giới khác đều có khai thông, giới này hoàn toàn không có. Vì sân giận làm chướng ngại đạo nên tội rất nặng, vì thế thường phải tu để đối trị, nhưng trái cảnh nhớ nghĩ tội lỗi. Theo Du-già thì không phạm, lại càng không khai, nếu y cứ theo Bí mật, Lương Hoàng Sám thì Bồ-tát cũng khởi sân để quở trách các phiền não.
10. Giải thích văn: có bốn nghĩa đồng như trước.
1. Nêu lỗi
2. Chánh chế
3. Trái phạm Kết tội.
Câu 1: Tự tha nêu riêng, lại chung cho cả bốn vị: Nhân, Duyên, Pháp, và Nghiệp. Bốn giải thích đồng như trước.
2. Câu “mà Bồ-tát v.v... trở xuống là nói” Trong chánh chế, trước nói hạnh lợi tha, nghĩa là khiến chúng sinh có gốc lành vô sân nên nói “Không có việc tranh chấp”. Lại khiến trong thiện căn không tức giận, đấu tranh. Thường bi tâm. Vì sinh tâm lợi ích chúng sinh, nghĩa là dùng tâm đại bi thương xót như chính thân mình, đâu nên khởi sân.
Câu mà trái lại, v.v... trở xuống là nói trong vi phạm có ba: Nói về cảnh sân, nghĩa là hai cảnh tình và phi tình. Nói về nghiệp dụng của sân, đánh thuộc về thân nghiệp, không dứt thuộc về ý nghiệp.
Người đối diện, v.v... trở xuống là nói tội sân rất sâu nặng, là kết hận khó xả. Nên kinh nói “Không bỏ”. Kết tội nên biết.
1. Chế ý: Lược có mười ý:
Nghiệp đạo nặng nhất không gì hơn nghiệp này. Thiêu đốt hết gốc lành không dư sót
Trái với ân đức, dù điều ác cùng cực trong các điều ác. Phá hoại tín tâm, diệt mắt mất pháp.
Trong hạnh lành hoặc lớn hoặc nhỏ đều không thành. Nhập vào lưới tà kiến của ngoại đạo
Vì nhiều tà kiến nên dứt một gốc lành. là ác tri thức của các chúng sinh
Do đây dứt hết hạt giống Tam bảo.
Khiến cho mình và người thành nghiệp địa ngục.
2. Giải thích tên gọi:
Đức tốt rất cao quý, nên gọi là Tam bảo. Vô lý chê bai nên gọi là Báng. Vì ngăn ngừa tội lỗi này nên đặt tên là giới hủy báng Tam bảo.
3. Thứ lớp: Trước nói về sân, kế nói về tà kiến.
4. Đủ duyên: có năm:
1. Đối với mọi người.
2. Cảnh Tam bảo
3. Khởi tưởng có ba cảnh kia
4. Tà kiến
5. Nói lời phỉ báng liền phạm.
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên thứ nhất: Phi tình lầm thì phạm phương tiện nặng.
Thiếu duyên thứ hai: Vì chẳng phải cảnh Tam bảo phạm tội khinh phương tiện.
Thiếu duyên thứ ba. Vốn mê không phạm, chuyển tưởng và nghi đều phạm phương tiện.
Thiếu duyên thứ tư. Không phá kiến nên phạm tội phương tiện nặng.
Thiếu duyên thứ năm. Chưa nói ra, hoặc dùng lời lạ nên đều phạm tội phương tiện nặng.
6. Nặng
Y cứ vào sở đối Y cứ vào sở báng
Y cứ vào năng báng Y cứ vào sở tổn Giải thích.
Tự và tha
Câu 1. Đối với một người, hai người, nhiều người, đại chúng.
Trước nhẹ sau nặng.
Câu 2. Trong việc bị chê bai. Tam bảo có ba: Trụ trì, Biệt tướng và Đồng thể. Hoặc 1, 2, 3 đều theo thứ lớp trước nặng sau nhẹ. Câu ba nói. Về năng báng, nghĩa là tâm có ba phẩm: Thượng, Trung, Hạ. Nói có thô, tế và trung. Nặng nhẹ nên biết.
Câu bốn. Đứng về tổn có năm:
Do sự chê bai này đã khiến cho nhiều người phát tâm Bồ-đề, còn người bất định thì sinh lui sụt.
Khiến người đã tin sinh lui sụt. Người chưa tin thì không tin
Người không tà kiến thì sinh tà kiến. Người đã tà kiến rồi thì chấp chặt.
Tất cả đều trước nặng sau nhẹ.
7. Hợp giải thích: Đối với đại chúng chê bai thắng cảnh bậc thượng. Tà kiến nói lời thô rất tổn hại, là tội rất nặng.
Ngoài ra theo thứ lớp giao xen nhau đều có nặng nhẹ, y cứ theo đây nên biết. Tự tha:
Tự Tha
Cả hai.
Đều trước nặng sau nhẹ nên biết.
Mắc quả báo: Tội phỉ báng Tam bảo đồng với năm tội nghịch đọa vào địa ngục, như đã nói trong Phẩm Nêlê của kinh Đại Phẩm. Lại như pháp sư Oai Nghi chê bai Đại thừa, về sau đọa vào địa ngục trải qua nhiều kiếp.
Khi được sinh lên làm người thì bị mù lòa không có mắt. Như thuyết của Kinh Chư Pháp Vô Hành, v.v... Lại như Uất-đầu-lam Phất đang ở trong địa ngục v.v... Luận Trí Độ chép: “ Tà kiến mắc có mười tội. ” (Kiểm lục)
8. Tu trị hành giả:
Tín và tuệ tướng dẫn dắt nhau, đối với cảnh Tam bảo nhẫn rất sâu. Niềm tin thanh tịnh bền vững không hư hoại, thà xả bỏ thân mạng trải qua trăm ngàn kiếp chứ không bao giờ sinh một niệm nghi. dùng trí phân biệt người trên cõi trời, thế gian, xuất thế gian chỉ có niềm tin là nhất. Cho nên tín tâm một bề quyết định.
9. Thông cuộc:
Không có tâm chê bai, nói rất nhanh, vì muốn điều phục chúng sinh, nên không phạm. Ngoài ra đều không khai, nên biết. Nếu đứng y cứ theo bí mật đều nói là phi. Phải nêu ra có lý do, đừng để người khác nghi, nên biết.
Giải thích văn: Bốn nghĩa đồng như trước. Nêu lỗi
Chánh chế Trái phạm Kết tội
Câu 1. Chê bai người, nghĩa là chê bai mình. Nhân, duyên, pháp, nghiệp là sở dụng. Bốn cách chê bai giải thích đồng như trước. Giống như kia giải thích ở đây nên biết.
Câu 2. mà Bồ-tát v.v.. trở xuống là chánh chế. Trong đó, trước pháp sau dụ, có đủ hai hạng người:
Ngoại đạo, là tà kiến.
Người ác là trong ngoài đều không tin.
Nói hủy báng là nói chỗ nghe ít. Ba trăm cây kim nhọn đâm vào tim là nói đau đớn rất nhiều.
Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm chép:” Bồ-tát nghe khen Phật hay chê Phật thì đối với Phật pháp, tâm các ngài tâm định bất động. Vì sao ở đây lại nói như dao nhọn đâm vào tim.
Đáp: có bốn loại chúng sinh:
Nghi chê bai Phật thì vui mừng vì tà kiến.
Không vui không buồn vì người ngoài Phật pháp.
Nghe rồi sinh đau đớn
Nghe rồi không vui không buồn vì không lui sụt tâm Bồ-tát.
Biết công đức của Phật không thể chê bai, vì thế chê bai không đến được. Kinh Hoa Nghiêm y cứ vào vị Bất thối, còn văn này y cứ theo Sơ tâm, nên khác nhau. Nếu sơ tâm gượng đồng hậu vị mà không thấy đau đớn là người ngu ác, thuận theo ác kiến nhẫn chịu việc này cho nên không được.
Hỏi: Các pháp đều không, cần gì phải gượng đau đớn.
Đáp: Chân không chẳng hoại duyên khởi nghiệp quả. Cho nên tôn ty rõ ràng. Nếu hoại đây là không, là ác kiến chấp không của ngoại đạo. Kinh Niết-bàn chép: “ Năm trăm Bà-la-môn chê bai nói:” Tất cả đều không, thì chỗ nào có Phật Bồ-đe?” Do sự chê bai này nên vua giết họ mà được phước không tội. Nay Ong muốn giống với họ hay sao?
Câu huống là miệng tự v.v... trở xuống là nói sự trái phạm, trong đó nêu nhẹ so sánh với nặng, nghĩa là nghe một lời còn sinh đau đớn nên nói là nêu nhẹ” huống gì tự chê bai “nên gọi là so sánh với nặng, không tin bất hiếu là Nhân chê bai.
Câu mà trái lại, v.v… trở xuống là Chánh thành trái phạm: Nghĩa là trợ giúp hai hạng người trước để thành việc chê bai.
Dưới kết lại để chỉ bày tên tội, trên đây đã nói xong mười tội nặng.
Câu “Từ v.v... trở xuống là. ” Kết khuyến tu học, trong đây có bốn: Kết khuyên rất phải ngăn ngừa.
Nói phạm tổn khuyên trì Trì đồng ba đời.
Kết lược chỉ bày rộng.
Câu những vị khéo học có hai nghĩa: 1. Các người này là kheo học giới
2. Người học điều lành.
Bảo với các người này gọi là đại chúng. “Bồ-tát v.v.. trở xuống là” kết số và tên. “phải nên” là lời thành thật răn dạy. Trong đó có hai ý:
Nghĩa là đối với một giới còn không nên phạm một mảy như cát bụi, huống gì phạm tất cả giới. Hạt trần là nói một chút phần, như Tục ngữ có câu: Thần đối với nước không có một chút công lao nào cả.
Giải thích: Như giữ gìn phao nổi, một chút nhỏ như bụi cát cũng không phạm.
1. Đối với mười giới không nên phạm một giới, huống gì phạm đủ cả mười.
Câu “ Nếu phạm v.v... trở xuống là” Nói phạm lỗi có hai nghĩa: Trước nói mười lợi ích lớn, sau nói chịu nhiều tổn hại trong ba đường.
“Mất đại tâm”, nghĩa là phạm tội trọng này, thân không chịu phát tâm Bồ-đề. Vì trái với bản thệ nguyện nên chẳng phải đồ đựng pháp.
“Mất ngôi vua”, nghĩa là được một chút ngôi vị do giới Bồ-tát làm Nhân, vì quên nên mất quả.
Ngôi vị vua Chuyển Luân cũng như vậy.
“Mất Tỳ-kheo”, nghĩa là phạm giới đọa này phải vào địa ngục, không được làm người, không được làm Tỳ-kheo. Còn do phạm tội nặng hiện tại không thành Tỳ-kheo nên nói là “mất”.
Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Bốn vị trên đây mất thông phàm Tiểu vị. Từ v.v... trở xuống là năm thứ mất vị đại thừa, trong đó bốn vị là nhân vị. Nghĩa là Ba hiền Mười thánh, một vị là quả vị, trong đó có hai nghĩa:
Quả Pháp thân, nghĩa là tánh danh của quả vị là Phật tánh.
Quả Báo thân. Diệu hạnh đã thành gọi là quả Diệu hạnh. Nói Thường trụ chung cho cả hai nơi này. Phạm các vị mười thứ nặng như thế đều không thành trở lại. Nên nói:” Tất cả đều lỗi.
“Đọa ba đường ác, nói do phạm giới này hoặc đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh.
“Hai kiếp, ba kiếp”, vì khi phạm có nặng nhẹ như trên đây đã nói, là người ở trong ba cõi kia, tùy chỗ ứng kiếp số đây kia hai, ba không nhất định, không nghe tên cha mẹ, nói cha mẹ là từ dục, Tam bảo là cứu hộ cùng cực. Người phạm tội chịu khổ không nghe tên này, nên nói là không cứu.
Giải thích: Tuy ra khỏi đường ác nhưng sinh vào biên địa thấp hèn, trong hai, ba kiếp không nghe tên cha mẹ và Tam bảo. Văn chung cho hai giải thích nên biết. Vì cho nên không phải mỗi mỗi đều phạm.
Tổng kết khuyến trì.
Câu các vị trở xuống, v.v... là Răn dạy ba đời đồng học, có hai nghĩa:
Ba đời đồng học giới này nghĩa là một Bồ-tát đối với ba vị này nên học giới này.
Câu “ Mười giới nầy, v.v... trở xuống là” kết lược chỉ rộng. Kinh này trong Quảng bản có phẩm Bát Vạn Oai Nghi nói đầy đủ mười giới tướng.
Giải thích Thiên này có tám môn:
1. Ý nghĩa đặt ra giới nầy.
2. Giải thích tên gọi
3. Số loại
4. Đầy đủ nặng nhẹ.
5. Bao gồm nhiều ít.
6. Tánh, Già
7. Thô, tế
8. Giải thích văn.
1- Chế ý: vì sao Chư Phật đặt ra giới khinh này. Tránh sự chê bai của thế gian.
Làm sáng tỏ đạo Bồ-tát xuất thế. Tình trần sâu kín đều dứt hết Điều phục ba nghiệp chế độc Phương tiện xa hộ mười giới trọng
Tăng trưởng ba nhóm giới của Bồ-tát.
Câu còn lại như v.v... trở xuống là giải thích chỗ văn nói.
2- Giải thích tên gọi:
Khinh cấu là phân biệt với giới trọng ở trước, cho nên gọi là khinh, phân biệt khác với không phạm nên gọi là Cấu.
Giải thích: Ô nhiễm hạnh thanh tịnh gọi là cấu, thể chẳng phải lỗi nặng gọi là khinh. Thiện Giới Địa Trì gọi chung giới khinh là Đột-Cát-la. Du-già gọi là ác tác, nghĩa là không thuận với lý nên gọi là ác tác, còn gọi là Cụ quá ác, cũng gọi là ác thuyết, tức là nói lỗi. Kinh Thiện Sinh gọi là tội Thất Ý. Nghĩa là quên nhớ chỗ làm trái với bản chí nên gọi là Thất ý.
Ba Số loại thì thông với thiên luận này, loại thiên này có mười. Nếu theo Du-già thì có 44 giới khinh.
Theo Kinh Địa Trì Thiện Giới tuy có thêm bớt chút ít nhưng phần lớn đều đồng với Du-già. Trên đây phần nhiều là giới tướng của người xuất gia.
Theo Kinh Bồ-tát Nội Giới thì có 42 giới.
Theo Kinh Thiện Sinh, trừ 8 tội nặng ra còn lại 28 giới.
Theo Kinh Phương Đẳng trừ 24 giới ra còn 25 giới cấm ngăn không nên làm. Trên đây phần nhiều là giới tại gia.
Theo kinh này thì đại số có 48 giới.
Nếu tìm kỹ trong văn, hoặc trong một giới có nhiều loại, cộng chung gồm cả trăm thứ. Trên đây là giới chung cho đạo tục.
Câu hoặc tám muôn thứ như, v.v... trở xuống là văn trích dẫn trong phẩm Bát Bạn Oai Nghi, 9 hoặc 10 muôn giới. Như Lương luận dẫn Kinh Tỳ-nại-da Cù-sát na-la chép:” Bồ tát có 10 muôn thứ khác nhau. Hoặc trần sa như Luận Đại Trí Độ, lược có 8 muôn rộng có trần sa, đều là một loại như thế.
3- Nặng nhẹ:
Trong 48 giới này có vài giới là nhẹ, có vài giới là nặng. Nghĩa là sáu giới phạm tội nặng, số còn lại là tội nhẹ. Nghĩa là Giới Quốc Sứ sát sinh, trong đó làm sứ nên xếp vào thiên này. Tùy theo việc làm tổn hại vật nên tội nặng.
Trong giới theo quan cưỡng xin, vì ỷ thế lực quan nên xếp vào thiên này, Giới cướp lấy vật phạm tội trộm.
4- Trong giới làm chủ, là chủ thất nghi nên xếp vào thiên này.
Làm tổn vật của Tam bảo nên phạm tội nặng
Trong giới trái với giới cấm chế được hành phi giới, vì dối hiện gần gũi nên xếp vào thiên này. Tự thân chê bai Tam bảo nên xếp vào tội nặng, lại vì Sát sinh, trộm cắp nên phạm tội nặng.
Trong giới chứa để làm việc phi pháp, nhẹ gọi là tiểu đẩu v.v... nên xếp vào thiên này. Lấy tài vật của người là phạm tội nặng.
Câu “ Ngũ đa tiểu là chỉ một giới bao nhiêu là nhiều giới “ nghĩa là có mười giới là một cụ đa giới.
Trong giới mua bán có ba giới:
1. Bán người lành.
2. Bán tôi tớ súc sinh
3. Bán quan tài.
Trong giới không thể cứu chúng sinh có hai giới:
Cứu chúng sinh thoát khỏi bị giết
Ngày mốt giảng pháp để cứu vong khổ.
- Trong giới khinh người mới cầu học cũng có hai giới: Nghi thức thọ giới
Giới sư cậy mình không chịu trả lời câu hỏi
Trong giới ganh ghét với người tài năng làm tổn chúng sinh có 6 giới:
+ Bán nam sắc nữ sắc
+ Tự tay làm thức ăn, tự tay xay giã.
+ Xem tướng đoán mộng
+ Chú thuật khéo léo
+ Pháp điều phục chim Ưng + Hòa chế thuốc độc.
- Trong giới trái với giới cấm thực hành phi giới, có bốn giới:
+ Bí mật hủy báng Tam bảo
+ Làm mai mối + Ngày trai sát sinh + Tâm trộm cắp.
- Giới chứa đề làm việc phi pháp có sáu giới:
+ Chứa dao tên
+ Cân non, đong thiếu
+ Nhờ thế lực lấy vật
+ Hại tâm trói buộc
+ Phá hoại việc thành công + Nuôi mèo, chồn, v.v...
- Giới xem nghe làm ác có năm giới:
+ Không được xem thi đấu
+ Không được nghe các thứ âm nhạc
+ Không được cờ bạc
+ Không được xem bói
+ Không được làm sứ cho giặc.
- Trong giới vào chỗ nạn có ba giới:
+ Đầu-đà
+ Bố-tát + Ngồi.
Mùa Hạ, mùa Đông đúng pháp không vào chỗ hiểm nạn. Trong giới nên giảng kinh luật Đại thừa có hai giới: Giết người để xây dựng chùa tháp
Khi gặp nguy nan thì giảng kinh luật Đại thừa. Thọ giới trái nghi có hai giới:
5. Nghi thọ giới.
Không lễ thế tục.
Trên đây, mười nội tán nói 35 thứ. Còn trong sáu giới đều có chứa đựng sáu giới trọng. Cũng đều đủ hai giới. Ngoài ra 32 giới đều chỉ có một thứ, cho nên tổng cộng có 69 giới, nên biết.
6- Tánh giới và giá giới.
Trong 48 giới có vài giới là giá giới, có vài giới là tánh giới.
7- Thô tế.
Trong giới này có vài giới thô để ngăn ngừa thân, ngữ. Vài giới tế ngăn ngừa ý nghiệp, còn vài giới ngăn ngừa nghiệp ác. Vài giới tế ngăn hoặc chướng. Hai môn thô, tế này đều tùy theo văn mà biết.
8- Giải thích văn: Trong văn này riêng có ba thứ: Kết trước sinh sau.
Hiển bày giới tướng Kết khuyên tu học.
Câu 1. “Kết trước” là mười giới trọng, “Sinh sau” là 48 giới khinh
Câu 2. Từ trong giới mà chánh thức hiển bày giới tướng, 48 giới hoặc nhiếp làm năm đoạn, ba đoạn đầu là 30 giới, hai đoạn sau là 18 giới, chỉ cho phẩm này. Nếu tản ra thì thành 48 chương, như văn nên biết, giải thích văn chia làm năm đoạn:
3 nhóm có 10 x 3 = 30 giới.
2 nhóm có 9 + 9 = 18 giới. Tổng cộng thành năm đoạn.
Giải thích giới này thành tám môn:
1- Y nghĩa chế giới.
2- Thứ lớp
3- Giải thích tên gọi.
4- Đủ duyên
5- Thiếu duyên 6-Nặng nhẹ.
7- Thông bít
8- Giải thích văn.
- Y nghĩa chế giới: Bồ-tát lẽ ra phải khiêm cung thấp mình cúng dường tất cả chúng sinh, huống chi đối với tất cả Sư trưởng mà có tâm khinh mạn. Rất trái với sự tu hành nên Phật đặt ra giới này.
- Thứ lớp: Đã sáng lập đắc giới lẽ ra phải theo thầy thọ giáo, nếu có tâm khinh mạn không thọ giáo thì không nhờ đâu mà đắc giới, nên phải cấm ngăn trước. Để theo giới mà thực hành đầy đủ, nương tựa vào đây mà lập.
- Giải Thích tên gọi: Đối với thầy và Sư trưởng mà có tâm khinh mạn, giới ngăn ngừa lỗi này, theo chỗ xa lìa mà đặt tên.
- Đủ duyên: có đủ bốn duyên:
1. Thầy là bậc có đức độ
2. Biết là Thầy
3. Cố khởi tâm khinh mạn
4. Thân không cung kính nuôi dưỡng. Nên kết phạm.
- Thiếu duyên: Thiếu hai duyên đầu đều phạm tội nhỏ Vì Sư trưởng là bậc mà tất cả hàm linh đều cung kính
Thiếu duyên thứ ba, phạm tội vừa vì đối với Sư trưởng thân tâm không cung kính.
Thiếu duyên thứ tư, phạm tội lớn vì đối với Sư trưởng khởi tâm khinh mạn.
- Nặng nhẹ: có bốn thứ.
1. Y cứ vào cảnh có ba phẩm:
2. Đối với hai thầy rất nặng
3. Đối với bạn phạm tội kế
4. Đối với đồng loại.
Ở đây có ba cảnh phạm ba tội thượng, trung, hạ, nên biết.
* Y cứ vào tâm cũng có ba phẩm:
Tâm hiềm hận, tâm sân não phạm phẩm thượng.
Không hiềm hận chỉ do kiêu mạn si tâm là phạm phẩm trung Biếng nhác vọng niệm là phạm phẩm hạ.
Y cứ vào ba tâm đối với ba cảnh như thứ lớp, dựa vào nặng nhẹ lẫn nhau nên biết.
Đứng về sự cũng có ba phẩm: Không thể bán thân
Không đúng như pháp cung kính nuôi dưỡng Không đón rước lễ bái.
Phải có ba tội thượng, trung, hạ nên biết.
- Thông bít.
Đêm tối không biết
Nếu ngủ nghỉ thì người khác ra dấu cho biết. Bệnh nặng.
Nếu bệnh mới bớt không có sức khỏe Hoặc tại chỗ ngồi nói pháp.
Nếu đang nghe pháp, tâm hộ người nói pháp đều không phạm giới, như trong Du-già nói.
- Thích văn:
Nói thọ đắc giới
Đã đắc rồi chỉ dạy khuyên hành trì, cũng trước là thọ giới. Đây là khuyên hành trì
Nếu chẳng như vậy thì trái phạm, nên kết tội. Câu 1 Có hai nghĩa:
* Trước hết là lược nói có ba vị:
- Quốc vương là Lật-tán
- Luân vương là Kim, Ngân, Đồng, Thiết.
- Bá quan là nói chung các quan văn võ.
Đây là ba vị cao quý, đối với chúng sinh đều có thể làm tổn hại hay lợi ích. Cho nên nếu không thọ giới thì u linh không che chở, làm sao thống ngự chúng sinh, nên nói trước phải thọ giới Bồ-tát.
Câu 2. “Tất cả v.v... trở xuống là” Nói về lợi ích của việc thọ giới. Trên thuận với thánh ý, dưới hiệp với quần linh, được quỉ che chở khiến cho thân không bị tai ách, chức vị được còn mãi.
Kế là nói Chỉ bày hành trì, cũng có hai nghĩa: Thuận hiển nên hành
Câu mà Bồ-tát v.v... trở xuống là trái lỗi, trong phần hiển phi ở trước có ba nghĩa:
1. Khởi trọng tâm
2. Thấy người tôn quý
3. Lập ra nghi thức tôn kính.
Đầu và giữa có hai tâm: nghĩa là báo ân, kính dưỡng, đón rước theo tôn mạng là hiếu thuận. Cung kính có ba:
1. Hòa-thượng mười giới
2. Hòa-thượng giới Cụ túc
3. Hòa-thượng giới Bồ-tát, tức là Chư Phật.
Nay y cứ vào hai bậc trước, nói A-xà-lê, Hán dịch là Quỹ phạm sư, nghĩa là giáo thọ pháp nên nói. Nhưng có sáu nghĩa:
1. A-xà-lê mười giới.
2 Đại giới yết-ma
3. Oai nghi giáo thọ
4. Thọ nghiệp
5. Y chỉ
6. Thọ giới Bồ-tát.
- Đại đồng học, nghĩa là đồng học một thầy về tạng Bồ-tát, người năm hạ trước mình.
- Đồng kiến
Đồng hành, nghĩa là đồng thấy pháp tạng Bồ-tát Đại thừa, đồng thực hành hạnh Bồ-tát. Ban đầu là đồng giải, sau đồng hành. Hai thứ này chung cho đồng Sư và không đồng Sư, nhưng đồng nghiệp nầy thì phạm tội nặng, nhưng đồng nghiệp nầy đều phạm tội nặng.
Giải thích: Cũng chung cho giải hạnh với hàng Tiểu thừa, tất cả đều phạm tội nặng vì đồng trong Phật pháp. Trong nghi thiết kính có ba:
1. Nếu bệnh thì nên đứng dậy
2. Không có sức khỏe nên thừa nghênh
3. Khi khỏe mạnh nên lễ bái. Lại giải thích:
Câu 1. Đứng dậy, kế đến đón rước, sau đó lễ bái.
Câu 2. Mà Bồ-tát v.v... trở xuống là trái lỗi. Trong hiển bày lỗi có hai việc nghĩa:
-Nêu lỗi
Kiêu mạn trái với tâm cung kính ở trước.
Ngu si trái với tâm hiếu thuận. Đối với Sư trưởng không hiếu thuận cung kính. Hoặc chung cho hai việc trước. Còn đối với bậc thượng không cung kính gọi là kiêu. Đối với người ngang hàng mà tự đại gọi là mạn.
Đủ cả hai việc này gọi là Si. Cả ba nghĩa này là tâm trái hạnh. “Không đứng dậy đón rước” là tướng trái với hạnh. Mỗi việc có hai nghĩa:
Ở sáu vị trước, mỗi vị đều không đúng như pháp, đối với Sư trưởng việc cúng dường đều không đúng như pháp. Cúng dường có ba nghĩa:
Cung kính cúng dường, nghĩa là đón rước lễ bái Sự cúng dường là hương hoa
Hành cúng dường, nghĩa là đúng như lời dạy tu hành.
