TẠNG LUẬN
SỐ 1816 – KIM CƯƠNG BÁT-NHÃ LUẬN HỘI THÍCH
Đời Đường, ngài Khuy Cơ biên soạn.
Bộ này chia làm ba phần:
1. Kính Đại sư nêu lên ý sớ thích luận này.
2. Chia khao tông nghĩa, giải thích văn kinh.
3. Than tiếc cho pháp sâu xa bị chôn vùi.
Trong phần một: Ba bài tụng chia ra làm hai: Hai bài rưỡi. Đầu là Qui kính Đại sư, nửa bài tụng sau nêu lên ý sở thích luận này.
Trong phần một lại chia làm hai. Hai bài tụng đầu nói riêng về Tam bảo, nửa bài tụng sau lễ chung bậc Đại sư. Trong phần đầu lại chia làm hai: Một bài tụng rưởi đầu chỉ quy theo Pháp, nửa bài tụng sau là quy theo kính Phật và Tăng. Trong phần kính Pháp chia ra làm ba: Nửa bài tụng đầu khen ngợi Phật pháp công đức thần lực của. Vì xuất hiện ở đời bằng báo thân hóa thân để nói về Pháp thân. Nửa bài tụng kế là khen ngợi Phật pháp sâu xa mầu nhiệm, vì lý lẽ ngay theo thẳng đều giáo ngộ kẻ mê. Nửa bài tụng sau khen ngợi Phật pháp mầu nhiệm. Vì văn lược mà nghĩa rộng uy theo thế vượt trội. Bậc có trí chính là Phật. Nhân nghe rồi mà nói cho ta nghe chính là Bồ-tát Từ Thị. Luận về kệ của Thiên Thân do Bồ-tát Di-lặc nói cho ngài Vô Trước, ngài Vô Trước trao cho Thiên Thân vì muốn cho Thiên Thân soạn luận để giải thích.
Thiên Thân soạn kệ rằng:
Cú nghĩa, pháp môn và thứ lớp.
Thế gian vô trí không thể hiểu
Chỉ bậc Đại trí hiểu pháp ta.
Di-lặc đích thân dạy theo Vô Trước, Vô Trước dạy theo lại Thiên Thân. Nhờ ruộng Phước qui kính mà giáo lý được phổ biến rộng khắp. Nhưng nói ba câu kệ này là vì đã dựa vào kinh và khả năng của mình mới nói được những điều cần nói, dạy theo nương vào những nghĩa y, tôn kính là đứng đầu, thâu nhiếp tất cả những thứ khác.
Kế là chia khoa tông nghĩa, giải thích văn kinh chia làm hai: Đầu tiên là nói bảy theo câu, trình bày theo cương yếu rộng lớn. Sau là Đức Thế tôn làm thế nào để được vắng lặng, giải thích lại văn trước, giải thích ngọn nguồn của Huyền Tông văn đầu tiên lại có hai: Trước là nêu bảy theo câu nói lên đại ý của toàn bộ, phần sau giải thích văn phối trước, những điểm tồn tại trong văn kinh, các danh nghĩa được nêu rõ ràng, giải thích danh cú để dạy giải thích nghĩa gọi là câu có nghĩa, vì câu mang đầy theo đủ ý nghĩa. Hoặc nghĩa là cái được giải thích, văn là cái có khả năng giải thích vì văn tùy nghĩa đều có bảy. Gọi là câu bảy theo nghĩa " vì như văn như nghĩa đều có bảy. Nếu dựa theo câu pháp môn nghĩa và thứ lớp pháp môn cú nghĩa của ngài Thiên Thân thì nghĩa của câu gọi là câu nghĩa hoặc chỉ nói là nghĩa. Trong phần nêu bảy theo cú nghĩa chia làm hai: Đầu tiên nêu ra bảy theo câu, sau là nói bảy theo câu có khác. Trong văn đầu có ba: Một là nêu kề là trình bày theo và sau là giải thích kết luận. Trong bảy theo thì sáu điều trước là nghĩa được vì là việc của Bồ-tát. Câu Địa thứ bảy theo là câu có khả năng giải thích năng nghĩa cú. Hai là giải thích nghĩa cú: Đều có khả năng giải thích. Trong sáu câu trước thì ba câu đầu là nói theo thứ lớp, ý nghĩa được phân dứt sau là nói ba trụ xứ rõ ràng, đối trị với những cố chấp ở trong đạo. Không mất trung đạo đã tu. Địa là biệt vị của hai pháp này gọi chung là trụ xứ vì là chỗ nương cho nhân phát tâm Đại thừa nên gọi riêng là Địa. Các pháp hữu lậu, vô lậu trong địa vị kia sinh ra thuận theo địa vị đó, gọi là Biệt thắng pháp, có khả năng giữ gìn không mất, gọi đó là Địa. Làm chỗ nương chỗ dừng có cả các pháp thì gọi là Trụ. Biệt pháp có công năng giữ gìn, có công năng sinh ra gọi là Địa, là hai điều khác nhau.
Phần sau giải thích văn trước, xếp đặt những điều có trong văn kinh chia làm bảy theo vì giải thích tùy trước nêu. Hạt giống Phật không bị cắt đứt có hai nghĩa: Một là nói Phật có khả năng khéo thâu nhiếp, khéo phó chúc. Thiện hiện nêu lời thưa hỏi, thỉnh Phật cho mọi nhân nghe nói pháp, giúp cho các Bồ-tát nương vào đó tu học được nối tiếp hạt giống Phật, không bị cắt đứt. Phần sau của luận sẽ giải thích vì có sáu nguyên nhân. Thiện Hiện thưa hỏi để cho hạt giống Phật không bị cắt đứt. Hai là nói Phật có khả năng khéo nhiếp phục, khéo phó chúc giúp cho các Bồtát được nhiếp phục, được phó chúc là dựa vào địa vị của mình mà tu, do đó Phật có thể giúp cho nối tiếp hạt giống, không để cắt đứt. Cho nên luận kết thúc rằng: Hai loại khéo nhiếp phục, phó chúc này đã nói lên hạt giống Phật không bị cắt đứt. Cho nên kinh chép rằng: Dạy theo phát tâm Bồ-đề giúp cho hạt giống Phật không đứt tức là đây.
Văn lại chia làm bốn: Một là nêu hạt giống Phật không cắt đứt là đại cương của hỏi đáp, nghĩa lớn của Huyền tông. Hai là nêu riêng cách phối hợp văn. Ba là giải thích từng câu hỏi. Bốn là kết thành từ những câu hỏi trước. Ý hỏi đáp trong toàn bộ kinh đều là muốn làm cho hạt giống Phật không đứt vì có hỏi mới có đáp. Đầu tiên theo những tác phẩm nổi tiếng cho nên kế đến là chỉ riêng ra, căn cứ vào câu hỏi thì trong đây đầu tiên là nêu chung thật nghĩa của luận, cho nên nói: Bát-nhã làm cho hạt giống Phật không đứt mà được lưu hành ở đời.
Trong phần phối hợp văn riêng, ít có thay Thế tôn ý là nêu khen chung. Còn phần Như lai về sau là nói riêng. Khen ngợi ít có có ba nghĩa: Một là vì có khả năng nhiếp phục phó chúc, Phật trở thành ít có chứ người khác không thể được. hai lâu lắm ngài mới xuất hiện một lần, trong nhiều kiếp không thể thấy. ba là Phước đức trí tuệ của Ngài sinh ra cõi nước trang nghiêm không ai bằng, trong đây Thế tôn là danh hiệu thứ mười, Như lai là danh hiệu đầu tiên, ở cuối bao gồm cả đầu, lược bỏ phần trung gian, cho nên đoán rằng: Cho đến Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác do nêu cái cuối lược bỏ phần sáu ở giữa, cho đến phần phần đầu có ba, văn còn lại đều lược bỏ vì không phải là lời chí cực. Về mười hiệu, như Du-Già quyển tám mươi hai giải thích. Lại bản luận này nhắc lại kinh rằng: Vì sao Như lai dùng khéo nhiếp phục bậc nhất v. v... nói "trong bản kinh khống có lại vì sao" ở đây muốn khen Phật ít có, khéo nhiếp phục mời nói là vì sao. Lại thành hỏi Phật, chẳng phải ngữ từ khen ngợi rất trái nghịch. Khéo nhiếp phục v. v... là: năng đoán rằng nói tối thắng để nhiếp thọ, văn khác chỉ nói là khéo hộ niệm, văn sau sẽ khai mở. Đệ nhất và thiện, hai nghĩa khác nhau. Từ Tối Thắng đầy theo đủ hai nghĩa là: thiện và nghĩa có công năng nhiếp thọ pháp phần sau luận sẽ tự giải thích. Giải thích thích từng câu hỏi rằng: Trong đó khéo nhiếp phục... là hợp kinh và hai luận, nhiếp phục phó chúc có sáu nghĩa: Một là có công năng nhiếp phục phó chúc: Như lai chỉ ở quả vị. Luận Du-già quyển ba mươi bảy. Nói khéo thành tựu có sáu: Một là Thắng giải thích hành địa Bồ-tát. Hai là Tịnh thắng ý lạc địa Bồ-tát, bà là Hành chánh địa Bồ-tát, bốn là Tùy quyết định địa Bồ-tát, năm là Quyết định hạnh địa Bồ-tát, sáu là Đáo cứu cánh địa Bồ-tát. Những thứ đó là ở nhân vị, đây là nói quả vị, nói tất cả các quả vị thấu đạt các pháp sâu xa mầu nhiệm vì các quả vị khác không thể đạt được. Lại ở đây, nói Pháp Vương: Khi Phật còn tại thế và khi Phật nhập diệt có khả năng thành thục, cho nên không trái nhau.
(720) Hai nhân được nhiếp phục, phó chúc, đó là chỗ thành tựu của Bồ-tát có chung bốn thừa, thực hành hai thứ hạnh, có cả ba thừa còn lại vì những vị khác không có khả năng đó, chỉ có Bồ-tát này, hai kinh văn trên có nói.
Bà lúc nhiếp phục, phó chúc: Trong đây nói: Bấy giờ, lúc Đức Phật chứng Chánh giác, xoay theo bánh xe pháp dùng pháp Bồ-tát thừa trong năm nghĩa để hóa độ các căn cơ đã thuần thục, gọi đó là khéo nhiếp. Lúc Phật Niết-bàn cũng dùng năm nghĩa giáo hóa để nhiếp thọ Bồ-tát, gọi là khéo phó phúc.
Bốn loại nhiếp phục phó chúc: Ngài Thiên Thân nói rằng: Khéo nhiếp phục hóa độ các căn cơ đã thuần thục, khéo phó chúc hóa độ các căn cơ chưa thuần thục. Trong đây hai thời điểm đều hóa độ các căn cơ đã thuần thục, giải thích nghĩa của hai luận giống nhau. Trong đây ý muốn nói: các Bồ-tát căn cơ đã thuần thục, lúc mới thành đạo Phật tự nhiếp thọ giúp nương vào giáo pháp tu hành, vâng giữ lời dạy theo của Phật. Khi nhập diệt, Phật không còn thì không thể nhiếp phục phó chúc, nhưng dùng Phật pháp phó chúc cho các căn cơ đã thuần thục giúp, cho các căn cơ chưa thuần thục thọ lãnh ở những vị kia, gọi là khéo phó chúc, cho nên ở đây nói: Các Bồ-tát đã được nhiếp thọ lúc Phật diệt độ cũng bằng năm nghĩa dựng lặp, chứ chẳng phải hai thời đều dùng năm pháp Bồ-tát dựng lặp những vị đã thuần thục, gọi là khéo phó chúc. Cho nên hai luận giống nhau. Nếu Phật tự nhiếp phục phó chúc cho Bồ-tát chưa thuần thục, thì yếu kém cho nên ẩn Hoặc ở đây nói: Gặp Phật đều được thuần thục nên gọi là khéo nhiếp thọ. Sau khi Phật diệt độ, Ngài sai đệ tử độ các căn cơ chưa thuần thục, gọi là khéo phó chúc, không gây trở ngại gì. Cho nên kinh chép: Nhân khéo nhiếp thọ nhờ có lợi ích vô thượng, nhân khéo phó chúc nhờ có giáo pháp vô thượng. Hai giải thích trong hai luận khác nhau. Ở đây dựa vào hai thời đều y theo căn cơ thuần thục để nhiếp phục, phó chúc. Những nhân được Phật giáo hóa, trong tương lai sẽ có khả năng giáo hóa.
Những nhân căn cơ chưa thuần thục, thì không thể giáo hóa ngay theo cho nên lược qua không nói. Những nhân kia nương vào một lúc nào đó trong tương lai, hai thứ Năng hóa và Sở hóa dùng để phân chia nhiếp phục và phó chúc mỗi nghĩa đều có khác nhau. Những cái không làm trong cái kia thì cái này liền giải thích. Về năm pháp được nhiếp phục, hóa độ, luận chép: Trong năm nghĩa, pháp Bồ-tát được dựng lặp, hoặc có chỗ giải thích là pháp Bồ-tát trong năm thừa pháp. Nếu vậy theo thì vì sao gọi là năm nghĩa, không gọi là năm thừa, tức là pháp phó cho chúc cho năm thừa, như thế vì sao nói nhiếp phó Bồ-tát? Nay có hai giải thích. Một là: giải thích lại ngọn nguồn lớn trong Huyền tông ở trước, giải thích Bố thí là: Từ đây về sau, ở những trụ xứ khác, có năm thứ tùy sở tương ưng để giải thích: Một là theo nghĩa, hai là nói tướng, ba là nhiếp trì, bốn là an lặp, năm là nói lên. Tức là những điều nói lý sự hai ý, hai môn thiện ác trong kinh, pháp do Bồ-tát tu được mà dứt là pháp được nhiếp phó trong hai thời Phật còn tại thế. Hai là: Trong bảy theo nghĩa cú ở trước, pháp Bồ-tát được nói trong năm cú nghĩa sau, hai môn trước là hỏi, năm môn sau là Phật đáp, là pháp có công năng nhiếp phục, phó chúc nói trong chánh văn. Thiên Thân giải thích pháp có công năng nhiếp phục, phó chúc rằng: Hộ niệm là nhiếp thọ, nhiếp thọ căn cơ thuần thục, có hai: Một là do năng lực trí tuệ mà tự thành tựu Phật pháp, hai là do năng lực giáo hóa rất đại bi giúp cho nhiếp thọ chúng sinh. Sau khi phó chúc, luận ấy có hai: Một là giải thích chung rằng: Các căn cơ chưa thuần thục, công đức chưa đầy theo đủ, sợ bị lui sụt, giao phó cho nhân hiểu biết có hai giải thích riêng: Những nhân đã được tâm không lui sụt vì không bỏ Đại thừa, các giáo pháp được phó chúc này gọi là các pháp đã được trước Trụ thứ sáu trong Thập trụ. Chưa được không lui sụt, đối với Đại thừa vì muốn tiến lên cho nên pháp được phó chúc này là pháp chưa đạt được sau Trụ Địa thứ bảy. Trong đây nêu chung các Bồ-tát căn cơ đã thành thục được trụ trong địa vị không lui sụt sau Thất Trụ. Bồ-tát chưa thuần thục ở sáu Trụ trước có thể lui sụt. Luận Du-già chép: Có thể thuần thục có sáu thứ trụ. Lại địa vị thắng giải thích hạnh cũng có khả năng thuần thục tức là trụ ở trụ Địa thứ bảy theo trong đây là những vị khéo được nhiếp thọ. Tru thứ sáu trở xuống là những vị được phó chúc trong đây. Do địa vị có thể lui sụt nên làm cho không bỏ Đại thừa, vì đã nhiếp phục phó chúc, lại ý này nói rằng: Không bỏ Đại thừa định tánh, chẳng phải không bỏ địa vị. Nếu giải thích như thế thì trong Thập tín từ tín thứ sáu trở xuống gọi là căn cơ chưa thuần thục. Chỉ tin Đại thừa vì chưa có quyết định, tâm thứ sáu trở lên gọi là căn cơ đã thuần thục, vì tin một cách chắc chắn. Lại, vì không có các tà định hoàn toàn chưa tin nên gọi là căn cơ chưa thuần thục, như còn đứng ở bên ngoài. Nếu sanh tín tâm gọi là căn cơ đã thuần thục, tức là đã vào bên trong. Cho nên Du-già chép: Nhân thành tựu thông đạt thắng giải thích hạnh trên đây chỉ nói ba vị hai thứ. Ở Sơ địa, Địa thứ tám hai thứ chứng và hành, hai vị lui sụt và không lui sụt cũng nên phân biệt vì trên giáo hóa dưới, dưới vâng lời trên. Văn sau nói đã thành tựu có ba phẩm. Những nhân được nhiếp phục, phó chúc thuộc hai thứ nói ở đây phải nên biết. Sáu tướng được nhiếp phục, phó chúc trong phần hạ quyển này, tương ưng lợi lạc có sự khéo nhiếp phục. Phần một có sáu thứ, phần phó chúc thứ hai cũng có sáu thứ, sau này sẽ giải thích.
Trong sáu nghĩa trước văn kinh có hai: Một là nhân có khả năng nhiếp phục phó chúc, hai là nhân được phó chúc. Luận của ngài Vô Trước có hai toàn, phần một thiểu phần. Hai toàn phần là: Một là lúc nhiếp thọ phó chúc, hai là tướng được nhiếp thọ phó chúc. Một thiểu phần là Pháp được nhiếp thọ, phó chúc. Luận của ngài Thiên Thân có một toàn một thiểu phần. Một toàn phần là loại được nhiếp thọ, phó chúc. Một thiểu phần là pháp được nhiếp thọ phó chúc. Hai luận đều giải thích nhiếp thọ, phó chúc là nói chung. Để giải thích bốn thứ chung thành sáu nghĩa. Luận Thiên Thân dùng một bài tụng để tụng nghĩa văn trước nói các Bồ-tát Địa. Bồ-tát đã thành tựu có ba phẩm, kiếp đầu tiên gọi là Hạ phẩm kiếp thứ hai gọi là Trung phẩm, kiếp thứ ba gọi là Thượng phẩm. Ở trước ba phẩm gọi là vị thuần thục.
Hai, là phát khởi hành tướng. Phát khởi xong, thực hành gọi là Bát-nhã hành giải, tức là thể của tuệ gọi Tướng, vì vô tướng cho nên chẳng phải là tướng trạng như mười sáu hành thì tuệ được gọi là. Ba lần hỏi đều nhờ tuệ mà có hành tướng. Lời Phật đáp là tuệ có hành tướng. Nay vì nêu lên câu hỏi nên gọi là phát khởi hành tướng, có công năng làm cho Phật nói, vì là hành tướng của tuệ. Hoặc ba câu hỏi này đều hỏi về việc tu, thể trạng của hành gọi là hành tướng. Trong đó tu tuệ tuy là gọi chung nhưng vẫn được tên mình, gọi riêng là tu hành. Nếu giải thích theo trước tuy các Phước trí đều có vô vi, v. v..., là các pháp được tu nhưng tuệ là thể của Bát-nhã, cho nên được gọi như vậy. Nếu giải thích theo cách sau, theo hữu vi, vô vi thì chẳng phải hành, liền thành lỗi lớn. Vì hỏi Hữu vi hành, Vô vi tự chứng vì sao không có lỗi. Do lý này được nói về cho nên giải thích ở trước có căn cứ. Văn có ba: Một là chỉ văn, hai là giải thích, ba là kết thúc. Văn thứ hai có hai: Đầu tiên là nói chung, sau là giải thích riêng. Dục là cầu. Đầu tiên, cùng là mong cầu nguyện là suy theo nghĩ, sau là dục. Nguyện dùng dục, thắng giải thích (721) làm thể, nhập vào các pháp lành. Dục là căn bản. Căn bản gọi là Chánh cầu. Kế là sinh Thắng giải thích gọi là Dục tư niệm.
Thể của dục và nguyện có cả hai tuệ văn và tu Tuệ Tam-ma-Bát-để Hán dịch là Đẳng chí, chỉ có định không bị phân tán, không có ở hữu tâm, vô tâm. Ở đây chỉ lấy định vô phân biệt, không có tán loạn và vô tâm. Chánh tu tuệ pháp tương ưng với Đẳng chí. Ba tuệ tương ưng với định vô phân biệt, gọi đúng Tam-ma-địa là Hán dịch Đẳng trì. Có phân biệt sinh ra giác ngộ như thật, tuy trụ trong Tán vị nhưng chẳng phải vô phân biệt, cũng không sinh chấp bình thường nhiếp niệm, có ở cả địa vị Đẳng trì và Đẳng chí gọi là hàng phục tâm. Văn sau chép: Vừa xem luận này, văn trong đây rõ ràng, xem ý văn, đầu tiên là nhất văn tư, kế là nhất tu tuệ, cuối cùng là nhất giả buông lung sinh tâm. Lại tìm cách nhập định chế ngự tâm một chỗ. Không có việc gì không làm được. Cho nên luận giải thích tên kinh: dưới đây thì Năng Đoạn là những điều được dứt do văn, tư, tu thuộc Bát-nhã Ba-la-mật, như chỗ cắt Kim Cương mà cắt. Do đây văn, tư đều chiết phục gọi là Năng Đoạn. Lại, trong tu vị, khi học thắng tuệ, đầu tiên là chứng đắc bình đẳng tánh của tâm, kế là chứng được tâm tánh chánh trực của. Cuối cùng chứng được của vô công dụng trụ củ tâm. Cho nên là ba câu hỏi. Kết thúc rằng: Thứ nhất là nói về việc nhiếp đạo, vì nhiếp phục được nhân để họ tu hành. Thứ hai là nói thành thục đạo, vì ở địa vị tu tuệ. Thứ ba là nói về bất thất đạo, vì không gậy theo tội lỗi. Chính là giải thích đây nói. Lại đầu tiên là gia Hạnh Đạo kế là Vô Gián giải thích thoát đạo. Cuối cùng là Thắng tiến đạo. Nhưng trong nhân không có quả vị Phật, trong Tín hạnh địa cả ba đều Hữu Lậu, Địa thứ tám trở xuống Sơ địa trở lên đều có hữu lậu, vô lậu. Địa thứ tám trở lên chỉ thuần là vô lậu. Không khuyến khích gia hạnh vì có nhậm vận gia hạnh. Phát khởi niềm tinh tấn vượt trội, tức là trong một niệm bên ngoài thực hành ngữ cũng không buông lung cho nên ở đây có ba. Hoặc một sát-na chân tục đều dùng. Mỗi sát-na đều có ba nhậm vận hân hoan, quán sát bình đẳng bên trong. Bên ngoài khởi biến hóa. Nhưng trong luận Thiên Thân đầu tiên phải trụ tâm vào sâu nhớ nghĩ chúng sinh, kế là tu hành tâm Bồ-đề, cuối cùng hàng phục, nhàm chán xa lìa hữu vi. Lại ba câu hỏi này, đầu tiên là nhân ân đức, kế là nhân của trí đức, cuối cùng là nhân đức dứt. Tức là do hóa thân, pháp thân, báo thân này cũng lần lượt dứt ác tu thiện, độ thoát chúng sinh. Phần đầu này gọi là nhiếp đạo, vì nhiếp thọ chúng sinh. Kế là thành thục đạo, vì tu theo Phật pháp. Kế nữa là đạo bất cộng vì lìa tất cả ác. Vừa xem luận này, dùng văn tư tu để giải thích, đầu tiên hai bên hình như có khác nhau, không lìa tu tuệ, có ba thứ này cho nên không trái nhau. Nhưng theo Bồ-tát Địa, đầu tiên trả lời có ba trì nghĩa là các Bồ-tát tự nương vào chủng tánh là trì kham nhiệm thứ nhất, lấy đây làm chỗ nương để chứng được đại Bồ-đề, phát tâm đầu tiên là gia hạnh trì thứ hai vì nương vào đây tu hành sẽ chứng hạnh Bồ-đề một cách tròn đầy. Tất cả Bồ-đề phần, tất cả muôn hạnh được tu là sở tròn đầy đại Bồ-đề trì. Thứ ba cho nên không có chủng tánh thì không gọi là trì. Các chủng tánh ấy tuy chưa phát tâm nhưng bậc thánh cho kia là hơn. Nếu Luận Thiên Thân, đáp riêng ba câu hỏi, văn trước văn sau có khác, vì đầu tiên năng trì. Có thể khởi tâm Bồ-đề, có sơ trụ vấn, vì có năng trì phát khởi tu hành riêng có đệ nhị tu hành, vì có năng trì thứ ba. Chứng được đại Bồ-đề, có phục tâm. Thứ ba hoặc là văn của ngài Thiên Thân giống như ở đây. Trong văn đều có câu trả lời, văn có chứng cứ để nói về các tướng. Vả lại y theo lời nói, so sánh với văn trong kinh thì không thể nào ngăn cản, mỗi văn đều có đủ ba. Ba nhân duyên Phật nói được giải thích ở trước không như vậy theo nên trái với hai luận, nghĩa của tam trì khác nhau không theo thứ lớp như văn này. Lại hai câu hỏi đầu có công năng trị đạo câu hỏi thứ ba cắt đứt các chướng ngại. Nhưng ba câu hỏi không thêm không bớt Vì hai câu hỏi của ngài La-thập nghĩ ra ở trong trụ chỉ có phần văn ở sau giải thích năm thứ tương ưng. Đầu tiên là phát tâm, kế là tu hành bố thí v. v... cho đến chưa nhập vào Phật địa vị đều có cả ở ba quả, địa vị này là hạnh thắng giải. Văn trong Hữu vô phân biệt tamma-bát-để. Nhiếp Luận v. v... chép: Tầm từ thật trí chỉ có Duy thức quán v. v... đều ở trong sự quyết trạch để phân vị nên trái với văn này.
Giải thích: thực hành riêng vô tướng ba tánh quán v. v...., ở trong quyết trạch phần vị, quán sát chung về vô tướng phát khởi tu tuệ vô phân biệt. Trong thẳng giải thích hạnh đâu ngại cũng được. Bồ-tát Thiên Thân nói không riêng quán sát vô tướng. Tu hành chỉ nói bố thí... Ba luận thanh tịnh tu hạnh vô tướng, không nói nhập đẳng chí. Bồ-tát Vô Trước lấy quán chung làm quán vô tướng v. v.., mới ở giai vị Thắng giải thích hạnh nhưng thực hành vô tưởng đẳng chí, tức là vì lý này. Bồ-tát Thiên Thân trụ tâm sơ phát tu hành để lần lượt phát sinh, lại hàng phục tâm dứt chướng mới thực hành quán vô tướng, vì dứt trừ phân biệt. Đầu tiên phải dùng văn và tư để hàng phục, sau đó mới tu tuệ để dứt trừ. Cho nên trả lời ba câu hỏi trước sau khác nhau, lời văn khác nhau, vì tu hành khác, quả vị cũng khác. Bồ-tát Vô Trước dùng đắc cái chúng để thực hành vô quán tướng tu chiết phục chánh dứt đều gọi là dứt. Tùy mỗi quả vị nhậm vận được thực hành, cho nên mỗi văn đều đáp ba câu hỏi vì có hai nghĩa. Hai luận chủ giải thích khác nhau, mỗi vị dựa vào một nghĩa cũng không trái nhau. Hợp nghĩa hai luận mới đủ. Do ở đây thuận với xưa, ngài Vô Trước là một nhân lợi căn lại nhân tu hành nghe ba giai vị phàm phu, Mười địa nên và Phật nói hai vòng cua Thiên Thân là một nhân độn căn, mới tu chưa nghe phàm phu phát tâm tu hành dứt chướng ngại có nghi tình mà nói, cũng không trái nhau, do không thích nghe sự tu hành của Mười địa, nói gộp cả hai nghĩa mới đầy theo đủ. Nhưng nay quán sát cho kỹ, luận chủ nói hai vòng nhân đọc tự mình bị sai lầm, nên Vô Trước giúp cho Thiên Thân thành tựu. Thiên Thân nghĩa báo, Vô Trước mới giải thích chỉ là bỏ mê. Bài tụng trong luận Thiên Thân do Di-lặc nói, làm sao Bồ-tát Vô Trước trái lại được? Có chút bất đồng, đến kinh sẽ giải thích. Bậc lợi căn vừa nghe liền hiểu kẻ độn căn nghe hai lần mới ngộ. Nhân lợi căn chỉ bước đầu là đã đến. Vô Trước một vòng, Thiên Thân hai vòng, hai luận giải thích khác nhau vì chỗ mong cầu, dựa vào đây để giải thích kinh thì hoàn toàn trái với vô tướng. Văn hình như lại lờ mờ, vừa cho là hai vòng, y theo sau để giải thích kinh, hoàn toàn không có sự trùng lặp. Phần sau sẽ tự phù hợp. giải thích trước khó hiểu.
Trụ xứ của hành: Hành là hành tướng, được phát khởi trong ba câu hỏi. Trụ xứ là chỗ nương. Sự tu hành là nơi chốn cho đạo lý nương vào. Văn có hai đầu tiên là nói nơi chốn, phần kết nói chỗ ở. Trong phần đầu có hai: Đầu tiên là nói mười tám trụ xứ, sau nói tám trụ xứ.
(722) Trong phần đầu có ba: Đầu tiên nêu tên, kế là giải thích theo thứ lớp, cuối cùng là nêu phối văn. Phần nêu tên có hai: Đầu tiên giải thích tên, kế là nêu tên. Nêu tên có ba: Một là nêu, hai là trình bày theo ba là kết. Trong phần giải thích thứ lớp có ba: Đầu tiên dùng bảy theo nghĩa để nhiếp mười tám xứ, kế là giải thích thứ lớp cuối cùng kết thành tựa giải thích.
Trong tám trụ xứ, sáu trụ xứ trước tức là bảy theo thứ lớp này, ba trụ xứ sau có ở tất cả xứ, văn sau tự giải thích. Trong sáu, trụ xứ, trụ xứ thứ tư gọi là lìa chướng ngại. Ở đây chia thành hai: Một là lìa chướng ngại, hai là cầu giáo thọ. Dựa vào sự thật để tìm cầu giáo thọ vì cũng lìa vô giáo thọ chướng. Trong tám trụ xứ, trụ xứ thứ tư gọi là chướng chỗ lìa ngại Phần đầu quyển hạ của luận cũng chép Tuy chỗ chướng ngại nay nói, đối trị mười hai thứ chướng ngại, vô giáo thọ chướng cũng xếp vào chướng. Nay ở đây dùng bên ngoài để cầu pháp đặt tên là cầu giáo thọ. Những thứ còn lại nói là lìa chướng. Cho nên ngoài lìa chướng gọi là cầu giáo thọ. Lại, ở đây gọi là chứng đạo là. Tịnh tâm trong tám trụ xứ, tên còn lại mà nghĩa đồng. Nhưng phát tâm v. v... đều lìa chướng. Lìa chướng ngại cũng đều có hành. Mỗi xứ dựa vào duyên tăng thượng nên cũng gọi là không. Mười sáu trụ xứ trước, trong Tín hạnh địa chia làm ba: Một là phát tâm trụ xứ là Thập trụ xứ. Ba-la-mật hạnh muốn được sắc thân, muốn được pháp thân là Thập hạnh vị. Mười hai thứ khác là giai vị Thập Hồi hướng. Lại, trong phần giải thích có hai tên gọi khác nhau. Đầu tiên là trí tướng chí đắc, sau gọi là Phước tướng chí đắc. Ở đây dựa vào khả lạc đối trí gọi là Phước, kia dựa vào chứng đắc nên gọi là chí đắc. Lại, kia dựa vào năng đắc, sở đắc gọi chung là chí đắc. Ở đây có ở cả các đối trí đều gọi là Phước. Hỏi: Vì sao muốn được sắc thân không gọi là muốn được pháp thân, còn lại gọi là pháp dục? Đáp: Bốn uẩn vô vi gọi là pháp vì không thể thấy. Sắc uẩn thấy được nên giữ tên mình. Những cái khác gọi là hỏi khác. Chia làm ba vị do tướng khó biết đến văn sau sẽ giải thích. Trong chứng đạo thì giải thích diệu thân đại thân, chí đắc thân, thành tựu thân. Được rốt ráo chuyển y. Cho nên gọi là diệu thân, ý này nói pháp thân vô vi gọi là Chí đắc thân. Báo hóa gọi là thành tựu thân. Hoặc tự thọ dụng chân như gọi chung là chí đắc thân. Theo kinh Kim Quang Minh vì câu pháp thân vì tánh năng đắc sở đắc, cho nên báo hóa Phật là thân Phật. Phật không phải thân Phật, Phật gọi là thành tựu thân. Trong phần giải thích ở quyển sau nói ba thân đều là thân mầu nhiệm. Đến phần kia sẽ biết. Vì đại thân là thân nhiếp chung tất cả thân chúng sinh. Vì văn sau đạt được năm bình đẳng cho nên nhiếp tất cả chúng sinh mình không khác. Nhiếp chung tất cả chúng sinh làm tự thể nên gọi là Đại thân, vì rất rộng lớn. Trong đây nên nói: Tất cả đạo phẩm nhiễm phẩm, đều thuộc trong chứng đạo lìa mạn. Tức là mười chướng mười độ lược bỏ không nói mười như, chỉ nói năng chứng. Trong phần cầu quả Phật lại có ba:
Đầu tiên là nêu kế là giải thích những chỗ khó, cuối cùng chỉ riêng từng kinh. Vì sỡ cầu của Bồ-tát Mười địa là Phật địa cho nên nói kinh sau. Vì thế gọi là trên cầu. Vì trên cầu Phật địa vị cho nên ở đây nêu ra các chướng ngại khởi lên ở các địa vị trước. Chướng ngại ở quả vị sau do địa vị kia mà khởi chướng hậu vị. Tùy chỗ thích ứng mà nói sinh ra quả vị phân biệt dứt. Kế là năng phục tức là những điều khởi lên ở các giai vị trước. Năng phục ở địa vị sau là Phật địa chướng, khởi lên trong Mười địa, Địa thứ tám trở xuống đều khởi lên chướng ấy. Cõi nước của Phật vị thanh tịnh có ở cả cõi nước của Ba Đức Phật. Như thế mỗi địa đều sẽ biết.
Trong lưu chuyển bất nhiễm có hai: Đầu tiên là phối hợp với kinh, sau là giải thích riêng chín du, trong chín dụ có hai: Đầu tiên là nêu bốn tướng hữu vi, sau là giải thích riêng. Trong phần nêu bốn tướng hữu vi, luận Thiên Thân gom chín thành ba: Một là quán tướng, hai là quán thọ dụng, ba là quán những việc trong ba đời. Lại trong bốn tướng hữu vi này, tướng thứ hai là sở trụ vị, tướng thứ ba là thuận theo lỗi lầm. Là nhất quán thọ dụng, cái kia dùng cảnh sở thọ dụng, thân năng thọ dụng,. Năng thọ dụng và sở thọ dụng hợp thành một thọ dụng. Đây dùng cảnh xứ làm sở thọ dụng, thân và thọ làm thân thọ. Hai thọ khác nhau chia làm sở vị và lỗi lầm, gọi là thân năng thọ vì đều có lỗi. Lại, luận này cho tướng là đầu tiên, dùng sao làm thí dụ, dùng thấy làm thứ lớp, dùng dụi mắt làm ví dục Luận ấy cho thấy là đầu tiên, dùng sao làm thí dụ, dùng tướng làm thứ tự, dùng dụi mắt làm thí dụ. lược có hai giải thích: Một là hai luận nhìn khác nhau cho nên cũng không trái nhau, hai là nghĩa kia sai với chánh nghĩa của luận nầy. Trong quán thọ dụng thứ hai dùng cảnh bị mê đắm làm đầu, rồi mới nói năng thọ. Cho nên trong phần quán tự tánh cũng như vậy. tướng đứng đầu kiến là kế tiếp, cho nên luận này trước tiên nêu ra tướng, lấy kiến trong tướng năng kiến. Thứ hai là nêu kiến, chấp tướng bị thấy. Lời dịch có khác nhau nhưng không trái nhau, trước sau đều do tác giả trình bày. Do tướng có ở kiến và thức cho nên mới nêu ra như vậy. Luận kia dùng cũng như thế. Đầu tiên là nêu cảnh, sau đó mới nêu năng, những thứ còn lại giống nhau. Tự tánh tướng nói chung tất cả các tà kiến của ngoại đạo và pháp tánh của phàm phu. Kiến tướng là vọng tánh. Thức tướng tánh là phàm phu. Bám chặt vào sở trụ vị, thuận theo lỗi nói riêng có hai thứ, chẳng biết do do sinh hay nghiệp, do năm trần bên ngoài mà dính mắc, có thể nương vào thân, những việc có thể dùng nhân đó mà sinh ra lỗi. Vô thường v. v... chấp là thường, nga v. v... nó có thể thọ dụng thuận sinh vào ba đường khổ mà không biết. Nếu có thọ đều khổ là văn kinh. Luận dưới là giải thích khổ thọ. Vì khổ kia sinh cho nên có khổ khổ. Vì lạc thọ bị phá diệt cho nên hoại khổ. Không thể tách rời hai thứ vô thường ở trước, đó là hành khổ cõi. Dục có đủ ba, cõi Sắc có hai. Thứ Tứ thiền trở lên có một. Sau nói dụ ba đời thuận theo tướng ra khỏi, do lìa ba đời nên không sinh lỗi ở trước. Thuận theo hai vô ngã nên được ra khỏi do nêu lên duyên ba đời nên biết hai vô ngã không được ra khỏi. Do chỉ nói chín dụ không thêm không bớt có khác với tám dụ, năm dụ nên mới gặp ngài Thiên Thân. Nhưng luận của Thiên Thân chép: Quán chín pháp này được công đức gì? Cũng đồng với ở đây quán tướng và thọ dụng. Trong dụ việc ba đời, trong pháp hữu vi được vô cấu tự tại. Do quán chín pháp này nương vào tánh khác, không bị ràng buộc bởi nghiệp ác trong đường sinh tử liền được quả cao quý ra khỏi một cách tự tại. (723) Tùy thuận theo lỗi lầm, văn có hai: Một là nêu, hai là giải thích. Trong phần một có ba: nêu là giải thích chung hai là dẫn kinh vì nếu có thọ thì đều là khổ, ba là giải thích nghĩa.
Trong thuận theo ra khỏi có ba: Một là giải thích chung về thuận theo ra khỏi, hai là giải thích riêng ba dụ, ba là kết luận về thuận với ra khỏi. Phần một có ba: Một là nhắc lại tên. Hai là giải thích ra khỏi, do hai vô ngã là thể của ra khỏi tức là tánh chân như diệt đế. Ba là giải thích tùy thuận theo. Dùng dụ ba đời biết được chẳng phải thật tướng. Liền thuận theo cái kia ra khỏi vô ngã.
Ở trên nói mười tám trụ xứ. Phần sau sẽ nói riêng về tám trụ xứ thuộc về văn kinh. Hoặc trùng với mười tám trụ xứ ở trước nên gọi là tám, cũng không có lỗi. Trong tám trụ xứ, chia làm hai: Một là nói về tám, hai là giải thích chung riêng. Trong phần một có ba: a/ Nêu; b/ Trình bày; c/ Sắp xếp giải thích. Trụ xứ là tâm mới phát nhiếp giữ chánh pháp, nhiếp thọ Bồ-đề. Có công năng lợi sanh trụ xứ thanh tịnh Ba-la-mật thực hành thắng thiện. Vì sạch các chướng tịnh tâm trụ xứ lấy vô tướng gọi là tịnh tâm. Những cái còn lại đều dễ hiểu. Phần cầu Phật địa ở thượng: Phật vị rất tôn quý nên gọi là thượng cầu, hoặc văn sau gọi là trên Từ đây về sau trong phần mười địa là cầu Phật địa vị.
Trong giải thích những chỗ lưu thông có ba: a/ Nêu hai thông; b/ là giải thích tướng chung; c/ kết thành chung. Phần bốn trở xuống là giải thích về đối trị. Ba tướng ở trước, hỏi đáp đều có. Kế trở xuống, ba nghĩa chỉ ở trong câu trả lời. Đối trị là tánh do Kim cương đối trị. Do kinh này nói hai chướng, hoặc chỉ có sở tri chướng pháp chấp và ba nghiệp. Không mất tính năng trị, Kim cương là địa. Là mở rộng hay thu hẹp tính chất của Kim cương vì không mất đạo lý trí cảnh là thể năng hoạt. Trong đối trị có hai: Một là hỏi, hai là trả lời. Trong trả lời, có hai: Một là nêu cả hai, hai là giải thích riêng. Trong nêu có giải thích các sở hành là pháp chấp phân biệt, là phiền não của Bồ-tát, vì gọi là gia hạnh. Cộng kiến chánh hạnh, Cộng kiến là sinh chấp, chấp là chỗ đối trị của chánh hạnh. Vì ở trước dùng những lời đối trị chung, nên trong nêu tông chỉ nói lược cộng kiến chánh hạnh vì chánh hạnh không phải là chỗ đối trị, tà hạnh là đối trị. Cộng kiến ở sau là chỗ đối trị của chánh hạnh. Pháp chấp chỉ có Bồ-tát dứt được nên chỉ nói gia hạnh, là gia hạnh của Bồ-tát, là đối trị pháp chấp. Cộng sinh chấp ba thừa đều dứt cho nên nói là cộng kiến. Kiến là phân biệt trái với sinh không là vô phân biệt. Trí gọi là phân biệt đúng sai. Các mê hoặc đều sinh ra phân biệt thì gọi là phân biệt, nghĩa ấy không đúng, quyển sau của luận này, trong phần trên cầu Phật địa chép: Nếu Bồ-tát nói: "Ta thành tựu cõi nước trang nghiêm" thì chẳng phải Bồ-tát. Nghĩa này được chuyển trong cộng kiến chánh hạnh. Vì dứt được cái kia, an lặp Đệ nhất nghĩa. Lại nói: Nếu ta thành tựu tức là nhân ngã chấp thủ, trang nghiêm cõi nước là pháp ngã chấp thủ. Nên biết hai thủ đều gọi là cộng kiến, chướng ngại ở chánh hạnh. Nay nói chánh giải: Gia hành là hành động xuất phát từ thân ngữ ý, hành động khởi lên từ hai chấp. Nay nói nhiều là ý gia hạnh. Sinh ra tâm ý phân biệt như vậy theo vì nghiệp tà hạnh. Trụ xứ thứ hai nên thực hành bố thí vì để đối trị với tà hạnh. Cận kiến chánh hạnh đối trị mới là năng chấp, vì kiến là phân biệt. Phân biệt chấp đắm là phiền não của Bồ-tát, chính là những thứ còn lại, như những phần ở trước đã dẫn. Trong quyển sau chép: Hai thứ trong đây như địa thứ hai chép: Dứt hai ngu chấp phạm vào ba nghiệp. Tức là hai thứ đối trị trong đây. Tà hạnh đối trị ở địa vị kia mỗi nhân làm ra hạnh kia đều vừa khởi lên nên không gọi là Cộng chỉ, gọi là Tà hạnh. Cộng kiến chánh hạnh là phiền não chướng và sở tri chướng. Phân biệt thể của kiến vì đều được dứt bỏ ở các giai vị. Cách giải thích này tuy có ở hai chấp nhân và pháp nhưng chỉ có sở tri chướng mới gọi là Kim Cương không gọi là phiền não chướng, vì chỉ có trí của Phật và Bồ-tát mới dứt được. Lại có giải thích khác như ở trước đã nói. Trong giải thích thứ hai có hai: Một là giải thích chung về nghĩa thấy. Hai là kết hợp hai văn kinh. Văn kinh có hai chỗ nương. Đầu tiên là hai trụ xứ là giải thích quyết hai cách đối trị. Trong phần không lỗi có hai: Một là gom lại, hai là nói lên. Trong nói về có hai: Một là giải thích nghĩa không lỗi hai là chỉ ra văn kinh. Có chấp biến kế gọi là tăng ích, không có y theo tha, viên thành gọi là tổn giảm. Đây là nghĩa của ngài Vô Trước. Dựa vào nghĩa của ngài Long Thọ, chấp có tục đế gọi là tăng ích. Bác bỏ không có chân đế gọi là tổn giảm. Lại, trong chân đế chẳng phải không chẳng phải có nên chấp có là tăng, chấp không là tổn.
Trong đó nếu nói v. v... trở xuống là chỉ ra sắp xếp văn kinh để, có hai lần Lại giải thích Phước nhóm và học văn Phật pháp. Đó là nhóm phước Phật pháp đều là trụ xứ thứ lớp sắp được pháp thân Phước tướng. Trong phần hiểu Phật pháp có hai liền Lại. Trong lần Lại đầu có ba: Một là Phối kinh thêm bớt, hai là giải thích nghĩa bất cộng tương ưng, ba là chỉ ra bất cộng. Nghĩa không tương ưng nhau là: các chấp đắm do vọng không tương ưng với lời Phật dạy theo vì tương ưng là phải phù hợp, vì lời nói phải phù hợp với lý. Trong giải thích bất cộng tương ưng, đầu tiên là nêu có hai, sau là giải thích lại. Tong giải thích lại chỉ giải thích tương ưng, cái nào không tương ưng tức là bất cộng. Vì tuy không nói nhưng cũng tự biết, nghĩa là dựa vào chân đế, vọng suy theo tính các pháp bất cộng, tuy Phật không nói nhưng dùng thể Bát-nhã của chân đạo giúp cho nhân tu học cũng tự biết là không. Không có tự tánh, nay nói theo thế đế gọi là Phật pháp. Do lìa được cảnh hai bên, dứt trừ pháp chấp cho nên dứt được, đối trị. Được đạo vô phân biệt, không còn mất các địa. Có khả năng giải thích các hạnh địa thắng giải thích ở địa tiền gọi là Tín hạnh. Lấy tín làm đầu rồi khởi ra hạnh, chứ chưa gọi là chứng. Lại khi thắng giải thích được lớn mạnh, thì sẽ do lòng tin đầu tiên này, tín có tất cả công đức, cho nên đặt tên như vậy. Lại, Tín mình là trụ xứ đầu tiên, hạnh là trụ xứ còn lại, hợp lại thành Nhân. Mười địa chứng được trí kiến vô lậu, được bốn chứng tịnh tâm. giải thích trừ được chướng ngại gọi là phần nào tịnh tâm địa. Như lai Địa được nói về không cần phối hợp riêng tức là vì trụ xứ rốt ráo. Hỏi vì sao câu hỏi trước chỉ hỏi phát tâm Đại thừa ở trong nhân, đầu tiên là phát tâm thuộc về chủng tánh Tín Hạnh Địa, kế là tịnh tâm địa, là ba nghĩa trong tâm chứng phát, không giống với địa Phật vị và những lời Phật đáp đáp về Như lai Địa? Đáp: Ba hạnh trong nhân là điều kiện để thành Phật vị. Nhân của ba đức nếu không trả lời là ba đức ba thân của Phật thì quả vị đã rõ ràng. Thế nào là quán hạnh? Vì là ba hạnh ở trong nhân vừa nói liền đáp là ba thân của Phật, giúp cho trước trước hướng về sau sau. Lại nhân hỏi là hỏi để tu, tu có ở phàm thánh hiện đang tu. Cho nên đáp, là đáp sở chứng ở trước chứng chung vô nhân quả. Vì có ở hiện chứng.
Trong bảy theo lặp tên có hai, đầu tiên hỏi sau đáp, đáp trong có ba: đầu tiên giải thích Kim cương, kế là giải thích Năng Đoạn và thể Bát-nhã, sau giải thích lại nghĩa bất cộng. đầu tiên giải thích Kim cương có hai. đầu tiên nói hai nghĩa Kim cương có cả tướng năng trị và sở trị, sau giải thích năng trị. Như đã nói Kim cương là nhập hạnh chánh kiến, nhập hạnh tà kiến.
Chánh kiến là nhóm chánh định. Tà kiến, là nhóm tà định, thực hành các việc thiện ác, vào các nhóm ấy, gọi là hai hạnh, hoặc sa vào lời nói, như nói hai nhân thiện ác làm việc thiện ác, nhân làm việc này là nhóm chánh kiến, nhân làm việc kia là thuộc nhóm tà kiến. Tà chánh tuy khác, mà đều gọi chung tà kiến hạnh, giúp năng trị được ba ác sở, trị hai chướng, thiện nhiễm tuy khác, mà gọi chung là Kim cương.
Kinh Niết-bàn chép: Kim cương rất cứng, muôn vật không thể đập vở được, trừ sừng dê trắng và mai rùa, tánh tri chướng tuy cứng, phàm phu tục trí của hai thừa Bồ-đề trí của đều không thể dứt, hoặc chướng tuy là vọng, nhưng trí phàm phu không thể đứt hạt giống, chân trí Hai thừa không thể dứt hoặc tập, chỉ phát tâm Đại thừa Phật và Bồ-tát, có ba tuệ mới chiết phục dứt hoặc được. Đây là dụ cho nhập vào tà kiến hạnh. Lại dụ như ngọc thạch, tánh nó rất cứng chắc, không có vật gì đập vỡ được, chỉ trừ Kim cương, mới đập vở được hai chướng cũng vậy, tánh nó rất bền chắc, trí của phàm tục chân trí của hai thừa chẳng phá hoại được, ba tuệ đại thừa như Kim cương kia mới phục dứt được, vì rốt ráo dứt Kim cương Tu Tuệ, cho nên trong Kinh chỉ nói Kim cương Dụ Định, đây là dụ cho hạnh Chánh kiến, đây ở cho rằng danh từ Kim cương có hai nghĩa tướng:
1. Nghĩa sở phá.
2. Nghĩa năng phá.
Chẳng phải Năng Đoạn cũng có hai nghĩa, vì chẳng phải sở dứt, cũng chẳng phải do Kim cương và Năng Đoạn, vì có hai nghĩa, tà chánh hai kiến ví dụ không tương ưng, cho nên không thể do Kim cương chỉ là sở dứt, trí do bền chắc sâu kín không thành, cũng không thể dùng Kim cương chỉ là Năng Đoạn, hai nghĩa tướng không thành. Do đó nên biết trong đây đã giải. Nhưng văn lược không giải thích ra sở trị Kim cương, trong Năng Đoạn, ngầm mới nói lên, giải thích trong năng trị Kim cương, nêu cứng chắc, vì tùy thời gian trước dịch là "Kiến" đổi thành tế, trí bền chắc là hạt giống, không thể phá hoại là hiện hành. Trong hiện hành đầu tiên là văn tuệ tư tuệ, sau là tu tuệ. Trong tu tuệ, đầu tiên là tu hữu lậu, sau là tu vô lậu. Trong vô lậu, đầu tiên là giai vị Mười địa, sau là địa vị Như lai.
Trong Mười địa, đầu tiên là Gia Hạnh Đạo, sau là Vô Gián giải thích Thoát Đạo. Trong giai vị Phật, đầu tiên là hạt giống, sau là hiện hành. Trong Năng Đoạn, Văn Tư Tu là Năng Đoạn, quán chiếu là thể của Năng Đoạn. Địa thứ bảy trở xuống, hai Địa đầu là hữu lậu, một Địa sau là có cả hữu lậu vô lậu, trước là hai tuệ tu trung đều thành, tuy không có văn nói, nhưng vì tu tuệ, v. v... Riêng khi khởi tác dụng, Địa thứ tám trở lên niệm niệm đều có thể khởi hai dụng, hai địa đầu phục hoặc. Một Địa sau là chánh dứt, như chỗ Kim cương dứt mà dứt. Trí như Kim cương, chỗ dứt như ngọc thạch, chỗ hai chướng mà dứt, lại dứt như Kim Cương. Năng Đoạn là trí như sừng dê trắng. Văn, Tư, Tu là chỗ Năng Đoạn mà dứt.
Giải thích nghĩa bất cộng có hai: đầu tiên là nêu bày, như vẽ Kim cương, v. v... sau nói về năm thần thông, y theo nghĩa bất cộng nầy, đầu tiên chặng giữa có ba: 1-Nêu.
2. Chỉ.
3. Kết.
Như vẽ Kim cương có hai:
IV- Như vẽ Kim cương, cánh tay theo dang ra thì rộng, lưng thì hẹp lại, vì có động tác, dụ giúp cho tiến lên.
V- Như vẽ chày theo Kim cương, hai đầu rộng mà lưng hẹp, vì nó cứng chắc nhất, giúp cho biết sâu mầu ở tịnh tâm địa. Phật địa rộng. Lớn luận này dụ cho văn nghĩa đều dài, Tịnh Tâm địa hẹp, vì văn nghĩa hẹp, cho nên như vậy: Có hai nghĩa: Do khi phàm phu, hễ sự tu hành, cầu quả Phật muôn hạnh rốt ráo tu, nguyện dứt rộng lớn. Tuy có bốn gốc lành mà muốn trụ nhập thấy đạo riêng tu hành. Từ thời gian dài phần nhiều chia ra ý vui rộng lớn, nên gọi là hoạt. Trong địa vị Phật đạo nghiệp trì kiến, chứng được lợi lạc, đều là rộng lớn, nên nói là "Đại" chính là chỗ rộng lớn, các Bồ-tát Mười địa đều tu một hạnh, cầu tiến đến địa sau. Tuy cầu thiếu giai vị Phật, mà không đâu không cần phần chứng mà tu, nên gọi là hiệp, vì tùy ba vị, nói kinh có rộng hẹp. Lại nay vì bất định tánh và định tánh trước chưa có giòng họ phát tâm là đúng, ba đáp có một thứ đúng, là tánh phát tâm vô phân biệt hạnh. Vì nay cầu Quả Phật, Quả Phật và sơ vị đều là văn nghĩa rộng lớn. Hành tướng Mười địa kia tuy có, mà do không thể tu, nhờ lời nói mà nói lên rõ, không cần phải chỉ bày theo rộng. Nhân Hai Thừa và sơ phát tâm không thể thực hành, nên lược chỉ bày theo cái hẹp.
Trong kinh chép: Ở đây là nói nghĩa bất cộng. Các kinh không phải như vậy, không gọi là bất cộng, do đây làm rõ lý trí rộng hẹp. Văn tự đây dạy, gọi riêng là Kim cương. Thứ ba Kim cương Địa gọi là nghĩa bất cộng, nói lên năm thần thông y theo ý nói trong bất cộng, văn sau nói năm thứ y theo nghĩa, nói nhiếp trì nhau, an lặp hiển bày theo, đều nương vào ba địa nầy, lìa địa nầy, không có cho nói khác, ba địa này mỗi địa có nhiều sở hành trụ xứ, nên gọi là Thượng thượng y theo chỉ, vì chẳng phải một nên gọi là Thượng thượng, trong đây lược qua không giải thích Bát-Nhã. Nhưng nói Ba tuệ, bất luận là thật tướng v. v..., vì pháp bất tận.
Trên đây giải thích bảy theo câu. Trong chánh nói giềng mối rộng lớn đã xong, dưới đây là chánh giải thích văn kinh, thứ hai là dứt lớn giải thích lại văn trước, trong kinh lớn của thích Huyền Tông chia làm hai. đầu tiên giải thích oai nghi trong lời tựa, thành tựu ngồi kiết già chánh niệm bất động, sau là giải thích chánh tông, tuy đi đứng ngồi đều được nói pháp, nay hiển rõ tỉnh tọa giác là tốt đẹp, tiêu biểu cho nội tâm giác an chân lý ngoại tướng mới nói được lợi sinh, chỉ dùng một nghĩa để giải thích, còn nghĩa khác như nói Pháp Hoa oai nghi là, nói trong lúc an tọa.
Sau là giải thích phần chánh tông chia làm ba. đầu tiên trong văn giải thích chủng tánh không dứt, kế là giải thích vì sao trong văn chỉ hỏi Bồ-tát thừa phát hạnh giải thích phát khởi ra hành tướng. Ở sau, giải thích do khéo hỏi, từ Thượng tòa trở xuống, trong văn giải thích hành sở trụ xứ, đầu tiên chia làm ba: trước là giải thích ba ý hỏi, kế là giải thích khởi Bồ-tát thừa, Bồ-tát Ma-ha-tát nói, kế giải thích ở trước nhiếp các nghĩa tối thắng, trong văn kinh, từ sau đến trước là giải thích, luận quán này có thể thấy các văn trên dưới, đều vì bài tụng của ngài Di-lặc do ngài Thiên Thân, giải thích không có văn, nên mới giải thích, không phải là anh em biết mâu thuẫn nhau.
Văn đầu có hai, trước tiên là hỏi, kế là đáp, trong đáp có ba: đầu tiên nêu, kế là giải thích, sau kết lược nêu, trong có ba: đầu tiên nêu, kế là chỉ bày theo riêng, sau là kết trong nêu bày theo sáu thì, năm câu đầu vì lợi lạc chúng sinh, một câu sau là chánh pháp an trụ lâu dài. Trong năm câu trước, hai câu đầu nói nhân ngoài Phật pháp có tâm nghi ngờ, không sinh định tín, hai câu kế đã nhập vào Phật pháp, nhân ưa thích Phật pháp, không hiểu tiến tu, sau đã biết tiến tu, thì không thể chứng đạt. Nhưng ở đây hỏi rằng: "Vì thuận theo Bồ-đề chỗ muốn tu, chỉ hỏi chủng tánh và chứng phát tâm hai chỗ tu pháp, bất luận là giai vị Phật, Mười địa Bồ-tát đã chứng đạt thì tâm đều mong cầu xa lìa, Phật quả giải thích thoát, nói chung chủng tánh không dứt có hai nghĩa:
1. Trong đây đã nghe muốn cho hạt giống Phật ở đương lai không dứt mất.
2. Hiểu được Phật thì giúp cho hạt giống Phật không dứt.
1- Do khéo nhiếp và phó chúc, trong đây sáu nhân nương tựa đã nói, hợp lại có sáu giải thích: vì ở ngoài Phật pháp, do có nghi ngờ, thường sinh chê bai, nay hỏi đáp khác, để dứt nghi kia, giúp họ phát tín tâm, không sinh chê bai, khởi tâm Bồ-đề.
2- Khởi tín hiểu, nêu trước tuy không nghi ngờ chê bai, chỉ ở trong giai vị, do không nghe hiểu, không thể phát tâm, nay họ nghe pháp khởi tin nhập vào năm tâm vị trước trong Thập Tín.
3- Nếu nhập vào Thập Tín thì trụ sau tâm thứ sáu, tín giai vị quyết định, gọi là nhập vào lý nghĩa sâu xa, nay vì giúp họ nhập vào tâm thứ sáu, sau được tín quyết định, hiểu biết Phật pháp sâu xa nhân quả lý trí, trí tin không lui sụt, do hiểu nghĩa sâu xa mới không lui sụt lòng tin, gọi là nhập vào nghĩa sâu.
4- Nếu trước tuy tin được không lui sạch nhập vào nghĩa sâu xa, thì trong vị Thập trụ nhập vào sáu vị trước, còn có tâm lui sụt thành Hai Thừa. Nay vì họ không có ý lui sụt, nên nhập vào giai vị Địa thứ bảy, sau là không lui sụt.
5- Vì trước tuy được giai vị không lui sụt, cho đến sau khi được vào Thập Hồi hướng, được bốn món gốc hành, nhập vào quyết định trạch phần vị, vẫn chưa chứng được chân tịnh pháp giới, không gọi là sinh vào nhà Như lai. Lai gọi là Cực Hỷ Địa, chưa tin pháp uyển lạc, chưa chứng các tướng tăng thượng hỷ ái, không gọi là trụ sinh hỷ, nay vì các tâm ấy được vào Mười địa, chứng được nhập pháp giới, nhập hậu hậu thông.
6- Do nhân tin học, tiến thú chứng đạt, chánh pháp đương lai, thứ ba giáo hạnh quả trụ lâu ở đời, vì sáu nhân này sinh tùy hỷ, do phát khởi ba lần nghe, Địa thượng Địa tiền đều có phát tâm tu hành dứt chướng có ba nghĩa khác nhau. Kết rằng: Đây là nhân hỏi muốn cho hạt giống Phật không dứt cho nên hỏi. Trên đây là phối hợp với một vị, sau đây lại phối hợp ba nghĩa.
Kế là giải thích trong có hai: đầu tiên hỏi, sau đáp trong, đáp thuận theo giải thích thứ nhất. đầu tiên là nhân rất dể hiểu. Thứ hai, có nhân ưa thích Phước đức, v. v... Có nhân Trước ở phàm vị không chê bai, không tin Phật pháp Ba Thừa, chỉ ở trong ý, còn ở thế giới nào có vui là Phước lạc, nhưng chưa phát tín tâm, gọi là chưa thành tựu. Nay vì giúp họ phát khởi tín hiểu nên được nhập Thập Tín. Thứ ba là nhập nghĩa sâu xa, tức hai nhân trước đạt sâu được nhân quả được Tín không lui sụt Thứ tư, nếu đã nhập được giai vị Tín không lui sụt, gọi là đã được không xem thường giặc, thường trụ pháp quyết định ra khỏi, mới thường gọi là không xem thường, vào giai vị không lui sụt. Địa thứ năm, đã đạt được thuận nhiếp, là trước căn đã thuần thục, chỉ sau khi được giai vị không lui sụt, và tịnh tâm, trước giai vị không lui sụt là các Bồ Tát, không do nơi khác mà khởi trí căn bản, mà đối với pháp tự chứng nhập, khi khởi trí hậu đắc, đối với pháp được thấy, được nhập hậu Mười địa, ở sau cũng như vậy, vì sinh vui mừng.
Lại giải thích thứ hai là. đầu tiên ngoại pháp một nhân nay nhập Thập Tín năm tâm trước của, thứ hai nhân năm tâm trước nhập tín thứ sáu tâm hậu, tín quyết định gọi là tín giải. Từ khi nhân ở đầu mới làm thứ hai, thứ ba nhập nghĩa sâu xa, tức thứ hai vào ở trước tru thứ sáu, được nhập vào giai vị Không lui sụt. Địa thứ bảy theo trụ hậu, gọi là nhập nghĩa sâu. Thứ tư là nhân không lui sụt: Là người đã được vị không lui sụt, được vào Sơ Địa chứng không lui sụt. Địa thứ năm là sinh hỷ, tức là thứ lớp ở trước được nhập Sơ Địa, căn đã thuần thục gọi là thuận nhiếp, lần lượt được vào địa, thứ hai thứ ba, v. v... Nếu đã vào vị không lui sụt, nhân sau gọi là tịnh tâm, được nhập sơ địa hợp lại gọi là sinh hỷ. Lại giải thích thứ ba, đầu tiên ngoài nhân pháp mới nhập giai vị Thập Tín. Thứ hai là nhân Địa thứ năm là năm tâm trước được nhập Tín không lui sụt hậu. Thứ sáu Thứ ba dần nhập vào Sơ địa, chứng nhập pháp giới chân như sâu xa. Thứ tư chứng nhập giai vị không lui sụt địa thứ tám hậu hành. Địa thứ năm là thấy đạo trở lên, khi chứng bất thối rồi, gọi là Thuận nhiếp, nhập Địa thứ tám gọi là Tịnh tâm, được vô lậu tâm thường nối nhau, đều sinh vui mừng. Sơ địa thuận nhiếp lần lượt được vào Phật địa. Sinh vui mừng Địa thứ tám tịnh tâm, không bao lâu được vào giai vị Phật, đều sinh rất vui mừng. Tuy có ba giải thích này dường như trụ, vì chỉ hỏi trong nhân có ba hạnh vì nhân chứng được hậu hậu thắng phẩm, cho đến thành Phật. Đáp đủ ba giai vị và các hạnh, từ khi mới phát tâm cho đến quả vị Phật, là giai vị trước đã tu nhập, nay xét kỹ thêm, phàm phu địa tiền chỉ có ba mươi tâm, đầu tiên trụ pháp bên ngoài giúp cho tin để nhập pháp, kế là ở trụ trơ thứ sáu xuống, giúp cho nhập vào Thất trụ, lại kế ở Địa tiền, giúp vào Sơ địa, nối tiếp Địa thứ bảy trở xuống, cho nhập vào Địa thứ tám. Sau trong nhân, giúp nhập vào Phật địa, mỗi mỗi tùy giai vị ấy, để giải thích câu hỏi kia, giúp cho pháp tồn tại lâu dài. Chúng sinh được vào năm nhân trước. Do chúng sinh được vào năm nhân trước, vì pháp thành ở đời lâu dài. Phát ra câu hỏi rộng làm sáu nhân, tóm lược thành hai nhân, còn bao nhiêu như trong huyền ký có nói. Kết lược làm bốn, nhưng kết năm thứ trước, đã học giáo lý, tức pháp tồn tại lâu dài, cho nên không nói, nhân nghi hoại pháp kia, giúp cho thấy các lý nhân quả, phát sinh tín tâm, vào nhập Phật pháp, như đã phát tâm ưa thích Phước đức tín vị định. Là nhiếp thọ tín và thắng giải thích định, nhân đã tín hiểu định thành tựu, nhiếp thọ ở Sở địa, vì nhập nghĩa sâu xa, nay hai tên gọi này là nhiếp thọ tín định và chứng định, đều được nhập Sơ địa, biết tiếp nối giai vị Phật, gọi là được không xem thường, ưa thích xem thường hậu thắng phẩm diệu hạnh, của địa thứ tám giúp tâm siêng năng, không sinh hạnh lui sụt, từ địa trở lên là thứ tám quán tâm vô lậu, giúp niệm nối nhau gọi là tịnh tâm, được nhập vào địa vị Phật, giúp sinh vui mừng, ở đây kết thứ lớp nói theo hạnh vị. Chỉ nói tịnh tâm sinh rất vui mừng, trước giải thích rộng và nói thuận nhiếp, giúp cho chúng sinh vui mừng, liền nhập sơ địa, thuận theo đức Thế tôn khéo nhiếp thọ, đều giúp họ thành Phật, nên hợp hai cái lại nói. Nếu y theo thứ lớp thì, nên y theo theo kết và lược lược trong bốn nhân, một nhân đầu là pháp ngoài nhập pháp, thứ hai nhân là nội phàm nhập Thánh, thứ ba là Địa thứ bảy nhập Địa thứ tám, thứ tư là đệ Bát hậu nhập Phật vị, nói Tín Hạnh Địa là Sơ nhập, nói tịnh tâm địa là Địa thư hai, thứ ba tam, nói Phật địa là Địa thứ tư. Trên đây có ba thích giải, y theo giai vị phối hợp giải thích thứ tư là nên ba câu hỏi. Đầu tiên vì nhân đầu tiên giúp cho phát tâm, hỏi kế là thứ hai thứ ba nhân đủ tu hạnh, sau hỏi là nhân thứ tư giúp cho dứt chướng, do ba nhân đều tu tự cầu các hạnh rồi, tịnh tâm vui mừng, cho đến thành Phật, vì thế trong phần kết lược bao gồm thứ hai thứ ba thành một nhiếp thọ, vì nhiếp thọ hành.
Giải thích thích chủng tánh không dứt giữa, chừng dưới đây là thứ hai giải thích lời của Ma-hatát, tức gồm giải thích trong nghĩa Đại thừa, giải thích các nghĩa Đại thừa đều sơ lược không có lời Ma-ha-tát. Đời Đường và đời Tùy đều có bảy theo đại, bảy theo đại là:
1. Pháp đại, đối với pháp bậc nhất gọi là Cảnh đại, duyên đối với pháp rộng lớn là cảnh.
2. Tâm đại: Pháp Địa thứ bảy theo kia gọi là Nghiệp đại, tột mé sinh tử, chỉ bày theo giới Bồđề, dựng lặp Phật sự.
3. Tín giải thích đại: Đại gọi là Trí đại, tức biết hai thứ vô ngã.
4. Tịnh tâm đại: Địa thứ năm là phương tiện khéo léo, không trụ sinh tử và Niết-bàn.
5. Tư Lương đại: Thứ hai gọi là hạnh đại, thực hành hai thứ hạnh.
6. Thời đại: Thứ tư là Tinh tấn đại, trải qua ba đại kiếp, tu các hạnh khó làm.
7. Quả đại: Địa thứ bảy theo là Chứng đắc đại, chứng công đức lớn, là ý nói luận ấy duyên giao khởi hạnh, đạt được lý sâu xa, siêng năng lâu dài, không dính mắc hai bên, chứng quả cao siêu của đại thừa cùng tột mé sinh tử, dựng lặp Phật pháp, nên gọi là Đại. Luận này trái lại, hoặc ở đây ý nói, duyên giáo phát nguyện, dựng lặp Phật sự, được trí đạt lý, không đồng với phàm phu Hai Thừa chấp đắm thường thực hành hai lợi, siêng năng lâu dài, lại được quả cao quý, ý riêng của hai luận khác nhau, trước sau bất đồng, lại Bồ-tát Di-lặc trong quyển đầu Mười địa Luận chép Ma-ha-tát có ba thứ Đại:
2- Nguyện Đại.
3- Hạnh Đại.
4- Lợi chúng sinh đại.
Thứ ba là giải thích trong các văn nhiếp thọ Bồ-tát v. v... chia làm hai, đầu tiên nhiếp thọ, sau phó chúc, trước giải thích nhiếp thọ phó chúc lúc mới thành chánh giác và lúc nhập Niết-bàn cho đến nhiếp thọ phó chúc căn khí.
Ngài Thiên Thân nói: Căn thuần thục gọi là Nhiếp thọ, chưa thuần thục gọi là Phó chúc, chưa giải thích hai món tự tánh. Ngài Thiên Thân chỉ giải thích sở nhiếp phó chúc và ý nhiếp thọ phó chúc, tức chủng tánh này không dứt, vì chưa giải thích tự tánh kia. Nay giải thích, là trong đó có hai. đầu tiên nêu câu hỏi, sau giải thích riêng. Trong đây chia làm hai:
1- Khéo nhiếp.
2- Nhất nhiếp bậc.
Ngài La-thập, Bồ-đề-Lưu-Chi, Chân đế đều không có hai lời văn, chỉ có bản Đại Đường nói trên hết nhiếp thọ, nhiếp thọ các Đại Bồ-tát tối thắng phó chúc cho, phó chúc các Đại Bồ-tát-. Trong văn kinh chỉ dùng một lời tối thắng. Văn trước lặp lại văn kinh rằng: Bậc nhất khéo nhiếp thọ tất cả Bồ-tát, bèn chia làm hai. Do lời tối thắng đủ thiện nhiếp nhất hai nghĩa bậc, ở sau giải thích phó chúc, chỉ nói bậc nhất phó chúc, đạo lý nhất định. Lại khéo nhiếp là nêu ra chung thể, thứ nhứt là nghĩa giải, khéo nhiếp bậc nhứt nhiếp thành hai. Trong nhiếp bậc nhất có ba:
1. Nêu.
2. Trình bày. giải thích. Lạc là cùng lợi ích hiện tại.
Lợi nghĩa là cùng ích đời sau, tức trong sai khác là định thế gian la hiện lạc. Quả ba thừa là hậu lợi, lợi lạc có mười nghĩa:
* Như trong Duy Thức sớ chép, trong đây chỉ còn. Thứ tư là kiên cố: nghĩa là hậu ích rốt ráo quả thể, hiện ích rốt ráo nhân thể, lại gọi là rốt ráo, thứ sáu dị tướng vị tịnh Bồ-tát, nghĩa là địa tiến tín hạnh địa vị đắc tịnh thắng ý lạc, trong các Bồ-tát không thể khéo nhiếp kia thì, đây là pháp lành tốt đẹp trên hết không bao giờ hư hoại, làm lợi lạc tự tha, không có gì hơn, vì hai lợi ích giải thích thế gian chúc trong đó, cũng có ba. đầu tiên nêu câu hỏi kế là nêu bày theo sau giải. Việc làm của ban lành: Nghĩa là khi sắp nhập Niết-bàn, gốc lành thuần thục Bồ
-tát làm chỗ sơ nhập, vì căn cơ chưa thuần thục là vì ban lành. Cho nên biết ngài Thiên Thân y theo căn cơ chưa thuần thục nói hậu phó chúc, phó chúc cho căn thuần thục, không chấp vào lời nói khi nhập Niết-bàn, giải thích không trái nhau, vì căn chưa thuần thục là năng nhập, căn kia đã thuần thục, pháp nhĩ giáo hóa. Phật dạy theo căn thuần thục, ông đã được rồi, nên lần lượt dạy theo họ, do đây chưa thuần thục không mất chỗ sở nhập của ban lành, pháp nhĩ căn cơ thuần thục, thương xót chưa thuần thục, Phật giúp cho chuyển giáo, giúp căn cơ thuần thục chuyển sinh tôn nặng vì cầu Phật dạy.
Dưới đây là giải thích chánh tông, thứ hai để phát khởi hình tướng của văn chung, hai câu đầu là hỏi hai câu sau đáp, đáp có ba ý, do quả Ba thừa Bồ-đề gọi là khác nhau, chỉ hỏi chữ Đại là phát tâm đại thừa, tối thắng thừa là quả rốt ráo hướng về, vì làm lợi ích rộng khắp, luận là đáp một, hai t thứ còn lại. Vì hóa pháp, hóa sở, hóa sinh, nên sau khi đắc quả, có ba thân khác nhau. Nếu hỏi phát hạnh Bồ-tát thừa, là dùng ba thừa pháp hóa sở hóa chúng sinh, nay rõ Tam Bồ-đề, nhân Hai Thừa không thể chứng được cho, nên không hỏi, ba là do nhân Ba thừa có khác với Bồ-đề, Niết-bàn không khác với.
Đại thừa Bồ-đề dứt hai chướng, chứng đắc hai ly theo thực, hành hai lợi, thành tựu hai trí, chỉ có sở thú này không được chấp cái khác, ba lần hỏi nghĩa khác như trước đã giải thích.
Đấy là dứt thứ ba giải thích chỗ sở trụ của hành, trong văn chia làm hai. đầu tiên giải thích khen ngợi trong câu ấn chứng "lành thay" rằng. Sau là giải thích chánh trình bày, vì Tu-Bồ-đề hỏi, có thể thuận lý sâu, là trong năm câu hỏi, vì muốn lợi ích hữu tình cho nên hỏi. Đức Phật khen câu hỏi kia, nên nói lành thay, khen ngợi lại lời đó. Nhưng hạnh Bồ-tát thấy khéo nói: Nói ra lời lành thay. Nay do Tu-Bồ-đề hỏi khế hợp với huyền tông sâu xa có thể nói lý, nói lại lành thay, y theo quyển thứ nhất Luận Mười địa, giải thích lành thay rằng: Đã nói trong các pháp, khéo đầy theo đủ, lành thay có ba:
1- Sở y: Là tịnh tuệ.
2- Thể tánh: Là nói các địa không hề nói pháp.
