TẠNG LUẬN
SỐ 1830 - THÀNH DUY THỨC LUẬN THUẬT KÝ
Soạn giả: Sa-môn Khuy Cơ
Luận: "Như vậy bốn duyên", đến "mười lăm xứ mà lập".
Thuật rằng: Ngay trong phần đáp về duyên có hai phần. Từ trên đến đây phân rõ bốn thứ duyên năng sinh phân biệt đã xong. Từ đây trở xuống các Thừa phân rõ duyên nương vào xứ mà kiến lập mười nhân, trong đây có ba phần:
1. Như vậy bốn duyên nương vào mười lăm xứ để hiển bốn duyên trước nương vào mười lăm xứ, nói làm mười nhân. Hỏi để phát khởi văn sau.
2. Chánh đáp.
3. Tổng kết các luận xong mới nên phân rõ chánh luận.
Đây là phần đầu. Hiển bốn duyên nhiếp tận các pháp, nghĩa lập riêng nữa. Dưới đây trong đáp có bốn phần:
1. Thuyết minh nương vào mười lăm xứ lập mười nhân của nó.
2. Phân rõ mười nhân cùng với hai nhân nhiếp nhau.
3. Thuyết minh bốn duyên nương xứ mà kiến lập, cùng với mười nhân cùng với hai nhân nhiếp nhau.
4. Thuyết minh bốn y xứ mà đắc quả nhiều ít.
Lại nữa, giải thích hiện tại luận này nêu tông, nói nghĩa của bốn duyên riêng nương mười lăm xứ mà lập thành mười nhân. Từ đây trở xuống trong phần giải thích, phần đầu nói nương mười lăm xứ lập mười nhân, phần kế nói bốn duyên nương xứ nào mà lập, sau cùng là phân rõ đắc quả. Mười nhân cùng với hai nhân nhiếp nhau của nó, chỉ là các nghĩa khác của mười nhân trong Nhân Minh, cho nên không phải là môn khác.
Luận: "Một là Y xứ của ngữ", đến "chỗ khởi tánh của ngữ".
Thuật rằng: Nêu ra thể của y xứ. Nói y xứ là không phải cùng với nhân khác thể, ngữ tức là y xứ, là Trì nghiệp thích. Các y xứ dưới đều là như vậy, cùng với nhân một thể. Nhưng y là nghĩa của ư, đều là Chuyển thanh thứ bảy, tức là trên thể của ngữ mà lập tùy nói nghĩa của nhân. Như Đại luận quyển 5, quyển 38, luận Hiển Dương quyển 18, luận Đối Pháp quyển 4 và luận Trung Biên đều phân rõ các nhân này. Nhưng Đại luận quyển 38 chỉ có ba chủng mười nhân và thể của năm quả không có y xứ nhiếp. Luận Đối Pháp chỉ có tên của mười nhân, cũng không phải xong hết. Luận Hiển Dương quyển 18 phần đầu có mười nhân, phần sau phân rõ y xứ của nhân. Đại luận quyển 5 phân rõ y xứ của nhân, không thuyết minh riêng về nhân. Quyển 38 và luận Hiển Dương ghi: "Tùy theo tên của tất cả pháp mà làm trước cho nên tưởng, tưởng làm trước cho nên nói, tức là Tùy thuyết nhân của các pháp kia". Thế văn của luận đó tợ như nắm lấy trùm cả ba pháp danh, tưởng và ngữ của tất cả pháp làm thể của nhân. Nhưng hiện tại luận này văn chánh giải ý đó, chỉ nắm lấy pháp, danh và tưởng ba thứ, chỗ khởi ngữ là thể của nhân này. Tại sao vậy? Vì chỉ nói y ngữ và y xứ mà lập nhân này, chỉ có ngữ làm tự tánh. Nếu không như thế thì đáng lẽ nói y danh, y tưởng, y thuyết và y xứ mà lập nhân này. Trong đây là lấy các pháp làm quả, lấy danh, tưởng và thuyết làm nhân sở y. Ngôn thuyết chính là trùm khắp các nhân của pháp, ngôn thuyết là tánh của ngữ. Tổng nói ngữ tánh tức là thông với ba tánh của ngữ nghiệp làm thể, chỉ có Phật là thiện, ngoài ra đều là Vô ký. Nhưng có sự biểu thị cho nên ngữ có thể nói là thiện và ác. Nhưng thật ra hai tánh đó, danh tuy là sai biệt của ngữ, vì có biểu thị cho nên không giống như ngữ của nó, ngữ là tánh của nghiệp, trừ Phật ra, đều gọi là Vô ký. Hoặc có thể, Đại thừa lìa âm thanh thì không có tự thể, cho nên danh tức là thông với ba tánh. Chỉ lấy ba tướng và đắc làm ví dụ để vấn nạn đồng với sở y. Không thể nói tướng là cộng hữu nhân, không đồng với danh. Nghĩa cộng hữu nhân của Đại thừa đều thông với đây.
Luận: "Tức là y vào xứ này mà lập Tùy thuyết nhân".
Thuật rằng: Đây là hiển thuyết nhân y và ngữ mà lập, không phải khác thể, y thể mà lập nghĩa.
Luận: "Là nương vào ngữ này", đến "nói các nghĩa".
Thuật rằng: Đây là giải thích nghĩa y ngữ lập thuyết nhân. Nói trùm khắp tất cả pháp, khởi lên danh để nắm lấy tướng trạng, mới có ngôn thuyết khởi, tức là nương vào ngữ này và tùy theo sau kiến văn giác tri, hoặc tùy theo chỗ thấy các sự mà nói các nghĩa, y theo ngữ này mà lập nhân.
Luận: "Đây là năng thuyết làm sở thuyết nhân".
Thuật rằng: Đây là giải thích nghĩa của nhân. Đối với cái gì để làm nhân? Đây là ngữ năng thuyết, làm nhân sở thuyết của tất cả pháp. Các sư xưa nói: "Tất cả pháp đều là thể của nhân này", là không đúng. Nếu như thế thì lấy ngôn ngữ làm quả thì kiến và văn của nó như quyển 93 và luận Đối Pháp quyển 1 và các tổng hợp Xu Yếu giải thích. Tùy có nghĩa là tùy theo dần dần, tức là tùy theo các sự thấy nghe mà khởi ngôn thuyết. Đại luận đều đồng văn này. Nhưng quả của Hữu lậu, Vô ký và Tùy thuyết nhân, đều thông với tất cả pháp Hữu vi, Vô vi và Hữu lậu, Vô lậu, là nghĩa Trì nghiệp thích, vì Vô ký tức là nhân. Đã lấy Vô ký làm quả, trùm khắp các thuyết của Vô ký, sự thì thuyết và Vô ký làm nhân, tức là Y sĩ thích. Nếu giải thích trước là nhân chỉ có Hữu lậu và Vô ký thì giải thích sau là nhân thông với Hữu lậu và Vô lậu chỗ nhiếp của ba tánh. Nhiễm và tịnh của nó thì nhân này cứ theo đây có thể hiểu.
Luận: "Có luận nói nhân này", đến "tùy theo khởi nói".
Thuật rằng: Các tổng hợp này trái nhau, là danh, tưởng và kiến. Trong Tập luận nói, do như danh là văn giải thích của luận kia. Nhân danh, tưởng và kiến ba pháp này lấy làm tự thể. Nói tưởng và kiến hai pháp giống như năng thuyên danh tự mà nắm lấy cảnh tướng, và hưng khởi sự chấp trước. Tưởng có thể nắm lấy tướng chấp trước do kiến, tức là lấy ba pháp làm nhân, chỗ sinh thuyết là quả của nó.
Luận: " Hoặc y theo đó mà nói", đến "là ngữ nương xứ".
Thuật rằng: Nếu y theo văn kia thì tánh là ba pháp, ba pháp cùng với ngữ làm y xứ gọi là ngữ y xứ, là y xứ của ngữ, cũng là Y sĩ thích. Nếu y theo giải thích này, tức là hiển nhân của danh, tưởng và kiến này là y xứ của ngữ, vì ba pháp làm thể của nhân.
Hỏi: Tại sao lấy hai luận trái nhau?
Đáp: Ý của hai luận khác nhau, luận tuy không có đúng lúc, ý này giải thích rằng: "Như Đại luận nói, lấy tất cả pháp làm quả, lấy thuyết làm nhân, phỏng theo sở thuyên là quả của năng thuyên, tức là hai thuyên năng và sở giải thích về nhân quả. Luận Đối Pháp của Vô Trước lấy sự sinh khởi làm nhân quả, tức là y theo danh, tưởng và kiến mà khởi ngôn thuyết cũng không trái nhau, vì mỗi mỗi đều căn cứ theo một nghĩa, cho nên luận Đối Pháp ghi: "Tùy thuyết năng tác". Tùy thuyết, là tùy theo ngữ. Năng tác của tùy thuyết là danh, tưởng và kiến. Lại nữa, Đại luận phỏng theo sự quán thông thuyên cảnh của các pháp lấy thuyết làm nhân. Luận Đối Pháp chỉ y theo nhiễm phần tương sinh lấy thuyết làm quả, không có lỗi tương vi.
Luận: "Hai là Lãnh thọ y xứ", đến "tánh của năng thọ và sở thọ".
Thuật rằng: Quán là đối diện. Đãi là trông chờ, tức là nhân này thông với năng thọ và sở thọ. Nhưng chỗ tạm nương nhờ thọ của năng và sở mới là nói sơ qua chỗ không hợp. Nhưng có người nói chỉ có ba thọ làm thể là không đúng. Cũng như chờ ăn mà cầu cho ăn, tức là lấy sự chờ ăn mà làm nhân của dục. Hoặc chờ tình của dục mới cầu ẩm thực, lấy thọ làm nhân của thực. Nhưng lãnh thọ xứ thông với năng thọ và sở thọ, không thể nói là dục, vì dục không khắp, không phải tánh của thọ, tức là quán nơi tùy này là năng thọ và sở thọ, lãnh thọ quả của năng thọ và sở thọ kia, hoặc sinh trụ thành đắc. Chỗ chờ này cùng với chỗ sinh làm nhân, nhưng Đại luận đều ghi: "Đãi, đây hoặc là cầu hoặc là lấy, tức là chỗ chờ thọ làm nhân của sở cầu". Quyển 38 ghi: "Quán đãi đủ, cho nên đủ để làm nhân, do đó nghiệp vãng lai, chưa cần phải lấy thọ làm nhân, vì sở đãi không phải thọ". Lại nữa, luận này ghi: "Vì thông với sở thọ". Nhưng sở đãi này, hoặc năng thọ hay sở thọ đều là nhân này nhiếp. Có chỗ lấy năng thọ làm nhân, năng thọ làm quả, như chờ khổ làm lạc; có chỗ lấy năng thọ làm nhân, sở thọ làm quả; có chỗ lấy sở thọ làm nhân, sở thọ làm quả; có chỗ lấy sở thọ làm nhân, năng thọ làm quả; đó là bốn câu riêng biệt. Chỗ lãnh thọ pháp cũng gọi là lãnh thọ. Hiện tại luận này đối với năng thọ, chỉ lấy thọ tâm sở, một là thường khắp các tâm, hai là năm phần vị riêng khác. Các pháp của biệt cảnh không thường khắp các tâm, bốn pháp tác ý, thọ, tưởng và tư không có năm phần vị, xúc tuy có như thế nhưng đối với sở thọ không phải lãnh thọ thuộc chính mình, không giống như đối với thọ, cho nên không chọn lấy. Trong sở thọ của nó thông với tất cả pháp, chỉ trừ pháp của chủng tử nhân duyên, vì nhân này xa, chỉ có xa đối đãi nhau mới là nhân này. Nếu không như thế thì dưới đây đáng lẽ nói đắc quả Đẳng lưu, vì không đắc, chỉ có xa tương đãi là đắc, tức là cận sở đắc, đều thuộc về dẫn phát và khiên dẫn.
Hỏi: Tại sao nói nhân duyên là thuộc về khiên dẫn và sinh khởi cũng là định khác nhiếp? Nói nhân của quán đãi là quán đãi, lại là thuộc về khiên dẫn, cuối cùng có lỗi gì?
Đáp: Không đúng. Vì danh xa, gọi quán đãi tức là không phải gần, nhân của định dị gọi là tương thông. Lại nữa, hoặc giải thích tương đãi gần cũng là nhân này. Dưới đây trong quả chỉ căn cứ theo gần xa, không nói đắc quả Đẳng lưu, giải thích này là thù thắng. Lại nữa, giải thích quán đãi tình dục, là có nghĩa quán xét, chủ yếu cảnh chờ tình. Tình chờ cảnh mới là tánh của năng thọ và sở thọ, vì chủng tử mong mầm, không phải năng và sở của tình quán đãi, cho nên không phải nhân này.
Hỏi: Nếu như thế thì tại sao nói đủ để làm nhân, do đó có nghiệp vãng lai?
Đáp: Cũng là chỗ chờ của nội pháp tình, nhân duyên, pháp của mầm không phải chỗ chờ của tình, vì thời gian chỗ chờ của tình không phải nhân duyên. Trước nói chánh nghĩa, đã ở trong sở thọ lấy sở đãi làm nhân, mầm chờ ở chủng cũng có thể là nhân này. Lại còn nhân của Vô ký, hoặc Vô ký tức là nhân chỉ có Hữu lậu. Quả tánh của Vô ký thông với các pháp của lậu, Vô lậu và ba tánh, hoặc quả là Vô ký, cùng với Vô ký làm nhân, tức là nhân thông với ba tánh, lậu và Vô lậu, quả chỉ có Vô ký. Ngoài ra các nhiễm đều căn cứ theo đây mà biết.
Luận: "Đã nương vào xứ này mà lập nhân của quán đãi". Thuật rằng: Đây là hiển nương vào y xứ mà lập nhân.
Luận: "Nói rằng quán đãi ở đây", đến "nhân quán đãi của nó".
Thuật rằng: Ý thế của Đại luận cùng với đây đồng. Đây là hiển nhân quả của quán đãi đối với bốn xứ chuyển, chỉ trừ cận nhân duyên.
Luận: "Ba là Tập khí y xứ", đến "tự quả xa".
Thuật rằng: Nói rằng nội ngoại chủng ở giai vị chưa thành thục, là nói tất cả chủng tử Hữu lậu Vô lậu, chủng tử nội ngoại, chưa làm chỗ thấm nhuần của lực thiện hữu, làm chỗ thấm nhuần của tham ái, làm chỗ thấm nhuần của nước đất, đều gọi là tập khí y, vì khi chưa làm thấm nhuần thì chỉ có thể khiên dẫn tự quả xa. Không hỏi tánh đồng dị tương xứng cho nên gọi là tự quả. Lại còn trong tịnh nhân, cùng với pháp năng chứng thanh tịnh Niếtbàn làm nhân xa. Không thấy Đại luận nói nhân này chứng đắc Niết-bàn làm thanh tịnh nhân thì liền cho quả này là pháp Vô vi, Vô vi thì xa, không phải nhân sinh, vì luận không nói đắc Ly hệ quả. Hiện tại nhân này gần, nhân quả của ba tánh này tùy theo tánh của nhân, nhân duyên gần sinh tăng thượng sinh, có thể dẫn quả Đẳng lưu và tăng thượng quả. Hoặc trong nhiễm nhân cũng cùng với dị tánh của quả là Dị thục nhân, quả chỉ có Vô ký, nhân thì thông thiện ác; nếu Vô lậu tức là nhân thì quả chỉ có Vô lậu; thiện và Bất thiện là nhân thì quả thông ba tánh; hoặc nhân của Vô ký thì nhân thông ba tánh, quả chỉ có Vô ký, như lý nên tư duy. Đại luận đều đồng.
Luận: "Bốn là có Nhuần chủng tử y xứ", đến "tự quả gần".
Thuật rằng: Tức là chủng tử trước làm lực thiện hữu đã nhuần trở đi gọi là hữu nhuận y, vì có thể sinh khởi quả gần, như tịnh nhân cùng với cận Bồđề làm nhân duyên. Trong đây cùng với chỗ nhuận trước và chỗ chưa nhuận khác nhau, lại không có riêng thể, quả tánh đều đồng như trước, Đại luận cũng đồng.
Luận: "Năm là Vô gián diệt y xứ", đến "Đẳng vô gián duyên".
Thuật rằng: Tức là Đẳng vô gián duyên của tâm pháp tâm sở, vì tâm pháp tâm sở làm quả. Duyên này đã phân rõ như trước, còn nhân thì tùy tánh quả nào thông ba tánh? Mỗi mỗi đều chỉ có tự thức, chỉ lấy tâm tâm sở làm thể.
Luận: "Sáu là Cảnh giới y xứ", đến "Sở duyên duyên".
Thuật rằng: Thể thông với tất cả pháp, thể chỉ có tâm và tâm sở, Hữu lậu và Vô lậu đều thông với nhân quả. Hoặc lấy vị lai làm nhân, quả thì không phải hiện tại, không phải nhân trước mà quả sau. Hiện tại luận này cũng như thế. Nghĩa của Tướng phần hiện tại tương tợ vị lai mà không thật vị lai, cho nên Sở duyên duyên không nơi nào mà không có quả. Ở đây quyển 38 nói Đẳng vô gián duyên này và Sở duyên duyên chỉ mong tất cả tâm và tâm sở.
Luận: "Bảy là Căn y xứ", đến "sáu căn của sở y".
Thuật rằng: Thể là sáu căn, thông với tám thức. Năm căn làm thể thì quả chỉ là tâm và tâm sở. Quả tánh của ba quả trước đều đồng, nhân thì căn cứ theo đây có thể biết. Nhưng Vô gián duyên là thời hiện tại làm duyên, không phải tại thời quá khứ, vì quá khứ không có, tức là hiện tại có lực dụng, có thể khai dẫn pháp khiến cho vị lai sinh, nhập vào thời quá khứ thì dụng của nó mới hiển, vì quả hiện tiền, xứ sở đều không.
Luận: "Tám là Tác dụng y xứ", đến "ngoài ra còn trợ duyên hiện tại".
Thuật rằng: Đối với tác dụng của sở tác nghiệp và tác cụ, như lưỡi búa có tác dụng chặt đứt, tức là trừ chủng tử ra còn trợ cho duyên hiện tại, tức là trừ nội ngoại chủng tử sinh hiện hành, chủng sinh chủng, hiện sinh chủng và trợ duyên gần ra thì tất cả pháp còn lại đều là trợ duyên xa.
Luận: "Chín là Sĩ dụng y xứ", đến "ngoài ra còn làm duyên hiện tại".
Thuật rằng: Đối với tác dụng của sở tác nghiệp và năng tác giả, tức là nắm lấy Sĩ dụng cận trợ duyên của chánh tác trong chỗ trừ ra ở trước thì quả của nó rộng hẹp đồng như tác dụng trước. Vì tác dụng và sĩ dụng thì phải đồng với sở tác, không nắm lấy gần, vì không phải nhân duyên. Hai quả này thông với ba tánh của lậu và Vô lậu, nhân cũng như thế. Nhưng hai quả này cùng với năm Vô ký trước là nhân, trừ Vô gián duyên và căn y xứ ra, còn lại là y xứ quả thông với lậu và Vô lậu. Hai quả đó chỉ có Hữu lậu, vì hai nhân Hữu lậu là Vô ký không sinh Vô lậu. Đây là nương vào sáu thức mà tác pháp. Nếu Thức thứ bảy và Thức thứ tám là Vô gián duyên thì Vô ký tức là nhân, quả thì thông Vô lậu, trong bảy Hữu lậu căn, có sáu Vô lậu cùng với Vô ký làm nhân. Trừ Vô gián duyên và căn ra, còn lại là nhân thông với ba tánh của lậu và Vô lậu. Đây là nương vào sáu thức mà làm luận. Nếu nương vào Vô lậu của Thức thứ bảy thì Vô gián Hữu lậu có thể sinh, là nhân của Vô ký, nhân Vô gián duyên của nó cũng thông với Vô lậu. Trong căn đáng lẽ phân riêng, sắc căn và ý căn mỗi mỗi đều khác nhau, nhưng Sĩ dụng và tác dụng trong đây, chỉ phỏng theo Sĩ phu dụng của hữu tình mà nói, cho nên dưới đây nói chỉ đắc quả Sĩ dụng, không nói đắc các quả Ly hệ. Hiện tại luận này cũng nắm lấy chung, không phải chỉ có bên trong của hữu tình. Nhưng tác dụng và Sĩ dụng đều là Chuyển thanh thứ ba. Tiếng Phạm là Yết-thích-noa là tác cụ tác dụng, Yết-thích-đa là sĩ phu tác dụng, cho nên cả hai thứ đều riêng khác. Nhưng Đại luận quyển 28 ghi: "Chỉ trừ chủng tử ra, chỗ còn lại là các duyên gọi là nhiếp thọ". Hai thứ này là trợ thành nhiếp thọ, cho nên trừ nhân duyên ra, như nhãn thức sinh thì lấy nhãn căn và chủng tử làm Sĩ dụng y, vì Đẳng vô gián duyên và Sở duyên duyên làm tác dụng y, vì căn có gần chút ít. Đây là phỏng theo pháp làm Sĩ dụng mà nói. Nếu mượn nhân làm Sĩ dụng thì không phải ở nơi pháp, cứ theo đây nên biết. Nhân mong lúa mầm thì người làm Sĩ dụng, đất nước làm tác dụng, vì tác dụng xa hơn công của nhân. Nếu nương vào luận Du-già quyển 38 trong Vô ký nhân thì đều có Sĩ dụng, đều lấy đất nước làm Sĩ dụng, mặt trời và cày bừa làm tác dụng.
Luận: "Mười là Chân thật kiến y xứ", đến "năng trợ dẫn chứng".
Thuật rằng: Nói rằng tất cả Vô lậu kiến cùng với tất cả Vô vi và pháp Hữu vi làm nhân, trừ kiến nhân quả tự huân thành chủng vì mong bên ngoài, còn lại đều là nhân này, vì nhân duyên dẫn phát là dẫn phát trong nhân nhiếp, đối với Vô lậu Hữu vi câu sinh pháp có thể trợ giúp khiến cho đồng với sở tác, hoặc khiến cho tăng trưởng, có thể dẫn ở sau Hữu vi Vô lậu, pháp trước dẫn pháp sau. Năng chứng tức là cùng với Vô vi làm nhân. Đây là hiển thắng quả.
Luận: "Tổng y sáu pháp này", đến "phân rõ Vô lậu".
Thuật rằng: Sáu y xứ trước là thể của nhiếp thọ nhân, vì năm y xứ trước là sở nhiếp thọ xa, trở thành phân rõ các pháp Hữu lậu trong ba cõi. Hoặc sáu hợp sở nhiếp thọ xa phân rõ pháp Vô lậu, tức là y xứ thứ sáu không thông với Hữu lậu, trợ thành nhân duyên gọi là nhiếp thọ, cho nên trừ nhân duyên gần năng sinh pháp ra, do đó luận Đối Pháp ghi: "Nếu do nước và phân mong chủng tử sinh mầm thì chỉ có Tự chủng sinh". Nhưng tăng thêm lực của nó thì gọi là nhiếp thọ nhân. Nhưng tùy theo chỗ thích đáng thì có năm hoặc có sáu y xứ, không phải các Hữu lậu pháp đều có đủ năm y xứ. Tâm và tâm sở sinh thì có đủ năm y xứ, nếu không phải tâm tâm sở thì liền không có y xứ. Trong đây năm y xứ trước thông với Vô ký nhân, một y xứ sau thì không phải. Tùy theo chỗ thích đáng ba tánh của nó nên suy nghĩ.
Luận: "Mười một là Tùy thuận y xứ", đến "pháp Vô vi".
Thuật rằng: Nói rằng ba tánh pháp thông với
Vô lậu. Các hành của chủng tử hiện tại có thể tùy thuận với các pháp đồng loại thắng phẩm. Hai chữ "đồng loại" là lựa riêng với dị loại làm nhân, chỉ mong tự tánh. Nhưng hai chữ "thắng phẩm" là lựa riêng với tự đồng loại và các phẩm dưới làm nhân. Đại luận quyển 5 ghi: "Vô ký cùng với thiện và nhiễm làm nhân", là trong bản thức mỗi mỗi đều riêng khác với tự chủng, nhưng mong hiện hành cũng là tánh đồng, tức là cũng cùng với Niết-bàn làm nhân. Hiện hành dẫn hiện hành, chủng tử dẫn chủng tử đều là nhân này. Ở đây lấy tánh luận thì hẹp, lấy cõi luận thì rộng, tùy chỗ thích đáng của nó. Luận Hiển Dương ghi: "Pháp của cõi Dục cùng với ba cõi Vô lậu làm nhân". Cõi Sắc cùng với cõi Sắc, cõi Vô sắc và pháp Vô lậu làm nhân. Cõi Vô sắc cùng với cõi Vô sắc và Vô lậu làm nhân. Vô lậu cùng với Vô lậu làm nhân, mà không nói cùng với các pháp của cõi dưới làm nhân. Quả mong tự loại thì tánh của nó phải đồng, cõi trói buộc thì có khác.
Luận: "Mười hai là Sai biệt công năng y xứ", đến "quả tự thừa". Thuật rằng: Ở đây chỉ có tự tánh, nếu tha tánh chỉ có tương xứng, là thiện nghiệp quyết định dẫn thức thứ tám của trời người không phải đường ác, vì tương xứng, cho nên không phải biệt tánh không tương xứng làm nhân, nghĩa là tự giới pháp cùng với tự giới làm nhân. Trong tự giới, tự tánh cùng với tự tánh làm nhân. Trong tự tánh, sắc với sắc làm nhân. Trong sắc, nội sắc với ngoại sắc làm nhân. Trong nội sắc, trưởng dưỡng cùng với trưởng dưỡng làm nhân, tất cả như vậy cùng với tự thừa chủng tử mong tự thừa Hữu vi Vô vi quả cũng như thế, tức là tịnh nhân. Lấy cõi mà luận thì hẹp, lấy tánh mà luận thì rộng, đại luận đều đồng. Quả thì dễ, cho nên không nói, nghĩa là đối với Hữu vi nhân có thể khởi quả, hoặc đối với Vô vi nhân có thể chứng quả đó. Thế lực sai biệt tự tánh tương xứng, gọi là định; vì bất cộng tha, cho nên gọi là dị.
Luận: "Mười ba là Hòa hợp y xứ", đến "một sự nghiệp".
Thuật rằng: Lấy sáu nhân trước làm tánh, không lấy ngôn thuyết, vì xa. Ngôn thuyết cùng với pháp không hòa hợp nhau, vì tư thế ở xa cho nên không nắm lấy làm tánh. Nhân đã ở phía trước thì quả của nó cũng như vậy. Đối với sinh các quả thì phỏng theo nhất sự nghiệp, nhân thông với lậu và Vô lậu. Một cứ theo trước.
Luận: "Mười bốn là Chướng ngại y xứ", đến "sinh các sự".
Thuật rằng: Trong tương vi và bất tương vi này, nhân thông với lậu và Vô lậu, quả cũng như thế, khiến cho Hữu vi Vô lậu không sinh, vì Vô vi không hiển. Nhưng lãnh thọ và ba nhân sau này đồng với luận Du-già quyển 5, đều nói đối với các quả sinh, trụ... không nói các nhân còn lại là các nhân hẹp khác. Bốn nhân rộng này, nhưng Đại luận và luận Hiển Dương thì chỉ có ba nhân sau, có đối với một quả của sinh mà nói, trong quán đãi thì không có, quán đãi trong đây thì rộng. Luận kia thì chỉ có mong tình dục mà tác pháp, vì tánh của nó hẹp. Quyển 38 chỉ nương vào sinh để thuyết minh chướng ngại, vì căn cứ theo hiển hiện thù thắng. Trong sáu tương vi, chỉ có thù thắng này cũng không có lỗi tương vi. Trong đây, Vô ký, nhiễm và thiện cứ theo đó nên biết. Diệt tướng của Đại thừa tuy không chờ nhân, tương vi nhân cùng với các pháp sau làm sinh nhân, trái nhau với các pháp trước, gọi là tương vi nhân.
Luận: "Mười lăm là Bất chướng ngại y xứ", đến "sinh các sự".
Thuật rằng: Ngược lại đối với chướng ngại y xứ trên, tướng của nó có thể biết.
Luận: "Như vậy mười nhân", đến "phương tiện nhân nhiếp".
Thuật rằng: Từ đây xuống phần thứ hai, trong hai nhân nhiếp nhau, có hai sư giải thích khác nhau. Sư thứ nhất có hai phần:
1. Dẫn Bồ-tát địa.
2. Dẫn văn có Tầm tứ địa.
Trong dẫn Bồ-tát địa có ba phần:
1. Dẫn văn.
2. Chánh giải thích.
3. Lập lý.
Dẫn văn đã nói xong. Năng sinh nhân thì gần, phương tiện nhân thì xa. Sư thứ nhất giải thích rất khác với người xưa, sư thứ hai thì đồng.
Luận: "Đây là nói khiên dẫn", đến "gọi là sinh khởi chủng".
Thuật rằng: Dưới đây là chánh giải thích. Phần đầu giải thích năng sinh, phần sau giải thích phương tiện. Nói Bồ-tát địa là nói khiên dẫn nhân, trừ tập khí của nghiệp và ngoài Vô ký nhân ra thì trong sinh khởi nhân cũng như thế. Cũng trừ các nghiệp ra, vì nó không phải nhân duyên.
Hỏi: Tại sao biết được trong sinh khởi nhân có nghiệp chủng. Văn của luận hai chỗ đều nói nhân này là năng sinh nhân, không nói có Tăng thượng duyên?
Đáp: Điều đó không đúng. Hiện tại luận này cũng có văn, là văn của Đại luận quyển 10.
Hỏi: Nếu các chi mong nhau không có nhân duyên thì tại sao nói rằng y nhân duyên mà lập mười hai chi?
Đáp: Nương vào chỗ nhiếp của Tăng thượng duyên thì ba nhân khiên dẫn, sinh khởi và dẫn phát mà nói không phải có nhân duyên, cho nên biết trong sinh khởi này cũng có phi nhân duyên chủng. Hỏi: Lại nữa, cứ theo lý, nếu chủng chưa nhuần mà đã có nghiệp thì cũng ở trong khiên dẫn, tại sao đã nhuần nghiệp chủng mà không phải sinh khởi nhân?
Đáp: Lại nữa, Bồ-tát địa, ai cho rằng luận kia nói sinh khởi nhân là nhân này. Như đoạn văn này, dẫn phát nhân của nó nắm lấy chủng dẫn tự chủng, chủng dẫn hiện hành làm nhân duyên, trừ ra hiện hành dẫn chủng và dẫn hiện hành, Dị tánh chủng và Niết-bàn, vì nó không phải nhân duyên. Cùng Dị thục tăng thượng, quả Đẳng lưu, cũng lấy hiện hành năng huân chủng tử trong dẫn phát làm nhân duyên, cũng là hai năng sinh nhân của dẫn phát nhiếp. Dưới đây có hai giải thích, đồng sự của nó thì Bất tương vi nhiếp, vì nhân trước làm tự thể, tức là hợp chung các nhân duyên chủng chưa nhuần trở về trước trong sáu nhân cũng chưa thành tựu đều gọi là khiên dẫn chủng, dẫn dắt tự quả xa, tức là toàn khiên dẫn nhân và bốn nhân ít phần. Trừ ra sinh khởi nhân, hoặc nhuần khắp trở đi đều gọi là đã thục tức là toàn sinh khởi nhân và bốn nhân ít phần. Trừ Khiên dẫn nhân ra, là sinh khởi nhân này, vì có thể sinh khởi quả gần. Làm sao biết?
Luận: "Trong sáu nhân đó", đến "trong hai vị". Thuật rằng: Trong sáu nhân đều có nhân duyên chỗ nhiếp của năng sinh, hai chủng tử này đã là nhân duyên cho nên trong sáu nhân chỗ nào có nhân duyên đều là chỗ nhiếp của năng sinh này. Nếu không như thế thì nhiếp nhân duyên không khắp hết.
Hỏi: Đã như thế thì hiện hành huân thành chủng cũng là nhân duyên nắm lấy. Tại sao trong đây không nhiếp, cũng không phải hết lý?
Luận: "Tuy có hiện khởi", đến "ở đây lược bỏ không nói".
Thuật rằng: Câu hỏi đó không đúng. Trừ hai nhân khiên dẫn và năng khởi ra, vì hai nhân này chỉ có chủng tử. Như dẫn phát bốn nhân trong sáu nhân trước thì hiện hành năng sinh chủng làm nhân, vì nhiều gián đoạn không giống như tánh của chủng tử hằng tương tục. Đây là Bồ-tát địa, lược bỏ không nói. Ở đây đem chỗ chưa hết lý căn cứ theo một nghĩa để nói. Lại nữa, giải thích...
Luận: "Hoặc quả Cận biện", đến "chủng tử của lúa thóc".
Thuật rằng: Tức là hiện hành quả Cận biện này, cũng gọi là chủng sinh khởi chủng nhiếp, vì quả Cận sinh. Tại sao hiện hành cũng gọi là chủng? Trong đây có ví dụ, như mượn nói chủng của lúa thóc hiện hành, đó đã như thế thì đây cũng như thế. Trong sáu nhân này thì nhân nào là sở nhiếp? Bốn nhân khác nhiếp.
Từ trên đến đây giải thích năng sinh nhân nhiếp đã nói xong. Từ đây xuống thuyết minh ngoài các nhân khác còn có phương tiện nhân nhiếp.
Luận: "Các nhân khác", đến "phương tiện nhân nhiếp".
Thuật rằng: Nói rằng thứ nhất ngôn thuyết, thứ hai quán đãi, thứ năm nhiếp thọ, thứ chín toàn tương vi và trong sáu nhân không phải là nhân duyên pháp, đều là giai vị chưa nhuận sinh nói ở trước, giai vị đã nhuận thục là hai nhân chủng còn lại, tức là nói toàn bốn nhân này. Có sáu nhân ít phần làm phương tiện nhân. Phương tiện nhân này cũng có hai chủng là Đẳng vô gián và Sở duyên duyên. Hiện tại ngay trên một nhân mà tổng nói chỉ là Tăng thượng duyên. Không phải không có khác nhau chút ít, đến sau sẽ biết.
Từ trên đến đây đã nêu nhân để hiển số nhiếp nhau, từ đây xuống là nêu lý.
Luận: "Không phải hai chủng này", đến "có nhân duyên chủng".
Thuật rằng: Không phải hai chủng khiên dẫn và sinh khởi, chỉ thuộc hoàn toàn hai nhân khiên dẫn và sinh khởi trong mười nhân kia. Tại sao vậy? Trong hai nhân này có Phi nhân duyên, nhiếp hết thì liền rộng, vì năng sinh là nhân duyên, ngoài ra trong bốn nhân dẫn phát có nhân duyên chủng, nếu nhiếp chỉ có hai hoặc không nhiếp thì liền hẹp.
Luận: "Không chỉ có tám nhân đó", đến "không phải nhân duyên chủng".
Thuật rằng: Không phải chỉ trừ sinh khởi và khiên dẫn ngoài tám nhân toàn đủ ra gọi là các nhân khác, tại sao? Trong bốn nhân, có nhân duyên nhiếp hết thì liền thành rộng, vì phương tiện nhân không phải nhân duyên. Trong hai nhân sinh khởi và khiên dẫn kia cũng có Phi nhân duyên chủng, gọi là nghiệp chủng. Nếu chỉ có tám nhân đó, chỗ còn lại không nhiếp thì liền trở thành hẹp, sau có Phi nhân duyên, vì phương tiện không nhiếp. Văn của Bồ-tát Địa cũng không phải hết lý, cho nên trong đều như tôi nói. Tổng hợp tiếp theo là văn Tầm tứ địa của quyển 5.
Luận: "Hữu tầm... địa", đến "ngoài ra phương tiện nhiếp". Thuật rằng: Trong đó có ba phần:
1. Đoạn văn.
2. Chánh giải.
3. Lập lý.
Đây là đoạn văn kia. Hữu tầm... là đồng với Hữu tứ... tiếp theo sau là chánh giải.
Luận: "Văn này có ý nói", đến "quả tự loại".
Thuật rằng: Năng sinh nhân là nhân duyên, như chỗ nói trước. Trong sáu nhân hoặc hiện hoặc chủng, hoặc đã nhuận hoặc chưa nhuận, nhưng lẫn nhau làm nhân duyên, gọi là sinh khởi nhân, đều do năng sinh nhiếp. Hoặc hiện hoặc chủng khi nhuận hoặc chưa nhuận đều là năng sinh khởi quả tự loại. Vì quả tự loại cho nên nói hiển là nhân duyên chủng và hiện hành, lựa riêng với Phi nhân duyên chủng và hiện hành.
Luận: "Các nhân khác này đều thuộc về Phương tiện nhân".
Thuật rằng: Vì phương tiện thì xa. Trong sáu nhân này ngoài nhân duyên chủng và toàn bốn nhân khác đều gọi là Phương tiện nhân, vì đồng với viễn thể. Làm sao biết?
Luận: "Không phải sinh khởi này", đến "có nhân duyên chủng".
Thuật rằng: Dưới đây là lập lý. Không phải đoạn văn tầm và tứ này là sinh khởi nhân thuộc sinh thứ tư khởi nhân trong mười nhân. Nếu chỉ có một sinh khởi nhân thì trong sinh khởi không phải nhân duyên pháp, nhiếp hết thì liền rộng. Lại nữa, tức là trong năm nhân của khiên dẫn kia, hoặc hiện hoặc chủng, vì có nhân duyên, không nhiếp thì liền hẹp.
Luận: "Không phải chỉ có chín nhân kia", đến "có Phi nhân duyên".
Thuật rằng: Không phải trừ sinh khởi nhân ra ngoài chín nhân kia mà gọi là các nhân khác. Nếu chỉ nắm lấy chín nhân thì trong chín nhân cũng có nhân duyên, vì phương tiện thì xa, nhiếp hết chín nhân thì liền rộng. Trong sinh khởi có Phi nhân duyên, phương tiện không nhiếp không hết thì cũng quá hẹp. Nếu nhân duyên chỉ nhiếp sinh khởi nhân, tức là nhiếp tăng thượng nghiệp chủng quá rộng. Nếu không nhiếp năm nhân duyên còn lại, năm nhân duyên không nhiếp hết thì quá hẹp. Nếu phương tiện định nhiếp chín nhân, tức là trong năm nhân có nhân duyên, cũng phương tiện nhiếp hết thì lỗi quá rộng, cho nên biết văn thế như chỗ giải thích của tôi. Ảnh tượng trong đây lược bỏ, chỉ vì nhiếp không hết. Quá hẹp làm giải thích, nhưng ảnh tượng thì nắm lấy rộng, đều căn cứ như trên mà biết.
Hỏi: Tại sao đem nhân duyên của Bồ-tát địa phân làm hai? Năng sinh nhân cũng gọi là khiên dẫn chủng, tuy có hai danh cũng nhiếp chưa hết hiện hành nhân duyên. Tầm tứ địa một sinh khởi nhân thì liền nhiếp hiện và chủng đều hết?
Đáp: Phỏng theo nhuận và chưa nhuận, chỉ phỏng theo chủng mà luận, cho nên phải phân làm hai. Năng khởi đối với quả thể là nhân duyên, không phân nhuận và chưa nhuận. Tầm tứ địa chỉ có một sinh khởi nhân, cũng không trái nghịch. Đây là sự phân rõ của sư thứ nhất đã nói xong.
Luận: "Hoặc Bồ-tát địa", đến "tức là tám nhân còn lại kia".
Thuật rằng: Trong sư thứ hai giải thích hai đoạn văn phân làm hai giải thích. Trong mỗi mỗi đoạn lại có hai phần:
1. Chánh giải thích.
2. Giải thích vấn nạn.
Đây là phần đầu. Nói hai chủng tử của Bồ-tát Địa, tức là hai nhân sinh khởi và khiên dẫn kia trong mười nhân như chỗ nhiếp danh. Ngoài ra các nhân khác tức là chỗ nhiếp tám nhân khác trong mười nhân. Dưới đây tự giải thích vấn nạn.
Luận: "Tuy trong hai nhân", đến "vì hiển thù thắng cho nên nói thiên về nó".
Thuật rằng: Trong hai nhân khiên dẫn và sinh khởi, tuy cũng có không phải năng sinh nhân, vì các nghiệp chủng không phải năng sinh. Nhân duyên chủng tử trong hai nhân này, một là cận biện thể, hai là thọ quả vô tận. Vì thù thắng cho nên nói thiên về nó là năng sinh nhân, không nói chỗ nhiếp của tăng thượng nghiệp chủng.
Luận: "Tuy nội trong nhân khác", đến "hiển nhiều cho nên nói thiên về nó".
Thuật rằng: Tuy trong tám nhân có Phi phương tiện nhân trong bốn nhân, gọi là nhân duyên chủng, vì tăng thượng nhiều trong bốn nhân toàn đủ và bốn nhân phần ít, luận nói thiên về nó là phương tiện nhân, tức là năng sinh nhân trước ẩn tăng thượng, phương tiện nhân sau ẩn nhân duyên, đều không sáng tỏ cho nên không hết lý.
Luận: "Hữu tầm tứ địa", đến "tức là ngoài chín nhân kia".
Thuật rằng: Văn dưới đây cũng có hai phần, căn cứ theo trước nên biết. Luận kia nói sinh khởi nhân tức là sinh khởi nhân thứ tư nhiếp trong mười nhân. Nói các nhân khác tức là chín nhân còn lại. Tại sao như thế?
Luận: "Tuy trong sinh khởi", đến "vì hiển gần cho nên nói ngay".
Thuật rằng: Dưới đây giải thích vấn nạn. Nhân của sinh khởi tuy có các nghiệp chủng không phải nhân duyên nhiếp, vì đối với khiên dẫn nhân đã thấm nhuần, là cận đắc quả. Ngay chủng tử danh ngôn trong tự nhân cùng với quả đồng tánh, vì là hiển gần cho nên nói thiên về nó. Lược bỏ không nói khiên dẫn nhân và nghiệp chủng trong tự nhân, nói thiên về sinh khởi nhân là năng sinh nhân, vì đã thấm nhuần rốt ráo mới gọi là sinh khởi, cho nên mong khiên dẫn làm cận nhân.
Luận: "Tuy trong khiên dẫn", đến "ẩn gần cho nên không nói".
Thuật rằng: Tuy biết khiên dẫn nhân của Bồ-tát địa cũng có nhân duyên chủng là năng sinh nhân, nhưng mong sinh khởi nhân là viễn nhân, vì chưa thấm nhuần khắp, làm ác hay không tức là thọ, cho nên gần hay xa tức là nghiệp chủng hiển hiện. Tướng mạo của cận danh ngôn chủng ẩn, xa thì không nói nhân duyên chủng tử của nó, mà nói nghiệp chủng làm khiên dẫn. Không nói khiên dẫn nhân, lý cũng không trái.
Luận: "Ngoài phương tiện nhiếp thì cứ theo trên nên biết". Thuật rằng: Tuy trong bốn nhân còn lại cũng có nhân duyên.
Nhưng bốn nhân toàn đủ, năm nhân phần ít, là thuộc về phương tiện. Như tăng thượng nhiều nói trên. Nói thiên về nó không phải là năng sinh nhân. Thật lý cũng là văn chưa hết lý. Phần thứ ba lấy bốn duyên nương vào mười lăm xứ, nhiếp mười nhân và hai nhân.
Luận: "Chỗ nói bốn duyên", đến "mười nhân và hai nhân".
Thuật rằng: Quyển 1 nêu ra rằng: "Bốn duyên nương mười lăm xứ, vì nghĩa sai biệt cho nên lập làm mười nhân". Từ trên đến đây tuy có hai đoạn văn, chỉ nương vào mười lăm xứ mà lập mười nhân, mười nhân cùng với hai nhân nhiếp nhau. Chưa rõ nương vào mười lăm xứ mà lập bốn duyên và mười nhân cùng với hai nhân nhiếp nhau, cho nên có câu hỏi này. Trong đó phần đầu là hỏi, tiếp theo là đáp. Trong đáp thì trước hết là đáp duyên y xứ, sau đó phân rõ duyên cùng với nhân nhiếp nhau.
Luận: "Luận nói nhân duyên", đến "lập tăng thượng".
Thuật rằng: Trong phần đầu có đoạn: một là dẫn văn, hai là chánh giải thích. Đây là dẫn luận Du-già quyển 5, luận Hiển Dương quyển 18 đều đồng.
Luận: "Chủng tử trong đây", đến "nhân duyên chủng nhiếp". Thuật rằng: Giải thích dưới đây có hai đoạn:
1. Giải thích nhân duyên y xứ.
2. Trong giải thích hai duyên y xứ, trong đó mỗi mỗi đều có hai sư giải thích.
Chỗ nói chủng tử là nhân duyên tức là Tập khí thứ ba, Hữu nhuận chủng tử thứ tư, Tùy thuận thứ mười một, Sai biệt công năng thứ mười hai, Hòa hợp thứ mười ba, Bất chướng ngại thứ mười lăm trong mười lăm y xứ hợp chung trong sáu y xứ. Trừ ra hiện hành nhân duyên chủng của nó nhiếp, tức là chỗ nói sáu nhân y xứ chủng tử trước là nhân duyên.
Luận: "Tuy hiện hành bốn xứ", đến "ở đây lược bỏ không nói".
Thuật rằng: Trên đã giải thích bản văn, dưới đây là giải thích nghĩa không hết, chỉ nói chủng tử mà không nói hiện hành. Tuy trừ bỏ hai y xứ thứ ba và thứ tư, ngoài ra bốn y xứ còn lại cũng có hiện hành là nhân duyên, ngưng nhiều gián đoạn, ở đây lược bỏ không nói là nhân duyên nhiếp, chỉ nói chủng tử là nhân duyên.
Luận: "Hoặc nó cũng có thể", đến "cũng lập tên của chủng".
Thuật rằng: Lại nữa, giải thích trừ khiên dẫn và sinh khởi ra thì hiện hành trong bốn nhân có thể làm nhân duyên, cũng là hai chữ "chủng tử" trong nhiếp, vì phân rõ tự quả gần, ví dụ như giải thích trước. Giải thích này thì văn lấy làm tận lý.
Luận: "Hoặc hai chữ chủng tử", đến "thủ và xả như trước".
Thuật rằng: Sư thứ hai giải thích. Hai chữ "chủng tử" này chỉ thuộc trong mười lăm y xứ, hữu nhuận chủng tử y xứ thứ tư vì có hai chữ chủng tử. Trong hữu nhuận này không lựa bỏ nghiệp, không nhiếp nhân duyên chủng trong tập khí và nhân duyên trong bốn y xứ. Thủ và xả như trước nhiếp hai nhân. Ý của sư này giải thích phỏng theo sự sinh khởi thân cận cho nên không nói các nhân còn lại. Nhân duyên chủng hiển không nói nghiệp, vì sự xa gần của khiên dẫn riêng khác, cho nên lược bỏ mà không nói, tức là lấy văn này làm chưa hết lý.
Luận: "Nói Vô gián diệt", đến "nghĩa của hai duyên".
Thuật rằng: Trên đã giải thích nhân duyên, trong giải thích dưới đây có hai phần, đây là nghĩa của sư thứ nhất. Hai chữ "hai xứ" kia có ý hiển chỉ là hai duyên này. Không phải chỉ có chỗ nhiếp của Vô gián diệt xứ thứ năm và cảnh giới y xứ thứ sáu, ngoài ra trong ba y xứ là lãnh thọ, hòa hợp và bất chướng ngại xứ cũng đều có nghĩa của hai duyên này. Quán đãi chờ cảnh và tâm mới được sinh. Còn lại hai duyên hợp chung với trước làm thể, tức là lấy văn này mà làm tận lý.
Luận: "Hoặc chỉ có năm, sáu", đến "lược bỏ không nói".
Thuật rằng: Đây tức là sư thứ hai trước nói. Hai duyên y xứ chỉ có y xứ thứ năm và thứ sáu, không phải ba y xứ còn lại, ba y xứ còn lại tuy có hai duyên y xứ này, vì tương ưng mà lại ít cho nên không nói. Hai xứ toàn đủ, vì tên cũng hiển. Chỉ nói hai duyên ẩn, còn lại thì ít cho nên lược bỏ không nói, tức là lấy đoạn văn này làm bất tận lý. Nương vào chỗ còn lại mà lập tăng thượng, vì dễ cho nên lược bỏ không nói. Tùy theo trước chỗ đáng tận lý hay bất tận lý, trừ ba duyên còn lại đều là tăng thượng.
Luận: "Luận nói nhân duyên", đến "thuộc về nhiếp thọ nhân".
Thuật rằng: Dưới đây là đáp. Bốn duyên, mười nhân và hai nhân nhiếp nhau, trong đây hợp chung làm mười nhân và hai nhân nhiếp nhau. Trong đó có hai đoạn: một là dẫn văn, hai là chánh giải. Quyển 38 ghi: "Nhân duyên tức là năng sinh nhân nhiếp, Tăng thượng duyên tức là phương tiện nhân". Trong đó Đẳng vô gián và Sở duyên duyên, hai duyên này là nhiếp thọ nhân nhiếp. Trong đây riêng viễn nhiếp thọ nhân nhiếp hai duyên trên. Từ chỗ nhiếp của chín duyên và hai nhân còn lại thì lý cứ theo đó có thể thành cho nên luận không nói, chỉ lấy lý do hai duyên tương tục trong nhiếp thọ mà nói thiên về nó. Không phải trong phương tiện nhân không nhiếp hai duyên. Quán đãi, đồng sự và Bất tương vi là phương tiện nhân nhiếp. Lại nữa, đã phân rõ hai nhân cùng với mười nhân nhiếp nhau, chỉ nói năng sinh nhân là nhân duyên, phương tiện nhân là Tăng thượng duyên. Hai duyên trung gian là nhiếp thọ nhân, tức là hiển phương tiện nhân trong hai nhân nhiếp ba duyên. Năng sinh nhân nhiếp nhân duyên, nghĩa cũng gồm hiển sáu nhân phần ít trong mười nhân là nhân duyên nhiếp, một nhân phần ít là hai duyên trung gian gọi là nhiếp thọ nhân, hoặc gồm quán đãi, đồng sự và Bất tương vi cũng có hai duyên, nhưng luận chỉ nói nhiếp thọ nhân để hiển, còn lại là lý của Tăng thượng duyên đã thành lập. Văn có lược bớt.
Luận: "Chỉ có phương tiện nhân", đến "cho nên đây nói thiên về nó".
Thuật rằng: Hiện tại luận này giải thích văn kia không hết lý. Nếu cứ theo phương tiện nhân nhiếp hết các nhân còn lại thì có Phi Tăng thượng duyên, vì Đẳng vô gián và Sở duyên duyên là phương tiện nhân nhiếp, vì phương tiện nhân nhiếp nhân phần nhiều. Nói rằng trừ quán đãi, đồng sự và Bất tương vi phần ít ra thì còn lại đều là Tăng thượng duyên. Thiên nói về phương tiện nhân là Tăng thượng duyên. Đây là phỏng theo thể của không tương loạn Tăng thượng duyên mà giải thích. Hoặc thể tương loạn lấy hai duyên còn lại cũng là Tăng thượng duyên thì đều phương tiện nhân nhiếp. Không như thế thì không nói năng sinh nhân là Tăng thượng duyên, vì hiển trong phương tiện nhân có đủ ba duyên.
Luận: "Nhân khác cũng có", đến "để hiển cho nên nói thiên về nó".
Thuật rằng: Trong mười nhân thì nội trong sáu nhân là nhân duyên, đều là năng sinh nhân, trong bốn duyên là chỗ nhiếp của nhân duyên. Đẳng vô gián duyên trong lãnh thọ nhân, nhiếp thọ nhân, đồng sự nhân và Bất tương vi nhân là Đẳng vô gián duyên trong phương tiện nhân nhiếp. Sở duyên duyên trong lãnh thọ nhân, nhiếp thọ nhân, đồng sự nhân và Bất tương vi nhân đều là Sở duyên duyên trong phương tiện nhân nhiếp. Tuy trong bốn nhân lãnh thọ, nhiếp thọ, đồng sự và Bất tương vi này cũng có hai duyên trung gian Đẳng vô gián duyên và Sở duyên duyên, hai duyên này ở trong giai vị của bốn duyên. Nhưng trong nhiếp thọ nhân vì có hai y xứ danh và thể toàn hiển cho nên nói thiên về nó. Ngoài ra các nhân còn lại không có hai y xứ danh và thể toàn đủ hai duyên, cho nên lược bỏ không nói.
Luận: "Một là năng sinh nhân nhiếp, tiến thoái như trước".
Thuật rằng: Nhưng năng sinh nhân là nhân duyên, hoặc nói sáu nhân, hoặc nói hai nhân, lại còn nương vào Bồ-tát địa hoặc lấy chung sáu nhân gọi là tiến, hoặc chỉ lấy hai nhân gọi là thoái. Hoặc trong sáu nhân chỉ lấy chủng tử là năng sinh nhân nhiếp hiện hành không hết, gọi đó là thoái. Hoặc gồm lấy hiện hành gọi đó là tiến. Chỗ y Hữu tầm tứ địa, hoặc lấy sáu nhân gọi đó là tiến, chỉ lấy một nhân gọi đó là thoái. Hiện tại luận này nói chung, đều như trước nói.
Luận: "Chỗ nói nhân duyên", đến "nương xứ nào mà đắc?"
Thuật rằng: Đây là hỏi. Phần thứ tư phân rõ các y xứ đắc quả là đáp câu hỏi này. Nhân là mười nhân, duyên là bốn duyên, chắc chắn có quả. Quả có mấy loại? Nương xứ nào mà đắc? Tức là hỏi nương xứ nào đắc quả nào? Văn dưới đây có ba phần:
1. Đáp quả có mấy loại.
2. Đáp y xứ đắc quả.
3. Thuyết minh mười nhân và bốn duyên đắc quả.
Chưa thuyết minh y xứ đắc quả. Trước hết nêu thể của quả.
Luận: "Quả có năm loại", đến "Dị thục sinh Vô ký".
Thuật rằng: Nói rằng chỗ chiêu cảm Dị thục sinh Vô ký của Hữu lậu thiện. Hữu lậu thiện là lựa riêng với Vô lậu thiện. Tự tương tục là lựa riêng với tha và phi tình. Hoặc chỉ nói Dị thục tức là báo trong sáu thức, không phải chân Dị thục nhiếp. Hiện tại luận này làm tổng nhiếp kia, cho nên nói Dị thục sinh. Nhưng bản thức cũng gọi là Dị thục sinh Vô ký. Như quyển 2 trước nói rõ. Trong đây tức là hiển chỗ sai trong luận Thiện Bất Thọ Báo của Pháp sư Đạo Sinh xưa, đồng với Tiểu thừa do Hữu lậu thiện mà cũng cảm báo. Vị này có lâu dài, đến Kim cương tâm vị mới đoạn nhanh, thông với Nhị thừa vô học. Luận Hiển Dương quyển 38, luận Đối Pháp quyển 15 đều đồng.
Luận: "Hai là quả Đẳng lưu", đến "quả sau tùy chuyển".
Thuật rằng: Nói rằng chỗ dẫn đồng loại của tập thiện, Vô ký và bất thiện, không mong nhân của dị loại làm quả Đẳng lưu. Quả thì thù thắng mà nhân có thể yếu kém, không phải quả yếu kém mà nhân thù thắng. Quyển 38 đều nói thiện pháp tăng làm tự quả. Luận Đối Pháp thì chỉ căn cứ theo thiện pháp, luận thật ra quả này không phải không thông với quả khác. Hoặc tương tợ nghiệp đời trước, quả tùy chuyển sau, quyển 38 cũng đồng với ý này. Nói rằng nếu sát sinh thì bị quả báo đoản mạng, là đồng loại của nghiệp đời trước, lấy phần hạn dài ngắn của Thức thứ tám mà làm quả Đẳng lưu. Tùy thuận tướng môn tức là Vô ký quả và tự nghiệp tương tợ cùng với thiện không làm đồng loại. Chỉ có một pháp này, không phải các pháp khác đều là giả thuyết, thật ra là quả tăng thượng, nhưng giả gọi là quả Đẳng lưu, không phải Đồng tánh quả, vì pháp Dị tánh không phải Đồng loại, do đó khiến cho tha mạng đoản và tự mạng cũng đoản. Nghĩa tương tợ mượn gọi là Đẳng lưu, thật ra là chỗ cảm của nghiệp. Quả này thông với Hữu lậu và Vô lậu, chỉ là Hữu vi, phàm Thánh đều thông, cũng là hiện hành mong chủng tử, chủng tử mong hiện hành cũng vậy. Chỗ y trước sau của luận Du-già thông với luận này.
Luận: "Ba là Ly hệ", đến "thiện pháp Vô vi".
Thuật rằng: Đây là sở chứng Vô lậu đoạn chướng, là bất động diệt, tưởng thọ diệt và ba tánh Chân như của Trạch diệt trong tám Vô vi. Luận Đối Pháp ghi: "Tùy miên vĩnh viễn diệt là quả này". Luận Du-già quyển 38 và luận Hiển Dương cũng ghi: "Dị sinh lấy thế tục trí diệt các phiền não, vì không rốt ráo cho nên không phải quả này nhiếp". Nhưng quả này có nghĩa chỗ đắc là chỉ đoạn phiền não chướng, không phải Sở tri chướng. Hoặc Sở tri chướng nói là định chướng thì cũng vậy. Như dưới đây quyển 10 ghi: "Có nghĩa Sở tri chướng cũng được". Trong đó là nói chung, cũng không có lỗi tương vi.
Luận: "Bốn là Sĩ dụng", đến "phân rõ sự nghiệp".
Thuật rằng: Nói rằng các tác giả mượn các tác cụ để phân rõ sự nghiệp, nhưng quyển 38 chỉ ghi: "Sĩ phu dụng cho đến các sự như bói toán, do đây trở thành phân rõ sự gieo giống và gặt hái, là quả Sĩ dụng". Không nói như câu hữu nhân đắc các quả câu sinh, Vô gián, gián cách và bất sinh. Do đây có thể có hai thuyết:
1. Sư thứ nhất chỉ có Sĩ phu dụng làm nhân mà đắc quả Sĩ dụng. Nhân chỉ có giả, không phải có ít thật pháp.
2. Ý của sư thứ hai là tâm tâm sở đồng thời cũng đắc quả này, tức là không phải chỉ có sĩ phu giả mượn làm nhân.
Văn chỉ nói chung các tác giả mượn các tác cụ để phân rõ sự. Sư trước chỉ có Hữu vi phần ít làm quả thể, chỗ phân rõ do lực của sĩ phu. Sư thứ hai thì thông với Vô vi cũng là quả thể.
Luận: "Năm là tăng thượng", đến "chỗ đắc quả khác".
Thuật rằng: Nếu luận về tướng riêng, trừ bốn quả trên ra thì tức là quả này, thông rộng với Hữu lậu và Vô lậu.
Luận: "Luận Du-già nói", đến "đắc quả tăng thượng".
Thuật rằng: Nêu ra quả thể đã xong, tiếp theo là y xứ đắc quả. Trong đó có hai phần: một là dẫn văn, hai là chánh giải thích. Luận Du-già quyển 5 và luận Hiển Dương quyển 18 ghi: "Tập khí y xứ đắc Dị thục", cho đến nói rộng. Nêu ra văn đắc quả, có hai sư giải thích. Trong giải thích của sư thứ nhất có hai đoạn:
1. Chánh giải.
2. Lập lý, tức là sư thứ nhất giải thích mười nhân và hai nhân nhiếp nhau ở trước.
Luận: "Nói tập khí xứ", đến "tất cả công năng". Thuật rằng: Hiển chỗ đắc năm y xứ trong mười lăm y xứ của quả Dị thục. Nói rằng năm y xứ đắc là Tập khí, Hữu nhuận, Công năng sai biệt, Hoà hợp và Bất chướng ngại, lấy sự dẫn phát chỉ mong quả tự loại để nói, quán đãi tánh lại xa, nghĩa của nghiệp đắc quả thì gần. Trong nhiếp thọ nhân căn cứ theo sĩ phu làm tác dụng y xứ cũng không có quả Dị thục, hoặc pháp tác dụng y xứ cũng đắc quả này, tức là sáu y xứ đắc. Do đó luận trước ghi: "Hoặc nhiếp thọ năm y xứ để phân rõ pháp Hữu lậu". Trừ tâm và tâm sở ra, còn hai y xứ khác nhiếp thọ tất cả Hữu lậu. Hiện tại luận này chỉ tổng nói để hiển các y xứ mà không nói riêng. Tại sao biết có năm y xứ? Căn cứ theo nhân đắc quả dưới đây, không nói nhiếp thọ nhân đắc quả này. Quả Sĩ dụng có hai thuyết, ở đây cũng đáng lẽ như thế.
Luận: "Nói tùy thuận xứ", đến "tất cả công năng".
Thuật rằng: Hiển quả Đẳng lưu tức là chỗ đắc của bảy y trong y xứ, nghĩa là tập khí mong tự loại chủng, Hữu lậu mong hiện hành và tự loại chủng, chân thật kiến cũng mong tự loại, hiện hành, tùy thuận, sai biệt công năng, hòa hợp và bất chướng ngại. Đây là nói sĩ phu làm Sĩ dụng. Có nói y xứ của Sĩ dụng và tác dụng cũng đắc quả này. Lấy pháp làm Sĩ dụng thì sư này có chín nhân đắc quả Đẳng lưu. Lại nữa, giải thích sĩ phu có thể đắc, tác dụng y thì xa chưa chắc có thể đắc, vì trợ duyên hiện tại cho nên không phải làm duyên hiện tại, chỉ có tám y đắc. Lãnh thọ nhân chỉ mong năng lãnh thọ và sở lãnh thọ của hữu tình sĩ phu. Hoặc xa thì mong nhau, gần thì mong pháp cho nên không đắc. Chỗ mong của Vô gián diệt y không đồng, hoặc lấy quả niệm sau của phẩm dưới, cho nên cũng không nói là đắc. Ngoài ra đều có thể biết.
Luận: "Nói Chân kiến xứ", đến "tất cả công năng".
Thuật rằng: Nói rằng năm y xứ đắc trong y xứ, là chân kiến và tùy thuận cũng dẫn đến Niết-bàn. Công năng sai biệt mỗi mỗi đều dẫn Tự thừa quả, xứ và đắc của hòa hợp và bất chướng ngại, đây là lấy sĩ phu làm Sĩ dụng, hoặc nói pháp làm Sĩ dụng, tức là Sĩ dụng và tác dụng đều đắc quả này. Nhưng thứ không đắc còn lại có thể biết. Không phải quán đãi nhân đắc, là xa thì chờ nhau, không lấy chứng đãi. Lại nữa, Kiến phần phỏng theo pháp Hữu vi làm quán đãi nhân thanh tịnh. Lại nữa, đãi năng chứng có sở chứng, đối với sinh, trụ và thành mà đắc quả và xứ chuyển. Thế nào là không đắc? Hợp chung bảy y xứ đắc quả Ly hệ.
Văn dưới không nói quán đãi nhân cũng đắc quả Ly hệ, vì phỏng theo thanh tịnh Hữu vi mà làm quả.
Luận: "Nói Sĩ dụng xứ", đến "tất cả công năng".
Thuật rằng: Tức là trong y xứ có nói năm xứ đắc, là lãnh thọ y xứ, cũng mong sĩ phu làm Sĩ dụng làm quán đãi nhân, chỗ đắc y xứ của Sĩ dụng, tác dụng, hòa hợp và bất chướng ngại. Tùy thuận chỉ mong tự thiện pháp. Định dị cũng phỏng theo các pháp thể khác nhau, không mong sĩ phu cho nên không đắc. Sư thứ hai nói pháp cũng gọi là sĩ phu, tức là Lãnh thọ, Tập khí, Hữu nhuận, Vô gián diệt, Sĩ dụng, Tác dụng, Chân kiến, Tùy thuận, Công năng sai biệt, Hòa hợp và Bất chướng ngại, gồm mười một y xứ đắc. Ngữ y xứ và pháp, không phải Sĩ phu dụng và Sĩ phu quả. Quả và nhân không hợp chung nhau, vì nói không phải sĩ phu pháp. Quả này phải sinh, vì Ngữ y xứ kia hiển hiện nơi pháp. Trong mười nhân dưới đây, không nói ngữ nhân đắc quả Sĩ dụng, cho nên biết y xứ làm chuẩn cũng như thế.
Luận: "Nói xứ của các chỗ khác", đến "tất cả công năng".
Thuật rằng: Đây là tùy theo các pháp chỗ không nhiếp ở trước đều là thể này. Đây là căn cứ theo thể riêng, nói rằng toàn phần ngữ, cảnh giới, căn và chướng ngại y xứ, còn lại mười một y xứ phần ít. Nếu không như thế thì tất cả đều như vậy. Nương ý nào mà nói như vậy?
Luận: "Nếu không như thế thì đáng lẽ quá rộng hoặc quá hẹp".
Thuật rằng: Từ đây xuống là lập lý. Nếu không giải thích như trước thì mỗi mỗi đều có lỗi quá rộng hoặc quá hẹp. Lại như tập khí chỉ có mục thứ ba, tức là trong phần thứ ba có Phi nghiệp, cũng đắc quả Dị thục thì liền trở thành quá rộng. Ngoài ra bốn y xứ còn lại có nghiệp chủng không đắc thì trở nên quá hẹp. Nói tùy thuận xứ thì chỉ có mục thứ mười một, trong tự y xứ của nó cũng dẫn sinh Niếtbàn, và không phải các pháp Vô lậu đồng loại khác cõi. Vì không phải quả Đẳng lưu cho nên có lỗi quá rộng. Ngoài ra hoặc trong sáu, hoặc trong tám, hoặc trong bảy y xứ cũng có chỗ không nhiếp, tức là lỗi quá hẹp. Nói Chân kiến xứ chỉ có mục thứ mười cũng làm quá rộng. Tự xứ cũng nhiếp đồng thời, và đồng loại các pháp sau không phải quả Ly hệ, ngoài ra trong bốn xứ cũng đắc Ly hệ, đã không nói tức là quá hẹp. Nói Sĩ dụng xứ chỉ có mục thứ chín, tức là trong tự y xứ cũng dẫn quả tăng thượng và quả Đẳng lưu, hoặc nhiếp hết các y xứ kia, tức là lỗi quá rộng. Ngoài ra hoặc bốn xứ, hoặc mười xứ cũng đắc quả này, nếu không nhiếp thì cũng có lỗi quá hẹp. Ngoài ra trong y xứ cũng có quá rộng, tức là ngoài bốn y xứ trước, trong y xứ còn lại cũng có bốn quả thể tồn tại của quả Đẳng lưu, hoặc đều là các quả tăng thượng khác thì trở thành quá rộng. Chỉ trừ chỗ nhiếp bốn y xứ trước ra để làm các quả tăng thượng khác, trong y xứ trước cũng có quả tăng thượng, như trong tập khí không đắc quả Dị thục, tức là các nhân duyên chủng trong tùy thuận không đắc Đẳng lưu, tức là đắc Niết-bàn. Chân kiến cũng có bất đắc Ly hệ, dẫn các tự loại sau. Trong lãnh thọ cũng có bất đắc Sĩ dụng, như ống chân chờ bàn chân, nếu không nhiếp nó thì trở thành quá hẹp, cho nên biết đối với chỗ nói của tôi là đúng. Hoặc tăng thượng này chỉ nên vấn nạn về hẹp. Ngoài ra bốn y xứ còn lại đắc các quả khác. Nhưng sự rộng hẹp này chỉ chuẩn theo tâm sở đầu tiên đắc quả y xứ mà nói.
Luận: "Hoặc tập khí", đến "cho nên ở đây nói thiên về nó".
Thuật rằng: Sư thứ hai nói thể tánh rộng hẹp của năm quả như trước. Chỉ giải thích văn của luận có tận lý hay không tận lý là khác với trước mà thôi. Nói tập khí này, chỉ thuộc y xứ thứ ba trong mười lăm y xứ, tuy báo nhân này ngoài bốn y xứ khác cũng có, trong tập khí cũng có Phi báo nhân, là năm chủng của các thức sinh hiện hành, vì từ khi
Dị thục nhân chín muồi trở đi thì quả xa nhau, tập khí y xứ mong quả cũng xa. Thiên nói về tập khí đắc quả Dị thục, không nói tập khí đều là Báo nhân. Ngoài ra trong y xứ không có nhân này.
Luận: "Nói tùy thuận xứ", đến "cho nên nói thiên về nó".
Thuật rằng: Tùy thuận xứ này chỉ thuộc thứ mười một đắc quả Đẳng lưu. Tuy biết như trước trong sáu, bảy, tám y xứ cũng đắc quả Đẳng lưu, xứ này cũng đắc Phi quả Đẳng lưu, cùng với Niếtbàn làm nhân cũng như vậy, vì Đẳng lưu nhân chắc chắn là pháp cõi dưới, cùng với tự nó và pháp cõi trên làm nhân của nó. Tùy thuận cũng như thế, vì chiêu hiển hành tướng Hữu vi thù thắng cho nên luận nói thiên về nó, cũng không hết lý.
Luận: "Nói Chân kiến xứ", đến "hiển lẫn nhau cho nên nói thiên về nó".
Thuật rằng: Chân kiến xứ này chỉ thuộc xứ thứ mười, tuy như nói trước bốn y xứ còn lại, hoặc năm y xứ cũng đắc quả này, vì xứ này cũng có thể dẫn đồng loại, không phải đều là đắc Ly hệ, vì Chân kiến đó chiêu cảm gọi Ly hệ hiển lẫn nhau cho nên luận nói thiên về nó, cũng không hết lý.
Luận: "Nói Sĩ dụng xứ", đến "do đó nói thiên về nó".
Thuật rằng: Cứ như trên có thể hiểu. Vì quả Sĩ dụng mong đối với xứ, tức là Sĩ dụng xứ gọi là hiển, và thể tướng cũng hiển, cho nên nói thiên về nó. Không phải bốn y xứ khác, hoặc mười y xứ không có, chỉ là y xứ của Sĩ dụng thì đắc quả Sĩ dụng, không thể đồng với chỗ nói trước là xứ này cũng có thể đắc Phi quả Sĩ dụng. Chỉ có tổng nói là cũng có thể chiêu vời quả tăng thượng. Chỗ đắc Sĩ dụng của Sĩ dụng y này cũng được gọi là tăng thượng, cũng chưa hết lý.
Luận: "Những chỗ khác chỉ thuộc", đến "cho nên ở đây nói thiên về nó".
Thuật rằng: Đây là nhiếp các chỗ còn lại, là mười một xứ còn lại, tức là trừ ngoài các pháp của quả y xứ ra, lấy bốn y xứ còn lại, đã hiển đắc bốn quả còn lại. Không nói bốn xứ còn lại cũng đắc quả tăng thượng. Mười một xứ này cũng đắc bốn quả còn lại, mà quả tăng thượng phần nhiều là hiển cho nên nói thiên về nó, đều chưa hết lý cho nên lược bỏ không nói. Y xứ đã hiển thị, tiếp theo thuyết minh mười nhân và bốn duyên đắc quả phần nhiều hoặc phần ít.
Luận: "Như vậy tức là nói", đến "Tăng thượng duyên đắc".
Thuật rằng: Đắc quả trong đây tùy theo văn mà giải thích. Lý của nó không hết, như Xu Yếu giải thích, là năm nhân trong mười nhân đắc quả Dị thục. Quán đãi chỉ mong sĩ phu làm nhân cho nên không lấy. Nếu mong pháp làm nhân thì lấy, có sáu nhân trong mười nhân. Ngoài ra có thể biết. Y xứ đắc trong đây có riêng khác như trước đã nói. Tăng thượng duyên đắc trong bốn duyên này thì Đại thừa là Báo nhân không phải nhân duyên.
Luận: "Hoặc quả Đẳng lưu", đến "duyên đắc đầu và cuối".
Thuật rằng: Quả Đẳng lưu có bảy nhân đắc như trong văn. Trong đây hoặc chủng mong hiện hành là nhân duyên, ngoài ra là Tăng thượng duyên, đều nên như lý mà biết. Nhưng nương và y xứ mà có rộng và hẹp như trước, còn lại những nhân bất đắc có thể biết. Hai chủng của nhân duyên và Tăng thượng duyên, ở vào đầu và cuối trong bốn duyên. Luận: "Hoặc quả Ly hệ", đến "Tăng thượng duyên đắc".
Thuật rằng: Quả Ly hệ có năm nhân đắc. Vì mong sĩ phu làm quán đãi, cho nên không nói đắc nó, vì mong Hữu vi thanh tịnh khiên dẫn cho nên cũng không đắc, ngoài ra nghĩa của nhân không đắc có thể biết. Nhưng sự rộng và hẹp của nhân y xứ như trước có thể biết. Đây là chỉ có Tăng thượng duyên đắc.
Luận: "Hoặc quả Sĩ dụng", đến "Tăng thượng duyên đắc". Thuật rằng: Ở đây có hai thuyết. Bốn nhân đắc của sư thứ nhất, lấy sĩ phu làm Sĩ dụng, còn lại các nhân bất đắc thì không phải sĩ phu, mỗi mỗi đều mong riêng pháp. Quán đãi tương đồng, cho nên lấy, chỉ có Tăng thượng duyên đắc.
Luận: "Có nghĩa quán đãi", đến "còn lại ba duyên".
Thuật rằng: Đây là sư thứ hai. Thông pháp làm sĩ phu, tức là tám nhân đắc, chỉ nói nhân bất đắc, như đã nói trong xứ trước, còn lại có thể biết. Vì chỉ có năng hiển không phải là năng sinh. Năng sinh và sở sinh là quả này. Đã như thế tức là trừ bỏ Sở duyên duyên còn lại ba duyên đắc, ngoài pháp thì không có, như ứng dụng của sĩ phu không phải Sở duyên duyên đắc. Vô gián cũng gọi là Sĩ dụng, y xứ rộng hẹp như trước đã nói, nhưng không có sự bất sinh của Sĩ dụng.
Luận: "Hoặc quả tăng thượng", đến "tất cả dung chứa đắc".
Thuật rằng: Quả tăng thượng này căn cứ theo thể chung mà làm luận. Mười nhân và bốn duyên đắc, hoặc giải thích không như thế, trừ nhân chỗ dụng ở trước làm Tứ quả ra, còn lại sở đắc của nhân, chỗ mong không đồng, quả mỗi mỗi khác.
Hỏi: Nhưng trong Bất tương vi nhiếp Vô vi thì như thế nào đắc tăng thượng?
Đáp: Mười nhân đều đắc quả, không có nhân nào mà không đắc, không đồng với Vô vi của Tiểu thừa không phải nhân và quả của sáu nhân và năm quả. Không nói có thủ và xả làm nhân, nhưng cùng với chỗ bất chướng ngại làm chỗ không ngại của nhân, tức là quả của Vô vi này. Không có nghĩa của xả và thủ, vì không đồng với Tiểu thừa. Đó tức là Tùy thuyết nhân, quán đãi cũng như thế.
Luận: "Các luận khác đã xong, nên phân rõ chánh luận". Thuật rằng: Ở đây có hai giải thích:
1. Chỉ thuyết minh nương vào mười lăm xứ mà nói bốn duyên trở xuống gọi là các luận khác, trở lên là chánh luận. Để thuyết minh văn của duyên sở sinh pháp, đáng lẽ thuyết minh năng sinh duyên. Bốn duyên là chánh luận.
2. Bốn duyên trở xuống đều là các luận khác nhiếp. Tuy thuyết minh duyên sở sinh, vì không muốn phân rõ duyên. Hiện tại căn cứ quyển này ghi tiếp: "Đã lấy duyên sinh pháp mong nhau mà khởi duyên nhiều hay ít để làm chánh luận, cho nên biết bốn duyên là chánh luận".
Hoặc không phân rõ thể mà tại sao giải thích dụng? Những thứ này là huyền diệu, hoặc xưa đã từng nghe, hoặc trước kia chỗ chưa có, học giả sau này nên hiểu nghĩa tường tận. Nhưng theo luận Dugià thì lấy sở đắc của sĩ phu làm quả Sĩ dụng, nhưng lý không chướng ngại pháp khác cho nên hai sư đều đúng. Tùy dụng đều đắc, nhưng mười nhân này Hữu lậu và Vô lậu, Hữu vi và Vô vi, ba cõi trói buộc hoặc không trói buộc, là sở đoạn của kiến, nên như lý tư duy.
Trong câu hỏi trước, hỏi về duyên và sinh. Tuy đã thuyết minh duyên, nhưng chưa giải thích sinh. Từ đây xuống là giải thích sinh, trong đó có hai phần:
1. Phân rõ hiện sinh và chủng sinh.
2. Phân rõ sinh chủng.
Trong sinh hiện lại có hai: phần đầu phân rõ chủng sinh, phần sau phân rõ hiện sinh. Trong chủng sinh và hiện sinh mỗi mỗi đều có hai phần, phần đầu là nhiễm, phần sau là tịnh.
Luận: "Chủng trong bản thức", đến "trừ Đẳng vô gián".
Thuật rằng: Nói rằng chủng tử trong bản thức là tổng quát mà nói, dung chứa tạo tác ba duyên sinh hiện phân biệt. Chữ "phân biệt" là nhiếp chung tâm tâm sở, hoặc Kiến phần và Tướng phần, không phải chỉ có tự thể. Trừ Đẳng vô gián ra, chỉ có tâm tâm sở mong nhau mà lập duyên này.
Luận: "Nói rằng mỗi cận chủng là nhân duyên của nó".
Thuật rằng: Giải thích làm ba duyên. Đây là lựa riêng nghiệp chủng sinh quả Dị thục và các quả tăng thượng khác. Tuy nhãn thức sinh, phải nhờ chủng của căn, nhưng không phải cận chủng, cũng không phải nhân duyên. Nói một cách tổng quát đó là tất cả pháp của Tướng phần và Kiến phần đều có duyên này mà sinh, không có Phi thức chủng sinh. Luận: "Làm Sở duyên duyên đối với năng duyên".
Thuật rằng: Nói phải là tâm và pháp tâm sở chủng của năng duyên, phải là chủng tử mới làm Sở duyên duyên của nó, trừ ra tất cả Tướng phần, vì Tướng phần không thể duyên; và trừ ra tự thể phần, vì không duyên chủng. Nhưng trong Kiến phần trừ ra năm thức và Thức thứ bảy vì không duyên chủng tử, chỉ cùng với Kiến phần của Thức thứ tám trong tất cả thời, Thức thứ sáu thì có khi duyên là chủng tử kia cùng làm duyên. Hiện tại luận này lựa riêng chỗ không làm duyên như vậy, nghĩa là làm sở duyên đối với năng duyên là nói đơn giản.
Luận: "Hoặc chủng tử đối với nó", đến "là Tăng thượng duyên". Thuật rằng: Nghĩa là:
1. Có chủng tử đối với hiện hành pháp có thể trợ giúp lực, như căn chủng đối với thức chủng, tác ý chủng đối với thức...
2. Lại nữa, tuy không có trợ lực, nhưng không có làm chướng ngại, như Dị thức chủng mong Dị hiện hành, đều là Tăng thượng duyên. Nhưng lựa riêng với Vô lậu chủng và Hữu lậu hiện hành làm sinh Đẳng duyên, vì nó có thể chướng ngại. Tuy cũng là Tăng thượng duyên thuộc Bất tương vi nhân nhiếp, nhưng trong sinh hiện phân biệt thì không phải có thể không chướng ngại, cho nên lỗi. Hoặc cũng là duyên này, hiện tại chưa bị chướng ngại, vì chướng thì không sinh. Trong đó chỉ lựa riêng với chướng ngại hiện hành khiến cho duyên không sinh. Đây tức là chủng mong nhiễm hiện hành làm duyên đã nói xong.
Luận: "Sinh tịnh hiện hành nên biết cũng như thế".
Thuật rằng: Nhưng đây là tổng nói. Trong Kiến phần thông với tất cả Kiến phần làm Sở duyên duyên, đều có thể duyên chủng, cũng cùng với Tự chứng phần làm Sở duyên duyên, thức thể của Phật quả duyên với tất cả pháp, cùng với nhiễm khác nhau. Tóm lại, thứ nhất là lấy chủng mong hiện là duyên có thể sinh phân biệt, là tất cả chủng như vậy như vậy biến hiện đã nói xong. Thứ hai là lấy hiện mong nhau làm duyên sinh phân biệt, trong phần đầu là chung, phần sau là riêng.
Luận: "Hiện khởi phân biệt", đến "không có nhân duyên".
Thuật rằng: Văn này là chung. Không lựa riêng với thức của tự và tha. Mong nhau dung chứa tạo tác ba duyên, hiện mong nơi hiện, không phải là cận biện thể, vì không có nhân duyên.
Luận: "Nói hữu tình loại", đến "trừ Đẳng Vô gián".
Thuật rằng: Từ đây trở xuống là trong biệt, môn nhỏ thứ nhất. Tự thân và tha thân mong nhau, gọi là tự tha thân phân biệt, triển chuyển dung chứa tạo tác hai duyên. Nhân duyên có hay không là trong tổng môn trước đã quyết định trừ xong. Dưới đây chỉ có thủ và xả trong ba duyên còn lại. Đây là trừ Đẳng vô gián, vì Đẳng vô gián chỉ có tự một thức. Phân biệt trong đây đã nhiếp Kiến phần và Tướng phần, do tha sinh đều gọi là phân biệt. Nhưng tri, không chỉ là Kiến phần, tức là chỉ có sáu thức trước hoặc cũng là Thức thứ tám, vì thừa nhận biến tha xứ.
Luận: "Tự tám thức tụ", đến "hoặc không có hoặc có".
Thuật rằng: Đây là môn nhỏ thứ hai. Tự thân của tám thức, tùy mỗi mỗi Kiến phần và Tướng phần tương ưng pháp của tám thức, gọi chung là tự thức tụ, vì thức làm chủ đồng với tụ pháp, dưới đây nói tụ đều nên như vậy mà hiểu. Vả lại tự tám thức tụ mong nhau, quyết định có Tăng thượng duyên, vì duyên này chung, chắc chắn không có Đẳng vô gián, chỉ có tự thức mong nhau mà làm duyên này. Đây là thuyết minh lựa riêng hoặc không hoặc có đã xong. Hai trong bốn duyên quyết định không có. Nói rằng nhân duyên và Đẳng vô gián duyên, một duyên quyết định có, nghĩa là Tăng thượng duyên và Sở duyên duyên thì bất định. Dưới đây sẽ phân rõ.
Luận: "Thức thứ tám đối với bảy Thức có", đến "chỗ dựa vật chất".
Thuật rằng: Đây là Thức thứ tám đối với bảy thức kia có Sở duyên duyên, bảy thức kia đối với Thức thứ tám thì không có nghĩa của duyên này, vì tướng sắc của Thức thứ tám làm bản chất của chính nó sinh Tướng phần sắc của năm thức. Thức thứ bảy cũng duyên Kiến phần của Thức thứ tám làm cảnh, lý của Thức thứ sáu thì lấy chung Tướng phần và Kiến phần làm cảnh. Nếu không có Thức thứ tám quyết định làm bản chất thì năm thức và Thức thứ bảy không sinh, tuy không phải Sở duyên duyên gần, nhưng là Sở duyên duyên xa. Thức thứ tám không gá vào bảy thức kia mà sinh, bảy thức kia không phải Sở duyên duyên của Thức thứ tám, nếu có Thức thứ tám thì chắc chắn có bảy thức kia, bảy thức kia chỉ làm quyết định có Tăng thượng duyên của Thức thứ tám mà không phải Sở duyên duyên.
Luận: "Thức thứ bảy đối với sáu", đến "tất cả đều không có".
Thuật rằng: Thức thứ bảy đối với sáu thức trước, trong năm thức đầu thì không có nghĩa của duyên này và cùng với một Ý thức làm Sở duyên duyên, vì ý duyên tất cả pháp. Năm thức không có thì không duyên Thức thứ bảy. Sáu thức trước đối với Thức thứ bảy đều không phải Sở duyên duyên đó, vì nó không duyên sáu thức, tự nó là pháp một hạnh cho nên không hỏi tám thức.
Luận: "Thức thứ sáu đối với năm không có", đến "Thức thứ tám của tướng".
Thuật rằng: Thức thứ sáu của nó đối với năm thức trước không có nghĩa của duyên này, năm thức đối với Thức thứ sáu thì có nghĩ duyên này. Năm thức duyên sở biến của bản thức làm cảnh, không chờ sở biến sắc của Thức thứ sáu làm tự cảnh. Có lực sinh thức mới làm duyên này. Không lấy tự tướng của năm thức làm Sở duyên duyên là vì quyết định không có.
Luận: "Tự loại trước và sau", đến "nắm lấy hiện cảnh".
Thuật rằng: Đây là môn nhỏ thứ ba. Tự thân tám thức mỗi mỗi tự loại trước và sau mong nhau có thể làm vài duyên. Thức thứ sáu tụ trước, dung chứa làm ba duyên sinh tự Thức thứ sáu tụ sau, tức là trừ nhân duyên hiện hành mong nhau, có Sở duyên duyên căn cứ theo duyên để nói. Trong đây không trừ tâm Đẳng vô gián duyên sau cùng của A-la-hán. Căn cứ theo thời gian lâu dài, chỉ nói dung chứa, ngoài ra bảy thức chỉ có hai duyên, không có nhân duyên và sở duyên, đều không phải là chủng tử. Lại nữa, không thể tự duyên thức tụ của niệm trước cho nên chỉ duyên với hiện cảnh. Đây là sư thứ nhất, tức là nghĩa của đồ chúng chấp "dài".
Luận: "Thừa nhận năm thức sau kiến", đến "cũng có ba duyên". Thuật rằng: Từ đây xuống sư thứ hai y theo Sở duyên duyên trong Trung luận của Trần Na, nghĩa là thừa nhận Kiến phần niệm sau của năm thức duyên Tướng phần của niệm trước. Luận kia nói hoặc trước làm sau duyên dẫn công năng của nó. Luận kia tùy theo nhân quả dị thời của Kinh bộ, vì đã không phải hiện cảnh sinh năm thức. Tướng phần hiện hành năm thức của niệm trước làm năng huân, dẫn chủng tử của Tướng phần, sinh Tướng phần năm thức của niệm sau. Tướng phần năm thức của niệm trước có lực có thể sinh Kiến phần của thức sau, cho nên là nghĩa của duyên. Thức của niệm sau liên đới với niệm trước kia tương sinh, cho nên là nghĩa của sở duyên. Hiện tại luận này trình bày ý đó, thừa nhận sau năm thức thì Kiến phần duyên với tự thức tướng của niệm trước. Năm thức cùng với Thức thứ bảy trước và sau cũng có ba duyên, cũng là Thức thứ sáu, không phải Thức thứ tám, vì không phải năng huân, không thể dẫn chủng tử, cho nên tướng của niệm trước không phải Sở duyên duyên của tự thức sau. Tự thức trước và sau của sư này khác với nghĩa trước.
Luận: "Bảy thức trước với Thức thứ tám", đến "tướng kiến chủng".
Thuật rằng: Hoặc niệm sau lấy niệm trước làm Sở duyên duyên. Trong tự thân tám thức phẩm mong nhau, bảy thức trước đối với Thức thứ tám cũng dung chứa có Sở duyên duyên, vì bảy thức trước đều là năng huân mà thành chủng tử của Thức thứ tám phẩm Tướng phần và Kiến phần kia. Nói năm thức trước làm năng huân thành Tướng phần chủng của Tướng phần sắc Thức thứ tám, là Kiến phần Sở duyên duyên của Thức thứ tám. Thức thứ bảy làm năng huân thành chủng tử Kiến phần của Thức thứ tám kia, là Sở duyên duyên của Tự chứng phần. Tự chứng chủng sinh và Tự chứng tùy ứng cũng như thế. Thức thứ sáu hoặc duyên Tướng phần và Kiến phần của Thức thứ tám mà huân tập chủng tử, tức là song huân cả phần chủng tử đó, hoặc duyên hư không, tâm tâm sở để làm Tướng phần, cũng duyên tướng và chủng Sinh không kia, không phải có thể huân tập và sinh khởi chủng tử Tướng phần và Kiến phần hiện hành của Thức thứ tám kia, vì Thức thứ tám không duyên hư không. Trong bảy thức này mong Tướng phần và Kiến phần của Thức thứ tám kia, nên làm bốn câu. Thức thứ sáu đủ hai câu sau, như lý mà biết, tức là hai nghĩa khác với sư trước. Thức thứ sáu mong Thức thứ bảy nên biết theo đây.
Luận: "Đồng tụ khác thể", đến "không duyên nhau".
Thuật rằng: Đây là môn nhỏ thứ tư. Như trong một nhãn thức, đồng thời tâm và tâm sở, mỗi mỗi riêng mong nhau, tuy là đồng tụ, nhưng mà khác thể, lần lượt mong nhau chỉ có Tăng thượng duyên. Kiến phần và Tướng phần tất cả đều như thế, vì không duyên lẫn nhau. Nhưng tâm tâm sở này không duyên lẫn nhau, bản chất mà Tướng phần dựa thì đồng. Hoặc Tướng phần và Kiến phần không duyên nhau, không phải như Đại chúng bộ duyên câu sinh tâm và pháp tâm sở. Nếu thừa nhận duyên thì không đồng với một lỗi của sở duyên, vì thọ không cùng với tâm đồng một duyên. Kiến phần của Đại chúng bộ không thừa nhận tự duyên, cũng có ngăn ngại này. Nhưng rất gần nhau mà không duyên pháp đồng thời, là nói Tự chứng phần đã được tự duyên. Sở duyên là chỗ dựa của vật chất đồng danh và đồng nhất. Không phải nhiều Kiến phần cùng chung với một cận Tướng phần gọi là đồng, nếu như thế thì cũng như tâm vương thứ tám, không thể duyên tướng của tâm sở, tức là không có bản chất. Thế nào gọi là sở duyên đồng nhất? Sở duyên đồng nhất tổng có hai nghĩa:
1. Chỗ dựa của bản chất đồng danh gọi là đồng nhất. Như năm thức đồng thời với pháp tâm sở thì đồng vật chất sở biến của bản thức sinh.
2. Tương tợ gọi là đồng nhất, tức là Thức thứ tám đồng thời với tâm pháp tâm sở và Thức thứ sáu duyên quá khứ vị lai. Tuy hoặc là không có bản chất không gởi vào tha biến, mà mỗi mỗi đều biến tương tợ, gọi là đồng nhất. Không phải cảnh của tâm vương duyên tâm sở sinh ra gọi là đồng nhất. Đây là nghĩa thứ nhất.
Luận: "Hoặc nương Kiến phần", đến "làm tướng chất của xúc".
Thuật rằng: Đây là giải thích thứ hai cũng thừa nhận duyên lẫn nhau, hoặc nương Kiến phần đồng tụ tâm tâm sở mà nói không duyên lẫn nhau, vì không có duyên đồng thời với tha Kiến phần. Đây là nương nhân vị, Phật thì không như thế. Nếu nương Tướng phần mà có nghĩa duyên lẫn nhau thì các Tướng phần đó lẫn nhau làm bản chất mới được khởi. Trong bản thức, chủng tử của các pháp làm đồng thời năm chỗ xúc với bản chất của Tướng phần. Đây là hiển sự của nó.
Luận: "Không như thế thì không có sắc, nó đáng lẽ không có cảnh".
Thuật rằng: Nếu không như thế thì không có năm loại tâm sở trong cõi Sắc, đáng lẽ không có cảnh. Nhưng nó đã có cảnh cho nên chắc chắn lấy sở biến của bản thức làm bản chất. Lý của các tâm tâm sở làm ví dụ đều như thế. Nhưng ý của sư trước mỗi mỗi đều duyên với chủng tử tự sở biến. Nhưng chỉ có chủng tử sở biến của tâm vương có thể sinh hiện hành, không phải sở biến của năm thức. Như nhãn căn không thể sinh ứng dụng của thức. Sư này vấn nạn rằng: Tại sao sở duyên đồng nhất phân làm hai nghĩa? Vì Thức thứ tám và năm tâm sở không có bản chất. Sư trước giải thích: Nếu chắc chắn có bản chất, như Thức thứ sáu khi duyên hư không thì lấy gì làm bản chất? Tâm thứ tám không nương vào cảnh của năm tâm sở mà sinh thì như thế nào là đồng bản chất? Có nói tất cả tâm phải gá vào bản chất mới sinh, như duyên hư không phải nương vào tên để làm bản chất, tâm vương thứ tám lấy sở biến tướng của năm tâm sở để mượn lực do đó làm bản chất mà khởi, gọi là đồng sở duyên.
Luận: "Nếu thừa nhận biến sắc", đến "không đồng bản chất". Thuật rằng: Đây là nương vào nhân vị, quả cũng có thể như thế, đến sau sẽ biết. Hiện tại ở đây sư sau, nếu thừa nhận Thức thứ tám của cõi Vô sắc cũng biến các sắc của cõi dưới thì năm tâm sở như bản thức cũng quyết định duyên chủng tử. Không có Thức thứ tám đồng thời với sáu cảnh của Kiến phần, vì không đồng chất. Cảnh của Tự chứng phần thừa nhận không đồng duyên để duyên Tự kiến phần. Hiện tại luận này nương vào sự có thể như thế để nói có bản chất, không phải chủ yếu như thế, nghĩa nên suy nghĩ. Đồng nhất sở duyên tương tợ gọi là đồng, vì mỗi mỗi đều biến. Tại sao phải đồng chất mới gọi là đồng? Lại nữa, cảnh của Duy thức nắm lấy cảnh của nội tâm, nếu chờ ngoại chất mới sinh thì e rằng lý trái với Duy thức. Do đó sư trước rất dễ hiểu.
Luận: "Đồng thể tướng phần", đến "chỉ có tăng thượng".
Thuật rằng: Đây là môn nhỏ thứ năm. Như một thọ Tướng phần cùng với Kiến phần đồng thể, mong nhau để làm duyên là hai duyên của Kiến phần, nghĩa là Sở duyên duyên và Tăng thượng duyên thì Kiến phần đối với cảnh không có Sở duyên duyên, chỉ có Tăng thượng duyên. Tướng phần cùng với các phần khác chỉ làm Tăng thượng duyên. Nếu phỏng theo Sở duyên duyên xa thì cũng không phải, vì Tướng phần và Kiến phần không tương tợ. Hoặc có thể nói đắc thì do Tướng phần làm duyên mà Kiến phần sinh. Dưới đây là môn nhỏ thứ sáu.
Luận: "Kiến phần và Tự chứng phần mong nhau cũng như thế".
Thuật rằng: Nói rằng Kiến phần cùng với Tự chứng phần cũng như Tướng phần cùng với Kiến phần có thể làm hai duyên, Tự chứng phần và Kiến phần chỉ làm một duyên, như trước đã nói. Kiến phần cùng với phần thứ tư cũng chỉ có một duyên. Đây là căn cứ theo nghĩa gần, hoặc sở duyên xa cũng được có điều đó. Hiện tại luận này phỏng theo gần mà nói, không có lỗi tương vi.
Luận: "Hai phần còn lại lần lượt đều làm hai duyên".
Thuật rằng: Tự chứng phần và Chứng tự chứng phần làm hai phần còn lại của Kiến phần lần lượt làm hai duyên. Hai phần đó cũng với Tướng phần và Kiến phần chỉ làm Tăng thượng duyên.
Luận: "Trong đây không nương", đến "lẫn nhau làm duyên".
Thuật rằng: Nhưng Tướng phần trước cùng với Kiến phần làm hai duyên, không nói chủng tử cũng là Tướng phần được làm nhân duyên. Trong đây không nương chủng tử làm Tướng phần mà nói, vì nói hiện hành lẫn nhau làm duyên. Lại nữa, chủng tử làm duyên sinh phân biệt, môn nhỏ thứ nhất trước đã giải thích rồi. Đây là hiện hành nhiễm tám thức tụ nói làm duyên đã xong.
Luận: "Tịnh tám thức tụ", đến "có thể duyên khắp".
Thuật rằng: Tịnh tám thức tụ hoặc tự thân hoặc tha thân, hoặc tự tám thức hoặc tha tám thức làm duyên thì đều là tăng Sở duyên duyên, vì tịnh tám thức đều được duyên tha thân và tự thân, được duyên lẫn nhau, tức là tịnh tám thức được duyên lẫn nhau. Tâm tâm sở đồng thời cũng được tự duyên lẫn nhau với đồng thời tâm tâm sở, vì công năng đó hiện ảnh tượng khắp, thức Tự chứng phần và tương ưng pháp kiến phần đồng duyên duyên tự kiến phần. Ngoài ra nghĩa của tịnh tâm sở làm ví dụ cũng như thế. Lại nữa, hoặc có thể duyên Tướng phần của họ nếu không hiện ảnh tượng kia, đáng lẽ không phải biết tất cả. Lại có giải thích, chỗ nói của văn trên không có Kiến phần vì cảnh không đồng chất, tức là Kiến phần của thứ với tương ưng Kiến phần quyết định đồng duyên. Thế nào Tự chứng phần và Kiến phần của tương ưng pháp đồng duyên Kiến phần của thức mà không tự duyên? Nếu tự duyên thì cùng với Tự chứng phần có khác gì! Nếu không duyên thì liền trái với văn trên. Hiện tại luận này có hai giải thích:
1. Trước nương nhân vị không phải nương quả vị mà nói. Nương quả vị mà nói là cảnh của Kiến phần cũng không phải đồng. Lại nữa, Kiến phần của các thức cùng với tương ưng pháp cũng quyết định đồng duyên, cũng tự duyên Kiến phần, cũng duyên Tự chứng phần, cùng với Kiến phần và cảnh của tương ưng pháp bằng nhau, nhưng cùng với tác dụng của Tự chứng phần mỗi mỗi khác nhau. Tự chứng phần chỉ có duyên bên trong lại không riêng biến đổi. Kiến phần của nó tự duyên cũng riêng biến đổi. Nhưng Tướng phần nhiếp cùng với tương ưng pháp đồng nắm lấy cảnh bên ngoài. Tương ưng pháp duyên thức đã không ngoài sự nắm lấy Tướng phần biến đổi riêng. Kiến phần của thức làm ví dụ cũng nên như vậy, cũng không trái với Kiến phần và cảnh trên. Nghĩa này tuy thù thắng nhưng có chút ít khó hiểu.
Luận: "Chỉ trừ Kiến phần", đến "dụng năng duyên".
Thuật rằng: Hoặc là thông với Phật thuyết. Không phải Kiến phần làm Sở duyên duyên của Tướng phần. Tất cả Tướng phần là cận sở biến gọi là Tướng phần, Tướng phần thì chắc chắn không có năng duyên dụng, như các hóa tâm cũng như thế, vì hóa tâm không duyên, cho nên phần thứ ba và phần thứ tư này cũng không phải tướng sở duyên, vì Kiến phần nhiếp. Trong văn chỉ có Kiến phần không phải cảnh của Tướng phần. Không trừ đồng tụ tâm tâm sở duyên nhau, vì được duyên, tức là hiển Tự chứng phần cũng là sở duyên của Kiến phần, hiện làm duyên của Tướng phần. Như Vô phân biệt trí chỉ là hiện lượng không có ngoại cảnh, cho nên không duyên, không đồng Hậu đắc trí, vì Kiến phần của Hậu đắc trí thì ngược lại duyên với Tự chứng phần; làm duyên của ảnh tượng, vẫn là Tướng phần. Nếu không như thế thì cùng với chứng tự chứng phần không khác nhau, cần gì có bốn phần! Do đó tất cả tâm đều có đủ bốn phần. Hiện tại duyên Kiến phần của tương ưng pháp và duyên Tự chứng phần thì cũng có thể duyên chứng tự chứng phần. Chứng tự chứng phần cũng có thể duyên Kiến phần và Tướng phần. Nhưng tại Phật vị thì ngoài ra đều không được. Trong đây chỉ ngăn trách Kiến phần không phải sở duyên của Tướng phần, nghĩa ngăn trách phần thứ ba và phần thứ tư cũng không phải sở duyên của Tướng phần, có ý hiển ba phần còn lại lẫn nhau duyên tất cả pháp, gọi là duyên khắp. Tuy ở đây giải thích ba phần không khác gì nhau, vì mỗi mỗi tương tợ. Như sở đắc ở trước là cận đắc, ngoài ra sở đắc là ảnh tượng đắc cho nên trở thành sai biệt. Lại cũng giải thích như thế, hiện tại chỉ ngăn trách Tướng phần làm năng duyên và Kiến phần không duyên Tự chứng phần. Không phải hiển hai phần còn lại được duyên tất cả. Điều này không giải thích với trước.
Luận: "Đã hiện phân biệt", đến "có thể tạo mấy duyên?"
Thuật rằng: Từ trên đến đây phần thứ nhất là hiện khởi phân biệt duyên, chủng tử và hiện hành của nó mà sinh đã nói xong. Từ đây xuống phần thứ hai là thuyết minh chủng tử cũng nên duyên hiện hành và chủng tử của nó mà khởi. Ở đây nói duyên, có nghĩa là duyên dựa vào, không phải nghĩa duyên lự, vì chủng tử cũng là phân biệt nhiếp. Hiện tại luận này giải thích rằng duyên sinh phân biệt, câu hỏi hiện hành và chủng tử mong một chủng tử có thể tạo mấy duyên?
Luận: "Chủng tử chắc chắn không do", đến "lập hai duyên kia".
Thuật rằng: Chủng tử chắc chắn không có Đẳng vô gián duyên và Sở duyên duyên dấy khởi. Vị trí của hai duyên này là ở giữa trong bốn duyên, vì hai duyên này chờ tâm tâm sở làm quả mới có thể sinh. Chủng tử không phải tâm, cho nên không phải quả của hai duyên.
Luận: "Hiện đối với cận chủng", đến "chỉ làm tăng thượng".
Thuật rằng: Hiện tại là y theo nhân vị. Hiện hành mong tự sở huân chủng tử gần có thể làm hai duyên, tức là nhân duyên và Tăng thượng duyên. Trừ ra Thức thứ tám và Vô ký quá kém trong sáu thức trước, vì không phải năng huân, cùng với phi cận chủng không phân rõ thể. Trừ tự chủng ra thì chỉ có một Tăng thượng duyên.
Luận: "Chủng mong cận chủng", đến "cũng chỉ có tăng thượng".
Thuật rằng: Trong tất cả vị, chủng tử mong tự chủng gần cũng có đủ hai duyên, trừ hai duyên giữa. Đối với Dị tánh không phải cận chủng cũng chỉ có một Tăng thượng duyên. Thô và tế trong đây nên suy nghĩ như lý, căn cứ theo trước để hiển tịnh chủng sau cũng như thế. Văn nói sơ lược, cùng với nhiễm đồng. Trên đây tổng giải thích duyên sinh phân biệt đã nói xong. Tiếp theo sau là phần thứ hai tổng kết có hai đoạn:
1. Tổng kết lỗi.
2. Phá duyên bên ngoài tâm của Tiểu thừa.
Luận: "Y theo thức bên trong này", đến "tại sao cố chấp?"
Thuật rằng: Nói rằng y theo thức bên trong, hoặc chủng hoặc hiện lẫn nhau làm duyên mà khởi, tất cả phân biệt hoặc nhân hoặc quả, năng sinh, sở sinh đều được thành lập. Tiểu thừa các ông, chỗ chấp duyên bên ngoài tâm, thiết lập có vô dụng, lại trái với lý và giáo, mà cố chấp là sao!
Luận: "Tuy nói phân biệt", đến "đủ rộng phân biệt".
Thuật rằng: Đây là chỉ sơ lược. Dưới đây giải thích các thứ phân biệt kia, phân biệt ở đây nói chỉ là tâm tâm sở Hữu lậu. Luận Trung Biên nói là hư vọng phân biệt, là tâm và tâm sở trong ba cõi, đây không phải là chấp tâm, nhưng tùy theo thù thắng mà Thánh giáo có nhiều môn để hiển thị có hai, ba bậc. Đến cuối quyển này trong ba tánh sẽ tự giải thích rộng, như trong các luận khác thì cũng có đủ rộng phân biệt. Luận Du-già quyển 38, quyển 73, quyển 74 và luận Hiển Dương đều giải thích như dưới. Lăng-già quyển 5 bộ mười quyển cũng có mười phân biệt. Từ trên đến đây giải thích trong tụng này, thứ nhất y theo tụng giải thích văn, thứ hai rộng giải thích. Trong phần rộng giải thích có hai đoạn:
1. Hỏi duyên sinh phân biệt.
2. Đáp giải thích.
Trong giải thích thì phần đầu giải thích bốn duyên, phần sau thì giải thích sinh phân biệt. Trong sinh phân biệt lại có hai phần:
1. Phân rõ sinh hiện và chủng phân biệt.
2. Tổng kết.
Hoặc trong giải thích trước phân ba đoạn:
1. Lược giải thích tụng.
2. Rộng giải thích.
3. Tổng kết.
Hoặc trong rộng giải thích phân làm ba đoạn:
1. Giải thích bốn duyên.
2. Thuyết minh sinh phân biệt.
3. Rộng phân biệt.
Hoặc trong phần rộng sinh phân biệt này phân làm hai đoạn:
1. Phân rõ sinh.
2. Phân rõ phân biệt.
Ngoài ra giải thích đồng như trước. Ngay trong phần thuyết minh tướng Duy thức, phần đầu là phân rộng tướng riêng của ba năng biến, phần kế các tụng trước thuyết minh Duy thức đã xong. Từ các tụng trước đến đây giải thích các nạn hại, trong đó có hai phần: phần thứ nhất là hai tụng đầu giải thích vấn nạn trái lý, phần thứ hai là năm tụng giải thích vấn nạn trái giáo. Từ trên đến đây một tụng nói xong. Từ đây xuống phần thứ hai giải thích vấn nạn các hữu tình tương tục sinh tử. Chỗ thuyết minh của tụng trước tuy không có ngoại cảnh, nhưng các phân biệt đều duyên sở sinh không lìa thức bên trong. Người ngoài hỏi:
Luận: "Tuy có thức bên trong", đến "sinh tử tương tục".
Thuật rằng: Đây là phần đầu gởi vào câu hỏi để phát khởi luận. Tuy biết luận chủ chỉ có thức bên trong, nhưng đã không có thật duyên bên ngoài tâm. Giả nói ngã pháp và tất cả hữu tình đều do pháp nào mà sinh tử tương tục? Nếu không có duyên bên ngoài tâm thì sinh tử không có vấn nạn sinh tử tương tục.
Luận: "Tụng nói rằng", đến "lại sinh Dị thục khác".
Thuật rằng: Hai câu trên đáp lý do tương tục, hai câu dưới chánh đáp tương tục. Trong đáp của văn Trường hàng có bốn chữ "lại nữa", đến văn đó sẽ rõ.
Luận: "Các nghiệp gọi là phước", đến "bất thiện tư nghiệp". Thuật rằng: Trong giải thích phần đầu có hai đoạn:
1. Giải thích riêng văn tụng.
2. Tổng kết ý tụng.
Trong giải thích riêng lại phân làm bốn, hai câu trên lại giải thích làm hai đoạn, hai câu dưới hợp chung giải thích làm một đoạn. Tổng đoạn văn thứ tư, chữ "do" của câu thứ nhất, chữ "đã tận" của câu thứ ba, chữ "phục sinh đẳng" của câu thứ tư, hợp chung lại giải thích bài tụng đó. Trong giải thích câu thứ nhất, trước hết giải thích chữ "các nghiệp", kế đó giải thích "tập khí", sau đó là tổng giải thích. Vì nghiệp có ba thứ cho nên nói "các nghiệp". Đây là giải thích nghĩa của nghiệp như quyển 1 đã giải thích. Phước, như luận Đối Pháp quyển 7, quyển 8 và Đại luận quyển 9, quyển 53 giải thích. Phước là sự thù thắng, tự thể và quả đều đáng ưa thích, vì thù thắng. Phi phước là sự không đáng ưa thích, tự thể và quả đều không đáng ưa thích, vì xấu kém. Bất động là không thể chuyển đổi, nghiệp đó nhiều ít trụ một cảnh giới không di động. Lại nữa, lại di chuyển như sinh đắc tán thiện, cũng từ nơi định mà gọi chung là bất động. Luận Đối Pháp ghi: "Thiện nghiệp của cõi Dục trói buộc gọi là phước". Luận Du-già ghi: "Chiêu cảm Dị thục của nẻo thiện và thuận theo năm nẻo thọ thiện nghiệp gọi là phước". Trước là nghiệp chung của trời người, sau là nghiệp riêng trong năm nẻo. Nhưng nói trong địa ngục cũng có riêng thiện nghiệp là thọ quả Đẳng lưu, như gió mát chạm thân, nghiệp tương tợ riêng biệt gọi là thiện.
Lại nữa, khiến cho các khổ trong địa ngục nhỏ nhẹ thì gọi là thiện nghiệp, như bất đoạn thiện. Lại nữa, phỏng theo sáu đường làm luận, trừ địa ngục ra, lấy phi thiên thì năm nẻo có thiện nghiệp quả. Phi phước nghiệp, như luận Du-già ghi: "Nghĩa là cảm Dị thục của đường ác và thuận Dị thục của năm nẻo". Phần trước là nghiệp chung của ba đường ác, phần sau là nghiệp riêng của ba đường ác. Bất động là chiêu cảm Dị thục sắc, cõi Vô sắc và thuận theo cõi Sắc và cõi Vô sắc thọ nghiệp. Phần trước là nghiệp chung, phần sau là nghiệp riêng. Luận Đối Pháp ghi: "Hỏi: Tại sao nghiệp của cõi Sắc và cõi Vô sắc gọi là bất động? Đáp: như các nghiệp và nẻo khác trong cõi Dục, nếu gặp duyên chuyển thì đắc thú xứ khác mà thọ. Nghiệp kia thì không như thế, quyết định ở tự xứ mà thọ. Hỏi: Tại sao như thế? Đáp: Vì chỗ nhiếp của định, không phải đồng với tán nghiệp. Hỏi: Nếu như thế thì tại sao huân tập Thiền cõi dưới mà sinh Ngũ tịnh cư, cho nên giải thích này sai? Đáp: Lại nữa, định địa nhiếp gọi là bất động, vì định có thể trụ vào một cảnh. Vả lại chữ "phước" đó đáng lẽ thông thiện của ba cõi, vì thiện nghiệp cõi trên riêng có thù thắng có thể gọi là bất động. Thiện nghiệp của cõi Dục thì riêng được tổng danh, nhưng trong bất động thuận thọ nghiệp riêng. Luận Du-già ít có sự khác biệt, như trong Sớ sao của nó giải thích. Nhưng ba nghiệp này thông với thân, ngữ và ý. Ý nghiệp thông với ba cõi, thân và ngữ chỉ có hai Địa, vì có tầm tứ. Thể tánh này tức là hai tư của Hữu lậu thiện và bất thiện làm thể của nghiệp này. Xem qua thân và ngữ thì động tác của thân và ngữ gọi là nghiệp, thân và ngữ chỉ có Vô ký, không phải thiện và ác tánh, cho nên chỉ lấy tư làm thể. Hành vi trong đây chỉ lấy tư làm nghiệp, cho nên hành vi vẫn còn.
Luận: "Quyến thuộc của nghiệp cũng lấy tên của nghiệp này".
Thuật rằng: Tức là tánh của năm uẩn. Luật nghi của thiện và bất thiện thật ra là quyến thuộc của nghiệp, ngoài ra có thể biết. Có ý gì mà quyến thuộc cũng gọi là nghiệp?
Luận: "Vì đồng chiêu dẫn đầy quả Dị thục".
Thuật rằng: Vì đều cùng với nghiệp đồng chiêu dẫn đầy quả Dị thục. Không đồng Tiểu thừa có đủ mười tùy chuyển, không có thật bốn tướng của đời quá khứ và vị lai. Quả chung và quả riêng này như quyển 2 đã rộng giải thích đủ. Từ trên đến đây nói khi mới làm tức là hiện khởi pháp, nếu Dị thục nhân không phải là thọ quả, hiện đã lâu diệt thì làm sao cảm quả, vì không có quá khứ và vị lai? Để đáp câu hỏi này cho nên luận tiếp theo.
Luận: "Pháp này tuy mới khởi", đến "coi là quả Dị thục".
Thuật rằng: Dưới đây là giải thích tập khí. Nghiệp này hiện hành tuy vừa mới khởi thì đã trở thành Vô gián mà liền diệt mất. Không có nghĩa lý nào khác, có thể như Tát-bà-đa tuy dụng hiện tại không có thể quá khứ, để chiêu cảm Chân quả Dị thục của vị lai, như thế thì thế nào?
Luận: "Mà huân bản thức", đến "nói là tập khí". Thuật rằng: Nghiệp hiện hành trong khi đang tạo thì sự huân tập đối với bản thức dấy khởi công năng của tự nghiệp. Công năng tức là tập khí trong tụng nói. Tại sao gọi là tập khí?
Luận: "Là khí phân của nghiệp", đến "cho nên gọi tập khí".
Thuật rằng: Là khí phần của nghiệp. Giải thích chữ "khí" là do sự huân tập hiện tại làm thành. Giải thích chữ "tập", là nghiệp này huân thành bất đồng, vô tàm kế chấp nghiệp đều chỗ tạo tác của đời trước, đều là đã từng có. Nghiệp của Hóa địa bộ nhập vào quá khứ hiện tại đều có thể. Lại nữa, tập khí này tức là nghiệp đã từng có và có thể trong quá khứ của Tát-bà-đa bộ, và lựa riêng với Thuận thế ngoại đạo nói tất cả quả chỉ có chỗ đắc của nghiệp hiện tại khi tạo tác, tức là thọ. Hiện tại luận này lý của tập khí thì không như thế, vì do quá khứ Vô gián diệt hiện hành huân tập. Chủng tử của niệm niệm trước diệt thì chủng tử sau sinh và hằng có trong hiện tại, cho nên lựa riêng với nó nhiều đời có ứng dụng đối với đời quá khứ hiện hành có thể của nghiệp, tức là không phải chủng tử này khi tạo tác thì liền thọ quả, sau đó hoặc một đời nhiều năm, hoặc nhiều đời mới thọ quả, cho nên lựa riêng với khi hiện tại tạo nghiệp thì liền thọ quả. Do nghĩa này mà có giải thích kỹ và có ngăn trách, cho nên gọi là tập khí, tức là giải thích hai chữ "tập khí" trong tụng. Tổng hợp giải thích trên đây để giải thích bốn chữ cuối câu thứ nhất đã xong.
Luận: "Như vậy tập khí", đến "Tăng thượng duyên thù thắng".
Thuật rằng: Thiện và bất thiện nghiệp này có thể cảm chiêu hoặc quả riêng Dị thục hoặc quả riêng Dị thục trong vị lai, Tăng thượng duyên thù thắng không phải đồng tánh, không phải thể của cận năng biện quả sinh. Tiếp theo giải thích hai thủ, ở đây có tám giải thích.
Luận: "Tướng kiến gọi là sắc", đến "đều thuộc về hai thủ". Thuật rằng: Hai thủ có tám giải thích:
1. Một là Tướng phần và Kiến phần gọi là thủ. Thật năng thủ và thật sở thủ này gọi là hai thủ.
2. Hai là nắm lấy danh và sắc. Sắc là sắc uẩn; danh là bốn uẩn còn lại, tức là chấp thủ năm uẩn làm ngã. Trước nói trong tướng cũng thông với chấp thủ Vô vi, vì làm bản chất. Hiện tại luận này chỉ hiển thủ gần sở duyên, không phải năng duyên đắc pháp ngoài tâm. Lại nữa, biến ảnh tướng phần của vô vi cũng gọi là sở nhiếp, vì không lìa tâm.
3. Ba là nắm lấy tâm và tâm sở, vì tất cả pháp năm uẩn không lìa hai tâm này.
4. Bốn là nắm lấy gốc và ngọn, tức là nắm lấy quả hiện tại, Thức thứ tám là căn bản của các Dị thục, cho nên gọi đó là gốc, ngoài ra các Dị thục trong thức đều gọi là ngọn, là quả ngọn của Thức thứ tám, tức là chấp thủ hai Dị thục. Nói rằng ái lạc nắm lấy duyên thủ, hoặc tổng báo phẩm của Thức thứ tám gọi là gốc, biệt báo phẩm của các thức còn lại gọi là ngọn, vì nhiếp hết tất cả pháp, nhưng lựa riêng với Dị thục, vì rất hẹp.
5. Thủ thứ năm là bốn thủ trên tức là một thủ. Thông với bốn xứ là đơn thủ; và thông với bốn thủ trên là trùng thủ.
Nói rằng Hữu thủ thủ là thủ của năng thủ và sở thủ thứ nhất trên, như tâm trùng duyên, ba thủ sau cũng như thế, cho nên có tám giải thích. Tám giải thích này đều là chỗ nhiếp của hai thủ, tức là sự chấp thủ của hiện hành. Hoặc bốn thủ trước là cảnh, thủ năng thủ kia chỉ có bốn. Thế nào gọi là tập khí?
Luận: "Sở huân và phát kia", đến "gọi là hai thủ tập khí".
Thuật rằng: Tức là tám chỗ huân và phát kia, cận năng sinh tám sở huân phát kia trên công năng của Thức thứ tám gọi là hai thủ tập khí, tức là tám thứ trước đều có đủ hai nghĩa gọi là tập khí, đều có nghĩa sở sinh và năng sinh. Gốc và ngọn hoặc giải thích là Dị thục, nắm lấy làm sở thủ cho nên cũng có đủ hai nghĩa, tức là danh ngôn và chủng tử đều do hai thủ mà sinh, cho nên có thể sinh bản thức. Đây không phải là thiện và bất thiện, chỉ là chủng tử của Vô ký cận sinh. Hai thủ trong đây thông với chỗ huân tập của bảy thức, tùy chỗ thích đáng của nó mà sinh Tướng phần và Kiến phần của Thức thứ tám. Chữ "hai thủ" này muốn hiển nghĩa gì?
Luận: "Đây là hiển đời vị lai", đến "các nhân duyên chủng".
Thuật rằng: Đây là hiển quả Dị thục tâm của đời vị lai và tâm tương ưng pháp, mỗi mỗi đều mong tự quả làm cận năng sinh quả của nhân duyên chủng tử, lựa riêng với nghiệp chủng trước, tức là hiển danh ngôn chủng tử sinh quả vô tận, tùy chỗ muốn sinh thì liền có thể sinh, vì tâm làm chủ, chỉ nói sinh tâm, thật ra thông với năm uẩn. Đây là nói đời vị lai, hoặc một phần vị ba đời, hoặc sinh tử ba đời có thể biết. Giải thích bốn chữ trên của câu tụng thứ hai đã xong.
Luận: "Đều gọi là nghiệp chủng", đến "nghĩa là tương trợ nhau".
Thuật rằng: Trong tụng nói chữ "đều" là chỉ cho các nghiệp trước cùng đồng thời với chủng tử của hai thủ, tức là đồng thời cảm chiêu sinh quả. Không phải như Dị thục nhân quả của Tiểu thừa chắc chắn không đồng thế gian, khi tạo tác hoặc khi thọ quả tuy thế gian không đồng, nhưng khi chủng tử chánh thọ quả thì chắc chắn cùng với quả đồng thế gian, vì đời quá khứ và vị lai không có thể tánh.
Hỏi: Đối với sinh quả vị gần là nhân duyên, hoặc nói sức cảm quả có thể thù thắng chỉ là nghiệp chủng, hoặc hai chủng đã đồng thời. Tại sao trong tụng trước đã nói nghiệp chủng, sau mới nói nhân duyên?
Luận: "Nghiệp chiêu cảm sinh mà hiển cho nên tụng nói trước".
Thuật rằng: Nghiệp chiêu cảm sinh mà hiển, vì do nghiệp cảm sinh thù thắng, là hiển cho nên tụng nói trước, không phải nhân duyên. Giải thích năm chữ trong câu thứ hai đã xong.
Luận: "Dị thục trước", đến "nghiệp quả Dị thục".
Thuật rằng: Chỗ nói Dị thục trước trong tụng, là quả Dị thục của tiền tiền sinh nghiệp. Quả Dị thục là hiển thông cả chung và riêng, văn tụng hẹp cho nên chỉ nói Dị thục, nhưng ý cũng có thông. Vì nghiệp của đời quá khứ là nhiều đời, đồng một thân mà được thọ quả, là quả Dị thục tiền tiền sinh nghiệp. Lại nữa, Dị thục của tiền tiền sinh nghiệp không phải chỉ có một đời cho nên gọi là tiền tiền. Lại nữa, Dị thục trước thể không phải một, sau cũng như thế. Đã trong câu thứ ba không giải thích hai chữ cuối. Giải thích câu thứ tư, trước hết giải thích ba chữ sau. Nói rằng ngoài chữ "Dị thục" ra, sẽ giải thích chữ "đã hết" của tụng.
Luận: "Tuy hai thủ chủng", đến "tánh đồng dễ cảm".
Thuật rằng: chủng tử của hai thủ thọ quả vô cùng. Nhiếp Đại Thừa quyển 3 ghi: "Không có tướng thọ tận". Tập khí của nghiệp thì có tận, luận kia nói là có tướng thọ tận, tại sao vậy? Là do quả Dị thục:
1. Tánh riêng, là cùng với tánh của nghiệp khác nhau, không thuận lẫn nhau.
2. Hai khó chiêu cảm nghiệp, tuy chiêu cảm được thì quả chắc chắn trong đời khác mới chín, cho nên tập khí của nghiệp có tận, cũng như cỏ ngâm chìm trong nước bị rữa nát mục chết.
Quả Đẳng lưu và quả tăng thượng của nó:
1. Tánh chung, thể tánh thuận nhau.
2. Dễ cảm, vì đồng thời sinh. Niệm này khi huân tập xong thì liền có thể sinh quả, cho nên chủng tử của hai thủ dễ cảm quả.
Hỏi: Tại sao làm Đẳng lưu? Cái gì làm tăng thượng?
Đáp: Tăng thượng thì rộng, nhưng Đẳng lưu thì cần tăng thượng. Đẳng lưu là chủng tử cùng với hiện hành và tự chủng làm câu sinh đồng loại nhân. Tăng thượng thì lại càng không có riêng thể, tức là tánh Đẳng lưu. Lại nữa, giải thích là quả Đẳng lưu cho nên tánh đồng. Là quả tăng thượng cho nên dễ cảm, vì có đủ hai quả cho nên có đủ hai nghĩa. Lại nữa, chủng tử mong hiện hành là tăng thượng, mong tự loại chủng là Đẳng lưu. Nghiệp chủng mong hiện hành của nó cùng với chủng đều là Dị tánh cho nên chỉ là Dị thục.
Từ trên đến đây đã riêng giải thích văn tụng, dưới đây sẽ giải thích ý tụng, gồm giải thích chữ "do" của câu thứ nhất, hai chữ "đã hết" của nó câu thứ ba và chữ "sinh lại" của câu thứ tư.
Luận: "Do cảm các đời khác", đến "còn lại quả Dị thục".
Thuật rằng: Do cảm chủng tử nghiệp chín muồi của đời vị lai khác thì quả Dị thục trước trong thân hiện tại khi thọ dụng đã hết, tức là thân này đang ở vị lâm chung. Nghiệp chín muồi của thân kia lại có thể riêng sinh khởi các quả sau, tức là khi các quả trước đã hết, chủng tử nghiệp quả sau chín thì quả Dị thục của nó mới được sinh, cho nên sinh tử không dứt. Do cảm đời khác, giải thích chữ "do". Do là nguyên do, lý do. Khi quả trước đã hết, giải thích chữ "đã hết", lại riêng sinh các quả, giải thích chữ "sinh lại" của quả Dị thục khác. Dưới đây tổng kết đáp các vấn nạn.
Luận: "Do sinh tử này", đến "mới được tương tục".
Thuật rằng: Do chỗ nói nghiệp quả vô tận này, sinh tử tương tục luân chuyển vô cùng, làm sao giả mượn duyên bên ngoài tâm mà sinh tử tương tục được! Đây là đáp tổng kết.
Luận: "Ý của tụng này nói", đến "làm tánh của nó".
Thuật rằng: Tổng kết ý tụng này. Do nghiệp và hai thủ làm duyên làm nhân, cho nên sinh tử luân hồi đều không lìa thức. Không phải pháp ngoài tâm khiến cho sinh tử tương tục, vì nghiệp và hai thủ không lìa tâm. Tâm sở mà đắc tương tục thì làm thể tánh của nhân quả sinh tử.
Luận: "Lại nữa, sinh tử tương tục", đến "tổng có ba chủng". Thuật rằng: Đây là "lại nữa" thứ hai, giải thích tụng đáp câu hỏi.
Trong đó có ba phần:
1. Nêu chung.
2. Giải thích riêng.
3. Chỉ ví dụ.
Ba thứ tập khí này tức là ba chủng tập khí trong Nhiếp luận quyển 3, quyển 4.
