TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN

BỘ LUẬN SỚ

SỐ 1818 - PHÁP HOA LUẬN SỚ

Hồ Cát Tạng soạn.

MỤC LỤC

QUYỂN THƯỢNG

DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH ƯU-BA-ĐỀ-XÁ

QUYỂN TRUNG

PHẨM PHƯƠNG TIỆN

QUYỂN HẠ

 


QUYỂN THƯỢNG

DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH ƯU-BA-ĐỀ-XÁ

Bồ-tát Bà-tẩu-bàn-đậu, Hán dịch Thiên Thân soạn Tam Tạng Pháp Sư Bồ-đề-lưu-chi vâng chiếu dịch.

Diệu pháp Liên Hoa kinh Ưu-ba-đề-xá do Bàtẩu-bàn-đậu soạn, Bồ-đề-lưu-chi dịch. Bà-tẩu Hán dịch là Thiên, Bàn-đậu Hán dịch là Thân. Người này vốn là em trai của trời Đế-thích, Đế Thích lưu lại Diêm-phù-đề hàng Phục Tu-la, nên gọi là Thiên Thân. Bồ-đề Hán dịch là Đạo, Lưu-chi Hán Dịch là Hy, dịch chung là Đạo Hy. Có nhiều truyền thuyết khác nhau, không kể ra đây, các bản luận dịch cũng đã có rất lâu, bài lý do không được thịnh truyền ở thế gian có hai ý. Một là đơn ý chỉ văn kinh giản, trước sau dường như lộn xộn, truy tìm thì không biết đầu cuối. Hai là ngày trước đất Bắc sông Nam, thường dùng năm thời bốn tông để giải thích đạo này. Trái với dư luận, các bậc thầy giảng đạo giữ đều cố chấp cũ kỹ, trái Thánh tín phàm, nên không truyền ở thế gian. Ta giảng văn sớ kinh này có ba thứ: Một là dùng cựu tông của Quan Hà Duệ Lang; Hai là dựa vào Long Thụ, Đề-bà giải thích đại ý Kinh; Ba là sử dụng luận cương lĩnh này để dịch Pháp Hoa. Thế nhưng trước đây ba kinh sớ xuất ra vẫn chưa giải luận văn, nay đều giải thích được, giúp cho kinh luận sáng tỏ dễ lĩnh hội Thế nhưng luận này có hai bản: Một là Vô Tiền Tự Trực nói kinh chép: qui mệnh tất cả Chư Phật, Bồtát, đây là lời thỉnh cầu che chở của người biên tập kinh. Hai là Hữu Quy Kính, thứ này là do Thiên Thân tự soạn ra. Nay đều dựa theo hai thứ văn này chia ra làm ba phần: Một là Quy Kính Ba ngôi báu trình bày luận ý, mong uy linh che chở làm phần duyên khởi; Hai là nhắc lại kinh giải thích làm phần chính thể; Ba là nhắc lại Chương Môn tìm hiểu rõ giới dưới làm phần thế còn Đầu tiên có hai: Một là Thiên Thân Quy Kính trình bày soạn luận ý; Hai là người biên tập kinh Quy Kính trình bày việc biên tập kinh ý. Theo phần đầu có hai: Hai bài kệ trước quy kính Tam Bảo trình bày soạn luận ý, một bài kệ rưỡi kế là quy kính Phật tăng, thỉnh Uy Linh che chở. Y theo phần đầu lại có hai: Một là chung với quy kính nhất thể Tam bảo thân soạn luận ý. Kế là quy kính riêng Thích-ca Phật tăng trình bày soạn luận ý. Y theo phần đầu lại có hai: kế nửa bài kệ kệ trước Quy Kính Nhất Thể Tam bảo, nửa bài kệ trình bày soạn luận ý, y theo phần đầu lại có hai: hai chữ đầu nói về lòng chí thành năng kính; tám chữ sau nói về sự cực kỳ tôn nghiêm của đảnh lễ đỉnh lễ là câu thứ nhất.

Đỉnh lễ: lễ có ba thứ là dưới, trung, trên. Trước là nói về trên phẩm người được kính cực kỳ tôn nghiêm, lễ năng phải đặt ở địa vị tối trên ấy la sự cực kỳ tôn kính của sở thích thứ hai Chính Giác Hải Dưới.

Hỏi: Làm thế nào để biết đây là nhất thể Tam bảo?

Đáp: Đã được gọi là Tịnh pháp Vô Vi tăng, là biết nói Thường trú tăng, ở chỗ tăng đã như thế, pháp Phật cũng vậy.

Hỏi: Vì sao lại kính Nhất thể Tam bảo?

Đáp: Đã là kinh Nhất thừa rốt ráo thì phải rõ Tam bảo rốt ráo, lại lấy Tam bảo rốt ráo để hiểu biết rõ Nhất thừa. Nhất thừa là thứ kinh rất đạo của Giang nam Ngũ thời. Chính Giác Hải Tịnh Pháp Vô Vi Tăng nói Chính Giác Hải: Một là pháp thân Phật ở khắp mọi, nơi rộng như biển cả, nên kinh Phổ Hiền Quán chép: Tì-lô xá-na ở khắp mọi nơi; Hai là sâu như biển, nói rằng bảy lần làm mà không cần nói, năm mắt quên sự chiếu rọi. Nên nói là sau ba là một vị như biển, pháp thân bình đẳng, một thân vị như. Bốn là pháp thân đều có một công đức như biển cả có đầy đủ các vật báu, Pháp Tăng còn lại dễ biết là người có sâu sắc trí tuệ, thứ hai là trình bày ý soạn luận lại có dưới, câu đầu là nói giáo vì người.

Thế nào là sâu sắc người có trí tuệ? Nói người sâu sắc có trí tuệ, vừa nghe đã hiểu được điều lợi dưới, được đến, chí lý. Nên luận này không thịnh truyền, chung sanh đời Mạt pháp đần độn cạn cợt đi nhiều. Nên biết được tri âm là ít có. Khai Thị Tỳ-già-điển là duyên đã làm nay đã thành đạo đầy đủ.

Khai Thị Tỳ-già-điển, duyên làm được lợi ích sâu sắc, lý luận đầy đủ sẽ mở rộng, lại có thể gợi ý, là mở rộng và giải thích.

Luận Tỳ-già-la: văn này trích dẫn từ Niết-bàn Bát-nhã để khen ngợi Pháp Hoa ngày nay, chỉ dạy kinh bán tự đối với con trẻ, người trưởng thành thì dạy mãn tự luận, Tỳ-già-la. Ngày xưa nói Ba thừa ngụ dụ đồng với bán tự nay nói nhất cực gọi là kinh mãn tự, cùng dùng lời nói này đả phá lại thuyết năm thời bốn tông. Dùng thứ đó gọi là kinh Độc Niết-bàn. Giáo lý tròn đầy Pháp Hoa, v. v... chính là bán giáo. Tỳ-già-la Hán dịch là tự bản. Luận Tỳ-già-la chưa thấy phiên dịch Hà Tây lãng Sư nói do Bồ-tát Đại Quyền soạn, chỉ cung kính Mâu Ni tôn dưới thứ hai kính riêng Thích-ca Phật tăng. Sở dĩ tu kính riêng Tam bảo có nhất thể biệt thể, nên phải kính chung, kính riêng. Lại giáo chủ Thích-ca hiện là muốn giải thích đạo mà mình nói thì phải kính trọng người giảng kính. Văn có hai: nữa trước là quy kính Phật tăng nữa, sau là trình bày soạn luận ý. Hai chương mỗi chương đều có hai chương đều có hai, là: hai chữ chỉ kiền ở đầu nói về sự chí thành năng kính, tám chữ sau khen ngợi sự cực tôn của sở lễ Chỉ-kiền: chỉ là nặng, kiền là kính trước là chung với lễ, nay lại riêng kính, nên gọi là nặng, cũng có thể trước nói đỉnh lễ dùng âm Trung quốc. Nên gọi là Chỉ kiền là dựa vào sự dạy dỗ của Thiên-trúc, còn chưa hiểu được những thứ về sau, xin đặc hỏi riêng người dịch.

Mâu-ni tôn và Bồ-tát Thanh Văn: lệnh pháp đem lợi cho mình cho người là nói trình soạn luận ý, cũng mở ra làm hai, câu đầu trình bày soạn luận ý. Lệnh pháp tự lợi lợi tha: là nói về sự giải thích, pháp này mầu tự có được lợi ích, là nói tự thành Phật, liền được truyền thụ cho người, khiến họ cũng thành Phật. Lược nêu luận Lặc-già, là thứ hai nói về soạn luận.

Lược nêu luận Lặc-già, sự giải thích vòng vo từ đầu đến cuối, nói rằng để mở rộng luận. Nay rút bỏ những điều cốt lõi chấn chĩnh đề cương như là rút bỏ sừng răng của loài tê voi, rút bỏ lông vũ của loài lông cánh. Luận Lặc-già là Ma-được-lặc-già, nói về giải thích luận A-tỳ-đàm. Đây trở thành cảnh giới, tìm được ý chỉ của luận này sẽ giải thích được tự lợi lợi tha là cảnh giới sinh giải, quy mệnh qua đời sau. Lần thứ hai nói về kính thỉnh hộ là mở làm hai, bán hành chí kính. Một bài kệ thỉnh hộ cả hai. Điều thứ hai là hai chữ quy mệnh, là nói sự chí thành của năng quy.

Quy mệnh-Kế là nói về sự cực tôn của sở kinh.

Đời sau, hiện tại, Bồ-tát Hoằng Từ giáng thần lực nguyên thí ngã vô úy.

Hoằng Từ giáng thần lực giúp cho điều ta nói hợp lý xứng cơ, không có những lỗi lầm hợp lý xứng cơ, nửa bài kệ kế là thỉnh đại bi che chở thoát khỏi bốn ma thêm lớn Tam-Bồ-đề. Đại bi ngăn bốn ma che chở bồ-đề thêm lớn.

Câu đầu xin lìa bỏ những đều nên lìa bỏ. Kế là nói những điều nên được đều được. Kinh nói: quy mệnh tất cả Chư Phật Bồ-đề. Tập kinh thứ hai này là những lời thỉnh hộ, kinh chép: quy mệnh tất cả Chư Phật Bồ-đề. Tiền quy kính này trình bày ý soạn luận, thỉnh cầu uy linh che chở. Lời quy kính nầy là do người biên tập kinh muốn nêu ra kinh phật, cũng thỉnh uy linh che chở, Tất cả các kinh đều có lời nầy, thế nhưng tùy gửi vào câu văn ẩn lộ có khác nhau, nên kinh chép: Tôi nghe như vầy. Đây là chứng minh thứ hai thể luận. Thế nhưng luận lược khó rõ. Nay dẫn ra hai đều để nêu thể ví dụ: một là nói về sự khác nhau giống nhau giữa hai kinh, hai là nói về cách soạn luận này.

Giữa Hai kinh đồng khác: Là kinh do La-thập dịch và kinh đới luận do Lưu-chi nêu ra. Văn chương của chúng khác nhau, gồm có năm thứ: Một là cựu kinh lược, luận Kinh rộng như cựu kinh khen ngợi đức của La-hán chỉ có năm câu. Luận kinh có mười sáu câu, hoặc có thể ở bản dưới, rộng lược không giống nhau, hoặc có thể nghe tiếng thường chúng không nơi nào không nhóm họp khen ngợi. Nên La-thập đã lược khen đức độ, muốn có ý làm cho dân chúng nhận thức được kinh là tụng đức, nên nói rộng.

Hai là cựu kinh rộng, luận kinh lược, như phẩm Phương Tiện. Tựa kinh có mười câu là như thế tướng, như thế tính v. v... Luận kinh chỉ có năm môn, là Thiên Thân dùng lược nhiếp rộng. Ba là hai kinh đều không có rộng lược, như khen ngợi công đức Bồ-tát.

Bốn là phẩm thứ lớp trước sau. Cựu kinh chúc lụy ở trước Dược Vương, luận kinh lại ở sau Phổ Hiền. La-thập thì dựa vào ý nghĩa, duyên cớ này đặt ở trước. Thiên Thân đồng kinh thường pháp, nên ở sau.

Năm là danh nghĩa không giống nhau. Cựu kinh nói có sáu mươi hai ức Hằng hà sa Bồ-tát. Luận kinh nói có sáu mươi hai ức Hằng hà sa Phật, La-thập dựa vào văn kinh mà dịch nên nói là Bồtát luận đã dùng ý nghĩa khen ngợi giải thích, phước ấy bằng nhau, là nói Sơ Địa Bồ-tát được pháp thân chân như nên liền thành Phật, vì Quán Ân không hai với sáu mươi hai ức pháp thân nêu gọi là phúc bình đẳng, nên gọi là Phật. Kế là nói luận chế tác không giống nhau, ví dụ như Long Thụ giải Thích kinh, chẳng ngờ mở ra chương môn. Đối với việc sau này truy tìm ngược về trước Thiên Thân giải thích kinh này gồm có hai ý: một là dự định mở cho kỳ hết như ban đầu, chia ra làm bảy phần sơ phẩm; hai là tới sau cùng mới trình bày rõ, như là luận cuối cùng gọi là phẩm Phương Tiện gồm có năm luận. Nói chung là bậc Thánh vận dụng hợp tâm thời. Thiên Thân mở rộng kinh này gồm có ba mươi hai chương. Ba mươi hai chương này là bảy phần tự phẩm, năm ngôn phương tiện phẩm là mười hai. Theo phẩm ví dụ cuối cùng là phẩm Bảo Tháp, phá mười thứ bệnh lợi ích cho mười người là thập đoạn. Theo Dược Thảo Cách Nhất Kinh Minh Thập Vô thượng, lại có mười chương, nên hợp lại thành ba mươi hai. Hỏi: Lúc đầu từ nhà lửa sau cùng đả phá được mười bệnh ở tháp báu, nói làm sao có thể từ Dược Thảo Cánh Nhất Kinh Minh Thập Vô thượng? Đáp: Dựa theo kinh Pháp tạng chép: Bà-tẩu-bànđậu khéo giải tất cả Tu-đa-la nghĩa Tu-đa-la có năm nghĩa: Một là nói là nói lý đi cớ các nghĩa, như phẩm tự bảy đoạn phương tiện năm môn là nói được mười hai thứ nghĩa; Hai là suối vọt, nói rằng ý nghĩa của nó là vô tận, như nước suối tuôn trào. Như sự giải thích ví dụ cuối cùng là ở tháp báu liền từ cỏ thuốc cuối cùng là ở Nhất kinh, giải thích ở hậu kinh mà truy giải ở trước để có ý nghĩa là vô tận là nghĩa nước suối tuôn tràn; Ba là sinh ra, là sinh ra các nghĩa như giải thích đệ thập năng lực công đức cao quý Vô thượng. Khen ngợi sinh ra nhiều công đức kinh vô tận, là nghĩa sinh ra: Bốn là dây mực, trừ bỏ mọi; lấp biết nói lên sự ngay thẳng. Phá mười bệnh gọi là bỏ tà, noi lên mười nghĩa gọi là bày chính; Năm là kết vòng xỏ xâu pháp các Phật. Đó là ba mươi hai chương cùng làm sáng tỏ một đạo, để dạy cho con người, như việc xỏ xâu hoa tô điểm đầu người. Lại giải thích về sau truy tìm nguồn gốc giải thích lên trước. Trong bậc Thánh có trí tuệ vô ngại, bên ngoài có giải thích của vô phương, nên có khả năng tự tại giải thích. Lại từ trước giải thích về sau nói lên điều mục chuyển nhanh. Từ sau giải thích lên phía trước như sư tử ném trở lại. Nếu dịch kinh còn có điều nghi ngờ thì hỏi lại, nên về sau càng được giải thích. Ngày nay nghĩa nhân thân hậu, chương sau có khoa mục riêng còn bậc Thánh ở nước ngoài soạn ra đại thể của luận thì giải thích sơ phẩm đầu thành hai thứ: một là điệp kinh, hai là luận dịch. Điệp kinh chỉ nhắc lại hai chương, là tự phân kinh và chúng phân kinh. Điệp tự phân kinh từ đầu đến kết thúc đều ở Quật sơn, là Điệp kinh tự phân.

Phẩm tựa thứ nhất Tôi nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Phật ngụ tại thành Vương-xá trong núi Kỳ-xà-quật cùng với các vị Đại Tỳ-kheo v. v... trở xuống. Thứ hai điệp chúng thành tựu chia ra ta Thập Dịch kinh do có ba: một là Thanh Văn, hai là Bồ-tát, ba là chúng trời, người. Nay chỉ nhắc lại trước có hai, dùng hai chúng hữu khen ngợi đức nay muốn dịch ra. Nên nhắc lại chúng trời, người không khen đức, lại dịch giải nhiều kinh đã được giải thích nên không nhắc lại. Nhắc lại hai chúng là hai chúng nhắc lại Thanh Văn, cựu kinh có Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni. Nay trong phần nhắc lại Tỳ-kheo, chúng Tỳ-kheo có hai: một là bày danh, hai mà mật hạnh. Nay chỉ nhắc lại hiển danh không nhắc lại mật hạnh, cũng là điều dễ giải thích nguyên nhân không khen ngợi đức. Trong Tỳ-kheo có sáu: một là nêu hiệu chung, hai là xướng số, ba là nói về vị, bốn là khen ngợi đức, năm là nêu danh, sáu là tổng kết. Nay chỉ nêu bốn thứ đầu, không nêu hai thứ cuối. Còn trong Luận thích không giải thích một hiệu chung đầu và thứ năm nêu danh.

Trong số chúng một muôn hai ngàn vị Đại Tỳ-kheo đều là A-la-hán, tất cả đều không còn phiền não, tâm được tự tại, khéo được giải thoát tâm, khéo được trí tuệ giải thoát được tâm, giỏi điều phục được con rồng lớn trong loài người, biết làm những điều nên làm, biết lánh xa những gánh nặng nô lệ, được lợi bởi kết những điều lành, được trí tuệ chính xác, tâm giải thoát được mọi điều, tâm được tự tại tới bờ bên kia. Trong Bồ-tát cũng có sáu môn: một là hiệu chung, hai là xướng số, ba là nói về vị, bốn là khen đức, năm là tên khác, sáu là tổng kết. Còn trong giải thích của hậu luận không giải thích điều đầu tiên và điều thứ hai. Văn đã rõ ràng.

Bồ-tát Ma-ha-tát tám muôn vị đều ở A-nậu-Đa-la Tam miệu Tam Bồ-đề không lui sụt đối với, đều được Đà-la-ni đại biện tài lạc thuyết, xoay bánh xe pháp không lui sụt, cúng dường vô lượng trăm ngàn Chư Phật ở các Phật, trồng các gốc lành ở các chỗ Chư Phật, xưng là Đại từ bi mà tu thân tâm, khéo nhập Phật tuệ thông đạt trí ở bờ bên kia, tên là Phổ Văn Vô Lượng thế giới, độ được vô số trăm ngày chúng sinh luận nói v. v... trở xuống là luận thích thứ hai ý theo văn chia làm hai: thứ nhất là giải thích chung một phẩm, gồm có bảy môn, thứ hai là nêu riêng bảy môn.

Luận chép: trong Pháp Môn của kinh này, đầu tiên là phẩm thứ nhất biểu hiện bảy công đức thành tựu. Phần đầu lại có hai câu: một bộ của pháp môn này là hiệu chung, phẩm thứ nhất là tên khác của một chương, cả bảy thứ đều gọi là công đức, bảy thứ này đều có công năng hiển bày đạo lợi ích chúng sanh nên được gọi là công đức. Trong mỗi chương nghĩa nói đầy đủ, chẳng thừa, chẳng thể phá hoại, nên gọi là thành tựu. Thế nào là bảy v. v... trở xuống là thứ hai là nêu riêng bảy môn văn lại có hai. Đầu tiên là nêu, kế là giải thích văn.

Thế nào gọi là bảy thứ? Một là tự phần thành tựu, hai là chúng thành tựu, ba là khi Như lai muốn nói pháp chí thành tựu, bốn là y sở thuyết pháp uy nghi thuận theo trụ thành tựu, năm là y trên thuyết nhân thành tựu, sáu là đại chúng dục văn pháp hiện tiền thành tựu, bảy là Văn-thù-sư-lợi đáp thành tựu.

Phần Tựa thành tựu v. v... trở xuống thứ hai là giải thích bảy chương môn, chia thành bảy phần, phần đầu có năm: một là như vầy, hai là tôi nghe, ba là một thời, bốn là giáo chủ, năm là trú xứ, nay chỉ giải thích thứ năm. Phần đầu chia thành bốn dư kinh khác đã nói, đều dễ giải thích, nên không giải thích. Luận chép tự phần tựa thành tựu, ở đây nhắc lại thành tựu nghĩa của bài tựa.

Lại phân tựa thành tựu. Trong pháp môn này biểu hiện ra hai thứ thắng nghĩa thành tựu cũng cần phải biết. Thứ hai giải thích tự phần thành tựu, văn có hai: một là giải thích, hai là nên kinh bày chỗ giải thích. Y theo phần đầu lại có bốn, một là nêu hai thứ thắng nghĩa khuyên biết. Thế nào gọi là hai v. v... trở xuống thứ hai là nêu riêng hai thứ thắng nghĩa, như ở dưới thành Vương xá. Thứ ba, đã nêu thành núi hai thứ thắng nghĩa ở chính cử thành sơn, nói pháp môn này là nghĩa tối thắng v. v... trở xuống. Thứ tư là nói về thắng nghĩa.

Trong pháp môn này đã chỉ bày hai thứ thắng nghĩa thành tựu phải biết, hai thắng nghĩa gồm: Một là nói lên thành tựu nghĩa trên hết trong pháp môn, hai là nói lên thành tựu nghĩa công đức. Nên như thành Vương xá hơn tất cả các thành xá khác, núi Kỳ-xà-quật hơn các núi khác.

Hỏi: Vì sao thành Vương xá hơn tất cả thành khác?.

Đáp: Truyện in riêng chép các nước thuộc năm Thiên-trúc có mười sáu nước lớn, năm trăm nước trung bình, mười ngàn nước nhỏ có sáu thành lớn, thành Vương xá là thành lớn nhất. Long Thụ nói: Sau khi Phật diệt độ trong nước, vua A-xà-thế dân chúng giảm ít, nên lập riêng một thành nhỏ, nhưng cũng hơn tất cả thành, huống chi thành Vương xá gốc, ví như kinh này hơn các kinh khác. Hễ gọi là thừa thì có bốn thứ: một là nhân thiên, là Thế gian thừa, hai là Tiểu thừa, ba là Đại thừa, bốn là Nhất thừa. Kinh này chứng minh Nhất Phật thừa, nên hơn các kinh khác. Còn nói kinh này đã cùng tận lý pháp, thông hiểu hết tâm chúng sinh, đầy đủ được ý nguyện của chư Phật. Các đạo trước Pháp Hoa như, Hoa Nghiêm v. v... tuy đã cùng tận được lý pháp, nhưng chưa hiểu rõ được chúng sinh năm thừa đều thành Phật, chưa thông suốt được tâm Chư Phật, cho nêu kinh này là hơn hết. Kết thúc nhất hóa đều cuối, nên hơn hết. Như phẩm Thần Lực chép: Tất cả các pháp của Như lai, mọi thứ đều là thần lực tự tại; Tất cả mọi sự vật tiềm tàng sâu thẳm quan trọng đều được nói hết chỉ ra trong kinh này. Các kinh khác cho dù có dạy rõ nghĩa cũng không thông suốt được tâm Chư Phật, nên kinh này trên hết. Lại như luận nầy phẩm dưới v. v... trở xuống chép: Kinh này có mười bảy tên hiện rõ mười bảy công đức sâu xa nhất, nên gọi là hơn hết. Hỏi: Đại thừa, Nhất thừa có gì khác với kinh này?

Đáp: Có giống, có điều khác. Giống là chỉ một mà bao gồm nên Nhất thừa gọi là Đại, là lớn không có hai, nên Đại thừa gọi là Nhất. Văn ở dưới chép: Vì các thanh nghe nói kinh Đại thừa gọi là Diệu Pháp Liên Hoa, cũng như Thắng-man Nhiếp thụ chính pháp tên là Ma-kha-diễn, nên biết nhất Đại không hai khác, Nhiếp luận gọi là Tiểu thừa, Đại thừa, Nhất thừa. Kim Cương Bát-nhã chép: cho người nói Đại thừa, cho người nói tối trên thừa, nên biết Đại khác với nhất. Nói khác là vì Đại thừa không phế bỏ hai. Nhất thừa đã bế bỏ hai, Đại thừa thầm phế hai, Nhất thừa công khai phế bỏ hai, Đại thừa chỉ là nhân, Nhất thừa là quả. Như luận Trí Độ nói thừa này xuất phát từ Ba cõi cho đến trụ trong Tát-bà-nhã. Tới Phật thừa thì lại đặt tên là Nhất thiết chủng trí, mà không gọi là thừa, nên biết được Đại thừa chỉ có nhân. Pháp Hoa nói ba xe một thành đều là quả vị, nên biết chỉ có quả Nhất thừa. Lại Đại thừa có cả lẫn quả, như luận Thập Hai Môn nói chư Phật sở thừa nên gọi là Đại. Đại sí sở thừa nên gọi là Đại Nhất thừa chỉ có quả lại như Pháp Hoa chép. Nhất thừa là nói quả rốt ráo Bồ-đề Vô thượng. Ở đây chia nhất thừa thì lại có nghĩa khác. Kinh Niết-bàn chép: Phật tính là Nhất thừa bátNhã Thủ-lăng-nghiêm sư tử gầm. Nếu đã như vậy văn là Nhất thừa cũng là nhân không hai với Đại.

Hỏi: Vì sao Nhất thừa nghiêng thuộc về quả?. Đáp: Trước nói Ba quả, rốt ráo đến đây kinh nói hai quả chẳng rốt ráo chỉ có quả Phật mới rốt ráo, nên nói Nhất thừa chỉ thuộc về quả Phật. Núi Linh Thứu tất cả nơi núi; Nước Ma-già-đà có năm quả núi, trong năm quả núi đó, núi Linh thứu là hơn hết.

Hỏi: Như Kinh Thập Địa, v. v... nói mười núi báu, vì sao nói núi Linh Thứu hơn tất cả?

Đáp: Núi Linh Thứu là nơi thường trú của Chư Phật ba đời, các núi khác không bằng, nên nói nghiêng về sự vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là nghĩa tự tại?

Đáp: Đã nói Phật thừa, Phật sẽ liền tự tại, lại các kinh khác sẽ dạy ý nghĩa, kinh này kết thúc chung hội nhất hóa đầu cuối, sinh ra thu nhập, nên gọi là tự tại.

Hỏi: Trong chương môn nói một là nghĩa hơn, hai là nghĩa tự tại, nay lại nói Thành sơn đều là nghĩa hơn, thế nào là tự tại?

Đáp: Tứ hai thắng này nên là Tự tại, lại Vương thành lấy là tự tại, núi phải lấy hơn.

Hiểu rõ được lý do nghĩa tối thắng của pháp môn này, cũng giống Như kinh chép:: Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật trú lại trong núi Kỳ-xà-quật thuộc thành Vương xá. Chúng thành tựu như sau là: chúng phần thứ hai trong bảy thành tựu chia thành hai, trước là nêu, sau giải thích. Chúng thành tựu có bốn nghĩa thành tựu nên biết: Thích đầu tiên nêu bốn chương môn, kế là giải thích có bốn chương môn bốn chương môn là.

Thế nào là bốn? Một là sở thành tựu, hai là hành thành tựu, ba là nhiếp công đức thành tựu, bốn là uy nghi đúng như pháp thành tựu. Bốn chương đầu là giải thích chung, Đại thừa Tiểu thừa có bốn việc này: một sắc thành tựu dưới, giải thích tứ riêng bốn chưởng môn, tứ thành bốn chương khác nhau.

Một là sắc thành tựu, là đại chúng vô số. Sắc thành tựu là nói chung con số đại tiểu hai chúng như từng nghe nói một muôn hai ngàn Bồ-tát có tám muôn dòng nói là vô số, nói lên sự tồn lược nên chỉ gọi chung là không thể nói.

Trong hành thành tựu, giải thích chương hai. Văn có hai: đầu tiên là giải thích chung hai chúng đại tiểu, gồm có bốn hành, sau là giải thích riêng về hành thể của; Hai hành thành tựu có bốn thứ: một là các Thanh Văn nghe tu hạnh Tiểu thừa, hai là nói các Bồ-tát tu Đại thừa, ba là nói các Bồ-tát thần thông tự tại lực tùy thời nói lên năng lực, tu hành các hạnh, mười sáu Hiền sĩ như Bồ-tát Bạtđà Ba-la, v. v... đều không thể suy nghĩ bàn luận, thường nói lên các thứ hình tướng được nói lên ra mà không phải suy xét gì tới các việc được gọi là Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Tỳ-kheo ni, v. v... Nên bốn hạng xuất gia đó nghe thanh danh uy nghi chắc chắn Bồ-tát không giống với Bốn hạnh Bồ-tát, gồm có hai: một là đối với Đại Tiểu, hai là định hay bất định, đại tiểu Thanh Văn nhất định tu Tiểu hạnh, Bồ-tát nhất định tu Đại hạnh. mới có khả năng nói lên hạnh vô định vô phương. Như mười sáu Hiền sĩ có khả năng nói lên bốn chúng Tiểu thừa, là Đại bao gồm tiểu. Đại nói lên Tiểu hạnh. Sau đó, các Tỳ-kheo ni xuất gia Thanh Văn định hạnh, sau cùng chắc chắn sẽ định được uy nghi của người xuất gia.

Hỏi: Vì sao luận lại nêu ra mười sáu Đại sĩ.

Đáp: Mười sáu là vị Bồ-tát tại gia để đối với Tiểu thừa xuất gia là nói đạo tục, nói định bất định, đều là A-la-hán trở xuống. Thứ hai này là giải thích riêng hai thứ hành sự của Tiểu thừa và Đại thừa. Lại có hai: đầu tiên là nêu chung số công đức của Đại Tiểu thừa, sau đó là phân biệt giải thích như vậy.

Đều là các bậc A-la-hán có mười sáu câu nói lên thành tựu công đức Thanh Văn do đó đều không lui sụt đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, có mười ba câu nói lên thành tựu công đức Bồ-đề, Tiểu thừa có mười sáu câu công đức. Luận kinh rộng nên có mười sáu câu, Bồ-tát có mười ba câu. Kinh của La thập đồng với luận kinh của Thiên Thân, những người thành tựu công đức A-la-hán là giải Thích chưởng môn. Trên nay trước giải thích La-hán chương môn ở lại chia thành hai: trước nêu môn ba chương, sau là giải thích môn ba chương.

Người thành tựu công đức A-la-hán Mười sáu câu kia đã nói lên ba môn nhiếp nghĩa, nên biết ba môn đó là? Một là môn trên trên khởi, hai là môn tổng biệt tướng, ba là môn nhiếp lấy sự. Là dùng ba môn này làm mười sáu câu văn kinh của, trên trên khởi môn là giải thích thứ hai.

Môn Trên trên khởi là các lậu đã hết gọi là A-la-hán, vì tâm vì tự tại nên gọi là các lậu đã hết. Bởi các lậu đã hết nên gọi là La-hán, Vì tâm không còn phiền não nên gọi là tâm được tuệ giải thoát, Tâm được tự tại, từ nơi cách xa mà thấy được những gì đáng thấy, nên có tên là không còn phiền não. Vì khéo được ba giải thoát, khéo được tuệ giải thoát, nên có tên là tâm thiện, điều phục được con rồng lớn trong loài người làm điều ác như đi trên đất bằng không gặp trở ngại gì, người đi đường đã tới nơi cần tới, nên điều cần làm đã làm được, con rồng lớn ở trong loài người đã được đối trị, hàng phục được phiền não; kẻ thù, nên việc cần làm đã làm xong, càng không có hậu sinh, như việc tương ứng đã thành được. Nên trút bỏ được gánh nặng trên đường xa, việc cần làm đã làm xong, gánh nặng hậu sinh đã vứt bỏ. Vì thế người cầu lấy lợi cho mình đã vứt bỏ được gánh nặng, chứng được Niết-bàn. Nên người đã hết các hữu kết đã vứt bỏ được lợi mình dứt được nguyên nhân phiền não, nên khéo được tâm chính trí giải thoát, các lậu đã hết. Nên người có tâm tự tại lại khéo biết, gặp đạo tu đạo trí, nên tới được bờ kia, khéo được chính trí, tâm được giải thoát, khéo được thần thông, không tranh giành các công đức như Vô tránh tam-muội, v. v..., nên các bậc Đại A-la-hán tâm được tự tại, tới được bờ bên kia. Mọi người đều biết nghĩa là các vua, vương tử, đại thần, dân, Đế-thích Thiên vua, dưới Thiên Vương, v. v... đều quen biết nên lại là Thanh Văn, Bồ-tát, Phật. Đó là thắng trí giả, thắng trí giả này đều khéo biết gọi là mọi người đều quen biết có thể y theo môn hai nghĩa giải thích: Một là y theo nghĩa giải thích, hai là y theo văn giải thích, có thể y theo hai nghĩa để giải thích, là người học có công đức cao hơn công đức của kẻ phàm phu. Công đức của người Vô học hơn công đức người hữu học, nên gọi là Trên trên. Như ở dưới luận chép: khéo được chính trí tâm giải thoát nên gọi là trên trên công đức, chỉ có La-hán mới được công đức nầy.

Lại như La-hán cũng có hai thứ: Một là độn căn tiểu La-hán công đức vi trên, đây là khen ngợi công đức bậc Đại La-hán nên nói là trên trên. Đại Lahán có hai công đức: Một là trên công đức, hai là trên trên công đức. Mười sáu câu khen ngợi trên trên công đức, lúc sắp sinh khởi trên trên công đức này. Theo dưới Thích Văn đã nói trên trên là một trên là trên một trên là dưới. Trên, dưới lẫn nhau hiện thích là môn trên trên khởi xét trong giải Thích ở dưới đều có năm ý: một là dùng dưới giải thích trên, hai là dùng trên giải thích dưới, ba là dùng trên giải thích trên, bốn là dùng dưới giải thích dưới, năm là dùng trên và dưới để giải thích một câu. Dùng dưới giải thích trên nói các lậu đã hết nên gọi là A-la-hán. Các lậu đã hết, vì tâm được tự tại, nên điều này cũng là dùng dưới giải thích trên. Điều khác với câu trước là trước thì nhiếp, kế dùng dưới giải thích trên. Nay là siêu cú dùng dưới giải thích trên. Dùng không còn phiền não nên gọi là tâm được tự tại. Đây là dùng trên giải thích dưới. khéo được tâm giải thoát gọi là tâm được tự tại. Đây là dùng dưới giải thích trên. Nên câu giải thích tâm tự tại dùng hai câu trên dưới để giải thích. Hỏi: Vì sao tâm được giải thoát, tuệ được giải thoát? Đáp: Luận Trí Độ chép: thuộc ái hết gọi là tâm thoát, thuộc kiến hoặc tận gọi là tuệ thoát, định chướng lại giải thích rằng hết gọi là tân giải thoát Tuệ chướng hết là tuệ giải thoát. Theo Tỳ-đàm định là số, định tuệ là tuệ số, giải thoát cũng là giải thoát số, tương ứng giải thoát với định gọi là định giải thoát, tuệ giải thoát cũng giống như thế. Từ nơi cách xa có thể thấy cái có thể nhìn, nên gọi là không còn phiền não. Điều này đã được giải thích. Những điều nghi ngờ phải do từ cái năng thấy mà sinh ra. Đã xa cách mà nhìn được cái năng nhìn, là sự phiền não không còn khởi nữa. Khéo được tâm giải thoát, tuệ giải thoát, gọi là tâm khéo điều phục. Đây là dùng trên giải thích dưới. Con rồng lớn ở trong loài người là giải thích câu nói ấy. Ở xa biết trước có thể thấy được hết những điều đã nhìn, đó là dùng trên giải thích trên, nay là dùng dưới giải thích trên. Điều ứng tác này là dùng trên giải thích dưới, người làm được điều đã nói chính là ở câu đó, như những việc tương ứng đã được thành tựu, với lý Tứ đế tương ứng. Người buông bỏ các gánh nặng, đây là dùng trên giải thích dưới. Dùng hai câu trên để giải thích câu này! Làm được lợi mình là dùng trên giải thích dưới. Các hữu kết hết, dùng là trên giải thích dưới. Khéo được chính trí tâm giải thoát là dùng trên giải thích dưới. Tất cả tâm đều được tự tại là; giải thích ngang câu đó. Đến bờ bậc nhất kia, là dùng trên giải thích dưới, cũng là giải thích câu nói đó. Đại A-la-hán, trong giải thích kinh ngang, là các vị Đại A-la-hán mà mọi người đều biết. Dùng hai câu trên để khen ngợi đức trong tâm được, tự tại và bờ bên kia để giải thích. Lấy việc tới bờ bên kia là rốt ráo Thanh Văn, nên gọi là Đại A-la-hán.

Hỏi: Tâm được tự tại, vì sao là giải thích Đại A-la-hán?

Đáp: Trước đã giải thích tâm được tự tại đều là định tuệ, cả hai nghi hoặc đều đã hết thì gọi là Tâm tự tại, điều này phải là Đại A-la-hán. Trong giải thích mọi người đều quen biết, trước tiên là hiểu rõ trí thức của phàm chúng. Lại Thanh Văn v. v... trở xuống là nói sự hiểu biết của các bậc thánh. Dùng những điều mà người phàm và bậc thánh đều đã biết nên được gọi là chúng.

Phân biệt chung giải thích môn thứ hai. Đầu tiên là môn nêu chương đều là A-la-hán v. v... trở xuống giải thích môn chung riêng A-la-hán, v. v... Một câu A-la-hán là chung, lậu tận đã phân biệt với mười lăm câu sau. là riêng,

Tướng môn chung riêng đều là A-la-hán. Dưới đây chỉ giải thích chung, không giải thích riêng.

Mười sáu câu đều là A-la-hán v. v..., câu đầu là chung, các câu còn lại là riêng, đều là A-la-hán kia. A-la-hán gọi là tương ứng, có mười lăm nghĩa, mười lăm nghĩa gồm: Một là nên thọ ăn thức uống, đồ nằm cung kính cúng dường; Hai là nên giáo hóa tất cả đại chúng; Ba là nên nhóm họp trong thành ấp; Bốn là nên hàng phục các ngoại đạo; Năm là nên dùng trí tuệ nhanh chóng quán sát các pháp; Sáu là nên nói pháp không nhanh không chậm, đúng như pháp tương ứng không mệt mỏi; Bảy là nên tĩnh tọa ở chỗ vắng, mọi thức ăn uống quần áo đủ sống không chứa dư, ít muốn biết đủ; Tám là nên thường thực hành hạnh lành, không đắng các thiền; Chín là nên thực hành không thánh hạnh; Mười là nên thực hành vô tướng thánh dưới; Mười một là nên thực hành vô nguyện thánh dưới; Mười hai là nên hàng phục thế gian thiền tịnh tâm; Mười ba là nên khởi các thần thông thù thắng công đức; Mười bốn là nên chứng nghĩa đệ nhất thắng công đức; Mười lăm là nên cùng sống như thật với chúng sinh, được các công đức đều làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tổng La-hán hoặc dịch là bất sinh, tặc, Vô trước, Ứng cúng. Ngày nay ngài

Thiên Thân dịch thẳng là ứng. Câu đầu tiên giải Thích trong mười lăm câu, là nói nên thức uống ăn chính là nghĩa ứng cúng. Mười bốn câu còn lại chỉ gọi là Ứng như văn đã nêu. Điều thứ mười lăm nói nên biết như thật đồng với chúng sinh, được các công đức. Nhưng kinh nói: có hai thứ, năm thứ Phật tử, cùng sinh ra từ miệng Phật, cho rằng cùng sinh ra chúng sinh. Một là Bốn quả và Duyên giác gọi là năm thứ Phật tử. Hai là bốn quả là Bồ-tát pháp thất là năm thứ phật tử Nhiếp lấy sự môn là giải Thích thứ ba môn, y theo văn có hai: đầu là nêu chung, kế là giải thích riêng.

Nhiếp lấy (nhiếp lấy nghĩa là nhiếp lấy) sự môn, mười lăm câu nầy nhiếp lấy mười thứ công đức nên biết nói lên quả có thể nói, hoặc quả không thể nói. Mười lăm câu nhiếp lấy nầy, mười thứ công đức nên biết. Là nói dùng mười lăm câu nhiếp lấy mười thứ công đức nói lên quả có thể nói, hoặc quả không thể nói. Một giải thích: khác có quả của hành vi có thể nói, không có quả của hành vi thì không thể nói. Nếu theo giải thích, làm mười tên công đức thì danh vị có thể nói, nếu không làm được mười công đức thì danh vị không thể nói. Mười thứ ấy là gì trở xuống: là nói mười công đức riêng. Một là nhiếp lấy đoạn đức công đức hai câu nói lên như kinh các lậu đã hết không còn phiền não; Hai là ba câu nhiếp lấy các công đức: một câu là hàng phục thế gian công đức Như kinh chép: tâm được tự tại, hai câu là hàng phục xuất thế gian, công đức của người học như kinh khéo được tâm giải thoát, khéo được tuệ giải thoát; Ba là nhiếp lấy không chống lại công đức thuận theo giáo Như lai mà thực hành. Vì thế Như kinh chép: tâm khéo điều phục; Bốn là nhiếp lấy công đức Như kinh chép: rồng lớn trong loài người; Năm là nhiếp lấy sở ứng tác thắng công đức. Sở ứng tác có thể theo pháp cúng dường cung kính tôn trong Như lai nên điều Như kinh chép: nên làm, phải làm; Sáu là lấy đầy đủ công đức, đầy đủ học địa, nên điều như kinh làm, đã làm được hết; Bảy là ba câu đã nhiếp lấy qua công đức: a/ quá yêu, b/ quá cầu mong cúng dường cung kính, c/ vượt quá cõi trên, dưới đã quá Học địa, nên Như kinh chép: trút bỏ các gánh nặng, được lợi mình, dứt hết các hữu kết; Tám là nhiếp lấy lấy công đức trên trên Như kinh chép: khéo được chính trí tâm giải thoát; Chín là nhiếp lấy những lợi ích nên làm cho công đức lợi ích của chúng sinh, Như kinh chép: tất cả tâm được tự tại; Mười là nhiếp lấy công đức trên thủ, Như kinh chép: tức bờ kia bậc nhất.

Một là nhiếp lấy lấy đức công đức của nói lên hai câu. Hỏi: Thế nào là công đức danh đức?

Đáp: Tất cả La-hán phải ứng theo các lậu đã hết, không còn phiền não, nên nói đức công đức.

Hai là ba câu nhiếp lấy các công đức. Hỏi: Thế nào gọi là các công đức?

Đáp: Trong ba câu, câu đầu là hàng phục phàm, hai câu sau là hàng phục bậc thánh, nên gọi là các. Đã nhiếp lấy được quá cũng ba câu sao không gọi là các? Lấy ở nguyên nhân đầu, lại như ba câu sau nói là qua. Ba ứng này là Ba hàng phục công đức, nhưng đặt tên không giống nhau.

Ba là nhiếp lấy mà không trái với công đức. Câu trước nói có khả năng hàng phục cõi. Câu này khen ngợi sự trên thuận của nó, nói rằng được quả La-hán rồi thì mới khéo thuận theo Phật hạnh dạy Bốn là công đức nhiếp lấy thù thắng, nghĩa là trong các La-hán trên hết như con rồng lớn trong loài người.

Năm là nhiếp lấy lấy công đức thù thắng nên làm là nói, tuy được La-hán vị báo ân Phật càng nên kính dưỡng, tôn trọng Đức Phật. Điều kể thứ ba ở trước là thuận theo pháp, câu này đã nói về tôn người quý.

Sáu là nhiếp lấy đầy đủ công đức, học địa phải làm mà, chưa làm nên chưa đầy đủ. Nay những điều phải làm đã làm xong, nên gọi là đầy đủ.

Bảy là ba câu nhiếp lấy qua công đức, trước xếp vào ba quá, đầu tiên là hai quá quá phàm, sau là nhất quá quá cõi trên dưới. Nói rằng quá Học địa thật quá ba cõi. Còn nói cõi trên dưới thì cõi dục là tán, hai cõi trên là tĩnh, nên cõi trên dưới đã lấy ba cõi. Ba câu kế là Hữu học, trút bỏ các gánh nặng thích trên quá ái. Gánh nặng tuy là có năm ấm mà ái là chính. Được lợi mình giải thích rằng quá cầu mệnh cúng dường cung kính. Để được lợi ích Niếtbàn nên không cầu mệnh kính dưỡng lợi lộc ở thế gian. Dứt hết các hữu kết được giải thích trên quá cõi trên dưới. Đã hết ba kiết hữu nên quá cõi trên dưới.

Tám là nhiếp lấy công đức trên trên.

Hỏi: Khéo được chính trí tâm giải thoát, vì sao lại gọi là công đức trên trên.

Đáp: luận nói: trong môn trên trên khởi ở trước chép: tại sao gọi là khéo được chính trí tâm giải thoát, là vì các lậu đã hết. Ý của người giải thích chính là ở chỗ lậu hết. Nên lậu tận là công đức trên trên. Y theo lời văn giải thích các lậu hết trong mười lăm công đức là công đức đầu tiên, nên nói là trên trên.

Chín là nhiếp lấy lấy nên làm công đức lợi ích chúng sinh để cho tất cả tâm được tự tại, có thể tự tại lợi ích chúng sinh.

Mười là nhiếp lấy công đức trên thủ. Luận Tỳbà-sa chép: Ba-la-mật-đa Thanh Văn nghe. Điều này đã vượt qua được bờ thứ nhất bên kia. Bờ thứ nhất bên kia là Ba-la-mật.

Hỏi: Vì sao gọi là bờ bên kia?

Đáp: Tất cả công đức cao quý của La-hán, như Tam-muội Vô Tránh, v. v... đều hiểu biết được rốt ráo, vì thế gọi là bờ bên kia.

Hỏi: Trong mười công đức của kinh La-thập gồm có thứ?

