TẠNG LUẬN
SỐ 1815 - PHẠM VÕNG KINH CỔ TÍCH KÝ
Sa-môn Thái Hiền ở Thanh Khâu biên tập
PHẨM ĐỨC PHẬT LÔ-XÁ-NA THUYẾT BỒ TÁT TÂM ĐỊA PHÁP MÔN THỨ MƯỜI TRONG KINH PHẠM VÕNG
Tôi có nghe ở đời có nhiều vị sư sớ sao Phạm võng, nhưng ngài Nghĩa Tịch soạn rất khéo, lúc ấy, người đến cầu dường như là Tôn giả Bảo Giác. Trong Thủ-LăngNghiêm có lúc nhớ nghĩ. Am Mật Nghiêm ở phía bắc thành Khoảnh Ngụ, Ngẫu Thư Lâm họ mỗ mang đến một quyển sách cổ, Giải thích đây là Sớ Phạm Võng của Pháp Sư Nghĩa Tịch. Tôi vừa mừng vừa sợ, cung kính nhận lãnh rồi thắp hương lễ bái mà đọc, truyền chép xoay vần lầm lẫn, chữ lỗ viết chữ Ngư là rất nhiều. Sự hiểu biết có thể hiểu tới, cẩn thận sửa chữa, bèn sai họ mỗ nào đó khắc bản truyền bá ở đời, Ngõ hầu tự lợi kéo dài đến người. Nhưng Sớ này đã truyền bá khác với kinh. Đông Dịch chú Sớ rằng: Trong tạng có thiếu bản, nói chung là chỉ ở đây, vì thế lai chấp bản kinh Thiên Thai, đưa vào trọng sớ để tiện cùng tra cứu. Lại bên cạnh thêm vào chữ “ Hoà” là muốn cho những người trẻ tuổi học dễ hiểu, việc ấy vẫy chưa sửa chữa lại, đợi người hiền sau tham đính mà thôi.
Niên hiệu Trinh Hanh, năm đầu, Long Tập năm giáp Tý, ngày Tăng tự tứ, Tỳ-kheo Diệu Biện kính ghi.
------------------------------
Sa-môn Thái Hiền ở Thanh Khâu biên tập
Giải thích kinh này chia làm bảy môn. Là thời xứ, Căn cơ, Thuộc về tạng nào, Phiên dịch, Tông thú, đặt tên, Bản văn. Thời, xứ vốn là cho Đức Phật Lô-xá-na ở thế giới Liên Hoa Đài Tạng nói, ngon tức là Đức Thíchca lúc mới thành Phật nói nước Ma-già-đà đạo tràng tịch diệt. Căn cơ là người có tánh Bồ-tát được phát tâm, vì che bai không tin không được. Mới thuộc về tụng nào: là thuộc chung Bồ-tát tạng Tỳ-nại-da trong. Phiên dịch là đời hậu tần có Ba tạng Cưu-ma-la-Mười ở Tây Vực Cưu Ma La Mười, Hán dịch là Đồng Thọ, giữ giới Bồtát tụng nghiêng về phẩm này cùng hơn ba ngàn vị Sát na-môn nghĩa học khác, bèn đến vườn Tiêu Dao và chùa Thảo Đường ở Trường An phiên dịch hơn năm mươi bộ kinh luận. Cuối cùng do chúa nhà tần muốn thọ giới cấm, riêng tụng dịch ra, Tuệ Dung v.v... ghi chép, Sư Pháp Tạng Giải thích: Tây vực có mười muôn bài tụng gồm sáu mươi mốt phẩm, dịch đủ thành hơn ba trăm quyển.
Tựa kinh này chép: Có thể có một trăm hai mươi quyển. Thượng các Đại vị tôn Chư Đức thượng đại truyện nhau rằng: Ba Tạng Chân Đế định đem luật tạng
Bồ-tát đến đây, lúc ấy ở trên thuyền Nam Hải, thuyền sắp chìm, bỏ đi vật khác thì thuyền vẫn không di chuyển, chỉ bỏ bản luật thuyền mới tiến về phía trước. Ngài Chân Đế than rằng: Đất người Hán không có duyên với giới luật Bồ-tát, thật đáng thương xót.
Ba Tạng Đàm vô sấm ở Châu Tây Lưỡng, bấy giờ có sa-môn Pháp Tiến, v.v... xin thọ giới Bồ-tát với Đàmvô-sấm và thỉnh giới bản. Sấm Giải thích: Người nước này thô thiển đâu phải đạo khí thọ nhận được giới Bồ-tát ư! bèn không trao cho. Pháp Tiến, v.v... hết lòng thỉnh cầu cũng không được như điều đã nguyện, bèn ở trước tượng Phật lập thệ cầu giới, vừa đủ bảy ngày thì mộng thấy Bồ-tát Di-lặc đích thân cho thọ giới Bồ-tát và thọ giới bản, cùng nhau đều tụng được. Tỉnh dậy bèn đến gặp Sấm, Sấm thấy việc lạ ấy thở dài, than rằng: Đất Hán cũng có người, bèn cho dịch ra giới bản giống với văn nghĩa mà Pháp Tiến đã tụng trong giấc mộng. Nay chỉ lưu hành riêng Đại An kệ quy kính của trong giới bản địa trì. Lại nghe các chùa Tiểu thừa ở Tây Vực tôn Tân-Đầu-lô làm Thượng tọa. Các chùa đại thừa tôn ngài Vănthù-sư-lợi làm Thượng tọa. Cả chúng cùng giữ giới Bồtát. Yết-ma thuyết giới đều làm pháp sư Bồ-tát. Luật tạng Bồ-tát thường tụng không dứt. Tông thú Điều mà lời nói tiêu biểu gọi là tông, tông đã trở về là thú. Kinh này lấy tâm hành gọi là tông, chứng biết lợi sinh là tông thú của mình. Nói tâm hạnh, sơ lược có hai môn; một là hạnh môn giáo chánh; hai là hạnh môn giới ác. Hạnh vi giáo dạy chân chánh tức là kinh ban đầu nói hạnh nội chứng của Ba Hiền, thuộc Thánh. Răn hạnh vi ác là phần sau kinh nói hạnh của mười giới bốn mươi tám giới khinh, trong kinh có nói rộng như sau nên biết.
Chỗ quy thú, cũng có hai môn; một là môn Như lai tánh; hai là môn Phát thú tướng. Sở thú, năng thú như thứ lớp nên biết. tánh Như Lai là tánh chân như. Như trải qua sự vắng lặng gọi là nhất tâm, nhất tâm gọi là Như lai tạng, nghĩa là tâm của chúng sinh giống như tánh sinh và vô sinh vắng lặng làm biển nhất tâm, giống tướng sinh chảy thành con sóng của sáu đường. Như kinh Bất Tăng Bất giảm chép: Ngay Pháp thân này trôi giạt trong sinh tử gọi là chúng sinh, ngay Pháp thân này tu hành các độ gọi là Bồ-tát, ngay Pháp thân này trụ ở bờ kia gọi là Chư Phật. Vì sao? Vì mộng sinh tử chỉ có tâm mê, thói quen luống dối khuấy đục tâm. Hoặc giống như mắt v.v... hoặc giống như sắc, v.v... giống như mắt bị nhậm thấy hoa đốm trong hư không. Trời, đất, núi, sông tuy không có bờ mé, như những điều thấy trong mộng nơi không căn cứ. Sắc, v.v... kích động bị gió cảnh Trong biển tàng thức sóng chuyển thức nổi lên, đối với sáu chỗ phân biệt sáu trần. Nhưng sắc, thanh v.v... chỉ như mộng trần, ngoài hành tướng của tâm đều không có sở đắc. Cảnh đã chính là tâm, tâm như cảnh không. Vì mê nên sinh tử, ngộ thì thành niết-bàn, cho nên tánh không. Gọi là Như lai tàng.
Môn phát thú thứ hai là bên trong ấy có tánh Như lai, nên nghe các hữu tình đồng ở Như Lai tạng, bị vọng niệm nhận chìm trong vòng đau khổ không có bờ mé. Thệ làm con thuyền trong biển lớn sinh tử, không sợ mà mình phải chịu khổ lớn, trong đó khởi ý lạc vô ngại không thể hoại, nghĩa là Đại Bồ-đề nếu có thể đắc Pháp, ta cũng là trượng phu, ba đại A-Tăng-Xí-Da, tuy dứt, nhưng hẹn sẽ thoát ra. Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề tuy xa nhưng người có thệ nguyện thì chắc chắn sẽ đến.
Gần gũi bậc Thiện Sĩ, nghe chánh Pháp, trí tuệ là mẹ, phương tiện là cha, rộng nhiếp chúng sinh làm quyến thuộc của mình, vắng lặng là nhà, Pháp hỷ làm vợ, từ tâm làm con gái, chí thành làm con trai. Tuy ở tại gia nhưng không dính mắc ba cõi, tuy hiện đời thọ dục nhưng thường sống trong phạm hạnh, đi vào con đường lớn tấm là lợi ít chúng sanh. Muốn thành tựu nghĩa khác dám xả bỏ mạng mình, đến chỗ giảng luận dẫn dắt đến Đại thừa, vào các trường học khuyên nắm dẫn dắt khai trí cho trẻ em nhỏ tuổi, giao kết bạn bè trước khó khăn sẽ chọn được thầy của mình, dưới trăng quên ôm bóng trong vị đạo, công buộc cỏ tự có gió mây, giao du với sắc đẹp cũng biết cái không của nó, đại bi, bát-nhã đã giúp đỡ hai bên, nương không mà trụ đạo, dốc lòng thực tế. Nhưng trong các tâm phản chiến tự tánh, làm sáng tỏ chỗ tối, lập Phật Bồ-tát. Vì sao nói là bất trụ đạo, ở bên không, hữu, chẳng trụ trí tuệ, nghĩa là duyên điên đảo có tướng thế gian, đã có sự điên đảo thì lìa không hữu. Như Thánh Thiên nói, hữu phi chân hữu, nên không cũng chẳng phải thật không, nghĩa là đối với vọng thức dường như có mà hiện thì ở chứng trí dường như không có sở đắc. Nhưng ở thắng nghĩa chẳng phải rốt ráo. Các thắng nghĩa là không, nên tục cũng không, đã lìa tánh có. Bátnhã chứng không cũng lìa tánh Đại Bi vượt lên cái có, vì vượt lên có nên không trụ niết-bàn, vì chứng không nên không trụ sinh tử, chẳng trụ hai bên khác phàm phụ và Hai thừa, vì khác phàm phu và Tiểu thừa nên tự phát Bồđề. Như Du-già chép: Đối với tánh tướng không có hư hoại, thì làm hư hoại tất cả Đại thừa, khi hành sáu độ của Bồ-tát đều không có, sở đắc đó là phương tiên, không có sở đắc thì không có trụ đạo. Nếu chỉ rỗng có thì sẽ đắc không mà lại chẳng không, nên không có sở đắc, vì không có sở đắc nên ba luân vắng lặng, ấy gọi là rốt ráo tu hạnh Bồ-tát. Nói nêu danh là một bộ kinh được đặt tên là Phạm Võng. Phật Lô-xá-na nói phẩm Tâm địa Pháp môn thứ mười là tên riêng của phẩm này. Phạm là nghĩa năng tịnh, nghĩa Võng là nhiếp hữu tình, nghĩa là kinh này cho đến biển lớn sinh tử của Hữu Đỉnh trói buộc hữu tình, hoàn toàn đến bờ vắng lặng vô thượng, Vô tận lợi ích các loài đói khát như lưới thế gian là nói lên nghĩa này. Các vị Phạm Vương cầm cờ, mành lưới cúng dường Phật, nghe pháp. Đức Phật do đây giảng nói thế giới khác nhau giống như lỗ lưới, giáo môn của Phật cũng như vậy. Thế giới khác nhau là bóng cây Tu-di che khắp thế giới, v.v... lần lượt bước vào cửa Phật giáo, tuy Pháp, uẩn, giới, xứ, v.v... có khác nhau rất nhiều như lỗ lưới của phạm chủ nhưng lưới chỉ một, giới pháp của Pháp Vương nên biết cũng như vậy, tuy có nhiều pháp môn như cát bụi, nhưng cuối cùng cũng trở về một đạo, một môn muôn hạnh gọi là đắc ý, đắc ý mà làm, đều gọi là Pháp tánh, vì thế từ dụ gọi là kinh Phạm Võng. Kinh nghĩa là khế kinh, trì thông suốt nghĩa là, vì nghĩa thông suốt nên chẳng mất. Lô-xá-na, Hán dịch là Tịnh Mãn, vì chẳng chướng chẳng tịnh, nên chẳng đức nào không tròn. Sư Pháp Tạng nói: Bản Phạm đều gọi là Tỳ-Lô-xána, hán dịch là Quang Minh Biến Chiếu, trí soi pháp giới thân ứng đại cơ, trong danh từ Phạm Võng là nên tên này vì phân biệt với phẩm khác do đức Thích-ca nói Phật là Giác, giả ba nghĩa như thường, thuyết là viên âm, khéo ứng với chúng sinh mà hiểu, chỉ biết muôn đức sinh ra và lớn lên từ đây gọi là Tâm, ra khỏi bến khổ, vào nhà thanh tịnh, gọi là pháp môn. Phân loại văn nghĩa khác nhau nên gọi là phẩm. Phẩm Tâm Địa này gồm có hai môn; một là Bản Sư nói; hai là hoá nhân nói. Trong phần đầu có năm: Xử chúng Cảnh Giác, khải vấn, kiến vấn và phó chúc. Bấy giờ cho, đến phẩm Tâm Địa Pháp Giải thích Trong Xứ chúng có ba là Xứ Sở, Đại Chúng và Sở thuyết, lời văn rất dể hiểu.
Lúc ấy, Đức Thích-ca cho đến cũng sinh tâm nghi,
Giải thích Trong phần Cảnh Giác thứ hai cũng có ba:
Phóng quang, chúng hỷ và nghi niệm, lời văn rất dễ hiểu. Lúc bấy giờ, trong chúng cho đến có những tướng gì?
Giải thích: Khởi vấn thứ ba cũng có ba văn là khởi định, tập chúng và khởi vấn. Huyền Thông Hoa Quang Vương là sở chứng chân lý gọi là Huyền, năng chứng năng trí gọi là thông, năng sinh đại quả gọi là Hoa, xua tan tối tăm ngại chướng gọi là Quang. Trong ba thừa thù thắng gọi là Vương, khởi định do kia gọi là định Hoa Quang cũng vậy. Các đức trang nghiêm gọi là Đại trang nghiêm. Kim Cương màu mây trắng là vì không hư hoại, vô lậu trong sạch chứa đựng nước các đức nên nêu lên mầu sắc này. Anh sáng chẳng phải một nên nói là quang quang, là những tướng gì? Là tướng hỏi để làm gì.
Lúc ấy, đức Thích-ca cho đến trên tòa quang minh, Giải thích Trong phần thấy hỏi thứ tư có hai, vì gặp nên hỏi, phần đầu đây là, giáo hoá trở về bản thể nói về đến. Thêm năng lực thấy thù thắng như giới bản Sớ, trăm muôn ức cung quang minh tử kim cương như năm trăm ức cung của Bồ-tát Di-lặc ở cõi trời Đâu-suất. Trăm muôn hoa sen là tòa hoa sen.
Lúc bấy giờ, đức Thích-ca cho đến hạt giống Bồ-tát: Giải thích: Trong câu hỏi thứ hai có hai, vì hỏi nên trả lời, đây là phần đầu. Có chỗ chép ba lần hỏi, Địa là hỏi hạnh hữu vi, hư không là hỏi hạnh vô vi. Chúng sinh là đầy đủ hai hạnh chúng sinh trên là sai.
Y theo chỗ ở mà hỏi nhân quả kia, còn hạt giống Bồtát ở phẩm khác có hỏi rộng nay không hỏi nữa. (Sớ cũ chép: sáu chỗ tốt đẹp gọi là hạt giống, như Địa Trì nói).
Lúc bấy giờ, cho đến Phật Lô-xá-na, Giải thích: Trong câu trả lời thứ hai có hai; vì là quả vì là nhân, ở đây trả lời quả. Rất vui mừng là vì thấy lợi lớn. Trí vô phân biệt gọi là hư không quang vì tánh hư không chiếu khắp Pháp tánh Chánh liễu nhân thể cũng gọi là thể tánh, vì trí là chánh nhân. Chỗ nương định kia gọi là cội nguồn, ở đây có thể hiển bày thành Pháp thân thường trụ. Đức Phật hiện ra định này là để chỉ cho đại chúng thấy, vì nhân cơ bản nên tụ hành tâm địa lấy đó làm nhân. Bỏ phàm phu, v.v... là nêu nhân đáp quả. Thành Đẳng Chánh Giác. v.v... trở xuống là hiển thành tướng Phật, vì hiển bày chánh báo, y báo và hoá tướng. Biển thế giới: Như Trí luận chép: Số ba thiên đại thiên thế giới này nhiều, như số cát sông Hằng làm một thế giới chủng. Số thế giới chủng này lại đến Hằng Sa là một thế giới hải, số thế giới hải này, lại nhiều đến mười muôn Hằng Sa là một thế giới Phật. Tuy ở trên chính ở giữa đài trong ngàn cánh mà nói ở tại biển thế giới: như hòa thân ở tại một châu Diêm-phù mà nói ở tại Sa-Bà, bà là một cõi Phật, hai thân du hoá, lượng cũng như vậy. Ngàn trăm ức cõi thân Phật Thích-ca như giới bản ký có giải thích.
Lúc bấy giờ trên đài Liên Hoa cho đến trí thân đầy đủ,
Giải thích: Trong phần trả lời nhân thứ hai có hai, là lược và rộng, đây là phần đầu. Sớ chép: Tín nhẫn vững chắc là nói Pháp môn giải đức của tập chủng tánh, cũng gọi là Văn tuệ trong, pháp nhẫn vững chắc là nói pháp môn
Hạnh đức của tánh chủng tánh cũng gọi là tư tuệ. Trong Tu nhẫn vững chắc là nói pháp môn hành thật của Đạo chủng tánh, cũng gọi là tu tuệ. Trong Thánh nhẫn vững chắc là nói pháp môn thân chứng của Thánh chủng tánh, gọi là Tuệ xuất thế.
Trong đây, sau bốn mươi gia vị Ba Hiền, Mười Thánh thì thứ lớp hiểu rõ nên không giải thích. Giẫm là bước lên, vô vi là việc làm không có nghiệp phiền não. Vô tướng là pháp thân. Đại mãn là trí thân. Thường trụ là tự tánh không đứt quãng và nối nhau.
Lúc bấy giờ, cho đến trong phẩm đã khai. Giải thích: Trong phần quảng thứ hai có hai, vì thỉnh nên đáp. Đây là Phần đầu, trong hội của Chư Phật có Bồ-tát hỏi, giải thích tên y theo trước. văn kinh này khó hiểu, Phật Phật đối nhau, Phạm ngữ khéo léo, giống như thơ mỗi câu năm chữ trong đây dịch bằng tiếng Hán, mất ý hay nên khó hiểu.
Bấy giờ, cho đến nhập ba-muội không. Giải thích: Trong đáp thứ hai có bốn: như kế là nói rộng bốn mươi pháp môn, đầu tiên cũng có mười, trong Phát thú này đầu tiên là xả tâm. Bồ-tát thỉnh che chở được ngàn Đức Phật, nay Giải thích ngàn Đức Phật lóng nghe, vì biết ngàn Phật đại chúng chưa hiểu rõ. Xả tâm: văn có ba, là chương môn, hành tướng là kết thành. Nói tất cả xả là nếu chương môn. Kế là trong hành tướng gọi là cõi nước v.v... Tất cả xả, vô vi vô tướng là lúc nêu xả sở xả lìa ba luân. Vô vi là người không, vô tướng là pháp không. Kế là giải thích Ba luân, Sở thí là không nghĩa là ngã nhân Người biết người thấy mười hai nhân duyên giả hợp mà thành. Nên có thể chấp kia là chủ tạo tác. Ngã kiến là trong Sở duyên kia, mười hai nhân duyên không hợp không tan, vì đối cảnh vô ngã nên nói là không hợp, nhưng có giống ngã cũng nói không tan. Kế là thọ giả là không, nghĩa là vô thọ giả, vì uẩn giới xứ hợp với tướng không, chẳng có tướng ngã và ngã Sở, sau là thí vật không, giả thành các Pháp, hoặc nội thân, hoặc ngoại tài, v.v... tất cả pháp không, không có sỡ xả của mình, không có thọ của kia. Kết lời thứ ba, lúc bấy giờ quán thành như cảnh giả hợp, sẽ thấy được hiện tiền. Trong kinh chép. Nếu Phật tử cho đến nhất đạo thanh tịnh.
Giải thích: Giới tâm thứ hai, giới là nêu chương, phi phi giới là lìa hai bên có không, nói trùng là phi phi. Vì sao? Vì là vô thọ giả và mười thiện giới vô sư nói Pháp, nghĩa là vô năng thuyết, đâu có sở thuyết. Người Nhận người trao cùng giới đã thọ vì không thật có cho nên ba luân là không. Lừa dối trộm cắp cho đến tà kiến vô tập thọ là nói chỗ ngăn ngừa thể không vô tập, lại thuộc về các duyên, vì tánh vô định. Khi là coi thường. Coi thường quá mức sẽ hại cho mạng. Từ bi hiền lành, v.v... là nói có thể phòng giới, thể tánh cũng không; một là từ bi ngăn ngừa giết hại; hai là hiền lương đề phòng trộm cướp; ba là trong sạch phòng dâm dục, bốn là ngay thẳng phòng sằng bậy; năm là chân chánh phòng bán rượu; sáu là thật thà ngăn ngừa khen chê; bảy là chánh kiến ngăn ngừa tà kiến; tám là xả bỏ ngăn ngừa san tham, chín là vui vẻ ngăn ngừa tức giận. Sớ cũ chép: Những lời v.v... là dùng từ bi ngăn ngừa lỗi lầm. Khi ngăn ngừa mười điều ác, ngăn dứt hữu vi, vô vi, tám đảo, tánh hữu vi lìa một vị thanh tịnh.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến không thật có. Giải thích: Tâm nhẫn thứ ba, nhẫn là nêu chương, thể tánh của tướng tuệ hữu vô là nêu chung thể nhẫn của chân tục, kế là nói về hành tướng khác nhau. Nói không không nhẫn là duyên nghĩa nhẫn cao siêu, dưới đây gọi là Vô sinh hạnh nhẫn. Nhất thiết xứ nhẫn là duyên theo nhẫn của thế tục, dưới đây gọi là nhất thiết xứ Như khổ nhẫn. Biến nhất thiết xứ được gọi như là tướng khổ thế tục mà nhẫn hiểu. Được gọi là như khổ, là chịu đựng oán hại, v.v... theo cảnh mà gọi tên. Vô lượng hành tướng chân tục như thế mỗi hành tướng đều gọi nhẫn là kết. Nói chân tục rối, kế là nói Ba luận, tự không vô thọ, không kia chẳng nắm bắt, vì pháp tánh không nên không dao gậy, không tâm sân, một vị ba luân nói là đều như như, sự sự không thật nói là vô nhất nhất. Đế lý không hai, nói một tướng chắc thật, lý cũng thật không gọi là tướng vô vô, nhưng thế tục chẳng phải không nói có tướng hữu vô. Kế là môn đối nhau năng sở, phi phi tâm v.v... nói tướng nhẫn không, nghĩa là tâm năng nhẫn chẳng phải đều không nên nói tướng phi phi tâm. Dường như có duyên hư không thật của duyên lự, nên nói duyên tướng không duyên, lập trụ v.v... là cảnh sở nhẫn của không, trong bốn oai nghi như đánh người v.v..., tánh của nhiễm tịnh là không, nên nói tất cả, Pháp như, Sở đã năng không thì, tướng nhẫn không thật có.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến tiến phần gốc lành. Giải thích: Tâm tinh tấn thứ tư, khổ bốn oai nghi, tất cả thời đều hành là dùng hạnh tin tấn để nêu chương môn. Đi đứng v.v... khi địa vị không thì chẳng có kế sách, kế là nói về hành tướng, điều phục không giả, là hàng phục hai tánh đầu. Không gọi là biến kế, giả là y tha, biết pháp tánh thì biết viên thành thật, hàng phục sự tướng đầu tiên chân thì hiểu được được lý. Không có nhóm trí đức gọi là núi Vô sinh. Thấy hữu vô tướng có gọi là hữu, tướng không gọi là vô. Như luận của Long Thọ gọi hữu vi là có, gọi vô vi là không. Như có thì thế tục dường như có, như vô là thắng nghĩa dường như vô. Quán chung tất cả Pháp như trên Mặt đất xanh, vàng, đỏ, trắng tất cả nhập là mười biến xứ. Bao gồm thắng xứ giải thoát, v.v... nên nói cho đến trên đây là, quán riêng môn công đức. Ba Bảo Trí tánh là môn công đức của Đại thừa, vì có nhiếp ba ngôi báu tất cả Pháp nên nói là cảnh giới. Kế là nói công đức, lấy tất cả niềm tin cao thượng thăng tiến đạo chắc chắn là ba ba-muội, không tuệ làm môn. Vô sinh là vô tướng vì tướng chắc chắn sinh. Từ thắng nghĩa quán hướng về thế tục, nên nói khởi không nhập vào Pháp thế đế, rõ chân tức tục, nói cũng không có hai tướng. Kết thứ ba là nói nối tiếp tâm không, thông đạt vào phần gốc lành, chỗ có tiến đạo đều lấy không làm đầu nên nói nối tiếp tâm không ở trước, thông đạt mà tiến vào gốc lành gọi là tiến tâm.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến sinh tất cả điều lành. Giải thích: Định tâm thứ năm, vắng lặng vô tướng là nêu chướng môn, vì vắng lặng tán động chiếu soi vô tướng. Kế là trong hành tướng, vô tướng vô lượng hạnh ba-muội là định sinh không, vì chỉ có các hành, không có thật ngã. Vô tướng vô lượng tâm ba-muội là định pháp không, chỉ có các thức không có thật Pháp, đều hướng về chân không gọi chung là vô tướng. Phàm Phu và bậc Thánh đều nhập vào ba-muội là tám thiền định. Loại định thứ hai kia vì được thuần thục nên nói thể tánh tương ưng. Đối với tất cả hạnh vì nhờ năng lực định nên các chướng đều diệt, nghĩa là người chấp ngã, nhân, thọ giả là chấp về người. Tất cả trói buộc là các phiền não khác, thấy tánh là nêu pháp chấp nhiếp sở tri chướng, đều là nhân duyên chướng định. Gió thổi động tâm là không khởi tư duy đều là tâm không yên lặng, mà diệt không không và vì tám đảo không có phan duyên. Nương tĩnh tuệ quán là học quán Pháp là nhờ định tuệ hữu tình, vì tất cả là giả định tuệ này, biết khổ để phục diệt, có thể thọ tánh tội tập diệt trong ba cõi. Nói sinh tất cả điều lành là tư lương của đạo.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến là tuệ dụng của.
Giải thích: Tuệ tâm thứ sáu. Không tuệ trong là nêu độ thứ sáu. Nói trong hành tướng chẳng phải không có duyên là nêu có duyên sở y. Tuệ cũng vô tánh, vì y tha khởi. Vậy lấy gì làm sở y? là biết được thể gọi là Tâm, rõ biết tất cả Pháp giả gọi là chủ tánh của tâm vương thông đồng với đạo, vì tương ưng với tuệ nên đã trụ mầm Thánh thì sẽ nhập Thánh v.v... đều là công dụng của tuệ tâm thể tánh. Tất cả năng chấp bốn đảo phiền não điên đảo đều do không rõ nhiễm tuệ tánh nên dối trị phải lấy tuệ làm đầu. Tu các thứ văn tuệ không thể nói, để làm phương tiện nhập vào Trung đạo Nhất chân đế. Kế là Nói chương không nghĩa là vô minh làm chướng tuệ vì lìa các duyên hợp với không có tự tướng, nên nói chẳng phải tướng, vì không là duyên nên chẳng đến với duyên. Vì đã không có tự tánh nên chẳng phải tội, chẳng phải tám đảo, vô sinh diệt, do tuệ này chiếu sáng mà ưa thích không. Nói trí chân thật xong, lại nói phương tiện trí, chuyển biến thần thông cũng là việc làm của thể tánh của trí, vì là dụng của tuệ.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến tất cả hạnh bản nguyên.
Giải thích: Tâm nguyên thứ bảy, mỗi nguyện đều đại cầu, tất cả cầu là nêu chương môn, vì cầu hai lợi nên nói nguyện nguyện, cầu dứt gọi là đại cầu, cầu trí danh tất cả cầu, nói trong hành tướng vì nhân tu hành cầu quả xa nên tâm nguyện nối nhau. Chắc chắn do tâm nguyện nối nhau nên trăm kiếp được thấy Phật liền diệt tội. Trăm là nhiều nghĩa, tội là sinh tử, vì tai hoạn gom nhóm chuyên chú nối nhau cầu Pháp một tướng không nên nói cầu cầu dốc lòng ở một tướng không vô sinh. Nhất là một tướng. Cái gọi là Vô tướng, nương nguyện thêm quán mà nhập vào định chiếu, thì vô lượng kiến phược nhờ tâm cầu nguyện nên được giải thoát. Họ có khả năng chứng hạnh để tâm cầu được thành tựu. Do đây mà vô lượng công đức của Bồ-đề lấy nguyện làm gốc, đã thành Phật rồi, tròn chứng đầy Pháp giới, lìa hai bên có, không, gọi là quán Trung đạo nhất đế. Muôn đức dung nhau, năng chiếu trí phần, sở chiếu Pháp giới, tuy chẳng khác nhau, chẳng phải như nguội thân bặt trí của người hai thừa cũng thuật là chẳng Thân tròn chứng đầy rồi, về sau đắc trí khởi vô lượng dụng. Nói là sinh kiến kiến, nhưng không Giải thích ta có sự tạo tác. Giải thích chẳng có tuệ giải, là phần kết văn rất dễ hiểu thúc.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến Pháp quán cũng như vậy.
Giải thích: Trong hộ tâm thứ tám, hộ Ba Bảo, hộ tất cả hạnh công đức là nêu chương môn, vì hộ sở y và hạnh của mình. Kế là nói hiếu về hành tướng, đầu tiên là hộ ngoại đạo không cho quấy rối người chánh tín che chở giữ gìn Ba Bảo, vì hạnh vô tướng chiết phục tâm điên đảo. Diệt ngã Phược, kiến phược, vô sinh, v.v... là giữ gìn hạnh mình. Chiết phục phiền não chướng là diệt ngã Phược, chiết phục sở tri chướng là nói Phược vô sinh. Lấy gì để hộ hành tướng như vậy? Nghĩa là hộ căn bản Ba Bảo, dùng hạnh vô tướng để hộ. Hộ ba không môn của mình, dùng tâm tuệ liên tuệ liên, v.v... hai không giúp nhau nên nói tuệ liên tuệ liên, nối nhau nhập vào Vô sinh như thế, là chỉ đạo quán đạo thì rõ sáng rõ sáng, vì chiết phục hai chướng vô quái ngại. Hộ quán như thế nhập vào cảnh không. Tướng tục giả khác nhau nên nói phân phân, dường như ngã dường như pháp, trong vọng thức dường như có nên nói do sanh khởi huyễn hoá, huyễn hoá. Tánh không của tướng thế tục, trong không trí dường như không có, nên nói như vô như vô. Phần kết trở xuống chép: Duyên hợp đã khởi nói là pháp thể nhóm họp, lại thuộc về các duyên là pháp thể tán, không có định tự tánh là nói không thể giữ gìn. Như lý sở quán, năng quán cũng như vậy.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến tất cả Pháp.
Giải thích: Hỷ tâm thứ chín, thấy người được vui thường sinh vui mừng là nêu chương môn, và tất cả v.v... là nói hành tướng. Giả là y tha, không là biến kế, biến kế chiết phục hai tướng là nói về tất cả. Hai tướng không hiện gọi là chiếu tịch, chẳng thấy hai tánh đầu là nói không nhập vào hữu vi. Chân như ảnh hiện là nói chẳng thể không vắng lặng. Cảnh trí trong chứng lạc đều không cho nên nói đại lạc vô hợp. Bát-nhã tuy chứng không, đại bi giông như giao hóa chúng sanh phan duyên theo cảnh hữu. Nên nói có thọ mà hoá, có pháp mà thấy. Pháp tánh huyễn giả, v.v... là thấy tánh hai đế bình đẳng, hạnh trong nhất quán tâm tâm. Huyền là thắng nghĩa, giả là thế tục, vì Bát-nhã Đại Bi mà dung chứa nhau. Đa văn tất cả hạnh công đức của Phật là quả đức học rộng và đức nhân hạnh. Khắp dùng trí vô tướng tuỳ hỷ nối sinh chánh niệm mà chuyên chiếu. Đã hoàn toàn vô sinh Phật tức là Ngã. Phần kết trở xuống chép: Tâm ưa thích duyên tất cả Pháp là lìa các duyên vui mừng như ganh ghét v.v...
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến Phẩm Quang có nói rộng.
Giải thích: Đỉnh tâm thứ mười là trí trên hết của con người, là nêu chương môn. Kế là giải thích danh nghĩa, trong chín tâm trước như thì ba nghĩa đỉnh; một là diệt chướng như đỉnh. Nói ngã luân là chấp ngã làm đầu, luân hồi phiền não lợi thân kiến nghi, và lấy các phiền não như, độn phẩm. v.v... đều diệt vô nên thù thắng như đỉnh; hai là trí thắng như đỉnh vì trí liên tục trên hết như đỉnh, ba là cảnh thắng như đỉnh, cùng khắp pháp giới nhân quả viên dung như như, vì một đạo tối cao như đỉnh. Như Nhân Đỉnh là dụ, chung cả ba thứ trên. Kế là nói về hành tướng khác nhau giữa. Sáu mươi hai kiến chấp về thân kiến, phân biệt hai thứ kiến nên nói phi phi. Năm chúng là năm uẩn. Trong uẩn sinh diệt từng sát na, lầm chấp thể thần ngã thường trôi lăn, quán thức uẩn rỗng không, thường chấp thức uẩn là tướng ngã. Vô thọ quán thọ uẩn là không chẳng có hành tướng để nắm buộc là quán ba uẩn không còn lại. Hành là hành uẩn, không thể nắm bắt là vì sắc uẩn là không, không thể buộc là vì tưởng uẩn là không. Vì vọng tưởng là gốc trói buộc. Như khế kinh nói: Thức như huyễn hoá cho đến sắc như chùm bọt nổi. Là Nói nhập vào nội không trực đạo tức là nhập vào nội môn đạo thuần nhất vị. Trên nói Bát-nhã, kế nói Đại Bi, trong từng sát-na đối với chúng sinh không thấy có duyên, không thấy chẳng duyên, thường dùng vô duyên đại bi phan theo duyên, trụ đỉnh ba-muội định vắng lặng cũng phát gia hạnh hướng về con đường chứng đạo. Bấy giờ nếu sinh ra tánh ngã, nhân, thường kiến, tám đảo chân thật, thì duyên vào Pháp môn không hai. Tánh thật kiến là pháp chấp. Ngã nhân kiến là sinh chấp. Do đây không thọ tám nạn là ba đường. Quả huyễn hoá không bao giờ thọ là nói phần đạo gốc lành không tạo, dẫn nghiệp sinh tử. đồng thể đại bi, lìa ngã vô hoá nên nói chỉ có một chúng sinh, dứt ác sinh thiện trong bốn oai nghi v.v.... Nói nhập đạo là câu chung, ba câu riêng khác đủ mười giải vị, gọi là chánh nhân, lập Phước trí tư lương gọi là chánh trí chánh hạnh. Hạnh tức là Phước, phần tổng kết dưới đây Giải thích: Bồ-tát vì đạt quán hiện tiền nên không phải chịu quả sáu đường, chắc chắn không lui sụt đối với chủng tánh Phật, vì trái với trôi lăn nên hướng về hoàn diệt. Đời đời sông trong nhà Phật, trong Mười Trụ Tỳ-Bà-Sa chép: Lấy chân như làm nhà Phật, tương với ứng giải mà thành nên nói là nhập. Phẩm Mười Thiên Quang là chỉ cho phẩm trên. Kinh chép: Từ Lô-xá-na cho đến thể tánh ba-muội. Giải thích: Trong Mười Trưởng dưỡng thứ hai là nhắc lại lời hỏi rất dễ hiểu. Trong Phần tâm tư đầu tiên này, thường hành từ tâm sinh nhân an vui rồi là nêu chương môn. Vì từ và lạc, nên ở đây là lòng từ vô duyên. Hạnh từ đã thánh tựu, tự mình cũng an vui đều nhập vào pháp sở duyên, nghĩa là trong pháp đại chân năm uẩn, ba tướng của không uẩn như huyễn như hoá, chân như không hai, nên sẽ có khả năng đảm đương làm thành pháp luân Thánh đạo. Nói hoá bị v.v... trở xuống là dạy người khởi lòng tin đối với môn đại bị. Nói chẳng thật, nghĩa là chỗ lợi ích tín tâm đều không, chẳng có quả thiện ác là chỗ an vui, quả an vui đều không. Nói giải không thể tánh ba-muội là kết xong hạnh từ.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến khởi đại bi.