Quả đủ mười lậu không chướng ngại, là Phật Bồ-đề, ở đây cũng vậy, y theo kia nên nói. Trình bày theo trong phần được chia làm ba: đầu tiên nói về tín hạnh địa, kế sau trong quyển là chứng đạo v. v... trở xuống là giải thích tịnh tâm địa, sau trên cầu Phật địa, dưới giải thích thích Như lai địa, nói trong địa kia, giúp cho tín ở trước lại vị sau ham thích hứng thú, ở sau đều y theo nên biết. Văn đầu tiên chia làm bốn, đầu tiên giải thích nhiếp trụ xứ ở giai vị Thập Trụ, khai mở thì an tâm kia đối với pháp kia, tướng cũng chưa cao siêu, nên gọi là Trụ. Kế là dưới đây, còn bao nhiêu Trụ trung hạ thứ hai hỏi về Ba-La-Mật-Đa tịnh tín. Kế là muốn được sắc thân trụ xứ trở xuống là thứ ba giải thích chỗ muốn tu. Nếu muốn được sắc thân, pháp thân hai trụ xứ. Vì một dục trụ xứ, hai trụ xứ trên đây ở giai vị Thập hạnh, thực hành các hạnh trên hết của sáu độ, gọi là hạnh. Kế quyển sau đầu tiên đã nói dục trụ xứ xong, ở sau thứ tư sẽ giải thích lìa chướng ngại trụ xứ, ở giai vị Thập Hồi hướng, hễ tu hành thì đều là Hồi hướng, đặt tên gọi Hồi hướng, y theo trước lược nêu trong Tám trụ xứ. đầu tiên sáu trụ xứ nói thành ba địa. Vì trong tám trụ xứ kia, hai trụ xứ sau ở các trụ xứ, chẳng phải chỉ phối hợp với địa. Quyển sau đầu tiên nói: Nay nói lìa chướng ngại trụ xứ, có mười hai thứ chướng ngại để đối trị, trong mười tám trụ xứ, hợp thành mười hai là thứ tư lìa chướng, mười sáu trụ xứ trước là tín hành địa, chia làm bốn văn, hai địa đầu đều có một, hợp hai thành thứ ba, hợp mười hai pháp còn lại thành thứ bốn. Hoặc chia thành hai. đầu tiên giải thích nhiếp trụ xứ, và giải thích ba trụ xứ còn lại. Do văn Ba-la-mật trụ xứ đầu tiên nói từ đây về sau trong các trụ xứ có năm thứ, rõ ràng văn sau đều dùng năm nghĩa để giải, nên hợp thành một dứt.
Đầu tiên gọi là nhiếp trụ xứ. Nếu giải thích xa cũng phát Đại tâm, vì trong thời gian lâu dài nhiếp thọ Bồ-đề-Đại.
* Giải thích gần, phát tâm rồi nhiếp thọ chánh pháp, vì nhiếp chúng sinh. Có cả hai giải thích, là phát nguyện, nhiếp thọ chánh pháp và, thành Phật lợi sinh. Gần xa hai nhiếp đều ở trong đó. Trong mười tám trụ xứ trước gọi là phát tâm, đầu tiên đã khởi hành Tướng là Danh, đây gọi là Nhiếp, do sẽ thành quả và lợi ích chúng sinh, mà đặt tên. Văn chia làm hai. đầu tiên riêng giải thích bốn tâm, sau chung đáp ba câu hỏi, y Luận của ngài Thiên Thân. Văn đầu tiên chia làm bốn. Đầu tiên giải thích rộng đại tâm tức là Sơ Trụ. Kế là tất cả cõi chúng sinh lặp bày theo thực hành bố thí, ở sau giải thích tâm thứ nhất tức là Trụ thứ hai.
Kế như vậy theo có vô lượng chúng sinh nhập Niết-bàn rồi là, giải thích tâm thường thứ ba, tức là bốn trụ kế. Vì sao nếu chúng sinh tướng nhân tướng thì không gọi là Bồ-tát. giải thích tâm thứ tư không có tâm điên đảo, tức bốn trụ sau, như giải thích ở quyển trung, tổng khoa ý văn của ngài Dilặc và Thiên Thân, ở đây là giải thích riêng.
Giải thích thích chỗ không kia, văn đầu chia làm hai, đầu tiên giải thích chung văn nói về tất cả chúng sinh, cùng câu hỏi của ngài La
-thập, vì nói riêng tất cả chúng sinh, ở sau noãn sinh v. v... trở xuống là giải thích riêng ba loại:
Ngài Lưu-chi lặp lại rằng: "Tất cả chúng sinh thuộc về chúng sinh".
Bản Đại Đường chép: "Tất cả các hữu tình, thuộc về hữu tình". đầu tiên nói hữu tình đều là lầm, sau nói là hữu lậu, thế gian có hai:
1-Thế gian hữu tình. 2-Thế gian khí giới.
Nay đã thuộc loại thế gian hữu tình, không phải thuộc loại thế gian khí giới, lại không có Phật giáo hóa chúng sinh. Bồ Tát quán hạnh có năm món vô lượng, có nói rộng trong chương.
1-Thế giới hữu tình vô lượng. 2-Thế giới vô lượng.
1- Pháp giới vô lượng.
2- Được điều phục thế giới vô lượng.
3- Điều phục phương tiện thế giới vô lượng.
Nay nói chung tất cả chúng sinh, trong năm vô lượng. đầu tiên là thuộc cõi vô lượng hữu tình, Địa thứ năm đây là cõi điều phục phương tiện vô lượng, cõi điều phục phương tiện vô lượng này gọi là năng nhiếp, vì là năng nhiếp của các hữu tình. Là tâm sở nhiếp của hữu tình năng nhiếp nầy, tức khả năng nhiếp hóa tất cả hữu tình. đầu tiên dạy theo chung hóa độ, trước quán hữu tình, hữu tình không thật, chỉ có các pháp, dùng làm tự thể. Các hữu tình kia chắc chắn trụ trong thế giới, y theo giới xứ kia, quán sát tánh dục thắng giải thích được giáo hóa, chỗ điều phục khác, rồi sau phải vì họ lặp phương tiện điều phục, do đầu tiên hữu tình, thật chẳng phải một, gọi là vô lượng. Cho nên trong kinh chép chung tất cả các hữu tình, cho đến sau cùng lặp ra phương tiện điều phục, cũng lại chẳng phải một, nên nói tất cả hữu tình nhiếp sở nhiếp. Những lời nói, lúc đầu thông suốt cả nhân pháp ở dưới người, nhơn pháp tức trong năm món vô lượng, hai món đầu và cuối, giúp đầu tiên phát tâm sẽ thành sơ quán, nên nêu trước và sau, để chỉ bày theo ba pháp giữa, rộng lớn bậc nhất nghĩa bình đẳng, đều như trong huyền ký có nói, năm món vô lượng như trong chương nói, e rườm rà nên không dẫn ra.
Noãn sinh v. v... là nói riêng về ba loại chia làm ba, trước nêu chung sự khác nhau, kế lược nêu ba thứ trước, sau phối hợp ba thứ trước hai nghĩa thọ sinh và y theo chỉ nên khác. Cảnh giới biệt: Vô sở hữu xứ trở xuống, cho đến trong cõi Dục, trụ sâu trong trời Vô Tưởng hai định vô tâm, vô tâm ngủ nghĩ, vô tâm ngất xỉu, ngoài năm hữu tình nầy, còn lại đều ngăn cảnh, có tư tưởng bén nhạy, gọi là Hữu tưởng, nói trong năm vị, không có sáu thức nên không duyên cảnh giới, đều gọi là Vô Tưởng, ở cõi Hữu đảnh vì rất tối tăm, tức do không thiếu tất cả địa pháp để làm cảnh giới, không bằng hữu tưởng địa ở trước, cảnh giới thô hiển, tâm tưởng rõ ràng, gọi là phi hữu tưởng, cũng không với đồng năm giai vị vô tâm ở trước, hoàn toàn không có tâm tưởng, gọi là Phi vô tưởng, có chút tế tưởng, không có minh tưởng thô cho nên cả hai đều chẳng phải, tưởng có công năng chấp cảnh, giới hạn tướng mạo, chấp cảnh gọi là Tưởng, ngoại đạo phần nhiều chấp làm nhân sinh tử, nên nêu riêng về tưởng, không gọi là có khởi tưởng, tâm sở, v. v... khởi tưởng còn lại đều chẳng phải. Thân sắc uẩn sắc tượng, tướng trạng dễ biết, tâm do tưởng ẩn kín, nên đối với y theo chỉ gọi là hữu sắc v. v..., không gọi là hữu tâm, chết diệt là cuối, sinh khởi là đầu, vì đầu có sau không, nên y theo sinh loại, gọi là noãn sinh v. v..., không gọi là noãn tử, v. v... đây nói về tâm nguyện của đầu tiên được cảm hóa nói chung tất cả đều cùng khắp, nên y theo giới thú địa cư ở các nghĩa môn phân biệt ở đây có ba. Hỏi vì sao không nói cõi đường được hóa độ, chỉ nói ba lời đáp này thọ sinh chung năm uẩn, là chung y theo chỉ trong năm uẩn uẩn sắc phi sắc, để giải thích khác nhau. Cảnh giới lại nương vào bốn phi sắc uẩn, có thể có cảnh giới, mà nói lên khác nhau, từ thô đến tế lần lựa mà bàn, cũng nói về cõi đường, ở trong ý, muốn cho bỏ sinh tử mà được Niết-bàn, nên nói thọ sinh, muốn cho bỏ sắc vô thường, v. v..., được sắc thường. Nên nói y theo chỉ, muốn cho dứt trừ nhân phân biệt, nên nói cảnh giới, tâm có làm nhân phân biệt, dứt nghi tưởng nầy, thành tựu trí phân biệt, lại ngoại đạo nói tưởng là nhân sinh tử, vô tưởng là quả Niết-bàn. Nay nói họ đều là sinh tử đáng độ, không có nói khác, cho nên trong luận chép: "Thọ sinh y theo chỉ thuộc về cảnh giới. Hỏi y theo kinh Thắng-man và Du-già quyển ba mươi bảy theo thì, có bốn sở hóa, là chúng Hai Thừa và vô chủng tánh hoặc y theo Lăng-già, nói năm thừa, v. v.... Trong đây nói chung là cũng gồm nhiếp hết các pháp. Vì sao phải nói kế đó, ta đều giúp cho nhập Niết-bàn Vô dư, Niết-bàn Vô Dư chúng Ba Thừa đều nhập, chẳng phải thứ tư. Kinh Thắng-man chép không nghe nói chúng sinh chẳng phải pháp do gốc lành trời nhân mà được, thành tựu. Kinh Thiện Giới nói Bồ-tát địa cũng vậy, đâu phải không có chủng tánh cũng nhập Niết-bàn. Kinh đều giúp cho thành Phật, nói nhất thừa nhất đạo đều được thành Phật, nên hiểu ý Phật, đáp có ba giải thích.
1-Như văn học hạnh, hiểu biết căn tánh đối với vô chủng tánh trời nhân khéo tạo tác. Trong kinh Thắng-man chép: Nếu mới học hạnh, chưa biết căn tánh, nhưng gồm phát ý đều giúp nhập diệt, văn kinh này cũng không có tự tưởng trái lại. 2-Trông mong ý nguyện kia đều giúp nhập diệt, văn kinh nầy, y theo thật mà nói có vô tánh, là gốc lành trời nhân trở thành không được nhập diệt, đồng với các kinh, kia riêng đây chung, lý không trái nhau.
3-Giải thích thích dứt thứ hai trong tâm thứ nhất chia làm hai, đầu tiên giải thích tất cả thế giới chúng sinh văn thuộc về chúng sinh, sau giải thích giúp nhập vào Niết-bàn Vô dư. Trong chung ngài La-thập hoàn toàn không.
1. Ngài Lưu-chi nói: "Tất cả chúng sinh thuộc về chúng sinh. Luận này chép: "Tất cả thế giới chúng sinh, lặp bày theo trụ thí rồi, với đồng Năng Đoạn.
Năng Đoạn nói: "Cho đến thế giới hữu tình lặp bày theo sở lặp bày theo. Trong đây ý nói, ngoại đạo Ni Càn nói: "Cỏ cây theo đều có mạng sống, Phật thì không phải như vậy. Lặp bày theo trong năm món vô lượng. Trong đầu tiên nói thế giới hữu tình vô lượng này ở đây là lặp bày theo tên gọi.
2. Tên năng thuyên, hoặc gọi là tưởng, vì nhân tưởng khởi, hoặc gọi là vô thể, chỉ là ý giải thích của tâm tưởng, sinh khởi ở Tưởng, nên gọi là Tưởng, hoặc gọi là lặp bày theo. Pháp vốn không có tên, tên đều là giả lặp bày theo, lặp bày theo không xứng với pháp thể, không phải chỉ có tên, là pháp thượng lặp bày theo, cũng là Thế tôn vì dị ngoại đạo nói cỏ cây, v. v... cho là chúng sinh, chỉ nói nếu có năm uẩn bên trong cho là hữu tình, nhân có khả năng lặp bày theo là Phật. Chánh lặp bày theo thể gọi là sở lặp bày theo. Thể của hữu tình, đều muốn độ, chẳng độ ngoại đạo tất cả hữu tình cỏ cây theo cũng muốn cho nhập Niết-bàn, là ý ở đây. Luận chép: Nghĩa là các thứ trên, là trên đã nói ba thứ khác nhau, các thứ thể tướng ở cõi chúng sinh, vì Đức Thế tôn lặp bày theo tên gọi hữu tình, đã hiện rõ lặp bày theo, cho là thể của hữu tình, nói chung trên đây gọi là chúng sinh.
Ở sau nói hóa độ ta giúp nhập Niết-bàn Vô Dư chia làm ba. đầu tiên giải thích vì sao không nguyện cho các pháp khác mà nguyện Niết-bàn.
Kế là giải thích noãn sinh thấp sinh v. v... nguyện nghĩa là được Niết-bàn, sau giải thích chỉ nói giúp nhập Vô Dư không nói giúp nhập nghĩa khác. Văn đầu tiên hỏi: "Vì sao nguyện thể của quả vui này có cả thế gian và xuất thế gian. Vì sao không nguyện cùng quả vui thế gian, xuất thế gian có hai:
1. Bồ-đề.
2. Niết-bàn.
Vì sao không nguyện cho quả Bồ-đề? Trong kinh Thiện Giới thứ nhất và Bồ-tát địa chép: Phát tâm Bồ-đề, nguyện cho chúng sinh được đại Niếtbàn và trí Như lai. Vì sao trong đây chỉ nguyện cùng Niết-bàn? theo giải thích đầu. Hỏi vì sao chỉ nguyện cho với Niết-bàn nầy, không thể được nghĩa, mà không cho cái vui thế gian sẽ có được quả. Theo cách giải thích thứ hai. Hỏi vì sao chỉ nguyện cho Niết-bàn nầy, mà không nguyện cùng với quả Bồ-đề, rõ ràng không thật có nghĩa ấy, là đáp văn nhiếp, theo câu hỏi đầu để giải thích đáp rằng: "Vì sinh sở nhiếp không có lỗi, do đều là sinh, trước nói bốn loài, mà nói có chết, do sinh là khổ, dứt sinh là vui. Quả vui của thế gian, sinh thêm không diệt, Niết-bàn diệt sinh, nên nguyện cho niết bàn, vì thế nói là sinh sở nhiếp không có lỗi, do chỗ độ đều thuộc về sinh, trái với sinh quả vui Niết-bàn. Theo câu hỏi thứ hai để giải thích đáp, do Bồ-đề không thật có nghĩa, Hai Thừa định tánh không thể được Bồ-đề. Vì trí nhất thiết chủng, nhưng theo chỗ độ giáo hóa, đều thuộc về nhiếp, nên cho Niết-bàn, đều là sinh nên diệt sinh kia cho cái vui Niết-bàn, đồng với lời trong kinh Hoa Nghiêm sơ phát tâm nguyện ưa thích giúp nhập Niết-bàn, chẳng phải Ba Thừa, đều được Bồ-đề, không nói cùng phi tất cả sinh đều được nhập Niếtbàn Vô Dư. Trong đây nói, như trước đã giải thích. Lại giải thích, tuy trí Bồ-đề chẳng phải đều đạt được, như sơ nguyện trong Du-già, 1/ ý ưa thích rộng khắp. 2/ vì chưa hiểu, phát nguyện cho họ.
Văn đây y theo thật nên không nói cho, lại có giải thích khác, đến dưới sẽ biết.
Như noãn sinh v. v... ở sau giải thích nghĩa thứ hai noãn sinh thấp sinh v. v... được Niết-bàn. Là có nhân văn hỏi rằng: Trong bốn loài, hai loài sinh thai sinh hóa sinh thuộc về sinh lên cõi trời cõi người, có thể giúp được nghĩa nhập Niết-bàn, thấp sinh noãn sinh phần nhiều thuộc quỷ và súc sinh, thì làm sao cho nhập Niết-bàn. Trong ba cảnh giới, một loại có tưởng có thể giúp cho nhập Niết-bàn, đã trụ cõi trời Vô Tưởng và Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng, làm sao đều nhập Niết-bàn, mà y theo hiện thân phàm nhập nghĩa Thánh Niết-Bàn thì đều không được, cho nên trong đây hỏi, chẳng phải địa khác ở trước đã nhập Thánh, sau sinh lên Hữu đảnh không thể nhập Niết-bàn. Nếu theo văn nầy, không làm lời giải thích này thì sinh lên Hữu đảnh, không nhập Niết-bàn, lại trái với tất cả Thánh giáo. Lại nói đẳng là v. v... Đối với hai món y theo chỉ, hiện đang có chút phần Hữu sắc, có thể giúp nhập Niếtbàn. Hiện trụ có chút phần Vô Sắc, làm sao cũng giúp cho nhập Niết-bàn được? Địa ngục trong hữu sắc, không thể nhập Niết-bàn, trong mỗi nghĩa đều phải có lỗi ý hỏi. Văn đầu tiên nói. Như thế cũng có vô tánh hữu tình không nhập Niết-bàn, ở đây lược bỏ chữ vô, giống như phải hỏi có, không nên nghe không, lại đầu tiên phát tâm nên nghe đều có, không nên nghe cái riêng không có, nên lược không hỏi. Lại nghĩa ấy là quyết định không thật có, cho nên không cần hỏi. Đáp có ba nghĩa, tùy phân biệt, sinh ở chỗ tám nạn, đợi khi được cứu giúp ra khỏi, căn tánh được thuần thục sẽ được giáo hóa. Như Tỳ Kheo Tiểu Xuyên, Tỳ kheo Cáp Man, vua Đảnh Sinh, v. v... noãn sinh thấp sinh cũng đều có thể giáo hóa, ở đây y theo Tổng để làm câu hỏi. Trong lời đáp do có các loài kia có thể giáo hóa, những ở đầu chỗ tám nạn quyết định làm lời đáp.
Vì sao nói các cõi Niết-bàn Vô Dư ở sau đều giúp nhập vào Niết-bàn Vô Dư nghĩa có hai: đầu tiên hỏi, kế là đáp. Trước hỏi nên biết, vì sao không nói chung được tất cả Niết-bàn, mà chỉ nói Vô Dư. Nhưng các giáo của nghĩa Niết-bàn khác nhau. Kinh Niết-bàn chép; đầy theo đủ bốn đức Đại Niếtbàn, Đại Niết-bàn đầy theo đủ bốn tính chắc tốt thường, lạc Ngã tịnh, trong Nhiếp Luận chỉ nói: 1-Niết-bàn Vô Trụ Xứ: Lại nói Thanh văn Thừa nhập tiểu Niết-bàn nhân Đại thừa nhập Đại Niết-bàn. Trong Luận Mười địa nói có hai là đồng tướng,, tướng. Khác Kinh Thắng-man chép có hai: Hữu Dư, và Vô Dư. Kinh Kim Quang Minh nói có ba niết bàn Hữu Dư, niết bàn Vô Dư và, Niết-bàn Vô Trụ Xứ. Lại nói có bốn thứ niết-bàn niết bàn: Tự tánh tịnh, Phương tiện tịnh, niết bàn Hữu Dư, và Vô Dư.
Trong Duy Thức dịch vào đời Lương Nhiếp
Luận bản cựu dịch chép có bốn thứ niết-bàn là niết bàn: Tự tánh tịnh niết bàn, Vô Trụ niết bàn, Hữu Dư và Vô Dư Niết-bàn. Lại nói có 3 việc đầy theo đủ, nhập đại niết bàn, đầy theo đủ ba việc, chẳng phải là ba Niết-bàn. Niết-bàn cũng chẳng phải là ba loại, thể thành một Niết-bàn, trong đây chỉ phân biệt sáu hạnh thế gian đã được phần Niết-bàn và Hữu Dư Niết-bàn kia, không phân biệt tự tánh. Trong phân biệt có bốn thứ: 1/ Chỉ phân biệt với Niết-bàn phi trạch diệt kia.
2/ Chỉ phân biệt với Hữu Dư Niết-bàn trạch diệt thiểu phần. 3/ Tự do túc nghiệp đều phân biệt hai Niết-bàn ở trước.
4/ Niết-bàn Như vậy theo v. v... ở sau kết giải thích phân biệt không nhân của nói hai Niết-bàn. Trong phần đầu chỉ nói chung là được Niết-bàn, cùng với Phật đã nói phàm phu ngoại đạo đã được sáu hạnh phục hoặc của thế gian đã rõ phi trạch diệt nhiếp phần Niết-bàn kia, không lộn lạo trong lời nói khác, kia là quả Sĩ dụng trong năm quả. Nhờ năng lực Đại phu mà được, chẳng phải lìa hệ quả. Tuy nhân đã được, không có Phật cũng được, do chẳng rốt ráo, nên không thuận với ở đây. Phần Niết-bàn kia cũng gọi là Phương tiện Niết-bàn, vì là sở đắc của nhân phương tiện ở thế gian, Vô Dư không phải như vậy, ở phân biệt thứ hai không nói Niết-bàn Hữu Dư. Trước hỏi nên biết, kế đáp rằng. Kia vì công quả, Niết-bàn Hữu Dư y theo ở thế gian, có khổ để nương, thân không khổ, chỗ nương và thân đều được. Tuy quả giải thích thoát chẳng phải như Vô Dư, Ba bậc Thánh Thừa phải nương không có khổ, mới được quả bất cộng. Cho nên nói giúp nhập vào Vô Dư, thứ ba là đều phân biệt không nói trong hai Niết-bàn trước, tự vì túc nghiệp, lại gặp lời Phật, mà được quả, do hai nhân giải thích không nói lý do phương tiện Niết-bàn. Lại chẳng phải một bề, do một nhân duyên, giải thích mà không nói lý do Niết-bàn Hữu Dư, nghĩa là thế gian được phần Niết-bàn kia, chẳng những năng lực của quả trượng phu chẳng rốt ráo, mà cũng do nghiệp đời trước, thường huân tập làm nhân, mà được hiện nhập. Như khi kiếp hoại nhậm vận mà được. Lại như ở sau, có huân tập kế tiếp địa định, lui sụt xuống địa sau, đã sinh địa sau rồi, do năng lực của nghiệp tập, nhậm vận lần lần huân tập định cõi trên hiện tiền, đâu không có diệt vô dư cũng là túc nghiệp được. Niết-bàn Vô Dư kia phải do năng lực của ngoại duyên bên nghe pháp, gặp được Phật nói, không đồng với phần phương tiện Niết-bàn kia, không đợi Phật nói phương tiện mà được. Lại, Niết-bàn Vô Dư một khi được về sau, thì tròn đầy an vui, không còn chút khổ, Niết-bàn Hữu Dư kia, hoặc nghiệp tuy hết, mà các khổ chưa dứt, chẳng phải hoàn toàn hướng về quả, vì thân khổ Hữu dư, nên chỉ nói Vô Dư, không nói vô dư hai món Niết-bàn. Ở đây có cả hai nghĩa Niết-bàn. Của ba thừa nếu y theo giai vị Phật, thì thân trì hữu lậu không gọi là Niết-bàn Vô Dư, thân trí vô lậu gọi hữu là dư diệt, lại không có nghĩa nầy, trên nay đã nói hay không nói và lý do của phần hữu dư kia. Phân biệt kỹ, do độ Ba thừa không nói giúp được Đại Bát Niết-bàn và Vô Trụ Xứ, cho đến đồng biệt tướng tự tánh thanh tịnh, và Đại Bồ-tát. Trong luận do kinh chép phát đại tâm đã độ giúp cho Ba thừa chung giáo hóa, nên chỉ lựa hai. Nay họ giống như được chung Hữu Dư Ba Thừa, chung còn lại chẳng phải Niết-bàn. Luận cũng tự nói phi cứu cánh thứ tư kết thúc giải thích không nói lý do hai Niết-bàn. đầu tiên lặp lại hai Niết-bàn, kế là dùng riêng bốn nhân để kết, sau là tổng kết, cho nên nói Vô Dư.
1-Năng Lực quả của trượng phu. 2-Chẳng phải quả rốt ráo.
Tức của tập nghiệp quả, đời trước quả rốt ráo kia là nhờ gia nhân hạnh mà được, hai nhân này kết luận giải thích không nói Niết-bàn phương tiện hữu dư.
1. Cộng quả.
2. Nhất hướng quả.
Hai nhân này kết lại giải thích không nói Niếtbàn Phương tiện Hữu Dư. Tổng kết cho nên chỉ nói Vô Dư, không có lỗi nầy. Còn Vô Trụ Xứ và Đại Bát Niết-bàn kia, nhân Đại Thừa được, người Hai thừa định tánh đều không được, cũng không nói cho. Nhưng Bồ-tát Địa và Kinh Thiện Giới quyển thứ nhất, đầu tiên phát tâm nguyện Đại Bát Niếtbàn và đại Bồ-đề, hoàn toàn khác với đây, ở đây đồng với kinh Hoa Nghiêm, giai vị Sơ phát tâm trong được Vô Dư, đại khái có ba giải thích.
1-kia đồng với ở đây nói Niết-bàn Vô Dư của Đại thừa cao siêu, rõ ràng cũng được Bồ-đề. 2-Ở đây nương chủng tánh, chẳng phải đều được thành thật, cho nên được vô dư, đó là nói ý chung, nguyện thành thật cũng không trái nhau.
3-Ban đều giống như chưa giải thích nguyện kia đều được. Đây là y theo các thứ, không nói Bồđề, ở đây đều phát nguyện, nên lược khác nhau, cũng không được tự tánh thanh tịnh Niết-bàn. Kia đã thành lâu, không cần phải hỏi, nên chỉ chia hai.
Dứt thứ ba giải thích trong tâm thường chia làm ba.
1. Đầu tiên giải thích kinh lặp lại đã độ sinh.
2. Kế là nói về hạnh thường.
3. Sau giải thích thành nghĩa thường. Văn ở đầu nên biết, không có chúng sinh được Niết-bàn, dưới là giải thích hạnh thường.
Đầu tiên nhắc lại văn kinh, câu hỏi rất dễ hiểu, chỉ nói có chúng sinh tưởng, đối với mắt sáng thấy cái khác, nên chỉ nói một, không nói tên khác.
Giải thích: Nếu Bồ-tát đối chúng sinh nghĩ là thân khác, không sanh tâm nhiếp độ họ, nghĩ là đồng với mình thì, không gọi là Bồ-tát, ở sau trong giải thích chứng đạo v. v.... Do các Bồ-tát chứng chân trí, sau được nhiếp các hữu tình đồng tự tánh ý, giúp sơ phát tâm nếu chưa chứng cũng y theo đây mà hiểu, do không có kia đây, không sinh mệt nhọc, nên có khả năng thường độ. Nếu thấy ngoài thân có riêng chúng sinh, không có ý đồng thể, chấp sinh mệt nhọc, thì không thể độ, lặp bày theo độ không thường, nên trong đó giải thích rõ trong mười sáu quán không rốt ráo đều không nói rằng: Vì thường lợi ích hữu tình, do quán hữu tình rốt ráo đều không, nên thường được lợi ích. Ở đây cũng vậy, vì không thấy ngoài thân có chúng sinh. Thứ tư là giải thích trong tâm không điên đảo có ba. Đầu tiên nhắc lại văn kinh để hỏi. Kế là chánh giải, sau hợp thành. Những điều trong kinh lặp lại ngài Lưu-chi nói vì v. v... sao trở xuống có chữ "Phi", ba bản còn lại và luận này đều không có. Do trên v. v... lại vì sao đều nương ở trước để phát khởi câu hỏi, mới khởi văn sau, sau đây là gạn vì sao? Có chữ "Phi". Vì sao là chẳng phải Bồ-tát, đối với Năng Đoạn, đầu tiên vì sao? Sau đó vì sao, bản này và ngài Lưu-chi nói có ba: Nghĩa là chúng sinh mạng nhân, bản của ngài La-thập có bốn thêm Ngã, nói Năng Đoạn có tám, chỉ nói ba. Nhưng nói chỗ giáo hóa khác nhau có ba đời ba cõi khác nhau thân ba cõi thân ba đời khác phần nhiều khác nhau. Không nói tự ngã, nói có bốn, văn thuận trên dưới, tự tha, chung riêng nói chung, bốn thì nói có tám. Theo bản ở chùa Ngọc Hoa dịch vào niên hiệu Trinh Quán, trong bản Đỗ Hạnh khải nói có tám. Sau vào niên hiệu Hiển Khánh ở chùa Ngọc Hoa, dịch Đại Bát-nhã. Ngài Di-lặc có bốn Phạm bản, đều chỉ nói có bốn. Nhưng phần Nhiếp trong Thích huân du-già cũng giải thích thích kinh có tám y theo đây nên biết. bản kinh rằng có rộng và lược, trong bản rộng của Đỗ khải có nói văn Năng Đoạn là lược. Bản Vu Điền đồng với văn của ngài La Thập trong. Trong ấy là bản Thiên-trúc, đồng với bản của ngài chân Đề và ngài Lưu chi. Ở chùa Ngọc Hoa dịch lại, văn cũng giống nhau. Nay ở Phạm Kinh Đài chùa Từ Ân có đủ các bản, nhưng do trước đó ngài Đế-lặc làm Năng Đoạn, chưa cho sửa đổi để vào niên đại, e là rất sai lầm, về sau để ở chùa Ngọc Hoa dịch lại, cho nên các bản thêm bớt khác nhau, nhân học nên biết.
Trong chánh dịch, nếu dùng tâm phiền não lấy đó độ sinh, thì khởi ba tưởng, họ có thể hóa thành Bồ-tát, thật lại có hai môn tự tha tướng chuyển, mới khởi điên đảo. Thế nào gọi là Bồ-tát? Trong Thích Thánh nói Bồ-tát đối với họ không có lay theo chuyển, chứng chân Bồ
-tát đối họ được giáo hóa không khởi tưởng thân khác với chúng sinh là.
Do hai nhân duyên, không khởi tưởng là thân khác chúng sinh, một phen đã dứt được ngã kiến, vì được vô ngã, không có phiền não, được các tướng tự hạnh bình đẳng, không có pháp chấp. Cho nên ở dưới luận chép được thô ác bình đẳng, cho nên có tin khả năng hiểu tự tha bình đẳng, khuyên phát tâm, cũng nên như vậy. Kết chung thành rằng: Bồ-tát kia chẳng phải chúng sinh mạng nhân chấp kiến, chẳng là không. Do các Bồ-tát không có chúng sinh để chấp lấy, không có tự tha năng sở hóa độ, là nghĩa của kinh, nên không điên đảo. Nếu có tâm năng chấp lấy như vậy, nở gọi là điên đảo, Năng Đoạn lại kết. Khéo hiện cho nên không có chút pháp gọi là phát thú Bồ-tát thừa, kết thành vô ngã, vì không có giáo hóa, năng hóa cũng không, bản khác không có những việc nầy. Lại bản của ngài La-thập, trong văn kinh chỉ có một văn, tức chẳng phải Bồ-tát thiếu kết hợp đầu tiên để làm văn. Nhưng luận của Thiên Thân chỉ dùng một bài tụng, phối hợp giải thích kinh nầy. Bồ-tát Địa nói: Phát tâm đầu tiên có hai pháp kỳ lạ không giống với thế gian.
3- Nhiếp các chúng sinh, đều làm quyến thuộc, đây giải thích như vậy.
4- Nhiếp quyến thuộc lỗi không thể nhiễm, do không thêm tổn nhiễm trái thuận, đối với chúng sinh kia, phát sinh lợi ích, an lạc ý vui, bỏ ác làm lành, vì cứu khổ cho vui. Đây là đầu tiên phát sinh bốn ý.
Trong giải thích nhiếp trụ xứ dứt thứ hai chỉ đáp, trong ba lần hỏi chia làm hai. đầu tiên chỉ văn, sau giải thích lại, kế là phát nguyện, từ nhiếp rộng lớn văn thư nhất, thứ hai là muốn phát nguyện. Đáp câu hỏi đầu tiên, chánh cầu suy theo nghĩ, dùng tâm thường hằng làm đẳng chí. Đáp câu hỏi thứ hai, lược không có văn kinh, thật không có chúng sinh được diệt độ. Nếu theo Ngài La-thập, không trùng lặp đầu tiên thì chẳng phải văn Bồ Tát, lại không có đáp nầy, chánh khởi định vô phân biệt. Đáp câu hỏi thứ ba, văn có ba, kế giải thích nghĩa, sau thành trước, trong giải thích là Niết-bàn, cảnh giới, định vị quán các cảnh tướng, đều không có tự tha, đối với tán vị như ở trong định trụ quán cảnh giới, cũng không có tưởng khác. Sau lại thành trước tu hành nói: Cho nên không có chúng sinh nào được Niết-bàn, nghĩa này được thành tựu.
Giải thích thích lại, muốn trong nguyện có ba. Nói về thắng, 2-hạnh. Nói về không nói. Ý nói văn đầu tiên, là muốn nói lợi hành, trước muốn mong nguyện đầy theo đủ, kế là tu chánh hạnh. Tu chánh hạnh, phải đối với định tán lặp ra tất cả thời, hành theo phục dứt trừ chấp chướng, chấp chướng không dứt thì, hạnh không thể tu, muốn nguyện không đủ, cho nên muốn dùng nguyện, nhiếp các trụ xứ, để làm tối thắng. Đầu tiên của thắng là tiến đến làm lành dứt ác, trong hiển hạnh nhưng hạnh vô tướng, vô phân biệt, định diệt các chấp tướng, hành các trụ xứ, tương ưng với định, những đã hạnh không thể tu thì nguyện thì chắc chắn thành tựa đầy theo đủ, trụ hữu phân biệt, không dứt chấp chướng, nghĩa là buông lung rồi tự cứu giúp sinh, từ đó về sau phát sinh ra nguyện ưa muốn rộng lớn, không đâu chẳng đầy theo đủ, văn nói rõ không nói nghĩa cao quý ý nguyện mong muốn, văn kia nên biết. Nếu theo ngài Thiên Thân, trên nay hợp lại chỉ đáp câu hỏi câu đầu làm sao trụ, hỏi ngài Vô Trước và Thiên Thân cùng nương theo Đức Từ Thị. Trong xưng là Côn quý, ngoài gọi là thầy theo trò, văn kinh dịch đủ, đều là nhân khuôn phép cho. Vì sao do nhân em chế ra hai vòng, đáp riêng câu hỏi trước, nhân anh chia làm ba dứt, đáp chung lời gạn ở trước, thành ra nương các địa mà tiệm tu, hoặc giải thích nghi mà khởi bày theo huyền tông, lại khác với đại khái vì nói nghĩa cạn nên văn thiếu, không thể nào nói mâu thuẫn để làm nghĩa của Sư, văn thầy theo không thể nói mà nói đã có mâu thuẫn, bậc tiền triết hoa mộng như thế nào, thì bậc hậu hiền nguyện giúp kim chỉ nam, do tuấn mã chưa ngộ, nên làm cho biết mà trở về, để tuấn mã được ngộ. Đáp vì bàn bạc lâu Ngày nên các bậc hiền đạo đồng, nhập thất nhiều năm, tín thành vang dội, trong đây có ba lần hỏi, lần hỏi thứ nhất nhân em chế hai lần, là việc say theo mê tông của bậc tiên đức, nhân anh chia ra ba dứt, chính là ngộ ý chỉ của Ngày nay tu. Ngài Vô Trước bẩm thọ bài kệ của ngài Di-lặc, ngài Thiên Thân nhận ý chỉ của Hiền huynh. Tại sao được nhân anh nói một lần, nhân em chia làm hai lần. Ngài Thiên Thân cũng một vòng mà nói giải, tự giải thích rằng: cũng có giải thích thích riêng, đã giải thích như trước, lại câu hỏi thứ hai nhân em đáp riêng câu hỏi trước, nhân anh đáp chung lời gạn trước, nhân em tùy văn tăng để soạn ra câu đáp, nhân anh theo nghĩa đủ mà đáp câu hỏi. Lại nhân anh y theo nhân lợi căn để giải thích văn, nhân em tùy phẩm độn mà giải thích nghĩa. Lại, nhân em tùy nhân mới học mà chỉ bày theo tông, nhân tùy tu lâu trình bày theo ý chỉ. Do đây khác nhau, không trái nhau. Lại câu hỏi thứ ba, nhân anh theo các địa mà tiệm tu, lại người giải thích nghi mà hiển khởi, nhân nghe chỉ tùy tin mà quyết định, tức nói pháp môn tiến đến làm lành dứt ác, nhân nghe sinh nghi, liền theo tâm nhân để trình bày theo diệu đạo. Nhân anh tùy nghĩa trước, y theo các địa tu hành, nhân em theo các nói sau, giải thích nghi khởi bày. Lại nhân anh chỉ nương tông để giải thích nghi, nhân em bèn y theo các nói để nói về văn mới.
1/ Cách này y theo đồng hay không đồng, lý thật chẳng phải mâu thuẫn nhau, về đại thể thì đồng về chi tiết thì khác, nên giải thích hai văn, như ở dưới nói về nói.
Trong đây phát tâm có hai câu hỏi đáp.
* Hỏi hoặc có chủng tánh mà phát đại tâm, hoặc không có chủng tánh cũng phát đại tâm, đã phát tâm đầy theo đủ vì sao chủng biết sẽ được quả Phật.
* Chủng tánh có khác, đáp Bồ-tát địa nói: Nếu có sáu Độ chủng tánh tướng, hễ phát tâm thì được quả Phật, nếu không như vậy theo thì không được, nghĩa là có lặp bày theo chủng, tánh ưa thích đều rộng khắp, đại tuệ thí xả, không có tài của hổ thẹn, khen ngợi khuyến khích tùy hỷ, thọ pháp đặc biệt không khác nhau, nhân trách không ngăn được, không cô phu tài vật. Tuy cầu tài vị, mà ý ưa thích rộng lớn, mau được rồi nhàm chán, cứu giúp sợ sệt, thích nói việc vô tội. Có giới chủng tánh bố thí, tánh thành phẩm xấu bất thiện cho ba nghiệp, mà không cực bạo ác, không làm tổn não người, khởi ác mau sám hối, thường thực hành tứ ái, thường cung kính không kiêu mạn, việc làm hợp thời, khéo thuận tâm người. Trước nói thích nhìn xem, biết ân ngay theo thẳng, như lý mong cầu, thích tu Phước nghiệp, thấy khổ thương xót, còn hơn đối với bản thân, tội nhỏ rất sợ, như pháp đồng sự, chẳng phải pháp khác nhau, bỏ mình thành người, có đức từ ái, bao gồm tự tha. Có nhẫn chủng thì bị nhân làm hại, không có tâm báo thù lại, khuyên ngăn mau nhận lỗi, không bao lâu tâm oán gặp khổ mà nhẫn được, có ấn tượng lời nói khéo. Có tinh tấn chủng, tánh tự tinh tấn siêng năng, thức khuya dậy theo sớm, làm những việc tinh tấn, mạnh mẽ phương tiện rốt ráo, làm việc khéo léo vững chắc, đối với chân lý tâm không yếu hèn, đối với việc cầu quả cao quý, không tự xem thường, việc khó không sợ, việc lớn không mỏi mệt. Có tịnh lự chủng, tánh suy theo nghĩ nghĩa pháp, thường ưa vắng lặng, kính mến ra khỏi, coi nhẹ ràng buộc, không bị việc ác khuấy nhiễu, thấy chúng sinh khổ thương xót, tùy khả năng mà cứu vớt, ưa bố thí lợi lạc, ghi nhớ pháp không quên.
Có tuệ chủng, thành tuệ câu sinh, hay đi vào nơi sáng, tánh không ngu độn mê mờ, ở chỗ buông lung, mới suy theo nghĩ lựa chọn. Nếu trước có sáu Độ này tu tập, phát tâm Bồ-đề, sẽ được quả Phật.
Vô chủng tánh, không phải bản trí, tuy là phát tâm, nhưng sẽ không được thành Phật.
2/ Hỏi: Nếu có chủng tánh trước đã thành, vì sao không mau thành Phật.
Đáp: Vì bốn nhân duyên, nên không được thành Phật. 1-Không gặp được ban hành nói đạo Bồ-đề cho nghe. 2-Tuy gặp mà nói chấp điên đảo. Học điên đảo
3-Tuy không có các điên đảo nầy, nhưng phương tiện chậm chạp, biếng nhác, không siêng năng tinh tấn, tuy siêng năng tinh tân nhưng gốc lành chưa thuần thục, tư lương chưa đủ, cũng chưa có thời gian lâu dài tu Bồ-đề phần, không được phương tiện nầy. Đây là mới phát tâm có năm đức tướng.
1- Đầu tiên phát tâm có được chánh nguyện, nhiếp khắp tất cả, còn chánh nguyện khác, cho nên phát tâm bằng cách nguyện đầu tiên để làm tự tánh.
2- Là khởi lời nguyện, nguyện ta quyết định, sẽ chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề, có thể làm tất cả nghĩa lợi cho loài hữu tình, rốt ráo ở yên trong Niết-bàn rốt ráo cho đến trong trí rộng lớn của Đức Như lai, cho nên phát tâm quyết định mong cầu hành tướng kia.
3- Dùng Đại Bồ-đề làm cảnh giới cho loài hữu tình, cho nên có sở duyên.
4- Sơ phát tâm này nhiếp các hạnh mầu, có thể trái với tất cả hành vị ác của hữu tình, nên tương ưng với tất cả công đức.
5- Đây là sơ chánh nguyện đối với các nguyện thế gian và xuất thế gian, tối thượng bậc nhất. Sơ phát tâm này gọi là Thú nhập Vô Thượng Bồ-đề, vào kiếp đã dự vào trong các số Bồ-tát Đại thừa, có thể làm căn bản cho Vô Thượng Bồ-đề, vì đồng với đại bi, chia ra làm chỗ nương cho tất cả nhân học. Từ đây về sau, hoặc có lui sụt, hoặc không lui sụt, có lui sụt rồi trở lại tu, đây là mới phát tâm do bốn thứ duyên:
1-Thấy nghe Chư Phật v. v... có năng lực thần thông rộng lớn. 2-Nghe giảng nói tạng giáo Bồtát.
1- Thấy Phật pháp sắp diệt, nhớ nghĩ lời pháp tồn tại lâu đời dứt trừ các khổ, ta phải phát tâm, sẽ làm việc lợi ích.
2- Bốn thời kiếp mạt, thấy chúng sinh ác có mười phiền não thường bị ngu si v. v... khuấy rối, nhớ nghĩ lời nói phát tâm Hai Thừa, còn khó có thể được, huống chỉ là đại Bồ-đề, ta sẽ phát tâm giúp họ học theo ta. Lại có bốn nhân:
1-Đầy theo đủ chủng tánh. 2-Được ban lành nhiếp thọ.
3-Có tâm thương xót đối với chúng sinh. 4-Khổ hạnh không khiếp sợ.
Trong bộ Nhiếp Đại thừa nói: Năng lực thanh tịnh tăng thêm, tâm thắng tấn vững chắc, gọi là Bồtát sơ tu vô số ba đại kiếp. Tâm đại Bồ-đề dùng gốc lành mà làm tự thể, gọi là năng lực thanh tịnh, vì hàng phục dứt trừ chướng các, lấy ban lành làm duyên, gọi là năng lực tăng thượng. Do không lui sụt làm sách phát, gọi là năng lực vững chắc. Tuy gặp bạn ác, phương tiện bị ngăn trở, mà không hề xả bỏ tâm đại Bồ-đề, chỗ tu thiện pháp hành vận hành tăng trưởng, thắng tấn như nầy, đều gọi là tối sơ phát ý. Sau khi phát ý lại tân huân hạt giống Văn Tư, làm xong tư chất hạt giống vô lậu, hợp lại hai tên thành Tập Sở Thánh Chủng, ở trong biển sinh tử, hẹn thời gian để ra khỏi, không bao lâu chắc chắn sẽ mau chứng đến bờ kia, nên pháp tu hành gọi là Ba La Mật Đa. Đã gặp gần gũi có bốn món tương ưng, phải rõ biết thân cận thọ học.
- Trí tuệ thông minh, không theo ác kiến.
- Không dạy theo họ buông lung không truyền giới cụ túc cho họ.
- Không xúi giục họ làm việc ác, hạnh không trao cho họ các pháp nhân duyên.
- Không khuyên họ bỏ những pháp cao quý đã tu trước, dạy theo tu các pháp thấp kém, cho đến không hề duyên bỏ Đại thừa, giúp họ tu Hai Thừa, đây là tướng bạn ác, phải nên xa lìa, phải phân biệt rộng phát tâm trụ nhiều ít công đức nhân duyên khác nhau v. v..., đều như trong quyển Địa thứ năm mươi bảy theo kinh Hoa Nghiêm và kinh
Thiện Giới, thứ nhất Bồ-tát địa có giải thích rộng. Giải thích thích Tín Hành Địa, đại văn chia làm ba.
1- Nhiếp trụ xứ là giai vị Thập Trụ đã xong.
2- Hai trụ xứ là giai vị Thập hạnh, Ba-la-mật Tịnh Trụ Xứ là sáu hạnh đầu tiên.
3- Dục Trụ Xứ là bốn hạnh sau. Trong Ba-la-mật đầu tiên nói về bố thí là năm hạnh đầu, không trụ tướng tưởng là sáu hạnh, Dục Trụ Xứ là bốn hạnh, muốn được sắc thân là hạnh Địa thứ bảy, muốn được thân nói năng là hạnh thứ tám, muốn trí tướng thân là hạnh thứ chín, muốn Pháp thân phước tướng là hạnh thứ mười, hoặc chia làm bốn.
Trên đây là giải thích nhiếp trụ xứ đã xong, dưới đây thứ hai là Ba-la-mật đa Tịnh Trụ xứ, văn chia làm hai:
4- Đầu tiên nêu năm nghĩa giải thích chung trụ xứ ở sau.
5- Sau mới giải thích thực hành hoặc Tín Hành Địa, đại văn chia làm hai.
Trên đây đã giải thích nhiếp trụ xứ đã xong, dưới đây mới giải thích ba trụ xứ còn lại, văn chia làm hai.
6- Đầu tiên nêu năm môn trong các trụ xứ.
7- Sau riêng giải thích ba trụ xứ, văn đầu tiên chia làm ba.
1- Nêu năm tướng theo văn, tương ưng với xứ của năm nghĩa kia, tức phối hợp để giải thích.
2- Nêu ra năm tên gọi.
3- Giải thích nghĩa ấy, hỏi vì sao ở trên nói trong nhiếp trụ xứ, không năm xứ này phối hợp mỗi xứ trong với văn
Hỏi: Đạo lý đều có: Nghĩa là nên sinh tâm y theo nghĩa như vậy, nói lên đối trị tâm không lui sụt, ta đều giúp họ nhập Niết-bàn Vô Dư, đây là nói tướng. Tức ở đây giúp họ nhập vào Niết-bàn Vô Dư, là nhiếp trì, tâm nhiếp trì, tức nguyện mong muốn. Mà thật ra không có chúng sinh được diệt độ, đây là an lặp đệ nhất nghĩa. Nếu có ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng, thì không gọi Bồ-tát là hiển bày theo, đây là tương ưng Tam-muội và nhiếp tán tâm. Nhưng do trước hỏi có ba:
Đáp: Văn đều có đủ ba nghĩa. Đầu tiên lại giải thích phối hợp với ba lời đáp, không dùng năm thứ phối hợp với văn, chẳng phải trong văn trước không có năm nghĩa này ở đây căn cứ tăng thêm nói, như ngài Thiên Thân giải thích. Văn đầu tiên đáp câu hỏi đầu, lặp bày theo văn đáp câu hỏi thứ hai, chẳng phải không có nghĩa khác tuy tăng thêm làm lời đáp, cũng không trái nhau. Lại nói lên văn trong câu hỏi, rõ đủ năm nghĩa, nói về văn trước, lý cũng đủ năm, nên lược bớt không nói.
Y theo nghĩa đối trị là chỗ dứt chướng trụ xứ. An lặp là chỗ chứng lý. đầu tiên hỏi về nguyện, mong muốn nhiếp trí. Hai là câu hỏi sau, tương ưng với Tam-muội và nhiếp tán tâm, đây là nói lên, tức các hạnh được hỏi, đều là nói tướng. Ba là hỏi là chỉ hỏi để đối trị hạnh, lược không có chỗ đối trị chướng cho đến chỗ chứng lý và nói chung, vì nói về câu hỏi, vì rõ được lý khó, bèn đổi câu hỏi. Lời đáp nói đều rõ đủ. Vì muốn giúp cho họ hiểu, dứt tu chứng có ba, đều đủ lời đáp, các pháp đối trị nói rằng: Chân như Thánh Đạo, phiền não vô sinh, nay nói ba nhân cũng sẽ được Thánh Đạo, tùy mà trụ cho nên nói. Trong phần giải thích nghĩa thì giải thích kinh này đã rõ, trong các trụ xứ ở đây đối trị làm nghĩa nương, y theo nghĩa đó đối trị, mới nói hạnh năng trị, hạnh năng trị tức các nguyện mong muốn. Cho nên sở trị: gọi là y theo nghĩa, các nghĩa đều nói về hạnh trụ xứ, vì đã nói tướng. Đã nói tướng tức các nguyện mong muốn tán tâm ba món hạnh. Thường muốn tu hạnh, thì đầu tiên phát sinh nguyện mong muốn, vì năng nhiếp giữ, đã nhiếp giữ các hạnh thì trí nhiếp tán tâm mới được thành tựu đầy theo đủ.
Trong trụ xứ, Đệ Nhất Nghĩa đế là chỗ an lặp, trong chứng thật tế gọi là phi an lặp, nay dùng lời nói lặp bày chân như thắng nghĩa đế lý, nên gọi là an lặp, pháp sở đối trị, năng đối trị ở trước không có phân biệt và quyết định, gọi là hiển bày theo. Chính là trong kinh đầu tiên tâm nguyện mong muốn đã nói lên, tông thú không có sự phân biệt, gọi là hiển bày theo, khi nhiếp phục tán tâm cũng là nhiếp phục ở đây, vì trong văn lược, y theo định thể ở sau. Trước nói tâm nguyện mong muốn gọi là năng nhiếp trí, khi không tâm phân biệt là nhiếp phục tán tâm, đây đã nhiếp trì. Ở đây nói, v. v.. trí nhiếp tán tâm hai vị, gọi là sở hiện hiện, rõ ràng nguyện mong muốn ở trước, đây là năng hiển bày theo, trước sau gọi là khác, nói về sự cao quý, khi hạnh kia thực hành, không nhất định phân biệt, gọi là tương ưng, chướng mà định đối trị tương ưng, đây là tu hành định sở tương ưng, cũng Dịch là Vô Phân biệt tương ưng trí, cũng là định chân cảnh tương ưng, gọi là Tương ưng, trong năm bộ luận Du-già, thuộc về bốn hoặc năm, nhân năng tu hành gọi là Du kỳ.
Giải thích thích văn kinh Ba-la-mật Tịnh Trụ Xứ.
Trong thực hành chia làm hai, đầu tiên giải thích năm nghĩa, để đáp ba câu hỏi, ở sau vì sao Bồ-tát không trụ tướng v. v... trở xuống là giải thích nghi sự ngờ nầy. Y theo bộ luận của ngài Thiên Thân, đầu tiên nói thực hành để đáp câu hỏi thứ hai, không trụ tướng trở xuống đáp câu hỏi thứ ba. Đáp thứ ba trong câu hỏi lại có hai. đầu tiên chính là đáp câu hỏi, vì sao v. v... trở xuống mới giải thích mối nghi nầy, tùy văn tướng kia thêm hiểu, để giải thích lời đáp, đây là tùy nghĩa đầy theo đủ, để rõ lời đáp, cũng không trái nhau, đều y theo một nghĩa. đầu tiên giải thích năm nghĩa đáp trong ba câu hỏi, y theo nghĩa có đủ năm, luận tự phối hợp với văn, hỏi đáp chia làm hai, ba phần đầu tiên không trụ lặp ra lời đáp, câu hỏi đầu tiên y theo nguyện mong muốn, sau không trụ tướng, đáp hai câu hỏi sau, đáp trong câu hỏi đầu, nghĩa đủ bốn loại, ba không trụ là y theo nghĩa, ba hành là nói tướng, tức hành thì đây là nhiếp trí, tức không trụ ở đây, là an lặp, phải tìm xét văn tự phải giải thích ngộ, y theo nghĩa văn nên biết, ba cái không trụ đều y theo nghĩa, đều dứt trừ chấp đắm.
Trong phần giải thích tướng chia làm ba. đầu tiên phối hợp chung văn kinh nói về tướng. Kế là giải thích chỉ nói lý do thực hành, ở sau các pháp
Ba-la-mật giải thích không trụ thực hành khác nhau, phối hợp với nói tướng. Trong ba cái không trụ, sở thực hành, đều là chỗ nói tướng phát tâm về sau tu các hạnh, cho nên dùng hạnh thí làm phát tâm, ở sau sẽ nói về tướng đó.
Kế là giải thích chỉ nói lý do thực hành, trong đó có hai: đầu tiên nêu chung giải thích, sau nói về giải thích riêng, nghĩa là có lời nói khó. Trong kinh Bồ Tát Diệu Nghiệp trình bày theo tám mươi bốn ngàn, vì sao trong đây chỉ nói bố thí, nên ở đây nêu cả sáu pháp Ba-la-mật, nhiếp trong tất cả Đàn-na hành tự tánh, trong văn này ngược lại, nên nói tất cả Đàn-sa hành tự tánh nhiếp sáu pháp Ba-la-mật, trong kinh này chỉ nói độ bố thí, còn tất cả đều đủ. Hỏi ở đây nếu như vậy, cho đến Bát-nhã, cũng nhiếp hạnh sáu Độ, vì sao, không chỉ nói một tuệ nhiếp tất cả?
Đáp lặp bày theo là đầu tiên để tu hành, thô mà thay đổi tập khí, thể lại rộng mà bao gồm, cho nên chỉ nói ở đây, cũng hiển mà gồm chung, nêu chung tên kinh, y theo cao siêu làm mục đích.
Đáp: Tu hành nêu nghiệp đầu tiên mà đặt tên, nhưng ý của quán văn, trăm ngàn các hạnh chỉ nói lặp bày, do lặp bày theo thu nhiếp tất cả hạnh. Trước nhiếp trụ xứ là giai vị Thập Trụ, Ba-la-mật Tịnh Trụ Xứ này là giai vị Thập Hạnh, là nói hoan hỷ hạnh, v. v... đều theo thứ lớp tu một pháp, lược nêu cho nên chỉ nói lặp bày theo, nhiếp ở sáu Độ, nên không nói, vì thực hành nhiếp tất cả hạnh. Lại hạnh Bồ-tát có bốn:
1- Bồ-đề phần.
2- Ba-la-mật.
3- Các thần thông.
4- Thánh tựu hữu tình.
Nay nêu hạnh đầu tiên, để nói về nhiếp các hạnh, cũng không sai trái, ở sau phối hợp với văn, giải thích riêng có hai: đầu tiên nêu lặp bày theo có ba, sau tùy giải thích riêng. Trong đây có ba thứ, trong tu luận của ngài Thiên Thân đều giải thích riêng. Trong bộ Huyền Ký cũng hội lại có đồng và khác, nên tìm xem, trong pháp thí có ba:-Đầu tiên riêng nêu.
3- Hiển bày theo tướng.
4- Kết thành.
Các pháp Ba-la-mật có hai thứ quả, ở sau giải thích, trong văn kinh có ba thứ không trụ thí, có ba thứ khác nhau:
5- Nêu riêng.
6- Tùy giải thích.
7- Phối hợp với kinh.
Tùy trong giải thích khác nhau, lặp bày theo được Phước báo rộng lớn, là tăng thêm quả báo tài vật giàu sang, hoặc tự thân được thánh Phạm, thân sinh tôn quý của quả báo dị thục, hạnh nhân rất vững chắc với đai quyến thuộc tinh tấn, đắc quả không dứt, đắc định được thân không hoại và quả tăng thượng, được tuệ căn lanh lợi, đây là quả đẳng lưu. Phần thường ưa thích có hai:
1- Quả vô vi xa lìa ràng buộc.
2- Trong chúng được tự quả dụng tự tại.-Hiện tại quả có hai:
- Được tín ngưỡng cúng dường, là ba quả Tăng Thượng Đẳng lưu và Sĩ dụng, xưa bố thí cho người, nay được nhân bố thí, là giai vị quả Đẳng lưu.
- Được pháp Niết-bàn, là sáu hạnh thế gian đã được Phi Trạch Diệt, giống như vô vi, gọi là Hiện Pháp Niết-bàn, Pháp là đạo lý, hiện đời diệt được thô nặng, nên được lý Phi Trạch Diệt, là quả Sĩ Dụng. Trước nói được năng lực đại phu. Lại Hiện pháp Niết-bàn có năm:
Hiện được năm món dục lạc, còn bốn thứ riêng được cõi sắc bốn thứ tĩnh lự hiện ở trước, cùng với khinh an đều trữ ít thô năng, cũng gọi là Hiển Pháp Niết-bàn, gọi chung là quả hiện tại, tùy các pháp sở đắc, ấy mà phối hợp với nhẹ trong ba món không trụ thì văn có ba:
1. Lặp bày theo quả vị lai là một.
2. Còn năm độ quả vị lai là một.
3. Quả hiện tại là một.
Nhưng năm trần như sắc v. v... khác với pháp trần, nêu chia thành hai: Tín kính cúng dường v. v... vì nhiếp năm trần. Năm món hiện Niết-bàn, vì nhiếp pháp trần. Trong phần nhiếp trì, kinh chép nên thực hành bố thí, tức trên nói ba món nên thực hành bố thí, trong giải thích an lạc, không trụ thí, cũng là từ trước đến đây ba món không trụ thí, văn chia làm hai.
4. Thuộc về văn kinh.
5. Giải thích đầu tiên nghĩa tướng thứ nhất, do không trụ, không trụ chấp là nghĩa bậc nhất. Như tất cả việc nghĩa là ở trước nói việc bố thí không trụ là Đệ nhất nghĩa, như có sự. Nghĩa là trước nói một đối với sự lặp bày theo không trụ có hai. Không có chỗ trụ thì có ba đối với sáu trần thí không trụ, ba món như đây đã có trong sự, đều không trụ thí, gọi là đệ nhất nghĩa, cho nên trong luận kết thúc rằng: Đã không trụ các vật, là chỗ có các vật để nói, nói về nêu việc đầu, thì các thủ không có chỗ tru, đối với sáu trần bố thí, hợp với ba món nầy, gọi là tất cả việc, trong ba việc này không an trụ, gọi là Đệ nhất Nghĩa đế. Trên đây thực hành bố thí, giải thích bốn nghĩa đầu tiên, sau giải thích đẳng trí Địa thứ năm và nhiếp tán tâm, lời văn rất dễ hiểu. Tướng là cảnh, tưởng là tâm. Luận của ngài Thiên Thân nói: Thí là thọ là các vật, tùy hợp với tướng của sáu độ ba việc, chấp ba tướng nầy, gọi là tương ưng, tức là tướng đảo, là có bảy theo đảo, tức thường lạc ngã tịnh, tâm tưởng, kiến đảo, nay nói tưởng đảo, các chấp nhiếp tâm, quán ba việc không, khởi ba luận thanh tịnh, nên gọi là Bất trụ.
Trong kinh Năng Đoạn chép: Nếu không trụ tướng tưởng, trên đây nguyện mong muốn còn không trụ chấp, cho đến thuộc về đẳng trì, tán tâm cũng vậy, nên như đầu tiên không trụ thí, cho nên có như đồng, hoặc nương chân lý, vì tánh không trụ chấp, nên thí tưởng như lý không trụ, theo lời giải thích của ngài Thiên Thân. Nếu hàng phục tâm mà dứt chướng, như chỗ tu hành không trụ tướng tưởng, tâm chướng tự dứt, đây là tùy nghĩa đều đáp đủ ba câu hỏi. Luận chủ Thiên Thân y theo theo hạnh đầu tiên lần theo thứ lớp mà tu thêm văn tưởng để rõ, đáp riêng ba câu hỏi, như trên đây đã nói. Trong luận của ngài Thiên Thân giải thích ba món không trụ thí, khác với ở đây, nói tự thân và báo ân, quả báo đây không có chấp tự thân quả báo, đây là quả báo vị lai, ân là quả hiện tại, tuy đại thể giống nhau, nhưng sự trông mong có khác nhau, nghĩa đưa ra trăm nẻo, cũng không trái nhau, vì y theo nghĩa nầy. Trong kinh do chân Đế dịch chép; Không chấp các thứ mà thực hành bố thí, không chấp các chỗ, mà thực hành bố thí. Ở trước đã giải thích năm nghĩa để đáp ba câu hỏi, giải thích năm hạnh tiên đã xong, sau giải thích vì sao như Bồ-tát không trụ tướng bố thí v. v... trở xuống là giải thích nghi khó.
Đầu tiên nói về hạnh thứ sáu, văn chia làm hai, đầu tiên gạn, sau giải thích. Luận do ngài Thiên Thân chép: Trong đây có nghi, nếu lìa các tưởng bố thí, làm sao thành tựu Phước bố thí? Nghĩa là có nhân nghi rằng: ba việc chẳng phải không, thí có thể có Phước, đã không có ba việc, Phước thí lẽ ra không, nên luận này chép: Hoặc có Bồ-tát, vì nghèo Phước đức đối với đây không kham, vì tham Phước đức, nên thực hành nơi bố thí, nghe ba việc không nầy, không thể chịu khó thực hành bố thí, nên kế đó gạn rằng vì sao, sau giải thích văn kinh chia làm ba trong luận chia làm hai, đầu tiên giải thích pháp, sau giải thích dụ, không giải thích trong pháp nói, mà giải thích trong dụ, đầu người không trụ tướng bố thí, như đầy theo khắp hư không, vì quả tướng vô tướng đều được y theo, chấp tướng mà thí không phải như vậy, không được vô tưởng, nên không đầy theo khắp. Kế là do nhìn rộng phóng khoáng, không trụ tướng bố thí, sau khi đắc quả, hình trên dưới cao thấp, vì pháp vô lậu vượt hơn ba cõi, hình tướng rộng khắp, vì đủ cả mười phương, chấp tướng bố thí thì không như vậy, sau khi đắc quả, chỉ ở trong ba cõi, vì chẳng phải mười phương, hoặc vì chứa đựng, gọi là mênh mông, sau do vô tận, thuận với lý vô tướng, rộng chuyên chở chúng sinh. Vì không cùng tận, trụ tướng không phải như vậy, không thuận theo chân lý, chẳng lợi ích cùng khắp, kinh kết trong văn nói, chân lý không chỉ đồng với văn, đồng bản Trung Phạm thiên, bản khác đều có. Luận này nhắc lại những chỗ kinh không giải thích, cho nên biết cũng không kết văn đó, không có trụ tướng thí, Phước đức đều nhiều, các bản đầu có.
Kế là giải thích thứ ba muốn trụ xứ, ở giải thích theo đây tám trụ xứ giải thích theo mười tám pháp trong đây có hai. đầu tiên muốn được sắc thân là hạnh Địa thứ bảy.
6. Sau muốn được Pháp thân là ba hạnh sau, văn kinh đầu tiên có ba:
7. Đầu tiên hỏi.-Kế là đáp.
8. Sau là thành.
Trong câu hỏi có hai: y theo nghĩa nói tướng trong thành có ba, nhiếp trí hiển bày theo ba món trong lời đáp hoàn toàn không có, chẳng khác với văn nghĩa tướng trước sau, vì chấp Phật nói. Muốn được sắc thân trụ xứ, đầu tiên học Bồ-tát có nhiều tướng tu, thoạt nghe ba vầng vô tướng tịnh thí, lại sinh nghi ngờ. Lại như Đức Thích-ca, thân đã có tướng sinh trụ dị diệt như vậy, nên biết có nhân tướng thí, lại thành quả hữu tướng. Luận của Ngài Thiên Thân chép: vì sao sinh nghi, nếu không trụ trong pháp, hạnh ở chỗ bố thí, làm sao vì Phật Bồđề thực hành bố thí, do thân Thích-ca sinh diệt, làm Bồ-đề để thân nương thực hành hữu tướng bố thí. Nếu thực hành vô tướng không người không pháp, lẽ ra được quả không trụ tướng kia. Vì sao được quả sinh diệt kia. Nay trong Luận này không có nghi mà chỉ nói hạnh, vì đầu tiên tu học, chưa ngộ vô tướng, thực hành nhân hữu tướng, mong cầu quả vị Phật, thân Đức Thích Ca có sư sinh diệt, đây là thân tướng tốt của sắc thân. Vì thân tướng đây là chỗ Phật Bồ-đề cao quý nương tựa nên trong luận chép muốn được sắc thân, luận ấy giải thích lý do, do ở trước nói nhân vô tướng thí, do sinh nghi ngờ, vì kia phá nghi đây, các kinh ở sau là bác bỏ nghi kia, ý nói của luận nầy, do hạnh đầu tiên có tướng thí muốn được thân hữu tướng của Đức Thích-ca, tức để hóa thân tướng, là chân thật thân thể, được chút công đức, nghĩa là chân thân có nhiều thể công đức cho nên nói. Vì muốn đối trị kiêu mạn sắc thân đối trị sắc thân, được thân hữu tướng có chút công đức, là được nhiều thân công đức chân thật, là tăng thượng mạn, vì phá mạn này nên có kinh ở dưới, phải hợp hai luận. Nay văn trước của hai thừa, do sinh ra mê lầm gọi là nghi, mong làm ngụy theo tướng, cho là chân xưng kêu mạn, vì dứt bỏ hai hoặc nghi và mạn, nên nói ở kinh sau. Đầu tiên tu hành, tánh định, bất định. Đại thừa dị sinh nghi ngờ, là phiền não chướng, cũng là thô sở tri thô. đầu tiên tu hành là bậc Thánh phát tâm, lại có ở cả hai chướng, hữu học có cả phiền não, vô học chỉ có pháp chấp. Như ngài Xá-lợi-Phất nghe kinh Pháp Hoa, mới dứt nghi hối, xã bỏ các ưu não, ở đây cũng vậy, tức do trên đây đã nói nghĩa, các nhân không ngộ, là luận của ngài Thiên Thân, trái với nói của ngài Vô Trước, nên quán xét kỹ, đây là hội ý đồng, thật không trái nhau, nên ngài Thiên Thân nói: Từ đấy về sau tất cả Tu-Đa-la chỉ bày theo độn căn, sinh tâm nghi, nên biết Luận ấy y theo nhân trước nói đầu tiên học nghi khởi, phát sinh ở văn kinh sau, để phá nghi kia. Luận nầy y theo sơ học trông mong ở sau chẳng phải công đức chân thật, mà tu các hạnh, vì để phá kiêu mạn kia, phát sinh ở sau văn kinh, không trái nhau. Hơn nữa Luận kia y theo nơi sơ học lợi căn sinh ra nhiều nghi ngờ, nên nói ở kinh sau. Luận nầy y theo sơ học độn căn phát sinh ra nhiều ngã mạn, nên nói ở kinh sau. Hơn nữa trong luận kia, y theo văn tướng tăng thêm ba văn trước sau để đáp ba câu hỏi, cho nên làm đạo lý riêng, để phát sinh ở kinh sau, nói phá nghi khởi. Nay trong luận đây y theo nghĩa đây đủ, trong mỗi văn đều đáp ba câu hỏi, cho nên chẳng phải đạo lý lạ, để phát sinh ở kinh sau, nói là trừ mạn, thật không trái nhau, lại y theo đạo lý phá bất định phiền não sơ học nghi ngờ, do phát sinh ở kinh sau, đây là y theo sơ học, dứt quyết định phiền não tăng thượng mạn, để sinh ra sau kinh. Bốn nghĩa trên đây lại y theo nghĩa đồng, để hội hai luận, y theo nghĩa khác. Lại có bốn nghĩa, luận này vì y theo nơi ưa thích nghe rộng, nên nói ba địa từ phàm đến Phật, đều nói đủ, trong mỗi văn đều đáp đủ, phát sinh ra văn ngã mạn. Luận ấy thích nghe sơ lược, đáp riêng ba câu hỏi sau đều dứt nghi. Lại luận nầy y theo nhân lợi căn vừa nghe liền ngộ, nên nói ba địa, một vòng nói kinh, trong mỗi văn đều đáp đủ, phát sinh văn ngã mạn, thứ lớp khác nhau, luận ấy y theo nhân độn căn mới nghe thì hiểu, nên nói hai vòng, đáp riêng ba câu hỏi, còn đều là phá bỏ nghi, lại nói theo đây thì người lợi căn mới đến một vòng, nên nói phá nghi, lại lý đưa ra trăm nẻo, nhọc gì một phen thông suốt, phá chấp sinh ngã mạn, thảy theo đều khác nhau. Trong một hội, ưa có rộng lược, căn có lợi độn, nghe có riêng và trùng lặp, lý có nhiều, vì các thứ có khác nhau, hai luận giải thích khác là không đúng. Ngài Vô Trước lãnh thọ bài kệ ở ngài Di-lặc, ở sau phó chúc cho ngài Thiên Thân, nhờ soạn lời giải thích. Ngài Vô Trước đâu trái với Đức Từ Thị. Ngài Thiên Thân đâu khác với hiền huynh? Ngài Vô Trước đầu tiên có kệ quy theo kính rằng: "Nhân trí đã nói giáo và nghĩa, nghe rồi chuyển thành các nói của ta, cho nên biết nghe rồi vì ta nói, tức là Từ Thị đã nói luận của ngài Thiên Thân đã giải thích, là do ngài Di-lặc soạn. Ngài Thiên Thân có bài tụng rằng: "Bậc đại trí thông suốt dạy theo chúng ta, Đảnh lễ thân công đức không thể sánh bằng".
Chính là đồng với Luận này nêu bày theo cung kính nên hiểu như trong ba câu hỏi đã giải thích ở trước và nhiếp trụ xứ, đều nên nói ở đây, lấy đây và hội các văn kinh ở sau, phải nên quyết rõ, văn sau chỉ nên giải thích lời văn kia, lại không có hội lại giải thích.
Trong văn luận, y theo theo giải thích văn kinh có ba. Đầu tiên trong văn giải thích có hai:
9. Đầu tiên giải thích kinh y theo nghĩa.
10. Sau luận văn giải thích nói tướng.
Trong đây đầy theo đủ, tức là ngài Lưu-chi đã thành tựu, nghĩa thì đồng mà tên thì khác. Trong kinh do chân Đế dịch chép: Các tướng công đức cao quý, thành tựu tướng hữu vi, vì thân Phật Bồđề, đầy theo đủ thành tựu chính là đã dịch lại, thắng đức là do tướng hữu vi, là thể đức cao quý của Phật, là dịch nghĩa lại. Ở sau quán các tướng. Là tướng tốt, Luận của ngài Thiên Thân giải thích, chính là tướng của bốn tướng, là ba thứ tướng hữu vi, không nói trụ tướng, như trong Duy Thức chép Tu Bồ-đề hiểu ý Phật cao xa, nên nói không đúng, không thể dùng ba tướng hữu vi thành tựu chân thân thấy Phật. Đã nói hữu vi chẳng phải là tướng Pháp thân, vô tướng tướng, ba tướng hữu vi là tướng hữu vi, thực hành nhân vô tướng, lại được quả báo pháp thân chân thực vô vi vô tướng, chẳng phải thật hành nhân vô tướng mà được tướng giả hóa thân báo thân hữu vi. Ở sau là vì Phật thành tựu nghĩa trước gạn sau đáp, nên bảo lặp lại, chia làm ba:
11. Đầu tiên hễ cái gì có tướng đều là luống dối, là nhiếp trì nguyện mong muốn, nói về tướng hữu vi, là luống dối, lại nói tướng của phi tướng khác với luống dối đây là luống dối, giúp cho nhiếp trì các tướng, sau phát sinh nguyện mong muốn, chẳng phải nguyện mong muốn nhiếp trì pháp có tướng luống dối, có tướng luống dối chẳng phải là định vô phân biệt tu hành nhiếp trì có hai. Ý nói nguyện mong muốn là hạnh đầu tiên, vọng của vọng hành hữu tướng, nguyện mong muốn chẳng phải vô tướng Bát-Nhã, nguyện mong muốn vô tướng Bát-Nhã, là nguyện mong muốn cầu vô tướng, cho nên trong luận chép: Nguyện mong muốn nhiếp tâm trì là định vô tướng, nhiếp tán hai tâm căn bản nguyện mong muốn, cho nên nguyện mong muốn đây là chánh hạnh. Nguyện vô tướng mong muốn, lớp thứ hai nói rằng: Nếu thấy các tướng phi tướng, thì chẳng phải luống dối, là an lặp đệ nhất nghĩa, tướng là luống dối hóa thân, phi tướng là Pháp thân chân thật, thấy vô tướng của hóa thân là các chẳng phải pháp thân của tướng hữu vi, thì chẳng phải luống dối, kia do hữu tướng hóa thân, là thân tướng chân thật, cho nên là luống dối.
Sau kết thứ ba, các tướng hữu hóa, chẳng phải chân thật vô tướng, thì thấy Pháp thân Như lai, đây là hiển bày theo, chính là nói định vô phân biệt và khi nhiếp tán, trong có tướng chẳng phải tướng Pháp thân chân thật, cho nên thấy Như lai, đây là quán thấy Như lai, nên phẩm Quán Như Lai trong Kinh Vô Cầu Xưng chép: ở sau giải thích ưa muốn trụ xứ, y theo mười tám trụ xứ ở trước, văn chia làm hai.