Đáp: Chỉ có ba công đức, các lậu đã hết không còn phiền não nữa. Là đức ở trong công đức là công đức. Được lợi mình hết dứt các hữu kết, là quá công đức thứ bảy. Trong luận về Quá Công Đức có ba câu. Nay không trút bỏ được các gánh nặng thế nhưng đã được đức lợi mình dứt hết các hữu kết. Tâm được tự tại, là công đức thứ hai trong mười công đức. Luận nói các công đức có ba câu, nay chỉ có công đức hàng phục thế gian, gọi là tâm tự tại, khéo được tâm giải thoát, khéo được tuệ giải thoát. Điều hàng phục thứ hai này là công đức Hữu học ở người, nay không thuộc ở đây. Bồ-tát thành tựu công đức, lần thứ hai đặc biệt giải thích công đức của Bồ-tát. Công đức Bồ-tát đã thành tựu, y theo văn có hai, đầu tiên là nêu chung.

Các Bồ-tát thành tựu công đức. Có mười ba câu công đức như sau: thứ hai là giải thích văn có hai, đầu tiên là nêu hai môn, kế giải thích hai môn, đầu tiên lại có hai, trước nêu chung hai môn khuyến tri. Có mười ba câu công đức, hai môn công đức lấy nghĩa ra đã nói lên điều nên biết. Thế nào là hai môn? Ở đây sẽ phân biệt về hai môn.

Thế nào là hai môn? Một là trên chi dưới chi môn, hai là nhiếp lấy lấy sự môn.

Trên chi dưới chi môn nói về tướng chung và tướng riêng. Tướng chung ở trước gọi là trên chi, tướng riêng ở sau gọi là dưới chi. Muốn nói hai nghĩa chung và riêng cành nhánh khác nhau nên gọi là chi.

Nhiếp lấy sự môn lấy mười ba câu nhiếp lấy sự việc công đức quan trọng của Bồ-tát. Nên nói nhiếp lấy sự môn đều ở chỗ Tam Bồ-đề không lui sụt kế biến chuyển là chung. Đây là thứ hai giải thích hai môn, liền thành hai khác nhau. Nay trước giải thích môn trên chi dưới chi.

Môn Trên chi dưới chi là tướng chung và tướng riêng, so với nghĩa nên biết đều được A-nâu-đa-la Tam-miệu Tam Bồ-đề không lui sụt đó là tướng chung, còn lại là tướng riêng không lui sụt. Có mười thứ nói lên nên biết.

Một, là trú nghe pháp không lui sụt. Đây là sự khác nhau giữa mười câu là thứ hai giải thích biệt môn cũng thứ lớp sinh nhau.

Thế nào là mười?

Một, là trụ nghe pháp không lui sụt như kinh đều được Đà-la-ni. Hai, lạc không lui sụt chuyển đại biện tài lạc thuyết.

Ba, thuyết không lui sụt như kinh chuyển không lui sụt thuộc về pháp không lui sụt.

Bốn, chỉ thiện tri thức không lui sụt, dùng tâm nghiệp của bản thân y theo sắc thân nhiếp lấy lấy, nên như kinh cúng dường vô lượng trăm ngàn Chư Phật, nên đã trồng được các gốc lành đối với Chư Phật. Năm, là dứt bỏ mọi nghi vấn không lui sụt, như kinh và các Đức

Phật thường xưng hô, khen ngợi.

Sáu, là Nói pháp vì biết bao nhiêu việc đã nhập vào các pháp không lui sụt, như kinh đã dùng đại từ bi để tu thân tâm.

Bảy, là Nhập vào tất cả trí tuệ như thật cảnh giới không lui sụt Như kinh chép: khéo nhập Phật tuệ.

Tám, dựa vào ngã không, pháp không chẳng lui sụt như kinh thông đạt đại trí.

Chín, nhập vào cảnh giới như thật không lui sụt Như kinh chép: đến bờ bên kia.

Mười, làm những điều nên làm, trụ trì không lui sụt như kinh gọi là nghe khắp vô lượng thế giới, độ được trăm ngàn chúng sinh.

1. Ban đầu nghe pháp không lui sụt gọi là văn trì.

2. Mà vui nói không lui sụt: bên trong tuy nghe pháp mà không quên, bên ngoài lại có biện tài lạc thuyết.

3. Lạc thuyết không lui sụt: nghe pháp mà không quên lại có biện tài, về sau lại được nói pháp. cho chúng sanh nghe.

4. Y chỉ thiện tri thức không lui sụt: Vì ba công đức kể trên đều do thiện tri thức tạo thành nên được nói lại. Nghiệp thân tâm dựa vào sắc thân để nhiếp thụ, nghiệp thân tâm nói ở đây là ba nghiệp của Bồtát để cúng dường trăm ngàn Phật. Dựa vào sắc thân, sắc thân ở đây nói chỉ là thân Phật; Bồ-tát dựa vào sắc thân Phật để gieo trồng gốc lành!

Hỏi: Vì sao không dựa vào pháp thân để gieo trồng gốc lành?

Đáp: Là để chứng minh các việc cúng dường để gieo trồng gốc lành? Nên phải hiểu rõ về sắc thân. Những thứ nhiếp lấy được dựa vào sắc thân Phật để gieo trồng tất cả gốc lành nhiếp thụ.

5. Dứt tất cả nghi không lui sụt: Tuy đã gieo trồng được gốc lành nhưng có nghi ngờ chưa hiểu thì Phật sẽ giải quyết cho. Vì thế đối với Tam bảo không được hoại tín, đã không còn nghi ngờ và giải quyết được, nên phải khen ngợi Phật.

6. Là những gì, những gì gọi là kính thờ nói pháp, nhập vào các pháp kia không lui sụt. Đã được vô nghi, liền đứng thẳng dùng thân, miệng ý nói pháp cho chúng sinh nghe, nên phải trên khởi. Nói pháp vì việc gì, các việc đều không giống nhau, nên phải nhấn mạnh vào chữ thứ nào. Nhập vào pháp kia là đã thấu đạt các thứ pháp môn.

7. Là nhất thiết trí như thật cảnh giới không lui sụt. Phần trên là hiểu rõ từ bi, nay nói về trí tuệ. Nên đó là điều cần thiết thứ hai.

Hỏi: Trí Nhất thiết nói như thế nào là cảnh giới như thật. Đáp: Mọi trí tuệ của Phật và Bồ-tát là cảnh giới đã nhập vào.

8. Là y theo ngã không pháp không chẳng lui sụt. Phần trên đã hiểu rõ hữu tuệ, nay lại nói về không tuệ, nên đều cần thiết.

Hỏi: Ngã không, pháp không vì sao lại gọi là đại trí?

Đáp: Ngã không pháp không là thật tướng các pháp. Lý của thật tướng rộng lớn, dựa vào thật tướng mà sinh ra, nên gọi là đại trí. Lại như Tiểu thừa chỉ được nhân không, tiểu trí. Các Bồ-tát đều được hai không, nên gọi là đại trí.

9. Là cảnh giới như thật không lui sụt. Ở trên nói không có hai tuệ, nay nói không có hai cảnh, cùng có thể tiếp nhận được của cõi trên không tuệ. Nhưng nói về cảnh giới Không là cảnh như thật.

10. Là tác sở ứng tác không lui sụt. Bồ-tát đã đi sâu vào cảnh giới như thật, được đến bờ bên kia, còn muốn cho chúng sinh cũng đến bờ bên kia, nên tiếp với điều trên cũng như vậy làm điều nên làm. chính là giáo hóa chúng sanh giáo hóa chúng sanh là nên làm, vì việc thường giáo hóa chúng sanh không ngừng nghỉ nên gọi là Trụ trì.

Hỏi: Giáo Hóa chúng sanh vì sao lại nói nghiêng về làm đều nên làm?

Đáp: Đại phẩm nói đại sự chính là nói về việc cứu giúp các chúng sinh. Điều này chính là việc mà Bồ-tát thường vẫn nên làm. Trí Luận Độ chép: Bồ-tát được Vô Sinh Nhẫn nên về sau càng không có dư sự nữa, điều duy nhất là đã thành tựu được cõi Phật thanh tịnh cho chúng sinh. Trong đó chứng minh được Bồ-tát vô sinh nhẫn, nên điều duy nhất là phải giáo hóa chúng sinh, nên nói là nói làm những điều nên làm).

Nhiếp thọ sự môn là giải thích nhiếp thọ sự môn thứ hai, hễ có hai vòng thì: vòng đầu là môn phân biệt nêu chương, vòng sau là môn giải thích chương.

Nhiếp thụ sự môn là nói về người nhiếp lấy dùng mười ba câu để nhiếp thụ việc Bồ-tát. Nói lên ra các Bồ-tát ở dưới. Thứ hai là giải thích chương môn, nhập vào văn nghĩa có hai: đầu tiên là nêu ba môn, kế là giải thích ba môn. Người giữ gìn được sự thanh tịnh như thế nào ở trong đó thì được xếp vào ba môn.

Nói lên các Bồ-tát đã sống trong cõi nước thanh tịnh như thế nào, đã có phương tiện như thế nào, ở trong cảnh giới như thế nào, để làm được những việc nên làm. Đất thanh tịnh là nói về vị trí của Bồtát. Luận Thập Địa của Long Thọ chép: Đất là nói các thứ bậc của Bồ-tát ở và sử dụng, vì vậy người đã phương tiện được tới mức độ nào thì được xếp vào chương môn thứ hai. Là ở trong mảnh đất ấy nên làm những việc có tông dụng tốt đẹp thì được gọi là phương tiện. Người ở cảnh giới nào thì được xếp vào thứ ba chương môn? Là làm được những việc đối với cảnh giới, làm những việc nên làm ở trong cảnh giới.

Địa thanh tịnh v. v... trở xuống là giải thích môn Tam chương, là thành ba biệt.

Địa thanh tịnh: Ba địa từ Địa thứ tám trở lên là vô tướng thực hành vắng lặng thanh tịnh là địa thứ tám chín mười vô tướng thực hành vắng lặng thanh tịnh. Định của địa thứ sáu là bất tịnh, giữa hai cõi của địa thứ bảy, vừa tịnh vừa bất tịnh. Địa thứ bảy thứ tám trở lên gọi là Định thanh tịnh địa vô tướng hữu công dụng nên chưa được vắng lặng. Bát địa vô tương vô công dụng, nên vắng lặng vì vắng lặng nên thanh tịnh. Lại cũng được vô tướng là thứ tám địa, vắng lặng là địa. Thứ chín thanh tịnh là nói địa, thứ mười vì thứ mười địa đối với hai chướng hoặc và, trí dứt là chướng kết tập triền hết, nên gọi là thanh tịnh. Phương tiện môn v. v... trở xuống là giải thích. thứ hai.

Địa phương tiện có bốn thứ: Một là nhiếp lấy pháp mầu phương tiện trụ trì pháp mầu, dùng năng lực lạc thuyết để giảng nói cho người; Hai là nhiếp lấy thiện tri thức phương tiện, dựa vào thiện tri thức để làm những việc nên làm; Ba là nhiếp thụ chúng sinh phương tiện để không ruồng bỏ chúng sinh; Bốn là nhiếp thụ trí phương tiện để giáo hóa chúng sinh, giúp cho người nhập được nhập vào trí kia.

Xướng chung phương tiện có bốn thứ:

1. Một là nhiếp thụ pháp mầu phương tiện, nêu phương tiện gọi là Trú trì. Pháp mầu v. v... trở xuống giải thích phương tiện gọi là Trú trì. Pháp mầu tức la trên đều được Đà-la-ni, để được văn trì, ngày nay pháp mầu đã nghe không mất là trụ trì. Người dùng lạc thuyết phục để nhiếp thụ trên lạc thuyết, biện báng xe tài tình, người được thuyết phục nhiếp thụ trên chuyển không lui sụt pháp luận, nên dùng ba câu kinh để nhiếp lấy pháp mầu phương tiện.

Hỏi: Vì sao gọi đây là làm Phương tiện?

Đáp: Là Trụ trì dẫn tới thuyết phục người gọi là phương tiện. Hỏi: vì sao gọi là pháp mầu?

Đáp: Câu đầu đều đối với Tam Bồ-đề không lui sụt, là lấy Bồ-đề làm pháp mầu.

2. Hai là nhiếp lấy thiện tri thức phương tiện, gọi là phương tiện. Y theo thiện tri thức v. v... để giải thích phương tiện. Lại nhiếp ba câu kinh để dựa vào thiện tri thức là văn kinh vô lượng trăm ngàn muôn ức Chư Phật. Người làm điều nên làm nhiếp lấy ba câu văn kinh: một là thu nhiếp cúng dường, hai là nhiếp lấy các Đức Phật đã gieo trồng lành mà, ba là nhiếp lấy những điều thường được các Đức Phật che chở. Ba thứ này dựa vào thiện tri thức, là việc phải làm.

3. Ba Nhiếp thụ chúng sinh phương tiện là nêu tên phương tiện, lấy việc không xả bỏ chúng sinh để giải thích phương tiện, là lấy kinh để đại phương tiện, là để nhiếp kinh dùng đại từ bi mà tu thân tâm.-Bốn nhiếp lấy trí phương tiện là nêu tên phương tiện, để giáo hóa chúng sinh, khiến nhập trí kia là: giải thích phương tiện, là dùng kinh khéo nhập Phật tuệ để thông đạt đại trí.

Cảnh giới là dị giải: cảnh giới dị giải là giải thích điểm thứ ba ở trên, là ở trong cảnh giới như thế nào thì nên làm những điều phải làm, là nhiếp kinh được đến bờ bên kia. Nên trong luận văn ở trước chép: cảnh giới như thật không lui sụt là đã đến được bờ bên kia. Lại như ở văn sau giải thích cảnh giới ba trí, nên ở đây văn không giải thích. Lại có nhiếp lấy sự môn, vòng thứ hai giải thích lại nhiếp lấy sự môn, đầu tiên là nêu môn.

Lại có nhiếp lấy sự môn: Từ nói lên các địa hấp lấy công đức, cao quý v. v... trở xuống là: giải thích môn, là với môn trước khác. Tiền môn là nói địa vị và cảnh giới phương tiện. Ở đây là nói công đức nhiếp lấy của trên địa.

Việc nói lên các địa nhiếp lấy công đức cao quý không giống như công đức Hai thừa, nên trong thứ tám địa trí vô công dụng khác nhau giữa địa trên địa dưới. Cái không giống với địa dưới, công dụng của địa dưới là không thể động được, không giống với địa trên là vô tướng hành bất năng động. Nên tự nhiên mà thực hành ở trong địa thứ chín được thắng tiến Đà-la-ni môn cụ túc bốn trí vô ngại tự tại. Nên trong địa thứ mười xoay bánh xe pháp không lui sụt, được nhận ngôi vị phật như Thái tử vua của Chuyển Luân, nên đã dùng được đồng để nhiếp thụ nghĩa công đức.

Khác với Hai thừa công đức: công đức trong phần nói chung về các địa không giống như Hai thừa. Trong Thứ tám địa không có công dụng dưới đây được phân biệt rõ công đức trong địa thứ ba, không giống như địa trên địa dưới là vì vậy. Phân biệt với công đức, của địa thứ tám là hiệu đầu tiên khác với cõi trên cõi dưới. Từ chỗ khác với cõi dưới giải thích sự khác nhau với cõi trên cõi dưới. Công dụng của địa dưới không thể động được, từ Sơ địa tới Thất địa đều là vị công dụng. Lấy trong vị công dụng chia làm hai phần trên và, dưới. Địa Thứ sáu trở xuống gọi hữu tương hữu công dụng là nhất vị. Một địa thứ bảy gọi là vô tướng hữu công dụng là một vị. Nay bước lên thứ tám địa không vì hai công dụng trên dưới như vậy mà động được. Tự nhiên thực hành là địa thứ tám vô tướng vô công dụng. Dùng sự vô công dụng nên nói là tự nhiên thực hành.

Lại chia Thập địa ra làm ba vị, một là vị hữu tướng hữu công dụng vị, hai là vô tướng hữu công dụng, ba là vị vô tướng vô công dụng. Từ sơ địa tối địa thứ sáu vị gọi là vị hữu tướng hữu công dụng. Địa thứ bảy là vô tướng hữu công dụng. Địa thứ tám là trên vô tướng vô công dụng. Luận nói rằng công dụng địa dưới bất năng động là vị thứ hai, tự nhiên thực hành là vị thứ ba. Hỏi: Vì sao nói công dụng địa dưới trên vô tướng hành bất năng động?

Đáp: Chính là sự giải thích tên gọi bất động địa. Nên gọi bất động là không vị hai công dụng mà động, nên đặt tên là bất động. Chỉ có luận Pháp Hoa có ba vị này, các luận khác thì không.

Hỏi: Bất đồng Hai thừa và Bất Đồng dưới vị được giải thích ở kinh nào?

Đáp: Giải thích trước hết ở Tam Bồ-đề không lui sụt. Nhất không lui sụt là Hai thừa khác với địa trên, Hai thừa công đức nói năng miễn trừ cho sự thoái hai. công dụng địa dưới bất năng động nói về hạnh không lui sụt. Địa Trên vô tướng hạnh bất năng động nói về niệm không lui sụt. Để miễn trừ lui sụt, nên nói Tam-bồ-đề không lui sụt. Cũng từ sự khác nhau với công đức Hai thừa, cuối cùng dẫn đến tự nhiên thực hành đều là giải thích công đức của địa thứ tám. Sau đó địa thứ tám được gọi là địa không lui sụt, là để miễn trừ ba lui sụt. Còn ở địa thứ chín thì giải thích của công đức của địa thứ chín. Được thắng tiến Đà-la-ni là trên sự nhiếp thụ đều được Đà-la-ni. Đầy đủ bốn trí vô ngại nhiếp thụ được biện tài lạc thuyết ở trên. Là Bồ-tát địa thứ chín đầy đủ mười hạt giống trí vô ngại. Trong địa thứ mười đã làm đơn giản hóa công đức của Địa thứ mười.

Không lui sụt bánh xe pháp: xuất xứ từ văn kinh thuộc về bánh xe lui sụt để được cùng nhiếp thụ nghĩa công đức, là nhiếp thụ trên thiện, nhập vào Phật tuệ rồi đưa xuống văn kinh, đã nói khéo nhập Phật tuệ, là đồng tuệ gọi là đồng nhiếp công đức với Phật. Lại dựa vào nhân nghĩa năm trong Nhân Vương kinh. Thứ năm là tịch diệt nhẫn Phật và Bồ-tát cùng có nhẫn này. Dưới nhẫn là Bồ-tát, trên nhẫn là Phật, nên nói là cùng nhiếp thọ công đức. Sơ vị nhiếp thụ khen ngợi công đức của Bồtát. Từ sơ Tam-bồ-đề không lui sụt là khen ngợi công đức của địa thứ tám, đều được Đà-la-ni, lại thuyết biện tài khen ngợi công đức thứ chín, tứ xoay bánh xe pháp không lui sụt cuối cùng sẽ độ được trăm ngàn chúng sinh, khen ngợi công đức địa thứ mười.

Nhiếp công đức thành tựu thứ ba, chúng thành tựu có bốn môn. Một là số, hai là hành đã xong, ngày nay giải thích là Nhiếp công đức thứ ba, ở đây muốn hiểu từng tận luận văn này thì phải thông hiểu sự giải thích công đức của hai chúng, Đại, Tiểu, hai môn trước đặc biệt giải thích công đức hai chúng. Nay giải thích hai môn sau, nói chung về công đức của hai chúng Đại, Tiểu. Y theo văn có hai, đầu tiên là nêu chương.

Nhiếp công đức thành tựu, thứ ba nói lên dựa vào đâu để giải thích chương môn, y theo văn có hai, đầu tiên xếp vào môn năm chương, là hỏi.

Nói lên y theo nơi nào, căn cứ vào tâm nào, y theo trí nào, căn cứ vào cảnh giới nào để phân biệt. Từ chỗ dựa vào chỗ nào để giải thích môn ngũ chương, là đáp.

Y theo nơi nào? Y theo thiện tri thức. Dựa vào tâm nào? Ta dựa vào tâm độ chúng sinh giáo hóa rốt ráo làm lợi ích tất cả chúng sinh.

Dựa vào trí nào? Dựa vào ba thứ trí, một là thọ ký mật trí, hai là chư thông trí, ba là chân thật trí.

Dựa vào cảnh giới nào? Dựa vào chỗ nào để giải thích được là ba thứ trí có khả năng thích ứng để biết được. Tất cả công đức của Hai thừa Bồ-tát có đều phải dựa vào thiện tri thức mà. Đầu tiên phải hiểu ràng dựa vào thiện tri thức. Dựa vào tâm, câu đầu tiên phải hiểu rõ, ở trên phải có chỗ dựa. Câu này nói v. v... trở xuống có lợi cho Bồ-tát như thế. Hai thừa cũng được phân chia, nêu trước giải thích La-hán. Trong môn chung riêng chép: nên giáo hóa đại chúng tất cả mọi sự mọi việc nên gọi là Ứng. Cho đến câu thứ mười lăm nói nên biết như thật đồng sanh với chúng sinh được các công đức, vì lợi ích cho tất cả các chúng sinh. Nên biết Hai thừa cũng có tâm dưới tế. Dựa vào trí nào để giải thích đệ môn trí chương thứ ba. Thọ ký là việc sâu kín ở vị lai, nên nói thọ ký là mật trí. Việc thông trí là năm thần thông đều lấy trí tuệ làm thể. Ba thứ trí chân thật nói về trí vô lậu và trí chiếu không.

Dựa vào cảnh giới nào để thực hành, dựa vào năng lực nào để biện luận? Hợp cái thứ tư và thứ năm đó lại, là ba thứ trí có thể nhiếp thọ để biết. Hợp lại để giải thích thứ tư, thứ năm! Nói rằng trí có công năng chiếu cảnh là giải thích nghĩa cảnh giới. Dựa vào ba trí để chiếu cảnh sanh ba trí nên gọi là năng biện.

Hỏi: Luận chủ dựa vào văn nào để nói về năm môn này?

Đáp: Lại dựa vào sự khen ngợi đức của Bồ-tát, trong đó sinh khởi năm môn này. Vòng thứ hai ở trước nhiếp thụ sư môn, khen ngợi ba địa thứ tám, thứ chín, thứ mười. Địa thứ mười chỉ giải thích xoay bánh xe pháp, không lui sụt. Từ việc cúng dường vô lượng trăm ngàn Chư Phật đến việc có thể độ vô lượng trăm ngàn chúng sinh. Văn chưa được giải thích, nay muốn giải thích văn kinh này phải chia thành năm môn, bắt đầu từ việc dựa vào thiện tri thức, là cúng dường vô lượng trăm ngàn ức Chư Phật. Dựa vào tâm nào? Là đại từ bi tu thân tâm bằng. Dựa vào trí nào? Là khéo nhập vào Phật tuệ để thông đạt đại trí. Dựa vào cảnh giới nào để tới bờ bên kia? Dựa vào năng lực biện luận nào để độ được vô lượng trăm ngàn chúng sinh.

Hỏi: Nếu dựa vào việc khen ngợi công đức Bồtát, thì khởi lên năm môn này làm sao giải thích Hai thừa?

Đáp: Hai thừa cũng có nghĩa nhờ cậy bề trên cứu giúp kẻ dưới, nên được thông minh.

Bốn uy nghi đúng pháp trụ thành tựu, giải thích thứ tư, trước tiên hết là nêu chương.

Bốn uy nghi đúng pháp trụ thành tựu, có bốn thứ sau: giải thích chương lại có hai. Bây giờ giải thích trước, có bốn thứ nói lên, bốn thứ ấy là: Một là chúng vi nhiễu, hai là tiền hậu, ba là cúng dường cung kính, bốn là tôn trọng khen ngợi, kế là trình bày kinh xứ, Như kinh chép: bây giờ. Đức Thế Tôn, bốn chúng vây quanh cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi. Những điều này cũng có ở cả hai thừa Đại Tiểu.

Hỏi: Kinh nói là bốn chúng vây quanh thế nhưng nghe nói có hai chúng xuất gia, hai chúng tại gia vì sao có cả Bồ-tát?

Đáp: Bồ-tát cũng có tại gia xuất gia, Luận Trí Độ chép: Bồ-tát phải tùy trong bốn chúng. Bốn chúng chưa hẳn đã tùy trong Bồ-tát. Khi Như lai muốn nói pháp đã đến thì sẽ thành tựu. Giải thích lúc muốn nói thứ ba trong bảy phần.

Hỏi: Nay chính là nói kinh Vô Lượng Nghĩa vì sao nói là sắp nói thì thành tựu?

Đáp: Về sau nói Pháp Hoa nên là sắp. Muốn nói Pháp Hoa nên trước nói kinh vô Lượng Nghĩa, nên vô Lượng Nghĩa là thứ lớp của Pháp Hoa. Văn chia làm hai, trước là nêu tên chương.

Khi Như lai sắp nói pháp đã đến thì thành tựu, vì các Bồ-tát v. v... trở xuống là giải thích tên chương, văn chia làm ba môn: Một là thị thích kinh xứ; Hai là chính giải thích; Ba là nói ý giải thích. Cho các Bồ-tát nghe nói kinh Đại thừa, ban đầu như văn. Ở đây Đại thừa Tu-đa-la trở xuống là giải thích thứ hai, y theo văn có hai. Ban đầu nêu chung có mười bảy tên khuyên biết.

Đại thừa này Tu-đa-la v. v... trở xuống có mười bảy tên nói lên công đức sâu xa xa, nên phải biết. Mười bảy tên là v. v... trở xuống là giải thích thứ hai.

Hỏi: Vì sao luận lại giải thích kinh này có mười bảy tên? Đáp: vì lược nói năm nghĩa.

1. Một là Thiên Thân soạn luận thường phân biệt nói chung để giải thích kinh. Con số mười bảy này là tổng mục của một kinh. Ngoài con số mười bảy ra là sự phân biệt của một kinh.

2. Hai là muốn nói lên mười bảy tên có mười bảy công đức. Khuyên tất cả chúng sinh thọ trì cúng dưỡng để sinh tâm cực tôn quý.

3. Ba là muốn định ra sự cạn sâu của đạo, giúp cho các dòng nhánh đọc tụng bỏ tà theo chính, có người cho Pháp Hoa là vô thường giáo lý.

Thứ hai cho là che lấp tướng nói thường, còn thứ ba thì chấp định tánh thường trú. Giờ dùng mười bảy tên để phá hết ba thuyết rằng. Nên v. v... trở xuống là mười hai tên tất cả Chư Phật kiên cố xá-lợi của, nghĩa là của Như lai chân như pháp thân ở đây Tu-đa-la không hoại, đã nói chân như pháp thân, nên biết phi vô thường, phi phục tướng. Thể của chân như là quên lời dứt nghĩa, cũng là thường định tính chẳng phải.

Bốn là khi sắp giải thích đề của một kinh. Đề nói là Diệu Pháp Liên Hoa, Diệu pháp là nói pháp thân Tịnh Diệu của Như lai.

4. Năm là từ trước người giảng nói rằng Vô Lượng Nghĩa khác với Diệu Pháp Liên Hoa. Nay giải thích theo nghĩa khác nên đặt tên khác, hoặc tên là Vô Lượng Nghĩa, hoặc tên là Diệu Pháp Liên Hoa, dùng để giải thích mười bảy tên, tức thành mười bảy.

Mười bảy tên là gì? Làm thế nào để hiển bày một tên Vô Lượng Nghĩa Kinh thành tựu nghĩa chữ, nên dùng pháp môn phương tiện này để nói về cảnh giới pháp mầu sâu xa xa đó, do đó cảnh giới pháp diệu sâu xa sa đó chính là cảnh giới cao siêu của Chư Phật, Như lai. Nhất vô Lượng Nghĩa là nêu tên kinh. Thành tựu nghĩa chữ là: giải thích tên Vô Lượng Nghĩa. Tự ở đây chính là giáo! Nghĩa để nói làm cho lý sáng, lý giáo vô lượng. Điều này cũng tương ứng với kinh Vô Lượng Nghĩa. Kinh Vô Lượng Nghĩa nói chúng sinh căn tánh có vô lượng nên giáo vô lượng. Giáo vô lượng nên nghĩa vô lượng. Vì vậy nên nay nói thành tựu tự nghĩa. Dùng pháp môn này nói phương tiện, nói cảnh giới pháp mầu sâu xa sắc đó. Giải thích nghĩa của các chữ trên cùng là để nói phương tiện thuyết sâu xa xa Hai thuyết ở đây giải thích các chữ trên nói phương tiện sâu xa, giải thích chữ ở trên nên gọi là nghĩa chữ. Cảnh giới sâu xa xa mầu đó chính là cảnh mầu của Chư Phật, Như lai. Điều này tương ứng với kinh Vô Lượng Nghĩa, kinh đó nói vô lượng từ một pháp sinh ra. Một pháp đó nói là Vô tướng, như thế vô tướng, vô tướng bất tướng gọi là Thật tướng. Nên biết chỉ có Phật và Phật mới rốt ráo, cùng tận thật tướng các pháp gọi là cảnh giới sâu xa.

Hỏi: Nói sâu xa là cảnh giới mầu của Phật, nói phương tiện vì sao lại gọi là nghĩa phương tiện? Đáp: Kinh Vô Lượng Nghĩa một. là nói năm thừa. Trong đó trời, người và Hai thừa đều gọi là phương tiện. Thuyết Đại thừa gọi là sâu xa lại là lý thật không có năm. Nói về năm thừa đều là phương tiện, lại ràng buộc lý giáo sáng nói thật phương tiện. Giáo có công năng giải thích lý, nên dùng giáo làm phương tiện để lý nghĩa. Chính vì thế luận văn chỉ giải thích sâu xa mà không giải thích phương tiện. Nên biết rằng phương tiện được nói lên ra ở lý. Nếu nhận thức được lý đã nói lên là nhận thức được sự dạy dỗ đã nói lên, nên không giải thích phương tiện.

Hai gọi là: Tối thắng Tu-đa-la là tạng mẫu cao siêu trong Ba Tạng, pháp môn này đã khéo thành tựu. Hai danh tối thắng Tu-đa-la, nếu đối với Ba Tạng Tiểu thừa thì kinh này thuộc về Tạng Bồ-tát. Hai thứ đó ở trong Đại thừa, tự có Ba Tạng như nhiếp lấy Đại thừa thuyết, còn Pháp Hoa là Tu-Đa-la hơn hai tạng còn lại.

Ba là: Đại Phương Quảng là vô lượng Đại thừa pháp môn thuận theo căn cơ chúng sinh mà trú trì thành tựu. Ba gọi là Đại Phương Quảng, Phương Quảng là tên chung của Đại thừa, là giải thích kinh này là kinh Đại thừa mà các Bồ-tát nói. Lại có nghĩa là văn Đại thừa đều rộng, nên mới gọi là Đại Phương Quảng. Người giải thích luận văn này lấy giáo quảng làm quảng, nên mới nói là vô lượng Đại thừa môn. Môn ở đây là giáo, thuận theo chúng sinh căn cơ trú trì thành tựu là giải thích Đại thừa môn vô lượng. Lấy Đại thừa chúng sinh căn cơ vô lượng để giáo năng hiển lý thuận cơ nên gọi là Trụ trì.

Bốn là: Giáo Bồ-tát pháp cho rằng giáo hóa căn cơ chín muồi, Bồ-tát thuận theo pháp khí khéo thành tựu. Bốn là pháp giáo hóa Bồ-tát. Đến thời Pháp Hoa hồi Tiểu nhập Đại, rồi tiến thẳng tới căn cơ Bồ-tát đều đã chín muồi. Nên sau đó nói khi Như lai Niết-bàn cho tới chúng lại thanh tịnh. Năm gọi là: Phật sở hộ niệm v. v... dựa vào Phật Như lai mới có pháp này. Năm là Phật sở hộ niệm, trở xuống kinh nói Phật tự trụ Đại thừa, nên Phật thường hộ niệm pháp này, nay trao cho chúng sinh thuyết Đại thừa. Chúng sinh cũng được trú Đại thừa là chúng sinh cũng được Phật mà che chở. Lại như Nhiếp Luận nói mười hai bộ kinh từ pháp thân mà ra, là văn kinh dựa vào Phật, Như lai nên mới có pháp này.

Sáu là: tất cả Chư Phật pháp bí mật của pháp này sâu xa xa, có chỉ Phật, Như lai mới biết. Sáu gọi là chư Phật pháp mật của tất cả cũng như văn dưới nói chỉ có Phật mới biết được, không nên truyền trao bừa bãi, gọi là bí mật.

Bảy là: tất cả Chư Phật tạng của, là Tạng công đức Tam-muội của Như lai ở trong kinh này. Bảy gọi là Nhất thiết Chư Phật tạng, như phẩm Thần lực chép: tất cả các pháp, tất cả thần lực tự tại của Như lai, cho đến tất cả những việc đều thuộc về kinh này.

Tám là: Nhất thiết Chư Phật bí mật xứ. Các chúng sinh có căn cơ chưa chín muồi không nhận được pháp khí thì không truyền cho họ được. Tám gọi là nhất thiết Chư Phật bí mật xứ, như năm ngàn vị đệ tử đứng dậy bỏ đi, không được nghe. Cũng như hơn bốn mươi năm chưa được giảng nói.

Chín là: Năng Sinh Nhất Thiết Chư Phật kinh, là nghe pháp môn này sẽ được thành Phật Đại Bồđề. Chín gọi là Năng Sinh Nhất Thiết Chư Phật, như phẩm Pháp Sư chép: nghe một câu của kinh này đều sẽ được thọ ký thành Phật.

Mười: Nhất thiết Chư Phật đạo tràng, nghe pháp môn này sẽ thành Chư Phật A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, chẳng phải Tu-đa-la khác. Mười gọi là Nhất Thiết Chư Phật đạo tràng. Đạo Tam-bồ-đề khởi ra từ kinh này nên gọi là tràng.

Phẩm Thần Lực chép: nên biết nơi này là đạo tràng, ở đó đã từng đốt kinh, đâu không phải thế hay sao?

Mười một là: Nhất thiết Chư Phật xoay bánh xe pháp là dùng pháp môn này phá hủy được tất cả mọi chướng ngại. Mười một gọi là Nhất thiết Chư Phật xoay bánh xe pháp mầu. Phẩm Dược Vương nói có công năng phá bỏ được các thứ mờ tối bất thiện. Cũng như v. v... trở xuống là luận dứt ba nghĩa quyết định, v. v... dứt trừ bốn trong năm thứ kinh hoàng sợ hãi, cho đến phá được mười thứ bệnh của con người.

Mười hai là: Nhất thiết chư Phật kiên cố xá-lợi kinh, là nói pháp thân Như lai chân như của, ở đây Tu-đa-la bất bại hủy. Tên thứ mười hai như giải thích ở trước. Ở đây đã dùng nhiều tháp Phật báu có ý nói là pháp thân không bị hủy hoại, cũng như trong phẩm Thọ vương ý nói ba thân Như lai, và trong dùng phẩm Pháp Sư nên biết đây có văn của toàn thân Như lai.

Mười ba là: Nhất thiết Chư Phật đại xảo phương tiện kinh. Dựa vào pháp môn này thành đại Bồ-đề đã vì chúng sinh nói thành các thiện pháp. Trời, các Thanh Văn, Bích-chi-phật. Mười ba gọi là Đại xảo phương tiện, văn cho rằng nhất Phật thừa là chân thật. Được nhất Phật thừa rốt ráo vì nhất Phật thừa mà nói, Hai thừa và trời, người gọi là phương tiện.

Mười bốn là: Thuyết Nhất Thừa kinh là dùng pháp môn này để nói lên Như Lai A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề có thể cuối cùng là đạo Hai thừa kia chẳng phải rốt ráo. Tên thứ mười bốn là Nhất Thừa kinh. Trong đây chính là dùng quả Vô thượng Bồ-đề làm thể của Nhất thừa. Trong phẩm Phương tiện dùng chân như pháp thân làm thể của Nhất thừa. Hai thứ này không trái nhau, nói theo nghĩa ẩn thì dùng chân như pháp thân làm thể. Nói rõ ràng là quả pháp Vô thượng Bồ-đề làm thể.

Mười lăm là: Đệ nhất nghĩa trú-pháp môn này là nơi trú ngụ cuối cùng của pháp thân Như lai. Mười lăm tên là Đệ nhất nghĩa trú. Đệ nhất nghĩa là pháp thân, kinh này có công năng hiện ra pháp thân, là nơi trú ngụ của pháp thân.

Mười sáu là Diệu Pháp Liên Hoa, có hai nghĩa, hai nghĩa ấy là Một nghĩa ra khỏi nước: vì không thể ra khỏi bùn nhơ Tiểu thừa, nên lại có nghĩa như hoa sen ra khỏi nước bùn, dụ như các Thanh Văn được vào ngồi trong đại chúng của Như lai, như các vị Bồ-tát ngồi trên đài hoa sen nghe nói cảnh giới thanh tịnh vô thượng của Như Lai, chứng được Như Lai tạng thâm mật của. Hai là nghĩa hoa mở, lấy các chúng sinh ở trong Đại thừa có tâm hồn khiếp sợ không thể sinh tín, nên phải khai mở. Chỉ có pháp thân mầu nhiệm của Chư Phật, Như lai mới sinh ra tín tâm được. Tên thứ mười sáu là Diệu Pháp Liên Hoa, là giải thích đề kinh. Luận chủ y theo nghĩa thứ hai để giải thích điều một là nghĩa ra khỏi nước, điều hai là nghĩa hoa nở, từ việc ra khỏi nước mở rộng thành hai: một là nghĩa ra khỏi nước, ở đây nêu nghĩa ra khỏi nước, dùng pháp Hai thừa, nước nhơ không bao giờ tận dụng hết được để giải thích việc ra khỏi nước. Kinh này nói về cách ra khỏi nước bùn nhơ của Tiểu thừa. Nên nói ra khỏi nước bùn nhơ của Tiểu thừa

Hỏi: Chỉ nên nói ra khỏi nước bùn nhơ rồi Hai thừa, vì sao lại nói không thể hết được?

Đáp: Một là không thể hết được, không thể hết được chính là thật tướng pháp thân. Nay nói thật tướng pháp thân, nên được ra khỏi nước bùn nhơ của Hai thừa. Dùng thật tướng pháp thân tuy ở trong nước bùn nhơ Hai thừa nhưng không thể khiến nó diệt hết được, chính là chân như có cặn ra khỏi thành chân như vô cấu; Hai là ba đời Phật giúp cho chúng sinh ra khỏi nước bùn nhơ Hai thừa thành Phật, mà Phật thừa thì không thể hết được. Như ví phẩm thí dụ chép: dùng vật này của ta chu cấp cho một nước còn không thiếu huống chi các đệ tử; Ba là hoa sen tuy ra khỏi nước bùn nhơ nhưng lại không bỏ nước bùn, ở đây cũng vậy. Tuy giúp cho chúng sinh lìa khỏi Hai thừa thành Phật, thường làm Hai thừa phương tiện để giáo hóa chúng sinh, cũng như phẩm Dược Thảo Dụ có nói. Lý tuy không hai, tùy duyên nói hai, mà duyên đã có hai thì nghĩa cùng sẽ có nghĩa thứ hai. Mượn việc hoa ra khỏi nước để dụ cho người Hai thừa hồi Tiểu nhập Đại được ngồi trong đại chúng Như lai, cũng như Bồ-tát được ngồi trên đài sen, được cùng Bồ-tát nghe Pháp Hoa thành Phật. Nghĩa trước có khác với nghĩa sau, có thể có hai ý. Đầu tiên là giải thích pháp, nói theo kinh này thì pháp thân Phật ra khỏi nước bùn nhơ của Hai thừa, sau đó con người ra khỏi nước bùn nhơ của Hai thừa. Điều thứ hai đã ước hẹn trước đi thẳng tới chỗ Bồ-tát, sau đó mới hồi Tiểu nhập Đại. Điều thứ hai là nghĩa hoa nở. Điều ví dụ chính là hoa nở mà thật ra như Nhất thừa giáo nở hiện ra Nhất thừa lý. Nở hiện ra pháp thân mầu nhiệm của Như lai giúp cho tất cả các chúng sinh được sinh tâm tịnh tín. Pháp thân sạch mầu chính là đề kinh Diệu Pháp.

Mười bảy là tối thắng pháp môn là được thành tựu. Thành tựu đạt là nhiếp thụ được vô lượng danh cú tự thân Tần-bà-la, A-súc-bà-đẳng Thủ-lư-ca (cũng gọi là kệ). Mười bảy tâm là pháp môn ở trên đã nói về Phật thừa. Phật thừa đầy đủ muôn đức nên nói chúng đức vô lượng. Nay nói về đức, đức đã vô lượng thì văn cũng vô lượng. Nên văn dưới chép nói: là kinh Pháp Hoa nầy như Hằng sa kệ. Cũng như phẩm Dược Vương chép: tám trăm ngàn muôn ức na-do-tha Tần-bà-la đăng kệ. Phẩm Dược Vương gọi là Kệ, nay nói Thủ-lư-ca, cũng có thể dùng kệ để dịch Thủ-lư-ca. Cũng có thể dùng tên khác. Ở đây đều như sự giải thích của Pháp Hoa sớ. Ở nước ngoài còn gọi là thủ lư hoặc gọi là Thủ-lư-ca. Đó chỉ là các âm khác nhau mà thôi.

Hỏi: Vì sao lại nói là Thủ-lư kệ?

Đáp: Thủ-lư là kệ thông thường, nhiều pháp ở nước ngoài như là văn xuôi, như kệ đều gọi là Thủlư. Nên chẳng dùng kệ khác, mười bảy câu pháp môn này là câu dư, chung là đặc biệt, cách giải thích thứ ba này đều là mười bảy thứ danh ý.

Mười bảy câu pháp môn này là câu dư chung, là đặc biệt, nên như kinh đã nói các Bồ-tát là kinh Đại thừa, tên Vô Lượng, Nghĩa cũng như vậy. Luận chủ dùng mười bảy tên này. Giải thích chung tên một bộ kinh. Nếu giải mười bảy tên này thì sẽ biết hết ý của kinh Pháp Hoa. Bao gồm tất cả là tâm từ bi, có ý nghĩa người nghe ít mà ngộ được ý nhiều. Sở y thuyết pháp thuận theo uy nghi trú thành tựu, giải thích phần thứ tư, trước nhắc lại tên chướng, kế đó giải thích.

Sở y nói pháp thuận theo uy nghi trú thành tựu, trong môn nhắc lại Điệp chương, nói thuận theo uy nghi trụ là thuận theo uy nghi quá khứ Phật, như quá khứ khi nói Pháp Hoa nhập định, động đất hoa. Tuôn rãi như mưa nay cũng như vậy. Thứ hai là thuận theo uy nghi hiện tại của chúng sinh. Văn sau nói làm cho thuận theo chúng sinh nói lên sự đối trị. Nhiếp thụ giác Bồ-đề phần pháp, nói lên dựa theo pháp nào để có sự giải thích về chương môn, y theo văn thì có hai: trước hỏi, sau đáp. Nói lên pháp nào để nói pháp? Là hỏi.

Nói lên dựa vào pháp nào để nói pháp. Ý hỏi rằng: Phật dựa vào pháp nào để nói kinh Pháp Hoa nầy? Dựa vào ba pháp ở sau, đó là Đáp. Đầu tiên nêu chung, dựa vào ba pháp, một là dựa vào Tammuội thành tựu, đặc biệt giải thích dựa vào ba pháp.

Dựa vào ba pháp, y theo giải thích có hai, đầu tiên là giải thích riêng y Tam-muội. Sau đó là giải thích chung là mặt đất rung chuyển hoa tuôn nở như mưa. Y theo giải thích y Tam-muội còn mở ra hai điều khác. Đầu tiên là giải thích, sau đó nêu chỗ giải thích. Trong chính thích đầu tiên là nêu Tammuội là chỗ nương.

Một là nương Tam-muội thành tựu, dùng Tammuội để thành tựu, có ba thứ nói lên. Giải thích y theo Tam-muội dùng Tam-muội thành tựu hai pháp nói lên giải thích lý do nương vào tam muội, vì tam muội thành tựu hai thứ pháp, thị hiệp hai là:? Một là thuận theo chúng sinh bất kiến đối trị nhiếp thụ giác Bồ-đề phân pháp, hai là đối trị kiên chấp phiền não. Từ vô lượng đời đến nay, Nên có câu hỏi rằng: Nay nói kinh Pháp Hoa tại sao không nhập vào Tam-muội Pháp Hoa mà lại nhập vào Tam-muội vô Lượng Nghĩa Xứ? Điều này được giải thích rằng: Tam-muội vô Lượng Nghĩa có hai thứ lực nên phải dựa vào đó. Một là thành tựu năng lực tự tại thân tâm bất động, giải thích năng lực tự tại thân tâm bất động, nên vắng lặng cùng cực, vì vắng lặng cùng cực nên thấy rõ; Hai là xa lìa các chướng ngại. Theo luận ở dưới giải thích Phật nhập Tam-muội, không người nào có thể cảnh ngộ được, là xa lìa các chướng ngại. Phật lại nhập vào chỗ này định nói Pháp Hoa, không có duyên bên ngoài làm chướng ngại, giúp cho không được nói. Lại không có duyên ngoài làm chướng ngại, giúp cho chúng sinh không được nghe nói.

Hỏi: Lấy gì để biết có năng lực này?

Đáp: Văn nói xa lìa các chướng ngại. Đã nói các ở đây là không có chướng ngại nào không xa lìa.

Tùy năng lực tự tại được giải thích là xa lìa các tâm tướng, Phật thuận theo năng lực tự tại của Tam-muội nên các chướng ngai không thể gây trở ngại được. Năng lực tự tại này lại có hai thứ v. v... trở xuống lại giải thích lại Tam-muội có hai năng lực:

Một là thuận theo chúng sinh nói lên đối trị, nói rằng tùy Hai thừa chúng sinh trong hơn bốn mươi năm nói lên đối trị Hai thừa bệnh pháp. Lại như luận sau thuận theo mười thứ chúng sinh nói lên ra mười thứ đối trị. Nhiếp thụ giác Bồ-đề phần pháp. Điều này xuất ra pháp có công năng đối trị rồi nhập vào tam-muội, chính là dùng vô lượng Bồ-đề đối trị Hai thừa, người bị bệnh được gọi là nhiếp thụ. Còn các thứ gọi là giác Bồ-đề phân pháp, nói những điều nên nói, biết được những chính biến Vô thượng, nay lược gọi là giác Bồ-đề. Giác chính là Bồ-đề. Bồ-đề lấy trí làm thể, còn nói chia ra chính là vì Vô thượng Bồ-đề mất đi ở Hai thừa không dùng tới pháp khác, nên gọi là phần. Lại như bày phần giác tám thánh đạo phần. Là Đạo phẩm của Đại thừa nay khen ngợi bảy giác đã tiêu diệt. Nên nói là giác Bồ-đề phân, Giác Bồ-đề còn chia ra Bồ-đề, giác biết phân. Việc phân chia đó gọi là nhân, nhân là Hai thừa Bồ-đề. Của Nhiếp thu Bồđề phần là Hai thừa Bồ-đề của nhập vào Bồ-đề phần.