Giải thích: Trong bi tâm thứ hai, vì bi là không vô tướng, là nêu chương môn, vì có tánh không nên nói là không, vì không cũng vô nên nói không không vô tướng. Kế là nói hành tướng, bi do hành đạo tự diệt tất cả khổ là nêu câu. Duyên nghĩa là phan duyên, như duyên hữu tình, v.v... ở dưới gồm có ba thứ, làm sao diệt khổ? Đầu tiên đối với chúng sinh phát khổ ra trí. Sinh những trí gì? Gồm có ba thứ một là hữu tình duyên, như kinh nói duyên không sát sinh; hai là Pháp duyên bi như kinh chép pháp duyên bất sát; ba là vô duyên bi, như kinh chép không dính mắc vào ngã duyên, do đó đối với tất cả chúng sinh không buồn phiền. Kế là nói về hành tướng, hễ phát tâm đại bi là đối với tánh không thấy tất cả pháp đúng như thật tánh. Nếu hư mất tánh không thì mất tất cả Đại thừa. Sinh tâm đạo trí đối với hạnh chủng tánh là ra khỏi vị hạnh này. Như kinh Nhân Vương chép: Ngân luân Ba thiên là tánh chủng tánh. Sáu điều lành như cha, v.v... đối với ta là thân thích, ngược lại sáu điều ác kia đối với ta là ác. Hai điều kia đều có phẩm thượng trung và hạ. Dục là lạc phẩm thượng mà nhổ gốc khổ, còn phẩm thượng. Ác tuỳ khí đều được cái vui chín phẩm, tức là quán quả không có dục và lạc phẩm thượng, nhưng trong chín phẩm thì riêng lạc lại thuộc về khí, vì không có tự tánh. Tướng của quả lạc không là hiện trong tâm từ, dùng một lạc hạnh dẫn khởi đại bi.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến vì khổ cho nên vui. Giải thích: Trong hỷ tâm thứ ba, khi tâm vô sinh vui mừng là nêu chương môn, tâm vui mừng quán không gọi là tâm Vô sinh. Chủng tánh thể tướng đạo trí là vị thể tướng, vì mình và người đều không nên gọi là không không, còn tuỳ hỷ người gọi là hỷ tâm. Ở đây có hai thứ; một là tánh không, không mê đắm ngã và ngã sở; hai là Pháp không, vì thông đạt lưu chuyển, không có nhóm họp, ẩn hiện là nghĩa lưu chuyển, các duyên đã khởi lại thuộc về các duyên, không có một tướng nhất định nên nói vô tập. Bấy giờ, tất cả muôn hữu đều nhập vào không thì quán hạnh thành tựu, vì hỷ đồng thể v.v... vui mừng, tất cả, khởi không này quán nhập vào đạo hữu tướng, xa tà gần chánh, chánh là chỉ bày cho mình mến đạo và giúp cho chúng sinh vào nhà Phật Pháp, đắc Pháp trong lòng, hạnh thể vui vẻ nên nói đối với Pháp thường khởi vui mừng, tự mình nhịp vào Pháp vị còn đối với sự nhập chánh của người thì tuỳ hỷ.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến thường tu xả.
Giải thích: Trong xả tâm thứ tư thường sinh tâm xả là nêu chương môn. Ba không môn trong pháp không là vô tạo vô tướng. Như hư không là dụ cho ba không, chẳng chướng ngại. Trong hành Thiện v.v... Pháp không, người không, là đại xả. Xả là đối trị nhiễm, còn nói lên trị tham. Huyễn, v.v... như ví dụ kế hư không lưu chuyển và sát-na diệt. Tâm vô sinh là xả tâm không, không nầy thường tiến nên nói thường tu xả.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến hạnh Hiện Tiền.
Giải thích: Trong thí tâm thứ năm có thể dùng tâm bô thí khắp tất cả chúng sinh, là nêu chương môn. Hành hoá vô tâm là không chấp đắm. Đạt lý đạt thí là hiểu rõ tánh chân, tục. Nói tất cả tướng hiện ở trong hành thì hạnh thí thành tựu. Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến phát khởi gốc lành. Giải thích: Trong tâm ái ngữ thứ sáu. Nhập thể tánh ái ngữ ba-muội là nêu chương môn. Thể tánh là chân tánh lời thô, lời êm ái đều hướng về nghĩa cao quý có thể ưa thích nên gọi là ái ngữ.
Trong thật đế, nói nghĩa thật ngữ của Pháp ngữ đều thuận theo môn thuần tịnh nhất ngữ có khả năng điều hoà tất cả. Cho đến trí pháp không của vô tránh phát ngữ, vô duyên mà sinh tâm ân ái. Phần tổng kết ở sau nói thường hành như tâm phát khởi gốc lành là xứng với chân tâm.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến chỉ có ích cho người là lợi:
Giải thích: Tâm lợi hành thứ bảy, khi tâm lợi ích là nêu chương môn. Thật trí thể tánh là sở duyên chân như. Rộng hạnh trí đạo là có thể duyên vào trí tuệ, nhóm họp tất cả pháp môn chói sáng là nhóm họp trí tư lương. Tập quán hạnh thất tài là là nhóm họp Phước tư lương, dùng đó để lợi ích cho người. Nói là người trước được lợi, lúc bấy giờ lại có ích cho pháp thân tuệ mạng của mình. Nói có ích cho thân mạng, nói tất cả ý là vì có nhiều tác dụng, đều giúp cho người lần lượt thực hành được thành tựu. Nói pháp chủng là tập chủng hạnh thành tựu. Không chủng là vì tánh chủng hạnh thành tựu. Đạo chủng là đạo chủng hạnh thành tựu, vì đều sinh ra quả Phật nên gọi là chủng, giúp cho người nhập vào ba mươi tâm này. Kế Giải thích: Được lợi ích là chứng tế hạnh địa thượng. Được quả vui là được tế quả sau Phật. Thân ở trong sáu đường cam tâm chịu khổ. Phần kết ý sau là chỉ cho có ích lợi cho người thì có lợi cho mình.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến đồng Pháp ba-muội. Giải thích: Trong tâm đồng sự thứ tám, vì đạo tánh trí đồng với Pháp không vô sinh là nêu chương môn, nghĩa là địa vị này, trí xứng với lý không. Kế là nói về hành tướng, sinh không hai là sinh không chân như, Trí hạnh tương ưng nên nói là đồng với kia. Lại pháp không hạnh đồng với bản nguyên của pháp không như tướng. Vì các pháp thế gian thường chuyển nên nói thường sinh, thường trụ, thường diệt. Đối với sự trôi lăn này tuỳ hỷ mà nhập vào đồng sự. Tuy hiểu pháp không là giống nhau nhưng Vô sinh và tự tha đồng với mình mà không có vật giống như để làm lợi ích cho muôn vật nhập vào ba-muội Đồng Sự.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến mà không thật có.
Giải thích: Tâm định thứ chín. Lại từ tâm định trong là nêu chương môn. Kế là nói về hành tướng, từ định phát tuệ, niệm niệm lặng soi vì lìa nói suông. Đối với pháp ngã sở tức là mười tám giới sở chấp khắp. Văn này có thể nói là ngã Pháp, sở Pháp, nghĩa là bảy giới tâm gọi là ngã Pháp. Phần nhiều chấp thức uẩn là ngã. Mười căn trần sắc, Pháp xứ sắc, v.v... gọi là sở pháp. Ơ dưới nêu ra thể rằng: Thức giới, sắc giới, ở đây không dính mắc nên nói bất động chuyển. Mười chi thiền là: 1. / Tầm; 2. / Tứ; 3. / Hỷ; 4. / Lạc; 5. Tâm nhất cảnh tánh; 6. / Nội đẳng tịnh; 7. / Xả; 8. / Niệm; 9. / Chánh tri; 10. / Thọ không khổ không vui. Dùng một niệm trí quán cả hai không. Tất cả ngã, nhân không hợp tan là quán sinh không. Trong ngoài hiện chủng không hợp tan là quán
Pháp không. Nói chúng sinh là các thực hiện hành. Không có tánh chất nhất định là nói không hợp. Duyên hợp dường như có là nói không tan. Vì sao? Vì sinh khởi tạo tác do các duyên nhóm hợp thành, tìm thật tánh của nó đều không thật có.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến Bách Pháp Minh Môn.
Giải thích: Trong tuệ tâm thứ mười; khởi tâm tuệ kiến là nêu chương môn. Triền là trói buộc, tuỳ miên là tật bệnh, vì là gốc các khổ. Nói thuận nhẫn là cảnh thuận trí. Tuệ tánh khởi ánh sáng rực rỡ, là vận vận chiếu. Một ngọn lửa rõ ràng là một thế nhiều dụng. Thấy hư vô thọ là duyên không chẳng chấp. Tổng kết rằng: Tuệ phương tiện là tuệ hạnh khéo léo, có công nặng sinh giai vị Mười Trường Dưỡng tâm này, vì tâm này nhập vào lý không, sinh khởi Không đạo. Tạp tu nhân bi trí sẽ phát được tâm Thánh Vô Sinh.
Kinh chép: Lô-xá-na cho đến gọi là Tín vô tướng.
Giải thích: Mười Kim Cương thứ ba đầu tiên là phát tâm hướng về, kế đó là Trưởng dưỡng xong. Nay dụ cho kim cương không thể hoại. Trong sơ tâm này, tin là nêu chương môn. Các kiến gọi là dính mắc là giải thích nghĩa kiến, vì chấp đắm nên kết có tạo nghiệp là với lấy quả khổ, tạo nhiều kiết tập. Ở đây phải không thọ mới bước vào không vô vi. Nói ba tướng không là nêu chung ba tướng vắng lặng. Vô vô sinh: là riêng phá ba tướng, nghĩa là sinh trụ diệt có tướng năng sở. Nay vi hai không nên nhắc lại vô vô. Dứt sinh năng sở, nói là vô vô sinh, văn này có thể nói, vì vô vô sinh nên trụ vô sinh. Vì trụ vô sinh nên năng trụ và sở trụ đều không. Vì trụ trụ không, nên diệt diệt cũng không. Nói có tất cả pháp không là còn pháp vô ngã chân như, vì ngăn bớt lỗi. Nói diệt hết dị không là là trí hai đế lẫn lộn nên nói tận diệt, còn có phần kiến cũng nói là dị không. Sắc không là sắc ấm không. Tế tâm tâm không là bốn ấm không. Vì ba đời tâm không nên hai đế tín vắng lặng vô thể tánh hoà hợp. Lại thuộc về các duyên, không có tánh chất nhất định, nên sở thuộc duyên cũng không. Kế là tổng kết nói đúng chủ là ngã nhân, gọi là Dụng, nêu danh tự công năng của thể thật ngã. Ba cõi là giả ngã, ngã là hai giả ngã: người giả ngã và Pháp. Giả ngã. Nhóm họp Mười tướng vô đắc là thật ngã, giả ngã không thật có một tướng nhóm họp. người, Pháp đều không gọi là Tín vô tướng.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến cũng như vậy.
Giải thích: Khởi niệm trong niệm tâm thứ hai là nêu chương môn. Trong sáu niệm thường giác là niệm Phật, cho đến nhiếp lấy ba phần là Pháp, tăng, giới. Nói thường thì là niệm thí, quán thật tánh kia đều là thường. Đệ nhất nghĩa đế là niệm thiên, vì quả Phật thường niếtbàn là đệ nhất nghĩa thiên. Nói không vô trước, vô giải, v.v... là quán cảnh sở niệm là không, không thể trói buộc, huống chi là có giải thoát. Ba tướng đã không, không động, không đến đi, vì bặt cấu vết. Nhưng đối với việc làm thì hoàn toàn hợp với chân tướng, lại trở về gốc nhập vào Pháp giới trí, vận vận thêm sáng, nói tuệ tuệ nương nhau. Vận vận biết không nói thừa thừa vắng lặng. Tướng niệm niệm lẫn lộn mà nói vô thường. Theo truyền thuyết thời thượng cổ, tướng tuệ tuệ trụ gọi là quang quang, thì tướng kia diệt gọi là vô vô. Tướng hậu hậu sinh gọi là đời đời, tướng tuy trôi lăn nhưng tánh không khởi, vì năng lực nhóm họp, chuyển đổi không đạo, biến xả lỗi trước chuyển được hậu thắng, vận vận thâm lớn, bản mà có kém không nên nói là biến biến, bản không mà thắng có nên nói chuyển hoá, xoay vần thắng sinh nên nói hoá hoá chuyển chuyển. Lúc sau chuyển trước dời như thế như gọi hai đầu đồng thời trụ. Một tướng ngọn lửa là niệm niệm tuy khác như hằng một tướng, gọi là Vô tướng. Sinh diệt nhất thời là sinh diệt tuy khác nhưng đựng chứa trong một niệm. Kế là quy định sinh diệt ba đời cũng như vậy. Biến rồi là quá khứ, chưa biến là vị lai, biến là chánh biến, tức là hiện tại vì ba đời đồng thời nên nói biến hoá, cũng được một thọ, thọ là dung thọ và một niệm dung chứa.
Kinh chép: Nếu Phật tử, cho đến tâm giải thoát:
Giải thích: Trong thâm tâm thứ ba, thâm tâm là nêu chương môn, tức là hồi hướng tâm vì mong ước sâu xa. Đệ nhất nghĩa không là nêu câu. Đối với biến kế không trí chiếu có Trung đạo, nghĩa là mười hai chi không phải thường không phải đoạn gọi là Thật đế. Chấp hữu tình, v.v... gọi là Tục đế. Đối với hai đế này vì rõ hai không nên nhắc lại thâm thâm, tướng ra vào vắng lặng là nói không đến đi. Kết Trung đạo là nói mười hai nhân duyên thọ huyễn hoá thọ quả, nên lìa bên bớt, nhưng không thật nên lìa bên thâm, vì thế hàng phục chướng tâm được giải thoát.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến không thật có.
Giải thích: Trong đạt tâm thứ tư đạt chiếu là nêu chương môn. Nhẫn thuận tất cả thật tánh, là ấn thuận chân tục, không có tánh điên đảo, tánh tục không trói buộc, tánh chân không giải thoát. Nói vô hại là nêu chung, bốn phần khác xuất hiện như pháp đạt, v.v... Pháp nghĩa Như thứ lớp, từ ngữ giảng nói vô ngại. Vô ngại gọi là đạt. Sở đạt nhân quả ba đời, sở hoá cân hạnh chúng sinh, như như không thêm không bớt, thể tánh đã không, Pháp dụng không phải thật, Pháp dụng không phải giả, không giả gọi là dụng, vì không có ba dụng nên nói dụng dụng không, thể dụng không kia cũng không nên nói là không không. Như xứ duyên không, năng chiếu cũng không, ấy gọi là thông đạt tất cả Pháp không. Kết hành tướng của trí là không không, tướng như như, không thật có.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến mà không thọ: Giải thích: Trong trực tâm thứ năm, trực là nêu chương môn. Hạnh không tài vay gọi là Trực tâm. Nói trực chiếu là giải thích danh từ trực tâm. Giải thích trí chấp cảnh duyên ngã vào lý Vô sinh, gọi là Trực tâm. Do năng lực vô minh đã chấp thần ngã đắm chìm trong hai không. Tuy tâm duyên vào lý hai không ở chỗ có vô ngã nhập, ở nơi không thật ngã, nhưng không dính mắc vào sự có không, chẳng hư mất lý không. Lý không là hạt giống của Phật đạo. Như Du-già rằng: Hạt giống sở duyên là duyên của chân như, chẳng hư mất lý không, nên gọi là Đại thừa, tương tự vô lậu Trung đạo nhất vị quán mà giáo hoá mười phương. Chuyển tất cả chúng sinh là chuyển phàm phu hướng về quả Thánh. Khi chuyển chúng sinh, đều dùng, tánh không trực trực của Tát-Bànhã, vì hương về tánh chân không của Bồ-đề. Chánh tánh của hai không gọi là Trực trực tánh. Kế là tổng kết trực hạnh đối với không, nên chẳng bị trói buộc trong ba cõi. Phiền não căn bản là chính.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến nhất đạo nhất chiếu. Giải thích: Trong không lui sụt thứ sáu là, tâm không lui sụt là nêu chương môn. Chỉ tiến không suy nghĩ gọi là tâm không lui sụt. Cổ sư Giải thích: Phàm phu có hai: Từ Tập chủng. v.v... trở xuống gọi là Ngoại Phàm, ba mươi tâm Địa tiền gọi là Nội Phàm. Nay không lui sụt vào ngoại phàm. Không khởi trưởng dưỡng các kiến mới là hàng phục hoặc phân biệt, không khởi tập nhân tương tự ngã nhân, vì dần dần hàng phục câu sinh. Tuy nghiệp trôi lăn chuyển trong ba cõi, nhưng cũng hành vị không không lui sụt. Lại giải thoát chướng hiện hành đối với Đệ nhất Trung đạo, vì cảnh trí hợp nên thực hành lui sụt, lại đối với bản tánh không chánh niệm không lui sụt, không sinh chứng giải y nói không sinh quán trí, như như nối nhau như thế. Tâm thừa thắng như thế nhập vào không hai. Kết rằng: Thông thường đối với không, sinh tâm nhất thừa thuần tịnh, đây là không lui sụt nhất đạo nhất chiếu.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến vượt qua được biển khổ.
Giải thích: Trong tâm Đại thừa thứ bảy là, riêng tâm Đại thừa là nêu chương môn.
Riêng nghĩa là không cùng, kế là nói chuyên chở vận tải. Giải giải nhất không: là cả hai nương vào hai không, chứng nhất chân pháp giới vì đồng Pháp giới là, rõ hạnh ba thừa đều là nhất thừa. Nhất không trí của Bồ-tát thừa này tu cả phước và trí, gọi là trí thừa hạnh thừa.
Nói thừa trí là nhắc lại sự vận hành rõ ràng ở trên, gọi thừa la nhắc lại sở tu phước trí ở trên văn bản, nhắc lại trí là năng tu không trí ở trên. Nói tâm tâm là niệm niệm, sát-na-sát-na nhậm tải hành là nhậm dụng tư lợi. Nhậm tải hành là nhậm độ chúng sinh. Nói độ qua sông ba cõi là độ khổ, vượt qua sông trói buộc là độ hoặc, qua sông sinh diệt là độ nghiệp. Vì thế hành là ngồi thừa như trên, trí nhậm dụng tải dụng tương ưng với tâm hướng về biển Phật, nên các chúng sinh chưa được thừa dụng chỉ là nương vào biển mà được độ.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến nên tâm vô tướng.
Giải thích: Trong tâm vô tướng thứ là, tâm vô tướng là nêu chương môn. Kế là nói về hành tướng, nghĩa là tâm mất tướng, chiếu soi thật tướng bát-nhã không hai. Lại đối với tất cả nghiệp quả phiền não, như như nhất đế cũng thực hành không vô sinh, tự biết sẽ thành Phật, hiểu rõ bình đẳng của ta. Phật là tánh bình đẳng. Hiện Thánh hạnh đồng với của ta là lời kết đều giống với không Vô sinh nên tâm vô tướng.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến nhập vào tất cả Pháp.
Giải thích: Trong tâm thứ chín là, như như tuệ là nêu chương môn, kế là nêu sở duyên, rằng Vô lượng pháp giới không có tập nhân, không có quả thọ sinh, cũng bị phiền não trói buộc nhiều đời, như biết cảnh thắng nghĩa. Tất cả pháp môn thế tục là đạo mà bậc, Ba Hiền đã thực hành, mười bậc Thánh đã quán là pháp mà cũng biết như thế, chẳng những đã biết, phương tiện giáo hoá bên ngoài cũng đều nhóm họp vào tâm, vì được chánh phương tiện, công dụng của ngoại đạo tà kiến điều huyễn hoá, ma nói và Phật nói khác nhau đều phân biệt, vào chỗ hai đế, vì đế chẳng phải một, vì giải chẳng phải hai, không có ấm, giới, nhập, tức là chỗ chiếu sáng của tuệ quang. Nhưng tánh chiếu của tuệ quang thì nhập vào tất cả Pháp, vì khi chứng chân, suy nghĩ tất cả Pháp.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến nói rộng.
Giải thích: là Tâm bất hoại thứ mười là nêu chương môn. Kế trong phần nói về hành tướng, có khả năng bước vào Thánh trí gần với phân biệt hai chướng giải thoát, chỉ được phương tiện chánh môn của Thánh đạo. Đối với tâm cuối cùng này, mở bốn gốc lành vì biết được biết thêm nên gọi là biết rõ tâm Bồ-đề. Trong phục nhẫn rất thuận với lý không. Tám ma là: Khổ, không, vô thường, vô ngã, sinh, già, bệnh, chết, không bị tám thứ ma này khuấy rối, truyền thuyết như vậy, nên nhàm chán sinh tử, ưa thích niết-bàn Tiểu thừa, lui sụt tâm Bồ-đề, lập thành ma. Đã nói hành tự phần rồi, kế là nói các Thánh năng lực của thắng phần. Nói Chư Phật khuyến phát là người này gặp Phật rồi Phát ngộ, kia nhận năng lực che chở rồi nhập vào định Ma Đảnh, được năng lực che chở của ba nghiệp. Ban đầu thân được năng lực che chở liền phát ra ánh sáng. Nhập vào nghị thần thức của Phật là truyền thuyết nhóm họp oai nghi tế hạnh của Phật, kế là ý thêm sức chứng địa tương tự không khác với tâm, nhưng không thật chứng, trung quán trí đạo chân môn này, lại dùng năng lực định trong môn thế tục, thấy vô lượng cõi. Sau đó nói thêm lực hiện vì nói pháp. cho nghe bấy giờ, Đỉnh Thiện đã nương vào ba-muội chứng sở chấp không, trong địa bình đẳng, nhiếp tướng về thức, tổng trì đầy đủ. Tâm tâm hạnh không là khi hạ mình nhẫn nhục, là ấn sự chấp không. Nói không không tuệ, Trung đạo vô tướng chiếu là đầu tiên nhẫn trong không thuận có thể chấp không, sau đó nhẫn không bậc thượng, ấn năng chấp không, lại không có tướng khác nên nói không có sự chiếu soi. Vì trong Pháp vị Thế đệ nhất gian ấn cả hai không, nên nói tất cả tướng đều diệt, định Vô Gián này không bao giờ lui sụt, lại nói về môn kim cương ba-muội. Từ đây nhập Thánh, ở trong một thân tu tất cả hạnh, nên nói nhập vào tất cả hạnh môn, tức là nhập vào Sở địa hư không bình đẳng địa. Kinh Phật Hoa là chỉ cho kinh khác.
Kinh chép: Lô-xá-na nói cho đủ chừng trên đều sợi lông.
Giải thích: là trong Mười địa, nhắc lại câu hỏi rất dễ hiểu. Trong sơ địa này là nêu chương môn. Nói bình đẳng tuệ thể tánh địa là bình đẳng tuệ là trí năng chứng, thể tánh là sở chứng chân, địa tức là chung. Kế là trong hành tướng, Pháp chân thật là môn nội chứng, hoá chân thật là môn ngoại hoá, đủ hai loại này gọi là tất cả hạnh, chân vô lậu, hạnh chính là cảm quả Phật nối là hoa. Thật phá hạt giống đen tối gọi là quang, chứng khắp pháp giới nói là đầy đủ. Quả tứ thiên là nhiếp quả báo. Thừa dụng nhậm hoá là môn hoá của thế tục. Vô phương, lý hoá là môn hoá của thắng nghĩa. Đối với mười lực, v.v... đều được nhập vào. Như Du-già chép: Phần sơ địa trở lên được trăm bốn mươi Phật Pháp bất cộng. Tịnh độ đại nguyện là có thể nguyện trụ cõi tha thọ dụng. Tất cả luận là ngũ minh luận. Tất cả hành là trong năm minh kia có nhiều sự tạo tác. Ngồi trên quả vị Phật tánh là đã bước vào đại địa, tất cả chướng ngại phân biệt khởi chướng. Nhân quả của phàm phu là đường ác, châu ở phía Bắc, trời Vô Tưởng, v.v... Từ một cõi Phật bước vào vô lượng cõi là một nước Bất Động cho đến các cõi nước. Từ một kiếp nhập vào vô lượng kiếp là trong một niệm nhiếp lấy cả ba thời gian. Hoặc kéo dài một kiếp thành nhiều kiếp, không thể nói pháp làm có thể nói pháp là có thể nói Pháp nội chứng sâu xa. Nhiếp Pháp về trí là soi ngược lại thấy tất cả Pháp. Thường nhập vào hai đế v.v... là soi chiếu trong nhà chân tâm hai đế. Biết thứ lớp Mười địa là địa vị. Mỗi việc chỉ bày cho thấy chúng sinh là địa hạnh. Thân tâm bất biến là hiểu một vị. Mười ác là sát sinh, v.v... Tuy biết hắc phẩm trụ ở bạch phẩm, hễ trí thấy hai tướng có không là thông đạt ba tánh. Phân phân liễu khởi là rõ sắc, vì sắc phần biệt biết sinh khởi. Nhập thọ sắc báo là nhập vào lãnh thọ báo hữu sắc, tức là chẳng bất sinh vô sắc. Mà tâm không trói buộc là tuy trụ tĩnh lự sinh cõi Dục, v.v... nhưng tuệ quang thường chiếu đầy đủ khắp chân thật nên trong lý vô sinh tín nhẫn không tuệ thường hiện tiền, tức là nhẫn thứ hai trong năm nhẫn, trong đó tất cả pháp môn là mười độ, lược nêu là kết sơ địa đại hải, dưới đây được nêu ra.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến địa thể tánh.
Giải thích: Trong địa thứ hai có ba là, chương môn địa hạnh và chỉ rộng. Phần đầu này là nêu chương. Nói thiện tuệ là lìa phạm giới ác.
Kinh chép: Thanh tịnh minh đạt cho đến gốc công đức.
Giải thích: Trong địa hạnh thứ hai có hai là nêu chung, và giải thích riêng đây là nêu chung. Thanh tịnh thấu suốt tất cả gốc lành là nêu hạnh thể của, có ba thứ; một là từ và lạc là bậc nhất; hai là gốc xả lìa nhiễm, hoặc có kinh bản có bốn vô lượng; ba là nguồn gốc của tuệ chứng đạt.
Cái gốc của tất cả công đức là giải thích gốc lành trên gọi là nghĩa.
Kinh chép: Từ quán nhập cho đến là khổ khổ khổ.
Giải thích: Giải thích riêng có ba, ngược thứ lớp giải thích tuệ xả từ. Phần đầu cũng có hai; quán sát và hoá đạo. Nói quán nhập đại không tuệ là đầu tiên quán nhập vào tuệ chân như đại không trên hết. Từ nhập tâm ban đầu khởi hậu đắc đạo trí phương tiện khéo léo, thấy các chúng sinh đều là khổ đế, vì sao vì đều có tâm biết khổ, ba đường cho đến đường lành, trong duyên khổ mà sinh khởi thức lãnh hội. Những gì khổ là, có ba khổ. Nói như, tương truyền là tương tự như, vì chỉ cho việc mà nói. Nói thân sơ giác là năm thức. Từ dao gậy là duyên bên ngoại, từ thân là duyên trong. Căn cảnh gồm là sắc nên nói sắc ấm, vì trong hai duyên bên sinh thức biết. Thức này gọi là duyên hành khổ, xem nhẹ phần nhiều khởi xả thọ. Kế là ý thức biết đồng duyên dao gậy và thân bị thương v.v... dẫn đến khởi năm thức tương ưng với khổ thọ và căn buồn rầu của mình gọi là duyên khổ khổ. Trùng khổ khổ là bị có mặt liên tục gọi là khổ khổ. Kế là khởi cái thứ ba, chạy theo niệm ý thức gọi là thọ hành giác. Vì chỗ thọ trước chạy theo duyên hành. Trong hai giác trước là duyên vào thân v.v... biết là khéo hoại, vì sinh buồn rầu nên gọi là duyên hoại khổ, cho nên ba vị thức dần dần sinh ba khổ, nên gọi là khổ khổ khổ. Ba chữ khổ này như thứ lớp ba khổ của hành trước, v.v... Kinh chép: Tất cả hữu tâm cho đến gốc lành ban đầu này. Giải thích: Hoá đạo thứ hai, các hữu tâm là thấy ba khổ ấy khởi lên nhân duyên của tám khổ v.v..., địa vị Bồ-tát này nhập vào đạo giáo hoá ba-muội. Nói các tai họa là khiến họ sinh nhàm chán bỏ đi, trong đó nhập định ý nghiệp tự tại. Mười là truyền thuyết: Một là tư tướng vì nói về sự tướng; hai là đồng tướng vì nói về tướng lý; ba là hành tướng; bốn là thuyết tướng; năm là trí tướng; sáu là tướng vô ngã mạn; bảy là tướng Đại thừa Tiểu thừa; tám là tướng Bồ-tát địa; chín là tướng Như lai địa; mười là tướng trụ trì. Tức là xưa nay tướng thường như vậy. (Như luận Mười Địa). Khổ thức là khổ thể, ở đây lại nói về môn Bốn đế, duyên khổ là sở y, nương vào tâm vương và căn của mình mà khởi. Duyên dao gậy đủ là cảnh bên ngoại xúc chạm. Hành khổ thức thân ung nhọt hư hoại là cảnh xúc bên trong, vì biết sở hành của khổ thức chấp lấy xúc nội thân. Dao, v.v... vì cắt xẻ thân nên có đủ hai xúc. Ung nhọt, v.v... vì tự sinh nên nói không đủ. Vì hiểu rõ có duyên sinh ra sở y nên gọi là sinh thức. Thức khởi suy nghĩ, thức là thọ thọ. Xúc chạm biết xúc chạm, một nhóm họp như thế gọi là khổ thức, để tuỳ hiển thắng lại nêu ba tâm sở. Nhưng khổ đế này, có ba thứ khác nhau: một là khổ khổ vì nương vào căn cảnh nên nói hành hai duyên, do niệm niệm này duyên vào thân ung nhọt, v.v... nên nói tâm tâm duyên sắc. Tâm này đối cảnh xúc não lãnh thọ phiền não độc hại là khổ khổ; hai là hành khổ. Vì gốc của hai khổ nên nói ở trong. Nói tâm duyên thức là tên khác. Đầu tiên phát ở căn thường khinh suất Cảnh Giác sở duyên gọi là hành khổ giác. Tự thọ và cảnh xúc vừa biết, khi tiếp xúc chưa bị hại, xả thọ hiện tiền gọi là hành khổ; ba là hoại, khổ gần sinh khổ cảnh như đá nháy lửa, nghĩa là do duyên ép ngặt hành khổ, ra khỏi khổ hoại v.v... thiêu đốt thân tâm. Ở đây có hai thư: Sát-na sinh diệt tức là hoại khổ nhỏ. Nếu một thời gian thân tan hoại là hoại chuyển biến như huyễn hoá, vì hiểu rõ thức ở trong nên nói thức nhập hoại duyên. Coi trọng vợ con, v.v... Còn gọi là duyên tập, vợ con sau này bị bại hoại gọi là duyên tan. Lúc bấy giờ, tâm khổ chuyển thêm tâm não, tuy hiện tại thọ niệm, sau đó duyên tan hoại luyến tiếc mê đắm, giữ niệm niệm không xả, ấy là hoại khổ. Trên tổng kết ở là: Tất cả khổ đế của ba cõi. Kế là nói về tập đế, nghĩa là quán tâm vô minh dẫn tập vô lượng tâm thiện ác, gây ra tất cả nghiệp. Tập khí nối nhau, tập nhân phiền não, các tập nhân của nghiệp gọi là Tập đế. Sau đạo nói đạo đế là nhân chánh kiến, quả giải thoát và thể trí đạo không, không, nghĩa là trí hai không lấy chánh kiến thế gian làm nhân, giải thoát xuất thế làm quả. Dấu vết của các bậc Thánh gọi là Đạo. Kiến tu, v.v... gọi riêng là tâm tâm, tổng kết tên gọi do đạo đế của trí đạo. Sau cùng là nói về diệt đế, đều có quả khổ, đều có nhân tập, lìa chướng thanh tinh, hoàn toàn chiếu soi thể tánh, dùng diệu trí của bậc Thánh, phân biệt năng lực vắng lặng nhất đế. Phẩm Tuệ đầy đủ trở xuống là tổng kết gốc lành của sơ tuệ, khởi không là tục trí nhập quán là chân trì.
Kinh chép: Quán xả thứ hai cho đến xả phẩm đầy đủ. Giải thích: Nghịch quán xả gốc lành thứ hai. Đầu tiên nêu chung rằng: Quán thứ hai xả tất cả chướng tham kia mà hành xả không bình đẳng. Kế là nói về hành tướng, dùng hành vô duyên mà quán tướng nhất chân như của Pháp không. Lại quán môn bình đẳng của thế tục, nghĩa là quán đất đai mà mình đã dùng vì cữ cho nên đất đai là bình đẳng, bốn đại đều như vậy. Nay ta nhập vào đất này là lìa cấu nhiễm. không bao giờ thọ thân bất tịnh, theo luận Mười Trụ thì Bồ-tát Sơ địa đối với năm dục phiền não sinh lo buồn, các địa ở trên không phải như vậy. Từ vô thỉ do dâm ái thọ thai sinh ra thân này, đã bỏ thi thể thành đại địa, v.v... Nay đối với năm dục không khởi tai hoa thì, càng không thọ thân thai sinh.
Kinh chép: kế là quán thứ ba cho đến vô lượng Pháp thân.
Giải thích: trái thứ lớp thứ ba là quán gốc lành từ bi Ba-muội Diệu Hoa là ba muội Nhất thừa thâu nhiếp chung nhân là quả vui của Phật. Sau đó kết thành lời không si, không tham, không sân, như lần kết tuệ xả trước gốc lành của phẩm thành tựu, nhập vào trí bình đẳng và bản hạnh của các Bồ-tát. Hoá hiện vô lượng pháp thân là bóng của pháp thân, như bóng trăng đáy nước.
Kinh chép: Như tất cả chúng sinh cho đến phẩm Thiên Hoa nói. Giải thích: Thứ ba là chỉ rộng các địa khác y theo đây.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến gọi một nghĩa khác.
Giải thích: địa thứ ba tên là Quang minh, đó là Phát Quang Địa. Trong hành tướng có hai: là năng thuyên và sở thuyên, đây là năng thuyên. Ba-muội giải thích trí là do nương vào định cao quý mà phát ra ba tuệ. Pháp môn của Phật ba đời là mười hai phần giáo, danh, cú, văn, thâu nhiếp khắp năng thuyên. Trùng tụng là ứng tụng, ở đây là nghĩa bất liễu đối ghi khác nên ở trước hai lập hia nói thẳng: là khế kinh, đây chỉ là văn xuôi vì đối v.v... phúng tụng kệ, nên kế là lập hai. Không thỉnh nói pháp là tự nói pháp. Giới luật là nhân duyên, cõi Phật là bản sinh. Tích sự là bản sự, Phường chánh là Phương Quảng Vị Tăng hữu là Hy Pháp. Đàm thuyết là luận nghị. Nói danh nhất là một loại danh, cú, văn. Nghĩa riêng vì chia thành mười hai phần.