Đối với ba thứ này đều phải đầy đủ. Dưới đây hiển rõ trong nghi cung kính. Nếu người nghèo không có tiền cúng thì rốt ráo không khai cho. Nay giới nói tự bán thân. Đây là chung cho hai vị tại gia và xuất gia. Bán quốc thành là y cứ vào ngôi vua, gọi chung là quốc, chỗ căn cứ gọi là thành. Bán trai gái là nam nữ của bản thệ nguyện. Khi bán không lỗi, còn là Bồ-tát trùng nhân trùng hạnh, tình rất sâu nên dẫu phá chẳng phải đồng nguyện nam nữ, cũng phá tình hướng về pháp. Hai vị này là y cứ vào người tại gia. Bảy báu là y cứ vào vị Luân Vương, có 2 nghĩa:
1. Kim luân có thứ bảy loại:
a. Bánh xe
b. Ngọc nữ
c. Voi báu
d. Ngựa báu
e. Châu báu
f. Chủ binh thần báu
g. Chủ tạng thần báu Bồ-tát.
Tất cả đều bố thí, chẳng phải là vật bán
2. Về bảy báu:
a. Vàng.
b. Bạc.
c. Lưu ly.
d. Pha lê.
e. Xích châu
f. Xa cừ
g. Mã não.
“Trăm vật” là chỉ chung cho tất cả các vật sở hữu. Trong đây, bảy báu trăm vật có hai nghĩa:
Vật bán đồng với nam nữ nói trên
Vật cúng: Dùng những thứ nầy để cúng dường vật cần dùng, nên nói cung cấp cho.
Câu 3. Nấu không như thế trở xuống là trái với kết tội phạm, nghĩa là trái với nghi cung kính ở trước. Cho nên kết tội phạm kia nên biết.
1. Chế ý: Rượu là thuốc mê cuồng, tội nặng do đây mà sinh. Luận Trí Độ nói có 36 lỗi. Phần nhiều nói gây ra bốn tội nghịch chỉ trừ phá tăng, rất là tội nên Phật mới đặt ra giới này.
2. Thứ lớp: Trước là hiển nghi bất kính bên ngoài, nay thì trong không hôn loạn nên nói kế sau
Giải thích tên gọi: Cũng từ chỗ trở ngại mà đặt tên.
3. Đủ duyên:-Rượu.
- Nghĩ là rượu.
- Không bị bệnh nặng
- Uống liền phạm
Hỏi: Luật Tiểu thừa uống rượu không cho nghi và tưởng. Giới này vì sao có tưởng kia.
Đáp: Vì rượu là nguồn gốc tội lỗi. Nên giới Thanh văn không cho lầm v.v... Nay y cứ duyên thành nên có tưởng. Vì vậy nên văn nói rằng:” Nếu Phật tử cố uống rượu, đã nói cố uống nên biết. Không cố ý nên chẳng chánh phạm.
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên một, phạm tiểu tội vì khởi tưởng.
Thiếu duyên thứ hai phạm trung tội vì cảnh là thật.
Nếu thiếu duyên thứ ba, bốn thì không tội, nên biết.
6. Nặng nhẹ có ba:
1. Y cứ vào cảnh: Say phạm tội khinh, đặt rượu nên tội nặng
2. Y cứ vào tâm. Nếu bệnh nhẹ không tham cũng phạm tội nhẹ, trái lại phạm tội nặng.
Y cứ vào sự, tức dẫn chúng sinh lợi ích nhỏ liền cùng ăn uống nên phạm tội nhẹ, trái lại thì phạm tội nặng.
Thông bít: Vì cứu sinh mạng mà uống rượu thì không phạm tội, như trường hợp Mạt-lợi phu nhân. Lại vì cứu nghiệp Vô gián của người nên cùng uống để khuyên người đó dứt tội thô nặng, thì không phạm. Trái với đây thì tất cả việc làm đều phạm
Giải thích văn: cũng có bốn:
Câu 1. Nêu uống rượu phạm tội nặng.
Câu 2. Nếu tự v.v... trở xuống là giải thích thành tội nặng.
Câu 3. Không được xúi người v.v... trở xuống là chánh chế chỗ tội nặng.
Câu 4. Nếu cố ý v.v... trở xuống là nên trái kết phạm. Câu “Rượu quá vô lượng...” Luận Trí Độ nói có 36 lỗi là lược nêu đầy đủ việc đó. Luật Tứ Phần quyển 15 nói: “Phật bảo A-nan; Uống rượu có mười lỗi:
1. Mặt mày xấu xí
2. Thiếu sức khỏe
3. Mắt nhìn không rõ
4. Hiện tướng giận dữ
5. Phá hoại tài sản 6. Thêm nhiều bệnh tật
7. Thêm tranh chấp, kiện tụng.
8. Không có tiếng tốt, tiếng xấu đồn khắp.
9. Trí tuệ giảm ít.
10 Khi chết đọa vào đường ác.
Như Tỳ-kheo Bà-Già-Đà, trước hàng phục được rỗng dữ, nhưng khi uống rượu vào thì không hàng phục được con ễnh ương. Kinh Đại Ai Đạo Tỳ-kheo-Ni chép:” Không được uống rượu, không được nếm rượu, không được ngửi rượu, không được cất rượu, không được bán rượu cho người. Không được nói dối là bị bệnh để uống rượu thuốc. Không được đến quán rượu, không được nói chuyện với người uống rượu. Rượu là thuốc độc, rượu là nước độc, rượu là hơi độc. Nguồn của các lỗi, là gốc của các điều ác. Tàn hại, hủy báng bậc Hiền Thánh, làm bại loạn đạo đức. Khinh hủy đến nổi gây ra cội gốc tai họa. Bốn đại khô khao, bỏ phước theo tội, đều là do rượu. Thà uống nước đồng sôi chứ không uống vị rượu. Vì thế mà rượu khiến cho người thất chí mê loạn điên cuồng. Khiến cho người bất giác vào địa ngục. Cho nên ngăn ngừa rượu mà thôi. Lỗi khác như Luận Trí Độ đã nói.
Giải thích có hai nghĩa:
Nêu khinh. Năm trăm đời không tay Thiền sư Đỗ Thuận giải thích rằng: Đều là chân cho nên nói không có tay. Tức là súc sinh.
Huống là tự uống: là so sánh với nặng.
Trong chánh chế cũng trước nêu người, sau so sánh tự mình. Ở trước tất cả chúng sinh là chung cho cả súc sinh, cũng không cho uống. Vì mất đi lợi tha.
Nếu trái thì kết phạm, nên biết.
1. Ý nghĩa chế giới: Bồ-tát lẽ ra phải tự xả thân để cứu giúp sinh mạng chúng sinh, đâu cho lại ăn thịt chúng sinh, là trái hại nên Phật đặt ra giới này.
2. Thứ lớp: Giới trước lìa uống chất hôn loạn, giới này lìa sự ăn uống tổn hại sinh vật.
Giải thích tên gọi: Vô lý ăn thân phần chúng sinh gọi là ăn thịt. Giới là ngăn ngừa, theo dụng mà đặt tên.
3. Đủ duyên: Có bốn:
1. Thật chẳng phải thịt thì không phạm
2. Dùng thịt vật khác để tự ăn thịt mình không phải chánh phạm
3. Nghĩ là thịt, vì tưởng lầm nên không phạm
4. Vào miệng liền phạm.
4. Thiếu duyên: nên biết.
5. Nặng nhẹ:
Có bốn nghĩa:
1. Về cảnh
2. Về tình
3. Hợp giải thích
4. Về hoặc.
* Về cảnh:
1. Súc vật sinh thai y là thịt không có mạng sống.
2. Thịt con vật chết
3. Ba thứ thịt thanh tịnh.
Biết cắt đứt mạng sống.
* Y cứ vào về giới đều phạm, nghiệp đạo như thứ lớp, đều trước khinh sau trọng.
*. Y cứ về tình cũng có ba:
a. Bệnh nặng đầy đủ thuốc men
b. Giúp cứu mạng vào thời đói khát.
c. Buông lung thường ăn cũng đều phạm giới. Nghiệp đạo y cứ theo đây mà biết.
3. Hợp giải thích: Lấy giới sau hợp với trước theo thứ lớp. Và xen nhau nặng nhẹ nên biết.
Về hoặc thì ba độc y cứ theo đây nên biết.
7. Thông bít:
Y cứ về tự.
1/ Hướng về bít mà không thông.
2/ Y cứ vào tâm giáo hóa chúng sinh, có duyên phát tâm Bồ-đề.
Dù chưa thấy văn, y cứ theo đây cũng nên thông.
8. Giải thích văn: Có ba:
- Nêu phạm-Chánh chế
- Kết tội.
Trong chánh chế có hai:
Câu 1. Nêu chế. Tất cả thịt là thông thân phần chung của bốn loài sinh.
Câu. Dứt đoạn từ v.v... trở xuống là giải thích ý nghĩa chế giới, có ba lỗi:
Dứt lòng từ bi, trái với sự giáo hóa. Kinh Niết-bàn chép Than ôi! Người ăn thịt làm dứt mất hạt giống đại từ đại bi. Ví thế ăn thịt làm hại chủng tánh đại bi, mất đi tự lợi, chúng sinh nhìn thấy bỏ đi, là mất lợi tha. Lại nữa, ban đầu trái với nhân duyên giáo hóa, lại nói chúng sinh ăn thịt trên đầu có ánh sáng đỏ như máu (huyết quang), nghĩ rằng: Thân ta có thịt, người kia ăn thịt. Người kia nếu được ta sẽ ăn thịt ta, liền sợ hãi bỏ đi.
1. Xét lại các Kinh Lăng-già, Niết-bàn, Ương-Quật v.v... Lại trong Kinh Nhất Thiết Trí Quang Minh nói vị tiên không ăn thịt trong Kinh Nhân Duyên có nói đầy đủ về lỗi ăn thịt. Vị tiên kia chính là Bồ-tát Di-lặc, đương lai thành Phật. chế giới ăn thịt phạm tội nặng, trong kinh đó có nói đầy đủ.
2. ” Nhất thiết Bồ-tát v.v.. trở xuống là” trái hạnh phi nhân. Nghĩa là hễ phát tâm Bồ-đề thực hành hạnh Bồtát, lẽ ra phải xả thân mạng cứu hộ chúng sinh. Vì sao lại ăn thịt chúng sinh, cho nên không làm.
3. An thịt bị vô lượng v.v... trở xuống là tội nghiệp lỗi chẳng phải nhẹ. Nghĩa là theo Luận Trí Độ, ăn thịt phạm tội sát sinh, vì thấy sát sinh nhẫn được. Lại như nói:” Thịt chẳng phải tự nhiên sinh, đều do giết chết chúng sinh mà có được. Nếu người không dứt bỏ việc ăn thịt, thì đó là giặc cướp mạng.
Kết tội nên biết.
1. Chế ý: Bồ-tát lẽ ra phải ở nơi có mùi thơm thanh khiết, lại ăn thịt hôi nồng. Mùi hôi nồng nặc đó khiến cho thiện thần bỏ điều lành, không đến gần, nên Phật đặt ra giới này.
2. Thứ lớp: Trước ăn thân có mạng sống, nay phạm ăn mùi hôi, nên xếp vào kế sau.
3. Giải thích tên gọi: Mùi hôi cay nồng là rau cay, và Vài loại khác thành năm. Vô lý ăn vào là Thực. Ngăn dứt tệ hại này gọi là Giới, cũng do công năng mà đặt tên.
4. Đủ duyên:
Năm thứ rau cay
Nghĩ là năm thứ rau cay.
Không có khai duyên, đó là bệnh nặng và độ sinh. Ăn vào liền phạm
5. Thiếu duyên có thể y cứ
6. Nặng nhẹ.
Y cứ vào cảnh khí có đậm nhạt. Y cứ vào tâm tình có tham, chán. Y cứ vào sự duyên có tổn ích.
Đều có nặng nhẹ nên biết.
7. Thông bít: nghĩa là tự bệnh nặng và cứu nhiều chúng sinh có lợi ích an vui, đúng lý phải thông. Ngoài ra đều là bít.
8. Giải thích văn: có ba: Chế chung
Tỏi, v.v... trở xuống là chế riêng, trong đây là năm thứ rau cay, khác với chỗ khác có hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ là năm. Tỏi trong năm thứ của văn nầy nên biết. Có người nói: Hành hẹ là hồ thông, lan thông là gia thông. Ba loại trên người đời thường ăn. Cách thông là sơn thông. Bắc An-độ có hưng cừ, nhưng ở Giang Nam thì không. Hưng cừ có thuyết cho là Vân thất, nhưng chưa thấy thành văn. Củ hành giống hẹ, cũng gọi là khảo thị tử. Bắc Ấn-độ không có, lại giải thích nó là thuốc Angụy, âm Phạm là hưng cừ, là lá của thực vật có mùi cay nồng.
“Nếu cố v.v...” là trái với quy định nên kết phạm.
1. Ý nghĩa đặt ra giới nầy:
Bồ-tát lẽ ra phải nêu lỗi dạy người sám hối, rửa sạch, giúp họ thanh tịnh. Mở ra ánh sáng khác lạ khiến cho chánh pháp ngàn năm không tắt, dưới cầu cho chúng sinh không bỏ quần phẩm, trên giữ gìn thánh giáo để báo ân đức của Phật. Vì tội rất nặng nên Phật mới đặt ra giới này.
2. Thứ lớp: Trước tự làm trong sạch thân mình, nay không cho hạnh ô uế sống chung.
3. Giải thích tên gọi:
Làm trái với giáo lý, Đức Phật kết tội, thuận theo tình người kia mà không khuyên sám hối. Giới ngăn ngừa lỗi này cũng lấy công năng để đặt tên.
4. Đủ duyên:
Đủ năm duyên thành phạm:
1. Phạm giới có tình
2. Biết người kia có tội
3. Chẳng trái với duyên khác
4. Nên che giấu
5. Cùng chung pháp sự.
5. Thiếu duyên:
Thiếu hai duyên đầu không phạm tội.
Thiếu duyên thứ ba cũng không phạm, nghĩa là như cũ người đó khởi phiền não, sinh ra đấu tranh. Cho nên “như cỏ phủ đất”. Ngoài ra, thiếu hai duyên còn lại, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Phạm tiểu giới không dạy nên tội khinh. Tội trọng thì nên trọng. Lại 40 giới nên là Tiểu, 17 giới nên là trọng. Còn nêu mà không theo thì phạm tội nhẹ, theo mà không nêu là phạm tội nặng. Còn phước yếu không thể nêu là tội nhe, sân hiềm không nêu là tội nặng, đều nên biết.
7. Thông bít:
Tự mình không có năm đức nên người khác không theo; lý chung cho không phạm, các vị khác đều bít.
8. Giải thích văn:
Đối duyên chánh chế.
Câu mà Bồ-tát v.v... trở xuống là trái chế nên phạm. Câu một cũng có hai nghĩa:
Nêu duyên chế giới cũng có bảy thứ.
1. Phạm tám giới có hai:
a. Tiểu thừa tám giới như Luận Thành Thật
b. Bồ tát tám giới như Kinh Văn-thù Vấn
2. Phạm năm giới cũng có hai:
a. Tiểu thừa năm giới như Tiểu Luận
b. Bồ-tát năm giới như Kinh Thiện Sinh
3. Phạm mười giới cũng có hai:
a. Sa-di mười giới như luật
b. Kinh Văn-thù Vấn cũng lấy mười giới của Sa-di làm giới Bồ-tát
4. Hủy cấm cũng có hai:
a. Giới Đại Tỳ-kheo
b. Giới Bồ-tát
5. Câu bảy tội nghịch v.v... trở xuống là Phân biệt. Tám nạn là một nghĩa trong mười ba nạn, trừ năm tội nghịch. Vì người kia xếp vào trong bảy nghịch nên trừ tám. Chỗ này còn sợ chưa đúng, vì phi nhân không ngăn được giới. Còn có chỗ giải thích ba đường bằng tám nạn, đây là sai. Vì đó là báo chứ chẳng phải nêu sám, nên nay giải thích đúng, vì nhân kia tám nạn là tội nghiệp.
6. Tất cả đều kết phạm.
Câu nên dạy, v.. v.. trở xuống là chánh chế giới hạnh, nghĩa là từ tâm dạy người đó sám hối.
Câu 2. mà Bồ-tát v.v... trở xuống là trong đó trái phạm kết tội, cũng có hai:
Trước vi phạm quy định, sau kết phạm. Trong phần trước có ba
1. Không dạy sám hối mà ở chung là xứ đồng.
7. Lợi đồng cũng là thực đồng.
Pháp đồng Bố-tát là âm Hán, tiếng Phạm là Bổ-sátđa, Hán dịch là Tịnh Trụ. Nghĩa là ba nghiệp sáng sạch gọi là Trụ. Giữ giới đầy đủ, hòa hợp với chúng gọi là Trụ. Tức là pháp lợi không hai.
Câu sau mà không nên, v.v... trở xuống là kết tội phạm, nên biết.
Theo Du-già giới bản chép:” Nếu các Bồ-tát an trụ tịnh giới luật nghi thấy các hữu tình bị quở trách được trị phạt, bị đuổi đi, có tâm nhiễm ô mà không quở trách, hoặc có quở trách mà không trị phạt, răn dạy. Hoặc có trị phạt đúng như pháp răn dạy mà không đuổi đi, đó gọi là có phạm. Có sự trái vượt là phạm nhiễm ô. Nếu do lười biếng, buông lung mà không quở trách, cho đến đuổi đi thì chẳng phải ô nhiễm, trái phạm. Không trái phạm tội này, như biết người đó không thể sửa đổi, không thể nói được, thích nói lời thô tục phần nhiều sinh ra chê bai ghét bỏ, nên phải bỏ đi. Nếu quán đợi thời, hoặc quán nhân này thiếu tranh tụng, hoặc quán nầy khiến cho tăng thêm bàn luận, tăng thêm phá hoại. Biết hữu tình kia không có tâm tà vạy, thành tựu tăng thượng mạnh mẽ, sắc bén, hỗ thẹn nhanh chóng trở lại được thanh tịnh. Không quở trách cho đến đuổi điều lành, đều không trái phạm.
Giải thích rằng: Tội nhẹ chỉ quở trách, tội trung nên trị phạt, tội nặng nên diệt tẫn, đều vì lòng từ bi mà không vì tức giận, vì lợi ích không vì tổn hại. Biết thời không vì phi thời, v.v...
1. Ý nghĩa chế giới:
Chư Phật là thầy các pháp, Bồ-tát lẽ ra phải kính người trọng pháp, diệt thân cầu thỉnh, mà lại kiêu mạn coi thường người nói pháp. Rất lỗi đạo, nên Phật chế ra giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước lỗi không dạy người, giới này không kính thỉnh người nói pháp.
3. Giải thích tên gọi:
Khinh mạn pháp gọi là “không kính thỉnh”. Giới ngăn ngừa lỗi này, do công năng mà đặt tên.
4. Đủ duyên:
Đủ bốn duyên thành phạm.
1. Thật có người hiểu và thực hành Đại thừa
2. Không khai duyên 3. Khởi tâm kiêu mạn.
4. Không cúng dường không thỉnh pháp
5. Thiếu duyên: nên biết.
6. Nặng nhẹ:
* Y cứ vào người có ba:
Giải hạnh hơn mình là Quỹ phạm sư, kiêu mạn không kính thỉnh thì phạm tội nặng.
Giải hạnh đồng với mình không thỉnh phạm tội nhẹ. Kém hơn mình không thỉnh thì không phạm.
Y cứ vào pháp cũng có ba, y cứ theo người nên biết.
7. Thông bít:
Kinh Trùng Lâu Giới chép: “ Nếu Bồ-tát có tâm kiêu mạn nên không thưa hỏi thầy, không thọ giáo thầy nên phạm tội. Không phạm là hoặc bệnh, hoặc cuồng, hoặc si, hoặc rất thông minh, học rộng có trí, vì điều phục chúng sinh, hoặc khi nhập định.
8. Giải thích văn:
Trong văn có ba:
Thấy thắng nhân từ xa tới nói duyên chế giới. Liền khởi v.v... là nói về chế giới.
Nếu không như vậy mà nói thì kết phạm.
Câu 1. “Pháp sư Đại thừa” là nêu chung phân biệt với Tiểu thừa, dưới là giải thích riêng. “Đồng đại pháp”, đồng kiến giải thắng. Đồng hạnh là hạnh thắng. “Vào tăng phường” là y cứ Bồ-tát xuất gia. Bỏ nhà là y cứ Bồtát tại gia. “Thành ấp” là nói về vua.
Câu hai. Trong chánh chế có hai:
- Chế phải kính dưỡng người.
- Chế khải thỉnh pháp.
Trước hết đón rước đều làm lễ.
Đứng về sơ hậu oai nghi. Mỗi ngày ba thời y cứ vào thời phần. Nghĩa là sáng sớm cúng dường Tiểu thực. Giờ ngọ cúng dường chánh thực. Các thời khác cúng dường thang dược, đó là ba thời.
Câu “Lưỡng kim v.v...” trở xuống là nói về dụng cụ sài dùng, nghĩa là tình trọng pháp sâu xa. Đối với người hết lòng cúng dường. Nên Nhiếp Luận chép: “Người có giới pháp đầy đủ, tuy có kém cỏi nhưng có khả năng nói pháp lợi ích cho nhiều người, thì cũng phải cúng dường để nghe nói pháp, giống như Phật Thế tôn. Trong Kinh báng Phật, có người chê bai pháp sư tức là chê bai Phật, cúng dường Pháp sư tức là cúng dường Phật. Phẩm Pháp Sư trong Kinh Đại Pháp Cự chép: Pháp sư nói Đại thừa khiến chúng sinh cung kính cúng dường.
Câu: Thưởng thỉnh: Trong pháp chế thỉnh. “Ba thời” nghĩa là một ngày có ba thời: Sơ, trung, hậu đều thỉnh pháp. Khi thỉnh đều phải đầy đủ oai nghi. Vén y bày vai phải lễ là thân nghiệp, lời thỉnh pháp là ngữ nghiệp, không sinh tâm sân là ý nghiệp.
Nay cung kính là việc khó làm, tâm không não loạn. Thân chịu khổ khó nhẫn chịu, không sinh tâm sân. Như Kinh Hiền Ngu quyển 1 chép: Phật Thích-ca đời quá khứ là vua Tỳ-lăng-kiệt, vì cầu một bài kệ mà chịu khổ ngàn cây kim nhọn đâm vào mình. Còn như đồng tử Tuyết Sơn vì cầu nửa bài kệ mà phải lên núi cao xả thân mạng, cho nên nói là vì pháp diệt thân.
Nếu không như vậy, trái phạm kết tội, nên biết.
1. Ý nghĩa chế giới:
Bồ-tát tân học gặp việc không hiểu lý, phải cầm kinh luật cầu học khắp nơi để tu thành đạo hạnh. Trái lại, có tụng mà không nghe, giữ khư khư cái không hiểu biết của mình, chẳng rõ trì phạm, nên khiến cho giới hạnh không có, lui sụt vào tà tiểu, vì có lỗi nặng, nên Phật chế giới này.
2. Thứ lớp: Trước thì thỉnh chung Đại pháp, nay thì thỉnh riêng tỳ-ni, cho nên phải chế.
3. Giải thích tên gọi:
Hóa giáo và chế giáo là tên khác của kinh luật, không thể dùng tai nghe nhận, giới là ngăn ngừa lỗi này nên đặt tên.
4. Cụ duyên:
Cũng có đủ bốn duyên:
1. Mới học
2. Có chỗ giảng pháp
3. Không khai duyên
4. Không đến nghe nhận. Thì liền phạm.
5. Thiếu duyên: nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Y cứ vào người, y cứ vào pháp đều có ba thứ nặng nhẹ, y cứ theo trước mà biết.
7. Thông bít:
Cũng y theo trước mà biết.
8. Giải thích văn có ba: Nêu thẳng duyên.
“Người mới học” nầy: đối duyên chánh chế. “Nếu không đến” Nên trái phạm kết tội nặng.
Câu 1. “ Nhất thiết xứ....” Là nêu chung tất cả chỗ có giảng nói kinh luật. “Có giảng Kinh Luật Tỳ-Ni” là chỗ giảng pháp. “Tỳ-ni” Hán dịch là Diệt. Nghĩa là thân, ngữ, ý, ác khí dữ dội, nóng bức lẫy lừng. Giới có công năng ngăn dứt nên gọi là Diệt, kinh luật này nói về Tỳ-ni nên gọi là kinh luật Tỳ-ni. “Đại trạch xá” là hiển xứ, “Giảng pháp” là trùng hiển pháp. Giải thích bản văn gọi là giảng. Trong chánh chế có hai nghĩa:
Y cứ vào pháp chế. “Thính” nghĩa là phải mang kinh luật đến chỗ nghe giảng.
Nếu núi rừng, v.v... trở xuống là y cứ vào xứ chế, khiến người đến đó nghe pháp.
Nếu không đến, v.v... trở xuống là trái phạm kết tội trọng, nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra phải xả bỏ Tiểu thừa, thọ trì phương pháp Đại thừa, mới thật sự gọi là Bồ-tát. Mà nay lại bỏ Đại thừa quay về Tiểu thừa, mất đi chánh hạnh. Vô cùng trái lý nên Phật chế ra giới này. Kinh Niết-Bàn chép:” Bồtát sợ đạo Nhị thừa, nếu tiếc thân mạng là sợ hãi xả thân. Phẩm Giới trong Đại Bát-Nhã chép: “Nếu Bồ-tát thọ vui năm dục trong Hằng già-sa kiếp, trong giới Bồ-tát còn không gọi là phạm. Nhưng khởi một niệm tâm Nhị thừa thì gọi là phạm. Văn như vậy đã nói đầy đủ.
2. Thứ lớp: Giới trước tuy lìa kiêu mạn huân tập việc học, nhưng tâm mê hoặc rơi vào Nhị thừa. Giới này quy định chuyên học Đại thừa.
3. Giải thích tên gọi:
Tâm bỏ Đại thừa nên gọi là “bối chánh”. Tôn sùng Tiểu thừa nên gọi là “hướng tà”. Cấm ngăn lỗi này nên gọi là Giới.
4. Đủ duyên:
- Là pháp Đại thừa
- Nghĩ là pháp Đại thừa.
- Tâm sai quấy
- Bỏ Đại, thọ Tiểu.
Nên kết phạm.