Hai là đối trị chấp chặt phiền não. Từ vô lượng đời đến nay trước đã nói về tri dược (coi về thuốc) nay nói về thức bệnh (biết bệnh). Tóm lại thì vô Lượng Nghĩa định ra bốn năng lực của nó: một là bên trong, là thân tâm bất động, hai là bên ngoài không có chướng ngại thì nói là trong ngoài một đôi, ba là rành về thuốc, bốn là biết bệnh. Gọi thuốc và bệnh là một đôi, lấy việc có năng lực này để nhập vào vô Lượng Nghĩa thì chắc chắn không nhập vào Tam-muội Pháp Hoa. Phẩm này tương ứng với kinh vô Lượng Nghĩa, nên kinh vô Lượng Nghĩa chép: kinh vô Lượng Nghĩa văn lý chân chính, tôn quý không gì hơn. Chư Phật ba đời cùng che chở không có chúng ma. Các đạo được nhập vào cảnh không sinh tử, không hủy hoại. Kinh vô

Lượng Nghĩa đã như vậy, định vô Lượng Nghĩa cũng vậy. Như kinh v. v... trở xuống thứ hai là giải thích kinh xứ.

Như kinh do Phật nói kinh này phật ngồi kết già, nhập vào Tam-muội vô Lượng Nghĩa xứ. Cả hai thứ ấy nương khi, thế gian. v. v... trở xuống Lấy việc trước đây Phật đã nói Pháp Hoa, đất rung chuyển sáu cách. Nay cũng như vậy, nên nương vào động đất là nói Đại pháp phá đại bộ, nên được lợi ích lớn, giúp cho chúng sinh vui mừng. Và nên biết các việc trong vô lượng kiếp ở quá khứ, giải thích dựa vào chúng sinh ở thế gian. Quá khứ vô lượng kiếp Phật nói Pháp Hoa, khi đó trời rãi bốn thứ hoa như mưa, đại chúng vui mừng.

Hỏi: Đại chúng vui mừng thế nhưng chúng sinh ở thế gian, trời rải bốn thứ hoa như mưa, sao nói là chúng sinh ở thế gian?

Đáp: Trời là số chúng sinh, như kinh v. v... trở xuống là hai thứ nêu kinh, chỗ giải thích.

Như kinh chép: lúc ấy trời rãi hoa Mạn Đà-la, như mưa cho đến vui mừng, chấp tay nhất tâm nhìn Phật. Những kinh này chính là chứng minh chúng sinh thế gian. Ở trước nói rung chuyển thế giới, đã chứng minh khí thế giới. Rồi Y chỉ nói nhân thành tựu. Đây là phần thứ năm y theo văn có hai, đầu tiên là nhắc lại tên chương.

Y chỉ nói nhân thành tựu. Các đại chúng kia v. v... trở xuống là đã được giải thích tên chương. Y theo văn có ba, một là giải thích, hai là dẫn kinh chỗ giải thích, ba là phân biệt. Y theo giải thích ở đầu lại có ba trước: giải thích ý phát ra ánh sáng. Kế là giải thích ý phát ra ánh sáng, ba là trong ánh sáng sự việc hiện ra. Giải thích đầu tiên là tên chương, là giải thích phát ra ánh sáng. Các đại chúng kia hiện thấy dị tướng không thể suy nghĩ tới việc Như lai nay vì ta nói khát ngưỡng muốn nghe, sinh tâm ít có y chỉ thuyết nhân thành tựu. Như lai phát ra ánh sáng rực rỡ nói lên các việc trong thế giới.

Ngôn y chỉ thuyết nhân, chính là tâm bên trong của chúng sinh, nói nội tâm là khát vọng kính mến muốn nghe Pháp Hoa. Tuy nói nhập định, hoa rơi động đất, nếu không có tâm khát vọng kính mến muốn được nghe ở bên trong, thì Phật cũng không thể nói Pháp Hoa được. Lại như nhập định động địa mưa hoa ở trên là duyên bên ngoài, nay tâm khát vọng kính mến muốn được nghe thì lại là nhân bên trong. Nhân duyên đầy đủ mới được nói giáo. Hỏi: ở Trên mưa hoa động đất đã khiến chúng vui mừng, là nhân đã xong nay nói vì sao lại nói về nhân?

Đáp: Trên tuy sinh vui mừng nhưng chưa biết muốn nói Đại pháp. Nay thấy Phật phát ra ánh sáng hiện lên các việc của cõi Phật ở phương Đông, còn phải biết ứng với Đại pháp Ngài nói vì ta. Điều đó chính là khát khao, kính mến muốn được nghe danh làm nhân nghĩa thành tựu.

Trước hiệu việc bên ngoài là giải thích thứ hai, phát ra ánh sáng chính là phân biệt hai điềm trước sau khác nhau.

Trước là nói lên sáu việc bên ngoài vì đại chúng, rung chuyển sáu cách, thứ lớp nói lên ra bên trong, pháp môn đã chứng được là pháp sâu xa mầu nhiệm, mưa hoa động đất đều là nhiều việc bên ngoài, Phật đích thân tự phát ra ánh sáng trí tuệ sáng láng huy hoàng, nên ánh sáng trên mình lấp lánh. Đó gọi là việc bên trong.

Nội chứng pháp sâu xa mầu nhiệm, dựa vào sự giải thích của phẩm Phương Tiện là Vô thượng Bồđề, giờ nói về Phật đã chứng Vô thượng Bồ-đề, cũng giúp cho chúng sinh được trụ trong pháp này tự hiểu mình sẽ thành Phật. Lại dựa vào khí thế gian v. v... trở xuống là chánh giải thích thứ ba ra việc trong ánh sáng. Lại nương khí thế gian, chúng sinh thế gian. Các thứ vô lượng, các thứ đầy đủ, phiền não khác nhau, đầy đủ thanh tịnh khác nhau, Phật pháp đệ tử khác nhau, đã nói lên ra Tam bảo, nên lại nương khác nhau mà có thế giới có Phật, có thế giới nương Phật, giúp cho chúng sinh thấy người tu hành, người chưa được quả đắc đạo là được quả, trong đó mười việc lược nói. khí thế gian thì một muôn tám ngàn cõi Phật ở phương Đông. Chúng sinh thế gian một muôn tám ngàn cõi chúng sinh trong các thứ số giải thích rõ sự khác nhau các lượng thứ: là nói hình lượng khí thế giới khác nhau. Đầy đủ phiền não khác nhau là:, giải thích chúng sinh sáu đường không giống nhau. Sáu đường không giống nhau đều do trên trung dưới phiền não khác nhau đầy đủ thanh tịnh khác nhau là:, giải thích thanh tịnh thế giới sai biệt không giống nhau. Phật pháp đệ tử sai biệt nói lên Tam bảo, Phật phương Đông là một muôn tám ngàn cõi Phật trong pháp là pháp do một muôn tám ngàn cõi nói. Đệ tử là bốn chúng, cho đến Bồ-tát. Lại thừa khác nhau: Bốn quả là Tiểu thừa, Bồ-tát là Đại thừa.

Có thế giới có Phật, có thế giới không Phật: các thế giới phương Đông phật hiện tại Phật là có ở. Lại thấy Chư Phật sau khi Niết-bàn dùng Xá-lợi Phật xây tháp bảy báu gọi là vô Phật. Giúp cho chúng sinh thấy: trên nói hiện mười việc. Đây là nói giúp cho chúng sinh thấy mười việc, là giải thích trong kinh ở thế giới này đều thấy hết người tu hành chưa được quả. Ở trên giải thích chưa hết nay phân biệt lại, hễ giải thích hai việc, đầu tiên là giải thích bốn chúng tu hành, người chưa được quả tu ba học hành chưa đắc bốn quả. Người đắc đạo đã được bốn quả, như kinh trở xuống là bày chỗ giải thích.

Như kinh chép: những người tu hành đắc đạo có cáo thứ số: Thứ hai giải thích số trước, nói lên các thứ.

Các thứ Sổ là nói lên các thứ quan, nên nói lược bốn thứ quan: một là thực trụ, hai là nghe pháp, ba là tu hành, bốn là lạc. Các thứ quan là giải thích các thứ số, Phật phát ra ánh sáng cũng có thể quán thấy các vị Bồ-tát ở phương Đông kia ăn và nghe pháp nói lên một muôn tám ngàn cõi chúng sinh trong, các thứ quan khác nhau nên gọi là sổ các thứ quan. Nói sơ lược về bốn thứ quan là giải thích các thứ quan: Một là thực cũng có thể thiền duyệt là thức ăn, cũng có thể là bốn thực; như lương thực v. v.... Hai là nói ăn xong nghe pháp; Ba là nghe pháp xong tu hành; Bốn là tu hành được quả là vui. Như kinh v. v... trở xuống là thứ hai cũng chỉ bày chỗ giải thích. Bấy giờ Phật phát ra ánh sáng từ sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày, cho đến dùng Phật Xá-lợi xây tháp bảy báu. hiểu giải cho đến việc nói về hành đạo của Bồ-tát.

Hành đạo Bồ-tát là giáo hóa chúng sinh, dựa vào bốn thứ nhiếp lấy pháp phương tiện, nhiếp lấy nên biết tự nhiếp lấy như kinh đã nói.

Nói bốn nhiếp pháp nhiếp lấy, thuộc về bố thí, ngày nay bỏ ác để làm lành đã thuộc về quyến thuộc ái ngũ. Ngày nay phát tâm Bồ-đề thuộc về lợi hành, giúp cho gốc lành thêm lớn, đồng sự nhiếp lấy, khiến họ thành Phật như kinh đã nói, nên tự đẩy mạnh nhiếp lấy, giải thích trước trong tu hành đắc đạo là trình bày kinh xứ. Nay giải thích trong Bồ-tát, hành đạo Bồ-tát, không trình bày kinh xứ. Chỉ nói Như kinh chép: nên tự đẩy mạnh nhiếp thụ, sở dĩ như vậy tiền văn lược dẫn cho dễ, từ hậu văn trở đi là rộng dẫn nên khó, vi vậy kinh nói rằng các thứ nhân duyên, các thứ tin hiểu, các thứ tướng mạo đều hành đạo Bồ-tát. Mọi ý muốn đều tồn lược, nên nói ra lời này.

Dưới đây là nói lên đại chúng hiện tiền muốn nghe pháp thành tựu dây. Giải thích phần kinh thứ sáu, tựa văn chia làm hai, trước là nhắc lại tên chương.

Dưới đây là nói lên đại chúng hiện tiền muốn nghe pháp thành tựu.

Hỏi một người v. v... trở xuống là. Thứ hai giải thích đại chúng nghi ngờ có hai: một là đại chúng nghi về ý niệm, hai là Di-lặc thưa hỏi. Nay giải thích cả hai tánh này. Trong ý niệm nghi ngờ của đại chúng có hai: một là ý niệm nghi ngờ của Dilặc, ở đây chỉ giải thích Di-lặc mà không giải thích đại chúng. Ý niệm nghi ngờ của Di-lặc có ba: một hỏi Phật vì sao hiện ra điềm lành, hai thưa hỏi người quyết nghi, ba được làm chủ trật thiền, là chỉ giải thích cái đầu và cuối. Hỏi một người là Vănthù, nên được giải thích thứ ba, chủ trật thiền, ở đầu đã có giải thích này. Ở đây nói về đại tông, dùng ý văn để giải thích kinh. Di-lặc tuy có kinh ba chương mà ý lại hỏi ở Văn-thù. Nên giải thích ở trước, hỏi ý Văn-thù. Vì sao chỉ hỏi một người là Văn-thù, đây là câu hỏi.

Hỏi một người, ý hỏi rằng: Vì sao lại chỉ hỏi một mình Văn-thù mà không hỏi các vị khác. Nhiều người muốn nghe sinh tâm ít có, đây là đáp. Nhiều người muốn nghe sinh tâm ít có, đây là chỉ muốn hỏi Văn-thù-sư-lợi đã nói lên đệ tử Thế tôn thuận theo pháp không trái. Vì nhiều người muốn nghe câu trả lời của Văn-thù nên chỉ hỏi Văn-thùsư-lợi.

Kết luận ý hỏi của Văn-thù. Hỏi: Đại chúng không biết Văn-thù có khả năng trả lời cho người, vì sao lại nói nhiều người muốn nghe câu trả lời của Văn-thù? Đáp: Di-lặc biết được cơ duyên của đại chúng thuộc về Văn-thù. Nếu nghe Văn-thù nói thì sẽ sinh tâm ít có. Điều đó nói lên đệ tử Thế tôn thuận theo pháp không trái. Đó là đã giải thích ý mà Văn-thù có thể trả lời. Thế nhưng Di-lặc vị cùng bổ xứ, đã không thể biết được ý hiện ra điều lành mà chỉ có Phật mới biết được mà thôi. Phật nhập Tam-muội thì không được hỏi nữa. Tuy Văn-thù là Phật quá khứ, nhưng hiện nay đã nói lên làm đệ tử Thế Tôn. Nên kinh khác nói ngày xưa là Năng Nhân Sư, nay lại làm đệ tử hóa. Hai tôn không ra đời đều nói lên làm Bồ-tát. Thuận theo pháp mà không trái Điều này có hai nghĩa, một là quả thực là tiền sư mà nói lên làm đệ tử. Điều bao gồm là thuận theo pháp mà không đi ngược lại. Hai là Văn-thù có khả năng được pháp tướng, không trái với pháp tướng, nên có khả năng hỏi đáp.

Nay Phật, Thế tôn hiện thần biến tướng, là giải thích sự nghi ngờ của Di-lặc. Đầu tiên là hỏi về ý mà hiện thần biến. Đây là câu đầu tiên nhắc lại văn kinh. Nay Phật, Thế tôn hiện thần biến tướng. Như vậy có ý nghĩa gì là? Giải thích ý niệm nghi ngờ của Di-lặc nói do nhân duyên gì mà có được sự tốt đẹp này. Kinh nói do nhân duyên gì? Do ý nghĩa nào? Nghĩa này là nhân duyên, để hiện nhân duyên về đại tướng. Luận chủ giải thích điều nghi ngờ của Di-lặc, chính là câu trả lời. Văn chia làm hai. Đầu tiên là nêu môn hiện đại tướng nhân hai chương, vì sao lại dùng hiện nghĩa làm hiện đại tướng nhân vì đại tướng có v. v... trở xuống: là, giải thích hai chương, đầu tiên giải thích là môn Đại Tướng chương.

Vì hiện đại tướng, vì nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa nên hiện ra điềm lành lớn, cùng bàn, cùng muốn nói Đại pháp. Nên nói là vì hiện ra điềm lành lớn. Vì thuyết Như lai nên được pháp mầu không thể suy nghĩ gì về câu văn là. Giải thích môn Nhân Chương thứ hai ở trên.

Cói cho nghe văn tự chương cú pháp mầu không thể suy nghĩ bàn luận mà như lai chứng đắc. Dùng câu văn là giáo, giáo là lý, do đó gọi là nhận. Lại vì sắc nói kinh Pháp Hoa nên hiện ra điềm lành lớn, là kinh Pháp Hoa. Nên hiện ra điềm lành lớn, tức Pháp Hoa là nhân của điềm lành. Xét kỹ câu văn trước sau đều có ba nhân: Một là Pháp Hoa giáo làm nguyên nhân của lý; Hai là Pháp Hoa nhân của điềm lành; Ba là do thấy điềm lành nên biết nói Pháp Hoa. Nên điềm lành là nhân của Pháp Hoa.

Có hai thứ nghĩa, nên kính mến Văn-thù. Đây là giải thích thưa hỏi Văn-thù thứ ba. Văn có hai, đầu tiên giải thích ý hỏi Văn-thù, sau đó giải thích văn kinh hỏi với Văn-thù.

Vì Có hai nghĩa nên suy ra Văn-thù-sư-lợi. Hai thứ đó gồm: Một là hiện thấy các pháp, hai là xa lìa nhân duyên, chỉ có tự tâm thành tựu pháp đó. Hỏi ý Văn-thù? Một là Văn-thù là Phật rõ ràng hiện ra thấy các pháp. Hai lìa các nhân duyên. Vì lìa các nhân duyên dùng các thứ Văn-thù không thúc đẩy mà biết. Thành Luận chép: nhân duyên trong các việc hiện lên thấy đều vô dụng, chỉ có tự tâm thành tựu pháp đó, giải thích nhân duyên xa lìa vì Vănthù tự tâm thấy rõ việc đó, không nhờ nhân duyên khác. Nói lên các điềm lành, giải thích là thứ hai hỏi văn kinh với ngài Văn-thù.

Nói lên các điềm lành là nói lên các việc nên như tướng của việc ấy hiện ra chưa trú diệt, nên biết. Văn Đại Bổn chép: Phải thấy điềm ít có này. Bấy giờ, hiện ra các điềm lành Điều này xuất phát từ quá khứ Văn-thù đã từng thấy các điềm lành của Chư Phật. Các việc đó, là các điềm lành của Chư Phật trong quá khứ là việc hữu vi như là các điềm lành kia hiện tại chưa trụ diệt, nêu biết. Các Phật trong quá khứ có ở hiện tại, không có ở hiện tại, còn sống hoặc đã tận diệt, không có ở hiện tại, còn sống hoặc đã tận diệt. Điều phải biết là nên làm cho đại chúng biết quá khứ đã có việc như thế nào. Nên phải biết, dùng những việc mà Văn-thù có thể ghi nhớ được. Đây là giải thích văn kinh nói từng gần gũi cúng dường vô số Chư Phật trong quá khứ. Lại nói Văn-thù có hai nghĩa: một là được Đà-la-ni có khả năng ghi nhớ được những việc đó, hai là những thành tựu nhân quả mà Văn-thù đã làm. Thành tựu có công năng nói lên thấy pháp đó, trước nêu hai thành tựu chương môn.

Vì Văn-thù-sư-lợi có khả năng ghi nhớ được những việc đó, nên dùng những thành tựu nhân quả mà Văn-thù-sư-lợi đã làm để thành tựu pháp đó mà nói lên thấy pháp ấy thành tựu đã làm là giải thích hai chương môn. Công đức thành tựu, trí tuệ thành tựu, giải thích các chương môn đã làm, những thành tựu đã làm, có hai thứ: một là công đức thành tựu, hai là trí tuệ thành tựu. Nhân thành tựu ở dưới, là giải thích nhân quả chương môn, trước giải thích nhân, sau giải thích quả.

Nhân thành tựu là tất cả trí, thành tựu lại là duyên nhân. Thành tựu là các tướng đầy đủ. Giải thích trong nhân có hai nhân, một là chính nhân, hai là duyên nhân. Chính nhân là nói về tất cả trí, vì có nhân nên trí Nhất thiết thấy tướng của các việc trong quá khứ. Lại duyên nhân thành tựu là nói về các tướng, là giải thích duyên nhân thứ hai. Nói các tướng là nói về động đất, hoa rải như mưa, phát ra ánh sáng gọi là các tướng. Vì thấy Phật ở đời quá khứ hiện ra các tướng, nên hiện ra Đại pháp. Nay thấy Đức Thích-ca hiện ra các tướng cùng nói là Đại pháp, nên các tướng là nhân của việc nói pháp. Quả tướng thành tựu là giải thích chương môn quả tướng thứ hai.

Quả thành tựu là nói về Đại pháp, Nhân là trí Nhất thiết và điềm lành nên biết muốn nói Đại pháp, là quả của các tướng. Các thứ cõi Phật trên đây đã giải thích Di-lặc niệm nghi của xong. Nay giải thích Di-lặc thưa hỏi. Trong việc thưa hỏi của đại chúng có hai chương: Một là ý hỏi, hai là câu hỏi. Nay chỉ giải thích chính không giải thích ý hỏi. Trong câu hỏi có hai: một là văn xuôi, hai là kệ tụng. Nay giải thích cả hai. Giải thích trong văn xuôi có hai: một là giải thích, hai là nêu kinh, chỗ bày chỗ giải thích. Giải thích có hai: một là giải thích điềm lành hiện tại, hai là giải thích điềm lành thấy.

Các thứ cõi nước Phật nói lên, trong các cõi nước Phật đó có rất nhiều thứ khác nhau phải biết. Các thứ cõi Phật là giải thích một muôn tám ngàn cõi Phật, nói lên ra trong cõi Phật kia có các thứ khác nhau, phải biết. Ở đây có hai ý: một là biểu thị một muôn tám ngàn cõi với các cõi khác nhau. Hai là nói lên trong một muôn tám ngàn cõi đó có mười việc khác nhau. Như ở trên đã giải thích, cõi nước mầu nhiệm giải thích thấy điềm lành thứ hai.

Cõi nước mầu nhiệm là nói tới chỗ ở của chúng sinh không có phiền não, là giải thích những câu văn trang nghiêm thấy ở cõi Phật đó trong kinh. Cả hai thứ đều chung một muôn tám ngàn cõi đã nói ở trên. Nay giải thích cõi tịnh, như kinh trở xuống là giải thích kinh thứ hai. Như kinh soi chiếu một muôn tám ngàn thế giới ở phương Đông, cho đến thấy tất cả thế giới Phật trang nghiêm ở đó.

Chiếu vào một muôn tám ngàn thế giới phương Đông, nói lên đoạn đầu chỗ giải thích kinh, cho đến đều thấy tất cả chỗ kinh thứ hai. Như lai đầu tiên giải thích kệ thứ hai, cũng mở ra hai thứ: đầu tiên giải thích kệ, hai là chỉ bày chỗ kinh.

Như lai là vị Thượng thủ, là các Bồ-tát v. v... đều theo Như lai mà ở, nên lấy chỗ ở của Như lai làm đất nước, đất nước của đại chúng được tự tại. Như lai là Thượng thủ là nhắc lại kinh lại thấy văn nói Chư Phật thánh chúa sư tử. Như lai đã là vị thánh đứng đầu các thánh nên gọi là Tượng thu. Các Bồ-tát nương Như lai mà ở. Các Bồ-tát có lý là nương Như lai mà được ở, nên Phật là bậc trên thủ của Bồ-tát. Vì Như lai ấy v. v... trở xuống là giải thích lời nói của sư tử, làm cho Phật được tự tại ở trong đại chúng, nên nói là Sư tử.

Hỏi: Vì sao không giải thích văn đầu của kệ?

Đáp: Văn xuôi đã giải thích, nên không giải thích lại. Hỏi: Vì sao chỉ giải thích hai câu là trên thủ, v. v...?

Đáp: Ở đây thuộc về hai v. v... trở xuống là nhất thiết kinh cùng tên, tôn Phật là trên thủ của tất cả Bồ-tát và Hai thừa chúng dựa vào Phật mà được trụ lý.

Lại vì Phật ở trong tất cả đại tiểu chúng tự tại có khả năng hóa giáo đại tiểu chúng trở xuống Nhật thiết kinh sau này không ngoài hai việc này. Nên chỉ giải thích hai. Như kinh trở xuống là thứ hai dẫn kinh giải thích xứ.

Như kinh chép: lại thấy cõi ấy hiện ra ở Chư Phật như thê v. v... dưới đây là giải thích phần hỏi đáp thứ bảy của Văn-thù. Văn chia thành hai: phần đầu nói Văn-thù có đức để đáp, phần sau đặc biệt giải thích những việc xảy ra mà kinh đã đáp.

Dưới đây là nói bậc Thánh Văn-thù-sư-lợi Bồtát đã được trí túc mệnh. Dĩ trí túc mệnh là đức có thể đáp lại được, hiện ra những việc có thể thấy rõ ở dưới. Y theo văn lại chia hai phần, phần đầu nêu ba môn, phần sau giải thích ba môn. Nói về ba môn, một là nhân tướng trong quá khứ, hai là quả tướng, ba thành tựu, mười việc.

Hiện thấy nhân tướng quả tướng trong quá khứ thành tựu mười việc như hiện tại, do đó đáp được Bồ-tát Di-lặc hiện thấy nhân tướng quá khứ về sau, là giải thích ba chương môn, nên ba chương khác nhau.

Hiện thấy nhân tướng quá khứ là Văn-thù-sưlợi tự thấy bản thân mình từng tu các hạnh sự trong các cõi Phật đó. Trước Diệu Quang chưa thể nói Pháp Hoa vì chúng sinh nên gọi là nhân tướng. Hiện thấy quả tướng là giải thích chương môn thứ hai.

Hiện thấy quả tướng quá khứ là Văn-thù-sư-lợi tự thấy bản thân đã là Bồ-tát Thế Diệu Quang ở quá khứ đã nghe được pháp môn này ở chỗ Phật đó, rồi nói cho chúng sinh nghe. Từ Diệu Quang nghe kinh Pháp Hoa rồi nói lại cho chúng sinh, điều nay gọi là quả tướng.

Hỏi: Nhân quả tướng này giải thích văn kinh ở chỗ nào?

Đáp: Từ đầu đã nói Di-lặc rồi là lời suy nghĩ Thành tựu mười việc là, giải thích chương môn thứ ba. Y theo văn có hai: đầu tiên là nêu thứ mười thứ thành tựu là chương môn nêu.

Thành tựu mười việc gồm:

Một là hiện thấy đại nghĩa nhân thành tựu. Hai là hiện thấy văn tự chương cú ở thế gian ý nghĩa sâu xa xa ấy là nhân thành tựu.

Ba là hiện thấy nhân ít có thành tựu.

Bốn là hiện thấy nhân tốt đẹp thành tựu.

Năm là hiện thấy đại nhân thụ dụng thành tựu.

Sáu là hiện thấy nhiếp thụ tất cả Chư Phật, nhân xoay bánh xe pháp thành tựu.

Bảy là hiện thấy khéo kiên thật của Như lai nhân Pháp luân thành tựu.

Tám là hiện thấy có khả năng tiến nhập nhân thành tựu. Chín là hiện thấy nhớ nghĩ nhân thành tựu. Mười là hiện thấy nhân trải qua của mình thành tựu.

Từ đại nghĩa nhân thành tựu là giải thích thứ hai về mười chương môn, tức thành số mười. Nói đại nghĩa nhân thành tựu, là giải thích Đại pháp mà kinh muốn nói, nên gọi là Đại. Chữ Đại này sâu xa nên gọi là Nghĩa, còn chữ nhân là nhân duyên. Muốn nói về tám thứ nhân duyên có nghĩa sâu xa xa, nên hiện ra điềm lành này. Văn lại có hai: đầu tiên là nêu chương nhắc lại kinh.

Đại nghĩa nhân thành tựu là: giải thích thứ hai về chương kinh. Đầu tiên lại có ba đầu tiên là, nêu chương nói chung ám câu khuyên mọi người nên biết.

Tám câu nói lên nên biết, từ câu một là muốn nói về Đại pháp, đó là tám việc nhắc lại kinh thứ hai.

Một là muốn nói Đại pháp.

Hai là muốn mưa xuống đám mưa Đại pháp.

Ba là muốn đánh trống Đại pháp.

Bốn là muốn dựng cờ Đại pháp. Năm là muốn đốt đèn Đại pháp.

Sáu là muốn thổi loa Đại pháp.

Bảy là muốn không ngừng tiếng trống Đại pháp. Tám là muốn nói Đại pháp. Tám điều này đã được nói lên như vậy, là thứ ba luận chủ giải thích chung.

Tám câu này muốn nói lên điều muốn nói của Như lai, đó là Đại pháp. Vì sao gọi tám Đại nghĩa? V. v... trở xuống là Giải thích chương Giải kinh thứ hai. Kinh không có ba câu, luận thì có tám câu.

Những thứ nào được gọi là tám Đại nghĩa? người có nghi sẽ được hết nghi. Người đã hết nghi thì thêm lớn thuần phục trí thân. Căn thuần phục là nói về hai thứ cảnh giới sâu. Một là nói về Thanh Văn cảnh giới sâu kín của, hai là nói về Bồ-tát. Hai câu "trống Đại pháp" là nói nghe tiếng từ xa nên nhập vào cảnh giới sâu kín giúp cho tiến thủ được nghĩa trên trên thanh tịnh. Nên người được nghĩa trên trên thanh tịnh thì sẽ được các trí tuệ nói lên ra. Người tiến thủ được các thứ trí sẽ được nói lên ra các thứ pháp xây dựng được nghĩa của danh tự chương cú. Vì thế xây dựng được nghĩa của danh tự chương cú sẽ khiến được nhập vào chứng trí xoay bánh xe pháp không thể nói. Nói rằng người có nghi sẽ dứt được nghi. Giải thích này muốn nói về Đại pháp thứ nhất là Vô Luận kinh sắc nói Đại pháp. Xưa nay không dựa vào luận để giải thích kinh. Thế nhưng ý của áng văn trước sau vẫn giải thích từ cạn tới sâu. Kể từ hơn bốn mươi năm điều nghi cũ và nghe Pháp Hoa sinh ra nghi mới, v. v... Sắc nói Đại pháp đã cắt đứt được hai mối nghi ngờ cũ mới này. Nên ở dưới kệ Văn-thù không nói những người cầu Ba thừa nếu có nghi hối, Phật sẽ dứt trừ hết không còn sót lại gì. Người đã hết nghi ngờ sẽ thêm lớn được trí thân. Giải thích điều hai: Rưới mưa Đại pháp (mưa) thế gian giúp cho muôn vật thêm lớn thành tựu. Mưa Pháp Nhất thừa giúp cho nhân Ba thừa đều nhập vào đại tuệ bình đẳng. Như trong thân tử lĩnh giảng nói nghi hối cắt đứt hẳn sự yên lành trong thật trí. Người có căn cơ thuần thục là nói về hai thứ cảnh giới sâu kín. Giải thích điều thứ ba: Muốn đánh trống Đại pháp và điều thứ bảy trống Đại pháp không dứt, trên đã nói về người Ba thừa trí thân thuần thục. Nay lần lượt truyền trao nhân Ba thừa thành Phật, nêu tên để nhớ. Về sâu kín cảnh giới, luận Trí Độ chép: kinh

Pháp Hoa khiến Hai thừa thành Phật tên là Pháp Bí Mật, Pháp Bí Mật sâu xa xa sa khó hiểu. Trong suốt hơn bốn mươi năm không hiểu được việc này, nên gọi là Mật. Hai câu trống Đại pháp nói lên điều gì? Một là đánh trống Đại pháp, hai là không dứt trống Đại pháp. Người nghe được từ xa là giải thích tên trống pháp. Còn việc đánh trống Đại pháp giúp cho người ở xa nghe thấy. Nay đem Đại pháp truyền trao cho người Ba thừa để ghi nhớ, giúp cho người mười phương ở xa cũng nghe thấy.

Hỏi: Vì sao nói trống pháp không dứt? Đáp: Đó là Hai thừa độc thiện không còn chuyển hóa, nếu được thọ ký thành Phật thì sẽ chuyển hóa ngay và con cũng người thành Phật. Nên mới nói trống pháp không dứt. Người nhập vào cảnh giới sâu kín sẽ tiến thủ được nghĩa trên trên thanh tịnh, giải thích điều thứ tư muốn dựng cờ Đại pháp. Ba thừa đã được thọ ký sau đó thực hành hạnh Bồ-tát. Hạnh Bồ-tát xa lìa hai bên, là hạnh Trung đạo, nên gọi là trên trên thanh tịnh. Ở trong nhà có hai cửa cao, nên gọi là nghĩa trên trên thanh tịnh. Người được nghĩa thanh tịnh giúp cho tiến thủ được các thứ trí được hiện thấy. Giải thích điều thứ năm: Muốn đốt đèn Đại pháp, chữ đèn có hai nghĩa: một là xua tan tăm tối, hai là soi rõ vật làm cho người Ba thừa thực hành hạnh, đả phá hết được không còn tăm tối, thì sẽ được các thứ trí.

Nên thấy được pháp của tính Phật. Bốn câu trước giúp cho người Ba thừa vì thế mà được thành hạnh. Nay chỉ một câu này có thể giúp cho người Ba thừa được quả đức được; được các trí hiện ra. Giải thích câu thứ sáu muốn thổi loa Đại pháp (1) (ở trang 793 thì dùng loa, ở đây dùng lãi, loa là ốc, chỉ cái loa, lãi chỉ cái gáo, vỏ sò). Thổi vào vỏ sò thì phát ra âm thanh, người Ba thừa được quả Phật càng nói được các giáo cho chúng sinh. Nên nói đặt ra tên gọi, chương cú cho các pháp là nghĩa đặc ra tên gọi chương cú. Giải thích câu thứ tám: Muốn nói Đại pháp. Ở câu thứ bảy thành Phật cuối cùng là giảng nói giáo nói pháp cho chúng sinh. Nay câu thứ tám nói giáo giúp cho ngộ được lý, nhập vào lý cũng được thành Phật.

Hỏi: Vì sao nói nhập chứng trí xoay bánh xe pháp không thể nói?

Đáp: Làm cho chúng sinh được chứng trí chân thật, thời là trong ngoài đều tối, duyên nhìn đều vắng lặng, gọi là không thể nói, là trí thể này gọi là pháp luân, từ kia tới đây gọi là chuyển. Nay giải thích chung cả tám câu. Phật nói Pháp Hoa gồm có hai ý: một là làm cho chúng sinh tự được thành Phật. Hai là chúng sinh hóa tha cũng giúp cho thành Phật. Sáu câu trước là tự hành, hai câu sau gọi là hóa tha. Cứ hai âm một trong này tự hành trong năm câu biện một câu nhân rồi nói quả. Câu đầu trong hóa tha giảng nói giáo pháp cho chúng sanh. Câu kế là giúp chúng sanh khiến vật chứng nhập.

Hỏi: Vì sao nói pháp giúp cho tự hành hóa tha? Đáp: Người Hai thừa chỉ có khả năng tự tu cho mình, nay đã thành Phật, cuối cùng giáo hóa chúng sinh cũng thành Phật. Lấy năm câu làm hai, câu đầu dứt nghi đã giúp cho hoặc diệt, kế nữa là câu bốn giúp cho được giải sinh, chia làm hai. Câu đầu từ Thập tín đến Thập giải thành tựu. Câu sau giải hạnh thuần thục đi vào cảnh giới sâu kín, nên được thọ ký từ Thập Hạnh đến Thập Hồi hướng, nghĩa của trên trên thanh tịnh từ Sơ địa đến tới Thập địa. Hiện thấy ý nghĩa của tên chữ chương cú trong thế gian sâu xa, đó là nhân thành tựu, giải thích mười chương thứ hai, ở trước nhắc lại tên chương.

Hiện thấy thế gian tên gọi chương cú ý sâu xa nhân thành tựu.

Như kinh v. v... trở xuống là giải thích kinh xứ.

Kinh chép: ta và các Đức Phật quá khứ đã từng thấy điềm lành này dẫn tới, nên hiện ra các điềm lành.

Hỏi: tên gọi chương cú y nghĩa sâu xa, là giải thích ở văn kinh nào?

Đáp: Giải thích muốn cho chúng sinh giảm được sự nghe biết tất cả các văn của kinh pháp khó tin trong thế gian. Điều đó giúp cho Ba thừa thành Phật là những việc khó tin. Năm ngàn người đứng dậy bỏ đi là việc khó hiểu.

Hỏi: Vì sao nói ý nghĩa của tên gọi, chương cú sâu xa xa xa? Đáp: Điều dạy đó đã nói lên nghĩa lý chú thích. Tuyệt vời, một lời giải thích lý cũng bặt. Nên ở dưới nói rằng: pháp này chẳng nói lên bày ra được. Tướng nói năng vắng lặng, hiện tại thấy ít có nhân thành tựu, giải thích chương kinh thứ ba, nhắc lại chương trước.

Hiện thấy ít có nhân thành tựu, dùng vô lượng thời v. v... trở xuống là giải thích chương. Trước là giải thích, kế nêu kinh nói lên chỗ giải thích. Dùng thời gian vô lượng thì không thể được, nên không thể suy nghĩ, không thể gọi là không thể lượng, nói lên kiếp A-tăng-kỳ kia trong quá khứ, không thể nói lên trở lại được. Có năm thứ kiếp: một là đêm, hai là ngày ba là trăng, bốn là thời, năm là năm, hiển bày ra những thứ đó là kiếp vô lượng vô biên. Sự giải thích trong đó có hai, một là kiếp nói A-tăng-kỳ không thể nói, hai là nói thời không thể nói. Kiếp A-tăng-kỳ không thể nói, dùng hữu vô lượng A-tăng-kỳ lại nói lên ra năm thứ kiếp, đây là hai minh thời không thể nói.

Hỏi: Giải thích như thế nào để gọi ngày đêm, v. v... là kiếp?

Đáp: Tiếng phạm gọi là kiếp-ba(kalpa), Hán dịch là phân biệt thời tiết, nên kiếp là tên gọi thông thường về thời gian. Thế nhưng trong kinh lấy sự mở đầu và kết thúc của trời đất đặt ra tên gọi chung là Kiếp. Trời trăng đêm ngày chỉ là tên khác.

Hỏi: Trong chương danh vì sao nói hiện thấy ít có nhân thành tựu?

Đáp: vì thời gian lâu xa trong quá khứ mới có việc nói Pháp Hoa, nên nói là ít có, như kinh dùng v. v... trở xuống là thứ hai giải thích nơi chốn.

Kinh chép: như quá khứ vô lượng vô biên không thể suy nghĩ bàn luận A-tăng-kỳ kiếp, lúc đó có Đức Phật hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh, A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-Bồ-đề thành tựu được trí Nhất Thiết. Ở đây đã dùng kinh quá khứ vô lượng vô biên kiếp để giải thích nơi chốn. Từ lúc đó đã có đèn trời trăng chiếu soi. Ở đây không giải thích nữa, hiện tại đã thấy tốt đẹp nhân thành tựu. Giải thích điều thứ tư, nhắc lại tên gọi ở trước.

Hiện thấy nhân tốt đẹp thành tựu là. Nói về nhân tốt đẹp, hai muôn ức Phật nói pháp đều có bảy thiện là tốt đẹp. Dùng Chư Phật, Bồ-tát tự dụng mà nói lên ra, Phật thọ dụng bảy thiện giáo hóa chúng sanh, Bồ-tát cũng vậy, nên nói là thọ dụng, như kinh v. v.... Trở xuống là nói về chỗ kinh.

Như kinh chép: lại Đức có Phật cũng hiệu là

Nhật Nguyệt Đăng Minh, cho đến có thể nói pháp, sơ trung hậu đều lành. Điều này thủ hậu có thể nói pháp, sơ trung đều lành, không chấp văn trước, lấy hai muôn Phật nói pháp môn đều là bảy đều thiện nên nói có thể nói pháp sơ trung đều lành, vì thế hợp lại một chỗ để giải thích. Hiện thấy thụ dụng đại nhân thành tựu, giải thích điều thứ năm, nhắc lại tên Chương ở trước.

Hiện thấy thụ dụng đại nhân thành tựu. Thọ dụng đại nhân giải thích khi Vương Tử chưa xuất gia thọ vui hấp dẫn, cho đến giải thích sáu mươi kiếp nghe kinh Pháp Hoa thọ pháp lạc không sinh mệt mỏi. Nên gọi là hiện thấy thụ dụng đại nhân thành tựu. Điều này giải thích thời thứ hai của Vương Tử.

Vào thời ấy, Vương Tử thọ vui hấp dẫn, đều xã bỏ xuất gia, lại có đại chúng vào lúc đó, không sinh tâm mệt mỏi. Rất dễ hiểu như kinh v. v... trở xuống là giải thích nơi chốn.

Chép: Phật cuối cùng như kinh khi chưa xuất gia cho đến được phật thọ ký rồi bèn trong đêm đó nhập Niết-bàn vô dư. Hiện thấy tất cả Chư Phật xoay bánh xe pháp, nhân thành tựu thứ sáu, nhắc lại tên chương Năm chương trên đây nói về việc Phật hóa hành sự. Rồi bốn chương thuộc về khả năng giáo hóa làm lợi ích cho chúng sanh, kế là nói giáo hóa làm lợi ích cho chúng sanh. Nay nói Bồtát sau khi Phật diệt độ hoằng kinh, là xoay bánh xe pháp, hiện thấy nhiếp thụ Chư Phật xoay bánh xe pháp nhân thành tựu là. Nói tất cả Phật, hiện thấy các Đức Phật ở trước. Bồ-tát sau khi Phật diệt độ đã giảng nói không dứt, là đã giúp cho Phật pháp truyền bá không dứt, nên nói là tất cả.

Bánh xe pháp không dừng: Như kinh chép: sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang thọ trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa đủ tám mươi tiểu kiếp giảng nói cho người nghe, giải thích và trình bày kinh rất dể hiểu hiện thấy thiện kiên thật Như Lai pháp luân nhân thành tựu, giải thích thứ bảy, trước nhắc lại tên chương.

Hiện thấy thiện kiên thật Như lai pháp luân, nhân thành tựu: là nói thiện kiên thật Như lai pháp luân. Diệu Quang từ tám mươi kiếp về sau, cho đến khiến tám người con kiên cố Vô thượng Bồ-đề, vô lượng thời thành tựu. Pháp luân là: bất hoại gọi là thiện kiên thật Như lai pháp luân. Nói về vô lượng thời sau khi Phật diệt độ, Như kinh chép: Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh có tám người con đều tôn thở ngài Diệu Quang làm thầy cho đến đều giúp cho thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề kiên cố.

Giải thích và trình bày kinh rất dể hiểu thiên thấy tiến nhập vào nhân thành tựu. Giải thích này có tám điều, bảy điều trên là nói Diệu Quang năng việc hóa của, nay nói tám người con nghe pháp được ích là tiến nhập vào nhân thành tựu hiện. Thấy tiến nhập nhân thành tựu. Các Vương Tử ấy được Đại bồ đề như kinh chép: các vương tử này cho đến đều thành Phật đạo là. Giải thích và trình bày kinh hiện thấy nhớ nghĩ nhân thành tựu là giải thích điều thứ chín nói về sự nhớ nghĩ của Diệu Quang. Hiện thấy nhớ nghĩ nhân thành tựu: quá khứ hóa Vương Tử đều được thành Phật, nên gọi là nhớ nghĩ nhân thành tựu.

Vì người nói pháp lợi ích người, Như kinh chép: vị thành Phật sau cùng hiệu là Nhiên Đăng, cho đến được tôn trọng, khen ngợi. Như kinh chép:: là không giải thích văn kinh, nhưng giải thích ý kinh, là nói nhớ nghĩ quá khứ giáo hóa tám người con thành Phật. Sau đó nhớ nghĩ Nhiên Đăng giáo hóa Đức Thích-ca thành Phật, cho đến Di-lặc thành Phật. Hiện thấy tự thân sở kính sư nhân thành tựu, là giải thích điều thứ mười nói về sự nhớ nghĩ của Văn-thù.

Hiện thấy tự thân sở kính sự nhân thành tựu, là quá khứ vì thành tựu có thê ngộ giải Pháp Hoa, sau đó lại giảng nói cho người nghe, là tự thân được vui chấp dẫn.

Vì tự thân Văn-thù được vui hấp dẫn:, Như kinh chép:: Di-lặc nên biết cho đến được phật che chở, nên ông hiệu là Cầu Danh, là nói biết được sự tích trong quá khứ, lại biết được pháp cụ túc trong hiện tại. Như kinh chép: v. v... trở xuống là Bồ-tát Diệu Quang chẳng phải ai khác mà chính là thân ta, giải thích thẳng câu này.

Ông hiệu là Cầu Danh: là giải thích riêng biết các việc của Di-lặc. Hai câu: câu đầu là giải thích Di-lặc ông hiệu là Cầu Danh, sau đó lại nói lên được pháp đó, là nói tên cuối cùng của Di-lặc, Dilặc cùng được pháp này đầy đủ thành Phật. Nhật Đông Thiên Thai Hậu Học Sa môn. Thật Quan Phân Hội.

Pháp Hoa Luận Sớ quyển thứ nhất. (Hết).

QUYỂN TRUNG

PHẨM PHƯƠNG TIỆN

Y theo tên thứ mười ba trong mười bảy tên của luận thì tất cả Chư Phật đều có đại xảo phương tiện kinh. Dựa vào pháp môn này mà thành đại Bồ-đề, rồi nói pháp trời, người Hai thừa cho chúng sinh, nghe gọi là đại xảo phương tiện. Nên gọi là Phẩm Phương Tiện. Lại v. v... trở xuống là luận nói Phật có bảy thứ phương tiện, nên gọi là Phẩm Phương Tiện. Y v. v... trở xuống đến cuối luận là Luận chủ chia phương tiện thành năm đoạn. Một là nói pháp mầu công đức; Hai là nói Như lai Pháp Sư công đức của Như lai; Ba là nói đại chúng ba nghĩa; Bốn là nói Như lai bốn nghĩa; Năm là giải thích bốn nghi ngờ. Văn có hai: Trước là nhắc lại kinh, sau là giải thích luận. Văn kinh đã dài, nay trước chia khoa, sau đó lấy ra giải thích luận. Y theo luận chia khoa kinh làm ba, một là nói về Như lai khởi định. Phẩm Phương Tiện: kinh chép: Bấy giờ, Đức Thế tôn nhập Tam-muội sâu xa chính niệm bất động, dùng trí như thật quan xuất định một cách khoan thai xuất. Định rồi, bảo Xá-lợi-phất trở xuống là thứ hai nêu người đối dương.

Xuất định rồi, bảo Xá-lợi-phất: Từ trí tuệ Chư Phật trở xuống thứ ba nói về hai thứ công đức: Một là pháp mầu công đức; Hai là Pháp Sư công đức, nói hai thứ công đức tức hai. Chương đầu có hai một là nói chung nội chứng sâu xa, A-hàm sâu xa. Có Trí tuệ Chư Phật sâu xa, vô lượng môn trí tuệ ấy, khó thấy, khó giác, khó biết, khó giải, khó nhập. Như lai sở chứng của tất cả Thanh Văn Bíchchi Phật v. v... không thể biết được. Từ đâu biết được? V. v... trở xuống thứ hai nói riêng A-hàm sâu xa, lại chia ra tám khác nhau. Đầu tiên là nói thọ trì, đọc tụng sâu xa.

Vì sao? Nầy Xá-lợi-phất vì! Như lai Ứng Chính Biến Tri đã từng gần gũi cúng dường vô lượng trăm nghìn muôn ức vô số Chư Phật Đối. với các Đức Phật v. v... trở xuống là thứ hai nói tu hành sâu xa.

