TẠNG LUẬN
SỐ 1814 - SỚ TRÙNG KHẮC GIỚI BẢN BỒ TÁT
Sa-môn, Nghĩa Tịch người Tân-la soạn
GIỚI RAO LỖI CỦA BỐN CHÚNG THỨ SÁU:
GIỚI THỨ TÁM: BỎN SẺN LẠI MẮNG ĐUỔI.
GIỚI GIẬN HỜN KHÔNG NGUÔI THỨ CHÍN
GIỚI THỨ MƯỜI: HỦY BÁNG TAM BẢO
Bồ-tát giới Bản trong kinh Phạm võng là khuôn phép lớn làm hưng thạnh pháp xuất thế trong ba đời, là yếu môn nhập đạo của bảy chúng, vì thế dường như có hơn mười nhà chú sớ, nay hiện còn chỉ có pháp Tạng, Thiên Thai, Minh Khoáng, Thái Hiền mà thôi, ngoài ra đều thành phế điển, thật là đáng tiếc. Bốn nhà biên chép là Lan, Cúc, Thiện, Mỹ, tức là giới tử thế tục theo phụ giúp người Thái Hiền. Nhưng trong sớ kia thường dẫn hai sớ chứng nghĩa giải văn của Sư Pháp Tạng và Nghĩa Tịch, các học Sĩ xem khắp không mệt mỏi, người đến xem rất ít, chỉ đáng tiếc một điều là sớ của Pháp Tạng tuy còn nhưng sớ của Nghĩa Tịch đã mất. Tôi có lần đến kinh tạng Thiền Lâm ở Lạc Đông, tình cờ chiêm bái được bìa sách còn sót lại. Vì lưu lại ở đời quá lâu nên bị mọt đục không ít, số truyện chép ra cũng bị tróc rất nhiều, dò xét toàn bản ở gần xa, người không dám trả lời, khen ngợi lúc tinh sương ở đây. Phía bắc thành có Pháp sư Hoằng Nguyện, từ lâu đã bí mật truyền sớ làm gia bảo, cùng lúc được đọc bản sớ mọt ăn của tôi, do đó mà bổ sung vào chỗ văn bị mất, đến nay ngài Tăng Triệu tìm được toàn bản. Hôm khác Họ Kỳ Quyết bỏ quyển sớ bị mọt đục kia vào trong tay áo, đến nói rằng: “Tôi mong được bổ khuyết, tôi khắc chữ thọ lên đó, vui mừng bèn tu bổ thêm vào. Luật Sư Mật Nghiêm Biện tìm tòi và truyền rộng ra để giáo huấn, tham đính các bản để cho họ Kỳ Quyết soạn xong, xin viết lời tựa. Tôi ngoài việc tùy hỷ quên cân nhắc sự thô kệch, liền ghi đầu đuôi đặt ở đầu quyển sớ, ngõ hầu được lưu thông không bị tắc nghẽn, xa nữa là truyền đến hội Long Hoa...
Ngày Bố-tát mùa hạ, năm giáp tý, niên hiệu Trinh Hưởng năm đầu, đệ tử giới Bồ-tát, Sa-môn Đổng Không Khâm Thức ở am Tri Túc thuộc Song Khâu.
Sa-môn, Nghĩa Tịch người Tân-la soạn
Gốc của giới đức là từ Đạo sinh ra. Cho nên hưng khởi hạt giống giác ngộ nối tiếp làm hưng thạnh chánh pháp, cắt đứt sông dài lên bờ giác ngộ, cứu giúp hàm thức, đều do đây. Nên Đức Như lai đầu tiên ở dưới Cội Đạo thọ đặt ra giới Bồ-tát, thật chính là nền tảng vắng lặng phiền lụy, giải thoát trói buộc, gốc tu nhân chứng quả, hoàn toàn gọi là ngăn chặn, không có điều ác nào không được ngăn đứt, lại gọi là hiếu thuận, không có điều lành nào không được tu tập. Đề Cương thì mười chi vô tận, tổng mục thì sáu tám không bỏ sót, chiếu sáng đạo giác ví như vầng nhật nguyệt, trang nghiêm pháp thân ví như anh lạc, công đức xây dựng khó tỏ bày. Nhưng văn nghĩa trong giới kinh này sâu kín nên giải thích rất khó. Khoa trước, nêu giản lược ý nghĩa quay về. Giới pháp thì vô lượng, chỉ cần thọ tùy, thọ thì nghiệp trước sau giải thoát, đưa pháp vào thân, tùy thì giữ tâm, mới hiển bày phòng hộ. Phân biệt thọ có hai, trước là nói lên thuận duyên được thọ, sau cùng là rõ trái duyên mất thọ. Phận biệt đắc có bốn: Một là chọn đệ tử pháp khí, hai là chọn thầy có đức, ba là thọ nhận phép tắc, bốn là hỏi đáp dứt nghi. Trước là chọn đệ tử pháp khí, phải đủ hai duyên mới có khả năng làm pháp khí thọ giới, một là có điều thiện cảm giới, hai là không có điều ác chướng giới. Điều thiện cảm giới có hai loại, một là chủng tánh Bồ-tát, hai là phát nguyện Bồ-đề. Bồ-tát Địa chép rằng: Trụ Vô chủng tánh, Bổ-đặc-già-la vô chủng tánh, nên tuy có phát tâm và hành gia hạnh, nhưng quyết định không có khả năng được viên mãn Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu không phát tâm, không tu gia hạnh, thì dù có kham nhiệm cũng không mau chứng Vô thượng Bồ-đề. Trái với điều này, nên biết là mau chứng. Do đó đủ cả hai mới được cảm giới. Vì vậy, trong phần thọ pháp, hỏi kia về hai duyên, có thuyết đủ ba mới được cảm giới. Một có chúng tánh cao quý, hai có nguyện cao quý, ba là có hạnh tâm cao quý. Hai cao quý đầu như ở trước, hạnh cao quý thứ ba lược có mười loại:
Một đối với vô thượng Bồ-đề sẽ sinh tâm sâu xa, hai là suốt đời lìa ác tri thức, gần gũi thiện tri thức, ba là suốt đời hối lỗi, tùy hỷ khuyến thỉnh hồi, hướng về tăng trưởng Phật đạo, bốn là suốt đời tùy khả năng mình cúng dường Tam bảo, năm là suốt đời đọc tụng, viết chép Kinh Phương Đẳng, giải thích cho người nghe hiểu, sáu là đối với người cô độc cùng khổ, hoặc phạm tội đối với vua, tùy theo khả năng cứu hộ cho đến sinh một niệm bi tâm, bảy là suốt đời xả bỏ lười biếng, phát khởi tinh tấn siêng cầu Phật đạo, tám là khi sinh phiền não ở trong năm trần có thể tìm cách chế phục, chín là nếu đối với Vô thượng Bồ-đề sinh tâm nhàm chán lui sụt, đối với tiểu pháp sinh tham đắm tìm trừ diệt, mười là xả bỏ được tất cả sở hữu không tiếc thân mạng. Ba điều này là ba trì của Bồ-tát Thắng tánh là kham nhiệm trì, thắng nguyện là hành gia hạnh trì, thắng hạnh là đại Bồ-đề trì. Văn dẫn ở trước đã chứng minh điều này. Nên đủ ba điều này mới được cảm giới. Khi sắp thọ, nghĩa là phải có vặn hỏi trong đại bản, không hỏi điều thứ ba, mà đối với pháp khác có hỏi điều thứ ba. Thắng chủng tánh là có bản tánh do Bồ-tát huân tập thành, hai chủng tánh nói rộng như trong luận. Tâm Bồ-đề là đối với quả vô thượng khởi tâm quyết định chứng đắc, đối với tất cả hữu tình khởi nguyện chắc chắn cứu giúp. Phát ý vững bền trong hai việc này không có duyên khác làm cho chuyển đổi. Lại nữa, xem xét kỷ bản thân chứa đựng tánh đồng với Phật, nhưng vì thiếu nhân duyên trong ngoài, thân từ vô thỉ sinh tử đến nay, không hề có lúc nào thời phát chí nguyện cao quý, tùy duyên trôi lăn, không có ngày ra khỏi. Nay nếu một niệm phát tâm mạnh mẽ thì ba-atăng-kỳ tuy lâu nhưng chắc chắn có ngày. Bi trước hỷ sau, mồ hôi đầm đìa, không đoái hoài thân mạng là thệ quyết định, sinh tử vô biên, tôi chắc chắc dứt trừ, chúng sinh vô số tôi quyết cứu giúp, nguyện hạnh vô lượng tôi quyết tu, quả Phật vô tận tôi quyết chứng, như thế gọi là tướng phát tâm. Ác chướng giới là không, ra khỏi ba chướng: một là phiền não chướng, hai là nghiệp chướng, ba là báo chướng phiền não chướng.
Bồ-tát Địa chép rằng: Thế nào là chủng tánh Bồ-tát tự pháp trái với bốn tùy phiền não? nghĩa là buông lung vì quen huân tập các phiền não. Tánh trở thành phiền não mạnh mẽ lâu dài, đó gọi là bậc nhất.
Người ngu si, người không khéo léo nương vào bạn ác, đó gọi là thứ hai. Lại bị tôn trưởng, phu chủ, vua quan, giặc và oán địch. v.v... giam giữ, trói buộc, không được tự tại, tâm người ấy mê loạn, đó gọi là thứ ba.
Lại người bẩm sinh đã thiếu thốn nhưng quyến luyến thân mạng, đó gọi là thứ tư. Luận đã nói đây là tự pháp chướng lý, cũng sẽ chướng điều lành thọ giới. Nhưng trong thọ pháp không có người hỏi riêng vì không quyết định. Chẳng phải bảy già nạn thì chắc chắn không đắc giới. Nghiệp chướng có hai loại: Một là bảy tội nghịch, hai là mười trọng. Bảy tội nghịch: Một là làm thân Phật ra máu, hai là giết cha, ba là giết mẹ, bốn là giết Hòathượng, năm là giết A-xà-lê, sáu là phá Yết-ma chuyển pháp luân Tăng, bảy là giết bậc Thánh. Bảy điều này tướng riêng đến văn sẽ nêu rõ. Văn chép rằng: Nếu đủ bảy già nạn thì sẽ không đắc giới, ngoài ra tất cả đều được thọ giới. Có văn chép rằng: Bảy tội nghịch không sám hối thì không được thọ giới, nếu sám hối thì được thọ giới. Nên Kinh Tập Pháp Duyệt chép rằng: Già-thaĐà phạm năm tội nghịch bị vua kết tội, lúc ấy sợ hãi liền xuất gia làm sát na-môn, ngồi học đạo, tu hành mười đều lành ở nước khác, đêm ngày rơi lệ khóc than trải qua ba mươi năm, vì cấu chướng năm tội nghịch nên tâm không được định, ở trong hang núi thường cất tiếng khóc: Khổ thay! Khổ thay! Phải dùng tâm gì trừ khổ này. Một hôm, ông muốn đi khất thực, buồn than xuống núi đến một ngôi làng nọ, lúc bấy giờ giữa đường gặp một cái bát lớn, thấy trong bát có tập pháp duyệt đà-la-ni xả khổ, được kinh này rồi thì không đi khất thực nữa, vui mừng trở về hang, thắp hương lễ bái vừa khóc vừa vui mừng kính mến, tu tập đọc tụng kinh ấy trong hang suốt một năm mới được diệt tội. Vì nghiệp chướng, nên không thể được nhập tâm, lúc ấy liền tắm gội sạch sẽ tu hành trong bảy ngày, như đứa trẻ mới học cẩn thận không dám có sơ suốt nhỏ, thực hành bảy ngày như thế, cẩn thận không khác, trong lòng buồn bã không biết ý thế nào, nên nghĩ tựa sách đà-la-ni này trải qua mấy lần chuyển tâm chợt được định. Lúc bấy giờ, tự vui mừng như người được trăm ngàn cân vàng mà mọi người không biết, trong lòng vui mừng không dứt, tu hành mấy năm bay đi vô ngại, nhìn thấy Chư Phật trong các thế giới ở mười phương. Nên biết tội nghịch sám hối cũng được dứt trừ. Tuy có thuyết này chưa phải là thật chứng, kinh này chỉ nói năng lực của kinh được diệt tội nhưng không nói được thọ giới Bồ-tát, nên phải càng nói rõ ngọn nguồn.
Về mười trọng thì có thuyết chép rằng: Trọng mười thì bốn phần trước đã là tánh tội, căn bản sự đồng với bảy tội nghịch, hiện thân có sám hối hay không sám hối thảy đều là chướng. Sáu trọng là khác, nếu sám hối thì không có chướng, không sám hối thì chướng. Nhưng văn kinh phạm mười trọng thì sám hối thấy được tướng tốt liền được thọ giới, nếu không như vậy thì không được. Đây là ngữ ý chung ở sáu giới trọng sau. Có thuyết chép rằng: Bốn nghiệp trọng ở trước phải sám hối thấy tướng tốt liền được thọ giới, không thấy tướng tốt thì không được thọ giới. Sáu nghiệp nhẹ ở sau tuy không sám hối cũng được thọ. Mười giới trọng phải sám hối, đây là ngữ ý chung ở bốn nghiệp trước. Có văn chép rằng: Hiện phạm mười giới trọng không sám hối đều là chướng, nếu sám hối đều được thọ, văn không chọn riêng, cần gì tìm kiếm, thuyết cũ như vậy lại có ý riêng, đến văn sẽ rõ. Báo chướng là trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh không hiểu lời nói, vì trọng khổ nên không hiểu nhau, lý không được thọ. Lại trong cõi người ở bắc châu, ngoài loại bẩm tánh ngang bướng ngu si không hiểu nhân quả, ý chí yếu hèn không có tâm cương quyết. Các loài như thế cũng bị thọ chướng, nhưng hỏi trong già nạn không nêu riêng. Các tướng như địa ngục. v.v... hiển bày bằng nhau không xen lạm, không cần hỏi, những loài ngu si thì hỏi phân biệt trong nguyện. Lại dựa vào kinh Bản Nghiệp, thì sáu đường đều được thọ, nên kinh ấy chép rằng: chúng sinh sáu đường thọ được giới, chỉ cần hiểu được lời nói thì đắc giới không mất, nên biết địa ngục có nhẹ có nặng, nặng thì không được thọ, nhẹ thì được thọ. Trong ba cõi thì cõi, sắc mất lời nói, cõi vô sắc thì rõ ràng không nói, một cũng không ngăn được. Lại theo Bồ-tát tại gia thọ giới cận sự, lại còn có già nạn, nên phải hỏi đáp. Pháp thọ chép rằng: Lúc ấy, Tỳ-kheo phải nói như vầy: Cha mẹ, vợ con, tôi tớ chủ nước của ông có cho phép không? Nếu nói rằng cho phép, lại phải hỏi rằng: Ong không hề lấy vật của Phật, Pháp, Tăng và vật khác phải chăng? Nếu nói không thì lại phải hỏi rằng: Nay trong thân ông không có bệnh trong ngoài thân tâm phải chẳng? Nếu nói không thì lại hỏi rằng: Ong không làm việc phi pháp với Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phải chăng? Những việc như thế cũng là chướng giới nên phải hỏi để phân biệt. Đức của Thầy là phải đủ bốn đức mới xứng đáng làm Thầy truyền giới Bồ-tát. Một là đồng pháp Bồ-tát lựa chọn khác với nhị thừa, hai là đã phát nguyện lớn, phân biệt với chưa phát tâm, ba là có trí có lực, nghĩa là đối với văn nghĩa có thể hiểu, có thể thọ trì, bốn là trong lời nói nêu nghĩa có thể truyền trao, có thể khai mở, nghĩa là ngôn ngữ tranh luận nói pháp truyền trao cho, khai tâm người khiến cho họ hiểu. Lại Pháp Sư La-thập nói rằng: Có đủ năm đức mới nên làm thầy: Một là giữ vững tịnh giới, hai là đủ mười tuổi hạ, ba là khéo hiểu tạng luật, bốn là khéo thông thiền tư, năm là tận cùng chỗ sâu xa của kho trí tuệ.
Lại Bồ-tát Địa chép rằng: Các Bồ-tát không cầu thọ giới Bồ-tát với tất cả người lìa trí tuệ. Người không có tịnh tín thì không nên cho thọ, nghĩa là đối với tịnh giới sở thọ như thế, ban đầu không tin hiểu thì không thể hướng về chỗ bất thiện mà tư duy, có ngươi san tham là san tham dối trá, có người đại dục, người không thích cố gắng, không nên theo thọ. Người hủy tịnh giới, các học xứ không cung kính, đối với luật lai chậm chạp thì không nên theo thọ. Có người phẫn hận, phần nhiều không nhẫn nhục, đối với sự trái phạm của người khác không chịu đựng được thì không nên theo thọ. Có người lười biếng, có người uể oải, phần nhiều mê mãi ưa thích ngồi nằm đêm ngày ngủ nghĩ, ưa hợp bạn bè vui chơi cười nói thì không nên thọ với họ. Người tâm tán loạn, dưới cho đến người không thể làm ra sữa bò, khoảnh thiện tâm trụ một duyên tu tập thì không nên theo thọ. Có ngươi mờ ám, người ngu si, người có tâm rất xấu xa, phỉ báng Tô-Đátlãm tạng của Bồ-tát và Ma-Đát-Lý-Ca của Bồ-tát tạng thì không nên theo thọ. Ý văn này là xa lìa không tin và sáu tệ chướng. Người đầy đủ tịnh tín và sáu độ mới xứng đáng làm thầy. Như vậy thì người thọ và người truyền giới Bồ-tát, có pháp khí làm trò không dễ, có đức làm thầy rất khó. Nếu năng sở hợp nhau, thọ và trao cả hai đều đúng như pháp thì nối thạnh hạt giống giác ngộ, nâng đỡ cội đạo thọ, sẽ được có ngày hẹn. Phép tắc thọ giới lược có sáu môn. Một là hiển đức khuyến thọ, hai là dối duyên hơn kém, ba là bảy chúng chung riêng, bốn là lớn nhỏ trước sau, năm là minh chánh thọ pháp, sáu là hiệu lượng hiển thắng. Về hiển đức khuyến thọ, văn chép rằng: Chúng sinh thọ giới của Phật liền bước vào ngôi vị Chư Phật, đồng với bậc Đại giác, đã thật là đệ tử của Chư Phật. Kinh Bản Nghiệp chép rằng: Vào biển Tam bảo lấy niềm tin làm gốc, ở trong nhà Phật lấy giới làm đầu. Mới thực hành giới Bồ-tát, hoặc nam hoặc nữ lúc người phát tâm xuất gia kế thừa ngôi vị Bồ-tát trước phải thọ giới chánh pháp, giới là nền tảng của tất cả hạnh công đức tạng. Đang nói tất cả bản hạnh của quả Phật, là giới có công năng dứt trừ tất cả đại ác, bảy kiến chấp, sáu trói buộc, gương sáng chánh pháp. Lại nói rằng: Phật tử thọ mười giới vô tận rồi thì vượt qua bốn ma và khổ trong ba cõi, từ kiếp này đến kiếp khác đều không mất giới này, giới nầy thường theo người tu hành cho đến thành Phật. Nếu tất cả chúng sinh ở quá khứ, hiện tại, vị lai không thọ giới Bồ-tát này thì không gọi là người có tình thức, không khác gì súc sinh, không gọi là người, thường xa lìa biển tam bảo, chẳng phải là Bồ-tát, chẳng phải là nam nữ, cũng chẳng phải là quỉ hay là người, gọi là súc sinh, gọi là tà kiến, ngoại đạo, không gần tình người. Nên biết giới Bồ-tát có pháp thọ mà không có pháp xả, có phạm mà không mất, tận mé vị lai. Lại Pháp sư ở trong tất cả cõi nước, giáo hóa được một người xuất gia thọ giới Bồ-tát thì Pháp sư này được phước lớn hơn xây dựng bốn mươi tám ngàn ngôi tháp, huống chi còn giáo hóa hai người, ba người, cho đến trăm ngàn người thì quả phước không thể cân lường. Vị sư ấy, chồng vợ sáu thân thay nhau làm thầy truyền giới, người thọ giới thì vào trong số Bồ-tát của các cõi chư Phật, vượt qua ba kiếp khổ sinh tử, cho nên phải thọ. Người có giới mà phạm còn hơn người không có giới mà không phạm, có phạm gọi là Bồ-tát, không phạm gọi là ngoại đạo. Đối duyên hơn kém thì kinh chép rằng: Thọ giới có ba loại: Một là Chư Phật, Bồ-tát hiện ở trước thọ đắc giới thượng phẩm chân thật, hai là sau khi Chư Phật, Bồ-tát diệt độ, trong ngàn dặm có người thọ giới, trước, thỉnh Bồ-tát làm Pháp sư dạy truyền cho ta, ta trước lễ dưới chân, phải nói như vầy: Thỉnh đại Tôn giả làm Thầy truyền giới cho con, đệ tử ấy đắc giới chánh pháp là giới trung phẩm; ba là sau khi diệt Phật diệt độ, trong ngàn dặm chỗ không có Pháp sư phải ở trước hình tượng Chư Phật Bồ-tát quỳ thẳng chắp tay thệ thọ giới, nên nói như vầy: Kính bạch Phật và đại địa Bồ-tát ở mười phương... con học tất cả giới Bồ-tát, là giới hạ phẩm (lần thứ hai thứ ba cũng nói như thế). Phật tử nầy là ba thứ thọ giới mà Phật quá khứ đã nói, Phật vị lai sẽ nói, Phật hiện tại nay đang nói, các Bồ-tát quá khứ đã học, các Bồ-tát vị lai sẽ học, các Bồ-tát hiện tai đang học là giới chánh pháp của Chư Phật. Nếu tất cả Phật, Bồ-tát không vào môn giới pháp này, mà đắc đạo quả vô thượng bình đẳng như hư không thì không có việc ấy. Bảy chúng chung riêng là trong ba thứ giới: giới nhiếp thiện pháp, giới nhiếp chúng sinh tướng đạo tục phần nhiều giống nhau; giới nhiếp luật nghi: nghi thức của bảy chúng mỗi chúng đều khác. Nay sẽ phân biệt sự chung riêng của luật nghi: Quy tắc thọ giới luật nghi có hai: Một là cho hai phần khác thọ chung, hai là cho hai phần khác thọ riêng. Phép tắc thọ chung của bảy chúng không khác, vì chung cho ba giới mà thọ chung, nên một lần Yết-ma mà chung cho cả bảy chúng kia, cho đến tùy tướng đã trì mỗi tướng đầu khác nhau, cách thọ của Địa Trì chính là ở đây. Nếu thọ riêng thì pháp của bảy chúng có khác. Nếu hai chúng tại gia, thọ năm giới cho đến tùy tướng. Lại nói sáu giới trọng, hai mươi tám giới khinh, đủ như kinh Thiện Sinh ƯuBà-Tắc. Trong đạo, đầy đủ hai chúng thọ pháp, theo bạch Yết-mà từ mười chúng. v.v... Kinh Niết-Bàn chép: Thọ thế giáo mới thì bạch bốn lần Yết-ma rồi sau đó mới đắc, chính là ba chúng dưới đây, mỗi chúng đều y theo pháp của mình giống như Thanh văn. Đại tiểu trước sau, trong đó có hai: Một là trước tiểu sau Đại, hai là trước Đại sau tiểu. Nếu trước thọ giới Tiểu thừa, sau thọ giới Đại thừa, giới Tiểu thừa trước là bỏ hay còn, lại giới không giết hại. v.v...
Giống với Thanh văn, đổi mới lại được là ngay giới trước. Một là: Nếu khi hồi tâm, tiểu chuyển thành đại, nên giới Tiểu thừa trước không xả mà còn, nhưng chẳng thể gọi là giới Tiểu thừa. Vì hồi tâm nên chung giới của Thanh văn lại không thêm mới. Nếu lúc không thọ giới chung thì lúc thọ mới được. Hai là khi hồi tâm mới thọ, tuy không xả giới trước nhưng do tâm cầu mong có khác, lại thêm lìa giới sát. v.v... Như khi thọ giới cụ túc lại được lìa giới sát. v.v... Trước đại sau tiểu là nếu bỏ Đại theo Tiểu thì mất giới Đại thừa. Nếu không bỏ giới Đại thừa mà thuận theo học giới Tiểu thừa, thì không mất giới Đại thừa ở trước, tuy thọ giới Thanh văn cũng không gọi là người Tiểu thừa. Phương pháp chánh thọ thì theo Bồ-tát Địa gồm có tám: Một là thỉnh Sư. Văn chép rằng: Nếu các Bồ-tát muốn học ở chỗ Bồ-tát ấy thì phải tu học ba thứ giới tạng, hoặc là tại gia, hoặc là xuất gia, trước phải phát nguyện rộng lớn đối với vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, sau đó phải tìm hỏi Bồ-tát đồng pháp đã phát đại nguyện, có trí có lực, đối với lời nói hiểu ý nghĩa để truyền, để khai, ở chỗ Bồ-tát đầy đủ công đức cao quý như thế, trước nên lễ dưới chân, thỉnh như vầy: Nay con muốn thọ tịnh giới Bồ-tát với người thiện nam, hoặc với trưởng lão, hoặc Đại đức, nguyện xin trong giây lát không từ mệt nhọc thương xót cho con được thọ; hai là cầu lực. Văn chép: Đã là như vậy không thỉnh ngược lại, đã vén ý bày vai phải, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn ba đời mười phương, các chúng Bồ-tát đã nhập vào đại địa được trí tuệ lớn, được thần thông lớn, hiện tiền chuyên niệm các công đức ấy; ba là khất giới. Văn chép rằng: Tùy theo chỗ có công năng nhân lực, sinh giới tâm thanh tịnh lớn, tâm tịnh nhỏ, ở chỗ Bồ-tát cao quý có trí có lực, nhún mình cung kính, gối quỳ sát đất, hoặc quỳ thằng đối trước tượng Phật, thỉnh như vầy: Nguyện xin Đại đức, hoặc Trưởng lão, hoặc người thiện nam, thương xót truyền tịnh giới Bồ-tát cho con; Bốn là nuôi lớn tâm thanh tịnh. Văn chép rằng: Thỉnh như thế rồi, chuyên niệm một cảnh nuôi lớn tịnh tâm. Nay tôi không bao lâu sẽ được kho công đức vô tận vô lượng vô thượng, liền theo suy nghĩ việc ấy rồi đứng im lặng; năm là hỏi duyên: bấy giờ, Bồ-tát có trí có lực ở chỗ kia sẽ thực hành chánh hạnh Bồ-tát. Để không loạn tâm, hoặc ngồi, hoặc đứng mà nói như vầy: Ong cho phép gọi người thiện nam như thế hoặc là cho phép gọi pháp đệ thính. Ông có phải là Bồ-tát chăng? Kia nên đáp “phải”. Phát nguyện Bồ-đề chưa? Nên đáp là đã phát; Sáu là chánh thọ, từ đây về sau phải nói như vầy: Ong gọi là người thiện nam giới pháp đệ như thế, muốn thọ tất cả học xứ và thọ tất cả tịnh giới của các Bồ-tát ở chỗ ta, nghĩa là giới nhiếp luật nghi, giới nhiếp thiện pháp và giới nhiêu ích hữu tình. Học xứ và tịnh giới này tất cả Bồ-tát thời quá khứ đã có, tất cả Bồ-tát vị lai sẽ có và rộng đến tất cả Bồ-tát hiện tại ở mười phương đang có. Học sứ và tịnh giới như thế tất cả Bồ-tát quá khứ đã học, tất cả Bồtát vi lai sẽ học, tất cả Bồ-tát hiện tại đang học ông có khả năng lãnh thọ hay không? Đáp rằng khả năng lãnh thọ. Người trao giới Bồ-tát lần thứ hai, thứ ba cũng hỏi như thế, người thọ giới Bồ-tát thứ hai thứ ba cũng trả lời như thế. Người có khả năng truyền giới Bồ-tát hỏi như thế đến lần thứ ba trao tịnh giới xong, người có khả năng thọ giới Bồ-tát đáp như thế, cho đến thọ tịnh giới lần thứ ba xong; Bảy là tác bạch thỉnh chứng minh rộng như văn kia; Tám là làm lễ lui ra. Văn chép rằng: Đã làm việc Yết-ma thọ giới Bồ-tát. v.v... Như thế xong, người truyền giới và thọ giới đều khởi thân cúng dường Chư Phật, Bồ-tát ở cùng khắp vô biên thế giới trong mười phương, đảnh lễ dưới chân, cung kính lui ra. Phép tắc truyền giới của các sư chẳng phải một, còn dựa vào Địa trì, lược kể như thế, các thuyết khác nhau nên tìm các bản gốc. Hiệu lượng hiển thắng là Bồ-tát đã thọ giới luật nghi như thế, đối với tất cả chỗ thọ luật nghi giới khác rất cao quý vô lượng, là chỗ của vô lượng vô biên đại công đức tạng đi theo, là chỗ phát khởi ý vui trong tâm vô thượng Bồ-đề bậc nhất, có công năng đối trị tất cả hữu tình, tất cả hạt giống ác hạnh, tất cả luật nghi biệt giải thoát, đối với giới luật nghi Bồ-tát này trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, tính đếm ví dụ Ô Ba Ni Sát Đàm phần cũng không bằng một, nhiếp thọ tất cả công đức lớn. Hỏi đáp dứt nghi là hỏi: Thanh văn thọ pháp, không hỏi chủng tánh và nguyện, vì sao ở đây lại hỏi hai việc này? Đáp: Giới biệt giải thoát, ba thừa đều thọ chung, pháp thọ hoàn toàn tùy nguyện mà chung thành, do đó không còn hỏi lệch về một họ, cũng không nên hỏi chung có ba họ không? Chưa chắc biết rõ theo một họ, nên hoàn toàn không hỏi dòng họ, hỏi nguyện cũng bỏ, nhưng làm cho không có già nạn, chung cho cả ba thừa ví được theo sau, tu hành đều thành đạo quả.
Hỏi: Ba chướng đều chướng giới, vì sao lại cứ hỏi lệch về nghiệp?
Đáp: hễ văn hỏi thì chắc chắn có hai nghĩa: Một quyết định là chướng, hai là trong tướng có sự lộn xộn, trong nghiệp bảy tội nghịch có hai nghĩa mới, chắc chắn là chướng vì lỗi ấy quá nặng, hai là tướng có lẫn lộn vì không nêu riêng. Bốn là tùy phiền não không nhất định là chướng, địa ngục... không lẫn lộn vì tướng riêng để biết, cảm quả báo không cần hỏi. Hỏi: có bốn, năm đức mới kham làm Thầy, vì sao Kinh cho phép vợ chồng làm thầy lẫn nhau?
Đáp: Thọ giới tại gia thì có thể như kinh, năm chúng xuất gia phải đủ các đức. Hỏi: Có người nói phải thọ giới Thanh văn trước, sau đó mới thọ giới Bồ-tát, nghĩa ấy thế nào?
Đáp: Chưa hẳn như vậy, đâu có việc Bồ-tát khởi tâm Tiểu thừa trước rồi sau mới vào Đại thừa. Nhưng kinh nói rằng: Nếu nói không thọ giới Ưu-bà-tắc, Sa-di, Tỳ-kheo thì đắc giới Bồ-tát không có chỗ ấy, ví như không có tầng lầu thứ nhất mà được tầng lầu thứ hai, thì không có việc ấy, phải y chỉ theo luật nghi mới được tầng sau, nên nói như thế. Từ cầu hỏi đáp khác không còn rõ ràng, trái duyên thì mất thọ. Bồ-tát Địa chép rằng: Lược từ hai duyên, xả các tịnh giới luật nghi của Bồ-tát; một là xả bỏ đại nguyện Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề; hai là pháp hiện hành, thượng phẩm triền phạm tha thắng xứ. Quyết Trạch Phần chép rằng: Lại bỏ nhân duyên lược có bốn loại, một là quyết định phát khởi tâm thọ, tâm không đồng phần; hai là ở trước bậc đại Trượng Phu có tri thức nên có ý phát khởi xả bỏ ngôn ngữ; ba là bốn thứ thắng pháp khác và chung riêng, hủy, phạm; bốn là nếu tăng thêm triền thượng phẩm, chung riêng hủy phạm thuận theo pháp Sở thắng khác. Do nhân duyên này nên biết xả bỏ luật nghi của Bồ-tát. Nếu có được tâm thọ thanh tịnh phải thọ lại. Hỏi: Bỏ duyên hai bốn được thâu nhiếp lẫn nhau hay không? Đáp: Một là được nhiếp lẫn nhau, được coi là có khai hợp vì thể không khác. Trong bốn thì phần đầu trong hai phần trước, hai phần sau ở phần thứ hai, cho nên hai bốn được nhiếp lẫn nhau. Có văn chép rằng: Không đúng, tâm không đồng phận có thể được nhiếp duyên ban đầu. Nói bỏ vì sao lại thu nhiếp duyên đầu. Khi đối với người xả bỏ chưa chắc lui sụt nguyện, nghĩa là có các giới Tỳ-kheo thọ trước lại gặp nhân duyên thì xả, lúc làm cần sách, tuy không xả bỏ đại nguyện Bồ-tát nhưng được xả bỏ chỗ thọ ở trước, nếu không như vậy thì khi đã xả nguyện rồi thì được xả giới, đâu cần đối với người nói lời xả bỏ. Nếu khi lui sụt nguyện liền nói xả bỏ, thì không cần chia riêng thành hai duyên. Lại thứ tư trong bốn phải thuộc về hai sau, vì cùng nói triền tăng thượng hủy phạm tha thắng. Thứ ba trong bốn không được tăng thượng, vì sao được thuộc về duyên sau trong hai. Lại thế nào là tha thắng? thế nào là thuận tha thắng mà nói thứ hai thuộc về hai sau? Nếu nói thứ ba phạm tha thắng thì bản địa nói bốn loại tha thắng. Hủy phạm thứ tư thuận theo tha thắng tức là sáu giới trọng trước trong mười giới trọng. Trong Bản Địa chép rằng: Bốn thứ tha thắng, phải thượng triền phạm mới được xả giới. Vì sao duyên thứ ba chỉ nói phạm chung riêng, nên biết ba trong bốn chẳng thuộc về hai duyên. Nếu như vậy làm sao gọi là đúng, nghĩa là chẳng phạm bốn giới trọng trước như sát, v.v... không cần phải thượng triền tùy phạm đều xả. Nếu khi phạm bốn giới sau, hoặc sáu giới sau thì phải khởi thượng triền mới được xả giới. Bốn giới sau hoặc sáu giới tuy chẳng phải tánh trọng, trọng nên gọi là tùy tha thắng.
Hỏi: Như trên đã dẫn, kinh Bản Nghiệp chép rằng: giới Bồ-tát có pháp thọ mà không có pháp xả, có phạm mà không mất giới, tận bờ vị lai, vì sao luận chép rằng hai bốn xả duyên, thuyết này đâu đạt lời nói trong kinh? Trả lời: Nghĩa ngắn gọn, đều khác nhau nên không trái nhau, nghĩa ấy như thế nào, nói mất giới là xả phải mong trên chỗ huân hạt giống, vận dụng công năng tăng thượng ngăn ngừa nhiếp giữ. Nếu nói thể của hạt giống, một lần huân tập là còn mãi mãi không mất. Nếu nói về công năng thì trái duyên liền mất. Vì năng nên luận nói xả giới, vì công năng có từ thể nên kinh nói không mất. Kinh ấy chép rằng: Tất cả giới của Bồ-tát, Thánh, Phàm tận tâm là thể, cho nên tâm tận giới cũng vậy, tâm không tận nên giới cũng vô tận. Hỏi: Nếu vậy thì năm duyên trong giới Thanh văn lẽ ra không mất phải chăng? Đáp: Theo thể thì thật đúng như vậy, nhưng Đức Phật giáo hóa Thanh văn theo Trung đạo, phần nhiều thì công năng nói giới là sắc, cho nên không nói còn mãi không mất. Thanh văn đã thọ năm duyên được xả: Một là mệnh chung xả; hai là hai bình xả, ba là đoạn thiện căn xã; bốn là tác pháp xả; năm là phạm trọng xả. Sở thọ của Bồ-tát đến tận đời vị lại, cho nên không có thời mệnh chung xả, hai hình cũng cho phép thọ giới Bồ-tát, cho nên không có hai bình xả, khởi tâm khác nhau liền mất giới; nên không cần đoạn thiện căn mới xả. Giải thích thể thọ xong, kế lại nói về tùy hạnh, tùy hạnh có hai, như người ở bậc Thượng phẩm sau khi thọ lần đầu cho đến Bồ-đề, một bề chuyên ròng tinh tấn không hủy phạm. Người ở bậc trung và hạ phẩm tùy duyên phạm giới, mà nhớ gốc thì bị phạm trở lại thanh tịnh. Hai phần này đều được gọi là giới tùy học. Tuy nhiên nói chung bên trong lại y cứ vào ba giới hiển bày tùy tướng riêng. Tướng tùy hạnh trong giới luật nghi là như trong kinh nói: Thành tựu thila khéo kéo phòng hộ luật nghi biệt giải thoát, khuôn phép thực hành thảy đều tròn đầy, thấy được tội nhỏ nhặt cũng sinh tâm sợ hãi, đối với học xứ khéo léo học thọ. Thành tựu thi-la là nhờ giữ gìn tịnh giới, nghĩa là thọ trì tịnh giới tương ưng không thiếu nên gọi là thành tựu thi-la. Khéo giữ gìn luật nghi biệt giải thoát là khéo léo giữ gìn thi-la xuất ly, nghĩa là cầu biệt giải thoát, giữ gìn chỗ có luật nghi khác nên gọi là luật nghi biệt giải thoát. Vì luật nghi này có công năng mau ra khỏi biển khổ sinh tử, khuôn phép Sở hành đều viên mãn vì có thi-la thanh tịnh khó bị phỉ báng. Khuôn phép viên mãn là các oai nghi, v.v..., người không thông minh đã bị quở trách. Sở hành viên mãn là chỗ không làm của các chúng Tỳ-kheo xa lìa năm thứ, năm thứ ấy là: nhà xướng lệnh, nhà dâm nữ, nhà bán rượu, nhà vua chúa, nhà chiên-Đồ-la yết-sỉ. Thấy tội nhỏ sinh tâm sợ hãi, mạnh mẽ cung kính học thi-la, đối với già tội mạnh mẽ cung kính tu học giữ gìn, như tánh tội, ấy gọi là thấy tội nhỏ còn sinh tâm sợ hãi. Đối với các học xứ khéo léo thọ học vì thọ học viên mãn sở học thi-la, nghĩa là đầy đủ viên mãn thọ học học xứ, ấy gọi là đối với các sở học khéo hay thọ học. Giới nhiếp thiện pháp tùy học tướng là khi các Bồ-tát giới nhiếp thiện pháp siêng năng tu tập, lược ở sáu tâm nên khéo quan sát. Sáu tâm ấy là: Một là tâm khinh miệt, hai là tâm biếng nhác, ba là tâm che lấp, bốn là tâm mệt mỏi, năm là tâm bệnh tùy hạnh, sáu là chướng tâm tùy hạnh. Nếu các Bồ-tát đối với pháp lành đã có tâm khinh, không có tâm thắng giải và tâm miệt, gọi là tâm khinh miệt. Nếu có tâm lười biếng, kiêu ngạo, buông lung, bó buộc gọi là tâm biếng nhác. Nếu tham dục, v.v... hễ có bất cứ một tâm che đậy hoặc các phiền não và tùy phiền não trói buộc gọi là tâm che lấp. Nếu đối với sự mạnh mẽ tăng thượng tinh tấn, thân tâm mệt mỏi che khuất tâm ấy gọi là tâm mệt nhọc. Nếu có các bệnh tổn não tâm ấy, không có năng lực thì không tu hành được, gọi là tâm bệnh tùy hạnh. Nếu có vui mừng bàn tán... chướng tùy theo tâm ấy gọi là chướng tâm tùy hạnh. Bồ-tát đối với sáu thứ tâm này phải quán sát đúng. Ta ở trong sáu thứ tâm như thế có tùy theo một hiện tiền hay không có? Đối với ba tâm trước, Bồ-tát một bề không nên sinh khởi. Nếu đã sinh khởi thì không nên nhẫn thọ, nếu có nhẫn thọ thì không xả bỏ, đối với khắp tất cả đều gọi là có tội. Khi tâm mệt nhọc hiện ở trước, vì tâm này nên bỏ phương tiện khéo léo. Nếu tạm thời ngừng dứt thân tâm mệt nhọc, nên tu tập nhiều pháp lành, phải biết rằng không có tội. Nếu đối với tất cả cuối cùng lìa bỏ thì ta cần gì phải tinh tấn tu tập pháp lành như thế, khiến cho ta hiện tại sống trong khổ này. Nếu như vậy thì nên biết là có tội. Khi bệnh tâm tùy hạnh hiện ra, ở đây không có tự tại, không theo sở dục tu gia hạnh lành. Tuy là nhẫn thọ nhưng không có tội. Khi chướng tâm tùy hạnh hiện ra, nếu không tùy dục rơi vào trong đó, hoặc thấy ở đây có nghĩa lợi lớn, tuy là nhẫn thọ nhưng không có tội. Nếu theo ý muốn rơi vào trong đo, hoặc thấy trong đó không có nghĩa lợi lớn hoặc thiếu nghĩa lợi mà nên nhẫn thọ, phải biết là có tội. Sáu tâm như thế, ba tâm trước đã sinh rồi mà nhẫn thọ thì vốn có tội. Tâm bệnh tùy hạnh, tuy là nhẫn thọ nhưng vốn không có tội. Ngoài hai tâm, nếu đã sinh khởi mà nhẫn thọ thì hoặc là có tội hoặc là không tội. Giới nhiếp chúng sinh tùy là học tướng nhưng nếu các Bồ-tát khi ở trong giới làm lợi ích cho loài hữu tình, siêng năng tu tập thì quán sát đúng lúc xứ chi nhiếp hạnh. Cái gọi là tự tha, tài suy, tài thịnh, pháp suy, pháp thịnh đó gọi là sáu xứ. Nói về tài suy, là ăn mặc, v.v... chưa được không được đã đoạn hoại, trái với tướng này phải biết là tài thịnh. Nói pháp suy là vượt qua sở học, đối với chỗ chưa nghe thắng nghĩa ở trước đã nhiếp lấy chỗ nói pháp mầu nhiệm của Như lai, không được nghe thấy như không nghe thấy chỗ chưa nghe ở trước như thế, đối với chỗ chưa suy nghĩ ở trước không được suy nghĩ, có chướng thấy nghe, có chướng suy nghĩ, nếu được lắng nghe, suy nghĩ tìm tòi thì lại quên mất. Đối với chỗ chưa tu chứng, chỗ thành là thiện nhưng chưa chứng được, nếu chứng lại lui sụt, trái với tướng này nên biết là pháp thạnh. Trong đây Bồ-tát tự làm pháp mình suy khiến cho người khác tài thịnh. Ở đây không nên làm, nếu làm cho tài thịnh, pháp thịnh cũng giống như vậy. Trong đây nghĩa là vượt học sở nhiếp cũng có tùy thuận vượt học sở nhiếp, hoặc đối với pháp chứng, bỏ mất sở nhiếp, nên biết là pháp suy. Lại nữa Bồ-tát làm tài mình suy, khiến cho tài người khác thịnh, nếu tài này mà không đưa đến pháp suy thì ở đây nên làm. Nếu đưa đến pháp suy thì không nên làm. Nếu làm cho tài thịnh, pháp thịnh cũng giống như vậy. Lại nữa, các Bồ-tát làm tài của mình thịnh và làm cho tài người khác thịnh, thì nên làm. Như làm cho tài thịnh, pháp thịnh cũng giống như vậy. Các Bồ-tát làm cho pháp mình thịnh và khiến cho tài người khác thịnh thì nên làm, nếu khiến cho tài thịnh pháp thịnh cũng giống như vậy. Đối với việc như thế nếu không tu hành gọi là có tội. Nếu chánh tu hành thì gọi là không tội. Trong đây văn sao của luật nghi là đúng pháp, khác văn sao của hai giới Du-già quyển bảy mươi lăm.
