TẠNG LUẬN
SỐ 1831 - THÀNH DUY THỨC LUẬN CHƯƠNG TRUNG XU YẾU
Chùa Đại từ ân, Sa-môn Khuy Cơ soạn thuật.
Nay giải thích văn luận, lược làm năm môn phân biệt:
Lại giải thích văn luận, trước dùng ba môn phân biệt:
Nhưng, trước tiên năm môn mười nghĩa vẫn dùng ba môn tổng thâu:
1. Nói về Đồng dị trong luận
2. Nơi chốn giáo quy
3. Nêu thuật giải thích đề văn.
-Trong phần nói về Đồng dị lại mở làm ba:
1. Vì đối Dị tông hiển bày riêng biệt của tự tông
2. Vì đối Dị giáo hiển bày thể của Tự giáo
3. Vì hạng đầy đủ cơ cảm mà rộng nói thời cơ.-Trong nơi chốn giáo quy lại mở làm ba:
1. Mười hai phần giáo, phần nào nhiếp thuộc
2. Hai tạng ba tạng v.v... tạng nào nhiếp thuộc
3. Một Thừa, hai Thừa v.v... Thừa nào nhiếp thuộc.
-Trong nêu thuật giải thích đề văn lại mở làm ba:
1. Tự thuật luận năm tháng, người soạn
2. Giải thích luận đề mục
3. Giải nghĩa luận bản văn.
-Lại giải luận này có ba môn biện thích:
1. Tự thuật luận Sở nhân 2. Giải thích luận đề mục 3. Phán thích bản văn.
Tự thuật luận Sở nhân: Trong Du-già Luận Thích lược ghi: Các loài hữu tình từ vô thỉ đến nay đối với pháp thật tướng do không biết nên cố chấp, khởi hoặc phát nghiệp, luân hồi năm nẻo, đức Như Lai xuất hiện nơi đời, tùy nghi giảng nói, ở trong diệu lý khiến các hữu tình rõ đạt các pháp phi không phi hữu, xa lìa nghi chấp, khởi hành trong xứ tùy ứng diệt chướng, mỗi tự tu mãn, đắc Tambồ-đề, chứng lạc tịch diệt. Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, nhân Đại Thiên bộ chấp khởi lắm thứ đắm trước hữu kiến, Bồ-tát Long Mãnh chứng Địa cực hỷ, tham cứu nhặt nhóm giáo nghĩa Không, Vô tướng của Đại thừa, tạo luận Trung Quán v.v... xiển dương chân yếu, phá trừ hữu kiến kia. Các Đại luận sư như Thánh giả Đề-bà v.v... tạo Bách luận v.v... hoằng dương Đại thừa. Do đó, chúng sinh lại chấp trước không kiến, Bồ-tát Vô Trước cũng lên bậc Sơ địa, chứng Pháp quang định, đắc thần thông lớn, tôn thờ Bồ-tát Di-lặc, thỉnh nói luận này. Lý không gì chẳng cùng, sự không gì chẳng tận, văn không gì chẳng giải thích, nghĩa không gì chẳng thuyên, nghi không gì chẳng dứt, chấp không gì chẳng phá, hạnh không gì chẳng tu, quả không gì chẳng chứng, chính vì Bồ-tát khiến các Thừa, Cảnh hạnh quả v.v... đều được khéo léo, chuyên tu đại hạnh, chứng đại Bồ-đề, khắp vì các chúng hữu tình không từng giảng nói trái ngược, lại gần vì các Thừa khác, khiến nương tự pháp, tu hành tự phần, đắc chứng tự quả. Do vậy, năm phần trong tông thịnh hành ở bốn chủ, tương ưng mười chi, truyền lưu khắp năm xứ Ấn.
Bấy giờ có Bồ-tát Phiệt-tô-bạn-đồ, Hán dịch là Thế Thân, là người em cùng mẹ với Bồ-tát Vô Trước, chứng quả vị ở Minh đắc đạo gần đến Cực hỷ, cũng thông rành cả ba Thừa, ban đầu học khắp các bộ phái, biết Tiểu thừa giáo chẳng phải cùng cực, mới xoay lại hướng đến Đại thừa, nhân nghe tụng kinh Hoa Nghiêm phẩm Thập Địa, A-tỳ-đạt-ma phẩm Nhiếp Đại Thừa, bèn hối lỗi quấy trước, rơi lệ với kiến chấp xưa, nắm dao muốn cắt lưỡi để tỏ bày nỗi lòng trung thực. Người anh ở xa cách ba do-tuần, buông duỗi một cánh tay ngăn cản sự tự hại đó, lấy điều lợi hại để giải bày rằng: "Ông tuy dùng lưỡi mà phỉ báng pháp, đâu phải cắt lưỡi mà tội trừ? Ông nên sớm tán dương giải thích Đại thừa để hối cải lỗi phạm xưa trước". Bồ-tát Thế Thân vâng theo lời người anh chỉ dạy, nhân đó quay về với diệu lý. Người anh mới đem kinh Thập Địa mà trao cho và căn dặn chế tác bản Nhiếp Đại Thừa và khiến Thế Thân tạo luận thích đó. Nên hai bộ luận này do Bồ-tát Thế Thân làm lúc mới quay về với Đại thừa. Vậy mà, văn chứa đựng cả huyền tông, tình bao trùm cả diệu chỉ. Lại làm Hoằng luận, diễn xướng sâu mầu, khéo chọn cơ mầu, giỏi nêu tinh túy, bèn trước thuật luận Duy Thức Tam Thập Tụng, để diễn bày diệu thú của Đại thừa, sum la vạn tượng bao hàm trong một chữ, ngàn muôn lời dạy đầy đủ ở một lời, đạo vượt các vở sách, tiếng thơm ngời sáng muôn Thánh. Lược tụng đã hoàn tất, vừa mở bày rộng giải thích, cơ cảm chưa phù khế thì bất ngờ Bồ-tát thị tịch.
Lại có các Bồ-tát Hộ Pháp v.v... xem đọc văn luận tụng, mỗi mỗi tự làm luận thích nghĩa, tuy ngành ngọn cao vời, cành sớ nhánh ngọc, mà riêng chiếu sáng ngời, lan tỏa thơm ngát phải chăng chỉ có một mình Bồ-tát Hộ Pháp! Bồ-tát Hộ Pháp quả vị chứng đắc đã từ kiếp trước, nhưng ở địa vị tại hiền này, ngầm thêm vỗ vật, tùy cơ làm lợi ích. Năm hai mươi chín tuổi, ngài tự biết mạng sống có kỳ hạn, nhàm chán vô thường, chuyên tâm thiền tập, thề chẳng lìa cội Bồ-đề, suốt trọn ba năm, ngoài lúc rảnh rỗi thì chú giải chế tác luận thích đây, văn xa lý sâu, trí rộng danh cao, chấp phá hết ở một lời, gở rối cùng ở nửa bài tụng, văn khác như nước lửa, nhưng phù hợp tợ keo sơn, nghĩa đồng sông hồ mà thông thành trong đục, bờ mé mênh mông vút núi cao mà tiếp trời, gò đồi vời vợi hết hang hốc mà phẳng bằng, cúi xuống khoang sâu mà không đáy, ngẩng lên với cao mà chẳng ngằn mé. Văn thô nghĩa cạn, nhưng dòng phái chẳng cùng, câu dài tông rộng nhưng đào luyện có hạn, công vượt ngàn Thánh, đạo hợp trăm vua.
Bấy giờ có cư sĩ Huyền Giám, nhận biết cả lông lá của phụng gà, suốt thông cùng dấu ẩn của lân rồng, từng dốc hết của cải luôn vì cúng dường, chí ý kiên cố thành thực sâu sắc, hết tài vật đã nhiều năm. Bồ-tát dẫn dụ nhiều mối, đáp để lại luận thích đây mà răn bảo đó rằng: "Sau khi ta qua đời, phàm có người đến xem, ông nên dùng một lượng vàng mà thưởng cho họ, như gặp được bậc thông thần dĩnh ngộ thì sẽ có thể truyền thông". Cuối cùng đã ẩn ngầm bặt tuyệt Huyền đạo, thanh danh Bồ-tát chấn động châu này, tiếng tăm luận thích vượt xa xứ kia, các loại có tánh linh ai mà chẳng ôm hoài khâm phục, sáng sớm được nghe đạo, chiều tối chết an lòng, đâu tiếc lận vàng thoi. Nếu đem đổi bậc hiền tài thì cũng giống như gò đồi chồng chất của cải, cả năm xứ Ấn Độ trông mong nhưng chưa kịp lưu hành.