5. Thiếu duyên:
Y theo giải thích trên mà biết.
6. Thông bít:
Giới này một bề không khai. Vì Bồ-tát không được tạm thời xả bỏ Đại thừa. Nếu si cuồng nên thường học tập đối trị, sức mạnh phiền não tạm thời lại nhớ tất cả thì không phạm.
7. Giải thích văn: Trong đó có ba:
- Bỏ Đại thừa
- Theo Tiểu thừa-Kết phạm.
Câu 1. Tâm cách chánh lý nên gọi là “tâm bội Đại thừa”, pháp chân lý được nói gọi là “Thường tru”. Giáo năng thuyết gọi là Kinh luật.
Giải thích: Kinh luật Đại thừa này Chư Phật ba đời đồng nói đồng thực hành. Không thể sửa đổi nên nói “Kinh luật thường trụ”, lời nói vượt ngoài sự giải thích vượt chơn thuyên, nên nói “ngôn phi Phật thuyết”.
Câu “ mà thọ trì trở xuống là trong phần thọ tà pháp, trước hết y cứ vào người có hai: Hoặc rơi vào đại Nhị thừa, hoặc rơi vào ngoại đạo.
“Ác kiến...” về tà pháp có hai: Hoặc bác chung tất cả pháp của Phật đã nói. Đây là ác kiến ngoại đạo. Hoặc chỉ bác Đại thừa là Tiểu giáo, là ác kiến của Nhị thừa. Tất cả giới cấm có hai: Giới gà, nai, chó của ngoại đạo, Tà kiến cũng có hai, hoặc là ngoại đạo không tin nhân quả hoặc là Tiểu thừa chẳng tin pháp không. Trên đây là kinh luật sở thuyên, là năng thuyên tà giáo.
Kết phạm, nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lấy tâm đại bi làm thể, cứu khổ làm dụng. Không cho phép thấy bệnh mà không chăm sóc, nên Phật chế ra giới này. Lại nếu có thể cấm tâm săn sóc bệnh giúp người hết bệnh, tức là thí mạng, nên Phật chế giới này. Đức Như lai là bậc Đại thánh còn hạ mình chăm sóc người bệnh khổ, huống gì các loài khác mà không chăm sóc người bệnh khổ hay sao?
2. Thứ lớp: Giới trước trái với pháp thượng thắng, giới này bỏ bệnh khổ dưới, nên chế kế sau.
3. Giải thích tên gọi:
Bệnh và khổ gần với cái nguy của người sắp chết. Nếu bỏ mà không cứu thật trái với hạnh từ bi, lập giới cấm ngăn dứt cũng có công năng được khen ngợi.
4. Đủ duyên:
- Bệnh khổ
- Nghĩ là bệnh khổ.
- Tự mình không bị bệnh
- Xả bỏ tâm hiềm khích Nên kết thành phạm
5. Thiếu duyên:
Thiếu hai duyên đầu không phạm.
Thiếu duyên thứ ba, nếu bệnh nhẹ bỏ đi, nên phạm tiểu tội, nếu bệnh nặng thì không phạm.
Thiếu duyên thứ tư. Nếu khởi tâm hiềm khích không bỏ đi, khởi tâm bi mà bỏ đi đều phạm tiểu tội, như Luật Tứ Phần, v.v...
6. Nặng nhẹ:
Y cứ vào cảnh bệnh khổ có nặng nhẹ, y cứ vào tâm bi niệm có dày mỏng. Đứng về sự tại duyên có gấp hoãn đều phạm nặng nhẹ, y cứ theo giải thích nên biết.
7. Thông bít:
Nếu mình bị bệnh, hoặc mới bị bệnh, hoặc sai người chăm sóc, hoặc cho thức ăn và thuốc. Hoặc người đó tự có người, hoặc bệnh, hoặc người đó đã khỏi. Như thế tất cả đều không phạm (639) các duyên khác y cứ theo đây mà biết.
8. Giải thích văn, có hai:
Nêu duyên chế hạnh
“Mà Bồ-tát v.v...” trở xuống là trái kết phạm. Cũng là trước khiến tác trì, sau hiển chỉ phạm. Trước cũng có hai:
- Hiển chung đồng với Phật-Suy lường chỗ hơn.
“Tám ruộng phước” có người nói:
1. Tạo đường rộng giếng đẹp
2. Lộ nước cầu rường
3. Sửa chữa các con đường nguy hiểm
4. Hiếu thảo kính thờ cha mẹ
5. Cúng dường Sa-môn
6. Cúng dường người bệnh
7. Cứu giúp nguy ách
8. Lập đại hội Vô già
- Chưa thấy xuất xứ từ Thánh giáo nào, có người nói cúng dường Tam bảo là ba.
4. Cha mẹ
5 Sư tăng
6 Người nghèo cùng 7. Người bệnh
8. Súc sinh.
Cũng chưa thấy trong kinh giáo nào. Kinh Hiền Ngu chép:” Thí cho năm hạng người được phước vô lượng.
1. Người biết pháp
2. Người từ xa đến
3. Người đi xa
4. Người đói khát
5. Người bệnh
Dù lấy Tam bảo cũng là tám việc trọng, như Phật đã nói không khác. Lại nói tám việc.
Nói biết quấy là tám việc của hai loại sau. Đây là một trong tám việc bậc nhất.
Trong phần hiển riêng, cha mẹ đồng khác nêu vị thân hiển tướng trọng. Lý nói chung tất cả chúng sinh. Nói các căn không đầy đủ, hiển bày tướng bệnh. Nếu bệnh đã như vậy thì khổ não cũng như vậy, đều khiến cho thoát khỏi, cho đến thân mạng cũng không lẫn tiếc. Như Nguyệt Thượng nữ cắt vú mình để cứu sản phụ. Như TỳXá Mẫu cắt thịt đùi cúng cho Tỳ-kheo bệnh, đều là việc cứu giúp, không kể mạng mình là Bồ-tát.
Câu hai: mà Bồ-tát vì trái với quy định nên kết phạm, tâm ác hại lòng từ bi nên nói là “sân hận”, “cho đến tăng phòng” là nói về bệnh xứ của Sư tăng, đệ tử. “Thành ấp” là nói về bệnh xứ của cha mẹ. Chỗ hoang vắng là nói chung tất cả chỗ bệnh khổ, “Thấy bệnh không cứu”, là hiển hạnh trái ngược. “Phạm khinh cấu” là kết bày tên tội.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra phải chất pháp tài làm lợi ích chúng sinh, lại chứa để dụng cụ sát sinh, trái với lòng từ bi cứu giúp, nên Phật chế ra giới này.
2. Thứ lớp: Giới trước ngăn ngừa tự thân không cứu bệnh, giới này y báo không chứa vật chẳng phải pháp khí, nên chế kế sau.
3. Giải thích tên gọi:
Dụng cụ sát sinh làm tổn hại mạng, trái với hạnh từ bi cứu giúp.
Giới ngăn ngừa lỗi này nên đặt tên.
4. Đủ duyên:
- Dụng cụ sát sinh.
- Nghĩ là dụng cụ sát sinh.
- Không khai duyên khác.-Cố chứa thành phạm.
5. Thiếu duyên: nên biết.
6.. Nặng nhẹ:
Về cảnh đã chứa có bao nhiêu, hơn kém. Y cứ vào tâm tình có mau chậm. Về sự nghi dụng hay không đều phạm tội nặng nhẹ. Y cứ theo suy nghĩ mà biết.
7. Thông bít:
Vì hộ Phật pháp và điều phục chúng sinh, nên chứa các thứ đó đều không phạm. Theo người ác xin được hư hoại hay chưa hư hoại đều không phạm. Trái lại, tất cả tùy theo vật chứa đều phạm. Cho nên, Bồ-tát thấy họ chứa nên khuyên, nếu khuyên không được thì phải chuộc lại, nếu không được nữa thì dùng oai bắt buộc (kiểm soát) bắt họ dừng lại.
8. Giải thích văn:
Có ba nghĩa:
- Cấm chứa những vật chẳng phải pháp khí.
- Chỉ nội oán
- Cố ý trái phạm nên kết tội nặng
Câu 1. Chỉ nhiều loại sát cụ, lược có mười loại: Dao, nghĩa là cắt đứt
Gậy, nghĩa là đánh đập Cung, nghĩa là bắn tên Tên, nghĩa là hại
Mâu giáo, nghĩa là châm chích làm bị thương Búa rìu, nghĩa là chém chặt
Dụng cụ chiến đấu.
Lưới ác, là bắt cá bắt chim
Khí cụ sát sinh, nói chung là hầm hố Tổng kết.
Các dụng cụ sát hại nầy, nói chung không được cất chứa, nên nói tất cả không được chứa.
Câu 2. “Mà Bồ-tát. ” Chỉ cho oán tâm, chỉ bày hạnh khiến tu. Trong đó chỉ phát tâm hành đạo Bồ-tát là có oán thù cha mẹ bị giết, đều phải chấm dứt. Chỉ không có oán, oán mới dứt mà thôi. Như thế mới không bị quả báo. Huống gì là Bồ-tát phải xem tất cả chúng sinh hoàn toàn không oán, tất cả đều là bi cảnh, đều vì từ bi mà cứu giúp. Nếu từng có chỗ oán, Bồ-tát phải khởi tâm xem chúng sinh như con đỏ.
Hỏi: Như vậy Bồ-tát đối với cha mẹ làm sao thành đạo hiếu được?
Đáp: Nếu cha mẹ chưa hại thì dù thân nát như cát bụi, trải qua vô lượng kiếp, cũng cần phải hiếu hạnh để giúp đỡ dưỡng nuôi, Nếu cha mẹ mình đã bị hại thì đó là do túc nghiệp. Nếu trả thù lại càng làm cho oan oan không dứt, như vua Lưu-ly hại dòng họ Thích, có thần lực như Phật mà còn không làm sao cứu được, chính là nghĩa này, huống gì nói giết hại chúng sinh. Nêu nặng để nói nhẹ.
Về cảnh nếu vì cha mẹ mà báo thù thì phạm tội nặng, còn vì các chúng sinh khác thì phạm tội nhẹ.
Về tâm, nếu vì cha mẹ mà trả thù thì phạm tội nhẹ, vì người khác mà trả thù thì phạm tội nặng.
Câu ba, “Nếu cố chứa v.v...” trở xuống là trái phạm kết tội, nên biết. Mười giới như vậy kết mười loại như trên. Khuyên người học thọ trì. Sáu phẩm dưới đây là chỉ cho quảng bản, vì trong đó có khai có giải thích, nên xem trong đó mà biết.
Từ đây trở xuống là phần thứ hai mươi. Trước nói Trì phạm, sau kết khuyến, chỉ rộng mười giới tức mười đoạn.
1. Đại ý chế giới: Bồ-tát lẽ ra phải hòa giải các sự tranh cãi để chấm dứt sự hãm hại nhau, nay lại đi làm người thông tin cho hai nước, khiến họ đánh chiếm nhau, rất là tội lỗi. Nên Phật chế giới này. Nói riêng có ba:
-Sinh chê bai-Trái với hạnh hòa-Thành giết hại nhau.
2. Thứ lớp:
Giới trước ngăn cấm dụng cụ chiến tranh giết hại, giới này không cho làm sứ chiến tranh, nên xếp vào kế đó.
3. Giải thích tên gọi: Làm sứ hai nước truyền lời vào quân trận khiến cho chiến đấu, giới là ngăn ngừa lỗi này nên đặt tên.
4. Đủ duyên:
1. Hai nước hai quân
2. Vì lợi dưỡng và tâm ác
3. Truyền lời chỗ này đến chỗ kia.
Nước kia nghe rồi đến hại nước này. Nếu y cứ vào tổn mạng thì phạm hai tội:
1. Nhìn về phía đoạn mạng thì phạm giới sát.
Nghiêng về phía đi làm sứ vào quân trận thì phạm giới này.
5. Thiếu duyên:
Nếu thiếu duyên thứ nhất hai nước chẳng oán thù phạm tội phương tiện không nhìn về bên sát.
Nếu không vì lợi, chỉ có tâm ác. Nếu không tâm ác chỉ vì danh vì lợi, đều phạm. Nếu đều thiếu duyên này thì phạm tội nặng phương tiện.
Nếu không truyền v.v... thì đều không phạm.
Nếu không hại nhau cũng phạm tội nặng phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Y cứ vào tâm là danh lợi và tâm ác, có đơn có song.
Y cứ vào sự khiến họ có tưởng hại, không có tưởng hại, đều có nặng nhẹ, suy nghĩ điều này nên biết.
7. Thông bít: Trong văn nói thiêu đốt núi rừng từ tháng tư đến tháng chín.
Nếu vì tâm lành điều phục nên khiến cho họ hòa vui, thì vào trong quân trận, trong nước, tất cả đều không phạm. Ngoài ra đều phạm. Lại y cứ theo đây mà suy nghĩ.
8. Giải thích văn: Có ba:-Nêu duyên lỗi.
- Chánh chế phạm
- Trái phạm kết tội.
Câu 1. Được tài lợi hoặc được chức quan. Hoặc chỉ có tâm ác trả thù oán xưa. Đi thông sứ cho nước. Thông trí hai đầu luận trù việc chiến tranh. Hoặc chỉ ở một chỗ chỉ bày mưu sách khiến cho hại nhau, cũng phạm giới này, hoặc chỉ bày các cách hành binh, hoặc vào quân trận truyền lời lập hẹn giao trận, khiến nhiều người mất mạng. Nên nói “Giết chết vô lượng chúng sinh”.
Câu 2 “Mà Bồ-tát v.v...” trở xuống là trong đoạn chánh chế, trước nêu nghĩa khinh là tạm vào trong quân trận còn không khai cho. huống chi làm giặc nước khiến nước này bị chiến tranh.
Câu 2 “Nếu cố. ” v.v... trở xuống là dưới đây cố ý trái phạm nên kết tội, phải biết như vậy.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra phải từ bi cứu tế giúp chúng sinh, mà lại mua bán người, súc vật, dụng cụ sát sinh để tự nuôi thân.
Bên trong trái với lòng từ bi, bên ngoài vời lấy sự chê bai, nên Phật chế ra giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước tuy cấm làm quốc giặc, còn e cướp giựt lương thực của tiền, nên Phật chế ra giới này.
3. Giải thích tên gọi:
Mua bán quan tài cho nên tổn thương lòng từ bi. Mua người và súc vật trái với hạnh từ bi cứu giúp, giới ngăn ngừa lỗi này, nên đặt tên nầy.
4. Đủ duyên:
Chánh cảnh, tự có bốn loại:
- Người lành
- Tôi tớ
- Sáu vật nuôi trong nhà-Quan tài.
- Nghĩ là quan tài.
- Chánh thức mua bán Việc thành liền phạm
5. Thiếu duyên:
Hai giới đầu hễ thiếu bất cứ duyên nào đều phạm. Hai giới sau hễ thiếu duyên nào đều phạm tội phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Y cứ vào cảnh, bán người lành tội rất nặng, kế đó là bán tôi trai tớ gái, lục súc thì tội nhẹ, còn quan tài thì rất nhẹ.
Y cứ vào tâm có phần, trung, thượng, nặng, nhẹ.
Y cứ vào sự, vì cầu nhiều lợi mà bán cùng người ác khiến cho cực khổ. Lẽ ra phải nặng nhất, trái lại đây là nhẹ, nên biết.
7. Thông bít:
Nếu vì Tam bảo, vì lợi sinh, vì điều phục trực tiếp, mua bán trực tiếp, tất cả như thế đều không phạm, trái lại đều phạm.
Câu 2. “Còn không” chánh chế. Mình và người đều không nên làm, nhưng trong nhị lợi của Bồ-tát thì lợi tha làm đầu nên nêu tự để so sánh với tha.
Câu 3. “Nếu cố làm” là trái phạm kết tội trọng.
1. Đại ý chế giới:
1. Vì muốn giữ gìn nên trước nói chê bai v.v... ba giới trọng.
2. Lìa não loạn những người tốt.
Vì muốn giữ gìn Phật pháp, xa lìa xấu ác.
Thật có còn không được nói, huống gì chê bai? Lìa tự vời lấy tội nghiệp nặng.
2. Thứ lớp:
Giới trước không khinh người dưới, giới này đối với người trên không được chê bai.
3. Giải thích tên gọi:
Vô căn cứ mà chê bai người thì vô cùng trái lẽ. Giới ngăn ngừa lỗi này nên đặt tên nầy.
4. Đủ duyên:
- Thật là người tốt.
- Biết là vô sự
- Nên khởi tâm ác
- Nói lời chê bai, người nghe hiểu rõ thì phạm.
5. Thiếu duyên:
Thiếu hai duyên đầu phạm giới nói lỗi, thiếu hai duyên sau đều phạm tội phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Cũng có ba:
Y cứ vào cảnh có ba phẩm:
- Hòa-thượng, các thầy
- Bậc tôn quý có đức
- Người lành đồng tu tập
Y cứ vào tâm cũng có ba phẩm: Nhuyễn, trung, thượng khác nhau.
Y cứ vào pháp tuy đều thành trái, nhưng đều có nặng nhẹ, y cứ theo đây nên biết mà thôi.
7. Thông bít: Trừ nghi, cuồng loạn và nghịch cảnh của Bồ-tát Địa thượng. Ngoài ra tất cả đều phạm.
8. Giải thích văn: lại có ba:-Nêu lỗi được chế.
- Nói rõ lý do chế giới.
- Trái quy định kết phạm
Câu 1. “Dùng tâm ác” là nhân khởi chê bai. nghĩa là ba độc trái lý tổn hại vật. Nên nói là tâm ác. “Nói vô sự báng tha” nghĩa là nói trái cảnh thành chê bai, nghĩa là không có ba y cứ việc ác. Câu người lành, v.v... là người bị hủy báng, “Tốt lành” là người đồng tu tập. Pháp sư và sư tăng là người mình tôn kính. Quốc vương và quý nhân là người được đời tôn kính, cũng là những vị được khen ngợi, không cho phép hủy báng. “Phạm bảy vị nghịch mười giới trọng” là nói tội hủy báng. Lẽ ra phạm tội nhẹ, nhưng ở văn này thì phạm tội nặng.
Câu 2. Cha mẹ v.v... trở xuống là nói lý do phải chế giới. Cha mẹ, v.v... cũng nằm trong số bị hủy báng. “Hiếu tâm” là đối với sư phụ v.v... người có địa vị tôn quý phải sinh tâm hiếu thuận. Ở địa vị bằng mình hay thấp hơn mình phải sinh lòng từ bi, nếu không sinh tâm này còn tội lỗi, huống gì khởi ác.
Câu 3. “Mà trái lại” vì trái với quy định nên kết tội.
1. Đại ý chế giới:
Ngăn cấm thiêu đốt núi rừng, đồng ruộng là ngắn tội sát sinh, chế giới đốt nhà cửa để ngăn ngừa trộm cắp. Phóng lửa thiêu đốt làm tổn hại rất nhiều cho chúng sinh. Thật ra chẳng thích hợp với việc làm của Bồ-tát, nên phải chế ra giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước nói không chê bai người, giới này không tổn hại y báo chánh báo, nên nói kế đó.
3. Giải thích tên gọi:
Cầm lửa vô lý thiêu đốt làm tổn hại vật, giới ngăn cấm tội này, nên lấy đây đặt tên.
4. Đủ duyên:
- Đối với các cảnh núi.
- Nghĩ là cảnh núi rừng
- Vì tâm ác
- Dùng lửa đốt liền kết phạm.
5. Thiếu duyên:
Thiếu hai duyên đầu đều không phạm, thiếu hai duyên sau phạm tội phương tiện.
6. Nặng nhẹ:
Đứng về tội có ba:
Thiêu đốt làm tổn hại sinh mạng và tổn hại vật khác, tất cả đều phạm tội nặng. Nên thiêu đốt núi rừng, nhà cửa đều chẳng phải là việc làm của Bồ-tát, nên kết tội nhẹ.
Y cứ vào tổn mạng tiền của đều có nhiều ít. Phóng lửa thiêu đốt, vời lấy sự chê bai, tùy theo chỗ cạn sâu đều có nặng nhẹ.
Y cứ vào tâm có thượng, trung, hạ khác nhau.
Y cứ vào Sự, vời lấy sự chê bai cũng có ba phẩm khác nhau, mỗi phẩm đều có nặng nhẹ nên biết.
7. Thông bít: Trong văn nói thiêu đốt núi đồng từ tháng tư đến tháng chín thì phạm tội, vào lúc khác thì không phạm, đồng với giới đốt lửa ở chỗ Đất trống của luật.
Y cứ vào việc đốt nhà thì tất cả đều phạm. Luật Ngũ Phần nói đốt đồng ruộng thì không phạm, ở đây tương tự như giới kia.
8. Giải thích văn: Cũng có ba câu:
- Nêu lỗi đã lìa-Chánh chế không cho-Vì trái kết phạm.
Câu 1. “Vì tâm ác” chọn lấy từ tâm cứu vật.
Câu 2. “Cố phóng hỏa” là phân biệt với chỗ sai lầm. Câu 3. “Thiêu đốt núi rừng” là nói rõ chỗ thiêu đốt thành tổn hại.
Trong đó có hai trường hợp:
Thiêu đốt núi rừng làm tổn hại vật không chủ.
“Tháng tư” là thời gian nhất định, làm tổn hại sinh vật.
Đốt của người khác là vật có chủ như:
- Đốt nhà cửa của người
- Thành ấp
- Tăng phòng
- Ruộng
- Vật của quỉ thần-Vật của quan.
Câu “Tất cả vật có chủ” là chánh chế không cho.
“Nếu cố v.v...” trở xuống là cố ý trái phạm kết tội, cũng nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra phải trao Bồ-tát thừa cho chúng sinh, giúp cho họ được lợi ích rốt ráo, mà lại đem giáo pháp
Nhị thừa để giáo hóa người, trái với lý, trái với nguyện, nên phải kết giới. Kinh chép: Nếu dùng Tiểu thừa để giáo hóa người, thì rơi vào sân tham, việc này hẳn không được, đây là nghĩa ấy.
2. Thứ lớp:
Giới trước ngăn tổn hại bên ngoài, giới này ngừa tổn hại bên trong, nên nói.
3. Giải thích tên gọi:
Dùng chánh pháp giáo hóa chúng sinh, lẽ ra phải dùng Đại thừa, trái lại dùng Tiểu thừa trái với bản tông, giới ngăn ngừa lỗi này nên lấy đây để đặt tên.
4. Đủ duyên:
- Đối với người đối diện
- Dùng tâm ác
- Dạy luận khác
- Người đó lãnh thọ liền kết phạm.
5. Thiếu duyên:
Thiếu hai duyên đầu đều không phạm, thiếu hai duyên sau đều phạm tội phương tiện.
6. Nặng nhẹ:
Y cứ vào cảnh, người đối diện là lợi căn hay độn căn khác nhau. Nghĩa là lợi căn mà trao cho họ pháp Tiểu thừa thì làm cho họ không lợi ích. Hoặc có` thể chê bai Đại thừa. Độn căn thì trái lại, nên có nặng nhẹ.
Y cứ vào tâm, thì có tức giận hay ganh ghét. Các điều ác cũng có nhuyễn, trung, thượng khác nhau.
Y cứ theo sự, thì tổn ích có nhiều ít, đều có nặng nhẹ, đơn song, nhất hợp, nên y cứ vào theo đó mà biết.
7. Thông bít:
Nếu vì tâm tốt mà dạy cho họ biết rộng để không bị ngu muội thì không phạm. Còn nếu vì muốn phá chấp tà tiểu kia giúp người đó hiểu được Tông ý thì cũng không phạm. Còn nếu căn cơ người đó trước kia là pháp khí Tiểu thừa, trước phải ngưng trao Tiểu pháp, sau đó dần dẫn vào pháp Đại thừa, thì cũng không phạm. Nếu lầm quên thì tất cả đều không phạm. Như Du-già Giới Phẩm chép: Trái lại với trên thì tất cả đều phạm.
8. Giải thích văn:
Trong văn có hai nghĩa:
Trước nói thuận lý nên thực hành, sau nói trái lời dạy thì kết phạm. Câu trước nêu người được dạy. Tuy chung cho tất cả nhưng tóm lược có bốn thứ:
- Nội chúng, nghĩa là đệ tử Phật.
- Ngoại chúng, nghĩa là ngoại đạo.
- Tục quyến, nghĩa là sáu thân.
- Pháp lữ, nghĩa là thiện tri thức.
Dưới đây nói về pháp được dạy.
Có ba thứ:
Giáo giáo pháp: nghĩa là kinh luật Đại thừa Giáo lý pháp, nghĩa là giáo giải nghĩa lý.
Giáo hành pháp: nghĩa là khiến họ phát tâm Bồ-đề, tức là trao giáo pháp khiến cho hiểu, rồi từ chỗ hiểu đó mà thực hành. Đây là ý đó.
“Trong đó phát tâm” nghĩa là trước nói pháp tín hành, phát mười tâm là phát trước Thập Phát thú ngang
Thập Trụ vị. Trưởng Dưỡng tâm là trước Thập Trưởng Dưỡng ngang với Thập hanh vị. Kim Cương tâm là trước Thập Kim Cương ngang với Thập Hồi hướng. Lược qua không nói Thập địa(vì đã giải thích ở trên).
Giải thích: Phát tâm Bồ-đề, phát mười tâm là vị Địa tiền. Trưởng Dưỡng tâm là Địa thượng hạnh. Kim Cương tâm là vị mãn Thập địa, trong địa vị Đẳng giác Kim Cương tâm. “Mỗi mỗi đều hiểu pháp dụng” là khiến hiểu địa vị tu thuận hành theo sở y cứ vào, dần dần phạm vi không lẫn lộn. Sau nghĩ tu hành biết thú hướng của nó, không như vậy làm sao đạt đến quả Phật. Bồ-tát lẽ ra phải trao pháp thành Phật này cho chúng sinh, đó là nghiệp thường.
Câu hai: mà Bồ-tát v.v... trở xuống là trái với giáo kết phạm. “Tâm ác tâm sân” là tâm phạm giới, “Giáo tha v.v...” là nói việc phạm giới. Kinh Đại Tập chép: “Khuyên học tập Tiểu thừa là nghiệp ma” Huống chi ngoại đạo tà luận. Kết phạm nên biết
1. Đại ý chế giới:
Người mới học cầu pháp, lẽ ra phải nói pháp cho họ nghe, nếu trục lợi là lỗi rất nặng. Nên Phật chế giới, lược có ba ý:
Giữ việc chấp trước san pháp phạm tội nặng.
Vì muốn nhiếp hộ pháp khí mới học chánh hạnh để có chỗ nương tựa.