Các Đức Phật đều tu hành pháp A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, Xá-lợi-phất Như lai đã đối với v. v... trở xuống là thứ ba nói quả hành sâu xa. Xá-lợi-phất! Như lai đã tinh tiến mạnh mẽ, sở tác thành tựu, trong vô lượng trăm nghìn muôn ức na-do tha-kiếp. Tên gọi là Phổ Văn v. v... trở xuống, là thứ tư nói về thêm lớn công đức v. v... sâu xa.

Gọi là Phổ văn, này Xá-lợi-phất! Như lai rốt ráo v. v... trở xuống là. Thứ năm nói quyết diệu sự tâm sâu xa, Xá-lợi-phất! Như lai rốt ráo thành tựu pháp ít có, đó là pháp khó hiểu của Xá-lợi-phất. Điều thứ sáu nói Vô thượng sâu xa.

Pháp khó hiểu của Xá-lợi-phất Như lai có khả năng biết được. Pháp khó hiểu của Xá-lợi-phất đã xong. V. v... trở xuống: là thứ bảy nói về nhập sâu xa.

Pháp khó hiểu của Xá-lợi-phất, chư Phật Như lai tùy nghi nói ý thú khó hiểu. Tất cả Thanh Văn Bích chi Phật v. v... trở xuống thứ tám nói việc trú trì không làm chung với Hai thừa sâu xa.

Tất cả Thanh Văn, Bích-chi-phật đều không thể biết được, vì sao Xá-lợi-phất v. v... trở xuống? Là thứ hai nói công đức của Pháp Sư Như lai. Pháp mầu công đức là tự đức công của Phật. Công đức Pháp Sư là đức hóa tha của Phật, lại chia làm hai: một là nói chung Pháp Sư công đức vì sao Xá-lợiphất vì, Chư Phật, Như lai tự lại nói nhân thành tựu? Từ Xá-lợi-phất v. v... trở xuống là nói riêng về Pháp Sư công đức. Trong đó có hai: một là nói sơ lược Như lai có bốn công đức, đều là Pháp Sư. Thứ hai là nói rộng bốn thứ công đức, đầu tiên cũng là nêu chương môn, thứ hai là giải thích chương môn.

Xá-lợi-phất! Như lai thành tựu các thứ phương tiện, các thứ tri kiến, các thứ quán niệm, các thứ ngôn từ.

Nói bốn công đức: một là các thứ phương tiện y theo trụ công đức. Các thứ tri kiến đây là thứ hai, giáo hóa công đức. Các thứ quán niệm nói thành tựu công đức cuối cùng. Các thứ ngôn từ v. v... trở xuống thứ tư nói về công đức. Xá-lợi-phất ta từ thành Phật đến nay v. v... trở xuống là thứ hai nói rộng bốn thứ công đức, giải thích bốn chương môn, là bốn khác nhau, thứ nhất trước nói rộng an trú công đức.

Xá-lợi-phất từ khi thành Phật đến nay đã ở mọi nơi mọi chỗ, giảng rộng ngôn giáo, vô số phường liên dẫn dắt chúng sinh ở mọi chỗ, khiến chúng sinh được giải thoát. Xá-lợi-phất tri kiến v. v... trở xuống là thứ hai giáo hóa công đức Xá-lợi-phất! tri kiến phương tiện của Như lia là đến bờ bên kia. Xá-lợi-phất! Như lai tri kiến rộng lớn v. v..., trở xuống là thứ ba, rốt ráo thành tựu công đức.

Xá-lợi-phất! Như lai tri kiến rộng lớn, sâu xa vô chướng, vô ngại lực, không sợ, căn lực bất cộng pháp Bồ-đề phần, thân định giải thoát Tam-muội Tam-ma Bồ-đề, đều đã đầy đủ. Lần Xá-lợi-phất! Chư Phật Như lai thâm nhập, nói rộng các công đức cho đệ tử nghe. Y theo văn lại mở ra bảy thứ khác là có bảy lần Xá-lợi-phất. Thứ nhất là nói các thứ giải thích thành tựu. Xá-lợi-phất! chư Phật, Như lai thâm nhập vô tế thành tựu tất cả, không hề có thật pháp. Xá-lợi-phất! Như lai trở xuống là thứ hai nói riêng về ngôn ngữ thành tựu.

Xá-lợi-phất! Như lai có khả năng phân biệt các thứ xảo thuyết, các pháp ngôn từ, mềm mỏng, làm vui lòng chúng sinh. Hãy thôi Xá-lợi-phất trở xuống là. Thứ ba nói về tướng thành tựu. Thôi Xálợi-phất không nên nói nữa. Này Xá-lợi-phất! Chỗ thành tựu của Như lai v. v... trở xuống là. Điều thứ tư nói về sự thành tựu. Xá-lợi-phất thành tựu pháp ít có có hiểu bậc nhất. Xá-lợi-phất, chỉ có Phật và Phật trở xuống. Thứ năm nói về vô lượng chủng thành tựu.

Xá-lợi-phất! chỉ có nói pháp Phật và Phật v. v..., Chư Phật Như lai có khả năng biết được tướng thật của pháp đó, Xá-lợi-phất! Chỉ có Phật, Như lai trở xuống là. Thứ sáu hiểu rõ giác thể của thành tựu.

Xá-lợi-phất chỉ có Phật Như lai biết được các thứ pháp.

Xá-lợi-phất! Chỉ có Phật nói được v. v... trở xuống là. Thứ bảy nói về thuận theo ý chúng sinh mà nói pháp tu hành thành tựu. Văn lại chia làm bốn: một là nói chung Như Lai nói tất cả pháp.

Xá-lợi-phất, chỉ có Phật Như lai nói được tất cả pháp từ những pháp nào? v. v... trở xuống là thứ hai nói riêng năm pháp như thuyết chứng v. v...

Những Pháp nào? Pháp thế nào là? Pháp giống như cái gì? Pháp tướng thế nào? Pháp thể ra sao?

Nói như thế nào v. v... trở xuống là? thứ ba nói năm pháp như thuyết giáo, v. v...

Thứ nào? Nói thế nào? Giống cái gì? Tướng thế nào? Thể thế nào? tất cả pháp. Như thế v. v... trở xuống là thứ tư là tổng kết chứng giáo hai pháp Như lai hiện thấy, chẳng phải không hiện thấy. Tất cả pháp như vậy v. v... Như lai hiện thấy, chẳng phải không hiện thấy. Nay sẽ chỉ bày chỗ văn, sau đó dựa vào luận để giải thích riêng Luận chép v. v... trở xuống là thứ hai luận thích. Văn chia làm hai: thứ nhất là giải thích chung một bộ kinh, thứ hai là giải thích riêng.

Luận chép: Từ đây trở xuống là nói lên tướng nhân quả của pháp đã nói, nêu biết. Nói tướng nhân quả đã nói nên biết, gần là nói về phẩm Phương Tiện, nói nghĩa nhân quả. Như nói nghĩa nhân sâu xa của việc thọ trì, đọc tụng v. v.... Trí tuệ chư Phật sâu xa vô lượng, v. v... nói về quả nghĩa. Xa là nói về kinh này chỉ hiện ra một lý, nói Nhất thừa, chỉ giáo một người. Nên dùng Nhất thừa nhân quả làm tông. Bấy giờ, Thế tôn v. v... trở xuống la thứ hai nhắc lại kinh giải thích có năm chương kinh, là năm đoạn, như trên đã nói. Văn đầu có hai: nhắc lại trước Phật xuất định, bảo Xá-lợi-phất hai chương kinh mà giải thích. Kế là nhắc lại phép mầu công đức và Pháp Sư công đức mà giải thích. Lúc đó, Đức Thế tôn nhập vào Tam-muội sâu xa, chính niệm bất động dùng trí như thật quán từ Tam-muội an lành xuất định, xuất định rồi, bảo Xálợi-phất. Dùng trí như thật quán là nói về sự xem xét, xem xét là nói biết bệnh cho thuốc. Từ tammuội an tường xuất định khởi: sau khi biết bệnh cho thuốc rồi, nên kịp thời bốc thuốc theo bệnh, nên xuất định. Xuất định rồi bảo Xá-lợi-phất là nêu ra người đối dương. Nói lên Như lai được năng lực tự tại, nên Như lai nhập định không thể giật tỉnh.

Nói lên Như lai được năng lực tự tại, là giải thích chính niệm trên là bất động và dùng trí quán sát như thật. Dùng định lực tự tại được thân tâm bất động và quan sát như thật. Như lai nhập định không ai có thể làm ngài xuất định là, giải thích an tường xuất định, không bị duyên ngoài làm kinh động, nên được an tường xuất định. Trước nói bên trong có năng lực tự tại, nay nói không có sự kinh động bởi duyên ngoài, đều là khen ngợi Vô Lượng Nghĩa, khẳng định có hai năng lực này. Tại sao lại phải bảo với Xá-lợi-phất v. v... trở xuống là giải thích thứ hai đối với người đối dương lại chia ra hai khác nhau, một là giải thích các Thanh Văn không đúng, sau đó là giải thích Bồ-tát không đúng. Trong mỗi pháp đều có hai, đầu tiên vì sao? Là hỏi lấy gì để bảo với Tôn giả Xá-lợi-phất, không báo các Thanh Văn khác. Theo sau trí tuệ sâu xa v. v..., trở xuống là thứ hai là đáp.

Theo trí tuệ sâu xa tương ứng với Như lai. Nay là nói về đại tuệ bình đẳng. Chỉ có Thân Tử trí tuệ là bậc tương ứng với Phật. Người khác không như thế do vậy chỉ bảo thân tử. Tại sao lại không bảo các Bồ-tát là thứ ba giải thích không bảo với các Bồ-tát. Trước hỏi, sau đáp.

Vì sao không bảo các Bồ-tát? Đáp: Trong đầu tiên là nêu chung năm nghĩa.

Có năm thứ nghĩa: từ một v. v... trở xuống là giải thích riêng năm nghĩa: một là việc nên làm vì các Thanh Văn, hai là các Thanh Văn mà hồi tâm hướng về đại Bồ-đề. Ba là bảo hộ các Thanh Văn sợ sệt yếu đuối. Bốn là vì giúp cho người khác khéo suy nghĩ. Năm là vì các Thanh Văn bất khởi mà làm ra biện tâm. Thế nhưng lại nói Thanh Văn có năm nghĩa, nên phải báo cho biết.

Một là việc nên làm, các Thanh Văn. Dưới đây ví dụ phẩm nói. ta tuy nói các thầy diệt độ, nhưng hết sinh tử mà thật chẳng diệt. Nay việc nên làm là duy nhất trí tuệ Phật. Bồ-tát đã phát tâm Phật, hành Phật, đã làm ra nghiệp của trí tuệ Phật, nên không cần phải bảo Bồ-tát. Thanh Văn chưa làm được nghiệp Phật, muốn cho họ làm, thì bảo với cho họ biết. Hai là vì các Thanh Văn mà hồi tâm hướng về đại Bồ-đề. Bồ-tát phát tâm về với đại đạo, nên không cần bảo, Thanh Văn chưa đáp lại, nay muốn làm cho họ đáp lại, thì phải bảo. Điều trên là khiến họ làm nhân Phật. Nay nói thú quả hướng về Phật. Ba bảo vệ các Thanh Văn sợ sệt yếu đuối. Thanh Văn sợ Phật đạo dài xa, nên phải bảo, Bồ-tát thì không như thế.

Bốn là vì giúp cho người khéo suy nghĩ. Từ người ngoài Thanh văn, dòng dõi của Bồ-tát trời người đều gọi là người khác. Thanh Văn vốn không phải là người có khả năng thành Phật, sẽ thành Phật, Phật nói sao không cầu thành Phật; khiến họ suy nghĩ đạo lý.

Năm vì giúp cho Thanh Văn bất khởi niệm phải làm đã làm xong Thanh Văn có sự tự nắm giữ bảo vệ rốt ráo cho nên phải bảo. Bồ-tát không có bệnh này, nên không phải bảo. Trí tuệ của Chư Phật sâu xa vô lượng là thứ hai giải thích hai thứ công đức là hai điểm khác nhau. Trong giải thích diệu pháp chia làm hai: là giải thích chung hai thứ sâu xa. Điều thứ hai đặc biệt giải thích riêng A-hàm thứ sâu xa. Thứ nhất lại chia thành hai, một là giải thích, hai là nêu kinh để giải thích chỗ. Trong giải thích có hai: một là nhắc lại, hai là giải thích. Trong nhắc lại, trước nhắc lại hai chương môn là trí tuệ và sâu xa.

Chư Phật trí tuệ sâu xa vô lượng: là tâm tôn trọng các đại chúng sinh trở xuống là thứ hai giải thích. Văn có hai, đầu tiên là sinh khởi chung hai chương, kế là giải thích riêng hai chương.

Vì các đại chúng sinh mà tâm tôn trọng rốt ráo muốn nghe Như lai nói, đầu tiên phải có câu hỏi vì sao Phật xuất định, khen ngợi trí tuệ sâu xa vô lượng. Nên giải thích vì sao các đại chúng sinh tâm tôn trọng cuối cùng là muốn nghe Như lai nói. Nói sâu xa v. v... trở xuống là sâu xa thứ hai giải thích hai chương môn: một là giải thích chương môn, hai là giải thích chương môn trí tuệ. Còn giải thích chương môn sâu xa lại có ba: một là nói chung hai thứ sâu xa, hai là nói riêng chứng sâu xa, ba là giải thích thể của sâu xa, sơ văn nêu hai thứ khuyến biết.

Nói sâu xa, là nói hai nghĩa sâu xa, nên biết như vậy. Hai pháp ấy lá v. v... trở xuống? Là nêu hai thứ sâu xa. hải pháp ấy là

Một là chứng sâu xa là, nói trí tuệ của Chư Phật sâu xa vô lượng. Hai là A-hàm sâu xa nói về trí tuệ môn của họ sâu xa vô lượng. Nên nói sâu xa là bày riêng của tướng chung. Chứng sâu xa là pháp sở chứng bên trong. A-hàm sâu xa Thích Đạo An nói? A-hàm gọi là vô, nói tất cả pháp đều thú hướng về pháp không rốt ráo, nên được gọi là thú vô.

Tăng Triệu nói: A-hàm gọi là Pháp quy, được quy về phủ tạng muôn điều lành nhưng A-hàm là trên nước ngoài giáo pháp, có ở cả Tiểu. Bốn Ahàm, v. v... là Đại Tiểu. Niết-bàn nói phương đẳng A-hàm đây là Đại. Nói sâu xa là tướng chung, còn lại là tướng riêng, chung riêng là sâu xa thông chứng giáo, nên nói là chung. Còn có chứng giáo khác nhau, nên gọi là riêng. Chứng sâu xa có năm thứ nói lên v. v... trở xuống là thứ hai giải thích riêng chứng sâu xa.

Chứng sâu xa có năm thứ nói lên. Một là nghĩa sâu xa là dựa vào nghĩa sâu xa như thế nào. Hai là thật thể sâu xa. Ba là nội chứng sâu xa. Bốn là y chỉ sâu xa và năm là Vô thượng sâu xa.

Nghĩa sâu xa trước là giải thích năm thứ sâu xa chưa thấy được ý văn. Sau thấy luận Phật Tính và kinh Thắng-an mới được ngộ giải. Luận Phật Tính giải thích năm tạng cuối cùng đến Thắng-nan năm tạng làm chứng. Như Lai tạng tự tính là nghĩa, tất cả các pháp đều không ngoài tự tính. Vô ngã là tướng. Nghĩa Tự tính nói về một tạng này là thể của tất cả các pháp. Tất cả các pháp chân như là thể. Nên không có một pháp nào ra ngoài như

Trong năm nghĩa của luận tiếp theo, thứ nhất là tính nghĩa luận này gọi là thể sâu xa, thứ hai là Pháp giới tạng, lấy nhân làm nghĩa, niệm xứ quan của bậc thánh v. v... đều đưa vào tính này làm cảnh giới. Ý này nói pháp giới là các duyên như niệm xứ v. v..., duyên với duyên tăng trên. Nhân là nhân nghĩa trong năm nghĩa của luận Đại Thừa tiếp theo. Luận này dựa vào sự sâu xa. Ba pháp thân tạng lấy chí được làm nghĩa. Tất cả bậc thánh tính ưa chánh tánh giúp cho các bậc thánh được công đức Như lai, là tạng nghĩa thứ ba trong Nhiếp luận. Tất cả pháp luống dối ẩn giấu phi phàm kia là năng duyên của Hai thừa, do đó Tiểu thừa không tương tự. Thế nhưng luận Phật tính thủ hiển thời làm nghĩa, nên gọi là Pháp thân tạng, cho đến được làm nghĩa bốn nhiếp, luận nói theo lúc ẩn, nên nói tạng là chứng sâu xa ở trong đó. Bốn xuất thế gian trên trên tạng, chân thật là nghĩa. Chữ Thế có ba nghĩa: một là đối trị khả diệt, hai là vọng tâm niệm niệm diệt, ba là bên trong có kiến chấp điên đảo không được thánh pháp, cả ba nghĩa này đều được gọi là Thế. Quá ba nghĩa ấy nên gọi là nghĩa xuất thế, tức năm nghĩa trong Nhiếp luận, Thứ tư là nghĩa Chân thật, tức trong luận này là Vô thượng sâu xa. Năm tự tánh thanh tịnh tạng là bí mật là nghĩa. Như tất cả các pháp thuận theo tính này thì được gọi là vi nội. Đó là chính, không phải tà, nếu trái với lý này thì là vi ngoại, là tà không phải chính. Trong luận Tứ Nhiếp nghĩa sâu xa xa. Năm tạng này thể là một nhưng nghĩa không giống nhau. Tất cả đều có chân như là Thể, nên gọi là Thể nghĩa, tức chân như là nhân để cho bậc Thánh quán sát thực hành, gọi là nhân nghĩa, người chứng được chân như này làm pháp thân thì gọi là chứng được nghĩa. Chân như này vượt ngoài thế gian thì gọi là nghĩa trên trên, sâu xa mầu nhiệm gọi là Nghĩa Bí Mật, Nhiếp luận Đại thừa ban đầu nói Tất cả tướng y chỉ môn. Nói về quả có năm nghĩa đều là ý của Thắng-man kinh, của luận Phật tính. Ngày nay cả năm thứ này đều là nghĩa của năm tạng. Ý nói rằng ít không thứ lớp. Nay nói có tự thể sâu xa là thứ nhất Như Lai tạng sâu xa nội chứng sâu xa, là Pháp giới tạng. Vô thượng sâu xa là xuất thế trên trên tạng. Dựa vào nghĩa nào mà nói sâu xa là Tự tính thanh tịnh tạng.

Hỏi: Tại sao lại nói năm thứ, không nhiều hơn không ít hơn? Đáp: Đầu tiên là tự tính trụ Phật tính, thứ hai là dựa vào tự tính trụ

Phật tánh. Khởi chủ quán hành là dẫn ra Phật tính. Thứ ba là chủ được Phật tánh. Thứ tư là khen ngợi ba thứ mà thế gian không có này. Thứ năm nghĩa sâu xa chỉ có ở cảnh giới Phật. Năm thứ này gồm nhiếp hết sự nghĩa của tất cả Phật.

Hỏi: Lấy gì để nói về năm việc này?

Đáp: Nay Phật nói Nhất thừa muốn cho chúng sinh thành Phật. Ý nghĩa của việc thành Phật đều ở năm việc này. Cho nên giải thích đầu tiên nếu nói Pháp Hoa chưa nói Phật tính, phá bỏ năm nghĩa này thì tội nghiệp sẽ vô biên. Hiểu được năm nghĩa này thì phúc tuệ sẽ vô lượng. Tại sao lại sâu xa? Là thứ ba giải thích thể của sâu xa.

Thế nào là sâu xa là? Nói đại Bồ-đề, đại Bồ-đề là do Như lai chứng đắc A-nậu-Đa-la Tam miệu Tam-bồ-đề, sâu xa lại là điều Thanh Văn, Bíchchi-phật không thể biết được, nên gọi là sâu xa. Là nêu riêng thể của sâu xa, chính là Vô thượng Bồđề là sâu xa thể của. Bồ-đề lời quên bặt nghĩ nên gọi là sâu xa. Những thứ ở dưới sâu xa, trên kia đã nói là đương thể sâu xa Hai thừa không lường được nên gọi là sâu xa.

Nói về trí tuệ, ở trên đã giải thích môn sâu xa rồi, nay giải thích môn trí tuệ. Nói trí tuệ, là nói về nghĩa của mọi thứ, tất cả tất cả trí. nói tất cả loại là nghĩa trí của Nhất thiết trí, tất cả thứ là trí Nhất thiết chủng Luận Trí Độ chép: môn trí tuệ có tên là chủng, chủng nói về chủng biệt, vì môn trí tuệ có chủng biệt khác nhau nên gọi là chủng. Nghĩa trí của Nhất thiết trí. Giải thích thứ nhất là nói trí của trí người nhất thiết, nên coi trọng về trí an định. Lại giải thích, mọi trí mà ta biết nên gọi là trí trí. Như kinh đã v. v... trở xuống là nói thứ hai nêu kinh giải thích nơi chốn.

Khinh chép: Trí tuệ của Chư Phật, sâu xa vô lượng, môn trí tuệ ấy khó thấy, khó giác, khó biết khó hiểu, khó nhập. Tất cả Thanh Văn, Bích-chiphật đều không thể biết được.

Nói A-hàm sâu xa từ trên giải thích chung hai thứ sâu xa. Nay lại một lần nữa giải thích A-hàm sâu xa. Trước chung, sau riêng đều là Thiên Thân giải thích thể của kinh. Chia văn làm hai. Một là trước nhắc lại A-hàm sâu xa làm chương môn.

Nói A-hàm sâu xa biểu thị có tám thứ v. v... trở xuống:, giải thích là thứ hai, đầu tiên là nói chung có tám chỉ ra có tám thứ.

Một là thọ trì đọc tụng, v. v... trở xuống là giải thích riêng tám thứ tức thành tám môn. Trong mỗi thứ đều có hai trước là nêu tên, như kinh v. v... trở xuống là dẫn kinh chứng minh, một thọ trì đọc tụng sâu xa. Như kinh chép: Phật nói từng gần gũi cúng dường vô lượng trăm ngàn muôn ức Chư Phật.

Hỏi: Kinh nói gần gũi, cúng dường vô lượng Chư Phật, thế nào là thọ trì, đọc tụng?

Đáp: Sở dĩ gần gũi, cúng dường chỉ là muốn được thọ trì đọc tụng.

Hai tu hành sâu xa, trước đã thọ trì đọc tụng, nay là như lợi dụng tu hành, lại như trước là văn tuệ, nay là từ tuệ; lại trước là tín thọ, nay là tu hành.

Hỏi: Trước nói thế nào là Tín?

Đáp: Long Thọ nói vì tín lực nên thụ vì niệm lực nên trì vì thế biết trước là Tín.

Như kinh chép: đối với Chư Phật tận hành các sở tu pháp A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

Ba quả hành sâu xa, quả hành sâu xa trước là tư tuệ, nay là tu tuệ. Dùng ba tuệ làm đầy đủ nghĩa gần, của quả quá khứ nên nói là quả hành, lại có hai tuệ làm nhân để tu tuệ làm quả.

Như kinh phép: Xá-lợi-phất nói Như lai đã mạnh mẽ tinh tiến thành tựu trong vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp.

Bốn thêm lớn công đức tâm sâu xa, trước là ba tuệ nay là chứng tuệ. Chứng tuệ là sau phần tu tuệ bắt đầu chứng được chân như pháp thân, nên nói là thêm lớn tâm công đức, Như kinh tên chép: gọi là Phổ Văn, nên năm là khoái diệu sự tâm sâu xa.

Năm là khoái diệu sự tâm sâu xa, bốn thứ trên đây nói về nhân sâu xa, từ sau bốn thứ này nói về quả sâu xa, khoái diệu sự là nói về Đại Niết-bàn.

Như kinh chép: Xá-lợi-phất nói Như lai rốt ráo đã thành tựu pháp ít có. Sáu là Vô thượng sâu xa. sáu là Vô thượng sâu xa, thứ năm là quả Niết-bàn, thứ sáu là quả Bồ-đề. Thắng tướng thứ chín, thứ mười hai của luận Tứ Nhiếp trước cũng là quả quả. Nay là quả của nó, lại trước là pháp thân Như kinh chép: nầy Xa-lợi-phất, nay là ứng thân, pháp khó hiểu, Như lai có khả năng hiểu, bảy là nhập sâu xa.

Bảy là nhập sâu xa gọi là tự chương cú ý khó được nên trú trì tự tại, không đồng với và ngoại đạo nói phép nhân duyên gọi là sâu xa. Ba thân vi luận, nay là hóa thân, tự tha phân biệt hai tên trước là tự đức, hai tên sau là đức hóa tha.

Nói nhập sâu xa: Như Lai nói giáo giúp cho người ngộ nhập lý, trú trì được tự tại. Không đồng nói pháp nhân duyên với ngoại đạo, pháp ngoại đạo nói ở đây là rơi vào tà nhân hoặc rơi vào vô nhân, lại nhân duyên gọi là lý do, lý do là nghĩa. Pháp của ngoại đạo có chữ mà vô nghĩa. Phật pháp thì không phải như thế. Như kinh chép: Xá-lợiphất khó hiểu pháp, là Chư Phật Như lai tùy nghi sở thuyết ý thú khó hiểu. Tám là bất cộng Hai thừa trú trì sâu xa.

Tám là bất cộng Thanh Văn, Bích-chi-phật sở tác trụ trì sâu xa. Trước khác với ngoại đạo, nay thì không chung với Hai thừa. Còn nói sở tác trú trì là Chư Phật, Như lai hễ lập bày Phật pháp để tạo tác trụ trì, thì Hai thừa không thể biết được.

Như kinh chép: Tất cả Thanh Văn, Bích-chiphật đều không thể biết, đây là nói về pháp mầu công đức trên đây đã phân biệt pháp mầu công đức, nay là Luận chủ tổng kết giúp cho người biết phân biệt rõ ràng.

Thế nào là pháp mầu công đức? Kế là nói Như lai Pháp Sư công đức? Là thứ hai kế nói về Pháp Sư công đức, văn chia làm hai: một là nói chung công đức Pháp Sư, hai là nói riêng công đức Pháp Sư. Trước nói pháp mầu công đức, cũng trước chung, sau riêng. Hai thứ sâu xa là chung, A-hàm sâu xa là riêng, nay cũng nói chung và riêng. Trong chung chia làm hai: một là Luận chủ nêu chung công đức Pháp Sư, hai là dẫn kinh chứng minh. Kế là nói về công đức của Như lai Pháp Sư thành tựu nên biết: Pháp mầu công đức là tự đức, công đức Pháp Sư là đức hóa tha. Trước nói về tự đức, sau nói về hóa tha, nên nói là kế nói. Như kinh v. v... trở xuống là kế dẫn kinh làm chứng.

Như kinh chép: vì sao Xá-lợi-phất, chư Phật Như lai tự tại nói nhân thành tựu.

Nói tự tại thuyết nhân thành tựu có đức tự tại nói pháp đức này là nhân của nói pháp, nên nói là tự tại nói nhân.

Hỏi: điều thứ bảy, thứ tám ở trước cũng có nói về pháp nghĩa, đã là Pháp Sư, vì sao đến bây giờ mới bắt đầu giải thích?

Đáp: Luận chủ chia ra hai chương, nên mở ra hai môn, chương đầu chẳng phải không có Pháp Sư. Đoạn sau cũng có pháp mầu. Lại có điều bảy, điều tám trước đã nói lời dạy của Như lai chưa chứng minh sự giáo hóa chúng sinh của Hai thừa không giống với ngoại đạo. Nay đã chứng minh giáo hóa chúng sinh, nên gọi là công đức Pháp Sư. Như Lai thành tựu bốn thứ công đức v. v... trở xuống là thứ hai nói về công đức Pháp Sư của Như lai văn chia làm hai: một là nói sơ lược về bốn thứ công đức, hai là nói rộng về bốn thứ công đức, cũng là mở đầu nêu chương, sau là giải thích. Văn lại chia hai: một là luận chủ nói chung bốn thứ công đức, hai là dẫn kinh nói riêng bốn thứ công đức, là giải thích nhân của tự tại nói ở trên vì đủ bốn thứ công đức nên có khả năng nói pháp cho người nghe.

Như lai đầy đủ bốn thứ công đức nên độ được chúng sinh. Bốn thứ công đức là nói nhân của, vì sao lại có bốn? V. v... trở xuống là thứ hai dẫn kinh nói riêng bốn thứ công đức, là thành bốn thứ khác nhau. Mỗi pháp trong đó có ba, thứ nhất nêu tên, thứ hai dẫn kinh chứng minh, thứ ba giải thích kinh nói trụ thành tựu là nói về nêu tên.

Một là trụ thành tựu, là trụ các phương tiện độ thoát chúng sinh nên mới gọi là Trụ, hoặc có luận bản chép: chữ vãng, các người là vãng chúng sinh có hai thứ: Một là bỏ Tiểu hướng Đại gi là lai, như gã nghèo hướng về quê cũ, dần dần đi tới nhà cha; Hai là bỏ Đại hướng Tiểu, gọi là khứ, cũng như gã nghèo bỏ nhà ra đi. Phật cũng có hai thứ: một là ứng thân, vi chúng sinh đại tâm nên gọi là, Lai hai là hóa thân, thành tựu chúng sinh, như vị Trưởng giả kia tay cầm đồ hốt phân đến chỗ con. Nay ở trong đó có tám tướng thành đạo là vãng nghĩa, nên còn nói là vãng phương tiện, như kinh chép: v. v... trở xuống là thứ hai dẫn kinh.

Như kinh chép: Xá-lợi-phất! Như lai thành tựu các thứ phương tiện, các thứ phương tiện là thứ ba giải thích kinh.

Các thứ phương tiện: từ trời Đâu-suất lui sụt đến nói lên nhập Niết-bàn. Tám tướng thành đạo tám phương tiện, nên gọi là các thứ. Nếu theo luận Phật Tính thì có mười bốn thứ phương tiện: một là hiện bản sinh sự, hai là hiện sinh lên cõi trời Đâusuất, ba là từ cõi trời xuống thọ thân trung ấm, bốn là nhập thai, năm là xuất thai, sáu là học kỹ năng, bảy là đồng tử du hý, tám là xuất gia, chín là khổ hạnh, mười là đến dưới gốc Bồ-đề, mười một là phá ma quân, mười hai là thành Phật đạo, mười ba là xoay bánh xe pháp, mười bốn là nhập Niết-bàn. Hai là giáo hóa thành tựu, là giải thích thứ hai cũng có ba thứ khác nhau, một là nêu chương, hai là dẫn kinh, ba là giải thích kinh.

Hai là giáo hóa thành tựu. Nói về giáo hóa thành tựu, Như lai có khả năng biết được nhân duyên thanh tịnh. Pháp nhiễm thì răn dạy cho bỏ, pháp thanh tịnh thì khuyên tu, dùng cả hai môn khuyên răn (khuyên bảo và ngăn cấm) nên gọi là giáo hóa. Kinh chép: v. v... trở xuống là thứ hai dẫn kinh.

Như kinh chép: các thứ tri kiến: các thứ tri kiến nói lên các nhân nhiễm tịnh v. v… trở xuống là, thứ ba giải thích kinh.

Các thứ tri kiến là nói các nhân nhiễm tịnh, vì có nhiễm có tịnh nên gọi là các thứ. Nếu theo Nhiếp luận thì thức A-lại-da là tất cả nhân nhiễm tịnh. Nên kệ ấy chép:: Thế giới này vào thời vô thỉ, tất cả pháp y chỉ, đạo này có nhiễm tịnh, rồi được Niết-bàn. Lại giải thích theo kinh Thắng-man thì Như lai tạng là nhân nhiễm tịnh, dùng nhiễm tịnh dựa vào Như lai tạng, hai là luận chung. Tất cả nhiễm phiền não là nhân của pháp nhiễm sinh tử. Vô lậu là nhân của pháp thanh tịnh Niết-bàn như nói rộng các danh chương kia và kinh Thắngman. Sinh tử nương vào Như lai tạng. Giải thích chung Hạt giống nhiễm tịnh là nhân sinh tử. Vô lậu huân tập là nhân Niết-bàn. Phật bên trong biết được hai thứ này, bên ngoài chỉ bày cho chúng sinh, nên gọi là Pháp Sư. Có luận bản nói đó là nhân của nhiễm tịnh. Nay nói, biết được các nhân của nhiễm tịnh thuộc về biết hết ý nghĩa của nhân. Nếu nói tịnh nhân thì chỉ biết tịnh mà không biết nhiễm, Nhiếp nhân nghĩa bất tận, ba là công đức thành tựu sau cùng, là giải thích điều thứ ba cũng có ba thứ khác nhau, đầu tiên là nêu, kế là dẫn chứng, sau là giải thích.

Ba là công đức thành tựu sau cùng.

Nói về công đức thành tựu sau cùng, dựa vào hai điểm sau để giải thích. Một là nói tất cả công đức có đủ sức mạnh không sợ sệt gọi là công đức thành tựu sau cùng; Hai là nói dựa vào hậu văn có quán nhân vô ngã và pháp vô ngã. Chỉ ở trong pháp Đại thừa mới có công đức này, tên là rốt ráo thành tựu, như kinh chép v. v... trở xuống là thứ hai dẫn kinh chứng minh.

Như kinh chép: các thứ niệm quán: các thứ niệm quán giải thích là thứ ba, các thứ niệm quán dùng nói pháp để thành tựu nhân duyên tương ưng như pháp. Dùng nói pháp ấy để thành tựu nhân duyên, muốn nói pháp thì phải thành tựu nhân duyên, là nói pháp nhân duyên. Có nói pháp nhân duyên mới được tương ưng các pháp, tương ưng các pháp mới được nói pháp. Ba trước biết được nhân nhiễm tịnh, là nói Phật biết pháp hữu. Nay nói hai vô ngã quán nhân và pháp rằng biết pháp không, vì biết đủ không hữu nên gọi là Pháp Sư.

Hỏi: Vì sao gọi là các thứ niệm quán.

Đáp: Hai vô ngã nhân và pháp gọi là các thứ, bốn là thuyết thành tựu cùng có ba, đầu tiên là nêu. Bốn là thuyết thành tựu: như kinh chép v. v... trở xuống là dẫn kinh.

Như kinh chép: các thứ ngôn từ, các thứ ngôn từ để giải thích kinh thứ ba.

Các thứ ngôn từ là dựa vào bốn trí vô ngại dựa vào các danh tự chướng cú nào, tùy chúng sinh nào có khả năng thọ mà làm thành thuyết. Dựa vào danh tự, chương cú nào? Giải thích là ngôn từ trên trên. Tùy theo chúng sinh nào là tùy muôn thứ chúng sinh, nên có các thứ ngôn từ. Vậy mà Pháp Sư La-thập không có văn nói về bốn thứ công đức này. Thế nhưng nói từ khi thành Phật đến nay đã có các thứ nhân duyên ví dụ nói rộng ngôn giáo, các thứ nhân duyên, là điều thứ ba trong bốn thứ. Giải rộng ngôn giáo có công năng kết thành công đức thứ tư. Các thứ tỉ dụ có công năng kết thành thứ hai, không có các phương tiện bậc nhất. Bởi thế nên trong vô số phương tiện đã nhiếp được tất cả phương tiện, đầu tiên là phương tiện cánh vô.

Hỏi: Bốn thứ công đức này thứ lớp như thế nào?.

Đáp: Các Đức Phật đều trụ trong tám tướng thành đạo. Thứ nhất là nói về trú công đức, sở dĩ trú tám tướng vì Như lai biết nhiễm biết tịnh, giúp cho chúng sinh xả nhiễm được tịnh, nên có thứ hai là giáo hóa công đức. Việc giáo hóa chúng sinh đó cần phải chuẩn bị đủ các đức bên trong là tương ứng với các pháp, nên có thứ ba là công đức rốt ráo. Đức có đầy đủ ở bên trong thì khéo nói ra ngoài, nên lại có thứ tư là công đức nói pháp. Bốn thứ này là nghĩa nhiếp hóa chúng sinh, nên gọi chung là công đức Pháp Sư. Lại có nghĩa v. v... trở xuống:

Thứ hai là phương tiện quảng bốn: cũng là giải thích chương môn. Giải thích chương môn là ứng thành bốn thứ khác nhau. Thế nhưng luận chủ chia thành hai. Giải thích ba phương tiện trước thành một thứ, giải thích phương tiện thứ tư thành một loại. Ba phương tiện trước lại chia thành hai, là giải thích kinh, hai là giải thích luận, giải thích kinh là ba. Trong từng chương đều có ba, đó là một là nêu, hai là dẫn chứng, ba là giải thích kinh.

Lại có nghĩa các thứ phương tiện: là nói ngoại đạo có tà pháp như thế là có vô vàn lầm lỗi, nên phải có các thứ phương tiện nói lên chính pháp của chư Phật, như thế là có các thứ công đức. Nói lại có, như trên đã nói về tám tướng, phương tiện nghĩa vẫn chưa cùng tận. Nay muốn giải thích rộng, nên nói lại có nghĩa các thứ phương tiện, nêu ra các thứ, nói ở dưới giải thích các thứ. Có thể có ba đoạn các thứ: Một là nói lên chính pháp có các thứ lầm lỗi như chín mươi sáu thứ; Hai là nói chính pháp của Phật có các thứ công đức. Lược nói có năm thừa, nói rộng có tám muôn pháp tạng; Ba là tà làm một thứ, chính là một thứ nên gọi là các thứ. Như kinh v. v... trở xuống là dẫn chứng văn có hai: một là nói vô số phương tiện như kinh chép: Xálợi-phất ta từ khi thành Phật tới nay là nói rộng ngôn giáo vô số phương tiện, hai là từ dẫn đạo v. v... trở xuống: là, giải thích nói ý phương tiện.

Dẫn dắt chúng sinh về các chỗ dính mắc để họ được giải thoát, lại có vô số phương tiện là, thứ ba giải thích kinh, văn có hai: một là giải thích vô số phương tiện, hai là giải thích trên nói ý phương tiện.

Lại vô số phương tiện khiến nhập vào các pháp lành nên lại có phương tiện, dứt phương tiện nghi, lại phương tiện khiến nhập vào thắng trí tăng trên, nên lại có phương tiện là dựa vào bốn nhiếp pháp nhiếp thụ chúng sinh khiến được giải thoát.

Trong đây nói bốn thứ phương tiện. Nay dùng ba nghĩa để giải thích:

Một là chúng sinh chưa nhập pháp lành, thì giúp họ nhập vào pháp lành, tuy được dứt nghi nhưng chưa nhập vào thắng trí, thì giúp cho được thắng trí. Tuy nhập vào thắng trí nhưng chưa được giải thoát, thì nên khiến họ được giải thoát.

Hai là bốn thứ gánh nặng, trong kinh thắng Man: Bốn thứ gánh nặng là: a/ vì chúng sinh vô văn phi pháp mà nói nhân thiên thừa, khiến nhập vào pháp lành. b/ nói Thanh Văn thừa dứt nghi đối với Bốn đế, nên nói là dứt các nghi, c/ Nói Duyên giác thừa giúp cho nhập vào thắng trí. Dùng trí duyên giác thắng trí Thanh Văn. d/ phương tiện vi nói Đại thừa, trong Đại thừa dùng bốn nhiếp pháp thu nhiếp, dùng bố thí để nhiếp, khiến làm khuyến thuộc của mình, dùng ái ngữ đổ nhiếp khiến phát tâm Bồ-đề, dùng lợi hành tha nhiếp giúp cho gốc lành thêm lớn, dùng đồng sự nhiếp để giúp họ thành Phật.

Ba là theo luận Phật Tính, vì bốn người phá bốn chướng thành bốn nhân được quả, nên không nhiều không ít. Thế nhưng nói bốn thứ: a/ Phương tiện phá xiển-đề bất tín chướng, giúp cho tin ưa Đại thừa làm thành đại tịnh hạt giống. b/ Phương tiện phá ngoại đạo tà ngã tương chướng, khiến được Bát-nhã, là dưới giống của Đại ngã mà nói dứt các nghi, không có cái ngã của luống dối mà có cái ta Phật tính, có những nghi ngờ đối với vô pháp được đứt bỏ. c/ Phương tiện phá Thanh Văn kinh sợ sinh tử chướng, khiến được phá hư không Tam-muội thành tựu đại lạc hạt giống. Hạt giống nhờ hai phương tiện tốt đẹp ở trước mà nói là thắng trí. Lại thứ nhất là thấp, kể một là trung, sau một là trên, nên nói là tăng trên. d/ là phá độc giác tự ái thân chướng giúp cho được Đại từ đại bi thành tựu làm Hạt giống Đại thừa, dùng làm Duyên giác vô bi. Bây giờ nói bốn nhiếp pháp, là đại bi. Chư trước Xứ v. v... trở xuống là, thứ hai, giải thích nói ý phương tiện. Văn chia làm hai, đầu tiên là nhắc lại chung giải thích.

Chư trước Xứ là chỗ nào cũng đắm nhiễm, hoắc đắm cái cõi v. v... trở xuống là thứ hai riêng giải thích văn có hai, phần đầu nêu ra thành bốn, phần sau giải thích bốn đắm

Hoặc đắm nhiễm các cõi hoặc đắm nhiễm các địa, hoặc đắm nhiễm các phân, hoặc đắm nhiễm các thừa, trên đây đã nói bốn thứ phương tiện. Nay nói bốn đắm nhiễm là bốn thứ đắm nhiễm nói là bốn phương tiện, không phải là trị riêng, nhưng là trị chung, đắm nhiễm v. v... trở xuống là thứ hai giải thích bốn đắm, là bốn thứ khác nhau. Nay trước là giải thích đắm cõi.

Đắm cõi là nói đắm cõi dục cõi Sắc cõi Vô Sắc, đắm địa v. v... trở xuống là, giải thích thứ hai.

Đắm địa là đắm đắm giới thủ Tam-muội sơ thiền định địa cho đến Phi phi tưởng và diệt tận định địa. Giới thủ là ngoại đạo cho tà giới là đạo. Tam-muội trước đây là Tam-muội trong cõi dục, như luận Thành thật nói điện quang định, v. v... lại là vị lai thiền của tì-đàm. Đắm phân là giải thích thứ ba, trước nêu trước tại gia, xuất gia hai chương môn.

Đắm phân: là đắm phần tại giai xuất gia. kế là giải thích hai chương môn:

Đắm phần tại giai: là đắm mình đồng thứ gây ra các thứ nghiệp tà kiến v. v...

Đắm xuất gia phần là mê đắm tiếng tăm lợi dưỡng các thứ chư giác phiền não v. v... Rất dễ hiểu

Đắm thừa là giải thích thứ tư, trước nêu Thanh Văn Bồ-tát hai chương môn.

Đắm thừa là đắm Thanh Văn thừa, Bồ-tát thừa, kế là giải thích hai môn.

Đắm Thanh Văn thừa là thích giữ giới Tiểu thừa cầu Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, nên đắm Đại thừa là nói đắm lợi dưỡng, cúng dưỡng, cung kính, v. v... nên đắm phân riêng quán các thứ pháp tướng cho đến Phật địa, rất dễ hiểu.

Là các thứ tri kiến, là nói rộng thứ hai ý nghĩa các thứ tri kiến, văn có ba, một là nêu chương môn, lược giải thích, sau là dẫn kinh, ba là giải thích kinh. Lại các thứ tri kiến là tự thân thành tựu cảnh giới tốt đẹp không thể suy nghĩ bàn luận bằng với Thanh Văn, Bồ-tát, v. v... Tự thân thành tựu cảnh giới không thể nghĩ bàn là nói bặt cảnh giới Hai thừa và Bồ-tát, v. v... bằng với Thanh Văn Bồ Tát. Trên đây nói về sự khác nhau giữa hai hạng Đại Tiểu, nay nói về sự giống nhau giữa hai hạng Đại Tiểu. Như kinh chép: này Xá-lợi-phất! tri kiến phương tiện Như lai. Là thứ hai dẫn kinh làm chứng hai nghĩa trước.

Như kinh chép: Xá-lợi-phất! tri kiến phương tiện của Như lai tới bờ bên kia. Trước đã chứng thượng bằng với Thanh Văn, Bồ-tát. Như lai chân thật đã vượt hơn Thanh Văn, Bồ-tát mà có thể đồng với Thanh Văn Bồ-tát, nên nói là phương tiện, phương tiện này khác với phương tiện ở trên, vẫn lấy Thanh Văn và Bồ-tát làm phương tiện. Tới bờ bên kia, chứng được cảnh giới bậc nhất, vắng bặt hai hạng người. Tới bờ bên kia v. v… trở xuống là giải thích kinh thứ ba. Tới bờ bên kia; là hơn tất cả Bồ-tát. Đã hơn Thanh Văn thì, Bồ-tát không cần nói. Lại các thứ niệm là thứ ba các thứ niệm quán. Văn này có hai, một là nêu chương, lại các thứ niệm quán, hai là dẫn kinh.

Như kinh chép: Xá-lợi-phất! tri kiến của Như lai rộng lớn sâu xa, không chướng không ngại, năng lực không sợ, bất cộng pháp căn lực, Bồ-đề phần thiền định giải thoát Tam-muội tam-ma-bạtđề đều đã đầy đủ. Nên không có giải thích kinh thứ ba. Trong đây đã nói năng lực vô úy. Kinh luận chỗ nào cũng đều giải thích cuối cùng. Lại như văn đã hiển bày, không cần phải giải thích. Lại như thành tựu bậc nhất v. v... trở xuống là, trước nay thứ nhất là dựa vào kinh nói rộng ba Phương Tiện, nay nói thứ hai luận chú trọng rộng ba Phương Tiện, tức thành ba thứ riêng trong mỗi pháp. Một là nhắc lại, có thể giáo hóa chúng sinh. Thứ hai là giải thích, giải thích luận kinh có khác. Kinh thường theo pháp giải thích, luận chỉ y theo người để giải thích, nên có khác nhau.

Lại như thứ nhất thành tựu có thể giáo hóa chúng sinh, y chỉ tri thiên thức mà thành tựu.

Thứ nhất thành tựu là các thứ phương tiện, nên đã nói lên các thứ phương tiện, giúp cho có khả năng giáo hóa chúng sinh nương vào thiện tri thức được thành tựu.