Đại sư Huyền Tráng là bậc tuấn phát thiên tư, hiểu biết đều nhờ cầu học, không thần tích nào mà chẳng chiêm lễ, chẳng Thánh giáo nào mà chẳng mở đọc, nghe diệu lý ấy, ân cần nương nhờ mong cầu, cư sĩ Huyền Giám ghi nhớ di ngôn của Tiên thánh, hẳn Đại sư là thuộc hạng bậc hiền thời nay, mới dâng trao bản thảo đó và Ngũ Uẩn luận thích. Đại sư đọc xem như thấy được Thánh dung, mỗi lúc đặt để trong tay chẳng khác gì chân thuyết, từ phương Tây mưa đổ sớ ngọc, ở phương Đông rảo rong ngựa trắng, tuy diễn rộng lý mầu, tưởng thưởng lấy làm bí quyết, mãi đến lúc thần gá quán riêng, cảnh ẩn ánh sáng, sạch tai mắt để tư duy sâu, rỗng tâm linh mà giải thích diệu, bèn bảo: "Nay đây mới thỏa tâm ta vậy! Trọng Ni nói ta có ngọc đẹp cất giấu trong hộp, ai người khéo ra giá, nay ta bán cho".
Khuy Cơ tôi xưa trước lẻ loi ngang trái, năm chín tuổi đã phải mồ côi. Từ đó, chỉ ý muốn nương gá ráng mây, thêm luôn mong xuất gia, tình tưởng trần tục vốn dứt từ nhỏ, đến năm mười bảy tuổi bèn dự vào chúng xuất gia, riêng vâng phụng minh chiếu, được làm thị giả. Từ khi dự phần trong số chúng ba ngàn vị, tức mừng vui với khuôn phép trong số bảy mươi vị, hẳn hợp với thiện nguyện. Sau lại vâng thừa văn bút, chẳng vì tư chất kém cỏi, bèn được theo cùng chúng phiên dịch, nhân việc ghi chép mà nhận được luận đây, công lao trước hết là phiên dịch riêng mười Luận thích, gồm có bốn người. Phưởng, Thượng, Quang và Cơ tôi đồng thọ, nắm bút chỉnh lời, kiểm văn xét nghĩa, thế rồi vào nề nếp, mỗi chuyện đều có các quan khác lo. Sau vài lần chầu hầu, Khuy Cơ tôi cầu xin ô thái ẩn. Đại sư cố hỏi, Khuy Cơ tôi mới ân cần thưa rằng: "Từ đêm mộng thấy Kim dung, sáng sớm rảo đến Bạch mã, ánh ngời tỏa sáng bờ tóc, linh trí theo nơi hai vai. Nghe năm phần mà dùng tâm mong cầu, quấy tám Uẩn mà xa trông, tuy được cặn bả của pháp môn, nhưng mất thuần túy của nguồn huyền. Nay phương Đông biệt xuất anh tài, đều nhắm đặt huyền tông, nay lại riêng đẹp lạ muôn phương, trội vượt ngàn xưa, chẳng lập công ở tham lẫn, có thể gọi là mất thời ấy. Huống gì các
Thánh chế tác, mỗi mỗi vọng vang khắp năm xứ Ấn Độ. Tuy văn truyền đủ nơi kinh điển mà nghĩa chẳng đầy ở một bản, tình kiến mỗi riêng khác, người bẩm thọ không chỗ cậy nương, huống hồ thời nhiễm người bạc, mạng ngắn, tuệ cạn, soi sét chi ly mà chẳng rốt ráo, quấy yếu chỉ nguyên sơ mà khó tuyên, xin gom hết các lời để làm một bản, khải định thật hư, cân nhắc khuôn phép". Lâu sau ngài bèn thuận cho, nên được luận đây mà hành hóa. Đại sư, lý bỏ lại ba hiền riêng tra kẻ quê vụng, với luận đây vậy, bao gồm bí yếu của các kinh, gồm hết yếu chỉ của các Thánh, không dính kẹt nào mà chẳng dung, không tối tăm nào mà chẳng soi sáng, ngửa trông thì chẳng cùng, cúi xét thì chẳng lường, xa vời mà không trí, thân gần mà có thức. Đó có ẩn gần năm Minh, mở bày tám Tạng, cửa sâu luôn đóng, đường huyền chưa thông, dụ như bông lông đầy gò, dùng lửa cháy ném vào đó, tợ khe sương băng dùng cảnh nóng rưới đó, thật là ánh đuốc của đêm dài, gương vàng của tối sớm. Tuy vốn lưu xuất từ năm xứ Ấn Độ, nhưng ở xứ ấy không luận thích mênh mang như thế, ngay như phần riêng làm của mười sư nhóm họp còn khó, huống gì góp nhặt văn từ sâu mầu đây, thật là chưa có. Đây mới là duyên khởi của luận này.
Giải thích đề mục: Tiếng Phạm gọi là Tỳ-nhãđể (Thức) Ma-trí-thích-đa (Duy) Tất-đề (Thành) Xa-tát-đát-la (Luận), đúng ra phải gọi là Thức Duy Thành luận, thuận theo tiếng Hán là Thành Duy Thức luận. Tiếng Phạm gọi Thành Duy Thức là gọi theo ngôn ngữ của họ, hoặc là Tỳ-nhã-để-ma-đátthích-đa, Tỳ-thân-độ-ca (tịnh) Xa-tát-đát-la, phải gọi là Thức Duy Tịnh luận, nay gọi là Tịnh Duy
Thức luận, ở cuối quyển 10 luận này giải thích: "Ba phần luận đây thành lập Duy thức, nên luận đây gọi là Thành Duy Thức luận, thì vốn gọi là Duy thức. Thích luận gọi là Thành". Nhưng y cứ theo bản Tam Thập luận, ở dưới đề mục riêng chú thích: "Luận này cũng gọi là Thành Duy Thức luận, vì Tam Thập luận giáo thành lập Duy thức vậy". Như trong kinh Thuyết Vô Cấu Xưng, Phật bảo gọi là kinh Thuyết Vô Cấu Xưng Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát Pháp Môn, nhưng đề mục kinh là kinh Thuyết Vô Cấu Xưng, phía dưới đề kinh có ghi chú là "cũng gọi là Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát". Đây cũng như vậy, riêng cũng gọi là Thành. Vả lại như bài tụng cuối trong Nhị Thập Tụng luận do Bồ-tát Thiên Thân tạo ghi: "Ta đã tùy tự lược nghĩa Thành duy thức, cũng gọi là Thành Duy Thức". Nhưng nay, Thích luận do Bồ-tát Hộ Pháp tạo phần nhiều so với luận gốc chỗ lập tên gọi chẳng đồng, Nhị Thập Duy Thức giải thích tên gọi là luận Duy Thức Đạo. Luận đây là cách gọi của Thành Thích luận, nên cuối luận ghi: "Bản luận đây gọi là Tam Thập Duy Thức". Lại nói: Luận đây ba phần thành lập Duy thức, nên biết Duy thức là tên của Bản luận. Nay phần Thích gọi là Thành. Thành chẳng phải vốn xưng, chỉ lấy chánh danh Bản luận chẳng lấy tên riêng ghi chú. Hoặc có Duy bản chẳng phải giải thích danh, như Biện Trung Biên, hoặc có Duy thích chẳng phải tên gọi gốc, như Duy Thức Đạo luận. Hoặc có Bản, Thích hai tên, như Tạp Tập luận, nay chỉ giải thích tên gọi hoặc là tên gọi chung.
Thành Duy Thức đó, Thành của Duy thức, trong tiếng Tô-mạn-đa, thứ sáu thuộc chủ, thì thứ tám là chuyển thanh, thanh đây là luận biện trong thanh, chữ Tô ở sau, Mạn-đa là nghĩa sau, thì chữ Tô ở thanh sau. Tiếng Để-ngạn-đa có mười tám chuyển, biện trong tiếng đây, chữ Để ở sau, Ngạnđa là nghĩa sau, thì chữ Để ở tiếng sau, là chọn lựa thanh ngôn đây, Tô-mạn-đa, là y chủ thích trong Sát-tam-ma-bà thích. Sát là Lục, Tam-ma-bà là Hợp, thì gọi là Lục hợp thích, trước lìa sau hợp, nên nhân luận sinh luận, một chữ đã không thuyên biểu, làm sao nói Sát có thể là Lục vậy? Nay y cứ Phạm bản, có ba chữ Sa-tra-đa, hợp lại mới thành từ Sát, nên chẳng phải một chữ có thuyên biểu.
Thành là cách gọi của năng thành, để thành lập làm công, Duy thức là danh của Sở thành, lấy giản trạch rõ ràng làm nghĩa, an giáo lập lý, gọi đó là Thành. Thức, nghĩa là năng liễu, vì thuyên bày năm pháp. Duy, có ba nghĩa. Thức thuyên bày năm Hữu, Duy chọn hai Không. Duy, nghĩa là giản trì. Hữu tâm không cảnh là nghĩa của Duy vậy, chọn bỏ cảnh giữ lấy tâm, nên nói giản trì là nghĩa của Duy, cũng là nghĩa quyết định, và nghĩa hiển thắng. Liễu, nghĩa là Liễu biệt, tác dụng thuyên biện là nghĩa của Thức, Liễu biệt ở cảnh là dụng của Thức. Ở đây nói Duy là: An Tuệ có một phần Duy, Nan-đà có hai phần Duy, Trần Na có ba phần Duy, trong đó có hai thuyết thật và giả. Hộ Pháp có bốn phần Duy, luận phần nhiều nương ba phần, giáo và lý có bốn phần.