12. Đầu tiên muốn hiểu được nói năng Pháp thân, sau là hiểu ưa muốn được Pháp thân ưa, muốn được Pháp thân, nhân quả tuy khác. Nhưng thể của chánh Pháp thân, các pháp công đức nương dừng, ba thân Quả Phật và nhân Phước tuệ đều là Pháp thân đã nhiếp đối với lời nói, thinh giáo chẳng phải Pháp thân. Nhân của Pháp thân, cũng gọi là Pháp thân. Như nói Bát-nhã thật tướng quán chiếu chính là Bát-nhã năng sinh năng hiển Bát-nhã, cũng gọi là Bát-nhã, văn tự ở đây cũng vậy, có công năng hiển sinh Pháp thân, nên gọi là nói năng, cũng gọi là pháp thân. Văn tự Bát-nhã từ chỗ năng thuyên, giải thích tác dụng năng y, để đặt tên gọi kia, nói năng pháp thân từ năng thuyên biểu hiện năng y theo sở y theo thể dụng hòa hợp, để đặt tên kia, thinh danh, v. v... vì hợp danh nói năng, hỏi vì sao trước nói muốn được sắc thân, mà gọi đó là Mạn. Đáp muốn được sắc thân là chân thân, hoàn toàn không thuận theo lý, nên gọi là Mạn, muốn được Pháp thân không trái lý. Tùy nhân trước nói mà sinh khởi, chẳng phải hoàn toàn không thuận, không gọi là mạn. Do đó muốn được sắc thân đồng với các văn ở sau. Không gọi là lìa chướng, nhưng gọi là muốn được, chẳng phải nghi cực chướng, cho nên nói muốn được sắc thân là pháp mạn chướng. Ngăn cách muốn được Pháp thân chẳng phải pháp mạn chướng, không cùng với tên lìa chướng. Trong Luận của ngài Thiên Thân nương để phá nghi, phát sinh các văn kinh ở sau, là trước nói trụ hành thí là nhân của nghĩa sâu, kế là nói Pháp thân, chẳng phải tướng hữu vi, là quả của nghĩa sâu, nhân sâu quả xa, nghĩa ý khó biết, thời đương lai tượng pháp sắp diệt, chúng sinh đời ác, năng sinh lòng tin, không ở vào thời chánh pháp, tốt đẹp trước kia, tin không nên nghi, đời ác mạt pháp không tin, không mê lầm. Nhưng hỏi thời tượng pháp sắp diệt có sinh lòng tin hay chăng? Khi tin kinh thì nói, thực hành mười pháp hạnh, vì chẳng phải đời mạt pháp, do có các hạnh giữ giới, định, tuệ đều chẳng phải cao quý, nên có lời gạn nầy. Đời mạt pháp không có ba học, nên không làm câu hỏi, luận ấy nương văn trước nói khởi nghi, luận này nương nhân muốn được nói năng Pháp thân, mà chứng được gốc Pháp thân, đời đương lai truyền bá ở thế gian, nên không trái nhau. Văn chia làm ba:-Phối hợp với văn kinh.
13. Giải thích văn hỏi.
14. Giải thích văn đáp.
Muốn được nói năng Pháp thân, nói lên ý kinh.
Ngài Tu-Bồ-đề nghe pháp sâu mầu thật tướng khó biết. Phật có thể như vậy, nhân tin rất đông, thời cơ bịnh hạnh, suy theo nghiệm cao quý nên biết. Chư Phật về sau lại có tin chăng, thời cơ hành bịnh đều chẳng phải cao quý. Ngài Tu-Bồ-đề muốn được nói năng Pháp thân của giáo nầy, hiện tại đương lai đều truyền bá ở đời.
Hỏi: Đời sau là, đời ác, sinh ác có thể tin chăng? Cúi mong Phật giải thích đáp. Cái khó đời sau còn tin sâu được huống chi Ngày nay.
Vì sao không tin, cho nên nói muốn được nói năng Pháp thân, văn đây cũng như vậy, văn đầu tiên có hai:
1. Phối hợp với kinh.
2. Giải thích cái khó.
Giải thích thích trong cái khó. Câu Tu-Đa-La nói: Nghĩa là đã có nghĩa. Câu là năng thuyên, bảy theo câu nói là nghĩa lý đã nói, tức là ngài Lưu-chi Chân-Đế và La-thập, v. v... nói chương cú, là rõ nghĩa cú đã nói lý, trong đây gọi là Thuyết. Trong kinh Năng Đoạn chép: Câu kinh điển, sắc là loại nghĩa, sở thuyên là nghĩa loại, không chỉ hỏi Kim cương Bát-nhã nầy, Đại Bát-nhã, v. v... đều ở trong câu hỏi, nên nói sắc loại. Kinh điển cú: Là giáo năng thuyên, nghĩa sắc loại này là câu kinh năng thuyên, đời đương lai vẫn đục có thể sinh lòng tin chăng. Ở đây có hai ý:
3. Nói về sở nhân không tin.
4. Chánh nêu câu hỏi.
Sở nhân không tin có hai: 1/ Thời ác.
2/ Kinh nghĩa sâu xa.
Thời ác thì ác sinh, kinh sâu đối với thật tướng, đối với câu kinh nầy, lại sinh tâm tin hiểu, là thật tướng chăng, vì chánh nêu câu hỏi, nên kinh chân Đế dịch gọi là tướng chân Thật. Kinh Năng Đoạn nói: có sinh tướng thật chăng? Trong kinh gọi là chánh lý, gọi là chân thật. Trong kinh nầy, lại sinh ra tướng chân thật có thể được chăng? Tưởng: là giữ tâm ý hình dáng năng tin, thủ tín là dung mạo chân thật.
Ngài La-thập nói: Có sinh tâm thật tín chăng? Tên khác ý đồng là, giải thích câu hỏi trong văn, ngài Tu Bồ-đề cho là đời ác sinh ác nghĩa kinh sâu mầu không thể tin, nên có câu hỏi nầy.
Giải thích thích ý hỏi, giải thích lời Phật đáp, có hai:
- Đáp chung về hữu, vì ngăn việc nầy, Đức Thế tôn nói hữu.
- Giải thích nghĩa riêng về hữu, chia làm hai:
- Sau giải thích riêng nghĩa này nên ở sau giải thích nghĩa cốt yếu của Pháp thân.
Văn đầu lại có hai:
- Rộng giải thích kinh.
- Ở trong đó nói sẽ sinh thật tướng, dưới phối hợp với năm thứ nghĩa.
Văn ở đầu chia làm hai:
- Giải thích hữu thời.
- Giải thích hữu nhân, và giải thích do đây có cưng theo năng sinh ra thật tướng.
Thời chánh pháp sắp diệt: Là thời tu hành lần lần diệt, đây là giải thích hữu thời. Ngài Thiện Hiện hỏi cả đời vị lai khó tin. Đức Thế tôn đáp riêng tu hành sắp diệt, đối với kinh có lòng tin, lại nói về lý về trước có nhiều nhân tin, có giáo có hạnh, có đắc quả chứng, gọi là Chánh pháp, có giáo có hạnh, mà không đắc quả chứng, gọi là tượng pháp, có giáo mà không có hạnh, gọi là Mạt pháp. Nhưng theo Kinh Đại Tập của Đại Thừa, lấy năm trăm phối hợp với, thì năm trăm năm đầu giải thích là thoát kiên cố. Năm trăm năm thứ hai là thiền định kiên cố, năm trăm năm thứ ba là đa văn kiên cố, năm trăm năm thứ bốn là Phước đức kiên cố, năm trăm năm Địa thứ năm là đấu tranh kiên cố. Tiểu Thừa không năm trăm năm phối hợp như ghi trong kinh Thánh Pháp Tru, cho đến truyền bá các kinh Ma-ha-tát, Đức Phật đã cho ký cho. Nhưng với theo một trăm, hai trăm năm phối hợp. Nay y theo Đại Thừa, cho nên trong kinh này nói: năm trăm năm sau, năm trăm năm là phối hợp. Giáo pháp của Phật, chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp, v. v... đều gọi là chánh pháp, chẳng phải thời đầu có chứng giải thích thoát, mới gọi là chánh pháp, thời còn giải thích thoát, huống chi không có nhân tin, cho nên không đáp. Đức Phật đầu tiên thọ ký trước chánh pháp một ngàn năm, Tượng pháp một ngàn năm, mạt pháp mười ngàn năm do độ nhân nữ, diệt chánh pháp chỉ còn năm trăm năm. Trong hai nói:
1-Nói là chánh pháp, Ngày nay nói năm trăm năm do độ nhân nữ, giảm năm trăm năm. Tuy nói tám kính pháp giúp chánh pháp không giảm, nhưng do họ không thực hành chánh pháp nên lại diệt. Cho nên trong kinh có nói, và các tông trong luận Tát-bà-đa, đều chỉ có Chánh pháp. Nhưng năm trăm năm nếu ý theo nói nghĩa kia thì trong đây thời chánh pháp sắp diệt, cho rằng thời tu hành lần lần diệt, chẳng phải là thời trước. Vì năm trăm năm đầu có giải thích thoát, tu hành hưng thạnh, cũng chẳng phải thời sau này tu hành không có. Nay nói thời tu hành lần lần sắp diệt, tức là thời năm trăm năm thứ ba. Đây ở vào thời Tượng pháp một trăm năm, năm ngàn năm sau tu hạnh mới lần lần diệt. Ngay theo thời ác này, còn có đối với kinh sẽ sinh thật tướng, huống chi ở giai vị trước, mà nhân không tin, từ đây về sau thời pháp xa chánh lồng nhiễu loạn, ít có nhân sinh lòng tin, nên kinh không nói, nên trong kinh Năng Đoạn chép: Thời gian sau, sau, năm trăm năm khi chánh pháp sắp diệt, là thời phần chuyển, thời gian sau là năm trăm năm đầu.
1. Phần sau: là năm trăm năm thứ hai.
2. Sau năm trăm năm diệt: là năm trăm năm thứ ba, tức là thời tu hành chánh pháp sắp diệt.
Nói thứ hai nói: Chánh pháp một ngàn năm, nếu phật không nói tám pháp cung Kính, hoàn toàn không có nhân thực hành, chánh pháp sắp diệt, đã có nhân thực hành, chánh pháp y theo định. Đại Chúng Bộ đều theo đã nói nầy. Nếu theo nói ấy, tức là thời năm trăm năm thứ tư, gọi là tu hành lần lần sắp diệt, vào đời ác nầy, còn sinh thật tướng, huống gì là giai đoạn trước, mà không có nhân tin, về sau thời ác ít có nhân sinh lòng tin, cho nên trong kinh không nói. Trong kinh Năng Đoạn chép: Nhân đời sau, sau khi Phật pháp diệt, chẳng phải chỉ có Phật tại vị. Nói phần sau là nói chánh pháp chẳng phải một ngàn năm, tức là vào thời chứng quả. Nói sau năm trăm năm, là vào thời Tượng pháp một ngàn năm tu hành sắp diệt, chẳng phải năm trăm năm đầu là thời tu hành thịnh hành. Sau đây chia làm bốn:
1- Thời gian sau: là năm trăm năm đầu.
2- Phần sau là năm trăm năm kế tiếp.
3- Năm trăm năm sau diệt là năm trăm năm thứ ba.
4- Thời chánh pháp sắp diệt là thời phần chuyển, là năm trăm, tức tu hành chánh pháp, sau khi sắp diệt. Do có hai giải thích, trong văn kinh khác nhau. Ngài Lưu-chi, ngài La-thập, nói chung là đương lai đời mạt, không biết nghĩa sâu của ba phần sau, cho nên trong kinh do chân Đế dịch chép: Hiện đời và đời vị lai, do đây mà sai lầm, không đồng với thời tốt đẹp, vì đồng với thời ác. Lại nói vào đời vị lai sau năm mươi năm, lấy một sẽ là mười, năm trăm tức năm mươi, cũng không trái nhau, nhà toán học có môn khác nhau nầy.
Trên giải thích có thời, dưới giải thích có nhân, và giải thích từ đây sẽ sinh Thật tướng, văn lại chia làm hai.
- Nói có bốn nhân nên sinh ra thật tướng.
- Phối hợp riêng với kinh.
Bốn nhân, kế là thời trước Phật sau, vì trong đời ác như vậy, nói có bốn nhân:
- Tu lâu về ba học.
- Gặp Phật chứa nhóm được nhân cao quý.
- Được Phật nhiếp thọ.
- Tuy không có ba học chứa nhóm nhân nhiếp thọ, nhưng nhờ tương ưng với Phước đức quả báo, nên sinh ra lòng tin, tức là nhân ấy, đối với các pháp không có pháp chướng, cho nên Phước hội sinh lòng tin, đời ác đủ bốn nhân, nên được như vậy, đối với pháp thật tướng, năng sinh ra thật tướng. Ý Luận của ngài Thiên Thân, vì đời vị lai có Bồ-tát bên trong đủ đức ba học, tức Bồ-tát này ngoài việc gặp được duyên lành, ở chỗ Chư Phật, gieo trồng ba thứ nhân, phải biết nhân này sinh được thật tướng, cho nên bài tụng chép:
"Ở vào đời vẫn đục,
Bồ-tát Ba đức đủ.
Bất không vì có thật
Tức Phật Bồ-tát nầy, Đều thấy biết.
Có giữ giới tu Phước.
Đức đủ Phước đức sanh.
Do có trí tuệ
Phật đều thấy biết
Không pháp chấp người.
Nên nói tám lỗi.
Kinh chép: "Có giới có công đức là sáng suốt tu hành. đầu tiên phối hợp với văn kinh, sau giải thích cái khó. Trong đây ba học có bốn pháp tánh, không tham không sân là giới học tánh, chánh niệm là định học tánh, chánh định là tuệ học tánh, do đối với ba căn, ba tạng đã nói đều có khác, nhưng nói Ba học, lại giới là nhân ra khỏi đường ác, định là nhân ra ngoài cõi Dục, tuệ là nhân ra ngoài ba cõi. Lại, giới Thinh văn, Độc Giác phần nhiều học định, Bồ-tát phần nhiều là học tuệ. Lại giới là nhân có công năng lìa ác, định là nhân có công năng làm lành, tuệ là nhân có công năng lợi sinh. Lại giới là được tự thể cao quý, định có khả năng lìa ác, tuệ có khả năng thu nhiếp điều lành, các thứ nghĩa khác nhau như vậy, nên nói ba học.
Vì thế các bộ Nhiếp Luận và Du-già, công đức là cống đức ít muốn làm đầu, cho đến tam-ma địa, ở đây khó giải thích. Như trong Kinh Di Giáo nói giữ giới có sáu, tức sáu chi Du-già của:
- Giữ giới.
- Chế tâm.
- Bất lượng.
- Hổ thẹn.
- An nhẫn.
- Trực tâm.
Đều thuộc về giới học, chánh định cũng có sáu, trong tám đều giác ngộ của bậc Đại nhân thuộc về sáu giác đầu.
* Ít muốn.
* Biết đủ
* Xa lìa.
* Tinh tấn.
* Vọng niệm.
* Chánh định. Chánh tuệ gồm hai:
1. Giữ tuệ
2. Không nói suông.
Giữ giới trí tuệ không giải thích lại, tướng chánh định ẩn, giải thích trở lại, do nói công đức, vì nói bao gồm, tức trong tám điều giác ngộ của bậc Đại Nhân, thì ít muốn đứng đầu, cho đến sau cùng, nhiếp sáu pháp nầy, dùng làm công đức, trước sáu pháp, sau hai pháp, chỉ biết giới tuệ, lại lẽ ra xét kinh Du-già Thinh Văn Địa Niết-bàn và kinh Bát Đại Nhân Giác phối hợp với Di Giáo. Đầy theo đủ ba học, lấy kinh làm thật giáo thuận lý, sinh ra tín tâm, tín tâm là chân thật tướng, hai kinh chép xong được cúng dường, v. v... là ở sau giải thích chứa nhóm nhân cao quý, văn chia làm hai.
- Phối hợp với văn kinh.
- Giải thích cái khó.
Do gặp Chư Phật chứa nhóm hai thứ nhân. 1-Tài cúng dường.
2-Hạnh cúng dường. Hạnh cúng dường là gieo trồng gốc lành, là tài cúng dường, trong kinh chỉ gọi là tu hạnh cúng dường.
Cúng dường có mười thứ:
1. Hiện tiền.
2. Không hiện tiền.
3. Hiện tiền không hiện tiền.
4. Tự
5. Tha
6. Cả hai
7. Tài kính.
8. Rộng lớn.
9. Vô nhiễm.
Chín thứ trên đây trong kinh gọi là Tu hạnh cúng dường.
10. Chánh hạnh cúng dường.
Trong đây gọi là gieo trồng gốc lành, chứa nhóm thành mười nhân, giải thích cái khó rằng: Nhất tâm tịnh tín còn được sự nghiệp, huống chi sinh thật tướng, đây la giải thích trong kinh cho đến một niệm tịnh tín, không chỉ được vài Đức Phật dạy theo mà sinh được một niệm tín, lại nói rõ do gặp ngàn muôn Đức Phật cúng dường gieo trồng gốc lành mới sinh được một niệm tin, vì niềm tin khó sinh, cho nên trong kinh đầu tiên chẳng phải cúng dường ít Đức Phật, sau nói do cúng dường số nhiều Đức Phật. Như vậy theo nghiệp của một niệm tịnh tín, cũng do đời trước cúng dường nhiều Đức Phật, huống chi đối với kinh, rộng sinh thật tướng, ở đời trước không cúng dường nhiều Đức Phật. Vì trong kinh chép rộng năng sinh thật tướng làm đầu, vài câu trong kinh, một niệm tịnh tín là sau cùng, lược bỏ tu hành chặng giữa. Vì không tin, cho nên nói, nhẫn đến một niệm tín còn do trước gặp nhiều Đức Phật cúng dường, huống chi là rộng sinh lòng tin khắp.
3-Trong kinh chép Như lai đều biết, v. v... là ở sau giải thích điều thứ ba Đức Phật nhiếp thọ chia làm hai.
* Giải thích:
-Phối hợp với văn.
Hiển bày theo có khác, nói lên tâm phân biệt.
Biết là biết danh thân, ý thức, biết bốn uẩn, thấy là thấy sắc thân, năm thức biết sắc uẩn, oai nghi ba nghiệp đều biệt, nên nói tất cả, trong đi đứng làm việc đều biết tâm mình, được sự nương tựa. Ngài Thiên Thân giải thích rằng: Đức Phật chẳng phải thấy quả trí. Nguyện trí lực hiện thấy, cho rằng Phật không thấy quả, so sánh biết do có nguyện trì, vì hiện tiền thấy. Nói đều biết: phân biệt với chẳng thấy biết, nói đều thấy, là phân biệt với chẳng thấy biết, là ngăn hai nói cũ thấy biết nầy, nhưng trong các bản đều chỉ có hai thấy biết. Trong kinh Năng Đoạn bèn có ba điều, lại có hiểu biết, luận do ngài Thiên Thân dịch có nói đủ, kinh ấy vốn nói sơ lược, trong luận chép: Cầu cúng dường cung kính, nhân ấy không thể nói. Trong kinh tư giải thích rằng: Nếu nhân muốn được cúng dường cung kính, tự xưng mình có giữ giới, nhân ấy không thể tự nói thân mình năng sinh thật tướng, nhân ấy tự cho rằng có trí, nên sinh tăng thượng mạn, vì phân biệt pháp ấy. Trong văn nói Đức Như lai đều hiểu biết, nhân đây chỉ gọi là có giữ giới. Đức Phật khéo biết đối với kinh nầy, sinh ra tịnh tín. Trong luận đã giải thích đủ, nên biết trong kinh sơ lược. Chỉ có trong kinh Năng Đoạn đủ ba thứ tất yếu nầy. Trong kinh do Lưu-Chi dịch là lìa ở trong vị vắng lặng cũng có ba tất yếu y theo ở dưới biết ở trên nên có hiểu biết tất yếu đây, v. v... nói thuộc về bạn lành, phối hợp với văn kinh.
4-Trong kinh chép sinh chấp vô lượng nhóm
Phước v. v... là giải thích nhiếp trì Phước đức thứ tư. đầu tiên phối hợp thuộc về kinh, sau là giải thích cái khó, trong đây nói riêng sinh như vậy, thủ như vậy, nay nhóm họp lại, nên nói sinh thủ vô lượng Phước đức, bèn giải thích cái khó rằng: Sinh là lúc Phước chánh khởi, nghĩa là do hiện hành chính khởi Phước đức. Thủ là ngay theo lúc diệt, vì nhiếp trí hạt giống, nghĩa là do trước làm việc Phước đức, nay tuy không khởi, do có hạt giống Phước đức, tùy đó hiện hành, diệt trong thân mình chỉ có nhiếp trì hạt giống, cho nên ngài Thiên Thân nói: Sinh là nhân năng sinh hiện hành, năng huân gọi là nhân năng sinh.
Thủ là tự thể huân tu, quả là hiện hành, diệt rồi chỉ có sự huân tu hạt giống tự thể, nghĩa là quả do nhân hiện hành sinh ra. Hai luận không khác hoặc trong luận kia lại nói lời đây. Nhưng ý trong khi tượng pháp sắp diệt, có nhân giữ giới đồng với chúng sinh, sinh vào lúc kia, năng sinh thật tướng ngay theo trong đời vẫn đục, có chúng sinh ác, không nói nguyện sinh năng sinh thật tướng. Trong Kinh Pháp Hoa chép: trong thời vẫn đục, thực hành mười pháp hạnh, thực hành đối với pháp, phải biết nhân này là Đại Bồ-tát phát nguyện độ sinh, đây đâu phải kinh Pháp Hoa hơn Bát-nhã nầy. Bồ-tát nguyện sinh trì, đây là thật là sinh trì hay không?
Đáp đây là về cuối thời Tượng pháp, luận kia là thời Mạt pháp, lại đây đồng với nguyện sinh kia, kia đồng với đây thật làm ra hai thời mạt pháp và tượng pháp vì xen nhau nói lên, hai kinh không khác, vì đều sâu mầu. Lại đây nói một niệm tịnh tín, kia nói rộng năng thọ trì, nếu trì một câu, cả hai đều thật sinh. Nếu rộng trì, cả hai đều nguyện sinh, lại kinh này phải thực hành thật sâu xa. Kinh điển kia sâu xa nguyện sinh, cũng không trái nhau.
Kinh chép các Bồ-tát nầy v. v... ở sau có giải thích nên sinh tưởng thật. Văn chia làm ba:
1. Phối hợp chung với kinh.
2. Giải thích riêng văn kinh.
3. Giải thích lại ngã chấp.
Giải thích thích riêng trong kinh. Do kinh có hai, vì sao? Luận cũng chia làm hai.
Vì sao gạn hỏi, nói lên trước có Ba học, v. v... lý do là năng sinh thật tướng.
Vì sao nói có pháp chấp ngã chấp theo sau. Văn đầu lại có hai.
4. Nói đối trị năm món sở thủ, riêng thuộc về văn kinh.
5. Trong đây nói có giới, v. v... giải thích ý văn đầu có ba.
1. Nêu; 2. bày; 3. Kết. Đây là nói năm món sở thủ.
Ba món đầu tiên y theo nhân nói về thủ, hai thứ sau y theo cảnh nói về thủ, cho nên hợp thành năm chấp.
Nhân tuy có bốn, nói chung có một, nên ở đây hợp lại mà nói, trong luận do ngài Thiên Thân dịch y theo thủ hành tướng, để nói khác nhau, nên thành tám nghĩa, ngã chấp pháp chấp mỗi pháp có bốn. Ngoại đạo dị sinh phần nhiều khởi phân biệt, chấp ba đời, chấp thật có ngã, nên bốn ngã chấp đều gọi là ngoại đạo. Chuyển là khởi, vì chấp tưởng sinh, nội đạo phàm phu còn ở giai vị dưới và Thinh Văn, v. v... phần nhiều chấp pháp. Có một loại Bồ-tát đốn ngộ và Bất Định tánh Hồi hướng Đại thừa, phần nhiều chấp pháp không, gọi là tăng thượng mạn, ba chấp nầy y theo nhân để nói về chấp thủ.
1. Ngã chấp.
2. Pháp chấp.
Pháp chấp có không gồm nhiếp tất cả chấp, chấp cái sở chấp là hữu chấp, vì hai tánh không, chấp thủ nhất định là tướng chung của thế gian, gọi là hữu tướng chuyển. Tĩnh lự ở sau có ba thứ vô sắc hoàn toàn, tĩnh lự thứ tư và một ít Phi tưởng Phi phi tưởng, gọi là định Hữu tưởng, hữu tưởng, cõi Dục, không sinh chấp thấy là Niết-bàn, cao siêu cho nên không nói, chỉ nói định cộng tưởng, không nói định Vô tưởng.
Tĩnh lự thứ tư là phần ít phi tưởng, Phi phi tưởng, gọi là Vô tưởng. Ngoại đạo Hai Thừa tùy chấp lấy, cho là quả cao quý, cõi dục tuy có ngũ nghĩ, chết giấc vô tâm, do không có định vị, không có cao quý không có chấp, nên ở đây không nói, chỉ nói định Vô Tưởng, đối với pháp chấp, phân biệt khởi, phần nhiều duyên theo đây có hai, để khởi duyên chấp, nên ở đây nói riêng, so sánh nên biết, kết đối trị, nói là các Bồ-tát ở giai vị đều không chuyển, giải thích có hai chấp, đều là nói không nói, tùy chấp người pháp, nói đều là nghĩa, trong luận của ngài Thiên Thân có giải thích bốn pháp chấp, có khác với đây, đầu tiên có hai cái có không, giống như ở đây, hai cái sau là Kim cương.
Bài tụng rằng:
"Tất cả không, vô vật".
Giải thích: Có sở thủ, năng thủ, tất cả pháp không, nên nói không có tướng pháp. Vì không có vật, riêng chấp sở chấp chấp có năng thủ sở thủ thể tánh, gọi là Pháp tướng. Nay nói không vô, gọi là pháp tướng, bài tụng nói thật có. giải thích rằng pháp kia vô ngã không, thật có cho nên nói, cũng chẳng phải vô pháp tướng, chân như viên thành thể tánh thật có, pháp kia bác bỏ là không, gọi là pháp Vô tướng. Nay nói có vì, tánh chẳng phải hoàn toàn không, nên nói chẳng phải không có Pháp tướng. Bài tụng nói, không thể nói, giải thích rằng: Không kia chẳng có vật, mà ở đây chẳng thể nói có không, nên nói là vô tướng, tức là Thắng Nghĩa Đế, tánh lìa nói năng, chẳng phải không bất không, chấp là có không, gọi là Tướng, nay đều chẳng phải kia, nên nói Vô tướng, nói về chân lý này chẳng thể nói là có không tướng. Bài tụng chép: ngôn từ nói theo, là bốn món pháp tướng, giải thích ngôn từ mà nói, nên nói cũng chẳng phải vô tướng, nói về Thắng Nghĩa Đế, người không đã nói lên, cũng gọi là không, bản thể thật có, cùng gọi là Bất không, chẳng phải hoàn toàn vô thể. Tổng kết bốn câu, nói về dứt bốn chê bai. Câu đầu trừ tăng ích chê bai. Câu thứ hai trừ tổn diệt chê bai. Câu thứ ba dứt trái nhau chê bai. Câu thứ tư trừ diệt hý luận chê bai, chỉ y theo hành tướng, thông suốt mà nương theo nhân khởi, nên khác với ở đây. Do văn nầy, các Sư Long Mãnh Vô Trước khác nhau, đều nên y theo mà lặp. Trong đây nói về các giới giải thích ý văn, nói không có hai chấp người pháp kia, hiển rõ trước nói vào đời vẫn đục có các nhân trì giới nên sinh chấp Phước, nếu hồi tâm vô học ngã chấp đắm không, pháp chấp nay tiềm phục, nếu ngoài tất cả hữu học dị sinh có trì giới đồng, làm sao người chấp pháp chấp đều không.
Trong kinh chép vì sao trong, v. v...: Là nói có pháp chấp ngã chấp, chia làm hai. Giải thích ý.
1. Thuộc về kinh.
Chấp pháp tướng chuyển, là chấp có.
Chấp chẳng phải pháp tướng chuyển, là chấp không. Ý kinh này nói. Ở vào đời vẫn đục kia, các dị sinh, v. v... tuy tu hành chánh hạnh mà khởi tâm lành. Nếu khởi pháp chấp, khi chấp có không, do hạt giống ngã chấp chưa dứt nên có chỗ theo của ngã chấp, lặp ở giai vị nầy. Trong tâm pháp chấp, không có hiện hành ngã chấp, cũng không có hạt giống ngã chấp theo, về sau mới hiện khởi, gọi là có chấp ngã, nên luận giải thích rằng: Nhưng khi khởi pháp chấp có không hai, chẳng phải đều khởi các tưởng phiền não ngã chấp, do chấp ngã tưởng và chỗ si nương lúc này không chuyển, vì thô dễ hàng phục, nên ở đây đối với ngã tưởng, do có hạt giống phiền não không dứt, vì tùy pháp chấp, cũng được gọi là có chấp ngã. Nên ngài Thiên Thân nói: Chỉ có vô minh, không thể hiện hành phiền não thô. Chỉ bày theo chấp vô ngã, Chấp vô ngã thì hiện hành không khởi. Tướng đã không chuyển, đồng thời chỗ nương. Của Si cũng không hiện hành, nên luận này nói: Do tưởng và nương ở không chuyển, có hạt giống kia, gọi là có phiền não, cũng gọi là sử, gọi là có các chấp ngã. Hoặc lúc này cũng khởi ngã chấp, vì ngã chấp theo pháp chấp mà khởi, thoạt có thể khởi pháp riêng mà không có ngã chấp. Như Hai Thừa, v. v... hạt giống ngã chấp được tu dứt trước, trong đây không nói các bậc Thánh nói hữu học, vì lúc ấy không có, cho nên nói: Nếu chấp pháp chấp, v. v... tức là chấp ngã, v. v... chỉ y theo theo các nói dị sinh thời ác, nên biết phiền não chướng do pháp chấp làm gốc, nếu dứt pháp chấp, thì phiền não không hiện hành, đây là ý sâu, thuộc về kinh nên biết. Nhưng luận nầy giải thích kinh Năng Đoạn, Chân đế đối với pháp chấp, nói là pháp chẳng phải pháp, không có điều nêu bày. Trong bản ngài Lưu Chi, dịch tuy có hai văn, nhưng nói chấp pháp tướng và hữu pháp tướng, hai văn đâu có khác. Trong bản của ngài La-thập có ba. Vì sao?
2. Đầu tiên vì sao v. v... đồng với ở đây, nghĩa là vì sao có theo đủ bốn nhân lại sinh thật tướng?
3. Thứ hai là vì sao v. v... trở xuống là, nói nếu tâm chấp tướng, nói chung về chấp pháp, sẽ sinh chấp nhất định. Nếu chấp pháp tướng, với ngài Lưu-chi đồng chấp có.
4. Thứ ba. Vì sao trở xuống, mới nói nếu chấp chẳng phải pháp tướng, nói về chấp không, nghi chấp thuận lý, còn có chấp kia, huống chi là chấp có, chấp bất sinh, vì sao gạn nghĩa rất dễ hiểu, không nên chấp ở trên, lại không có vì sao? Và nương theo văn. Nếu tâm chấp tướng, là do như thế?
Trong các ngã tướng chuyển, các nghĩa còn lại chưa nói, v. v... ở sau. giải thích lại ngã chấp, chia làm hai.
5. Nêu lên, chưa nói nên muốn nói lại.
6. Chính là nói lên, do trong pháp chấp, đã phối hợp riêng, bốn món ngã chấp vẫn chưa hiểu, nên nêu lên giải thích lại, chính là nói bốn món ngã chấp, có hai giải thích thích khác nhau.
- Khác với luận do ngài Thiên Thân dịch, ngã của tự thể, từ đời trước, nối nhau không dứt, chấp danh ngã tướng, thân khác hữu tình, là sở thủ của tự ngã thể, nên gọi là tưởng chúng sinh. Nếu chấp tự ngã hiện tại cho đến thọ trụ, gọi là thọ giả tướng. Nếu chấp thì nay thân chết lại sinh vào các đường gọi là tưởng người.
- Nói lên ngã khác là thật có, ba chấp tự ngã ba đời cũng thật có, nên thành bốn chấp, đều là phân biệt chấp, nên ngoại đạo khởi. Ngài Thiên Thân có bài tụng rằng:
"Thể sai khác nối nhau Không dứt đến mạng trụ. Sau đến các đường khác, Là bốn món ngã tướng".
1/. Câu đầu là ngã tướng, chỉ chấp năm uẩn, vì ngã không dứt là câu thứ hai, chấp thể đời trước, cho đến nay, đến mạng trụ là câu thứ ba, hiện vẫn còn sống, sau ở trong các đường dị sinh là câu thứ tư, chấp vị lai, các pháp kia nương vào ba đời chung riêng chấp lấy, để chia thành bốn chấp, khác với ở đây.
2/. Nói rằng: Đây đồng với kia, trong đây thứ lớp thể nối nhau là ngã tướng, tức chấp năm uẩn là ngã tướng, chấp ngã hiện tại từ ngã đời trước chuyển đến đời nay. Ngã đời trước là chỗ chấp của ngã hiện tại, gọi là sinh tướng chúng, chẳng phải chấp ngã khác mà là ngã sở thủ, hai thứ còn hai nên biết, nên biết luận này đồng với luận kia, văn dịch hơi khác mà ý nghĩa không khác. Đây y theo chấp gọi với ngoại đạo chung, kia y theo hình tướng, nên chia bốn món, các kinh hai luận đều có bốn ngã, chỉ có trong Kinh Năng Đoạn. đầu tiên đối với bốn y theo pháp để nói vô ngã, nên có phi niệm, sau nói chấp pháp, hoặc không hoặc có, ngã chấp tùy, nhưng có bốn món ngã, nên hai luận này đều chỉ chấp bốn. Chung riêng ba đời tự tha có khác. Riêng y theo hành tướng cao quý làm dụng. đầu tiên chỉ có chín, như cốt yếu phải nói, trên đây hai chấp nói lên thường tiềm phục. Hoặc nhân có trí tuệ, nên sinh ra lòng tin. Luận do ngài Thiên Thân dịch chép: Cho rằng lìa nhân pháp tướng, cho nên nói có trí tuệ, có trí tuệ đầy theo đủ, vì sao lại nói công đức trì giới, là chỉ bày theo nghĩa sinh thật tướng khác nhau. Bài tụng chép:
"Nhân kia nương lòng tin Cung kinh sinh thật tướng.
Nói lên chúng sinh ấy, chỉ không có trí tuệ, không có hai chấp kia".
Nhưng giữ giới, v. v... cho đến tâm cung kính cũng sinh thật tướng cho nên thực hành nói nầy.
Trong lời nói phải sinh thật tướng là ở sau phối hợp với năm món nghĩa. Tu hành phát sinh thật tướng nói là y theo nghĩa, tức trong đây Tu-Đa-la nói câu là nói tướng, tức trước phải sinh thật tướng là nhiếp trì, hai vô ngã là an lặp không nên chấp các pháp, v. v... là hiển bày theo. Ngài Thiên Thân giải thích rằng: Không nên chấp pháp, không nên như tiếng mà chấp pháp, vì trừ sở chấp. Chẳng phải không chấp pháp: là tùy thuận theo đệ nhất nghĩa trí, chánh nói chấp như vậy. Lại chẳng phải lìa lời nói có thể cầu đệ nhất nghĩa trí, đệ nhất nghĩa trí thuận theo giáo mà sinh, ý luận này nói: Không nên chấp pháp, nếu chấp hữu pháp và pháp vô ngã, đều không phân biệt, như lời nói chấp đắm, đều không nên chấp, không nên chấp chẳng phải pháp. Luận tuy không thích giải, mà nói về lìa lời nói, ngoài nói cũng không thể cầu thuận giáo lại sinh ra Đệ nhất nghĩa trí chứng chân nghĩa, chính là với kia đồng, lại giải thích không nên chấp pháp, gọi là chấp pháp thể. Như lời nói chấp thật, vì không nên chấp, không nên chấp chẳng phải pháp. Nghĩa là giáo này nói pháp tánh vô ngã, thuận giáo lại sinh Đệ nhất nghĩa trí, không nên lìa giáo để cầu chân nghĩa chứng pháp vô ngã, không nên y theo giáo mà sinh chấp đắm pháp thể phân biệt, không nên lìa giáo mà tìm pháp vô ngã chấp chặt phân biệt, cũng đồng với kia, văn kinh lặp lại, tuy lược nhưng lặp lại không nên chấp pháp, trong lời giải thích lại đủ không nên chấp chẳng phải pháp.
Lại nói nghĩa Pháp thân là ở sau, là Phật đáp riêng có trong nghĩa.
Thứ hai: giải thích lại nghĩa cốt yếu của Pháp thân, chia làm ba.
1. Lặp lại kinh.
2. Giải thích nghĩa.
3. Kết thành.
Pháp còn phải xả: đầu tiên sinh thật tướng duyên theo giáo mà sinh, y theo đó tiệm tu, lại được chứng trí, khi được chứng trí rồi, trước xả tạm hiểu giáo sở duyên. Giáo sở duyên ở đây, gọi là Pháp. Như muốn qua biển, mượn thuyền bè mà qua, khi qua rồi thì bỏ thuyền, chưa sinh chứng trí, nhờ giáo mà sinh hiểu, khi đước chứng trí rồi, lại bỏ giáo môn, mượn giải thích cũng bỏ, huống chi là giáo tích, ví dụ được cá quên nôm, được thỏ bỏ lưới, đều đồng với ở đây. Pháp là tích thuận lý, chứng lý còn phải bỏ, chẳng phải pháp là hạnh trái chân, là chưa chứng lý, trước phải bỏ, nên nói pháp còn phải bỏ huống chi chẳng phải pháp, từ đây không nên như lời nói chấp pháp, lại cũng không nên lìa giáo chấp chẳng phải pháp, pháp còn phải bỏ, vì thật tướng sinh, do y theo giáo pháp Thật tướng sinh, thật tưởng chứng chân rồi, thì không cần giáo, giáo nữa pháp chứng chân này còn bỏ, huống chi là chẳng phải pháp, việc chẳng phải pháp, lý không nên để giáo mà tìm cầu bên ngoài, vì trái với chân lý, lý nên dứt bỏ. Ngài Thiên Thân giải thích đồng với văn kinh Năng Đoạn. Pháp còn phải dứt bỏ, dứt là nghĩa là trừ bỏ, tên khác mà nghĩa đồng, y theo trước nên bỏ giáo và tạm hiểu. Nay chính là bỏ giáo, nên ở sau giải thích muốn được Pháp thân, cũng gọi là chứng Pháp thân, Pháp thân có nhân có quả, nhân quả vị trí khác nhau. Quả Phật chứng chân, quả thân tròn đầy, cũng là phần chứng Bồ-tát Địa Tiền kia, huân tập hạt giống vẫn chưa hiện hành, chưa chứng chân lý, năng khởi năng hiển địa vị Phật, Mười địa chân Pháp thân, cũng gọi là Pháp thân. Lời nói trước gần là nhân trong nhân của Pháp thân, xa là nhân của quả Phật Pháp thân, cũng gọi là Pháp thân. Địa tiền dị sinh và giai vị Mười địa, do nghe bốn câu cho nhân nói, ruộng Phước cao quý lại sinh, gọi là Phước Pháp thân tướng, đáng ưa thích nên gọi là Phước, tuệ kém nên không gọi là Trí. Nếu đến địa vị Phật, gọi là: Pháp thân Trí Tướng, tùy lý mạnh chẳng phải không Phước. Nên luận ở trước chép: Chứng được Pháp thân, thân là trí Phước, trước Sơ địa Phước cao quý, vì chứng được nhân sinh. Mười địa trở lên, vì chánh chứng được, do đây v. v... trở xuống văn chia làm hai. nói trí tướng nói về địa vị Phật.
4. Nói Phước tướng nói về ở giai vị nhân.
Ngài Thiên Thân nói rằng: Dưới đây là ngăn dị nghi, trước nói Như lai chẳng phải có tướng. Nếu vậy theo Đức Thích-ca vì sao xưng là Phật mà được Bồ-đề, vì chúng sinh mà nói pháp, nói pháp là gạn hữu tướng, chứng giác chẳng phải nói của vô tướng, tức là trong đây muốn được trí tướng. Đức Như lai chẳng phải tướng hữu vi, nay khuyến khích mình tu, mong có chứng nói, chứng nói trí tướng, làm sao đạt được, sinh tâm ưa thích kia, nên nói là muốn được thân trí tướng. Thân trí tướng có hai:
- Trí tự lợi, tức Bồ-đề.
- Trí lợi tha, tức nói pháp. Bồ-đề có hai:
- Đạo năng chứng, đây gọi là Đắc, là có khả năng chứng được thể của Đạo đế.
- Sở chứng diệt, đây gọi là Bồ-đề, là chỗ chứng đắc thể đế của diệt, không có Bồ-đề, hai cái chứng thể vô tướng không thành, đã có nói pháp, hai lợi có tướng đầu tiên đã nói. Hành là ham cầu trí chứng. Sở dĩ khuyến khích tu, nghe chứng thân vô tướng, nghi chúng sinh nương thân ấy muốn được phá nghi, thuận với điều ham muốn kia, nên nêu ra ở sau văn kinh. Chia làm hai:
- Hỏi.
- Đáp:
Giải thích trong câu hỏi có hai. 1-Y theo nghĩa.
2-nói về tướng.
Bồ-đề nội chứng, mà không chấp bên ngoài, nay đã dịch năng chứng Chánh giác, sở chứng Bồđề, ngoài chấp thật có, năng chấp sở chấp, cho nên chỗ đối trị là y theo nghĩa, do nội chứng, nầy nên không thiếu pháp Như lai để nói, có thể nói có thể chứng là sở chấp, năng chấp sở chấp đều là sở đối trị. A-nậu-Bồ-đề, đây là nói tướng, năng đắc sở đắc cùng tột chân giác, đều thuộc ở đây, đến quyển sau giải thích, là trong Chánh giác nói lên đầy theo đủ. Không có pháp nhất định ở sau sẽ giải thích đáp, văn chia làm ba.
Là giải thích đáp chung văn là nhiếp trì, giải thích đầu tiên, vì sao an lặp, giải thích thứ hai vì sao ở sau là hiển bày theo văn đầu tiên có ba.
Giải thích vì sao có văn Thượng tọa Thiện Hiện nói về Phật tâm. Nói rõ nguyện mong muốn Bồ-đề là sở chứng, diệt được chứng đạo.
Luận Trí Độ chép: Nói trí và trí xứ, đều gọi là Bát-nhã. Trong kinh giải thích Thâm Mật nói: Bồđe, Bồ-đề dứt đều gọi là Bồ-đề, do thế tục đế phương tiện dẫn dắt, nói có giai vị đế, nên nói Bồđề. Cho nên Du-già chép, nếu Thắng Nghĩa Đế đã lặp thành đế, thì cần gì nói an lặp làm Đế ư? Vì làm phương tiện sau khi chứng đắc, chính là đồng với ở đây. Nếu như lời Phật, trong Thắng nghĩa đế, thì cả hai đều chẳng thật có, luận ấy lại hỏi. Nếu an lặp đế đã lặp là đế, thì cần gì lại nói phi an lặp đế, nếu không như vậy, đã được tịnh lự thứ tư của thế gian, nên dứt hai chấp, thời gian sau lẽ ra hai chấp không khởi, rộng như ở trên nói, chính đồng với ở đây.
Chỉ cho kinh thành, kinh chép. Vì sao Đức Như lai nói pháp, v. v... ở sau giải thích đầu tiên vì sao, đây là an lặp chia làm ba.
1- Đều thuộc về kinh.
2- Kế là giải thích phòng nạn.
Giải thích nạn văn đầu tiên rất dễ hiểu. Luận do ngài Thiên Thân dịch chép: Ứng hóa chẳng phải chân Phật thật, v. v... Phật có ba loại là pháp, Báo và Hóa. Đức Thích-ca Như lai là hóa thân, Phật không chứng Bồ-đề, cũng không nói pháp, cho nên không có thật pháp để chấp, để nói. Trong Thắng Nghĩa Đế không có chấp để nói, như ngài Vô Cấu Xưng hỏi ngài Di-lặc rằng: Do nói pháp cho nên ở sau giải thích phòng nạn, nghĩa là có vấn hỏi rằng. Vì sao kinh chép pháp do phật nói không thể chấp nói, không thể nói chỗ chứng hiểu biết các pháp của Phật đều không thể chấp nói?
Nay giải thích rằng: Từ bên ngoài nói pháp sâu mầu khó lường, biết bên trong được giác, chỉ đối với việc nói pháp, an lặp đệ nhất nghĩa, y theo kinh Năng Đoạn. Bèn nói pháp sở chứng, sở nói pháp suy nghĩ theo của Như lai, không hề có ngăn ngại, các bản chỉ nói "Pháp mà Phật nói" không có gì khác. Nếu theo kinh Năng Đoạn, các nghĩa đầy theo đủ, thân sở chứng, lời sở nói, ý sở tư duy, pháp mà ba nghiệp noi theo, đều không thể chấp nói. Văn luận trong đây, nên nói do nói pháp, v. v... ngoài ba nghiệp cao quý biết bên trong được Bồđề, do đối với ba nghiệp nói pháp lợi sinh rất cao quý, trong luận có nói riêng, luận của ngài Thiên Thân nói vì sao chỉ có lời nói mà không nói chứng. Có lời nói, thì thành chứng nghĩa. Nếu không chứng, thì không thể nói, do ngoài nói pháp thì phải, biết nội chứng, như nhập tam-muội Vô Lượng Nghĩa Xứ mới nói kinh Pháp Hoa. Tức trong có chứng, bên ngoài có thể nói pháp, xen nhau nêu bày, chánh đồng với ở đây, ở trong không khả năng chấp. Là chính lúc nghe, đây là ở tiếng. Không thể nói, là lúc giảng nói, ở đây nói, hễ nói pháp, thì không nói không chỉ bày, hễ nghe pháp, thì không nghe không đắc, pháp đều không thể như chấp như nói, chẳng phải pháp là tánh phân biệt, tánh phân biệt là chấp khắp sở chấp, thể tánh đều không, luống dối sở chấp, pháp là chân lý, kia chẳng phải chân lý, nên gọi là chẳng phải pháp, nên nói là chẳng phải pháp, gọi là phân biệt tánh, chẳng phải chẳng phải pháp, vì pháp vô ngã, pháp vô ngã tánh, đạo lý là có, tức chẳng phải luống dối có, gọi là chẳng phải chẳng phải pháp, luống dối sở chấp gọi là Chẳng phải pháp. Luận do ngài Thiên Thân dịch chép: pháp không hai, chấp không, lìa tướng nói năng, nhân nghe không chấp pháp, không chấp chẳng phải pháp. Nói pháp: cũng là không nói pháp chẳng phải pháp. Vì sao? Pháp ấy chẳng phải pháp chẳng phải chẳng phải pháp, nói theo nghĩa chân như thì, đây gọi là an lặp. Chẳng phải pháp: Vì tất cả pháp không có tự thể, khắp chấp, sở chấp đều không có tự thể, chẳng phải chẳng phải pháp, chân như kia không có tướng ngã thật có.
Trong kinh chép: Vì sao dùng vô vi, v. v... trở xuống là, giải thích vì sao thứ hai; do là hiển bày theo chia làm hai.
3- Giải thích kinh.
4- Phát sinh trở xuống các văn kinh đều giải thích lý do vô vi được gọi là bậc Thánh.
5- Trong văn đầu tiên. giải thích tích nghĩa vô vi.
6- Sau giải thích tất cả nghĩa bậc Thánh. Vô vi: Là nghĩa vô phân biệt, gọi là bật sinh bất diệt trạch diệt chân như, gọi là nghĩa vô phân biệt. Nghĩa là nghĩa lý, đây là giải thích nghĩa vô vi, cho nên Bồtát Hữu học được tên gọi, phần chứng chân như vì còn có tu, trong cái không khởi không tạo tác. Như lai chuyển y, gọi là thanh tịnh, cho nên Như lai Vô học có tên, đây là chân như lý thể vô sinh của nên không khởi, không tạo tác. Đối với lý này Như lai đã bỏ pháp hữu cấu chướng, gọi là chuyển y, lìa nhơ thanh tịnh, cho nên Như lai Vô học đặt tên. Vì không có chỗ tu. Đây là giải thích tất cả bậc Thánh.
Kinh Năng Đoạn chép: Do các bậc Thánh Hiền đều là sở hiển của vô vi, do chứng vô vi có phần đầy theo đủ. Luận do ngài Thiên Thân chép: Câu này nói về nghĩa gì? pháp ấy là nói nhân, do các bậc Thánh đều nội chứng chân như, chân như lý mầu không thể chấp nói, vì thuận theo chân như. Nói là Như lai không nói, không chỉ bày theo nghe: Bồ-tát không nghe không chấp, đây là sở nhân vừa nói lên bậc Thánh như sở chứng kia còn không thể nói, huống chi nhân nghe mà được chấp. Do chân như kia lìa sự nói năng, không thể nói sự. Vì sao? Không nói mà Đức Phật nói tất cả bậc Thánh, vì các bậc Thánh, đều y theo chân như thanh tịnh mà được tên gọi. Đức Như lai đầy theo đủ thanh tịnh, Bồ-tát như phần thanh tịnh, ở đây đồng với ở trước, nói Bồ-tát được gọi là Hữu học, đối với chân như, là phân thanh tịnh, y Luận này mà nói đây, ban đầu là nghĩa vô vi. Tam Ma Bát Đề tương ưng hiển rõ. Ở đây phối hợp với năm nghĩa, do ở giai vị nhân còn có định tán phát sinh lỗi lầm. Do tu định trên để chứng vô vi chiết phục tán vị. Cho nên vô vi đầu tiên gọi là Đẳng thức nhiếp phục lúc tán.
Thứ hai Đức Như lai vô học được tên, ở trong chân như, đầy theo đủ thanh tịnh, chỉ ở trong thắng nghĩa quả Phật Vô Thượng Giác, chẳng phải tu Đẳng chí là nhiếp phục tâm, Đẳng chí nhiếp tâm, đều ở giai đoạn nhân, vì chẳng phải địa vị cực quả.
Từ đây về sau tất cả bình đẳng trong trụ xứ:
Phát sinh ở văn kinh. Các văn kinh sau đều giải thích vô vi, được gọi là lý do của bậc Thánh. Các trụ xứ tên tuy nói vô vi, nhưng chưa nói bậc Thánh, là vô vi đặt tên, vì ở đây mà nói. Ở địa vị Phật, đặt tên vô vi, là nói ý ở đây, nhân còn chưa rõ, ở sau sẽ nói lên, ở sau giải thích muốn được tướng Pháp thân. Trước nói các pháp không thể nói tất cả bậc Thánh có tên là vô vi, trì kinh và nói pháp lẽ ra không có Phước, vì ưa thích Phước kia, gọi là muốn được.
Ngài Thiên Thân giải thích nhiếp phục nghi rằng, tuy không thể lấy nói mà bất không. Tuy ở giai đoạn nhân giữ giới nói pháp, có công năng thể sinh ra thân Phước tướng, ở Địa tiền mới sinh giai vị.
Văn chia làm hai:
- Hỏi chung, đáp giải thích vì sao có văn.
- Giải thích riêng.
Trong phần đầu trước là hỏi sau là đáp, do ở nhân vị và thọ trì pháp và nói một bài kệ bốn câu, Phước sinh rất nhiều, huống chi ở quả vị, đã đến được, được nhiều Phước tướng Pháp thân, trong nhân có trí, trí kém Phước mạnh, có Phước quả Phật, do trì đặt tên, Phật chỉ gọi là trí tướng, nhân chỉ gọi là Phước tướng, chẳng phải nhân quả không có Phước trí. giải thích Riêng trong văn kinh chia làm ba:
- Hỏi
- Đáp.-Kết.
Trong luận cũng có ba:
- Trong phần giải thích kết, đưa ra các lời nói.
- Phối hợp với năm nghĩa. Giải thích nghĩa khó. Trong giải kiết có hai:
- Hỏi.
- Đáp:
Pháp của nói năng, thinh gọi là thể, thật chẳng phải Pháp thân. Vì sao ở đây chẳng phải trong Pháp thân. Nói sinh ra Phước, đây là ý hỏi, một bài kệ bốn câu có nhiều giải thích khác nhau, ở trên nói các chấp sẽ là chánh tông mà kinh nói, nghĩa nói về đầy theo đủ, gọi là câu, nói nghĩa bốn câu không nhất định chữ số, đều thành một bài kệ, một câu ngắn ba bốn chữ, một câu dài bảy đến chín chữ câu, không dài không ngắn là, năm chữ, Phạn bản, không dài ngắn là A-Nậu-sắt-Đà-Thế-đa tức sáu chữ, nhiều nhất là ba mươi hai chữ, ít nhất là tám chữ, trở xuống gọi là một câu, vì Hán văn không nhất định. Trong lời đáp thì A-Nậu-Bồ-đề xuất xứ từ đây. Nhưng nói chân như gọi là Vô Thượng Giác, trong kinh đây đều gom nhóm mười pháp hạnh, hạnh A-hàm là? mười hạnh, có nói trong luận Biện luận trung Biên:
1- Biên chép.
2- Cúng dường
3- Chỉ bày theo cho người khác.
4- Lắng nghe.
5- Mở đọc.
6- Thọ trì.
7- Giảng nói.
8- Phúng tụng.
9- Suy theo nghĩ.
Tu tập. Tám hạnh đầu là văn tuệ, một hạnh kế là tư tuệ. pháp còn lại là tu tuệ. trong kinh nầy, khắp đều chứa nhóm. Lại có mười hạnh tự lợi, kinh chép thọ trì, vì đều đủ chứa nhóm mười hạnh lợi tha, trong kinh trình bày theo giảng nói, cũng đã chứa nhóm, đã trợ giúp nhau không đâu chẳng cùng tận, nhưng chỉ nêu giữ giới và nói pháp. A-hàm: là A-Cậpma. Kinh giáo này là do Chư Phật mười phương ba đời cùng nhau truyền nói, tức kinh này nói về mười phương ba đời Chư Phật truyền nói mười hạnh có công năng ra Pháp thân của Chư Phật, đây là nương theo Đệ Nhất Nghĩa Đế, nói về Pháp thân, Chư Phật Thế tôn từ đây phát sinh, đối với thân báo thân hóa Bồ-đề Chánh Giác, đây là y theo Thế Đế phát sinh Báo Hóa, nói về lý mầu, sinh ra chân trì, Báo thân Pháp thân đã thành. Ngoài Báo Hóa này đầy theo đủ, nhưng hỏi là ba món nhân của Pháp thân, đầy theo đủ quả ba lần đáp nói ba lần hỏi, tùy thứ lớp để nói về Pháp thân, nên nói kinh nầy, là mẹ của Chư Phật, do hai việc nầy, nên gọi là Phật pháp Phật pháp, vô vi Bồ-đề, chấp Phật hữu vi vì, hai pháp khác nhau, nêu nói hai lần chữ phật pháp.
Luận do ngài Thiên Thân dịch chép rằng: Đối với thật là liễu nhân, cũng là nhân sinh ra thứ khác, vì Duy nhất là Chư Phật. Nói Phật pháp tức là Phật pháp nầy, người khác thì không được, vì không cùng nghĩa, nói tức là phi Phật pháp, cho nên chẳng phải Đệ nhất. Lại kế ở sau phối hợp với năm nghĩa trong kinh.
Vô Lượng A Tăng-Kỳ: Trong kinh Hoa Nghiêm phẩm Tâm Vương Bồ-tát Vấn-A-TăngKỳ thứ bốn mươi lăm, nói có một trăm hai mươi hai số, không có năm số, một, mười, trăm, ngàn, muôn, lấy trăm ngàn làm đầu, trăm ngàn, trăm ngàn gọi là một Câu-lê, như vậy theo tính gấp bội đến thứ một trăm lẻ hai lần, gọi là A-Tăng-Kỳ, thứ một trăm mười sáu gọi là vô lượng. Vô lượng atăng-kỳ, tức là do vô lượng số a-tăng-kỳ, trong phần kết nói lại nhóm Phước, do giữ giới nói pháp đối với kinh, là một nhóm Phước, bố thí bảy theo báu đầy khắp Đại thiên thế giới, là một nhóm Phước vì đều là hai Phước. Nói lại nhóm Phước đức, tức chẳng phải nhóm Phước.
Ngài Thiên Thân nói: Phước bất thú Bồ-đề, hai thứ năng thú Bồ-đề, Phước bố thí bất thú Bồ-đề, đều là quả thế gian. Giữ giới nói pháp Phước nhóm.
Năng thú Bồ-đề, là Phước giữ giới nói pháp, bố thí kia cao quý chẳng phải Phước thú hướng Bồ-đề, nên nói lặp lại, Phước đức bố thí, tức chẳng phải Phước đức thú hướng Bồ-đề, sau lại đều kết Phước đức nhóm Phước đức.
Trong kinh Năng Đoạn đầu tiên lặp lại hai Phước, kế là chẳng phải riêng một Phước bố thí, sau đều kết hai Phước, Phật pháp cũng vậy, nhưng thế tục nói Phước đức Phước đức, Phật cũng như vậy, trong các kinh, thường giảng nói Phước đức Phước đức, nay lặp lại nhóm Phước đức thường nói, cũng kết như vậy, nhưng chẳng phải an lặp riêng nghĩa cao quý. Phước bố thí, bất thú hướng Bồ-đề, gọi là đệ nhất nghĩa, đây chẳng phải Hồi hướng bố thí, không tạo ra nhân Bồ-đề.
Ngài Thiên Thân lại nói: nhóm có hai thứ:
1. Chứa nhóm, như gánh nặng 2/tiếu thú, như gồm thâu tính chất, bố thí như gánh nặng, nên gọi là nhóm. Không có nghĩa gồm thâu tính chất, giữ giới giảng nói như gồm thâu tính chất, đặt tên là nhóm Phước. Như ở đời gồm thâu tính chất thường đem đến lợi ích.
Cho nên trong luận Câu Xá chép:-mật uẩn của ông trở lại ta sẽ cho ông, là nghĩa thâu chất, nói về dễ hiểu, cho nên không giải thích lại, bỏ tâm phân biệt, gọi là định tương ưng, và nhiếp tán. Ở dưới giải thích nghĩa khó rất nhiều, Bà-già Bà tức là A kinh chép pháp. Lại nói rất nhiều Tu-già-tha, đầu tiên Đức Thế tôn nói rất nhiều, vì nói nhiếp tâm, để nhiếp tự tâm không tán loạn, tức nói về tự lợi, nên nói thọ trì một bài kệ bốn câu, sau nói rất nhiều thiện thệ, là nói giữ tâm, giúp giữ tâm họ không tán loạn theo bên ngoài, nên nói giảng nói cho họ nghe, giải thích câu vị, tức là văn nói về danh cú, như hợp với lời nói cốt yếu, muốn nói về giữ giới nói pháp hai nhóm Phước cao quý, từ nay giúp họ đối với kinh, nhiếp tâm giữ tâm, chuyên ý cầu học, không có tán loạn. Do hai luận này và ba kinh của ngài Chân đế, Lưu-chi, La-thập chỉ thọ trì giảng nói, nên ở đây thuộc về phải giữ tâm, nhiếp tâm. Kinh Năng Đoạn chép: Có năm thứ pháp, nếu có nhân thiện nam hoặc thiện nữ đối với pháp môn nầy, dù chỉ bốn câu già-đà mà.
1. Thọ trì.
2. Đọc. tụng.
3. Giảng nói cho nhân nghe.
4. Đúng như lý tác ý, khác với các bản.
Ba cái đầu là tự lợi hai cái sau là lợi tha, giúp cho họ đối với kinh này đúng như lý mà tác ý, chấp có mười hạnh lược nói hai năm các kinh bản tụng, các kinh khác nhau, không nên hòa hợp. Cũng còn các bản nói bốn ngã chấp kinh, Năng Đoạn nói chín, luận chỉ giải thích một bản sơ lược, không giải thích rộng. Nói Vô Lượng A-Tăng-Kỳ như trước đã giải thích.
Luận Kim cương Bát-nhã hội thích, quyển thượng hết.
Nói rộng trong sáu trụ xứ, trên đã nói ba, dưới đây giải thích trụ xứ thứ tư, hợp với bốn trụ xứ ở trước, là Tín Hành Địa, trước một Đại A-Tăng-Kỳ kiếp, là giai đoạn dị sinh. Đại văn chia làm ba:
- Kết trước sinh sau, để phát sinh đầu mối của luận.
- Gạn lại nêu tên.
- Tùy nêu giải thích.
Trong đây nói tuy có hạnh khác lìa chướng làm đầu, từ cao quý mà gọi tên. Như nói phát tâm và tu hạnh sáu độ, tuy đều lìa chướng, chỉ do giai vị cao quý mà đặt tên. Tâm đại Bồ-đề, gốc lành tự thể là, hàng phục sở tri chướng, nên nói là Ba-la-mật, nêu ra san tham cho đến ngu si, nên đều phát tâm dứt chướng nhiếp thọ quả đại Bồ-đề. Sáu pháp Ba-lamật, tịnh tu các hạnh, mỗi pháp cao siêu nên đặt tên, ở đây cũng vậy, ẩn các hạnh khác không nói, mười hai chướng này thứ lớp sinh khởi, nhiếp bốn và hai hạnh nhân quả, trước và sau, cho đến ở sau nên biết, là lìa không có phương tiện khéo léo, dưới đây đều không có giáo thọ, ở sau hợp lại giải thích, văn đầu tiên nên biết.
Trong phần nêu tên, chỉ nêu tên chướng, ở đây đối với hai chướng, thuộc về chướng nào, đến sau sẽ biết.
Dứt thứ ba tuỳ theo nêu bày theo trong phần giải thích chia làm mười hai.
Trong phần đầu tiên lìa mạn có hai thứ.
1-Ngã mạn.
2. Tà mạn. Cũng ở văn sau sẽ biết. Văn đầu có hai. Đầu tiên phối hợp với bốn nghĩa, thượng tọa trở v. v... xuống, là giải thích nghĩa khó. Văn kinh có hai: đầu tiên hỏi đáp bốn quả, để giải thích lìa mạn, sau dẫn ra rồi thành hiểu biết, bốn quả là bến, mỗi quả có hai. hỏi, và đáp, đây là hỏi bốn quả, đương lúc nhập quán, lại khởi ý nầy. Ta đắc quả, không cần phải lìa mạn, trong lời đáp của ngài Thiện Hiện. Trong kinh Năng Đoạn, sơ quả, hậu quả, đều nói ta có khả năng đắc quả, tức là chấp có, trong hai quả không có, lược nêu đầu và sau. Vì trong phần nêu để hỏi, bản khác đều chỉ cho quả thứ tư là, nêu theo ba quả trước, nếu vậy theo Vô học còn nói chấp sinh, vì sao nhân hữu học không nói chấp khởi, cho nên chính là trong kinh Năng Đoạn. Ngài Thiên Thân nghi rằng: Nói về bậc Thánh vô vi được gọi tên, pháp ấy không thể chấp nói, như vậy, thế nào là quả Dự Lưu, có thể tự biết ta được quả kia, như vậy theo chứng cho người nghe nói, tức là bốn quả có thể chấp có thể nói, vì thành ý nghi. Luận này quyển trước chép, vì tu đạo đắc quả cao siêu trong không có mạn, các lời trong kinh tức nghi kia đồng với. Nếu nói vô vi không nên chấp lấy thì, làm sao có bốn quả. Nói có thể nói, kia đã có nghi, đối với không đắc không nói nghĩa có đắc có nói, ngã là ngã mạn, vì tánh kiêu ngạo, hoặc là ta có chứng đắc, trong cái không có sở đắc, nghĩa là không có công đức sở đắc, đây là tà mạn nói, cũng là sở nói như vậy, đều là sở nói lợi trong ích chúng sinh, vì ngã kiến ngã mạn là cội gốc, tà mạn v. v... sinh, nên luận nầy chép. Nếu có tướng ngã thì có ngã mạn, cái mà Bồ-tát nên dứt chính là pháp chấp, nêu tên phiền não, để nói lên pháp chấp, ở sau đều y theo ý theo nên biết. Nay ở đây nói chung là lìa mạn này cho nên trong kinh chép, v. v... Ý nói lúc chứng nhập vô vi, bốn quả đều không nói ta đắc ta nói, đưa ra pháp quán rồi mới nói, ta có khả năng chứng đắc quả nầy. Lại sau được trí quán sở chứng ở trước, sở chứng sâu mầu, quán đó không chấp đắm vào chứng, hành tướng gia hạnh ở trước, bèn y theo hành tướng, mà giảng nói, ta có chứng đắc, chánh chứng vô vi. Nói có đắc chứng là nếu nói đắc chứng, ba quả trước thì do có hạt giống phiền não theo. Lúc này tuy không có phiền não hiện hành, do có hạt giống, nên hai chấp theo sinh, nên nói tức vi, có các ngã chấp. Quả thứ tư nếu có người chứng đắc, chỉ có hạt giống sở tri chướng theo, chánh khởi ra bốn trí, ngã chấp hết rồi, phạm hạnh đã lặp, tuy chẳng phải hiện báo, do chấp hạt giống theo. Nói Ngã, v. v...: lẽ ra pháp chấp khởi, nên ngài Thiên Thân nói: Do có kiết sử phiền não, chẳng phải hành phiền não. Vì sao khi đối với chứng kia, lìa các phiền não như chấp ngã, v. v... cho nên không có tâm như vậy, ta có khả năng đắc quả v. v... Đây là nói lúc chứng, nếu nói ta đã chứng có các thứ tùy, nên khởi hiện hành phiền não v. v... như khi các thứ phiền não khởi, luận chép kiết sử ấy, là hạt giống, khi chứng bốn quả, không nói chấp nói, rõ biết mạn có chấp, đều phải lìa, nay vì lìa đây, nên văn đây sinh. Tu-Đàhoàn, v. v... văn của ngài La-thập khác, các kinh khác phần nhiều đồng, giải thích từ ngữ dứt hoặc, đều đúng như lý nên biết.
Phối hợp trong với bốn nghĩa chia làm ba.
- Đầu tiên giải thích theo nghĩa nương tựa.
- Giải thích tướng và nhiếp trì.
- Giải thích Đệ nhất nghĩa.
Trong giải thích nghĩa khó, có ba:
- Đầu tiên giải thích văn kinh, do căn bản ngã tướng mới sinh tà mạn v. v....
- Giải thích thượng tọa Tu Bồ-đề tự nói về ly theo do.
- Giải thích hai hạnh không tranh chấp lý do.
Trong phần tự hiển giải thích kinh. Vì sao Tu Bồ-đề tự hiển, được Tam-muội vô tránh bậc nhất A-la-hán có chung công đức, nói là lìa dục, lìa dục. A-la-hán, A-la-hán: được công đức vô vi, vì lìa dục mà được, do lìa tham dục, nội chứng vô vi, ngoài thực hành vô tránh, cho nên vô tránh là thực hành bên ngoài, chứng vô vi là đức bên trong. Nhưng ngài La-thập, ngài Lưu-chi đều nói, Đức Phật Thế Tôn nói được vô tránh và lìa dục, ngài chân Đế dịch kinh Năng Đoạn đều chép; Thế tôn và ba hiệu đầu, nói được Vô Tránh, tự hiển lìa dục. Lại các bản đều nói Tam-muội Vô Tránh, chỉ có trong kinh Năng Đoạn nói Vô Tránh trụ. Như trong tám pháp giải thích thoát thì pháp thứ ba và thứ tám nói riêng thân tác chứng cụ túc trụ, sáu pháp còn lại không nói, ở đây cũng như vậy, nói các tam-muội này là trên hết, Đức Thế tôn thường tự trụ, nên nêu tên là trụ, hoặc định nghĩa xứ, do bao gồm hai nghĩa, nên dịch là Trụ vì sở chứng. Của mình Vì giúp cho họ tin, nên dẫn điều này làm chứng. Ngài Thiên Thân cũng nói: Tự khen được thọ ký, do tự thân chứng quả, là vì đối với nghĩa kia sinh tín tâm. Vì sao chỉ nói hạnh vô tránh. Phật thường trụ trong công đức, Luận của ngài Thiên Thân dịch có hai nói.
1-Nói công đức cao siêu, giúp sinh tâm ưa thích mong cầu. 2-Sinh lòng tâm tín sâu.
Luận này chỉ có một giải thích là giúp cho tin, sau là giải thích hai hạnh vô tránh, cho nên nội chứng chân lý, lìa ngã sở chấp, trụ lý vô tránh, không có chút pháp, để đắc A-la-hán, ngoại trụ vô tránh, đều không có sở hành, thực hành hạnh nên có vô tránh, do hai món vô tránh, lý và hạnh, kinh chép lại vô tránh hạnh vô tránh, do không có chút pháp và không có sở hành, nên gọi là an lặp nhất nghĩa bậc.
Ngài Thiên Thân nói: y theo nào Thiện cắt kia, nói lìa hai môn chướng:
1-Phiền não chướng. 2-Tam muội chướng. Vì lìa hai chướng ấy nên, nói không có sở hành, hai chướng hiện tiền, vì có sở hành, do lìa phiền não chướng, nội chứng chân lý, được lý vô tránh, các công đức nầy, các bậc A-la-hán đều có, nên luận này nói, cho đến các bậc A La Hán cùng có công đức, gọi là sơ vô tránh. chướng Lìa Tammuội, và ngoại trụ mà thực hành định kia, gọi là hậu vô tránh, luận y theo lìa hai chướng nói có hai, luận nầy y theo được lý sự hai món vô tránh, mà nói lại hai định nên, không trái nhau.
Thứ hai là lìa ít nghe, trong chia làm hai. Thuộc về kinh lìa chướng, sau chỉ nên quán biết, văn kinh chia làm hai. hỏi, và đáp.
Luận của ngài Thiên Thân chép: Trong đây có thắc mắc rằng Đức Thích-ca Như lai xưa trụ Địa thứ tám, gặp Đức Phật Nhiên Đăng, thọ ký cho Đức Thích-ca. Đức Phật Nhiên Đăng nói: Đây là Đức Phật có thọ ký, tại sao nói pháp không nên chấp. Nay ý của luận nầy, nói có chấp nói. Do không gặp bạn lành lìa pháp Phật xuất thế, không nghe hiểu rộng, vì ít học, nên nói lúc ấy Đức Phật này Đức Phật kia có chấp có nói, nay vì trừ chướng ít nghe, nên có trụ cõi dưới quyển trước, vì bên ngoài không gặp bạn lành, nên có ở dưới kinh giúp cho gặp bạn lành. Quyển này là bên trong có sở trì chướng, vì thiếu học rộng, có chướng ít học, nên nói ở sau, giúp phải học rộng, nên trong kinh chép, học rông có công Năng Đoạn hoặc, học rộng có thể dẫn đến hỷ lạc, học rộng xả bỏ vô nghĩa, học rộng được Niết-bàn. Lại luận chép: Học rộng huân tập, là hạt giống của tâm xuất thế, do ít học nầy, là sở tri chướng, sinh nghi có cả hai chướng, lặp lại luận nghi, khởi lên từ trước. Luận nầy nương vào theo tự mình nghe ít không gặp bạn lành, đều trông mong một nghĩa, cũng không trái nhau. Nếu gặp bạn lành, được gặp Chư Phật, học rộng nghe nhiều. Lại biết Đức Thích-ca ở chỗ Phật Nhiên Đăng, đối với nghĩa chân thật không chút pháp nào thật có, không sinh phân biệt, nói vào lúc ấy có chấp có nói, khởi phân biệt nầy, vì không gặp Phật, có chướng ít họ, vì giúp cho gặp bạn lành lìa chướng phân biệt, mà học rộng, nên trong văn kinh nêu ra. Trong thế tục đế có đắc có nói. Trong Nghĩa Đế cao siêu lại không có việc nầy hai luận ba văn đều hướng về một nói, các bản đều đồng, chỉ có bản của ngài Lưu-chi nói: Xưa ở chỗ Đức Phật Nhiên Đăng, được pháp Vô thượng Bồ-đề, không có ý nầy đối với nghĩa Đế cao siêu, có sở đắc không nói bản duyên nầy, như trải qua quá khứ hiện tại, có vị tiên Thiện Tuệ thấy năm giấc mộng, trong luận BàSa ít có khác nhau, trong sớ sẽ giải thích.
Thứ ba là lìa phan duyên nhỏ khởi niệm đối với tu đạo. Ngài Thiên Thân nghi rằng: bậc Thánh đã vô vi đặt tên, nói không thể chấp vì sao các Bồ-tát chấp trang nghiêm tịnh độ, được Phật giảng nói cho nghe. Tức là quyển trước vì nguyện Tịnh Độ Phật, nên Tiểu Bồ-tát sự tu hành của là, nguyện Tịnh Độ Phật nầy, là phan duyên khởi chút ít niệm tu đạo, để cầu sinh Tịnh Độ, làm tướng tịnh để mong cầu, giúp cho chúng sinh muốn về Tây theo phương, đều khởi nguyện nầy, nay vì lìa tiểu niệm tu đạo nầy, nên có văn kinh ở sau, thật nguyện sinh Tịnh Độ, nên tu vô tướng nghiêm tịnh tự tâm. Rộng như trong kinh Vô Cấu xưng có nói rộng Nghiêm về sự trang Tịnh Độ Tướng. Ngài Thiên Thân nghi, từ trước đưa ra quyển nầy, loại và hình sắc quyển trước nói nguyện sinh sự trang nghiêm của, cũng không trái nhau. Phan duyên, nhỏ là chấp có sắc tướng mà tu Tịnh độ, cũng là pháp chấp tham ái sinh, cũng là phiền não, là ý của luận nầy. Luận nghĩa kia vô vi nghi khởi, nên không trái nhau.
Văn kinh chia làm hai, đầu tiên là nói trang nghiêm Tịnh độ, khuyên bỏ hữu tướng quả trang nghiêm, sau khuyên sinh tâm, giúp cho tô điểm tu nhân vô tướng. Văn luận chia làm hai. Phối hợp với kinh, khuyên bỏ hữu tướng.
- Nêu bày theo phân biệt.
Trong kinh Phật Địa chép: Xuất thế gian cao quý do gốc lành sanh khởi, rộng lớn tự tại, tịnh thức tướng là. Luận do ngài Thiên Thân dịch chép: Trì Tập Duy Thức, chấp chung cõi Phật như vậy, chẳng phải hình thể bậc nhất, chẳng phải ý nghiêm trang nghiêm. Nữa bài kệ trên là giải thích văn thứ hai giúp tu vô tướng, nữa bài kệ sau là giải thích văn khuyên bỏ hữu tướng, học trì vô phân biệt, gốc lành làm nhân, nội chứng Pháp thân pháp tánh chân độ vô tướng lý độ, đã vô tròn đầy tướng, báo độ lại mãn, không thể trì biết, không thể nói năng, ngoài vì lợi ích chúng sanh, mới hiện cõi tha thọ dụng, và cõi biến hóa, các tịnh độ tịnh thức làm tướng, gốc lành cao quý làm nhân, nên khi thành Phật, chúng sinh có nghiệp thanh tịnh lại chiêu cảm cõi tịnh. Nên trong kinh Duy-ma chép: Muốn trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, trước phải trang nghiêm tự tâm, người mới học không biết lấy năm trần làm thể của cõi, phát nguyện mong cầu, tiểu niệm tu đạo, mà thực hành hữu tướng. Nay vì dứt trừ các hữu tướng ấy, người mới học sinh nghi văn đầu tiên, khởi chẳng phải hình trang nghiêm là bậc nhất thể trang nghiêm, chân thật tu tập vô tướng thức, chân thật trì tuệ lại có cả tướng thanh tịnh cõi Phật vô, Phật y theo vô tướng làm nhà, nói trang nghiêm tịnh độ, là lời không thật, luận của ngài Thiên Thân giải thích, dùng vô tướng hữu tướng trang nghiêm, nên nêu lại trong kinh Năng Đoạn nhắc lại cả hai kết luận cả hai, ngài Lưu-chi đều nhắc lại riêng kết. Ngài chân Đế, ngài La-thập đều riêng nhắc lại hết, chỗ nói tức chẳng phải trang nghiêm, tịnh độ vì trang nghiêm hữu tướng, chẳng phải trang nghiêm chân thật khác nhau có ba, có bốn, như trong chương có nói.