Thứ hai thành tựu là chúng sinh căn cơ thuần thục khiến được giải thoát. Thứ hai thành tựu là các thứ tri kiến, giúp cho căn cơ thuần thục được giải thoát.

Thứ ba thành tựu là lực gia, được tự tại thanh tịnh hàng phục.

Thứ ba thành tựu hoặc nói lực gia tự tại lấy gia làm chính. Lực đây là mười lực, gia đây là các đức. Đó là lực gia thuộc loại, nên gọi là gia, tự tại thanh tịnh hàng phục, thứ ba là các thứ niệm quán, các thứ niệm quán là nói về năng lực vô úy như trên nêu. Trên là hai thành tựu giáo hóa thành hai thứ chúng sinh. Nay thành tựu thứ ba, đã có đầy đủ tất cả công đức, nên có khả năng hàng phục cùng khắp tất cả chúng sinh. Lại như hai thứ thành tựu trên lợi ích căn cơ thuần thục vẫn chưa thuần thục được chúng sinh. Nay thành tựu thứ ba đã hàng phục được tất cả phiền não của Như lai. Vì vậy nên ở trước nói về đức hóa tha. Nay nói về tự đức, nên môn trước nói nhân tri là hóa tha, sau không nói nhân tri là tự đức.

Thứ tư là thuyết thành tựu: trên đây là nói rộng ba phương tiện đã xong, nay nói rộng thuyết thành tựu thứ tư văn chia làm hai, thứ nhất từ đầu đến cuối có bảy thứ, giúp cho chúng sinh tự thân công đức thành tựu. Nói Như lai nói pháp giúp cho chúng sinh tự hành thành tựu v. v.... Thứ hai là từ giáo hóa thành tựu trở xuống. Là nói Như lai nói pháp giúp cho hành hóa tha thành tựu. Trong giải thích hiện điềm lành ở trước, tám thứ như v. v... cũng đều ở trong hai thứ này. Sáu thứ đầu là Phật muốn giúp cho chúng sinh tự hành thành tựu. Hai pháp sau giúp hành hóa tha thành tựu, do đó mà hiện điềm lành. Vậy thuyết định khởi vi vật nói pháp càng giúp cho hai đức thành tựu. Trong tự đức thành tựu có hai, thứ nhất là kinh rộng, thứ hai là luận lược Trong kinh rộng lại chia làm hai, đầu tiên là nhắc lại chương môn hai là, rộng nêu chung lý do bảy số.

Thứ tư thuyết thành tựu có bảy thứ. Chương này chứng minh Pháp Sư công đức. Pháp Sư tuy có bốn đức mà lại lấy việc thuyết pháp làm chính nên nói người có bảy đức này có khả năng nói pháp cho chúng sinh nghe.

Một là các thứ thành tựu. Hai là chứng minh bảy thứ thành tựu, là thành bảy thứ riêng. Sơ trung có hai, một là nêu chương, hai là dẫn kinh.

Một là các thứ thành tựu. Nói về các thứ thành tựu, đối với tất cả các pháp môn đều tận cùng nguồn cuội, sau đó có khả năng nói pháp cho chúng sinh nghe. Như kinh chép: Xá-lợi-phất! chư Phật, Như lai thâm nhập vô tế, thành tựu tất cả chưa từng có pháp. Hai là ngôn ngữ thành tựu cũng chia hai, đầu tiên là nêu chương sau là dẫn kinh.

Hai là ngôn ngữ thành tựu được năm thứ âm thanh hay nói pháp. Ở trên đã nói nội cùng pháp môn. Nay nói bên ngoài có âm thanh hay, sau đó mới có khả năng nói pháp cho chúng sinh nghe. Như kinh chép: Như lai có các thứ phân biệt khéo léo, các pháp ngôn từ mềm dịu làm vui lòng chúng sinh. Ba là tướng thành tựu cũng có ba: đầu tiên là nêu, kế là dẫn kinh, sau là giải thích kinh.

Ba là tướng thành tựu: nói về tướng thành tựu, hãy do thời mà động, đáng nói thì nói, đáng yên lặng thì yên lặng, nên gọi là Tướng. Hai là có chúng sinh lợi căn. Nghe lời nói trước ngộ giải tướng hiện, không cần nói lại, nên gọi là tướng, như kinh chép: v. v... trở xuống là thứ hai dẫn chứng.

Như kinh chép:: hãy thôi Xá-lợi-phất, không nên nói nữa. Có chúng sinh pháp khí trở xuống thứ ba là giải thích kinh. Có chúng sinh pháp khí tâm đã đầy đủ: Là Bồ-tát lợi căn nghe Phật nói kinh

Pháp Hoa liền được giải ngộ không cần nhắc lại, mà sau ba lần thỉnh lại nói rộng, nói cho Thanh

Văn độn căn nghe, lại từ trong đó khen ngợi Chư Phật có đức biết căn cơ. Có người lợi căn hiểu được lời Phật, không cần nhắc lại. Thứ tư là kham thành tựu: Ở trên đã nói người lợi căn hiểu được lời Phật không cần nói lại. Nay nói người có khả năng nhận lãnh giáo hóa, vẫn chưa được hiểu nên phải nói cho nghe, đầu tiên là giải thích.

Bốn là kham thành tựu, tất cả giáo hóa chúng sinh đáng đều biết Như Lai thành tựu công đức cao quý ít có, có khả năng nói pháp, kế là dẫn kinh. Như kinh chép: Xá-lợi-phất! Phật thành tựu Pháp bậc Nhất ít có khó hiểu, rất dễ hiểu thứ năm là vô lượng chủng thành tựu, văn có ba: một là nêu chương giải thích sơ lược, hai là dẫn kinh, ba là giải thích kinh.

Năm là vô lượng chủng thành tựu, nói không thể hết được, vô lượng chủng thành tựu là pháp thân đầy đủ các đức do đó không thể nói hết được. Như kinh chép: thứ hai là dẫn kinh. Như kinh chép: Xá-lợi-phất! Chỉ có Phật và Phật nói pháp chư Phật Như lai mới biết được thật tướng rốt ráo của pháp đó. Thật tướng v. v… trở xuống, giải thích kinh là thứ ba. Nói thật tướng là nói nghĩa bất biến của thể pháp thân Như lai tạng: ở trong phiền não gọi là Như Lai tàng, còn gọi là Như Lai thai, của thể pháp thân nghĩa bất biến, tuy ở trong phiền não nhưng không bị phiền não nhiễm làm, nên gọi là bất biến. Luận Phật tính nói pháp luống dối có ba biến dị, giải thích nghĩa vô biến dị: một là quả báo hết nên biến dị, hai là đối trị sở phá nên biến dị, ba là niệm niệm diệt nên biến dị. Pháp thân đã xa lìa ba lỗi này: Một là trước sau vắng lặng, vô quả báo đều biến dị; Hai là vô lậu nên vô đối trị phá biến dị, Ba là phi hữu vi, vô niệm niệm hoại biến dị.

Sáu là giác thể thành tựu, văn chia làm ba: đầu tiên là nêu, kế là giải thích, sau là dẫn kinh chứng minh.

Sáu là giác thể thành tựu. Điều năm ở trên là nói về pháp thân. Bây giờ nói về ứng thân, cũng là báo thể thân giác của, là Phật thể của cũng gọi là Phật tính, dùng Phật tính để nói lên là nên gọi là thành tựu. Điều Như lai nói ở dưới, thứ hai là giải thích.

Như lai nói tất cả pháp chỉ có Phật Như lai tự chứng được, ngoài Như lai người nói được tất cả pháp chỉ có Phật tự chứng được tự chứng được là tự chứng được pháp thân; như kinh v.v.... trở xuống là thứ ba dẫn kinh; Như kinh chép: Xá-lợiphất! Chỉ có Phật, Như lai biết được tất cả pháp.

Bảy là thuận theo ý chúng sinh mà nói pháp, tu hành có ba: một là nêu, hai là giải thích, ba là dẫn kinh.

Bảy là thuận theo ý chúng sinh mà nói pháp tu hành thành tựu pháp đó. Điều thứ bảy này là hóa thân, thuận theo ý chúng sinh mà nói pháp tu hành, Phật tùy ý chúng sinh nói pháp giúp cho chúng sinh tu hành theo, thứ lớp bảy pháp này, đó là muốn nói pháp thì phải có bảy đức, một là nối tận cùng cội nguồn của pháp, hai là ngoài có xảo biện, ba là biết yên lặng, bốn là biết ngộ, bốn điều này có hai cặp là trong ngoài, nói nín v. v... Nên phải có hai cặp này, phải chuẩn bị từ pháp thân hiện hóa thân. Ba thứ sau là nói ba thân, thành tựu được pháp đó, Như lai thành tựu thuận theo ý chúng sinh, nói pháp cho chúng sinh nghe, vì sao như vậy, điều thứ hai này giải thích, là trong phần nhắc lại kinh các pháp nào, nói pháp là, dùng kinh để giải thích luận. Hà đẳng như thị: các pháp nào là nhắc lại mở đầu của năm môn, như thị đẳng là, đẳng v. v... trở xuống bốn câu. Như kinh v. v... trở xuống là thứ ba dẫn kinh.

Như kinh chép:: Xá-lợi-phất! Chỉ có Phật, Như lai mới nói được tất cả pháp, thứ nhất các pháp môn v. v... trở xuống. Trên đây thứ nhất y theo kinh giải thích rộng bảy pháp. Nay thứ hai y theo luận lại một lần nữa giải thích bảy pháp. Văn chia làm hai: một là giải thích trước, hai là kết luận trước, giải thích sau. Giải thích bảy chương trước là thành bảy thứ riêng. Thứ nhất các thứ pháp môn, là nhắc lại các thứ thành tựu. Thứ nhất ở trên

Thứ nhất các thứ pháp môn nhiếp lấy chúng sinh. Nhiếp lấy chúng sinh là trọng tâm thấu hiểu tận cùng các thứ pháp môn mới nhiếp lấy được chúng sinh.

Thứ hai là khiến bất tán loạn trụ: là lấy ở ngoài đủ năm thứ âm thanh, nghe âm thanh của Phật hay, tâm bất tán loạn.

Thứ ba là khiến lấy được: là nghe pháp bất loạn, giúp cho họ nhận lấy pháp.

Thứ tư giúp cho được giải thoát: là dùng nhận lấy pháp nên liền được giải thoát.

Thứ năm là khiến kia: tu hành thành tựu được pháp đối trị: điều thứ năm giúp cho người tu hành được giải thoát nên phải đối trị.

Thứ sáu là khiến kia tu hành tiến thú thành tựu: Điều thứ sáu là giúp cho người tu hành tiến thú, trước giúp cho họ được thấy đạo, nay tiến tới hứng thú tu đạo. Thứ bảy là khiến được tu hành không lui sụt: thứ bảy là giúp cho người được tu hành lui sụt; giúp cho đắc đạo vô học.

Bảy pháp này do tự thân chúng sinh làm ra, được các pháp lành thành tựu. Trên đây thứ nhất là nói riêng bảy pháp. Nay điều thứ hai sắp kết luận trước, giải thích sau. Nói kết luận trước, luận chủ giải thích bảy pháp, Phật nói nói pháp cho chúng sinh nghe giúp chúng sinh tự hành thành tựu.

Bảy pháp này vì thân các chúng sinh tự làm ra điều lành thành tựu.

Hỏi: Bảy pháp này nói như thế nào về tự hành thành tựu?

Đáp: Bảy pháp này là Địa tiền bốn giai vị và địa trên ba giai vị.

Thứ nhất được Thập tín vị, nên gọi là nhiếp lấy, nhiếp lấy khiến được nhập vào Thập tín; Thứ hai là giúp cho không trụ tán loạn, là Thập Trú, cũng gọi là Thập giải; Thứ ba là lệnh thủ là tu Thập Hạnh, nên gọi là tu làm đầu; Thứ tư là giúp cho được giải thoát. Giải hạnh thuần thục sẽ được giải thoát, là thập hồi hướng; Thứ năm là bước lên Sơ địa là dứt bỏ phiền não, chứng được pháp thân, nên nói được đối trị; Thứ sáu là hai địa, trở lên tu đạo, nên nói là tiến thú; Thứ bảy là giúp cho người tu hành lui sụt mất Từ địa thứ tám trở lên, tránh được ba lui sụt cho đến Phật địa, gọi là Vô Học đạo, do đó có gọi là tự hành thành tựu, lại giáo hóa giúp cho thành tựu. Trên đây đã nói về Phật nói pháp giúp cho chúng sinh tự hành thành tựu. Nay thứ hai là giải thích kinh. Nói Phật nói pháp giúp cho chúng sinh hóa tha thành tựu. Nếu theo thứ lớp sinh nhau, là giải thích điều thứ bảy trong quảng kinh tùy thuận ý của chúng sinh tu hành thành tựu.

Hỏi: Làm sao biết được trước khiến cho chúng sinh đó tự tu hành thành tựu, sau khiến chúng sinh hóa tha hành thành tựu.

Đáp: Phật trong luận và luận chủ có hai giải thích, bảy pháp là tổng kết chung. Bảy pháp này làm cho tự thân chúng sinh thành thục. Nên biết trước là tự tụ hành thành tựu. Kế là nói, lại cùng với việc giáo hóa khiến được thành tận cho nên biết là hạnh giáo hóa người. Văn có hai: một là nói chung hóa tha, hai là y cứ siêng năm pháp để nói về hóa tha. Văn lại chia hai: đầu tiên nhắc lại hóa tha chương môn, nên nói lại giáo hóa khiến được thành tựu.

Lại giáo hóa cho được thành tựu: hai pháp này v. v,... trở xuống là thứ hai giải thích hóa tha chương môn. Văn chia làm bốn, một là nêu chung hai pháp, hai là nói riêng hai pháp, ba là nói tướng mạo hai pháp, bốn là nói thứ lớp hai pháp. Dụ hai thứ pháp giúp cho thành tựu thứ nhất văn.

Cho hai thứ pháp khiến họ thành tựu: Thế nào là hai, thứ hai giải thích hai pháp. Thế nào là hai? Một là cho chứng pháp, hai là cho nói pháp cho. Một là cho chứng pháp khiến thành tựu là nói dựa vào chứng pháp mà trao cho, nên hai là nói pháp cho khiến được thành tựu là nói dựa vào nói pháp mà nói cho Phật giúp cho chúng sinh khi nói pháp cho họ nghe, nếu dựa vào y chứng pháp mà nói, thì sẽ trao cho chứng pháp. Giáo pháp cũng như thế. Hai thứ pháp này như đã nói trên. Thứ ba là nêu tướng mạo hai pháp. Hai pháp này như đã nói ở trên, trước đây kinh Phật thứ nhất đã nói bảy thứ. Phật nội tự chứng bảy pháp sau đó mới nói pháp cho chúng sinh. Điều này là vì chúng sinh nói chứng pháp. Về sau luận chủ đã nói bảy pháp. Nếu y theo kinh Phật giúp nghe mà nói giáo pháp. Dựa vào hai pháp này có thứ tự nào; thứ tư là nói thứ lớp của hai pháp. Văn có hai: đầu tiên là hỏi, thứ lớp hai là nói của pháp.

Dựa vào hai pháp này có thứ lớp nào mà được tu hành? Hai pháp có thứ lớp nào mà được tu hành, là câu văn trước kia được nói lại, nên biết. Là giải thích thứ hai, là câu văn trước kia nói lại nên biết. Nếu dựa vào thứ lớp tu hành thì trước dựa vào bảy pháp của Luận chủ để giải thích tự hành thành tựu. Sau đó dựa vào bảy pháp của Phật mà được hóa tha, vì thế nói là nói lại, nên biết. Nếu dựa vào thứ lớp của Phật thì trước nói về sự thành tựu của bảy pháp. Sau đó mới được hóa tha, như bảy pháp của Luận chủ, lại dựa vào chứng pháp có năm thứ trở xuống v. v... trên đây thứ nhất nói chung là hóa tha rồi. Nay y cứ riêng thứ hai gộp năm pháp lại để nói về hóa tha. Văn có hai, nay là y theo chứng pháp để giải thích năm pháp, hai là thâu tóm giáo pháp để giải thích năm pháp. Văn đầu lại có hai: một là nêu ra năm pháp, hai là giải thích năm pháp. Việc nêu lên chứng pháp đầu tiên có năm thứ, lại dựa vào chứng pháp có năm thứ, dùng nội tâm giải thích năm pháp, gọi là chứng, từ một trở xuống, theo thứ lớp nêu ra năm pháp: một là hà đẳng pháp, hai là vân hà pháp, ba là hà tự pháp, bốn là hà tướng pháp, năm là hà thể pháp. Kinh của La-thập có mười pháp, nay nói năm pháp, có thể là bản dưới rộng lược khác nhau, khó biết tường tận được, cũng có thể là năm pháp này nhiêu lấy mười pháp kia, hãy tự suy đoán.

Hỏi: Vì sao chỉ nói năm pháp?

Đáp: Muốn hóa tha thì phải biết pháp. Năm pháp này nhiếp hết tất cả pháp. Nếu chứng pháp, hoặc giáo pháp thì đều nằm trong năm pháp này cả. Đó là dùng sự hóa tha phải biết năm pháp.

Hà đẳng pháp: Thứ hai là giải thích, chu hễ giải thích. Theo cách ba thì chu đầu tiên y theo ba thừa Nhất thừa, lại giải thích y theo pháp y theo người để giải thích năm pháp.

Hà đẳng pháp là nói về pháp Thanh Văn, pháp Bích-chi-phật và pháp Phật cho nên; vân hà pháp là nói về các thứ sự việc cho nên hà tự pháp là dựa vào ba môn được thanh tịnh. Hà tương pháp là nói ba thứ nghĩa nhất tướng pháp. Hà thể pháp là không hai thể. Không Vô hai thể là nói vô lượng thừa chỉ có nhất Phật thừa, không có hai ba.

Hà đẳng pháp. Hỏi: Pháp gọi là pháp Ba thừa, Phật chỉ chứng Nhất thừa.

Vì sao nói chứng pháp có Ba thừa?

Đáp: Trong Phật chiếu đạt Ba thừa nên gọi là chứng Ba thừa. Lại từ Ba thừa này giúp cho chúng sinh được chứng, nên gọi là chứng pháp.

Vân là pháp: Trách sở nhân các pháp khởi, pháp gọi là Ba thừa này nổi lên từ đâu? Nổi lên bởi các thứ giáo Ba thừa. Vân hà pháp là khởi lên các việc hoặc giảng nói pháp, hoặc thí dụ, tùy thời tùy người nói pháp Ba thừa.

Hà tự pháp: Trách pháp thí thứ. Nhiếp Luận có hai giải thích: một là dùng lý pháp làm tự, dùng lý tựa như môn; hai là được quả làm tự pháp, dùng quả tựa như nhân. Lại quả và văn lý tương tự, nay nên dùng quả làm tự pháp. Hai câu trước nói về pháp Ba thừa, nay được quả Ba thừa, nên văn nói dựa vào ba thứ môn để được thanh tịnh.

Hà tướng pháp: Trách pháp ngoại tướng, ba câu trên đây nói pháp Ba thừa, dưới đây hai câu nói về pháp Nhất thừa, nói giáo Ba thừa khiến quy về Nhất thừa, Nhất thừa là nhất Tướng.

Hà thể pháp: Trách pháp nội thể nghi, lấy nhất Phật thừa là thể, không có hai, ba Duyên giác là hai, Thanh Văn thứ ba. Lại có nghĩa v. v... trở xuống là, chu thứ hai giải thích năm pháp. Trước y theo Ba thừa, Nhất thừa để giải thích năm pháp.

Nay y cứ chung để giải thích tất cả pháp. Cũng được mỗi môn nhiếp tất cả pháp. Lại giải thích y theo lý, y theo sự để giải thích. Lại có nghĩa hà đẳng pháp là nói mười pháp vô vi pháp hữu vi v. v... vân hà pháp là nói về pháp nhân duyên mà không phải là pháp nhân duyên v. v... Hà tự pháp nói về pháp thường, pháp vô thường, v. v... Hà tướng pháp nói về sinh đẳng ba tướng pháp bất sinh đẳng ba tướng pháp. Hà thể pháp là nói về năm ấm thể không, phải là thể năm ấm. Đầu tiên có pháp môn hữu vi và vô vi. Là Ba hữu vi, ba vô vi nhiếp y được hết các pháp. Thứ hai trách sở nhân của pháp khởi. Nhân duyên, phi nhân duyên, pháp vô vi không sinh ra từ nhân duyên. Hà tự pháp trách kỳ tỉ thứ, nói pháp thường, vô thường cũng nhiếp tất cả pháp.

Hỏi: Thường, vô thường hữu vi, vô vi có gì khác với?

Đáp: Nếu thủ nhiếp pháp luận gọi là nghĩa dị thể không có gì cùng khác. Nhược thủ dị là nói về hữu vi vô vi là ba vô vi và ba hữu vi. Nay thường và vô thường là nói pháp thân thường ứng hóa vô thường. Ở Sau cùng nên giải thích.

Hỏi: Thường và vô thường vì sao gọi là tự pháp?

Đáp: Chứng được quả vô thường nên nói là tương tự, cũng được lý vô thường với văn tương tự. Hà pháp tướng là trách pháp tướng. Pháp Hữu vi có ba tướng là sinh trú diệt. Pháp Vô vi có ba tướng là vô sinh, vô trú, và vô diệt. Hai pháp này cũng nhiếp tất cả pháp.

Hỏi: Ba tướng như tướng sinh v. v..., ba tướng như tướng bất sinh v. v... thường, vô thường, hữu vi vô vi có gì khác với?

Đáp: Y theo tướng không giống nhau, nên khác nhau. Thể càng không khác, hà thể pháp là trách pháp thể, năm ấm là thể, chẳng phải năm ấm là thể vô vi, y theo năm ấm thể chẳng phải thể không giống nhau. Hai thứ này cũng nhiếp được tất cả pháp. Còn tất cả pháp thì phải có năm nghĩa. Nói vi vô vi cho đến ấm hoặc phi ấm, như Trí luận chép: tất cả pháp đều phải có đủ chín nghĩa. Lại như hà tự pháp, thứ ba là chu thích, chỉ giải thích nghiêng về ba pháp, không giải thích hai điều trước.

Lại hà tự pháp là nói pháp vô thường, pháp hữu vi, pháp nhân duyên. Hà tướng pháp là nói có thể thấy các pháp. Hà thể pháp là nói về năm ấm năng thủ sở thủ, dùng năm ấm làm thể của khổ tập. Lại Năm ấm là thể của đạo đế. Trong hà tự pháp lấy các pháp vô thường, nhân duyên hữu vi này, v. v... nêu thứ tương tự. Hà tướng pháp là lấy tướng sáu trần thấy, được nghe được. Hà thể pháp, hữu lậu năm ấm là thể của khổ tập. Năm ấm Vô lậu làm thể của đạo đế. Lại có nghĩa khác v. v... trở xuống trên đây ba chu là nói nên trao cho chứng pháp trao cho chứng pháp rồi. Chu thứ hai này nói nên trao thuyết pháp là, trao cho thuyết pháp. Lại có nghĩa khác dựa vào thuyết pháp thuyết Hà đẳng pháp là nói danh cú tự thân, v. v... Vân hà pháp là dựa vào pháp do Như lai nói. Hà tự pháp là nói có đáng năng giáo hóa độ chúng sinh khả hóa. Hà tướng pháp là nói dựa vào âm thanh để lấy cho nên nương vào âm thanh để nhận lấy pháp kia.. Hà thể pháp là giả danh thể pháp tướng nghĩa vì khác với chứng pháp trên nên nói lại có nghĩa khác. Nói pháp phải có đủ năm thứ: Một là có danh tự cú thân, Hai là dựa vào nhân mà Phật nói; Ba là dựa vào chúng sinh đáng hóa độ để so sánh. Các chúng sinh có thể hóa độ được thì hóa độ, không thể hóa độ được thì không hóa; Bốn là trách tướng, dựa vào âm thanh để lấy được các pháp đã nói; Năm là các pháp đã nói đã có những giả danh trách thể.

Hỏi: Dựa vào luận kệ này của làm sao tụng hai thứ công đức ở trên Đáp: Ba bài kệ đầu nói về pháp công đức trên diệu của kệ tụng, ngoài ra đều tụng Pháp Sư công đức. Trong pháp công đức trên diệu có hai: Hai bài kệ đầu nói chứng sâu xa, kệ sau nói về A-hàm sâu xa. Trong chứng sâu xa ở đâu, luận chủ mở ra năm nghĩa. Nay văn chia ra làm hai: bài kệ đầu nói chung về sâu xa, bài kệ sau nói về công đức sâu xa. Cũng như bài kệ đầu, là những người khả năng chứng được sâu xa. Bài kệ thứ hai nói về pháp sở chứng sâu xa. Trong văn xuôi chỉ nói về trí tuệ một đức sâu xa. Trong kệ nói về tất cả công đức sâu xa. Bài kệ sau khen ngợi A-hàm sâu xa. Ahàm sâu xa ở trên có tám thứ, nay đem ra tụng trước sau thành bốn thứ. Câu đầu tụng đệ nhất thọ trì đọc tụng sâu xa, câu sau tụng tu hành thứ hai sâu xa. Câu kế tụng ưa thích sự sâu xa. Câu kế tụng thứ tám bất cộng sâu xa. Hành các đạo này trong vô lượng ức kiếp ở dưới. Tụng Pháp Sư công đức, Pháp Sư công đức ở trên có hai: đầu tiên là lược, sau là rộng, nay kệ nhiếp chung làm hai: Bài kệ thứ nhất khen ngợi Như lai tự đức công đức là giúp cho chúng sinh tự hành thành tựu. Bài kệ thứ hai trở đi trong bài tụng giúp cho chúng sinh hạnh hóa tha thành tựu. Bài tụng trong từ khi ta thành Phật đến nay rốt ráo cùng tận các pháp thật tướng văn. Từ đại quả báo như thế trở đi. Bài tụng trong nói về công đức hóa tha. Văn có hai: đầu tiên là nêu cả hai chương môn. Kế là cả hai giải thích hai chương môn. Song nêu là đầu tiên nêu Phật Phật giải chương môn, kế nêu chúng sinh bất giải chương môn. Nêu Phật giải chương môn nói Phật khả năng có tự hiểu, kế nêu chúng sinh không hiểu phải giáo hóa chúng sinh giúp cho chúng sinh được hiểu. Từ dù cho đầy thế gian là giải thích hai chương môn. Đầu tiên giải thích chúng sinh không hiểu chương môn, từ lại bảo Xá-lợi-phất v. v... trở xuống là giải thích chỉ có Phật hiểu chương môn. Phẩm Phương tiện, kinh phải dựa vào luận để giảng. Kệ cũng tụng theo ý luận, tụng văn xuôi, văn cú khác không thể biết được. Từ đây v. v... trở xuống là dựa vào ba thứ nghĩa để nói lên. Trên đây giải thích diệu pháp công đức, Pháp Sư công đức, nghĩa hai chương trong phẩm phương tiện đã xong, nay. Giải thích thứ ba đại chúng ba nghĩa, là giải thích trong ba thỉnh, đầu tiên thỉnh văn kinh, văn chia làm hai, đầu tiên nêu ba nghĩa, thứ hai là giải thích riêng ba nghĩa. Đầu tiên lại có ba, thứ nhất là nêu chung ba nghĩa.

Dưới đây là thứ lớp dựa vào ba nghĩa, thứ nhất trở xuống, thứ hai là riêng ba nghĩa: Một là nghĩa quyết định, hai là nghĩa nghi, ba là dựa vào việc nào nghi nghĩa, là nên khéo biết, thứ ba là khuyên biết ba nghĩa. Nên khéo biết nghĩa quyết định. Thứ hai là riêng giải thích ba nghĩa tức thành ba, trong mỗi nghĩa có hai, trước là dùng nghĩa để giải thích, dẫn kinh nói về chỗ giải thích. Quyết định nghĩa là có phương tiện Thanh Văn chứng được pháp sâu xa làm quyết định. Tâm ở trong đạo Thanh Văn được phương tiện Niết-bàn chứng nên tri là hai thứ chứng pháp nói lên ra pháp vô vi và pháp hữu vi. Có Thanh Văn phương tiện chứng được thâm pháp làm tâm quyết định, ở đây nói phương tiện bao gồm trong Thanh Văn tu Niết-bàn xứ phương tiện, không phải phương tiện khéo léo. Ở trong đạo Thanh Văn được phương tiện Niết-bàn chứng, phương tiện này là quyền phương tiện thật không phải Niết-bàn Thanh Văn. Phương tiện nói có Thanh Văn Niết-bàn mà cho đó là rốt ráo, nên nói là quyết định hai thứ chứng pháp như thế, điều này xuất xứ từ pháp sở chứng của Thanh Văn. Pháp Hữu vi, vô vi là hai thứ công đức hữu vi vô vi.

Chứng được hai thứ công đức này cho là rốt ráo. Hai thứ Niết-bàn là công đức vô vi. Khi trú hữu dư Niết-bàn không có lậu giới định tuệ vô lậu. Đây là công đức hữu vi, như kinh v. v... trở xuống. Thứ hai là dẫn kinh nêu chỗ giải thích. Trong đại chúng như kinh chép: lúc đó có các Thanh Văn lậu tận A-la-hán cho đến cũng được pháp môn nầy đến Niếtbàn. Cũng được pháp môn này là nói bậc trên hữu vi bậc. Đến Niết-bàn là nói về trên vô vi. Nghi nghĩa là giải thích thứ hai, chương môn cũng có hai, trước là giải thích, sau là nêu kinh chỉ chỗ.

Nghi nghĩa là nói Thanh Văn, Bích-chi-phật, v. v... có những điều không thể biết, nên điều này sinh nghi. Nói Hai thừa biết là phương tiện Nhất thừa là chân thật, nên sinh nghi, như kinh chép: v. v... trở xuống là thứ hai chỉ ra chỗ giải thích. Như kinh chép: mà nay không biết nghĩa này hướng về đâu. Dựa vào việc nào để nghi. Giải thích điều thứ ba cũng có hai: trước giải thích, sau dẫn kinh. Y theo văn có hai: trước dựa vào tích giáo sinh nghi, hai là dựa vào kim giáo sinh nghi.

Y theo sự nghĩa nghi nghe Như lai nói Thanh Văn giải thoát không khác với giải thoát của phật nên sinh nghi, nói ba thừa giải thoát không khác. Nghe tích giáo không khác nên sinh nghi. Nói sinh nghi ở trước. Thứ hai là nghe kim giáo sinh nghi. Nói sinh nghi là sinh nghi ở trong nhân. Việc này thế nào? vì sao Như lai thường nói cảnh giới sâu xa. Trước nói sâu xa, sau nói sâu xa khác với Thanh Văn như thị v. v... nên sinh nghi. Kim giáo nói về Phật giải thoát của khác với Hai thừa giải thoát của, chính là dùng nay nghi xưa. Thuyết ngày nay nếu không khác với xưa nói là chẳng nên nói thì không khác. Thuyết xưa nếu không khác nay không nên nói khác, mà nói sinh ra nghi trong nhân. Tuy xưa và nay nghi ngờ lẫn nhau mà chính là chấp, giáo xưa nghi giáo nay. Như kinh trở xuống là thứ hai chỉ chỗ giải thích.

Như kinh lúc đó Xá-lợi-phất biết bốn chúng tâm nghi của cho đến nói kệ. Dưới đây điều thứ tư trong phẩm Phương Tiện nói Như lai bốn nghĩa của, là giải thích đệ nhất dứt thỉnh rồi bỏ mười phương thế giới còn không có hai thừa, sao lại có ba được? Văn chia làm hai, một là nêu chung bốn việc khuyến tri, thứ hai là giải thích riêng bốn việc, đầu tiên lại có ba câu, thứ nhất là nêu chung, dưới đây là nói lên dựa vào bốn thứ sư để nói, hai là nêu. Một là quyết định tâm, hai là nhân thọ ký, ba là nhận thọ ký, bốn là thụ ky cho là, ba khuyên biết.

Nên biết thế nào là quyết định tâm v. v... trở xuống là: Thứ hai là giải thích bốn việc, là bốn thứ khác nhau. Đầu tiên văn có hai: thứ nhất giải thích trước tâm quyết định của Phật. Thứ hai giải thích năm thứ kinh sợ. Đầu tiên có ba câu, một là nêu tâm quyết định, đã sinh ra kinh sợ, là thứ hai giải thích tâm quyết định bởi Như lai đã có tâm quyết định. Là Thứ ba kết thúc tâm quyết định.

Thế nào là tâm quyết định: tâm quyết định, Phật ý quyết định xử dứt sự kinh sợ, giúp cho được lợi ích gọi là tâm quyết định. Đã sinh sợ hãi: thì Khiến dứt sợ hãi để được lợi ích cho hai hạng người. Lại nói hai hạng người, Thanh Văn có bốn: 1. quyết định. 2. Lui sụt tâm Bồ-đề, 3. biến hóa, 4. Tăng trên mạn. Nay có hai hạng người: Lui sụt tâm và biến hóa được lợi ích, nhưng nói hai hạng người chính là người Hai thừa. Lại nói hai hạng người: 1 có. sợ hãi, 2. không lợi ích, vì còn sợ hoặc và vô giải, gọi là hai hạng.

Hỏi: Tâm quyết định này giải thích văn kinh chỗ nào?

Đáp:-Giải thích ý Phật ngăn thỉnh, nhưng chưa giải thích dừng thỉnh văn, sở dĩ dừng ý là muốn quyết định lợi ích chúng sinh. Cho nên Như lai có tâm quyết định, nên biết sự sợ hãi này có năm thứ nên biết.

Kế là giải thích riêng năm thứ sợ hãi, là người, làm việc đầu tiên nêu chung năm thứ.

Nên biết sự sợ hãi này có năm thứ, kế là giải thích riêng năm thứ, tức thành năm thứ khác nhau, làm bớt sợ hãi: chấp Tiểu thừa chê bai. Đại thừa nên gọi là "Tổn". 1. chia thành hai chương môn, 2. giải thích hai môn:

1. Bớt sợ hãi nghĩa là chúng sinh Tiểu thừa như thủ chứng quả Thanh Văn cho là thật, chê bai không có Đại thừa.

Nói hai môn: Người chấp Tiểu thừa chê bai Đại thừa. Không nói Đại thừa là hoàn toàn không. Chỉ dẫn Đại thừa là cảnh giới Bồ-tát phi ngã, Hai thừa học đạo mà. Nói chê bai không có Đại thừa v. v... trở xuống là thứ hai.

2. Chê bai Đại thừa mà nói rằng v. v.... Là giải thích hai chương môn.

Mà nói rằng Như lai nói quả A-la-hán rốt ráo Niết-bàn ta đã thủ chứng rốt ráo. Như thế thủ chứng Niết-bàn là A-la-hán không nhập Niết-bàn, vì còn sợ hãi như thế.

1. Trước giải thích thủ chứng Tiểu Thừa, nên A-la-hán không nhập Niết-bàn. ở đây giải thích chê bai Đại thừa, vì Đại thừa không nói A-la-hán nhập Niết-bàn.

2. Còn nhiều điều sợ hãi: các chúng sinh căn tánh Đại thừa nghĩ rằng trong vô lượng kiếp ta thực hành hạnh Bồ-tát chịu nhiều khổ sở, vì nghĩ như vậy nên sinh tâm sợ hãi, khởi tâm chấp khác nhau, nên sợ hãi. Nghĩa là hàng Tiểu thừa kia nói, chúng sinh không liên quan đến việc của ta, nhưng trong thời gian dài tu khổ hạnh, nên muốn độ thoát. Lui sụt tâm Đại-thừa, thủ chứng Đại thừa gọi là sợ hãi. Lại giải thích Đại thừa nhiều điều, nên lui sụt Đại thừa thủ chứng tiểu thừa.

3. Sợ hãi điên đảo: Tâm phân biệt có ngã và ngã sở, các pháp thân kiến bất thiện, đó gọi là sợ hãi. Thật ra không có người và pháp mà chấp có người và pháp, nên gọi là điên đảo.

4. Sợ hãi vì tâm hối tiếc: Đại đức Xá-lợi-phất nghĩ rằng. Ta không nên chứng pháp Tiểu thừa như thế, hối tiếc như thế là tự ngừng, nên biết tâm hối tiếc này gọi là sợ hãi. Hối tiếc chứng tiểu thừa cũng gọi là sợ hãi.

Hối tiếc thủ chứng Tiểu thừa là đúng đạo lý, vì sao gọi là kinh hãi?

-Không nên thủ chứng Tiểu Thừa mà thủ chứng Tiểu thừa rồi, lại hối tiếc thủ chứng Tiểu thừa, nên cũng gọi là điều kinh hãi.

5. Kinh hãi vì lừa dối nhau: Những các Thanh Văn tăng trên mạn nghỉ rằng, vì sao Đức Như lai lừa dối chúng ta, vì sợ hãi như thế. Tăng trên mạn cho rằng Phật nói Nhất thừa là lừa dối người Hai thừa, nên gọi là dối nhau. năm thứ kinh hãi này là năm hạng người sau: 1. người chấp vào Tiểu thừa, là năm ngàn vị Tỳ kheo. 2. người Đại thừa, 3. người Ngoại đạo, 4. Hối tiếc đã người thủ chứng Tiểu thừa, 5. người tăng trên mạn.

Nhân thọ ký là, giải thích môn thứ hai, văn chia làm hai: 1. Nhắc lại tên chương, 2. giải thích.

Nhân thọ ký: mà nói nhân thọ ký là giải thích ý Phật dạy đừng thỉnh nữa. Sở dĩ Phật nói từng thỉnh nữa là vì muốn thọ ký cho người thành Phật. Ở đây Phật nói từng thỉnh nữa là nhân duyên thọ ký, cũng là do Ngài muốn thọ ký cho chúng sinh, nên Phật nói thôi từng thỉnh. nên gọi là nhân thọ ký.

Hỏi: Quyển thứ hai ở sau mới thọ ký, tại sao nay đã nói việc thọ ký?

Đáp: Ở đây muốn giải thích ý Phật, nhưng Phật muốn thôi đừng thỉnh nữa là ý Phật muốn cho người Hai thừa được thọ ký thành Phật.

Hỏi: Thôi đừng thỉnh nữa làm sao được thọ ký thành Phật?

Đáp:-Ba lần Phật ngăn không cho thỉnh có ba điều lợi là nhân của đừng thỉnh nữa. Như kinh chép: v. v... trở xuống thứ hai là giải thích văn chia làm hai: 1 giải thích ba lần Phật dạy thôi. 2. giải thích hai lần thỉnh, đầu tiên lại có hai. 1. Nhắc lại ban đầu thôi thỉnh nói kinh nhắc đồng thời lại hai lần khác đừng nói kinh.

Như kinh chép: Phật nói thôi thôi Xá-lợi-phất không nên nói nữa. Nếu nói việc này thì tất cả thế gian các trời, người đều kinh hãi, đây là nhân thọ ký sinh sợ hãi.

-Giải thích thôi thưa thỉnh có hai: 1. Nhắc lại, 2. giải thích.

Nhân thọ ký này đều sinh sợ hãi, đây là nhân thọ ký nhắc lại tên chương. Đều sinh sợ hãi ý văn nói đừng thỉnh nữa vì người trời đều sinh sợ hãi nên phải dừng, có ba nghĩa v. v... trở xuống. Thứ hai là giải thích, đầu tiên là nêu chung ba nghĩa.

Có ba nghĩa: từ điều thứ nhất về sau là, giải thích riêng ba nghĩa, tức thành ba điều khác nhau.

1. Muốn cho kia và đại chúng suy tìm cảnh giới nhiệm mầu sâu xa và để cho đại chúng suy lường.

1. Muốn cho kia và đại chúng suy tìm cảnh giới nhiệm mầu sâu xa nên Phật bảo đừng thỉnh nữa vì Ngài không muốn nói pháp, thì phải biết pháp này là nghĩa nhiệm mầu sâu xa, nay mọi người có thể tìm kiếm, thế nào là pháp sâu xa? nếu ba thừa là pháp. Sâu xa thì ngày xưa Phật đã nói, không nên nói thôi đừng thỉnh nay phật nói thôi đừng thỉnh, thì phải biết ngoài Ba thừa có riêng pháp mầu. Phật muốn cho đại chúng tâm nghi ngờ như thế, nên nói thôi đừng thưa thỉnh, là lợi ích thứ nhất là nhân thọ ký.

2. Muốn đại chúng sinh tâm trọng pháp kính người, Muốn cho đại chúng sanh tâm tôn trọng rốt ráo muốn nghe Như lai nói.

3. Muốn những hạng người tăng trên mạn ra khỏi pháp hội. Ba là vì khiến cho các Thanh Văn là những vị tăng Thượng mạn lìa bỏ pháp tòa mà đứng dậy đi.

Hỏi: Hai điều trước lợi ích cho đại chúng, một điều sau vì sao cũng là lợi ích?

Đáp:-Hạng Người tăng trên mạn nếu ở trong pháp hội là nhân làm chướng ngại cho đại chúng không được thọ ký nên để họ ra khỏi pháp hội. Hơn nữa chúng thấy người dưới tội đã ra khỏi pháp hội càng sinh tâm trọng pháp quý người, lại càng phát tâm siêng cầu nghe pháp cao quý nên cũng là điều lợi ích cho đại chúng. Ba nghĩa này là văn giải thích ba lần Phật ngăn Thứ nhất là trước thỉnh sau dừng, còn lại thứ hai là thỉnh sau dừng trước. Thứ hai là thỉnh rồi, trên giải thích ba lần ngăn Phật.

Nay giải thích thứ hai này sau hai lần thỉnh.

Hỏi? Tại sao không giải thích lần thỉnh đầu? Đáp: Trong chương thứ ba trước quyết định có ba nghĩa đã giải thích lần thỉnh đầu, nên nay chỉ giải thích hai lần thỉnh sau.

Hỏi: Giải thích hai lần thỉnh sau, tại sao thuộc về nhân thọ ký?

Đáp: Hai lần thỉnh sau nói về quá khứ gia trồng gốc lành hiện tại tu phước thì đây là nhân duyên thọ ký. Hơn nữa, hai lần thỉnh này nói lên được sự trọng pháp kính người đây chính là nhân duyên thọ ký.

Lần Thỉnh cũng là trọng pháp kính người, vì sao không phải quyết định nhân duyên thọ ký?

-Trong lần thỉnh đầu, tâm quyết định là chấp và nghi. Chấp thì chấp Tiểu thừa chê bai Đại thừa, không chấp nhận lời Phật. Nghi thì còn do dự chưa tin, chưa tin trọng pháp kính người, nên không phải nhân thọ ký, nên văn giải thích hai lần thỉnh có hai ý, trong mỗi lần thỉnh chia làm hai: 1. Giải thích, 2. Dẫn kinh. Lần thỉnh thứ hai nói sự giáo hóa của Phật từ vô lượng kiếp quá khứ.

Lần thỉnh thứ hai là nói về sự giáo hóa chúng sinh của Chư Phật từ vô lượng kiếp quá khứ. Như kinh chép: vô số hội cho đến đã nghe Phật nói nhiều thì sẽ kính tin. lần thỉnh thứ ba là sự giáo hóa của Phật hiện nay hơn bốn mươi năm.

Lần Thỉnh thứ ba là nói về sự giáo hóa chúng sinh của Phật hiện nay. Như kinh chép: nay trong hội này như chúng ta v. v... là so sánh cho đến đêm dài an ổn được nhiều lợi ích, văn xuất xứ dễ hiểu được thọ ký. Giải thích được thọ ký: thứ ba. Một là Nhắc lại chương.

Người được thọ ký: Từ Xá-lợi-phất trở xuống là giải thích thứ hai, Xá-lợi-phất, v. v... muốn được thọ ký, hai là

2. Dẫn kinh: Như kinh chép: Phật bảo ngài Xálợi-phất. Các thầy đã ba lần thưa thỉnh, chẳng lẽ không nói cho các thầy nghe hay sao? Nay các thầy hãy lắng nghe như thế v. v....

Phật nhận lời thưa thỉnh của Xá-lợi-phất, hứa khả chỉ dạy, vì sao ngài Xá-lợi-phất được thọ ký?

Vì trong cơ duyên, ngài Xá-lợi-phất muốn được thọ ký thành Phật, nên Phật chấp nhận lời thưa thỉnh.

Thọ ký cho là giải thích chương thứ tư đây là, giải thích chánh thuyết, từ đầu đến cuối, văn kinh ở năm trược trước.

Hỏi: Nay chính thức nói kinh Pháp Hoa, vì sao gọi là thọ ký cho?

Đáp: Sở dĩ nói kinh Pháp Hoa vì Ngài muốn thọ ký cho chúng sinh thành Phật. Đây là giải thích Phật môn, văn chia làm hai: 1. Nhắc lại tên, 2. Giải thích.

Thọ ký: cho trong giải thích có hai: 1. Chánh thích, 2. Dẫn hai pháp trước để chứng minh giải thích đầu tiên lại có ba. Trước chia làm sáu môn, kế là giải thích sáu môn, sau kết thúc sáu môn, là mở ra kinh chánh thuyết nầy là sáu môn. Sau kết thúc sáu môn là kết mở chánh thuyết kinh này là sáu môn.

Nên biết có sáu: 1. chưa nghe làm cho được nghe, 2. Thuyết, 3. Nương vào những nghĩa nào, 4.

Làm cho trụ, 5. Nương pháp, 6. Ngăn người chưa nghe, hai là thứ giải thích sáu môn thì thành sáu thứ khác nhau. Nên đầu tiên chia làm hai, chưa nghe giúp cho nghe là, nhắc lại tên chương như, kinh chép v. v... trở xuống là, trình bày chỗ giải thích.

Chưa nghe khiến được nghe: Pháp Nhất thừa xưa chưa hề nghe nay được nghe, nên nói chưa nghe giúp cho nghe.

Như kinh chép: này Xá-lợi-phất! pháp nhiệm mầu như thế lúc Chư Phật Như lai nói pháp này cũng như hoa Ưu-đàm nở, như thế, v. v... trở xuống là.

Giải thích chương môn thứ hai: lại chia thành ba phần khác nhau.