Giải thích tên gọi Duy thức, như trong chương đó giải thích, hợp chung có mười nghĩa giải thích Thành duy thức:
1. Kinh nói Duy thức, luận giải gọi là Thành.
2. Bản luận gọi là Duy thức, Thích luận gọi là Thành,
3. Kinh và luận đều gọi là Duy thức, nay phần Thích gọi là Thành.
4. Tông gọi là Duy thức, Nhân và Dụ gọi là Thành. Luận bản lược nêu chỗ lập gọi là Tông, nay nghĩa rộng thành nên gọi là Nhân và Dụ, thuật đủ nguyên do, dẫn pháp Đồng dị để thành chỗ lập. Trong Nhị Thập luận ghi: "An lập Đại thừa, ba cõi
Duy thức". Trần Na giải thích: "Nhân và Dụ thành Tông, gọi là an lập". Trong đây nói Thành, nghĩa cũng đồng.
5. Thể gọi là Duy thức, nghĩa thích gọi là Thành. Bản luận lược nêu thể đó, chưa nhận biết sai biệt nay rộng nói rõ nghĩa, đủ hiển bày sai biệt, nên gọi là Thành.
6. Tóm lược gọi là Duy thức, chưa giải nghĩa sau, rộng gọi là Thành, bày đủ chỉ thật. Hai giải sau đây y cứ Nhiếp Thích phần trong luận Du-già giải thích. Phàm giải thích kinh pháp, trước thể sau nghĩa, trước lược sau rộng.
7. Do giáo thành giáo
8. Do giáo thành lý
9. Do lý thành giáo
10. Do lý thành lý
Hỏi: Bốn giải thích sau đó, nương vào đâu mà được biết?
Đáp: Cuối luận có bài tụng ghi: "Đã nương Thánh giáo và Chánh lý". Lại nói: Ba phần luận đây thành lập Duy thức, nên biết năng thành tựu thông giáo và lý. Ở đầu luận có bài tụng ghi: "Nay ta giải thích thuyết kia". Thuyết thì giáo của bản luận ở lập hoặc lý của Sở nghiệp, hai nghĩa đều thông, cuối luận lại nói: "Do ba mươi bài tụng hiển bày lý Duy thức rất sáng sạch". Kệ tụng ghi: "Phân biệt nghĩa tánh tướng Duy thức". Nghĩa tức là lý, nên biết Sở thành cũng thông giáo lý.
Luận thì như trong Câu-xá ghi: "Dạy răn học chúng, nên gọi là luận". Du-già giải thích là: "Hỏi đáp quyết trạch tánh tướng các pháp, nên gọi là luận". Giải thích trước nương bi, vì lợi chúng sinh, giải thích sau nương trí, biện rõ các pháp. Thành Duy Thức tức luận, luận của Thành Duy Thức, căn cứ nghĩa thì biết.
Vì sao luận này gọi là Thành duy thức, chẳng gọi thành gì khác? Cũng thành các nghĩa khác nên muốn khiến chứng đắc lý trí Duy thức mà thành lập, như luận Du-già, đây thông giáo lý, từ nhiều Duy thức mà làm danh. Hoặc là nay chẳng trái nghịch, thành lập diệu lý Duy thức, như luận Thành Thật cũng thông giáo, lý, từ Sở thuyên làm danh, hoặc phá chấp thật ngoài tâm có cảnh, chẳng khéo tin học diệu lý Duy thức mà thành lập, như luận Thành Giả cũng thông giáo lý, thành là lập nghĩa. Hoặc là luận đây y cứ ở lý trí Duy thức sâu mầu mà thành lập, như hoa Thủy lục, luận Đối Pháp v.v... y cứ đó sinh khởi cũng vậy. Hoặc ngại sợ diệu lý Duy thức tán diệt, nay là lược nhiếp rộng tán nghĩa mà thành lập đó, như Nhiếp Đại Thừa. Lại, trong tất cả pháp, tâm là thù thắng nhất, như trong kinh Hoa Nghiêm ghi: "Tâm như thợ vẽ khéo, vẽ các thứ năm Uẩn, trong tất cả thế gian, không pháp nào chẳng tạo". Do đó mà thành lập.
Hỏi: Căn cứ như phần Chánh tông ở sau, hoặc phân làm hai: một là nhân; hai là quả. Hoặc phân làm ba, như giải ở trong đó, hoặc phân làm bốn, nửa bài tụng đầu, gồm nêu phần cương yếu. Nửa bài tụng thứ hai mươi bốn rộng bày phần Năng biến. Thứ ba có chín kệ tụng tổng kết giải thích phần bên ngoài vặn hỏi. Thứ tư có năm kệ tụng, nương tu được phần lợi ích. Hoặc phân làm năm, trong phần thứ ba trước, mở một bài tụng nêu bày lại phần biến nghĩa. Các giải thích như vậy thì thành lập tùy chỗ đáng nghĩa, tại sao chỉ gọi là Thành Duy Thức luận?
Đáp: Từ chỗ ban đầu nói rõ gọi là danh, nó nương vào Sở biến của Thức, như luận Du-già. Lại, từ đoạn thứ hai làm danh, phần giữa cũng có nói Duy thức, nghĩa là các thức chuyển biến v.v.... Hoặc từ chỗ mới đầu, giữa và sau nói rõ làm danh. Ở đoạn thứ ba nói: "Cho đến chưa khởi thức, cầu trụ Duy thức tánh v.v... Hoặc hai đoạn sau ý muốn giải thích mới đầu lược nêu. Hoặc tuy chỗ nói rõ thông tất cả pháp không gì chẳng là Duy thức, nên chẳng gọi các thứ khác. Lại, vốn muốn thành lập nghĩa Duy thức. Trên đây là ý kết quy của việc thành lập tên gọi Duy thức.
Trong giải thích đề mục có năm Duy thức làm Sở quán, ba tuệ làm Năng quán. Lại, cảnh giáo lý hạnh quả năm thứ Duy thức, như trong chương đó giải thích. Xứ xứ trong cảnh Duy thức, trong kinh căn cứ có các Dị thuyết, hoặc nương Sở chấp, hoặc căn cứ tạp nhiễm. Hoặc tùy Sở chấp và Hữu vi, hoặc chỉ tùy Hữu vi, hoặc tùy chỉ sự, hoặc tùy tất cả pháp không hữu để nói rõ Duy thức, mỗi mỗi có thành văn nghĩa như chương thuyết, y cứ trong cảnh giáo lý hạnh quả năm Duy thức, luận đây chỉ có nghĩa nói rõ cảnh Duy thức, xả bỏ thủ cảnh bên ngoài vì tất cả cảnh chẳng lìa tâm, như văn nêu bày đủ; có nghĩa chỉ nói giáo Duy thức, thành giáo của bản luận, vì giải thích kia nói; có nghĩa chỉ lấy lý
Duy thức, thành lập lý sở thuyết của bản giáo, vì phân biệt nghĩa tánh tướng của Duy thức; có nghĩa chỉ lấy hạnh Duy thức vì nói rõ năm vị tu Duy thức hạnh; có nghĩa chỉ lấy quả Duy thức, vì cầu đại quả an lạc, thân giải thoát vì đại Mâu-ni gọi là Pháp thân. Nay nương chánh nghĩa năm thứ đều phải, tuy nương phần thứ ba, nói là đã y cứ Thánh giáo và Chánh lý, phân biệt nghĩa tánh tướng Duy thức và nói: Nay ta giải thích thuyết kia cho rằng chỉ lấy giáo lý. Nói y cứ giáo lý thành tánh tướng kia, tánh tướng thì nhiếp hết tất cả. Tất cả đều lấy ở lý làm thù thắng.
Hỏi: Vì sao trong bốn y, khuyên y trí chẳng y thức? Luận đây gọi là Duy thức mà không gọi là Duy trí?
Đáp: Ba y còn lại cũng như vậy. Như phần giải thích danh trong chương Duy thức giải thích. Lại, Thích luận gọi là pháp, như Tông Luân thuật ký nói.