Giải thích văn thứ hai có ba.
- Nêu giúp tu vô tướng, nên không có chỗ trụ sinh tâm.
- Nói không có chỗ trụ, năm trần tâm tức lìa tiểu niệm tu đạo.
- Ứng với vô sở trụ kết thành chân tâm, bản khác đều đồng, chỉ có trong kinh Năng Đoạn, ở trong chỗ vô trụ, nói vô trụ ở sắc, vô trụ ở phi sắc, ý của bản khác nói, do năm trần thô, là thể của tịnh độ, mà nhân tu cầu, chẳng phải trang nghiêm, cho nên chỉ cõi tịnh chân thật giúp pháp ấy không trụ năm trần trong kinh Năng Đoạn có nói đủ. Trụ ở năm trần và trụ chẳng phải năm trần, năm uẩn khác đồng, chỉ sinh trụ chấp mà cầu tịnh độ, đều chẳng phải trang nghiêm, chân thật phải là không trụ chấp. Nhân tu tập chân trí thật là trang nghiêm chân thật. (744) Do đồng với hữu tình bên trong và khí thế giới bên ngoài nên phát ra thể độ, không trụ ở hai thân, không trụ trong cụ túc, đây là trang nghiêm cõi Tịnh. Nghĩa môn rộng lớn, không thể nói lược, rộng như trong chương Tịnh độ, sớ Vô Cấu co giải thích, công đức trang nghiêm cõi Phật, thẳng chỉ bày theo trang nghiêm, bèn tăng thêm công đức, trang nghiêm cõi Phật.
Thứ tư là trong lìa bỏ chúng sinh, ngài Thiên Thân nói. Nếu các bậc Thánh đặt tên là vô vi, làm sao thọ lạc báo Phật, giữ gìn tự thân Pháp Vương, làm sao ngoài các thế gian giữ gìn thân Pháp Vương kia? Đây là nghi báo thân có thể giữ gìn tự thể thân tốt đẹp thân cao lớn người khác cũng chấp là cao lớn tốt đẹp, có khả năng giáo hóa chúng sinh, có phi bậc Thánh gọi là vô vi. Nếu vô vi đặt tên, không chấp thân tốt đẹp cao lớn, lại không có việc Chư Phật lợi ích chúng sinh, thì thành các pháp dứt diệt. Đã không có thân cao lớn, bỏ lợi ích chúng sinh, nay vì giải thích lý do nầy, văn sau từ đây nêu rằng, vì lìa bỏ chúng sinh nên trong kinh chép v. v.... Nhưng Phật phương tiện khéo léo. Có mười hai thứ:
1. Bi tâm.
2. Rõ biết các hạnh.
3. Ham cầu trí mầu của Phật.
4. Không bỏ vòng sinh tử. 5-Trở về bất nhiễm. 6-Tinh tấn mạnh mẽ.
1. Nhờ chút ít điều lành mà thành vô lượng quả. dùng năng lực chút nhiếp, hóa nhân có gốc lành lớn. 9-Nhân ghét Thánh giáo thì dứt bỏ xúc não cho họ.
10-Nhân ở trong các trụ giúp họ thú nhập. 11-Nhân đã thú nhập giúp họ thành tựu.
12-Nhân đã thành tựu giúp họ giải thích thoát. Nên Phật Bồ-tát không bỏ chúng sinh, bỏ tức là chướng. Lại trong bốn chướng, thì Duyên Giác xả tâm, lấy chính làm chướng, các pháp ấy do bậc Thánh đặt tên vô vi, lại không có thân báo Phật cao lớn cao tốt đẹp. Nay vì lìa phân biệt chấp đắm nầy, nên ở kinh, quyển trước ở dưới nói thẳng rằng: Vì thành tựu chúng sinh, nên trong kinh chép v. v...: Tuy do vô vi bậc Thánh đặt tên, do không phân biệt như núi chúa, v. v... mà Phật cũng có khả năng thành tựu chúng sinh.
Luận do ngài Thiên Thân dịch nghi ngờ từ trước mà sanh quyển trước có nói về hạnh ấy, trong đây vì phá chấp kia, đều y theo một nói, nên không trái nhau, chấp có thân cao lớn, đây là chướng chấp pháp, xa lìa chúng sinh nói không có đại bi.
Văn kinh chia làm hai. Hỏi và đáp.
Luận cũng chia làm hai. nêu phối hợp với kinh và. giải thích hỏi đáp. Văn sau có hai.
Đầu tiên giải thích văn hỏi, kinh nói v. v... trở xuống mới giải thích đáp văn, ở đây làm sao nói lên câu hỏi, ý hỏi trong đây là báo Phật mà Bồ-tát Sơ địa thấy, ngồi trên đài sen trăm cánh, thân xứng với tòa hoa, hóa thân không nhất định. Trong đây nói ví dụ, làm sao nói lên, ở đây nói báo thân, để phá các nghi của họ, nêu ra thân cao lớn mà nói, dụ không có chỗ nói về lại nêu một lượng nhỏ của báo thân để dụ, vì thành tựu chúng sinh ở cõi Dục, lại nêu báo thân, như Lahầu vua A-tu-la v. v... đồng chấp v. v... Tỳ-MaChất-Đa-la. Bài kệ trong quyển năm mươi kinh Hoa Nghiêm chép: A-tu-la hóa thành thân. Bồ tát
Kim cương Địa thượng an định đầy theo đủ, nước biển chỉ sâu đến nửa thân, thân ấy cao lớn, như núi Tu-di, Báo thân Phật vì giáo hóa chúng sinh ở cõi dục, hiện như lượng ở núi Tu-di kia, do không phân biệt, còn không nên thấy tự thể kia, huống chi là các thân khác, vì giáo hóa người Mười địa mà hiện thân lớn, dứt sinh phân biệt mà sinh tự thể. Nay trong luận giải thích rằng: Kinh Phật nói chỉ như núi Tu-di, vì là ai, mà La-hầu ma A-tu-la hóa thân kia, thật bằng lượng núi Tu-di, cho nên Phật chỉ dụ như hóa thân, lượng biến hóa tuy lớn, nhưng trời nhân được hóa độ thì ít, không thể thấy lớn, nên thân như Tu-di, chỉ là báo thân, trong đây tạm nói vì giáo hóa trời nhân cõi Dục đã hiện báo thân, từ đây y theo thân Phật A-Di-Đà cao sáu mươi muôn ức na-do-tha-do-tuần, phàm phu Địa tiền chẳng thấy hóa thân Phật.
Trong văn giải thích đáp chia làm ba.
- Giải thích Phật nói chẳng phải thân nói.
- Giải thích thân kia chẳng phải thân nói.
- Nói về pháp được hiển bày.
Văn đầu tiên là Đức Như lai nói rằng chẳng phải thân, là nói lên pháp vô ngã. Cho nên ngài Thiên Thân nói: Đây là nói thọ vui thể báo Phật, đồng với núi chúa Tu-di kia, vì nghĩa hình tượng trong gương, đây nên ở nói báo thân Phật, như núi chúa Tu-di, thế lực cao xa, nên gọi là lớn, như hình tượng trong gương, vì hiểu biết rõ ràng, mà không chấp ngã tự thể của núi chúa kia là núi chúa, vì không phân biệt, báo Phật cũng vậy. Do được thể của Pháp Vương vô thượng, nên gọi là Đại, mà không chấp ngã tự thể của Pháp Vương kia là Pháp Vương, vì không phân biệt. Có phân biệt: Các tâm ngang trái như phiền não. v. v.. này là hữu lậu, Pháp Vương lìa lậu, pháp chứng vô ngã, cho nên không phân biệt, Luận ấy chép: Nếu vậy theo thì không có vật, không có vật, vì không phân biệt, ý nói Phật nói Pháp Vương hiện thân lớn, chẳng phải thân hữu lậu phân biệt, đó gọi là thân lớn, vì thân kia không lợi ích chúng sinh. Pháp Vương hiện thân lớn do chứng pháp vô vi không có lý ngã, vì không phân biệt, mà không xả bỏ việc lợi ích chúng sinh. Vì thể kia chẳng phải thể nói lên vô sinh vô tác. Ngài Thiên Thân nói: Nếu vậy theo thí gọi là hữu vật, vì chỉ có thân thanh tịnh, để xa lìa pháp hữu vì. Do nghĩa này nên, thật có ngã thể. Vì không nương duyên khác mà trụ: ý của luận ấy nói thể của báo Phật thọ lạc chỉ có thân thanh tịnh, vì như vậy, nên gọi là có vật. Cái gọi là chẳng phải thân, có hai thứ thân.
- Chẳng phải nương thân hữu lậu của nhân gọi là chẳng phải thân của báo thân.
- Chẳng phải nghiệp ác tạo ra thân đó, nên gọi là chẳng phải.
Trước chẳng phải thân, là chẳng bị phiền não ràng buộc, sau chẳng phải thân là, chẳng phải thân do nghiệp ác tạo ra, nên luận chép xa lìa hữu vi. Xa lìa hữu vi: là nói về báo thân Phật, chẳng phải xa lìa thân nhân duyên, vì nhân duyên khởi, nên thân này là vô vi, như nói theo pháp thì, chẳng phải việc làm của nghiệp ác, lại tức do đây chẳng phải nghiệp ác làm, đã xa lìa biến kế chấp, thật có ngã thể không nương duyên khác vì tự nhiên trụ. Báo Thân Pháp Vương cũng như hình tượng trong gương, chẳng phải thân, nên làm thân lớn, thể đã chẳng phải thật, sao lại có sinh và thật tạo ra. Nhưng nay luận này và trong kinh Năng Đoạn nói thân là thể, thể nương vào nghĩa nhóm, gọi chung là thân, thể đồng mà tên khác. Nhưng kinh Năng Đoạn nói: Như có sĩ phu có thân cao lớn. Bản do ngài Chân đế dịch chép: Thì như có nhân thể tướng cao lớn, hai bản không khác. Thân đầy theo đủ là tốt đẹp nghĩa, đầy theo đủ tướng trượng phu. Đại phu: là chiều cao lớn to, bản khác đều thiếu, có thắng nghĩa không gì lớn bằng. Lại bản do ngài Chân đế dịch chép: Đức Như lai nói chẳng phải có tên gọi là có thân, ở đây chẳng phải có. Thân đầu tiên chẳng phải có, nên nói hữu thân. Đầu tiên chẳng phải có: là chẳng phải hữu lậu phân biệt. Sau chẳng phải hữu vi chẳng phải có là phân biệt, tên khác mà nghĩa đồng, nói lược là nói trong pháp đây nói về thân tự tánh, là lý Pháp thân vô ngã sở chứng pháp vô ngã. Cùng với tướng là hình ảnh trong gương của báo thân. Sai khác biệt: Nghĩa là chỉ có thân hữu lậu hữu vi, chấp khắp sở chấp thật có ngã, thân chỉ có chỗ, không phải chỉ y theo tha sở chấp hai ngã khác nhau. (745)Vì ba thân khác, nên có ba thứ nầy. Vì trong sở chứng pháp lý vô ngã, nên hiện báo thân hiện ra không có phân biệt, chẳng phải thân hữu lậu hữu vi, cũng chẳng phải sở thân thật ngã chấp, nên gọi là thân lớn.
Địa thứ năm là lìa vui bên ngoài mà nói về tán loạn bên trong, quyển trước có lời thuận, theo do thuận Luận bên ngoài, liền sinh tán loạn. Ở đây Đây có vui, là theo thuận cũng không trái nhau. Y theo Luận do ngài Thiên Thân dịch ở sau trong cái So sánh thứ hai chia làm hai.
- So sánh hơn kém.
- Nói lên lý do hơn kém. Lý do hơn kém có bốn:-Nói về chỗ ở của Bát-nhã thì nhân ở chỗ cao quý tức nhân là bố thí tôn quý bố thí Phước phải chăng?
- 2. Nói Bát-nhã Chư Phật đồng nói, chẳng phải chỉ một Đức Phật nói bố thí Phước là không đúng.
- 3. Các dụ như thế giới nói về bố thí Phước nhân nhiễm phiền não Bát-nhã không phải như vậy.
- 4. Nói Bát-nhã sẽ được Pháp thân cũng thành tướng bố thí Phước là không đúng. Tức xét luận này có ba văn, hợp quán hạnh thứ sáu cúng dường Địa thứ bảy theo và Địa thứ năm này thành một văn. Do pháp So sánh hơn kém kia đồng, hợp thành một, đây là do quán hạnh lưu chuyển khác nhau, nên chia làm ba, luận này trong văn đầu của văn kinh có chín, như hỏi đáp v. v...
- Có năm câu hỏi đáp So sánh hơn kém, chánh phá thuận theo bên ngoài nói về tán loạn.
- Có bốn câu hỏi đáp bác bỏ như lời nói chấp nghĩa, nhưng luận chỉ giải thích Địa thứ năm văn nói về Phật bảo, trong phần đầu. đồng thời giải thích văn sau như lời nói chấp nghĩa. Bản do ngài Chân Đế dịch vốn tên sông Hằng, do dịch ở phía nam, nhân Phía Nam lấy chữ Hà làm chữ Giang, như Hà về phía Bắc, gói sông là Hà, như Hà về Phía Nam, nói Hà là sông, nói Giang cũng vậy. Luận do ngài Thiên Thân dịch chép: Vì sao trước không nói So sánh ví dụ đây, vì lần lần giáo hóa chúng sinh giúp họ phát sinh lòng tin, vì nghĩa mầu nhiệm trên hết, lại trước chưa hiển vì sao các công đức cao quý có công năng chứng được đại Bồ-đề, vì thế do vì dụ này thành tựu công đức kia, cho nên nói lại dụ cao quý.
Trong luận chia làm hai.
- Giải thích văn bác bỏ thuận theo bên ngoài nói về tán loạn.
- Nói lên dưới đây là giải thích bác bỏ y theo lời nói chấp nghĩa, văn ở đầu chia làm ba:-Nêu bày.
- Giải thích. Tuỳ theo
- Giải thích. Vở bên ngoài luận của thế tục cho là sâu kín, nên bị tán loạn không học tập nội điển. Nay nhân bác bỏ nói rằng: Bảy theo báu đầy theo đủ như cát sông hằng, để bố thí, còn không bằng đối với kinh này dùng một bài kệ thọ trì bốn câu, nói cho nhân nghe. Luận bên ngoài mà sinh tán loạn, lại ít học nhân thường tu Phước bố thí, gọi là Luận ngoài mà tán loạn, không tu trì kinh này mà làm nhân trí tuệ, nay vì dứt tán loạn nầy, nên dùng tài vật ở các thế giới nhiều như cát sông Hằng để bố thí cũng không bằng công đức trì một câu rồi nói cho nhân nghe Nên trong kinh khác chép: Nếu
Hằng sa thế giới châu báu đầy theo trong dâng lên, cúng dường các Đức Như lai, không bằng cúng dường pháp, bố thí vật báu tuy vô lượng, nhưng không bằng bố thí pháp một bài kệ Phước còn hơn, huống chi nhiều như trong kinh nói, nay vì dứt tán loạn nầy, có văn sau nói về bên ngoài tán loạn, tức phẩm An Lạc Hạnh trong kinh Pháp Hoa đã ngăn, không cho tập học, sách luận bên ngoài, trong sáu món tán loạn là tùy ứng.
1- Nhiếp chung sở tri và phiền não chướng, có bốn nhân duyên, cho thấy bên trong pháp hơn sách luận khác và thuộc về bố thí Phước.
2- Giải thích trong thích cúng dường, ngài Chân Đế, ngài Lưu-chi, ngài La-thập chỉ có trì nói. Trong kinh Năng Đoạn có năm. Đó là: đọc, tụng, thọ trì, giảng nói và tác ý, luận này chỉ có ba: là. Giảng nói. Thọ trì giải thích.
Là nói mà không thọ trì, y theo ở trước chỉ nên Trì, và nói. Hoặc mười pháp hạnh nói năm và ba. Tụng thì khác.
Chi Đề: Tức kinh Năng Đoạn nói là linh miếu, bản khác là tháp miếu. Tiếng Phạm nói là Chế-đa, có nói nói là Chi-Đề, Tột-Đỗ Ba là nghĩa Cao Hiển. Chi-Đề là linh miếu, đây là nói lên chỗ ở, là chỗ tôn quý. Khó làm, là nói về hạnh kia tương ưng với lý, nên là khó làm. Khởi niệm là có Pháp thân Phật, hoặc báo hóa thân Phật không tồn tại, thân tương tự báo thân hóa ở đây cũng nói, đây cho nên đáng tôn nặng. Đệ tử cũng như vậy. Trong kinh Năng Đoạn có ba:
1-Chỗ ở của Đại Sư. 2-Tôn nặng nơi chốn.
Có chỗ kinh nầy, tức là tinh Xá Kỳ-hoàn.
3-Đồng phạm hạnh. Bồ-tát Thinh Văn ở trong đó nói, v. v.. điều khi giải thích kinh đã nói, nói thọ khác nhau, bản khác chỉ nói, mà không trao nghĩa.
Luận do ngài Thiên Thân dịch chép: Nghĩa này thế nào, tôn nặng hai chỗ, nhân tập chứng đại thể.
7- Chỗ đã nói là theo chỗ nào? Kinh này giúp sinh tâm tôn nặng tướng đặc biệt.
8- Nhân năng nói tùy nhân nào, năng trì nói cùng với Phật chứng các pháp, vì là nhân tác chứng. có ba
- Lấy cúng dường các tầng trời làm chỗ tôn nặng.
- Thành ít có, là nhân cao quý.
- Sau trong khởi niệm đều nói hai thứ cao quý. Phần Phá trong lời nói chấp nghĩa. Y theo có hai
- Kết trước hiển pháp khác lạ về trước.-Sau sinh lại văn sau chia làm hai:
Nói Chư Phật cùng nói Bát-nhã nầy, không chỉ một Đức Thích-ca Như lai nói Bát-nhã nầy, tức gọi là tu riêng nói, mà nói riêng không đáng tôn nặng, cùng nói thì đáng tôn nặng.
- Nói không chỉ Bát-nhã là Chư Phật cùng nói, chẳng những có một nói, mà còn không có một Phật pháp, chỉ có một Đức Thích-ca nói. Chư Phật không cùng nói, dịch rõ tất cả Phật nói Chư Phật cùng nói, chẳng phải chỉ một Đức Thích-ca nói, nên ngài Thiên Thân nói: Nghĩa này thế nào, không có một pháp chỉ có Đức Như lai nói Phật khác không nói. Lại xét luận nầy, phá chấp y theo lời nói chấp nghĩa giúp cho kia hiểu. Riêng tên gọi Kim cương Bát-nhã, giả đặt tên gọi là. Phật nói Bát-nhã, không thể như lời nói lại sinh chấp thật, nên nói tức là trái, còn tất cả pháp không nói mà nói, cũng như vậy, do trước lý là hơn, nên không có văn kết, đây gọi là Bát-nhã, sau giải thích nên có văn kết, trong kinh Năng Đoạn có văn kết, có thể giải thích chung sau kết, văn nói này nói về tự tướng, kết chung Bát-nhã tức phi Bát-nhã, và giải thích tướng bình đẳng Như-lai không phải có sở nói, nói lên tất cả pháp không chỉ có Đức Thích Ca nói. Đã nói là quấy, phá y theo lời nói chấp nghĩa, nên thuộc pháp môn Đệ nhất nghĩa.
Thứ sáu là trong phần nói về lìa tướng ảnh tượng trong tự tại thì không có khéo léo, thân do tâm biến ra và năm trần đồng với cảnh tướng năm uẩn, là tướng mạo ảnh tượng của tâm thức, cho nên tướng ảnh tượng do chấp thân uẩn và năm sắc trần, cho là thật có, pháp chấp liền khởi, phiền não sinh theo, nghiệp ác đã khởi, các khổ khởi theo, việc làm suy theo nghĩ đều không tự tại, gọi là không khéo léo. Không khéo léo là không thuận theo nghĩa lý, không có nghĩa trí tuệ phương tiện, chứng thần thông v. v... đều không thật có, cho nên không được tự tại, nếu quán thân cảnh, chẳng thật giả hợp. Biết là tướng ảnh tượng của thức tâm, không sinh chấp hoặc, sở duyên sở tác đều được tự tại, thuận theo chánh lý, tuệ này có công năng, gọi là phương tiện khéo léo. Cho nên trong luận Du-già quyển năm mươi bốn chép: Nói cực vi có năm thắng lợi, tức giải thích kinh nầy, v. v... nói các nghĩa cực vi. Nay vì lìa các chấp nầy, đối với tướng ảnh tượng, thân cảnh được tự tại trong đó, không có phương tiện khéo léo, nên có ở kinh sau. Quyển trước nói, vì sắc và thân chúng sinh ràng buộc trong đó quán sắc phá tướng cho nên thực hành. Sắc là nói nói về năm cảnh sắc v. v... bên ngoài, cũng là sở quán, vì có cả trong ngoài, thân chúng sinh tuy có cả năm uẩn, nay nói bốn uẩn để làm chúng sinh, vì đã nói sắc. Bác: Là nghĩa một hợp tướng, năm uẩn hòa hợp thành một nhóm thân, họp như chứa nhóm. Thủ: là chấp đắm, nhân ngu không rõ, đây là chấp nhóm họp thân, chấp là thật ngã thường tịnh lạc, vì chấp chặt nhóm thân họp, nay nói thế giới cực vi, dụ cho đạo lý sâu mầu, giúp các học giả quán thân và cảnh là cực vi, biết ngã vô thường pháp không sanh khởi, bình đẳng với tương ưng với hạnh của lý nầy, tức là người không pháp không, giúp các chấp hoặc đều bất sinh, là quán phá cảnh thật có các chấp, giúp khởi tưởng nên thực hành văn tư tu, nên có ở kinh sau. Tương ưng là khế hợp với đương nghĩa, tướng là nghĩa thuận, theo tâm khế hợp với lý, mầu thuận với lý, quyển trước nêu sở quán để phá, hiển bày hạnh năng phá, để phát sinh văn kinh. Quyển này nêu cảnh sở quán, không bất sinh phương tiện khéo léo thực hành dứt bỏ không được tự tại, để sinh văn kinh. Nên quyển đầu nêu mười hai thứ, đều gọi là chướng ngại, vì không sinh phương tiện khéo léo các pháp chấp và các phiền não, có cả hai chướng, đều y theo theo một nghĩa, thật không trái nhau. Bồ-tát tu hành tuy là vô biên, ở đây bàn luận sơ lược, không ngoài bốn pháp.
1-Phần hạnh Bồ-đề. 2-Hạnh Ba-la-mật.
1. Hạnh các thần thông.
2. Hạnh thành tựu chúng sinh.
Ba-la-mật, tức Ba-la-mật tịnh trụ xứ ở trước, là phần hạnh Bồ-đề, tức muốn được thân Phật lìa kiêu mạn ít học, lìa tiểu phan duyên tu đạo, v. v.. là hạnh thành tựu chúng sinh, tức không theo tán loạn, là các hạnh thần thông, ở đây là bác bỏ không phương có tiện khéo léo, là nếu có các sắc chướng ngại bên ngoài, vì không tự tại, không được thần thông, cúng dường lợi ích chúng sinh. Tuy nhân không pháp không, do đây thành đầy theo đủ, tăng thêm nói cao siêu, cũng không trái nhau. Lại, Bồtát tu hai món tư lương Phước đức trí tuệ, lả thuộc về phước hạnh. Ba pháp kế là lìa chướng, nghĩa là không có Phước tư lương, ưa biếng nhác và, không thể chịu khổ, ở đây có công năng đối trị là thuộc về trí hạnh. Ba món kế lìa chướng: là không có trí tư lương, mà không tự nhiếp, và không dạy theo bảo, ở đây có thể đối trị là thuộc về trí hạnh. Trong mười hai thứ lìa chướng, bốn hạnh đầu hai hạnh cuối, đều do phát tâm. Nếu không có sơ phát tâm, kế là tiến đến làm lành dứt ác, chung riêng hai hành đều không thành lặp. Cho nên đầu tiên nói phát tâm trụ xứ, kế là Ba-la-mật dục trụ xứ, mới lìa chướng, v. v... Tuy là Địa tiền riêng tu, các sở tu của Mười địa, phần nhiều cũng đồng với trước, nên lược qua không nói. Như Bồ-tát địa v. v... cùng nói địa đầu tiên đồng chứng đạo phát tâm thực hành bố thí và lìa chướng ít học, đều như nói ấy. Trong đây là nói theo tướng thô, thậm chí không có giáo thọ, ở sau sẽ riêng xét phân biệt. Trong đây văn kinh có ba:
- Hỏi.
- Đáp.
- Kết.
Văn luận chia làm hai:
- Nêu tên phối hợp.
- Chính là giải thích kinh.
* Chánh giải thích trong kinh chia làm ba.
1- Giải thích kinh chép nghĩa thế giới Tam thiên.
2- Kế là giải thích nghĩa cực vi.
3- Giải thích nghĩa thế giới. giải thích thích nói nghĩa thế giới Tam thiên, vì sao không nói một thân một cảnh, mà nói thế giới. Tam thiên, nay giải thích rằng: Lúc có chấp thân cảnh, gặp cảnh liền duyên, gặp trần liền chấp, xúc chạm hoặc khởi, không nhất định phạm vi, nên trong luận chép: Kia không hạn lượng, phan duyên tác ý. Nhưng các Bồ-tát từ mới phát tâm, thường đối với thế giới phan duyên tác ý, tu tập Duy thức, thương xót chúng sinh, cho nên trong kinh đều nói thế giới Tam thiên không bớt không thêm.
Giải thích trong cực vi.
Ban đầu là nêu, sau giải thích.
Có các nhân ngu đều chấp tướng sắc thân, ảnh tượng là thật có. 1-Hợp tướng.
2-Chấp liền sinh.
Nay vì phá đây, nói lên hai phương tiện, tiện là nhân, đồng hợp thân thô dùng tế làm nhân, nên không nghĩ nhân là thật có, gọi là bất niệm phương tiện. Lại phương tiện là dụng của tuệ trong sáng, quán thô hợp thân, cực vi là nhân, thô đã là chẳng phải thật và hợp, không nghĩ cực vi thật có, vì có tuệ dụng, tức Duy Thức chép: Vì chấp sắc trần là thật có. Phật nói cực vi, giúp họ dứt bỏ, chính là nghĩa nầy. Nên xét làm phương tiện tức là cực vi, hợp bụi cát của thế giới cực vi làm nhân. Lại dùng tuệ phân tích trần giới làm vi, tuệ dụng khéo léo, tức Duy Thức chép: Các sư du-già mượn tuệ tưởng lần lần dứt bỏ chiết phục, thậm chí không thể phân tích, tạm nói cực vi. Bất niệm phương tiện: Là không chấp cái vi của nhân, là thật có. Niệm: Là quán sát nghĩa chấp đắm, cực vi ở đây Phật tuy tạm ví dụ, e có nhân chấp cho là thật có, nói chẳng phải cát bụi, gọi là bất niệm. Lại Bồ-tát mượn dụ quán sát không sinh chấp đắm, là tuệ có công năng khéo léo. Cho nên trong Duy Thức chép: Chẳng phải cho rằng các sắc thật có, cực vi phá chấp kia.
Giải thích trong thế giới, có hai:
1- Phối hợp với văn kinh.
2- Giải thích chỗ khó.
Vì phá tướng ảnh tượng của thân chúng sinh, trước quán phá bóng dáng của sắc uẩn sắc thân, có ở cả tình phi tình, không gọi là Chúng sinh. Nay phá bốn uẩn không có ở phi tình, nên gọi là Chúng sinh. Tuy nêu tên gọi chung của năm uẩn chúng sinh, tức là chỉ giải thích tên riêng của bốn uẩn. Ở trong thế giới, nói lên thế giới chúng sinh, nhưng do gọi tên thân là chúng sinh thế. Y nói thế giới có ở cả tình phi tình. Nay nói hữu tình, chẳng phải phi hữu tình, cho nên như vậy. Trước nói cực vi quán sát phá sắc, tức sắc trong ngoài đều ở trong đó, nay văn lại nói có cả thế giới phi hữu tình. Quán sắc lại thành nặng nề, các nghĩa hữu tình có ở cả sắc, phi sắc, chỉ có thủ bốn uẩn gọi là thân, gọi là thế giới hữu tình, ở đây quán phá, tức là lựa chọn nội sắc, không ở trong đây, không như vậy theo thì thành nói hệ nặng. Trước nói Tam thiên Đại thiên thế giới, tức sắc thô, tất cả cát bụi là sắc tế. Cực vi đã nhiều, rõ trần sắc không thật, tức chẳng phải cát bụi, rõ sắc tế cũng không có thật, phá bỏ thô tế đều đã xong, cho nên biết trước nói Tam thiên Đại thiên thế giới tuy cũng đã nói bốn uẩn chúng sinh thế gian, nhưng vẫn chưa nói quán phá bốn uẩn, nay nói quán phá, cho nên trong phần lặp lại kinh này nói riêng bốn uẩn gọi là Thân, gọi chúng sinh thế bất niệm là Thân phương tiện. Nhưng do sắc uẩn có thô có tế, trước nói tất cả cát bụi của thế giới, tức là nói lên thế giới thô sắc không chân thật, lại nói chẳng phải cát bụi, mới nói tề sắc cũng không thật, bốn uẩn gọi là thân đã không có thô tế, trước nói thế giới đã nói bao gồm, nhưng chưa nói về quán phá. Nay vì quán phá, nên văn sau của kinh chép chẳng phải thế giới. Bất niệm phương tiện tuy không có nhân tế, là thô phương tiện mà có thể dứt trừ, gọi là Bất niệm, quán sát bốn uẩn, hiện tại không trụ, quá khứ đã diệt, vị lai bất sinh, cũng chẳng phải thật có, khởi trí tuệ dụng, không hề chấp đắm cũng gọi là nghĩa bất niệm danh thân phương tiện, đây là kinh chép chẳng phải thế giới, ý ở đây chỉ nói, phá cả bốn uẩn, tánh chẳng thật có, do không có bốn cái tế nên thành bốn cái thô, cho nên luận chép, không còn nói tế làm phương tiện. Trong đây văn khó, có thể nương vào đây để cầu lý sâu mầu, y Luận của ngài Thiên Thân, suy theo lường lý do hơn kém có bốn, trong đây dụ thứ ba do bố thí Phước mà sinh phiền não, như có cát bụi của giới, Bát-nhã không phải như vậy, cho nên luận chép: Các Phước đức châu báu kia, là nhân phiền não, nhưng có công năng thành tựu việc phiền não, đây là nhân trì nói, xa lìa nhân phiền não, cho nên nói dụ đất như cát bụi, văn này ý nói. Bố thí thì vị lai đời và đời hiện tại được Phước, thế gian thành tự thể cao quý, như thế giới kia. Do Phước thế gian ấy sinh ra phiền não cũng rất nhiều, như do thế giới mà có cát bụi, do tự thể Phước thế gian này mà, thành tựu việc phiền não, cho nên có công năng sinh ra phiền não, tương ưng sở duyên, hai thứ ấy tùy đó chuyển, gọi là sự phiền não trì thuyết nầy gần thì lìa bỏ phiền não, xa thì đắc Bồđề, nên nói giới địa cát bụi làm dụ. Phước thể của trì nói, chẳng thành tựu việc phiền não, cho nên không sinh phiền não, chẳng phải hai phược tăng thêm, không thuận hoặc, đã vậy theo thì vì sao trong kinh lại nói, tức chẳng phải cát bụi, tức chẳng phải thế giới? Luận ấy tự chép: Vì sao nói cát bụi ấy như vậy, không tham v. v... là thể của phiền não, nên gọi là địa cát bụi, thế cõi kia chẳng phải cõi nhân ô nhiễm phiền não, nên nói là thế giới, ý nói, các Vệ-thế sư của ngoại đạo, nói lúc thế giới hình thành, cực vi có thật, hòa hợp sinh theo một hột bụi, cả ba đều thật có, cho đến xoay theo chuyển, hai đại địa hợp thành một thế giới, một thế giới thầm hợp thành, cũng là thật có thế giới, lúc hoại một phần thành nhiều, đều là thật có, khi kiếp không tan rã khắp nơi, bất sinh bất diệt, không hòa hợp nhau sinh ra cát bụi, cho nên không thấy được. Do tà chấp nầy dứt thường phiền não, tất cả sinh. Nay mượn tông kia lúc thế giới hoại sinh ra để làm ví dụ. Lại các sư Kinh bộ chấp trần thế giới chẳng phải thật, nói các bộ kia, v. v... là chấp cực vi chân thật, trong luận Tát-Bà-Đa thô tế đều thật, vì chấp đây, tranh luận liền xảy ra, tạm mượn làm ví dụ. Như cõi kia hoại cát bụi rất nhiều, nhân chấp cõi trần, sinh mê hoặc không ít, nay mượn tiểu tà, để dụ cho Đại thừa. Do bố thí Phước mà sinh phiền não, như thế giới kia mà có cát bụi, chẳng cái ngã như các thế giới có thật nhiều như cát bụi, các thế giới trong Đại thừa hòa hợp lại thành tuệ để phân tích, thì đều chẳng phải thật có, vì giả hòa hợp, tức do Phật dụ nói các thê giới nhiều như, như nói lại chấp có thật thì cát thế nhiều như cát bụi giới thành, đồng với tiểu tà kia, cho nên đều sai, luận ấy cũng chép Ở đây nói nghĩa ấy thế nào, Phước đức ấy là nhân nhiễm phiền não ô, cho nên nói cát bụi, Phước đức gốc lành kia là cận, huống chi là Phước đức nầy, thành Phật Bồ-đề, có công năng và thành tướng trượng phu, trong Phước đức cao quý. Ý nói Phước bố thí tài phát sinh, gần là nhân phiền não, giống như cõi có bụi, Phước trì nầy thuyết xa thì thành Chánh Giác và tướng trượng phu, cho nên Phước đức kia đã lặp bày theo như Hằng sa, không bằng trì một câu kinh mà nói cho người nghe, nhưng bản khác đều đồng, chỉ có trong kinh Năng Đoạn và luận nầy, nói đại địa cực vi, do thế giới Đại thiên có cả giả và thật, cho đến có cả một và nhiều. Nay nói một và nhiều làm ví dụ nên nói đại địa, Trần mới dụ cho nhiều.
3- Hỏi vì sao ngài Thiên Thân giải thích So sánh Phước đức của các cõi nhiều như bụi, ngài Vô Trước giải thích các cõi nhiều như bụi gọi là phá uẩn thân chứa nhóm.
4- Đáp, lý có trăm đường, nhọc gì một dấu vết. Ngài Thiên Thân y theo giải thích nghi để rõ nghĩa, thành Phước đức để nói văn. Ngài Vô Trước y theo thứ lớp trình bày theo tông, nói quán kia mà trình bày theo lý.
Đầu tiên quán có khác, lại xét không trái, lại có hai thứ không khác nhau, ngài Thiên Thân chỉ chung, ngài Vô Trước giải thích riêng, ý ngài Vô Trước nói, vì sao Phước tài thí là nhân phiền não? Nghĩa kinh trình bày theo đủ, nên có nói nầy:
Nghĩa là do tài thí cảm chiêu quả năm uẩn, sắc có cả tình phi tình, bốn uẩn chỉ có ở tình, phàm phu không đạt được, cũng quán giả tướng đồng chấp hợp lại trong đó, chấp là thật có, khởi ngã thường, v. v... các thứ phiền não như, do đây mà sinh tử trôi lăn không cùng, cho nên chẳng có phương tiện khéo léo không được tự tại. Nay nói giới trần dùng làm thí dụ, giúp quán sát do Phước bố thí mà được quả thể, là phương tiện không được tự tại, hợp lại mà nói là giới trần, dùng làm thí dụ, giúp cho quán sát Phước bố thí, tất cả bóng dáng của tánh trong ngoài sắc thô tế và bốn uẩn trong thân, đều chẳng thật có. Không nên đối với đó chấp chặt sinh mê hoặc, vào ra lên xuống trong sinh tử, nên được phương tiện khéo léo, được tự tại, ở đây trình bày giải thích riêng, khuyên nên khởi lý mầu tương ưng nầy, văn tư tu thực hành quán sát, thế giới chẳng đúng phải nương theo tu học, cho nên luận ấy nói không trái với đây, lại có hai thứ không phân biệt, tâm ngài Thiên Thân nói chung, Phước do bố thí sinh v. v... là hữu lậu, là nhân phiền não, Phước trì nói là vô lậu, chẳng phải nhân phiền não. Ngài Vô
Trước ý nói, bố thí sinh Phước do tự thể năm uẩn, còn chẳng thật có, huống chi làm nhân cho các phiền não, trì nói không phải như vậy, trì nói sinh Phước là quả của pháp thân, đã là thật có, huống chi có thể diệt tất cả phiền não, chẳng phải nhân phiền não, cho nên phước trì thuyết, hơn cả quả tài thí.
Địa thứ bảy theo là lìa không đủ Phước tư lương, hễ tu chánh đạo, Phước tuệ đều tu. Luận Trang Nghiêm nói Phước đức trí tuệ hai món tư lương, Bồ-tát khéo tu mé vô biên, đối với pháp tư lương khéo quyết định, mau chóng giải thích ý nghĩa như lời nói, nên thiếu Phước đức, chẳng phải chân thật tư lương, do có các pháp chấp san tham, không thích bạn lành, không thực hành cúng dường, lại không gặp Chư Phật, nhân của thiếu Phước đức là lìa chướng nầy, nên có kinh ở sau. Ở đây nói do ngu si san tham, thiếu thực hành nhân Phước đức, quyển trước nói do tuệ ngộ không, tham, sân v. v..., vì thế ưa gặp bạn lành, gần gũi cúng dường, thực hành chánh hạnh, có văn kinh ở sau, cho nên cúng dường hầu gần Đức Như lai, cũng không trái nhau, ở đây nhiếp cả hai hạnh.
- Đầu tiên gần gũi bạn lành, tức là hầu hạ Đức Như lai.
- Cúng dường Chư Phật tức cúng dường Đức Như lai, gần gũi cúng dường gieo trồng các gốc lành, gieo trồng Phước đức.
Thế nào gọi là gần gũi bạn lành.. Trong kinh Thiện Giới chép: Giới không có thiếu kém, học rộng tu chứng, buồn thương không sợ, chịu đựng không mỏi mệt, lời lẽ nói, gọi là tướng bạn lành, cầu lặp bày theo lợi lạc, đối với đây chánh trí có công năng, khéo léo phương tiện lợi ích không bỏ đại bi, không nghiêng lệch, không bè đảng, gọi là bạn lành, việc làm không luống uổng, oai nghi đầy theo đủ, lời nói hành vị nghiêm túc, không mỏi mệt, không ganh ghét, cần kiệm chứa để làm được việc gì đều xả, khuyên can nêu ra giúp cho nhớ nghĩ, dạy theo trao chỉ bảo, có thể cho họ nói pháp nghe, đây gọi là bạn lành, có thể làm chỗ nương. Đáng kính tin Đủ ba tướng trên, nên gọi là bạn lành, huống chi Đức Như lai, có bịnh vô bịnh, kính mến hầu hạ, đưa ra câu hỏi kính lễ, tu nghiệp hòa kính, bốn việc giao vật đúng thời không thiếu, lại nương vào việc để hỏi, theo câu hỏi mà không dao theo động, gọi là gần gũi, do vì nghĩa này nên, kinh gọi là cung cấp.
Thế nào là cúng dường Như lai, có mười việc cúng dường: 1-Hiện tiền.
3- Không hiện tiền.
4- Hiện tiền không hiện tiền. 4-Tự 5-Tha.
6-Cả tự lẫn tha 7-Tài kính.
- Rộng lớn. vô nhiễm.
10. Chánh hạnh cúng dường.
Đều rộng như chín nhân cúng dường tu Phước của Địa tiền Bồ-tát, thứ mười một là tu nhân tu trí, làm nhân tu Phước, lúc gần gũi cúng dường Như lai, chớ chấp các tướng cho là Như lai gần gũi cúng dường, vì pháp thân Như lai là chân Phật thật, trong kinh Vô Cấu Xưng chép: Đức Phật hỏi ngài Vô Cấu.
- Thế nào là quán Đức Như Lai?
- Như kia nói rộng quán Đức Như lai, ở đây cũng nên như vậy.
Luận do ngài Thiên Thân soạn, có bốn nhân duyên, So sánh hơn kém, đây là trì nói đắc Bồ-đề thứ tư, cho đến các tướng bố thí Phước không phải như vậy. Trong luận chép: Vì sao nói Phước đức của trì thuyết kinh này sẽ được thành Phật Bồ-đề, và thành tướng trượng phu, vì trong Phước đức cao quý, thí Phước không phải như vậy, lại Phước này hàng phục thí Phước, cho nên Phước của kinh trì thuyết, là gần gũi nhất, cao quý nhất, ý nói trì thuyết tuy được các tướng, các tướng tuy chẳng phải thế của Bồ-đề chân thật, không nên chấp làm tướng Như lai chân thật, cũng đồng với luận này vì ngoài gặp duyên lành, gần gũi cúng dường Như lai, cho nên lúc trì nói kinh, không nên chấp các tướng cho là chân thân của Phật, thân ba mươi hai tướng cõi, chẳng phải thể tướng pháp thân, tức là nói trì nói được ngoài hiện các tướng chân thật pháp thân Bồ-đề và trì nói, sẽ được Thánh đạo Năng Đoạn trì Phước, thì Phước bố không như vậy, cho nên trì nói cao quý còn Phước bố thí là kém.
Văn kinh chia làm hai: là hỏi và đáp: Văn luận chia làm hai.
Nêu tên phối hợp với giai vị.
- Giải thích ý nên biết, diệu thể của Phật là pháp thân, không nên chấp tướng cho là chân Phật thật. Thứ tám là lìa biếng nhác, ưa lợi dưỡng: Nếu tu tư lương, phước kế là nên tu nhân Phước, nếu đời đương lai gần gũi cúng dường Như lai thì đầy theo đủ Phước tư lương, cho nên khi giữ giới nói kinh nên lìa biếng nhác buông lung và các lợi dưỡng cung kính mà phải thường siêng năng thực hành không buông lung, không nên chấp các lợi dưỡng cung kính, cho nên trì nói kinh nầy, để tu nhân Phước. Nếu đối với biếng nhác và các lợi dưỡng mà sinh ưa thích và vị ham muốn, thì không thể thực hành trì nói cao quý, đời đương lai không được gần gũi cúng dường Như lai, trí tư lương kia lại không đầy theo đủ. Đây là nói các lợi dưỡng, tức quyển trước nói. Vì xa lìa lợi dưỡng mệt mỏi nóng bức, đối với tinh tấn hoặc lui sụt hoặc không tiến tu, cho nên trong kinh chép. đây là nêu biếng nhác, các chấp đối với tinh tấn hoặc lui sụt, hoặc không nhác chướng, và nêu trong lợi dưỡng sinh duyên ưa vị, đồng chấp với duyên mệt mỏi và nóng bức, đâu là do ưa vị cúng dường, và lúc siêng năng, thân có mệt mỏi nóng bức làm duyên, bèn lui sụt tinh tấn, đâu chẳng ở không lui sụt, rồi không phát khởi tâm tinh tấn. Nếu Luận đều có buông lung, buông lung là không phát tâm tinh tấn, hợp lại có ba duyên bốn chướng. Ba duyên là
- Lợi dưỡng thuộc cung kính.
- Thân mỏi mệt.
- Tâm nóng bức.
-Bốn chướng là:
- Biếng nhác.
- Lui sụt. Tức chẳng được. 3-Buông lung. 4-Ưa vị tức tham ái.
-Lại có bốn hạnh. 1-Tinh tấn.
2-Không lui sụt liền được. 3-Không buông lung.
4-Không tham chấp đắm.
Luận thì, lại có tâm hổ thẹn thành năm. Sáu do phá chướng kia, vì nói hạnh kia, có văn kinh. Ở sau luận của ngài Thiên Thân chép: Dưới đây văn kinh chép trong Phước nầy đức kia, Phước càng cao quý, dứt bỏ thân mạng, quý nặng ở chỗ xả bỏ của cải châu báu So sánh hơn kém, giúp bố thi tài vật cao quý, tâm xả bỏ vô lượng quả Phước báo của thân mạng như vậy, đây là Phước trì kinh hơn Phước kia, nhưng vì xả bỏ thân mạng thân tâm khổ, Phước còn vô lượng, huống chi vì pháp bỏ nhiều thân mạng, mà Phước không nhiều? Phước kia tuy nhiều, cũng không bằng Phước trì kinh chép kinh, Nhân của Vô Thượng Bồ-đề, giúp cho Phước kia, vì thế muốn vì đời đương lai gần gũi cúng dường Đức Như lai gieo trồng Phước tư lương. Đối với kinh nầy, thọ trì giảng nói, chớ sinh biếng nhác, do Phước thọ trì giảng nói, còn hơn bỏ nhiều thân mạng, vì nhân Bồ-đề, vì nói đủ tư lương cầu Phước, vì nghĩa này nên có ở kinh sau. Văn chia làm ba:
2- Hỏi để So sánh.
3- Buồn khóc để đáp.
4- Sau ấn khả để nói.
Văn luận chia làm hai.
5- Nêu tên phối hợp.
6- Giải thích văn kinh.
Giải thích kinh cũng có ba, ở đây nói về chỗ nào. Văn giải thích câu hỏi nên biết, vì sao trong đây ở sau giải thích hai văn khác, hợp lại có năm:
8- Giải thích ý rơi lệ.
9- Phá tưởng như nghĩa.
10- Phá đắm vị lợi dưỡng có lỗi biếng nhác, sinh tâm hổ thẹn và lìa lui sụt để tinh tấn.
11- Vì lìa không phát khởi tinh tấn.
12- Khuyên không buông lung sinh hổ thẹn thứ hai. Ba thứ đầu ở trong lời đáp, hai thứ sau trong nói lên.
- Trong giải thích rơi lệ, vì nghe pháp công đức còn hơn bỏ nhiều thân mạng, cho nên thành rơi lệ.
Ngài Thiên Thân nói: Nghĩa thân khổ, nên sinh buồn khóc, tức nói bỏ nhiều thân khổ không bằng nghe pháp nghe kinh sâu mầu, cảm kích sinh tâm buồn thương, không nghĩ đến khổ kia, mượn làm ví dụ. Văn luận thiếu ít, lý phải như vậy, không nên đối với việc đó vọng sinh xuyên tạc. Ngài Thiên Thân nói: Ngài Thiện Hiện tuy có mắt trí, thuở xưa chưa được nghe, cho nên ít có. Nói Thinh Văn có mắt trí v. v... vì sao lại ít có. Vì pháp môn này là bậc nhất, vì thành Đệ nhất nghĩa ít có nầy, nên dẫn ở trên đã nói thắng nghĩa thành tựu. Nói Phật nói Bát-nhã v. v... Vì sao? Vì nói Bát-nhã, trong năm thứ bở kia là bờ kia trí, Chư Phật cùng nói. Chẳng phải Phật thì không ai có khả năng So sánh với bờ kia trí, cho nên sai. Chứng minh kinh là trên hết, giúp sinh siêng năng tu học, bản khác phần nhiều đồng, chỉ có kinh Năng Đoạn, khen Phật như đã nói: Đức Như Lai Ngày nay phát khởi thừa tối thượng tốt đẹp, làm các nghĩa lợi. Bản khác đến sau vì lìa vắng lặng mới có văn nầy, cũng là nhân tụng khác nhau, ở sau tự giải thích. Ngài Chân Đế và Lưu-chi, cho đến luận này đều có nói lại ở đây. Phật đồng với Bát-nhã, luận do ngài La-thập dịch và kinh Năng Đoạn hai bản đều không, có do nhân tụng giản lược.
- Phá tưởng như nghĩa trong đó có hai.
1- Phối hợp giải thích văn ở đầu lìa lỗi.
2- Giải thích phá chấp tướng thật, trí tưởng thật chứng là pháp lìa lời nói, như lời nói lại chấp có thật nghĩa, chẳng phải tướng thật, phá nghe trước nói sinh chấp thật luận nầy, kinh Năng Đoạn, ngài Chân Đế đều nói tưởng thật, ngài La Thập, ngài Lưu-chi đều nói thật tướng. Thật tướng là sở thuyên của kinh, thật tướng mới chứng được chân trí thật, nhân tụng có khác sau giải thích phá chấp thật tướng, tức thật tướng nầy, vì chẳng phải thật tướng. Nói chẳng phải thật v. v... là phá chấp đắm. Ngài Thiên Thân giải thích Pháp môn này khác nhau. Trong đây có thật tướng, giải thích này trước nói Phật nói Bát-nhã, chẳng phải nghĩa Bát-nhã của nhân. Khác: Là chẳng phải thật tướng, ngoài Phật pháp, các chỗ khác không có thật tướng. Vì chỗ kia không hề có thật tướng, không hề sinh lòng tin. Phật đã nói nơi chỗ là do có thật tướng, thật tướng lại sinh, chẳng phải Phật nói chỗ. Đã không có thật tướng, thật tướng lại bất sinh. Nếu vì tụng kinh nầy, có tướng tướng khác. Ngài La Thập nói: Thật tướng là thế nào? lại có thể nói sinh, nên xét kỹ.
3-Phá đắm vị lợi dưỡng có lỗi biếng nhác trong, sinh tâm hổ thẹn là lìa lui sụt tinh tấn chia làm bốn.
1- Lặp lại kinh, giải thích ý.
Hiển bày tướng sinh hổ thẹn, giải thích không có hai chấp, sau giải thích thành lìa lui sụt tinh tấn, ý văn dễ hiểu. Đây ở lặp lại kinh rằng: Hoặc phân biệt hoặc tin hiểu trong văn sau, giải thích kinh khác đều không có, chỉ một bản này có. Ngài Thiên Thân nói: Lại pháp môn này chắc thật sâu mầu. Vì sao? vì thọ trì kinh nầy, suy theo lường tu tập, không khởi các ngã tướng, do kinh sâu mầu, đời đương lai có thọ trì, lại không có ngã tướng. Trong đây, phối hợp riêng với văn kinh không có hai ngã tướng, luận kia khác ít, không khởi các ngã tướng, chỉ bày theo cảnh giới sở chấp không có tướng điên đảo. Các tướng như ngã v. v... tức là phi tướng: Là chỉ bày theo cảnh giới năng chấp không có tướng điên đảo, hai pháp này là nói chung ngã không, pháp không, không có ngã trí, đời đương lai trì kinh sẽ sinh hai trì nầy, cho nên hội hai luân.
2- Giải thích nghĩa kinh, do Phật chứng thành nghĩa này rằng: Vì sao? Vì lìa tất cả tướng, thì gọi là Chư Phật, nên hợp thành một văn, nay ở đây chia làm hai. Trong kinh Năng Đoạn chép: Nếu đời đương lai sau này thời gian sau chia ra sau năm trăm năm chánh pháp sắp diệt, thời phần chuyển. Ngài La-thập dịch đồng, tức là lúc hành pháp sắp diệt. Vì sao hai giải thích trước trì kinh và giảng nói, đều là hạnh. Mười món pháp hạnh đều nhiếp hết, đến thời Mạt pháp, không có hạnh nầy, không cần làm câu hỏi, khi chánh chứng có hạnh không nghi. Hành pháp mới hưng thạnh có hạnh không mê hoặc, cho nên nói hành pháp khi sắp diệt, bản khác đều sơ lược, nói chưng là đời đương lai, chép rằng luận nầy, đời đương lai một khi thọ trì. Ngài Lưu-chi, ngài La-thập nói có hai: Tín hiểu và thọ trì. Tín hiểu là trong mười pháp hạnh hạnh lắng nghe. Bản của ngài Chân đế có ba: Cung kính, thọ trì, giảng nói cho nhân nghe. Cung kính tức thân cúng dường. Trong kinh Năng Đoạn cũng chép:
- Lãnh ngộ, tin hiểu lắng nghe.
- Thọ trì.
- Đọc tụng.
- Tụng rồi nghiên cứu thông suốt.
- Giảng nói cho nhân nghe.
- Đúng như lý suy nghĩ. Tụng có lược và rộng, giải thích là lìa lui sụt để tinh tấn, trong chia làm ba.
1- Giải thích kinh phật chép: Lìa tất cả tướng giúp cho Bồ-tát học tướng gọi là chấp tượng, vì nhân của lời nói, nhân của phân biệt, là một tướng đảo trong bảy theo thứ đảo, tương đương với tướng đảo. Tưởng này phân biệt thành rộng.
2- Giải thích sinh khởi.
Giải thích văn thứ ba ở trước trong đó kinh chép hoặc phân biệt hoặc tin hiểu, v. v... Ngài Lathập, ngài Lưu-chi nói: Tin hiểu thọ trì, ngài Chân Đế chỉ nói tin hiểu. Trong kinh Năng Đoạn chép: Lãnh ngộ và cũng không phải thọ trì. Ở đây nhắc lại kinh không có trong giải thích, đã giải thích nghĩa thọ trì, cho nên nhiếp tức trì, lẽ ra nói trì nghĩa là nhiếp, văn truyền viết lầm. Tín hiểu tức là phân biệt, câu sau giải thích câu trước, bốn câu vì lìa không phát khởi tinh tấn. Một khi đã lui sụt rồi không phát nữa, cả hai cũng không bao gồm chưa phát chia làm hai.
3- Phối hợp kinh giải thích ý nên biết.
4- Sau đối với Thinh Văn Thừa ở dưới giải thích các nghĩa như kinh sợ,. v. v.., kinh này chỉ nói hai thời pháp luân. Là Tiểu và Đại Đại: là xe của vua chúa.
Tiểu: Là xe lừa, nên nói không hữu đều là Thinh Văn Thừa, trong không vô ngã thể có pháp ngã thể, nên biến hóa hồi tâm mà nói kinh đây, nên kia đối với nầy, nghe mà không kinh sợ, v. v... hai giải thích nên phân biệt biết, xem văn kinh nầy, không phá hai tánh y tha và Viên thành. Ngài Long Thọ thì không như vậy, cho nên ngài Thiên Thân nói: Nghĩa chẳng phải chỗ sinh sợ sệt, nên gọi là Kinh sợ, do tâm đáng quở trách, nên chẳng phải như hạnh chánh đạo. Nghĩa là thể tánh Bát-nhã nầy, là ác chẳng phải chỗ đạo ly, chỗ đó đáng quở trách chẳng phải hạnh chánh đạo. Cho nên kinh sợ kia mà nói rằng. Bố: Là tâm thể sợ sệt, đều do không thể dứt tâm nghi. Nghĩa là nghe kinh này tuy chẳng phải rốt ráo, nên không thể dứt nghi. Nghi chẳng phải tốt đẹp nên sợ kia nói rằng: Chữ úy theo là một bề sợ sệt, tâm ấy hoàn toàn rơi vào nghi ngờ sợ sệt. Nghĩa là nghe kinh này hoàn toàn sinh sợ, e rằng theo tu học sẽ đọa lạc, lìa ba việc ấy, gọi là không kinh không sợ không lo, các bản khác đều đồng. Trong kinh Năng Đoạn chia kinh sợ làm ba:
Hợp bố úy theo thành một cũng chỉ nói ba.
5-Khuyên không buông lung, sinh hổ thẹn thứ hai, trong ấy chia làm ba.
1- Nêu lên phối hợp với kinh.
2- Nói về khuyến tướng.
3- Giải thích văn kinh.
Trước trong điều thứ ba đã khuyên lỗi đắm vị lợi dưỡng biếng nhác các Bồ-tát sinh tâm hổ thẹn. Nay điều Địa thứ năm lại khuyên không khởi tinh tấn, nên Bồ-tát sinh tâm hổ thẹn, vì vậy theo gọi là thứ hai sinh chỗ hổ thẹn, phối hợp với văn nầy, nói Ngày nay Bồ-tát hổ thẹn ở tâm. Trong khuyến tướng nói: Pháp này cao siêu như vậy, các thầy theo không nên buông lung mà không học. giải thích khuyên hành tướng hổ thẹn, giải thích trong văn kinh, là nói lên sáu Ba-la-mật và Ba Tạng giáo cao siêu đều là hạnh sở thuyên, đều đến bờ kia, kinh này tuệ độ là hành vô tướng, là đạo cao quý, sẽ đến Bồ-tát, các độ khác không bằng là, pháp bậc nhất của Phật nên gọi là bậc nhất, chẳng phải mà người khác biết bậc nhất. Hai nghĩa của ngài Thiên Thân giải thích nghĩa bậc nhất, pháp đây hơn TuĐa-La, lại là nhân lớn nên gọi là bậc nhất, do chánh đồng với ở đây, chẳng những Phật Thích-ca của ta bậc nhất, vô lượng Phật kia cùng nói đệ nhất, vì đồng nói, nên đáng tôn đáng nặng, tối thắng bậc nhất nên ngài Thiên Thân nói, Pháp môn này gọi là Thanh tịnh. Do vô lương Đức Phật nói. Thanh tịnh là nghĩa lìa lỗi, nghĩa tự tánh tịnh, thuận theo lìa lỗi vì chứng tánh tịnh. Do đây bỏ các thứ châu báu v. v..., cho nên đây là cao quý, đây đồng với ngài Lưu-chi hai bản của. Trong kinh Năng Đoạn đầu tiên nói rõ cộng nói, sau nói rõ chẳng phải người khác bậc nhất, nên gọi là Bậc nhất. Trong bản của ngài Chân Đế nói không có gì chẳng phải bậc nhất. Trong bản của ngài La-thập chỉ có đầu tiên, sau đều có chung. Thế của văn sau tuy ít, giải thích cũng có thể được.
Thứ chín. Là lìa không thể nhẫn khổ. Đã mong phước vị lai, bèn tu nhân phước, khuyên cố gắng tuy thành nhưng phải có khả năng chịu khổ Nếu tu chánh đạo, không nỡ hại nhân, không thể chịu đựng lạnh nóng mỏi mệt, sinh già bệnh thì, tuy siêng tu đạo, lại đồng với Hai-thừa, hoàn toàn nhập vào vắng lặng, cũng không có quả Phước cho nên không thể chịu đựng, đường khổ sinh tử luân hồi, không thể bỏ sinh tử, mê đắm Niết-bàn, không phát đại ý. Nếu không nỡ hại, thì trái với mình, lại sinh tâm tức giận, không thể nhiếp thọ, cũng không có tướng tốt, bốn chúng tám bộ đồng với tất cả quyến thuộc. Nếu không thể chịu mỏi mệt thọ dụng khổ, không thể siêng năng, thường sinh thất bại lui sụt. Nếu không thể nhẫn nại, thì hai đế lý của Phật không thể thuận học, Phước cao quý để thành Phật làm sao được sinh, cũng không thể chứng lý sâu mầu, cho nên không thể nhẫn nại tức là tức giận biếng nhác ngu si, thuộc cả hai chướng, chẳng phải gặp duyên lành tu Phước cao quý, nên nhẫn nại được, tức là không có tuệ tinh tấn chân thật, xét ba nhẫn tánh của tuệ, chịu đựng sinh tử và thiếu thọ dụng, vì đều tinh tấn, trợ giúp duyên lành của nhân Phước cao quý. Luận văn chia làm hai.
4- Nêu tên gọi thuộc về kinh.
5- Giải thích nghĩa kinh.
Trong đây là lìa không chịu được khổ, nêu sở tri chướng, nói lên công năng tu hành, quyển trước chỉ nói là nhẫn khổ, nhưng nói được ý chánh hạnh, để phát sinh văn sau. Luận của ngài Thiên Thân chép: Rộng cũng là dứt nghi. Vì sao hỏi điều nghi, nói bỏ thân khổ, để bỏ thân kia, quả báo thân khổ, mà Phước kia kém, y theo theo pháp môn nầy thọ trì giảng nói thực hạnh hạnh khổ của Bồ-tát, khổ hạnh ấy cũng là quả khổ, làm sao pháp môn nầy, thân quả báo Phước cao quý, mà không chiêu cảm các quả khổ sinh tử, ý nói ở văn sau. Trước là bỏ thân mạng, không thể chịu khổ, nên chiêu cảm Phước kém, vì pháp bỏ thân, mới chịu được khổ, nên chiêu cảm Phước tốt, ngài Thiên Thân nghi khởi từ trước, luận này chân thật giải thích văn sau, mỗi việc y theo kinh kia, lý không trái bỏ. Giải thích nghĩa kinh, chia làm hai:
6- Nêu bốn khoa, nói về kinh sau. Kinh cũng chia làm bốn.
7- Sau y theo theo nêu bày giải thích có bốn thứ.
1-Như điều nhẫn được như chỗ đối với thể năng nhẫn của chân cảnh. Luận giải thích: Do thông đạt được pháp vô ngã, hoặc nhẫn được pháp năng nhẫn. Đối với cái có thể thực hạnh gọi là Sở đối, điều gọi là năng cảnh. Năng là năng hành, như thể năng nhẫn của cảnh sở đối, gọi là như sở năng nhẫn, tức là thể tánh của nhẫn.
2/-Dùng tướng nào để sinh ra nhẫn, ở đây có hai: a/. Tướng trạng nhẫn, lấy gì làm tướng, nghĩa là không có sự tức giận. b/. Nhẫn điều phải nhẫn, dùng pháp gì làm chỗ sinh nhẫn, tức là dùng chỗ nhẫn khác và tất cả pháp khác, mà làm chỗ sinh nhẫn, đó gọi là ở chỗ khác nhẫn tức gọi là không tức giận, ở chỗ không có các độ, chẳng sinh tướng hữu vô, đây là quán sát kỹ pháp nhẫn. Thể là tuệ xét, sơ lược không có an nhẫn chịu khổ. 3/-Như nhẫn có khác nhau, tức các thứ nhẫn. Các thứ nhẫn là nghĩa tương tự, nêu chỉ trước sau sở hành nhẫn độ, để nói về hạnh nhẫn, gọi là nhẫn khác nhau.
4/-Nói về đối với hạnh nhân duyên kia, nhân duyên là nghĩa sở do của đạo lý, bị ba khổ ép ngặt, là sở do của đạo lý không thể nhẫn. Nay nói hạnh nhẫn là có thể đối trị, là sở do của đạo lý không nhẫn được.
Theo trong vào nêu lên giải thích bốn pháp. Đầu tiên giải thích như sở năng nhẫn, có hai:
- Hiển bày.
Thuộc về nghĩa đầu của kinh nầy, ý hỏi thế nào là chân thật cảnh sở tri mà thực hành Năng nhẫn. Năng nhẫn là tâm cầu tuệ không vô sân v. v... vô sân này như pháp sở chứng kia là lý cảnh vô ngã, mới có thể nhẫn được. Cảnh đã vô ngã, thì tâm nhẫn cũng làm sao có ngã cho nên có thể nhẫn vô sân đồng tu lý vô ngã, là cảnh sở tri. Ở đây dịch văn lược chỉ nói năng nhẫn. Nên nói thế nào là như cảnh sở chứng mà làm năng nhẫn, nghĩa là pháp vô ngã, kinh trong Sằn-Đề Ba-la-mật, mới chánh nói về thể năng nhẫn. Luận do Thiên Thân soạn chép: Tuy đây là hạnh khổ do quả khổ, mà hạnh khổ này không sinh mỏi mệt, vì có nhẫn độ gọi là bậc nhất, trước xả thân khổ bèn sinh mỏi mệt, không gọi là Nhẫn độ, vì chẳng phải bậc nhất. Ba-la là nghĩa bờ kia, bờ kia có năm điều.
1. Trì, 2. Giáo, 3. Lý, 4. Hạnh, 5. Quả. Cùng tận năm pháp nầy, gọi là đến bờ kia. Y theo kinh Hoa Nghiêm phẩm Hồi hướng, có mười thứ bờ kia:
1-Độ sinh tử thế gian bờ kia thường 2-Độ các ấm bờ kia
- Độ ngôn ngữ đạo bờ kia.
- Độ chúng sinh tướng bờ kia. 5-Độ thân kiến bờ kia.
6-Độ bất kiên cố Bờ kia. 7-Độ các hạnh Bờ kia.
8-Độ các cõi Bờ kia. 9-Độ các chấp Bờ kia.
10-Độ các pháp thế gian bờ kia.
Mười Bờ kia này chia làm ba, thứ ba độ ngôn ngữ là giáo, Địa thứ bảy theo độ các hạnh là hạnh, tám bờ kia còn lại đều là sở tri Bờ kia, dùng quả Phật làm ngạn nầy, nên nói là Bờ kia, sơ lược không có lý quả. Luận do ngài Thiên Thân soạn chép: Bờ kia có hai thứ.
1- Gốc lành thanh tịnh thể hạnh bờ kia.
2- Bờ kia công đức không thể lường tức quả bờ kia. Kia là do sinh tử mà làm bở nầy, nên nói hai. kinh chép Nhẫn Nhục Ba-la-mật lặp lại hạnh nhẫn, tức chẳng phải nhẫn nhục Ba-la-mật. Luận kia chép. Không có kia của nhân năng tri và Bờ của công đức, nên nói tức phi. Cho nên thứ nhất ý nói nhẫn hạnh bờ kia, người khác không biết nhẫn hạnh sở đắc quả công đức bờ kia, vì vậy theo người khác chẳng thể đến được, cho nên nói tức chẳng phải nhẫn nhục Ba-la-mật, là chỗ người khác đến được, nên nói tức chẳng phải nhẫn Ba-la-mật, người khác không biết nên gọi là thứ nhất. Các bản chỉ có phi mà có thị để biết, trong bản Năng Đoạn có, là cũng không có ngại y theo cái khó, các bản phần nhiều vô, y theo ở trước phần nhiều thì có.
- Kế là trình bày theo giải thích, thứ hai là dùng cái gì sinh ra sở nhẫn, có hai:
- Giải thích tướng.
- Phối hợp với kinh.
Giải thích tướng trong đầu tiên hỏi, sau đáp. Đáp có ba câu:
1. Người khác hại vô sân làm tướng, vì như lý cảnh, v. v... Bồ-tát Địa nói: Nếu bị người khác làm hại nên khởi tâm nhẫn, trước nghiệp ngã này nên khiến cho người hại. Nay nếu không nhẫn, lại tăng thêm nhân khổ, lại buồn thương đã thành khổ tự trói buộc. Lại tự tánh của thân khác đều là hành khổ, họ không biết ghét hại thân ta, ta đã có biết, đâu ghét khổ kia. Người hai Thừa tự lợi còn chẳng làm khổ người ta đã lợi nhân thì nên chịu đựng người hại, suy theo nghĩ như vậy rồi nên tu năm tưởng.
1-Thân thiện tưởng. 2-Duy pháp tưởng. 3-Vô thường tưởng. 4-Hữu khổ tưởng.
5-Nhiếp thọ tưởng, mình không trả thù người cũng không phiền não tuôn chảy theo nối nhau, nên đối với oán hại đều nhẫn chịu được, đây là đối với bốn quán, vì quán nhân duyên, cũng nên suy theo nghĩ. Trong Duy Thức chép: chân như quán vô tướng, v. v... luận này chỉ nói vô tánh, vì vô sanh nhẫn pháp là vô ngã. 1/Nếu người vô ngã tức là thứ hai chỉ có Pháp tướng.
2/-Đối với Nhẫn độ sinh hữu tướng: Nên họ chấp đắm tu tập.
3/-Đối với chẳng phải nhẫn Ba-la-mật không sinh vô tướng vì bác bỏ vô thể, không dứt không tu, không hân không nhàm, không lợi không lạc, nương hai nhẫn sau, độ đế quán sát pháp nhẫn, tuệ xét thành tánh, ở sau phối hợp trong kinh. đầu tiên hỏi, sau là thuộc.
- Vô ngã tưởng.
- Vô tướng, vô hữu tướng.
- Phi vô tướng, đẳng không tướng.
Như kế phối hợp với ba tướng trước, đối với ba cảnh sứ sinh, gọi là ba nhẫn tướng. Nên biết lấy tướng nào sinh ở chỗ nhẫn. Trong đây tuy dẫn ra vua ca-lợi, v. v... y theo văn thứ lớp mà dẫn ra nói lên, ý nói không có ba tướng gọi là nhẫn tướng, không giải thích vua ca-lợi. Lại giải thích vua calợi: Tức người oán hại, sinh ra chỗ nhẫn cũng là chánh dẫn, lược nêu không có hai chỗ còn lại, lý cũng không mất, làm cho nghĩa thêm rõ, khuyến khích tu học, sau dẫn ra giải thích. Luận do ngài Thiên Thân chép: Cho nên làm được pháp thứ nhất, khổ hạnh nầy hơn xả thân kia, kết luận nhẫn nhục Ba-la-mật ở trước tức chẳng phải văn Lại nói: Huống chi lìa ngã đồng với tướng tức giận, đây là giải thích sự Vô Ngã. Lại nói: Hạnh nầy không khổ, chẳng những không khổ mà còn có vui, vì có từ bi. Như trong kinh, cho đến vô tướng cũng phi vô tướng, ở đây nói tương ưng tâm từ bi. Ý luận kia nói: Vì không có tướng khổ. Trong kinh chép vô tướng do có từ bi, có tướng vui, kinh nói cũng phi vô tướng, nói vô tướng là tương ưng với tâm từ bi, hơi khác với ở đây, lại ở đây không có khác nhau, vì đối với nhẫn độ sinh có tướng khổ, nói phi vô tướng, đối với chúng sinh v. v... không ngoài phi Ba-la-mật mà vô tướng không cứu giúp không hóa độ, do thấy chúng sinh khổ mà thực hành cứu vớt tương ưng với vui, khởi tâm từ bi, cho nên cũng phi vô tướng chính là đồng với đây, lại có giải thích khác, đây là ba nhẫn, không có ngã tướng, chịu đựng oán hại nhẫn, vô tướng là an vui chịu khổ nhẫn, không thấy tướng khổ, cho nên có thể an nhẫn phi vô tướng. Quán xét pháp nhẫn, bác bỏ là vô, đây là tà kiến. Nhưng theo kinh Năng Đoạn, đây là không có ba tướng hai chỗ đều có.
- Vua Ca Lợi trở xuống.
- Năm trăm đời v. v... trở xuống, bản khác chỉ có ở vua Ca-lợi trong văn Phạn có đủ, đạo lý quyết định như vậy. Vì sao năm trăm đời v. v... trở xuống mà không có hai tướng còn lại, chỉ có tướng vô ngã, biết cho nên bản còn lại dịch giả lược bỏ, hoặc lại nhân tụng khác nhau, lại Luận Vương này gọi là Ca-lợi. Ngài La-thập, ngài Lưu-chi nói Ca-lợi, ngài Chân đế nói Ca-Lăng-già, trong kinh Năng Đoạn nói là Yết-lợi, lời khác mà tên đồng, ở đây nói là nhẫn khổ hại.
Kế là giải thích thứ ba như nhẫn có khác nhau. Ban đầu là gạn lại trình bày.
Sau thuộc về kinh, đời đời thường thực hành tương tự theo thứ lớp, các chủng loại nhẫn, chẳng phải chỉ một nhẫn, gọi là Nhẫn khác nhau. Vua Calợi làm hại, gọi là cực khổ nhẫn, năm trăm sinh nhẫn là Tương tục nhẫn, y theo văn kinh nầy, cũng chia làm hai.
Là trong Thứ tư giải thích đối trị nhân duyên, chia làm hai:
3- Giải thích nhân duyên bất nhẫn.
4- Giải thích kinh có công năng đối trị ba hạnh. Trong nhân bật nhẫn trôi lăn trong khổ có ở cả ba cõi, là hành khổ. Hai khổ sau chỉ có chúng sinh ở cõi dục trái nhau là khổ khổ, thiếu sự thọ dụng là hoại khổ, đây là nương tướng oán ghét, hoặc trôi lăn nhiếp thọ năm khổ. là: Sinh, già, bịnh, chết, năm là uẩn xí thành khổ, chúng sinh trái nhau thuộc về hai khổ, là ghét mà gặp nhau, thương mà chia lìa, thiếu dụng nhiếp một khổ, là khổ cầu mong mà không được. Trước nói trong tướng nhẫn, luận giải thích có hai nhẫn.
1- Chịu đựng oán hại.
2- Quán sát kỹ các pháp.
Nay đối trị trôi lăn và thiếu thọ dụng, mới giải thích an chịu khổ nhẫn, chịu đựng oán hại.
Đầu tiên là hạnh khó tu, chúng sinh trái nhau nói, lại nghĩa kia, khiến họ tu học, khổ tuy rất nhiều. Như trong nói thứ hai của Du-già, lược nêu ba pháp nầy. Từ kinh hành sở trừ v. v... trở xuống là giải thích kinh có công năng theo đối trị ba hạnh.-Trong đối trị khổ trôi lăn, có ba:
- Đầu tiên phối hợp với khổ nhẫn nhân duyên đối trị, nêu văn chung ở đầu kinh
- Nếu chấp sắc, v. v... trở xuống là giải thích các văn kinh không nên trụ sắc sinh tâm.
- Vì thành tựu các pháp không trụ kia, nên ở sau giải thích các văn kết nên sinh không có chỗ trụ tâm. Văn ở đầu lại có hai: phối hợp, và giải thích. Có ba tướng khổ:
1. Hiện tiền ép ngặt không muốn phát tâm, không bỏ sinh tử mà muốn cứu giúp.
2. Lại chấp Niết-bàn mà khởi ý Tiểu thừa, hoặc đều bác bỏ.
3. Chìm mê trong tà kiến, thường ở trong sinh tử, nên không phát tâm. Đây là nhân duyên của khổ trôi lăn, tức là ba tướng pháp chấp si, tham, v. v.... Tất cả hai chướng dùng làm thể tánh, là nhân gần trôi lăn, chính là phiền não si vô minh duyên hành. Cội gốc của si tức là trí chướng. Ba tướng tâm là sinh tử khởi thứ lớp. Như trong kinh Vô Cấu nói đối trị nầy, nên lìa ba tướng khởi, phát tâm vô phân biệt v. v.. là lìa ba tướng. Tự không có si, v. v..., vì vô minh diệt cho đến già chết cũng diệt theo, trôi lăn tự dứt.