Giữ gìn cho ngọn đèn chánh pháp truyền trao không dứt, nên phải cấm.
2. Thứ lớp:
Giới trước không dạy người là lỗi,
Giới này đối người cầu học không dạy là có lỗi, nên nói kế đó.
3. Giải thích tên gọi:
Giấu chánh pháp vì cầu tài lợi. Giới ngăn ngừa lỗi này nên lấy đây đặt tên.
4. Đủ duyên:
- Có sáu duyên:
- Có người đến cầu
- Tự hiểu pháp
- Không khai duyên-Quy lợi riêng.
- Nói ngược lại
- Người đối diện nghe hiểu liền phạm.
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên thứ nhất thì phạm giới trước.
Thiếu duyên thứ hai thì phạm tội nặng phương tiện, vì tự mình không nên chẳng biết gì.
Thiếu duyên thứ ba không phạm
Thiếu duyên thứ tư phạm tội nặng phương tiện. Vì tuy không cầu lợi mà nói điên đảo là phạm tội nặng.
Thiếu duyên thứ năm là phạm tội nhẹ phương tiện.
Tuy người đối diện không hiểu rõ lời mình nói.
6. Nặng nhẹ:
Y cứ vào người cầu pháp tâm có dày mỏng. Pháp lợi dưỡng có sâu cạn. Y cứ chỗ nói lầm lộn nhiều ít. Nhìn về người đối diện là tổn hại nhẹ hay nặng. Như thế ở đây đều có nặng nhẹ, y cứ theo giải thích mà biết.
7. Thông bít:
Kinh Địa Trì chép: “Nếu có chúng sinh đến cầu pháp, Bồ-tát vì sân hận, san tham ganh ghét không chịu nói pháp, gọi đó là phạm, phạm nhiều thứ; phạm nhiễm ô khởi, hoặc lười biếng, chẳng phải do nhiễm ô khởi. Không phạm là: ngoại đạo tìm khuyết điểm, hoặc bệnh nặng, hoặc điên cuồng, hoặc không biết nói, hoặc khiến người đó được điều phục. Nếu sự tu pháp chưa được bén nhạy, hoặc biết người đối diện không thể kính thuận vì oai nghi không ngay ngắn. Hoặc người căn tánh ám độn nghe sâu pháp mầu sinh tâm sợ hãi. Hoặc nghe rồi tăng thêm tà kiến. Hoặc biết nghe rồi hủy báng lui sụt. Hoặc nghe rồi đến nói với người ác.
8. Giải thích văn: Giới này có ba: Trước chế tự học
Câu hai: Thấy người mới học v.v... trở xuống là khiến dạy hậu
Câu ba: “Mà Bồ-tát v.v...” trở xuống là chánh thức trái phạm kết tấn tội.
Trong câu đầu nói: Bồ-tát có tâm tốt trước phải học pháp thức oai nghi của Đại thừa, nghỉ việc tu hành của mình và dạy cho Bồ-tát mới học đời sau, gọi là tâm tốt. Phân biệt với oai nghi Thanh văn Tiểu thừa, nên nói là oai nghi Đại thừa, nghĩa là đi đứng nằm ngồi, hoặc ăn, hoặc uống, hoặc nói, hoặc nín, hoặc ra, hoặc vào, hoặc nên làm hay không nên làm đều có pháp thức oai nghi, lý phải nên hiểu kinh luật, nếu không nhu vậy thì làm sao trì được giới Bồ-tát. Nên chế trước phải học.
Dạy hậu tấn có hai:
Người mới học đến cầu
“Nên đúng như pháp nói cho nghe” chánh giáo được nói, có hai nghĩa:
Trước nói khổ hạnh để giữ vững ý chí của mình, sau nói chánh pháp khiến thêm tuệ ngộ. Câu đầu có hai:
“Tất cả hạnh Bồ-tát” là nêu chung, “dưới phân biệt” là trên cúng dường Chư Phật, dưới cứu giúp chúng sinh, đối với hai chỗ này không tiếc thân mạng. Còn trở lên vì cầu pháp gánh vác trọng ân, dưới thương xót chúng sinh đầy bi nguyện. Lại vì xuất gia trọng pháp không quý hương hoa. Phải dùng thân mạng mà thành cúng dường. Như Bồ-tát Hỷ Kiến đốt cánh tay cúng dường. Vì cứu giúp cọp đói trong chúng sinh, v.v... Như Bồ-tát Vương Tử và Vô Lượng các Bồ-tát nên biết.
Câu “Sau mỗi mỗi v.v...” trở xuống là nói trong chánh pháp, nghĩa là trước nói khổ hạnh để giữ vững ý chí của mình, rồi mới nói chân không nội tâm quán pháp dần dần khiến cho họ tu, đừng để cho họ gây ra tội lỗi. Nghĩa là khéo biết đây là do sơ tâm làm ra. Kế đến nhập vào Tín vị và các vị Tam Hiền tu hành, mỗi vị đều theo thứ lớp, đừng để cho điên đảo đáng tiếc. Văn tuệ khiến cho tâm khai mở, Tư, Tu tuệ giúp cho ý hiểu.
Câu ba: mà Bồ-tát v.v... trở xuống là trái với giáo kết phạm. Nói vì lợi là nói tâm khác với mong cầu. “Nên đáp không nên đáp” là hỏi khác đáp khác. Nói kinh luật một cách điên đảo, trước không nói khổ hạnh trì giới là nói điên đảo, tức nói chỉ không phá giới hủy thân. Nay mất chánh hạnh nên nói “Đảo thuyết”. Văn tự không trước sau” là trở trước làm sau, sau đem làm trước. Giữa đặt ở trước sau, trước sau đặt ở giữa, làm cho trái với nghi lý, cho nên có lỗi. Hủy báng Tam bảo, tức nói điên đảo là Phật nói, là phỉ báng Phật. Pháp thật không phải như vậy. Nói pháp như thế là hủy báng pháp, lại nói như thế cũng là báng Tăng. Kết tội nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra phải khiêm hạ thấp mình làm lợi ích chúng sinh, thà chết chứ không trái phạm. Nhưng lại ỷ vào thế lực của quan xâm hại của người, rất trái với đạo lý, nên Phật lấy đó để chế giới này, phân biệt có ba ý:
Vì giữ giới ăn trộm
Sợ trái với hạnh tự lợi, trái với hạnh khiêm hạ. Sợ trái với lợi tha, mất sự giáo hóa.
Ba giới này sau đó làm thành ba nhóm giới.
2. Thứ lớp:
Giới trước thuận lý nói điên đảo thành chê bai, giới này không có phần mà ỷ vào thế lực để cầu danh lợi. Giới ngăn ngừa lỗi này, nên xếp vào kế đó.
3. Giải thích tên gọi: Mượn oai để cầu lợi nên đặt tên cho giới này.
4. Đủ duyên:
Cũng có sáu duyên thành phạm:
- Vì danh lợi của mình
- Nên gần gũi quan
- Cậy vào uy thế
- Ép ngặt người khác-Cầu chỗ của người cầu-Được chỗ của người được.
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên thứ nhất có ba nghĩa:
Phạm tội nặng phương tiện, nếu không tự làm thì cũng không được xúi bỏ chúng sinh vô lý xin vật.
Phạm tội nhẹ phương tiện, dù cho vì chúng sinh đói khát, cũng không được ép buộc khiến họ nổi sân mà cho.
Có phước không tội, nghĩa là tội nặng phương tiện. Vì tuy gần gũi không lý do, nhưng dùng pháp mượn oai của người kia để trị các người ác.
Thiếu duyên thứ hai có một tội, nghĩa là tội nặng phương tiện, vì tuy không gần gũi không lý do nhưng oai kia để thành lỗi đó.
Thiếu duyên thứ ba, cũng phạm tội nặng phương tiện, tuy không ỷ vào oai nhưng não hại người để được lợi.
Thiếu duyên thứ tư, cũng phạm tội nặng phương tiện, vì tuy không não hại người khác, nhưng vì dùng oai để được vật.
Thiếu duyên thứ năm, phạm tội khinh phương tiện. Vì tuy không có tâm cầu, nhưng nhờ dùng oai mà được vật.
Thiếu duyên thứ sáu. Phạm phương tiện nặng: Tuy không được vật nhưng có tâm cầu. Nặng nhẹ thứ sáu, y cứ vào được vật mà phạm giới trọng thiên đầu, cậy oai não hại người phạm tội nhẹ nầy.
6. Nặng nhẹ:
Trong tội này nặng nhẹ có mười loại: Y cứ vào danh lợi có sâu có cạn
Về quan phụ có tôn có ty.
Về uy thế sử dụng có dày có mỏng Về khổ ép ngặt có nhẹ có nặng.
Về tình não hại có nhanh có chậm Về danh lợi có nhiều có ít
Hợp sáu thuyết trên đều có nặng nhẹ Hoặc nặng nhiều nhẹ ít
Hoặc nhẹ nhiều nặng ít Hoặc nhẹ nặng đồng nhau.
Theo giải thích nên biết.
7. Thông bít:
Nếu vì tâm tốt mà cậy oai quyền đoạt vật của giặc, để trả lại cho chủ cũ, Tam bảo, chúng sinh. Hoặc vì tâm Bồ-đề cứu các nạn nhân mạng, phạm hạnh. Nếu nhờ đó mà khiến cho người phát tâm Bồ-đề, trụ trong giới Bồtát. Lại nếu do đây khiến cho vô lượng chúng sinh bỏ ác tu thiện, y cứ theo không phạm, trái với trên đây thì phạm.
8. Giải thích văn:
Trong đây có bốn:
- Tự làm điều quấy.
- Xúi giục người khác làm
- Không đối trị
- Kết tội danh Trong đó có năm:
Nói chỗ làm, nghĩa là tự làm, phân biệt với người khác.
Cho là chúng sinh phải chánh phạm. An uống để nuôi thân, tiền là thọ dụng, v.v... tài là dự trữ nuôi chứa. Đây là tổng kết nhiều thứ lợi dưỡng. Danh từ đẹp khéo khen ngợi. Nghĩa là trong lợi dưỡng khéo gọi là ngoại chấn. Phàm ngu tham lam mất mạng khó xả bỏ. Hại gốc lành giống như sợi dây mầu.
Nói về người gần gũi, nghĩa là có bốn vị: Vua chúa.
Vương tử Đại thần
Tuy không phải là quan nhưng có oai thế.
Nếu đích thân nương cậy oai kia thì tự mất chánh hạnh của mình. Cho nên kinh Đại thừa, Tiểu thừa đều tha thiết không cho người tu hành gần gũi họ.
Nói chỗ cậy oai: nghĩa là cậy vào oai của người, để cao cử tâm mình mà lăng nhục người khác. Nên nói cậy làm hình thế.
Chánh thành áp bức cũng có bốn loại:
- Ép ngặt đòi xin
- Đánh tát làm cho khổ
- Phi phần lôi kéo-Cất giữ tiền vật.
Đều làm xâm não chúng sinh, khiến họ chán ghét, tự gánh rất nhiều tội lỗi, mất đi các thiện phẩm khác.
Quảng cầu sở cầu có ba thứ:
Tất cả lợi đều cầu, gọi là Nhất thiết cầu Não hại người lấy vật, gọi Ác cầu.
Cầu nhiều không biết thỏa mãn, gọi là Đa cầu.
“Hai là bảo người cầu”: chẳng những tự hành trái lỗi, mà còn dạy cho người khác đồng phạm. Cả hai lợi đều trái, rất là tội lỗi.
Câu ba. “Vô sở đối” là tâm từ lợi vật, tâm hiếu sinh lợi ích. Đều trái với lỗi trước, nhưng không sửa trị nên nói đều không có tâm từ.
Câu bốn. “Phạm tội nhẹ” là kết để chỉ bày tên tội.
THẦY
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra bên trong phải tự làm thành tựu đức của mình, để chỉ dạy chúng sinh, trái với lỗi xúc phạm nầy nên phải chế giới. Nói riêng cũng có ba thứ:
Che giấu sự không biết của mình, dối ra vẻ mẫu mực, là lỗi lừa dối.
Không hiểu văn nghĩa, mất đi thiện phẩm.
Dối trá làm thầy người, không thật tâm dẫn dắt, không có lợi ích.
Ba việc như thế cũng là ba nhóm, nên phải cấm ngăn.
2. Thứ lớp:
Giới trước ỷ oai ép ngặt tước đoạt, giới này trá làm trao pháp, nên xếp vào kế sau.
3. Giải thích tên gọi:
Che giấu sự không biết của mình, làm ra vẻ khuôn phép. Giới ngăn ngừa lỗi này, nên lấy đó đặt tên.
4. Đủ duyên:
Đủ bốn duyên thành phạm:-Tánh chẳng tối tăm.
- Lười biếng không học tập
- Ẩn ngu giả trí
- Làm thầy trao giới. Cho nên phạm.
5. Thiếu duyên:
Đối với bốn duyên này thứ lớp đều thiếu, phạm tội nhẹ phương tiện. Y theo giải thích nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Nghĩa là thật không biết mà giả nói là hiểu. Đây là phạm tội nói dối ở thiên đầu. Nay lấy lỗi quấy này dẫn dắt khiến pháp hóa không truyền, nên kết tội này. Trong đó có sáu:
- Căn cơ có lợi độn
- Học có siêng năng, biếng nhác.
- Che giấu có cạn sâu
- Sự có Đại, Tiểu
- Bốn việc đều có nặng nhẹ
- Trường hợp lẫn nhau có nhiều ít và có nặng nhẹ, y theo giải thích nên biết.
7. Thông bít:
Nếu tánh ám độn siêng học chưa thành, nếu không che giấu thì không biết, trái với trên đều phạm tội.
8. Giải thích văn: Cũng có bốn:
- Nêu chánh nên tu
- Không biết mà giả là biết
- Không hiểu mà làm thầy-Kết luận chỉ bày tên tội.
Câu một. Có hai: Trước phải đọc văn, sau mới hiểu nghĩa. Trong phần trước nêu đại cương, khiến sáu thời tụng trì. Lẽ ra bất cứ lúc nào cũng đều phải tụng, nhưng trong sáu thời không được thiếu. “Kế là giúp hiểu nghĩa” nghĩa là khéo hiểu các nghĩa trì phạm và các nghĩa chân tánh, nên nói nghĩa lý. Lại hiểu nhân thành Phật, nên nói Phật tánh có ba loại:
- Tự tánh trụ Phật tánh
- Dẫn ra Phật tánh
- Đến được quả Phật tánh.
Điều này có giải thích đầy đủ trong Luận Phật Tánh
Câu 2. “Mà Bồ-tát v.v...” trở xuống là nói không biết mà làm ra vẻ biết. “Giải thích lời không biết, không hiểu một câu”, theo bản Phạm thì tám chữ thành một câu, bốn câu thành một bài tụng. Lý do chế giới là nhân duyên. Tùy theo giới cũng có nhân có duyên. Còn lý do trì phạm cũng gọi là nhân duyên. Lại thọ giới cũng có nhân, có duyên. Tùy theo giới cũng có nhân có duyên, đều phải khéo hiểu mới xứng đáng làm thầy. Kế đến dối nói có thể hiểu là, che giấu chỗ mình không hiểu, dối nói là hiểu để dối gạt người khác, khéo léo trộm lấy tiếng khen. Dưới đây là hiển bày lỗi đó. Nói mình thật lợi là tự dối. Người khác không lãnh thọ sự lợi ích là dối người. Tự lợi và lợi tha đều mất, thường an nhẫn là tội rất nặng.
3. Mỗi mỗi v.v... trở xuống là nói không hiểu mà làm thầy, nghĩa là mỗi hành pháp tất cả đều không hiểu. Thật không hiểu biết gì mà toan làm khuôn mẫu. Không phải từ hai vị thầy truyền mà lừa dối mình và người. Cũng khiến Như lai pháp hóa bặt lưu thông. Đây là lỗi diệt pháp. Tội này rất nặng.
Kết chỉ bày tội danh, nên biết.
HIỀN
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra phải ra sức khen ngợi các vị Bồ-tát đồng hành, khiến tiếng tốt của vị đó vang xa để chúng sinh học tập, mà lại có tâm ác chê bai, hủy thiện, thêm ác, là tội rất nặng. Nên chế ra giới này. Nói riêng cũng có ba, nghĩa là ác không dứt, thiện không thêm, trái với chỗ giáo hóa, đều y cứ vào theo đây nên biết.
2. Thứ lớp:
Giới trước tự mình không biết, giới này khinh khi người có đức, nên xếp kế đó.
3. Giải thích tên gọi:
Chê bai khinh khi người hiền lương, giới ngăn ngừa lỗi này nên lấy đó đặt tên.
4. Đủ duyên: có đủ năm duyên:
- Bên trong có tâm ác
- Hành nhân là người thấy giới.
- Chê bai bằng lời ác
- Truyền nói hai đầu
- Gây ra điều ác khiến đấu tranh. Nên kết thành phạm.
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên thứ nhất, phạm tội nhẹ phương tiện. Vì không có tâm ác. Thiếu các duyên khác phạm tội nặng phương tiện, vì không có tâm ác. Y theo sự giải thích nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Cũng có mười nghĩa: Tâm có cả ba tánh Cảnh có trì phạm Chê bai có sâu cạn
Truyền có đạt hay bất đạt Đấu tranh có nhiều ít Đều dày đều mỏng
Dày nhiều mỏng ít Mỏng nhiều dày ít Dày mỏng bằng nhau
Không bằng nhau đều có nặng nhẹ.
7. Thông bít:
Nếu lầm loạn điên cuồng, ma dựa. Nếu trị tội người y theo nên không phạm. Trái với trên đều phạm.
8. Giải thích văn: Cũng có ba:
- Tâm ác thấy cảnh thanh tịnh-Thiếu chê bai thành lỗi.
- Cố làm nên phạm
Câu 1. Dùng tâm phá hoại, tâm phỉ báng, tâm ganh hơn, nên gọi là tâm ác, thấy Tỳ-kheo giữ giới là không phạm giới nặng nhẹ, tay cầm hương v.v... là oai nghi hành đạo.
Câu hai: mà đấu tranh, v.v.. trở xuống là phỉ báng thành tội, nghĩa là tránh cãi kết lỗi khiến cho hai bên tranh chấp. Tâm ác lăng nhục người kia là khi, vọng ngôn nói lỗi là báng. Chê người này với người kia, chê người kia với người này. Truyền nói chê bai lẫn nhau giữa hai bên khiến cho đấu tranh, do đây khởi ác, nên nói chẳng việc ác nào không làm.
Câu 3. Nếu cố làm, v.v... trở xuống là kết tội, nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra phải tự vẫn để cứu chúng sinh, lại thấy chúng sinh khổ mà không từ bi cứu độ, thì rất trái với hanh nên Phật chế ra giới này. Nói riêng có ba nghĩa: thêm ác, tổn thiện, mất hạnh cứu chúng sinh.
2. Thứ lớp:
Giới trước khinh chê người hiền, giới này thấy chúng sinh khổ mà không cứu.
3. Giải thích tên gọi:
Bên trong không có lòng từ, thấy khổ không cứu, giới ngăn ngừa lỗi này nên lấy đó đặt tên.
4. Đủ duyên:
Đủ bốn duyên:
- Bên trong không có tâm từ
- Thấy người giết
- Bỏ không cứu
- Khiến người đó chết Nên thành phạm.
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên thứ nhất: Phạm tội nặng phương tiện. Vì tuy có từ tâm, nhưng không cứu. Thiếu duyên thứ hai có hai nghĩa:
Không có tội vì chẳng thấy có người giết nên không thể cứu
Phạm tội nặng phương tiện, vì thấy chúng sinh khổ mà không cứu.
Thiếu duyên thứ ba, cũng có hai nghĩa:
Phạm tội nhẹ phương tiện, vì không có lòng từ nên không cứu. Năng lực của vua tự tại, không cứu được nên không tội.
Thiếu duyên thứ tư: Phạm tội nặng phương tiện, vì mạng sống chưa dứt, chẳng phải do cứu. Các nghĩa khác nên y cứ theo đây.
6. Nặng nhẹ:
Có bảy nghĩa:
Y cứ vào lòng từ có dày mỏng.
Y cứ vào chỗ cứu chúng sinh có tôn ty.
Y cứ vào chỗ cứu có kịp hay không
Y cứ vào chỗ khổ được cứu có nhiều ít Tất cả đều y theo đó, nên biết.
7. Thông bít:
Nếu bệnh nặng, hoặc không có sức khỏe, tự vẫn luống uổng, cuối cùng không có ích gì. Y theo đó không phạm, trái lại thì phạm.
8. Giải thích văn: Trong đó có ba:
Trước thuận theo lý nên thực hành phóng sinh. Cứu việc sát hại của người khác
Thuyết giảng cứu tiên vong.
Trong câu đầu có ba: nêu, thích, kết. Vì từ tâm làm việc phóng sinh là “nêu”
Vì tất cả nam nữ v.v... là thích. Nghĩa là làm sao cứu chúng sinh. “Mà bất sát... ' giải thích có hai nghĩa:
Khắp thân quán Bình đẳng quán.
Trong phần trước nói “tất cả nam nữ đều là cha mẹ ta”. Là phân biện lý thật. Trước nói tất cả nam nữ đều là cha mẹ ta, mà giết ăn, tức giết cha mẹ ta. Nói trái với lý không được.
Hỏi: Như vậy sát sinh có phạm tội nghịch không? Đáp: Vì cách sự sống nên chẳng phải tội nghịch.
Câu hai: Cũng giết thân cũ của ta là nói bình đẳng quán. Nghĩa là thân chúng sinh đều lãnh thọ bốn đại. Nhưng thân cũ của ta cũng từng như thế, nên ta với chúng sinh đồng một thân bốn đại, nên nói hại thân cũ của ta, tức hại chính thân ta.
Câu ba: Cho nên thường hành v.v... trở xuống là tổng kết thường hành.
Câu hai: nếu thấy người đời v.v... là cứu người khác bị giết hại, cũng do hai thứ quán nói trên lẽ ra phải cứu khổ, huống gì tâm từ bi phải cứu chúng sinh.
Câu ba là “Thường giáo hóa v.v...” là nói giảng thuyết cứu tiên vong. Trong câu hai “Trước nêu chung” là giảng nói giới pháp khiến người biết tội dứt ác tu thiện để thành cứu độ.
“Riêng y cứ vào tiên vong mà giải thích, giảng phước giúp huân, khiến vong thấy Phật”, nói trở thành lợi ích. Trên đây nói trái hạnh kết phạm. Phần trên lược hiển mười giới tướng. Kết khuyên tu học như Phẩm Diệt Tội. Dưới đây chỉ trong phẩm đó nói đầy đủ.
NHẪN
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra bên trong phải thực hành nhẫn, bên ngoài tràn đầy từ bi.
Mà lại sân mắng và đánh đập, là lỗi rất lớn. Nên lấy đây để chế giới. Nên Phật chế ra giới này. Hiển riêng cũng có ba nghĩa: Sân oán không thôi, nhẫn thiện không thêm, chúng sinh bỏ đi. Trái với ba nhóm nên chế khoa nghiêm này.
2. Thứ lớp:
Giới trước thấy chúng sinh khổ không cứu, giới này đối với oán khởi thù, đều trái với chánh hạnh.
3. Giải thích tên gọi:
Trong không hành từ, ngoài khởi oán thù, giới ngăn lỗi này nên lấy đây đặt tên.
4. Đủ duyên:
Đủ bốn duyên:
- Đối cảnh oán
- Khởi tâm sân
- Động thân, miệng
- Thù rốt ráo Nên thành phạm tội.
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên thứ nhất, phạm giới trọng thiên đầu. Vì đối với cảnh không oán khởi sân.
Thiếu duyên thứ hai phạm tội nhẹ phương tiện. Vì tâm không sân nên chẳng phải tội nặng.
Thiếu duyên thứ ba, phạm tội nặng phương tiện. Tuy không khởi các tội nặng nhưng thân, khẩu sân.
Thiếu duyên thứ tư, cũng phạm tội nặng phương tiện, vì sự chẳng phải rốt ráo.
6. Nặng nhẹ:
Cảnh oán có sâu cạn, khởi sân có thô tế. Gia hành có thêm vi tế. Người đối diện khổ có nhiều ít. Đều nặng nhẹ dựa vào lẫn nhau nhiều ít. Y cứ theo đây nên biết.
7. Thông bít:
Nếu bị trị phạt khiến sám hối. Nếu bị điều phục khiến sinh hạnh lành. Nếu tự thường điều trị mà phiền não sâu dày, bất giác khởi, lẽ ra không phạm, ngược lại đều phạm.
8. Giải thích văn: có năm:
- Nêu lỗi chánh chế
- Phạm liền trái hạnh
- Cử nhẹ sánh nặng-Chọn đạo khác tục
- Cố phạm thành tội.
Hai câu cầu, tự oán cũng có hai nghĩa:
Nghĩa là sân y cứ vào ý nghiệp, đánh y cứ vào thân nghiệp, ngữ tùy thuộc cả hai mà khởi. Đây là nói lược mà không nêu hết. Nếu nói đủ là phải lấy mắng báo mắng. Còn vì tự thân bị giết mà không hiện báo thù thì không nói lấy sát báo sát.
Câu “Nếu giết cha mẹ, v.v...” trở xuống phạm vua thân oán cũng có hai nghĩa: là thân đứng về hiếu cảnh, quân đứng về trung cảnh, y cứ theo hiếu, y cứ theo trung lẽ ra phải báo thù. Nhưng vì lấy oán để trả thù nhau thì oán ấy sẽ không bao giờ dứt. Cho nên Như lai từ bi cứu độ chế ra nghiêm khoa này, dạy rằng không được báo thù thêm.
Câu “Giết sinh báo sinh...” nói đạt lý trái hạnh, nghĩa là còn mạng sống. Giết chết mạng vẫn phải lấy mạng trả thù, nên nói sát sinh. Báo sinh chẳng phải dùng sinh báo giết, nghĩa là trái lý. Không thuận hiếu đạo thì nói trái với hạnh.
Hỏi: Trong lễ của thế tục, oán thù của vua, cha mà không báo thì chẳng phải là hiếu.
Đáp: Đạo trái lại thế tục, thế tục y cứ hiện tại không nói nghiệp báo nhân quả tương lai. Nay nếu trả thù lại thì nghiệp khổ càng thêm nhiều. Khiến cho vua cha phải đắm chìm nhiều kiếp, làm sao thành hiếu đạo.