Kinh chép: Đó là danh vị cú cho đến nhân duyên quán quả.
Giải thích: Biết sở thuyên thứ hai. Phần phần thọ sinh là phần đoạn sinh, đầu tiên nhập thức vào thai, tức là giai vị của chi thức. Bốn đại làm cho sắc tâm thêm rộng lớn gọi là chi sắc. Nói sáu trụ ở trong căn khởi thật giác là có thể Phát vị thức làm chi sáu xứ, chưa phân biệt khổ vui gọi thức xúc là chi xúc. Thức biết khổ vui gọi ba thọ là chi thọ, nối nhau biết chấp thọ vô cùng là chi ái, vì hằng mê đắm ái. Dục là dục thủ, ngã là ngã ngữ thủ, kiến là kiến thủ, giới là giới cấm thủ, hợp với chi thủ. Thiện ác hữu là chi hữu, thức ban đầu gọi là chi sinh sinh, thức cuối cùng gọi là chi tử tử. Nói mười phẩm này là trừ chi vô minh và hành. Quán quả khổ nhân duyên hiện tại là năm chi như: thức, v.v... gọi là khổ hiện tại. Ái thủ có ba, gọi là nhân duyên hiện tại, sinh già chết gọi là quả nhân duyên, quán sát được kia gọi là quán.
697 Kinh chép: Trong hành tướng ấy cho đến thân tâm là hoá. Giải thích là lợi tha thứ hai. Bô-tát nghĩ rằng: Vì duyên sinh hành, vì trí trung đạo, từ lâu ta đã lìa chấp có không nên chẳng có thể tánh của chính nó, biết sở chứng rồi cũng làm lợi tha nhập vào biện tổng trì, thờ Phật thọ pháp hiện thân trong sáu đường tuỳ cơ nói pháp. Hiện kiếp hoá là như kinh Duy-ma trong một ngày kéo dài thành bảy đai kiếp, v.v... vì lần lượt hoá nên nói chuyển hoá trăm ngàn kiếp. Cõi nước khác nhau thân tâm biệt hoá tuỳ theo cõi nước ấy muốn ba nghiệp giáo hoá khác.
Kinh chép: Diêu hoa ấy cho đến phẩm ba-muội nói. Giải thích: là giữ được chỉ rộng thứ ba, Như Lai phẩm ấy có nói rộng. Kinh chép: nếu Phật tử cho đến Tịch diệt nhẫn: Trong tướng địa hành thứ tư có hai là tự phần hành và thắng tiến hành, đây là phần hành tự. Tiếng Phạn Nhĩ-diêm nghĩa là sở tri, nay vì phối hợp hai đế nên nói bất đoạn, bất thường. Như vô lượng kiếp tức là một niệm, huống chi là sinh trụ diệt một đời, một thời, một hữu. Một hữu là một diệu hữu, chân thật một vị nhân duyên không xen lẫn nên nói chủng dị dị. Nếu nhân duyên khác thì quả cũng không đồng, nên nói hiện dị, tuy là vô tướng nhưng không hoại giả danh nên nói nhân duyên trung đạo. Vì không có tánh nhất định nên gọi là Trung đạo, chẳng phải một, hai, v.v... lời văn rất dễ hiểu. Nhưng theo giả tướng thì Phật và phàm phu, v.v... mỗi mỗi khác nhau gọi là Thế đế. Nhưng quán thắng nghĩa trí đạo kia không có một, hai làm sao kia chân thật quán Pháp bình đẳng được? Cho nên nêu chung là phẩm huyền đạo định. Huyền là sở duyên, đạo nghĩa là tuệ, định là sở y. Nói tâm hạnh Phật là nêu quả bày nhân. Ban đầu biết nhân định là sơ ngộ định, không lý tức là nhân, vì biết là nhân. Thế nào là phẩm? là có mười loại, đầu tiên có ba như văn tuệ, tư tuệ, tụ tuệ, kế là bản vị chứng hoặc bảy giác chi. Thượng giác tinh tấn, vì lên cao nên quán giác định. Vì từ quả có tên nên dựa vào giác an, xưa dịch là ỷ. Lạc là vui vẻ. Khi Bồ-tát Tứ địa dần dần dứt chướng phương tiện đạo lực từng niệm tiến vào quả nhập định giác tuệ, vì người trụ định ấy khởi ánh sáng tuệ, thấy Phật thực hành thẳng nghĩa không của thế tục. Nếu khởi niệm định thì nhân gần của định đều sinh niệm. khởi là xuất phát. Xuất định duyên pháp. Duyên không ở trước tức là nhập vào định duyên tâm của hữu tình mà sinh ra tâm từ ái, dùng pháp thuận đạo hóa sinh, đã ưa thích gọi là pháp lạc nhẫn, giữ gìn đức không lui sụt gọi là Trụ nhẫn. Nhập chân gọi là chứng nhẫn, ra khỏi vọng gọi là tịnh diệt nhẫn, tên có khác nhau.
Kinh chép: Nên Chư Phật cho đến đã nói nghĩa nầy. Giải thích: Hạnh thắng tiến thứ hai, ở trong nhập định mà Bồ-tát kia là do hiệu bóng hiện của Chư Phật mà khởi phát. Trăm ngàn khởi phát là pháp muôn tinh tấn. Trước định là giải thích trụ định. Tham định là giải thích vị lạc định. Nhưng pháp lành muốn chẳng tham phiền não, vì đã dứt định ái. Phát khởi là giác phát vì ngăn ngừa ba thứ tướng của phẩm định kia, định lực của Bồ-tát vượt ngoài ba cõi, gọi là tướng xuất thế, vượt qua Niết-bàn của hai thừa gọi là tướng tiến, hướng về quả Đại thừa gọi là tướng hướng về, là tướng giác phát xuất thế của ánh sáng Phật. Bồ-tát không mất sinh tử, không lui sụt Niết-bàn, vì tướng tiến giác phát nên. Không rơi vào Hai thừa, vì tướng hướng đi của giác phát. Không trụ ở giai vị nhân, ấy là công đức của phẩm Định đầy đủ, nghĩa là ma đảnh phát khởi gọi là ba-muội pháp Đảnh, lìa mất loại kém gọi là Nhẫn tượng lạc. Công đức tròn đủ gọi là dứt hẳn không còn sót là, phước của phẩm vô lượng công đức Hạnh hạnh đều là trí của ánh sáng. Thấy thường, lạc, ngã, tịnh trong thế tánh của Phật là vì khuyến cho tâm hiểu rõ, văn còn lại rất dễ hiểu, trời trăng ở trên. v.v... trở xuống là chỉ cho phẩm khác.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến nhân quả phân biệt. Giải thích là: Địa thứ năm nêu chương môn: Tuệ chiếu thì mới song chiếu. Địa hành có hai là: Tự phần và thắng tiến. Phần đầu cũng có hai: Trí và thông đây là phần Trí. Nêu chung là phẩm Mười Lực sinh, vĩ khởi tất cả hạnh công đức; một là dùng phẩm Nhất tuệ chí xứ lực, là trí lực xứ phi xứ, hai là tự nghiệp trí lực; ba là chủng chủng thắng giải trí lực, có thể biết ý lạc hơn kém trong sáu đường. Ý là hiện hành gọi là quả dục; bốn là chủng chủng giới trí lực, vì biết chủng tánh; năm là căn thượng hạ trí lực; sáu là tịnh lự giải thoát trí lực, biết được định khác nhau của Phàm thánh là bậc có thánh, chánh định Thánh, bảy là biến thú hành trí lực, biết được thú quả phương tiện, nghĩa là biết thừa là nhân, chắc chắn sẽ đi đến chỗ quả. Và thừa là quả do nương nhân đạo. Như Đối Pháp chép: Ngộ nhập cảnh thuộc về nhập Đại thừa giúp Tiểu thừa giáo; tám là Tử sinh trí lực. Nói năm thứ mắt biết tất cả pháp là nêu tổng số. Tuệ pháp nhãn v.v... biết tất cả pháp vì dùng mắt trời thấy các thọ sinh; chín là túc trụ tùy niệm Trí lực; mười là lậu tận trí lực, tất cả thọ như thuận hiện thọ v.v... nhuận sinh phiền não diệt, phát nghiệp vô minh diệt.
Kinh chép: Mà thân, tâm, miệng cho đến việc dưới chân
Giải thích là: Thông lực thứ hai, vì dụng của ba nghiệp biến hóa tự tại, hoàn toàn từ chúng sinh mà hiện không thể bàn luận, bước xuống đất không cảm giác là nêu việc dưới chân.
Kinh chép: Trí sáng suốt của người ấy cho đến hiện ờ trước.
Giải thích: Thắng tiến phần hành thứ hai, trí đại minh là nêu chung. Dần dần tiến là đạo Gia hạnh. Phần phần trí là đạo Vô Gián, quang quang vô lượng vô lượng là đạo Giải thoát, pháp môn không thể nói không thể nói là đạo Thắng tiến.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến phẩm trung nói.
Giải thích: Địa thứ sáu nêu chương rằng: Hoa Quang là chánh nhân của Bát-nhã, soi cảnh phá tối kế là Trong địa hạnh ở phần đầu đã nêu chung rồi, từ thiên nhãn v.v... minh trở xuống là nói riêng về mười thông, mười thông là:
1. Thiên nhãn thông, biết số đại sắc như bụi cát, chia thành thân chúng sinh trong sáu đường, mỗi thân chia nhỏ thành lớn cũng biết từng phần.
2. Thiên nhĩ thông, nói phi phi âm là phi phi thanh, theo truyền thuyết đều biết âm thanh là không, âm thanh của tất cả pháp là tất cả âm thanh khác. Có thuyết thuật là: Nghe tất cả giáo pháp.
3. Thiên Thân Thông tức là Thần Cảnh thông, biết tất cả sắc và biết các tánh như phi sắc v.v... của sắc ở trong một niệm thông khắp đến các cõi nước trong mười phương lượng bằng ba đời kiếp, tùy theo cõi nước lớn nhỏ, hiện đều như vậy vì số thân nhiều như cát bụi.
4. Thiên Tâm Thông tức là Tha tâm trí.
5. Thiên Nhân Thông, vì biết việc của người, tức là túc trụ trí.
6. Thiên giải thoát thông tức: là trí lậu tận biết các phương tiện giải thoát của chúng sinh. Diệt diệt đều cùng tận là diệt mười chướng. Bốn thông sau nữa đều là sự khác nhau của tha tâm thông. Như thứ lớp biết tha định, tuệ, niệm, nguyện của người lập thành bốn. Phi định phi bất định là thể tánh không của hai tâm trên là. Ba mươi tâm là tâm Địa tiền. Tất cả cầu là đối với pháp hay phi pháp đều cầu tu đoạn. Nói mà như vậy là chỉ cho mười chỗ thông minh như vậy, Đức Thích-ca đã nói lược.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến nghe pháp.
Giải thích: Trong Địa thứ bảy có nêu chương rằng:
Đầy đủ là công dụng đầy đủ. Địa hành có hai, thực hành và hóa tướng. Đây là phần thức hành Nói trí của mười tám bậc Thánh là vì tùy phần được mười tám pháp Bất cộng. Người xưa có vị soạn sớ rằng: Trong sáu pháp đầu lỗi của thân vô lậu là lìa nghiệp sát, đạo, dâm và tập khí; hai là miệng không nói lời tội lỗi là lìa bốn tội như nói dối, v.v...; ba là niệm không thất niệm: là lìa tham sân và tà kiến, cho đến rộng nói sự sai lầm. Địa thứ hai đã lìa hẳn mười điều ác này. Nay giải thích thân vô lậu là thân không lầm lỗi, miệng không nói tội lỗi là không nói lời thô bạo. Niệm không mất niệm là không quên mất niệm. Lìa tám pháp chẳng thể không chọn bỏ. Bậc Lahán do chấp tám pháp thế gian chuyên cầu tự lợi bỏ việc lợi tha. Bồ-tát xa lìa tánh của tám Pháp, trong tất cả pháp, xả là vô chủng chủng tưởng, đối với sinh tử hay niết bàn đều không có tư tưởng khác nhau vì trụ ở đại xả bậc nhất. Thường sống trong ba-muội là tâm đều định, sáu chỗ nhập địa này đầy đủ. Sáu Pháp bất cộng thứ hai; một là dục cụ túc, đối với sự trói buộc trong ba cõi không là sợ hãi vì khả năng dứt sở tri chướng được thanh tịnh.
1. Nói cụ túc nay là nói không giảm 2/ Tinh tấn cụ túc, sở cầu được đầy đủ.
3. Niệm cụ túc là xa nhớ việc trong nhiều kiếp của người.
4. Tuệ cụ túc: chúng sinh là thế đế, tất cả pháp là đệ nhất nghĩa đế, trong bốn trọng chỉ nêu giống nhau đầu.
Giải thoát cụ túc biết các giải thoát chưa được không lui sụt.
6. Biết tha giải thoát túc, tức là định không lui sụt do định lực mà biết tâm đệ tử cũng không nhiễm. Người ấy vào trong sáu cụ túc này lại muốn khởi sáu phần sau nên liền khởi trí, một là thân tùy theo tâm hạnh trong sáu đường mà hiện; hai là miệng phân biệt nói pháp chỉ bày cho chúng sinh; ba là tùy tâm chúng sinh nhập định rung chuyển. Nói hư không hóa hoa là vì rai hoa như mưa nên khiến tâm cho chúng sinh có sở hành. Ba phần trên như thứ lớp ba nghiệp theo trí mà làm; bốn là dùng đại minh cụ túc thấy Phật quá khứ, cũng giúp cho mắt tâm của chúng sinh được thấy; năm là dùng trí vô trước thấy Phật hiện tại, v.v...; Sáu là dùng trí thần thông thấy Phật vị lai, v.v... Trong đây, đại minh chẳng mê đắm, thần thông là thông suốt sự khác nhau trong ba đời. Của tên trí
Kinh chép: Trụ mười tám cho đến trong cõi nước.
Giải thích: Trong hoá tướng thứ hai, trước là quán môn từ bi bình đẳng, kế là lượng năng lực của mình, sau là hiện biến hóa. Trong năng lực, tất cả công đức là phẩm Phước, tất cả thần quang là phẩm Trí, tất cả Pháp sở hành của Phật là trong pháp môn chứng quả và pháp môn thắng tấn đã nhập giải.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến nhập Tâm ba-muội. Giải thích: Trong địa thứ tám có năm thứ hạnh, đây là định hạnh đầu tiên, vô công dụng đầu tiên gọi là nhập ba-muội Pháp Vương vị, trí ấy giống như định Quả Thuyết Pháp, tuy có sở thuyết như trụ trong vô tướng vô công dụng nên nói giống như Phật. Mười tuệ đại minh như nội không v.v... ở dưới đã nhập vào môn Định, nhậm vận trôi lăn, Chư Phật đắc quả trừ âm thanh giáo hóa mờ tối nhập vào tâm định của Bồ-tát, hoa có công năng đắc quả, quang là trừ tối tăm.
Kinh chép: Không tuệ cho đến không thể nói.
Giải thích: Tuệ hạnh thứ hai là nội không v.v..., như luận Biện Trung Biên luận Đại Trí Độ có nói rộng. trong thứ mười này có lẫn lộn thứ chín. Tổng kết địa bình đẳng của mười tánh không, có thể dùng mười môn giả thuyết nhưng vì không dính mắc nên cũng không thể nói.
Kinh chép: Thần thông đạo trí cho đến nhất thời hành.
Giải thích: Thông hành thứ ba là trí thần thông biết khắp các việc. Nhập vào vô lượng cõi thần thông chiếu cảnh như mắt thấy sắc, trí chân thật còn lại đạt sự đạt lý, hạnh giải sâu sắc nhỏ nhiệm như ý thức hiểu rõ. Nói pháp độ tất cả chúng sinh là sự hiểu biết của mình truyền lại cho chúng sinh. Pháp thân Bồ-tát thị hiện các hóa thân tương tợ với quả. Nói nhập vào quả Phật là số Chư Phật, huống chi là số Cửu địa Mười địa. Bình đẳng môn là môn Đà-la-ni, v.v... đã vận hành trong môn chân như mà một thời, một niệm tu hành rất tự tại.
Kinh chép: Kiếp nói phi kiếp cho đến Phật nói chẳng phải Phật.
Giải thích: Thuyết hành thứ tư, kiếp không chẳng phải kiếp, nhưng không đều không, chẳng phải kiếp nói là kiếp, ngoài ra đều y theo đây.
Kinh chép: Mà ra vào cho đến trong phẩm đã nói.
Giải thích: Chiếu hành thứ năm, ba-muội Chư Phật thì tánh là truyền thuyết vì quả đức tương ưng. Phản chiếu là soi lại chính mình.
Nói thuận nghịch là như quán duyên khởi thuận nghịch, ngoài ra đều tùy theo cảnh. Từ Bật Động v.v..., trở xuống là nói về năng lực trí hạnh, vì lìa công đức nên nói là Bất Động hàng phục dứt hẳn nhiễm ô nên nói bất đảo, thường chứng chúng sinh là không nên nói bất xuất, Pháp không, chẳng nối nhau nên nói bất nhập, vì không bao giờ còn chịu sinh phần đoạn tử nên nói bất sinh bất diệt. Kết văn rất dễ hiểu.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến không có lúc
Giải thích: Trong địa thứ chín nói Phật Hoa Nghiêm là vì có đủ bốn hạnh trang nghiêm vô ngại. Địa hạnh có hai; Trong chứng và ngoài hoá. Phần đầu hiện định oai nghi của Phật và nói pháp định tự tại vương vì thường hiện tiền nên không còn ra vào lúc khác.
Kinh chép: Từ mười phương cho đến vô lượng ý.
Giải thích: Ngoại hoá thứ hai, mười thế giới là cõi Đại thiên ở mười phương nên sở hiện thân khác, tướng tốt đầy đủ tự tại vô ngại đồng với hư không, vô lượng đại bi trí tuệ quang minh phước tướng trí tướng, trang nghiêm Pháp thân. Nói tất cả pháp ngoài v.v... là chẳng phải pháp hướng sinh mà thực hành hướng sinh, chuyển các cõi ma về các cõi Phật, vì tánh bình đẳng nên nói vô ngại. Quang quang chiếu là hai thứ không, tuệ tuệ là hậu trí kia minh viêm minh viêm là giải thoát không xem hở. Đầy đủ bốn vô úy, bốn tâm vô lượng, mười lực, mười tám, Pháp bất cộng, tám giải thoát v.v... Không trụ niết bàn, không trụ hai bên, vô vi một đạo, chướng sở tri thanh tịnh, làm cha mẹ các chúng sinh, v.v... nói pháp cùng kiếp giúp họ đắc đạo quả. Từ bờ sinh tử đứng dậy là từ lúc mới phát tâm đến tâm Kim Cương? Tất cả hạnh nguyện hiện ở nhất tâm, vào cõi chúng sinh để giáo hoá.
Kinh chép: Nếu Phật tử cho đến gọi là địa của cõi Phật.
Giải thích: Trong địa thứ mười nêu ý rằng: Vào cõi Phật là nhận chức vị. Lại trong địa hạnh có hai là, hạnh công đức và hạnh thắng lợi. Phần đầu đây là trước là ra khỏi thể dụng gọi là đại tuệ không cho, nhưng dụng của hai không cũng lại chẳng có không, nên nói không không lại không, lại năng thủ sở thủ không vì đã bình đẳng không nên nói như hư không, trí tánh bình đẳng v.v... có tánh quả đức, mười đức đầy đủ. Đây là nêu chung. Mười là mười hiệu; một là Như lai, pháp giới thanh tịnh một tướng vô vi, trong đó Pháp thân tinh thần rỗng rang thể một, tất cả sự pháp lẫn lộn, đồng với Pháp tánh, không có đến đi, gọi là Như lai. Nhưng kinh nêu nghĩa cuối cùng phối hợp tên; hai là ứng cúng, trí phải thuận theo cảnh, vì dứt nên không thọ thân sau, pháp thân không hai nên cúng dường chánh pháp; ba là chánh biến trí, trùm khắp hữu tình và khí thế sự, vì biết khắp các pháp và hữu tình. Chánh giác sở tri gọi là chánh tri. Không hề đắm nhiễm gọi là trí giải thoát của bậc Thánh; (699) bốn là Minh Hạnh Túc, vì nhờ hạnh tăng minh đã được đầy đủ; năm là Thiện Thệ, Thiện thệ ở trong Phật Pháp ba đời, Pháp cao tột ấy đồng với Phật trước. Khi Phật nhập diệt thì thường được lợi ích nên nói khứ thời thiện thiện. Khi Như lai xuất hiện ở đời cũng có lợi ích nên nói lai thời thiện thiện. Gọi thiện thiện là kết Thiện thệ. Sáu là
Thế Gian Giải, Bồ-tát tu hành, trên đã nói năm thứ đức hạnh, vào trong thế gian giáo hóa chúng sinh giúp họ được giải thoát; bảy là Vô Thượng Sĩ, trên các hành pháp nhập vào oai thần giống như nghĩa sự hiện trong sở hành của Phật; Tám là Điều Ngự Trượng Phu. Vì giải thoát thế gian mà điều phục như thuận phiền não ngang bướng của chúng sinh; chín là Thiên Nhân Sư, người kia đã hỏi xin thọ Pháp nên gọi là Thầy; mười là Phật Thế tôn, Pháp thân không hai, trí thân thường còn, đại mãn gọi là Phật, tất cả lễ bái và tôn kính nên gọi là Thế tôn. Kế là tổng kết giải thích địa danh của cõi Phật là chỗ thọ giáo của tất cả người thế gian, vì thế nơi này là nơi giác ngộ, bước xuống để nhập vào cũng gọi là giới địa, có công năng giữ gìn chỗ tròn đầy của các Thánh.
Kinh chép: bấy giờ, cho đến giống với Phật đạo.
Giải thích là: Hành thắng lợi thứ hai, Bồ-tát Mười địa ngồi trên tòa hoa sen, được pháp thân Phật xoa đầu thọ ký, được bạn đồng kiến, đồng học khen ngợi. Nói Pháp thân là như cách một lớp vỏ mỏng thấy được báo thân, đức bên trong đã được đầy đủ, lại được tất cả Phật, Bồ-tát thỉnh xoay bánh xe pháp, làm lợi ích thế gian, bánh xe pháp được quay gọi là Hư không tạng, dung chứa rộng khắp môn hóa đạo.
Kinh chép: Lúc bấy giờ cho đến nhất tâm mà làm.
Giải thích là: Phó chúc thứ năm, không thể nói số tên, số này là một, chứa nhóm đến trăm ngàn Hằng sa pháp môn. Hằng sa ao vô Nhiệt Não trên đỉnh núi Hương Sơn chảy ra bốn con sông ở phía Đông này rộng hơn bốn mươi dặm, tiếng Phạm lẽ ra nói Tăng-già, không khác từ ngữ dịch đúng, nghĩa là từ cõi trời đến, nguồn sông trên đỉnh núi, chỗ người không thấy. Như Câu-xá chép: không thông chẳng thể đến, nhưng thấy nước sông kia dâng cao đúng lúc mưa rơi xuống, bấy giờ, người đời bèn Giải thích từ cõi trời đến. Một hà sa này là một số lượng, cho đến trăm ngàn, theo số lượng kia thì nay phẩm Tâm Địa thứ mười này là khoảng như đầu sợi lông. Phật Phó chúc rằng: Đây là môn và học giảng nói Phật và Bồ-tát ba đời, vì ta đã nhiều kiếp tu nên được thành Phật, vì phát ra ánh sáng chẳng phải một nên nói là quang quang, nói cõi Phật tịnh uế trên ngàn cánh sen, các thầy đều chuyển hóa tất cả chúng sinh, Chư Phật lần lượt giảng nói.
Kinh chép: bấy giờ ngàn hoa cho đến thế giới rồi mất. Giải thích: trong truyền thuyết về sự hóa độ thứ hai của đoạn lớn ở dưới là báo ân mà biết hóa. Đây là phần báo ân, pháp có thể lập lại
Kinh chép: mất rồi cho đến trong phẩm nói. Giải thích đây là biệt hóa thư hai, đều trở về cõi mình biệt hóa chúng sanh. Trong đó có hai: có hai, thực hành nội môn của Hiền Thánh, truyện đầu tiên phát tâm giới ngoại môn. Phần đầu cũng có hai, lời tựa chung của người dịch kinh và giải thích riêng Đây là lời tựa chung của người dịch kinh,. Tên gọi ba-muội ấy gọi như phần giải thích ở trước, căn cơ của các bậc thánh Tiểu thừa và Đại thừa thấy có khác nhau. Chỗ thấy của các Bồ-tát là ban đầu thành Phật đã đến cung vua trời Đại Tự Tại cõi Tứ thiền phát ra ánh sáng tiếp chúng. Kính thờ Lô-xá-na, nghe phẩm Tâm Địa trở về dưới cội Bồ-đề xuất định, giảng nói Mười thế giới hải. Cây Bồ-đề là cây Tất-Bát-la ở cách thành Già-da hai mươi bốn dặm về phía Tây nam. Chất vàng rắn chắc gọi là kim cương, thích hợp là tòa kim cương thể. Quang trung tối thắng gọi là tòa Quang Vương. Diệu Quang Đường: Hoa Nghiêm nói là Phổ Quang Đường, nhờ Phật phát ra ánh sáng mà có tên. Đạo tại tràng tịch diệt nước Ma-già-Đà ở cách cây Bồ-đề ba dặm, diệt sự sinh tử gọi là đạo tràng Tịch diệt. Mười thế giới hải: phẩm thứ hai của Hoa Nghiêm chép là biển thế giới Liên Hoa Tạng. Kế là phương Đông có thế giới biển, mười phương như thế đều nói tên khác, rộng như thuyết kia, trừ Liên Hoa Tạng nói là Mười thế giới hải, lượng thế giới hải như đã nói ở trước. Mười trụ, Mười hạnh, Mười hồi hướng là phần trước đã nói Mười Phát Thú v.v... Mười thiền định: văn này lần lượt sẽ nói về bốn gốc lành, vì hoàn toàn tu tuệ nên nói nghiêng về định. Thiền na, Hán dịch là Tịch tĩnh. Những gì là mười? Như Phẩm Mười Định trong kinh Hoa Nghiêm chép. Trong phẩm thiền thứ sáu của kinh Thiện Giới có mười thứ thiện thanh tịnh vắng lặng, nhất thế pháp thiền vắng lặng thanh tịnh v.v... mười nghĩa ấy là gì? Tụng rằng:
Lậu vô lậu cận phần,
Căn bản và thắng tiến,
Bờ mé nhập trụ xuất,
Quyết trạch phần là mười.
Y theo quyển thượng này Mười Kim Cương tức là Mười Hồi Hướng. Trong Tứ Thiên nói vì sao cõi Sắc lại nói hồi hướng. Sư Chân Tạng ở Châu Bắc Tịnh nói: cõi Sắc đề nói các vị thông hành, như Hoa Nghiêm quyển ba mươi chín nói: Mười Kim Cương Tâm nghĩa là Bồtát phát tâm như thế, ta phải biết rõ tất cả các pháp đều không có thừa, là phát tâm kim cương thứ nhất, cho đến nói rộng, Mười nhẫn là trong phẩm Du-Già Nhẫn chép: Nhẫn thanh tịnh có mười, như phẩm kia có nói rộng. Lại Kinh Thiện Giỏi Phẩm Nhẫn trong nói là mười, mười nguyện, như Kinh Hoa Nghiêm nói trong kinh, phát tâm Bồ-đề sẽ dẫn ra giải thích.
Kinh chép: bấy giờ, Đức Thích-ca cho đến tám ngàn lần đến thế giới Tà-bà.
Giải thích: là Giải thích riêng thứ hai, nghĩa là có người nghĩ rằng: Nói từ khi mới thành Phật là lúc nào? Nên nay Giải thích: Đây là hóa thân của đức Thích-ca, đầu tiên ở cõi Liên hoa từ Phật gốc hiện ra, từ phương Đông đến cung trời Đâu-suất nói kinh Ma Thọ Hóa hạ sinh nhập thai. Cho đến hiệu là Phật Thích-ca Mâu-ni. đây nêu là thành đạo. Các kinh khác chép: Ngồi dưới gốc cây hàng phục ma quân. Vì sao kinh này nói là: Phật nói kinh Ma Thọ Hóa rồi mới hạ sinh? Giải thích: Các ma chẳng phải một, giáo hóa có trước sau, như kinh Đại Tập chép: Ma Vương có trăm ức, nếu hễ hàng phục là không còn thừa thì sau khi Phật diệt độ, ai khuấy rối sự kiết tập, vì nói lên năng lực cao siêu thường hàng phục ma. Như Hoa Nghiêm chép: Vì nói lên năng lực công đức của Bồtát không thể hoại. Giáng sinh cõi Diêm-Phù-Đề là tướng nhập thai. Tiếng Phạn là Thiện-bộ, Hán dịch là Thắng kim. Như Phẩm-Diêm-Phù-Đề trong kinh A-hàm chép: Dưới cây Diêm-phù có lớp vàng dày bốn mươi dotuần, gọi là Thắng Kim, vì trong vàng có chất quý tức là vàng Diêm-Phù-Đàn. Ma-Ha-Ma-Da, Hán dịch là Đại Thuật.
Bảy tuổi xuất gia v.v... có lẽ à kinh này chép sai, vì nói cưới vợ rồi mới xuất gia. Truyện Tây Vực chép các bộ có sự thấy nghe khác nhau, nghĩa đúng là như Kim Quang Minh chép. Đạo tráng tịch diệt v.v... trở xuống là nói về thời gian, là thành phật rồi, thờ phật Lô-Xá-na ở cõi thiền thứ tư thích thọ phát tâm địa, trở lại Đạo tràng nói Mười thế giới hải, như lần trước đã giảng, trải qua mười trụ xứ, cho đến giảng Phẩm Tâm Địa Pháp môn trong cung vua trời Ma-hê-Thủ-la thứ mười, các vua Đại Phạm Cúng Dường cờ báu mành lưới, do đây mà nói Pháp, cho đến dạy rằng: Nay ta đã tám ngàn lần đến thế giới Ta-bà này.
Kinh chép: Vì thế giới Ta-bà này, cho đến một giới quang minh. Giải thích: Phần lớn răn ngừa cửa ác hành vi thứ hai, trong đó có ba là bài tựa, chánh thuyết và lưu thông. Phần đầu cũng có ba là thời xứ, khuyến sách và kết giới. Phần tựa thời xứ này là phần đầu các kinh, vì giáo hóa cõi Ta-bà (700) này, từ tòa kim cương cho đến cõi thiền, thứ tư vì chỗ giáo hóa gần giống nhau nên giảng phẩm Tâm Địa xong, lại trở về cội Bồ-đề mới giảng, như giới bản của Bồ-tát dưới đây, giới xua tan lỗi tối tăm gọi là quang minh.
Kinh chép: Từ Kim Cương giới báu cho đến tự tánh thanh tịnh.
Giải thích: Pháp Vương khuyến sách thứ hai, trong đó có hai, là sách tấn phát tâm và khuyên tín nhận. Đây là phần sách tấn phát tâm, Đức Phật dạy giới là báu kim cương, nghĩa là bền chắc, có công năng giữ gìn tất cả công đức, không để sót mất vì dứt được các điều ác. Nhân quả muôn đức lấy giới làm đầu, gọi là nguồn gốc, như giải thích rộng dưới đây. Hạt giống Phật tánh là tánh thật của giới, ý là mạt-na, thức là sáu thức, tâm là thức thứ tám, sắc là năm căn, hễ có tình và tâm như thế thì đều người nào nhập vào Phật tánh, sẽ được thành Phật. Vì sao? Vì pháp thân thường có nhân, có đương đương thường trụ đương đương. BaBồ-đề nhờ nói hai lần đương đương, ngay nơi quả nhân pháp vốn có, nên có đương đương mới có báo thân, hóa thân và thường trụ pháp thân. Mười giới như thế xuất hiện ở đời v.v... là truyền thuyết Đức Thích-ca xuất hiện ở đời, vậy thì giới pháp phải thọ trì, do đây mà hiển bày được quả Phật tánh của mình, nên nay vì đại chúng này mà truyền nói. Ý nói tất cả giới bản nguyên của chúng sinh tự tánh thanh tịnh là nêu thật tánh của giới, nói lên các chúng sinh đều có Phật tánh, nên sẽ được thành Phật.
Kinh Phạm Võng Cổ Tích Ký quyển thượng (Hết).
Ba tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-Mười đời Hậu Tần dịch.
Bấy giờ, Đức Phật Lô-xá-na cho đến tự tánh thanh tịnh. Trở xuống mười một bài tụng là khuyến tin thứ hai. Niềm tin là gốc để nhập vào pháp, giới là nguồn để trụ pháp, cho nên nói kệ, lại khiến tin giới. Nhưng giới Bồtát lược nói có ba môn; môn thọ đắc; môn hộ trì; và môn phạm lỗi. Môn đắc chúng sinh trong sáu đường, chỉ cần hiểu lời nói của Pháp sư. Cần phải phát tâm đại Bồ-đề trước, nghĩa là thệ nhất định chứng được Vô thượng Bồđề, cùng tận bờ mé vị lai làm lợi ích am vui cho hữu tình. Như Du-già chép: Tâm Bồ-đề là quyết định mong cầu, để làm hành tướng, Vô thượng Bồ-đề, nghĩa lợi của tất cả hữu tình làm cảnh, phát tâm này rồi có hai thứ thọ; một là một phần thọ, hễ thọ bao nhiêu thì ý cũng ưa thích. Hoặc thọ một giới, hoặc nhiều giới đều được thành tựu giới gọi là Bồ-tát, khác với Thanh Văn phải thọ trì chung, nếu một phần thọ thì không gọi là Tỳ-kheo, nghĩa là hiện đời đắc phải A-la-hán phép tắc viên mãn, lập ra học xứ. Mười giới, giới cụ túc đều phải thọ chung, hoặc phàm hoặc Thánh đều một khuôn phép thọ học, do nghĩa này nên phải chọn người pháp khí, trừ người có già nạn và đường còn lại. Bồ-tát thì không phải như vậy, vì tùy phần giới, nghĩa là phàm phu chắc chắn không hiện đời thành Phật, nếu trải qua tu vô số đại kiếp, từ chỉ cần hiểu lời nói của Pháp Sư cho đến kim cương, tùy địa vị của họ dần dần tu được đầy đủ. Như thành núi, biển, bụi gặt nước. v.v... làm đầu. Đã đại Bồ-đề thì không có đức nào không nhiếp, muốn thành tựu Bồ-đề thì thiện nào điều chẳng phải nhân, tức là do nghĩa này không chọn đường sinh, chỉ cần hiểu lời nói của Pháp sư, phát tâm đều được. Tuy chỉ cần hiểu lời nói thì thọ được một giới, còn hơn tất cả công đức của người hai thừa. Công đức của Lahán chỉ vì mình, đối với cõi hữu tình không có phần ân ích còn. Bồ-tát chỉ cần một giới là độ tất cả, không có một chúng sinh nào không có ân gánh vác; hai là thọ toàn phần, nghĩa là ba nhóm giới. Giới Nhiếp luật nghi là dứt tất cả điều ác, ác là tất cả pháp phải dứt bỏ, từ khi mới phát tâm thì dứt sát sinh v.v.... Ba hiền mười Thánh dứt nhị chướng, cho đến vì pháp của Phật mà xả bỏ sinh tử. Giới nhiếp thiện pháp là từ khi tất cả pháp lành, thiện là tất cả pháp phải tu chứng, từ mới phát tâm, tùy khả năng giáo hóa, độ tất cả chúng sinh tận cùng bờ mé vị lai, chẳng thể các phàm phu đốn thệ tất cả ba nhóm giới, dần dần tu chứng viên mãn. Đã phát hạnh nguyện vô ngại như thế thì đối với các nguyện hạnh là rất vô thương nhất cho. Nên hễ y chỗ sinh ra nào thì, tâm là vua trong đó, nhưng rốt cuộc không thể thành tựu quả ấy, chỉ trừ bậc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Hộ trì thứ hai là sơ lược có mười môn; là môn tùy tâm, tùy tâm ưa trụ vào thói quen đời trước của mình, giống như thế gian tùy theo bản sắc của mình tuy một duyên chứa nước mà có mầu biếc v... v... khác nhau, nên trước vốn là một, dần dần có các hạnh khác. Như Kinh Bản Nghiệp chép: Nếu thọ một giới gọi là nhất phần Bồtát, cho đến thọ đủ gọi là cụ phần Bồ-tát. Nhưng ý Phật chế phải dần dần tu học khắp. Do phần thứ hai này mà có môn khắp học, như Du-già nói Thanh Văn tự lợi, còn hộ tâm người, huống chi Bồ-tát dùng lợi tha làm đầu. Nên phải hộ khắp các giới chê bai. Nhưng Trí Luận chép: Bồ-tát nới học không thể một đời hay trong một thời gian mà thực hành khắp năm độ, như hộ ba y không thể bố thí v.v.... Do phần thứ ba này có môn Tùy Tánh. Khi học xứ trái nhau hiện ở trước, chỉ hộ tánh giới, bỏ già giới, như Bồ-tát nhiếp Đại thừa thì tánh tội không hiện hành, nên giống với Thanh Văn. Nhưng Du-già chép: vì lợi ích chúng sinh mà khởi ý tham thì không bị tội, sân thì trái với lòng từ, vì thường muốn làm tổn hại người. Do phần thứ năm này mà có thuận thắng môn, vì ưa thuận đại bi nên tội nhẹ, sân là trái với tâm từ nên bị tội nặng. Như Du-già chép: các Bồtát ấy phần nhiều có sự sinh khởi phạm tội sân, không sinh khởi tham, cho đến nói rộng.