Luận: "Một là danh ngôn tập khí", đến "mỗi mỗi khác cận chủng".
Thuật rằng: Giải thích riêng có hai đoạn:
1. Giải thích riêng ba tánh.
2. Phối hợp thuộc tụng.
Chỉ có danh ngôn này phân làm hai chủng nhiếp hết tất cả tập khí của các pháp. Đây là ba tánh nhân duyên của các pháp, luận kia thì chỉ có ngôn thuyết huân tập.
Luận: "Danh ngôn có hai", đến "âm thanh sai biệt".
Thuật rằng: Chỉ có Thức thứ sáu có duyên tên của nó, có thể phát âm tên của nó, ngoài ra đều không duyên cũng không thể phát âm, tức là chỉ có sự sai biệt của thuyên nghĩa âm thanh. Lựa riêng với phi thuyên biểu thanh, vì nó không phải tên gọi, tên gọi chỉ có Vô ký. Luận Du-già quyển 72 trong năm pháp ghi: "Tự tánh của âm thanh chỉ có Vô ký". Nhưng âm thanh có tiêu biểu là nghiệp tánh nhiếp, lấy năng biểu tư danh làm ba tánh, thể chỉ có Vô ký, tên gọi không phải là nghiệp tánh, cho nên từ âm thanh vốn nói là Vô ký. Nhưng tên gọi là do sự sai biệt gãy khúc âm thanh, chỉ có tánh Vô ký, không thể huân tập thành các chủng của sắc và tâm, nhưng do tên gọi cho nên tâm tùy theo tên gọi của nó mà biến tợ ba tán pháp của năm uẩn mà huân tập thành chủng tử. Do tên gọi khởi chủng mà gọi là danh ngôn chủng, tất cả chủng tử huân tập đều do tâm và tâm sở. Tâm tâm sở huân tập chủng có nương theo duyên bên ngoài, cũng có không nương theo duyên bên ngoài. Không nương theo duyên bên ngoài thì gọi là hiển cảnh danh; hoặc nương duyên bên ngoài thì gọi là biểu nghĩa danh. Vì phân ra hai thứ riêng biệt, nhưng tự thể của tên gọi không thể huân thành chủng.
Hỏi: Như duyên năm cảnh mà huân tập các chủng tử cũng nương vào duyên bên ngoài, tại sao không nói do nghĩa mà huân tập?
Đáp: Cảnh không phải là thắng duyên, do nơi cảnh mà tâm huân tập, chỉ có sở nhiếp của hiển cảnh có pháp năng thuyên, khiến cho nương theo đó mà khởi chấp lưu chuyển sinh tử, liên đới với dụng thù thắng này làm duyên mà huân tập, lập biểu nghĩa danh ngôn huân tập. Lại nữa, danh của tất cả pháp là trước tưởng, vì danh bên trong phát ra ý nghĩa để chiêu gọi pháp là thù thắng. Chỉ nói nương tên gọi mà không nói nương vào cảnh, hoặc nương Vô lậu danh huân chủng tử, đây là chỉ có Vô lậu thiện. Bên trong tên gọi làm duyên huân tập năm uẩn chủng, tâm biến tương tợ. Tuy cũng nương vào các câu mà thành huân tập, tổng nói là danh thuyên chiêu gọi các pháp là tối thắng, từ thắng đặt điều kiện, chỉ nói danh ngôn huân tập. Danh ngôn thêm bớt mà nhiếp câu và chữ.
Luận: "Hai là hiển cảnh danh ngôn", đến "tâm pháp tâm sở".
Thuật rằng: Tức là tâm pháp tâm sở năng liễu cảnh, tức là Kiến phần tâm của tất cả bảy thức trước, không phải Tướng phần tâm, vì không thể hiển cảnh. Kiến phần này thật ra không phải danh ngôn, như ngôn thuyết gọi là hiển sở thuyên pháp. Tâm và tâm sở này có thể hiển sở liễu cảnh cũng như Kiến phần kia, cho nên gọi nó là danh. Thể không phải danh, thể của danh là Bất tương ưng hành kia. Lại nữa, như bốn uẩn gọi là thể của danh tức là danh vì có thể hiển nghĩa. Trong luận Du-già quyển 56 ghi: "Thuận theo thú các thứ nghĩa của sở duyên cảnh, nương vào ngôn thuyết gọi là phân biệt chủng chủng nghĩa của sở duyên cảnh. Bốn uẩn gọi là danh, thông với ba tánh chủng tử của Kiến phần và Tướng phần. Cảnh từ Kiến phần mà nói thì cũng gọi là danh, vì là sở liễu của các liễu cảnh tâm, tức là thông với Hữu lậu và Vô lậu của ba cõi, tức là nhiếp hết tất cả pháp Hữu vi". Nhiếp luận chỉ căn cứ theo ngôn thuyết danh chỉ có Hữu lậu.
Luận: "Tùy hai danh ngôn", đến "mỗi mỗi đều khác nhân duyên".
Thuật rằng: Tùy theo hai thứ danh ngôn làm duyên huân tập năm uẩn chủng cận biện thể trong Tướng phần.
Luận: "Hai tập khí của ngã chấp", đến "chủng của ngã và ngã sở".
Thuật rằng: Đây là khiến cho tự tha thành sự sai biệt của nó, thông với Thức thứ sáu và Thức thứ bảy, không phải như Nhiếp luận chỉ nói Thức thứ bảy.
Luận: "Một là câu sinh ngã chấp", đến "tự tha sai biệt".
Thuật rằng: Nhân theo ngã chấp cho nên trong Tướng phần cũng huân tập năm uẩn chủng, tức là danh ngôn huân tập. Do huân tập chủng tử ngã chấp này mà khiến cho tự tha sai biệt, cho nên lập riêng. Phần đầu thông với Thức thứ sáu và Thức thứ bảy, phần sau chỉ có Thức thứ sáu. Văn đó dễ hiểu, không cần nhọc sức giải thích.
Luận: "Ba là tập khí của hữu chi", đến "đường thiện đường ác khác nhau".
Thuật rằng: Có nói về ba hữu. Chữ "chi", nghĩa là nhân, nghĩa là phần, tức là ba hữu có nhân sinh đường thiện và đường ác sai biệt, thông Thức thứ sáu đều có huân tập này, các chi khác có thể biết. Nhưng chỗ nói chữ "chi" trong bất thiện là hiển ác nhiều hơn thiện, khiến sinh chán, khiến cho năm nẻo riêng do nghiệp lực.
Luận: "Phải biết ngã chấp", đến "là Tăng thượng duyên".
Thuật rằng: Hai thứ sau đây mong quả Dị thục, là Tăng thượng duyên, vì Dị tánh. Chỗ huân thành chủng của Tướng phần ngã chấp, tuy tạo nhân duyên Cận sinh bản thức và chủng tử Kiến phần, khiến cho đó tự tha sai biệt, cho nên thành tăng thượng. Trong danh ngôn chủng cùng với quả Dị thục làm nhân duyên cận sinh, Hữu chi làm Dị tánh của Tăng thượng duyên. Chủng tử ngã chấp làm Tăng thượng duyên khiến cho tự và tha sai biệt. Đây là Kiến phần chấp chủng tử. Hoặc chủng tử Tướng phần cũng được cận sinh, ý văn cũng như ở đây:
Thứ nhất là ngôn thuyết danh, chỉ có cõi Dục và Sơ định, vì có tầm tứ, sự huân tập đến định thứ tư đều đắc, vì nương tên gọi mà khởi huân tập, hoặc thông với Vô sắc, vì chư Thiên vô sắc là chỗ nghe Phật pháp, hiển thị danh ngôn của cảnh huân tập thông ba cõi chín Địa. Hữu chi và ngã chấp cũng đều thông ba cõi.
Thứ hai là danh ngôn huân tập thông ba tánh, hữu phần huân tập chỉ có thiện và bất thiện. Ngã chấp huân tập thông Hữu phú và Bất thiện. Câu sinh chỉ có Hữu phú, phân biệt thông với bất thiện. Thứ ba là biểu nghĩa danh ngôn chỉ có huân tập của Thức thứ sáu duyên. Hiển cảnh danh ngôn thông với bảy thức trước, vì Thức thứ tám không huân tập. Hữu chi thông với sáu thức trước, vì có thiện tánh và ác tánh. Ngã chấp chỉ có Thức thứ sáu và Thức thứ bảy. Thức thứ bảy chỉ có câu sinh, Thức thứ sáu thì thông với phân biệt.
Thứ tư là hai huân tập sau chỉ có Hữu lậu, danh ngôn huân tập thông với Vô lậu. Vô lậu cũng nương vào biểu nghĩa danh ngôn và hiển cảnh danh ngôn mà huân thành chủng. Nhiếp luận chỉ phỏng theo biểu nghĩa danh ngôn Hữu lậu mà nói, đây là nói tận lý.
Thứ năm là vị thứ, danh ngôn huân tập chỉ trừ ra Phật vị.
Thứ sáu là thứ Hữu lậu đến Địa thứ tám. Ngoài ra Thức thứ sáu và các Vô lậu thông với Thập địa. Hữu chi không phải Thánh, vì Thánh không tạo nghiệp. Nếu tạo nghiệp riêng thì không gọi là hữu chi, không phải hành chi cho nên là chỗ nhiếp của danh ngôn, hoặc loại tùy nhau cũng là hữu chi nhiếp. Phân biệt ngã chấp chỉ có tư lương vị của Dị sinh dấy khởi. Thánh thuyết thì không chung với trong vô minh, vì Dị sinh cũng không có. Câu sinh ngã chấp trừ Nhị thừa vô học, Bồ-tát Địa thứ tám trở lên cho đến Như Lai. Đây là giải thích riêng về ba tập khí, trở xuống phối hợp thuộc về tụng.
Luận: "Chỗ nói của tụng này", đến "tập khí của hữu chi".
Thuật rằng: Vì ba thứ huân tập tức là tập khí của tụng này. Chỗ nói nghiệp tập khí trong tụng này tức là tập khí của hữu chi trong ba thứ này.
Luận: "Hai thủ tập khí", đến "đều gọi là thủ".
Thuật rằng: Tức là nắm lấy ngã chấp và nắm lấy danh ngôn để làm cảnh giới, nhưng chỗ huân thành hai chủng tập khí đều gọi là thủ, nắm lấy hai thứ này cho nên gọi đó là thủ, không phải thể hai thứ này tự huân tập được mà gọi là thủ. Đây là giải thích ba tập khí trong hai câu trên của tụng.
Luận: "Đều đồng với nghĩa của văn còn lại, giải thích như trước".
Thuật rằng: Đây là nghĩa của chữ "câu" và nghĩa của tập khí, có nghĩa là trước diệt hết rồi sau mới sinh, như sư trước giải thích. Chữ "đồng" trong đây không đưa riêng ra, hoặc hữu dị đều là giải thích riêng. Các nghĩa sau căn cứ theo đây mà biết. Nhưng sự huân tập này là mười một thiện nhiếp nhau phân bằng, đều như lý mà biết. Chữ "lại nữa" thứ ba lấy mười hai chi giải thích tụng.
Luận: "Lại nữa, sinh tử tương tục do hoặc nghiệp khổ". Thuật rằng: Trong đó có hai phần:
1. Giải thích khắp hoặc nghiệp khổ thuộc văn giải thích luận.
2. Lấy hữu chi giải thích hoặc nghiệp khổ.
Trong phần đầu có ba đoạn:
1. Tổng nêu sinh tử do hoặc nghiệp khổ.
2. Giải thích riêng hoặc nghiệp khổ.
3. Chỉ cho thấy các văn ví dụ khác.
Đây là phần đầu. Hoặc nghiệp khổ, ba thứ này đáng lẽ đến phần thứ hai mới giải thích hoặc của nó, nhưng tùy theo sự phát nghiệp thứ lớp mà nói, cho nên ở đây không đảo lại.
Luận: "Phát nghiệp nhuận sinh", đến "các khổ gọi là khổ".
Thuật rằng: Phần thứ hai là giải thích riêng. Có thể cảm Hữu lậu của các nghiệp sau gọi là nghiệp, tức là thông với tất cả nghiệp của tổng báo, biệt báo, hiện báo và hậu báo. Trừ ra nghiệp Vô ký và nghiệp Vô lậu đều gọi là nghiệp vì có thể cảm Dị thục sinh. Hoặc là phát nghiệp và nhuận sinh phiền não, là tất cả phân biệt phiền não của cõi Dục trong luận Đối Pháp quyển 4, đều có thể phát nghiệp, đều là bất thiện, vì mặc tình tùy ý có thể phát ác hạnh, cũng là bất thiện, tức là ngã kiến và biên kiến của trình độ Tu đạo, và hoặc này tương ưng với tham, mạn và vô minh, không phải bất thiện.
Từ trên đến đây là nói về pháp số, nhưng trong kinh Duyên Khởi quyển thượng ghi: "Do dục và ái tạo các phước hạnh", tín của nó làm chỗ nương mà tạo hạnh này, từ sinh tử khởi quyết định tín thì ái này và thủ đều do tín nhiếp phục, ngã lập ra làm
Hữu phú vô ký, hoặc pháp cõi Dục Hữu phú vô ký thì đối với sự phát hạnh không có công năng thù thắng, lấy văn này làm chứng, cho nên lìa câu khởi pháp của ngã kiến cũng có Vô ký của độc đầu ái, tức là duyên Hữu lậu sau để khởi ái và nhuận sinh ái. Hoặc ngoài các bổn hữu vị khác khởi thì các ái này cũng là không phát nghiệp, trừ vô minh của các cõi trên phát nghiệp ra thì tất cả ái khác không phát nghiệp hoặc. Ngoài ra đều là phát nghiệp hoặc trong đây nhiếp. Ngoài ra còn các Hữu phú khởi theo là nhuận sinh nhiếp, nếu trợ giúp phát nhuận thì thông với tất cả, trong khổ thì nhiếp ba khổ và tám khổ. Vô ngã dễ hiểu.
Luận: "Chủng tử của hoặc nghiệp khổ đều gọi là tập khí".
Thuật rằng: Trước hết nói hiện hành chủng tử này, tức là tập khí của hiện hành.
Luận: "Hai tập khí trước", đến "cận sinh khổ".
Thuật rằng: Lấy ba chủng mong quả mà đàm luận về sự xa gần của nó. Hiện tại hai chủng tử của hoặc và nghiệp trong ba thứ hoặc nghiệp khổ này không phải tánh Dị thục và quả Dị tánh, mà chỉ có Tăng thượng duyên trợ sinh khổ. Chỉ làm thế lực dẫn, không phải chánh cận sinh, cho nên chủng tử của khổ và sinh tử khổ làm chánh nhân duyên, vì thể năng biện sinh khổ gần.
Luận: "Ba tập khí của tụng, như tùy ứng nên biết".
Thuật rằng: Chủng tử của hoặc và khổ gọi là hai thủ, chủng tử của nghiệp có thể biết, cho nên nói là tùy ứng.
Hỏi: Tại sao hoặc khổ trong đây gọi là thủ, nghiệp thì không gọi là thủ?
Luận: "Hoặc nghiệp gọi là thủ vì năng thủ và sở thủ".
Thuật rằng: Đây là giải thích được tên của nó. Hoặc là năng thủ, vì tánh nhiễm dính. Khổ là sở thủ, vì nhiễm chỗ dính.
Luận: "Thủ là nghĩa dính, nghiệp không được tên".
Thuật rằng: Giải thích này chỉ có nghiệp là không được tên thủ. Thế gian hữu tình phần nhiều trong hiện quả mà khởi chấp dính mắc ngôn ngữ. Hiện tại luận này là ngã và ngã sở nhiếp, tức là năng chấp trước và sở chấp trước gọi là thủ. Hữu tình thế gian phần nhiều không đối với nghiệp khởi chấp trước, như có chấp ngã mà trở thành tác giả là ngã và vật. Thuyết trước cho thủ là nghĩa nhiễm trước, vì đối với nghiệp không khởi nhiều nhiễm trước.
Luận: "Đều đồng với nghĩa của văn còn lại, giải thích như trước".
Thuật rằng: Một là căn cứ theo nghĩa trước có thể biết. Nhưng hoặc nghiệp khổ trong đây nhiếp hết tất cả hoặc nghiệp khổ, tức là tổng môn.
Luận: "Hoặc nghiệp khổ này", đến "như luận giải rộng".
Thuật rằng: Phần thứ hai biệt giải mười hai hữu chi, trong đây lấy nhiếp chung mười hai chi riêng.
Hỏi: Tại sao biết mười hai chi là riêng, nhiếp chung hoặc nghiệp khổ không hết hay sao?
Đáp: Nếu trừ vô minh, ái, thủ trong đây thì còn lại là tất cả hoặc. Trừ chánh cảm hạnh của đời sau thì còn lại là biệt báo hạnh, gồm biệt báo thể, hoặc thân hạnh của bậc Thánh và các khổ không phải mười hai chi. Ngay trong giải thích mười hai chi có ba đoạn:
1. Lấy hoặc nghiệp khổ tổng nhiếp mười hai chi, tức là đoạn văn này.
2. Thuyết minh rộng mười hai hữu chi, tức là luận nói mười hai chi này lược nhiếp làm bốn, là văn chi năng dẫn trở xuống.
3. Tổng kết chi quy về hoặc nghiệp khổ, tức là luận dưới đây nói do hoặc nghiệp khổ là mười hai chi, điều này có thể khiến cho sinh tử tương tục.
Hiện tại trong luận này nhiếp mười hai chi hoặc nghiệp khổ, chỉ như các luận khác rộng giải thích, tức là luận Du-già quyển 9, quyển 10, quyển 93; luận Đối Pháp quyển 4; luận Thập Địa quyển 8 và luận Thập Nhị Nhân Duyên của Thiên Thân tạo. Nhưng trong kinh Duyên Khởi cũng thuyết minh rất rộng, văn phụ đưa ra giải thích dưới đây trong luận này không có. Mười hai chi này lại còn lược lấy mười môn để giải thích:
1. Nêu tên chi, phân rõ thể chung và thể riêng.
2. Thuyết minh chung, riêng, tên gọi, nghĩa, được tên của chi.
3. Nguyên nhân thứ tự.
4. Nghiệp dụng chung riêng.
5. Nhân quả sai biệt.
6. Chi lẫn nhau làm duyên bốn câu liệu giản.
7. Năng dẫn sinh và sở dẫn sinh các luận đối chiếu và giải thích.
8. Phế lập và tăng giảm giải thích các vấn nạn và điều hại.
9. An định thế gian và phá tà.
10. Giải thích phân rõ các môn. Văn của luận có bốn phần:
1. Năng dẫn sinh và sở dẫn sinh.
2. Giải thích phương hại.
3. An định thế gian. 4. Phân rõ các môn.
Môn thứ nhất là nêu tên chi, phân rõ thể chung và thể riêng. Nêu tên thì đã biết rồi, tướng và phân biệt trong tổng năm sự. Trong ba tánh chỉ có tánh Y tha, một phần thủ uẩn, xứ và giới làm thể, vì thể tánh riêng khác. Dưới đây giải thích mười hai chi:
1. Một là vô minh chi, vì vô minh trong hành uẩn làm thể, không nắm lấy các pháp khác. Làm sao biết được? Kinh Duyên Khởi ghi: "Ban đầu vô minh có mười một thù thắng không phải các pháp khác". Đại luận quyển 9 ghi: "Lấy bảy Vô tri làm vô minh chi", cho nên chỉ nắm lấy vô dụng, không nắm lấy các pháp khác.
Hỏi: Nếu như thế tại sao luận Đối Pháp quyển 4 ghi: "Vô minh và hành được làm nhân duyên, vô minh đồng thời với chủng tử của tư gọi là vô minh chi?"
Đáp: Không đúng, vì đó không phải nhân duyên, luận này giải thích rằng: "Vô minh đồng thời với tư giả thuyết là vô minh, thật ra không phải chi này nhiếp". Do giả thuyết đó là hành nhân duyên, thật ra không phải nắm lấy các pháp làm thể của chi này. Đại luận quyển 10 và luận này nói là một sự, cho nên không nắm lấy các pháp khác. Lại nữa, các luận kia và luận này đều nói chánh phát nghiệp chỉ là vô minh, ngoài ra là trợ giúp cho nên không nắm lấy. Không phải như Tiểu thừa chi phỏng theo phần vị mà phân biệt, ở đây thì các vô tri có mười, chín, bảy, năm, và sáu chủng tử. Như Đại luận quyển 9 ghi: "Vô minh chi này riêng có thật tánh".
Hỏi: Làm sao biết?
Đáp: Trong mười hai chi giả và thật dưới đây nói là thật. Đại luận quyển 10 cho đến quyển 56 trong duyên khởi thiện xảo đều nói là thật. Lại nữa, quyển 55 trong thuyết minh các phiền não giả thật thì nói năm kiến là giả, vì đây là thật. Lại nữa, kinh Duyên Khởi quyển hạ và trong quyển 56 đều vấn đáp rộng để lựa riêng với các pháp khác cho nên gọi là vô minh, Câu-xá văn quyển 10 văn thế cũng đồng. Đây là thông với hiện hành và chủng tử làm thể. Kinh Thập Địa nói vô minh có hai thứ là chủng tử thời và quả thời. Kinh Duyên Khởi quyển hạ nói vô minh có bốn là tùy miên...
Lại nữa, chỉ có phát nghiệp tánh, thông với tám thiện và Vô ký, nhưng phát ba thứ vô minh khác nhau là phước, phi phước và bất động.
2. Như luận Đối Pháp quyển 7 ghi: "Hai là hành chi, lấy ba hạnh thân, ngữ và ý làm thể, tâm pháp tâm sở làm thể, nghĩa là thể của hành là tư". Ba thứ thân, ngữ và ý này tại cõi Dục gọi là phước và phi phước; thân và ngữ tại cõi sắc, ý cũng thông với Vô sắc gọi là bất động. Đại luận quyển 9 cũng đồng với giải thích này. Chi này cũng thông với hiện hành và chủng tử. Kinh Thập địa nói hành có hai thứ, là như vô minh có chủng tử thời và quả thời, hành cũng như thế, chỉ có tánh thiện và tánh bất thiện.
3. Thức chi, chỉ nắm lấy cận nhân duyên của A-lại-da thức làm thể. Quyển 93 ghi: "Nhân trong thai mẹ do thức làm duyên, tương tục sinh quả, thức tùy chuyển không dứt, tùy trì giữ chỗ có Yếtla-lam, không phải ngoài bảy thức tùy chuyển không dứt mà có thể gìn giữ được". Đoạn văn dưới của luận kia ghi: "Lại cũng tức là thức này, vị lai sau này có chỗ tùy đuổi theo của chủng tử danh sắc, không phải chỗ tùy của chủng tử bảy thức còn lại. Luận này lại ghi: "Sở dẫn chi là trong bản thức, cận sinh vị lai quả Dị thục nhiếp năm chủng của các thức", trong đây thức chủng là nhân của bản thức, cho nên biết thức chi không nắm bảy thức khác.
Hỏi: Nếu như thế tại sao Đại luận cuối quyển 9 lấy sáu thức làm thức chi đã rộng giải thích. Nói rằng thức này trong cõi Dục thì có đủ sáu thức, trong cõi Sắc thì có bốn thức, cõi Vô sắc thì chỉ có một thức?
Đáp: Trong quyển 93 tự có giải thích, nghĩa là hành làm duyên cho nên khiến cho thức chuyển biến. Hiện pháp của thức này chỉ là tánh của nhân, nhiếp thọ sẽ sinh quả của các thức. Phỏng theo tất cả tương tục làm danh nói thân của sáu thức, đã có giải thích này rồi, cho nên nói sáu thức là ngay trên tất cả thân ngữ của Nhị thừa, vì luận kia không lập có Thức thứ tám. Lại nữa, trong một thân phỏng theo tất cả thức tương tục là danh thuyết nói sáu thức, thật ra chỉ nắm lấy A-lại-da, vì quả báo chủ. Thuyết cùng với danh sắc lẫn nhau làm duyên, cho đến khi mạng chung cũng hằng tùy chuyển. Đây là chỉ có chủng tử mà không nắm lấy hiện hành.
Hỏi: Làm sao biết được?
Đáp: Đại luận quyển 10 và luận này ghi: "Thai tạng khổ".
Hỏi: Nếu như thế tại sao Đại luận quyển 9 ghi: "Ba là hành, chỗ huân phát chủng tử sáu thức và chỗ sinh quả thời của chủng tử sáu thức gọi là thức chi". Các chỗ đều nói hành huân tập đối với thức, thức và danh sắc được lẫn nhau làm duyên thức nhập thai mẹ, không phải chủng tử thời có nghĩa như vậy. Luận Thập Địa ghi: "Như vô minh có chủng tử thời và quả thời, cho đến sinh và lão tử cũng như thế?
Đáp: Luận này phần sau ghi: "Năm chủng tử này tại nhân thời thì không có trước và sau, phỏng theo thuyết trong quả vị đang sinh thì có trước và sau. Hoặc đối với hiện tại là đời quá khứ, vì sinh vị và lão tử này nói là thức chi. Có hiện hành thức nhưng thật ra chỉ có chủng tử, nếu không như thế thì liền trái với quyển 65 nói năm chủng Thai tạng khổ. Luận này trong sở dẫn chi cũng nói năm chủng đó của các thức. Thức đã như ở đây nói danh sắc nhập thai mẹ cho đến nói thọ cũng có hai chủng, nghĩa là cảnh giới thọ là duyên của ái, đều căn cứ theo đây mà biết. Năm thể này đều chỉ có chủng tử cho nên phỏng theo đương sinh vị và đối với sinh vị và lão tử vị mà nói. Nói có hiện hành, thật ra đều không có, đây là chỉ có tánh Vô phú vô ký nhiếp.
4. Danh sắc chi, có hai thứ thể: Tất cả năm uẩn Hữu lậu đều là thể này, thông với Dị thục và Phi dị thục. Như quyển 93 ghi: "Lại nữa, năm sắc căn, căn y đại chủng, căn xứ đại chủng, chỗ trụ các sắc và các danh khác, đều là danh sắc nhiếp". Đại luận quyển 9 ghi: "Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, mười Hữu sắc xứ và pháp xứ sắc đều danh sắc chi". Luận này phần sau ghi: "Hoặc danh sắc chủng tổng nhiếp năm nhân, trong đó tùy theo thù thắng mà lập, còn lại bốn chủng, lấy chung ba tánh làm thể". Hoặc căn cứ theo theo luận này và các luận khác thì lấy Dị thục và các tánh khác. Hoặc phỏng theo danh sắc không tạp loạn nhau mà nói chi này, tức là trừ ra pháp chủng của sáu căn, xúc, thọ đều là danh sắc nhiếp. Nói trong sắc uẩn trừ ra căn còn lại sắc, trừ hết thọ uẩn, trừ xúc của hành uẩn, trừ bản thức, ý căn trong thức uẩn, tưởng uẩn còn đủ, ba uẩn phần ít làm thể của danh sắc chi. Luận này đoạn sau ghi: "Thức chủng trong đây là nhân của bản thức, trừ ra ba nhân sau, các nhân còn lại đều là danh sắc chủng nhiếp, cho nên hai thể này rộng và hẹp không đồng". Thể trước tức là bốn uẩn gọi là danh, sắc uẩn gọi là sắc. Giải thích chung khắp như thế, tức là thể tướng lạm tràn, giải thích sau danh sắc năm chủng mỗi mỗi đều riêng có thể có sai biệt và chút ít tương tợ phân minh. Nếu không như thế thì vì sao gọi là năm chủng tử? Vì năm thể tức là một danh sắc, đây là chỉ có tánh Dị thục Vô ký cho nên trong tương ưng của Thức thứ tám trừ ra xúc và thọ, trong sáu thức đồng thời lại cũng trừ ra tất cả Dị thục xúc và thọ, các pháp Dị thục sáu thức hiện tại cùng với Dị thục pháp tâm sở chủng của đời quá khứ và đời vị lai, đều là thể này. Lại nữa, quyển 93 ghi: "Câu sinh năm căn, gọi đó là sắc; Vô gián diệt ý, gọi đó là danh", tức là cùng với sáu xứ không có khác thể. Nhưng nói sáu thức là thức chi, do nói cùng với xứ kia lẫn nhau làm duyên, cho nên thiên nói về sáu căn, không phải thật thể của chi này chỉ có như thế, giải thích trước là thù thắng. Đây là phỏng theo sáu xứ cùng với danh sắc chi một nghĩa không khác thể tánh mà giải thích, không phải tận lý.
5. Sáu xứ chi, tánh Vô phú vô ký chỉ có trong sáu xứ. Đây là chỉ lấy Dị thục chủng kia, tức là năm sắc căn và sáu thức trước. Hoặc có Dị thục ở đời quá khứ nói là ý, đây là phỏng theo một ý hai đời mà phân biệt, tức là nghĩa nói riêng. Nếu không như thế thì trong danh không có thức, đây là phỏng theo nhất thời cùng có năm chủng mà làm luận. Hoặc phỏng theo đương sinh phân vị mà nói, tức là danh sắc chi có đủ năm uẩn. Vị mới sinh trong quá khứ thì thức gọi là ý, cũng nhiếp trong danh, vì chưa gọi là sáu xứ, đây là chỉ có chủng tử. Có xứ cũng nói là hiện hành, như nói trong danh sắc. Dưới đây đến xúc và thọ cứ như thế mà biết.
6. Xúc chi, trừ Thức thứ bảy nắm lấy toàn bộ tương ưng xúc còn lại của Thức thứ tám. Trong sáu thức hoặc là Dị thục xúc với tất cả cũng như vậy, đây là phỏng theo năm chủng đồng thời mà luận. Hoặc theo phần vị để nói thì sau sáu xứ vị chỗ có xúc tâm sở mới là thể này. Đại luận quyển 9 ghi: "Thân của sáu xúc gọi là xúc".
7. Thọ chi, nên biết chi này cũng đồng như xúc trước, nghĩa của tác dụng và phần vị đều đồng. Nhưng luận nói thọ là ái duyên, phỏng theo sự hiện khởi thọ trong đời vị lai và lão vị của đời hiện tại mà nói, nhưng thể của nó thuộc về sinh chi. Hiện tại thọ chi của luận này chỉ ở tại chủng vị, vì năm luận đều gọi thức là Thai tạng khổ. Quyển 93 ghi: "Vì năm luận này đều chỉ có chủng tử".
8. Ái chi, chỉ có một pháp thủ ái niệm làm thể. Đại luận quyển 10 phần đầu ghi: "Ái là ái trong ba cõi, cũng thông với hiện hành và chủng tử". Luận Thập Địa văn sau ghi: "Ái chi cùng với thủ được làm nhân duyên, không phải hiện hành mong hiện thể là nhân duyên". Chủng tử ái và hiện hành là thể của chi này.
9. Thủ chi, thông với thủ tất cả phiền não. Luận Du-già ghi: "Tất cả phiền não khiến cho sinh tương tục", tức là thông với chỗ có phiền não trong Kiến đoạn và Tu đoạn khiến cho sinh tương tục. Lại nữa, văn sau ghi: "Chánh chỉ có Tu đoạn, trợ nhuận thông với Kiến đoạn". Văn trong luận phần nhiều căn cứ theo bốn thủ làm thể, hai gốc tranh cãi giữa tại gia và xuất gia. Bốn thủ lấy ba kiến và tham làm thể. Đại luận quyển 10 và 93 ghi: "Dục thủ tại sao gọi là dục tham? Kiến thủ, giới cấm thủ và ngã ngữ thủ gọi là ba kiến". Các vị tại gia lấy dục tham làm đầu mà cùng nhau tranh cãi. Các vị xuất gia lấy ba kiến làm đầu mà hưng khởi tranh cãi, cho nên ba đoạn văn bốn thủ thể trong quyển thượng và hạ của luận Du-già không đồng. Một là chỉ nắm lấy bốn thủ làm thể của bốn thủ. Hai là duyên tham của bốn thủ làm thể của bốn thủ. Ba là hoặc năng thủ, hoặc sở thủ, hoặc sở vi thủ, đều là thể của bốn thủ. Hiện tại luận này hợp chung các thủ, chỗ nói nghĩa riêng, do đó không có vấn nạn điều hại. So sánh với Biệt sao.
Hỏi: Nếu như thế tại sao kinh Thập Địa ghi: "Ái tăng trưởng gọi là thủ?"
Đáp: Dưới đây sẽ tự nói. Tuy trong thủ chi nhiếp các phiền não, nhưng thọ nhuận thù thắng mà nói là ái tăng trưởng, không phải không có hoặc khác, đây là thông với chủng tử và hiện hành. Kinh Thập Địa nói như đã dẫn chứng trong ái.
10. Hữu chi, tức là nắm lấy hiện hành trước và chủng tử của năm quả là ái và thủ thấm nhuận rồi chuyển tên là hữu. Quyển 93 ghi: "Ái thủ hòa hợp thấm nhuận trước dẫn nhân chuyển tên là hữu, là chỗ nhiếp của nhân đang sinh khởi". Đây là có hoặc chỉ có nói nghiệp, văn sau sẽ tự hiểu. Từ trên đến đây giải thích chỉ có chủng tử, do chủng tử của sáu pháp trước chuyển tên là hữu.
11. Sinh chi, tức là hiện hành của năm quả, lấy Dị thục của năm uẩn làm thể.
12. Lão tử chi, cũng như thế. Nhưng lão tử tức là sự biến diệt của năm uẩn trước, nhưng hai tên sinh và lão tử là đối với năm uẩn mà giả lạp tên, tức là Bất tương ưng hành uẩn. Hiện tại ở đây nắm lấy thật thể cũng là năm uẩn trước, ở đây không nắm lấy chủng tử vì chỉ có dẫn quả. Chủng tức là năm chủng chi trước, hoặc phỏng theo phần vị chưa nhuần trở về trước mà gọi là thức... năm chủng. Phần vị nhuận khắp trở đi đã có quả khởi gọi là sinh và lão tử cũng thông với chủng tử, không có ngăn ngại. Kinh Duyên Khởi ghi: "Sinh và dẫn đồng thời, tức là tuy nhuận khắp tổng chuyển tên là hữu, mà thức sinh quả vẫn gọi là dẫn, chỉ có nắm lấy hiện hành", đến sau sẽ rõ. Sư Tát-bà-đa mỗi mỗi đều lấy năm uẩn làm tánh, như Câuxá quyển 9, Bà-sa quyển 22, quyển 23 giải thích.
Môn thứ hai thuyết minh, chung, riêng, tên gọi, nghĩa được tên của chi. Phần đầu giải thích tên gọi chung:
Duyên khởi của danh này cũng gọi là duyên sinh. Quyển 56 ghi: "Không có chủ tể, thọ giả và tác giả. Không có tự tác dụng, không đắc tự tại, theo nhân mà sinh, nương gá nhiều duyên mà chuyển, vốn không mà hữu, hữu đã tan mất thì chỉ có chỗ hiển của pháp, năng nhuận và sở nhuận tùy theo pháp tương tục mà gọi là duyên sinh". Đại luận quyển 10 ghi: "Do phiền não trói buộc, niệm niệm sinh khởi sinh vào các nẻo, cho nên gọi là Duyên khởi". Đây là giải thích tên của chữ "y". Lại nữa, giải thích là chữ y duyên và chữ khởi tức là giải thích tên này. Chỉ có mười hai chi Hữu lậu được danh này. Lại nữa, nương gá nhiều duyên mà mau chóng tàn diệt, dựa và sát-na giải thích thông với tất cả pháp. Lại nữa, nhiều duyên quá khứ mà không xả, đây là nương vào nghĩa mà giải thích tên. Hiện tại luận đây y theo giải thích này. Lại nữa, cho đến đối với đời quá khứ giác duyên tánh rồi đồng với tương tục mà khởi. Như Thế Tôn nói: "Ta đã giác ngộ rồi, đến lúc phải nói". Triển chuyển truyền nói lại cho nên gọi là Duyên khởi. Giải thích này cũng được. Hợp chung có năm giải thích, không thể phiền dẫn ra hết. Quyển 56 ghi: "Nhân gọi là duyên khởi, quả gọi là duyên sinh" nghĩa là vô minh tùy miên này không đoạn hữu cho nên vô minh đó trói buộc hữu, hữu này trói buộc sinh cho nên các hành chuyển kia như vậy cho đến lão tử cũng như thế. Nhưng trong năm chủng quả, lấy quả trước và quả sau mong nhau làm nhân duyên. Khi làm nhân thì không phải quả, khi làm quả thì không phải nhân, vì căn cứ theo nghĩa riêng khác. Tự ý trong Câu-xá luận của Thế Thân đồng với đây, cũng được tên riêng. Kinh Duyên Khởi ghi: "Các phần như vậy mỗi mỗi đều do tự duyên hòa hợp, không thiếu sự tương tục mà khởi gọi là nghĩa của duyên khởi". Giải thích tên chung đã xong, tiếp theo phân rõ tên riêng.
Danh nghĩa được tên, là nói vô minh không phải thuộc về Lục thích, vì không có nghĩa thể riêng đáng làm Lục thích. Ban đầu là lìa vô và thuyết minh giải thích riêng, sau đó hợp chung lại tổng giải thích, cho nên gọi là ly hợp. Cựu dịch nói: "Lục thích là vậy", nghĩa là Lục thích nương vào hai pháp để lựa riêng ly hợp mới có thể giải thích. Không giống như nhãn, tuy có hai chữ gọi là Chước-sô, nhưng thể một pháp không thể lựa riêng dụng với Lục thích này. Lục thích không giải thích khắp các pháp, như Biệt sao giải thích: "Hành, là ngay nơi thể mà hiển rõ danh, tạo tác là nghĩa của hành, cũng có công năng được xứng với liễu biệt gọi là thức. Xúc cảnh gọi là xúc, lãnh nạp gọi là thọ, đam nhiễm gọi là ái, truy dục gọi là thủ, hữu quả gọi là hữu, uẩn khởi gọi là sinh". Kinh Thắng Man, kinh Duyên Khởi, luận Du-già cũng có giải thích riêng đều đồng với hành, không thể dẫn riêng. Nói danh sắc là Tương vi thích, là danh đó cùng với thể của sắc mỗi mỗi đều khác, như nói năng lập và năng phá. Quyển 56 ghi: "Hỏi: Tại sao bốn Vô sắc uẩn gọi là danh? Đáp: Thuận theo các thứ nghĩa của sở duyên cảnh, hoặc nương ngôn thuyết danh phân biệt các thứ nghĩa của sở duyên cảnh, cho nên nói là danh. Hỏi: Tại sao sắc uẩn gọi là sắc? Đáp: Đối với các nơi chỗ kia, nghĩa gieo trồng tăng trưởng và nghĩa biến ngại do đó nói là sắc. Biến ngại có hai thứ cho đến nói rộng. Đã mỗi mỗi đều hiển rõ thể riêng cho nên là Tương vi thích, không phải danh thể tức là sắc, không phải sắc nương vào danh, vì sắc là sở hữu của danh. Sáu xứ là Đới số thích, xứ là nghĩa sinh trưởng môn, thể loại bất đồng có sáu chủng, ở đây có liên đới chữ "sáu" cho nên là Đới số thích. Lão tử là nghĩa biến dị, là nghĩa lão. Diệt không có nghĩa là tử, nghĩa trước là tướng khác, nghĩa sau diệt tướng, mỗi mỗi đều có chỗ tiêu biểu đã giống như danh sắc, cho nên là Tương vi thích. Không nói tướng khác mà nói lão là hủy bỏ hỏi vặn chữ "danh", cũng là Tương vi thích, vì lão tử khác nhau.
Môn thứ ba: Nguyên nhân thứ tự. Đại luận quyển 10 có ba chữ "lại nữa" để giải thích:
Thứ nhất nói: Những người si chủ yếu trước hết ngu đối với các sự đáng nên biết mới khởi tà hạnh, vì khởi tà hạnh cho nên khiến tâm điên đảo, vì tâm điên đảo cho nên kết sinh tương tục, vì sinh tương tục cho nên các căn viên mãn, vì căn viên mãn cho nên thọ dụng cảnh, vì thọ dụng cảnh cho nên đam nhiễm mong cầu, vì đam nhiễm mong cầu cho nên phiền não được nuôi lớn, phiền não được nuôi lớn cho nên phát hậu hữu nghiệp, nghiệp được thấm nhuần cho nên quả năm nẻo sinh, sinh đã biến hoại thì lão tử sinh khởi, cho nên mười hai chi thứ lớp như vậy. Đây là phỏng theo năm quả đang sinh khởi làm nhân thứ lớp.
Thứ hai nói: Phỏng theo nhân duyên kiến lập mười hai hữu chi, trong sáu chi trước là nội thân duyên lập:
I. Hữu tình ưa xuất thế giảm duyên khởi tăng thêm bạch pháp.
II. Hữu tình ưa thế gian lập sáu chi trước.
III. Hữu tình ưa chấp cảnh giới lập sáu chi sau: Như luận kia giải thích rộng, cho nên mười hai chi thứ lớp như vậy. Hai pháp này cũng phỏng theo quả vị đang sinh mà nói thứ lớp của nhân, vì khi năm nhân chi của thức huân tập thì không có thứ lớp. Kinh Duyên Khởi ghi: "Trong một thời mà khởi thứ lớp tuyên thuyết".
Hỏi: Nếu như thế tại sao trong tịnh duyên khởi thì trước hết quán lão tử và nghịch quán duyên khởi?
Đáp: Y theo đạo lý trước sau của đế mà lập, như các xứ khác nói. Nhiễm trong đây là nương vào lân cận thứ lớp nhân quả hai đời mà nói. Cách qua một thân hoặc nhiều thân mà nói, tức là bất định. Tư thì cũng căn cứ theo đây mà biết, sau đây cũng phân rõ sơ lược.
IV. Nghiệp dụng chung riêng: Nghĩa là nghiệp dụng này có thể khiến cho hữu tình sinh tử lưu chuyển. Thể của sinh tử là sinh và lão tử. Mười chi trước có thể khiến cho sinh chuyển, đó là nghiệp chung dụng. Nghiệp riêng dụng, luận Đối Pháp ghi: "Vô minh có hai nghiệp: một là khiến cho hữu tình có ngu si, vì do vô minh che lấp cho nên đối với ba đời không hiểu rõ như thật mà khởi nghi quá khứ và vị lai. Hai là cùng với hành làm duyên, nói rằng do sức của vô minh khiến cho hậu hữu nghiệp được tăng trưởng".
Kinh Thập Địa ghi: "Vô minh có hai đoạn: một là si trong duyên khiến cho chúng sinh hoặc, tức là trước đối với hữu sở trí cảnh không hiểu rõ cho nên nghi ngờ. Hai là cùng với hành làm nhân". Đồng với luận Đối Pháp trước, ngoài ra cho đến lão tử, luận Đối Pháp phần hai nghiệp ghi: "Một là khiến cho thời phân của hữu tình biến dị, hoại có chút ít thịnh. Hai là khiến cho thọ mạng của hữu tình biến dị hoại mạng căn". Kinh Thập Địa ghi: "Lão có hai đoạn: một khiến cho các căn thuần thục, hai cùng với tử làm nhân. Tử có hai đoạn: một là hoại thân năm Ấm; hai là vì không thấy biết cho nên khiến cho tương tục không đoạn". Nhưng luận Đối Pháp thì hợp chung lại làm pháp, luận Thập Địa thì khai mở ra.
Lại nữa, luận Đối Pháp phỏng theo lão tử không có nghĩa của quả cuối cùng, luận Thập Địa thì phỏng theo tử có quả mà làm luận, cho nên vì không có tri kiến mà tương tục không đoạn. Lại nữa, vì mười hai chi trước luận Thập Địa quyển thượng hạ đều đồng luận này, văn tuy khác chút ít, ý nghĩa đại khái đồng, không phiền dẫn ra.
Hỏi: Lại như phước nghiệp và bất động nghiệp trong hành lấy lực chánh giản trạch mà khởi, tại sao vẫn nói lấy vô minh làm duyên?
Đáp: Luận Du-già quyển 10 ghi: "Do không biết rõ thế tục khổ cho nên khởi phi phước hạnh. Do không hiểu suốt thắng nghĩa khổ cho nên khởi phước hạnh và bất động hạnh". Kinh Duyên Khởi cũng ghi: "Lại nữa, vì vô tri cho nên đối với phi đối trị mà khởi đối trị tưởng, tạo các phước hạnh hoặc bất động hạnh, cho nên lấy vô minh làm nhân sinh phước hạnh và bất động hạnh. Thế tục thắng nghĩa khổ, không phải là khổ khổ và hoại khổ gọi là thế tục, hành khổ gọi là Thắng nghĩa. Nếu như thế thì sắc và Vô sắc không có hoại khổ, hoặc cũng là mê thì kia lẽ nào chỉ phát khởi phi phước hạnh! Chỉ có thể tổng nói thế tục gọi là dị liễu tri gọi là thế tục khổ, tức là khổ ba đường, vì người kia không hiểu rõ cho nên tạo phi phước hạnh. Nan liễu tri gọi là Thắng nghĩa khổ, tức là nẻo thiện trời người. Thể của Thắng nghĩa đạo lý đều là khổ, thế tục khó hiểu cho là thiện thắng, vì mê đạo lý đó cho nên tạo phước hạnh và bất động hạnh. Như vậy cũng có hoại khổ, gọi là Thắng nghĩa khổ. Không thể phán phân nhất định là ba khổ phân ra. Như luận Đối Pháp quyển 7, Đại luận quyển 10, luận Hiển Dương phẩm Phá Khổ và Biệt sao nói.
Hỏi: Như kinh nói các nghiệp lấy tham, sân, si làm duyên, tại sao chỉ nói si?
Đáp: Trong đây nói chung phước, phi phước và bất động. Tham sân si duyên chỉ có sinh phi phước. Hỏi: Chỗ phát khởi của tư trong hai nghiệp của thân và ngữ, nhưng hành cũng duyên hành, tại sao chỉ nói vô minh làm duyên?
Đáp: Y theo duyên phát tất cả hạnh mà nói, y theo tư duyên sinh thiện và nhiễm mà nói thì hành này như vậy, đã có hỏi và đáp rồi. Cho đến lão tử hỏi đáp đều như thế, như Đại luận quyển 10 mỗi mỗi đều nói rộng, không thể phiền dẫn ra. Trong đây lại nói lân cận vô minh cùng với hành làm duyên, hoặc cách qua một chi hai chi làm duyên cho đến lão tử cũng như thế. Nhưng chi sau không phải duyên của chi trước, không phải làm cho đoạn chi trước mà tu chi sau, chỉ làm cho đoạn chi sau mà tu phát sinh chi trước.
V. Nhân quả sai biệt. Nhân quả này có năm thứ: 1. Đẳng khởi nhân quả, là các chi trước trước làm nhân, các chi sau sau làm quả. Trong mười hai chi, vô minh chỉ có nhân, lão tử chỉ có quả, còn lại thì cũng là nhân cũng là quả. Vô minh không có chỗ tùng theo, lão tử thì không có chỗ khởi. Đây là phỏng theo trong mười hai phân biệt, cho nên quyển 10 ghi: "Một chi đầu chỉ có nhân, một chi sau chỉ có quả".
Bổn mạt nhân quả. Vô minh, ái, thủ, ba thể này là phiền não, nghiệp khổ là gốc cho nên chỉ là nhân. Hai chi sinh và lão tử chỉ là quả thể, chỉ là khổ, quả của hoặc nghiệp, quả của năm chủng, các chi còn lại thì cũng là nhân cũng là quả, là quả của phiền não, là nhân của sinh và lão tử. Quyển 10 ghi: "Ba chi chỉ là nhân, hai chi chỉ là quả, các chi còn lại thì thông với nhân và quả. Lại nữa, sinh và lão tử chỉ có quả, vì là ngọn. Sáu chi trước cùng với ba chi ái, thủ, hữu là nhân, vì là gốc. Thọ thông với nhân quả, thông với gốc và ngọn". Quyển 10 ghi: "Sáu chi trước cùng với ba chi ái, thủ, hữu là nhân phần, hai chi sau làm quả phần. Thọ thông với hai chủng". Phần này có hai thứ, rộng như luận kia nói.
2. Dị thục nhân quả và phi Dị thục nhân quả, tức là thức... năm chủng và bảy pháp của sinh, lão tử là quả. Thức... năm chủng mong sinh và lão tử, tuy là khổ nhân, nhưng đối với hiện hành thì năm chủng cũng nói là hiện hành, tức là trong sinh vị và lão tử vị mà nói. Bảy pháp là quả Dị thục pháp cho nên cũng là chánh quả thể, ngoài ra năm chủng là nhân không phải Dị thục. Quyển 56 ghi: "Lại nữa, chỗ nhiếp của đời hiện tại quả là năm chi, và chỗ nhiếp của vị lai quả là hai chi, gọi chung là chỗ nhiếp Duyên khởi của quả, nên biết các chi còn lại là chỗ nhiếp Duyên khởi của nhân, cho nên luận Trung Biên quyển thượng ghi: "Có nhân tạp nhiễm và quả tạp nhiễm. Nhân tạp nhiễm là phiền não nghiệp phần, quả tạp nhiễm là các phần khác".
3. Chi đã thục và chưa thục nhân quả. Bảy chi trước là nhân cũng chưa thục; năm chi sau là quả, cũng đã thục, nghĩa là vô minh thục thì trở thành ái và thủ, vì ái và thủ là vô minh trước tăng trưởng. Hữu là sáu pháp thục của hành, hai chi sinh và lão tử là chánh thục thời. Thục là thục biến; đối với nhân thời có năng dẫn và sở dẫn; đối với quả thời, có năng sinh và sở sinh, có giải thích như vậy. Ái, thủ và hữu là ba chi lân cận quả cho nên gọi đó là quả. Nếu như thế thì chánh sinh quả, tức là thức... năm chủng đáng lẽ cũng gọi là quả. Giải thích trước là thù thắng.
4. Chánh thục, phi chánh thục nhân quả, tức là mười chi trước là nhân, hai chi sau là quả. Hai chi sinh và lão tử là chánh thục. Đại luận quyển 9 và quyển 10 đều ghi: "Năng dẫn và sở dẫn đều là dẫn nhân, dẫn hai chủng quả của sinh và lão tử". Năng sinh là sinh nhân, vì do cận sinh sinh khởi. Hai chi sinh và lão tử là hai nhân quả, cho nên là thể của Chánh thục quả, tức là văn dưới của luận này nói mười nhân và hai quả. Hoặc phỏng theo đương sinh vị của năm quả mà nói tuy cũng là quả, nhưng hiện tại thuyết minh phân định thể bất thủ thì mười hai chi nhân quả trong đây mong lẫn nhau càng không có tăng giảm. Vô minh mong tự chủng tuy thành nhân quả, không phải chỗ thuyết minh ở đây, vì tự chi của nó nhiếp.
Sơ lược năm môn này nhiếp các kinh luận làm nghĩa của nhân quả thì càng không có tăng giảm.
VI. Chi lẫn nhau làm duyên bốn câu liệu giản.
Hỏi: Nếu pháp mà vô minh duyên đó là hành, hoặc là hành mà vô minh làm duyên phải không?
Đáp: Phải tạo bốn câu: câu thứ nhất là Vô lậu, Vô Phú vô ký hành; câu thứ hai là trừ hành ra, còn lại các chi khác; câu thứ ba là hành chi; câu thứ tư là Vô lậu thức. Như vậy cho đến thọ mong ái là bốn câu: câu thứ nhất là mong cầu giải thoát, y theo thiện ái mà xả các ái khác; câu thứ hai là chỗ sinh thị do vô minh xúc làm duyên, sinh trừ ái ra, còn lại các hữu chi khác; câu thứ ba là ái chi; câu thứ tư là khả tri, ái mong thủ làm thuận, câu đáp sau.
Nói thủ đều là thọ làm duyên, có ái làm duyên thì không phải thủ. Nói trừ thủ ra còn lại các chi khác, như vậy cho đến sinh mong lão tử đều thuận với câu đáp sau. Hoặc sinh là duyên không phải lão tử, là tật bệnh, oán tắng hội khổ... còn lại có thể biết. Như vậy mỗi mỗi đều như Đại luận quyển 10 giải thích rộng. Lấy sáu môn trên, tuy luận này có thể tánh môn thứ nhất, nhưng vì bốn nghĩa của năng dẫn nhiếp, văn thế thì lâu dài, nghĩa lý thì tản rộng, e rằng người học khó hiểu, cho nên trong luận này riêng tóm lược nêu ra thể. Chỗ thuyết minh về xứ của luận, gọi là năng dẫn, đến sau sẽ giải thích.
VII. Năng dẫn sinh và sở dẫn sinh các luận đối chiếu và giải thích.
Luận: "Nhưng mười hai chi lược nhiếp làm bốn".
Thuật rằng: Từ đây trở xuống cho đến lão không phải quyết định có, phụ với tử mà lập chi trở lại, là năng sở dẫn môn. Luận tự có văn, không mượn huyền giải. Chỗ không có của luận, là tùy theo văn mà phụ nêu ra, tức là bốn phần. Thứ nhất trong năng dẫn, phần đầu chánh nêu ra thể để giải thích tên. Thứ hai là riêng giải thích lại.
Luận: "Một là năng dẫn chi", đến "chủng tử của năm quả".
Thuật rằng: Nói rằng vô minh hành, là đưa ra năng dẫn thể, có thể dẫn chủng tử năm quả của thức. Giải thích năng dẫn danh, tuy hai chi này cùng với sinh và lão tử làm dẫn nhân thể mà mười chi trước đều là nhân, không thể mong xa hai quả làm năng dẫn chi, chỉ mong chủng tử chỗ tăng gần gọi là năng dẫn.
Luận: "Vô minh trong đây", đến "thiện ác nghiệp".
Thuật rằng: Giải thích lại. Nói trong đây, tức là lựa riêng với nghĩa của chữ "trì", phân biệt như thường, trước hết giải thích vô minh, nghĩa là các vô minh, như kinh Thắng Man nói có năm Trụ địa, tức là kiến nhất xứ, dục, sắc, vô sắc hữu và Vô minh trụ địa. Bốn thứ trước là phiền não chướng, có thể phát sinh các nghiệp; thứ năm sau là Sở tri chướng không thể phát nghiệp. Hoặc nói phát khắp hết thân nghiệp và ngữ nghiệp thì chướng này cũng có thể. Phật Địa quyển 7 nói nếu sở phát nghiệp và quả sở đắc đều là Sở tri chướng, cuối luận này trong Đoạn phạm giới ngu của Địa thứ hai thì Sở tri chướng cũng có thể phát nghiệp, chỉ có tánh nhiễm ô là mong Bồ-tát và mong các pháp không nhiễm khác; phi thiện và bất thiện không thể chiêu gọi sinh khởi. Thủ của vô minh chi phát nghiệp là có thể phát khởi thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, cho nên trong năm vô minh chỉ có bốn pháp trước của thủ. Trong bốn pháp trước có thể phát nghiệp là toàn Kiến đạo và một phần Tu đạo; không phát nghiệp là một phần Tu đạo. Trong phát nghiệp, có pháp có thể phát chung cả nghiệp chung và nghiệp riêng, có pháp chỉ phát báo chung, có pháp chỉ phát báo riêng. Thủ này gồm phát cả chung riêng và chỉ phát báo chung, bất thủ chỉ phát riêng. Trong đó lại có trợ chánh phát nghiệp, là lựa riêng trợ đều không phải là chi này. Vô minh này chỉ có thủ có thể phát chánh chiêu cảm nghiệp thiện ác đời sau, gọi là vô minh chi, chỉ phát chiêu cảm tổng hành xứ vô minh gọi đó là chánh, trong đó lấy kiến đạo và Tu đạo trong vô minh nào là chánh trợ, cho đến Đế nào tương ưng, cộng phân biệt hay bất cộng phân biệt. Kinh Duyên Khởi quyển hạ nói vô minh có bốn, đều nên theo đó mà nói.
Luận: "Tức là chỗ phát của nó mới là hành".
Thuật rằng: Tức là chỗ phát của nó cảm tổng ba nghiệp, mà gọi là hành.
Luận: "Do đây tất cả", đến "đều không phải hành chi".
Thuật rằng: Đây là lựa riêng các chỗ sai. Do đạo lý này, tất cả hiện báo nghiệp riêng và trợ đương nghiệp đều không phải hành chi. Tất cả hiện nghiệp đều chỉ có năng cảm báo riêng quả, cũng do văn này tức là chứng hiện nghiệp không cảm dẫn quả. Trong cảm đương nghiệp, riêng có một nghiệp chỉ cảm báo riêng, cũng không phải hành chi. Do đây tức là hiển nếu có một nghiệp chỉ cảm báo chung, lại có một nghiệp cảm chung cả chung và riêng đều thuộc về hành chi. Kinh Duyên Khởi ghi: "Bậc Thánh không tạo hậu hữu nghiệp". Luận Đối Pháp quyển 7 ghi: "Bậc Thánh không tạo nghiệp, vì không có Chân thật nghĩa ngu". Lại nữa, luận Du-già quyển 10 ghi: "Hữu chi không phải bậc Hữu học nhiếp, không phải báo riêng". Trong luận này có nói: "Học là giải thoát phần làm thể, từ sơ phát tâm trở đi đều không tạo hậu hữu dẫn nghiệp". Điều này cũng không đúng, tại sao vậy? Kinh Duyên Khởi quyển hạ ghi: "Nội pháp Dị sinh Bất phóng dật là chỗ có phước hạnh và bất động hạnh". Không phải vô minh làm duyên, là không khởi hiện hành tương ưng vô minh mà dẫn phát. Hoặc phóng dật là chỗ dẫn phát của ba chủng vô minh. Bất phóng dật, là lựa riêng đối với vô minh này, cho nên nói hành kia không phải vô minh dẫn phát, không phải chủng tử của vô minh kia không phát hành, được thành báo chung. Luận Đối Pháp quyển 7 ghi: "Có hai thứ ngu: một là Dị thục ngu, hai là chân thật nghĩa ngu". Do phát phước và bất động sau, ban đầu thì phát phi phước vì không có phước, bất động thì không phải là chỗ phát của vô minh. Nếu không như thế thì tại sao kinh kia ghi: "Ta nói chư Thánh hữu học không tạo nghiệp mới, không nói nội pháp Dị sinh không tạo nghiệp mới?" Do đây nên biết Thuận giải thoát phần, Thuận quyết trạch phần thiện mới là tánh. Có thể trái nghịch với hữu còn có cảm với báo chung là vô minh và hành chi. Sinh đắc thiện pháp trong hai vị kia là hành chi cảm báo chung. Hoặc nói hai vị kia mới là thiện pháp không cảm báo chung, trong đây chỗ nói cảm báo chung nghiệp mới thành hành chi, cho nên kinh Duyên Khởi lại ghi: "Nội pháp không phóng dật thì hành không phải vô minh dẫn". Tuy nói cảm báo, nhưng chỉ có báo riêng nhân. Do đạo lý này, đã là chỗ có nghiệp thì không phải hành chi. Hiện tại chỗ có nghiệp cũng không phải là thể của hành. Nếu không như thế thì báo riêng có lỗi tương vi, vì chiêu cảm sinh tử không phải thù thắng, không phải chánh hành chi, không phải phi hành. Nếu không như thế thì trong một đời chỉ có chung hành kiêm riêng hành. Ngoài ra có thể cảm Dị thục báo riêng danh sắc chi. Đáng lẽ không phải hành chiêu cảm, do đó mà biết, chỉ có nghiệp riêng quả đã gọi là danh sắc. Thể của báo riêng nhân đáng lẽ gọi là hành chi, hoặc chánh Dị thục gọi là sắc chi, hoặc chỉ có báo chung, hoặc kiêm chung và riêng, hoặc kiêm danh sắc chi, chỉ có mãn quả cũng như vậy, hành chi cũng như thế. Chánh hành như báo chỉ có cảm báo chung, hoặc kiêm chung và riêng, hoặc kiêm hành chi chỉ có cảm báo riêng, các hành cũng vậy. Thánh không tạo nghiệp, phỏng theo chánh hành chi thì báo riêng tức là danh sắc, kiêm danh sắc chi nhiếp, cũng không có lỗi tương vi. Luận này chỉ nắm lấy chánh hành gọi là hành, kiêm hành thì không phải. Không riêng một mình có thể khiên dẫn hậu hữu báo, nhưng nghiệp là hành. Nếu không như thế tức là có lý hại như trước, cho nên trừ bỏ, đã như thế thì trái lại hiển năng phát. Hành kia chỗ có vô minh, không phải vô minh chi trong duyên khởi nhiếp, chỉ là chỗ tóm lấy của hữu phần huân tập.
Luận: "Hai là sở dẫn chi", đến "sở dẫn phát".
Thuật rằng: Nêu ra sở dẫn thể kiêm giải thích tên của nó. Điều này cũng có hai phần, như trước có thể biết, nghĩa là nội trong bản thức nêu ra thể, tức là bên trong bản thức của Thức thứ tám. Nói các hành trước là Tăng thượng duyên, chỗ phát nhân duyên của danh ngôn và chỗ huân tập khí, cận sinh chủng tử của năm quả vị lai, là hai chi trước quả Dị thục nhiếp. Thức... năm chủng là sở dẫn thể, tức là hiển chủng tử nhân duyên của đương quả. Thông với báo chung và báo riêng tức là toàn thức chi và danh sắc gồm phần ít ý xứ, xúc và thọ, là báo chung thể. Trừ Thức thứ tám và tương ưng pháp, còn lại đều là báo riêng, là sở dẫn phát của hai chi trước. Giải thích tên sở dẫn, năm chủng tử này tuy là đương quả cận nhân duyên tánh chính là dẫn nhân, nhưng cận hành huân tập, từ năng huân hành nói là sở dẫn. Nói bản thức, là lựa riêng tâm và tâm sở có chủng tử của sư Kinh bộ, lại cũng lựa riêng với tự tánh, tuy là nhân sinh tử, nhưng không phải bên trong bản thức. Nói cận sinh, là lựa riêng riêng với tự nghiệp chủng và nghiệp của Tát-bà-đa làm nhân duyên, vì không phải cận sinh. Sở dẫn phát, có ba nghĩa giải thích, là bổn hữu, tân huân và nhị hợp dụng.
Luận: "Thức chủng trong đây", đến "tức là ba chủng sau".
Thuật rằng: Giải thích lại. Tựu trung có hai phần, phần đầu phân rõ năm chủng thể tánh ly và tạp. Điều này có hai đoạn:
1. Một là lìa tên của năm chủng gọi là thể riêng. Thức chủng trong năm chủng tức là nhân của bản thức, là nhân duyên chủng của A-lại-da thức, trừ sáu căn sau và ba chủng của xúc và thọ, còn lại sắc và nhân duyên chủng của bốn uẩn đều là chỗ nhiếp của chủng tử danh sắc. Sáu xứ sau gồm xúc chủng và thọ chủng, như là ba tên. Trong đề phòng vấn nạn và trái với văn luận, như trong phần nêu thể đã giải thích xong.
2. Hai là năm chủng tạp.
Luận: "Danh sắc chủng", đến "chung và riêng cũng vậy".
Thuật rằng: Danh sắc chủng của nó tổng nhiếp năm nhân, các luận đều nói là ngu uẩn tánh, trước đã dẫn chứng rồi. Trong đó tùy chỗ thù thắng mà lập, còn lại bốn chủng thì chấp trì thức là thù thắng, sinh thức thù thắng, xúc cảnh xúc thù thắng, lãnh nạp thọ thù thắng, do đó lập ra bốn chủng. Hoặc báo chủ thức thù thắng, thức y xứ thù thắng, thọ nhân xúc thù thắng, thọ cảnh thọ thù thắng, hoặc ái nhân thọ thù thắng, cho nên lập riêng bốn chủng, do đó còn lại tưởng... không lập chi riêng. Do sáu xứ này gọi là chung, vì nhiếp sáu thức giới. Thức chi là riêng, vì ý giới nhiếp, cũng do nghĩa thù thắng lìa riêng trong chung cứ theo đây cũng vậy.
Đây là chung thứ nhất ly và hai tạp thể.
Luận: "Tập luận nói thức", đến "gọi là thức chi".
Thuật rằng: Một là giải thích hại nạn, trong đây có năm phần:
1. Một là tổng hợp Tập luận, hoặc năm sở dẫn.
2. Hai là làm năng dẫn.
Tại sao Tập luận gọi là thức năng dẫn? Ba và bốn có khác, Tập luận nói thức cũng là năng dẫn, cũng là hai chi trước làm phần thứ ba. Toại Trí cũng nói: "Nghiệp chủng trong thức gọi là thức chi, chủng tử trong thức thông với hữu hành thức, cho nên nói hành chủng lấy làm thức chi, là năng dẫn nhiếp". Nếu như thế thì thức chủng là chỗ nhiếp của pháp nào?
Luận: "Dị thục thức chủng là danh sắc nhiếp". Thuật rằng: Danh sắc thể rộng như trước đã nói. Luận: "Kinh nói thức chi", đến "đều gọi là thức". Thuật rằng: Hai là khế hợp Khế kinh.
Hỏi: Tập luận thì có thể như thế. Kinh Duyên Khởi quyển thượng ghi: "Thức chi này thông với năng dẫn và sở dẫn". Thức này thông như thế nào? Đáp: Kinh kia nói thông với năng dẫn và sở dẫn, nghiệp chủng và thức chủng đều gọi là thức, mỗi mỗi đều khác nghĩa mà nói, không phải quyết định tương vi, tại sao thức chủng không đồng chỗ nhiếp danh sắc của Tập luận?
Luận: "Thức là danh sắc y, không phải danh sắc nhiếp".
Thuật rằng: Kinh nói thức chủng là sở y của danh sắc, vì không phải là danh sắc, tức là ngoài sắc ra mà riêng nói danh sắc. Hoặc toàn năm chủng gọi là sở dẫn chi, tại sao kinh Duyên Khởi quyển thượng ghi: "Một phần danh sắc, sáu xứ, xúc và thọ cũng gọi là sở sinh?"
Đáp: Nương vào chủng đang hiện hành cho nên nói như vậy, không phải nói rằng chủng tử tức là chỗ sinh của danh.
Hỏi: Nếu như thế thì thức chủng tại sao không nói?
Đáp: Đã nói chủng kia thông với năng dẫn và sở dẫn mà lược bỏ không nói thức có hiện hành. Lại nữa, nói danh sắc nhập thai mẹ, chỉ nói thức chi là chủng tử nhiếp.
Hỏi: Nếu như thế tại sao kinh kia cũng nói:
"Thọ chi một phần gọi là năng dẫn chi?" Đáp: Hiện hành thọ có hai phần:
1. Nội Dị thục thọ, kinh kia nói là sở sinh chi nhiếp, phỏng theo đương sinh vị gọi là năng sinh.
2. Cảnh giới thọ, là hay sinh ái cho nên kinh kia nói là năng sinh chi nhiếp, cũng không trái lý.
Quyển 93 ghi: "Một là lãnh thọ nội quả, hai là lãnh thọ cảnh giới. Do mê quả bên trong cho nên tạo các hạnh. Do mê quả bên ngoài cho nên phát sinh tham ái thấm nhuần dẫn nhân trước, cho đến nói rộng". Do lý này chứng thật không trái nhau.
Hỏi: Năm chủng tử này làm sự huân và phát trước sau, là nhất thời huân phải không?
Đáp: Nhất thời huân.
Hỏi: Nếu như thế thì tại sao nói có trước sau?
Luận: "Thức... năm chủng", đến "giả thuyết trước sau".
Thuật rằng: Ba là giải thích chiết phục vấn nạn. Chiết phục vấn nạn như trước. Câu đáp này có hai phần. Trước là Thức... năm chủng do nghiệp huân và phát. Vị cảm chiêu tuy thật ra là đồng thời nhưng nương vào chủ và bạn khác nhau, cho nên giả thuyết trước sau. Không phải chủ bạn Dị thục trợ giúp cho bạn sinh. Ngay trong bốn pháp kia thì danh sắc là chung, vì thể tánh rộng; còn lại ba pháp là riêng, vì nghĩa dụng hẹp. Ngay trong ba pháp sau thì sáu xứ là thù thắng, vì là chỗ y của thọ, hai pháp còn lại thì yếu kém, vì nương vào xứ mà sinh. Ngay trong hai pháp sau thì xúc là nhân thù thắng, vì hay sinh thọ, thọ là quả thể, vì là chỗ sinh của xúc. Do năm chi này có các thứ như vậy trên mỗi mỗi tướng khác nhau mà chư Thánh giáo giả thuyết trước sau. Thể thật ra đồng thời. Trong đây ý muốn nói rằng, danh ngôn huân tập và phát sinh năm chủng này tuy có trước sau tạp loạn bất định. Đối với tướng sinh quả, chưa phân rõ tướng nào trước tướng nào sau. Do hành huân thức, chủng tử của nghiệp lực làm thành, khiến cho năm chủng tử nhất thời chuyển biến trong sinh lão vị có thể sinh tự quả. Hiện tại luận này cho rằng do hành tăng thượng sở phát mà nói là nhất thời, vì không phải danh ngôn huân tập thì chắc chắn là nhất thời. Đây là nương vào thật mà giải thích.
Luận: "Hoặc nương vào đương lai", đến "nói có trước sau".
Thuật rằng: Hoặc nương vào phần vị đương lai sinh khởi, hoặc nương vào phần vị hiện tại đã khởi mà có phần vị thứ lớp, nói năm chủng của nhân trước sau không đồng. Không phải khi hành huân tập và thật sinh quả có trước sau. Đây là nương vào phần vị, không phải thật thể.
Hỏi: Nếu thật năm chủng này chỉ là chủng tử, tại sao các Thánh giáo trong thức và danh sắc lẫn nhau làm duyên, cũng nói hiện hành?
Luận: "Do thức này", đến "nghĩa của hiện hành".
Thuật rằng: Bốn là tổng hợp vấn nạn hiện hành. Hiện tại là đáp, do đây nên khởi lý. Năm chi của thức, luận Thập Địa, luận Đối Pháp cũng nói hiện hành, vì tại nhân thời quyết định không có nghĩa hiện hành. Kinh Duyên Khởi quyển thượng ghi: "Thế Tôn! Do duyên gì mà chủng tử của danh sắc trong Dị thục thức đồng thời dẫn phát, mà lại nói có thứ lớp trước sau?" Thế Tôn bảo rằng: "Nó đối với đương lai trước sau thứ lớp mà sinh khởi". Như vậy mà nói chính là cùng với đây đồng.
Hỏi: Nếu ban đầu khi huân tập chưa thể hiện khởi thì tại sao kinh Duyên Khởi quyển thượng nói sinh và dẫn đồng thời?
Luận: "Lại nữa do thuyết này", đến "chắc chắn không đồng thời".
Thuật rằng: Năm là tổng hợp vấn nạn đồng thời. Lại do lý này, kinh nói sinh và dẫn đều là đồng thời, làm sao biết được đối với đương khởi vị mà nói đồng thời?
Đáp: Khi mới huân chưa có thể hiện khởi, khi nhuần hoặc chưa nhuần thì chắc chắn không đồng thời. Nói rằng khi mới huân thì các ái chưa nhuần, tuy trải qua tám vạn kiếp, cuối cùng không sinh quả. Ái sau nhuần mới sinh hiện hành, hoặc khi mới huân thì liền có thể sinh hiện hành, đáng lẽ sơ huân vị thì liền có ái.
Hỏi: Nếu như thế tại sao tạo khi nhuần thì khác nhau?
Đáp: Do nhuần và chưa nhuần thì chắc chắn không đồng thời. Đối với đương khởi vị mới nói sinh và dẫn thừa nhận có đồng thời, thể của nó là một. Vị riêng thuyết cho nên có sinh và dẫn khác nhau, nhuận duyên của nó hợp chung, có thể được tên hai nghĩa của sinh và dẫn, tức là sáu chủng của hành, tên gọi riêng là dẫn, tên gọi chung là hữu. Kinh cũng không nói quyết định là đồng thời.
Hỏi: Nếu như thế tại sao trước nói dẫn của nó, sau nói sinh của nó?
Đáp: Khi nhuần đã sinh, tuy không có trước sau, nhuần vị và chưa nhuần vị trước sau quyết định khác nhau, chắc chắn trước có dẫn, sau có sinh, cho nên nói dẫn ở trước sinh ở sau. Kinh Duyên Khởi quyển thượng ghi: "Thế Tôn bảo rằng, năng dẫn và sinh chi trong nhất thời mà khởi thứ lớp để tuyên thuyết". Phải do có dẫn sau đó có sinh, hoặc mong sự xa gần của sở sinh quả.
Luận: "Ba chi năng sinh", đến "sinh và lão tử". Thuật rằng: Văn trong đây có hai, như chỗ giải thích trên. Nêu ra thể của ái, thủ và hữu. Hiện tại luận này lấy ba pháp làm năng sinh thể. Sinh và lão tử của cận sinh đương lai là để giải thích tên của sinh, tuy hai chi ái và thủ cũng có thể nhuần sáu dẫn nhân thể trước gọi là năng nhuận, lấy cận đương sinh quả chỉ nói năng sinh. Đây là giải thích tên gọi, phần thứ nhất là chung, thứ hai là giải thích lại, tựu trung có ba đoạn, đoạn đầu là ở trước.
Luận: "Nói rằng duyên mê bên trong", đến "chủng năm quả đã xong".
Thuật rằng: Đây là đoạn văn trước. Nghĩa này có ý nói, tiếp theo dẫn thọ trước có hai chủng, là nội Dị thục thọ và ngoại cảnh giới thọ. Khi thọ nội Dị thục, do mê nội quả Dị thục vô minh, không biết hai khổ, cho nên tùy theo chỗ thích đáng tạo ra ba chủng hành là Tăng thượng duyên mà dẫn khởi đương lai sinh và lão tử vị. Năm quả nhân duyên chủng của thức đã nói xong. Thứ hai là chánh giải thích tướng của nhuận sinh.
Luận: "Lại y theo mê ngoại", đến "bốn thủ của dục".
Thuật rằng: Lại y theo mê ngoại cảnh mà tăng thêm quả ngu, lấy cảnh giới thọ làm duyên phát khởi tham ái phiền não, duyên ái lại sinh bốn thủ của dục. Bốn thủ là dục thủ, kiến thủ, giới thủ và ngã ngữ thủ, lại như Xu Yếu giải thích.
Luận: "Ái thủ hợp với nhuận", đến "sau đó có quả".
Thuật rằng: Hai hòa hợp này thấm nhuần nghiệp trong năng dẫn và năm chủng của nhân sở dẫn chuyển gọi là Hữu. Tại sao lấy tên là Hữu? Vì sáu chủng này có thể gần với hữu mà sinh, sau đó có quả. Tổng này có ý nói khi thọ nội Dị thục, do không hiểu rõ nội thế tục khổ cho nên khởi phi phước hạnh. Tướng của khổ thô hiển có thể dễ hiểu biết. Gọi là thế tục khổ vì không thể hiểu rõ nội Thắng nghĩa khổ, vì khởi phước hạnh, bất động hạnh và quả tướng khổ của trời người không phải thô hiển, bậc thắng giả thì biết khổ gọi là thắng nghĩa khổ làm duyên dẫn phát ngũ chủng danh ngôn. Tuy mê hai khổ không đồng, nhưng tổng quát là mê nội Dị thục mà khởi nghiệp. Sau khi thọ cảnh giới, do không thể hiểu rõ cảnh sở tri, khi khởi nhiễm thọ thì ái tăng trưởng. Hợp chung với sáu chủng trước chuyển gọi là hữu. Như nước nhuận chủng tử, chủng tử gần quả thì sinh. Chữ duyên trong đây là nghĩa nhờ dựa vào và nghĩa thế lực. Do si cho nên tạo hạnh, hạnh có thế lực cho nên khiến cho chủng tử danh ngôn có thể sinh quả hiện tại, nếu không như thế thì danh ngôn chủng tử này của Dị thục chưa được sinh quả. Sau đó lại do thế lực của ái khiến cho chủng tử trước cận sinh với quả hiện tại. Tuy riêng thân khởi nghiệp, riêng thân khởi ái, tùy nghiệp thù thắng, do quả của lực phiền não tức là cận sinh. Thế lực cũng như thế, không phải do nghĩa riêng, hai ngu trong đây tùy tăng thượng nghĩa mà nói. Theo thật tế thì mê nội cũng được nhuận sinh, vì toàn cõi phiền não tương tục sinh tử. Mê ngoại cảnh giới ngu cũng có thể phát nghiệp, vì truy cầu Dục cảnh khởi bất thiện. Vì kiến ngu và tu ngu của nội ngoại khác nhau, tùy theo tăng mà phân làm hai, cho nên hai hoặc dưới đây đều thông với phát và nhuận.
Luận: "Có chỗ chỉ nói", đến "quả Dị thục".
Thuật rằng: Ba là tổng hợp các luận. Như luận Du-già quyển 10 ghi: "Mười hai chi này không có nhân duyên, vì y theo chỗ nhiếp của tăng thượng mà sinh khởi nhân". Luận đó quyển hạ lại ghi: "Nghiệp do thủ nhiếp gọi là thắng phần hữu". Các luận không phải một, đây phần đầu tổng hợp các luận kia, chỉ tổng nói là "có chỗ" chỉ nói nghiệp chủng gọi là hữu, chủng này có thể chánh cảm quả Dị thục. Năm chủng tuy là chánh nhân năng sinh nhưng không có lực chánh cảm, cho nên không gọi là hữu. Do đó quyển 10 gọi là Thắng phần hữu. Kinh Bản Địa quyển 5 và quyển 38 ghi: "Sinh khởi nhân và năng sinh nhân nhiếp nhân duyên làm tánh, tức là chỉ có năm chủng, không nói nghiệp chi. Tại sao trong đây cũng nói nghiệp hữu? Tiếp theo là tổng hợp văn này.
Luận: "Lại nữa, có luận chỉ nói", đến "chủng tử của thức".
Thuật rằng: Thức... năm chủng, luận kia gọi là hữu, là chủng tử năm pháp của cận sinh đương lai thức. Chánh nhân có thể sinh cho nên không nói nghiệp, ở đây đều nói thiên về các điều sai quấy mà cho là thật thể. Quyển 10 lại ghi: "Toàn phần hữu, là nghiệp và thức cho đến chủng tử mà thọ có, do thủ nhiếp mà nói là hữu, đây là nói hữu xứ. Văn của các kinh luận thì nhiều cho nên không riêng nêu ra.
Luận: "Bốn sở sinh chi", đến "cận sở sinh".
Thuật rằng: Có hai pháp như trên. Nói rằng sinh và lão tử là nêu thể của nó, vì ái và thủ có cận sở sinh. Giải thích sở sinh, tuy cũng có năng dẫn và sở dẫn đắc trước, nhưng không gọi là dẫn quả. Sở sinh cũng đáng lẽ như thế, nhưng cận làm sinh của ái trước chỉ gọi là sở sinh không gọi là dẫn quả. Tóm lại là quả của hai nhân sinh và dẫn. Nhưng cận nhân sinh thành danh này, tóm lại phần thứ nhất nêu thể để giải thích danh.
Luận: "Nói rằng từ Trung hữu", đến "mà gọi là tử".
Thuật rằng: Hai lớp giải thích phần vị của sinh trước. Nói rằng từ thân Trung hữu mới sinh trở về sau đến trong bản hữu, tùy theo mạng dài ngắn, chưa suy biến đến nay, đều là sinh chi nhiếp. Các suy biến vị tùy theo thời gian nhiều ít mà tâm và sắc đều suy, gọi chung là lão. Thân hoại mạng chung nhập và diệt tướng vị mới gọi là tử. Diệt tướng của Đại thừa thì tại quá khứ, do đây ngay khi chết thì gọi là tử chi. Kinh Duyên Khởi cũng ghi: "Có năm vị sai biệt là hạ chủng sinh, tiệm tăng sinh, xuất thai sinh, tiệm trưởng sinh và thành trưởng sinh". Năm suy là kế phát suy, thân tướng suy, tác nghiệp suy, thọ dụng suy và mạng căn suy, gọi là lão, là thọ lượng sắp hết, lân cận với cái chết.
Có sáu thứ chết:
1. Cứu cánh tử.
2. Bất cứu cánh tử.
3. Tự tướng tử.
4. Phân sai tướng riêng bất cứu cánh tử.
5. Phân sai tướng riêng cứu cánh tử.
6. Thời phi thời tử.
Ở đây lấy tự tướng tử cho là thức lìa thân, như kinh kia nói rộng. Đại luận quyển 10 và quyển 84 đều có giải thích riêng biệt, không phiền dẫn ra. Thân Trung hữu trong đây do sinh chi nhiếp. Là ái nhuận đã có quả khởi, đây là y theo phần vị, hoặc nói thức hiện hành, cũng là chỗ nhiếp của thức. Trong quyển 56 ghi: "Thức, danh sắc và sáu xứ làm dẫn nhân y xứ; sáu xúc và Thọ làm sinh nhân y xứ, như luận kia rộng giải thích, đối với luận này không trái nhau.
VIII. Phế lập và tăng giảm giải thích các vấn nạn và điều hại.
Hỏi: Vô minh lấy pháp nào làm nhân? Vô nhân đáng lẽ hữu thủy, Hữu nhân đáng lẽ vô cùng?
Đáp: Lấy tác ý bất như lý làm nhân, tại sao không nói? Luận Du-già quyển 10 ghi: "Nó chỉ có bất đoạn nhân không phải tạp nhiễm nhân, y theo nhiễm nhân mà nói chi". Lại nữa, vô minh tự tánh của nhân là nhiễm, bất như lý tác ý thì tự tánh không phải nhiễm, không thể nhiễm vô minh, mà vô minh nhiễm nhân cho nên không nói. Lại nữa, sinh tạp nhiễm là chỗ huân phát của nghiệp phiền não, nghiệp phiền não đó lấy vô minh làm nhân, không nói vô minh lấy bất như lý làm nhân. Kinh
Duyên Khởi quyển thượng ghi: "Hỏi: Nếu vô minh cũng duyên tác ý phi lý thì tại sao không nói? Phật đáp: Vô minh cũng dẫn tác ý phi lý cùng với hành làm duyên". Lại nữa, từ xúc và thọ do vô minh sinh, làm duyên sinh ái, do đó không nói, tức là do vô minh thù thắng cho nên nói thiên về nó.
Hỏi: Lão tử có quả hay không? Nếu không thì đáng lẽ sinh lão đáng lẽ hữu chung, nếu có thì đáng lẽ vô cùng? Điều này cũng nên nói chứ?
Đáp: Có, là ưu bi khổ não. Kinh Thập Địa ghi: "Khi tử biệt ly thì tâm tham trước của người ngu sầu bi gọi là ưu, khóc than to tiếng là bi, năm căn tương đối gọi là khổ ý căn tương đối gọi là ưu, ưu bi chuyển thêm nhiều gọi là não. Đại Bát-nhã tân dịch cũng ghi: "Lão tử sầu than khổ ưu não".
Hỏi: Tại sao không nói?
Đáp: Nghĩa duyên khởi thuận sinh tử lưu chuyển năm nẻo, ưu bi ly tán, hành tướng đề cao, vì không thuận lưu chuyển cho nên không nói. Đây là cựu nói, cùng với Tiểu thừa đồng, như Bà-sa quyển 23, quyển
24. Hiện tại luận này lại giải thích: "Lập chi cần phải định hoặc biến khắp, sầu than khổ ưu não này không biến cũng không định, cho nên không phải chi.
Hỏi: Tác ý phi lý lấy pháp nào làm nhân? Ưu bi lấy pháp nào làm quả?
Đáp: Đây là hiển nhân quả luân chuyển vòng tròn cho nên không cần nói, tức là ảnh hiển đã đầy đủ. Tại sao ảnh hiển? Nghĩa là do hoặc sinh ra hoặc nghiệp, từ nghiệp sinh ra các sự, từ sự sự mà sinh ra hoặc, lý của hữu chi chỉ có như vậy. Lấy chủng của năm quả y theo đang khởi mà nói thì cũng được nói là có trước sau, như thọ sự sinh ái, hoặc hiển vô minh chi do lão tử trước sinh, như ái sinh thủ. Hiển vô minh sau cũng do vô minh trước sinh.
Hỏi: Nếu như thế tại sao không nói vô minh làm nhân của vô minh?
Đáp: Do tự thể của vô minh tạp nhiễm, nếu không có các duyên khác thì không thể tăng trưởng, vì không có tổn giảm cho nên không nói làm nhân. Do đây cũng hiển lão tử có quả, cho rằng vô minh nhân, như thọ sinh ái, tuy biết phát và nhuận thể của hoặc không đồng, là quả Đẳng lưu của nó cho nên lấy làm ví dụ, không phải như vô minh của Tiểu thừa lấy năm uẩn làm duyên để khởi chi. Ái... cũng như thế, các hoặc làm ví dụ cho nhau. Lại nữa, hiển để phá hai ngu thường và đoạn của nó, nghĩa là ngu hiện tại không có nhân cho nên nói mười ngu của đời trước, hiện tại không có quả sau cho nên nói hai ngu của vị lai. Tuy có nhân của các đời trước, tức là biết hiện tại thọ sinh ái, biết vô minh là chỗ sinh của lão tử. Lão tử vị lai có thể sinh nhân quả của vô minh không dứt. Chỉ có mười hai chi cho nên không nói vô minh nhân và lão tử quả. Không phải hai pháp kia đều không có quả và nhân, do đó cũng không phải có lỗi vô cùng. Đây là các phế và lập. Chỗ thêm ngoài văn, từ đây trở xuống trình bày lập y theo văn tự có.
Hỏi: Sinh và lão tử chi là ba tướng phải không? Nếu là tướng thì tại sao không nói trụ làm chi? Lại nữa, diệt tại quá khứ, thể của nó thì không có, lẽ nào thể của duyên khởi chi thông với vô pháp? Nếu không phải tướng thì đã không phải tướng của sinh thì đây là pháp nào sinh?
Đáp: Là ba tướng nhiếp, vấn nạn sau khéo giải thích. Vấn nạn trước thế nào? Vì duyên khởi chi là nghĩa lưu chuyển, trụ thì không thuận với lưu chuyển cho nên không nói làm chi. Lại nữa, trụ cũng tràn qua Vô vi cho nên không nói. Nói duyên khởi là tướng Hữu vi, sinh lão tức là sinh dị, chỉ có không phải diệt tướng, diệt tướng là vô, Hữu pháp mới là Duyên khởi chi. Nói duyên khởi chi phỏng theo tương tục mà lập, tức là chánh khi thời gian cuối cùng của tử, và chính khi sắp chết thuận với giai vị của tử, gọi chung là tử chi, cho nên không làm ví dụ. Thể của diệt tướng không có, chỉ có quá khứ mà lập, cho nên không làm ví dụ.
Hỏi: Nếu như thế thì các luận thuyết một thời kỳ bốn tướng cho là y theo tương tục thì tử và diệt có khác gì nhau?
Đáp: Thời kỳ một sát-na, thời phần tuy khác, y theo thế gian mà lập tướng, nghĩa đó là đồng. Phải y theo quá khứ mới lập diệt tướng, chỉ tiêu biểu pháp này sau đó thì không có. Không phải thể của diệt tướng trong một thời kỳ tức là tử chi, vì tử chi này hiển khi sắp chết, tuy chỉ là giả, y theo thế gian thì không đồng, nhưng y theo diệt tướng để lập tử chi, để khiến cho sinh chán, cho nên y theo ba tướng mà lập ba chi.
Hỏi: Nếu sinh và lão tức là tướng của sinh thì hai chi sau này đáng lẽ là hành uẩn nhiếp?
Đáp: Lấy ba tướng kia để hiển ba chi này, không phải ba chi này là chỉ có ba tướng, vì thể của ba chi tức là hiện hành năm uẩn, danh nương vào tướng mà lập. Thể thật ra có khác, như xúc xứ tử, không phải là diệt tướng, chỉ là giải thích chi tiết chánh lúc sắp chết, là tử xúc, lẽ nào gọi thể của tử là diệt tướng. Do ba chi này tuy nương vào diệt tướng lập tên của nó mà khiến cho sinh chán, thể không phải là diệt tướng, chỗ nhiếp của ba tướng.
Hỏi: Tại sao các chi mỗi mỗi đều riêng nhau mà lập, chỉ có lão và tử hợp chung lại mà lập?
Luận: "Lão không phải quyết định có, dựa vào tử mà lập chi".
Thuật rằng: Dưới đây luận phế và lập có bảy phần, đây là phần thứ nhất. Tạp Tập luận ghi: "Nguyên nhân lão tử hợp chung lại lập chi, là hiển thị lìa lão thì được tử, không phải trong thai sinh thân. Lìa danh sắc thì được có sáu xứ, do đó mỗi mỗi đều riêng lập chi".
Luận: "Bệnh tại sao không phải chi?"
Thuật rằng: Đây là người ngoài hỏi. Lão chi không quyết định có khắp, dựa vào tử mà lập chung, bệnh cũng không quyết định, đáng lẽ hợp chung mà lập chi, cho nên trong luận hỏi rằng bệnh tại sao không phải chi?
Luận: "Vì không khắp định".
Thuật rằng: Đây là luận chủ đáp. Nói bệnh pháp này không phải không khắp ba cõi và năm nẻo, tùy chỗ thích ứng mà có trong thú và giới, cũng không quyết định có, như Tôn giả Bạc-câu-la tuổi hơn tám mươi mà chưa từng bệnh hay có tật nhỏ, cho nên không lập chi.
Luận: "Lão tuy không định có khắp, do đó lập chi".
Thuật rằng: Nhưng lão pháp này không giống như bệnh pháp, tuy không quyết định tất cả hữu tình đều có, nhưng khắp nẻo ác và giới cho nên lập làm chi. Bệnh không quyết định có khắp, cho nên không lập.
Hỏi: Tại sao biết được? Các sắc và Vô sắc cũng có lão hay sao?
Luận: "Các giới thú sinh", đến "hạnh suy yếu". Thuật rằng: Giới thú sinh đều có suy yếu, không phải trúng yểu, khi lâm chung khác với căn trước và thức suy yếu, cho nên là khắp thú được lập làm chi. Trừ ra người trúng yểu là để hiển không quyết định có khắp. Luận Du-già quyển 13 ghi: "Hỏi: Tại sao nên biết cõi trên có sai? Đáp: Các hành đó có tánh suy yếu hủ bại". Chính cùng với đây đồng.
Luận: "Danh sắc không khắp tại sao lập chi?"
Thuật rằng: Đây là câu hỏi thứ hai về từ ngữ. Hoặc do khắp cho nên lão được lập chi, bệnh không khắp cho nên không được lập chi. Danh sắc không khắp, tại sao lập chi? Nói rằng chỗ nào có danh sắc thì chỗ đó không khắp. Tại sao lập chi?
Luận: "Định cho nên lập chi", đến "định có danh sắc".
Thuật rằng: Đây là ngay nơi ý của tông khác mà đáp cho nghĩa này, nghĩa là tuy không khắp định cho nên lập chi, tùy theo thú sinh của nó chỗ thích đáng hữu xứ thì quyết định có. Bệnh thì bất định không thể làm ví dụ, nghĩa là trừ hóa sinh ra thì thai sinh, noãn sinh và thấp sinh cho đến sáu xứ chưa mãn trở lại, định có danh sắc. Không phải ba thứ sinh này có mà bất định, cho nên danh sắc này cũng được lập chi, do đó quyển 93 và quyển 9 ghi: "Hai thứ thấp sinh và noãn sinh, trừ ra trong bụng mẹ, ngoài ra là như thai sinh lần lượt đều có, cho nên là định". Hữu tình có sắc ở tại cõi Sắc và cõi Dục thọ hóa sinh, khi mới sinh các căn viên mãn cùng với các sự sai biệt khác, cho nên không khắp.
Hỏi: Tại sao trong đây nói ba thứ sinh đều có thứ lớp? Luận Du-già quyển 10 trong giải thích sinh chi nói xuất hiện là thế nào? Nghĩa là đối với thân phần chậm khởi của hai loài thấp sinh và hóa sinh?
Đáp: Theo thật tế thì chỗ có các căn của loài thấp sinh là thứ lớp sinh khởi. Quyển 93 nói trừ trong bụng mẹ như thai sinh thì ở đây là nói thấp sinh cũng chậm khởi, tức là thân chi, nghĩa là thấp sinh và hóa sinh khi mới sinh chắc chắn có tay chân, thân chi khởi chậm, cùng với thai sinh và noãn sinh khác nhau, không phải nói rằng các căn đều được chậm khởi, cho nên văn của luận kia và luận này không trái nhau. Phần có nghĩa là chi.
Luận: "Lại nữa, danh sắc chi", đến "chưa gọi là sáu xứ".
Thuật rằng: Dưới đây phần thứ hai y theo chánh lý mà đáp. Nguyên nhân lập danh sắc chi này cũng là khắp ba cõi. Nếu như thế thì tại sao Hữu sắc hóa sinh thì ban đầu là sinh căn đầy đủ? Ở trong sơ vị của hữu cõi Sắc hóa sinh, tuy có đủ năm căn, nhưng năm căn này cũng vẫn chưa có ứng dụng, chỉ gọi là danh sắc, vì lúc đó chưa gọi là sáu xứ chi. Nói rằng các căn đầy đủ thì có dụng minh lợi, nhưng cũng chưa sinh xúc, chỉ gọi là danh sắc, không gọi là sáu xứ, cho nên danh sắc chi cũng định mà cũng khắp. Quyển 93 tuy nói hóa sinh khi mới sinh thì các căn đầy đủ, không nói hóa sinh không có danh sắc chi, do đó mà làm giải thích này. Hỏi: Nếu như thế khi mới sinh không có sắc, chỉ có ý xứ thì tại sao có danh sắc?
Luận: "Mới sinh không có sắc", đến "chưa gọi là ý xứ".
Thuật rằng: Nó khi mới sinh gọi là danh sắc nhiếp. Quyển 93 ghi: "Hữu tình thức không có sắc, nương vào chủng tử của danh và sắc, chủng tử của danh sắc nương vào thức mà chuyển, cho nên biết cõi Vô sắc cũng có danh sắc chi, ý thì không có ứng dụng cho nên không gọi là sáu xứ".
Luận: "Do đây luận nói", đến "hai cõi trên đều có".
Thuật rằng: Do đây luận Du-già quyển 10 ghi: "Mười hai hữu chi, tất cả và một phần trên hai cõi trên đều có". Nếu không có danh sắc thì không phải tất cả. Kinh Duyên Khởi quyển thượng ghi: "Nếu chỉ có danh, đều không có sắc thì điều này có lỗi gì!" Phật nói: "Nếu trong một đời chỉ có danh đó, không nương vào sắc mà trụ, tương tục sinh khởi thì không xứng lý. Nương vào có sắc thân mà hiện khởi sắc ngữ, hoặc chủng tử của sắc cũng gọi là sắc". Quyển 93 ghi: "Tên của cõi Vô sắc cùng với chủng tử của sắc làm sở y của thức, vì Địa đó chưa diệt báo sắc chủng. Chủng tử của báo sắc không phải là cõi trói buộc của nó, cho nên dị giới sắc này là sở y của dị giới danh. Lại nữa, định của cõi đó là chủng tử sở hữu sắc, cũng được làm sở y của danh, lý cũng không có lỗi.
Luận: "Ái không phải có khắp", đến "vì không ái cõi đó".
Thuật rằng: Đây là câu hỏi thứ ba. Nếu như thế thì ái không phải có khắp, lẽ nào lại riêng lập chi? Thế nào cho rằng không phải khắp, là vì sinh vào nẻo ác, không ái cõi đó, cho nên không phải khắp. Kinh Duyên Khởi quyển thượng ghi: "Bạch Thế Tôn! Nếu chỉ nói ái cùng với hữu làm duyên, không duyên với thủ thì hữu này có lỗi gì? Thế Tôn đáp: Mong cầu gọi là ái, đối với nẻo ác nguy hiểm không có mong cầu, nhưng do chỗ tạo phi phước hạnh, tuy cầu nẻo thiện mà kết quả lại nghịch sinh. Quả đó không phải phước quả, lẽ nào lại duyên với ái!" Lại nữa, như chỗ nói không có ái là không có mong cầu, vì cầu không có thời, do trước tạo phước hạnh và bất động hạnh mà quả sinh trái nghịch. Hai quả này sinh cũng không duyên ái.
Luận: "Định cho nên lập riêng" đến "vì định có ái".
Thuật rằng: Đây là tuy theo người ngoài mà đáp, không phải là hết lý. Thế nào gọi là định? Không có mong cầu thì không có hậu hữu, nương vào thắng thiện hạnh mà sinh nẻo thiện, vì định có ái. Nói rằng chỉ trừ mong cầu kia không có hậu hữu thân và sinh ngoài nẻo ác, vì định có ái sinh cầu không có hậu hữu, không mong cầu hậu hữu mà khởi ái. Sinh nẻo ác cho nên không ái chỗ sinh đó, trừ ra nẻo ác này thì ái là nhất định có.
Hỏi: Nếu như thế thì Thánh giáo nói quả Bất hoàn hiện tại không có ái nhuận, nói định có ái thì lẽ nào không trái nhau?
Luận: "Bất hoàn nhuận sinh", đến "định có chủng tử".
Thuật rằng: Quả Bất hoàn đó sinh và Địa khác, vì nhuận sinh tuy không khởi ái, nhưng đối với thủ chi của tự thân đó thì định có chủng tử, cho nên cũng gọi là định. Bất hoàn kia không những không có hiện ái, cũng không có hiện thủ, vì có chủng tử của thủ. Nhưng được nhuận sinh thì đã thủ gọi là định. Ái làm ví dụ cũng như thế, cho nên như thủ và ái kia, định cũng có chủng tử.
Từ đây xuống phần thứ hai y theo chánh lý mà giải thích.
Luận: "Lại nữa, ái cũng khắp", đến "cũng có ái".
Thuật rằng: Người sinh vào nẻo ác, tuy họ không ái thích thân và xứ đang sinh, đối với thân ngã hiện tại và cảnh hiện tại cũng khởi ái, cho nên sinh vào nẻo ác có ái nhuận sinh.
Luận: "Y theo không mong cầu", đến "không phải nó toàn không có".
Thuật rằng: Tổng hợp các kinh trái nhau. Kinh Duyên Khởi quyển thượng y theo ái không có mong cầu và thân đang ở trong nẻo ác, nói rằng sinh nẻo ác không có ái khởi. Không phải sinh nẻo ác đó mà các ái hoàn toàn không có hiện ái.
Luận: "Chỗ sinh ra duyên nào?", đến "năm chi của thức".
Thuật rằng: Đây là câu hỏi thứ tư. Duyên quả nào hợp chung lập sinh và lão tử? Đối với sở dẫn vị mà riêng khai lập năm chi của thức, tuy chủng và hiện khác nhau nhưng thể thì không khác, cho nên hỏi tương đối.
Luận: "Nhân vị khó biết", đến "lập riêng năm chi".
Thuật rằng: Đây là luận chủ đáp, phần đầu là tổng văn. Nói rằng năm chi của thức chính là tại nhân vị, tướng sai biệt khó hiểu rõ, mà nương vào vị đương sinh riêng lập nhân chi làm năm thứ.
Luận: "Nói rằng khi tương tục sinh", đến "lập nhân làm năm thứ".
Thuật rằng: Đây là nói rộng các pháp trước, nghĩa là đối với đương lai khi mới sinh thì quả thức mới khởi, tức là nhân và thức tương hiển, vì quả mới sinh khiến cho ứng dụng của chủng thức hiển hiện, gọi là nhân thức tương hiển, tức là sát-na đầu tiên, hoặc nói bảy ngày. Tiếp theo sau thức vị là khi năm căn chưa đầy đủ trở lại, lúc đó danh sắc của quả dấy khởi khiến cho tướng mạo danh sắc của nhân tăng trưởng, vì khi quả hiển thì khiến cho nhân tăng trưởng, tức là hai mươi tám ngày trở về trước, trong đây năm chi đều đáng lẽ có nhân. Nhưng trong thức nói văn nghĩa thông với sau đây. Tiếp theo sau danh sắc của hai mươi tám ngày trước, khi năm căn đầy đủ đến vị Bát-la-xà-khư, nhân sáu xứ sáng thịnh, căn tướng linh lợi, nương sáu xứ này phát xúc hiển nhau. Nương xúc khởi thọ, nương thọ mà tăng trưởng lẫn nhau, lúc đó mới gọi là thọ quả cứu cánh. Nương quả vị đương khởi này mà lập nhân chi làm năm thứ, vì tướng của nhân miên ẩn núp khó biết. Đây là nhân chi phân ra năm nguyên nhân.
Luận: "Quả vị dễ hiểu", đến "vì hiển ba khổ".
Thuật rằng: Quả vị đang hiện hành thì đã là hiện hành, cho nên tổng lập hai chi sinh và lão tử để hiển ba khổ. Kinh Duyên Khởi quyển thượng ghi: "Bạch Thế Tôn! Nếu sinh và lão tử là danh sắc, sáu xứ, xúc và thọ làm tướng thì đối với sinh thân này, duyên nào hiển thị tên của sinh và lão tử? Thế Tôn bảo: Là hiển tướng sinh thân như vậy, có ba thứ khổ hoặc khổ tướng. Sinh hiển hành khổ, lão hiển hoại khổ, tử hiển khổ khổ", đến sau sẽ rõ. Đây là lấy cõi Dục làm luận, hoặc sắc và cõi Vô sắc hiển ba tướng là sinh, dị và diệt.
Hỏi: Nếu như thế thì quả vị chỉ hiển ba khổ, chỉ nói hai chi, tại sao lại nói đối với quả khi khởi khiến cho biết phần vị để nói năm chi của thức?
Luận: "Nhưng quả sở sinh", đến "nói năm chi của thức".
Thuật rằng: Sở sinh quả của nó hoặc tại vị lai, vì khiến cho hữu tình sinh chán, chỉ có nói tổng tướng là sinh lão tử chi, hủy bỏ câu chất vấn danh. Sở sinh quả của nó, hoặc đến hiện tại, vi khiến cho biết rõ phần vị tương sinh để nói năm chi của thức, vì hiển lẫn nhau, vì hiện tại luận này hiển thuyết sau năm chỗ không ngăn trách, về sau hiển luận này nói hai pháp không có phương hại. Do trước nói, hoặc là nó đang hiện khởi phần vị có sai biệt, cho nên nói có trước sau, nếu không như thế thì trái nhau.
Luận: "Duyên nào phát nghiệp", đến "riêng lập ái thủ".
Thuật rằng: Đây là câu hỏi thứ năm. Ý nói rằng các phiền não đều có thể phát nghiệp. Tại sao trong chi không đồng với ái và thủ mà tổng lập vô minh, không lập riêng nữa? Lại nữa, các phiền não đều nhuận nghiệp, tại sao không đồng với vô minh cũng chỉ lập có một, mà lại riêng phân ái và thủ?
Luận: "Tuy các phiền não", đến "rộng như kinh nói".
Thuật rằng: Tất cả phiền não đều có thể phát nghiệp, nhưng vô minh lự thì phát nghiệp dụng tăng trưởng thù thắng hơn phiền não, vì có đủ mười một sự thù thắng, nghĩa là sở duyên đây là đáp câu hỏi thứ nhất. Chỉ nói vô minh là phát nghiệp và hoặc, như kinh Duyên Khởi nói mười một thắng:
1. Sở duyên thắng, vì duyên khắp nhiễm và tịnh.
2. Hành tướng thắng, vì ẩn chân hiển vọng.
3. Nhân duyên thắng, vì hoặc nghiệp sinh là gốc.
4. Đẳng khởi thắng, vì đồng với duyên khởi pháp của năng phát sở phát, năng dẫn sở dẫn và năng sinh sở sinh.
5. Chuyển dị thắng, vì tùy miên triền phược tương ưng, bất cộng với bốn chuyển dị.
6. Tà hạnh thắng, vì đối với đế khởi tăng ích hạnh và tổn giảm hạnh.
7. Tướng trạng thắng, vì tự tướng vi tế khắp ái và phi ái cộng tướng chuyển.
8. Tác nghiệp thắng, vì làm sự sở y của lưu chuyển, làm ngưng tịnh các sự năng chướng.
9. Chướng ngại thắng, vì chướng ngại thắng pháp và quảng pháp.
10. Tùy chuyển thắng, cho đến Hữu đảnh cũng tùy chuyển.
11. Đối trị thắng, chỗ đối trị của hai thứ diệu trí.
Do đó không nói, ngoài ra các hoặc khác cũng gọi là phát nghiệp chi.
Luận: "Đối với nhuận nghiệp vị", đến "có thể rót và thấm nhuận".
Thuật rằng: Đáp: Đối với nhuận vị nói ái và thủ, tuy các phiền não đều có thể nhuận sinh. Đối với nhuận nghiệp vị thì ái lực tăng trưởng thiên lệch. Làm sao biết? Các luận chỉ nói bốn ái làm Tập đế. Lại nữa, Thánh giáo nói ái như đối với nước, có thể rót có thể thấm nhuần, cho nên không nói thừa. Ý nào phát nghiệp chỉ có một vô minh? Hoặc nhuận sinh phân ái làm thủ.
Luận: "Phải niệm niệm vun tưới", đến "lập một vô minh".
Thuật rằng: Nếu sinh có mầm thì phải niệm niệm vun tưới, như tưới ruộng. Hiện tại luận này đầu và cuối phân ra ái và thủ, thật ra có nhiều hiện hành ái hoặc. Kinh Thập Địa quyển 8 ghi: "Ái tăng gọi là thủ", cho nên ban đầu gọi là ái, sau gọi là thủ. Nghĩa của phát nghiệp không thể trùng phát lại, lập một vô minh như một mầm sinh không thể tái sinh, khi nước tưới vào thì có thể nói đắc niệm. Hỏi: Trước đã nêu ra thể của thủ thông với các phiền não khác, tại sao chỗ này và Thập Địa nói là ái tăng?
Luận: "Tuy trong thủ chi", đến "nói là ái tăng".
Thuật rằng: Cứ theo thật tế thì thủ chi nhiếp các phiền não. Ái nhuận sinh thù thắng cho nên nói là ái tăng, không phải không có các hoặc khác cho nên luận Du-già quyển 89 ghi: "Hoặc năng thủ hoặc sở thủ đều gọi là thủ".
Hỏi: Các duyên khởi chi hoặc sinh Địa này, vì đều là Địa này, cũng có Địa khác. Nếu như thế thì có lỗi gì?
Đáp: Nếu chỉ có Địa này thì văn của kinh Duyên Khởi quyển thượng sẽ ghi: "Pháp nào thông? Bạch Thế Tôn! Vì sao không nói hai chủng ái và thủ có thể sinh duyên khởi và hành làm duyên? Thế Tôn bảo rằng: Tự giới sở hành của hai chủng ái và thủ có phân đồng. Tại sao vậy? Vì ái thủ của cõi Dục cùng với cõi Sắc kia, hoặc các bất động hạnh của cõi Vô sắc làm đẳng khởi duyên là không đúng đạo lý, vì không phải cảnh giới". Lại nữa, nói vô minh và lìa cõi Dục, hoặc cõi Sắc loại có thể sinh duyên khởi làm đẳng khởi duyên. Lại nữa, nói vô minh như vậy, do chỗ khởi tác ý phi lý này cùng với quả làm bạn, có thể làm duyên bất động hạnh của cõi kia, tức là dị giới vô minh làm dị giới hạnh duyên. Nếu đắc dị giới chi sau đó khởi dị giới chi. Quyển 56 ghi: "Lại nữa, thế nào thông? Các hữu tình tùy sinh giới nào địa nào? Nên biết hữu chi là pháp này nhiếp".
Luận: "Các duyên khởi chi", đến "phát hạnh của Địa trên".
Thuật rằng: Đây là câu hỏi thứ sáu. Các duyên khởi chi đều nương tự Địa, đồng lấy văn của quyển
56 có sở phát hạnh nương và vô minh khác, đồng lấy duyên khởi. Đây là như thế nào đồng? Đáng lẽ hiển sự của nó là một là nhiều, ở đây thì chỉ có một, như dưới đây là vô minh phát hạnh của Địa trên.
Luận: "Không như thế thì ban đầu chế phục", đến "cũng chưa khởi".
Thuật rằng: Không thừa nhận vô minh cõi dưới phát hạnh của Địa trên. Ban đầu chế phục chỗ khởi nhiễm của cõi dưới chưa đến định của cõi trên, đáng lẽ không phải hành chi, phải nhập vào căn bản định của cõi đó, lìa hết chín phẩm dục, sau đó mới khởi vô minh của Địa kia, lúc đó vô minh của Địa kia cũng chưa khởi, Hữu lậu định của cõi đó đáng lẽ không phải hành chi, vì không có vô minh chi, đã gọi là hành chi. Minh là chỗ phát của vô minh, ý này là hiển quyển 56 nói nương vào nhiều phần chi mà nói. Ý của kinh thông với luận. Có luận y theo Địa khác cũng không trái nghịch. Văn này có thể hiển vị đáo vô hoặc, chưa đắc căn bản, rốt ráo không khởi, chỉ là cõi dưới khởi. Ban đầu khởi vị đáo đều như vô minh này phát.
Luận: "Từ Địa trên Địa dưới", đến "mà khởi ái chi".
Thuật rằng: Đây là câu hỏi thứ bảy. Từ cõi trên sinh cõi dưới, từ cõi dưới sinh cõi trên, ái đang sinh sở nhuận và năng nhuận của cõi kia, thủ nắm lấy Địa nào của nó để thọ chi làm duyên, làm Đương sinh địa, làm Hiện cư địa? Ý gì mà có câu hỏi này?
Đã là thọ duyên ái, hiện khởi thọ chi và Địa khác của đương sinh ái. Đáng lẽ như vô minh phát hạnh thừa nhận Địa khác mà làm thành câu hỏi này.
Luận: "Ái kiến phần cũng duyên", đến "đối với lý không trái". Thuật rằng: Tùy chỗ thích đáng của nó, ái kia cũng duyên thọ của
Đương sinh địa. Hoặc thọ của hiện hành đồng thời, hoặc thọ của chủng tử trước thời, đối với lý cũng không trái. Trong đây nói cũng duyên thọ của Đương sinh địa, hiểu rõ tử sinh của tự địa và ái định của tự địa nương đồng Địa. Từ Địa khác sinh Địa khác cũng là định nương đồng Địa, cho nên nói là cũng. Lại nữa, thọ của hiện cư xứ cũng là ái duyên, như duyên của Địa khác vô minh kia thì đây không phải là thọ chi, có nghĩa là duyên xa.
Hỏi: Hoặc phát nghiệp, Địa khác làm duyên; hoặc nhuận sinh đáng lẽ cũng là Địa khác?
Đáp: Phát nghiệp là Đẳng khởi nhân, vì xa cho nên thông với Địa khác. Nhuận sinh là sinh khởi nhân, vì gần cho nên chỉ có tự địa.
Hỏi: Thọ duyên với ái xa thông với Địa khác. Hành duyên với thức, Địa khác làm duyên phải không?
Đáp: Thọ duyên với ái làm Viễn khởi nhân, vì xa cho nên thông
Địa khác. Hành duyên với thức làm Dị thục nhân, vì gần cho nên chỉ có tự Địa.
Hỏi: Tại sao các thức, các sinh, khai hợp bất đồng, còn hành và hữu thì hợp chung làm một?
Đáp: Nghiệp tại dẫn nhân, tạo tác gọi là hành, bị ái và thủ nhuận chuyển gọi là hữu, không có sự thể riêng, cho nên không khai lẫn nhau.
Hỏi: Hữu thì hoặc chỉ có nghiệp, như hành chỉ có một. Hữu thì thông với phi nghiệp. Tại sao không khai mở?
Đáp: Trong có tuy thông với nghiệp và phi nghiệp, nhưng đều gần với hữu hậu và hữu quả cho nên nghĩa thế quân bình, gọi chung là hữu, không phải như hành không có tánh phi nghiệp, cho nên không khai mở.
Hỏi: Tại sao chưa nhuận gọi là hành, đã nhuận thì gọi là hữu?
Đáp: Tạo tác gọi là hành, vì nghĩa mới tạo thì rõ ràng. Ban đầu gọi là hành, có kết quả gọi là hữu, đã nhuận mới nhiễm dính, sau đó lập tên là hữu.
Hỏi: Tại sao nghiệp có ba thứ tổng hợp gọi là là hành và hữu, hoặc nhuận chỉ có một ái, nhưng phân hai là ái và thủ phải không?
Đáp: Một nhuận quả thì bất sinh, mới phân hai ái và thủ. Một nghiệp thì có thể cảm quả thích hợp, lập tên hành và hữu.
IX. An định thế gian và phá tà, là Tát-bà-đa, hai nhân năm quả, ba nhân hai quả. Định không đồng thế gian, hiện tại ở trong bộ này.
Luận: "Mười hai chi này", đến "mỗi mỗi quyết định đồng thế gian".
Thuật rằng: Nhân mười chi trước cùng với quả hai chi sau quyết định không đồng thế gian, lấy tổng Dị thục nhân, không phải thân tạo mà là thọ quả, cũng không phải nghiệp hiện tại đắc quả là mười hai chi. Phỏng theo thân mỗi lần sinh tử làm một đời thì mười nhân hai quả quyết định không đồng; hoặc phỏng theo thời phần thì mười hai chi này là bất định, như quá khứ của hậu báo nghiệp tạo bảy chi trước, tiếp theo hậu thân chưa thuần thục, khiến cho thân không khởi ái và thủ, kế đó thân mới khởi, và sau đó nữa mới sinh thọ quả, lẽ nào không phải ái thủ cùng với sinh và lão tử đồng tại vị lai! Cho nên phỏng theo đại thời phần để nói ba đời. Nghĩa thì bất định khiến cho chỗ nói này phỏng theo theo sự sinh tử của thân mà làm một đời. Bảy chủng trước trong nhân cùng với ái thủ hữu hoặc khác đời hoặc cùng đời, hoặc thuận sinh thọ nghiệp, thọ khi mới sinh thì đời đó sẽ đồng. Từ đời thứ hai trở đi, cho đến hậu báo nghiệp thì đời đó không đồng, khiến cho thân này đến nhiều đời sau, khi sắp thọ quả mới khởi ái thủ. Ái thủ của Tát-bà-đa có ba thứ, cùng với hai chủng đầu trong bảy chủng quyết định không cùng đời, cùng với năm còn lại quyết định đồng đời. Trong sinh và lão tử vị của đời trước khởi hoặc và tạo nghiệp, khiến cho mười hai chi trong đây quyết định đồng đời.
Nói rằng hai chi sinh lão tử, ba chi ái thủ hữu và bảy chi còn lại mỗi mỗi đều quyết định đồng đời. Do si phát nghiệp, huân và phát báo chủng thì quyết định đồng đời, cho nên bảy chi trước không được khác đời. Khởi nước phiền não thấm nhuận sáu chủng trước chuyển gọi là hữu, cũng không phải khác thời, không phải năng nhuận cách đời khác thời mới thành sở nhuận. Sinh và lão tử cùng đời có thể biết, cho nên hai chi, ba chi và bảy chi mỗi mỗi đều cùng đời. Đây là an định thế gian, mười chi là nhân, hai chi là quả. Nhân thì tại quá khứ thì quả hoặc hiện tại hoặc vị lai. Nhân tại hiện tại thì quả qua một lần vị lai mà luận. Duyên khởi của hai đời, theo đạo lý mà nói cũng là ba đời. Quá khứ thì mười nhân, hiện tại thì hai quả; vị lai hai quả thì hiện tại mười nhân, tức là mười hai duyên khởi của hai đời, cũng có thể nói ba đời. Một lần qua hai đời bất định cho nên có thể ba đời. Nếu bảy chi trước tại đời quá khứ thì ba chi ái thủ hữu tại đời hiện tại, sinh và lão tử tại đời vị lai, tức là mười hai chi thông với ba đời Hữu lậu, cũng tức là mười hai hoặc hai đời ba đời riêng thân tạo nghiệp, vì riêng thân tạo nghiệp cho nên không đồng. Hai nhân quá khứ năm quả hiện tại, ba nhân hiện tại hai quả vị lai của Tiểu thừa, thời phần duyên khởi quyết định như vậy. Luận Thập Địa quyển 8, mười hai duyên sinh cho đến kinh ba đời duyên khởi cũng đồng với Tiểu thừa. Điều này phiên dịch sai, hiện tại xem xét bản tiếng Phạm và luận Du-già đều chỉ nói ba đời, nghĩa là từ sơ tế duyên khởi trung tế, từ trung tế duyên khởi hậu tế. Không phải nói trong ba đời có hai nhân tại quá khứ, năm nhân hiện tại, ba nhân hiện tại, hai nhân vị lai. Sự giải thích của kinh đó là chỗ tạo của Thế Thân, chỗ tạo của Thế Thân là Thập Nhị Nhân Duyên luận, cũng nói ba đời, như luận Du-già thì chữ "ba đời" là ý của người phiên dịch.
Luận: "Như vậy mười hai chi", đến "liền trở nên vô cùng".
Thuật rằng: Mười nhân và hai quả chỉ là một lớp, vì nhân một quả một, không phải như Tiểu thừa hai đời nhân và hai đời quả.
Hỏi: Tiểu thừa nói: "Nhọc gì ba đời hai lớp nhân quả?" Tiểu thừa đáp rằng: "Có ngoại đạo bác không có quá khứ vị lai, nói pháp là tự nhiên do thường ngã sinh ra?"
Đáp: Vì ngu ba đời cho nên nói có duyên khởi. Không có đời trước cho nên nói các pháp thường, không có hậu tế cho nên nói các pháp đoạn. Hiện tại luận này nói hai nhân tại quá khứ, do có nhân nghiệp của đời quá khứ mà sinh pháp, không phải tự nhiên thường ngã dấy khởi. Thể không phải thường trụ, có nhân sở sinh, có hai quả vị lai, phá pháp hậu đoạn, không phải là giải thoát vì thể luân chuyển và hiện hành năm quả và ba nhân. Hiện tại luận này phá điều đó, mười hai chi một lớp của tôi cũng đủ hiển sinh tử luân chuyển, không phải ngã tự nhiên sinh, thể tự giải thoát, lìa đoạn và thường. Thi thiết hai lớp thì thật là vô ích. Nói nhân của mười chi, phá pháp thường và ngã tự nhiên sinh, vì có hai quả cho nên không phải tánh giải thoát; quá khứ làm nhân, thể của pháp không phải thường; vị lai làm quả, các pháp không phải đoạn. Hiện quả có nhân khởi, hiện nhân thì chiêu cảm báo, đủ để hiển luân chuyển và lìa đoạn thường, chỉ nói một lớp nhân quả, tức là hiển ba đời đồng thời có. Nói nhân để phá thường, nói quả để phá đoạn, cho nên thiết lập hai lớp thật ra là vô dụng. Hoặc có cái ngu tiền tế nói hai nhân quá khứ, lại có cái ngu tiền tiền tế nói hai nhân cũng còn thiếu, lại càng phải nói thêm nhân. Lại có cái ngu vị lai nói hai quả, lại có cái ngu hậu hậu tế nói hai quả cũng chưa đủ, lại càng phải nói thêm quả, cho nên luận nói hoặc vượt hơn đây, hoặc chỉ phá đoạn thường mà nói một lớp nhân quả. Phá thường đoạn đã nói xong, tức là hiển quá khứ xa cũng như thế. Hiện tại luận này hiển vị lai xa cũng vậy, nhọc gì phải có hai lớp để nói ba đời nhân quả. Nếu như thế thiết lập thì liền trở nên vô cùng. Đã như thế thì vượt hơn đây, hoặc lập thêm nữa thì có lỗi vô cùng, cho nên nói một lớp thì thật ra là hữu dụng.
Luận: "Mười hai chi này", đến "gọi là sinh".
Thuật rằng: Từ đây xuống là phần thứ mười giải thích các môn.
X. Giải thích phân rõ các môn: Trong đó tổng có mười bảy môn giải thích:
1. Giả thật môn: Có chín thật và ba giả. Giả là hữu, sinh và lão tử, nghĩa là làm sở nhuận hành của ái thủ và năm chi của thức, hợp chung với sáu chi trước chuyển tên là hữu. Trong sáu sở nhuận, thức... năm chủng đến khi hiện khởi, hiển ba tướng sinh dị diệt trong bốn tướng thành biệt danh là sinh lão tử. Thể tức là thức cho nên ba tướng sinh lão tử là giả. Thể dị của ái tăng thượng gọi là thủ, lại có các hoặc khác làm thể của thủ chi, cho nên không phải là giả. Quyển 10 chỉ nói chín thật ba giả. Quyển 56 cùng với đây đồng, các quyển đó đều nói hữu và sinh là giả.
Luận: "Năm chi là một sự", đến "còn lại không phải một sự".
Thuật rằng:
2. Một sự phi một sự môn: Năm chi là một sự, như văn có thể biết. Do đó biết vô minh chi chỉ có vô minh làm thể, thức thì chỉ có bản thức. Còn lại không phải một sự, là hành thông với sắc và tâm, thủ thì thông với các hoặc khác, còn lại các chi khác có thể biết. Quyển 10 chỉ nói năm chi một sự, ngoài ra thì không phải, trong đây hiển thị riêng. Có người giải thích rằng: "Năm chi là thủ và bất thủ thức chi, thủ chỉ có ái tăng thượng". Giải thích này không đúng, là trái với Thánh giáo.
Luận: "Ba chi chỉ là nhiễm", đến "quả Dị thục". Thuật rằng:
3. Nhiễm bất nhiễm môn: Hoặc nói nhiễm và tịnh thì tịnh chỉ có thiện cho nên cũng thông với Vô ký do đó mà nói Bất nhiễm. Quyển 10 ghi: "Trong bất nhiễm thì thiện và Vô ký khác nhau, cho nên phân làm hai thứ, gọi chung là bất nhiễm". Ba chi chỉ có nhiễm là vô minh, ái, thủ, vì tánh là phiền não. Bảy chi chỉ có bất nhiễm là năm chi thức... và sinh, lão tử, vì tánh là Dị thục. Đây là phỏng theo thể tánh mà làm luận.
Hỏi: Nếu như thế tại sao luận Du-già quyển 10 ghi: "Ba chi nhiễm, còn lại thì thông với hai chủng?"
Luận: "Trong bảy phần vị", đến "ngoài ra thông với hai chủng".
Thuật rằng: Vì dung chứa khởi nhiễm cho nên giả thuyết là thông với nhiễm, không phải thể nhiễm cho nên gọi là nhiễm. Ngoài ra thông với hai chủng, là hành và hữu. Hành thì thông cả thiện và nhiễm, hữu thì cũng thông với Vô ký.
Luận: "Vô minh ái thủ", đến "ngoài ra là tạp tướng". Thuật rằng:
4. Độc tạp phân biệt môn: Ba chi vô minh ái thủ gọi là độc tướng. Độc là thể này làm chi, không cùng với các chi khác tương giao tạp nhạp. Trong thủ tuy là ái tăng thượng, nhưng không phải chuyển ái thành tăng thượng tham, lại là pháp riêng có, ngoài ra là tạp tướng. Hành và thức... năm chi chuyển, gọi là hữu và sinh, tức là hữu và sinh cũng gọi là tạp, thể thì không khác nhau, dụng thì do pháp khác thành. Quyển 10 chỉ nói ba chi là độc tướng hành, là tạp tướng.
Luận: "Sáu chi chỉ có Phi sắc", đến "ngoài ra thông với hai chủng".
Thuật rằng:
5. Sắc phi sắc môn: Hành thông với ba nghiệp. Danh sắc năm uẩn, sáu xứ hai uẩn, sáu chi gọi là hữu. Năm uẩn hiện hành gọi là sinh và lão tử cho nên thông với hai chủng.
Luận: "Đều là Hữu lậu", đến "không phải hữu chi". Thuật rằng:
6. Hữu lậu Hữu vi môn.
7. Vô lậu Vô vi môn.
Cả hai môn này đều là Hữu lậu hữu vi. Vô lậu thì nghịch lại sinh tử và đoạn sinh tử, Vô vi thì không phải nghĩa là duyên khởi, vì nó không dấy khởi. Đây là đối với Đại chúng bộ và Hóa địa bộ mà nói. Nếu không như thế thì môn này liền thành vô dụng.
Luận: "Vô minh ái thủ", đến "cũng khởi thiện nhiễm". Thuật rằng:
8. Ba tánh phân biệt môn: Ba chi vô minh, ái, thủ, chỉ thông với bất thiện và Hữu phú vô ký, vô minh cõi Dục chỉ là bất thiện. Luận Đối Pháp ghi: "Hoặc phân biệt của cõi Dục trói buộc khởi thì chỉ có bất thiện nhiếp". Cõi Dục ái và thủ cũng thông với hai tánh bất thiện và Vô ký, các kinh luận thành văn nhuận sinh Hữu phú, nói bốn thủ của cõi Dục là bất thiện, làm thành chứng rất nhiều. Ba chi này của cõi trên đều chỉ có Vô ký.