Trong phần "căn cơ tiếp nhận giáo hóa" có ba: một là Thuật dị, hai là Hội đồng, ba là Bị cơ. Thuật dị như kinh Pháp Hoa ghi: "Trong mười phương cõi Phật, chỉ có pháp Nhất thừa, không hai cũng không ba, trừ Phật phương tiện nói". Vì giáo căn cứ có thể có một cơ, kinh Niết-bàn cũng ghi: "Sư Tử Hống là quyết định nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, chúng sinh cũng vậy, thảy đều có tâm. Phàm, có tâm là đều sẽ đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, nên các chúng sinh chỉ có Phật tánh", lại căn cứ Nhiếp luận của Thiên Thân nói: "Vì thượng thừa hạ thừa có sai biệt, nên Bồ-tát Thanh văn mỗi mỗi có ba tạng, chẳng luận Độc giác, Bất định, Không tánh". Có giáo rộng khác thì phân làm hai. Độc giác, Không tánh đều không có tạng khác. Thượng hạ trí lực của trung căn trong mười lực v.v... cũng chỉ có hai". Căn cứ kinh Thiện Giới, luận Địa Trì lập làm hai: một là có tánh, hai là không có tánh. Vô thỉ Pháp nhĩ, vì sáu Xứ thù thắng cũng có tánh, chỉ do căn lành trời người mà không tánh đó thành tựu. Theo kinh Pháp Hoa cũng có thể nói có ba, với người cầu ba Thừa thì đem ba Thừa trao cho, nên luận kia ghi: "Bốn loại Thanh văn chẳng vì hạng thú hướng tịch tăng thượng mạn mà thọ ký, có quả thừa nên chỉ nói có ba". Theo kinh Niết-bàn cũng có ba, như người bệnh có ba:
1. Hoặc gặp hay chẳng gặp thầy thuốc quyết định có thể lành là Bồ-tát.
2. Gặp thì lành, không gặp thì chẳng lành là hàng Nhiếp thuộc.
3. Gặp và chẳng gặp đều chẳng thể lành là hạng người không tánh.
Theo kinh Đại Bát-nhã quyển 593, hội thứ 16 ghi: "Lúc Phật thuyết pháp bên cạnh bên cạnh ao Bạch lộ, Bồ-tát Thiện Dũng Mãnh thưa: Cúi mong đức Thế Tôn xót thương chúng con mà tuyên nói đủ cảnh trí của Như Lai. Nếu loại hữu tình ở Thanh văn thừa tánh quyết định, nghe pháp này rồi, chóng nương tự thừa mà được ra khỏi. Ở Vô thượng thừa tánh quyết định nghe pháp này rồi chóng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề. Nếu loại hữu tình tuy chưa vào chánh tánh lìa sinh mà ở ba Thừa tánh chẳng định, nghe pháp này rồi đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác. Cúi mong Đức Như Lai giải đáp điều con hỏi!" Kinh đây chỉ nói người có chủng tánh vào Thánh đạo, nên không có hạng người thứ năm là không có chủng tánh, Đại bi xiểnđề. Lại, người đoạn thiện chưa thể vào Thánh, ở đây cũng chẳng nói. Lại, trong kinh Thắng Man ghi: "Chúng sanh lìa thiện tri thức, không nghe phi pháp, do căn lành trời người mà thành tựu, người cầu Thanh văn thì trao cho Thanh văn thừa, cầu Duyên giác thì trao cho Duyên giác thừa, cầu Đại thừa thì đem Đại thừa trao cho. Đó gọi là nhiếp thọ chánh pháp, có khả năng gánh vác bốn thứ trọng trách". Trong đây, do chung theo riêng, có tánh làm ba, không tánh làm một. Lại y cứ ở cuối quyển 2 trong kinh Lăng-già bộ mười quyển, quyển 1 trong bộ bốn quyển nói, phần lớn cũng đồng: "Phật bảo Đại Tuệ: Có năm thứ tánh chứng pháp:
1. Tánh Thanh văn thừa.
2. Tánh Bích-chi-phật thừa.
3. Tánh Như Lai thừa.
4. Tánh Bất định tánh thừa.
5. Không tánh nghĩa là Nhất-xiển-đề. Đây có hai thứ:
1. Đốt cháy tất cả căn lành thì phỉ báng Bồ-tát tạng.
2. Xót thương tất cả chúng sinh, làm hết tất cả nguyện của chúng sinh giới là Bồ-tát.
Nếu chúng sinh chẳng vào Niết-bàn, ta cũng chẳng vào. Đại Tuệ thưa: Bạch đức Thế Tôn! Hai hạng người đó vì sao thường chẳng vào Niết-bàn? Phật dạy: Bồ-tát thường chẳng vào Niết-bàn chẳng phải đốt cháy căn lành là vì biết các pháp xưa nay là Niết-bàn, chẳng xả bỏ tất cả chúng sinh". Trong luận Đại Trang Nghiêm quyển 1 phẩm Chủng Tánh nói có năm thứ chủng tánh. Ba thừa định và chẳng định. Bốn, đồng Du-già. Trong tánh thứ năm nói có hai thứ: một là Thời biên, hai là Tất cánh.
Thời biên có bốn: Kệ tụng ghi:
"Một mực hành ác hạnh
Đoạn hết các Bạch pháp
Không có giải thoát phần
Thiện ít cũng không nhân".
Tất cánh không là vì không nhân. Thời biên trong đây nên gọi là tạm thời. Tiếng Phạm gọi là Niết-ca-la A-ba-lợi-nật-phược-nam Đạt-ma. Niết là tạm, Ca-la là thời, A gọi là không, Ba-lợi là viên, Nật-phược-nam là tịch, Đạt-ma là pháp. Thì pháp tạm thời không viên tịch. Nếu thời biên v.v... nên nói Ca-la Án-đa-a-ba-lợi-nật-phược-nam. Án-đa là biên, các từ khác nghĩa đồng như trước. Còn Dugià nói về năm tánh như sớ.
Tiếp theo thuật về đồng, ngoài ra các văn khác như trước tự càng hòa hợp. Như kinh Lăng-già nói về hai thứ xiển-đề: một là đoạn thiện căn có đủ tà kiến; hai là Bồ-tát đầy đủ đại bi. Hạng trước là có lúc vào Niết-bàn, hạng sau không hẳn như vậy, vì chúng sinh giới vô tận thời, hữu tình không tánh chẳng thành Phật. Bồ-tát Đại bi không kỳ hạn thành Phật. Nhưng tánh thứ năm hợp có ba thứ: một, gọi là Nhất-xiển-đề; hai, gọi là A-xiển-để-ca; ba, gọi là A-điên-để-ca. Nhất xiển-để-ca là nghĩa Lạc dục, vì ưa thích sinh tử. A-xiển-để-ca là nghĩa chẳng lạc dục, vì chẳng ưa thích Niết-bàn. Hại hạng đây thông ở hạng người đoạn căn lành, bất tín, ngu si che lấp, cũng thông với Bồ-tát Đại bi, vì được đại trí đại bi huân tập. A-điên-để-ca gọi là Tất cánh vì rốt ráo không có tánh Niết-bàn, người không tánh đây cũng được hai tên trước. Hai hạng trước dài lâu sẽ thành Phật, hạng sau ắt chẳng thành. Kinh Lăng-già chỉ nói đủ hai tên trước có tánh xiển-đề. Luận Trang Nghiêm nói luôn hai thứ xiển-đề có tánh và không tánh. Luận Du-già và kinh Lăng-già thì nói hai hạng đoạn thiện quả cũng ắt sẽ thành, vì hiện tại họ chưa trở thành người đoạn thiện căn. Kinh Lăng-già nói Đại bi do hiện tại nhất định thành quả cho nên ắt không thành, vì chúng sinh giới không có lúc cùng tận. Không có chủng tánh là hiện tại và tương lai rốt ráo cả hai đều chẳng thành. Hợp kinh và luận thì xiển-đề có ba: một là đoạn thiện căn; hai là Đại bi; ba là không có tánh. Khởi hiện hành, tánh có nhân có quả. Do ba hạng người đây và bốn tánh bốn câu trước phân biệt:
1. Nhân thành quả chẳng thành, gọi là xiển-đề đại bi.
2. Quả thành nhân chẳng thành, gọi là xiển-đề có tánh đoạn thiện.
3. Nhân quả đều chẳng thành, gọi là xiển-đề không tánh, Nhị thừa định tánh.
4. Nhân quả đều thành, gọi là đại trí tăng thượng, chẳng đoạn thiện căn mà thành Phật.
Tóm lại, kinh Niết-bàn căn cứ phần ít tất cả trong lý tánh và hạnh tánh, chỉ nói có một. Nhiếp luận căn cứ có tánh, căn lợi độn để nói rõ chỉ phân thượng hạ, kinh Thiện Giới y cứ có không mỗi loại riêng biệt, nói hai tánh có không. Lại nữa, kinh Niết-bàn y cứ có tánh lợi độn để phân làm hai, không tánh làm một, nên bị lỗi phân làm ba. Kinh Pháp Hoa giáo hóa chẳng định, chẳng phân biệt riêng. Tổng tướng nói ba, Bát-nhã nói thưa hỏi vào đạo, nói có tánh, chẳng phải không tánh. Kinh Thắng Man dụ như mang vác bốn thứ, ẩn tánh chẳng định, vì chung theo riêng chẳng vượt ba loại. Kinh Lăng-già ý cứ có tánh để biện sẽ thành và chẳng thành, tuy nói có năm, chẳng nói không có tánh. Trong luận Trang Nghiêm riêng phân biệt đầy đủ tánh của nhân quả đều chẳng hiện hành. Thứ năm lìa hai, chẳng nói đại bi. Luận Du-già luận chung có tánh không tánh của các loại chúng sinh, tuy bày năm thứ mà trong loại thứ năm chẳng nói Đại bi và đoạn thiện. Đại thừa có tánh, phần đông thừa nhận. Định tánh Nhị thừa và không có tánh, mọi người chấp nhận chẳng đều. Như luận Du-già quyển 67, Quyết Trạch phần nói.