Luận do ngài Thiên Thân dịch chép: Nếu có các Bồ-tát không lìa tướng ngã v. v..., thì Bồ-tát ấy thấy khổ thực hành khổ, cũng muốn bỏ tâm Bồ-đề, vì họ mà đối trị.
Kinh chép: Nên lìa tất cả tướng phát tâm v. v..., vì khi chưa phát tâm có lỗi nầy, nêu văn kinh sau bác bỏ lỗi ấy. kinh chép: Thế nào là đẳng tâm, vì khởi hành tướng mà tu hành. Thế nào là đẳng tâm? không bỏ Bồ-đề, đó là Nhẫn Ba-la-mật, tu tâm năng học kia. Nghĩa là các tướng vô ngã tu hành, cũng các tướng vô ngã tu tập tu tập tâm năng học, không bỏ Bồ-đề, lại được nhẫn thành tựu Đệ nhất nghĩa vô ngã, nghĩa là nhập Sơ địa trở lên Bồ-tát, nghĩ là Sơ Địa trở lên Bồ-tát được thành tựu nhẫn, lìa tất cả tướng, chứng phát tâm Bồ-đề. Khuyên chủng tánh phát tâm đầu tiên cũng nên lìa tất cả tướng.
Lại giải thích vì sao ở văn dưới tướng có hai:
1- Nói về trói buộc nên sinh trói buộc nhau thô nặng, thuộc về kinh không trụ sắc, v. v...
2- Giải thích pháp khó. Ở đây đầu tiên ý nói nếu đắm cảnh tướng ở các cõi như sắc v. v..., tức là ở trong trôi lăn, lại thêm mỏi mệt, nên tâm Bồ-đề không sinh. Nếu bị trói buộc ngăn ngại bởi cảnh tướng, vì tâm chấp hữu tướng, đối với sinh tử, thân sinh trói buộc thô nặng. Trói buộc thô nặng không có tánh an ổn, không có tánh điều hòa, không có tánh chịu đựng, thân tâm mỏi mệt, vì tánh mỏi mệt. Nên trong Kinh giải thích Thâm Mật có bài tụng rằng:
"Trói buộc chặt chúng sinh Cũng do thô nặng buộc Khéo tu cả chỉ quán
Mới đều được giải thích thoát".
Như quán cảnh khôi hài, tướng trói buộc tâm mê đắm không còn sinh mỏi mệt. Sau dừng nghỉ rồi, mới biết mỏi mệt. Tướng này ràng buộc tâm nầy, sinh ra mỏi mệt cũng vậy. Lẫn nhau này trói buộc: Thể chung cảnh tướng hữu lậu ba cõi ba tánh sinh thô nặng, cũng chung cho tất cả tánh hữu lậu, nên nói ba cõi đều là hành khổ, không có tánh an ổn không có tánh chịu đựng, v. v.. Nhưng do tâm chấp chặt cảnh tướng, các cảnh tướng hữu lậu trói buộc, tâm không được tự tại, chẳng phải tất cả tướng đều chấp thủ, đó là nghĩa hộ pháp. Nếu y theo theo an tuệ, thì tất cả tướng đều chấp, cho nên trói buộc tâm không được tự tại, hoặc ý văn này khó mà giải thích. Vì chấp sắc v. v... cho là thật có, lại khởi mong cầu luyến tiếc, ở trong khổ trôi lăn càng thêm mỏi mệt, giác tâm bất sinh lại thêm sinh tử, vì ngăn dứt việc đó.
Kế là văn kinh chép không trụ sắc sinh tâm, v. v... như ở trước là nói trong văn nghĩa của nguyện Tịnh Độ. Ngài Thiên Thân nói: Tâm kia không trụ Phật Bồ-đề của, vì tâm chẳng phải chân trụ nên khuyên không trụ, luận này và ngài chân đế, ngài La-thập có thể chia ra bốn bản, đều là đầu tiên nên lìa tất cả tướng phát tâm. Kế là nói không nên trụ sắc sinh tâm, v. v... sau mới nói nên sinh tâm vô sở trụ. Nếu tâm có trụ thì tức là phi trụ v. v... Nhưng bản của ngài Lưu-chi lại trái với tướng đại. Sau khi ở Sơ trụ phát tâm, tức nói vì sao nếu tâm có trụ tức là phi trụ, mới nói không nên trụ sắc sinh tâm v. v..., nên nương bốn bản là chánh. Bản của ngài Lưu-chi trước nguyện trong Tịnh Độ, tự đồng với bốn bản, trước nói không trụ, sắc, v. v... sau mới nói nên sinh tâm vô sở trụ, nên biết văn sau của kinh ấy tự trái ngược. Còn ngài Lưu-chi, Ngài Lathập đều chỉ nói không trụ sáu trần, không đâu mà chẳng trụ không phải sáu trần. Trong kinh Năng Đoạn, đối với sáu phi sáu, đều giúp không trụ, ngài Chân Đế và luận này chỉ có không trụ ở năm trần trước, không đâu mà chẳng trụ không phải năm trần. Pháp trong chẳng phải pháp tức đều không trụ, cho nên trong luận này bất giải thích bất trụ đối với pháp, y theo đó có thể hiểu.
Không trụ chẳng phải pháp: Nghĩa là chẳng phải pháp vô ngã, là nói không trụ pháp là không trụ pháp trong lý vô ngã. Không nên trụ chẳng phải pháp, là cũng không nên trụ chẳng phải pháp trong lý vô ngã, nói lên có pháp ngã, nên gọi là chẳng phải pháp, cũng giúp không trụ chấp pháp có ngã đối với chẳng phải pháp ngã và pháp ngã cả hai đều không trụ, sau là giải thích văn kết, vì thành tựu, v. v... Ở trên nói không trụ các sắc và các phi sắc, không trụ ngã, vô ngã giúp sinh tâm kia, vì thành nghĩa nầy, nên sinh vô sở trụ, trụ không trụ có đều không nên giải thích lý do này rằng: Nếu tâm có trụ, lại là chấp đắm, chẳng phải là chân trụ lý chân như, trụ trong lý chân như không có chỗ trụ, phát tâm cũng nên thuận theo lý bất trụ. Cho nên kinh Vô Cấu chép: Vô trụ tức vô bản, từ không trụ mà lặp tất cả pháp, kinh dẫn ở trước chép: Tâm các Bồ-tát không trụ sắc bố thí, bố thí thuộc về sáu pháp, trong đây nói riêng, trong luận đại khái không có, trong văn kinh có nói đầy theo đủ. Nêu đầu tiên không trụ sắc, khởi hạnh phương tiện của, để khuyên học lâu, hoặc nêu Mười địa chân hạnh phương tiện, không trụ vào bố thí, để khuyên Địa tiền, không trụ vào tu hành, như khuyên lìa tướng phát tâm Bồ-đề.
Trong nhân duyên đối trị ba nhân khổ, trên đây nói đối trị trôi lăn nhân duyên khổ mà phát được đại tâm, sau giải thích thứ hai chúng sinh trái nhau, nhân duyên khổ đối trị, tuy là phát tâm, chỉ vì lúc chúng sinh trái nhau lại sinh mệt nhọc không thể cứu giúp, khuyên tu tự hành đối trị nầy, nên có ở kinh sau. Giải thích nghi có ba:
- Nói về đối trị.
- Khuyên tin lời Phật cho nên nhẫn.
- Phá như nói chấp đắm. Văn đầu tiên có ba:
- Nhắc lại kinh phối hợp.
- Giải thích tướng nhẫn.
- Sau giải thích văn hai vô ngã.
Giải thích tướng nhẫn: Đã vì tất cả chúng sinh mà thực hành đối với các món xả, tức trong năm nhẫn tưởng thân thiện và tưởng nhiếp thọ, xả tức là bố thí.
Ngài Thiên Thân nói: Dùng đàn độ nhiếp sáu độ nói riêng, thế nào là lợi ích chúng sinh tu hành, mà không gọi là trụ trong việc chúng sinh? vì dứt nghi này nên kinh sau nói: Ý này vì chúng sinh thực hành bố thí, vì sao không gọi là trụ việc lợi sinh, bài kệ chép:
"Tu hành lợi chúng sinh Nhân như vậy theo phải biết Chúng sinh và sự tướng
Xa lìa cũng phải biết".
Ở đây nói lợi ích là nhân thể của, Bồ-tát thực hành lợi ích chúng sinh, chẳng chấp sự tướng chúng sinh, cho nên tuy lợi sinh cũng thành không trụ, giải thích trong hai vô ngã, do không thể không có tướng chúng sinh, khi trái nhau thì sinh mỏi mệt. Vì có nhân ngã thì có sẽ pháp ngã, hai ngã đã thực hành thì, khi lợi ích lại bị mỏi mệt, nên sinh mỏi mệt, nói lên hai vô ngã để phá chấp kia. Kinh chép tất cả tướng chúng sinh, tức phi tướng, chỉ bày theo pháp vô ngã, tất cả chúng sinh là tức phi chúng sinh là, nói nhân vô ngã, trong đây nói bao gồm. Ngài Thiên Thân giải thích riêng rằng: Giả danh và sự ấm, Như lai lìa tướng kia, Chư Phật không hai pháp. Vì thấy pháp báu nên, việc chúng sinh có hai:
1. Danh chúng sinh. 2. Sự năm ấm.
Tức chúng sinh kia có khả năng giải thích danh tướng, chẳng phải tướng thật thể, vì danh tự tánh của vô thật thể, do tất cả tướng chúng sinh tức chẳng phải tướng, chúng sinh danh tướng của không có thật thể, danh năng thuyên thành pháp vô ngã. Lại dùng năm ấm giả gọi chúng sinh trong năm uẩn không có tự thể chúng sanh, vì không thật, vì tất cả chúng sinh, tức chẳng phải chúng sinh, là nói nhân vô ngã, chỉ có giả ấm hòa hợp và tên giả gọi, hoặc nhân hoặc pháp đều chẳng thật, thành hai vô ngã, cho nên lúc trái nhau chúng không nên tức giận, trụ trong năm nhẫn, chỉ có pháp tướng là nhân vô ngã. Pháp danh cũng giả, là pháp vô ngã. Bài kệ ấy lại nói: Đức Như lai lìa tướng kia, Chư Phật không có hai ngã, vì thấy thật pháp, Chư Phật thấy đúng như thật về hai vô ngã, lý do Phật lìa hai tướng, hai vô ngã không thật, quán sát tụng này ý nghĩa thế nào. Trong bản của ngài Lưu-chi lại không có nói khác, chỉ có bản của ngài Chân Đế, chẳng phải chúng sinh v. v... trở xuống là, lại có lý do gì, Chư Phật Thế tôn xa lìa tất cả tướng, các bản chú nặng hơn, đều chép sơ lược, như trong một đoạn trước đã nói ở đây. Nhưng quán luận kia và ngài Chân Đế, có tức nói lên Đức Thế tôn do trong chứng thật hai vô ngã, ngoài lìa hai tướng nhân pháp không thật, khuyên phát tâm tu hành, vì chúng sinh trái nhau, quán hai vô ngã chẳng sinh tức giận, nên nói vì sao. Gạn đưa ra lý do của hai vô ngã, nên nói Đức Thế Tôn lìa các tướng, giống như có con đường trở lại, mới thuận lý thành, văn tuy lược bớt rườm rà, mà không thiếu thành nói trước. Khuyên tin lời Phật cho nên trong Nhẫn có hai. Trong đó trước nêu ý kinh, sau giải thích văn, ở đời nhân Hiền Thiện, còn có pháp luống dối, huống chi đối với bậc Đại Thánh dùng lời dẫn dụ. Ngài Thiên Thân có bốn đế ngữ để làm phép tắc nói pháp, gọi chung là tục đế tướng ngữ danh chân, riêng nương vào tục đế tu hành, có tướng phiền não sở dứt, có thanh tịnh tướng ngữ danh thật Năng Đoạn. Ở trong thật, đây hạnh phiền não hữu vi, đây là hạnh thanh tịnh hữu vi, hoặc lúc nương tục đế tu hành, hạnh này sinh phiền não, như là hạnh danh lợi, hạnh này tăng thêm phiền não, hạnh này tăng thêm thanh tịnh, như bỏ hạnh danh lợi, nên nói là thật. Hạnh phiền não nầy thanh tịnh, nói chung chân đế ngữ danh như ngữ, nói riêng tu hành chân đế, có phiền não sở dứt, thì có thanh tịnh Năng Đoạn, ngữ danh không khác, hoặc lúc nương chân đế mà tu hành, hạnh này sinh phiền não. Nếu có trụ tâm thì bố thí, hạnh này thêm thanh tịnh, nên không trụ tâm bố thí, thì y theo trước nên biết. Nay khuyên
Bồ-tát, nương chân đế mà tu, nên tín sinh nhẫn. Ngài Thiên Thân nói: Trong đây có nghi, trong chứng quả không có đạo. Vì sao đạo ấy là quả, đối với quả có thể làm nhân hay sao? Nghĩa là các bậc Thánh do các pháp vô vi mà có khác nhau, thì không có Thánh đạo. Làm sao quán hai vô ngã, lợi ích chúng sinh đạo hạnh, có thể thực hành nhân ấy để phá nghi nầy, cho nên nói bốn ngữ. Quả tuy không trụ đạo, mà đạo có khả năng làm nhân, do Chư Phật thật ngữ, trí kia có bốn thứ cảnh có bốn nên nói có bốn ngữ, bốn ngữ luận nầy giải thích hoàn toàn khác với.
1-Bồ-tát. 2-Tiểu Thừa. 3-Đại thừa. 4-Thọ ký.
Ngoài ra, hoặc mượn bố thí mà nói, nay nói Bồ-tát và Đại thừa, khuyên tin nói quả, tuy không trụ đạo, mà có công năng làm nhân, là phá nghi kia đối với Tiểu Thừa, nói Khổ đế, v. v... thì không thể khiến cho vui được, đối với Đại thừa nói pháp chân như vô ngã, không thể làm cho khác được, đối với thọ ký, nói việc ba đời, quyết định không khác, như nghĩa mà nói, vì không điên đảo.
Đối trị chúng sinh, trong nhân duyên khổ trái nhau. Thứ ba là phá như lời nói chấp đó có hai.-Nêu ra ý.
-Giải thích văn.
Pháp sở chấp chẳng thật có, gọi là không thật, chẳng phải pháp sở chấp chẳng phải không, gọi là không luống dối, vì có thể gọi là pháp không, vô thật chẳng thể nói pháp có, cho nên bất không. Ngài Thiên Thân tóm lại rằng: Pháp của Chư Phật nói, pháp này không thể được pháp kia, mà thuận theo nghĩa.
Hai câu đầu giải thích không thật, một câu sau giải thích không luống dối, do pháp đã nói, không thể chứng được pháp kia. Như tiếng được bị nghe không có nghĩa như vậy, cho nên không thật. Do có pháp đã nói bị, thuận theo pháp chứng kia cho nên không luống dối, đây là theo ngài Lưu-chi, ngài Chân Đế đều nói pháp sở giác sở nói chẳng phải thật chẳng phải hư. Ngài La-thập chỉ nói pháp sở đắc. Kinh Năng Đoạn chép: Pháp sở chứng, sở nói, sở tu chỉ nội trí có sở đắc, ngoài nói có sở nói, nên nói đắc nói. Ngài Thiên Thân y theo đây giải thích rằng: Nếu vậy theo vì sao đức Như lai đã đắc pháp, đã nói pháp, do nói theo câu chữ ý nầy nói năng vì đối với pháp do có sở đắc, ngoài y theo câu chữ mà nói, tuy là như thế, đức Như lai đã nói pháp đối với pháp sở đắc, không thật không dối, vì không như lời nói, vì có thể thuận đắc. Ngài Thiên Thân lại hỏi: Vì sao trước nói là chân ngữ, nay lại nói không thật không dối, bài kệ chép:
"Như nghe tiếng thủ chứng đối trị Thuyết Như vậy theo nói ý
Nếu nghe thinh giáo Nếu như thủ chứng Việc này đã sai".
Vì đối trị, nên lại nói không thật, thuận theo có thể đắc. Trước nói chân ngữ, thì sau không luống dối, cũng không trái nhau. Ngài La-thập lược bớt văn, trong kinh Năng Đoạn văn rộng, văn này ở trong đó, ba đoạn văn đồng.
Đối trị thứ ba thiếu thọ dụng trong nhân duyên khổ có hai.
1. Lặp lại thuộc văn kinh.
2. Giải thích văn riêng.
Do chấp quả sự đời vị lai thực hành bố thí, vì tâm có tướng, quả có hạn lượng, thọ dụng lại thiếu, tức chấp đắm, v. v... đây là thiếu nhân duyên thọ dụng. Chỗ thiếu thọ dụng, là tư cụ tăng thượng quả bên ngoài, ở đây y Luận nầy giải thích không trụ đối với sự thực hành bố thí, là bố thí độ quả vị lai, nói ấy lại y theo ngài Thiên Thân, tự thể danh sự, vì trong đây nói thiếu thọ dụng, vì nếu tâm không trụ thì vô tướng, quả không có hạn lượng, thì thọ dụng không thiếu, thọ dụng không thiếu là tư cụ bên ngoài, thuộc về quả tăng thượng, tâm vô tướng thì đó là nhân duyên năng trị, chấp đắm sở thọ, tư cụ thiếu nhân duyên, nên cho họ nói nghe hạnh nầy, đối trị nhân ấy, nên có kinh sau. Ngài Thiên Thân nói: Lại có nghi. Nếu bậc Thánh chân như vô vi đặt tên, chân như ba đời tất cả thời gian, ba cõi tất cả xứ, vì sao không trụ tâm được Phật Bồ-đề, có đắc thì chẳng phải không trụ tánh, đã nói tất cả thời xứ thật có, vì sao có nhân đắc, có nhân không đắc: Vì phá nghi nầy, nên có văn sau, bài kệ chép:
"Thời và xứ thật có
Bốn pháp mà không đắc Chân như vô trí.
Do trụ pháp người khác có trí đắc. Nghĩa tuy thời xứ có
Vì vô trí nên
Cho đến trụ pháp Không đắc chân như. Đáp: Sau đồng. Nếu có tâm trí và không trụ pháp sau đắc chân như là đáp câu hỏi đầu, và đáp câu hỏi sau, cũng có đắc: Do Chư Phật chân như thanh tịnh nên đặt tên, vô trí có trụ, đã không đắc chân như, ngay theo quả có hạn lượng, lại thiếu thọ dụng, có trí vô trụ lại đắc chân như, thì quả sẽ vô cùng, thọ dụng không thiếu, nghi nhân ấy để nêu ra ở sau. Ở đây nói hạnh để khởi ở sau, đã quán tuy khác, chính là đồng với nhân nầy.
Giải thích thích văn riêng, trong đó có hai:
- Đầu tiên giải thích hữu tướng chấp đắm quả báo bố thí.
- Sau giải thích vô tướng không đắm sự thí. Văn đầu lại có hai.
- Đầu tiên dụ ba thời thí, do chấp sự ở đời vị lai, đắc ngay theo quả thời, không giải thích ra khỏi, hỷ lạc dục lạc kia cũng như vậy.
- Sau dụ lúc hiện tại chánh hạnh thực hành bố thí thì tâm sinh chấp đắm.
Không giải thích ra khỏi mà hy theo vọng ngay theo quả thí: Là chánh hạnh hiện tại bố thí, pháp ấy khác với thí. Tức bố thí sở đắc sự ở quả vị lai, với nhân khác tên khác bố thí, đây là ngay theo nơi sự quả, là năm dục lạc, là Lạc thọ Xả thọ trong ba thọ, vì hành thì đắc quả, chẳng phải khổ thọ trong ba thọ. Xả thọ Lạc Thọ này gọi là khổ thọ. Trước trích dẫn trong kinh rằng: Các chỗ đã thọ đều khổ, nên nói dục lạc gọi là khổ thọ, hoặc thành đủ dụ, tạm gọi là dục lạc. Hữu lậu đều gọi là hạnh khổ, cũng gọi là khổ thọ. Vì đã chia khổ, ở trong quả nầy, không giải thích nhàm chán xả bỏ, không ngộ Duy thức, không biết vô tướng, không chứng vô ngã, không hành bốn quán, không tu ra khỏi, thì như bị rơi vào ngăn lấp, ở trong đó không biết Ngày nay ta đến chỗ nào, không cầu Niết-bàn, cầu Niết-bàn chính là thể của ra khỏi. Do đắc sư quả, không hiểu ra khỏi, có tướng thọ dụng chánh thí, tu hạnh bố thí ba đời, đối với tướng hữu tình hỷ lạc, đương lai dục lạc cũng vậy. Do có tướng hạnh, lúc thực hành bố thí, vì không biết chấp đắm là điên đảo, không hiểu ra khỏi, cũng chính là lúc đắc quả hữu tưởng, không biết điên đảo, chấp đắm thọ dụng, không hiểu ra khỏi, hoặc trước dụ cảnh hiện tại, sau dụ hiện hành, tâm đều có tướng, không hiểu ra khỏi, đây là nói chấp đắm không biết, như tâm bị ngăn che, như mắt không thấy các vật, không hiểu ra khỏi: Là dụ không thấy vật, do chấp đắm ngăn lấp, tuy có tâm mắt mà không thấy vật, như gọi là không hiểu ra khỏi, cho nên kinh do Chân Đế dịch và kinh Năng Đoạn chép: Bồ-tát rơi vào tướng hạnh, rơi vào tướng thì cũng như vậy.
Lại giải thích vô tướng không chấp sự thí trong đó cũng có hai.
Đầu tiên dụ cho lúc vô tướng thực hành bố thí thì quả vị ở vị lai đắc chủng trí, thấy các vật, sau lại giải thích. Trước có trụ tướng thì không hiểu ra khỏi, vì quả dục lạc khổ thọ ở đời đương lai, hỷ lạc dục lạc trong lúc bố thí. Nếu hiểu ra khỏi, thì ngay theo quả khổ dục lạc là không, vì nhân của bố thí là vui. Nói rõ dụ không chấp đắm, vì lỗi hữu trí đen tối, mắt dụ tâm câu thời, các vật dụ cho tâm chân như, v. v... do không chấp đắm là nói hiện tiền, tâm trì Bồ Tát lại chứng chân như, và tất cả vật lại chấp đắm là nói giải thích không chấp đắm có lẽ v. v..., cũng có hai văn, vì không trái nhau, lại không có dụ khác. Ngài Thiên Thân nói: Xà: là chỉ bày theo không có trí chấp. Anh sáng mặt trời chiếu soi, có trí không chấp và có mắt thấy ba pháp, v. v... đều rộng như trong đó, đại ý đều đồng.
Thứ mười là ai nghe thiếu trì tư lương. Hai nhân của Bồ-tát, trên đây, đã khuyên tu Phước tư lương, dưới là khuyên tu trí tuệ tư lương. Phước tư lương ở trước có ba:
1- Khuyên gần gũi Đức Như lai, nêu ra cúng dường.
2- Khuyên lúc tu nhân Phước ít muốn siêng năng chớ tham lợi dưỡng, đừng lui sụt biếng nhác.
3- Khuyên nghe, chứng pháp quán sát người não hại, do không sân mà gặp duyên khổ, do an nhẫn tu nhân không dứt, Phước đức sẽ đầy theo đủ, vì sao? Vì thường thực hành cúng dường, thuộc về nhân hạnh để quả sinh. Được gặp bạn lành, ưa nghe thắng pháp, nên quả Tịnh độ tròn đầy, vì ít muốn, siêng năng, đưa tay theo nắm hư không đều thành bảy theo báu, chỗ nào cũng có cột bằng châu ngọc, làm rốt ráo, ưa làm việc tốt, do nghe pháp để an nhẫn quán sát, cho người nghe nói pháp, nói lời thành thật, họ đều tin nhận, chịu đựng người khác làm hại. Bồ-tát, trời rồng, quyến thuộc có nhiều tốt đẹp, ba mươi hai tướng tám mười vẻ đẹp tùy hình, trang nghiêm thân Phật. Gặp duyên khổ vẫn an nhận. Tuy thực hành Vô sinh, mà tùy loại hóa sinh, sinh tử không ràng buộc, không bị khổ não ép ngặt, nên tu Phước nghiệp, có ba đoạn văn trên, khuyên tu ba hạnh. Ở sau tu nhân trí, văn cũng có ba: đầu tiên khuyên y theo kinh mà xả bỏ định vị. Thọ trì, đọc tụng làm nhân, phát sinh tu tuệ, trong phần Đạo tư lương ở trước tuy đều là lý vô tướng, khuyên tu tam-ma-bát-đề mà đắm vị thiền định, chưa tu riêng lý vô tướng, quán bốn tầm tư. v. v.... Từ tu tập nhân rồi, phần dưới là giai vị gia hạnh nói nhiều về tướng mạo. Như phẩm Hồi hướng trong quyển mười của kinh Hoa Nghiêm chép, ở địa vị này đầu tiên được tu tuệ là trong Noãn vị do đắc trí tuệ, danh đức đã cao, ngã mạn càng tăng liền theo đó sinh ra hỷ động. Vì xa lìa lỗi này nên đoạn văn thứ hai sẽ nói giúp cho lìa hỷ động. Khi hỷ động dứt, ở Đảnh vị theo thứ lớp sẽ nhập Nhẫn bậc Nhất Pháp. Bên ngoài tìm duyên tốt để mong được gần gũi giáo thọ, liền nhập Sơ địa chứng đạo, chẳng phải Thế đệ nhất pháp, sau đó lại cầu Giáo thọ, chỉ trong một sát na liền nhập thấy đạo, cho nên cầu giáo thọ.
Trong hai vị thấy đạo và Noãn Đảnh đã thủ chứng giác quán, vì đầu tiên thực hành khó khăn, nay đến Nhẫn vị liền thủ chứng, chẳng có giác quán, năng thủ cũng không, vì tu lâu dễ dàng. Ở giai vị Thế đệ nhất pháp vị không đều "tức", vì nhân thành tựu tròn đầy. Xưa tu Phước đức tức bốn giai vị, trước cũng gần giai vị Hồi hướng, liền tu tập tu tuệ, chánh nhập bốn vị. Nhờ y theo theo đây mà đoạn văn trước cũng chia làm ba dứt. Trong dứt thứ nhất giải thích chia làm hai: Một là nêu tên phối hợp sở thuộc, Hai là giải thích văn kinh riêng. Trên lìa ít học, đa là chướng văn tuệ tư tuệ, tuy đã xả để được học rộng vì có hai chướng phân biệt, thường sinh khởi nhỏ nhiệm Hai chướng câu sinh thường hiện hành, chưa thể tu vô tướng và tu tuệ vì thiếu điều này, không chứng đắc trí tuệ chân chánh và dứt hai chấp.
Nay trong vị tu tuệ đặc biệt quán chân lý, quán không có hai thủ (năng thủ, sở thủ), giúp cho chướng phân biệt hoàn toàn không có hai chướng hiện hành và câu sinh, cũng có thể hàng phục, mau chóng vào nhập thấy đạo. Cho nên văn kinh sau sẽ nói thiếu nhân trí đó. Thể chỉ có trí chướng, vì chướng tu tuệ, ở đây y theo theo dứt chánh chướng mà nói trí hạnh. Do sinh dứt kinh sau, theo quyển trước y theo theo lìa sự ưa thích vị vui thiền định, chẳng chịu tu tuệ, vì nói trí hành giúp cho dứt ái thiền định từ sinh v. v... trở xuống trong văn kinh. Còn dứt này nói thiếu trí là do yêu đắm định, ái định làm chướng thể tu tuệ. Vì thế quyển trước và quyển sau nói cũng chẳng trái nhau. Quyển trước cho rằng: Vắng lặng vị là tĩnh lự ái vị, vì vị là định không chịu tu tuệ hay vị định lạc. Thể thì tham ái làm chướng thắng tuệ. Ngoài ra luận chép về chấp của bốn món vô ký.
Ngài Thiên Thân nói: Tu hành pháp gì? được Phước đức gì? thành tựu nghiệp gì? Nói tu hành như thế, để làm rõ văn sau, trong kinh này: Đọc tụng, thọ trì để sinh tu tuệ, công đức tu tuệ đã tạo ra Phước nghiệp, rõ được bình đẳng sinh này. Cho nên văn sau giải thích riêng hai phần trong kinh. 1. Giải thích năm pháp tương ưng dứt ái định chướng, giúp học với tu tuệ tương ưng, vì đây là quán hạnh.
2. Giải thích hơn A-tăng-kỳ kiếp v. v... trở xuống, kinh sau giải thích lại đoạn trước, thuộc về nghĩa Phước đức.
Theo ngài Thiên Thai nói chung, chia làm ba phần:
- Tu hành pháp gì? Tức là nhớ nghĩ Đức Như lai.
- Tu hành được Phước đức gì? Tức ở đây thuộc về Phước đức.
- Sẽ thành tựu nghiệp gì? Tức là quán pháp tu hành, đến văn sau sẽ giải thích lại. Lần lượt giải thích, đoạn trước xếp vào Phước đức, văn kinh đều thuộc về phần thứ ba. Trong phần thứ ba chia làm năm, đến văn sau sẽ biết. Trong năm lại có hai, tức Vô Trước giải thích lại thuộc về Phước đức. Phần một chia thành ba.
- Nêu năm khuyên bảo trừ tán loạn.
- Nêu năm tên gọi.
Phối hợp với kinh để giải thích. Tam ma-đề: là Tổng trì.
Phan duyên là tác ý.
Đối pháp luận chép được định tâm gọi là được tác ý, cái bị trừ này tức tán loạn chướng. Pháp tương ưng, pháp kinh là giáo, tức ở dưới văn kinh thuận với kinh mà tu tác ý, dứt trừ loạn chướng có năm công đức. Từ nhiên phát sinh tu tuệ cao siêu, do dứt được ngu si. Trong Phối hợp với kinh để giải thích năm dứt: trong dứt thứ nhất có hai, sau theo sự gạn hỏi để giải thích có. Theo ngài Thiên thân nói
- Tu hành pháp gì? Nói lên kinh này, bên ngoài nghe người nói kinh bên trong ghi nhớ giữ gìn không quên, thường luôn suy theo nghĩ tu tuệ liền sinh. Bài tụng rằng:
Tên gọi ba thứ pháp Thọ trì nghe rộng nói Tu từ người và trong Đắc văn là tu trí.
- Ở đây nói nghĩa gì? Đối với danh tự kia được thành tựu văn tuệ, ý nói kinh chép pháp môn này. Pháp môn là giáo, danh tự là thể, tức là bên ngoài nghe người nói, cái bị nghe là giáo, vì thành cái nghe rồi, nhờ danh tự này thành ba thứ pháp: Là thọ trì và, đọc tụng. Đây là ý luận bàn giải thích, nói thọ là, tụng tập, phúng tụng. Sau đây kinh giải thích có bốn dứt, do thọ là đọc tụng giữ gìn không quên, cho nên ghi nhớ rõ ràng trong tâm chẳng quên gọi là "Trì". Kia nói: Theo y tổng trì mà nói thọ trì tu hành, thọ bên ngoài đặc biệt có trì trong đó, gọi chung là tổng trì, tức lắng nghe hành trì thì được Đà-la-ni, ghi nhớ không quên. Trước thọ sau trì được chuyển, cho nên chia thành hai. Ngoài đọc này có một nhiếp riêng, quán nhiếp này là trì kia, là nhiếp trì pháp. Trong mười pháp hạnh lại không có nhiếp hạnh vì thọ cho nên đọc, do tu nên phúng tụng, trước tiếng đọc văn kia, vì trì cho nên nhiếp, trước xét chung, sau ghi nhớ, dưới đây đều giải thích tập đọc, xét nghĩa và quán xét lý đó. Luận chép: Đọc tụng tu hành vì nhờ văn tuệ, đọc tụng rộng nhiều cũng gọi văn tuệ, tức nói năng bên ngoài có tập tụng riêng, y theo mười pháp hạnh: 1/ thọ trì; 2/ đọc; 3/ tụng; là ba thứ pháp. Kia luận rồi thọ gọi là trì, đọc tụng là một. Kính thể của thọ trì tức Tổng trì, đầu tiên thọ, sau trì. Cho nên chia làm hai, đọc và tụng, đều một văn tuệ, vì thế gộp lại thành một.
Do chia thành ba thứ, luận này nói có bốn nghĩa thiếu khó biết, kia nói đọc tụng tu hành y theo văn tuệ, đọc tập rộng nhiều cũng gọi là Văn tuệ, cùng bên trong luận đồng nhau, tức nói rõ ý thiếu đọc, thiếu giải thích nghĩa, là sinh đắm tuệ chẳng phải văn tuệ. Trong kinh do Lưu-chi dịch nói ba hạnh, do đã có tu hành, tu hành là gọi chung là ba hạnh. Luận nói kia hỏi làm sao tu hành được? Nghe người nói pháp, bên trong tự mình suy theo nghĩ thì được tu hành. Nghe pháp người nói là văn tuệ, tự mình suy theo nghĩ là tư tuệ, mà được tu hành là tu tuệ. Bạn lành: Trước nay hợp chung nói bốn hạnh cận gũi. Ngài Lưu-chi, La-thập đều nói vô vi tha nhân như lý tác ý, trong Chân Đế lại nói giáo tha tu hành là tha chánh nói. Năng Đoạn có năm, thọ trì, đọc tụng, rốt ráo, lanh lợi giảng nói cho người nghe, như lý tác ý chỉ nói văn tuệ vì dùng làm nhân, tu tuệ liền sinh vì tha nói là vì chúng sinh, ngoài ra đều là tự lợi. Kinh Lưu-chi trong bản này nói có ba tuệ, như trên đã nói.
Hiểu thuộc về Phước đức, luận văn chỉ nói một, văn kinh có hai. đầu tiên nói hành xưa đã thuộc Phước đức, sau thành tựu nói Phước đức trước kia có nhiều nghĩa. Theo ngài Thiên Thân: thì được Phước đức bình đẳng như thế nào? Vì thị hiện So sánh Phước cao quý. Trong đây xả thân Phước cao quý hơn Phước xả thân ở trước, tức trong thời gian một Ngày xả nhiều thân. Lại có nhiều thời đối với mười pháp hạnh, trong mỗi hạnh lại sinh bốn hạnh: 1/ tự tác; 2/ khuyến tha; 3/ khen ngợi khích lệ; 4/ độ úy theo (độ úy theo là tùy hỷ). Trong đây có tín tâm không chê bai, chỉ chung là tùy hỷ còn được Phước đức vô biên, huống chi thực hành pháp hạnh, Phước đó không thể nào lường ở đây này không nói rõ. Lưu-chi La-thập đều nói tín tâm không trái Năng Chân đế đều chỉ nói năng, chẳng sinh tâm chê bai, gọi là so sánh mà không nói tín tâm tùy hỷ, ngay theo đó chẳng chê bai huống chi là sinh tín ý.
Mặc dù không kính tin tu học nhưng chẳng sinh tâm chê bai thì sẽ sinh Phước đức, còn hơn xả thân mạng.
Trên đây đã bốn lần so sánh:
1/ So sánh lần thứ nhất: Phật muốn được pháp thân Phước tướng phải bảy theo báu trong thế giới Tam thiên bố thí chẳng bằng nói một bài kệ kinh thọ trì được Phước vô lượng, không thể tính kể, dùng một trăm lẻ sáu vô lượng số, một trăm mười hai bất khả số. Đoạn văn nói các vị Bồ-tát ở vị Thập Hạnh, giải thích hạnh nhiều ít, trì nói chưa hơn, chỗ nói còn cạn cợt. Cho nên dùng số ít bố thí so sánh với trì nói.
2/ So sánh lần thứ hai: Trong viễn ly theo thuận ngoài luận tán loạn dùng một hạt cát trong một sông Hằng, lại dùng một hạt cát trong bấy nhiêu sông Hằng làm một thế giới Đại thiên, bảy theo báu bố thí khắp đầy theo từng ấy thế giới chẳng bằng nói một câu kinh thọ trì. Vô lượng A-tăng-kỳ dùng một trăm lẻ sáu vô lượng số, một trăm lẻ bốn số Atăng-kỳ, đoạn văn trên chỉ cho các vị Bồ-tát ở địa vị Hồi hướng Địa thứ năm trong Mười Hồi hướng. giải thích hạnh tuy tăng thêm trì nói thứ lớp hơn điều đã nói, cho nên bố thí nhiều như cát bụi so sánh với trì nói.
3/ So sánh thứ ba. trong xa lìa theo lợi dưỡng thiếu thốn nóng bức v. v... Hằng hà sa thân mạng bố thí chẳng bằng nói một câu kệ kinh thọ trì được vô lượng A-tăng-kỳ, Phước đức, dứt này nói các Bồ-tát đang ở địa vị Hồi hướng thứ chín. giải thích hạnh lần lần cao, trì nói càng thông suốt; so với trước tuy hơn nhưng sánh với cái sau còn kém, điều giảng nói càng sâu. Cho nên với thân mạng trong thế giới Tam thiên so sánh.
4/ So sánh lần thứ tư: Trong lìa theo định vị, một Ngày ba phần đức xả thân mạng như số cát sông Hằng, trải qua trăm ngàn lần muôn ức na-dotha kiếp, vì trăm ngàn kiếp, trăm một ức. Na-dotha số thứ tư, tức ức muốn ức na-do-tha kiếp, chẳng bằng đối với kinh tín tâm không chê bai. Đoạn văn kinh này nói các vị Bồ-tát ở giai vị Thập Hồi hướng sắp chuyển nhập địa vị bốn Gốc lành, hạnh vị dần dần lên cao, tín tâm bền chắc càng, sở nói càng sâu. Cho nên từ khi xả nhiều thân trải qua từng ấy kiếp, so sánh với tín tâm. Trên đây chỉ dùng ngoại tài, nội thân để so sánh với trì nói, đến địa vị này rồi mà trì nói sẽ được công đức, không thể xả thân, xả tài để so sánh. Chỉ dùng sự tu hành để so sánh với trì nói, vì thế văn sau so sánh với Nhiên Đăng gần gũi cúng dường, đây đối với dị sinh, đối với trải qua pháp hành, được sinh Phước đức đẳng cấp so sánh. Nghe pháp Mười địa, ở giai vị Mười địa. Năng trì, năng nói đến văn sau sẽ biết. Thứ ba là khen pháp và tu hành chia làm hai: Thứ nhất là hỏi, thứ hai là giải thích. Trong giải thích, văn kinh theo thuận theo chia làm hai.
- Nói pháp và tu hành.
- Hạt giống khác nhau.
Trong phần một lại chia làm hai: Nói về khen pháp, kế là pháp môn nầy v. v... trở xuống là nói lại lời nói ở trước không thể suy nghĩ bàn luận là pháp tầm tư hữu lậu ở thế gian. Vì chẳng phải cảnh giới kia gọi là không thể suy nghĩ bàn luận, chỉ tự thánh trí, tự chứng giác. Đã không bằng nhau cũng chẳng vượt nhiều hơn gọi là không thể nói.
Kinh Năng chép: Lẽ ra phải ít có là không thể suy nghĩ bàn luận đã cảm với dị thục, do hữu lậu trì nói còn ở Địa Tiền cho nên chiêu cảm dị thục. Nhờ gốc lành này tu hành đắc quả Thập Vương, đoạn văn nói về tướng tốt nầy nghĩa ở sau sẽ biết, nghĩa ở trước khó hiểu, pháp môn này v. v... trở xuống sẽ nói theo lại ở đoạn văn sau.
Luận do Thiên Thân soạn thì: Thành tựu nghiệp gì có năm: Một là: Khen pháp hành; hai là: Cúng dường sẽ thành tựu công đức tốt đẹp; ba: Là lìa tất cả chướng. Ba thứ trước đồng với cô trước; bốn là: Từ Nhiên Đăng v. v... trở xuống mau chứng Bồđề; năm là: Phải biết pháp môn này v. v... trở xuống là theo thành tựu thế lực lớn. Hai thứ sau đây nói chung được ngài Vô Trước giải thích lại, đối với trước thuộc về nghĩa Phước đức.
Ngài Thiên Thân giải thích không thể suy nghĩ bàn luận vì thị hiện khó suy nghĩ bàn luận, còn không thể xứng lượng, vì chỉ có bậc Đại nhân chẳng cùng người Hai Thừa, chỉ có Phật mới biết được, vì là trụ đệ nhất đại thừa về chúng sinh mà nói, chẳng vì người Hai Thừa, người Hai Thừa không thể nói cho người khác nghe và tu hành, trong phần nói lại về không thể xứng lượng thì. Trong Ba thừa cao quý gọi là Tối thượng thừa, Chân đế gọi là Vô thượng thừa. ở đây cùng kinh năng đoạn đồng gọi là Tối thượng, Lưu-chi Lathập đều gọi là Đại thừa, chướng thanh tịnh nên gọi Tối thắng là thừa, Lưu-chi La-thập gọi là Tối thượng thừa. Đây và Năng Đoạn gọi là Tối thắng thừa, còn chân đế gọi là Vô đẳng thừa. Nói về thể của thừa y Luận sẽ biết, vì hai nói kia như thế nào có thể rõ. Ý trong dứt này là Phật nói Đại thừa trong ba thừa gọi là Tối Thượng thừa vì hai hạng còn lại chẳng bì kịp. Tức là pháp đốn ngộ Đại thừa căn tánh đã nói gọi là Tối thượng thừa, vì so sánh với hai bậc dưới gọi là Thượng. Chúng sinh trông mong tìm cầu pháp này nên nói nhân phát tâm Tối thượng thừa, vì trong tánh bất định đã nói pháp căn tánh Đại thừa gọi là Tối Thắng thừa, vì lìa được hai chướng. Nếu lìa hoặc chướng chưa hề theo trí chướng gọi là thừa kém cỏi.
Nay học Nhất thừa mới lìa được hai chướng, gọi là Tối Thắng thừa. Nhân mong cầu pháp này là người theo gọi phát Tối Thắng thừa, vì thế các luận chép kinh Bát-nhã chỉ vì nhân cầu Đại thừa mà nói. Đại thừa và nhất thừa tuy tánh không khác vì y theo căn tánh đó thẳng đến gần hai thứ khác nhau sở cầu sở học đặt riêng hai tên, điều này thật ra chẳng khác nhau. Cho nên, kinh Thắng-nan chép: Nhất thừa là Đại thừa, Đại thừa là Phật thừa.
Theo ngài Thiên Thân nói Đại thừa còn gọi là Tối diệu, vì Đại thừa tu hành cao quý, ý nói Đại thừa là hơn, vì tu hành vượt hơn Tin Tiểu thừa thì chẳng được nghe điều này, bày theo tỏ hy theo vọng nghe mà tin pháp, trong kinh khen tu hành, dưới đây là ba giải thích riêng, gồm vô lượng Văn kinh tuy có khác nhau chút đỉnh nhưng đồng với Năng Đoạn của Chân Đế. Lưu-chi, La-thập tuy có chia thành ba nên xem xét lại số thứ tự trong kinh Hoa Nghiêm.
Theo Thiên Thân thì hiển bày tánh đầy theo đủ Phước đức, theo dưới đây có bốn:
- Phước đức đầy theo đủ. Chính là văn này.
- Thọ trì pháp chân thật, nhiệm mầu.
- Hàng Tiểu phẩm không có khả năng nghe pháp.
- Có ngã nhưng chẳng thể nghe do thọ trì pháp chân thật, mầu nhiệm, ẩn chứa trong tâm. Tức là hai vai gánh vác Bồ-đề, nhưng tính ưa pháp Tiểu thừa, tin hiểu người không mà chẳng ngộ Pháp không. Người Hai Thừa có pháp chấp nên không thể nghe, ngoại đạo phàm phu chấp có ngã tự cho là Bồ-đề. Người pháp ràng buộc, chấp đắm, chẳng cầu hai không cũng không thể nghe.
Thứ tư: trong phần Trời v. v.... cúng dường đầu tiên phối hợp thuộc về kinh, sau là giải thích. Nghi thức cúng dường tháp là xỏ hoa thành xâu đeo trên cổ, nay bỏ vào tháp đồ hương, ma tử bạch đàn trầm hương hòa với nước trộn lại để trét lên tháp. Mạt hương: Cây theo chiên đàn và trầm nghiền nát để rải trong tháp, ngoài ra có thể biết, ngoại tài trong kính lược bỏ chẳng khen ngợi.
Địa thứ năm là trong: diệt tội có hai: đầu tiên nêu ra để phối hợp với kinh, sau theo sự gạn hỏi để giải thích. Văn kinh chia làm hai phần là:
Nêu khinh rẻ, và giải thích lý do. Nhưng diệt tội là chuyển nặng thành nhẹ, bị nhân quở trách mắng chửi, tức là đương lai không trở lại địa ngục chịu khổ cũng được Bồ-đề. Đối với pháp luận mà chép nghiệp có năm thứ:
- Nhân giáo sắc.
- Đất khuyến thỉnh.
- Chẳng biết điều gì.
Ba thứ trước tuy tạo tác nhưng không lớn thêm, chẳng chịu quả dị thục. Nếu có ba nghiệp này thì, lúc thọ trì kinh tất cả đều diệt, vì nghiệp chẳng thọ báo nhất định.
- Chấp đắm căn bản.
- Điên đảo phân biệt.
Hai nghiệp này năng tạo tác sẽ thêm lớn, vì chắc chắn chịu quả dị thục. Là Nghiệp đời trước, sau đây là hai định thọ dị thục, khi dị thục quyết định hay thuộc hề bất định. Vì sao? Vì quả báo quyết định, chuyển nặng thành nhẹ do thời không nhất định đọa vào đường ác giúp cho nhân thọ. Trong bốn nghiệp bất định thứ tư có ba, là câu thứ hai và hai câu còn lại tất cả đều diệt. Ba định nghiệp nầy giải thích thế nào? Kinh Niết-chép
Chưa nhập vào ngã pháp gọi là nghiệp quyết định, đã nhập vào ngã pháp gọi là nghiệp bất định. Do đây mà vua A-Xà-thế sinh quả báo năm tội nghịch, thời báo đều nhất định, gặp Phật sám hối đọa, nghe kinh tiểu thừa. Vì đầu tiên sám hối vào địa ngục Phách Cúc, chuyển nặng thành nhẹ, sau đó nghe kinh Đại Thừa chí thành sửa đồi thì năm tội nghịch tiêu diệt. Cho nên nhập vào pháp Phật gọi là nghiệp bất định.
Nếu y theo theo nghĩa này trong đây lại nói thọ trì vừa chừng, nếu tâm chí thành tha thiết thì tất cả đều diệt. Nhưng kinh Du-già chép thì chưa được giải thích thoát gọi là nghiệp quyết định, đã được giải thích thoát gọi là nghiệp bất định nghĩa là chứng quả A-la-hán gọi là được giải thích thoát. Tất cả không thọ, nhưng nói A-la-hán, Ca-Lưu-Đà-di và Chỉ Mạn. v. v..., hoặc hai quả định trước được Vô học, đặt tên theo sự chứng đắc quả cao quý gọi là A-la-hán. Hoặc thật sự vô học thị hiện chịu quả khổ dị thục của nghiệp ác. Không như thế thì bất thiện lìa dục đã không, làm sao Vô học mà được quả kia? Kia có chịu khổ nhưng chẳng phải quả bất thiện, văn kinh luận khác nhau nhưng y theo hai chỗ đều hiểu như nhau. Do luận y theo kinh, luận y theo tất cả nghiệp sám hối hay không sám hối hoặc định nghiệp hay bất định nghiệp, chẳng phải do tâm cao quý nghe pháp Đại thừa chí thành tha thiết, như khi chưa sinh tâm oán thù... Cho nên kinh Du-già chép: Trong nghiệp bất định sám hối, sẽ làm tổn giảm chuyển nghiệp, nên trước khi chưa sám hối gọi là Định nghiệp. Nếu sám hối rồi thì gọi nghiệp bất định, lấy kinh làm chánh, theo kinh y theo. Luận chép có bốn nghiệp, quả báo định, bất định pháp môn là nhất định, đã nói sám hối tổn giảm gọi là bất định. Vì trong nghiệp bất định có pháp sám hối này. Vì vậy theo các chỗ đều nói gây ra nghiệp chịu quả báo là quyết định, thần lực của Chư Phật cũng không thể chuyển đổi được, cả ba đều có chung một nghĩa.
Kinh dạy: Diệt chung chỉ dùng Đại thừa, về lý cũng chẳng trái nhưng y theo thuyết trước thì chỉ nói gây ra nghiệp, chắc chắn phải chịu quả báo. Tự mình chẳng ăn năn thì thần lực cũng chẳng giúp ích gì được, không nói tự sám hối mà nhất định chịu báo, nhậm vận hiểu thủ chứng. Nhân trí nghiệp nặng gọi bất định, nếu nhập thánh rồi và nghe chánh pháp, tâm tự sám hối, mà nghiệp báo không chuyển thì tất cả chúng sinh chẳng chứng Thánh.
Sau này Tổ sư dạy theo tất cả chúng sinh thường là nghiệp bất định còn định nghiệp rất ít, cho nên được nhập Thánh. Chẳng phải bày theo ra định nghiệp giúp cho bất định mới được nhập Thánh. Nếu định nghiệp thành nghiệp bất định, đầu tiên định vô tánh, sau thành bất định mà cũng có tánh lại thành lỗi lớn.
Có nhân văn hỏi: Những nhân có trì kinh, đọc tụng, tu hành lẽ ra la người, được cung kính cúng dường, được quả đại trí, lại bị khinh khi tổn thất, báo tốt đẹp gì mà lại vời lấy ác báo?
Theo đây giải thích: Khi tu hạnh tốt bị khinh thường, do nghiệp ác đời trước này có kết quả phải đọa đường ác, nhờ hạnh trì kinh mà chuyển nặng thành nhẹ, chẳng phải do trì kinh lại chiêu cảm vời ác báo. Có chỗ giải thích rằng: Đây là Đảnh vị, trước gây ra nghiệp ác chưa tránh khỏi đường ác, đời nay thọ trì giảng nói kinh mới không chịu quả báo, theo lý là không đúng. Theo kinh Hoa Nghiêm quyển mười bảy theo nói mới phát tâm trụ vô thượng chủng tánh Phật Pháp Vương gia ba đời, tất cả Đức Như-lai và các Bồ-tát nhờ đây sinh pháp thân mầu thanh tịnh, ứng hiện nhiều thân như nhà ảo nói. Chỗ nào chúng sinh ưa thích đều hiện thân, hoặc làm chúng sinh mà rốt ráo Bồ-tát. Hoặc lại hiện sơ sinh, xuất gia, tu hành, học đạo, hoặc ở dưới cây theo thọ vương tự nhiên thành Chánh Giác, hoặc vì chúng sinh thị hiện nhập Niết-bàn. Cảnh giới sâu xa mầu nhiệm chân thật của Phật như thế, nếu chúng sinh suy theo nghĩ mê loạn tâm phát cuồng. Năng lực tự tại tam-muội của các Bồtát rất sâu xa vô lượng na-do-tha, trong một niệm đều có khả năng vào nhập. Quán sát mười phương các thế giới như thế trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi nước mà tâm chẳng mê đắm, tám tướng sơ tâm Bồ-tát hiện hóa trang nghiêm tịnh độ. Nếu có nhân phát tâm thì không còn lui sụt, càng chẳng tạo ra năm nghiệp Vô gián, không đọa địa ngục. Trụ trong pháp thứ tư, thứ tư là sinh quý chân Phật tử, theo chánh pháp của các hiền thánh mà được sinh khởi, chẳng chấp đắm các pháp có không, lìa bỏ sinh tử, ra khỏi ba cõi, lại không lui sụt ngôi vị làm người. Sau càng chẳng gây tạo và chẳng cùng vô minh đọa vào ba đường ác,. v. v...., trong hạnh thứ tám được mười món Vô tận tạng. Giới thứ hai vô tận tạng, không thọ giới ngoại đạo, chẳng gây ra năm nghiệp Vô gián, giới đều đầy theo đủ chẳng hủy theo phạm một giới nào. Dứt này nói mới phát tâm sẽ có lui sụt. Trụ thứ sáu trở xuống sẽ dứt gốc lành gây ra nghiệp Vô gián. Ngài Xá-lợi-phất. v. v... thuở xưa phát tâm Đại thừa trải qua sáu mươi kiếp, lui sụt tâm Đại thừa về sau trôi lăn trong năm đường. Vì thế kinh Pháp Hoa chép: Bỏ cha trốn đi hơn năm mươi năm kinh Chánh Pháp Hoa nói năm đường sinh tử. Kinh Anh Lạc: nói như pháp hội đầu tiên của ta có tám muôn nhân thối tâm như Thiên Tử Tịnh Mục, Vương Tử Pháp Tài, Xá-lợiphất., v. v... muốn nhập vào Trụ thứ sáu nhưng vì gieo trồng nhân duyên ác nên lui sụt xuống đường phàm phu tội ác bất thiện, vào ngoại đạo, gây ra năm tội nghịch sinh đại tà kiến, không có tâm ác thì chẳng tạo. Sau Địa thứ bảy trụ mới là giai vị Không lui sụt, không làm Hai Thừa, chẳng gây năm tội nghịch, không đọa địa ngục phải vào các đường còn lại.
Trong vị Hồi hướng Địa thứ bảy theo của kinh Hoa Nghiêm, ba phẩm gốc lành tu tập rốt ráo chứa nhóm nuôi lớn mở, rộng hạnh vị, hay trụ nhẫn lực đóng cửa đường ác, từ đó về sau không đọa trong ba đường ác. Vì sao đến Đảnh vị còn đọa đường ác? Nay tu vô tướng mới không vào đường ác, chưa dứt phân biệt, người Hai Thừa ở vị Noãn không dứt gốc lành, Đảnh vị không đọa đường ác. Chỉ tu một, hai, ba đời còn có thể như vậy theo huống chi Bồ-tát lại ở Đảnh vị, đủ một đại kiếp lại đọa đường ác. Chắc chắn không có việc ấy, ở đây vì các Bồ-tát nhập Đảnh vị, giúp họ tu tập khen ngợi pháp cao quý, làm cho các Bồ-tát trụ thứ sáu thối tâm trước nhập đệ Thật Trụ thành vị không lui sụt. Lục Hồi hướng trở xuống vào ba đường ác, nghe pháp tinh tấn tu hành nhập vào Địa thứ bảy Hồi hướng chẳng đọa đường ác. Pháp đã như vậy, cho nên bấy giờ nên tinh tấn tu thành tựu thắng trí. Nhiếp Đại Thừa chép: nhờ năng lực huân tập tánh nghe sinh tịnh tâm xuất thế, lúc chưa sinh tâm đã có khả năng đối lại với pháp phiền não kiết sử. Cái thứ ba trong bốn cái (kiết sử) đã gây ra tất cả nghiệp ác chiết hoại đối trị. Loại kinh Bát nghiệp chép: Ba thời căn bản gia hạnh hậu khởi điều có điều không phiền não điều là một câu. Hai hữu một vô có ba trường hợp.
- Một định báo.
- Một tác nghiệp.
- Sáu bất định.
Trong Kinh Niết-bàn phẩm ba mươi mốt chép: Tất cả tác nghiệp có nhẹ có nặng. Hai loại này mỗi thứ có hai nghĩa là định, và bất định, cho đến hoặc có nghiệp nặng có thể chịu báo nhẹ nghĩa là nhân trí đã gây ra nghiệp. Đây là trí tạo nghiệp. Tạo nặng chịu nhẹ bài tùng thứ mười trong Nhiếp Luận: Cõi hữu tình bao trùm khắp nơi, có đủ chướng mà thiếu nhân, hai thứ quyết định chuyển, Chư Phật không tự tại. v. v... đều nên xét lại văn. Do văn này dựa vào đoạn trước như mới phát tâm không lui sụt, sau có khả năng từ tám tướng chuyển hóa đến Thập Tín. Vì Tín bất thối thứ sáu không dứt mốt gốc lành, đến Trụ thứ tư không khởi phân biệt, chẳng cùng vô minh ngã kiến tướng. v. v... càng không gây ra nghiệp đường ác để đọa vào đường ác. Nếu trước thối tánh đến Địa thứ bảy Trụ mới trụ không lui sụt, không vào địa ngục, từ đó về sau chẳng ngại vào các đường ác. Kinh Hoa Nghiêm không nói Thập Tín cho nên giải thích như thế. Đến địa vị Hồi hướng Địa thứ bảy theo mới vào ba đường ác, tất cả chỗ không đọa. Sau khi nhập Sơ địa, Noãn sinh, Thấp sinh thường không thọ thân trong ba đường ác, được làm thân người.
Giải thích thích theo câu hỏi: Lại nói bị người khinh rẻ, ở đây giải thích Khinh rẻ trong kinh này rằng theo Lưu-chi La-thập chỉ có một khinh rẻ, ở đây và kinh Năng Đoạn đều có hai. Chân đế vốn nói bị khinh rẻ. v. v... đều khinh rẻ, giết, đánh, trộm cắp dâm dục việc đó chẳng phải một, nên quán lý này để hiểu câu hỏi về nhân quả.
Theo ngài Thiên Thân vì thị hiện xa lìa tất cả chướng, vì sao bị người khinh rẻ mà lại xa lìa các chướng. Vì có công đức lớn, chẳng những tội diệt mà cũng được Bồ-đề, khởi lên sự hiểu biết sâu xa như vậy theo vì tín tâm cao siêu.
Theo bản của Chân Đế: Nghiệp tội và quả báo khổ đời trước bị tiêu diệt, ngoài ra bản chỉ nói tiêu diệt nghiệp tội, chẳng nói qua diệt, do nghiệp đã tiêu, quả báo tự nhiên không phải chịu, cho nên không nói. Đoạn trước đã nói do nhân duyên này sinh ra vô lượng A-tăng-kỳ, v. v... trở xuống là giải thích lại phần thứ hai ở trước thuộc phần Phước đức, văn chia làm hai: Thứ nhất là trình bày theo nguyên do vì sao có kinh nầy, thứ hai oai lực dưới đây giải thích phối hợp với oai lực. Là giải thích lại Phước nhiều, giúp sinh tâm vui vẻ ưa thích, giải thích phối hợp oai lực có hai: Một là nêu lên, hai là phối hợp, trong phối hợp có ba: Một là năng oai lực; hai là phối lặp với nhiều oai lực; ba là/ Nói người nào là năng nói. Trong oai lực, đầu tiên là văn phối hợp, thứ hai là văn giải thích, thứ ba là giải thích nghĩa vặn hỏi. Gặp Phật Nhiên Đăng thì, Phật Thích-ca trụ địa, thứ tám cho nên nói A-tăngkỳ kiếp. Quá A-tăng-kỳ vì lại hơn trước, nghĩa là nói từ Địa thứ bảy đến Sơ địa, đầu tiên gặp Phật Bảo kế đến nay thành Phật đã hai đại kiếp. Đây là đối với bậc Thánh so sánh sự cúng dường, hoặc lại hơn trước cho đến kiếp sơ, đầu tiên gặp Phật Thích-ca đến nay trải qua ba đại kiếp. Cho nên trong luận Câu Xá có bài tụng:
"Qua ba vô số kiếp,
Trái ngược gặp Thắng Quán Phật Nhiên Đăng, Bảo Kế Thích-ca Mâu-ni".
Theo Tông nói kia, kiếp sơ gặp Phật Thích-ca Mâu-ni, từ đó về sau cúng dường năm muôn bảy theo ngàn Đức Phật. Đến kiếp thứ hai gặp Phật Bảo Kế. Từ đó về sau cúng dường sáu muôn bảy theo ngàn Đức Phật. Đến kiếp thứ ba đầu tiên gặp Phật Nhiên Đăng và cúng dường từ đó về sau là bảy theo muôn bảy theo ngàn vị Phật. Đủ ba đại kiếp, trăm kiếp tu nghiệp tướng tốt, đầu tiên gặp Phật Tỳ-bà-thi, ở đây nói Phật Thắng Quán chỉ do đứng nhón một chân mà vượt qua chín kiếp. Cho nên kinh chép: chín mươi mốt kiếp Phật Tỳ-bà-thi, từ đó về sau ba mươi kiếp gặp Phật Thi-khí, Phật Bệ-thấpbà, đến khi đủ kiếp thứ chín mươi mốt sẽ gặp ba vị Phật ở kiếp Hiền trong quá khứ. Đây là nói trong kiếp Trụ, năm kiếp đầu không có Phật ra đời, kiếp thứ sáu có Phật Câu-Lưu-tôn, kiếp Địa thứ bảy theo có Phật Câu-Na-Hàm-Mâu-Ni, kiếp thứ tám có Phật Ca-diếp, kiếp thứ chín hiện nay có Phật Thích-ca ra đời.
Theo Đại Thừa, sự Chân Đế giải thích: Trong đại kiếp đầu tiên cúng dường năm Hằng hà sa Đức
Phật, kiếp thứ hai cúng dường sáu Hằng sa Đức Phật, kiếp thứ ba cúng dường bảy theo hằng hà sa Đức Phật. Theo kinh Niết-bàn, Tứ Bồ-tát trước sau tính chung cúng dường hai mươi sáu hằng sa Đức Phật mới chứng Bồ-đề. Nay bản Lưu-chi thì: Ở trước Phật Nhiên Đăng thì gặp tám mươi tư ức-nado-tha trăm ngàn Chư Phật. Theo bản ngài La-thập thì gặp tám trăm bốn ngàn muôn ức Na-do-tha Chư Phật. Theo kinh Năng Đoạn gặp tám mươi tư câuchi-na-do-đa trăm ngàn Chư Phật, tính ra tên tuy có hơn mà số có lớn nhỏ đều chẳng trái nhau. Chỉ y theo một vị đã gặp mà nói, đều y theo nói chung, lý giáo khó biết. đầu tiên Bồ-tát khác y theo theo giới hạn được thấy một trăm Đức Phật. Trăm Đức Phật tức trăm trăm ức, như thế từ giai vị ấy trở lên gặp Phật rất nhiều, vì sao trong đây chỉ nói từng ấy? Cho nên biết y theo theo một vị đã gặp, thì bản La-thập chỉ có một A-tăng-kỳ, không nói quá Atăng-kỳ, các bản khác đều có. Gần gũi là cúng dường, như đoạn trước đã nói gần gũi bạn lành không luống uổng: Vì không lìa sự cúng dường, hành pháp cúng dường thực vì thường chẳng lìa bỏ, kia thực hành hạnh Phước vì nhân trí này chẳng thể sánh lường.
Ngài Thiên Thân giải thích: Dưới đây là thứ tứ chỉ bày theo sự mau chứng Bồ-đề, vì có nhiều Phước đức trang nghiêm mau chóng đầy theo đủ, xem văn kinh này và so sánh với kinh Pháp Hoa thấy giống nhau, vì thật tướng quán chiếu thì đồng với nhất thừa, chính là Trung đạo. Trong phần Đa Lực: một Vì nhân cuồng loạn nên sinh ra bịnh điên cuồng, hai là lại chẳng phải quả cuồng cũng sinh tâm loạn, vì thế không nói đầy theo đủ. Do văn kinh có cuồng loạn nói hai cho nên không giải thích riêng. Trong ai là người năng nói Phước thể và quả cả hai đã khó So sánh chỉ có Phật mới biết được, do ngoài chẳng lường được. Luận của Thiên Thân điều này là thành thế lực lớn Địa thứ năm, được quả báo nhiệm mầu rộng lớn. Cái gọi là nhiếp thọ quả bốn vị vua trời, Phạm Vương, Đế-thích... vì thành tựu thế lực. Tức là nói về được Địa tiền, sinh lên tầng trời bốn vua trời kia, ngay theo bằng với Mười địa đắc quả Thập vương. Nếu nhân nghe điều này mà tâm mê loại do quả báo đó không thể suy nghĩ bàn luận vì đều là thắng diệu, thị hiện chẳng phải cảnh giới tư lương, trên đây đều nói về sự tu hành thành tựu được nghiệp công đức này.
Thứ mười một là xa lìa tự chấp chứng nhập vào vị gia-hạnh. Hai vị Noãn, Đảnh khởi đầu quán xét sở thủ vô tác, lúc quán bốn tầm tư hơi lâu, văn trước là nhập Noãn Vị nhân chấp, vị đó nhờ tu chứng rồi, nên riêng tu quán an lặp hữu tình và làm lợi ích. Mặc dù chiết phục cả hai chấp phân biệt nhưng vẫn có khởi đôi chút về hai chấp Câu Sinh, ngã năng trụ tâm, tu hành điều phục chướng, độ chúng sinh bình đẳng. Sở trụ. Sở hành, sở phục chướng là sở thủ, tâm là năng thủ, sở thủ chưa dứt thì hoàn toàn chưa điều phục được năng thủ. Ta có khả năng trụ như thế mà tu hành v. v..., hai thủ đều có, ta có năng thủ, nên gọi là Tự thủ.
Quyển trước gọi là lúc chứng đạo xa lìa sự hỷ động, do được tu tuệ, hạ phẩm bốn quán tầm tư không có sở thủ, bèn sinh tâm kiêu mạn ta chứng đắc, hỷ động v. v..... sinh khởi, chấp có tự ta có khả năng thực hành hạnh này, nên gọi là Tự thủ. Tâm sinh vui mừng, trạo cử, cống cao gọi là hỷ động, lúc hỷ động khởi đang ở Noãn vị, dứt được hỷ động này liền nhập Đảnh vị. Quyển này đầu tiên là nêu tên, lìa không tự nhiếp, ấy buông lung liền sinh phiền não, gọi là không tự nhiếp. Nhiếp cẩn nhiếp, nghĩa là tự nhiếp giữ, không tự nhiếp giữ gọi là không tự nhiếp.
Nay ở Đảnh vị, quán lại sở thủ vô tác, trên đây tầm tư quán gọi là Tự nhiếp.
Văn luận chia thành hai. Một là: nêu phối hợp; hai là: giải thích kinh, trong giải thích chia làm ba.
- Ý là văn hỏi tức giải thích kinh, đầu tiên văn nêu ra để trả lời.
- Giải thích tức chẳng phải Bồ-tát.
- Giải thích không có chút pháp gọi là Phát Thú.
Trong ý hỏi đáp chia làm ba: Một là hỏi, hai là đáp, ba là dẫn kinh để chứng minh thành tựu. Sơ địa gọi là chứng đạo, trong chứng đạo chứng không có hai thủ, kia tướng sáng hiện trước Noãn vị, đầu tiên đắc vô sở thủ, tương sáng mới hiện khởi liền sinh hỷ động ta có khả năng trụ, trong luận chép bốn ngã năng trụ là đầu tiên ba hạnh tự lợi, sau là một hạnh lợi tha, không mê đắm do ba hạnh là tự lợi, sau mới là lợi tha. Tự lợi đã thành tựu, lợi tha cũng tròn đầy, hoặc bất luận tự lợi, lợi tha đều có ba hạnh, vì thế văn đều đáp đầy theo đủ cả ba hạnh. Theo ngài Thiên Thân do tâm Bồ-đề có ba. đầu một hạnh lợi tha, sau hai hạnh tự lợi, cho nên văn trước sau trả lời riêng. Ba lần gạn hỏi đều dẫn giáo pháp để thành tựu, sở trụ sở hành, sở hàng phục sở thủ. Và tâm là ba tâm kia tức năng thủ. Noãn vị còn có hai thủ, cho nên muốn dứt bỏ phải dứt bỏ sở thủ. Ngài Tu Bồ-đề hỏi Phật: Dẫn Mười địa thắng hạnh nói phá trừ chấp kia giúp cho tiến nhập Đảnh. Luận do Thiên Thân soạn vì sao đoạn trước nói ba thứ tu hành, nay sẽ nói lại, bài kệ ghi:
"Đối nội tâm tu hành Còn ta là Bồ-tát ".
Đó là làm chướng tâm, trái với đạo bất trụ, cũng giống với luận nầy. Đáp ba câu hỏi đầu, dường như đồng với văn này, "sở" hoàn toàn khác. Nếu Bồ-tát đối với tự thân ba thứ tu hành, sinh tâm như thế này ta trụ nơi tu hành có khả năng hàng phục tâm sinh ra phân biệt này thì làm chướng ngại tâm hạnh Bồ-đề và tâm phá hoại, không trụ nơi đạo vì như trí biết, đó là hạnh Bồ-đề. Còn chướng tâm vì khởi tâm kiêu mạn sau khi dứt chướng hậu Đảnh tâm, tâm này bất sinh. Sơ địa không trụ đạo cũng không khởi đắc chứng, vì cả hai trái nghịch gần tâm và xa đạo, tức do Noãn vị còn tồn tại ngã. Sinh tâm kiêu mạn như thế không thể nhập Thánh. Lặp lại câu hỏi này, hỏi giống lần đầu nên đáp cũng vậy, sở là căn biệt vả lại như ba câu hỏi dựa vào luận không mê đắm, có ở cả vị phàm thánh, trả lời cũng thế, cho nên vị này cố định chẳng phải trùng lặp. Văn kinh giải thích "vô trước" vì văn đều có ba câu trả lời này. Còn Thập hạnh, đa hạnh, thắng hạnh thì có mạn động sinh, vì ta có thể như vậy, sắp nhập vị Thập Hồi hướng, đầu tiêu dứt tâm kiêu mạn vì nói thắng đạo giúp cho tiến vào, nay được Noãn vị cũng sinh tâm ngã mạn, trước giúp dứt mạn để tiến nhập vào Đảnh vị, cũng như vậy. Kinh trước là hỏi chưa nhập vào Phật pháp, trước có ngã mạn hay không? Vì ngã có khả năng như vậy theo trụ trong tạo nghiệp, đầu tiên đặt câu hỏi khuyên phát tâm tốt đẹp, trước dạy theo vô tướng, cho nên thành ba câu hỏi giúp họ tinh tấn tu hành. Nay sắp nhập vào dòng Thánh kia được thắng đạo, ngã mạn này lại sinh vì thế thành ba câu hỏi, giúp dứt tấn tập vừa quán thế văn, muốn dùng hai vòng căn cứ xem xét tìm căn, sở là hoàn toàn khác nhau. Cho nên đồng với không mê đắm. Chỉ có một vòng. Lại nói hai vòng chu như đoạn trước lẽ ra đầy theo đủ, một vòng là thắng, chẳng phải không mê đắm dám trái với Di-lặc, cũng chẳng phải ngài Thiên Thân có điều trái với Vô Trước.
Giải thích thích tức chẳng phải Bồ-tát; nếu khởi pháp chấp liền có ngã chấp lấy, ngã chấp hiện hành vì y theo kia khởi. Hoặc khi pháp chấp lại không hiện hành ngã chấp lấy do có phiền não gọi là có ngã chấp như đoạn trước đã giải thích. Đoạn văn này nói có học hồi tâm và di sinh,. v.. v... đến giai vị này còn có ngã chấp. Hai Thừa vô học có pháp chấp không có ngã chấp sau giải thích không thiếu tên pháp, nhân phát hạnh Đại thừa chân lý vô ngã, cho nên không thiếu pháp phát hạnh thừa kia. Đoạn trước nói năng thủ ngã tưởng đã không, nay nói lên sở thủ vô ngã, cũng chẳng có chánh vị sở quán.
Thứ mười hai là lìa không có nhân giáo thọ, đã trụ Đảnh vị, ưa quán sở thủ, sẽ khởi Nhẫn và pháp Thế đệ nhất, ấn vô sở thủ, quán năng thủ không nhập chân Thánh chứng đạo vị. Đã không có giáo thọ không thể tiến đến thành tựu, do đó dẫn Phật Nhiên Đăng để nói về giáo thọ, ta trụ Địa thứ tám còn đến Phật Nhiên Đăng, để cầu Giáo thọ, tiến nhập Thượng vị. Huống chi còn trụ Đảnh vị mà chẳng cầu giáo thọ làm phép tắc để tiến lên thượng vị ư! Tức là vị này nói không cầu giáo thọ, là sở tri chướng lìa loại chướng này, văn kinh dứt dưới chỉ nói quyển trước vì cầu Giáo thọ, khuyên cầu Giáo thọ là hạnh vị này. Theo ngài Thiên Thân thì ở đây có nghi ngờ. Nếu không có Bồ-tát vì sao Đức Thích-ca ở trước Phật Nhiên Đăng tu hành Bồ-tát, ý này chỉ nói sắp nhập Nhẫn vị quán không có năng thủ. Đảnh vị nghi ngờ rằng: Đã nói không có năng thủ, Bồ-tát cũng không, thì ai ở trước Phật Nhiên Đăng tu hành hạnh Bồ-tát? mặc dù hạ Nhẫn vị cũng ấn sở thủ không, còn trung và thượng Nhẫn vị chính quán không có năng thủ qua, bèn ẩn hạ
Nhẫn và đệ nhất pháp, ấn không có hai thủ lược qua không nói.
Đầy đủ Văn kinh chia làm ba: Một là hỏi; hai là đáp, ba là thành. Trong thành có ba, đầu tiên nói ba phẩm hạnh của Nhẫn vị, này Tu Bồ-đề! nếu có nhân nói Đức Như-lai sau khi được đệ nhất pháp vị ở dưới nói, sau đó này Tu Bồ-đề, Đức Như-lai đã đắc A-Nậu-Đa-La Tam-miệu Tam-Bồ-đề bất thật bất vọng ngữ. v. v... giải thích các trở ngại. đầu tiên chỉ hỏi sở thủ có không, kế là trả lời sở thủ không có. Quán thành Nhẫn có ba:
1. Hạ nhẫn vị ấn sở thủ là vô.
Tu Bồ-đề nếu có pháp Đức Như lai đắc v. v... trở xuống là nói trong nhẫn vị quán không có năng thủ.
2. Sau vì sao Tu-Bồ-đề nói đức Như-lai tức thật chân như v. v. nói thượng nhẫn vị ấn không có năng thủ. Văn luân chia hai: đầu tiên nêu ra thuộc kinh, sau giải thích phật bảo rằng, phật bảo rằng, cũng có ba: Thứ nhất giải thích Nhẫn vị; thứ hai là nói ở chỗ Đức Như lai Nhiên Đăng, pháp không chứng đắc, v. v... ở dưới giải thích pháp Thế đệ nhất; Thứ ba có kinh chép ngài Tu Bồ-đề, Đức Như lai Chánh giác v. v... xuống là giải thích sự chướng ngại. Văn giải thích Nhẫn có hai: Một là giải thích trung nhẫn quán không có năng thủ; hai là vì sao sau pháp bất khả nói kia giải thích hạ nhẫn vị ấn không có năng thủ, lược qua không giải thích hạ nhẫn, đầu tiên ấn vô sở thủ, lời văn dễ hiểu, luận của Thiên Thân cũng vậy, giải thích trung nhẫn có hai.
Một: là giải thích trong kinh, như có pháp chứng đắc.