Hỏi: Nếu như thế trong thủ đã thông với bốn thủ, tại sao nói Tu đạo hoặc mới là chánh nhuận? Kiến hoặc trợ nhuận lẽ nào hữu chi gọi là trợ nhuận?
Đáp: Kiến hoặc là trợ nhuận, hợp chung gọi là hữu chi.
Hỏi: Cũng nên lấy trợ phát hoặc hợp chung gọi là vô minh có hại gì?
Đáp: Giải thích bằng nhau cũng được. Hiện tại luận này chỉ căn cứ theo hoặc chánh phát. Luận nói cũng được văn ảnh, lấy trước làm chuẩn cho sau. Lại nữa, nếu giải thích không bằng nhau thì phát nghiệp không có nhiều lớp, chỉ một lần phát, chỉ có thể nêu ra một chánh phát hoặc nhuận sinh thông với các tâm sở, nhuận do đó thông với thủ trợ cho nhuận sinh. Hành chi chỉ thông với thiện và ác, không thông với Vô ký, vì Vô ký không chiêu cảm quả. Hữu thông với ba tánh, hành... sáu chi hợp chung làm hữu, còn lại thức... năm chi cùng với sinh và lão tử là bảy chi chỉ có tánh Vô ký, vì tánh Dị thục. Trong phần vị cũng khởi thiện và nhiễm. Đại luận quyển 10 ghi: "Bốn chi chỉ có tạp nhiễm, còn lại là thông với nhiễm và tịnh", nghĩa là bốn chi vô minh, ái, thủ và lão tử chỉ có nhiễm. Lão tử khởi ưu bi, giả thuyết là nhiễm. Khắc tánh trong đây thì nó chỉ có Dị thục, cho nên không trái nhau, còn lại thì thông với nhiễm và tịnh. Tổng hợp trong đây nói: "Trong bảy phần vị, khởi thiện và nhiễm không phải thể tánh. Chi của năm quả phỏng theo chỗ đang sinh mà nói phần vị, lão tử do hai nghĩa: một là trong phần vị khởi nhiễm, hai là phần nhiều là khởi ưu bi.
Luận: "Tuy đều thông ba cõi", đến "nhưng có phần và có toàn". Thuật rằng:
9. Ba cõi môn: Mười hai chi đều thông với ba cõi. Tuy đều thông với ba cõi, nhưng có chi thì bị phân ra và có chi thì được toàn đủ. Cõi Dục thì nhiếp mười hai toàn đủ, cõi Sắc và cõi Vô sắc thì nhiếp mười hai phần ít. Tại sao vậy? Vì cõi Dục thông với nhiễm và tịnh, danh sắc chi có đủ năm uẩn, sáu xứ có đủ các thức, cho đến trong thọ có đủ bốn thọ. Cõi sắc và cõi Vô sắc thì không như vậy, nhiễm thì xưa không có, cõi Vô sắc thì không có sắc, và không có ba thọ, vì ưu thọ không phải báo, trong đây không luận, cho nên Đại luận quyển 10 ghi: "Cõi Dục có đủ tất cả chi, hòa hợp cùng khởi. Cõi sắc và cõi Vô sắc tất cả đều có một phần, vì có lão, như trước đã nói.
Luận: "Hành chi của cõi trên", đến "mà khởi cõi đó". Thuật rằng:
10. Năng trị sở trị môn: Hành chi của Địa trên có thể chế phục Địa dưới.
Hỏi: Thế nào là hành chi của Địa trên?
Đáp: Là sáu thứ hành tướng thô khổ, đây là thông với cõi Sắc và cõi Vô sắc, có cầu sinh lên cõi trên mà khởi hành chi đó, nghĩa là quán mười hai chi của cõi dưới là thô, khổ và chướng, quán cõi trên tất cả là tịnh, diệu, ly, tức là hành chi của Địa trên, là chỗ phát vô minh của cõi dưới, cho nên nói hành chi của cõi trên có thể đoạn tất cả cõi dưới, lấy tất cả cõi dưới làm cảnh giới. Tuy duyên tất cả cõi trên, năng duyên hành tướng chỉ là hành chi, cho nên nói y theo hành chi của cõi trên mà đoạn các chi của cõi dưới.
Hỏi: Các tâm tâm sở đều có hành tướng, tại sao sáu hành riêng gọi là hành tướng?
Đáp: Hành tướng là Kiến phần, như trước đã nói, tức là tâm và tâm sở không tâm nào mà chẳng có. Nhưng thể của sáu hành tướng này tức là tuệ tâm sở, sức giản trạch tăng mà thiên nói về hành tướng. Như mười sáu hành tướng, cho nên không có lỗi. Sáu hành tướng này như luận Du-già và Biệt sao giải thích. Luận Du-già quyển 10 ghi: "Có thể y theo chi mà được lìa chi hay sao? Có". Nói rằng y theo chi của Địa trên mà lìa chi của Địa dưới, điều này chỉ có một phần mà không phải toàn đủ, chỉ là tạm thời mà không phải cứu cánh, không phải mười hai chi mỗi mỗi đều phần ít là năng, chỉ có một hành chi là năng cho nên nói một ít phần. Tánh hoặc của vô minh, ái và thủ cõi trên, có cái là sở nhuận nghiệp tánh không phải Hiện nghiệp tánh, vì Dị thục Vô ký của các thức và các sinh không phải là năng trị đạo, đã như thế thì chỉ có hành có thể lìa chi, là có Nhuận cho nên chỉ có tạm thời, không phải Vô lậu cho nên không rốt ráo.
Luận: "Tất cả đều chỉ có", đến "không phải hữu chi nhiếp". Thuật rằng:
11. Học đẳng phân biệt môn: Tất cả chỉ có Phi học và Phi vô học. Hữu học và Vô học là sự lưu chuyển trái nhau, là chỗ khởi thiện nghiệp của bậc Thánh, lấy Vô lậu minh mà làm duyên, trái với hữu chi vì không phải hữu chi nhiếp. Đại luận quyển 10 ghi: "Mười hai chi đều không phải là Hữu học và Vô học, chỉ có Phi học và Phi vô học nhiếp".
Luận đó hỏi rằng: Chỗ có thiện và Hữu lậu chi của cõi kia, tại sao không phải học?
Đáp: Chỉ có lưu chuyển cho nên gọi là chi. Hoặc chỗ có thiện và Hữu lậu pháp của Học thì kia và lưu chuyển trái nhau, cùng với dụng minh làm duyên, cho nên không phải chi nhiếp. Có người giải thích rằng: "Hiện tại Đại thừa đã lấy thiện pháp dục đã trừ gọi là học, nội pháp Dị sinh phát tâm đã trừ, đều chưa phát báo chung nghiệp, đều không phải vô minh phát, đều không phải hành chi". Nói như thế là không đúng. Kinh Duyên Khởi ghi: "Pháp bên ngoài Dị sinh có đủ bốn vô minh phát hành, nội pháp Dị sinh hoặc là phóng dật, vì kia trừ ra một chủng bất cộng vô minh, còn lại ba vô minh làm duyên sinh hành. Nội pháp Dị sinh nếu không phóng dật thì là Thánh Hữu học. Ba vô minh làm duyên tuy dẫn Phi phước hạnh thì hạnh này không thể chiêu cảm ba nẻo ác, tôi không nói là vô minh duyên hành, tức là làm chứng đoạn văn trước trong năng dẫn chi. Nói rằng trợ riêng cho đương nghiệp đều không phải là hành chi. Lại nữa, nội pháp Dị sinh của Bất phóng dật nếu tạo phước hạnh và bất động hạnh thì kia là chỗ dẫn của tâm chánh pháp tác ý như lý, làm chỗ y cho giải thoát cho đến nói rộng. Tuy đối với nẻo thiện chiêu cảm sự sinh thù thắng, nhưng không phải vô minh khởi Tăng thượng duyên cho đến chư Thánh hữu học, bất cộng vô minh đã vĩnh viễn đoạn, không tạo nghiệp mới cho đến phải biết nội pháp Hữu học không duyên vô minh mà tạo thêm các hành. Kinh đã chỉ nói các Thánh không tạo nghiệp, bất cộng vô minh chủng đã đoạn. Lại nữa, nói rằng nội pháp Bất phóng dật, là tạo phước hạnh và bất động hạnh, biết rõ thiện pháp Dục đã trừ, đều cũng tạo hành chi, nhưng như Quyết trạch phần thiện, tuy không có đoạn văn khác quyết định giải thích chiêu cảm báo chung và báo riêng, lại đồng với Tiểu thừa một câu nói chỉ chiêu cảm với báo riêng, có thể không phải hành chi vì không phải chánh dẫn. Tuy nói Bất phóng dật tạo phước hạnh, không phải vô minh phát khởi, nhưng nói bất cộng chủng của bậc Thánh đã đoạn cho nên không tạo hành chi. Biết rõ Bất phóng dật mà nói không có, chỉ là không khởi bất cộng hiện hành, và hiện hành tương ưng phát, nhưng có chủng tử không cùng với tương ưng phát khởi cũng không sai quấy. Nếu không như thế thì phước hạnh và bất động hạnh kia đáng lẽ không gọi là hành, cũng không thể chỉ nói Thánh không tạo nghiệp. Luận Đối Pháp quyển 7 ghi: "Chưa kiến Đế tuy khởi các thiện, do tùy miên chỗ tùy triền phược của họ cũng gọi là ngu si. Do thế lực của họ đối với khổ trong ba cõi không hiểu biết như thật, chỉ có thể phát khởi tánh của hậu hữu nhân là phước hạnh và bất động hạnh, không phải đã thấy Đế mà phát khởi nghiệp này, vì không có Chân thật nghĩa ngu, cho nên nghiệp Kiến phần nói là nhân đối với Chân thật nghĩa ngu này mà sinh".
Luận: "Do đây nên biết", đến "không mê cầu".
Thuật rằng: Lấy đây mà chứng biết. Bậc Thánh chắc chắn không tạo cảm chiêu hậu hữu nghiệp. Ý gì mà không tạo? Vì đối với hậu khổ quả không mê cầu, không mê cho nên biết có thể chán, không cầu cho nên không mừng sinh khởi, vì bất cộng vô minh chủng đã đoạn. Nó đã là Vô lậu minh làm duyên, các vị học Hữu lậu quyết định không phải hành chi.
Hỏi: Nếu như thế thì tuy tu Ngũ tịnh cư nghiệp lẽ nào không phải hành chi?
Đáp: Nếu đúng như thế thì bậc Thánh liền tạo nghiệp. Hỏi: Như thế nào là sinh cõi kia cảm chiêu báo chung? Luận: "Tạp tu Tĩnh lự", đến "đối với lý không trái".
Thuật rằng: Đây là quả Bất hoàn, tạp tu Tĩnh lự thứ tự, dưỡng nuôi ba tầng trời Vô vân thiên... cõi dưới, sinh lên Tịnh cư đối với lý không trái. Đây là báo chung nghiệp và chủng tử danh ngôn, khi còn phàm phu thì đã tạo nghiệp sinh lên ba tầng trời dưới của Đệ tứ thiền, vì một Địa trói buộc. Sau đó do Vô lậu dưỡng nuôi Địa này, cho nên tạo nghiệp sinh lên cõi trời Tịnh cư, không phải bậc Thánh mới tạo. Đã thọ khác xứ tại sao gọi là bất động? Vì định trụ cảnh gọi là bất động, không phải không chuyển dịch thọ xứ khác mà gọi là bất động. Luận Đối Pháp tuy nói không thể chuyển dịch khiến cho thọ giới địa khác gọi là bất động, nhưng phỏng theo phần nhiều, trừ tạp tu này và sinh cung Tự tại, ngoài ra phàm Thánh đều không có sự này. Lại nữa, không phải thọ thú của giới địa khác gọi là bất động, vì nó đồng Địa. Giải thích trước chỉ có Định địa gọi là bất động, tức là thông với tất cả. Nếu không thọ khác xứ gọi là bất động thì theo phần nhiều mà nói, như nghiệp địa ngục không thể chuyển đổi, vẫn thừa nhận nặng làm nhẹ. Thọ thân của A-la-hán theo phần nhiều mà nói, thọ này cũng đáng lẽ như thế. Tịnh cư, là đồng lấy đại cung Tự tại của Địa thứ mười. Luận Du-già quyển 4, luận Đối Pháp quyển 6 và luận Thập Địa ghi: "Trên cõi Tịnh cư có cung Tự tại, Bồ-tát Thập địa đang sinh xứ đó, chiêu cảm Thức thứ tám của cõi đó". Đây cũng là khi phàm phu tạo nghiệp do Vô lậu định có trưởng dưỡng này mà được sinh cõi đó, cho nên tập trung để nói.
Luận: "Có nghĩa vô minh", đến "hậu hữu nghiệp". Thuật rằng:
12. Ba đoạn môn: Ở đây có hai nghĩa, tất cả phát nghiệp vô minh của sư thứ nhất chỉ có sở đoạn của kiến, phải vô minh mê Đế lý, hành tướng tăng năng phát hành, đây là nhân thứ nhất. Lại nữa, kinh luận đều nói bậc Thánh không tạo hậu hữu nghiệp, đây là nhân thứ hai. Nếu vô minh do Tu đoạn thì bậc Thánh lại càng tạo thêm nghiệp. Luận Đối Pháp quyển 7 ghi: "Hai thứ ngu đều là Kiến đoạn, nghĩa là đã kiến Đế thì không có chân thật nghĩa ngu, không tạo phước hạnh và bất động hạnh. Có người giải thích rằng: "Dị thục ngu do Tu đạo đoạn, chân thật nghĩa ngu do kiến đạo đoạn", lý này không đúng. Kinh Duyên Khởi quyển hạ ghi: "Ngoại đạo Dị sinh do bốn vô minh phát hành, có đủ tạo tác ba nghiệp chủng phước nghiệp, Phi phước nghiệp và bất động nghiệp. Nội pháp Dị sinh trừ bất cộng vô minh ra, còn lại ba vô minh duyên hành. Bất phóng dật là hành, không phải vô minh làm duyên". Luận Đối Pháp ghi: "Dị thục ngu phát phi phước hạnh, Chân thật nghĩa ngu thì phát phước hạnh và bất động hạnh.
Hỏi: Nếu ngu ban đầu do Tu đoạn thì ngu sau do Kiến đoạn, lẽ nào hoặc của kiến đạo phân biệt chỉ có phát phước hạnh và bất động hạnh? Còn hoặc của Tu đạo thì phát phi phước hạnh hay sao?
Đáp: Quyển 59 ghi: "Phát nghiệp của ba nẻo ác chỉ có phân biệt phiền não, không phải câu sinh phiền não". Lẽ nào phát Phi phước hạnh vô minh là Tu đạo đoạn hay sao? Nếu nói phát báo riêng nghiệp thì không phải là hành chi, tức là phát nẻo ác báo chung nghiệp ngu, thật ra chỉ có Kiến đoạn. Hỏi: Tại sao lại nói Dị thục ngu do Tu đạo đoạn?
Đáp: Lại nữa, trong đây có hai thuyết. Chánh phát nghiệp vô minh chỉ có kiến đạo đoạn.
Người kia lại nói: "Dị thục ngu mê bảy khổ trước, chân thật nghĩa ngu thì mê khổ thứ tám".
Đại luận quyển 10 ghi: "Mê thế tục khổ khởi phi phước hạnh, mê Thắng nghĩa khổ thì khởi phước hạnh và bất động hạnh". Luận Đối Pháp quyển 6 ghi: "Bảy khổ trước là thế tục khổ, khổ thứ tám là Thắng nghĩa khổ", do đó phát phi phước vô minh là Tu đạo đoạn, ngoài ra Kiến đoạn thì không đúng.
Hỏi: Lẽ nào lấy thế tục khổ mà nói là đồng?
Đáp: Văn trong các kinh luận là một thế tục, vì dễ biết được cho nên gọi là thế tục. Chỉ có Thắng trí cảnh cho nên gọi là Thắng nghĩa. Nói phi phước quả, thế tục dễ biết là khổ, gọi là thế tục khổ. Phước quả và bất động quả thì phải thắng trí mới biết là khổ cho nên gọi là Thắng nghĩa khổ, không phải phân ra tám khổ. Nhưng luận gọi là Thế tục và Thắng nghĩa, vì trong tám khổ kia, bảy khổ trước dễ biết gọi là thế tục, khổ thứ tám thắng trí biết, gọi là Thắng nghĩa. Không phải nói bảy khổ trước là mê mà phát thế tục phi phước hạnh. Nếu không như thế thì trong bảy khổ trước, khổ thứ sáu và bảy là hoại khổ.
Hỏi: Lẽ nào cõi Sắc không có hoại khổ hay sao? Cõi sắc đó nếu có thì mê của nó tại sao không tạo phi phước hạnh? Lại nữa, nẻo ác lẽ nào không có Thắng nghĩa khổ thứ tám? Tại sao mê của nó chỉ tạo phước hạnh và bất động hạnh?
Đáp: Cho nên biết văn đồng, nhưng không phải nhất định một nghĩa. Vô minh trong đây chỉ có kiến sở đoạn. Những câu hỏi vặn này như trong Biệt chương giải thích.
Luận: "Hai chi ái thủ", đến "chỗ đoạn của kiến tu".
Thuật rằng: Ý của sư thứ nhất, ái thủ chỉ có Tu đoạn, ái tham cầu đương sinh và nhuận sinh, hiển rõ không phải Kiến đoạn, ái của Kiến đoạn duyên kiến mà khởi. Luận Đối Pháp quyển 5 ghi: "Chín thứ tâm của mạng chung, ba cõi và ba cõi sinh, mỗi mỗi đều nhuận sinh tâm, mỗi mỗi đều có ba cõi". Luận đó nói câu sinh ái đồng thời với vô minh thì chỉ có Tu đoạn. Thủ chi chỉ là sự tăng thượng của ái, không nắm lấy bốn thủ. Nói bốn thủ, là giải thích khắp hết nghĩa của thủ là không phải thủ chi nhiếp, còn lại chín chi thì thông với Kiến đoạn và Tu đoạn. Vô ký pháp của nó không phải chỉ có Tu đoạn, đến sau sẽ biết.
Luận: "Có nghĩa tất cả", đến "không có chi nào toàn đoạn". Thuật rằng: Trong sư thứ hai có ba phần:
a. Nêu tông.
b. Mở vấn nạn.
c. Hiển chánh.
Nêu tông đều thông với cả hai đoạn. Luận thuyết từ đây xuống mở ra hai vấn nạn, mười hai chi này tất cả đều thông với Kiến sở đoạn và Tu sở đoạn. Vô minh cũng Tu đạo đoạn là có ý gì? Hai chi ái thủ cũng Kiến đạo đoạn. Luận Du-già quyển 10 ghi: "Quả Dự lưu đã đoạn tất cả một phần hữu chi, vì chưa có chi nào toàn đoạn".
Luận: "Hoặc vô minh chi", đến "không có chi nào toàn đoạn".
Thuật rằng: Vấn nạn sư trước rằng: Nếu vô minh chi chỉ có Kiến sở đoạn thì hàng Dự lưu chi đầu đã đoạn hoàn toàn, lẽ nào nói Dự lưu không có chi toàn đoạn? Nói đoạn tất cả một phần hữu chi.
Luận: "Nếu hai chi ái thủ", đến "một phần của tất cả chi".
Thuật rằng: Lại vấn nạn sư trước, nếu hai chi ái thủ chỉ có Tu đạo đoạn, lẽ nào nói Dự lưu kia đã đoạn một phần của tất cả chi? Hai chi ái thủ kiến đạo không đoạn, không phải tất cả cũng không phải một phần, vì chưa đoạn hoàn toàn?
Sư này hoặc chống chế rằng: Đại luận quyển 10 chỉ căn cứ theo từ phần nhiều mà nói.
Luận: "Lại nữa, nói toàn cõi", đến "phiền não năng phát".
Thuật rằng: Nếu như thế tại sao quyển 59 lại ghi: "Toàn cõi tất cả phiền não đều có thể kết sinh. Hai chữ "kết sinh" là hiển nhuận sinh hoặc. Nếu chỉ có tu nhuận thì kiến đạo phiền não trong giới không nhuận sinh, cho nên không gọi là toàn cõi. Đây là vấn nạn ái thủ chỉ có Tu sở đoạn. Lại nữa, nói thủ chi thông nhiếp bốn thủ, Kiến thủ và Giới thủ không phải Tu đoạn, dưới vấn nạn vô minh chỉ có Kiến sở đoạn. Quyển 59 phần đầu lại ghi: "Đến nẻo ác hành chỉ khởi phiền não năng phát thì đáng lẽ nói rằng sinh năm nẻo hành". Chỉ có phân biệt khởi phiền não năng phát, vì phiền não của Kiến đoạn không những phát sinh nẻo ác hành. Hoặc nói trời người chiêu cảm báo riêng nghiệp. Tu hoặc năng phát, là thông với báo chung và báo riêng mà nói. Luận không nói phát sinh trời người, tức là nẻo ác báo riêng nghiệp. Đáng lẽ Tu đạo đoạn ác không phát nẻo ác báo riêng hạnh, Tu hoặc đã có thể phát, cho nên biết luận kia chỉ có luận về báo chung.
Luận: "Không nói nhuận sinh", đến "Kiến sở đoạn"
Thuật rằng: Trong các Thánh giáo không nói hoặc của nhuận sinh chỉ có Tu sở đoạn, vì toàn cõi phiền não có thể kết sinh, cũng không nói các sự chiêu cảm hậu hữu hành đều là do Kiến sở đoạn phát, mà chỉ nói phân biệt Hoặc của nẻo ác hành phát khởi.
Luận: "Do đây cho nên biết", đến "Kiến sở đoạn và Tu sở đoạn". Thuật rằng: Kết và mở chánh nghĩa có hai đoạn: một là kết ba chi, hai là giải thích khắp các đoạn. Đây là phần đầu. Ba chi vô minh ái thủ cũng thông với Kiến sở đoạn và Tu sở đoạn. Tổng hợp luận Đối Pháp quyển 7 nói.
Luận: "Nhưng vô minh chi", đến "trợ là bất định".
Thuật rằng: Chánh phát hạnh chỉ có Kiến sở đoạn, vì thô mạnh cho nên nói hai thứ ngu đều là Kiến sở đoạn. Tổng hợp quyển 59 ghi: "Trợ là bất định". Vì trợ phát báo chung nghiệp của trời người cũng thông với Tu đạo. Luận kia chỉ nói phát hành của nẻo ác, chỉ có phân biệt hoặc có thể trợ phát hành của nẻo ác báo chung, phần nhiều chỉ có Kiến đoạn. Phát báo riêng ít phần cũng thông với Tu đoạn, phỏng theo phần nhiều mà nói thì không có lỗi tương vi. Tổng hợp luận Đối Pháp quyển 6 trong nhuận sinh ghi: "Chánh nhuận sinh là chỉ có Tu sở đoạn". Vì chính tâm sở vi tế hiện hành, cho nên luận kia chỉ nói câu sinh ái đồng thời, do đó trợ là bất định, do đó nói tất cả phiền não của toàn cõi đều là năng kết sinh. Bốn thủ đều gọi là thủ chi, nhưng phát nghiệp Hoặc chỉ có chủng tử, nội pháp Dị sinh của Bất phóng dật, nhuận sinh Hoặc của nó cũng chỉ có chủng tử. Nói Bất hoàn, có nói cùng với Vô tưởng không có, đây là căn cứ theo chánh phát và chánh nhuận mà nói, nếu trợ phát và trợ nhuận khởi hiện hành thì không có lỗi, vì nhân xa khởi cũng có hiện hành, vì khi chưa lâm mạng chung thì khởi hiện hoặc.
Hỏi: Hiện tại mười hai chi của luận này đều thông với Kiến đoạn và Sở đoạn, nghĩa của đoạn như thế nào mà nói thông với nó?
Luận: "Lại nữa, pháp nhiễm ô", đến "vì nó vĩnh viễn đoạn".
Thuật rằng: Dưới đây giải thích khắp tất cả nghĩa của đoạn, pháp chủng ngầm kín này cùng với Vô lậu minh pháp trái nhau. Khi Vô lậu khởi thì chủng tử ngầm kín liền đoạn. Sắc tánh không phải nhiễm ô thì đoạn này thông với tâm và tâm sở.
Luận: "Tất cả Hữu lậu", đến "không trái với đạo".
Thuật rằng: Pháp không nhiễm ô gọi là thiện và Vô phú vô ký. Không phải tánh đáng nên đoạn, thể không phải pháp ngầm kín, tức là thông với năm uẩn không trái với đạo.
Luận: "Nhưng có hai nghĩa", đến "tạp phiền não của nó".
Thuật rằng: Nhưng thiện và Vô ký này có hai nghĩa, cho nên nói đó là đoạn. Một là ly phược đoạn, là đoạn duyên phiền não của nó và tạp phiền não của nó. Duyên phiền não của nó là có phiền não duyên Hữu lậu của của nó mà sinh, tức là tùy theo cảnh Hữu lậu thiện sở duyên của bảy thức kia. Hoặc đoạn năng duyên phiền não nói sở duyên cảnh cũng được đoạn. Tạp phiền não của nó là khi Thức thứ bảy khởi phiền não, tuy không duyên với pháp của Thức thứ sáu kia, nhưng sáu thức do đó trở thành tánh Hữu lậu, gọi là nhiễm ô y, Hoặc kia hằng khởi trong tánh vị của sáu thức. Khi phiền não của Thức thứ bảy đoạn thì pháp của Thức thứ sáu gọi là đắc đoạn. Lại nữa, xen lẫn nhau khởi thì gọi đó là tạp, giải thích này tức là có bình đẳng tánh trí. Xen lẫn phiền não của Thức thứ bảy thức sinh, thuận nhau thì gọi đó là tạp, nhưng Thức thứ sáu và Thức thứ bảy Vô lậu thì không tương thuận với phiền não, chánh trái nhau cho nên không gọi là tạp. Đây không phải là nhân khởi, vì các nghiệp Vô ký không phải nhân khởi. Chỉ xen lẫn nhau mà sinh cũng có nghĩa là tạp, tánh thuận với Lậu cho nên xen lẫn nhau sinh gọi là tạp. Lại nữa, tạp là phiền não của Hữu lậu thiện nghiệp dẫn khởi cho nên trở thành tánh Hữu lậu, không đồng với tánh Vô ký, sau đó khi đoạn Hữu lậu kia thì thiện cũng gọi là đoạn. Lại nữa, giải thích tâm của tương ưng phược và tánh của Biến hành không phải là nhiễm pháp, cùng với phiền não đều gọi là phiền não phược. Khi phiền não đoạn thì tâm vương Biến hành kia gọi là được đoạn, vì lìa tương ưng hoặc, gọi là đoạn tạp phiền não của nó. Các tâm vương Biến hành tuy cùng với nhiễm pháp tương ưng, tánh không phải pháp nên đoạn cho nên tại môn này, giải thích này trái với giải thích sau chỉ có văn Tu đoạn. Kiến đạo lẽ nào không có tương ưng chuyển! Do đây nên biết hai thuyết Thiện trước, nếu nói bảy thức gọi là tạp phiền não, lìa chín phẩm Dục chưa đắc Vô học thì cõi Dục thiện đáng lẽ không gọi là đoạn, vì tạp phiền não cũng còn chưa đoạn hết. Hoặc căn cứ theo nghĩa này thì khi lìa dục, chỉ có thể duyên hết thì gọi là đoạn, không phải lìa phiền não. Đã như thế thì sinh thánh cõi trên, không đoạn tạp phiền não mà phiền não cũng tự nhiên không có.
Như kiến đạo phiền não Tu hoặc duyên phược chưa hết cũng gọi là đoạn. Đoạn đã vĩnh viễn không sinh vì tự tánh mạnh mẽ, nói đó là đoạn, các pháp loại thiện của nó cũng nên như thế. Duyên sự mạnh mẽ của phiền não của nó, không chờ đoạn tạp hoặc, cũng gọi là đoạn. Đã như thế tại sao do đó gọi là Hữu lậu? Nghĩa này nên suy nghĩ.
Hỏi: Như năm kiến là tuệ phần, thể của tuệ là nên đoạn hay không nên đoạn? Nên đoạn tức là pháp tương ưng, không lìa tương ưng mà được đoạn, vì thể đều có thể đoạn. Nếu không nên đoạn thì năm kiến liền không phải thể của lậu, cũng không phải thể của phược? Như vậy cho đến Bất chánh tri, cũng căn cứ theo đây mà hỏi.
Đáp: Trong Biến hành và biệt cảnh, kiến thể đó là phược. Phi kiến là quấy, vì kiến là năng chấp. Do đây mười pháp này trừ tuệ ra, còn lại chín pháp là có nhiễm phần, nhập vào trong Tùy phiền não đều là thể không phải lậu mà giả lập tên là lậu. Nếu không như thế thì không có pháp phược tương ưng với tà tác ý, đều phần lớn là có ngăn ngại.
Luận: "Hai bất sinh đoạn", đến "khiến cho vĩnh viễn không khởi".
Thuật rằng: Y là nương vào, là chỗ để nương. Nhân nương vào Vô thì quả chắc chắn không khởi, quả nương vào Vô cho nên nhân cũng không sinh. Luận: "Y và ly phược đoạn", đến "chỉ có Tu sở đoạn".
Thuật rằng: Y theo ly phược đoạn trước. Luận Du-già quyển 66 ghi: "Các Hữu lậu thiện, vô phú Vô ký chỉ có Tu sở đoạn". Quyển 57 ghi: "Tín... sáu căn, đây là Tu đoạn cùng với Bất đoạn mà duyên phược này, vì đều là Tu đạo đoạn".
Hỏi: Kiến đạo phiền não lẽ nào không duyên với phược này?
Đáp: Duyên nó cũng khởi, nhưng chưa tận, cho nên đó là nguyên nhân không nói. Hiện tại các luận đều nói cho nên chỉ có Tu đoạn.
Luận: "Nương bất sinh đoạn", đến "chỉ có Kiến sở đoạn".
Thuật rằng: Nương theo bất sinh đoạn ở sau. Luận Đối Pháp quyển 4, luận Du-già quyển 66 ghi: "Thể Thức thứ tám của các nẻo ác và Dị thục thú chỉ có Kiến sở đoạn, và Vô tưởng định cũng chỉ có Kiến sở đoạn". Vì nó nhập vào thiện và Vô ký môn, tức là Tu đạo nhiếp, nhập vào y vong môn tức là chỉ có Kiến đoạn, các pháp đó chỉ là phân biệt phiền não phát khởi các ngoại đạo. Khi nhập kiến đạo thì tất cả phân biệt phiền não đều đoạn. Xả bỏ thân sở y của ngoại đạo thì Vô tưởng định của họ cũng do đó mà không khởi. Chữ "đẳng" có nghĩa là đồng lấy Vô tưởng thiên, Bán trạch, Nhị hình và Bắc Uất-đan-việt. Nhưng Bán trạch thì trong quyển 53 ghi: "Khi kiến đạo thì đắc Phi trạch diệt".
Lại nữa, quyển đó nói Vô tưởng thiên là Phi trạch diệt. Hiện tại luận này gọi là đoạn, trái với văn đó, luận này cũng không đúng. Luận này nói bất sinh cũng là Phi trạch diệt nhiếp. Đoạn nghĩa là xả, không phải nghĩa được đối trị. Nếu như thế thì nẻo ác và ác nghiệp quả cũng là tánh Vô ký, làm ví dụ cũng đáng lẽ như thế, cho nên luận Đối Pháp quyển 4 ghi: "Nghiệp quả nẻo ác là kiến đạo Sở đoạn, hoặc cùng với nhân hợp chung nói là kiến đạo đoạn, không phải đoạn duyên phược và thể của chủng tử". Năm căn Kiến đoạn cũng như giải thích này. Đoạn có bốn thứ, như nghĩa sai biệt trong Biệt sao nói. Nếu luận đạo lý thì chỉ có ba thứ:
a. Tự tánh đoạn, là nhiễm ô pháp.
b. Ly phược đoạn, là năng đoạn duyên và tạp phiền não của nó, thiện và Vô ký pháp là Tu đạo sở đoạn mới rốt ráo hết.
Bất sinh đoạn, là đoạn sở y của nó khiến cho vĩnh viễn không khởi. Điều này có hai thứ:
a. Nhân vong quả tùy tán: Nghĩa là quả của ba nẻo ác gọi là kiến đạo đoạn, do nhân hoặc nghiệp không có thì quả vĩnh viễn không sinh.
b. Quả tận nhân tùy đoạn: Là báo riêng tùy nghiệp của ba nẻo ác cũng là kiến đạo đoạn, sở y quả không có, vì nhân tùy theo mà vong mất.
Vô tưởng định dẫn phát phiền não, nhân của kiến vị vong mất thì quả tùy theo kiến mà đoạn. Bán-trạch-ca, phần nhiều là do phiền não chánh phát. Khi nhập kiến đạo thì nhân vong quả cũng diệt. Có mấy pháp thông với Kiến đoạn và Tu đoạn?
Luận: "Nói mười hai chi", đến "như vậy nên biết".
Thuật rằng: Luận Du-già nói mười hai chi thông với hai đoạn, trong hai đoạn đó như vậy nên biết. Hoặc tự tánh của ba chi vô minh, ái và thủ là đoạn. Nhưng thông với Kiến đoạn và Tu đoạn. Ly phược và bất sinh thì yếu kém cho nên không nói. Hành thì có phần ít thông với ba chủng tự tánh, ly phược và bất sinh. Kiến Sở đoạn và Tu sở đoạn nhiễm ô là tự tánh đoạn. Phi nhiễm thì thông với bất sinh và ly phược. Ly phược thì đã có thể biết rồi. Vì kiến đạo Sở đoạn của Vô tưởng định, hành và Hữu thông với bất sinh. Thức... bảy chi chỉ có ly phược, bất sinh và thể Phi nhiễm pháp, không phải tự tánh đoạn. Nẻo ác, trời, người như vậy nên biết. Đại luận quyển 10 ghi: "Dự lưu và Nhất lai đoạn tất cả chi một phần, không toàn đoạn tuy có bảy chi sinh trong cõi Sắc, cõi Vô sắc và Thức thứ tám Hữu lậu đều không thọ thêm. Nhưng có Dự lưu là Bất hoàn trở về sau sinh cõi kia, cho nên hiện tại làm luận chung. Bất hoàn cõi Dục thì tất cả, cõi Sắc và cõi Vô sắc thì bất định, A-la-hán thì tất cả đã đoạn, chính là cùng với đây đồng. Nghĩa đoạn trong đây đến sau sẽ biết. Môn này kiêm giải thích quả đoạn phân biệt.
Luận: "Mười lạc xả đồng thời", đến "không phải thọ đồng thời". Thuật rằng:
13. Ba thọ đồng thời môn: Y theo đương khởi vị thì mười chi cùng với lạc thọ và xả thọ đồng thời. Trừ thọ chi và lão tử chi, thọ không cùng với thọ tương ưng, là tự thể cho nên ở đây phỏng theo một thức, hoặc nương nhiều thức được câu khởi, trong đây chỗ phân rõ tương ưng gọi là đồng thời, cho nên thọ không cùng với thọ đồng thời và trừ lão tử ra. Trong lão tử vị, phần nhiều không có lạc và khách xả, không phải nói Thức thứ tám chủ xả cũng không có. Trong mười hai chi, có mười một chi là khổ thọ đồng thời, như trước thêm lão tử, chỉ trừ đối với thọ, không phải tự thể đồng thời như lý trước nói. Lão tử phần nhiều khởi các khổ ưu bi, cho nên Đại luận quyển 10 chỉ ghi: "Trừ hai thọ lạc và xả, cùng với hai thọ còn lại câu hành". Hoặc khổ thọ cùng với một trong chỗ trừ, trong đây giải thích riêng, ưu thọ và hỷ thọ của nó đồng với khổ và lạc mà nói. Vị của sinh chi này rộng rải cho nên có lạc và xả.
Luận: "Mười một chi phần ít", đến "cho nên không nói nó". Thuật rằng:
14. Ba khổ phân biệt môn: Mười một chi chỗ nhiếp của phần ít hoại khổ, trong mười hai chi, trừ một chi lão tử. Trong lão tử vị phần nhiều không có lạc thọ. Trong mười một chi, không phải lạc thọ không có, y theo lạc mà lập hoại khổ, không nói trong lão tử chi kia cũng làm hoại khổ. Đại luận quyển 10 ghi: "Nói rằng lạc thọ câu hành chi và phi thọ câu hành chi một phần là hoại khổ". Trước nói lạc thọ mười chi câu hành trừ thọ và lão tử, thọ không cùng với thọ câu, cho nên nói thọ làm phi thọ câu chi. Nói một phần, là trong mười hai chi có tánh của khổ khổ và hành khổ, hiện tại trừ tánh đó ra cho nên nói một phần.
Luận: "Mười hai chi ít phần", đến "có khổ thọ". Thuật rằng: Mười hai chi ít phần chỗ nhiếp của khổ khổ. Lý do gì trong tất cả chi có khổ thọ? Quyển 10 ghi: "Nói rằng khổ thọ câu hành chi và phi thọ câu hành chi, một phần là khổ khổ". Khổ thọ trước trong câu hành nhiếp mười một chi, trừ thọ ra như trước nói. Hiện tại luận này gồm cả thọ cũng là khổ khổ cho nên mười hai chi nói một phần, như trong hoại khổ nói.
Luận: "Mười hai chi toàn phần", đến "như hoại khổ nói".
Thuật rằng: Mười hai chi toàn phần là chỗ nhiếp của hành khổ. Thật tế mà luận, các pháp Hữu lậu đều là hành khổ. Lại nữa, y theo ba thọ phân biệt môn, phỏng theo xả thọ mà nói là hành khổ, tức là mười một chi phần ít, trừ lão tử chi, phần nhiều không có xả, như hoại khổ nói. Trước xả thọ câu hành cùng với lạc thọ đồng. Đại luận quyển 10 ghi: "Chỗ có hai khổ chi đều là hành khổ nhiếp". Có hành khổ chi không phải hai chi nhiếp lấy, nghĩa là Bất khổ lạc thọ câu chi và Phi thọ câu chi một phần, cùng với văn này đồng. Luận Du-già quyển 66 ghi: "Theo thật tế thì Hữu lậu đều là hành khổ, phỏng theo khi cùng hiển thì vị xả thọ hiển, cùng với hai thọ thì hai khổ cùng hiển.
Luận: "Thật nghĩa như vậy", đến "chỗ nói bất định".
Thuật rằng: Đây là phỏng theo hai vị thật thể và tương hiển mà nói thật nghĩa của chi, nhiếp khổ như vậy. Trong các kinh luận, tùy theo tướng kia tăng mà chỗ thuyết bất định. Nghĩa này như thế nào? Vả lại trong các luận này có hai phần:
Toàn thể phần nhiều nhiếp ba khổ, tức là Hữu lậu pháp đều là hành khổ gọi là toàn.
a. Hai khổ còn lại gọi là nhiều phần, tức là xả thọ câu chi gọi là hành khổ. Hành khổ gọi là tương hiển, còn lại hai thọ câu khổ gọi là nhiều phần. Kinh Duyên Khởi quyển thượng ghi: "Sinh hiển hành khổ, lão hiển hoại khổ, tử hiển khổ khổ". Thập Địa quyển 8 ghi: "Kinh ghi: Mười hai nhân duyên phân nói là ba khổ tướng, trong đó vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập gọi là hành khổ; xúc, thọ gọi là khổ khổ; y theo nhân duyên phân thì gọi là hoại khổ, tức là ái, thủ, hữu, sinh và lão tử chi". Luận đó không có giải thích. Mỗi mỗi đều là tùy theo nghĩa mà tăng, thật ra không có trái nghịch. Luận Du-già ghi: "Căn cứ theo biến pháp thể thì chánh gọi là đạo lý". Trong kinh Duyên Khởi chi phỏng theo quả thời để phân rõ ba khổ, nhân thì chủng tử ẩn mà không luận. Hoặc nói quả thời tức là hiển nhân, nói rằng pháp Hữu vi tạo tác gọi là hành, sinh nghĩa là khởi, là nghĩa tạo tác, tăng nói là hành khổ, lão nghĩa là suy, hoại nghĩa là biến, tử diệt bức bách tăng gọi là khổ khổ. Lấy quả ba khổ để hiển nhân tùy ứng cũng có ba khổ. Tùy tướng tăng mà nói thì không trái với luận Dugià, trong kinh Thập Địa thì thông với nhân quả phân rõ, hành nghĩa là tác, bảy chi trước đều là dẫn nhân nhiếp, nghĩa tạo tác tăng. Đương quả là gốc cho nên nói là hành khổ, tuy xúc và thọ cũng là dẫn nhân nhiếp. Nghĩa của khổ khổ tăng không nói là hành, nghĩa là thể của khổ chi phần nhiều khởi khổ thọ, các chi khổ khổ chỉ có thọ chi tăng. Chỗ sinh thọ của xúc cùng với thọ tương thuận, chỉ nói xúc và thọ làm thể của khổ khổ. Dục hiển các thể của thọ đều là khổ không có chút nào lạc, vì khiến cho sinh chán. Nói xúc câu và thọ câu làm khổ khổ, tuy đối với tử vị thì khổ khổ cũng tăng, cùng với lão tương lân cận chỉ gọi là hoại khổ. Nói thể chánh hoại phần nhiều là Lão chi, tử là diệt mất, cùng với lão tương thuận cho nên lão tử chi thật ra gọi là hoại khổ. Đối với đương quả vị thì sinh làm gốc hoại, cho nên sinh và lão tử đều là hoại khổ nhiếp. Ái thủ hữu của nó thì làm năng sinh nhân, khi sinh đương quả thì ba nhân gần nhất này từ chỗ sinh mà nói thì ba chi ái thủ hữu cũng gọi là hoại khổ. Lại nữa, năm chi ái, thủ, hữu, sinh và lão tử, thuộc năng sinh và sở sinh nhiếp. Khi thục biến thì lự của khổ này dấy khởi, biến hoại gọi là hoại khổ cho nên đều là hoại khổ nhiếp. Luận Đối Pháp ghi: "Đối với đương quả vị có năng sinh và sở sinh, do thục biến cho nên nói tên là quả". hoại khổ cũng như thế, đều tùy theo tướng tăng mà nói ba khổ này không phải thật lý, cho nên luận gồm chung lại, ngoài ra chỗ nói tùy theo tướng tăng là như vậy.
Luận: "Đều là Khổ đế nhiếp", đến "tánh của nghiệp phiền não".
Thuật rằng:
15. Bốn đế môn: Mười hai chi này đều thuộc về Khổ đế, vì là tánh của Hữu lậu thủ uẩn. Có năm trong mười hai chi cũng là Tập đế, chiêu cảm gọi là tập, không phải nghĩa là nhân. Hành và hữu là nghiệp, ba phiền não tánh si, ái và thủ không phải diệt và đạo, vì không phải Vô lậu. Sư Tát-bà-đa nói thể của khổ và tập là một, có nhân quả cho nên nói hai, điều này thì Đại thừa không đúng. Khổ đế rộng, Tập đế hẹp, các tập đều là khổ, không phải khổ đều là tập.
Hỏi: Khổ đế là quả, nghĩa quả Hữu lậu đều là khổ, Tập đế là nhân, nghĩa nhân Hữu lậu đều là tập, phải không?
Đáp: Không đúng. Hữu lậu không phải khổ, khổ có nghĩa là bức bách, Hữu lậu đều là Khổ đế. Có Dị thục cho nên mới gọi là tập, tập là hữu báo, nghĩa là Hữu lậu pháp đều không phải gọi là tập. Như Quyết Trạch quyển 55 ghi: "Hỏi: Đạo đế không phải Hữu lậu, chi không phải thuộc về Đạo đế, gia hạnh và tư lương thì thuộc về Đạo đế, hữu chi đáng lẽ cũng thuộc về Đạo đế? Đáp: Thuận đạo gọi là đạo, hai đạo thuộc thuộc về Đạo đế. Thuận pháp sinh tử gọi là Duyên khởi, Đạo đế không phải là Duyên khởi. Hai đạo khắc tánh cũng không phải Đạo đế". Hiện tại luận này phỏng theo khắc tánh mà luận, chi không phải Đạo đế, vì hai đạo Hữu lậu. Lại nữa, hai đạo vị thì Hữu lậu, hai đạo là Duyên khởi chi, không phải thuộc về Đạo đế. Chủng tử của hai đạo Vô lậu là thuộc về Đạo đế, không phải Duyên khởi chi. Mỗi mỗi đều căn cứ theo một nghĩa cũng không trái nhau. Đại luận quyển 15, quyển 16 ghi: "Hai chi là Khổ đế, vì hiện hành làm khổ, sinh và lão tử. Năm chi là Khổ đế, vì đang gây khổ. Thức cho đến thọ là ngoài Tập đế, cùng với văn này đồng.
Luận: "Các chi mong nhau", đến "có hay không thì bất định". Thuật rằng:
16. Bốn duyên môn: Mười hai chi mong nhau, quyết định có Tăng thượng duyên, vì rộng. Còn lại ba duyên có hay không thì bất định, vì hẹp.
Hỏi: Hoặc cũng có thừa, tại sao kinh Duyên Khởi quyển hạ ghi:
"Chỉ có một Tăng thượng duyên?"
Luận: "Khế kinh y theo định chỉ nói có một".
Thuật rằng: Vì nương vào định mà có, chỉ nói có một duyên tăng thượng, không phải ngăn trách các duyên khác. Lại nữa, nhân duyên trong ba duyên còn lại rất hẹp.
Luận: "Ái mong thủ", đến "có nhân duyên nghĩa".
Thuật rằng: Hai chi này mong hậu hữu nhân duyên nghĩa, ái tăng gọi là thủ, vì chủng tử ái hay sinh thủ. Thức... năm chủng chuyển gọi là Hữu, sở sinh hiện hành gọi là sinh, vì có nhân duyên. Có chi không mong lão tử vì cách với sinh chi. Hiện tại luận này nương theo chi lân cận kế sau mà nói, không như thế thì thức mong danh sắc, cho đến lần lượt cũng vậy. Phỏng theo đương sinh vị được làm nhân duyên. Kinh Duyên Khởi ghi: "Sinh dẫn đồng thời". Hiện tại luận này phỏng theo chủng mong thể chủng tử của chi lân cận mà làm luận, vì các thức chưa nhuận. Thức... năm chủng mong Phi nhân duyên của sinh, đây tức là kinh Duyên Khởi, Thập Địa và luận Du-già không nói nghiệp làm thức chi. Nhân duyên cũng căn cứ theo đây.
Luận: "Hoặc nói thức chi", đến "cũng làm nhân duyên".
Thuật rằng: Như luận Đối Pháp ghi: "Thức chi là chủng tử của nghiệp, hành mong thức cũng làm nhân duyên. Hiện hành hạnh mong thức chi của hành chủng.
Luận: "Các chi khác mong nhau không có nhân duyên nghĩa".
Thuật rằng: Trừ ba chi này, ngoài ra không phải nhân duyên, vì không phân rõ thể sinh.
Luận: "Nhưng Tập luận nói", đến "thật ra là hành chủng".
Thuật rằng: Đây là tổng hợp các văn trái nhau. Tập luận quyển 4 ghi: "Vô minh mong hành là có nhân duyên". Đây là nương và tập khí tư nghiệp của vô minh đồng thời mà nói, vì vô minh đồng thời cho nên giả thuyết là vô minh, thật ra là hành chủng, không phải thật vô minh. Vô minh đã như thế, các chi khác cũng căn cứ theo đây mà biết. Đây là y theo thể riêng, vì không phải phân vị, luận kia lấy vô minh làm đầu, để làm ví dụ cho các chi khác đáng lẽ cũng như thế. Luận kia lại lấy vô minh làm pháp. Điều này là thiên về tổng hợp các văn.
Luận: "Luận Du-già nói", đến "chỉ có nghiệp có nói".
Thuật rằng: Luận Du-già nói có ba duyên không có nhân duyên, y theo hiện hành ái và thủ, không y theo chủng tử ái và thủ, y theo nghiệp chủng làm Hữu, không y theo có thức chủng mà nói. Không nói có nhân duyên, cũng không phải trái nhau. Luận đó chỉ nói vô minh mong sắc hiện hành làm Tăng thượng duyên, mong Vô sắc hiện hành làm ba duyên, là Đẳng vô gián duyên, Sở duyên duyên và Tăng thượng duyên, như vậy các chi còn lại làm duyên nhiều hoặc ít, nên như đây mà biết. Hữu sắc mong Hữu sắc chi làm một Tăng thượng duyên, mong Vô sắc chi làm hai duyên là Sở duyên duyên và Tăng thượng duyên. Vô sắc mong Hữu sắc, một Tăng thượng duyên mong Vô sắc làm ba duyên là Đẳng vô gián, sở duyên và tăng thượng.
Luận đó lại hỏi: Tại sao mong nhau không có nhân duyên?
Đáp: Nhân duyên là chủng tử của tự thể duyên chỗ hiển hiện, cho nên biết y theo hiện có ái, thủ và nghiệp mà nói, ái và thủ y theo hiện hành không phải y theo chủng tử, có chi y theo chủng nghiệp không phải y theo tự thể". Nếu không có luận này thì khó hiểu Du-già.
Luận kia lại hỏi: Nếu không có nhân duyên thì tại sao nói rằng y theo nhân quả tánh mà kiến lập Duyên khởi?
Đáp: Y theo chỗ nhiếp của Tăng thượng duyên thì dẫn phát, khiên dẫn và sinh khởi nhân nói là nhân. Đã nói y theo tăng thượng sinh khởi nhân, thuyết minh y có nghiệp mà nói, tức là lấy văn này làm chứng sinh khởi nhân chỉ có nói Tăng thượng duyên.
Luận: "Vô minh mong hành", đến "có hai duyên khác".
Thuật rằng: Tăng thượng duyên quyết định có, trong lại càng không nói. Vô minh mong hành, ái mong thủ, sinh mong lão tử, ba chi này có hai duyên khác là Đẳng vô gián duyên và Sở duyên duyên. Hành mong thức cho đến xúc mong thọ, thủ mong hữu. Không có Đẳng vô gián thì quả của nó đều không phải hiện hành tâm và tâm sở tương dẫn sinh. Không phải Sở duyên duyên thì đều là không phải hiện hành tâm năng duyên lự.
Luận: "Hữu mong sinh", đến "có Sở duyên duyên".
Thuật rằng: Hữu mong sinh, thọ mong ái, không có Đẳng vô gián duyên, vì hữu và thọ đều là chủng tử, chủng tử mong hiện hành vì không phải Đẳng vô gián duyên. Có Sở duyên duyên là quả sở duyên của nó.
Luận: "Các chi khác mong nhau, cả hai đồng thời không phải có".
Thuật rằng: Như trước đã nói.
Luận: "Trong đây lại nương", đến "như lý nên suy nghĩ".
Thuật rằng: Chỗ nói trong đây là chi trước mong chi lân cận kế sau, không phải cách qua một chi, hoặc hai chi, hoặc nhiều chi. Đây là nương vào thuận thứ tự, không phải nghịch thứ tự, nương vào nhân quả trước sau không tạp loạn, mỗi mỗi đều đúng là thể, thật ra là nương Duyên khởi mà luận. Không giống như luận Đối Pháp nói vô minh mong hành tạp loạn lẫn nhau, không phải thật Duyên khởi mà nói. Khác là chi lân cận kế tiếp hoặc vượt qua bỏ chi kế tiếp, khác là thuận thứ tự hoặc nghịch thứ tự, khác là không tạp loạn nhau, là thật Duyên khởi. Nếu tạp loạn nhau là giả Duyên khởi, làm duyên bất định. Các bậc thông tuệ nên như lý suy nghĩ.
Vả lại gián cách, như vô minh cùng với thức... năm chủng và hữu chỉ có một Tăng thượng duyên cùng với ái, thủ, sinh và lão tử làm hai duyên là Sở duyên duyên và Tăng thượng duyên. Còn lại tất cả căn cứ theo đây đều có thể biết. Nếu nghịch thứ tự, cũng có cận thứ tự và gián cách qua một chi hoặc hai chi. Hiện tại luận này hợp chung lại nói lão tử cùng với sinh, ái, thủ, hành và vô minh làm hai duyên, là Sở duyên duyên và Tăng thượng duyên. Các chi còn lại chỉ có Tăng thượng duyên. Hoặc tương tạp loạn thì có hai thứ: một là thuận, hai là nghịch. Trong thuận thứ tự thì có cận thứ tự và gián cách. Cận thứ tự như luận Đối Pháp nói, gián cách thì cùng với thật duyên trước không khác nhau, cũng phỏng theo thức... năm chủng mà nói. Nếu phỏng theo đương sinh thì tùy theo chỗ thích ứng của nó. Trong nghịch thứ tự thì có ngăn cách gần, đều nên như vậy suy nghĩ. Kinh Duyên Khởi quyển hạ nói đây là phỏng theo tăng thượng mà nói, nhưng có xa và gần, cho đến các chi mỗi mỗi đều rộng làm duyên. Nhưng thức... năm chủng trong đây y theo đương khởi vị, các chi gián cách nghịch thứ tự vượt qua khoảng cách tương tạp loạn làm duyên. Mỗi mỗi nên suy theo đây có thể hiểu, không phiền nói rộng.
Luận: "Ba pháp Hoặc nghiệp khổ", đến "là chỗ nhiếp của khổ". Thuật rằng:
17. Đây là môn thứ mười bảy Hoặc nghiệp khổ nhiếp các chi. Ba chi vô minh, ái và thủ là Hoặc nhiếp. Hành toàn đủ có một phần, trừ các chủng của thức là chỗ nhiếp của nghiệp. Thức... năm chi, sinh... hai chi, là bảy chi toàn đủ và có thức... năm chủng đã nhuận trong một phần, là chỗ nhiếp của khổ. Như Đại luận quyển 56, Thập Địa quyển 8 và luận Trung Biên quyển thượng ghi: "Hành và hữu là nghiệp đạo, vô minh, ái, thủ là phiền não đạo, còn lại bảy chi là khổ đạo". Đại luận quyển 10 tuy không giải thích riêng, hiện tại luận này nói ba chi là phiền não đạo, hai chi là nghiệp đạo, còn lại là khổ đạo. Cựu Trung Biên nói đạo làm nạn, là phiền não nạn, nghiệp nạn và khổ nạn, nhưng tân phiên dịch thì gọi là tạp nhiễm.
Luận: "Có chỗ nói nghiệp", đến "nghiệp hữu mà nói".
Thuật rằng: Đây là tổng hợp trái nghịch. Trong đây theo thật tế mà luận, là nói hữu một phần, hàm chứa các chi của thức. Luận Du-già và Thập Địa nói nghiệp nhiếp toàn hữu. Nên biết các luận kia y theo nghiệp hữu mà nói, nếu không như thế thì luận kia phân riêng hữu. Luận Đối Pháp quyển 4 ghi: "Ba chi hành, thức và hữu là nghiệp". Các chi còn lại đều đồng với đây. Hiện tại luận này giải thích như sau.
Luận: "Có chỗ nói thức", đến "làm thức chi".
Thuật rằng: Thức là nghiệp, luận kia nói nghiệp chủng làm thức chi.
Luận kia hỏi: Tại sao chỗ nhiếp của nghiệp nhiễm là thức chi?
Đáp: Vì chỗ hiển tập khí của các hành, tức là chủng tử của các hành gọi là thức.
Luận: "Chỗ chiêu cảm của hoặc nghiệp", đến "làm cho sinh chán".
Thuật rằng: Đây là giải thích câu hỏi của người ngoài. Nếu thể của khổ tất cả đều như vậy, tại sao hoặc và nghiệp không gọi là khổ? Chỉ có chỗ chiêu cảm này gọi là khổ, luận kia chỉ có Khổ đế, không phải như Hoặc và nghiệp cũng là Tập đế. Lại nữa, làm cho sinh chán không khởi hoặc nghiệp, nói chỗ chiêu cảm này riêng gọi là khổ. Đây tức là văn luận lấy mười bảy môn, tổng quát là quảng phân biệt môn phần thứ mười đã nói xong. Các môn còn lại, như luận Du-già quyển 10, quyển 93 trong Duyên khởi nói, quyển 7 quyển 19 trong Vô tri rộng hỏi đáp.
Luận: "Do hoặc nghiệp khổ", đến "sinh tử tương tục".
Thuật rằng: Các pháp này mỗi mỗi như Biệt chương sao nói, không thể rộng giải thích. Những vị giảng giải đời sau nên cứ theo đây mà nói.
Từ trên đến đây tổng quát là phần thứ hai lấy mười môn rộng giải thích về Duyên khởi đã nói xong. Từ đây xuống phần thứ ba tổng kết hoặc nghiệp khổ, kết quy về văn của bản tụng. Từ hoặc nghiệp khổ tức là mười hai chi, hoặc này có thể khiến cho sinh tử tương tục bất đoạn, không do duyên bên ngoài mà sinh tử tương tục.
Từ trên đến đây có ba chữ "lại nữa" để giải thích văn tụng đã nói xong. Từ đây xuống đoạn thứ tư giải thích văn của bản tụng, trong đó có ba phần:
a. Giải thích văn tụng sinh tử tương tục.
b. Nương theo để giải thích tịnh pháp tương tục.
Tổng kết trở về Duy thức. Trong phần đầu có ba phần:
a. Giải thích chung văn tụng, sinh tử tương tục do nội nhân duyên.
b. Giải thích riêng hai Tử.
c. Thuộc giải thích văn tụng.
Luận: "Lại nữa, sinh tử tương tục", đến "cho nên chỉ có thức".
Thuật rằng: Đây là phần đầu như văn có thể hiểu. Phần kế là giải thích riêng hai tử, đã nói nội nhân và duyên bên trong. Tại sao vậy?
Luận: "Nhân là hữu nghiệp", đến "cho nên nói làm nhân".
Thuật rằng: Dưới đây phần thứ hai chánh hai tử. Phần đầu nêu chung lý do nhân duyên thể tánh của sinh tử mà được tên, phần thứ hai từ câu "tại sao vậy" trở xuống, người ngoài trình bày giải thích nêu ra thể của sinh tử. Phần đầu trước hết là nêu ra thể của nhân, sau đó nêu ra thể của duyên. Đây là phần đầu. nghiệp Hữu lậu là thiện nghiệp của ba cõi, là Bất thiện nghiệp của cõi Dục. Như trong Duyên khởi, chánh chiêu cảm đời sau dẫn mãn nghiệp là nghiệp Hữu lậu, trừ thuận hiện nghiệp riêng trợ cho đương nghiệp đều không phải là nghiệp Hữu lậu này nhiếp, không phải là hành chi chánh chiêu cảm sinh tử cho nên Vô ký nghiệp cũng không phải nghiệp nhiếp, lý giải thích như thường. Trong Vô ký nghiệp, trừ chánh thể của vô phân biệt, Hậu đắc trí và gia hạnh này, chỉ có thủ Hậu đắc là có phân biệt, vì duyên sự sinh, đến sau sẽ hiểu. nghiệp Hữu lậu và Vô lậu nghiệp này chánh chiêu cảm sinh tử cho nên nói làm nhân. Nói chánh chiêu cảm, là do sự chiêu cảm này mà sinh tử tương tục, do chiêu cảm này mà có lực sinh tử tương tục sinh, chính là kéo dẫn sinh tử. Hữu lậu là Dị thục nhân nhiếp, Vô lậu thì giống như Dị thục nhân cho nên nói là chánh chiêu cảm.
Luận: "Duyên là phiền não", đến "khởi nói làm duyên".
Thuật rằng: Đây là giải thích thể của duyên. Trong đây có hai chướng, trợ cho hai nghiệp trước chiêu cảm sinh tử, cho nên nói làm duyên, không phải chánh có lực do đó mà sinh. Phiền não chướng, là tất cả nhuận sinh các hoặc, nắm lấy phát nghiệp tuy lý không trái, nhưng hiện tại ý này là nắm lấy sự nhuận sinh. Sở tri chướng, loại này tuy nhiều, chỉ nắm lấy duyên để khởi Phật và hữu tình. Hoặc nắm lấy tất cả như phiền não nhuận, đến sau sẽ biết.
Luận: "Tại sao vậy?"
Thuật rằng: Từ đây xuống phần thứ hai nêu thể của sinh tử. Trong đó có hai phần. Phần đầu mượn bên ngoài để trình bày, phần này lại có hai câu hỏi: 1. Sinh tử có mấy và lý do hai nhân duyên?
2. Có lý do gì mà do quả sinh tử của hai nghiệp này dấy khởi? Dưới đây là đáp có hai phần, phần đầu là đáp chung, phần sau là giải thích riêng.
Luận: "Sinh tử có hai".
Thuật rằng: Đây là đáp chung.
Luận: "Một là phần đoạn sinh tử", đến "thô quả Dị thục". Thuật rằng: Dưới đây giải thích riêng có hai phần:
1. Giải thích phần đoạn.
2. Giải thích biến dịch.
Đây là trong giải thích phần đoạn, phần đầu là thể, phần sau là danh. Đây là nêu thể. Dùng Hữu lậu thiện và Bất thiện nghiệp trước làm chánh chiêu cảm nhân. Do phiền não trước chướng duyên trợ thế lực, chỗ chiêu cảm thô quả Dị thục của ba cõi Dị thục Vô ký, dễ thấy được, vì có hạn định dễ hiểu rõ. Nhị thừa thế gian cùng biết là có, gọi đó là thô. Năm uẩn làm tánh, đây là chánh nêu ra thể của sinh tử. Thế nào gọi là phần đoạn?
Luận: "Thân mạng dài ngắn", đến "gọi là phần đoạn".
Thuật rằng: Đây là giải thích danh. Vì Dị thục thân mạng này có dài ngắn, hoặc một năm một ngày cho đến tám vạn kiếp, tùy theo lực của vãng nghiệp nhân hoặc duyên, có như vậy thời gian và nơi chỗ. Hoặc thân hoặc mạng quyết định có bằng hạn, cho nên gọi là phần đoạn, vì có thể làm một phần hoặc một đoạn cho nên gọi là phần đoạn.
Luận: "Hai là bất tư nghì", đến "tế quả Dị thục". Thuật rằng: Dưới đây giải thích biến dịch có năm phần:
1. Nêu thể.
2. Giải thích tên gọi, nhân đó phân rõ người chứng đắc.
3. Vấn đáp.
4. Đối chứng phân rõ hai tử.
5. Tổng kết.
Đây là phần đầu. Các Vô lậu trước đắc Hữu phân nghiệp riêng sau. Do Sở tri chướng trước, trợ duyên thế lực chỗ chiêu cảm tế quả Dị thục thù thắng, quả này mong phần đoạn chuyển thành tịnh Diệu. Vì chuyển vi tế, chuyển quang khiết, không có hạn định, không phải thế gian của nó, và không phải hồi tâm Nhị thừa cảnh gọi là thù thắng, chỉ có diệu, chỉ có tế, chỉ là Bồ-tát, và tự thân đó gồm cả cảnh giới Phật, cho nên gọi là tế. Quyển 80 ghi: "Chư Thiên cũng còn không thấy được". Đây là lấy năm uẩn của Dị thục Vô ký làm tự tánh, trong năm quả thì quả Dị thục nhiếp. Đây là chánh nêu ra thể của sinh tử. Tại sao phần đoạn nói là quả của ba cõi, còn tử này thì không nói là quả của cõi nào? Đây là đối với ba cõi không phải quyết định là cõi nào. Như phần thứ bảy trước đã có hai giải thích, cho nên không nói ba cõi không đồng phần đoạn tử quyết định thuộc nghiệp cõi này, đây là không thuộc biến dịch tử, vì Vô lậu nghiệp, đây là nhờ vào hành tướng, đến sau sẽ rõ. Thế nào gọi là biến dịch tử mà nói là bất tư nghì?
Luận: "Do bi nguyện lực", đến "cho nên gọi là biến dịch".
Thuật rằng: Dưới đây giải thích tên kiêm giải thích người chứng đắc. Tóm lược có ba tên, đây là tên thứ nhất, do đại bi đại nguyện cứu sinh mà đắc Bồ-đề lực, chuyển đổi thân mạng xấu ác xưa cũ, trở thành thân mạng thù thắng hiện tại, chuyển thân mạng thô kém trước kia thành thân mạng diệu tế hiện tại. Trước có nói hạn định bằng nhau là nghiệp này, châu này, cõi này, địa này, có thời điểm quyết định như thế. Hiện tại nghiệp này, châu này, cõi này và địa này thời hạn bằng nhau bất định. Như dựa vào thân của trời quảng quả cõi Sắc rộng hơn năm trăm do-tuần, mạng dài hơn năm trăm kiếp, hoặc ít hơn, cho đến trời người cõi Dục cũng như thế. Biến nghĩa là biến đổi, dịch nghĩa là chuyển dời. Biến đổi thân mạng sinh tử xưa cũ trở thành thân mạng sinh tử hiện tại, cho nên gọi là biến dịch. Dưới đây thế nào gọi là bất tư nghì?
Luận: "Vô lậu định nguyện", đến "gọi là bất tư nghì".
Thuật rằng: Hoặc Vô lậu định nguyện lực chính là chỗ nương nhờ để sinh, chính là chỗ chiêu cảm được, đến diệu dụng vi tế thì khó lường, không thể biết được, vì không phải cảnh của Nhị thừa, gọi là bất tư nghì. Không phải hạng phàm phu hữu tình và Nhị thừa tính biết được, gọi là bất tư nghì, nhưng không thể nói Phật và Bồ-tát không biết, gọi là bất tư nghì. Lăng-già quyển 4 bộ mười quyển ghi: "Đại Tuệ! Thanh văn và Bích-chi-phật chưa chứng pháp Vô ngã, chưa đắc lìa bất tư nghì biến dịch sinh, Phật thì đã lìa, cho nên đắc bất tư nghì Vô lậu giới pháp thân. Biến dịch tử thì cùng với luận này đồng. Vô lậu giới pháp thân, như sau đây quyển 10 giải thích.
Luận: "Hoặc gọi là ý thành thân tùy ý nguyện thành".
Thuật rằng: Dưới đây giải thích tên thứ hai và hiển nguyên nhân được tên. Lại nữa, sinh tử quả này hoặc gọi là Ý thành thân, tùy theo chỗ thành của đại bi nguyện y. Kinh Thắng Man ghi: "Sinh là các thọ và các căn khởi. Tử là các thọ và các căn diệt, cho đến vân vân", như Biệt chương giải thích. Giải thích tên này e rằng nghĩa không có nguyên do, dưới đây sẽ dẫn kinh làm chứng.
Luận: "Như Khế kinh nói", đến "ba chủng Ý thành thân".
Thuật rằng: Đây là thành đối với tên Ý thành thân trước, như kinh Thắng Man ghi: "Ma-lợi-ca! Tên Man này tức là Mạt-lợi phu nhân. Con gái của phu nhân này tên là Ma-lợi-thất-la, tức là Thắng Man". Luận kia nói cũng tương tợ, lấy thủ làm duyên, tức là Phiền não chướng; nghiệp nhân Hữu lậu tức là Chánh nhân nghiệp. Do Hoặc nhuận cho nên tương tục hậu hữu mà sinh hữu của ba cõi. Đây là nêu Phần đoạn nhân quả để so sánh sự biến dịch, như vậy Vô minh tập địa trong năm Trụ địa làm duyên, tức là Sở tri chướng. Vô lậu nghiệp nhân tức là Hữu phân nghiệp riêng. Có A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát đã đắc tự tại lấy Sở tri chướng kia và Vô lậu nghiệp làm nhân mà sinh ba chủng Ý thành thân đó. Phật tánh Luận: "Ngoài ba cõi, có loại người thọ biến dịch, nhân loại tuy tức là cõi này mà không phải ở ngoài ba cõi. Ba hạng người này đều chuyển thân thô cũ, do đại bi nguyện lực mà được thành thân tùy ý muốn. Vô minh Trụ địa trong năm Trụ địa là pháp chấp nhiếp. Kinh đó tự ghi: "Do Vô minh trụ làm sở y, hằng sa phiền não nhân đó mà khởi". Như trong quyển 10 sau đây sẽ tự hiểu. Kinh Thắng Man ghi: "Thế Tôn! Có như thủ duyên", tức là trong đây như thủ làm duyên, ý đó muốn nói có một thứ giống như thủ làm duyên. Nghĩa của nghiệp Hữu lậu nhân cùng với đây đồng, nhưng văn thì có khác, đó là lỗi của người dịch. Cựu dịch nói là Vô minh trụ địa, luận này nói là Tập địa, bản văn Phạm là Vô trụ. Chỗ nói Tập, là do tập quen vài lần mà có năm Trụ địa của vô minh này, gọi là Vô minh tập địa. Chỗ nói trụ là nghĩa gì? Cựu dịch nói là Bồ-tát có sức mạnh lớn, hiện tại luận này nói Bồ-tát đã đắc tự tại, là Địa thứ tám, trong hai thứ tướng và cõi đã được tự tại, cho nên trong Địa thứ tám đoạn hai ngu, có người đối với tướng và cõi tự tại ngu. Luận kia nói sức mạnh lớn, cũng là đối với tướng và cõi được sức lực tự tại. Kinh Vô Thượng Y ghi: "Đại địa Bồ-tát" thì cựu dịch nói là Ý sinh thân, luận này nói là Ý thành thân, nghĩa đó là tùy theo ý mà sinh, ý này tùy theo ý mà thành, vì chỉ có chuyển dịch, không phải mới sinh. Không thể nói là sinh. Đây tức là Nhị thừa vô học hồi tâm hướng Đại, và trực vãng Bồ-tát Địa thứ tám trở lên mới thọ sinh tử biến dịch. Ở đây cũng chưa hết lý, chỉ tùy theo văn kinh. Phật Địa quyển 2 ghi: "Thanh văn thừa, hoặc trừ bảy lần sinh, hoặc trừ một lần sinh, hoặc trừ các xứ của cõi trên một lần sinh, tức là ba quả trước. Tuy chỗ nhuận phần đoạn của các phiền não mà đắc Phi trạch diệt, nhưng do nguyện lực mà thọ biến dịch sinh, ba vô số kiếp tu nhân Bồ-đề, không có lỗi". Phi trạch diệt là nhiều duyên không đủ, tất cánh trong lúc này không sinh, không phải vĩnh viễn không sinh, nhờ vào nhân của thân này mà dần dần tăng thắng cho đến thành Phật. Quyển 80 ghi: "Lại nữa, Thanh văn hồi hướng Bồ-đề, hoặc ở học vị có thể vứt bỏ, hoặc ở Vô học vị mới có thể vứt bỏ...", đến nói rộng, cho nên biết ba quả cũng được thọ biến dịch sinh, suy nghiệm mà biết văn này không phải làm xứng lý. Vì Địa thứ bảy trở về trước là những người thuộc Quyết định tánh, có người thọ tánh này. Hiện tại trong luận này nói là Nhị thừa vô học và Địa thứ tám trở lên thọ biến dịch sinh, vì quyết định cho nên nói ba quả trước và Địa thứ bảy trở lại, không quyết định thọ sinh tử biến dịch, cho nên không nói. Ba chủng tánh này thì quyết định cho nên nói. Tây phương có giải thích như cuối quyển trước, đã giải thích sơ lược xong. Vì có Bồtát Sơ địa, tức là có thể chế phục các phiền não cho nên Sơ địa cũng đắc. Như Diệt định nói hoặc có Sơ địa cho đến Địa thứ tám mới đắc. Nói rằng có hạng chỉ thọ Phần đoạn mà không phải Biến dịch, là các phàm phu, Tứ quả định tánh. Hoặc có hạng chỉ thọ biến dịch mà không phải Phần đoạn, là Nhị thừa vô học bất định tánh, Bồ-tát Địa thứ tám trở lên, hoặc cũng thọ Phần đoạn và cũng thọ Biến dịch là ba quả bất định tánh trước. Địa thứ bảy trở lại, phiền não chưa hết, hoặc dựa vào nghiệp Hữu lậu của Phiền não chướng mà chiêu cảm sinh tử, gọi là Phần đoạn sinh tử, đây là tướng thô dễ biết. Hoặc do Hữu lậu của Sở tri chướng trợ giúp mà chiêu cảm sinh tử, gọi là sinh tử biến dịch, vi tế khó biết, cho nên Địa thứ bảy trở lại chế phục các hữu tình thọ khổ ba đường mới là thật thân, dễ biết được. Địa thứ tám trở lên cho đến hóa thân, như Phật hóa thân để cứu độ chúng sinh, Đại Trí Độ luận ghi: "Địa thứ tám xả nhục thân, xả Phần đoạn". Nếu giải thích câu kinh này thì trong đây căn cứ theo định, không phải không thẳng đến Địa thứ bảy trở về trước. Ba quả trước cũng được nghĩa thọ. Như luận Đối Pháp hội sao quyển 13, trong đó có giải thích khác, Sơ địa đã đắc, lại không có quyết định Phần đoạn nghiệp, như A-la-hán. Lăng-già quyển 4 ghi bộ mười quyển ghi: "Đại Tuệ! Nói tịch tịnh pháp, là được chứng tướng Vô ngã nhập Viễn hành địa. Nhập Viễn hành địa rồi được vô lượng Tam-muội, tự tại như Ý sinh thân", tức là biết Địa thứ bảy đã đắc sinh tử này, nhưng chưa phải từ xưa đến nay cho nên trong đây không nói. Nhưng kinh Thắng Man và luận này đồng, Nhị thừa vô học và Bồ-tát tự tại gọi là Ý thành thân. Lăng-già quyển 5 bộ mười quyển ghi: "Đại Tuệ! Có ba thứ Ý sinh thân: Một là đắc Tam-muội lạc tam-ma-bạt-đề Ý sinh thân, là trong Địa thứ ba, thứ tư và thứ năm. Hai là như thật giác tri các pháp tướng Ý sinh thân, là Bồtát Ma-ha-tát trong Địa thứ tám. Ba là chủng loại câu sinh Vô tác hành Ý sinh thân, là tự thân nội chứng tất cả pháp như thật lạc tướng và pháp tướng lạc, tức là Địa thứ bảy về trước đều đắc biến dịch". Văn này không bằng bốn quyển kinh, bây giờ tổng hợp các văn đó lại. Từ Sơ địa đến Địa thứ năm đều đáng gọi là đắc Tam-muội lạc tam-ma-bạt-đề Ý sinh thân, nhưng vì trong Sơ địa và Địa thứ hai chưa đắc định tự tại mà lược bỏ không nói. Đắc định tự tại thì đối với sinh tử này có công năng thù thắng, cho nên trong kinh đó nói tự tâm tịch tịnh hành các thứ hạnh thì tướng tam-ma-bạt-đề lạc của đại hải tâm. Ba chuyển thức gọi là Ý thức sinh, vì thấy cảnh giới của tự tâm. Như thật biết Hữu tướng và Vô tướng gọi là tướng Ý sinh thân thứ nhất, đối với định tự tại trong Địa thứ ba, thứ tư và thứ năm đều bình đẳng. Địa thứ sáu và Địa thứ bảy cũng đắc như thật giác tri tướng Ý sinh thân. Đại thứ sáu phần nhiều Vô tướng quán, Địa thứ bảy tuy đắc Vô tướng quán này, nhưng chưa được lìa gia hạnh, cho nên không bằng Địa thứ tám. Hiện tại luận này từ chỗ thù thắng mà luận thì chỉ nói Địa thứ tám là đắc Ý sinh thân thứ hai, cho nên kinh kia nói quán sát biết rõ thì đắc các pháp Vô tướng như huyễn pháp, đều không có chỗ có thân tâm chuyển biến, đắc Như huyễn tam-muội, các tam-ma-bạt-đề giác môn khác và vô lượng tướng lự tự tại thần thông, cho đến là tên Ý sinh thân thứ hai, chủng loại câu sinh Vô tác hành Ý sinh thân, nghĩa là Địa thứ chín và Địa thứ mười chỉ có hành Vô tướng, cũng không có công dụng, đối với sự và lý đều chỉ có nội chứng, cho nên kinh này ghi: "Là tự nội chứng tất cả chư pháp như thật lạc tướng pháp tướng lạc. Ba tên trong đây tuy các Địa đã đắc, nhưng căn cứ theo tăng thắng Địa mà nói thì không phải ngoài các Địa phần mà không đắc các thân này. Nhưng trong kinh Thắng Man và luận này phỏng theo thông với ba Thừa định và bất định thọ sinh tử biến dịch mà nói. Lăng-già thì phỏng theo trực vãng Bồ-tát thông với định và bất định thọ sinh tử biến dịch tăng thắng vị mà nói. Lại nữa, giải thích trực vãng Địa thứ tám mới đắc, đây là nói theo đường xa, tuy Địa tiền đã đắc lại còn nói thắng giả. Hai chủng ba chủng Ý sinh thân kia tuy danh vị có khác nhưng cũng không trái nhau.
Luận: "Cũng gọi là Biến hóa thân", đến "cho nên không trái lý".
Thuật rằng: Đây là giải thích tên thứ ba. Sinh tử biến dịch này cũng gọi là Biến hóa thân, do định lực của Vô lậu chuyển, khiến cho khác với thân phần đoạn gốc, vì thanh tịnh vi diệu rộng lớn quang khiết như biến hoá, theo dụ mà được tên. Nhưng hai tên đầu thì nghĩa và dụng mà nêu rõ tên, tên này thì theo ví dụ. Như có luận nói, các vị Vô học Thanh văn, cho đến Phi nghiệp báo thân, đều là vấn đáp của luận đó, cũng không trái lý, cho nên biết từ ví dụ tức là biến dịch sinh. Đây là phần thứ hai giải thích danh và phân rõ người chứng đắc đã nói xong. Từ đây xuống phần thứ ba giải thích các nạn hại, có bốn hỏi đáp, hoặc phân làm ba phần.
Luận: "Hoặc Sở tri chướng", đến "không có Niết-bàn khác". Thuật rằng: Đây là người ngoài hỏi: Như phàm phu Hữu học do
Phiền não chướng trợ cho nghiệp Hữu lậu, có thể chiêu cảm sinh tử nhưng không thể nhập Vô dư Niết-bàn. Tất cả Nhị thừa có Sở tri chướng, đã có thể khởi động Vô lậu nghiệp, có thể chiêu cảm sinh tử, tức là chỗ nói định tánh Nhị thừa của ông, đáng lẽ vĩnh viễn không nhập cõi Vô dư diệt, vì có Sở tri chướng và Vô lậu nghiệp có thể chiêu cảm sinh.
Đây là các bộ Tiểu thừa cùng chung đặt vấn nạn này. Chướng này của bộ kia thì không trợ giúp cho chiêu cảm sinh.
Luận: "Như các Dị sinh câu thúc phiền não".
Thuật rằng: Đây là luận chủ đáp. Hoặc làm giải thích này có bốn vấn đáp, hoặc làm hai giải thích sau, chỉ có ba đoạn văn. Hiện tại luận này lấy pháp ví dụ, tức là giải thích vấn nạn trước. Nói rằng như các Dị sinh bị phiền não câu thúc chướng ngại, dong ruổi theo sinh tử, không thú hướng Niết-bàn. Thú tịch của nó, là tâm ưa thích hướng đến tịch diệt, bị tâm này câu thúc, rong đuổi theo Vô tưởng, không thú hướng đến Vô thượng Chánh đẳng Bồđề, như các Dị sinh câu thúc phiền não, tuy có Sở tri chướng mà không được thành Phật, như các Dị sinh tuy có Vô lậu chủng mà không thú hướng Niết-bàn. Quyển 80 ghi: "Do chủng tánh khác nhau cho nên không thể thú hướng. Như người không có chủng tánh câu thúc phiền não cho nên dong ruổi theo sinh tử". Lại nữa, hoặc Sở tri chướng trợ cho Vô lậu nghiệp, đến đoạn văn Dị sinh bị phiền não câu thúc này, có nghĩa tổng quát là vấn nạn chiết phục kế chấp của ngoại đạo. Nói rằng có chiết phục kế chấp vì Vô lậu nghiệp chánh chiêu cảm sinh tử, làm nhân của sinh tử, như nghiệp thiện ác. Hiện tại luận này vấn nạn họ rằng: Nếu do Vô lậu chánh chiêu cảm sinh tử, Sở tri chướng trợ giúp thì Nhị thừa tánh đáng lẽ vĩnh viễn không nhập Vô dư Niết-bàn? Hằng khởi Vô lậu làm nhân của sinh tử, có Sở tri chướng hằng làm duyên trợ giúp câu thúc Nhị thừa cho nên không được vượt qua tịch tịnh. Như nghiệp nhân thiện ác và sức phiền não của các Dị sinh trợ giúp câu thúc phiền não cho nên không đắc Niết-bàn, hiển ngược lại thì đã biết có thú hướng tịch tịnh. Tuy có Vô lậu và Sở tri chướng, nhưng không đều là hồi tâm, cho nên biết Vô lậu không phải làm nhân chánh chiêu cảm sinh tử. Lại nữa, giải thích văn này cho đến "như thế nào Đạo đế thật sự có thể chiêu cảm khổ" là văn vấn nạn. Có hai ý vấn nạn. Nếu Sở tri chướng trợ Vô lậu nghiệp thì có thể cảm chiêu sinh tử, định tánh Nhị thừa đáng lẽ vĩnh viễn không nhập Vô dư Niết-bàn, vì Sở tri chướng chiêu gọi sinh tử câu thúc Nhị thừa kiến phần, khiến cho thú hướng tịch diệt, như các Dị sinh câu thúc các phiền não mà không đắc Niết-bàn. Đó là câu hỏi thứ nhất, cho nên sau sẽ đáp. Sở tri chướng kia không thể có ứng dụng phát nghiệp nhuận sinh, chỉ làm duyên trợ chiêu cảm đối với sinh tử. Có chủng tánh, là khởi Vô lậu định nguyện, Sở tri chướng trợ có biến dịch sinh, không phải chánh phát nghiệp nhuận sinh có thể chiêu cảm, cho nên có định tánh nhập Niết-bàn, tuy có Sở tri chướng nhưng không thể phát các nghiệp. Thế nào là Đạo đế thật sự có thể chiêu cảm Khổ? Đây là câu hỏi thứ hai, văn dưới đây trước hết đáp câu hỏi thứ hai này, sau đó đáp câu hỏi thứ nhất.
Nhưng tuy có ba giải thích trong một đoạn văn này, giải thích thứ nhất đồng với luận Du-già và Phật Địa đều có câu hỏi này. Giải thích thứ hai là thiết lập vấn nạn chiết phục kế chấp cũng có lý này. Giải thích thứ ba là dưới đây căn cứ theo hữu mà đáp. Thế văn không trái nhau, cũng không có lỗi.
Luận: "Thế nào Đạo đế thật sự cảm chiêu khổ". Thuật rằng: Đây là phần thứ hai người ngoài hỏi. Trước đã nói Vô lậu làm chánh nhân chiêu cảm, cho nên đặt ra câu hỏi này.
Luận: "Ai nói rằng thật sự chiêu cảm".
Thuật rằng: Đoạn văn này là người ngoài hỏi. Hoặc không phải thật sự chiêu cảm, nghĩa chiêu cảm như thế nào?
Luận: "Vô lậu định nguyện", đến "không phải riêng cảm được". Thuật rằng: Do Vô lậu thắng định của Đệ tứ thiền, nhờ vào nghiệp
Hữu lậu mà khiến cho quả Sở đắc tương tục sinh nhất thời lâu dài không dứt, dần dần tăng thêm thù thắng, thật ra nghiệp Hữu lậu cảm, nhưng vì Vô lậu nhờ vào lực thù thắng mà giả mượn gọi là cảm. Không phải Vô lậu nghiệp thật sự có thể cảm chiêu khổ, đây là Vô lậu nghiệp khi cảm như vậy, do Sở tri chướng làm duyên trợ cho lực của Vô lậu nghiệp này, không phải Vô lậu nghiệp này riêng một mình mà có thể cảm quả. Thuyết minh Sở tri chướng không đồng Phiền não chướng, cho nên tiếp theo luận nói.
Luận: "Nhưng Sở tri chướng", đến "có dụng nhuận sinh".
Thuật rằng: Hoặc căn cứ theo giải thích thứ ba trước. Đây là đáp câu hỏi thứ nhất Sở tri chướng không phát nghiệp. Nhị thừa nhập Niết-bàn, giải thoát là hai Niết-bàn. Giải thích nghĩa trừ phược, do đó gọi là giải thoát. Phiền não gọi là phược, có thể chướng Niết-bàn. Sở tri chướng không phải phược, cho nên không chướng Niết-bàn, vì Niếtbàn là giải thoát. Đã không chướng giải thoát thì thể không phải là pháp trói buộc, không giống như vô minh, có thể phát các nghiệp Hữu lậu, và giống như tham, có ứng dụng nhuận sinh. Sở tri chướng này, hoặc có thể phát nghiệp nhuận sinh trói buộc hữu tình, có thể riêng chướng ngại giải thoát thì Sở tri chướng này đã không như thế, cho nên không chướng giải thoát.
Luận: "Dùng pháp gì để cảm chiêu sinh tử khổ?"
Thuật rằng: Đây là phần thứ ba người ngoài hỏi. Luận Phật Địa ghi: "Nhị thừa vô học hết một thân này, chắc chắn sẽ nhập diệt vĩnh viễn, cùng với Phật không khác". Tại sao dẫn các vị đó thú hướng đạo Bồ-đề để thọ khổ thời gian dài nữa? Họ đáp: Trong vị biến dịch không có khổ thọ này. Điều đó có lỗi gì? Lại nữa, hỏi có hành khổ, cho nên trở thành lỗi lớn. Văn kia vấn nạn về Ý đại cùng với luận này đồng.
Luận: "Tự chứng Bồ-đề lợi lạc cho người khác". Thuật rằng: Tức là hai lợi, rất cần nhờ cậy vào sinh. Luận: "Nói bất định tánh", đến "Vô thượng Bồ-đề".
Thuật rằng: Bất định Nhị thừa và Bồ-tát Địa thứ tám trở lên. Nhị thừa đã vĩnh viễn đoạn Phiền não chướng; Bồ-tát đã vĩnh viễn chế phục Phiền não chướng, cho nên không có dung chứa sự thọ lại đương phần đoạn thân. Tuy các hàng Bồ-tát nguyện lực thọ sinh, chủng tử phiền não ẩn núp thì Phần đoạn quả quyết định không thể sinh. Nhị thừa sinh tử không phải do bi nguyện, hoặc là có chủng tử hoặc sau sinh tử tương tục, cho nên khi đoạn chủng tử thì sinh tử vĩnh viễn hết. Bồ-tát sinh tử chỉ do bi nguyện, chắc chắn là giả mượn hiện hành hoặc trợ cho nguyện mới sinh, cho nên chế phục hiện thời vĩnh viễn đoạn sinh tử. Bồ-tát tuy nhờ cậy phiền não sinh tử để thọ sinh, nhưng không đồng với phàm phu và Nhị thừa nói hiện hành và chủng tử nhuận sinh. Do khởi phiền não lợi ích hữu tình, thế lực nghiệp liền có thể cảm chiêu quả sinh tử, phiền não nếu bị chế phục thì nghiệp thế liền hết, cho nên cần phải pháp chấp trợ cho trí thọ sinh, do đó phiền não ẩn núp đã đoạn thì không có dung chứa thọ lại đương phần đoạn quả. Đã có hai thứ lợi ích, quán biết Phần đoạn báo hết, sợ bỏ phế thời gian dài tu Bồ-tát hạnh, bèn nhập vào Vô lậu thắng định. Lực của nguyện thù thắng, như phương pháp của A-la-hán kéo dài thọ mạng, phải nhờ vào nhân của thân hiện tại, tức là nhờ vào quá khứ để chiêu cảm thân nghiệp hiện tại, khiến cho nghiệp lâu dài và quả không dứt, tức là nghĩa không phải chọn lựa sinh trở lại. Đây hoặc là trước nguyện sau mới nhập định, hoặc trước nhập định sau mới phát nguyện. Hai lý không trái nhau, chỉ do phát nguyện nhập Vô lậu định, âm thầm nhờ cậy do đó nghiệp khiến cho thân chuyển biến, không đồng với pháp huân tập Thiền định của Tiểu thừa, Vô lậu và Hữu lậu càng lẫn nhau mà khởi. Nghiệp của quá khứ không thể khởi lại nữa, như vậy niệm niệm định Nguyện trợ giúp cho đến chứng đắc Vô thượng Bồ-đề, trải qua ba đại kiếp. Nói về Thắng định, cựu dịch nói: "Biên tế Tĩnh lự thứ tư", hiện tại không có văn để quyết định biên tế định của Tĩnh lự nào, vì tức định cũng đều được cả. Quả Dự lưu cũng đều đắc định này, lý không trái. Nhưng phần nhiều là định thứ tư, vì thù thắng. Lại nữa, luận Phật Địa ghi: "Tuy đã trải qua hành khổ, hiện tại đắc công đức đại hỷ đại lạc của ba thân Như Lai, cho đến nói rộng.
Luận: "Họ lại cần gì Sở tri chướng trợ giúp".
Thuật rằng: Đây là người ngoài hỏi. Đã do Vô lậu trợ giúp cho thân hiện tại, nghiệp đời trước khiến cho quả theo thời gian lâu dài, nó lại cần gì Sở tri chướng trợ mới cảm được quả này?
Luận: "Đã chưa viên chứng", đến "bi nguyện nhanh mạnh".
Thuật rằng: Giải thích đã chưa thành Phật viên chứng Vô tướng đại bi nhất vị bình đẳng. Nếu không chấp Bồ-đề khả cầu, hữu tình khả độ là thật có thì không có nguyên nhân có thể phát khởi đại bi nhanh mạnh và nguyện nhanh mạnh, lấy Sở tri chướng khả cầu khả độ chấp làm đầu, mới có thể phát khởi Vô lậu nghiệp. Nói nghiệp làm nhân là vì thù thắng, vô minh làm duyên là vì cách xa, không giống như phiền não trợ nghiệp Hữu lậu, chỉ có duyên và nghĩa đồng, phần ít tương tợ.
Luận: "Lại nữa, Sở tri chướng", đến "lưu thân lại trụ lâu".
Thuật rằng: Phần thứ hai lại giải thích nữa. Sở tri chướng này chướng đại Bồ-đề vì chánh chướng trí. Làm cho đoạn trừ vĩnh viễn Sở tri chướng này để lưu giữ thân lại trụ lâu dài, nói đó là duyên vì làm Sở đoạn duyên.
Luận: "Lại nữa, Sở tri chướng", đến "có đại trợ lực".
Thuật rằng: Phần thứ ba lại giải thích nữa. Sở tri chướng này có thể làm chỗ y của tất cả Hữu lậu, vì thể rộng khắp. Do có chướng này mà các pháp câu hành không thành Vô lậu, cho nên chướng của sở y này nếu không có thì năng y Hữu lậu quyết định không phải có. Hiện tại đã lưu giữ thân trụ lại là do có Sở tri chướng, là đối với thân trụ có trợ lực lớn, nói đó là duyên. Ba thứ giải thích trong đây đều thông với ba Thừa, nhưng Địa thứ tám trở lên lại càng nương nhờ nguyện, tức là không có nghĩa thứ nhất "Vô lậu tương tục không khởi chấp", chỉ có hai nghĩa sau. Từ đây trở lên phần thứ ba vấn đáp riêng phần. Từ đây trở xuống phần thứ tư là riêng phân rõ hai tử.
Hỏi: Nếu như Quyết định tánh A-la-hán lưu lại các thọ mạng và hành xả y bát nhập Biến tế định, vì tu phước Lực nhờ vào mạng nghiệp hiện tại cũng được kéo dài thọ mạng thì sinh tử biến dịch có gì khác?
Luận: "Hoặc chỗ lưu thân", đến "không phải cảnh của họ".
Thuật rằng: Chánh giải thích riêng thể của hai sinh tử này. Sinh tử biến dịch, quyển 80 ghi: "Không phải cảnh của thiên nhãn". Trong luận này nói không phải cảnh của Nhị thừa, văn kia có ý nói nếu định tánh Thanh văn và bất định tánh chưa hồi tâm, tuy có thiên nhãn cũng không thể thấy, vì thân rất vi tế, không phải cảnh của các vị đó, cho nên luận này nói chỗ không thể thấy của Nhị thừa và Dị sinh, nhưng từ bậc Hồi tâm trở đi thì thiết lập hàng Dự lưu không phải thiên nhãn cũng có thể thấy. Nhị thừa đều có thể thấy được Thân thù diệu đó thì Nhãn cũng thù thắng, nhưng không thừa nhận được thấy trên thân, vì không phải cảnh của Nhị thừa, cõi trên thấy được cõi dưới. Lại nữa, giải thích lấy theo đồng loại cho nên cõi dưới được thấy cõi trên. Phước của Tiểu thừa nhờ vào định, thông với Hữu lậu và Vô lậu, điều này thì Đại thừa xả phước nhờ vào Thân, định thì chỉ có Hữu lậu. Văn này làm chứng, thô và diệu đã khác nhau, người thấy cũng khác.
Luận: "Do đây nên biết", đến "là quả tăng thượng".
Thuật rằng: Từ đây xuống là tổng kết tổng hợp các điều trái nhau. Tánh của sinh tử biến dịch là Hữu lậu, mong chiêu cảm với hiện nghiệp, trong năm quả thì quả Dị thục nhiếp, thông với năm uẩn tánh. Quả này mong Vô lậu nghiệp, là quả tăng thượng, cách xa duyên và lực.
Luận: "Có trong Thánh giáo", đến "tùy theo trợ nhân mà nói".
Thuật rằng: Đây là tổng hợp các tương vi, nghĩa là Vô lậu ra khỏi ba cõi, là tùy theo trợ nghiệp nhân Vô lậu này mà nói, nhưng thể thật ra thì không phải. Do đó kinh nói sinh tử, Hữu lậu sinh tử và Vô lậu sinh tử ngoài ba cõi, tức là luận Thập Địa ghi: "Có cõi Diệu tịnh vượt khỏi ba cõi, Bồ-tát Thập địa đang sinh trong đó". Xem lại các đoạn văn này của hai kinh Thắng Man và Lăng-già.
Hỏi: Luận Du-già quyển 80 và Phật Địa quyển
2 ghi: "Làm cho trụ cõi Hữu dư", trong cõi Vô dư cũng vậy hay sao?
Đáp: Chỉ có cõi Hữu dư, vì trong Vô dư y đã lìa các sự nghiệp.
Hỏi: Nếu chỉ có cõi Hữu dư thì tại sao chỉ một đời thì liền được thành Phật, quả A-la-hán kia còn không phải một đời?
Đáp: Do tăng tuổi thọ và tăng hạnh mới có thể thành Phật, cho nên Thế Tôn nói khéo tu thần túc, có thể trụ bằng một kiếp. Đây là phát huy thú hướng cực thành cho căn cơ trì độn, không bằng Bồ-tát mới tu, cho đến nói rộng. Kinh Vô Thượng Y có bốn loại sinh tử:
1. Phương tiện. 2. Nhân duyên.
3. Hữu hữu.
4. Vô hữu.
Như Biệt sao giải thích.
Luận: "Chỗ nói trong tụng", đến "nghĩa như trước nói".
Thuật rằng: Phần thứ hai trở lên giải thích hai tử đã xong. Từ đây xuống phần thứ ba giải thích văn tụng có hai phần:
1. Chánh giải thích.
2. Lần lượt giải thích vấn nạn.
Đây là chánh giải thích. Tụng nói các tập khí của nghiệp tức là hai nghiệp Hữu lậu và Vô lậu, vì nghiệp không phải một, có thân ngữ ý, cho nên nói các nghiệp. Hai thủ tập khí, tức là chủng tử của hai chướng, vì đều chấp trước cho nên gọi là thủ, đều đồng với các văn khác, đồng với văn Dị thục trước tận.
Hỏi: Sinh tử biến dịch không giống như Phần đoạn, vì riêng sinh riêng tử, tại sao lại nói Dị thục trước đã tận?
Luận: "Sinh tử biến dịch", đến "ngoài ra có nghĩa là sinh lại".
Thuật rằng: Sau đây là lần lược giải thích vấn nạn. Trước hết giải thích vấn nạn biến dịch, sau đó giải thích lý do "không nói hiện hành" trong tụng. Đây là phần đầu. Tuy không giống như Phần đoạn riêng tận riêng sinh mà lấy định và nguyện để trợ giúp, sửa đổi những việc xấu ác trước, chuyển sinh thân thù thắng đời sau, cũng có nghĩa là trước tận sau sinh lại. Đây là chỗ nhờ cậy nghiệp lực chưa hết, vì khiến cho tăng thêm thù thắng cho nên sửa đổi. Hoặc có định lực, không phải thời gian tăng thắng lâu dài, mà chỉ được hai mươi kiếp. Vì khiến cho càng tăng thêm, cũng có nghĩa trước tận sau sinh.
Từ đây xuống là phần thứ hai, giải thích lý do tụng không nói hiện hành.
Luận: "Tuy cũng do hiện", đến "cho nên nói thiên về nó". Thuật rằng: Tuy thật ra cũng do các pháp hiện hành sinh tử tương tục, nhưng mà chủng tử thì tương tục tất cả thời đều có, không phải như hiện hành có nhiều gián đoạn, trong tụng nói thiên về chủng tử, nói rằng do tập khí của nghiệp.
Luận: "Hoặc vì hiển như thế", đến "cho nên không nói hiện".
Thuật rằng: Đây là giải thích thứ hai. Vì hiển nhân nghiệp chủng tử của chân Dị thục, quả tức là bản thức, vì đều không lìa bản thức. Không nói hiện hành, là vì các chủng tử của nó tức là chủng tử thức, hiện hành thì không như thế, vì mỗi mỗi đều riêng thể.
Luận: "Hiện Dị thục nhân không tức là cho quả".
Thuật rằng: Đây là các pháp hiện hành thiện ác, tuy cũng là Dị thục nhân nhưng không tức là cho quả, huân tập đối với chủng tử đã xong, phải đối với thời gian sau đó mới cho quả, chỉ có nói chủng tử.
Hỏi: Trong sáu thức cũng có quả Dị thục, tại sao tụng không nói trước tận sau sinh? Lục thức hiện hành cũng không lìa thức, là quả Dị thục phải không?
Luận: "Chuyển thức gián đoạn không phải Dị thục".
Thuật rằng: Vì không phải là chân Dị thục, không nói sáu hiện hành, ý của tụng là nói thiên về Thức thứ tám, chính là pháp sinh tử tương tục. Từ trên đến đây giải thích tụng y theo nhiễm pháp đã xong. Tụng nói Dị thục cho nên không phải Vô lậu. Từ đây trở xuống phần thứ hai, nhân theo đó mà giải thích Hữu lậu pháp, để làm ví dụ cho pháp Vô lậu.
Luận: "Tiền trung, hậu tế", đến "nên biết cũng như thế". Thuật rằng: Đây là sơ lược ví dụ.
Luận: "Nói rằng vô thủy đến nay", đến "tương tục vô cùng".
Thuật rằng: Do pháp nhĩ chủng tử, chỗ huân phát mới. Do nguyện lực vốn có, tức là Phật Thế Tôn lợi tha vô tận. Thanh tịnh chủng thức đều thông với hiện chủng, đều chỉ có Thức thứ tám năng trì chủng. Từ đây xuống là phần thứ ba tổng kết các văn trên.
Luận: "Do đây nên biết chỉ có thức bên trong". Thuật rằng: Là do chỗ nói đạo lý thanh tịnh từ trên đến đây gọi là do đây, nên biết các pháp tương tục chỉ có thức bên trong.
Luận: "Hoặc chỉ có thức", đến "nói có ba tánh". Thuật rằng: Tuy có bảy tụng giải thích người ngoài vấn nạn, nhưng phân làm hai phần:
1. Hai tụng đáp chỉ có thức thì liền trái với vấn nạn lý.
2. Năm tụng đáp chỉ có thức thì liền trái với vấn nạn kinh. Trong phần sau lại có hai phần:
1. Ba tụng đầu giải thích không có cảnh ba tự tánh không thành vấn nạn.
2. Hai tụng sau giải thích có thức ba vô tánh không thành vấn nạn.
Ở đây trong phần đầu lại có bốn phần:
1. Hỏi chung.
2. Lược đáp.
3. Trình bày.
4. Giải thích.
Đây là phần đầu. Hiện tại ý vấn nạn rằng: Nếu lìa thức bên trong thì pháp bên ngoài không có, chỉ có một tánh không nên nói ba, kinh đã nói ba, cho nên không phải Duy thức.
Luận: "Nên biết ba tánh cũng không lìa thức".
Thuật rằng: Đây là lược đáp. Không phải nói tánh có ba thì không phải Duy thức, tức là không lìa thức mà nói ba tánh.
Luận: "Tại sao vậy?"
Thuật rằng: Người ngoài hỏi vặn, lý do tại sao ba tánh không lìa thức?
Luận: "Tụng nói", đến "không phải không thấy kia đây".
Thuật rằng: Sau đây là đáp rộng. Trong đây có ba tụng, hai tụng đầu phân rõ ba tánh, ba câu đầu của một bài tụng sau thuyết minh tánh một và khác, câu thứ tư thuyết minh thức bên trong khi Viên thành và Y tha trước sau chứng kiến. Trong hai tụng đầu, tụng thứ nhất giải thích về tánh đầu, nửa tụng kế giải thích Y tha, nửa tụng còn lại giải thích Viên thành. Văn còn lại có thể hiểu. Giải thích sau đây văn phân làm hai đoạn:
1. Giải thích văn tụng.
2. Giải thích các môn.
Trong giải thích bản tụng văn lại phân làm hai đoạn:
1. Giải thích riêng văn tụng.
2. Tổng kết ý tụng để đáp chỗ hỏi.
Trong phần giải thích riêng văn tụng lại phân làm ba đoạn:
1. Phân rõ ba tánh.
2. Phân rõ nghĩa chẳng phải một chẳng phải khác.
3. Phân rõ chứng kiến trước sau.
Trong phần phân rõ ba tánh lại có ba đoạn hoặc hai đoạn:
1. Giải thích tánh Biến kế sở chấp của tụng thứ nhất, và giải thích tánh Y tha khởi của nửa tụng thứ hai, vì tương đối thuyết minh cho nên hợp chung làm một.
2. Giải thích tánh Viên thành thật của nửa tụng còn lại. Trong phần đầu lại phân làm hai đoạn:
1. Chỉ giải thích Biến kế sở chấp.
2. Hợp chung với Y tha tương đối thuyết minh. Luận: "Vì kế chấp khắp cho nên gọi là biến kế".
Thuật rằng: Giải thích hai thuyết trong sở chấp. Đây là giải thích trước của Nan-đà. Giải thích hai chữ biến kế trong câu thứ nhất của tụng. Nghĩa chữ "châu" giải thích là biến khắp, nghĩa chữ "độ" giải thích là kế. Chỉ có Thức thứ sáu mới có thể châu biến kế độ, Thức thứ bảy đồng là loại này cho nên cũng gọi là biến kế, chỉ có thể gọi là kế mà không phải biến. Hiện tại luận này y theo chánh nghĩa, do đây nên tạo bốn câu phân biệt:
1. Có biến mà không phải kế, là các thức Vô lậu, các thức Hữu lậu thiện có thể duyên rộng khắp mà không có kế chấp.
Có kế mà không phải biến, là thức Hữu lậu thứ bảy.
2. Có cũng biến cũng kế, là Thức thứ sáu ngã chấp pháp chấp Hữu lậu nhiễm ô.
3. Có phi biến phi kế, là năm thức Hữu lậu và Thức thứ tám. Hỏi: Biến kế này sao gọi là bỉ bỉ?
Luận: "Phẩm loại rất nhiều", đến "hư vọng phân biệt".
Thuật rằng: Vì tâm kế chấp này phẩm loại rất nhiều, hoặc hai hoặc ba, đến sau sẽ biết. Nói là bỉ bỉ, thể này là gì? Là năng biến kế hư vọng phân biệt, tức là tâm tất cả năng khởi tánh biến kế Y tha. Sắp sửa giải thích câu thứ hai tức là giải thích câu trên, gồm giải thích chữ "do".
Luận: "Tức là do bỉ bỉ", đến "vật bị biến kế".
Thuật rằng: Vì vọng phân biệt cho nên biến kế các thứ vật bị biến kế. Vật là thể, tức là tâm năng kế khởi lên chỗ chấp. Thể này là gì?
Luận: "Nói rằng chỗ vọng chấp", đến "tự tánh sai biệt".
Thuật rằng: Tánh này tức là chỗ chấp của hư vọng, là tất cả nghĩa lý của uẩn, xứ, giới. Hoặc pháp hoặc ngã, là thể tánh và nghĩa sai biệt của tự trong hai thứ này, đây tức là ngoài tâm không có pháp, tức là do có tâm năng kế, thể kế chấp có vật. Hai chữ "biến kế" của câu thứ nhất nêu ra thể của tâm năng kế, lấy hành tướng của biến kế để hiển pháp thể của nó. Chữ "biến kế" trong câu thứ hai tức là hành tướng của tâm năng biến kế, trước lấy hành tướng để nêu ra pháp thể của nó, sau lấy hành tướng để thuyết minh lỗi khởi kế chấp.
Hỏi: Chỗ kế chấp pháp tự tánh này không phải có, tại sao gọi là vật và gọi là các thứ?
Đáp: Tùy theo tâm năng kế cho nên nói là vật. Tâm có nhiều phẩm cho nên nói các thứ, thể không phải các thứ. Lại nữa, chỗ kế chấp vô pháp cũng có thể gọi là vật, vì hai pháp hữu vô đều gọi là vật. Nói các thứ, là tùy theo năng biến kế vọng phân biệt tâm kế chấp vô vật này, vì coi là tình cũng có các thứ tướng.
Luận: "Chỗ vọng chấp này", đến "chỗ chấp tự tánh".
Thuật rằng: Giải thích câu thứ ba. Đây là câu thứ hai chỗ vọng chấp thể tánh sai biệt của ngã, pháp, tự tánh ngoài tâm không có, thể như lông rùa quyết định không có, gọi chung là tự tánh Biến kế sở chấp.
Luận: "Như vậy tự tánh", đến "bất khả đắc".
Thuật rằng: Tiếp theo là câu thứ tư. Như vậy Biến kế sở chấp và tự tánh của câu thứ ba đều là vô sở hữu, không thể có một ít gì cho nên nói đều là không có, pháp của tánh Y tha thì có thể có chút ít. Làm sao biết không có? Hai pháp lý và giáo suy xét kỹ càng là bất khả đắc, như chỗ dẫn lý và giáo của quyển 7 trước. Đây tức là một lần giải thích, chỉ có giải thích tánh đầu. Sau đây sư thứ hai giải thích, phần đầu chỉ giải thích sơ lược tụng thứ nhất, phần sau rộng đối chiếu Y tha và giải thích rộng nửa bài tụng kế đó.
Luận: "Hoặc câu đầu hiển năng biến kế thức".
Thuật rằng: Nghĩa cùng với trước đồng.
Luận: "Câu thứ hai hiển thị cảnh sở biến kế".
Thuật rằng: Là chỗ để nương chấp, cùng với sư trước khác nhau. Đây là lấy lý mà nói, thông với hai tánh Y tha và Viên thành kia, sau đây sẽ tự biết. Nhưng Nhiếp Đại thừa luận chỉ nói Y tha, vì an túc xứ, có chút ít gần nhau, vì cảnh của phàm phu, có thể đễ biết, lý thông với Thành Thật.
Luận: "Nửa tụng sau mới mở", đến "bất khả đắc".
Thuật rằng: Nửa tụng sau tức là hai câu dưới, mới mở ra nghĩa của tánh Biến kế sở chấp không phải có, trong quyển 7 trước đã hiển rộng không phải có. Nhưng như Nhiếp luận quyển 4, quyển 5 ghi: "Năng biến kế tức là câu thứ nhất này, sở biến kế tức là câu thứ hai này, vì biến kế sở chấp tự tánh mà thành", tức là nửa bài tụng sau trong luận này. Trên đây chỉ nặng giải thích chỗ chấp của bài tụng thứ nhất. Từ đây trở xuống rộng giải thích tụng thứ nhất và Y tha khởi. Dưới đây giải thích ba chủng làm ba đoạn, nhưng trong câu thứ ba cùng với Y tha hợp chung giải thích. Đã nói câu thứ nhất là năng biến kế, cho nên luận này tiếp theo là hỏi.
Luận: "Năng biến kế đầu tự tánh là thế nào?"
Thuật rằng: Đây là hỏi về từ ngữ. Dưới đây trước hết giải thích rộng biến kế, sau đó nói rộng bỉ bỉ.
Luận: "Có nghĩa là tám thức", đến "đều là năng biến kế".
Thuật rằng: Đây là An Tuệ giải thích. Chấp tức là thông với ba tánh. Tâm của Hữu lậu thì không có gì mà không phải chấp. Năm thức trước và Thức thứ tám chỉ có pháp chấp, Thức thứ bảy chỉ có nhân chấp, Thức thứ sáu thì chấp thông cả hai thứ.
Luận: "Vì hư vọng phân biệt làm tự tánh".
Thuật rằng: Hoặc tâm Hữu lậu có giống như tâm Vô lậu không khởi chấp, tức là không nên nói hư vọng phân biệt. Hoặc tâm không chấp mà gọi là vọng phân biệt thì tâm Vô lậu đáng lẽ gọi là tâm hư vọng phân biệt, tức là lấy lý này để thuyết minh tâm Hữu lậu đều là năng biến kế. Văn của kinh Lăng-già và luận Trung Biên đều nói tám thức là vọng phân biệt.
Luận: "Đều tương tợ năng thủ sở thủ hiện".
Thuật rằng: Trong Thánh giáo nói hai thủ tên là chấp, các tâm Hữu lậu đã tương tợ tướng hiện của năng thủ và sở thủ cho nên đều có chấp, không phải có thủ tâm không gọi là thủ, không phải không có chấp tâm tợ hai thủ. Tất cả kinh luận đều có văn này. Trong Nhiếp Đại thừa luận quyển 4 và Biện Trung Biên luận cũng đều nói như vậy.
Luận: "Nói A-lại-da", đến "làm sở duyên".
Thuật rằng: Chỗ chấp vọng chấp tập khí của tự tánh, tức là chủng tử của tâm năng chấp. Luận Dugià quyển 51 và Hiển Dương luận ghi: "A-lại-da thức lấy chủng tử vọng chấp của tự tánh biến kế sở chấp làm sở duyên". Nếu tâm Hữu lậu có không chấp thì có Hữu lậu chủng tử mà Thức thứ tám không duyên. Tại sao luận nói Thức thứ tám duyên chủng tử vọng chấp? Luận Du-già quyển 76 và kinh Giải Thâm Mật ghi: "Tướng, danh và phân biệt của Thức thứ tám". Quyển 51 ghi: "Duyên biến kế chủng tử, cho nên biến kế chủng tử thông với tất cả tâm Hữu lậu", tức là trong thiện tâm thừa nhận có pháp chấp. Đây là nghĩa của các sư An Tuệ. Dưới đây phần thứ hai các sư Hộ Pháp giải thích.
Luận: "Có nghĩa là Thức thứ sáu", đến "là năng biến kế". Thuật rằng: Dưới đây văn có ba đoạn:
1. Nêu tông.
2. Lập chứng.
3. Tổng hợp văn trái nghịch.
Đây là phần đầu. Hoàn toàn không phải là năm thức và Thức thứ tám, cũng không phải là tất cả tâm, chấp ngã chấp pháp mới là năng biến kế. Tại sao vậy?
Luận: "Chỉ nói Ý Thức năng biến kế".
Thuật rằng: Sau đây làm chứng có mười, tức là có mười chữ "cho nên".
Hỏi: Nếu tâm năng chấp thông với tám thức thì tại sao Nhiếp luận quyển 4 chỉ nói ý?
Đáp: Như Thức thứ bảy cũng có thể biến kế, nhưng trong luận kia chỉ nói Ý thức, không nói Thức thứ bảy, lẽ nào Thức thứ bảy không thể làm năng biến kế? Thức thứ bảy đã có thể nhưng không nói. Thuyết minh năm thức và Thức thứ tám cũng có thể nhưng không nói.
Luận: "Ý và Ý thức gọi là Ý thức".
Thuật rằng: Thức thứ bảy gọi là ý, cùng với Thức thứ sáu hợp lại mà gọi chung là Ý thức, tức là đã nói, ai nói hoặc không nói. Như nghiệp và nghiệp đạo trong Tiểu thừa, tư chỉ là nghiệp nhưng không phải là đạo, ba pháp tham sân si là đạo không phải nghiệp, hai pháp thân và ngữ cũng là đạo cũng là nghiệp, tổng hợp lại nói chỉ gọi là nghiệp đạo. Thức thứ bảy gọi là ý, Thức thứ sáu gọi là thức, tổng hợp lại gọi là Ý thức, cho nên không có vấn nạn trước. An Tuệ nói: "Tại sao không thừa nhận chỉ có Thức thứ sáu là năng biến kế chấp, còn lại bảy thức kia tuy cũng có thể kế độ nhưng không thể biến kế". Nhiếp luận tuy không có nói, nhưng không phải các thức kia không có kế độ. Nhiếp luận quyển 4 phần đầu và Thích luận đều có giải thích này, nói "Thức thứ sáu có thể kế độ biến khắp". Thể thì thuận với tên của nó, ngoài ra không đúng, cho nên luận kia không nói. Lại nữa, như nghiệp và nghiệp đạo của ông hợp chung lại nói, tôi cũng như thế. Thức thứ bảy gọi là ý, năm thức và Thức thứ tám gọi là thức, Thức thứ sáu gọi là Ý thức, luận kia tổng hợp gọi là Ý thức, cũng có lỗi gì! Cho nên biết tám thức đều là năng biến kế.
Luận: "Kế độ phân biệt năng biến kế".
Thuật rằng: Năm thức trước và Thức thứ tám đã không có kế độ, thuyết minh vô phân biệt mà không khởi chấp, Nhiếp luận quyển 4 phần đầu ghi: "Nên biết Ý thức là năng biến kế, vì có phân biệt, cho đến do đó vô biên hành tướng của Ý thức mà chuyển rộng khắp tất cả phân biệt kế độ, cho nên gọi là Biến kế, không phải năm thức và Thức thứ tám có thể kế chấp rộng như thế". Nếu như vậy thì Thức thứ bảy không thể kế chấp rộng khắp thì đáng lẽ không phải chỗ này nhiếp? câu nói này không đúng. Kế độ phân biệt trong ba phân biệt có thể làm Hữu tướng phân biệt trong bảy thức cho đến bất nhiễm, không phải năm thức và Thức thứ tám có khả năng này. Thức thứ bảy có kế độ cho nên có thể là chỗ này nhiếp. Năm thức và Thức thứ tám thì không như thế. Luận Vô Tánh ghi: "Ý thức có phân biệt, do có thể hiển thị phân biệt và tùy niệm phân biệt chỗ tạp nhạp tạp loạn. Hiển thị tức là kế độ, không phải là tự tánh, ngoài ra các thức khác cũng có. Đây là chánh giải. Sư trước nói: "Kế độ phân biệt là kế chấp các tướng thô to, năm thức và Thức thứ tám thì không có". Tự tánh, mặc tình và hữu tướng phân biệt thì những thứ này là tế, năm thức và Thức thứ tám nói là có. Lý cũng không câu nệ gì! Tuy Nhiếp luận phỏng theo thô kế độ phân biệt để nói hoặc không nói năm thức và Thức thứ tám. Năm thức và Thức thứ tám thật ra có thể biến kế. Lại nữa, tất cả tám thức lựa riêng với tâm Vô lậu cho nên nói Ý thức là năng hữu phân biệt, không cho rằng chỉ nói Thức thứ sáu và Thức thứ bảy. Nhiếp luận của Thế Thân chỉ nói vì phẩm loại năng biến kế độ này không lựa riêng với pháp nào cả. Vô Tánh luận thì giải thích thiên về luận này, cho nên để hiển thị lời nói lựa riêng biệt thì điều đó có lỗi gì! Lại vấn nạn nữa.
Luận: "Chấp ngã chấp pháp chắc chắn là tuệ".
Thuật rằng: Không phải năm thức và Thức thứ tám hằng đồng thời với tuệ thì lẽ nào dung chứa có chấp! Sư trước nói: "Nếu kế độ tuệ thô thì năm thức và Thức thứ tám cũng có cái không tế". Nếu như thế tại sao tuệ tâm sở không phải là Biến hành tâm sở?
Luận: "Hai chấp chắc chắn cùng với vô minh đồng thời".
Thuật rằng: Hai chấp ngã và pháp chắc chắn là đồng thời vô minh, vì không phải trong thiện tâm có vô minh, vì thiện căn tánh của vô si trái với nó. Sư trước nói điều đó có lỗi gì? Tôi cũng như Tiểu thừa của ông, tầm và tứ đồng thời khởi, tánh của tầm tứ thuận có thể thừa nhận đồng thời khởi, tánh của tâm thiện và vô minh thì lại trái nhau.
Luận: "Không nói vô minh có thiện tánh".
Thuật rằng: Luận Du-già đều không nói, trong hai chướng sau đây sẽ dẫn văn của luận đó. Như thế nào nội trong tâm thiện mà nói có vô minh? Luận kia nếu nói tất cả Hữu lậu đều gọi là Bất thiện, nói tên là thiện vì hành tướng của nó nhẹ.
Luận: "Si và vô si không tương ưng".
Thuật rằng: Vì là pháp tương vi cho nên không tương ưng. Như vô tàm cùng với tàm không được cùng khởi. Si và vô si ví dụ cũng như thế. Nếu nói lậu và Hữu lậu đều là Bất thiện thì vô si cùng với si không phải là tương ưng, vì tướng si nhỏ nhẹ mà gọi là vô si.
Luận: "Không thấy có chấp Đạo không trí ".
Thuật rằng: Nếu tâm Vô lậu thì chắc chắn hai Không quán tùy theo một Không mà hiện khởi. Nếu tâm Hữu lậu thì chắc chắn là có pháp chấp, tức là gia hạnh trí đã có pháp chấp, vì sao Năng đạo không trí hiện tiền? Không phải do nước dẫn mà lửa sinh, không phải tối dẫn cho sáng sinh.
Luận: "Chấp hữu và đạt vô, không đồng thời khởi".
Thuật rằng: Lại nữa, gia hạnh tâm tùy thuận Thánh giáo mà khởi ngã pháp không quán gọi là đạt vô, đã có pháp chấp thì gọi là chấp hữu. Như thế nào là tâm chấp hữu cùng với trí đạt vô mà đồng thời khởi? Nó đã không câu khởi, hiển rõ gia hạnh tâm không phải có pháp chấp.
Luận: "Đã từng không có chấp, không phải là năng huân".
Thuật rằng: Lại nữa, nếu tâm Hữu lậu đều có pháp chấp thì tâm pháp chấp đó chắc chắn có thế lực, đáng lẽ tâm Dị thục sinh cũng là năng huân, vì tâm Hữu lậu có thế ứng dụng, như thiện và ác. Nhưng ông chấp Thức thứ tám cũng không phải năng huân, là Dị thục tâm không có thế ứng dụng, không thấy tâm có chấp thế ứng dụng không có năng huân thì đáng lẽ Thức thứ tám cũng là năng huân, nếu không như thế thì cùng trái với tỷ lượng. Nếu như thế tại sao kinh Lăng-già, luận Trung Biên quyển thượng nói ba cõi tám thức đều là vọng phân biệt? Luận Hiển Dương quyển 16 nói cũng như vậy?
Luận: "Tâm Hữu lậu", đến "hư vọng phân biệt".
Thuật rằng: Văn sau đây tổng hợp các điều trái nhau có ba phần, đây là phần đầu. Tổng hợp Kiến phần nói: "Tuy trước lập làm hai Không quán nhưng là giả tướng, không bằng Vô lậu chứng thật lý. Tất cả tám thức gọi là Vọng phân biệt, Vọng phân biệt không phải là chấp tâm". Nếu tâm Hữu lậu có phi chấp, tại sao nói có hai tướng thủ hiển hiện? Trung Biên quyển 1 ghi: "Hư vọng tâm và tâm sở tương tợ hai tướng hiện, đều là có chấp".
Luận: "Tuy tương tợ sở thủ", đến "cũng có chấp". Thuật rằng: Đây là tổng hợp thứ hai có hai phần:
1. Tổng hợp.
2. Vấn nạn.
Tổng hợp này và vấn nạn thứ nhất về các tâm Hữu lậu tuy tợ tướng hiện của sở thủ và năng thủ, mà không phải tất cả tâm năng Biến kế. Do Y tha khởi thiện và Vô ký tâm, tuy có hai thủ hiện nhưng không phải đều là khởi chấp, không phải lấy tợ hai thủ đó liền cho tất cả đều là năng biến kế. Luận Trung Biên kia chỉ căn cứ theo Thức thứ sáu và Thức thứ bảy mà tạo luận. Nếu tợ hai thủ đều là chấp thì không có tâm Vô lậu cũng có chấp. Trí sau khi đắc Vô lậu của Bồ-tát và Nhị thừa có hai thủ và tương ưng đều có chấp. Phật Địa quyển 7 ghi: "Chỉ nói Vô lậu có chấp của Nhị thừa". Căn cứ theo Nhị Thập giải thích thì Hậu đắc trí của Bồ-tát cũng có pháp chấp, so với Phật Địa thì không đồng. Phật Địa chỉ nói Nhị thừa Vô lậu có chấp. Luận này chỉ nói Phật thì không có hiển, ngoài ra đều cũng có.
Luận: "Hậu đắc trí của Như Lai đáng lẽ có chấp?"
Thuật rằng: Vấn nạn sư trước rằng: "Phật đáng lẽ có chấp, vì có hai tướng thủ?" Như các Bồ-tát hiện hai tướng, hoặc chống chế rằng Hậu đắc trí của Như Lai không có hai tướng, có lỗi trái Thánh giáo. Nếu nói không có Tướng phần thì trái với kinh Phật Địa.
Luận: "Kinh nói Phật trí", đến "như gương soi". Thuật rằng: Thức thứ tám Phật trí gọi là Đại viên cảnh, là hiện pháp lạc, Thanh văn và bát bộ trang nghiêm đạo tràng, tức là biến hóa Thanh văn. Thức thứ bảy bình đẳng, cho đến Thành sở tác trí đều có khả năng hiện tại, cho nên bốn trí của Phật đều có hai tướng, cho nên luận nói rằng hiển hiện thân và độ như tấm gương soi. Chớ cho rằng các trí khác đều là ví dụ này. Chỉ có thể hiển hiện tướng và nghĩa có thể đồng. Đây là làm chứng Vô lậu có Tướng phần.
Luận: "Nếu không có duyên và dụng thì đáng lẽ không phải trí".
Thuật rằng: Hoặc Như Lai trí không có Kiến phần, tức là không có duyên dụng thì đáng lẽ không phải trí, điều này trái lý. Đẳng nghĩa là đồng nắm lấy chỗ vấn nạn tâm và tâm sở khác. Bốn trí phẩm Vô lậu của Như Lai và Bồ-tát đáng lẽ không phải là trí phẩm, vì không có Kiến phần, như hư không. Đã thành thì đây là ngược hướng lên mà thành, nói rằng Hữu lậu thiện và Vô ký trí phẩm gồm cả tâm Vô lậu phẩm của phàm phu và Nhị thừa đáng lẽ không có pháp chấp, vì không phải nhiễm ô tâm có hai tướng, như Vô lậu trí phẩm của Phật, luận kia cho là Vô lậu trí phẩm của Như Lai có chấp. Kinh Bổn Nghiệp Anh Lạc quyển hạ ghi: "Sáng và tối một tướng, thiện và ác một tâm", là nghĩa bài kệ của sư An-đà nước của Bình Sa vương, cho nên biết chỗ nói của sư trước là sai. Sư trước vấn nạn rằng: "Nếu các tâm Hữu lậu đều không có chấp thì nói Tạng thức duyên chủng tử nào có riêng khác gì với Biến kế!"
Luận: "Tuy nói Tạng thức", đến "cho nên không thành chứng".
Thuật rằng: Tổng hợp này là phần nghịch lý thứ ba, lại có giải thích riêng như quyển 2, trong đây lại còn căn cứ vào Hữu lậu mà miễn cưỡng gọi là Biến kế chủng tử, không nói Hữu lậu chủng đều là Biến kế. Đã như thế, lại không nói Thức thứ tám chỉ duyên Biến kế chủng tử, đã không chỉ nói rõ chủng tử sở duyên của Thức thứ tám, mà còn nói có rất nhiều. Tiếp theo là luận sư Hộ Pháp tổng kết các điều trên.
Luận: "Do lý thú này", đến "có năng biến kế".