Lại nữa, Du-già, quyển bảy mươi lăm chép rằng: Nếu có Bồ-tát thọ giới trong ba loại này, hễ có chỗ mà thiếu thì phải biết là chẳng hộ, nên nói không che chở. Luật nghi của Bồ-tát không nên nói là che chở. Ba giới này do sự nhiếp trì của giới luật nghi khiến cho hòa hợp. Nếu đối với chỗ bảo hộ này mà tinh tấn tu tập thì cũng có thể tinh tấn giữ gìn hai phần khác. Nếu có người đối với việc nầy không thể giữ gìn, đối với hai nơi khác cũng không thể giữ gìn. Cho nên có hủy hoại luật nghi gọi là hủy tất cả. Luật nghi của Bồ-tát đều tùy lược nói, tông thú của giới nghĩa của nó thô như vậy. Kế là thể tướng, thể là tự tánh của giới, tức là biểu vô biểu, ba nghiệp là thể, khác với Thanh văn chỉ chế bảy chi.
Mười chi dưới của ba nghiệp đều có biểu vô biểu. Giải thích rộng về nghiệp tướng phải nói rõ ràng. Tướng là chủng loại của giới nghĩa là mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Giáo khác ẩn hiện như lý, phải nên tìm tòi. Việc quá nặng thì chế làm giới trọng, ngược lại là nhẹ.
Hỏi: Trong kinh này nói về mười giới trọng, vì sao Thiện Sinh chỉ giải thích sáu giới trước, trong Bồ-tát Địa chỉ nói bốn giới sau? Đáp: Trong kinh này chung cho bảy chúng cùng thọ trì nên nói mười giới trọng. Thiện sinh y cứ riêng hai chúng tại gia cho nên chỉ lấy sáu giới trước làm giới trọng. Vì giới bán rượu nói qua về tội của chúng tại gia, nên đối với tánh trọng, thêm vào hai giới là sáu. Bốn giới sau đối với thế gian quá nhẹ nên đối với chúng tại gia không chế làm trọng. Giới thứ năm và thứ sáu đối với đạo lỗi ấy lại nhẹ, cho nên Địa Trì nói riêng về bốn giới sau.
Lại trong mười giới, bốn giới trước đại tiểu đều trọng, giới thứ năm và thứ sáu, đạo, tục đều xem trọng. Sự của bốn giới sau chỉ có Bồ-tát mới trọng. Đối với Thanh văn không chế trọng, nên chỉ trọng đối với xuất gia, ở tại gia có lẽ không nói là trọng, nên có hai điều không cùng nghĩa. Địa Luận nói rộng: Có thể Đức Phật xem xét vật có giáo hóa chẳng phải một đường, phải tùy theo trình độ học không cần phải biết, giới hai mươi bốn của Phương Đẳng cần phải xem xét, thể tướng của nó thô như vậy.
Giới Bản của Bồ-tát Đại Thừa, kế là giải thích tựa đề, là vì hiển tông thú cho nên đề lược gọi là hiển thể tướng, văn có phân biệt rộng. Nói về giới bản của Bồ-tát Đại thừa là: Nếu còn đủ tên gốc phải gọi là Phật Lô-xána. Trong Kinh Phạm Võng nói mười giới trong bốn mươi tám giới khinh, phẩm Tâm Địa thứ mười của Bồtát. Người đời sau vì còn riêng giới bản nên đổi lại thánh giới bản Bồ-tát đại thừa. Trước tiên giải thích tên gốc, Kinh Đại Bản Phạm Võng nầy chưa phiên dịch, nếu phiên dịch lẽ ra có một trăm hai quyển, sáu mươi mốt phẩm, chỉ tụng phẩm Tâm Địa Bồ-tát thứ mười của Pháp sư La-thập, do ngài Phòng Dung ghi chép, gồm hai quyển thượng và hạ, quyển thượng nói về cấp bậc của Bồ-tát, quyển hạ nói về giới pháp của Bồ-tát. Cho nên Đại Bản gọi là Kinh Phạm Võng. Phạm Võng nghĩa là mình lưới của Phạm Vương, như lưới nhân Đà la, nghĩa ấy giống như Phật quán Pháp môn, tùy vô lượng căn cơ, lý ấy thống nhất. Như lỗ lưới trời Phạm Vương tuy có vô lượng nhưng lưới chỉ có một. Nên từ việc ví dụ gọi là Phạm Võng. Đây là tên chung một bộ. Nếu y cứ theo giới bản mà giải thích Phạm Võng thì như lổ lưới của trời Phạm Vương tuy nhiều nhưng lưới thì chỉ có một. Giới pháp của Pháp vương nên biết cũng giống như vậy. Tuy còn tùy theo sự nhẹ nặng nhiều điều nhưng thi-la thanh tịnh trọng quay về nhất đạo, cho nên từ thí dụ gọi là Phạm Võng. Lại giới là Phạm hạnh, cũng là lưới pháp, nên gọi là Phạm Võng. Như nói rằng lưới trời lồng lộng tuy thưa mà khó lọt, giới pháp cũng giống như vậy vì nhiếp các chúng sinh không bị rơi vào biển sinh tử. Kinh nói rằng: Mở rộng lưới Đại giáo bủa trên sông sinh tử, vớt người, trời, rồng đưa vào bờ niết bàn, ấy là nghĩa nầy nầy.
Phật Lô-xá-na nói là tiêu biểu cho Giáo chủ. Lô-xána, hán dịch là Tịnh Mãn. Tâm Địa Xá Na Tự Thuyết quyển thượng, nay giới bản này là do Đức Thích-ca nói suy cồng ở bản nên gọi là kia nói. Mười giới trọng, 48 giới khinh của Bồ-tát là hai trăm năm mươi giới chung cho cả ba thừa. Năm mươi tám giới này chỉ chế cho Bồtát, chọn chung lấy riêng nên nêu là Bồ-tát, mười việc căn bản, phạm thì mất giới, nên đặt tên là trọng, bốn mươi tám giới nhánh chỉ bẩn tâm hạnh nên đặt tên là khinh, hiếu thuận ngăn chặn nên gọi là giới, gọi là giới bản của Bồ-tát Đại thừa. Nay mười giới trọng bốn mươi tám giới khinh này lược phép tắc chỉ do Đại thừa đặt ra, y cứ theo người thì chỉ là sở trì của Bồ-tát. Về giới bản thì giới kinh nầy là hạnh bản. Lại giới hạnh này là gốc của Bồ-đề. Như kinh chép rằng giới này là gốc của Vô thượng Bồ-đề, nên phải nhất tâm trì tịnh giới, lại đây lược nói là bản rộng.
Kế là tùy văn giải thích, kinh này đã rút ra không có phần thứ ba như thế, nhưng theo trong văn đều có phần tựa. Từ đầu đến cuối đều gọi là thanh tịnh bậc nhất, đó cũng là nói theo phần tựa. Phật bảo các Phật tử bốn mươi tám giới khinh này, ba đời Bồ-tát đã tụng đang tụng và sẽ tụng là chánh thuyết, còn gọi là phần lưu thông. Trong tựa đầu có hai, kệ tụng đầu là tựa khuyến tin, còn lại phần hành văn là lời tựa kết giới. Cho nên y cứ vào hai phần làm tựa. Kinh Bản Nghiệp chép rằng: Vào biển Tam bảo lấy niềm tin làm gốc, ở trong nhà Phật lấy giới làm đầu, tin theo giới là gốc để nhập trụ, nên y cứ theo đó làm tựa. Lại tin là gốc của thọ giới nên trước làm bài tựa tin. Giới là chỗ sáng của tông nên tiếp theo làm bài tựa giới. Trong bài tựa khuyến tin có mười một hàng rưỡi, chia làm hai ý, đầu tiên là năm hàng tụng tựa giáo chủ đầu cuối, sau đó sáu hàng rưỡi khen giới pháp khuyến thọ. Trong phần đầu lại chia làm hai, tựa của hai hạnh đầu là ngọn nguồn hiện thân, hai hạnh sau nói về ngọn nguồn của giáo chủ. Trong ngọn nguồn hiện thân của bài tựa, hai câu đầu nói rõ bản thể trong đài, hai câu kế hiển rõ ứng thân trên hoa, bài bài tụng kế hiện rõ hóa hình dưới gốc cây, nửa bài tụng cuối kết lại ngọn nguồn. Hỏi: Ba lớp thân này trong ba thân phải phối hợp thế nào?
Đáp: Thuyết khác. v.v.., nay giải thích Lô-xá-na là nghĩa là gồm hai thân thọ dụng của tự tha, cho nên biết như vậy. Quyển thượng chép rằng: Ta trong một trăm atăng-kỳ kiếp tu hành tâm địa được thành Lô-xá-na, nên biết thông tự thọ dụng, được ngàn Đức Thích-ca nói pháp Tâm địa cho vi trần các Bồ-tát nghe, nên biết cũng đều là tha thọ dụng. Đây là đối cơ đăng địa đã hiện thân. Ngàn Đức Thích-ca ở trên hoa là thân biến hóa ở tịnh độ, cho nên biết như vậy, vì hoa là khí cụ thì chẳng phải tướng cõi uế. Luận Vô Tánh Nhiếp chép: Thân biến hóa trăm câu-ni nước đều là chủ. Đây là tám tướng thân uế trong cõi uế, tức là đây đã nói trăm ức Đức Thích-ca, nên biết chỗ hiện thân trên hoa chẳng phải là chỗ hiện hóa thân trong cõi uế. Lại trong bài kệ này đối với người mới học nói rằng: Đây là Lô-xá-na tụng, tà mạng cũng tụng như vậy, nên biết chẳng phải là đối với cái dơ bẩn trên đất, chính là đối với chỗ hiện thân của Bồ-tát tam Hiền kia. Trăm ức Đức Thích-ca là trong bốn thiên hạ của cõi uế là chỗ hiện thân của phàm phu, nhị thừa và Bồ-tát mới phát tâm.
Có người giải thích rằng: Kinh Thập Địa chép: Bồ-tát nhị địa ở trong một niệm nhập vào ngàn thế giới được tạm mặt thấy ngàn Đức Phật, vì giới là hạnh riêng của Bồ-tát Nhị địa, cho nên đối với Bồ-tát nhị địa kia hiện ra ngàn thân Phật. Bồ-tát Nhị địa đang đối trước ngàn thân chính là Phật Lô-xá-na, ngàn Đức Thích-ca ngay trong một niệm đã hiện hóa thân, hoặc phải như thế đối lý không sai khác. Nay ta là Lô-xá-na đang ngồi trên đài hoa sen. Nay ta là Lô-xá-na, đây là ai nói? Chính là một Đức Thích-ca trong ngàn Đức Thích-ca nói, vì chỉ bản thân mình nên nói là Ta. Bấy giờ, chẳng phải là đang ở ngày nay, mới ngồi giống như đang ngồi. Đài hoa sen tức là chỗ gần hạt sen trong hoa sen, số lượng ấy chung quanh ngàn cõi Tam thiên. Đây là lượng của tòa chớ chẳng phải là lượng của cõi nước. Trong kinh chép: Thế giới Liên hoa tang là thế giới chung. Trên có mười hai cõi nước của Phật và bảy thế giới tánh, chín phương cũng giống như vậy, là chỗ thường chuyển pháp luân của Lô-xá-na.
Chung quanh trên ngàn cánh hoa lại hiện ra ngàn Đức Thích-ca. Trên chung quanh ngàn cánh hoa lại hiện ngàn đức Thích-ca chính là đài hoa sen của Lô-xá-na dùng ngàn cánh hoa vậy chung quanh, mỗi hoa ấy tính bằng trăm ức, trên hoa này hiện ra ngàn Đức Thích-ca. trên chung quanh ngàn hoa lại hiện ngàn đức Thích-ca chính là đài liên hoa của Lô-xá-na lấy ngàn cánh hoa vi nhiễu chung quanh mỗi mỗi hoa ấy tính bằng trăm ức, trên hoa nầy hiện ra Đức Thích-cao quý.
Mỗi cánh hoa có trăm ức cõi nước, mỗi cõi nước có một Đức Thích-ca, mỗi vị đều ngồi dưới cây Bồ-đề, đồng thời thành Phật đạo. Mỗi cánh hoa có trăm ức cõi nước, mỗi cõi nước có một Đức Thích-ca, nghĩa là trong ngàn cánh hoa, mỗi cánh hoa đều có trăm ức cõi nước của bốn châu. Ức là số câu-chi, trăm câu-chi cõi nước là ba ngàn cõi, mười lần một trăm là một ngàn, mười lần ngàn là một muôn, mười muôn là một lạc-xoa, mười lạcxoa là một độ-lạc-xoa, mười độ-lạc-xoa là một câu-chi. Tam thiên đại thiên là trăm ức, một ngàn lần là một Tiểu thiên, một ngàn Tiểu thiên là Trung thiên, một ngàn Trung thiên là một Đại thiên, đại thiên chính là một trăm câu-ni. Nhưng bản dịch mới ức chính là lạc-xoa. Đây là mười muôn là số ức, trong bản dịch luận cũ ức là câu-ni, đây là ngàn muôn là số ức. Như thuyết Tiểu thừa thì một cõi Tam thiên có một đức Thích-ca, chỉ trong Diêm-PhùĐề của bốn thiên hạ này có thân thật trên tòa kim cang thành đạo. Trong thiên hạ khác không có tòa kim cương, chẳng phải là chỗ thành đạo, chỉ bỏ hóa thân độ đáng độ thôi. Nay theo thuyết Đại thừa thì trong cõi Tam thiên có trăm ức cõi nước, trong trăm ức cõi nước đều có cội đạo thọ và tòa kim cương, trăm ức Đức Thích-ca đều làm chủ, hóa thân của Đức Thích-ca ở cõi nước này nói: Ta là bản thân, ngoài ra đều là hóa thân của ta, Đức Thíchca ở cõi nước khác đều nói như thế. Như vậy thì theo gốc của mạt luận, trăm ức đều làm gốc lẫn nhau, theo ngọn của bản luận đều là hóa thân của Xá-na.
Ngàn trăm ức bản thân của Lô-xá-na như thế. Ngàn trăm ức như thế nghĩa là một ngàn lần trăm ức nên nói là ngàn trăm ức. Chẳng phải Song điệp ngàn và trăm ức, dưới ngàn trăm ức đều giải thích như thế. Bản thân của Lô-xá-na là nêu rõ gốc ấy. Kinh Quyển Thượng chép rằng: Ta đã trải qua một trăm a tăng kỳ kiếp tu hành tâm địa, lấy đó làm nhân ban đầu bỏ phàm phu thành Đẳng Chánh Giác hiệu là Lô-xá-na, ở biến thế giới Liên Hoa đài tạng, đài ấy có ngàn cánh hoa chung quanh, một cánh hoa là một thế giới, vì ngàn thế giới ta hóa thành ngàn Đức Thích-ca, từ ngàn thế giới lại kèm một thế giới trên cánh hoa còn có trăm ức núi Tu-di, trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm ức bốn thiên hạ, trăm ức cõi Diêm-Phù-Đề, trăm ức Bồ-tát Thích-ca ngồi dưới trăm ức cây Bồ-đề, đều nói Bồ-tát tâm địa mà ông, nghe còn lại chín trăm chín mươi chín Thích-ca mỗi vĩ đều hiện trăm ức Đức Thích-ca là ngàn Đức Thích-ca hóa thân, ta là bản nguyên gọi là Phật Lô-xá-na.
Ngàn trăm ức Đức Thích-ca đều tiếp vi trần chúng đến chỗ tà mạng, khi nghe ta tụng giới cam lộ của Phật thì khai mở, lúc ấy ngàn trăm ức vị lại đến đạo tràng này, đều ngồi dưới cội Bồ-đề tụng mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh của Bản Sư ta. Trong ngọn nguồn của thuyết giáo, năm câu đầu nói về bản thân, tức là ngàn Thích-ca được trăm ức Đức Thích-ca về chúng mà nói. Năm câu kế nêu thuyết của thân cuối, tức là trăm ức Đức Thích-ca là thời chúng thuyết, môn cam lộ là pháp Niếtbàn một lần ăn vào thì còn mãi mãi, nên gọi là cam lộ, vì giới có thể vào nên gọi là môn (cửa), nên ở đây nói là mở. Lại đến đạo tràng này là trăm ức cõi nước, đều là cảnh đang phân hóa nên gọi là bản đạo tràng. Giới của Bản sư là Chư Phật lấy giới làm Bản sư.
Giới như vầng nhật nguyệt, giống như chuỗi anh lạc, chúng Bồ-tát như bụi do giới mà thành Chánh giác, Lôxá-na ấy tụng giới, ta cũng tụng như thế, các ông là Bồtát mới học, cung kính thọ trì giới, thọ trì giới này rồi thứ lớp trao lại cho các Bồ-tát, lắng nghe ta đang tụng. Tâm đại chúng vững tin giới tạng Ba-la-đề-mộc-xoa trong Phật Pháp, các vị là Phật sẽ thành, ta là Phật đã thành, thường tin giới phẩm như thế đã đầy đủ, tất cả, người có tâm, đều phải nhiếp giới Phật, nghĩa là tất cả chúng sinh có tâm tin thành Phật thì đầu nên nhiếp thọ giới của Chư Phật, liền nhập vào địa vị của Chư Phật, theo Kinh Chiêm Sát thì quả vị Phật có bốn: Một là tin mãn pháp cho nên thành Phật, nghĩa là nương vào chủng tánh địa quyết định tin các pháp không sinh không diệt, thanh tịnh bình đẳng, vì không thể nguyện cầu; hai là vì biết Mãn pháp cho nên thành Phật, theo giải hạnh địa, hiểu sâu pháp tánh, biết nghiệp của Như lai không tạo không tác, đối với Niết-bàn và sinh tử không khởi hai tưởng, vì tâm không sợ hãi; ba là vì chứng pháp tròn đầy nên thành Phật. Cái gọi là nương vào tâm địa vắng lặng, để được pháp trí tịch tịnh không phân biệt và nghiệp tự nhiên không thể nghĩ bàn, vì không cần phải suy nghĩ, bốn là vì đầy đủ tất cả hạnh công đức cho nên thành Phật, cái gọi là nương vào Bồ-tát Địa rốt ráo vì dứt trừ tất cả chướng vô minh mộng tưởng. Nay người thọ giới Bồtát, phải có đủ niềm tin, được vào Phật vị Sơ tín mãn, y nói là vào ngôi vị Phật, nghĩa là đã thành Phật, tức là quả vị đồng bậc Đại giác, thật là các Phật tử. Tựa khuyến tin đã xong.
Lúc bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, ban đầu ngồi dưới cội Bồ-đề thành Vô thượng Chánh giác, bắt đầu kết giới Bồ-tát rằng: Hiếu thuận cha mẹ, Sư Tăng, Tam bảo, hiếu thuận là pháp chí đạo, hiếu gọi là giới, cũng gọi là cấm ngăn. Liền đó, từ miệng vàng Phật phát ra vô lượng ánh sáng. Lúc ấy, trăm muôn ức đại chúng, các Bồ-tát, mười tám vị Phạm Vương, thiên tử của sáu tầng trời cõi dục, mười sáu vị đại quốc vương, chắp tay dốc lòng lắng nghe Đức Phật tụng giới Đại thừa của tất cả Chư Phật. Trong nhóm tựa kết giới có hai: Một là tựa của người dịch kinh gia, hai là lời tựa của Phật. Trong lời tựa của người dịch kinh có ba: Một là tựa kết giới, hai là tựa phát ra ánh sáng, ba là tựa nhóm chúng. Trong tựa kết giới, đầu tiên là kết giới Bồ-tát, còn giới Thanh văn sau mười hai năm tùy theo việc mà dần dần đặt ra, Bồ-tát thì không như vậy. Ban đầu ở dưới cây Bồ-đề đồng loạt chế, cho nên như vậy. Còn Thanh văn thì trình độ thấp kém, vô sự mà chế trước thì sẽ chê bai, nên theo duyên phạm mới dần dần chế. Bồ-tát thì có căn cơ cao siêu nên tùy hạnh không chê bai nhàm chán, nên chế ngay không cần phải theo duyên phạm. Theo luận Thập Địa thì Phật thành đạo mới bảy ngày tự thọ pháp lạc, tư duy nhân duyên nên chưa khởi thuyết, sau ngày thứ mười bốn mới bắt đầu nói. Nay nói mới kết phải là trong ngày thứ mười bốn. Từ hiếu thuận trở xuống giải thích sơ lược danh nghĩa kết giới, dùng hai nghĩa giải thích sơ lược tên của giới. Ba-la-đề-mộc-xoa, Hán dịch là giới biệt giải thoát. Luận Đối Pháp chép: Để cầu giải thoát riêng đặc biệt phòng hộ đã có luật nghi, nên gọi là luật nghi biệt giải thoát, vì luật nghi giúp cho mau thoát khỏi biển khổ sinh tử. Đây là ngăn ngừa riêng. Giới giúp cho được quả giải thoát nên từ quả gọi là biệt giải thoát. Lại khi đắc giới đặc biệt giải thoát được sự ràng buộc của ba cõi, nên gọi là biệt giải thoát. Giới biệt giải thoát này nếu Thanh văn đã thọ chỉ có nghĩa là ngăn chặn, phòng ngừa được lỗi lầm nên không có nghĩa hiếu thuận, vì không cầu nhiếp thiện và lợi ích chúng sinh. Như giới của bậc Đại Sĩ có đủ hai nghĩa, một là nghĩa hiếu thuận vì nhiếp thiện,... hai là nghĩa ngăn chặn vì lìa được pháp ác. Hiếu thuận cha mẹ là vì sinh đẻ ra hình hài ở đời. Hiếu thuận Sư Tăng là vì nuôi lớn pháp thân. Tam bảo là cảnh cao quý vào đạo. Pháp chí đạo là gốc đắc quả, nêu sơ lược bốn chỗ hiếu thuận. Từ miệng vàng phát ra ánh sáng, sắp nói giới pháp nên hiện ra điềm lành. Lúc ấy, trăm muôn ức đại chúng nhóm họp đông đảo.
Đức Phật bảo các Bồ-tát rằng: Nay ta mỗi nửa tháng tự tụng giới pháp của Chư Phật, các ông, tất cả các vị Bồ-tát mới phát tâm cũng tụng, cho đến Thập Phát thú, Thập Trưởng dưỡng, Thập Kim cương, Thập địa, các Bồ-tát ấy cũng tụng, cho nên ánh sánh giới từ miệng ta phát ra. Phát ra là vì có duyên do, chớ chẳng phải vô cớ. Giới quang ấy chẳng phải màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, chẳng phải sắc pháp cung chẳng phải tâm pháp, chẳng phải pháp hữu, pháp vô cũng chẳng phải pháp nhân, pháp quả. Nó chính là bản nguyên của Chư Phật, là căn bản hành đạo của Bồ-tát, là căn bản của các Phật tử. Cho nên các Phật tử phải thọ trì, phải đọc tụng, phải học kỹ giới pháp này.
Các Phật tử lắng nghe! Nếu là người thọ giới Bồ-tát này, bất luận là Quốc Vương, Thái tử, các quan chức hay Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, mười tám Phạm Thiên, sáu tiếng trời cõi dục cho đến hàng thứ dân, huỳnh môn, dâm nam, dâm nữ, tôi tớ hay tám bộ Quỉ thần, thần Kim Cương, loài súc sinh và những kẻ biến hóa, hễ ai nhận hiểu được lời truyền giới của Pháp sư thì đều được thọ giới, đều gọi là người thanh tịnh bậc nhất. Trong lời tựa của Phật cũng có ba: Một là bảo tụng giới pháp; hai là giải thích nhân duyên ánh sáng; ba là khuyên thọ trì... Trong phần đầu bảo tụng giới nửa tháng tự tụng, tuy quả đức viên mãn nhưng không quên nhân thuyên, tuy tất cả thời tụng nhưng vì người mới học, nên nói nửa tháng tụng. Bồ-tát phát tâm nghĩa là Thập Tín, Thập Phát thú là Thập Giải, cũng gọi là Thập Trụ, cũng gọi là Tập chủng tánh. Mười tên gọi ấy nghĩa là xả, giới, nhẫn, tiến, định, tuệ, nguyện, hộ, hoan hỷ, đảnh tâm. Mười pháp này, ban đầu mới phát tâm hướng về Đại thừa nên gọi là Phát thú. Thập Trưởng Dưỡng tức là Thập Hạnh, cũng gọi là Tánh chủng tánh, mười tên gọi ấy là tâm từ, bi, hỷ, xả, thí, hảo, ngữ, ích, nhân, định, tuệ. Mười tập này thành tánh, nuôi lớn mầm Thánh nên gọi là Trưởng dưỡng. Thập Kim cương là Thập Hồi Hướng cũng gọi là Đạo chủng Tánh, phương tiện hạnh thì không thể hư hoại nên gọi là Kim cương. Mười tên ấy là tâm, tín, niệm, hồi hướng, đạt, viên, trực, bất tho-ái Đại thừa, vô tưởng, tuệ, bất hoại. Thập Địa cũng gọi là Thánh chủng Tánh, mười tên ấy là thể tánh bình đẳng địa, thể tánh thiện tuệ địa, thể tánh quang minh địa, thể tánh nhĩ viêm địa, thể tánh huệ chiếu địa, thể tánh hoa quang địa, thể tánh mãn túc địa, Thể tánh Phật hổng địa, Thể tánh Hoa Nghiêm địa, thể tánh nhập Phật cảnh giới địa. Nói rộng hành tướng như kinh quyển thượng. Vì thế giới quan dưới đây giải thích nhân duyên phát ra ánh sáng. Phát ra ánh sáng là vì có lý do chớ chẳng phải vô cớ, nghĩa là ngoài có thời chúng cảm duyên Pháp cao quý, bên trong có bản nhân đại bi của
Như lai, mới được hiện điềm lành nêu chỗ nói pháp. Quang quang là chỗ phát ra ánh sáng có nhiều loại, chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Vì ngọn tức là gốc nên chẳng phải năm mầu, chẳng phải sắc tâm vì không ngại duyên, chẳng phải pháp hữu pháp vô, chẳng phải phàm phu hữu mà Nhị thừa thì vô, chẳng phải pháp nhân quả, chẳng phải pháp khổ tập. Bản nguyện của Chư Phật là gốc thành đạo quả. Gốc của Bồ-tát là gốc thành nhân, căn bản của các Phật tử thì nêu riêng thời và chúng.
Kế đến là khuyên thọ trì. v.v.. ứng thọ là theo thầy thọ trước, ứng trì là hộ trì sau khi thọ, ứng tụng là tụng câu văn, khéo học là học ý nghĩa. Nếu thọ rồi phần dưới giải thích rộng về nghĩa thọ, còn lại ba phần khác giải thích sơ lược, vì phần đầu gồm cả phần sau. Vua chúa,. v.v... là những người quý tộc ở thế tục. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni là người thọ giới cụ túc Thanh văn ở trước, cũng gồm ba chúng dưới. Mười tám vị Phạm Vương là các tầng trời cõi sắc. Thế nào là 18? Một là ba lần ba là chín, thứ tư cũng có chín, đó là Vô Vân. v.v... ba vô tưởng, năm Tịnh cư. Vô tưởng thì có lẽ trước sau đều có tâm, dễ có người phát tâm thọ giới Bồ-tát. Trong Kinh chép: Từ cõi trời Tịnh cư trở xuống cũng được Phật thọ ký. Nên biết cũng có người phát tâm thọ giới. Có thuyết cho rằng: Chỉ có 18 Phạm Thiên, Vô Tương và năm Tịnh cư không nằm trong số này. Như Kinh Bản Nghiệp xếp vào các tầng trời cõi sắc, nghĩa là trời Phạm Thiên, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Đại Phạm, (bốn tầng trời này thuộc về cõi trời Sơ thiền). Trời Thủy Hạnh, Trời Thủy Vi, Trời Thủy Vô lượng, Trời thủy âm (Bốn tầng trời này thuộc về Trời nhị thiền), Trời ước Tịnh, Trời Vô Tưởng, Trời Biến Tịnh, Trời Tịnh Quang minh (Bốn tầng trời này thuộc về trời Tam Thiền), Trời Thủ Diệu, Trời Vi Diệu, Trời Cực Diệu, Trời Phước Quả, Trời Quả Thắng, Trời Đại Tịnh (Sáu tầng Trời này thuộc về trời Tứ thiền). Sáu tầng trời là Trời cõi dục, trời cõi vô sắc. Nếu theo hiển pháp vì không thọ nghĩa Pháp nên không nói. Thứ dân là người không có chức vụ. Huỳnh môn là là năm loại bán-trạch-ca, súc sinh cho đến người biến hóa nghĩa là trong loài súc sinh có thể biến hóa, nhưng hiểu lời Pháp sư thì đều được thọ giới. Trong sự xếp đặt này. Nếu nhận hiểu được lời truyền giới của Pháp sư, cũng phát được tâm Bồ-đề, đều được thọ giới. Còn giới tại gia như trên đã nói, hiểu lời truyền giới của Pháp sư đều được thọ giới. Nếu giới của người xuất gia thì không phải như thế. Chỉ có trong cõi người, hoặc nam hoặc nữ, người không có già nạn, mới dối là thọ, nghĩa đồng với cách thọ của Thanh văn xuất gia. Lại nữa, giới pháp lẽ ra đều được thọ chung, vì văn không phân biệt. Chỉ cần tánh của Tỳ-kheo v.v... Như Bán-trạch-ca cho thọ năm giới, chỉ cần ngăn tánh cận sự nam. Tựa văn đã xong.
Đức Phật dạy: Này các Phật tử! Có mười giới trọng, nếu người thọ giới mà không tụng giới này thì chẳng phải Bồ-tát, chẳng phải Phật tử. Chính ta cũng tụng như vậy.
Tất cả Bồ-tát đã học, sẽ học và đang học!
Ta đã lược giảng xong tướng trạng của giới Bồ-tát, phải nên tu học, hết lòng cung kính vâng giữ.
Trong chánh thuyết, phần lớn chia làm hai: một là phân biệt giới trọng; hai là nói về giới khinh. Trong phân biệt giới trọng có ba: một là nêu chung các tên giáo khiến thọ học, hai là nói riêng về loại tướng giới khiến nhiếp hộ, ba là kết là được mất, khuyên cung kính thọ trì. Trong phần đầu có mười số gọi là mộc-xoa, người không tụng thì chẳng phải Bồ-tát... rõ ràng do tướng này mà được thành Bồ-tát và Phật tử. Tất cả Bồ-tát đã, đang và sẽ học, rõ ràng giới Pháp này là phép tắc chắc chắn của ba đời. Tướng trạng của mộc-xoa người không tụng thì chẳng phải Bồ-tát, là tướng của giới, ba đời đều học là mạo của giới. Nói riêng về loại tướng thì mười giới trọng là mười, trong mỗi giới phải dùng năm câu phân biệt giải thích văn nghĩa, một là tạo ý giải thích tên; hai là đủ duyên thành phạm; ba là quyết định nghiệp nhẹ, nghiệp nặng, bốn là sự giống nhau, khác nhau về học xứ; năm là giải thích theo văn.
Phật dạy: Nếu Phật tử tự mình giết, hoặc xúi giục người giết, phương tiện giết, khen ngợi giết, thấy giết mà tùy hỷ, cho đến dùng bùa chú để giết: nhân giết, duyên giết, cách thức giết, nghiệp giết. Tất cả loài hữu tình có mạng sống đều không được cố ý giết. Là Bồ-tát lẽ ra phải thường khởi lòng từ bi, lòng hiếu thuận, tìm mọi cách cứu giúp tất cả chúng sinh, mà trái lại tự nỡ tâm sát sinh, Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di.
Giới sát thứ nhất: Chế ý giải thích tên gọi, mạng sống là hình căn có dự sống được quý trọng. Trong loài hàm linh đều được quý trọng. Nên trong Kinh Niết-bàn Đức Phật khuyên vua A-xà-thế. Tuy con người và súc sinh sang hèn khác nhau nhưng sự quý trọng sinh mạng thì không khác nhau. Như vậy thì bậc đại sĩ vì có tâm nhân từ làm đầu, đâu được buông lung ưa thích cắt đứt sinh mệnh của kẻ khác, vì trái với hạnh từ nên chế giới bất sát đứng đầu. Còn Thanh văn lấy việc giải thoát ràng buộc làm đầu nên chế giới bất đứng đầu dâm. Bồ-tát thì dùng lòng từ cứu giúp là cao thượng nên giới đầu tiên là cấm sát sinh. Lại vì mười giới trọng này bảy chúng cùng thọ trì nên chế giới bất sát ở trước. Thích danh là hình tướng quả báo nối nhau giả gọi là sinh, trái duyên bức hại gọi là sát. Đủ duyên thành phạm, duyên thành phạm chung riêng mỗi thứ có năm. Năm duyên chung gồm: Một là thọ tịnh giới của Bồ-tát, hai là đối với tự tánh của mình không cuồng loạn,... ba là không bị khổ nặng ép ngặt, trái đây không phạm. Nên trong Bồ-tát địa chép: Tất cả chỗ không trái phạm nghĩa là hoặc tâm kia tăng thượng cuồng loạn, hoặc bị khổ nặng ép ngặt. Nếu chưa từng thọ tịnh giới luật nghi thì nghĩa thêm hai duyên, một là có nhớ, nghĩ, nghĩa là khi chuyển sinh nếu nhớ trước đã thọ thì tùy theo sự tạo tác mà thành phạm. Nếu không nhớ nghĩ thì dù có tạo tác cũng không phạm; Hai là không có duyên lợi sinh, nếu có chỗ lợi sinh thì cho hành sát. v.v... Phần trước ba và hai là năm duyên chung. Năm duyên riêng là trong phẩm 59 chép: Nếu rộng lập mười nghiệp ác, tự tánh khác nhau còn do năm tướng năm tướng gồm: Một là sự, hai là tưởng, ba là dục lạc, bốn là phiền não, năm là phương tiện rốt ráo. Sự là mỗi nghiệp đạo đều quyết định khác đã nương vào sự, hoặc hữu tình Số, hoặc phi hữu tình Số, tùy theo chỗ cần nương của người nghiệp đạo ác kia mà chuyển. Tưởng có bốn: một là tưởng ở chỗ kia chẳng phải kia (như luật chép: tưởng nhân, phi nhân); hai là chẳng ở chỗ kia tưởng ở chỗ kia (tưởng chẳng phải người mà là người); ba là ở chỗ kia tưởng là ở chỗ kia (tưởng người là người); bốn là tưởng ở chỗ kia chẳng phải ở kia (tưởng phi nhân là phi nhân).
Về Dục lạc, hoặc có tưởng điên đảo, hoặc không có tưởng điên đảo, lạc đã thành dục. Phiền não là, hoặc tham, hoặc sân, hoặc si. Hoặc tham sân, hoặc tham si, hoặc sân si, hoặc tham sân si tất cả đều đủ. Phương tiện rốt ráo tức là đối với sở dục tùy theo sự tạo nghiệp mà khởi phương tiện, hoặc ngay lúc ấy, hoặc sau đó được rốt ráo. Do năm tướng này mà thành sát sinh, cho đến tà kiến trong các nghiệp đạo, theo đó nên cần phải xây dựng tự tánh tròn đủ. Mười loại luận văn khác nhau như thế. Nay (664) y theo ý kia giải thích duyên phạm này. Việc trong giới sát nghĩa là hữu tình số, chúng sinh là việc, ở đây có ba phẩm: một là phẩm thượng, nghĩa là giết Phật, bậc Thánh, cha mẹ, Sư Tăng thì phạm năm tội nghịch và tội trọng. Người chứng quả thứ ba ở dưới, một là không nghịch, trong kinh Niết-bàn vì xếp vào giới sát nên chắc chắn. Bồ-tát đồng với khoa sát ở trên, một là nghịch, trong bảy tội nghịch chỉ nói giết bậc Thánh chớ chẳng nói là không học, nên giết mẹ dưỡng thai là phạm tội nghịch, đối với Bồ-tát là lỗi nặng, chỉ nói là nặng, chẳng phải sinh bản. Hai là phẩm trung là giết trời Người chỉ phạm tội trọng. Ba là phẩm hạ, nghĩa là bốn cõi dưới, nếu giết thì chỉ phạm tội nhẹ vì không phải đồ đựng đạo. Văn chép rằng: Tất cả loài có sinh mạng và nêu nhẹ so sánh với nặng. Trong giới Thanh văn cũng nói rằng dù cho loài kiến nhỏ cũng không nên cắt đứt mạng sống của nó huống chi là tội trọng. Một là thành trọng, vì văn không phân biệt, trong giới Thanh-văn, ban đầu tuy nói chung, sau đó thì phân biệt riêng, ở đây không như vậy, không hề phân biệt riêng, nên biệt là trọng. Về tưởng, trong luận chép rằng: Nếu người giết hại, đối với chúng sinh nghĩ là chúng sinh, khởi ý muốn giết hại chúng sinh, ý nghĩ này không điên đảo đối với chúng sinh kia. Nhưng nghĩ có ba: một là không có ý nghĩ điên đảo, nghĩa là như người nghĩ là người, ngay câu thứ ba ở kia nghĩ là ở kia và chẳng phải người khởi tưởng, chẳng phải người tức là câu thứ tư chẳng phải ở chỗ kia tưởng chẳng phải ở chỗ kia; Hai là nghĩ điên đảo, nghĩa là người khởi nghĩ là chẳng phải người, tức là câu thứ nhất đối với kia nghĩ chẳng phải kia, đối với phi nhân nghĩ là người, tức là câu thứ hai chẳng phải kia là kia; Ba là nghi tưởng, nghĩa là người mà nghi chẳng phải người, chẳng phải người nghi là người. Luận tuy không nói, y theo luật lẽ ra không có sự điên đảo. Trong hai người tưởng là một người phạm căn bản, chẳng phải người tưởng chẳng phải người thì không phạm. Nếu thấy phi súc sinh cũng phạm căn bản. Nay y cứ theo phi tình nên nói không phạm. Trong tưởng điên đảo cả hai đều không phạm căn bản, nhưng phải phân biệt. Ban đầu người mà nghĩ là phi nhân, vốn mê nên không phạm, chuyển tưởng cũng phạm. Cuối cùng phi nhân tưởng là người tuy không phạm căn bản nhưng một bề có tội, phạm phương tiện.
Về dục lạc; luận chép rằng: Vì nương theo tưởng này nên khởi tâm như vầy: Ta phải giết chúng sinh, như vậy gọi là sát sinh. Dục lạc này là suy nghĩ giết, gọi là dục, mở rộng... Mạn là gặp cảnh nào cũng đều giết hại. Nếu tâm mạn thì gặp bất cứ cảnh nào cũng đều thành căn bản. Nếu kiềm chế tâm thì tâm cảnh tương xứng, liền thành căn bản. Nếu không tương xứng, vì không thành cho nên nhẹ. Phiền não, trong luận chép rằng: Đây hay giết hại thì hoặc là bị tham che lấp hoặc sân che lấp, hoặc si che lấp, hoặc cả hai che lấp, hoặc cả ba tham sân si che lấp mà khởi tâm, ấy gọi là Phiền não. Phương tiện rốt ráo là kia do dục lạc và tâm nhiễm ô, hoặc mình hoặc người khác phát khởi phương tiện làm hại chúng sinh. Nếu giết hại không ngừng người, kia liền qua đời tức là phương tiện này. Nên lúc ấy nói là thành tựu nghiệp đạo rốt ráo. Nếu sau đó, người kia mới qua đời thì gọi là thành tựu nghiệp đạo rốt ráo.