1. Nêu chương, 2. Dẫn kinh, 3. giải thích kinh. 1/Người nói: hỏi: Vì sao gọi là.

-Đáp: Muốn nói Ba thừa không có ba lý chỉ có tên gọi, nên gọi là nói, như kinh chép: v. v... trở xuống: là thứ hai

2/ Dẫn kinh: Như kinh chép: nầy Xá-lợi-phất ta dùng vô số phương tiện và các thứ nhân duyên thí dụ ngôn từ giảng nói các pháp, như thế v. v..., các thứ nhân duyên v. v... trở xuống là thứ ba

3/ Kinh giải thích các thứ nhân duyên, cái gọi là ba thừa. Ba thừa kia chỉ có danh từ, chương cú ngôn thuyết không có nghĩa thật, vì thật nghĩa kia không thể nói. Các thứ nhân duyên đây là nhắc lại kinh, cái gọi là ba thừa là. Giải thích các nhân duyên cho, vì các nhân duyên nên nói Ba thừa, nói Ba thừa là các thứ nhân duyên. Lại, Ba thừa, nhập đạo đều có nguyên nhân đạt đến, nên gọi là các thứ nhân duyên. Ba thừa kia thật ra chỉ có tên gọi, như đã giải thích trong phần chương danh ở trước và gọi là nói. Lại trong kinh giải thích câu "Ngôn từ giảng nói" vì thật nghĩa kia không thể nói. Thực nghĩa là không có ba thừa, vì lời dứt, nghĩ bặt nên không thể nói.

Hỏi: Vì sao kinh không giải thích "Vô số phương tiện và thí dụ". Đáp: Câu thứ hai này văn sau sẽ giải thích. Lại vô số phương tiện ở trên đã giải thích rồi. Nương vào nghĩa nào là giải thích chương ba? văn cũng chia làm ba: 1. Nhắc lại chương, 2. Dẫn kinh, 3. Giải thích kinh.

Nương vào nghĩa nào: trong kinh nói là "Một việc nhân duyên lớn" Luận nói nhân duyên là lý do cho nên là nầy nghĩa, nay nương vào nghĩa này nên xuất hiện ở đời, nên nói nương vào nghĩa nào. Lại nương vào nghĩa nào: Vì nương vào bốn nghĩa "Khai, thị, ngộ, nhập, nên nói nương vào nghĩa nào:

Lại Đối với Ba thừa ở trên có lời mà không có nghĩa. Nhất thừa vừa có lời vừa có nghĩa, nên nói nương vào các nghĩa nào. Như kinh v. v... trở xuống là thứ hai dẫn kinh.

Như kinh chép:: Này Xá-lợi-phất! "Chư Phật Thế tôn vì một việc nhân duyên lớn nên xuất hiện ở đời" như thế v. v.... Một việc nhân duyên lớn v. v... trở xuống là thư ba giải thích kinh.

Văn chia làm hai: 1. Nêu bốn việc khuyên biết.

Một việc nhân duyên lớn nương vào bốn nghĩa phải khéo biết. Bốn nghĩa là gì v. v... trở xuống: là thứ hai. Giải thích bốn nghĩa riêng, thành bốn thứ khác nhau. giải thích mở rộng nghĩa chia thành ba:

- Nêu chương giải thích lược sơ,

- Dẫn kinh, giải thích kinh.

Nêu chương Vô Lượng Nghĩa: Bốn là gì? 1. Vô Lượng Nghĩa chỉ trừ trí nhất thiết trí của Như lai v. v... trở xuống là thứ hai. Giải thích chương: chỉ trừ trí Nhất thiết trí của Như lai, không còn việc khác, trừ Phật, ngoài ra người Hai thừa, trời, người trí tuệ sở tri đều có giới dưới, chỉ có tri kiến Phật là vô thượng. Nay muốn khai mở tri kiến Vô thượng, nên nói là khai Phật tri kiến, như kinh chép v. v... trở xuống là.

Thứ hai Dẫn kinh: kinh chép: Đức Phật muốn mở bày "Tri kiến Phật" cho chúng sinh biết để được thanh tịnh, nên Ngài xuất hiện ở đời.

Muốn cho chúng sinh biết được thanh tịnh: giải thích ý khai tri kiến Phật. Sở dĩ Ngài khai tri kiến Phật là vì muốn cho chúng sinh biết được và được sự thanh tịnh. Muốn cho chúng sinh biết được Phật tánh và được thanh tịnh, ý thứ nhất giúp cho chúng sinh biết và làm cho chúng sinh thanh tịnh.

Phật tri kiến: giải thích là thứ ba kinh.

Tri kiến Phật: Như lai là năng chứng, nên Ngài dùng trí như thật để biết được nghĩa kia. đây là giải thích tri kiến Phật, bốn chữ khai, thị, ngộ, nhập đều có tri kiến Phật, nay nương vào chương đầu để giải thích chung những chữ này. Như lai năng chứng dùng trí như thật biết nghĩa ấy. Như lai năng chứng là năng chứng pháp thân, trí Như thật xuất phát từ trí năng chứng. Biết được nghĩa ấy, nghĩa ấy là pháp thân, xuất phát từ pháp thân sở tri.

Đồng với nghĩa v. v... trở xuống là thứ hai là giải thích văn cũng chia làm ba: 1. Nêu chương, 2. Dẫn kinh, 3. Giải thích kinh.

Đồng nghĩa: Vì pháp thân của các Thanh Văn, Bích chi Phật và Phật bình đẳng. Đồng nghĩa như giải thích ở trên. Vì pháp thân của Thanh Văn, Bích-chi-phật và Phật bình đẳng, nên giải thích đồng nghĩa sở ngôn đồng người. Ba thừa đồng, pháp thân bình đẳng, nên gọi là đồng.

Hỏi: Vì sao nói đồng nghĩa?

Đáp: Trước tuy nói "vô thượng nhưng" chỉ Phật còn những hạng người khác thì không nên nói người bà thừa cùng một pháp thân.

Hỏi: Vì sao giải thích là đồng nghĩa?

Đáp: Nói đồng có nghĩa pháp thân nên giải thích là đồng, như kinh chép v. v... trở xuống là thứ hai dẫn kinh.

Như kinh chép: Phật muốn chỉ bày tri kiến Phật cho chúng sinh nên Ngài xuất hiện ở đời.

Pháp thân bình đẳng là thứ ba giải thích kinh pháp thân bình đẳng: Phật tánh, pháp thân không có gì khác. Phật tánh pháp thân không có gì nhau, cũng gọi là Phật tánh cũng gọi là Pháp thân, Phật tánh và pháp thân không khác. Người ba thừa Phật tánh đồng có, pháp thân đồng, nên nói không khác. Trong nghĩa vô thượng bậc nhất nói Phật được thanh tịnh là chân như vô cấu, nay nói đồng nghĩa là chân như hữu cấu. Luận Phật tánh dùng vô cấu chân như làm đồng tướng, hữu cấu chân như làm tướng đẹp, vì vô cấu thù thắng ở trong hữu cấu nên gọi là cao siêu. Nghĩa bất tri như v. v... trở xuống là 3. Giải thích nghĩa ngộ văn chia thành ba: 1/ Nêu, 2/ Giải thích, 3/ Dẫn kinh.

Nghĩa bất tri: Hỏi Vì sao giải thích ngộ mà gọi là bất tri?

Đáp: người Hai thừa không biết giúp cho biết, nên giải thích là ngộ, đồng với bất tri ở trên, nay trình bày giúp cho đồng với tri, vì sao ở đây lại khác?

Đáp: Ở trên chỉ chấp nhận đồng nghĩa, nay nói chỉ nhất Phật thừa chân thật rốt ráo, nên khác với ở trên, tất cả Thanh Văn v. v... trở xuống là thứ hai giải thích nghĩa bất tri: Tất cả Thanh Văn, Bích chi Phật không thể biết được chỗ chân thật ấy nên. Ở đây nói các Thanh Văn không biết rốt ráo, chỉ là nhất Phật thừa biết đầu tiên là giải thích. Từ chỗ không biết chân thật là, truyện giải thích, như kinh trở xuống là thứ ba. Dẫn kinh: như kinh chép Phật muốn cho chúng sinh ngộ được tri kiến Phật, nên xuất hiện ở đời.

Phật muốn cho chúng sinh chứng được địa vị không lui sụt, như giải thích thứ tư là nhập cũng có ba: 1/ Nêu, 2/ giải thích, 3/ dẫn kinh.

Nghĩa của nhân là muốn cho chúng sinh chứng được địa vị không lui sụt, trong kinh gọi là nhập, luận gọi là chứng, vì nhập tức là chứng. Giúp cho chúng sinh không lui sụt: đã chứng được pháp thân thì không lui sụt vì muốn nói lên trí nghiệp vô lượng. Là thứ hai, Giải thích: Vì nói lên cho trí nghiệp vô lượng, nên khiến chúng sinh chứng được pháp thân không lui sụt, vì muốn nói lên cho trí nghiệp vô lượng là dụng.

Thủ chứng không lui sụt: Muốn nói lên trí nghiệp vô lượng này là dụng, cũng được trí nghiệp vô lượng. Trong kinh giải thích nhập đạo tri kiến Phật, Đạo là Nghiệp, như kinh v. v... trở xuống là thứ ba dẫn kinh: Như kinh chép: Phật muốn cho chúng sinh nhập tri kiến Phật nên ứng hiện ở đời.

Hỏi: Vì sao nói bốn không nhiều, không ít, lại bốn này thứ lớp ra sao?

Đáp: Ban đầu nói mở là khai mở pháp thân Chư Phật mười phương, như trước nói khai thị pháp thân thanh tịnh của Như lai để cho chúng sinh sinh lòng tin, nên thứ nhất trước là nói chữ khải này. Dù khai mở pháp thân chư Phật mười phương nhưng, hoặc nói chỉ có Chư Phật mới có pháp thân, người Hai thừa không có, Phật được thành Phật, người Hai thừa không thành Phật, cho nên nói người Ba thừa đồng có pháp thân này, đồng thành Phật. Dù nói Ba thừa đồng pháp thân, nhưng người Hai thừa không biết đồng một pháp thân, nên nói ngộ chỉ một không hai. Đã ngộ chỉ một không hai, thì chỉ có con đường tiến không có đường lui, nên nói hạng người này, đây là bốn thứ vô nghĩa không chấp nhận, cho nên không được nhiều ít, chính là thứ lớp.

Thị: trên đây tất cả đều giải thích bốn pháp là y theo người Hai thừa. Từ đây về sau tất cả ba đều giải thích lại. Hễ theo người Ba thừa, 1/ Bồ-tát, 2/ ngoại đạo, 3/ Hai thừa. Theo Bồ-tát thì lại có Ba thừa, một là Bồ-tát hữu nghi, giải thích lại nghĩa nói lên.

Thị: Vì các Bồ-tát còn tâm nghi, giúp cho họ biết được tu hành như thật.

Bồ-tát nghi: Phật nói là vì một việc nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, khi xưa là nói theo việc Năm thừa nên xuất hiện ở đời, tức nay và trái nhau xưa, nên còn nghi. Cho nên nay nói xưa vì phương tiện nên nói năm, vì nói theo lý nên cuối cùng chỉ một sự, vì đồng pháp thân nên Bồ-tát dứt nghi, nên được tu hành đúng như thật.

Ngộ nhập: Thứ hai là hợp thành hai thứ Bồ-tát. Ngộ nhập là người chưa phát tâm Bồ-đề làm cho họ phát tâm, người đã phát tâm thì khiến họ nhập pháp. Đã đồng một pháp thân, thì chỉ nên phát một tâm Phật, không nên phát tâm khác. Làm cho những người chưa phát tâm Bồ-đề, phát tâm Bồđề, chỉ có một không khác, là chỉ tiến tới không lùi bước, nên người đã phát tâm thì làm cho nhập pháp.

Hỏi: Bồ-tát Ba thừa khác nhau thế nào?

Đáp: Khi xưa Ba thừa là Bồ-tát bậc trung, sau Hai thừa này là Nhất thừa Bồ-tát trong.

Lại Ngộ nhập: Giúp cho các chúng sinh ngoại đạo phát sinh giác ngộ.

Nói về Ngộ Đã chỉ một Phật đạo tức ngộ vô ngã, chín mươi sáu là ngoại đạo quy y Phật đạo, nên nói ngộ.

Lại Nhập: Ngài làm cho các Thanh Văn được quả Tiểu thừa nhập đại Bồ-đề, giúp cho người Hai thừa hồi tâm Tiểu thừa, nhập đại Bồ-tát, là nhập Thập Tín vị, là tâm Bồ-đề.

Giúp cho trụ: là giải thích nghĩa Trụ thứ tư, văn chia làm hai: 1/ Nêu, 2/ dẫn kinh khiến cho trụ đã nói chỉ có một Phật thừa, không có thừa nào khác. Tức giúp cho người Hai thừa trụ ở Phật thừa, không trụ thừa nào khác, nên nói là Trụ. Hơn nữa giải thích ý môn của Phật, nên nói là Nhất thừa, vì Phật muốn cho tất cả chúng sinh trụ nhất Phật thừa. Ơ dưới Như kệ chép Phật tự trụ Đại thừa, như được sức định huệ trang nghiêm, dùng đây độ chúng sinh. Phật đã trụ Đại thừa lại muốn cho chúng sinh trụ chỗ Phật đã trụ, nên nói giúp cho chúng sinh được trụ. Cũng như kinh Niết-bàn chép: lại Có một hạnh là hạnh Như lai, gọi là Đại thừa Đại bát Niết-bàn. Phật trụ trong Đại Niết-bàn nói pháp cho chúng sinh nghe, làm cho chúng sinh được trụ.

Như Kinh chép: này Xá-lợi-phất! Phật chỉ dùng Nhất thật thừa nói pháp cho chúng sinh nghe.

Nương pháp: Thứ năm là giải thích, văn chia làm ba: 1. Nêu, 2.

Dẫn kinh, 3. giải thích kinh.

Nương pháp: là Nương pháp là, nương vào pháp Phật ba đời để nói pháp, nên nói à nương pháp, cũng là pháp như thị, nên nói là nương pháp.

Hỏi: Nói nương pháp, lấy văn nào làm chứng?

Đáp: Văn trước nói: nầy Xá-lợi-phất Tất cả pháp của Chư Phật mười phương đều như vậy. Luận chủ dùng văn nầy chứng minh, như kinh chép v. v... trở xuống là thứ. Dẫn kinh văn chia làm hai: 1/ Dẫn chứng chương quá khứ Phật. Như kinh chép: này Xá-lợi-phất, chư Phật quá khứ nói pháp vô lượng vô số phương tiện, các thứ nhân duyên thí dụ, phương tiện niệm quán đều là nhất Phật thừa, như vậy v. v...

Như vậy vân vân: các chúng sinh nầy nghe pháp Phật nói rồi, đức Thích Ca cũng đồng như thế đều là Nhất Phật thừa, trí nhất thiết chủng.

Nói thí dụ: là thứ ba Giải thích kinh gồm giải thích bốn câu: 1/ giải thích các thí dụ, 2/ giải thích nhân duyên, 3/ giải thích quán niệm, 4/ giải thích phương tiện. Văn chia làm ba: 1/ Nêu thí dụ, 2/ giải thích thí dụ, 3/ kết thúc thí dụ. Nói về thí dụ: Như nhờ bò nên có sữa, v. v... trở xuống là thứ hai. Giải thích thí dụ văn chia làm hai: 1/ khai thí 2/ hợp thí.

Như nhờ bò nên có sữa, lạc, bỏ sống, bỏ chín cho đến đề hồ, trong năm năm vị này đề hồ là bậc nhất. Khai là dụ cho năm vị sinh nhau. Tiểu thừa như sữa, Đại thừa như đề hồ. Là thứ hai. Hợp thí dụ: Tiểu thừa như sữa, Đại thừa như đề hồ. Thí dụ này chỉ nói Đại thừa Vô thượng, các Thanh Văn, v. v... cũng đồng với nghĩa Đại thừa Vô thượng, nên Thanh Văn đồng. Trong đây trình bày tánh của pháp thân Chư Phật, Như lai đồng với pháp thân của phàm phu. Thanh Văn, Bích-chi-phật bình đẳng không khác nhau. Lược hợp hai vị, nghĩa là Tiểu thừa như sữa, Đại thừa như đề hồ, thí dụ này nói Đại thừa là vô thượng trong, nương vào hợp vị chỉ nhận lấy một vị làm thí dụ, cho rằng kinh này chỉ nói Đại thừa Vô thượng nên thí dụ đồng với đề hồ.

Các Thanh Văn v. v... cũng đồng với Đại thừa:

Ở trên giải thích chỉ nói Đại thừa Vô thượng, các Thanh Văn đồng giải thích ở sau. Trong các Thanh Văn cũng đồng với nghĩa Đại thừa, đây là trình bày thí dụ ở dưới.

Hợp pháp: Hỏi: Trình bày thí dụ này, hợp đúng một vị dụ cho ý nghĩa vì tất cả chúng sinh đồng một pháp thân bình đẳng nên gọi là nhất vị kinh nào hợp thí dụ đủ năm vị này?

Đáp: Kinh Niết-bàn chép: "Như nhờ bò có sữa, từ sữa có bơ, từ bơ có bơ sống, từ bơ sống có bơ chín, từ bơ chín có đề hồ. Như vậy Phật nói ra mười hai bộ kinh, từ mười hai bộ kinh có Tu-đa-la, từ

Tu-đa-la có kinh Phương Đẳng, từ kinh Phương Đẳng có kinh Bát-nhã-Ba-la-mật, từ Ba-nhã-Ba-lamật có Đại Bát Niết-bàn, đề hồ dụ cho Niết-bàn. Nay kinh này dụ đề hồ với pháp thân bình đẳng, nên biết kinh Pháp Hoa, niết bàn nói không hai nghĩa. Nghĩa nhân duyên đã nói ở trước: Nhân duyên như trước đã nói;, nhân duyên đã nói ở trước chỉ cho sáu môn ở trước, giải thích thuyết môn thứ hai trong, nói niệm quán v. v... trở xuống; là. Giải thích thứ ba, đầu tiên là nhắc lại, kế là giải thích. Nói niệm quán: Trong giải thích trước là nói về của người Tiểu thừa quán vô ngã. Trong đế của Tiểu thừa nhân vô ngã v. v... kế là giải thích của Đại thừa quán hai vô ngã. Trong Đại thừa đế pháp tánh thật tế, pháp giới chân như và người vô ngã, pháp cũng vô ngã quán các thứ cũng vậy, văn trình bày dễ hiểu. Nói phương tiện là giải thích thứ tư, trước nhắc lại sau giải thích.

Nói Phương tiện: Trong giải thích trước nói phương tiện Tiểu thừa, sau giải thích phương tiện Đại thừa. Trong Tiểu thừa quán ấm giới, nhập nhàm chán khổ, lìa khổ được giải thoát.

Quán ấm, giới, nhập nhàm chán lìa khổ, là thấy đạo bảy phương tiện trước của.

Lìa khổ được giải thoát: nhờ khởi đủ các phương tiện nên được giải thoát Trong Đại thừa, các Ba-la-mật là giải thích phương tiện Đại thừa. Trong Đại thừa, các Ba-la-mật là pháp đối trị được lợi ích thúc liễm cho mình và người bằng bốn nhiếp pháp. Trong Đại thừa phương tiện vào đạo bằng sáu độ, vì pháp đối trị lợi ích thúc liễm cho minh và người bằng bốn nhiếp pháp, là phân biệt và khác với Tiểu thừa. Giải thích khởi phương tiện Tiểu thừa là chỉ khiến tự thân được giải thoát. Đại thừa dùng bốn pháp nhiếp để giúp, cho mình và người được trụ lý.

Pháp đối trị: là phương tiện cũng là trụ lý, Ngăn: là giải thích môn trong thứ sáu sáu môn văn chia làm ba: 1/ Nêu, 2/ Dẫn kinh, 3/ giải thích kinh. Ngăn: chỉ cho nhất Phật thừa, ngoài Nhất thừa không còn thừa nào khác nên gọi là Ngăn, như kinh chép: v. v... trở xuống là thứ.

Hai Dẫn kinh: Như kinh chép: này Xá-lợi-phất trong các thế giới ở mười phương không có hai thừa, huống chi có ba thừa, như thế v. v... không có hai thừa: Thứ ba là giải thích kinh.

Hỏi: Vì sao không có hai thừa, ba thừa, tại sao nay chỉ giải thích không có hai thừa.

Đáp: Vì trong kinh cho người Duyên giác là Hai thừa, Thanh Văn là Ba thừa, thì hai và ba đều là Hai thừa, nên nay giải thích hai thừa, là giải thích không hai, không Ba. Theo văn luận này thì Thừa chính là quả, cho quả Tiểu Thừa Niết-bàn và quả Đại thừa Niết-bàn là hai thừa đại tiểu. Văn có bốn câu.

1/ Là nói không có Niết-bàn Tiểu thừa. không có Hai thừa, là không có Hai thừa được Niết-bàn chỉ có Phật, Như lai như giải thích ở sau.

2/ Nói Có Niết-bàn Đại thừa: chỉ có Phật Như

Lai chứng được Đại thừa rốt ráo đầy đủ tất cả trí tuệ, gọi là Đại Niết-bàn, chẳng phải các Thanh Văn v. v... trở xuống. Là thứ

3/ Nói không có Niết-bàn Tiểu thừa: chẳng phải các Thanh Văn, Bích-chi-phật có pháp Niết-bàn, chỉ có nhất Phật thừa.

Chí có nhất Phật thừa: Đưa ra chỉ có một, giải thích không có Niết-bàn hai thừa. Nhất Phật thừa v. v... trở xuống là thứ 4/ Chỉ có Niết-bàn Đại thừa: Nên biết Đại thừa nương vào bốn nghĩa, là bốn nghĩa khai, thị, ngộ, nhập ở trên. Nếu nương vào sáu thứ này thọ ký cho người, thì chương trước có ba: 1/ Nêu sáu môn, 2/ giải thích sáu môn, 3/ kết thúc sáu môn, chương hai đã trình bày. Xong nay thứ ba là

Kết: Như lai nương vào sáu thứ này thọ ký, nên nói pháp gì trước đã giải thích ở sau. Trong việc thọ ký có hai: 1/ Nêu sáu môn nói về thọ ký, 2/ Dẫn năm pháp trước đã chứng minh cho sáu môn, chương đầu đã giải thích. Nay thứ hai

Dẫn chứng năm pháp để chứng minh cho sáu môn. Sở dĩ dẫn chứng vì gồm có hai nghĩa:

1/ Giải thích nghi. Nghi làm sao biết được chương chánh thuyết này có sáu môn? Nên giải thích: Phật nói năm pháp nhiếp sáu môn, vì thế, nên biết có sáu môn.

2/ Nói năm pháp là pháp do Phật nói cho chúng sinh nghe. Nay sáu môn này cũng là pháp nói cho chúng sanh nghe, nên nói sáu môn. Kế dẫn năm pháp

Văn chia làm hai: 1/ Dẫn năm pháp, 2/ Dùng

Năm pháp nhiếp sáu môn, nên trước nói pháp gì? Thế nào là pháp thế nào là tự pháp, thế nào là tướng pháp, thế nào là thể pháp, thế nào là nói lên, như phần đầu của văn.

Gồm những pháp nào? Là Thứ hai là dùng năm pháp gom nhiếp sáu pháp. Lại dùng gồm những vào pháp thứ nhất gôm nhiếp pháp chưa từng nghe. thứ nhất

Gồm những pháp nào: là pháp chưa từng nghe thế nào là, pháp nào gom nhiếp thuyết môn thứ hai. Thê nào là Pháp: là nói các ngôn từ thí dụ.

Thế nào là Pháp tương tự: gom nhiếp nương nghĩa pháp nào thứ ba. Thế nào là Pháp tương tự: chỉ là một việc lớn. Pháp tướng nào gom nhiếp khiến trụ nương pháp thứ năm.

Pháp tướng nào: Tuỳ theo căn khí chúng sinh nói pháp chư Phật. Tuỳ theo căn khí chúng sinh là khiến trụ thứ tư. Nói pháp Chư Phật là nương vào pháp thứ năm.

Thể pháp nào: gom nhiếp già thứ sáu văn chia làm hai: 1. Nói pháp thân bình đẳng là thể Nhất thừa.

Pháp thể nào: Chỉ cho thể Nhất thừa. Thể nhất thừa là pháp thân bình đẳng của Như lai. Các Thanh Văn kia v. v... trở xuống: là. Nói Hai thừa chẳng phải thể nhất thừa. Các Thanh Văn, Bíchchi-phật kia chẳng phải là thể pháp thân bình đẳng vì nhân quả hạnh quán khác nhau. Nhân quả hạnh quán khác nhau thì giải thích ở Hai thừa không có nghĩa thể Nhất thừa. Theo Hai thừa nhân quả quán hạnh không có pháp thân bình đẳng, bảy phương tiện là nhân, chân thánh vị là quả. Hạnh là sở hành bốn đế các pháp của Hai thừa, quán là người quán vô ngã, vì bốn nghĩa này khác với Đại thừa chẳng, nên Hai thừa có thể của pháp thân bình đẳng.

Hỏi: Thế nào là pháp thân bình đẳng là thể của Nhất thừa?

Đáp: Thừa có ba thứ: 1. Tánh thừa, 2. Tuỳ thừa, 3. Thừa được. Tánh thừa là pháp thân chân như. Chính yếu là do có pháp thân chân như sau đó tu muôn hạnh nên gọi là tuỳ Thừa, chứng được quả Phật gọi là Thừa được. Vì tánh thừa là căn bản nên nói là thể Nhất thừa. Từ đây về sau, giải thích phẩm Phương Tiện chương dứt nghi thứ năm trong, là trong kinh giải thích Chư Phật, Như lai xuất hiện ở đời năm trược đã xong phần văn xuôi, văn chia làm hai: 1. nói chung là dứt bốn nghi, 2. giải thích riêng văn chia làm ba: 1/ Nói chung pháp Phật nói để dứt bốn nghi. Dưới đây là. Như lai nói pháp để dứt bốn nghi. Nên biết bốn nghi ấy là v. v... trở xuống là thứ hai nêu riêng bốn nghi, bốn nghi ấy là: 1/ Khi nào nói, 2/ Làm sao biết được người tăng trên mạn, 3/ Thế nào là có khả năng nói, 4/ Thế nào là Như lai không thành nói dối. Khi nào nói v. v... trở xuống là.

Thứ ba Giải thích dứt bốn nghi, thì thành bốn thứ khác nhau: Trong mỗi pháp chia làm hai, 1/ Nhắc lại nghi, 2/ Dẫn kinh giải thích nghi ban đầu.

Khi nào nói: chư Phật, Như lai khi nào nói các thứ phương tiện. Khi nào nói: Lúc này là kiếp vẫn đục. Nghi ý nói: Phật khi nào khởi phương tiện Đại thừa. Vì dứt nghi kia v. v... trở xuống là

Thứ hai dẫn kinh giải thích nghi: vì dứt nghi kia, như trong kinh Phật bảo Ngài Xá-lợi-phất: Chư Phật xuất hiện ở đời có năm thứ vẫn đục đó là vẫn đục về thời kiếp, khi nói đời năm thứ vẫn đục là khởi phương tiện Ba thừa, là dứt nghi thứ nhất.

Trong nghi thứ hai cũng có hai:

1/ Nói về nghi,

2/ Dẫn kinh giải thích nghi.

Làm sao biết được người tăng trên mạn. Đức Như lai không nói pháp cho người tăng trên mạn nghe. Làm sao biết người kia là tăng thượng mạn? Ý nghi rằng: " Phật không nói pháp cho người tăng trên mạn nghe, vì người tăng trên mạn chưa được rốt ráo mà tự nói được rốt ráo, không thọ nhân lời Phật. Làm sao biết được người tăng trên mạn? Vì muốn dứt nghi ấy nên như kinh chép v. v... là thứ hai giải thích nghi. Vì dứt nghi ấy nên kinh chép: nếu có Tỳ kheo thật chứng quả La-hán mô không tin pháp này thì không có việc đó, như thế v. v.... Nếu có Tỳ kheo thật chứng quả La Hán thì tin pháp này, chẳng phải tăng trên mạn. Nếu người nghe pháp này không tin thì chẳng phải A-la-hán, là tăng trên mạn. Thế nào là có khả năng nói pháp: giải thích nghi thứ ba: 1/ Nhắc lại nghi, 2/ Dẫn kinh giải thích nghi.

Thế nào là người có khả năng nói pháp? Như người nghe pháp Phật khởi tâm muốn gần Phật. Thế nào là Như lai không thành công, không có khả năng nói pháp cho người? Nghi rằng: Phật là người có khả năng nói pháp nhưng họ nghe pháp Phật mà khởi tâm chê bai, thì biết Phật không chịu nói pháp cho họ, vì dứt nghi này v. v... trở xuống là.

Thứ hai Dẫn kinh giải thích nghi: vì dứt nghi này, như kinh chép: "Trừ sau khi Phật diệt độ, không có Phật hiện tại như vậy v. v.... Gặp Phật nghe pháp thì thật không khởi tâm chê bai, nếu Phật biết chê bai thì không nói, trừ khi Phật diệt độ, hiện tại không có phật, nghe pháp này không tin, chẳng phải lỗi của Phật. Hỏi Thế nào là hạng người sau khi Phật diệt độ nghe pháp chê bai?

-Sau khi Phật diệt độ, bậc A-la-hán chân thật thì khi nghe nói pháp Nhất thừa sẽ không khởi tâm chê bai. Nếu người khởi tâm chê bai thì đây là phàm phu.

Thế nào là Như lai không thành nói dối là? Giải thích dứt nghi thứ tư, trước đã trình bày về nghi. Là thứ hai Dẫn kinh giải thích nghi. Thế nào là Như lai không thành nói dối: vì ở đây cho rằng xưa kia Như lai nói pháp khác, nay nói pháp khác. Thế nào là Như lai không thành nói dối? Nghi rằng: xưa, Như lai nói có Ba thừa, nay nói không có Ba thừa, trước sau trái nhau nên họ nói Như lai nói dối. Để giải quyết nghi trên, v. v... trở xuống là.

Thứ hai Dẫn kinh giải thích nghi: Vì để giải quyết mối nghi này, như kinh chép: này Xá-lợiphất! các thầy phải nhất tâm tin hiểu lời Phật. Chư Phật, Như lai nói không luống dối, không có thừa nào khác, chỉ có Nhất thừa. Chỉ có Nhất thừa không có thừa nào khác: một là nói thật, ba là phương tiện nói, nên Như lai không nói dối, cho đến đồng tử chơi giỡn đắp tháp Phật bằng cát. Trên đây là giải thích kinh văn xuôi. Nay giải thích kệ nên văn chia làm hai: 1/ giải thích một bài kệ, 2/ giải thích các bài kệ khác. Phần đầu văn chia làm hai: trước nhắc lại kệ, nói từ khi phát tâm Bồ-đề v. v... trở xuống là giải thích kệ, cho đến đồng tử đắp tháp Phật bằng cát để vui đùa những người như thế cũng được thành Phật đạo. Kệ chia làm hai: Nói về tâm Bồ-đề hạnh Bồ-đề. Nghĩa là phát tâm Bồ-đề hành đạo Bồ-tát thì tạo gốc lành mới chứng được Bồ-đề.

Hai gốc lành này có công năng chứng được quả Phật, chẳng phải các phàm phu v. v... trở xuống, đây là nói phàm phu và quyết định Thanh Văn. Như các phàm phu và quyết định Thanh Văn xưa nay chưa phát tâm Bồ-đề thì chẳng thể được. Hai gốc lành này không thành Phật được, như thế cho đến hơi cúi đầu v. v... trở xuống là thứ hai so sánh giải thích kệ khác.

Như thế cho đến hơi cúi đầu v. v... đều cũng như thế.

Hỏi: Tất cả gốc lành đều thành Phật, vì sao chỉ nói phát tâm lành Bồ-đề mới được thành Phật?

Đáp: Ý Phật dù tu tất cả điều lành, nhưng phải biết tâm Bồ-đề, lại mượn những điều thiện làm nhân duyên phát tâm Bồ-đề, sau cùng phải phát tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề là tâm Phật, phát tâm Phật mới được thành Phật. Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ. Trên đây là giải thích xong phẩm Phương Tiện.

Hậu học Sa-môn Thật Quán Thiên Thai Nhật

Đông phân hội Pháp Hoa Luận Sớ quyển trung hết.

QUYỂN HẠ

Dưới đây là, giải thích phẩm Thí Dụ, lãnh hội đầu tiên là ngài Thân Tử. Đại ý của văn này, phẩm giải thích Phương Tiện trước giúp cho người Tiểu thừa ngộ nhập Nhất thừa được thọ ký. Nay giải thích Tiểu thừa ngộ nhập Nhất thừa rồi, tự trách lỗi Tiểu thừa, văn chia làm hai: 1. Nhắc lại kinh, 2. luận thích.

Phẩm Thí Dụ: Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ rằng "Băm tướng mầu vàng, mười lực các giải thoát đều chung trong một pháp, con không được việc này. Tám mươi điềm lành đẹp mười tám pháp bất cộng các công đức như thế mà con đều đã mất.

Luận giải thích có hai: 1. Hỏi ý kệ, 2. giải thích ý kệ. Luận cho rằng kệ này nói về nghĩa gì, là hỏi kệ này.

Giải thích rằng kệ này nói về nghĩa gì: Xá-lợiphất tự trách mình v. v... trở xuống: là thứ hai.

Đáp Giải thích ý kệ, văn chia làm hai: 1. Nêu chương môn quở trách, 2. giải thích quở trách chương môn là giải thích cả kệ.

Chương môn quở trách chia làm ba: 1. Nêu chung tự trách, 2. Nói tự trách riêng. Nên Xá-lợiphất trở xuống là tổng kết.

Xá-lợi-phất tự quở trách mình rằng: " Ta không thấy Chư Phật, không đến chỗ Phật, không nghe Phật nói pháp, không cúng dường Phật, cung kính Chư Phật, không làm những việc lợi ích chúng sinh, chưa được pháp không lui sụt, tự trách mình gồm nêu sáu câu không thấy Chư Phật: Nghĩa là Thân Tử chỉ gặp Át-bệ, lúc đó không thấy Phật,

- Không đến chỗ Phật: Lúc gặp át-bệ không đến chỗ Phật.

- Không nghe Phật nói pháp: Lúc gặp át-bệ nghe nói Ba đế, đắc đạo rồi không nghe Phật nói pháp.

- Không cung kinh: Lúc gặp Át-bệ không cũng kính Phật.

- Không cúng dường Phật: Lúc gặp át Ty chưa cúng dường Chư Phật.

- Không làm việc lợi ích chúng sinh: Lúc gặp át-bệ không có tâm độ sinh và làm việc lợi ích. Năm việc trước nói tâm cầu Vô thượng, việc sau nói tâm cầu độ sinh.

Đối với pháp chưa được không lui sụt, phải được sáu việc trên, nhưng thủ chứng quả Tiểu thừa không được sáu điều này, nên gọi là lui sụt cho nên Xá-lợi-phất v. v... trở xuống là thứ ba kết tự trách mình: Thế nên, Xá-lợi-phất quở trách mình như thế v. v....

Không thấy Phật: là thứ hai giải thích sáu môn trên, là cả giải thích hai bài kệ.

Đầu tiên giải thích chương môn không thấy Phật. Thứ nhất Không thấy Chư Phật. Là nói không thấy tướng Chư Phật Như lai đại nhân, không sinh tâm cung kính, cúng dường, vì không thấy Phật, không sinh tâm cung kính, cúng dường.

Không đến chỗ Phật, giải thích chướng môn thứ hai.

Không đến chỗ Phật: là nói năng lực giáo hóa chúng sinh. Nếu đến chỗ Phật biết Phật có nói lên năng lực giáo hóa chúng sinh, thì không chấp tiểu quả. Nay không đến chỗ Phật, thì chấp chứng Tiểu quả, mất năng lực giáo hóa chúng sinh.

Phát ra ánh sáng vàng: giải thích trên đây chương hai. Nay giải thích kệ. Hỏi Tại sao Luận chủ giải thích điều này.

Đáp: Trước có hai câu: 1. không thấy Phật, 2. Không đến chỗ Phật.

Nếu thấy Phật, đến chỗ Phật thì thấy Phật phát ra ánh sáng và ba mươi hai tướng. Hai nghĩa này làm thành lẫn nhau, nên giải thích chung.

Phát ra ánh sáng vàng: Là nói lên Phật tự thân khác với thân được vô lượng các công đức.

Phát ra ánh sáng vàng: Đầu nhắc lại kệ nói ba mươi hai tướng là nói thấy Phật tự thân khác với thân. Dùng thấy Phật ở sau để giải thích trước lỗi không thấy Phật ở. Tự thân là bổn thân, thân khác là hóa thân. Thấy hai thân này thì được vô lượng phước. Nên biết trước không thấy Phật, không đến chỗ Phật thì mất vô lượng phước, nghe nói pháp giải thích ở chương môn thứ ba.

Nghe nói pháp: là nói làm lợi ích cho chúng sinh và bày tỏ làm những việc lợi ích chúng sinh là giải thích chương môn. Nếu nghe Phật nói pháp, biết Phật làm được việc lợi ích, thì không chấp chứng Tiểu quả, nay không nghe pháp thì không biết việc này, nên chấp chứng Tiểu quả.

Lực giải thích ở kệ đầu gọi là mười lực, Phật đang trụ mười lực nói pháp, làm được những việc lợi ích chúng sanh, khai mở chung hai điều này, nên giải thích chung một chỗ.

Lực là nói điều nghi của chúng sinh nương vào mười lực để dứt nghi. Chương môn văn lực, nói lên những điều nghi của chúng sinh nương vào mười lực để dứt nghi là, giải thích chương môn:

Mười lực là nói dứt nghi, là như luận Tạp tâm nói. Cúng dường là giải thích chương môn thứ tư.

Cúng dường: là Nói khả năng giáo hóa chúng sinh, dùng việc cúng dường Phật, biết Phật nói lên khả năng giáo hóa chúng sinh. Nay không cúng dường thì không biết việc này. Lại, Phật sở dĩ đáng cúng dường, vì Phật có năng lực giáo hóa chúng sinh, nếu ta cúng dường Phật thì cũng được năng lực này, sẽ không chứng quả Tiểu thừa. Vì không cúng dường Phật chấp chứng Tiểu quả nên mất năng lực giáo hóa chúng sinh.

Mười tám pháp bất cộng: giải thích kệ thứ hai câu thứ hai, trong bài vì Phật có mười tám pháp bất cộng không có các lỗi lầm, nên phải cúng dường. Hai nghĩa thành nhau nên giải thích một chỗ. Mười tám pháp bất cộng: là nói xa lìa các chướng ngại văn đầu là chương môn bất cộng. Nói về xa lìa sẽ giải thích ở sau. Giải thích nghĩa bất cộng: vì không dính mắc tất cả chướng ngại lỗi lầm, nên gọi là pháp bất cộng.

Hỏi: Tại sao không giải thích tám mươi điềm lành.

Đáp: Đây vẫn thuộc ba mươi hai sắc vàng của Phật, lại thuộc về thấy Phật v. v..., nên không giải thích riêng.

Cung kính giải thích ở chương năm môn thứ.

Cung kính: là nói sự xuất phát vô lượng phước đức nương vào sự giáo hóa của Như lai được giải thoát. Đầu tiên là nhắc

Lại Chương: Từ thị hiện v. v... trở xuống là giải thích chương giải thích ý cúng kính, vì cúng kính Phật nên được vô lượng phước và được giải thoát vì không kính Phật nên mất lợi ích này.

Tại sao giải thích phước đức và giải thoát, không giải thích điều thứ sáu không làm điều lợi ích chúng sinh?

Đáp: Cung kính Phật được phước đức và được giải thoát là việc lợi ích chúng sinh. Lại, không làm điều lợi ích là giải thích như từ trước đến nay, mỗi câu đều có lời này, nên không giải thích riêng. Vì người vô ngã pháp vô ngã là giải thích câu "các công đức như thế trong bài kệ thứ hai". Vì người vô ngã và pháp vô ngã nên tất cả các pháp đều bình đẳng. Vì hai thứ đều vô ngã nên thuộc về tất cả công đức, hơn nữa trong tất cả công đức nó là hơn hết. Cũng có thể lời này giải thích việc không làm lợi ích chúng sinh ở trên, cũng được giải thích lại nương vào lời dạy của Phật mà được giải thoát, nên Xá-lợi-phất v. v... trở xuống; là giải thích. Kệ Thứ tư: "Mà con đều đã mất". Lại nữa sở dĩ có, văn này là vì:

1. Nêu ra trách mình chưa được pháp nên lui sụt.

2. Giải thích tự trách mình chưa được pháp nên lui sụt. Nay kết thúc trách mình chưa được pháp nên lui sụt.

Nên Xá-lợi-phất trách mình: "Ta chưa được pháp như thế, chưa được nên lui sụt. " Dưới đây là có bảy hạng người là. Nói rõ về ý, phẩm Phương tiện trên đều chúng sinh mà đều nói pháp Nhất thừa, nên luận văn ở sau nói: "Chương năm phẩm Phương tiện lá bỏ hai về một. Từ ví dụ nhà lửa mà phá riêng về mười loại người bệnh. " Kế là nói mười nghĩa Vô thượng, văn chia làm hai đầu tiên: Phá mười thứ người bệnh kế là nói mười thứ Vô thượng.

1. Phá mười thứ người bệnh, chia làm hai: hạng người phải biết năng trị sở trị tâm.

2. Phá riêng mười hạng người bệnh.

Trước nên bảy hạng người bệnh năng trị, sở trị phải biết, chia làm hai đầu tiên:

1. Bảy hạng phàm phu phải biết năng trị, sở trị.

2. Trình bày bậc Thánh không phiền não năng trị, sở trị phải biết, phần đầu chia làm bốn:

1. Xuất phát vì người.

2. Nói về năng trị.

3. Nói về sở trị.

4. Khuyến trị.

Vì chúng sinh đầy đủ tánh nhiễm phiền não là nói vì người.

Dưới đây, kế là bảy hạng chúng sinh đầy đủ tánh nhiễm phiền não. Đầy đủ phiền não là nói phàm phu bị phiền não trói buộc. Nhiễm là tánh nhiễm, nói bảy ví dụ là. Nói về năng trị thứ hai: Nói bảy ví dụ để đối trị bảy hạng người tăng trên mạn. Là Nói về sở trị: thứ ba đối trị bảy thứ tâm tăng trên mạn. Bảy hạng người này và pháp tăng trên mạn, nhưng tự cao ngạo mạn không cầu danh tăng. Nghĩa này nên biết v. v... trở xuống, thứ tư là văn.

Nghĩa này nên biết, cho nên khuyến khích, giúp cho người tu hành biết được bảy lỗi này, nương vào kinh đối trị để lìa bỏ cho nên khuyên biết. Ba thứ v. v... trở xuống là

Thứ hai kế nói Người không phiền não cũng có bốn:

2. Nói Người làm.

3. Nói về bệnh sở trị.

4. Nói về thuốc năng trị.

5. Khuyến khích nên biết.

Ba thứ nhiễm mạn không có phiền não là nêu người làm.

Lại nữa người, ba thứ nhiễm mạn không có phiền não, thừa dứt hết các phiền, não trong nên gọi là người không phiền não, nhưng đối với Đại thừa vẫn có phiền não bị phiền não Đại thừa làm nhiễm, nên gọi là nhiễm. Chưa được rốt ráo mà tự cho là rốt ráo, cho nên tự cao gọi là mạn, tam-muội giải thoát kiến đẳng nhiễm mạn. Là thứ hai thoát.

Khỏi bệnh sở trị: Tam-muội giải thoát kiến đẳng nhiễm mạn là giải thích ở nhiễm mạn trên. Như Kinh Thắng-man chép: "Ngoài ba cõi Hằng sa phiền não, nghĩa là trên trên phiền não quán trên phiền não v. v.... Nay nói Tam-muội phiền não trong là trên phiền não chính thọ của kinh Thắngman. " Trong giải thoát phiền não của Đại thừa là quả trên phiền não, kiến phiền não lẽ ra là trí trên phiền não. Đẳng là đang chấp thọ hằng sa phiền não. Để đối trị điều này v. v... trở xuống là thứ ba, vượt khỏi năng trị. Để đối trị điều này nên nói ba thứ bình đẳng. Là thứ tư, Khuyến khích nên biết. Nên biết điều này, như văn nói thế nào là bảy thứ đầy đu v. v... trở xuống là thứ hai giải thích riêng

Lại chia làm hai:

1. Giải thích riêng bảy hạng người.

2. Giải thích riêng ba hạng người.

Giải thích riêng bảy hạng người, lại có ba:

3. Nêu bảy hạng người.-Nói năng trị, sở trị.

4. Kết chung thứ nhất.

1. Nêu bảy hạng người:

-Thế nào là bảy hạng người có đủ tính chất phiền não?

1. Hạng cầu thế lực.

2. Hạng người cầu giải thoát Thanh Văn.

3. Hạng người cầu Đại thừa.

4. Hạng người có tịnh,

5. Hạng người vô định.

6. Hạng người chứa nhóm công đức.

7. Hạng người không chưa nhóm công đức.

Như văn chép: "Thế nào là bảy thứ tâm tăng trên mạn" v. v... trở xuống là

2. Giải thích năng chung môn tri, sở tri, văn chia làm hai:

-Nương kinh giải thích sơ lược điều thứ hai. Luận chủ giải thích lại: "Giải thích bảy hạng người thành bảy khác nhau. Trong mỗi điều có hai: Một là nêu người là nói bệnh sở trị; hai là nói về thuốc năng trị. Người điên có tâm tăng thượng mạn đảo cầu các công đức là hạng tăng trên mạn. đây là, thứ nhất bệnh sở trị: Thế nào là bảy thứ tâm Tăng trên mạn? Thế nào là bảy thứ ví dụ đối trị?

1. Điên đảo cầu các công đức tâm tăng trên mạn, nghĩa là nhiễm các phiền não thế gian luôn lẫy lừng lớn mạnh, nhưng cầu quả báo hữu lậu cảnh giới cao quý của người, trời, như thế chấp điên đảo. Ba cõi thật là cảnh khổ mà cầu thường an vui, nên gọi là điên đảo. Đầu tiên là nêu ra điên đảo cầu các công đức, đây là tâm tăng trên mạn, là hai chương môn: là trong thế gian v. v... trở xuống: là Giải thích tâm tăng trên mạn ở trên:

Giải thích tâm tăng trên mạn gần. Tâm tăng trên mạn là các phiền não trong thế gian lừng lẩy tăng thượng, nhưng cầu cảnh giới đẹp đẽ, người, trời v. v... trở xuống là. Giải thích điên đảo tăng thượng cầu các công đức, để đối trị điều này nên Phật nói ví dụ "nhà lửa".