Thuật rằng: Từ lý thú này chỗ nói như trên thì chỉ đối với hai tâm phẩm của Thức thứ sáu Hữu lậu và Thức thứ bảy Hữu lậu mà có năng biến kế. Đoạn văn năm thức trước và Thức thứ tám nhiếp chung với Ý thức chưa thấy, cho nên năm thức trước và Thức thứ tám là kế không phải là năng biến kế. Đây là lần lượt trình bày trong hai chướng của Phật Địa quyển 7. Dưới đây sẽ đối chiếu phân rõ hai chướng. Đây là nói rộng về hai chữ Biến kế ở trước. Từ đây xuống là nói rộng hai chữ "bỉ bỉ" ở trước.
Luận: "Thức phẩm tuy có hai", đến "cho nên nói bỉ bỉ".
Thuật rằng: Thức phẩm tuy có hai, là hai Thức thứ sáu và thứ bảy, gọi chung Biến kế vì nó là một chủng phân biệt, không cần phải bàn luận.
Nói có hai chủng phân biệt: Trong luận Nhiếp Đại thừa quyển 4 ghi: "Biến kế có hai, một là tự tánh kế, hai là Sai biệt kế. Thế Thân giải thích rằng: Nếu như đối với nhãn... mà kế chấp tự tánh thì đối với kế chấp này là sự sai biệt của thường và vô thường. Quyển 73 ghi: "Một là Vô sai biệt và hai là Hữu sai biệt. Lại nữa, có hai đoạn: một là gia hạnh, hai là thi thiết". Luận Hiển Dương quyển 16 ghi: "Một là văn tự, hai là Phi văn tự. Lại nữa, có hai đoạn: một là phân biệt tự thể, hai là phân biệt sở y duyên sự, đều nhiếp trong tám phân biệt". Quyển 74 ghi: "Một là tùy giác, hai là tùy miên".
Nói có ba chủng phân biệt: Một là ngã, hai là pháp và ba là dụng, hoặc tự tánh, tùy niệm và tùy độ phân biệt, như luận Đối Pháp quyển 2 nói.
Nói có bốn chủng phân biệt: Nhiếp luận ghi: "Một là Tự tánh kế, hai là Sai biệt kế, ba là Hữu giác thiện hay danh ngôn thiện, bốn là Vô giác kế hay danh ngôn Bất thiện". Quyển 73 ghi: "Một là Kế tự tánh tướng, hai là Kế sai biệt, ba là Kế sở thủ, bốn là Kế năng thủ". Có năm thứ thì Nhiếp luận ghi: "Một là Y danh kế nghĩa, hai là Y nghĩa kế danh, ba là Y danh kế danh, bốn là Y nghĩa kế nghĩa, năm là Y danh nghĩa kế danh nghĩa". Luận Hiển Dương quyển 16 và Du-già quyển 73 nói một chủng tử có năm thứ, cùng với đây đồng. Quyển 73 lại có năm: "Một là Kế nghĩa tự tánh, điều này lại có bốn đoạn: một là Kế tự tướng; hai là Kế danh tự tánh, điều này lại có hai là Vô sai biệt; ba là Kế nhiễm tự tánh, có các tham, sân...; bốn là Kế tịnh tự tánh, sắc này là năng thủ và sở thủ".
Nói có năm chủng phân biệt:
1. Tham.
2. Sân.
3. Hợp hội.
4. Biệt ly.
5. Xả.
Luận Hiển Dương quyển 16 cùng với văn này đồng. Lại nữa, có năm:
1. Vô thường kế thường.
2. Khổ kế lạc.
3. Bất tịnh kế tịnh.
4. Vô ngã kế ngã.
5. Tự tánh chấp của Biến kế sở chấp trong các tướng.
Nói có sáu chủng phân biệt: Trong luận Hiển Dương quyển 16 ghi:
1. Tự tánh kế: Kế chấp các sắc là thật có tướng.
2. Sai biệt kế: Kế chấp các sắc là thật hữu sắc và Vô sắc.
3. Giác ngộ kế: chấp lời nói thiện.
4. Tùy miên kế: chấp lời nói Bất thiện.
5. Gia hạnh kế: Điều này có năm là tham, sân...
6. Danh biến kế: Điều này có hai là chỗ khởi Văn tự và Phi văn tự.
Nói có bảy chủng phân biệt: Là bảy phân biệt, tức là hữu tướng, vô tướng, mặc tình, tìm cầu, từ sát, nhiễm ô và bất nhiễm ô, như Du-già quyển 1 và luận Đối Pháp nói.
Nói có tám chủng phân biệt: Tức là tám phân biệt sinh ba sự, như luận Hiển Dương quyển 16 nói. Tám phân biệt gồm:
1. Tự tánh phân biệt: Phân biệt tự tánh của các sắc và tưởng sự sắc.
2. Sai biệt phân biệt.
3. Tổng chấp phân biệt.
4. Ngã phân biệt.
5. Ngã sở phân biệt.
6. Ái phân biệt.
7. Bất ái phân biệt.
8. Ái, Bất ái câu tương vi phân biệt. Ba sự:
1. Hý luận sở y tưởng sắc sự.
2. Kiến ngã mạn sự.
3. Tham sân si sự.
Các sự này có giải thích rộng trong tám phân biệt sinh ba sự, như Du-già quyển 36 và luận Hiển Dương quyển 16 giải thích.
Nói có chín chủng phân biệt: Lấy lý làm thành, tức là duyên chín phẩm kế chấp, chấp chín Địa cũng như thế, chín kết câu phẩm chấp cũng vậy.
Nói có mười chủng phân biệt: Tức là Nhiếp luận quyển 4 giải thích. Luận Đối Pháp quyển 14 tuy gọi phân biệt không phải là năng biến kế:
1. Căn bản phân biệt: Tức là Thức thứ tám.
2. Duyên tướng phân biệt.
3. Hiển tướng phân biệt: Nhãn... các thức đều làm sở y.
4. Duyên tướng biến dị phân biệt: Như sự biến dị của lão...
5. Hiển tướng biến dị phân biệt.
6. Tha dẫn phân biệt: Loại nghe không đúng chánh pháp.
7. Bất như lý phân biệt: Loại ngoại đạo.
8. Như lý phân biệt: Loại nghe đúng chánh pháp.
9. Chấp trước phân biệt: Loại ngã kiến.
10. Tán động phân biệt: Tức là mười tán động.
Mười tán động cũng làm mười chủng, đây là thể của năng biến kế phân biệt. Lại nữa, luận Đối Pháp quyển 12 nói mười chủng trong kiến và Vô kiến kiến. Lại nữa, là chỗ trừ bỏ của mười kiến và mười tám Không, như quyển 77 giải thích.
Nói có mười một chủng phân biệt: Tức là mười một thức là thân, thức của thân giả, duyên mười một thức này sinh phân biệt thì gọi là mười một chủng phân biệt, như Nhiếp luận nói.
Nói có mười hai chủng phân biệt: Tức là Lănggià quyển 4, bộ mười quyển ghi:
1. Ngôn ngữ phân biệt: Vì ưa thích nói năng.
2. Khả tri phân biệt.
3. Tướng phân biệt.
4. Nghĩa phân biệt.
5. Thật thể phân biệt.
6. Nhân phân biệt.
7. Kiến phân biệt.
8. Kiến lập phân biệt.
9. Sinh phân biệt.
10. Bất sinh phân biệt.
11. Hòa hợp phân biệt.
12. Phược bất phược phân biệt.
Duyên riêng mười hai xứ sinh phân biệt cũng như vậy, mười ba chủng phân biệt thì không có nói. Nói có mười bốn chủng phân biệt: Tức là mười bốn thứ Bất khả ký sự phân biệt. Mười lăm chủng phân biệt cũng không có.
Nói có mười sáu chủng phân biệt: Tức là chỗ trừ bỏ mười sáu Không, hoặc chỗ trừ bỏ của ba Không. Luận Hiển Dương quyển 15 nói một là căn trói buộc, hai là hữu tình trói buộc.
Nói có mười bảy chủng phân biệt: Luận Đối Pháp quyển 12 nói là Tướng phần và Kiến phần.
Nói có mười tám chủng phân biệt: Là chỗ trừ bỏ của mười tám Không cho đến hai mươi câu Ngã kiến và Ngã sở kiến. Chỗ trừ bỏ của hai mươi Không cho đến hai mươi câu Ngã kiến và Ngã sở kiến. Luận Đối Pháp quyển 12 nói hai mươi tám kiến và sáu mươi hai kiến, do đó trong luận này ghi: "Mười chủng phân biệt vân vân". Quyển 74 nói tùy theo Y tha khởi như vậy, mà chỗ phần lượng Biến kế cũng vậy, cho nên có vô lượng chủng phân biệt. Trong luận này nói, mỗi mỗi chủng này đều như chỗ dẫn của các luận, đều tự phân biệt rộng, không phiền dẫn ra.
Từ trên đến đây nói rộng câu thứ nhất đã xong, từ đây xuống nói rộng về câu thứ hai.
Luận: "Tiếp theo sở biến kế tự tánh là thế nào?" Thuật rằng: Nói năng biến kế đã xong, tiếp theo hỏi sở biến kế là gì.
Luận: "Nhiếp Đại Thừa nói", đến "Sở duyên duyên".
Thuật rằng: Trong ba tánh là Y tha khởi, nói Sở duyên duyên thì chắc chắn là hữu pháp, tâm biến kế lấy Sở duyên duyên này làm duyên, vì gần gũi với Tướng phần thì chắc chắn là Y tha, không lấy Viên thành thật mà làm cảnh, vì Viên thành thật kia không tương tợ. Nhiếp luận quyển 4 chỉ nói tánh Y tha là Sở biến kế.
Luận: "Tánh Viên thành thật lẽ nào không phải là cảnh của nó?"
Thuật rằng: Đây là người ngoài hỏi. Quyển 76 ghi Thắng nghĩa vô tánh, không giống như chỗ chấp tướng Thắng nghĩa, đến sau sẽ biết, cũng lấy Viên thành thật làm Sở duyên duyên xa, không phải là Tướng phần, vì không tương tợ, vì rất xa.
Luận: "Chân không phải vọng chấp", đến
"cũng là sở biến kế".
Thuật rằng: Y tha là vọng, có thể cho rằng phần ít là Tướng phần của Viên thành thật kia, chân này thì không phải vậy, vì không gần nhau, xa cũng không được.
Luận: "Biến kế sở chấp", đến "cho nên không phải sở biến kế".
Thuật rằng: Sở chấp tuy là cảnh của tâm Biến kế, nhưng không phải Sở duyên duyên cho nên không phải sở biến kế, vì sở biến kế thì căn cứ vào Hữu pháp. Nghĩa của cảnh thì đồng thông với Vô pháp cho nên gọi là cảnh, Sở duyên duyên thì câu thúc với Vô pháp tức là phi, cho nên chỉ có Y tha là sở biến kế. Quyển 74 ghi: "Do đâu mà Biến kế? Do y tha khởi", tức là ở đây nói. Tại sao quyển 74 lại cũng nói Biến kế sở chấp không phải là trí cảnh của phàm và Thánh? Vì vô tướng cho nên nói đều không phải cảnh. Tợ tướng phần là Phi vô pháp, Vô pháp không phải Sở duyên duyên, vì Sở duyên duyên chắc chắn là Hữu pháp, tánh của nó có thể gọi là cảnh của sở duyên, không cho nên luận đó nói là cảnh mà không phải là duyên, vì không có thể. Đối với tâm mà nói là không phải cảnh, do đó thuyết của tánh này là nên biết. Đây là câu tụng thứ hai trước đã nói xong. Phật thì không có gì mà chẳng biết. Hoặc biết như thế nào thành sở duyên, hoặc không biết như thế nào là nói biến trí. Nghĩa này nên suy nghĩ, như trong Duy thức quyển 7 giải thích.
Từ đây xuống nói rộng câu tụng thứ ba và thứ tư, gồm giải thích câu thứ nhất trong bài tụng thứ hai.
Luận: "Tướng của Biến kế sở chấp như thế nào?" Thuật rằng: Đây là hỏi về thể tướng.
Luận: "So với Y tha khởi lại có gì khác?"
Thuật rằng: Đây là hỏi hai sai biệt chung với hai câu hỏi.
Luận: "Có nghĩa là ba cõi, đến "Biến kế sở chấp". Thuật rằng: Sư này có hai ý:
1. Lập tông.
2. Dẫn chứng thiên về đáp câu hỏi thứ nhất.
Các tâm và tâm sở tuy mỗi thể của nó đều là một tự chứng phần nhưng tợ hai phần của Y tha mà sinh, là Tướng phần và Kiến phần. Trong các kinh luận nói hai thủ tức là hai phần này. Như vậy hai phần tuy có tương tợ thể, nhưng lý thì thật ra là không có. Hai tướng này luận Trung Biên nói là kế sở chấp.
Luận: "Thể của hai sở y", đến "duyên sở sinh". Thuật rằng: Đáp câu hỏi thứ hai, hiển hai thứ sai biệt. Các thức sự thể của hai sở y này, thật ra từ duyên sinh, tánh này không phải không có, tên là Y tha khởi, vì duyên sinh từ chủng tử hư vọng phân biệt. Ý của sư này nói chỉ có tự chứng phần là Y tha mà có. Sở thủ năng thủ và Kiến phần Tướng phần là kế sở chấp, như lông rùa, là Vô pháp.
Luận: "Làm sao biết được như vậy?"
Thuật rằng: Dưới đây là dẫn chứng làm sao biết được hai phần kia là không phải có.
Luận: "Các Thánh giáo nói", đến "Biến kế sở chấp".
Thuật rằng: Phân rõ hai thứ sai biệt. Hư vọng phân biệt là Y tha khởi. Luận Trung Biên cựu dịch ghi: "Hư vọng tổng loại là ba cõi tâm tâm sở". Tân dịch thì ghi: "Ba cõi tâm tâm sở là hư vọng phân biệt". Luận Hiển Dương quyển 16 ghi: "Thể tánh của phân biệt là ba cõi tâm tâm sở". Du-già và Nhiếp luận đều có các câu nói này, là nói rằng ba cõi tâm tâm sở là Y tha khởi, từ nhân duyên sinh, hai thủ của nó gọi là Biến kế sở chấp. Bài tụng trong luận Trung Biên cựu dịch ghi: "Không có hai thủ mà có cái Vô này". Văn Trường hàng ghi: "Không có hai thủ là không có sở thủ năng thủ, có cái Vô này là có hai thủ vô". Tân dịch thì ghi: "Không có hai thủ này mà có Vô". Nhiếp luận và luận Hiển Dương thì văn này rất nhiều. Luận này phần thứ nhất tức là sư An Tuệ phần nhiều đều nói nghĩa này. Dưới đây là Hộ Pháp mới phân biệt thêm.
Luận: "Có nghĩa là tất cả", đến "Biến kế sở chấp". Thuật rằng: Đây là sư thứ hai nói. Trong văn có bốn đoạn:
1. Nêu tông.
2. Dẫn chứng.
3. Bài xích.
Kết chánh. nhân duyên sinh của Tướng phần và Kiến phần cũng là Y tha khởi. Y theo hai phần vọng chấp này mà quyết định là hữu hay vô, hoặc cũng hữu cũng vô, hoặc Phi hữu chẳng phải không, là một hoặc là khác, hoặc câu hoặc bất câu. Đây là lấy hữu vô làm một câu riêng, một và khác hai câu riêng làm đầu. Câu và bất câu thông với hai xứ thì Tướng phần và Kiến phần này mới gọi là Biến kế sở chấp, không phải nhân duyên hai pháp mà gọi là kế sở chấp. Nương theo tổng hợp của sư trước mà tiếp theo dẫn văn làm chứng.
Luận: "Các Thánh giáo nói", đến "Y tha khởi".
Thuật rằng: Dưới đây là dẫn chứng. Luận Nhiếp Đại Thừa quyển 4 ghi: "Hai chủng chủng của Duy thức, kia gọi là Duy thức, đây gọi là duy lượng, kia nói là hai, đây gọi là chỉ có hai". Luận kia tự giải thích rằng: "Duy lượng là không có cảnh, duy lượng là có Kiến phần và Tướng phần, chủng chủng là các thứ hành tướng sinh khởi. Do có Tướng phần và Kiến phần mà được thành hai chủng, cho nên Kiến phần và Tướng phần là Y tha khởi". Kinh Phật Địa nói là hiện tại thân và cõi, cùng với chỗ dẫn bốn chí giáo của quyển 2 trước, đều có hai phần, ba phần và bốn phần cho nên nói là chủng chủng, vì đều gọi là Y tha khởi. Lại nữa, chủng chủng là Tướng phần và Kiến phần mỗi mỗi đều có nghĩa chủng chủng hành tướng, như Nhiếp luận giải thích.
Luận: "Bốn pháp của các tướng", đến "Y tha khởi nhiếp".
Thuật rằng: Lại nữa, trong năm pháp tương đương với bốn pháp trước, chỉ trừ Chân như. Mười một thức gồm:
1. Thân.
2. Thân giả.
3. Thọ giả.
4. Sở thọ của nó.
5. Năng thọ của nó.
6. Thế.
7. Số.
8. Xứ.
9. Ngôn thuyết.
10. Tự tha biệt.
11. Thức thiện nẻo ác tử sinh.
Nhãn... năm căn gọi là Thân, ý và giới sở y của thức gọi là Thân giả, ý và giới sở y của Ý Thức thứ sáu gọi là thức của thọ giả. Ba thức này lấy sáu nội giới làm tánh. Sắc và sáu trần gọi là Sở thọ của nó; sáu thức và giới gọi là Năng thọ; tương tợ ba thời ảnh hiện gọi là Thế; tương tợ một, hai... gọi là Số; tương tợ thôn xóm ảnh hiện gọi là Xứ; tương tợ thấy nghe ngôn thuyết hiện gọi là Ngôn thuyết; dấy khởi ngã chấp và ngã sở chấp gọi là Tự tha biệt; tương tợ tướng năm nẻo hiện gọi là thức thiện nẻo ác sinh tử. Nghĩa của các môn này như Nhiếp luận giải thích. Trong đây đã nói thân thức, sở thọ thức, xứ thức, ngôn thuyết thức, thiện nẻo ác sinh tử hợp chung với năm thức gọi là Y tha khởi. Tướng phần cũng là Y tha. Du-già quyển 72, quyển 73 và luận Hiển Dương quyển 12, quyển 16 thuyết minh về năm pháp, Nhiếp luận quyển 4 thuyết minh về mười một thức và tướng danh, các luận đó đều nói thuộc về Y tha khởi, cho nên biết hai phần tướng kiến không phải là kế sở chấp. Luận nói "đẳng" là đồng với tướng thức và đồng với sắc xứ.
Luận: "Không như thế thì Vô lậu", đến "Biến kế sở chấp". Thuật rằng: Dưới đây là bài xích, trong đó có vấn nạn năm lỗi.
Đây là vấn nạn lỗi thứ nhất. Nếu các Tướng phần không phải Y tha thì chỗ biến hai phần tướng kiến của Hậu đắc trí của Phật đáng lẽ gọi là sở chấp phải không? Nên lập lượng rằng: Hữu lậu không phải nhiễm Kiến phần và Tướng phần, không phải kế sở chấp, vì là không phải nhiễm tâm hiển hiện hai phần.
Luận: "Thừa nhận thì đáng lẽ Thánh trí", đến "Hữu lậu cũng như thế".
Thuật rằng: Nếu thừa nhận hai phần kiến tướng Vô lậu như Nhị thừa thì cũng kế sở chấp thì đáng lẽ Thánh trí không duyên với Tướng phần của tự tha mà sinh. Nếu duyên tướng mà sinh thì liền thành kế sở chấp. Nếu chỗ có trí phẩm có thể duyên Y tha thì đáng lẽ không phải là Đạo đế, vì có Tướng phần, như tâm Hữu lậu. Nếu không thừa nhận Thánh trí thì tuy có hai phần nhưng không phải kế sở chấp. Nên biết tâm Hữu lậu đáng lẽ cũng có hai phần như vậy, như tâm Vô lậu.
Luận: "Lại nữa, nếu hai phần", đến "thể không phải có".
Thuật rằng: Đây là vấn nạn thứ hai. Nếu hai phần tướng kiến Hữu lậu, đều là kế sở chấp thì đáng không phải là Sở duyên duyên, vì luận kia nói kế sở chấp thừa nhận hai phần không phải có, như sừng thỏ. Luận họ cho rằng hai phần không phải Sở duyên duyên. Sở duyên duyên là Trần Na dùng để phá tha và thành tựu tha mà làm luận. Ngã đã là Duy thức thì dựa vào cái gì để mà duyên sinh?
Luận: "Đáng lẽ hai phần", đến "đáng lẽ không có hai phần".
Thuật rằng: Đây là vấn nạn thứ ba. Chỗ chấp hai phần không huân thành chủng tử, vì là Vô pháp, như gái đá, tức là các thứ sau đáng lẽ không có hai phần. Nhưng chỗ chấp của nó, chỗ có chủng tử của hai phần khi sinh thì chỉ có tự chứng hiện hành là Y tha khởi. Chủng tử sinh hai phần thì liền thành kế sở chấp, cho nên đặt thành vấn nạn này. Nếu không như thế thì văn này đuổi theo nghĩa khác, không phải cực thành.
Luận: "Lại nữa, các tập khí", đến "năng tác nhân duyên".
Thuật rằng: Đây là vấn nạn thứ tư. Hữu lậu tập khí là Tướng phần của thức, Tướng phần đã không phải có, lẽ nào pháp năng tác nhân duyên của thể không phải có? Giả pháp thì giống như nhân duyên, ông chấp thể của Tướng phần không phải có, đó là chấp chủng tử không phải thật có thể, tự chứng phần khởi duyên cũng vẫn không phải Tướng phần. Hiện tại luận này nói hai chữ "tự tông" là Tướng phần nhiếp cho nên đặt thành vấn nạn này.
Luận: "Hoặc sở sinh của duyên", đến "không khác với nhân".
Thuật rằng: Đây là vấn nạn thứ năm. Từ sở sinh của duyên không lìa hai phần trong thức thì không phải Y tha khởi. Sở y của hai phần y vào tha mà khởi thể của thức, đặt ví dụ cũng như vậy. Không khác với sở y, bỉ thử có thể riêng khác. Nếu hai phần ngoài tâm không phải nhân duyên sinh thì có thể không phải Y tha khởi, nhưng sư này kế chấp chủng tử năng sinh có hai thứ. Năng sinh và sở sinh hiện hành cùng với kế sở chấp, cho nên lấy tự thể làm ví dụ. Ví dụ đó nên lập lượng rằng: Hai phần sở sinh của nhân duyên là Y tha khởi, vì chủng tử của nhân duyên sinh, như Tự chứng phần. Lại nữa, chỉ có Tự chứng phần thì do duyên gì làm chứng tự chứng, duyên gì làm chủng tử, lẽ nào trong một tâm mà cũng là cũng là lượng phi lượng? Vì đắc tự duyên thừa nhận có Kiến phần thì không có lỗi này. Nếu lập thêm phần thì Tự chứng phần thứ nhất không do từ duyên bên trong mà cũng thuộc Kiến phần.
Luận: "Do lý thú này", đến "đều là Y tha khởi". Thuật rằng: Đây là kết chánh. Giải thích hai câu làm hai tánh, hoặc làm tánh thứ nhất cùng với Y tha khởi hợp chung làm môn, đây là sư thứ nhất tổng kết. Hoặc phân làm ba tánh, mỗi mỗi đều thuyết minh riêng.
Từ đây trở xuống giải thích Y tha, do lý thú nhiều duyên sinh thể của tâm tâm sở này, cùng với Tướng phần và Kiến phần, dị sinh Nhị thừa Hữu lậu Vô lậu đều là Y tha khởi, khéo thuận với Thánh giáo, vì không trái lý.
Giải thích câu thứ nhất của tụng thứ hai và thể tánh của kế sở chấp không phải có, hỏi đáp về tướng của nó. Hai sư nói Hữu thể và Vô thể, rộng và hẹp không đồng. Phân rõ hai tánh, đáp riêng câu hỏi thứ hai. Tổng là nói rộng bài tụng thứ nhất đã xong, đồng thời giải thích câu thứ nhất của tụng thứ hai, do đó kết đoạn văn trên mà kiêm phát sinh đoạn văn dưới.
Từ đây xuống là giải thích câu thứ hai của bài tụng thứ hai.
Luận: "Nhiều duyên của Y tha mà được khởi".
Thuật rằng: Ba chữ duyên sở sinh trong giải thích tụng, là giải thích nghĩa Y tha.
Luận: "Tụng nói phân biệt", đến "cũng là Viên thành".
Thuật rằng: Giải thích hai chữ phân biệt chỉ câu thúc trong Hữu lậu, đồng thời hiển lý do tại sao không nói tịnh phần. Hoặc từ bên dưới giải thích câu thứ hai, từ đây trở lên là giải thích chung câu thứ nhất. Hiện tại trong tụng này, nên biết rằng còn nói nhiễm phần Y tha, nói rằng pháp phân biệt là chỗ sinh của nhân duyên. Các pháp tạp nhiễm gọi là phân biệt, vì chỗ sinh của nhân duyên Y tha, hoặc nhiễm Y tha làm chỗ sinh của duyên phân biệt, vì chỉ có tạp nhiễm. Y tha trong đây chỉ nói về nhiễm phần, tịnh phần Y tha cũng là Viên thành, là hiển thông hai tánh, thuyết minh tịnh Y tha không gọi là phân biệt vì nhiễm Y tha khởi thì chỉ có Y tha, là hiển trong tụng này chỉ thuyết minh về nhiễm phần.
Luận: "Hoặc các nhiễm tịnh", đến "thuộc về Y tha khởi".
Thuật rằng: Phần thứ hai lại giải thích nữa. Hoặc các tâm pháp tâm sở nhiễm và tịnh đều gọi là phân biệt, vì là năng duyên lự. Trong đó nói chung, do không phải tịnh cho nên không phải duyên lự. Nói năng duyên, đó là tất cả nhiễm y tha và tịnh y tha, là Y tha khởi nhiếp trong tụng này, đều gọi là phân biệt.
Hỏi: Nếu như thế thì nhiễm sắc, tịnh sắc và Bất tương ưng đáng lẽ không phải Y tha khởi trong đây nhiếp, vì không phải năng duyên lự và không phải thuộc về Y tha?
Đáp: Không đúng, khi nói các tâm thì các pháp nhiễm tịnh đó cũng thuộc về Y tha khởi này, vì không lìa tâm, vì Duy thức môn.
Hỏi: Nếu như thế tại sao đưa ra hai chữ năng duyên?
Đáp: Hiển tâm năng duyên khắp các nhiễm tịnh đều gọi là phân biệt, vì gồm cả năng lự, không phải hai chữ duyên lự lựa riêng với các sắc. Các sắc tuy không phải năng duyên, nhưng không lìa tâm, cho nên cũng thuộc về Y tha khởi này.
Tiếp theo dưới đây giải thích tánh Viên thành thật, trước hết giải thích câu thứ ba của tụng thứ hai.
Luận: "Chỗ hiển của hai Không", đến "gọi là Viên thành thật".
Thuật rằng: Y theo chỗ hiển chân lý của hai Không môn thì phải có đủ ba nghĩa, một là viên mãn, hai là thành tựu, ba là pháp thật tánh, mới gọi là Viên thành thật. Vì sao Chân như có đủ ba nghĩa này?
Luận: "Hiển thể của biến và thường này là Phi hư ngụy". Thuật rằng: Do Chân như này:
1. Thể biến, vì không chỗ nào không có, tức là nghĩa viên mãn.
2. Thể thường, vì không phải sinh diệt, tức là nghĩa thành tựu.
3. Thể phi hư ngụy, vì Chân lý của các pháp và thật tánh của các pháp, tức là chữ thể này thông suốt ba xứ, vì luận sơ lược cho nên chỉ thông với thường và biến trên.
Còn nói thường biến là muốn hiển nghĩa gì?
Luận: "Lựa riêng với tự cộng tướng hư không ngã".
Thuật rằng: Chữ biến là lựa riêng với tự tướng, vì tự tướng của các pháp bị câu thúc với pháp thể, không thông với các pháp khác, nếu thông với các pháp khác thì liền thành Phi tự tướng, cho nên chỉ có Chân như là có thể khắp các pháp. Chữ
"thường" là hiển nghĩa gì? Chữ thường là lựa riêng với cộng tướng. Các pháp Vô thường, Không và Vô ngã, tuy khắp các pháp nhưng thể không phải thật có, là các pháp trên không có thể không có dụng gọi là Không và Vô ngã, không phải có thật thể thông suốt các pháp, chỉ có quán tâm không có thể cộng tướng, đã nói như trước. Đã như thế thì không nên nói thể tánh kia là thường pháp, cho nên nói Chân như là thường để lựa riêng với cộng tướng kia. Lại nữa, ba chữ "phi hư ngụy" có ý hiển nghĩa gì? Phi hư ngụy là lựa riêng với hư không và ngã. Tiểu thừa và ngoại đạo chấp hư không và ngã cũng là thể cũng là thường, có thể khắp các pháp, nói thường biến đó là hư ngụy, không phải thật tánh của các pháp, cho nên chữ "phi hư" là lựa riêng với dị hư không, chữ phi ngụy lựa riêng với ngã, vì đồng với vọng chấp. Lại nữa, chữ "đẳng" là chỉ cho đồng lấy đại hữu, hòa hợp của các sư Vệ thế và tự tánh của Tăng-khư, tuy các bộ đó cho là biến nhưng thể cũng là thường. Hiện tại luận này nói thể đó là tánh hư ngụy, không phải quyết định có thể, cho nên nói trong luận có chữ "đẳng" tức là chỉ có Chân như mới có đủ ba nghĩa. Chữ "Viên thành thật" thì phối hợp thuộc thể đó.
Hỏi: Nếu như thế thì thể tịnh phần Y tha không phải là thường và biến, tại sao cũng thuộc về Viên thành thật?
Luận: "Vô lậu Hữu vi", đến "cũng được tên này". Thuật rằng: Tịnh phần Hữu vi cũng có đủ ba nghĩa:
1. Ly đảo, vì thể không phải nhiễm, đó là nghĩa thật.
2. Cứu cánh, vì gia hạnh thiện của pháp Hữu lậu không thể đoạn hoặc, không phải cứu cánh. Thể của các pháp Vô lậu là Vô lậu, có thể đoạn các nhiễm rốt ráo, đó là nghĩa Thành.
3. Dụng thù thắng chu biến, vì có thể đoạn khắp tất cả pháp nhiễm, duyên khắp các cảnh, duyên khắp Chân như, cho nên nói thứ ba là dụng thù thắng chu biến, đó là nghĩa Viên.
Do đủ ba nghĩa đồng với Chân như, cho nên tịnh Y tha cũng được gọi là tánh Viên thành thật. Trong cựu luận Trung Biên cũng ghi: "Vô vi thì vô biến vô đảo thành tựu nhập chân thật tánh". Tất cả Hữu vi đều là đạo nhiếp, không có điên đảo thành tựu, vì không có điên đảo trong phẩm loại cảnh giới cho nên được nhập chân thật tánh. Vô biến là nghĩa thường, vô điên đảo là nghĩa Phi hư ngụy. Thành tựu là nghĩa biến. Do ba nghĩa trên mà Chân như gọi là thành thật. Tịnh phần Y tha chỉ có thể khắp, đều không có điên đảo, chỉ là nghĩa thứ nhất và thứ ba trong đây. Nghĩa vô cứu cánh, tân dịch luận Trung Biên quyển 2 ghi: "Chân như Niết-bàn không có biến đổi, cho nên gọi là Viên thành thật. Hữu vi tổng nhiếp tất cả Thánh đạo, đối với cảnh không có điên đảo cho nên cũng gọi là Viên thành thật". Hợp chung hai thứ này lại thì chỉ có hai nghĩa thứ nhất và thứ ba trong đây. Nhiếp luận quyển 4 ghi: "Duyên gì gọi là Viên thành thật? Do không có biến dị", tức là nghĩa thường ở đây. Sở duyên của thanh tịnh tức là nghĩa biến ở đây. Tánh tối thắng của tất cả pháp thiện là Phi hư ngụy này. Thật tánh của các pháp, trong luận Trung Biên kia chỉ coi là Chân như tánh Viên thành thật, không phải tịnh Y tha cũng nhiếp trong tánh Viên thành thật, vì nghĩa không đủ. Trong đây nghĩa nhiếp chung đều đồng nhau.
Luận: "Hiện tại trong đây nói sơ không phải hậu".
Thuật rằng: Tuy các pháp tịnh phần của Vô vi và Hữu vi đều là Viên thành thật, nhưng trong tụng này nói Chân như đầu gọi là Viên thành thật, không phải tịnh phần sau, vì không thể lựa riêng với ba nghĩa thù thắng của tự tướng và cộng tướng. Tịnh phần Y tha, một là không phải chỗ chứng, hai là không phải pháp tánh, cho nên trong luận này nói trước không phải sau. Đây là giải thích ba chữ "Viên thành thật" trong câu thứ ba. Tiếp theo giải thích "đối với nó" và câu thứ tư. Phần đầu giải thích chung, phần sau là giải thích riêng.
Luận: "Thử là đối với bỉ", đến "Chân như làm tánh".
Thuật rằng: Đây là giải thích chung. Viên thành thật này, đối với chỗ nói ở trước về Y tha khởi kia, trong tất cả thời thường không có Biến kế sở chấp thứ nhất. Thường nghĩa là hằng, nghĩa là tất cả thời, nghịch với nghĩa lìa Không và nghĩa lìa lỗi, là chỗ chấp làm ban đầu của ba tánh, cho nên gọi là tiền. Đây là Viên thành thật trên Y tha khởi không có kế sở chấp, hai ngã đã Không, y theo chỗ hiển Chân như của Không môn mà làm tự tánh của nó. Tiếng Phạm là Thuấn-nhã, Hán dịch là Không; Thuấn-nhã-đa, Hán dịch là Không tánh. Như gọi Không tánh mà không gọi là Không, cho nên y theo Không môn mà hiển tánh này, tức Viên thành thật là chỗ hiển của Không, là phỏng theo biểu thuyên để hiển Viên thành thật.
Hỏi: Không làm môn, là trí làm Không hay Không làm dị trí?
Đáp: Không là cảnh của trí, thể của Không không phải trí, khi trí duyên cái Không đó, là hiển Chân như này.
Luận: "Nói hai chữ đối với bỉ", đến "chẳng tức chẳng lìa".
Thuật rằng: Dưới đây đặt nặng giải thích chữ "đối với bỉ", tức là phỏng theo giá thuyên để hiển Viên thành thật. Câu thứ ba của tụng nói đối với bỉ là hiển Viên thành thật này cùng với Y tha chẳng tức chẳng lìa. Y tha là sở đối với, Chân như là năng đối với, không phải ngay một pháp mà có sở đối với và năng đối với, hiển Chân như và Y tha không phải tức là nhau. Nếu là tức thì Chân như đáng lẽ bị diệt mất, Y tha thì đáng lẽ không sinh. Nói không lìa thì ngay trên Y tha có Chân như, đối với bỉ không thể nói lìa. Nếu nói hoàn toàn lìa thì đáng lẽ Chân như không phải tánh của Y tha kia, nếu lìa Y tha thì riêng có Chân như tánh, tại sao nói đối với bỉ? Cho nên hai chữ đối với bỉ là hiển chẳng tức chẳng lìa. Trong đây chỉ có hữu và không, đối với bỉ cũng có thử.
Luận: "Ba chữ thường viễn ly", đến "lý là hằng chẳng phải có".
Thuật rằng: Đây là giải thích ba chữ "thường viễn ly" của câu thứ tư. Nói rằng Biến kế sở chấp là vọng sở chấp, đây không phải là tạm thời không có mà là hằng thời không có, cho nên gọi là thường, thể này là chẳng phải có cho nên gọi là viễn ly. Đã viễn ly thì không có kế sở chấp, lại đưa ra chữ "trước", điều này có dụng ý gì?
Luận: "Nghĩa của chữ 'trước' là hiển chẳng phải Không y tha".
Thuật rằng: Y tha của Biến kế sở chấp nói ở trước. Chữ Không này đối với sở chấp, không phải Không này đối với Y tha.
Chữ "trước" là hiển trong tụng này chỉ nói thường viễn ly Biến kế sở chấp trước, đã không có kế sở chấp mà lại nói tánh thì đây có dụng ý gì?
Luận: "Tánh là hiển hai Không", đến "vì lìa Vô tánh".
Thuật rằng: Ý muốn nói Chân như là tánh của Không, không phải tức là Không, vì Không là nguyên nhân mà Chân như mới hiển được. Thể của Chân như là Không thì cũng đâu có hại gì! Chân như lìa hữu tướng và lìa vô tướng. Nếu nói đối với Không tuy lìa hữu tướng, không phải lìa Không tướng, cho nên chữ Không ở đây không phải là thể của Chân như cho nên đưa ra chữ "tánh" có ứng dụng sâu xa. Chân như lìa Không gọi là Không tánh, Chân như lìa Hữu gọi là Hữu tánh, bệnh chấp phần nhiều khởi Hữu cho nên chỉ nói Không môn, hoặc bệnh chấp Không phát sinh thì cũng lập ra Hữu tánh, ý này là tổng hiển tánh Viên thành thật trên Y tha không có tánh sở hiển của chỗ chấp ở trước, cho nên giá môn và biểu môn đều có lý do. Đây là giải thích hai câu cuối của tụng thứ hai đã xong. Tuy hai tụng không đồng, thuyết minh ba tánh thể đã xong.
Dưới đây thuyết minh Dị tướng và Bất dị tướng của ba tánh, tức là tụng thứ ba. Trong đó có ba phần:
1. Giải thích pháp.
2. Giải thích dụ.
3. Tổng kết.
Luận: "Do lý trước", đến "đáng lẽ là vô thường".
Thuật rằng: Dưới đây là giải thích ba câu đầu trong tụng thứ ba. Đây là cùng với Y tha khởi không phải dị không phải bất dị, trong Nhiếp luận đều đối với ba tánh thuyết minh dị và bất dị, trong đây thì chỉ đối với Y tha khởi mà lấy hữu pháp tương đối của hai tánh này, không phải đối với kế sở chấp mà lấy Vô thể, cho nên chỉ có đối với hai tánh. Trong đây luận nói do lý của chẳng tức chẳng lìa trước, nếu Y tha khởi cùng với nó quyết định khác nhau thì Chân như đáng lẽ không phải Thật tánh của nó, đã cùng với nó khác nhau cho nên không phải tánh của nó. Nếu hoàn toàn không khác nhau thì Chân như tánh này đáng lẽ là vô thường, Y tha không phải thường vì đây kia đồng nhau.
Luận: "Bỉ thử đều đáng lẽ là", đến "dụng đáng lẽ không khác". Thuật rằng: Lại nữa, giải thích nghĩa của chữ "một". Y tha bỉ và
Chân như thử đã là một thể thì đều đáng lẽ là tịnh cảnh và Phi tịnh cảnh, vì là một thể. Luận Trung Biên quyển 1 ghi: "Không có hai thứ hữu và vô, chẳng phải có cũng chẳng phải không, phi khác cũng chẳng phải một". Đó là nói Không tướng, chính là đồng với luận này. Quyển 74 ghi: "Chỉ có cảnh của Chân như thánh trí này, nương theo pháp khác mà khởi phàm cảnh và Thánh trí cảnh". Lại nữa, thể của Y tha cảnh là bất tịnh, thể của Chân như cảnh là tịnh, hai tánh đã là một thì thể của Y tha cảnh kia đáng lẽ cũng tịnh, Chân như cảnh đáng lẽ cũng bất tịnh. Lại nữa, Y tha đã thông với phàm cảnh và thánh cảnh thì Chân như đáng lẽ cũng như thế. Đã như thế thì tức là căn bản trí vô phân biệt, cùng với Hậu đắc trí đáng lẽ không khác thể. Bổn trí vốn duyên Chân như, cũng duyên Y tha. Hậu đắc trí duyên Y tha, cũng duyên Chân như. Đây là phỏng theo Kiến phần đặt làm vấn nạn, cho nên hai tánh không khác nhau. Nhiếp luận ghi: "Do chủng tử của Y tha sinh thành Y tha, vì do Biến kế sở chấp duyên tướng". Chỗ Biến kế của Biến kế, do đó thành Biến kế sở chấp, do tức là tự tánh này mà thành Viên thành thật. Vì sở biến kế của Chân như không có như vậy cho nên ba tánh là phi dị và phi bất dị. Thế Thân nói: Ý thức là Biến kế thì Y tha khởi này làm năng sinh Biến kế của cảnh tánh sở thủ sở duyên, do đó cũng gọi là Biến kế sở chấp, tức là Y tha khởi làm cảnh sinh tâm Biến kế, nghĩa là tánh kế sở chấp, đó là giải thích sở duyên tướng của Biến kế, vì là sở biến kế, tức là Ý thức đó gọi là Biến kế, duyên tướng mạo kia mà làm cảnh sở thủ làm sở biến kế. Do đó Y tha này cũng gọi là tánh kế sở chấp. Nói rằng Y tha khởi là cảnh sở duyên của tâm kế chấp, cũng gọi là kế sở chấp. Cái trước thì làm cảnh năng sinh kế tâm gọi là kế sở chấp, cái sau làm sở duyên của kế tâm cho nên gọi là kế sở chấp. Giải thích chung luận này là nghĩa chữ "một". Luận Vô Tánh ghi: "Phi dị, là Y tha khởi thì có, kế sở chấp thì không". Có vọng chấp đối với hữu được gọi là dị, có vọng chấp đối với chẳng phải có thì không được gọi là dị, vì chẳng phải có kia đã là vô thì vọng chấp cái gì để làm dị? Phi bất dị, là hữu và chẳng phải có không thành nhất, vì y tha thì bất tịnh, Viên thành thật thì tịnh, cho nên ba tánh kia là phi dị và phi bất dị. Đây là một giải thích. Lại nữa, do Y tha là Biến kế sở chấp và sở y chỉ của ngã và sắc thì Y tha khởi gọi là kế sở chấp, vì sở duyên tướng của Biến kế, tức là Y tha làm sở y của kế sở chấp, gọi là kế sở chấp. Giải thích này cùng với giải thích trước của thế thân khác nhau. Lại nữa, Y tha khởi là Ý thức Biến kế và sở biến kế của ngã và sắc, tức là Y tha khởi làm sở kế chấp của năng biến kế gọi là kế sở chấp. Luận kia nói rằng do ý thú này mà giả thuyết Y tha làm kế sở chấp. Đây là giải thích hai câu trên của tụng thứ ba, kế sở chấp này cùng với Y tha không phải nhất không phải dị đã nói xong. Dưới đây là giải thích lần lượt câu thứ ba.
Luận: "Tại sao hai tánh là phi dị và phi bất dị?" Thuật rằng: Đây là hỏi về ví dụ.
Luận: "Như tánh của vô thường Vô ngã kia".
Thuật rằng: Tụng nói như tánh của vô thường, đồng lấy Vô ngã và Không, cho nên sau chữ Vô ngã có chữ "vân vân".
Luận: "Tánh của vô thường...", đến "không phải cộng tướng kia".
Thuật rằng: Nếu quyết định là dị thì hành pháp kia không phải vô thường..., như màu xanh không phải màu vàng, vì là khác nhau. Nếu hoa đốm trong hư không toàn dị thì các vô thường này đáng lẽ không phải cộng tướng của các hành kia, như cộng tướng của sắc và Phi sắc cùng với sắc không khác nhau.
Luận: "Do ví dụ này hiển thị", đến "tương đối mà có".
Thuật rằng: Đây là tổng kết đoạn văn trên. Do đạo lý này mà hai tánh không phải nhất và dị, các pháp cùng với lý của pháp tánh chắc chắn cũng vậy. Y tha là pháp, pháp tánh như vậy thì đạo lý đáng lẽ cũng như thế. Tại sao vậy? Vì Thắng nghĩa và Thế tục tương đối nhau. Nói rằng nếu có tục lý thì phải có Chân lý, nếu không có chân thì tương đối với pháp gì để làm tục, không phải lông rùa mong sừng thỏ mà có thể nói nhất và dị, vì thể là vô! Nếu có Chân thì lý chắc chắn phải có tục, nếu không có tục thì tương đối với pháp gì để làm chân! Do đạo lý này mà ba chân ở trước cũng gọi là tục, vì chân ở trong tục, cho nên ba tục sau cũng gọi là chân, vì tục trong chân. Như lý thù thắng này mà hai tánh kia phi dị và phi nhất. Tiếp theo đoạn thứ ba, giải thích câu thứ tư "không phải không thấy thử bỉ".
Luận: "Không phải không chứng kiến", đến "tánh Y tha khởi".
Thuật rằng: Văn dưới đây có hai đoạn: một là chung, hai là riêng.
Đây là phần đầu. Luận này nói kiến, không phải nói rằng mắt thấy, mà Ý thức so sánh thấy, chỉ là Vô lậu thân cận chứng kiến. Kiến có nghĩa là gần với chỗ đắc mà tuệ của bậc Thánh chứng kiến. Không phải không thấy thử, vì thử thử Viên thành thật mà có thể thấy bỉ bỉ Y tha khởi, tức là nghĩa của một chữ kiến này thông với hai tánh, ngầm hợp với lời nói khéo. Luận chỉ nói "không phải không thấy thử bỉ" là phải đạt đến Chân lý mới hiểu rõ Y tha, lẽ nào nói Y tha là cảnh của phàm phu! Vì sự hiển hiện trên tâm tuy không đạt rõ nhưng thân cận với sở thủ, hoặc luận đạt rõ chỉ có Thánh không phải phàm phu, hoặc thân cận mà làm cảnh của phàm phu cũng được, cho nên nói bỉ thử cũng không có lỗi tương vi. Như trên đời có người thân cận thấy một vật, nhưng không thể nhận ra là gì, cảnh của phàm phu cũng vậy.
Luận: "Chưa đạt Biến kế", đến "Y tha là có".
Thuật rằng: Giải thích lý do này có hai phần: một là giải thích, hai là kết thành.
Đây là giải thích. Giai vị của các Địa tiền chưa đạt đến tánh thể của Biến kế sở chấp là trống rỗng không có, rốt cuộc không hiểu biết như thật về Y tha là có, sức lực của chỗ vọng chấp che lấp Y tha của nó, trừ khi nó che lấp mà Y tha tự hiện thì chỗ vọng chấp không có. Y theo vô môn này mà chứng Viên thành thật thì liền hiểu rõ Y tha. Hiện tại từ chỗ nói của vô môn, cho nên nói hiểu rõ sở chấp không mà biết Y tha hữu, đó là giải thích. Lại nữa, trí vô phân biệt nếu không trước hết đạt rõ chỗ chấp diệu lý của tánh Không Chân như thì Hậu đắc trí đó rốt cuộc không thật sự hiểu biết Y tha là có, để hiển trí vô phân biệt chứng hai tánh.
Hỏi: Đã phải biết lý chân mới hiểu rõ sự tục, là đồng thời hay là sau.
Luận: "Trí vô phân biệt", đến "như các huyễn sự".
Thuật rằng: Trước hết chứng Chân như thì đã ở trong Hậu đắc trí mới có thể hiểu rõ tánh Y tha như tám ví dụ huyễn sự, dương viêm..., không phải sơ kiến vị trong một lúc mà thấy cả hai. Sau Địa thứ năm và Phật thì mới có thể như thế, đến sau sẽ biết. Luận: "Tuy vô thỉ đến nay", đến "hư vọng biến hiện".
Thuật rằng: Dưới đây là làm thành lý trên. Tâm và pháp tâm sở của tất cả dị sinh, đã có thể duyên với tự tướng và Kiến phần, tuy thân cận đắc Y tha, do ngã chấp và pháp chấp hằng đồng thời khởi mà không biết tự tâm và tâm sở hư vọng hiển hiện, do đó không thể hiểu rõ Y tha cho đến tám ví dụ, cũng duyên tự thân chứng tự chứng phần, chứng tự chứng phần cũng duyên tự tự chứng, cho nên nói duyên với tự tướng và Kiến phần. Do tâm ba tánh của Thức thứ bảy ngã chấp và pháp chấp hăng đồng thời hiện hành mà không biết như thật về tự tâm hư vọng như các huyễn sự.
Luận: "Cũng như huyễn sự", đến "chẳng phải có và tợ hữu".
Thuật rằng: Đây là hiển Y tha không phải chân thật có và ví dụ để làm thành. Như Đại Bát-nhã nói rộng về tướng đó. Luận Nhiếp Đại thừa ghi: "Tại sao vô nghĩa mà làm thành cảnh giới của sở hành? Vì trừ bỏ nghi ngờ này mà nói ví dụ huyễn sự. Tại sao không có nghĩa tâm và tâm sở chuyển? Là ở đây nói ví dụ ánh lửa. Tại sao không có nghĩa thọ dụng sai biệt của ái và phi ái? Là ở đây nói thí dụ cảnh mộng. Tại sao không có nghĩa sinh quả sai biệt của tịnh nghiệp, bất tịnh nghiệp, ái và phi ái? Là ở đây nói ví dụ ảnh trong gương, luận kia thì nói ảnh tượng. Tại sao không có nghĩa tướng chuyển của chủng chủng ngôn thuyết hý luận? Là ở đây nói ví dụ tiếng vang trong hang. Tại sao không có nghĩa mà thật có nắm lấy sở hành cảnh chuyển của các Tam-ma-địa? Là ở đây nói ví dụ nước và trăng. Tại sao không có nghĩa mà có vô điên đảo tâm của các Bồ-tát, để phân rõ các sự lợi lạc của chư hữu tình do đó mà tư và thọ tâm sở sinh? Là ở đây nói ví dụ biến hóa. Luận Vô Tánh quyển 5 của Thế Thân đều có giải thích rộng, không thể phiền dẫn ra. Trong luận Trung Biên cũng có tám dụ để ví dụ về kế sở chấp, như các tổng hợp sao chép kia, để hiển tánh Y tha mà ví dụ như tám dụ này. Thể không thật có là hư vọng mà có, tương tợ chân của nó mà có cho nên nói Y tha chẳng phải có và tợ hữu.
Luận: "Y theo nghĩa như vậy", đến "tuy hữu mà phi chân".
Thuật rằng: Đây là bài tụng trong kinh Hậu Nghiêm. Tuy Y tha thì có nhưng không phải chân thật có, phải thấy chân, sau đó mới thấy Y tha, cùng với văn Trường hàng đồng. Đoạn văn trên đây, nên biết nghĩa đó làm chuẩn. Tổng là giải thích riêng ba bài tụng đã xong. Đoạn văn thứ hai dưới đây tổng giải thích ý của ba bài tụng đó, trong đó có ba phần là chung, riêng và tổng kết.
Luận: "Trong đây có ý nói", đến "tâm và pháp tâm sở". Thuật rằng: Đây là phần chung.
Luận: "Nói rằng tâm tâm sở", đến "tánh Y tha khởi".
Thuật rằng: Đây là phần riêng. Nói tâm và tâm sở tức là tự chứng phần và sở biến hiện, tức là Tướng phần và Kiến phần, nhiều duyên sinh như các huyễn sự, không phải có mà tợ như có cuồng hoặc ngu phu, các ngu phu không hiểu rõ cho là thật có, cho nên gọi là cuồng ngu, gọi là tánh Y tha. Luận: "Ngu phu đối với điều này", đến "Biến kế sở chấp".
Thuật rằng: Đối với Y tha này, chấp bướng ngã pháp hoặc hữu hoặc vô, hoặc câu hoặc bất câu. Hiện tại luận này hữu vô và một khác làm đầu, câu và bất câu thông với hai xứ. Đẳng có nghĩa là chỉ cho tất cả các thứ chấp, nhưng chấp và sở chấp như hoa đốm trong hư không, hoặc tánh hoặc tướng không có phần ít là hữu, chỗ không có của tất cả bộ là Biến kế sở chấp. Biến kế sở chấp này cũng y theo Viên thành mà khởi, trong đây chỉ nói y theo Y tha, vì Tướng phần ảnh tượng của tâm là tánh Y tha, y theo đây mà chấp làm Viên thành thật, từ Viên thành thật mà nói thì chỉ nói là Y tha. Lại nữa, Y tha khởi là An túc xứ, chút ít có thể nói năng và nghĩ bàn, nhưng chấp Y tha và Viên thành thì không như thế, cho nên không nói. Viên thành thật cũng là Y tha khởi chấp, như vô thường, Vô ngã, Vô lạc tịnh của Nhị thừa.
Luận: "Trên Y tha khởi", đến "gọi là Viên thành thật".
Thuật rằng: Đối với chỗ vọng chấp ngã pháp đều Không của Y tha khởi kia thì chỗ hiển thức và tâm sở của Không này thì Chân tánh của tất cả Tướng phần gọi là Viên thành thật.
Luận: "Do đó ba tánh này không lìa tâm".
Thuật rằng: Đây là tổng kết. Do đó ba tánh này không lìa tâm, tâm sở và Tướng phần. Đây là giải thích sơ lược thể tướng của ba tánh. Từ trên đến đây, thứ nhất là giải thích rộng ba tánh, thứ hai là sơ lược ba tánh đã nói xong.
Luận: "Hư không trạch diệt", đến "tánh nào nhiếp?"
Thuật rằng: Dưới đây là các môn giải thích, trong đó có hai phần:
1. Dùng mười môn phân rõ.
2. Tổng chỉ ví dụ.
Hiện tại là hỏi đáp riêng cho nên thành mười một môn, trong các môn kỹ lưỡng rất nhiều.
Đây là thứ nhất, trong luận có ý hỏi: Như Vô lậu Hữu vi có đủ hai nghĩa, Y tha và Viên thành thật là chỗ nhiếp của hai tánh, còn trạch diệt, Bất động diệt và tưởng thọ diệt có nói thuộc về Vô lậu, có luận cũng nói Khổ đế... nhiếp, những pháp này đối với ba tánh thì tánh nào nhiếp?
Luận: "Ba tánh đều nhiếp được". Thuật rằng: Đây là đáp chung sơ lược.
Luận: "Các tâm biến tương tợ", đến "Viên thành thật nhiếp".
Thuật rằng: Như luận nói có thể biết, tức là hiển các luận nói Vô lậu, là tâm Vô lậu biến hiện. Nói Khổ đế... nhiếp, là tâm Hữu lậu biến hiện cũng không trái nhau, vì đã nói các khổ. Nói tâm sở biến hiện, là Y tha khởi nhiếp, điều này chỉ có quyết định. Không nhiều chấp Không mà cảm chiêu sinh tử. Lược bỏ không nói Tập đế, vì lý cũng là Tập đế nhiếp. Cái chấp của Bất thiện tâm, như Thắng luận... các luận này nói phần nhiều cho nên thuộc Khổ đế nhiếp. Để hiển nghĩa này, nhân đó mà tường thuật. Từ trên đến đây, chỗ nói nghĩa của Y tha cũng không nhất định, cho nên dưới đây luận nói tiếp.
Luận: "Tâm Hữu lậu...", đến "Viên thành thật". Thuật rằng: Tâm Hữu lậu và sở biến Không, quyết định thuộc Y tha, vì Tướng phần và Kiến phần chắc chắn đồng với tánh của Hữu lậu và Vô lậu, chỉ có Y tha khởi. Tâm Vô lậu và sở biến Không thì được hai tánh nhiếp, vì có duyên khởi cho nên không có lý nghịch đảo, tức là do thể của hai trùng ba tánh khác nhau, cho nên nhiếp không đồng. Hoặc nói Không là Vô lậu thì được hai tánh nhiếp, vì thể không nhất định. Khổ đế... nhiếp thì chỉ là Y tha khởi, vì thể là quyết định. Đây là chỉ phân riêng Hữu thể và giả không, không phải kế sở chấp, vì kế sở chấp không có thể.
Luận: "Ba tánh như vậy", đến "nhiếp nhau thế nào?" Thuật rằng:
Đây là thứ hai bảy tướng Chân như nhiếp. Như Giải Thâm Mật, quyển 77, luận Hiển Dương, luận
Trung Biên và luận Phật Địa quyển 7 nói rộng Chân như có các môn giải thích. Cựu Trung Biên ghi: "Chân như là sự phân phá chân thật". Tân Trung Biên thì ghi: "Sai biệt chân thật làm bảy thứ là từ năng thuyên mà nói, không phải thể của Chân có thể thể gọi là sai biệt". Trong luận phần đầu là hỏi, phần sau là đáp. Đây là hỏi, trong phần đáp dưới đây trước hết nêu ra bảy thể, sau đó phân rõ nhiếp nhau.
Luận: "Bảy Chân như là", đến "lưu chuyển thật tánh".
Thuật rằng: Tánh sinh diệt của tất cả pháp Hữu vi, tánh đó là Chân như, phỏng theo thuyên môn thì gọi là sinh diệt; nói tánh tức là Chân như của nó, là phỏng theo thuyên môn mà nói. Dưới đây căn cứ theo đó sẽ hiểu. Cựu Trung Biên gọi đó là sinh khởi chân thật, tân Trung Biên thì không đồng, sau đây sẽ biết. Quyển 77 và luận Hiển Dương chỉ giải thích Chân như của duyên khởi pháp, trong luận này thì nói chung tất cả pháp Hữu vi. Luận kia căn cứ theo nội pháp căn bản lưu chuyển mà chỉ nói duyên khởi, trong luận này thì nói chung thể của tất cả pháp, cũng không trái nhau.
Luận: "Chân như của hai thật tướng", đến "chỗ hiển thật tánh".
Thuật rằng: Nhân theo chỗ hiển Chân như tánh của hai Không môn, quyển 77 nói tức là ngã pháp không. Ba chữ ngã pháp tánh, là tánh của ngã pháp không tức là ngã pháp, vì ngã và pháp không có. Luận Hiển Dương và Trung luận cũng đồng ý này. Từ đây trở xuống có chỗ đồng nhau không phiền dẫn ra. Dưới đây căn cứ theo đó mà biết. Cựu Trung Biên thì gọi là tướng chân thật.
Luận: "Ba là Duy thức Chân như", đến "Duy thức thật tánh".
Thuật rằng: Luận Hiển Dương ghi: "Tâm nhiễm thì chúng sinh nhiễm, tâm tịnh thì chúng sinh tịnh". Thấy Chân của Như thức thì có thể biết tâm nhiễm tịnh này, phỏng theo thuyên môn thì tức là Y tha, căn cứ theo lý thì tức là Chân như. Quyển 77 thì gọi đó là liễu biệt Chân như, là thức liễu biệt. Luận: "Bốn là an lập Chân như", đến "là thật tánh của đạo".
Thuật rằng: Thứ tư dưới đây là bốn Thánh đế.
Cựu Trung Biên ghi: "Y xứ, tà hạnh, thanh tịnh và chánh hạnh chân thật gọi là dị". Tân Trung Biên thì gọi là thể cùng với Chân như đồng, các văn không khác nhau. Đây là phỏng theo nghĩa của thuyên môn mà nói bảy Chân như. Phế bỏ thuyên môn bàn về thể tức là duy nhất Chân như. Quyển 77 ghi: "Do ba Chân như của lưu chuyển, an lập và tà hạnh, mà tất cả hữu tình đều bình đẳng". Đây là phỏng theo gọi hữu tình trừ Phật ra. Phần thứ ba trước nói rằng Phật không hữu tình cho nên không nói Phật không có khổ và tập. Luận Hiển Dương lại ghi: "Thật tánh vô thỉ lưu chuyển", tức là duyên sinh cho nên Chân như của lưu chuyển cũng không phải Phật có. Lại nữa, nói tất cả Hữu vi đều là lưu chuyển, nhưng thể pháp thân của Phật lìa sinh diệt thì cũng không có lưu chuyển. Lại nữa, Chân như của lưu chuyển tuy thông với pháp Hữu vi, nhưng phỏng theo Hữu lậu cho nên Phật nói không có. Do hai Chân như của thật tướng và liễu biệt mà tất cả các pháp đều bình đẳng và bình đẳng, tất cả các pháp đều không có ngã pháp, vì đều là Duy thức. Do chân của thanh tịnh mà Bồ-đề của ba Thừa bình đẳng và bình đẳng. Đây là phỏng theo Diệt đế, ba Thừa đều đắc Vô dư Niết-bàn và Hữu dư Niết-bàn. Kinh Thắng Man ghi: "Thanh văn không đắc Niếtbàn", là y theo ý riêng mà nói, vì sở chứng Niếtbàn nói là năng chứng Bồ-đề bình đẳng, hoặc tánh cảnh của Bồ-đề cũng gọi là Bồ-đề, tức là cựu Trung Biên nói trí xứ. Do Chân như của chánh hạnh mà chánh pháp của Thanh văn duyên với cảnh giới tổng quát, chỗ nhiếp thọ của chỉ và quán thù thắng đều bình đẳng và bình đẳng. Do có Chân như này mà chánh pháp của Thanh văn bình đẳng. Chân như này nếu phế bỏ thì thuyên môn bàn về thể tánh, mỗi mỗi đều có đủ, không có gì mà không bình đẳng. Nếu bàn về thể phỏng theo thuyên môn, cho nên bốn thứ đạo lý này bình đẳng. Trong đây là phỏng theo theo Nhị thừa hạnh mà lập, chứng thời phần bằng nhau, đều như lý mà biết.
Luận: "Bảy thật tánh này", đến "hai trí cảnh".
Thuật rằng: Đã đưa ra thể rồi, tiếp theo là nhiếp nhau. Bảy thật tánh đều là Viên thành thật nhiếp. Hai trí cảnh, là ba Chân như căn bản cảnh trí của thật tướng, Duy thức và thanh tịnh, còn lại bốn Chân như hậu đắc duyên. Đây là phỏng theo sự tăng thượng mà nói. Hoặc bàn về thể của Chân như thì một tức là bảy Chân như đều là căn bản trí cảnh. Phỏng theo thuyên môn làm luận thì bảy Chân như đều là hậu đắc cảnh. Hoặc phỏng theo thuyên môn để hiển ba hoặc bốn cảnh khác nhau thì luận Hiển Dương cùng với đây đồng.
Luận: "Tùy theo nhiếp nhau", đến "vọng chấp tạp nhiễm". Thuật rằng: Luận Trung Biên nói ba pháp này do hai tánh nhiếp.
Tại sao vậy? Hoặc vọng chấp ba Chân như đó đều là Biến kế sở chấp nhiếp, hoặc phỏng theo ba Chân như của thuyên môn tạp nhiễm đều là Y tha khởi nhiếp thì tâm kế chấp chỉ có nhiễm Y tha, vì tướng của ba Chân như đều nhiễm Y tha, thể tướng của ba Chân như đó là tạp nhiễm nhiếp không phải Viên thành thật nhiếp.
Luận: "Còn lại bốn Chân như đều là Viên thành thật nhiếp". Thuật rằng: Cũng phỏng theo thuyên môn Vô lậu. Luận Trung
Biên ghi: "Bốn Chân như này chỉ có chỗ hiển của thánh cảnh và Thánh trí".
Hỏi: Tại sao Duy thức không phải là hai tánh trước? Tại sao một loại chánh hạnh không thông với Y tha?
Đáp: Biến kế sở chấp phần nhiều không chấp Duy thức, tánh Y tha khởi thì phần ít hiểu biết Duy thức, cho nên không phải hai tánh trước nhiếp. Chánh hạnh thì phỏng theo nghĩa lìa lỗi, không nói thông nhiếp với Y tha. Thật ra mà nói, pháp trước (ba Chân như) thì thông với hai tánh trước, pháp sau (bốn Chân như) thì thông với Y tha, cũng không có lỗi. Lại nữa, bảy Chân như đều là ba tánh đối với lý không trái nhau, vì chỗ chấp tâm biến và thể của chân khác nhau. Trong luận đã phỏng tùy theo tướng mà nói, cũng không có lỗi.
Luận: "Ba tánh và sáu pháp nhiếp nhau thế nào?"
Thuật rằng: Ba tánh sáu pháp nhiếp nhau môn. Đây là hỏi.
Luận: "Trong sáu pháp kia", đến "duyên sinh lý".
Thuật rằng: Sáu pháp như văn nói. Du-già quyển 3 có sáu pháp này. Nhưng vô tướng nhiếp đều có đủ ba tánh, là có thể chỗ chấp vọng đều là Biến kế sở chấp. Chỗ chấp của Vô vi là có nghĩa triển chuyển, như trước đã nói, đều là duyên sinh cho nên thuộc về Y tha. Vô vi cũng là tâm duyên biến hiện, như lý nên biết. Sáu pháp đều có đạo lý vọng và duyên sinh, lý tức là Chân như, cũng là Viên thành thật. Đây là phỏng theo nghĩa chung. Biện Trung Biên ghi: "Sắc ở trong tánh của sở chấp. Tánh Y tha của sắc, Viên thành tánh của sắc cũng gọi là sắc cho nên mỗi mỗi đều thông với ba tánh. Hoặc bàn riêng thì năm Chân như trước thông với hai tánh, vì Y tha khởi pháp thì thông với Hữu lậu và Vô lậu; một Chân như sau chỉ là Viên thành thật, vì không phải sinh diệt. Đây là trừ ra giả Vô vi, giả Vô vi thông ba tánh như trước. Hoặc nói chung giả cũng chỉ có Viên thành, vì giả như trên. Đây là phân rõ Hữu pháp, không phải kế sở chấp. Có bốn sự, năm sự nhiếp nhau môn, có hai sự năm sự như Biệt sao giải thích.
Luận: "Ba tánh nhiếp nhau là thế nào?" Thuật rằng: Phần đầu là hỏi, có thể biết rồi.
Luận: "Chư Thánh giáo nói nhiếp nhau bất định". Thuật rằng: Đây là đáp chung nhiếp nhau bất định kia. Luận: "Nói hoặc có chỗ", đến "không nhiếp năm sự".
Thuật rằng: Phần đầu là Du-già quyển 74, luận Hiển Dương quyển 6 và 16 ghi: "Bốn sự trước là Y tha, một sự sau là Viên thành thật". Ba luận Vô tánh quyển 1 và luận Phật Tánh quyển 2 đều thuyết này, nhưng không phải chỗ dẫn ra ở đây vì không dựa theo hai luận đó. Năm sự là tướng, danh, phân biệt, chánh trí và Chân như. Như quyển 73 và 74 rộng giải thích.
Luận: "Luận kia nói Hữu lậu", đến "đều là Y tha khởi".
Thuật rằng: Đây là lần lượt vấn nạn. Luận Dugià kia ghi: "Sở biến của tâm Hữu lậu phân làm hai phần. Năng biến làm một, vì năng thuyên và sở thuyên khác nhau". Còn lại như văn có thể hiểu. Hữu lậu có hý luận, có năng thuyên và sở thuyên, vì dấy khởi danh và tướng, Vô lậu cũng như thế. Đây là phân rõ hữu thể năm sự không nhiếp tánh thứ nhất. Quyển 74 ghi: "Hỏi: Nếu Y tha khởi cũng là chánh trí nhiếp, tại sao chỉ nói Y tha duyên kế sở chấp và tự tánh chấp nên biết? Đáp: Luận kia chỉ nói nhiễm phần Y tha mà không phải là tịnh phần, nếu tịnh phần cũng duyên với vô chấp thì thừa nhận thông với hai tánh". Còn lại hai tánh dễ hiểu, cho nên không nói.
Luận: "Hoặc lại có chỗ", đến "Viên thành thật nhiếp".
Thuật rằng: Đây là cựu Trung Biên quyển thượng và tân Trung Biên quyển 2 nói. Hai luận đó đều có văn, không phiền dẫn ra. Dưới đây căn cứ theo đó mà biết.
Luận: "Luận kia nói Hữu lậu", đến "Viên thành thật nhiếp".
Thuật rằng: Đây là phỏng theo kiến tướng môn, không phỏng theo thuyên môn. Trước đã phỏng theo thuyên môn, hiện tại y theo Kiến phần và Tướng phần. Hoặc năng thuyên cũng gọi là nhiếp trong tướng, vì tướng của Kiến phần. Ngoài ra tự chứng phần và Kiến phần gọi là phân biệt, vì có thể duyên tánh. Hai duyên sinh này do Y tha khởi nhiếp, chỗ chấp đều không có. Vì hiển chẳng phải có mà giả thuyết tánh kia là tên của năm pháp, là chỉ có tên gọi mà không có Thật thể. Chân như và chánh trí cả hai đều không có điên đảo, vì thể là Vô lậu, năng duyên và sở duyên đều đoạn dứt lậu, là thuộc về Viên thành thật. Tánh trước y theo duyên sinh, cho nên nhiếp chánh trí. Phỏng theo biệt nghĩa mà nói, do đó cùng với Du-già không trái nhau.
Luận: "Hoặc có chỗ nói", đến "thuộc về Viên thành thật".
Thuật rằng: Đây là Thập quyển Lăng-già quyển
7 phẩm Năm pháp nói. Hiện tại khảo sát bản văn tiếng Phạm thì cùng với Lăng-già này đồng, nhưng Lăng-già bộ bốn quyển thì hay hơn. Lăng-già bộ mười quyển thì nói là loạn, như văn dễ hiểu, khỏi nhọc giải thích lại.
Luận: "Luận kia nói Hữu lậu", đến "hai sự của danh tướng".
Thuật rằng: Văn còn lại có thể biết. Chỉ có hai sự của sở chấp tướng và danh, tức là tùy theo tâm năng kế y tha giả lập sở chấp làm tướng và danh, do phần nhiều nương vào danh mà kế chấp nơi nghĩa, y theo nghĩa kế chấp thật thể của danh đều là không có. Thật ra không phải là danh và tướng. Quyển 76 ghi: "Sở chấp tánh thứ nhất nương vào tướng và danh". Văn đồng với luận này. Hai sự Thành thật nhiếp chính là cùng với trước đồng, cho nên luận không giải thích.
Luận: "Lại có chỗ nói", đến "Biến kế sở chấp".
Thuật rằng: Đây là văn trong Nhiếp luận quyển 5 của Thế Thân. Trong đó giải thích tên gọi và nghĩa nếu thể tương xứng tức là thành lỗi tương vi, trong đây an lập danh làm Y tha khởi, lập nghĩa làm Biến kế sở chấp. Ý ở đây, danh là danh trong năm pháp, nghĩa thì tức là tướng và phân biệt, vì danh là sở thuyên, là năng thủ và sở thủ, cùng với năm pháp kia nhiếp nhau có khác, cho nên song song nêu ra.
Luận: "Kia nói Hữu lậu", đến "cho nên nói là danh".
Thuật rằng: Chữ "đẳng" là đồng lấy luôn tự chứng phần và chứng tự chứng phần, đây là tâm và pháp tâm sở của tánh Y tha khởi. Do thế lực phân của danh năng thuyên, tùy theo năng thuyên danh khởi duyên chấp thành sở biến kế, cho nên nói Y tha là chỗ nhiếp của danh. Chữ sở biến kế không phải là kế sở chấp, dựa vào chỗ chấp cho nên là Y tha khởi. Luận kia Thế Thân nói: "Vì Y tha khởi do thế lực của danh mà thành sở biến kế, chính là cùng với đây đồng. Không nói Viên thành thật là vì thể này cùng với danh rất xa nhau.
Luận: "Biến kế sở chấp", đến "giả lập nghĩa và danh".
Thuật rằng: Biến kế sở chấp tùy theo danh này mà kế chấp bướng vào nghĩa cho là thật có thể. Nghĩa này không phải thật có, trong chẳng phải có này giả gọi là nghĩa, trong phi nghĩa giả lập nghĩa để gọi. Nói rằng nghĩa này chỉ có nghĩa của sở chấp, vì không tùy theo danh của Y tha. Hiển Viên thành thật lìa danh lìa nghĩa, không thể làm sở y của danh cho nên trở thành sở biến kế nói đó là danh. Không thể tùy theo danh mà chấp nghĩa này là thật có để giả lập làm nghĩa, đều không phải hai tánh nhiếp. Chỗ nói về năm pháp của Lăng-già và Trung Biên, hoặc thông với hữu và vô, hoặc thể thật có. Biến kế sở chấp là giả cũng thông với hữu, các luận Du-già thì không như vậy. Luận Hiển Dương quyển 16 ghi: "Kế sở chấp không có, vì năm pháp không nhiếp", tức là thể của năm pháp chỉ là hữu.
Luận: "Trong các Thánh giáo", đến "đã nói rộng nên biết".
Thuật rằng: Từ bốn thuyết kia, văn tuy có khác nhưng lý thì mỗi mỗi đều căn cứ theo một nghĩa, không trái nhau. Nhưng trong các thuyết không tạp loạn, như luận Du-già quyển 72, 73 và 74 và Biệt chương nói ba tánh, các kinh nói tạp loạn thì như lý nên biết. Luận Trung Biên nhiếp ba tánh và mười chân thật tướng, luận này thì đều nhiếp hết, có thể khảo sát văn đó. Nhưng có các uẩn thì luận này không nói, như sau đây sẽ biết.
Luận: "Lại nữa, trong Thánh giáo", đến "nhiếp nhau thế nào?" Thuật rằng: Thứ hai là năm sự nhiếp nhau môn.
Luận: "Sở thuyên và năng thuyên", đến "tướng năng thuyên". Thuật rằng: Năm tướng:
1. Sở thuyên.
2. Năng thuyên. 3. Tướng thuộc.
4. Chấp trước.
5. Bất chấp trước.
Vọng chấp các pháp sở thuyên, các danh năng thuyên và tánh kế sở chấp. Ba sự tướng, danh và phân biệt trong năm sự trước, lấy phân biệt là toàn đủ, tướng danh phần ít là tướng sở thuyên, vì danh cũng là sở thuyên. Tướng và danh phần ít là tướng năng thuyên, vì danh cũng là tướng. Hiện tại ba pháp của luận này tùy chỗ thích ứng của nó, sở thuyên và Năng thuyên thuộc Y tha khởi, vì chỉ nói nhiễm phần Y tha khởi, Chân như thì toàn đủ. Chánh trí phần ít là tướng sở thuyên, chánh trí phần ít là tướng năng thuyên, đây là y theo vô đảo mà giải thích thành thật tánh, vì hậu đắc chánh trí cũng có thể biến tợ tướng năng thuyên. Trước đã nói lìa lỗi không có lậu và không có năng thuyên, hiện tại thì bàn về pháp thật không có lậu cũng là năng thuyên, cho nên tướng sở thuyên và tướng năng thuyên đều thuộc ba tánh.
Luận: "Tướng của hai tướng thuộc", đến "quyết định tướng thuộc".
Thuật rằng: Thứ ba là hai tướng thuộc năng thuyên và sở thuyên. Tướng chỉ có kế sở chấp, vì vọng kế chấp danh và nghĩa đó thì quyết định là tướng thuộc.
Luận: "Tướng chấp trước kia", đến "làm tự tánh".
Thuật rằng: Thứ tư là chấp trước tướng chỉ có Y tha khởi. Năng chấp trước là hư vọng phân biệt là tự tánh. Nếu sở chấp trước tức là sở biến kế thì cũng là Y tha, vì cũng lấy vọng phân biệt là tự tánh.
Luận: "Tướng bất chấp trước", đến "làm tự tánh".
Thuật rằng: Hai trí Vô lậu cùng với câu hành phẩm Tướng phần, Kiến phần và pháp Vô vi Viên thành tánh thì bất chấp trước tướng là tánh này nhiếp. Đây là ba loại riêng sau phỏng theo tướng tăng thắng của ba tánh mà nói, cho nên luận Hiển Dương quyển 16 ghi: "Trong năm tướng này, tướng thứ nhất và thứ hai y theo ba tự tướng, tướng thứ ba y theo Biến kế sở chấp tướng, tướng thứ tư y theo Y tha khởi tướng, tướng thứ năm y theo Viên thành tướng; chính là cùng với đây đồng. Theo thật tế mà nói, tướng thứ ba cũng có hai tánh sau, hoặc chấp sở chấp của hai tướng thuộc là không có thì có thể đó là tánh kế sở chấp. Sở y của sở chấp tánh là hai tướng thuộc, năng chấp và sở chấp của hai tướng thuộc đều là tánh Y tha, hoặc chỉ có bất chấp mà nói hai tướng thuộc, tức là thông với hai tánh sau nhiếp. Hiện tại luận này phỏng theo sở chấp mà nói, cho nên chỉ có kế sở chấp. Chấp trước tướng kia hoặc là sở chấp trước, cũng là tánh kế sở chấp, vì sở chấp trước tướng cũng thông với Viên thành. Hiện tại căn cứ theo tâm năng chấp trước mà nói, cho nên chỉ có Y tha. Bất chấp trước tướng tức là thể, là không có, cũng là bất khả chấp trước cũng là kế sở chấp. Nếu không có tâm chấp trước thì Y tha khởi cũng có, hiện tại căn cứ theo hoàn toàn phi năng chấp trước mà nói, cho nên chỉ có Viên thành. Nhưng Nhiếp Thích phần của quyển 81 và luận Hiển Dương quyển 12 ghi: "Sở duyên tướng gọi là tương đẳng với năm pháp, tướng năng thuyên gọi là kế sở chấp tướng, hai tướng thuộc tướng gọi là tánh kế sở chấp chấp sở y chỉ. Chấp trước tướng gọi là tự thể chấp cùng với tùy miên này. Bất chấp trước tướng tức là kế sở chấp tướng cùng với tùy miên giải thoát chánh phân biệt kia". Giải thích rằng: Sở duyên tướng kia tức là Y tha và Viên thành, thật có sự thể có thể làm thuyên. Biến kế sở chấp đã không có thể, không thể làm thuyên, tuy các Vô pháp cũng là sở thuyên, nhưng vô sai biệt có thể làm dụng của thuyên, không phải sở thuyên nhiếp. Năng thuyên chỉ có kế sở chấp, không phải hai tánh còn lại. Văn của hai luận kia mỗi mỗi đều có lòi tự giải thích. Đây là biến kế và sở chấp tánh cũng gọi là hòa hợp, cho đến chỉ gọi là chỉ có âm thanh, vì hiển kia không có thể, chỉ có năng thuyên danh mà thôi. Nhưng nói năng thuyên là kế sở chấp, không phải hai tánh còn lại là phi năng thuyên nhiếp. Đây là danh căn cứ theo một nghĩa, cùng với luận Hiển Dương quyển 16 cũng không trái nhau. Trong hai tướng thuộc tướng này là sở y chỉ của Biến kế sở chấp và tự tánh chấp, tức là Biến tánh kế sở chấp. Chỗ chấp của Biến kế sở chấp và tự tánh là tâm năng chấp, chấp sở y chỉ là chỗ chấp của tâm năng chấp. Sở chấp là nghĩa y chỉ, vì y chỉ sở chấp mà khởi tâm kế chấp, cho nên tướng thứ tư nói Biến kế sở chấp và tự tánh chấp cùng với tùy miên kia là Y tha khởi. Biết rõ chấp sở y là Biến kế sở chấp, trong tướng thứ tư có thể biết rồi. Tướng thứ năm là Bất chấp trước tướng, nói rằng nhiễm nương và giải thoát, giải thoát và liễu tri thuộc Viên thành thật nhiếp. Biến kế sở chấp tướng cùng với tập khí của nó, cho nên biết sở chấp ngã pháp đều không có, chỉ có Y tha nhiễm phần tập khí, đoạn nó thì được của giải thoát. Giải thoát tức là Chân như. Chánh phân biệt tức là Vô lậu trí, ý muốn nói biết rằng kế sở chấp không có. Đoạn Y tha thì đắc giải thoát và chánh trí, là tướng bất chấp trước. Trong năm tướng này, hai tướng trước thì các luận không đồng, mỗi mỗi luận đều căn cứ theo một nghĩa, ba tướng sau thì các luận đều đồng, lý không trái nhau, rộng như các luận kia nói. Hoà tổng hợp như vậy, các bậc trí thì biết.
Luận: "Lại nữa, trong Thánh giáo", đến "nhiếp nhau thế nào?"
Thuật rằng: Thứ năm là bốn pháp nhiếp nhau môn, đây là hỏi để phát khởi. Luận Hiển Dương quyển 16 ghi: Còn như thế gian đối với các sự đều do tập quán mà được ngộ nhập trí kiến, cùng chung thi thiết các tánh Thế tục". Cho đến lược nói, nói rằng thử là Địa này, không phải thủy kia, như vậy tất cả hữu tình thế gian quyết định hiểu rõ sở hành, tất cả thế gian từ xưa truyền lại danh ngôn quyết định tự và tha phân biệt cùng chung làm chân thật, không phải do chỗ nắm lấy của tà Tư duy chọn lựa quán sát, đó gọi là chỗ thành tựu chân thật của thế gian. Nói rằng bậc trí là có nghĩa đạo lý, cho đến xứ dị sinh vị là tùy theo người quán sát, y theo hiện lượng, tỷ lượng và chí giáo rất khéo tư duy và chọn lựa mà quyết định sở hành và chỗ tri sự của trí, vì chứng thành chỗ kiến lập của đạo lý, đó gọi là chỗ thành tựu chân thật của đạo lý. Để nhập thánh vị không phải chân thật này, nói rằng tất cả Thanh văn và Độc giác Vô lậu mới liền là trí và Vô lậu, chánh trí và Vô lậu sau chỗ đắc cảnh giới sở hành của các thế gian trí, đó gọi là sở hành chân thật của phiền não chướng tịnh trí, do duyên sở hành này mà phiền não chướng trí được thanh tịnh và sau đó chứng đắc Vô chướng ngại, cho nên nói là chân thật.
Hỏi: Trong đây cái nào là chân thật?
Đáp: Là khổ, tập, diệt và đạo, gọi đó là chỗ hiển bốn loại Thánh đế. Do chọn lựa bốn Thánh đế như vậy mà được nhập vào hiện quán vị, sau hiện quán vị thì chân thật phát sinh, tức là sở hành của ba trí và bốn Đế lý. Do bốn Thánh đế mà gọi đó là chân thật. Nói rằng trong Sở tri có thể chứng ngại trí cho nên gọi là Sở tri chướng. Hoặc chân thật tánh là giải thoát Sở tri chướng trí sở hành cảnh giới thì gọi đó là Sở tri chướng tịnh trí sở hành chân thật, tức là Chân như, Phật giả mượn an lập gọi đây là chân thật, tức là thế gian chung thừa nhận các sự gọi là thế gian chân thật, ba lượng và bốn đạo lý gọi là đạo lý chân thật, bốn Thánh đế lý gọi là phiền não chướng tịnh trí sở hành chân thật, cũng nắm lấy thể của Vô lậu trí là tịnh pháp, tức là sau Đạo đế được duyên thế gian, nếu không như thế thì diệt mất. Chân như trí là Sở tri chướng tịnh trí sở hành chân thật, hoặc thứ nhất gọi là tất cả dị sinh ngoại đạo, thứ hai thì tại giai vị của bảy phương tiện và bốn mươi tâm, thứ ba là thông với giai vị của ba Thừa thánh, thứ tư thì chỉ có giai vị của Đại thừa.
Luận: "Thế gian và đạo lý", đến "hai sự nhiếp". Thuật rằng: Đây là văn của Du-già quyển 36 phẩm Chân thật nghĩa. Luận Đối Pháp quyển 11 ghi: "Thứ nhất là chân thật và thuộc về Y tha". Quyển 73 ghi: "Chỗ thành tựu chân thật của thế gian và đạo lý là chỗ nhiếp của ba sự trong năm sự, tâm Hữu lậu biến thành đạo lý tướng, cho nên thuộc về Y tha". Ba sự, là tướng, danh và phân biệt, phần nhiều y theo dị sinh mà nói đạo lý, vì đây là y theo ba pháp Hữu lậu, không nắm lấy tướng của các chánh trí làm tướng. Hai Chướng tịnh trí sở hành chân thật là Viên thành thật nhiếp. Quyển 73 ghi: "Phiền não chướng và tri chướng tịnh trí sở hành chân thật là chỗ nhiếp của hai sự trong năm sự, là chánh trí và như như". Trước đã nói hai chân thật sau là bốn Thánh đế lý và thủ Chân như, hiện tại đều là bậc trí cũng nắm lấy năng duyên để sau đó đắc thế gian trí, cũng duyên các sự trí của Vô lậu, vì phiền não tịnh trí cho nên không nắm lấy Y tha. Theo chỗ nói của Du-già thì đồng với đây.
Luận: "Biện Trung Biên nói", đến "chỉ thuộc thứ ba".
Thuật rằng: Đây là Biện luận Trung Biên nói. Chỗ thành của thế gian chỉ thuộc tánh thứ nhất, tất cả thế gian phần nhiều nương chung một chỗ chấp này, thể tức là Y tha gọi là sở chấp. Lại nữa, giải thích là cộng sở chấp ngã pháp làm chân thật thứ nhất, thế gian chấp thật cho nên gọi là tánh thứ nhất nhiếp. Hoặc phỏng theo giải thích trước thì thể là Hữu pháp, đồng với bốn chân thật của Du-già, đều là Hữu pháp tạm gọi là sở chấp, theo giải thích sau thì thông với Hữu pháp và Vô pháp, làm thể của bốn chân thật cũng không trái nhau. Chân thật thứ hai tức là đạo lý, là chỗ nhiếp của ba tánh. Pháp của đạo lý thì thông với chấp và vô chấp, trong chấp có sở chấp và năng chấp. Sở chấp là tánh thứ nhất, năng chấp là nhiễm Y tha. Trong vô chấp thì thông với tạp nhiễm và thanh tịnh, tạp nhiễm là Y tha, thanh tịnh là thành thật; hai chân thật sau cùng với đây đồng. Trước là chỉ phỏng theo dị sinh mà làm đạo lý chân thật cho nên chỉ có Y tha. Đây là thông với phỏng theo phàm thánh cho nên thông với ba tánh. Trong chân thật thứ nhất, ở đây phỏng theo hữu thể pháp cho nên chỉ có Y tha, luận kia thì căn cứ theo Vô pháp chấp và sở chấp mà nói cho nên chỉ có tánh thứ nhất, không trái nhau. Tụng của Cựu luận Trung Biên quyển thượng ghi: "Một xứ Thế tục thành, ba xứ đạo lý thành, hai chủng của cảnh thanh tịnh nhiếp tại một chỗ". Tân luận Trung Biên quyển 2 ghi: "Thế cực thành nương vào một, lý cực thành nương vào ba, tịnh sở hành có hai, nương một Viên thành thật", nghĩa đều đồng. Nên nắm lấy bốn thật thể các luận nêu ra và nghĩa của các môn.
Luận: "Ba tánh và bốn Đế nhiếp nhau như thế nào?" Thuật rằng: Thứ sáu là bốn Đế môn, đây là hỏi.
Luận: "Trong bốn Đế mỗi mỗi đều đủ ba tánh".
Thuật rằng: Văn dưới đây có ba phần:
1. Đáp sơ lược.
2. Đáp rộng.
3. Tổng kết.
Đây là đáp sơ lược.
Luận: "Lại trong Khổ đế", đến "giai vị chuyển biến".
Thuật rằng: Dưới đây đáp rộng có bảy phần. Chỉ có bốn hạnh của khổ mỗi mỗi đều có đủ ba tánh:
1. Vô tánh vô thường, vì thể tánh thường không có, tức là tánh thứ nhất. Cựu Trung Biên ghi: "Không có vật". Tân Trung Biên đồng với đây. Chân thật không phải vô thường mà tạm gọi là vô thường hạnh, vì quán tánh này cho nên chân thật giả gọi là đế.
2. Khởi tận vô thường, là trung quán sinh diệt pháp làm vô thường.
3. Cấu tịnh vô thường, chân thật là tánh sau giả gọi là đế, cho nên luận Trung Biên ghi: "Có vô cấu làm nghĩa". Đây là phỏng theo phần vị của thuyên làm cấu và tịnh, giả gọi là vô thường hạnh. Vô thường hạnh thật ra không duyên với cấu và tịnh. Lại nữa, y theo tất cả vô thường mà nói thì không phải là hạnh dưới của khổ. Như thứ tự của ba tánh này. Luận Trung Biên đồng.
Luận Hiển Dương thì vô thường có sáu hoặc tám, có sáu là:
1. Vô tánh vô thường.
2. Vô thất hoại vô thường.
3. Chuyển dị vô thường, cho đến sáu là đương hữu vô thường. Có tám là:
1. Sát-na.
2. Tương tục.
3. Bệnh.
4. Lão.
5. Tử.
6. Tâm.
7. Khí.
8. Thọ dụng.
Hai vô thường đầu là khác tất cả pháp, ba vô thường tiếp theo là tại nội sắc, tâm thì chỉ ở tại danh, khí và thọ dụng thì tại ngoại sắc. Luận đó đều phỏng theo ba cõi phân biệt. Nhưng nói sáu vô thường thuộc ba tánh nhiếp thì Vô tánh vô thường nên biết là Biến kế sở chấp nhiếp nhau, các vô thường còn lại là Y tha khởi nhiếp. Tánh Viên thành thật không có nghĩa vô thường. Tại sao luận này nói ba tánh đều có vô thường? Cấu và tịnh gọi là chuyển biến tại Viên thành thật, luận kia thì chuyển dị là Y tha khởi, không phải Viên thành thật.
Tổng hợp nói: "Cứ theo thật tế thì vô thường có hai nghĩa: 1. Vô thường của thể Hữu sinh diệt. 2. Vô tha thường, cho nên gọi là vô thường".
Đây là chỉ ở tại hai tánh, hai chủng của tánh Viên thành thật đều không có, luận Hiển Dương căn cứ theo đây cho nên nói một tánh không có vô thường. Luận này và Trung Biên phỏng theo thuyên mà làm luận thì tánh Viên thành thật cũng gọi là vô thường, thể là thường pháp chẳng phải không chẳng phải có, vì chỉ phỏng theo thuyên mà làm luận. Lại nữa, cấu và tịnh trong đây là phỏng theo thuyên mà bàn về ý chỉ, chuyển dị của luận kia bàn về thể của thuyên. Nghĩa chỗ nói của hai luận mỗi mỗi đều không đồng, không phải trái nhau. Lại nữa, luận kia nói mười lăm thứ vô thường, như luận đó có nói rộng.
Luận: "Khổ có ba", đến "khổ tướng hợp". Thuật rằng:
1. Sở thủ khổ, là hai sở thủ ngã pháp của năng chấp tâm, năng chấp là khổ. Khổ này không có giả lập cho nên cũng gọi là khổ. Khổ thật ra là hữu pháp, khổ này không có cho nên gọi là giả khổ, tánh thì thật mà đế thì giả, vì không phải Khổ đế. Cựu Trung Biên ghi: "Một là thủ khổ-Tân Trung Biên đồng luận này. Hai là sự tướng khổ-có thể dễ hiểu vì ba khổ làm tướng. Ba là Hoà hợp khổ-là khổ tướng hợp", tức là Chân như và tất cả Hữu lậu Hữu vi hợp chung cho nên gọi là khổ, thể thật ra là không có. Tánh thì thật mà đế thì giả, như ba tánh kế tiếp. Tân Trung Biên đồng.
Luận: "Không có ba", đến "làm tự tánh". Thuật rằng:
1. Không thứ nhất có thể hiểu, chính là Không hạnh.
2. Dị tánh Không, Không này là pháp Hữu vi hữu thể, không đồng với thể tánh của kế sở chấp, khác với chỗ không có của nó, vì không có Vô tánh cho nên nói đó là Không. Thể thật ra chẳng phải Không duyên mà làm Không, Không không có sở chấp.
3. Tự tánh Không, vì chỗ hiển của hai Không làm tự tánh.
Ba Không này đều là sở hành của Không hạnh, cho nên gọi là Không hạnh. Luận Hiển Dương quyển 15 ghi: "1. Vô thể không. 2. Viễn ly không. 3. Trừ di không". Viễn ly, là nghĩa không có sở chấp tướng. Trừ di, là trừ bỏ hai ngã mà hiển Không này. Luận đó quyển 15 ghi: "Ba tánh của Biến kế sở chấp, như thứ tự mà lập ba Không".
Luận: "Vô ngã có ba", đến "làm tự tánh". Thuật rằng:
1. Vô tướng Vô ngã, là thể tướng của ngã không có.
2. Dị tướng Vô ngã, cùng với ngã tướng khác nhau.
3. Tự tướng Vô ngã, nghĩa đồng như giải thích chữ Không.
Luận: "Tập đế có ba", đến "giả lập tên của nó". Thuật rằng: Tại sao bốn hạnh của Khổ đế mỗi mỗi đều có ba. Tập diệt và đạo, ba Đế này tổng có ba thứ. Nghĩa các hành của Khổ đế thông với các đế cho nên mỗi mỗi đều phân là ba, vì hành tướng của nó rộng. Hành tướng của các đế còn lại thì hẹp cho nên tổng quát làm ba thứ. Luận Trung Biên lại ghi: "Tứ trừ bốn đảo, khổ hành mỗi mỗi đều phân làm ba, ngoài ra không phải trừ bốn đảo cho nên không phân làm ba thứ. Một là tập khí Tập đế, đế này thì thật mà tánh thì giả. Chấp tập khí của ngã pháp kia, thể là Y tha, đây là từ chỗ nương mà đặt tên, giả lập Biến kế sở chấp. Hoặc duyên thử mà khởi chấp thì gọi là chấp bỉ, tạo tác sở biến kế thuộc giả sở chấp nhiếp, đây là từ năng y mà đặt tên là giả.
Luận: "Hai là Đẳng khởi tập", đến "chưa lìa Chướng Chân như".
Thuật rằng: Bình đẳng mà khởi, phiền não khởi nghiệp, nghiệp khởi quả. Ba là vị Ly hệ tập, giả gọi là tập, tánh thật mà đế giả. Như thứ tự ba tánh, các luận kia đều đồng.
Luận: "Diệt đế có ba", đến "gọi là Chân như". Thuật rằng:
1. Tự tánh diệt, diệt là nghĩa bất sinh, tánh thì thật mà giả gọi là diệt, quyết định phi đế nhiếp.
2. Hai thủ diệt, là năng thủ và sở thủ không có. Hộ Pháp và An Tuệ, mỗi vị đều có giải thích riêng, từ chỗ không có mà được diệt Y tha, giả gọi là diệt, đế thì thật, vì không phải Y tha cho nên tánh thì giả. Luận Trung Biên ghi: "Hai thủ không sinh".
3. Bản tánh diệt, luận Trung Biên gọi là trạch diệt và Chân như cùng với luận này trái nhau. Như Sao Tổng hợp kia, phối hợp thứ tự với ba tánh.
Luận: "Đạo đế có ba", đến "Viên thành thật". Thuật rằng:
1. Biến tri đạo, từ Sở tri đạo đặt tên là danh kế sở chấp, đế thì thật mà tánh thì giả.
2. Vĩnh đoạn đạo, chỉ nói nhiễm phần gọi là Y tha, thuộc năng đoạn Viên thành thật nhiếp. Từ sở đoạn thứ nhất gọi là tánh Y tha, đế thật tánh giả; hoặc thể năng đoạn tức là Y tha, tánh và đế đều thật.
3. Tác chứng đạo, hoặc là giả hoặc là thật. Như đã nói Y tha, phối hợp theo thứ tự của hai tánh.
Luận: "Nhưng Sở tri đạo cũng thông với hai tánh sau".
Thuật rằng: Chữ Biến trí ý nghĩa rộng, cho nên quyển 74 ghi: "Ba tánh đều xứng với biến tri". Luận Hiển Dương quyển 6 ghi: "Biến kế sở chấp chỉ xứng với biến tri". Vì không có nghĩa khác cho nên riêng được tên chung, hai tánh còn lại đều là biến tri, vì biến tri có thể riêng xứng với đoạn và xứng với chứng, như thứ tự mà được tên.
Luận: "Bảy thứ ba đạo và ba tánh", đến "như lý nên biết".
Thuật rằng: Dưới đây tổng kết, dưới Khổ đế có bốn thứ ba đạo (Biến tri đạo, Vĩnh đoạn đạo và Tác chứng đạo). Dưới ba Đế còn lại mỗi đế đều có ba đạo, tổng cộng có bảy thứ ba đạo, cùng với ba tánh thứ tự phối hợp. Luận Trung Biên quyển 2 đồng. Hoặc giả hoặc thật, nên như lý suy nghĩ, tùy theo văn nêu ra đã xong. Sao giải quyển 2 của luận Trung Biên không đồng thứ tự trong đây.
Luận: "Ba giải thoát môn", đến "nhiếp nhau thế nào?" Thuật rằng: Bảy là ba pháp nhiếp nhau môn, đây là hỏi. Luận: "Lý thì thật ra đều thông", đến "như thứ tự nên biết".
Thuật rằng: Đều thông với ba tánh là nói thông với Y tha ở trên, không có kế sở chấp, do hiển thành thật, thành thật do chỗ hiển của Không thì làm Không cảnh, đều không đối với cảnh này mà khởi mong cầu, cho nên là vô nguyện cảnh, không phải duyên Chân như của Biến kế sở chấp mà khởi nguyện cầu, như Không duyên ba tánh này làm vô tướng, là vô tướng cảnh. Quyển 72 ghi: Tướng thông với ba thứ là Không, vô nguyện và vô tướng, cũng là ba thứ cảnh. Trong đây đã nói ba giải thoát môn, tức là chỉ có tuệ do tu xuất thế phát sinh để chứng mà nói. Quyển 72 và luận Hiển Dương quyển 2 đều nói giải thoát môn, nói rằng chỉ có tu tuệ của xuất thế. Đã như thế thì tướng của Hữu lậu và Vô lậu trong năm sự là ba thứ cảnh, Y tha và Viên thành đều thông với ba cảnh. Tịnh phần Y tha thì thuộc Viên thành thật, duyên nó cũng là vô tướng, vì bốn hạnh của đạo gọi là vô tướng. Luận Hiển Dương quyển 2 ghi: "Bốn hạnh của đạo thông với ba giải thoát môn". Du-già quyển 12 ghi: "Nếu ở chỗ này không có vật kia thì quán sát nó là Không, gọi là Không tánh, tức là chỗ quán Không không thể mong cầu, cho nên gọi là Vô nguyện". Là luận này nói lìa tất cả hành tướng do đó gọi là vô tướng, tức là duyên Biến kế sở chấp làm ba giải thoát môn. Hiện tại tổng nói lý thật của ba tánh đều thông với ba giải thoát môn. Tùy theo tăng thêm tướng riêng mà nói thì ba tánh và Không mỗi mỗi đều chỉ có một như thứ tự. Quyển 74 và luận Hiển Dương quyển 6 ghi: Do tánh thứ nhất cho nên lập Không giải thoát môn, do tánh thứ hai cho nên lập vô nguyện giải thoát môn, do tánh Viên thành thật cho nên lập vô tướng giải thoát môn. Ý nghĩa của nó có thể biết rồi, như Xu Yếu giải thích.
Luận: "Duyên ba tánh này lại sinh", đến "là cảnh của nó".
Thuật rằng: Nhẫn là trí, chứng gọi là nhẫn. Văn của quyển 74 và luận Hiển Dương quyển 6 đều đồng với đây, ý văn có thể hiểu, là duyên ba tánh này sinh ra ba nhẫn. Bản thể của Biến kế sở chấp thi không có sinh, Y tha duyên khởi thì không có tự nhiên sinh, khi chứng Viên thành thật thì hoặc và khổ đều không khởi, đó là gọi riêng ba thứ vô sinh nhẫn, không nói nhân duyên của Y tha cũng không có mà gọi là vô sinh nhẫn. Luận Hiển Dương ghi: "Ba nhẫn này tại bất thoái Địa, tức là từ Sơ địa trở đi khi chứng ba tánh thì đắc ba nhẫn này". Như luận Đối Pháp quyển 12 Sao dẫn văn của Đại Trí Độ luận. Quyển 86 ghi: "Tất cả hành khổ nương vào vô nguyện, tức là nương vào Y tha này; tất cả pháp Vô ngã nương vào Không, tức là duyên kế sở chấp này; Niết-bàn tịch tịnh tức là duyên Viên thành thật này". Luận này thì lược bỏ mà không nói. Nên tổng hợp các nghĩa ba giải thoát môn của các luận, như Biệt sao nói.
Luận: "Ba tánh này tại sao nhiếp hai Đế?"
Thuật rằng: Tám là hai pháp nhiếp nhau môn. Đây là hỏi để phát khởi.
Luận: "Nên biết Thế tục", đến "tức là ba tánh này". Thuật rằng: Thế tục có bốn thứ:
Thứ nhất là Giả Thế tục, thật ra không có thể tánh có thể gọi là Thế tục, chỉ có cái tên của nó giả gọi là Thế tục. Trong bốn Thế tục thì Thế tục thứ nhất nhiếp.
Thứ hai là thể Hữu vi hạnh, chính thể là Thế tục, lựa riêng với Thế tục của Thắng nghĩa đế cho nên gọi là Hữu vi hạnh. Cựu Trung Biên ghi: "Thủ hạnh Thế tục, chỉ có Hữu vi Y tha", trong bốn Thế tục thì Thế tục thứ hai và thứ ba nhiếp. Thế tục thứ ba nhiếp là trên tâm biến tợ tướng và lý của bốn Đế không lìa ở sự Y tha khởi nhiếp. Thứ ba là hiển liễu Thế tục, Thế tục thứ ba này theo Tân luận Trung Biên thì đồng. Nói rằng đoạn nhiễm Y tha thì Biến kế sở chấp không có hai Không làm môn để hiển Chân như gọi là Viên thành thật. Trong bốn Thế tục là Thế tục thứ tư, hoặc Thế tục này cũng nắm lấy Thế tục thứ ba của bốn Thế tục, là Vô lậu. Như thứ tự phối hợp với ba tánh. Luận Hiển Dương cũng có văn này.
Luận: "Thắng nghĩa có ba", đến "tánh Viên thành thật".
Thuật rằng: Thắng nghĩa thứ nhất-thuộc Y sĩ thích, Thắng nghĩa thứ ba nhiếp. Thắng nghĩa đắc thứ hai, gọi là Niết-bàn-thuộc Trì nghiệp thích. Thắng nghĩa nhiếp thứ ba, do chứng mà hiển. Phỏng theo đắc mà phân tích thì Chân như thành tựu đã từ xưa cho nên không nói là đắc, Niết-bàn thì sau đó mới hiển cho nên lập tên là đắc. Thắng nghĩa thứ ba là Thắng nghĩa thứ hai nhiếp, lý có chút ít thù thắng. Hoặc tùy theo sự thì cũng là Thắng nghĩa thứ nhất-thuộc Đa tài thích. Cựu Trung Biên nói là chánh hạnh chân thật. Ba Thắng nghĩa này thì danh và thể của Tân Trung Biên đồng với đây. Hai Thắng nghĩa trước thì không có biến đổi, vì bất sinh diệt, Thắng nghĩa thứ ba thì không có điên đảo, tùy chỗ thích ứng của nó đều gọi là Viên thành thật, vì Vô lậu Y tha trong đây nói là Viên thành thật. Dưới đây tự thuyết minh rộng hai Đế, không tạm trình bày xen vào.
Luận: "Ba tánh như vậy là sở hành của trí nào?" Thuật rằng: Chín là phàm Thánh trí cảnh môn, đây là hỏi để phát khởi.
Luận: "Biến kế sở chấp", đến "chỉ có cảnh của Thánh trí". Thuật rằng: Tánh thứ nhất (Biến kế sở chấp) không có gì mà không phải Sở duyên duyên, vì thể của Sở duyên duyên có đủ hai nghĩa, chắc chắn là Hữu thể, nếu không như thế thì Phật trí đáng lẽ không duyên nó. Duyên và bất duyên đều có lỗi, vì Bất duyên và Bất tri không có. Tại sao lại nói nó (tánh thứ nhất) đáng lẽ là biến tri? Nếu duyên thì tại sao thành Sở duyên duyên? Giải thích rằng: "Cận Sở duyên duyên thì không duyên nó, vì không phải Hữu pháp cho nên lấy làm Bản vô chất mà riêng biến tương tợ Vô gọi là ứng tri, duyên Vô như duyên tha tâm, không như thế thì trái với đạo lý của Thánh giáo. Như duyên tha tâm, Nhị Thập Duy Thức ghi: "Bất tri giống như cảnh Bất khả tư nghì của Phật". Tuy như thế, dưới đây nói về cận duyên, vì từ trên đến đây, ý của luận không thừa nhận cận duyên. Giải thích văn đó rằng: "Chỉ xứng với thật tri, là tướng thân chứng của Phật cho nên gọi là hiện lượng, vì minh tịnh viên cực hơn Nhị thừa, cho đến thiên nhãn và túc mạng duyên quá khứ và vị lai cũng như thế, khi Phật trí sinh thì có tướng này khởi. Phật thân chứng tướng Viên minh viên cực hơn các bậc Thanh văn, gọi đó là tri, vì Thanh văn không phải thân chứng. Nói chẳng nghĩ bàn là Thắng nghĩa, vì có nghĩa là Viên minh viên cực. Không phải nói rằng thân chứng tâm kia, vì nắm bắt ngoài tâm. Bậc Thánh cho đó là trái với Vô, vì ngoài tâm không có Vô. Chỉ thấy tướng Y tha khởi trên tự tâm, không thấy thật ngã và thật pháp trên sở thủ của tâm, vì thật ngã và thật pháp đều là Vô sở hữu, vì tạo tác vô tướng này cho nên gọi là ứng tri. Đây là nghĩa của Hộ Pháp, như Nhị Thập Duy Thức Sao quyển 2 giải thích. Quyển 74 ghi: "Tánh thứ nhất không phải hạnh của phàm và thánh, vì vô tướng". Nhưng nói ứng tri cho nên giải thích này thù thắng. Y tha và Viên thành của luận kia nói cảnh đồng với đây. Y tha chỉ là cảnh của Vô lậu Thánh trí thế gian, không phải Xuất thế trí, vì là pháp Hữu vi. Phật Địa quyển 7 dẫn luận Dugià ghi: "Tánh thứ nhất không phải thánh cảnh, tánh sau không phải phàm cảnh, tánh giữa là hai cảnh". Tánh thứ nhất không có gì mà không phải là chỗ chứng của Thánh trí, lại cũng không có chấp. Thắng nghĩa của tánh sau không phải trí của phàm và thánh thân duyên được. Nếu như thế thì Thánh trí không hiểu tất cả, vì Thắng nghĩa đó đã là Vô thì trí hiểu biết cái gì? Nếu tri là có thì trở thành điên đảo, nếu tri là không có thì không phải tánh thứ nhất, chỗ hiện Vô của tâm thì Y tha khởi nhiếp, lý Vô của Chân như thì Viên thành thật nhiếp. Do đó Thánh trí tuy biết Hữu và Vô, nhưng không duyên tánh thứ nhất kia làm cảnh. Đồng với chỗ nói trước. Không phải không chứng Vô thì không phải Thánh trí, vì không có pháp ngoài tâm cũng có thể duyên được. Phàm trí tuy duyên Chân như không được thật cho nên nói Viên thành thật không phải cảnh của phàm trí. Tổng kết có ba đoạn văn:
1. Tánh thứ nhất không phải sở hành của phàm và thánh, tánh sau không phải sở hành của phàm.
2. Tánh thứ nhất không phải sở hành của thánh.
3. Thông cả sở hành của Thánh trí và phàm trí thì tánh sau cũng đáng lẽ cách xa sở thủ.
Luận: "Trong ba tánh này có mấy giả và mấy thật?" Thuật rằng: Mười là giả thật môn.
Luận: "Biến kế sở chấp", đến "không phải giả không phải thật".
Thuật rằng: Tánh thứ nhất có danh mà không có thể, là vọng tình vọng lập, có thể nói là giả. Bàn về pháp thể của nó đã không có tướng Phi giả phi thật, không phải sừng thỏ có thể nói là giả và thật, chắc chắn là nương trên chung và riêng của pháp Hữu thể mà lập giả và thật.
Luận: "Tánh Y tha khởi", đến "mà thi thiết".
Thuật rằng: Tánh thứ hai này có Thật và có giả. Giả có ba thứ:
1. Tụ tập giả, như bình, chậu, hữu tình... là pháp tụ tập, là nhiều pháp cùng một lúc hợp thành.
2. Tương tục giả, như các đời quá khứ, vị lai... chỉ có nhân quả tương tục tánh, là trên nhiều pháp nhiều thời mà lập một giả pháp, như Phật ngày xưa nói là lộc vương, ngày nay là thân ta. Chỗ trên từng sát-na diệt, tuy thể là thật, nhưng đối với nhiều pháp tương tục này mà giả lập một hữu tình, đến nay cũng còn tồn tại.
3. Phần vị giả, như Bất tương ưng hành là tánh của phần vị, cho nên đều là giả, trên một pháp một thời mà lập.
Như trên một sắc gọi là Hữu lậu, có thể thấy có đối lập, cũng gọi là các sắc, đều là trên một pháp mà giả thi thiết. Nếu tánh Y tha là thật thì đáng lẽ có nhiều thể, phẫn hận... của nó đều là giả này nhiếp. Tâm, tâm sở và sắc đều là chủng tử của nhân duyên sinh cho nên nói là thật. Hoặc Thanh Biện y theo Thắng nghĩa đế Y tha mà gọi là giả. Trong Y tha, tự nó không có thật pháp, và giả pháp cũng không có, vì giả pháp trong một chủng loại chắc chắn là nương vào thật nhân mà thi thiết. Trong ba tánh của luận Hiển Dương quyển 16 ghi: "Không nên tuyên nói các pháp chỉ là giả hữu. Tại sao vậy? Vì giả pháp chắc chắn có nhân sở y". Không phải không có thật pháp và giả pháp thành lập, hoặc khác với đây là không có thật vật cho nên giả đáng lẽ cũng không có, tức là nên phá hoại hai pháp giả và thật. Hai pháp bị hoại, do đó đáng lẽ không có tạp nhiễm, tạp nhiễm đã có thể đắc thì nên biết chắc chắn là có tánh Y tha khởi. Lại nữa, nói: "Y tha không giống như thi thiết quyết định là có, cũng không phải tất cả quyết định là không, cho nên Tất cả chủng không phải Hữu khởi Vô". Nhưng thừa nhận đều có thể nói năng, nói hoặc Hữu hoặc Vô, cũng Hữu cũng Vô, Phi hữu chẳng phải không. Tánh này thông với giả và thật, do vì Thế tục cho nên nói là hữu, nếu là Phi hữu và Phi chẳng phải có trong Thắng nghĩa thì không thể nói năng. Luận Đối Pháp quyển 3 ghi: "Vì đối đãi với danh ngôn cho nên tất cả đều là giả, không đối đãi với danh ngôn cho nên tất cả đều là thật". Chân đế ba Tạng giải thích quyền luận thành ba giả này, Trần Na sáng tác, như Biệt Chương nói.
Hỏi: Quyển thư hai sư Phệ-thế vấn nạn giả pháp chắc chắn nương vào cộng pháp của chân sự và tợ sự mà lập, các sự đó đều bị bị phá, tại sao trong đây giả pháp nương vào thật pháp?
Đáp: Sư Phệ-thế họ cho rằng chân sự tức là các câu nghĩa của thật, tợ sự thì nương vào chân sự này mà thành, cộng pháp là đức. Lại nữa, chân sự là tự tướng của pháp, hiện tại luận này phá các câu nghĩa thật của nó không phải là chân sự, chân sự không có cho nên tợ sự cũng không có, cộng pháp của câu đức cũng không có, không phải đối với tự tướng mà có tợ danh khởi. Hiện tại luận này đối với pháp cộng tướng mới có tợ danh sinh khởi. Nhưng trong cộng tướng cần phải có phần ít thể pháp, như màu xanh, màu vàng, tâm, tâm sở... mới có giả thuyết là dài, ngắn... Bất tương ưng làm giả pháp không phải không có thật của nó mà có giả này. Trước đã phá chân của nó, vì chân không phải là thật, đối với thể chỗ chấp của nó hoàn toàn không có. Hiện tại luận này nói thật sự, có chút ít nên nghĩ bàn.
Hỏi: Nếu như thế tại sao nói Y tha là tợ ngã pháp, hay là thật sư của ngã pháp không có?
Đáp: Trước đã nói Y tha tương tợ vọng tình năng chấp thật ngã thật pháp của nó là giả, lại còn nương vào thật mà nói là giả ngã pháp, không phải nương vào cảnh của vọng tình mà nói là giả ngã pháp, vì ngã pháp không có.
Luận: "Tánh Viên thành thật", đến "mà thi thiết".
Thuật rằng: Trong năm pháp của quyển 72 cũng nói, chỉ là Thật hữu vì Thắng nghĩa nhiếp.
Luận: "Ba pháp này là dị hay là bất dị?"
Thuật rằng: Mười một là ba tánh đối biện dị bất dị môn. Trước đã luận về bài tụng này, cùng với biệt tự tướng của hữu thể pháp đối chiếu thuyết minh dị và bất dị, là chỗ không có của các luận khác. Hiện tại ba tánh này đối chiếu thuyết minh dị và bất dị, trong Nhiếp luận cũng có.
Luận: "Đáng lẽ nói đều không phải", đến "chân nghĩa riêng khác".
Thuật rằng: Nếu nói là dị thì không có riêng thể, là vọng sở chấp gọi là tánh thứ nhất, không phải lìa Y tha mà riêng có thể của tánh thứ nhất. Nếu tánh thứ nhất có thể và có thể nói là dị thì tánh Viên thành thật là Thật tánh của Y tha, không thể nói ba tánh là dị. Phi bất dị thì vọng chấp là tánh thứ nhất, duyên khởi là tánh thứ hai, chân nghĩa là tánh thứ ba. Đã là ba tánh này riêng khác, không thể nói phi bất dị. Như chỗ dẫn luận Nhiếp Đại thừa ở trước đã nói.
Luận: "Ba tánh như vậy", đến "lược bỏ hiển thị cương yếu".
Thuật rằng: Từ xuống là phần thứ hai tổng kết. Nghĩa loại vô biên. Luận Hiển Dương quyển 6, quyển 7, quyển 13 ghi: "Ba tánh mỗi mỗi đều có năm nghiệp". Ba tánh là phương tiện Bồ-đề của ba Thừa, ba tánh quyết định hiểu rõ nghĩa ẩn mật của kinh. Như trong luận Nhiếp Đại thừa, là Phạm Thiên hỏi kinh, không đắc sinh tử và Niết-bàn, là ví dụ về Kim tàng thổ (vàng giấu dưới đất), là tất cả pháp thường và vô thường. Khi thông đạt ba tánh này thì hành đối với tướng hay là vô tướng? Ngộ nhập Biến kế tánh hay là nhập vào tánh nào, cho đến nhập Viên thành thật hay là trừ bỏ tánh nào? Ba tánh y chỉ trong năm sự là sự gì? Nếu không có tánh thứ nhất thì có lỗi gì? Trong Y tha đáng lẽ không có danh ngôn chấp, không có danh ngôn chấp cho nên đáng lẽ không có nhiễm và tịnh. Không có tánh thứ hai thì có lỗi gì? Không do công dụng thì tất cả tạp nhiễm đều là chẳng phải có, nhiễm này không có thì đáng lẽ không có thanh tịnh. Không có Viên thành thật thì có lỗi gì? Tất cả thanh tịnh phẩm đều đáng lẽ là bất khả tri. Thô tế, nan kiến và cực nan liễu của ba tánh cũng như thế. Có mấy thứ vô thể có thể chuyển hữu thể? Có mấy tánh bất sinh có thể sinh ra sinh? Chấp tướng và vô chấp tướng của ba tánh, làm sao biết được ba tánh? Ba tánh có mấy tự phi nhiễm có thể làm cho tha nhiễm? Ba tánh mỗi mỗi đều lấy gì để là ví dụ? Luận Trung Biên ghi: "Sắc có ba thứ: một là Sở chấp nghĩa sắc, là sắc ở vào phân biệt tánh; hai là Phân biệt nghĩa sắc, là sắc ở vào tánh Y tha; ba là pháp tánh sắc, là sắc ở vào chân thật tánh". Vì sắc thông với tướng, một sắc thông với ba tánh, cho đến thức uẩn, cho đến mười hai xứ cũng như thế. Các môn như vậy, nghĩa loại vô tận, đều dễ biết, vì dợ chán văn nhiều phiền phức, cho nên trong luận này lược bỏ hiển thị cương yếu, nhưng những lý này đều nhiếp hết các kinh luận không sót một thứ nào! luận Đối Pháp quyển 12 Biệt sao thì có khác, nên nắm lấy để hiểu!
Soạn giả: Sa-môn Khuy Cơ
Luận: "Hoặc có ba tánh", đến "đều không có tự tánh".
Thuật rằng: Phần thứ hai lỗi trái với kinh. Nếu nói ba tánh cũng không lìa thứ mà có ba chủng thì tại sao Thế Tôn nói: "Tất cả pháp đều không có tự tánh?", hiện tại luận này nói có thức.
Luận: "Tụng nói rằng", đến "tức là Duy thức thật tánh".
Thuật rằng: Luận Hiển Dương quyển 16 nói cùng với đây đồng. Tụng thứ nhất và thứ hai chánh đáp chỗ hỏi, một bài tụng sau thuyết minh tánh Duy thức, tức là từ năng biến thứ nhất đến năng biến sau, cùng với hai bài tụng này, nói rộng như nửa phần đầu của bài tụng thứ nhất. Tông thuyết minh về Thế tục đế, đây là hiển bài tụng thứ ba hiển bày chỗ nói Chân lý Duy thức ở trước. Tông thuyết minh Thắng nghĩa đế, là tổng thành tựu phần đầu ở trước. Hoặc phỏng theo cảnh, hạnh và quả mà phân khoa. Từ trước đến đây cùng với hai bài tụng đầu này nói rộng về cảnh của Tục đế, bài tụng thứ ba này thì nói rộng về cảnh của Chân đế, từ đây trở lên thì tùy ứng mà tư duy. Ngay trong hai bài tụng đầu thì tụng thứ nhất là đáp chung, bài tụng thứ hai là đáp riêng.
Luận: "Tức là y theo ở đây và trước", đến "không phải tánh toàn không có".
Thuật rằng: Văn Trường hàng có hai đoạn:
1. Giải thích riêng ba Vô tánh.
2. Tổng giải ý tụng.
Ngay trong tụng giải thích riêng ba Vô tánh phân làm hai phần:
1. Giải thích ba Vô tánh của hai tụng trước.
2. Giải thích Duy thức chân tánh của tụng thứ ba.
Trước hết giải thích đáp chung ý của tụng thứ nhất; kế tiếp giải thích ba Vô tánh của tụng thứ hai; sau cùng là ba Vô tánh, y theo chỗ đã nói ở trước về ba tánh của Biến kế sở chấp mà lập ba Vô tánh đó:
1. Tướng vô tánh.
2. Sinh vô tánh.
3. Thắng nghĩa vô tánh.
Trong quyển 76 và kinh Giải Thâm Mật, Bồ-tát Đức Bổn thỉnh thuyết, Phật nói, tất cả đều đồng ở đây.
Luận: "Nói hai chữ mật ý", đến "là tổng nói Vô tánh".
Thuật rằng: Giải thích chữ mật ý, luận này nói là hai tánh sau cùng tuy thể chẳng phải không có, nhưng có ngu phu đối với hai tánh đó khởi chấp tăng thêm, như chỗ dẫn Nhiếp Đại thừa ở trước, nói tánh Y tha là sở duyên của Biến kế, tánh Viên thành thật nương vào triển chuyển cho nên nói cũng là sở biến kế. Quyển 76 ghi: "Không phải do quán sát riêng ba chủng tự tánh mà lập ba Vô tánh, chỉ do hữu tình đối với Y tha khởi tự tánh và tánh Viên thành thật mà tăng thêm biến kế sở chấp tự tánh". Tôi lập ba chủng tánh vô tự tánh, cho đến nói rộng, cho nên y theo hữu thể và vô thể của ba tánh mà tổng mật ý nói ba chủng vô tánh. Ba chủng vô tánh không phải không có hai tánh sau, chỉ không có kế sở chấp.
Luận: "Tại sao y theo ba tánh này mà lập ba chủng kia?"
Thuật rằng: Trên giải thích tụng thứ nhất để đáp chung ý đã xong. Từ đây trở xuống sẽ giải thích riêng ba Vô tánh trong tụng thứ hai, cho nên trước hỏi để phát khởi.
Luận: "Là y theo tánh thứ nhất này", đến "chỗ hiển của Vô tánh".
Thuật rằng: Thể của tánh thứ nhất không có, thể của hai tánh sau thì có mật ý nói, vì là thể của hữu pháp. Các văn còn lại có thể hiểu, không phiền giải thích lại. Thắng nghĩa chỉ do chỗ hiển của Vô tánh cho nên gọi là Vô tánh. Y tha thì có duyên sinh, không có tánh tự nhiên sinh, cho nên gọi là Vô tánh, phối hợp riêng với giải thích tụng, như lý nên biết.
Luận: "Tuy Y tha khởi", đến "cho nên ở đây không nói".
Thuật rằng: Giải thích Y tha khởi cũng gọi là Thắng nghĩa vô tánh. Nguyên nhân không nói văn này, vì chữ Vô nói là phi. Y tha tuy là pháp hữu thể, nhưng không phải Thắng nghĩa gọi là Thắng nghĩa vô tánh, chỗ chấp không có cho nên không thể đặt ví dụ. Lại nữa, quyển 76 ghi: "Các pháp sinh khởi không có tánh của tự tánh cho nên gọi là vô tự tánh", do đó tức là duyên sinh pháp. Hiển Dương luận ghi: "Không ngăn trách duyên sinh, mà ngăn trách tự nhiên sinh", tức là duyên sinh pháp cũng gọi là tánh Thắng nghĩa không có tự tánh. Trong các pháp hoặc là cảnh sở duyên của thanh tịnh, tôi hiển thị nó là Thắng nghĩa vô tánh. Tướng của Y tha khởi cũng là cảnh giới sở duyên của thanh tịnh, cho nên cũng gọi là Thắng nghĩa vô tánh. Sau khi Vô lậu thì đắc chân trí, gọi là thắng, cũng duyên Y tha này làm cảnh, Y tha này cũng gọi là sở duyên của thanh tịnh, vì nghĩa thù thắng. Sở chấp đã không có cái gì mà không phải là Thánh cảnh, nhưng không được tên này (sở Chấp) chỉ vì không có kế sở chấp kia, cho nên nói Thắng nghĩa vô tánh, cho đến nói rộng. Hoặc nói Y tha là Thắng nghĩa vô tánh thì Viên thành thật này tức là Thắng nghĩa vô tánh thứ hai, như sợ rằng Thắng nghĩa vô tánh của Y tha lạm dụng lan qua Thắng nghĩa vô tánh thứ hai của Viên thành thật, cho nên trong luận này chỉ nói Thắng nghĩa vô tánh của Viên thành thật, không nói Y tha là Thắng nghĩa vô tánh. Nên biết kinh kia có nói rộng ví dụ.
Luận: "Tánh này tức là", đến "Thắng nghĩa đế". Thuật rằng: Dưới đây là đoạn thứ hai giải thích tánh Duy thức, nên biết phối hợp giải thích riêng tụng, Viên thành thật Thắng nghĩa vô tánh của nó tức là Thắng nghĩa đế của chư pháp.
Luận: "Nhưng Thắng nghĩa đế", đến "nhất chân pháp giới".
Thuật rằng: Chỉ có nghĩa của hai Đế và văn dẫn trong luận, như quyển 1 Sao rộng dựng lập các nghĩa đó. Ở đây thì tùy theo cạn sâu mà lập bốn thứ, đều là các nghĩa thù thắng. Hoặc lấy thắng làm nghĩa, thắng tức là nghĩa. Tùy theo chỗ thích ứng của nó thì đều là thù thắng đối với Thế tục đế thứ nhất. Nhưng chân thật thứ nhất nà là mười thiện xảo, chân thật thứ hai là lý nhân quả của bốn Đế, chân thật thứ ba là y theo thuyên mà hiển thật, chân thật thứ tư thì phế thuyên mà luận đàm ý chỉ. Lại thêm một bước nữa mà luận thì ba Thừa hợp chung thuyết minh hai Đế, không phải chỉ Bồ-tát Thừa, như luận Hiển Dương quyển 2, 6, 19, luận Du-già quyển 55, 56 và luận Đối Pháp quyển 6 nói.
Luận: "Thắng nghĩa trong đây", đến "không phải nghĩa hư vọng".
Thuật rằng: Vì ba tánh trước không phải Chân như cho nên nói "cũng". Chân là lựa riêng với Hữu lậu, vì Hữu lậu là vọng; Như là lựa riêng với Vô lậu Hữu vi, vì thể của Vô lậu Hữu vi tuy Chân nhưng có sinh diệt. Lại nữa, Chân là lựa riêng với tánh thứ nhất, vì vọng chấp; Như là lựa riêng riêng với Y tha, vì có sinh diệt. Văn còn lại có thể hiểu.
Luận: "Chữ 'cũng' là để hiển Chân như này", đến "tùy nghĩa mà rộng giải thích".