Câu ba: Huống gì không chứa v.v... trở xuống là nói nêu nhẹ so sánh với nặng. Vì nuôi chứa tôi tớ tay đánh, miệng mắng theo đó mà khởi sân não. Trong ba nghiệp thì khẩu nghiệp là nặng nhất, nên nói tội của khẩu nghiệp vô lượng. Trở xuống là so sánh với nặng nên nói huống làm. Bảy tội nghịch là tội nặng vô lượng khó ra khỏi.
Câu bốn: Mà xuất gia phân biệt Đạo khác thế tục trong đó tuy tại gia, xuất gia đồng phạm, nhưng xuất gia phạm tội này rất sâu, nên riêng nêu lại để xả thân duyên thế tục, tu từ giúp khắp, mà lại vì người thân mà báo thù, rất là trái với hạnh.
Câu năm: Cố làm v.v... trở xuống là trái phạm nên kết tội.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra phải vì bốn câu kệ mà thân chịu ngàn kim đâm vào mình. Cầu nửa bài kệ mà phải leo lên đỉnh núi cao xả thân mạng. Thân vua làm giường cho La-sát, áo trời trải chỗ ngồi cho dã can. Thắng vị nhẹ hơn, nên vua kính, quỉ súc tôn cao, đều lấy pháp trọng làm đầu. Vì pháp khó được, người bố thí pháp nghĩ rằng: Nếu lao thân xuống hầm lửa sâu bảy, tám thước, ta sẽ nói pháp cho ông nghe. ” Bồ-tát nghe như thế vui mừng vô hạn, nghĩ rằng: Ta vì pháp nên còn ở trong địa ngục A-tỳ vô lượng khổ độc. Vào trong hầm lửa mà được nghe pháp. Ông chỉ nghe pháp, ta vào hầm lửa như Bồ-tát Kim Cương cầu pháp lành. Bồ-tát suy nghĩ lại nói: Nếu Ông nói cho tôi một câu pháp, giúp cho hạnh Bồ-tát của tôi được thanh tịnh. Từ ngọn lửa lớn vào Tam Thiên Đại Thiên thế giới, tôi sẽ từ cõi trời Phạm lao mình xuống ngọn lửa này không lấy gì làm khó huống chi khinh người mất pháp, là tổn thất rất nặng. Nên Phật chế ra giới này. Hiển riêng cũng có ba:
Khởi mạn thêm hoặc Mất pháp trái thiện
Dạy người vào chỗ sai lầm, phá hoại ba nhóm hạnh cho nên phải cấm.
2. Thứ lớp:
Giới trước ở chỗ oán khởi thù, giới này đối với người có đức không cung kính. Lại giới trước đối với cảnh oán tăng thêm hoặc nghiệp của mình, nay giới này đối với người có đức kiêu mạn mất pháp lợi ích.
3. Giải thích tên gọi:
Đối với người khởi tâm khinh mạn, bỏ không cầu chánh pháp, giới ngăn ngừa lỗi này nên lấy đó đặt tên.
4. Đủ duyên: Cũng có bốn duyên thành phạm.
Người kém nhưng có đức
Tự cây khởi kiêu mạn
Thấy người đó sinh khinh
Bỏ không cầu chánh pháp
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên thứ nhất, phạm tội nhẹ phương tiện. Ba duyên còn lại phạm tội nhẹ phương tiện. Y theo giải thích, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Đức trước có lớn nhỏ, tự kiêu mạn có dày mỏng, tâm khinh có nhiều ít, xả pháp có sâu cạn. Kế đó dựa vào lẫn nhau đều có nặng nhẹ, y theo giải thích nên biết.
7. Thông bít:
Nếu bệnh thiếu sức khỏe, nếu người kia thật sự không có đức mà dường như có đức, nếu vì điều phục các chúng sinh, nếu mạn hoặc mạnh mẽ đối trị sức yếu kém đều không phạm. Nếu lười biếng thì phạm tội nhẹ, trái với trên đều phạm tội nặng.
8. Giải thích văn: Cũng có năm:
- Tự mình thật không biết
- Vọng cậy khởi kiêu mạn
- Khinh bỏ người có đức
- Lập ra giới cấm
- Chánh chế kết phạm.
Câu thứ nhất: Người xuất gia, mới vào đạo chưa hiểu biết, chưa học tập Đại thừa, Tiểu thừa. Đối với Bồ-tát gặp việc không biết, và nêu người xuất gia lý thật, cũng đồng quy chế này.
Câu thứ hai: “Vọng cậy khởi kiêu mạn. ” Vọng cậy có mười việc, khởi mười thứ mạn:
Thông minh mạn, nghĩa là ỷ mình thông minh, huơ tay múa chân.
Thế trí mạn, nghĩa là ỷ mình có thế trí, khinh mạn pháp sâu xa. Cao quý mạn, nghĩa là ỷ mình cao quý, từng làm chức quan.
Kỳ niên mạn, nghĩa là ỷ mình tuổi cao, không biết tuổi già mà chẳng tài cán gì.
Đại tánh mạn, nghĩa là ỷ mình họ Sát-lợi.
Cao môn mạn: nghĩa là ỷ mình là cao quý không thấp hèn
Giải mạn, nghĩa là ỷ mình hiểu biết thế pháp hoặc ngoại điển Tiểu thừa
Quá mạn: nghĩa là ỷ mình đã từng làm các phước hạnh lớn. Cao mạn, nghĩa là ỷ mình giàu có các tài vật.
Bảo mạn, nghĩa là ỷ mình có bảy báu như vàng v.v..., vì đó mà sinh kiêu mạn. Trong mười giới này xếp vào sáu mạn ba cặp:
Hai câu đầu và câu bảy, tám là phước tuệ một cặp. Còn câu bốn, chín và mười là thân tài một cặp. Trong mười giới này tùy ỷ vào một duyên nào thành duyên phạm, chứ không cần phải phạm đủ mười giới, nên nói là “hoặc”.
Câu ba: mà không hỏi, v.v... trở xuống là nói khinh bậc có đức.
Trong đó có hai nghĩa:
Nói chung về khinh bỏ.
Pháp sư ấy, v.v... trở xuống là giải thích riêng về pháp sư.
Trong câu trước người mới xuất gia ỷ thị các mạn nói trên. Không học hỏi nghĩa lý trong kinh luật với Pháp sư, đến đỗi người tu hành đó gặp việc không biết gì cả. Năm trăm năm sau kết tội vô tri. Học vấn trong thế tục còn quan liêu. Huống gì người tu hành đã ra khỏi thế tục còn phải lấy việc học làm chánh, ba a-tăng-kỳ kiếp không bỏ một phút giây. Nay lại khởi tâm kiêu mạn, bỏ không cầu học, làm sao hạnh thành.
Câu hai: Trong giải thích riêng về Pháp sư cũng có hai nghĩa:
Hiển rõ vị trí thấp hèn Phân biệt đức cao.
Câu trước và giữa lược nêu năm việc:
Dòng họ bình thường.
Tuổi nhỏ
Thấp hèn
Nghèo nàn
Ở đây trái với mười vị nói trên nên biết. Các căn không đủ, thân tướng xấu xa.
Câu hai: mà thật v.v... là phân biệt đức cao. “Thật có đức” là phân biệt hạnh đức cao siêu.
Câu “Nhất thiết kinh v.v...” là trí hiểu sâu xa.
Câu thứ tư: mà người mới học, v.v... là nói lập cấm chánh chế”, nghĩa là xét về lời nói chứ không xét về chủng tánh. Trong năm việc nói trên lược nêu một vị. Lý thật năm việc đều không được xem. Huống chi Bồ-tát thọ pháp với La-sát. Các vị trời đảnh lễ Dã Can, đây há lại quán chủng tánh hay sao?
Câu năm: mà không đến v.v... trở xuống là nói vi phạm quy định kết tội. Nghĩa là lược nêu nghĩa thứ nhất. Lý thật chung cho cả hỏi hai đế. Lại giải thích Phật pháp nhìn về thế pháp là Đệ nhất nghĩa. Còn giải thích chê bai thế tục dễ biết, chắc chắn khó rồi, nên khiến cho hỏi như vậy. Các văn khác rất dễ hiểu.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra phải vào các cõi khổ để khai mở dẫn dắt chúng sinh, giúp họ phát tâm thọ giới Bồ-tát. Kinh Anh Lạc chép: “Giáo hóa một người phát tâm thọ giới Bồ-tát, hơn xây tháp Phật đầy khắp thế giới đại thiên. Kinh Hoa Nghiêm chép:” Vì một chúng sinh nên trong địa ngục Atỳ bị đốt nấu trong vô lượng kiếp. Tâm thanh tịnh rất cao quý” Giải thích rằng: Bồ-tát còn phải vào địa ngục để giáo hóa chúng sinh, đâu cho người mới học đến cầu mà không trả lời. Cũng thêm ác, trái thiện, mất đi sự giáo hóa. Đã xa ba nhóm, thành lỗi không nhỏ, nên phải chế giới nầy.
2. Thứ lớp:
Giới trước nói kiêu mạn không cầu pháp. Giới này kiêu mạn không nói pháp. Kinh nói: Bồ-tát cầu pháp không lười mỏi, nói pháp không tiếc. Còn trước nói khinh người mới học, ở đây nói khinh người hậu tấn. Kinh chép: Không khinh người chưa học, kính người đã học như Phật. Chính là nghĩa đó.
3. Giải thích tên gọi:
Đối với người mới học mà không dẫn dắt, không khéo truyền trao khiến cho Phật pháp chóng diệt. Giới ngăn ngừa lỗi này, nên lấy đó mà đặt tên.
4. Đủ duyên:
Đủ năm duyên thành phạm:
- Tự hiểu Đại thừa
- Người mới học đến cầu
- Nương cậy thế lực-Sinh tâm khinh thường.
- Trả lời không đúng pháp.
5. Thiếu duyên:
Thiếu hai câu đầu phạm tội nhẹ phương tiện. Thiếu ba câu sau đều phạm tội nặng phương tiện. Y theo giải thích nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Tự hiểu có sâu cạn. Người cầu có ân mà khinh mạn, ỷ thế có nhiều ít. Khởi tâm có nặng nhẹ. Y theo giải thích nên biết.
7. Thông bít:
Nếu bệnh, hoặc không có sức khỏe, hoặc không hiểu, hoặc người ấy mạn pháp, hoặc điều phục kia, như trước đã nói đều không phạm. Trái lại đều phạm.
8. Giải thích văn:
Trước nói nghi thức thọ giới. Sau “Nếu Pháp sư v.v...”, là nói trái hạnh kết phạm. Trước có chương thọ giới Bồ-tát, như nói riêng. Trong văn này có ba:
- Tự thệ thọ
- Theo thầy thọ
- Giải thích ý nghĩa tự thọ. Câu trước cũng có ba:
Khi mới thọ giới, nghĩa là khi Phật tại thế không có tự thệ thọ, nên nói “diệt hậu”. “Muốn dùng” là muốn nguyện chí thành cầu tâm giới. “Tâm tốt” là thuận lý tin tâm Bồ-tát thanh tịnh. Hai câu này là giới khí nên nêu lên.
Câu hai: Đối với Phật, Bồ-tát v.v...” trở xuống là nói việc thọ giới. Câu ở trước tượng Phật, Bồ-tát là tiêu biểu tưởng như đang còn. Chí phát bên trong nói thành thật lập thệ. Nguyện rộng tự nói yết-ma. Tướng của ứng giáo hiện gọi là đắc giới. Văn Yết-ma như có nói riêng, Tướng của ứng giáo có ba thứ:
Dùng tâm để biểu tướng. Nghĩa là như tâm ta luống dối thật không thực hành các điều mà Bồ-tát đã thực hành. Chỗ nguyện của Phật và Bồ-tát cùng giới của ta. Nếu thật nêu cùng, vì tự biết tâm thật thì biết đắc giới.
Các phương có gió mát thổi thì nên biết là đắc giới
Câu ngay trong bảy ngày v.v... trở xuống là giải thích duyên đắc giới. Trước làm pháp bảy ngày, nghĩa là vào đạo tràng thanh tịnh, sám hối tội chướng giới. “Tướng tốt” là được Phật đến xoa đảnh. Đủ như văn kinh: Chướng nặng thì cho đến một năm, nếu hơn một năm mà không được tướng tốt thì cuối cùng không đắc giới. Các nghi thức sám hối này cũng như nói rộng có hai: “Như trước thọ giới v.v...” trở xuống là theo sư thọ giới, trong đó trước nêu không cần tướng tốt.
Câu hai: “Vì sao nêu trách” nói giới đã thọ không hai. Vì sao tướng tốt cần hay không cần. Giải thích: Cho nên Pháp sư từ trên đến, sư sư thay truyền nhau. Nay giới pháp này truyền đến nên không cần tướng tốt. Tự thệ không như vậy. Tự đọc yết-ma, tự đã không có giới, thì từ ai truyền? Phải từ Phật và Bồ-tát truyền, nơi ở của Phật Bồ-tát khó biết rõ, phải nhờ tướng tốt biểu thị mới đắc giới, nên cần có tướng.
Câu ba: cho nên trở xuống là kết, nghĩa là đối với Sư sinh trọng tâm thọ, liền đắc giới nên không cần tướng.
Câu 3 “Nếu ngàn dặm v.v...” trở xuống là giải thích nghĩa tự thệ. Nếu trong ngàn dặm không có thầy, mà khinh người đó không theo thọ, dù tự thệ cũng không đắc giới. Giải thích văn giới đã xong.
Câu hai: Nếu Pháp sư v.v...” là nói trái hạnh kết phạm, trong đó có năm câu:
Cậy sự hiểu biết của mình.
Cậy bên ngoài cao hơn Người mới học đến cầu Bên trong khởi ba tâm Trả lời không đúng pháp Nên kết phạm.
“Ba tâm” là:
- Khinh thường người đối diện
- Ganh ghét sinh tâm chê bai nên nói tâm ác-Kiêu mạn lăng nhục chúng sinh.
Trong đây nếu có một tâm nào cũng thành phạm.
1. Đại ý chế giới:
Vốn học hạnh Đại thừa gọi là Bồ-tát, nay nếu bỏ giới này làm sao có Đại sĩ. Nói riêng có ba:
Trái với đại hạnh Tâm huân tập điều lạ Trở ngại đắc Bồ-đề.
Là tội rất nặng nên Phật chế giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước ỷ thế kiêu mạn lăng nhục người, giới này bỏ chân theo ngụy. Giới trước khinh người, giới này xả pháp.
3. Giải thích tên gọi:
Không biết trách nhiệm lại theo bạn ác, bỏ vật báu của Đại thừa, học tập gạch ngói Tiểu thừa. Giới ngăn ngừa lỗi này, nên lấy đây đặt tên.
4. Đủ duyên: có ba duyên:
- Phát tâm bỏ.
- Bỏ Đại pháp
- Học tập Tiểu thừa Thì phạm.
5. Thiếu duyên.
Trong ba câu hễ thiếu bắt cứ một duyên nào đều phạm tội nặng phương tiện. Còn thiếu cả hai lỗi sau, hoặc thiếu lỗi đầu và cuối, đều phạm tội nhẹ phương tiện. Hoặc thiếu cả hai lỗi đầu hoặc tội rất nhẹ, hoặc không phạm tội, đều nên biết.
6. Nặng nhẹ.
Trong ba câu đều có tạm thời hoặc mãi mãi, hoặc dựa vào lẫn nhau nhiều ít đều có nặng nhẹ. Y theo giải thích nên biết.
7. Thông bít:
Nếu vì chúng sinh mà tạm thời học, hoặc vì muốn cho trí hiểu rộng thêm, hoặc đồng sự điều phục họ nhưng không bỏ hạnh của mình, tất cả đều không phạm. Trái lại thì phạm.
8. Giải Thích văn:
Trong văn có năm:
- Học chân chánh
- Nói xả bỏ
- Học tập Tiểu thừa-Phân biệt lỗi quấy-Kết thành phạm.
Câu thứ nhất. Nói kinh Phật là nêu chung các pháp nên học. Câu thứ hai. Hiển bày riêng bốn loại:
Chánh pháp là giáo pháp Đại thừa Chánh kiến là hành pháp
Chánh tánh là lý tánh
Chánh pháp thân là quả pháp, nghĩa là y giáo khởi hạnh, hạnh có công năng chứng lý, lý viên quả mãn. Lại tin quả thọ giáo tu hành nhập lý.
Lại giải thích: Hai câu đầu là pháp tu sinh, nghĩa là y chỉ nghe huân tập pháp sinh chánh kiến trí Vô phân biệt. Hai câu sau là pháp Bản hữu, nghĩa là ở tại triền gọi là chánh tánh, xuất triền gọi là Pháp thân. Đây là điều Bồ-tát phải tu học.
Câu thứ hai “mà Không thể v.v... trở xuống là nói bối xả. Vì là pháp Đại thừa nên quý báu, theo dụ gọi là Bảo. Như bỏ 7 báu trở lại nhặt ngói gạch. Câu thứ ba: “lại học v.v.. là” nói học Tiểu thừa. Trong câu này nói là học ngược lại, có bốn ý:
Tà kiến, nghĩa là ác kiến trái lý nên gọi là Tà.
Nhị thừa, Luận Thập Địa gọi là Dị thừa tà kiến, trong bảy thứ tà kiến. Kinh Lăng-già gọi là Tiểu thừa ngoại đạo, trong 20 thứ ngoại đạo. Đây đều là chấp trước trái với Đại thừa nên đặt tên này. Kinh Pháp Hoa chép:” Chánh phạm hạnh cầu chúng sinh. Kinh Pháp Hoa chép: Hành xứ của các Ông đều là đạo Bồ-tát, đây là thuận thú Đại thừa, cho nên chẳng phải là tà. ” Nay y cứ theo các nghĩa nói trên, nên quở trách không cho học.
Tăng già đẳng luận dị thuyết trái với chân nên gọi là
Ngoại đạo. Thi thư thế tục học theo làm chướng ngại đạo A-tỳ-đàm, Hán dịch là Đối pháp, tức các bộ Tiểu thừa tranh luận trái nhau làm tổn hại Đại thừa.
Tiểu thừa ngoại đạo và thế điển xen lẫn nhau thành luận nên gọi là Tạp Luận. Như các luận Tứ Phệ-Đà đều gọi là Tạp Luận.
Thư là Đam Học Thư Điểm Dĩ Thất Quang Nghi Ký, là ký học toán số, nhóm họp nhiều ít. Các loại trên đây, nếu tinh thần có dư tùy phần biết mỏng, nên lẽ ra không có tội. Nếu tánh chẳng thông ngộ mà bỏ chân theo ngụy, lý nên chánh phạm. Kinh Duy-ma chép: Tân học Bồ-tát biệt khác.
Đó là dứt, v.v... trở xuống là hiển 3 lỗi; Dứt Phật tánh, ở đây có hai nghĩa:
Do học tà pháp, khiến trong thân Phật tánh thiếu duyên, nên không sinh trí bằng muôn hạnh. Đây tức ngăn các công năng nên gọi là dứt.
Học tập tà pháp này, khiến cho Đại thừa không lưu hành thế gian, nên gọi là dứt chủng tánh Phật. Kinh nói:” Pháp Đại thừa lưu hành gọi là hạt giống Phật không dứt. Nhân duyên chướng đạo cũng có hai nghĩa: Đối với đạo Bồ-tát là nhân duyên chướng ngại.
Nhân chướng đạo Bồ-Đề, cũng chướng ngại duyên kia khiến nhân duyên đều thiếu, đạo không do đâu sinh. Không hành đạo Bồ-tát cũng có hai nghĩa: Trái với đạo mà Bồ-tát thực hành.
Kết thúc việc làm, chẳng phải là Bồ-tát. Câu thứ năm nếu làm thì kết phạm, nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát làm chúng chủ, lẽ ra phải từ tâm nhiếp phục các điều lành, giữ tài đức mà làm chủ trái oai nghi, nghiệp đạo khởi lên, nên Phật chế giới này, riêng chỉ bày trái với ba nhóm. Y cứ theo giải thích nên biết.
2. Thứ lớp:
Giới trước trái chánh pháp, giới này tổn tài đức nên xếp ở kế sau.
3. Giải thích tên gọi:
Từ chỗ ngăn ngừa đặt danh mục nên biết.
4. Đủ duyên: Có ba duyên:
- Thân làm chúng chủ
- Tâm không từ bi cứu giúp.
- Khiến cho chúng sinh khởi đấu tranh làm tổn hại vật Tam bảo cho nên thành phạm.
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên thứ nhất, phạm tội nặng phương tiện Thiếu hai duyên sau đều phạm phương tiện nhẹ.
Trong giới này y cứ vào việc làm chủ không tâm giữ gìn thì phạm tội nhẹ.
Đứng về sự tổn hao tài vật đều phạm tội Ba-la-di, cho nên giềng mối tri sự chẳng phải phần phí dụng tài vật Tam bảo phạm hai giới..
6. Nặng nhẹ:
Thế chủ có mạnh yếu, từ bi ủng hộ có cứng mềm, các thứ tranh phí tài của có nhiều ít, đều lẫn nhau có nặng nhẹ. Y cứ theo giải thích nên biết.
7. Thông bít:
Hoặc vua lấy, hoặc giặc mạnh, hoặc tự mình bị bệnh nặng. Nếu chúng quá ác chưa thể hòa được, đều không phạm, trái lại đều phạm.
8. Giải thích văn: Trong văn có ba:
- Nói làm chủ
- Chế chỗ làm
- Trái quy chế kết phạm.
Câu thứ nhất: sau Phật diệt độ, vì di pháp trụ trì phải nhờ chúng sinh nên phân định thời gian. Chủ tuy có nhiều nghĩa, nhưng lược có năm loại:
Pháp chủ, nghĩa là từ bi vỗ về chúng, truyền trao không bỏ sót, khiến chánh pháp tồn tại lâu dài.
Tăng phòng chủ: thân trụ ở giềng mối, vì chúng phải chịu khổ, giữ gìn chặt chẽ tài vật.
Giáo hóa chủ: dẫn dắt đàn việt xây dựng chùa tháp, khéo giữ tiền của, không làm não hại chúng.
Tọa thiền chủ: nghĩa là khéo léo trao truyền chỉ quán khiến chiết phục các phiền não.
Hành lai chủ: lãnh chúng du phương, khéo thu nhiếp các căn, không để cho hủy cấm giới.
Câu 2. Nên sinh v.v... trở xuống là nói chế việc đã làm. Trong đó dạy phải hòa chúng, nghĩa là chế năm vị trên. Chúng có trái nghịch đấu tranh, nên dùng từ tâm khiến hòa mục. Sau chế năm vị trên giữ gìn Tam bảo còn hơn giữ mắt mình. Thà xả bỏ thân mạng chứ không làm việc phi lý, nghĩa là đem vật Tam bảo không dựa vào Thánh giáo tự ý dùng riêng. Nên nói rằng:” Nếu tự mình có, còn người xấu làm chủ, tiếc lẫn tiền của của mình mà không tiếc lẫn tiền của của người, chẳng phải của mình có. Rất đáng thương xót.
Câu ba: mà trái lại, v.v... trở xuống là trái phạm quy chế kết phạm, nghĩa là thỉnh chúng khiến loạn, hòa chúng khiến đấu tranh. Không nghĩ đến nghiệp đạo. Buông lung tổn phí, nên kết lỗi này. Nghĩa khác đã nói trong giới trộm.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát thấy Tỳ-kheo khách, đến còn phải bán thân để cúng dường. Huống gì trái với Thánh giáo, khinh miệt Tỳ-kheo khách lương thiện, là lỗi rất nặng, nên phải chế giới. Giải thích riêng có ba:
Trái pháp luật
Trái với hạnh của mình
Khiến khách tu hành không chỗ nương mất nghiệp, cũng trái với ba nhóm. Y cứ theo giải thích nên biết.
2. Thứ lớp:
Giới trước làm chủ mất nghi, giới này đãi khách trái lễ.
3. Giải thích tên gọi:
Nên trái với pháp đó, không đãi khách hiền lương.
Giới ngăn ngừa lỗi này, nên lấy đó đặt tên.
4. Đủ duyên:
Đủ bốn duyên thành phạm.
- Trước trụ các nơi như tăng phòng, v.v...
- Có Bồ-tát khách tăng đến
- Không cúng dường các vật dụng cần dùng.
- Không đồng lợi dưỡng cho nên phạm.
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên thứ nhất, có hai nghĩa:
Tuy chẳng phải cựu trụ thấy pháp này mà không chế giới phạm tội nặng phương tiện.
Bồ-tát tại gia phạm tội nhẹ phương tiện.
Thiếu duyên thứ hai, đều phạm tội nặng phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Trụ xứ có giàu nghèo, khách tăng có nhiều ít, Cầu của có khó dễ, lợi dưỡng có dày mỏng. Có nặng nhẹ lẫn nhau, y cứ theo trước nên biết.
7. Thông bít:
Nếu bệnh nặng không tự do, hoặc năng lực vua tự tại, nếu muốn phát tâm chưa thể bán thân, đáng lý không phạm, trái lại đều phạm.
8. Giải thích văn: Trong văn có sáu:
- Người ở trước thấy khách
- Chế phải tiếp đãi
- Khiến phân biệt khó phân biệt
- Lợi dưỡng đều nhau
- Trái lời dạy phạm tội
- Quở trách kết phạm
Câu thứ nhất: Lược nêu năm chỗ:
Tăng phòng là trụ xứ của Bồ-tát xuất gia trong già-lam
Xá thất là trụ xứ của Bồ-tát tại gia, cũng là nhà của đàn việt được đặt trong chỗ tăng.
Quốc vương trạch xá là cung vua, thành ấp là nói chung hai chỗ ở.
Cho đến chỗ kiết hạ an cư lại càng có nhiều chỗ, không thể nói hết, nên dùng hai chữ cho đến, nghĩa là dưới đến chỗ quyền tạm trú trong một hạ.
“Trong Đại hội:” Nghĩa là Đàn việt khi lập ra hội chúng, thấy người đến sau, đều nhường chỗ ngồi để nói lên sự tôn kính nhau.. Hai chỗ này là nêu chỗ kém để so sánh với chỗ hơn. Câu hai là vị Tăng ở trước, v.v... trở xuống là chế khiến cung kính tiếp đãi. Trong đó lược chế sáu việc.-Tự mình phải đón rước.-Cung cấp thức ăn uống-Phòng xá chỗ nghĩ.
- Trong phòng có đồ nằm, giường nệm
- Hoặc thường ngồi không nằm phải cấp cho giường dây
- Hoặc đèn, lửa, nước, v.v... khó kể hết
Nên tổng kết các việc cấp cho, không để thiếu thốn. Câu thứ ba: “Nếu không có” trở xuống là nói khiến khó phân biệt, nếu không có vật có thể cúng, thì bán y áo của mình, nếu không có y vật cho đến bán thân, không được để họ về tay không. Như lai chế ý quan trọng ở chỗ này. Nhưng bán thân có cả hai vị: Nam nữ chỉ cho tại gia, trong đây bán thân và nam nữ có cách giải thích khác nhau, như nói riêng.