Hỏi: Vì sao kinh Lăng-già chẳng nói không có tánh, luận Du-già chẳng nói Xiển-đề đại bi?
Đáp: Về căn cơ tiếp nhận sự giáo hóa thì thời và chúng mỗi riêng khác. Kinh Lăng-già hiển bày Bồ-tát Đại bi là tánh thứ năm, do năm thứ chủng tánh đều nói có nên ẩn không có tánh trong năm tánh mà không luận. Luận Du-già y cứ lý năm tánh loại sai biệt, giả sử đoạn thiện là vào trong tánh trước, căn cứ dụng tuy không có chủng nhưng Thể thì có, Đại bi đại thiện thì trong loại thứ nhất hoặc thứ tư, chỉ nói không có tánh là ở trong tánh thứ năm, do đó chẳng nói Bồ-tát Đại bi. Quyết Trạch quyển 67, có năm vặn hỏi hữu tình không có tánh:
1. Vặn hỏi nói không nghi khởi.
2. Vặn hỏi hữu tình không căn.
3. Vặn hỏi các cõi chuyển như nhau.
4. Vặn hỏi nên đủ các cõi.
5. Vặn hỏi không nên chuyển có. Đáp, tức có sáu:
1. Đáp giáo lý đều trái
2. Đáp giả thiết chẳng phải thông lệ
3. Đáp chẳng phải dụ trái lý
4. Đáp bình đẳng dụ không riêng biệt
5. Đáp trái pháp chẳng đồng đều
6. Đáp giả sử chuyển chẳng thành
Nghĩa là có vặn hỏi rằng: Vì sao mà có rốt ráo không pháp Niết-bàn ư? Nên hỏi vặn lại họ là: Các loại hữu tình các thứ giới tánh, vô lượng giới tánh, hạ liệt giới tánh, thắng diệu giới tánh là có hay là không? Nếu nói có là không có rốt ráo, không pháp Niết-bàn là chẳng xứng hợp đạo lý. Đây cũng trái lý, thì Duy thức nói có tánh Pháp nhĩ, không đây thì chẳng vậy. Nếu nói không là trong kinh nói các loại hữu tình có các thứ giới tánh cho đến thắng diệu giới tánh, chẳng xứng hợp đạo lý. Đây cũng trái kinh, không có tánh tức là hạ liệt giới nhiếp. Lại có vặn hỏi rằng: Hữu tình tuy có các thứ giới tánh cho đến thắng diệu giới tánh, mà nói hữu tình có căn không căn, như là không pháp Niết-bàn, tại sao chẳng phải như vậy? Hoặc nên thừa nhận hữu tình có căn không căn? Nên hỏi lại rằng: Các không căn ấy là hữu tình hay phi hữu tình? Nếu là hữu tình thì ngoài vật không căn, nên là hữu tình, giả thiết làm vặn hỏi, chẳng phải chỗ kẻ khác thừa nhận. Nếu chẳng phải hữu tình mà nói, sao chẳng thừa nhận hữu tình có căn không căn là chẳng xứng hợp đạo lý? Tánh chẳng phải không căn, làm sao lấy làm vặn hỏi? Lại có vặn hỏi rằng: Như làm Sát-đế-lợi rồi sau làm Bà-la-môn, Phệ-xá, Nhung-đạtla, như vậy cho đến làm Na-lạc-ca rồi hoặc cho đến làm trời. Như vậy, tại sao chẳng làm không có pháp Niết-bàn rồi, lúc sau lại làm có pháp Niết-bàn ư? Nên hỏi vặn lại rằng: Các loài cùng chuyển là có tất cả cõi hay riêng có một ư? Nếu có tất cả, thì dụ chẳng tương tợ, nó không phải tất cả nên chẳng phải dụ. Nếu riêng có một, trước là Sát-đế-lợi v.v... mới là chuyển làm các loại khác, chẳng xứng hợp đạo lý, vì trái với Chánh lý. Lại có vặn hỏi rằng: Như Sát-đế-lợi v.v... đủ tất cả cõi, như vậy không có pháp Niết-bàn, tại sao chẳng có pháp giới Niếtbàn? Nên hỏi vặn lại rằng: Có cõi không cõi là hỗ tương trái nhau hay chẳng vậy? Nếu hỗ tương trái nhau mà nói không có pháp, tại sao chẳng có pháp Niết-bàn chẳng xứng hợp đạo lý? Vì hỗ tương trái nhau, nếu chẳng hỗ tương trái nhau thì hữu tình đây là không, cũng có pháp Niết-bàn chẳng xứng hợp chánh lý, vì không thể riêng biệt. Lại có vặn hỏi rằng: Hiện thấy một nơi có một thời gian không có chủng tánh vàng, hoặc có lúc thì có, cho đến một lúc không chủng tánh muối, hoặc có lúc thì có, hoặc ở một lúc có tánh các cõi hoặc có lúc thì không. Như vậy, trước không có chủng tánh pháp Niết-bàn, tại sao chẳng ở một lúc thành chủng tánh có pháp Niết-bàn? Nên hỏi vặn lại họ rằng: Như một nơi trước không có tánh này, sau có tánh này. Hoặc trước có tánh này, sau không có, như vậy trước có chủng tánh Thanh văn, sau đó không có tánh đó, cho đến trước có chủng tánh Đại thừa, sau đó không có tánh đó, trước có tánh bất định, sau không có tánh ấy ư? Nếu nói như vậy là thuận giải thoát thiện nên rỗng rang không có quả. Lại, nếu như vậy thì lập chủng tánh định chẳng xứng hợp đạo lý. Nếu chẳng như vậy thì ông nói trước trụ không tánh, sau trụ có tánh. Như một nơi có chủng tánh là trước trụ có tánh sau trụ không tánh, thì nơi đó chẳng xứng hợp đạo lý. Lại nên trách họ không có pháp Niết-bàn hạ liệt giới là vì đời nay chuyển thành có tánh là ở đời sau. Nếu là đời nay gặp duyên kia rồi ở trong hiện pháp, là có thể khởi thuận giải thoát phần thiện hay là không thể? Nếu nói có thể là hiện khởi thiện căn mà nói không có tánh chẳng xứng hợp đạo lý. Nếu nói không thể, họ gặp duyên tốt hiện pháp không thể khởi thuận giải thoát thiện, mà nói chuyển thành pháp Bát Niếtbàn là chẳng xứng hợp đạo lý. Nếu nói đời sau mới thành có tánh, là đời trước họ chứa nhóm thiện căn, đời sau gặp duyên mới khởi thiện kia, là trước chẳng chứa nhóm. Nếu nói trước chứa nhóm, ở đời này họ gặp ngay duyên tốt năng khởi thiện căn, mà nói đời sau mới thành có tánh là chẳng xứng hợp đạo lý. Lại, như nhân kia nên rỗng rang không có quả, nếu trước chẳng chứa nhóm thì người này trước sau tương tợ đều chưa nhóm chứa thiện, mà nói đời sau mới thành có tánh chẳng phải đời nay là chẳng xứng hợp đạo lý.
Chứng Nhị thừa định tánh như phẩm Mười Thế Gian trong kinh Hoa Nghiêm quyển 40 ghi: "Phật tử! Vị đại Bồ-tát ở cung trời Đâu-suất lúc sắp mạng chung, có mười thứ quả hiện. Quả thứ ba là ở trong bàn tay phải phóng ánh sáng lớn gọi là thanh tịnh cảnh giới, đều khéo nghiêm tịnh đại thiên thế giới. Trong thế giới đây nếu có các Bích-chi-phật Vô lậu rõ biết ánh sáng đó, liền xả bọ thọ mạng mà vào Niết-bàn. Nếu chẳng rõ biết thì cũng nhân sức ánh sáng đó mà chuyển dời đến trong các thế giới khác ở phương khác". Trong luận Trang Nghiêm quyển 1 ghi: "Các hạng người khác thiện căn Niết-bàn có lúc hết, còn thiện căn của Bồ-tát thì không như vậy". Lại nói: "Chúng sinh ba Thừa do cõi sai biệt, nên chủng tánh sai biệt". Kinh Niết-bàn ghi: "Ở trong kinh, ta vì các Tỳ-kheo nói một Thừa một đạo một hạnh một duyên. Một Thừa như vậy cho đến một duyên, khéo vì chúng sinh làm Đại tịch tĩnh, trọn đoạn tất cả ràng buộc, sầu khổ, khổ và khổ nhân, khiến tất cả chúng sinh đến một cõi. Các đệ tử Ta nghe nói vậy rồi, chẳng hiểu ý Ta mà xướng rằng Như Lai nói Tu-đà-hoàn cho đến A-lahán đều được Phật đạo". Lại Nhiếp Đại Thừa làm mười nghĩa nên nói một Thừa, dẫn nhiếp tánh bất định. Lại, trong luận Pháp Hoa nói bốn thứ Thanh văn, là không vì thú hướng tịch tĩnh thọ ký. Kinh Lăng-già, luận Du-già có tánh sai biệt như vậy rất nhiều. Lập lượng rằng: Quả của Nhị thừa đáng lý phải có định tánh, vì thừa này bao hàm khắp như Đại thừa.