Kết phạm khinh trọng, có ba: một là phương tiện căn bản tướng đối phân biệt, phương tiện thiếu duyên không thành cho nên nhẹ. Căn bản đủ duyên nghiệp buông lung cho nên nặng; hai là theo trong bản tùy cảnh nhẹ nặng, vì theo cảnh của phẩm thứ ba mà nghiệp có nhẹ nặng; Ba là y cứ vào một cảnh, vì tùy tâm nhẹ nặng tùy khả năng khởi tâm mà có nhẹ nặng, thành nghiệp cũng giống như vậy, nhiễm hay không nhiễm đều phạm, tâm ngộ nhận thì khác, nghĩa ấy rất dễ hiểu. Sự giống nhau và khác nhau của học xứ là giới này Đại thừa hay Tiểu thừa đều cấm, đạo tục cũng giống nhau. Nhưng Đại thừa và Tiểu thừa không hoàn toàn giống nhau. Một là khác nhau về nhẹ nặng, Thanh văn chỉ có người là nặng, ngoài ra đều là nhẹ; Ba cảnh của Đại Sĩ đều nặng; Hai là khác nhau về khai già: Thanh văn chỉ cấm chớ không khai, Đãi Sĩ có thể phương tiện khai vì lợi ích chúng sinh. Bồtát Địa chép: Nếu các Bồ-tát an trụ trong tịnh giới luật nghi của Bồ-tát, dùng phương tiện khéo léo để làm lợi ích cho người khác, nên đối với các tánh tội ít hiện hành. Do nhân duyên ấy mà đối với giới Bồ-tát không có sự trái phạm sinh ra nhiều công đức. Nghĩa là Bồ-tát thấy kẻ trộm cướp là tham của cải nên muốn giết nhiều chúng sinh, hoặc có người muốn giết Đại đức Thanh văn, Độc Giác, Bồ-tát, hoặc muốn gây ra nhiều nghiệp Vô gián, thấy việc ấy rồi phát tâm nghĩ rằng nếu ta cắt đứt mạng sống chúng sinh độc ác kia thì sẽ bị đọa vào địa ngục, còn nếu kẻ ác kia không chết thì nghiệp Vô gián thành tựu sẽ bị khổ dữ dội. Ta thà giết kẻ ác kia mà bị đọa vào địa ngục chớ không bao giờ để cho kẻ ấy chịu tội khổ Vô gián. Bồ-tát suy nghĩ ý lạc như thế, đối với chúng sinh kia hoặc dùng tâm lành, hoặc dùng tâm vô ký, biết việc này rồi, vì tương lai nên hết sức sinh tâm hổ thẹn, dùng tâm thương xót mà cắt đứt mạng nếu chúng sinh kia. Do nhân duyên ấy nên trong giới Bồ-tát không bị trái phạm mà còn sinh ra nhiều công đức. Như vua Tiên Dự giết 500 Bà-la-môn, chính là việc ấy. Chế tâm chế sắc cũng khác nhau, văn gồm có ba: Một là nêu người, tức là Phật tử, vì chưa thọ giới Bồ-tát nên không có chỗ chế này. Như giới Thanh văn lấy Tỳ-kheo làm ví dụ; hai là nói về việc phạm như nghiệp tự giết; ba là kết tên tội, đó là tội Ba-la-di của Bồ-tát. Nói về việc phạm có ba: Một là nêu việc không nên chế, không được làm; hai là từ Bồ-tát trở xuống nêu chỗ cần dạy khiến cho thường làm; ba là tự bung lung, lại nêu không phải thành việc phạm. Đầu tiên ở trong phần không nên lại có ba, sáu câu đầu nói về việc phạm, bốn câu kế giải thích thành phạm, sau đó cho đến tất cả loài hữu tình có sinh mạng. Xưa phân biệt khinh so với trọng. Nay là kết phạm vi của phạm. Trong việc phạm đầu tiên có hai phần thay đổi. Phương tiện giết là như cậy thế và thuốc độc, khen ngợi giết là do ta khen tặng người đối diện chết. Thấy giết mà tùy hỷ là do ta tùy hỷ người trước đã chết. Cho đến dùng búa chú để giết, nghĩa là chú Tỳ-Đà-la,. v.v... do tụng chú này mà người đối diện bị chết. Việc giết có nhiều cách, vì lược bớt nên nói cho đến, như đọa thai, đè bụng, sai người, trùng sử, v.v... chẳng phải một thứ. Trong y cứ thành phạm nghiệp sát là trong ba nghiệp tùy theo một nghiệp mà thành việc sát. Cách thức giết nghĩa là dùng dao chém, hoặc là bắn tên, v.v... Nhân giết nghĩa là khởi tâm về nhân, v.v... Duyên giết là sự tưởng phương tiện dục lạc phiền não, như trên đã nói tùy việc thay đổi, còn nêu không nên. Tự buông lung là đối với pháp Phật chế ra không quan tâm sợ sệt, buông lung ngu tình của mình tùy duyên tạo tác. Ưa thích sát sinh là bên trong không mê lầm, bên ngoài không có ngặt, đã hiểu rõ tâm hạnh sát sinh. Kết tên tội Ba-la-di, đây gọi là rơi vào chỗ không như ý cũng gọi là tha thẳng xứ. Người xuất gia vốn là hàng phục mắt tuệ, nhưng vi phạm giới đọa vào chỗ không như ý nên nói là rơi vào chỗ không như ý, mắt tuệ hơn ta nên gọi là Tha thắng xứ.
Nếu Phật tử tự mình trộm cướp, bảo người trộm cướp, phương tiện trộm cướp, ngợi tặng người trộm cướp, thấy người trộm cướp tùy hỷ, cho đến dùng bùa chú trộm cướp: Nhân trộm cướp, duyên trộm cướp, cách thức trộm cướp, nghiệp trộm cướp, v.v... tất cả tài vật có chủ dầu là của Quỉ thần hay của kẻ cướp, cho đến một cây kim, một ngọn cỏ đều không được trộm cướp. Là Bồ-tát lẽ ra phải thường có tâm từ bi, tâm hiếu thuận, thường giúp cho mọi người được phước được vui, mà trái lại trộm cướp tài vật của người, Phật tử này phạm “tội Ba-la-diệt đế đạo đế của Bồ-tát”.
Chế ý thích danh: của cải là vật bên ngoài sinh mệnh, còn chờ giúp đỡ, tự dứt ngã của mình, đều phải yêu quý giữ gìn, Bậc Đại Sĩ vì lòng từ bi nên phải giúp cho mọi người được phước được vui, mà khắp xâm tổn vật của người khác thêm lớn tâm tham của mình, trái hạnh từ bi nên lần lượt chế, trộm còn có tên là không cho mà lấy, ăn cắp gọi là thâu, dùng quyền thế chiếm đoạt gọi là cướp, trộm chung cho cả hai (665) đủ duyên thành phạm. Việc không cho mà lấy, trong luận chép rằng: Vật thuộc của người khác. Có người y cứ theo luật chỉ lấy vật của người từ năm tiền trở lên mới phạm trọng, hoàn toàn không đúng. Văn chép rằng: Tất cả tài vật có chủ dầu là của Quỉ thần hay của kẻ cướp cho đến một cây kim một ngọn cỏ đều không được trộm cướp. Nên biết khác với Thanh văn. Tưởng là: vật của người nghĩ là vật của người, bốn câu tội, không tội y theo giới sát nên biết. Dục lạc là muốn trộm cướp, phiền não là trong ba loại hoặc là một hoặc là đủ. Phương tiện cứu cánh là khởi phương tiện dời khỏi chỗ cũ. Kết phạm khinh trọng y theo giới sát nên biết. Học xứ đồng khác là cũng y theo giới sát. Bồ-tát Địa chép rằng: Lại như Bồ-tát thấy có vị Tể quan tăng thượng, cực kỳ bạo ác, chuyên não hại hữu tình không có chút lòng thương xót. Bồ-tát thấy rồi nên suy nghĩ bỏ điều ác kia, khởi tâm thương xót, phát sinh lợi ích an vui, ý lạc, tùy theo khả năng có thể hoặc sa thải, hoặc cách chức những vị quan tăng thượng ấy. Do nhân duyên ấy mà không trái phạm giới Bồ-tát, sinh nhiều công đức. Lại như Bồ-tát thấy kẻ trộm cướp chiếm đoạt tài vật của người khác, hoặc vật của tăng-già, vật của tháp, lấy rồi chấp là của mình rồi tha hồ thọ dụng. Bồ-tát thấy vậy khởi tâm thương xót, làm cho kia phát sinh lợi ích an vui. Tùy theo khả năng mình bắt buộc phải trả lại, không cho thọ dụng. Lấy của cải phi nghĩa như thế nên phải chịu đêm dài vô nghĩa vô lợi. Vì lý do chiếm đoạt của cải ấy nếu là của tăng-già thì trả lại cho tăng-già, vật của tháp phải trả lại cho tháp, vật của hữu tình phải trả lại cho hữu tình. Lại thấy các vị chủ hoặc chủ vườn rừng lấy vật của tăng-già, vật của tháp, nói là vật của mình nên lung lòng thọ dụng. Bồ-tát thấy rồi liền khởi lòng thương xót kẻ ác kia, không cho dựa vào nghiệp thọ dụng sai trái này mà phải chịu đêm dài vô nghĩa vô lợi, tùy theo khả năng mình mà sa thải những vị chủ ấy. Bồ-tát ấy tuy không cho lấy nhưng chẳng nhưng không trái phạm, lại còn được nhiều công đức. Theo văn như ba phần trước, nói về việc phạm, trước phân biệt việc không nên phạm có bốn câu, thứ tư dùng bùa chú trộm thành phạm, bốn câu sau mới xếp vào. Về phương tiện phạm, như trong luật chép rằng: Tỳ-kheo nhân cúng dường nói với thí chủ rằng: người nhận sự cúng dường của ông là bậc A-la-hán... Nếu được cúng dường thì tội gồm cả hai việc, đó là nói dối để trộm. Chú trộm là tụng chú khiến cho vật của người tự đến chỗ mình. Không khen ngợi là không vì khen ngợi mà thành nghiệp của mình. Vật có chỉ là quỉ thần, nghĩa là vật trong miếu thần hoặc Quỉ thần chính là chủ, hoặc là chủ canh giữ. Vật của kẻ trộm cướp, vật của kẻ trộm cướp là mà quan đã tịch thu. Cũng có thể vật trộm cướp vốn là vật của ta nhưng nếu cướp đoạt mà có thì trở thành vật của kẻ trộm, vì vật vô định thuộc về ai tùy theo cách lấy mà thành chủ của nó.
Nếu Phật tử tự mình dâm dục, bảo người dâm dục với tất cả phụ nữ, các loài cái loài mái, cho đến Thiên nữ, quỉ nữ, thần nữ, cũng phi đạo mà hành dâm. Là Bồtát lẽ ra phải có tâm hiếu thuận cứu giúp tất cả chúng sinh, dùng pháp thanh tịnh khuyên dạy người, lại không có tâm từ bi làm cho mọi người sinh việc dâm dục, không phân biệt súc sinh cho đến hành dâm với mẹ, con, chị, em trong sáu thân, Phật tử này phạm “Tội Ba-la-diệt đế đạo đế của Bồ-tát”.
Giới dâm thứ ba, chia văn như trước. Chế ý thích danh, kinh chép rằng: Nếu không dứt trừ dâm dục còn chướng quả Phạm Thiên, huống là được quả Bồ-đề, nối nhau trói buộc sinh tử không xa lìa được, chính là do đây, nên cấu khiến cho dứt trừ. Hoang sắc gọi là dâm cũng gọi là Phi phạm hạnh, các giới tuy đều phi phạm nhưng nhiễm ô này quá nặng cho nên nói riêng. Trong đủ duyên sự là ba cảnh đều trọng. Trong luật chỉ ba đường của người nữ, hai chỗ của người nam là cảnh trọng, chỗ khác thì không trọng. Nếu y theo văn Kinh thì hành dâm ở phi đạo. Nên biết Bồ-tát đối với phi đạo cũng là trọng. Lại luận Du-già chép rằng: Việc nghiệp đạo tà dục nghĩa là người nữ không nên hành. Nếu nên hành thì Phi chi Phi xứ, Phi thời, Phi lượng. Nếu không đúng lý thì tất cả nam và bất nam, nếu đối với mẹ, v.v... Sở hộ của mẹ, v.v... gọi là không nên hành. Ngoài cửa sinh ra, đã có phần khác đều gọi là Phi chi. Nếu khi chất bẩn tiết ra, khi thai tròn đủ, trẻ uống sữa, lúc thọ trái giới, hoặc khi bị bệnh nghĩa là đã bị bệnh không nên tập dục, đó gọi là Phi thời. Nếu các chỗ tôn trọng đã nhóm họp, hoặc trong linh miếu, hoặc trước đại chúng hoặc vùng cao thấp không bằng phẳng làm cho không yên ổn, những chỗ như thế gọi là Phi xứ. Quá lượng mà thực hành gọi là phi lượng, vì không theo nghi thức thế tục nên gọi là Phi lý. Nếu tự hanh dục, hoặc làm môi giới cùng người khác. Hai điều này đều thuộc về dục tà hạnh. Tưởng: là ở kia nghĩ là kia. Nếu theo văn luật thì đối với đạo nghĩ là đạo, đạo nghĩ và nghi là phi đạo, đều thành trọng. Dục lạc là muốn hành lạc. Phiền não là ba độc, hoặc đủ hay không đủ. Phương tiện rốt ráo là hai bên đã giao hội. Kết phạm khinh trọng là tùy cảnh, tùy tâm, y theo phần trước rất dễ biết. Học xứ đồng khác là Đại thừa, Tiểu thừa cũng chế. Năm chúng xuất gia chánh tà đều cấm. Hai chúng tại gia chế tà khai chánh. Bồ-tát Địa chép: Lại như Bồ-tát tại gia thấy mẫu ấp hiện không hệ thuộc vào thói quen dâm dục, sau đó tâm Bồtát tìm kiếm phi phạm hạnh. Bồ-tát thấy rồi khởi lên ý nghĩ, không cho tâm sinh nhiều tức giận mà mất phước. Nếu theo ý muốn liền được tự tại, phương tiện ở yên khiến gieo trồng gốc lành. Cũng nên khiến cho họ bỏ nghiệp bất thiện, trụ thương xót, mẫn hành phi phạm hạnh. Tuy quen pháp uế nhiễm như thế nhưng không có, phạm, sinh nhiều công đức. Bồ-tát xuất gia được che chở Thánh Thanh văn chỉ dạy khiến cho không hoại diệt, tất cả không nên hành Phi phạm hạnh. Trong văn chép tự mình dâm dục, xúi giục người dâm dục thì trong pháp Thanh văn tự dâm dục thành trọng, xúi giục người dâm dục không thành trọng. Trong pháp Đại thừa mình và người đều trọng. Hành dâm Phi đạo trong pháp Thanh văn, hành dâm với người nữ ở ba chỗ, vơi người nam ở hai chỗ thì phạm tội trọng, hành dâm ở Phi đạo thì không phạm trọng. Trong Pháp Đại thừa, đạo và phi đạo đều phạm trọng. Nghiệp đạo dâm dục trong Du-già cũng nói như thế, xem văn khác rất dễ hiểu.
Nếu Phật tử tự mình nói dối, bảo người nói dối, Phương tiện vọng ngữ: nhân vọng ngữ, duyên vọng ngữ, cách thức vọng ngữ, nghiệp vọng ngữ. Cho đến không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, hoặc thân vọng ngữ, tâm vọng ngữ. Là Phật tử lẽ ra phải thường chính ngữ chánh kiến, cũng làm cho tất cả chúng sinh có chính ngữ, chính kiến, mà trái lại làm cho mọi người tà ngữ, tà kiến, tà nghiệp thì Phật tử này Phạm “tội Ba-la-di” của Bồ-tát. Đó là giới nói dối thứ tư.
Chế ý thích danh là làm cho mọi người kém hiểu biết, rất trái với đạo chân thật nên đặt ra giới này, trái với ý tưởng mà nói nên gọi là nói dối. Việc nếu là thật, như trái vợi nội tâm đều gọi là nói dối. Đủ duyên trong việc nghĩa là thấy, nghe, hay, biết, không thấy, không nghe, không hay, không biết. Nghĩ là đối với thấy. v.v... hoặc nghĩ ngược lại. Nghĩ ngược lại có hai việc: một là nghĩ việc không đều ngược lại, như việc không thấy khởi tưởng không thấy mà nói thấy; hai là tưởng việc không ngược lại, như việc không thấy, khởi tưởng thấy mà nói không thấy. Hai việc này đều thành nói dối. Dục lạc là che giấu tưởng lạc nói là dụ. Phiền não là như trên, phương tiện rốt ráo là thời, chúng và người đối diện nhận hiểu thì kết phạm. Về khinh trọng, như tùy theo cảnh mà nói thì cảnh của ba phẩm đều trọng, hoặc là chỉ có phẩm thượng mới kết trọng, đối với cảnh ở phẩm hạ chỉ kết khinh cấu, tùy tâm (666) rất dễ hiểu. Nếu lại y theo luật thì chỉ ở pháp của bậc thượng nhân, phạm trọng làm cho vô phân biệt, lẽ ra phải chế chung. Học xứ đồng khác là Đại thừa Tiểu thừa đều chế, đạo tục cũng đồng. Lại trong pháp Đại thừa có thêm chỗ khai. Bồ-tát Địa chép: Lại như Bồ-tát vì giải thoát mạng nạn, nạn trói buộc lao tù, nạn chặt tay chân, nạn xẻo mũi, cắt tai, khoét mắt. v.v.. cho các hữu tình, tuy các Bồ-tát chính mình bị nạn cũng không dám nói dối, nhưng vì cứu thoát các hữu tình kia nên biết mà suy nghĩ chọn lựa cho nên nói dối. Tóm lại, Bồ-tát chỉ xem nghĩa lợi của hữu tình, tự mình chẳng những không có nghĩa lợi mà tâm còn không có ô lợi, chỉ vì nhiêu ích cho các hữu tình. Tưởng chánh trị mà nói lời khác, khi nói là ngôn ngữ, đối với giới Bồ-tát không có trái phạm sinh ra nhiều công đức, trong thích văn việc khác dễ hiểu. Về thân tâm nói dối: Thân nói dối nghĩa là từ thân nghiệp biểu thị làm cho người ta hiểu sai, mà thành nghiệp, đã thuộc về ngữ nghiệp nên gọi là nói dối.
Nếu Phật tử tự mình bán rượu, bảo người bán rượu: nhân bán rượu, duyên bán rượu, cách thức bán rượu, nghiệp bán rượu, tất cả rượu không được bán. Rượu là nhân duyên sinh ra tội lỗi, là Phật tử lẽ ra phải giúp cho tất cả chúng sinh có trí tuệ sáng suốt, mà lại đem sự mê say điên đảo đến cho tất cả chúng sinh. Phật tử này Phạm “tội Ba-la-diệt đế đạo đế của Bồ-tát”. Đây là giới bán rượu thứ năm.
Chế ý thích danh là: Rượu làm nhân duyên cho buông lung, dật mất các Pháp lành. Như luận chép rằng: Ngoài việc Phá tăng, như khi say rượu thì tất cả Pháp nghịch khác đều có thể làm. Ba mươi sáu lỗi, mười thứ tai họa trong luật luận đều có nhắc nhở. Nếu chỉ tự mình uống lỗi còn nhẹ, chớ bán để cầu lợi thì tổn hại rất rộng. Nên tuy chẳng phải tánh ác nhưng cũng đồng chế là trọng. Cô là mua bán, vị nồng dễ say, tuy ngọt nhưng độc nên gọi là rượu. Đủ duyên nghĩa là thể rượu thành. Luận chép rằng: Tể-La-Nhã, Mê-Nghi-Tà, Vị Đà buông lung, do ngũ cốc chế thành Tể-la-Nhã, quả khác chế thành Mê-Nghi-tà, phân biệt với chưa thành, đã hoại gọi là Vị-Đà.
Nghĩ: Luật chép: Rượu nghĩ là rượu, rượu nghi chẳng phải rượu, rượu tưởng chẳng phải rượu đều kết chính tội. Y theo luật kia chế, giới bán rượu này cũng phải như vậy. Lại theo luật thì nói uống ba câu đều phạm. Nếu nói theo bán thì tâm cảnh tương ưng mới có thể kết trọng. Dục lạc là tâm muốn đem rượu cầu lợi với người. Phiền não là trong ba tùy bất cứ một thứ nào hoặc là đủ hai, ba. Phương tiện rốt ráo là khi trao cho người liền phạm, không cần phải người trước uống và không uống. Kế là đến đợi người đối diện uống mới phạm. Kết phạm nặng nhẹ, nói theo cảnh thì trong luật chép: mua bán với bà con phạm tôi khinh, vì tâm cầu lợi với số lượng ít, nghĩa y theo việc mua bán rượu cũng phải như vậy. Nếu cùng người ở cảnh thượng, trung đều chế trọng. Nếu cảnh hạ phẩm, vì việc ít nên nhẹ. Bảy chúng đồng phạm, Đại thừa Tiểu thừa đều chế, nhưng nặng nhẹ có khác, bậc Đại Sĩ lỗi nặng. Thanh văn chỉ phạm giới mua bán, tức là phần thứ ba, giải thích văn rất dễ hiểu.
Nếu Phật tử tự miệng rao nói tội lỗi của Bồ-tát xuất gia, Bồ-tát tại gia, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, hoặc bảo người rao nói những tội lỗi ấy: Nhân rao nói tội lỗi, duyên rao nói tội lỗi, cách thức rao nói tội lỗi, nghiệp rao nói tội lỗi. Là Phật tử khi nghe những kẻ ác, ngoại đạo và hàng Nhị thừa nói những điều phi pháp trái luật trong Phật pháp, thì thường phải có lòng từ bi giáo hóa những kẻ ác, ấy khiến cho họ xin tín tâm lành đối với Đại thừa, mà Phật tử lại tự mình rao nói tội lỗi trong Phật pháp. Phật tử này phạm “tội Ba-la-di của Bồ-tát “. Đây là giới thứ sáu: Rao lỗi của bốn chúng. Chế ý thích danh là đồng pháp tướng hộ, nghĩa đồng với anh em, mà lại hướng về đường khác phô trương lỗi thiếu sót của người khác, gần thì dìm mất người tốt, xa thì tổn hoại chánh pháp, lỗi ấy rất nặng nên Phật chế giới để dứt trừ. Đáng xả bỏ, đáng nhàm chán, nên gọi là tội lỗi, biểu dương hướng khác nên gọi là thuyết. Nói đủ duyên nghĩa là người có giới đã có tội lỗi nói với người không có giới. Bảy tội nghịch, mười giới trọng là chánh chế, từ lỗi nhẹ khác cũng gồm chế. Tưởng là đối với tội lỗi nghĩ là tội lỗi. Dục lạc là mong vui nên muốn nói tội lỗi. Đây có hai: Một là dìm mất tâm, muốn làm cho người dõi diệu mất danh lợi...; hai là trị phạt tâm, muốn làm cho người đối diện bị trói buộc, v.v... Dùng hai tâm này rao nói tội lỗi của người khác đều phạm trọng, phiền não đến bực nào. Phương tiện rốt ráo là hoặc tự rao nói, hoặc bảo người khác rao nói. Khi người đối diện nhận hiểu liền thành rốt ráo. Kết Phạm khinh trọng, y cứ theo đây rất dễ hiểu. Học xứ đồng khác là Thanh văn rao nói tội trọng của kẻ khác cho người chưa thọ giới cụ túc nghe, phạm thiên thứ ba. Nếu rao nói tội tăng tàng trở xuống đều phạm thiên thứ năm. Bồ-tát gồm làm cả việc cứu giúp làm hoài bảo nên chế tội trọng. Văn chỉ nói rằng rao nói lỗi, không phân biệt khinh trọng. Trở xuống là giới khinh, giới thứ 13 nói về bảy tội nghịch và mười giới trọng, y theo kia đây cũng nên như vậy. Nhưng kia nói đồng pháp nên nhẹ, ở đây nói pháp khác nên nặng. Lại nói rằng: kia nói vô sự nên nhẹ, nếu biết vô sự thì không thể dìm mất. Hoặc trị phạt nên ở đây rao nói có phạm trọng thật, văn giải thích rất dễ hiểu.
NGƯỜI: Nếu Phật tử tự khen mình chê người, cũng bảo người khác khen mình chê người: Nhân chê người, duyên chê người, cách thức chê người, nghiệp chê người. Là Phật tử lẽ ra phải thay thế chịu những sự khinh chê khổ nhục cho tất cả chúng sinh, mình nhận lấy việc xấu, nhường cho người việc tốt. Nếu Phật tử tự phô bày tài đức của mình mà dìm che điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê. Bồ-tát này phạm “tội Ba-la-di của Bồ-tát “.
Chế ý thích danh: Bồ-tát lẽ ra phải nhường điều tốt cho người, nhận xấu về mình, mà nay trái lại tự phô trương, hủy nhục người, rất trái với bản tâm, nên thật chế để dứt trừ. Khen ngợi công đức của mình, chê bai lỗi người khác. Là chỗ phòng lỗi, từ chỗ phòng lỗi làm tên, nên nói rằng giới khen chê. Trong đủ duyên thành phạm, sự có hai việc: Một là chê người; hai là chê việc. Trong chê người nói rằng: Nếu chê hai cảnh phẩm thượng và trung thì phạm trọng, chê cảnh phẩm hạ phạm khinh. Giới này gồm chế, như hai cảnh ở phẩm thượng và trung có giới Bồ-tát thì mới trọng, vì phiền não ngăn trở sâu. Nêu không có giới cho đến cảnh phẩm hạ có giới hay không có giới đều phạm khinh, vì phiền não ngăn trở cạn. Sau này giải thích phải y theo luật. Luật dạy: chê bai bậc đại Tỳ-kheo mới kết tội, nên biết trong giới Đại thừa, chê Bồ-tát đồng pháp mới kết tội trọng. Nay là giới rao nói tội lỗi, nêu riêng bốn chúng. Giới chê người này nói chung là chê người, không co nêu riêng, y theo luật phân biệt, theo lý e rằng không đúng. Sự chê là y theo luật có bảy: Một là sinh trong dòng họ nổi tiếng; hai là hạnh nghiệp thấp hèn; ba là kỹ thuật khéo léo cũng thấp; bốn, ông là người phạm lỗi, năm là nặng về kiết sử; sáu là đồ đui mù; bảy là hói mù. Trong bảy việc này, dùng một việc để chê người đều phạm trọng. Tưởng là đổi nghi không đổi y theo văn trước giải thích. Dục lạc là phô trương tài đức của mình dìm, che điều tốt của người, ý muốn cầu lợi cung kính. Phiền não là một trong ba độc, hoặc một, hoặc hai, hoặc đủ cả ba, nhưng thành rốt ráo phải do tâm tham. Bồ-tát Địa chép: vì muốn tham cầu lợi dưỡng cung kính, nên tự khen mình chê người. Ấy gọi là pháp tha thắng xứ bậc nhất. Phương tiện rốt ráo là hoặc tự làm, hoặc bảo người làm, khi người đối diện nhận hiểu lời khen chê liền kết phạm. Luật chép rằng: chê bai có ba: Một là mắng trước mặt; hai là thí dụ mắng; ba là tư so sánh (667) mắng. Mắng trước mặt: như nói ông là dòng họ Chiên-đà-la. v.v.. Dụ mắng như nói ông giống như chủng tộc Chiên-đà-la... Tự so sánh mắng là nói tội chẳng phải chủng tộc Chiên-đà-la... Ba cách mắng này nếu hiểu rõ đều phạm Ba-dật-đề, nếu không hiểu rõ phạm Đột-cát-la. Y theo Bồ-tát này hiểu rõ đều phạm trọng, không hiểu rõ đều phạm khinh. Lại phải có đủ khen chê mới kết trọng. Nếu chê mà không khen, khen mà không chê thì chỉ phạm khinh cấu. Hoặc trước khen sau chê, hoặc trước chê sau khen, đều làm cho tâm vận hành khen chê, đủ cả hai đều kết trọng. Nếu trước khen sau chê, khi khen phương tiện thì khinh, khi chê thành gốc trọng, trước chê sau khen cũng như vậy. Như tám việc của Ni, mỗi việc khi làm, phương tiện phải hợp nhau, khi đủ tám việc mới kết tội Ba-la-di. Nếu chỉ muốn khen, hoặc chỉ muốn chê, tuy trước sau đủ hai nhưng đặc biệt chỉ kết hai tội khinh, không thành trọng. Như dứt bỏ tâm sở, lấy bốn tiền không thành trọng. Kết phạm khinh trọng là nếu nói theo cảnh thì nghiệp chê Thánh, chê Phàm, chê đạo, chê tục, chê người, chê súc sinh, tùy theo cảnh trước chẳng thể không có khinh trọng. Nếu nói theo tâm thì luôn luôn hiện hành, đều không hổ thẹn, rất sinh ưa thích thấy là công đức, ở phẩm thượng thì mất giới, không đủ bốn là phẩm trung và phẩm hạ, phạm mà không mất giới. Học xứ đồng khác, Thanh văn phạm Ba-dật-đề, Bồ-tát phạm Ba-la-di. Theo Kinh Thiện Sinh thì Bồ-tát tại gia không chế là trọng. Nếu theo kinh này không phân biệt nên bảy chúng đều phạm trọng. Trong văn, tự miệng khen mình chê người nghĩa là từ miệng phát ra lời khen đức của mình chê lỗi xấu của người, cũng bảo người tự khen mình chê người. Đây có hai: một là bảo người trước khen cái tự được của người kia chê lỗi xấu của người khác; hai là bảo người trước khen cái tự đắc của mình chê lỗi người khác, cả hai đều phạm chê nghiệp của người, đúng chỉ là khẩu nghiệp. Văn chép rằng: Tự khen mình chê người nên thân biểu hiện ý duyên, tướng khen chê ẩn nên không phạm tội trọng. Thường thay thế chịu những sự khinh chê khổ nhục cho tất cả chúng sinh: là Bồ-tát khởi tâm ngậm cấu bẩn như biển, chịu khổ nhục như đất. Nhưng Bồ-tát Địa chép: Không rửa sạch tiếng xấu phạm tội trọng, phòng ngừa người đối diện chê bai đắc tội, chẳng phải cho là Bồ-tát quá suy tôn người.
Hỏi: Bồ-tát tự mình không có việc xấu, người trước thật không có việc tốt, làm sao nhận việc xấu nhường cho người việc tốt được?
Đáp: Việc này có hai nghĩa: Một là người đối diện vô đạo khinh chê Bồ-tát, Bồ-tát khởi niệm như có người trúng tên, nếu không thì chẳng trúng, do có thân ta nên chúng sinh khởi ác, không có thân ta thì không do đâu mà khởi. Khởi ác là do ta, ác là tại ta, ấy là việc ác tự hướng về mình. Lại nghĩ rằng: Do người đối diện chê ta nên ta được tu giới để phòng ngừa. Nếu không có người ấy thì phước lành của ta do duyên gì mà sinh, được sinh phước lành là do người ấy, phước lành ở người ấy, đó là cho người khác việc tốt; hai là kia xấu ta tốt là do cái thấy của ta thôi. Nếu nói theo thật lý thì mình và người đều đồng một thể. Bồ-tát phải theo thật lý chớ không theo vọng kiến, nên phải nhận cái xấu về mình, nhường cho người điều tốt. Làm cho người khác bị hủy nhục thì
Phật tử phạm “tội Ba-la-di” của Bồ-tát. Kết tội danh ấy, Bồ-tát Địa chép rằng: Nếu các Bồ-tát an trụ trong tịnh giới luật nghi của Bồ-tát, đối với người khác có tâm ái nhiễm, tâm sân nhuế, tự khen mình chê người, ấy gọi là có phạm, có sự trái vượt là nhiễm trái phạm. Không trái phạm là hoặc vì tồi phục các ngoại đạo và các kẻ ác. Hoặc vì trụ trì thánh giáo của Như lai. Hoặc muốn phương tiện điều phục các kẻ ác kia. Hoặc muốn khiến cho những người chưa có lòng tin thanh tịnh phát sinh niềm tin thanh tịnh, người có tâm tịnh tín rồi càng thêm vững chắc.
Nếu Phật tử tự mình bỏn xẻn, bảo người bỏn xẻn: Nhân bỏn xẻn, duyên bỏn xẻn, cách thức bỏn xẻn, nghiệp bỏn xẻn. Là Phật tử, khi thấy những người nghèo cùng đến cầu xin, thì phải cấp cho theo sự cần dùng của họ. Mà Phật tử có tâm giận ghét, cho đến không cho một chút, có người đến cầu học giáo pháp cũng chẳng nói một bài kệ, một câu, kinh lại còn xua đuổi quở mắng. Phật tử này phạm tội Ba-la-di” của Bồ-tát. Hạnh của Đại sĩ phải là không xin mà bố thí khiến cho độ người xin hiện tiền bỏn xẻn mà không cho, trái lại còn hủy nhục, vì trái với hóa đạo nên phải đặt ra để dứt trừ. Trong Bồtát Địa chỉ chép rằng: không thí tài và pháp, không nói lời phỉ báng nên gọi là giới bỏn xẻn không bố thí trí tuệ. Keo kiệt tài pháp gọi là San, mắng nhiếc người gọi là hủy, ngăn ngừa lỗi là giới. Việc trong đủ duyên nghĩa là chúng sinh bị hủy nhục và tài vật bị tiếc rẽ, trong cảnh phẩm thượng ngoài Phật và Bồ-tát, văn gọi là người nghèo cùng: Nên trong cảnh phẩm trung, nếu chẳng phải người nghèo cùng vì thử nên đến xin, không cho cũng không phạm. Cảnh phẩm hạ, xưa nói chẳng phải trọng, nay là người có hiểu biết chẳng phải súc sinh, theo lý cũng chẳng phải khinh. Về tài tiếc rẽ, pháp, văn chép rằng: Cho đến một tiền, một cây kim, một cộng cỏ, không nói một bài kệ một câu kinh cho người đến cầu học pháp. Tưởng là đối với hai cảnh trước gọi là cảnh mà tưởng. Dục lạc là ý lạc bỏn xẻn không cho. Phiền não hoàn toàn là tiếc rẽ, ngay chỗ nghèo làm chính, ngoài ra đều thành giúp, hoặc đủ hay không đủ. Phương tiện rốt ráo: là xưa nói người đối diện nhận hiểu là tướng bỏn xẻn, lãnh nạp lời đánh mắng, tùy việc, tùy lời mà kết trọng. Nếu y theo Bồ-tát Địa thì hẳn người đối diện nhận hiểu là tướng bỏn xẻn, chịu khổ đánh mắng mới kết trọng. Nếu quyết ý không cho còn nói lời keo kiệt, người xin kia hiểu hay không hiểu lẽ ra phải kết tội trọng. Nên văn kia chép: Nếu các Bồ-tát hiện có của cải, vì tánh tiếc của nên có người nghèo khổ, không nơi nương tựa, đang tìm xin của cải đến trước Bồ-tát ấy, mà Bồ-tát không khởi tâm thương xót để tu tuệ xả, có người đến cầu pháp, nhưng vì có tánh sẻn pháp, nên tuy hiện có pháp mà không cấp thí, ấy gọi là pháp tha thắng xứ thứ hai. Nhưng kinh này chép rằng: “trái lai còn xua đuổi, quở mắng”, rõ ràng là có lỗi. Kết Phạm khinh trọng: nếu nói theo cảnh thì có người nghèo khổ là trọng, người không nghèo khổ thì phạm khinh. Nếu nói theo tâm thì tùy theo sự khen chê trên, xưa nói phải đủ hai việc mới kết phạm trọng, nghĩa là bản sẻn lại còn mắng đuổi. Nếu bỏn xẻn mà không mắng đuổi, mắng đuổi mà không bỏn xẻn, đều không phạm trọng. Học xứ đồng khác là Thanh văn chỉ có đệ tử mà không dạy pháp thì phạm Đột-cátla, không cho của cải thì không chế phạm. Ni trong hai năm, không cho tài pháp thì phạm Ba-dật-đề, ngoài hai tuổi không cho phạm Đột-cát-la. Thêm mắng đuổi thì kết riêng, không phải là phạm trọng. Bồ-tát không phân biệt ngươi thân Say sơ đến xin, nếu không cho đều phạm tội trọng, vì bản thệ đều gồm vật nên bảy chúng đồng phạm. Theo Kinh Thiện Sinh thì đối với thế tục cũng không chế phạm trọng. Lại Kinh Quyết Định Tỳ-Ni chép rằng: Bồtát tại gia phải thực hành Nhị thí, một là pháp thí; hai là tài thí. Bồ-tát xuất gia phải hành bốn thí: Một là giấy; hai là mực; ba là viết, bốn là Pháp. Bồ-tát đắc nhẫn thực hành ba thí: một là ngôi vua hai là vợ con; ba là đầu, mắt, da, xương. Bồ-tát đắc pháp nhẫn phải từ Thập giải trở lên. Trong văn, xúi giục người bỏn xẻn cũng có hai: một là xúi người bản sẻn tài pháp; hai là xúi người tiếc tài pháp của mình. Nghiệp bỏn xẻn là ý nghiệp làm chính. Nếu hiện tướng miệng nói thì là thân miệng giúp thành. Cách thức bỏn xẻn: Tùy theo cách thức nói keo kiệt, hoặc mượn việc khác mà xua đuổi, hoặc ra oai mạ nhục mà đi. Duyên bỏn xẻn đủ năm việc như trên. Trong tài thí một cọng cỏ, trong pháp là một hạt bụi. Cái là nói thế lực cùng cực. Bốn lời là câu, bốn câu là một bài kệ, câu kệ không đủ là pháp ẩn. Nếu muốn nghe lời vô thường mà không nói thì lời vô thường này không thành câu. Bồ-tát Địa chép rằng: (668) Nếu các Bồ-tát an trụ trong luật nghi tịnh giới của Bồ-tát, có đầy đủ của cải ăn uống, v.v... lại có tâm hiềm hận, buồn giận mà không cấp thí, ấy gọi là có phạm, có chỗ trái vượt, là phạm trái nhiễm. Nếu vì lười biếng, uể oải, buông lung không thể thí cho, thì không phạm trái nhiễm. Không trái phạm là hiện không thể thí tài vật, hoặc người kia xin vật không đúng pháp, vật không thích hợp, hoặc dùng phương tiện điều phục người kia, hoặc người đến xin không thích hợp với vua thì phải bảo vệ ý vua, hoặc giữ gìn Tăng chế mà không cho thì đều không phạm.
Nếu Phật tử tự mình giận, bảo người giận: Nhân giận, duyên giận, cách thức giận, nghiệp giận. Là Phật tử lẽ ra phải giúp cho tất cả chúng sinh được những gốc lành không gây gổ; thường có tâm từ bi, tâm hiếu thuận mà đối với tất cả chúng sinh cho đến loài phi chúng sinh lại dùng lời ác độc mạ nhục, còn dùng tay, chân, dao, gậy để đánh đập mà vẫn chưa hả dạ, cho đến người kia dùng lời khéo léo sám hối, xin lỗi, nhưng vẫn không hết giận, Phật tử này phạm “tội Ba-la-di” của Bồ-tát.
Bồ-tát thường phải có tâm nhân ái che chở tất cả mà lại xâm tổn, không cho sám hối tạ tội, vì trái với lời sự giáo hóa nên Phật đặt ra để dứt trừ. Ngậm độc hại người là sân, kết hận không nguôi là không chịu nhận sám hối tạ tội. Cũng từ chỗ phòng ngừa là tên của giới. Việc trong đủ duyên gọi là chúng sinh. Xưa nói cảnh ở phẩm thượng, trung thì phạm trọng, cảnh phẩm hạ thì phạm khinh. Nay, văn chép: Đối với tất cả chúng sinh cho đến loài phi chúng sinh, nên biết là kết chung. Nếu như vậy thì đối với cây, đá..., sân cũng phải kết trọng.
Đáp: không đúng. Ở dưới chép rằng: Người kia khéo léo sám hối, xin lỗi, nên biết không chung với cây, đá. Nếu như vậy tại sao nói đối với loài phi chúng sinh, nay gọi bậc Thánh là phi chúng sinh, vì thọ sinh ở Phi xứ nên gọi là phi chúng sinh. Ở chỗ không nên tức giận mà tức giận, thì chẳng bằng người phàm, nên đặc biệt nói là cho đến. Tưởng là ở chỗ chúng sinh tức giận xứng cảnh mà tưởng. Dục lạc là ý vui muốn kết oán khôn nguôi. Phiền não lấy sân làm chính, ngoài ra đều giúp thành. Phương tiện rốt ráo, xưa nói rằng: Người kia nhận hiểu người này không chịu, bị thân miệng đánh mắng kết tội trọng, tùy thân nghiệp và khẩu nghiệp nhiều hay ít mà kết tội. Nay thì dù người kia nhận hiểu hay không, nếu quyết chí kết oán không nhận sự sám hối tạ tội thì kết trọng, cho nên biết như vậy là vì Sân tức là nghiệp đạo sân nhuế, mắng chửi là nghiệp đạo thô ác. Hai nghiệp đạo này không lấy nhận hiểu làm rốt ráo. Quyết Trạch chép rằng: lời thô ác rốt ráo nghĩa là mắng chửi người, nghiệp sân nhuế rốt ráo là tâm mong tổn hại quyết định... Cho nên biết không đợi người đối diện nhận hiểu. Lại Bồ-tát Địa chép rằng: Nếu các Bồ-tát nuôi lớn hạt giống tức giận trói buộc như thế, do nhân duyên ấy không chỉ phát khởi lời thô ác thường sinh ra, mà vì tức giận che lấp nên lại dùng tay chân, sắt đá, dao, gậy đánh đập làm hại tổn não loài hữu tình. Nội tình dữ dội, ý lạc phẩn hận, có sự trái phạm, người khác đến can ngăn tạ tội, không chịu dằn xuống, kết oán không nguôi, ấy gọi là pháp Tha thắng xứ thứ ba. Kết phạm khinh trọng là tức giận không chịu sám hối có hai: Một là có người đến bảo người phạm lỗi kia trở lại sám hối tạ lỗi, mà tức giận không nhận lời xin lỗi của người kia. Đây chỉ phạm tôi nhẹ. Kia cũng coi phục mà đến, đây lại tức giận ép ngặt trái với lòng từ; hai là Bồtát bảo người kia trở lại sám hối tạ lỗi, mà kết oán không nhận thì phạm trọng. Học xứ đồng khác là vì bản thệ của Bồ-tát dẫn nhiếp, nên sân ép ngặt thì phạm trọng. Thanh văn tự giữ gìn không kỳ hạn, không nhận sự sám hối, tạ lỗi của người chỉ phạm Đột-cát-là. Theo Kinh Thiện Sinh thì Bồ-tát tại gia không chế trọng, kinh này chế chung cho xuất gia, tại gia. Trong văn chép: Cho đến đối với loài phi chúng sinh: nếu chẳng có tình thức gọi là phi chúng sinh ấy là lời phòng ngừa. Như bậc Thánh chẳng phải là chúng sinh, thường sinh tử nên gọi là phi chúng sinh, đó là lời để phòng ngừa. Đem lời ác mạ nhục là khẩu nghiệp tổn não, lại còn dùng tay, chân, dao gậy đánh đập là dùng thân nghiệp tổn não, mà vẫn chưa hả dạ là lòng tức giận không nguôi. Người kia dùng lời khéo léo sám hối xin lỗi nghĩa là được người xâm hại trở lại xin lỗi sám hối mà vẫn còn tức giận không bỏ là không nhận, không nhẫn là kết oán không nguôi. Bồ-tát Địa chép rằng: Nếu các Bồ-tát an trụ trong luật nghi tịnh giới của Bồ-tát mà đối với loài hữu tình khác có sự xâm phạm, hoặc tự mình không bị người kia nghi ngờ xâm phạm. Do tâm ganh ghét ngã mạn, không như lý tạ lỗi thì sinh khinh xả, ấy gọi là phạm, có trái vượt là nhiễm trái phạm. Nếu do lười biếng, uể oải, buôn lung không xin lỗi nên sinh ra khinh xả, ấy gọi là có phạm, có sự trái vượt, chẳng nhiễm trái phạm. Không trái phạm là nếu muốn tìm cách điều phục người phạm lỗi kia cho ra khỏi chỗ bất thiện, an lập chỗ thiện. Hoặc là ngoại đạo, hoặc là kia hy vọng. Hoặc vì hiện hành phi pháp có tội mà nhận sự sám hối, tạ lỗi. Hoặc hữu tình kia có tánh thích đấu tranh, nhân sám hối tạ tội, càng thêm sân hận bội phần. Hoặc lại biết người kia có tánh kham nhẫn, thể không hiềm hận. Hoặc biết người khác vì tạ lỗi phạm rất sinh tâm hổ thẹn mà không sám hối tạ tội thì đều không phạm. Nếu các Bồ-tát an trụ trong luật nghi tịnh giới của Bồ-tát, ở chỗ khác xâm phạm người kia lại như pháp bình đẳng sám hối tạ lỗi, có tâm hiềm hận muốn làm tổn não người kia mà không nhận sự xin lỗi của họ, ấy gọi là phạm, có sự trái vượt. Tuy đối với người kia không có tâm hiềm hận, không muốn tổn não, nhưng vì bẩm tánh không thể nhẫn nhịn nên không nhận sự sám hối, cũng cho là phạm, có sự trái vượt, là nhiễm ô trái phạm. Không trái phạm là nếu muốn tím cách điều phục người có lỗi kia, hoặc không đúng pháp không bình đẳng sám hối, không nhận sự sám hối của người kia, cũng không trái phạm. Nếu các Bồ-tát an trụ trong luật nghi tịnh giới của Bồ-tát, đối với người có tâm tức giận nối nhau bền chí, sinh rồi không bỏ, ấy gọi là có phạm, có sự trái vượt, là ô nhiễm trái phạm. Không trái phạm là vì đoán người kia sinh khởi dục lạc, nói rộng như trước.