Câu bốn: “Có đàn việt v.v... trở xuống là” nói lợi dưỡng chia đều. Nghĩa là tín thí đã nói gồm cả mười phương. Chúng tăng như sữa với nước một vị, cho nên Phật dạy Tăng kế thọ. Như đắc pháp mà vô tội, cúng thí y cho tăng đúng như pháp thì có phước đầy đủ. Nên nói có phần lợi dưỡng, đều nên biết.
Câu thứ năm: mà vị tăng ở trước, v.v... trở xuống là nói trái với giáo phạm tội. Nghĩa trái với lời dạy của Như lai tăng thứ. Trộm lợi của tăng mười phương hiện tiền. Lợi tuy có nhỏ nhưng nhìn lợi tăng thì vô cùng, nên nói phạm vô lượng tội.
Câu sáu: Súc sinh... trở xuống là quở trách kết phạm. Trước dùng ba việc quở trách.
Rất ngu si nên đồng với súc sinh.
Không chứng quả Thánh nên chẳng phải sát na-môn Không có nhân kia nên chẳng phải Thích chủng.
Sau nếu cố làm, v.v... trở xuống là kết phạm nên biết.
1. Đại y chế giới:.
Bồ-tát lẽ ra phải xả bỏ tài vật đáng trọng để giúp thành hội thí, đâu cho phép quanh co, quanh co thọ thỉnh lấy vật thí khắp kia. Nói riêng có ba:
1. Hoại pháp thứ tự tăng của Như lai.
2. Tổn hại phước của thí chủ vô hạn.
3. Lụy tự thân thủ, ở đây không nên lấy vật.
Kinh Tỳ Kheo Ứng Cúng Pháp Hạnh chép:” Nếu đệ tử ta có người thọ thỉnh riêng thì người nầy chắc chắn mất quả thứ nhất, quả thứ hai, quả thứ ba, quả thứ tư, không gọi là Tỳ-kheo, người nầy không được đi trên đất của quốc vương, không được uống nước của quốc vương, có năm trăm đại quỉ thường đứng án trước mặt người đó. Tỳ-kheo nầy trong bảy kiếp không được thấy Phật, Phật không duỗi tay, không được thọ vật của đàn việt, năm ngàn đại quỉ thường theo sau người đó nói rằng: “Ong là tên giặc nguy hiểm trong Phật pháp”, là điều các Tỳ-kheo không nên làm. Trong thứ lớp tăng có Phật hóa tăng, Tứ đạo quỉ tăng, Bồ-tát tăng, Thất Hiền tăng, phàm phu tăng. Vì muốn cho đàn việt bốn phương được các thứ tăng như thế cho nên chở theo thỉnh riêng. Kinh Cư Sĩ Thỉnh Tăng Phước nói: Điền ý cũng giống như thế, cho nên Phật giới nầy
2. Thứ lớp:
Giới trước làm chủ thất nghi, giới này thọ thỉnh mất phép tắc
3. Giải thích tên gọi:
Trái với thứ lớp thọ thỉnh, rất là tai hại, giới ngăn lỗi này, nên lấy đây đặt tên.
4. Đủ duyên:
Có bốn duyên thành phạm: Thân ở trong chúng
Lén thọ thỉnh riêng Tiến thú phương tiện Lấy vật liền phạm
5. Thiếu duyên:
Thiếu hai duyên đầu đều không phạm, thiếu hai duyên sau phạm tội nặng phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Được vật có nhiều ít. Tâm thọ có hổ thẹn hay không?
Đều có nặng nhẹ, y cứ theo đó.
7. Thông bít:
Luận đầy đủ có bốn câu:
Tăng thứ lớp thỉnh, tăng thứ lớp thọ. Biệt thỉnh tăng, thứ lớp thọ
Hai loại này đều không phạm
Tăng thứ lớp thọ riêng, tội này rất nặng. Thỉnh riêng thọ riêng, đây cũng có hai thứ
Nếu thí chủ thiết trái cúng bảy vị tăng, Tăng thứ lớp thỉnh sáu vị, thỉnh riêng một vị tăng trong số thứ tự này liền phạm tội nhẹ phương tiện.
Thỉnh tăng thứ lớp bảy vị, ngoài số đó thỉnh riêng tăng có duyên này, hoặc phạm tội nhẹ, hoặc không phạm. Còn nếu bệnh nặng, nếu đến người kia không thọ vật. Nếu đem hộ cho thí chủ khiến họ phát tâm Bồ-đề.
Nếu khiến nhiều người phát tâm Bồ-đề thì không phạm.
8. Giải thích văn: Có bốn:
- Chế chung
- Định vật
- Hiển lỗi-Kết phạm.
Câu một chế chung: nghĩa là không được thọ tất cả lợi dưỡng do thỉnh riêng về mình.
Câu hai: mà đây, v.v... trở xuống là phân biệt định vật, nghĩa là vì sao không được thọ riêng lợi này? Vì lợi này thuộc mười phương hiện tiền tăng. Nếu chẳng phải tăng thứ lớp thì nhất định không được thọ.
Hỏi: Nếu Tỳ-kheo tăng mất, vật nhẹ cũng thuộc tăng hiện tiền trong mười phương, tăng thứ lớp đâu được thọ? Đáp: Tuy đồng thuộc mười phương, nhưng chế pháp này có khác. Họ lấy Yết-ma làm y cứ. Ở đây lấy Tăng thứ lớp làm giới hạn, đều theo pháp này thọ không lẫn lộn.
Câu ba: mà thọ riêng: Rõ ràng trong hiển lỗi lược hiển bảy lỗi: Lấy vật của Tăng hiện tiền trong mười phương cho là vật chỗ nên được.
Vật của tám ruộng phước. Vật của Phật
Vật của bậc Thánh Vật của Sư tăng Vật của cha mẹ Vật của người bệnh.
Lấy vật này chung cho vật kia được Câu 4. Cho nên kết phạm, nên biết.
1. Chế ý:
Bồ-tát lẽ ra phải tự vẫn mạng sống để hộ pháp, đâu cho trái lới Phật dạy thọ thỉnh riêng người thân. Chính là chỗ gút mắt trong thế gian, đâu thành phước hội. Hiển riêng cũng có ba:
Có hại cho giáo pháp thỉnh tăng thứ lớp của phật.
Mất vô lượng gốc lành của mình
Lầm lạc chúng sinh thường thọ học
Nên Phật chế giới này
2. Thứ lớp:
Giới trước vì ruộng phước nên không thọ thỉnh riêng, giới này vì thí chủ nên không thỉnh tăng riêng.
3. Giải thích tên gọi:
Tùy tình biệt khúc gọi, trái với bình đẳng thí. Giới ngăn ngừa lỗi này, nên lấy đó đặt tên.
4. Đủ duyên:
Đủ bốn duyên thành phạm:
- Lập ra hội thí
- Có tăng chúng
- Cố thỉnh riêng
- Thí rồi liền phạm
5. Thiếu duyên:
Thiếu hai duyên đầu thành phạm, thiếu hai duyên sau kết tội phương tiện.
6. Nặng nhẹ:
Bốn duyên trên đều có nhiều ít, đều nhiều đều ít, lẫn nhau có nặng nhẹ, y theo đó nên biết.
7. Thông bít:
Nếu tăng thứ lớp đã đủ, không làm pháp thí khác, chỉ tôn trọng bậc cao đức. Riêng có sinh thiện diệt ác, lẽ ra không phạm. Tăng thứ lớp ngoài áp lực của vua, thỉnh chung lẽ ra cũng không phạm. Ngoài ra còn có vài câu, đều trái với trên, y cứ theo đó.
8. Giải thích văn: Trong văn có năm: Nói lúc thiết cúng
Chế thỉnh tăng theo thứ lớp So lường hiển thắng
Trái phạm quy chế, phân biệt lỗi Kết chỉ bày tên tội.
Câu một: Tại gia, xuất gia chánh thức được chế. “ và tất cả đàn việt” là gồm dạy người thế gian, khiến họ được phước vô lượng, nghĩa là khi sắp thỉnh ruộng tăng muốn lập hội thí cho nên nói vậy.
Câu 2. nên nhập v.v... trở xuống là chế thỉnh Tăng thứ lớp. Nghĩa là dạy thí chủ đến trong tăng hỏi tri sự về việc tăng theo thứ lớp.
Ý nói may muốn lớp thỉnh: nghĩa là trình bày ý mình thỉnh chọn lựa chẳng phải thỉnh riêng nên nói vậy.
Câu” Tức Mười phương hiền thánh tăng. Hiển bày thắng đức, nghĩa là Mười phương Tăng chung cho phàm và thánh hòa đồng một vị. Nếu không có sự phân biệt theo lời dạy thỉnh tăng thứ lớp, được một người. Vì trong mười phương thì một là gồm cả mười phương, nên được phước tăng mười phương. Như trong biển cả uống một giọt nước, tức là uống tất cả nước sông trong cõi DiêmPhù-Đề. Nếu uống hết nước của một sông lớn, còn chưa được gọi là uống nước sông, huống gì uống một chút nước. Tăng thỉnh riêng cũng như vậy.
Câu ba “Như người đời: so lường để rõ chỗ hơn, nghĩa là thỉnh riêng 500 vị La hán, hoặc 500 vị Bồ-tát tăng. Như uống riêng nước của một con sông. Không bằng thỉnh một phàm phu tăng theo thứ lớp, như uống một giọt của biển cả.
Hỏi: Đó là thỉnh tăng riêng, Tăng đâu phải người trong mười phương tăng, làm sao xếp vào trong mười phương tăng được.
Đáp: Thỉnh riêng chú tâm ở người đã muốn, chẳng phải khắp cả mười tăng này. Tăng thứ lớp không phải như vậy, thỉnh không phân biệt chú tâm gồm tất cả. Cho nên rộng rãi.
Câu 4 “Nếu thích riêng v.v...” là nói trái với phân biệt lỗi, lược hiển ba lỗi.
Ngoài tăng pháp nên gọi là ngoại đạo pháp.
Giới của Chư Phật bảy đời không có pháp này, chính là bên trong không có vậy.
Trái với tâm Phật nên nói không thuận hiếu đạo. Câu
5. Nếu cố, v.v... trở xuống là Kết chỉ bày tên tội, nên biết.
1. Chế ý:
Bồ-tát phải từ bi cứu vật không tiếc thân mạng, đâu cho phép vì lợi dùng pháp ác làm tổn hại người, làm đứt mất ba nhóm, nên Phật chế ra giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước trái với ruộng phước thù thắng, giới này học tập nghề nghiệp ác. Hơn nữa, giới trước làm mất điều lành, giới này tăng thêm việc ác, nên lấy đây đặt tên.
3. Giải thích tên gọi:
Học tập kỹ thuật ác, trái lý tổn hại. Giới ngăn ngừa lỗi này, nên lấy đây đặt tên.
4. Đủ duyên:
Cũng có bốn duyên thành phạm: Khởi tâm ác
Vì lợi dưỡng
Học tập kỹ thuật ác Hiện hành dụng nên phạm.
5. Thiếu duyên:
Thứ lớp thiếu bốn duyên đều phạm tội nặng, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Trong bốn nhân duyên này đều có nhiều ít, nặng nhẹ, y cứ theo trước nên biết. Còn ở đây chế 13 lỗi. Tự tay làm thức ăn, tự tay xay giã.
Hai tội này nhẹ. Ngoài ra đều phạm tội nặng.
7. Thông bít:
Nghĩa là tự tay làm thức ăn, bảy thứ công xảo có lúc hoặc thông. Sáu thứ còn lại không có pháp khai, trừ Thánh vị Bồ-tát quyền hình đồng sự, cho nên rất khó biết.
8. Giải thích văn: Có hai: Nêu việc ác của thế gian. Làm liền kết phạm
Tâm ác trước đó là gây nhân ác. Vì lợi là tạo duyên ác, mua bán là chỗ làm việc ác. Việc ác tuy nhiều nhưng lược có 13 thứ:
Bán sắc nghĩa là ở chợ dâm mua bán nữ sắc cho người nam, hoặc bán nam sắc cho người nữ. Y cứ người dạy bên dâm lý thật phạm tội nặng. Nay đứng bên huyễn thuật bán càng kết tội nhẹ, cho nên phạm hai tội.
Tự tay làm thức ăn là ác xúc phi pháp. Tự tay xay giã là hoại sự sống và ác xúc Hai việc này đều bị người đời chê bai.
Xem tướng nam nữ là xem cưới gã thích hợp nhau.
Còn tướng trong thân là hắc tử văn v.v... Giải mộng có lành dữ, v.v...
Là nam hay nữ. Xem thai phân biệt nam nữ, v.v... Chú: Là chú trớ, Còn dùng chú ác, chú rồng.
Thuật: Em đảo phù thư. Còn gọi là huyễn thuật, huyễn hoặc. Công xảo, là thợ làm thuê để cầu lợi.
Pháp phục chim ưng: May mắt lại rồi điều phục nó cho thuần mới thả ra và sai nó sát sinh.
Hòa hợp trăm thứ thuốc độc: là dùng trăm chất thứ độc hòa thành thuốc độc, ngàn chất độc cũng vậy. Con số nhiều ít, lý phải có công năng mau chậm.
Rắn độc, lấy rắn năm tháng, năm ngày hòa hợp thành thuốc độc cho rắn ăn.
Kim ngân: giải hợp kim ngân để dối gạt mê hoặc người.
Cổ độc: cũng là loài rắn và mèo quỉ v.v.. làm tổn hại chúng sinh.
Câu “Đều không có tâm” kết tội ác tác, là nói không có từ tâm. Câu hai: nếu cố làm v.v... cho nên biết.
I. Đại chế ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra tâm phải cứng rắn như kim cương giữ gìn giới cấm khiến cho bát dầu trong chúng không sót một giọt, phao nổi trong biển giới một lỗ nhỏ như hạt bụi cũng không phá hủy. Đâu cho phép có tâm ác như dâm, đạo, sát, chê bai. Để giữ giới này nên Phật mới đặt ra điều cấm nhỏ nhặt đây.
2. Thứ lớp:
Giới trước làm việc ác tổn hại chúng sinh, giới này nói công hành phá hủy giới cấm.
3. Giải thích tên gọi:
Tâm ác dữ dội không tránh nghiêm khoa. Giới ngăn ngừa lỗi này nên lấy đây đặt tên.
4. Đủ duyên:
Cũng có bốn duyên thành phạm:
- Khởi tâm ác
- Đối cảnh ác-Tạo phương tiện-Làm liền phạm.
5. Thiếu duyên:
Thiếu bất cứ một duyên nào cũng phạm tội nặng phương tiện, cũng gốc ngọn phạm hai tội phương tiện. Y cứ theo đây suy nghĩ mà biết. Thứ lớp thiếu bốn duyên đều phạm tội nặng phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Trong bốn điều này đều có nhiều ít, Câu hay bất câu.
Nặng nhẹ y theo trước nên biết. Còn ở đây chê bai Tam bảo là tội rất nặng. Sát, Đạo nên xếp kế đó. Giới khác ít nhẹ nên biết.
7. Thông bít:
Trừ các bậc thanh si cuồng thị hiện đồng sự. Ngoài ra đồng phạm, lại có khai già, như mười giới trọng ở trước, nên biết.
8. Giải thích văn: Có ba:
Dùng tâm ác là nói gây nhân ác, nghĩa là không tin có nghiệp quả mà gây ra các tội, v... v..
Nói về chỗ tạo tội nghiệp lược nêu ba thứ:
Câu một. Như oán giả thân, nghĩa là giả hiện gần gũi nương theo Tam bảo để tự nuôi sống thân mạng, nhưng thật ra hủy báng Tam bảo, không hề tin thọ. Đây cũng phạm tội trọng thứ mười. “Miệng liền nói không” v.v.. là giải thích rõ giả tướng thân, thật ra là chê bai. Nghĩa là miệng giả nói không giống như lời Phật, trong hành động chấp có, chê báng lời Phật nói.
Câu 2. Người tại gia, v.v.. trở xuống là nói mai mối dâm uế, nghĩa là làm việc tư thông, hoặc làm việc vợ chồng, là thông truyền khéo léo, khiến họ ràng buộc chặt chẽ, đưa chúng sinh đến chỗ tội lỗi này, cũng phạm giới trọng thứ ba của thiên đầu, vì phạm tội dạy người hành dâm. Nay y cứ vào bên mai mối phạm thiên này. Đầy đủ như trước đã nói: Tam trai nhật hủy cấm, nghĩa là ba năm sáu tháng là khi ngoại đạo cúng tế để cầu ân phước. Nay ác kiến không bỏ đồng với họ mà làm nên thành sâu. Ba trường sáu ngoạt, v.v... xét Luận Trí Độ chép: Đây là nói khi tạo tội. Trong chỗ tạo tội lược phân biệt có sáu thứ, hai câu đầu đều phạm giới nặng, vì gây ra trong lúc này, cũng gồm cả phạm thiên này. Hai câu sau là phạm tội nhẹ, nghĩa là ăn uống phi thời và phá hủy các giới oai nghi. Câu hai là kết tên tội nên biết. Trên đây đã giải thích riêng mười giới trọng xong. Từ đây trở xuống là kết khuyến chỉ rộng. Nghĩa là 10 giới trọng này, trong Phẩm chế giới của Kinh Đại bản có giải thích đầy đủ. Ở đây chỉ lược nêu danh tướng mà thôi.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát thấy chúng sinh ở chỗ nguy ách, lẽ ra phải bỏ mạng mình để cứu giúp, đâu cho thấy Tam bảo và cha mẹ của mình bị người ác đem bán mà không cứu chuộc, nên Phật chế ra giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước cố phạm trong cấu, giới này không cứu bậc tôn quý bị nguy ách.
3. Giải thích tên gọi:
Từ chỗ ngăn ngừa đặt tên nên biết.
4. Đủ duyên:
Cũng có bốn duyên thành phạm:
- Là bậc được tôn trọng-Thật đang bị nguy ách.
- Đích thân thấy biết
- Bỏ không cứu nên thành phạm.
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên thứ nhất phạm tội phương tiện. Thiếu ba duyên sau đều vô tội, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Cảnh tôn quý có nhiều ít, khổ ách có nặng nhẹ, thấy gần nghe xa, cứu giúp có khó dễ, hoặc đều, hoặc lẫn nhau, nặng nhẹ đồng y cứ như trước suy nghĩ mà biết.
7. Thông bít:
Hoặc cuồng si, hoặc người đó xin nhiều vật sợ không có chỗ cầu xin, dù có bán thân cũng không đủ số, hoặc người đó làm hạnh Bồ-tát nên xả thân với họ chứ không muốn chuộc. Như thế đều vô tội. Trái với trên nên kết tội.
8. Giải thích văn:
Trong văn có bốn:
- Nêu việc nguy ách
- Nói chỗ tôn trọng trong đó.
- Chế khiến cứu chuộc-Cố y trái nên kết phạm.
Câu thứ nhất “Phật nói” vì là đầu của Biệt phẩm này cho nên nêu lời đó. Câu trong đó trước nói lúc nguy ách, nghĩa là khi Phật còn tại thế không có việc này, nên nói “Phật diệt hậu”. Tuy sau Phật diệt độ nhưng tín tâm thuần hậu nên không có việc này, vì thế nói rằng trong đời thế.
Câu hai. Nói làm người nguy ách có ba:
1. Ngoại đạo vì tà tín
2. Người ác vì bất tín Giặc cướp vì cầu vật
Câu hai. Bán Phật v.v... trở xuống là nói bậc tôn quý bị nguy ách, lược nêu ba vị:
Các hình tượng Phật, nghĩa là chỉ đem bán, hoặc muốn hủy báng, đều phải cứu chuộc.
Câu “hình tượng cha mẹ”: hình tượng cha mẹ mình bị người khác bán.
Giải thích: Phật và Bồ-tát tôn trọng như cha mẹ, chẳng phải nói hình tượng cha mẹ.
Câu hai. ”Bán kinh luật”
Câu ba. Bán tăng có bốn người:
- Tăng
- Ni-Xuất gia-Bồ-tát.
Bồ-tát xuất gia gọi là “Đạo nhân”. Câu “hoặc quan”, nói hai chỗ đã mua, nghĩa là hoặc người vào quan, hoặc tất cả người làm tôi tớ.
Câu 3 mà Bồ-tát v.v... trở xuống là nói vi phạm nên kết tội, nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra phải từ bi cứu giúp làm lợi ích chúng sinh. Không cho nuôi chứa dụng cụ làm tổn hại tài mạng, cũng trái với ba nhóm giới, nên Phật chế ra giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước bậc tôn quý bị nguy ách không cứu, giới này làm tổn hại chúng sinh.
3. Giải thích tên gọi:
Nêu việc nuôi chứa dụng cụ xâm phạm tiền của và mạng sống của người khác, giới ngăn cấm lỗi này, nên lấy đây đặt tên.
4. Đủ duyên:
Có năm duyên:
- Vật phi pháp
- Vì tâm ác-Cố nuôi chứa.
- Ỷ thế lực của quan-Tổn hại chúng sinh.
5. Thiếu duyên:
Hễ thiếu bất cứ một duyên nào đều phạm tội nặng phương tiện. Y cứ theo giải thích mà hiểu.
6. Nặng nhẹ:
Bốn duyên trước mỗi uyên đều có câu bất câu, y cứ theo trước nên biết.
7. Thông bít:
Hoặc cuồng si, hoặc vì hộ pháp, hoặc vì điều phục chúng sinh lìa ác trụ thiện, lẽ ra không phạm, trái với trên đều kết. Đều y cứ theo đây nên biết.
8. Giải Thích văn: Có hai:
- Nêu lỗi chánh chế.
- Cố ý trái phạm nên kết tội. Câu một có sáu nghĩa:
Không được chứa bốn vật như đao v.v... Đây là dao lớn, còn dao nhỏ thì không phạm. Gậy là khí cụ chẳng phải giới hạn một sắc.
Mua bán, người tại gia cho phép mua bán, nhưng không được dùng cân non thiếu, xâm phạm việc tính toán của người để được. Đó là phạm tội nặng.
Cậy quan thế tục, dựa theo đó mà lấy vật
Ỷ quan thế tục để trói buộc, đánh mắng chúng sinh.
Ỷ thế lực của quan để phá hoại sự thành công của kẻ khác, đoạt sở hữu của kẻ khác.
Nuôi dưỡng mèo chồn, các luật nghi ác, lược có bốn loại như heo v.v... là bị giết. Ba loại khác là có thể giết. Câu hai: Nếu cố v.v... trở xuống là trái với quy chế nên kết phạm, nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra phải ở nơi an tĩnh để suy nghĩ đạo. Không được theo dòng đãng chí mà lỗi với đạo nghiệp, hiển bày riêng có tám:
1. Mất thiền định
2. Thêm buông lung
3. Hoại phẩm lành
4. Diệt pháp hạnh
5. Vời lấy sự chê bai
6. Giáo hóa sai lầm
7. Hủy giới cấm
8. Thành nhân khổ, rất phá hoại đạo, cho nên Phật chế.
2. Thứ lớp:
Giới trước chứa trữ phi nghi, giới này xem nghe làm việc ác.
3. Giải thích tên gọi:
Xem nghe phi nghi, làm hay không nên làm. Giới ngăn ngừa lỗi này, nên lấy đây đặt tên.
4. Đủ duyên:
Trong đây có năm giới:
- Giới điều lành xem chiến đấu.
- Giới nghe nhạc
- Giới bài bạc
- Giới kỹ
- Giới làm sứ giặc.
Nhưng năm giới này đủ bốn duyên thành phạm:
- Có chỗ đối dùng
- Có tâm thú hướng-Tạo cõi phương tiện-Việc thành kết phạm.
Đều y theo đây nên biết.
5. Thiếu duyên:
Hai giới đầu thiếu hai duyên đều không phạm. Thiếu hai duyên sau thì phạm tội phương tiện. Ba giới sau, trong bốn duyên tùy thiếu một duyên nào đều phạm tội phương tiện. Y cứ theo thao giải thích nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Trong mười duyên đều có nhiều ít câu, bất câu. Y theo trước nên biết. Còn trong năm duyên này hai giới trước hơi nhẹ, ba giới sau là nặng. Ba giới đó theo thứ lớp hạ, trung, thượng nên biết.
7. Thông bít:
Trong hai giới trước hoặc bệnh hoặc giải trù, hoặc dùng âm nhạc cúng dường Tam bảo, đúng lý không phạm. Ba giới sau trừ si cuồng, còn tất cả đều phạm.
8. Giải thích văn:
Trong văn có ba:
Xem chiến đấu với nhau: lấy đây để giải quyết kia không có nghĩa rõ ràng.
Lấy việc này để vui đùa tâm cuồng của mình. Phát khởi tâm hại.
Kế nói xem chiến đấu có ba loại:
Các người nam chiến đấu với nhau: nghĩa là tướng đánh mắng. Quân binh dàn trân
Tướng giặc chiến đấu với nhau, lại không có loại thứ ba. “Đẳng” là tất cả, những thứ khác không thể nói.
Câu hai: Cũng không được v.v... trở xuống là nói giới nghe âm nhạc. Trong đó nói lược mười thứ, chín thứ trước phân biệt chín thứ âm nhạc, một thứ sau kết chung với kỷ nhạc, đều có thể biết.
Câu ba: Không được v.v... trở xuống là giới cờ bạc, trong đó có chín thứ hý.
Thứ ba là Ba-la-tắc hí, là phép binh hí của An-Độ, nghĩa là hai người đều giữ khoảng 20 viên ngọc nhỏ, cỡi voi hoặc ngựa, ở cục đạo tranh được con đường quan trọng là thắng.
Thứ 4. “Đàn kỳ” nghĩa là dùng ngón tay búng con cờ văng xa là thắng.
Câu 5 “Lục bát” có 2 cách giải thích. Tức song lục Biệt số sáu loại bác hý.
Trước giải thích là định. Câu sáu và bảy nên biết.
Câu tám là “Đề hồ” cầm gậy trong hồ như Kê khang, v.v... Câu chín. Đi trên thành của tám con đường, nên biết.
Câu bốn” Qua cảnh” là nhờ nghe kể chuyện của nước Tây phương, dùng thuốc thoa lên trái dưa, chú nguyện liền hiện các việc lành dữ trong đó, nên gọi là qua cảnh (dương dưa).
Dùng cỏ thi để coi bói Chú trong bát
Dùng sọ người để coi bói việc lành dữ, đều là việc của phàm ngu làm, đâu phải việc của người tu hành làm, nên Phật nghiêm cấm tất cả Câu năm: Không được v.v... trở xuống là nói trong giới giặc sứ.