Lại luận Trí Độ chép: Bồ-tát không khuấy rối chúng sinh là giới, khác với Thanh Văn cầu niết bàn hiện tại. Dâm dục tuy không làm não chúng sinh, nhưng vì trói buộc tâm nên bị tội nặng. Bồ-tát không cầu niết bàn hiện đời, qua lại sinh tử vì có đủ tư lương. Nhưng luận Dugià chép: Nếu muốn dứt ý ưa thích của chúng sinh kia thì phải phát tâm siêng năng tinh tấn, phiền não hừng hực che lấp tâm Bồ-đề sanh khởi tức giận. v.v... thì không phạm. Do phần thứ sáu này mà có môn ý lạc, nhờ năng lực ý lạc nên không phạm điều ác. Như Luận Mười Trụ chép: khi tâm bỏn xẻn không cởi mở thì không thể bố thí, đời nay chưa thuần thục thì đời sau nên bố thí. Nhưng kinh cũng chép: Tâm hộ giới như tiếc phao nổi và cởi trói thân người. Do phần thứ bảy này mà có môn bố úy, vì thấy già tội như tánh tội. Nhưng kinh Niết-Bàn chép: thừa hoãn mới gọi là thong thả, giới hoãn không gọi là thong thả, do phần thứ tám này mà có môn Thành Thắng, vì làm lành có thắng lợi lại bỏ. Nhưng Luận Trang Nghiệm chép: Tuy thường ở địa ngục nhưng không chướng ngại đại Bồ-đề. Nếu khởi tâm tự lợi thì (701) chướng đại Bồ-đề. Do phần thứ chín này mà có môn Hộ chướng, tuy có làm lành nhưng vì giữ gìn Tiểu thừa. Như Đại Niết-bàn chép: Nếu các Bồ-tát trải qua Hằng sa kiếp thọ hưởng năm dục vui sướng, đối với giới Bồ-tát vẫn không gọi là phạm. Thuật: Tuy bị tham làm nhiễm ô, nhưng tâm Đại thừa không mắt, không phạm vô dư, nên gọi là không phạm. Nhưng kinh Văn-thù Vấn chép: Nếu dùng tâm phân biệt tướng nam nữ hay chẳng phải nam nữ thì Bồ-tát ấy phạm tội Ba-la-di. Do phần thứ mười này mà có môn Rốt Ráo. Nếu chấp pháp tướng chẳng phải rốt ráo, như kinh Đại Bát-nhã chép: Phải dùng bất hộ viên mãn tịnh giới ba-la-mật đa, thì tướng phạm hay không phạm cũng không thật có. Phạm lỗi thứ ba là giới Bồ-tát không phạm vô dư, như có một phần thọ thì có một phần trì, khác với Thanh Văn, khi phạm một giới trọng liền phá tất cả mất tánh Tỳ-kheo. Như kinh Bản Nghiệp chép: Tất cả Bồ-tát, Thánh Phàm giới, đều lấy mất tâm làm thể, cho nên tâm cùng tận thì giới cũng cùng tận, tâm không cùng tận thì giới cũng không tận, tâm là kỳ tâm. Nếu không buông xả giới nguyện vô tận thì sẽ không có đều phạm, vì giới vô biên, nên do đây mà chuyển sinh, giới cũng thường tùy vận vận thêm lớn cho đến thành Phật, giống như nước sông ngày đêm âm thầm trôi đi tự đến biển lớn, chỉ trừ người cố bỏ tâm đại Bồ-đề thì tâm của người ấy đã cùng tận thì giới cũng cùng tận. Nhưng phạm giới trọng, lược có hai thứ một là phá; hai là nhiễm ô. Nếu do phạm phiền não trói buộc phẩm thượng thì tùy theo chi đã phạm mà mất giới luật nghi. Nếu phẩm triền trung và hạ thì chỉ nhiễm ô, không mất giới. Như luận Du-già chép: Nếu các Bồ-tát hủy phạm bốn pháp Tha thắng xứ, thường hay hiện hành, đều không hổ thẹn v.v..., sinh tâm rất ưa thích công đức ấy nên biết gọi là phạm triền phẩm thượng. Chẳng phải các Bồ-tát tạm một lần hiện hành pháp tha thắng xứ, liền xả luật nghi tịnh giới của Bồ-tát, khác với Thanh Văn hễ phạm liền xả. Lại phạm triền phẩm thượng tuy mất tịnh giới, kinh nói sám hối ngay cũng được thọ lại, khác với giới Thanh Văn như chặt đầu hiện đời không thể nhập lại vào số tăng. Chỉ dẫn rộng trong giáo lý như tông yếu đã giải thích. Lại luận chỉ bàn giải thích tụng hai môn, là sáu bài tụng đầu truyền tụng môn Bản Sư, Thích-ca truyền tụng tựa Bản Sư. Năm bài tụng sau, nửa bài cuối là môn Hiển dương, Đức Thích-ca tự giảng nói tông yếu của giới. Phần đầu cũng có hai thứ, năm bài tụng đầu là nói môn Tôn Thắng, một bài tụng sau khen công năng của giới. Trong phần đầu này cũng có hai, hai bài tụng rưởi đầu là bán hiện thân môn bản mạt, hai bài tụng sau là nói pháp môn bản mạt.
Kinh chép: Nay ta là Lô-xá-na, đang ngồi trên đài hoa sen.
Giải thích: Môn hiện thân bản mạt lược có bốn lớp, đây là thân tha thọ dụng lần đầu. Theo Truyền thuyết thân này ứng vào địa thứ hai, giới Ba-La-mật là tông chỉ của kinh này, chẳng phải tự thọ dụng. Vì Hoa Nghiêm. v.v... nói thân kia vô biên. Phương là chánh. Đài ngàn cánh là chung thành tịnh độ của Bồ-tát Nhị địa, trên đài này là chỗ ở của thân. Ngàn cánh là chỗ bộ lạc được hóa độ. Như kinh Nhân Vương chép: Bồ-tát Tín nhẫn ở trong cõi nước của trăm, ngàn, muôn đức Phật, hóa hiện ra trăm, ngàn, muôn thân. Kinh Mười Địa chép: Bồ-tát Nhị địa đến ngàn thế giới gặp ngàn Đức Phật nên ở trên đài này chỉ có tòa ngồi của Phật. Trên đài ngàn cánh có thuyết nói tòa, là sai. Quyển thượng chỉ nói Phật Lô-xána ngồi trên trăm muôn tòa hoa sen rực rỡ ánh sáng. Đã Giải thích ta ở biển thế giới hai Liên Hoa Tạng, đài ấy có ngàn cánh sen đơm vòng, một cánh sen là một thế giới, ta hóa thành ngàn đức Thích-ca, lại có trăm ức núi Tu-di, biết rõ là cõi. Có người hỏi: Cõi kia đâu hẹp hơn viên quang của đức Di-đà?
Kinh chép: Viên quang của Đức Phật ấy giống như trăm ức thế giới Ba Thiên Đại Thiên. Câu hỏi này không đúng, viên quang của Phật không nhất định, ánh sáng của Đức Thích-ca cũng soi sáng vô lượng cõi, có lẽ đã nói đúng, nhưng so sánh về mặt rộng lớn chưa chắc gì lượng đồng nhau, như mắt dụ cho biển. Nên biết trăm muôn hoa sen làm tòa, vì sao Chư Phật dùng hoa sen làm tòa? Vì nói lên chư Phật tuy ở đời nhưng không Ô nhiễm như hoa sen không dính nước.
Kinh chép: Trên ngàn cánh sen đơm vòng, lại hiện ra ngàn Đức Thích-ca.
Giải thích là: Hóa thân tịnh độ thứ hai, theo truyền thuyết: Nơi ứng thân này với căn cơ Địa Tiền. Có người nói: chỉ có bốn gốc lành mới được sinh về tịnh độ, theo lý thì chưa chắc đúng. Kinh Tịnh Độ nói cõi khác cũng sinh, tịnh uế cùng một chỗ, tùy nghiệp mà thấy khác nhau, giống như bốn thức, v.. v... việc và tâm khác nhau. Như nói Thu Tử thấy núi, sông, Phạm Vương Loa Kế trở lại cõi báu.
Kinh chép: Mỗi cánh hoa trăm ức cõi. Mỗi cõi một Phật Thích-ca.
Giải thích là: Hóa thân cõi uế thứ ba. Nói mỗi cõi nước một núi Tu-di, vì thế giới chỉ hiện ở Nam Châu phía. Chép Du-già luận chép: một Đại thiên có trăm câuchi cõi. Luận Tạp Tập chép: Một câu chi tính tương đương với trăm ức, vì sao trong đây chỉ nói có trăm ức? Ức có nhiều loại, Du-già lại dựa vào mười muôn làm một ức, kinh này là ngàn muôn nên không trái nhau. Ở đây y theo tướng thô lại nói một loại thế giới Tu-di, y theo sự nghiêng và đổ của bóng cây thật và bóng người thật, đều tùy theo loại ấy mà đầy khắp các phương, loại khác vô ngại, như mành lưới Nhân-đà-la lớp lớp vô tận, nhưng đều nhiếp vào biển thế giới Liên Hoa Đài Tạng, đều là nơi xoay bánh xe pháp của Phật Lô-xá-na.
Kinh chép: Đều ngồi dưới cội Bồ-đề, cho đến bản thân Phật Lô-xá-na.
Giải thích: Thứ tư nêu cõi tịnh uế, căn cơ đốn ngộ thuần thục, nhất thời trùng hóa, gom ngọn về gốc, như quyển thượng chép: Phật trên ngàn cánh hoa là hóa thân của ta. Ngàn trăm ức Thích-ca là hóa thân của ngàn Đức Thích-ca.
Kinh chép: Ngàn trăm ức Thích-ca cho đến mười trọng, bốn mươi tám giới khinh.
Giải thích: Thứ hai là nói pháp gốc ngọn. Thân Phật Lô-xá-na tuy chẳng phải cảnh phàm, năng lực che chở vì tiếp chúng mà đến, đã xuyên suốt ba đời thì không tùy thời thích hợp mà chế, nên nói ta tụng mà không có lời vị ngon. Trên hết trong các vị gọi là cam lộ, nên dụ trong lạc là tối cực niết-bàn. Ta là người đã ra khỏi môn khổ chứng an vui, nên nói nghe tụng khai mở môn cam lộ.
Hoặc nói giới kinh gọi là môn, giới sở thuyên gọi là cam lộ, giáo có công năng khai mở lý, ra khỏi cửa ba cõi, đối cơ mà hiển bày đó là khai. tâm phàm dễ kiệt, ảnh đẹp khó giữ, nên trở về đạo tràng của mình tụng giới của Bản sư. Bản sư ở đây nghĩa là bản thân, hoặc giới pháp gọi là Bản sư, vì Phật là bậc thầy.
Kinh chép: Giới như trời trưa sáng, do đây hành Chánh giác.
Giải thích: Đây là môn khen ngợi, oai lực của giới, thứ hai là Giới phá tối tăm, giống như mặt, trời mặt trăng.
Trang nghiêm hành giả như châu anh lạc. Như kinh Di giáo chép: Mặc chiếc áo hổ thẹn đối với các thứ trang nghiêm rất là bậc nhất. Hoặc nói tánh giới sáng như vầng nhật nguyệt, giáo giới trang nghiêm như chuỗi anh lạc, phá tánh tội tối tăm, trang nghiêm tánh giới. Đầu muôn hạnh lấy giới làm gốc, cuối muôn hạnh lấy Bồ-đề làm quả. Vì thế ba đời đều do giới mà được thành Phật, vì ba nhóm như ứng thành ba đức. Như Du-già chép: chỗ nhóm họp phước trí tư lương như thế, không có quả khác để nhiếp chung tướng, chỉ trừ bậc Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề.
Kinh chép: Lô-xá-na tụng cho đến chuyển trao cho các chúng sinh.
Giải thích: Từ mạt chủ môn hiển dương dưới đây, ở đây có bốn môn, một là môn lần lượt khai hoá, hai là môn sở thành giới tướng, ba là môn năng thọ hữu tình, bốn là môn khai hứa nói rộng. Đây là môn thư nhất là sáu bài tụng trên, Bản sư tụng ra, như ta truyền tụng, các ông cũng phải vậy, giới thủ nối giống Phật giông phật không bị đứt.
Kinh chép: Từ chỗ lắng nghe ta đang tụng cho đến giới phẩm đã đầy đủ.
Giải thích: Môn thứ hai, tất cả cấm giới mà Đức Thế tôn đã chế, bậc thượng thừa hay ha thừa đều từ giới cấm này mà ra. Nên nói giới tạng trong Phật pháp, vì phân biệt với định đạo giới nên nói Ba-la-đề-mộc-xoa, tiếng Phạm là Ba-la-đề, Hán dịch là biệt nói đủ lẻ ra là Tỳ-Mộc-Xoa, Hán dịch là biệt giải thoát vì riêng thoát khỏi lỗi lầm, nên gọi là biệt giải thoát. Lại kinh Di Giáo chép:
Giới là gốc thuận giải thoát, nên gọi là Ba-la-đề-mộcxoa. Hoặc thọ giới Bồ-tát là do giới này nên ta sẽ thành Phật. Như Đức Thích-ca do giới này đã thành, lại không khởi tâm bất đồng phận khác. Bấy giờ, gọi là giới phẩm đầy đủ, vì khéo nhớ phần giới hạn gọi là Giới. Như kinh Bản Nghiệp chép: Tất cả giới của Bồ-tát, phàm Thánh đều lấy tận tâm làm thể, tâm ấy nếu cùng tận thì giới cũng cùng tận, vì tâm không cùng tận, nên giới cũng không cùng tận. Tâm ở đây là tâm Đại thừa, người lui sụt Đại thừa và người chưa phát tâm không thể đạt được.
Kinh chép: Tất cả người có tâm cho đến thật là đệ tử Phật.
Giải thích rằng: Đây là Môn thứ ba, ứng là cho phép, vì có chướng vô tánh nên không thành giới, giới này rất cao quý, Thanh Văn đâu dễ dàng đạt được, thì ai nói dễ được? Vì khó phát tâm nên Vô thượng Bồ-đề không có đức nào không nhiếp, chỗ phát tâm tu không có điều lành nào không phải nhân, nên hữu tâm là được phát tâm Đại thừa, tất cả nguyện hạnh đều thành tánh của nhân, liền bước vào quả vị Phật. Quả vị Phật có hai, một là phát tâm mãn vị, nay bước vào sơ phát nguyện, lần đầu phát nguyện đều cùng khắp, không khác nguyện của Phật. Nói đồng bậc Đại giác, như Khế kinh có chép: Phát tâm xét cho cùng cả hai không khác, đã được quả vị này rồi thì chân thật là Phật tử, từ Phật pháp sinh ra, kế thừa ngôi vị Phật. Tụng rằng: Cha phương tiện là lòng tin, mẹ Bátnhã là thai thiền, từ bi là mẹ nuôi, Phật tử nối ngôi Phật. Nói rộng nghĩa này trong luận Nhiếp Đại Thừa có.
Kinh chép: đại chúng đều cung kính dốc lòng nghe ta tụng, môn thứ tư như trong văn, nói xem rất dễ hiểu.
Kinh chép: Lúc bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cho, đến tất cả giới Đại thừa của Phật.
Giải thích: Từ bài tựa kết giới thứ ba v.v... trở xuống có hai, phần tựa của các kinh là tựa của các kinh. Phần sau là tựa của Đức Thế tôn. Đây là phần đầu, nói lúc bấy giờ là từ cõi trời đến khi ứng hiện. Thích-ca, Hán dịch là “Năng”, Mâu-ni là “Tịch”. Cây Bồ-đề ở nước Na-già-đà, dưới gốc cây này có đài Kim cương? Đức Phật ngồi dưới gốc cây này chứng Chánh Đẳng Giác, gọi là cây Bồ-đề. Sao gọi là sơ đốn kết? Vì muôn hạnh của Ba thừa từ đây sinh ra, ba đời quyết định không đợi phạm. Khác với Thanh Văn tuỳ thời dần chế. Như kinh Văn-thù Vấn và kinh Niết-bàn chép: Nếu Chế giới trước thì, thế gian sinh nghi ngờ, như vá áo phải vá vào chỗ rách. Nay giới Bồ-tát thì không phải như vậy, nên vừa mới thành Phật thì đã kiết giới này. Theo luận Mười Địa, mới thành đạo được bảy ngày đầu thì Phật tự thọ pháp lạc, bảy ngày thứ hai mới bắt đầu nói năng. Nay Giải thích, đầu tiên kết giới đúng mười bốn ngày sau khi thành đạo. Hiếu là nuôi dưỡng, thuận là cung kính. Biết ân báo ân tức là hiếu đạo. Ân có hai loại: một là ân sinh ra thân ta, đó là cha mẹ; Hai là ân nuôi lớn pháp thân, tức là sư tăng, v.v..., dùng tài và pháp đúng như pháp cung kính cúng dường. Trong đây Sư Tăng, Ba Bảo, chí đạo như sở y, sở duyên, lần lượt trợ giúp, cho nên nêu riêng. Hiếu gọi là giới, cũng gọi là ngăn ngừa, hiếu là gốc của trăm hạnh, là yếu đạo của các bậc Pháp Vương thuở trước. Giới là nền tảng của muôn đều lành, là bản nguyên của Chư Phật, các điều lành từ đây sinh ra. Hiếu gọi là giới điều ác từ đây mà dứt cũng gọi là ngăn chặn, cho nên hiếu và giới có tên gọi khác nhưng nghĩa thì giống nhau. Nói thì miệng phát ra ánh sáng, v.v... là phát ra ánh sáng để với lấy chúng, phát ra vô lượng ánh sáng mà vời lấy các hữu tình có duyên, nói môn vô ngại soi sáng đêm dài tăm tối. Nói Đại giới là giới Đại thừa, là vì trong đây không có chúng Thanh Văn.
Kinh chép: Phật dạy các Bồ-tát cho đến chẳng phải không có lý do.
Giải thích rằng: Từ tựa Phật v.v... trở xuống như thứ lớp thành tướng Ba luân là pháp, thầy và đệ tử. Sư có hai loại, một là bản nghĩa là Phật, hai là mạt là Bồ-tát. Nên nói nay ta tụng các thầy cũng nên tụng. Nửa tháng tụng là tuy thầy đã qua đời mà nương vào pháp mà trụ. Thêm thì dễ lùi, bớt thì khó tiến, vì không lui sụt giới, tiến tu định tuệ, cho nên đúng nửa tháng không thêm không bớt. Như kinh Di giáo chép: Ba-la-đề-mộc-xoa là thầy các ông, nếu ta còn trụ ở đời thì cũng không khác gì giới nầy. Nói phát tâm là giai vị Mười tín, hành thật có lui sụt chẳng phải chánh vị của bậc Ba Hiền. Mười phát thú là Mười trụ, vì Sơ quả của Ba Hiền Mười trưởng dưỡng là Mười hạnh, vì nuôi lớn mầm Thánh. Mười Kim cương là Mười hồi hướng vì nhiếp năm lực, kinh Bản nghiệp quyển hạ đều là Địa tiền. Giới có công năng chiếu phá những nơi đen tối, lấy ánh sáng làm điềm lành, thường tụng trì từ miệng mà ra nên nói có lý do, chẳng phải không có mà nói ra.
Kinh chép: Ánh sáng ấy chẳng phải màu xanh, vàng, v.v... cho đến nên đọc tụng khéo học. Giải thích: Pháp thứ hai này, ở đây ánh sáng gọi là các giới, từ ví dụ điều lành mà có tên gọi. Giới tuy gọi là sắc nhưng không hiện hình, vì dựa vào suy nghĩ khéo giới hạn mà lập, vì không phải chất ngại nên không phải sắc, không duyên lự nên chẳng phải tâm, không lìa duyên nên chẳng phải có, không tức duyên nên chẳng phải không, vì phi hữu nên chẳng phải pháp nhân quả, vì phi vô nên là bản nguyên của Chư Phật, vì bản nguyên của Chư Phật nên là căn bản của Bồ-tát, vì làm căn bản của nhân quả, do đó chúng đương thời cũng là căn bản, cho nên Phật tử thọ trước sau trì tụng nghĩa văn học.
Kinh chép: Từ Phật tử lóng nghe, cho đến người thanh tịnh bậc nhất.
Giải thích rằng: Đây là đệ tử được che chở thứ ba, nói Tỳ-kheo là trước thọ giới Thanh Văn, có thuyết cho rằng: khi hồi tâm thọ giới thì chuyển thành giới Bồ-tát là sai. Thuyết kia dựa vào hạt giống của thừa riêng mà lập, nhưng giới Tiểu thừa trước có năng lực của Đại thừa trợ giúp. Bồ-tát nương tâm, hạt giống khác sinh, ở nơi ấy nhóm họp hạt giống riêng mà lên vô biểu. Mười tám Phạm là các vị trời cõi sắc, nghĩa là ba tĩnh lự, mỗi tĩnh lự đều có ba tầng trời, tầng thứ tư có chín, vì vô tưởng trước sau đều có tâm. Kinh Thiện Giới chép: Nếu phát tâm Bồ-đề trước thì mới được thọ giới Bồ-tát, vì sao cõi trời Tịnh cư cũng được thọ giới? có thuyết cho rằng: Mười tám là nói số chung nhưng có ý khác, như một Tỳ-kheo gọi là lục quần. Có thuyết cho rằng: Trừ cõi vô Tưởng và Tịnh cư, mười tám cõi phạm riêng. Như kinh Bản Nghiệp chép: Ba tĩnh lự, dưới mỗi tĩnh lự đều có bốn tầng trời, tĩnh lự thứ tư có sáu tầng, có thuyết lại nói: Theo sự thật thì cũng có vị thành Phật, nhưng luận duy thức thành chung cõi sắc có hồi tâm. Đã nói chưa thành lập giáo lý của Thanh Văn hồi hướng Bồ-đề. Giải thích nếu dựa vào Bát-nhã mà không phát tâm Đại thừa thì năm tầng trời Tịnh cư không có người hồi tâm không, nói liễu nghĩa cũng không hồi tâm, trong đó lại theo thọ giới bất cộng, cho phép huỳnh môn, v.v... cũng thọ đắc giới. Nếu bảy chúng thọ khắp học hạnh khác nên biết già nạn giống như Thanh Văn thọ. Có người hỏi: Nếu huỳnh môn, v.v... cũng được thọ giới, tại sao kinh chép. Nếu nói không thọ giới Ưu-Bà-tắc, giới sa-di, giới Tỳ-kheo mà được thọ giới Bồ-tát thì không có việc ấy. Thí như nhà có nhiều tầng lầu, không nhờ tầng thứ hai, không nhờ tầng trệt mà có tầng lầu trệt thì làm sao có tầng thứ hai thì, việc ấy là không thể có, người kia tự Giải thích: Chắc chắn là do luật nghi mà được, vì bất cộng với hai giới Bồ-tát cho nên nói như thế, chưa hẳn Bồ-tát phát tâm Tiểu thừa trước. Đều gọi là người thanh tịnh bậc nhất, như nói vượt hơn các bậc La-hán. Vì sao? Vì như kinh Niết-bàn chép: Gốc lành của hai thừa giống như lửa đom đóm, chỉ chiếu sáng thân mình, còn gốc lành của Đại thừa, giống như ánh sáng mặt trời, soi sáng khắp tất cả.
Kinh chép: Từ Phật bảo các Phật tử cho đến ta cũng tụng như thế.
Giải thích: Đây là Phần chánh thuyết thứ hai, gồm có hai phần phần đầu là nặng, phần sau là nhẹ. Trong phần đầu có ba là nêu chung, tụng riêng và kết thành. Trong phần nêu chung có hai là nêu số chế trì và chỉ bày tướng khuyến học. Phần đầu này, Du-già chia làm bốn như tông yếu giải thích. Nếu kinh Thiện Sinh dựa vào chúng tại gia, chỉ nói sáu giới trọng đầu là vì thô hiển bày, theo kinh Thiện Giới thì Bồ-tát xuất gia có tám giới trọng. Tức là trong mười giới này bốn giới đầu và bốn giới sau, cộng và bất cộng căn bản là nặng. Kinh Bản Nghiệp này lập tất cả mười giới trọng, vì nhiếp chung. Tụng rằng: Bốn thân, ba ngữ, ý cũng có ba, vì tham bốn, sân hai, si một. Ba ngữ do ba mà được rốt ráo.
Dâm sân tà kiến cũng là phi tình.
Trong mười giới này, giới thứ tư thân nghiệp thể là. Trí luận quyển mười ba chép: Giới không uống rượu và ba giới trước đều có giới là thân, giới thứ tư, thứ sáu, thứ bảy là ngữ nghiệp thì, ba giới còn lại nói tuỳ theo tướng là vì giới thứ sáu và thứ bảy. Nhưng có nghiệp đạo chẳng phải Tha thắng xứ, đó là nhiễm ca hát, v.v... là thuộc về ỷ ngữ, mỗi giới trọng này đều lấy tham sân si làm phương tiện, dâm dật, bán rượu, bỏn xẻn do tham rốt ráo, và, sân là do sân, tà kiến do si, ba giới còn lại cũng do ba độc tham sân si, đối với danh lợi của người do ganh ghét mà khen chê, vì sân rốt ráo. Dâm sân tà kiến có lẽ từ phi tình. Dâm với thây chết chưa hoại là loại phi tình, ngoài ra chỉ có hữu tình mới kết tội nặng, tuy trộm của phi tình nhưng kiết bên chủ: Lại tụng rằng:
Đều mình đối người mà hành dâm Người đối với người cũng như vậy Mình đối với mình có năm thứ Người đối với mình chỉ có dâm Mình đối với người gây tất cả
Người hướng về người cũng đủ mười.
Nghĩa là xúi giục người hướng về người mà làm việc dâm, mình đối với mình gây ra. Theo truyền thuyết có năm thứ là sát, dâm, sẻn, sân và tà kiến, nghĩa là xả lợi tha, tự chết là tội. Luật chép; yếu phía sau tự dâm phía trước. Kinh Thiện Sinh chép. Tự thí không thành thí, tự bỏn xẻn liền thành bỏn xẻn, ở chỗ tự khởi tức giận chê bai lý tánh, v.v... đều tự phạm. Người đối với mình làm việc dâm không khác, bị cướp làm ô nhục, thuận theo sinh ái nhiễm cũng phạm, và có người phạm tội, mình cũng không làm, cũng không xúi giục người làm “Hữu” là tuỳ hỷ, lại có người không khởi nghiệp thân miệng ý bị tội phạm giới. “Hữu” nghĩa là không làm việc đáng làm, v.v... các câu hỏi đáp này rộng như môn tông yếu trì phạm có giải thích, đã nói xong nghĩa phụ, nên giải thích bản văn. Mười giới trọng như thế thọ mà không tụng tức là mê trì phạm mất hạnh Bồ-tát, đã chẳng phải Bồ-tát, làm sao thành hạt giống Phật? Ta đã được quả vị viên mãn còn tụng giới này, huống chi tân học các thầy là ý ở đây.
Kinh chép: Tất cả Bồ-tát cho đến hết lòng cung kính vâng giữ.
Giải thích: Đây là Môn hỉ bày tướng khuyến trì. Kinh Niết-bàn chép: Trong giới Thanh Văn, Đức Phật biết thời thích hợp nói nhẹ là nặng, nói nặng là nhẹ. Luận Đại Trí chép: Tỳ-ni đều vì thế tục mà nhiếp ý, bất luận là thật tướng, là vì giữ gìn Phật pháp, không quán xét đời sau tội nhiều hay ít. Lại trong giới đời sau bị tội nặng liền nhẹ, như đạo nhân giết trâu dê, v.v..., trong giới khen ngợi người nữ tội nặng đời sau tội nhẹ, cho đến nói rộng, Bồ-tát cũng như vậy. Thật năng nói nặng, lý nhẹ nói nhẹ, pháp tánh thường như vậy xuyên suốt ba đời, ấy gọi là tướng giải thoát riêng của Bồ-tát, muốn đạt được đại quả nên hết lòng cung kính vâng giữ. Như kinh Di giáo chép: nếu siêng năng tinh tấn thì việc không khó, thí như khe nước nhỏ thường chảy xuyên qua đá, vô vi là không khi chết rồi sẽ có hối hận, thì như người thầy thuốc biết bệnh cho thuốc, uống hay không uống chẳng phải lỗi của thầy thuốc.
Giới thứ nhất: tha hồ sát sinh.
Kinh chép: Nếu Phật tử hoặc tự mình giết, cho đến tội Ba-la-di của Bồ-tát.
Giải thích rằng: Đây là Tụng riêng thứ hai, mười giới đầu mỗi giới đều có hai môn thuyết, một là nói lên ý chế giới, hai là giải thích văn kinh, đầu tiên là ý chế giới, điều mà thế gian thì sợ khổ chết là bậc nhất. Trong sự tổn hại người, không gì hơn cắt đứt mạng sống của họ. Như trí luận chép: Nếu của báu đầy cả thế giới mà không có thân mạng, cho nên Bồ-tát lấy việc cứu giúp sinh làm tâm, mà thí rất sợ hãi thì liền mất tánh ấy. Như Du-già chép: Nếu có người hỏi Bồ-tát lấy gì làm thể, nên đáp rằng lấy đại bi làm thể. Do đó nên đầu tiên chế giới này, giống như Thanh Văn thoát khổ là trước nên. Đầu tiên chế dục tham là giới nặng, hai là giải thích văn, kinh chép có bốn môn, một là tướng trái phạm tướng, hai là môn trái môn phạm tánh; ba là môn Cảnh giới sự, bốn là môn kết thành tội.
Tướng trái phạm là, như kinh chép nếu tự mình giết cho đến dùng bùa chú giết: đây là tướng trái phạm khác nhau. Tánh trái phạm là như kinh chép nghiệp giết cho đến duyên giết, là đủ năm chi thì sẽ thành phạm. Trong đây nghiệp giết tức là rốt ráo, cách thức giết là phương tiện, nhân giết là ý thích và phiền não, duyên giết là sự việc. Theo đây có người nói, không thành nghiệp đạo thì không phạm nặng. Như Du-già nói: Nếu Bồ-tát thấy dục là tội nặng, khởi tâm suy nghĩ: nếu tà mạng cắt dứt sinh mệnh của những kẻ ác kia thì phải đọa địa ngục, nếu không tà mạng cắt dứt sinh mệnh họ thì khi tội ác đã thành nghiệp thì họ sẽ chịu khổ lớn, ta thà giết kẻ kia mà đọa vào địa ngục, chứ không thể để cho họ phải bị khổ Vô Gián. Như thế đối với kẻ ác kia dùng tâm lành hoặc tâm vô ký, biết việc này rồi, vì tương lai nên rất sinh tâm hổ thẹn, dùng tâm thương xót mà cắt đứt mạng kia. Do nhân duyên này, đối với Bồ-tát không trái phạm mà còn sinh nhiều công đức. Ở đây vì không có phiền não nên không phạm, vì ý ưa thích pháp lành nên sinh ra nhiều công đức. Nay giải thích không phải như vậy, không thành nghiệp đạo cũng thành phạm, như các loài có mạng sống đều là phạm nặng, dù tưởng điên đảo nhưng cũng phạm nặng, huống chi tuỳ phần giới, tuỳ địa vị mà chế khác nhau. Như kinh Văn-thù vấn giảng giới này rằng: Nếu thọ giới Bồ-tát xuất thế gian mà không khởi tâm từ bi thì Bồ-tát ấy phạm tội Ba-la-di. Đối với các chỗ phạm, luận trừ ba người, đó là người có tâm cuồng loạn, trọng khổ và không giới. Truyền thuyết cũng nên trừ người không nhớ nghĩ và người có thắng lợi, chuyển sinh đời khác không thể nhớ, tuy là không phạm, các chỗ thắng lợi tất cả không phạm. Nói môn Cảnh giới sự, như kinh chép cho đến tất cả loài có mạng sống đều không được cố giết hại. Trong giới Thanh Văn chỉ nói tội giết người. Nay vì phân biệt chọn cõi nên nói cho đến, kia tuỳ việc mà phạm nặng, nay y theo lý mà chế giới. Như kinh Niết-bàn chép: Phật dạy vua A-Xà-thế rằng: Này Đại Vương! Trong cung của Ngài thường ra lệnh mổ dê, tâm không hề sợ, vì sao đối với tội giết cha lại sinh tâm sợ hãi, tuy là thú và người tôn ty có khác nhau, nhưng mạng sống quý già cả hai đều không khác, nếu kia tuổi thọ đã hết giết trong khoảnh khắc vì sao phạm tội? Kinh Văn-thù Vấn nói phạm đồng tội, vì thêm đủ duyên khổ cho chúng sinh kia. Rộng như kinh ấy có nói, trái lời Phật dạy, tội nặng nhẹ tuy giống nhau nhưng tuỳ theo tâm cảnh, v.v... mà nghiệp có nặng nhẹ. Như luận có nói rộng. Hỏi: Từ phẩm thế lực phiền não lẽ ra bình đẳng, vì sao kinh Thiện Sinh nói tham sát sinh tội nhẹ, sân, si tội nặng?
Đáp: Thô tế tuy bình đẳng ngưng sa trái phạm có khác, trái với chánh lý xuất ly của Đại thừa, như thứ lớp tham, v.v... là nặng.
Kinh chép: y theo thông nhau thì si là nặng. Kết thành tội là như kinh chép Bồ-tát này cho đến tội Ba-ladi, vì đối với chánh hạnh lại kết tội. Thường sống trong tâm từ bi là đối với chúng sinh khởi tâm thương xót, pháp hữu tình hệ thuộc chủng tánh như vậy, loại thuộc về ta do ta mà mất. Tâm hiếu thuận là tâm hổ thẹn phẩm thượng duyên thắng, các Bồ-tát là độ, vì đối với ta trong vô lượng kiếp chịu nhiều khổ hạnh. Bồ-tát nên sinh hai tâm như thế, mà trái lại tha hồ giết hại chúng sinh thì phạm tội nặng.