Hai: giải thích trong kinh, do thật không có pháp chứng đắc. Văn lặp lại câu hỏi, sau chính là giải thích ý. Theo giải thích ý thì như Chánh giác có thể được nói như kia Phật nói ta đã có thắng hạnh, lúc ta ở đó liền được Chánh giác, bấy giờ ta đã được Chánh giác. Lẽ ra Phật Nhiên Đăng không nên thọ ký cho ta rằng: Đương lai sẽ chứng đắc, chỉ cho Chánh giác chẳng thiếu thật có, không như điều đã nói, ta không có hạnh tốt năng đắc, lúc ấy không được chứng đại Bồ-đề cho nên thọ ký cho ta đời đương lai mới chứng đắc. Cho nên ngài Thiên Thân nói:
Do thọ ký thời gian sau nên hạnh của Phật Nhiên Đăng chẳng phải thượng, đối với thời Phật Nhiên Đăng chẳng phải hạnh Bồ-tát bậc nhất. Vì sao? Vì bấy giờ ta đã tu các hạnh, không có một pháp nào chẳng được đại Bồ-đề. Nếu ta ở chỗ Đức Phật đó đã chứng Bồ-đề thì về sau Chư Phật đều không thọ ký cho ta, cho nên lúc đó ta tu thực hành chưa thành Phật, ý này nói chung, vì lúc ấy ta hành chẳng thành tựu bậc nhất thượng thắng. Nói không có một pháp nào để được Bồ-đề. Cho nên thọ ký cho ta về sau sẽ thành. Nếu lúc ấy ta có thực hành hạnh tốt đẹp thì ngay theo tức khắc chứng được, vì sao thọ ký cho ta về sau mới thành Phật? Cho nên biệt không có thật hạnh năng chứng, từ đó về sau Chư Phật đều thọ ký sẽ thành, vì thế mà biết lúc trước không có pháp nào để chứng đắc.
Giải thích thích thật không có pháp chứng đắc, vì pháp không thể nói nhờ ta lúc đó biết được hạnh năng thủ không có thật thể, vì chỉ có chân như không thể nói và thuận với lý hạnh, lúc ấy ta chưa đắc Chánh giác, thọ ký đương lai chưa được chứng. Nếu lúc đó ta chấp hạnh năng thủ thật có tự tánh cho là hạnh có thể nói vì hạnh trái lý, thì chẳng thể ngay theo lúc ấy không đắc Chánh giác, cũng không thể thọ ký đương lai ta mới chứng đắc. Ý này rất sâu xa nên tìm tòi nghiên cứu kỹ.
Thích giải thích ấn vô năng thủ: ý muốn hỏi vì sao hạnh kia không thể nói? Vì pháp thân Như lai tức chân như, như thể thanh tịnh không có cấu nhiễm như (vàng ròng). Do đây các giáo lý phần nhiều chân như dụ như vàng ròng, vì tánh trong sạch. Theo ngài Thiên Thân, nếu không có Bồ-đề thì không có Chư Phật, Như lai. Có sự chê bai như thế nghĩa là hoàn toàn không có Chư Phật, cho nên nói chân như, ý đó nói rằng đã không có hạnh năng chứng thì Bồ-đề sở chứng cũng không. Nếu không có tự thể năng chứng Bồ-đề, tức là không có Chư Phật, nay nói Chư Phật dùng chân như làm tánh, chân như đã không có tánh năng thủ, cho nên hạnh năng chứng cũng không có tự tánh, Bồ-đề cũng như vậy, chẳng phải không có Bồ-đề. Lại Bồ-đề có nghĩa sở chứng giác, nghĩa giác đã dạy theo bảo người vì sở thủ không, năng thủ cũng chẳng có. Bồ-đề năng thủ đã không thì lẽ ra chẳng có Chư Phật, của Chư Phật chân như làm tánh, chân như đã không có năng thủ nói Chư Phật, năng thủ đều không có thật thể, chẳng phải không có Bồ-đề sở chứng giác tánh.
Ngài Thiên Thân giải thích thật nghĩa chân như: Thật chẳng phải nghĩa điên đảo, ở đây phân biệt sở chấp ngã nhân pháp ngã điên đảo kia. Chân như: Không khác nhau cũng chẳng biến đổi, không khác vô lậu hữu vi vì kia sinh diệt, ở đây giải thích nghĩa như, không thay đổi phân biệt hữu lậu hữu vi đối trị đắc đạo vì có sinh tử biến dịch, đây là giải thích nghĩa chân. Nhưng nói chân như Luận đã nói.
Giải thích thích thế đệ nhất pháp, theo ngài Thiên Thân nói hạnh Bồ-đề, kia có nghĩa thế nào? nếu nói Hạnh Bồ-đề ấy thật có thì lời này luống dối, theo kinh giải thích: Nếu có nhân hỏi Như lai đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề thì nhân này nói không thật, ở đây nói không có năng thủ, như vậy theo Như lai đắc A-nậu Bồ-đề. Nếu nhân nói đắc cũng luống dối, nói sở thủ Bồ-đề cũng không, hạnh năng thủ, sở thủ Bồ-đề đó cũng chẳng thật có, tên gọi tương tự, nói hai thủ đều không giúp cho kia cả hai đều ấn chứng, sau một niệm liền nhập vào thấy đạo. Theo văn này, nếu nói Như lai Nhiên Đăng đối với pháp không Chánh giác, ý này nạn rằng lúc Phật Nhiên Đăng vì hạnh chẳng phải thượng, có thể nói không có năng thủ, Đức Phật đời nay tự được Chánh giác, chẳng lẽ không có hạnh năng thủ chứng hay sao? Nay Đức Phật dạy: Chẳng những đời nay chỉ không có chứng hạnh Bồ Tát năng thủ, mà cũng chẳng có Bồ-đề chân thật sở thủ, do đó nói rõ hai thủ theo đều chẳng thật có.
Trước kia tu trí đầu tiên ở Noãn vị, quán không có sở thủ do đây luận chép: danh sự dung nhiếp nhau, tánh kia lẽ ra tầm tư, trước xa lìa tự thủ, kế là Noãn vị, Đảnh vị quán lạc sở thủ chẳng thật có. Cho nên luận chép: đối với hai cũng phải suy theo tìm Duy lượng và Duy giả, hai đang ở vị bốn tầm tư. Ở đây nói giáo thọ tại pháp Nhẫn thế đệ nhất thượng phẫn khởi, vị ấn sở thủ không, trung nhẫn khởi vị quán không năng thủ Thượng nhẫn khởi rồi ấn vô năng thủ, pháp thế đệ nhất hai không ấn cả hai. Cho nên Nhiếp Luận lại chép: Thật trí quán không có nghĩa chỉ có phân biệt, ba thứ kia không cho nên ở đây không, cho nên nhập ba tánh hai cầu đầu hạ Nhẫn vị, hai câu sau ở trong, thượng nhẫn vị pháp thế đệ nhất. Thời gian chỉ rút ngắn một sátna không nói kinh này, lại nối tiếp luận của ngài Thiên Thân, văn sau mới giải thích.
Giải thích thích chướng nạn có ba: Một là nói chân như không luống dối để giải thích nghi; hai là nói nhiếp tất cả pháp tánh tức chân như để giải thích nghi; ba là an lặp nghĩa đệ nhất. Theo ngài Thiên Thân thì có nhân chê bai Đức Như lai chẳng đắc A-nậu Bồ-đề, vì dứt nghi này nên theo phát khởi văn kinh sau, ý này cho rằng đã không có hai thủ thì năng thủ không, vì không có năng chứng thì sở thủ không, chẳng có sở chứng giác. Nay nêu ý kinh chẳng phải thật có, cho nên không có hai thủ, chẳng có vọng vì thế có giác chứng. Ý luận nói vì trong chân như không thật không vọng, cho là không hai, sao không thật nói về lại lời nói trước, cho nên như lời nói. Do đắc không thật ở trong chánh giác mượn lời nói thế gian để nói lên đắc chứng. Đắc chứng không luống dối. Theo Thiên Thân thì tướng hữu vi không thật có cho nên không thật, trong lý chân như vô đắc vô chứng, trong tướng hữu vi mới có đắc có chứng. Vì chân như kia là không, nói không thật chẳng phải tướng hữu vi tức là tướng Bồ-đề, vì vậy theo nói không luống dối, văn tuy có chút khác nhau nhưng ý nghĩa phần nhiêu đồng nhau.
Nhiếp tất cả pháp tức chân như, ý nói chân như là tự tánh tịnh thể của tất cả pháp, chỉ có cả các pháp nhiếp tướng về tánh, do đó tất cả pháp đều là Phật pháp. Theo kinh Vô Cấu Xưng: thì tất cả đều như thế, vì tất cả đều là pháp chân như của Phật, tức không phải tướng năm uẩn, cho nên là tướng Bồ-đề, là môn Dị Tánh, đây tức Phật pháp là môn Nhất tánh.
An lặp đệ nhất nghĩa, nói tất cả pháp nghĩa là năm uẩn, thể nó đều chẳng phải pháp, không phải như danh nói đều chẳng phải năm uẩn tức là năm uẩn. Gọi là an lặp đệ nhất nghĩa như Tiểu thừa nói có thể tất cả pháp tức tất cả pháp. Nay nói tất cả pháp chỉ được gọi là giả danh, chẳng phải như (tên) gọi kia thật có tự tánh. Pháp tức chẳng phải pháp, ngài Thiên Thân giải thích giống như, nhưng không phải là hư danh đã nói. Thể cũng chẳng phải thể, pháp ba đời không có tự tánh nên thế gọi là chẳng phải pháp. Câu hỏi này cầu Giáo thọ, nói đối với Phật Nhiên Đăng, có pháp chứng đắc hay chăng? Đoạn trước lìa vắng lặng vị, lại nói đối với Phật Nhiên Đăng, trước kia không lìa khi Phật ra đời, sau lại nói ở chỗ Phật Nhiên Đăng có đắc Bồđề hay chăng? Ba điều đó khác nhau chỗ nào? Chư Phật rất nhiều vì sao chỉ nói một Đức Phật Nhiên Đăng.
Trả lời đầu tiên nói Phật Nhiên Đăng vì lìa ít học tu chứng, không lìa Phật ra đời, hành nói ta từng là Bồ-tát Địa thứ tám, nhậm vận song tu chân tục vô sinh, đã đối với tất cả pháp có khả năng chịu đựng, hay suy có khả năng theo nghĩ, có khả năng theo thọ trì. Phải là học rộng không lìa Phật Nhiên Đăng, do tu hạnh đó. Nay ông sơ phần còn trụ Thập Hồi hướng, vì sao không tu hạnh không lìa Phật để cầu học rộng làm Vô sinh!
Kế là nói Phật Nhiên Đăng nêu thí dụ so sánh, ta là Bồ-tát Địa thứ tám theo Đức Phật Như lai kia cúng dường một kiếp được công đức còn không bằng công đức đọc tụng tu hành kinh này huống chi nay ông mới trụ trung phần của Thập Hồi hướng không gần gũi học tập tu hành kinh này. Nay nói Đức Phật Nhiên Đăng để nói lên địa thứ tám còn cầu giáo thọ tu tập tiến lên vị Vô sinh, nhậm vận để tu pháp Vô sinh nhẫn, huống chi nay mới trụ Gia hạnh, đảnh vị, mà không cầu giáo thọ để tiến lên Vô sinh nhập vào Nhẫn vị, vì Vô sinh nhẫn, nhân có năm thời:
1. Tư lương vị: Y theo nhân duyên Duy Thức tu chung Vô Sinh.
2. Gia hạnh vị: Vị này mới nương tu tuệ đặc biệt tu Vô Sinh.
3. Thấy đạo vị: Khai sáng chứng vô lậu, vô tánh, vô sinh.
4. Địa thứ tám vị: Khai mở nhậm vận tiến vào
Vô sinh.
5. Phật vị tự tại. Nhân vị có bốn, quả vị có một, đây cũng được gọi là như thật quán trí. Như thật quán trí thể có cả vô lậu, do đây ba kinh trước nói Phật Nhiên Đăng cũng không lặp lại. Kinh này phần nhiều nói tánh của thắng nghĩa vô sinh, Đức Phật Thích-ca đối với Phật Nhiên Đăng nhậm vận nối nhau để đắc đạo này. Trải tóc rải hoa để vượt tám kiếp, dấu vết tóc phủ trên bùn hiện nay vẫn còn, nhân sinh lòng tin đã nhiều cho nên chỉ nói mà thôi. Trên đây đã nói trong tín hạnh địa hợp lại thành mười sáu trụ xứ, y theo bát trụ xứ nhiếp thành bốn.
1. Phát tâm gọi là nhiếp trụ xứ.
2. Ba-la-mật tịnh trụ xứ.
3. Dục trụ xứ.
4. Lìa chướng ngại mười hai trụ xứ hợp lại thành cái thứ tư. Nay hợp chung thành ba: Một là Nhiếp trụ xứ là Thập trụ vị. Hai là Ba-la-mật tịnh trụ xứ và dục trụ xứ là Thập Hạnh vị. Ba-la-mật là lìa chướng ngại trụ xứ là Thập Hồi hướng. Vì sao? Theo kinh Hoa Nghiêm: Đức Phật ở tại đạo tràng Tịch Diệt nước Ma-kiệt-Đề, mới thành Chánh giác. Trong thứ nhất xứ các vị Bồ-tát thỉnh
Ngài nói về Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Tạng, Thập Hồi hướng, Mười địa, Thập Nguyện, Thập Định tự tại, Thập Đảnh.
Sau đến xứ thứ hai, lúc bấy giờ Đức Phật đang trên điện Diệu Thắng tại cung trời Đao-lợi của trời Đế-thích, thêm Bồ-tát Pháp tuệ mới nói Thập Trụ. Đến xứ thứ ba, Đức Phật ngự trên điện Trang Nghiêm cung trời Dạ-ma, thêm Bồ-tát Công Đức Hoa mới nói Thập Hạnh.
Đến xứ thứ tư, Đức Phật ngự trên điện Nhất thiết Bảo Trang Nghiêm ở cung trời Đâu-suất, thêm Bồ-tát Kim Cương Tràng mới nói về Thập Hồi hướng.
Đến xứ Địa thứ năm, Đức Phật ngự ngự trên điện Ma Ni Bảo Tạng ở tầng trời Tha Hóa Tự Tại, thêm Bồ-tát Kim Cương Tạng mới nói Mười địa. Bốn lớp trên đây là riêng mỗi giai vị thứ bậc ngoài ra năm mươi loại là trong vị kia tu pháp riêng. Thập Tạng là trong Thập Hạnh tu pháp riêng. Vị thứ tám trong Thập hạnh gọi là Tôn nặng hạnh, vị này thành tựu các vị tôn nặng, cho đến nói rộng, tôn nặng Phật pháp, làm việc lợi ích chúng sinh thực hành công đức vô tận, nhập vào pháp giới thanh tịnh. Thí như hỏa châu xuất hỏa không thể cùng tận, các kho công đức không thể cùng tận của Bồtát như thế, giáo hóa chúng sinh, cũng không thể cùng tận. Từ đó về sau mười thứ công đức vô tận mới bắt đầu thành tựu tròn đầy đủ.
Nói theo Mười địa thì mười nguyện, Thập định, Thập tự tại, Thập đảnh đều là Mười địa, chỗ tu pháp riêng cho nên nói trong nhân chỉ có bốn mươi hai giai vị. Theo kinh Anh Lạc quyển thượng thì bốn mươi hai vị Hiền thánh, phàm phu Địa tiền có ba mươi giai vị. Thập trụ gọi là Đồng Bảo Anh Lạc, Thập Hạnh gọi là Ngân Bảo, Thập Hồi hướng gọi là Kim Bảo, bậc Thánh Mười địa gọi là Lưu Ly theo Bảo, trước bốn mươi gọi là Học hạnh. Vào dòng nước pháp do tự, quán chú Bồ-tát Đẳng Giác gọi Ma-ni Bảo, kia gọi là Kim cương tuệ, Bồ-tát trụ đảnh tịch định, dùng năng lực nguyện lớn tuổi thọ một trăm kiếp tu ngàn Tam-muội rồi, nhập định Kim cương. Lại trụ ngàn kiếp, học oai nghi voi đầu đàn của Chư Phật, nhìn xem bước đi thần thông giáo hóa của bậc Sư tử, cho nên Phật pháp đều hiện ra trước mắt. Nhập Phật hành xứ, ngồi đạo tràng của Phật vượt qua ba thứ ma. Lại trụ muôn kiếp hóa hiện thành Phật, nhập vào vắng lặng hoàn toàn, hai để các pháp như của Đẳng Giác Chư Phật, hai tập không còn, cho đến hiện đồng Cổ Phật, thường hành Trung đạo Đại thừa vô vi mà sinh diệt là khác, thật ra chẳng phải Phật, hiện thần thông Phật thường trụ cảnh giới của mình. Quán sát ý đoạn văn này Tam-muội Kim cương mới trải qua nhiều kiếp, trụ trong Phật, vị gọi là Bảo Anh lạc thủy theo tinh, trong ngoài sáng rỡ, thường trụ Diệu giác thường trụ tánh vắng lặng trong sạch, gọi là nhất thiết trí địa, vượt qua bốn ma, giai vị đó đều dùng công đức anh lạc để trang nghiêm giữ gìn thân mình, vì vậy theo dùng để đặt tên. Các vị trở về trước gọi là sáu chủng tánh, là: Tập tánh đạo, Đẳng Giác, Diệu Giác cũng gọi là sáu Hiền. Pháp tu trí tín tu đức Đảnh nguyện cũng gọi là sáu nhẫn, là tu tín pháp chánh vô cấu nhất thiết trí, cũng gọi là sáu tuệ, đó là văn tư tu vô tướng chiếu tịch tịch chiếu, cũng gọi là sáu quán, nghĩa là trụ
-hạnh-hướng-địa vô tướng Nhất thiết chủng trí. Trong Thập trụ, đầu tiên phát tâm trụ chưa lên Thập trụ, có mười tâm danh tự Bồ-tát, thường hành mười tâm, đó là Tín tâm, niệm tâm, tinh tấn tâm, tuệ tâm, nguyện tâm. Tu hành tâm nầy nếu trải qua một kiếp, hai kiếp, ba kiếp, cho đến nhập địa vị ở Sơ trụ. Trụ là trong trụ tu tăng thêm trăm Pháp Minh Môn. Gọi là Mười tín tâm, vì tín tâm có mười, tu hành trăm Pháp Minh môn, thường phát nguyện lớn vô lượng hữu hạnh vô hạnh, được nhập Thập chủng tánh.
Kinh ấy đã gọi Mười Trụ vị là Tập chủng tánh, tu tín niệm, v. v.... trải qua ba đại kiếp mới vào Thập trụ, tu hành trăm Pháp liền hiển bày Thập tín là thuộc về Sơ trụ, chưa bước vào tăng-kỳ. Giai vị này thuộc ngoại phàm, phát cầu đại tâm, Hai Thừa đồng phát tâm hướng Đại. Kinh Niết-bàn nói tám muôn kiếp đồng nên nói tướng kia. Kinh ấy lại chép, sơ phát tâm trụ đối với Tứ Đế như thứ lớp phát bốn thệ nguyện rộng lớn. Tru thứ hai tác quán bốn niệm trụ, Tru thứ ba tác quán Mười Nhất thiết xứ, thứ tứ trụ tác quán tám thắng xứ, Trụ Địa thứ năm thực hành tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân, trụ thứ sáu tác quán tám giải thích thoát, trụ Địa thứ bảy tác quán sáu pháp hòa kính, trụ thứ tám tác quán ba không (không, vô tác, vô tướng), trụ thứ chín tác quán Bốn đẳng, trụ thứ mười tác quán sáu niệm. Trong Mười hạnh: sơ hạnh tác quán bốn chánh cần, hạnh thứ hai quán bốn thần túc, hạnh thứ ba quán năm căn, hạnh thứ tư quán năm phần pháp thân, hạnh Địa thứ năm quán tám chánh đạo, Hạnh thứ sáu quán bảy theo giác chi, hạnh Địa thứ bảy quán năm gốc lành chính là quán Noãn, quán Đảnh, quán Nhẫn, quán ba cõi là không quán, pháp thế đệ nhất, Hạnh thứ tám quán bốn đế, Hạnh thứ chín quán mười hai nhân duyên, Thập Hạnh quán Tam bảo.
Trong mười Hồi hướng: sơ Hồi hướng quán hai đế, Nhị Hồi hướng quán năm thần thông, Tam Hướng quán bất hoại tín tâm, Tứ hướng quán ba là tướng hữu không, Ngũ hướng quán năm ấm, chẳng khác không, Lục Hướng quán mười hai nhập, ngã ở trong chẳng, chẳng ở ngoài, ở trung gian, Thất Hướng quán mười tám giới, Bát Hướng quán nhân quả là giả, Cửu Hướng quán hai đế chẳng phải có chẳng phải không, Thập Hướng quán trung đạo đệ nhất nghĩa đế Bát-nhã mà chẳng phải chân thật Trung đạo. Sơ địa trở lên có ba tâm quán, vào tất cả địa quán bốn giả danh, nhập vào không danh quán hai đế, quán từ không danh nhập giả danh bình đẳng. Hai pháp quán này phương tiện đồng nhau, nhân là quán hai không, được nhập vào Trung đạo Đệ nhất nghĩa đế chiếu cả hai đế, tâm tâm vắng lặng, tiến vào Sơ địa. Ba mươi tâm trước vào địa vị Nhất thừa, vì kinh Pháp Hoa đồng với Địa tiền pháp tu chẳng gọi là Nhất thừa. Trụ thứ sáu trở xuống còn lui sụt, gây ra năm tội ác nghịch. v. v... không có việc ác nào chẳng tạo, đến Địa thứ bảy trụ thường trụ không lui sụt, nói nhiều về tướng trạng. Quán văn kinh kia phần nhiều trái với các thánh giáo, về lý không hòa hợp, vả lại do Nhân vương sơ thành trái, cho nên chỉ là các giai vị tùy thêm vào để nói, không như thế thì đạo lý rất sai lầm.
Theo quyển thượng kinh Nhân Vương thì lại khác với các giáo, kinh ấy chép: Đại Vương! Năm nhẫn là Pháp phục nhẫn thượng, trung, hạ của Bồtát, tín nhẫn thượng trung hạ, thuận nhẫn thượng trung hạ, vô sinh nhẫn thượng trung hạ, Tịch diệt nhẫn thượng trung hạ, vì Chư Phật Bồ-tát tu Bátnhã Ba-la-mật ý nói Địa tiền, Thập trụ, Thập hạnh, Thập Hồi hướng gọi là Phục nhẫn, do có lậu trí, vì hàng phục phiền não. Sơ, nhị, Địa thứ ba gọi là Tín nhẫn, đồng với thế gian, tu ba Phước nghiệp, chứng Tịnh. Tín tứ-Ngũ-Lục địa gọi là Thuận nhẫn, thuần đồng với Hai Thừa, tác quán Bồ-đề phần đạo xuất thế như. Thất, Bát, Cửu địa gọi là Vô sinh nhẫn vì tác pháp quán trí kia trong thời gian dài nối nhau. Mười địa, Phật địa gọi là Tịch diệt nhẫn, vì nhân quả đã tròn đầy. Sơ phát tướng tâm sinh tập chủng tánh, có mười tâm: 1. tín; 2. tinh tấn; 3. niệm; 4. tuệ; 5. định; 6. thí; 7. giới; 8. hộ; 9. nguyện; 10. Hồi hướng. là Bồ-tát phần ít của, giáo hóa chúng sinh rồi, vượt qua Hai Thừa, tất cả thiện địa nuôi lớn mười tâm là mầm thánh.
Kinh Anh Lạc chép, niệm sau nói cần kia đã trái quấy, thứ sáu gọi là, văn ấy Từ đây theo thứ lớp sinh khởi chủng tánh tuệ tánh, có mười tâm bốn ý trên, bốn là bốn niệm trụ quán thân thọ. v. v... Còn ba ý trên tức ba gốc lành: từ, thí, tuệ, ba ý là quán ba đời, nhân nhẫn đời quá khứ, nhân quả nhẫn đời hiện tại và quả nhẫn đời vị lai, có thể quán vượt qua các tướng ngã, nhân, chúng sinh tưởng ngoại đạo. Lại có mười đạo chủng tánh đó là quán sắc, thức, tưởng, thọ, hành đắc giới nhẫn, tri kiến nhẫn, định nhẫn, tuệ nhẫn, giải thích thoát nhẫn, quán nhân quả trong ba cõi chẳng có nhẫn, vô nguyện nhẫn, vô tướng nhẫn, quán hai đế hư thật, tất cả pháp vô thường gọi là vô thưởng nhẫn, tất cả pháp không, được Vô sinh nhẫn. Thực hành quán vua chuyển luân cai trị bốn thiên hạ, phát sinh gốc lành cho tất cả chúng sinh. Sơ, nhị, Địa thứ ba gọi là Tín nhẫn, gọi là khéo xa lìa, là nói dứt được sắc phiền não ràng buộc của trong ba cõi thường dùng mười lăm tâm làm đầu. Bốn nhiếp pháp, bốn tâm vô lượng, bốn thệ nguyện rộng lớn, môn giải thích thoát lấy đây làm gốc, cho đến Phật địa. Tứ, Ngũ, Lục địa gọi là Thuận nhẫn, thấy pháp thắng hiện, dứt được tâm phiền não sự ràng buộc của trong ba cõi. Thất, Bát, Cửu, Địa gọi là Vô sinh nhẫn, được quán tuệ bất động cũng dứt tâm sắc tập phiền não trong ba cõi, hiện không thể nói, không thể nói công đức thần thông. Mười địa, Phật địa đồng với tịch diệt nhẫn nhập, vào định Kim cương. Hạ nhẫn hạnh gọi Bồ-tát, thượng nhẫn gọi là Tát-Bà-Nhã cùng quán đệ nhất nghĩa đế. Dứt tâm tập vô minh trong ba cõi, tận tướng là Kim cương, vô tướng là Tát-Bà-Nhã. Vượt qua Hai đế là địa thứ mười một, ngoài ba cõi không có chúng sinh, ba thân Phật cũng không nhân ba cõi, ngoài ba cõi không phân biệt chúng sinh riêng. Phật có giáo hóa gì? thế nên ta nói ngoài ba cõi có một chúng sinh giới tạng riêng. Trong kinh ngoại đạo Đại Hữu có nói, chẳng phải bảy theo Phật quá khứ đã nói hay sao?
Theo kinh này, đề mục v. v... trở xuống chú giải thích rằng: điều mà ngài Cưu Ma-la-thập gom góp lời Phật không thể hòa hợp, luận đồng với các kinh luận khác. Kinh đây Nhân Vương tức nói Thập tín cho là Thập trụ, Thập hạnh, Thập Hồi hướng, vẫn gọi là bất đồng đều thành ra trái nhau. Nay kinh Hoa Nghiêm thì chẳng nói Thập tín, giả lặp lại chấp nhận có, trong Sơ trụ ra khỏi Thập tín, vẫn nói ba kiếp thực hành Thập tín, mới được vào Sơ trụ. Luận Đại Trang Nghiêm và đối pháp nói: Bốn gốc lành ở địa vị Hồi hướng thứ mười, kia nói rằng: tu tập một đại a-tăng-kỳ kiếp đã tròn đầy rồi mới nhậm vận làm gương sáng, nương Noãn-Đảnh-Nhẫn-pháp thế đệ nhất mà quán, lại chẳng có giai vị riêng. Cho nên kinh Hoa Nghiêm chỉ nói địa tiền có ba mươi tâm, chẳng nói bốn mươi và bốn gốc lành, nhưng trong các luận vì quán hạnh khác nhau mặc dù trong kinh chép riêng, vì không có vị thứ khác nhau hợp thành một xứ, luận thì cũng chẳng trái nhau. Theo kinh Hoa Nghiêm chỉ nói địa tiền có ba mươi tâm, đây thuộc về trụ xứ tức là Thập trụ, phẩm Thập trụ trong kinh Hoa Nghiêm nói tên
Thập trụ, một phát tâm trụ khai sáng phát tâm chung, hai là trị địa trụ, tịnh hạnh tự nghiệp địa, ba là tu hành trụ, tu lý quán nhiều hơn khởi hạnh thượng diệu, bốn là Sinh quý trụ, sinh ra từ chánh giác của các thánh pháp, năm phương tiện cụ túc trụ, thực hành gốc lành vì cứu giúp chúng sinh, sáu là chánh tâm trụ đã nghe khen ngợi hủy theo tâm định bất động, bảy theo là không lui sụt trụ, tâm nghe mười pháp do kiên cố bất động chuyển; tám là đồng chân trụ tâm được an lặp thành hạnh đồng chân, chín là Pháp Vương tử trụ học mười pháp của Pháp Vương sẽ thành Pháp Vương, mười là quán đảnh vị như Thái tử con vua có khả năng nhận lãnh giai vị vua vì hạnh dần dần cao quý. Sơ phát tâm trụ do thấy tướng tốt Phật tôn nặng khó vượt qua, hoặc thấy thần thông, biến hóa, nói pháp dạy theo bảo khuyên răn, thấy chúng sinh chịu khổ, v. v.... Phát tâm Bồ-đề như tướng ở trước đã nói được mười lực phần, học mười pháp: Một là cung kính cúng dường Chư Phật, hai là khen ngợi Bồ-tát, ba là che chở chúng sinh, bốn là gần giũ bạn hiền, năm là khen ngợi pháp không lui sụt, sáu là tu công đức Phật, bảy là theo muốn sinh về trước Phật, tám là tu định vắng lặng, chín là muốn xa lìa sinh tử, mười là vì khổ nên sinh tâm nương nhờ, giữ gìn. Trong
Trị địa trụ, ở chỗ chúng sinh phát mười thứ tâm: Đại từ, bi, lợi lạc, an trụ, hoan hỷ, độ thoát, niệm chúng sinh, không có ngã sở, thâm tâm, Như lai tâm. Học mười pháp: chuyên cầu học rộng, tu định lìa dục, gần gũi thiện tri thức, không trái lời dạy theo bảo, biết được lúc nói pháp, học hạnh vô sở úy, hiểu rõ nghĩa sâu xa, rõ biết chánh pháp, biết pháp hạnh bền chắc, lìa bỏ sân si, an trụ bất động. Trong tu hành trụ dùng mười hạnh quán tất cả pháp: vô thường, khổ, không, vô ngã, không tự tại, chẳng đáng ưa thích, không tu tập phân tán, không có nơi chốn, lìa phân biệt, không bền chắc chân thật, hòa hợp vững chắc học mười pháp. Trong sinh quý trụ tu mười pháp, học mười pháp, cho đến Quán đảnh trụ thành mười trí. Học mười trí đầu tiên phát tâm cao quý cầu đại Bồ-đề, đã ở Sơ trụ khởi tâm đại từ bi, độ thoát chúng sinh, đã ở tru thứ hai trụ thứ hai, nhị trụ trên đây liền phát tâm rộng lớn là Đệ nhất tâm, đầu tiên nguyện muốn biết không, vô ngã. v.. v... ở trụ thứ ba đã nghe khen ngợi che bai, tâm định bất động, ở tru thứ sáu hợp với hai trụ kia đều là thường tâm, vì không thấy ngoài thân có chúng sinh, phân biệt Tam-muội. Từ
Tam trụ trở lên và Lục trụ trở xuống chia thành thường tâm, biết tất cả vô tánh, vô tướng. Ở Địa thứ bảy trụ không có tâm điên đảo, tức là nhiếp phục tán thời. Thất trụ trở lên, đều là tâm không điên đảo, cho nên biết phát tâm thuộc về Thập trụ. Do trong Thập trụ giải thích hạnh còn thiếu, sở tri còn kém cỏi cho nên nói sơ lược. Nhiếp đa trụ hạnh, Thập hạnh trở lên giải thích hạnh sở tri vì đều dần dần cao quý là do nói rộng. Kế là Nhị trụ xứ nghĩa là Ba-la-mật tịnh trụ xứ là Thập hạnh vị. Theo phẩm Minh Pháp trong kinh Hoa Nghiêm: Bồ-tát Tinh Tấn Tuệ rằng hỏi Bồ-tát Pháp tuệ, Bồtát phát tâm làm thế nào để công đức càng cao quý, Chư Phật vui mừng?. Pháp tuệ đáp: Bồ-tát phát tâm nên dứt bỏ buông lung, có mười pháp được sự không buông lung. Mười pháp giàu? Một là giữ giới thanh tịnh, hai là xa lìa ngu si tịnh tâm Bồ-đề, ba là bỏ tâm dua nịnh có lòng từ thương xót chúng sinh, bốn là khuyên tu không lui sụt, năm là thường an vui vắng lặng, xa lìa phàm phu, sáu là chẳng thích cái vui thế gian, bảy theo là tinh tấn làm các việc lành, tám lìa bỏ Hai Thừa, chín là tu công đức tâm không đắm nhiễm, mười là khó phân biệt thân mình và người.
Kế là tu mười pháp nhẫn thanh tịnh cho đến tròn đầy hạnh nguyện được mười pháp tạng vô tận, Bồ-tát phát tâm công đức càng vượt trội, Chư Phật vui mừng.
Sau mới nói Mười hạnh, Ba-la-mật tịnh trụ xứ, là sáu hạnh, nhưng chia làm hai: Thứ nhất là năm hạnh không trụ thí, không trụ tướng tưởng là hạnh thứ sáu, kia muốn trụ xứ là bốn hạnh sau chẳng trụ trong bố thí độ. đầu tiên, Đàn Ba-la-mật là hạnh hoan hỷ đầu, trong hạnh hoan hỷ là đại thí chủ, đều xả bỏ sở hữu. v. v... dùng tuệ thí ba thời không hối hận, chẳng mong quả báo, chẳng cầu danh tiếng, chẳng cầu sinh về cõi tốt đẹp, chẳng cầu lợi ích.
Khi thực hành bố thí, có mười hành vi:
1. Chỉ muốn cứu giúp chúng sinh.
2. Nhiếp thọ chúng sinh.
3. Lợi ích chúng sinh.
4. Học bản hạnh của Phật.
5. Nhớ tưởng bản hạnh của Phật.
6. Thanh tịnh bản hạnh của Phật.
7. Giữ gìn bản hạnh của Phật.
8. Nói về bản hạnh của Phật.
9. Nói bản hạnh của Phật.
10. Khiến cho tất cả chúng sinh lìa khổ được vui.
Cho đến nói rộng về chỗ sinh, vì thường thực hành hạnh bố thí, làm cho tất cả chúng sinh vui mừng kính mến, gọi là hạnh Hoan Hỷ, bố thí Ba-la-mật tức là Sơ hạnh. Thứ hai: là hạnh nhiêu ích thường giữ giới thanh tịnh, không nhiễm năm dục, nói pháp vô nhiễm, không cầu sinh ở chỗ tôn quý tốt đẹp cõi trời, cõi người, không thích lợi dưỡng, ngôi đế vương đoan chánh, chỉ giữ giới thanh tịnh. Ác ma dùng năm dục mê, loạn tâm Bồ-tát, cuối cùng Bồ-tát không khởi một niệm tâm ái dục, thà bỏ ngàn thân mạng chứ không gây thêm pháp ác. Đối với tất cả chúng sinh thường nghĩ chúng sinh đêm dài đắm chìm trong nước ái dục, nay ta phải học giúp cho ma vương đồng với tất cả chúng sinh lặp giới vô thượng cho đến thành Chánh giác nhập Niết-bàn vô dư, thường giữ gìn tịnh giới, lợi ích tự tha, gọi là hạnh nhiêu ích. Cho nên giới Ba-la-mật đa là hạnh thứ hai.
Thứ ba là Vô nhuế hạnh: thường tu nhẫn nhục, nhún mình cung kính hòa thuận ái ngữ, không hại mình và người, không tự tha chấp, không tự tha đều cho là đúng, không khen ngợi mình, niệm thường nói pháp, lìa tất cả ác, an lặp đại nhẫn. Lại bị vô lường sự mắng chửi ác độc, hủy theo nhục, dao gậy, đánh đập suy theo nghĩ chịu đựng các thứ quán hạnh. Suy theo nghĩ ta hiểu không, vô thường vì nhân nói tuy bị oán hại, xót thương nghĩ nên nhẫn giúp cho thành Bồ-đề. Gặp tất cả khổ chẳng tức chẳng giận gọi là vô nhuế hạnh, nhận ba la mật là hạnh thứ ba.
Thứ tư là hạnh vô tận thường thực hành tinh tấn, không bị tất cả phiền não khấy rối, cho đến nói rộng tinh tấn nên làm. Nghĩ rằng: Dù cho nhiều kiếp chịu khổ, sau thành Bồ-đề, cũng tu hành tinh tấn, nói nhiều thí dụ vô lượng thế giới nghiền nát thành bụi, niệm niệm thường không quên tâm đại Bồ-đề như thế. Như nghe nói lời phải không hối hận vui mừng, nhờ ta tinh tấn giúp cho vô lượng chúng sinh lìa hẳn các khổ, thường thay thế chịu khổ, khắp giúp tất cả chúng sinh lìa khổ, được vui niết-bàn, nhưng sau ta mới thành Vô thượng Chánh giác, và thường có tâm tu hành tinh tấn vô tận, gọi là hạnh vô tận. Vì thế tinh tấn Ba la mật là hạnh thứ tư.
Địa thứ năm là lìa si hạnh; thường trụ chánh niệm, không hề tán loạn vững chắc không hư hoại, cho đến chết đây sinh kia, ở trong thai hoặc ra thai chẳng có si loạn, nói rộng tướng ấy, thường trụ chánh niệm lìa ngu si tán loạn nên gọi là hạnh ly theo si. Phước định trí tuệ hai hạnh Ba-la-mật, đó là hạnh Địa thứ năm, vì chưa thể tu riêng định tuệ cao siêu, do đó giúp tu bốn hạnh dễ, cho nên vắng lặng riêng tạo tác.
Thứ sáu là hạnh Thiện, hiện thành tựu vắng lặng, ba nghiệp tất cả thị hiện ba nghiệp không ràng buộc, không giải thích thoát, cho đến hiểu tất cả thế gian đều vắng lặng, không phân biệt pháp thế gian, xuất thế gian. Cho đến chẳng bỏ tâm giáo hóa chúng sinh, nếu ta không giáo hóa chúng sinh thì ai sẽ giáo hóa, ta không làm cho chúng sinh vui mừng thì ai sẽ làm cho họ vui mừng. Chúng sinh chịu khổ sinh ra các phiền não, xả chấp Chánh giác là điều không nên, do đó ta tu hành chưa thành thì giúp cho thành, chưa điều phục làm cho điều phục thì, chưa độ giúp được độ thì, hiểu pháp vắng lặng và lợi ích chúng sinh các căn hiển bày theo gọi là thiện hạnh cho nên không trụ tướng tưởng là hạnh thứ sáu, hợp sáu hạnh trước là Ba-la-mật tịnh trụ xứ.
Dục trụ xứ có hai là: Muốn được sắc thân và. muốn được pháp thân.
Muốn được sắc thân là hạnh Địa thứ bảy, hạnh này không mê đắm do không có tâm mê đắm, thường nghĩ đến cõi Phật thấy cõi trang nghiêm thanh tịnh, tâm không đắm nhiễm, thường đến cúng dường, cho đến thấy Bồ-tát đại chúng, tâm không đắm nhiễm. Thấy cõi bất tịnh tâm không chán ghét vì quán chiếu bình đẳng, nghĩ các chúng sinh không hiểu chân đế, chẳng cầu quả Điều Ngự Sư, rơi vào lưới ma-la, phải chịu các khổ, liền khởi tâm đại bi, quán các gốc lành, tâm quán pháp không mê đắm cho đến nói rộng, nguyện lợi ích chúng sinh, đối với tất cả hạnh, tâm không đắm nhiễm gọi là hạnh vô trước. Cho nên không dùng tướng thấy Như lai là hạnh không nhiễm đắm.
Muốn được pháp thân có ba: Một là muốn được nói năng, hai là muốn được trí tướng, ba là muốn được Phước tướng. Muốn được nói năng là hạnh tôn nặng thứ tám; thành tựu gốc lành tôn nặng ưa thích Phật pháp, chuyên cầu Bồ-đề, phân biệt pháp sâu xa, trụ vô sở úy, cho đến nói rộng hạnh lợi ích chúng sinh, nhập vào pháp giới thanh tịnh. Thí như hỏa châu phát ra lửa, không thể cùng tận, các công đức không thể cùng tận của các Bồ-tát như thế, giáo hóa chúng sinh cũng không thể cùng tận. Tôn nặng Bồ-đề, tôn nặng Phật pháp làm việc lợi ích chúng sinh gọi là hạnh tôn nặng. Cho nên đối với kinh này muốn được nói năng, sinh ra thật tướng, vì hạnh này do là hàng trăm, ngàn, muôn Chư Phật đã gieo trồng gốc lành tu pháp cúng dường, mới sinh một niệm thanh tịnh. Huống chi sinh ra thật tướng. Muốn được trí tướng pháp thân là hạnh thứ chín, hạnh pháp lành thứ chín vì các chúng sinh làm ao pháp trong mát, giữ gìn che chở Phật pháp, vì thế hạt giống Phật không dứt được Đà-la-ni, do đó được bốn món biện tài, trùm khắp cõi Tam thiên, thân biến hóa như Chư Phật, âm mầu đầy theo đủ. Đối với pháp không bị chướng ngại làm các Phật sự, được từ ngữ vô ngại, thuận theo tất cả câu hỏi có thể trả lời riêng, tâm không sợ sệt, được mười thứ thân. Làm ao pháp trong mát, được thông suốt Phật pháp, gọi là thiện hạnh pháp, cho nên muốn được trí tướng nói pháp bất định khả đắc, khả nói, y theo kia tu sẽ được thân Phước tướng, là hạnh thứ mười. Trong hạnh Chân thật thành tựu lời nói thành thật chắc chắn, đúng như lời nói thực hành, như hạnh hay học lời nói chân thật của Chư Phật ba đời, thành nhân mười trí. Bồ-tát nghĩ rằng: ta thấy chúng sinh chịu vô lượng khổ nếu chưa độ chúng sinh này thành Chánh giác trước thì không nên như vậy. Ta phải đầy theo đủ nguyện lớn rồi mới thành Phật, giúp cho các chúng sinh đều cầu Bồ-đề rốt ráo Niết-bàn vô dư. Chẳng đợi chúng sinh thỉnh ta mới phát tâm nguyện thực hành hạnh Bồ-tát, mà ta tự phát nguyện độ khắp chúng sinh, vì muốn cho tất cả chúng sinh rốt ráo chứng đắc Nhất thiết chủng trí, ta đối với tất cả vì các hạnh tương ưng cao quý, tâm sắc điều thuận, gọi là hạnh chân thật. Vì thế được tướng Phước, có khả năng đối với kinh này thọ trì giảng nói bốn câu được trí tuệ cao siêu vô biên ba thân Bồ-đề, vì xuất xứ từ kinh này giúp cho tu hạnh chân thật. Thứ tư là lìa chướng trụ xứ, có mười hai thứ lìa chướng hợp thành mười Hồi hướng, đối với thứ trung ở trước có chín loại lìa chướng. Chín hạnh Hồi hướng và hạnh Hồi hướng thứ mười, cuối cùng đầy theo đủ v. v... trở xuống, thuộc về từ Sơ phát tâm cho đến Mười Hồi hướng, cuối cùng tròn đầy vị, vì hợp thành đạo tư lương thuận giải thích thoát thuộc phần gốc lành. Ba pháp lìa chướng sau là Hồi hướng thứ mười sắp tròn đầy vị, hợp thành gia hạnh đạo thuận quyết trạch, thuộc phần gốc lành vị. Chín hạnh lìa chướng trước có ít phần hoàn toàn là hạnh Hồi hướng thứ mười.
Mười giai vị Hồi hướng theo kinh Hoa Nghiêm là:
1/ Cứu hộ tất cả chúng sinh lìa tướng chúng sinh Hồi hướng, tu sáu pháp Ba-la-mật, bốn tâm vô lượng các gốc lành. Nghĩ pháp tu tập cho chúng sinh dứt bỏ phiền não rốt ráo thanh tịnh, dùng gốc lành Hồi hướng này làm nhà cho chúng sinh để họ tránh được các việc khổ, vì chúng sinh khởi tâm hộ niệm và giải thích thoát phiền não, nên làm Chủ Bảo thần, vì giúp được tịnh trí thân thanh, vô ngại xem kẻ oán kẻ thân như nhau không hai, thường ưa xem xét có nhân oán thù đến thì kết làm bạn lành và nói pháp sâu mầu cho họ nghe. Thí như biển cả các thứ độc hai không thể làm hoại được, như mặt trời không vì nhân mu mà bị che khuất, cũng thế không vì tâm oán hận của vô lượng chúng sinh mà Bồ-tát hiềm hận lui sụt tâm Hồi hướng, không vì chúng sinh khó điều phục mà lai sụt gốc lành, đã tu gốc lành đều vì cứu độ Hồi hướng cho chúng sinh. Vì độ chúng sinh mà không thấy tướng chúng sinh, gọi là cứu chúng sinh lìa tướng chúng sinh Hồi hướng. Trong mười hạnh trước các vị Bồ-tát do tu hành mười hạnh mà được mười công đức vô tận: tín, tàm, quý, giới, văn, thí, tuệ niệm, trì, biện. Tâm sinh kiêu mạn ta có khả năng tu hành hạnh này, nhờ hạnh này mà chứng được công đức đó, ta có khả năng nói pháp này, pháp này lợi ích cho chúng sinh đó, do tâm kiêu mạn như thế không thể tiến nhập vào Sơ Hồi hướng. Nay Phật giảng nói cho họ nghe bậc Tiểu thánh Dự lưu. v. v.... còn không nói ta được nói pháp, huống chi Bồ-tát giúp cho lìa kiêu mạn, tu hạnh không kiêu mạn đắc nhập Sơ Hồi hướng. Cho nên đầu tiên lìa kiêu mạn là sơ Hồi hướng.
1. Bất hoại Hồi hướng: Đối với Chư Phật ba đời, Chư Bồ-tát, giáo pháp của Phật không hoại được lòng tin, dùng mắt từ bi quán sát chúng sinh, do gốc lành Hồi hướng này mà được lòng tin không hư hoại như thế. Nhờ năng lực Tam bảo mà không hoại lòng tin Hồi hướng, nhiếp lấy tất cả gốc lành chẳng bị tổn hoại, gọi là Bất hoại Hồi hướng, cho nên thứ hai lìa chướng ít học, giúp kia không lìa hạnh lúc Phật ra đời, là Hồi hướng thứ hai, vì thường được thấy Phật nghe pháp sâu xa.
2. Đẳng Chư Phật Hồi hướng, học cách Hồi hướng của Chư Phật ba đời thấy sắc đẹp xấu, tâm vẫn thanh tịnh không thương ghét mà Hồi hướng. Khởi niệm Chư Phật diệu lạc Hồi hướng, Bồ-tát đầy theo đủ các nguyện, chứng Tát-bà-nhã Hồi hướng. Chúng sinh thấy Phật nghe pháp, tâm ta càng tinh tấn thêm niềm tin, cho đến có vợ con đâu chẳng lìa tâm Bồ-đề, tùy thọ dụng vật gì trong bốn món cúng dường kia nhưng không lìa tâm Bồ-đề, thảy theo đều Hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, chẳng mê đắm tất cả pháp. Như năm uẩn v. v... Như Phật đã biết Bồ-tát Hồi hướng, ta cũng như thế, thứ ba Hồi hướng gọi là đồng Chư Phật Hồi hướng. Do đó thứ ba là lìa một chút phan duyên, khởi niệm tu đạo chướng, giúp tu hạnh vô tướng, đó là Hồi hướng thứ ba.
Hồi hướng đến tất cả chỗ, lúc tu gốc lành, gốc lành này Hồi hướng như thế, giúp cho năng lực công đức của gốc lành đến tất cả mọi nơi. Thí như mé thật không chỗ nào chẳng đến, nghĩa là gốc lành đến khắp chỗ Phật, cúng dường Chư Phật, trang nghiêm ba đời, cho đến trong khoảng một niệm đầy theo khắp tất cả các thế giới ở mười phương. Lại nghĩ cúng dường tất cả Chư Phật, Bồtát mười phương đều do gốc lành vì tâm không tán loạn, cho đến không có tâm dối trả làm hại, đều vì Hồi hướng, Hồi hướng tướng tốt, cho đến Hồi hướng thế giới Phật thanh tịnh, Bồ-tát ở mười phương đến đây được nhất thiết xứ thần túc. Thuận theo các Đà-la-ni biện tài, vì làm cho tất cả chúng sinh đều vui mừng. Do gốc lành này, không có nơi nào có chúng sinh mà Phật không đến, gọi là Chí nhất thiết xứ Hồi hướng. Cho nên thứ tư là lìa bỏ chướng chúng sinh, tu hạnh thành tựu chúng sinh, đây là hạnh Hồi hướng thứ tư.
Vô tận công đức tạng Hồi hướng, tu pháp sám hối gốc lành, lìa bỏ tất cả nghiệp chướng, đối với Chư Phật ba đời. Từ mới phát tâm cho đến thành Phật thị hiện nhập Niết-bàn, tất cả gốc lành thảy theo đều tùy hỷ, cho đến tất cả gốc lành của chúng sinh trong ba đời cũng đều tùy hỷ nhờ tùy hỷ gốc lành nên tất cả công đức vô tận. Sau được mười thứ vô tận Công đức tạng Hồi hướng. Cho nên Địa thứ năm là thuận theo ngoại luận tán loạn chứng tu hạnh xa lìa. Đây là hạnh Hồi hướng Địa thứ năm và các lỗi đều sám hối, nghiệp chướng đều xa lìa.
Thuận theo tất cả gốc lành vững chắc Hồi hướng. Nếu lúc làm vua, được đất nước tốt đẹp an ổn giàu có yên vui, cho đến được bảy theo báu, thành tựu được thân Na-la-diên bền chắc, xa lìa nghiệp chướng, được nghiệp thanh tịnh, xả bỏ trong ngoài để cứu hộ nhân tù tội trong ngục, dùng bản thân mình thay thế cái khổ chết, cho đến nhiếp lấy tất cả ân tuệ xả thí, thuận theo tất cả gốc lành bền chắc, thời đều thuận theo tất cả Chư Phật, cho đến thuận theo hạnh thanh tịnh. Hồi hướng như thế rồi, làm cho tất cả chúng sinh được pháp Như lai, Chư Phật vui mừng. Đối với mỗi hạnh đều không trái nghịch, gốc lành vững chắc, Hồi hướng đến bờ giác ngộ, gọi là thuận theo tất cả gốc lành vững chắc Hồi hướng.
Tâm thuận theo tất cả gốc lành vững chắc Hồi hướng, thêm lớn ba phẩm, cho đến bao gốm tất cả cảnh giới gốc lành của chúng sinh. Thực hành gốc lành này tu tập rốt ráo, trụ trong nhẫn, đóng cửa đường ác, khéo điều phục các căn, oai nghi đầy theo đủ. Cho đến đến các gốc lành tưởng như có quả, tận đời vị lai tà mạng thực hành hạnh Bồ-tát, chẳng lìa bỏ chúng sinh, tu chân thật đại xả, Hồi hướng cho tất cả chúng sinh đều không bỏ sót. Cho đến Bồ-tát này được đạo vô sinh đến chỗ không hai, với tất cả thân được tự tại, với các hạnh nguyện được tròn đầy, trí có thể đến khắp tất cả cõi Phật, được nhĩ căn vô ngại, nghe tất cả tiếng trong cõi nước, được mắt trí tuệ sáng suốt thấy được Chư Phật. Do tâm bình đẳng thuận theo tất cả chúng sinh Hồi hướng các gốc lành, gọi là bình đẳng tâm thuận theo tất cả chúng sinh Hồi hướng. Vì thế thứ sáu là lìa tướng ảnh tượng tự tại, không chứng được phương tiện khéo léo, thuận theo sắc và thân chúng sinh. Nắm lấy Trung quán, phá hạnh tương ưng, hai vị Hồi hướng thứ sáu và Địa thứ bảy, vì giúp họ có phương tiện khéo léo chứng được thần thông. v. v... vì phần nhiều ở Hồi hướng Địa thứ bảy.
Thứ Tám là Như tướng Hồi hướng, thành tựu niệm trí, an trụ bất động, đối với cảnh nhất thiết trí, được không lui sụt, cho đến tu tập các thứ gốc lành, một niệm quán cảnh giới không hai nhất thiết trí. Trong một niệm có khả năng trang nghiêm thanh tịnh tất cả cõi Phật, với các thần thông trí tuệ được tự tại, nhập pháp thật tướng, cho đến không mê đắm thế giới, không mê đắm chúng sinh, tâm không chỗ nương, vắng lặng không tán loại, chánh niệm đối với các pháp, đầy theo đủ trí Chư Phật không phân biệt, chẳng trái nghịch tất cả bình đẳng chánh pháp, không hoại tướng Phật, bình đẳng quán ba đời, rõ chúng sinh không chẳng trụ ở sở y, thuận theo như thật thông suốt, hiểu nghĩa chân thật. Vì đến địa vị Phật, nói về chỗ tu hành gốc lành thuận theo như tướng Hồi hướng, gọi là như thật Hồi hướng. Địa thứ bảy theo là xa lìa chướng không đầy theo đủ Phước tư lương, tu hạnh cúng dường làm thị giả Như lai, là Đệ Bát Hồi hướng. Tuy quán pháp thân nhập pháp thật tướng, chẳng hoại ba mươi hai tướng của Phật, nhưng không cho là chân thành Phật.
Thứ chín không ràng buộc không đắm nhiễm Hồi hướng, đối với các gốc lành, chẳng sinh tâm chê bai không có tâm khinh thường, ra khỏi sinh tử. v. v... tất cả các gốc lành, thường ưa nhiếp thọ, vững chắc không hư hoại, do tâm không ràng buộc không mê đắm gốc lành, Hồi hướng đầy theo đủ. Cho đến trụ nơi vị Hồi hướng này các núi kim cương không thể phá hoại, tất cả các ma không thể phá hoại, đều có thể bẻ dẹp tiêu diệt các ma tà kiến. Đều được nghe và giữ gìn Phật pháp trong ba đời, thường không đắm nhiễm, được hạnh Phổ Hiền, các nguyện đầy theo đủ, tu hành tất cả công đức chẳng vì bản thân mà vì người khác, do tâm giải thích thoát không ràng buộc mê đắm hồi hương, lợi ích tất cả chúng sinh. Gọi là Hồi hướng vô trước tâm, do đó thứ tám là lìa chướng biếng nhác, lợi lạc đồng vị an vui. Tu hạnh lìa lợi dưỡng thiếu thốn nóng bức, đối với hạnh tinh tấn hoặc lui sụt hoặc không phát tâm, đây là hạnh Hồi hướng thứ chín. Thứ mười là Hồi hướng vô lượng pháp giới, lìa cấu hệ đảnh, nhận lời Đại Pháp sư, có thể nói rộng về bố thí, thành đại từ bi, an lặp chúng sinh trong tâm Bồ-đề, cho đến thực hành pháp thí bình đẳng tất cả pháp hành, nhiếp lấy tâm Tát-Bà-nhã, rốt ráo chánh lực đến bờ bên kia. Dù cho một câu pháp vị, Đức Phật pháp hoặc nghe hoặc thọ trì, hoặc giảng nói, do hạnh Hồi hướng này nhất tâm bình đẳng chánh niệm vô lượng vô biên hư, không đồng với thế giới Chư Phật ba đời thực, hành hạnh Bồ-tát, giúp cho Chư Phật thường giữ gìn đối với tất cả thế giới, tận kiếp vị lai, vì một chúng sinh, tu hạnh Bồtát, vì tất cả chúng sinh cũng như thế. Cho đến điều phục pháp giới đồng vô lượng chúng sinh, trang nghiêm thanh tịnh pháp giới đông với vô lượng cõi Phật. Như vô lượng pháp giới sinh ra trí tuệ cũng giống như vậy, tất cả gốc lành Hồi hướng đều bình đẳng như pháp giới, gọi là pháp giới vô lượng Hồi hướng cho nên thứ chín lìa chướng bất năng nhẫn khổ Tu hạnh nhẫn khổ là hạnh Hồi hướng thứ mười. Luận Thành Duy Thức v. v... chép rằng: Từ khi phát tâm đại Bồ-đề vững chắc, cho đến chưa khởi thuận quyết trạch thức, cầu trụ tánh Duy thức chân thắng nghĩa, bằng địa vị này đều thuộc vị tư lương, vì đến Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề, vì tu tập nhiều thứ tư lương cao quý, vì hữu tình cho nên siêng năng cầu giải thích thoát, đây cũng gọi là thuận giải thích thoát phần.
Vì vậy theo trong kinh này từ lúc mới phát tâm cho đến lìa chướng bất nâng nhẫn khổ tu hạnh nhẫn khổ v. v... trở xuống, hợp lại thuộc giai vị này, Bồtát trong vô lượng kiếp khéo tu Phước đức trí tuệ tư lương, thuận theo giải thích thoát phần đã đầy đủ rồi, thì nhập thấy đạo Trụ Duy thức tánh. Lại tu gia hạnh điều phục dứt trừ hai chấp, nghĩa là Noãn – Đảnh-Nhẫn-Thế đệ nhất pháp, bốn giai vị này gọi chung là Thuận quyết trạch phần. Vì gần thấy đạo mà đặt tên Gia hạnh, nghĩa là chẳng phải tư lương ở trước không có gia hạnh. Bốn pháp, như Noãn. v. v..., bốn tầm tư, bốn trí như thật trước sau lặp vị, y theo minh mà đắc định. Phát ra tầm tư nương theo quán không có chỗ chấp, lặp thành Noãn vị, nghĩa là trong giai vị này, khai phát quán sở thủ tên đồng với bốn pháp, đều tự tâm biến hiện. Giả lặp có, thật không thể được và mới được mặt trời trí tuệ hành tướng trước, lặp minh được tên, tức là vị này được tướng đạo hỏa tiền, vì vậy theo cũng gọi là Noãn. Thứ mười là lìa thiếu sót, đều là Tư lương, tu hạnh lìa vắng lặng, lặp vị Noãn phục trừ sở thủ, vì cầu trí hạnh.
Luận ấy lại chép: Nhờ sáng tăng thêm định, phát thượng tầm tư, quán vô sở thủ lập thành Đảnh vị. Nghĩa là trong vị này quán lại sở thủ, bốn pháp như danh v. v... đều do tự tâm biến hiện, giả lập bày mà có, thật không thể được, tướng sáng càng rực rỡ nên gọi là ánh sáng tăng vị tầm tư cùng tột nên, còn gọi là Đảnh.
Mười một lìa chướng tự thủ, lúc tu chứng đạo, lìa hạnh hỷ động là Đảnh vị nầy. Do Noãn vị quán sở thủ không khai mở được ánh sáng được định, phát ra trí tầm tư cõi dưới, tâm sinh hỷ khả năng v. v.... Nói ta có thể đồng, chẳng thể tiến tu, chứng đương thánh vị chỗ có chứng đạo, cho nên nói lìa hạnh, giúp lặp Đảnh vị. Luận thì nương ấn thuận định, phát hạn trí như thật ở vô sở thủ quyết định ấn trì, không có trong năng thủ cũng thuận theo lạc nhẫn. Đã không có cảnh thật lìa năng thủ thức thì đâu có thật thức lìa cảnh sở thủ, vì sở thủ năng thủ đối đãi nhau mà lặp.
Lúc ấn thuận nhẫn, đặt chung là nhẫn ấn trước thuận sau, gọi là ấn thuận, nhẫn cảnh thức không, nên theo cũng gọi là Nhẫn.
Trong đây nói Nhẫn có ba phẩm: Hạ nhẫn ấn vô sở thủ; Trung nhẫn thuận quán năng thủ không; thượng nhẫn ấn trì năng thủ phi hữu. đầu tiên khởi quán tầm tư vô sở thủ, quán vẫn chưa cao siêu, chia thành Noãn, Đảnh thời gian hơi lâu, đối với ba thời nhẫn: đầu tiên ấn sở thủ không, kế là quán năng thủ không, sau là ấn quán cả hai đều không. Vì năng thủ dễ nên hợp lại đặt tên, không chia nhiều vị, do hạ phẩm nhẫn ấn sở thủ không, thượng phẩm quán vị ấn năng thủ không, trung nhẫn tuy chẳng phải ấn, vì cái đầu và sau ấn, gọi chung là ấn. Đối với không hai thủ đã có thể phân biệt quán, đã có thể phân biệt ấn.
Nhưng vì chưa song ấn, vì chưa chứng chân sau đây một niệm song ấn gọi là thế đệ nhất pháp, vì ngay lúc nhập liền chứng.
Duy Thức chép: Nương định không xen hở, phát như trí thật ở trên, ấn hai chấp không, lặp pháp thế đệ nhất. Nghĩa là trước thượng nhẫn chỉ ấn năng thủ không, nay đệ nhất pháp hai không đều ấn. Từ đây không còn đứt quãng, chắc chắn nhập thấy đạo, nên đặt tên là Vô Gián, trong pháp di sinh vì đây tối thắng gọi là pháp Thế đệ nhất.
Đây là thứ Mười hai lìa chướng không giáo thọ, tu hạnh cầu giáo thọ là Nhân, phát và thế đệ nhất. Pháp thế đệ nhất chỉ một sát-na, song ấn tiền không, không có hạnh rộng khác nên theo gộp chung. Mà nói Do Đảnh vị này cho đến cùng tột tầm tư thuận với sở quán, trụ trong Nhẫn vị, hành tướng càng cao quý không cầu Giáo thọ, chẳng do tiến tu, muốn làm cho tiến tu thì phải cầu giáo thọ, giáo thọ được rồi, y theo lời dạy theo mà tu hành, liền được nhập vào dòng thánh. Chẳng trải qua bốn vị rồi bắt đầu cầu Giáo thọ mới chứng đạo. Một niệm không đứt quãng không còn cách vượt, liền nhập vào chân. Duy Thức lại chép: Noãn, Đảnh như vậy y theo năng chấp thức, quán sở chấp không, khi hạ nhẫn khởi thì cảnh ấn tướng không, trung nhẫn chuyển vị ở thức năng thủ như cảnh không nầy thuận lạc nhẫn khả, thượng nhẫn khởi vị ấn năng thủ không. Pháp thế đệ nhất song ấn tướng không, vì đều gồm tướng chưa thể chứng thật. Do đó nói Bồ-tát trong bốn vị này còn ở chơn thật an trụ lý Duy thức, tướng kia diệt rồi mới thật sự an trụ. Theo nghĩa như vậy nên theo có bài tụng rằng:
"Bồ-tát ở định vị Quán ảnh chỉ là tâm Tưởng nghĩa (noãn vị) đã dứt trừ Quán kỹ chỉ tư tưởng (đảnh vị) Trụ trong tâm như thế
Biết sở thủ chẳng có (hạ nhẫn)
Kế năng thủ cũng không (trung thượng nhẫn) Sau xúc vô sở đắc".
(Chánh nhập Thánh vị do lúc thiếu pháp Thế đệ nhất, vì vậy theo không nói). Vị gia hạnh này chưa dứt tướng ràng buộc, đối với thô nặng ràng buộc cũng chưa thể dứt. Nay nói giáo vô tướng trừ tướng ràng buộc kia, do mười hạnh Hồi hướng trước y theo nhân duyên quán, khởi quán Duy thức hoàn toàn không thể dứt trừ tướng thô trong ràng buộc, dùng đó làm nhân để bước lên Thập Hồi hướng. Bốn gốc lành trước y theo Duy thức quán, tác các quán như vô tướng. v. v... mặc dù phân biệt ràng buộc thiếu chiết phục, quán vẫn còn tướng chung, chưa thể phân biệt khởi quán, cũng chưa dứt trừ ràng buộc. Bốn gốc lành vị y theo vô tướng quán, tác quán chân như, vì còn mang tướng vẫn chưa chứng chân phân biệt hai thứ ràng buộc đều chiết phục hết, câu sinh hai sự trói buộc tuy chiết phục được một ít, cũng chưa dứt trừ. Nhập vị thấy đạo khởi quán chân như, đối với mỗi pháp thật chứng chân như, thông đạt lý vô tướng, mới dứt hai món ràng buộc. Do đó, luận Phật Địa v. v... nói về quán tướng riêng, dứt được phiền não. Các luận có nói y theo tướng chung quán dứt phiền não, theo gia hạnh thì có ba sư theo khác nhau: đầu tiên vừa quán nhân duyên vừa quán Duy thức. Chỉ quán tướng chung, nhân duyên Duy thức. v. v... chưa thể thực hành riêng. đầu tiên quán nhân duyên cho đến quán Duy Thức, địa vị còn tướng chung. Quán Duy thức v. v... mới quán riêng được, nhân duyên các pháp thắng giải thích kém. Đến vị quán vô tướng cũng chỉ tướng chung, thực hành quán vô tướng v. v... đối với pháp Duy thức mới quán riêng được. Vì vậy theo các luận chép ở Tư lương vị với lý Duy thức chỉ thuận theo nghe, sinh ra thắng giải. Đến vị gia hạnh có thể dần dần hàng phục dứt trừ năng thủ sở thủ, dẫn phát cái thấy chân thật.
Y THEO vô tướng này khởi quán Duy thức riêng, cho đến chân như quán đã chứng chân riêng cũng có thể biết pháp vô tướng riêng. v. v... vì quán hạnh cùng tột, vì quán căn bản, trí vô phân biệt chứng được lý riêng, trong trí hậu đắc năng thủ sự riêng. Chân như chỉ là tự tướng các pháp, vì vậy theo được tự tướng, đây gọi là biết theo riêng lý của các pháp. Thể của các pháp đó cũng phân biệt biết, cho nên Thánh hai trí của bậc có thể chứng hai tánh Viên thành thật và y theo tha, gọi là đắc thật pháp. Nếu quán chung về chân tùy theo thô tế, tức hai pháp quán biến kế và sở chấp nhân pháp hai ngã ở trước, đã không thể quán riêng trí vô phân biệt. Lúc quán không, sở không lý, sở kiến sự tức hai tánh, Luận Phật Địa thì Biến kế sở chấp không quán tâm sở biến, chẳng thuộc y theo tha khởi, lý chân như không thuộc Viên thành thật, cho nên chứng pháp chỉ nói riêng hai trí. Do hai pháp quán trước ở trước thấy đạo, chỉ có trí gia hạnh nhập Thánh rồi sau mới có cả trí hậu đắc. Nhưng nhập Thánh rồi tùy sở ứng kia nói mười chấp như, mười lớp chứng trước lìa chướng và đạo năng chứng gọi là có phần bằng trí chân đế lý. Nói có mười lớp chẳng phải thể chân như có mười thứ khác nhau, chẳng phải như cảnh tướng của ba pháp quán trước đều khác nhau. Do trước đã nói năng quán quán hạnh có trước sau, sở quán chân đế cũng có bốn thứ thể lý. Chân đế đã có bốn lớp thì hình tục đế cũng nói có bốn, trung trí sở tri gọi là thế đế, vì thượng trí sở tri gọi là chân đế lẽ ra quán sát phải đặc biệt đầy theo đủ. Sở quán các pháp cạn sâu đã khác nhau, nói đế bốn lớp, năng quán quán tâm y theo cảnh khác nhau cũng nên nói khác nhau, ba pháp quán tâm trước có ở quán chân đế, vì ba pháp trước là chân đế tức ba pháp sau là tục đế. Chân như đồng quán chỉ có chân chẳng phải tục vì chỉ quán chân, song không có quán phân biệt. Chỉ đầu tiên là tục chẳng có tự thể riêng để quán, vì quyết hiệp chân quán, trên chân pháp không có sơ tục nầy, chỗ chấp này thật ra chẳng phải hai đế, y theo tâm tục đế cho nên nói là tục, quán hạnh này chỉ nói bốn lớp, chẳng thể nói không chỉ có chân như quán. Vì nói quyết hiệp lý tục, phải bỏ thuyên để chứng chân, quán hạnh chứng chân khác với ba pháp đối đãi nhau mà nói xét kỹ mới biết. Như lời nói trình bày theo riêng, mặc dù trước thấy đạo quán chẳng an lặp cho là vô tướng còn đối tướng chưa thể dứt trừ, cho đến nói rộng Vị Bồ-tát này đối với an lặp đế chẳng phải an lặp đế, đều học quán sát vì dẫn hai pháp quán ở đời vị lai, chính là điều phục phân biệt hai chướng, chẳng phải an lặp đế là chánh sở quán không phải như Hai Thừa chỉ quán an lặp. Vì vậy theo ở các vị đều dùng Duy thức vô tướng làm đầu mà tu các hạnh, các vị trước đây đã tu các hạnh nguyện, cảnh lý sở quán làm lợi ích chúng sinh, đều như các kinh và luận khác có nói rộng.
Dưới đây là giải thích chứng đạo trụ xứ, là trước tu tập gia hạnh vị tròn đầy liền nhập Sơ địa, được trí thể vô lậu, hội được chân như, nên gọi là chứng đạo, trong tám trụ xứ gọi là Tịnh tâm trụ xứ. Trong ba địa gọi Tịnh tâm địa, vì được vô lậu nên gọi là tâm bình đẳng, bốn chứng tịnh gọi là Tịnh tâm. Đối với trước Thấy đạo ở giai vị Gia hạnh, tuy quán không hữu nhưng vẫn mang tướng kia cho nên với ba tánh chưa thật sự chứng nhập, vì mang tướng quán tâm có sở đắc. Với chân thắng nghĩa thật còn chưa thể chứng, sau, giai vị gia hạnh lúc nhập Thấy đạo, vì dứt bỏ tướng trụ Vô sở đắc, bên trong thầm đến lý chứng chân thắng nghĩa gọi là nhập chứng đạo. Lúc chứng đạo được Nhất chủng trí, thành thân diệu đại, vì nói lên nghĩa nên có văn nầy.
Luận của Bồ-tát Thiên Thân trong dứt lớn thứ nhất giải thích nghi của, từ Như lai đã đắc A-nậuđa-la Tam miệu Tam Bồ-đề, mà trong đó là trung hạ có hai. Trong phần thứ hai nêu thí dụ để nói về thân, dùng thí dụ hư thật và sở đắc nay nói ấy Anậu Bồ-đề không thật không dối. Nghĩa là do Như lai đắc Bồ-đề cho nên không luống dối, chẳng phải thật có tướng hữu vi nên chẳng phải thật, vì nói rõ lìa hai chướng, được gọi là thân mầu, vì công đức lớn khắp tất cả nơi chốn, được gọi là thân lớn. Mặc dù chẳng phải tướng hữu vi cũng gọi là diệu đại, hai thứ pháp thân, và báo thân như ứng nói tướng hữu vi diệu đại, nói về văn nghĩa của hai bộ đều khác nhau. Luận do Bồ-tát Thế Thân soạn chỉ y theo chân như giải thích diệu đại, hoặc hai luận đồng nhau là diệu đại, vì cũng có cả pháp thân và báo thân. Tịnh tâm địa gọi là có chung có riêng,
Luận Trang Nghiêm chỉ xếp vào Sơ địa gọi là Tịnh tâm địa, từ chỗ Sơ đắc mà đặt tên. Nếu Luận nhiếp của Bồ-tát Thiên Thân thì có hai giải thích, như chia bốn nhân thành mười địa thì chỉ có sơ địa gọi thanh tịnh định hai địa cho đến thứ sáu địa gọi là hành nhân hữu tướng, Địa Địa thứ bảy gọi hành nhân là vô tướng Địa thứ tám, chín, mười, gọi là vô công dụng hành nhân. Nếu chung thì từ Sơ địa đến địa thứ mười đều gọi là thanh tịnh định hành nhân, trong đây nói người nhập tịnh tâm địa được hai thứ trí, là theo nói chung lìa mạn cũng có ở nói Mười địa, nói Mười địa dứt được mười vô minh, dứt mười lớp chướng, địa thứ tám, địa thứ mười. Văn kinh có hai, là được trí và lìa mạn, được trí có ba: đầu tiên Như lai nói tức y theo nói tướng dục nguyện, vì giúp cho nhân chưa được khởi tâm nguyện được. Kế là Thiện hiện an lặp nghĩa bậc nhất, vì làm cho thêm lợi ích, lìa lỗi tổn giảm. Sau là Phật bảo Thiện hiện v. v... trở xuống là ấn khả, sao bản văn lược bỏ không có sự ấn khả. Luận văn có hai: đầu tiên nêu tên thuộc kinh, kế là chánh giải thích nghĩa, trong giải thích nghĩa đầu tiên nêu chung hai môn đắc trí lìa mạn, sau tùy hai nghĩa giải thích vì sao đắc trí v. v... trở xuống: Trong phần giải thích đắc trí có hai, đầu tiên đặt câu hỏi nêu lên hai trí, hai là giải thích hai trí.
1. Giải thích chủng tánh trí, nhân được thân mầu nhiệm do được trí vô phân biệt, chắc chắn có thế nối giai vị Như lai, nên gọi là chủng tánh trí. Được trí này rồi sẽ thành pháp thân, phật báo thân Phật, nên nói rằng được thân mầu nhiệm. Theo quyển trước thì đến khi được thành tựu thân rốt ráo chuyển y, sẽ được rốt ráo hai quả chuyển y. Theo ngài Thiên Thân lìa bỏ hai chướng được rốt ráo pháp thân, diệu thân, như đoạn trước đã nói Sơ địa chia thành ba thân gọi là Năng đắc. Vì Sơ địa trở lên tùy địa vị chứng được biến hành đồng chân như, gọi là rốt ráo thông đạt chuyển, cũng chẳng trái nhau.