Nghĩa cùng giặc làm sứ trợ giúp thành nghiệp sâu nặng. Nếu y cứ thành rồi thì bên trộm phạm thiên đầu. y cứ vào làm, không nên làm thì phạm tội nầy.
Câu hai: mỗi mỗi v.v... trở xuống là chế chung.
Câu ba: nếu cố v.v... trở xuống là kết đều phạm, nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Nghĩa của Đại tâm Bồ-đề là gốc của các hạnh, là nhân tố thành Phật. Nếu quên mất tâm này, thì muôn đức đều mất hết. Đã hư hoại ba nhóm giới, mất năm vị làm sao có Bồ-tát, nên phải chế giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước chế khiến dứt ác, giới này sách tấn khiến tu điều lành. Hơn nữa giới trước ngăn thân ngữ thô ác, giới này trong ý dứt niệm thô.
3. Giải thích tên gọi:
Nghĩa là một niệm tâm còn lập nghiêm chế, huống chi lỗi thô khác, nên theo chỗ ngăn mà đặt tên.
4. Đủ duyên:
Có ba duyên thì phạm.
- Chán đại hạnh của mình
- Duyên với quả tông kia.
- Bỏ chỗ này cầu chỗ kia. Một niệm liền phạm.
5. Thiếu duyên:
Mỗi duyên thiếu đều phạm tội nặng phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Chán có sâu cạn, cầu có tạm thời, mãi mãi, nên có nặng nhẹ, y theo trước mà biết.
7. Thông bít:
Nếu năng lực túc tập tạm khởi hiện hành. Nếu mới phát tâm tạm khởi mất niệm. Nếu chỉ bày đồng với kia. Nếu điều phục chúng sinh thì đều không phạm, ngoài ra đều phạm.
8. Giải thích văn:
Trong văn có bốn:
- Chế giới vững chắc.
- Chế giữ đại tín
- Chế hộ đại tâm-Cố trái kết phạm.
Hai câu đầu trước nói pháp, nghĩa là chế bốn Oai Nghi, sáu thời tụng trì giới phẩm. Tự xem xét ba nghiệp không hủy phạm một mảy trần.
Câu hai: Trong dụ để nêu:
Như kim cương: giữ tâm vững chắc không thể phá hoại.
Giữ như phao nổi, như nói kiên tâm chánh trì giới phẩm, hoặc nhẹ hoặc nặng không phạm mảy may. Nếu phao nổi có một lỗ thủng thì sẽ chìm, xét Kinh Niết-bàn, v.v...
Như công cỏ trói buộc một Tỳ-kheo. Theo Luận Trang Nghiêm nói có một Tỳ-kheo bị giặc bắt lột y phục lõa hình nằm dưới đất, dùng cộng cỏ trói lại, suốt đêm không trở mình. Một vị vua nhân đi săn ngang qua thấy nằm lõa mình trong bãi cỏ, cho là ngoại đạo. Người hầu cận thưa rằng: Người đó là đệ tử Phật. Vua hỏi: Sao ngươi biết?. Vì một bên vai của người đó đen, là tướng bày việc phải. Vua liền dùng bài kệ hỏi:
Mạnh khỏe có sức mạnh
Vì sao bị cỏ buộc
Suốt ngày không trở mình?
Tỳ-kheo đáp
Cỏ nầy rất nguy hiểm
Bứt đứt có khó gì
Chỉ vì Phật, Thế tôn
Giới Kim cương đã chế
Vua nghe xong phát tín tâm cởi trói và ban cho y phục, rước về cung may cho y phục mới và cúng dường các thứ. Cho nên biết giữ giới nhỏ còn không tán mất thân mạng. Tiểu thừa còn như thế, huống chi Đại thừa?
Câu hai. “Thường sinh v.v.. trở xuống là” nói chế giữ Đại tín, tức biết mình là Phật chưa thành. Đây là tín nhân quyết định. Phật là người đã thành. Tin Phật như tin ta nay đã thành. Đây là tín quả. Do lòng tin này mà tu hành không lui sụt.
Câu ba. Phát tâm Bồ-đề v.v... trở xuống là nói chế hộ đại tâm. Nghĩa là do tín tâm trước nên khiến tâm Bồđề niệm niệm nối nhau không tạm lìa cho nên nói.
Câu bốn: Nếu khởi v.v... trở xuống là nói vì trái phạm nên kết tội. Theo Tịnh Giới Phẩm trong Đại BátNhã. Dù Bồ-tát khởi vô lượng tâm thế gian cũng không gọi là phạm giới. Khởi một tâm niệm Nhị thừa tức là hủy phạm tịnh giới Bồ-tát. Rộng hẹp có hạn lượng, đầy đủ như đã nói, nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Đại nguyện huân tu khiến muôn hạnh thêm lớn: Không lập hoằng thệ khởi hạnh không lý do, cho nên phải chế. Kinh Hoa Nghiêm chép: Không phát đại nguyện là nghiệp ma.
2. Thứ lớp:
Giới trước là ngăn ngừa tâm không hướng về Nhị thừa, giới này thệ nguyện thú cầu đại hạnh.
3. Giải thích tên gọi:
Theo chỗ ngăn ngừa để chế mà đặt tên.
4. Đủ duyên:
Cũng có ba duyên: Vô tâm khởi nguyện
Chẳng nguyện, sỡ nguyện
Lập nguyện mau quên nên thành phạm.
5. Thiếu duyên:
Đều phạm tội phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Do không phát nguyện phế bỏ việc tu hành, có nhiều ít, nên có nhẹ có nặng nên biết.
7. Thông bít:
Bồ-tát sơ tâm phải nhờ đại nguyện giúp thành đại hạnh., không phát thì phạm. Nếu đắc vị rồi túc nguyện lâu thành. Nếu không phát nguyện mới, lý ra cũng không phạm.
8. Giải thích văn: Trong văn có hai:
- Chế phát đại nguyện
- Trác phạm quy chế kết phạm Câu đầu có năm:
- Chế nguyện hiếu hạnh-Nguyện được thầy bạn tốt.
- Nguyện nghe Đại pháp
- Nguyện đúng như lời dạy tu hành
- Nguyện hạnh vững chắc
Câu một. Nên thường phát hiện nguyện hiếu thuận đối với ba chỗ.
Cha mẹ là ân sinh dưỡng Sư tăng là ân huấn đạo Tam bảo là ân ruộng phước.
Đều là ân trọng nên thành cảnh hiếu thuận.
Câu hai: Thường nguyện v.v... trở xuống là chế nguyện hiếu thuận với Thầy bạn, có ba loại:
Thầy tốt, dạy Bồ-tát tu tập chánh hạnh
Thiện hữu tri thức, chưa hẳn là đồng sư, nhưng đồng hành giúp nhau. Đây đều là thành hạnh thắng duyên. Nên nguyện được điều đó.
Đồng học tốt: là đồng thầy đồng hạnh.
Câu ba: Thường giáo v.v.. trở xuống là nguyện nghe Đại pháp, nghĩa là dùng nguyện thượng thắng nhân, hy vọng dạy ta kinh luật Đại thừa. Đây là câu chung. Thập phát thú v.v... là câu khác, nghĩa là con đường Bồ-tát đi đến quả Phật, tức là vị Tam hiền Thập thánh. Là chỗ quan trọng của sở hành, nên nguyện nghe hiểu.
Câu bốn: Khiến tà mạng, v.v... trở xuống nghĩa là theo hiểu mà khởi hành, tức là hiểu được nguyện rồi, mỗi mỗi như thuyết dạy mà tu hành. Trong Kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát cầu pháp rồi liền nghĩ rằng: “Như thuyết thực hành mới được thánh pháp, không thể chỉ dùng miệng nói mà được thanh tịnh. Kinh Niết-Bàn quyển bốn chép: Trong gần gũi cũng như thuyết tu hành là cuối cùng.
Câu năm: Giữ vững v.v.. trở xuống là nói nguyện hạnh vững chắc, nghĩa là vững chắc giới nguyện niệm niệm nối nhau.
Câu hai: Nếu tất cả, v.v... trở xuống là không nguyện kết phạm, nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Nghĩa là không lập đại thệ, tự muốn giới hạnh hoặc khuyết tổn. Nên lập ra thệ nguyện ngừa tâm sách chí.
Khiến giới hạnh trong sáng, nên Phật chế ra giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước đối với thuận khởi nguyện, giới này đối với nghịch lập thệ.
3. Giải thích tên gọi:
Đồng với trước nên biết.
4. Đủ duyên:
Ba duyên đồng như trước.
5. Thiếu duyên:
6. Nặng nhẹ: đồng như trước.
7. Thông bít:
Hoặc bệnh, hoặc tạm quên, hoặc đắc vị, lẽ ra không phạm.
Trái lại thì phạm tội.
8. Giải thích văn:
Trong văn cũng có hai:
- Trước ra mười thệ.
- Sau cố trái kết phạm. Câu đầu có hai:
Trước là nêu chung hiển ý, nghĩa là trước phát mười nguyện rồi mới hiểu mà vững chắc giới Phật.
Câu hai: Phát nguyện ấy, v.v... trở xuống là riêng. Trong đó có 13 nguyện, 12 nguyện trước là đại thệ tự hộ giới, 1 nguyện sau là đại nguyện thành Phật. Trong phần trước ở giới dâm lập 12 đại thệ. Giới khác đều y cứ theo đó. Ở trong cặp thứ nhất phạm giới, lời thệ hầm lửa núi dao, thà dùng thân này so lường tiêu biểu chí đối lập lời thệ, nghĩa là hầm lửa núi đao chỉ hại một thân mình, Còn nữ sắc hại nhiều người. Còn trong thân người, dao lửa khổ hại chẳng phải nặng, nỗi khổ của lửa đường ác thật khó lường. Lại khổ nầy là nhất thời, khổ hai là nhiều kiếp. Sau khi thế gian nầy bị hỏa thiêu hoặc sinh lên trời. Lửa phá giới mạng thiêu đốt chung đọa vào đường ác, lấy đây mà so sánh. Cho nên thà vào lửa mà không phạm giới, 11 vọng dưới là phá giới dâm ở trước, thọ của tín thí v.v... lập Đại thệ nguyện, nghĩa là 6 tín thí đầu, 4 việc v.v... năm trần thượng diệu sau, v.v...
Đối với y áo của tín thí lập thệ nguyện như tấm sắt nóng quấn thân là ba nghĩa nên lập các thệ nguyện này.
Của tín thí này người thọ phải giữ giới thanh tịnh. Nay phạm giới tức là trộm thọ.
Thí chủ tin lời Phật nói, xả bỏ lương thực, vợ con để làm phước thí cho họ. Nay phá giới cấm mà thọ tức là dối gạt thí chủ, hệ lụy Như lai.
Như lai đại từ, chia một chút tướng công đức, để pháp lại cho đệ tử được bốn việc. Không cho ăn ruộng phước của Phật mà hủy giới cấm của Phật. Kinh nói: Người phá giới không được uống một giọt nước, quỉ mắng là tên giặc nguy hiểm, thế nên thà chịu quấn tấm sắt nóng, chứ không phá giới mà thọ của tín thí.
Đối với thức ăn của tín thí thệ nguyện như nuốt hòn sắt nóng ngọn lửa dữ.
Đới với giường của tín thí thệ nguyện như nằm giường sắt nóng. Đối với phòng xá của tín thí, thệ nguyện như gieo vào sắt nóng. Đối với tín thí thệ nguyện cung kính như dùng chày sắt đập nát thân.
Đối với tín thí lập thệ nguyện nhìn sắc đẹp như móc sắt nóng móc tròng mắt.
Đới với nghe tiếng hay, lập thệ nguyện như ngàn dùi nhọn đâm vào lỗ tai, nghĩa là khoét hết khắp thân cho đến tai, nên nói khắp thân khoét tai.
Đối với ngửi mùi thơm lập thệ nguyện ngàn dao bén cắt mũi. Đối mùi vị thức ăn lập thệ như ngàn dao bén cắt đứt lưỡi
Đối với xúc chạm êm ái, lập thệ nguyện như dao bén chém thân.
Năm trần trên đây đều phạm giới sở ứng, cho nên đối lập thệ.
Thường nguyện chúng sinh trước đã thành Phật trước mình.
Câu hai: Nếu không phát v.v... trở xuống là nói cố trái với quy chế kết phạm, nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát tu hành phải đầy đủ duyên giúp đỡ, chỗ hiểm nạn thiếu duyên, trái với lời dạy, trở ngại cho đạo, nên phải chế giới này.
2. Thứ lớp:
Trước nói về tâm hộ giới, tâm cứng rắn không tránh khỏi tro nóng rực, giới này thì nuôi thân lớn đạo, một khó khăn nhỏ đều lìa.
3. Giải thích tên gọi:
Cũng được phòng ngừa được chế để đặt tên.
4. Đủ duyên:
Trong đây chế năm loại hành:
Đầu đà
Du phương
Tọa thiền
An cư
Bố-tát
Đều có đủ bốn duyên:
Tu hành
Biết là nạn
Không tránh xa
Vào trong đó liền phạm.
5. Thiếu duyên:
Đều phạm tội phương tiện, y theo đó nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Chỗ nạn có sâu cạn. Xả hạnh có nhiều ít, chê bai lỗi có dày mỏng.
Đến đi ở đời quá lâu nên bị mọt đục không ít, số truyện chép ra
7. Thông bít:
Nếu tự mình điều phục tâm, hoặc điều phục chúng sinh, hoặc càng không có chỗ tạm thời ở trong, hoặc không còn có con đường tốt, lẽ ra không phạm, trái lại thì phạm.
8. Giải thích văn: Trong văn có bốn: Chế chỗ tu hành Nêu các chỗ nạn Cấm không cho vào Trái phạm quy chế kết phạm.
Câu một có năm hạnh:
Nêu chung ba môn
Giải thích riêng bốn việc Trước nêu ba chỗ
“Hai thời Đầu đà, nghĩa là hai thời Xuân, Thu. “Đầuđà”, Hán dịch “Đẩu tẩu” nghĩa là phủi giũ hết phiền não.
“Đông, hạ ngồi thiền” hai thời này rất lạnh, rất nóng nên không ra ngoài được. Cho nên thu dấu chân để ngồi thiền.
“Kiết hạ an cư” nghĩa là y theo lời dạy tọa hạ tu hành nuôi lớn đạo, y theo giải thích nên có bốn du phương, năm Bồ-tát. Văn có lược nêu.
Thường dụng v.v.. trở xuống là nói chỗ dụng đạo cụ, trong đó có ba y, tượng Phật và Bồ-tát, nên có mười tám vật. Đều là cần dùng mang theo bên mình để tu đạo. Nên cho phép chứa.
Câu hai: “mà Bồ-tát......”, Bố tát, Hán dịch là Tịnh trụ, nửa tháng tụng văn giới một lần, xem xét ba nghiệp, nếu có phạm thì dạy sám hối, không phạm thì im lặng, giúp cho giới được thanh tịnh. “Đồng trụ” là tên cũ. “mới học” là chế người tụng giới. Nửa tháng là lúc Bố-tát. “Tụng mười trọng, v.. v...” là nói giới sở tụng. Đối với chư Phật đẳng...” là nói chỗ tụng. Một người, v.v... là nói nghi Bố-tát. Mọi người, v.v... là nói đang thọ trì ba y.
Câu bốn: “Kết hạ v.v...” là giải thích riêng hạ an cư, đều khiến mỗi mỗi đúng như pháp, đối với lời Phật dạy. Đông, Hạ ngồi thiền lược bỏ không giải thích
Câu nếu lúc hành Đầu-đà v.v... trở xuống là nêu các chỗ nạn.
Lược nêu mười hai chỗ có nạn.
Quốc nạn ác vương: Vị vua nước kia không tin Tam bảo, người tu hạnh Đầu-đà không được vào nước đó.
Đất có cao thấp Cỏ rừng dày dặc Sư tử đen ăn thịt người Cọp
Chó Nước. Lửa. Gió. Giặc.
Rắn độc bò qua đường. Tổng kết tất cả chỗ có nạn.
Câu ba: Không được, v.v... trở xuống là cấm không nên đi.
Câu bốn nếu cố v.. v... là trái phạm quy chế, kết phạm, nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Vì trái với thế tục nên không lấy già trẻ làm tôn ty. Vì thuận theo đạo nên chỉ dùng giới đức làm lớn nhỏ. Hiển bày khuôn phép tốt đẹp xuất thế, bẽ gảy kiêu mạn thế gian. Thuận hành ba nhóm, nên Phật chế ra giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước giúp tránh nạn nguy ách bên ngoài. Giới này giúp bên trong thuận với các oai nghi.
3. Giải thích tên gọi:
Cũng ngăn ngừa được chế đặt tên giới này.
4. Đủ duyên:
Có bốn duyên thành phạm.
Ở trong chúng
Biết số năm
Tạo thú phương tiện
Ngồi liền phạm
5. Thiếu duyên:
Thiếu hai duyên sau phạm phương tiện, hoặc chỉ lập hạnh đều cũng đồng phạm.
6. Nặng nhẹ:
Chúng có lớn nhỏ, ngồi có trên dưới, thời có nhiều ít, đều nhau.
Nặng nhẹ y theo trước nên biết.
7. Thông bít:
Nếu si cuồng hoặc thân đang nói pháp. Hoặc nghi người đó lớn nên mình liền ngồi dưới, hoặc đại chúng ngồi định từ sau so với năm ba năm đều không phạm, trái lại đều kết phạm.
8. Giải thích văn:
Trong văn có bốn:
- Nêu pháp chế chung
- Y cứ vào người mà định
- Quở trái, khen thuận
- Cố trái kết phạm
Trước lấy thọ giới trước sau để tính lớn nhỏ mà ngồi, tất cả còn lại đều như vậy. Luật chép: Thấy Thượng tòa nên đứng dậy, không nên ngồi yên. Thấy hạ tòa khỏi đứng dậy.
Câu hai: Bất luận v.v... y cứ vào người mà biên định, có chỗ giải thích rằng: Khiến bốn chúng nhóm họp ngồi chung để nói lớn nhỏ, nay hiểu không phải như vậy.
Trong chúng Tỳ-kheo tự phân biệt cao thấp. Ngoài ra chúng khác đều như vậy. Lớn nhỏ đều như vậy. Nam nữ, đạo tục không lẫn lộn nhau.
Câu ba, chớ như v.v... là phân biệt sai bày đúng, nghĩa là không gì bằng phân biệt sai khiến lìa. Phật pháp của tà mạng hiển bày điều đúng khiến tu.
Câu bốn. “mà Bồ-tát v.v... là trái chế kết phạm nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Các Bồ-tát dùng pháp cứu độ chúng sinh, khiến tránh khỏi tai nạn khổ ở hiện tại, vị lai. Giải thích riêng có bốn:
- Khiến cho thêm phước
- Trao pháp hạnh
- Trừ tai nạn
- Cứu tiên vong Cho nên chế.
2. Thứ lớp:
Giới trước quy định oai nghi ngồi, giới này quy định dẫn dắt.
3. Giải thích tên gọi:
Theo quy định đặt tên, nên biết.
4. Đủ duyên: cũng có bốn: Thấy chúng sinh
Biết nguy nan Không từ tâm
Không dẫn dắt thì thành phạm
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên đầu, mà sau không phạm. Thiếu hai duyên giữa pha-m tội phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Thấy nguy ách có nhiều ít, dẫn dắt có khó dễ, tự thân có ngu trí, có không nặng nhẹ, nên biết.
7. Thông bít:
Nếu ngu không hiểu, hoặc có người giảng nên thỉnh, tất cả đều không phạm, trái lại thì phạm.
8. Giải thích văn:
Trong văn có bốn:
Giáo hóa khiến tu phước
Phải giảng Phật pháp cho nghe.
Cứu khổ nguy nan cho họ
Trái chế kết phạm
Câu một là giáo hóa chúng sinh khiến họ làm sáu việc: Xây dựng tăng phòng
Xây thiền thất trong núi rừng Lập ruộng vườn cho
Tam bảo Xây tháp Phật
Làm chỗ ngồi thiền cho mùa Đông, mùa Hạ.
Tất cả chỗ dẫn dắt tu hành đều phải xây dựng, giúp cho người tu hành nương vào đó tu đạo.
Câu hai mà Bồ-tát v.v... giảng pháp, trao cho Đại thừa, khiến tu đại hạnh.
Câu ba nếu khi các nơi giặc giã nổi dậy
Câu 4. Khi tiên vong truy phước, đều nên nói các kinh này thiết trai cầu phước.
Câu hai “Đi lại trở xuống là” trong cứu tai ách có năm thứ: Khi trị sinh bất lợi
Hỏa tai Thủy tai Phong tai La-sát biển.
Nghĩa là sợ hãi các tai nạn kia đều phải giảng kinh Đại thừa.
Câu ba “cho đến” v.v... là nói cứu tội báo. Trong tất cả tội báo chỉ có Đại thừa cứu được. “Ba báo” là: Hiện báo, sinh báo và hậu báo. Diệt tội ba báo, bảy nghịch, tám nạn, nên biết.
Câu bốn là gông cuồn v.v... trở xuống là cứu lao ngục khó, nên biết.
Câu năm. Nhiều dâm, cứu các nạn ba độc, đều kết chung với nguy ách nói trên, đều nói Đại thừa cứu khổ. Câu bốn mà người mới v.v... là trái với quy chế kết phạm.
Trên đây giải thích riêng chín giới, v.v... trở xuống là nói kết khuyến chỉ rộng, nên biết. “Phạm Đàn”, Hán dịch là Mặc tẫn, do phi lý trái phạm không chịu điều phục, nên lấy đó để tu sửa. Trong đó nói nghĩa này, nên lấy nghĩa đó mà đặt tên.
1. Đại ý chế giới:
Chúng sinh không phát tâm, thì lẽ ra Bồ-tát cũng phải giáo hóa cho họ thọ giới. Không cho phép người từ ngàn dặm đến cầu, vì tâm ác mà không cho họ thọ giới. Trái với giới Nhiếp chúng sinh và cả ba nhóm, nên Phật chế giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước giảng về pháp dẫn dắt chúng sinh, giới này thọ giới nhiếp vật.
3. Giải thích tên gọi:
Từ chỗ chế mà đặt tên nên biết.
4. Đủ duyên:
Có năm duyên:
Tự hiểu kinh luật
Người đó không bị già nạn
Người đó đến cầu giới
Mình có tâm ác
Người đó không được thọ giới liền phạm.
5. Thiếu duyên:
Thứ lớp thiếu mỗi duyên đều phạm tội phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Hiểu có sáng tối, cầu có siêng lười, ác tâm có nhiều ít. Không thọ trao có tạm thời hay vĩnh viễn, có hay không, nặng nhẹ y cứ theo đó.
7. Thông bít:
Hoặc bệnh hoặc vừa lành bệnh không có sức khỏe, hoặc ám độn. Hoặc người kia không thật cầu. Hoặc ngoại đạo giả đến. Hoặc có già nạn, tất cả không phạm, ngược lại đều phạm.
8. Giải thích tên gọi:
Trong văn có năm nghĩa:
- Nhiếp chung giới thí
- Dạy màu y của họ
- Hỏi già nạn để chọn pháp khí-Quy định không lễ bái thế tục-Trái với cầu kết phạm.
Câu một, trong đó có mười tám thứ, đã giải thích đầy đủ trong mười thứ đầu nên biết.
Trong đó có ba:
Câu một. Chế màu ca-sa. Ca-sát na, Hán dịch là Bất chính sắc, nghĩa là năm màu sắc chính, hòa lại với nhau thành mầu bất chính, gọi là hoại sắc.
Câu một “tất cả tạp y v.v... trở xuống là” nghĩa là chế mầu y khác.
Câu hai, tất cả cõi nước v.v.. là chế khác thế tục, nên biết. Câu ba nếu muốn v.v... là hỏi già để chọn khí.
Trong đó cũng có ba:
Hỏi số hiện khí. Câu “Hiện thân v.v...” có hai nghĩa: a. Phân biệt quá khứ, vị lai nên nói hiện tại. b. Bảy tội nghịch này chưa sám hối, hiện tại tội còn, nên nói không được cùng người phạm bảy tội nghịch hiện đời thọ giới. Nếu theo giáo tướng phải sám hối, nếu theo giáo tướng phải sám hối thì được.
Câu hai: Bảy tội nghịch là nêu tên chọn khí. Nghĩa của bảy tội nghịch này đầy đủ như chương khác.
Câu ba: Tất cả thứ khác v.v... trở xuống là nói không nghịch đều được, nên biết.
Câu bốn: Nước xuất gia. v.v.. trở xuống là quy định thân không lễ bái người thế tục, nghĩa là tâm kính lý thì không phạm.
Câu năm: chỉ hiểu v.v... là nói trái với cầu, kết tội phạm nghĩa là chẳng phải bảy tội nghịch, nhưng hiểu lời Sư nói. Có từ trăm dặm đến cầu, nhưng sân không trao giới cho người đó, nên kết phạm.
Câu “Tâm ác v.v...” vì danh lợi, ganh ghét, chê bai, chấp oán.
Câu tất cả nói chúng sinh có hai nghĩa:
Không cho giới, tất cả chúng sinh cầu giới. Đây là tên giới
Giới Bồ-tát là gọi tất cả cõi chúng sinh. Vì tất cả chúng sinh này phải đắc giới, nên nói như vậy. Ngoài ra đều nên biết..
THẦY
1. Đại ý chế giới:
Nếu không hiểu pháp trì phạm, nặng nhẹ của kinh luật Đại thừa mà làm thầy truyền giới cho người thì có bốn lỗi:
Khiến pháp chân thật diệt mất. Khiến phi pháp thanh hành
Giáo hóa sai lầm, khiến cho người không được giải thoát.
Tăng thêm nghiệp ác của mình vì tham danh lợi, cho nên Phật chế ra giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước thật có hiểu, đến cầu không cho, giới này thật không có đức mà gượng làm thầy, đều không nên.
3. Giải thích tên gọi:
Ngăn ngừa người kia trá lỗi, chế khiến thật học. Nên lấy đó đặt tên.
4. Đủ duyên:
Đủ bốn duyên thành phạm:
-Thật tự không biết.-Giáo hóa cho người kia-Tham danh lợi, v.v..-Truyền giới liền phạm
5. Thiếu duyên:
Đều có tội phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Không biết có nhiều ít, chỗ giáo hóa có lợi độn. Tâm tham có nặng nhẹ. Trao giới có đủ thiếu, cũng đều có nặng nhẹ, nên biết.