Luật chép: Thanh Văn, là người nghĩ là người mà giết, phạm tội Ba-la-di, chẳng phải người nghĩ là người chỉ phạm thâu-lan-giá. Bồ-tát thì không phải như vậy, chỉ đối với loài có mạng sống mà cố ý giết hại thì phạm tội Ba-la-di. Ba-la-di, Hán dịch là Tha Thắng xứ, tốt mình xấu người, pháp ác đã vượt trội. Giới là trì phạm sở y gọi là xứ, văn này lược ý, nghĩa là tướng kia khác nhau trong phạm thì đủ năm duyên là phạm, trái với chánh thì bị tội, các giới khác văn y theo đây mà giải thích, trong đây các giới y chủ đặt tên.
2. Giới trộm cướp. Tạo vật của người
Kinh chép: Nếu Phật tử tự mình trộm cướp, cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di của Bồ-tát.
Giải thích rằng: Trong đây ý thứ nhất là bố thí nhiếp sáu độ rộng cứu giúp chúng sinh, trộm làm hoại đàn hai lợi đều mất. Kẻ xấu ở thế gian gọi là kẻ trộm, như thuận theo chướng đạo rộng khắp vời lấy quả khổ, thà phải bỏ thân mạng để tránh lỗi này. Vì sao ít của cải tự nhục hai đời? Vì tổn y báo chánh báo cho nên chế, thứ hai là giải thích văn, trong đó có bốn; phần đầu như kinh chép tự mình trộm cướp cho đến phương tiện trộm, cố khen ngợi tuỳ hỷ, lược qua không nói đến, theo lý lẽ ra phải có, môn thứ hai như trước nên biết. Môn thế gian này, như giới xuất thế. Kinh Văn-thù vấn chép: Nếu đối với vật của người tâm khởi tưởng trộm cướp phạm tội Ba-la-di. Cảnh giới sự môn như kinh chép: Cho đến quỉ thần, cho đến không được trộm cướp. Trong đây xếp vào tội nặng, nên nói cho đến, nhưng vật có chủ lược có năm thứ một là vật của Ba bảo; hai là vật thuộc về người; ba là vật của súc sinh, bốn là vật của quỉ thần; năm là vật của bọn cướp, vật ấy có chủ nói nhiếp trước sau. Luật Tăng-kỳ chép: vị Tri sự dùng lẫn lộn vật của Ba Bảo, Phật dạy phạm tội Ba-la-di. Kinh Bảo Lương chép: Hai vật của Phật và pháp không được dùng lẫn lộn, đối với vật của Phật pháp không có chủ, còn không thể bạch, không đồng với vật của tăng, vật chiêu đề thường trụ có dùng lẫn lộn. Việc kinh doanh Tỳ-kheo và tăng được dùng. Nếu dùng vật của tăng để sửa sang tháp Phật, nếu Tăng bất hoà thì khuyên người thế tục sửa chữa. Nếu y theo văn này. Luật Tăng-kỳ ở trước y theo tăng bất hoà đều nói là phạm nặng, dùng lẫn lộn còn như vậy huống chi có tâm trộm lấy. Nếu vậy vì sao kinh Niết-bàn chép: Trộm vật của Phật hoặc biết hay không biết đều phạm tội Thâu-lan-già, vì Phật đối với vật vô ngã sở nên không bị não hại, Theo truyền thuyết đất Hán không có thủ hộ, kinh nói Thâu-lan, nếu có thủ hộ, dùng lẫn lộn còn phạm nặng, huống chi trộm lấy làm sao là tội nhẹ được Nên kinh Thiện Sinh nói trông hộ người tội nặng. Nhưng kinh Niết-bàn nói là giới Tiểu thừa, Bồ-tát thì khác, chỉ cần vật có chủ đều phạm nặng, hễ vật của Ba Bảo thì khó trông coi, chế cho phép trì phạm thì khó giữ gìn được. Như kinh Đại Tập chép: Phật cho phép hai người, một là A-la-hán; hai là Tu-Đà-hoàn. Lại có hai người, một là bậc người giữ người hiểu biết, hai là người sợ tội hổ thẹn. Nhưng giới Bồ-tát cũng dùng vật của Phật, Như Du-già chép: Bồ-tát trước đối với chỗ chứa đồ vật có làm tác tịnh nên dùng tịnh ý lạc xả cho chư Phật và Bồ-tát ở mười phương, thấy người đến xin không đúng đạo lý thì nói đây là vật xấu của người sẽ vất bỏ. Nếu đúng với chánh lý phải nghĩ rằng: Chư Phật và Bồ-tát không có vật nhỏ nào mà không bố thí cho chúng sinh, nghĩ đoạn liền vật tịnh thí, bố thí cho người đến xin, khiến sở nguyện của họ được đầy đủ. Do các giáo nầy, Hòa Thượng Giải thích: phép tắc tuy giống như luật Tiểu thừa đã nói, nhưng nếu sát sinh mà có lợi thì nên làm, Chư Phật xuất hiện đều vì làm cho hưng thịnh chánh pháp, ý làm cho pháp hưng thịnh đều vì chúng sinh, hưng pháp lợi sinh chỗ nào mà không cần, trừ có tâm nhiễm và không thắng lợi. Nhưng giới Tiểu thừa không được dùng lẫn lộn, tuy Phật tức pháp, nhưng trái với ý bố thí; Luật Tứ phần chép: cúng dường lên tháp Phật thức ăn, người sửa tháp được ăn. Luật Ngũ Phần chép: Nếu người tại gia vào chùa, tăng không cho ăn liền sanh tâm chê bai, Phật dạy nên cho, Lại, luật Tăng-kỳ chép: Hoặc tổn hại, hoặc lợi ích cũng phải cho. Luật Mười Tụng chép: cung cấp cho vua, quan, giặc. Tiểu thừa hẹp nhỏ còn thấy tổn ích, huống chi là Đại thừa không thể nhất định.
Hỏi: Luật Mười Tụng chép: Trộm xá-lợi Phật tịnh tâm cúng dường tự, nghĩ: ở chỗ kia cũng là thầy, ở chỗ mình cũng là thầy, ý nghĩ như thế thì không phạm, nếu trộm để bán thì phạm tội, vì sao trong pháp luật trộm kết tội nặng, trong khi pháp cũng là thầy? Đáp: Đức Phật được, mọi loài cung kính, pháp đúng mới sinh hiểu biết. Nhưng giới Bồ-tát biết kia không cần, tịnh tâm trộm học, lẽ ra không phạm, biết chướng gốc lành của người kia nên trộm của Phật cũng kết tội nặng.
Hỏi: Du-già Câu-Xá chép: cướp đoạt vật của Tăng, đồng loại với phá tăng, vì sao kinh Đại tập nói trộm vật của tăng nặng hơn năm tội nghịch? Kinh phương Đẳng chép: Người phạm bốn tội nặng và năm tội nghịch ta còn cứu được, nhưng trộm vật của tăng thì ta không cứu nổi? Đáp: Mỗi trường hợp đều khác nhau, phá tăng là tạm thời, lại hiện tiền tăng, trộm tài vật hoà hợp đều chướng đạo trong ba đời, thường trụ tăng, vì chướng Thánh chẳng phải bà con nên gọi là đồng loại. Nói vật của bọn cướp là vật thuộc về kẻ cướp ấy, trong luật không cho phép đoạt lấy. Như luật chép: chẳng khác gì kẻ trộm giựt lại vật của kẻ trộm. Luật Ngũ phần chép. Có Tỳ-kheo bị kẻ trộm trấn lột, giành được y vật, nhưng nghi ngờ đến hỏi Phật, Phật nói không phạm. Bồ-tát không phải như vậy, như Du-già chép: Bồ-tát thấy có vị tể quan bạo ác tăng thượng phẩm thượng, đối với các hữu tình làm cho khổ não không có tâm thương xót khởi tâm thương xót phế vị tăng thượng, thấy giặc trộm cướp chiếm đoạt tài vật của người, hoặc vật của tăng-già, vật của tháp lấy làm của mình, lợi lạc ý lạc tuỳ sức quẹt lấy, chớ để cho họ thọ dụng, phải chịu đau khổ trong sinh tử, của cải đã cướp đoạt được đều phải trả về chỗ cũ, cho đến rộng nói, Bồ-tát tuy không cho lấy như thế nhưng không phạm mà còn được nhiều công đức. Như Luật Ngũ Phần chép: Giành y Tỳ-kheo, hoặc giới Bồ-tát do tội bỏn xẻn của cải, hoặc hộ người tội kia được nhiều công đức, đã nói như thế, nếu vật có chủ đối với tâm lấy không có lợi ích. Cho đến một cọng cỏ cũng phạm Ba-la-di. Nếu đối với vật của mình hoặc vật không có chủ, hoặc đối với vật có chủ, không biết cho là vô chủ, hoặc tuy có chủ nhưng không có tâm trộm, vì không thành trộm nên đối với vật của mình, cho là của người mà trộm, hoặc vật không chủ cho là vật có chủ. Theo truyền thuyết, y cứ theo tâm, kết phương tiện trọng, vật kia chẳng phải cảnh phạm tội nặng. Nếu vật có chủ vì không biết nên cho là vô chủ, sau đó biết nhưng không trả lại, hoặc đối với vật của người cho là vật của chẳng phải người, hoặc tìm vật khác thế vật của người, đều kết tội nặng, vì là phạm cảnh. Vì sao nói là vật không chủ? Như vật của người đã bỏ, v.v...
Luận Thiện Kiến chép: con làm việc ác nên cha mẹ đuổi đi, sau đó cha mẹ chết của cải của họ không có chủ. Luận Bà sa, v.v... chép “giấu giữa hai nước”. Nếu vậy thì dân chúng lấy vật ở núi rừng, v.v... lẽ ra là trộm vật của vua, thì không đúng, vì nhà vua muốn để dành vật kia. Trong pháp Thanh Văn trộm năm tiền mới kết tội nặng, nay muốn phân biệt khác nên nói một cây kim, một cọng cỏ, ý nói Bồ-tát v.v... trở xuống là môn thứ tư. Hiếu thuận từ bi gọi là Phật tánh, Bồ-tát do đây mà khác Hai thừa. Sinh phước là lợi ích. Sinh lạc là an vui, nhưng trộm của cải của người làm cho họ buồn khổ nên trái với lợi ích, duyên giết người cũng trái với an vui. Như Tri luận bài tụng thứ mười ba trong chép:
Tất cả các chúng sinh
Ăn mặc tự nuôi sống
Nếu cướp lầy giựt lấy
Chính là cướp mạng sống.
3. Giới không có tâm từ hành dục
Kinh chép: Nếu Phật tử, tự mình dâm dục cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di.
Giải thích: Phần đầu chế ý là sinh tử lao ngục, dâm là gông cùm trói buộc hữu tình khó thoát ra được. Như Trí luận chép: Dâm dục tuy không không xúc não chúng sinh, nhưng vì trói buộc tâm nên xếp vào tội lớn Luận Du-già chép: Trong các ái, dục ái là hơn hết. Nếu dứt dục ái kia thì các dục khác tự nhiên được hàng phục. Như chế sức mạnh yếu, là tự hàng phục, nhưng pháp dục nầy có ba lỗi, khổ mà dường như vui. Ít vui nhiều tai hoạ, bất tịnh dường như tịnh, đầu tiên có trì tụng rằng:
Không nhẫn bệnh phiền não Hành dâm dường sinh vui Giống như bệnh ghẻ ngứa Đối khổ tưởng là vui Như người bị bệnh ghẻ, Cho khổ là niềm vui.
Vui do dục sinh vui nên biết cũng như vậy. Người đã lìa được dục thì thấy dục là khổ, như người không bị bệnh ghẻ thì cái vui của ghẻ là khổ, nhưng tánh của các dục trần luống dối, lừa gạt chúng sinh thường sinh cái thiêu đốt. Như Đức Thế tôn dạy: Dục như xương khô, cho đến cũng như quả chín trên ngọn cây vì như xương răng nên khiến không có lúc nào được no, vì như khúc thịt chẳng nhất định thuộc về chủ, “Vì như đuốc cỏ nên lo lửa thường thiêu đốt, vì như hầm lửa nên thêm lớn khát ái, vì như rắn mãng xà nên bậc Hiền Thánh phải xa lánh, vì như giấc mộng nên mau đến chỗ hoại diệt, vì như mượn các đồ trang nghiêm nên dựa vào các duyên, vì như quả chín nên sẽ rơi xuống đất. Như thế mà quán khổ dường như vui, vì sao nói các dục ít vui mà nhiều tai hoạ. Tụng rằng:
Giống như la sát nữ Kẻ thù dối lam thân
Tâm dối sinh nghiệp ác Vời khổ chướng Niết Bàn.
Như la sát nữ, kết giao với mình rồi ăn thịt, cũng như kẻ thù dối làm người thân để làm hại, kẻ thù năm dục cũng như vậy, thiêu đốt tâm mê loạn, có hại đến tuệ mạng, vời lấy vô lượng khổ, chướng an vui Niết-bàn. Như kinh Bồ-tát Tạng quyển mười chép: khi có thối quen gần dục thì không có điều ác nào không làm, khi bị quả kia thì không có khổ nào không gánh chịu, sông ái biển dục mênh mông không bờ mé, sóng sinh tử về mãi không dứt, tất cả oán hại đều từ dục sinh ra, người ngu tham dục như con thiêu thân gieo mình vào lửa. Năm trăm vị tiên bay trên hư không bị mất thần thông mà rơi xuống đất, một cánh của vị tiên bị người nữ nắm. Vì thế luật chép: Cái đáng sợ không gì hơn người nữ, thà đưa nam căn vào miệng rắn độc, rắn độc hại chỉ thân xác thịt, còn người nữ làm hại cả pháp thân. Lại như Long Thọ nói: Khéo quán sát ý người, người nữ là trí, không xem xét được mất, chỉ lấy dục làm thân, gió mát còn nắm bắt được, tâm người nữ khó được định, không có lúc nào thoả mãn, cảm sinh vô cùng. Thương xót đêm dài sinh tử lìa xa sáu đường, đó gọi là các dục ít vui, nhiều tai họa. Vì sao nói dục trần bất tịnh mà dường như tịnh?
Tụng rằng:
Thân xác thịt bất tịnh
Dường tịnh dối người ngu
Lạc uế, không nhàm chán
Như heo thích bùn dơ.
Thân này bất tịnh do chứa nhóm xương cốt mà thành, máu thịt tiểu tiện nhơ uế bao bọc lớp da mỏng bên ngoài, tám muôn giòi tửa mỗi thứ có chín ức con, tất cả hôi thối tiết ra chín lỗ, bất tịnh mà dường như tịnh nghĩa là trong lớp da phần mở trắng, máu nóng xen nhau, lừa dối nịnh dua mỗi thứ thiêu hại, nhưng những người ngu thường không nhàm chán, giống như con heo suốt ngày không lìa khỏi vũng bùn dơ, cho nên nay chế, vâng giữ chớ phạm.
Thứ hai là giải thích văn. Tướng môn trái phạm, như kinh chép, tự mình dâm dục, cho đến không được cố dâm. Trong pháp Thanh Văn, tự mình dâm dục mới phạm tội nặng, nay giới Bồ-tát nói, xúi người dâm dục cũng phạm tội nặng. Như Tiểu thừa cho rằng, tự làm mới thành nghiệp đạo, trong giáo pháp Đại thừa môi giới cho người cũng thành nghiệp đạo, chế chung hai chúng là nói tất cả người nữ. theo sự thật thì tại gia chỉ ngăn việc tà dâm, chẳng những chướng đạo mà còn vào lấy quả đường ác. Thế nào là tà hạnh? Như Du-già chép: không được hành dâm với tất cả người nữ, nếu chỗ được hành dâm mà phi chi, phi thời, phi xứ, phi lượng, hoặc không đúng lý ra phải tất cả người nam và không phải người nam, mẹ, v.v... gọi là chỗ không được hành dâm, ngoại trừ cửa sinh sản, đều gọi là phi chi. Hoặc chỗ nhơ bẩn khi thai tròn đủ, khi trẻ bú sữa, khi thọ trai giới, hoặc khi bị bệnh, nghĩa là bị bệnh không được dâm, ấy gọi là phi thời. Nếu tôn trọng các chỗ nhóm họp, hoặc trong linh miếu, hoặc trước mặt chỗ đông người, hoặc vùng cao thấp không bằng phẳng, những nơi này là phi xứ. Nếu quá năm lần gọi là phi lượng, không theo lễ thế tục gọi là phi lý, tại gia trừ những đều nầy ra nên tự phân hành, tuy chẳng phải vợ mình hoặc không có sở thuộc. Tại gia thấy lợi cũng được hành dâm. Như Bồ-tát Địa chép: Bồ-tát tại gia thấy có mẫu ấp hiện nhưng không hệ thuộc quen pháp dâm dục, sau đó tâm Bồ-tát tìm phi phạm hạnh. Bồ-tát thấy rồi khởi tâm nghĩ rằng chớ để cho người kia tức giận mà tổn phước, hoặc tuỳ dục của họ thì được tự tại, phương tiện an xứ gieo trồng gốc lành, bỏ pháp ác trụ tâm thương xót làm việc phi phạm hạnh. Tuy quen với pháp uế nhiễm như thế, mà không trái phạm, còn sinh ra nhiều công đức. Xuất gia thì không phải như thế, vì hộ Thanh Văn. Nói tánh trái phạm là như kinh chép. Nhân dâm dục, duyên dâm dục, cách thức dâm dục, nghiệp dâm dục, còn nương theo tướng thô chế ra nghiệp ban đầu. Nếu theo xuất thế thì kinh Niết-bàn chép: Tuy không giao hội với người nữ nhưng cách thành cách vách xa mà nghe tiếng khua của anh lạc người nữ, tâm sinh yêu đắm thành dục phá giới. Kinh Ưu-Bà-tắc-Giới chép: Nếu Bồ-tát nghĩ đến anh lạc trên thân người nữ, v.v... đều phạm tội Ba-la-di. Nên biết đây đều chế theo địa thượng. Như kinh Văn-thù Vấn chép: Giới xuất thế của Bồ-tát, nếu tâm phân biệt tướng nam nữ chẳng phải nam nữ thì Bồ-tát ấy phạm tội Ba-la-di.
Cảnh giới sự môn như kinh chép: cho đến súc sinh cái, và hành dâm phi đạo. Nữ có ba, nam có hai, đó là cảnh, vì hành dâm chỗ khác nên không phạm nặng, nói các vị trời là Ma nữ, v.v... hoá thân thành người nữ dâm dục với Tỳ-kheo. Nói phi đạo, sư Pháp Tạng Giải thích: Trừ cửa sinh sản của người nữ, còn hai nơi khác là phi đạo. Sư Nghĩa Tịch Giải thích: Trừ ba chỗ quan trọng, chi phần khác là phi đạo. Nếu theo văn luật thì đối với đạo nghĩ là đạo, đối với đạo nghĩ là chẳng phải đạo, cho đến nghi đều kết thành tội nặng. Nếu nhập vào cảnh bằng đầu sợ lông liền thành rốt ráo. Nếu bị kẻ thù bắt buộc thì khai cho hợp cảnh nhưng cấm không được thọ vui. Nay giới Bồ-tát tuy không ưa dục nhưng bị phiền não áp chế sinh ưa thích thì không phạm. Nói môn kết thành tội, như kinh chép: mà Bồ-tát cho đến phạm tội Ba-la-di, vì đối chánh mà kết tội. Tịnh pháp cho người: là Bồ-tát nên bố thí pháp môn lìa dục cho chúng sinh để độ họ thoát khổ sinh tử.
4. Giới không được nói dối.
Kinh chép: Nếu Phật tử, tự mình nói dối cho đến Bồtát này phạm tội Ba-la-di.
Giải thích ý lúc mới chế giới là: Phẩm mười lăm trong Trí luận chép;Người nói dối trước là tự lừa dối mình, sau mới lừa dối người, lấy thật làm giả, lấy giả làm thật, thật giả điên đảo, không được pháp lành, thí như chiếc bình lật úp không rót nước vào được. Như Đức Thế tôn dạy, nói dối che lấp tâm đạo, nước không vào được. Còn người nói lời chân thật, tâm họ ngay thẳng dễ xa lìa bỏ được pháp ác, thí như rừng cây ngay thẳng thì dễ ra. Như Luận Du-già chép: Đã phạm học xứ, lại tu chi hành, nghĩa là lìa nói dối, nói dối trái đây, đã chướng pháp lành còn điên đảo rơi vào đường ác, sau sinh làm người thường bị chê bai, vì có lỗi nặng. Kế là chế nghiệp thân, trong văn giải thích thứ hai phần đầu tướng phạm là, như kinh chép tự mình nói dối cho đến phương tiện nói dối, nói phương tiện là giả nhờ việc khác khiến người hiểu khác. Môn tánh phạm, như kinh chép từ nhân nói dối đến duyên nói dối hỏi đáp trong đây giống như Đại luận ghi. Môn Cảnh giới sự là như kinh chép: cho đến không thấy nói thấy, cho đến thân tâm nói dối, vì phân biệt Thanh Văn chỉ có nói dối nên nói cho đến. Hoặc trong bốn lời nói thấy, nghe, v.v... cả ba điều còn lại. Thân nói dối là miệng không nói mà tay ra dấu. Tâm nói dối là tưởng điên đảo, v.v... như việc không thấy mà nghĩ là thấy, nói dối là không thấy, tuy đúng với sự thật nhưng vì che lấp sở tri, đây gọi là dùng tâm nói dối. Lại như kinh Văn-thù Vấn phẩm giới xuất thế gian trong chép: Nếu khởi tâm nói dối phạm tội Ba-la-di. Môn kết thành tội, như kinh chép: Mà Bồ-tát, cho đến tội Ba-la-di: Bồ-tát thường tự thực hành chánh ngữ cũng khuyên sinh chánh ngữ, vì phân biệt với nói dối nên nói là chánh ngữ, vì phân biệt phú tưởng nên nói là chánh kiến. Mà trái lại tự khởi nói dối, vì chúng sinh tuỳ tiện nói nên sinh tà ngữ, vì họ cho là thật nên nói tà kiến. Vì theo tâm này nói có sự tạo tác nên nói sinh tà nghiệp. Nếu vì cứu thoát nhiều hữu tình nên phú tưởng chánh tri mà nói là nói dối. Luận Du-già chép: Không có trái phạm sinh nhiều công đức, nếu không như vậy mà nói dối thì phạm tội Tha thắng xứ.
5. Giới Bán Rượu sinh ra tội lỗi:
Kinh chép: Nếu Phật tử, tự mình bán rượu, cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di
Giải thích: Chế ý đầu tiên là đam mê rượu chè buông lung, sau chắc chắn hối hận vì mất chánh niệm và trái với bản tâm, làm việc không nên làm, nói lời không nên nói, gây ra nhiều tội ác. Cấm không cho người làm, ở đây không chung giới, hoặc đối với năm giới. Nay chế giới không được bán rượu thứ năm, ngoài ra như đã giảng ở phần trước, đủ duyên thành phạm. Dục lạc là đưa rượu cho người uống với tâm cầu lợi, rượu đã thuộc về người kia tức là rốt ráo. Trong sự nói là rượu nhân duyên khởi tội, chỉ trừ phá tăng, còn các pháp tội ác khác đều khởi.
6. Giới rao lỗi của bốn chúng.
Kinh chép: Nếu Phật tử, tự miệng rao nói tội lỗi, cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di.
Giải thích: Sơ chế ý là nói lỗi trong Phật pháp sẽ làm hỏng tâm kính tin của người, và làm hư mất việc hưng pháp lợi sinh của Bồ-tát, huống lại vời lấy quả khổ lớn, cho nên chế là pháp tha Thắng xứ. Như kinh Chánh Pháp Niệm xứ chép: đọa vào địa ngục Bạt Thiệt bị trâu cày lưỡi, v.v... luận Đại Trí chép: Tỳ-kheo Thắng Ý giữ giới thanh tịnh nghe Tỳ-kheo Hỷ căn không giữ giới nói kệ, dâm dục tức là đạo, nhuế si cũng vậy, liền sinh tâm chê bai, bị đọa vào địa ngục. Lại, kinh Bất Tư Nghì Quang Bồ-tát chép: Bồ-tát Nhiêu Tài, vì nói lỗi của Bồtát Hiền Thiên nên suốt chín mươi mốt kiếp thường đọa vào bụng dâm nữ, sinh rồi đem bỏ, bị cáo sói ăn thịt, cho đến nói rộng. Thứ hai là giải thích văn. Về tướng phạm, như kinh chép: Miệng tự rao nói, cho đến bảo người rao nói tội lỗi, nay trong giới này, môn đầu gồm nhiếp cả môn Cảnh giới sự. Trong đây hai môn đầu là thọ giới Bồ-tát, hai môn sau là thọ giới Thanh Văn, đều là nội chúng vì là thầy trời người, nếu thật có phạm, nói lỗi là lỗi gì? Vì vẫn có nghĩa xứng đáng làm ruộng phước. Như kinh Bản Nghiệp chép: có mà phạm còn hơn mà chẳng có mà không thể không phạm, có phạm là Bồ-tát, không phạm là ngoại đạo. Lại Mười luân chép: Hoa chiêm-Bặc tuy khô héo nhưng vẫn đẹp hơn các loài hoa khác, các Tỳ kheo phá giới vẫn hơn các ngoại đạo. Nói lỗi của người xuất gia, hoặc phá giới, hoặc giữ giới, hoặc có giới, hoặc không giới, hoặc có lỗi, hoặc không lỗi, sẽ bị lỗi làm chảy máu muôn ức thân Phật. Giải thích: Ra máu không thể chướng đạo, khi nói lỗi của tăng, làm mất lòng tin của nhiều người sinh phiền não cho họ, làm chướng Thánh đạo. Cho nên Bồ-tát ưa tìm đức của tăng, không thích tìm lỗi của họ. Người tìm lỗi thì dù bậc Thánh cũng có lỗi để chấp. Người tìm đức công dù dứt mất gốc lành, thân có công đức cũng đáng ghi chép. Như kinh Niết Bàn chép: Nếu chúng sinh kia không có pháp lành đáng khen thì nên nghĩ đến tánh Phật mà khen ngợi họ. Thế gian không có phàm phu nào không có lỗi, khi rao nói lỗi người thì lỗi ấy ở ngay thân mình. Như trong Tân Phát Bồ-tát Mười lục Hạnh của kinh Đại Tập chép: Không nói công Đức của mình mà khởi tâm cao ngạo, không rao nói lỗi người mà khởi tâm chê trách, kinh Chư Pháp Vô Hành có bài tụng rằng:
Nếu thấy người phá giới
Không nói lỗi ác họ
Nên phải nghĩ người kia
Lâu ngày cũng đắc đạo
Về kết thành tội, như kinh chép: Mà Bồ-tát cho đến phạm tội Ba-la-di là. Nói về thường khởi tâm từ bi, như trong Bồ-tát Địa chép: Thương xót người ác hơn cả người có chánh hạnh. Lại chép: Nếu ghét người phạm giới hạnh không lợi ích, ấy gọi là công đức tương tự Bồtát. Nên nói khởi tâm từ bi giáo hoá những kẻ ác.
Hỏi: Giới khinh bậc hạ chép: Nói bảy tội nghịch, mười giới trọng, sao đây là nặng mà kia là nhẹ?
Đáp: Vì kia nói với người đồng pháp nên tội nhẹ, ở đây nói với người đạo cho nên tội nặng. Hoặc nói kia vô sự nên không thể bị tội, ở đây vì nói có thật phạm nên chế tội nặng.
7. Giới Tự Khen Mình Chê Người.
Kinh chép: Nếu Phật tử tự khen mình chê người, cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di.
Giải thích: Sơ chế ý là, khổng Tử Giải thích: ta có một lời, có thể thực hành suốt đời là “cái mà mình không muốn, chớ đem đến cho người” Giới này cũng vậy, tuy nói khen chê nhưng nghĩa chung cho tất cả. Bồ-tát làm nhiều lợi ích cho hữu tình, nên phát nguyện lớn Vô thượng Bồ-đề, thệ ở trong sinh tử chịu vô lượng khổ, mà trái lại đem điều ác đến cho người, làm hỏng mất Đại thừa, cho nên vẫn chế là căn bản trọng. Thứ hai là giải thích tướng trái phạm trong văn như kinh chép: Tự khen mình chê người, phải có khen chê nên mới kết tội nặng, chỉ khen, riêng chê riêng thì bị hai tội khinh. Còn ở lúc khác chỉ lấy bốn tiền, bốn câu còn lại v.v... như Tông yếu ghi: về tánh trái phạm, như kinh nói nhân chê người cho đến duyên chê người. Lần trước là tuỳ tướng nhiếp ly gián thô ỷ ngữ này, đây là tuỳ ứng rốt ráo nên biết. Nói dối tuy cấm chung trước đây đã nên lược không có môn Cảnh giới sự thứ ba. Nhưng luận Du-già chép: vì muốn tham cầu lợi dưỡng cung kính nên tự khen mình chê người, ấy gọi là pháp tha thắng xứ bậc nhất, đây là phần nhiều do tham rốt ráo. Nếu không sở đắc, chỉ do ganh ghét vì sân rốt ráo. Môn thứ tư như trong kinh chép: Mà Bồ-tát, cho đến phạm tội Ba-la-di. Bản nguyện của Bồ-tát là lấy lợi tha làm tâm, khen tốt che xấu, hỏng mất Đại thừa, hoặc khi người không có đạo đức chê bai Bồ-tát, vì sao đem việc tốt xấu cho người, là nghĩ rằng người kia làm việc này khiến bền chắc giới của ta, ta lẽ nào không nhẫn ác ở thân mình.
8. Giới Bỏn Xẻn lại Mắng Đuổi.
Kinh chép: Nếu Phật tử tự mình bỏn xẻn, cho đến Bồ-tát này pha-m tội Ba-la-di
Giải thích: Chế ý đầu tiên là bản nguyện của Bồ-tát vì cõi hữu tình mà giữ lại thân trong sinh tử, thân Bồ-tát hoàn toàn thuộc về chúng sinh, huống chi của cải chẳng phải sở hữu của mình cho, nên bỏn xẻn làm chướng ngại bố thí, phá muôn hạnh sâu xa, ý rộng chê sáu độ, vì thế vẫn chế là căn bản tội nặng, sở thích của Bồ-tát thường là cầu bố thí rộng khắp, vì tham không trái lắm nên kết thành tội khinh. Trong giải thích văn chép Bồ-tát thấy tất cả người nghèo cùng đến xin, Bồ-tát Địa chép: Thấy có thắng lợi mà đến xin mới nên thí cho, vì muốn dùng của cải nhiếp đi, dễ hoá đạo. Nếu không có lợi ích, thì dù có an vui cũng không nên thí cho, vì sao? Vì lúc bố thí cho họ tuy tạm thời làm cho họ đối với Bồ-tát sinh tâm vui mừng, sau đó khiến họ làm các việc không lợi ích, gọi là nhân thí, giúp cho họ phần nhiều làm việc ác kiêu mạn, buông lung thì khi chết đều rơi vào đường ác, các câu trong đây như câu bảy mươi lăm lược nhiếp tụng rằng:
Nếu lợi tài pháp người
Không nên pháp mình suy
Nếu mình chỉ suy vật
Tài pháp người đầy đủ.
Nói cần gì người, tất cả đều cung cấp cho họ. Câu bảy mươi bốn chép: Nếu người nghèo thiếu làm tôi tớ cho mình. Hoặc người giàu có bậc trung tức là đối với kia và người nghèo khổ, hoặc người rất giàu có thì đến chỗ kia, cũng đến xin ở chỗ khác, mỗi nơi đều khéo phân bố mà thực hành bố thí. Nay văn kinh này lại dựa theo phần thứ ba. Như Long Thọ nói: Thân tâm Bồ-tát như cây thuốc, lấy tất cả gốc thân, nhánh lá mà không phân biệt, do ta mà được lợi ích. Nếu ông có nhiều của cải nhưng kia được lợi ích thì tất cả điều bố thí là không đúng. Tụng rằng:
Cha mẹ và thầy bạn
Chưa cho, mình không được
Đây cũng đối tất cả
Hoàn toàn không nên làm.
Bồ-tát Địa chép: Thân mạng cho đến chất độc, dao gậy, rượu, v.v... nhưng có nghĩa lợi, thì tất cả thí cho. Cha mẹ thầy bạn thì chắc chắn không được thí. Vì sao? Vì người có ân thường sinh kính trọng, không được tuỳ tiện mua bán. Nói chưa cho phép cũng có hai thứ: một là sở hữu của người, nghĩa là như luận chép: không được chiếm láy của cải của cha mẹ, vợ con, tôi tớ, để bố thí, việc làm có tội phước, vì nhiếp công đức tương tự của Bồ-tát, hai là sở hữu của mình như luận chép: Nếu không dùng lời chân chánh dẫn dắt giúp cho họ vui vẻ trước thì không bao giờ được ép buộc khiến họ buồn rầu mà thí cho người đến xin. Tuy là dắt dẫn khiến họ sinh tâm vui vẻ nhưng không bố thí cho kẻ thù và người ác, không dùng dáng vẻ yểu điệu của vợ con nam nữ bố thí cho người đến xin đem về làm tôi tớ. Ý này là rõ ràng, ở đây cũng là sự thương xót chúng sinh bình đẳng, không được làm người kia vui mà giúp cho người nầy sinh khổ. Nếu ông Giải thích tại sao Thái Tử Tu-đạt-noa bắt buộc nam nữ thí cho Bà-la-môn? Vì kia cũng dẫn dắt, nghĩa là như kia Giải thích: hai đứa trẻ bạch rằng. Con đời trước bị tội gì mà là hạt giống của vua lại phải làm tôi tớ, nay xin sám hối. Thái Tử bảo rằng: Thiên hạ ân ái điều phải chia lìa, tất cả điều vô thường, đâu có gì giữ gìn mãi được.
Khi ta đắc đạo bình đẳng vô thượng sẽ độ người.
Hỏi: Nếu đã dẫn dắt rồi tại sao không chịu đi, như kinh ấy chép, Bà-la-môn đánh đập máu chảy dầm dề khắp đất, Thái tử rơi lệ thì đất ấy liền rung động?
Đáp: Hai đứa trẻ kia chẳng phải không chịu làm tôi tớ, chỉ đợi từ biệt mẹ. Như nói, mẹ đến không thấy ta, sẽ như bò mẹ mất bê con, hướng về mọi phía than khóc suốt ngày. Nói mình không thể là nếu thấy do bố thí mà lui sụt hạnh Bồ-đề thì không nên bố thí, là hiểu rõ nghĩa này. Mười Giải nêu sự tích lui sụt tâm Bồ-đề của người Thu tử, chẳng phải phần tuệ thí, trái lại sinh tâm lui sụt. Như luận Mười Trụ chép: Người xuất gia nếu thực hành tài thí thì chướng ngại pháp lành khác, chắc chắn sẽ nhiều việc, nên đối với người xuất gia khen ngợi pháp thí. Do đây, kinh Quyết Định Tỳ-ni chép: Bồ-tát tại gia nên thực hành hai thí, một là tài thí, hai là pháp thí. Bồtát xuất gia nên thực hành bốn thí, một là giấy, hai là mực, ba là bút, bốn là pháp, Bồ-tát đắc nhẫn nên thực hành ba thí: một là ngôi vua, hai là vợ con, ba là đầu mắt, da xương. Nhưng kinh Đại Tập chép: Bồ-tát mới phát tâm đối với thân mạng, của cải thường nghỉ đến xả, là muốn dần dần nhóm họp cho đến kham xả, như luận Mười Trụ. Khi người đến xin mà quá tiếc của nên tự khuyến dụ, tâm còn tham tiếc thì nên từ chối người xin rằng: Nay ta là người mới học, chưa thành tựu gốc lành, tâm chưa được tự tại, sau này sẽ cho ông. Nói có người cầu pháp một câu oai lực sẽ giúp cho vượt ra biển khổ luân hồi, vì thế pháp thí cao quý hơn tài thí. Như phẩm Du-già quyển bảy mươi mốt và kinh Kim Quang minh quyển hai có nói. Nhưng Bồ-tát Địa chép: Người không cầu thì không được bố thí cho họ, nói rộng pháp thí như kinh ấy nên biết. Nói “trái lại mắng nhiếc”, câu này chung cho cả bỏn xẻn tài và pháp ở trên. Bỏn sẻn của cải lại còn mắng nhiếc, thì đọa vào loài ngạ quỉ. Sẻn pháp vời lấy quả mãi mãi sống trong cường loạn, làm chướng ngại đạo. Luận Du-già chép. Hiện có của cải, có người đến xin thì có tâm hiềm hận, tâm sân não không bố thí thì nhiễm phạm. Nếu uể oải buông lung thì chẳng nhiễm trái phạm, không trái phạm là: hoặc vật không thể bố thí, hoặc xin của cải không thích hợp, hoặc điều phục người xin, hoặc chỗ của vua kia không thích hợp, hoặc hộ tăng chế.