Thuật rằng: Nói rằng Đại Bát-nhã mới có mười hai tên, như quyển 2 trước đã nói. Lại nữa, luận Đối Pháp quyển 2 có bảy tên, là Chân như, Vô ngã tánh, Không tánh, Vô tướng, Thật tế, Thắng nghĩa và pháp giới. Trong tụng này thì chỉ có hai tên, gồm cả các sư giải thích luận này cũng chỉ có bốn tên, cho nên nói "vân vân" là đồng chỉ cho ba tên còn lại. Như trong các luận khác thì tùy nghĩa mà giải thích rộng. Luận Đối Pháp giải thích: "Thể hằng Vô ngã, không có chuyển biến, gọi là Chân như". Tánh lìa hai ngã gọi là Vô ngã, do duyên Vô ngã này mà lìa nhiễm được không tịch, nói đó là Không. Nói rằng sắc cho đến Bồ-đề, các tướng đều tịch diệt cho nên gọi là vô tướng. Sở duyên của vô đảo và cứu cánh vô đảo gọi là Thật tế. Sở hành của Thánh trí gọi là Thắng nghĩa, đồng với giải thích trong luận này. Diệu pháp của ba Thừa là tướng sở y, cho nên gọi là pháp giới, chữ giới nghĩa là thể, chỉ có diệu pháp nương tựa. Tánh nghĩa là thể, là thể của tất cả pháp cho nên gọi là pháp tánh, trong lặng lìa đảo, gọi là Bất hư vọng. Ngoài ra, chỗ thích ứng tất cả nên biết như là thể pháp. Luận Phật Địa quyển 7 có sáu tên, Thật Hữu và luận Đối Pháp khác nhau, đều rộng giải thích. Luận Du-già và luận Hiển Dương tuy có tên nhưng đều không giống như luận Đối Pháp, không phiền dẫn ra. Đến đây đã giải thích ba câu trên của tụng thứ ba xong, tức là Thắng Man và luận Du-già không có nói bốn Đế như Phi an lập đế. Tiếp theo giải thích câu thứ tư.
Luận: "Tánh này tức là", đến "nói hai chữ Thật tánh".
Thuật rằng: Phần đầu giải thích hai tánh nương và Y tha khởi. Phần đầu này giải thích lấy Chân như thật tánh lựa riêng với tánh kế sở chấp, để hiển ý của tụng.
Luận: "Lại có hai tánh", đến "cho nên nói Thật tánh".
Thuật rằng: Đây là tướng và tánh. Tánh là thật thể, tức là chỉ có Chân như. Tướng cũng gọi là thể, vì là thể của Y tha, tương đối với hữu pháp. Không thuyết minh tánh thứ nhất, vì không có thể.
Luận: "Ba bài tụng tổng hiển", đến "đều không có tự tánh".
Thuật rằng: Một bài tụng đầu thì tánh không có, hai bài tụng sau thì quyết định có. Văn còn lại dễ hiểu, là giải thích chung ý tụng, không phiền giải thích lại. Từ trên đến đây, hai mươi lăm bài tụng, có phân hai cặp để phán phân xét riêng:
1. Hai mươi bốn bài tụng trước, thuyết minh tướng Duy thức. Bài tụng thứ hai mươi lăm thuyết minh tánh Duy thức.
2. Trong hai mươi lăm bài tụng: Một bài rưỡi tụng đầu thuyết minh sơ lược tướng Thức năng biến. Hai mươi ba bài rưỡi tiếp theo thuyết minh rộng tướng năng biến. Giải thích các vấn nạn đã xong.
Từ đây trở xuống năm bài tụng thuyết minh Địa vị chỗ nhập của Duy thức. Đã nói thế gian giả thuyết ngã pháp và các pháp của biến kế sở chấp đều Không. Giả ngã pháp này đều nương vào thức mà biến. Thức năng biến lược có ba thứ, hai mươi bốn bài tụng đã phân biệt rộng, tức là thể của Y tha khởi có như hư huyễn, vì thức hư vọng này chắc chắn có Thật thể. Còn một bài tụng tiếp theo thuyết minh tánh của thức, tức là Viên thành thật. Tuy biết các pháp đều là Duy thức hoặc tướng hoặc tánh, cần phải tiệm tu hành chứng nhập Thánh vị, cho nên năm bài tụng dưới đây thuyết minh chỗ nhập Địa vị, chỗ cầu đại quả phước trí vô biên, không phải có tu hành chút ít thì liền được mau chóng chứng đắc tròn đầy, không phải tu hành một hạnh mà liền chứng nhiều quả, chắc chắn phải ba kiếp tu hành vô biên nhân duyên. Ba kiếp, đều là nhân vị nhiếp, tức là bốn bài tụng đầu. Một bài tụng cuối cùng là quả mong cầu đã viên mãn, tức là Như Lai vị. Bốn bài tụng đầu phân làm ba kiếp, hai quả vị đầu là Sơ kiếp nhiếp. Tuy tu hành thắng hạnh cũng chưa được chứng chân. Học và hành có muôn ngàn sai khác, Địa vị có xa gần, cho nên lấy hai bài tụng để thuyết minh Sơ kiếp. Bài tụng thứ ba toàn đủ và bài tụng thứ tư phần ít giải thích về kiếp thứ hai. Khi mới chứng Thánh vị thì kiến đạo vị và và Tu đạo vị khác nhau, chỉ có bài tụng thứ ba là thuyết minh thiên về kiến đạo. Địa vị tuy lâu dài, nhưng chứng lý thì như vậy, cho nên bài tụng thứ tư hợp chung thuyết minh hai kiếp. Nửa bài tụng thứ tư thuyết minh kiếp thứ ba. Ngay trong năm vị, thứ nhất là tổng kết văn trên để hiển rõ chỗ thuyết minh sau phát sinh năm vị, thứ hai là nêu ra văn tụng để chánh giải thích năm vị. Trong phần thứ nhất có ba đoạn:
1. Tổng kết các văn trên, đặt ba câu hỏi.
2. Tùy theo chỗ hỏi mà tóm lược làm ba câu đáp.
3. Nói rộng về chỗ đáp riêng ba câu hỏi đáp trước.
Luận: "Như vậy chỗ thành tánh tướng của Duy thức".
Thuật rằng: Tổng kết đoạn văn trên, hai mươi bốn bài tụng nói về tướng, một bài cuối cùng nói về tánh.
Luận: "Ai, đối với mấy Địa vị và như thế nào ngộ nhập?"
Thuật rằng: Đây là đặt ra ba câu hỏi. Ai, là hỏi người ngộ nhập. Trong năm Thừa, ai là người có thể nhập thì không đồng. Đối với mấy Địa vị, là hỏi chỗ trải qua của các Địa vị, tức là đã nói ngộ nhập thì có mấy Địa vị để nhập, và trải qua thời tiết ngắn dài bao nhiêu. Như thế nào ngộ nhập, là hỏi phương tiện để nhập, là biết phương tiện của Duy thức như thế nào mà ngộ nhập.
Luận: "Là có đủ Đại thừa", đến "dần dần ngộ nhập".
Thuật rằng: Đây là lược đáp. Nói rằng có đủ hai thứ chủng tánh của Đại thừa để đáp người năng nhập, thông với bậc căn khí lớn định tánh và bất định tánh, không phải các Thừa khác. Sơ lược đối với năm vị để đáp khi tu hành trải qua. Mười ba trụ tóm lược làm năm vị. Đại quả khó chiêu cảm cho nên phải trải qua năm vị. Dần dần ngộ nhập, là để đáp phương tiện ngộ nhập, vạn hạnh khó tu, hai quả không thể chứng, không phải đốn phương tiện thì liền có thể nhập.
Luận: "Thế nào là hai thứ chủng tánh của Đại thừa?"
Thuật rằng: Đây là biệt vấn thứ ba. Đáp riêng thì lược đáp rộng như trước. Trong đó có ba phần, như giải thích chung ở trước.
Luận: "Một là Bản tánh trụ chủng tánh", đến "nhân của pháp Vô lậu".
Thuật rằng: Đây là nương vào Chánh nghĩa thứ ba trong ba nghĩa của chủng tử ở trước để đáp. Khi chưa nghe chánh pháp thì chỉ có Vô lậu chủng từ vô thỉ tự thành, chưa từng huân tập khiến cho nó tăng trưởng, gọi là Bản chủng tánh. Tánh là thể, tánh là loại, tức là nói từ bản tánh đến trụ chủng tử tánh loại sai biệt của Bồ-tát này. Không phải do hiện tại có mà gọi là Bản tánh trụ chủng tánh. Tam Thập năm Bồ-tát địa ghi: "Vô thỉ pháp nhĩ, sáu xứ thù thắng gọi là Bản tánh trụ chủng, chính là cùng với đây đồng, tức là chủng tánh trụ.
Luận: "Hai là tập sở thành chủng tánh", đến "chỗ thành của huân tập".
Thuật rằng: Đây là từ khi nghe chánh pháp trở đi, khiến cho chủng tử Vô lậu xưa tăng trưởng, gọi là tập chủng tánh. Bồ-tát địa ghi: "Nghe mười hai phần giáo, pháp giới Đẳng lưu bình đẳng mà lưu chuyển". Là đại định duyên Chân như đồng thời khởi chánh trí hậu sinh và hậu đắc. Hậu đắc lại khởi đại bi, đại bi khởi hóa thân, có hóa thân mới thuyết pháp này, pháp này do đó gọi là bình đẳng lưu. Lại nữa, pháp giới tánh nếu khi có thể ngộ nhập thì liền đoạn sinh tử tiến đến Đại Niết-bàn. Pháp này cũng như vậy. Lại nữa, pháp giới tánh thuận thiện nghịch ác, có đủ các công đức. Pháp này cũng vậy, cho nên gọi là Đẳng lưu. Chữ "đẳng" có nghĩa là tương tợ, chữ lưu có nghĩa là ra khỏi. Từ chỗ ra khỏi kia và tương tợ kia, do đó gọi là Đẳng lưu. Văn sở thành, tức là chỗ thành của ba tuệ. Không phải mới sinh mà gọi là thành, vì khiến cho chủng tử tăng trưởng cũng gọi là thành. Nếu do Vô lậu chủng của ba tuệ tăng trưởng thì tại sao lại nói văn sở thành? Có ý là hiển năng thành không phải chỉ có tuệ, vì tuệ đồng thời với phẩm pháp cũng gọi là năng thành. Năng thành đã như thế thì sở thành cũng như thế, cho nên luận nói Văn sở thành.
Luận: "Phải đủ Đại thừa", đến "ngộ nhập Duy thức".
Thuật rằng: Đây không phải chỉ có Nhất thừa tánh. Ba Thừa chủng tánh và bất định tánh cũng là người này, vì có đủ Đại thừa mới có thể ngộ nhập. Nhưng nói Đại thừa là lựa riêng với định tánh và vô chủng tánh kia. Đây là chưa gieo trồng giải thoát phần thiện, gọi là bản chủng tánh, chưa nghe pháp Vô lậu để khiến cho Vô lậu tăng trưởng. Từ khi gieo trồng giải thoát phần thiện căn trở đi thì gọi là tập chủng tánh, vì nghe Vô lậu giáo làm duyên, khiến cho Vô lậu chủng tăng trưởng. Bồ-tát địa nói, chính cùng với đây đồng. Xét các luận kia chỗ nên nói, dưới đây không giải thích mà chỉ riêng nêu ra. Nhưng chỗ nói của các kinh nhân vương và anh lạc, không đồng nhau như trong Biệt sao mà hiểu. Nhiếp luận quyển 6 ghi: "Người nào có thể ngộ nhập sở ưng tri tướng? Đại thừa nhiều văn huân tập tương tục, đã được gặp sự chư Phật xuất thế, đắc định thắng giải, tập hợp các thiện căn, khéo tu phước trí tư lương của Bồ-tát, người đó ước chừng có nhiều công năng, có bốn thứ lực cho nên mới có thể ngộ nhập. Nhưng trong đây chỉ nói có đủ Bản tánh chủng tánh, tức là chỗ nói Đại thừa kia. Tập sở thành, tức là chỗ nói nhiều văn huân tập kia, là nhân và lực. Còn lại ba lực, dưới đây trong nhập vị, chỗ cần thiết mới nói, cho nên cùng với luận kia sơ lược và nói rộng không đồng, sau sẽ biết. Nhưng có đủ bản tánh cũng chưa có thể nhập, có đủ tập sở thành mới nhập được, tức là chương năng nhập vị của Nhiếp luận. Vô Tánh luận ghi: "Dụng và dụng có đủ đều còn chờ tác giả", cho nên hỏi người nhập là ai có thể nhập không phải chỗ cần thiết chính, do đó ba lực trong đây không nói, vì từ thắng giải hạnh Địa phát tâm trở đi, chưa nhập Sơ địa thì gọi là tập sở thành.
Luận: "Thế nào là nhập năm vị của Duy thức?" Thuật rằng: Đây là hỏi rộng vị thứ hai ở trước.
Luận: "Một là tư lương vị", đến "thuận giải thoát phần".
Thuật rằng: Đây là tại bốn mươi tâm vị và các vị trước, từ sơ phát tâm cho đến hết mười hồi hướng gọi là thuận giải thoát phần. Luận Đối Pháp ghi: "Từ noãn... các vị trở lại, gọi là giải thoát phần". Lựa riêng với Nhị thừa cho nên nói là Đại thừa.
Luận: "Hai là gia hạnh vị", đến "thuận quyết trạch phần".
Thuật rằng: Tức là tại noãn... các vị trở lại trong bốn thiện căn. Vị này ở tại sơ kiếp. Các văn sau nói thuộc về thắng giải hạnh Địa.
Luận: "Ba là Thông đạt vị", đến "sở trụ kiến đạo". Thuật rằng: Tức là tại Sơ địa, tâm mới nhập Địa.
Luận: "Bốn là tu tập vị", đến "sở trụ Tu đạo".
Thuật rằng: Tức là từ Sơ địa trụ vị và xuất tâm vị cho đến kim cương vô gián tâm vị gọi là Tu đạo.
Luận: "Năm là cứu cánh vị", đến "chánh đẳng Bồ-đề".
Thuật rằng: Là hết đời vị lai trong giải thoát đạo sau Kim cương tâm. Năm vị này, dưới đây mỗi mỗi đều giải thích các tên và nêu riêng thể tánh giải thích ba kiếp nhiếp, khỏi nhọc giải thích xen vào. Nhiếp Đại thừa luận ghi: "Ngộ nhập chỗ nào?", tức là nơi người kia có thấy tợ pháp và tợ nghĩa, cho đến kiến đạo, Tu đạo và cứu cánh đạo của thắng giải hạnh Địa. Luận đó nói bốn vị, luận này nói năm vị, hợp chung với vị thứ nhất và thứ hai của luận này làm thắng giải hạnh Địa, tức là chương sở nhập vị của Nhiếp luận. Luận Vô Tánh ghi: "Cảnh sở nhập này và vị năng nhập".
Luận: "Thế nào là dần dần ngộ nhập Duy thức?"
Thuật rằng: Đây là hỏi rộng về nhập pháp dụng thứ ba ở trước.
Luận: "Là các hàng Bồ-tát", đến "có thể tin hiểu sâu".
Thuật rằng: Đây là hai câu đầu cũng thông suốt các câu dưới. Vị thứ nhất và thứ hai này lấy đạo làm vị, tức là phần xuất thể, ba vị sau lấy phần làm vị, tức là thông với xuất thể. Trong tư lương vị có thể tin hiểu sâu xa, tuy phục và đoạn cũng chưa được phần nhiều, do ít mà không nói. Tin hiểu mới tăng trưởng thì chỉ gọi là tin hiểu, đến sau sẽ biết.
Luận: "Trong gia hạnh vị", đến "dẫn phát chân kiến".
Thuật rằng: Trước hết là chế phục sở thủ, kế đó là chế phục năng thủ, vì chế phục khiến cho không khởi, cho nên gọi là trừ, không phải khi lìa phục mà riêng gọi là trừ. Đến sau sẽ biết.
Luận: "Tại thông đạt vị", đến "thật sự thông đạt".
Thuật rằng: Đây là mới khởi Vô lậu thì hai trí hiện hành, chứng thật tướng và thật tánh.
Luận: "Tại tu tập vị", đến "phục đoạn các chướng còn lại".
Thuật rằng: Thập Địa hạnh trải qua thời gian lâu xa nhiều kiếp niệm niệm tinh tấn tu tập, gọi là niệm niệm tu chế phục phiền não còn lại và đoạn các trí chướng khác. Trong các vị này tuy cũng tu chứng các hạnh khác và các pháp khác, nhưng Duy thức làm gốc thì mới có thể tu các hạnh khác, cho nên chỉ nói Duy thức.
Luận: "Đến cứu cánh vị", đến "tướng tánh của Duy thức".
Thuật rằng: Nêu ra đủ hai chướng và công đức trí tuệ không có gì mà không sẵn đủ khắp, không đồng với bậc tiểu Thánh, cho nên gọi là viên, không có thiếu chút nào cho nên lựa riêng riêng với Nhị thừa. Hai thứ thanh tịnh của phước và trí rất thù thắng, không có gì vượt hơn. Không mê không ám cho nên gọi là minh, đây là lựa riêng với Bồtát. Bồ-tát Thập Địa tuy đều có khắp, có thể gọi là viên nhưng chưa thanh tịnh, như trong lưới nhìn trăng, cho nên không gọi là minh, có thể tận đời vị lai mà hóa đạo tất cả, khiến cho ngộ nhập tướng tánh của Duy thức, để hiển không phải tự tế độ mà thành, đã độ người cho nên gọi là pháp luân. Luân nghĩa là chuyển, luận Nhiếp Đại thừa ghi: "Do đâu có thể nhập? Do thiện căn và lực đảm nhiệm, ba thứ tâm miệt mài luyện tập đoạn trừ bốn chỗ chướng". Luận Vô Tánh ghi: "Đây tức là nhập nhân". Là do nhân gì đối với vị này mới có thể nhập được, cho nên Nhiếp luận ghi: "Do cái gì và thế nào mà được ngộ nhập". Luận Vô Tánh ghi: "Năng nhập này có đủ". Chỗ các luận kia nói là ở trong tư lương vị của luận này. Tứ Tầm Tư của luận kia là chỗ làm phương tiện, làm sở nhập và làm sở nhập thí dụ, cùng với Thuận giải thoát phần thứ nhất và danh sự dưới đây lẫn nhau làm khách, làm tầm tư, tầm tư quả và giáo thọ, thành hai bài tụng. Trong gia hạnh vị, người kia ngộ nhập tánh Duy thức, cho nên ngộ nhập ba tánh, nhập cực hỷ Địa, nhập chỗ cần thiết của Duy thức, tức là kiến đạo này. Luận kia thì đã nhập Địa đắc kiến đạo rồi mới nhập Duy thức. Trong Tu đạo, tại sao tu hành nhập nhân quả phần? Tu sai biệt phần, ba học phần là Tu đạo này. Quả trí của luận kia là quả đoạn phần, là cứu cánh đạo của luận này. Nhưng chỗ có mười phần của Nhiếp luận, là trong luận này cũng có, như trước đã trình bày. Bồ-tát địa quyển 47 và 48 trong trụ phẩm nói có mười ba trụ; quyển 49 trong Địa phẩm nói có bảy Địa, đều thuộc năm vị trong đây. Trong mười ba trụ thì mười hai trụ trước là Bồ-tát vị, thuộc bốn bài tụng đầu của năm tụng trong luận này nhiếp, trụ thứ mười ba là Như Lai trụ, tức là Như Lai vị, thuộc tụng thứ năm trong năm tụng này nhiếp mười ba trụ:
1. Chủng tánh trụ, là ở đây nói bản tánh trụ chủng tánh, chưa nhập Tăng-kỳ. Quyển 47 ghi: "Tánh của các hàng Bồ-tát tự nhân hiền". Tánh tự thành tựu công đức của Bồ-tát và chỗ thích ứng nhiều pháp thiện của Bồ-tát, đối với nó hiện hành thì cũng có hiển hiện, do phương tiện của tánh nhân hiền bức bách khiến cho pháp thiện chuyển, không phải do Tư nhiếp mà có chỗ ức chế, có chỗ phòng hộ. Trụ trong trụ này thì đảm nhiệm tất cả chủng tử của Phật pháp, trong tự thể đã có đầy đủ tất cả Phật pháp và tất cả chủng tử. Tánh không thể khởi cõi trên và phiền não trói buộc, tạo nghiệp Vô gián, hoặc đoạn thiện căn, rộng như phẩm chủng tánh giải thích.
2. Thế nào thắng giải hạnh trụ của Bồ-tát? Là các hàng Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến chưa đắc ý lạc thanh tịnh, chỗ có tất cả hạnh của các hàng Bồtát đều thuộc trụ này. Nên biết trụ trên đối với Bồtát trụ thứ mười một cùng với Như Lai trụ chỉ có nhân chuyển nhiếp thọ nhân đó. Đối với các trụ còn lại cũng chưa phát thú, chưa đắc và chưa tịnh, huống chi Như Lai trụ. Trụ trong trụ này thì rộng khắp đối với tất cả các Bồ-tát trụ còn lại, cùng với Như Lai trụ đều gọi là phát thú, nhưng chưa đắc và chưa tịnh. Trong tự trụ gọi là thú, gọi là đắc, vì khiến cho thanh tịnh mà tu chánh hạnh. Trong trụ trước, tuy tu các thiện, tánh nhân hiền do đó làm tánh của các thiện, không phải làm tánh của Bồ-đề, do đó mà dấy khởi, vì chưa gọi là phát thú cho nên không nhập tăng-kỳ, chỗ tu của trụ này đều gọi là phát thú, cho nên cùng với trụ trước khác nhau. Vị này thì sức chọn lựa của tư là thù thắng, chỗ tác khởi gia hạnh là vì phân biệt tuệ chưa đắc thắng tu kiên cố tương tục không có thoái chuyển của Bồtát. Đây là nói Vô lậu tu tuệ chưa đắc, không phải Hữu lậu tu vị này chưa đắc. Hoặc đây là nói khi mới phát tâm, tám tướng thành đạo của Bồ-tát Thập trụ đã chưa đắc thì tu như thế nào để được có thần thông như vậy? Như đối với vô ngại giải, thân thông, giải thoát, đẳng trì và Đẳng chí của thắng tu và quả thắng tu chưa có thể đắc được. Chưa siêu thoát năm thứ sợ hãi là sợ không sống, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ nẻo ác và sợ ở trong chúng. Có ba chỗ hay quên mất: một là quên mất niệm đối với năm cảnh điên đảo; hai là quên mất niệm đối với sự thọ sinh, quên mất các sự đời trước; ba là đối với pháp thọ trì, lâu dần khởi nói lại có chỗ quên mất. Hoặc có đủ thông tuệ vì người thuyết pháp, phải cố gắng mà chuyển, như bắn cung trong tối, hoặc trúng đích hoặc không trúng đích. Hoặc đối với Bồ-đề tuy đã phát thú, nhưng lại thoái chuyển xả bỏ, hoặc xả bỏ giới, hoặc làm lợi hữu tình mà sinh ra mệt chán, lợi ích an lạc chưa được rộng lớn vô lượng. Trong tất cả học thuật của Bồ-tát chưa được học rộng, trong tướng của Bồ-tát chưa được thành tựu, hai phần tại gia và xuất gia trong chánh hạnh của Bồ-tát chưa bình đẳng hiển hiện. Đối với chỗ nói các tướng hành trạng này, khi bậc hạ phẩm chuyển thì tiến lên thượng phẩm, khi bậc trung phẩm chuyển thì vẫn ở trung phẩm, khi bậc thượng phẩm chuyển thì rớt xuống hạ phẩm, vì chuyển chậm mà nhỏ nhẹ. Khi nhập Sơ địa thì tất cả tướng này đều là vô sở hữu, tất cả đều trái nghịch nhau, bạch pháp hiển hiện, cho đến nói rộng, đều thuộc trụ thứ hai, tức là tư lương đạo và gia hạnh đạo trong luận này. Trong năm bài tụng thì hai bài đầu nhiếp. Vì luận kia nói từ sơ phát tâm cho đến chưa đắc ý lạc thanh tịnh là thắng giải trụ. Luận này nói ý lạc thanh tịnh Bồ-tát trụ là thuộc Sơ địa, cho nên biết bốn thiện căn cũng là thuộc thắng giải hạnh trụ thứ hai. Đã như thế tức là hiển thị thuộc sơ kiếp. Luận này nói trụ này là thuộc sơ kiếp, đến sau sẽ biết. Điều này cùng với hai chủng tánh của kinh Anh Lạc khác nhau, nên biết như biệt tổng hợp. Luận Trung Biên quyển trung trong phẩm Đối Pháp trị thuyết minh phần vị Tu đạo của các niệm trụ, tức là các niệm trụ ở tại giải thoát phần, nên biết như biệt ứng.
3. Cực hoan hỷ trụ, cũng gọi là tịnh thăng ý lạc trụ, tức là thuộc Sơ địa. Trụ này có phần ít kiến đạo, tức là tụng thứ ba trong năm bài tụng, trừ ra Trụ địa tâm và xuất Địa tâm.
4. Tăng cõi trên trụ, tức là Địa thứ hai.
5. Tăng thượng tâm trụ, tức là Địa thứ ba.
6. Giác phần tương ưng tăng thượng tuệ trụ, tức là Địa thứ tư.
7. Chư đế tương ưng tăng thượng tuệ trụ, tức là Địa thứ năm.
8. Duyên khởi lưu chuyển chỉ tức tương ưng tăng thượng tuệ trụ, tức là Địa thứ sáu.
9. Vô tướng hữu công dụng trụ, tức là Địa thứ bảy. Các trụ nói trên thuộc Kiếp thứ hai.
10. Vô tướng vô công dụng trụ, tức là Địa thứ tám.
11. Vô ngại giải trụ, tức là Địa thứ chín.
12. Tối thượng thành mãn Bồ-tát trụ, tức là Địa thứ mười, thuộc Kiếp thứ ba.
Quyển 48 ghi: "Lại nữa, trong mỗi mỗi trụ này, trải qua nhiều Câu-chi trăm ngàn đại kiếp, hoặc vượt hơn số đó mới là chứng đắc, cho đến thành tựu viên mãn". Nhưng tất cả trụ tổng trải qua ba vô số đại kiếp mới là chứng đắc tròn đầy. Nói rằng trải qua vô số đại kiếp thứ nhất, mới là vượt qua Thắng giải hạnh trụ, lần lượt chứng đắc Sơ địa. Đây là hằng thường dũng mãnh tinh tấn, không phải là người không dũng mãnh siêng cần tinh tấn. Lại trải qua vô số đại kiếp thứ hai, mới vượt qua Sơ địa, cho đến hữu gia hạnh hữu công dụng vô tướng trụ, lần lượt chứng Địa thứ tám. Đây là quyết định Bồtát đắc ý lạc thanh tịnh, vì quyết định dũng mãnh siêng cần tinh tấn. Lại trải qua vô số đại kiếp thứ ba, mới vượt qua Địa thứ tám và Địa thứ chín chứng Địa thứ mười, cho nên biết bốn thiện căn là chỗ nhiếp của sơ kiếp, chưa gọi là đắc thắng ý lạc Địa. Nhiếp luận quyển 7 ghi: "Có năm thứ Bổ-đặcgià-la trải qua ba vô số đại kiếp". Nói rằng thắng giải hạnh trải qua vô số đại kiếp thứ nhất tu hành viên mãn. Thanh tịnh tăng thượng ý lạc hạnh, hữu tướng hạnh và vô tướng hạnh Bổ-đặc-già-la, đối với sáu Địa trước và Địa thứ bảy, trải qua vô số đại kiếp thứ hai tu hành viên mãn. Vô công dụng hạnh Bổ-đặc-già-la của luận này, tức là Địa thứ tám đến Địa thứ mười, trải qua vô số đại kiếp thứ ba tu hành viên mãn. Văn dưới đây của luận này, bốn thiện căn cũng thuộc giải hạnh Địa, cho nên biết là chỗ nhiếp của sơ kiếp. Cổ nhân vấn nạn rằng: "Phương tiện của Sơ thiền không phải thuộc cõi Dục thì phương tiện của Sơ địa không phải sơ kiếp nhiếp?". Đáng lẽ đặt câu hỏi vặn: "Phương tiện của Sơ địa không phải sơ kiếp, phương tiện của Sơ địa không phải thuộc phàm phu". Hoặc nói: "Chưa chứng Chân không phải thuộc bậc Thánh" thì đáng lẽ nói: "Chưa chứng Chân cho nên không phải thuộc Kiếp thứ hai". Lại nữa, họ vấn nạn rằng, luận Đại Trang Nghiêm và luận Đối Pháp quyển 11 ghi: "Sơ kiếp của bốn thiện căn đã mãn rồi mới tu tập". Có thể không phải là Sơ kiếp? Đáng lẽ hỏi vặn lại rằng, lại như kinh Anh Lạc ghi: "Trăm kiếp tu ngàn tam-muội, ngàn kiếp học oai nghi của Phật, vạn kiếp hóa hiện thành Phật nhập đại tịch định". Đó là nói ba đại kiếp của Bồ-tát Đẳng giác đã viên mãn, tại sao không phải thuộc Phật Địa? Lại nữa, trong bốn thiện căn của luận này, cũng nói Sơ kiếp thuận giải thoát viên mãn rồi mới tu, lẽ nào điều đó không phải là thuộc thắng giải hạnh? Tâm tu tướng hảo đầy đủ, cũng là nhiếp trong sơ kiếp. Tâm tu bốn thiện căn đầy đủ thì quyết định là chỗ nhiếp của Sơ kiếp, thành lập rộng điều này, như luận Đối Pháp quyển 11 sao. Quyển 48 ghi: "Có hai vô số đại kiếp: một là ngày đêm tính số thời gian vô lượng, cho nên gọi là vô số; hai là như trước đã nói, vượt qua tất cả toán số, gọi là vô số đại kiếp". Hoặc nói kiếp trước là trải qua vô lượng vô số mới chứng Bồ-đề. Hoặc nói kiếp sau chỉ có ba vô số mới chứng Bồ-đề thì không vượt hơn số lượng này. Như kinh Anh lạc quyển hạ ghi: "Tám trăm dặm đá, áo của trời tịnh cư phất hết thì gọi là một đại tăng-kỳ kiếp". Hoặc tinh tấn vượt lên, hoặc chuyển nhiều trung kiếp, hoặc có chuyển nhiều đại kiếp thì quyết định không có chuyển vô số đại kiếp, tức là chỗ siêu lượng trung kiếp của Thích-ca Bồ-tát. Số kiếp của một tiểu tam tai kiếp, Thích-ca Bồ-tát siêu vượt chín kiếp chỉ từ nhấc chân. Hoặc nói siêu vượt mười hai kiếp, vì báo tin nghe kệ của Tuyết sơn. Hoặc siêu vượt mười một kiếp, đem thân vào loài quỷ thú, như Biệt sao tổng hợp. Thời gian này lâu xa, chừng nào mới thành Phật? Ở trong mộng thì cho là nhiều năm, như Nhiếp luận nói rộng. Đây là chín Địa sau thì hoàn toàn đủ, Sơ địa thì phần ít Tu đạo, tức là tụng thứ tư trong năm bài tụng nhiếp. Nhưng mười hai trụ trở về trước đều là nhân vị, Như Lai trụ tối cực thứ mười ba tức là cứu cánh đạo, thuộc Như Lai địa, tức là tụng thứ năm trong năm bài tụng nhiếp. Chỗ nhiếp của quả vị, đây là mười một trụ sau, dưới đây luận giải thích rộng, không trình bày xen vào ở đây.
Có sai biệt là Bồ-tát địa và kinh Thập Địa, dưới đây tự giải thích rộng. Hai trụ đầu tiên tuy luận có văn, nhưng không giải thích rộng hành tướng này. Ở đây nêu riêng hai trụ đó. Chủng tánh trụ tức là lấy tất cả Phật pháp và tất cả chủng tử Vô lậu làm thể, vì chưa khởi tâm thú hướng hiện hành Vô lậu và Hữu lậu, tức là chung với chủng tử của năm uẩn làm thể. Trong chánh trí của năm pháp, căn cứ theo ba tánh thì thuộc hai tánh Y tha và Viên thành thật, vì thường và vô thường, lậu và Vô lậu riêng khác. Trụ thứ hai thì lấy tất cả chủng tử Vô lậu của Phật pháp, Hữu lậu thì tùy thuận với tất cả công đức của hiện hành và chủng tử làm tánh, vì tâm khởi thuận các nẻo. Dẫn chứng các điều này, như trước đã nói. Chưa chứng Chân như, chỉ lấy hữu và vô làm thể. Thập trụ tiếp theo thì luận này lấy công đức Vô lậu của Hữu vi và Vô vi là tánh, vì đã chứng Chân như. Luận này cũng lấy tất cả công đức thuận các nẻo của thế gian chưa từng đắc làm thể. Ba mươi hai tướng không phải đều là Vô lậu, là chánh trí, phân biệt, Chân như và tướng làm thể, hai tánh như trước. Như Lai trụ lấy công đức Vô lậu của Hữu vi và Vô vi làm thể. Dưới đây trong mười Địa và ba thân sẽ tự giải thích.
Phân rõ sai biệt, là thắng giải hạnh trụ, đối với chỗ tác khởi tu hành của Bồ-tát thì nhỏ hẹp, có thiếu sót bất định, chỗ đắc có thoái chuyển. Cực hoan hỷ trụ thì chỗ tác khởi tu hành rộng lớn, không có thiếu sót quyết định, chỗ đắc không thoái chuyển. Cho đến ba thứ tăng thượng tuệ trụ cũng như thế, tức là hành tướng của sáu trước đều đồng. Từ vô tướng trụ thứ nhất tức là Địa thứ bảy, cho đến thành mãn Bồ-tát trụ chỗ tác khởi tu hành vô lượng, cho nên không có thiếu sót quyết định, chỗ đắc không có thoái chuyển. Lại nữa, thắng giải hạnh trụ thì đối với vô tướng mà tu phát thú, sáu Địa trở về trước đều đạt được. Địa thứ bảy thì viên chứng, Địa thứ tám thì thanh tịnh, Địa thứ chín và Địa thứ mười thì đối với vô tướng mà tu quả. Nên biết lãnh thọ được các công đức, cho đến nói rộng như các luận.
Nói bảy Địa, tức là sáu Bồ-tát địa ở trước và một Địa thứ bảy do chủng tánh Bồ-tát và Như Lai hợp chung lập làm Địa:
1. Chủng tánh Địa, tức là chủng tánh trụ.
Thắng giải hạnh Địa, tức là thắng giải hạnh trụ.
2. Tịnh thắng ý lạc Địa, tức là cực hỷ trụ.
3. Hành chánh hạnh Địa, tức là tăng cõi trên, cho đến hữu gia hạnh vô tướng trụ.
4. Quyết Định địa, tức là vô gia hạnh vô công dụng vô tướng trụ. Địa này là Bồ-tát bị đọa trong ba quyết định.
5. Quyết định hạnh Địa, tức là vô ngại giải trụ.
6. Đáo cứu cánh Địa, tức là tối thượng thành mãn Bồ-tát và Như Lai trụ.
Đã biết Địa và trụ nhiếp lẫn nhau, Địa nhiếp năm bài tụng căn cứ theo trụ nên biết. Các nghĩa của những điều này, dưới đây đã giải thích rộng, khỏi nhọc nói xen vào.
Luận: "Thứ nhất tư lương vị, tướng nó như thế nào?"
Thuật rằng: Dưới đây là giải thích. Nhưng ba câu hỏi trước, câu thứ nhất hỏi năng nhập nhân, từ đây trở xuống không giải thích, vì đã phân rõ sơ lược, cũng không phải trong bài tụng này. Địa vị chỗ nhập của nó là chỗ nhập pháp dụng, dưới đây giải thích riêng. Nhưng hai chủng này, mỗi chủng đều có năm thứ bất đồng, ý nghĩa thì đã đồng. Mỗi thứ đều hợp chung giải thích, tổng quát làm năm đoạn. Trong năm đoạn này không tạm phân khoa. Trong đoạn thứ nhất này có hai phần, một là hỏi, hai là đáp, đây là hỏi.
Luận: "Tụng nói rằng", đến "cũng chưa có thể phục diệt". Thuật rằng: Đây là đáp. Trước hết nêu tụng, sau đó là giải thích.
Dưới đây lần lượt vấn nạn và giải thích, chỗ dễ không cần nói.
Luận: "Từ phát khởi sâu chắc", đến "thuộc tư lương vị".
Thuật rằng: Đây là giải thích vị thứ nhất, phân tích ngọn nguồn.
Trong đó có hai phần:
1. Giải thích văn tụng.
2. Vị này chưa chứng Duy thức Chân như trở xuống, hiển vị tu hành.
Trong đó lại có hai đoạn:
1. Giải thích sơ lược văn tụng.
2. Nói rộng hai thủ và tùy miên, tức là hai chướng. Trong đoạn thứ nhất lại có hai đoạn:
1. Giải thích hai câu đầu.
2. Giải thích hai câu dưới.
Văn đó đến sau sẽ biết. Nhiếp luận ghi: "Thanh tịnh, tăng thượng lực và tâm kiên cố thắng tấn, gọi là Bồ-tát mới tu vô số ba đại kiếp. Đại Bồ-đề tâm lấy thiện căn làm tự thể, lấy đại nguyện làm duyên không thoái chuyển, để làm sự sách tấn mới có thể phát khởi, cho nên thiện căn lực gọi là thanh Tĩnh lực, là nhân, vì có thể hàng phục chỗ đối trị. Đại nguyện lực gọi là tăng thượng lực, là duyên, vì thường gặp bạn tốt cho nên tâm kiến cố thăng tiến. Tuy gặp bạn ác phương tiện phá hoại, rốt cuộc cũng xả bỏ tâm đại Bồ-đề, chỗ tu pháp thiện vận chuyển tăng trưởng, tâm đại Bồ-đề kiên cố không thoái chuyển, đồng với xứ này gọi là ban đầu của sơ kiếp. Luận này nói thâm, tức là thanh Tĩnh lực và tăng thượng lực. Nói cố tức là tâm kiên cố thắng tấn, thâm cố tức là tâm đại Bồ-đề. Nói Duy thức chân Thắng nghĩa tánh là lựa riêng với ba thứ Thắng nghĩa ở trước không phải Thắng nghĩa của Thắng nghĩa, tức là Chân như. Thức thuận với Quyết trạch vị tác khởi Duy thức quán để cầu trụ Duy thức chân Thắng nghĩa tánh. Vị này chưa có thể phục trừ thức tướng, chưa gọi là cầu trụ Chân tánh Duy thức. Bốn mươi tâm của Địa tiền là vị này. Nhưng các vị kia từ trước đến nay, hoặc là tám vạn, sáu vạn, bốn vạn, hai vạn hoặc là mười ngàn kiếp chưa nhập vị này thì chưa gọi là thanh tịnh tăng thượng lực, vì tâm kiên cố chưa được thăng tiến. Đây là đạo vị thứ nhất đã phân tích, giải thích hai câu trên của bài tụng đã xong. Sau đây sẽ giải thích tên gọi.
Luận: "Là thú hướng vô thượng", đến "thắng tư lương".
Thuật rằng: Trước hết giải thích tên gọi tư lương, mong Bồ-đề làm hiệu, là sơ vị của nhân Bồđề. Lương thực giúp ích cho thân mình mới đạt đến kết quả kia, cho nên gọi là tư lương, đây là y theo tự lợi mà giải thích. Vì muốn ra khỏi sinh tử đắc đại trí, cho nên mong cầu Bồ-đề. Nhưng trong Tăng thượng duyên của Địa thứ bảy sau cùng ở trước, giải thích tư lương vị cũng có vị tri, đương tri căn, nói: "Người hay gần với sự trợ giúp thì phát sinh Địa vị căn bản, người tu hành từ lâu xa thì lân cận là tên". Đây là nói mới tu hành có nhiều cầu mong quả, cũng không trái nhau.
Luận: "Là hữu tình cho nên", đến "thuận giải thoát phần". Thuật rằng: Tiếp theo giải thích tên gọi thuận giải thoát phần.
Là hữu tình cho nên cầu giải thoát, mong Niếtbàn làm nhân. Niết-bàn gọi là giải thoát, chỗ đàm luận như thường. Cần cầu đối với các hạnh kia đây không trái nhau cho nên gọi là thuận. Phần là nhân, là chi. Kia thuận theo Quyết Trạch phần mà nói là phần, Quyết trạch là phần, tức là Trạch pháp giác phần, chữ phần có nghĩa là phân ra phần chi nhánh. Vì thuận theo chi phần của Quyết trạch kia, cho nên gọi là thuận quyết trạch phần. Ở đây nói phần, có nghĩa là chi nhánh của nhân, là nhân của giải thoát, là một chi của nhân cho nên gọi là phần, thuận theo thể là phần. Thuận theo chi phần của giải thoát kia, cho nên gọi là thuận giải thoát phần. Đây là nương vào lợi tha mà làm nhân, vì độ hữu tình mà cầu giải thoát, nhưng cầu Bồ-đề thì nghĩa lợi tha hiển bày, siêng cần hướng đến giải thoát thì nghĩa tự lợi tăng. Nhưng đối với Bồ-đề cũng có bàn về tự lợi, Niết-bàn thì đưa đến nghĩa lợi tha, bởi vì muốn lấy Niết-bàn kia để hiển Bồ-đề này cũng lợi cho hữu tình, lấy Bồ-đề này để hiển Niết-bàn kia cũng có thể tự lợi, vì văn ảnh hưởng nghĩa này thông suốt nghĩa kia.
Hỏi: Tại sao phần của giải thoát phần tức là thuận, phần của Quyết Trạch phần thì thể không phải thuận?
Đáp: Thể của Quyết trạch là Hữu vi, chọn lựa thể tức là phần, vì thể tức là phần. Thể của Niếtbàn là Vô vi, giải thoát thể không phải là phần, vì thể không phải một hay nhiều. Lại nữa, giải thích giải thoát tức là thắng giải tâm sở, duyên vào giải thoát mà giải thoát khổ thì gọi là giải thoát, cảnh ấn tượng trong nhân mà đặt tên, gọi là thắng giải, ở tại quả thoát khổ làm nhân cho nên gọi là giải thoát. Y theo giải thích này thì giải thoát tức là phần, gọi là giải thoát phần. Nghĩa chữ phần không phải là thuận, cùng với Quyết Trạch phần đồng nhau. Nhưng giải thoát kia thì mong tuệ để làm tên, Quyết trạch này thì mong thắng giải để làm hiệu. Giải thích này không có các vấn nạn trước. Từ trên đến tuy nêu ra vị và thể để phân tích, nhưng giải thích vị và hai tên thì không đồng. Tóm lại là giải thích tư lương vị đã xong, dưới đây là giải thích thời gian dần dần ngộ nhập Duy thức, thời gian dần dần của vị thứ nhất. Giải thích hai câu dưới của tụng.
Luận: "Vị này thì Bồ-tát", đến "tu Bồ-tát hạnh". Thuật rằng: Ở đây nêu ra bốn lực, Nhiếp luận quyển 6 ghi: "Ai có thể ngộ nhập trong đó? Đại thừa nhiều văn huân tập tương tục". Đây là nhân lực, lựa riêng với Nhị thừa chủng tánh nhiều văn, tức là chỗ nói bản tánh trụ chủng tánh và tập sở thành chủng tánh ở trước. Luận kia ghi: "Đã được gặp sự thì vô lượng chư Phật xuất hiện nơi đời", tức là thiện hữu lực. Luận kia ghi: "Đã đắc quyết định thắng giải từ xưa đến nay". Không phải bị các bạn ác làm dao động và phá hoại thì gọi là tác ý lực. Luận kia ghi: "Vì đã khéo tích tập các thiện căn". Khéo tu phước trí tư lương Bồ-tát, gọi là tư lương lực. Từ chỗ nói ba nhân của Vô gián ở trước, đã khéo tích tập các thiện căn, Thế Thân nói: "Lực thứ nhất là nhân, lực thứ hai là duyên, lực thứ ba là năng tu chánh hạnh, lực thứ tư là do tích tập thiện căn gọi là tư lương Bồ-tát". Như vậy gọi là do tác ý lực, khéo tu hai thứ phước và trí tư lương, có thể nhập Địa thì gọi là y trì lực. Bốn lực này mong Nhị thừa tánh, bạn ác duyên và tâm mặc tình, tư lương dưới đây đều là thù thắng cho nên gọi là bốn thắng lực. Vị này nương vào bốn lực này, đối với Duy thức có tin hiểu sâu, nhưng chưa có thể hiểu rõ hai thủ đều là Không, tất cả đều trụ theo sự tướng, tán tâm hành các thô hạnh, gọi là trụ ngoại môn tu Bồtát hạnh.
Hỏi: Bài tụng phẩm trụ của kinh Hoa Nghiêm ghi: "Sinh thứ tư là chân quý Phật tử, từ chánh pháp của chư hiền thánh sinh, không có nhiễm trước các pháp hữu vô, xả bỏ sinh tử ra khỏi ba cõi". Cũng kinh này quyển 10 lại giải thích thập trụ sơ tâm Bồtát, các trụ còn lại cũng như thế. Tụng ghi: "Diệu pháp thân thanh tịnh, ứng hiện các thứ hình, cũng như đại huyễn sư, chỗ thích đều hiện rõ. Hoặc có nơi làm Bồ-tát hạnh cứu cánh của chúng sinh, hoặc lại hiện thân mới sinh, hạnh xuất gia học đạo, hoặc dưới gốc cây thọ vương, tự nhiên thành Chánh giác, hoặc có nơi làm chúng sinh, thị hiện nhập Nêhoàn". Tại sao văn này nói phần nhiều là trụ ngoại tu Bồ-tát hạnh?
Đáp: Đây là trụ thứ tư Bồ-tát, tác khởi mười thứ quán pháp. Quán thứ bảy là quán nghiệp, thứ tám là quán quả, hàng phục các triền phược hiện tại. Không nương vào chỗ có vô minh của kiến đạo, càng tạo ác nghiệp khiến cho quả đời sau dấy khởi, gọi là xả bỏ sinh tử ra khỏi ba cõi, quyết định sẽ có thể ra khỏi, nhưng không phải lúc đã ra khỏi, đây là nương vào ngoại môn để tu Bồ-tát hạnh cũng không trái nghịch. Lại nữa, Thập trụ Bồ-tát này, cũng có phần ít nương vào Hữu lậu, quyết định có thể hiện ra tám tướng độ thoát hữu tình. Lấy Thập trụ trong Sơ Phát tâm Trụ, phân ra đắc mười lực tu học mười pháp. Pháp thứ mười là vì chúng sinh khổ mà làm chỗ quy y. Từ trụ này trở đi, các hàng
Bồ-tát kia lần lượt tăng thắng có thể hành tám tướng, nhưng phần nhiều là khởi tánh hạnh, phần ít thì có thể nhập định khởi quán Chân như, gọi là Đa trụ ngoại môn, cũng không trái nghịch.
Luận: "Cho nên đối với hai thủ", đến "hai thủ hiện hành".
Thuật rằng: Do sự này cho nên hai thủ hiện hành làm năng huân tập chỗ dẫn tùy miên, cũng chưa có thể phục diệt lực của hai thứ tùy miên này, để khiến cho vị kia không khởi hiện hành hai thủ.
Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm quyển 10 trong giải thích Thập trụ Bồ-tát ghi: "Trừ diệt các phiền não, vĩnh viễn không còn sót, vô ngại tịch diệt quán, là Chánh pháp của Phật". Tại sao kinh này nói chưa hàng phục hai thủ?
Đáp: Đó là y theo chỗ khởi bất cộng vô minh làm bạn với phiền não của nhân tà giáo và tà sư mà nói dứt hết, không phải dứt hết tất cả tự phân biệt sinh phiền não và câu sinh phiền não. Lại nữa, nói công lực của Phật pháp có thể diệt tất cả phiền não, thập trụ vị đã có thể diệt tất cả phiền não. Dưới đây văn của luận này rằng tư lương đạo, đối với phiền não hai thủ tuy dần dần phục diệt, nhưng chưa hoàn toàn phục diệt hết. Kinh Duyên Khởi ghi: "Nội pháp dị sinh bất phóng dật, Ta không nói là vô minh duyên hành". Nhân theo tự phân biệt bất cộng và tương ưng vô minh kiến đạo mà vị này có thể chế phục được. Luận này nói không chế phục được, là nói chỗ khởi của nhân tà giáo và toàn phần của các câu sinh mà làm luận. Lại nữa, chỉ nói tổng quát, phần nhiều có thể gọi là đã chế phục, phần ít là chưa. Văn của luận dưới đây ghi: "Gia hạnh vị mới chế phục hai thủ của phân biệt, vì nhân tà giáo nơi tư lương vị cũng có dấy khởi". Luận Du-già ghi: "Thắng giải hạnh Bồ-tát đối với ba chỗ quên mất cũng có khởi phiền não, hoặc có khi xả bỏ giới luật, chỗ thuyết pháp như trong tối bắn cung, hoặc trúng hoặc không trúng", cho nên tự phân biệt trong vị này phiền não chưa hết, tiếp theo chánh giải thích hai câu dưới của tụng.
Luận: "Hai chữ thủ này", đến "tánh của sở thủ". Thuật rằng: Luận nói hai chữ thủ là để hiển thủ của hai thủ, không phải là tên của hai thủ. Nhưng chỉ có hai thủ gọi là hai thủ, có phi chấp hai thủ chủng, lẽ nào cũng chế phục hay sao? Lại nữa, các Tướng phần không phải có thể chế phục được, cho nên chấp thủ của hai thủ là thật có, mới gọi là hai thủ.
Luận: "Tập khí của hai thủ", đến "phiền não chướng chủng".
Thuật rằng: chủng của hai tình thủ gọi là hai thủ. Tùy miên là nghĩa gì? Tùy theo hữu tình trong sinh tử, núp ngủ trong tàng thức không hiện ở chỗ khác, cho nên gọi là tùy miên. Hoặc tùy theo tăng thêm lỗi, cho nên gọi là tùy miên. Hoặc tùy theo hữu tình tăng thêm nhiều lỗi cho nên gọi là tùy miên.
Hỏi: Tại sao miên có nghĩa là tăng thêm?
Đáp: Như người thèm thuồng thì nước dãi trong miệng chảy ra (miên miên) nhiều lên, do đó tội lỗi tăng thêm, là nghĩa tùy miên. Nghĩa trước là tánh làm rõ danh, nghĩa sau thì theo ví dụ làm nhân, khác với Tát-bà-đa. Như Biệt sao thì tức là chủng tử của hai chướng.
Luận: "Phiền não chướng", đến "các tùy phiền não".
Thuật rằng: Trên giải thích bài tụng này đã xong, dưới đây là giải thích thứ hai. Trong hai chướng có năm đoạn:
1. Nêu thể giải thích tên gọi.
2. Phân biệt kiến và tu.
3. Phỏng theo người mà phân biệt.
4. Phỏng theo Hữu lậu Đạo, Vô lậu đạo, phục và đoạn mà phân biệt.
5. Tổng kết trở về văn tụng.
Thứ nhất giải thích thể, sau đó giải thích tên gọi trong phiền não chướng. Lấy Tát-ca-da kiến làm đầu, từ ngã kiến làm gốc sinh ra các phiền não. Hoặc ngã kiến không có phiền não tùy đoạn thì nghĩa của Kiến đoạn và Tu đoạn cũng như thế. Hoặc là tuy trừ trước hoặc của sở sinh, ngã kiến chưa diệt cứu cánh tận vị, là do ngã Kiến đoạn thì các pháp khác mới đoạn hết. Đây là y theo chín phẩm tuy có đoạn riêng, nhưng khi đoạn tám phẩm thì không đoạn ngã kiến, đó là lấy phiền não đoạn trước mà nói, vì ngã kiến không có số phẩm, phải hoàn toàn lìa dục mới đoạn. Lại nữa, đã giải thích là sở sinh hoặc có nhiều phẩm số, kiến có thể sinh định, nhưng cũng có chín phẩm, tức là tùy theo lìa chín phẩm dục, mà ngã kiến dần dần đoạn. Khi căn bản đoạn thì các pháp khác cũng tùy theo đoạn. Trong đây không nói ngã kiến mà nói Tát-ca-da kiến, hoặc nói ngã kiến không nhiếp ngã sở. Tiếng Phạm Một-lợi-đạt-duệ-sắc-trí, ở đây gọi là ngã kiến. Tiếng Phạm Tát-ca-da, ở đây gọi là bất thật di chuyển thân kiến, tức là nhiếp ngã sở, vì hiển trong đây nhiếp ngã sở cho nên nói Tát-ca-da. Trong một trăm hai mươi tám căn bản phiền não thì chỗ đoạn cõi Dục của kiến đạo là bốn mươi, các giới trên mỗi giới là ba mươi sáu và gồm luôn Tu đạo mười sáu, tổng cộng một trăm hai mươi tám thứ. Cùng với các tùy phiền não Đẳng lưu của nó là hai mươi thứ, hoặc nhiều hơn nữa như chỗ dẫn Nhiếp sự phần ở trước đã nói, đây là nêu ra tự thể tánh. Hoặc quyến thuộc và năm uẩn của tâm tâm sở làm tánh, Thập Địa quyển 7 ghi: "Nếu chỗ Phát nghiệp và chỗ đắc quả này đều nhiếp trong đó thì đều lấy phiền não làm căn bản". Luận đó thông với quyến thuộc xa, đều mượn gọi là chướng. Luận này căn cứ theo tự tánh chướng, tức là không lấy nghiệp và quả. Nếu không như thế thì chỗ phát của vô minh chiêu cảm ba nghiệp thiện, và quả đáng lẽ là nhiễm tánh, đáng lẽ là chướng thể. Đã không như thế cho nên văn của luận này là thù thắng.
Trong Sở tri chướng có năm phần:
1. Nêu thể tánh.
2. Giải thích tên gọi.
3. Phân biệt tám thức, nhân đó phá hai chấp.
4. Phân biệt ba tánh, cũng ngăn trách kế chấp bên ngoài.
5. Giải thích người ngoài vấn nạn.
Luận: "Sở tri chướng", đến "ái khuể mạn".
Thuật rằng: Một là nêu thể tánh, cũng lấy pháp ngã chấp và ngã sở chấp làm đầu sinh ra các pháp khác. Như quyển thứ nhất trước giải thích. Kiến, nghi, vô minh, ái, khuể và mạn là nêu ra thể tánh. Ở đây tâm sở đầu tiên cũng cùng với phiền não chướng đồng nhau, hoặc phiền não chướng đều chắc chắn có Sở tri chướng. Nhưng phiền não thì thô và có nhiều phẩm loại, cho nên dễ biết rõ. Chỗ đoạn của Nhị thừa chỉ là tánh hữu Phú Bất thiện cho nên lấy tâm sở để hiển tóm quát. Sở tri chướng của luận này thì vi tế và không có nhiều phẩm loại, rất khó hiểu rõ, chỉ có Bồ-tát đoạn trừ, cũng là chỗ nhiếp của Dị thục Vô ký, cho nên không hiển tâm sở. Thật ra pháp chấp không có lìa vô minh cho nên chắc chắn là có tâm sở. Lại nữa, để hiển vô minh của pháp chấp, trong năm Trụ địa chỉ có một trụ nhiếp, chướng trước thì bốn Trụ địa nhiếp, cho nên không hiển tâm sở. Nếu như thế tại sao không nói các tùy phiền não? Đã nói đẳng thủ tùy hoặc của mạn... luận Phật Địa cũng đồng, đây là nêu ra tự thể tánh. Hoặc quyến thuộc, Phật Địa ghi: "Các tâm, tâm sở, sở phát nghiệp và sở đắc quả đều nhiếp trong đó, vì đều lấy vô minh pháp chấp làm căn bản". Quả trong đây là quả Đẳng lưu, quả tăng thượng và quả Sĩ dụng, trừ quả Dị thục vì không chiêu cảm kế chấp. Thế nào gọi là Sở tri chướng?
Luận: "Che lấp cảnh Sở tri", đến "gọi là Sở tri chướng".
Thuật rằng: Hai là giải thích tên gọi. Sở tri cảnh là Hữu vi và Vô vi, không có tánh điên đảo. Do che lấp cảnh này khiến cho trí không sinh, có thể chướng Bồ-đề cho nên gọi là Sở tri chướng. Đây là giải thích tên gọi, do mong cảnh Sở tri mà được tên, dưới đây trong chuyển y sẽ tự giải thích. Phiền não của phiền não chướng trước tức là chướng, Sở tri chướng này thì Sở tri chướng. Chướng trước thì lấy thể làm rõ tên gọi
-Trì nghiệp thích, chướng sau cũng gọi là Sở chướng thọ-Y sĩ thích.
Luận: "Sở tri chướng này", đến "vì nó vi tế yếu kém".
Thuật rằng: Ba là phân biệt tám thức, nhân đó mà phá chấp bên ngoài. Thức thứ tám gọi là Dị thục thức. Lấy pháp gì làm không đồng thời? Dị thục thức đó vi tế yếu kém, pháp chấp này mong chướng thô kia mới được mạnh. Chướng này là năng huân cho nên không phải chướng kia. Các sư An Tuệ chấp tâm của ba tánh đều là chấp hữu pháp, thức này chỉ có Dị thục, cho nên trong tánh Dị thục mà phá.
Luận: "Vì không cùng với tuệ của vô minh tương ưng".
Thuật rằng: Các luận chỉ nói Thức thứ tám này chỉ có năm tâm sở đồng thời, pháp chấp thì tuệ và vô minh đồng thời. Tuệ có thể tính toán độ lượng, vô minh thì mê. Luận Phật Địa ghi: "Có nghĩa pháp chấp và vô minh, khắp ba tánh". Tâm Hữu lậu phẩm và tâm Vô lậu phẩm của Nhị thừa đều không liễu đạt pháp Vô ngã, vì đều là tợ Tướng phần và tợ Kiến phần dấy khởi, như quyển trước đã nói. Trong chướng này thì không có. Nhưng sư Hộ Pháp thì ẩn sự ngăn trách kế chấp kia. Nếu nói pháp chấp thì dựa vào pháp gì mà tuệ đồng thời?
Luận: "Pháp không trí phẩm đồng thời khởi".
Thuật rằng: Bồ-tát pháp không trí phẩm, thừa nhận cùng với Thức thứ tám này đồng thời khởi. Thức thứ bảy thì có pháp chấp, pháp không trí phát khởi thì liền không hiện hành. Hữu pháp chấp của Thức thứ tám, khi pháp không trí phát khởi thì thức này đáng lẽ phải diệt? Đã có tám thức hiện hành cùng với Thức thứ tám đồng thời khởi, cho nên quyết định biết Thức thứ tám không có pháp chấp đồng thời khởi. Lượng rằng: "Thức thứ tám quyết định không phải pháp chấp phẩm, vì pháp không quán phẩm cùng đồng thời khởi, như Thức thứ tám của Phật. Nếu nói pháp không quán khởi trong nhân thì Thức thứ tám thừa nhận là đoạn, tức là pháp Vô lậu không có sở huân thì lấy gì để thành Phật! Không thể nói huân vào đại viên cảnh trí đồng thời với thức, vì không phải Vô ký, cũng như chưa đắc! Dị thục thứ tám thức đã như thế, các Dị thục thức khác cũng như thế". Nhưng Thức thứ bảy ở đây tổng hợp làm pháp, lại nữa dưới đây Dị thục tâm thừa nhận là pháp chấp, không thể đặt ví dụ. Đối với luận Phật Địa thì luận này thù thắng hơn.
Luận: "Trong bảy Chuyển thức", đến "như nói phiền não".
Thuật rằng: Vì không lìa phiền não mà riêng khởi chấp, cho nên tâm sở và phiền não của nó đồng nhau. Trong Thức thứ bảy thì căn bản phiền não có bốn pháp, tùy hoặc có tám pháp và biệt cảnh tuệ có mười ba pháp, Thức thứ sáu thì có tất cả. Năm thức thì căn bản có ba, tùy hoặc có mười và cùng với mười ba pháp đó đồng thời khởi. Tại sao năm thức không có kiến và nghi.
Luận: "Nhãn... năm thức", đến "đều được dẫn khởi".
Thuật rằng: Vì không có kế độ phân biệt, cho nên pháp kiến và nghi quyết định không tương ưng. Chữ "đẳng" có ý là đồng lấy các hoặc trong tùy phiền não, vì nó cùng với năm thức này không đồng thời khởi, tức là mười pháp phẫn... toàn phần và mười pháp ít phần còn lại. Chỗ sinh của kế độ phân biệt thì năm thức đều không có, không phải không có các hoặc của kiến đạo sở đoạn, gọi là vô phân biệt. Ngay trong kiến đạo không có duyên tà hữu và tà sư, vì tự phân biệt các hoặc. Nhưng thật ra không phải không có Ý thức dẫn khởi các Hoặc của kiến đạo, gọi là vô phân biệt. Luận Đối Pháp ghi: "vô phân biệt khởi là kiến đạo đoạn", là đã thừa nhận hoặc trong năm thức thông với kiến đạo đoạn, là hoặc của hữu phân biệt. Nhưng nó không phải tự lực sinh, vì làm chỗ dẫn sinh của Ý thức, cho nên luận ghi: "Ngoài ra do lực của Ý thức đều được dẫn khởi". Chữ "ngoài ra" là chỉ cho kiến và nghi còn lại. Luận Phật Địa ghi: "Năm thức tuy không có kiến... nhưng do Ý thức dẫn mà có chỗ nhiếp của phi kiến, ái khuể... khởi là chỗ nhiếp của hai chướng. Ở đây có ý nói, thêm tự lực phân biệt hoặc còn lại của nó để ngăn trách kế chấp bên ngoài, hoặc trong năm thức chỉ có Tu đạo mới đoạn.
Luận: "Chướng này chỉ cùng với", đến "tánh Vô ký".
Thuật rằng: Bốn là phân biệt ba tánh ngăn trách ngoại kế môn. Luận Du-già quyển 59 ghi: "Phiền não của cõi Dục một phần là Bất thiện, cùng với hai giới còn lại là Vô ký", tức là vô minh chỉ thông với Bất thiện và Vô ký, không nói thông với thiện. Tại sao nói trong tâm thiện có pháp chấp? Vì pháp chấp thì chắc chắn có vô minh đồng thời. Luận Đối Pháp quyển 4 cũng ghi: "Phiền não của cõi Dục có thể phát sinh ác hạnh", còn lại là Hữu phú. Tại sao lại nói vô minh thông với thiện? Hoặc luận họ chống chế rằng, sinh tử Hữu lậu đều là Bất thiện nhiếp, cho nên chắc chắn có vô minh.
Luận: "Vì si và vô si không tương ưng".
Thuật rằng: Nếu như thế thì tâm thiện đã có vô si. Đây là chấp có si, vì si và vô si không tương ưng. Tại sao có thể nói thiện với Bất thiện, si với vô si quyết định không tương ưng? Vì là pháp tương vi, như tham và vô tham, không thể nói hai thứ tâm chấp này không có vô minh đồng thời. Như tâm chấp và vô minh đồng thời của người, là người kia lại có chấp trong Thức thứ bảy, chỉ có ngã chấp mà không có pháp chấp. Như quyển 5 trước đã giải thích. Kinh Anh lạc ghi: "Tâm thiện mà có thiện là nghĩa của ngoại đạo". Đây là ngăn trách ý nghĩa trên, nhân đó giải thích rộng hẹp của hai chướng.
Luận: "Trong phiền não chướng", đến "làm sở y".
Thuật rằng: Chắc chắn là có chấp này trong phiền não chướng, vì thể của pháp chấp rộng, phiền não chướng thì hẹp. Luận kia quyết định dùng chấp này làm sở y.
Hỏi: Tại sao dùng chấp này làm sở y?
Đáp: Thông với sở duyên thô tế của phiền não thì chắc chắn là pháp chấp này. Phiền não kia chỉ là thô, khi có pháp chấp thì chắc chắn không có phiền não kia. Kinh Thắng Man ghi: "Thế Tôn đối với pháp chấp này khởi phiền não từng sát-na tâm tương ưng, cho đến nếu lại vượt qua hằng sa số pháp chỗ nên đoạn của Như Lai Bồ-đề trí. Tất cả đều là chỗ trì và chỗ kiến lập của Vô minh trụ địa, như các chủng tử đều y theo Địa này mà sinh kiến lập tăng trưởng. Nếu Địa hoại thì các pháp kia cũng tùy theo hoại, nếu Vô minh trụ địa đoạn thì các pháp chỗ nên đoạn cũng tùy theo mà đoạn". Kinh Anh Lạc quyển hạ nói cũng đồng với kinh này.
Do đây hỏi rằng: Nếu có phiền não chướng thì đều có Sở tri chướng hay sao?
Nên thuận theo câu trước mà đáp: Nếu phiền não chướng thì quyết định có Sở tri chướng. Nếu như thế thì chắc chắn đồng thời, đáng lẽ thể của hai chướng mỗi mỗi đều riêng khác, thể hai chướng của Thức thứ bảy thì đồng thời, vì là hai chấp, như dụng của hai chấp.
Luận: "Thể tuy không khác, nhưng dụng thì có khác".
Thuật rằng: Thể không trái nhau thì có thể chỉ có một thể. Nghĩa của dụng là phần, cho nên có thể nói là có khác. Đồng một chủng sinh ra dụng phần thì thành hai, như một thức nắm lấy cảnh thì dụng nhiều. Luận: "Cho nên hai tùy miên", đến "đoạn hoặc trước hoặc sau".
Thuật rằng: Hai chướng trong đây tùy theo ba Thừa Thánh đạo mà hơn và kém. Đoạn hoặc là trước hoặc là sau, hoặc mong hành tướng tương đối của hai chướng, tức là thô phiền não chướng và tế Sở tri chướng. Hoặc mong Thánh đạo đoạn, tức là bất định. Hoặc có loại trước hết đoạn phiền não chướng không đoạn Sở tri chướng, như Nhị thừa cầu Niết-bàn. Hoặc có loại trước hết đoạn Sở tri chướng không phiền não chướng, như Thập Địa Bồ-tát trụ Sơ địa và xuất Sơ địa. Đây là y theo chủng tử mà nói, không y theo sự thô trọng, vì hướng đến Tất cả trí. Hoặc có loại cũng đoạn cả hai phiền não chướng và Sở tri chướng, gọi là nhập Sơ địa Kim cương tâm Bồ-tát. Đây là y theo chủng tử mà nói, nếu y theo thô trọng thì Thập Địa đều đã đắc. Vì đắc hai quả, cho nên cần phải song đoạn cả hai. Câu phi gọi là các pháp dị sinh, vì không đoạn hai chướng thô trọng và chủng tử. Trên là do không nhất định là trước hay là sau cho nên nói "hoặc là". Chủng tử tùy theo thể nhất và thể dị của hiện hành. Tự loại và chín Địa trong phiền não chướng có thể có thô và tế, trước hết đoạn thô, sau đó đoạn tế. Sở tri chướng của nó không thể y theo Địa mà lập phẩm số, chi y theo sở chướng mà phân rõ thô tế của năng chướng. Có Tu đạo đoạn của Sơ địa là Sở tri chướng của Hữu đảnh, nhưng dục thì chưa hết. Địa thứ hai cũng lại như vậy, không thể y theo Địa mà lập phẩm loại. Chỉ do Thánh đạo cho nên lại nói "hoặc là".
Hỏi: Những thứ này đã là Vô ký, pháp nào là Vô ký nhiếp?
Luận: "Pháp này đối với Vô phú", đến "chướng Đại Bồ-đề".
Thuật rằng: Còn lại thế lực của ba pháp Vô ký mỏng yếu không thể che lấp Sở tri, không chướng Bồ-đề. Nếu thế lực của Dị thục sinh dày mạnh, làm chỗ khởi chung cho Ý thức sinh kế độ phân biệt, có thể che lấp Sở tri, chướng Bồ-đề. Từ Dị thục mà khởi thì gọi là Dị thục sinh, không phải là nghiệp quả. Tuy cùng với Bất thiện và Hữu phú đồng thời, nhưng không chướng Nhị thừa, chỉ gọi là Vô phú.
Luận: "Pháp này gọi là Vô phú", đến "cũng là Hữu phú".
Thuật rằng: Vì không che lấp chuyển y của Nhị thừa, vì Nhị thừa vô học có thể hiện hành, không phải nói Vô học của Nhị thừa nhiễm hiện hành cho nên gọi là Vô phú, hoặc mong Bồ-tát thì cũng là Hữu phú, vì che lấp cảnh Sở tri, chướng Bồ-đề. Cũng là Nhị thừa kia nhiếp chung với Vô phú, cho nên đối với Bồ-tát mà có chữ "cũng". Nhưng trong phá kế chấp của luận Phật Địa ghi: "Có chấp thì không thể dẫn khởi Không trí kia, Dị thục tâm thì không phải là sở huân, năng biến kế thì chỉ có Ý thức". Như quyển trước trong Biến kế đã giải thích, trong luận này không nói. Luận Phật Địa ghi: "Sư trước vấn nạn rằng: Nếu thiện và Vô phú không có pháp chấp thì tại sao không thể liễu đạt pháp không? sư sau hỏi vặn: Cũng không có ngã chấp thì tại sao không thể liễu đạt sinh Không?" sư kia nói nhân chấp (chấp người) đồng thời của Thức thứ bảy, sư này nói ngã cũng như thế, vì pháp chấp đồng thời của Thức thứ bảy. Hai câu vấn nạn đã đồng nhau. Nhưng sư trước không thừa nhận trong Thức thứ bảy có pháp chấp thì không đúng, vì trái với tự tỷ lượng. Hai câu vấn nạn pháp không và Ngã không đã có Tướng phần và Kiến phần, tại sao không phải là chấp? Như quyển trước đã giải thích. Đây là tổng kết ba tánh của phần thứ tư, phá kế chấp phân biệt đã xong. Từ đây xuống là phần thứ năm, giải thích các điều trái nhau.
Luận: "Hoặc Sở tri chướng", đến "Vô minh trụ địa". Thuật rằng: Năm là người ngoài vấn nạn.
Hỏi: Kinh nói chỗ nào?
Đáp: Là kinh Thắng Man nói, không y theo kinh Anh Lạc, vì không phải cực thành, là phần đoạn sinh tử. Nói Ngã sinh của A-la-hán đã tận, đắc quả hữu dư, chứng danh phạm hạnh đã lập, phàm phu trời người và bảy thứ học nhân không thể phân rõ danh, sở tác thì đã phân rõ. Chỗ đoạn phiền não thì lại không thọ hậu hữu, gọi là bất thọ hậu hữu, không phải dứt hết tất cả phiền não, tất cả thọ sinh nói là bất thọ hậu hữu, vì có Vô minh trụ địa và sinh tử biến dịch. Phiền não có hai, là Trụ địa phiền não và khởi phiền não. Trụ địa phiền não có bốn thứ:
1. Kiến nhất xứ Trụ địa.
2. Sắc ái Trụ địa.
3. Hữu ái Trụ địa.
4. Khởi vô thỉ Vô minh trụ địa.
Các Trụ địa này là sở y của tất cả phiền não trên. Hoặc chủng tử của phiền não, so với Vô minh trụ địa thì tính toán ví dụ không thể bì kịp.
Hỏi: Trong Năm Trụ địa thì lực của Vô minh trụ địa rất lớn, hằng sa số phiền não trên nương tựa, cũng khiến cho bốn thứ phiền não trụ lâu dài, trí của Nhị thừa không thể đoạn, chỉ có Như Lai trí mới có thể đoạn, tức là chủng tử của vô minh cũng nói là chủng loại, tức là chủng loại của năm môn lấy làm chủng loại của vô minh, tức là thông với kiến... Tại sao kinh đó chỉ nói vô minh làm Sở tri chướng?
Luận: "Vì vô minh tăng", đến "không phải không có kiến...".
Thuật rằng: Đây là luận chủ đáp. Trụ địa vô minh này tăng, cho nên tổng lập vô minh, không phải không có kiến... và các phiền não còn lại.
Hỏi: Tại sao gọi là tăng? Đáp:
1. Thể tăng, tuy các phiền não còn lại có câu và bất câu, nhưng vô minh đều có làm chướng này. Như Nhị thừa vô học, không phải chắc chắn có các phiền não còn lại đồng thời.
2. Dụng tăng, là mê tất cả cảnh, chướng tất cả trí, khiến cho đắc Phật quả, không phải như phiền não.
3. Nan đoạn tăng, phải thượng thượng đạo mới có thể đoạn, cho nên gọi là tăng.
Luận: "Như chủng tử của phiền não", đến "mạn và vô minh".
Thuật rằng: Đây là đem ví dụ để giải thích. Như chủng tử của phiền não thì kiến đạo và Tu đạo đều có, nhưng phân biệt khởi thì lập tên kiến nhất xứ, lẽ nào trong phân biệt lại không có tham! Trong Tu đạo chỉ nói đối với ái, lẽ nào không có sân! Nhưng trong phân biệt khởi thứ nhất chỉ có kiến, trong Tu đạo sau thì chỉ nói ái. Đã kiến sở đoạn thì kiến lực thiên một bên mà tăng, đứng đầu trong phân biệt. Tu sở đoạn thì ái lực thiên một bên mà tăng, vì là nhuận sinh hoặc, vì pháp chấp Trụ địa vô minh lực tăng, nhưng chỉ nói vô minh, không phải là không có các pháp khác. Trong năm trụ này:
1. Trụ thứ nhất chỉ có kiến đạo là chỗ đoạn phiền não chướng.
2. Ba trụ kế tiếp Tu đạo là chỗ đoạn phiền não chướng.
3. Một trụ sau cùng kiến đạo và Tu đạo là chỗ đoạn Sở tri chướng.
Trong phần thứ nhất thì mê đế lý là thù thắng, chữ nhất xứ là nói đoạn một chỗ. Trong phần thứ hai là ba hữu phẩm, mê sự và lý hoặc. Đó là phỏng theo giới mà luận. Trong phần thứ ba thì chướng trí gọi chung là vô minh, vì không có phẩm số, không có riêng mê hành tướng của đế. Địa là y chỉ, chủng tử và hiện hành làm chỗ y chỉ, gọi đó là Địa. Đây là phỏng theo tâm sở và chủng tử đoạn, gọi đó là Địa. Các phẩm môn phân biệt năm Trụ địa riêng khác nên biết. Tổng kết là phần thứ nhất nêu thể của hai chướng, giải thích hai chướng đã xong. Cổ nhân nói: "Năm Trụ địa náy như bốn lưu thể và ba cõi phiền não, tất cả vô minh gọi là vô minh". Không phải như vậy. Văn ở đây là chính.
Luận: "Hai chướng như vậy", đến "tu sở đoạn nhiếp".
Thuật rằng: Trong thuyết minh hai chướng, phần thứ hai là phân biệt kiến đạo và Tu đạo, câu sinh phân biệt đã thông với sáu thức, phân biệt khởi là kiến đạo sở đoạn, vì thô cho nên dễ đoạn. Câu sinh khởi của sáu thức là tu sở đoạn, vì vi tế khó đoạn. Trước nói năm thức tùy theo Ý thức dẫn sinh, tức là làm thành hoặc của phân biệt và câu sinh, như nói phiền não chướng trong năm thức, không có lỗi trái lý, tức là trong Sơ địa đoạn hoặc hai chướng của năm thức đều được.
Luận: "Nhị thừa chỉ có thể", đến "Bồ-tát đều đoạn".
Thuật rằng: Phần thứ ba là phỏng theo theo sự phân biệt của con người. Nhị thừa chỉ có thể đoạn phiền não chướng, vì hai quả khác nhau, do tác ý cho nên đoạn có trước và sau. Trong chỗ đoạn sau, định chướng Nhị thừa cũng đoạn, vì nhỏ cho nên không nói. Phần thứ tư là phân biệt Hữu lậu đạo, Vô lậu đạo, phục và đoạn.
Luận: "Vĩnh viễn đoạn hai chướng", đến "thông với Hữu lậu đạo".
Thuật rằng: Khi hàng phục phiền não thì câu sinh pháp chấp này cũng không khởi cho nên gọi là phục pháp chấp, không phải riêng khởi phục đạo. Hoặc gia hạnh trí hàng phục trước kiến đạo. Các luận hoặc là nói các đạo của Hữu lậu không thể đoạn chủng tử, vì hữu tướng trói buộc và thô trọng trói buộc, vì không chứng lý, vì Vô lậu không phải như vậy. Từ đây trở xuống là phần thứ năm tổng kết quy về bài tụng này.
Luận: "Bồ-tát trụ pháp này", đến "chưa có thể phục diệt".
Thuật rằng: Hai hiện hành thô tuy có phục, tức là hàng phục phần nhiều thô hoặc của phân biệt. Nhân theo Tà giáo mà tư duy thì đều là phục, tự tư duy thì chưa diệt tận, bốn thiện căn sau đây mới diệt tận. Nhưng tế phân biệt và chỗ có tùy miên trong hai chướng hoặc thô hoặc tế, tuy có thể đối trị được, nhưng lực của chỉ và quán thì nhỏ yếu chưa thể phục diệt được. Ban đầu là khởi chỉ và quán, chưa có tâm thắng thuận, không bằng trong bốn thiện căn, có thể phục trừ hai thứ vi tế của hiện hành và chủng tử. Câu sinh hiện hành và câu sinh chủng tử đó đều là ít, cũng có thể hàng phục được. Tiếp theo là gia hạnh vị, cùng với quyển 10 đều có văn này. Chữ phục trong đây không phải là sáu hạnh, mà do sức tu tập chế phục không khởi, khiến cho nó không tự tại, đó là nghĩa của chữ phục trong đây, dưới đây căn cứ theo đó mà biết. Bồ-tát không đoạn các hoặc của giới và Địa cõi dưới để khởi định sinh cõi trên. Lại nữa, phỏng theo pháp dụng phân biệt đoạn của Thập Địa, dưới đây tự có văn, không cần nói xen vào ở đây. Như luận Trung Biên quyển thượng nói hai chướng này là các chướng nhiếp lẫn nhau.
Luận: "Vị này chưa chứng", đến "giải hạnh Địa nhiếp".
Thuật rằng: Trên giải thích tụng đã xong, từ đây xuống là phần thứ hai phân rõ vị và tu hành. Đây là phân rõ vị, sau là thuyết minh tu hành. Luận
Nhiếp Đại thừa ghi: "Năm đạo làm bốn thứ là thắng giải hạnh Địa, kiến, tu và Vô học Địa". Luận này thì lấy vị này làm Địa kia. Trong bốn Địa là Địa nào? Trong mười ba trụ là trụ nào? Vị này y theo thắng giải mà tu hành, cũng là thắng hạnh Địa nhiếp, luận nói "cũng" là cũng thuận Quyết Trạch phần, Địa kia là giải hạnh Địa, vị bày cũng là giải hạnh Địa, cho nên trong luận có chữ "cũng". Thắng giải tức là nghĩa quyết định. Tán tâm thì quyết định ý giải tư duy chưa có thể chứng giải, cũng nói đến sau sẽ biết.
Luận: "Chỗ tu thắng hạnh, tướng nó thế nào?"
Thuật rằng: Dưới đây phân rõ tu hành. Thứ nhất là hỏi, thứ hai là đáp. Tuy nói thắng hạnh, nhưng hạnh nào làm thắng hạnh?
Luận: "Lược có hai thứ", đến "ngoài ra gọi là phước". Thuật rằng: Dưới đây là đáp. Thắng hạnh có hai thứ:
1. Hiển nhị chủng hạnh.
2. Minh đức hạnh.
Trong phân rõ nhị hạnh, thứ nhất phân rõ phước hạnh và trí hạnh, thứ hai phân rõ nhị chủng lợi hạnh. Tuệ làm thể gọi là trí, không phải tuệ làm thể gọi là phước. Đây là ngay nơi tánh mà nêu ra thể, tức là mười lực và tất cả trí là trí, trong những pháp còn lại, có cái là phước. Quyển 57 trong hai mươi căn tuy cùng với các văn đó không đồng, còn mười lực thì tuệ căn và cụ tri căn nhiếp, chỉ là trí.
Tứ vô sở uý thì năm căn và cụ tri căn nhiếp, thông với phước, trí, các tướng và các tùy hảo tướng. Thiệt căn và bốn căn y xứ gọi là thân căn, nam căn, nhãn căn và thiệt căn y xứ, hợp chung chỗ nhiếp của bốn căn, chỉ là phước. Ba bất hộ như vô uý, ba niệm trụ là phi căn nhiếp, vì không có chỗ nhiếp của tham sân, tức là chỉ có phước. Đại bi không có chỗ nhiếp của sân si, không có vong bảy pháp. Như lực và tất cả chủng diệu trí cũng vậy, chỉ là trí nhiếp. Đoạn vĩnh viễn tập khí không phải là đoạn căn. Chỗ chứng của sáu căn, trong Bồ-đề phần thì bốn niệm trụ, căn, lực, giác chi, đạo chi ít phần là trí. Tứ chánh cần, bốn thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi ít phần là phước. Ngoài ra chỉ là phước không phải trí, căn cứ theo đây mà biết. Do chư công đức chủng môn này mà làm luận, trong đó nên làm bốn câu phân riêng:
1. Có pháp chỉ là trí không phải phước: Đó là mười lực, tất cả trí, tất cả chủng diệu trí, vô vong thất pháp, bốn niệm trụ, nguyện, trí...
2. Có pháp chỉ là phước không phải trí: Đó là các tướng, tùy hảo, ba niệm trụ, đại bi, bốn chánh cần, bốn thần túc...
3. Có pháp cũng là phước cũng là trí: Đó là bốn vô uý, ba bất hộ, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám đạo chi...
4. Có pháp không phải phước không phải trí: y theo sự phân biệt hoặc tập khí đoạn vĩnh viễn, không có làm thành công đức. Còn lại là công đức phước trí của phân biệt môn, nên như lý tư duy.
Luận: "Lại y theo sáu chủng", đến "thông tướng đều có hai".
Thuật rằng: Đều gọi là phước, đều gọi là trí. Cùng với trí song hành trợ thành trí nghiệp, đều gọi là trí. Đây là y theo trợ bạn thông tướng mà nêu ra thể.
Luận: "Biệt tướng của năm chủng trước", đến "Trí tuệ thứ sáu".
Thuật rằng: Ngay nơi tánh mà nêu thể. Năm chủng trước là tánh của phước không phải trí, vì Trí tuệ thứ sáu không phải tánh của phước, là tự thể của chánh trí. Lấy sự lân cận sinh khởi để nêu thể.
Luận: "Hoặc là ba chủng trước", đến "còn lại thông với hai thứ".
Thuật rằng: Ba chủng trước chỉ có phước, cách xa trí tuệ. Chủng thứ sáu thì chỉ có trí tánh là tuệ, các chủng còn lại thì thông với hai thứ, tức là tinh tấn và định, vì lân cận với tuệ cho nên cũng khởi tuệ. Quyển 36, quyển 78 và kinh Giải Thâm Mật nói cũng đồng với đây, các kinh luận đó giải thích rằng, ba chủng trước làm phước, chủng thứ sáu là trí, còn lại hai chủng thông với hai thứ. Hoặc y theo tinh tấn tu bố thí, trì giới, bốn vô lượng... thì gọi là phước. Hoặc y theo tinh tấn tu ba tuệ, sáu thiện xảo, quán bốn Đế và duyên sinh pháp... thì gọi là trí phần. Hoặc y theo Tĩnh lự tu bốn vô lượng thì gọi là phước. Hoặc y theo Tĩnh lự tu sáu thiện xảo thì gọi là trí phần, là trí có sáu thứ mỗi mỗi đều phân riêng, nên biết là vô lượng cho đến nói rộng. Văn này chỉ có ba đoạn, hoặc có đoạn thì lấy ba chủng trước làm phước, nghĩa như trước đã nói, ba chủng sau thì chỉ có trí, vì lân cận sinh trí. Hoặc có đoạn thì cho ba chủng trước cùng với định là phước, một chủng sau chỉ có trí, tinh tấn thì thông với hai chủng còn lại. Hoặc có đoạn thì lấy ba chủng trước cùng với định làm phước, tinh tấn và tuệ làm trí, vì sách tấn tuệ là thù thắng. Trong đây lại nói sáu chủng, như Tổng hợp Sao trong luận Đối Pháp quyển 12 nói. Từ trên đến đây, phước trí là một, chủng là hai đã nói xong.
Luận: "Lại có nhị chủng", đến "hạnh tự lợi lợi tha".
Thuật rằng: Tùy theo lực của ý lạc mà làm tất cả các công đức, đều thông với nhị lợi.
Luận: "Theo tướng riêng mà nói", đến "hạnh lợi tha nhiếp".
Thuật rằng: Là Bồ-đề phần. Đồng lấy thiền chi, mười tám bất cộng, các tướng và tùy hảo... là hạnh tự lợi nhiếp. Nhưng quyển 43 ghi: "Sáu độ chỉ có tự lợi, bốn Đế thì nhiếp lợi tha". Bốn chủng nhiếp sự và bốn vô lượng... đồng lấy thần thông, đại bi, bất hộ, ba niệm trụ đều là hạnh lợi tha nhiếp, chỗ mong trong đây là tổng tụ, từ trước đến nay phần nhiều làm luận, không phải y theo thể tánh, có y theo thể tánh đáng lẽ là bốn câu phân riêng. Hoặc chỉ có tự lợi, là tướng, tùy hảo... hoặc chỉ có lợi tha, là bốn nhiếp... hoặc tự lợi và lợi tha, là sáu Độ Ba-la-mật. Trong bố thí cũng có cả hai thứ lợi. Hoặc đều là phi lợi thì không phải công đức. Dưới đây, sáu đáo bỉ ngạn sẽ giải thích rộng. Pháp của Bồ-đề phần là bốn niệm trụ, bốn chánh cần, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi và tám Thánh đạo chi, tổng cộng ba mươi bảy thứ, như luận Đối Pháp quyển 10 Sao. Bốn nhiếp, như Đại luận quyển 43 ghi: "Bố thí, ái ngữ, lợi hạnh và đồng sự". Vì mười môn phân biệt là từ, bi, hỷ và xả, như các bài Sao của luận Đối Pháp quyển 13 và Biệt sao giải thích. Quyển 49 ghi: "Từ Thắng giải hạnh Địa cho đến đáo cứu cánh Địa có bốn thứ Bồ-tát hạnh: một là Ba-la-mật-đa, hai là Bồ-đề phần pháp, ba là thần thông, bốn là thành tựu hữu tình hạnh", tức là luận kia cũng ghi: "Ba mươi hai tướng và tám mươi tùy hảo tại chủng tánh Địa. Chỉ có chủng tử y theo thân mà trụ, biết rõ chủng tánh trụ chưa nhập Tăng-kỳ. Hoặc tại thắng giải hạnh Địa mới có thể tu bốn hạnh kia đắc phương tiện. Hoặc trong thanh tịnh tăng thượng ý lạc Địa mà gọi là đắc, tại các Địa khác thì chuyển thanh tịnh thù thắng, tại Như Lai địa thì thiện tịnh Vô thượng". Lại nữa, nói: "Hoặc các Phật pháp bất cộng, pháp thấp kém thì trước kia Bồ-tát cũng đã thành tựu, đến khi thành Phật thì thiện tịnh viên mãn". Lại nữa, tất cả Bồ-đề tư lương này có viễn có cận. Viễn là khứ Bồ-đề quả viễn, tức là chưa đạt được các tướng và tùy hảo khi quả Dị thục còn tại Địa tiền. Cận là khứ Bồ-đề cận, là mới đạt được các tướng và tùy hảo khi còn tại quả Dị thục. Từ đây trở đi dần dần thanh tịnh, y theo các văn này cho nên biết trong sơ kiếp tu tất cả Bồ-tát hạnh, tất cả Bồ-đề phần pháp. Tuy đắc phần ít thì chưa gọi là chứng, chưa đắc Vô lậu thì chưa gọi là đắc quả Dị thục, vì chưa thanh tịnh thù thắng.
Luận: "Các hạnh như vậy", đến "chỗ tu thắng hạnh".
Thuật rằng: Như vậy tất cả hạnh tự lợi và lợi tha đều là chỗ tu hành thù thắng của vị này.
Luận: "Hai chướng của vị này", đến "dũng mãnh bất thoái".
Thuật rằng: đoạn văn này phần đầu là tổng kết. Chữ luyện là rèn luyện, chữ ma là mài giũa, chữ luyện ma có nghĩa là tu trị.
Luận: "Một lần nghe Vô Thượng", đến "tu các thắng hạnh".
Thuật rằng: Nhiếp luận quyển 6 ghi: "Nhập vào trong nhân, có ba thứ luyện ma tâm, đoạn trừ bốn xứ, duyên theo cảnh của pháp nghĩa, chỉ và quán hằng thường ân trọng, vì gia hạnh không phóng dật". Trong đây chỉ có ba thứ luyện ma tâm. Thứ nhất trong luyện ma tâm nói: "Quảng là vô biên, đại là vô thượng, thâm là khó lường, viễn là thời gian lâu dài. Kia đã là trượng phu, ta cũng như thế, không nên tự khinh mà thoái lui". Luyện ma tâm thứ nhất là quảng thâm thoái; luyện ma tâm thứ hai là nan tu thoái-văn dễ hiểu; luyện ma tâm thứ ba là nan chứng thoái-dẫn thiện thô của người khác, những thiện có chướng thiện thì gọi là thô thiện. Nói hạnh thí, là người kia khi mạng chung thì liền được tất cả tự thể viên mãn đáng ưa thích mà sinh. Ta có diệu thiện không chướng ngại thiện, tại sao không đắc tất cả viên mãn? Viên mãn Phật quả tức là chuyển y, vì thâm diệu, công đức sẵn đủ, chuyển y của chư Phật khó có thể chứng. Luận kia đều giải thích rộng, không có nghĩa thú gì khác, ý của luận kia cùng với luận này đồng, không cần dẫn ra. Trước đã nêu ra Bồ-đề, sau lại nêu ra chuyển y, các luận thật ra đều đồng, trừ ra bốn xứ:
1. Lìa tác ý của Nhị thừa.
2. Nghi và lìa nghi.
3. Lìa ngã và ngã sở chấp của chỗ văn và tư.
4. Đoạn trừ phân biệt.
Duyên cảnh của pháp nghĩa, là duyên tợ cảnh và tợ nghĩa.
Như các luận kia nói rộng.
Luận: "Tiếp theo là gia hạnh vị, tướng nó như thế nào?"
Thuật rằng: Đây là hỏi để phát khởi.
Luận: "Tụng nói rằng", đến "không phải thật trụ Duy thức".
Thuật rằng: Dưới đây là đáp.
Luận: "Bồ-tát", đến "pháp thế thứ nhất".
Thuật rằng: Từ đây xuống, văn Trường hàng có mười đoạn:
1. Hiển nguyên nhân của vị.
2. Giải thích tên chung của vị.
3. Nêu ra pháp sở tu vị.
4. Giải thích tên gọi của bốn pháp và Địa.
5. Giải thích văn của tụng, chánh thuyết minh vị này cũng có sở đắc.
6. Giải thích vị này đối với tướng kia, cùng với thô trọng trói buộc phân biệt và câu sinh, phục và đoạn.
7. Cảnh sở quán của vị này.
8. Sở y là Địa nào?
9. Phân biệt giới và thú.
10. Phân biệt bảy Địa.
Đây là đoạn thứ nhất. Tổng là tổng kết các hạnh chỗ đã thực hành nói trên, do đắc kiến đạo mà lại tu thêm hạnh này, đáng lẽ bày ra cái tên của nó, nhưng đây là Tăng-kỳ thứ nhất tu tập đã mãn tâm, cho nên nói: "Trước kia đối với vô số Kiếp thứ nhất", đến nói rộng. Luận Đối Pháp và luận Trang Nghiêm cũng ghi: "Nói rằng các hàng Bồ-tát đã khéo tích tập hai thứ tư lương phước đức và trí tuệ, đã vượt qua vô số Đại kiếp thứ nhất, đã nghe và tùy thuận thông đạt các pháp Chân như của Khế kinh", đó là trì, là như lý mà mặc tình khởi ý. Tamma-địa là cảnh (gương soi), nương vào chỉ mà định tâm tư duy cảnh tượng Sở tri trong định, quán các cảnh tượng này không khác với định tâm, cho đến nói rộng. Minh, là do hạnh như vậy, cho đến xả lìa hai thứ năng thủ và sở thủ, chứng vô sở đắc, chánh nhập kiến đạo. Xả lìa tất cả thô trọng, đắc thanh tịnh chuyển y, là y. Bốn pháp trước là nhân của Địa, pháp thứ năm là quả của Địa. Cũng nói là vượt qua đầy Kiếp thứ nhất, đã tu bốn thiện căn, tức là sơ kiếp đầy tâm tu tập. Như trước đã dẫn kinh Anh Lạc làm chứng điều này đã xong. Chế phục tướng của hai thủ, văn sau sẽ tự nói.
Luận: "Tên chung thứ tư này", đến "Quyết Trạch phần".
Thuật rằng: Đây là phần thứ hai giải thích thuận Quyết Trạch phần. Chân thật Quyết Trạch phần, Quyết trạch là trí, tức là Trạch pháp. Quyết trạch tức là phần, gọi là Quyết Trạch phần. Quyết là lựa riêng với nghi phẩm, vì Trạch kia cũng có xen vào. Trạch là lựa riêng với kiến phẩm, vì kiến phẩm kia không có Trạch. Nghi phẩm thì có trạch mà không có quyết, kiến phẩm thì có quyết mà không có trạch, cho nên trí phẩm này gọi là Quyết Trạch phần. Phần có nghĩa là chi phần, tức là trạch pháp giác chi. Tại kiến đạo thì Trạch pháp này Vô lậu cho nên gọi là chân thật, vì làm Hữu lậu thì không phải là chân thật. Noãn... bốn pháp này thuận thú với phần kia cho nên gọi là thuận Quyết Trạch phần. Thuận thú, là hành tướng đồng với phần kia, cho nên gọi là thuận, mong cầu đến phần kia cho nên gọi là thú. Hành tướng trong đây đã cùng với phần kia đồng, lại cầu chứng phần kia cho nên gọi là thuận thú. Thuận giải thoát phần ở trước, đã là sơ phát tâm cầu cứu cánh quả, cho nên cách xa phần kia để được tự danh. Thuận Quyết Trạch phần lân cận với kiến đạo, mong tâm xa không bằng nghiệp bắt đầu, cho nên từ lân cận để được tự danh. Luận: "Vì gần với kiến đạo", đến "không có nghĩa gia hạnh".
Thuật rằng: Đây là giải thích tên gọi khác nhau. Tên của vị là gia hạnh đạo, gần với kiến đạo, tức là gia hạnh của kiến đạo, Cựu dịch nói là phương tiện đạo, luận này nói là gia hạnh, để hiển cùng với thiện xảo của Phật quả sai biệt. hạnh trong nhân chưa tròn đủ, sở hành cần phải gia công để cầu hậu quả thù thắng. Vạn hạnh trên quả đã đầy đủ thì sở hành chỉ là phương tiện lợi ích hữu tình, để hiển hai pháp khác nhau cho nên pháp này gọi là gia hạnh. Nhưng trong năm đạo thì pháp này riêng gọi là gia hạnh, vì gần với kiến đạo. Không phải tư lương trước không có nghĩa gia hạnh, để hiển tư lương trước cũng gọi là gia hạnh, luận Đối Pháp quyển 8 ghi: "Chỗ có tư lương đều gọi là gia hạnh đạo, có gia hạnh đạo mới không phải tư lương". Bốn thiện căn này không phải tư lương đạo, gia công mà tu hành sơ vị cũng gọi là gia hạnh, vì gần với kiến đạo mà nói riêng pháp này được tên là gia hạnh.
Hỏi: Lương thực giúp ích quả sau cho chính thân mình thì chỉ có sơ vị gọi là tư lương, gia công mà tu hành cầu quả thì bốn thiện căn riêng được gọi là gia hạnh không?
Đáp: Tư lương còn cách xa để mong đại quả, đầu tiên là được gọi tư lương, vì Vạn hạnh của gia hạnh gia công, sơ vị cũng gọi là gia hạnh.
Hỏi: Gia công mà hành Vạn hạnh thì sơ vị cũng được tên này. Bốn thiện căn cũng mong đại quả thì tư lương cũng thông với bốn thiện căn này?
Đáp: Sơ vị phát tâm rất dũng mãnh, bốn thiện căn không gọi là tư lương, Vạn hạnh tăng thêm lực mới là hạnh, sơ vị cũng gọi là hạnh.
Hỏi: Sơ Vị tâm dũng mãnh gọi là tư lương, bốn thiện căn gần với kiến đạo thì riêng gọi là gia hạnh? Đáp: Vì gần với kiến đạo thì gọi là gia hạnh, sơ vị không được tên này. Gia công Vạn hạnh mới là hạnh thì sơ vị cũng gọi là gia hạnh. Trong năm đạo, bốn thiện căn riêng gọi gia hạnh, vì gần với nghĩa của kiến đạo, cho nên sơ vị kia không được tên này. Gia công mới là hạnh thì sơ Vị cũng gọi là gia hạnh, đây là giải thích đồng nhau. Giải thích đồng nhau là tư lương quả của bốn thiện căn này cũng gọi là tư lương, nhưng mà văn của luận kia thì phần nhiều nương trụ vào hạnh bên ngoài, phước hạnh và trí hạnh thì phỏng theo lúc ban đầu mà nói. Nếu như thế thì kiến đạo cũng nên gọi là tư lương, vì tư lương của quả? Từ sự tăng thêm mà được tên, chỉ gọi là kiến đạo, không thể gọi là tư lương, cho nên biết từ sự thăng thêm mà được tên, đã gọi là gia hạnh thì không thể gọi là tư lương. Nghĩa căn cứ theo đó mà thành, cho nên giải thích trước là thù thắng. Phần thứ hai giải thích tên của vị đã xong.
Luận: "Noãn... bốn pháp", đến "lập vị thứ nhất và thứ hai".
Thuật rằng: Từ đây xuống là Vị thứ ba pháp sở tu, vị thứ nhất và thứ hai là tầm tư quán, hai vị sau là thật trí quán. Đoạn văn này là tổng kết. Thể tánh của tầm tư và như thật trí này, luận Đối Pháp quyển 11 ghi: "Suy cầu danh thì suy cầu đó là nghĩa quán sát", tức là chỉ có tuệ. Luận Vô Tánh ghi: "Suy cầu phương tiện của hạnh và kiến thì nhân tướng nói tên là tầm tư. Biết rõ sở đắc của giả hữu và thật vô thì quả tướng của phương tiện trí gọi là như thật trí", tức là chỉ có gia hạnh trí làm thể. Đây là phỏng theo hạnh suy cầu tăng thêm mà nêu ra thể. Hoặc gồm cả tướng tăng thêm thì năm căn, năm lực làm thể và câu hữu thì năm uẩn làm tánh, vì quyết định câu hữu trở thành sắc uẩn. Quyển 73 ghi: "Bốn pháp tầm tư, trong năm sự thì như lý tương ưng với phân biệt tổng nhiếp bốn thứ, chỉ có Hữu lậu. Tứ như thật trí thì tất cả đều là chỗ nhiếp của chánh trí", tức là chỉ có Vô lậu. Quyển 72 ghi: "Trong năm sự thì tướng thông với Hữu lậu và Vô lậu, cả hai chỉ là Hữu lậu và cả hai cũng chỉ là Vô lậu". Chân như là sở duyên của Chân trí, gọi là Vô lậu, không phải nghĩa là tướng lậu tận. Chánh Lậu tận trí có nghĩa là đối trị, cho nên gọi là Vô lậu. Nhiếp luận ghi: "Do bốn tầm tư và như thật trí
-trong văn nghĩa tương tợ là nói về ý nghĩa-liền có thể ngộ nhập tánh Duy thức". Quyển 72 kia lại ghi: "Tứ tầm tư thì trong noãn và đảnh, thật trí thì trong nhẫn và pháp thứ nhất". So với luận này cũng đồng, tức là như thật trí cũng thuộc Hữu lậu nhiếp. Quyển 48 trong Trụ thứ mười ghi: "Trụ trong trụ này thì đắc vô sanh pháp nhẫn rất thanh tịnh", điều này là tại sao? Là các hàng Bồ-tát do bốn tầm tư, đối với tất cả pháp đã chánh tầm tư trước khi đạt được bốn như thật trí, như thật biết rõ tất cả các pháp thì lúc đó tất cả chỗ chấp của Tà phân biệt đều xa lìa. Trong pháp hiện tại đều tùy thuận vô sinh quán của tất cả tạp nhiễm, cho đến nói rộng. Như thật trí này bắt đầu từ thắng giải hạnh trụ, cho đến hữu gia hạnh hữu công dụng trụ, chưa thanh tịnh cùng cực. Hiện tại trụ này đã được thanh tịnh, do đó gọi là vô sanh pháp nhẫn, tức là như thật trí là thể của vô sanh nhẫn. Nhưng thật nghĩa này, tầm tư chỉ có Hữu lậu, chỉ có tâm gia hạnh suy cầu, vì không phải căn bản trí và Hậu đắc trí. Như thật trí thông với Hữu lậu và Vô lậu, vì thông với gia hạnh, căn bản và Hậu đắc trí. Vị này chỉ có nhẫn có thể là quả, hai vị kia chỉ có gia hạnh là nhân. Trong quyển 73 chỉ y theo Vô lậu mà nói là thể của Vô sanh nhẫn, không nói thông với Hữu lậu, các kinh luận khác thì căn cứ thông với Hữu lậu và Vô lậu. Vị chưa ấn khả gọi là tầm tư, khi khởi nhẫn ấn thì gọi là như thật trí. Trung nhẫn tuy cũng quán không có năng thủ, nhưng cũng chưa được ấn khả, trước khi được ấn thì cũng gọi là thật trí, không phải tầm tư cùng với tầm tương ưng. Nếu không như thế thì các Địa trên không có noãn và đảnh. Quyển 36 ghi: "ngu phu đối với bốn như thật trí này, vì gia hạnh thiếu sót cho nên không hiện tiền, liền có tám thứ tà phân biệt, có thể sinh ra ba sự, có thể khởi hữu tình và khí thế gian. Nếu khi liễu tri thì liền trừ tám phiền não này". Đẳng nghĩa môn này cũng như luận Hiển Dương quyển 6 nói. Luận: "Tứ tầm tư", đến "giả hữu mà thật vô".
Thuật rằng: Tên của tất cả pháp và nghĩa của nó, đã ở duyên cảnh pháp nghĩa của vị trước, văn tương tợ trong đó, nghĩa của văn (tự) và danh chỉ là nói về ý nghĩa, y theo văn và danh này cũng chỉ là nói về ý nghĩa. Luận Vô Tánh quyển 6 ghi: "danh trong đây là sắc và thọ cũng nhiếp tầm tư của danh nhân và danh quả. Danh nhân là tự (chữ), tự thân, nhiều tự thân và thanh (tiếng). Danh quả là cú, danh thân, nhiều danh thân, cú thân và nhiều cú thân, đều gọi là đó là quả. Luận Đối Pháp quyển 11 ghi: "Nói rằng suy cầu các pháp tự tướng của danh thân, cú thân và văn thân đều không thành thật sự. Danh chiêu gọi pháp thù thắng, chỉ nói là tầm danh. Nghĩa thì như sở thuyên biểu của danh thân đắc uẩn, xứ và giới. Hoặc thể hoặc nghĩa gọi chung là nghĩa, vì nghĩa thì rộng cho nên không nói tự thể của nó. Suy cầu năng thuyên và sở thuyên quyết định không tương ưng. Trong đây chỉ có quán sở chấp của vọng tình, năng thuyên và sở thuyên chỉ có ý nói về tánh. Trong ý nói, chỉ y theo văn nghĩa khác mà không nói là không có, tức là y theo năng thuyên và sở thuyên của sở thủ, quán này chì là ý nói về tánh. Luận Đối Pháp ghi: "Đây là tại noãn vị và đảnh vị, vị này chỉ có quán sở thủ không có, cho nên kế sở chấp cũng không có, không phải Y tha khởi. Nếu không như thế thì trở thành tâm điên đảo, vì Y tha thì hữu quán thành vô. Luận Vô Tánh ghi: "Tầm tư y theo chỗ biểu hiện ngoại sự của danh chỉ có ý nói về tánh". Tư duy nghĩa này tương tợ tướng bên ngoài chuyển, nhưng thật ra chỉ ở tại bên trong, không phải không có văn nghĩa nói Y tha bên trong. Hai thứ văn nghĩa này chỉ có bên trong pháp, giả gọi là có văn nghĩa bên ngoài pháp, cho nên nói chỉ là giả. Đây là quán tất cả Hữu vi và Vô vi đều nhiếp trong nghĩa, đây là khắp tất cả các Hữu pháp. Y theo hai pháp này mà quán thì ngoài tâm tự tánh của nó cũng không có, chỉ là giả lập như thể của ngã và pháp. Sự sai biệt cũng như thế, như nghĩa của vô thường. Luận Vô Tánh ghi: "Chứng biết bốn thứ hư vọng hiển hiện là do Y tha khởi nhiếp thì liễu đạt bốn thứ Biến kế sở chấp đều là Bất khả đắc". Quyển 36 trong Chân thật nghĩa phẩm ghi: "Chư Bồ-tát này đối với danh và sự kia, hoặc quán ly tướng, hoặc quán hợp tướng". Thành hợp tướng quán cho nên thông đạt hai chủng giả lập của hai thứ tự tánh và sai biệt, y theo ly tướng quán mà quán tự tánh của hai chủng. Đã trước hết từ gia hạnh khởi tư tầm tư, bốn tầm tư thì chắc chắn đã có trí quả, tiếp theo phân rõ trí quả.
Luận: "Như thật biến tri", đến "gọi là như thật tri".
Thuật rằng: Bốn tầm tư trước quán bốn cảnh của kế sở chấp lìa thức thì không có, chỉ quán sở thủ không có, chưa quán năng thủ. Như thật trí nhẫn này có thể trước cảnh lìa thức thì không phải có. Sở thủ đã trống rỗng thì năng thủ của năng biến tri, thứ của nó lìa cảnh bên trong thức bên trong quyết định không phải có, và năng thủ cũng trống rỗng. Biết rõ thức bên trong và tướng sở biến không lìa nhau, như tướng Duy thức của các huyễn sự, đã biết như huyễn rồi thì trên Y tha này không có kế sở chấp thì gọi là hai Không. Y theo đây là thành môn để quán Không lý kia mà nhập Viên thành thật. Điều này tại bốn thiện căn thì chỉ tương tợ quán ba tánh, vì chưa chứng Chân như. Khi bốn tầm tư trước không có sở thủ thì noãn vị là hạ vị phục trừ, đảnh vị là thượng vị phục trừ, vì ban đầu phục trừ sở thủ thì khó, cho nên phân ra thượng và hạ. Đến như thật trí vị, hạ nhẫn ấn vô sở thủ, trung nhẫn thuận với vô năng thủ mà quán phục trừ năng thủ, thượng nhẫn khởi vị ấn vô năng thủ, đều là như thật trí quán các phẩm dưới. Tu tập lâu, khi phục trừ năng thủ thì chỉ có trung nhẫn, thượng nhẫn thì ấn. Thế pháp thứ nhất thì cũng song song ấn hai Không, gọi là như thật trí quán các phẩm trên. Đây là đối với các vị tại Địa tiền mà phân rõ thượng trung hạ, hoặc các vị đã nhập Địa mỗi mỗi đều có thượng và hạ. Căn cứ theo quyển 48 trong Địa thứ tám nói, tức là từ nhập Địa trở đi không khởi tầm tư quán, chỉ khởi như thật trí quán, vì đã trừ hai thủ, không cần phải quán sở thủ là giả hữu. Hai thủ không có cho nên chỉ khởi như thật trí quán, vì bảy Địa trở về trước cũng chưa thanh tịnh. Thể này tức là thể của vô sanh nhẫn, vì đã đắc Sơ địa, không cần phải khởi bốn tầm tư quán.
Hỏi: Tại sao danh và nghĩa của các pháp mỗi mỗi đều phải riêng tìm cầu?
Đáp: danh, nghĩa, tự tánh và Sai biệt là hợp chung lại để quán.
Luận: "Tướng của danh nghĩa khác nhau", đến "cho nên hợp chung tư duy quán sát".
Thuật rằng: Hai thứ danh nghĩa, một là tự tánh đồng, hai là sai biệt đồng, cho nên hợp chung hai thứ tự tánh của danh nghĩa và hai sai biệt làm một hợp quán. Hai thứ trước là danh và nghĩa, hai thứ sau là tự tánh và sai biệt, danh và nghĩa là nêu ra sự tìm cầu, để hiển tìm là cầu, đây là một hình ảnh này có tư duy quán sát, tự tánh và sai biệt nêu ra tư sát, để hiển tư duy là quán sát, là suy, là quán, đây là hai. Hình ảnh này có tìm cầu cho nên các luận nói suy cầu danh và nghĩa, quán sát danh nghĩa là vậy. Trước đã dẫn luận Du-già quán ly tướng và hợp tướng. Ly quán là danh nghĩa quán, hợp tướng là tự tánh và sai biệt. Đây là phần thứ ba nêu ra pháp sở tu, từ đây xuống phần thứ tư là giải thích tên của Tứ Địa.
Luận: "Y theo minh đắc định", đến "cho nên cũng gọi là noãn". Thuật rằng: Minh đắc là định, tầm tư là tuệ, cho nên gọi là phát.
Hai thứ này đồng thời gọi là phát, như Thế pháp thứ nhất gọi là Vô gián định. Minh là Vô lậu tuệ, tướng minh ban đầu đắc Vô lậu tuệ, cho nên gọi là minh đắc, định của minh đắc thì gọi là minh đắc định. Trong đây mới quán Y tha của bốn pháp đều do tự tâm biến. Đây là giả thi thiết có danh có nghĩa, có tự tánh có sai biệt, thật ra tánh danh nghĩa đều là bất khả đắc. Nhưng trong Y tha thì danh gọi là giả, pháp không có danh, danh không có nghĩa, không có thật tự tánh và nghĩa sai biệt. Hiện tại luận này gọi danh nghĩa cho đến sai biệt, lẽ nào không phải là giả? Như Nhiếp luận nói minh đắc và noãn, cứ theo trong đây giải thích thì hành nói là khởi, từ ví dụ mà đặt tên, như mặt trời mới mọc có tướng khởi trước, là tướng ánh sáng. Nếu nói hành tướng của tuệ minh khởi trước thì cũng được, ở đây y theo giải thích trước.
Luận: "Y theo minh tăng định", đến "cho nên lại gọi là đảnh".
Thuật rằng: Đảnh có nghĩa là cùng cực, văn dễ có thể hiểu. Minh tướng chuyển thịnh lên gọi là minh tăng. Từ đây trở lên, danh của các luận đều đồng.
Luận: "Y theo ấn thuận định", đến "cũng thuận với lạc nhẫn".
Thuật rằng: Ấn sở thủ trước không thuận với năng thủ sau, cho nên không gọi là ấn thuận định. Chữ thuận thông với hai thứ, một là lạc thuận, hai là ấn thuận. Hoặc ba phẩm này đều gọi là nhẫn thì trong thượng vị và hạ vị đều ấn nhẫn, cho nên lập tên là ấn thuận, một tên ấn thuận thông với Thuận thứ nhất và thứ hai. Hai chữ lạc thuận chỉ ở tại trung nhẫn, cho nên hợp chung lại chỉ nói là ấn thuận định. Lại nữa, sai biệt là nhẫn phẩm hạ gọi là ấn nhẫn, vì ấn chứng sở thủ không có. Nhẫn phẩm trung gọi là lạc thuận, vì vui mừng không có năng thủ, thuận với pháp tu kia. Khi nhẫn phẩm thượng khởi thì chỉ gọi là ấn thuận, vì ấn chứng năng thủ không có, thuận với pháp quán kia, cho nên hợp chung ba nhẫn lại gọi là ấn thuận định. Nhẫn là trí, ấn thuận đều là định, cho nên gọi là ấn thuận định. Thuận thứ nhất và thứ hai cứ theo giải thích này. Đối với Vô sở thủ quyết định ấn trì, là hạ nhẫn vị. Trong Vô năng thủ cũng thuận với lạc nhẫn, là trung và thượng nhẫn vị, chữ thuận thì thông với trung vị và thượng vị, chữ lạc thì chỉ ở tại trung vị.
Luận: "Đã không có thật cảnh", đến "vì tương đãi mà lập".
Thuật rằng: Biến kế sở chấp của sở thủ đã không có thì kế sở chấp năng thủ kia làm gì có!
Luận: "Khi ấn thuận nhẫn tổng lập làm nhẫn".
Thuật rằng: Nhiếp luận ghi: "Nhập một phần Tam-ma-địa của chân nghĩa", tức là ấn chứng sở thủ không có, gọi là một phần. Luận Đối Pháp quyển 8 ghi: "Một phần đã nhập tùy thuận Tamma-địa". Luận đó giải thích rằng: "Một phần đã nhập, đối với vô sở thủ từ xưa đến nay giải thích là nhẫn, hiện tại tức là hạ nhẫn vị. Một phần tùy thuận, đối với vô năng thủ tùy thuận thông đạt với sở y xứ, hiện tại tức là thượng nhẫn", cho nên văn này hay hơn danh của Nhiếp luận, nhưng không bằng trong luận này, vì luận kia không phân hai vị trung nhẫn và thượng nhẫn, là trung nhẫn chỉ có lạc thuận tu vô năng thủ, nhưng chư ấn chứng vô. Thượng nhẫn thì ấn chứng vô năng thủ, cho nên cùng với trung nhẫn khác nhau. Luận kia tuy có câu "một phần thuận" nhưng không phân riêng lạc thuận và ấn thuận. Khi Thượng trung hạ phẩm Ấn nhẫn và Thuận nhẫn hợp chung thì ba vị này trong bốn thiện căn tổng lập làm nhẫn. Nhẫn thông với hai xứ, tức là ấn nhẫn và thuận nhẫn, cho nên khi hợp lại làm luận nói là ấn nhẫn và thuận nhẫn thì ba vị này gọi chung là nhẫn trong thiện căn.
Luận: "Ấn trước thuận với ấn sau", đến "cho nên cũng gọi là nhẫn".
Thuật rằng: Gọi ấn thuận là ấn chứng sở thủ trước không có, thuận với năng thủ sau không có, và ấn chứng năng thủ không có cho nên lập tên ấn thuận, đây là giải thích biệt danh của ba vị. Ba vị này nhẫn đối với cảnh Không và thức Không cho nên cũng gọi là nhẫn, trung nhẫn tuy không ấn khả nhưng thuận với lạc nhẫn khả cho nên cũng gọi là nhẫn, vì trong đây chính là nhẫn thuận với nhẫn đều gọi là nhẫn, không thể vấn nạn rằng trong đảnh vị... cũng thuận với hạ nhẫn thì các vị kia đáng lẽ gọi là nhẫn, vì vị thứ nhất chưa có nhẫn. Vị thứ nhất và vị sau trong nhẫn đều có nhẫn, cho nên lập tên là nhẫn, là nhẫn loại của nó cho nên cũng gọi là nhẫn, không đồng với noãn.
Luận: "Y theo Vô gián định", đến "Thế pháp thứ nhất".
Thuật rằng: Cùng với kiến đạo gần nhau song song ấn chứng hai Không, văn đó có thể hiểu. Vô gián tức là định, hoặc là định của Vô gián, cả hai giải thích đều được. Đây là giải thích riêng về thể của bốn thiện căn đã xong, trên đây là giải thích tên của bốn vị.
Luận: "Noãn đảnh như vậy", đến "song song ấn Không tướng".
Thuật rằng: Từ đây trở xuống là phần thứ năm tổng nhiếp nghĩa trên, giải thích văn tụng. Tổng kết nghĩa trước, văn đó dễ hiểu. Trong trung nhẫn thuận với lạc nhẫn khả, là thuận với nhẫn thượng phẩm tu vô năng thủ, vị sau của lạc.
Luận: "Vì đều là đới tướng", đến "mới thật an trụ".
Thuật rằng: Trên tâm biến như, gọi là thiểu vật, đây không phải là không có tướng cho nên gọi là đới tướng. Tướng là tướng trạng, nếu khi chứng Chân như thì tướng này liền diệt mất, tướng đó tức là Không sở chấp tướng. Hữu Y tha tướng gọi là Không hữu tướng. Nói rằng tướng và Không tướng là chân Thắng nghĩa tánh của Duy thức kia. Chân là tên khác của Thắng nghĩa, là Thắng nghĩa thư tư, lựa riêng với ba Thắng nghĩa trước, do có tướng này mà chưa chứng Chân lý. Diệt trừ Hữu tướng và vô tướng thì liền nhập Chân như.
Luận: "Y theo nghĩa như vậy", đến "sau xúc vô sở đắc".
Thuật rằng: Bài tụng trong đây, là Nhiếp Đại thừa luận nói hai bài tụng giáo thọ, truyền dạy cho Bồ-tát. Bài tụng của phân biệt luận Du-già này là sáng tác của Di-lặc, là chỗ dẫn chứng của thế thân, là cổ nhân nói phân biệt quán luận. Bồ-tát trong định vị, là hiển không phải tán loạn. Trong tư lương vị phần nhiều trụ ngoại môn, định vị này thì phần nhiều tại định nội môn mà tu hành. Quán ảnh tượng chỉ là tâm, quán ảnh của cảnh bên trong nội tâm, lìa tâm không phải có, chỉ là nội tâm. Sơ vị quán này thì ở tại noãn vị, cảnh bên ngoài tâm Biến kế sở chấp, nghĩa tướng đã diệt trừ, quán sát chỉ có tự tướng, chỉ có nội tâm, tức là tại đảnh vị. Trên đã tổng kết hai vị noãn và đảnh, trụ nội tâm như vậy, biết sở thủ chẳng phải có, hai câu này là hạ nhẫn vị. Kế đó năng thủ cũng không có, là trung và thượng nhẫn vị, hợp chung hai vị này đều là án chứng hai Không, tức là Thế pháp thứ nhất. Vì thời gian ít cho nên từ nhẫn vị mà nói, sau đó xúc chạm vô sở đắc thì nhập Chân kiến đạo. Trên đây là phần thứ năm giải thích bài tụng, thuyết minh trong vị này cũng còn hữu sở đắc. Từ đây trở xuống là phần thứ sáu đoạn nhị phược vị.
Luận: "Gia hạnh vị này", đến "cũng chưa có thể đoạn".
Thuật rằng: Tướng phược là Tướng phần phược Kiến phần, như quyển 5 trước nói trong phần dẫn chứng Thức thứ bảy có, là tất cả tâm Hữu lậu thiện, Vô ký và Bất thiện... đều có phân riêng Tướng phần, tướng này có thể trói buộc tâm, không phải nói phược tức là chấp, mà có nghĩa là tám thức đều có chấp. Tướng phược đối với Kiến phần thông với tám thức, có nghĩa không đúng, vì tám thức Hữu lậu có phân biệt. Tướng phược của phân biệt đối với Kiến phần gọi là tướng phược, không phải chủ yếu là có chấp.
Nếu tướng không chấp cũng gọi là năng phược thì Tướng phần của Hậu đắc trí phẩm đáng lẽ cũng là năng phược?
Đáp: Không phải. Hậu đắc trí kia do đoạn lậu mới đắc, thể không phải cứng nhám, không phải Tướng phần của lậu sở tăng, không phải cảnh phân biệt, sau khi đắc thì Kiến phần duyên tất cả tướng đều thành chứng giải. Hữu lậu thì không như thế, vì có phân biệt, vì đồng thời với lậu tướng, vì là lậu sở tăng, vì không phải do đoạn lậu mà chứng, khi duyên tất cả cảnh thì không phải đều là chứng giải. Hoặc vì tỷ lượng, hoặc trong tâm thiện, hoặc Vô phú Vô ký tâm chỉ có hiện lượng và tỷ lượng, tâm nhiễm ô của nó cũng thông với phi lượng. Đó là nguyên nhân tướng phược có thể câu thúc chướng ngại Kiến phần, không khiến cho minh tịnh, không khiến cho chứng tri, cho nên có khác nhau. Tất cả pháp Hữu lậu có thể trói buộc Kiến phần thì đều gọi là tướng phược.
Hỏi: Nếu như thế tự chứng phần duyên Kiến phần thì trói buộc tự chứng phần hay sao?
Đáp: Có nghĩa cũng là trói buộc, vì là loại Hữu lậu. Có nghĩa cũng không phải, vì không đồng với Kiến phần duyên Tướng phần, vì tự chứng nắm bắt bên ngoài, chỉ là hiện lượng dấy khởi chứng Tướng phần.
Hỏi: Nếu như thế thì hiện lượng tâm Tướng phần của Thức thứ tám đáng lẽ không phải là thể của tướng phược?
Đáp: Do Kiến phần này cũng trói buộc tự chứng phần, vì là loại phân biệt, vì không minh tịnh, vì lậu tâm của Kiến phần tăng thêm tự chứng phần. Tướng mạo của Hữu lậu trói buộc năng quán tâm, gọi là tướng phược, không phải cho rằng tướng đó là Tướng phần. Kinh nói năng thủ và sở thủ triền phược, tức là nghĩa bốn phần trói buộc lẫn nhau, không như thế thì Kiến phần liền không phải là tướng phược, tự chứng phần khi duyên thì cũng không gọi là Tướng phần. Thô trọng phược, tức là tất cả pháp Hữu lậu. Đại luận quyển 58 ghi: "Thô trọng có hai thứ, một là lậu, hai là Hữu lậu. Lậu là A-la-hán khi Tu đạo phiền não đoạn thì đều viễn ly lậu này. Nói rằng có tùy miên, là có thức trong thân, tánh bất an ẩn, không có tánh khả năng Kham nhận. Hữu lậu thô trọng, là khi tùy miên đoạn từ chỗ sinh lậu, chỗ huân và phát lậu vốn tánh sở đắc, tánh bất an ẩn, tánh khổ nương tựa, và cùng với lậu kia tương tợ không có tánh khả năng kham nhận đều được mỏng nhẹ hơn. Văn Thù Vấn kinh quyển thượng phẩm hữu tập khí có hai mươi bốn thứ, tụng của kinh đó ghi: "Tập khí A-la-hán, vì có lỗi lo, chỉ có Phật độ được, vì chúng sinh quy y". Quyển 58 lại ghi: "Hữu lậu này thô trọng, gọi là phiền não tập, là chỗ Nhị thừa chưa đoạn được, chỉ có Như Lai mới đoạn được rốt ráo, cho nên nói tên của Ngài là vĩnh đoạn tập khí, là bất cộng phật pháp". Đại luận quyển 2 ghi: "Chỗ có Hữu lậu chủng tử trong tự thức, nếu là chỗ nhiếp của phiền não phẩm thì gọi là thô trọng, cũng gọi là tùy miên, nếu là chỗ nhiếp của Dị thục phẩm và các Vô ký phẩm khác thì chỉ gọi là thô trọng, không gọi là tùy miên, nếu là chỗ nhiếp chủng tử của tín... các pháp thiện thì không gọi là thô trọng, cũng không phải tùy miên. Do đây khi pháp sinh, sở y tự chứng phần chỉ có khả năng kham nhận, không phải không khả năng kham nhận". Chỗ tùy của thô trọng là chỗ sinh của tự tánh, cho nên Phật nói là hành khổ. Luận Đối Pháp quyển 10 nói hai mươi bốn thứ thô trọng. Sở tri chướng thô trọng thuộc Dị thục phẩm nhiếp, Dị thục phẩm thô trọng cũng Dị thục phẩm nhiếp. Lãnh thọ thô trọng thì nhiếp tất Hữu lậu thọ, tức là thiện thọ cũng trong đó. Mệt nhọc thô trọng tức là Oai nghi Vô ký, các Vô ký khác cũng nhiếp. Các văn trái nghịch nhau như vậy không phải một, nhưng tổng hợp các văn này thì như Biệt sao nói. Căn cứ theo văn của quyển 58 thì thô trọng phược tức là tất pháp Hữu lậu, vì lậu và Hữu lậu đều thô trọng. Do tướng phược chưa đoạn mà có tướng phân biệt, cho nên vô kham nhậm thô trọng phược cũng chưa đoạn được. Luận Hiển Dương quyển 16 ghi: "Do hai thứ tướng phược và thô trọng phược chấp hai tự tánh", là chấp Y tha và kế sở chấp. Nếu giải thích hai thứ phược đối với hai tự tánh chính là Vô sở đắc và Vô sở kiến thì luận kia phỏng theo tâm chấp mà giải thích phược, nếu không phải tâm chấp thì luận kia liền không nói, vì căn cứ theo tăng. Quyển kia lại ghi: "Tánh Y tha khởi này lấy tướng phược và thô trọng phược làm thể". Tại sao nói là Y tha? Do hai thứ này lẫn nhau làm duyên mới được sinh, là tướng phược làm duyên khởi thô trọng phược, thô trọng làm duyên sinh tướng phược. Tướng phược thì phỏng theo tướng hiện hành, thô trọng phược thì phỏng theo chủng tử mà nói.