Năng trị: Để đối trị điều này nên Phật nói ví dụ nhà lửa, các Thanh Văn v. v... trở xuống là giải thích. Trong điều thứ hai cũng có hai: Một là vượt ra sở trị; hai là vượt ra năng trị.

Các Thanh Văn một bề tâm nhất định tăng trên mạn, tự nói ta nương vào Như lai thừa không có khác nhau, như thế là đảo thủ.

Người Hàng Thanh Văn: Nêu lên người này, một bề nhất định tâm tăng trên mạn là, nói lên bệnh này. Tự nói ta nương vào Như lai thừa không khác là giải thích bệnh trên. Người Hai thừa cầu, là người Hai thừa cùng Phật dứt hết phiền não, đồng được vô sinh trí, đồng được Ba học vô lậu, đồng được vô dư, như thế là chấp điên đảo. Phật và người Hai thừa thật ra khác nhau, khác nhau nghĩa là giống nhau, nên gọi là chấp điên đảo. Để đối trị điều này cho nên v. v... trở xuống là thứ hai.

Vượt khỏi Năng trị: Để đối trị điều này nên noi ví du "cùng tử nên biết". Như cùng tử so với Trưởng giả, am tranh sánh với nhà lớn, nên Hai thừa khác với Phật.

Người Đại thừa cũng có hai: Sở trị và Năng trị. Người Đại thừa hoàn toàn quyết định tâm tăng trên mạn. Như vậy ý chẳng khác các Thanh Văn,

Bích-chi-phật, như thế chấp điên đảo

Người Hai thừa nêu người, hoàn toàn quyết định. Nêu bệnh khỏi ý như thế là giải thích, bệnh là không có phân biệt người Hai thừa, nên gọi là Bệnh. Người này ban đầu nghe kinh Nhất thừa nghĩa là chỉ có Phật thừa không có thừa nào khác, thì có hai lỗi: Một là đối với một nói ba; hai là lỗi đối với duyên thành ba, như thế chấp điên đảo. Thật có hai thứ Hai thừa có nhưng nói không, nên nói là chấp điên đảo thủ, vì đối trị điều ấy nên v. v... trở xuống là thứ. Hai Vượt ra năng trị: Để đối trị điều này nên nói ví dụ mây mưa. Dù đất mưa là một, nhưng sự nuôi lớn cây cối và căn cơ khác nhau. Theo sự lớn lên của cây có khác nhau, dù lý là một nhưng theo duyên thành ba, nên đối với duyên thành ba.

Người cũng là mưa nên ban đầu nói Sở trị là nói về năng. Sự thật mình không được mà nói được, đó là tăng trên mạn, đã có thế gian, hữu lậu, tam-muội, tam-ma-bát-đề, thật không có Niết-bàn, như vậy là chấp điên đảo. Trong Sở trị đầu tiên là nêu thật không có công đức, là không có tâm tăng trên mạn, có thế gian, hữu lậu v. v... trở xuống là

Giải thích môn: Người này được vô lậu, thật không được Niết-bàn mà nghĩ là được Niết-bàn, chia thành hai hạng:

1. Hạng nội đạo.

Như luận Trí Độ chép: "Có một tỳ-kheo khi được Sơ thiền là được Sơ quả, cho đến được Bốn thiền, cho là được quả thứ tư.

2. Hạng ngoại đạo: Được hai định Phi tưởng và Vô tưởng là được Niết-bàn.

Như thế chấp điên đảo: Thật ra chưa được Niếtbàn mà nói là được Niết-bàn, nên gọi là chấp điên đảo. Lại còn hữu lậu mà nói được vô lậu, nên gọi là Đảo. Để đối trị điều này v. v.. trở xuống là thứ hai nói.

Về Năng trị: Để đối trị điều này nên Phật nói ví dụ Hóa thành, ở đây có: nghĩa Một là thả thuyết; hai là nương Niết-bàn để làm ngôi thành chân thật, vì đối trị hai hạng trước nên dụ thành là luống dối. Nói hóa thành cho những hạng người này. Niếtbàn của Hai thừa là hóa thành, thì sở được của các thầy sao gọi là chân thật được.

Văn kinh chỉ nói hóa thành, vì sao ở đây nói ngôi thành chân thật?

-Trong phẩm Hóa Thành có nói xưa và nay, ý nói xưa là chân, nói nay là hóa, hiện v. v... trở xuống là văn luận.

Hạng người thứ năm cũng có hai: Một là Sở trị; hai là Năng trị.

Trong Sở trị trước nêu hai môn sau giải thích hai môn.

Tán loạn tâm tăng trên mạn: Nêu hai môn, một là tán loạn, hai là tâm tăng trên. Thật không có định, v. v... trở xuống là Quá khứ thật không có nhất định, dù có gốc lành Đại thừa, nhưng không hay nên chẳng biết gì. Không cầu Đại thừa trong tâm lượng hẹp hòi khởi kiến giải luống dối, là bậc đệ nhất thừa, đảo. chấp điên như thế đối với đầu tiên là giải thích chương môn toán loạn tâm không rộng lượng giải thích ở sau. Giải thích chương môn tăng trên mạn, như thế chấp điên đảo: Tiểu thừa chẳng phải bậc nhát mà cho là bậc nhất, đó là chấp điên đảo Thật có Đại thừa mà không cầu Đại thừa, thật không có Tiểu thừa mà cầu Tiểu thừa, cũng là chấp điên đảo. Để đối trị điều này v. v... trở xuống là thứ hai nói về Năng trị: Để đối trị điều này nên Phật nói ví dụ cột dưới châu trong chéo áo. Nói dụ dưới châu trong chéo áo để họ nhớ lại tâm Bồ-đề, bỏ Tiểu thừa theo Đại thừa.

Điều thứ sáu cũng chia làm hai: Sở trị và Năng trị.

Thật có công đức tâm tăng trên mạn nghe nói pháp Đại thừa thì chấp không có Đại thừa, như vậy chấp điên đảo Nghe pháp Đại thừa chấp không có Đại thừa: hạng người này vốn học Đại thừa, nhưng học có sở được, nên nghe nói Đại thừa bèn lui sụt Tiểu thừa, thủ chứng Tiểu quả. Như trong Đại phạm có ví dụ chim lớn, chim con không cánh, chưa có hai cánh mà học bay, nên bị rớt xuống đất. Người có sở được tuy có tâm Đại thừa hạnh Đại thừa không được phương tiện tuệ, nên nghe nói Đại thừa tâm liền lui sụt, chứng Tiểu quả. Nên trong Đại phẩm sáu mươi vị Bồ-tát nghe nói Bát-nhã thành A-la-hán, đây là phàm phu, khác với Đại phẩm thành A-la-hán, đại khái hơi giống với điều này. Như thế chấp điên đảo, thật có Đại thừa mà không chấp chứng Đại thừa, không có Tiểu thừa mà thủ chứng Tiểu thừa, nên gọi là điên Đảo. Lại học Đại thừa mà thủ chứng Tiểu thừa nên gọi là Đảo. Để đối trị những điều này v. v... trở xuống là thứ hai nói về Năng trị: Để đối trị những điều này nên Phật nói dưới châu trong búi tóc Lu-ân vương để làm ví dụ. Dưới châu trong búi tóc là tôn quý nhất, là nhất thừa trên hết, ban nhất thừa tối trên này cho họ để họ thủ chứng Đại thừa. Hàng thứ bảy cũng chia làm hai: Sở trị và Năng trị.

Hạng thứ bảy: Thật không có công đức để tâm sinh tăng trên mạn đối với đệ nhất thừa chưa thề tu tập để chứa nhóm các gốc lành, nên nghe nói bậc nhất thừa, trong tâm không chấp, cho là nhất, như vậy chấp điên đảo Đầu tiên là nhắc lại hai chương môn. Thật không có công đức và tâm tăng trên mạn, đối với bậc nhất thừa không tu tập các gốc lành. Là Giải thích thật không có công đức như trên, hạng người này quá khứ không chưa nhóm gốc lành Đại thừa. Nghe nói Đại thừa v. v... trở xuống: là

Giải thích tâm tăng trên mạn như thế chấp điên đảo, đối với pháp bậc nhất cho là chẳng phải bậc nhất v. v..., nên gọi là chấp điếu đảo. Vì đối trị v. v... trở xuống là thứ hai nói về Năng trị: Để giải quyết vấn đề này nên Phật nói ví dụ thầy thuốc hay, thầy thuốc hay để trị bệnh điên. Phật nói lên Niếtbàn để chúng sinh chịu uống thuốc Đại thừa. Hạng người thứ nhất trở xuống là thứ hai Luận chủ y chung theo nghĩa giải thích lại, giúp cho hạng người thứ bảy đều thành Phật, cũng thành bảy đoạn.

Đầu văn có ba.

Hạng người thứ nhất: nói ở thế gian các thứ gốc lành Tam-muội công đức, phương tiện khiến họ được vui mừng, sau giúp họ vào Đại Niết-bàn.

Thứ nhất trước nêu hạng người ở trước. Nói ở thế gian các thứ gốc lành Tam-muội công đức và nêu ra phương tiện để giáo hóa người này. Trong đây nói gốc lành ở thế gian, đây là giải thích theo ý Phật. Ý Phật, ta nói gốc lành ở thế gian để các thầy nhổ sạch gốc khổ trong ba đường, khiến các thầy vui mừng, sau đó nhập vào thành Đại Niếtbàn.

Làm sao bảo vệ quả báo tốt đẹp?

-Vì để giải quyết vấn đề này Phật nói ví dụ nhà lửa.

Hỏi?Hạng người thứ nhất cần quả báo trời, người ở thế gian, nay vì sao nói gieo trồng các gốc lành ở thế gian? Đáp Ở đây chữ Thế gian này khác với chữ Thế gian ở trên. Chữ thế gian ở trên là Thế gian ba cõi. Nay nói chưa được vô lậu chân thật, về sau phát tâm Bồ-đề và các địa như Thập Tín, v. v..., phương tiện trước gọi là thế gian. Luận dưới giải thích trong phẩm Pháp Sư và phẩm Phân Biệt Công Đức đều nói Địa Tiền chưa được vô lậu chân thật nên gọi là Thế gian. Nay nói Địa tiền và các thứ công đức để họ được vui mừng.

Gốc lành là ba thứ gốc lành không tham khả, sân không si, vì những hạng người này tham đắm ba cõi nên nói gốc lành không tham cho họ nghe. Những hạng người này tham đắm năm dục, ngoài ra còn ham vui, nên nói các Thiền, tam-muội như hữu quán, hữu giác, v. v... để họ tự nhập vào Đại Niết-bàn, là nhân thế gian chứng được quả xuất thế gian. Nói Đại Niết-bàn vì vui Đại Niết-bàn thay cho được vui tham đắm Tiểu quả thế gian của họ.

Sau đó, nhập vào Đại Niết-bàn. Trước là thực hành nhân, giúp họ được quả, người này trước cầu quả báo hữu lậu, nay được quả Niết-bàn vô lậu. Giải thích hạng người thứ hai: ba hợp thành một, giúp họ nhập Đại thừa. ba hợp thành một khiến họ nhập vào Đại thừa. Chẳng phải ngoài ba lại có một, vì gom Ba thừa thành Nhất thừa, như gom ba nhóm gạo thành một đấu. Nói về đại tông như vậy, nên văn dưới chép: "Phá hai về một" lại văn trên ba thừa đồng nhất thừa, vì đồng một pháp thân.

Giải thích hạng người thứ ba: giúp cho họ biết các thừa khác nhau, chư Phật, Như lai nói pháp bình đẳng tùy theo các Hạt giống gốc lành của chúng sinh mà nẩy mầm khác nhau.

Khiến họ biết các thừa là giúp cho họ biết năm thừa. Đức Phật nói pháp tùy theo Hạt giống gốc lành của chúng sinh mà nẩy mầm. Chúng sinh ở đời quá khứ lãnh thọ giáo môn năm thừa của Phật, họ có Hạt giống năm thừa, nhưng vì người Năm thừa lãnh thọ Phật ra đời nói pháp năm thừa khiến Hạt giống Tiểu thừa nẩy ra mầm Tiểu thừa, cho đến quả chân thật.

Giải thích hạng người thứ tư: Phương tiện giúp họ vào thành

Đại Niết-bàn, nên thành Niết-bàn còn gọi là thành Chư Phật, thiền tam-muội về sau khiến họ vào thành lớn Niết-bàn. Ý luận muốn nói khiến cho hạng này biết trước. Ở thế gian không có thành nào thật, về sau khiến họ bỏ thành nhỏ vào thành lớn Niết-bàn Đại thừa.

Hạng người thứ năm: Chỉ bày tất cả gốc lành ở quá khứ giúp họ nhớ lại, sau đó dạy bảo giúp họ nhưng vào tam-muội. Nói gốc lành quá khứ cho họ, nghe giúp họ nhớ lại đã từng phát tâm Bồ-đề, sau đó giúp họ được tam-muội, thường nhớ tâm Bồ-đề không quên.

Hạng người thứ sáu: Nói pháp Đại thừa, dùng pháp môn này đồng với Thập địa hạnh tròn đầy, Chư Phật, Như lai thầm thọ ký cho họ.

Nói pháp Đại thừa là ban dưới hạt ngọc sáng trên búi tóc cho họ. Vì pháp môn này đồng với Thập địa hạnh tròn đầy. Pháp môn này là pháp môn Nhất thừa, pháp môn Nhất thừa là nói Thập địa, đây là giải thích nghĩa nào?

-Giải thích dưới ngọc sáng trên đảnh là quý nhất, Kinh Nhất thừa đồng với Thập Địa hạnh tròn đầy, cũng là quý nhất.

Chư Phật, Như lai thầm thọ ký: Vì ban hạt ngọc sáng cho họ, thầm muốn họ thành vua Chuyển Luân. Vì nói Pháp Hoa là thầm họ ký cho họ và để họ thành Phật.

Hạng thứ bảy: căn cơ chưa thuần thục khiến cho thuần thục, như thế là nói lên được sư rộng lớn của Niết-bàn.

Căn cơ chưa thuần thục làm cho được thuần thục, là người điên cuồng chưa uống thuốc, muốn họ uống thuốc là nói sự rộng lớn của Niết-bàn. Như cha muốn con uống thuốc nên nói lên bị bệnh. Đức Phật ngày nay cũng như vậy, Ngài muốn chúng sinh liễu ngộ nên nói lên nhập Niết-bàn, vì ý nghĩa này nên Như lai nói bảy ví dụ.

Kết Hợp thành bảy hạng người, nói bảy ví dụ. Vì nghĩa này nên Như lai nói bảy ví dụ.

Thế nào là ba hạng người không có phiền não?

V. v... trở xuống: là thứ Hai Giải thích ba hạng người không có phiền não là nói ba thừa đối trị, văn chia làm hai:

a. Nói chung về ba hạng người và nói ba pháp đối trị.

b. Nói riêng về thọ ký, văn có hai: một là: Sở trị hai là Năng trị. Trong Sở trị có hai: Nêu chung và giải thích riêng.

Nêu chung: Thế nào là ba hạng người không có phiền não? Không có Ba thứ tín nhiễm mạn và ba thứ điên đảo?

-Như văn chép: Thế nào là ba thứ v. v... trở xuống là thứ hai. Nêu riêng ra ba thứ bệnh, ba thứ bệnh là:

1. Tin các thừa khác nhau.

2. Tin thế gian và Niết-bàn khác nhau.

Tin thân mình và người khác nhau. a/ Không có ba thừa khác nhau mà khác nhau, nên gọi là điên đảo. b/ Thật không có thế gian và Niết-bàn khác nhau không khác mà cho là khác, nên gọi là điên đảo. c/ Thật không có thân mình và người khác nhau, không khác mà cho là khác, nên gọi là điên đảo.

Để đối trị ba thứ này v. v... trở xuống là thứ hai nói về Năng trị, cũng hai: Nêu chung và giải thích riêng.

Để đối trị ba thứ nhiễm mạn này, nên Phật nói ba thứ bình đẳng. Nghĩa này nên biết như văn đầu. Ba thứ ấy là v. v... trở xuống là thứ hai giải thích riêng tức thành ba thứ khác nhau.

Thế nào gọi là ba thứ bình đẳng? Thế nào là đối trị?

- Thừa bình đẳng cho rằng thọ ký Bồ-đề cho các Thanh Văn chỉ có Đại thừa không có Hai thừa, nên nương vào bình đẳng không có khác nhau. Cho rằng thọ ký Bồ-đề cho các Thanh Văn, là nương vào một câu bình đẳng. Giải thích phẩm Tháp về trước nương vào quyền thừa đúng với văn kinh.

- Thế gian Niết-bàn bình đẳng, vì cho rằng Đa Bảo Như lai nhập Niết-bàn nên thế gian Niết-bàn, mình và người đều bình đẳng không khác nhau. Trong giải thích thứ hai nói: "Như lai Đa Bảo nhập Niết-bàn", câu này nêu chương môn thế gian và Niết-bàn bình đẳng, vì thế gian Niết-bàn mình người bình đẳng, vì cho rằng Như Lai Đa Bảo ở trong các thế giới mười phương nên gọi là nhập Niết-bàn, nên nói thế gian Niết-bàn đều bình đẳng.

- Giải thích chương ba: Pháp thân bình đẳng, Như lai Đa Bảo nhập Niết-bàn, lại nói lên thân mình thân người pháp thân bình đẳng không khác nhau. Như lai Đa Bảo đã nhập Niết-bàn lại nói lên thân. Văn trên nói thế gian Niết-bàn bình đẳng là bảo rằng Đa Bảo Như Lai là niết bàn ở tại thế gian, nên biết thế gian và Niết-bàn bình đẳng. Thế gian và Niết-bàn đã bình đẳng, nên biết thân mình, thân người cũng bình đẳng. Thân mình là thân Phật Đa Bảo, thân người đó là mười phương Phật, thân Phật Thích-ca, lời văn là như vậy, phải quán hạnh sâu mới thủ chứng được điều này. Hơn nữa, Phật Đa Bảo tuy nhập Niết-bàn nhưng thường nói lên ở thế gian, nên cho rằng thế gian Niết-bàn và bình đẳng, là cùng Chư Phật mười phương như Phật Thích-ca, v. v..., tuy ở thế gian nhưng thường Niết-bàn, cũng là thế gian và Niết-bàn bình đẳng. Hơn nữa, Phật Đa Bảo tuy ở thế gian nhưng thường nhập Niết-bàn. Đức Thích-ca, Chư Phật mười phương tuy ở thế gian nhưng cũng là Niết-bàn. Nên biết Đức Đa Bảo và Đức Thích-ca tự tha không khác, cũng là pháp thân bình đẳng. Của mình mà người Duy-ma có ba điều như, đó là tất cả pháp cũng như, tất cả chúng sinh cũng như và chúng hiền Thánh cũng như. Tất cả pháp cũng như, đây là bình đẳng thứ ba, tất cả chúng sinh cũng như. Đây là hai thứ bình đẳng, chúng hiền Thánh cũng như, đây là bình đẳng thứ nhất. Muốn nói thế gian và Niết-bàn bình đẳng, như phẩm Niết-bàn trong Trung luận chép: "Thế gian và Niết-bàn bình đẳng không chút khác nhau, Niết-bàn và thế gian cũng không khác nhau, như thế hai mé không có mảy may khác nhau. "

Luận Trí Độ chép: "Chỉ có pháp Đại thừa nói sinh tử và Niết-bàn bình đẳng. " Trong pháp Tiểu thừa không có lý này, luận Pháp Hoa đồng ý quan điểm này. Như vậy ba hạng người không có phiền não. Là Nói riêng về thọ ký cũng là giải thích lại bình đẳng về thừa trong ba bình đẳng:. Lại Hai thừa thành Phật là chánh tông của Pháp Hoa. Như luận Trí Độ chép: Kinh Pháp Hoa là pháp bí mật, nói A-la-hán thành Phật, văn chia làm năm:

a. Nói về lý do thọ ký.

Nói về Thanh Văn và Bồ-tát được thọ ký khác nhau.

b. Thọ ký khác nhau.

c. Thanh Văn được thọ ký, không được thọ ký.

d. Nói lại về Ba thừa Nhất thừa.

Đầu tiên văn chia làm hai: nói về bệnh và thuốc đối trị. Phần bệnh chia làm bốn:

Nêu chung ba hạng người bệnh có tâm nhiễm mạn. Như vậy ba hạng không có tâm phiền não nhiễm mạn, là tâm vô minh thấy việc làm của mình và người khác nhau, thấy sáu đường, ba thừa khác nhau.

Thấy việc làm của mình và người khác nhau, là có tâm phân biệt. Vì không biết Phật tánh pháp thân của mình và người đều bình đẳng. Không được trí vô phân biệt, Vì không biết được pháp thân Phật tánh của mình và người đều bình đẳng, nên cho rằng ta chứng được pháp này còn người kia thì chưa được. Lại sanh tâm phân biệt, là người kia và ta đồng chứng pháp này mà cho rằng người kia không được, để đối trị sự thật này nên nói dùng thuốc năng trị.

Để đối trị điều này nên Phật thọ ký cho các Thanh Văn, các Thanh Văn kia cho là thật thành Phật v. v... trở xuống là thứ hai, nói về Thanh Văn và Bồ-tát được thọ ký khác nhau, văn có hai: Hỏi và đáp. Trong hỏi có hai là hai của sơ định Các Thanh Văn cho là thật thành Phật, được thọ ký, hay không thành Phật mà được thọ ký?

Nếu thật thành Phật. Là Kết thúc cả hai và gạn hỏi cả hai.

Nếu thật thành Phật, tại sao Bồ-tát tu vô lượng kiếp chứa nhóm vô lượng các thứ công đức nếu không được thành Phật, là thọ ký vì sao cho họ luống dối, lời văn dễ hiểu. Các Thanh Văn kia được thọ ký v. v... trở xuống là thứ hai

Gạn hỏi chung cả hai, văn cũng chia làm hai: Đáp cả hai và bác bỏ cả hai Đáp cả hai, là thành hai thứ khác nhau. Nay đáp chung câu gạn hỏi thứ nhất ở trước.

Đáp:

Các Thanh Văn kia được thọ ký được tâm quyết định, không thể cho rằng các Thanh Văn thành tựu pháp tánh. Gạn hỏi về ý: Nếu các Thanh Văn thật thành Phật, vì sao Bồ-tát từ vô lượng kiếp tu vô lượng công đức, nên giải thích rằng: các Các

Thanh Văn được thọ ký chỉ là được tâm quyết định. Nói được tâm quyết định, quyết định gọi là tin, được nhập Thập tín vị, không thể thành tựu pháp tánh, đáp đúng câu hỏi này. Văn dưới nói pháp tánh là pháp thân, Thanh Văn chưa thành tựu pháp thân, tu chưa được rốt ráo. Như Lai y theo ba thứ bình đẳng kia nói pháp Nhất thừa là. Giải thích câu hỏi thứ hai: Như lai y theo ba thứ bình đẳng này mà nói pháp Nhất thừa, nên pháp thân Như lai và pháp thân các Thanh Văn kia bình đẳng không khác, nên thọ ký cho các Thanh Văn.

Gạn về ý: Thanh Văn nếu không thành Phật thì tại sao thọ ký luống dối. Nên ở trước giải thích: "Pháp thân Như lai và pháp thân Thanh Văn bình đẳng không khác, nên thọ ký cho các Thanh Văn, chẳng phải luống dối. "

Hỏi Trước nói được tâm quyết định nên thọ ký các Thanh Văn. Sau nói nương Phật tánh bình đẳng nên thọ ký cho, hai điều này khác nhau thế nào?

Đáp: Trước là nhân duyên, sau là chánh nhân. Lại, trước nêu ra Phật tánh, sau là tự tánh trụ Phật tánh, cho nên khác nhau. Chẳng phải tu hành đầy đủ công đức là thứ hai. Chẳng phải cả hai trả lời chung và đáp hai câu hỏi trước. Chẳng phải vì tu hành đầy đủ công đức, nên công đức của Bồ-tát đầy đủ, các Thanh Văn không đầy đủ.

Trước kết thúc trả lời câu hỏi thứ nhất.

Nên Bồ-tát công đức đầy đủ, các Thanh Văn công đức chưa đầy đủ là kết thúc, trả lời câu hỏi thứ hai. Nói thọ ký, có nói lên sáu xứ v. v... trở xuống là thứ ba nói về thọ ký khác nhau, văn chia làm hai:

1. Nêu chung thọ ký khác nhau.

2. Giải thích riêng. Phần đầu chia làm hai:

1. Nói lên nói chung sáu xứ.

2. Nói về thọ ký, nói lên sáu xứ.

Năm điều Như Lai thọ ký. Một thọ ký cho các Bồ-tát giải thích trở xuống là thứ hai nói riêng kết thúc thọ ký chỉ có hai thứ.

Có sáu chỗ thị hiện Năm là Như lai thọ ký:

1. Thọ ký Bồ-tát. Như lai thọ ký.

2. Giải thích riêng hai người tức thành hai thứ khác nhau.

Giải thích Như Lai thọ ký cho năm hạng người, tức thành năm hạng khác nhau: Người thứ nhất mọi người đều quen biết, danh hiệu khác nhau, nên Như lai thọ ký cho.

Như Lai thọ ký: Như Xá-lợi-phất, Ma-ha-Cadiếp v. v... được mọi người quen biết, vì danh hiệu khác nhau nên thọ ký khác nhau. Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên v. v... bốn vị Đại Thanh Văn như, năm vị này mọi người đều quen biết, thành Phật danh hiệu khác nhau, nên thọ ký có trước sau, gọi là biệt ký. Thứ hai là Thành Phật cùng một danh hiệu, nên thọ ký cùng lúc Phú-lâu-na v. v... năm trăm vị, một ngàn hai trăm vị như vì, cùng một danh hiệu, nên được thọ ký cùng lúc.

Thứ ba là Thành Phật đèn đồng một danh hiệu, nhưng chẳng được mọi người quen biết, nên khác với người thứ hai, cũng được thọ ký cùng lúc. Bậc hữu học và vô học đều chung một danh hiệu, nhưng chẳng được mọi người quen biết, nên thọ ký cùng lúc. Đề-bà-đạt-đa thọ ký cho ba hạng người trên và hạng người lành được thọ ký, nay thọ ký cho người ác.

Thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa, Như lai không có tâm oán ghét là. Như Lai nói lên không có tâm oán ghét: Điều-đạt gây ra ba tội nghịch gọi là oán ác, nên nay nói Phật không có oán ghét, nên Phật thọ ky cho. Bốn hạng trước đều là nam giới có cả người ác và thiện. Tỳ-kheo-ni và Thiên nữ thứ năm là nói lên hai hàng người nữ u hiển đối với hai hạng người nam thiện và ác ở trước cũng đều được thọ ký.

Tỳ-kheo ni và các Thiên nữ thọ ký cho là: Nói người nữ tại gia và xuất gia tu hạnh Bồ-tát đều chứng quả Phật. Trong kinh Pháp hoa không thấy thiên nữ được thọ ký, chỉ có long nữ, có chỗ cho rằng long nữ là Thiên nữ.

Ý thọ ký cho người nữ: Chỉ dạy cho người chuẩn bị tu hành Bồ-tát đều được thành Phật.

Bồ-tát được thọ ký: Như trong phẩm Thương

Bất Khinh nói phải lễ bài khen ngợi và nói rằng: "Tôi không dám khinh các Ngài, vì các Ngài đều sẽ thành Phật. " Dạy các chúng sinh đều có Phật tánh. Chỉ dạy chúng sinh đều có Phật tánh và đều được thành Phật nên thọ ký cho họ. Thọ ký cho các Thanh Văn trở xuống là giải thích sơ lược về các Thanh Văn được thọ ký hay không, chia làm hai:

1. Nói bốn hạng Thanh Văn được thọ ký, Thanh Văn chia làm bốn:

1. Thanh Văn Quyết định.

2. Thanh Văn tăng thượng mạn.

3. Thanh Văn lui sụt tâm Bồ-đề.

4. Thanh Văn ứng hóa.

Từ thứ hai Thanh Văn v. v... trở xuống là thứ là nói Thanh Văn được thọ ký không được thọ ký văn lại có hai: đầu tiên là y theo phật nói hai thứ Thanh Văn thọ ký, hai thứ không được thọ ký. Trừ được. Bồ-tát được thọ ký v. v... trở xuống là thứ hai nói Bô-tát được thọ ký chung.

Như Lai thọ ký cho hai thứ Thanh Văn là ứng hóa Thanh Văn, thoái tịch rồi lại phát tâm Bồ-đề. Thanh Văn Quyết định tăng trên mạn, có hai: Thứ Thanh Văn căn cơ chưa thuần thục nên Như Lai không thọ ký.

Trong Thọ ký cho Bồ-tát cũng có hai: Câu thứ nhất nói Bồ-tát được thọ ký.

Thọ ký cho Bồ-tát. Từ Bồ-tát được thọ ký rồi v. v... trở xuống là thứ hai. Giải thích nghi. Bồ-tát thọ ký là dùng phương tiện khiến họ phát tâm Bồđề. Nghi rằng: "các Thanh Văn tăng trên mạn Phật không thọ ký, Bồ-tát Bất khinh thọ ký có ở cả hạng người thứ hai. " Giải thích: "Phật y theo căn cơ đã thành thục hay chưa thành thục, nên thọ ký hay không thọ ký. Bồ-tát có hai nghĩa, đó là ly do được thọ ký:

a. Như ở trước nói Bồ-tát có Phật tánh nên được thọ ký.

b. Vì phương tiện khiến họ phát tâm Bồ-đề, nên được thọ ký.

Nếu vậy vì sao Phật không y theo hai nghĩa này mà thọ ký có ở cả bốn hạng người này?

Vì Bồ-tát so với nghĩa Phật cũng được, lại nương vào nghĩa v. v... trở xuống là thứ năm gọi là về Ba thừa văn, nói nghĩa Nhất thừa có hai: Hỏi và đáp. Nương vào nghĩa gì mà Như lai nói Ba thừa gọi là Nhất thừa.

Hỏi:

Theo ý nói: "Hỏi Phật nương vào đâu mà nói

Ba thừa gọi là Nhất thừa?"

-Nương vào nghĩa đồng. Đáp: có hai

1. Y theo lời dạy hôm nay nên nói nghĩa đồng và Ba thừa là Nhất thừa.

2. Theo nghĩa xưa nói khác nên có Ba thừa.

Nương vào nghĩa xưa nói Ba thừa gọi là Nhất thừa, có hai:

1. Nêu đồng nghĩa, nương vào đồng nghĩa nên thọ ký cho các Thanh Văn được Đại Bồ-đề, đồng nghĩa giải thích ở sau. Nêu ra Pháp thân bình đẳng nên giải thích đồng.

2. Nói đồng là vì Pháp thân Như lai và pháp thân Thanh Văn đồng với kia, ở đây đều bình đẳng không khác. Vì Ba thừa đồng có pháp thân bình đẳng nên Ba thừa đồng gọi là Nhất thừa. Vì các Thanh văn v. v.. trở xuống: là thứ hai nói y.

Theo giáo xưa có Ba thừa khác nhau: vì các Thanh Văn và Bích-chi-phật và thừa khác nhau nên có khác nhau, vì Hai thừa kia chẳng phải Đại thừa, vì giáo xưa chưa nói Ba thừa pháp thân bình đẳng với Đại thừa. Như lai nói không lìa thân này là nghĩa Vô thượng. Trên đây phá mười bệnh và nói về mười cách đối trị, từ đây về sau nói về mười thứ Vô thượng. Ý Vô thượng văn có hai: thứ nhất là nói chung

Hai là: Nói riêng mười Vô thượng không phần đầu lại có hai: thứ nhất là yêu nghĩa vô thượng chỉ phật mới có, hai là nói thuyết y vô thượng thuyết ý Vô thượng.

Như lai nói không lìa thân này là nghĩa Vô thượng. Như lai nói không lìa thân này là nghĩa Vô thượng. Phật là bậc cao tột trong tất cả mọi người, nên nói chỉ có Phật là Vô thượng. Nhưng nói không lìa thân này, là không lìa pháp thân là Vô thượng. Vì sao ở đây Như lai nói điều này chợt?

-Vì nghĩa đồng và không đồng ở trên mà sinh ra. Nay nói người Ba thừa đồng có pháp thân, xưa nói Ba thừa pháp thân không có, vì lời này nên nói đồng có pháp thân là Vô thượng. Nếu trong môn trước không nói đồng có pháp thân thì không nói Vô thượng. Tất cả Thanh Văn v. v... trở xuống là thứ hai. Nói thuyết Vô thượng không thuyết nghĩa Vô thượng, đầu tiên nói trong pháp Hai thừa không nói nghĩa Vô thượng.

Trong pháp của Hai thừa Thanh Văn, Bích-chiphật, không nói nghĩa này, vì họ không hiểu đúng, như thật vì hai thừa không hiểu cho nên nghĩa này sẽ v. v... trở xuống: là nói. Trong pháp Bồ-tát là Vô thượng.

Vì nghĩa này nên các Bồ-tát v. v... thực hành hạnh Bồ-tát không phải hành suông, vì Bồ-tát hiểu đúng, hành được không phải luống dối. Điều này đồng với luận Nhiếp Đại thừa mười tướng cao siêu của và. Vô đẳng Thánh giáo.

Nghĩa vô thượng là thứ hai: Giải thích riêng mười thứ Vô thượng, văn lại có hai:

1. Nêu chung mười thứ.

2. Giải thích riêng mười thứ.

Trong nêu chung, một câu đầu la nhắc lại nghĩa

Vô thượng. Nghĩa Vô thượng, còn lại là Tu-đa-la v. v... trở xuống là.

Nói về xuất xứ kinh Vô thượng vẫn khuyên chúng sinh nên biết. Còn lại là Tu-đa-la nói về nghĩa Vô thượng. Nghĩa Vô thượng có mười thứ nên biết, cũng như Nhiếp Luận, nên biết là tướng cao siêu. v. v...

a. Nói về Hạt giống vô thượng.

b. Giải thích thành mười thứ bậc. Hạt giống Vô thượng chia làm ba:

Nêu chương: nói về Hạt giống Vô thượng. Hạt giống Vô thượng là tâm Bồ-đề. Kinh Hoa Nghiêm chép: "Tâm Bồ-đề là Hạt giống của Chư Phật mười phương ba đời. Chư Phật ba đời nhờ tâm Bồ-đề này mà thành Đẳng Chánh Giác. Nói ví dụ như mây mưa v. v... trở xuống là thứ hai nói về xuất xứ kinh: Nói ví dụ mây mưa. Mây mưa là pháp có công năng sinh ra Hạt giống, nên nên năng sinh để nói về sở sinh. Hơn nữa mây mưa v. v... là nói Hạt giống Vô thượng.

Việc các thầy làm là đạo Bồ-tát. Là thứ ba giải thích kinh. sở hành của các thầy là đạo Bồ-tát: là phát tâm Bồ-đề rồi thoái tâm, sau đó phát lại. Đã tu, gốc lành lúc trước không mất, đồng với, sau chứng quả. Đầu tiên nhắc lại

Kinh, là phát tâm Bồ-đề, thoái tâm, sau đó phát lại. Là nói Thanh Văn có ba: thời

1. Quá khứ đã phát tâm Bồ-đề.

2. Giữa chừng lui sụt tâm Bồ-đề.

3. Nghe kinh Pháp Hoa phát tâm Bồ-đề trở lại.

Nay lại nhận tâm Bồ-đề làm Hạt giống Vô thượng, nên dùng văn này để giải thích Đã tu hành, gốc lành không mất, đồng thời sau đó chứng quả. Quá khứ phát tâm Bồ-đề thực hành hạnh Bồ-tát, giũa chừng tuy lui sụt tâm Bồ-đề nhưng Hạt giống không mất. Như luận Nhiếp Đại thừa chép: "Hạt giống này đều gá vào-lê-đa đồng với sau đồng với được được quả. " Ban đầu phát tâm Bồ-đề, sau lại phát tâm Bồ-đề được thành quả Phật.

Nói về hạnh Vô thượng là hai: Giải thích thứ trước giải thích kế là nói xuất xứ kinh:.

Nói về tu hành Vô thượng:

1. Phát tâm Bồ-đề.

2. Khiến tu hành hạnh Bồ-tát, hạnh Bồ-tát so với hạnh bốn thừa thì hạnh Bồ-tát là trên hết, nên nói hạnh vô kế là.

Xuất xứ kinh: Nói về bản sự của Đức Như lai Đại Thông Trí Thắng, ba căn Thanh Văn và mười sáu vị Sa-di, đối với Phật Đại Thông Trí Thắng thực hành hạnh Phật.

Trình bày năng lực thêm lớn vô là giải thích thứ ba. Vì trình bày năng lực thêm lớn Vô thượng nên nói ví dụ người dẫn đầu; vì thực hành hạnh Bồ-tát nên hạnh Bồ-tát được thêm lớn, vì thế mà nói sức thêm lớn Vô thượng và nói ví dụ thương chủ. Đoàn buôn là người dẫn đường trong phẩm Hóa Thành. Kinh lấy sự hướng dẫn người làm chính nên ví dụ Đạo sư. Luận để được dưới châu vô giá nên dẫn ví dụ như vì muốn nói lên giúp cho họ hiểu Vô thượng nên nói ví dụ buộc dưới châu trong chéo áo.

Muốn nói cho họ hiểu được nghĩa Vô thượng, nên gần gũi để chỉ dưới châu trong chéo áo cho họ. Thấy Dưới châu giải chéo áo là tâm Bồ-đề, hiểu được tâm Bồ-đề là hiểu được Vô thượng trong ngộ nên gọi là hiểu được Vô thượng.

Hỏi: Làm sao giúp chúng sinh hiểu được Vô thượng?

Đáp: Khi xưa, mười sáu vị Sa-di nói kinh Pháp Hoa giúp cho ba căn tánh hiểu được nghĩa Vô thượng, nên phát tâm Bồ-đề, giúp cho họ hiểu được Vô thượng.

Nói lên cõi nước thanh tịnh Vô thượng. Bốn thứ trước là nói nhân Vô thượng, dưới đây là nói về quả Vô thượng.

Hỏi: Bốn thứ trên nói nhân nhân của Đức Thích-ca, hay là nhân giáo hóa chúng sinh?

Đáp: Nói chung cả hai thứ, còn nói riêng là nhân của Đức Thích-ca. Vì Đức Thích-ca từ khi mới phát tâm là Hạt giống Vô thượng thứ nhất, phát tâm Bồ-đề là tin Đức Phật Đại Thông Trí Thắng đã tu hành được, nên có hạnh Vô thượng thứ hai. Vì hạnh lớn mạnh có năng lực dắt dẫn chúng sinh, nên gọi là năng lực thêm lớn Vô thượng, vì vậy mà biết đời quá khứ đã có được châu báu, nên có khả năng giúp cho chúng sinh hiểu được nghĩa Vô thượng.

Hỏi: Đã nói khiến chúng sinh được hiểu Vô thượng gọi là người hiểu Vô thượng. Cũng giúp cho chúng sinh tu hành thêm lớn, nên nói là năng lực thêm lớn Vô thượng chăng?

Đáp: Cũng có thể như vậy.

Hỏi: Làm sao biết được sự thành tựu của Phật Thích-ca mà giải thích mười thứ Vô thượng?

Đáp: Trong phần đầu nêu chung là không lìa thân này mà có nghĩa Vô thượng, nên mười thứ Vô thượng trước là nói Đức Phật Thích-ca từ khi phát tâm cho đến thành Phật, tất cả mọi việc đều đầy đủ. Đức Thích-ca đã như vậy, nên nay nói mười việc này để cho chúng sinh đều được mười điều như Ngài, Nhiếp luận nói có cảnh vô đẳng, hạnh vô đẳng, quả vô đẳng. Nay mười thứ Vô thượng, kinh này nói hạnh vô đẳng, quả vô đẳng, cảnh uẩn đều ở trong đó.

Nói lên cõi thanh tịnh Vô thượng là giải thích thứ năm. Từ đây là nói về quả Vô thượng, Hỏi Làm sao biết bốn thứ trước là nhân?

Đáp: Hạt giống và hiện hành là nhân, nên biết "buộc châu trong chéo áo" là việc ở đời quá khứ mà cũng là nhân, thì buộc châu là buôn.

Buộc châu đã là nhân thì buôn cũng là nhân. Do đó, hệ châu và buôn là một người, nên hai nghĩa đều nói điều này. Có khả năng dắt dẫn chúng sinh thành Phật, nên gọi là Thương chủ. Giúp cho không mất tâm Bồ-đề, nên gọi là "hệ châu". Nói về cõi tịnh điều quan trọng là phải có cõi trước, sau đó Phật mới xuất hiện, nên phải nói cõi tịnh trước. Nói lên cõi nước thanh tịnh Vô thượng nên mới nói lên tháp Như lai Đa Bảo. Như trong phẩm Tháp mỗi phương có bốn trăm muôn ức na-do-tha cõi nước hợp thành một cõi, là trong tất cả cõi, cõi Vô thượng Tịnh độ là hơn hết.

Nói lên nói Vô thượng, nên nói trong mở túi tóc là thí dụ hạt ngọc. Kế là nói lên nói Vô thượng để ban hạt ngọc quý trên đỉnh cho chúng sinh, là nói đại tuệ bình đẳng, nghĩa là trong tất cả thì "thuyết Vô thượng", là hơn hết. Đã có cõi nước thanh tịnh thì phải có cõi giáo môn, rồi mới nói về thuyết Vô thượng để giáo hóa chúng sinh được Vô thượng.

Nói lên giáo hóa chúng sinh Vô thượng, nên từ đất vọt lên vô lượng vị Đại Bồ-tát. Đã có giáo môn thì phải có quyến thuộc, sau đó nói giáo môn hóa độ chúng sinh Vô thượng, do đó giáo hóa ngàn thế giới Bồ-tát như số bụi cát, ba mươi hai tướng đều đầy đủ. Số nhiều đức chưa nhóm, tất cả giáo hóa cùng tột, chúng sinh Vô thượng là quả quyến thuộc.

Nói lên Bồ-đề Vô thượng. Đã có sở giáo hóa thì phải có năng giáo hóa rồi mới biết được quả Bồđề, có Ba thừa Bồ-đề của, Phật Bồ-đề, thì trong hai Bồ-đề Vô thượng là trên hết nên gọi là Vô thượng.

Trong của Phật Bồ-đề có năm:

a. Phát tâm Bồ-đề.

b. Hàng phục tâm Bồ-đề.

c. Nói về tâm Bồ-đề.

d. Bồ-đề. xuất đắc 5. Vô thượng Bồ-đề.

Nay nói Bồ-đề thứ năm nên gọi là Vô thượng Bồ-đề, văn này giải thích Vô thượng Bồ-đề trong phẩm Thọ Lượng, có hai:

1. Giải thích ba thứ Bồ-đề.

2. Giải thích ba câu như bản hành đạo của Bồtát v. v...

Hợp chung lại sáu câu văn kinh. Giải thích Ba Bồ-đề là ba:

1. Giải thích hóa thân Bồ-đề.

2. Giải thích báo thân Bồ-đề.

3. Giải thích pháp thân Bồ-đề. Nhưng tu hạnh thứ lớp nói về Pháp thân trước. Pháp thân là tự tánh trụ Phật tánh. Căn bản có Phật tánh, nên trước nói pháp thân vì có Phật tánh, hạnh nhân đầy đủ. Phật tánh hiển hiện nên gọi là Báo thân Bồ-đề. Đức mình đầy đủ, sau đó nói giáo hóa độ chúng sinh nên có hóa thân Bồ-đề. Nay nói thuyết môn kế là tám tướng thành đạo của Phật Thích-ca nói lên thành Phật ở thành già da. Nên biết Hóa thân Bồ-đề, hóa thân này từ Báo thân mà có. Kế là nói Báo thân Bồ-đề, Báo thân do pháp thân mà có. Kế là nói pháp Phật Bồ-đề, có hai:

1. Nêu Bồ-đề Vô thượng và nói chung ba thứ Bồ-đề. Dưới đây, nói riêng ba thứ Bồ-đề, là thành ba thứ riêng. Trong mỗi thứ này có hai:

1. Giải thích.

2. Dẫn kinh.

Trong giải thích lại có hai:

1. Nêu ứng hóa. Ứng hóa Phật Bồ-đề, tùy theo sự thích ứng giải thích ở sau. Giải thích chung về Ứng hóa, tùy theo sự thích ứng thấy mà nói lên, hơi khác với Nhiếp luận ba Phật của. Nhiếp luận chia Ứng hóa thành hai, nay Ứng hóa hợp thành một, vì sao? Vì Nhiếp luận nói thân Ứng hóa tương ưng với chân như. Là luận này nói Báo thân, Hóa thân là tám tướng thành đạo, nên chia Ứng hóa thành hai môn. Nay ở đây nói đức mình là Báo thân, nghĩa của Hóa thân là Ứng hóa thân. Hơn nữa, Nhiếp luận và kinh đồng một thể tánh. Trong cõi Tịnh hóa thân của các Bồ-tát gọi là Ứng thân.

Nay ở đây hợp cõi tịnh, cõi uế đều thuộc hóa tha gọi chung là Ứng hóa thân. Luận chép: báo thân thường trụ tùy theo sự thích mà ứng thấy nhưng nói lên gọi là hóa thân. Như kinh đều nói Như lai ra khỏi cung họ Thích cách thành Già-da không xa, ngồi dưới đạo tràng được Vô thượng Bồ-đề, là dẫn kinh dễ hiểu.

Báo thân Bồ-đề cũng có hai: Giải thích và dẫn kinh.

Báo thân Phật Bồ-đề, Thập địa hạnh tròn đầy, chứng được Niết-bàn, nên Nhiếp luận nói là Ứng thân. Nay nói Báo thân tương ưng với chân như nên gọi là Ứng thân. Hạnh và Nhân đã được là báo của mình, là nghĩa nhân nên nghĩa không trái với. Luận mỗi trong pháp đều nêu ra một nhưng không trái nhau. Chứng được vô thường thì Phật tánh hiển bày, nên gọi là báo. Phật tánh là thường nên báo thân cũng thường. Báo thân đã thường hiển hiện thì, Hóa thân là vô thường.

Kinh chép, này người thiện nam! Ta thật thành Phật từ xưa đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp, là dẫn kinh dễ hiểu. Pháp Phật Bồ-đề có ba:

1. Giải thích sơ lược.

2. Dẫn kinh.

3. Giải thích kinh.

Pháp Phật Bồ-đề, là Như lai tạng, tánh thanh tịnh Niết-bàn, thường hằng thanh tịnh không thay đổi.