Hỏi: Vì sao kinh Đại Tập chép: Đối với thân mạng của cải thường nghĩ đến xả?
Tụng rằng:
Vì thân cầu tài nên nhóm họp nhiều hạnh ác
Sẽ trở về tử diệt không biết ân
Của bỏ theo mạng nghiệp ác theo
Khi chịu quả kia không cùng thọ
9. Giới Không nhận người sám hối.
Kinh chép: Nếu Phật tử, tự mình giận cho đến Bồtát này phạm tội Ba-la-di.
Giải thích: Chế ý đầu tiên là điều chúng sinh không thích nhìn thấy chẳng gì hơn tức giận. Cho nên bất thiện sẽ vời lấy quả khổ. Bồ-tát thệ xả bỏ niết-bàn hai thừa chỉ vì thương xót cõi hữu tình, sân chướng đại bi là căn bản tội nặng. Như Đức Thế tôn dạy, các Bồ-tát này thường phạm những điều do sân khởi, chẳng phải do tham khởi.
Luận giải thích nói mật ý trong đây, nghĩa là các Bồ-tát thương xót các hữu tình mà thêm sức mạnh. Hễ có sự tạo tác tất cả điều là việc làm của Bồ-tát, chẳng phải làm việc làm có thể hành phạm. Nếu các Bồ-tát ghét các hữu tình, ganh ghét với các hữu tình thì không thể tu hành hạnh tự lợi, lợi tha, việc làm các Bồ-tát đã không được làm, làm mà không được làm có thể thành phạm. Giải thích: Tham thật cũng phạm nên nói là mật ý, chẳng phải cho rằng sân thật phá tất cả, chớ cho là Bồ-tát có phạm vô dư, chỉ nêu tướng thô rõ ràng để chỉ bày nghĩa sâu xa vô dư. Tà kiến phẩm thượng chê bai khắp tất cả, bấy giờ làm sao còn sót lại giới hữu dư, mà chỉ phạm một tội Ba-la-di, nhưng chắc chắn sẽ đưa đến việc sinh tâm không đồng nhận. Thứ hai là giải thích văn. Tướng phạm, tánh phạm như trước nên biết. Nói “Mà Bồ-tát cho đến thường sinh tâm lòng từ bi là khuyên người khiến họ phát sinh gốc lành không tức giận, mình cũng phải thường sinh tâm đại bi, là đối với người ác khởi lên ba điều suy nghĩ, một là nghĩ người kia tâm tánh họ vốn thanh tịnh, vì say rượu nên không biết dính mắc bởi ma phiền não, không biết mình có việc làm này, hai là nhớ bản nguyện, ta là chúng sinh thệ chứng Bồ-đề, sinh tử là khổ lớn còn không sợ, huống chi khổ nhỏ này mà không chịu đựng, ba là nhớ ân kia, do não hại mới thành tựu hạnh nhẫn, kia làm thành tựu tròn đầy nhẫn Bồ-đề của ta, vì sao vừa trái ân lại sinh tức giận não hại? Nói dùng lời ác mạ nhục cho đến vẫn còn không hết giận. Như lần lượt nói về nghiệp ngữ thân, ý, tuy đủ ba nghiệp, nay lấy ý tội, vì chỗ khởi sân phạm tội nặng, khi quyết định tội của ý này thì kết, do đó quyết định, không nhận sám hối: tuy chẳng phải chúng sinh không đến sám hối tạ tội, mà sân không chịu can ngăn vẫn thành tội nặng. Có thuyết cho rằng: Theo sự thật chỉ ở bên hữu tình, vì nhẹ so sánh nặng nên nói chẳng phải chúng sinh. Thuộc về pháp gì trong trăm pháp, tức là lấy phần làm thể. Như Du-già chép: Trưởng dưỡng chủng loại phẩn triền như thế, không chỉ phát khởi lời thô liền dứt, vì sân che lấp, lại dùng tay đánh đập, ưa phẫn hận, người đến xin lỗi tạ tội mà không chấp nhận, không bỏ oán kết gọi là Tha thắng xứ.
10. Giới chê bai Tam Bảo.
Kinh chép: Nếu Phật tử, tự mình chê bai Ba Bảo cho đến Bồ-tát này phạm tội Ba-la-di.
Giải thích: Chế ý đầu tiên là Ba Bảo Phật, Pháp, Tăng là bến lớn ra khỏi lưới tà, là cửa quan trọng vào chánh đạo, thuận theo Ba Bảo chắc chắn chứng thường lạc, trái lại thì thường chìm đắm trong biển khổ tà kiến, tội trái nghịch không gì lớn bằng vì hành tướng âm thầm mạnh mẽ dứt các gốc lành. Vì thế cũng lập thành căn bản tụng. Giải thích văn thì y theo phần trước nên biết. Nói như ba trăm cây giáo nhọn đâm vào tim mình, như Dugià phẩm thứ bảy mươi chín chép: Bồ-tát nên Giải thích; thế nào là khổ, chúng sinh bị tổn não tức là mình khổ. Hoặc nên nói; lấy gì làm vui, chúng sinh lợi ích tức là mình vui. Cho đến nói rộng chúng sinh tổn não không gì hơn chê bai chánh pháp, vì thế Bồ-tát như bị giáo nhọn đâm vào tim, nhóm họp tâm không từ bi là lấy khổ của người làm vui, tập tâm từ là lấy lợi ích cho người làm vui, vui đã như vậy thì khổ cũng vậy. Nói huống chi là tự miệng mình chê bai, như luận Du-già chép: chê bai tạng Bồ-tát, ưa thích dựng lập chánh pháp tương tự, hoặc tự mình tin hiểu, hoặc do người chuyển, ấy gọi là pháp Tha thắng xứ thứ tư. Ở đây chung với tăng ích tổn giảm tà kiến, tà kiến này trói buộc. Nếu khi quyết định, tuy chưa dứt mất gốc lành nhưng chắc chắn cũng khởi tâm bất đồng phận. Nên giới Bồ-tát không có xả đoạn thiện. Tà kiến có hai, nếu che bai toàn phần tất cả nhân quả hoặc không chê bai pháp khác mà chê bai Đại thừa, vẫn phạm tội nặng, hoặc cho đến triền phẩm thượng cũng mất tịnh giới. Tất cả phần nói trên đều là môn Thế tục. Thắng nghĩa môn tức là Ba luân thanh tịnh, như Tông yếu đã nói.
Kinh chép: Các Phật tử cần nên học cho đến nên nói rộng.
Giải thích: ở đây là kết thành môn thứ ba. Văn này có ba: một là khuyên không huỷ phạm, hai là bày phạm mất hoại, ba là chỉ rộng răn dạy người học, khuyên không huỷ phạm, như kinh chép: Các Phật tử cần nên học cho đến phạm mười giới, nói khéo học là phân biệt với các học bất thiện của ngoại đạo và cái học không rốt ráo của Hai thừa, như phẩm tám mươi chép: Lại Thanh Văn kia tuy được rốt ráo nhưng không cúng dường khen ngợi các vị Trời người kia, v.v như trụ tân nghiệp, tu hạnh Bồ-tát. Ở đây Giải thích không được phạm một giới nhỏ như hạt bụi, là tuy lỗi nhỏ nhưng dồn chứa lâu ngày thành lớn. Như kinh có bài tụng rằng:
Chớ khinh ác nhỏ
Cho là không hại
Giọt nước tuy nhỏ
Lần đầy chum to
Hoặc có người ngu phạm tội nhỏ, dù cho nhẹ như hạt bụi cũng không nên phạm. Như có bài tụng rằng:
Người ngu tội nhẹ cũng đọa ác
Người trí tội nặng cũng thoát khổ
Như hòn sắt nhỏ cũng bị chìm
Dù bát sắt lớn cũng được nổi.
Trí luận chép: Người có trí tuệ, tâm rỗng rang như chiếc bát nổi được.
Hỏi: Biết mà cố làm là điều đáng trách ở thế gian, không bằng việc làm của kẻ cuồng, không có gì là trí ngu gây tội cũng như vậy, vì sao trí là nhẹ, ngu là nặng?
Đáp: Câu hỏi này không đúng, mình làm mình chịu, chẳng phải do người làm mà mình chịu, là như kẻ điên chạm vào lưỡi dao nên bị đứt tay, người trí tuy chạm nhau như tránh mũi dao nhọn nên không bị tổn, lại như căn phòng tối biết có cột nên chỉ đụng nhẹ, không biết có cột nên chạm mạnh thì bị lỗ đầu. Ngu trí gây ra tội tùy theo đạo lý cũng như vậy. Trong luận Mười Trụ chép: Người trí tạo tội như bỏ nắm muối xuống ao, trong luận ấy có bài tụng rằng:
Chén muối bỏ ao lớn
Vị nước không có khác
Nếu bỏ vào bình nước nhỏ
Mặn đắng không uống được.
Thứ hai: Bày Phạm mất hoại, như kinh chép: Nếu có người phạm, cho đến phạm từng giới một. Trong đây nói nếu phạm thì hiện đời không được phát tâm Bồ-đề. Nếu phạm mười giới trọng, có bảy già nạn thì không thể thọ giới Bồ-tát, chỗ khác không phải như vậy. Du-già và Bản Nghiệp cho phép phạm tội nặng được thọ.
Hỏi: Phạm nặng mất giới tại sao kinh Bản Nghiệp Giải thích giới Bồ-tát có pháp thọ mà không có pháp xả, cho đến nói rộng?
Đáp: Ở Đây có nhiều giải thích. Sư Nguyên Hiểu Giải thích: Nếu đối với giáo lý ba thừa mà phát tâm thì có mất, nếu nghe giáo lý Nhất thừa thì không bao giờ lui mất, nhưng tông giáo mới khó có thể nương định. Sư Nghĩa Tịch Giải thích: Công năng tuy mất nhưng thể của hạt giống thường còn. Du-già, Bản Nghiệp lần lượt nói khác, ở đây cũng khó hiểu. Hạt giống giới luật của Thanh Văn cũng thường lưu lại. Nay giải thích như Tông yếu. Nói cũng mất ngôi vua v.v... rõ ràng vì mất nhân nên mất quả lợi, phải đọa vào cõi ác đánh mất niềm tin ở thế gian và quả Hai thừa, huống chi quả mầu ba thân, mười Thánh, ba Hiền của Đại thừa. Nói Phật tánh là pháp thân, vì thể tánh nên nói thường trụ là chung cho hai thân còn lại, như kế là tự tánh Vô Gián nối nhau thường hằng, không nghe tên cha mẹ Ba Bảo là nói lên thế gian và xuất thế gian không thể cứu, văn còn lại rất dễ hiểu.
Kinh Phạm Võng Cổ Tích Ký quyển hạ. (Phần đầu Hết)
Kinh chép: Từ Phật dạy. Này các Bồ-tát! Cho đến bốn mươi tám giới khinh nay sẽ nói.
Giải thích: Dưới đây chỉ tụng giới khinh, trong đó có ba. Đầu tiên là trước kết sau sinh; kế là lần lượt tụng ra, sau cùng kết khuyên vâng hành. Phần đầu nói các giới khinh này tuỳ theo ý thích của mình. Có phạm, không phạm, là nhiễm hay không nhiễm, phẩm trung thượng phải biết rõ. Như Bồ-tát địa tựu trung là nhiễm phạm, nghĩa là ý thích điều ác là không đúng. Nếu có tướng phiền não phải gọi là bất nhiễm phạm ba phẩm như tuỳ tâm cảnh, v.v.. khác nhau. Như phẩm sáu mươi tám chép: Do sáu phần khác nhau nêu chỗ phạm thành trọng, một là giáo chế là nặng, hai là sự trọng, ba là số phạm, bốn là phiền não mạnh mẽ, năm là trí lực kém, sáu là mau sám hối, như các giới này mỗi giới đều đủ nghĩa ba nhóm giới, tuỳ nội dung quan trọng mà khai hợp các giáo bất định.
1. Giới thứ nhất không kính thầy bạn.
Kinh chép: Nếu Phật tử, lúc sắp lên ngôi vua, cho đến nếu không như vậy thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Từ bài tụng riêng ở dưới, mười giới đầu có bốn môn, hai môn đầu là môn hộ tâm niệm của mình, đối với kiêu mạn, buông lung ngăn cấm khinh mạn, đối với buông lung dứt lỗi rượu. Ba môn kế là hộ tâm hạnh của người, ba môn kế nữa là kính tu pháp Phật, hai môn sau đều là cứu giúp chúng sinh. Lên ngôi vua, trước thọ giới là: truyện chép có hai, có thuyết nói: Bồ-tát tuy đã có giới, bấy giờ lại thọ nữa là vì điều tâm, nói đủ các duyên tuy dẫn vô biểu, vì loại giới trước nên nói không được mới như đối pháp nói, đã dựa theo niết bàn trước khởi gốc lành thì không còn khởi mới, huống chi người kia lúc sau không huân xông hạt giống sống. Ở đây cũng nên như vậy. Nếu không có giới sao gọi là Phật tử, phạm tội nhẹ gì? Có thuyết cho rằng: khuôn phép của giới biệt giải thoát, như giới của Tỳ-kheo không có pháp thọ lại. Dù cho thọ lại cũng chỉ thêm giới cũ, do đây Bồ-tát đã nhập vào Sơ địa rồi thì xả giới hữu lậu, thọ giới vô lậu, vì muốn nuôi lớn đức thành Phật, vì trước đã có giới, Thất đạo không đắc giới, khác với Thanh Văn vì trước không có giới nên thất đạo đắc giới. Luận Du-già chép: Thọ lại không đắc giới mới, khác với pháp khác huân xông hạt giống lại, vì người kia không làm ra pháp chế phép tắc, tuy chưa thọ giới, hạt giống Phật cũng không mất vì đã phát nguyện Vô thượng Bồ-đề. Phạm tội nhẹ là kết sinh kiêu mạn, không cần thọ lại cũng không phạm, hoặc có điều tâm rồi nên không cần. Nói Thượng Toạ là bậc Thượng thủ trong chúng. Hoà-thượng là Thân giáo sư, là Hoà-thượng truyền giới. A-Xà-lê, tức là Quỹ Phạm sư, là thầy truyền giới, Yết-ma oai nghi, giáo thọ, thọ nghiệp, v.v.. Đồng học, đồng kiến, đồng hạnh như thứ lớp đồng thầy, đồng tông, đồng thừa. Nói bảy chất báu là của quý trọng còn có thể bố thí, huống chi của tầm thường khác là ý ở đây. Nói nếu không như vậy nghĩa là cung kính cúng dường không đúng pháp,. Luân Du-già chép: Tâm kiêu mạn, hiềm hận, sân nhuế, là nhiễm phạm. Biếng nhác vọng niệm là phạm phi nhiễm. Không trái phạm là: hoặc bệnh, hoặc cuồng, hoặc ngủ, hoặc tự nói pháp, hoặc nói với người, hoặc tự nghe pháp, hoặc muốn dùng tâm che chở người nói pháp, hoặc dùng tâm che chở nhiều hữu tình, hoặc điều phục, hoặc giữ gìn Tăng chế, đều không phạm.
2. Giới không được uống rượu
Kinh chép: Nếu Phật tử cố uống rượu cho đến bảo người uống rượu thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Rượu là gốc mê loạn, sinh ra nhiều tội lỗi, xưa có thế lực hàng phục rồng mà nay không khống chế được một con cua, cho đến bốn tội nghịch đều từ uống rượu mà ra, chỉ trừ tội phá tăng, nên ở đây cấm. Nói vô lượng tội lỗi là do say rượu sinh ra lầm lỗi mà phạm tội. Như Câu-xá chép: Trị bệnh hạn lượng không có tướng của tánh tội, nên biết già tội, trì luật thì nói là tánh tội. Ô-Ba-Li hỏi rằng: Con phải làm sao để cúng dường người bệnh? Đức Thế Tôn dạy: Trừ tánh tội, ngoài ra đều có thể cung cấp, nhưng bị bệnh truyền nhiễm, Thích chủng cần rượu, Đức Thế Tôn không cho phép người kia uống rượu. Lại kinh nói sinh Thánh thì cũng không phạm. Các sư Đối pháp Giải thích chẳng phải tánh tội, nhưng vì người bệnh khai chung giá giới.
Về sau, vào lúc khác cấm uống rượu, là ngăn ngừa do chất rượu này mà phạm tánh tội.
Lại nữa, tất cả bậc Thánh không uống rượu là vì các bậc Thánh có tâm hổ thẹn, vì uống rượu làm cho mất chánh niệm. Cho đến một chút cũng không uống là vì giống như lượng thuốc độc bất định. Nói năm trăm đời không tay là vì lỗi ác tâm cực tăng thượng, chẳng có tâm lành, v.v Nếu bố thí tâm lành, luận Du-già cho phép nhiếp độ thí. Như Mười Trụ chép: Bồ-tát tại gia bố thí rượu không có tội, nên nghĩ rằng: Pháp thí độ đều mãn nguyện cho người, sau mới phương tiện giáo hoá họ bỏ uống rượu. Nói không được bảo người uống, cho đến uống là tự mình uống rượu, là trước cầm bình rượu đưa cho người còn bị lỗi, huống chi tự mình uống. Đây là phần thứ hai là bảo người uống, huống là tự mình uống. Nếu cố tự mình uống, bảo người uống là là đều kiết phạm. Nhưng kinh Văn-thù Vấn chép: Không được uống rượu, nếu thầy thuốc nói nhiều loại thuốc, hoà ít rượu nhiều thuốc thì được dùng, không được uống mỡ và thoa chà vào mình, v.v Hoặc có nhân duyên được dùng, được dùng sữa, lạc, bơ sống, đề hồ. Trước kia ta ăn cháo sữa vì gió đàm lạnh. Kinh Vị Tằng Hữu chế năm giới rằng: Nếu có người uống rượu mà tâm vui vẻ, sinh pháp lành thì uống không phạm giới, rộng như kinh ấy có nói. Huống chi giới Bồ-tát có lợi không phạm. Như Duy-macật vào các quán rượu, có thể lập chí cho mình.
3. Giới không được ăn thịt.
Kinh chép: Nếu Phật tử cố ăn thịt, cho đến nếu cố ăn thịt thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Bồ-tát lẽ ra phải lóc thịt trên mình mà cứu giúp mạng sống loài vật, mà lại ăn thịt loài khác, đến nỗi giết hại. Nên nay Phật cấm. Kinh Văn-thù Vấn cấm Bồ-tát rằng: Nếu người giết để đãi mình thì không được ăn. Nếu thịt như cây rừng đã tự thối rửa, muốn ăn được ăn. Nếu muốn ăn thịt phải tụng chú ba lần “Đa-điệt-tha”, (Hám dịch là “Như thị)” “A Nại Ma”, A Nại Ma”, (Hán dịch là “Vô ngã, vô ngã”) “A-Thị-Bà-Đa, A-Thị-Bà-
Đa”,
(Hán dịch là “Vô thọ mệnh, vô thọ mệnh”), “Na-Xá Na-Xá” (Hán dịch là “Thất, Thất”) “Đà-Ha-Đà-Ha”, (Hán dịch là “Thiêu, Thiêu”). “Bà Phất, Bà Phất” (Hán dịch là “Phá, Phá”) “Tăng-Kha Phiêu-Đa Nhị”, (Hán dịch là “Hữu vi”), “Toa Ha”, (Hán dịch là “dứt sát sinh”). Văn-thù bạch rằng: Nếu được ăn thịt vì sao các kinh như: kinh Tả Quy, kinh Đại Vân kinh, chỉ Man kinh, Lăng-già, v.v đều nói dứt. Phật bảo Văn-thù, vì chúng sinh không có năng lực từ bi, có tâm giết hại, vì nhân duyên này nên phải dứt ăn thịt. Này Văn-thù-sưlợi! Có chúng sinh ưa thích y phẩm tảo thì ta nói y phẩm tảo như thế, khất thực cũng vậy, vì giáo hoá họ nên ta nói hạnh đầu-đà như thế. Nầy Văn-thù! Vì chúng sinh có tâm giết hại nên ta nói dứt ăn thịt. Nếu không có tâm giết hại, mà có tâm đại từ bi, vì giáo hoá tất cả chúng sinh nên, không có lỗi. Nói cắt đứt hạt giống tánh đại từ bi là do ăn thịt nên dẫn đến giết hại. Nói thấy mà bỏ đi là chim ưng đuổi theo chim bồ câu, chim bồ câu chui vào núp dưới bóng ngài Xá-Lợi-Phất mà vẫn chưa hết sợ, huống chi ở chỗ người ăn thịt. Nói người ăn thịt mắc vô lượng tội, như nhân duyên không ăn thịt của vị tiên Nhất Thiết Trí Quang Minh, trong kinh nói rộng về lỗi ăn thịt. Vị Tiên ấy chính là Bồ Tát Di-lặc, nên khi thành Phật cấm ăn thịt, nếu ăn phạm nặng, đầy đủ như kinh ấy đã nói.
4. Giới không được ăn năm thứ củ cay nồng:
Kinh chép: Nếu Phật tử, không được ăn năm thứ củ cay, cho đến nếu cố ăn thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Năm thứ củ cay tuy thuộc loại cỏ nhưng hôi dơ khó gần, là vật nên tránh của bậc hiền lương, cho nên cấm, phải dứt trừ. Sư Pháp Tạng nói: Nay trong năm loại củ này, đại toán là tỏi. Có người Giải thích: Hành hẹ là hồ thông, lan thông là gia thông. Ba loại trên người thế gian thường ăn. Cách thông, Nhĩ Nhã gọi là sơn thông, thân nhỏ lá lớn, đúng là chữ “Các”, đọc cách là sai. Các vùng phương Bắc có cây này, ở Giang Nam không có, ở đó gọi là Hưng cừ. Có người nói là cây cải dầu, nhưng không thấy văn chép. Có người nói, ở Giang Nam, lá nó giống như lá tỏi rừng, gốc và thân giống như cây hẹ, Bắc ở miền không có. Lại giải thích, A-ngụy Dược, tiếng Phạm là hưng-cừ, truyện chép như thế. Năm thứ củ cay này trừ người bệnh nặng và trường hợp có lợi ích, ngoài ra không được ăn. Như kinh Văn-thù Vấn chép: Không được ăn tỏi, nếu có nhân duyên thì được ăn. Nếu hoà thuốc để trị bệnh thì được dùng. Lại kinh Hoa Nghiêm chép: Trong thân ta có tám muôn hộ trùng. (Kinh Chánh Pháp Niệm chép: Một hộ có chín ức vi trùng), thân ta an vui thì nó cũng an vui, thân ta đói khổ, nó cũng đói khổ, vì thế Bồ-tát có sự ăn uống gì đều vì muốn cho các loại trùng an vui, chứ không tham đắm mùi vị.
5. Giới không dạy người sám tội.
Kinh chép: Nếu Phật tử thấy tất cả chúng sinh cho đến khiến họ sám hối phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Như luận Du-già chép: Bồ-tát thương xót hữu tình giữ tịnh giới, không bằng phạm giới để chuyển nhân khổ. Nếu vì giận ghét mà tìm cách xả bỏ không làm lợi ích, là nhiễm ô trái phạm. Kinh Duy-ma chép: chúng sinh bệnh phiền não là bệnh của Bồ-tát, ấy là Bồ-tát không cứu nhân khổ rất, trái với lợi lạc nên nay cấm. Tám giới này đều chung cho giới Thanh Văn va giới Bồtát. Luận Du-già chép: Giới Nhiếp luật nghi là giới của bảy chúng. Kinh niết bàn chép: vì đạo Vô thượng nên thọ tám giới. Nói huỷ cấm là đại giới của Tỳ kheo và nhiếp luật nghi giới của Bồ-tát. Bảy tội nghịch như ở dưới. Tám nạn là, có thuyết nói là tám nơi không rảnh rỗi, đó là ba đường ác, cõi trời Trường Thọ, Bắc châu, đui, điếc, thế trí biện thông, sinh trước Phật sau Phật. Vì người ở nơi ấy không tu đạo, nên gọi là không nhàn rỗi, cũng gọi là nạn, đó là báo chướng. Tuy không nêu sám hối nhưng trong nhân kia nói tên quả. Mười điều ác ở đây vời lấy nạn đường ác, làm việc lành thế gian sinh về châu phía Bắc, tà định chiêu cảm Trường thọ, báng pháp sinh ra đui điếc, tà trí được thông minh, không kính Ba Bảo sinh trước Phật sau Phật. Có thuyết nói. Trong mười ba nạn, trừ năm tội nghịch, xếp năm tội kia vào bảy tội nghịch, tuy nêu số lớn nhưng lấy nhiễm ô ni, v.v truyện thuyết như vậy. Nói phạm tội nhẹ cấu là trừ người không có năm đức, hoặc trái lại thì sinh lỗi, kia tuy không nêu lên nhưng không phạm. Luận Du-già chép: Không phạm là nếu biết rõ bệnh kia không thể trị khỏi, thì không được cho nói họ biết nói, hoặc lúc quán đối đãi. Hoặc quán do việc tranh đấu, kiện tụng này mà làm loạn chúng, biết người kia hết sức hổ thẹn trở lại thanh tịnh, mà không trách mắng, trị phạt, đuổi đi, đều không phạm.
6. Giới không Thỉnh nói Pháp.
Kinh chép: Nếu Phật tử, thấy có vị Pháp sư Đại thừa cho đến nếu không như vậy thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Thầy của Chư Phật chính là pháp, vì có năng lực sinh trí tuệ, chứng đắc niết-bàn. Kinh Di Giáo chép: Người trí tuệ là chiếc thuyền vững chắc vượt qua biển sinh tử, là ngọn đèn sáng, chiếu soi đêm dài tăm tối vô minh, là thuốc hay trị lành tất cả bệnh, là lưỡi búa bén chặt đứt cây phiền não. Vì thế, các thầy dùng văn tuệ, tự tuệ, tu tuệ mà tự tăng ích, Bồ-tát lẽ ra phải diệt thân còn cầu, mà lại khinh mạn trái phạm càng sâu, nên nay cấm. Nói Tăng phường là chế cho xuất gia, nhà cửa chế cho tại gia, thành ấp chế cho vua. Mỗi ngày ba thời là thời trai sáng sớm, thuốc phi thời, v.v. Mỗi ngày đồ cần dùng giá đáng ba lượng vàng là của cải quý báu cũng không tiếc. Vì sao? Vì bố thí cái chẳng phải Thánh tài mà được Thánh tài. Hai thứ của cải khác nhau như Du-già có nói rộng. Thường thỉnh Pháp sư ba thời nói pháp là nếu vị
Pháp sư kia có tuệ hạnh cao siêu hơn mình thì một ngày ba thời sáng, trưa, chiều nên thỉnh nói pháp, vì thỉnh nói pháp nên ngữ nghiệp lành, vì ba thời lễ bái nên thân nghiệp lành, vì chẳng khởi sân, v.v nên ý nghiệp lành. Nói vì pháp diệt thân thỉnh pháp, như hồn trần núi Tuyết cầu nữa bài kệ, việc ấy chẳng phải một các như nạn bị bệnh, v.v Vị sư kia kém hơn ta, không thỉnh thì không trái.
7. Giới không đi nghe pháp.
Kinh chép: Nếu Phật tử thấy tất cả chỗ, cho đến không đến chỗ ấy nghe pháp thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Muôn hạnh một môn cái gọi là đắc ý, đắc ý mà làm thì chẳng có việc nào làm không được. Nên Bồ-tát tân học gặp việc không giải quyết được, phải đi học để thành Thánh hạnh. Như khế kinh nói: Nếu lửa đầy khắp thế giới cũng nhất định phải đến nghe pháp, biết sẽ thành Phật đạo, vượt qua dòng sinh tử cho nên phải như vậy. Như phẩm thứ bảy mươi chín chép: Vô thượng Bồ-đề thể của là tuệ, tuệ năng dẫn dắt đến tất cả chỗ Ba-la-mật khác, là vì khi ở tuệ khởi tà hạnh, phải biết Bồ-tát đối với Bồ-đề kia, và có công năng dẫn pháp đều khởi tà hạnh. Vì thế Bồ-tát khinh thân trọng pháp. Vì sao? Vì có bài tụng rằng: Tuệ đối các hạnh lành, như nắm chặt mái chèo, trăm ngàn mù lạc đường, nhờ một mắt được sống. Hỏi: Nếu vậy vì sao kinh Hoa Nghiêm tụng rằng:
Thí như người nghèo cùng Ngày đêm đếm báu người Mình không có nửa đồng Học rộng cũng như vậy.
Đáp: Vì kinh ấy chỉ là ngăn học rộng là rốt ráo, chớ không ngăn gốc học rộng Thánh tuệ. Như Du-già tụng rằng:
Học rộng biết được pháp Học rộng lìa được ác Học rộng xả vô nghĩa Học rộng được niết-bàn.
Nói Tỳ-ni, Hán dịch là Điều phục, vì dứt được tác động mạnh mẽ của nghiệp ác. Nghe nhận thưa hỏi: như Du-già phẩm ba mươi chép. Người mới tu nghiệp vì chứng nghĩa lợi, trước phải an trụ chánh niệm ở bốn chỗ, sau đó mới thưa hỏi. bốn chỗ là gì? lược nhiếp tụng rằng:
Không ganh, không kiêu mạn
Không phô tài năng mình
Khéo an lập mình người
Rồi mới thỉnh Pháp sư
Bồ-tát chép: Tâm kiêu mạn giận ghét không đến nghe pháp là nhiễm trái phạm. Lười biếng không ô nhiễm. Không phạm là bị bệnh không có sức khỏe. Hoặc biết giảng pháp trái ngược và Pháp sư kia đã nói pháp mình đã nghe rồi, hoặc hộ tâm người giảng, hoặc siêng tu pháp lành khác.
8. Giới bỏ chánh theo tà:
Kinh chép: Nếu Phật tử, có quan niệm trái bỏ, cho đến kinh luật phạm tội nhẹ cấu. Kể rằng: Kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát sợ đạo Hai thừa, cho nên mạn thì sợ xả thân, bỏ Đại thừa theo Tiểu thừa thì trái với đạo Bồ-tát, cho nên phải cấm.
Hỏi: Tâm trái bỏ Đại thừa bị mất giới, vì sao lại kết tội khinh? Đáp: ờ đây vì chê bai giáo pháp khác chứ chẳng phải trái bỏ tất cả, ngay cả Bồ-tát Địa nếu không chê bai mà kính mến Như lai, tuy không tin hiểu, nhưng không trái phạm. Nói kinh luật thường trụ là thường trụ sở thuyên, kinh luật năng thuyên. Lại Phật ba đời, đồng thuyết đồng hạnh, không thể thay đổi. Nếu Hai thừa chê bai pháp không, v.v gọi là Tà kiến.
9. Giới phải săn sóc người bệnh.
Kinh chép: Nếu Phật tử, thấy tất cả người tật bệnh, cho đến không cứu giúp thì phạm tội nhẹ cấu. Giải thích: Bồ-tát dùng đại bi nhở gốc khổ bệnh mà không cứu nạn thì chẳng phải lỗi này, cho nên không cứu giúp là tội, vì săn sóc bệnh tức là bố thí mạng sống. Nói cúng dường như Phật không khác Phật là bậc đáng kính, người bệnh là người đáng thương, kính thương tuy khác, nhưng ở khía cạnh nào đó có nghĩa giống nhau, nên nói là không khác. Tám ruộng phước, có chỗ nói là.
1. Tạo chỗ rộng lớn, giếng nước ngọt.
2. Làm cầu đường xây. đắp đường bồi lộ 4. Hiếu kính cha mẹ.
5. Cúng dường Sa-môn 6. Cúng dường người bệnh
7. Cứu giúp ách nạn.
8. Lập hội vô già. (Sư Pháp Tạng Giải thích chưa thấy Thánh giáo).
Ở đây Giải thích là:
1. Phật
2. Bậc Thánh
3. Hoà-thượng
4. A-Xà-lê 5. Chúng tăng
6. Cha.
7. Mẹ.
8. Người bệnh Vì sao biết như vậy?
Nay văn dưới đây chép: Tám ruộng phước là Chư Phật, bậc Thánh, tất cả Sư tăng, cha mẹ, người bệnh. Nói phạm tội nhẹ cấu là trong Du-già chép: Nếu tâm giận ghét là nhiễm ô trái phạm, nếu vì lười biếng thì không nhiễm ô trái phạm. Không trái phạm là nếu mình bị bệnh, hoặc không có sức khỏe, hoặc nhờ người, hoặc biết người bệnh tự có khả năng cung ứng, hoặc biết người kia bệnh lâu, sự tiếp xúc có thể tự chống đỡ. Hoặc tu pháp lành cao quý không để sen hở. Hoặc tự biết căn độn khó tu định tuệ, hoặc ở chỗ khác cho họ mà làm việc cung cấp, như đối với người bệnh người có nỗi khổ là đối với, v.v... Vì họ mà làm bạn để giúp đỡ, muốn dứt khổ cho họ, nên biết cũng vậy.
10. Giới chứa Khí cụ sát sinh.
Kinh chép: Nếu Phật tử, không được cất chứa những binh khí, v.v... cho đến chứa dao gậy, phạm tội nhẹ cấu. Giải thích: Bồ-tát nên chứa vật có lợi cho hữu tình mà lại chứa khí cụ giết hại, thật trái với lòng thương xót cứu giúp, nên phải cấm. Dù cho cha mẹ bị người giết còn không được trả thù, vì để cho họ tự chịu nghiệp quả đời trước của mình, pháp nhân quả là như vậy, không được tức giận. Nếu tức giận sẽ trở lại hoặc mình, không được lợi ích. Nói phạm tội nhẹ cấu là nếu ủng hộ chánh pháp thì không trái phạm. Kinh Niết bàn nói tại gia hộ pháp cho phép giữ để chiết phục.
Kinh chép: Mười giới như thế v.v..., cho đến trong sáu phẩm sau có giảng rộng.
Từ mười giới dưới đây chia làm hai môn. Bốn giới đầu là môn giữ gìn pháp lành của mình, sáu giới sau là môn giữ gìn pháp lành của người. Lời văn rất dễ hiểu.
1. Giới làm sứ mạng cho hai nước.
Kinh chép: Phật dạy, nếu Phật tử, chẳng được vì quyền lợi cho đến cố làm thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Bồ-tát lẽ ra phải hoà giải các sự tranh chấp mà trái lại đi thông sứ mạng giúp cho họ giết hại nhau, thật trái với đạo Bồ-tát, cho nên nay chế phải dứt trừ. Nếu vì điều phục chấm dứt giết hại lẫn nhau kéo dài, theo lý thì không phạm. Hưng là sinh khởi. Sư là quân lính.
2. Giới Buôn Bán làm não người:
Kinh chép: Nếu Phật tử, cố mua bán người lành, cho đến bảo người buôn bán thì phạm tội nhẹ cấu. Giải thích: Buôn bán hữu tình khác làm vui, buôn bán quan tài, thì phải mong người chết, đời sống thấp hèn không gì hơn việc làm này. Không có tội mạng duyên ở thế gian có nhiều cho nên chế, Bồ-tát phạm liền thành tội. Nói lục súc, như Chu lễ nói là Bò, Ngựa, Chó, Dê, Heo, Gà, thật ra chung cho tất cả các loài súc sinh. Huống chi bảo người buôn bán là lấy lợi tha làm đầu nên nêu mình để so sánh với người buôn bán. Trừ nghiệp thấp hèn còn chánh nghiệp khác được buôn bán, ngăn đạo khai cho thế tục. Như kinh Ưu-Bà-tắc giới chép: Phật tử tại gia có của cải nên chia làm bốn phần, một phần cúng dường cha mẹ vợ con, phần thứ hai buôn bán đúng pháp, hai phần còn lại cất giữ.