Nếu Phật tử, tự mình hủy báng Tam bảo, xúi giục người hủy báng Tam bảo: Nhân hủy báng, duyên hủy báng, cách thức hủy báng, nghiệp hủy báng. Phật tử nghe một lời hủy báng Tam bảo của ngoại đạo và kẻ ác, còn đau lòng như ba trăm cây mâu nhọn đâm vào tim mình, huống chi tự miệng mình hủy báng! Không hề có đức tin và lòng hiếu thuận đối với Tam bảo, lại giúp đỡ cho người ác, người tà kiến hủy báng, Phật tử này phạm tội Ba-la-di của Bồ-tát. Địa luận chỉ chép rằng: hủy báng Bồ-tát tạng, pháp hủy báng trong Tam bảo, lội nghiêng nặng. Thắng cảnh tín tâm ban đầu đối với Tam bảo Phật, Pháp, Tăng trở về cực địa cuối cùng, theo lý phải đón nhận thuận theo vâng giữ mà lại sinh tâm phỉ báng, lỗi ấy chẳng phải nhẹ, nên chế để dứt trừ. Lời nói và tâm nghĩ trái với Tam bảo nên gọi là phỉ báng, cũng từ chỗ phòng ngừa là tên của giới. Trong việc đủ duyên thành phạm có hai: Một là chỗ sự đối cảnh, nghĩa là hai cảnh trong phẩm thượng và phẩm trung. Nếu kết tội trong phẩm hạ thì nhẹ, nay nói nếu đối với người hiểu biết thì tội cũng phải nặng; hai là việc trong cảnh phỉ báng, tức là Tam bảo. Trong môn nghiệp đạo nói chung có nghĩa là báu. Nay vì chọn lấy cảnh tốt đẹp nên chỉ nói là Tam bảo. Về tưởng, luận chép rằng: Đối với tưởng hữu, phi hữu. Đây là cảnh phỉ báng phân biệt tưởng ấy. Dục lạc là ý lạc, ái dụ muốn phỉ báng Tam bảo như vậy. Phiền não là lấy si làm chính, hoặc đầy đủ hoặc chỉ một. Phương tiện rốt ráo là: xưa nói người kia lãnh hội được lời nói không dính dáng, tùy theo thái độ trong lời nói mà kết trọng. Trong Quyết Trạch Nghiệp Đạo chép: rốt ráo là quyết định phỉ báng. Bồ-tát Địa chép rằng: Nếu các Bồ-tát (669) phỉ báng tạng Bồ-tát, ưa thích giảng nói chỉ bày xây dựng tương Pháp giống như chánh pháp, đối với tượng pháp, hoặc tự mình tin hiểu, hoặc tùy theo người khác mà chuyển, ấy gọi là pháp Tha thắng xứ thứ tư. Kết phạm khinh trọng là nói về tà kiến có hai loại: Một là tổn giảm tà kiến, bác bỏ việc thật có; hai là tăng trưởng tà kiến, lập việc thật vô. Tổn giảm có hai: một là toàn phần, bác chung tất cả pháp nhân quả; hai là một phần, hoặc chấp pháp ngoài, phỉ báng pháp trong. Hoặc chấp Tiểu thừa, phỉ báng Đại thừa, chẳng bác tất cả đều không có. Tà kiến toàn phần nếu khởi lên liền mất giới. Bác toàn bộ nhân quả liền lui sụt tâm Bồ-đề, nên nếu buông lời phỉ báng thì chỉ bị tánh tội, không có giới để phạm thì không gọi là phạm giới. Lúc này tuy mất giới nhưng chưa dứt mất gốc lành vì chưa đến phẩm tăng thượng, chỉ gọi là lui bỏ tâm Bồ-đề. Trong một phần tà kiến, nếu vì chấp pháp ngoài, phỉ báng pháp trong thì lui sụt tâm Bồ-đề, liền mất giới lành. Nếu chưa lui sụt tâm liền phạm báng trọng. Nếu tâm phỉ báng này đến phẩm tăng thượng, nhưng không lui sụt tâm cũng mất giới lành, tức là triền tăng thượng phạm trọng xả giới. Nếu khi chấp Tiểu thừa phỉ báng Đại thừa, lui sụt tâm Bồ-đề cũng liền xả giới. Nếu không lui sụt tâm Đại thừa thì phạm khinh trong giới thứ tám.
Văn kia chép rằng: Tâm trái với Đại thừa, thường ở trong kinh, luật nói chẳng phải lời của Phật, mà thọ trì giới kinh của hàng Thanh văn Nhị thừa nên lại thêm tà kiến. Lập thật vô sự, trong Địa luận chép rằng: ưa thích giảng nói chỉ bày xây dựng tượng pháp giống như chánh pháp. Tượng pháp giống như chánh pháp là năm pháp, v.v.. vì tướng trạng giống như chánh pháp mà chẳng phải chánh pháp. Nếu phỉ báng chánh pháp mà ưa thích tợ pháp thì phạm tội khinh, trong giới thứ 24, giới ấy chép rằng: Có kinh luật phật, pháp Đại thừa mà không chịu siêng học siêng tu, bỏ bảy của báu, lại học các sách luận tà kiến của Nhị thừa, ngoại đạo, thế tục. Sớ xưa nói nghĩa tà kiến có bốn; một là tà kiến phẩm thượng; hai là tà kiến phẩm trung; ba là tà kiến phẩm hạ; bốn là tà kiến tạp nhạp. Tà kiến phẩm thượng nghĩa là bác tất cả nhân quả đều không, tức cùng thuyết trên hoàn toàn đồng với tà kiến, tự có hai loại; một là pháp tưởng, nghĩa là trong tâm quyết định khởi tưởng không có nhân quả, giới lành liền mất. Như tà kiến phẩm hạ thành phẩm thượng thì thiện liền dứt. Sau buông lời phỉ báng, không có giới để phạm chỉ bị tánh tội; hai là phi pháp tưởng, nghĩa là trong tâm khởi tưởng có nhân quả, chỉ nói trong miệng không giới không lỗi. Nên tùy theo lời nói mà phạm trọng, phạm rồi thì mất giới, việc nói như trước. Nay nói nếu trong lòng khởi tưởng có nhân quả. Đây là cái thấy bất hoại, đâu gọi là tà kiến, không chính đáng. Lại khởi tưởng phi pháp phỉ báng thì như phá Tăng là lời luống dối hoàn toàn gọi là tà kiến phỉ báng. Nên biết chẳng phải nói dối, đối với trong tà kiến thì chẳng nói không có nhân quả, nhưng nói. Tam bảo không bằng ngoại đạo. Đây tức là đồng với chấp pháp, ngoài phỉ báng pháp trong, một phần tà kiến ở trên, việc ấy cũng có hai. Nếu khởi pháp tưởng liền mất giới lành, phi pháp tưởng thì tùy theo lời nói mà phạm trọng, bị nạn như trước. Tà kiến phẩm hạ, chẳng nói Tam bảo không bằng ngoại đạo nhưng chấp Tiểu thừa, phỉ báng Đại thừa, như các bộ Tiểu thừa phỉ báng rằng Đại thừa chẳng phải Phật nói. Ở đây cũng có hai. Nếu khởi pháp tưởng kế hoạch chưa thành thì phạm tội khinh trọng giới thứ 8. Kế hoạch nếu thành thì mất giới lành. Khi chấp Tiểu thừa thù thắng hơn Đại thừa liền lui mất tâm Bồ-đề. Ở đây nói chấp Tiểu thừa hơn Đại thừa chưa hẳn liền lui sụt tâm Đại thừa. Nghĩa là nếu có người tin tiểu thừa, ngồi dưới gốc cây thành Phật, không tin Đại thừa thành Chánh giác mà không muốn chứng bốn quả vị của Nhị thừa thì đâu thể gọi là lui sụt Bồ-đề; hai là thuyết phi pháp tưởng, tùy theo lời nói mà phạm trọng. Nay nói đã biết Đại thừa hơn tiểu thừa mà miệng nói kém thì, đâu gọi là tà kiến. Phỉ báng tạp tà kiến lại có bốn; một là thiên chấp, nghĩa là chấp Đại thừa, phỉ báng Tiểu thừa, hoặc chấp nghiêng về một bộ; hai là tạp tín, tuy không trái chánh pháp của Phật nhưng nói sở thuyết của ngoại đạo cũng có đạo lý. Lại nói quỉ thần cũng có hai năng lực. Như nói ba tổng: Nho, Đạo, Phật đều tinh vi; ba là tạm nghĩ Tiểu thừa, là muốn tạm nương theo đạo Tiểu thừa để dứt hoặc. Sau đó lại tu hạnh Đại thừa; bốn là suy nghĩ nghĩa sai lầm, nghĩa là theo sự chấp nghĩa của Thanh văn khởi lên năm lỗi, v.v... Bốn tạp kiến này chưa hẳn là Phạm trọng, theo sở ứng của họ mà phạm nhẹ. Phân biệt về tội khinh trọng: nói học xứ đồng khác là Tiểu thừa phỉ báng pháp không chế là trọng. Như nói muốn không chướng ác tà kiến là nếu khởi kiến chỉ phạm Đột-cát-la, khi trái, ba lần can ngăn mới phạm Ba-dật-đề. Như phá Tăng, năm tà, v.v... nếu khởi pháp tưởng chỉ phạm thâu-lan-giá. Chẳng phải tội nghịch, nếu tưởng phi pháp, phạm tội nghịch và Thâu-lan-giá. Nay trong Đại thừa nếu phỉ báng Tam bảo và tạng Bồ-tát vì lỗi trái nghịch sâu nên chế phạm trọng. Theo Kinh Thiện Sinh, đối với Bồ-tát tại gia cũng không chế trọng, nay trong kinh này chế chung cho bảy chúng. Ngoại đạo trong văn nghĩa là thực hành đạo khác ngoài Phật pháp. Kẻ ác là khởi ác kiến trong Phật pháp, thương xót họ khởi ác sẽ bị rơi vào hầm điên cuồng không đáy, tổn thương chánh pháp, bị giảm thiếu hạnh trong tâm người tu hành. Nên nghe một lời phỉ báng, còn đau lòng như ba trăm cây giáo nhọn đâm vào tim mình. Kiến là nghe thấy. Văn còn lại dễ hiểu, giới pháp Phỉ báng này không có khai duyên. Phần trên đã giải thích riêng mười giới trọng xong. Nầy các Phật tử! Khư trên là mười giới trọng của Bồ-tát, các Phật tử cần phải học.
Trong mười giới đó không nên trái phạm một giới nào cả, dù một mảy nhỏ như hạt bụi, huống chi phạm đủ cả mười giới ư! Nếu người nào trái phạm thì người ấy hiện đời không phát được tâm Bồ-đề, rồi cũng mất ngôi Quốc vương, ngôi vua chuyển Luân, giai vị Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni; cũng mất những quả “Thập Phát thú”, “Thập trưởng dưỡng”, “Thập Kim cương”, “Thập Địa”, tất cả diệu quả Phật tính thường trụ đều mất, đọa trong ba đường ác, trong hai kiếp, ba kiếp chẳng được nghe danh từ cha mẹ và Tam bảo. Vì thế cho nên không được phạm một giới nào cả.
Kế đến, trong tổng kết lại có ba; một là đối người tổng kết; hai là khuyên răn khiến cho không phạm, phải ở Phẩm trung hạ ấy; ba là khuyến học chỉ bày rộng. Trong khuyên răn lại có ba; một là nêu tình hình vi tế, khuyên răng nhiều; hai là hiển bày lỗi lầm khiến cho nhàm chán; ba là nêu quả báo khiến cho sợ hãi. Trong nêu để so sánh không nên trái phạm một giới nào cả dù, một mảy nhỏ như hạt bụi. Đối với mỗi giới không nên phạm một mảy nhỏ như hạt bụi: mới khởi tâm phạm không đến thân, miệng. Lỗi này nhỏ nhẹ nên dụ như cát bụi, nhưng lỗi này tuy nhỏ mà chứa nhóm lâu ngày sẽ thành lỗi lớn, nên không thể xem thường. Như kệ bài trong kinh chép: chớ khinh lỗi nhỏ, cho là vô hại, giọt nước dù nhỏ nhưng dần đầy la to, huống chi là phạm đủ cả mười giới! Lỗi nhỏ còn không nên phạm, tội trong theo lý không còn nói gì được. Đủ năm duyên thành mười căn bản nên nói là phạm đủ mười giới. Trong bảy lỗi là hiện đời không phát được tâm Bồ-đề, nghĩa là mất hạnh phát tâm căn bản. Vì phạm trọng chướng căn bản đã trói buộc. Ở trong hiện đời không còn phát được tâm Bồ-đề, cũng mất ngôi Quốc vương, v.v... nghĩa là mất chỗ nương tựa dẫn tới sinh ra tăng thượng. Đã mất nhân cao quý, mà quả báo mầu nhiệm cũng mất. Cũng mất giai vị Tỳ-kheo v.v... là mất hạt giống cao quý, không còn xứng đáng bước vào số hai chúng. Ba chúng dưới cũng tùy theo loại mà xếp vào. Mất quả Thập Phát thú, v.v... là mất pháp cao quý, pháp nhân quả cao quý đều lui mất. Trong nêu quả báo khiến sợ hãi, tất cả đều mất và bị đọa vào ba đường ác là phạm mười giới trọng, tất cả đều với lấy quả báo trong ba đường ác. Hai kiếp, ba kiếp không nghe được danh tự cha mẹ và Tam bảo, một khi mất thân người thì muôn kiếp khó được lại, danh tự cao quý này do đâu mà được nghe. Tiểu thừa nói, năm tội nghịch không hơn quả một kiếp. Đại thừa nói phạm mười giới trọng cũng với lấy quả báo nhiều kiếp. Lý quyền thật đâu thể không dè dặt (670) cẩn thận ư! Tất cả Bồ-tát, các ngài đã học, sẽ học và hiện nay học, hết lòng kính trọng vâng giữ. Tám vạn oai nghi sẽ rộng nói sau. Đức Phật dạy các Bồ-tát mười giới trọng xong, bốn mươi tám giới khinh nay sẽ nói, các ngài khuyến khích thọ trì, chỉ bày rộng như văn.
Trong giải thích giới khinh phần nhiều cũng gồm có ba; một là kết khởi ràng buộc chung; hai là lần lượt giải thích riêng, ba là nói xong tổng kết. Theo phần giải thích riêng, bốn mươi tám giới khinh theo văn đã kết, gồm có năm đoạn, đoạn cuối đều chỉ văn khác, nên có phần nói rộng. Trong năm đoạn này tùy theo văn phân biệt, đều chung cho ba nhóm. Mỗi đoạn đều nói lìa ác nhiếp thiện, lợi ích chúng sinh. Nên theo luận tát-bà-đa thì mười giới trọng ở trước tách ra làm luật nghi, bốn mươi tám giới sau chia làm hai phần còn lại. Kinh nói giới nhiếp luật nghi gọi là mười Ba-la-di. Giới nhiếp thiện pháp gọi là tám mươi bốn ngàn pháp môn. Giới nhiếp chúng sinh gọi là Từ, Bi, Hỷ, Xả, giáo hóa đến cả chúng sinh, chúng sinh đều được an vui. Lại trong bốn mươi tám giới thì ba mươi giới đầu phần nhiều là giới nhiếp thiện pháp, mười tám giới sau phần nhiều là lợi sinh. Bốn mươi bốn giới khinh trọng Địa Trì thì ba mươi ba giới trước cũng là giới nhiếp thiện pháp, mười một giới sau là lợi sinh. Nên tướng giới kia đây tuy có ẩn hiện, nêu tông phân biệt tướng cũng giống nhau. Lại kinh thì chế giáo bản, luận thì phân biệt nghĩa điều, nên kinh và luận không thể khác nhau. Luận phân biệt giới khoảng chín thứ tượng, tất cả giới thứ hai là phần giới của tại gia và phần giới của xuất gia, ấy gọi là tất cả giới. Lại y theo hai phần tịnh giới này lược nói có ba loại; một là giới luật nghi; hai là giới nhiếp thiện pháp; ba là giới nhiêu ích hữu tình. Giới luật nghi là sở thọ của các Bồ-tát. Luật nghi biệt giải thoát của bảy chúng chính là giới của Tỳ-kheo. Cho đến giới cận sự nữ, bảy loại như thế, y chỉ hai phần giới của tại gia và xuất gia. Như cần phải biết ấy gọi là giới luật nghi của Bồ-tát.
Giới nghiệp thiện pháp nghĩa là Bồ-tát thọ giới luật nghi, tất cả sở hữu sau này là đại Bồ-đề, vì thân miệng ý chứa nhóm các điều lành, nói chung gọi là giới nhiếp thiện Pháp. Đây gọi là gì? Nghĩa là các Bồ-tát nương theo giới, trụ trong giới, ở trong chỗ nghe, suy nghĩ và tu tập chỉ quán, một mình ở chỗ vắng vẻ, siêng năng tu học, thường luôn như vậy, đối với các bậc tôn trưởng siêng năng tu tập chấp tay đón rước, thăm hỏi lễ bái cung kính, tức là đối với bậc tôn trưởng siêng năng tu tập cung kính vâng thờ. Đối với người bệnh thương xót, hết lòng săn sóc, phục dịch cung cấp. Đối với các diệu thuyết bố thí là sự tốt đẹp! Đối với người có công đức Bổ-đặc-giàla đều chân thành khen ngợi. Đối với tất cả hữu tình, tất cả phước nghiệp trong các cõi nước mười phương, đem ý lạc cao quý khởi lòng tin trong sạch, nói lời tùy hỷ. Ở chỗ khác thực hành tất cả trái phạm tư trạch an nhẫn, dùng thân, ngữ, ý đã thực hành hoặc chưa thực hành tất cả gốc lành đều hồi hướng về Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Thường phát khởi các thứ chánh nguyện, cúng dường Phật, Pháp, Tăng tất cả món ăn thượng diệu. Đối với các phẩm lành hằng ngày luôn mạnh mẽ tinh tấn tu tập. Thân, ngữ, ý không buông lung, đối với học xứ chánh niệm, chánh tri, chánh hạnh, thầm giữ gìn căn môn. Khi ăn uống đều biết lượng. Đầu hôm, gần sáng thường tu tập, thức dậy thì gần gũi bậc thiện sĩ, nương tựa bạn lành. Đối với lỗi phạm của mình, hỏi đạo lý biết rõ lỗi lầm, đã biết rõ lỗi lầm rồi thì chuyên ý giữ gìn chỗ chưa phạm, đã phạm rồi thì đối trước Phật, Bồ-tát đồng pháp dốc lòng phát lộ sám hối đúng như pháp, để dứt trừ. Những loại như thế đã có dẫn nhiếp hộ trì tăng trưởng các giới thiện pháp. Ấy gọi là giới nhiếp thiện pháp của Bồ-tát. Thế nào là giới nhiêu ích hữu tình của Bồ-tát? Phải biết đây lược có mười một tướng, mươi một tướng ấy là các Bồ-tát đối với các hữu tình có thể đưa đến nghĩa lợi. Đối với sự nghiệp của người khác cùng làm bạn để giúp đỡ, đối với các hữu tình, tuỳ theo chỗ sinh khởi khổ về bệnh tật v.v... thì đến thăm hỏi, ăn sóc, cho đến làm bạn giúp đỡ. Lại nữa, các Bồ-tát dựa vào các thứ nghĩa lợi của thế gian và xuất thế gian có thể nói pháp quan trọng cho các hữu tình nghe hiểu. Đầu tiên là phương tiện nói và nói đúng như lý, sau đó làm cho bảo vệ được nghĩa lợi của họ. Lại các Bồ-tát đối với các hữu tình có ân trước kia, đã khéo gìn giữ sự biết ơn, theo chỗ ở của họ mà ứng hiện để báo đáp. Lại các Bồ-tát đối với các loài hữu tình bị rơi vào những nơi đầy dẫy sợ hãi như: Sư tử, cọp sói, ma, quỉ, nạn vua, nạn giặc, nước, lửa v.v... đều có khả năng cứu giúp khiến họ thoát khỏi những chỗ sợ hãi như thế. Các Bồ-tát đối với các loài hữu tình bị mất của cải, thân thuộc đã khéo khuyên nhủ làm cho họ vơi đi nổi buồn rầu. Lại đối với các loài hữu tình thiếu thốn các dụng cụ trong cuộc sống hằng ngày thì cho họ các dụng cụ trong cuộc sống hằng ngày. Các Bồ-tát thuận theo đạo lý, chính là cho y chỉ chế ngự chúng sinh đúng như pháp. Bồ-tát còn thuận theo thế gian, sự việc, nói năng, kêu gọi, đến đi, bàn bạc, vui mừng tuỳ thời mà đến, từ chỗ khác mà nhận lấy việc ăn uống, v.v... Tóm lại, là xa lìa tất cả, có thể đưa đến vô nghĩa trái ý hiện hành, đối với việc khác tâm đều chuyển theo.
Lại nữa, các Bồ-tát hoặc ẩn hoặc hiện biểu hiện rõ ràng tất cả công đức chân thật, làm cho các hữu tình vui mừng tinh tiến tu học. Lại đối với người có lỗi, trong lòng rất thân mật để làm lợi ích an vui tăng thượng ý lạc, hoặc là điều phục, quở trách, trị phạt, đuổi đi, vì muốn giúp cho họ ra khỏi chỗ bất thiện, mà an lập chỗ yên ổn. Bồ-tát phương tiện dùng năng lực thần thông thị hiện các cõi, các tướng, như Na-lạc-ca. v.v... khiến cho các hữu tình nhàm chán, xa lìa bất thiện, tìm mọi cách dẫn dắt khiến họ vào Thánh giáo của Phật, vui mừng tin ưa, sinh tâm ít có siêng tu chánh hạnh. Nay xét trong bốn mươi tám giới khinh và chỗ thuyết văn của luận, ẩn hiện xen lẫn khai hợp khác nhau, thứ lớp trước sau cùng khác nhau, kinh chế giáo bản, tuỳ việc mà lập riêng. Luận phân biệt nghĩa điều theo loại mà nói chung, khai hợp, lập nghĩa cần phải suy xét.
1. Giới Kính Thầy Bạn
Nếu Phật tử, lúc sắp lân ngôi Quốc vương, ngôi vua chuyển luân, hay sắp nhận chức quan thì trước nên thọ giới Bồ-tát. Như thế tất cả quỉ thần cứu giúp thân vua và thân các quan, Chư Phật đều vui mừng.
Đã đắc giới rồi, Phật tử nên có tâm hiếu thuận và cung kính. Nếu thấy có bậc Thượng toạ, Hòa-thượng, Axà-lê, nhưng bậc Đại đức, đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng dậy đón rước, lạy chào, hỏi thăm. Mỗi việc đều phải đúng như pháp mà cúng dường, hoặc tự bán thân, cho đến quốc thành, con cái cùng bảy báu trăm vật để cung cấp các bậc ấy. Nếu Phật tử lại sinh tâm kiêu mạn, tức giận, ngu si không chịu tiếp rước lạy chào, thăm hỏi, cho đến không chịu y theo pháp mà cúng dường thì Phật tử này phạm tội khinh cấu.
Tức là nói đối với các bậc tôn trưởng phải siêng năng tu tập như thế, và phải thường chắp tay tiếp rước, hỏi thăm, lễ bái cung kính, tức là đối với các bậc tôn trưởng siêng năng tu tập kính ngưỡng phụng thờ. Thể muốn tạo việc thiện thì phải nương vào duyên tốt, nếu kiêu căng với người đáng tôn kính thì sẽ chướng ngại đến sự tiến tu pháp lành, cho nên dạy phải kính thờ.
Đủ duyên thành phạm, đúng theo lý lẽ ra phải nói đầy đủ, nhưng đã là chẳng phải tánh tội, chưa hẳn đều đủ năm duyên, nên duyên phạm trong tội khinh cấu còn lược bỏ. Trong năm duyên, sự tưởng, dục lạc, phương tiện, rốt ráo tuy chẳng phải tánh tội nghiệp đạo nhưng chắc chắn phải có. Thứ tư là phiền não nếu nhiễm phạm cũng là hữu trong không phạm ô nhiễm thì chưa hẳn là có.
Kết phạm khinh trọng là cố tâm phạm nhiễm, đều kết trọng, không cố tâm không nhiễm đều kết khinh, các giới đều như vậy, không nói thêm nữa. Học xứ đồng khác là Đại thừa, Tiểu thừa đều cấm, nhưng Thanh văn chế trong môn lìa lỗi. Bồ-tát chế trong môn nhiếp thiện, bảy chúng đồng phạm. Trong hai mươi tám giới khinh của chúng tại gia thì giới thứ năm dạy rằng: Nếu Ưa-Bàtắc nào đã thọ giới rồi, khi thấy Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, các bậc trưởng lão tôn túc và Ưu-bà-tắc v.v... đến mà không đứng dậy, đón rước, lễ bái, thăm hỏi thì Ưu-bàtắc ấy sẽ bị tội thất ý. Không đứng dậy thỉ rơi vào hành vi bất tịnh hữu tác. Trong văn, các giới đều có ba, nghĩa là nêu người tự sự kết tội. Trong tự sự, các giới khác nhau. Giới này có ba, một là khuyên thọ giới, hai là nói phải cung kính, ba là nói trái thành phạm. Phần đầu khuyên thọ giới, gồm nêu cả ba, ngôi vị, phần đầu và phần thứ hai chỉ cho thế tục, phần thứ ba chỉ chung cho xuất gia tại gia. Bồ-tát xuất gia cũng cho phép làm Tăng Thống, v.v... Cho nên lập Tăng Thống v.v... tuy kinh đã ngăn nhưng không được vì việc mình mà có, e rằng ở địa vị cao, hạnh buông lung cho nên chế thọ pháp, khiến cho không kiêu mạn. Nếu thọ và thuận theo mà làm thì Thần Phật đều vui mừng che chở, gần thì được an thân, xa thì sẽ nối tiếp làm hưng thạnh chánh pháp. Nên khuyên thọ giới, tuy trước thọ lâm sự nhưng phải càng thọ, vì muốn kính thờ. Đã được rồi thì phải cung kính. Tâm hiếu thuận là phục tùng lời dạy bảo của người kia không dám trái. Tâm cung kính là tôn kính đức hạnh của người không dám khinh mạn. Thượng tòa là ở trên không có người làm thượng tòa. Hòa-thượng, âm này là nhầm. Nếu đúng phải nói rằng O-Ba-Đà-Da. Hán dịch là Thân Giáo, tức là chỗ cho người theo thọ giới. A-xà-lê, nếu đúng phải gọi là A-già-lê-Da, hán dịch là Quỹ Phạm, có năm loại; một là cạo tóc; hai là xuất gia; ba là giáo thọ; bốn là Yết-ma, năm là y chỉ. Đại đồng học, đồng kiến, đồng hạnh nghĩa là trong đồng học v.v... tuổi tác là trước tiên. Lại đồng học Đại pháp, đồng tập đại kiến, đồng tu đại hạnh. Trong trái lại thì thành phạm, lại sinh tâm kiêu mạn, sân hận, ngu si, vì không hiếu thuận, nên kiêu, không cung kính nên ngã mạn, không biết chỗ đáng cung kính tức là ngu si. Lấy tự bán mình trở xuống là dẫn việc để so sánh răn chắc, còn phải xả thân, huống chi không lễ kính ư? Trong bốn mươi bốn giới, giới thứ ba chép rằng: Nếu các Bồ-tát an trụ trong luật nghi tịnh giới của Bồ-tát thấy những bậc kỳ cựu Đại đức đồng pháp đáng kính đến nhà mà kiêu mạn có tâm hiềm hận, tâm giận não, không đứng dậy đón rước, không mời ngồi. Nếu có người khác đến nói năng, bàn bạc, an ủi, thưa hỏi thì kiêu mạn, ôm lòng oán ghét, lòng sân não không hợp với chánh lý, buông lời đối đáp, đó gọi là có phạm, có sự trái vượt là nhiễm trái phạm, không kiêu mạn chế, tâm không hiềm hận, không sân não nhưng do tâm lười biếng, uể oải, vọng niệm, vô ký, đó gọi là có phạm, có sự trái vượt, không ô nhiễm trái phạm. Không trái phạm nghĩa là gặp bệnh nặng, hoặc tâm cuồng loạn, hoặc tự ngũ nghĩ. Người khác nghĩ là giác ngộ mà đến gần gũi, nói năng, bàn luận, an ủi, thưa hỏi. Hoặc tự vì người khác giảng dạy, nói pháp, luận nghĩa chọn lựa. Hoặc lại bàn bạc, an ủi với người khác. Hoặc người khác nói pháp, luận nghĩa quyết trạch chú ý lắng nghe. Hoặc có người trái phạm nói chánh pháp là muốn dùng tâm hộ pháp, hoặc muốn tìm cách điều phục người phạm lỗi ra khỏi chỗ bất thiện, an lập chỗ thiện. Hoặc hộ tăng chế, hoặc đem tâm bảo vệ nhiều hữu tình mà không đối đáp, đều không trái phạm.
2. Giới uống rượu
Nếu Phật tử cố uống rượu, mà rượu là thứ làm cho người uống sinh ra vô lượng tội lỗi. Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống, sẽ chịu ác báo: Năm trăm đời không có tay, huống là tự uống. Cũng không được bảo người và tất cả chúng sinh uống rượu, huống là tự mình uống! Tất cả các thứ rượu Phật tử không được uống, nếu mình cố uống và bảo người uống, Phật tử này phạm “tội khinh cấu”.
Rượu là sự buông lung, làm sinh ra các tội lỗi, trái với các pháp lành cho nên cấm. Đại thừa, Tiểu thừa và bảy chúng đều cấm. Trong hai mươi tám giới thì giới thứ hai chép rằng: Nếu Ưu-Bà-tắc đã thọ giới rồi mà còn ưa thích uống rượu sẽ bị tội thất ý. Trong tự sự có ba, một là bày lỗi; hai là không được bảo người uống rượu, ba là nếu mình cố uống thì phạm. Trong phần đầu bày lỗi, cố uống rượu thì giống như lầm uống. Nhưng trong luật, rượu tưởng chẳng phải rượu cũng phạm. Nếu từ đầu đến cuối đều không có tâm uống rượu, thì tuy khi uống cho là chẳng phải rượu, cũng phạm, rượu là thứ làm cho người uống sinh ra vô lượng tội lỗi, tuy chẳng phải tánh ác mà có công năng khai tánh ác nên nói là vô lượng tội lỗi. Như trong luận chép rằng: Nếu khi say rượu thì ngoài việc phá tăng, tất cả việc ác khác đều gây tạo. Lại trong Luận Trí Độ nêu rõ có đủ ba mươi sáu lỗi. Trong luật Tứ phần có mười sáu lỗi. Đức phật dạy: Này A-nan! người uống rượu có mười lỗi, một là sắc mặt xấu xa, hai là sức yếu, ba là mắt thấy không rõ, bốn là hiện tướng tức giận, năm là làm hư hỏng sản nghiệp ruộng vườn của cải, sáu là thêm nhiều bệnh tật, bảy là thích tranh đấu kiện tụng, tám là không có tên gọi, chỉ có tiếng xấu vang xa, chín là trí tuệ lu mờ, mười là khi thân chất đủ rơi vào đường ác, đó gọi là mười lỗi. Từ nay về sau, ai tôn ta làm thầy thì không được rượu dính môi dù là một giọt. Đưa rượu cho người uống giống như đưa rượu qua cho người uống, nghĩa là đưa bình có rượu cho người khác bảo họ uống, cũng là chỉ đưa bình rượu không cho người kia rót. Trước nói sai người khác uống, sau nói bảo người khác uống, nghĩa đều không khác nhau. Năm trăm đời không có tay nghĩa là tay cầm bình rượu trao cho người nên bị quả báo không có tay như những loại côn trùng, hoặc sinh trong loài người mà không có tay, có thuyết chép rằng: có năm lần năm trăm năm, năm trăm năm thứ nhứt ở địa ngục bã rượu, năm trăm năm thứ hai ở trong nước tiểu, năm trăm năm thứ ba làm giòi bọ, năm trăm năm thứ tư làm ruồi nhặng, năm trăm năm thứ năm làm người ngu độn vô tri. Nay nói năm trăm đời không có tay có lẽ là cuối cùng, trong phần cấm không được thì. Không được bảo tất cả mọi người uống rượu nghĩa là không được bảo người khác uống rượu. Cho đến tất cả chúng sinh uống rượu nghĩa là không được sai đưa rượu cho người khác uống. Huống chi tự mình uống rượu, là vì muốn ngăn lỗi buông lung của mình. Nêu người khác uống là tự mình: Luật chép rằng: Rượu là rượu cây, rượu gạo lùn và rượu gạo khác, rượu lúa mì. Nếu có cách làm rượu khác cũng là rượu. Tạp rượu là mầu rượu, mùi rượu, vị rượu không nên uống. Hoặc có rượu không mùi, không mầu không vị cũng không được uống. Hoặc có rượu không có mầu, không mùi, có vị rượu cũng không nên uống. Hoặc có rượu không mầu, không mùi, không có vị rượu không được uống, chẳng phải mầu rượu, mùi rượu, vị rượu thì được uống, nói rộng như trong ấy. Không phạm là nếu bị bệnh như thế, ngoài thuốc chữa trị không giảm thì dùng rượu làm thuốc, nếu dùng rượu trị bớt bệnh thì tất cả không phạm.
3. Giới Không ăn thịt
Nếu Phật tử cố ăn thịt, tất cả thịt các loài chúng sinh đều không được ăn. Nói về người ăn thịt thì mất tâm đại từ bi, cắt đứt hạt giống Phật tánh; tất cả chúng sinh thấy đều tránh xa người này. Người ăn thịt mắc vô lượng tội lỗi, vì thế tất cả Phật tử không được ăn tất cả các thứ thịt của các loài chúng sinh. Nếu cố ăn thịt, Phật tử này phạm “tội khinh cấu” vì cắt đứt hạt giống đại từ cho nên cấm. Thanh văn Niết-bàn về trước cho phép căn ba loại thịt thanh tịnh, ngoài ra không cho phép. Niết bàn về sau, tất cả không cho phép, Bồ-tát trước sau tất cả đều không cho phép. Bảy chúng đồng cấm. Trong văn tự sự cũng nêu lỗi trước, kế là cấm không được an, sau trái thành phạm. Tất cả các loại, thịt đều không được ăn, hoặc là tịnh hay bất tịnh đều không được ăn. Dứt mất tâm đại từ bi, làm hư hạt giống Phật tánh, như kinh chép rằng: vì có người ăn thịt nên có người giết, biết như vậy mà còn cố ăn nên dứt mất hạt giống từ bi. Tất cả chúng sinh thấy liền xa lánh người này, như chim núp vào thân ngài Xálợi Tử mà vẫn còn run sợ, chỉ có tập khí mà còn như thế huống là hoàn toàn không dứt trừ ba độc. Người ăn thịt mắc vô lượng tội lỗi, vì ăn thịt đưa đến sự giết hại nên mắc vô lượng tội lỗi.
4. Giới ăn năm thứ rau cay nồng:
Nếu Phật tử, chẳng được ăn năm loại “rau cây nồng” là hành, hẹ, tỏi, nén và hưng cừ, năm loại này bỏ vào tất cả các thứ thực phẩm đều không được ăn. Nếu cố ăn, Phật tử này phạm “tội khinh cấu”. Mùi hôi làm ngăn ngại tịnh pháp cho nên cấm. Đại thừa, Tiểu thừa đều cấm, bảy chúng đồng phạm, theo luật thì người nữ nên cẩn thận vì hiện ra sắc đẹp. Cách thông, thổ thông, lang thông: Trong đây không có kiệu và hẹ. Nhưng chia hành làm ba loại, ba loại này có tướng riêng khó biết. Hoặc nói rằng: cách thông là lá kiệu giống như lá hẹ nhưng dày hơn. Lang thông thì truyền thuyết nói ở lĩnh Nam mọc lên cây lan thông, lá giống như lá tỏi nhưng lớn hơn và có mùi hôi như tỏi. Hưng cừ là theo lời Bà-la-môn gọi cây cải dầu là Hưng cừ, các chùa ở Tây vực không cho phép ăn. Lại chép rằng: lãnh Nam mọc lên cây Hưng cừ thân nó giống cây hẹ Nhật-bản, mùi vị giống như ỏi, nếu bị bệnh thuốc khác không trị khỏi thì được phải khai. Người thực hành pháp đúng như luật, Bồ-tát cũng được khai. Đặc biệt có kinh Ngũ Tân một quyện, ngũ tân mỗi thứ đều có năm, tổng cộng là hai mươi lăm thứ. Lại nói rằng: vì ăn ngũ tân nên rơi vào A-tỷ ở phương Đông, trên dòng rửa ngũ tân, dưới dòng giặt áo cũng không được. v.v.. Trong ba giới nhiếp thiện này không có tướng riêng, dùng nghĩa để nhiếp trong thân, ngữ, ý, trụ không buông lung cũng chứa đựng trong đó.
5. Giới không dạy người sám hối tội lỗi:
Nếu Phật tử khi thấy người phạm năm giới, tám giới hay mười giới, phá giới hay phạm thất nghịch bát nạn, tất cả tội phạm giới... phải khuyên bảo người ấy sám hối. Nếu Phật tử chẳng khuyên bảo người phạm tội sám hối, lại cùng ở chung, đồng sống chung, cùng bố tát chung, cùng thuyết giới, mà không cử tội người ấy, không nhắc người ấy sám hối, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Thấy người phạm tội, mà không bảo sám hối thì trái với tướng nghĩa lợi ích. Thanh văn tự hộ còn có chỗ không cho phép huống là bậc Đại sĩ. Theo hiển giáo dường như là trong nghĩa lợi sinh. Đối với người có lỗi trong lòng rất thân mật lợi ích an lạc, tăng thượng ý lạc. Điều phục, quở trách, trị phạt, đuổi đi là vì muốn cho người phạm tội ra khỏi chỗ bất thiện, an trí chỗ thiện. Nhưng Bồ-tát giáo hóa chúng sinh tức là tự thành Phật pháp. Nên trong nhiếp thiện giới cũng chế giới này, thì đối với lỗi mình đã phạm quả nhiên biết được rõ ràng. Trong sự thấy rõ lỗi lầm cũng chứa trong đó, mình và người tuy có khác nhưng thấy lỗi sám hối, trừ giống nhau ra, Đại thừa và tiểu thừa đều chế, hai chúng xuất gia đều phạm ba chúng khác và tại gia theo lý cũng chung bát giới và ngũ giới là giới của chúng tại gia, thập giới là giới của sa Di, Huỷ cấm tức là giới của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Lại mười giới, nghĩa là mười trọng, Huỷ cấm là bốn mươi tám giới khinh, thất nghịch như thuyết dưới đây. Bát nạn, hoặc có nơi chép rằng bát trọng, lại nói rằng: Tam đồ bằng bát nạn, do phạm giới chiêu lấy bát nạn, nên trong nhân nói quả. Nay là trong mười ba nạn trừ hai hình, huỳnh môn, súc sinh, phi nhân và phá nhị đạo, ngoài ra gọi là bát nạn. Bốn loại như hai hình... hoàn toàn là nghĩa báo chướng không sám hối trừ diệt. Phá nhị đạo là vì ở đạo khác trở lại nhập vào Phật pháp nên không có nghĩa đồng ở đồng lợi dưỡng, vì thế loại thứ năm này không được vào trong số bảo sám hối. Trong bốn mươi bốn giới thì giới thứ bảy chép rằng: Nếu các Bồ-tát đối với các hữu tình phạm giới, bạo ác, có tâm hiềm hận, tức giận, do phạm giới bạo ác kia làm duyên, phương tiện xả bỏ không làm lợi ích ấy, gọi là có phạm, có sự trái vượt, là ô nhiễm trái phạm. Nếu do lười biếng, uể oải mà xả bỏ, vì vọng niệm nên không làm lợi ích ấy, gọi là phạm, có sự trái vượt không ô nhiễm trái phạm. Vì sao? Vì chẳng phải các Bồ-tát đối với tịnh trì giới, nghiệp thân, ngữ ý vắng lặng hiện hành ở các chỗ hữu tình, khởi tâm thương xót muốn làm lợi ích, như đối với hữu tình phạm giới bạo ác, trong các nhân khổ mà hiện ra để xoay chuyển không trái phạm nghĩa là tâm cuồng loạn, hoặc muốn tìm cách điều phục người phạm tội, nói rộng như trước. Hoặc là dùng tâm che trở cho nhiều hữu tình, hoặc là hộ tăng đặt ra phương tiện, xả bỏ không làm lợi ích, đều không trái phạm.