Hỏi: Khi luận về thể của nó, các luận đều cho là cùng làm duyên lẫn nhau mà đắc, nhưng văn của luận này thì lấy tướng phược làm hiện hành, thô trọng phược thì làm chủng tử, vì tướng Hữu lậu chưa trừ, chủng tử của hai chướng chưa diệt. Không như thế thì tại sao trong luận này nói tướng phược chưa diệt thì thô trọng phược không đoạn?
Đáp: Trước đã nói tướng phược là chấp hai tánh, nên tế nhị suy xét các văn kia trái nhau. Trong luận này nói tướng phược là tất cả Hữu lậu tướng; nói thô trọng là tất cả tánh bất an ẩn của Hữu lậu, đồng với Hữu lậu thô trọng của luận Du-già quyển 58. Sơ địa thì đắc từng phần, Thức thứ sáu trong Địa thứ tám thì đắc hoàn toàn, xưa nay không khởi. Thức thứ bảy thì không có từng phần. Năm thức trước và Thức thứ tám thì hoàn toàn có, thô trọng tùy theo đó mà ứng khởi, Phật Địa thì hoàn toàn không có. Hiển Dương luận quyển 19 ghi: "Tướng phược trói buộc chúng sinh, cũng do thô trọng phược. Khéo song tu chỉ quán, mới đều được giải thoát", câu văn coi như giải thích ý trên.
Luận: "Chỉ có thể phục trừ", đến "chưa diệt hết hoàn toàn".
Thuật rằng: Chính trong vị này (gia hạnh), phân biệt hai thủ hoàn toàn có thể phục diệt, cho đến vi tế là tự phân biệt khởi cũng không hiện hành, vì câu sinh hai thủ chưa hoàn toàn phục diệt. Như chỗ nói ở trước, thừa nhận ít phục diệt thì tức là hiện hành, vì phân biệt thì hoàn toàn phục diệt, câu sinh thì ít phục diệt. Hoặc chủng tử của hai thứ câu sinh và phân biệt hoàn toàn chưa diệt được thì chưa đắc Hữu sở đắc Vô lậu, vì có phân biệt. Phần thứ sáu trên đây, phân tướng riêng phược và thô trọng phược, phân biệt phục và đoạn của câu sinh hai thủ. Từ đây trở xuống là phần thứ bảy thuyết minh cảnh sở quán.
Luận: "Bồ-tát trong vị này", đến "chỉ có quán an lập".
Thuật rằng: Vị này Bồ-tát đối với an lập đế và phi an lập đế đều cũng là học duyên, hoặc tổng làm nhất thật Chân như, hoặc riêng làm hai Không Biệt và Tổng ba tâm Phi an lập, không phải chỉ có làm bốn Đế sai biệt quán. Kinh Thắng Man ghi: "Bốn Đế của hữu tác và vô tác thì vô tác bốn Đế tức là Phi an lập, vì có sai biệt và danh ngôn thì gọi là an lập, không có sai biệt và lìa danh ngôn thì gọi là Phi an lập. An lập có nghĩa là thi thiết. Bồ-tát trong vị này, nếu gia hạnh không khởi hai thứ quán thì không thể dẫn khởi sinh hai thứ Chân như và Tướng phần Kiến phần, vì cũng không thể phục trừ Nhị thừa. Vì nhập hai Không quán Chân như lý, chính là quán Phi an lập để khởi Du quán, khởi thắng tấn đạo, thành thục Phật pháp. Hàng phục Nhị thừa thì cũng quán An Lập, nhưng Nhị thừa là tự tông, chỉ nói khởi bốn Đế an lập quán, Bồ-tát thì không như vậy. Luận này nói Nhị thừa cũng khởi nhân Không Phi an lập quán, nhưng không đồng với Bồ-tát, vì Bồ-tát thì hai Không đồng thời khởi, để hiển chỗ yếu kém của Nhị thừa cho nên không nói. Lại nữa, Nhị thừa cũng chỉ có khởi an lập, không đồng với Bồ-tát, vì hạnh và trí của Bồ-tát sâu rộng, Nhị thừa kia không phải như vậy. Từ đây xuống là phần thứ tám phân rõ sở y xứ.
Luận: "Bồ-tát khởi vị này", đến "nhập kiến đạo".
Thuật rằng: Thông ba Thừa trong quyển 69 ghi: "Chỉ nương vào các Tĩnh lự, sơ cận phần và vị chí (chưa đến) thì có thể nhập Thánh đế hiện quán, không phải Vô sắc định. Xa-ma-tha trong Vô sắc định thì hơn Tỳ-bát-xá-na thì kém. Tỳ-bát-xá-na đạo lực yếu kém thì không thể nhập hiện quán. Luận Hiển Dương quyển 16 ghi: "Hiện quán nương vào đâu? Chỉ nương vào Tĩnh lự, không nương vào Vô sắc".
Hỏi: Nếu có đối với chỗ chấp sáu Địa trung gian này đều có thể nhập hiện quán thì kinh luận nào có văn "trung gian có thể nhập?" Nếu trong sáu Địa có thể nhập hiện quán thì trong quyển 69 tại sao chỉ nói là Tĩnh lự, sơ vị chí? Lại nữa, tại sao trong sáu hiện quán của quyển 71 ghi: Sáu hiện quán này có mấy pháp nương vào vị chí y cho đến Vô sở hữu xứ y có thể đắc?
Đáp: Nhất y và phi y có thể đắc, ngoài ra đều nương vào tất y có thể đắc. Lại nữa, ba y và năm y sinh khởi thì một chủng và một phần cũng như thế.
Nếu trung gian thiền có nương nhập hiện quán thì đáng lẽ nói ba y sáu y sinh khởi, vì khi mới sinh thì ba thứ trí đế, biên và giới (luật) chỉ nương vào năm y mà sinh khởi, không nói sáu Địa mà chỉ thuyết minh trung gian thiền không nhập hiện quán.
Hỏi: Tại sao không nương vào trung gian mà nhập?
Đáp: Vì trung gian kia không có minh lợi Vô lậu. Có minh lợi Vô lậu thì có thể nhập. Lại nữa, trung gian kia là Phạm vương ở phần nhiều là tán loạn, không phải thuần tịnh Địa. Văn của luận Dugià nói nương vào các Tĩnh lự và sơ vị chí, không nói trung gian nhập kiến đế. Trong đây lại nói khi Tiền phương tiện thông với các Tĩnh lự mà nương vào Thiền thứ tư thì mới được đầy đủ, tức là sau cùng chỉ nương vào Thiền thứ tư. Thiền thứ tư thì mong các thiền thù thắng khác, vì phải nương vào tối thắng y để nhập kiến đạo, không nương vào cõi dưới mà nhập. Có công đức của Bồ-tát, quyển 69 ghi: "Tuy các Tĩnh lự đều có thể dẫn phát, phần nhiều nương vào Tĩnh lự thứ tư". Không đồng với Nhị thừa, vì cõi Dục đó không có tu tuệ, không có bốn thiện căn và Vô lậu cho nên không nói nương vào đó mà nhập. Trước nói trong hai mươi hai căn, vị tri đương tri căn thông với Vô sắc, vì kiến đạo bàng tu của Bồ-tát do mà đắc. Nếu không có kiến đạo và bốn thiện căn thì tại sao nói Tu đạo kia? Quyển 69 ghi: "Khi nhập kiến đạo, như chỗ tu trước hết là chủng tử của các Thế tục trí". Do kia huân tu mà đều đắc thanh tịnh thì cũng gọi là tu. Đây gọi là đế hiện quán biên các Thế tục trí, nêu ra kiến đạo đã sinh khởi trí này, tức là từ phát tâm trở đi đều gọi là vị tri đương tri căn. Kiến đạo bàng tu có trước Thế tục trí cho nên gọi là căn này, có ý muốn hiển trước khi khởi cũng gọi là căn này, tức là Thế tục trí đã có trước khi gọi là vị tri đương tri căn này. Khi nhập kiến đạo thì đã có bàng tu cho nên gọi là căn này, không phải nói rằng Vô sắc có kiến đạo và bốn thiện căn, vì bốn thiện căn chỉ có cõi Sắc hệ, đây là chỉ nương vào một nghĩa. Nếu như thế thì Tu đạo vị đáng lẽ khởi vị tri đương tri căn? chủng tử không khác nhau, nhưng phỏng theo vị và hành tướng thì đều có khác, hiện tại chí tu thì đều duyên khắp, chỉ gọi là dĩ tri nhiếp. Lại nữa, quyển 69 ghi: "Khi sơ trí của kiến đạo sinh thì các trí khác nương đó mà sinh duyên chỗ Nhiếp thọ, cho nên đều gọi là chuyển, lúc này đều không riêng đắc, cho nên chủng tử của cõi Vô sắc trở nên Vô lậu. Đây là khi kiến đạo gọi là tu, là căn này nhiếp. Luận Đối Pháp quyển 6 ghi: "Không tu cõi trên, là y theo Nhị thừa và bất tự tại mà nói". Hoặc trước đã đắc tự tại thì Tu đạo cũng thông với Vô sắc, như loại trí duyên. Như quyển 69 ghi: "Đây tức là Địa sở y của Thức thứ tám. Nhị thừa nương vào năm Địa, Bồ-tát thì chỉ nương vào Thiền thứ tư". Các luận đều lấy chung phương tiện mà làm luận. Nói Bồ-tát đã y theo năm Địa, trong đây giải thích Thế pháp thứ nhất và tăng thượng nhẫn chỉ có bốn định, ngoài ra còn thông với các Địa khác.
Luận: "Chỉ nương vào cõi Dục", đến "vì không phải thù thắng".
Thuật rằng: Quyển 69 ghi: "Không phải sinh lên Địa trên, hoặc cõi Sắc hoặc cõi Vô sắc". Có thể nhập Thánh đế hiện quán, vì chỗ đó rất khó sinh chán, nếu có chán ít thì cũng không thể nhập hiện quán, huống chi tất cả tâm chán kia một chút phần cũng không có, tức là không có chút ít tâm chán nào. Cõi sắc và cõi Vô sắc không nhập hiện quán.
Hỏi: Nếu như thế tại sao bậc thánh của Địa kia cũng lìa dục?
Đáp: Không có chán kiến đạo thì tâm chán phân biệt hoặc và các nẻo ác của ba cõi là không có. Không phải không có tâm Hữu lậu ưa cõi trên chán cõi dưới và chán tự Địa ưa sinh cõi trên. Khi nhập kiến đạo thì đều chán tất cả pháp của ba cõi, vì đều do duyên đế mới nhập. Đây là từ xưa đến nay đều căn cứ theo hiện quán mà làm luận, không phải căn cứ theo Tu đạo và dị sinh mà làm luận. Giải thích trong luận này, là tâm chán của các cõi khác yếu kém không phải thù thắng. Vì tuệ tâm của nẻo ác khác không phải thù thắng cho nên không nhập kiến đạo. Bài tụng trong quyển 16 của luận Hiển Dương ghi: "Cực thích (rất lo) không phải nẻo ác, cực hân (rất mừng) không phải hai cõi trên. Trong cõi cõi Dục trời người, Phật ra đời hiện quán, Ngài nói nẻo ác không nhập hiện quán, hoặc vì hằng bị ưu lẽ nào mà không thể chứng đắc Tamma-địa", tức là ba nẻo ác không thể nhập. Cõi sắc và cõi Vô sắc cũng không có hiện quán, vì tâm mừng vui thô động cho nên tâm chán yếu kém, do đó hai cõi (sắc Vô sắc) và ba thú không khởi hiện quán. Chỉ có một cõi Dục trời người và hai thú, có Phật ra đời, có thể khởi hiện quán, đời Mạt pháp cũng được có, vì Phật ra đời nhiếp dẫn. Không có Phật thì thế gian không đắc, vì không có người thuyết pháp khiến cho sinh chán. Nếu như thế có Phật pháp thì thế gian phát tâm, sau khi pháp diệt mới thành thục lâu lâu rồi tu được nhập hiện quán hay không? Căn cứ theo văn này thì không được, vì không có loại người này. Lại giải thích cũng được, trong đây xưa nay làm luận, tức là ba luận không đồng, hợp lại có nhiều giải thích, căn cứ theo lý thì có thể biết. Đây tức là phần thứ chín y theo thân của giới nào thú nào để phân biệt.
Luận: "Vị này cũng là", đến "chân Thắng nghĩa".
Thuật rằng: Đây cũng là từ tư lương vị trở về trước. Vị này tức là Địa thứ mười bảy phân riêng, nhiếp tại kiếp nào thì như trước đã nói. Luận Đối Pháp quyển 13 đều có văn này. Nhiếp luận cũng nói giải hạnh Địa, trong đây tu trì, nhậm, cảnh (gương), minh nương năm Địa, như trước đã dẫn luận Đối Pháp quyển 11 nói. Các môn khác thì nghĩa như sau đây sẽ nói.
Luận: "Tiếp theo là thông đạt vị, tướng nó thế nào?" Thuật rằng: Hỏi Vị thứ ba, dưới đây giải thích kiến đạo. Luận: "Tụng nói rằng", đến "lìa hai tướng thủ".
Thuật rằng: Đây là nêu ra tụng có thể biết.
Luận: "Nói rằng, hoặc khi Bồ-tát", đến "tướng hý luận". Thuật rằng: Dưới đây giải thích có hai phần:
1. Sơ lược giải thích tụng.
2. Rộng giải thích tụng này.
Hiện tại giải thích hai câu trên của tụng. Không nắm lấy các thứ tướng hý luận là Vô sở thủ tướng, quán chân Thắng nghĩa gọi là Vô sở đắc.
Luận: "Lúc đó mới gọi là", đến "hý luận hiện".
Thuật rằng: Giải thích hai câu dưới của tụng. Tâm và cảnh tương xứng, Chân như và trí ngầm hợp, đều lìa hai thủ, vì dứt bặt các thứ hý luận, gọi là bình đẳng bình đẳng. Tánh của chân Thắng nghĩa, thể tức là Chân như, đây là chỉ thiên về ngăn trách Hữu lậu. Hậu đắc trí cũng có tướng, trí này cũng lìa tướng hý luận kia.
Luận: "Có nghĩa là trí này", đến "là tướng năng thủ".
Thuật rằng: Dưới đây là phần thứ hai giải thích tụng trên. Trong đó có bốn phần:
1. Nói rộng chánh trí.
2. Giải thích tên của vị.
3. Giải thích sai biệt của Chân kiến đạo và tướng kiến đạo.
4. Giải thích khi đắc kiến đạo thì công đức có khác.
Nhưng trong phần nói rộng chánh trí, hai phần của trí này hợp chung có ba giải thích. Phật Địa có hai thuyết, không có phần nói rộng chánh trí này, nhưng tất cả tâm Vô lậu của luận Phật Địa đó hợp chung làm pháp. Luận này thì không như vậy. Nói không có sở thủ tướng và năng thủ tướng là thể của thức hợp chung với Chân kiến đạo, ngấm ngầm không có thủ, không có Phan duyên. Như Nhiếp luận quyển 6, chỗ dẫn chứng tụng của Trang Nghiêm Luận: "Bậc trí thì liễu đạt cả hai đều không có, đồng trụ Chân pháp giới của hai Vô". Tụng này nói lìa tướng của hai thủ, loại này không phải một, khỏi phải dẫn ra.
Luận: "Có nghĩa là trí này", đến "trí của danh và Thanh (tiếng)".
Thuật rằng: Do Sở duyên duyên chủ yếu liên đới tướng. Vấn nạn sư trước rằng: "Không có Tợ cảnh tướng danh duyên trí kia thì đáng lẽ sắc trí này gọi là trí của Âm Thanh này, vì trên sắc trí này không có tướng của Âm Thanh". Đây là vấn nạn không có Tướng phần, lấy trí của sắc và Âm Thanh hỏi ngược lại nghĩa của Tỷ lượng, có thể biết. Như Quán sở duyên ghi: "Liên đới với tướng kia mà khởi cho nên danh có ảnh tượng sở duyên của vô phân biệt. Chân như tuy không có thân chứng, nhưng Vô phân tướng riêng cùng với Chân như kia rất giống nhau, không đồng với các trí khác gọi là Chứng Chân như, như luận Đối Pháp quyển 11 Sao mà hiểu.
Luận: "Hoặc không có Kiến phần", đến "quyết định có Kiến phần".
Thuật rằng: Lấy Chân như ví dụ cho trí, lấy trí ví dụ Chân như không có tướng năng duyên, cũng căn cứ theo trước mà hiểu.
Luận: "Có nghĩa là trí này", đến "không thủ tướng".
Thuật rằng: Đây là thuyết thứ ba. Kiến phần của trí này thì có, Tướng phần thì không. Nói vô tướng thủ không thủ tướng, là quyển 73 nói. Đã nói vô tướng thủ thì lẽ nào không có Kiến phần, vì không thủ tướng cho nên có thể không có Tướng phần. Luận kia có vài mươi lần vấn nạn, nên phải rộng trình bày.
Luận: "Tuy có Kiến phần", đến "không phải hoàn toàn không có thủ".
Thuật rằng: Giải thích văn chỗ dẫn giáo của sư thứ nhất. Kiến phần thì đồng với trong thuyết thứ nhất, Tướng phần thì khác, ý văn dễ hiểu. Sư thứ hai nói: "Sở duyên luận nói, thức nương vào tướng kia mà sinh, liên đới với tướng kia cho nên gọi là duyên tướng kia". Nếu không có Chân như tướng thì đáng lẽ không phải là sở duyên.
Luận: "Tuy không có Tướng phần", đến "vì không lìa Chân như".
Thuật rằng: Đây là duyên với Chân trí, liên đới với thể tướng của Chân như mà khởi cho nên gọi là sở duyên. Không phải liên đới với ảnh tượng của Tướng phần kia khởi mà gọi là duyên Chân như, vì không lìa Chân như.
Luận: "Như Tự chứng phần", đến "có kiến không có tướng". Thuật rằng: Nêu ví dụ để hiển thành tựu. Tự chứng phần duyên
Kiến phần, không phải liên đới với Tướng phần kia mà khởi, vì được tên là sở duyên. Đây là vô phân biệt cùng với Hậu đắc trí khác nhau, cho nên chắc chắn không có Tướng phần. Như trong bốn duyên của quyển 7 giải thích. Nếu như thế thì tâm Vương đáng lẽ gọi là sở duyên, vì không hiện ảnh tượng kia liên đới với thể tướng kia mà khởi? Điều này cũng không đúng, vì không phải chỗ tư lự nương gá. Văn còn lại có thể hiểu. Đây tức là phần thứ nhất có phân biệt của Tướng phần và Kiến phần.
Luận: "Gia hạnh Vô gián", đến "cũng gọi là kiến đạo".
Thuật rằng: kiến tức là đạo, thể là chung. Tổng hợp là liễu đạt, đây là phần thứ hai giải thích tên của vị và kiến đạo.
Luận: "Nhưng kiến đạo này lược nói có hai".
Thuật rằng: Từ đây xuống là phần thứ ba giải thích sai biệt của Chân kiến đạo và tướng kiến đạo. Trong đó có hai phần:
1. Phân rõ sai biệt của Chân kiến đạo và tướng kiến đạo.
2. Cùng với sáu hiện quán nhiếp nhau. Trong phần thứ nhất lại có hai đoạn:
1. Nêu chung có hai.
2. Y theo chỗ nêu mà giải thích riêng. Đây là phần đầu.
Luận: "Một là Chân kiến đạo", đến "vô phân biệt trí".
Thuật rằng: Phân biệt tiệm và đốn, một tâm và nhiều tâm. Trong đây phần đầu là tổng kết, phần sau là phân biệt dị thuyết Chân như và tướng sai biệt của các sư. Đây là nêu ra thể của Chân kiến đạo, lấy vô phân biệt trí làm thể, chỉ có trí này mới chứng Chân như.
Luận: "Thật chứng hai Không", đến "trong nói một tâm".
Thuật rằng: Giải thích nghĩa của Chân như đó bao nhiêu sát-na. Trải qua các vị tuy nhiều sát-na, nhưng vì tướng tương tợ cho nên tổng nói một tâm, tức là ba tâm kiến đạo nương vào một tâm này làm chứng, tức là tổng hợp các văn một tâm kiến đạo của quyển 58. Hoặc Một tâm kiến đạo lấy Vô gián, giải thoát và gồm cả nhất thắng tấn gọi là Đa sát-na, gọi chung là một tâm, không phải trong Vô gián lại có nhiều niệm. Nhưng trong đây có hai dị thuyết.
Luận: "Có nghĩa là trong đây", đến "thô tế khác nhau".
Thuật rằng: Hai Không thì tiệm chứng, hai chướng thì tiệm đoạn, như trong ba tâm Chân kiến đạo dưới đây giải thích. Lấy văn quyển 58, 59, luận Đối Pháp quyển 9 và luận Hiển Dương quyển 17 nói về ba tâm, dẫn chứng tiệm này. Nhưng văn của quyển 59 cũng nói kiến đạo ba tâm gọi là đốn đoạn không riêng khởi quán tâm, tóm lược hai chướng của ba cõi hợp chung lại làm ba phẩm đoạn gọi là đốn, vì ba tâm nhân (người) và pháp này đều khác nhau cho nên gọi là tiệm đoạn. Lý có cạn sâu, vì chướng và trí hạnh có thô tế.
Luận: "Có nghĩa là trong đây", đến "vì có khả năng kham nhận".
Thuật rằng: Sư thứ hai nói, hai Không đốn chứng, hai chướng đốn đoạn. Hoặc ba tâm rốt ráo, một Vô gián, một giải thoát và một thắng tấn, vì từ chân mà nhập Kiến phần và Tướng phần. Hoặc một Vô gián, một giải thoát không mượn thắng tấn, từ thù thắng mà nhập vào yếu kém. Lại còn làm hai thuyết, hợp chung với mười một thuyết, như Biệt sao giải thích. Quyển 58 và luận Đối Pháp quyển 9 ghi: năng duyên của kiến đạo này là bình đẳng bình đẳng trí làm tướng của nó". Văn nói một tâm, hiện tại luận này lấy dẫn chứng, nhưng quyển 55 thì hay hơn. Trong đây hai đoạn văn giải thích lẫn nhau, như luận Đối Pháp quyển 9 Sao ghi: "Chân kiến đạo này, trước khi gia hạnh thì ý lạc đều đoạn", cho nên nhập quán vị thì không nên phân riêng làm ba thứ. Có Cổ Đức nói rằng có ba thứ là không đúng.
Luận: "Hai là tướng kiến đạo, ở đây lại có hai". Thuật rằng: Dưới đây giải thích về tướng có hai phần:
1. Giải thích tướng.
2. Giải thích Hậu đắc trí. Trong phần đầu lại có ba phần:
1. Tổng.
2. Biệt.
3. Giải thích chung. Đây là phần thứ nhất.
Luận: "Một là quán phi an lập đế", đến "phân biệt tùy miên". Thuật rằng: Trong đây có hai phần: 1. Phân rõ hành tướng của tướng kiến đạo.
2. Phân rõ ngôn giáo của tướng kiến đạo. Trong phần đầu có hai phần:
1. Phân rõ ba tâm.
2. Phân rõ mười sáu tâm.
Đây là phần thứ nhất, nội di là chỉ có duyên trong nội thân mà di trừ giả pháp. Hữu tình giả, trước đã giải thích hữu tình đều là vọng sở kế, chỉ có nội tâm là tương tợ hữu tình hiện khởi. Bàn về vô thể của nó thì gọi đó là giả. Duyên trí, là tâm năng duyên, tức là duyên nội thân làm cảnh, là duyên trí di trừ hữu tình giả. Dưới đây đều căn cứ theo đó mà hiểu. Nhưng trong luận này, hai chướng nhân và pháp mỗi mỗi đều phân ra thượng và hạ, thô thì làm thượng, tế thì làm hạ, hợp chung làm bốn loại. Nhưng hai Thô thì mỗi mỗi đều trừ riêng, vì trí còn yếu kém chưa có thể song đoạn cả hai, hoặc thượng phẩm trí thì mới có thể song đoạn, đây là tùy theo trí mà nói là nhuyễn (mềm). Mới khởi thì gọi là nhuyễn; trí kế đó thì gọi là trung, vì trí này thù thắng hơn trí trước; sau khi khởi thì gọi là thượng, vì đối với đoạn kiến hoặc thì trí này là tối thượng. Lấy hoặc tùy theo trí mà nói ba phẩm. Nhưng hai trí trên thì chưa có thể gọi là thù thắng, chỉ duyên nội thân trừ giả ngã pháp, trí thượng phẩm của tâm thứ ba thì có thể duyên rộng tất cả nội ngoại ngã pháp, cho nên có ba trí khác nhau. Luận này thì nói ba thứ nghĩa của Chân kiến đạo, hoặc là nói giả, vì pháp Chân kiến có sai biệt, hai trí trước thì yếu kém chưa có thể duyên rộng các pháp, trí thứ ba thì thù thắng có thể duyên rộng các pháp. Trí thứ nhất này nói khắp là tướng kiến đạo.
Quán phi an lập đế có ba phẩm tâm, trong quyển 55 nói có ba tâm duyên Phi an lập đế. Lại nữa, vì phỏng theo quyết định thì trong tướng kiến đạo quyết định có ba tâm.
Luận: "Trước hai tên pháp và trí", đến "tổng hợp lại duyên".
Thuật rằng: Chung và riêng đã khác thì nghĩa và danh cũng khác, các luận đều không đồng. Bây giờ tổng hợp các luận lại:
1. Ba tâm của luận Đối Pháp đều là pháp trí.
2. Luận này và luận Du-già thì hai tâm trước là pháp trí, tâm thứ ba gọi là loại trí.
3. Lại nữa, mười sáu tâm thì pháp nhẫn và pháp trí gọi là pháp, hai tâm sau thì gọi là loại trí.
Quyển 49 ghi: "Hoặc đã từng tại cõi trên khéo tướng thủ", tức là có thể dùng loại trí để liễu đạt cõi Sắc và cõi Vô sắc, cõi dưới như thế thì không thể được, chỉ có pháp trí liễu đạt. Tổng quát làm ba ví dụ:
1. Duyên Chân như gọi là pháp, duyên trí gọi là loại, là loại trí ở trước. Mười sáu tâm thì gọi là pháp và loại có thể biết. Luận Đối Pháp thì phỏng theo cả ba tâm đều duyên Chân như, cho nên đều gọi là pháp.
2. Biệt duyên gọi là pháp, tổng duyên gọi là loại, luận này cũng như vậy, không ngay nơi duyên Chân như mà làm luận.
3. Duyên cõi dưới gọi là pháp, duyên cõi trên gọi là loại, là loại của cõi dưới. Văn của quyển 69 cũng vậy, mỗi mỗi đều căn cứ theo một nghĩa, cũng không trái nhau.
Luận: "Pháp Chân kiến đạo", đến "gọi là tướng kiến đạo". Thuật rằng: pháp là pháp tắc, lấy sự thôi học làm nghĩa. Trong
Chân kiến đạo có Kiến phần của hai Không, tuy cũng có Tự chứng phần nhưng không có pháp đó. Cận duyên Chân như tức là phóng thả ra.
Ngay trong Kiến phần có Vô gián giải thoát, tùy theo chỗ đoạn chướng mà có bốn Kiến phần. Ngay trong Vô gián đạo, hai Kiến phần của nhân (người) và pháp mỗi mỗi đều là Biệt pháp cho nên có hai tâm ban đầu. Hai Kiến phần của nhân và pháp trong giải thoát đạo là tổng pháp, có tâm thứ ba, chỉ có pháp Kiến phần là hành tướng của Kiến phần cùng với cảnh Chân như khác nhau, vì nghĩa thể của Tự chứng phần cùng với cảnh Chân như không khác nhau cho nên không có pháp đó. Biệt pháp và tổng pháp là hiển chỗ đoạn của Vô gián có sai biệt, hiển chỗ chứng của giải thoát đạo chỉ có nhất vị (một chất vị). Sư này cho ba tâm và mười sáu tâm đều là tướng kiến đạo, chỉ duyên Phi an lập và an lập khác nhau, ở đây có hai thuyết.
Luận: "Có nghĩa là ba tâm này", đến "duyên bốn Đế".
Thuật rằng: Sư thứ nhất nói đây là Chân kiến đạo, tức là nghĩa tiệm chứng đoạn thứ nhất của sư nói ở trước. Vì tướng kiến đạo không khởi ba tâm duyên bốn Đế. Như luận Đối Pháp nói, nói rằng chân kiến đạo duyên Phi an lập, không phải trong tướng kiến đạo có thể duyên Phi an lập. Trong đây có riêng khởi Vô gián và giải thoát làm sáu thứ, gồm cả thắng nhập tướng kiến đạo làm thành bảy tâm, hoặc trừ bỏ thắng tấn thành sáu tâm, hoặc sau Vô gián tức là trước giải thoát, là ba Vô gián thêm một tâm giải thoát thứ ba, gồm luân một thắng tấn nhập tướng thành năm tâm cứu cánh. Bồ-tát lợi căn không khởi riêng giải thoát đạo, hoặc tổng quát bốn tâm cứu cánh, chỉ trừ thắng tấn ra, vì từ thù thắng nhập yếu kém, hợp chung có bốn thuyết, như Biệt sao có mười bốn giải thích. Nhưng trong Chân nói trước hết là trừ nhuyễn phẩm nhân chấp, tiếp theo là trừ trung phẩm pháp chấp, làm thành thô tế thượng hạ. Nhưng trong các kinh luận thì nói trước hết trừ thượng phẩm, sau đó mới trừ hạ phẩm. Trong đây thì trước hết trừ hạ phẩm, sau đó trừ thượng phẩm là có ý gì? Trước đã giải thích rồi, nhưng bây giờ lại giải thích thêm, luận này là phỏng theo chỗ dễ đoạn mà gọi là hạ, nhân chấp thô cho nên gọi là hạ phẩm; các kinh luận kia thì phỏng theo theo thô tế của thật thể mà nói chỗ đoạn trước hết là thượng; luận này thì mong năng trị đạo, kinh luận kia thì mong đương thể. Trong đây chỗ nói trước hết đoạn hạ phẩm thì các luận đều đồng.
Luận: "Có nghĩa là ba tâm này", đến "không Biệt duyên".
Thuật rằng: Sư thứ hai nói, ba tâm này là chân kiến đạo, vì chân kiến đạo chỉ có tổng duyên Chân như, các luận cũng cùng nói. Làm sao đắc duyên riêng để làm ba phẩm? Vì ý lạc của gia hạnh tâm như thế, nhập Chân như thì quyết định như vậy.
Luận: "Hai là duyên an lập đế", đến "ở đây lại có hai". Thuật rằng: Phần thứ hai giải thích mười sáu tâm có hai đoạn:
1. Chung.
2. Riêng.
Đây là tổng. Quyển 55 và luận Đối Pháp quyển 9 đều nói hai phần này là an lập đế.
Luận: "Một là nương vào quán", đến "mười sáu chủng tâm".
Thuật rằng: Chỉ có trong luận Đối Pháp mới có văn này. Sở thủ là đế lý, năng thủ là trí duyên lý. Pháp nhẫn và pháp trí duyên đế lý làm cảnh để quán sở thủ. Loại nhẫn và loại trí duyên trí phẩm trước để quán năng thủ. Luận này chỉ có lập riêng Vô gián và giải thoát, không tổng hợp lại nói cho nên gọi là lập riêng có mười sáu tâm. Luận Đối Pháp ghi: "Chân như của pháp trí phẩm đạo làm cảnh, pháp trí của trí phẩm đạo làm cảnh". Chính là cùng với luận này đồng.
Luận: "Nói rằng đối với Khổ đế", đến "nên biết cũng như thế". Thuật rằng: Hai mươi tám tùy miên, là dưới cõi Dục khổ có mười, hai giới trên trừ sân ra thì mỗi mỗi đều có chín. Khổ là Khổ đế, pháp là Khổ đế giáo, trí là trí duyên khổ pháp trong gia hạnh đạo, nhẫn là Vô lậu nhẫn, nhẫn trước khổ pháp và trí. Luận Đối Pháp quyển 9 có giải thích rộng. Nhẫn nói là trí, là vì quyết đoán, tuệ thì không phải vậy, tuy nhẫn và trí không khác nhau, tùy theo dụng mà nêu ra tên. Khổ pháp trí, pháp là khổ như, trí có thể duyên khổ như thì gọi là khổ pháp trí. Khổ loại trí nhẫn, nói rằng sau thánh pháp là loại của khổ trí này, gọi là khổ loại trí, duyên với tuệ này thì gọi là khổ loại trí nhẫn. Khổ loại trí thì ấn khả trí của duyên khổ loại, gọi là khổ loại trí.
Luận: "Mười sáu tâm này", đến "tám quán chánh trí".
Thuật rằng: pháp phẩm duyên Chân như, loại phẩm thì duyên trí.
Luận: "Pháp Chân kiến đạo", đến "gọi là tướng kiến đạo". Thuật rằng: Kiến phần của pháp nhẫn pháp chân Vô gián đạo,
Kiến phần của pháp trí pháp chân giải thoát đạo, tự chứng phần của loại nhẫn pháp Vô gián và tự chứng phần của loại trí pháp giải thoát ấn khả trí trước cho nên có lập riêng. Lại nữa, giải thích pháp nhẫn pháp Vô gián đạo và pháp trí pháp giải thoát đạo, đây là tổng pháp. Loại nhẫn pháp Vô gián và Kiến phần của giải thoát tuy duyên trí và duyên Chân như không đồng, nhưng Kiến phần là một cho nên hợp chung với pháp, loại trí thì hợp chung với Tự chứng phần hai đạo của pháp. Giải thích trước là gốc.
Luận: "Hai là nương vào quán", đến "mười sáu chủng tâm".
Thuật rằng: Quyển 55 ghi: "Quán hai Địa trên và dưới an lập khổ thì cảnh của bốn Đế tương tợ pháp và loại trí sinh, là hiện Quán vị thứ hai, cho đến nói rộng". Nói rằng nhẫn khả dục lạc trí và hiện quán quyết định trí là hiện quán biên trí đế hiện quán. Luận Hiển Dương quyển 17 ghi: "Bốn Đế trí của pháp trí và loại trí không do hạnh sai biệt, nhưng tùy theo hành vi mà nói sai biệt của nó. Trong chân kiến đạo cũng theo nghĩa mà nói có mười sáu tâm. Mười sáu tâm đã như thế thì ba tâm cũng vậy. Hiện tại luận này phỏng theo hạnh sai biệt mà nói, chỉ là tướng. Nhưng trong của luận kia nói mười sáu tâm của hai Địa trên và dưới là Tu đạo, luận Du-già quyển 55 nói là kiến đạo, luận Hiển Dương nói là Tu đạo, không phải trái nhau. Nhưng quyển 55 vẫn nói từ kiến đạo khởi có mười sáu tâm của hai Địa trên dưới sinh, từ ba tâm Phi an lập kiến đạo khởi thì trở thành an lập đế quán này. Không phải hoàn toàn đưa ra kiến đạo ở trong Tu đạo mới khởi. Văn kia có chút ít khác, nên tế nhị mà tìm.
Luận: "Nói rằng quán hiện tiền", đến "hai trí hiện quán".
Thuật rằng: Cõi hiện tiền, là cõi dưới, tức là cõi Dục, vì hiện đối với cõi Dục mà nhập kiến đạo. Hai cõi trên gọi là bất hiện tiền.
Luận: "Như chỗ thích ứng của nó", đến "Kiến phần quán đế". Thuật rằng: Hiện quán nhẫn pháp Chân kiến đạo Vô gián đạo
Kiến phần và hiện quán trí pháp chân kiến giải thoát đạo đạo Kiến phần không có Tự chứng phần, vì ở sau mười sáu tâm mà khởi quán tâm tiệm thô này, cùng với mười sáu tâm trước quán sai biệt.
Luận: "Sở đoạn của đoạn kiến", đến "gọi là tướng kiến đạo".
Thuật rằng: Bốn Đế của cõi Dục có bốn mươi thứ, hai cõi trên mỗi cõi có ba mươi sáu thứ thứ, vì mỗi đế của hai cõi trên trừ đi sân, cho nên tổng cộng là một trăm mười hai thứ. Trên đây đều là do quán tâm thuần thục, vì chúng sinh mà nói, khiến cho chúng sinh trước kiến đạo cũng được khởi nhập kiến đạo.
Luận: "Hoặc y theo rộng bố giáo", đến "có chín chủng tâm". Thuật rằng: Trên đã phân rõ hành tướng kiến đạo riêng tu tạo, đây là rộng bố giáo đạo lý, tức là Bồ-tát tại kiến đạo không khởi quán này, chỉ vì ban bố giáo lý mà nói sự sai biệt của nó, cho nên cần phải học, tức là y theo giả thuyết đó.
Luận: "Đây là y theo trước", đến "chỉ quán biệt lập".
Thuật rằng: Tướng kiến đạo an lập đế trước, có hai thứ mười sáu tâm, pháp này đối với mười sáu tâm kia gọi là hai mươi sáu chủng. Pháp kia có hai thứ mười sáu chủng, hai tâm chỉ và quán đều biệt lập.
Luận: "Là pháp loại phẩm", đến "tổng nói làm một".
Thuật rằng: Quyển 58 cuối ghi: "Nhẫn và trí hợp chung là Bát-nhẫn hợp làm bốn, vì đều là nhẫn loại; tám trí hợp làm bốn, vì đều là trí phẩm. Hoặc tám pháp nhẫn và pháp trí hợp làm bốn, duyên Chân như làm cảnh, vì loại đồng nhau. Phẩm nghĩa là phẩm loại, cho nên được làm giải thích này. Tám loại nhẫn và loại trí hợp làm bốn, duyên trí làm cảnh, cũng là loại đồng nhau. Đây là y theo tuệ riêng đồng thời với định chỉ có một, rộng như Biệt sao kia nói.
Luận: "Tuy trong kiến đạo", đến "gọi là tướng kiến đạo".
Thuật rằng: Giải thích chín nguyên nhân. Đây không phải là hai kiến đạo của Chân như và tướng nhiếp. Không khởi quán nhưng phỏng theo sự ban bố giáo lý của tướng kiến đạo nhiếp. Chỉ lấy mười sáu tâm và ba tâm, luận Đối Pháp, luận Hiển Dương và luận Du-già như thứ tự đều có thế Vô gián thứ nhất, cho nên luận này tổng hợp lại nói.
Luận: "Các tướng kiến đạo", đến "chân đã đoạn".
Thuật rằng: Dưới đây là phần thứ ba giải thích chung. Trong đó có ba đoạn:
1. Tổng hợp các văn trái nhau.
2. Giải thích chỗ tụng không nói.
3. Trí nhiếp.
Đây là phần đầu. Y theo nghĩa của chân kiến đạo mà giả thuyết tướng kiến đạo là Vô gián, như chỗ dẫn trước luận Hiển Dương quyển 17, chính là cùng với luận này đồng. Ở đây có ba nhân, sinh sau ba tâm tướng kiến đạo chân Phi an lập. Văn còn lại có thể hiểu. Nhưng Phi an lập nhân không khắp nghĩa của ba tâm tướng kiến đạo.
Luận: "Chân kiến đạo trước", đến "cho nên tụng nói thiên về nó".
Thuật rằng: Phần thứ hai giải thích tụng không nói hai thứ kiến đạo. Tụng này tại sao chỉ nói chân? Vì chứng thức tánh quán chiếu Chân như tức là Viên thành thật, tự chứng thức tướng cũng là tự tâm quán đối với Y tha, đây là y theo Kiến phần mà nói. Luận nói phần đầu thì thù thắng, phần sau là hậu đắc nhiếp cho nên không bằng chỗ nói trước.
Như quyển 55 giải thích.
Luận: "Chân kiến đạo trước", đến "Hậu đắc trí nhiếp".
Thuật rằng: Vì hữu tướng và vô tướng khác nhau. Từ trở xuống nhân theo đó mà giải thích Hậu đắc trí.
Luận: "Các Hậu đắc trí", đến "lìa hai thủ".
Thuật rằng: Hoặc y theo đây mà nói thì Phật không có thuyết pháp, không có mười lăm cõi. Đại định, trí và bi lấy làm thể tánh, bi nguyên tăng thượng thì tướng âm thanh và sắc trên thức của Chúng sinh sinh khởi. Hậu đắc trí này là thuyết thứ ba của luận Phật Địa. Tuy có ba thuyết có Tướng phần và Kiến phần, nhưng là nghĩa của sư thứ hai trong đây mà sư thứ nhất nói, hai phần đều không có vì lìa hai thủ.
Luận: "Có nghĩa là trí này", đến "vì có phân biệt".
Thuật rằng: kiến thì hữu và tướng thì vô. Chư Thánh giáo nói trí này có phân biệt cho nên có Kiến phần. Như quyển 55 giải thích.
Luận: "Thánh trí đều có thể quán chiếu cảnh".
Thuật rằng: Lấy lý này làm chứng không có Tướng phần.
Luận: "Vì không chấp trước cho nên nói lìa hai thủ".
Thuật rằng: Trong các kinh luận nói ly hai thủ, là không chấp trước hai thủ, nhưng không phải hoàn toàn không có Kiến phần.
Luận: "Có nghĩa là trí này", đến "Chân như tánh".
Thuật rằng: Sư thứ ba nói hai phần đều có. Quyển 73 nói Tư Duy, là thuyết minh có Kiến phần tương tợ Chân như tướng, vì không thấy tánh chân thật của Chân như, trở nên có Tướng phần. Như bốn câu của luận đó nói rộng.
Luận: "Lại nữa, nói trí này", đến "mà vì nói".
Thuật rằng: Kinh Phật Địa và Nhiếp luận đều nói, trí này phân biệt các pháp quán hữu tình, trí này trở thành có Kiến phần, phá sư thứ nhất.
Luận: "Lại nữa, nói trí này", đến "thuyết các Pháp sự".
Thuật rằng: dẫn kinh đặt vấn nạn. Hiện thân và độ (cõi), đều là dẫn văn làm chứng trong quyển 3 của kinh Phật Địa, không phiền dẫn ra. Đây là phá nghĩa không có Tướng phần của sư thứ hai. Trên đây là dẫn giáo, dưới đây là dẫn lý.
Luận: "Chuyển sắc uẩn y", đến "đáng lẽ không có thọ". Thuật rằng: Đây là ví dụ về tướng của năm uẩn.
Luận: "Lại nữa, hoặc trí này", đến "đáng lẽ duyên âm thanh".
Thuật rằng: Đã không có Tướng phần thì các tâm, thân và độ lìa pháp thể của chính mình, không liên đới với ảnh tượng thì đáng lẽ không phải Sở duyên duyên, vì quán chiếu thẳng pháp kia không biến thành tướng, không đồng Chân như, vì Chân như tức là tự thể của trí.
Hỏi: Nếu như thế thì Chân như đáng lẽ không phải Sở duyên duyên, vì không tương tợ cảnh tướng?
Đáp: Không phải như vậy, vì tướng liên đới Chân như mà khởi, lìa pháp tự thể thì đã không có ảnh tương tợ thì không thể nói liên đới với tướng Kiến phần mà khởi.
Hỏi: Tại sao nói có Sở duyên duyên, vì tướng kia đều lìa tự chứng?
Đáp: Đã không liên đới tướng mà khởi thì gọi là Sở duyên duyên. Khi duyên các sắc thì đáng lẽ cũng duyên âm thanh, vì trí duyên sắc không liên đới với tướng của âm thanh.
Luận: "Lại nữa, duyên Vô pháp", đến "không duyên với dụng". Thuật rằng: Không biến thành vô tướng để làm sở duyên của Kiến phần, vì không có Tướng phần thì quán chiếu thẳng nơi Vô, nhưng Vô không phải Hữu thể. Đó là nguyên nhân nghĩa của Sở duyên duyên thế nào được thành, do đây cho nên biết Phật cũng không duyên gần với Vô. Đoạn văn này là lý làm chứng.
Luận: "Do đây mà hai phần của Hậu đắc trí đều có".
Thuật rằng: Đây là tổng kết lý trên, đã nêu ra sự sai biệt. Dưới đây là giải thích của các môn. Nhưng trong quyển 58, 59 đều có kiến đạo hiện quán phân biệt, nên như luận đó mà hiểu. Quyển 59 thì rất hay, phần lớn là có nghĩa đoạn hoặc của pháp dụng. Chưa được dẫn chứng rộng.
Luận: "Hai kiến đạo này", đến "nhiếp nhau là thế nào?"
Thuật rằng: Đây là hỏi. Kiến đạo thứ nhất cùng với sáu hiện quán nhiếp nhau, trong luận Đối Pháp quyển 13, luận Hiển Dương quyển 17, Đại luận quyển 55 và luận Du-già quyển 71 đều thuyết minh rộng. Luận Đối Pháp nói có mười, luận Hiển Dương nói có sáu hoặc mười tám, luận Du-già nói có sáu, Nhiếp luận quyển 6 nói có mười một thứ hiện quán của ba Thừa, mỗi luận đều khác nhau. Nhưng có ba thứ sai biệt là nghĩa, sự và sở duyên. Như Biệt sao nói.
Luận: "Sáu hiện quán", đến "tư sở thành tuệ".
Thuật rằng: Hiện là hiện tiền, quán Hiện cảnh này hiện tiền rõ ràng, cho nên gọi là hiện quán. Tối thượng phẩm, là trung phẩm và Hạ phẩm yếu kém cho nên không phải. Hỷ thọ tương ưng, hỷ là có thể biết rõ lợi, riêng có phân biệt. Xả thì không như vậy, có thể cùng với tư của trung phẩm và Hạ phẩm đồng thời, vì tư tuệ của thượng phẩm thì chắc chắn không đồng thời. Quyển 71 ghi: "Hiện quán thứ nhất chỉ cùng với hỷ thọ tương ưng. Tư sở thành tuệ tức là tuệ nhân theo chỗ thành của tư là thể". Luận Hiển Dương cùng với quyển 71 này đồng. Luận Hiển Dương kia nói hoặc là hiện quán này cùng hành với Bồ-đề phần là tự tánh. Từ đây trở xuống đều nói hiện quán như vậy.
Luận: "Quán này có thể quán sát", đến "cho nên không phải hiện quán".
Thuật rằng: Noãn... thuộc cõi Sắc trói buộc. Cộng tướng của quán này có thể dẫn noãn... vì tư có thể sinh tu. Đây là quán tất cả hạnh vô thường, tất cả pháp Chân như, cho nên là tối thắng, gọi là quán cộng tướng, không nói quán tự tướng, vì tự tướng thì Hạ phẩm và trung phẩm nhiếp, vì chưa duyên rộng. Tuy Chân như cũng là tự tướng của các pháp, nhưng khi chưa chứng Chân như thì chỉ có cộng tướng. Còn ở trước kiến đạo thì dụng này rất dũng mãnh. Mãnh là linh lợi, là thù thắng, nói thiên về nó làm hiện quán. Noãn... không thể phân biệt rộng các pháp, chỉ quán sở thủ không có. Tuy cũng quán tất cả pháp Vô ngã, nhưng phần nhiều là có phân đồng để quán. Lại nữa, nói chung ba Thừa, tại Nhị thừa vị thì chỉ có quán riêng biệt các hành tướng của bốn Đế, không bằng tư, là các thứ Tư duy các thứ quán sát gọi là quảng phân biệt, noãn... thì không có khả năng này, không bằng đối với tư mà không lập hiện quán. Các kiến đạo của nó tuy cũng không thể phân biệt rộng các pháp nhưng duyên được chân lý cho nên lập là hiện quán. Quán này cũng không đồng với quán kia, vì chưa chứng lý. Quyển 71 ghi: "Bốn thiện căn không phải hiện quán mà là Đẳng lưu".
Luận: "Hai là tín hiện quán", đến "lập tên hiện quán".
Thuật rằng: Tín cũng là thượng phẩm, thông với lậu và Vô lậu. Hiện quán là tuệ hiện quán các pháp, vì tín trợ hiện quán khiến cho không thoái chuyển cho nên cũng gọi tín là hiện quán. Có kinh luận nói tín chỉ có Vô lậu cho nên lập là bất hoại tín.
Luận: "Ba là giới hiện quán", đến "cũng gọi là hiện quán".
Thuật rằng: Tức là đạo cộng giới. Quyển thứ nhất trước nêu ra thể đã nói xong, văn còn lại có thể hiểu.
Luận: "Bốn là hiện quán trí đế hiện quán", đến "trí vô phân biệt".
Thuật rằng: Là tại vị nào mà chỉ duyên Phi an lập? Tức là thông với hai trí, đều là vị này nhiếp, cho nên nói Tất cả chủng. Quyển 71 ghi: "Vị này duyên cảnh của Phi an lập đế, tư làm tánh". Quyển 55 ghi: "Ba tâm kiến đạo là vị này hiện quán", tức là hai trí của tất cả kiến đạo và Tu đạo, không lấy hai trí của Vô học, cùng với cứu cánh hiện quán không khác nhau.
Luận: "Năm là hiện quán biên trí đế hiện quán", đến "trí của thế và xuất thế".
Thuật rằng: Trí này thông với tất cả kiến đạo và Tu đạo của Hữu lậu và Vô lậu, duyên với an lập trí. Quyển 71 ghi: "Tuệ duyên với cảnh của An lập đế là tự tánh này".
Luận: "Sáu là cứu cánh hiện quán", đến "cứu cánh vị trí".
Thuật rằng: Là chỗ có các trí trong cứu cánh vị của tận trí, tức là thông với mười trí, nhưng đều là Vô lậu. Quyển 71 ghi: "Tận vô sinh trí làm tự tánh". Hoặc trí này đồng thời hành Bồ-đề phần pháp làm tự tánh. Quyển 69 ghi: "Mười trí vô giác đều là Vô lậu", nên xem xét văn đó. Nghĩa của các môn này có thể lấy chỗ thuyết minh rộng của các luận như trên, tổng hợp các chỗ thêm bớt không đồng.
Luận: "Chân kiến đạo này", đến "cho nên không nhiếp nhau".
Thuật rằng: Lấy kiến đạo này nhiếp sáu hiện quán thì Chân kiến đạo nhiếp phần ít hiện quán thứ tư, trong hiện quán thứ tư cũng có tướng kiến đạo duyên Phi an lập đế, vì cũng thông với Tu đạo. Tướng kiến đạo của nó thì nhiếp phần ít hiện quán thứ tư, cũng nhiếp chân kiến đạo cho nên hiện quán thứ năm cũng phần ít thông với Tu đạo. Văn còn lại có thể hiểu.
Luận: "Bồ-tát đắc trí này", đến "sinh vào nhà Như Lai".
Thuật rằng: Từ đây xuống là phần thứ tư, công đức Nhập Địa. Quyển 6 của Thế Thân nói: "Do trí này có thể khiến cho chủng tánh của chư Phật không đoạn tuyệt". Luận Vô Tánh ghi: "Pháp giới của Phật gọi là Như Lai gia, đối với Như Lai gia mà chứng đạt thì gọi là sinh vào, từ nơi sở duyên thắng trí này mà sinh, là chuyển sở y này sinh đến sở y khác, tiếp nối Phật chủng khiến cho không đoạn tuyệt, cho đến Bát-nhã chứng chân pháp giới, gọi là sinh vào nhà Như Lai, gọi là chân Phật tử". Vì do Bát-nhã này mà dựng lập tự tướng tương tục. Luận: "Trụ cực hỷ Địa".
Thuật rằng: Trụ cực hỷ Địa trong Thập Địa, dưới đây sẽ giải thích Địa này. Quyển 47 thì nói phân ra thập vương vị, phần nhiều làm Chuyển luân thánh vương, là vua hoa quả của châu này.
Luận: "Khéo đạt pháp giới, đắc các bình đẳng". Thuật rằng: Vô Tánh nói: "Vì trong pháp giới này khởi chứng sau xa, đắc các bình đẳng". Kinh Phật Địa ghi: "Đắc mười bình đẳng". Nhiếp luận quyển 6 ghi: "Đắc ba thứ tâm tánh của tất cả hữu tình, tất cả Bồ-tát và tất cả Như Lai". Rộng như kinh luận đó giải thích.
Luận: "Thường sinh trong đại tập tổng hợp của chư Phật".
Thuật rằng: Tức là thường sinh trong tha thọ dụng độ, như kinh Phạm Võng, kinh Thập Địa nói, đến sau trong phần Thập Địa sẽ nói rộng.
Luận: "Đã đắc tự tại đối với nhiều bách môn".
Thuật rằng: Quyển 47 ghi: "Một khoảng sát-na chứng hàng trăm Tam-ma-địa, dùng tịnh Thiên nhãn nhìn thấy quốc độ của chư Phật, nhìn thấy hàng trăm Như Lai, chấn động hàng trăm thế giới, thân cũng có thể đến thế giới của Phật kia phóng Đại quang minh, hóa thành hàng trăm loại khiến cho người khác nhìn thấy, thành thục hàng trăm loại chỗ hóa độ hữu tình, hoặc muốn thọ mạng lâu dài trụ hàng trăm kiếp, nhìn thấy các sự ở tiền tế và hậu tế trong hàng trăm kiếp, trí kiến có thể nhập hàng trăm pháp minh môn, hóa thành hàng trăm thân, đều có thể hiện hàng trăm quyến thuộc của Bồ-tát", tức là đối với thập bách tự tại, gọi là nhiều bách môn.
Luận: "Tự biết không lâu", đến "lợi lạc tất cả".
Thuật rằng: Đã chứng Chân như thì liền tự biết chứng, là hạnh tự lợi. Quyển 69 ghi: "Quả Dự lưu còn có thể tự biết, huống chi hạnh lợi tha của Bồtát này lợi lạc tất cả". Rộng nói tướng này, như kinh Thập Địa quyển 3 ghi: "Kia có thập nhị bách", tức là kinh đó thêm ba thứ:
1. Thêm tri bách phật thần lực, biết hàng trăm thần lực của Phật
-tức là kiến bách thấy hàng trăm Phật trong đây nhiếp.
2. Thêm năng nhập bách Phật Thế giới, là có thể nhập hàng trăm Thế giới của Phật-tức là động bách Thế giới trong đây nhiếp.
3. Thêm chiếu bách Thế giới, là chiếu soi hàng trăm Thế giới của Phật-cũng trong động bách Thế giới nhiếp. Kinh kia lại thiếu "thành thục hàng trăm loại chỗ hóa độ hữu tình". Luận có thập bách, kia ngược lại là lỗi. Trong văn của luận kia cũng nhập chung vào chiếu bách Phật Thế giới để giải thích, người đọc nên xem xét. Như quyển 49 ghi: "Bồ-tát tại vị này có mười thứ phát tâm". Như luận Thập Địa trong Địa thứ nhất thì ghi: "Mười thứ đại nguyện". Như Thập Địa quyển 3 thì ghi: "Mười thứ tịnh tu trụ pháp, đã thấy chư Phật, đã nghe Chánh pháp". Đều như luận Thập Địa quyển 3 nói rộng. Luận Du-già quyển 47, 48, 49 đều giải thích rộng, mỗi mỗi đều nên xem xét tế nhị sai biệt của văn nghĩa. Lại nữa, khởi quán A-lại-da thức tánh Y tha thì như quyển 51 nói sai biệt của ba Thừa.
Luận: "Tiếp theo tu tập vị, tướng nó thế nào?"
Thuật rằng: Dưới đây thuyết minh Tu đạo. Tiền kiến đạo là chỉ ở tại Sơ địa, tâm mới nhập Địa. Tu đạo của luận này thì trừ tâm mới nhập Địa, tâm xuất tướng kiến đạo đã trụ và tâm xuất Địa, cho đến Thập Địa, cuối cùng là đến kim cương Vô gián đạo, đều gọi là Tu đạo. Điều này đã đặt câu hỏi rồi, đến sau sẽ biết.
Luận: "Tụng nói rằng", đến "liền chứng đắc chuyển y".
Thuật rằng: Đây là nêu ra tụng đáp, tức là tâm trụ và xuất đối với Sơ địa, sao đó dần dần đến cứu cánh kim cương đạo, vì đều đoạn chủng tử câu sinh pháp chấp, đến Vô học vị thì liền chứng chuyển y.
Luận: "Bồ-tát từ trước", đến "trí vô phân biệt".
Thuật rằng: Dưới đây giải thích có hai phần:
1. Giải thích sơ lược văn tụng.
2. Rộng giải thích nghĩa của tụng. Trong phần đầu lại có hai đoạn:
Giải thích ba câu trên, chánh hiển tướng của vị.
1. Thuyết minh tu vị này đối với cứu cánh vị liền chứng chuyển y.
Tu đạo của Thập Địa tu trí vô phân biệt, là đoạn trừ chướng để chứng chuyển y. Sinh khởi các văn dưới đây. Nhưng không phải chỉ có trí là thể của tu tập vị, đây là từ sở duyên năng đoạn đạo mà nói sơ lược, không nói pháp khác.
Luận: "Trí này viễn ly", đến "và bất tư nghì".
Thuật rằng: Viễn ly sở thủ gọi là vô đắc, viễn ly năng thủ thì nói là bất tư nghì. Đây là giải thích câu thứ nhất của tụng, tức là một trí thể lìa kế sở chấp, thật ra sở thủ và năng thủ nói là vô đắc, không phải không có Kiến phần.
Luận: "Hoặc lìa hý luận", đến "gọi là bất tư nghì".
Thuật rằng: Tức là một trí thể không có phân biệt, có phân biệt là hành tướng của hý luận, tức là Hậu đắc trí cũng gọi là hý luận. Hoặc Hữu lậu phân biệt nói là hý luận, vì sự thiên chấp tăng lên cho nên gọi là hý luận, tức là Hậu đắc trí không gọi là hý luận. Nếu y theo giải thích trước thì năng đoạn hai chướng vô phân biệt trí gọi là diệu dụng, là bất tư nghì. Hoặc y theo giải thích sau, tức là Vô lậu trí đều lìa lỗi lầm, có thể ngược lại sinh tử, gọi là diệu dụng, là bất tư nghì. Trong văn của luận chỉ phỏng theo giải thích trước, luận tự hiển bày.
Luận: "Là Xuất thế gian", đến "trí vô phân biệt".
Thuật rằng: Giải thích câu thứ hai của tụng. Trí vô phân biệt có đủ hai nghĩa giải thích:
1. Đoạn thế gian.
2. Thể Vô lậu.
Hậu đắc trí thì không như vậy, không gọi là xuất thế.
Luận: "Vì niệm tu trí này", đến "cho nên nói là xả".
Thuật rằng: Giải thích câu thứ ba của tụng. Trái với tế thì gọi là thô, trái với khinh thì gọi là trọng. Thô trọng của chủng tử Sở tri chướng đến kim giai vị mới trừ. Hoặc là luận phiền não không phải chủng tử thì các Địa đều cũng đoạn trừ. Đây là hiển từ Thập Địa tu trí vô phân biệt, đến Kim cương tâm thì đoạn trừ chủng tử phiền não. Trong Thập Địa thì đoạn sắc tri chướng, tổng hợp mà nói là đoạn hai chủng tử. Đây là phỏng theo cứu cánh tận chỉ có tại kim cương, khi kim cương tận thì chứng quả chuyển y.
Luận: "Trí này có thể xả chủng tử kia", đến "chuyển y quảng đại".
Thuật rằng: Do Thập Địa tu trí cứu cánh, đến Phật Địa thì chứng chuyển y. Giải thích câu tụng thứ tư, trong đó có hai chữ "lại nữa" để giải thích, tức là là hai quả.
Luận: "Y là sở y", đến "hai quả chuyển y".
Thuật rằng: Đây là giải thích thứ nhất. Tổng làm biệt, y theo đoạn nhiễm cho nên không có sở chấp, vì sinh thanh tịnh cho nên đắc hai quả, văn còn lại dễ hiểu. Đồng với quả đoạn phần của Nhiếp luận giải thích chuyển y, luận vô tánh quyển 9 cũng đồng Nhiếp luận, nhưng văn có rộng hơn chút ít. Nói chuyển y, chuyển là chuyển xả và chuyển đắc, y là sở y, tức là chuyển sở y đó gọi là chuyển y-Y sĩ thích. Lại nữa, giải thích văn này, các tà lý chấp trước, chánh lý ly đảo, chuyển đắc và chuyển y trên Y tha sự. Sự là chỗ y của lý, cho nên gọi là chuyển y, luận Vô Tánh ghi: "Hai sở y chỉ" thì chuyển y cũng là Trì nghiệp thích.
Nhưng năng y và sở y này hợp chung làm chuyển y, cho nên không có Trì nghiệp thích. Luận này nói Y tha khởi là chuyển y, là lưu chuyển y và hoàn diệt y, tức là sở xả và sở đắc. Sở đắc thì thông với hai quả chuyển y, do sở chấp cho nên khởi pháp Hữu lậu. Pháp Hữu lậu bị đoạn thì sở chấp gọi là xả, không phải riêng có thể mà gọi là xả.
Luận: "Hoặc y tức là", đến "sở y của nó".
Thuật rằng: Sư thứ hai giải thích, y tức là Chân như, là sở y của mê và ngộ.
Luận: "ngu phu điên đảo", đến "đoạn chướng chứng đắc". Thuật rằng: Người ngộ Chân như này thì chứng Niết-bàn, vì Niết-bàn tức là Chân như lìa pháp tạp nhiễm. Lại nữa, giả Niết-bàn y theo chân mà lập, năng và sở khác nhau. Vị này đoạn chướng, sau Kim cương tâm mới đắc.
Luận: "Tuy đối với vị này", đến "gọi là pháp thân".
Thuật rằng: Bồ-đề của nó khắp chỗ hiển của ý tụng trong đây, chỗ ý tụng hiển như tụng sau nói an lạc, giải thoát thân và Đại Mâu-ni danh pháp. Mâu-ni nghĩa là Tịch mặc, vì ngưng dứt vắng lặng tất cả tạp nhiễm, không phải Bồ-đề kia là tánh Duy thức, mà ngay Đại Mâu-na gọi là pháp thân. Trong quyển 78 ghi: "Nhị thừa có tên giải thoát thân này, cho nên nói ba Thừa bình đẳng bình đẳng". Bồ-đề của sư thứ nhất cũng gọi là chuyển y, như trong tụng sau tự giải thích rõ. Từ trên đến đây giải thích sơ lược văn của hai tụng đã xong. Từ đây xuống là nói rộng văn của tụng trước, có ba phần:
1. Hỏi.
2. Lược đáp.
3. Giải thích rộng.
Luận: "Thế nào là chứng đắc hai thứ chuyển y?"
Thuật rằng: Đặt câu hỏi song song nhân năng chứng và quả sở đắc.
Luận: "Là trong Thập Địa", đến "do đây mà chứng đắc".
Thuật rằng: Tiếp theo là lược đáp. Trong Thập Địa, là các Địa vị phải trải qua. Tu mười thắng hạnh, là nhân của chỗ tu, là đoạn pháp đối trị mười trọng chướng. Trong đây nói trọng, như đầu quyển 1 giải thích. Chứng mười Chân như, là pháp quán chiếu. Do bốn thứ nhân này mà hai quả Chuyển y do đây mà được chứng đắc. Sau khi chứng Chuyển y thì chắc chắn có Địa vị trải qua. Địa vị có nhiều thứ, mà lại nói phần nhỏ Địa vị có thể chứng được, là tu tập vị, cho nên ở đây đầu tiên là thuyết minh Thập Địa. Thập Địa này không có riêng thể, khi tu mười thắng hạnh đoạn mười trọng chướng chứng mười Chân như thì gọi là Thập Địa. Đây là giải thích chung riêng vị, đã biết phần vị chắc chắn là có tu hành, cho nên tiếp theo Thập Địa là thuyết minh mười thắng hạnh, tức là nói rộng về vô đắc bất tư nghì ở trước là Xuất thế gian trí. Đã tu thắng hạnh này thì phải có chỗ làm nhân, cho nên tiếp theo là thuyết minh đoạn mười trọng chướng, tức là nói rộng về xả hai thứ thô trọng trong tụng. Lại biết sở đoạn là mười trọng chướng thì chắc chắn phải có sở chứng, cho nên tiếp theo là thuyết minh thập chủng Chân như, là nói rộng khi xả hai thô trọng trong tụng thì tức là Chuyển y. Tuy đã chứng từng phần thì chưa gọi là viên mãn, đây là Địa vị của nhân. Nói rộng ba câu trước, tức là lần lượt ngộ nhập, hai thứ Chuyển y do đây mà được chứng đắc. Thuyết minh quả sở đắc tức là nói rộng câu thứ tư của tụng trước, chính là thuyết minh sự ngộ nhập, tổng làm câu văn lược đáp thứ hai.
Luận: "Nói về Thập Địa", đến "là sinh đại hỷ". Thuật rằng: Phần thứ ba lần lượt nói rộng câu đáp trước:
1. Nói rộng nhân.
2. Nói rộng quả.
Trong nói nhân có bốn phần, phần đầu nói rộng Thập Địa. Phần này có ba đoạn:
1. Giải thích mười tên riêng.
2. Nêu thể tánh của Địa.
3. Giải thích đều là nghĩa của Địa.
Người mới được Thánh tánh, là mới đoạn phàm tánh. Thể của dị sinh tánh chỉ có hai thứ chướng, hoặc Thánh tánh này lấy trí chủng ban đầu của ba Thừa, chính có thể sinh công năng hiện hành gọi là Thánh tánh. Y theo sự phân riêng hai chủng mà lập dị sinh tánh. Câu sinh hai chướng chủng tuy có, nhưng cũng không phải phàm phu, vì y theo năng sinh sơ Vô lậu chủng lập Thánh tánh, khi còn phàm phu có sơ Vô lậu chủng, nhưng không phải Thánh tánh, vì chưa có thể sinh. Chướng của phân biệt chướng ngại Thánh tánh thì gọi là phàm tánh. Tánh của Vô lậu có thể đoạn phàm tánh thì gọi là Thánh tánh. Nếu như thế thì các Vô lậu sau đáng lẽ không phải Thánh tánh, vì không thể đoạn các chướng của phân biệt? Điều này cũng không phải như vậy, vì tánh năng đoạn, vì là loại của nó, cũng gọi là Thánh tánh. Mỗi mỗi đều tùy theo tự thừa sở trị đã làm phàm tánh thì cũng tùy theo Tự thừa năng trị mà làm Thánh tánh, tức là tùy theo một Không và hai Không trí làm thể. Hoặc hiện hành trí làm thể thì dấy khởi tâm Thế tục đáng lẽ không phải là bậc Thánh. Hoặc Thánh tánh của Bồ-tát là đại Sĩ phu, không giống như Thánh tánh của Nhị thừa Tiểu nhân, đây là nguyên nhân thứ hai chứng đủ hai Không, lựa riêng với Nhị thừa chỉ chứng một Không. Từ thuyên mà nói, nói Chân như là Không, hoặc Chân như không phải Không, là nguyên nhân thứ ba có thể lợi ích tự và tha, lựa riêng với Nhị thừa kia chỉ có tự lợi. Do ba nhân đạt được Thánh tánh của đại sĩ, chứng đủ hai Không và lợi ích tự tha, cho nên sinh đại hỷ. Địa này gọi là cực hỷ Địa, lựa riêng với Hậu Bồ-tát không phải mới đắc Thánh tánh, không gọi là cực hỷ. Nếu như thế thì Sơ quả của Bồ-tát tại sao không gọi là dự lưu? Luận Đối Pháp quyển 14 ghi: "Duyên gì mà Bồ-tát đã được siêu thăng mà không phải dự lưu? Do đắc bất trụ đạo, vì xưa nay hạnh dự lưu không thành tựu, vì dự vào dòng Thánh ưa thích trụ nơi đạo, vì chán mà ra khỏi sinh tử. Duyên gì cũng không phải Nhất Lai mà thọ chư hữu vô lượng sinh, và duyên gì cũng không phải là bất hoàn? Vì an trụ Tĩnh lự sinh trở lại cõi dục". Luận Thập Địa quyển 5 ghi: "Bồ-tát sinh cõi dục không thoái chuyển Tĩnh lự".
Luận Đối Pháp quyển 13 ghi: "Bồ-tát đều lìa cõi Vô sắc mà sinh, Tĩnh lự tương ưng, trụ Tĩnh lự lạc mà sinh cõi dục hoặc trong cõi Sắc, đã chứng đắc oai đức của Bồ-tát. Phàm là chỗ thọ sinh của Bồtát đều là muốn lợi ích an lạc hữu tình, vì cõi Vô sắc không phải là chỗ hữu tình thành thục. Luận kia tự giải thích rằng: "Trụ Tĩnh lự, là do Bồ-tát này khéo léo xoay chuyển". Văn này của luận Hiển Dương và luận Du-già không phải một. Do nghĩa này cho nên không gọi là bất hoàn, vì còn hoàn trở lại nữa. Tại sao không gọi là A-la-hán? Tên này cũng có thể gọi, như quyển 3 trước đã dẫn chứng, đến quyển ngọn này thì sẽ hiểu. Do đây mà Sơ địa Bồ-tát không gọi là dự lưu. Quả của dự lưu không gọi là cực hỷ. Nhiếp luận quyển 7 thì có nhị lợi cho nên gọi là hỷ, vì đối với nhị lợi đó mà gọi là cực hỷ. Luận Vô Tánh ghi: "Nếu hỷ của Sơ địa không tương ưng thì tự sau các Địa cũng không tương ưng, vì Sơ địa này là trước". Luận Thập Địa quyển 1 ghi: "Không có nhị lợi trên, vì mới chứng Thánh Địa thì phần nhiều là sinh hoan hỷ", tức là cùng với hai nhân của luận này đồng, chỉ có chứng hai Không là luận này riêng có. Quyển 47 ghi: "Địa này vì khéo quyết định, bốn tướng phát tâm, phát khởi tinh tấn, phát chánh nguyện, tịnh tu pháp Địa, khai hiểu các Địa khác, tu trị thiện căn, thọ sinh và oai lực". Như luận kia và kinh Thập Địa quyển 1,
2, ba giải thích. Kinh Anh Lạc tuy giải thích riêng tên của Thập Địa, nhưng không bằng luận này. Địa này thì nguyện làm tối thắng, có Thập đại nguyện, đều như hai luận kia nói.
Luận: "Hai là ly cấu Địa", đến "vì phiền não cấu".
Thuật rằng: Khi ở Sơ địa thì đã lìa phạm giới thô cấu, nhưng Địa thứ hai này thì hoàn toàn lìa xa, do đó mà nói. Vì mong vi tế ở trước, trong mười một chướng dưới đây phân rõ hai chướng nhiếp. Tịnh Thi-la, là biệt giải thoát và đạo định cộng giới, tức là thông cả ba thứ. Tuy Địa thứ ba mới phát định tăng trưởng, khi có thể lìa lỗi thì Địa này đã mãn. Hoặc y theo Biệt giải thoát thì cũng có thể hoàn toàn lìa gia hạnh tội, hậu khởi tội và căn bản tội, không phải định đạo cộng có thể lìa gia hạnh tội và hậu khởi tội. Nhiếp luận của Thế Thân nói: "Địa thứ hai này tánh giới thành tựu, không phải như Sơ địa do tư trạch hộ giới". Vì tánh giới thành tựu cho nên các sự phạm giới cấu đều đã lìa rất xa. Tại sao Sơ quả đã đủ tánh giới, còn trong Cực hỷ Địa thì nói chưa đủ? Phần lớn đều đã đủ, nhưng vẫn còn sai phạm tội lỗi vi tế. Lại nữa, luận về tánh giới thì Sơ địa đã xa lìa, Bồ-tát nhập Địa cũng không đồng, vì Sơ quả và Nhị quả cũng còn có thê tử, tánh tội thì chắc chắn không phạm, chỉ đối với sự ngăn trách tội lỗi còn có sai phạm thì Địa thứ hai này đều có thể vĩnh viễn lìa. Ngoài ra, các luận khác đều đồng, dưới đây các luận đều đồng, khỏi phiền trình bày. Dưới đây các Địa đều như luận Du-già quyển 48, luận Thập Địa quyển quyển 4 trở đi, mỗi mỗi đều giải thích một quyển, không dẫn ra phiền phức.
Luận: "Ba là Phát quang Địa", đến "vì ánh sáng của diệu tuệ". Thuật rằng: Trong Địa thành tựu định là thù thắng. Định là Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để. Luận Vô Tánh ghi: "Nói rằng, Tĩnh lự gọi là đẳng trì, các Vô sắc gọi là Đẳng chí". Hoặc đẳng trì, là nói một cảnh tướng của tâm, Đẳng chí là nói chánh thọ hiện tiền, như trước đã giải thích. Đà-la-ni, ở đây gọi là tổng trì.
Tổng trì có bốn thứ:
1. Pháp.
2. Nghĩa.
3. Chú.
4. Năng đắc nhẫn.
Chỗ đối trị của Địa là tánh trì độn, đối với ba tuệ hay có chướng vong thất. Địa này thì không có quên mất pháp kia, gọi là tổng trì đại pháp. Pháp là giáo pháp, giáo thù thắng thì gọi là đại pháp. Định này và tổng trì làm nhân, có thể phát sinh vô biên diệu tuệ quang, cho nên tổng trì lấy tuệ và niệm làm tánh, là lấy ba thứ văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ chiếu liễu Đại thừa pháp. Nương theo đắc định đoạn chướng, văn tuệ và tư tuệ chuyển thêm thù thắng, không phải do định lực thân cận có thể khởi hai thứ văn tư này. Luận Thập Địa: "Tùy theo ba tuệ chiếu soi mà pháp hiển hiện cho nên gọi là minh Địa.
Hỏi: Tại sao mười độ và năm tu thiền và ba phước nghiệp?
Đáp: Địa này thì tu định, sau đây sẽ biết, lại trong mười một Chướng sẽ tự giải thích.
Luận: "Bốn là diễm tuệ Địa", đến "vì tuệ tăng như ngọn lửa".
Thuật rằng: Tức là trừ câu sinh thân kiến nhiếp trong Thức thứ sáu, không phải nói là tất cả, đến sau sẽ hiểu. Thế Thân nói: "Có thể thiêu tất cả căn bản phiền não đều thành tro tàn". Thập Địa ghi: "Không quên củi phiền não, chỗ thiêu của hoả trí". Lấy Bồ-đề phần pháp làm tuệ, không phải đều là tuệ, như ánh lửa của tuệ. Đây là từ hoả ví dụ mà đặt tên. Bồ-đề phần pháp như Biệt Chương nói.
Luận: "Năm là cực nan thắng Địa", đến "vì rất khó thắng".
Thuật rằng: Thế Thân nói: "Biết Chân đế trí là vô phân biệt, biết trí trong sách luận của các thế gian là hữu phân biệt". Hai trí này trái nhau, đáng lẽ tu cho hợp lại, vì có thể hợp và khó hợp khiến cho tương ưng. Luận Vô Tánh ghi: "Trí của Chân đế và Tục đế trái nghịch lẫn nhau, khó có thể dẫn phát khiến cho cùng chung tương ưng". Trí này thì có thể khiến cho không trái nhau, vì trí trước không bằng, gọi là cực nan thắng, không phải mong trí sau. Tương ưng, là đối với chân quán thành tục khiến cho cảnh tương nhập lẫn nhau gọi là tương ưng, là trong một niệm cả hai trí cùng khởi, đây là khiến cho một niệm mà hai trí cùng sinh gọi là hợp thì cũng được, bốn Địa trước thì chưa có thể được. Lại nữa, cảnh đồng nhau gọi là tương ưng, vì bốn Địa trước quán cảnh của hai Đế cũng có sai biệt. Trí này quán cảnh đó lại không có sai biệt, khiến cho Chân đế trí và Tục đế trí đã không trái nhau thì gọi là tương ưng-trong Thức thứ hai trước đã có đặt vấn nạn, như trong đó nói rộng
-vì biết hai cảnh kia không có sai biệt, cho nên Chân như này gọi là vô sai biệt.
Luận: "Sáu là hiện tiền Địa", đến "vì khiến cho hiện tiền".
Thuật rằng: Là quán mười hai chi duyên khởi, có tối thắng trí quán thì không có nhiễm và tịnh, vì khiến cho hiện tiền cho nên gọi là vô sai biệt. Địa thứ bảy thì thành Hữu, Địa thứ tám thì thành Vô. Nhiếp luận của Thế Thân cũng đồng. Luận Thập Địa: "Bát-nhã Ba-la-mật-đa hạnh là hữu gián, đại trí thì trụ hiện tiền.
Luận: "Bảy là Viễn hành địa", đến "vì Nhị thừa đạo".
Thuật rằng: Thế Thân nói: "Địa này đối với công dụng được đến cứu cánh. Tuy tất cả tướng không thể dao động, nhưng đối với hữu tướng thì cũng còn gọi là hữu hạnh". Luận Thập Địa: "Khéo tu vô công dụng cứu cánh của vô tướng hạnh thì có thể vượt qua Nhị thừa thế gian và Xuất thế gian đạo". Địa này vượt qua khỏi Nhị thừa đạo của thế, là trong Địa thứ sáu trước tuy có duyên khởi tịnh và nhiễm không hai, cũng còn có chỗ đối trị tế tướng của chướng hiện hành, vì chấp có tướng sinh diệt, lưu chuyển và hoàn diệt, không thể trong Không mà khởi có thắng hạnh. Hiện tại trong Địa này thì vĩnh viễn xa lìa chướng đó, cũng có thể trong Không khởi có thắng hạnh, có thể đối trị chướng đó. Nhị thừa thế gian thì không thể như vậy.
Luận: "Tám là bất động Địa", đến "vì không thể dao động". Thuật rằng: Tướng là hữu tướng, dụng là công dụng. Luận Vô
Tánh ghi: "Tất cả hữu tướng và tất cả gia hạnh đều không thể dao động tâm của Địa này". Địa thứ bảy tuy tất cả tướng không thể dao động vì không hiện hành, nhưng không tự tại tùy ý mà chuyển có gia hạnh, cho nên cũng còn có phiền não. Trong Địa thứ tám thì tùy ý mà chuyển, không nương vào gia hạnh vì vô công dụng, cũng không có phiền não. Sự sai biệt của Địa thứ bảy và Địa thứ tám, luận Thập Địa: "Báo hạnh thuần thục vô tướng và Vô gián cho nên gọi là bất động". Từ Địa này trở đi là thuyết minh biết vô tướng không phải hữu gián.
Luận: "Chín là thiện tuệ Địa", đến "vì khéo thuyết pháp".
Thuật rằng: Luận Vô Tánh ghi: "Đắc tối thắng vô ngại giải, trong các trí thì Địa này là tối thắng". Trí tức là tuệ, cho nên gọi là thiện tuệ. Thế Thân nói: "Tuệ này rất khéo diệu cho nên gọi là thiện tuệ". Luận Vô Tánh ghi: "Do pháp vô ngại giải mà tự tại biết rõ tất cả pháp cú. Do nghĩa vô ngại giải mà tự tại thông đạt tất cả nghĩa lý. Do từ vô ngại mà tự tại phân biệt tất cả ngôn từ. Do biện vô ngại khắp mười phương, tùy chỗ tuyên thuyết mà tự tại phân rõ tuyên thuyết". Trong Địa này ban đầu chứng trước hết là chưa từng đắc vô ngại giải trí, cho nên gọi là thiện tuệ. Có thể khắp mười phương, luận Thập Địa: "Vì vô ngại lực thuyết pháp thành tựu hạnh lợi tha".
Luận: "Mười là pháp vân Địa", đến "vì pháp thân sung mãn". Thuật rằng: Luận Vô Tánh ghi:
"Do được tổng duyên tất cả trí, tổng duyên tất pháp của Khế kinh mà không lìa Chân như thì tất cả pháp cộng tướng cảnh trí này ví như vầng mây lớn, Đà-ra-ni môn và Tam-mađịa môn cũng như tịnh thủy; trí có thể tàng trữ như vầng mây kia hàm chứa nước, vì có thể sinh công năng thù thắng kia. Lại nữa, như vầng mây lớn che khuất hư không, như vậy pháp trí che khuất hai chướng hoặc và trí rộng lớn vô biên như hư không. Hai chướng hoặc và trí này gọi là thô trọng. Luận đó lại ghi: "Lại nữa, vầng mấy đó mưa thanh tịnh thủy đầy khắp hư không". Như vậy pháp trí sinh ra vô lượng công đức thù thắng, vì đầy khắp bản thân sở y và sở chứng. Thế Thân nói: "Nói sung mãn, là nghĩa chu biến". Luận Thập Địa quyển 1 ghi: "Đắc đại pháp thân đầy đủ tự tại gọi là pháp vân Địa". Quyển 12 ghi: "Thân đầy khắp như vầng mây, cho nên trừ cấu". Là mầm thức của tám tướng thành đạo độ chúng sinh, Địa này như vậy thọ pháp Vương vị, như Thái tử của vua đối với các Vương tử khác mà được tự tại, chỉ do là Thái tử đó có vi tế trí chướng cho nên không được tự tại, để đối trị chướng này cho nên nói sau cùng là nói Phật Địa. Thập Địa quyển 12 ghi: Địa này khi đắc thọ vị thì có mười tướng:
1. Chủ tướng, vì Đại bảo hoa vương xuất hiện.
2. Lượng tướng, vì tròn đầy như mười A-tăngkỳ trăm ngàn Tam thiên Đại thiên thế giới.
3. Thắng tướng, vì tất cả vật báu đều thi thố trang nghiêm.
4. Địa tướng, vì vượt hơn tất cả cảnh giới của Thế giới.
5. Nhân tướng, vì chỗ sinh thiện căn xuất thế.
Đều như luận đó nói. Lại nữa, như khi mang thai còn ẩn tàng, mười Thời của Bồ-tát cũng như thế. Luận đó nói mười vị, không phiền dẫn hết ra. Luận Du-già trong quyển 48 đều giải thích rộng hạnh, đức và danh, không phiền dẫn ra. Luận này thì phần thứ nhất đã giải thích riêng về danh rồi, như kinh Thập Địa.
Luận: "Như vậy Thập Địa", đến "lấy làm tự tánh".
Thuật rằng: Năng chứng và sở chứng lấy là thể của Địa. Có thể nói: "Phần vị của pháp Vô ngã trí gọi là Địa, vì Chân như không có phần vị, trí thì có phần vị, do đó trí gọi là Địa". Luận này thì nêu chung ra nghĩa thể của Địa, sở chứng cũng là Địa, vì Địa có nghĩa là Y Trì Sinh Trưởng. Quyển 47 ghi: "Do nghĩa năng nhiếp trì Bồ-tát cho nên gọi là Địa, có thể làm nghĩa của thọ dụng và cư xử cho nên gọi là trụ" thì Chân như cũng gọi là Địa, vì năng nhiếp trì, tức là thật pháp mượn làm sở y cho nên thật pháp gọi là Địa. Đó là phần thứ hai nêu thể.
Luận: "Cùng với chỗ tu hành", đến "cho nên gọi là Địa".
Thuật rằng: Quyển 47 ghi: "Lấy nghĩa năng nhiếp trì Bồ-tát gọi là Địa". Nghĩa nhiếp kia tức là nghĩa y trì sinh trưởng của luận này. Trì nghĩa là nương giữ, tức là thông với chánh trí của Chân như, vì đều có thể sinh trưởng để y trì, cho nên gọi là Địa. Chân như là tên gì mà khiến cho được sinh trưởng? Luận này không nói Chân như là năng sinh, chỉ nói hạnh là sở sinh, vì Chân như làm Tăng thượng duyên, hạnh thì từ chủng tử sinh, tức là lấy công đức thù thắng cùng với hạnh làm công đức nhiếp trì gọi là Địa. Đây là phỏng theo quả và công đức nhân Địa của nhân làm sở đắc của hạnh. Nhưng giả mượn tổng pháp làm năng y, công đức của pháp khác làm Địa thù thắng. Trong văn của luận này thì đó là phần thứ ba giải thích chung tên của Địa. Kinh Anh lạc ghi: Ở Tì tất công đức gọi là Địa, sinh thành tất cả nhân quả gọi là Địa". Luận Vô Tánh ghi: "Là các hàng Bồ-tát trong Địa này tu tập hiện quán, lìa lỗi, lìa tham, tu Bồ-đề phần, quán sát các đế, quán sát duyên khởi, trong vô tướng hoặc có công dụng, hoặc không có công dụng, đắc thắng biện tài, đến chân quán đảnh thì trừ diệt Sở tri chướng và phiền não chướng", đến nói rộng chỗ tu các hạnh của Địa đó, không phiền dẫn ra. Luận Hiển Dương quyển 3 cũng giải thích, có sai biệt nhỏ, đọc giả nên biết.
Luận: "Mười thắng hạnh", đến "Ba-la-mật-đa".
Thuật rằng: Phần thứ hai giải thích thắng hạnh.
Trong đó có hai đoạn:
1. Nêu chung mười thập hạnh, tức là Ba-lamật-đa.
2. Giải thích rộng.
Trong giải thích rộng có bốn phần, đến sau sẽ biết. Phần đầu lấy mười ba môn giải thích rõ.
Luận: "Thí có ba thứ" đến "pháp thí".
Thuật rằng: Luận Đối Pháp quyển 12 thì đồng, vì cùng mười tám nhậm trì nhiếp nhau. Tài là thân nhậm trì, vô uý là tâm nhậm trì, pháp thí là pháp thiện nhậm trì. Trong thí của Nhiếp luận quyển 7 lấy pháp, tài và vô uý làm thứ tự, Nhiếp luận quyển 2 thì đều nói pháp giúp ích thiện căn, tài thì giúp ích cho thân của người khác, vô uý thì giúp ích cho tâm của người khác, về thứ tự thì không đồng nhau, nhưng ý nghĩa thì đồng với luận này. Luận Vô Tánh quyển 7 ghi: "Trong tánh của thí, hiện có sáu Ba-la-mật-đa, là chỗ nhiếp của tài thí, vô uý thí và pháp thí". Luận Đối Pháp ghi: "Thí độ là tài thí, năm độ còn lại là vô uý thí, tất cả sáu độ là pháp thí". Điều này cùng với Kim cương Bát-nhã luận của Thế Thân trái nhau. Kim cương Bát-nhã Luận: "Đàn độ nhiếp sáu độ, tư sinh, vô uý và pháp". Thứ nhất, thứ hai, thứ ba trong đây gọi là tu hành trụ, giải thích phối hợp như thứ tự. Quyển 78 và đầu quyển 39 thì lấy tài, pháp và vô uý là thứ tự. Quyển hạ lại nói tài, vô uý và pháp làm thứ tự, đồng với luận này. Các luận kia đều giải thích rộng tướng đó, không phiền dẫn ra. Nhưng thí tài thì gọi là tài thí, bố thí người khác không khiến cho kinh sợ hung dữ thì gọi là vô uý thí, pháp thí thì có thể biết rồi.
Luận: "Giới có ba thứ", đến "nhiêu ích hữu tình giới".
Thuật rằng: Luật Nghi giới là thiện nhậm trì, vì là nhân của thiện, nhiêu ích hữu tình giới là đại bi nhậm trì. Luật là pháp luật, nghi là nghi thức. Luận Vô Tánh ghi: "Đối với Bất thiện, có thể viễn ly, phòng hộ và thọ trì, cho nên gọi là luật nghi, luật nghi này tức là giới, cho nên gọi là luật nghi giới. Luận Thế Thân và luận Vô Tánh đều nói luật nghi giới là y trì giới, để hiển chỗ kiến lập của hai giới còn lại. Do đó người an trụ luật nghi giới thì có thể kiến lập nhiếp pháp thiện giới, sau đó tập hợp các Phật pháp, đắc tướng ích hữu tình vô tội lợi ích. Thất chúng giới là thể thứ nhất, tất cả Phật pháp là cõi thứ hai, tế độ các hữu tình là giới thứ ba. Quyển 78 ghi: "Chuyển xả Bất thiện giới thì chuyển sinh thiện giới, chuyển sinh lợi sinh giới". Nghĩa cũng đồng với luận này.
Luận: "Nhẫn có ba thứ", đến "đế sát pháp nhẫn".
Thuật rằng: Luận Đối Pháp ghi: "Nhịn oán thì hại Nhẫn là không xả nhậm trì của hữu tình. Nếu không nhịn oán hại thì đối với oán kia là xả bỏ oán kia, an thọ khổ nhẫn là xả bỏ nhậm trì hạ liệt của tâm, vì nếu tâm hạ liệt thì không thể thọ khổ". Đế sát pháp nhẫn là vô sanh pháp nhẫn nhậm trì, Thế Thân đồng với luận này. Luận Vô Tánh ghi: "Nhẫn thứ nhất là các hữu tình thành thục chuyển nhân, an thọ khổ nhẫn là nhân thành Phật, vì các thứ khổ hàn nhiệt đều có thể nhẫn thọ không thoái chuyển. Đế sát pháp nhẫn là chỗ y chỉ của hai nhẫn trước, kham chịu đảm đương đại pháp rất sâu rộng". Quyển 78 thì tên đồng nhau.
Luận: "Tinh tấn có ba thứ", đến "lợi lạc tinh tấn".
Thuật rằng: Nhiếp luận đều ghi: "Một là bị giáp tinh tấn", tức là giải thích câu "có thế lực" trong kinh. Luận Đối Pháp ghi: "Thiện căn phương tiện nhậm trì". Quyển 78 thì đồng. Nhiếp luận nói là: "Hai gia hạnh tinh tấn", tức là trong giải thích kinh theo thứ tự có chữ cần. Luận Đối Pháp nói là: "Thiện căn viên chứng nhậm trì". Quyển 78 thì nói là: "Chuyển sinh pháp thiện gia hạnh tinh tấn", tức là cùng với luận đồng, danh và thể đều rộng. Nhiếp luận ghi: "Không khiếp nhược, không thoái chuyển, không mừng đủ", tức là chỗ kinh nói câu: "Có dũng, kiên mãnh và không xả thiện ách". Nhiếp luận của Thế Thân theo thứ tự giải thích rộng, hay hơn chút ít. Luận Đối Pháp thì nói là: "Nhiêu ích hữu tình tinh tấn", tức là thiện căn vô tận nhậm trì. Quyển 78 đồng với Đối Pháp và chỗ nói của luận này. Đối Pháp và luận này lấy nhị lợi làm độ (Ba-la-mật), vì sáu độ đều có nói về lợi sinh, cho nên tinh tấn độ thứ ba gọi là nhiêu ích sinh, tức là tinh tấn thứ nhất và thứ hai nhiếp hết năm câu, nhiếp rộng thiện, là thiện căn viên chứng nhậm trì, hoặc phương tiện, hoặc chánh chứng đều là hai thứ tinh tấn này nhiếp, thể thì rộng nhưng danh thì hẹp, vì nhiếp luận chỉ lấy tự lợi làm tinh tấn độ, ba thứ tinh tấn không có nói về lợi sinh, vì nhiếp năm câu gia hạnh để làm hẹp. Chỉ nhiếp Hữu cần, nhiếp thiện tinh tấn để giải thích năm câu của kinh, không đồng với danh hẹp thể rộng của luận Đối Pháp quyển 12. Lại nữa, danh và nghĩa của dị nhiếp luận đều hẹp, theo ý của luận này thì danh nghĩa đều rộng, lợi lạc hữu tình tinh tấn cùng với luận Đối Pháp đồng nhau, nhưng ba thứ tinh tấn của dị Nhiếp luận cùng với quyển 42 đồng nhau. Cần thứ nhất của luận đó là bị giáp tinh tấn, thế lực thì đồng luận này, hai danh còn lại cũng không khác, nhưng luận kia thì giải thích rộng hơn. Kinh Anh Lạc ghi: "Một là khởi tâm đại thệ, hai là phương tiện tấn thú, ba là cần hóa chúng sinh", không thể phiền dẫn ra.
Luận: "Tĩnh lự có ba thứ", đến "biện sự Tĩnh lự".
Thuật rằng: Nhiếp luận đồng với luận này. An trụ, là an trụ nơi hiện pháp lạc trụ, luận Đối Pháp gọi là: "Vô yếm quyển nhậm trì". Luận Vô Tánh thì ghi: "Vì lìa mạn và kiến thì đắc thanh tịnh". Dẫn phát, là dẫn phát lục thông, như luận Đối Pháp nói chỗ Tư duy các sự đã thành mãn nhậm trì. Biện sự, luận kia gọi là thành sở tác sự. Nghĩa đó cùng với luận này đồng. Y theo đây phân rõ lợi hữu tình sự, vì có thể ngưng dứt sự nghèo túng. Luận Đối Pháp ghi: "Ngự chúng sinh nhậm trì, gọi là nhiêu ích hữu tình Tĩnh lự", là từ quả đặt tên. Hiện tại trong luận này lấy định năng khởi để phân rõ công năng của hữu tình sự mà lập tên. Quyển 43 ghi: "Một là hiện pháp lạc trụ, từ quả đặt tên. Hai là năng dẫn bồ-tát đẳng trì công đức Tĩnh lự. Ba là nhiêu ích hữu tình Tĩnh lự". Nghĩa đều đồng với luận này, quyển 78 cũng đồng.
Luận: "Bát-nhã có ba thứ", đến "câu Không vô phân biệt tuệ".
Thuật rằng: Các luận chỉ thuyết minh sáu thứ Độ. Nhiếp luận thì nói lấy gia hạnh, chánh trí và Hậu đắc trí làm ba thứ. Luận Đối Pháp thì nói lấy duyên Thế tục, duyên Thắng nghĩa và duyên hữu tình làm ba thứ. Từ thắng công đức mà nói thì ý đồng với Nhiếp luận. Luận Đối Pháp tự giải thích, là hợp chung Độ thứ mười làm Độ thứ sáu, cho nên đều thông với nhị lợi. Luận này thì riêng khai mở hai trí lý và sự, mỗi mỗi đều thuyết minh riêng, tự lợi của Độ thứ sáu thì chung với Độ thứ mười, cho nên các luận không đồng. Quyển 43 ghi: "Một là chứng Chân như tuệ, hai là năm minh xứ ba tụ trung quyết định thiện xảo tuệ, ba là đại bi tương ưng tuệ". Tuy thuyết minh về sáu độ thì cũng đồng với luận Đối Pháp, lời văn khác nhau nhưng nghĩa thì một. Quyển 78 thì đồng luận này. Kinh Anh Lạc ghi: "Một là chiếu hữu đế, hai là chiếu vô đế, ba là Trung đạo Nghĩa đế thứ nhất".
Luận: "Phương tiện thiện xảo", đến "bạt tế phương tiện thiện xảo".
Thuật rằng: Trong giải thích Thập Địa của Nhiếp luận quyển 7 thì phương tiện độ là lấy chỗ tụ tập thiện căn của sáu độ trước, cùng chư hữu tình hồi chuyển cầu Vô thượng chánh đẳng Bồ-đề, cho nên Thế Thân nói: "Đây là do Bát-nhã và đại bi", vì chư thiện căn hồi chuyển cầu Vô thượng Bồ-đề là Bát-nhã, tạo tác tất cả nghĩa lợi của chư hữu tình là đại bi, cho nên luận Vô Tánh ghi: "Không xả sinh tử mà cầu Niết-bàn", là vì đại bi cho nên không xả sinh tử, vì đại bi cho nên cầu Niết-bàn. Quyển 49 nói như chỗ nói trước. Mười hai hành tướng phương tiện thiện xảo, nên biết gọi là phương tiện thiện xảo độ. Mười hai hành tướng, là quyển 45 trước đã nói, hợp chung có mười hai thứ phương tiện thiện xảo, thành thục Phật pháp có sáu thứ, thành thục hữu tình có sáu thứ, hợp chung lại gọi là mười hai hành tướng. Thành thục Phật pháp có sáu thứ làm Bát-nhã, thành thục hữu tình có sáu thứ làm đại bi, sau đây sẽ giải thích. Luận Đối Pháp quyển 14 nói có bốn thứ phương tiện thiện xảo, xét chỗ đồng và dị, kinh Anh Lạc nói có ba thứ:
1. Tấn thú hướng quả.
2. Xảo tổng hợp hữu vô.
3. Tất cả bất xả bất thọ.
Trong hồi hướng tức là Bát-nhã, bạt tế tức là đại bi.
Luận: "Nguyện có hai thứ", đến "lợi lạc cho nguyện của người khác".
Thuật rằng: Nhiếp luận ghi: "Phát các thứ đại nguyện vi diệu, dẫn nhiếp nhiều duyên của Ba-lamật trong tương lai". Luận Vô Tánh ghi: "Cầu duyên đáo bỉ ngạn, vì lợi hữu tình và vì mau chứng Phật quả Niết-bàn". Thế Thân nói: "Nguyện này tức là độ, gọi là nguyện độ, nguyện vì tương lai, đây là chỗ làm". Chuyển thanh thứ tư làm tương lai cho nên phát các thứ nguyện. Quyển 49 nói như năm thứ đại nguyện trước gọi là Ba-la-mật-đa. Năm chủng đại nguyện, quyển 45 ghi: "Một là phát tâm nguyện, là sơ phát Bồ-đề tâm. Hai là thọ sinh nguyện, là nguyện tương lai tùy thuận sinh vào các nẻo thiện, nhiêu ích hữu tình. Ba là sở hạnh nguyện, là không có tư trạch điên đảo để chọn lựa các pháp, nguyện đối với các cảnh giới tu tập vô lượng các công đức thù thắng. Bốn là chánh nguyện, là nguyện tương lai nhiếp thọ tất cả công đức của Bồ-đề hoặc chung hoặc riêng". Năm chủng đại nguyện này là từ chánh nguyện phát ra, nguyện này lại có mười thứ, là cúng dường vô biên Phật, trong đây thứ nhất là Bồ-đề nguyện, còn lại là lợi lạc cho nguyện của người khác, vì lợi ích hữu tình mà phát khởi nguyện này. Sự phối hợp trong đây như văn có thể biết. Kinh Anh Lạc có ba thứ:
1. Tự hạnh nguyện.
2. Thần thông nguyện.
3. Ngoại hóa nguyện.
Luận: "Lực có hai thứ", đến "tu tập lực".
Thuật rằng: Nhiếp luận ghi: "Do hai lực tư trạch và tu tập, khiến cho sáu độ trước liên tục hiện hành". Luận Vô Tánh ghi: "Trong đây nói về hai lực, các lực còn lại cũng nhiếp trong đó, vì tư trạch các pháp mà tu tập. Quyển 49 ghi: "Chỗ có mười lực gia hạnh thanh tịnh, gọi là lực Ba-la-mật-đa". Mười lực gia hạnh thanh tịnh thì trong đó cái nào làm tư trạch, làm tu tập? sự phối hợp của văn nghĩa này có thể biết. Kinh Anh Lạc có ba thứ:
1. Báo sức thần thông.
2. Tu định sức thần thông.
3. Biến hóa sức thần thông.
Luận: "Trí có hai thứ", đến "thành tựu hữu tình trí".
Thuật rằng: Nhiếp luận ghi: "Do sáu Độ trước mà thành lập diệu trí, thọ dụng pháp lạc, thành tựu hữu tình". Luận Vô Tánh ghi: "Do thí... sáu độ mà thành lập trí này, lại do trí này mà thành lập sáu thứ gọi là thọ pháp lạc". Do diệu trí này có thể hiểu biết đúng thí, giới... nhiêu ích hữu tình. Thế Thân nói: "Do Bát-nhã Ba-la-mật-đa trí vô phân biệt tự tánh trí, thành lập Hậu đắc trí, từ trí này mà thành lập sáu Ba-la-mật-đa trước". Do đây mà tự tạo tác và cùng bậc đồng pháp mà thọ dụng pháp lạc, thành thục hữu tình. Quyển 49 ghi: "Đối với tất cả pháp, an lập như thật thanh tịnh diệu trí, gọi là trí Ba-lamật". Nên biết Thắng nghĩa tuệ của năng thủ gọi là tuệ Ba-la-mật, năng thủ Thế tục tuệ gọi là trí Ba-la-mật. Có nhiều chữ "lại nữa" trong bốn độ môn sau, như luận kia rộng giải thích. Tuy quyển 49 nói Diệu trí đối với tất cả pháp, tức là Hậu đắc trí, bàn về thể cho nên đây là một. Hiện tại trong luận này luận về dụng cho nên đây là hai, không trái nhau.
Kinh Anh Lạc có ba thứ trí:
1. Vô tướng trí.
2. Tất cả chủng trí.
3. Biến hóa trí.
Tuy dẫn kinh này nhưng chưa có thể làm chứng, vì bốn độ sau tức là thể thứ sáu. Hiện tại luận này thì có hai trí, không có ba trí. Trong đây quyển 18 hoặc 26, đối với Địa tiền có đủ mấy độ, cho đến Phật Địa có đủ bao nhiêu độ? Tài thí trong thí độ thứ nhất nhiếp các độ còn lại sau là những độ nào, cho đến thành thục hữu tình trí nhiếp các độ trước là những độ nào? Đều như luận Đối Pháp quyển 12 Sao giải thích. Tổng là phần thứ nhất bày ra các tên. Luận Hiển Dương quyển 3 tuy cũng giải thích mười độ, nhưng không có tướng riêng cho nên không phiền dẫn ra. Tiếp theo phần thứ hai nêu ra thể.
Luận: "Tánh của mười độ này", đến "ba nghiệp làm tánh".
Thuật rằng: Tức là không có tham tương ưng với tư, gồm cả chỗ phát thân nghiệp và ngữ nghiệp của tư kia làm thể. Luận Đối Pháp quyển 11 ghi: "Tự thể của thí, là thân, ngữ và ý nghiệp". Nhưng là các Độ của ba nghiệp thông với tánh, cho nên không có vô tham. Như quyển 39 rộng lấy chín môn để giải thích về thí độ. Quyển 39 giải thích tự tánh của thí độ rằng: "Chư Bồ-tát đối với tự thân và tài vật không có nuối tiếc, có thể bố thí tất cả vật đáng thí. Không có tham đồng thời với tư, và nhân đó mà phát hai vật Năng thí là thân nghiệp và ngữ nghiệp". Giải thích văn đó có một giải thích, chỉ nắm lấy ba nghiệp, đồng với luận Đối Pháp nắm lấy vô tham đồng thời với tư, vì không lấy vô tham. Luận này giải thích cũng lấy vô tham, đồng với văn của luận này đối với tài vật không tham mới có thể bố thí. Đã không có Biệt giải, tức là thể tánh của ba thứ thí đều đồng.
Luận: "Giới lấy thọ học", đến "ba nghiệp làm tánh".
Thuật rằng: Luận Đối Pháp cũng lấy ba nghiệp đồng với luận này. Quyển 40 ghi: "Luật nghi giới lấy biệt giải thoát giới của thất chúng tại gia và xuất gia làm thể", tức là chỉ có hai nghiệp. Nhiếp pháp thiện giới, là các hàng Bồ-tát sau khi thọ luật nghi, tất cả vì Đại Bồ-đề từ thân ngữ ý tích tập chư pháp thiện làm thể, tức là thông cả ba nghiệp. Nhiêu ích hữu tình giới tóm lược có mười một thứ, như luận kia rộng giải thích cũng thông với ba nghiệp, trong đó luận tổng quát lấy ba nghiệp làm tánh, vì khi thọ học thì ba nghiệp làm tánh. Nhưng Bồ-tát giới thì tự ngưng dứt ác giới, là giới nào nhiếp? Hiện tại vì muốn lập riêng với các chi trước, cho nên nói là thất chúng, thật ra Bồ-tát giới cũng được coi là luật nghi giới, vì Bồ-tát giới có ý nghiệp. Trong đây luận rằng sắc làm thể của luật nghi, cho nên không nói, vì nhiếp thiện giới thì rộng, tức là khiến cho nhập vào nhiếp thiện giới. Luận ra thì cũng được, nếu như thế thì Hữu chi hoặc Vô chi của Bồ-tát giới, giống như sắc pháp hay không? Như Biệt sao mà hiểu, chỗ hỏi kinh của Văn Thù về Bồ-tát có năm chương giới luật, là giới Xuất thế gian, hoặc tâm phân biệt nam nữ hoặc phi nam nữ, là Ba-ladi, vì ba nghiệp cho đến cây lá muốn lấy thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Hoặc nhổ lông cắt thịt như tháng thứ nhất thì phạm Du-lan-giá, như vậy nói rộng, nhưng bốn Ba-la-di tội của Bồ-tát địa cùng với đây khác nhau, như quyển 40, 41 và nửa quyển 42 lấy rộng chín môn để giải thích.
Luận: "Nhẫn để lấy vô sân", đến "ba nghiệp làm tánh".
Thuật rằng: Luận Đối Pháp chỉ lấy ba nghiệp làm tánh, vì là thông với tánh, nói rằng ba thứ nhẫn lấy chung ba nghiệp làm tánh, còn không riêng nêu ra. Quyển 42 ghi: "Tại sao gọi là nhẫn? Tự mình không có phẫn nộ, không báo oán người khác", cũng không tùy miên lưu chú tương tục, cho nên gọi là nhẫn, đó gọi là Bồ-tát nhịn oán hại nhẫn, luận kia có thuyết minh rộng về tướng này, nhịn oán hại nhẫn để lấy vô sân, chỗ khởi ba nghiệp làm tánh. Quyển đó lại ghi: "Gặp chỗ khổ của thế pháp có chín thứ là suy, hủy, cơ, khổ, hoại pháp hoại, tận pháp tận, lão pháp lão, bệnh pháp bệnh và tử pháp tử. Hoặc chung hoặc riêng, không do duyên này mà tinh tấn hay bỏ phế, cho đến thường siêng tu tập, không có ý biến dị, không có tâm tạp nhiễm, đó là Bồ-tát an tâm thọ khổ nhẫn, cho nên ở đây lấy tinh tấn và chỗ khởi ba nghiệp kia làm tánh. Quyển kia lại ghi: "Thế nào là pháp tư thắng giải nhẫn của Bồ-tát? Là các hàng Bồ-tát có thể đối với tất cả pháp có thể Chánh tư duy. Do thắng giác tuệ khéo quán sát, có thể đối với tám sự có thể phát sinh chỗ thắng giải, vì khéo an thắng giải cho nên quán sát kỹ pháp nhẫn". Vì lấy tuệ quán sát làm tánh, cho nên luận đó không nói ở đây có ba nghiệp. Hoặc định và đạo đồng thời với sắc thì có thể gọi là ba nghiệp, chính là cùng với luận này đồng. Như quyển 42 lấy chín môn phân riêng.
Luận: "Tinh tấn lấy cần", đến "ba nghiệp làm tánh".
Thuật rằng: Luận Đối Pháp chỉ lấy ba nghiệp làm tánh, từ tướng chung của các độ nêu ra thể. Quyển 42 nói thông suốt, như trước nói đều thông ba nghiệp, tinh tấn làm thể, cũng như luận kia lấy chín môn để giải thích.
Luận: "Tĩnh lự chỉ lấy đẳng trì làm tánh".
Thuật rằng: Đẳng trì là Tam-ma-địa, tức là định tâm sở, không thông với tán động, không nói về ba nghiệp. Luận Đối Pháp ghi: "Khi khởi ứng dụng tự tại ba nghiệp thì tất cả chủng tâm đã có hằng an trụ". Quyển 43 ghi: "Tức là tự tánh Tĩnh lự của Diệu thiện thế gian và Xuất thế gian". Ba tướng của luận kia tuy khác nhau, nhưng đều lấy Tĩnh lự làm thể. Nhưng hai thứ hành tướng khác nhau như quyển trước. Nói rộng chín môn cũng như luận kia. Luận: "Năm độ sau đều lấy", đến "Hậu đắc trí". Thuật rằng: Luận Đối Pháp và quyển 43 đồng lấy hậu đắc gia hạnh chánh trí của thế gian và Xuất thế gian làm tánh, văn dưới đây cũng nói, mười Độ đều thông với Hữu lậu và Vô lậu. Đây là y theo thật nghĩa, luận Nhiếp Đại thừa quyển 7 giải thích trong Thập Địa đồng với đây, chỉ nương vào thắng pháp mà nêu ra năm thể sau, không phải là tận lý. Luận đó ghi: "Năm độ sau nên biết, Bát-nhã trí vô phân biệt và Hậu đắc trí nhiếp". Thế Thân và luận Vô Tánh giải thích rằng: "Nếu nói mười độ tức là trí vô phân biệt, là Bát-nhã Ba-la-mật-đa nhiếp. Phương tiện... bốn độ sau thì Hậu đắc trí nhiếp. Hoặc nói sáu độ và nhị trí đều là Độ thứ sáu nhiếp", cho nên phân ra năm độ sau và hai trí làm tánh.
Luận: "Có nghĩa Thức thứ tám", đến "làm tự tánh".
Thuật rằng: Các nghĩa khác không có tranh cãi, chỉ hiển ra rằng không lấy tuệ làm tự tánh, tức là lấy ba thứ dục, thắng giải và tín làm tánh, vì nguyện thì lấy ba pháp làm tự tánh. Nói là Hậu đắc trí, là chỉ có trong Hậu đắc trí mà khởi, cho nên năm độ trong phần thứ nhất thì không như vậy. Luận Nhiếp Đại thừa ghi: "Hoặc là dục và thắng giải làm thể của nguyện, hoặc tín và thắng giải làm thể của nguyện". Hiện tại luận này hợp chung ba thứ đó lại nói, cho nên nói rằng lấy ba pháp làm thể.
Luận: "Đây là nói tự tánh", đến "công đức làm tánh".
Thuật rằng: Như chỗ nói trước, ngay nơi tánh là thể, hoặc gồm cả quyến thuộc và tất cả công đức làm tánh. Vì quyến thuộc là nêu ra thể, tổng lấy năm uẩn làm thể của mười độ, tức là phần thứ hai nêu ra thể tánh.
Luận: "Mười tướng này", đến "Ba-la-mật-đa".
Thuật rằng: Đây là phần thứ ba thuyết minh về tướng. Thế nào là tướng? Tức là trở thành tướng mạo của Ba-la-mật-đa, vì phải có đủ bảy nghĩa này mới gọi là độ, thiếu một thì liền không phải.
Luận: "Một An trụ tối thắng", đến "tất cả sự nghiệp".
Thuật rằng: Tất cả sự nghiệp, là tùy thuận những chỗ có sự nghiệp của độ (Ba-la-mật-đa), đều nên thực hành cho độ được thành mãn. Nhiếp luận có sáu thứ, trừ chủng tánh thứ nhất ra, tức là nhiếp trong Bồ-đề tâm. Nhưng luận Vô Tánh dẫn tụng cũng tương tợ như làm chứng có chủng tánh thứ nhất, nói: "Sừng con lân là dụ cho không có sáu Ba-la-mật-đa, chỉ có ngã là tối thắng tôn, thượng phẩm đáo bỉ ngạn". Nhưng luận Đối Pháp quyển 11 ghi: "Trong tướng của sáu độ có năm tướng, an trụ Bồ-tát chủng tánh thì Bồ-tát tâm làm chỗ y chỉ, vì bi dẫn đường cho tâm, xả trong tất cả thời, chỗ có hai nghiệp tức là năm nghĩa, gọi là sáu độ tướng".
Luận Hiển Dương quyển 3 cũng có sáu nghĩa làm thành độ, nhưng khác với Nhiếp luận, không phiền dẫn ra, chỉ trong luận này cũng đủ bao quát các luận.
Luận: "Năm xảo tiện tối thắng", đến "hai chướng xen tạp".
Thuật rằng: Chỗ nhiếp thọ của vô tướng trí là thứ sáu bất chấp ba luân thanh tịnh. Trong hồi hướng tối thắng và Biệt thứ hai, kia có đạo tâm, không cần tất cả hồi hướng Bồ-đề. Hồi hướng này, trong thanh tịnh thắng vì lìa hai chướng thực hành đối với các độ, không bị kia xen tạp, là ba thời không có hối hận.
Luận: "Hoặc không phải bảy thứ này", đến "không phải đáo bỉ ngạn".
Thuật rằng: Đây là tổng kết. Từ bảy chỗ nhiếp gọi là độ, nếu không như thế thì liền không phải.
Luận: "Do đây mà thí...", đến "bốn câu phân biệt".
Thuật rằng: Vì có thị phi, mỗi mỗi đều đáng lẽ là bốn câu phân riêng. Đây là mỗi mỗi tự mong, tức là chủng loại phước làm bốn câu. Là thí không phải độ, vì không cầu Bồ-đề; là độ không phải thí, vì tùy hỷ thí, cũng là độ cũng là thí có thể biết. Nếu không phỏng theo chủng loại phước, thứ tự tu tập thì thí làm ba câu, vì không có Ba-la-mật đó thì không phải thí, năm độ còn lại được làm bốn câu, vì trước có thí độ được làm một câu. Nếu không phải thứ tự thì đều được làm bốn câu, trong đây có ba độ như thế được làm bốn câu.
Luận: "Đây là chỉ có mười", đến "không có tăng giảm".
Thuật rằng: Phần thứ tư là bất tăng giảm môn. Thứ nhất giải thích chung, phỏng theo Địa đoạn chướng chứng Chân như, giải thích những gì có thể giải thích. Chướng tức là mười vô minh chướng Thập Địa. Luận Đối Pháp quyển 12 ghi: "Sở tri chướng đều là chỗ đối trị của độ, mỗi chướng đều nương vào chướng của xan lận, phạm giới, tắng khuể, giải đãi, tán loạn và ác tuệ". Ngay trong ác tuệ lại phân ra bốn thứ sau, cho nên gọi chung là chướng, lìa ác tuệ là năm thứ gọi là mười chướng thì không phải. Văn sau sẽ tự nêu ra sáu chướng.
Luận: "Lại nữa, sáu độ trước", đến "tương vi chướng".
Thuật rằng: Dưới đây theo thứ tự thuyết minh sáu nguyên nhân có sáu nghĩa. Trước hết thuyết minh đối trị sáu chướng, chỗ đối trị của luận Đối Pháp và Nhiếp luận đều nói là sáu tệ, tức là sáu thứ tương vi chướng. Lại nữa, như Nhiếp Đại thừa nói bất phát thú nhân, những chỗ nói trên, nói có mười nguyên nhân:
1. Thập Địa tu hành.
2. Đối trị mười chướng.
3. Chứng mười Chân như, đây là phỏng theo Thập Địa mà luận, dưới đây nương theo sáu mà nói mười là xan lận, phạm giới, sân khuể, giải đãi, tán loạn và ác tuệ.
4. Đối trị tương vi chướng.
Luận: "Dần dần tu hành các Phật pháp".
Thuật rằng: Đây là nguyên nhân thứ năm. Nhiếp Đại thừa nói bốn nhân trước không phải là nhân tán động, khiến cho chỗ đối trị không có tán động. Nhân thứ năm bất tán động đã thành thục, vì khiến cho bất tán động được viên mãn, nhân thứ sáu nương vào nhân thứ năm này mà đắc như thật giác, có thể đối với sở duyên mà chánh biến tri cho nên nói Phật pháp, Phật pháp đó là mười lực, tu là thành tựu biện tài.
Luận: "Dần dần thành thục các hữu tình".
Thuật rằng: Đây là nhân thứ sáu. Nhiếp Đại thừa ghi: "Do thí có thể nhiếp thọ, do giới có thể không hại, không sinh phiền não, do nhẫn tuy gặp khổ nhưng có thể thọ, do cần trợ giúp cho các việc làm đó, do định tâm chưa định thì khiến cho định, do tuệ đã định thì khiến cho giải thoát".
Luận: "Luận này nói rộng như các luận khác nên biết".
Thuật rằng: Ba nhân sau này nói rộng như Nhiếp luận khác nên biết.
Luận: "Lại nữa, thí... ba pháp", đến "chỉ có hai nhân này". Thuật rằng: Đây là nhân thứ bảy, là ba pháp trước của thí. Luận
Đối Pháp quyển 11 ghi: "Là tăng thượng sinh đạo của các hàng Bồ-tát, ba nhân sau là quyết định thắng đạo. Thí trong tăng thượng sinh đạo có thể chiêu cảm đại tài, giới có thể chiêu cảm đại thể, nhẫn chiêu cảm quyến thuộc, trì giới thì được sinh trong nẻo thiện được thân tôn quý. Người có thể tu hành nhẫn thì tất cả hữu tình đều quy y nương tựa. Trong quyết định thắng đạo thì tinh tấn có thể hàng phục phiền não, tu thiện phương tiện thì Tĩnh lự là phương tiện có thể thuần thục hữu tình, y theo đây mà khai thông thành thục hữu tình, tuệ là phương tiện thành thục Phật pháp, do có tuệ cho nên Phật pháp được thành thục, đạo của các hàng Bồ-tát chỉ có hai thứ này, nếu thiếu một thứ thì đạo không thành.
Luận: "Lại nữa, ba thứ trước", đến "vì chư phiền não".
Thuật rằng: Đây là nhân thứ tám. Quyển 78 và Giải Thâm Mật ghi: Có hai nhân duyên cho nên sáu độ không có tăng giảm:
1. Nhiêu ích hữu tình, là ba nhân trước. Do Thí, cho nên nhiếp thọ tư tài mà nhiêu ích đối với hữu tình kia. Do giới mà không làm việc tổn giảm não hại, nhiêu ích hữu tình. Do Nhẫn mà kham nhẫn thọ khi hữu tình kia bị tổn hại, ba thứ này đều có chung nhiêu ích.
2. Đối Trị phiền não, là ba nhân sau. Do tinh tấn, tuy chưa vĩnh viễn hàng phục phiền não, chưa vĩnh viễn hại tùy miên, nhưng có thể dũng mãnh tạo tác các thiện phẩm, các phiền não kia không thể khuynh động thiện phẩm gia hạnh", tức là luận này nói tuy chưa phục diệt cho đến các thiện gia hạnh, do Tĩnh lự mà vĩnh viễn hàng phục phiền não, do Bát-nhã mà vĩnh viễn hại tùy miên, tức là nghĩa vĩnh viễn phục diệt trong đây, trong đây hoặc gia hạnh, hoặc Chánh diệt đều là đối trị các phiền não. Luận Đối Pháp quyển 11 cũng có giải thích điều này.
Luận: "Lại nữa, do thí...", đến "bất tăng bất giảm".
Thuật rằng: Đây là nhân thứ chín. Luận Đối Pháp ghi: "Do các hàng Bồ-tát nghịch trụ Niết-bàn, ở trong sinh tử mà không nhiễm ô". Do đó ba độ trước là đắc tăng thượng sinh phương tiện, cho nên luận này gọi đó là bất trụ Niết-bàn, ba độ sau là bất nhiễm ô phương tiện, cho nên luận này nói là bất trụ sinh tử, không nhiễm phương tiện, luận tự giải thích rằng: Do cần cho nên tu đối trị, do định cho nên hàng phục phiền não, do tuệ cho nên vĩnh viễn hại tùy miên. Do không trụ Niết-bàn và sinh tử, cho nên sáu độ này làm tư lương của Vô trụ xứ Niếtbàn. Niết-bàn này là Chân như, sáu độ này làm tư lương của Chân như đó. Ba độ trước là bi cho nên không trụ Niết-bàn, ba nhân sau là tuệ cho nên không trụ sinh tử, quyển 49 ghi: Vì trong ba học nhiếp cho nên không tăng không giảm sáu nhân. Bốn độ trước là giới học, hai độ sau là nhị học, như sau sẽ biết. Tổng nghĩa là do luận như vậy có chín thứ, biệt nghĩa thì một thứ, hợp chung thành mười nghĩa. Sáu độ trước đã như thế, bốn độ sau thì thế nào?
Luận: "Sau chỉ có bốn độ", đến "không tăng không giảm". Thuật rằng: Đây là đoạn văn tổng quát. Thế nào là trợ sáu độ? Luận: "Phương tiện thiện xảo trợ ba pháp của thí".
Thuật rằng: Quyển 78 và Giải Thâm Mật ghi: "Đối với hữu tình mà ba thứ Ba-la-mật-đa trước nhiếp thì dùng phương tiện thiện xảo của các Nhiếp sự mà nhiếp nó, đặt yên trong thiện phẩm, do đó Ta nói phương tiện thiện xảo là sự trợ giúp của thí, là bố thí nhiếp trong sự", tức là hành tướng của thí này, tương thuận nhiếp lẫn nhau làm lợi ích cho phương tiện kia, cho nên gọi là trợ.
Luận: "Nguyện trợ tinh tấn".
Thuật rằng: Văn của luận kia lại ghi: "Hoặc các hàng Bồ-tát có nhiều phiền não trong hiện pháp, đối với tu Vô gián không có khả năng kham nhận, do ý lạc yếu kém, cõi dưới thì thắng giải, đối với trụ trong nội tâm thì không có khả năng kham nhận, cho đến vị lai phiền não mỏng nhẹ, tâm sinh Chánh nguyện, như vậy gọi là nguyện. Do nguyện này, phiền não mỏng nhẹ có thể tu tinh tấn, cho nên nói nguyện trợ tinh tấn.
Luận: "Lực trợ Tĩnh lự".
Thuật rằng: Kinh kia lại ghi: "Hoặc các hàng Bồ-tát thân cận thiện sĩ, nghe học Chánh pháp, như lý khởi Ý làm nhân duyên, chuyển ý lạc yếu kém thành thắng ý lạc, cũng được thắng giải của cõi trên, gọi là Lực Ba-la-mật-đa, do Lực này đối với trụ trong nội tâm có chỗ khả năng kham nhận, cho nên nói lự độ làm trợ giúp cho định độ.
Luận: "Trí trợ Bát-nhã", đến "nói rộng nên biết".
Thuật rằng: Kinh kia lại ghi: "Hoặc các hàng Bồ-tát, đã có thể nhờ nghe mà khéo tu tập, có thể phát Tĩnh lự, như vậy gọi là trí. Do trí này mà khả năng kham nhận dẫn phát tuệ thế gian và Xuất thế gian, cho nên nói trí làm trợ giúp cho tuệ". Khiến cho người tu hành đầy đủ là bốn độ sau trợ cho sáu độ trước khiến cho tu hành đầy đủ, sáu độ trước không làm chỗ trợ của bốn độ sau thì không gọi là đầy đủ. Lý như trên đã nói, cho nên trong đây thì chỉ như Giải Thâm Mật và luận Trung Biên quyển 1 nói mười độ và mười chướng. Tụng ghi: "Chướng phú quý nẻo thiện, không xả chư hữu tình, đối với lỗi và đức giảm hay tăng, khiến cho tiến vào giải thoát. Chướng các thiện của thí, vô tận cũng vô gián, chỗ làm thiện quyết định, pháp thọ dụng thành tựu", cho nên mười độ bất tăng bất giảm, thứ đệ môn thứ năm.
Luận: "Mười thứ đệ", đến "trì giữ thanh tịnh các độ trước".
Thuật rằng: Giải thích thứ nhất, nói rằng do các độ trước dẫn phát các độ sau. Quyển 78, Giải Thâm Mật và Nhiếp luận ghi: "Do bố thí dẫn sinh giới và nhẫn", rộng như các luận đó nói, vì dễ hiểu cho nên không nói ra đây. Giải thích thứ hai nói rằng, và do các độ sau trì giữ thanh tịnh các độ trước. Luận Đối Pháp ghi: "Giới có thể trì bố thí, cho đến tuệ có thể trì định. Do đầy đủ Thi-la mà thí được thanh tịnh, tại sao vậy? Vì do hạnh bố thí nhiếp mà lợi ích hữu tình, do trì giới cho nên không bị não hại", đến như Già-tha ghi: "Không có Tĩnh lự mà không nương vào tuệ", rộng như luận kia nói.
Luận: "Lại nữa, các độ trước thô", đến "thứ đệ như vậy".
Thuật rằng: Giải thích thứ ba, luận Đối Pháp ghi: "Trong các hạnh thì thí hạnh là rất thô, giới thì vi tế hơn thí, do đó kiến lập giới sau thí, cho đến trong tất cả hạnh thì tuệ là rất vi tế, cho nên kiến lập tuệ ở sau cùng". Trong ba giải thích này, giải thích thứ nhất đồng với Giải Thâm Mật, Du-già và Hiển Dương, hai giải thích còn lại chỉ có trong luận này, luận Đối Pháp thì đồng với luận này, quyển 49 thì có ba giải thích, hai giải thích đầu thì đồng với luận này, là đối trị sự sinh khởi của các chướng, vì sinh khởi tức là thô và tế, giải thích thứ ba thì khác với luận này. Dị thục thứ ba như quyển luận 49 kia giải thích rộng. Từ đây xuống có sáu giải thích về danh.