Người không chủng tánh chứng như kinh Niếtbàn quyển 36 ghi: "Này thiện nam tử! Nếu nói tất cả chúng sinh nhất định có Phật tánh, người như vậy gọi là phỉ báng Phật, Pháp, Tăng. Nếu nói tất cả nhất định không có Phật tánh, người ấy cũng gọi là phỉ báng Phật pháp tăng". Lại, trong kinh Niếtbàn ghi: "Thí như người bệnh, họ có ba thứ: một, nếu gặp thầy hay thuốc tốt hoặc chẳng gặp hẳn sẽ được lành; hai, nếu gặp thì lành, chẳng gặp thì không lành; ba, gặp hay chẳng gặp đều chẳng thể lành. Như vậy, thứ nhất là định tánh Đại thừa, kế tiếp là bất định tánh và thứ ba là định tánh Nhị thừa và không có tánh". Lại, trong kinh Niết-bàn ghi: "Này thiện nam tử! Tranh cãi như vậy là cảnh giới Phật, chẳng phải chỗ các Thanh văn Duyên giác biết được. Nếu người nào đối với đây sinh tâm nghi ngờ là còn có thể dẹp hoại vô lượng phiền não như núi Tu-di, nếu đối với đây sinh khởi quyết định, đó gọi là chấp trước, chấp trước như vậy, chẳng gọi là thiện". Lại, cũng trong quyển 36 ghi: "Này thiện nam tử! Tuy ta nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, chúng sinh chẳng hiểu Phật như vậy v.v... là tùy tự ý nói. Này thiện nam tử! Nói như vậy là Bồtát hậu thân còn chẳng thể hiểu, huống gì hàng Nhị thừa hay các Bồ-tát khác". Lại, bảy người nói về sông Hằng, người thứ bảy thường chìm đắm. Lại, trong kinh Thiện Giới Phẩm Chủng Tánh ghi: "Người không chủng tánh tuy là phát tâm chuyên hành tinh tấn, trọn chẳng thể được Vô thượng Bồđề". Lại, kinh kia ghi: "Người không chủng tánh chỉ do thiện căn trời người mà thành tựu". Lại trong luận Trang Nghiêm nói pháp không Niết-bàn có hai: một là Thời biên, hai là tất cánh (rốt ráo), như trước đã nói. Lại, trong kinh Thắng Man ghi: Chúng sinh lìa thiện tri thức không nghe phi pháp, do thiện căn trời người mà thành tựu đó v.v... Trong kinh Kim Cang ghi: Mao đạo sinh, nay gọi là Ngu phu sinh. Tiếng Phạm gọi là Bà-la, Hán dịch là Ngu phu, vốn sai nhầm là Phược-la, mới nói là Mao đạo. Vô Tánh lập lượng rằng: Chỗ gọi là không tánh, quyết định nên có, có không hai tánh tùy một nhiếp. Như có tánh là, hoặc chỗ Thánh nói, như nói có tánh, trong các kinh luận, hoặc chỉ có chánh tông, không phần tựa và lưu thông, như luận Du-già v.v... hoặc chỉ có phần đầu và giữa mà không phần sau, như luận Hiển Dương v.v... Hoặc chỉ có phần giữa và sau không có phần đầu, như Tập luận, Nhị Thập Duy Thức v.v... hoặc ba phần đều có, như luận Thành Duy Thức v.v... Bản của pháp sư Chân Đế phiên dịch Nhị Thập Duy Thức, ba phần đều có, bản của Pháp sư Bồ-đề-lưu-chi phiên dịch và bản của Đại Đường (Pháp sư Huyền Trang) đồng không phần đầu mà chỉ có hai phần còn lại, không chỉ phần đầu và sau mà không cả phần giữa, vì người tạo luận hẳn có chỗ nói rõ.
Giải thích nghĩa "khể thủ", như trong chương đó giải thích. Trong giải thích các quy kính Tam bảo, chỉ có quy Phật, chẳng có pháp Tăng, như kinh Địa Trì bản Cựu dịch ghi: "Kính lễ quá khứ vị lai và đời hiện tại tất cả Phật Thế Tôn". Trong luận Phát Bồ-đề Tâm ghi: "Kính lễ không ngằn mé, khứ lai hiện tại Phật, Trí chẳng động như Không, Đại bi Tôn cứu thế". Bài tụng đầu quy kính Phật trong luận Câu-xá cũng chỉ có kính Tăng mà chẳng có Phật và pháp. Như luận Biện Trung Biên ghi: "Kính lạy tạo luận này, chỗ thể Thiện Thệ sinh, và thầy dạy ta thảy, sẽ chuyên bày nghĩa đây", chỉ không có kính pháp. Mở đầu Nhị Thập Duy Thức bản Cựu dịch chỉ quy kính Phật pháp, ghi: "Tu đạo chẳng cùng khác, năng nói nghĩa không đồng, đảnh lễ lý Đại thừa, sẽ nói lập và phá", chỉ có kính lễ Phật và tăng mà không kính pháp, như luận Thập Trụ của Long Thọ ghi: "Kính lễ tất cả Phật và các chúng Bồ-tát, Thanh văn, Bích-chi-phật, vô ngã và ngã sở", chỉ có kính lễ Pháp và Tăng mà không kính Phật. Như luận Kim Cang Bát-nhã của Thế Thân ghi: "Pháp môn cú nghĩa và thứ đệ, thế gian chẳng hiểu lìa minh tuệ, đại trí thông đạt dạy ta thảy, quy mạng thân vô lượng công đức". Trong luận Tạp Tâm của Pháp Cứu cũng ghi: "Kính lễ tôn pháp thắng, chỗ nói ta đảnh thọ, ta Đạt-ma-đa-la, nói kia chưa từng nói". Đây đều là kính lễ luận chủ và luận được tạo". Có kính lễ cả Tam bảo, tức các bộ luận Hiển Dương, Đối Pháp, Nhiếp Đại Thừa, Phật Địa và luật Tứ Phần v.v... như vậy rất nhiều. Trong kính lễ Phật, chỉ có kính lễ Pháp thân mà không hai thân còn lại, như bài tụng quy kính đầu tiên trong luận Bát-nhã Đăng. Đầu kinh Lăng-già ghi: "Quy mạng biển Đại trí, Phật Tỳ-lô-giá-na". Đây tuy chỗ đặt của kinh chủ, chỉ kính lễ Pháp thân. Trong kinh Niết-bàn ghi: "Nếu năng chấp Tam bảo thường trụ đồng chân đế, Phật tức là Pháp, Pháp tức là Tăng". Trong kinh Thắng Man lại ghi: "Quy y nói đạo Nhất thừa, pháp và chúng ba Thừa". Hai thứ đây chẳng phải quy y rốt ráo. Nếu có chúng sinh được Như Lai điều phục, cho đến quy y Pháp Tăng là hai quy y chẳng phải hai quy y, là quy y Như Lai. Tại sao? Vì không khác Như Lai, không khác hai, quy y Như Lai tức ba quy y. Đây là Như Lai chính là Sư Tử Hống, chỉ có kính lễ thân thọ dụng mà không lễ hai thân còn lại, như trong luận Phát Bồ-đề Tâm nói. Chỉ kính lễ Thật trí thật bi của Phật, chỉ kính lễ Hóa thân mà không hai thân còn lại, như Bảo Tích ghi: "Mắt tịnh tu rộng lớn như hoa sen sinh v.v...". Có kính lễ Báo thân và Hóa thân mà không có Pháp thân, như kinh Địa Trì bản Cựu dịch ghi: "Kính lễ đời quá khứ vị lai, hiện tại tất cả Phật Thế Tôn". Có kính lễ đủ cả ba thân, như luận Hiển Dương ghi: "Thiện Thệ, Thiện Thuyết, diệu ba thân". Luận Đối Pháp, luận Phật Địa mở đầu kính lễ đều đồng. Có đồng thể Tam bảo, như ở kinh Niết-bàn, kinh Thắng Man nói. Có thông cả đồng thể và biệt thể, như luận Đối Pháp v.v... nói. Không chỉ kính lễ biệt thể, chẳng phải đồng thể và chỉ kính lễ Nhậm trì tam bảo.