6. Giới không cúng dường thỉnh pháp:
Nếu Phật tử, thấy có vị Pháp sư Đại thừa, hay những vị đồng học, đồng kiến, đồng hạnh Đại thừa, từ trăm dặm, ngàn dặm đến chỗ tăng phường, nhà cửa thành ấp, thì liền đứng dậy, rước vào, đưa đón lễ bái, mỗi ngày cúng dường ba thời, trăm thức uống ăn, giường ghế, thuốc men, tất cả đồ cần dùng giá đáng ba lượng vàng đều phải cung cấp cho Pháp sư. Mỗi ngày, sáng, trưa và chiều, thường thỉnh Pháp sư nói pháp và đảnh lễ, không hề có lòng tức hận buồn rầu, thường thỉnh pháp không nhàm mỏi, chỉ trọng pháp chớ không màng đến thân mình. Nếu Phật tử không như thế thời phạm tội khinh cấu. Người có lỗi không thỉnh pháp mất lợi ích, ô nhiễm tinh thần cho nên chế. Thanh văn có người biết pháp bốtát rộng lược, nên chế phải cung cấp. Trong năm tuổi và chưa hiểu năm pháp thì phải thưa hỏi, không thì phạm tụ thứ bảy, ngoài ra thì không chế, vì tự độ dễ thoả mãn. Bồ-tát thấy có người biết thì thường phải cấp thỉnh, vì muốn tốt đẹp không nhàm chán, nên bảy chúng đồng phạm. Trong văn tự sự có hai, một là cúng dường hai là thỉnh pháp. Cúng dường có hai, một là cúng dường, đi nhiễu xung quanh, hai là cúng dường thức ăn uống. Mỗi ngày ba thời cúng dường là trong thời gian ba thời, hoặc là phi thời cũng được sữa v.v... phi thời để cúng dường. Mỗi ngày ba thời cúng dường thức uống ăn giá đáng ba lượng vàng là nói theo khả năng làm được, hoặc vì khiến cho trọng pháp nên nói như vậy. Như đại sĩ núi Tuyết vì một bài kệ mà tự xả thân, v.v... huống chi là của cải ngoài thân. Mỗi ngày ba thời cung cấp hầu hạ cúng dường, nghĩa là cung cấp tất cả đồ cần dùng khác. Ba thời thỉnh pháp là sáng, trưa và chiều, không hề có tâm tức hận, buồn phiền là Pháp sư tuy có sự trái ý cũng không bao giờ sinh tâm sân hận. Bản thân tuy cúng dường hầu hạ cực nhọc cũng không hề có tâm buồn rầu, vì chỉ trọng pháp chớ không mày đến thân mình, để thỉnh Pháp sư giải thích lý do không sinh tâm sân hận, buồn phiền. Nếu bị tật bệnh chướng nạn, hoặc Pháp sư có vướng mắc, hoặc biết người kia kém cỏi hơn mình, như vậy không thỉnh không phạm.
7. Giới không đi nghe pháp và thưa hỏi.
Nếu Phật tử, các tận học Bồ-tát, hễ nơi nào chỗ nào có giảng kinh luật, thì phải mang kinh luật đến chỗ Pháp sư để nghe giảng và thưa hỏi. Hoặc nơi núi rừng, chùa, nhà... tất cả chỗ nói pháp đều phải đến nghe học. Nếu Phật tử không đến những nơi ấy để nghe pháp và thưa hỏi thì phạm tội khinh cấu: có chỗ giảng pháp mà không đi nghe sẽ mất con đường tiến đến pháp lành cho nên chế. Học xứ giống và khác nhau cũng như trước. Trong hai mươi tám giới khinh thì giới thứ tám chép rằng: Nếu Ưu-bà-tắc trong bốn mươi dặm có chỗ giảng pháp mà không đến nghe thì phạm tội thất ý. Trong văn chép, giảng pháp Tỳ-ni, kinh luật, nghĩa là giải thích pháp gọi là kinh, giải thích Tỳ-ni gọi là luật, văn khác rất dễ hiểu. Trong bốn mươi bốn giới khinh thì giới thế ba mươi hai chép rằng: Nếu các Bồ-tát nghe nói chánh pháp bàn bạc quyết trạch, mà kiêu mạn ôm lòng hiềm hận, lòng tức giận buồn phiền mà không đến nghe, đó gọi là phạm, có sự trái vượt là ô nhiễm trái phạm. Nếu bị sự lười biếng, uể oải ngăn che mà không đến nghe là phi nhiễm ô trái phạm. Không trái phạm là hoặc không biết, hoặc bị bệnh tật, hoặc không có sức khỏe, hoặc biết người kia nói pháp điên đảo, hoặc vì hộ tâm người kia thuyết pháp. Hoặc biết chỗ người kia nghĩa của nói số ấy đã nghe, đã trì, đã học rộng nghe nhiều, đầy đủ nghe trì, sự nghe ấy đã chứa nhóm. Hoặc muốn không nghe để trụ tâm ở cảnh. Hoặc khuyên dẫn phát định cao siêu của Bồ-tát. Hoặc biết rõ người ngu độn phẩm thượng, đối với chỗ nghe pháp khó thọ khó trì, khó ở chỗ duyên nhiếp tâm khiến định, không đến nghe pháp thì đều không trái phạm.
8. Giới có tâm trái bỏ Đại thừa.
Nếu Phật tử, có tâm trái bỏ kinh luật Đại thừa thường trụ, cho rằng không phải Phật nói mà thọ trì kinh luật tà kiến và tất cả giới cấm của Thanh văn nhị thừa và ngoại đạo ác kiến. Phật tử này phạm tội khinh cấu: Bỏ gốc theo ngọn trái với thói quen cho nên chế. Thanh văn không chế, vì chỗ huân tập đều khác, bảy chúng cùng phạm. Trong văn nói, có quan niệm trái bỏ kinh luật Đại thừa thường trụ cho rằng chẳng phải Phật nói: theo bản cũ chép thì chỉ chế còn do dự chưa quyết, dưới đó là phương tiện tà kiến. Nếu quyết định nghĩa là Đại thừa kém cỏi, Tiểu thừa cao siêu, chấp thành thì mất giới. Nếu trong lòng muốn trái bỏ, cho rằng chẳng phải là chân thuyết muốn thọ kinh luật của nhị thừa, ngoại đạo, chấp đều chưa thành thì phạm tội khinh cấu nầy. Nhưng tà kiến phẩm thượng phẩm trung, chấp đều chưa thành cũng phạm khinh cấu, đồng chế giới này. Nay nêu trái bỏ Đại thừa hướng về Tiểu thừa mà nói vì Bồ-tát phàm phu phần nhiều gây ra việc này. Nếu nói rõ thì có hai loại. Hoặc là pháp tưởng nói giới khéo tạ lỗi, hoặc phi pháp tưởng nói phạm mười giới trọng. Nay cho rằng tâm trái bỏ Đại thừa thọ, trì kinh luật của hàng nhị thừa là nếu khởi pháp tưởng thì chưa hẳn mất giới. Nghĩa là nếu có người tuy phát tâm Đại thừa thọ, giới Bồ-tát mà không hề học kinh Đại thừa sâu xa, chỉ nghe Tiểu thừa nói tu hành ba kiếp sẽ được quả Bồ-đề. Bỗng nghe Đại thừa nói về nghĩa sâu xa thì trong lòng không khởi niềm tin, cho rằng không phải Phật nói, vì không lui sụt tâm Đại thừa nên không mất giới, vì sinh pháp tưởng nên không phạm tội trọng. Nên trong giới thứ bốn mươi bốn của Bồ-tát Địa có giới thứ hai mươi chín chép rằng: Nếu các Bồ-tát tạng đối với pháp nghĩa chân thật, sâu xa, cao quý, thần lực khó nghĩ bàn của Chư Phật và Bồ-tát, không có tâm tin hiểu chống ganh ghét, trái ghé huỷ báng không thể dẫn nghĩa, không thể dẫn pháp, chẳng phải do Như lai nói, không thể làm lợi ích an vui cho các hữu tình, ấy gọi là có phạm, có sự trái vượt là ô nhiễm trái phạm. Huỷ báng như thế hoặc trong lòng tác ý phi lý, hoặc thuận theo người mà nói như thế. Hoặc nghe chỗ sâu xa cao siêu thì trong lòng không tin hiểu. Bồ-tát lúc ấy phải tín thọ mạnh mẽ, không được dua nịnh, phải học như thế. Ta vì người bất thiện, người mù không có mắt tuệ, dùng mắt Phật tuỳ theo chỗ mà giảng nói. Đối với ngôn ngữ mật ý của các Như lai mà sinh tâm phỉ báng, từ chỗ không biết như thế của Bồ-tát mà kính ngưỡng Như lai. Đối với pháp của Chư Phật đều hiện biết, bằng với chỗ thấy biết, chánh hạnh như thế không hề trái phạm, tuy không tin hiểu nhưng không phỉ báng. Trong văn chép ác kiến của hàng Thanh văn Nhị thừa và ngoại đạo, Duyên giác Thanh văn gọi là Thanh văn Nhị thừa, tức là Thanh văn này chính là ngoại Đại thừa, trái với đạo Bồtát nên nói là đạo ác kiến ngoại. Lại sáu vị giáo chủ ngoại đạo, v.v... gọi là ngoại đạo ác kiến. Bồ-tát Địa chép rằng: Nếu các Bồ-tát vượt qua pháp Bồ-tát, nghiên cứu tìm tòi ngoại luận khác và các luận của ngoại đạo thân tâm khéo léo quý trọng ham vui mê đắm, không bằng quen gần vị thuốc cay, ấy gọi là có phạm, có sự trái vượt là ô nhiễm trái phạm (giới thứ hai mươi tám) khai duyên đến giới thứ hai mươi bốn sẽ biểu hiện rõ ràng. Ba giới trên đây thì luận đã nói trong giới nhiếp thiện, đối với sự nghe, suy nghĩ, siêng năng tu học.
9. Giới không săn sóc bệnh
Nếu Phật tử, thấy tất cả người bệnh phải hết lòng cúng dường như cúng dường Phật. Trong tám ruộng phước, săn sóc bệnh là ruộng phước thứ nhất. Nếu cha mẹ, sư tăng và đệ tử bị bệnh tật, trăm thứ bệnh đau khổ, đều phải chăm sóc cho được lành mạnh. Phật tử lại vì tâm hờn giận không chăm nuôi, cho đến thấy trong Tăng phường, thành ấp, nơi núi rừng đồng nội, đường sá có người bị bệnh mà không lo cứu giúp thì Phật tử này phạm tội khinh cấu, vì thấy khổ không cứu, trái giới hạnh tu từ bi cho nên chế. Thanh văn đối với. Thầy bạn đồng pháp và được tăng sai, ngoài ra không chế, vì vốn không gồm vật. Bậc Đại sĩ phải cứu giúp tất cả khổ, vì vốn mong nhiếp tất cả. Bảy chúng đồng chế. Ngay trong luận đã nói, đối với người bệnh phải thương xót, ân trọng chăm sóc, cúng dường cho nên chế, văn nói cúng dường tất cả người tật bệnh như cúng dường Phật không khác. Đức Phật là người đáng kính, bệnh là chỗ đáng thương, kính thương tuy khác nhưng nghĩa phước điền lại giống nhau cho nên không khác. Trong tám rộng phước khám bệnh là phước, săn sóc bệnh là ruộng bậc nhất, vì nghĩa sùng kính là sau, tâm bi cứu giúp là trước, nên ruộng phước tuy có tám nhưng săn sóc bệnh là trên hết.
Nếu cha mẹ, sư tăng bị bệnh đều nên chăm sóc cho được lành mạnh: ở trên tuy nêu chung nhưng tất cả người bệnh đều phải cứu giúp từ thân đến sơ đều phải lần lượt giúp đỡ họ, nên chỉ nêu riêng bà con bạn thân. Giới thứ hai trong mười một việc lợi sinh của Địa luận chép rằng: Nếu các Bồ-tát thấy hữu tình nào bị bệnh nặng mà có tâm hiềm hận, giận tức không đến cúng dường giúp đỡ, ấy gọi là có phạm, có sự trái vượt là ô nhiễm trái phạm. Nếu bị lười biếng uể oải ngăn che mà không đến cúng dường kính thờ thì chẳng phải là ô nhiễm trái phạm. Không trái phạm là, hoặc mình bị bệnh, hoặc không có sức khỏe, hoặc chuyển mời người khác có sức khỏe thuận theo, khiến họ đến cúng dường, giúp đỡ. Hoặc biết người bệnh có chỗ nương tựa, hoặc biết người bệnh có khả năng lực có thể tự cung cấp giúp đỡ. Hoặc biết rõ người kia bệnh lâu, chỗ tiếp xúc có thể tự giúp đỡ. Hoặc siêng tu phẩm lành cao quý rộng lớn vô thượng. Hoặc muốn giữ gìn chỗ tu phẩm lành cho không để đứt quảng thiếu sót. Hoặc tự biết rõ ngu độn phẩm thượng, tuệ độn của họ đối với chỗ nghe pháp khó thọ khó trì, khó dùng duyên nhiếp tâm cho được. Hoặc trước hứa là sẽ cúng dường, như đối với người bệnh, đối với người có nỗi khổ làm bạn để giúp đỡ, muốn dứt khổ cho họ, nên biết cũng như vậy.
10. Giới không được chứa khí cụ sát sinh.
Nếu là Phật tử thì không được cất chứa những binh khí, như dao gậy, cung tên, giáo, búa, v.v... cùng những đồ sát sinh như chài lưới, rập, bẫy v.v... là phật tử, dầu cho cha mẹ bị người giết còn không được báo thù, huống là giết tất cả chúng sinh! Không được cất chứa những khí cụ sát sinh! Nếu cố cất chứa, Phật tử này phạm tội khinh cấu: Thấy suy nghĩ đủ việc không thể quen dần, vì phòng ngừa cho nên chế. Tức là đối với các học xứ giữ gìn chánh hạnh, đều lìa việc ác, thành nhiếp thiện. Đại thừa và Tiểu thừa đều chế, đạo tục cùng cấm, hằn là hàng quý nhân, vua chúa con vua chúa.... muốn phòng nạn ngoại xâm, chuẩn bị cung tên v.v... theo lý nên khai cho, nhưng không được làm tổn hại. Lại tuy chẳng phải quý nhân, nếu muốn hộ pháp mà chuẩn bị đầy đủ vũ khí phòng ngừa nhưng không có tâm tổn hại cũng nên khai cho. Trong kinh Niết bàn chép: Người tại gia vì muốn hộ pháp nên cho phép cầm vũ khí, nhưng không được giết hại, văn giải thích dễ hiểu. Mười giới như thế, cần nên học và kính trọng vâng giữ (Trong sáu phẩm sau có giảng rộng).
Như thế trở xuống, tổng kết khuyên thọ trì, sáu phẩm sau là chỉ nói rộng giới bản. Hoặc kinh chép rằng: phẩm thứ ba mươi sáu, lẽ ra phải phân biệt có ba mươi sáu phẩm. Trong giới thứ hai mươi, bốn giới đầu thuộc về tự hành thiện, sáu giới sau thuộc về hòa tha thiện, trong bốn giới đầu.
1. Giới Đi Sứ
Phật dạy: là Phật tử, chẳng được vì quyền lợi và tâm ác mà làm thông tin sứ mạng cho hai nước hiệp hội quân trận, đem binh đánh nhau, làm cho vô lượng chúng sinh bị giết hại. Là Phật tử trong quân trận còn không được vào và qua lại, huống chi cố làm môi giới chiến tranh. Nếu cố làm, Phật tử này phạm tội khinh cấu.
Hễ là người thông tin sứ mạng cho hai nước hiệp hội quân trận đem binh đánh nhau thì chắc chắn tâm muốn thắng thua, dối gạt chuẩn bị làm cho chiến đấu, bên trong thì trái với lòng từ bi bình đẳng, ngoài thì tổn hại sinh mạng của muôn vật. Cho nên chế để dứt trừ. Đại thừa, Tiểu thừa đều chế, bảy chúng đồng cấm. Trong luận nhiếp Thiện chép: đối với thân, ngữ, ý trụ không buông lung cũng có chứa giới này, vì quyền lợi và tâm ác tức là ý buông lung. Nói đi thông tin sứ mạng là ngữ buông lung. Qua lại trong quân trận là thân phóng dật. Văn chép rằng vì quyền lợi và tâm ác, tâm mưu toan làm lợi cho mình, vì lợi mà ý mong tổn hại người khác nên có tâm có. Nếu vì kia, đây mà giao hòa, tại gia lẽ ra không cấm. Thông quốc sứ mệnh là làm sứ mạng cho hai nước đánh nhau. Hiệp hội quân trận là hai nước dấy binh đánh nhau, làm cho vô lượng chúng sinh bị giết hại, là do ta đi thông sứ đưa đến việc quan trọng này. Hưng sư là hưng khởi quân binh, nếu ý muốn đi thông sứ để giết hại thì tuỳ theo người chết mà, riêng kết tội trọng. Nay chỉ cấm thông sứ mạng nên kết tội khinh cấu. Không được qua lại quân trận là nơi ồn ào tạp loạn, chẳng phải là nơi mà người tu đạo bước chân đến, chắc chắn không có việc hệ trọng, đạo tục đều cấm. Nếu Bồ-tát tại gia là hàng võ quan danh tiếng, chấn động uy dũng, hào hùng thì không tránh được, vì an ổn quốc gia nên cho phép đi vào nhưng không được giết hại. Như khi dòng họ Thích-ca và vua lưu ly đánh nhau. Nếu Bồ-tát xuất gia có nhân duyên, kiêu gọi theo luật thì cho phép hai ba đêm.
2. Giới buôn bán phi pháp.
Nếu Phật tử cố bán người lành, tôi trai tớ gái, lục súc, buôn bán quan tài, ván cây đồ đựng thây chết, còn không được tự mình buôn bán các thứ ấy, huống chi là bảo người. Nếu cố tự buôn bán, hay bảo người buôn bán các thứ ấy, Phật tử này phạm tội khinh cấu. Tổn cảnh mong lợi, vì xâm não chỗ ở nên Phật chế để dứt trừ. Bảy chúng không cùng chế. Nếu tổn cảnh buôn bán như sinh khẩu v.v... thì đạo tục đều cấm. Nếu cầu lợi mà buôn bán trao đổi lẫn nhau v.v... thì chế đạo mà khai cho tục. Nên kinh Ưu-Bà-tắc chép rằng: Người tại gia có của cải nên chia thành bốn phần, một phần cúng dường cha mẹ vợ con, hai phần buôn bán đúng pháp, phần còn lại cất giữ. Nay giới này cũng cấm thân, ngữ buông lung, văn chép rằng: cố buôn bán người lành là biết người không thuộc về mình mà gượng lừa dối buôn bán. Buôn bán tôi tớ lục súc, tuy là vật thuộc về của mình, dễ có phần xâm tổn nên bị tội. Buôn bán quan tài, ván cây đồ đựng thây chết, nghĩa là quan tài cũng là ván cây, hoặc ván cây là hòm bọc ngoài áo quan bằng cây, còn không được cố buôn bán huống chi bảo người buôn bán. Trong đây nêu tự mình không được, buôn bán, huống chi bảo người khác. Giới không được uống rượu ở trước cấm tự mình buông lung nên nêu người khác để so sánh với mình, giới buôn bán này chế không làm tổn người, nên nêu tự so sánh với người, mình người so sánh nhau, ý là ở đây.
3. Giới Huỷ Báng người lương thiện:
Nếu Phật tử, vì tâm ác, đối với người tốt người lành, Pháp sư, sư tăng, hoặc vua chúa và hàng quý nhân, vốn vô sự mà huỷ báng là phạm bảy tội nghịch, mười giới trọng, với cha mẹ anh em sáu thân phải có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, mà trở lại vu khống cho là phạm tội nghịch, đọa vào đường ác, Phật tử này phạm tội khinh cấu. Vô sự mà huỷ báng, mà hãm hại người lành nên Phật đặt ra để đứt trừ. Đại thừa, Tiểu thừa đều chế. Bảy chúng đồng cấm. Giới này chế về ngữ buông lung. Hỏi: Giới này đã chế huỷ báng người khác là phạm tội trọng, việc ấy cùng tội trọng trong giới thứ sáu có gì khác nhau? Đáp: Người xưa muốn phân biệt hai giới tướng nên có nguồn gốc hay không đều chia thành bốn câu. Bốn câu có y cứ, một là đối với người có giới nói về tội trọng, tội khinh của họ, đều phạm khinh cấu. Giới này chánh chế, hai là đối với người không có giới, nói về tội trọng tội khinh của họ cũng phạm khinh cấu, giới trước phụ chế, ba là nói với người có giới, về tội trọng tội khinh của người không có giới cũng phạm khinh cấu, giới này gồm chế, bốn là nói với người không có giới về lỗi của người có giới. Nếu nói về tội trọng thì phạm trọng, giới trước là chánh chế. Nếu nói lỗi nhẹ thì phạm tội khinh cấu, giới trước gồm chế.
Bốn câu không căn cứ, câu thứ nhất là nói tội trọng tội khinh của người có giới cho người có giới nghe, lại phạm khinh cấu, giới này còn ở trong văn, chánh chế nói về tội trọng, gồm chế nói về tội khinh. Ba câu sau tác pháp giống như giới trước, nhưng không có căn cứ là khác. Lại có người nói, trong giới trọng thứ sáu chế nói về lỗi thật, kia cho rằng nói tội lỗi của bốn chúng, nay trong giới này ngăn sự phỉ báng không căn cứ, văn chép rằng vì phỉ báng người lành khác. Hai giới trước sau vẫn không phân biệt người nói với họ, có giới hay không giới hoàn toàn không lựa chọn riêng, theo lý phải đều thông. Hỏi: Trong pháp của Thanh văn, không căn cứ mà phỉ báng phạm tội trọng, nói lỗi có thật thì phạm khinh, vì sao Bồ-tát thì ngược lại?
Đáp: Trong pháp của Thanh văn ngăn ngừa lỗi của mình, không căn cứ phỉ báng lỗi người khác là phạm trọng, có căn cứ nói lỗi phạm tội khinh, nên chế khinh trọng có khác nhau.
Trong pháp của Bồ-tát ngăn ngừa việc tổn hại người khác, nói lỗi có thật của người khác phạm dễ gây ra sự tổn hại mãi mãi, lui mất tâm Bồ-đề của người, không thật mà huỷ báng, việc đã không có thật thì không tổn hại vĩnh viễn, nên chế có nặng nhẹ, nghĩa ấy ở đây. Trong văn chép tâm ác, vô sự mà huỷ báng là chỉ muốn huỷ báng người khác không lợi ích cho tâm nên nói là ác tâm, ba căn không đầu mối nên nói là vô sự. Người tốt người lành không có phạm lỗi mà bị phỉ báng nên nói là tốt lành. Tưởng tịnh nên gọi là Tốt, thật tịnh nên gọi là Lành, không phải như giới trước nói chẳng phải tôi tớ gọi là Tốt. Pháp sư, sư Tăng, vua chúa, Quý nhân là nêu riêng cảnh trọng trong chỗ huỷ báng. Nói phạm bảy tội nghịch, mười tội trọng là chỉ nêu tội trọng trong sự huỷ báng, cha mẹ, anh, em, sáu thân là ba đời lưu thông nhau chẳng thể không có sự thân thiết. Mà lại vu khống cho là phạm tội nghịch là không có phạm tội trọng mà huỷ báng, nên nói là vu khống phạm tội nghịch. Đọa vào chỗ không như ý: là do ta huỷ báng nên đọa vào chỗ trái ý (đọa vào đường ác).
4. Giới đốt lửa:
Nếu Phật tử, vì tâm ác nên châm lửa đốt núi rừng, đồng nội. Từ tháng tư đến tháng chín đốt lửa, hoặc cháy lan đến nhà cửa, thành ấp, tăng phường, ruộng cây của người và cung điện tài vật của quỉ thần. Tất cả chỗ có sinh vật không được cố thiêu đốt. Nếu cố thiêu đốt, thì Phật tử này phạm tội khinh cấu, không chọn thời gian, nơi chốn mà vội đốt lửa thật ra làm thương tổn rất nhiều, nên Phật cấm để dứt trừ. Đại thừa Tiểu thừa đều chế. Trong bảy chúng thì năm chúng xuất gia, đúng thời tất cả đều dứt trừ, y cứ vào chỗ chế hiển bày thì cho phép che đậy. Hai chúng tại gia y cứ vào thời thì cấm nóng cho lạnh, vì có sản nghiệp. Y cứ vào chỗ lộ bày, che phải đều cho phép, nhưng không được thương tổn đến loài cỏ bò lan dưới đất. Nghĩa ấy suy ra giới này, muốn đề phòng hai tội trọng, một là đế phòng lỗi sát sinh, hai là phòng kẻ ăn trộm làm tổn hại. Y theo điều nói trong văn, theo lý phải như vậy. Giới này chỉ cấm thân buông lung. Trong văn chép, vì tâm ác cho nên đốt lửa là không mưu tính tổn hại sinh mạng của người, liền đốt lửa làm cho cháy lan đến cỏ cây, nên nói là tâm ác. Thiêu đốt núi rừng đồng nội từ tháng tư đến tháng chín là chỉ vì tổn hại đến chúng sinh nên chế lúc trời nóng nực. Nếu đốt nhà cửa trở xuống của người, chỉ vì tổn vật nên trong mọi lúc đều chế. Nếu do đối lửa mà hại mạng tổn vật, thì đặc biệt kết tội sát sinh và trộm cướp. Nay chỉ cấm đốt lửa nên kết tội khinh cấu.
Tất cả vật có chủ đều không được cố ý thiêu đốt, sớ cũ đổi thành có sinh vật là sai, vì không hiểu khoa văn, vẫn làm trở ngại, v.v... Nếu nói vật có chủ thì làm sao phân biệt tháng tư đến tháng chín. Đây như khoa trên chỉ tổn hại sinh mang nên chế tháng tư đến tháng chín. Nếu tổn vật thì không giới hạn thời gian trong tháng, đâu được lạm dụng ngay đó sửa đổi văn kinh.
5. Giới dạy giáo lý ngoài Đại thừa
Nếu Phật tử, từ đệ tử Phật, sáu thân tất cả thiện tri thức, cho đến ngoại đạo ác nhân, đều phải khuyên bảo thọ trì kinh luật Đại thừa. Nên giảng cho họ hiểu nghĩa lý, khiến phát tâm Bồ-đề, Thập Phát thú tâm, Thập Trưởng dưỡng tâm, Thập Kim cương tâm. Trong ba mươi tâm ấy giảng cho họ hiểu pháp dụng thứ lớp của mỗi món. Mà Phật tử lại có tâm ác, tâm sân, đem kinh luật của Thinh văn Nhị thừa và các bộ luận của ngoại đạo tà kiến để dạy ngang cho người. Phật tử này phạm tội khinh cấu.
Từ sáu giới sau là thuộc về thiện lợi tha. Trong Luận Nhiếp Thiện chép! Đối với các học xứ chánh niệm, chánh tri, chánh hạnh, chánh phòng thủ. Trong sáu giới, hai giới đầu phân tích về chánh tri, chánh phòng thủ của học xứ người khác. Bốn giới sau phân tích về chánh hạnh phòng thủ của học xứ mình, suy nghĩ sẽ thông suốt. Đối với chánh tri phòng thủ của học xứ người khác, ban đầu không dạy giáo lý ngoài Đại thừa, nếu dạy thì sẽ khiến cho họ mất chánh đạo cho nên cấm. Đại thừa, Tiểu thừa cùng phạm, vì sở học khác nhau, bảy chúng đồng chế, trong văn chép, từ đệ tử Phật cho đến tất cả thiện tri thức, là nêu những vị truyền dạy cho người. Điều phải khuyên bảo thọ trì kinh luật Đại thừa: là dạy họ thọ trì văn cú năng thuyên. Nên giảng cho họ hiểu nghĩa lý là dạy cho họ hiểu biết chỗ giải thích nghĩa lý. Khiến phát tâm Bồđề là đã biết văn nghĩa, nên khiến họ phát tâm, cầu hiểu để thực hành, nguồn gốc của thực hành là phát tâm Bồđề, nên được hiểu, kế đó phải dạy người phát tâm. Trong đây, đầu tiên là nên phân tích sơ lược phương pháp phát tâm.
Kinh Phát Bồ-đề tâm chép: vì sao Bồ-tát phát tâm Bồ-đề? Dùng nhân duyên vào tu tập Bồ-đề? Nếu Bồ-tát gần gũi bậc thiện tri thức, cúng dường chư Phật, tu tập gốc lành, chí cầu thắng pháp, tâm thường nhu hòa, gặp khổ nhẫn được, từ bi thuần hậu, thân tâm bình đẳng, tin ưa Đại thừa, cầu trí tuệ Phật. Nếu người nào có đủ mười pháp như thế, mới có thể phát được tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại có bốn duyên phát tâm tu tập Vô thượng Bồ-đề, Bốn duyên ấy gồm: một là tư duy Chư Phật mà phát tâm Bồ-đề, hai là quán thân bệnh hoạn phát tâm Bồ-đề, ba là thương xót chúng sinh mà phát tâm Bồ-đề, bốn là cầu quả tối thắng mà phát tâm Bồ-đề. Tư duy Chư Phật phát tâm Bồ-đề là tư duy Chư Phật mười phương ba đời mới phát tâm có đủ tánh phiền não cũng như ta ngày nay, cuối cùng thành Chánh giác là bậc Vô thượng. Do duyên này nên phát tâm Bồ-đề. Lại còn suy nghĩ Chư Phật ba đời phát tâm mạnh mẽ, mỗi người đều có khả năng chung đắc Vô thượng Bồ-đề. Nếu Bồđề này là pháp có thể đắc thì ta cũng phải được, do việc này nên phát tâm Bồ-đề. Lại tư duy Chư Phật ba đời phát trí tuệ rất sáng, ở trong vỏ vô minh xây dựng tâm cao quý chứa nhóm khổ hạnh, đều có khả năng tự vượt ra ba cõi, ta cũng như vậy, phải tự mình vượt qua. Do việc này nên phát tâm Bồ-đề. Suy nghĩ tất cả Chư Phật làm người mạnh mẽ trong loài người đều vượt qua biển lớn sinh tử phiền não. Ta cũng là bậc Trượng phu cũng phải có khả năng vượt qua. Do việc này nên phát tâm Bồ-đề. Lại suy nghĩ tất cả Chư Phật phát tâm tinh tấn mạnh mẽ, xả bỏ thân mạng của cải để cầu Nhất thiết trí, nay ta cũng học theo Chư Phật. Do việc này nên phát tâm Bồ-đề. ba nhân duyên khác nói rộng như kia, để biết tướng sơ lược, lại trình bày một văn. Còn các nghĩa rộng khác các giáo đã nói đầy đủ. Nếu muốn phát tâm phải nương theo đó mà tìm. Phát mười tâm, theo kinh Bản Nghiệp chép: Từ phàm phu địa không biết gì, đến giáo pháp của Phật và Bồ-tát, khởi một niệm tin liền phát tâm Bồ-đề, người ấy lúc bấy giờ trụ ở trước gọi là Bồ-tát tin tưởng, cũng gọi là Bồ-tát giả danh, cũng gọi là Bồ-tát danh tự, lược hành mười tâm, nghĩa là tín tâm, tiến tâm, niệm tâm, tuệ tâm, định tâm, giới tâm, hồi hướng tâm, hộ pháp tâm, xả tâm, nguyện tâm. Mười tâm này là hạnh tu quan trọng của Bồ-tát phát tâm, nên phải dạy phát khởi. Tâm Kim cương là chỗ phát mười tâm bền chắc khó hư hoại. Giảng cho họ hiểu pháp dụng thư lớp của mỗi món, đã phát tâm rồi, dạy cho người khác hiểu nghĩa lý khiến phát tâm Bồ-đề tu hành pháp dụng theo thứ lớp trước sau, mà Phật tử làm trái lại cho nên phạm, nói pháp lộn lạo trái với căn cơ nên nói là thành giáo.
6. Giới nói pháp không lộn lạo.
Nếu Phật tử, phải hết lòng tu học kinh luật oai nghi Đại thừa, thông hiểu nghĩa lý, khi thấy có Bồ-tát tân học từ xa trăm dặm, ngàn dặm đến, cầu học kinh luật Đại thừa thì nên đúng như pháp giảng giải tất cả khổ hạnh, hoặc đốt thân, đốt cánh tay, đốt ngón tay. Nếu không đốt thân hay cánh tay, ngón tay cúng dường Chư Phật thì không phải là Bồ-tát xuất gia. Cho đến lác thịt của thân mình và tay chân mà bố thí cho tất cả những loài cọp, sói, sư tử đói cùng tất cả loài quỉ đói, rồi sau mới thứ lớp tùy theo căn cơ của mỗi người mà giảng nói chánh pháp cho các vị tân học ấy được mở mang tâm ý. Nếu Phật tử vì quyền lợi, đáng dạy mà không dạy, lại giảng kinh luật một cách điên đảo, văn tự lộn xộn, không có thứ lớp trước sau, nói pháp có tính cách huỷ báng Tam bảo. Phật tử này phạm tội khinh cấu.
Nói pháp điên đảo trái với đạo dạy bảo cho nên cấm, chế giới trước không điên đảo. Chế giới này ẩn Đại thừa, dạy Tiểu thừa, tuy nói Đại thừa nhưng ẩn mất nghĩa lý, giảng kinh luật một cách điên đảo không có thứ lớp trước sau. Pháp Thanh văn nếu dạy bảo người khác, vì lợi mà ẩn mất, làm cho nghĩa lý không rõ ràng cũng phạm tội. Bảy chúng đồng chế. Trong văn chép: Phải hết lòng học kinh luật oai nghi Đại thừa, thông hiểu nghĩa lý, là không dạy người điên đảo, phải tự chánh học trước. Như kinh này và kinh Thiện Giới Quyết Định Tỳ-ni Bồ-tát Địa Trì v.v... tức là kinh luật oai nghi Đại thừa. Sau đó, thấy có Bồ-tát tân học từ xa đến cầu học thì phải giải thích đúng, không giảng pháp điên đảo cho họ nghe. Trong đó có hai, đầu tiên là giảng về việc khổ hạnh để thử tâm họ, sau đó giảng chánh pháp để khai mở cho họ hiểu. Vì muốn biết chí lớn của họ nên nói về việc khổ hạnh. “Vì thử tâm họ, là muốn phát khởi đại hạnh của họ cho nên nói chánh pháp để mở mang tâm ý. Nói việc khổ hạnh, trong đó dùng hai việc khổ hạnh để thử, một là đốt thân cúng dường Chư Phật, hai là lóc thịt để cứu nạn đói. Trong nói pháp cũng có hai, một là nói pháp theo thứ lớp, hai là giúp cho họ mở mang tâm ý. Nói pháp theo thứ lớp là phần thô cạn dễ ngộ thì nói trước, phần sâu kín khó hiểu thì giảng sau. Lại giảng thứ lớp trong ba học hạnh mà Bồ-tát làm trái lại thì thành phạm. Đáng dạy mà không dạy là không nói hết nghĩa lý sâu xa. Giảng kinh luật một cách điên đảo là trái với chánh thuyết. Văn tự lộn xộn không có thứ lớp trước sau là phần trước để ở sau, phần sau để ở trước v.v... nói pháp có tính cách huỷ báng Tam bảo, tuỳ theo điều đã nghe mà chấp nghĩa thành năm lỗi. Như kinh Niết bàn chép: Nếu nói chúng sinh chắc chắn có Phật tánh, hay chắc chắn không có Phật tánh đều là phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Đây là nói chung phỉ báng nên không phạm tội trọng. Giới thứ sáu trong Bồ-tát Địa chép rằng: Nếu các Bồ-tát có người đến cầu pháp lại có tâm hiềm hận lòng sân não, ganh ghét không bố thí pháp cho họ, đó gọi là có phạm, có sự trái vượt, là ô nhiễm trái phạm. Nếu do lười biếng, uể oải tâm vọng niệm không nhớ nên không bố thí pháp cho họ cũng gọi là phạm, có sự trái vượt, nhưng không ô nhiễm trái phạm. Không trái phạm là các ngoại đạo dò xét tìm tòi khuyết điểm, hoặc là bị bệnh nặng, hoặc tâm cuồng loạn, hoặc muốn phương tiện điều phục người phạm lỗi ra khỏi chỗ bất thiện, an lập chỗ thiện. Hoặc đối với pháp ấy chưa thông suốt. Hoặc là thấy mà không sinh tâm cung kính, không có hổ thẹn, đến nghe thọ với dáng vẽ quậy phá, hoặc biết người kia căn tánh ám độn, đối với pháp sâu rộng dạy đắc pháp rốt ráo thì rất sinh tâm sợ hãi nên khởi tà kiến, thêm lớn tà chấp, suy hao tổn não. Hoặc là biết pháp kia đến tay họ thì truyền khắp cho phi nhân, mà không bố thí giúp cho đều không phạm.
7. Giới cậy thế lực quyền tởi:
Nếu Phật tử, tự mình vì việc ăn uống tiền của, lợi dưỡng, danh dự mà gần gũi vua chúa, Hoàng tử cùng các quan, ỷ quyền cậy thế bức người để lấy tiền của, lại bảo người khác cùng cầu lợi như vậy. Tất cả sự cầu lợi ấy gọi là ác cầu, đa cầu, đều không có lòng từ bi, lòng hiếu thuận. Phật tử này phạm tội khinh cấu.
Từ bốn giới sau, đối với chỗ tự học, chánh hạnh phòng thủ. Giới đầu ngăn nương quyền cậy thế để quyền tởi. Giới thứ hai, ngăn không hiểu dối làm thầy. Giới thứ ba ngăn lỗi ganh ghét người lành. Giới thứ tư ngăn lỗi thấy khổ không cứu. Đầu tiên là cậy thế lực quyền tởi, suy tổn hạnh ít muốn, dễ dàng đưa đến lỗi buồn phiền cho người khác cho nên chế. Đại thừa Tiểu thừa đều chế, bảy chúng đồng cấm. Trong văn chép: nương quyền cậy thế là rõ ràng mượn lệnh của người có quyền thế gọi là hình, thầm nương năng lực của họ gọi là Thế. Bức người để lấy tiền của là ban đầu xin không cho thì đánh đập để ra oai, lôi kéo để cướp đoạt lấy ngang tiền của là đoạt lấy phi lý. Nếu lấy được vật riêng thì phạm đạo tổn.
Nay ỷ quyền cậy thế mà quyền tởi thì phạm biên tội kết, tội khinh cấu. Tất cả chỗ cầu lợi gọi là ác cầu, đa cầu, vì cầu của phi lý nên gọi là ác cầu, cầu không chán gọi là đa cầu. Bảo người khác cầu là chẳng phải chỉ có việc làm của mình, cũng xúi giục người khác đều không có lòng từ bi, lòng hiếu thuận, vì tổn não người khác nên không có lòng từ bi, trái lời Phật dạy nên không hiếu thuận.
8. Giới không được dối làm thầy truyền giới.
Nếu Phật tử, phải học mười hai phần kinh, thường tụng giới mỗi ngày sáu thời nghiêm giữ giới Bồ-tát hiểu rõ, tính nghĩa lý Phật tính của giới. Nếu Phật tử không hiểu một kệ một câu và nhân duyên của giới luật, mà dối rằng thông hiểu đó chính là dối gạt mình và cũng là dối gạt người khác, không hiểu một pháp, chẳng biết một luật mà lại làm thầy truyền giới cho người. Phật tử này phạm tội khinh cấu. Không có đức làm thầy mà dối làm để truyền giới cho người là có lỗi gây sự hiểu lầm cho người nên chế, nhị thừa đồng chế, xuất gia tại gia đều cấm. Kinh cho phép vợ chồng làm thầy truyền giới cho nhau nên biết chế chung cho chúng tại gia. Trong văn chép: Mỗi ngày mười sáu thường tụng giới, nghiêm trì giới Bồ-tát, cho đến hiểu rõ tính nghĩa lý, Phật tính của giới, là người biết làm thầy phải cầu tự hiểu trước ngày đêm đều đủ sáu thời, e rằng người mới học bỏ quên lời dạy, đối với việc làm có thiếu sót nên cấm.
Mỗi ngày sáu thời nghiêm trì giới Bồ-tát là thọ trì văn của giới. Hiểu rõ nghĩa lý là hiểu rõ nghĩa khai giá, khinh trọng của giới. Tính của Phật tính là hiểu tính ấy sẽ hiện nhân quả Phật tính. Trong chỗ hiểu biết quan trọng cho nên nêu lên. Mà Bồ-tát v.v... trở xuống trái lại thành phạm, nói là trái với tự tâm nên gọi là tự lừa dối mình, khiến cho người khác hiểu lầm nên cũng lừa dối người khác. Mỗi đều không hiểu là một câu một kệ trong pháp môn đều không hiểu. Không biết tất cả pháp là đối với tất cả pháp đều không biết. Nếu không hiểu biết mà dối làm thầy truyền giới cho người thì phải tuỳ theo người thọ giới nhiều hay ít mà kết tội.
9. Giới không được làm cho đôi bên đấu tranh.
Nếu Phật tử, vì tâm ác, thấy thầy Tỳ-kheo giữ giới tay bưng lư hương, tu hạnh Bồ-tát mà tự đi đâm thọc hai đầu, làm cho sinh sự bất hòa khinh khi người hiền, gây ra nhiều tội ác. Phật tử này phạm tội khinh cấu, vì ganh ghét khéo đâm thọc trái với hạnh hòa giáo nên chế để dứt trừ. Hàng Nhị thừa đều chế, bảy chúng đồng cấm. Trong văn chép, vì tâm ác là làm trái với sự hòa hợp, tổn hạnh thanh tịnh nên gọi là tâm ác. Thấy thầy Tỳ-kheo trì giới, cho đến tu hạnh Bồ-tát là nêu người đâm thọc. Đâm thọc hai đầu là đến bên đây nói lỗi bên kia, đến bên kia nói lỗi bên đây nên gọi là đâm thọc. Hoặc kinh chép chữ Cấu nghĩa là đâm thọc để cho hai bên có thành kiến với nhau. Hoặc kinh chép là chữ “Quá” nghĩa cũng giống như vậy, tuỳ theo chữ mà thuận theo giải thích nghĩa, đều không ngăn ngại, không được thường hay thay đổi, khinh khi người hiền tạo nhiều tội ác: là do đâm thọc nên dẫn đến việc khinh khi người hiền, gây ra nhiều tội ác có khác gì với giới thứ mười ba? Vì vận tâm có khác, kia nói tâm dìm mất, đây nói tâm chia rẽ, nay là khinh khi người hiền, tạo nhiều tội ác. Đây nói lên lầm lỗi nhiều lần, chẳng phải là chỗ chánh chế của giới này, chỉ đâm thọc hai đầu chính là chỗ ngăn ngừa của giới này. Như trong giới đốt lửa, giết trộm, nêu lên vẫn phạm, chẳng phải là chỗ phòng ngừa chính. Nếu vì lòng tốt mà nói lời chia rẽ cũng không phạm. Bồ-tát Địa chép: Lại như Bồtát thấy các hữu tình bị bạn ác nhiếp thọ, yêu nếu không bỏ. Bồ-tát thấy rồi khởi tâm thương xót, phát sinh lợi ích an lạc ý vui, tuỳ theo năng lực của mình mà nói lời chia rẽ, khiến cho họ lìa bạn ác, bỏ thân yêu nhau, chớ làm cho hữu tình vì gần gũi bạn ác mà phải chịu đêm dài vô nghĩa vô lợi. Bồ-tát dùng tâm nhiêu ích như thế nói lời chia rẽ khiến xa lìa ái kia thì chẳng những không phạm mà còn sinh nhiều công đức.