Luận: "Giải thích tên chung tên riêng như kinh luận khác nói". Thuật rằng: Quyển 78 và Giải Thâm Mật giải thích tên chung ghi:
"Duyên gì mà các luận này gọi là Ba-la-mậtđa? Vì do năm duyên:
1. Vô nhiễm trước, là không nhiễm ô các sự trái với Ba-la-mật.
2. Vô cố luyến, là các quả Dị thục của sáu độ này, và tâm trong báo ân không trói buộc.
3. Vô tội là đối với sáu độ không có pháp xen tạp, lìa phi phương tiện hạnh.
4. Vô phân biệt, không giống như chấp trước tự tướng của ngôn từ.
5. Chánh hồi hướng, là lấy độ chỗ tu hành xoay lại cầu Đại Bồ-đề".
Nhiếp Đại thừa ghi: "Đối với thế gian và thí tối thắng của Nhị thừa có thể đắc bỉ ngạn", là nói chung Ba-la-mật-đa. Luận Đối Pháp quyển 11 ghi: Do mười hai tối thắng tương ưng gọi là Ba-la-mậtđa:
1. Quảng đại, vì không cầu thế lạc, lại cũng là tối thượng.
2. Trường thời, vì ba kiếp tích tập.
3. Sở vi, vì làm lợi sinh.
4. Vô tận, hồi hướng cứu cánh vô tận của Đại Bồ-đề.
5. Vô gián, vì tự tha bình đẳng, khiến cho tha mau chóng viên mãn thí...
6. Vô nan, vì tùy hỷ bố thí của tha, khiến cho tự hành mau chóng viên mãn.
7. Đại tự tại, do đắc định của hư không tạng, khiến cho thí mau chóng viên mãn.
8. Nhiếp thọ, chỗ nhiếp thọ của trí vô phân biệt.
9. Phát khởi, là chỗ hành thí của thượng phẩm nhẫn và trung phẩm nhẫn trong giải hạnh Địa.
10. Chứng đắc, là chỗ hành thí của Sơ địa.
11. Đẳng lưu, là chỗ hành thí của tám Địa còn lại.
12. Viên mãn, là sở hữu thí của Thập Địa và Như Lai, tức là Bồ-tát thì mãn, Như Lai thì viên.
Nếu thiếu một thứ thì không phải Ba-la-mật-đa. Chỗ đến của tối thắng, chỗ làm của tối thắng, cho nên gọi là Ba-la-mật-đa. Ba-la nghĩa là sở chí, hoặc nghĩa là sở tác. Mật-đa nghĩa là năng chí hoặc năng tác. Luận kia lại ghi: "Đáo Sở tri bỉ ngạn gọi là Ba-la-mật-đa, vì an trụ trong Phật tánh". Lại nữa, Ba-la nghĩa là Sở tri bỉ ngạn, Mật-đa nghĩa là đáo. Lại nữa, giải thích sự tế độ tai nạn của tự tha, do đó gọi là Ba-la-mật-đa. Đây là hợp chung sáu giải thích tên chung. Giải thích tên riêng, luận Nhiếp Đại thừa ghi: "Có thể chế phục xan lận và bần cùng, đắc tài vị quảng đại và phước đức tư lương thì gọi là thí, cho đến có thể trừ bỏ tất cả kiến thú, các tà ác tuệ và năng chân thật phẩm biệt tri pháp gọi là tuệ". Luận Đối Pháp quyển 11 ghi: "Do đại thí, vì lìa lỗi, vì lìa cấu, cho nên gọi là thí Ba-la-mật, cho đến tuệ cũng do ba nhân, gọi là tuệ Ba-la-mật", như luận đó nói rộng. Luận đó lại giải thích: "Người có thể xả bỏ bố thí thì tương lai bần khổ, người có thể xả bỏ thọ thì hiện tại nhiệt não, cho nên gọi là thí, cho đến sở phát trí, nội chứng trí, chủng biệt trí, đắc tịch tịnh trí, thắng đức trí khác đều gọi là tuệ. Hợp chung ba thứ để giải thích tên riêng, cho nên hiện tại tổng thì chỉ giải thích tên chung và tên riêng như các kinh luận khác nói, các kinh luận khác tức là Nhiếp Đại thừa...
Luận: "Thập tu này", đến "nói rộng tướng của nó".
Thuật rằng: Thứ bảy là tu môn, luận này có năm tu, ở đây giống như luận Đối Pháp quyển 12 nói.
1. Y chỉ nhậm trì tu, lại có bốn thứ:
Y nhân Tu, do chủng tánh lực đối với các độ mà tu chánh hạnh.
Y quả tu, là y theo tự thể lực thù thắng, đối với độ mà tu chánh hạnh.
Y nguyện tu, từ nguyện lực gốc đối với độ mà tu chánh hạnh.
Y giản trạch tu, là từ tuệ lực đối với các độ mà tu chánh hạnh.
2. Y chỉ tác ý tu, luận đó lại nói có bốn thứ:
Y thắng giải tu, đối với tất cả độ tương ưng giáo pháp mà khởi tăng thượng thắng giải.
a. Y ái vị tu, đối với các độ đã đắc, phần nhiều là thấy các công đức mà khởi thâm sâu ưa thích mùi vị.
Y tùy hỷ tu, là đối với các độ chư hữu tình của các thế giới tu hành mà khởi thâm sâu tùy hỷ.
b. Y hỷ lạc tu, đối với tự tha tương lai thắng phẩm trong các độ sinh thâm sâu ước nguyện ưa thích.
3. Y chỉ ý lạc tu, tức là sáu thứ ý lạc:
a. Vô yếm ý lạc.
b. Quảng đại.
c. Hoan hỷ.
d. Ân đức.
e. Vô nhiễm.
f. Thiện hảo ý lạc.
Rộng như luận kia giải thích. Nhưng cùng với danh tự lục ý lạc của Nhiếp luận không đồng, và nhiếp ba tác ý: một là ái trọng, hai là tùy hỷ, ba là hân lạc; đều giống như Nhiếp luận quyển 7 và luận Đối Pháp quyển 12 Sao mà hiểu.
4. Y chỉ phương tiện tu, luận Đối Pháp nói cũng có ba thứ, do trí vô phân biệt, quán sát ba luận đều thanh tịnh, do phương tiện này mà tất cả chỗ tu hành của tác ý đều mau chóng thành tựu viên mãn.
5. Y chỉ tự tại tu, cũng có ba thứ, luận Đối Pháp cũng nói có ba thứ:
a. Thân tự tại, tức là tự tánh thân và thọ dụng thân. hạnh tự tại, tức là biến hóa thân.
b. Thuyết tự tại, có thể nói về sáu độ không bị trệ ngại, là duyên cầu y chỉ trên các tự tại này cho nên tu.
Luận Vô Tánh ghi: "Tức là vì kia mà tu, cũng gọi là tu". Nhưng Nhiếp luận nói năm tu, tên gọi thì cũng bất đồng, nghĩa ý thì không khác, luận này thì đồng với luận Đối Pháp, văn của Nhiếp luận thì sơ lược, luận của Thế Thân thì khó hiểu, luận Vô Tánh thì dễ hiểu. Trong luận này thì chỉ đồng với luận Đối Pháp và Nhiếp luận cho nên nói là như Tập luận, thứ tám là nhiếp môn.
Luận: "Mười nhiếp này", đến "thuận lẫn nhau". Thuật rằng: Nói mười độ, mỗi mỗi độ đều nhiếp tất cả độ, vì mười hành tướng trợ giúp thành tương thuận lẫn nhau, trong đó luận Đối Pháp nói hoặc là Chân như nhiếp, hoặc là tuệ nhiếp. Nhưng luận này thì chỉ lấy mười độ nhiếp nhau, không đồng với luận kia. Như trước tài thí thì chỉ có thí độ, vô uý thí thì thông với năm Độ, pháp thí thì thông với sáu độ, do đó các luận nói hoặc là chỉ có thí thanh thuyết (tiếng nói Thí), cho đến chỉ có trí thanh thuyết (tiếng nói trí), đó tức là tạp hành mười độ, cho nên một độ nhiếp các độ còn lại. Luận Vô Tánh ghi: "Trong bố thí tánh hiện có sáu Ba-lamật-đa". Kim cương Bát-nhã Luận: "Đàn độ nhiếp sáu độ, tư sinh (tài vật), vô uý và pháp, trong đây thứ tự một, hai, ba là tên tu hành trụ". Đại Bát-nhã quyển 351 ghi: "Phật dậy phải do Bát-nhã dẫn thí, do đó năm Ba-la-mật-đa trước nhiếp trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa". Lại nữa, luận Đối Pháp quyển 12 trong cánh hỗ Quyết trạch môn có ba thứ, một là trong phần phương tiện sẽ nêu ra tướng của nó.
Luận: "Y tu mà hành độ trước", đến "không chờ độ sau".
Thuật rằng: Độ trước dẫn độ sau khởi, là độ trước nhiếp độ sau, độ sau chờ độ trước mới thành tựu. Độ sau không nhiếp độ trước, là độ trước không chờ độ sau mới thành tựu. Luận Đối Pháp quyển 12 ghi: "Đây là nương vào chỗ có giới độ của thủy nghiệp Địa đều là thí độ, có thí thì không phải giới, giới độ là chỗ không nhiếp của thí độ, tức là lấy rộng để hỏi hẹp, do đó thuận theo câu sau mà đáp, nhưng trong trình bày ứng nhân của luận Đối Pháp quyển 16 thì một câu, hai câu, ba câu, bốn câu đều thuận với câu trước và sau.
Luận: "Y Tu mà hành độ sau", đến "không phải trì giữ thanh tịnh".
Thuật rằng: Độ sau trì giữ thanh tịnh cho độ trước, là độ sau nhiếp độ trước, có thí độ đều là giới độ, có giới không phải thí, là chỗ không nhiếp giới của thí độ, vì thí độ sau trì giữ thanh tịnh cho thí độ trước, cho nên độ trước không nhiếp độ sau, không phải trì tịnh cho độ sau, tức là lấy hẹp để hỏi rộng, thuận theo câu trước mà đáp, vì thí độ hẹp.
Luận: "Hoặc nương vào thuần và tạp", đến "đáng lẽ làm bốn câu".
Thuật rằng: Nói rằng có thuần tu, lại như thí thuần tu. Nói rằng có thí phi độ, đó là không hồi hướng thí; có độ phi thí, đó tức là tùy hỷ người khác bố thí; có câu và bất câu nên biết. Nhưng luận này y theo chủng loại phước-như trước đã nói-nhưng không phỏng theo chủng loại phước, không nói tùy hỷ, cho nên chỉ có ba câu: Có thí phi độ, có cũng thí cũng độ và có phi thí phi độ. Trừ câu thứ hai ra, năm độ còn lại đều làm bốn câu vì trước có độ, thí thì trước chưa có độ cho nên làm ba câu. Hoặc tạp tu thì có thành tựu bốn câu, các độ ngăn cách nhau có câu thứ hai, điều này cũng như luận Đối Pháp, nhưng luận kia có chút ít khác nhau, không phiền dẫn ra. Nhiếp Đại thừa ghi: "Tạp tu này có thể nhiếp tất cả pháp thiện, là tướng của nó, là tùy thuận, là Đẳng lưu, không lấy sáu độ nhiếp nhau, mà nhiếp các công đức, rộng như luận kia nói. Nói rằng thí nhiếp thí là tướng, nhiếp tín... là tùy thuận, nhiếp vô tránh là Đẳng lưu.
Luận: "Đây là thật có mười", đến "duyên Thế tục".
Thuật rằng: Thứ chín là hỏi đáp hợp lục khai mười môn. Nghĩa này có thể biết, như trước đã dẫn luận Nhiếp Đại thừa nói...
Luận: "Thập quả này là", đến "trừ quả Dị thục". Thuật rằng: Thứ mười là năm quả môn. Phỏng theo thật mà nói, Hữu lậu có bốn thứ, Vô lậu cũng vậy, chỗ dứt trừ thì có khác nhau, nghĩa này nên tư duy. Đây là bốn quả, văn dễ có thể biết, cho nên không phiền dẫn ra.
Luận: "Nhưng có chỗ nói", đến "hoặc cả hai hợp lại nói".
Thuật rằng: Đây là tổng hợp các điều trái nhau. Luận Đối Pháp quyển 12 ghi: "Vĩnh viễn đoạn tự trị là lìa trói buộc, nhiếp thọ tự tha là Sĩ dụng, đối với tương lai tăng thắng sinh khởi là Đẳng lưu, Đai Bồ-đề là tăng thượng, chiêu cảm đại tài là quả Dị thục", tức là đủ năm quả, hoặc Vô lậu trợ giúp Hữu lậu cũng đắc Dị thục, Hữu lậu trợ giúp Vô lậu cũng đắc Ly hệ, cho nên nói lẫn nhau tương trợ. Hoặc Hữu lậu và Vô lậu cả hai hợp lại nói, cho nên được năm quả, không phải thể của Hữu lậu và Vô lậu mỗi mỗi đều thân cận có thể đắc năm quả. Quyển 78 và Giải Thâm Mật ghi: "Quả có sáu thứ, đại tài, nẻo thiện và vô oán hoại làm chủ của chúng sinh". Vô não hại và đại chi diệp đều nói trong quả Dị thục, không phải không đắc các quả khác. Nhiếp luận ghi: "Phú quý, đại sinh và đại bằng thuộc-ba thứ này là quả Dị thục. Quảng đại nghiệp, trần cấu bạc và tri năm minh xứ", ba thứ này là chỉ phỏng theo trong quả tăng thượng mà nói, cũng không trái nhau. Trong giải thích sáu độ của Bồ-tát địa, mỗi mỗi độ sau đều nói quả này đắc đại Bồ-đề, đây là chỉ đối với quả tăng thượng mà nói. Hoặc nhân duyên và Tăng thượng duyên đều là quả tăng thượng như quyển 43 ngọn nói. Chín môn trước phân riêng mỗi mỗi độ đắc quả khác nhau như vậy, không phiền dẫn ra, đọc giả nên hiểu.
Luận: "Mười quả cùng với ba học", đến "tất cả hữu tình".
Thuật rằng: Đây là thứ mười một ba học nhiếp nhau môn. Trong đó thứ nhất nêu ra tên và thể của học, thứ hai nêu ra năm vị phân biệt, thứ ba nêu ra chánh lấy học để nhiếp các độ. Giới học có ba thứ: 1. Lấy bảy chúng giới làm thể.
2. Lấy Hữu vi Vô vi và Vô lậu pháp thiện làm thể, Hữu lậu pháp thiện không phải chánh nên tu, vì thể có thể bị đoạn.
3. Chánh lợi lạc ba nghiệp làm tánh. Như trên nên biết.
Luận: "Ba học này cùng với Nhị thừa", đến "như chỗ khác nói". Thuật rằng: Nhưng ba học này cùng với Nhị thừa có cộng và bất cộng. Nhiếp luận, luận Vô Tánh quyển 7 và Thế Thân quyển 8, mỗi mỗi đều có bốn thứ thù thắng:
1. Sai biệt thắng, tức là ba tụ giới.
2. Cộng bất cộng thắng, tức là tất cả tánh tội của Bồ-tát không hiện hành cùng với Nhị thừa có chung, tương tợ ngăn tội có hiện hành là cùng với Nhị thừa không có chung.
Quảng đại thắng, thù thắng này có bốn thứ: a). Chủng chủng vô lượng học xứ đại. b). Vô lượng phước đức đại. c). Lợi sinh ý lạc đại. d). Kiến lập Bồ-đề đại. Như luận kia rộng giải thích.
3. Thậm thâm thắng, là Bồ-tát hành mười nghiệp sát sinh... mà không có tội, sinh vô lượng phước đức, mau chóng chứng Bồ-đề.
Luận kia tuy có bốn thứ thù thắng, nhưng thù thắng thứ nhất tức là thể của ba tụ giới này, hiện tại luận này lấy cộng và bất cộng của thù thắng thứ hai, Thậm thâm thắng thứ tư và quảng đại thắng thứ ba hợp chung làm ba thứ. Như chỗ khác nói, tức là văn của luận kia.
Luận: "Định học có bốn", đến "sở hành của nó".
Thuật rằng: Trong văn có thể hiểu. Nhưng luận này thì định chỉ ở tại Tĩnh lự thứ tư, các định thù thắng phần nhiều ở trong Tĩnh lự đó. Do Địa thắng cho nên chỉ là Vô lậu, đã nói Thanh văn không đắc, thuyết minh Địa tiền đã đắc bốn thứ định này cùng với Hữu lậu. Giải thích bốn định này, Nhiếp luận chỉ có tên, chỉ có luận này và luận Phật Địa có giải thích. Phát trí quang minh thông với văn, tư, tu, như Địa thứ ba trừ sở đắc của chướng.
Luận: "Sở duyên của bốn định này", đến "như chỗ khác nói". Thuật rằng: Nhiếp luận quyển 8 nói có sáu sai biệt:
1. Sở duyên biệt, lấy Đại thừa pháp làm sở duyên.
2. Chủng chủng biệt, tức là tứ định biệt, lại còn cử ra định thượng thủ.
3. Đối trị biệt, là tổng tướng duyên trí, tức là duyên Chân như trí, mau chóng trừ chướng thô trọng trong A-lại-da.
4. Khả năng kham nhận biệt, là trụ Tĩnh lự lạc, tùy theo dục mà thọ sinh.
5. Dẫn phát biệt, có thể dẫn phát thần thông vô ngại của tất cả cõi.
6. Tác nghiệp biệt, là có thể làm chấn động, tức là mười tám biến.
Lại nữa, có thể dẫn phát mười nan hành, tức là thệ nan hành. Luận kia tuy có sáu thứ, nhưng sai biệt thứ hai tức là thể của bốn định, cho nên trừ sai biệt thứ hai ra thì chỉ có năm thứ sở duyên, như luận kia rộng giải thích. Mật ngữ về sáu độ và nghiệp đạo của mười ác đều như thế.
Luận: "Tuệ học có ba thứ", đến "vô phân biệt tuệ".
Thuật rằng: Ba tuệ có thể biết, như trong sáu độ, hợp chung năm độ làm một. Nói các hậu đắc có ba trí đều là Độ thứ sáu.
Luận: "Ba tự tánh của tuệ học này", đến "như chỗ khác nói".
Thuật rằng: Hoặc tự tánh, hoặc sở y, hoặc nhân duyên, hoặc sở duyên, hoặc hành tướng, hoặc nhậm trì, hoặc trợ bạn, hợp chung một trăm mười sáu môn để giải thích ba trí, trừ giải thích thứ nhất tự tánh ra, còn lại mười lăm môn để giải thích. Tự tánh, luận kia nói lìa năm thứ tướng thì cho là tánh của trí vô phân biệt:
1. Lìa vô tác ý, ngủ mê hoặc say rượu không phải là trí đó.
2. Địa lìa hữu tầm tứ, định thứ hai trở lên thì không phải.
3. Tịch tịnh lìa tưởng thọ diệt, tức là trí bất thành định vô tâm.
4. Như sắc tự tánh thì liền không phải là trí, như đại chủng.
5. Lìa đối với chân nghĩa dị kế độ, kế độ là Hữu phân biệt, không phải vô phân biệt.
Nói sở y, là sở y của trí, hoặc là tâm thì tâm là lượng. Nói trí không có phân biệt thì không xứng Chánh lý, hoặc sở y không phải tâm, năng y gọi là trí cũng không xứng Chánh lý, tức là sở y của trí không phải tâm mà là tâm, do sở y chỉ là chủng loại của tâm, là chỗ dẫn sinh của tâm cho nên là tâm, không phải tư lương cho nên không phải tâm, do đó tụng kia ghi: "Không phải tâm mà là tâm". Nói về nhân duyên, tụng kia ghi: "Nhân duyên của các hàng Bồ-tát có nói văn (nghe) huân tập, tức là lấy văn huân tập làm nhân duyên". Nói về sở duyên, tụng kia ghi: "Sở duyên của các hàng Bồ-tát không thể nói là pháp tánh, tức là Chân như, pháp Biến kế sở chấp đều không thể nói, không thể nói về tánh. Nói rằng hai Vô ngã là chỗ hiển Chân như, đó là sở duyên của trí vô phân biệt". Nói về hành, luận kia nói về hành tướng, tụng đó ghi: "Hành tướng của các hàng Bồ-tát, ở trong sở duyên thì lại là trí vô phân biệt, tướng đó đối với Sở tri vô tướng tức là chỗ hiện vô tướng trong sở duyên của trí này". Hai tướng năng duyên và sở duyên bình đẳng bình đẳng sinh không có dị tướng, như nhãn nắm lấy sắc mà thấy tướng xanh, không phải tướng xanh này cùng với sắc có khác nhau. Trong đây lại nêu ra năm môn, mười một môn còn lại thì như luận kia giải thích. Tổng là thứ nhất nêu ra thể danh môn.
Luận: "Như vậy ba tuệ", đến "đều đã xả".
Thuật rằng: Thứ hai là năm vị phân biệt môn. Gia hạnh chỉ có Hữu lậu, còn lại là hai thứ Vô lậu cho nên các vị riêng khác. Đây là y theo đốn ngộ và ba Thừa, mỗi mỗi đều từ vị thứ nhất và vị thứ hai mà nói, hoặc hồi tâm đều thông với vị thứ nhất và vị thứ hai. Văn này dễ hiểu, không phiền giải thích rộng.
Luận: "Hoặc tự tánh nhiếp", đến "đều là đủ nhiếp nhau".
Thuật rằng: Thứ ba là chánh nhiếp nhau môn. Tự tánh nhiếp có thể biết, còn lại ba thứ hoặc bảy thứ không phải tự tánh. Lý của quyến thuộc thì thông cả ba thứ, ba thứ nhiếp đủ mười.
Luận: "Hoặc tùy dụng nhiếp", đến "sách tấn khắp ba học".
Thuật rằng: Giới nhiếp ba thứ trước, thí là tư lương của giới, giới là tự tánh của giới, nhẫn là quyến thuộc của giới, do nhẫn mà không phá giới. Còn lại hai thứ có thể biết. Ba học nhiếp tinh tấn, vì sách tấn khắp ba học. Quyển 78 và Giải Thâm Mật nói đồng với luận này.
Luận: "Hoặc tùy hiển nhiếp", đến "tuệ nhiếp năm thứ sau".
Thuật rằng: Giới nhiếp bốn thứ trước, ba thứ trước như thứ tự đã nói ở trước. Vì tinh tấn thủ hộ giới cho nên cũng là giới nhiếp, còn lại là văn dễ hiểu. Quyển 49 ghi: "Do bốn thứ trước, tư lương, tự tánh, quyến thuộc và thủ hộ tu giới học, do định cho nên viên mãn tu tâm học, do tuệ cho nên viên mãn tu tuệ học". Đồng với luận này.
Luận: "Mười vị này là", đến "đều chỉ có Vô lậu".
Thuật rằng: Thứ mười hai là năm vị hiện chủng nhiếp nhau môn. Chỗ nói trong đây, tùy theo chỗ thích đáng của nó, chưa cần mười thứ mỗi mỗi đều như thế. Trong tu tập vị, tướng của nó hiển rất rõ ràng, thông với Hữu lậu và Vô lậu có thể vô biên hạnh, trong đây phỏng theo pháp nhĩ chủng tử mà nói, thông đạt vị nói là hữu, tuy không có nghĩa biệt hạnh nhưng nói là hữu. Văn còn lại có thể hiểu ý.
Luận: "Mười nhân vị này", đến "cho nên chưa rốt ráo".
Thuật rằng: Thứ mười ba là phân vị phân biệt môn. Ba kiếp được gọi là biệt, trong một hạnh tu một hạnh, trong một hạnh tu tất cả hạnh, trong tất cả hạnh tu tất cả hạnh biệt, như trước đã nói. Nhưng khi chưa nhập kiếp thì đồng với mới nhập, chỉ gọi là Ba-la-mật-đa, đã thành Phật thì rốt ráo cũng đồng, kiếp thứ ba gọi là Đại Ba-la-mật-đa. Quyển 78 và Giải Thâm Mật ghi: "Thắng giải hạnh Địa gọi là Ba-la-mật-đa". Trong đây lại nói vô số kiếp thứ nhất, thuyết minh về noãn... các vị chỉ ở tại sơ kiếp. Lại nữa, quyển 47, 48, 49 nói thắng giải Địa, luận Đối Pháp và luận Hiển Dương thì từ kiên cố tâm đến cực hỷ Địa là giải hạnh Địa nhiếp. Các luận đó lại nói giải hạnh Địa là sơ kiếp, do nhiều lý, bốn tâm chỉ có sơ kiếp. Luận Đối Pháp quyển 11 nói trong trì, nhậm, cảnh (gương), minh và y, nói rằng đã mãn, là mãn tâm học không phải Kiếp thứ hai, như nói ba kiếp mãn đã tu nghiệp tướng hảo, không phải ngoài kiếp mới tu tướng hảo, tướng hảo không phải ba kiếp nhiếp, số lượng thì như trên đã nói. Đoạn văn lớn thứ nhất từ trên đến đây đã có mười ba môn phân biệt các độ đã nói xong.
Luận: "Mười nghĩa loại này", đến "sơ lược hiển thị cương yếu". Thuật rằng: đoạn văn lớn thứ hai chỉ cho văn không phồn tạp, nghĩa và loại thì vô biên. Giải Thâm Mật và quyển 78 ghi: "Độ thanh tịnh, độ tối đại, vô nhiễm, tối minh thịnh, bất khả động, tối thanh tịnh, độ vô tận, độ oai đức, độ nhân, quả, nghĩa lợi...", độ nhiếp ba tánh đều như các kinh luận kia nói, không phiền dẫn ra.
Luận: "Mười độ đối với Thập Địa", đến "từng Địa tu một độ". Thuật rằng: đoạn văn lớn thứ ba là Thập Địa tu độ môn. Kinh
Thập Địa, Nhiếp luận, luận Hiển Dương và luận Du-già ghi: "Sơ địa thì thí làm tăng thượng, các độ còn lại thì tùy lực tùy phần, không phải không tu tập, cho đến Thập Địa thì trí làm tăng thượng, các độ còn lại không phải không tu tập, tùy lực tùy phần cho nên các Địa đều tu mười độ.
Hỏi: Địa thứ năm tu định độ, tại sao Địa thứ ba gọi là phát quang?
Đáp: Định trừ chướng Địa thứ ba, thành thục đến Địa thứ năm.
Luận: "Tuy thập Địa hạnh", đến "thập đáo bỉ ngạn".
Thuật rằng: đoạn văn lớn thứ tư lấy mười độ nhiếp tất cả hạnh, ngoài sáu độ ra thì càng không có Bồ-tát đạo, tức là do sáu độ nhiếp tất cả hạnh, không nói mười độ thì lại càng không nói các hạnh khác.
Luận: "Mười trọng chướng", đến "dị sinh tánh".
Thuật rằng: câu đáp ở trước về sự chứng đắc trong Chuyển y, có bốn câu đáp, thứ nhất là y Thập Địa, thứ hai là tu mười hạnh, đã phân rõ như trước. Từ đây xuống là thứ ba giải thích mười trọng chướng, trong đây lại có hai phần:
a. Thuyết minh trọng chướng.
b. Lấy hai chướng nhiếp để tổng thuyết minh đoạn vị. Trong thuyết minh trọng chướng có hai phần:
1. Giải thích mười chướng.
2. Giải thích riêng.
Trong giải thích riêng có mười một chướng, nương theo văn lần lượt giải thích hai mươi hai nghĩa của ngu, nương theo văn mà nhân tiện giải thích Phật Địa chướng, văn thứ nhất có sáu đoạn, thứ nhất là nêu thể, một dị sinh tánh chướng, Nhiếp luận của Thế Thân đồng tên với luận này, luận Thập Địa quyển 1 thì nói là ngã tướng chướng của phàm phu, luận này gọi tên không phải như vậy, vì thể của chướng này không phải chỉ có ngã, phàm phu thì tên khác nhau, như Biệt sao nói. Chướng này thể tánh như thế nào? Nói rằng phân biệt hai chướng, dựa trên chủng tử này mà lập dị sinh tánh, hiện tại là đoạn năng y cho nên nói là sở y đoạn, tức là cùng với hiện bản thức đồng Địa, chủng tử của hai chướng có thể sinh hiện hành là lập lên chướng thứ nhất. Do đây phàm phu lìa dục cũng vẫn gọi là dị sinh của cõi dục, vì chưa hàng phục chủng tử của kiến hoặc, căn cứ theo đây mà biết tánh này là nhiễm ô, cũng có thể nói chủng tử tại bản thức thì cùng với thức đồng tánh, tức là Vô phú tánh.
Hỏi: Nếu như thế thì tại sao luận Đối Pháp quyển 4 trong giải thích Vô ký chỉ có mạng căn là tự tánh, không có nói dị sinh tánh?
Đáp: Do phỏng theo chủng tử của phiền não có thể gọi là nhiễm ô, phỏng theo chủng tử của Dị thục có thể gọi là Vô phú, thông cả hai nghĩa cho nên gọi là tự tánh. Mạng căn thì không phải như vậy, không thể làm ví dụ. Bây giờ xét các văn, giải thích trước là khéo, luận Đối Pháp giải thích Vô ký và trong sáu mươi sáu pháp lập ra năm Vô ký, không nói dị sinh tánh là năm Vô ký, đã dựa vào chủng tử nhiễm mà lập, cũng chỉ có nhiễm khác với Tiểu thừa.
Hỏi: Hiện tại luận này lấy phân biệt của hai chướng khởi chủng tử gọi là tánh này thì Nhị thừa thánh đáng lẽ gọi là dị sinh, vì chưa đoạn Sở tri chướng phân biệt?
Đáp: Tùy theo mong kiến đạo chỗ đoạn chủng tử của tự thừa mà lập lên, nếu là định tánh thì gọi là đã đoạn tánh này, vì chướng của tự thừa không có, chỉ y theo chủng tử của phiền não mà lập. Nếu là bất định thì gọi là chưa đoạn, vì dựa vào chủng tử của hai chướng mà lập dị sinh. Nếu không như thế thì bất định tánh đáng lẽ không có chướng dị sinh tánh. Nếu như thế thì Vô chủng tánh đã không có tự thừa Thánh đạo.
Hỏi: Nói cái nào là dị sinh tánh?
Đáp: Đáng lẽ nói chỉ dựa trên chủng tử phân biệt của hai chướng mà lập dị sinh tánh, không cần nói riêng. Mong kiến đạo chỗ đoạn chủng tử của tự thừa mà lập lên, Sở tri chưa đoạn, tuy là bậc Thánh thì cũng gọi là dị sinh.
Hỏi: Điều này đến vị nào mới xả?
Đáp: Không đồng với Tiểu thừa chỉ tu sở đoạn Thế pháp đệ nhất và kiến đạo hợp chung lại xả. Hiện tại Đại thừa chỉ có kiến sở đoạn, khi kiến đạo và Vô gián đạo khởi thì xả, y theo chỗ đoạn chủng tử mà lập tánh này, cùng với chủng tử đồng thời xả.
Hỏi: Nếu Thánh của dị sinh tánh và bất định tánh chưa hoàn toàn đoạn hết thì vẫn được gọi là dị sinh, chưa hoàn toàn được Vô lậu thì đáng lẽ không gọi là bậc Thánh?
Đáp: Tánh của dị sinh thông cả hai chướng, tánh của bất định đã là phần đoạn thì có thể gọi là phần đoạn dị sinh tánh, nhị chân kiến đạo gọi là Thánh, đã đắc một phần ít gọi là Thánh, vì chưa hoàn toàn đoạn tận cho nên hoa đốm trong hư không toàn gọi là Thánh. Nói bất định tánh gọi là dị sinh, không phải gọi hoàn toàn, vì đã phân đoạn từng phần. Nói Thánh cũng như thế đã phân chứng từng phần. Do tổng này xứng với bốn câu phân biệt:
1. Có dị sinh Phi thánh, như hoàn toàn chưa đắc ba Thừa Thánh đạo.
2. Có Thánh phi dị sinh, là Đại thừa đắc kiến đế.
3. Có dị sinh cũng Thánh, như Thánh bất định tánh chưa nhập Thập Địa.
4. Có phi dị sinh Phi thánh, như nhập cõi Vô dư y Niết-bàn.
Đây tức là trong văn phần thứ nhất nêu ra chướng thể tánh, từ đây xuống phần thứ hai đối với ba Thừa mà thuyết minh đồng và dị.
Luận: "Nhị thừa kiến đạo", đến "gọi là đắc Thánh tánh".
Thuật rằng: Đây là phỏng theo dị sinh tánh, mỗi mỗi đều mong chướng của tự thừa mà làm luận, đoạn phần ít thì gọi là tiểu thánh. Hoàn toàn đoạn tận thì gọi là Đại thánh. Phần thứ ba thuyết minh câu và bất câu của chướng đạo. Có Tát-bà-đa đặt câu vấn nạn, hoặc dị sinh tánh là tu sở đoạn, vì kiến đạo đã xả trước, quả Vô lậu dấy khởi, không có lỗi phàm và Thánh đồng thời thành thục, hiện tại đã ở trên chủng tử kiến sở đoạn mà lập dị sinh tánh, tức là Vô gián đạo có hoặc chủng đồng thời, chủng này chưa xả thì dị sinh chưa đoạn.
Hỏi: Thế nào là phàm và Thánh không có lỗi đồng thời khởi?
Đáp: Do hoặc của Tát-bà-đa được đồng thời, nay đặt thành câu vấn nạn này không phải là ngay Đại thừa.
Luận: "Hai chân kiến đạo", đến "chắc chắn không thành tựu".
Thuật rằng: Nói rằng không có hoặc để được cùng với Thánh đạo đồng thời, chỉ nương vào chủng tử của hai chướng mà lập dị sinh tánh, chủng tử đó chắc chắn không cùng với kiến đạo đồng thời.
Hỏi: Thế nào là phàm Thánh có lỗi đồng thời thành tựu? Vô gián đạo khởi hoặc chủng không đồng thời, quá khứ đã diệt, vị lai chưa sinh thì như thế nào gọi là đoạn?
Luận: "Cũng như minh và ám", đến "không có lỗi thành đồng thời".
Thuật rằng: Do đây luận Đối Pháp quyển 7 hỏi: "Từ đâu mà được đoạn?"
Đáp: Không từ quá khứ, vì đã diệt. Không từ vị lai, vì chưa sinh. Không từ hiện tại, vì đạo không đồng thời, nhưng từ các phiền não thô trọng mà được đoạn, vì đoạn các phẩm thô trọng như vậy như vậy, sinh các phẩm đối trị như vậy như vậy. Hoặc phẩm đối trị này sinh thì phẩm thô trọng này diệt, cũng như trong thế gian minh sinh thì ám diệt. Do phẩm này lìa trói buộc, khiến cho phiền não trụ trong vị lai không sinh trong pháp, đó gọi là đoạn, cho nên không phải đạo và hoặc có thể nói là đồng thời.
Hỏi: Đây là nói về đoạn, là đoạn duyên phược hay là đoạn tương ưng phược?
Đáp: Hoặc Sở tri chướng, chỉ nói là đoạn thô trọng, vì thể không phải là pháp trói buộc. Hoặc phiền não chướng từ hai thứ thô và trọng mà nói đoạn, quyển 59 ghi: "Đối trị đạo sinh, phiền não không khởi đắc vô sinh pháp, do đó nói là đoạn tương ưng của nó, tương ưng đã đoạn thì không duyên cảnh lại nữa", cho nên từ sở duyên cũng nói là đoạn. Nói rằng thô trọng đoạn, tuy cũng thông với phiền não chướng, nhưng từ hai đoạn chỉ có trong phiền não. Lại nữa, chủng tử của Sở tri chướng chướng Thập Địa trí, là tánh nhiễm ô, khi Bồ-tát đoạn thì đoạn thể chủng tử của nó cũng như Nhị thừa đoạn chủng tử phiền não. Nhưng khi Nhị thừa đoạn chướng của định thì chỉ đoạn thô trọng, khiến cho tùy thuận lẫn nhau mà không đoạn chủng tử, không đồng với Bồ-tát.
Hỏi: Đây là nói về đoạn, là tổng duyên trí năng đoạn hay là duyên riêng trí năng đoạn? Điều này có lỗi gì? Trí tổng duyên không phải là tự tướng trí thì thế nào là trí của cộng tướng tỷ lượng có thể đoạn hoặc? Hoặc tướng riêng trí năng đoạn, tức là trái với văn của luận Đối Pháp và quyển 59. Luận Đối Pháp quyển 7 ghi: "Những tác ý nào là năng đoạn? Tổng duyên tác ý quán tất cả pháp đều là Vô ngã tánh có thể đoạn phiền não". Sư Tử Giác nói: "Tổng duyên tác ý là hợp chung duyên cộng tướng hạnh tác ý của tất cả pháp". Đáp như Phật Địa quyển 6 ghi: "Tại sao Phật có thể biết cộng tướng? Cộng tướng đã y theo tỷ lượng mà lập thì lẽ nào Phật biết cộng tướng là tỷ lượng?" Luận đó có ba thuyết:
1. Thuyết thứ nhất có nghĩa hai lượng là tán tâm vị dựa vào hai tướng mà lập, không nói định tâm, hoặc tại định tâm duyên tất cả tướng đều là hiện lượng nhiếp, do tổng duyên trí này cũng là hiện lượng nhiếp đoạn hoặc không có lỗi, tức là do định chiếu soi tự thể của cộng tướng, nói định tâm là hiện lượng.
2. Thuyết thứ hai có nghĩa định tâm chỉ duyên tự tướng, nhưng do chỗ dẫn phương tiện của cộng tướng. Duyên chỗ hiển lý của các cộng tướng, ngay trên phương tiện mà gọi là tri cộng tướng, nếu không như vậy thì gọi là tri tự tướng. Do đạo lý này, hoặc nói Chân như gọi là Không Vô ngã chư pháp cộng tướng, hoặc nói Chân như là chỗ hiển của hai Không, không phải là cộng tướng. Do nghĩa này mà luận Đối Pháp ghi: "Duyên cộng tướng trí có thể đoạn hoặc", là y theo phương tiện mà nói, thật ra tự tướng quán mới có thể đoạn nó.
3. Thuyết thứ ba là như thật nghĩa, nhân Minh luận kia lập tự tướng và cộng tướng cùng với luận có khác chút ít. Nhân Minh Luận: "Thật nghĩa trên tất cả pháp đều gọi là tự tướng, vì tự tướng và cộng tướng trên các pháp mỗi mỗi đều dựa vào thể, không chung với pháp khác. Hoặc phân biệt tâm lập một chủng loại năng thuyên và sở thuyên, thông với các pháp như dây xâu hoa thì gọi là cộng tướng, điều này chủ yếu là Tán tâm phân biệt giả lập là cảnh của Tỷ lượng, tất cả định tâm lìa phân biệt này thì đều gọi là hiện lượng". Tuy duyên các pháp khổ, vô thường... nhưng mỗi mỗi pháp đều riêng có, cho nên gọi là tự tướng. Chân như tuy là chỗ hiển của cộng tướng, vì là tự thể tánh của chư pháp, vì tự nó có tướng, cũng không phải cộng tướng, không thể cho nó cùng với tất cả pháp là bất nhất bất dị thì gọi là cộng tướng, tự tướng cũng cùng với tất cả cộng tướng là bất nhất bất dị, cho nên luận kia bất đồng với luận này. Do nghĩa này, luận Đối Pháp ghi: "Duyên cộng tướng trí có thể đoạn hoặc". Nương vào phân biệt tâm trên một chủng Oại Chân như thông với các pháp mà gọi là cộng tướng. Hoặc chư pháp của thể Chân như đều có nghĩa gọi là cộng tướng, trí duyên tướng này thì gọi là cộng tướng trí. Luận về thật tánh của thật Chân như pháp không phải là cộng tướng, theo thật tế mà nói thì tướng riêng trí có thể đoạn hoặc. Cộng tướng giả lập như trước đã phân rõ.
Luận: "Khi khởi Vô gián đạo", đến "hành vi giải thoát đạo".
Thuật rằng: Thứ ba là giải thích hai đạo khác nhau. Chỗ trị của giải thoát đạo cùng với Tiểu thừa không đồng. Tiểu thừa vấn nạn rằng: "Vô gián đạo của tôi cũng có hoặc đắc, có thể khởi giải thoát đạo và đắc tương vi. Hiện tại Vô gián đạo của ông đã không có hoặc chủng thì dùng cái gì để khởi lại giải thoát đạo và dụng để làm gì?"
Luận: "Đoạn hoặc chứng diệt, thời kỳ của tâm khác nhau".
Thuật rằng: Dưới đây là luận chủ đáp. Do gia hạnh trước mà thời kỳ của tâm khác nhau. Nói rằng Vô gián đạo có thể đoạn hoặc, giải thoát đạo có thể chứng diệt, tuy Vô gián đạo đã không có hoặc chủng, chứng Vô vi của nó thì có dụng này riêng khởi giải thoát đạo. Đây là một giải thích.
Luận: "Vì xả tánh của phẩm thô trọng kia".
Thuật rằng: Dưới đây là giải thích thứ hai. Tánh thô trọng tức là tánh vô kham nhậm của chủng tử hai chướng.
Luận: "Khi khởi Vô gián đạo", đến "trạch diệt Vô vi".
Thuật rằng: Đồng thời với Vô gián đạo tuy không có hoặc chủng, nhưng chưa xả tánh vô kham nhậm của nó, để xả tánh này cho nên khởi giải thoát đạo. Giải thoát đạo khởi không chỉ để xả tánh này, mà còn chứng phẩm trạch diệt Vô vi này, tức là Vô kham nhậm và Vô gián đạo đồng thời diệt, chứng Vô vi được cùng với giải thoát đạo đồng thời sinh. Giải thoát đạo tuy không trái với hoặc đắc, nhưng cũng có dụng, điều này ý sau nói. Chủng sinh hiện tuy đồng thời, Bồ-tát Kim cương tâm do có tánh Thô Trọng cho nên không gọi là Phật. Thuyết minh Thức thứ tám của vị này cũng còn Hữu lậu làm sở y thô trọng. Nếu không như thế thì tại sao không gọi là Phật? Giải thích trước chỉ làm chứng Vô vi. Trong Kim cương tâm thì Thức thứ tám đã là Vô lậu, nhưng vì chưa viên minh cho nên không gọi là Phật, giải thích sau là thù thắng. Nương vào hai giải thích này, gồm cả xả vị của Thức thứ tám ở trước hợp chung lại giải thích có ba thứ, thêm một thuyết nữa nói: "Khi Kim cương đạo sinh thì Hữu lậu đều xả, vì chủng tử sinh hiện hành thì đồng thời". Trong đây hai chữ thô trọng không phải chỉ cho chủng tử, do chủng tử mà khiến cho sở y không có tánh kham nhậm, đây gọi là thô trọng, tuy trước đã nói, nhưng đến sau sẽ biết.
Hỏi: Nghĩa này có thể như vậy, nhưng các địa trong Thập Địa kia thì đoạn phiền não chướng thô trọng, đã không đoạn chủng tử. Khi khởi Vô gián đạo, lại không đoạn thô trọng, Vô gián đạo khởi thì chỗ nào đoạn? Hoặc trong Vô gián đạo có dụng đoạn chủng tử phiền não thì đối với giải thoát vị có thể nói trừ thô trọng. Trong Vô gián đạo đã không có sở đoạn thì tại sao nói giải thoát đạo trị thô trọng?
Đáp: Tu đạo trong Thập Địa đoạn phiền não thô trọng, không phải lìa ngoài Sở tri chướng mà riêng khởi Vô gián đối trị đạo, nhưng phiền não chướng thô trọng thì từ vô thỉ đến nay cùng với Sở tri chướng đồng thời, Sở tri chướng làm gốc. Do Vô gián đạo đoạn chướng gốc cho nên phiền não ngọn thô trọng của nó cùng với Sở tri chướng thô trọng xả trong giải thoát đạo, cho nên không có lỗi này. Do đây phiền não thô trọng không phải có thể thọ sinh, chỉ chướng đối với địa, do đó cùng với Sở tri chướng đồng thời đoạn mà không giữ nó lại, cho nên không có lỗi này, như thân kiến... đến sau sẽ biết.
Hỏi: Nếu như thế thì như Nhị thừa chỉ đoạn định chướng mà không đoạn chủng tử, giai vị Vô gián đạo sinh không có thô trọng thì dụng nào khởi hành vi giải thoát đạo lại nữa?
Đáp: Vô gián đạo đoạn thô trọng, trong giải thoát đạo được tự tại.
Hỏi: Đã đoạn thô trọng thì đắc Vô vi hay không?
Đáp: Kinh Đại Bát-nhã quyển 360 ghi: "Thiện Hiện hỏi: Nếu pháp Vô vi không có sai biệt thì tại sao Phật nói tập khí tương tục? Như Lai vĩnh viễn không có, Nhị thừa thì còn có? Thế Tôn đáp: Tập khí tương tục thật ra không phải phiền não, trong thân Nhị thừa không thể dẫn vô nghĩa, trong thân Bồ-tát có thể dẫn vô nghĩa, Như Lai thì vĩnh viễn không có", tức là do văn này hiển thị đoạn tập khí mà không đắc Vô vi, nếu không như thế thì Vô vi đáng lẽ có sai biệt, cũng hiển Sở tri chướng đoạn mà không đắc Vô vi, nhân tiện hiển ba Thừa cũng đắc Vô vi mà có sai biệt. Phần thứ năm cho rằng chướng này tức là hai mươi hai ngu.
Luận: "Tuy trong kiến đạo", đến "là căn bản".
Thuật rằng: Hiển thị chướng của dị sinh nhiếp pháp không hết, vì là căn bản cho nên không nói nghiệp. Chữ "đẳng" có nghĩa là đồng lấy phi nghiệp và phi Dị thục của các nẻo ác, cùng với pháp của quả tăng thượng khác, cùng với chỗ khởi nghiệp và quả trong nhân thiên thú, nói thẳng là nẻo ác nhiếp không hết. Trong năng khởi thì chỉ nói phiền não, vì Sở tri chướng cùng với phiền não đồng thời cho nên gọi chung là phiền não.
Luận: "Do đây Sơ địa", đến "nghiệp quả đẳng". Thuật rằng: Giải Thâm Mật và quyển 78 nói đoạn đối với nhị ngu
-như văn có thể hiểu-nghiệp quả đẳng, như chữ "đẳng" trên, là đồng lấy sự phân biệt chỗ khởi biệt báo nghiệp và quả trong nẻo thiện, nói thẳng là nẻo ác nhiếp không hết. Trong kinh đã nói, nẻo ác tạp nhiễm, là trước nói Vô ký nếu đoạn duyên phược là chỗ đoạn của Tu đạo. Hiện tại luận này nói quả kia là do bất sinh đoạn, như trong duyên khởi nói.
Đặt ra giải thích thứ hai này, tại sao nghiệp quả cũng gọi là ngu?
Luận: "Nên biết ngu phẩm", đến "sau cứ theo đây mà giải thích".
Thuật rằng: Tuy thể của các nghiệp quả không phải ngu, vì nghiệp là chỗ khởi của ngu, quả là chỗ cảm của ngu, phẩm của ngu cũng gọi là ngu, các địa sau cứ theo đây mà giải thích, như nghiệp thú ngu của Địa thứ hai, vì không phải thể là ngu. Lại nữa, trong chấp ngã pháp chướng đầu tiên, cũng có thể của tham và kiến... không phải là ngu, vì cũng là phẩm của ngu, dưới đây cứ theo đây mà hiểu. Nhưng trong phân biệt chướng tuy có Sở tri chướng, nhưng không phải có thể phát ra nghiệp cảm đối với sinh tử, vì không phải phược pháp. Hiện tại luận này chỗ phát nghiệp quả thứ nhất đều nói là nẻo ác, là lời hủy báng mắng nhiếc, như nói Bán-trạch-ca là nẻo ác trong cõi người.
Luận: "Hoặc kia chỉ nói", đến "đồng thời khởi nhị ngu".
Thuật rằng: Nói rằng câu nói thứ nhất chấp trước, thuyết minh là lợi chướng phẩm đồng thời khởi ngu. Câu nói thứ hai nẻo ác tạp nhiễm không hẳn là nghiệp quả, chỉ là thuần chướng phẩm đồng thời khởi ngu. Hủy báng trách mắng gọi là thú, trong đây không nói riêng phiền não khác, các phiền não khác chỉ là lợi chướng phẩm và độn chướng phẩm, cái ngu đồng thời khởi tức là chỉ cho vô minh. Ý của sư này nói chỉ lấy vô minh và kiến, không phải kiến đồng thời gọi là lợi và độn, nói trong Thập Địa đoạn mười vô minh, không nắm lấy các phiền não khác.
Luận: "Hai chữ thô trọng kia", đến "không có tánh kham nhậm".
Thuật rằng: Luận kia nói thô trọng, thô trọng là thế nào? Hiển tức là chủng tử của nhị ngu kia, hai phiền não trước là hiện hành, thô trọng là chủng tử. Hỏi: Hiện hành đã diệt lâu rồi, thế nào nói là đoạn?
Đáp: Quyển 59 ghi: "Các phiền não đoạn, lược có hai thứ, một là chư triền đoạn, hai tùy miên đoạn, cho nên hai hiện hành cũng nói là đoạn.
Hỏi: Tại sao quyển kia không phải hàng phục hiện hành mà nói là đoạn?
Đáp: Không phải vậy, quyển 59 kia văn thứ tự giải thích câu nhị đoạn. Chư triền đoạn, là tham sân đoạn, cho đến nghi đoạn, năm Kiến đoạn, đoạn chỗ đoạn của đoạn kiến khổ, cho đến đoạn chỗ trói buộc của cõi Vô sắc. Đoạn Ly hệ là tùy miên đoạn, không phải khi hàng phục hoặc cũng là hàng phục các hoặc của kiến đạo, cho nên biết nhị ngu là hiện hành, thô trọng là chủng tử. Lại nữa, giải thích tùy theo ý của ông thì hai phiền não trước là chủng tử, thô trọng không phải chủng tử. Hiện tại luận này mới là chỗ khởi của hai phẩm không có tánh kham nhậm. Như các khổ căn nói về đoạn vị của nó.
Luận: "Như nhập hai định", đến "nên giải thích theo lệ này".
Thuật rằng: Luận Du-già quyển 11 ghi: "Định thứ hai đoạn khổ căn, chủng tử của khổ căn thì định thứ nhất đã đoạn. Hiện tại là đoạn khổ căn thô trọng của nó, nói Thiền thứ hai đoạn khổ căn của nó. Các địa thô trọng sau, cứ theo đây mà làm hai giải thích. Thứ sáu lấy chướng tức là vô minh, là đồng hay là dị?
Luận: "Tuy chỗ đoạn của Sơ địa", đến "mười chướng phẩm ngu".
Thuật rằng: Trong đây có ý nói, Sơ địa thật ra đoạn hai Chướng, hiện tại luận này nói chướng của dị sinh tánh, chỉ lấy Sở tri chướng mà không lấy phiền não chướng, vì Nhiếp luận quyển 7 của Thế Thân nói: "Mười chủng vô minh mong Nhị thừa không phải nhiễm ô". Hoặc lấy phiền não là mười vô minh thông với nhiễm ô, vì vô minh tức là ngu của mười chướng phẩm và ngu tức là vô minh. Ý gì mà không nói vô minh của Sơ địa thừa nhận là nhiễm ô thông với chủng tử của hai chướng?
Luận: "Nhị thừa cũng có thể", đến "không phải chỗ nói ở đây".
Thuật rằng: Nhị thừa cũng có thể đoạn phiền não chướng, vì đoạn phiền não chướng là cộng, không phải chỗ nói ở đây. Nhị thừa kia không thể đoạn Sở tri chướng, vì Sở tri chướng là bất cộng, cho nên vô minh của Sơ địa chỉ nói là bất nhiễm. Nhiếp luận của Thế Thân nói: "Lại nữa, chướng bị trị có mười thứ, cho nên lập riêng Thập Địa".
Luận: "Lại nữa, mười vô minh", đến "tu sở đoạn mà nói".
Thuật rằng: Nói là bất nhiễm, tức là Nhiếp luận bản ghi: "Trong pháp giới có mười vô minh bất nhiễm ô". Chỉ nương vào tu sở đoạn của Thập Địa mà nói, tức là không nói dị sinh tánh là Kiến đoạn. Làm sao biết được? Luận Đối Pháp quyển 14 ghi: "Đã đắc hiện quán thì trong Tu đạo vị kia chỉ tu đối trị đạo của Sở tri chướng", cho nên không nói kiến đạo sở đoạn là mười vô minh tâm sở, vì nói là bất nhiễm. Hoặc dị sinh tánh thuận tiện nhiễm ô, do đây cho nên biết dị sinh tánh của nó không phải là bất nhiễm ô. Thế Thân lại nói: "Vì đối trị mười vô minh mà lập riêng Thập Địa". Lìa ngoài mười chướng mà nói mười vô minh, cho nên mười vô minh không phải tức là mười chướng. Luận kia tự có hai phần, lại theo thứ tự giải thích mười vô minh. Nhưng luận vô tánh thì chỉ có một giải thích, cũng không nói riêng.
Hỏi: Tu đạo của Thập Địa cũng hàng phục phiền não, đoạn phiền não chướng thô trọng kia, như nói hai chướng, ba xứ quá thì tại sao không nói?
Luận: "Tuy trong vị này", đến "cho nên điều này không nói".
Thuật rằng: Trong Tu đạo vị của Thập Địa cũng hàng phục phiền não và đoạn thô trọng của nó, nhưng mà không phải là chánh ý. Tại sao vậy? Vì không đoạn tùy miên, cho nên điều này không nói. Nhiếp luận Bổn và Thế Thân nói: "Thập Địa Bồtát lưu lại phiền não chướng để trợ cho nguyện thọ sinh, cho nên không phải là chánh ý. Ý thú đối với trí đoạn Sở tri chướng cho nên đoạn tùy miên, không đoạn tùy miên của phiền não".
Luận: "Lý thật Sơ địa", đến "cứ theo đây nên biết".
Thuật rằng: Luận chủ đáp. Tuy thật Sơ địa đã nêu ra kiến đạo. Trong Tu đạo vị, cũng đoạn một phần của câu sinh Sở tri. Trong mười chướng này thì từ sơ chướng mà nói, cho nên không nói tu chướng. Sơ địa đã từ sơ chướng mà nói, chín địa sau là chỗ nói về chín chướng. Cứ theo đây nên biết đều từ sơ mà nói. Làm sao biết được tâm nhập địa của Sơ địa... nêu ra kiến đạo đã lại đoạn trừ hoặc?
Luận: "Trong trụ và mãn địa", đến "đạo đáng lẽ không có khác".
Thuật rằng: Hiện tại lấy lý để đáp. Thời trong trụ địa và mãn địa đã lâu xa, là hai Tăng-kỳ, lý càng nên đoạn, nếu không đoạn như thế thì đạo trong ba thời của địa đã không có ba phẩm, đáng lẽ không có riêng khác.
Luận: "Cho nên nói Bồ-tát", đến "mới đốn đoạn".
Thuật rằng: dẫn văn của luận Đối Pháp quyển 14 để làm chứng. Nếu tâm của trụ địa và mãn địa càng không đoạn hoặc thì tại sao luận nói Tu đạo của Thập Địa tức là chỉ đoạn kiến hoặc trong Sơ địa? Lại không đoạn tu hoặc, địa có chín. Lại nữa, Nhiếp luận quyển 10 ghi: "Phiền não ẩn nấp không bị diệt mất, như chỗ hại của độc dược và chú thuật, lưu giữ hoặc đến khi hoặc tận, chứng tất cả trí của Phật". Thế Thân nói: "Vì lưu giữ phiền não và tùy miên, không giống như Nhị thừa mau chóng tiến đến viên tịch, cho nên lưu giữ phiền não lại để trợ cho nguyện thọ sinh". Là các hàng Bồ-tát do đại bi lực, ý hướng tất cả trí, ý hướng đối trị đạo của Sở tri chướng, không lấy đối trị đạo của phiền não, nghĩ đến sinh tử, trợ cho bi nguyện thọ sinh, gọi là lưu giữ phiền não. Không như thế thì đại bi tối cực của Như Lai, đáng lẽ lưu giữ phiền não tùy loại hóa sinh, do đây nên biết ý không hướng đến đoạn cho nên gọi là lưu, khi sắp thành Phật mới nhanh chóng đoạn hết. Đây là văn của luận Đối Pháp quyển 14.
Luận: "Chướng của nhị tà hạnh", đến "lầm phạm ba nghiệp".
Thuật rằng: Thập Địa ghi: "Tà hạnh chướng đối với thân của chúng sinh". Nhiếp luận của Thế Thân nói: "Tà hạnh chướng đối với thân của chư hữu tình", ý nghĩa phần lớn đều đồng. Sở tri chướng là lựa riêng với phiền não chướng, hai chữ câu sinh là lựa riêng với sự riêng khởi, nói một phần là lựa riêng với tu đoạn các Sở tri chướng khác. Dưới đây cứ theo đó mà hiểu, lầm phạm ba nghiệp gọi là ngu, là ngu phẩm, giải thích như trước.
Hỏi: Trong hai thứ sinh tử trước, nói Sở tri chướng không thể phát nghiệp, tại sao trong đây lại nói một phần chỗ phát ba nghiệp của câu sinh là nghiệp thú ngu? Luận Phật Địa quyển 7 cũng ghi: "Nếu sở đắc nghiệp và sở đắc quả đều là thể của Sở tri chướng".
Đáp: Nếu phát nghiệp chiêu cảm sinh tử thì Sở tri chướng không thể, vì không phải là pháp trói buộc. Hai sinh tử trước do đây mà nói không phát, hoặc chướng trí thì ba nghiệp không chiêu ác quả, điều này cũng có thể phát. Chỗ thuyết minh của văn này chỉ là Đẳng lưu và tăng thượng nghiệp quả. Hỏi: Pháp chấp đã thông với Bất thiện, tại sao không phải là phược?
Đáp: Không do tánh của Bất thiện là phược, như tâm vương thì tánh tức là phi phược. Pháp chấp thì chỉ do phiền não đồng thời cho nên khiến trở thành Bất thiện, không phải tánh là phược.
Hỏi: Đã như thế tại sao không chiêu cảm Dị thục?
Đáp: Thật nghĩa này tuy Bất thiện tâm đồng thời nhưng vẫn gọi là Vô ký. Chỗ mong của Bồ-tát và Nhị thừa mỗi mỗi đều khác, tức là thông với Hữu phú và Vô phú Vô ký, không thể chiêu cảm quả Dị thục, cho nên không có câu vấn nạn trước.
Luận: "Kia chướng hai Địa", đến "lầm phạm ba nghiệp".
Thuật rằng: nghiệp này có thể chướng Địa thứ hai tịnh Thi-la, gọi là thú hủy trách (hủy báng trách mắng) mà đặt tên, như nẻo ác của cõi người, không thể nói rằng lấy thú mà đặt tên cho thú, vì không lấy ác quả. Thô trọng như trước cho nên không giải thích riêng. Ngoài ra trong luận nói thân nghiệp... tức là ba nghiệp, đây là nói về tà hạnh đã nhiếp hết. Luận: "Hoặc chỉ khởi nghiệp, ngu không hiểu rõ nghiệp".
Thuật rằng: Giải thích thứ hai, thứ nhất là ngu khởi nghiệp, thứ hai là ngu không hiểu rõ nghiệp, không phải sở phát nghiệp, cũng không phải là năng phát nghiệp, vì cảnh và dụng khác nhau.
Luận: "Ba ám độn chướng", đến "tu pháp vong thất".
Thuật rằng: Kinh Thập Địa ghi: "Ám tướng đối với chư pháp của văn tư tu quên chướng". Nhiếp luận của Thế Thân nói: "Ba trì độn tánh đối với văn tư tu mà có vong thất (quên mất)".
Luận: "Ám độn kia chướng ba địa", đến "liền có thể vĩnh đoạn".
Thuật rằng: Thắng định là đẳng trì và Đẳng chí, tùy theo các thiền và các vô sắc Vô lậu định. Tổng trì, quyển 47 Phật Địa ghi: "Tức là lấy niệm và tuệ làm thể". Quyển 45 ghi: "Có bốn Đà-ra-ni, là pháp, nghĩa, chú và năng đắc Bồ-tát nhẫn". Hiện tại thì nghĩa thứ nhất và thứ hai nhiếp tổng trì, tức là nghe trì Đà-ra-ni và chỗ phát ba tuệ là định. Định thì thân cận phát sinh tu tuệ, tổng trì thì thân cận phát sinh văn và tư, cho nên hợp chung làm chỗ phát ba tuệ thù thắng kia, ba tuệ lấy tuệ làm thể. Nói tu tuệ và nhân theo tu tuệ mà đắc tuệ này, cho nên nói là tu tuệ. Từ nhân mà đặt tên cho nên không phải tu tức là tuệ, vì tu là định.
Luận: "Do ba tuệ này", đến "và tu tuệ".
Thuật rằng: Dục tham ngu chướng thắng định và tu tuệ, tức là do nơi năm dục khởi tham, phần nhiều trụ trong tán loạn, chướng định và chướng tu tuệ. Tu tuệ cùng với định gần nhau cho nên chỉ nói chướng, không phải không chướng tư tuệ.
Hỏi: Dục tham là tên của phiền não, tại sao trong Sở tri chướng gọi là dục tham?
Luận: "Sở tri xưa phần nhiều cùng với", đến "y
Sở tri mà chuyển".
Thuật rằng: Sở tri chướng kia, ngu thứ ba này phần nhiều cùng với dục tham trong phiền não đồng thời cho nên gọi là dục tham ngu, không phải Sở tri chướng gọi là dục tham, nó chướng định và chướng tu tuệ. Sở tri chướng vĩnh viễn đoạn, là nói dục tham tùy ẩn nấp, vì Sở tri là gốc đoạn, phiền não là ngọn thì liền ẩn nấp. Phiền não này từ vô thỉ đến nay y theo Sở tri chướng mà chuyển.
Luận: "Hai viên mãn văn trì", đến "văn và tư tuệ".
Thuật rằng: Vì văn tư và văn trì gần nhau cho nên nói thiên về nó. Không phải không chướng tu tuệ, nhưng từ chướng thù thắng cho nên phân riêng làm hai, không phải nghĩa của một chướng thể nói là hai chướng. Đây là lấy ngu của ba địa trên, quyển 78 đều không đồng.
Luận: "Bốn vi tế phiền não hiện hành chướng", đến "nói là vi tế".
Thuật rằng: Thập Địa ghi: "Giải thích pháp mạn chướng, các nhà phiên dịch gọi là khác nhau, tức là ngã kiến mạn". Thế Thân Nhiếp luận ghi: "Vi tế phiền não hiện hành, câu sinh thân kiến nhiếp". Đây là hạ phẩm, vì không khởi ý duyên, xa tùy theo hiện hành, nên biết là vi tế, ý nghĩa phần lớn đều đồng. Trong đây nói Thức thứ sáu đồng thời với thân kiến, lựa riêng với đồng thời của Thức thứ bảy. Chữ "đẳng" có nghĩa đồng lấy ngã sở biên kiến, ngã mạn và ngã ái, cùng với kiến đồng thời, đều là phẩm này, đồng lấy định ái và pháp ái của nó, đến sau sẽ biết. Tại sao gọi là vi tế? Giải thích là hạ phẩm, là Thức thứ sáu cũng có pháp của phân biệt thân kiến, nhưng nó là thô mạnh cho nên gọi là thượng phẩm, độ đầu tham trong Thức thứ sáu gọi là trung phẩm, vì thông với tánh Bất thiện. Phẩm này mong hai phẩm kia, vì là hạ phẩm cho nên hành tướng rất vi tế và chỉ có Vô ký. Lại nữa, không khởi ý duyên cho nên gọi là hạ phẩm, tức là mặc tình sinh cho nên gọi là hạ phẩm, không giống Kiến đoạn cưỡng ép tư (tư duy) mới sinh. Lại nữa, vì xa tùy theo hiện hành, tức là từ xưa đến nay rong đuổi theo thân, không xả thân gọi là hạ phẩm, không giống như phân biệt khởi, gặp bạn tốt thì liền xả, đây gọi là hạ phẩm. Do ba nghĩa này cho nên gọi là vi tế, ngoài ra luận căn cứ theo đây giải thích.
Luận: "Kia chướng Tứ địa", đến "liền có thể vĩnh đoạn".
Thuật rằng: Những thứ này chướng Bồ-đề phần pháp, cho nên Địa thứ tư đoạn nó.
Hỏi: Như thế nào là thân kiến chướng Bồ-đề phần?
Đáp: Do có thân kiến đồng thời với ái mà mê chấp thân, không được quán thân là Bất tịnh, quán pháp là Vô ngã... Bồ-đề phần thì thông với Chướng. Luận Trung Biên quyển 1 có Bồ-đề phần Chướng.
Hỏi: Đã là Sở tri chướng thì tại sao lập tên phiền não?
Luận: "Sở tri xưa phần nhiều với", đến "cũng vĩnh viễn không hiện hành".
Thuật rằng: Cũng hiển Sở tri chướng trên lập tên phiền não, tuy có khác đầu sinh, nhưng đều gọi là phần, cùng với phiền não đồng một thể mà đồng thời khởi. Lập tên của phiền não là do Sở tri chướng đoạn, ngọn của phiền não cũng vĩnh viễn không hiện hành, từ phiền não đặt tên cho nên nói là đoạn.
Hỏi: Tại sao Sơ địa, hai Địa và ba Địa không đoạn ngã kiến? Đáp: Vì không phải chướng pháp.
Luận: "Sơ, hai, ba Địa", đến "hai thân kiến".
Thuật rằng: Sơ địa thì hành bố thí, hai Địa hành giới, ba Địa thì hành tu, tương đồng với thế gian, vì hữu tình thế gian phần nhiều là tạo tác ba sự phước nghiệp này, chưa có thể tu chứng Bồ-đề phần pháp. Địa thứ tư này thì tu chứng Bồ-đề phần pháp mới gọi là xuất thế, cho nên có thể vĩnh viễn hại hai thân kiến. Hai thân kiến là sơ kiến đạo đã lìa phân biệt thân kiến trong Thức thứ sáu, sau đó lìa câu sinh thân kiến trong Thức thứ sáu, các kinh luận đều gọi là hai thân kiến, không phải hiện tại lìa hai thứ như định thứ tư diệt khổ lạc. Lại nữa, chánh đoạn thân kiến của Sở tri chướng thì đều vĩnh viễn không khởi thân kiến trong phiền não chướng, cho nên nói hai thân kiến gọi là vĩnh hại, không phải thân kiến của phiền não cũng khởi đối trị.
Luận: "Làm sao biết thân kiến này cùng Thức thứ sáu đồng thời".
Thuật rằng: Đây là hỏi.
Luận: "Thức thứ bảy đồng thời", đến "làm chỗ y trì".
Thuật rằng: Thức thứ bảy đồng thời với pháp của thân kiến, cùng với tánh của Vô lậu đạo trái nhau. Từ Địa thứ bảy trở lại cũng còn có Hữu lậu đạo, vì chưa hoàn toàn phục diệt, từ Địa thứ tám trở đi thì Hữu lậu tương tục mới vĩnh viễn không hiện hành. Từ Địa thứ bảy trở lại thì đắc hiện khởi, cùng với tham sân và các phiền não khác làm chỗ y trì, hoặc phiền não là Thức thứ bảy của nó đồng thời. Địa thứ bảy trở lại đã thừa nhận là diệt thì tham sân... trở về trước đáng lẽ đã diệt, không có chỗ y trì, như Địa thứ tám, thứ chín và thứ mười.
Luận: "Đây thì thô kia thì tế", đến "Tương ưng thứ sáu".
Thuật rằng: Lại nữa, đồng thời với Thức thứ sáu này là thô, đồng thời với Thức thứ bảy kia là tế, hàng phục thì có trước và sau, thô thì hàng phục trước, tế thì hàng phục sau, cho nên thân kiến này chỉ là Thức thứ sáu tương ưng. Giải Thâm Mật và quyển 78 ghi: "Bạch Thế Tôn! Chư địa này phiền não và tùy miên có mấy thứ? Thiện nam tử! Có ba thứ: một là hại bạn, là năm Địa trước, các phiền não không câu sinh và không hiện hành, là phiền não đồng thời sinh hiện hành trợ bạn, phiền não kia trong lúc này vĩnh viễn không còn nữa, gọi là hại bạn tùy miên; hai là luy liệt (yếu kém), là Địa thứ sáu và Địa thứ bảy hiện hành vi tế, hoặc chỗ hàng phục của tu không hiện hành; ba là vi tế, là Địa thứ tám trở lên, từ đó trở đi tất cả phiền não không khởi hiện hành, chỉ có sở y và Sở tri chướng còn, cho nên biết chỗ hàng phục là Thức thứ sáu không phải Thức thứ bảy.
Hỏi: Nhân theo luận mà sinh luận, thế nào là hại bạn?
Đáp: Như chương đoạn chướng đã giải thích rồi.
Luận: "Thân kiến mà nói", đến "riêng trái với nó".
Thuật rằng: Nói về thân kiến, không phải chỉ có tham si mạn và các Tùy phiền não khác đồng thời hiện hành, cũng nhiếp hai thứ ái vô thỉ là định ái và pháp ái. Định ái và pháp ái riêng trái với Bồđề phần pháp, vì Bồ-đề phần pháp đắc Vô lậu định và thắng Vô lậu giáo pháp, và các pháp khác nữa.
Địa trước chiếu rõ Đại thừa pháp giáo vẫn sinh ái nhiễm, giáo pháp của Địa này cùng với niệm tuệ mới gọi là đắc. Hiện tại đã ở nơi định, nơi giáo pháp và niệm tuệ mà khởi ái, vì đối với thân kiến kia chưa đắc tự tại, vì chướng Bồ-đề phần, gọi là riêng trái nghịch. Trì độn chướng của địa trước chướng định và quên mất chỗ nghe và tư duy pháp, định này chỉ chướng Bồ-đề phần, cho nên có sai biệt.
Luận: "Do bốn Địa này", đến "cũng vĩnh viễn không hiện hành".
Thuật rằng: Nên giải thích như trước, văn còn lại dễ hiểu, khỏi nhọc giải thích lại.
Luận: "Năm Địa đối với hạ thừa nhập Niếtbàn", đến "ưa thích Niết-bàn".
Thuật rằng: Kinh Thập Địa ghi: "Thân thì đắc ngã mạn chướng". Thế Thân Nhiếp luận cùng với luận này thì danh đồng. Địa trước y theo giác phần mà quán, quán thân thọ và Vô lậu đạo, do Sở tri chướng sai khiến tâm thiện cho nên có ưa chán.
Hỏi: Chân như của Địa này gọi là vô sai biệt, sinh tử và Niết-bàn đã không có sai biệt thì có gì để chán mà lại có ưa? Văn còn lại dễ hiểu.
Luận: "Sáu tướng thô hiện hành chướng", đến "liền có thể vĩnh viễn đoạn".
Thuật rằng: Kinh Thập Địa ghi: "Vi Tế phiền não tập chướng". Thế Thân Nhiếp luận ghi: "Tướng thô hiện hành, Địa thứ mười mong năm Địa trước cho nên nói là vi tế". Thế Thân cùng với luận này đồng, mong Địa thứ bảy sau thì gọi là tướng thô, cũng không trái nhau. Do Địa trước quán bốn Đế cho nên có hai nhiễm và hai tịnh, do đó chướng Vô nhiễm tịnh đạo của Địa thứ sáu, Chân như của địa này gọi là Vô nhiễm tịnh, cho nên duyên đạo của nó thì gọi là Vô nhiễm tịnh, khi duyên của nó khởi thì mong bốn Đế làm tế, mong Chướng sau cho nên nói sáu Địa này làm thô.
Luận: "Do sáu Địa này", đến "chấp có tịnh".
Thuật rằng: duyên hành tướng lưu chuyển của khổ và tập làm chướng, chấp có nhiễm là tướng nhiều hiện hành, tức là chướng quán duyên khởi hoàn diệt, duyên diệt thì tướng của đạo tịnh làm chướng.
Luận: "Thủ tịnh tướng cho nên", đến "trụ vô tướng quán".
Thuật rằng: Do nắm lấy Vô lậu tịnh tướng, cho nên tướng quán nhiều hạnh, chưa có thể nhiều thời gian trụ vô tướng quán, tức là Hậu đắc trí khởi Hữu tướng tịnh quán, tuy khởi vô tướng ít thời gian thì có thể. Giải Thâm Mật ghi: "Quán sát hiện tiền hạnh lưu chuyển ngu". Nói hiện tiền là quán hiện tiền pháp nhiễm Hữu lậu.
Luận: "Bảy tế tướng hiện hành chướng", đến "liền có thể vĩnh đoạn".
Thuật rằng: Thập Địa ghi: "Tế tướng huân tập chướng", Thế Thân đồng với đây. Do sáu Địa trước khởi quán duyên khởi, lưu chuyển hoàn diệt cũng còn có tướng vi tế sinh diệt cho nên gọi là chướng, Chân như của địa này gọi là chủng chủng vô biệt Chân như, cho nên đạo này gọi là diệu Vô tướng đạo. Đây là tế tướng làm chướng.
Luận: "Do Địa thứ bảy này", đến "tế diệt tướng".
Thuật rằng: Tế tướng hiện hành, chấp có sinh là vì hành lưu chuyển thì lấy sinh làm đầu, thật ra là đều có diệt. Đối với Hữu lậu có sinh lại đưa ra nhất sinh, không phải không chấp diệt, tức là chấp tướng lưu chuyển, thuần là khởi ý cầu vô tướng ngu, tức là chấp có diệt, là chấp hoàn diệt tướng.
Luận: "Thuần đối với vô tướng", đến "khởi hữu thắng hạnh". Thuật rằng: Địa trước còn nắm lấy tế diệt tướng của hoàn diệt, thuần đối với vô tướng mà khởi ý cần cầu, chưa có thể khởi hữu thắng hạnh trong Không. Hiện tại trong địa này đã trừ chướng này, có thể đối với vô tướng mà chuyên cần cầu, là ở trong Không mà khởi hữu thắng hạnh. Chỗ nói Không là, lý Không của vô tướng, trong Không khởi hữu hạnh, tức là trong chân quán khởi hữu quán, ngu tối hai cảnh chân và tục, hợp chung với hai trí là căn bản trí và hậu đắc trí, ít dụng công sức, tức là năng đắc, không đồng với Địa thứ năm. Kinh Thập Địa quyển 9 ghi: "Địa thứ bảy lấy mười thứ phương tiện trí, phát khởi hạnh thù thắng mà nhập". Luận đó giải thích rằng: "Khi Vô chướng ngại trí hiện tiền thì trong vô tác hạnh sinh tâm an lạc. Vô tác hạnh tức là Không hạnh. Hiện tại luận này nói phi an lập tức là vô tác hạnh.
Luận: "Trong tám vô tướng", đến "bất mặc tình dấy khởi". Thuật rằng: Trong văn có bốn đoạn:
1. Nêu thể.
2. Phân rõ tướng.
3. Tức ngu.
4. Hiển hữu.
Đây là nêu thể. Thập Địa ghi: "Đối với vô tướng hữu hạnh chướng". Thế Thân Nhiếp luận ghi: "Vô tướng tác hạnh". Nghĩa ý phần lớn đều đồng, văn còn lại dễ hiểu.
Luận: "Năm địa trước", đến "mà có gia hạnh".
Thuật rằng: Đây là phần thứ hai phân rõ tướng. Quán tâm của năm Địa trước cũng còn yếu, vô tướng quán thì ít. Trong Địa thứ sáu cũng còn quán nhiễm tịnh bình đẳng Chân như cho nên phần nhiều là trụ vô tướng. Trong Địa thứ bảy thì đoạn VI Tế sinh diệt tướng, vô tướng hằng tương tục mà có gia hạnh, cùng với Địa thứ tám khác nhau.
Luận: "Do trong vô tướng", đến "đắc hai tự tại". Thuật rằng: Người chưa có thể nhậm trì nhập vô tướng quán thì không tự tại, chưa có thể mặc tình hiện tướng và độ (cõi), thuyết minh Địa này trở về trước cũng là hiện tướng và độ, chưa gọi là tự tại, vì chưa có thể mặc tình hiện. Nói hiện tướng, tức là tùy dục hiện tướng gì thì có thể hiện tướng đó, như hiện các tướng kim ngân châu báu thì đều có thể hiện được. Đây tức là rộng khắp, là trong tướng mà riêng lập cõi tự tại. Cõi tự tại là muốn hiện quốc độ lớn hay nhỏ, hiện các màu sắc vàng hay bạc thì có thể hiện được. Độ (cõi) tức là hẹp; độ là giả, riêng năng y; tướng là thật, riêng riêng sở y, vì trong tướng mà phân lập riêng.
Luận: "Do tám Địa này", đến "tướng một phần".
Thuật rằng: Đây là thứ ba tức ngu. Văn đó dễ hiểu cho nên không giải thích.
Luận: "Địa thứ tám trở lên", đến "không trái với nó".
Thuật rằng: Đây là thứ tư hiển hữu. Địa này trở đi, tất cả phiền não tuy không hiện hành, nhưng Sở tri chướng vi tế cũng còn có thể hiện hành, đây là Thức thứ bảy lấy sinh không trí vô phân biệt cùng với quả tức là diệt tận định và sinh không hậu đắc trí đều có thể hiện hành, vì pháp chấp Mạt-na không trái với đó.
Hỏi: Nếu Đẳng lưu hậu đắc trí pháp chấp còn khởi thì Địa thứ tám trở lên Vô lậu tương tục, không có một thời nào là không phải Đẳng lưu này, tại sao nói hai quán Đẳng lưu khác nhau?
Đáp: Do trí vô phân biệt sinh pháp, chỗ dẫn của thế lực dụng hai quán gần xa cho nên được riêng biệt. Như trước đã giải thích.
Luận: "Trong chín lợi tha không muốn hành chướng", đến "liền có thể vĩnh viễn đoạn".
Thuật rằng: Văn này có bốn đoạn:
1. Nêu thể.
2. Sở chướng.
3. Tức ngu.
4. Tổng kết. Đây là đoạn thứ nhất và thứ hai. Thập Địa ghi: "Không thể khéo lợi ích cho chướng của chúng sinh". Thế Thân nói: "Đối với nhiêu ích hữu tình không khởi hạnh". Nghĩa ý cũng đồng với đắc vô tướng lạc trong tám Địa trước. Đam mê tịch diệt không chịu tiến tu, chư Phật khuyến khích bảy lần mới chịu tiến tới, cho nên chỉ có chướng tự lợi của chín Địa, vì pháp lợi tha của tứ vô ngại giải.
Luận: "Do chín Địa này", đến "tất cả âm thanh".
Thuật rằng: Đây là thứ ba tức ngu, trong đó có hai phần:
1. Tổng.
2. Biệt.
Trong Biệt có hai phần:
1. Nêu.
2. Giải thích.
Giải Thâm Mật và quyển 78 ghi: "Một là chỗ thuyết pháp vô lượng-tức là nghĩa vô ngại giải trong đây-vô lượng pháp cú văn tự-tức là pháp vô ngại giải trong đây". Luận kia nói pháp là danh thân, cú là cú thân, văn tự là tự thân. Luận này chính là nói danh cú tự. Văn kia có ẩn mật chút ít, sau Tuệ biện có thể giải thích, tức là chữ Đà-la-ni suốt thông với ba Vô Ngại giải. Tùy theo một Năng thuyên trong danh cú văn mà hiển hiện tất cả năng thuyên danh, là pháp vô ngại giải. Trong một phương âm thanh mà hiển hiện tất cả phương âm thanh, là từ vô ngại giải. Hoặc rất ít trong một phương một danh mà hiển hiện danh của tất cả phương trên các pháp, trong một phương một tiếng niệm mà hiển hiện tất cả âm thanh, là cảnh sai biệt của nhị vô ngại giải. Loại trước là giả danh nhiếp, loại sau thì thật thể tức là âm thanh.
Luận: "Hai biện tài tự tại ngu", đến "khéo vì người mà nói".
Thuật rằng: Là biện vô ngại giải, có thể phương tiện khéo thuyết pháp thậm thâm, tức là bảy thứ biện: Tấn biện, Ứng biện, Tiệp biện, Vô sơ mậu biện, Vô đoạn tận biện, phàm sở dẫn Thuyết Phong Nghĩa Vị Biện và Tất cả thế gian tối thắng diệu biện, đó là cao thấp, trược thanh, lớn nhỏ...
Luận: "ngu có thể chướng các thứ này", đến "Chướng nhiếp thứ chín".
Thuật rằng: Thứ tư là tổng kết, văn đó dễ hiểu. Bốn thể tánh các môn này, như luận Đối Pháp quyển 14 Sao và Biệt sao nói.
Luận: "Thập Địa đối với chư pháp", đến "chỗ Khởi sự nghiệp". Thuật rằng: Văn có ba đoạn:
1. Nêu thể.
2. Sở chướng.
3. Tức ngu.
Đây là đoạn thứ nhất và thứ hai. Các luận còn lại thì tên đồng với Đại pháp là Chân như. Trí duyên Chân như ví như vầng mây lớn, cho nên gọi là Đại pháp trí vân, cùng với sở hàm tàng tức là các công đức của Đà-ra-ni môn và Tam-ma-địa môn, vì Đại pháp trí vân hàm chứa nhiều đức thủy đầy khắp pháp thân. Sở hàm tàng tức là các công đức, sở khởi sự nghiệp tức là chỗ khởi các đại thần thông của trí.
Luận: "Khi nhập Thập Địa", đến "và sở hàm tàng".
Thuật rằng: Dưới đây là tức ngu, văn đó dễ hiểu, cứ theo trên mà phối hợp nắm lấy. Vi tế bí mật tức là sở chướng vi tế cũng là bí mật. Luận Thập Địa quyển 11, 12 và Bồ-tát địa quyển 48 ghi: "Tính lường công đức của Địa trước và Địa sau nhiều hay ít". Nhưng mười chướng thì các luận không đồng, đối chiếu thuyết minh sơ lược dã xong.
Luận: "Địa này đối với pháp", đến "nhập Như Lai địa". Thuật rằng: đoạn thứ nhất có bốn phần:
1. Nêu.
2. Hiển. tức là.
3. Làm chứng.
Đây là phần thứ nhất và thứ hai. Nhưng Địa thứ mười thì chướng còn tồn tại cho nên không gọi là Phật. Giải Thâm Mật ghi: "Địa thứ mười này tuy đối với các pháp đắc tự tại, tức là đối với nghĩa của nghiệp tự tại, nghĩa tự tại của Đà-ra-ni môn và Tam-ma-địa môn, gọi chung là đối với pháp mà đắc tự tại. Tổng trì và định, gồm cả nghiệp đều gọi là pháp, do tổng trì mà gọi là pháp trì.
Luận: "Do Phật Địa này", đến "chủng tử của phiền não chướng".
Thuật rằng: Đây là thứ ba tức ngu, văn đó dễ hiểu, khỏi nhọc giải thích lại. Đây là chỉ nói chủng tử cũng có thô và trọng.
Luận: "Cho nên Tập luận nói", đến "Đại Bồđề".
Thuật rằng: Thứ tư dẫn chứng, nghĩa này dễ hiểu, như Tập luận quyển 14 ngọn nói. Nói đốn đoạn, rộng như Giải Thâm Mật và quyển 78 nói. Bồ-tát địa luận và luận Thập Địa mỗi mỗi đều đối với các địa thuyết minh công đức trí tuệ không đồng, hiện tại không phiền dẫn ra. Thập Địa quyển 11 ghi: "Bồ-tát địa thứ chín dùng pháp vô ngại trí để biết tự tướng của các pháp, lấy nghĩa vô ngại trí để biết sai tướng riêng của các pháp, lấy từ vô ngại trí để biết bất hoại thuyết các pháp, dùng nhạo thuyết vô ngại trí để biết các pháp thứ tự bất đoạn thuyết (nói không dứt).
Lại giải thích thêm nữa: Thứ nhất là biết pháp không có thể tánh; thứ hai là biết tướng sinh diệt của pháp; thứ ba là biết pháp giả danh, nhưng không đoạn giả danh pháp mà nói; thứ tư là tùy giả danh bất hoại vô biên pháp mà nói.
Lại giải thích nữa: một là biết pháp sai biệt, hai là biết nghĩa sai biệt, ba là tùy ngôn âm mà vì thuyết pháp, bốn là tùy chỗ ưa hiểu mà vì thuyết pháp. Luận kia có nói nhiều chữ "lại nữa", không thể dẫn ra hết. Nên xem luận Du-già quyển 66, nghĩa chữ tu không đồng trong luận này.
Trong giải thích mười chướng, từ trên đến đây, phần thứ nhất đã y theo Giải Thâm Mật giải thích chướng của mười một Địa, tổng hợp mười chướng đã xong. Từ đây xuống phần thứ hai lấy mười một chướng tức là là hai chướng của nó, văn thế có ba phần:
1. Tổng thuyết minh vị thứ của hiện hành chủng tử phục và đoạn.
2. Thuyết minh đốn đoạn và tiệm đoạn.
3. Giải thích sai biệt của bốn Đạo.
Luận: "Mười một chướng này là chỗ nhiếp của hai chướng". Thuật rằng: Trong vị thứ của đoạn có hai phần:
1. Chung, tức là hai chướng.
2. Giải thích riêng.
Đây là phần đầu. Thể tánh rộng hẹp lại càng không có riêng khác, chỗ đoạn của Thập Địa tuy chỉ có Sở tri, câu phẩm không hiện hành tức là thông với hai chướng.
Luận: "Trong phiền não chướng", đến "địa trước đã hàng phục". Thuật rằng: Văn dưới đây có hai đoạn:
1. Thuyết minh vị thứ phục đoạn của hai chướng.
2. Giải thích các vấn nạn.
Trong phần thứ nhất thuyết minh trước hết là phiền não chướng, vì thể tánh của nó thô, ba Thừa cùng đoạn trừ, dễ thấy được. Chủng tử phân biệt thì không bàn Nhị thừa, nói Bồ-tát đối với cực hỷ Địa thì kiến đạo mới đoạn, vì thể tánh của kiến đạo vị hơi rộng, cho đến tướng kiến đạo thì khởi vị của Hậu đắc trí thời gian lâu cũng còn gọi là kiến đạo, hiện tại lựa riêng riêng với tướng kiến đạo là chỉ có chân kiến đạo. Trong chân kiến đạo chỉ nắm lấy Vô gián hoặc diệt trí sinh khởi, cho nên nói kiến đạo mới đoạn, không phải tướng kiến đạo cũng có thể đoạn, nhưng đây là phân biệt phiền não hiện hành. Luận Du-già quyển 58 ghi: "Thế gian đạo chỉ hàng phục câu sinh ái hoặc câu sinh khuể lân cận với kiêu mạn, không nói có thể hàng phục phân biệt phiền não". Đây là căn cứ theo dị sinh và Nhị thừa tánh mà nói. Hoặc thẳng qua Bồ-tát, chướng kia hiện khởi thì Địa trước đã hàng phục, cho nên quyển trước ghi: "Chỉ có thể phục trừ phân biệt hai thủ". Đây là tại gia hạnh vị, hoặc tại tư lương vị thì thô hiện hành này cũng có thể phục diệt, nhị tế hiện hành thì chưa có thể hàng phục. Đến gia hạnh vị thì phân biệt vi tế cũng đều có thể hàng phục. Do đây Chánh nguyện và thắng giải Thế gian đạo lực của Bồ-tát, tà kiến và nghi phục trừ không hiện hành. Không phải vì sáu hạnh có chỗ ưa chán mà Bồ-tát không làm, không phải Bồ-tát này không có khả năng đó. Kinh Duyên Khởi ghi: "Nội pháp dị sinh nếu phóng dật thì không có bất cộng vô minh, tà kiến chưa hẳn đều là khởi, tức là tư lương vị đã không hiện hành, chỉ có hai vị phân biệt tham không khởi, cho nên luận tổng nói Địa trước đã hàng phục.
Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm giải thích tâm thứ tư của Thập Trụ, nói rằng là chân Phật tử thì ở trong đó vĩnh viễn lìa phiền não của ba cõi?
Đáp: Như quyển trước đã giải thích.
Luận: "Chủng tử tu sở đoạn", đến "rốt ráo không hiện hành".
Thuật rằng: Sau chủng tử tu sở đoạn đều là đốn đoạn, đây là phỏng theo chủng tử mà nói, không nói theo thô trọng. Thô trọng thì trong Thập Địa cũng đoạn, hàng phục câu sinh hiện khởi Địa trước thì cũng được, lý không có nghi ngờ. Kinh Anh lạc ghi: "Ba Hiền Bồ-tát thì chỉ hàng phục mà không đoạn". Chính là đồng với đây. Trong quyển trước ghi: "Câu sinh hiện khởi chưa hoàn toàn phục trừ". Nói rằng tạm khởi, là bốn Địa trước trong Thập Địa cũng còn khởi ngã kiến, vì Địa thứ bảy trở về trước cũng còn khởi tham sân...
Hỏi: Chính khi còn tại Địa trước, những chỗ chưa hàng phục thì tướng mạo có thể biết, khi đã hàng phục thì cùng với đây có khác gì?
Đáp: Đạo lực cũng còn yếu, không thể hàng phục hết, vì phiền não mà chế phục chút ít phần tự hiện hành, tức là ngã tham... có bảy niệm dấy khởi, cho nên nói Địa trước đã có thể hàng phục chút ít, không phải có tướng riêng Địa trước hàng phục nó, từ khi nhập Địa trở đi có thể nhanh chóng hàng phục hết. Như A-la-hán có bất bố cho nên khởi phiền não, bố thì không phải như thế. Chỗ nói kiến sở đoạn trong đây là chỉ có người đốn ngộ, tu sở đoạn thì thông với hữu học tiệm ngộ. Vô học tiệm ngộ thì cả hai thứ đều không có. Địa thứ tám trở đi cũng không cố tình khởi, mặc tình thì không hiện hành, vì đạo lực thù thắng. Đây là văn của luận Đối Pháp quyển 14, như quyển 3 trước dẫn giải.
Luận: "Trong sở trí chướng", đến "Địa trước đã hàng phục".
Thuật rằng: Như quyển trước đã giải thích. Gia hạnh của Bồ-tát chỉ ưa thích đối với trí, kiến đạo trở về trước thì chỉ hàng phục pháp chấp, phiền não chướng của nó cũng tùy theo đây mà phục diệt. Nhưng do gia hạnh của Sở tri phục diệt, cho nên nói phiền não phục diệt, không phải Tiền gia hạnh phục diệt phiền não. Trong Thập Địa, phiền não đồng thời với Sở tri chướng phẩm phần nhiều cũng như thế, không phải "đồng thời" này các Địa đều có thể khởi.
Luận: "Chủng tử tu sở đoạn", đến "mới vĩnh viễn hàng phục hết".
Thuật rằng: Trong đây giải thích về thời tiết của đoạn và phục, như phiền não mà nói, do các Địa có thể bị chướng, cho nên trong Thập Địa dần dần có thể đoạn, cho đến Thập Địa mới vĩnh viễn hàng phục hết, do đạo lực trước chiết phục thì Sở tri chướng của Địa sau hiện, khiến cho nó không hiện hành thì gọi đó là phục. Đây là cũng chưa xong, tám Địa trở đi, Thức thứ sáu và Thức thứ bảy, thức nào hiện hành?
Luận: "Địa thứ tám trở lên", đến "có thể trái với nó".
Thuật rằng: Thức thứ sáu đồng thời là Địa thứ tám không hiện hành, vì hai Không Vô lậu trí vô phân biệt tâm cùng với quả diệt định hậu đắc trí này tương tục không đoạn có thể trái với hai chấp của Thức thứ sáu cho nên không hiện hành.
Luận: "Thức thứ bảy đồng thời", đến "đến khởi vị mới hàng phục".
Thuật rằng: Thức thứ bảy thì ở Địa thứ tám còn hiện hành, vì pháp không trí và quả mới trái với pháp chấp của Thức thứ bảy, hành tướng của sinh Không trí và quả đều là thô, không trái nhau.
Luận: "Năm Chuyển thức trước", đến "chướng không hiện khởi".
Thuật rằng: Trong Thập Địa, năm Chuyển thức trước hoặc là chưa chuyển y đắc Vô lậu trí, vì Thức thứ sáu thù thắng hơn Vô lậu đạo, thù thắng hơn thế lực do đó mà hàng phục đối với năm Chuyển thức trước, trị hai chướng năm Chuyển thức trước khiến cho không hiện khởi. Năm thức này đồng thời hoặc là Sở tri chướng, phần đoạn của các địa, vì có thể chướng địa. Thức thứ bảy đồng thời với kim cương mới đoạn, trong Thập Địa có chiết phục và có hiện khởi. Năm thức đồng thời hoặc là sở đoạn và năng đoạn của địa sau, trong địa trước cũng có thể chiết phục nó, vì hiện hành thô với chủng tử trái với đạo. Lại nữa, tám Địa trở đi, năm thức câu là tuy không được đối trị, nhưng do Thức thứ sáu đồng thời Vô lậu chiết phục cho nên khiến cho không hiện khởi, Địa thứ bảy trở về trước thì cũng còn có thể hiện khởi. Thức thứ sáu cứ theo đây nên biết, cũng là các Địa đoạn, cũng có thể chế phục.
Hỏi: câu sinh phiền não Thập Địa không trừ, tại sao quyển 48 nói đoạn hai chướng trong ba trụ?
Luận: "Tuy đối với Tu đạo", đến "nghĩa của ba trụ đoạn".
Thuật rằng: Dưới đây giải thích vấn nạn có hai phần, đây là phần thứ nhất. Như luận kia ghi: "Đối với cực hỷ trụ, chỗ có thô trọng trong tất cả nẻo ác và các phiền não phẩm thì đều vĩnh viễn đoạn, tất cả phiền não phẩm thượng và trung đều không hiện hành, trong vô gia hạnh, vô công dụng và vô tướng trụ, tất cả đều có thể chướng vô sinh pháp nhẫn, chỗ có thô trọng của các phiền não phẩm đều vĩnh viễn đoạn, tất cả phiền não đều không hiện tiền, trong Bồ-tát trụ mà thành mãn tối thượng. Nên biết tất cả tập khí và tùy miên của phiền não chướng ngại đều vĩnh viễn đoạn, nhập Như Lai trụ. Trong đó có ý nói Kim Cương tâm Vị cũng là Thành mãn Bồ-tát trụ nhiếp. Sở tri chướng thô trọng có ba thứ: 1. Tại bì (da), cực hỷ trụ đều vĩnh viễn đoạn.
2. Tại phu (da non), là vô gia hạnh, vô công dụng và vô tướng trụ đều vĩnh viễn đoạn.
3. Tại nhục (thịt), trong Như Lai trụ đều vĩnh viễn đoạn, đắc tất cả trí cực thanh tịnh trí.
Trong đây ý nói đã đoạn xứ, rộng như luận kia nói, cho nên luận này ghi: "Do đây cho nên nói", tức là quyển 48 nói.
Hỏi: Nếu phiền não thô trọng không phải chủng tử của nó thì không phải chỉ có ba trụ và Sở tri chướng mà các Địa có thể đoạn, tại sao chỉ nói ba trụ đoạn?
Luận: "Tuy trong các trụ", đến "do đó nói thiên về nó".
Thuật rằng: Phần thứ hai giải thích vấn nạn. Vì ba kiếp phân đồng thành mãn vị; vì tâm Vô lậu quán sơ khởi, Vô gián và viên mãn khác nhau; vì hiện khởi ba chướng phần nhiều, phần ít và toàn phần không có; vì tất cả phiền não phân biệt, câu sinh, vĩnh hại, bất hành và tất cánh ly; vì vô sinh pháp nhẫn thiểu tịnh, nhiều tịnh và cực tịnh khác nhau; vì mới xả dị sinh, phần đoạn và biến dịch có sai biệt; vì đối với tâm Vô lậu chưa đắc, Hữu tướng và vô tướng đầy đủ.
Luận: "Đoạn hai chướng chủ tiệm và đốn là thế nào?"
Thuật rằng: Từ đây xuống là phần thứ hai đoạn hai chướng chủng. Tiệm và đốn thế nào, là câu hỏi. Tuy đã nói đoạn, nhưng chỉ nói Bồ-tát mà chưa phân rõ Nhị thừa, chưa thuyết minh đốn và tiệm, cho nên đặt ra câu hỏi này.
Luận: "Thức thứ bảy đồng thời", đến "không có thô và tế".
Thuật rằng: Sở chướng có dị biệt, đoạn cũng có đặc thù. Chướng chủng trong đây không có thô và tế là có tám mươi mốt phẩm, cũng cùng với một loại phẩm thứ chín của Phi tưởng nhiếp, như đoạn tà kiến của thiện không phải không có chín phẩm cho nên trở thành năng huân. Lại nữa, giải thích sở chướng đã đồng đoạn không có trước sau gọi là không có thô tế, không phải chỗ nhiếp của chín Địa đều là một phẩm, như trước trong Thức thứ bảy đã giải thích rộng. Lại nữa, chỉ duyên với cảnh của cảnh bên trong Tự địa, cảnh không có thô tế, không có nhiều tự loại cho nên gọi là nhất phẩm, không phải trong ba cõi đều không có thô tế.
Luận: "Còn lại là sáu thức câu ", đến "ba cõi đốn đoạn".
Thuật rằng: kiến đạo đoạn gọi là đốn, đây là nghĩa chính. Lại nữa, tuy ba tâm, nhưng chín Địa tổng hợp cho là hai phẩm, không đồng với chín phẩm của Tu đạo riêng đoạn, gọi đó là đốn. Quyển 59 có thuyết này. Đây là đối với kiến đạo đoạn sáu thức, là hiển năm thức này có phân biệt chướng, đốn và tiệm này như quyển trước giải thích. Tu đoạn có hai thứ, nhưng trong văn này không có trước chế phục tu, sau đó mới nhập kiến. Nhất phẩm đoạn là thuyết minh đối với kiến, sau mới khởi tu, không nói siêu vượt đắc quả thứ hai và quả thứ ba của riêng Nhị thừa. Chỉ có luận Đối Pháp quyển 13 có văn này, nói rộng như luận Đối Pháp Sao. Giải thích sơ lược, trong đây ban đầu lấy tiệm đoạn của chín Địa, là dần dần đắc quả, đắc nhất lai quả là y theo Vị chí, quả Bất hoàn của nó cũng như thế, nhưng chắc chắn khởi Vô lậu đạo mới đắc quả. Hỏi: Hữu nhập Tĩnh lự và Vô sắc để khởi đối trị đạo cũng có lỗi gì?
Đáp: Điều này cũng không phải như vậy, Quyển 53 ghi: "Bất hoàn là chỉ có năm Địa đối với cõi dục hữu đoạn đối trị, không nói Vô sắc hữu". Lại nữa, đây là chỉ có siêu việt, không phải theo thứ tự. Thứ hai là ba cõi chín Địa hợp chung làm chín phẩm đoạn là chỉ có hàng dự lưu lợi căn, không phải các quả khác. Các quả khác không thể khởi tác nghiệp thù thắng vì còn bỏ sót phiền não. Trong kinh chỉ đoan và kinh phân biệt ghi: "Sơ quả do gia hạnh tâm, có thể lấy ba cõi chín phẩm đồng làm nhất phẩm, hợp chung làm chín phẩm đoạn. Cứ theo siêu vượt quả Bất hoàn thừa nhận nương vào năm địa thì quả này cũng nương vào ba Vô sắc, điều này có lỗi gì? Nhưng gia hạnh tâm là cõi Sắc, tổng duyên ba cõi, cho nên Vô gián đạo có thể khởi các Địa trên của Vô sắc. Như bất hoàn đối với năm Địa có cõi dục đoạn đối trị, quả này cũng đáng lẽ như thế, nên nói nghĩa lý này không trái nghịch. Nhưng không phải lấy đạo của cõi dưới có thể đoạn hoặc của cõi trên, do lực của ý lạc riêng khác cho nên đáng lẽ làm bốn câu, không như thế thì chỉ lấy năm Địa đắc quả thứ ba, Vô sắc đối với cõi dưới không có đoạn đối trị, lại còn không thừa nhận chín Vô gián đạo nhập Căn bản định đắc thứ tự quả thứ ba. Huống chi hàng dự lưu đắc bốn Tĩnh lự và ba Vô sắc chứng siêu quả. Trong Tu đạo chưa đắc đoạn hoặc đạo của cõi dưới thì không thể khởi đoạn hoặc đạo của cõi trên, quán xem qua có thể như vậy, hiện tại y theo Tập luận quyển 13 ghi: "Đốn xuất ly là nhập đế hiện quán, y theo Vị chí định mà phát xuất Thế gian đạo, đốn đoạn tất cả phiền não của ba cõi, đoạn các phẩm riêng biệt chỉ lập hai quả, cho nên y theo bốn Tĩnh lự và ba Vô sắc, không đắc siêu vượt hai quả và đắc thứ tự quả thứ hai và Quả thứ ba. Lại nữa, lấy giải thích trước, văn của luận kia nói thì phần nhiều không thể đắc Căn bản định, không phải chắc chắn tất cả đều không đắc, không nói chỉ nương vào vị chí địa, không như thế thì thọ biến dịch sinh khởi Vô lậu, lẽ nào không thừa nhận đắc Tĩnh lự của cõi trên? Cho nên y theo Tứ Tĩnh lự của căn bản trên thì cũng được. Đây là lấy đạo của cõi dưới có thể đoạn hoặc của cõi trên do ý lạc riêng khác. Văn còn lại dễ hiểu.
Luận: "Sở tri chướng chủng", đến "có rất nhiều".
Thuật rằng: Nguyên nhân sáu thức đồng thời với Sở tri chướng, tiệm đoạn của các Địa không đồng, vì thông với duyên cảnh bên trong, cảnh bên ngoài, nội thân và ngoại thân đều có thể khởi. Lại nữa, trong cảnh kia mỗi mỗi đều thông với thô và tế, không giống như Thức thứ bảy chỉ duyên nội bên trong. Sáu thức trước thì thông với cảnh thô tế, Thức thứ bảy thì chỉ có tế cảnh, hành tướng của ba cõi chỉ có một loại, cho nên kim cương tâm đoạn, vì hành tướng trong sáu thức có chín phẩm, phẩm loại sai biệt có rất nhiều, cho nên các Địa phân ra phân biệt đoạn. Năm thức do Thức thứ sáu dẫn, cho nên thông với hai chướng, như hai chướng trước đã nói.
Luận: "Nhị thừa căn độn", đến "hoặc tổng hoặc biệt".
Thuật rằng: Từ đây xuống phần thứ ba phân rõ đồng dị của ba Thừa và bốn đạo. Gia hạnh và thắng tấn của Nhị thừa có thể có khởi riêng biệt chín phẩm làm chín phẩm gia hạnh và thắng tấn, hoặc chỉ có một gia hạnh và một thắng tấn, cho nên chung và riêng của hai đạo gia hạnh và thắng tấn không quyết định. Đây là y theo dung dự thắng tấn đạo mà nói, không như thế thì càng trái với luận Đối Pháp quyển 9. Vô gián và giải thoát của nó chắc chắn mỗi mỗi đều khởi riêng, như khởi Vô gián đạo đoạn một phẩm xong rồi thì khởi niệm giải thoát thứ hai. Niệm giải thoát thứ hai này không được mong phẩm thứ hai làm Vô gián đạo, vì phẩm thứ hai của nó phải khởi riêng Vô gián và giải thoát, vì độn căn cho nên cho đến chín phẩm cũng như thế, thứ tự và siêu việt cũng như thế, do có chín phẩm dần dần có thể đoạn. Gia hạnh và thắng tấn mỗi mỗi đều khởi riêng, hoặc trong một lần quán mà tùy đoạn vài phẩm, tức là tổng một gia hạnh và sau một thắng tấn, cho nên gia hạnh và thắng tấn hoặc là tổng hoặc là biệt. Hoặc chín phẩm tiệm đoạn xuất quán, hoặc không xuất quán đoạn chín phẩm thì Vô gián và giải thoát mỗi mỗi đều khó khởi riêng. Đây là nói Tu đạo, không phải trong kiến đạo có các sự như vậy. Vì căn độn đó tức là khi chứng Vô vi thì không được đoạn hoặc. Nếu trước hết thế đạo chế phục, sau đó khi nhập kiến đạo thì cũng chung một phẩm cùng với kiến đồng đoạn không thành đạo riêng.
Luận: "Bồ-tát lợi căn", đến "đều được có đủ".
Thuật rằng: Hoặc Bồ-tát lợi căn, như Vô gián của sơ phẩm đến Niệm thứ hai, tức là làm giải thoát; đây là Vô gián của sơ phẩm mong Niệm thứ hai tức là làm gia hạnh; đây là giải thoát đạo mong Tự phẩm thứ hai, tức là làm Vô gián; mong sơ phẩm làm giải thoát, mong phẩm sau làm gia hạnh, cho đến Vô gián đạo thứ ba mong thứ nhất làm thắng tấn và phẩm thứ hai làm giải thoát, tự phẩm là Vô gián cùng với thứ tư làm gia hạnh, Vô gián thứ hai mong đạo trước tức là không phải Thắng tấn đạo mà chỉ là giải thoát. Đây là trong mười địa vị của Bồ-tát khi đoạn Sở tri chướng phân ra phẩm loại và thứ tự đoạn pháp, hoặc riêng đoạn mỗi mỗi riêng khởi. Do có thể ấn chứng và có thể đoạn hoặc, lại có thể dung dự, lại có thể ưa cầu, cho nên có đủ bốn Đạo, nếu không như thế thì lại càng không có bốn nghĩa đầy đủ. Luận Đối Pháp quyển 9 ghi: "Thắng tấn đạo là đoạn chỗ có gia hạnh, Vô gián và giải thoát đạo của các phẩm còn lại, gọi là Thắng tấn đạo". Vì mong phẩm này là thắng tấn, tức là riêng mong có đạo trước. Lại nữa, nói: "Hoặc xả bỏ đoạn các pháp phiền não, gia hạnh, Tư duy, tức là riêng khởi hành tướng của thắng tấn", tức là Nhị thừa, hoặc tổng thông với ba Thừa. Hiện tại luận này đã luận Nhị thừa thắng tấn hoặc biệt hoặc tổng, không ngăn trách chỗ có các đạo của phẩm sau là Thắng tấn đạo trước. Gia hạnh của nó thì không như vậy, vì hướng cầu, chỗ có Vô gián và giải thoát trước không phải gia hạnh sau. Lại nữa, hiện tại luận này phỏng theo riêng khởi hành tướng cho nên nói là chung và riêng, hoặc mong đạo sau phẩm này gọi là thắng tấn thì trong đây không nói. Nếu không như thế thì không có gì mà không khởi thắng tấn và tổng thắng tấn. Rộng như luận đó và Biệt sao của nó giải thích. Bốn đạo này thông với ba Thừa, Nhị thừa Hữu học và Vô học, thông với Hữu lậu và Vô lậu, ngăn trách gia hạnh trí thông với Vô lậu, không ngăn trách gia hạnh đạo. Bồ-tát Kim cương tâm cũng có gia hạnh đạo, mặc tình gia hạnh không phải là gia hạnh trí, Phật chỉ có giải thoát đạo, là Thắng tấn đạo trước tự mong vô thắng tấn, có thắng tấn thì Phật đáng lẽ có hơn kém. Hữu lậu nhiếp bốn đạo thông với Thập Địa, hai cõi trên đều có. Cõi dục chỉ có gia hạnh và thắng tấn, Vô lậu bốn đạo trừ Hữu đảnh ra đều thông với bốn đạo, cõi đó chỉ có thắng tấn. Giải thoát đạo loại gọi là giải thoát cũng có, không phải giải thoát kế sau Vô gián, cũng không thấy thừa nhận có gia hạnh đạo. Trung gian chút ít thù thắng có Vô gián không có lỗi. Hữu đảnh ám muội thì gia hạnh không thành tựu. Luận Đối Pháp quyển 14 ghi: "Đối với các hiện quán vị khi chứng đắc các phẩm đạo thù thắng tiếp theo sau thì xả bỏ chỗ đắc các phẩm đạo hạ liệt trước. Như khi chứng đạo mà quả này nhiếp thì liền xả bỏ đạo do hướng này nhiếp, vì nó không hiện tiền trở lại. Như Bồ-tát tuy không nói hướng và quả nhưng cũng được thù thắng, xả bỏ hạ liệt không hiện tiền, như đắc quả. Hiện tại phỏng theo văn này, tức là chuyển đồng nghĩa ba phẩm chủng tử mỗi mỗi đều riêng có, không dùng hạ phẩm lấy làm trung phẩm và thượng phẩm, tức là hạ phẩm thành trung hạ phẩm không khởi lại gọi là xả bỏ yếu kém. Luận: "Mười Chân như", đến "nhưng không tồn tại".
Thuật rằng: Giải thích năng chứng đắc có bốn phần. Từ trên đến đây đã thuyết minh ba phần, từ đây xuống thuyết minh phần thứ tư sở chứng Chân như. Trong đó có bốn đoạn:
1. Tổng nói về Chân như.
2. Giải thích riêng.
3. Giải thích vấn nạn.
4. Phế và lập.
Chân như trong đây phỏng theo thuyên mà phân rõ thể, nếu không như thế thì lại như ban đầu Chân như không phải trước kia không khắp mà hôm nay mới khắp. Cũng không phải Chân như có thể nói là biến. Hoặc không phỏng theo thuyên mà nói biến thì đó là pháp gì? Là Biến hành như, Nhiếp luận quyển 7 trong Thập Địa nói. Bồ-tát Thế
Thân giải thích rằng: "Pháp giới này khắp tất cả hành, vì không có ít pháp không phải Vô ngã". Luận Vô Tánh ghi: "Đây là pháp không, không có ít pháp mà không phải Không". Luận đó phỏng theo thuyên mà nói nhất Vô ngã và nhất Không lý đều là không đủ, vì thể và dụng riêng khác. Hiện tại chỗ luận hai Không như của luận này là tổng quát các luận kia. Không có Nhất pháp thì không phải hai Không. Tân Trung Biên quyển 1 ghi: "Do thông đạt pháp này mà chứng đắc pháp tánh tự tha bình đẳng". Cựu luận ghi: "Chứng đắc một phần, còn có Địa sau không gọi là đắc hoàn toàn".
Hỏi: Nương theo luận mà sinh luận, thế nào gọi là chỗ đối trị hai hành tướng của hai Không?
Đáp: Chấp pháp có thể, chấp pháp có dụng, hai chỗ đối trị riêng khác. Có hành tướng của chủ tể và nhậm trì riêng khác, cho nên năng trị đạo cũng có riêng khác.
Luận: "Hai là tối thắng Chân như", đến "rất là thù thắng".
Thuật rằng: Do lìa phạm giới, chứng đức trang nghiêm của Chân như này. Thế Thân nói: "Trong tất cả pháp rất là thù thắng, hiện tại nêu ra thắng nhân, là đủ vô biên đức". Tân Trung Biên ghi: "Do thông đạt pháp này mà khởi tư duy như vậy, do đó Ta nay đối với đồng xuất ly tất cả hành tướng nên tu trị khắp, đó là cần tu tương ưng xuất ly". Cựu luận thì khó hiểu, cho nên không dẫn ra. Dưới đây là dẫn chỗ khác, đồng chỗ thì không nói.
Luận: "Ba là thắng lưu Chân như", đến "cực kỳ thù thắng".
Thuật rằng: Do đắc ba tuệ chiếu soi Đại thừa pháp, quán pháp giáo căn bản Chân như này, gọi là thắng lưu Chân như. Luận Vô Tánh ghi: "Do chỗ lưu giáo thù thắng cho nên xả thân mạng mà cầu thiện thuyết này". Tân Trung Biên ghi: "Nếu có hoả khanh ba ngàn thế giới, vì cầu pháp này đem thân vào mà lấy, không cho là khó". Ý đồng với Vô Tánh.
Luận: "Bốn là Vô Nhiếp thọ Chân như", đến "chỗ y thủ".
Thuật rằng: Thế Thân nói: "Trong đây không có kế chấp ngã sở, không có nhiếp ngã sở, như người Bắc châu không có hệ thuộc". Luận Vô Tánh ghi: "Là pháp ái đoạn của các Khế kinh, cho nên không có kế chấp ngã sở, quán pháp này không phải tự và tha nhiếp". Tân Trung Biên ghi: "Do thông đạt pháp này, cho đến pháp ái cũng đều đoạn diệt". Lại nữa, giải thích các thuyết trong luận này, các luận kia đều không tận lý, đáng lẽ nói Chân như này không có hệ thuộc, không phải chỗ y thủ của ngã chấp, ngã ái, ngã mạn, vô minh, biên kiến, ngã sở kiến, nhưng nói ngã sở tức là tánh hẹp. Do duyên pháp ái không có, ngã kiến không nương vào Chân như để nắm thủ. Nói rằng Chân như chỉ làm cảnh cho nên gọi là ngã sở, ngoài ra các luận khác nói. Trong đây chỉ nói ngã cảnh tụ, Chân như không lìa cảnh đó, khi ngã chấp khởi thì cũng chấp thủ Chân như. Luận này nói Chân như không đối với cảnh kia mà khởi các ngã chấp, nhưng nói ngã kiến tức là không nhiếp sở, nhưng nói Ngã sở tức là không nhiếp kiến. Luận này nói ngã chấp thông với kiến và sở, trên căn cứ theo đây giải thích này. Luận: "Năm là loại vô biệt Chân như", đến "loại có khác nhau". Thuật rằng: Do sinh tử và Niết-bàn cả hai đều bình đẳng cho nên không có sai biệt. Nhiếp luận gọi là Tương tục vô biệt như. Thế Thân nói: "Trong Chân như này thể không khác nhau, không phải nhãn... tùy theo các hữu tình tương tục sai biệt, mỗi mỗi đều có khác", tức là Chân như bất đồng thì thân mỗi mỗi đều có khác. Tương tục tức là thân, cho nên tự tha Chân như thì không có khác. Luận Vô Tánh ghi: "Không giống như sự sai biệt tương tục của sắc". Hoặc đồng với Thế Thân, hoặc đồng với luận này cũng được. Nói rằng chỉ có một vật, không giông như nhãn... có khác loại, luận Trung Biên ghi: "Đây gọi là nghĩa tương tục Vô sai biệt, do thông đạt nghĩa này mà đắc mười ý lạc bình đẳng tịnh tâm.
Luận: "Sáu là Vô nhiễm tịnh Chân như", đến "vì kia mới tịnh".
Thuật rằng: Thế Thân thì đồng, Cựu luận Trung Biên ghi: "Nhân theo mươi hai duyên sinh của Địa thứ sáu và nhân theo xứ quán nhân quả nhiễm tịnh của bốn Đế thì không có một pháp nào có thể nhiễm có thể tịnh". Tân luận Trung Biên ghi: "Do thông đạt Chân như này mà biết pháp duyên khởi không có nhiễm không có tịnh, không phải là Chân như, do Chân như cho nên pháp không có nhiễm tịnh, gọi là Chân như là Vô nhiễm tịnh". Luận này thì bàn về thể của Chân như, luận Trung Biên thì nhân theo thể của Chân như mà bàn về pháp, không phải trái nhau.
Luận: "Bảy là pháp vô biệt Chân như", đến "nhưng không có khác".
Thuật rằng: Do lìa tế tướng hiện hành của sinh diệt, tuy nhiều giáo an lập Chân như nhưng không khác nhau. Thế Thân thì đồng, nói rằng giáo an lập làm Thắng nghĩa pháp giới thiện và Bất thiện, pháp này không có khác biệt. Tân luận Trung Biên ghi: "Do thông đạt Chân như này mà biết pháp vô tướng, trong chủng chủng pháp tướng của bất hành Khế kinh". Luận này thì nương giáo mà bàn Chân như không khác, luận kia thì nương vào Chân như mà bàn giáo không khác, lẫn nhau thêu dệt một bên cũng không trái nhau. Do thông đạt Chân như này tức là Không phương tiện trí, thù thắng hạnh phát khởi trong hữu.
Luận: "Tám là bất tăng giảm Chân như", đến "đều tự tại".
Thuật rằng: Luận Vô Tánh ghi: "Nói rằng ngoài pháp không có dụng cho nên bất tăng, các pháp không hoại cho nên bất giảm". Đây là lìa chỗ chấp tăng của Biên Kế và giải thích hai tánh giảm còn lại. Lại nữa:
1. Giải thích cũng với Thế Thân đồng. Nói rằng khi pháp nhiễm giảm mà không có giảm, khi tịnh pháp tăng mà không có tăng, tức là đoạn nhiễm cũng không giảm, đắc tịnh cũng bất tăng. Hiện tại luận này lại khác, lìa chấp tăng giảm. Tân luận Trung Biên ghi: "Do thông đạt lý này mà chứng đắc vô sanh pháp nhẫn, trong các thanh tịnh phẩm và tạp nhiễm phẩm không thấy có một pháp nào có giảm hay tăng, tức là y theo Chân như mà nói pháp không có tăng giảm.
2. Tự tại y, như trước đã giải thích, như văn có thể hiểu. Nhưng luận Vô Tánh ghi: "Trong các Địa trước tuy cũng đắc Vô Sai biệt trụ này, nhưng sau khi tạo tác công dụng mới được thành, trong địa này có thể không có công dụng, tùy theo dụng thì thành ngay, cho nên gọi là tự tại".
Tân luận Trung Biên ghi: "Có bốn tự tại: một, danh vô phân biệt tự tại; hai, tịnh độ tự tại; ba, trí tự tại; bốn, nghiệp tự tại". Trong Địa thứ tám chỉ có thông đạt, Tự tại thứ nhất và thứ hai gọi là vô tăng giảm sai biệt Chân như, tướng tự tại đó gọi là vô phân biệt. Như Sớ giải của luận đó.
Luận: "Chín là trí tự tại", đến "vì đắc tự tại".
Thuật rằng: Luận Trung Biên ghi: "Trí tự tại viên mãn chứng đắc Vô ngại giải". Giải thích của các luận khác đồng nhau.
Hỏi: Địa này đã đắc trí tự tại, tại sao Thập Địa của mười độ tu trí?
Đáp: Luận Vô Tánh ghi: "Trong các Địa đắc chỗ y chỉ của vô ngại biện, đắc từng phần trí Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp không tùy theo lời nói đó, khéo có thể biết rõ nghĩa của các ý thú, như thật thành tựu tất cả hữu tình thọ thắng pháp lạc, không phải cho là hoàn toàn đắc trí Ba-la-mật.
Luận: "Mười là nghiệp tự tại đẳng sở y Chân như", đến "đều là tự tại".
Thuật rằng: nghiệp tức là ba thứ tự tại, thần thông, Đà-ra-ni và Tam-ma-địa. Nghiệp tức là thân... ba nghiệp. Luận Trung Biên ghi: "Tùy theo dục mà biến hóa thành các sự lợi lạc của hữu tình". Trong tổng trì có hai thứ là trì văn và trì nghĩa. Trì nghĩa và trì văn của tất cả pháp, là năng trì và năng đoạn của Đẳng chí. Tùy sở dục hư không tạng mà có thể hiện tiền, đây là giải thích của Vô tánh, nghĩa khác thì đồng với luận này.
Luận: "Tuy Chân như tánh", đến "giả lập mười thứ".
Thuật rằng: Đây là giải thích thứ ba về vấn nạn. Nhất vị của Chân như thế nào được phân làm mười thứ? Chân như thật ra không có riêng khác, tùy chỗ chứng, chỗ sinh và năng thắng đức của nó mà giả lập mười thứ.
Luận: "Tuy trong Sơ địa", đến "kiến lập các Địa sau".
Thuật rằng: Đây là phần bốn phế lập. Trong Sơ địa đối với mười Chân như, không phải không đều là thông đạt, vì chưa viên mãn cho nên kiến lập sau, do đó lập ra mười thứ, vì hạnh và vị có mười thứ, tên là viên mãn Chân như, cho đến Như Lai thập chủng đều có thể hiểu rõ. Như luận Trung Biên giải thích phân biệt rộng.
Ngay trong giải thích bản tụng, phần đầu thì sơ lược, phần sau thì nói rộng. Ngay trong phần nói rộng có hai đoạn:
1. Thuyết minh nhân chứng đắc.
2. Thuyết minh sở chứng đắc.
Từ trên đến đây tuy có bốn đoạn không đồng, là Thập địa, Thập thắng hạnh, mười chướng và mười Chân như đã nói xong. Tóm lại là phần thứ nhất thuyết minh Chứng đắc nhân, từ đây xuống là phần thứ hai thuyết minh sở chứng quả, trong đây có hai phần:
1. Đoạn văn trước dẫn sinh luận sau.
2. Chánh giải thích chỗ chứng đắc quả.
Luận: "Như vậy Bồ-tát", đến "liền có thể chứng đắc".
Thuật rằng: Đây là đoạn văn thứ nhất. Phát khởi chỗ chứng hai quả Chuyển y của cõi dưới. Hai Chuyển y, là Bồ-đề và Niết-bàn. Ngay trong chánh thuyết minh sở chứng có hai phần:
1. Phỏng theo vị mà phân rõ chứng.
2. Chánh thuyết minh Chuyển y. Trong phần thứ nhất có ba đoạn:
1. Nêu chung.
2. Giải thích riêng.
3. Liệu giản (giải thích).
Luận: "Chuyển y vị riêng sơ lược có sáu thứ".
Thuật rằng: Đây là phần thứ nhất nêu chung sở chứng vị. Trong đây tư lương vị nói trước hết. Sơ lược khai mở năm vị, Địa tiền làm hai vị, Thập địa làm hai vị, Như Lai làm một vị. Dưới đây sẽ biết.
Luận: "Một là tổn lực ích năng chuyển", đến "cũng gọi là chuyển".
Thuật rằng: Vị thứ nhất và thứ hai, là vị thứ nhất và thứ hai tại Địa tiền, vị này chiết phục dần dần cũng gọi là chuyển. Là nhân của chuyển cho nên có thể chế phục chuyển. Thật ra chứng đắc vị gọi là thông đạt vị và tu tập vị, cho nên vị này không phải chân. Vô tánh Nhiếp luận quyển 9 của Thế Thân ghi: "Có thắng giải, là Thắng giải hạnh Địa", cho nên hai vị đầu cùng với tàm quý tức là trong hai vị. Thế Thân giải thích: "Có giải đãi và tàm quý, do đó khiến cho các phiền não hiện hành phần ít, hoặc không hiện hành. Phiền não hiện hành tức là giải đãi và tàm quý thâm sâu, giải đãi và tàm quý là thắng tướng của Thắng giải hạnh. Luận này lại giải thích: "Do Tập thắng giải là sơ vị. Sơ vị tăng trưởng tin Duy thức cho nên gọi là thắng giải, chưa hàng phục được Duy thức tưởng, Vị thứ hai có thể hàng phục được Duy thức tưởng, ít hàng phục phiền não". Gọi là có tàm và quý, như trong hai vị trước đã giải thích. Lại nữa, thắng giải là thắng giải tâm sở, vì được quyết định. Tín tâm sở ban đầu tăng, lâu sau không tăng, do tàm quý cho nên tôn sùng thiện chống cự ác, có hai thắng đức đều thông với hai vị cho nên làm thể năng chuyển. Điều này cùng với Nhiếp luận không đồng, không thể căn cứ theo một luận. Văn còn lại có thể hiểu.
Luận: "Hai là thông đạt chuyển", đến "chân thật Chuyển y".
Thuật rằng: Tức là thông đạt vị, trong kiến đạo đã chứng một phần Chuyển y, vì chưa viên mãn.
Luận: "Ba là tu tập chuyển", đến "chân thật Chuyển y".
Thuật rằng: Là trong Thập Địa, tức là trừ kiến đạo của Sơ địa, còn lại Sơ địa và chín Địa, tức là Tu đạo trong Thập Địa.
Luận: "Trong Đại thừa", đến "hiện hành và không hiện hành".
Thuật rằng: Vì Hữu tướng và vô tướng quán thông đạt chân và tục xen tạp hiện tiền, hoặc chân thì hiện, Phi chân thì không hiện. Nói rằng khi nhập quán, hoặc Phi chân hiện, chân không hiện. Nói rằng khi xuất quán thì khiến cho chân và phi hiện hoặc không hiện. Lại cũng chưa có thể tức là Không mà quán đối với hữu, Hữu tướng quán hiện thì Chân không hiện, vô tướng quán hiện thì Phi chân không hiện. Do lý này cho nên nói thông đạt chuyển ở trước Địa thứ sáu. Hiện tại luận này phỏng theo ban đầu thông đạt mà phân riêng hai Chướng đi khắp Chân như cho nên nói Sơ địa là thông đạt chuyển. Thế Thân Nhiếp luận ghi: "Sáu Địa trước, Chân như làm nhân của Chân quán và Tục quán hiện hoặc không hiện", cho nên nói Thông đạt chuyển ở trước Địa thứ sáu.
Luận: "Nói tu tập chuyển", đến "vì không hiển hiện".