2. Giải thích trí bình đẳng, vì chứng chân pháp giới thật bình đẳng, lìa ngã, ngã sở. Lúc giáo hóa chúng sinh đối với thân mình và nhân được năm thứ tâm bình đẳng, có công năng thu nhiếp tất cả thân chúng sinh đều là thân tự tại đồng nhất nên gọi là trí bình đẳng. luận Đại Trang Nghiêm cũng nói nhập Tịnh tâm địa, được năm thứ bình đẳng với tên này có đồng có khác, nhưng nghĩa không khác nhau. đầu tiên thô ác bình đẳng là chấp ngã, ngã sở là trình bày theo quả căn bản và nhân khổ sinh gọi là thô ác, do lìa được khổ này mà gọi là bình đẳng. Luận Trang Nghiêm thì một gọi là nhân vô ngã bình đẳng, hai là Pháp vô ngã bình đẳng. Là nêu ra pháp quán độ sinh chỉ thấy năm uẩn của mình và nhân đều như huyễn hóa gọi là, Pháp vô ngã. Luận Trang Nghiêm thì thứ hai là có khổ bình đẳng, đó tự giải thích rằng tự-tha tất cả pháp khổ của vì không khác nhau, ý nói do tướng vô ngã sở mà phân biệt. Lúc thấy kia có pháp khổ và tự thân có pháp khổ bình đẳng, gọi là pháp vô ngã bình đẳng, vì pháp khổ tự tha gọi là pháp. Ba là dứt tương ưng bình đẳng là dứt hẳn khổ cho tha, và dứt khổ cho mình vì tâm tương ưng, trang nghiêm thứ ba gọi là sở tác bình đẳng. Kia tự giải thích rằng đối với tự tha làm việc dứt khổ, vì chẳng khác nhau. Bốn là không có tâm hy theo vọng tương ưng bình đẳng, nghĩa là lúc dứt khổ cho người là lúc niềm vui cho họ, không mong quả báo đó và tâm tương ưng dứt khổ cho mình, cho mình niềm vui, cũng không mong cầu quả báo, nên gọi là bình đẳng. Luận đó thì bốn là không trông mong bình đẳng, sau tự giải thích rằng cho mình và nhân diệt khổ ban vui, không có tâm mong cầu Phước báo vì chẳng khác nhau (trong đây bốn hạnh bình đẳng trước đều xếp vào luận Tư lương không đầy theo đủ được tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Năm là tất cả Bồ-tát chứng đạo bình đẳng, như các vị Bồ Tát chứng pháp giới bình đẳng với thân tự tha được tâm bình đẳng, ta cũng đồng được. Kia Địa thứ năm gọi là đồng được bình đẳng kia tự giải thích rằng như chỗ chứng đắc của các vị Bồ-tát ta cũng được như vậy, vì chẳng khác nhau. (Theo Nhiếp Luận thì tất cả Bồ-tát được tâm bình đẳng, nhiếp luận lại nói được tâm bình đẳng của tất cả Chư Phật, lược qua không nói thể). Vì đối với chúng sinh được năm thứ tâm bình đẳng này, năng nhiếp tất cả thân người chung thành một thân lớn. Do đó luận kết: nhờ được bình đẳng này mà được thân lớn bình đẳng. Luận của ngài Thế Thân soạn thì, tự thể chân như lìa hai chướng nên gọi là thân mầu khắp tất cả chỗ và công đức lớn gọi là thân lớn. Kinh Mười địa nói lúc nhập vào Sơ địa được trăm pháp minh môn, tức dứt này nói chỉ được hai trí là tự lợi chứng chân, lợi tha bình đẳng, vì hai điều quan nặng này nên Đức Phật nói riêng. Luận Trang Nghiêm chép: vì sao Sơ địa được gọi là Hoan Hỷ, vì thấy chân thật lợi ích chúng sanh, trong hai lợi lấy lợi chủ yếu nên Như lai nói có hai trí. Giải thích Thiện Hiện an lặp đệ nhất nghĩa trước nêu tên kinh sau giải thích nghĩa, có hai ý. Một là phá nhiếp tha ở trước thành chấp thân lớn của mình, nếu dùng tâm bình đẳng đều nhiếp tự tha thành một thân, chẳng phải tự, chẳng phải tha, cũng chẳng phải tự tha, nên luận chép: với thân an lặp phi tự phi tha. Hai là phá tìm hai thân gọi là khởi chấp, đều an lặp hai thân là đệ nhất nghĩa. Ở đây trong diệu thân bình đẳng an lặp đệ nhất nghĩa như thế v. v..., theo bản của ngài Chân đế và bản đời Đường đều an lặp hai thân tức chẳng phải thân, giúp cho các Bồ-tát lìa lỗi tăng ích. Lại cũng đều kết luận làm cho lìa lỗi tổn giảm, theo bản ngài Lathập và bản đời Ngụy theo đều kết luận thiếu thân mầu. Theo Bồ-tát Thế Thân chẳng phải thân là không có các tướng, thân lớn thì có tự thể chân như, như thế thì gọi là thân mầu lớn thân.
Theo kinh ở thứ ba được Phật ấn khả, vì sao hai bản đời Ngụy La-thập và theo không đúng, các bản khác đều có câu "Phật bảo này Tu Bồ-đề đúng vậy! Đúng vậy!" vì ngài Tu Bồ-đề an lặp hai thân hợp lý cho nên được ấn khả hai lần.
Giải thích thích lìa kiêu mạn văn kinh có ba. Một là nói khởi tâm ngã độ sinh, phát sinh kiêu mạn chẳng gọi là Bồ-tát. Hai là nói các pháp không thật, trừ xả bỏ các chấp. Ba là dẫn lời Phật dạy theo để chứng minh kết thành nghĩa trên. Luận giải thích có hai. Một là nêu câu hỏi thuộc về kinh, hai là giải thích nghĩa. Trong giải thích nghĩa có hai, đầu tiên giải thích theo kinh chấp ngã độ mạn thì không gọi là Bồ-tát, Chân đế cho rằng kinh Năng Đoạn và luận này đều nói nếu Bồ-tát khởi niệm, chỉ có bản của ngài La-thập và đời Ngụy theo không có chữ Bồ-tát, do lầm đưa vào văn in ở trước, nghĩa đó rất dể hiểu, không cần giải thích. Theo văn kinh thứ hai là dạy theo trừ độ chấp, như trong Đại Phẩm thứ nhất và thứ sáu chép: Bồ-tát chỉ có tên gọi, tên gọi cũng không, vì thế nói thật ra không có pháp nào gọi là Bồ-tát cả. Nếu không có pháp nào độ được Bồ-tát thì không thấy có pháp nào để khởi tâm kiêu mạn, do đó nói chẳng có pháp nào gọi là Bồ-tát. Trong bản Năng Đoạn lặp lại hữu tình, hai pháp năng độ sở độ hữu tình, thứ ba là dẫn lời Phật dạy theo để chứng minh. Đầu tiên nêu lời ghi trong kinh, kế là giải thích lại thành ở trên như Bồ-tát có nghĩ chúng sinh, trong nêu lời ghi chép vì nói về điều này nghĩa là nói kể trước thật không có pháp gọi là Bồ-tát, Phật Thế Tôn tự dẫn ở trước nói để thành nghĩa này. Đã xem bản đời Ngụy theo dường như dẫn lời Phật dạy theo Tu-Bồ-đề ở trước, và tìm kỹ làm gốc vì các bản khác đều là lời Phật Năng đoạn là chính, đem bản này làm gốc vì ít có chỗ khác nhau. Đoạn trước nói tịnh tâm địa nhân đối với thân tự tha được năm thứ tâm bình đẳng, thì kia lúc độ chúng sinh lẽ ra không nghĩ ta độ người, đâu cần phải trách kia ngã mạn độ người. Đáp: Đoạn trước nêu ra pháp quán lúc nhiếp tán tâm trở về duyên pháp giới sở chứng bình đẳng, thì đối với tự tha được tâm bình đẳng. Nhưng thói quen của câu sinh ngã chấp chưa dứt, lại chưa tránh khỏi niệm lui sụt. Cho nên lúc độ chúng sinh, có khi thất niệm, bất giác khởi lên ngã chấp kiêu mạn thấy ta độ người.
Phẩm Phát Thú trong kinh Đại Phẩm dạy theo Bồ-tát Sơ Địa lìa kiêu mạn, Bồ-tát địa Địa thứ năm quán pháp trong ngoài đều không lìa tâm tự đại khinh miệt người. Cho đến địa Địa thứ bảy cũng dạy theo không mê đắm ta và chúng sinh chẳng thấy có pháp nào để khởi tâm kiêu mạn. về Mười địa, trong kinh và luận Trang Nghiêm đều nói: Địa thứ ba có ngã mạn, giải thích pháp mạn, Địa thứ tư có thân tịnh phân biệt mạn, cũng gọi là tương tục dị mạn, Địa thứ năm có khổ nhiễm tịnh pháp phân biệt mạn. Luận Trang Nghiêm xếp vào Địa thứ bảy, có ngã mạn sẽ thành Phật, đều do thất niệm cho nên khởi tâm như thế, nay quở trách lỗi này. Ngã mạn ta độ nhân là Địa thứ tư, rồi trở lại thân tịnh phân biệt mạn, nếu sinh chấp tập và pháp chấp mạn, thì đến Địa thứ bảy trở xuống thất niệm đều có ngã mạn ta độ người. Theo kinh Đại Phẩm nói Bồ-tát Địa thứ bảy không chấp đắm ngã không chấp đắm, chúng sinh chẳng thấy có pháp đáng khởi ngã mạn. Vì vậy theo biết đến Địa thứ bảy mới dứt hết tâm ngã mạn ta độ người, tuy nhiên đối với Địa thượng có nhiều mạn mà ngã mạn độ tha chính là, trái với tâm bình đẳng độ chúng sinh của
Bồ-Tát, vì thế ở đây quở trách riêng. Ngoài ra nên xa lìa. Luận Thành Duy Thức chép: trong tu tập vị Mười địa tu mười hạnh tốt đẹp dứt mười lớp chướng, chứng mười chân như, mới chứng được rốt ráo chuyển y. Nay nói tịnh tâm là thuộc về Mười địa, phần vị cao quý, vì đều tịnh tâm được hai chủng trí thuộc về thắng hạnh, vì trong hạnh tự lợi, lợi tha trí tuệ làm đầu, lìa ngã độ mạn thuộc mười lớp chướng, kia y theo ngại trí mà thông danh, ở đây rất do lỗi cao cử. Do đây Nhiếp luận gọi là mười thứ vô minh vì mê ám thêm lớn nêu riêng, tăng thêm gọi chung là chướng, cũng không trái. Y theo thật mạn mỗi địa dứt trừ, nhưng Đại phẩm v. v... đồng theo vị đối cơ một tướng nói khắp nay đây tuy mạn dùng thật mà nói có cả Mười địa. Trong mỗi vị dứt trừ phiền não sở tri hoặc hiện hoặc chủng, hoặc thể hoặc tập, hoặc phục hoặc ly, vì như ứng nói, tịnh tâm tên chung chung cho cả Mười địa. Nhưng trong đó lược qua không nói chứng Mười như, lìa tướng là tông, hiển như không hai, cho nên đối với chân lý không nói Mười như, vì vậy theo mà lược qua.
Ý nghĩa của Mười địa thắng hạnh, mười chướng v. v... như Thập địa, kinh luận và giải thích Thâm Mật, Duy Thức, Nhiếp luận v. v... có giải thích rộng. Luận của Bồ-tát Thế Thân giải thích: Nếu Bồ-tát nói ra lời nói v. v... trở xuống là trong đoạn văn thứ hai lớn phá nghi có ba đoạn trong đó: Bản tông trước cũng nghi, nghi rằng: Nếu không có Bồ-tát, Phật cũng không thành đại Bồ-tát, chúng sinh cũng không nhập Niết-bàn, cũng không có cõi nước Phật thanh tịnh. Nếu thế thì có ý nghĩa gì đối các Bồ-tát phát tâm muốn cho chúng sinh nhập Niết-bàn, khởi tâm tu hành, làm thanh tịnh cõi Phật ư? Từ dứt này trở xuống và văn trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Nếu Bồ-tát nói những lời như thế v. v... một đoạn văn kinh, hai là luận giải thích riêng, Bồ-tát Thế Thân đồng phá một nghi, xa nhập vào văn sau. Vô trước Luận chủ lúc nhập chứng đạo, nói ra khỏi mạn, vì vậy theo hợp lại thành đoạn trước, đều chẳng trái nhau. Nghi thứ hai, thứ ba sau đây sẽ nói.
Dưới đây đại văn thứ ba là giải thích Như lai địa, đây là nói công đức của Phật địa, giúp cầu tịnh tâm địa thượng. Do đó, trong Mười tám trụ xứ gọi là thượng cầu Phật địa, còn trong tám trụ xứ gọi là Cứu cánh trụ xứ, nghĩa rất dễ hiểu. Vì sao kế lại nói Phật địa, vì đầu tiên tịnh người tâm địa nguyện tròn đầy, công đức thành Phật không luống dối, lại giúp cho nhân chưa tròn đầy kính mến thượng cần cầu. Hỏi đã nói Phật địa giúp cho kia trên cầu cho nên kể nói, chẳng biết Phật địa có bao nhiêu? Đáp: Theo Nhật Chiếu Tam Tạng đời đường phiên dịch khế chứng với Đại Thừa công đức Trong kinh quyển hai chép: Như lai có mười Địa.
1. Tối thắng thậm thâm nan thức tỳ-phú-la quang minh trí đức địa.
2. Vô cấu thân oai trang nghiêm bất tư nghì quang minh hóa địa.
3. Tác diệu quang minh nguyệt tràng bảo sám hải tạng địa.
4. Tịnh diệu kim quang công đức thần thông trí hóa địa.
5. Quang minh vị tràng oai chiếu tác địa.
6. Không Trung thắng tịnh vô cấu trì cự khai phu tác địa.
7. Thắng quảng pháp giới tạng quang minh khởi địa.
8. Tối thắng diệu tịnh Phật trí tạng quang minh biến chiếu thanh tịnh chư chướng trí thông địa.
9. Vô biên trang nghiêm câu-chi-Tỳ-lô giá-na quang tác địa.
10. Trí hải tỳ-lô-giá-na địa.
Chánh sĩ đây gọi là không thể nói trí mười địa của Như Lai, trong kinh này Như lai địa sáu môn đầy theo đủ văn nhiếp lẫn nhau. Kinh đó lại nói Như lai sơ địa thói quen nhỏ nhiệm đều dứt, đối với tất cả pháp tự tại vô ngại, ở đây nói tế chứng sau cùng để nhập Như lai địa, do vậy theo Phật địa nói dứt hai cái ngu, dứt rồi thành Phật là câu chung. Lại nói Như lai địa thứ hai lặp bày theo lời dạy theo bảo Thanh văn, an lặp Ba thừa, Như lai từ địa nói tám mươi bốn ngàn nhóm pháp, hàng phục bốn ma hai địa nầy, tức là trong đây lặp ra đại pháp. Lúc lặp đại pháp giáo hóa Ba thừa dạy theo họ tu chánh đạo hàng phục bốn ma, xả tà. Lại kinh chép: Như lai Địa thứ năm bẻ dẹp các dị luận cho đến tà vọng đều điều phục tất cả nghiệp trong đường ác, tức là kinh này lặp ra lợi lớn phá nghi chấp bên ngoài, thuộc về niệm xứ. Do trụ niệm xứ vì hàng phục tà vọng thuộc về kiến trí tịnh, tha tâm trí... vì bẻ dẹp dị luận. Kinh ấy lại chép: Như lai địa thứ sáu an lặp vô biên chúng sinh, đối với sáu thứ thần thông và sáu đại thông, nghĩa là thị hiện vô biên cõi Phật, dùng công đức của Phật trang nghiêm thanh tịnh, thị hiện vô biên Bồ-tát hầu hạ vây theo quanh, thị hiện cõi Phật rộng lớn vô biên, thị hiện vô biên cõi Phật, hiển theo bày theo tự thân, thị hiện diệt độ, cho đến nói pháp niết-bàn, thị hiện vô biên thần lực thần thông biến hóa. Sáu thông, đây là thiên nhãn tha tâm niệm xứ, niệm xứ cũng thuộc về lậu tận thông, lại là danh sắc quán tự tại hành trụ, tức lìa thông chướng thần được thần túc. Sáu đại thông ấy chỉ có Phật khởi được nên gọi là Đại, trong đó thị hiện cõi Phật, tức cõi nước thanh tịnh này thị hiện Bồ-tát vâng giữ, tức lặp pháp lợi lớn và phương tiện thị giả lại chẳng trụ Niết-bàn và lưu chuyển, chẳng nhiễm lợi sinh. Cho nên có nhân hầu hạ kính thờ. Trong cõi tịnh cũng có quyến thuộc hầu hạ kính thờ giúp đỡ, đều được đầy đủ thị hiện cõi Phật rộng lớn cũng thanh tịnh tròn đầy, trong vô biên cõi nước thị hiện tự thân, đây là tướng tốt không trụ Niết-bàn, đều hiện thân trôi lăn mà không nhiễm ô. Thị hiện diệt độ tức, trước hiện thân đều có thị hiện diệt độ, hiện thần lực thần thông: ở đây là phá danh sắc tự tại hành trụ tịnh, vì quán danh sắc được tự tại, tùy nghi chuyển biến, khởi dụng thần thông. Lại kinh chép: Như lai Địa thứ bảy ba mươi bảy theo phần pháp Bồ-đề vì dùng vô tự tánh làm chỗ chấp đắm, vì các Bồ-tát như thật mở bày trong đây lời nói đầy theo đủ, lặp ra pháp lợi và nói pháp bất nhiễm. Lại nói: Như lai Địa thứ tám do pháp tứ ký, thọ ký cho tất cả Bồ-tát được A-nậuđa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề (tứ ký, theo kinh Thủlăng-nghiêm: một là không hiện tiền thọ ký; hai là thọ ký hiện tiền; ba là phát tâm thọ ký; bốn là vô sinh nhẫn thọ ký), trong đây thuộc ngôn ngữ đầy theo đủ. Như lai địa thứ chín dùng phương tiện khéo léo chỉ bày theo cho các vị Bồ-tát (hiện chung ba nghiệp, tùy nghĩa ứng phối). Như địa thứ mười tất cả pháp vô tánh dạy theo các Bồ-tát, khai mở đại nhập Niết-bàn, nói niềm vui của rốt ráo bát Niết-bàn cho tất cả Thanh văn, ở đây nói tùy ứng rất dễ hiểu. Nhưng trong kinh phần nhiều y cứ theo thân ứng hóa lợi ích bên ngoài để nói về Như lai địa thứ Mười, trong đây nói chung pháp thân-báo thân, ứng thân-hóa thân, nghĩa phối hợp ba thân cho đến hạ phương tất.
Hỏi: Dưới đây đã nói về công đức Phật địa và luận Duy Thức, kinh Phật địa. v. v... có chỗ nào khác nhau, giống nhau chăng?
Đáp: Phần lớn nghĩa giống nhau, rộng lược là khác, theo kinh Phật địa thì đầu tiên nói chỗ ở tịnh độ, ở đây nói tịnh độ, theo kinh thì gọi là pháp giới thanh tịnh, thể thuộc về pháp thân, kinh quyển ba nói nói bốn trí của Phật thể, không lìa năm thứ mắt tha tâm thuộc niệm xứ. v. v... bốn trí cũng tùy ứng tức năm thứ đã nói trong đây nói v. v.. nhưng tịnh độ pháp giới bốn trí đó bằng nhiều nghĩa phân biệt. Sắc thân Phật nói pháp niệm xứ chánh giác không trụ sinh tử Niết-bàn, thực hành trụ tịnh vắng lặng. v..., ở đây tuy không lìa bốn trí, nhưng chẳng phải kinh ấy nói, cho nên ở đây nói, nên có rộng và lược đối với văn kia. Đối với Duy thức luận chỉ nên xếp vào đây, Luận xếp vào kinh nên có sáu thứ, như ở trước đã thuộc về kinh, nhưng luận ở trên nói: Phật địa luận chép có sáu thứ đầy theo đủ nhiếp chuyển y. Đầy theo đủ nhiếp chuyển y theo nghĩa là trong sáu món chuyển y theo nói công đức quả địa của Như lai là thuộc tứ quả thứ tròn đầy chuyển y theo thứ tư. Trong bốn nghĩa chuyển y theo là chỗ chuyển đắc tùy hữu vô vi vì sinh hiển đắc, hoặc ở đây tuy nói công đức Phật địa muốn làm cho tín tịnh nhị địa Bồ-tát hoặc ở gần hoặc xa tu hành cầu thành tựu chuyển y. Trong sáu chuyển y theo thì nhiếp đủ năm loại, tùy vị như ứng, tín hạnh tịnh tâm và Như lai địa vì thành chuyển y, nhưng không thuộc về thấp kém, bốn nghĩa chuyển y theo cũng đầy theo đủ, nhiếp ba địa, vì trước sau thành bốn nghĩa. Trong bốn nghĩa chuyển y theo thứ ba là chuyển xả, thức dị thục bình đẳng, pháp sinh tử thấp kém, thảy theo đều xả bỏ. Do vậy theo kinh chép xả uẩn vô thường, đạt được uẩn thường, theo Nhiếp Luận thì chuyển năm ấm y, vì chuyển sắc ấm y, được sắc thân quang minh vô biên âm, vô kiến đảnh tự tại, tức là tịnh độ tướng tốt hai thân ở tịnh độ và ngữ cụ túc vô biên âm, do chuyển thọ ấm y, được vô lượng an vui hoàn toàn tự tại, tức không trụ sinh tử Niết-bàn, thực hành trụ tịnh. v. v... do chuyển tưởng ấm y, được tất cả danh tự văn cú nhóm họp đồng trong chánh nói tự tại, nói tự tại tức là ngũ cụ túc và khi bố thí pháp đại lợi. Đối với danh tự văn cú và pháp nghĩa ba giải thích giống nhau, do chuyển hành ấm y, được dẫn nhiếp đại tập, dẫn đắc tịnh pháp thanh tự tại, tức khi lặp ra pháp lợi ích lớn. Dẫn tập đại chúng và chuyển được pháp thanh tịnh tự tại, giúp nhập vào tâm kia. Do chuyển thức ấm y, được hiển rõ bình đẳng diệu quán tác sự trí tự tại, hiển rõ cảnh trí, ngoài ra thứ ba nên biết, bốn trí như thứ lớp, mắt phật, mắt tuệ, mắt pháp tức là thể của và thức do, mắt trời, sinh ra. Thô tướng như vậy theo rốt ráo lý càng suy theo nghĩ, bốn trí đến khi thành Phật đều gọi là mắt Phật, nói chuyển y theo cụ túc. Trong sáu cụ túc nên khai chuyển cụ túc thành bảy, hoặc trong sáu thứ nên hợp tướng tốt làm thân cụ túc thành năm thứ cụ túc, nhưng luận lại lược bỏ, chia ra thánh sáu. Trong sáu pháp nói thanh tịnh cõi nước, cụ túc là quả bên ngoài, là chỗ nương tựa.
Văn kinh có ba: Một là chấp tướng và ngã trang nghiêm không gọi là Bồ-tát. Hai là trình bày theo giải thích giáo xả tâm tưởng và ngã nghiêm ý. Ba là chánh khuyên nhập lý hai vô ngã, vô tướng trang nghiêm. Văn luận có hai: đầu tiên nêu ý kinh, kế là giải thích văn kinh; nêu ý kinh vì thanh tịnh cõi nước Tam-ma-bát-đế, ý rõ ràng đức Thế Tôn muốn cho Bồ-tát tu nhân vô tướng chứng, cõi vô tướng. Nhân vô tướng gọi là Đẳng chí, dạy theo Bồ-tát tu nhân đẳng chỉ vì trang nghiêm thanh tịnh cõi nước, cho nên có đoạn văn kinh này. của luận chủ Thế Thân văn tịnh độ này hợp với văn ly theo mạn ở trước thành một dứt đều là phá nghi, không đạt chân pháp giới, thật khởi ý độ chúng sinh và sinh tâm thanh tịnh cõi nước, tức là xếp vào đây để nói chưa chứng chân như, không dứt được hai ngã, khởi ý độ chúng sinh và tâm trang nghiêm cõi nước đều là điên đảo, vì thế chẳng phải Bồ-tát. Trong giải thích có hai: đầu tiên giải thích kinh, sau giải thích lại chánh hạnh khổ kiến ở trước.
Trong phần trước có ba giải thích dứt kinh như thứ lớp, trong dứt thứ ba đầu tiên giải thích hai vô ngã, kế là giải thích nói lại trong kinh chép Bồ-tát hiển song chứng hai vô ngã, văn giải thích khác, hoặc chỉ chứng người vô ngã cũng gọi là Bồ-tát tức Hai Thừa. Theo ngài Thế Thân thì chúng sinh và Bồ-tát biết các pháp vô ngã, chẳng phải thánh tự trí tín và Thánh do có trí, ý nói chúng sinh phàm phu chỉ tin hiểu ba vô ngã. Thánh là Bồ-tát dùng trí thế xuất thế gian chứng biết hai vô ngã tức do phàm thánh mà nói lại Bồ-tát vì thuộc xuất thế đều khác nhau, chỉ có bản của ngài La-thập là không lặp lại vô ngã, hoặc một chữ "vô" chung cho cả ngã pháp, không có Bồ-tát, văn thiếu nên lược bỏ, nhưng nghĩa tịnh độ như các chỗ khác đã nói, thân Phật nương cõi nước đều tự khác nhau. Theo Thành Duy Thức thì tự tánh thân nương vào cõi pháp tánh, tuy thể của thân cõi này không khác nhau mà vì thuộc tánh tướng Phật pháp có khác nhau. Tự thọ dụng thân lại nương cõi tự thọ dụng, nghĩa là trí Đại viên cảnh tương ưng với tịnh thức, do xưa kia tu vô lậu tự lợi thành tựu nhân duyên thuần tịnh cõi Phật, từ lúc mới thành Phật cho đến tận mé vị lai, nối nhau thay đổi làm thuần tịnh cõi Phật, trùm khắp tròn đầy không bờ mé, các báu trang nghiêm, thân tự thọ dụng tự nương an trụ, thân tha thọ dụng cũng nương tự độ, là năng lợi đại từ bi của năng lực bình đẳng, do xưa đã tu vô lậu lợi tha, thành tựu nhân duyên thuần tịnh cõi Phật, tùy ý an trụ địa vị Bồ-tát Mười địa biến thành tịnh độ, hoặc tiểu hoặc đại, hoặc kém hoặc hơn, trước sau chuyển biến, thân tha thọ dụng nương đó mà an trụ. Hoặc thân biến hóa nương cõi biến hóa, nghĩa là thành sự trí đại, do xưa đã tu lợi tha vô lậu, thành tựu nhân duyên cõi Phật thuần tịnh, tùy sự thích hợp của Bồ-tát Thập Đại mà biến thành cõi Phật, hoặc kém hoặc hơn, hoặc tiểu hoặc đại, trước sau biến đổi, thân biến hóa của phật y theo đó an trụ vì tự tánh thân cõi tất cả Như lai đồng sở chứng, thể không khác nhau. Thân cõi tự thọ dụng, tuy tất cả Phật đều là khác nhau mà đều vô biên, chẳng chướng ngại nhau. Hai thứ thân cõi còn lại đều tùy theo hóa hữu tình được giáo của các Đức Như lai, công bất cộng trong kinh này ở trước khuyên bỏ hai thứ sau, khuyến cầu hai thứ trước, được hai thứ trang nghiêm chân thật, hiện được hai thứ sau, cho nên điều trong đây nói, cũng giống như pháp dụng lìa tiểu phan duyên, trong văn trước vì căn cơ khác nhau, ở trước tin hành địa, hoặc nhân hoặc quả đều chưa tròn đầy, Bồ-tát thập địa ở giáo trên nhân thành thì được tịnh độ Phật, do đó gọi là cụ túc.
Thứ hai là kiến trí tịnh cụ túc, trong sáu cụ túc thì ở trên nói là ngoại quả, dưới là trình bày theo nội quả. Trong nội quả đầu tiên nói về kiến trí tịnh, vì hóa dụng là quan trọng dạy theo Bồ-tát cầu nên có văn này. Luận của ngài Thế Thân giải thích, thì trong mối nghi thứ hai, "tử dứt thứ hai" nghĩa là có nghi trước rằng nói Bồ-tát chẳng thấy, đó là chúng sinh, chẳng thấy ta là Bồ-tát, chẳng thấy thanh tịnh cõi nước Chư Phật. Vì sao? Vì không thấy các pháp gọi là Chư Phật. Nếu như thế hoặc cho rằng Chư Phật, Như lai chẳng thấy các pháp, vì giải thích nghi nầy nên phát sinh ra đoạn văn này. Theo ý luận thì dù không thấy các pháp nhưng chẳng phải không rõ cảnh nhãn, năm thứ mắt của Chư Phật là thật, vì thấy kia điên đảo nên y Luận giải thích kinh có hai: đầu nói tiên thấy trí tịnh, sau nói Phước tự tại tức là hai hạnh Phước trí. Đoạn văn trước đầu tiên thấy, là trí, vì năm mắt tha tâm như thứ lớp có hai, văn luận chia thành hai, trước nêu tên thuộc kinh, kế là giải thích nghĩa trong giải thích nghĩa thì trước trí sau Phước. Giải thích chứng trí và ứng trí, sau giải thích lại đã lựa chọn, trong thấy tịnh trí nói ý kinh và giải thích năm thứ mắt, vì Phật từ xưa đến nay nói các pháp không. Có nhân cho rằng Phật chỉ có mắt tuệ, hoặc chỉ có mắt tuệ là hơn, hoặc chỉ dạy theo Bồ-tát cầu mắt tuệ của Phật, do đây nói Phật co năm thứ mắt, vì để biết Phật thấy thanh tịnh tốt đẹp. Nói năm thứ mắt chẳng phải chỉ có một mắt tuệ, thế nào là tốt đẹp nói tốt đẹp có bốn loại trước trong nói có hơn, nói mắt Phật là, hiển rõ trong tất cả tu đắc thắng nói có mắt tuệ, Hai Thừa Bồ-tát có mắt tuệ. Mắt Phật chỉ có thắng nghĩa là nói có mắt thường, có thắng trong tất cả mắt thường. Nói có mắt trời, là nói thắng trong tất cả tu đắc, nói có mắt tuệ, hiển thắng trong mắt tuệ của Hai Thừa Bồ-tát. Vì phàm phu không có mắt tuệ. Nói có pháp nhãn rõ thắng trong các Bồ-tát, vì Hai Thừa không có mắt pháp. Bốn thứ mắt trên đây nói lên sở kiến của Phật cao hơn sở kiến của kia của Bồ-tát, cho nên đồng với có thắng. Nói có mắt Phật nói lên chỉ có Phật mới có, trí nhất thiết chủng có khả năng thấy tất cả nhưng không thấy Pháp, vì vậy theo gọi là kiến Tịnh. Nếu không nói Phật có đủ năm thứ mắt, Bồ-tát thừa, nói ở trước. Phật, cho nên chỉ cầu mắt tuệ của Phật chẳng cầu bốn thứ mắt còn lại, vì có lỗi này, kế là nói Phật có năm thứ mắt gọi chung là nhãn, đem thấy cảnh làm nghĩa thấy cảnh có năm nên gọi là năm thứ mắt. giải thích tên riêng, bốn trần gọi là thường mắt, thanh tịnh sắc căn y theo mắt thường mà an trụ, nên gọi là mắt thường mà an trụ nên gọi là mắt thường. Tĩnh lự gọi là trời, do trời mà có mắt nên gọi là mắt trời, tuệ là nêu năng thấy, pháp là nêu bị thấy Phật là nên người nghĩa có thể biết. Mắt trời, mắt thường do bốn đại tạo tịnh sắc là tánh là, mắt thường có cả nuôi lớn dị thục vô ký. Trời căn cứ ly theo chứng tu pháp sinh chỉ có trưởng dưỡng. Mắt tuệ, mắt pháp tuệ là tánh là, vì mắt Phật lấy bốn thứ trước làm thể. Theo ngài Long Thọ thí như bốn dòng sông chảy theo vào ao lớn gọi chung là biển cả, từ bốn thứ mắt cho đến địa vị Phật cũng vậy, trời có mắt trời, nhân có mắt thường, Hai Thừa có mắt tuệ, Bồ-tát có mắt pháp, Phật có mắt Phật. Vì vậy theo gọi là năm thứ mắt. Nhưng nói mắt thường gọi là pháp quả, đối với thân Phật tu hành tròn đầy thì thành tựu, vì năm thứ mắt của Phật là vô lậu. Ngoài ra ở các thân khác, mắt trời, mắt thường chi là hữu lậu, thể tánh như vậy Luận nên biết.
Nếu tông Tát-Bà-Đa nói mắt thường, mắt trời, mắt pháp chỉ là hữu lậu, mắt tuệ, mắt Phật cũng có cả vô lậu như thứ lớp ấy. Do mắt thường thấy gần chẳng thấy xa, thấy lớn chẳng thấy nhỏ, thấy sáng chẳng thấy tối, thấy chướng bên trong không thấy ngoại chướng bên đối với dụng có thiếu sót. Cho nên tu mắt trời rồi, tuy không có lỗi trước chỉ thấy tướng sắc luống dối, không thấy thật tánh cú pháp chưa phải ra khỏi sinh tử. Do tu mắt tuệ tuy đắc mắt tuệ với các pháp không biết, nên tu mắt pháp tuy được mắt pháp trong sở tri do chưa trọn cùng tột, nên tu mắt Phật.
Trên đây là nói theo thứ lớp, vào tự dụng, nếu y theo nói về thứ lớp hóa tha thì Bồ-tát đã có mắt thường thấy chúng sinh có các tướng khổ như chịu sinh, già, bệnh, chết, tham ưu não. v. v... vì vậy theo sinh tâm thương xót muốn dứt hết nghiệp khổ cho chúng sinh trong sáu đường nên tu mắt trời, được mắt trời rồi thấy chúng sinh trong ba đường ác chịu các khổ não như đốt nấu. v. v... càng sinh tâm thương xót muốn độ họ. Lại tu mắt tuệ, mặc dù được mắt tuệ chưa biết phương pháp độ chúng sinh, lại chưa rõ căn, dục, tánh của chúng sinh, đối với việc giáo hóa chúng sinh có thiếu sót, nên tu mắt pháp, dù cho mắt pháp với việc hóa tha còn yếu kém chưa thể giáo hóa khắp tất cả, vì vậy theo tu mắt Phật. Nếu nói theo thứ lớp như vậy theo thì sẽ giải thích theo sự thích ứng; hai câu "sở kiến". Theo Du-già quyển mười bốn nói có ba thứ mắt. 1. Mắt thường thấy rõ đường, không chướng ngại sắc. Luận Đại Trí Độ thì mắt thường của nhân phàm cao nhất không hơn Luân vương thấy trong phạm vi một trăm do tuần không có ánh sáng. Như mặt trời, mặt trăng, sao v. v... có sắc ánh sáng, tuy chỗ càng xa nhưng người cũng thấy. Mắt thường của người Hai thừa giống như phàm phu, như trong Đại phẩm nói mắt thường của Bồ-tát. Nhỏ thấy một trăm do-tuần, lớn thấy cõi Tam thiên. Vì sao không nói thấy phương khác? Luận ấy giải thích vì mắt thường của Bồ-tát là mang chướng không thấy được phương khác. Nếu tu theo kinh Pháp Hoa dùng mắt thường do cha mẹ sinh ra thấy có cõi Tam thiên trên đến trời Hữu Đảnh cũng thấy nhân quả thiện ác của chúng sinh tương tự mắt trời thượng tịnh, thể nầy là pháp, quả dụng là tu kinh quả, chẳng phải tu thiền quả.
1. Mắt trời có khả năng soi chiếu tùy ý hiển rõ, có sắc không chướng ngại. Theo đại luận phàm phu tu được mắt trời, chỉ thấy một Tứ thiên hạ, Tiểu La-hán thấy thế giới tiểu thiên, Đại La-hán thấy trong ngàn cõi, A-na-luật dùng năng lực tu thấy khắp đại thiên thế giới. Tiểu Bích-Chi-phật đồng Đại La-hán, đại Bích-Chi-Phật mặc tình thấy thế giới đại thiên, đều chỉ thấy tướng sắc trần, mắt trời tiểu của Bồ-tát thấy một trăm do tuần cho đến Đại Bồ-tát thấy mười phương vô biên cõi, có thể thấy các vị trời mà không thấy sắc và nhân quả ba đời. Theo kinh Đại Phẩm, mặt trời của Thanh văn thấy tướng sắc luống dối, chẳng thấy tướng sắc sinh diệt cũng chẳng giống như Bồ-tát thấy sắc chẳng đúng như thật. Mắt trời của Thanh văn thấy tướng sắc trần giống như Bồ-tát không thấy sinh diệt v. v... chẳng giống như Bồ-tát nhiếp đầy theo đủ mắt trời. Nếu vậy theo thì Thanh văn lẽ ra có mắt pháp vì thấy các trần giống nhau, nhưng Đại luận xếp vào mắt pháp của Bồ-tát, biết tánh căn dục của chúng sinh và biết nhiều cách độ chúng sinh, Thanh Văn hoàn toàn không có trí cho nên chẳng có mắt pháp.
2. Mắt tuệ soi chiếu tất cả thứ như sắc phi sắc, thể của mắt pháp hợp với tuệ thành một, không giống cảnh sắc nhãn có ẩn hiện, cho nên lược bỏ không nói. Này hợp với mắt trời và mắt thường thành một vì thuộc về sắc, mắt tuệ, mắt pháp khác nhau, quán lý sự vì chẳng có khác nhau. Du-già: chỉ nói về nhân, vì ba thứ nhất này chỉ Phật mới có, có cả cả bốn, thứ năm thứ mắt, nhậm vận thấy tất cả, chẳng giống như Bồ-tát. Theo Đại phẩm thì mắt Phật không có chỗ nào không thấy, không nghe, không biết.
Luận giải thích năm thứ mắt, văn kinh có năm vì năm thứ mắt khác nhau, trước Đức Phật hỏi từng thứ một, kế đó ngài Thiện Hiện đáp.
1. Hỏi có mắt thường chăng? Do trong kinh chép Địa thứ tám trở xuống không có thân máu thịt vì sợ rằng có điều nghi Phật không có mắt thường. Ngài Tu Bồ-đề đáp rõ Phật có mắt thường thanh tịnh vì có tự vô lậu thể là vượt hơn tất cả. Trừ Phật ra còn lại đều có mắt thường, vì thấy có giới hạn, ở đây dựa vào nghĩa để nói về tướng, ba nghĩa dục nguyện, vì khiến theo các Bồ-tát khởi tâm dục nguyện, cho nên mới hỏi. Ở dưới y theo nên biết, kinh năng đoán vốn nói Như lai. v. v... thêm chữ Đẳng, là nêu hiệu đầu tiên đồng với chín hiệu còn lại. Kế đến là ngài Thiện Hiện đáp rõ Đức Phật y theo thế tục đế hỏi vì để hiển rõ có, lại y theo thế tục đáp có, ngoài ra đều y theo nên biết, mỗi pháp đều nêu sở kiến của người khác để so sánh Phật mắt hơn mắt người khác. Đoạn trước đã giải thích xong, chỉ như mắt tuệ. Hai Thừa chỉ thấy sinh không, Bồ-tát Địa tiền cũng được mắt tuệ tương tự, Mười địa chân đắc vì còn có chướng chưa được quả Phật vì nhất là thắng hiển, ngoài ra đều y theo đó mà biết. Luận văn có hai: đầu tiên nêu bốn, năm thư mắt vì khai hợp khác nhau, kế là cảnh giới luống dối. Sau là giải thích nghĩa bốn thứ mắt. giải thích mắt tuệ chỉ nói đầu tiên sau không giải thích nghĩa vì rất dễ hiểu.
Dưới đây là nói trí tịnh văn kinh có ba: đầu tiên Như lai biết tất cả có bao nhiêu thứ tâm, kế là gạn giải thích biết lý do có nhiêu tâm, sau là gạn lại để giải thích nghĩa không có tâm trụ. Đoạn văn trước có sáu: 1/ Phật hỏi; 2/ Ngài Thiện Hiện đáp, biết Phật muốn dùng cát sông Hằng làm số y theo tục đế để hỏi, lại theo tục đế đáp; 3/ Hỏi lại; 4/ Đáp lại; 5/ y cứ theo trước nhiều cõi nói lên chúng sinh nhiều; 6/ Nhiều đời để nói có nhiều tâm. Vì mỗi đời có nhiều thứ tâm. Văn luận có hai: đầu tiên dẫn kinh thuộc đúng, kế là giải thích gạn hỏi. Hỏi mắt tuệ, mắt pháp tại sao không gọi là trí tha tâm, trí ấy cũng thấy ngoại cảnh, sao không gọi là thấy mà nói là trí ư?
Đáp: Pháp môn đều khác nhau như nghĩa chiếu soi cảnh tức kiến môn mà nói, như nghĩa quyết đoán tức trí môn mà nói. Trong Đại luận hỏi mắt pháp biết căn dục tánh của chúng sinh, cho nên cũng biết tha tâm, vì sao kinh này ngoài năm thứ mắt nói riêng trí tha tâm. Đáp: Chung thì mắt pháp, Phật cũng biết tha tâm, nay Phật riêng có nghĩa khác nhau. Theo đại luận quyết đoán, mắt pháp chỉ biết căn tánh dục của chúng sinh. v. v... không nói biết khác có bao nhiêu thứ tâm, tham hay không tham.... Đại phẩm, Niết-bàn, Hoa Nghiêm đều chép: Tha tâm biết tâm khác có tham hay không tham, v. v... không nói biết căn dục tánh khác, v. v... Y cứ theo hai đoạn văn này nói riêng mắt pháp không thuộc tha tâm. Mắt Phật tuy là trí nhất thiết chủng, từ mắt thường đến khi chứng quả thành mắt Phật. Bốn thứ mắt đã không thuộc tha tâm, mắt Phật cũng như vậy, hoặc nói mắt Phật cũng biết tha tâm, không như thế vì sao gọi là trí Nhất Thiết, chỉ do biết tướng không rõ ràng. Ngoài năm thứ mắt của Phật nói riêng trí tha tâm, lại do pháp môn khác nhau nên nói cũng khác nhau. Nhưng sáu thông ba minh cũng là kiến trí, vì sao không nói ngoài sáu thông ba minh, thần túc chỉ là tác dụng của thân, chẳng phải tướng trí kiến. Thanh văn chứng thiên nhĩ biết tâm kia, chỉ biết tâm kia nên nói tiếng chẳng phải cốt yếu, vì vậy theo không nói. Túc mạng mới biết việc vị lai thuộc về thiên nhãn, cho nên cũng không nói. Trong lậu tận, duyên tự lậu tận là thuộc về mắt Phật duyên tha lậu tận, biết đây thuộc về trí tha tâm cho nên không nói, hoặc nói một hội đối cơ, đâu cần phải đầy theo đủ.
Trong phần giải thích văn kinh có hai: đầu tiên giải thích tâm trụ và bao nhiêu loại, kế là trong phần giải thích kinh tâm trụ tức là phi trụ. Theo bản dịch đời Đường thì tâm trụ tức lưu chú vì tâm trụ nói có lỗi, y theo tâm này rốt cuộc không trụ nên nói trôi lăn, tức niệm niệm lưu chú trong ba đời sinh diệt nối nhau không lìa ba đời. Bao nhiêu loại, nhiều đời trước nói sinh loại có nhiều thứ tâm, văn luận rất dễ hiểu. Theo kinh Mười địa, Bồ-tát tha tâm trí có thể biết hai mươi hai loại tâm của tất cả chúng sinh, có tham hay không tham, theo nghĩa luận gồm thanh tám tâm đầu tiên có sáu tâm tham, sân, si và lìa tham, sân, si gọi là tùy phiền não tâm.
Địa thứ bảy theo là tâm nhiễm, thứ tám là bất nhiễm tâm, gọi là tâm sử tương ưng với các tâm khác như thế, thứ chín là tiểu tâm, thứ mười là quảng tâm, mười một là đại tâm, mười hai là vô lượng tâm, bốn thứ này gọi là sinh tâm. Y cứ vào sinh có khác nhau sinh từ thiên hạ tri kiến nhỏ gọi là Tiểu tâm, sinh lên sáu tầng trời cõi dục tri kiến hơi rộng lớn gọi là Quảng tâm. Sinh lên cõi Sắc tri kiến càng lớn, gọi là Đại tâm. Sinh cõi Vô sắc sư thấy biết vô lượng gọi là vô lượng tâm, mười ba nhiếp tâm, mười bốn không nhiếp tâm, gọi là học tam-muội tâm. Học tam-muội tâm gọi là nhiếp tâm, không học tam-muội gọi là không nhiếp tâm, mười lăm là định tâm, mười sáu là bất định tâm, gọi là đắc tam-muội tâm. Lúc nhập tam-muội gọi là định tâm, lúc không nhập gọi là bất định tâm, mười bảy là theo giải thích thoát tâm, mười tám không giải thích thoát tâm gọi là tâm ràng buộc lìa ràng buộc, mười chín là cầu tâm, hai mươi không cầu tâm gọi là vọng hành tâm, đây là tâm tạo nghiệp, hai mươi mốt hữu thượng tâm, hai mươi hai vô thượng tâm, gọi là tâm tăng thượng mạn. Trong hai mươi hai tâm trung, tiểu, quảng, đại bốn tâm vô lương đều có cả nhiễm tịnh, ngoài ra mười tám tâm đều một nhiễm một tịnh, các tâm này không thể nói hết vì vậy theo gọi chung là từng ấy tâm. Luận chép Thế, nghĩa là quá khứ đẳng phần sát-na có một thời kỳ ba đời, ba đời nhiễm tịnh các tâm niệm niệm sinh diệt, chẳng lìa ba đời, nói tâm tuy nhiều Như lai đều biết. Theo ngài Thế Thân thế nào là điên đảo, bài kệ các thứ điên đảo thức, do lìa thật niệm không trụ thật trí nên nói là điên đảo, nghĩa là bốn niệm xứ là trụ bất trụ, bốn niệm là điên đảo.
Thứ hai giải thích phi trụ, có hai: đầu tiên là nêu phối hợp kinh, an lặp đệ nhất nghĩa, kế là giải thích văn kinh suy theo ra ba đời tâm đều không có thật thể. Vì sao? Trong văn thứ hai trước gạn hỏi, sau giải thích. Theo đại luận giải thích có hai: đầu tiên là Phật tâm thừa là vắng lặng, làm sao biết hết tất cả tâm chúng sinh, kế là Phật tâm nhất tâm làm sao biết có nhiều tâm như vậy, nên hỏi vì sao kế là văn kinh giải thích lý do biết. Do Phật chứng được các tâm, cho nên gọi là phi tâm vì thấy các tâm thể mà chung biết các tâm. Vô Tánh Nhiếp Luận thì tổng tướng chân như của tất cả pháp, biết hết tất cả pháp gọi là Nhất thiết trí, nếu trải qua các pháp mới biết, mặc dù trải qua nhiều thời gian không thể biết tất cả pháp. Trong kinh Đại Tập, Đức Phật cũng tự hỏi, vì sao biết được tâm nhiễm của chúng sinh? Phật giải thích: Vì Phật y theo thật tướng các pháp cho nên biết, theo Đại luận giải thích tâm chúng sinh tuy có nhiều thứ nhưng không lìa thật tướng các pháp, y theo lý chiếu sự, vì vậy theo biết hết các tâm của chúng sinh. Theo phẩm Ma-ha-diễn nếu tất cả tâm, tâm sở của chúng sinh là thật có, chẳng phải luống dối thì Phật không thể biết các thứ tâm của tất cả chúng sinh, vì tâm pháp luống dối của chúng sinh không có chỗ đến, không có chỗ đi nên, Phật có khả năng biết các tâm của chúng sinh. Nếu phân biệt chấp tướng thì không thấy thật pháp, vì không thấy thật pháp nên không thể thông đạt tất cả. Nếu không chấp tướng tâm chẳng phân biệt thì được thật tánh các pháp, vì được thật tánh các pháp, soi chiếu biết tất cả pháp, ý giải thích ở đây như thế. Vì nói các tâm trụ đều chẳng phải tâm, chiếu soi từng ấy thứ tâm của chúng sinh. Kế là giải thích văn kinh suy theo ra tâm trong ba đời đều không có thật thể, các kinh luận suy theo ra pháp hiện tại, thường do niệm niệm diệt, giải thích chưa tránh khỏi sự tranh luận nghĩa trụ tướng chưa diệt, làm sao ngăn là có. Nay dùng Đệ nhất nghĩa suy theo ra, trụ tướng trong sát-na cũng không thật có.
Văn luận sau đây là thứ hai, chia ra làm hai: đầu tiên vì sao nói kiến tịnh, sau nói trí tịnh, luận tự giải thích, vì trong tương ưng tri chứng đắc cho nên an lặp kiến, vì dạy theo chúng sinh tâm vắng lặng cho nên an lặp trí chẳng phải trước tự chứng trong chỗ nên biết. Nói kiến tịnh tự chứng hiểu rồi vì dạy theo chúng sinh dứt ác làm lành gọi là tâm vắng lặng. Kế là nói biết nhân này lấy tự giác, giác tha làm thứ lớp, giải thích đồng một trụ xứ, đối với trí tịnh an lặp tâm sở tri chẳng phải tâm. Trong kiến tịnh ở trước nói có năng kiến, năm thứ mắt cũng chẳng phải mắt lý cũng được thành. Nếu vậy theo thì Phước đầy theo đủ kiến trí cũng đồng một trụ xứ với, vì sao văn không nói Phước đầy theo đủ lại an lặp chung, Phước là nhân của kiến trí đồng một trụ xứ, thể của Phước tuệ khác nhau, là do an lặp riêng.
Phước đầy theo đủ, Đức Phật có Phước lớn trang nghiêm, vì sao kiến tri đồng một trụ xứ với. Phước trí này là trí Phật căn bản, chẳng phải Phước đức điên đảo, có Phước đức lớn trang nghiêm, kiến tri đều thanh tịnh, vượt nhiều hơn tất cả, Luận của Bồ-tát Thiên Thân thì giống nhau. Theo ngài Thiên Thân thì dứt nghi thứ ba, nghi rằng: Đoạn trước nói tâm trụ điên đảo, nếu vậy theo thì Phước đức cũng điên đảo. Nếu là điên đảo sao gọi là pháp lành vì nói Phước đức chẳng phải điên đảo, có bài kệ trí tuệ căn bản của Phật chẳng phải công đức điên đảo, do tướng Phước đức cho nên nói lại thí dụ. Dưới đây là nêu Phước đã có, so sánh với Phước kia đều là nhờ Phật tuệ. Vì Mười địa chuyển càng cao siêu, hoặc chỉ nêu Địa thượng thắng Phước, lại tự so sánh công đức thọ trì giảng nói khác nhau, trước đây chẳng phải hạnh Phước tuệ.
Theo văn kinh có bốn: Trước hỏi, sau đáp. Thứ ba là Phật nói lại thành tựu, như nhóm Phước, thứ tư là phá chấp tìm tên. Theo bản của ngài La-thập không có văn nói thành, lại chỉ dùng Phước đức không có văn dưới. Văn luận có hai đầu tiên nêu tên thuộc kinh, kế là theo lời gạn hỏi giải thích. Làm sao có thể đem bảy theo báu đầy theo khắp thế giới Tam thiên ra bố thí. Kinh Đại Phẩm thì Bồtát A-bệ-bạt-trí có khả năng đem bảy theo báu đầy theo khắp thế giới Tam thiên ra bố thí. Trong quyển ba mươi tám chép có khi Bồ-tát đem châu báu đầy khắp theo thế giới tam thiên cúng dường Tam Bảo, huống chi dùng y theo phục, ăn uống đất nước, vợ con, đầu mắt thân thịt, v. v... ra bố thí và pháp thí, vô úy theo thí, tùy hỷ Hồi hướng, cho đến hiếu thảo nuôi nấng cha mẹ, cúng dường thầy bạn, từ bi hỷ xả, Phước đức sánh bằng hư không pháp giới. Nay lại đem bảy theo báu đầy khắp theo thế giới Tam thiên, bố thí hai ruộng Phước bi và kính nêu câu hỏi. Nếu có nhân tu Phước nghiệp từ quá khứ cho nên khó hiểu, e rằng nhân đó tìm cầu Phước đức gọi là khởi chấp, an lặp, Phước đức Đệ nhất nghĩa. Dạy theo các Bồ-tát tu Phước mà không chấp đắm, lìa tăng thêm, diệt hai lỗi. Luận của ngài Thế Thân, do Phước đức này nhóm họp là hữu lậu, cho nên Đức Như lai không nói nhóm Phước đức. Lại giải thích ý rằng nếu đạo phần lành nhóm Phước đức tức là nhóm Phước đức, nếu không nói chia nhóm Phước đức thì Như lai không nói là căn bản trí tuệ do Phước phần đạo phần, hoặc có vô lậu khác nhau, cho nên trong kinh nói lại nhóm Phước.
Đại văn thứ ba dưới đây tùy thân hình tốt đẹp cụ túc và tướng cụ túc, nói Phật chuyển sắc ấm y, cho nên được sắc thân tướng tốt Phật địa, dạy theo Bồ-tát cầu tám mươi tướng tốt. Như các kinh Đại Phẩm, Niết-bàn nói "Vô kiến đảnh tướng", là tướng đầu tiên của tám mươi tướng tốt, còn Niếtbàn nói tướng cuối cùng trong ba mươi hai tướng. Nếu y theo theo Đại luận, Địa Trì thì so sánh các tướng công đức vô kiến đảnh tướng là lớn nhất, nhưng các kinh thì nói tướng thứ nhất trong tám mươi tướng tốt. Theo kinh văn đầu tiên hỏi sau đáp, luận sắp xếp rất dễ hiểu, ở đây hỏi có hai ý.
1. Ý nghĩa đối trị hỏi để phá Bồ-tát chấp đắm tướng sắc thân Phật, giúp dùng tâm vô tướng để cầu.
2. Ý theo ý của nói tướng mà hỏi để nói lên thân Phật đầy theo đủ tám mươi tướng tốt, dạy theo các Bồ-tát khởi tâm dục nguyện. Như lai nói sắc thân đầy theo đủ tức chẳng phải sắc thân đầy theo đủ, dẫn kinh Đại Phẩm giải thích tướng tốt của Phật, tám mươi tướng tốt là không nên Đức Như lai nói là phi, như vậy theo vì sao phải hiện tám mươi tướng tốt này. Kinh Niết-bàn giải thích thế gian việc chúng sinh có mười tám tầng trời, mười tám tầng trời đều có từng tướng tốt một, gi-úp cho cõi nhân kính tin hướng về, Phật vì giáo hóa việc đó cho chúng sinh cõi trời tin vào Phật pháp, cũng giúp cho tầng trời đó dứt trừ tâm kiêu mạn, Phật đối với một thân cõi hiện tám mươi tướng tốt, muốn cho học cầu nên đặt câu hỏi. Ngài Thiện Hiện biết câu hỏi có ý phá chấp, liền an lặp sắc thân là Đệ nhất nghĩa, nên nói chẳng phải sắc thân cụ túc. Cho nên Đức Như lai nói danh sắc thân cụ túc, thành ý Bồ-tát cầu sắc thân Phật, theo tục đế gọi là sắc thân cụ túc.
Thứ tư là nói về danh tướng thân cụ túc, nghĩa cũng giống như tùy hình tướng tốt, đều y theo theo trước giải thích luận cũng rất dễ hiểu. Luận của ngài Thế Thân dưới đây là đoạn văn thứ ba nói về pháp nghi, nghĩa là hai nghi trên là nhân bản tông trước khởi, có bốn điều nghi sau đều lần lượt sinh, y theo theo văn này có ba điều nghi. Nghĩa là có nhân nghi rằng nếu Chư Phật do pháp vô vi mà được tên, vì sao Chư Phật thành tựu tám mươi vẻ đẹp và ba mươi hai tướng tốt mà gọi là Phật? Vì Luận chủ không chấp tướng tốt phân biệt nên chia thành hai môn, Luận chủ Bồ-tát Thế Thân đồng bác bỏ sắc thân có nghi, cho nên hợp thành một. Luận ấy thì thể rốt ráo của pháp thân chẳng phải thân tướng tốt kia do không thành tựu tướng nên chẳng phải pháp thân kia, vì không lìa pháp thân, hai điều đó đều là, cho nên nói lại thành tựu, cũng không hai và có. Vì cái không trong pháp thân kia, tức chẳng thành tựu vì không lìa pháp thân nên nói thành tựu, ngoài ra rất dễ hiểu.
Địa thứ năm là nói danh ngộ đầy đủ là nói ngữ nghiệp của Phật điều mà đã nói là đầy đủ nói, cụ túc là sở nói. Như vậy theo tại sao nói điều mà phật nói đầy đủ, nghĩa là như trước nói sắc thân tướng tốt, trong vô sắc có thể bày theo tướng tốt diệu sắc, lời Phật đã nói cũng vậy. Trong cái vô nói mà nói đầy theo đủ pháp nên luận gọi là ngữ cụ túc, nhưng trong Phật địa nói chung ba nghiệp công đức của Như lai. Đã biết kiến trí tịnh tức là nói về công đức ý nghiệp của Như lai, sắc thân cụ túc nói về công đức thân nghiệp, ngữ nghiệp cụ túc là rõ công đức ngữ nghiệp, tâm cụ túc là nói tâm tạo tác của Như lai, tác dụng nhiều thứ không nói về đầy theo đủ. Luận của ngài Thế Thân thì dứt nghi thứ rằng hai về sắc thân và tướng thành tựu đã không thật có thì, tại sao nói Như lai nói pháp. Vì phá nghi này nên có bài kệ:
"Pháp của Như lai cũng như vậy
Đã nói hai pháp chấp đắm khác
Không xa lìa đối với pháp giới
Nói pháp đều không có tự tướng".
Nghĩa là hiển rõ pháp nghĩa hai thứ lìa chân pháp giới không thật thể đắc tự tướng, giống như luận này. Theo văn kinh có bốn. Một là hỏi, hai là ngăn, ba gạn lại giải thích ngăn lý do, bốn là gạn lại để có rất dễ hiểu, nay chỉ nói không có pháp để nói, không giải thích lý do. Kinh Lăng-già loại tám quyển nói thông nói pháp y theo hai thứ nghĩa.
2. Y theo chứng pháp bên trong của mình lìa tướng ngôn ngữ phân biệt, lìa tướng danh tự, ta không thấy có một pháp nào để nói.
3. Y theo bực cổ tiên thánh đạo, nay ta chỉ nói theo đạo xưa của Cổ Phật, đạo này thường có, như thú hướng thành đạo, ngoài đạo xưa của Cổ Phật không có một chữ để nói, do đó nói không có một pháp nào để nói nên gọi là nói pháp. Do pháp nghĩa có hai, lại nói nói pháp, y theo theo bản của ngài La-thập thì không có lặp lại.
Thứ sáu là nói về tên tâm cụ túc, Phật có sáu thứ tác dụng tâm cho đến ba nghiệp hành trụ tịnh của Phật, do thân ngữ hành trụ cũng là sự vận dụng của tâm Phật, nên nói chung là Tâm cụ túc. Luận trên xếp văn này lại có sáu, như trước đã phối hợp, đầu tiên nói ba công đức niệm xứ của Phật nên gọi là Niệm xứ. Theo dứt nghi thứ ba của ngài Thế Thân thì như nói Chư Phật nói pháp là không có chỗ nói pháp không lìa pháp thân cũng không có điều gì giúp cho nhân tin pháp giới sâu xa như vậy. Theo văn kinh có hai trước hỏi sau đáp, đầu tiên là y theo hai đế, dùng hai pháp quán không, giả để đáp. Kế gạn lại giải thích thành nghĩa văn luận có ba đầu tiên nêu ra thuộc về kinh, kế là giải thích y, sau giải thích văn kinh. Ở đây nói như niệm xứ của Thế tôn nên nói Phật đối với nhân bán tin, đều như Đức Thế tôn, một niệm bình đẳng, y theo ba nhân nói do đó gọi là ba niệm xứ. Có nhân đời vị lai khai mở phát sinh lòng tin là nói nhân tin lời Phật dạy, không nêu nhân chẳng tin, và tin báng cả hai là cảnh động niệm, cho nên nêu riêng, không nêu nhân trong đó, do trái phiền cảnh tất cả xứ thời hữu. Nay y theo cứ vào nhân nghe kinh vì nói ý luận tức giải thích kinh. Ngài Thiện Hiện hỏi, giải thích kinh có hai: đầu tiên hiểu văn Phật đáp, kế là nhân hiểu Phật muốn tin pháp. Nếu dùng đệ nhất nghĩa quán tánh tướng của chúng sinh đều không, nói đó chẳng phải chúng sinh, gọi là "không quán". Nếu hoàn toàn không có chúng sinh thì Phật ở chỗ nào mà khởi tâm bình đẳng, y theo tục đế chẳng phải không có chúng sinh luống dối gọi là "giả quán". Đối với "không", "Giả" đều không thật có trái nhau cho nên Đức Phật đối với nhân tin và báng đều khởi một tâm niệm bình đẳng. Kế đến gạn lại giải thích thành nghĩa trước, của vô trước luận không giải thích vì dễ biết ý gạn rằng: nói đó chẳng phải chúng sinh lý do gì lại nói phi, giải thích chúng sinh bằng hai nói không-giả, chẳng phải chúng sinh y theo theo đệ nhất nghĩa gọi là chúng sinh y theo thế tục đế. Kế là nói về nhân tin hiểu Phật pháp, nhân này là bậc nhất ít có nói lên đệ nhất nghĩa là bất cộng và tương ưng. giải thích ý này nay nhân muốn tin lời Phật có được lợi ích, tin Phật nói kia chẳng phải chúng sinh, y theo đệ nhất nghĩa để nói nghĩa bất cộng. Tin nói chẳng phải không phải chúng sinh, y theo tục đế nói về nghĩa tương ưng. Có nhân bắt bẻ rằng bậc nhất ít có các bản đều không có văn nầy, nhưng Phật tuy với nhân tin hoặc báng đều bình đẳng, nay nói tin không đâu chẳng bình đẳng. Luận do ngài Thế Thân soạn thì nói sở nói, nhân nói đều đáng tin, chúng sinh chẳng phải chúng sinh, chẳng phải Thánh chẳng phải không phải Thánh, hai câu trên chính là đáp nghĩa trước, giải thích hai câu hỏi của ngài Thiện Hiện hiểu câu trả lời của Đức Như lai. Đây là nói người đáng kính tin chẳng phải chúng sinh phàm phu nên nói chẳng phải chúng sinh, cho đến bậc Thánh chúng sinh, nói chẳng phải không phải chúng sinh, bản của ngài La-thập thiếu không có đoạn văn này. Dứt thứ hai tâm là cụ túc, luận gọi là Chánh giác, Phật đắc Vô thượng Chánh giác, Luận của ngài Thế Thân đại văn thứ tứ là bác bỏ nghi có ba dứt: Nghi đức Như lai không được một pháp, gọi là A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề, làm sao lìa thượng thượng chứng, chuyển chuyển đắc A-nậuđa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề. Đức Như lai thuở xưa ở chỗ Phật Nhiên Đăng thọ đối với pháp bảo không có sở đắc, văn trên do sinh nghi, hoặc Phật Nhiên Đăng ký sinh ra mối nghi này, đã không có một pháp để đắc tức là lìa tánh chứng pháp trên. Sao lại nói chuyển chuyển đắc Vô thượng Bồ-đề, văn kinh có ba trước hỏi, kế là đáp, sau ấn nói, bản của ngài La-thập thiếu không có văn đáp. Văn luận có hai trước là nêu tên thuộc kinh, sau chánh giải thích có ba, đầu tiên giải thích lời đáp, kế là giải thích ấn nói lược qua không giải thích câu hỏi. Nhưng trong câu hỏi cũng có ý nghĩa nói ba ý tướng-dục-nguyện, y theo nghĩa ý: câu hỏi này phá chấp của Bồ-tát chấp chứng quả Phật vô thượng Chánh giác, Phật hỏi hiển nói tướng thứ hai, ý câu hỏi này là nói tướng Phật Bồ-đề Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Dục nguyện ý: nay các vị Bồ-tát đối với quả vị Phật Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khởi tâm nguyện ưa muốn, ngài Tu-Bồ-đề đáp vì cũng an lặp Phật Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác là đệ nhất nghĩa, trước có đáp thẳng chăng? Kế là nói Đức Thế tôn không có pháp Như lai thì có giải thích được chăng? Cho nên luận giải thích rằng: không có pháp lìa lỗi chấp có, nói Phật không có chút pháp nào để được Bồ-đề, chẳng những nói Phật lìa lỗi chấp có cũng là giúp cho nhân tịnh tâm địa lìa lỗi chấp có. Nếu hoàn toàn không đắc thật ra cũng là lỗi, nhưng vì bịnh thường khởi chấp có. Đoạn này nói riêng Phật lìa cả hai chấp có-không. Trong giải thích ấn nói, theo văn kinh thì trước ấn chứng sau nói lại ta đối với quả Bồ-đề... là văn nói lại. Luận của Bồ Tát Thế Thân chép. Chỗ kia không có chút pháp nào biết Vô thượng Bồ-đề v. v..., pháp giới không thêm bớt, tự tướng thanh tịnh bình đẳng có phương tiện vô thượng và lìa hữu lậu pháp. Cho nên chẳng phải pháp tịnh tức là pháp thanh tịnh kia, dùng bốn nghĩa đã giải thích Phật
Bồ-đề có nghĩa vô thượng. Một là nói Phật Bồ-đề không có pháp nào để được, vì vậy theo Bồ-đề được gọi vô thượng, hai câu đầu thuộc về kinh rất dễ hiểu. Hai là pháp bình đẳng là Phật chứng pháp giới bình đẳng không thêm bớt lại không có gì trên, gọi là Vô thượng là câu thứ ba. Ba là vì không có chúng sinh rõ pháp thân Phật bình đẳng không khác nhau, lại do pháp vô ngã tự thể chân thật không còn gì trên nên gọi là Vô thượng. Câu thứ tư tất cả pháp lành nói về Phật Bồ-đề có phương tiện vô lượng tu tất cả gốc lành, nên gọi là vô thượng, đều đối với Hai Thừa mà nói vô thượng. Dứt luận thứ hai này văn giải thích kinh ấn nói có hai: nghĩa là Bồ-đề và đạo Bồ-đề, đầu tiên y theo theo quả nói Phật Bồ-đề của có nghĩa vô thượng tức là nêu Bồ-đề, kế là tất cả pháp lành y theo theo nhân giải thích Phật, Bồ-đề có vô thượng giác tức là nêu đạo Bồ-đề. Trong đoạn văn trước có hai, nghĩa là hai lời nói khác nhau, tức là hai ngữ phối hợp giải thích pháp thân và báo thân đúng như nghĩa nên biết. Văn luận có hai: một là nêu hai thứ hai là phối hợp để giải thích, trong ngữ đầu trước lặp lại phối hợp, nói về tự tướng Bồ-đề, dưới là giải thích nghĩa. Tự tướng Bồ-đề trong phần giải thích nghĩa nói lúc Phật chứng Bồ-đề mặc dù được thật tướng các pháp nhưng không phân biệt thấy có chứng đắc, đây là giải thích kinh không thật đắc Bồ-đề, vì tự tướng không thật có. Vì tướng giải thích thoát cũng không thấy có thật thể Bồ-đề, đây là giải thích không thật có. Lìa chướng giải thích thoát tất cả tướng thể không thật có. Theo hai bản của ngài La-thập và bản đời Ngụy theo đều có tướng chung là chẳng có chút pháp nào để, theo bản đời Đường và ngài Chân Đế thì đều không có gì làm đầu, không đắc ở sau. Nếu như vậy theo tức là dùng tự tướng Bồ-đề giải thích không thật có, không thấy có tự thể Bồ-đề, thật có dùng tướng giải thích thoát giải thích vô đắc, vì không thấy có giải thích thoát để chứng đắc. Có chỗ giải thích rằng "không và có" khó được mà được trí vô thượng giác vì không thấy có năng giác tri, "vô đắc" thật tướng sở đắc tuy đắc cũng không thấy có thật tướng sở đắc, phối hợp với luận nên biết, tức kinh Đại phẩm nói vô trí cũng vô đắc, đây là giải thích ý nói. Trong phần ngữ đầu có cả năng chứng sở chứng, ngữ thứ hai chỉ có trí năng chứng. Nếu y theo bản của ngài Chân Đế thì trước chẳng có một pháp nào mà Như lai xả bỏ, nói Phật chuyển y, lúc xả chướng nhỏ nhiệm, không thấy có chút pháp nào để xả, đây là nói tướng Bồ-đề giải thích thoát. Sau chẳng có chút pháp nào Đức Như lai chứng đắc, nói Phật đắc Vô thượng giác, đối với tất cả pháp đắc tri kiến vô ngại, cũng không thấy năng đắc sở đắc, là nói tướng Phật vô thượng giác gọi là tự tướng Bồ-đề. Thứ hai là giải thích câu Tam Phật-đà, kinh gọi Bồ-đề là có cả cả Hai Thừa và nhân quả nên luận là Phật-đà, chỉ ở quả Phật. Luận có ba:
1. Pháp bình đẳng nói lên Chư Phật đồng có trí
Vô thượng giác bình đẳng, vì Chư Phật đồng có trí Chánh giác.
2. Không có cao thấp, nói lên Chư Phật đệ nhất nghĩa của vì có tuổi thọ đồng nhau, không có dài ngắn, hóa thân tùy duyên thị hiện có dài ngắn, thật báo của Chư Phật đồng chứng đệ nhất nghĩa, cho nên tuổi thọ sắc thân thần thông Phước báo đều không có cao thấp, gọi là Giác đẳng. do không có chúng sinh v. v... trở xuống là nói Chư Phật đều không có ngã, ngã sở, đồng sinh tử không có tâm bình đẳng nên gọi là Đẳng giác. Luận này và bản đời Ngụy theo đều thiếu chữ Vô, ngoài ra đều có, vì sao nói hai ngữ.
1. Vì Phân biệt Hai Thừa, Bồ-tát chẳng phải vô thượng.
Phá chấp nghi của Hai Thừa, họ nghi Như lai và Bồ-đề không khác. Theo Đại luận, Hai Thừa không gọi là Vô thượng giác, chẳng được trí nhất thiết chủng vì có điều không biết, do Hai Thừa chưa dứt pháp chấp thấy có sở đắc vì ngã, ngã tập chưa dứt, thấy có năng đắc do đương niệm khởi ngã rồi hết, nay nói Như lai không phải như vậy, cho nên Phật Bồ-đề có Vô thượng lời nói. Nêu do Phật Bồ-đề mà nói quả Phật Bồ-đề có Vô thượng đẳng giác, theo văn kinh có hai: trước là nói lên, sau là phá chấp, luận giải thích theo kinh cũng chia làm hai. Theo bản đời Lương và đời Ngụy theo đều cho rằng tu tất cả pháp lành đắc Anậu Bồ-đề, là nói lúc nhân Phật đầy theo đủ, tu tất cả pháp lành tròn đầy nên được vô thượng chánh đẳng Bồ-đề không đồng với người Hai Thừa. Theo kinh Đại quyển thứ ba mươi tám nói tất cả pháp lành là nhân Vô thượng Bồ-đề, ngài Tu Bồ-đề bạch Phật. Thế nào là tất cả pháp lành? Phật nói sáu pháp Ba-la-mật, bốn niệm xứ. v. v... cho đến mười tám pháp bất cộng đều là đạo Bồ-tát hạnh Bồ-tát tu hành, các pháp lành đầy theo đủ rồi, được trí Nhất Thiết chủng xoay theo bánh xe pháp độ chúng sinh, xoay theo bánh xe pháp độ chúng sinh lặp văn lợi lớn, ở đây nói Đức Phật tu tất cả pháp lành, cho nên được Vô Thượng Giác. Nếu theo bản của ngài Chân Đế và bản đời Đường thì tất cả pháp lành đều là hiện chứng, đều là Diệu giác, tất cả pháp lành chép chung về nhân quả, pháp lành tròn đầy nghĩa là lúc được đạo Vô Gián, tất cả nhân của pháp lành đầy theo đủ, hoặc phiền não nhỏ nhiệm hết, cùng Chư Phật đồng chứng Tịch diệt nhẫn, nên nói tất cả pháp lành đều hiện chứng cho đến khi được đạo giải thích thoát, cái khổ vi tế cũng hết, công đức tròn đầy, đồng với Chư Phật gọi là Diệu giác, nên nói tất cả đều là Diệu giác, nhân quả đều không đồng với người Hai thừa, do đó Phật Bồ-đề có đẳng giác ngữ Vô thượng. Kế là phá chấp, vì có nhân tìm pháp lành gọi là khởi chấp, y theo đệ nhất nghĩa nói pháp lành tức phi thiện pháp. Luận này là an lặp Đệ nhất nghĩa, phá lỗi tăng ích, e rằng sau bỏ không có duyên sinh pháp lành, nên nói theo thế tục là pháp lành, giúp cho lìa lỗi tổn giản. Theo ngài Thế Thân, giải thích các lậu chẳng phải pháp thanh tịnh, trong đây nói thiện tức là pháp thanh tịnh vô lậu, còn thiện pháp không có pháp hữu lậu nên gọi là chẳng phải pháp lành, vì lậu là không nên gọi là pháp lành. Do bản đời Đường lặp lại pháp hai thứ là lành hoặc nhân quả, cho nên lặp lại. Của Đại văn luận thứ ba trong tâm cụ túc ở dưới gọi là lặp bày theo pháp đại lợi, ở trước nói Phật chứng Chánh Giác, ở đây y chứng khởi nói lập bày chánh giáo làm lợi ích lớn cho chúng sinh. Theo ngài Thế Thân, dứt hai nghi rằng: Nếu tất cả pháp lành đầy theo đủ đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề thì pháp được nói không thể được đại Bồđề. Vì sao? Vì pháp sở nói là pháp vô ký, văn kinh có hai, đầu tiên lặp ra kinh này lợi ích cho đại thừa Tiểu thừa, nói lên Phật một đời nói pháp đều làm lợi ích lớn cho chúng sinh. Kế là nếu ông cho rằng Như lai khởi niệm phá nghi chấp bên ngoài, đoạn trước nêu đại thí nhiều Phước. Nếu người đem Bát-nhã này so sánh nói về chẳng bằng tu một bài kệ lợi ích rất lớn, đầu tiên nói văn có ba:
2. Nêu bố thí được Phước nhiều.
3. Nói tu kinh ít.
4. So sánh lặp ra kinh này lợi ích nhiêu ít? Văn luận có hai: đầu tiên là nêu tên thuộc kinh, kế là tùy câu hỏi giải thích, theo bản mới dịch có mười so sánh, trăm phần không bằng một, tức là tu một phần của một bài kệ kinh này được Phước một trăm phần. Do kia bố thí nhiều được Phước nhiều so một phần trong một trăm phần này còn chẳng bằng một phần, nên nói một trăm phần chẳng bằng một ngàn phần, chẳng bằng một phần. Tu một bài kệ trong kinh Phước bằng một ngàn phần, hợp với thứ ba, thứ tư là nêu ra. Theo thứ ba của bản dịch mới thì một trăm ngàn phần tức trong mười muôn phần cũng chẳng bằng một. Thứ tư là nói một trăm ngàn phần câu-chi, câu-chi tương đương với ngàn muôn, dùng một trăm ngàn làm số, số tính đến ngàn muôn tức, muôn ức phần cũng chẳng bằng một phần. Phước đại bố thí kia so với Phước tu một bài kệ kinh này trong muôn ức phần cũng không bằng một phần. Theo bản dịch đời Ngụy theo hợp cả ba và bốn nhưng bỏ chữ ức, do đó nói trăm ngàn muôn phần chẳng bằng một phần. Ca-La phần tức Địa thứ năm này, Tây theo phương nêu số tên gọi. Theo bản mới Địa thứ năm gọi là Câu-chi na-dữu-da trăm ngàn phần. Một câu chi là một ngàn muôn. Muôn câu-chi là một na-dữu-đa tương đương một ngàn ức dùng một ngàn làm một số, số đến ngàn ức là một na-du-đa trăm ngàn. Lại dùng một nadữu-đa trăm ngàn làm một số, số đến một câu chi gọi câu-chi na-dữu-đa trăm ngàn, trăm ngàn cai phần. Theo văn đời Ngụy theo không biết vì sao gọi một ngàn cai là ca-la phần. Năm số sau đây chưa thấy chỗ nào giải thích, trong các bản cũng có khác nhau, nên đối chiếu so sánh.