Nêu pháp Phật Bồ-đề, pháp là pháp tánh thanh tịnh Niết-bàn, chân nghĩa như là thể nhu có giác, nên gọi là Phật, đạt đến nhiệm mầu thông suốt gọi là Đạo, đạo là Bồ-đề, nghĩa là Như Lai tạng tánh tinh Niết-bàn, vượt khỏi thể Bồ-đề Phật pháp, kinh và luận khác nhau. Kinh chép: "Sâu kín là Như lai tạng, hiển bày gọi là Pháp thân. Luận này cho Như lai tạng là Pháp thân, hiển bày gọi là Báo thân. "

Tánh thanh tịnh Niết-bàn: Niết-bàn có hai thứ: Tánh tịnh và phương tiện tịnh. Bản tánh thanh tịnh gọi là tánh tịnh. Tu phương tiện, dứt được phiền não, được thanh tịnh gọi là phương tiện tịnh. Nay dùng tánh tịnh Niết-bàn này làm Bồ-đề Phật pháp. Phương tiện tịnh thuộc báo Phật, hai thứ thanh tịnh là Nhiếp luận hữu cấu chân như, trong vô cấu chân như. Thường hằng tánh tinh không thay đổi: vượt khỏi thể Niết-bàn thanh tịnh. Niết-bàn tánh thanh tịnh này, thể là thường trụ nên nói là thường hằng. Nhiếp luận chép: "Thanh là tịnh, lương là an lạc. Hai đức tịnh lạc này gọi là Thanh lương. Lại nói thanh là hữu dư, lương là vô dư. Nên dùng ý trước để giải thích văn này. Không thay đổi như giải thích trên trên. Như kinh trở xuống là thứ hai, nói về xuất xứ kinh.

Như kinh chép: Như lai thấy biết tướng ba cõi như thật, cho đến thấy ba cõi không như thật đều ở trong ba cõi. Như lai thấy biết như thật cho đến thấy ba cõi không như thật, đều ở trong ba cõi để giải thích văn Bồ-đề Phật pháp này, nên nói tướng ba cõi.

Giải thích kinh: Giải thích năm câu văn kinh thành năm đoạn, trong mỗi đoạn có hai: đầu tiên nhắc lại kinh, kế là giải thích.

Tướng ba cõi: Nhắc lại kinh câu đầu, là thế giới chúng sinh là thế giới Niết-bàn.

Giải thích kinh: Thế giới chúng sinh là thế giới Niết-bàn, không lìa thế giới chúng sinh mà được Như lai tạng, nên thế giới chúng sinh xưa nay dứt bốn thứ, là thế giới Niết-bàn, không lìa thế giới chúng sinh mà có Như Lai tạng. Trên đưa ra chữ "Tức", nay đưa ra chữ "bất ly" để giải thích chữ "tức ở" trên. Không có sinh tử hoặc lui sụt, hoặc xuất là. Giải thích câu thứ hai. Đầu tiên là nhắc lại. Không có sinh tử hoặc thoái, hoặc xuất, là Như lai thường hằng không thay đổi.

Giải thích kinh: Nghĩa là thường hằng không thay đổi, vì Như lai tạng thường hằng không thay đổi, không có sinh tử hoặc thoái, hoặc xuất, cũng không có ở đời và diệt độ.

Giải thích câu ba: đầu tiên là nhắc lại kinh: Nghĩa là thể của Như lai tạng chân như. Là thứ ba giải thích kinh.

Cũng không có ở đời và diệt độ, là giải thích kinh có hai:

1. Nhắc lại thể Như lai tạng, là thể chân như của Như lai tạng, không tức thế giới chúng sinh, không lìa thế giới chúng sinh. là

Giải thích văn kinh ở trên: Vì không tức thế giới chúng sinh lìa không thế giới chúng sinh. Không có thế thế giới chúng sinh là giải thích không có ở đời. Không lìa chúng sinh giới là giải thích không ở đời và diệt độ, cũng nói rằng Như lai tạng không ở tại thế gian, nên không tức thế giới chúng sinh. Như lai tạng không có diệt độ không lìa chúng sinh thế giới, nên kinh luận giải thích khác nhau. Lại, đối với lý không phải buổi đầu hai, nên không lìa thế giới chúng sinh. Đối với duyên không phải buổi đầu một, nên không phải thế giới chúng sinh, cũng là sáu đường pháp thân thường hằng, nên không lìa Pháp thân. Đối với duyên thành tựu sáu đường cho nên không phải tức, chẳng thật, chẳng hư, chẳng như, chẳng khác là: Giải thích bốn câu: đầu tiên là nhắc lại Không thật, không hư, không như, không khác, là lìa bốn tướng. Là thứ hai giải thích kinh. là lìa bốn tướng có bốn tướng: là vô thường. nói bốn tướng là

Hỏi: Nương vào văn này cho rằng thật, hư, như, dị là bốn. Bốn thứ này vì sao vô thường đáp?-Vì bốn thứ này đều là danh ngôn, nên vô thường. Pháp thân dứt danh ngôn nên Thường trụ. Theo luận Phật tánh nói có bốn tướng:

1. Tướng duyên.

2. Tướng nhân.

3. Tướng sinh.

4. Tướng hoại.

Tướng duyên là phiền não vô minh, là phương tiện sinh tử. Tướng nhân là nghiệp vô lậu, là nhân duyên sinh tử. Tướng sinh là hữu hữu sinh tử. Tướng hoại là hữu vô sinh tử. Lìa bốn tướng này thì không còn bốn tướng sinh tử, nên Pháp thân thường trụ.

Không như ba cõi mà thấy ba cõi là giải thích câu năm, đầu tiên là nhắc lại kinh: Không như ba cõi mà thấy ba cõi. Như lai thấy được v. v... trở xuống là thứ hai giải thích kinh: Như lai có khả năng thấy và chứng pháp thân chân như, không phải như phàm phu thấy, nên kinh nói Như lai thấy rõ ràng. Câu thứ ba này, dùng suốt một kinh để chứng minh câu thứ năm. Cho Nên kinh nói Như lai thấy rõ không sai. Xưa Ta khi hành đạo Bồ-tát nay vẫn chưa hoàn mãn. Đây giải thích Tam Phật Bồ-đề xong. Dưới đây là giải thích câu thứ ba, nên thành ba thứ khác nhau. Giải thích kinh hành đạo Bồ-tát tròn đầy bản nguyện, vì được Tam Phật Bồđề phải đầy đủ bản nguyện. đầu tiên là nhắc lại kinh

Khi xưa ta hành đạo Bồ-tát nay vẫn chưa đầy đủ, vì bản nguyện chưa đầy đủ. Bản đối với thế giới chúng sinh chưa xong. Nguyện chưa được tròn đầy, nên nói chưa hoàn mãn, không phải nói Bồđề đầy đủ. Vì khi Bồ-tát nguyện độ hết chúng sinh trong pháp giới, nay tùy thành Phật mà chúng sinh chưa hết, nên nguyện chưa mãn, chẳng phải Bồ-đề chưa được đầy đủ. Luận chủ sợ người nghiên cứu kinh nghe nói hành đạo Bồ-tát bản nguyện chưa tròn đầy, nói là Bồ-tát chưa tròn đầy, nên giải thích sơ điều này là nguyện chưa tròn đầy, không phải Bồ-đề chưa tròn đầy. Đã thành tựu được tròn đầy lại thêm số lượng ở trên. Trước là nhắc lại kinh. Văn kinh: Đã thành tựu tuổi thọ lại gấp bội số trên. Văn này thọ nói tuổi của Như lai là thường hằng. thứ hai là

Giải thích kinh, văn chia làm hai: Nêu tuổi thọ thường hằng để giải thích kinh. Phương tiện khéo léo để nói lên số nhiều.

Giải thích tuổi thọ thường hằng ở trên: văn nầy nói lên tuổi thọ Như lai là thường hằng, ở trên nói bốn số:

1. Thế giới không thể biết.

2. Thế giới nhiều như bụi cát không thể biết được.

3. Kiếp số như cát bụi không biết

4. Nói tuổi thọ của Phật, lại vượt qua ba số trên không thể biết.

Nay số thứ năm này lại hơn số thứ tư, thì số tuổi thọ không thể biết, nên nói là thường. Phương tiện khéo léo là khen Như lai có phương tiện khéo léo.

Phương tiện khéo léo là nói số nhiều là hơn số lượng trên, không thể biết được số lượng. Có khả năng tạo ra số nhiều như vậy hơn cả số lượng không thể biết được. Vì nói về tuổi thọ, số lượng không thể biết được, nên gọi là Thường. Khi xưa, Pháp Sư Tăng Duệ nói về kinh Pháp Hoa do Lathập dịch rằng: Đa Bảo chiếu khắp không diệt mất, tuổi thọ dưới định không có số lượng", lúc đó luận chưa xuất hiện, nhưng nói ý này đều hợp với luận. Ngài La-thập khi tịch, thiêu lưỡi không cháy, mới biết rằng sự phiên dịch của Ngài hợp ý kinh.

Hỏi: Thế nào là tuổi thọ của Như lai thường hằng không cùng tận?

Đáp: gồm có năm ý:

a. Vì tròn đầy bản nguyện, tuổi thọ của Phật nếu vô thường thì không thường độ chúng sinh, là bản nguyện không tròn đầy, vì Phật thường trụ, nên thường độ chúng sinh, được bản nguyện tròn đầy.

b. Phá chấp cho người Tiểu thừa. Nếu Phật vô thường nguội thân bặt, trí không còn độ sinh, thì trái với thệ nguyện của Phật. Là nói nghĩa nhân quả: Khi Ngài mới phát tâm nguyện thành Phật độ tất cả chúng sinh. Mới phát tâm nguyện là nhân, nay được thành Phật thường trụ độ khắp tất cả là quả, nên nghĩa nhân quả được thành tựu. Nếu theo Tiểu thừa Phật có nhân không quả, thì mới phát tâm nguyện độ là nhân, được thành Phật muốn người đạt Niết-bàn thì có nhân không quả. Nhưng không nhân quả cũng không được.

Nếu Phật vô thường thì diệt với Niết-bàn Hai thừa. Người Hai thừa không bỏ tiểu cầu Đại ưa quả mà thực hành nhân, nay muốn cho chúng sinh ưa mến quả, thực hành nhân, bỏ tiểu cầu đại, nên nói tuổi thọ của Phật thường hằng. Khi xưa, ở Giang Nam phương Bắc, năm Tông, bốn thời, dụng lại thêm lời nói số trên, dùng Pháp Hoa để chứng minh Phật vô thường. Nay luận chính là dụng câu này, để nói lên Phật là thường, nên phàm phu nói người phần nhiều ngu si, bác bỏ tội lỗi. Khi không nói nên khó giải thích điều này. Cõi thanh tịnh của ta không hủy các kiến giải đều tiêu. hết

Kinh giải thích câu ba, dưới đây là giải thích quả, nay một câu này kế là giải thích theo quả. đầu tiên nhắc lại kinh.

Văn kinh: Cõi ta thanh tịnh không hủy hoại, các kiến giải đều tiêu hết, báo thân Như lai v. v... trở xuống là giải thích kinh: tức là nêu người để giải thích cõi nước.

Cõi nước thanh tịnh Báo thân Như Lai chân thật thuộc về nghĩa đế bậc nhất. Báo Phật thường như giải thích ở trước. Nên biết cõi Báo thân Phật cũng thường hằng, vì thường hằng nên không thể tiêu diệt Hỏi: đã là. Cõi nước thường hằng tại sao các tầng trời đánh trống rải hoa?

Đáp: Đối với cõi thường hằng không có tác dụng ngăn ngại, nên có việc này. Nói lên Niết-bàn Vô thượng. Trước nhắc lại chương, nên nói ví dụ thầy thuốc v. v... trở xuống là thứ hai nói xuất xứ của kinh. Thứ hai là nói xuất xứ kinh.

Nói lên Niết-bàn Vô thượng: Tiểu thừa nguội thân, bặt trí thật nhập vô dư, đây là có Niết-bàn thật ở trên. Nay vì cuồng tử phương tiện nói diệt ba đức Niết-bàn, chẳng phải diệt hẳn, nên là Vô thượng.

Ở trên Giải thích Vô thượng Bồ-đề là nghĩa quả. Nay giải thích Niết-bàn Vô thượng là quả nghĩa, đồng nghĩa với kinh Niết-bàn. Nhưng xưa tạo vô thường để che lấp tướng thường để giải thích kinh Pháp Hoa nên nói ví dụ thầy thuốc.

Hỏi: Ví dụ thầy thuốc là văn xuôi, văn này ở trước. Cõi thanh tịnh của ta không hủy hoại là kệ, văn này ở sau. Vì sao luận chủ giải thích lại văn này.

Đáp: Luận chủ lấy Tam-bồ-đề ở trước làm chánh quả. Cõi tịnh là nương quả, hai điều này đều nói nghĩa thường, nên đều thuộc về Vô thượng Bồđề, nên giải thích chung một chỗ. Niết-bàn Vô thượng là nói quả quả nghĩa, nên giải thích ở sau.

Nói lên năng lực Vô thượng, là giải thích mười

Vô thượng thứ văn có ba:

a. Nêu chung xuất xứ kinh.

b. Nói lại nghĩa Vô thượng của cõi tháp Đa Bảo. Tông này giải thích lại năng lực Vô thượng, trước là nêu tên. văn đầu lại có hai

Nói lên năng lực Vô thượng nhiệm mầu: nói năng lực mầu nhiệm vô thượng là: Cùng khen ngợi kinh Pháp Hoa có công dụng khéo léo, nên gọi là năng lực, còn gọi là Tu-đa-la. là

Nói về xuất xứ kinh.

Còn lại Tu-đa-la là nói về thị hiện nên biết, là từ phẩm Phân Biệt Công Đức về sau là một kinh. Tháp Như lai Đa Bảo v. v.. trở xuống là thứ hai. Luận giải thích lại mười thứ Vô thượng ở trước. Nói lên cõi nước thanh tịnh Vô thượng, giải thích phẩm tháp Hiện Bảo.

Hỏi: Tại sao không giải thích Vô thượng thứ năm ở trước, đến đây mới giải thích?

Đáp: Trên đây là giải thích số môn này, nay muốn nói có những điều còn nghi ở trước chưa rõ, nên luận giải thích lại điều này, có hai:

1. Nói chung tám thứ.

2. Giải thích riêng.

-Nói chung lại có hai:

1- Nói chung về cõi tịnh.

2- Nói riêng tám thứ.

Tháp Như Lai Đa Bảo hiển bày tất cả cõi Phật thanh tịnh, nói lên cảnh giới thật tướng của chư Phật, các thứ báu xen lẫn trang nghiêm. Tháp Như lai Đa Bảo: cầu này là nhắc lại tháp Như lai Đa Bảo. Hiển bày tất cả cõi Phật thanh tịnh là muốn nói mở cửa thánh hiện tất cả cõi thanh tịnh, chẳng phải chỉ có cõi Phật Thích-ca, nên nói hiển bày cõi Phật thanh tịnh.

Nói lên trong cảnh giới thật tướng của Chư Phật: vượt ra cõi thanh tịnh. Nói lên có tám thứ v. v... trở xuống. Cõi tịnh là gồm nhiếp hết tất cả tám điều, trong cõi tịnh nói riêng tám điều. Gồm có tám thứ:

1. Tháp.

2. Lượng.

3. Lược.

4. Trụ trì.

5. Nói lên vô lượng cõi Phật.

6. Lìa uế.

7. Đa Bảo.

8. Đồng ngồi trong một tháp.

Tháp trở xuống là thứ hai giải thích riêng tám việc thành tám thứ khác nhau, trong mỗi điều đều nêu chương, giải thích kế là.

Tháp là nói lên xá-lợi Như lai trụ trì.

Nói lên xá-lợi Như lai trụ trì, do đó mà xây tháp. Vì muốn giữ gìn xá-lợi làm lợi ích cho chúng sinh.

Lượng là giải thích thứ hai, đầu tiên nhắc lại chương. Lượng có hai nghĩa:

1. Quả hình lượng, cõi nghĩa là mỗi phương có bốn trăm muôn ức na-do-tha hỉnh lượng. Quả cõi.

2. Nhân lượng, là gốc lành vô lậu sinh, chẳng phải gốc lành hữu lậu sinh.

Nói lên phương tiện v. v... trở xuống giải thích lại hai lượng trên đầu tiên là. Giải thích quả lượng. Nói lên phương tiện cõi nước trang nghiêm thanh tịnh. Của tất cả phật là Xuất thế gian v. v... trở xuống là giải thích nhân lượng.

Xuất thế gian thanh tịnh từ gốc lành vô lậu sinh, chẳng phải từ gốc lành hữu lậu sinh. Lược là giải thích thứ ba, đầu tiên là nhắc lại.

1. Lược là kế giải thích.

Thân Như lai Đa Bảo một thể, nói lên thâu nhiếp tất cả pháp thân chân thật của chư Phật. Đây là một thân Phật Đa Bảo phân ra nhiều thân, vì pháp thân không hai nên Phật Đa Bảo chỉ có một. Vì hóa dụng chẳng phải một, nên phân thân thành nhiều, cũng là giải thích nghi, nên giải thích nghi. Vì sao chỉ có một tháp Đa Bảo chứ không có nhiều tháp hiện lên.

Nên giải thích rằng: "Đa Bảo là pháp thân, Chư Phật mười phương đồng một pháp thân chân như, nên pháp thân Đa Bảo thuộc pháp thân tất cả Chư Phật, nên chỉ có một. "

Hỏi: Đa Bảo là pháp thân, hay biểu hiện cho pháp thân? Đáp: Theo các sư như Quang Trạch v. v... nói: "Đa Bảo là xá-lợi của nhà của hóa thân, chẳng thuộc ba thân, cũng thuộc về Phật bảo. " Nay nói bốn ý:

1. Nói Theo dấu vết thì là xá-lợi Phật. Trong tám nghĩa, nghĩa đầu nói là tháp. là Như Lai nói lên xá-lợi trụ trì. Của Đa Bảo biểu thị cho pháp thân. Như ngài Tăng Duệ nói: "Nói Đa Bảo là thường hằng. " Nương vào thân Phật Đa Bảo để nói lên pháp thân bất diệt, ngài Thiên Thân giải thích trong ba thứ bình đẳng, nói thân Phật Đa Bảo là pháp thân. Thân Đa Bảo này nhập Niết-bàn, đây là nhập vào Ba đức Niết-bàn. Ba đức Niết-bàn là pháp thân. Lại trong tám nghĩa, nghĩa thứ ba, một là nghĩa thể thân Như lai Đa Bảo thuộc tất cả pháp thân của Chư Phật, nên biết là pháp thân. Phật Đa Bảo tuy nhập Niết-bàn, nhưng thường ở thế gian, nên thế gian và Niết-bàn không hai. Chẳng phải thế gian, chẳng phải Niết-bàn, lời quên dứt nghĩ cho nên, Trung luận chép: "Mé thật sinh tử và mé Niếtbàn, hai mé như vậy không khác nhau mảy may là. " Giải thích thứ tư Trụ trì là nói lên pháp thân Như lai, Chư Phật thân lực tự tại. Trung giải thích pháp thân của Chư Phật tự tại thân lực: Ở đây giải thích Đa Bảo xuất hiện ở các thế giới mười phương và phát tâm nghe những điều khen Phật, pháp thân trùm khắp tất cả mọi nơi, có thể ở trong tất cả các nơi có công đức này, trụ trì Phật pháp nên gọi là Trụ trì.

Thị hiện vô lượng Phật là giải thích thứ năm.

Nói lên vô lượng Phật: Nói lên kia đây gây ra các nghiệp không khác nhau. Trung giải thích: "Nói lên kia, đây gây ra các nghiệp giống nhau, ý là giải thích Phật nói lên phân thân mười phương, nên tự cho là kia, thân Đức Thích-ca gọi là đây, cũng được thấy tướng phân thân mười phương tư là kia đây. Mười phương Chư Phật đều muốn hoằng đạo lợi người, nên nói mười phương chư Phật tạo các nghiệp không khác nhau. Lại, Phật phân thân mười phương đồng trụ cõi tịnh, đồng nói nhất thừa, đồng giáo hóa Bồ-tát, là nói lên của các Phật đạo đồng nhau, nên nói tạo nghiệp không khác nhau. Đạo Chư Phật đã đồng, cho việc biết ngày nay Đức Thích-ca cũng đồng với chư phật. Xa lìa uế bất tịnh v. v... trở xuống là giải thích thứ sáu.

Xa lìa uế bất tịnh là trong kinh nói việc dời trời, người và núi biển.

Nói lên tất cả Chư Phật thanh tịnh bình đẳng ý. Nói Đa Bảo là giải thích thứ bảy.

Nói Đa Bảo: tức trong giải thích kinh nói đất bằng lưu ly. Ngồi chung một tháp. Là giải thích thứ tám.

Ngồi chung một tháp: Nói lên hóa Phật, Pháp Phật, Báo Phật v. v... đều làm thành việc lớn Trung giải thích: Nói lên hóa Phật, Báo Phật, Pháp Phật đều làm thành việc lớn. Đại Phẩm chép: "Cứu độ tất cả chúng sinh gọi là việc lớn. " Nay nói Phật Thích-ca, Phật Đa Bảo ngồi chung trong một ngôi tháp đồng một mệnh lệnh giáo hóa chúng sinh, giúp cho tất cả qua lại trong các thế giới mười phương mở mang đạo Nhất thừa và đều thành Phật cho những điều ấy là việc lớn.

Hỏi: Chỉ có Phật Đa Bảo và Đức Thích-ca ngồi chung trong một ngôi tháp phân thân không ngồi chung, tại sao nói ba Phật cùng làm việc lớn?

Đáp: Đức Thích-ca có ba thân. Nói lên thành đạo ở thành Già-da đó là Hóa thân. Từ lâu đã thành Phật, hạnh sở đắc do nhân đó là Phật Báo thân. Có chân nên có Pháp thân, vì thế Đức Thích-ca có ba thân, là ba Phật ngồi chung làm một việc lớn.

Hỏi: Đã biết Đức Phật Thích-ca có ba thân, trong văn chỉ nói Đức Thích-ca và Đa Bảo ngồi chung một tòa, đây là hai Đức Phật, vì sao nói ba Phật cùng làm việc lớn?

Đáp: Phân thân không ngồi chung, nhưng ý Chư Phật đồng thành việc lớn Đức Phật Thích-ca và Phật Đa Bảo phân thân, ba thân này là Phật nào?

Đáp: sắp xếp theo văn thì luận chủ nói: Phật Đa Bảo là Pháp thân.

Đức Thích-ca là Phật Báo thân, phân thân là Phật hóa thân.

Hỏi: Trước nói pháp thân khi ẩn là, Phật Đa Bảo đâu có khi nào ẩn?

Đáp: Luận giải thích hai thứ pháp thân:

1. Khi ẩn gọi là pháp thân thì chẳng phải Phật Đa Bảo.

2. Khi hiển bày gọi là pháp thân, chính là Đa Bảo. Hỏi: Nếu vậy thì có gì khác với Phật Báo thân?

Đáp: Thể một nhưng nghĩa khác, đáp nghĩa nhân là báo bên mình, sở y các pháp chánh y là thân, nên gọi là Pháp thân. Có người nói: "Phật phân thân là Phật Ứng thân, làm sao biết. Nhiếp luận và đồng tánh kinh đều nói là Ứng thân. Ở trong cõi tịnh nói pháp giáo hóa các Bồ-tát. Nay phân thân nói pháp trong cõi tịnh thì biết đó là Ứng thân, Ứng thân là Báo thân. Đức Thích-ca ở trong cõi uế là hóa thân. Nay nói và giải thích như vậy cũng đúng, mỗi thân đều chấp nhận một nghĩa.

Dưới đây là nói về pháp lực, trì lực, tu hành lực. Nên biết Khoa thứ ba nay phân biệt tháp Đa Bảo xong, sau đó giải thích tông, trước nói năng lực vô thượng cao siêu văn có hai:

1. Nêu chung ba năng lực. Khuyên nên biết. Dưới đây nói về pháp lực, trì lực, tu hành lực nên biết. Từ pháp lực đã xong phần giữa. Giải thích riêng ba lực nên thành ba thứ khác nhau. Trong mỗi thứ có hai: Nêu chương và giải thích.

Pháp lực: Pháp là chữ Pháp của Pháp Hoa, có công dụng cao siêu nên gọi là Pháp lực.

Trình bày năm môn: Thứ hai là giải thích xuất xứ kinh, có hai: 1. Nêu chung năm môn.

2. Giải thích riêng, văn đầu chia làm ba: thứ nhất là

-Nêu chung năm môn:

1. Chứng v. v... trở xuống là thứ hai nêu năm môn:

2. Trình bày năm môn.

1. Chứng môn, 2. tín môn.

1. Cúng dường môn.

2. Văn pháp môn.

3. Đọc tụng trì thuyết môn.

Bốn môn nầy trong phẩm Di-lặc. Thứ ba là nói về xứ môn, bốn môn trong phẩm Di-lặc. Nói một môn trong phẩm Thường Tinh Tấn Bồ-tát. Phẩm Di-lặc tức phẩm Phân Biệt Công Đức. Phẩm Thường tinh Tấn là phẩm Pháp Sư Công Đức. Hai phẩm này lấy tên người đặt tên phẩm. Kinh do ngài La-thập dịch là theo pháp gọi tên.

Bốn Môn trong phẩm Di-lặc, thứ hai là giải thích riêng, đầu tiên là nhắc lại có bốn.

1. Chứng môn v. v... trở xuống.

2. Giải thích bốn môn.

Bốn Môn trong phẩm Di-lặc. Môn đầu có hai:

1. Chứng môn: Như kinh v. v... trở xuống.

2. Dẫn kinh nói về xuất xứ có hai văn:

1. Giải thích ban đầu được Nhẫn Vô thượng.

2. Giải thích tám sinh cho đến một sinh được Tam-bồ-đề. Phần đầu lại chia làm hai:

Nhắc lại kinh: Như kinh chép ta nói tuổi thọ của Như lai dài xa sáu trăm tám mươi muôn ức nado-tha Hằng hà sa, chúng sinh được pháp nhẫn Vô sinh. Được pháp nhẫn Vô sinh v. v... trở xuống là thứ hai, giải thích kinh: Nói pháp nhẫn Vô sinh nghĩa là người Sơ Địa chứng trí nên biết. Như luận Trí Độ chép: "Từ Sơ địa vô sinh đến Thất địa vô sinh. Nay trong đây nói Sơ Địa là Vô sinh. Vì người Sơ địa mới chứng được pháp thân chân như Vô sinh nên nói được Vô sinh nhẫn. " Từ tám sinh cho đến nhất sinh v. v... trở xuống là thứ hai, giải thích kinh sau cùng, văn cũng chia làm hai: nhắc lại kinh và giải thích kinh.

Trong nhắc lại kinh có hai:

Nhắc lại tám đời cho đến một thời. Tám đời cho đến một đời, cả hai là nhắc lại được A-nậu Tambồ-đề. Được A-nậu Tam-bồ-đề Đa-la-tam-miệu là chứng được là Bồ-đề của Sơ Địa.

Thứ hai là Giải thích kinh chia làm ba: Giải thích theo địa vị và giải thích tám đời cho đến một đời ba là kinh dữ Dị Nhân Tránh.

Nghĩa là chứng được pháp Bồ-đề của Sơ địa.

Gọi là Bồ-đề Sơ địa. Kinh có hai câu.

1. Tám sinh cho đến nhất sinh.

2. Được Tam-bồ-đề, nay trước bèn gần giải thích đắc Tam-bồ-đề nghĩa là Bồ-đề Sơ địa. Tám đời cho đến một đời, nghĩa là các phàm phu quyết định chứng được Sơ địa, tùy theo khả năng, tùy theo phần mới được tám sinh cho đến nhất sinh chứng được Sơ địa.

Tám đời một đời là nhắc lại câu kinh đầu, nghĩa là từ các phàm phu v. v... trở xuống là. Giải thích kinh nói Bồ-tát Địa Tiền là phàm phu. Nghe kinh Pháp Hoa tùy theo khả năng ngộ sâu cạn, hoặc qua tám đời nhập Sơ Địa. Nói A-nậu-Tam-bồ-đề, là thứ hai Dữ Dị Nhân Tránh..

Nói A-nậu-đa-la-Tam-miệu Tam-bồ-đề vì lìa được sinh tử phần đoạn trong ba cõi tùy theo phần thấy được chân như Phật tánh, gọi là được Bồ-đề, không thể gọi là rốt ráo tròn đầy Niết-bàn phương tiện của Như lai. Người khác chép: Kinh nói trong A-nậu Tam-bồ-đề có năm thứ Bồ-đề. Bồ-đề Vô thượng này chẳng phải Bồ-đề của Sơ địa, Sơ địa nói tâm Bồ-đề. của Vì có điều nghi này nên luận chủ nhắc lại văn kinh Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì Lìa sinh tử phần đoạn trong ba cõi, Luận chủ kinh có giải thích hai câu. Trước nói Bồ-đề Sơ địa, sau nói chẳng phải Vô thượng Bồ-đề vì lìa sinh tử phần đoạn trong ba cõi, nói là có chỗ lìa. Dùng văn này để chứng minh Bồ-tát Địa Tiền còn chịu sinh tử phần đoạn, để xác định các giải thích. Có Luận sư luận Nhiếp nói: "Địa Tiền lìa được phần đoạn, nhưng không dùng văn để chứng minh, lại chứng minh Địa Tiền đều là phàm phu. "

Hỏi: Nhiếp luận chép: "Bồ-tát Thập giải được người vô ngã gọi là bậc Thánh". Luận này nói Địa Tiền là phàm phu, làm sao hiểu được?

Đáp: Theo kinh Nhân Vương, Anh Lạc và, luận này cho Địa Tiền là phục nhẫn, gần giống bậc Thánh, chưa phải Thánh. Tùy phần thấy được chân như Phật tánh. Trên nói sở ly, nay nói sở được, thì ở đây đối với Địa tiền chưa được chân như, chẳng phải Vô thượng. Người Đăng địa mới thấy được chân như, nên gọi là Vô thượng Bồ-đề. Không thể gọi là rốt ráo.

Chẳng phải Vô thượng Bồ-đề: Niết-bàn phương tiện là Niết-bàn thanh tịnh phương tiện. Niết-bàn này rốt ráo, người này chưa được Niết-bàn này, nên chẳng phải quả địa Vô thượng.

Tín môn. Giải thích phát tâm Bồ-đề thứ hai.

Tín môn: Là lên được địa vị Thập tín là Tín môn, như kinh chép v. v... trở xuống là giải thích xuất xứ kinh.

Như kinh chép: lại có tám thế giới chúng sinh như số cát bụi đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Hỏi: Trong đây lợi ích có thứ lớp gì? Đáp: Trong đây nói ba lợi ích:

3. Trên phẩm lợi ích: Là mới được Vô sinh cho đến xoay bánh xe pháp thanh tịnh.

4. Trung phẩm lợi ích: là tám đời cho đến một đời được Tam-bồ-đề.

5. Dưới phẩm lợi ích: là chúng sinh trong các thế giới của tám Đức

Phật đều phát tâm Bồ-đề.

Về chấp Tôi mới đọc tám đời đến một đời được tam-bồ-đề trong luận nầy của Thiên Thân Mới được Vô sinh cho đến Tám đời một đời đều là số tăng từ cạn đến sâu. Không biết lợi ích của Ba phẩm, giảng mấy trăm biến mới giải thích được điều này.

Hỏi: tám đời một đời vì sao là lợi ích Trung phẩm?

Đáp: Mới nghe kinh Pháp Hoa liền được vô sinh, cho đến được pháp luân thanh tịnh. Nay nghe kinh Pháp Hoa, qua tám lần thọ sinh mới bước lên Sơ địa, cho đến qua một lần thọ sinh mới bước lên Sơ địa, nên lợi ích Trung phẩm, luận chủ hợp ba lợi ích này thành hai. Lợi ích đầu đều gọi là chứng vì đều được Vô Sinh nhẫn, còn một đời sau cùng mới được phát tâm, nên gọi là Tín.

Hỏi: Nói phẩm Thọ lượng, vì sao nói nhiều người đạt đạo?

Đáp: Ở đây nói Đức Thích-ca từ khi mới phát tâm, cho đến lúc thành Phật và tất cả thời tiết, hoặc lý, hoặc quyền, hoặc đều hiển bày, nên người đắc đạo cũng nhiều.

Cúng dường môn: là nhắc lại môn thứ ba giải thích

Cúng dường môn như kinh chép: các Đại Bồtát khi được lợi ích của Đại pháp, thừa ở trong hư không hoa Mạn-đà-la như tuôn rải mưa, như thế v. v.... Phẩm Thọ lượng là công đức nói pháp của Như lai, Phẩm Phân Biệt Công Đức là công đức Như lai nói về người, đều dùng pháp nói về người đều được lợi ích, thường chiêu cảm thứ cúng dường.

-Nghe pháp môn như phẩm Tùy hỷ. Nói nên biết: là giải thích thứ tư

Nghe pháp môn như nói phẩm Tùy hy nên biết là nghe pháp sinh tâm tùy hỷ, lại nói pháp cho người khác, nghe nên nói là nghe pháp. Hỏi: Trước nói phẩm Phó chúc Di-lặc, nay vì sao nói phẩm Tùy hỷ?

Đáp: Tùy hỷ ở đây là ban đầu Di-lặc hỏi về Tùy hỷ, nương vào nghĩa này cũng gọi là phẩm Di-lặc. Nếu từ nghĩa Tùy hỷ đặt tên Tùy hỷ, nên không khác, cũng có thể người dịch sai từ ngữ, một pháp môn trở xuống. Pháp lực ở trên có năm môn, trước giải thích bốn, nay văn giải thích năm là môn đọc, tụng, thọ trì và nói, văn chia làm bốn.

1. Nói về môn và xuất xứ của phẩm.

Nói về phẩm Pháp môn Bồ-tát Thường Tinh

Tấn, là đọc tụng v. v... trở xuống.

Giải thích sơ lược là chương môn là đọc tụng, giải biên chép v. v... được sáu căn thanh tịnh. Đọc tụng là nhân, được sáu căn thanh tịnh là quả. Như kinh v. v... trở xuống là dẫn xuất xứ kinh để chứng minh nhân, quả ở trên.

Chứng minh nhân ở trên.

Như kinh chép:, nếu có người thiện nam, thiện nữ thọ trì kinh Pháp Hoa, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải thích, hoặc biên chép, người này sẽ được trở xuống là nói kế sẽ chứng trên quả.

Người này sẽ được trăm công đức của mắt, cho đến một ngàn hai trăm công đức của ý.

Được thanh tịnh sáu căn. Thứ tư là Luận giải thích, trong giải thích chia làm hai: đầu tiên Giải thích theo địa vị kế là giải thích lại thanh tịnh sáu căn.

Trong giải thích theo địa vị có hai: Giải thích và dẫn kinh để chứng minh.

Được sáu căn thanh tịnh, là phàm phu nhờ năng lực kinh, nên được dụng căn cao siêu chưa nhập chánh vị Sơ địa của Bồ-tát. Nghĩa là phàm phu nhờ năng lực kinh nên được dụng của sáu căn cao siêu nhưng chưa nhập được Sơ địa v. v... trở xuống. Chứng minh Địa Tiền là phàm phu, như kinh v. v... trở xuống là kế. dẫn kinh chứng minh.

Như kinh chép: thấy Tam thiện Đại thiên thế giới bằng mắt thường do cha mẹ sinh, như vậy v. v.... Đã nói mắt thường do cha mẹ sinh, nên nói phàm phu chưa được pháp nhãn, pháp thân của Sơ Địa. Lại, sáu căn thanh tịnh. Văn này có ba nghĩa nên giải thích lại.

1. Giải thích nhãn căn thấy Tam thiên cho đến ý cũng như vậy. Nay giải thích sáu căn dùng lẫn nhau.

2. Giải thích những việc nhãn căn, nay giải thích việc của tỷ căn.

3. Nói về mỗi dụng của sáu căn. Nay giải thích sự dùng lẫn nhau của sáu căn, chia làm hai:

1. Sáu căn văn dùng lẫn nhau.

2. Lại, sáu căn thanh tịnh: Trong mỗi căn đều đầy đủ thấy sắc, nghe tiếng, biết mùi, phân biệt vị, cảm xúc biết các pháp, nên biết nghĩa này các căn dùng lẫn nhau.

Mắt thấy, ngửi mùi biết được, ở đây lược một căn giải thích dùng lẫn nhau.

Mắt thấy, ngửi mùi biết được, như kinh chép v. v... trở xuống là dẫn kinh để chứng minh mắt có khả năng thấy, sắc ngửi mùi.

Như kinh chép:: "Thích đề hoàn nhân khi ở trên điện tốt đẹp năm dục vui chơi cho đến nói pháp, ngửi mùi đều biết, đây là biết cảnh dùng tỷ căn để biết. Biết ngửi mùi đây là giải thích có khả năng ngửi mùi, đây là biết cảnh. Hương là sự biết cảnh của tỷ căn, vì dùng tỷ căn để biết, xuất phát từ năng biết. Lại dùng mắt thấy cảnh, dùng tỷ căn biết nên gọi là dùng lẫn nhau.

Trì lực: đây là giải thích pháp lực đã xong. Nay giải thích trì lực thứ hai văn chia làm hai: đầu tiên là nêu:

Trì lực: Nói trì lực vì trì kinh có công dụng cho lớn nên nói là trì lực. Có ba pháp môn, thứ hai là giải thích trì lực văn chia làm hai:

a. Giải thích chung ba phẩm.

b. Giải thích riêng về Pháp Sư.

Có ba pháp môn trình bày, như phẩm Pháp Sư, phẩm An lạc hạnh, phẩm Khuyến Trì v. v... Nói rộng pháp lực như kinh chép nên biết như. Phẩm Pháp Sư là chỉ cho ba phẩm là ba pháp môn.

Kinh La-thập chỉ nói phẩm Trì, nay vì sao nói phẩm Khuyến Trì? Nhắc lại trước khuyến ở, sau nói trì ở, nên gọi là phẩm Khuyến

Trì, cũng là nhân khuyên mà trì, nên nói là khuyến trì. Đúng là phẩm Trì để nói rộng pháp lực.

Hỏi: Nên nói rộng trì lực, sao lại nói pháp lực?

Đáp: Có hai nghĩa:

1. Nêu ra pháp sở trì, nên nói pháp lực, đúng ra phải gọi là trì lực.

2. Trong ba phẩm này chỉ có phẩm Pháp Sư là pháp lực, làm sao biết? Vì theo thứ lớp văn này thì giải thích kinh phẩm Pháp Sư. Tâm này chắc chắn biết nước đã gần, giải thích riêng những lời trong phẩm Pháp Sư.

Tâm này chắc chắn biết nước đã là gần: đây là thứ hai Thọ trì kinh này được nước Phật tánh, thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Năng lực tu hành: là Giải thích năng lực thứ ba: 1. nhắc lại; 2. Giải thích.

Năng lực tu hành: nói năng lực tu hành là Nương vào kinh tu hành có công dụng cao siêu, nên nói là năng lực tu hành, có năm môn trình bày như ở dưới.

Giải thích văn chia thành ba: 1. Nêu chung năm môn.

2. Giải thích riêng năm môn. 3. Phân biệt riêng. Mô thứ ba-Trình bày năm môn:

1. Năm lực. Giảng nói năng

2. Hành khổ hạnh lực. thực

3. Năng lực Giữ gìn những điều khó cho chúng sinh.

4. Công đức năng lực. Tốt đẹp của

5. Hộ pháp năng lực.

Theo năng lực giảng nói v. v.. trở xuống;là thứ hai. Giải thích riêng năm điều khác nhau trong mỗi môn: 1. Nhắc lại; 2. Giải thích.

Năng lực giảng nói: Nói thuyết lực là Phật nói pháp cho chúng sinh trong các thế giới ở mười phương, nên gọi là thuyết lực, cũng là trong tiếng tằng hắng nói trong kệ, giúp cho vang khắp các thế giới ở mười phương là thuyết lực. Có ba thứ v. v... trở xuống. Đầu tiên nêu chung ba thứ nói về xuất xứ của phẩm.

Nêu ra chiếc lưỡi rộng dài giúp cho nhớ nghĩ, nên hai tiếng nói cười là tằng hắng giúp cho nghe. giúp cho nghe rồi thì tu hành như thật không buông lung, nên búng ngón tay khiến chúng sinh giác ngộ, giúp người tu hành được giác ngộ. Nói nhờ chiếc lưỡi rộng dài của Như lai khác với tất cả thế gian, lời Phật chắc chắn tin được. Lại chiếc lưỡi chính là đứng đầu trong việc nói pháp, cũng là thuyết lực, b. khiến cho họ nghe hai tiếng tằng hắng

Kinh La-thập thẳng là tằng hắng nói khóc cười, ý của luận này là phát ra tiếng tằng hắng nói kệ để cho chúng sinh mười phương nghe tu hành không buông lung. Là: giải thích năng lực khổ hạnh có hai phẩm.

Trình bày phẩm Dược vương tu hành khổ hạnh giáo hóa chúng sinh, lại trình bày phẩm Bồ-tát Diệu Âm tu hành khổ hạnh giáo hóa chúng sinh.

Hỏi: Dược vương có thể là khổ hạnh, vì sao Diệu Âm cũng gọi là khổ hạnh?

Đáp: Diệu Âm phân thân trong bốn sinh sáu đường để đem kinh giáo hóa chúng sinh và cứu giúp các hoạn nạn nên cũng gọi là khổ hạnh. là giải thích thứ ba dùng năng lực che chở hoạn nạn, cũng có hai phẩm.

Dùng năng lực bảo vệ hoạn nạn cho chúng sinh. Là nói phẩm Bồ-tát Quán Thế Âm, phẩm Đà-lani. Quán Âm giúp đỡ những việc khó khăn cho người. Phẩm Đà-la-ni bảo vệ khó khăn cho người bằng pháp. Lại phẩm Quán Âm là bảo vệ khó khăn cho một người, Đà-la-ni bảo vệ việc khó khăn cho nhiều người.

Năng lực công đức: là nói phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương dựa vào công đức quá khứ của hai đồng tử kia có được năng lực như vậy. là giải thích thứ tư về năng lực tốt đẹp của công đức: Hai đồng tử Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn được các tam-muội, lại được sáu độ đạo phẩm, lại được thần thông hướng dẫn cha bỏ tà về chánh, dắt dẫn chúng sinh gặp Phật nghe kinh Pháp Hoa, nên nói hai đồng tử được năng lực như thế. Thứ năm là năng Hộ pháp lực:

Năng Hộ pháp lực là nói phẩm Bồ-tát Phổ Hiền và phẩm sau. Phổ Hiền chính là hộ pháp, nên văn chép: "Nếu kinh Pháp Hoa truyền bá ở đời thì đều nhờ năng lực của ngài Văn-thù. " Phẩm sau là phẩm Chúc lụy, Phật giao phó cho các Bồ-tát mở mang truyền bá chánh pháp cũng là hộ pháp. Lại nói thọ trì Quán Âm v. v... trở xuống là văn kinh thứ hai phân biệt năng lực hộ nạn thứ ba văn lại chia làm ba:

1. Nhắc lại kinh nêu bình đẳng.

2. Giải thích bình đẳng.

3. Kết luận bình đẳng.

Lại nói thọ trì danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm và thọ trì danh hiệu sáu mươi hai ức Hằng hà sa Chư Phật hai công đức đó bằng nhau.

Đầu tiên Như văn kinh có hai nghĩa v. v... trở xuống là thứ hai giải thích bình đẳng trong văn kinh có hai: Trình bày hai môn và giải thích hai môn. Có hai nghĩa: Tín lực và rốt ráo biết. Nói hai môn, Tín lực là Địa tiền tín bình đẳng, Rốt ráo biết nghĩa là Đăng địa chứng bình đẳng. Từ Tín lực v. v... trở xuống là thứ hai giải thích hai môn.

Giải thích Tín lực môn. Tín lực có hai thứ

a. Cầu thân ta tự tại, năng lực tin rốt ráo như Quán Thế Âm.

b. Đối với Bồ-tát sinh tâm cung kính, như công đức kia ta cũng rốt ráo được như thế.

Tín bình đẳng có hai:

a. Tín thân mình và thân Quán Thế Âm bình đẳng, mình và Ngài đồng một pháp thân.

b. Đức bình đẳng: Đã đồng một pháp thân lại đồng một công đức cũng là nhân bình đẳng. Sau là pháp bình đẳng, từ Rốt ráo biết v. v... trở xuống: là giải thích môn thứ hai:

Rốt ráo biết: là chắc chắn biết được pháp giới rõ nói pháp giới gọi là, pháp tánh gọi là. Pháp tánh kia Nói pháp thân bình đẳng của tất cả chư Phật, Bồ-tát, là pháp thân chân như Sơ địa Bồ-tát năng chứng, năng nhập. Nói về pháp giới, pháp tánh, pháp thân đều là tên khác, từ Sơ địa năng chứng, năng nhập bình đẳng pháp thân, nên thọ trì v. v... trở xuống: là thứ ba. Kết hợp bình đẳng

Nên thọ trì sáu mươi hai ức hằng hà sa danh hiệu Chư Phật và, thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm hai thì công đức có giống nhau. Vì danh hiệu Quán Thế Âm và sáu mươi hai ức chư phật đồng chứng pháp thân bình đẳng, nên công đức bình đẳng. Hỏi;Đồng chứng pháp thân nên bình đẳng, vì sao chỉ nói sau mươi hai ức?

Đáp: Hướng đến chỉ nêu một số. Hỏi: Chỉ nói sau chứng nhập pháp thân bình đẳng, vì sao lại nêu tín bình đẳng.

-Nêu lòng tin Địa Tiền muốn hiển bày chứng sau bình đẳng. Lại, Luận Chủ muốn giải thích chung tất cả bình đẳng. Tất cả bình đẳng không ngoài tín bình đẳng và chứng bình đẳng. Phẩm Tựa thứ nhất v. v... trở xuống. Thứ ba là nhắc lại chương môn nói về giới hạn..

Phẩm tựa thứ nhất nói thành tựu bảy thứ công đức, phẩm Phương tiện thứ hai nói có năm phần, phá hai minh và một phẩm khác dư như phân trước rất dễ hiểu. Nói phẩm như phần xứ ở trước, là phá mười bệnh và nói mười Vô thượng.

Mùa đông, ở Thiên Thai, hậu học Sa-môn Thật Quán phân hội.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Luận Sớ][Mục lục tổng quát]