10. Giới không phóng sinh cứu giúp báo ân:.
Nếu Phật tử vì tâm từ bi mà làm việc phóng sinh, phải nghĩ như vầy: Tất cả người nam là cha tà mạng, tất cả người nữ là mẹ tà mạng, từ nhiều đời ta đều gá sinh nơi đó, vì lẽ ấy nên chúng sinh trong sáu đường đều là cha mẹ ta, nếu giết chúng để ăn thịt, thì chính là giết cha mẹ ta, mà cũng là giết thân cũ của ta. Tất cả chất bốn đại đều là bản thân, bản thể của ta, cho nên phải thường làm việc phóng sinh và khuyên bảo người làm. Nếu thấy người đời sát sinh nên tìm cách cứu giúp cho chúng được thoát khỏi cái chết! Thường giảng dạy giới Bồ-tát để cứu độ chúng sinh. Nếu vào ngày cha mẹ hay anh em qua đời, nên thỉnh Pháp sư giảng kinh luật Bồ-tát giới. Người chết nhờ phước đức ấy, hoặc được vãng sinh tịnh độ, ra mắt Chư Phật, hay gá sinh lên cõi trời, cõi người. Nếu không làm các điều trên đây, phật tử này phạm tội khinh cấu: Dè dặt chớ nên sát sinh, để cứu nạn chết phải ăn chay thỉnh Pháp sư giảng kinh luật Bồ-tát giới để cho vong linh được nhờ phước được, ấy là hạnh từ bi làm việc lành để báo ân, nên chế khiến làm. Đại thừa, Tiểu thừa cùng chế. Tất cả hàng Đại sĩ phải cứu độ, vì từ bi bình đẳng cùng khắp. Thanh văn chính là ở trong quyến thuộc, ngoài ra không chế, vì tự độ bảy chúng đồng phạm. Trong văn chép có hai, một là phóng sinh để cứu nạn chết, hai là ăn chay thỉnh giảng kinh luật giới Bồ-tát để vong linh hưởng phước. Trong phần đầu lại có hai, đầu tiên là dùng lòng từ để làm việc phóng sinh, sau cùng tìm cách cứu hộ để cứu chúng sinh thoát khỏi nạn khổ. Trong phần đầu vì lòng từ làm việc phóng sinh là thấy khổ ách sắp chết thì rất sinh lòng từ tìm cách cứu vớt làm cho được sống. Tất cả người nam là cha tà mạng v.v... là nói nguyên do, tu lòng từ bi trong việc cứu sinh. Trong đây có hai: một là đối với tất cả chúng sinh khởi quán bình đẳng thân thuộc, hai là đối với tất cả vật khởi quán là một thể. Trong phần đầu người nam, người nữ là cha mẹ tà mạng, là theo tướng tạm phối hợp, y cứ vào thật thì nam nữ cách đời đều là cha mẹ. Chúng sinh sáu đường đều là bà con, nên khi thấy họ bị khổ ách chẳng thể không cứu. Nếu giết chúng sinh để ăn thịt tức là giết cha mẹ, nghĩa là nêu bà con của mình, đều ngăn không cho giết ăn thịt, cũng là giết thân cũ của ta v.v... là nói quán nhất thể trong đó nương thế trước là đừng giết hại để ăn thịt, sau đó nói về quán nhất thể. Tất cả chất bốn đại đều là bản thân bản thể của tà mạng, nghĩa là thân chúng sinh do bốn đại hòa hợp mà thành thể. Lúc sống nhóm họp là thân, khi chết chia lìa là vật, tuy tụ tán theo duyên nhưng tánh ấy không khác, quán rộng ra đều là thể của ta. Nên bậc Thánh lấy chúng sinh làm thân cứu mình, lấy muôn vật làm thể của mình, lý tự không đúng, đâu thể như vậy, cho nên thường làm việc phóng sinh để cứu giúp. Từ nhiều đời ta đều gá sinh nơi đó là nói tìm cách cứu hộ cho chúng thoát khỏi nạn khổ. Đời đời thọ sinh: Tuy lại sinh, lại tử nhưng bi quán càng sâu. Nếu thấy người đời sát sinh v.v... trở xuống là nói về tìm cách cứu giúp, sinh mạnh bị giết sẽ bị khổ hiện tại, người giết sẽ bị khổ ở tương lai. Nên đối với năng giết, sở giết phải rộng sinh lòng từ bi cứu độ, phải tìm cách cứu hộ cho họ được thoát khỏi nạn khổ là cứu sinh mang bị giết thoát khỏi khổ hiện tại, thường giáo hóa giảng nói giới Bồ-tát cứu độ chúng sinh là cứu người giết, ngăn khổ ở đương lai cho họ. Nếu cha mẹ hay anh em chết, thỉnh Pháp sư giảng kinh luật giới Bồ-tát thì người chết nhờ phước đức ấy được vãng sinh, pháp lực khó nghĩ bàn, thầm ban cho không luống uổng: Nên người chết thần linh tuỳ ở đường nào? Trừ hai đều kia chắc chắn được nhờ lợi ích. Hỏi: Nối nhau đã khác, vì sao tu nhân phước này lại được quả an vui kia, vì mình làm người chịu trái với luật nhân quả? Đáp: Theo đạo lý nhân quả thật không có việc mình làm mà người khác chịu. Nhưng tương duyên giữa mình và người thì chẳng thể không giúp đỡ lẫn nhau. Nên ngài Mục-liên tạo phước thì vong linh mẹ Ngài được thoát khổ ngạ quỉ. Na-xá tu điều lành, thần thức của cha Ngài được tránh khỏi nạn khổ dữ dội, ấy là nghĩa cảm ứng nhau, lý thường chắc chắn như vậy.
Mười giới như thế cần nên học tập và hết lòng kính trọng vâng giữ, như trong phẩm diệt tội có giảng rõ mỗi giới. Mười giới như thế trở xuống là tổng kết, khuyên thọ trì chỉ cho các văn rộng khác, từ đây trở xuống giới thứ ba mươi nói thuộc về thiện hòa kính. Hòa kính có sáu, nghĩa là ba nghiệp đồng và giới kiến lợi đồng. Trong mười giới, ba giới đầu nói ba nghiệp đồng, giới là nói kiến đồng, bốn giới tiếp theo là nói lợi đồng, ba giới sau cùng nói giới đồng. Tức là luận đã nói trong giới nhiếp thiện đối với các bậc tôn trưởng siêng tu kính thờ, trong ba giới đầu thì trước là ngăn sân hận không chịu đựng, kế là ngăn kiêu ngạo không thưa hỏi. Tiếp theo là ngăn ngã mạn không dạy dỗ, mỗi trường hợp đều ngăn chung về ba nghiệp bất hòa. Hoặc có thể như thứ lớp ngăn thân miệng ý.
Giới thứ nhất: Nhẫn chịu trái phạm.
Nếu Phật tử, không được đem giận trả giận, đem đánh trả đánh. Nếu cha mẹ, anh em, hay sáu thân bị người giết cũng chẳng được báo thù, hoặc quốc chủ bị người giết chết cũng chẳng được báo thù. Giết sinh mạng để báo thù sinh mạng, đó là việc không thuận với hiếu đạo.
Chứa nuôi tôi tớ còn không được, vì đánh đạp mắng nhiếc chúng mỗi ngày ba nghiệp gây ra vô lượng tội, nhất là khẩu nghiệp. Huống là cố gây ra bảy tội nghịch. Nếu Bồ-tát xuất gia không có lòng từ bi cố báo thù, cho đến cố báo thù cho sáu thân. Phật tử này phạm tội khinh cấu. Đã tin đạo lý khắp thân một thể mà tức giận đánh đập nhau để báo thù thì chẳng phải hiếu thuận, cũng mất lòng từ bi nhẫn nhục, cho nên Phật chế để dứt trừ. Tức trong luận chép: Đối với sự trái phạm của người khác suy nghĩ chịu đựng. Nhị thừa đều chế, bảy chúng đồng cấm. Trong văn chép. Nếu giết cha mẹ anh em, sáu thân còn không được cố báo thù, ngoại đạo nói một đời oán thân chắc chắn là khác, nên nói: mối thù cha mẹ không ở chung trong trời đất, mối thù anh em không cùng ở chung một nước. Từ mối thù anh em, không phải là đứng đầu, bên trong dung chứa oán thân nhất quán trong ba đời, đâu cho phép vì một người bà con kia mà giết một bà con này. Nên dù anh em bị giết cũng không được cố báo thù. Lại thân người đã chết rồi thì không thể sống lại, nếu giết người kia, đối với ta có lợi ích gì? Nên kinh Trường Thọ Vương chép: lấy oán báo oán, oán ấy không bao giờ mất, lấy đức báo oán, oán ấy mới tiêu tan. Nếu Quốc chủ bị người khác giết chết cũng chẳng được báo thù: nghĩa là quốc chủ vì người khác cố giết giết cha mẹ mình cũng không được báo thù đối với quốc chủ, vì Quốc chủ cũng là bà con của mình. Lại nếu Quốc chủ của mình bị nước địch giết cũng không được đến nước ấy báo thù, vì kẻ địch ở nước kia cũng là cha mẹ của ta. Thái Tử Trường sinh gác kiếm cũng là việc ấy, giết sinh mạng để báo thù sinh mạng, đó là việc không thuận với hiếu đạo, nghĩa là oán lại là thân, cũng có ân sinh ra ta, giết sinh mạng kia để báo ân sinh thành ra ta là không phải đạo hiếu thuận, khi giết đặc biệt kết tội trọng. Nay đối với báo oán kết tội khinh cấu, còn không được nuôi tôi tớ, v, v... tất cả kết tội khinh cấu. Huống chi cố gây ra bảy tội nghịch, biết tất cả là cha mẹ ta mà làm việc giết hại để báo thù nên gọi là nghịch. Nếu Bồ-tát xuất gia không có tâm từ bi, cố báo thù, v.v... làm việc trái nghịch nên thành phạm, chỉ nêu người xuất gia vì rất trái nghịch nên lý chung cho tại gia. Cho đến cố báo thù cho sáu thân là cha mẹ chú bác, anh em là sáu thân, mối thù của sáu thân còn không được báo huống chi người khác. Giới thứ mười sáu trong Bồ-tát Địa chép: Nếu các Bồtát đem mắng trả mắng, đem sân trả sân, đem đánh trả đánh, đem nghịch trả nghịch, ấy gọi là có phạm, có sự trái vượt là ô nhiễm trái phạm. Giới này không khai duyên, chế ý rất dễ thấy.
2. Giới tâm nhún nhường thọ pháp.
Nếu Phật tử mới xuất gia chưa thông hiểu kinh luật, mà tự ỷ mình là trí thức thông minh, hoặc ỷ mình là cao quý lớn tuổi, hoặc ỷ mình là dòng họ tôn quý, con nhà giàu sang, hoặc ỷ mình học rộng phước to, giàu có, v.v... rồi sinh lòng kiêu mạn mà không chịu học hỏi kinh luật với các vị Pháp sư học đạo trước mình. Vị Pháp sư ấy hoặc dòng hèn, con nhà thấp hèn, tuổi trẻ nghèo nàn, hèn hạ, hay có tật nguyền, nhưng lại thật có đức hạnh, thông hiểu nhiều kinh luật. Các Bồ-tát tân học không được nhìn vào dòng giống của vị Pháp sư mà không chịu đến học hỏi đạo lý Đệ nhất nghĩa đế với vị ấy, Phật tử này phạm tội khinh cấu, vì thấy hình dáng mà không đến thưa hỏi đạo lý sẽ mất lợi ích thọ lãnh giáo pháp cho nên cấm. Đại thừa, Tiểu thừa đều chế, bảy chúng đều ngăn ngừa. Trong văn chép: Phật tử mới xuất gia, chưa thông hiểu kinh luật nghĩa là ngày gần vào đạo, chưa thông hiểu kinh luật trong Phật pháp. Tự ý mình là trí thức thông minh: nghĩa là ỷ mình là hiểu biết thông minh đối với việc đời. Hoặc ỷ mình là cao quý lớn tuổi, nghĩa là giàu sang quyền thế cao quý, tuổi tác lớn hơn người. Hoặc ỷ mình là dòng sang con nhà nổi tiếng: là sinh vào dòng họ tôn quý, gia môn sang trọng hơn người. Đại giải đại phước là tài đức dồi dào, rồi sinh tâm kiêu mạn: là dựa vào năm việc trên mà sinh tâm kiêu mạn. Vị Pháp sư ấy hoặc thuộc dòng hèn hạ, con dòng thấp hèn tuổi trẻ nghèo nàn, hèn hạ bị tật nguyền... luật chế người tàn tật làm, phải tuyên dương Pháp chủ, trong đây chính là thưa thỉnh người tuổi nhỏ, nên theo học hỏi, hoặc có thể Bồtát chỉ quý đạo của vị Pháp sư ấy chớ không vì hình tướng của Pháp sư, nên tuy nghèo nàn, hèn hạ cũng thỉnh nói pháp, như trời Đế-thích theo Dã can để thọ pháp v.v... mà Bồ-tát tân học không chịu đến học đạo lý Đại thừa với vị Pháp sư ấy là trái, cho nên phạm.
3. Giới có tâm tốt dạy trao:
Nếu Phật tử, sau khi Phật nhập diệt, lúc có tâm tốt muốn thọ giới Bồ-tát, trời đối trước tượng Phật và tượng Bồ-tát mà tự nguyện thọ giới, phải sám hối trong bảy ngày, hễ thấy được tướng tốt thì thọ đắc giới, nếu chưa thấy được tướng tốt thì phải sám hối mười bốn ngày, hăm mốt ngày, hay đến cả năm, cầu thấy được tướng tốt, khi thấy được tướng tốt rồi thì được đối trước tượng Phật, Bồ-tát mà thọ giới. Nếu chưa thấy tướng tốt thì dầu có đối trước tượng Phật thọ giới, vẫn không gọi là đắc giới. Nếu đối trước vị Pháp sư đã thọ giới Bồ-tát mà thọ giới, thì không cần thấy tướng tốt. Vì sao? Vì vị Pháp sư ấy là các sư truyền giới cho nhau nên không cần thấy tướng tốt. Hễ đối trước vị Pháp sư ấy mà thọ giới liền đắc giới, vì hết lòng kính trọng nên đắc giới, nếu ở trong vòng ngàn dặm mà tìm không được vị Pháp sư truyền giới, thì Phật tử được phép đối trước tượng Phật và Bồtát mà tự nguyện thọ giới Bồ-tát, nhưng phải thấy tướng tốt.
Nếu các vị Pháp sư ỷ mình thông kinh luật và giới pháp Đại thừa mà kết giao với các nhà quyền quý như vua chúa, Thái Tử, bá quan, khi có Bồ-tát tân học đến cầu học nghĩa kinh luật, lại giận ghét hay khinh ngạo, không chịu tận tâm chỉ dạy, vị này phạm tội khinh cấu.
Gặp người có pháp khí mà không chịu chỉ dạy là trái với đạo chỉ dạy nên răn Đại thừa, Tiểu thừa; xuất gia tại gia đồng chế. Trong văn chép có hai, một là nói rõ duyên đắc giới của Bồ-tát tân học, hai là nói Pháp sư không chịu chỉ dạy. Trong duyên đắc giới có ba, một là nói tự nguyện thọ giới, hai là nói theo người khác thọ giới, ba là kết lại hai cách thọ. Trong pháp Thanh văn thì năm chúng xuất gia phải theo người mà thọ, hai chúng tại gia chung tự thọ và người khác thọ. Như trong giới thứ năm mươi ba của luận Du-già nói rộng về tướng ấy. Trong pháp của Bồ-tát, kinh này không phân biệt bảy chúng thọ. Nếu cho phép xem xét kỷ, bảy chúng thọ giới đều chung cho hai cách thọ. Như quyển thượng kia đã rộng phân biệt. Nếu Pháp sư v.v... ác thuyết thì thành phạm, khác với giới thứ mười sáu ở trước là giới kia cấm vì lợi mà nói pháp điên đảo, giới này cấm khinh ngạo, ác thuyết, khai duyên đồng với giới kia.
4. Giới không được chuyên về dị học.
Nếu Phật tử, có kinh luật pháp Đại thừa, chánh kiến, chánh tánh, chính pháp thân của Phật mà không chịu siêng năng tu học, lại bỏ bảy của báu, học những sách luận tà kiến của Nhị thừa, ngoại đạo, thế tục, đó là làm hư hạt giống Phật, là nhân duyên chướng đạo, chẳng phải thật hành đạo Bồ-tát. Nếu cố làm như vậy, Phật tử này phạm tội khinh cấu. Bỏ gốc theo ngọn làm trở ngại đại đạo cho Phật chế. Đại thừa, Tiểu thừa không cùng chế vì sở học khác nhau, bảy chúng đồng chế. Đây chính là hợp kiến đồng trong sáu pháp hòa. Trong văn chép: có kinh luật của Phật nghĩa là hiện có giới pháp của Phật, nếu không có Phật pháp thì cũng cho phép theo thọ pháp bên ngoài vì bấy giờ Phật pháp ở thế gian đều diệt mất. Pháp Đại thừa là giáo pháp Đại thừa, chánh kiến là trong hành pháp Đại thừa thì tuệ là chính. Chánh tín là lý Đại thừa. Chánh pháp thân là quả pháp Đại thừa, nhưng không thể bỏ gốc theo ngọn. Bỏ bảy báu là Đại thừa đáng xem trọng đồng với bảy báu mà bỏ không tu tập. Hoặc kinh bản chép không bỏ bảy báu nghĩa là không bỏ bảy báu thế gian, muốn học pháp bảo phải bỏ của báu thế gian, vì không bỏ nên không thể học tập, lại học các sách luận tà kiến của Nhị thừa, ngoại đạo, thế tục là nêu chung pháp học, khác vì trái Đại thừa nên đều gọi là tà kiến, các sách luận thế tục ấy là pháp của ngoại đạo. Sách ghi A-tỳ-đàm Tạp luận là pháp của hàng Nhị Thừa, Luận sư đời sau đặt ra luận ký, hoặc văn nghĩa cạn cợt, hoặc dị kiến rắc rối, không thuận với đạo lý sâu xa của Đại thừa, vì thế không cho phép chuyên tâm tu học. Nếu đã được nghiên cứu Đại thừa, vì phá dị kiến để trang nghiêm Đại thừa tạm thời tập học, theo lý thì không cấm. Bồ-tát Địa chép rằng: Nếu các Bồ-tát chưa nghiên cứu tinh thông tạng Bồ-tát mà xả bỏ tạng Bồ-tát, một bề tu học Tạng Thanh văn, ấy gọi là phạm, có sự trái vượt, chẳng nhiễm ô trái phạm (là giới hai mươi sáu). Nếu các Bồ-tát, hiện đời có giáo pháp của Phật mà không nghiên cứu thông suốt, lại siêng tu học các luận của đạo khác và luận của ngoại đạo, ấy gọi là phạm, có sự trái vượt là nhiễm ô trái phạm. Không phạm là hoặc thông minh nhạy bén, hoặc có khả năng tiếp thu mau lẹ, hoặc trải qua thời gian lâu mà không quên mất, hoặc đối với nghĩa ấy có thể suy nghĩ, có thể thông hiểu, hoặc đối với giáo pháp Phật quán sát đúng lý, thành tựu câu hạnh, vô động giác ngộ. Mỗi ngày thường tu học hai phần Phật ngữ, học một phần pháp ngoài thì không phạm (là giới hai mươi bảy). Lại giới hai mươi lăm của Bồ-tát Địa chép. Nếu các Bồtát khởi thấy như vậy, lập luận như vậy. Bồ-tát không nên nghe giáo pháp tương ứng với Thanh văn thừa, không được thọ trì, không được tu học. Bồ-tát đâu cần giáo pháp tương ứng với Thanh văn thừa, cho phép nghe thọ trì siêng năng tu học, ấy gọi là phạm, có sự trái vượt, là nhiễm ô trái phạm, vì sao? Vì Bồ-tát đối với việc nghiên cứu sách luận của ngoại đạo còn siêng năng, huống chi đối với lời dạy của Phật. Không phạm là vì khiến cho một bề tu pháp Tiểu thừa xả bỏ dục kia mà nói như vậy, e rằng người một bề không huỷ báng Tiểu thừa phạm giới Bồ-tát, nên nhờ đó dẫn ra.
5. Giới khéo phân chia vật của đại chúng.
Nếu Phật tử sau khi Phật nhập diệt, làm Pháp sư, giảng sư, luật sư, Thiền sư, Thủ toạ, Tri Sự, Tri khách, phải có lòng từ bi khéo hòa giải trong chúng, khéo giữ gìn tài vật của Tam bảo, chớ dùng vô độ như của riêng mình, mà lại khuấy chúng gây gổ, kình chống, lung lòng xài của Tam bảo. Phật tử này phạm tội khinh cấu.
Bốn giới sau đây là chế đồng lợi, khéo hòa giải trong chúng không có tâm buồn rầu hối hận, khéo giữ gìn tài vật của Tam bảo, để không để cho phí tổn. Nếu được như vậy thì chánh pháp không dứt mất, nên chế để thực hành. Đại thừa, Tiểu thừa đồng chế, bảy chúng đồng học, vì hai chúng tại gia có nghĩa là chế ngự chúng. Trong văn chép: sau Phật diệt độ là nói lên thời gian. Thuyết pháp chủ: nghĩa là người giảng nói, hoặc có thể đàn việt giảng thuyết là thuyết pháp chủ. Hạnh pháp chủ là chủ thi hành giáo pháp. Tăng phòng chủ là chủ chùa. Ma-ma-Đế giáo hóa chủ nghĩa là chủ giáo hóa xuất gia, tại gia. Toạ thiền chủ là chủ tu tập thiền định. Hành lai chủ là như chủ thí một bửa ăn cung cấp cho người qua lại. Trong sáu việc trên đều là chế ngự nên đều gọi là Chủ. Như sáu chủ trên phải thực hành hai việc, một là khởi tâm từ bi, khéo hòa giải trong chúng, hai là khéo giữ gìn tài vật của Tam bảo, thọ dụng đúng pháp không được trộm lấy dùng vô độ như của riêng mình. Đổi pháp thọ dụng hoặc như kinh Bảo Lương và các luật luận, nên y theo mà làm, ở đây không kể đủ, mà Bồ-tát lại khuấy chúng gây gổ kình chống, v.v... vì trái nên kết phạm, lung lòng xài vật của Tam bảo, được vật thuộc về mình, phi xứ dùng lẫn lộn, đều kết tội trọng. Trong đây chỉ kết lỗi không khéo giữ tài vật của Tam bảo.
6. Giới chủ khách đồng được lợi:
Nếu Phật tử, trước ở trong Tăng phường, sau thấy có Bồ-tát Tỳ-kheo khách đến, hoặc ở thành ấp, nhà cửa của tăng hay của vua cho đến chỗ kiết hạ an cư và trong đại hội v.v... chư tăng ở trước phải rước đến đưa đi, cung cấp cho vật uống ăn, đồ nằm, thuốc men, nhà, phòng, giường ghế, v.v... Nếu tự mình không có thì phải bán thân, bán con cái, lóc thịt thân mình mà bán, để sắm đồ cung cấp cho những khách vị tăng ấy. Nếu có thí chủ đến thỉnh chúng tăng thọ trai, khách Tăng có dự phần, vị Tri sự phải theo thứ lớp phái khách tăng đi thọ trai. Nếu chư tăng ở trước đi thọ trai riêng mà không phái khách tăng đi thì vị Tri sự mắc vô lượng tội, không đáng là sa-môn, không phải dòng Thích Tử, nào khác gì loài súc sinh. Phật tử này phạm tội khinh cấu.
Dự vào pháp lợi Thích lữ lẽ ra nên đồng. Nếu pháp giống, lợi khác thì giống như việc xấu xa của thế tục. Thanh văn còn không cho phép huống là bậc Đại sĩ, nên chế đồng nhau Đại Tiểu thừa đều chế, đạo tục không chế chung. Đã nói lợi dưỡng của tăng không gồm chúng thế tục. Trong văn chép có hai: một là theo vật của tăng thì phải chia đều cho chủ và khách tăng, hai là lợi của thí chủ phải chia đều cho chủ tăng và khách tăng. Trong phần đầu trước là nói trụ xứ trong tăng, phần sau từ nhà cửa trở xuống nói chỗ của thí chủ. Nếu tự mình không có tài vật thì phải bán thân và con cái, lóc thịt thân mình mà bán, y cứ theo tướng của văn này lẽ ra phải gồm cả chúng thế tục. Tuy không dự vào lợi dưỡng của tăng nhưng chăm nom cung cấp cho khách, lý chung cho cả Bồ-tát tại gia. Nếu có thí chủ thì thí chủ chia cho khách chủ đồng lợi. Sai việc tăng lược có sáu loại, một là người năng sai phải thành tựu năm pháp, nghĩa là không thương, không giận, không sợ, không si, biết nên sai hay không nên sai. Lại trì giới thanh tịnh không dính mắc hành pháp, sau đó phải chuyên chủ, hai là người sở sai, nghĩa là năm chúng xuất gia, không phá giới, không có giới, cho đến người vì giải thoát mà xuất gia mới được thọ giới. Nếu người mang hành pháp tăng tàn và bạch bốn lần Yết-ma thì phải nương người bản hạ lần lượt học giới, ở dưới tăng, trên sa-di, sa-di ba quy y, năm giới có thuyết nói cũng được thọ thứ lớp tăng. Văn kinh Niết Bàn, hai bản Tiểu thừa và Đại thừa lại khác nhau, nên không thể làm chứng, ba là sai chỗ hội hợp, hai chỗ Tăng và tục tự nhiên tác pháp đều được sai theo thứ lớp. Thuyết cũ chép rằng: xưa này có thể nương theo, bốn là sai theo thứ lớp, pháp chỉ có một, thứ lớp từ Thượng tọa đến Hạ tọa, xoay vần trở lại từ đầu không phân biệt Đại Tăng và sa-di, đều phải theo thứ lớp sai họ. Hoặc nói Thượng tọa được gọi là Tăng thứ, hoặc nói kinh đạo Tăng thứ, giảng độ Tăng thứ, v.v... chính là thỉnh đích xác tên khác, không khai cho tăng thứ mười phương. Như pháp lợi dị kiến không chung của năm bộ. Lại có thể trụ xứ của Tiểu thừa khác Đại thừa vì không tin Đại thừa là pháp Phật. Nếu trụ xứ của Đại thừa không thể riêng với Tiểu thừa vì Đại thừa tin năm bộ đều là Phật pháp. Bởi vì nghe trụ xứ của Đại thừa ở nước Tây vực thông hành với nghĩa của mười tám bộ, năm là sớ đến sớm muộn, sáu là thọ thỉnh xả thỉnh, sớ cũ nói đầy đủ, ở đây không phiền dẫn ra, vị Tri sự mắc vô lượng tội, vì đoạt lấy của người khác nên được lợi, tuy vật không thuộc về mình mà vẫn bị tội trộm. Nếu người thọ thỉnh biết mà cố thọ, lẽ ra phải cùng phạm, súc sinh khác v.v... là quở trách người kia phạm tội trọng, chỉ tham lợi dưỡng hiện tại mà không thấy lỗi về sau, nên nói nào có khác gì súc sinh, đã làm việc phi pháp làm sao gọi là dứt ác? vì trái lời Phật dạy nên chẳng phải dòng họ Thích.
7. Giới thọ thỉnh riêng:
Nếu Phật tử, tất cả chẳng được nhận của cúng dường dành riêng về mình, của cúng dường này thuộc về tăng mười phương, nếu nhận riêng tức là lấy của tăng mười phương đem về phần mình, và tài vật của tám ruộng phước: Chư Phật, bậc Thánh, sư Tăng, cha, mẹ, và người bệnh, tự mình nhận dùng riêng. Phật tử này phạm tội khinh cấu. Trái với rộng phước của thí chủ, mất lợi dưỡng của chúng tăng v.v... nên chế không cho thọ. Thanh văn đều cho phép nhị thỉnh, Bồ-tát một bề ngăn riêng. Trong bảy chúng nên chế năm chúng xuất gia. Trong văn chép: Tất cả chẳng được nhận của cúng dường dành riêng về mình, là trong pháp Thanh văn người thọ pháp đầu-đà thì không thọ thỉnh riêng, người không thọ đầu đà thì cho phép thọ. Trong pháp Bồ-tát không xét là đầu-đà hay chẳng phải đầu-đà, bất cứ lúc nào cũng ngăn, tất cả không được thọ thỉnh riêng, của cúng dường này thuộc về tăng mười phương nghĩa là Bồtát không thọ thỉnh riêng, đây đã được lợi lẽ ra thuộc về mười phương, nhưng vì Bồ-tát thọ thỉnh riêng thì có nghĩa xa vì tổn tài vật riêng của tăng mười phương đem về mình, nên nói rằng, nếu nhận riêng thì đó là lấy của tăng mười phương đem về mình, của vật trong tám ruộng phước tự mình nhận dùng riêng là chẳng những lấy vật của mười phương đem về mình, mà cũng tổn vật trong tám ruộng phước, Bồ-tát tự thọ hoặc không thọ thỉnh riêng, đối với tám ruộng phước đều có phần, nhưng vì thọ lợi dưỡng riêng giúp đỡ cho mình. Tám ruộng phước là, một là Phật, hai là bậc Thánh, ba là Hòa-thượng, bốn là A-xà-lê, năm là Tăng, sáu là cha, bảy là mẹ, tám là người bệnh, Hòa-Thượng A-xà-lê trong kinh bản gọi là hai thầy, hoặc gọi là từng thầy một, nghĩa đều không khác. Hỏi: Bồ-tát Địa chép rằng: Nếu các Bồ-tát, có người đến mời, hoặc đến nhà, hoặc đến chùa, dâng cúng đầy đủ các thứ như thức ăn uống, y phục, v.v... mà kiêu mạn có tâm hiềm hận, sân não không đến chỗ ấy thọ thỉnh, ấy gọi là phạm, có sự trái vượt là nhiễm ô trái phạm. Nếu vì lười biếng, uể oải quên không nhớ, không đến chỗ ấy thọ thỉnh, ấy gọi là phạm, có sự trái vượt không nhiễm ô trái phạm, văn này là y cứ thỉnh riêng nên ngăn không cho thọ, hay là y cứ theo thứ lớp tăng mà ngăn không cho thọ? Đáp: có chỗ nói rằng: luận văn kia ngăn không cho thọ thứ lớp Tăng, thỉnh riêng thì thường không cho phép, nếu không thọ cũng không phạm, có thuyết lại nói rằng: kia cũng ngăn không cho thọ thỉnh riêng, có tâm tức giận không thọ thỉnh riêng, vì trái với thí chủ, trái với hạnh từ bi. Nếu thí chủ kia theo thứ lớp thỉnh tăng rồi, thỉnh riêng Bồ-tát chắc chắn muốn cúng dường, như luận đã chế chẳng thể không thọ, chỉ trừ khai duyên, không thọ không phạm, như văn kia chép. Không trái phạm là, hoặc bị tật bệnh, hoặc không có sức khỏe, hoặc tâm cuồng loạn, hoặc ở cách xa, hoặc đường đi có sự đáng sợ, hoặc muốn tìm cách, điều phục người phạm lỗi ra khỏi chỗ bất thiện, an lập chỗ thiện, hoặc trước đã có sự thỉnh khác, hoặc vì không ngừng tu pháp lành, muốn giữ gìn phẩm lành, nên khiến cho không tạm bỏ. Hoặc là dẫn nhiếp nghĩa chưa từng có. Hoặc đã nghe pháp nghĩa không lui sụt. Như tà mạng đã nghe pháp nghĩa không lui sụt, luận về nghĩa chọn lựa nên biết cũng như vậy. Hoặc lại biết người kia có tâm tổn não dối đến mới thỉnh. Hoặc vì hộ người nặng về tâm hiềm hận. Hoặc giữ gìn Tăng chế, mà không đến chỗ ấy thọ thỉnh đều không phạm.
8. Giới không được thỉnh tăng riêng.
Nếu Phật tử có Bồ-tát xuất gia, Bồ-tát tại gia và tất cả đàn việt lúc muốn thỉnh tăng để cúng dường cầu nguyện thì nên vào tăng phường thưa với vị Tri sự. Vị Tri sự bảo rằng: Theo thứ lớp mà thỉnh thì được Hiền Thánh Tăng mười phương, người đời thỉnh riêng năm trăm vị A-la-hán Bồ-tát tăng vẫn không bằng theo thứ lớp thỉnh một vị phàm phu tăng. Trong giáo pháp của bảy Đức Phật đều không có pháp thỉnh tăng riêng. Nếu thỉnh tăng riêng đó là pháp của ngoại đạo, là không thuận với hiếu đạo. Nếu Phật tử cố thỉnh riêng thì phạm tội khinh cấu: Bỏ rộng lớn thì riêng mất ruộng phước rộng lớn kia, cho nên chế không được. Đại thừa, tiểu thừa không cùng chế. Trong pháp của Thanh văn cũng cho phép thỉnh riêng. Trong pháp của Bồ-tát thì bảy chúng đồng cấm, có thuyết cho rằng Bồ-tát thỉnh Tăng trái hội thường không được thỉnh riêng, đều phải theo thứ lớp, thỉnh riêng một vị thì phạm giới này, có thuyết lại cho rằng, một trụ xứ tuỳ theo người nhiều hay ít thứ lớp thỉnh một vị tăng thì không phạm. Hoặc đều không có người thì phạm, ý văn giống như phần giải thích ở trước. Trong văn có Bồ-tát xuất gia chính là chế Bồ-tát không nên thỉnh riêng, và tất cả đàn việt là chế cả người khác. Tuy không có giới để phạm nhưng mất ruộng phước rộng lớn. Ruộng phước thỉnh Tăng cho đến muốn theo thứ lớp thỉnh là chỉ bày phương pháp thỉnh theo thứ lớp. Nghĩa là đạo tục muốn thỉnh tăng để cúng dường cầu nguyện, tâm không đi đến yên định, bất luận trì phạm vì tăng đều thanh tịnh không phi pháp, cho nên chỉ y cứ vào năm pháp kia thành tựu những điều mà người Tri sự hỏi. Nay muốn được thứ lớp thỉnh trong Tăng, tâm không phân biệt nên nói thứ lớp, sẽ được hiền Thánh Tăng mười phương là ruộng phước rộng lớn dung chứa tất cả Hiền Thánh mười phương, đều vào trong đó. Nếu không được Hiền Thánh, chỉ được một phàm phu, tâm thỉnh đã không chọn riêng, thì phước cũng thần thông cả mười phương nên nói được Hiền Thánh Tăng mười phương. Hỏi: Mười phương tăng khác đã không nhận cúng dường, vì sao do tâm rỗng không mà muốn được thật phước ở mười phương.
Đáp: Tội phước khởi do tâm làm chủ, tâm đã muốn khắp thì phước làm sao không khắp, như người ác giới đối với tất cả loài dê mà khởi tâm ưa thích giết hại, tuy tất cả bầy dê đều không bị hại nhưng tất cả dê khởi khắp không có luật nghi, vì dùng ác để lệ cho thiện thì thiện nào mà không như vậy?
Hỏi: Nếu như vậy người không có luật nghi đối với tất cả dê sinh khởi bất luật nghi, người kia giết dê bị nghiệp đạo, bố thí cũng phải như vậy, có lựa chọn riêng chăng?
Đáp: chẳng thể không có nghĩa này, khắp với tất cả tăng được khởi phước cúng dường, chỉ đối với một vị tăng theo thứ lớp khởi phước nghiệp cúng dường, vì ưa thích suy nghĩ đối với người thọ thí. Lại biết không so sánh vì nghiệp giết hại chúng sinh là gốc. Đối với vật bị hại bị nghiệp sát sinh vì bố thí thì tâm xả là chính. Đối với tất cả được phước nghiệp cúng dường, vì ta cúng dường tâm trùm khắp tất cả. Nếu thọ dụng phước, khi cúng dường người sau khởi thỉnh riêng. Thỉnh riêng năm trăm vị A-la-hán Bồ-tát tăng không bằng theo thứ lớp thỉnh một vị phàm phu tăng, nghĩa là thỉnh hàng trăm A-la-hán, hàng trăm Bồ-tát, vì tâm lựa chọn riêng, chỉ đối với người được thỉnh ban phước, chẳng phải chỗ khác theo thứ lớp thỉnh, một Tăng theo thứ lớp không chọn riêng. Nên khắp với tất cả đều khởi phước lành. Trong luật chép, Đức Phật quở Trưởng giả Sư Tử thỉnh tăng riêng... Dù thỉnh năm trăm vị A-la-hán không bằng thỉnh một phàm phu tăng. Thỉnh tăng riêng là pháp của ngoại đạo. Chư Phật vốn bình đẳng cùng khắp làm chính, vì thế vốn không có pháp thỉnh riêng. Nếu trong luật dạy cho phép thỉnh riêng là linh động thuận theo thế tình quyền thí giáo môn. Như trong Phật pháp không cho phép ăn thịt là muốn dần dần chế, lại cho phép ba thứ thịt thanh tịnh. Ở đây cũng như vậy nên nói là pháp của ngoại đạo, bảy Đức Phật không có vì trái với bản giáo của Phật nên không có đạo hiếu thuận.
9. Giới không Nuôi Sống bằng tà mạng.
Nếu Phật tử, vì tâm ác vì lợi dưỡng buôn bán nam sắc, nữ sắc, tự tay làm đồ ăn, tự xay tự giã, xem tướng, bàn mộng tốt xấu, đoán sẽ sinh trai hay gái, bùa chú pháp thuật, cách nuôi chim ó và chó săn, pha chế trăm thứ thuốc độc, ngàn thứ thuốc độc, độc rắn, độc sinh vàng, sinh bạc, độc sâu cổ, đều không có lòng từ bi, lòng hiếu thuận. Nếu cố làm các việc như thế, Phật tử này phạm tội khinh cấu. Hai giới dưới đây, giải thích về giới đồng, giới đầu ngăn tà mạng, giới sau ngăn tà nghiệp, vì trái với tịnh mạng nên chế. Đại thừa, tiểu thừa đồng chế, bảy chúng đều ngăn ngừa.
Trong văn nói, dùng tâm ác vì lợi dưỡng, chẳng phải kiến cơ ích vật. Buôn bán nam sắc nữ sắc... gồm có mười việc, một là bán nam sắc, nữ sắc, hai là tự tay làm đồ ăn, ba là tự xay tự giã, bốn là xem tướng nam nữ, năm là bàn mộng lành dữ, sáu là bùa chú pháp thuật, bảy là công xảo, tam là phương pháp điều phục chim ó, chín là pha chế thuốc độc, mười là độc sâu cổ. Trong mười việc này, một việc đầu, ba việc sau xuất gia tại gia đều cấm, việc thứ hai thứ ba chế đạo khai cho tục, việc thứ tư thứ năm hoặc là xuất gia tại gia đều cấm, hoặc người thế tục không vì mạng sống thì không phạm, việc thứ sáu thứ bảy không cấm người thế tục, còn Bồ-tát xuất gia nếu không vì mạng sống mà hộ thân thì y theo luật cũng nên cho phép.
10. Giới không làm tà nghiệp.
Nếu Phật tử, vì tâm ác tự mình huỷ báng Tam bảo, mà giả bộ kính mến, miệng thì nói không, mà hành vi lại có, đưa tin cho hai bên nam nữ giao hội, vì người tại gia làm mai làm mối cho nam cho nữ giao hội dâm sắc, gây thành các nghiệp trái buộc, sáu ngày trai trong mỗi tháng, ba tháng trường trai trong mỗi năm, làm việc sát sinh, trộm cướp, phá trai, phạm giới, Phật tử này phạm tội khinh cấu, vì trái với chánh nghiệp cho nên cấm. Đại thừa Tiểu thừa đều cấm, đạo tục đồng ngăn ngừa. Nhưng trong văn xếp vào năm việc, việc thứ năm khi không hiếu kính thì chưa hẳn đều đồng, đến văn sẽ xếp vào. Trong văn chép, tà nghiệp gồm năm việc, một là tự mình huỷ báng Tam bảo, mà làm ra vẻ kính mến, hai là miệng thì nói không, mà việc làm lại ở trong có, ba là làm mai mối cho người tại gia, bốn là làm mai mối cho nam nữ giao hội dâm sắc, năm là vào các ngày trai mà làm ác. Ngoài ra đều do văn hiển bày. Trong việc thứ năm, nếu phá trai, phạm giới thì tuỳ việc mà kết tội khác. Nay không hiếu kính thì kết chung một tội, một việc nay đối với pháp Thanh văn chưa hẳn chế làm giới riêng.
Trong pháp Bồ-tát, vì đối với pháp lành sinh tâm tha thiết nên chế làm giới. Hoặc là chỉ chế cho tại gia, vì xuất gia đều thọ trì trai bất luận thời gian. Hoặc là cũng chung cho xuất gia, vì lúc cung kính tuy có giới thường, phải vào ngày trai mà thọ. Theo kinh Dược sư thì năm chúng xuất gia cũng thọ tám giới, bởi vì làm cho pháp lành thêm lớn, sáu ngày trai là tháng có trăng và tháng không trăng, mỗi tháng có ba, vào những ngày này, quỉ thần có thế lực nên tổn hại mọi người, Vào kiếp Sơ Thánh giúp người tránh hại, chế ra pháp trì trai để tránh khởi sự tổn hại của quỉ thần, chỉ dứt bữa ăn sau ngọ là trai, chưa chế ra giới pháp. Khi Đức Phật ra đời vẫn theo pháp nầy lại thêm vào giới thứ tám. Không trăng, có trăng đều có giới thứ tám và ngày mười bốn, đây là sự chia ngày của Mahê-thủ-la, mỗi tháng có mười lăm ngày là sự phân chia của tất cả Thần. Nên trong sáu tháng chế thọ pháp trì trai. Ba năm trường trai, kinh Đề-vị chép: Tháng giêng vốn trì trai ngày mười lăm, tháng năm vốn trì trai, ngày mười lăm tháng chín vốn trì trai, ngày mười lăm, là ba ngày trường trai trong năm, nhân duyên như kinh có nói rộng. Kinh Ưu-Bà-tắc chép: Vì người chết mà tu phước gồm có ba tháng giêng mùa xuân, tháng năm mùa hạ và tháng chín mùa thu. Luận Thập Trụ chép: Vào ngày tam khí quỉ thần có thế lực nên ngăn tam khí. Pháp trì trai là từ mùa đông đến bốn mươi lăm ngày sau là tam khí.