Bài kệ của ngài Thế Thân tuy nói pháp vô ký mà nói là nhân kia, vì vậy theo một pháp bảo còn hơn vô lượng châu báu. Hai câu trên là y theo tông khác để giải thích điều nghi, hai câu dưới là y tự tông, Chư Phật Đại thừa có ba danh-cú-văn, vì chỉ là pháp lành luận mà dứt bỏ dính mắc. Mười địa chép: một là Thinh, hai là chữ Thiện. Còn Luận kia thì mười lớp này so sánh thành bốn thứ thắng, từ loại thứ nhất đến thứ tám là can phần, thứ chín là số, thứ mười là dụ, gọi chung là số thắng. Vì số có giới hạn nhiếp được các số khác, Địa thứ năm Ca-La phần chẳng bằng một, gọi là lực thắng, luận ấy không giải thích (chứng tỏ bố thí Phước không bằng thế lực kinh này), thứ sáu số phần không bằng một gọi là không tương tự thắng, Phước này vô, số Phước kia có giới hạn. Phước này nếu vô số vì sao nói không bằng một. Địa thứ bảy theo là ưubà-ni-sa-đà phần không bằng một gọi là nhân thắng, vì nhân quả Phước này vượt hơn nhân quả Phước kia, mặc dù giải thích như vậy theo nhưng chưa thấy lý do. Mười thứ này đều là tên số, vì sao có nói về năng lực cao siêu, có hiển bày sự tốt đẹp không tương tự, có nói về nhân quả tốt đẹp, luận này không giải thích ý. Một phần số càng nhiều thì một phần càng ít, Phước đại thí kia nhiều so với Phước này cũng không bằng một phần nhỏ nhất.
Có bài kệ:
"Số lực không tự thắng
Vô tự nhân cũng vậy
Tất cả pháp thế gian
Không thể làm thí dụ".
Thứ hai là phá nghi chấp bên ngoài, nghĩa là phàm phu Hai Thừa nghe Phật lặp giáo pháp làm nhiều lợi ích cho chúng sinh bèn tưởng rằng Phật có ngã độ sinh, nên nói lên Phật tuy độ chúng sinh mà không nghĩ ta độ chúng sinh. Theo ngài Thế Thân thì dứt nghi thứ ba, cho rằng nếu pháp bình đẳng không có cao thấp vì sao Như lai gọi là độ chúng sinh, vì dứt nghi nên có văn này đồng là một dứt với văn chánh giác ở trước, vì lần lượt thay nhau có nghi sinh khởi, không mê đắm pháp lợi Chánh giác, vì tự lợi lợi tha chứng rồi mới lặp có khác nhau, thật ra không trái nhau. Văn kinh có ba: một là hỏi, hai là ngăn, ba là giải thích kỹ trong câu hỏi dựa vào nghĩa đối trị nói nhiếp trì nhau ở văn trước. Dứt thứ ba trước gạn, sau giải thích, trong giải thích có ba: đầu tiên là bác bỏ nghi của phàm phu là nghi phật nghĩ có độ tha, Như lai nói có ngã lại phá nghi là nghi Phật nghĩ có độ tha, Như Lai có ngã lại phá nghi cho phàm phu. Văn trước có hai: đầu tiên giải thích thuận theo, giải thích trái lại, luận theo sự gạn hỏi mà giải thích, chỉ giải thích phá ngoại đạo, văn nghi có hai: đầu tiên chỉ chung kinh số, an lặp Đệ nhất nghĩa, kế văn giải thích riêng, cũng có ba phần.
1. Giải thích nghi độ tha rằng nghĩ có.
2. Nếu thật vô ngã giải thích v. v... trở xuống nghi tưởng có ngã.
3. Phàm phu phàm phu là giải thích nghi phàm phu, trong phần đầu chỉ giải thích lại văn giải thích, văn thuận dễ hiểu. Chính phá phàm phu nghĩa là lúc Phật lặp giáo độ chúng sinh có tưởng ngã độ, Hai Thừa biết Phật không có tưởng ngã sở nên không sinh khởi nghi này, nên lúc Phật tự nói độ chúng sinh còn không thấy có chúng sinh để độ, làm sao nghĩ là ta hóa độ được? Do đó nói thật không có một chúng sinh nào được Như lai độ. Luận của ngài Thế Thân thì chân pháp giới bình đẳng, Phật không độ chúng sinh, do tên cùng âm kia không lìa pháp giới, như luận ấy giải thích nên biết. Kế là giải thích trái lại, chứng quả Phật không nghĩ là ta độ. Luận giải thích rằng: đức Như lai nhập Niết-bàn như vậy theo nên biết. Đoạn trước thật ra không có chúng sinh nào được Như lai độ. Chữ "Độ" Phật còn như sở chứng mà biết, tuy độ chúng sinh mà không thấy có chúng sinh nhưng nào thật đáng độ. Nếu có chúng sinh nào được Như lai độ thì Như lai có ngã chấp, đoạn này đầu tiên y theo kinh giải thích trái lại. Nếu cho rằng Phật thấy có chúng sinh đáng độ thì Phật lẽ ra đồng với phàm phu, chẳng bằng ông nhập Niết-bàn nên biết. Nếu tin Phật Như lai nhập Niết-bàn như vậy theo nhưng biết không đồng với phàm phu, vì cũng ở cả tin Phật không thấy có chúng sinh đáng độ, chẳng nghĩ là ta độ người. Luận của ngài Thế Thân thì chấp ta độ là lỗi do chấp pháp kia là chấp độ chúng sinh, một câu trên là chung, câu kế là giải thích, một là giải thích chấp có chúng sinh, hai là giải thích khởi tưởng, đều là phá chấp của phàm phu Phật nói có ngã tưởng. Theo hai bản của ngài La-thập và đời Ngụy theo dường như phá nói ngã, theo bản kinh khác và luận này thì Như lai đều nói ngã chấp tức chẳng phải ngã chấp, y theo đoạn trước chấp khổ này, như Phật nhập Niết-bàn như thế mà biết, không thấy có chúng sinh để độ, cũng nên biết Niết-bàn như vậy theo tướng của ngã là tánh không, tại sao Phật nói chúng sinh phàm phu có ngã tưởng v. v.... Nên luận chép: Nếu thật không có ngã mà chấp có ngã là lìa chấp này. Ngã thủ kinh nói tức chẳng phải thủ v. v..., ngã thủ là ngã chấp Phật, là vì phá chấp ngã cho phàm phu, nói phàm phu vô ngã, chỉ có vọng tưởng chấp ngã. Hai Thừa bèn chấp Phật nói phàm phu có ngã tưởng, vì phá chấp này Phật nói ngã tưởng tức chẳng phải ngã tưởng, nhưng mao đạo phàm phu sinh cho là có ngã, danh từ mao đạo người dịch kinh lầm, tiếng Phạm Bà-la-tất-túc-thác-ngật-na. Bà-La-có hai nghĩa: một là mao, hai gọi là ngu, ý kinh này là chấp ngu si, tất-túc-thát-ngật-na, dịch là dị sinh đều thừa nhận nghiệp khác thọ sinh. Nhân dịch kinh thời đại trước dị sinh do ái sinh là phàm phu nên gọi là phàm phu, nghĩa là chấp ngu ở trước gọi đây là phàm phu. Theo bản mới dịch thì ngu phu dị sinh chân đế gọi là anh nhi phàm phu, luận này gọi là Tiểu nhi phàm phu, anh nhi tiểu nhi đều chấp nghĩa ngu, nói phàm phu Hai Thừa ngu si như trẻ nhỏ, chẳng bằng ngã bốn không có tự thể. Nghe Phật nói phàm phu có ngã tưởng liền tìm tên kia chấp có ngã tưởng, vì phá chấp này nên nói là chẳng phải. Theo bản dịch đời Ngụy, mao đạo phàm phu sinh, kia chấp tu là kẻ ngu như súc sinh, gần là chấp loài mang lông, đều là giải thích, hoặc nghiệp ngu phu dị sinh như thứ lớp, tức Hai Thừa phàm phu vì hai hạng này đồng chấp, luận Duy thức gọi là phàm phu. Theo kệ luận của ngài Thế Thân giải thích là chẳng thủ thủ nên biết, do kia không thật nghĩa, cho nên Như lai không chấp thủ. Nhưng do Phật không chấp tức là chấp thủ trong ngu phu, do vậy theo gọi là không thủ thủ.
Thứ ba là phá nói nghi của phàm phu, nếu Phật không có ngã tưởng, cũng nên không nghi là phàm thánh. Vì sao Phật nói có ngã tưởng gọi là phàm phu, nên Phật phá chẳng phải phàm phu. Kinh này phá chấp là tông, e các học giả tìm danh khởi nghi, vì vậy theo Phật theo đó nói pháp để phá nghi, luận này chỉ lặp lại nêu ra ý kinh mà không nêu ra lời giải. Thích Luận của ngài Thế Thân Như lai nói danh phi sinh, không sinh pháp bậc Thánh nên nói phi sinh, giải thích rằng vì vô chủng tánh nên Thánh pháp không sinh, do có Hai Thừa dị sinh khác nhau, luận này lặp lại kinh, lặp lại phàm phu. Dưới đây là: Đại văn thứ tư là nói về danh nhiếp thủ pháp thân nói Phật Như lai nhiếp thủ pháp thân để làm thân. Kinh Như lai địa nhiếp ba thân, vô thượng kiến trí niệm xứ chánh giác và không trụ sinh tử Niết-bàn, tuy có ở cả hóa thân pháp thân, xếp vào đại vị nói lên báo thân. Nhiếp thủ pháp thân nói về pháp thân, trong hành trụ tịnh nói về đủ ba thân pháp, ba, hóa, vì như thứ lớp là ba hành trụ hoặc kia chỉ nói lên ba nghiệp Như lai, ngoài ra đều nói về chung báo thân, hóa thân. Luận Thành Duy Thức thì pháp giới thanh tịnh nhiếp tự tánh thân, vì tự tánh thân là bản tánh thanh tịnh, vì không sinh diệt, vì chứng nhân đắc, không thể nói là các vật như sắc tâm v. v.... Trong phẩm Bốn Trí cảnh trí công đức chân thật sinh khởi sắc thân thường biến, thuộc về tự thọ dụng. Phẩm Bình Đẳng Trí hiện thân Phật, thuộc về tha thọ dụng, phẩm thành sự trí hiện tùy loại chủng chủng thân tướng thuộc về thân biến hóa, đầy theo đủ như luận kia nói. Nay pháp thân nầy tức hai loại đầu đó, nếu có các pháp công đức vô vi đều là pháp thân, ánh sáng vàng vì như như và trí đều là Pháp thân. Theo ngài Thế Thân thì đoạn lớn Địa thứ năm là phá bỏ nghi ngờ, nhưng cũng có ba: đầu tiên mặc dù tướng thành tựu không thể thấy được Như lai, nhưng vì chẳng phải thể kia, pháp thân Như lai là thể mà pháp thân Như lai do thấy tướng thành tựu, so với trí thì biết pháp thân Như lai từ tướng Phước thành tựu, vì vậy theo có ra đoạn văn này. Trong đây Phật nhiếp thủ hai thứ pháp thân làm thân, văn xuôi và bài kệ nói Phật nhiếp thủ pháp thân chân như làm thân chẳng lẽ do tướng thinh sắc mà thấy. Bài kệ sau nói nhiếp thủ năm phần pháp thân vì tương ứng với pháp thân chân như đắc Bồ-đề, chẳng lấy sắc tướng làm Bồ-đề. Năm phần pháp thân kia tức là phẩm Bốn Trí Thân, trong đoạn văn trước phần đầu là văn xuôi phần, sau là kệ tụng. Văn xuôi có sáu: hỏi, đáp, ấn khả, giải thích ngược, thuận theo tổng kết, sau sinh là văn, có thể hiểu theo bản của ngài La-thập thì chia ra văn và lược. Kệ tụng lại ý của văn xuôi có bốn thứ kệ, kết nghĩa kệ cũng lẽ ra là kinh tụng. Văn luận có hai nêu tên thuộc kinh và giải thích, trong lúc giải thích kinh không giải thích kệ văn xuôi ở trước. Luận Thế Thân thì chẳng phải tướng sắc thân, có thể so sánh biết Chư Phật Như lai chỉ có pháp thân, v. v... chuyển Luân Vua chẳng phải Phật, bài tụng này là trả lời nghi ngờ ở trước. giải thích vua Chuyển
Luân chẳng phải Phật, bài tụng này đáp đoạn trước không có nghi, vua Chuyển Luân lẽ ra là Như lai, nghĩa là có nhân nói Phước đức có công năng thành tướng vì quả báo do thành có tướng thì biết năng lực Phước đức được đại Bồ-đề. Nếu vậy theo thì Như lai do tướng thành tựu đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề vì ngăn điều này nên có văn giải thích ngược và thuận kết. Bài kệ chẳng phải quả báo tướng tốt y theo Phước đức thành tựu mà chứng đắc pháp thân chân thật, vì phương tiện hiện tướng khác nhau, nói lên Phước đức quả báo là tướng khác nhau, chẳng đồng với pháp thân. dùng trì nội chứng tướng không khác nhau, phương tiện mỗi mỗi khác nhau, luận giải thích kinh, trước là giải thích bài kệ.
Nếu như vậy theo Như lai giải thích bài kệ đầu: Nữa bài kệ trên nói như thế nào không nên thấy, nữa bài dưới nói không thể thấy. Nay nói "nếu dùng sắc thấy ta" là phàm phu, Hai Thừa dùng tướng tốt sắc thân quán Phật, "dùng âm thanh cầu ta" là phàm phu, Hai Thừa dùng tướng sắc thân Phật tám thứ âm thanh mầu nhiệm và mười sáu âm thinh trang nghiêm quán Phật. Bốn uẩn của Chư Phật thì phàm phu và Hai Thừa không thể thấy biết. Phật chỉ thị hiện hai tướng sắc thinh giúp cho họ thấy nghe khởi nhân duyên vào đạo, phàm phu Hai Thừa và Tiểu Bồ-tát phần nhiều chấp tướng sắc thinh mầu nhiệm của Chư Phật. Do quán Phật mà dùng tướng này, càng không thể thấy được pháp thân vô tướng. Phật phá chấp tướng sắc thinh, dạy theo họ quán pháp thân chân như của Chư Phật. Vì sao đầu tiên giải thích danh sao không nên thấy, như kia chấp tướng sắc thinh, chỉ thấy tướng thinh sắc luống dối, không nên dùng giác này thấy pháp thân chân như của Phật vì sao chấp chướng thinh sắc chẳng thấy pháp thân Phật, vì nữa bài kệ sau nói không thể thấy. Tâm chấp tướng không thể thấy pháp thân Phật vô tướng, vì sao không thấy? luận nói vì chấp các thế đế, pháp thân là đệ nhất nghĩa, chỉ có trí vô phân biệt xuất thế mới chứng hội chẳng thấy sắc nghe tiếng. Vì pháp thế đế thấy cảnh giới sở tri, nhân thực hành đạo tà không thể thấy Như lai, luận giải thích hành đạo tà, gọi hành tà tĩnh, để đắc thiền nói là vắng lặng. Vắng lặng là tên định, chấp tướng Phật bằng thinh sắc mà quán Phật là tu hành chấp tướng tà định, chẳng thể dùng chấp này mà thấy pháp thân Phật, cho nên không thể thấy Như lai. Theo bản đời Đường thì phú-da đoạn, đạo, dứt tĩnh, cả ba đều là tên khác của định, còn pháp thân dứt là dứt tánh, do trí khế chứng gọi là Phú. Nếu quán tướng hóa thân chấp là pháp thân vì chẳng phải chánh chứng gọi là phú tà đoạn, ở trước giải thích ưng là thắng chấp luận là đúng, sau giải thích trái với luận, còn gọi là tên khác của thiền định. giải thích nghĩa tà định, thiền định cũng gọi là tư Duy tu, tư thuộc về ý, ý là tư lương nghĩa, khi muốn nhập định, trước tiên ý suy theo nghĩ cảnh định, lúc được chánh định gọi là Tu. Cảnh tướng trong định do định thức biến đổi, là định thức sở chấp lấy, tà định là thế tục đế, thuộc ý và thức, chẳng phải trí vô phân biệt của Bồ-tát, vì không thể nhờ đó mà thấy được pháp thân Như lai. Phật nói không thể thấy Như lai. Kế là giải thích bài kệ thứ hai; nói lên nhân duyên đó không nên thấy và không thể thấy, nữa bài trước là nói lên không nên thấy. Nói pháp thân Như lai như vậy theo vì thể mầu của Như lai không nên chấp tướng vô thức của phàm phu Tiểu thừa mà thấy được nên nói thể mầu Như lai là pháp thân Chư Phật. Theo bản văn đời Đường thì có khác, còn bản của ngài La-thập thì thiếu bài kệ sau, theo ngài Chân Đế và luận này thì câu đầu đều dùng pháp ứng thấy Phật, là thuận đảo ngữ ở phương Tây. Nếu thuận với ngôn ngữ Trung quốc thì lẽ ra do pháp thấy Phật, luận giải thích pháp là nghĩa chân như. Tại sao chỉ dạy theo dùng pháp chân như quán Phật, theo kinh thì pháp Đạo sư là thân vì nói Phật đạo sư chỉ có pháp là thân, chỉ nên dùng pháp chân như quán Phật. Có nhân sinh tâm nghi Phật hiện có tướng sắc mầu thinh mầu, vì sao không cho dùng tướng sắc thinh quán Phật. Luận giải thích như duyên sinh ra thân thanh tịnh của Chư Phật, ở đây không thể thấy, chỉ nên thấy pháp, nói chỉ do quán sắc thinh, sinh ra quả Phật sắc mầu mầu thinh. Theo kinh Đại Phẩm thì Chư Phật nói tát-đề-đà-ba-luân, chúng ta không trụ trong sở niệm nghĩa là thân sắc vàng chói sáng rực rỡ ba mươi hai tướng tốt, là sự sau cùng của pháp thân, nên không thấy được, chỉ nên quán pháp thân chân như Phật, pháp thân chẳng phải chấp lấy tướng tâm sở, do đó luận gọi là như kia không nên thấy.
Kế là giải thích nhân duyên không thể thấy, tức là hai câu ở dưới pháp thể không thể thấy, nói lên pháp thân Phật chẳng phải thô thức sở duyên của phàm phu, Hai Thừa, thức ấy không thể biết rõ thô thức của phàm phu Hai Thừa vì chẳng thấy pháp thân. Hai câu này là nhân duyên không thể thấy lời, luận giải thích lại do nhân duyên gì nên không thể thấy văn dễ hiểu. Vì chẳng phải thật không thể biết, nếu không chứng thấy thật tế chắc chắn không biết. Luận do ngài Thế Thân chỉ thấy sắc nghe tiếng nhân này không thể biết, vì pháp thân chân như Phật chẳng phải cảnh thức, ý giải thích rất dễ hiểu.
Kế là Văn kinh giải thích bài kệ sau, Phật nhiếp thủ năm phần pháp thân tương ưng với pháp thân chân như ở đoạn trước, cho nên được Bồ-đề, không dùng các tướng làm Bồ-đề, cũng không dùng các tướng làm nhân được Bồ-đề. Văn kinh có ba: đầu tiên là hỏi, kế là ngăn, sau là gạn lại giải thích. Theo hai bản của ngài La-thập và đời Ngụy theo đều thiếu văn gạn hỏi giải thích. Văn luận có hai giải thích câu hỏi bên ngoài, vì lìa chấp đắm, thuộc kinh thành ý này, y theo nghĩa trên phá nghi bên ngoài, luận quyển trước phá hai nghi một, phá nghi chấp các tướng của Phật là Bồ-đề, luận trên giải thích câu hỏi này tướng cụ túc, tự thể chẳng phải Bồ-đề. Hai là bác bỏ nghi Phật lúc còn làm Thái tử đầu tiên đầy theo đủ các tướng làm nhân mới được Bồ-đề, vì vậy Luận cũng không dùng các tướng làm nhân được Bồ-đề, ý trước rất dễ hiểu nên không nêu ra đây, luận giải thích không dùng tướng làm nhân, vì tướng là sắc tánh. Trí Bồ-đề chánh giác tức năm phần pháp thân, là tuệ thân do tu đắc, vì trí chánh giác này chứng pháp thân chân như mới được Bồ-đề. Các tướng là sắc tánh, các pháp không thể chánh giác nên biết các tướng không phải Bồ-đề, cũng không dùng các tướng làm nhân để được Bồ-đề.
Dưới đây là của Đại văn Địa thứ năm luận, gọi là không trụ sinh tử Niết-bàn, nếu theo Nhiếp Luận của ngài Thế Thân thì bi trí giúp nhau gọi là vô trụ, do phân biệt với Hai Thừa phàm phu, nêu y theo Đại Phẩm và ý kinh này thì chẳng những hai hạnh giúp nhau mà còn do Bát-nhã không thấy có sinh tử, Niết-bàn đáng trụ nên gọi là Vô trụ. Văn kinh có hai đầu tiên là nói Bồ-tát không thấy có phiền não để dứt do đó chẳng thấy có Niết-bàn để trụ, nói lên Phật không trụ Niết-bàn, vì sao có văn này? Vì lúc ấy đại chúng nghe Phật chẳng dùng các tướng làm nhân mà được Bồ-đề, bèn chấp Chư Phật đồng với Hai Thừa do dứt phiền não, được trụ hữu dư, xả thân này mới trụ vô dư, vì phá chấp này. Kế là nói Phật không trụ Niết-bàn có ba: trước là hỏi, kế là ngăn, sau là gạn lại giải thích. Bản đời Ngụy theo hỏi: Bồ-tát phát tâm Bồ-đề nói tướng các pháp dứt diệt, đã nói Bồ-tát không có hoặc để dứt, là lỗi của người giải thích. Nếu theo bản của ngài Chân Đế cho rằng Như lai nói nhân thực hành Bồ-tát thừa có pháp đáng diệt, đáng dứt chăng? thế thì Phật không nói Bồ-tát có hoặc đáng diệt, đáng dứt. Nếu theo bản đời Đường thì hỏi trực tiếp nhân phát hạnh Bồ-tát thừa mới có pháp chút hoặc hoại hoặc dứt, thì ngay theo nơi đó Bồ-tát không thấy có hoặc để dứt, để bỏ. Theo ngài chân đế giải thích thì diệt tức là diệt tập, nói lên trụ hữu dư, dứt là dứt khổ, nói lên trụ vô dư. Nếu thấy có khổ tập để dứt để bỏ thì thấy có Niết-bàn đáng trụ, nay dạy theo Bồ-tát không thấy có khổ tập để dứt để bỏ vi tế không thấy có Niết-bàn để trụ, cho nên đặt câu hỏi.
Văn luận chia làm hai: đầu tiên nêu tên thuộc kinh, kế là giải thích kinh, trong phần giải thích kinh, đầu tiên là giải thích không trụ Niết-bàn, không trụ sinh tử. Nhưng gạn lại giải thích văn nghĩa cũng không đúng, như giải thích trong câu hỏi nên lấy bản đời Đường để quyết định, như pháp sở trụ để thông đạt. Nghĩa là thông đạt Niết-bàn sở trụ không nhất định là thật pháp để có thể trụ. Không dứt sinh tử, ảnh tượng pháp nói về sinh tử huyễn hóa giống như ảnh tượng, tướng ảnh tượng là do thức biến. Dạy theo các Bồ-tát không nên trụ đắm Niết-bàn, cho nên lưu hoặc phiền não giúp cho hiển bày thọ sinh, trụ trong pháp sinh tử ảnh tượng gọi là không dứt, do được Niết-bàn. Mặc dù ở chỗ sinh tử mà được tự tại làm việc lợi ích, chẳng đồng với Hai Thừa hoàn toàn vắng lặng, do đây nói lên không trụ Niết-bàn. Luận của ngài Thế Thân thì dứt thứ hai bác bỏ nghi, nếu chẳng nhờ Phước đức được đại Bồ-đề thì, các vị Bồ-tát như vậy theo mất Phước đức và mất quả báo. Vì bác bỏ nghi này nên có văn, bài chép rằng:
"Không mất nhân công đức Và quả báo cao quý, Được nhẫn tốt không lỗi Do chứng quả vô cấu. Bày theo tướng Phước đức hơn Vì vậy theo nói thí dụ
Phước đức không quả báo Thọ không chấp như thế".
Hai câu đầu giải thích không nói dứt diệt, đối với các pháp đã không nói dứt diệt là nói lên nhân quả đều bất sinh. Hai câu kế biết vô ngã được thành nhẫn, câu Địa thứ năm, thứ sáu giải thích lại thí dụ, hai câu cuối giải thích không thọ Phước đức. Lẽ ra y theo đây phối hợp, luận giải thích dường như sai lầm. Luận của ngài Vô Trước, dứt kinh văn thứ ba dưới đây nói Phật không trụ sinh tử, luận văn có hai: đầu tiên nêu lên gạn hỏi thuộc kinh, kế là giải thích người Hai thừa và Bồ-tát sơ học nghe Phật không trụ Niết-bàn bèn cho rằng Như lai có sinh tử, cho nên gạn hỏi, thuộc về kinh rất dễ hiểu.
Giải thích thích ba nghĩa trong kinh nói: Phật không trụ sinh tử.
1. Nói Phật xa lìa sinh tử là không vì không có pháp ngã chấp sinh tử, không thấy có sinh tử để trụ, không chịu khổ sinh tử tức là bản tánh Vô sinh nhẫn. Luận của ngài Thế Thân vì hai ngã sinh và pháp xưa nay không thật có.
2. Nói Thân Phật không phải do hoặc nghiệp sinh cho nên không chịu khổ sinh tử hoặc khổ vô sinh nhẫn, do chứng chân như nên hoặc khổ diệt. 3. Nói Vì Phật không chấp Phước nên không trụ sinh tử, chẳng có quả khổ sinh tử đáng trụ tức, là tự nhiên Vô sinh nhẫn, vì từ nhân sinh chẳng phải tự nhiên. Nghĩa là gạn hỏi có ba mà văn chỉ có hai, đầu tiên hợp lại nói Phật vô ngã vô sinh, nên chẳng chịu khổ sinh tử. Từ các vị Bồ-tát trở xuống là nói Phật không có nhân trụ sinh tử nên không chịu khổ sinh tử, nay nói đại thí nhiều Phước đây là nói lên không bằng Phước Bồ-tát, tin hiểu vô ngã vô sinh. Tin là tin Phật vô ngã vô sinh, hiểu là tự mình hiểu vô ngã vô sinh, Phước đức tin hiểu ấy còn nhiều hơn Phước đại thí kia. Huống chi là Phật chứng đầy theo đủ Phước trí vô ngã vô sinh bằng với hư không, mà lại chịu khổ sinh tử. Kế là luận dạy theo giải thích ý vô ngã, do Phật thấu đạt pháp sinh tử là không, vì không có ngã pháp sinh tử, chẳng thấy có sinh tử để trụ nên nói vô ngã. giải thích ý vô sinh thân Phật hóa hiện chẳng do hoặc nghiệp sinh, gọi là Vô sinh, cho nên gọi là vô ngã vô sinh. Trên là giải thích văn, kế là hỏi đáp để nói lên ý hỏi rằng Đoạn văn này nói đại thí đa Phước so sánh nói về Phước không nhiều bằng Bồ-tát tin hiểu vô ngã vô sinh. Vì sao nói Phật không chịu khổ sinh tử? Vì phàm phu dùng tâm chấp tướng tu bố thí, giữ giới v. v... được Phước hữu lậu, còn với trời, nhân hướng Phước báo an vui không có các khổ não, huống chi Bồ-tát thông đạt vô ngã vô sinh với tâm vô tướng tu tự lợi, lợi tha Phước đức nhiều hơn vô lượng vô biên mà lại chịu khổ sinh tử ư! Bồ-tát phần chứng vô ngã còn không chịu khổ sinh tử, huống chi Phật chứng đủ hai vô ngã thân cũng chẳng do hoặc nghiệp sinh, sao lại chịu khổ sinh tử. Cho nên biết Phật sống trong sinh tử mà không nhiễm, như bóng trong gương, trăng đáy theo nước. v. v... Phật không có nhân chấp Phước, trụ sinh tử, chẳng chịu khổ sinh tử. đầu tiên dạy theo Bồ-tát không chấp Phước đức, nói lên Phật không có nhân chấp Phước trụ sinh tử, kế là ngài Thiện Hiện hỏi, sau Như lai giải thích.
Theo hai bản của ngài La-thập và bản đời Ngụy theo dịch mất "nhân" trái với sự so sánh nhiều
Phước ở đoạn văn trước, vì Bồ-tát không chấp Phước đức. Đã giải thích lý do nhiều Phước, bản của ngài Chân Đế và bản dịch đời Đường đều nói riêng rằng Bồ-tát không nên thọ chấp nhóm Phước, luận quyển trước nêu đoạn văn này cũng cho rằng Bồ-tát đối với nhóm Phước không nên thọ, không nên chấp. Lại giải thích vì thọ nói có, chấp là tu đạo kia, nghĩa là lúc tu Phước nói có Phước thể đáng thọ lại chấp Phước đức hay chấp đạo quả lành, dùng tâm này tu Phước là nhân trụ sinh tử. Nay khi dạy theo Bồ-tát tu Phước không thấy có Phước thể để thọ, cũng không thấy Phước nghiệp năng chấp quả báo lành, trong Phước thể và quả đều không nên mê đắm. Vì vậy theo nói không thọ không chấp nhóm Phước. Kinh Đại Phẩm dạy theo Bồ-tát lúc thực hành bố thí chớ chấp đắm bố thí, vì sao? Vì nếu chấp đắm bố thí thì còn trở lại thọ thân, nếu có thân thì không lìa được sinh già bệnh chất, đâu chẳng phải do chấp Phước nên chịu khổ sinh tử. Đức Phật Thích-ca từ khi gặp Phật Nhiên Đăng đã được vô tướng vô sinh, đến nay tuy thường tu Phước, không thấy có Phước thể đáng thọ, cũng chẳng thấy có Phước báo lành năng chấp vì không có nhân trụ sinh tử. Phật không trụ sinh tử, luận giải thích văn này nên không nói lại, kế là giải thích câu hỏi của ngài Thiện Hiện, vì Đức Thế tôn ở các chỗ khác nói nên thọ nhóm Phước, nghĩa là các chỗ nói tu trải qua sẽ được Phước vô lượng vô biên. Vì sao lại dạy theo Bồ-tát không thọ, không chấp Phước đức. Văn giải thích Như lai nói ta không thọ chẳng phải không tu Phước mà mê đắm nên nói thọ mà không chấp. Luận vì phương tiện nên thọ mà không nên chấp, không có nhân chấp Phước trụ sinh tử, nên không trụ sinh tử. Luận của ngài Thế Thân không sinh hai vô ngã tướng nên thọ mà không chấp, nghĩa là khi các vị Bồ-tát đắc pháp nhẫn có thể hai thứ ngã sinh pháp ngã là không, mà đối với hai vô chẳng sinh hai tướng gọi là thọ mà không chấp. Chấp đắm Phước đức cầu quả hữu lậu gọi là thủ, thủ chấp đạo lành này là có lỗi, cũng như chẳng phải lỗi của đạo thiện, như chấp chẳng phải đạo. Nếu không chấp Phước đức lành mà được quả hữu lậu, lúc tu như vậy theo gọi là thọ Phước đức mà không chấp đắm.
Của Đại văn thứ sáu Luận gọi là hành trụ tịnh, ở đây nói ba nghiệp của Phật, hành trụ đều không nhiễm nên gọi là tịnh. Vì sao có văn nầy? Vì giải thích và hàng phục điều nghi nên thành nghĩa không trụ sinh tử ở đoạn văn trước. Phàm phu, Hai Thừa thấy ba nghiệp hành trụ của Phật chẳng khác chúng sinh, làm sao thọ sinh mà không nhiễm? Kế là nói Phật thị hiện hành trụ khác nhau mà không đắm nhiễm, y theo trụ chia thành ba: đầu tiên gọi là oai nghi hành trụ tịnh, thân nghiệp của Phật hiện hành trụ mà chẳng phải hành trụ. Kế là danh sắc quán tự tại hành trụ tịnh, ý nghiệp của Phật quán sinh sắc kia hành trụ tự tại. Nếu Bồ-tát dùng đầy theo vô lượng v. v... trở xuống thứ ba gọi là bất nhiễm hành trụ tịnh, trong đây có nói pháp bất nhiễm, nói lên ngữ nghiệp hành trụ của Phật trôi lăn nhưng không nhiễm, nói Phật đối với tất cả pháp hữu vi ở trong hành trụ tịnh. Luận gọi chung là hành trụ tịnh, nhưng ở trên đã phối hợp ba nghiệp đoạn này đâu khác với, nghĩa là niệm xứ nói chung tâm sở tác nghiệp của Đức Như lai gọi là tâm cụ túc, hoặc tâm lý tánh, hoặc tâm sự tướng, hoặc báo tâm, hoặc hóa tâm, đều là ở đây nói. Văn tâm lý tánh pháp thân là thể, không tác dụng từ năng chứng nói, ở đây nói ba nghiệp đều y theo theo hóa hiện, vì trí thành sở tác hiện ba nghiệp tức là tác dụng tâm sở của Như Lai. Đoạn trước phối hợp ba nghiệp cả báo thân hóa thân nên khác ở đây, văn kinh trong phần oai nghi có hai. Đầu tiên nêu oai nghi bên ngoài, ngăn phá, kế là giải thích đưa ra lý do. Văn luận có hai: nêu tên thuộc kinh và theo lời gạn hỏi giải thích. Luận của ngài Thế Thân thì dứt thứ ba là phá nghi. Nếu các Bồ-tát không chịu quả báo tại sao các vị Phước đức của Bồ-tát chúng sinh thọ dụng vì bác bỏ nghi nầy nêu văn chia thành bốn dứt:
1. Nói hóa thân bên ngoại lợi ích chúng sinh cũng thọ Phước đức pháp thân không có đến đi, nên không thọ Phước đức.
2. Phá cát bụi là nói pháp thân bên, một hóa thân nhiều.
3. Nếu có nhân cho rằng Phật nói ngã. v. v... trở xuống là nói ngã pháp không thật.
4. Nếu có Bồ-tát dùng đầy theo v. v... trở xuống là nói có vô lượng Phước, có bài kệ rằng:
"Là Phước đức ứng báo
Vì hóa độ chúng sinh
Nghiệp tự nhiên như thế
Chư Phật hiện mười phương".
Bài kệ này là phá nghi bên ngoài, một câu kệ đầu nói về nghĩa không đến đi nói đến đi là hóa thân Phật, Như lai thường bất động, đối với pháp giới chẳng phải một cũng chẳng phải khác. Nữa bài kệ trên là giải thích nghĩa không đến đi, nữa bài kệ là dưới sinh khởi kinh sau. Nếu có nhân nói: Như lai. v. v... đây là nêu nghi chấp của phàm phu, Hai Thừa. Thấy thân Phật hiện các tướng đi đứng, nghĩa là đồng phàm phu thật ra có đi đứng ngồi nằm thì. Hoặc hóa thân thành đạo gọi là lai, nhập diệt gọi là khứ, nhân này không hiểu, giải thích Như lai để ngăn chấp bên ngoài, Phật chứng chân như thành Phật, trong như Phật thật không có đi đứng, ngồi, nằm. Nếu nhân chấp Phật có đến đi ngồi nằm, họ không hiểu "ngã" ở đoạn trước giải thích nghĩa Như lai. Ý gạn hỏi rằng vì sao không hiểu? Vì Như lai là chân như không có mé trước nên chẳng từ đâu đến, không có mé sau nên không đi đâu, chẳng có chặng giữa cũng không có chỗ trụ, chỗ trụ cũng không có, huống chi ngồi nằm mà thật có ư?
Kinh Đại Phẩm chép: Bồ-tát Tát-đà-ba luận hỏi Bồ-tát Đàm-vô-kiệt: Chư Phật từ chỗ nào đến và đi về đâu? Ngài Đàm-vô-kiệt đáp:
Chư Phật không từ đâu đến cũng chẳng đi đâu. Vì sao? Vì các pháp "Như", tướng không lay theo động, các pháp như tức là Phật, trong cái như chẳng những không có tướng đi cũng chẳng có tướng đến. Phật vì chúng sinh dùng nhiều duyên đến đi, tướng chấp gọi là Như lai. Phật chẳng đi về đâu cũng không từ đâu đến, nên gọi là Như lai, là nói bốn oai nghi của thân Phật dường như đi đứng mà chẳng phải đi đứng.
Dưới đây là Trong pháp quán thứ hai phá danh sắc tự tại đi đứng nghĩa là dạy theo tịnh tâm địa thực hành quán phá bỏ danh sắc, nói lên Phật phá danh sắc quán đi đứng tự do nên sinh khởi văn kinh. Luận do ngài Thế Thân dịch thì pháp thân có một, hóa thân có nhiều, thân tha thọ dụng cũng thuộc hóa thân, cả hai văn luận đều có ý khác nhau, y Luận chia khoa kinh có hai: đầu tiên phá hai thứ phương tiện của danh sắc thân. Kế là nếu nhân cho rằng Phật nói ngã kiến, nhân kiến. v. v... là nói lúc thực hành hai pháp quán không phân biệt trong phần trước có ba đầu tiên. Phật nêu giới trên làm câu hỏi, kế Thiện Hiện đáp giải thích lại, sau Như lai nói lại thành lời giải thích của ngài Thiện Hiện. Trong câu hỏi của Phật có hai phần: phần thứ nhất nêu hai lớp trần giới, sau đó đặt câu hỏi chỉ nêu phương tiện nhỏ nhiệm để phá sắc thân tự tha, đầu tiên đáp đủ hai thứ phương tiện, nay nói thiện nam v. v..., nhân cầu Phật địa, dùng ba ngàn cát bụi của thế giới, trước dạy theo dùng phương tiện tế tác phá đất ở thế giới Tam thiên thành cát bụi, tức là phá tự sắc thân thành cát bụi, sau dùng từng ấy thế giới như cát bụi làm cát bụi. Phá tất cả sắc thân của chúng sinh cũng là thành cát bụi, do các chúng sinh mê tướng sắc thân của mình khởi ra tướng ràng buộc, ý đó khởi ra các hoặc nghiệp thô nặng thương ghét v. v... lại phá tất cả sắc thân của chúng sinh cũng là thành cát bụi. Trong câu hỏi phá danh sắc ở trước do không có tác ý phan duyên hạn lượng, vì Bồ-tát thường phan duyên tác ý đối với thế giới nói thế giới Tam Thiên đã phá chung sắc thân tự tha, đâu cần phá đất thế giới khác, phá tất cả sắc thân của chúng sinh. Do tin hành địa nhân phá ảnh tượng sắc thân không có phương tiện khéo léo, vả lại phá một thế giới Tam Thiên là phá sắc thân tự tha. Nay nói phương tiện rộng lớn khéo léo của Phật để phá đất thế giới tam Thiên thành cát bụi, tự sắc thân tuy đất phá thành cát bụi lại dùng đất từng ấy thế giới nhiều như cát bụi so sánh tất cả sắc thân của chúng sinh mà phá cũng là thành cát bụi (đây là dựa vào bản văn đời Ngụy theo giải thích theo bản ngài La-thập có hơi khác).
A-tăng-kỳ là nói vô số cát bụi, văn này có bản có, có bản không. Lại hỏi cát bụi nhiều chăng, đâu cần phải tự nói vô số cát bụi, do các bản thường không có, nên hỏi có hai ý:
1. Nếu không thấy nhiều cát bụi thì không phá sắc thân, là chấp thứ nhất, phải hỏi rõ nhiều cát bụi thành phương tiện tế tác ở trước.
2. Nói lên sắc thân là một phá thành nhiều cát bụi, nên biết cát bụi tuy nhiều nhưng phá thì chẳng phải cát bụi, lại sinh không thấy phương tiện nên sắc thân tự tha là cát bụi, hỏi cát bụi có nhiều chăng? luận của ngài Thế Thân có hai bài tụng giải thích, bài tụng trước giải thích: phá bỏ thế giới nhiều như cát bụi, dùng dụ pháp hóa một nhiều và dụ phiền não hết pháp giới tịnh thanh, bài tụng sau nói cõi là không chẳng phải thật dụ do ba thân là một là khác. Thế giới thành cát bụi thí dụ này chỉ cho nghĩa cát bụi nát vụn nói lên phiền não sinh hết, nữa bài tụng trên nói lên một nhiều, pháp giới xứ chẳng phải đồng cũng chẳng phải khác, phiền não hết chứng pháp thân nghĩa là thô bụi cõi thành bột hư không, được thể của hai chướng thanh tịnh, tức lầm pháp thân, được trong một nhiều có bốn lớp:
1. Thế giới.
2. Phá giới thành cát bụi.
3. Tính cát bụi thành thế giới.
4. Cõi kia đều là cát bụi, nay là bốn thí dụ.
Một thế giới do nhóm cát bụi mà thành, dụ cho dứt phiền não để thành pháp thân, lại dụ cho pháp thân chỉ có một không có hai pháp Phật chứng. Kế là Phá thành bụi dụ cho tha thọ dụng nương theo pháp thân khởi cho nên có nhiều, tính bụi thành thế giới, dụ cho mỗi cõi có một đại hóa thân, trong quyết trạch vị Bồ-tát chứng đắc, cõi đều là bụi dụ cho mỗi bụi cõi du cho trăm ức hóa thân. Vì phàm phu Hai Thừa cùng sở kiến, tha thọ dụng và biến hóa thân tùy căn cơ chúng sinh thấy có khác nhau. Như Bồ Tát Sơ địa thấy báo thân Phật ngồi trên đài trăm cánh hoa, mỗi cánh là thế giới tam thiên lượng có trăm ức hóa thân Đức Thích-ca Mâu-ni. Phàm phu sơ tâm và Hai Thừa thấy, giai vị bốn gốc lành gần với Sơ địa chỗ thấy cũng khác nhau, trên mỗi cánh có một đại tổng chủ hóa Phật vương Tam thiên giới. Do đó trong kinh chép một thế giới Tam thiên là một cõi Phật phải chăng? Như thế bao nhiêu gọi là một cõi Phật? nên nghiệm lời sở trong sáu căn của kinh Pháp Hoa để thành lặp. Nếu đến địa thứ hai thấy thân Phật ngồi trên ngàn cánh sen, có mười vị Bồ-tát Sơ địa thấy trăm Đức Phật, Bồtát bốn gốc lành thấy một ngàn trăm ức cõi nước của đức Thích-ca Mâu-ni, ở đây tùy sự lớn nhỏ. Bồ-tát địa thứ hai thảy theo đều được thấy, cõi trên được thấy cõi dưới, cõi dưới không thấy được cõi trên, nhưng tự thân lượng của Bồ-tát chỗ thấy với một ngàn cánh tổng chủ lớn nhỏ tương xứng, mỗi địa đều như vậy, y theo đầy theo đủ nên biết. Trong kinh chép ta là đức Tỳ-lô-giá-na (Hán dịch là Thọ dụng) mới ngồi trên toà hoa sen, bao quanh trên ngàn cánh lại hiện ngàn Đức Thích-ca, một hoa có trăm ức cõi, mỗi cõi có một Đức Thích-ca đều ngồi dưới cội Bồ-đề, đồng thời thành Chánh giác. Trên ngàn cánh hoa có ngàn Đức Thích-ca liền biết ngàn cánh mỗi cánh đều có một vị Đại hóa chủ, Bồ-tát bốn gốc lành thấy Phật chứng tướng tốt này. Theo bản ngài La-thập thì bụi cõi chỉ có một lớp, lại thiếu nghĩa trên kế lại, có bài tụng:
"Chẳng nhóm họp nên nhóm Chẳng phải chỉ một thí dụ Chỗ nhóm họp chẳng kia Không dụ khác nhau".
Đây là thứ hai nói bụi cõi không thật, dụ cho ba thân chẳng đồng khác. Nữa bài kệ trên giải thích cát bụi tức chẳng phải cát bụi do thí dụ pháp thân hóa thân chẳng phải một khác, pháp giới là bụi bụi cõi chẳng phải một khác. Pháp thân lưu hóa, hóa pháp cũng không tức lìa ký trần, do dụ hóa thân là nhiều, đâu có thật thể của cát bụi nên lại chẳng phải. Nữa bài kệ sau là giải thích thế giới chẳng phải cõi, phá chấp nhất hợp nghĩa y theo nên biết. Luận ấy văn xuôi đầu tiên giải thích hai câu trên, ba ngàn thế giới như thế dụ tướng hợp nhất của. giải thích hai câu sau. Nhưng nhân phàm phu hiểu bài tụng kế rằng: chỉ theo âm thanh mà phàm phu chấp điên đảo. Theo ngài Thế Thân giải thích một dứt này phối hợp giải thích hơi ẩn khó biết, y theo sự nhân xưa trình bày, giải thích của đều không chỉ ra, Đại sư đã dứt mọi đớn đau, từ cố chưa thành bi chẳng phát ngộ. Vả lại tùy sự thấy quê hèn, nếu dùng phép tắc ngõ hầu có chỗ thấy thông suốt, hy theo vọng sửa đổi quyết đoán. Trong phần Thiện Hiện đáp văn chia làm hai: đầu tiên phá riêng danh sắc, kế là hai tướng nếu thế giới trở xuống thứ hai là hợp phá hai tướng danh sắc. Trong đoạn trước cũng có hai: phá riêng sắc thân, là nói tướng phần chẳng thật có nói sở thủ là không dạy theo thực hành quán Phật vô tướng. Đức Như lai Thế tôn nói tam Thiên,. v. v... là phá riêng danh thân, là nói kiến thật có phần chẳng là nói năng thủ là không dạy theo tác quán vô sinh, tuy cũng có cả cả sở thủ vì nay đối sắc thân chỉ có sở thủ, từ uẩn thể chứng. Nói năng thủ thâu sở chấp, tướng kiến tức năng sở thủ, hai thủ y theo tha tức tướng kiến. Tùy theo sự thích ứng giải thích đều được, vì sao trước phá sắc thân, có hai ý:
1. Trừ oai nghi hành trụ tịnh ở trước, nghi sở chứng của Phật như, tuy không có đến đi, tướng sắc thân Phật không có đến đi nên Phật phá bỏ sắc thân ở trước, vì không thành trước thật không có đến đi.
2. Tướng thô thấy tế trước phá tướng phần, tướng phần phá rồi vì thấy không có chỗ nương phá thì dễ nên trước phá sắc, trong sắc có năm. Một là đáp trực tiếp, hai là gạn lại, ba là giải thích ngược, bốn là gạn hỏi lặp lại, năm là dẫn lời Phật trước nói ở thuận thành. Văn luận có hai: đầu tiên nêu tên thuộc kinh, kế là giải thích nghĩa kinh trước, giải thích riêng phá danh sắc, sau hợp phá danh sắc. Trong phần phá bỏ danh sắc chỉ đồng với đoạn trước, giải thích nghĩa riêng, kinh thuộc về phương tiện sau rốt, sau kinh thuộc phương tiện vô kiến. Đáp gạn cát bụi nhiều lại có hai nghĩa: trước nói lại Thế tôn nói cát bụi nhiều, ý thành phương tiện tế tác ở đoạn văn trước nên luận phán rất nhiều lời. Trả lời là phương tiện tế tác, ngài Thiện Hiện nói lại phương tiện tế tác của Phật chẳng phải tự nói. Kế Phật hỏi trần nhiều, ý muốn phá trần là chẳng phải trần không có phương tiện sở kiến, có hai ý này nên đáp là trần nhiều. Lại gạn vì sao đoạn trước nói rất nhiều, thứ ba lại giải thích xếp dứt này vào phương tiện không có sở kiến, luận tránh giải thích ngược có ý nghĩa gì? Nên luận xếp đoạn này vào không có sở kiến phương tiện, luận tránh giải thích ngược có ý nghĩa gì? Phật hỏi cát bụi có nhiều chăng? Chỉ nên đáp thẳng là rất nhiều, vì sao lại giải thích nếu cát bụi thật có Phật thì không nói nghĩa trước. Lời nói này có ý nghĩa gì? Luận tự giải thích nếu trong nhóm cát bụi đệ nhất nghĩa là có, Phật tiền tín hành địa không, nên nói cát bụi chẳng phải cát bụi, trước Phật nói trần tức chẳng phải trần. Nên biết nay hỏi trần nhiều lại muốn nói chẳng phải cát bụi, hỏi trong đệ nhất nghĩa không có tất cả pháp, vì sao nói riêng không có cát bụi? Đáp do phàm phu, Hai Thừa không thể phá cát bụi, hoặc chấp cát bụi là thật, là thường, hoặc chấp trong đệ nhất nghĩa thật có cát bụi là phá vọng chấp này. Nếu nhóm cát bụi trong đệ nhất nghĩa là có Phật thì không nói là cát bụi chúng, thứ tư lại gạn vì sao trước nói trong cát bụi Đệ nhất nghĩa là có Phật thì không nói là cát bụi chúng. Địa thứ năm là dẫn lời Phật ở đoạn trước, thuận theo thành Phật, nói cát bụi chẳng phải cát bụi nên biết hỏi nhiều chăng, lại muốn nói lên chẳng phải cát bụi, vì vậy Luận chép. Đức Thế Tôn nói nhóm cát bụi, gọi là cát bụi do đây tụ thể nhóm không thành tựu nếu khác đây không nói cũng tự biết là nhóm. Nghĩa đâu cần phải nói, Phật hỏi cát bụi nhiều chăng? Nói thể cát bụi là thể không nếu không như vậy thì theo phá sắc thân là nhiều cát bụi. Phàm phu, Hai Thừa đều tự biết là nhiều cát bụi đâu cần hỏi cát bụi có nhiều chăng, biết câu hỏi này là không có sở kiến phương tiện. Trên đây dùng hai thứ phương tiện phá sắc thân, là nói tướng phần không có sở thủ chẳng có rốt ráo, kế là phá sắc thân kiến phần chẳng có, văn kinh rất dễ hiểu.
Văn luận có hai: Trước là nhắc lại kinh thuộc nghĩa, chỉ đồng với nói trước, kế là nói thế giới chỉ thuộc hữu tình nhưng gọi là thân, nay quán danh thân giới là không, ý nói thế giới là chẳng thật có.
Dưới đây là Đại văn thứ hai của hợp phá danh sắc thân, có cả năng thủ sở thủ vô tướng vô sinh, phá tâm năng thủ giúp bất sinh nên gọi là Vô sinh. Trong văn có ba: đầu tiên y theo trước gạn lại, nếu dưới thế giới thứ hai chỉ nêu ra chấp khác nhau, Như lai nói thứ ba là chánh phá. Nay nói lý do vì sao nương theo trước khởi ra lời trách, vì sao trước nói cát bụi tức chẳng phải cát bụi, thế giới tức chẳng phải thế giới. Kế là thứ hai cũng giải thích lại, chỉ nêu ra chấp thể. Nếu chấp cát bụi và danh thân giới là thật có thì đều là hợp nhất vọng tưởng trong vọng tưởng, nên luận giải thích: hoặc thế giới, hoặc cát bụi thế giới, hai điều này đều là hợp nhất vọng tưởng. Tại sao không nêu sắc thân hợp, nhất tướng, sắc thân phá tướng thô tướng dễ biết, bụi cõi phá tướng tế khó biết nên lại phá, nếu chấp hai thứ này là thật có thì cả hai hợp nhất vọng tưởng chẳng phải chữ tướng. Theo bản mới gọi là nhất hợp chấp, theo bản ngài Chân Đế gọi là nhóm nhất chấp, tức là tám món phân biệt trong luận Trung Biên chấp nhất phân biệt, cũng là Địa trì trong tám thứ vọng tưởng chứa nhóm vọng tưởng tám vọng tưởng là?
1. Hợp vọng tưởng là tham.
2. Không hợp vọng tưởng là sân.
3. Hợp không trái vọng tưởng là si. Ba thứ này thuộc về phiền não.
4. Ngã vọng tưởng là chấp minh la ngã.
5. Ngã vọng tưởng của, là chấp chúng sinh là ngã sở. Hai thứ này hoàn toàn là phiền não.
6. Tự tánh vọng tưởng là chấp tự tánh các pháp cũng gọi là tự tánh phân biệt.
7. Sai biệt vọng tưởng là chấp pháp có lớn nhỏ, tốt xấu, v. v..... khác nhau, cũng gọi là sai biệt phân biệt. chứa nhóm vọng tưởng đối với nhiều vật hợp xứ khởi một chấp.
Ba thứ này là tâm phiền não.
Ngài Thiện Hiện biết nhóm danh thân và nhóm cát bụi do nhiều vật hợp thành, đoạn trước tuy khác phá thành không. Sở nhân mới học còn khởi một chấp nên nếu chỉ chấp danh thân giới và trần là thật có thì hai thứ hợp nhất tướng, luận gọi là hai thứ chuyền thủ, đó là Nhất chuyền thủ và sai biệt chuyền thủ, triền là nhất hợp, thủ là chấp tướng, nhưng thế giới là cõi danh thân không thể phá một thành nhiều, chỉ là triền thủ cát bụi là khác nhau trong sắc thân. Nhân chấp có cát bụi là sai biệt chuyên thủ. Luận do chấp cát bụi nhóm họp, ý ngài Thiện Hiện là phá hai chấp này, đầu tiên chỉ hai chấp đều là nhất hợp trong tám thứ vọng tưởng. Thứ ba là dẫn đoạn trước phá bỏ nhất hợp tướng, tức chẳng phải chuyên thủ gọi là an lặp đệ nhất nghĩa, an lặp nhất hợp tướng là đệ nhất nghĩa. Nhất hợp tướng y theo tục đế giả nói là nhất hợp tướng. Đại văn thứ ba của, đức Như lai nói lại thành tựu lời giải thích của ngài Thiện Hiện lý cũng hợp nói phá riêng danh sắc, do kế là hợp phá danh sắc, riêng nói lại thành ý sau: thế đế có chuyên thủ đệ nhất nghĩa nên pháp kia không thể nói. Trong đệ nhất nghĩa không có chuyên thủ đáng nói, nhưng phàm phu Hai Thừa không biết nhất hợp tướng không tìm danh gượng chấp. Cho nên luận dẫn kinh chép tiểu nhi phàm phu kia như nói năng chấp, chẳng phải đệ nhất nghĩa. Luận ngài Thế Thân chỉ theo âm thinh phàm phu chấp điên đảo là giải thích văn này.
Đại văn thứ hai của nói lúc khởi hai pháp quán không phân biệt, dạy theo lúc nhập tương ưng tammuội vô phân biệt, đầu tiên nương đoạn trước khởi ra lời gạn hỏi, nếu nhất hợp tướng tức chẳng phải nhất hợp tướng, chỉ là phàm phu tùy chấp, tức ngã kiến. v.. v... là kiến lẽ ra cũng chẳng phải kiến. Vì sao Phật nói phàm phu có ngã kiến, biên kiến, v. v.... luận này trùng với kinh, bản ngài La-thập không có văn gạn hỏi, kế phá nói ngã kiến. Trong văn có ba đầu tiên là hỏi, kế là đáp, sau Phật là nói lại thành tựu cũng là kiết khuyên Bồ-tát, tất cả pháp nên thấy biết tin hiểu như vậy. Văn luận có hai đầu tiên giải thích phương tiện đẳng chí, kế là nói không, nói dục nguyện và lý do phương tiện, đầu tiên là kiết, đoạn trước đã nói theo rõ sau chưa nói, kế là nêu câu hỏi có bốn môn, sau tùy lời nêu phối hợp giải thích. Đoạn trước là phá chung, phá riêng tác quán vô tưởng vô sinh, đều là không có sở kiến phương tiện nên nói đã nói, chưa nói tịnh tâm. Lúc nhân địa chứng chân tục tương ưng tam-muội vô phân biệt, trong phần phối hợp giải thích, trước là phối hợp giải thích văn này, sau nêu các trụ xứ, đầu tiên là hỏi và đáp nói lên như chỗ không phân biệt. Bồ-tát phát tâm là nói la nói nhân nào không phân biệt, đối với tất cả pháp nói về pháp nào không phân biệt. Thứ tư là phương tiện nào chung câu hỏi đáp ở trước và pháp quán sau thấy biết tin hiểu đều là không phân biệt phương tiện. Cho nên hỏi đáp đã nói: Quán Bồ-tát như thế cho đến quán sát pháp này là nhập phương tiện.
Thế Thân tự trở xuống là đại văn thứ ba của nói ngã pháp không thật, bài kệ ấy chép chẳng phải không có hai pháp đắc đạo, xa lìa ngã pháp, không có pháp ngã này, hai thứ mà đắc Bồ-đề, ắt lìa hai chấp này, vì phương tiện đắc Bồ-đề. Bài kệ này giải thích chung ý văn của một bộ, của vô đắm luận, đầu tiên là giải thích vì sao không phân biệt, đầu tiên hỏi khởi chỉ đáp, sau giải thích văn thích kinh có ba: đầu tiên nhắc lại kinh để phối hợp, kế là hỏi đáp giải thích, quán sát như vậy theo kết chung phương tiện. Vì dùng phương tiện nào cũng chung nên dùng câu hỏi đáp này. Trong phần giải thích câu hỏi đáp, ý hỏi: vì sao nói về như chỗ không phân biệt, nghĩa là Phật tuy nói phàm phu có các chấp ngã nhân v. v..., biết các chấp thể không, không nên như lời Phật dạy theo khởi chấp có phân biệt. Nếu như vậy theo tại sao Phật nói phàm phu có các chấp ngã nhân, v.. v..... Luận giải thích như ngoại đạo nói ngã, Như lai nói là ngã kiến nên an lặp nhân vô ngã. Theo kinh thì như nhân ngu phân biệt của thì, ngoại cảnh, thật ra đều không tập, khí khuấy dục tâm, cho nên dường như bị chuyển. Phật vì phá phàm phu ngoại đạo nên nói có ngã, Phật nói phàm phu chỉ có chấp ngã vọng kiến, thật ra không có ngã. Kinh Hoa Nghiêm vì đối trị dứt trừ kẻ ngu chấp pháp thật ngã của, đối với cái do thức biến ra, giả gọi là ngã pháp. Nay Phật nói ngã bị chấp là không, chỉ giả nói có ngã chấp kia, giống như nghĩa đó. Phật nói phàm phu có ngã kiến, vả lại vì thành lặp lý nhân vô ngã, nội phàm Hai Thừa nghe Phật nói phàm phu các chấp nhân ngã. v. v... của lại chấp Phật nói có nhân ngã chấp đây là pháp chấp. Nay trong kinh Niết-bàn này Phật đều phá các chấp phân biệt của phàm phu Hai Thừa nói lên các chấp thể không, nên hỏi ngài Thiện Hiện ý luận giải thích câu hỏi này Phật vì phàm phu Hai Thừa nói có ngã kiến muốn nói ngã kiến thể không, nói pháp vô ngã nên đặt câu hỏi này.
Luận Thành Duy Thức chép: vì nhập ngã không nói sáu mươi hai pháp, còn Luận Duy thức quyển hai mươi y theo giáo này năng nhập sắc thủ thú vô ngã. Sở chấp pháp vô ngả lại y theo các giáo nhập vào pháp không, như vậy theo các văn đều đồng lời nói này. Văn đáp có ba: đầu tiên trả lời trực tiếp, kế lại gạn hỏi, sau dẫn lời Phật giải thích. Đoạn trước Phật thành lặp lợi ích lớn nói ngã tưởng tức phi ngã tưởng, kia chấp Phật nói ngã kiến, chẳng phải là lời nói đúng. Nếu có ngã kiến thuộc về ngã sở, nếu chấp có ngã kiến lại thuộc về pháp chấp vì chướng nhập tương ưng tam muội. Phật dạy theo quán ngã kiến tức chẳng phải chấp. Luận của ngài Thế Thân thì chấp ngã tức chẳng chấp không thật, chấp luống dối, đây là chướng nhơ nhiệm xa lìa chân như. Đây là nói chấp ngã, chấp vốn không chấp ngã, do không thật thể chỉ là vọng chấp, ngã kiến không thật thể, nhưng pháp chấp cũng vậy. Vì lúc chứng chân như không thấy có hai ngã là chướng nhỏ nhiệm, lại được xa lìa nên biết hai chấp này gọi là không chấp. Ý luận ấy nêu pháp sinh loại chấp tức chẳng phải chấp cho nên phối hợp văn này nhân đọc nên xét kỹ, văn luận thứ ba ý kết chung phương tiện trước dùng văn, tư, tu tuệ, suy theo ra thể của chấp ngã vốn không chẳng khởi các chấp phân biệt mới được nhập vào tương ưng tam muội do đó nên quan sát để nhập phương tiện.
Đoạn văn thứ ba Phật nói lại để thành tựu cũng khuyên người thực Bồ-tát hành thừa, y theo ngã kiến, chẳng phải kiến cũng nên thấy biết tin hiểu tất cả pháp chẳng phải pháp như vậy. Đầu tiên nói lại thành tựu, kế phá chấp tìm danh, Bồ-tát phát tâm Năng Đoạn của chân đế và luận này đều nêu, nhân phát hạnh Bồ-tát Luận phát hạnh Bồ Tát đây là nói nhân nào không phân biệt đáp câu hỏi thứ hai ở đoạn trước. Hành Bồ-tát thừa không nên phân biệt như vậy, đối với tất cả pháp nói pháp nào không phân biệt? ý nói đối với tất cả pháp đều không phân biệt, chẳng phải chỉ ngã chấp v. v... phải nên thấy biết mà tin hiểu như vậy, để đáp thế nào là phương tiện thứ tư. Nay y Luận giải thích như chỗ không phân biệt rồi, quán sát như thế, mà nhập vào phương tiện. Do đó nên biết phương tiện có ở cả ba nghĩa ở trước. Thấy biết tin hiểu theo kinh có ba; luận chia thành hai là định tuệ học tức tâm trí, với hai thời tu, giới vô lậu đều gọi là giới học, vị vô phân biệt nên lược không nói, nếu vậy theo tại sao thành ba câu thấy biết tin hiểu. Luận chép: tri kiến thắng giải thích trong vô phân biệt, ý nói lúc tu vô phân biệt định tuệ riêng tu thành hai, hợp tu nhập quán là một nên có ba câu. đầu tiên nói nên biết như vậy, đây là dạy theo lúc tu định nên biết các pháp chẳng phải pháp. Luận nói là hoặc trí là nhân trí tu vô phân biệt, y theo chỉ Xa--ma-tha. Là lúc tu định gọi là trí phẩm, nhân tu vô ý nói phân biệt, nếu tu định và y theo định khởi mắt trời, v. v... Khi quán các pháp nên biết định tâm định cảnh và pháp sở tri đều chẳng phải pháp, như trước ngã kiến chẳng phải kiến, do đó nói nên biết như vậy, nên thấy như vậy. Luận y theo chỉ Tỳ-bát-xá-na quán chung lý sự, nếu Bồ-tát dùng trí tuệ khi quán các pháp cũng nên thấy rõ các pháp là chẳng phải pháp, như trước ngã kiến chẳng phải kiến. Nên dùng pháp quán tuệ như vậy theo nói không đồng với định trí tuệ gọi là kiến, hai pháp này trong giai vị Gia hạnh, định tuệ tùy tăng tu, hai mươi pháp đều chưa tu. Nên tin hiểu như vậy, giữ cả hai tâm định tuệ, lúc chánh nhập chân quán thì hiểu. Luận rằng: hai pháp này vì y theo chỉ tam-ma-đề cho nên thắng giải, lúc bấy giờ hiểu đúng các pháp chẳng phải pháp, đây là chứng tín thời giải, do đó kinh gọi là tín hiểu. Luận nhiều hơn tri kiến thời giải thích ở đoạn trước nói, nên gọi là thắng giải. Theo Vô Tánh Nhiếp Luận của gọi là pháp giới, nội chứng tương ưng mà khởi ra thắng giải thích thế nào là thắng giải? Luận chép: do tự tại đối với tamma-đề, đây là y theo lúc nhập chân quán lìa chấp tướng chuyển nên gọi là tự tại. Giải tiền chấp tướng giải thích nên gọi là Thắng giải. Vì sao gọi là thắng nội phan duyên ảnh tượng kia gọi là thắng giải? y theo lúc nhập tục quán, giải thích thức nội pháp như ảnh tưởng v. v... gọi là thắng giải thích luận. Nhắc lại kinh để kết luận: hiểu biết như thế rồi mà không trụ pháp tưởng là nghiên cứu sưu tầm các bản đều không có văn kết, chỉ có luận này trùng với kinh có một câu này. Kết ba câu trước, kết ba nghĩa trước suy theo ra thế lực của đoạn văn này cũng có chỗ vô ngại mà chẳng trụ pháp tưởng. Lúc được thắng giải thích này với tất cả pháp không trụ trước tưởng như với tưởng ngã kiến trụ phi kiến, nên Năng Đoạn chép: như không trụ pháp tướng. Bản của ngài La-thập chép: bất sinh pháp tưởng thì không khởi chấp đắm nhưng thiếu chữ "Như". Ở Đây không trụ tưởng chính là nói lên vô phân biệt, trước hai tri kiến ở là gia hạnh, hoặc tri kiến thắng giải thích ba loại đều thuộc phương tiện. Chánh không trụ pháp mới là hai trí căn bản và hậu đắc cho nên, luận nhắc lại kinh kết luận giải thích, hiểu biết như thế rồi không trụ pháp tưởng đây là nói về vô phân biệt. Luận của ngài Thế Thân giải thích ba câu rằng: hai trí và tam muội được xa lìa như vậy, nghĩa là trí thế gian xuất thế gian như luận chép tri kiến, vì cả hai đều nương tam-muội gọi là thắng giải thích vì chấp pháp năng phục và dứt ngã gọi là xa lìa. Thứ hai là phá chấp tìm danh, Phật dạy theo không trụ pháp tưởng vì có pháp tưởng để trụ, sau an lặp pháp tưởng là Đệ nhất nghĩa, phá lời tức chẳng phải pháp tưởng, chẳng phải pháp là nghĩa bất cộng đó gọi là pháp tưởng là nghĩa tương ưng, đều y theo đoạn trước để giải thích.
Đoạn văn lớn thứ ba gọi là bất nhiễm hành trụ tịnh có hai: đầu tiên trong văn xuôi nói Phật nói pháp bất nhiễm, kệ kế văn chép: Phật ở trong trôi lăn mà bất nhiễm. Do đại thí nhiều Phước so sánh thì Phước nhiều chẳng bằng nói pháp bằng tâm vô nhiễm, Phật dùng tâm vô nhiễm muốn cho những nhân nói pháp học theo Phật bằng tâm vô nhiễm nói pháp. Tại sao vì nhân hỏi đáp giải thích tướng nói pháp không nhiễm, nêu đại thí Phước nhiều và nhân thiện nam dùng Phước nhiều đó để so sánh nói pháp mà tâm vô nhiễm. Văn luận có hai: đầu tiên nêu tên gọi thuộc kinh, kế là giải thích nghĩa văn theo đoạn trước xếp vào kinh cũng có hai dứt nghĩa nói lên dễ biết, vượt hơn Thiên vương Bátnhã, Phật tự hai nghĩa giải thích bằng:
1. Dùng tài thí có hết, còn pháp thí vô tận, ở đây nói khi thực hành bố thí tiền của có giới hạn nên thí thì có hết, pháp vô hạn nên nói bất tận.
2. Vì tài thí chỉ được quả báo thế gian, thuở xưa đã được mà đã đọa lạc, nay lại được chắc chắn lại mất đi. Nếu bằng tâm vô nhiễm nói pháp chưa được thì, chắc chắn sẽ được Đại Niết-bàn, đã được thì không mất, tự lợi lợi nhân không bao giò cùng tận, nói đắc quả thời gian khác nhau. Văn Đại luận thì tài thí có được quả khác nhau, đắc nghiệp quả cõi Dục, đắc hệ quả trong hai cõi, pháp thí đắc quả vô lượng đắc quả hệ bất hệ trong ba cõi văn đó căn theo hữu tướng tài thì đối trị pháp thí. Nay đây kiến trí tịnh v. v... trở xuống: là, chỗ nêu Phước đều thí vô tướng quả cũng vô lượng, nhưng so sánh pháp thí, pháp thí cũng hơn Phước đức, trí tuệ gọi là dẫn đường. Vì chính đạo pháp Phước là trợ giúp, có lợi ích to lớn lao này, do đó Phật khuyên tu. Luận thì có lợi ích lớn như vậy, quyết định giảng nói mà không đắm nhiễm, thọ trì đọc tụng là nhân nói pháp. Theo cho nên gồm nêu Luận của ngài Thế Thân thì hóa thân thị hiện Phước đều là Phước vô tận, tuy tác nghiệp hóa thân Phật, mà lúc nói pháp có Phước vô tận, khuyên nhân học tâm bất nhiễm. Trong phần hỏi đáp có hai ý:
1. Hỏi vì sao giảng nói cho nhân nghe Phước nhiều hơn đại thí?
2. Hỏi vì sao giảng nói cho nhân nghe mà không gọi là giảng nói? Phật tự giải thích không giảng nói gọi là giảng nói. Theo bản dịch đời Ngụy theo tạo tác mà không gọi là giảng nói và theo bản mới đều viết chữ "Như". Nói giảng nói mà như không giảng nói có hai nghĩa:
1. Quán năng nói, sở thuyết thể là không tuy thường giảng nói như không giảng chép: Nên luận chép không thể nói năng cho nên chẳng giảng nói, pháp đó có tự thể thể nói nên giảng nói như vậy. Nếu khác đây thì là nhiễm nói, vì điên đảo, nếu không quán nói thể không thì do chấp tướng tâm nói vì đều nhiễm nói. Theo ngài La-thập không chấp tướng như như bất động, nghĩa là lúc nói pháp như chứng chân như, xa lìa do động, tức các bản khác nói, như không giảng nói.
2. Với tâm danh lợi giảng nói thì tuy hằng nói mà như không giảng nói, cho nên. luận chép: lúc nói như vậy theo không tham cung kinh cúng dường v. v. cũng là nói pháp không đắm nhiễm. Nhưng Phật đối với cuối kinh này nói pháp vô nhiễm, chẳng những nói lên Phật vô nhiễm trong nói pháp mà Phật cũng dạy theo nhân đời sau dùng tâm vô nhiễm. Theo ngài Thế Thân thì lúc Chư Phật nói pháp chẳng nói hóa thân, do không nói như vậy, cho nên kinh ấy nói là lúc Phật nói pháp chẳng nói ta là hóa thân gọi là không giảng nói đây là ý riêng.
Trong pháp trôi lăn bất nhiễm không trụ sinh tử, Luận cũng gọi là không trụ trôi lăn, trước nói chung Phật không trụ sinh tử. Do đạt pháp vô ngã, trong đây nói riêng chín thứ quán hạnh nói lên bất nhiễm, trôi lăn thành ra nghĩa không trụ sinh tử ở trước. Lại giải thích tuy Phật nói không thấy có sinh tử để trụ, nào ngăn ngại sinh tử là có, chín thứ quán Phật pháp sinh tử đều luống dối như mất nhậm v. v... Phật tuy ở sinh tử, sinh tử không thể làm nhiễm ô gọi là trôi lăn bất nhiễm. Luận do ngài Thế Thân dịch đại văn thứ sáu dưới đây là giải thích nghi rằng nếu Chư Phật, Như lai thường nói pháp cho chúng sinh, vì sao nói Như lai nhập Niếtbàn, nghi hóa thân có đến đi, pháp thân không có đến đi. Hoặc khởi nghi chẳng bằng giảng nói, nếu hiểu như vậy theo thì là dứt Địa thứ năm, không khai riêng ra dứt thứ sáu vì dứt nghi này nói chín pháp quán, có bài kệ rằng:
"Chẳng hiểu vì chẳng lìa
Các Như lai Niết-bàn
Chín thứ pháp hữu vi
Vì chánh quán diệu trí".
Đây là nói Chư Phật được Niết-bàn nên không trụ sinh tử, thị hiện làm lợi ích thế gian nên không trụ Niết-bàn, pháp thân thường trụ nhập vào Niếtbàn. Hai câu trên là đáp nghi, hai câu dưới là hóa thân thị hiện thực hành thế gian mà không trụ pháp hữu vi, dùng pháp hữu vi thành chín pháp quán. Bài kệ trong kinh này chia làm ba: câu đầu nêu chung pháp hữu vi là cảnh sở quán, hai câu kế là dùng chín thí dụ dạy theo quán chín pháp hữu vi, một câu cuối kết khuyên tu hành. Kinh Năng Đoạn chép các hòa hợp sở vi nghĩa là nhân duyên của bốn tướng hòa hợp, sinh trụ gọi là sở vi, thể vô lậu hữu vi cũng dời đổi. Hai Thừa nhàm chán nên dạy theo bất nhiễm, hoặc chỉ hữu lậu là sở vi của phiền não, gọi là hữu vi. Hữu tình chìm đắm tạp nhiễm sinh tử dạy theo họ chớ đắm nhiễm nên thực hành chín pháp quán, ngoài ra như lời giải thích thích trong quyển trước của Đại sư.
Tháng năm mùa hạ Khách Tuế, kinh Kim Cương Hội Thích toàn bộ ba quyển mượn được tàng bản ở viện Long Tùng diện Đại Phật khuyến tấn chùa Đông Đại ở Nam Kinh, thấm thoát đã qua năm nay, Ngày năm tháng giêng mùa Xuân năm Bính Tý niên hiệu Văn Hóa thứ mười ba, kính ghi. Thuận Nghệ Chí thông thứ ba mươi hai, cùng trong một năm hiệu đính lần thứ nhất vào Ngày mười chín tháng sáu vào mùa hạ, đến Ngày hai mươi mốt xem xét lại, Ngày hai mươi ba xem lại lần thứ ba, không sai một chữ.
Ngày mười bảy tháng tám năm Kỷ Mão niên hiệu Văn Chánh năm thứ hai mượn được một bản trong tạng thuộc viện Long Tùng ở Nam Kinh, hợp lại hiệu đính. Cùng năm vào Ngày hai mươi bốn tháng mười hai mùa Đông năm Tân Tỵ thứ tư xem xét lần thứ hai. Đến Ngày tám tháng bốn mùa Hạ năm Nhâm Ngọ Địa thứ năm hiệu đính lần thứ ba. Hội thích ba quyển, một quyển trước chỉ giảo nghiệm Long Tùng hai bản tạng vào tối hai mươi tám tháng tư năm Nhâm Ngọ niên hiệu văn hóa năm thứ năm ở Lạc Đông cương kỳ khách xá đã thành công.
Thích Thuận Nghệ xuân thứ hai mươi tám.