7. Thông bít:
Nếu học chưa thành mà họ đến bức thỉnh, không vì lợi mà truyền thì không phạm, trái lại thì kết phạm.
8. Giải thích văn:
Trong văn có năm:
1. Phân biệt đức của sư
2. Chế dạy đệ tử
3. Thật không hiểu biết gì
4. Vì lợi mà giả tuồng là hiểu
5. Truyền giới thì kết phạm
Nên nói “làm Pháp sư giáo giới”
Câu hai là thấy muốn v.v... là nói dạy đệ tử có bốn:
1. Dạy thỉnh hai thầy có hai cách:
Nghĩa là người thỉnh này, thầy truyền giới Bồ-tát như truyền mười giới Sa-di, giới Bồ-tát, v.v..
Xa thỉnh Phật Bản Sư Thích-ca Phật làm Hòathượng, đích thân thỉnh Thân giới Sư làm Xà-lê. Kinh Thiện giới chép: “Sư có hai hạng:
Không thể thấy như Phật, Bồ-tát tăng Có thể thấy nghĩa là Giới sư.
Từ hai thầy mà được thọ giới Bồ-tát. Kinh Phổ Hiền Quán thỉnh năm thầy, nghĩa là thỉnh những vị thầy không thể thấy. Du-già v.v.. thỉnh một thầy, nghĩa là chỉ hướng về một vị thầy có thể thấy mà thưa.
Câu hai: Hai thầy nên hỏi, v.v... trở xuống là nói nên hỏi bảy già nạn, bảy già nạn tức là bảy tội nghịch. Vì trở ngại việc thọ giới nên gọi là Già. Kinh này đứng về Già nên hỏi riêng bảy việc. Nếu y cứ theo hai nghĩa Đại thừa, Tiểu thừa, kinh Thiện giới đứng về đức nên hỏi chung mười việc, đầy đủ mới được thọ giới.
Có thọ đầy đủ ba giới hay không? Nghĩa là năm giới, mười giới, giới cụ túc. Kinh đó y cứ vào Bồ-tát xuất gia, phải đủ ba giới này mới được thọ giới Bồ-tát.
Có phát tâm Bồ-đề không? Có thật sự là Bồ-tát không?
Có thể xả mọi vật trong và ngoài không của mình? Có thể không tiếc thân mạng hay không?
Có thể đối với tham mà không tham không? Có thể đối với sân mà không sân hay chăng? Có thể ở chỗ si mà không si hay chăng?
Có thể ở chỗ sợ mà không sợ chăng?
Có thể tùy theo tất cả Bồ-tát không mà mình đã thọ hay không?
Người thọ giới đều phải trả lời “Có khả năng”. Nếu nói đầy đủ thì trước hết phải hỏi bảy già, rồi sau mới hỏi mười đức trên mới được cho thọ giới. Nếu Bồ-tát tại gia trong mười điều, còn lại đều hỏi. Kinh Thiện Sinh lại có câu hỏi khác, như câu “Như kia làm rồi có ba, nếu có trở xuống là” dạy sám 10 tội nặng, nghĩa là nếu có phạm 10 tội nặng thì dạy cách thức sám hối. Câu “Ngàn Phật ba đời”, nghĩa là trong kiếp Trang Nghiêm ở quá khứ, Hoa Quang Như Lai là đầu, dưới đến là Lâu Chí Như Lai, là một ngàn vị Phật. Trong kiếp Tinh Tú ở vi lai, có Nhật Quang Như Lai là đầu tiên, dưới đến Tu-di Tướng Như Lai là một ngàn vị Phật. “Thấy tướng tốt” chẳng phải nói thấy trong mộng. Thức thấy rất khó, nếu được tướng này thì giới cũ trở lại đầy đủ, không cần phải thọ nữa. Nếu không được tướng này thì giới cũ đã mất, nên nói “Hiện đời không đắc giới”. Đây là Thượng phẩm triền thọ nên mất giới. Nhưng được thọ nên nói “mà được đắc tăng thọ giới”, “tăng thọ” là trùng thọ. Sám tội khinh cấu, nghĩa là dạy đối thú sám. Như Tỳ-kheo sám tội
Ba-dật-đề. Pháp luận phạm hai thiên sám này, có bốn loại:
Thượng triền phạm mười tội trọng, sám hối với Chư Phật mười phương.
Trung, hạ phạm mười tội trọng sám hối với bốn vị Bồ-tát tăng.
3. Phạm mười trọng trở xuống, là phương tiện nặng
Đối thú sám
4. Khinh phương tiện trách tâm sám.
Trong hai tội khinh cấu là Đối thú bản tội và Phương tiện trách tâm, đều như trong Biệt tập có nói.
Câu năm “nhưng giáo giới Sư” trở xuống là nói ở trên đã nói khiến cho hiểu, nên nói mỗi mỗi khéo hiểu.
Câu ba “nếu không hiểu” là nói thật không có chỗ biết gì, trong đó có năm:
Câu một: “Không hiểu giới pháp”, nghĩa là hoặc khinh hoặc trọng hễ, phạm là phi phạm, trì là phi trì.
Câu hai: “Không hiểu lý pháp” nghĩa là chân đế bình đẳng, không trái với thế tục.
Câu ba: “Không hiểu vị pháp”, nghĩa là Tập chủng là Thập trụ, trưởng dưỡng là Thập hạnh, Bất hoại là Thập hồi hướng, Kim cương tràng vị, Đạo chủng là Thập địa, nghĩa là Thánh đạo trị hoặc, cho nên nói. Chánh tánh là Phật vị. Chánh quả hiển bày.
Câu bốn: “Không hiểu hạnh pháp” là ở trên các vị quán hạnh nhiều ít, nhập định xuất định rõ ràng. Câu “Nhập định thiền chi” là năm chi của Sơ định, một chi của Nhị định, bốn chi của Tam định, một chi của Tứ định. Kinh này chẳng phải gốc nên chưa cần thực hành. Câu năm: “Mỗi mỗi bất đắc ý...” là tổng kết vô tri.
Câu “mà Bồ-tát...” là nói về vì lời mà giả hiểu, trong đó có bốn việc giả hiểu pháp:
Lợi Danh Môn đồ
Cúng dường
Sau đó dối mình và dối người là nêu lỗi quở trách.
Câu “cùng người, v.v... trở xuống là” nói làm rồi kết phạm, nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Giới luật chế trong chúng, là giới pháp bí mật, ngoại đạo và người ác lý không được nghe, nên Phật chế giới này, hiển bày riêng có ba:
Khinh giới phẩm của mình Tăng thêm ác kiến cho người Khiến cho người hủy báng.
Cho nên chế giới.
2. Thứ lớp:
Giới trước vì lợi giả hiểu, giới này vì lợi vọng truyền.
3. Giải thích tên gọi:
Không nên nói mà nói, giới ngăn ngừa lỗi này nên đặt tên.
4. Đủ duyên:
Cũng có bốn:
- Vì lợi
- Đối với người ngoài
- Tâm không mê
- Nói giới rồi liền phạm.
5. Thiếu duyên:
Hễ thiếu bất cứ duyên nào liền phạm tội phương tiện.
6. Nặng nhẹ:
Hoặc đối với quốc vương, hoặc người tu hành thuần tín, hoặc nói trước để chỉ bày có thể giữ được không, đều không phạm. Trái lại đều phạm.
7. Thông bít:
Nếu đối với quốc vương, hoặc người thuần tín tu hành, hoặc sắp tiến hành việc truyền giới, trước hết nói để chỉ bày hỏi có thể giữ được không, đều không phạm, trái lại đều có lỗi.
8. Giải thích văn:
Trong văn có bốn:
- Chế chung
- Thông bít.
- Giải thích người ác-Trái chế kết phạm.
Câu “chưa thọ giới Bồ-tát”, ở đây có ba thứ: Hoàn toàn không tin đạo Bồ-tát nên không thọ. Tuy không chê bai cũng không thể thọ
Trước khi thọ tin hoặc nghi. Đều kết tội phạm
Câu hai “Ngoại đạo” v.v.. trở xuống là chấp trước ngoại đạo tìm lỗi Phật pháp. Nghe Phật nói giới tướng vụn vặt nên khinh hủy.
Câu ba: Người ác nghe nói giới luật mà khinh hủy pháp chúng, nên nói hay không. “Đại giới của ngàn Đức Phật” chẳng phải chỉ ngàn Đức Phật ở kiếp Hiền.
Câu 2 “Tà kiến v.v...” nói trong Thông bít. Dùng giới này để chế theo trong chúng, lẽ ra không nên để cho họ nghe, như người giấu của báu không cho giặc thấy.
Câu trừ vua chúa, v.v... trở xuống: Phật pháp được phó chúc cho hai hạng người:
Đệ tử của Phật là nội hộ Vua chúa là ngoại hộ.
Là người được Phật phó chúc nên nói cho họ nghe không phạm. Còn vua chúa là người có quyền lực, phải theo giới luật để sách lệ người tu hành, nên phải biết vậy. Ngoài ra tất cả đều không được nói.
Câu 3 “người nầy, v.v.. là” giải thích người ác, người ác có hai hạng:
Ngoan ngu: nghĩa là thân này không giới, tuy là người nhưng cũng như súc sinh. Vì gây nhân chẳng phải người nên thân sau mãi mãi không thấy Tam bảo, như gỗ đá vô tâm, làm sao thấy được.
Ác kiến, nghĩa là tà kiến trái lẽ như gỗ đá phi tình. Câu 4 mà Bồ-tát v.v... trở xuống là chế nên kết phạm.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra không nên tiếc thân mạng để giữ gìn tịnh giới, không cho phá hoại bản thệ của mình mà không sợ phá hủy giới cấm, vì vậy Phật nghiêm chế. Còn vì hộ tất cả giới phẩm cho vững chắc nên chế giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước không nên nói mà nói, giới này không nên phạm mà phạm.
3. Giải thích tê gọi:
Từ chỗ ngăn ngừa mà đặt tên
4. Đủ duyên:
Cũng có bốn duyên: Thân có giới
Đối cảnh phạm Cố khởi tâm
Vừa làm liền phạm
5. Thiếu duyên:
Câu một, ba không phạm. Câu hai, bốn phạm phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Cảnh có mạnh yếu, Tâm có nhanh chậm, phạm có nặng nhẹ, có khi vừa nhẹ vừa nặng. Y cứ theo trước mà biết.
7. Thông bít:
Giới này không chế riêng, chỉ khởi tâm phạm, giới khác tức cũng phạm giới này. Cho nên thông bít đều như các giới xứ nói nên biết.
8. Giải thích văn:
Trong văn có ba:
Câu 1. Tâm xuất gia là nêu bản thệ của mình, nên nói khởi tâm, v.v... là trái thệ kết phạm.
Câu 2 “Không được” nói hiềm lỗi quở trách, trong đó có tám:
1. Cúng thí hoàn toàn không có một phần mảy may.
2. Mặt đất hoàn toàn không có một phần đặt chân.
3. Ăn uống hoàn toàn không một giọt nước.
4. Hỏi: Người phá giới thì chỗ cúng thí không có phần cho nên như vậy. Đất nước của vua thì chúng sinh đồng cảm. Vì sao cũng không có phần?
Đáp: Người tại gia ăn uống trên đất nước của vua đều có đóng thuế, nhưng người xuất gia thì không đóng thuế. Lương thực là giới hạnh. Nay cả hai đều không có, thì đâu có phần đó. Không có phần mà dùng chẳng phải là giặc sao? Bốn quỉ chận đường mắng là giặc, đó chính là nghĩa này. Nói giới hạnh hoặc kim cương có thần giới che chở. Nay phá giới, Thần bỏ đi, thì có năm ngàn quỉ đứng án trước mặt người đó mà mắng người đó là giặc chà quét dấu chân sau lưng người đó.
5. Người đời cũng mắng người đó ở trong Phật pháp làm kẻ trộm hình tướng, trộm lợi dưỡng.
6. Tất cả chúng sinh không muốn nhìn, vì như kẽ thù mà giả người thân.
7. Phạm giới đồng với súc sinh, vì là thân tội đồng.
8. Câu “Đồng mộc đầu” là không biết gì.
Câu “Cố hủy v.v...” là hủy giới cấm nên kết phạm.
1. Đại ý chế giới:
Vì giới là nhân lành thành Phật, nên giáo lý của Ngài phải được tôn trọng, huống chi mẹ của Chư Phật, Như lai, được các Sư rất tôn sùng. Há gì là trước đây, nên phật chế giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước khiến cho không hủy giới cấm, giới này khiến cho kính pháp
3. Giải thích tên gọi:
Ngăn ngừa người không kính trọng pháp, nên lấy đây đặt tên.
4. Đủ duyên: Cũng có bốn duyên:
- Đối thắng pháp
- Không có tâm kính
- Không cầu cúng
- Không làm liền phạm.
5. Thiếu duyên:
Thiếu bất cứ duyên nào cũng đều phạm tội phương tiện.
6. Nặng nhẹ:
Khinh có nhiều ít, tâm có khinh trọng, thân có giàu nghèo, làm có tốt xấu, đều y cứ theo đó.
7. Thông bít:
Hoặc bệnh, hoặc nghèo, không được gì. Hoặc thường nhập định sâu, hoặc tham cứu độ chúng sinh, hoặc thường nói pháp, lẽ ra không phạm. Trái lại đều kết phạm.
8. Giải thích văn: Trong văn có năm: Phải thọ trì Phải đọc tụng Phải biên chép.
Trước hết nêu nạn, nghĩa là lột da, “Hậu huống dị” nghĩa là da cây, nghĩa là có nhiều lá, da là da cây. Ngoài ra nên biết.
Câu 4. “Thường dĩ v.. v...” trở xuống là cúng dường, biên chép. Có nói đầy đủ trong mười pháp hạnh.
Câu 5 nếu không v.v.. là trái chế nên kết phạm, nên biết.
1. Đại ý chế giới:
Vì tâm Bồ-đề là tâm thành Phật, nên chế các Bồ-tát phải giáo hóa chúng sinh, đều khiến họ phải phát tâm đại bi này. Kinh nói “Nếu dùng Tiểu thừa giáo hóa, thì ta sẽ rơi vào san tham, việc này hẳn không được.
2. Thứ lớp:
Giới trước đối pháp không kính, giới này đối với chúng sinh không giáo hóa. Cho nên đều phải thực hành.
3. Giải thích tên gọi:
Bỏ giáo hóa` chúng sinh trái với tâm đại bi. Giới ngăn ngừa lỗi này, nên lấy đây đặt tên.
4. Đủ duyên: Cũng có bốn: Đối với chúng sinh Không khởi tâm đại bi Không khởi phương tiện Không khuyên răn dắt dẫn nên thành phạm.
5. Thiếu duyên:
Mỗi duyên thiếu đều phạm tội phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ
Chúng sinh bị nạn, bi tâm có dày mỏng, phương tiện có nhiều ít.
Không khuyên có tạm thời, mãi mãi cũng đều y theo trước.
7. Thông bít:
Hoặc bệnh, hoặc không sức khỏe, hoặc chưa hiểu, hoặc người đó khó giáo hóa, lý nên không phạm, trái lại đều phạm.
8. Giải thích văn: Có bốn:
1. Chế hóa con người, trong đó tâm đại bi là năng hóa, thành ấp là xứ hóa, tất cả chúng sinh là sở hóa, xướng ngôn là phương tiện hóa. Thọ ba quy y là Hóa sở đắc ích, chỗ này có hai nghĩa:
Thọ giới trước thọ ba quy y, sau nói mười giới tướng
2. Có hai thứ thọ giới: Thọ Bồ-tát ba quy y giới. Thọ mười giới tướng.
Câu hai: nếu thấy v.v.. là nói giáo hóa loài súc sinh, nghĩa là người không hiểu biết, nên lấy lời này để cảnh giác thành huân tu, thì làm thắng nhân xa với họ. Như ngày xưa có một con trâu ăn cỏ trước tháp, nó ngẩng đầu lên nhìn thấy tháp, sau đó nó liền được độ.
Câu 3 “mà Bồ-tá v.v.. ” là lập chế định vị, nghĩa là phải giáo hóa chúng sinh khiến họ phát đại tâm mới là Bồ-tát.
Câu 4 nếu không thấy v.v.. là trái chế nên kết phạm.
1. Đại ý chế giới:
Khiến chúng sinh trọng pháp, tăng thêm Bồ-đề, tự mình trọng pháp thuận theo giáo mệnh. Vì thành tựu tự lợi và lợi tha, thuận theo nhóm giới, nên chế giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước dạy người phát tâm, giới này khiến người kỉnh pháp.
3. Giải thích tên gọi:
Theo chỗ ngăn ngừa mà chế ra giới này, cho nên lấy đây đặt tên.
4. Đủ duyên:
Có bốn duyên:
- Đối với người khác
- Trụ phi nghi
- Không khởi tâm
- Phát ra lời nói thành phạm
5. Thiếu duyên:
Mỗi duyên thiếu đều phạm tội phương tiện.
6. Nặng nhẹ:
Đáng nói, không đáng nói, trụ phi nghi có sâu cạn, không có tâm từ bi tạm thời hay mãi mãi, phát lới nói đủ hay thiếu. Đều y cứ theo trước nên biết.
7. Thông bít:
Hoặc người đó bệnh nặng, hoặc áp lực của vua đều không phạm.
Trái lại đều phạm.
8. Giải thích văn: Trong văn có ba:
- Chế phi nghi
- Dạy phép tắc chân chánh-Trái chế kết phạm.
Trước giữ bi tâm làm nhân giáo hóa chúng sinh, nên giáo thường khởi. Quý nhân phần nhiều kiêu mạn nên nên riêng điều đó.
Trái nghi có ba:
- Người ngồi mình đứng
- Người ở chỗ cao, mình ở chỗ thấp-Người trên tòa mình ở phi tòa. “Tòa cao” có nói đủ trong câu hai sau đây
Câu 2. “Nếu nói pháp v.v.. ” là nói dạy phép tắc chân chánh, có năm việc:
- Pháp sư ngồi trên tòa cao
- Dâng hương hoa cúng dường
- Người nghe pháp ngồi ở dưới
- Tôn kính pháp sư như cha mẹ
- Lãnh thọ giáo pháp của ngài như Phạm Chí thờ lửa. Nhiếp Luận chép:” Nếu người thọ giới cụ túc còn yếu kém, nhưng có thể nói nhiều pháp lợi, phải nên cung kính cúng dường người đó như Đức Phật. Kinh chép:” Có người biết pháp hoặc già hoặc trẻ, đều phải cúng dường như Bà-la-môn thờ lửa.
Câu ba: Nói pháp v.v.. là trái với quy chế nên kết phạm. Không đúng như pháp có ba thứ:
Thân nghi là đứng
Tâm niệm là cầu danh lợi.
Ngữ nghiệp là phi pháp nói pháp, pháp nói phi pháp và ngôn từ thế tục.
Luận Trí Độ chép: “ Các pháp hành và pháp Thật tướng mới là pháp thí. Ngoài ra đều phi pháp.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra phải không tiếc thân mạng, che chở giữ gìn Tam bảo, mà lại cậy vào oai lực làm tổn hại chánh pháp, nên Phật chế ra giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước nói pháp không đúng nghi thức, giới này cậy vào thế lực làm mất đi sự tôn trọng của Phật pháp, nên Phật chế ra giới này.
3. Giải thích tên gọi:
Theo chỗ ngăn ngừa mà đặt tên.
4. Đủ duyên: Cũng có bốn: Tín tâm thọ giới
Ỷ thế lực cao quý của mình Lập chế không đúng pháp.
Tổn hại Phật pháp nên thành phạm tội.
5. Thiếu duyên:
Thiếu duyên thứ nhất. Kết tội trọng chẳng phải phạm giới. Thiếu duyên thứ hai, kết tội trọng phương tiện.
Thiếu hai duyên sau, đều phạm phương tiện, nên biết.
6. Nặng nhẹ:
Cậy oai lập chế, hoại pháp đều có nhiều ít, nên y cứ theo đó mà biết.
7. Thông bít:
Nếu cấm người ác không xuất gia, không cho đức tượng đem bán, thì không phạm, ngoài ra đều phạm.
8. Giải thích văn: Trong văn có ba:
- Nói chung diệt pháp
- Hiển riêng tướng diệt
- Cố làm thành phạm
Câu đầu và giữa cũng có ba:
- Vốn dùng tín tâm thọ giới
- Ỷ lại tự cao
- Phá diệt Phật pháp
Câu hai: Nói về làm trở xuống là hiển bày riêng, có hai: Chướng ngại việc xuất gia tu đạo của người.
Chướng ngại việc đúc tượng in kinh. Đây là phá trụ trì Tam bảo.
Khiến pháp chúng sinh ỷ lại vào pháp trụ trì. Nay đã tổn giảm, tội nặng. Tổng kết tội phá Tam bảo.
Câu 3 “mà cố làm v.v...” là trái với lời dạy kết phạm.
1. Đại ý chế giới:
Bồ-tát lẽ ra phải giữ gìn chánh pháp của Như lai cho được rạng rỡ, mỡ mang chánh pháp rộng lớn để cho Phật pháp tồn tại lâu dài, đó là báo đáp ân sâu của Phật. Không thể cho phép chúng ta vì tài lợi của cá nhân mình mà phá hủy đồng đạo của mình trong thế gian, làm tổn hại chánh pháp của Như lai, nên Phật chế giới này.
2. Thứ lớp:
Giới trước ỷ lại uy lực của mình, giới này ỷ lại uy lực của người khác, mỗi giới đều tổn pháp, nên đồng chế.
3. Giải thích tên gọi:
Y cứ vào chỗ ngăn ngừa mà đặt tên.
4. Đủ duyên:
Cũng có bốn duyên: Danh lợi ở trước vua nói giới Gây trở ngại một cách ngang trái. Trói buộc người trong chúng.
Nên thành phạm tội.
5. Thiếu duyên:
Thiếu bốn duyên phạm tội phương tiện.
6. Nặng nhẹ:
Bốn duyên đều có nhiều ít, phạm tội y cứ theo đó.
7. Thông bít:
Nếu chế phục các Tỳ-kheo ác thì không tổn pháp, lý không phạm tội, ngoài ra đều phạm.
8. Giải thích văn: Có năm:
- Nêu lỗi khiến lìa
- Nêu đức phải tu
- Nghe không khuyên tổn thương-Huống tự thân làm.
- Cố làm nên phạm.
Câu đầu nêu gốc hảo tâm xuất gia. Câu hai. Vì danh lợi đối với vua trước nói giới để ràng buộc.
“Tự thực... trở xuống là” Dụ hiển. Kinh Liên Hoa Diện chép:” Phật bảo A-nan:” Thí như sư tử chết, các chúng sinh ở trên không, hoặc dưới đất, hoặc trong nước, hoặc trên đất liền đều không ăn thịt sư tử được, chỉ có trong thân sư tử sinh ra các loại người tự ăn thịt sư tử. Nầy A-nan! pháp của ta cũng thế, không phải người mà khác phá hoại được, mà chỉ có các Tỳ-kheo tội ác trong pháp của ta mới phá hoại được pháp mà ta đã chứa nhóm cần khổ tu hành trải qua 3 đại A-tăng-kỳ kiếp” mà thôi. Giải thích: Pháp Phật người ngoài chẳng thể phá hoại được nên nói “Phi ngoại đạo”.
Câu hai: Nếu thọ giới Phật. v.. v.... là nêu đức chế tu, chế khiến cho hộ giới chí thành. Như mẹ hiền nhớ nghĩ đến con, như con hiếu thờ cha mẹ.
Câu bốn: Huống tự thân làm, đang làm và phá diệt làm nhân duyên.
“Không có tâm hiếu thuận” là nhân phá pháp.
Câu năm: Nếu cố v.v... là nói làm thì kết phạm, nên biết. Trên đây phân biệt chín giới đã xong.
Câu hai: Chín giới nầy là tổng kết khuyến học. Trên đây hiển bày riêng giới khinh đã xong.
Câu hai: Các Phật tử v.v.. là tổng kết, đây là ba đời đồng tụng.
Trên đây phân biệt nói sự nặng nhẹ của hai giới đã xong.
Câu ba: Các Phật tử lắng nghe v.v.. là tổng kết khuyên học. Trong đó có bốn:
Nêu Chư Phật đồng tụng, nghĩa là chư Phật, Bồ-tát ba đời và Phật Thích-ca tại nhân tại quả đều đồng tụng. Nên biết là yếu thắng.
Câu hai: Các thầy, v.v... là khuyên chúng hành trì, nghĩa là nêu các chúng kia, lược khuyên làm năm việc.
Thọ trì, nghĩa là lãnh nạp gọi là Thọ, không quên gọi là Trì.
Đọc
Tụng
Giải thích Biến chép.
Câu ba. “Phật tánh v.. v...” là nói lưu thông không dứt, nghĩa là Phật tánh thường trụ, nói lên lý pháp vắng lặng. “Giới quyển lưu đẳng” là nói giáo pháp truyền bá lưu thông.
Giải thích: Phật tánh là nhân thành Phật vốn có sẵn. ”Quyển giới” là ngoại duyên. “Truyền thọ” nghĩa là từ quá khứ truyền đến hiện tại, hiện tại hướng đến vị lai. Lần lượt truyền nhau, nên nói là “ Không dứt”
Câu bốn: Được thấy nói lợi ích truyền trao, trong đó có ba:
Thấy được lợi ích của Phật, nghĩa là thấy trong kiếp Hiền có ngàn Đức Phật truyền trao.
Lợi ích lìa hẳn chỗ xấu ác.
Lợi ích được sinh chỗ tốt lành, nghĩa là sinh trong loài người làm thân đạo khí, nhiếp hóa chúng sinh.
Trên đây chính là phần Chánh tông đã xong.
Câu ba. Là phần kết khuyến lưu thông, trong đó có bốn:
Câu 1. Kết rồi lược thuyết
Câu 2 “Các thầy v.v...” là khuyên học
Câu 3 “Như vô tướng v.v...” là chỉ quảng văn
Câu 4 “Tam thiên v.v...” là nói chúng nên phụng trì, nghĩa trong phẩm kia mỗi giới đều nói đầy đủ, khiến cho 3 ngàn đồ chúng nghe rồi sinh tâm vui mừng.
Giải thích: Ba ngàn đồ chúng nghe Phật tụng lược bản này sinh tâm vui mừng thọ trì. Giải Thích văn đã xong.
Thuật lại bài tụng của ngài Hoài Tố:
Quảng bản Tỳ-ni tạng Tạng Tỳ-ni Quảng bản Nguyện đèn ma ni này
Thường soi mười phương cõi Chỉ đường các chúng sinh Đến chỗ Đại Bồ-đề.