Mười giới như thế, phải nên học hết lòng kính trong vâng giữ. Trong phẩm Chế Giới có giảng rõ. Mười giới sau đây tổng kết khuyên thọ trì chỉ rỏ ở phẩm khác. Giới thứ hai đến giới thứ chín nói về nhiếp chúng sinh. Trong chín giới đầu phần lớn chia làm hai, giới đầu tiên nói dùng tài vật để nhiếp chúng sinh, tám giới sau nói dùng pháp nhiếp chúng sinh.
1. Giới thứ nhất: Cứu chuộc người ngay ách khổ nạn.
Phật dạy: Nếu Phật tử, sau khi Phật nhập diệt ở trong đời ác, thấy hàng ngoại đạo, bọn giặc cướp cùng tất cả người ác đem bán hình tượng Phật, Bồ-tát, cha mẹ, đem bán kinh luật, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cùng người hành đạo Bồ-tát, người phát tâm Bồ-đề, để làm tay sai cho các quan hay làm tôi tớ cho mọi người. Phật tử thấy những việc như thế, nên có tâm từ bi tìm cách cứu vớt. Nếu không đủ sức, Phật tử phải đi quyên tiền các nơi để chuộc hình tượng Phật, Bồ-tát và tất cả kinh luật, chuộc Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, người tu hạnh Bồ-tát, người phát tâm Bồ-đề. nếu không chuộc thì Phật tử này phạm tội khinh cấu. Buôn bán kinh tượng có lỗi tổn nhục, bán người tu hành có não u bức. Bậc Đại sĩ đã lấy việc hộ pháp cứu khổ làm hoài bão nên phải tuỳ khả năng mua chuộc cứu hộ. Nếu không chuộc không cứu thì trái với lòng cung kính, trái với lòng từ bi nên chế để thực hành. Luận chép rằng: các Bồ-tát ở trong chỗ sợ sệt như chỗ có sư tử, cọp, Sói, quỉ ma, vua, giặc, nước, lửa... các loài hữu tình ấy Bồ-tát đều có khả năng cứu giúp, khiến lìa các chỗ sợ hãi ấy. Đại thừa tiểu thừa cùng chế. Thanh văn thấy quyến thuộc bị bán mà không chuộc thì phạm tụ thứ bảy. Kinh tượng và người khác chẳng thấy chế khác. Bồ-tát tất cả không được không cứu, chỉ trừ khả năng không cứu nổi. Bảy chúng đồng học.
Trong văn chép: Bán hình tượng Phật, Bồ-tát, cha mẹ nghĩa là Đức Phật là cha mẹ có lòng từ bi rộng lớn nên nói là tượng Bồ-tát, cha mẹ, hoặc là khắc đúc làm hình tượng cha mẹ, như loại Đinh lang, nên nói là hình tượng cha mẹ. Mua bán Tỳ-kheo v.v... nói là cứu hộ, mua chuộc người tu hành. Trong văn chép, chỉ nói người tu hạnh Bồ-tát, vì tổn hại nhiều nên người khác rơi vào khổ nạn, đúng lý cũng phải cứu vớt.
2. Giới không được chứa khí cụ làm tổn hại chúng sinh.
Nếu Phật tử, không được buôn bán dao gậy, cung tên, các khí giới sát sinh, không được chứa cân non già thiếu, không được nương thế lực quan quyền mà lấy tài vật của người. Không được có tâm ác trói buộc người và phá hoại việc thành công của người, không được nuôi mèo, chồn, heo, chó. Nếu cố làm các đều trên, Phật tử này phạm tội khinh cấu. Tám giới sau đây dùng pháp nhiếp có hai, bảy giới đầu thuộc về hành pháp, giới thứ tám thuộc về giáo pháp. Trong hành pháp nhiếp thứ hai, hai giới đầu nói về hạnh lìa lỗi, năm giới sau nói hạnh nhiếp thiện, trong hạnh lìa lỗi, đầu tiên là lìa lỗi tổn hại, sau cùng lìa lỗi buông lung, vì chưa nuôi tổn hại trái với hạnh nhiếp từ nên cấm phải dứt bỏ. Đại thừa Tiểu thừa đều chế, bảy chúng đều phòng ngừa. Trong văn chép đủ sáu việc, một là không được chứa dao gậy cung tên, đây là ngăn ngừa lỗi sát hại. Trong giới thứ ở mười trước vì trái với nhiếp thiện nên cấm. Nay trong giới này cũng trái nhiếp thiện nên cấm, vì khiến lợi sinh nên cấm, hai là không được buôn bán bằng cân non, giạ thiếu, đây là ngăn ngừa lỗi tổn hại, ba là không được cậy thế lực quan quyền mà lấy tài vật của người. Giới thứ mười bảy ở trước cấm nương thế lực mà quyền tởi nay giới này cấm dặn bảo chung. Đây cũng ngăn ngừa lỗi trộm cướp tổn hại, bốn là tâm ác trói buộc người, nghĩa là tâm muốn tổn não chưa hẳn bị hại, năm là phá hoại thành công của người, nghĩa là phá dụng đã thành của người khác, sáu là nuôi mèo chồn v.v... xa thì có lỗi xâm tổn nên không được nuôi, thấy chúng bị lâm nguy thì mua chuộc cứu vớt không phạm.
3. Giới Tà Nghiệp Giác Quán.
Nếu Phật tử không được vì tâm ác đi xem tất cả nam nữ v.v... đánh nhau hay quân trận binh tướng giặc cướp v.v... chiến đấu, cũng không được đi xem hát, nghe nhạc, chơi cờ, đánh bạc, đá cầu, đá bóng v.v... cho đến bói toán xủ quẻ, chẳng được làm tay sai cho bọn trộm cướp. Nếu cố làm các đều trên, Phật tử nầy phạm tội khinh cấu, vì trái với chánh nghiệp nên cấm. Đại thừa, tiểu thừa đồng chế, bảy chúng không cùng chế. Trong văn chép có năm việc, một/ không được đi xem các cuộc đánh nhau, nếu không có duyên sự thì xuất gia tại gia đều cấm, hai/ không được nghe các kỹ nhạc, nếu làm thì phạm, xuất gia tại gia đều chế. Nếu cúng dường Tam bảo thì xuất gia tại gia đều khai. Nếu tự mình làm thì cấm người xuất gia, khai cho tại gia, ba là chẳng được làm các trò vui chơi, xuất gia tại gia đều cấm, bốn là không được bói toán xủ quẻ, vì lợi xuất gia tại gia đều cấm, chỉ bày như pháp khai cho người thế tục, năm là không được làm tay sai cho kẻ trộm cướp. Mười một giới trước chế chung thông làm tay sai, giới này chế riêng thầm giới làm tay sai. Đây cũng là xuất gia tại gia đều dứt.
4. Giới không nhớ nghĩ đến thừa khác.
Nếu Phật tử, ngày đêm sáu thời, đọc tụng giới Bồtát này. Nên giữ gìn giới luật trong tất cả khi đi đứng nằm ngồi, vững chắc như kim cương, như đeo trái nổi để qua biển lớn, như các Tỳ-kheo bị cột bằng dây cỏ. Thường có tín tâm lành đối với Đại thừa. Tự biết rằng mình là Phật chưa thành, còn Chư Phật là Phật đã thành, rồi phát tâm Bồ-đề và giữ vững không lui sụt. Nếu có một tâm niệm xu hướng theo Nhị thừa hay ngoại đạo, Phật tử này phạm tội khinh cấu: Năm giới sau đây nói nhiếp thiện hạnh, ban đầu ngăn tâm niệm xu hướng theo Nhị thừa, ngoại đạo, kế là ngăn không khởi đại nguyện, và ngăn không phát thệ vững chắc, sau đó ngăn không tu lìa chấp trước, sau cùng ngăn không thuận lớn, nhỏ. Đầu tiên không có tâm niệm, xu hướng theo Nhị thừa, ngoại đạo là vì sợ thiếu đại hạnh cho nên cấm. Xuất gia tại gia đồng học, đại thừa tiểu thừa không cùng học vì hạnh tu tập đều khác. Trong văn xếp vào ba việc, một là hộ trì người tụng giới pháp, hộ trì giới cấm nghĩa là hoặc tánh hoặc ngăn thảy đều hộ trì. Ngày đêm sáu thời đọc tụng giới này là, hoặc văn hoặc nghĩa trì tụng không quên, vững chắc như kim cương là giữ tâm bền bỉ, nhân duyên không mất. Như đeo trái nổi để qua biển lớn là thương tiếc giữ gìn không muốn lìa, việc xứ từ ở kinh Niết-bàn. Như Tỳ-kheo bị cột bằng dây cỏ là cẩn thận cung kính thọ trì không dám trái phạm. Việc nầy xuất xứ từ kinh Nhân Duyên, hai là sinh tín tâm đối với Đại thừa, tự biết rằng mình là Phật chưa thành, tuy có Phật tánh nhưng vì chưa tu nên chưa hiển bày, Chư Phật là Phật đã thành, là đã tu nhân mầu nhiệm sẽ diệu có thể được quả cao siêu, ba là phát tâm Bồ-đề niệm niệm không lìa tâm, là tâm kỳ hẹn đại quả, niệm khác không xen. Nếu khởi một niệm thì sẽ phạm.
5. Giới phát nguyện mong cầu:
Nếu Phật tử, nên phát những đều nguyện lớn, nguyện ở hiếu thuận với cha mẹ, sư Tăng, Tam bảo. Nguyện gặp được thầy tốt, bạn thiện tri thức, thường dạy bảo tôi các kinh luật Đại thừa dạy cho tôi về “Thập phát thú”, “Thập Trưởng dưỡng”, “Thập kim cương”, “Thập địa” cho tôi hiểu rõ để tu hành đúng chánh pháp, nguyện giữ vững giới của Phật, thà chết chớ không chịu phai lòng. Nếu tất cả Bồ-tát không phát nguyện như thế thì phạm tội khinh cấu. Nguyện khéo điều ngự sẽ thú hướng đến quả vị cao siêu. Nếu không phát hạnh nguyện thì không có nơi nương tựa, nên chế phải phát nguyện, bảy chúng đồng học, Đại thừa, tiểu thừa không cùng chế, vì sở cầu khác nhau. Trong văn chép, thường nên phát những đều nguyện lớn là tuỳ theo việc khởi nguyện không chút luống uổng. Như phẩm Tịnh Hạnh trong kinh Hoa Nghiêm chép: Lại có mười nguyện lớn nên nói rằng phải phát tất cả nguyện. Về mười nguyện lớn, như trong luận Phát Bồ-đề Tâm nói. Từ hiếu thuận trở xuống nêu trong tất cả nguyện, quan trọng là lược bày có mười lăm. Hiếu thuận với cha mẹ, sư Tăng, không trái phạm ân nguyện cao quý. Cha mẹ có công nhọc nhằn sinh dưỡng, sư tăng có công dạy dỗ, đều có ân cao quý nên phải hiếu thuận. Nguyện gặp được thầy tốt, bạn thiện tri thức là gặp gỡ duyên nguyện cao quý. Thường dạy tôi các kinh luật Đại thừa là nguyện nương nhờ giáo lý cao quý. Thập phát thú cho đến Thập Địa là nguyện biết rõ bước vào quả vị cao quý, cho tôi hiểu rõ để tu hành đúng chánh pháp là hợp với hạnh nguyện cao quý. Nguyện giữ vững giới của Phật là nguyện giữ gìn giới cao quý. Giới là nền tảng hành trì nên đặc biệt nêu ra.
6. Giới phải phát thệ.
Nếu Phật tử, khi đã phát mười đều nguyện lớn nầy rồi thì phải giữ gìn giới cấm của Phật. Tự thệ rằng: Thà nhảy vào đống lửa, hố sâu, núi dao, quyết không làm điều bất tịnh với tất cả người nữ để phạm điều cấm, trong kinh luật của chư Phật ba đời, lại nguyện rằng: Thà quấn lưới sắt nóng vào thân mình cả ngàn lớp chứ nhất quyết không để thân này phá giới mà thọ những đồ y phục của tín tâm đàn việt, thà nuốt hòn sắt cháy đỏ và uống nước đồng sôi mãi đến trăm ngàn kiếp chứ nhất quyết không để miệng này phá giới mà ăn các thứ thực phẩm của tín tâm đàn việt. Thà nằm trên dàn lửa lớn, trên tấm sắt nóng, chứ quyết không để thân này phá giới mà nhận lấy các thứ giường ghế của tín tâm đàn việt. Thà trong một, hai kiếp chịu cả trăm cây gươm giáo đâm vào mình, chứ không để thân phá giới này thọ các thứ thuốc men của tín tâm đàn việt. Thà nhảy vào vạc dầu sôi suốt trong trăm ngàn kiếp chứ không để thân này phá giới mà thọ lãnh các phòng nhà, ruộng vườn, đất đai của tín tâm đàn việt.
Lại phát thệ rằng: Thà bị chày sắt đập thân này từ đầu tới chân nát như tro bụi, chứ không để thân phá giới này thọ nhận sự cung kính lễ bái của tín tâm đàn việt.
Lại phát thệ rằng: Thà lấy trăm ngàn lưỡi gươm khoét đôi mắt mình quyết không nhìn sắc đẹp của người bằng tâm phá giới này. Thà dùng trăm ngàn dùi sắt đâm thủng lỗ tai mình suốt trong một hai kiếp, quyết không nghe tiếng tốt giọng hay bằng tâm phá giới này. Thà bị trăm ngàn lưỡi dao cắt bỏ lỗ mũi mình, chứ không ăn các thứ tịnh thực của người bằng tâm phá giới này. Thà chặt chém thân thể mình bị búa bén, chứ không tham mặc đồ tốt với tâm phá giới này.
Lại phát nguyện: Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được thành Phật.
Nếu Phật tử không phát những đều thệ này thì phạm tội khinh cấu. Nguyện là ở trong tâm, thệ là ở thân miệng, vì sợ theo duyên nên lập thệ tất nhiên là cần thiết. Đại thừa Tiểu thừa cùng chế, bảy chúng đồng học. Trong văn chép, đã phát mười đều nguyện lớn rồi, hoặc có bản chép rằng phát ba mươi nguyện lớn, tức là dưới đã lập ba mươi lời thệ đầu tiên trong tâm đã phát rồi, sau đó miệng mới lập thệ, nên nói đã phát rồi. Nếu nói mười nguyện lớn, thì chỉ có mười nguyện, Bồ-tát sơ tâm đã phát trước, như kinh Phát Bồ-đề Tâm chép: Vì sao Bồtát phát tâm hướng đến Bồ-đề? Dùng hạnh nghiệp gì để thành tựu tâm Bồ-đề? Bồ-tát phát tâm trụ ở Tuệ Địa? trước phải phát chánh nguyện vững chắc nhiếp thọ tất cả Vô lượng chúng sinh, ta cầu vô thượng Bồ-đề cứu hộ độ thoát không để dư thừa, đều khiến rốt ráo vô dư niết-bàn, vì thế người mới phát tâm lấy đại bi làm đầu, vì tâm từ bi làm phát chuyển mười chánh nguyện lớn cao quý. Mười nguyện ấy là: một là ta nguyện bố thí gốc lành đã trồng đối trước và đời này cho tất cả vô biên chúng sinh, cùng nhau hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, khiến cho nguyện nầy của ta lớn lên theo từng niệm, sở sinh đời đời thường ở tại tâm, không hề quên mất, được Đà-la-Ni giữ gìn, hai là nguyện ta hồi hướng đại Bồ-đề rồi, đem gốc lành này đến chỗ tất cả chúng sinh, thường được cúng dường tất cả Chư Phật, không bao giờ sinh vào cõi nước không có Phật, ba là ta nguyện được sinh vào các cõi nước của Chư Phật, thường được gần gũi hầu hạ ở gần bên như bóng theo hình, không xa lìa Chư Phật một khoảnh khắc, bốn là ta nguyện được gần gũi Chư Phật, Chư Phật theo sở cầu của ta mà nói pháp thì tà mạng được thành tựu năm thần thông của Bồ-tát, năm là ta nguyện thành tựu năm thần thông của Bồ-tát rồi thì thông suốt sự giả danh truyền bá của thế đế, hiểu rõ Đệ nhất nghĩa đế, như tánh chân thật được chánh pháp trí, sáu là ta nguyện được chánh pháp trí rồi, dùng tâm không cảm thấy đủ để nói pháp chỉ dạy lợi ích vui mừng cho chúng sinh, đều làm cho hiểu rõ, bảy là nguyện ta hiểu rõ các chúng sinh rồi, dùng thần lực Phật đến khắp vô số thế giới ở mười phương cúng dường Chư Phật, nghe thọ chánh pháp, rộng nhiếp hóa chúng sinh, tám là ta nguyện ở chỗ Chư Phật thọ lãnh chánh pháp rồi, có khả năng tuỳ ý xoay bánh xe pháp thanh tịnh, các thế giới mười phương tất cả chúng sinh nghe pháp của ta, nghe danh hiệu ta thì được xa lìa tất cả phiền não, phát tâm Bồ-đề; Chín là ta nguyện có khả năng khiến cho tất cả chúng sinh phát tâm Bồ-đề rồi, thường theo ủng hộ, dứt bỏ việc không lợi ích, ban cho vô lượng an vui, xả bỏ thân mạng tài sản, nhiếp thọ chúng sinh, gánh vác chánh pháp. mười là trôi lăn nguyện có khả năng gánh vác chánh pháp rồi thì dù tâm hành chánh pháp nhưng không có sở hành, như các Bồ-tát thực hành chánh pháp mà vô sở hành, cũng chẳng phải không có sở hành, vì giáo hóa chúng sinh không bỏ chánh nguyện. Ta phát tâm Bồ-tát, mười chánh nguyện lớn, mười nguyện lớn này, trùm khắp các cõi chúng sinh, nhiếp thọ tất cả Hằng hà sa các nguyện. Nếu chúng sinh cùng tận thì nguyện ta mới cùng tận, nhưng chúng sinh thật không thể cùng tận, nên nguyện lớn này của ta cũng không cùng tận, giữ gìn giới cấm của Phật, lập lời nguyện, phải nên lập thệ. Trong mười ba lời thệ thì mười hai lời thệ đầu là thệ hộ giới, một nguyện cuối cùng là thệ chứng quả. Trong mười hai lời thệ thì bảy lời thệ đầu là giới hộ luật nghi, năm lời thệ sau là giới hộ năm căn. Trong bảy lời thệ, lời thệ đầu là đôi cảnh lập thệ, cảnh người nữ dễ nhiễm đáng sợ, nên thệ giữ gìn, sáu lời thệ sau đối với cúng dường mà lập thệ, đại ý giống với thánh hạnh Niết-bàn.
7 Giới lúc nào cũng thực Hành Đầu Đà (cũng gọi là giới Đầu-đà Tránh Nạn)
Nếu Phật tử, mối năm phải hai lần thực hành đầu-đà, mùa đông mùa hạ thì ngồi thiền kiết hạ an cư. Thường dùng nhành dương, nước tro, ba y, bình bát, đồ ngồi, tích trượng, hộp lư hương, đãy lượt nước, khăn tay, cái dao, đá lửa, cái nhiếp, giường dây, kinh luật, tượng Phật, tượng Bồ-tát. Khi Phật tử thực hành đầu-đà và lúc đi lại trăm dặm ngàn dặm, mười tám món này thường mang bên mình. Đây là hai thời gian hành đầu-đà trong mỗi năm. Từ rằm tháng giêng đến rằm tháng ba và từ rằm tháng tám đến rằm tháng mười. Trong hai lần hành đầuđà, thường mạng theo bên mình mười tám món ấy như chim mang theo hai cánh.
Nếu đến ngày bố-tát, các Bồ-tát tân học, mỗi nửa tháng thường bố-tát, tụng mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh. Lúc tụng giới nên tụng trước tượng Phật và Bồ-tát, chỉ có một người bố tát thì một người tụng. Nếu hai người, ba người, cho đến trăm ngàn người cũng một người tụng, còn bao nhiêu người khác thì lắng nghe. Người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp. Mỗi người đều đắp y hoại sắc chín điều, bảy điều, năm điều. Trong lúc kiết hạ an cư mỗi việc cũng phải đúng theo phép tắc. Lúc thực hành đầu đà, chớ đến chỗ có tai nạn, cõi nước hiểm ác, nhà vua hung bạo, đất đai gập ghềnh, cỏ cây rậm rạp, chỗ có các loài thú dữ sư tử, cọp, sói, cùng lụt, bảo, nạn cháy, giặc cướp, đường sá có rắn rít... tất cả những nơi hiểm nạn ấy đều không được đến, chẳng những lúc hành đầu đà, mà lúc kiết hạ an cư cũng không được đến những chỗ hiểm nạn ấy.
Nếu cố vào những nơi ấy, Phật tử này phạm tội khinh cấu.
Đầu-đà, Hán dịch là Đẩu Tẩu, vì tâm chúng sinh hăng hái, ngoại trần vắng lặng, có khả năng trang nghiêm giới, nên phải tuỳ chỗ mà đến, đi không chọn chỗ dễ bị tai hoạ. Người chưa lìa dục ở chỗ hiểm nạn tâm không được an nên phải tránh chỗ hiểm nạn thì hạnh được hạnh đầu-đà. Bảy chúng đồng chế. Thanh văn tránh nạn cũng nên đồng chế. Hai thời thường hành đầu-đà không cần chế. Trong văn chép: thường phải thực hành hạnh đầu-đà mỗi năm hai kỳ là vì hai mùa xuân, thu nóng lạnh điều hòa thích hợp, không tổn hại cho nên chế. Trong hai mùa này mà thực hành đầu đà. Luận Du-già chép.
Hỏi: Vì sao gọi là công đức Đỗ-Đa?
Đáp: Ví như ở thế gian, hoặc lông hoặc vải bông không phải roi, chẳng phải đạn, chẳng phải rối, chẳng phải tách. Bấy giờ, mặc vào không mềm không nhẹ, không nhận vận chế tạo thảm tơ lụa. Hoặc roi, hoặc đàn, hoặc phấn, hoặc tách, bấy giờ phân tán mềm mại nhẹ nhàng tốt đẹp, có khả năng làm ra thảm bằng tơ lụa, làm như vậy là do tham ăn uống, ở các nơi ăn uống khiến cho tâm đàm nhiễm, vì tham mặc quần áo tốt nên đối việc ăn mặc khiến tâm đắm nhiễm. Do các công đức tháp này mà kia sẽ tịnh tu trị tâm khiến cho trong sáng ngay thẳng, mềm mại nhẹ nhàng tốt đẹp, có khả năng kham nhiệm, thuận theo y chỉ có thể tu phạm hạnh, vì thế gọi là công đức Đỗ-Đa. Trong việc ăn uống có người tham ăn ngon, ăn nhiều làm chướng ngại việc tu pháp lành, vì muốn dứt trừ việc tham ăn ngon nên thường hành khất thực, thứ lớp khất thực vì muốn dứt trừ tham ăn nhiều nên chỉ một lần ăn, trước ngăn hậu thực. Trong y phục có ba thứ tham làm chướng ngại tu pháp lành, một là tham nhiều y phục, hai là tham xúc chạm mềm mại, ba là tham tốt đẹp bậc thượng. Vì muốn dứt trừ tham nhiều y phục nên chỉ giữ ba y, vì muốn dứt trừ lòng tham đồ tốt đẹp bực thượng nên chỉ giữ y phục phấn tảo. Đối với các đồ ngồi có bốn thứ tham, làm chướng ngại tu pháp lành, một là tham cảnh ồn ào, hai là tham nhà cửa, ba là tham ngồi nằm, bốn là tham đồ ngồi, vì muốn dứt trừ tâm tham ồ ào náo động nên ở chỗ A-Luyện-Nhã. Vì muốn dứt trừ lòng tham nhà cửa cao đẹp nên thường ở dưới gốc cây, ở chỗ trống. Lại vì muốn dứt trừ lòng tham dâm dật nên thường ở gò mả, vì muốn dứt trừ lòng tham dựa nằm nên thường ngồi trên tòa ngay thẳng, vì muốn dứt trừ lòng tham đồ ngồi nên ngồi tòa bình thường, ấy gọi là thành tựu công đức đỗ-đa. Lại nói rằng: Nên biết trong đây, nếu dựa vào khất thực không có tánh khác nhau chỉ có mười hai. Nếu dựa vào khất thực có tánh khác nhau thì có mười ba. Mùa Đông, mùa Hạ ngồi thiền là mùa đông thì rất lạnh, mùa hạ thì rất nóng, lại làm tổn thương nhiều, trở ngại cho việc du hành nên chế tĩnh toạ. Kiết hạ an cư là giới hạn tâm ở một chỗ, tĩnh duyên nương gáy, nên gọi là an cư. Nếu không có duyên gấp thì không đi lang thang. Nếu đối với mình và người có sự lợi ích thì tuỳ duyên khai cho thọ pháp ra ngoài một ngày, pháp thọ ra ngoài một ngày trong năm bộ tuỳ tiện ứng dụng. Thường dùng nhành dương, nước tro, nghĩa là nhành dương có năm đức nên thường dùng. Vì nước tro vì trong sạch nên cũng thường dùng, mười tám món gồm: ba y là ba, bốn là bình, năm là bát, sáu là đồ ngồi, bảy là tích trượng, tám là hộp lư hương, chín là đãy lượt nước, mười là khăn tay, mười một là cái dao, mười hai là đá lửa, mười ba là cái nhíp, mười bốn là giường dây, mười lăm là kinh, mười sáu là luật, mười bảy là tượng Phật, mười tám là tượng Bồ-tát. Mười bốn món đầu là đạo cụ giúp thân, bốn món sau là phép tắc cao quý xuất thế, nên chế phải thường mang bên mình không được lìa. Đầu-Đà là chế theo thời tiết, từ tháng giêng về sau chẳng những là thời tiết thực hành đầu-đà điều hòa thích hợp, mà còn có chỗ nêu phép tắc cao quý. Như kinh Tâm Vương dạy phải biết. Nếu vào ngày Bố-tát chế pháp bố-tát, pháp như phần tựa đầu của kinh nói, sớ cũ chép rằng: Hàng Thanh văn tâm yếu kém, phải có bốn vị trở lên mới được rộng tụng. Bậc Đại sĩ có hạnh cao quý, một người cũng cho phép nói rộng, nay gọi là nói rộng, rộng tụng Thanh văn cũng cho phép, nhưng không được tác bạch Yết-ma. Trong pháp Bồ-tát lẽ ra phải như vậy, tuy là rộng tụng nhưng không được tác bạch. Người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp là vì cung kính pháp. Luật cũng không cho phép người nói dưới thấp nói pháp cho người nói trên cao nghe. Mỗi người đều đắp y hoại sắc chín điều, bảy điều và năm điều là dùng văn nầy chứng minh, ba y đều được dùng trong chúng, ở đây là mặc cả ba y.
Như Tam người oai nghi chép: không đắp Nê-hoàntăng thì không được đắp y năm điều, không đắp y năm điều thì không được đắp y bảy điều, không đắp y bảy điều thì không được đắp y chín điều, nên biết phải mặc cả ba (văn kia nói rõ). Trong lúc kiết hạ an cư, mỗi việc cũng phải đúng theo phép tắc: là khi kiết giới y theo chỗ thọ nhật, xuất giới, tự tứ, nêu tội, sám hối, đều y theo luật mà làm. Lúc thực hành đầu-đà, chớ đến chỗ có tai nạn, giải thích hành đầu-đà và hạ an cư phải chọn nơi tránh tai nạn. Trong đây đã chế từ đầu đến cuối hoặc là xuất gia tại gia đều đồng, hoặc là du phương chỉ giáo hóa, không được mạo hiểm đến chỗ hiểm nạn. Đây là chế chung cho xuất gia tại gia. Nếu pháp an cư, bố-tát cho ngồi, chỉ chế cho năm chúng xuất gia. Kinh Ưu-BàTắc chép rằng: Ưu-Bà-tắc nên chứa y tăng-già lê Bát, tích trượng, chẳng biết mười tám vật có cần chuẩn bị hay không. Bồ-tát tăng ni mỗi nửa tháng phải hai bên bố-tát, tụng hai bản Đại thừa Tiểu thừa, không như vậy thì phạm tội khinh cấu. (Nói rõ trong bản văn). Đối với Bồ-tát tại gia, nếu trong nhà có tịnh thất thì mỗi nửa tháng nên tự tụng, nếu không thì trong phạm vi một do-tuần trong chùa có Bồ-tát làm lễ bố tát thì nên đến nghe, nếu không thì phạm tội khinh cấu. Hoặc nhà mình ồn ào bực bội, trong một do-tuần không có Bồ-tát hội hợp thì không phạm.
8. Giới Trái Thứ lớp tôn ti.
Nếu Phật tử, phải theo thứ lớp ngồi cho đúng pháp, người thọ giới trước thì ngồi trước, người thọ giới sau thì ngồi sau, bất luận già trẻ, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, người sang như người vua chúa, Hoàng tử, cho đến kẻ hèn như huỳnh môn, tôi tớ. v.v... tất cả đều nên ngồi theo thứ lớp, người thọ giới trước thì ngồi trước, người thọ giới sau thì ngồi sau.
Không được như hàng ngoại đạo, si mê, hoặc già hoặc trẻ, ngồi trước sau lộn xộn không có thứ lớp, không khác cách ngồi của bọn binh nô. Trong Phật pháp của ta, hễ người thọ giới trước thì ngồi trước, người thọ giới sau thì ngồi sau.
Nếu Phật tử không ngồi theo thứ lớp đúng pháp thì phạm tội khinh cấu.
Vì lìa kiêu mạn thuận cho giáo pháp cho nên chế. Đại thừa Tiểu thừa đều chế, xuất gia tại gia đồng học. Trong luật chép. Đức Thế tôn nhóm họp các Tỳ-kheo dạy rằng: Này các Tỳ-kheo, các thầy cho rằng ai nên thọ lãnh tòa ngồi bậc nhất, nước bậc nhất, thức ăn bậc nhất, đứng dậy đón rước, đưa đi lễ bái cung kính khéo léo thăm hỏi. Hoặc có người nói dòng cao quý xuất gia, hoặc có người nói khất thực, hoặc có người nói y phấn tảo, như thế cho đến có người nói thể chúc tụng, hoặc có người nói học rộng, hoặc có người nói Pháp sư, hoặc có người nói trì luật, hoặc có người nói ngồi thiền, v.v... Phật dạy các Tỳ-kheo và dẫn câu chuyện thời quá khứ, voi, chồn, chim còn cung kính nhau, các thầy xuất gia trong Phật pháp của ta phải cùng kính lẫn nhau. Như thế Phật pháp mới được truyền bác rộng khắp, từ nay về sau cho phép tuỳ theo già trẻ cung kính lễ bái, đưa rước, hòi han. Lại dạy rằng: không nên lễ người tại gia, không được lễ tất cả người nữ: Người thọ đại giới trước, người thọ đại giới sau, mười ba nạn, nêu ba bỏ hai, tất cả những người có nói lời nói phi pháp đều không được lễ. Những người nào nên lễ bái? Tiểu Sa-Di-Ni phải lễ đại Sa-Di-ni. sa-di, Thức-xoa-Mắt tuệ-Na, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo nói, tháp thờ những vị này, tất cả phải lễ bái. Hoặc Sa-di tuổi nhỏ phải lễ bái Đại Sa-di-ni. Thức Xoa-Ma-Na, cho đến Tỳ-kheo và tháp, tất cả nên lễ bái. Tiểu Thức xoa-Ma-na phải lễ bái Đại Thức xoa-Ma-Na, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni và tháp nên lễ bái. Tỳ-kheo-ni nhỏ tuổi nên lễ bái Tỳ-kheo-ni lớn tuổi, Tỳ-kheo và tháp cũng nên lễ bái. Tỳ-kheo nhỏ tuổi nên lễ bái Đại Tỳ-kheo, thờ của đại Tỳ-kheo cũng nên lễ bái. Trong pháp của Đức Thích-ca đã nói không riêng Bồ-tát tăng, y theo luật trên mà làm, lý không sai lệnh. Văn chép: phải ngồi theo thứ lớp đúng pháp, nghĩa là trên dưới thứ lớp không trái với Phật chế, trong đây các sư hành pháp khác nhau. Thuyết thứ nhất, đều lấy việc thọ giới Bồ-tát làm thứ lớp. Tỳ-kheo một trăm tuổi hạ thọ giới Bồ-tát sau, Tỳ-kheo một tuổi hạ thọ giới Bồ-tát trước, thì Tỳ-kheo một tuổi hạ ngồi trước, Tỳ-kheo trăm tuổi hạ ngồi sau. Chia loại nam nữ, đen trắng, tôn ti y cứ theo giới trước sau không được lẫn lộn. Nếu binh nô thọ giới trước, quan thọ giới sau thì binh nô ngồi trên, quan ngồi dưới, đã vào trong giới pháp rồi thì không theo địa vị trước kia.
Hai là, nếu người vốn chưa thọ giới Bồ-tát đều ở sau người thọ giới Bồ-tát trước. Nếu tiến đàn thọ giới thì trở lại thứ lớp, như Tỳ-kheo trăm tuổi hạ chưa thọ giới Bồtát, Tỳ-kheo một tuổi hạ đã thọ giới Bồ-tát thì Tỳ-kheo một tuổi hạ ngồi trên Tỳ-kheo trăm tuổi hạ chưa thọ giới Bồ-tát. Nếu Tỳ-kheo trăm tuổi tiến thọ thì lại ngồi trên, binh nô hay quan quyền cũng giống như vậy. Nếu binh nô thọ giới trước, quan chưa thọ thì binh nô ngồi trên, quan ngồi dưới, nếu quan tiến thọ thì quan ngồi trên binh nô, đã đồng giới nên tuỳ theo địa vị trước kia. Nếu Sa-di tiến thọ thì ngồi trên Tỳ-kheo-ni trăm tuổi.
Ba là oai nghi ngồi thứ lớp đều lấy pháp Thanh văn làm thứ lớp, bất luận là Thanh văn. Bồ-tát, hễ người thọ giới trước thì ngồi trước.
Nếu Tỳ-kheo Thanh văn mười tuổi hạ, Tỳ-kheo Bồtát chín tuổi hạ thì Tỳ-kheo mười tuổi hạ vẫn ngồi trước. Luận Trí Độ chép: Chư Phật phần nhiều dùng Thanh văn làm tăng không riêng Bồ-tát tăng như Bồ-tát Di lạc, Bồtát Văn-thù-sư-lợi, v.v... vì Đức Phật Thích-ca Mâu-ni Phật không phân biệt Bồ-tát tăng. Vào trong Thanh văn tăng ngồi theo thứ lớp, văn này chỉ nói người thọ giới trước thì ngồi trước, người thọ giới sau thì ngồi sau, không phân biệt giới Thanh văn, Bồ-tát. Bồ-tát tại gia đã không tính tuổi, đều lấy giới Bồ-tát làm thứ lớp. Nay cho rằng người tại gia cũng nên lấy việc thọ giới làm đầu. Hoặc thọ năm giới Thanh văn, hoặc thọ năm giới Bồ-tát, hễ người thọ giới trước thì ngồi trước. Nếu binh nô thọ giới trước, chủ thọ giới sau thì không được lấy việc thọ giới làm thứ lớp, binh nô và chủ có địa vị khác nhau, vốn không lẫn lộn. Nếu phóng nô làm chủ, nên theo thứ thọ giới, việc làm ở thế gian phần nhiều nương theo thuyết sau, bất luận già trẻ là không theo năm sinh già trẻ. Trong luật, năm sinh của Sa-di làm thứ lớp, năm sinh v.v... là thọ giới làm thứ lớp văn này đã nói bất luận già trẻ, vì không theo thứ lớp năm sinh của họ. Hai chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đều lấy thọ giới làm thứ lớp, không được ni thọ trước thì ngồi trên Tỳ-kheo tăng thọ sau. Nam nữ tôn ti vốn không lẫn lộn, binh nô lấy sức mạnh làm đầu, không theo thứ lớp lớn nhỏ tôn ti trong đạo, Phật pháp không phải như vậy.
9. Giới Phước tuệ thu nhiếp người.
Nếu Phật tử, thường phải giáo hóa tất cả chúng sinh, xây cất tăng phường, nơi núi rừng vườn ruộng, xây dựng tháp Phật, chỗ an cư, ngồi thiền trong mùa đông mùa hạ, tất cả những nơi chốn hành đạo đều nên xây dựng.
Phật tử giảng nói kinh luật Đại thừa cho tất cả chúng sinh. Lúc tật bệnh, nước có nạn, có giặc, ngày, cha, mẹ, anh, em, Hòa thượng, A-xà-lê qua đời và mỗi tuần thất, cho đến bảy tuần thất cũng nên giảng nói kinh luật Đại thừa. Tất cả những trai hội cầu nguyện, những lúc đi làm ăn, những lúc có tai nạn lụt, bão, hoả, hoạn, ghe thuyền trôi giạt trên sông to biển lớn, gặp quỉ la-sát v.v... đều cũng đọc tụng giảng nói kinh luật Đại thừa này, cho đến tất cả tội báo ba đường, tám nạn, bảy tội nghịch, gông cùm xiềng xích trói buộc tay chân, hoặc người nặng về dâm, nặng về sân, nặng về ngu si, thường tật bệnh đều nên giảng nói đọc tụng kinh luật Đại thừa này.
Nếu Phật tử học không thực hành như trên thì phạm tội khinh cấu. Hai việc lành phước và tuệ như chiếc xe hai bánh thiếu một thì thắng quả khó thành tựu, cho nên Phật chế khiến tu. Đại thừa, Tiểu thừa không cùng chế, bảy chúng đồng học. Trong chánh văn có hai, một là giáo hóa khiến tu phước nghiệp, hai là giảng nói khiến tu trí nghiệp.
Trong phần đầu, thường phải khuyến hóa tất cả chúng sinh, cho đến tất cả nơi chốn chỗ hành đạo đều phải xây dựng nghĩa là tu phước nghiệp tuy có nhiều môn nhưng y cứ vào con người là chủ yếu, nên nói xây dựng nơi chốn nơi hành đạo. Tuỳ sức, tuỳ khả năng khuyến hóa người khác, tự làm thì sức không đủ nhưng không phạm, khiến tu khởi trí. Nên giảng nói kinh luật Đại thừa cho tất cả chúng sinh: nghĩa là tự mình có trí hiểu biết, năng lực ấy có thể giảng nói cho người khác. Nếu tật bệnh v.v... là nói chỗ khó báo ân, cũng giảng nói cho họ nghe, có nên mười loại, một là nạn bệnh, nghĩa là khi cõi nước có nhiều tật bệnh, hai là cõi nước có nạn, nghĩa là khi vị vua độc ác cai trị ở đời, ba là nạn giặc, nghĩa là khi người nước khác xâm chiếm hung bạo, bốn là lúc những người thân đáng kính qua đời, năm là những lúc đi làm ăn, có bản kinh chép là làm ăn sinh sống, sáu là tai nạn bảo lụt, hoả hoạn, bảy là nạn la-sát, tám là tất cả tội báo, nghĩa là ba báo, tám nạn, cho đến trói buộc tay chân, chín là nặng về phiền não, mười là thường tật bệnh, nghĩa là trong thân bị tật bệnh. Gồm mười việc phải giảng kinh luật, khiến xa lìa các nạn, chuyển các nghiệp chướng, tô điểm thần minh, trí tuệ thêm rộng lớn. Nếu không như vậy thì trái lại thành phạm.
Chín giới trên cần nên học, hết lòng kính trọng vâng giữ, trong phẩm Phạm Đàn có giảng rộng, chín giới này trở xuống là tổng kết chỉ còn lại. Trong giới thứ hai mươi chín, năm giới đầu đều dùng giới pháp nhẫn thọ, bốn giới sau đều dùng tâm từ bi giáo hóa. Trong phần trước, ba giới đầu nói trao giới pháp cho người, hai giới sau giới pháp tự nhiếp. Bồ-tát tự nhiếp khiến người khác theo học, cho nên tự nhiếp chính là lợi tha. Trong ba phần đầu, thứ nhất nói người có pháp khí không phân biệt liền trao, thứ hai là nói người có nghiệp chướng giáo hóa khiến họ sám hối dứt trừ, ba là nói người chưa thọ thì không nói cho họ nghe ngay.
1. Giới thứ nhất, truyền giới không bình đẳng:
Nếu Phật tử, lúc cho người thọ giới không được lựa chọn. Tất cả hàng vua chúa, Hoàng tử, các quan, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, tín nam, tín nữ, dâm nam, dâm nữ, Phạm Thiên trong mười tám cõi sắc, Thiên tử trong sáu tầng trời cõi dục, người thiếu căn, hai căn, huỳnh môn, tôi tớ và tất cả Quỉ thần đều được thọ giới. Tất cả y phục, đồ nằm nên bảo phải hòa các mầu: xanh, đỏ, đen, tím nhộm thành hoại sắc cho hợp với đạo.
Trong tất cả cõi nước tùy theo y phục của người trong nước mặc, y phục của thầy Tỳ-kheo đều phải khác với y phục, người thế tục.
Khi người nào muốn thọ giới Bồ-tát thì vị sư phải hỏi rằng: Trong đời này ngươi có phạm bảy tội nghịch chăng? Bồ-tát Pháp sư không được cho người phạm bảy tội nghịch thọ giới trong đời này.
Bảy tội nghịch là: có tâm ác làm thân Phật chảy máu, hại bậc Thánh, giết cha, giết mẹ, giết Hòa-thượng, giết A-xà-lê, phá Yết-ma tăng, chuyển pháp luân Tăng.
Nếu phạm bảy tội nghịch, thì hiện đời không đắc giới. Ngoài ra tất cả mọi người đều được thọ giới.
Theo pháp của người xuất gia không lạy vua chúa, cha mẹ, sáu thân và quỉ thần.