3. Giới chê bai Không có Căn Cứ.
Kinh chép: Nếu Phật tử, vì tâm ác cho đến đọa vào đường ác, phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Khinh khi chống cự lại người hiền thiện là không hổ thẹn, tất cả việc ác từ đây sinh ra, không hợp cho việc tiếp nối làm hưng thạnh hạt giống Phật, cho nên phải cấm. Tâm không lợi ích nên nói là tâm ác. Vì lìa ba căn nên cũng nói là vô sự. Không căn cứ chê bai này không thể mất đi, nên đối với lợi tha xếp vào tội khinh. Giới Thanh Văn, không y cứ mà chê bai thì kết tội nặng, chê bai có thật thì kết tội khinh. Đối với kia tự làm thì có cả khinh trọng. Thế gian có câu: Kẻ sĩ biết mình là dụng, biết mình là người hiền, người bố thí pháp lành cho ta là thầy ta, hộ tài vật của mình là lời dạy của vua, nhờ ơn nuôi dưỡng che chở là ân cha mẹ. Nói sáu thân là cha, mẹ, bác, chú, anh em. Biết ân báo ân là bản hạnh của Bồ-tát, chết còn không nề hà, mà lại sinh tâm hại chúng sanh khác. Như nói: Khi Đức Thế tôn làm chim én đầu đàn, dắt dẫn năm trăm chim én bay về hướng Nam, bấy giờ nhạn đầu đàn sa vào lưới thợ săn, lúc đó có một con chim én kêu la thảm thiết, lảng vảng không chịu bay đi. Khi ấy, gã thợ săn giương cung định bắn mà chim én kia không tránh mũi tên, đôi mắt cứ nhìn chằm chằm vào gã thợ săn, rồi lập tức vỗ cánh bay đến đậu vào chỗ chim ưng đầu đàn, năm trăm chim én khác cũng bay lượn lảng vảng trên không chẳng chịu bay đi. Gã thợ săn thấy vậy sinh tâm hổ thẹn bèn thả chim én đầu đàn. một con chim én ấy chính là A-nan. Vua A-Xà-thế tuy thả voi sai hại Phật nhưng tâm sinh quyến luyến không rời Đức Thế tôn. Năm trăm La-hán bay lên hư không như bản văn kể, hoàn toàn trùng hợp, ân ấy được bậc chí nhân khen ngợi. Bồ-tát nếu trái thì chế thành tội.
4. Giới đốt lửa làm tổn hại chúng sinh:
Kinh chép: Nếu Phật tử, vì tâm ác cho đến nếu cố thiêu đốt phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Trong việc sát sinh không gì hơn đốt lửa, con chim trĩ còn thấm canh ướt để cứu nạn thiêu đốt. Bồtát đốt lửa, thật là trái đạo, cho nên cấm. Nếu muốn đốt lửa hại mạng tổn vật, đặc biệt bị tội sát, trộm. Luận Dugià nói là trộm phạm tội nặng, trong đây như núi, v.v... phần nhiều không có chủ, nhưng không có lòng từ bi gọi là tâm ác. Quyết định vật có chủ lược nêu có sáu: 1. Nhà cửa của người
2. Thành ấp.
3. Tăng phòng
4. Ruộng vườn. Cây cối
5. Vật của quỉ thần
6. Vật của quan.
5. Giới pháp hóa trái tông:
Kinh chép: Nếu Phật tử, từ đệ tử Phật cho đến luận tà kiến, v.v... thì phạm tội nhẹ cấu.
Kể rằng: Bồ-tát phải dùng pháp Đại thừa giáo hoá chúng sinh. Như Kinh Duy-ma chép: vào chỗ giảng luận, dùng pháp Đại thừa dẫn dắt chúng sinh, nếu dùng Tiểu thừa giảng làm chướng Đại thừa thì trái đạo Bồ-tát, cho nên cấm.
Hỏi: Nếu vậy, tại sao luận Du-già chép: Nếu có người đến cầu pháp, trước phải hỏi dòng họ, nếu người kia dùng trí tuệ khéo léo nói căn tánh của mình thì tuỳ theo sự thích ứng mà trao thừa pháp cho họ.
Nếu người kia không biết chủng tánh của mình, nên lần lượt cho họ nghe nói pháp ba thừa, tuỳ theo chủng tánh của họ mà nghe pháp phát tâm, sau đó phải nói thừa pháp cho họ? Nghe phải không?
Đáp: Nay ngăn tâm ác không trái với luận kia, y theo nghiệp nói dối, tuy không tin mà phạm, nay trong văn này nói lược có bốn chúng:
- Chúng Nhập chánh pháp.
- Chúng Chưa nhập chánh pháp.
- Chúng Đồng khí liền cành.
- Chúng Đồng nương bà con. Có ba. Pháp được truyền trao
1. Giáo pháp, là giáo pháp kinh luật Đại thừa
2. Lý pháp: là nghĩa lý của giáo pháp.
3. Hành pháp là phát tâm, v.v...
Nương giáo sinh giải, nương giải khởi hạnh, thứ lớp như thế, trong đây phát tâm Bồ-đề là Mười tín, Mười phát tâm là Mười trụ, trưởng dưỡng tâm là Mười hạnh. Kim cương tâm là Mười hồi hướng, không nói Mười địa vì tự chứng sẽ hiểu. Hoặc có bản kinh không có Trưởng dưỡng tâm, nên biết rất ít. Nói hoành giáo, như kinh đại Tập chép: Khuyên học Tiểu thừa là nghiệp ma, huống chi tà luận của ngoại đạo nên biết là phạm tội.
6. Giới tham của cải, bỏn xẻn pháp.
Kinh chép: Nếu Phật tử, có tâm tốt cho đến phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Phải tự học trước, sau đó dạy lại người, tham tài lợi mà sẻn pháp thì cắt đứt hạt giống Phật, trái đạo Bồ-tát, nên ở đây cấm. Trong đây ý Giải thích. Trước giảng về khổ hạnh để răn tâm, giúp cho được vững vàng, sau đó mới nói chánh pháp chân thật. Đáng trả lời mà không trả lời là không nói, nhưng chỉ vì lợi không có bỏn xẻn pháp, nên thuộc về tội nhẹ. Như luận Du-già chép: Hiện có tài pháp mà bỏn xẻn không bố thí phạm Tha thắng xứ. Chê bai thuyết Ba Bảo, như văn chấp nghĩa. Kinh Niết-bàn chép: Nếu nói chúng sinh chắc chắn có Phật tánh, hay không có Phật tánh đều là chê bai Ba Bảo Phật, Pháp, Tăng. Phạm tội nhẹ cấu, Luận Du-già chép: Có người đến cầu pháp, mà tức giận ganh ghét không bố thí là nhiễm ô trái phạm. Biếng nhác vọng niệm không nhớ thì không nhiễm ô trái phạm, không trái phạm là ngoại đạo xét lỗi, hoặc bệnh hoặc điên cuồng, hoặc muốn điều phục, hoặc đối với pháp này chưa khéo thông hiểu, hoặc lại thấy kia không cung kính, không hổ thẹn, oai nghi xấu mà đến, hoặc biết người kia ám độn lại sinh tà kiến. Hoặc biết người kia chuyển khắp phi nhân mà không thí cho, đều không phạm.
7. Giới Cậy Thế lực Quyền tởi
Kinh chép: Nếu Phật tử, tự mình vì việc ăn uống cho đến đều không có tâm hiếu thuận thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Không chỉ làm phiền não người, mà mình cũng mệt mỏi, rất chướng ngại cho hai lợi nên cấm. Như kinh Di Giáo chép: Người nhiều ham muốn, vì cầu lợi nhiều nên khổ não cũng nhiều. Thực hành ít muốn thì tâm rất thản nhiên, không lo sợ gì. Không biết đủ thì tuy, giàu mà nghèo, vì thường không thỏa mãn. Người biết đủ tuy nghèo mà giàu vì thường an vui. Nói cầu quấy cầu nhiều là phân biệt với phi nhiễm có nghĩa cầu lợi. Như luận Du-già chép: Nếu các Bồ-tát như giới kinh của Phật là giúp cho Thanh Văn ít sự ít nghiệp, ít hy vọng, lập ra già tội không để tạo tác, không nên đẳng học. Vì sao? Vì Thanh Văn tu tự lợi, đối với lợi tha trụ trong ít sự, ít nghiệp, ít hy vọng gọi là Diệu. Chẳng phải các Bồ Tát đặt lợi tha làm đầu mà không đoái hoài tự lợi. Trong lợi tha thì sống trong ít sự, ít nghiệp, ít hy vọng, gọi là Diệu Bồ-tát làm lợi tha như thế, từ người không phải bà con, trưởng giả, v.v…, nên cầu chứa các loại vật báu như trăm ngàn ý bát, v.v...
8. Giới luống dối làm thầy.
Kinh chép: Nếu Phật tử, phải học tụng giới cho đến truyền giới thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Mỗi ngày thường trì tụng hiểu rõ là thầy, biếng nhác không biết là điều mà cấm giới này. Nói tức là dối gạt mình và cũng là dối gạt người là tự làm cho pháp Đại thừa suy tổn, nên nói dối gạt mình, trao giáo pháp luống dối không lợi ích mà siêng năng khổ nhọc nên là nói cũng là dối gạt người. Bồ-tát Địa chép: làm ra vẻ oai nghi, tương tự công đức của Bồ-tát, ở đây tuy là nói dối nhưng dối gạt làm thầy thì phạm tội nhẹ cấu.
9. Giới làm cho hai bên tranh chấp:
Kinh chép: Nếu Phật tử, vì tâm ác cho đến gây ra nhiều tội ác thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Bồ-tát lẽ ra phải khen ngợi hạnh tốt của người, làm cho hai bên hoà hợp, sinh ra pháp lành, mà lại đâm thọc hai đầu cho hai bên bất hoà, trái đạo, cho nên chế ra giới này. Thấy Tỳ-kheo giữ giới: đây là đâm thọc chúng hiền lương. Tay bưng lư hương, v.v... là oai nghi hành đạo. Mà đâm thọc hai đầu, v.v... là đâm thọc cho hai bên sinh sự bất hoà. Cấu là gặp, chê bai khinh dối bên đây, bên kia, gây ra nhiều tội ác. Bồ-tát Địa chép: Nếu thấy chỗ nhiếp thọ của bạn ác là nói lời chia rẽ thì lại sinh công đức.
10. Giới Không cứu giúp kẻ còn người mất:
Kinh chép: Nếu Phật tử vì tâm từ bi cho đến nếu không như vậy, thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Văn kinh có hai ý, đầu tiên là phóng sinh để cứu nạn chết, sau là ăn chay giảng pháp cứu vớt vong linh. Đều là cha mẹ của ta là khởi quán thân thuộc rộng khắp. Như Đức Thế tôn dạy: ta không hề thấy tất cả hữu tình sống trong đêm dài sinh tử mà không từng là cha mẹ các thầy. Nói cũng là giết thân cũ của tà: là bốn đại năm uẩn thường bẩm thọ, đều là con cháu cũ của cha mẹ ta, không thể không phân thọ khí với ta. Như thế gian có câu. Trong lòng của bậc Trượng phu chí khí tự có gió mây, kẻ sĩ giao du trong bốn biển đều là anh em. Nói tất cả chất bốn đại đất, nước, lửa, gió đều là bản thân, bản thể của ta, ở đây đối với muôn vật là đồng thể, mặt đất đâu từng chẳng phải là chỗ bỏ thân, gió lửa còn là thân còn, gió lửa tan thì trở về với đất. Nên thường phóng sinh và dùng phương tiện trừ năng sở sát hiện đang khổ. Ngày có người chết mà giảng giới kinh này là mảnh ruộng tốt có hai việc tốt một là ngăn chặn được điều, không đọa vào ba đường, hai là nhờ các gốc lành nên được thấy Phật sinh về cõi trời. Giới trong giới nghĩa là giới Bồ-tát, rộng độ chúng sinh lấy lý làm gốc, vì thế chỉ giảng giới kinh của Bồ-tát.
Kinh chép: Mười giới như thế cho đến nói tướng mỗi giới. Từ mười giới sau thành sáu hoà kính. Nghĩa là mười như, kế là ba một bốn hai nhiếp nghiệp ấy kiến lợi giới đồng,
Ba giới đầu đều nhiếp ba nghiệp đồng, nên thành sáu hoà kính.
1. Giới thứ nhất không nhẫn nhục mà trái phạm: Kinh chép: Nếu Phật tử đem sân báo sân cho đến cố báo thù phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Dùng oán báo oán là trái với hạnh nhẫn nhục. Nếu mất hạnh nhẫn thì gọi là lui sụt tâm Đại thừa, nên ở đây cấm.
Nói dùng sân báo sân, v.v... là như kinh Trường Thọ Vương chép: lấy oán báo oán, oán không bao giờ diệt, lấy đức báo oán, oán mới tiêu tan, cho nên Bồ-tát không tức giận là mạnh mẽ ý. Nói nếu giết cha mẹ cho đến không thuận với hiếu đạo.
Hỏi: Theo lễ của thế gian, oán thù của cha mẹ chẳng trả thì không phải đạo hiếu, tại sao nay nói trả thù cho cha mẹ, vua chúa là trái với đạo hiếu?
Đáp: Hiếu có hai thứ, hiếu thế gian là dùng oán báo oán, như cỏ dập tắt lửa. Hiếu theo thắng nghĩa là lấy từ bi báo oán như nước dập tắt lửa, đã tin chúng sinh trong sáu đường đều là cha mẹ ta, thì đâu thể vì một người thân lại hại một người thân, kia giết thân đời này đời sau đọa vào địa ngục, chỉ đáng xót thương chớ không nên báo thù, nên dùng lòng từ bi bình đẳng cỡi mở oán thù khiến mau dứt hẳn, đó là hiếu trong hiếu. Mà Bồ-tát xuất gia không có lòng từ bi cố báo thù: xuất gia có hai, một là tâm xuất gia, hai là thân xuất gia, nên chung cho hai chúng, không nhẫn là sai. Như giới kinh chép:
Nhẫn nhục bậc đạo nhất
Phật nói vô vi cao
Xuất gia khuấy rối người
Không gọi là Sa-môn.
2. Giới khinh mạn người xem thường pháp.
Kinh chép: Nếu Phật tử, mới xuất gia cho đến nhất nghĩa đế bậc, phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Thuở xưa, có người cầu pháp, dám nhảy xuống hố lửa, muốn nghe nửa bài kệ mà treo mình trên núi Tuyết, thân vua cũng làm giường cho La-sát, y trời lại trải làm chỗ ngồi cho Dã-Can, đỉnh trời tuy tôn quý lại đội chân súc sinh, ruộng tốt thì trọng pháp làm đầu. Cho nên xem thường chế là phạm tội. Trong đây có người trí và người thông hiểu việc thế tục.
3. Giới khinh thường người mới học:
Kinh chép: Nếu Phật tử, sau khi Phật diệt độ cho đến không hết lòng chỉ bảo, phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Bồ-tát lẽ ra phải khen ngợi, khích lệ người mới học mà lại khinh thường không chỉ dạy thì chế thành tội. Như kinh Anh Lạc chép: Nếu giáo hoá một người khiến họ phát tâm thọ giới Bồ-tát còn hơn xây tháp Phật đầy khắp cõi Đại thiên. Nói sám hối trước Phật Nghĩa là khi sám hối nhớ nghĩ nghĩa này, lược nhiếp tụng rằng:
Phật thệ độ chúng sinh
Ta vào số một đời
Biến Tri khéo giúp ta,
Tất cả tội diệt trừ.
Tự Thọ Yết-ma như Bồ-tát Địa phẩm bốn mươi mốt chép: Nếu trong ngàn dặm, v.v, là nếu ông tự thọ công đức yếu kém thì không đúng. Tuy không hiện duyên nhưng tâm mạnh mẽ, như phẩm năm mươi ba chép: Tự thọ hay thọ với người, hoặc tâm bình đẳng thọ cũng giữ như thế, phước đức không khác.
Hỏi: Phẩm năm mươi ba chép: Nếu lại có người nghĩ rằng, chỗ ở của ta khó sinh sống, phải xuất gia mới dễ sống, như mà các Tỳ-kheo tu phạm hạnh, ta cũng tu phạm hạnh. Cho đến lúc qua đời nên tu phạm hạnh, giới xuất gia như thế không gọi là ý lạc tổn hại, tuy không thuần tịnh nhưng cũng chẳng thể không gọi là xuất gia thọ giới cụ túc, đã vậy thì cũng có thể không cầu Bồ-đề mà thọ được tịnh giới của Bồ-tát ư?
Đáp: Hạnh Thanh Văn lấy thân, ngữ làm đầu, tuy tâm không thuần phạm hạnh nhưng dễ thành tựu, Bồ-tát không phải như vậy, vì vẫn còn ý địa, hoặc nói văn kia nói lên tâm lộn xộn này, chẳng thể nói đều không có ý ưa thích niết-bàn.
4. Giới bỏ pháp cao siêu, theo pháp thấp kém:
Kinh chép: Nếu Phật tử, có kinh luật Đại thừa cho đến nếu cố làm thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Khó gặp Đại thừa, như kinh có nói rộng. Nói Bồ-tát là người học Đại thừa. Giữ chặt cái vô tri của mình, bị chuyển theo bạn ác, vì ngăn ngừa lỗi ấy, nên chế ra giới nầy. Nói có kinh luật Đại thừa pháp của Phật là nói giáo pháp, vì phân biệt với ngoại đạo nên nói kinh luật của Phật, vì khác với Hai thừa nên nói là pháp Đại thừa. Nói chánh kiến là hành pháp, chánh tánh là lý pháp, pháp thân là quả pháp. Mà bỏ bảy vật báu là pháp Đại thừa đáng xem trọng, từ thí dụ mà thành tên. Như bỏ bảy chất báu lại lấy gạch vụn. Hoặc có kinh chép không bỏ bảy chất báu, tức vật quý của thế gian. Trong đây thêm bớt gọi là tà kiến, luận Tiểu thừa, v.v gọi là A-tỳ-đàm. Nói thư ký là văn chải chuốt của thế gian. Luận Du-già chép: Nói tương tự chánh pháp và đoán trước số văn chương thế gian rõ ràng, tức là công đức tương tự của Bồ-tát. Là cắt đứt hạt giống Phật, chướng ngại nhân duyên của đạo, như Khế Kinh chép: Pháp Đại thừa lưu hành gọi là hạt giống Phật không bị cắt đứt Kinh Pháp Hoa chép: người học Tiểu thừa không được ở chung với. Như luận Du-già chép: Đối với Bồ-tát Tạng chưa nghiên cứu tinh chuyên, chuyên học pháp Thanh Văn và luận ngoại đạo, v.v... là nhiễm ô trái phạm. Hoặc người thông minh bậc thượng mau thọ không quên. Hoặc đối với nghĩa ấy có khả năng tư duy thông suốt. Hoặc đối với giáo pháp Phật không có động giác, trong mỗi ngày thường dùng hai phần thời gian tu học Phật ngữ, một phần thời gian nghiên cứu ngoại điển thì không phạm. Lại lại nói: Nếu nói Bồ-tát vì sao lại thọ trì tạng pháp của Thanh Văn, là nhiễm ô trái phạm: pháp ngoại đạo còn học, huống chi đối với lời Phật. Không phạm là vì một người hoàn toàn học tập Tiểu thừa bỏ dục kia nên nói như thế.
5. Giới làm pháp chủ mà không có tư cách:
Nếu Phật tử sau khi Phật diệt độ, cho đến xài dùng vật của Ba Bảo, phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Nói Pháp chủ là người nói pháp, làm Pháp chủ là giữ gìn kinh tạng. v.v Tăng phường chủ là Tri Sự, giáo Hoá chủ là Hộ Pháp hoá tục, Toạ Thiền chủ là dạy trao chỉ Quán. Hành lai chủ là người coi về chúng du phương. Rộng ra các chủ khác lấy nhân nghĩa làm trọng. Sư tử rút xương sườn để cứu khỉ con, nai chúa ở vườn Nai. Chính là việc ấy. Như tự mình có có hai nghĩa, một là chớ tuỳ ý dùng như vật của mình, hai là chớ nên dùng chỗ như mình tiếc rẻ. Nay trong giới này không thủ hộ, bị tội nhẹ cấu, y theo vật bị tổn hại phạm Ba-la-di.
6. Giới đón rước Tỳ-kheo khách trái với nghi thức:
Nếu Phật tử trước ở trong tăng phường cho đến không phải dòng họ Thích, phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Pháp lợi trong Phật pháp lẽ ra là đồng mà lại dùng không bình đẳng cho nên chế là tội. Chỗ an cứ mùa hạ: sớ Bắc Tinh châu chép: kinh luận xưa nay hoặc gọi là toạ hạ, hoặc gọi là toạ lạp, hoặc gọi là Hạ lạp, đều do không thông hiểu phương ngôn. Nay y theo bản dịch của Ba Tạng đời Đường chép: Vũ an cư, nghĩa là an cư vào mùa mưa, nhưng phương Tây lập thời gian khác nhau, hoặc lập bốn mùa nghĩa là từ mười sáu tháng giêng đến rằm tháng tư là mùa Xuân, từ mười sáu tháng tư đến rằm tháng bảy là mùa hạ, mùa Thu, Đông này mỗi mùa đều có ba tháng. Đến rằm tháng giêng, cộng chung là một năm, hoặc một năm chia thành ba mùa, Phật pháp y theo đây mà định, từ ngày mười sáu tháng giêng đến ngày rằm tháng năm gọi là mùa nóng. Từ ngày mười sáu tháng năm đến rằm tháng chín gọi là mùa mưa. Từ ngày mười sáu tháng chín đến rằm tháng giêng là mùa lạnh. Mùa mưa côn trùng sinh nhiều nếu như tăng đi lại nhiều thì khiến người đời chê bai nên chế an cư vào mùa nầy.
Nhưng sơ an cư, tức là từ ngày mười sáu tháng năm đến ngày rằm tháng tám, dù mùa mưa sắp hết, e rằng đến mùa lạnh không có lợi ích nên khai một tháng làm tháng đền bù lao nhọc. Hoặc hậu an cư từ mười sáu tháng sáu đến rằm tháng chín, thì không có tháng đền bù lao nhọc vì ba tháng mùa mưa đã kết thúc. Nay đây từ mười sáu tháng tư đến rằm tháng bảy thật là sai lầm, vì chẳng phải mùa hạ. Nói an cư mùa mưa, nói khách tăng có phần lợi dưỡng là tín thí gồm cả mười phương, Phật chế thỉnh Tăng, theo thứ lớp nên khách tăng cũng được phần. Nói bị vô lượng tội là do trộm vật của hiện tiền tăng mười phương, lợi dù nhỏ, tăng cùng phạm tội vô biên.
7. Giới Thọ người Thỉnh riêng:
Nếu Phật tử, tất cả cho đến tự mình dùng, phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Vì tổn phước vô hạn của thí chủ, cũng làm mất lợi dưỡng bình đẳng của chúng tăng nên phải cấm. Tất cả không được nhận là phân biệt với Thanh Văn, nếu chẳng phải đầu-đà thì cho phép thọ thỉnh riêng. mà lợi dưỡng này thuộc về mười phương Tăng: nếu thứ lớp thọ thỉnh lẽ ra phải thuộc về Tăng mười phương và tám ruộng phước. Tức là lấy của mười phương Tăng đem về phần mình: đã nhận cúng dường của người, chẳng phải giới trọng thứ hai. Tám ruộng phước: như trong kinh Phật v.v... ở trước đã nói. Nếu như vậy vì sao Bồ-tát Địa nói: Người đến thỉnh mà giận ghét không nhận là nhiễm ô trái phạm, cho đến giảng rộng. Có thuyết cho rằng. Người kia thỉnh theo thứ lớp, có thuyết thì nói sắp nói pháp, v.v... đặc biệt có sự giáo hoá, không liên quan gì đến thứ lớp tăng được thọ thỉnh riêng. Như thế không thọ như luận đã cấm, về sau là hơn vì trước đã nói cúng dường nói pháp.
8. Giới tự Thỉnh Tăng riêng.
Nếu Phật tử, có Bồ-tát xuất gia cho đến thỉnh tăng riêng, phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Hai chúng Bồ-tát là chánh chế, tất cả đàn việt là phụ chế. Nói được Hiền Thánh tăng mười phương là đối với tăng hoàn toàn mỡ rộng tâm cúng dường, như uống nước biển là uống nước các sông. Nói không bằng theo thứ lớp thỉnh một vị tăng phàm phu là.
Hỏi vì mở rộng tâm nên được phước như vậy, cũng có thể không lựa chọn đạt đến cơ nhất định giết, hay bị tội giết tất cả cõi hữu tình?
Đáp: Không đúng. Bản nguyện của Chư Phật cho phép tất cả được thọ, chớ không nguyện rộng hai tất cả loài khác. Không như vậy thì hữu tình kia chịu khổ lẽ ra không cùng tận. Nói phạm tội nhẹ cấu là trừ người có hy vọng đạo đức riêng.
9. Giới Tà Mạng có lúc nào Nuôi thân.
Nếu Phật tử, vì tâm ác cho đến không có tâm từ bi thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Buôn bán nam sắc, nữ sắc là mở nhà dâm để cầu lợi, việc buôn bán này phạm tội nhẹ cấu. Tự tay làm đồ ăn tức là tội như ác xúc hoại sinh, v.v... lại tạo ra sự hiềm khích thế gian. Ở đây không cấm Bồ-tát tại gia. Xem tướng nam nữ là xem việc cưới xin lại hợp với tưởng chỉ tay, v.v... giải mộng lành dữ rất dễ hiểu. Nam, nữ là bói bào thai trai hay gái, chú là bùa chú. Thuật là huyễn hoặc, công xảo là thợ giỏi. Rắn độc: như ngày mùng năm tháng năm rắn độc hợp thuốc độc, lại dùng thuốc độc để phòng rắn độc, v.v... sinh kim ngân là làm văn bạc giả để lừa dối người. Trùng độc là để sai quỉ, v.v...
10. Giới dối gạt người thêm, làm tổn hại chúng sinh:
Nếu Phật tử, vì tâm ác, cho đến phạm giới thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Chê bai Ba Bảo này thuộc về tội nặng, thứ mười, lừa dối cầu lợi đều mắc tội này, làm mai làm mối cho nam nữ giao hội dâm sắc thuộc về trọng thứ ba. Nhưng y theo làm mai mối mà kết tội nặng. Sát sinh, v.v... tuỳ theo sự thích ứng cũng như vậy, không kính ngày trai kết thành tội khinh. Nói sáu ngày là tháng có trăng, không trăng, mỗi tháng có ba ngày, đó là ngày mùng tám, mười bốn, mười lăm, những ngày này quỉ Thần có thế lực làm tổn hại người, vì đề cho người khỏi bị hại nên phải cấm. Một năm có ba tháng trường trai, như kinh Đề vị chép: Tháng giêng ngày trai chính là ngày rằm, tháng năm, tháng chín, ngày rằm cũng là ngày trái chính. Nhân duyên của ba tháng trai như kinh có nói rộng.
Kinh chép: Mười giới như thế cho đến trong phẩm “Chế Giới” có nói rộng.
Từ giới thứ chín trở xuống chia ra chánh thí, già hoành thủ, tránh tà duyên hướng về chánh thừa, phát nguyện cầu, lập thệ nhàm chán, lìa nạn, không loạn, lợi lạc, tất cả phải biết.
1. Giới thứ nhất không cứu chuộc các bậc đáng kính bị ngay nạn.
Nếu Phật tử v.v… cho đến... Nếu không chuộc thì phạm tội nhẹ cấu. Giải thích: Bồ-tát lấy việc hộ pháp độ sinh làm tâm, không cứu không chuộc là trái với lòng cung kính và lòng từ bi, cho nên không cứu chuộc thì chế thành tội. Về hình tượng cha mẹ, sư Pháp Tạng nói: Hình tượng cha mẹ mình được người chuộc, hoặc Phật tức là Cha Mẹ.
2. Giới lấy tài vật của người một cách ngang trái: Nếu Phật tử, không được cho đến nuôi thì phạm tội nhẹ cấu. Giải thích: Bồ-tát Địa chép, vật có chủ, mê vật giá rẻ mà mua,
Bồ-tát dạy hiểu ra đúng như giá mà mua. Nhưng đồ này bất hợp pháp cho ít lấy nhiều rất phạm. Nên ở đây cấm.
Nay vì giữ gìn của cải chứa dao gậy, khác với trước vì thích giết hại mà chứa. Đây tuy là cho phép tại gia được mua bán, nhưng không được dùng cân non dạ thiếu. Đây là tự thân quan phá việc thành công của người, lãnh vật chẳng có công lao. Khác trước là dựa vào người. Đã lấy vật của người cho thì chẳng thuộc về giới trộm. Nuôi mèo, chồn, v.v... để tìm táo vật.
3. Giới Luống Làm Việc Vô Nghĩa.
Nếu Phật tử vì tâm ác cho đến nếu cố làm thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Bồ-tát hành đạo phải biết tiếc thời gian, để thời gian trôi qua vô ích thì chế thành tội. Bối là ốc. Kinh Niết-bàn chép: Thổi vỏ óc để biết thời giờ. Sừng cũng là vật dùng để thổi, là khí cụ vui chơi ở phương Tây. Ba-la-Tắc-Hí: sư Pháp Tạng nói: Đó là món đồ vui chơi của binh lính các nước phương Tây, đó là hai người, mỗi người cầm hơn hai mươi viên ngọc nhỏ cưỡi trên voi hoặc ngựa, trong phần đường tranh được phần đường chính thì chiến thắng. Đạn Kỳ là dùng ngón tay gảy quân cờ, được xa là thắng. Thế gian nói gảy cờ mới có từ đời Ngụy Lục Bác là song lục. Đầu Hồ là bỏ gậy vào trong bình, hạnh tám đạo thành tựu (Đây không có giải thích). Trảo cảnh là, sư Pháp Tạng nói: Được nghe thuật sư ở Phương Tây thoa thuốc vào móng tay, mai rùa, chú nguyện vào đó thì thấy việc lành dữ. Những việc bói toán này đều là yêu thuật, lại dùng cỏ thơm để làm thuật, hoặc chú nguyện trên nhành dương, hoặc chú nguyện vào bình bát, hoặc có người sờ vào đầu lâu đều dùng để bói toán thì biết việc lành dữ.
4. Giới lui sụt Tâm Bồ-Đề.
Nếu Phật tử giữ gìn cấm giới cho đến tâm ngoại đạo, phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Tâm đại Bồ-đề là gốc muôn hạnh. Tịnh giới của Bồ-tát là gốc ba đức, nên chế phải giữ vững không được tạm bỏ. Nói đi đứng nằm ngồi là khuyên thế lực nối tiếp nhau. Như kinh Hoa Nghiêm có bài tụng:
Thí như người dùi lửa,
Lữa chưa phát đã dừng,
Thế lửa liền tắt theo
Biếng nhác cũng như vậy.
Nói giống như kim cương là ý bền chắc không thể phá hoại. Như đeo phao nổi để lội qua biển lớn là thấy lỗi nhỏ sinh tâm sợ lớn vì lỗi nhỏ cũng dể làm cho chìm đắm. Như kinh Niết-bàn chép: Bồ-tát hộ giới như giữ gìn phao nổi, thí như có người đeo phao nổi ấy muốn qua biển lớn giữa đường gặp la-sát xin phao nổi, không thể cho, biển lớn sinh tử, giữ giới phao nầy, ma phiền não xin không cho dù một chút, vì sợ chết chìm, giảng rộng như trong ấy. Như các Tỳ-kheo bị cột bằng cỏ tươi, đã sinh sợ hãi không bao giờ phạm. Như luận Trang Nghiêm nói có các Tỳ-kheo bị cướp trấn lột lõa hình nằm để dưới đất cỏ tươi trói bằng qua một đêm tỳ kheo không dám mở dây cỏ. Nhà vua nhân đi săn thấy người lõa hình bị trói bằng cỏ tươi cho là ngoại đạo, người tuỳ tùng thưa rằng đó là đệ tử Phật. Vì sao? Vì vai bên phải bị đen, là tướng y bày vai phải. Vua liền dùng kệ hỏi rằng:
Khi thấy dường không bệnh
Mập khỏe có sức mạnh
Vì sao bị cỏ trói
Suốt đêm không trở mình?
Bấy giờ, Tỳ-kheo dùng kệ đáp rằng:
Vì cỏ này dễ đứt
Bứt bỏ có khó gì
Nhưng vì Giới Kim Cương
Phật Thế Tôn đã cấm
Nhà vua sinh lòng tin bèn cỏi trói cho Tỳ-kheo dẫn về cung, may y mới, cúng dường các thứ. Huống chi giới Bồ-tát, nói nếu có một tâm niệm xu hướng theo Hai thừa, v.v... thì phạm tội nhẹ cấu, vì lui bỏ Đại thừa. Như phẩm giới trong Đại Bát-nhã chép: Nếu Bồ-tát trải qua Hằng hà sa số kiếp thọ hưởng năm dục vui sướng, đối với Bồtát vẫn không gọi là phạm, nếu khởi một tâm niệm xu hướng theo Hai thừa thì gọi là phạm.
5. Giới không Phát Nguyện.
Nếu Phật tử thường nên phát nguyện cho đến không phát nguyện này, phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Tà chánh, đúng sai đều do nguyện. Hoặc có điều lành nhỏ vời lấy vô lượng quả. Hoặc có nhiều điều lành cảm quả nhỏ hẹp dẫn hành đến quả, nguyện là quan trọng nhất. Nay ý trong văn này phải phát nguyện lớn hai ân hiếu thuận, một là ân che chở nuôi dạy sinh thân, tức là cha mẹ, hai là ân nuôi lớn pháp thân tức là thầy bạn. Hiếu thuận là nhân, nguyện lớn là duyên, sở nguyện thành tựu là ý ở đây.
Nguyện có bốn thứ như: được gặp thầy tốt, v.v... là nguyện gần gũi bậc thiện sĩ, thường dạy bảo ta, v.v... là nguyện được nghe chánh pháp. Giúp ta hiểu rõ là nguyện tác ý đúng lý. Như pháp tu hành là nguyện pháp tuỳ pháp hành. Bốn nguyện này đều thuộc về các pháp lành, cho nên ở trên nói phát tất cả nguyện.
6. Giới không Phát Thệ.
Nếu Phật tử, khi đã phát mười nguyện lớn rồi cho đến nếu không phát những điều thệ này thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Tuy phát nguyện lớn nhưng nếu chẳng phải tâm thì những ác nạn trong tập khí có thể bỏ, nghiêng vỏ ốc rót nước biển thấm vào hai cánh rưới lên rừng cây được hạt châu, cảm động đến trời Đế thích đều do thệ nguyện, cho nên chế ra giới phải khế hợp. Về mười nguyện lớn kinh phát Bồ-đề Tâm chép: Người mới phát tâm, lấy đại bi làm đầu, đều phát chuyển mười nguyện lớn chân chánh, một là nguyện từ nay về sau nếu có được gốc lành đều bố thí cho chúng sinh, với mình đều thành Phật đạo, hai là nguyện do gốc lành này được sinh về cõi nước Phật, ba là nguyện sinh về nước Phật rồi, thường không lìa Phật, như bóng theo hình, bốn là nguyện đức Như lai ta nói pháp cho nghe, thành Bồ-tát được năm thần thông, năm là nguyện do đây liền thông suốt nhị đế được chánh pháp trí, sáu là nguyện được trí tuệ, giảng nói cho chúng sinh nghe, giúp họ thông hiểu, bảy là nguyện nhờ năng phật lực cùng khắp mười phương kính Phật nghe pháp, rộng nhiếp chúng sinh khắp, tám là nguyện nghe pháp rồi liền xoay bánh xe pháp, được nghe danh hiệu ta liền phát tâm Bồ-đề, chín là nguyện chúng sinh phát tâm Bồ-đề rồi, thường tuỳ lợi lạc, gánh vác chánh pháp, mười là nguyện gánh vác chánh pháp rồi tuy thực hành chánh pháp nhưng tâm không sở hành, ấy gọi là mười nguyện lớn. Thệ chung nguyện này như chân pháp giới thật không nơi nào chẳng đến. Như cõi chúng sinh không bao giờ có lúc cùng tận. Phát nguyện này rồi lập tiếp mười ba thệ, trong đây mười hai thệ đầu là thệ nguyện giữ giới, một thệ sau là thệ nguyện chứng quả. Trong mười hai thệ đầu thì bảy thệ trước là hộ giới luật nghi, năm thệ sau là luật nghi hộ căn. Hai thứ luật nghi này như Du-già nói: Trong đây, thà bị xô thân này vào hầm lửa, v.v... lửa ở nhân gian, v.v... chỉ hại được một thân xác thịt, tội phạm giới hại cả pháp thân, nên phải biết cân nhắc.