Thuật rằng: Nhiếp luận lại ghi: "Tu tập chuyển ở sau Địa thứ tư, do thuần vô tướng quán thời gian dài hiện tiền, dũng mãnh tu tập đoạn các thô trọng khác. Phần nhiều là khiến cho Phi chân không hiển hiện". Quyển 48 ghi: "Do Địa thứ bảy cũng còn gọi là tạp phiền não, chưa gọi là Bất tạp phiền não, Phi chân cũng còn có khi hiện, chỉ có vô tướng quán là thời gian lâu dài". Nói phần nhiều là khiến cho Phi chân không hiện, là không phải Phi chân có khi hiện trong Địa thứ tám, thứ chín và thứ mười. Đắc vô tướng quán thời gian lâu dài thì chủng loại đồng. Nói sau Địa thứ tư làm Tu tập chuyển, ngã vì Thập Địa đoạn hai chướng câu sinh thô trọng mà dần dần chứng Chân như nghĩa. Nói Tu tập chuyển trong Thập Địa cũng không trái nghịch. Nhưng trong luận này thì nói phần nhiều khiến cho Phi chân không hiện, là lựa riêng với Địa thứ bảy. Hai Nhiếp luận giải thích đều nói chỉ có chân thật hiện, Phi chân không hiện, đó là từ thời gian lâu dài mà nói. Nhưng Nhiếp luận thì vốn thông đắc hai giải thoát, không nói rằng Phi chân quyết định không hiện.
Luận: "Bốn là quả Viên mãn chuyển", đến "lợi lạc vô tận". Thuật rằng: Chuyển thứ tư có thể hiểu, luận kia và luận này đồng.
Luận: "Năm là hạ liệt chuyển", đến "gọi là hạ liệt chuyển". Thuật rằng: Chuyển thứ năm cũng đồng. Thông với hữu học và Vô học:
1. Chỉ có tự lợi.
2. Có ưa và chán.
3. Chỉ có đạt sanh không.
4. Chỉ có đoạn phiền não.
5. Chỉ có chứng Chân trạch diệt.
6. Vô Thắng khả năng kham nhận.
Chân trạch diệt là Chân như, do Tuệ trạch mà đắc diệt này. Vô Thắng khả năng kham nhận là không có Tất cả trí.
Luận: "Sáu là quảng đại chuyển", đến "gọi là quảng đại chuyển".
Thuật rằng: Nhiếp Đại thừa ghi: "Tức là các hàng Bồ-tát có thể thú hướng chứng chuyển". Như Lai đã chuyển, cho nên luận đó không nói. Chuyển thứ sáu này trái ngược với Chuyển thứ năm trên, căn cứ theo chuyển thứ năm thì hiểu rõ. Sinh tử và Niết-bàn không có ưa và chán, đại bi và Bát-nhã phát khởi rộng, có đủ Tất cả trí gọi là có thắng khả năng kham nhận.
Luận: "Trong đây ý nói", đến "mà chứng đắc".
Thuật rằng: Đây là phần thứ ba liệu giản. Sở thủ Chuyển y thể là chỉ có quảng đại chuyển, do xả hai thô trọng mà chứng đắc. Không nói Viên mãn chuyển là vì viên mãn chuyển đối với Bồ-đề mà nói, quảng đại chuyển thì đối với Nhị thừa mà nói. Lại nữa, Viên mãn chuyển chỉ có Như Lai, quảng đại chuyển thì ở tại Bồ-tát. Hiện tại luận này thuyết minh Thập Địa nắm lấy quảng đại chuyển, cần phải trong các Địa hai thô trọng mới được chứng đắc. Lại nữa, trong giải thích đã nói nắm lấy quảng đại chuyển để thuyết minh Viên mãn chuyển cũng ở tại trong đó. Vì lược đưa ra một góc, tức là trong Chuyển y thứ nhất sáu Chuyển y giả lập chuyển, vì chưa đắc chân; còn lại năm Chuyển y thì chân, gọi là chuyển, là chân thật chứng đắc. Đoạn thứ nhất là phỏng theo Vị mà giải thích Chuyển y đã nói xong. Đoạn thứ hai sau là chánh giải thích Chuyển y, trong đó có phần:
1. Giải thích chung Chuyển y.
2. Tuy nghĩa của Chuyển y tổng có bốn thứ, nhưng hiện tại chỉ lấy hai sở chuyển đắc, chữ "đẳng" là lựa riêng các câu nói về Chuyển y của bài tụng.
3. Phân rõ Tu tập vị này có thể chứng, không phải là đã chứng.
Luận: "Nghĩa của Chuyển y lược nói riêng có bốn thứ".
Thuật rằng: Phần thứ nhất giải thích chung Chuyển y, gọi là sở mục nghĩa (chỗ phân nghĩa), phần đầu là nêu chung, phần sau là giải thích riêng. Đây là phần đầu.
Luận: "Một là năng chuyển đạo", đến "tiệm phục và đốn phục kia".
Thuật rằng: Dưới đây là Giải thích riêng, làm bốn phần, năng phục đạo thông với Hữu lậu và Vô lậu, trong ba trí thì thông với gia hạnh, căn bản, ba thứ Hậu đắc trí và sáu hạnh của Hữu lậu đạo. Vô lậu thì giống như nhân, trí vô phân biệt của Địa thứ ba đoạn định pháp ái đồng thời thế lực của Sở tri chướng, khiến cho phiền não cũng không hiện hành gọi là phục phiền não chướng. Không phải riêng khởi đạo gọi là phục phiền não, Sở tri chướng thì cũng có thể biết. Lại nữa, như lìa dục của Đệ ba Tĩnh lự, hàng phục Hoặc của Tứ định trở lên để nhập diệt định, tức là lấy Hậu đắc trí hàng phục hai chướng. Hoặc gia hạnh đạo thì có thể tiệm phục, căn bản và Hậu đắc trí thì đốn phục. Hoặc căn bản và Hậu đắc trí cũng có thể tiệm phục, vì Vô gia hạnh đạo thì có thể đốn phục.
Hỏi: gia hạnh trí thông với Vô lậu hay không?
Đáp: Không thông. Vô gia hạnh trí của Địa thứ tám trở lên cũng không có tâm Hữu lậu.
Hỏi: Nếu như thế thì luận Đối Pháp quyển 10 nói thế nào thông với Kim cương tâm có hai thứ, một là gia hạnh đạo nhiếp, hai là Vô gián đạo nhiếp?
Đáp: Điều đó không trái, vì tâm Vô lậu thú hướng nhập căn bản trí, như trước đã nói, gọi là gia hạnh đạo không phải là gia hạnh trí. Gia hạnh trí thì có thú hướng cầu căn bản trí kia, chỉ là gia hạnh đạo trước nhưng không phải thú cầu, cho nên gia hạnh trí không thông với Vô lậu. Hoặc luận Đối Pháp căn cứ theo Nhị thừa, nói chung Kim cương tâm có hai thứ, không phải là trong Kim cương tâm Bồ-tát có gia hạnh đạo, cho nên gia hạnh trí không thông với Vô lậu, hoặc nói cũng thông với Vô lậu. Địa thứ tám không có, là không có Hữu lậu gia hạnh trí riêng thâm sâu thú cầu, vì Địa thứ tám trở đi có mặc tình thú cầu. Hiện tại luận này ban đầu nói gia hạnh chỉ có Hữu lậu, như luận Đối Pháp nói Kim cương tâm có gia hạnh đạo, không lựa riêng với Bồ-tát.
Luận: "Hai là năng đoạn đạo", đến "vì chưa thành biện".
Thuật rằng: Vì gia hạnh trí của tâm Hữu lậu và Hậu đắc trí của Hữu lậu.
1. Đã từng tập quen.
2. Chỗ dẫn của tướng chấp.
3. Chưa thể phục diệt hết tướng này, cho nên không thể đoạn hoặc.
4. Hoặc gia hạnh trí là có thể thú cầu sở chứng Chân như, thú cầu sở dẫn trí vô phân biệt, vì năng chứng và sở chứng Chân như được phân thành rõ ràng, vì có thể đoạn hai chướng thì không phải là gia hạnh trí.
Hỏi: Nếu gia hạnh trí không thông với Vô lậu thì nói tâm Hữu lậu đã nhiếp gia hạnh thì nói gia hạnh lại cần gì nữa? Nếu nói gia hạnh trí thông với Vô lậu thì không cần tạo ra hỏi đáp này để phân biệt?
Đáp: Vì gia hạnh trí trong ba trí cũng là vô phân biệt. Hữu lậu đạo này cũng có gia hạnh, Vô gián và giải thoát, trước đã nói Hữu lậu nhiếp ba Đạo đó, sau đây nói gia hạnh là để lựa riêng với căn bản trí và Hậu đắc trí khác nhau trong ba trí, cho nên lại nói thêm nữa. Từ đây trở xuống là thuyết minh tâm Vô lậu của nó và căn bản Hậu đắc trí.
Luận: "Có nghĩa hậu đắc", đến "mê sự tùy miên".
Thuật rằng: Hậu đắc không có lực để có thể đoạn kiến của mê lý và tùy miên của nghi, mà đối với tướng An lập đế và tướng Phi an lập đế hiện tiền rõ ràng không có chứng điên đảo, cũng có thể vĩnh viễn đoạn mê sự tùy miên, hành tướng của mê lý tùy miên thì sâu xa, phải chứng lý đó mới có thể đoạn nó. Mê sự tùy miên thì hành tướng thiển cận, nhưng thật ra thì Hữu tướng quán cũng có thể đoạn. Luận: "Cho nên Du-già nói", đến "tướng chấp dẫn".
Thuật rằng: Quyển 55 ghi: "Trong Tu đạo vị có hai thứ đạo, thứ nhất là trí vô phân biệt, thứ hai là Hậu đắc trí". Hậu đắc trí gọi là thế và xuất thế, như tâm sở trước giải thích tên này, vì Hữu lậu Đạo là thuần thế gian, không thuần Thế gian đạo thì có thể vĩnh viễn hại tùy miên, vì có hai nhân, như văn có thể hiểu.
Luận: "Do lý thú này", đến "đều có thể chánh đoạn".
Thuật rằng: Sở đoạn của các kiến tuy có mê sự phẫn... mười pháp, vì Kiến đoạn đốn đoạn. Tùy miên của mê sự tùy theo lý quán một phẩm thì đoạn mê sự này, cùng với vô minh do Tu đoạn và hai kiến, cùng với mê sự này đồng thời với căn bản và mê lý tùy miên, là trí vô phân biệt đoạn. Ngoài ra có tham khuể mạn, vô minh và mê lý này tùy theo hoặc mà mê sự, là Hậu đắc trí cũng có thể đoạn, vì hành tướng thiển cận.
Hỏi: Thế nào cũng là căn bản đoạn và Hậu đắc đoạn không trái với lý?
Đáp: Đây là chỉ có Nhị thừa mà không phải Bồtát, vì Tu đạo của Bồ-tát không đoạn mê sự tùy miên, tức là chỉ có Sở tri chướng là căn bản trí đoạn. Trong phiền não chướng thông với hai trí đoạn. Nhưng làm mê lý thân kiến và biên kiến, khi mỗi thứ đều đối với Tự địa phẩm đạo thứ chín mới đốn đoạn, nhưng trước phẩm thứ tám đã đoạn trước các phiền não còn lại, có thể khởi Hậu đắc trí để đoạn, khi phẩm thứ chín khởi trí vô phân biệt đoạn, vì mê lý hoặc. Đây là phỏng theo chín phẩm riêng Vô gián đạo đoạn. Nếu không, khi xuất quán thì đoạn chín phẩm, chỉ có trí vô phân biệt đoạn mê sự phiền não trong phẩm thứ tám, không thể trong một lần quán đạo thì phẩm thứ tám trước là Hậu đắc trí, phẩm thứ chín là căn bản trí, tức là ngã kiến câu sinh trong Thức thứ sáu thì phải phẩm đạo thứ chín mới đoạn. Tuy không có phẩm số nhưng không giống như Thức thứ bảy do Kim cương tâm đoạn.
Hỏi: Kim cương kia mới đoạn thì có hại gì?
Đáp: Tức là có bậc Thánh hữu học và Vô học của cõi Sắc và cõi Vô sắc, khởi Vô lậu đạo tức là đoạn chủng tử phiền não ngã kiến của cõi và Địa dưới. Nếu thừa nhận như thế thì Thánh nhân bất hoàn đáng lẽ lấy hiện hành nhuận sinh làm hại, vì đã thừa nhận chủng tử của bậc thánh bất hoàn nhuận sinh. Trước khi lìa dục của Địa cõi dưới thì thân kiến của nó đều phải đoạn xong, không đồng với không nhuận sinh của Thức thứ bảy. Do đây đáng lẽ làm bốn câu:
1. Có y theo Địa cõi dưới đoạn tùy miên cõi trên, nếu như cõi Địa dưới đắc Thánh thì đoạn tất cả tùy miên trong chủng thức của cõi trên.
2. Có ở tại Địa trên đoạn tùy miên cõi dưới, như ở tại Địa trên nắm lấy Vô học quả, đoạn chủng tử phiền não trong Thức thứ bảy của Địa cõi dưới. Luận Du-già ghi: "Phải Kim cương tâm thì chủng tử kia mới đoạn.
3. Câu thứ ba có thể biết.
4. Câu thứ tư thì trừ ba tướng trên, hoặc nói rằng đoạn Sở tri chướng, không thể nói đoạn Địa trên Địa dưới và Tự địa tha địa.
Nhưng phỏng theo duyên phược và tương ưng phược cho nên có thể nói địa đoạn, đây là Địa dưới đoạn Địa trên, Địa trên đoạn Địa dưới. Đối với năm thức trước, Thức thứ sáu và Thức thứ bảy đều không thể ngăn trách, vì không trái với lý, không phải nhuận sinh, không phải phược pháp. Lại nữa, giải thích dùng Hậu đắc trí để đoạn thì Bồ-tát cũng có thể được, Thập Địa thì đoạn hữu chấp và phi chấp trong Sở tri chướng. Phi chấp cũng gọi là mê sự, cho nên cũng thừa nhận là đoạn, vì chướng trí. Tuy chưa đoạn kiên chấp gốc thì cái nào hại đoạn trước? Như phiền não chướng câu sinh, là lấy ngã kiến làm đầu, trước khi đoạn thì chưa có thể đoạn gốc. Mê sự trước cũng có thể đoạn, đoạn Sở tri chướng loại đáng lẽ cũng như thế. Những thứ phân biệt này tuyệt diệu xưa nay, đối với các luận sư thì thật ra là chưa nghe, tức là Thức thứ sáu và Thức thứ bảy của hai chướng mỗi mỗi hợp là thành bốn câu.
Hỏi: Hữu lậu đã từng tập quen, chưa dứt bặt tướng, cho nên không thể đoạn tùy miên. Hậu đắc cũng có tướng, như thế nào đoạn tùy miên? Lại nữa, hai trí này mỗi mỗi đều có tướng, thế nào hai trí này khác nhau?
Đáp: Hậu đắc tuy có tướng, nhưng không phải chấp sở dẫn, không phải phược sở duyên. Lại nữa, không phải đã từng đắc, khi nắm lấy cảnh tướng thì phân minh thân chứng, Hữu lậu không phải như thế, cho nên không thể đoạn, như chỗ chứng năm Thông của bậc Thánh và dị sinh cũng có khác, tịnh và bất tịnh, minh và bất minh mỗi mỗi đều có khác. Do các lý như vậy cũng tức là hai trí Sai biệt kia.
Luận: "Hai sở Chuyển y", đến "cho nên ở đây không nói".
Thuật rằng: Trước đã nói Y tha gọi chung là
Chuyển y, bây giờ nắm lấy trì chủng cho nên chỉ có Thức thứ tám.
Luận: "Hai mê ngộ y", đến "cho nên ở đây không nói".
Thuật rằng: Tánh Y tha khởi tuy cũng là y này nhưng không phải căn bản, cho nên trong đây không nói. Nhưng luận Vô Tánh và hai Nhiếp luận chỉ lấy A-lại-da làm Chuyển y. Luận Đối Pháp quyển 11 nói Chuyển y có ba thứ:
1. Tâm chuyển tức là Chân như.
2. Đạo chuyển tức là năng chuyển đạo trước.
3. Thô trọng tức là A-lại-da.
Chuyển y này lược có hai thứ, thể rộng Nhiếp luận, vì luận đó không có Chân như, hẹp đối với luận Đối Pháp vì không có đạo kia. Nhưng đạo thì trong năng chuyển đạo này, cũng không hẹp đối với nó, văn còn lại có thể biết. Thể trong trì chủng y chỉ có tại Nhị thừa và Đại thừa hữu học vị chỉ có Hữu lậu, nếu gồm cả Phật thuyết thì thông với Vô lậu. Đây là chỉ phỏng theo hiện hành, vì chủng tử thức không thể trì chủng, lại cũng là trong sở khí xả nhiếp.
Luận: "Ba là sở chuyển xả", đến "vọng chấp ngã pháp".
Thuật rằng: Nói rằng chủng tử của hai chướng, đây là nêu ra thể, xả tại lúc nào? Chân Vô gián đạo hiện tại vị trước. Nói Chân có hai nghĩa:
1. Lựa riêng với Hữu lậu, không thể đoạn chủng tử.
2. Lựa riêng với tướng và kiến đạo của Hậu đắc trí.
Chướng và đối trị trái nhau, như minh và ám, nói đó là xả. Đây là trong nhiễm xả tánh Y tha khởi, do Y tha chủng đoạn không thể sinh lại nữa, tâm vọng chấp hiện hành thì Ngã pháp hiện hành, do vọng chấp này đoạn cho nên nói hiện hành và chủng tử nương vào tha để đoạn thì Y tha đã đoạn xong.
Luận: "Sở chấp ngã pháp", đến "Biến kế sở chấp".
Thuật rằng: Tự tánh của thật ngã và thật pháp vốn không có, chỉ đối với vọng tình mà vọng tợ có, vọng tình này đoạn thì không có cảnh đối với tâm, giả thuyết cảnh này cũng gọi là đoạn, do đạo lý này mà gọi là xả sở chấp, chư Hữu xứ nói đoạn Biến kế sở chấp, chính là nghĩa này. Nhưng trong ba tánh đều có nghĩa xả:
1. Biến kế sở chấp, như chỗ nói này không đối với tình mà gọi là xả.
2. Hữu lậu Y tha, xả này có hai thứ:
a. Chướng pháp, như trong đây nói chướng và trị trái nhau gọi là xả.
Phi chướng pháp, trong sở khi xả của cõi dưới nhiếp.
3. Viên thành thật, xả này có hai thứ:
a. Liệt pháp cũng trong sở khí xả nhiếp.
b. Thắng pháp thì chỉ có đây là không xả.
Cho nên tổng nói ba tánh đều có nghĩa xả.
Luận: "Hai sở khí xả", đến "đều khí xả vĩnh viễn".
Thuật rằng: Nói rằng Hữu lậu còn lại, tức là hai chướng dư thừa, là Hữu lậu thiện, ba pháp Vô ký toàn đủ và Dị thục sinh phần ít, trừ ra một phần pháp chấp. Liệt Vô lậu chủng, tức là chỗ sinh hiện hành trong Thập Địa và hạ phẩm chủng trong chủng loại này, do Kim cương đạo chuyển. Cực viên, khác với sở y chưa viên mãn của Bồ-tát. Cực minh, là hành tướng phân minh, khác với trí trước của Bồ-tát, vì trí đó bất minh. Hoặc cực viên là lựa riêng với tất cả hữu học; cực minh là lựa riêng với Nhị thừa vô học. Bản thức thuần tịnh, tịnh là Vô lậu, thuần là không tạp, không giống như Thức thứ bảy của nhân vị khéo tịnh mà không thuần; bản thức thì thuần nhưng không tịnh; Thức thứ tám thì Vô lậu tương tục cho nên gọi là thuần tịnh. Thức hiện hành này, không phải các Hữu lậu yếu kém khác và Vô lậu chủng nương, cho nên đều là vĩnh viễn khí xả.
Luận: "Chủng tử kia đã xả", đến "liệt pháp của sinh tử".
Thuật rằng: chủng tử này đã xả hiện hành rồi thì pháp kia cũng vĩnh viễn không sinh. Do đạo lý này gọi là xả sinh tử pháp và liệt pháp, đây là nói tổng quát, không lựa riêng với niệm năng xả nào. Đây là đồng với luận Đối Pháp quyển 14 nói đắc thắng Vô lậu cũng xả liệt pháp. Như khi đắc quả thì xả đối với hướng, như trước đã nói. Đã nói còn lại pháp Hữu lậu và liệt Vô lậu là Kim cương tâm xả, là hai pháp này xả trước hay là hai pháp này đồng xả?
Luận: "Có nghĩa sở dư", đến "đồng thời xả".
Thuật rằng: Sư thứ nhất thì cho là xả trước, cùng với hai chướng chủng đồng thời xả, do có hai thứ hữu dư Hữu lậu và liệt Vô lậu, chủng đã mất rồi thì các pháp Hữu lậu và liệt Vô lậu khác như thế nào tồn tại? Lại nữa, chủng tử sinh hiện hành, đã đồng thời sinh, chủng tử đã tùy theo chướng đã diệt mất thì hiện hành làm sao mà còn? Lại nữa, quả ba nẻo ác và Hoặc nghiệp đồng thời mất, tại sao các pháp Hữu lậu khác không tùy theo hoặc mà đồng thời xả? Hữu lậu đã xả trước, và liệt Vô lậu cũng nên như thế. Do lý này, Kim cương đạo sinh thì các Hữu lậu đều diệt, như minh và ám không đồng thời sinh. Sư này có ý nói, trong Kim cương tâm đã đắc cảnh trí, vẫn chưa gọi là Phật, chưa khởi giải thoát đạo để chứng diệt. Các Vô lậu mới khởi thì lân cận với Hữu lậu, chưa gọi là Phật, như kiến đạo xả nhân quả đồng thời của nẻo ác, ý của sư này nói Vô gián đạo thô trọng sinh thì xả, giải thoát đạo sinh thì chỉ để chứng diệt.
Luận: "Có nghĩa lúc bấy giờ", đến "đáng lẽ vô dụng".
Thuật rằng: Sư thứ hai nói, Kim cương tâm sinh thì cũng chưa xả Hữu lậu kia, cũng còn Hữu lậu và Vô gián đạo khác, không trái nhau. Thô trọng ngược với Chuyển y, lẽ nào ngược với Vô gián đạo? Lại nữa, Kim cương tâm tức là liệt Vô lậu, tại sao vị này liệt Vô lậu đã không có? Lại nữa, nếu vị này Hữu lậu kia đã xả thì Bồ-tát đáng lẽ không có các pháp sinh tử? Sinh tử pháp là pháp Hữu lậu, ai nói Bồ-tát không có sinh tử pháp? Sinh tử pháp không có thì cái gì gọi là Bồ-tát? Lại nữa, không có Hữu lậu thì đáng lẽ không có thức sở huân, tức là trụ Vô gián đạo thì đáng lẽ gọi là Phật, hoặc vị này đã gọi là Phật thì giải thoát đạo sinh đáng lẽ không có dụng. Giải thoát đạo sinh thì chứng cực thù thắng Chuyển y viên mãn, vì không có thức sở huân, không có sinh tử pháp, không có liệt Vô lậu, có thể đoạn thô trọng và riêng Vô gián đạo-như trước đã luận-cho nên Vô gián đạo không phải Phật, giải thoát đạo gọi là Phật. Ông nay Kim cương tâm đã có sự đó thì dùng giải thoát đạo để làm gì? Tiếp theo giải thích lý của sư trước rằng: "Hoặc do hai chướng chủng có các Hữu lậu khác, cho nên Nhị thừa và Bồ-tát không phải Vô lậu viên mãn, cho nên biết chướng chủng là có". Hiện tại là vấn nạn: "Đáng lẽ do Vô lậu chưa mãn túc, Hữu lậu còn tồn tại cho nên không gọi là Phật. Vô gián đạo vị này đã không có Hữu lậu, Vô lậu viên mãn sinh khởi thì tại sao không gọi là Phật?". Lại nữa, chủng tử sinh hiện hành thì chắc chắn đồng thời sinh, tại sao chủng tử mất mà hiện hành của nó lại còn? Ai nói chủng tử Hữu lậu còn lại của vị này đã mất? Tôi hoặc chủng hoặc hiện khác thời, có thể như chỗ vấn nạn thì tôi cũng chủng tử và hiện hành đồng thời, nhưng không trái với Vô gián đạo, cho nên không cùng với Vô gián đồng thời xả. Do đó chỗ vấn nạn của ông không có can dự vào ý của tôi, do chủng và hiện dị thời trước đã phá rồi. Trong đây không nói ý của sư này cũng là chủng và hiện đồng thời, hoặc cũng nói thì đáng lẽ trở thành ba thuyết. Hiện tại luận này thừa nhận huân tập, thuyết minh chủng sinh hiện đồng thời, trong Kim cương tâm cũng còn có huân tập. Lại nữa, quả của ba nẻo ác và nghiệp hoặc đều mất, tại sao vị này đoạn có trước và sau? Trong mười một chướng trước đã nói thô trọng trái với giải thoát đạo, tức là quả nẻo ác cùng với hoặc diệt khác thời thì làm sao được lúc này noi theo tình mà đặt câu vấn nạn?
Luận: "Do đây nên biết", đến "không phải Hữu lậu kia nương". Thuật rằng: Hữu lậu còn lại, khi giải thoát đạo khởi thì mới xả bỏ.
Vì Tịnh Thức thứ tám của giải thoát đạo vị không phải là liệt Vô lậu và Hữu lậu khác nương. Sư trước muốn giải thích câu vấn nạn sau, suy nghĩ theo đây có thể biết, nhưng hai sư này đều không trái lý. Một phần phiền não trong chỗ đoạn xả, thông với Nhị thừa hữu học, ngoài ra chỉ có Đại thừa. Lại nữa, do năng đoạn đạo trong năng chuyển đạo trước chứng mê ngộ y trong sở Chuyển y, mới có sở đọa xả và sở khí xả ít phần. Trừ liệt Vô lậu ra, vì liệt Vô lậu chỉ do đắc thắng xả yếu kém.
Luận: "Bốn là sở chuyển đắc", đến "thanh tịnh pháp giới".
Thuật rằng: Trong giải thích riêng dưới đây, có hai quả riêng cho nên phân ra làm hai phần. Trong Niết-bàn có hai đoạn:
1. Nêu thể chung.
2. Giải thích riêng bốn thứ Niết-bàn.
Phần đầu nêu chung thể tức là văn này. Đây là lựa riêng với Bồ-đề mà gọi là sở hiển đắc, ý văn có thể hiểu. Nói chân Thánh đạo, là chỗ khởi đạo của Thánh, gọi là Thánh đạo, diệu quán sát trí là năng đoạn đạo, giải thoát đạo vị là chánh chứng Niết-bàn, vì có gia hạnh tâm khởi mong cầu. Hoặc không phải đoạn đạo ấn chứng thì gọi là đắc, thông với ba trí phẩm, trừ Thành sở tác trí ra. Hoặc nói chứng Thánh đạo chân lý thì trong đó chỉ có chánh thể trí mà không phải hậu đắc trí, đây là y theo đại vị. Hoặc thông với ba Thừa tùy chỗ thích ứng của nó, do Niết-bàn này tại triền mà chưa hiển, lìa chướng mới hiển, cho nên thể là nhất như. Phỏng theo hiển mà trở thành riêng khác. Phần thứ hai giải thích riêng bốn thứ Niết-bàn, trong đó có hai đoạn:
1. Nêu số chung
2. Rộng giải thích.
Luận: "Nghĩa Niết-bàn lược riêng có bốn thứ".
Thuật rằng: Đây là nêu ra số.
Luận: "Một là bổn lai tự tánh", đến "gọi là Niếtbàn".
Thuật rằng: Dưới đây là rộng giải thích. Trong đó có ba phần:
1. Nêu ra bốn thể.
2. Phân rõ ba Thừa.
3. Tổng kết lựa riêng.
Đây là nêu thể. Niết-bàn thứ nhất, văn ý có thể hiểu, là lý của tất cả pháp tướng Chân như, đây là nêu thể, tức là thật tướng Chân như lý trong bảy Chân như. Luận kia ghi: "Chỗ hiển của hai Không phỏng theo chỗ phân rõ của thuyên, Niết-bàn nương vào được hiển, cho nên lấy tương tức, như quyển thứ tám trước đã giải thích. Đây là như Phật
Địa quyển 3 trong thanh tịnh pháp giới giải thích. Tuy có khách nhiễm, nhưng giải thích bổn lai tự tánh có mười thứ nghĩa. Cụ công đức, là vì có thể thuận sinh các công đức, là công đức tánh cho nên gọi là cụ đức. Ngưng tịch thanh tịnh cho nên không có sinh diệt, Chân tánh của chúng sinh do đó bình đẳng có, pháp tánh và pháp lý không phải nhất và dị, như quyển 8 trước đã giải thích xong. Ly tất cả tướng, là lìa sở thủ tướng. Ly tất cả phân biệt, là lìa năng thủ tướng, con đường của tầm và tư dứt bặt, hiển chỉ có nội chứng không phải thô tâm. Danh ngôn đạo đoạn, là hiển chân tự tướng không phải chỗ an túc xứ của giả danh ngôn. Không phải nói y, cho nên khác với pháp Hữu vi. Chỉ có chân Thánh là chỗ chứng tự bên trong. Hiển Năng Chứng là chắc chắn chỉ có Thánh nhân. Tánh đó vốn tịch, là giải thích tên của Niết-bàn, vì nghĩa viên tịch là Niết-bàn. Nêu ra nghĩa của thể và giải thích danh trong ba nghĩa sau, căn cứ theo đây mà giải thích.
Luận: "Hai là Hữu dư y", đến "cho nên gọi là Niết-bàn".
Thuật rằng: Hiển nhân tận khổ y chưa tận, Dị thục cũng còn, gọi là Hữu dư y. Y là thân, ngay nơi thật mà nêu ra thể, cho nên Chân như đó mà nêu ra phiền não chướng. Hữu dư trong đây là phỏng theo Nhị thừa mà nói, vì nói chỉ có vi khổ y. Y là y theo thân, lấy chỗ lìa của nó để hiển Niết-bàn này, vì trong Đại thừa thì khó thấy tướng mạo của nó, là từ chỗ dễ mà nói.
Luận: "Ba là Vô dư y", đến "cho nên gọi là Niết-bàn".
Thuật rằng: Sở y của Hữu lậu khổ quả đã vĩnh viễn tận, do phiền não tận thì quả cũng không sinh, gọi là đắc Niết-bàn, cũng ngay nơi thật mà nêu thể, thông với giải thích ba Thừa.
Luận: "Bốn là Vô trụ xứ Niết-bàn", đến "cho nên gọi là Niết-bàn".
Thuật rằng: Sở tri chướng, là hiển chỉ có Bồ-tát mới đắc, không phải Nhị thừa, vi Nhị thừa không thể ra khỏi Sở tri chướng. Đại bi Bát-nhã thường là chỗ trợ giúp, hiển thị duyên Niết-bàn này thì sinh trí và bi, hoặc do trí và bi duyên chứng Chân như, đối với sinh tử và Niết-bàn cả hai đều không trụ. Duyên Niết-bàn này tuy khởi hai dụng Bi và trí, nhưng thể tánh hằng tịch cho nên gọi là Niết-bàn. Đây là phần thứ nhất nêu ra thể của Niết-bàn. Từ đây trở xuống là phần thứ hai ba Thừa phân biệt Niết-bàn cụ và bất cụ. Trong đó có hai đoạn:
1. Ba Thừa cụ và bất cụ.
2. Hỏi đáp phân biệt.
Luận: "Tất cả hữu tình", đến "có thể nói đủ bốn".
Thuật rằng: Tất cả hữu tình hoặc phàm hoặc Thánh đều có Niết-bàn thứ nhất. Do đây kinh ghi: "Tất cả hữu tình xưa nay Niết-bàn, phàm phu và Nhị thừa hữu học chưa chứng ba thứ Niết-bàn sau. Nhị thừa vô học và bất định tánh chưa nhập Địa thì có Niết-bàn thứ nhất và thứ hai. Định tánh thì có thứ nhất và thứ ba. Bồ-tát trực nhập Địa thì có Niếtbàn thứ nhất, thứ hai và thứ tư. Như Lai thì có đủ bốn thứ". Có đủ sáu vị này, hoặc là do đoạn phược mà đắc, và đắc thứ tự của các vị, hoặc đồng thời hoặc dị thời, mỗi mỗi đều phải nói rộng. Chữ dư, như văn có thể hiểu, tức là ba Thừa có Niết-bàn đủ hoặc không đủ. Từ đây xuống là phần thứ hai hỏi đáp phân biệt, trong đó có ba đoạn:
1. Hỏi đáp Hữu dư y của Phật.
2. Hỏi đáp Hữu và Vô dư y của Nhị thừa.
3. Hỏi đáp đoạn Sở tri chướng đắc Niết-bàn.
Luận: "Thế nào là thiện thệ có Hữu dư y?"
Thuật rằng: Thiện thệ là Phật. Hữu dư có ba thứ, lý có thể hiểu. Người đặt câu hỏi này, cho rằng nếu Phật có Hữu dư y thì đáng lẽ có khổ y chưa tận.
Luận: "Tuy không có thật y mà hiện tương tợ có".
Thuật rằng: Đây là đáp. Tuy không có Hữu dư Niết-bàn chân thật khổ y chưa tận. Đây tức là tương đồng giải thích Nhị thừa.
Luận: "Hoặc là khổ y đã tận", đến "có thể nói đủ bốn".
Thuật rằng: Lại giải thích khác với Nhị thừa, vì phỏng theo khổ y tận cho nên gọi là Phật Vô dư y, có thân chỗ y của phi khổ còn tồn tại cho nên gọi là Hữu dư y. Vì Phật Thế Tôn có đủ uẩn Hữu lậu và Vô lậu sở y còn tồn tại cho nên có thể nói Phật
Thế Tôn có đủ bốn. Như Lai cũng có Hữu dư như thế.
Luận: "Hoặc Thanh văn...", đến "nói các vị đó không có".
Thuật rằng: Dưới đây là hỏi đáp thứ hai về Hữu dư y và Vô dư y của Nhị thừa. Đây là người ngoài hỏi: Nếu Nhị thừa có Vô dư y Niết-bàn, tại sao có chỗ nói các vị đó không có? Tức là kinh Thắng Man ghi: "Không có Vô dư y". Kinh đó nói Hữu dư của Nhị thừa và Thế Tôn sinh pháp bất tận, cho nên có sinh khởi; Phạm hạnh của Hữu dư không thành cho nên không thuần; sự không rốt ráo cho nên phải có sở tác, cho đến nói rằng "đi đến cõi Niết-bàn thì xa xôi", do đó chư Thanh văn... kia không có Vô dư y.
Luận: "Có chỗ nói các vị kia", đến "các vị kia cũng không phải có".
Thuật rằng: Trong đây luận chủ chất vấn trước. Nói rằng kinh
Thắng Man ghi: "Nhị thừa kia đều không có Niết-bàn", lẽ nào Hữu dư y Niết-bàn Nhị thừa kia cũng không có, kinh kia tại sao nói Nhị thừa kia đều không có Niết-bàn? Luận kia ghi: "Chỉ có Như Lai thành tựu tất cả công đức cho nên đắc Niếtbàn, A-la-hán không thành tựu tất cả công đức cho nên nói không đắc". Nói đắc Niết-bàn là phương tiện của Phật, cho đến nói rộng. Kinh kia nói Nhị thừa không đắc Niết-bàn, không lựa riêng Niết-bàn nào, đã là Hữu dư y Nhị thừa cũng đắc thì biết rõ luận kia nói là có ý thú riêng.
Luận: "Nhưng Thanh văn...", đến "không y ba Niết-bàn trước".
Thuật rằng: Y Vô tánh là phần thứ hai giải thích văn kinh, văn luận trong đây ý nghĩa có thể hiểu.
Luận: "Lại nữa, nói kia không có", đến "cùng với Phật có khác".
Thuật rằng: Dưới đây y theo bất định tánh, giải thích thứ hai mở ra chánh nghĩa, văn còn lại dễ hiểu. Nói rằng có Nhị thừa là lựa riêng với bất định tánh, thân và trí ở giai vị diệt, lúc đó tuy không có thân trí của Nhị thừa, nhưng do Nhị thừa có thể chứng diệt này thì có thể nói Nhị thừa có Vô dư y. Không phải khi thân trí còn thì có thể nói Nhị thừa gọi là có Vô dư y. Y theo thật Chân như mà nói thì ba Thừa không khác nhau. Y theo Bồ-đề mà nói thì ba Thừa có sai biệt, cũng có thể y theo vô trụ xứ mà nói thì ba Thừa có khác nhau. Nhưng luận này thì nói Bồ-đề Sai biệt.
Luận: "Các Sở tri chướng", đến "đắc Vô trụ xứ".
Thuật rằng: Dưới đây là hỏi đáp thứ ba về Sở tri chướng đắc Niết-bàn. Trong đây có ba phần:
1. Hỏi đáng lẽ không đắc Niết-bàn.
2. Hỏi đáng lẽ đắc trạch diệt.
3. Hỏi Bồ-đề chướng.
Đây là người ngoài hỏi, các Sở tri chướng đã không cảm sinh, tại sao Sở tri chướng thì đắc vô trụ xứ? Vô trụ xứ là Niết-bàn. Niết-bàn là thể giải thoát phược. Sở tri chướng của nó đã không thể phát nghiệp nhuận sinh thì tại sao đoạn Sở tri chướng đắc Vô trụ xứ? Trước có nói đoạn Sở tri chướng đắc Niết-bàn, Địa thứ hai phạm giới ngu là Sở tri chướng, tuy cũng phát nghiệp, nhưng Sở tri chướng, không chiêu cảm sinh cho nên hiện tại đặt ra câu hỏi này. Hoặc hoàn toàn không phát nghiệp, tức là không phạm hủy hoại ba nghiệp, không phải trong lúc đó đoạn phiền não chướng, không lấy luận Phật Địa quyển 7 nói đến chỗ phát nghiệp quả là Sở tri chướng thì liền cho rằng phát nghiệp có thể chiêu cảm đối với sinh.
Luận: "Kia có thể ẩn che", đến "đều là không trụ".
Thuật rằng: Đây là chánh đáp, văn đó có thể hiểu. Để khiến cho không phát sinh đại bi Bát-nhã, là Chân như làm sở chứng duyên khởi Hậu đắc trí, Hậu đắc trí tức là Bát-nhã, Bát-nhã có thể khởi đại bi. Đối với hai pháp sinh tử và Niết-bàn đều không trụ, Chân như đã không chứng thì bi và trí không sinh.
Luận: "Hoặc Sở tri chướng", đến "không đắc trạch diệt".
Thuật rằng: Dưới đây là câu hỏi thứ hai đáng lẽ đắc trạch diệt, trong đó phần đầu là hỏi, phần sau thì đáp. Trong đáp có hai phần, phần đầu thì đáp quấy, phần sau thì đáp phải. Trong phần đầu lại có năm đoạn:
1. Đáp.
2. Trình bày.
3. Giải thích.
4. Vấn nạn.
5. Thông.
Đây là cũng người ngoài hỏi. Niết-bàn tức là lấy trạch diệt làm tánh.
Luận: "Trạch diệt lìa phược, kia không phải phược".
Thuật rằng: Đây là đáp. Do tuệ chọn lựa phược đoạn trừ mà đắc diệt, gọi là trạch diệt. Do Sở tri chướng không phược hữu tình chiêu cảm sinh tử khổ, đoạn Sở tri chướng rồi thì không đắc trạch diệt.
Luận: "Đã đoạn Sở tri chướng như thế thì lẽ nào đắc Niết-bàn?"
Thuật rằng: Người ngoài lại hỏi. Niết-bàn cũng là giải thoát phược.
Luận: "Không phải chư Niết-bàn", đến "trung nhị trạch diệt nhiếp".
Thuật rằng: Đây là luận chủ đáp: Không phải tất cả thể của Niết-bàn đều là trạch diệt, nếu không như thế thì tất cả Niết-bàn đều là trạch diệt, tức là tánh tịnh Niết-bàn đáng lẽ không phải Niết-bàn, vì thể tánh không phải trạch diệt nhiếp. Có thể trói buộc hữu tình trụ sinh tử, nếu đoạn được thì đắc trạch diệt, điều này đã không như thế cho nên không đắc trạch diệt. Văn còn lại dễ hiểu, khỏi nhọc giải thích. Trong đó có ý nói, tánh của Niếtbàn thì rộng, thể của trạch diệt thì hẹp, không phải các Niết-bàn đều là trạch diệt. Do Niết-bàn này cùng với trạch diệt kia nên làm bốn câu phân biệt:
1. Là trạch diệt không phải là Niết-bàn, là chỗ đắc diệt trong nhân của phiền não chướng.
2. Là Niết-bàn không phải là trạch diệt, là bổn lai tánh tịnh và Vô trụ xứ hoặc sáu hạnh đắc diệt, là kia phân Niết-bàn không phải trạch diệt.
3. Là câu.
4. Là phi câu, là Hữu dư y và Vô dư y Niết-bàn là đồng thời và không đồng thời có thể hiểu.
Cho nên hai Niết-bàn thứ nhất và thứ tư là tánh tịnh và Vô trụ xứ, tức là thể lập trên Chân như. Hai Niết-bàn giữa Hữu dư y và Vô dư y là trạch diệt nhiếp, vì do đoạn phược mà đắc. Phược sở y diệt tận thì khi đắc quả ban đầu là trạch diệt, sở y sau đó không có phương pháp để hiển Niết-bàn, sau đó khi nương vào Vô là do trạch lực trước, cho nên luận Đối Pháp nói quả nẻo ác gọi là kiến đạo đoạn.
Du-già thì nói là Phi trạch diệt nhiếp.
Luận: "Hoặc chỉ đoạn phược", đến "trong bốn pháp là pháp nào nhiếp?"
Thuật rằng: Đây là phần thứ tư người ngoài lại hỏi. Là trước đã nói rằng, Sở tri chướng không phải đoạn phược thì không đắc trạch diệt, bất động Vô vi và tưởng thọ diệt Vô vi cũng không phải đoạn phược mà đắc, trong bốn Vô vi là Vô vi nào nhiếp? Bốn Vô vi, luận Ngũ Uẩn: "Một là hư không, hai là trạch diệt, ba là Phi trạch diệt, bốn là Chân như". Bách pháp luận và luận Du-già thì nói sáu Vô vi, thêm bất động và tưởng thọ diệt. Luận Đối Pháp và luận Hiển Dương nói tám Vô vi, thêm bốn tánh Chân như, nhân theo đây thì thuyết minh rộng nghĩa Vô vi, như quyển 2 trước và Biệt sao giải thích.
Luận: "Phi trạch diệt nhiếp", đến "không phải vĩnh viễn diệt".
Thuật rằng: Dưới đây là luận chủ đáp: Hai pháp Vô vi này trong bốn Vô vi là Phi trạch diệt nhiếp. Hiển Dương quyển 18 ghi: "Hai Vô vi này tạm thời lìa trói buộc, không phải rốt ráo lìa trói buộc.
Hỏi: Phi trạch diệt tại sao tạm lìa mà không sinh lại?
Đáp: Trạch diệt Vô vi rốt ráo diệt, vĩnh viễn hại tùy miên. Trong Phi trạch diệt, luận Du-già quyển 53 ghi: "Phi trạch diệt pháp không phải xưa nay quyết định. Xưa nay quyết định là học thấy thánh tích. Đối với các loài Chúng sinh như noãn sinh, thấp sinh, Bắc-câu-lô châu, vô tưởng thiên, nữ thân, phiến hổ, bán trạch, vô hình, nhị hình... và sau đó có hoặc ái hoặc thủ chỗ đắc Phi trạch diệt xưa nay quyết định, ngoài ra thì bất định, vì hàng phục chủng tử khiến cho không sinh hiện hành gọi là Phi trạch diệt. Chủng tử nếu gặp duyên thì có thể sinh hiện hành, cho nên càng sinh thêm nữa, do đây Phi trạch diệt có quyết định và không quyết định, cho nên trong đây nói có vĩnh viễn diệt là có vĩnh viễn không diệt, do đó hai Vô vi này đã không phải là vĩnh viễn diệt nhiếp, nói tạm thời lìa nói năng. Thuyết minh về Phi trạch diệt, trong trạch diệt có chữ "Duy" để hiển nghĩa bất thông và tạm lìa, trong Phi trạch diệt thì có chữ "không phải vĩnh viễn" để hiển nghĩa bất định. Luận Đối Pháp quyển 2 ghi: "Có hai pháp nên đoạn, là các phiền não cùng với sở y thọ biến dịch và bất biến dịch, như thứ tự của nó nên biết, phiền não đoạn thì lập trạch diệt. Hai thứ thọ diệt kiến lập bất động và tưởng thọ diệt, hai thọ này không sinh thì cũng gọi là đoạn. Không nói hai Vô vi là trong trạch diệt phân ra, không thể đặt làm câu vấn nạn.
Hỏi: Đã nói về Vô gián đạo, thế nào là phi trạch, trạch là tuệ. Vô gián sinh là giác không phải là tuệ?
Đáp: Khởi Vô gián đạo hoặc Hữu lậu cũng là phi trạch, hoặc Vô lậu không đoạn chủng tử lậu, là quyết định Phi trạch diệt, có hại gì. Lại nữa, điều này đáng lẽ trình bày sư Tát-bà-đa bất nhiễm Vô tri khởi Vô gián đạo đoạn mà không phải là trạch diệt, có ý gì bất đồng với Hữu lậu đạo, vì Hữu lậu đạo thì tông kia cũng đắc trạch diệt. Hoặc hiện tại Đại thừa khởi Vô gián đạo lại nữa để đoạn riêng hoặc chủng. Phược nhân còn lại thì sự so sánh này vĩnh viễn không sinh.
Hỏi: Phi trạch diệt nhiếp thì cũng có lỗi gì?
Đáp: Đã như thế thì quyết định biết đắc Vô dư trước. Sở y vĩnh viễn không có so sánh để hiển diệt trước, gọi là đắc Niết-bàn cho nên là trạch diệt nhiếp. Như tưởng thọ diệt Vô vi sau đó mới hiển, thật ra đã đắc ở trước. Vô dư cũng như thế, hoặc do trạch diệt trước đoạn hoặc vĩnh viễn không sinh. Nghĩa này nên suy nghĩ. Dưới đây là phần thứ hai giải thích.
Luận: "Hoặc Vô trụ xứ", đến "chỗ nhiếp của trạch diệt".
Thuật rằng: Thể này tuy không phải phược, do chân trạch lực diệt chướng mà đắc, cho nên lẽ nào không phải là trạch diệt. Diệt chướng mà đắc cho nên như phiền não diệt, tức là hai Vô vi thuộc trạch diệt nhiếp. Tiếp theo là tổng hợp văn của luận Hiển Dương quyển 18, luận đó nói tạm phục diệt, là nói hàng phục hoặc mà đắc, và tâm Vô lậu khi ở diệt hoặc vị mà nói. Đây là hoặc phỏng theo Vô gián đạo đoạn và giải thoát đạo mà đắc, tức là văn của luận Đối Pháp quyển 2 làm chính, là trạch diệt nhiếp. Hoặc phỏng theo phục diệt đắc diệt định mà kiến lập, tức là Phi trạch diệt. Như luận Hiển Dương, như quyển 2 Sao và luận Đối Pháp quyển 2 Sao giải thích. Nghĩa bất động, như trước nói.
Luận: "Đã là Sở tri chướng", đến "là Bồ-đề chướng".
Thuật rằng: Dưới đây là câu hỏi thứ ba về Bồđề chướng, người ngoài hỏi. Sư này nói Sở tri chướng cũng chướng Niết-bàn, có thể hiểu.
Luận: "Nói phiền não chướng", đến "làm Bồđề chướng".
Thuật rằng: Dưới đây sư này đáp. Phần đầu là chất vấn, vì phiền não chướng cũng chướng ít phần trí của Bồ-đề cho nên gọi là chướng Bồ-đề. Lại nữa, vì có Bồ-đề này mà không khởi cho nên cũng làm chướng. Thế nào mà được lấy Sở tri đặt làm vấn nạn? Ý văn có thể hiểu. Nếu như thế thì tại sao chư Thánh giáo nói hai chướng chướng riêng?
Luận: "Nên biết Thánh giáo", đến "thông chướng hai quả". Thuật rằng: Trong chư Thánh giáo y theo dụng thù thắng mà nói, nghĩa này không trái, thật ra mỗi mỗi đều chướng cả hai. Như quyển một phần đầu Sao giải, đây là đoạn văn thứ hai trong giải thích Niết-bàn.
Giải thích riêng về Niết-bàn đã xong.
Luận: "Chỗ nói như vậy", đến "gọi là sở hiển đắc".
Thuật rằng: Phần thứ ba tổng kết. Lấy ba thứ Niết-bàn gọi là sở hiển đắc, vì tự tánh Niết-bàn không do hiển cho nên mới đắc, vì bổn lai tịch, chỉ có ba thứ sau mới gọi là sở hiển đắc, vì chướng diệt hiển.
Luận: "Hai sở sinh đắc", đến "tương ưng tâm phẩm".
Thuật rằng: Dưới đây phần thứ hai thuyết minh sở sinh đắc, trong đó có ba đoạn:
1. Nêu thể.
2. Giải thích riêng.
3. Tổng kết.
Phần đầu nêu thể, văn có thể hiểu.
Luận: "Tại sao Bốn trí tương ưng tâm phẩm".
Thuật rằng: Đây là bắt đầu hỏi. Phần thứ hai giải thích riêng Bồ-đề. Bồ-đề đã là bốn trí, bốn trí là thế nào?
Luận: "Một là đại viên cảnh trí", đến "hiện nhiều sắc tượng". Thuật rằng: Trong đó có chín phần.
Thứ nhất nêu thể để phân rõ bốn trí sai biệt. Luận Phật Địa quyển 3 giải thích các tên này có chút ít sai biệt. Luận Đối Pháp lại giải thích, ngoài có thể hiểu. Viên cảnh tức là trí-Trì nghiệp thích. Câu nói tương ưng tâm phẩm thông với tương ưng pháp. Lìa các phân biệt, Phật Địa ghi: "Lìa ngã chấp và ngã sở chấp, tất cả phân biệt của sở thủ và năng thủ". Cảnh và hành tướng cả hai đều không thể trắc lường gọi là vi tế. Bất ngu là nghĩa không mê ám, do đây Như Lai gọi là tất cả chủng trí và Tất cả trí. Hoặc bất vong là hằng hiện tiền, do đây Như Lai trở thành bất vong bảy pháp. Tự tánh minh thiện gọi là thanh tịnh, Hữu lậu vĩnh viễn lìa mất các tạp nhiễm. Thuần tịnh viên đức, thuần là không tạp, tịnh là lìa nhiễm, viên là tròn đầy. Thuần là lựa riêng riêng với nhân Vô lậu, tịnh là lựa riêng với tất cả Hữu lậu, viên là lựa riêng với công đức của Nhị thừa vô học. Hiện chủng y trì, là chỗ y của công đức hiện hành và chỗ của công đức chủng tử, trì công đức chủng có thể hiện hành năng sinh thân độ và trí ảnh. Tự tâm và tâm sở không duyên nhiễm bản chất, như hiện hành ngoài ba trí ảnh thì gọi là năng hiện. Ngoài ra công đức thân và độ của sắc căn gọi là năng sinh, vì thân cận chiếu soi bản chất. Lại nữa, pháp của thân và độ là cảnh thân cận duyên, trên thức mà hiện thì gọi là năng hiện. Pháp của ba trí thân cận duyên không nhiễm, chỉ từ đây mà sinh thì gọi là năng sinh. Lại nữa, trên Thức thứ tám chỗ sinh các pháp của biệt chủng như tự sắc và tự tâm thì gọi là năng sinh, vì y theo Thức thứ tám mà riêng có chủng. Hoặc hiện các ảnh của nẻo ác tha thân thì gọi là năng hiện, không có biệt chủng sinh, chỉ có thức chủng, chỉ có hiện trên thức thì gọi là năng hiện, vì trí làm tánh cho nên Vô gián, ngay nơi thời thì không đoạn, ngay nơi phương thì tất cả thời đều có thể hiện tất cả xứ ảnh, như tấm gương lớn hiện nhiều sắc tượng. Kinh Phật Địa ghi: "Như y theo tấm gương nhiều ảnh tượng hiện, như y theo tấm gương Phật trí thì các xứ, cảnh, thức ảnh tượng hiển hiện bình đẳng bình đẳng, cho nên lấy làm ví dụ.
Luận: "Hai là bình đẳng tánh trí", đến "tận vị lai tế".
Thuật rằng: Đây là căn cứ theo chánh nghĩa, có bảy nghĩa thông với Vô lậu. Bình đẳng tánh và Chân như lý, trí duyên hai pháp này cho nên nói bình đẳng, đây là trong nhân có ngã chấp cho nên tự và tha sai biệt. Hiện tại Vô ngã cho nên tự và tha bình đẳng, đại từ bi hằng cùng tương ưng. Đây là nhiếp vài tánh trong mười bình đẳng, là từ và bi nhiếp tám đức. Tùy chỗ ưa thích của hữu tình mà thị hiện, tùy chỗ nên hiện của Bồ-tát Thập Địa. Chỗ kiến lập của Vô trụ Niết-bàn là do duyên không trụ
Niết-bàn, thức này hằng cùng bi trí tương ưng, Niết-bàn là năng lập, bi trí là sở lập, gọi là kiến lập, hoặc do chỗ hiển Chân như của bi trí này mà gọi là Vô trụ xứ, tức là kiến lập Vô trụ xứ Niết-bàn. Luận Phật Địa ghi: "Kiến lập Phật Địa Vô trụ Niết-bàn, lại không có chuyển dịch gọi là nhất vị, không có gián đoạn cho nên gọi là tương tục". Văn còn lại dễ hiểu.
Luận: "Ba là diệu quán sát trí", đến "đều đạt được lợi lạc.
Thuật rằng: Thần dụng không có so sánh nào xứng với nó, là diệu. Duyên đủ các pháp tự cộng tướng, là quán sát, trù lượng cảnh tướng diệu dụng thù thắng, nhiếp quán vô lượng tổng trì và định môn. Tổng trì môn là Đà-ra-ni môn, định môn là Tam-ma-địa môn. Tuy ngoài ba trí không phải không có đức này, nhập xuất các thiền và tổng Trì sai biệt hay hơn ba trí khác. Trí này có thể nhiếp chứa cho nên gọi là nhiếp, cũng thường quán sát tổng trì và định môn này cho nên gọi là quán. Công đức trân bảo, là các pháp sáu độ, đạo phẩm, mười lực..., tác dụng sai biệt là hiện thần thông.
Luận: "Bốn là Thành sở tác trí", đến "chỗ nên tác sự".
Thuật rằng: Thành tựu của sở tác là thành sở tác, tức là trí. Luận Phật Địa quyển 7 nói là biến hóa ba nghiệp. Luận Du-già quyển 98 ghi: "Không thể hóa căn và tâm. Nói ba nghiệp là tương tợ ý nghiệp chuyển, như sau sẽ biết, gọi là tợ tâm. Từ đây trở lên đều là phần thứ nhất nêu ra thể của trí, lấy tác dụng để hiển thể cho nên phân rõ sai biệt môn".
Luận: "Như vậy bốn trí", đến "vì trí gọi là hiển".
Thuật rằng: Giải thích thứ hai là tương ưng nhiều ít môn, nguyên nhân đắc trí gọi là Phi thức. Hai mươi hai pháp là biến hành, biệt cảnh và pháp thiện đều nắm lấy tâm. Căn cứ theo nhân của tầm và tứ trước thông với Vô lậu, tức là diệu quán sát hai mươi bốn pháp. Hiện tại từ hai vị nhân quả mà luận chung cho nên là hai mươi hai, hai mươi hai này là thể, năng biến là Kiến phần, sở biến là Tướng phần. Hoặc tự thể của thức gọi là năng biến, Tướng phần và Kiến phần gọi là sở biến. Hoặc năng biến là chủng, là nhân năng biến. Sở biến là hiện, là quả năng biến. Trí, là nghĩa quyết đoán rõ ràng thông suốt. Vị kia quyết đoán liễu đạt cùng hiển, cho nên trí dụng tăng.
Luận: "Cho nên bốn phẩm này", đến "công đức đều tận".
Thuật rằng: Phần thứ ba lấy thể nhiếp dụng, cho nên Phật Địa quyển 3 phần đầu thuyết minh đủ công đức nhiếp nhau, cho nên bốn trí này tổng nhiếp tất cả công đức Hữu vi của Phật Địa đều tận. Trí làm chủ, cho nên nói trí dụng tăng, vì các công Đức trí sai biệt khác.
Luận: "Trí này chuyển Hữu lậu", đến "mà đắc bốn trí này". Thuật rằng: Phần thứ tư là Chuyển thức nào để đắc trí môn nào.
Thức thứ tám, thứ bảy, thứ sáu và năm thức trước, như thứ tự mà đắc. Vô tánh Bồ-tát luận và Trang Nghiêm Luận: "Lại còn quán trí chuyển năm thức". Trong đây chỉ Chuyển Thức thứ sáu mà đắc. Trong luận Phật Địa có hai sư nói, trong đó không phải thứ tự, vì thuyết pháp đoạn nghi không phải là năm dụng, rộng như Phật Địa nói, không phiền dẫn ra, cùng với luận này không trái nhau. Nguyên nhân Chuyển thức đắc trí, trong đây có hai chữ "lại nữa", thứ nhất giải thích những gì có thể giải thích, thứ hai là trong giải thích. Thức thì phân biệt Hữu lậu vị là cường mạnh, trí thì quyết đoán Vô lậu vị là thù thắng. Chuyển cường để đắc cường cho nên nói là đắc trí. Trong đây nhân theo xả thức đắc trí, nhân theo thành tựu, gọi là nguyên nhân của trí.
Luận: "Đại viên cảnh trí", đến "tịnh chủng thức".
Thuật rằng: Phần thứ năm là vị thứ Chuyển thức đắc trí. Đây là mới nói về điều có thể hiểu. Hoặc Kim cương tâm không có Vô lậu thức, vì Hữu lậu đã xả. Vô lậu chưa sinh thì đáng lẽ không có thức có thể trì tịnh chủng, như chỗ tranh luận chuyển xả ở trước.
Luận: "Có nghĩa phẩm này", đến "không trái nhau".
Thuật rằng: Vô gián đạo và Dị thục thức đồng thời diệt, đã không phải chướng pháp cho nên không trái nhau. Lại nữa, luận Đối Pháp quyển 10 giải thích, kim cương là dụ cho định Vô gián tận trí sinh, không nói khi Kim cương tâm tận thì trí khởi. Tại sao nói Vô gián đạo vị viên cảnh trí sinh? Đây là chỉ có chánh nghĩa, chủng và hiện đồng thời, chủng và hiện dị thời, lại có giải thích riêng.
Luận: "Không phải chướng Hữu lậu", đến "khiến cho không sinh".
Thuật rằng: Tức là chỗ nói các Hữu lậu khác ở trước. Là thể của thiện và Vô ký không phải là pháp chướng Hữu lậu. Vô gián sinh rồi thì bốn trí viên minh không có thức sở huân, các pháp Vô lậu lại càng không tăng trưởng thì đáng lẽ thành Phật, bi và trí không cùng cho nên tận vị lai tế. Sư trước giải thích văn "khi tận trí sinh" của luận Đối Pháp ghi: "Luận đó nói sau Vô gián vị thì tận trí viên mãn mà sinh". Không nói lúc này các tận trí này chưa khởi. Lại nữa, Vô gián là nghĩa đồng thời Vô gián, gián cách cũng còn gọi là Vô gián. Đồng thời thì lẽ nào không phải là Vô gián, như dị niệm nói đồng thời có. Trong luận Phật Địa không có hai thuyết này, vì luận đó không phân rõ vị nào là tâm sinh.
Luận: "Bình đẳng tánh trí", đến "tận vị lai tế".
Thuật rằng: Sơ Vị của kiến đạo hiện tại trước, trong chân kiến đạo thì trí này liền khởi, do Thức thứ sáu dẫn sinh, không phải tự lực khởi. Hai chướng nhanh chóng đoạn thì diệu quán sát trí và bình đẳng tánh trí khởi chắc chắn đồng thời, nếu đoạn dần dần thì bình đẳng khởi sau, nhưng các kiến đạo và Thập Địa gián đoạn khởi như thuyết minh tâm sở trên, vì ở sau pháp vân địa và tận vị lai. Thức thứ tám quyết định cùng với một tâm sở đồng thời, tự lực đã thù thắng thì không do Thức thứ sáu dẫn. Sáu nhập sinh Không, bảy Hằng pháp không, vì bình đẳng chuyển, cũng không đồng địa, không đồng nhân vị, tất cả đều đồng.
Luận: "Diệu quán sát trí", đến "đều được hiện khởi".
Thuật rằng: Đây là phần đầu giải thích sinh Không quán phẩm. Tiệm ngộ nhập là đến Giải hạnh địa thì hết. Đốn ngộ thì đến Vô học vị, hoặc đến thượng vị, là đến trong Thập địa vị của Bồ-tát thì đốn và tiệm cũng đều như thế. Đã không chướng pháp không, thuyết minh pháp không quán là đới sinh quán. Gia hạnh nhập tâm tuy riêng pháp không, nhập thì tế cho nên liên đới với thô ý của nó, đây không phải là Hữu lậu và vô tâm thông với các vị trên.
Luận: "Pháp không quán phẩm", đến "đều được hiện khởi". Thuật rằng: pháp không quán phẩm chủ yếu là kiến đạo vị của
Bồ-tát mới bắt đầu khởi. Pháp không quán phẩm cứ theo trước mà giải thích, nếu đến Phật vị thì chỉ có sinh Không quán, hoặc chỉ có lý không phải sự, hoặc có chỉ sự không phải lý, hoặc cả hai đồng thời quán đều tự tại. Văn còn lại có thể hiểu.
Luận: "Thành sở tác trí", đến "cũng được bắt đầu khởi".
Thuật rằng: Như trong bốn duyên ở trước đã giải thích. Sư thứ nhất nói: "Bồ-tát trong Tu đạo vị, sau Ý Thức thứ sáu được dẫn, cũng được bắt đầu khởi, vì trong tịnh Độ khởi năm thức". Luận Phật Địa cũng có nghĩa này. Tuy nói Sơ địa cũng được khởi, nhưng không phải kiến đạo, sau khi Tu đạo đắc trí thì kiến đạo mới được khởi, vì trong Chân tướng kiến đạo không duyên ngoại sự khởi thô thức.
Luận: "Có nghĩa thành Phật", đến "tác ý khởi". Thuật rằng: Sư thứ hai nói. Như trong bốn duyên trước đã giải thích, không có văn nghĩa khác cho nên không trình bày. Tỷ lượng trong đây, lựa riêng với quá và giải thích vấn nạn, giải thích đủ như trước, luận Phật Địa có phê bình, nghĩa thì lấy giải thích sau.
Luận: "Tứ chủng tánh này", đến "thù thắng hơn Phật sau".
Thuật rằng: chủng tánh thứ sáu vốn có khởi thủy môn. Địa Tiền chủng tánh tăng, nhập Địa hai chủng tánh tăng; Địa tiền dụng tăng, nhập địa thể tăng, vì hiện hành riêng biệt. Văn còn lại có thể hiểu, chỉ có nghĩa của Hộ Pháp.
Luận: "Đại viên cảnh trí", đến "bất khả tri".
Thuật rằng: Phần thứ bảy sở duyên cảnh giới môn. Sư thứ nhất có thể hiểu, lý do như văn nói.
Luận: "Có nghĩa phẩm này", đến "cũng duyên tục".
Thuật rằng: Trang Nghiêm Luận: "Đối với tất cả cảnh đều không ngu mê, có tục mà không biết, không phải không ngu", văn còn lại có thể hiểu. Nói các xứ là nội trong sáu xứ, cảnh là sáu cảnh, thức là sáu thức. Đây là mười tám giới, hoặc mười hai xứ, vì sáu căn và sáu thức đều gọi là thức, vì thân và độ quyết định phải duyên. Tổng hợp nhập Bất Khả Tri Nói hành duyên vi tế, là hành tướng và sở duyên. Nhân đã vi tế thì quả cũng khó biết, không phải không duyên tục.
Luận: "Duyên Chân như cho nên", đến "cứ theo đây nên biết".
Thuật rằng: Nói về hai trí, thể là một dụng làm hai. Tại sao câu sinh duyên tục gọi là hậu đắc? Hiểu rõ tục là do chứng chân, chứng chân là duyên tục trí sinh, cho nên gọi là hậu đắc, vì hậu đắc không chứng chân. Hoặc như duyên trong nhân của hậu đắc thì tục quán và chân quán sinh sau. Dưới đây cứ theo đó giải thích. Ngoài ra chỗ dẫn văn thì xem luận Phật Địa, nhân thì có hai chủng loại, quả thì hằng chỉ có một chủng sinh hai dụng hiện hành.
Luận: "Bình đẳng tánh trí", đến "đối với lý không trái".
Thuật rằng: Trong đây có ba thuyết, lý do như văn. Duyên mười bình đẳng cho nên duyên thông cả chân và tục, là thuyết thứ ba.
Luận: "Diệu quán sát trí", đến "chỗ nhiếp của hai trí". Thuật rằng: Văn nghĩa dễ hiểu.
Luận: "Thành sở tác trí", đến "Hậu đắc trí nhiếp".
Thuật rằng: dẫn văn của luận đều xét theo số quyển như trước đã hiển bày. Vì đồng loại cảnh cho nên nói năm cảnh. Bất định chỉ có như vậy cho nên không trái nghịch. Năm thức đều có thể duyên sáu cảnh, không trái với lý, vì hành tướng thiển cận duyên thành sự trí, chỉ ngăn trách Vô vi, như văn chứng thành.
Luận: "Bốn tâm phẩm này", đến "lợi lạc hữu tình".
Thuật rằng: Phần thứ tám duyên cảnh tác dụng môn. Thành sự trí hiển hiện thông cả tịnh độ và uế độ, diệu quán sát trí thì thuyết pháp thông cả hai độ.
Luận: "Các Môn sai biệt nhiều thứ như vậy".
Thuật rằng: Phần thứ chín chỉ lệ môn thì có nhiều, các môn sai biệt nhiều thứ như vậy. Phật Địa có bốn phần tâm duyên cảnh, như quyển 2 trước đã giải thích. Các trí tướng và kiến phân biệt môn, tức là quyển 9 trước giải thích đã xong. Tương ưng tâm sở nhiều ít môn, như trong quyển 3 giải thích Thức thứ tám, quyển 4 giải thích Thức thứ bảy và quyển 7 giải thích Thức thứ sáu, và kế đó trong giải thích hai mươi hai pháp. Thiện Vô lậu môn, như phân rõ trong tùy thức. Giả Thật phân biệt môn, và nhiếp các công đức môn, luận này tuy không có tổng thuyết minh về xứ, nhưng Tùy chư thức thì đã thuyết minh xong, cho nên không phiền trình bày khoảng đó. Trí nương vào định nào mà khởi? Tương ưng với thọ nào? Hậu thức và hậu trí sinh thì chuyển về cõi nào? Phật Địa không có những văn này, như trước đã giải thích. Từ trên đến đây, tổng là phần thứ hai giải thích riêng về chỗ sinh Bồ-đề đã nói xong. Từ đây xuống là kết sở sinh đắc đó.
Luận: "Bốn tâm phẩm này gọi là sở sinh đắc".
Thuật rằng: Đây là kết. Ngay trong giải thích sở chuyển đắc có ba phần:
1. Nêu chung sở chuyển đắc, nêu ra tâm sở.
2. Giải thích riêng sở hiển và sở sinh đã nói xong.
3. Tổng kết.
Luận: "Sở sinh đắc này", đến "gọi là sở chuyển đắc".
Thuật rằng: Đây là tổng kết chỗ nói trước. Ngay trong giải thích Chuyển y có ba phần, từ trên đến đây là phần thứ nhất giải thích Chuyển y đã nói xong, từ đây xuống là phần thứ hai thuyết minh chỗ nói về Chuyển y của tụng.
Luận: "Tuy nghĩa của Chuyển y", đến "Chuyển y mà nói".
Thuật rằng: Tổng có bốn thứ, nhưng hiện tại luận này chỉ lấy hai sở chuyển đắc, còn lại ba Chuyển y không thể làm chứng. Giả sử có Chân như và Vô lậu đạo, vì không phải là chứng nghĩa cho nên không nói.
Luận: "Tu tập vị này", đến "nhân vị nhiếp".
Thuật rằng: Từ đây xuống phần thứ ba thuyết minh Thập Địa này có thể chứng hai Chuyển y, không phải đã chứng đắc, chủ yếu là thành Phật mới chứng. Vô gián đạo của Thập Địa này đoạn chướng làm nhân thì giải thoát đạo mới chứng Thập Địa kia. Từ trên đến đây giải thích tụng thứ tư trong năm vị, tuy có nói rộng và sơ lược không đồng, nhưng tông quát đều là giải thích tu tập vị của Thập Địa, đã nói xong.
Luận: "Cứu cánh vị sau, tướng nó như thế nào?"
Thuật rằng: Từ đây xuống giải thích Vị thứ năm là Cứu cánh đạo.
Trong đó phần đầu là hỏi, phần sau là đáp. Đây là hỏi.
Luận: "Tụng nói rằng", đến "Đại Mâu-ni gọi là pháp".
Thuật rằng: Trong tụng có ba phần, một câu đầu nêu thể của vị, bảy chữ kế đó hiển đức thù thắng, còn lại tám chữ lựa riêng với Nhị thừa để hiển sai biệt của ba Thừa.
Luận: "Nói rằng Tu tập vị trước", đến "tướng của Cứu cánh vị". Thuật rằng: Có hai phần:
1. Giải thích văn tụng.
2. Các môn phân biệt.
Phần thứ nhất giải thích bốn câu văn, tức là bốn đoạn, nghĩa thì ba đoạn. Như phán phân định ý tụng, có ba phần:
1. Tổng phán phân.
2. Nêu thể.
3. Giải thích riêng.
Trong phần đầu có hai đoạn:
1. Chánh giải thích câu đầu nêu thể của tụng.
2. Hỏi đáp để phân giải thích riêng trong tụng. Đây là hiển tướng của vị.
Luận: "Vị này tức là vị trước", đến "Vô lậu giới nhiếp".
Thuật rằng: Dưới đây nêu thể, Vô lậu giới nhiếp, tức là hai quả Chuyển y Bồ-đề và Niết-bàn là Cứu cánh vị. Nói cứu cánh, lược có hai nghĩa:
1. Lựa riêng với bốn vị trước gọi là cứu cánh.
2. Lựa riêng với Nhị thừa gọi là cứu cánh.
Nhị thừa tuy đắc Bồ-đề và Niết-bàn nhưng không phải nghĩa cứu cánh, vì không phải cao thượng thù thắng. Đây là giải thích sơ lược chữ "vị này" và "tức là" trong câu tụng thứ nhất, gồm giải thích Vô lậu giới.
Luận: "Các lậu vĩnh viễn tận", đến "cho nên gọi là Vô lậu".
Thuật rằng: Dưới đây giải thích nghĩa Vô lậu. Các lậu vĩnh viễn tận, nghĩa là năng trừ lậu, năng chứng và sở chứng đều là năng trừ lậu, đây là nghĩa lìa tương ưng phược của nó, không phải Lậu tùy tăng theo, tức là hiển nghĩa không phải sở duyên phược. Lại nữa, các lậu vĩnh viễn tận, là hiển lìa tạp phiền não của nó, không phải lậu tùy tăng theo, là nghĩa lìa hai phược. Lại nữa, nghĩa thứ nhất là pháp nhiễm tự tánh đoạn, nghĩa sau là ly phược đoạn. Tánh thứ nhất chỉ có nhiễm, tánh sau thì thông với tất cả Hữu lậu. Nói tánh tịnh, là lựa riêng với uẩn của Nhị thừa vô học thiện Hữu lậu, tuy cũng lìa hai phược nhưng tánh không phải tịnh, là loại Hữu lậu trước, vì có Sở tri chướng của Thức thứ bảy thì đều không phải tánh tịnh. Nói viên, là lựa riêng với tất cả hữu học Vô lậu, vì nhân chưa viên mãn. Minh, là lựa riêng với Nhị thừa vô học Vô lậu để hiển Nhị thừa kia tuy có quả cực viên nhưng không phải là minh, vì không phải thù thắng huyền diệu. Lại nữa, tịnh là lựa riêng với hữu tình, Viên là lựa riêng với Nhị thừa, minh là lựa riêng với Bồ-tát Vô lậu. Có đủ năm nghĩa thì tánh gọi là
Vô lậu giới. Các Vô lậu khác tuy cũng gọi là Vô lậu nhưng không phải cứu cánh Vô lậu. Trong đây tuy giải thích chữ Vô lậu, nhưng phát âm dài chữ "thượng" ra thì ý mới là sâu xa.
Luận: "Giới nghĩa là tạng", đến "lợi lạc sự".
Thuật rằng: Giới nghĩa là tạng, là chỗ tàng chứa công đức Vô vi của Niết-bàn, chỗ tàng trữ công đức Hữu vi của Bồ-đề. Hoặc nghĩa là nhân, hoặc làm sở duyên, hoặc làm tăng thượng lần lượt truyền thuyết làm lợi ích, là thể có thể sinh sự nghiệp lợi lạc của năm Thừa thế gian và Xuất thế gian, hoặc làm duyên sinh sự nghiệp lợi lạc người khác. Tại sao kinh ghi: "Tại triền gọi là Như Lai Tạng, xuất triền gọi là pháp thân?" Trong luận này thì xuất triền mới gọi là tạng. Kinh kia thì phỏng theo vị, luận này thì phỏng theo thể. Hoặc kinh kia nương vào hữu chướng và vô chướng để phân rõ pháp môn, luận này thì thuyết minh bổn và mạt cho nên không trái nhau, tức là giải thích chung câu thứ nhất đã xong.
Luận: "Thanh tịnh pháp giới", đến "thế nào chỉ có Vô lậu?"
Thuật rằng: Dưới đây thuyết minh trong hỏi đáp có hai câu. Đây là câu hỏi thứ nhất.
Người ngoài hỏi: Thanh tịnh pháp giới có thể chỉ có Vô lậu vì là lý pháp, tâm phẩm của bốn trí tại sao chỉ có Vô lậu, lẽ nào Như Lai thân đều chỉ có Vô lậu?
Đáp: Đây là trừ Đại chúng bộ ra, còn lại là vấn nạn của Tiểu thừa. Lý pháp của pháp giới đã đồng với trạch diệt thì có thể thừa nhận Vô lậu, không phải công đức Hữu vi trước Phật thân đều là thuộc về Vô lậu.
Hỏi: Tại sao chỉ nói là Vô lậu?
Luận: "Thuộc về Đạo đế", đến "cho nên đã vĩnh viễn xả".
Thuật rằng: Đây là luận chủ đáp: Quyển 66 ghi: "Tất cả công đức của Phật trí và thần thông là chỗ nhiếp của đạo đế". Trước đã thành lập Đại thừa Thánh giáo, cho nên làm lượng.
Luận: "Tuy có thị hiện", đến "chỗ nhiếp của đạo đế".
Thuật rằng: Như Lai thị hiện thân và ngữ quở trách, hiện khởi nhập diệt, thị hiện có đau lưng, tợ như Khổ đế và Tập đế, nhưng thật ra là Vô lậu.
Luận: "Tập luận nói", đến "năm ngoại giới".
Thuật rằng: Người ngoài hỏi: Tập luận quyển 3 nói mười lăm giới và mười sắc xứ chỉ là Hữu lậu, hiện tại luận này nói Phật thân chỉ đều là Vô lậu, đã như thế thì Như Lai lẽ nào không có năm căn, năm thức và năm ngoại giới? Chữ "đẳng" là đồng lấy mười Hữu sắc xứ và pháp xứ ít phần. Hiện tại luận chủ nói Như Lai đều là Vô lậu. Luận nói Hữu lậu của mười lăm giới nhiếp là trái nhau cho nên đặt vấn nạn.
Luận: "Có nghĩa Như Lai", đến "lý không trái nhau".
Thuật rằng: Đáp có ba nghĩa. Đây là thuyết thứ nhất. Thân và độ của Như Lai đã lìa năng phân biệt, sở phân biệt và bảy phân biệt, dứt tuyệt danh ngôn hý luận, không phải hữu tình của uẩn, xứ, giới nhiếp, không thể nói năm căn này, năm cảnh này. Hiện tại Đại Bát-nhã có văn này, các sư của ba luận phần nhiều lấy điều này giải thích, cho nên không thể cho Hữu lậu của mười lăm giới là đồng. Luận kia nói Hữu lậu là để thuyết không phải Phật thân, như Phật Địa quyển 1 nói. Sư này lấy nghĩa thứ ba, luận kia cũng không thừa nhận.
Luận: "Có nghĩa Như Lai", đến "tánh tán loạn". Thuật rằng: Đây là thuyết thứ hai, trong văn có năm đoạn:
1. Mở tông.
2. Người ngoài hỏi.
3. Giải thích vấn nạn.
4. Hỏi lại.
5. Giải thích và trình bày.
Trong đoạn thứ ba giải thích vấn nạn có hai phần giải thích, trong phần thứ nhất có năm đoạn:
1. Người ngoài hỏi.
2. Trình bày thêm.
3. Giải thích nữa.
4. Hỏi nữa.
5. Giải thích nữa.
Căn và cảnh của Như Lai đều lấy diệu định của Ý thức làm cách biến hóa đầu tiên, bản thức thì tùy biến. Giả sử Thức thứ tám biến thì diệu định sinh, cho nên là chỗ nhiếp của pháp giới, không phải Phật lấy Bồ-tát và dị sinh ở chỗ ngoài khác, tuy nương trên chỗ biến của Phật này thân và độ của Phật, nhưng Phật biến vi tế, các loài khác biến thì thô. Phật biến tế không phải là năm cảnh nhiếp, chỗ biến của loài khác thì nghĩa có hai đường:
1. Sắc hoặc định nhiếp, chỗ dẫn trụ của Thắng định thứ tám của Như Lai. Tại sao chỗ dẫn của định thứ tám tức là năm thức kia? Không phải như vậy, vì năm xứng với tán loạn, năm thường duyên, lý cũng có chút ít khó suy nghĩ thuần thục. Căn và cảnh đã không có thì năm thức của Như Lai cũng không phải năm thức giới, căn tuy không phải thật, nhưng tương tợ căn tướng đó cho nên Phật hiện có, loài khác thì không biến căn, chỉ biến tương tợ cảnh, vì tướng thô, hoặc có thể thọ dụng.
Kinh Vô Cấu và trong mười tám bất cộng pháp thì tâm của Như Lai hằng tại định. Luận Đối Pháp quyển 1 ghi: "Tánh của năm thức thân tán loạn".
Luận: "Thành sở tác trí là thức nào tương ưng?" Thuật rằng: Đây là người ngoài hỏi: Đã không có năm thức thì Thành sở tác trí là thức nào tương ưng?
Luận: "Thức thứ sáu tương ưng khởi hóa dụng".
Thuật rằng: Luận chủ đáp: Thức thứ sáu tương ưng vì có thể khởi hóa dụng, không phải thức khác đồng thời.
Luận: "Cùng với tánh của diệu quán sát trí có khác gì?"
Thuật rằng: Đây là người ngoài hỏi: Đã cùng với Thức thứ sáu tương ưng thì cùng với thể tánh của diệu quán sát trí có khác gì? Không thể một thức mà hai trí sinh.
Luận: "Trí kia quán các pháp", đến "cho nên có sai biệt".
Thuật rằng: Đây là luận chủ đáp: diệu quán sát trí kia có thể quán các pháp tự tướng và cộng tướng, còn thành sự trí này thì chỉ khởi hóa dụng cho nên hai trí khác nhau.
Luận: "Phẩm của hai trí này", đến "không đồng thời khởi".
Thuật rằng: Người ngoài lại hỏi: phẩm của hai trí này đáng lẽ không cùng khởi. Các luận khác nói không có xứ thì không có dung chứa, đồng thân thì đồng loại, một thân mà hai thức là thừa nhận đồng thời sinh. Hiện tại đã là một loại Thức thứ sáu thì đáng lẽ không đồng thời khởi.
Luận: "Thừa nhận không cùng khởi", đến "đều cũng không có lỗi".
Thuật rằng: Đây là luận chủ đáp: Thừa nhận không cùng khởi, đối với lý thì không trái nhau, vì sát-na trước sau khởi riêng khác, nhưng hiện hành nhanh chóng tợ như hai dụng đồng thời. Phần thứ hai giải thích, đồng nghĩa của một thức thể, dụng phân làm hai thì nói hai trí đồng thời cũng không có lỗi, như một Ý thức thấy sắc và nghe tiếng. Nghĩa một thể phân ra, đều này cũng như thế. Đây là phần thứ nhất giải thích thành sự trí phẩm cùng với Thức thứ sáu đồng thời.
Luận: "Hoặc cùng với Thức thứ bảy", đến "thành sự phẩm nhiếp".
Thuật rằng: Đây là phần thứ hai giải thích. Hoặc thành sự trí cùng với Thức thứ bảy đồng thời. Nương vào căn duyên cảnh là dụng sai biệt của bình đẳng trí. Bình đẳng trí này đã có thể biến khởi thọ dụng và biến hóa hai thân, có thể làm căn và cảnh mà nương vào đó, nương vào thức hóa tha căn và cảnh này thì chỉ có bình đẳng dụng. Khởi hóa dụng thô thì hóa thành dị sinh loại gọi là thành sự trí. Khởi hóa dụng tế thì hóa thành địa thượng loại gọi là bình đẳng trí.
Luận: "Lẽ nào không phải phẩm này chuyển năm thức mà đắc?"
Thuật rằng: Đây là người ngoài hỏi: Lẽ nào không phải thành sự trí phẩm này chuyển năm thức mà đắc, tại sao nói bảy thức đồng thời?
Luận: "Không phải chuyển năm thức kia mà đắc", đến "không nên đặt vấn nạn".
Thuật rằng: Hiện tại chỉ lấy khi sinh tử kia diệt thì Niết-bàn được hiển, gọi là chuyển sinh tử mà đắc Niết-bàn, không phải tánh của Niết-bàn tức là sinh tử. Hiện tại trí này cũng như thế, do chuyển bỏ nhân thì năm thức diệt, đây là duyên thô sự cảnh thức phẩm mà sinh. Nói thành sự trí chuyển năm thức mà đắc, không lấy năm thức chuyển trong nhân để khởi thành sự trí phẩm trong quả, thành sự trí phẩm tức là năm thức. Sư này nếu cho là chuyển năm thức mà đắc thành sự trí phẩm thì liền trái với kinh Hoa Nghiêm và Nhiếp luận, là giải thích của sư thứ hai. Phật chỉ có ba cõi là thật, ngoài ra là hư. Văn của mười lăm giới là chính.
Luận: "Có nghĩa Như Lai", đến "Hữu lậu và Vô lậu". Thuật rằng: Có ba phần:
1. Nêu tông.
2. Tổng hợp các điều trái.
3. Kết chánh.
Đây là phần đầu. Sư thứ ba nói: "Uẩn xứ và giới kia đều thông với Hữu lậu và Vô lậu, cho nên ba pháp uẩn xứ giới của Phật đều chỉ có Vô lậu".
Luận: "Tập luận nói", đến "cảnh sở tri nhiếp".
Thuật rằng: Từ đây xuống tổng hợp các điều trái nhau có hai phần:
1. Tổng hợp sư thứ nhất.
2. Tổng hợp sư thứ hai.
Tổng hợp văn của sư thứ nhất, Tập luận quyển 3 ghi: "Mười lăm giới chỉ có Hữu lậu". Lại nương vào cảnh thể cạn của thô ác và cảnh thể của thức trí mà nói, hoặc là cảnh thể thô. Cạn là thức dụng, tức là thân mười lăm giới của Nhị thừa và Thập Địa Bồ-tát chỉ có Hữu lậu, không phải nói mười lăm giới của tất cả phàm, Thánh và hữu tình đều chỉ có Hữu lậu.
Luận: "Nhưng các chỗ khác nói", đến "lý đáng lẽ cũng vậy".
Thuật rằng: Kinh Đại Bát-nhã và các kinh khác ghi: "Hiển không phải như tướng của cõi kia, biểu không phải cảnh Sở tri của hạ trí.
Luận: "Tại sao vậy?" đến "giải thoát thân".
Thuật rằng: Hữu vi đều là uẩn. Nói tất cả pháp đều là xứ giới nhiếp, các luận đều đồng văn này. Nói mười chín giới là chỗ ngăn trách của kinh Vô Cấu Xưng. Không phải căn và cảnh của Như Lai, không phải mười tám giới nhiếp. Đây là ngăn trách sư thứ nhất kế chấp căn và cảnh của Như Lai không phải giới xứ nhiếp. Hoặc dứt bặt hý luận cho nên không phải giới... cũng không nên tụng này nói công đức của Như Lai tức là Vô lậu giới, là thiện, là thường, cũng là an lạc; cũng không nên gọi là giải thoát thân, vì giải thoát thân đã có thể gọi thì uẩn xứ giới đáng lẽ cũng có thể gọi.
Luận: "Lại nữa, các chỗ nói", đến "là mật ý nói".
Thuật rằng: Kinh Niết-bàn và Trang Nghiêm Luận: "Chuyển vô thường uẩn đạt được thường uẩn". Kinh Thắng Man ghi: "Như Lai diệu sắc thân", cho nên trong các kinh nói Phi sắc là mật ý nói. Mật ý nói là hiển cảnh giới của trí không phải thô thiển. Từ đây trở lên là phá kế chấp của sư thứ nhất.
Luận: "Lại nữa, nói năm thức", đến "không phải chỗ thành của Phật".
Thuật rằng: Ý văn có thể hiểu. Đây là phá sư thứ hai.
Luận: "Cho nên trong Phật thân", đến "mà thuần Vô lậu".
Thuật rằng: Phần thứ ba tổng kết nghĩa của tông. Trong ba sư nói thì nghĩa này là chính. Tiếp theo giải thích chúng đức có bốn phần:
1. Chẳng nghĩ bàn.
2. Thiện.
3. Thường.
4. An lạc.
Trước hết là giải thích câu thứ hai, giải thích Bất tư nghị có ba giải thích. Nhiếp luận quyển 9 và Thế Thân giải thích đồng nhau, không có dị kiến.
Luận: "Quả Chuyển y này", đến "nói nghị đạo". Thuật rằng: Đây là giải thích thứ nhất. Trí và cảnh đều có đủ nghĩa này.
Luận: "Vi diệu thậm thâm tự nội chứng".
Thuật rằng: Giải thích riêng bất tư. Lại nữa, trí vi diệu, tánh tướng thậm thâm, sở duyên cảnh tự chứng bên trong. Lại nữa, cảnh vi diệu, trí thậm thâm mới có thể nội chứng. Lại nữa, cả hai lý đều thông, Nhiếp luận chỉ có nói nội chứng, chỉ giải thích riêng Chân như.
Luận: "Không phải các thế gian ví dụ cho chỗ ví dụ".
Thuật rằng: Giải thích riêng bất nghị. Dứt bặt so sánh, không có suy lường cho nên chẳng nghĩ bàn. Như trong Nhiếp luận lấy ba nghĩa giải thích chẳng nghĩ bàn. Luận Hiển Dương quyển 18 có chẳng nghĩ bàn phẩm, cũng không nêu ra ba nghĩa này, luận Du-già cũng vậy, cho nên không nói ra.
Luận: "Đây lại là thiện", đến "đều nói là thiện".
Thuật rằng: Phần thứ hai là thuyết minh thiện. Tụng nói thiện là tánh của bạch pháp, vì thể bạch cho nên khác với Bất thiện và Vô ký, vì có thể đoạn hắc cho nên gọi là bạch. Nếu như thế thì thiện này cùng với Hữu lậu thiện có khác gì? Vì pháp giới lìa xa sinh diệt, cực an ổn. Bốn phẩm diệu dụng không có gì so sánh và rất khéo léo tiện lợi, Vô vi và Hữu vi cả hai đều thuận ích, cùng với Hữu lậu thiện sai biệt, trái với Bất thiện. Từ đây xuống hợp chung Tứ thiện đó cho nên gọi là thiện. Quyển 6 trước giải thích thiện đã nói xong.
Luận: "Luận nói các xứ", đến "năm căn và ba cảnh".
Thuật rằng: Đây là người ngoài vấn nạn: Bốn trí tâm phẩm đã chỉ là thiện, luận Đối Pháp quyển 4 nói tám thức chỉ có Vô ký, là năm căn và ba cảnh. Như Lai thì lẽ nào không có năm căn?
Luận: "Trong đây ba giải thích nói rộng như trước".
Thuật rằng: Đây là luận chủ đáp: Trong đây ba giải thích nói rộng như trước, như ba thuyết trước giải thích Hữu lậu.
Luận: "Tất cả Như Lai", đến "Vô lậu thiện nhiếp".
Thuật rằng: Năm pháp của Chân như đều là diệt Đạo nhiếp. Diệt Đạo nhiếp là trong các kinh luận nói đã chỉ có Vô lậu cho nên diệt đạo này chỉ có thiện. Lại nữa, luận Đối Pháp quyển 6 và luận Dugià ghi: "Có pháp giới thanh tịnh không phải khổ và tập". Nhiếp luận cũng nói như vậy. Hai giải thích này cùng với bốn giải thích trước hợp chung là sáu giải thích, đã như thế thì chỗ có nhãn căn của Phật đều là Vô lậu thiện. Tương tợ Hữu lậu thiện và Vô ký, và vì tương tợ Hữu lậu thiện cho nên gọi đó là thiện không phải thật.
Luận: "Đây lại là thường", đến "vô đoạn vô tận".
Thuật rằng: Phần thứ ba giải thích thường. Đây lại là thường, vì năm pháp đều không hết thời kỳ. Lại nữa, Chân như không có sinh diệt cho nên thường, không có biến dịch cho nên thường, đều là tự tánh thường. Chân như thường là sở y của bốn trí tâm phẩm cho nên thường. Thể của bốn trí tâm phẩm không đoạn và không tận cho nên nói là thường. Vô đoạn thường là nghĩa không đoạn thường-là chấp thân. Vô tận thường là hóa thân, là nghĩa tương tục thường. Trang Nghiêm luận nói có ba thứ thường, như các sự thường thí thực thọ lạc. Bốn trí không phải nghĩa tự tánh là thường. Từ chỗ sinh của nhân, là thuyết minh từ chủng sinh. Nếu ban đầu thì chỉ có sinh mà sau không diệt thì liền trái với lời Phật nói. Xưa nay đã nói sinh đều là diệt. Lại nữa, nếu sắc và tâm đều là tự tánh thường-không thấy nói-vì trái với tỷ lượng. Người đạt được thường sắc, do nguyện lực hóa hữu tình, là nghĩa thường bất đoạn tương tục. Quyển 78 và Giải Thâm Mật ghi: "Hoá thân có tướng sinh khởi, tận vị lai tế cũng giải thích nghĩa thường bất đoạn và vô tận, vì nguyện lực thường. Văn còn lại có thể hiểu.
Luận: "Đây lại là an lạc", đến "đều gọi là an lạc".
Thuật rằng: Phần thứ tư giải thích an lạc. Vì không bức bách và không não hại chư hữu tình, không phải như Hữu lậu thiện bức đuổi sinh tử, não loạn hữu tình loại, không khiến cho hướng đến Niết-bàn. Lại nữa, pháp Hữu lậu đều là hành khổ, vì tánh bức bách, tăng thêm phiền não cho nên không phải an lạc. Hai Chuyển y quả đều gọi là an lạc. Lạc là Năm lạc, an là Năm an, mỗi mỗi đều có nhiều thứ. An và lạc sai biệt thế nào? Các lạc thọ của Hữu lậu là lạc mà bất an, vì thô động chuyển; Hữu lậu khinh an là an mà không lạc, vì không thể thuận ích đắc Niết-bàn. An lạc này thì sai biệt như Sớ giải của quyển 1.
Luận: "Chỗ đắc của Nhị thừa", đến "gọi là giải thoát thân". Thuật rằng: Tiếp theo giải thích giải thoát thân. Trong đó có hai phần:
1. Nói sơ lược.
2. Nói rộng.
Chỗ đắc của Nhị thừa là hai quả Chuyển y này, chỉ gọi là giải thoát thân, là giải thoát sinh tử và phược pháp, vì Chuyển y kia không có chỗ trang nghiêm pháp thù thắng của mười lực. Không gọi là pháp thân, Thù thắng pháp là đoạn Sở tri chướng mà được nương vào Vô lượng công đức. Kinh Giải Thâm Mật và quyển 78 ghi: "Chân như làm giải thoát thân mà nói, bạch Thế Tôn! Chỗ đắc Chuyển y của Nhị thừa gọi là pháp thân hay không? Thiện nam tử! Không gọi là pháp thân! Nên gọi là thân gì? Gọi là giải thoát thân. Do giải thoát thân mà nói
Nhị thừa cùng với Phật bình đẳng bình đẳng, do pháp thân cho nên nói có sai biệt. Vô lượng tối thắng công đức, tính đếm ví dụ đều không thể bằng! Cho nên thân kia gọi là Chân như, là giải thoát thân của Nhị thừa. Không phải giải thoát thân trong năm phần pháp thân. Thể chỉ có Thắng tâm sở, vì đây là Vô vi giải thoát. Quả Bồ-đề của nó là giải thoát tri kiến thân trong năm phần pháp thân, không gọi là pháp thân, vì Bồ-đề và Niết-bàn đều lìa phược, chỉ gọi là giải thoát thân!"
Luận: "Đại giác Thế Tôn", đến "chỗ trang nghiêm".
Thuật rằng: Tiếp theo giải thích Đại Mâu-ni gọi là pháp thân. Thành tựu Vô thượng Tịch mặc pháp, tiếng Phạm gọi là Mâu-ni, ở đây gọi là Tịch mặc. Tịch mặc pháp là pháp lìa nói năng, hoặc lìa lỗi cho nên gọi là Tịch mặc, thông với ba mà giải thích. Thành tựu tánh tướng ly ngôn bất nhị pháp môn của tất cả pháp gọi là Tịch mặc, là chỉ có Thế Tôn ta Đại Mâu-ni Tôn hai Chuyển y quả, cũng gọi là pháp thân, cũng gọi là giải thoát. Nói pháp thân, không phải pháp thân trong ba thân. Phật đắc cả hai tên, lìa phiền não cho nên gọi là giải thoát thân, lìa Sở tri chướng đủ vô biên công đức gọi là pháp thân. Trong đây có ý nói, Hữu vi và Vô vi mỗi mỗi đều đối với chỗ y của Tự thân công đức pháp gọi là pháp thân.
Luận: "Thể nghĩa là y tụ", đến "đều là thân này nhiếp".
Thuật rằng: Tại sao gọi là thân? Nghĩa thể tánh, nghĩa y chỉ, nghĩa chúng đức tụ, có đủ ba nghĩa đó cho nên gọi là thân, do đó thông với ba thân, hoặc biệt nghĩa hoặc tổng nghĩa lìa danh tướng, nghĩa này luận Phật Địa cũng có, văn còn lại có thể hiểu. Luận: "Như vậy pháp thân", đến "chỗ y chỉ".
Thuật rằng: Từ đây xuống các môn phân riêng có bảy môn:
1. Ba thân tướng riêng môn.
2. Trong nêu chung pháp thân của phần thứ nhất lại có Thắng nghĩa riêng lập thân gọi là tự tánh.
3. Lìa tướng, là không có mười tướng.
4. Tịch nhiên, là đường của tâm và tư dứt bặt.
5. Tuyệt chư hý luận, là lìa ngôn ngữ.
6. Chư Phật tự tánh, gọi là tự tánh thân.
7. Chỗ y của pháp Hữu vi Vô vi công đức gọi là pháp thân.
Luận: "Hai thọ dụng thân", đến "pháp lạc quảng đại".
Thuật rằng: Đến cực viên tịnh thường Biến sắc thân, là nhiều tướng đều có đủ sẵn gọi là cực viên, thể lìa nhiều ưu hoạn gọi là cực tịnh, vô gián vô đoạn gọi là cực thường, vô sở bất tại gọi là cực biến, thể tích tập có ngại gọi là sắc thân. Đây là công đức mà thân nương vào, một là thường Bất đoạn thường, hai là biến lượng Đồng không.
Tương tục trạm nhiên, nói tương tục là lựa riêng với tự tánh thân, vì có sinh diệt. Nói trạm nhiên là lựa riêng với tha thọ dụng và hóa thân, vì thân đó có khi đoạn.
Luận: "Hai tha thọ dụng", đến "các sự lợi lạc".
Thuật rằng: Trong tha thọ dụng thị hiện thân và độ đều do bình đẳng trí. Hiện thần thông thuyết pháp đều do quán sát trí. Tự tha thọ dụng pháp lạc gọi là thọ dụng thân. Biến hóa thân không phải như thế.
Luận: "Vì năm pháp tánh", đến "đều có thật tánh".
Thuật rằng: Phần thứ hai năm pháp nhiếp ba thân môn. Sư thứ nhất đã từng nói Chân như là pháp thân. Phật Địa kinh ghi: "Luận nói Chuyển Thức thứ tám đắc tự tánh". Nhiếp luận quyển 9 ghi: "Chuyển bỏ tạng thức, đắc viên cảnh trí, cũng là trí thù thắng". Nói bình đẳng trí đối với thuần tịnh độ thì vì các Bồ-tát mà hiện Phật thân. Luận Phật Địa ghi: "Như các luận khác nói", nhưng cuối cùng không nêu ra luận nào. Trang Nghiêm luận nói, nhưng phải xem các bản Sao thì nói quán sát trí phần lớn là tập tổng hợp trong đó. Luận Phật Địa nói cũng như các luận khác nói, cũng tại Trang Nghiêm luận, phải xem lại các văn của bản Sao cũng có chuyển các Chuyển thức mà được thọ dụng thân, là trí phẩm của Nhiếp luận nói. Nói Thành sự trí đối với mười phương cõi, thị hiện hóa độ khó nghĩ bàn, là luận Phật Địa và luận Trang Nghiêm nói. Lại nữa, trí thù thắng của Nhiếp luận nhiếp đủ ba thân.
Luận: "Có nghĩa thứ nhất", đến "không phải sắc tâm".
Thuật rằng: Sư thứ hai nói có hai phần: một là tự tánh, hai là các thân khác.
Văn tự tánh có bốn đoạn:
1. Nêu.
2. Dẫn chứng.
3. Giải thích điều trái nghịch.
4. Giải thích tự tánh thân vốn là thường.
Luận Trang Nghiêm có ba thứ thường, luận Phật Địa quyển 7 dẫn nói pháp thân Phật không có sinh diệt. Phật Địa ghi: "Tán thán luận thuyết của chư Phật". Nhưng quyển 78 và Giải Thâm Mật cũng có câu nói này. Pháp thân không có sinh diệt, hóa thân thì có không và diệt. Nói chứng nhân đắc Phi sinh nhân. Kim Cương luận của Thế Thân Bồ-tát nói: "Lại nữa, nói pháp thân là Chư Phật có chung". Luận Phật Địa nói và các kinh luận nói, là trong luận Đối Pháp quyển 1 và Nhiếp Đại thừa trí phẩm cũng có câu này.
Luận: "Nhưng nói chuyển bỏ", đến "thật tánh của nó".
Thuật rằng: Nhưng nói "Chuyển bỏ tạng thức mà đắc", là tổng hợp văn của Nhiếp luận mà sư thứ nhất dẫn, đây là đoạn thô trọng để hiển Chân như. Câu văn trí thù thắng cũng có thể hiểu, vì pháp thân là chỗ y chỉ của trí, là thật tánh của trí.
Luận: "Tự tánh pháp thân", đến "đắc thọ dụng". Thuật rằng: Bốn trí phẩm trung và hạ giải thích trong thân có hai phần:
1. Nêu trí nhiếp.
2. Giải thích tướng. Trong tướng có hai đoạn:
1. Tự thọ dụng.
2. Tha thọ dụng.
Trong tự thọ dụng có ba phần:
1. Dẫn chứng.
2. Giải thích những điều trái.
3. Thuyết tướng.
Bình đẳng trí phẩm hiển hiện tha thọ dụng, vì đắc diệu lý tự tha thọ dụng, riêng vì giáo hóa căn cơ bậc thượng mà hiện thân và độ. Thành sự trí phẩm thì tùy loại mà hóa hiện thân và độ, diệu quán sát trí thuyết pháp trong đó, cứ theo thật mà nói là hai thân và bốn trí đồng thời hiện, lẽ nào viên cảnh trí duyên Nhị thân mà không thể thân cận lợi ích? Vì trí này chỉ tướng tợ dụng của hậu đắc trí mang nói viên cảnh trí là thọ dụng của Phật, đây là văn của luận Trang Nghiêm. Nhưng sư trước giải thích ý văn này như thế nào? Chuyển các Chuyển thức mà đắc thọ dụng, là văn của Nhiếp luận, theo văn này thì chứng Bốn trí đều là thọ dụng thân.
Luận: "Tuy chuyển tạng thức", đến "thuộc thân nào nhiếp?"
Thuật rằng: Cũng là đắc thọ dụng, giải thích nhiếp Đại thừa tại sao không nói chuyển tạng thức đắc thọ dụng thân, cho nên nói là pháp thân, như trước đã giải thích. Viên cảnh trí phẩm là thật sắc và tâm, cùng với phi sắc phi tâm trái nhau.
Luận: "Lại nữa, thọ dụng thân", đến "thật trí làm thể".
Thuật rằng: Đây là lấy trí để giải thích vấn nạn.
Trong giải thích tha hóa thân có phần:
1. Lập lý.
2. Giải thích trái nghịch.
3. Thuyết tướng.
Luận: "Tuy nói hóa thân", đến " thể thật ra không phải trí".
Thuật rằng: Đây là giải thích văn trước chỗ dẫn trí thù thắng nhiếp tam thân của Nhiếp luận. Nhưng tự thọ dụng thì thật trí làm thể căn cứ theo tha thọ dụng thân, không nói Thật Vô lậu trí.
Luận: "Chỉ nói bình đẳng", đến "tự thọ dụng nhiếp".
Thuật rằng: Đây là giải thích văn chỗ dẫn trước bình đẳng trí hiện khởi thọ dụng, thành sự trí hiện khởi tam nghiệp giáo hóa, chỉ thuyết minh hai trí hiện khởi hai thân, thể không phải hai thân. Phần thứ ba là hai thân tướng của tha hóa thân, trong đó có bốn đoạn:
1. Nêu.
2. Lập lý.
3. Dẫn chứng.
4. Tổng hợp các điều trái nghịch.
Luận: "Nhưng biến hóa thân", đến "không có pháp hình chất". Thuật rằng: Là hóa hiện tâm và tâm sở. Luận Phật Địa ghi: "Thật
Tướng phần này tương tợ Kiến phần hiện khởi". Phật Địa quyển 7 có hai thuyết, cũng như luận kia, không phiền dẫn ra.
Luận: "Nếu không như thế thì", đến "cũng chưa biết". Thuật rằng: Dưới đây là lập lý và dẫn chứng. Luận: "Do kinh này nói", đến "hoá làm ba nghiệp".
Thuật rằng: Dưới đây là dẫn chứng. Hóa là vô lượng loài đều khiến cho có tâm. Hóa vô lượng loại hóa nhân, đều khiến cho có tâm để dẫn người khác. Đây là kinh Niết-bàn, dưới đây là kinh Phật Địa.
Luận: "Lại nữa, nói biến hóa", đến "Tướng phần hiện".
Thuật rằng: Đây là văn của kinh Giải Thâm Mật, quyển 78 đồng.
Luận: "Tuy nói biến hóa", đến "cho nên không nói có".
Thuật rằng: Đây là tổng hợp lại các điều trái nghịch, tức là quyển 98 nói, đối với bốn sự không thể hóa:
1. Căn.
2. Tâm.
3. Tâm sở.
4. Nghiệp và quả báo của nghiệp.
Lại nữa, không có các dụng của căn, không giống như sắc, thanh... cho nên nói hoa đốm trong hư không. Nếu không như thế thì hương... đáng lẽ cũng như vậy. Như quyển 54, quyển 53 phần cuối và quyển 2 Sao trước, nhân thuyết minh trong hóa này, hóa thành pháp gì?
Luận: "Như vậy tam thân", đến "công đức của hóa tướng".
Thuật rằng: Phần thứ ba tam thân công đức các dị môn. Pháp thân đáng lẽ lấy gỗ đá đặt câu vấn nạn, thân gỗ đá kia cũng không thể khởi tham khuể... thì đáng lẽ gọi là đủ công đức. Đây là thuận sinh pháp thiện, cho nên không được làm ví dụ. Thường, lạc, ngã và tịnh đáng lẽ phân riêng, ly nhiễm là lựa riêng với Hữu lậu. Chúng thiện sở y là lựa riêng với Hữu vi và Vô vi công đức để hiển không sinh diệt. Ngoài ra như Xu Yếu và Phật Địa quyển 7 giải thích.
Luận: "Lại nữa tự tánh thân", đến "vì người khác mà hiện". Thuật rằng: Phần thứ tư Tam thân nhị lợi môn. Có thể hiểu. Luận: "Lại nữa, tự tánh thân", đến "khắp tất cả xứ".
Thuật rằng: Phần thứ năm tam thân sở y độ phân biệt môn, như Xu Yếu giải thích, tức là pháp thân cũng gọi là tự tánh thân. Pháp tánh độ, vì thuộc về Phật, pháp tướng và tánh khác nhau, vì nghĩa của Phật là tướng, là sở y công đức pháp của Hữu vi, là có nghĩa nhiều đức tụ hợp, là tự thể của hai thân. Pháp nghĩa là tánh, là tự tánh công đức, vì có thể trì tự tánh, tự tánh của các pháp. Thể là độ, nghĩa là thân.
Luận: "Tự thọ dụng thân", đến "cũng không có định hiện".
Thuật rằng: Trở lại tùy thọ dụng độ, dưới đây tùy hai thân tùy tự độ cũng như thế, không phải lìa thân mà riêng có tên độ, như Xu Yếu giải thích. Nhưng công đức này tùy sở Y thân và trí tuệ, tùy sở chứng như pháp, cũng có thể nói khắp tất cả xứ, tùy nghi trụ Thập Địa Bồ-tát. Kinh Thập Địa ghi: "Thập Địa mỗi mỗi đều có phần lượng lớn và nhỏ", rộng như kinh đó nói. Chỉ thấy trăm vị Phật, trăm lá cây hóa Phật, thấy một trăm tam thiên đại thiên thế giới biến hóa thân và độ. Nhân duyên thành tựu của cõi phật tịnh và uế, vì trong hóa độ có tịnh và uế, không phải tha thọ dụng độ cho nên nói tịnh và uế. Tha thọ dụng pháp lạc tăng trưởng thì đồng với tự thọ dụng, đều gọi là thọ dụng. Hóa độ (cõi biến hóa) tuy cũng thuyết pháp, thần thông tăng trưởng cho nên lập tên là biến hóa. Nghĩa pháp lạc yếu kém, đây là luận Phật Địa nói rộng đại tinh tấn.
Luận: "Tự tánh thân độ", đến "tất cả sinh".
Thuật rằng: Phần thứ sáu tam thân chư Phật thân độ sở hóa đồng dị môn. Cần phải xem Phật Địa, xem qua một lần, Phật Địa rất hay. Trong cộng thật ra là nhiều, kiến là đối với tất cả độ có thân Phật. Trong bất cộng, luận Phật Địa dẫn Di-lặc Bồtát sau khi căn thuần thục. Lại xem Biệt sao, Di-lặc phát tâm, kiếp số dài ngắn cho đến nói rộng.
Luận: "Chư thân độ này", đến "đều là thiện Vô lậu". Thuật rằng: Đây là môn thứ bảy, trong đó có hai phần:
1. Thuyết minh năng biến và sở biến của thân độ.
2. Nương vào giải thích Kiến phần và Tướng phần đồng dị của Duy thức.
Đây là môn thứ nhất. Thức thứ tám tuy thật ra là duyên chung tịnh độ và nhiễm độ, nhưng phỏng theo sự tăng thắng hiển hiện sở đắc thì tự thọ dụng thân chỉ có chỗ biến của tịnh Vô lậu thức, đã chỉ có năng tri biến của Phật, không phải Sở tri biến khác. Thể của tha thọ dụng thân và tha thọ dụng độ chỉ là tịnh, nhưng năng biến thì thông với Hữu lậu và Vô lậu. Bồ-tát trong Như Lai và Thập Địa, sau khi Vô lậu thì đắc sở biến, tức là thuần tịnh Vô lậu. Hoặc Thức thứ tám của Thập Địa gồm cả năm thức và Hữu lậu tán tâm của Địa thứ bảy trở lại, và Hữu lậu sau khi đắc sở biến, tức là thuận tịnh mà có biến hóa.
Hỏi: Đã thừa nhận Hữu lậu thức cũng có thể biến hóa tịnh độ, tha thọ dụng độ thì tại sao chỉ có tịnh?
Đáp: bản chất chỗ biến của Phật không phải là uế độ, vì năng biến không có phiền não cấu uế, vì không có thức ô uế, cho nên cõi sở biến chỉ có tịnh độ, thông với Hữu lậu và Vô lậu. Đây là căn cứ theo tương tợ, hoặc là bản chất của Biến hóa độ thông với tịnh và uế nhưng chỉ có Vô lậu, hoặc tùy theo sở biến Vô lậu tâm của Nhị thừa kia tức là Hữu lậu thì đều thông với tịnh và uế, hoặc Nhị thừa sau đó đắc bất năng biến, tức là chỉ có Hữu lậu thông với nhiễm và tịnh, như chỗ thấy búi tóc xoắn hình ốc của Phạm vương và Xá-lợi-phất khác nhau. Hiện tại tổng trong văn của luận này phỏng theo ba pháp và tất cả hữu tình mà làm luận.
Luận: "Thuần thiện Vô lậu", đến "không phải khổ tập".
Thuật rằng: Vô lậu Tướng phần này đồng với Thức năng biến, xưa nay là thiện Vô lậu. Tướng không lìa kiến đồng với không trói buộc, vì tâm năng biến biến tương tợ với tự cảnh. Lý của phược cùng với bất phược chắc chắn phải đồng. Nghĩa thuận ích của tâm Vô lậu là thù thắng. Bi lực rộng lớn, Tướng phần và Kiến phần chắc chắn đồng với thiện tánh, tất cả pháp nhĩ Vô lậu là thiện cho nên tánh thì đồng, vì tánh tướng đó chắc chắn đều là thuận lý, cho nên tánh thì đồng, không như tánh của Kiến phần và Tướng phần của tâm Hữu lậu có khác nhau. Nói nhân duyên tức là chủng tử.
Luận: "Thức tướng của uẩn", đến "tạp dẫn sinh".
Thuật rằng: Vì nhân duyên của ba pháp uẩn xứ giới tạp dẫn sinh. Nói Kiến phần là tâm, Tướng phần là phi tâm, như căn và cảnh bên trong tướng của Thức thứ tám và sở duyên sắc của Thức thứ sáu, vì cùng với Kiến phần không phải một loại chủng tử sinh, sắc và tâm khác nhau, vì không trái nhau. Trong pháp Tướng phần của Vô lậu có năm uẩn cũng như căn, tức là Tướng phần thuần chủng, cùng với Kiến phần Vô lậu và tánh đồng, vì cùng với tạp chủng của kiến. Sắc uẩn và tâm uẩn cũng mỗi mỗi đều có khác, cho đến Tướng phần của pháp tương ưng mong nhau cũng như thế. Do thức khởi tướng đồng với pháp thuần chủng không trói buộc chỉ có Vô lậu, pháp tác dụng không đồng, tạp chủng sinh sắc và tâm, không thể vấn nạn Hữu lậu đồng với Vô lậu.
Luận: "Trên Hữu lậu thức", đến "không phải diệt và đạo". Thuật rằng: Thuần từ chủng tử mà sinh, đồng là pháp trói buộc, cho nên nói là thuần, do chỉ có Hữu lậu.
Hỏi: Tại sao cõi trói buộc Kiến phần và Tướng phần thừa nhận trói buộc riêng, Hữu lậu và Vô lậu phải đồng hay không?
Đáp: Kiến và tướng tuy giới trói buộc riêng, nhưng vẫn thuận nhau.
Luận: "Thức tướng của thiện", đến "năm mươi hai".
Thuật rằng: Tướng phần ba tánh thức của thiện không chắc hẳn đều đồng, vì tánh và tướng riêng khác, Hữu lậu gọi là đẳng thế phần chuyển, vì không thuận lý, không thể dẫn Tướng phần và Kiến phần khiến cho đồng. Kiến phần của tỷ thức, thiệt thức, thân thức cùng với Tướng phần của nó không phải đồng tánh, cho nên Tướng phần và Kiến phần không phải đồng tánh. Trong Tướng phần và Kiến phần, ba tánh nhân duyên tạp dẫn sinh, không thể đồng tánh vì tác dụng riêng. Tánh không thể đồng, như Vô lậu duyên thì liền đồng với Tướng phần chỉ có Hữu lậu. Hư không có thể duyên tâm thông với ba tánh, Tướng phần chỉ có Vô ký, hương... ba cảnh chỉ có Vô ký. Thức năng duyên thông với ba tánh, hoặc đều là thuần chủng thì chỉ có một tánh, vì ba cảnh chỉ có Vô ký. Chữ "đẳng" đáng lẽ không thành lỗi. Không thể nói phỏng theo sở biến của Thức thứ tám, chỉ nói là Vô ký. Sở biến của ba thức thông với ba tánh, hai cảnh cũng như thế, vì sở biến của ba thức thuộc ba xứ nhiếp, đáng lẽ nói là thông với ba tánh. Các luận đều không có văn này. Hư không và phi trạch làm ví dụ cũng đáng lẽ như thế, cho nên Tướng phần và Kiến phần không đồng tánh, tánh khác nhau đã như thế. Thức tướng của uẩn thì hoặc là Tướng phần và Kiến phần đồng, hoặc là Tướng phần và Kiến phần khác loại, điều này nên biết cũng là bất định. Nếu uẩn của Tướng phần và Kiến phần cũng đồng nhau thì liền không có khác biệt năm uẩn, mười hai xứ và mười tám giới, đã có ba phần khác nhau thì biết rõ Tướng phần và Kiến phần không hẳn đều đồng nhau. Luận Phật Địa ghi: "Ba thân sinh diệt môn, hóa thân sắc của tự và tha đều là phi, hóa tâm cũng như thế". Ba thân tương đối bốn cú môn, chúng sinh thân và pháp thân nhiếp ba thân môn, luận Thập Địa nhiếp ba thân môn, như môn thứ bảy kia.
Nhân giải thích năng biến và sở biến của thân và độ, tức là giải thích đồng dị Tướng phần và Kiến phần của Duy thức. Từ trên đến đây đã nương vào nói lược, nói rộng và vị mà thuyết minh Thức năng biến đã xong. Từ đây xuống là giải thích Tướng phần và Kiến phần hoặc trong đồng dị, tức là thuyết minh Tướng phần và Kiến phần đồng dị của Thức năng biến trong môn thứ bảy. Từ đây xuống phần thứ hai nhân theo giải thích nghĩa Duy thức.
Luận: "Nhưng Tướng phần", đến "đều là thật có".
Thuật rằng: Một là giải thích rằng: "Đồng lấy chỗ biến hiện của tâm sở. Sở biến gọi là hành tướng, y theo thức biến hiện". Chỉ có hai phần nghĩa của Nan-đà, có khác phần ít giữa hai sở duyên xa và gần đều là không thật, vì sở duyên xa đồng lấy tướng gần, không làm hành tướng, đây là chỗ biết xa, vì như thức biến hiện. Lại nữa, lập ra ba phần gồm dưới đây có hai "lại nữa" để giải thích. Nương vào thức biến hiện, là Tướng phần đồng nắm lấy Kiến phần, thức là sở biến của tự thể. Tướng phần và Kiến phần này tuy thể là Y tha, nhưng thức là dụng của tự thể, không giống như thật trong Y tha của thức tánh. Thức là tự thể căn bản, Tướng phần và Kiến phần kia là ngọn là dụng. Như mặt trời với vầng sáng, như đèn với ánh sáng, thực hư khác nhau. Nếu không như thế thì đáng lẽ không nói Duy thức, mà nên nói duy cảnh chỉ có Kiến phần, vì thừa nhận Tướng phần và Kiến phần cùng với thức tự thể đồng thời thật có. Nghĩa này nên suy nghĩ. Giả sử duyên Tướng phần và Kiến phần của sắc cũng đều không thật thì không bằng thức, như duyên Tướng phần quá khứ vị lai và hư không của thức. Tuy có thật pháp không phải ít, nhưng Kiến phần không phải không có, vẫn duyên hư cảnh, hành tướng của hư cảnh là tâm không thật, cho nên kiến không bằng tự thể phần của thức. Tự thể phần của thức chỉ duyên thức, vì là căn bản, vì chứng tự thể, thể tánh là thật có, sự biến tương tợ sắc của nó cũng đều không thật, là ý của sư này. Nếu như thế thì cảnh tướng của trí vô phân biệt như thế nào? Đó là nội chứng, cho nên đây là chỗ không luận đến. Như duyên tự thể, ngoài ra là cảnh bên ngoài, cho nên không đồng Chân như. Giả sử duyên tự thể của Chân như là thật có, vì không phải là sở biến của thức, thể của Chân như là thật, hiện tại luận này luận về sở biến, cho nên Tướng phần và Kiến phần là giả. Lại nữa, nếu Chân như là thật, tức là lấy phần ít thật có trong cảnh. Chỉ nói Duy thức, mà không nói duy cảnh. Hiện tại cho nội chứng là phải cho nên không thể ví dụ đồng với bên ngoài. Phật Địa quyển 3 có nghĩa của sư này, là thừa nhận có ba phần nghĩa của tánh Y tha.
Luận: "Hoặc tướng kiến của thức", đến "hư thật giống như thức".
Thuật rằng: Sư thứ hai nói. Thức cùng với Tướng phần và Kiến phần đều từ duyên sinh nhân duyên pháp. Hai phần này hư và thật cùng với thức đều đồng. Tuy có duyên quá khứ và vị lai, nhưng tướng là Y tha, cùng với thức không khác nhau lắm. Lại nữa, ý của sư này nói, chỉ có Tướng phần cùng với một chủng tử của thức là thật, không ngăn trách duyên quá khứ và vị lai chỉ đắc giả pháp, đây là chánh nghĩa. Tướng phần và Kiến phần của sư trước tức là thức chủng sinh. Tướng phần và thức của sư này thì khác chủng sinh, Kiến phần và thức thì đồng chủng sinh. Nếu như thế thì đáng lẽ nói các pháp duy cảnh, tại sao nói Duy thức?
Luận: "Chữ "duy" nghĩa là không ngoài", đến "cũng đáng lẽ không phải thật".
Thuật rằng: Luận chủ đáp: Chữ "duy" là Biến kế sở chấp đặt ngoài tâm, không ngăn trách Tướng phần sở biến của thức bên trong, nếu không làm giải thích này thì Chân như đáng lẽ không thật có. Chân như đã là thật cảnh tức là thật thành tựu thì tâm năng duyên Chân như lẽ nào là giả, cho nên cảnh và tâm xưa nay là thật, vì cảnh là hư mà nói là Duy thức, hoặc cảnh là thật, đặt cảnh bên ngoài tâm mà gọi là Duy thức, tức là Chân như không lìa thức, vì pháp không phải ngoài tâm, cũng là Duy thức nhiếp.
Luận: "Nội cảnh cùng với thức", đến "Duy thức không phải cảnh".
Thuật rằng: Người ngoài vấn nạn: Nội cảnh và thức đã đều không phải hư, tại sao có thể nói Duy thức không phải cảnh?
Luận: "Thức chỉ có bên trong", đến "chỉ nói là Duy thức".
Thuật rằng: Luận chủ đáp có hai phần. Phần thứ nhất nói: "Thức chỉ có bên trong, cảnh thì cũng thông bên ngoài, tức là cảnh bên trong Tướng phần là Y tha, ngoài là Biến kế sở chấp. Vì pháp không phải tâm sở biến hiện mà nói đó là bên ngoài, không phải thể thật có cho nên gọi là bên ngoài. Sợ rằng cảnh bên trong tâm lạm tràn ra cảnh bên ngoài tâm, cho nên chỉ nói là Duy thức. Lại nữa, Sở duyên duyên xa cũng nói là bên ngoài. Nếu nói là Duy cảnh thì sợ rằng nắm lấy pháp ngoài tâm, cho nên ở đây không luận. Tâm bị chấp cũng là tâm ngoài pháp, nếu không có tư lự lạm tràn thì nói Duy cảnh cũng được. Vì lựa riêng với bên ngoài cho nên chỉ nói Duy thức.
Luận: "Hoặc chư ngu phu", đến "như bên ngoài đều không có". Thuật rằng: Một là sở chấp làm thật, hai là lấy tâm ngoài cảnh, vì y theo đây cho nên nói mê chấp đối với cảnh, ý này có thể hiểu. Sư thứ hai giải thích Duy thức, trong kinh Phật Địa không có. Vì phá chấp cho nên tuy làm ngu phu, nhưng lý của duy tâm thì lẽ nào Phật không có, tức là sư thứ Nhị thừa nhận có nghĩa của Tướng phần và Kiến phần. Sư thứ ba giải thích.
Luận: "Hoặc là Tướng phần", đến "quyết định tương ưng". Thuật rằng: Sư này không thừa nhận có nghĩa của Tướng phần và
Kiến phần, chỉ có một thức tánh, do lực huân tập của mê vọng đời trước tương tợ như phần nhiều sinh, tương tợ như có Tướng phần và Kiến phần, tức là Hậu đắc trí của Phật không khác với Tướng phần và Kiến phần. Tâm thiện Hữu lậu nhân theo Hậu đắc trí mà có Tướng phần và Kiến phần, vì có pháp chấp, tương tợ tướng Kiến phần trong tịnh độ và uế độ của Phật, không khởi hai giải thoát cho nên không phải sở chấp, ngoài ra khởi hai giải thoát cho nên là sở chấp. Lại nữa, Phật tự tại liễu trừ vọng chấp, nếu biến hóa Tướng phần và Kiến phần đều không phải sở chấp là do lực huân tập trong nhân quá khứ, quả này cũng như thế. Phật chứng các pháp không thể nói, các vị khác thì không như vậy, vì Tướng phần và Kiến phần đều là chấp, vì không chứng thì không thể nói cảnh. Hiện tại luận này y theo các thuyết còn lại cho nên nói không khác nhau. Hoặc Phật không hiện mà người khác tự thấy, nếu như thế thì Chân như không phải do vọng tình huân tập sinh, đáng lẽ không phải Duy thức, vì thật tánh của thức cho nên nói Duy thức, trừ thức tánh ra thì không riêng có hữu pháp nào khác.
Luận: "Ba phần của luận này", đến "luận Thành Duy Thức".
Thuật rằng: Từ đây xuống đoạn văn lớn, phần thứ ba giải thích phần kết thí nguyện, tức là sư thứ hai giải thích văn của luận. Phần đầu là một nửa tụng thứ nhất thuyết minh sơ lược tướng của Thức năng biến, phần giữa có hai mươi ba bài tụng rưỡi thuyết minh rộng về Duy thức. Phần sau cùng có năm bài tụng thuyết minh về giai vị của Duy thức. Vì ba thời thuyết pháp phần đầu, phần giữa, phần cuối của Phật, và năm giáo thiện, thuần nhất, viên mãn, thanh bạch và phạm hạnh, đồng với giáo kia cho nên nói ba phần, như quyển 1 Sao giải thích, văn còn lại có thể hiểu. Trong đây nói thành, tức là lấy giáo làm thành giáo, lấy giáo làm thành lý, thật ra lý đều thông hết. Nhưng nương vào Nhất giải thoát của cảnh và hạnh mà thành như giải thích trước. Thể của lý phân riêng nghĩa của tánh Duy thức và tướng Duy thức.
Luận: "Cũng nói luận này", đến "cực minh tịnh".
Thuật rằng: Nói tịnh là từ dụ mà hiển. Như tánh của Chân như tuy là bản tánh tịnh, nhưng nếu không tu tập tịnh thì không có gì để hiển rõ giáo và lý đồng thời đắc. Như tánh của châu báu tuy sáng sạch, nhưng nếu không mài giũa thì không có gì để xuất hiện quang minh. Như Tô-mê-lô tuy do các báu vật hợp thành, nhưng nếu không có ánh mặt trời phản chiếu thì lấy gì để hiển bày ánh sáng, luận này cũng vậy, như phần Sao thứ nhất của quyển 9 trước.
Luận: "Tên của bản luận này", đến "lên Vô thượng giác".
Thuật rằng: Hai câu đầu là tổng kết đoạn văn trên, hai câu sau là hồi hướng phát nguyện. Do ba mươi tụng hiển lý của Duy thức không phải tăng giảm, nương vào ba nghĩa phối hợp giải thích đều có nghĩa không phải tăng giảm.