Hễ ai nhận hiểu lời của Pháp sư thì đều được thọ giới. Mà có người từ trăm dặm, ngàn dặm đến cầu pháp, nếu Pháp sư Bồ-tát vì tâm ác, sân tâm mà không mau truyền giới Bồ-tát cho người ấy, thì phạm tội khinh cấu. Người pháp khí có khả năng lãnh thọ giới pháp phải truyền trao cho họ. Nếu vì giận ghét mà lựa chọn thì trái với nghĩa dìu dắt nên không cho phép lựa chọn. Nếu Bồtát, có người đến cầu thọ giới đều không được trái, vì bản thệ đều phái cứu giúp. Thanh văn hứa mà bên trong hối hận thì phạm. Nếu vốn không hứa thì không phạm. Bảy chúng đồng học. Trong kinh nói cho phép vợ chồng làm thầy lẫn nhau, trong văn chép: khi cho người thọ giới không được lựa chọn, cho đến đều được thọ giới. Nêu mười bảy loại đều được thọ giới, không phân biệt là tại gia, xuất gia, Sa-di, Tỳ-kheo, chỉ nói là được thọ. Nếu y theo văn chép dưới đây thì dạy làm khác thế tục, phải chung cho xuất gia. Nhưng phép thọ có hai, nếu y theo luật pháp, từ bốn người thọ, thì phải phân biệt loại vô căn v.v... Nếu y theo thọ chung ba quy y, ba tụ thì văn hoàn toàn không phân biệt, theo lý nên thọ chung, y theo bán trạch v.v... cho phép thọ năm giới nhưng ngăn tánh cận sự. Đây cũng nên cho phép thọ giới cụ túc nhưng ngăn tánh Tỳ-kheo v.v... văn không chọn riêng vì nghĩa chuẩn xác, những người có trí nên phải tìm giáo. Nên dạy mặc y ca-sa v.v... nói huỷ bỏ trang sức tốt đẹp thế tục cho hợp với y phục trong đạo. Nói hoại sắc là làm hoại mầu sắc kia thành mầu không chánh, cho hợp với đạo là vì huỷ sắc đẹp thế tục nên hợp với y phục trong đạo. Đều nhuộm màu xanh, đỏ, đen, tím, vàng thành hoại sắc là năm bộ dị kiến của Tiểu thừa, y phục đều có một mầu. Bồ-tát đối với năm bộ ấy không có sự thiên chấp nên mặc đủ cả năm mầu. Đây nói năm màu như xanh, v.v... là đều lấy hoại thành xanh v.v... chẳng phải là đại sắc xanh v.v... cho đến đồ nằm đều dùng hoại sắc là không những ba, y hoại sắc mà tất cả y phục, cho đến đồ nằm cũng giống ba y đều hòa mầu thành hoại sắc. Thân đã mặc y phục cho đến cùng với cõi nước ấy v.v... y phục khác mầu là làm cho màu khác thế tục, khác y phục thế tục là cách làm cũng khiến cho khác thế tục, hoàn toàn nói Tỳ-kheo không được giống như thế tục. Theo thuyết cũ thì đạo tục đều phải hoại sắc là sai, người muốn thọ giới Bồ-tát v.v... thì phải lựa chọn từ bỏ trọng chướng để thành pháp khí thanh tịnh. Bảy tội nghịch là người có chướng nặng, nếu hiện đời thực hành thì không thể thành pháp khí lãnh thọ giới pháp. Nếu tác pháp cho thọ thì không thể nào được, cho nên phải phân biệt.
Trong mười ba nạn phải lấy ra năm tội nghịch và thêm vào giết hại thầy là bảy tội nghịch. Bảy tên tội ấy là: làm thân Phật chảy máu, giết cha, giết mẹ, giết Hòathượng, giết A-xà-lê, phá Yết-ma tăng, chuyển pháp luân tăng, giết bậc Thánh. Phá Yết-ma Tăng, chuyển pháp luân tăng là chỉ phá pháp luân tăng thì mang tội nghịch. Nếu phá Yết-ma Tăng thì chẳng phải tội nghịch, khi phá Yết-ma tăng vì không muốn tranh tác khởi lên dị kiến. Nhưng khi phá pháp luân vì Yết-ma hoại nên nói rằng phá Yết-ma chuyển pháp luân tăng. Luận giải thích phá pháp luân tăng vốn là tội nghịch, nếu phá Yết-ma thì phải phân biệt. Nếu khởi là pháp tưởng phá thì chẳng phải nghịch. Nếu dùng phi pháp tưởng phá, đối với Thanh văn chẳng phải nghịch, đối với Bồ-tát là nghịch. Đây cũng nên như vậy. Giết bậc Thanh là lấy chung bậc Học và Vô học, không giống ngũ nghịch chỉ lấy việc giết hại bậc Vô học. Bồ-tát Thanh văn đối nhau phân biệt là nạn hay chẳng phải nạn, nên tạo ra bốn câu. Câu thứ nhất: Đối với Thanh văn là nạn, chẳng phải Bồ-tát, nghĩa là trong mười ba trừ năm tội nghịch còn lại tám, câu thứ hai là Đối với Bồ-tát là nạn, chẳng phải Thanh văn, nghĩa là trong bảy tội nghịch giết bậc thánh Hữu học, phá Yết-ma tăng. Nếu giết hại thầy là nạn chẳng phải nghịch, tám biên tội đối với Thanh văn kia cũng là thuộc về nạn, giết bậc Thánh hữu học là người từng thọ giới, là nạn tám biên tội. Người chưa từng thọ giới thì chẳng phải nạn, câu thứ ba cả hai Thanh văn và Bồ-tát đều là nạn, nghĩa là năm tội nghịch, đều phi nạn là trừ việc nói trên. Nếu đủ bảy già nạn thì thọ không đắc giới: vì bảy tội nghịch trên có công năng giá giới, gọi là già, có hai nghĩa: một là đủ duyên thành nghiệp nên gọi là cụ, phân biệt kia thiếu duyên không đủ, hai là ở trong một thân chứa đủ bảy tội nghịch, nghĩa là người có thọ giới cụ túc làm đại Tỳ-kheo ở trong thân chứa đủ bảy tội nghịch, nếu người chưa từng thọ giới cụ túc, trừ tội nghịch giết hai thầy và phá tăng.
Hỏi: Nếu y cứ vào nghĩa sau, không có bảy tội nghịch lẽ ra cũng được thọ?
Đáp: Không được, vì có rất nhiều thuyết cho rằng đủ bảy già nạn thì hiện đời không đắc giới, chẳng phải phạm mỗi tội nghịch không thành chướng già nạn. Nếu không như vậy thì sau khi Phật diệt độ không cần phải hỏi vì nói không phá tăng và làm thân Phật ra máu. Theo pháp người xuất gia thì không lạy vua chúa cho đến quỉ thần là chỉ cho tôn trọng đạo kia, nói người xuất gia là phân biệt với tại gia kia, Bồ-tát tại gia đã tuỳ theo thế tục tuy lễ bậc tôn quý cũng không phạm. Quỉ thần là vì cầu phước nên lễ bái Quỉ thần thế gian. Hoặc người thọ giới tuy thế tục không cho phép. Hoặc biết rõ kia quyền hiện quỉ thần, Bồ-tát thế tục lễ cũng không phạm, nhưng hiểu lời nói của Pháp sư v.v... đều trái thành phạm.
2. Giới làm thầy phải có đủ đức:
Nếu Phật tử, giáo hóa người sinh tâm kính tin pháp Đại thừa, Bồ-tát làm Pháp sư chỉ dạy cho người. Lúc thấy có người muốn thọ giới Bồ-tát, nên bảo người ấy thỉnh hai Đại sư là Hòa-thượng và A-xà-lê.
Phải hỏi người ấy có phạm tội bảy tội nghịch hay không? Nếu người ấy hiện đời có phạm bảy tội nghịch, thì Pháp sư không được cho người ấy thọ giới. Nếu không phạm bảy tội nghịch thì cho thọ giới. Nếu có phạm trong mười giới trọng phải bảo người ấy sám hối, đối trước tượng Phật và Bồ-tát. Ngày đêm sáu thời tụng giới Bồ-tát, tha thiết đảnh lễ Chư Phật ba đời, cho được thấy điều lành. Sám hối như thế trong bảy ngày, mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày cho đến suốt năm, cho đến chừng nào thấy được điều lành. Điều lành là thấy các thứ cảnh tượng lạ như Đức Phật đến xoa đầu, thấy các hoa báu, v.v... Thấy được những điều lành ấy là chứng tỏ tội đã tiêu diệt. Nếu không thấy được điều lành thì dầu có sám hối vẫn vô ích. Người này hiện đời cũng không đắc giới, nhưng tạo nhân duyên cho việc thọ giới.
Nếu là người phạm trong bốn mươi tám điều giới khinh, đối thú sám hối, thì tội được tiêu diệt chẳng phải như bảy tội nghịch.
Vị Pháp sư giáo giới đối với các pháp này phải hiểu rõ. Nếu không hiểu kinh luật Đại thừa, các giới khinh giới trọng, hành tưởng đúng, không đúng; không hiểu Đệ nhất nghĩa đế, tập chủng tánh, trưởng dưỡng tánh, tánh chủng tánh, bất khả hoại tánh, đạo chủng tánh, chánh pháp tánh, các quán hạnh nhiều ít, hơn kém trong các pháp đó, cùng mười chi thiền, tất cả pháp hạnh, mỗi pháp đều không thông hiểu. Phật tử vì tài lợi, danh tiếng, cầu sai lầm, cầu nhiều, tham đệ tử đông nên làm ra vẻ là mình hiểu biết tất cả kinh luật, để được cúng dường, đó là tự dối mình mà cũng lừa dối người khác. Nếu cố làm Giới sư truyền giới cho người, Phật tử này phạm tội khinh cấu.
Bên trong không thông hiểu mà vì lợi dối làm thầy truyền giới cho người là có lỗi lừa dối người cho nên cấm. Đại thừa Tiểu thừa đều cấm. Trong bảy chúng, xuất gia đều gồm cả tại gia vì tại gia cũng có pháp làm thầy lẫn nhau. Trong văn chép: Giáo hóa người sinh tâm tin tưởng Pháp Đại thừa, nghĩa là giáo hóa người khiến họ sinh tâm kính muốn thọ giới Bồ-tát. Bồ-tát làm Pháp sư chỉ dạy người nghĩa là làm thầy truyền giới cho người, nên chánh chế Hòa-thượng, vì từ đầu đến cuối thân giáo là Hòa-thượng. Lúc thấy có người muốn thọ giới Bồ-tát nên bảo người ấy thỉnh hai đại Sư nghĩa là tự chưa được thỉnh nên bảo thỉnh làm Hòa Thượng. Lại phải có một vị làm thầy yết-ma, lại bảo thỉnh một vị làm A-Xà-Lê, tức là A-Xà-Lê yết-ma, nghĩa đồng với Pháp thọ Sa-di của Thanh văn, nhưng pháp vẫn chung cho năm chúng vì thọ giới không phân biệt.
Hỏi: Trong văn thọ giới của Bồ-tát Địa không nói thỉnh hai thầy, văn tương tự chỉ thỉnh thầy yết-ma, không có văn thỉnh Hòa-thượng, vì sao hai văn nói khác nhau? Đáp: Lẽ ra phải đủ thỉnh hai thầy, nhưng trong văn kia không thỉnh Hòa-thượng có lẽ là thỉnh trước làm thân giáo Sư, vì thế không phải đến lúc thọ mới thỉnh, hoặc là một vị gồm đủ hai việc, nghĩa là làm Hòa-thượng và A-Xà-Lê, cho nên văn kia không thỉnh riêng. Hai thầy phải hỏi lời dưới đây, nói muốn đem pháp thọ già nạn. Hỏi là hai thầy đồng thời hỏi hay một người hỏi, một người thì ai nên hỏi? Đáp: Nếu thỉnh hai vị thì A-Xà-Lê nên hỏi, vì chính làm người yết-ma. Nếu thỉnh một người làm hai thầy thì không trở ngại. Tội được hỏi có ba loại; một là tội bảy nghịch thường không được thọ; hai là mười tội trọng nếu sám hối thấy điều lành thì được thọ, không thấy điều lành thì không đắc giới. Nay mười giới trọng nầy nếu sám hối thấy điều lành, không tác pháp thọ cũng được bản giới. Nếu không sám hối trừ diệt thì lẽ ra được nên tăng thọ; ba là bốn mươi tám tội khinh chỉ cần đối thú sám hối không cần tăng thọ. Nếu không thấy điều lành dù có sám hối cũng vô ích, nghĩa là không diệt tội được lợi ích của giới thì hiện đời cũng không đắc giới. Theo thuyết cũ, chẳng nhưng không đắc bản giới mà cũng không được tăng thêm giới. Nay là ngăn do sám hối mà được, không ngăn do thọ mà được, nhưng được tăng thọ giới. Thuyết cũ chia làm ba phần giải thích nghĩa là không đắc mà gượng thọ lại càng tăng thêm tội thọ giới vì trái với lời dạy của Phật; hai là tuy không đắc giới nhưng được tăng phước thọ giới; ba chỉ là lời kinh, sợ quỳ không được. Nay cho rằng được tăng thọ giới có lẽ là lời trùng thọ, nghĩa là phạm mười tội trọng không được thấy điều lành, dù hiện đời không được bản giới nhưng được thêm trùng thọ giới mới, cho nên phải biết. Kinh Anh Lạc chép: Mười giới trọng có phạm không sám hối được trùng thọ giới, tám muôn giới oai nghi đều gọi là khinh, có phạm được hối lỗi, đối thú sám hối diệt tội. Bồ-tát Địa chép: Nếu các Bồ-tát do việc hủy phạm này mà xả bỏ luật nghi tịnh giới của Bồ-tát. Đối với pháp hiện tại có khả năng lại thọ, chẳng thể không có khả năng, như Bí-sô trụ giới biệt giải thoát phạm pháp tha thắng xứ, đối với hiện pháp không có khả năng lãnh thọ. Phần Quyết Trạch chép rằng: Do nhân duyên này nên biết xả bỏ luật nghi Bồ-tát, nếu có tâm thọ thì lại được thanh tịnh, được phép thọ lại. Do các văn đây mà biết, giới Bồ-tát tuy phạm trọng xả nhưng được thọ lại. Nếu phạm bốn mươi tám giới khinh đối thủ sám tội hối, nghĩa là đối thủ một người sám hối diệt tội lại được thanh tịnh. Thú cũng gọi là đối thú, nghĩa là đối trước một người chắp tay sám hối tạ tội, đầu mặt tương đối nhau, trình bày tội để sám hối nên gọi là Đối thú. Bồ-tát Địa chép rằng: Lại giới Bồ-tát này, tát cả trái phạm phải biết đều là thuộc về ác tác, phải đối trước người có năng lực, lời nói tiêu biểu nghĩa, có khả năng học, có khả năng thọ Bổ-Đặc-già-la của Tiểu thừa, Đại thừa Phát lồ sám hối diệt tội. Nêu y theo văn này thì Thanh văn cũng được thọ Bồ-tát sám hối. Lại chép rằng: Nếu các Bồ-tát trái phạm phẩm triền ở trên, như pháp tha thắng xứ ở trên mất giới luật nghi, phải nên thọ lại. Nếu trái phạm trung phẩm triền, như pháp tha thắng xứ trên thì mất giới luật nghi, nên phải thọ lại. Hoặc trái phạm trung phẩm triền, như pháp tha thắng xứ ở trên thì phải đối trước ba Bổ Đặc Già la, hoặc hơn số ấy, phải phát lồ đúng như pháp dứt trừ pháp ác tác. Trước tiên phải nêu tên việc đã phạm. Phải nói như vầy: Trưởng lão chuyên chí, hoặc nói bạch Đại đức tôi tên là v.v... trái vượt pháp tỳ-nại-da của Bồtát, như việc đã nêu phạm tội ác tác. Ngoài ra như Bí-sô phát lồ sám hối diệt tội ác tác phải nói như vầy: Nếu triền hạ phẩm trái phạm như pháp Tha thắng xứ ở trên và trái phạm khác nên đối với một Bổ-Đặc-già-la phát lồ sám hối, nên biết như trước. Nếu không thì thuận theo BổĐặc-gia-la có thể phát lồ sám hối dứt trừ tội dã phạm. Bấy giờ, Bồ-tát dùng định ý lạc khởi tâm tự thệ, tà mạng nên quyết định phòng hộ tương lai không hề phạm trọng, đối với tội đã phạm lại được thanh tịnh, không đồng với bảy già nạn, là mười tội trọng sám hối được thọ lại, bốn mươi tám tội khinh sám hối được thanh tịnh, vì thế không giống như bảy già nạn, vốn hiện đời không được thọ. Vị thầy giáo giới trở xuống là chế giáo sư giáo giới đối với pháp này phải hiểu rõ, không hiểu kinh luật Đại thừa, những giới khinh giới trọng, hành tưởng đúng, không đúng: nghĩa là không hiểu giáo pháp, đối với luật biết khinh trọng, đối với kinh biết đúng sai, nghĩa là mười giới là trọng, bốn mươi tám giới là khinh. Lại nhiễm phạm là trọng, không nhiễm là khinh, cố làm là trọng lầm làm là khinh, ấy gọi là tướng khinh trọng. Thuận theo lý là đúng, trái lý là sai, Đại thừa là đúng, Tiểu thừa là sai, sở đoạn là sai, sở tu là đúng, ấy là tướng phải trái. Không hiểu Đệ nhất nghĩa đế nghĩa là không hiểu lý pháp. Địa luận đã nói bốn thứ chân thật v.v... gọi là Đệ nhất nghĩa. Hoặc tập chủng tính, v.v... nghĩa là không hiểu hành pháp. Tập chủng tánh là Thập phát thú, trưởng dưỡng tánh là thập trưởng dưỡng, bất khả hoại tánh là Thập kim cương, ba loại này chính là ba bậc hiền địa tiền, đạo tánh là Thập địa, chánh tánh là Phật địa. Trong kinh Bản Nghiệp gồm sáu thứ tánh đó là Tập chủng tánh, Tánh chủng tánh, Đạo chủng tánh, Thánh chủng tánh, Đẳng Giác tánh, Diệu Giác. Trong Đạo tánh gồm nhiếp Đẳng giác, nên ở đây chỉ có năm. Lại Đạo tánh nhập vào Đạo chủng tánh, chánh tánh gồm nhiếp thập địa kia, Đẳng Giác tánh và Diệu Giác tánh thể hoại, ngoài tánh có lập riêng. Đạo tánh là sau Thập hồi hướng lại tu bốn gốc lành thì vào Cận phương tiện của Thánh Đạo, nên lập riêng. Trong đó ít nhiều quán hạnh ra vào mười chi thiền, tất cả hành pháp mỗi pháp đều không được pháp này. Trung nghĩa là ở trong định môn không được ý thú. Mười chi Hiền, trong kinh quyển thượng chép: Mười tâm, tâm thứ mười chép rằng: Mười chi thiền trong 800 tam-muội mà không có tên riêng, không nói rõ là tại sao. Bản cũ chép: trong mười tám chi thiền trừ đồng chấp dị nên thành mười chi, nghĩa là Sơ thiền có năm: giác, quán, hỷ, lạc, nhất tâm, Nhị thiền trong bốn chi chỉ chấp nội tịnh, thêm năm phần trước là sáu, trừ ba chi phần khác giống như sơ thiền nên không chấp, Tam thiền trong năm chi chỉ chấp xả, niệm, an tuệ, thêm vào sáu phần trước là chín, hai phần khác giống như trước nên không chấp. Tứ thiên, bốn chi chỉ chấp không khổ không vui, thêm chín chi trước là mười, ba chi khác giống với các chi trước nên không chấp mà Phật tử, v.v... không đủ đức mà làm thầy thành ra phạm. Có gì khác với mười tám giới; một là trước chế vì mới thọ phải có sự hiểu rõ. Ở đây chế vì người phạm tội trọng cần phải hiểu rõ; hai là trước chế không hiểu liền trao, phần nhiều là nắm giữ phần cuối. Ở đây chế vì lợi mà vọng trao, phần nhiều là việc làm của những người không hổ thẹn, nay thì trước thuộc về môn nhiếp thiện, nay chế trong môn lợi sinh.
3. Giới nói giới mà lựa chọn người.
Nếu phật tử, không được vì tài lợi mà nói đại giới của Chư Phật cho người chưa thọ giới Bồ-tát nghe, hoặc nói cho ngoại đạo, những người tà kiến v.v... nghe. Trừ vua chúa, ngoài ra không được nói với tất cả hạng người ấy. Những hạng người ấy chẳng thọ giới Phật, gọi là súc sinh, đời đời sinh ra không gặp được Tam Bảo, như cây đá không có tâm thức; gọi là ngoại đạo, tà kiến, nào khác cây cối. Với những hạng người tà ác ấy, nếu Phật tử giảng nói giới Pháp của Chư Phật thì phạm tội khinh cấu: Tôn trọng lý của giới pháp thì phải chọn Pháp khí, người không phải Pháp khí mà nói ngay sẽ sinh tội lỗi, nên Phật cấm để dứt trừ. Đại thừa tiểu thừa đều chế, bảy chúng cũng đồng. Bồ-tát Địa chép rằng: Lại nữa các Phật tử đã thọ giới Bồ-tát, tuy đã thọ trì đầy đủ rốt ráo nhưng đối với người hủy báng tạng Bồ-tát không tin hữu tình không hề xem thường, công khai bày tỏ khai ngộ. Vì sao? Vì khi họ nghe rồi lại không thể tin hiểu, phần nhiều không biết chỗ che lấp làm chướng ngại liền khởi tâm phỉ báng. Vì phỉ báng nên như trụ định giới luật nghi của Bồ-tát, thành tựu vô lượng đại công đức tạng. Người phỉ báng kia cũng bị vô lương tội nghiệp tạng to lớn theo bên mình. Cho đến tất cả ác ngôn, ác kiến, ác tư duy chưa xả bỏ hẳn, không bao giờ xa lìa. Trong văn chép: Không (687) được vì tài lợi mà nói đại giới của Chư Phật nầy cho người chưa thọ giới Bồ-tát, cho đến những người tà kiến v.v... nghe, nếu không vì tài lợi, mà muốn cho người sắp thọ biết được giới tướng thì dù nói cũng không phạm. Địa luận chép rằng: Lại các Phật tử, khi muốn truyền giới Bồ-tát cho người thì trước phải nói pháp tạng Ma-Đát-Lý-Ca và học xứ của Bồ-tát khiến họ nghe nhận. Dùng trí tuệ quán sát ý lạc của mình, có thể nhớ nghĩ lựa chọn, thọ giới Bồ-tát. Không phải chỉ khuyên người, không phải chỉ hơn người, phải biết đó gọi là Bồtát vững chắc, có khả năng thọ tịnh giới luật nghi của Bồ-tát để thọ giới pháp đúng như chánh thọ. Nên biết là tin người muốn thọ giới, tuy lúc chưa thọ cũng được nói trước, không phải như Thanh văn khi thọ rồi mới nói.
Người chưa thọ giới Bồ-tát, nếu không có dị kiến, vì chưa thọ cho nên không được nói cho họ nghe. Thanh văn thọ giới cụ túc rồi mà chưa thọ giới Đại thừa lẽ ra cũng không được nói cho họ nghe ngay, kẻ ác ngoại đạo là người dị kiến. Đại tà kiến: là người hủy báng. Chỉ Trừ vua chúa: là vua được tự tại, thành hay bại đều do vua chúa, lại làm cho tâm ấy biết Pháp thanh tịnh nên được nói cho vua chúa nghe. Những hạng người ác ấy v.v... là lời quở người không thọ giới của Phật. Nếu Phật tử giảng nói giới pháp của Chư Phật thì thành phạm. Không có tâm thọ giới đều gọi là người ác. Kinh Thiện Giới chép: Nếu Tỳ-kheo vì tìm tội lỗi mà nghe giới Bồ-tát, không tín thọ giáo, không thành tựu giới Ưu-bà-tắc, không thành tựu giới Sa-di, không thành tựu giới Ba-la-đề-mộc-xoa, không được nghe giới Bồ-tát, nghe thì phạm tội. Nếu Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, không hổ thẹn, không sám hối mà nghe giới Bồ-tát thì phạm tội tăng tàn. Nếu phạm Tăng tàn mà không hổ thẹn, không sám hối, nghe giới Bồ-tát bị tội Ba-la-di, nghĩa là mười tám giới trọng nếu có người nói thì bị tội tăng tàn, cho nên trong kinh nói rằng người không tin thì không được nghe, người không tin không được nói.
4. Giới Cố móng tâm phạm giới.
Nếu Phật tử do đức tin mà xuất gia, thọ chánh giới của Phật, lại cố móng tâm phạm giới, thì không được nhận đồ cúng dường của tất cả đàn việt, cũng không được đi trên đất của quốc gia, không được uống nước của quốc gia. Năm ngàn đại quỉ thường đứng án trước mặt người đó mà gọi là” tên giặc nguy hiểm”. Nếu khi bước điều lành, vào phòng nhà, thành ấp, các quỉ thường theo chà quét dấu chân người ấy. Tất cả người đời đều mắng người ấy là tên trộm trong Phật pháp. Tất cả chúng sinh đều không muốn nhìn ngó người ấy. Người phạm giới khác nào loài súc sinh, cây cỏ. Nếu cố phá huỷ giới pháp của Phật, Phật tử này phạm tội khinh cấu.
Hai giới dưới đây là giải thích tự nhiếp.
Trong đó. Giới đầu giải thích về nhiếp giới hạnh, giới sau phân biệt nhiếp giới giáo, hủy phạm tịnh giới, giả vờ làm tín thí, mình tự thêm tội, đối với người thì tổn phước, nên Phật chế để dứt trừ. Đại thừa Tiểu thừa đều chế, nhưng trong pháp Thanh văn không thấy kết tội hủy giới mà thọ cúng. Đại Sĩ vì tổn mình lợi sinh nên kết tội riêng ở trong năm chúng. Văn chép: Do đức tin mà xuất gia, nghĩa là tùy theo tội đã phạm mà kết bản tội, mình đã thêm tội hủy phạm mà thọ thí, bản tội đã phạm chung cho cả khinh trọng chỉ trừ thượng triền mất giới.
Do đức tin xuất gia thọ chánh giới của Phật: là do xuất gia thọ giới, xứng đáng là ruộng phước, chỉ nói riêng xuất gia. Cố khởi tâm hủy phạm Thánh giới: là giới Phật chế đều gọi là Thánh giới, biết mà cố tình trái phạm gọi là cố khởi tâm. Vì suy nhược thọ thể nên nói là hủy phạm. Không được nhận lãnh đồ cúng dường của tất cả đàn Việt: giới ruộng Phước đã hủy, không nên thọ lãnh cúng dường. Năm ngàn đại quỉ luôn đứng án trước mặt: vì không phải phần mình mà mạo nhận nên bị phi nhân quở trách. Tất cả người đời quở người ấy là tên trộm trong Phật pháp, v.v... Vì luống uổng của tín thí nên bị người đời quở mắng.
5. Giới không cúng dường kinh luật.
Nếu phật tử, phải thường nhất tâm thọ trì đọc tung kinh luật Đại thừa, dùng giấy, vải hàng lụa, thẻ tre, vỏ cây cho đến lột da làm giấy, chính máu làm mực, dùng tủy làm nước, chẻ xương làm viết để biên chép kinh luật, dùng vàng bạc, và hoa hương vô giá và tất cả châu báu làm hộp rương đựng các quyển kinh luật. Nếu không y theo pháp mà cúng dường kinh luật thì Phật tử này phạm tội khinh cấu. Pháp là khuôn mẫu mở mang tinh thần, vâng giữ phải tôn kính. Nếu không cố giữ gìn đúng như Pháp thì trong việc làm có nhiều thiếu sót nên Phật chế phải cung kính. Bảy chúng đồng học, Đại thừa Tiểu thừa không cùng học. Văn chép gồm có năm loại; một là thọ trì; hai là đọc; ba là tụng; bốn là biên chép; năm là cúng dường. Trong phần thứ tư lột da làm giấy, v.v... là nếu được tâm bền chắc không lay động thì nên làm, nếu không như vậy thì không cần phải làm, chỉ nên khởi tâm nguyện là cây, da, giấy, lụa v.v... tuỳ theo khả năng cần phải làm. Trong Bồ-tát Địa, trong ba phần chế chung nên Văn kia chép: Nếu các Bồ-tát đối với tịnh giới luật nghi trong mỗi ngày, hoặc đối với Như lai, hoặc xây dựng nhiều ngôi tháp để thờ Như lai, hoặc đối với chánh Pháp, hoặc vì chánh Pháp mà in ấn kinh sách. Cái gọi là chư Bồ-tát Tố-Đát-Lãm Tạng Ma-Đát-Lý-Ca. Hoặc đối với Tăng-già: nghĩa là các cõi mười phương đã vào đại địa các chúng Bồ-tát. Nếu không cho là hoặc ít hoặc nhiều các vật cúng dường để cúng dường, dưới cho đến dùng thân lễ một lễ cung kính, hoặc dùng một loài kệ bốn câu khen ngợi công đức chân thật của Phật, Pháp, Tăng. Hoặc đem tâm thanh tịnh tuỳ niệm công đức chân thật của Tam Bảo.
Luống qua ngày đêm gọi là Phạm, có sự trái vượt. Hoặc không cung kính lười biếng uể oải mà trái phạm, là nhiễm ô trái phạm. Hoặc nhầm lẫn thất niệm mà trái phạm, là phi nhiễm trái phạm. Không trái phạm là tâm cuồng loạn. Nếu đã chứng nhập tịnh ý lạc địa thì thường không trái phạm. Do Bồ-tát được thanh tịnh ý lạc, như Tỳ-kheo đã được chứng tịnh, Pháp nhĩ như vậy, đối với Phật Pháp Tăng, thừa sự cúng dường phẩm vật tối thắng. Kinh Thiện Sinh chép: Nếu dâng lên y bát, cúng dường Phật, và cho cha mẹ Sư trưởng thọ dùng trước sau đó mới tự dùng. Hoặc dâng lên cúng Phật, phải dùng hương hoa để chuộc.
6. Giới phải dắt dẫn với tâm từ bi.
Nếu Phật tử, nên có tâm đại bi, khi vào trong tất cả nhà cửa, thành ấp, thấy các loài chúng sinh, phải xướng lên rằng:” Các ngươi đều nên thọ ba quy y và mười giới”. Nếu gặp trâu, bò, chó, ngựa, heo, dê v.v... phải tâm nghĩ miệng nói rằng:” Các ngươi là súc sinh nên Phát tâm Bồ-đề”, khi Phật tử đi đến núi rừng, sông, đồng nội cùng tất cả chỗ, đều làm cho hết thảy chúng sinh phát tâm Bồ-đề. Nếu Phật tử không phát tâm giáo hóa chúng sinh thì phạm tội khinh cấu.
Bốn giới dưới đây là dùng tâm từ bi giáo hóa, trong hai giới đầu nói từ bi nhiếp hóa chúng sinh, hai giới sau phân tích dùng sự cung kính giữ gìn chánh pháp, vì Pháp trụ người được lợi ích nên tuy hộ pháp tức là giáo hóa người. Trong hai giới đầu, giới đầu nói xướng đạo giáo hóa, giới kế là phân tích thuyết giáo hóa. Thấy chúng sinh không giáo hóa thì trái với hạnh nhiếp rộng nên phật chế. Xuất gia tại gia đồng học, đại thừa tiểu thừa không mất, vì Thanh văn vốn không gồm việc cứu giúp. Văn chép: Nên có tâm đại bi là thương xót chúng sinh luôn đắm chìm trong biển khổ, nên muốn cứu vớt họ ra khỏi. Hoặc lúc vào tất cả nhà cửa, v.v... trong tâm khởi đại bi phát ngôn xướng đạo. Mười giới là giới mười nghiệp đạo lành, hoặc là mười giới vô tận của Bồ-tát. Thấy các loài súc sinh khiến phát tâm Bồ-đề: trong súc sinh có loài thông minh nhận hiểu được, hoặc tuy đương thời có thể nhận hiểu, tiếng pháp trong sáng lọt vào lỗ lông thì xa làm nhân duyên Bồ-đề.
7. Giới có tâm cung kính nói pháp.
Nếu Phật tử, thường nên có tâm đại bi phát tâm giáo hóa. Lúc vào nhà đàn việt sang giàu và tất cả chúng hội, không được đứng nói pháp cho người tại gia nghe, phải ngồi trên tòa cao trước chúng tại gia.
Vị Tỳ-kheo Pháp Sư không được đứng dưới đất nói Pháp cho bốn chúng. Khi nói Pháp, Vị Pháp Sư ngồi trên tòa cao, hương hoa cúng dường, còn bốn chúng thính giả thì ngồi dưới. Đối với Pháp sư phải như hiếu thuận cha mẹ, kính thuận Sư trưởng như Bà-La-môn thờ lửa. Nếu Phật tử nói Pháp mà không đúng Pháp thì phạm tội kinh cấu: Đứng bên đường mà nói, có lỗi khinh Pháp nên Phật chế dứt trừ, bảy chúng đồng học. Văn chép: Tỳ-kheo tại gia là nghĩa Sư Phạm, Đại thừa tiểu thừa cùng chế. Trong văn chép: Nên có tâm đại bi giáo hóa là việc dùng tâm đại bi giáo hóa lợi ích chúng sinh, lý nên nghiêm kính, sinh ra pháp lành, không nên khởi tâm sai trái khinh thường. Đối với tất cả chúng sinh trở xuống chính là nói nghi thức nói Pháp, trong đó có hai; một là nói nghi thức nói Pháp cho người tại gia; hai là nói nghi thức nói pháp cho tứ chúng. Theo luật thì người năm rồi ngồi, hoặc là che đầu, ném gậy, v.v... đều phải đồng chế. Nhưng hiếu thuận với cha mẹ là tôn kính người, như Bà-La-Môn thờ lửa: là trọng pháp.
8. Giới không lập ra chế hạn tội ác.
Nếu Phật tử, đều đã có lòng tin thọ giới của Phật, hoặc vua chúa, Hoàng tử, các quan, bốn bộ đệ tử ỷ thế lực cao quý, phá diệt giới, luật của Phật Pháp, lập ra điều luật, hạn chế bốn bộ đệ tử Phật, không cho xuất gia hành đạo, cũng không cho đúc tạo hình tượng Phật và Bồ-tát cùng tháp và kinh luật. Lại lập ra chức quan đổng lý hạn chế bốn chúng, và lập bộ sổ ghi số tăng, Tỳ-kheo Bồ-tát đứng dưới đất còn người tại gia ngồi tòa cao, làm nhiều việc phi Pháp như binh nô thờ chủ. Các Bồ-tát này lẽ ra được mọi người cúng dường mà rái lại bắt làm tay sai của các quan chức, đó là phi pháp phi luật.
Nếu vua chúa và các quan có lòng tốt thọ giới của Phật, chớ làm những tội phá Tam Bảo ấy. Nếu cố làm, thì phạm tội khinh cấu. Hai giới sau đây là cung kính giữ gìn chánh pháp, giới đầu ngăn việc ác cho nên chế, giới sau là giữ gìn chánh giáo, trong phần đầu trái sự lập chế của Phật là nhân duyên phá Pháp, nên cấm để dứt trừ. Hoa Nghiêm chép: chẳng thể trước không chế, không còn tạo lập, chính là ở đây. Đại thừa tiểu thừa đều chế, bảy chúng cùng ngăn ngừa. Trong văn chép, đều đã có lòng tin thọ giới của Phật: nghĩa là khi thọ giới đều dùng lòng tin. Hoặc vua chúa, v.v...: nghĩa là biến trì tà mạn, phá diệt Phật Pháp. Do hai nhân duyên phá diệt Phật Pháp: một là lập chế phi pháp; hai là không cho xuất gia hành đạo, v.v... Tội phá Tam Bảo là người ngu si Phá Tam Bảo nên gọi là người phá Pháp. Do phi chế mà chế, chế ấy liền dứt.
9. Giới kính mến chánh Pháp.
Nếu Phật tử do lòng tốt mà xuất gia, lại vì danh tiếng và tài lợi mà giảng nói giới của Phật cho vua chúa và các quan nghe, làm những việc gông trói các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, người thọ giới Bồ-tát, như cách của ngục tù và binh nô. Như giòi trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử, chớ chẳng phải giòi ở ngoài đến ăn. Cũng thế, các Phật tử tự phá hủy Phật Pháp, chứ không phải ngoại đạo hay mắt tuệ trời phá được.
Người đã thọ giới của Phật, nên giữ gìn giới luật của Phật như ấp yêu con một, như kính thờ cha mẹ, không được hủy phá.
Người Phật tử khi nghe ngoại đạo và người ác dùng lời xấu hủy báng giới pháp của Phật thì đau đớn không khác nào cả ba trăm cây giáo nhọn đâm vào tim mình, hay cả ngàn lưỡi dao, cả muôn cây gậy đánh bổ vào thân mình, thà tự chịu đọa vào ở địa ngục đến trăm kiếp, chớ không muốn nghe lời hủy báng giới pháp của Phật của bọn người ác, huống chi không có lòng hiếu thuận, tự mình hủy phá giới pháp của Phật, hay làm nhân duyên bảo người khác hủy phá. Nếu cố phá giới pháp, Phật tử này phạm tội khinh cấu. Giới pháp bí mật, người thế tục chẳng nên nghe, lý phải ưa thích giữ gìn, giống như cha mẹ hay con một của mình, mà ở trước người thế tục chưa có lòng tin lại vọng nói giới bí mật quan trọng của Phật, lại làm những việc trói buộc, lại khởi những việc gai góc đối với chánh Pháp, Pháp suy người đọa đều do đây, nên Phật chế phải cung kính hộ trì. Đại thừa, Tiểu thừa đều chế, bảy chúng đồng học. Trong văn chép do lòng tốt xuất gia: nghĩa là khi xuất gia vốn có lòng tốt kính mến Phật pháp, lại vì danh tiếng, v.v... trái với lòng tốt, chạy theo danh lợi. Ở trước vua chúa và các quan nói giới của Phật: là tâm đuổi theo miếng mồi hôi thối, cho là lời Thánh, làm những việc trói buộc các Tỳ-kheo v.v... là vì người thế tục nghe giới của Phật, rút tỉa những điều Phi lý, gây ra những sự trói buộc ngang trái. Như giòi trong thân sư tử, v.v... dẫn dụ quở trách phá Pháp do tự Phật tử chứ không do ngoại đạo, ma trời. Nếu người thọ giới của Phật, v.v... khuyên nhủ phải kính trọng che chở, huống chi tự phá, v.v... là trái phạm.
Chín giới như vậy, cần nên học, hết lòng kính trọng vâng giữ.
Tám giới như thế phải tổng kết kính trọng vâng giữ. Phật dạy: Nầy các Phật tử! Đó là bốn mươi tám điều giới khinh, các ngươi phải thọ trì. Các Bồ-tát thuở qua khứ đã tụng, các Bồ-tát thuở vị lai sẽ tụng, các Bồ-tát hiện tại đang tụng.
Các Phật tử lóng nghe! Mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh nầy, Chư Phật trong ba đời đã tụng, sẽ tụng và đang tụng, nay ta cũng tụng như vậy.
Phật dạy tiếp: Tất cả đại chúng như vua chúa, các quan, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, tín nam tín nữ, v.v... những người thọ trì giới Bồ-tát, nên phải thọ trì, đọc tụng, giảng nói biên chép quyển giới Pháp Phật tính thường trụ để truyền bá mãi mãi. Tất cả chúng sinh xoay vần truyền dạy cho nhau không dứt, được gặp Chư Phật, được Chư Phật duỗi tay, đời đời thoát hẳn ba đường ác và tám chỗ nạn, thường được gá sinh trong loài người hay cõi trời.
Nay ta ngồi dưới cội Bồ-đề này, lược giảng giới Pháp của Chư Phật, tất cả đại chúng phải nhất tâm học Ba-la-đề-mộc-xoa vui mừng vâng giữ.
Như phần khuyến học trong phẩm “ Vô Tướng Thiên Vương” mỗi điều đều giảng rõ.
Lúc đó, các vị Học Sĩ trong cõi Tam thiên ngồi lóng nghe Đức Phật tụng giới, hết lòng kính trọng, vui mừng thọ trì. Phật tử lóng nghe v.v... là phần lưu thông, trong đó có hai; một là trao pháp để giữ gìn; hai là kết chung giáo hóa khác. Trong phần đầu có ba; một là mệnh lệnh cho chúng, tức là Phật tử lóng nghe; hai là chánh thức Phó chúc; ba là lúc đó các vị học sĩ trong cõi Tam thiên là chúng đường thời kính trọng. Trong chánh phó có hai; một là giới kinh khiến thọ trì, hai là nay ta ngồi dưới cội Bồ-đề trao giới Pháp dặn dò khiến vâng giữ.
Lúc bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng xong về mười giới Pháp vô tận trong phẩm “ Tâm Địa Pháp Môn” của Đức Phật Lô-xá-na đã giảng ở thế giới Liên Hoa Đài Tạng lúc trước. Ngàn trăm ức đức Thích-ca cũng đồng giảng như vậy.
Từ cung vua chúa Đại Tự Tại đến dưới cây Bồ-đề này, nói Pháp cả mười chỗ, vì tất cả Bồ-tát và vô số đại chúng thọ trì đọc tụng giảng nói Pháp nghĩa cũng như vậy.
Ngàn trăm ức thế giới, thế giới Liên Hoa Đài Tạng, các thế giới: nhiều như cát bụi, Chư Phật cũng giảng nói như vậy.
Tất cả Phật Tâm tạng, địa tạng, giới tạng, vô lượng hạnh nguyện tạng, nhân quả Phật tính thường trụ tạng. Tất cả Chư Phật giảng nói vô lượng Pháp tạng như thế đã xong.
Tất cả chúng sinh trong ngàn trăm ức thế giới đều thọ trì, vui mừng vâng làm.
Còn về phần giảng rộng những hành tướng của tâm địa thì có nói trong phẩm “ Phật Hoa Quang Vương Thất Hạnh”.
Người trí nhiều định tuệ Thọ trì được pháp này
Thì lúc còn chưa thành Phật Được hưởng năm điều lợi:
Một là Phật mười phương
Thường thương trưởng che chở
Hai là lúc qua đời
Chánh niệm, tâm vui vẻ
Ba là sinh chỗ nào
Làm bạn với cùng Bồ-tát 689
Bốn là các công đức,
Giới độ đều thành tựu
Năm, đời này đời sau
Đầy đủ giới, phước tuệ,
Đây là việc Phật làm
Người trí khéo nghĩ lường.
Kẻ chấp tướng chấp ngã
Không thể tin pháp này
Người chấp mắt vắng lặng
Cũng không gieo giống được
Muốn nảy mầm Bồ-đề
Trí tuệ soi thế gian
Phải nên quán sát kỹ
Về thật tướng các pháp:
Không sinh cũng không diệt,
Không thường cũng không đoạn
Chẳng đồng cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi,
Trong thể nhất tâm ấy,
Siêng tu tập trang nghiêm
Công hạnh của Bồ-tát
Phải thứ lớp học tập
Đối với Học và Vô học
Chớ móng tưởng phân biệt,
Đấy là Đệ đạo bậc nhất,
Cũng gọi pháp Đại thừa
Tất cả lỗi ký luận
Đều từ đây dứt sạch
Vô lượng trí của Phật
Đều do đây mà thành
Vì thế nên Phật tử
Phải phát tâm mạnh mẽ
Giữ nghiêm giới của Phật
Tròn sạch như ngọc báu
Các Bồ-tát quá khứ
Đã từng học giới này,
Hàng vị lai sẽ học
Người hiện tại đang học
Đây là đường Phật đi
Là điều Phật khen ngợi
Ta đã giảng giới rồi,
Phước đức nhiều vô lượng,
Hồi hướng cho chúng sinh
Đồng đến Nhất thiết trí,
Nguyện ai nghe pháp này
Đều được thành Phật đạo