7. Giới Cố Vào Chỗ Hiểm Nạn.
Nếu Phật tử, mỗi năm phải thực hành hai kỳ đầu đà cho đến cố vào chỗ hiểm nạn thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Thân tâm là đồ đựng đạo, không dám làm tổn thương, khi đến chỗ vắng lặng cũng phải tránh chỗ hiểm nạn. Nói đầu đà là theo âm mới là Đỗ-đa, Hán dịch là Đẩu Tẩu, vì phủi dũi phiền não sinh tử nhiễm. Như kinh Thiện Ý Thiên Tử chép: Đầu-đà là phủi dũi tham sân si, ba cõi, sáu nhập, v.v... Dựa vào Du-già, v.v... hoặc có mười hai hoặc mười ba món, đó là y thực có bốn, riêng y có ba, đồ nằm có sáu. Y thực có bốn là, một là khất thực thường kỳ, hễ qua lại nhà nào thì tuỳ ý được thọ, hai là khất thực thứ lớp, lần lượt đến từng nhà xin, ba là chỉ ăn trong một oai nghi, bốn là trước dừng lại sau mới ăn, luận Du-già chép: Hai việc đầu đối trị tham thức ăn ngon, hai việc sau là đối trị tham ăn nhiều, nếu y theo khất thực thì không có tánh khác nhau. Mười hai đỗ-đa nếu khai thêm là mười ba. Luận Đại Trí chép: Thọ thỉnh thực, nếu được thì sinh ngã mạn, không được thì sinh buồn rầu, thọ tăng thực thì theo việc chúng, tâm tán loạn, chướng ngại đạo. Thọ thường khất thực thì còn cầu một bữa ăn, nhiều thì sinh chướng ngại, huống chi tiểu thực, v.v... nên ăn trong một oai nghi, tuy một bữa ăn nhưng ăn quá no cũng chướng đạo, nên ăn vừa đủ, nghĩa là tuỳ theo sức ăn, nếu sức ăn ba phần thì chỉ ăn hai phần để lại một phần, thân sẽ nhẹ nhàng an ổn, dễ tiêu không bệnh. Trong y có ba một là chỉ giữ ba y, hai là chỉ giữ y lông thú, ba là giữ y phẩn tảo, như lần lượt đối trị tham nhiều y mềm mại tốt đẹp. Luận Đại Trí chép: Y là để che thân không nhiều không ít, ít muốn biết đủ nên thọ ba y, thích y tốt đẹp khó tìm cũng vời lấy nạn trộm cướp, nên thọ pháp nạp y, v.v...
Đồ trải có sáu, một là trụ A-luyện-nhã, trừ lòng tham xen lẫn, gần xa cách nhau một câu-lô-xá. Tây Vực Ký chép: gọi là một con trâu rống, nghĩa là tiếng rống của một con trâu lớn có thể nghe được. Luận Đại Trái chép: Tuy ra khỏi nhà, vẫn thuộc thầy trò, nhưng tâm còn tán loạn nên thọ luyện-nhã, hai là ngồi dưới gốc cây. Luận Du-già chép: Ở dưới gốc cây để dứt tâm tham nhà cửa tốt đẹp, ba là ngồi ở chỗ trống. Trí Luận chép: Để dứt lòng tham cây tốt, ánh trăng sáng chiếu khắp hư không trong vắt, tâm dễ nhập ba-muội không, bốn là ngồi ở chỗ gò mả để dứt tham dâm dật, dễ được lìa dục, năm là thường ngồi ngay thẳng để dứt tâm tham dựa nằm. Trí luận chép: Trong bốn oai nghi của thân ngồi là bậc nhất, ăn dễ tiêu hoá vì lìa được hôn trầm trạo cử, sáu là chỗ ở như thường ngồi dứt tham đồ trải, một đồ trải bày ra, rồi thì không được trải nhiều lần, lại phải sửa sang. Luận Du-già chép: Do tham ăn, v.v... nên không thuận theo phạm hạnh, như chưa nhổ lông thì không tuỳ tiện làm tấm dạ. Nay tịnh tu hạnh đỗ-đa này cho thuần thục, có sự kham nhiệm, không thâm không bớt. Trí luận chép: Phật pháp chỉ lấy trí tuệ làm đầu, không lấy khổ làm trước, pháp ấy đều là giúp đạo, Chư Phật thường khen ngợi. Nói hai thời hành đầu-đà là hai thời xuân thu đều phải đi khắp nơi, Đông, Hạ ngồi thiền là vì cực lạnh cực nóng, thích hợp thu nhiếp hành tích. Phẩm bảy mươi ba chép: Bồ-tát tuy thực hành mười hai đầu-đà, nhưng không quý các pháp như pháp A-luyện-Nhã v.v..., Giải thích: Vì thuận theo hạnh ít việc của Thanh Văn. Dương chi thơm miệng, giải nhiệt để nhai buổi sáng. Dương chi có các tính chất tốt như kinh A-hàm nói, xà-bông rửa bẩn, tắm gội sạch thân. Ba y là tướng ruộng phước của Chư Phật ba đời. Kinh Đại Bi chép: Nếu Phật tử, sau khi ta diệt độ người có giới hay không có giới, chỉ cần có người mặc ba y của Như-lai thì từ Đức Phật Từ Thị cuối cùng đến Phật Lâu-chí đều được nhập niết-bàn, không có dư sót. Bình là đồ chứa nước, bát để khất thực. Tiếng phạm là Bát-Đa-La, Hán dịch là ứng lượng khí, lớn thì chứa được nửa đấu, nhỏ thì đựng được năm siễn, luật chế bát làm bằng sắt, sánh, ngoài ra không được chứa. Đồ nằm để hộ y, tích trường dùng để ngăn rắn rít, thú dữ, lò hương là để cảm đến Phật, đồ lượt nước để cứu loài côn trùng, khăn tay để lau tay, dao để cắt móng tay, đá lửa để tìm lửa, cái nhiếp dùng để nhổ, giường dây để an thân, kinh, luật để sinh hiểu biết, tượng Phật Bồ-tát, để khởi lòng tin, vì thế đạo cụ phải đầy đủ mười tám vật. Sư Nghĩa Tịch Giải thích: trừ nhành dương, xà-bông, ba y, v.v... vì chỉ khai kinh luật Phật Bồ-tát. Nhưng các sư đời Đường nói: Ba y là ba, kinh luật là một, Phật Bồ-tát là một, mười tám món này luôn mang bên mình như chim mang theo hai cánh, là đạo cụ đã đủ, vì lìa nhiễu việc. Như kinh đại Tập chép: Bồ-tát sơ nghiệp thường ưa vắng lặng, không ưa nhiều việc, đối với người nhiều việc chớ khởi tâm giận ghét. Hoặc kinh ưu Bà-tắc-giới chép: Ưu-bà-tắc nên chứa y, Tăng-già-lê, bát, tích trượng, sao ở đây đã dùng? Hoà-thượng đáp rằng: Bồtát cũng có tâm xuất gia. Như kinh Vô Cấu Xưng khen Duy-ma-cật không lìa ba y và bát, v.v... xem văn khác rất dễ hiểu. Ở trong chỗ nạn có hai văn, một là chế sơ nhập, như kinh chép. Nếu lúc thực hành đầu-đà chớ đến chỗ có tai nạn, là tất cả chỗ hiểm nạn như quốc nạn, v.v... hai là chế trong trụ, như kinh chép: tất cả chỗ hiểm nạn ấy đều không được đến, ý nói lúc thực hành đầu đà cho đến lúc kiết hạ an cư, từ đây trở xuống lần lượt như thứ lớp nhắc lại ở trước kết phạm, các nơi có hiểm nạn nầy cũng không được vào là nhắc lại điều cấm ở đầu. Các chỗ hiểm nạn này còn như vậy, huống chi hành đầu-đà, là nhắc lại điều cấm ở sau. Thấy chỗ hiểm nạn v.v... trở xuống là nêu lỗi kết tội.
8. Giới ngồi không có thứ lớp:
Nếu Phật tử, phải theo thứ lớp ngồi đúng pháp cho đến không theo thứ lớp ngồi đúng pháp thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Trong Phật pháp giới là thượng thủ, khác thế với gian cho tuổi tác là quý, nếu tôn ty rối loạn thì không còn phép tắc giềng mối, nên nay chế, bất luận già trẻ, v.v... Sư Pháp Tạng nói: có người giải thích cho bốn chúng ngồi chung lẫn lộn là sai. Ý của văn này là nêu chung chế riêng, thật tế theo tông mình đều ngồi theo thứ lớp, Sư Nghĩa Tịch nói: các sư giải thích khác nhau, hoặc chỉ thọ giới, Bồ-tát làm thứ lớp, hoặc Tỳ-kheo trăm tuổi chưa thọ giới Bồ-tát ngồi sau Bồ-tát mười tuổi hạ. Nếu thọ thì ngồi theo số hạ như cũ, giới cũng ngược lại thành giới Bồ-tát, như tôi tớ và chủ tại gia, ở đây cũng vậy, vì tôn ti có khác, như Tỳ-kheo thọ sau ngồi trên ni trăm tuổi hạ. Một là bất luận Thanh Văn, Bồ-tát khác nhau, hễ chỉ cần người thọ giới trước thì ngồi trước, thọ giới sau thì ngồi sau. Như Trí luận chép: Văn-thù và Dilặc vào chúng Thanh Văn cũng ngồi theo thứ lớp: Tại gia trước cũng phải thọ năm giới Thanh Văn làm đều, tuy chủ thọ sau, đối với tôi tớ là trên, vì không lộn xộn, giống như Tăng Ni tôn ti không lộn xộn.
Hỏi: Nếu vậy thì xuất gia tôn quý là trên?
Đáp: Như đã cho tôi tớ thọ giới làm thứ lớp, trong đây bất luận già trẻ, khác với luật là Sa na-di lấy tuổi tác làm thứ lớp, hoặc thọ giới làm thứ lớp, Hoà-thượng Giải thích. Theo sự thật Bồ-tát tuy là tại gia nhưng ngồi trên đại tăng Thanh Văn. Như kinh A-Xà-thế Vương chép: Văn-thù nói: Cao quý-diếp ngồi trên vì là bậc cao tuổi. Ca-diếp nhường lại Giải thích: chúng tôi xin ngồi sau vì Bồ-tát là bậc tôn quý, Xá-lợi-Phất nói: Chúng tôi cũng là bậc tôn quý, nhưng đã phát tâm vô thượng. Ca-diếp nói: Bồ-tát tuổi tác cũng tôn quý, thời gian lâu cũng sẽ phát tâm Vô thượng. Nên ngài Văn-thù đem hai ngàn Bồ-tát tại gia đến ngồi ở trước Cứ-diếp khiêm, năm trăm như ca diếp v.v... Thanh Văn ngồi sau. Tuy nhiên, nếu các vị Thanh Văn kia bất hoà thì ngồi theo thứ lớp. Như Trí luận chép: Trong pháp của Đức Thích Ca không riêng Bồ-tát Tăng, cho nên đức Văn-thù, Di-lặc vào trong chúng Thanh Văn cũng ngồi theo thứ lớp, ở đây nói hiện thân xuất gia làm đầu, bấy giờ cho phép hiện tướng chúng khác. Nếu theo Văn-thù, thật giới ngồi theo thứ lớp đã trải qua ba đại kiếp không được ngồi lộn xộn, cũng chẳng phải khắp học vào chúng Thanh Văn. Hoặc thọ giới Thanh Văn như Phú-lâu-na, là chúng Thanh Văn chẳng phải Bồ-tát. Tóm lại, nếu hoàn toàn là Thanh Văn không thọ giới Bồ-tát thì ngồi theo thứ lớp. Sau thọ giới Bồ-tát, tuy tuổi hạ Thanh Văn nhiều, nhưng vẫn y theo giới Bồ-tát mà ngồi theo thứ lớp. Nếu đã thọ giới Bồ-tát trước, sau chuyển thừa thì mới thành tựu. Trong Bồ-tát thừa người nữ thọ trước ngồi trên người nam nhưng không ngồi lộn xộn. Vua quan, tớ chủ chủ nếu y theo thế tục mà ngồi như tôn ti của thế tục. Nếu ngồi theo pháp thì đều lấy việc thọ giới làm thứ lớp. Do đây kinh chép: Tất cả bất luận hễ thọ giới trước thì ngồi trước.
Hỏi: Bồ-tát có mấy chúng?
Đáp: Theo Trí luận là bốn chúng. là ý của luận kia bằng thọ ba nhóm vì xuất gia, tại gia, nam nữ có khác.
Hoặc khắp học là như Thanh Văn.
9. Giới không thực hành lợi ích an vui:
Nếu Phật tử, thường phải khuyến hoá cho đến không như vậy thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Hai pháp lành phước và tuệ như hai bánh xe, thiếu một bánh thì quả cao quý khó thành, vì thế khuyến hoá lập chỗ hành đạo, tức là phước hạnh, giảng kinh giúp mọi người hiểu rõ tức là trí hạnh. Tu phước sinh tuệ gọi là lợi, pháp lực cứu nạn gọi là lạc, như theo thứ lớp văn ấy rất dễ hiểu. Tật bệnh trở xuống tức là cứu nạn. Qua lại trị sinh là người ở phương Nam kinh doanh sản nghiệp là nuôi sống, nuôi sống không có lợi cũng giảng Đại thừa. Trong cứu khổ tội báo, báo là báo tội trong ba thời. Trong cứu nạn địa ngục, trói tay gọi là xiềng, buộc chân gọi là cùm, xiết cổ gọi là gông, thắt lưng gọi là xích, đều có nghiệp báo dẫn đến tội này. Thường tật bệnh là người thường bị bệnh, v.v... do việc làm đời trước mà ra, nhưng có khác nhau, vì sao đều phải giảng Đại thừa? Vì Đại thừa lấy lợi sinh làm đầu.
Kinh chép: Chín giới như thế cho đến trong phẩm “Phạm Đàn” có giảng rộng. Phạm Đàn, Hán dịch là “Mặc Tẫn”, vì không chịu điều phục nên mặc tẫn để trị. Từ chín giới sau là dùng từ bi để giáo hoá, năm giới kế là nhiếp khí. Phân biệt với phi, với ngoại hộ, với nội hộ, với cung kính, bốn giới sau là như thứ lớp, thuyết hoá, ngăn ác, hộ chánh, việc làm nên biết.
1. Giới thứ nhất lỗi của sự nhiếp hóa:
Nếu Phật tử, lúc cho người thọ giới cho đến nếu cho người thọ giới thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Người có pháp thì có khả năng lãnh thọ giới, không chọn mà xả bỏ thì bị lỗi nhiếp hoá sai sót, cho nên Phật chế. Tất cả y mặc trên thân đều phải hoại sắc, đặc biệt chế cho người xuất gia. Ca-sa, Hán dịch là bất chánh sắc, nghĩa là mầu xanh, v.v... đủ năm mầu hợp lại không còn chánh sắc, nên gọi là Hoại sắc. Tuy nói xanh, v.v... nhưng chẳng phải là chánh mầu xanh, v.v... Như kinh Văn-thù Vấn chép: Văn-thù bạch rằng: Bạch Đức Thế tôn! Y có mấy mầu? Phật dạy, này Văn-thù! Không quá đỏ, không quá vàng, không quá đen, không quá trắng, ba pháp phục thanh tịnh đúng pháp các y khác có màu cũng như vậy. Hoặc tự nhuộm hoặc nhờ người nhuộm, đúng pháp đập xong, hễ mặc xong thì giặt giũ cho sạch sẻ, như thế vật của quan được dùng nhiều mầu xanh vàng. Y nói tất cả cõi nước, theo y phục của người trong nước mặc, y phục của thầy Tỳ-kheo phải khác với y phục người thế tục. Như kinh Di Giáo chép: Tỳ-kheo các thầy phải tự xoa đầu, đã bỏ trang sức tốt đẹp, mặc y loại sắc, ôm ứng khí để khất thực tự nuôi sống, tự thấy như thế, nếu sanh tâm kiêu mạn thì phải mau dứt trừ, thêm lớn kiêu mạn, tại gia thế tục còn chẳng thích hợp, huống chi là người xuất gia nhập đạo. Nói không được cho người phạm tội bảy nghịch thọ giới trong đời này: có thuyết Giải thích: Người xưa sám hối bảy tội nghịch vẫn còn nên nói hiện đời không đắc giới. Nếu y theo lời dạy sám hối, tội diệt thì được thọ giới. Như kinh Tập Pháp Duyệt giải thích: Tung Đà-la-ni diệt năm tội nghịch có thuyết Giải thích: không đúng. Vì không có văn sám rồi đã được thọ phá. Nói nếu có đủ bảy già, vì mỗi tội đủ duyên thành phạm, chẳng nói phải đủ bảy mới phạm, khi phá pháp luân tăng, không phá yết-ma tăng, nhưng chê bai pháp yết-ma, vì thế chỉ nói phá yết ma chớ không nói Tăng, chỉ phá yết-ma tăng không bị già nan, chỉ lấy phá pháp luân tăng lập thành một tội nghịch. Kinh Thiện Sinh chép: Giết chúng sinh phát tâm Bồ-đề, không được thọ giới Bồ-tát, trong đây thuộc về gì? Nghĩa là nói Hoàthượng, xà-lê, vì kia đã vào trước. Nói người xuất gia không lạy nhà vua, v.v... nghĩa là vua chúa, v.v... dù có giới hay không tất cả đều không bằng công đức của người xuất gia. Cho nên nếu người xuất gia lạy người tại gia thì người tại gia mắc vô lượng tội.
2. Giới tham đệ tử nhiều.
Nếu Phật tử, giáo hoá người cho đến cho người thọ giới thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Phải dạy thỉnh hai thầy: Hoà-thượng là gốc đắc giới, A-xà-lê-Da là nhân duyên đắc giới. Kinh Phổ Hiền Quán dạy thỉnh ba thầy, vì sinh tâm hết lòng. Du-già chỉ dạy thỉnh một thầy, đó là người làm nhiều việc nghĩa.
Kinh Thiện Giới chép: Thầy có hai loại, một là bậc thầy không thể thấy đó là Chư Phật Bồ-tát, hai là bậc tầy thấy được, đó là thầy truyền giới. Lại Giải thích: Nếu không đối trước Phật, Bồ-tát thệ nguyện thọ giới thì không được gọi là giới Bồ-tát, nên biết nói chung tương đối. Là chỗ tôn thờ.
Hỏi: Bảy già nạn làm chướng ngại giới này, như kinh Thiện Giới, y theo đủ đức?
Đáp: Đủ mười việc mới được thọ, nghĩa là trước đã thọ giới Thanh Văn, v.v...
Hỏi: Kinh Ưu-Bà-tắc Giới chép: thọ giới Ưu-Bà-tắc có mười lăm già nạn, vì sao thông thường chỉ hỏi bảy già nạn?
Đáp: Vì kinh ấy dựa theo tánh cận sự nên không trái nhau. Nói dạy sám hối, như kinh Niết-bàn chép: Thế gian có hai hạng người mạnh nhất, đó là người không gây ra tội và người đã gây ra tội rồi mà biết ăn năn sám hối, vì làm người ai mà không có lỗi, có lỗi mà biết sửa đổi thì không có gì hơn.
Du-già chép: Dốc lòng sám hối, như Đức Thế tôn dạy, đối với phạm tội do ý lạc nên ta nói có thể thoát ra, chẳng trị phạt là thuốc sám hối dứt trừ được tội. Kinh Thiện Giới chép: Bồ-tát che giấu tội nặng thuộc về gốc tội, nếu chỉ che giấu tội Tăng tàn thì cũng phạm tội Ba-la-di. Phẩm Đẳng Tuỳ chép: Nếu Thanh Văn che giấu thì chỉ phạm tội Đột-cát-la. Ngàn Phật ba đời, sư Pháp Tạng nói: Kiếp trang nghiêm ở quá khứ có Đức Phật Hoa Quang v.v... một ngàn vị Phật như. Hiền kiếp thời hiện tại có Đức Phật Câu Lưu Tôn một ngàn vị Phật khác như Kiếp Tinh Tú thời vị lai có một ngàn vị Phật như Đức Phật Nhật Quang, v.v... đây là nói theo hiển bày lý chung cho tất cả. Nói nếu không được thấy tướng tốt thì dầu có sám hối cũng vô ích, đây là nói triền phẩm thượng phạm lỗi, chẳng phải triền phẩm trung hạ. Như Du-già chép: lại nữa, tất cả Bồ-tát nầy trái phạm, nên biết đều thuộc về ác tác, nên hướng về người có đạo lực lời nói biểu nghĩa năng giác năng thọ giới Tiểu thừa, Đại thừa BổĐặc-già-la mà phát lồ sám hối thì tội liền diệt. Nếu các Bồ-tát triền phẩm thượng phạm tội Tha thắng xứ mất giới luật thì nghi phải thọ lại. Nếu triền phẩm trung nên đối trước ba người, hoặc hơn số này mà phát lồ sám hối lỗi đã phạm. Nếu triền phẩm hạ phạm Tha thắng xứ và phạm tội khác (tội nhẹ nói là khác) thì nên đối trước một người sám hối. Nếu không thuận theo Bổ-Đặc-già-là có thể đối phát lồ sám hối trình bày lỗi đã phạm, dùng ý lạc thanh tịnh khởi tâm tự thệ, ta phải quyết định phòng hộ đời tương lai không hề tội nặng. Nay trong đây nói dù sám hối vẫn vô ích, sứ Pháp Tạng và sư Nghĩa Tịch nói triền phẩm thượng thì mất giới, nếu sám hối thấy được tướng tốt thì giới cũ sẽ sinh, không cần thọ lại. Nếu không thấy được điều lành, giới cũ đã mất, nên nói hiện đời không đắc giới, chẳng phải bảy già nạn lại thọ, nên nói “nhưng được tăng ích thọ giới”, ý nói khác với bảy già nạn, là kết, nói lên phạm nặng và tội nhẹ cấu, khác với bảy già nạn, không bao giờ được thọ giới khi đã phạm bảy già nạn. Nói đều thông hiểu, như Du-già chép, chỉ tứ người có đức như văn có kia nói. Trong kinh cho phép vợ chồng làm thầy truyền giới lẫn nhau cũng là từ người có đức. Nói “nếu không thông hiểu kinh luật Đại thừa v.v... là không thông hiểu giáo pháp. Nói không hiểu Đệ nhất nghĩa đệ là không thông hiểu lý pháp, không thông hiểu tập chủng tánh, v.v... là không thông hiểu hành quả. Tập chủng tánh tức là Mười Phát thú, vì nhóm họp đầu tiên. Trưởng dưỡng tánh tức là Mười Trưởng dưỡng tánh, vì dần dần thêm lớn. Bất khả hoại tánh là Mười hồi hướng vì đã vững chắc. Đạo chủng tánh thuận quyết trạch phần vì dẫn đến Thánh đạo, tuy thuộc về hồi hướng nhưng nói riêng như thường. Do đó, giai vị Nhân Vương Mười Hồi Hướng đều gọi là đạo chủng. Chánh pháp tánh tức là Thánh chủng tánh, nhiếp chung Phật địa, đã rõ chân tánh gọi là Chánh pháp tánh. Nói mười chi thiền là gom chung mười tám phần lại thành mười chi. Hỷ lạc định, v.v... tuỳ nơi tuy có khác nhưng danh nghĩa thì giống nhau. Mười chi gồm có: tầm tứ, hỷ, lạc, định, nội đẳng, tịnh, xả, niệm, chánh tri và xả thọ. Dù biết nội đẳng tịnh tức là xả niệm chánh trí, vì chung riêng có khác nên lập riêng làm số, truyện chép rằng: Nói ác cầu, v.v... là cầu lợi phi pháp, đam mê không thoả mãn gọi là Tham, ra vẻ oai nghi khác lạ gọi là dối, lùa dối người là khi. Giới này có khác gì giới thứ mười tám kia, giới ấy cấm biếng nhác nhưng, ở đây cấm đệ tử, vì tham lợi mà ác cầu.
3. Giới nói giới cho người ác nghe.
Kinh chép: Nếu Phật tử, không được cho đến nếu giảng nói giới của Bảy Đức Phật thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Phẩm bốn mươi của luận Du-già chép: Đối với người không tin và chê bai Đại thừa thì không được giảng nói khai ngộ bừa bãi, vì sao? Vì người ấy nghe rồi không thể tin hiểu, bị sở tri chướng che lấp, liền sinh chê bai, vì chê bai giống như người đã trụ luật nghi tịnh giới của Bồ-tát, thành tựu vô lượng kho công đức rộng lớn, người kia chê bai nên cũng bị vô lượng kho tội nghiệp lớn theo bên mình, vì có lỗi lớn như vậy nên ở đây cấm. Trong đây, người chưa thọ giới, ngăn không phát tâm được. Như Luận Du-già phẩm bốn mươi chép: khi muốn truyền giới Bồ-tát, trước phải nói pháp tạng Ma-Đát-lý-ca của Bồ-tát, học xứ của Bồ-tát và tướng phạm của Bồ-tát, giúp cho người thọ giới nghe nhận, dùng tuệ quán sát từ chỗ ý lại có khả năng thể suy nghĩ lựa chọn. Nói ngoại đạo là tìm lỗi của chánh pháp. Nói người ác là nghe rồi chê bai, đại tà kiến là bác bỏ chung lỗi của nội đạo và ngoại đạo, vì sợ họ thêm lớn việc ác nên không giảng cho họ nghe. Như kinh Thiện Giới chép: không được giảng cho người không tin, cho đến không được giảng cho người chê bai Đại thừa nghe, vì sao? Vì nếu người không tin thì đó là nhân duyên đọa vào địa ngục. Ngoại trừ vua chúa là Phật pháp giao phó cho hai hạng người, một là đệ tử Phật gọi là nội hộ, hai là các vua chúa gọi là ngoại hộ, nên giảng cho họ nghe. Lại vua có thế lực nên dựa vào giới luật nghi sách tấn răn bảo người thực hành, nên phải biết. Nói hạng người không thọ giới của Phật gọi là súc sinh nghĩa là thân này tuy là người nhưng vì không làm nhân lành nên bị gọi như thế.
4. Giới cố ý làm trái giới cấm của Phật.
Kinh chép: Nếu Phật tử, do đức tin mà xuất gia cho đến phá huỷ chánh giới thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Tâm còn không được thầm nghĩ việc phạm giới huống chi Bồ-tát lại làm việc hủy phạm, hoặc trọng hoặc nhẹ, trái lời Phật dạy thì phạm tội này.
Nói không được thọ lãnh đồ cúng dường của tất cả đàn việt, chẳng những tự thêm tội mà còn tổn phước người. Không được uống nước của Nhà Vua: người xuất gia tránh việc nặng nhọc thì chẳng phải ruộng phước, đối với nhà vua không có ân phần nên không sử dụng được, vì thế nói là tên cướp nguy hiểm. Có tội thì đồng với súc sinh, không có điều lành thì đồng với cây gỗ.
5. Giới Không xem trọng kinh luật.
Kinh chép: Nếu Phật tử phải thường nhất tâm cho đến không y theo pháp cúng dường thì phạm tội nhẹ cấu. Giải thích: Trong đây khó so sánh với dễ, lời văn rất dễ hiểu, đều tùy theo năng lực của mình của báu cúng dường, ý ở đây, trong Du-già, Trung Biên,. v.. v.... có nói mười thứ pháp hành trong đây phải đủ. Du-già nói cúng dường Ba Bảo là giới khinh thứ nhất. Kinh Thiện Sinh chép: Nếu làm y phục, bình bát, trước phải dâng lên cúng dường Phật, cha, mẹ, thầy bạn, thọ dụng trước, rồi mình mới dùng. Nếu người dâng lên cúng Phật phải dùng hương hoa chuộc lại.
6. Giới Không Giáo Hóa hữu tình.
Kinh chép: Nếu Phật tử, nên có tâm đại bi cho đến không phát tâm giáo hóa chúng sinh thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Tất cả thánh đạo lấy âm thanh của người làm gốc, tuy có tánh ấy nhưng không giáo hóa thì không thành, cho nên phải giáo hóa. Hữu tình có trình độ thấp kém nếu không lãnh hội nổi thì âm thanh lọt vào lỗ chân lông, xa làm nhân duyên Bồ-đề, lời văn trong đây rất dễ hiểu. Nhưng Du-già chép: Dùng phương tiện khéo léo giáo hóa chúng sinh lược có sáu thứ:
1. Có năng lực giúp cho hữu tình chỉ cần chút ít gốc lành mà cảm được vô lượng quả. Là khuyên hữu tình bỏ chút ít của cải, cho đến dù chỉ một hạt gạo bố thí cho người nghèo hèn, nhẫn đến bố thí cho loài bàng sinh máy cựa, hồi hướng cầu quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, gốc lành bố thí như thế ruộng phước tuy ít nhưng do năng lực hồi hướng chiêu mà cảm được quả vô lượng, hai là giúp cho hữu tình nhờ chút ít công đức dẫn dắt gốc lành rộng lớn vô lượng. Tóm lại: là dựa vào tà pháp để nói chánh pháp, lại ở thế gian gieo trồng nhân duyên phước thọ là tùy hỷ khuyên người cũng như vậy. Lại nguyện chịu khổ thay cho hữu tình ở mười phương với ý ưa thích đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng, cho đến khi qua đời không luống uổng. Lại tất cả những trái phạm ở quá khứ và hiện tại dùng ý thanh tịnh quán tưởng đối trước Chư Phật chí thành phát lồ sám hối cho đến kiếp vị lai, thường dùng chút ít công đức như thế, thì tất cả nghiệp chướng đều được giải thoát, như trọng ấy đã giảng rõ. Ba là ghét bỏ Thánh giáo, dứt hết sân não, bốn là đối với hữu tình giúp họ hướng về, năm là đã vào rồi thì giúp họ được thành thục, sáu là đã thành thục rồi thì được giải thoát, lần lượt phân tích bốn phần trước lại có sáu thứ phương tiện khéo léo, một là thuận theo hiểu thông phương tiện khéo léo, thuận theo ý muốn của hữu tình kia, sau đó dùng pháp giáo hóa. Lại đối với pháp sâu xa hiểu thông rồi giảng, hai là cùng lập phương tiện khéo léo khế hợp, nghĩa là thấy có hữu tình đến cầu thì dùng phương tiện khéo léo khế hợp mà dạy: nếu ông muốn tu pháp lành thì ta sẽ thuận theo giảng nói, lại cứu người bị khổ cũng như vậy, v.v... ba là khác phần ý, lạc phương tiện khéo léo, giáo hóa người kia rồi mà họ chẳng làm theo, nên vì lợi ích lại phải thị hiện tức giận quở trách mà không bố thí cho họ, tạm thời buông bỏ, cuối cùng trở về chỗ an ổn, bốn là bắt buộc chỗ sinh phương tiện khéo léo, hoặc chủ nhà, hoặc Quốc vua được năng lực tăng thượng, buộc phải tu pháp lành, năm là phương tiện khéo léo thi ân báo ân, đối với hữu tình tùy năng lực ít nhiều bố thí làm ân huệ, hoặc cứu giúp ách nạn, kia muốn báo ân. Bấy giờ, Bồ-tát khuyên tu pháp lành để thọ ân báo ân, bảo rằng chớ đem của cải thế gian mà báo đáp, sáu là rốt ráo thanh tịnh phương tiện khéo léo, được rốt ráo tám tướng thành đạo, phương tiện như thế phải học.
7. Giới nói Pháp trái với nghi thức:
Kinh chép: Nếu Phật tử thường phải có lòng đại bi, phát tâm giáo hóa cho đến nói pháp không đúng pháp thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Kính người trọng pháp thì pháp lành cao quý mới sinh, nếu không như vậy thì sẽ sinh lại pháp ác. Quý nhân trong đây thường ngã mạn nên chỉ nêu về điều này. Nói người nghe ngồi thấp, vì sinh kính trọng. Như Nhiếp Luận chép: Nếu người có đủ giới tuy yếu kém hơn có khả năng nói lợi ích cho nhiều người, như Phật Thế tôn đáng được cúng dường, thọ pháp lành kia cũng nói tương tợ. Lại kinh Niết-bàn chép: Nếu có người biết pháp, hoặc già hoặc trẻ như tầng Trời thứ hai kính thờ Đế-Thích.
8. Giới Lập Chế Phi Pháp.
Kinh chép: Nếu Phật tử, đều có lòng tin cho đến làm những tội phá Ba Bảo thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Nếu đối với người ác không cho xuất gia, không cần tạo tượng và buôn bán, v.v... theo lý lẽ ra không phạm, ngoài ra đều kết phạm.
9. Giới Phá Diệt Phật Pháp.
Kinh chép: Nếu Phật tử do lòng tốt mà xuất gia cho đến nếu cố phá giới pháp thì phạm tội nhẹ cấu.
Giải thích: Nói là sai mà phá chỉ ở trong nội đạo, còn ngoại đạo thì chẳng được phép. Như Kinh Liên Hoa Diện chép: Phật bảo A-nan, Này A-nan! Thí như sư tử chết, hoặc trên hư không, hoặc ở dưới nước, hoặc trên đất liền, tất cả chúng sinh đều không dám ăn thịt sư tử, chỉ có giòi bọ trong thân sư tử ăn thịt sư tử. Này A Nan! Phật pháp của ta, chẳng có ngoại đạo nào khác làm hư hoại được, trong pháp của ta, tất cả Phật pháp đã nhóm họp trong suốt ba đại a-tăng-kỳ kiếp chứa nhóm hạnh siêng năng khổ nhọc, mới bị các Tỳ-kheo phá hoại.
Kinh chép: Chín giới như vậy phải học, hết lòng kính trọng vâng giữ.
Giải thích: Ba môn giới nhẹ từ môn thứ ba trở xuống là môn Kết khuyên vâng giữ.
Kinh chép: bấy giờ, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni., cho đến phẩm Thất Hạnh.
Giải thích: Quyển đầu và quyển cuối, đầu tiên chia làm ba đoạn, đây là phần lưu thông thứ ba, ý văn này nói khi một Đức Thích-ca hành tác ý thì các Đức Thích-ca khác cũng như vậy, nên biết từ Ma-hê-Thủ-la, v.v... là nói Mười thế giới hải, v.v... như quyển đầu nói, Tâm Tạng, v.v... là truyện chép Tâm Tạng tức là Ba Hiền. Địa Tạng tức là địa vị Mười thánh. Giới Tạng là mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh. Vô lượng hạnh nguyện tạng là Ba Hiền. Mười Thánh đã có hạnh nguyện ở trên. Nhân là ba kiếp, quả v.v... là bốn trí là Phật tánh thường trụ thanh tịnh pháp giới. Từ đây trở xuống là tổng hết, lời văn rất dễ hiểu.
Kinh chép: Người nhẫn trí tuệ mạnh mẽ, cho đến mau được thành Phật đạo.
Kinh Phạm Võng cổ Tích Ký quyển hạ. (hết).