Trong kính lễ Phước điền lại có ba giải thích: một, kính lễ Niết-bàn mà chẳng phải Bồ-đề; hai, kính lễ Bồ-đề mà chẳng phải Niết-bàn; ba, đều kính lễ cả Bồ-đề và Niết-bàn. Thứ nhất, kính lễ Niết-bàn mà chẳng phải Bồ-đề là Niết-bàn có bốn nghĩa: Thể tánh tuy tịnh mà tại thiền, gọi là nhân phần. Phần, tức là vị. Nay chỗ kính lễ ý quy hướng mãn vị, lấy tánh Chân như làm nơi mê ngộ nương tựa, mê nên sinh tử, ngộ nên Niết-bàn. Có xả có đắc, chân tuy tánh tịnh, lúc lìa tạp nhiễm, giả nói là mới tịnh, gọi là chuyển y, tuy cũng đắc Bồ-đề, mà nay chẳng phải chỗ kính lễ. Ở quyển 9 ghi: "Hàng Nhị thừa mãn vị, gọi là thân giải thoát, tại đại Mâu-ni, gọi là Pháp thân". Nay Duy thức tánh là mãn phần tịnh, gạt bỏ ở nhân vị, chẳng gọi là
Pháp thân. Lại, Niết-bàn đây tùy giả thật đó, gồm có bốn thứ: Duy thức tánh và tự tánh thanh tịnh Niết-bàn. Mãn thanh tịnh là hai thứ Niết-bàn Hữu dư và Vô dư, cốt yếu lúc quả viên mới chứng đắc. Phần thanh tịnh tức là Vô trụ xứ Niết-bàn, thừa nhận quả vị Thập địa đã chứng đắc. Niết-bàn tuy có bốn, thể gần Chân như. Lại, văn luận sau ghi: Lại vì mở bày làm chấp ngã pháp, mê Duy thức, khiến đạt hai Không, đối với lý Duy thức, như thật biết". Đây vì Chân như, mê ngộ nương tựa nên thiên lệch kính lễ. Lại, Niết-bàn của Nhị thừa chỉ mượn Trạch diệt, Đại Bát Niết-bàn, ba sự viên mãn. Ba sự có hai:
1. Thể có ba, gọi là ba sự.
2. Nghĩa có ba gọi là ba sự, trí tuệ năng quán, Pháp thân sở quán, lìa các ràng buộc, gá nhờ trạch diệt v.v... gọi là giải thoát, gọi là thể có ba sự.
Tuệ bản tánh trên một Chân như nên gọi là Ma-ha-bát-nhã, quả vị của xuất triền, công đức pháp vốn gọi là Pháp thân. Tánh lìa sinh tử ràng buộc, gọi là giải thoát. Nghĩa trên một thể có ba nên gọi là nghĩa, ba sự tùy chỗ ứng đó, Nhị thừa chỉ được một giải thoát, ba Thừa đồng tòa. Nay quy kính Đại Bát Niết-bàn, gọi là Mãn phần tịnh. Tiếp đến, quy kính Bồ-đề mà chẳng phải Niết-bàn là Bồ-đề tức là pháp phẩm của bốn trí. Hai trí tại nhân có được, đó là trí Diệu quán và Bình đẳng, hai trí còn lại có được trong quả, nói chung là đã được nhân Bồ-đề. Nay hiển bày chỗ kính lễ, ý lấy ở mãn phần, tuy thông quả vị Nhị thừa. Nay lấy Đại thừa hai chướng đều hết gọi là thanh tịnh, vì Bồ-tát ý thú Bồ-đề mà không thú hướng Niết-bàn. Do đó, đoạn chướng chỉ đoạn Sở tri chướng, vẫn còn Phiền não chướng. Niết-bàn thông được, Bồ-đề riêng thành, nay hiển bày chỗ kính lễ khác với Nhị thừa và hiển bày đắc quả khác với Nhị thừa, nên chỉ kính lễ Bồđề mà chẳng kính lễ Niết-bàn. Bài tụng trong Nhiếp luận ghi:
"Phiền não núp chẳng diệt
Như chú độc làm hại
Còn Hoặc đến Hoặc hết
Chứng Nhất thiết trí Phật".
Nay luận nói Duy thức tánh, đây là Bồ-đề sự Duy thức tánh, cũng tức là Chân như, hiển thể tánh sở chứng của Bồ-đề, mà ý lấy người năng chứng Bồ-đề. Lại, Bồ-đề thông cả trí nhân quả. Hai trí trong nhân là phần thanh tịnh, hai trí trong quả là mãn thanh tịnh nên đều quy kính và sau cùng là quy kính cả Bồ-đề và Niết-bàn. Duy thức tánh là Niết-bàn, Mãn phần thanh tịnh là Bồ-đề, ý hiển bày Niết-bàn vốn tánh tịnh nên không nói Mãn phần. Đại Bồ-đề đó là pháp phẩm của bốn trí, nhân thời đã được mà chẳng tròn sáng, nay chỉ lấy quả mãn phần tịnh nên mỗi mỗi riêng khác. Phần thứ chín ở sau ghi: "Do luôn tu tập trí không phân biệt, đoạn hai chướng thô trọng của bản thức, nên khéo chuyển bỏ Biến kế sở chấp trên Y tha khởi, và khéo chuyển đắc tánh Viên thành thật trong Y tha khởi. Do chuyển phiền não đắc Đại Niết-bàn, chuyển Sở tri chướng chứng Vô thượng giác, thành lập Duy thức, ý vì hữu tình chứng đắc hai quả chuyển y như đây, nên nay quy kính". Ở đây muốn nói, Thích luận chỉ kính lễ hai quả Bồ-đề và Niết-bàn, chẳng kính lễ gì khác, nên lời tựa trong đoạn sau ghi: "Đoạn chướng là đắc hai quả thù thắng". Cho đến nói rộng là do đã chứng ở trước, nên luận sư này mới tạo luận. Nay Thích luận ý kính lễ phải đồng, tức lấy sở thú hướng làm pháp sở kính, nếu chẳng kính tức là chẳng thú hướng. Tuy có bảy giải thích quy hướng kính điền, nhưng nương nghĩa gốc, chỉ lấy nhân mà chẳng phải pháp trong bốn giải của sớ, bản và thích hai sư, vì Duy thức tánh trong chuyển thanh thứ bảy nói là thanh chứ không phải chỗ nương của thanh, vì tiếng thứ bảy thông cả căn cảnh. Đây là năng sai biệt, Mãn phần tịnh là làm sở sai biệt. Nói trong chuyển thứ tư, vì tất cả chỗ kính lễ đều lấy chỗ thứ tư làm thanh, nếu Duy thức tánh thì chỗ kính lễ cũng phải thuộc về chuyển thứ tư. Nhưng y cứ Tô-mạn-đa thanh thì có tám chuyển:
1. Nễ-lợi (hai chữ trên hợp thanh) Đề-thế (Hán dịch là Thể thanh, cũng gọi là Phiếm thuyết thanh);
2. Ô-ba-đề-xá-ni (Hán dịch là Nghiệp thanh, cũng gọi là sở thuyết thanh);
3. Yết-điệt-lợi (hai chữ trên hợp thanh) La-nê (Hán dịch là Năng tác cụ thanh, cũng gọi là năng thuyết thanh);
4. Tam-bát-la (hai chữ trên hợp thanh) Đà-nễkê (Hán dịch là Sở vi thanh, cũng gọi là sở dữ thanh);
5. Bao-ba-đà-nê (Hán dịch là Sở tùng thanh);
6. Sa-nhĩ-bà-giả-nể (Hán dịch là Sở thuộc thanh);
7. San-nể-đà-na-la-thê (hai chữ trên hợp thanh, Hán dịch là Sở y thanh);
8. A-mạn-đát-la (hai chữ trên hợp thanh) Nê (Hán dịch là Bình thanh).
Tổng cộng có tám chuyển, trong đây mỗi mỗi tiếng của một lời hai lời nhiều lời, hợp có hai mươi bốn tiếng. Lại có tiếng nam, tiếng nữ, tiếng phi nam phi nữ, lại mỗi thứ có hai mươi bốn, hợp cả tổng và biệt có chín mươi sáu tiếng. Tiếng nam tám chuyển là:
1. Bà-bà-na.
2. Bà-đa-na-đảm.
3. Bà-bà-đa.
4. Bà-bà-đê.
5. Bà-ba-đa-bao.
6. Bà-bà-na-đa-a.
7. Bà-bà-để.
8. Chuyển đầu tiên ở trên thêm chữ Hê.
Tiếng nữ tám chuyển là:
1. Bà-bà-na-đế.
2. Bà-bà-na-để-ma.
3. Bà-bà-na-để-dạ (hai chữ trên hợp thanh).
4. Bà-bà-na-đới.
5. Bà-bà-na-để-dạ (hai chữ hợp) bao.
6. Bà-bà-na-để-dạ (hai chữ hợp) tăng.
7. Bà-bà-na-để-dạ (hai chữ hợp) ma.
8. Chuyển đầu tiên ở trên thêm chữ Hê. Tiếng phi nam phi nữ tám chuyển là:
1. Bà-bà-đa.
2. Bà-bà-đa.
Chuyển thứ ba ở dưới hơi gần tiếng nam, đã không có chữ riêng biệt do đó chẳng phát ra. Các chữ cước chú trên v.v... là y cứ tứ thanh mà gọi. Chú thích chữ "phản" là dùng phương pháp phiên chữ mà đọc, chú thích "hai hợp" là hai chữ đọc liền tiếng, chú thích "khinh trọng" là tùy khinh thanh hay trọng thanh mà đọc, trong đó cũng có toàn tiếng nửa tiếng, sợ dài dòng nên không trích ra đây, những chữ "Bà" đều đọc theo thượng thanh. Nhưng luận Du-già quyển 2, bảy chuyển thanh cũng gọi là bảy câu ví dụ, y cứ trong một tiếng nam, chỉ nêu bảy chuyển của một trượng phu, trừ cách gọi thứ tám. Trước là tổng mục tất cả trong tiếng nam nên đây chẳng đồng. Luận kia cũng gọi là Thất ngôn luận cú:
1. Bổ-lô-sa (hiệp phu thể).
2. Bổ-lô-sam.
3. Bổ-lô-tư-noa.
4. Bổ-lô-sa-da.
5. Bổ-lô-sa-đa.
6. Bổ-lô-sát-bà.
7. Bổ-lô-sát.
8. Thứ tám thêm tiếng gọi là Hê-bổ-lô-sa.
Nếu nói Mê-phú-để là thể riêng của tiếng nữ. Nếu nói Nạp-phùng-sách-ca là thể riêng của tiếng phi nam phi nữ. Nhưng có riêng đặt để, chỉ là bảy chuyển. Thứ tám mới là hô thanh của Phiếm nhĩ, lại không nêu riêng.
Duy thức tánh nói cảnh thứ bảy, lược có hai giải thích:
1. Nương ba tánh.
2. Nương hai đế.
Nương ba tánh là Duy thức luận quyển 9 ghi: "Duy thức tánh, lược có hai thứ: một là hư vọng, nghĩa là kế sở chấp; hai là chân thật nghĩa là tánh Viên thành thật. Lại có hai thứ:
1. Thế tục nghĩa là Y tha khởi.
2. Thắng nghĩa nghĩa là Viên thành thật, nên biết ba tánh đều gọi là Duy thức tánh".
Ba tánh có hai thể:
1. Môn thường và vô thường; thường là Viên thành, chỉ cho Chân như, tất cả hữu vi đều y tha khởi.
2. Môn Hữu lậu Vô lậu.
Tất cả Vô lậu đều Viên thành thật, các pháp Hữu lậu đều y tha khởi. Bồ-đề Niết-bàn đều viên thành, như quyển 8 có luận về điều này.
Y cứ ba tánh đầu tiên lược có mười lớp:
1. Chỉ nói Chân như là viên thành, gọi là bản thật tánh, chứng thanh tịnh đây gọi là nội chứng tịnh;
2. Tổng nói Vô lậu là viên thành, Bồ-đề Niếtbàn đều là Duy thức tánh, gọi là Bồ-đề tánh, được ngộ tịnh, Bồ-đề, Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề;
3. Tổng nói Hữu vi y tha, sự thức tánh, ngộ tục tịnh;
4. Chỉ nói Hữu lậu y tha. Huyễn thức tánh, đoạn trừ tịnh;
5. Chỉ nói sở chấp, vọng thủ tánh, khiển trừ đoạn tịnh;
6. Viên thành đối y tha, chân tục tánh, đoạn được tịnh;
7. Viên thành thật đối sở chấp, chân vọng tánh, khiển trừ chứng tịnh;
8. Do y tha khởi đối sở chấp, tâm cảnh tánh, khiển trừ đoạn tịnh;
9. Do viên thành đối y tha sở chấp huyễn thật tánh, thủ xả tịnh;
10. Do viên thành y tha đối sở chấp, không hữu tánh, khiển trừ ngộ tịnh.
Chỉ không do viên thành sở chấp đối y tha làm Duy thức tánh, vì cách vượt. Lại, lý không như vậy, y cứ hai Đế sau biện Duy thức tánh. Luận Dugià quyển 64 ghi: "Thế tục có bốn: một là Thế gian thế tục; hai là Đạo lý thế tục; ba là Chứng đắc thế tục; bốn là Thắng nghĩa thế tục". Duy Thức quyển 9 ghi: "Thắng nghĩa đế có bốn: một là Thế gian thắng nghĩa; hai là Đạo lý thắng nghĩa; ba là Chứng đắc thắng nghĩa; bốn là Thắng nghĩa thắng nghĩa". Nay, lược làm ba loại: một là tổng biệt tương đối; hai là các biệt khác tương đối; ba là các tổng khác tương đối; bốn lớp hai Đế như trong chương đó giải thích.
Thứ nhất: Tổng biệt tương đối, làm thành bốn câu:
1. Vì tục tổng đối chân biệt có một câu, vượt quá bốn tục của chân chỉ có một sau. Nghĩa là an lập, chẳng phải an lập Duy thức tánh.
2. Vì tục biệt đối chân gồm có bốn câu, chân của thắng tục cả bốn đều là:
Vì tục đầu tiên đối bốn chân khiển trừ ngộ tánh.
Vì tục thứ hai đối ba chân, đoạn tri tánh.
Vì tục thứ ba đối hai chân, giải tu hành.
Vì tục thứ tư đối một chân, giác chứng tánh;
3. Vì tục tổng đối chân, gồm chỉ có câu, nghĩa là chân tục Duy thức tánh;
4. Vì tục biệt đối chân, biệt có bốn câu: Mỗi mỗi lần lượt mỗi mỗi trông nhau làm bốn câu:
a. Tâm cảnh tánh.
b. Sự lý tánh.
c. Biệt tổng tánh.
d. Chứng chỉ tánh.
Tục thứ nhất làm cảnh, chân thứ nhất làm tâm. Tục thứ hai làm sự, chân thứ hai làm lý. Tục thứ ba làm biệt, vì lý bốn Đế, chân thứ ba làm tổng, vì lý hai Không. Tục thứ tư làm thuyên, y cứ Không môn, chân thứ tư làm chỉ, phế thuyên luận. Tương đối như vậy, hợp thành mười câu.
Thứ hai, các biệt khác tương đối có hai loại: Loại một có bốn câu, nghĩa là vì tục thứ nhất đối Chân như, gọi là vọng như. Vì tục thứ hai đối gọi là sự như, vì tục thứ ba đối, gọi là lý như, vì tục thứ tư đối gọi là quán như. Loại hai có mười câu, nghĩa là vì tục thứ nhất đối bốn biệt chân làm bốn câu, vì tục thứ hai đối ba biệt chân làm ba câu, vì tục thứ ba đối hai biệt chân làm hai câu, vì tục thứ tư đối một biệt chân làm một câu. Như vậy hợp có mười bốn câu.
Thứ ba, trong các tổng khác tương đối có ba loại:
Vì hai tục đối chân có mười câu, vì hai tục thứ nhất biệt đối một trong chân có ba câu, chẳng đối chân thứ nhất, tức tục thứ hai, Thắng tục gọi là chân, vì nó đồng đều, tức vì hai tục đây đối hai chân có hai câu, cũng trừ chân thứ nhất, vì hai tục đây đối ba chân có một câu, như vậy hợp có sáu câu. Tiếp theo, vì tục thứ hai thứ ba đối một trong chân có hai câu, đối hai trong chân có một câu, không đối ba là vì cũng ngang bằng. Như vậy hợp có ba câu. Tiếp theo, vì tục thứ ba thứ tư đối chân chỉ một câu, các chân khác ngang bằng và thể kém nên chẳng thể làm câu.
1. Vì ba tục đối chân có bốn câu, nghĩa là vì ba tục thứ nhất đối chân một có hai câu, đối chân hai có một câu, trừ tục thứ nhất. Vì ba tục sau đối chân cũng chỉ một câu.
2. Vì bốn tục đối chân có một câu, chẳng đối ba chân trước, như vậy hợp có mười lăm câu, mỗi mỗi có tên riêng, sợ dài dòng nên tạm dừng ở đây, người trí cần tư duy.
Hai đế như vậy hợp có ba mươi chín câu Duy thức tánh, và trong ba tánh hợp có bốn mươi chín câu, không có vì tục đối chân khoảng giữa cách vượt làm câu, cũng không vì chân đối tục ngang bằng và kém pháp làm câu, bởi liền trở thành chẳng phải thắng nghĩa. Nếu thể không tức là tịnh khiển trừ, Hữu lậu tức là tịnh đoạn. Vô lậu là được ngộ tịnh, tùy theo đó mà biết đủ. Duy thức đây v.v... đều năng sai biệt, là cảnh của sở quy, sai biệt ở hai tịnh mãn phần. Nếu chỗ quy kính là Duy thức tánh, chỉ lấy tánh vốn thật thứ nhất trong ba tánh và tánh Bồ-đề thứ hai, chẳng phải lấy tất cả, ngoài ra chẳng phải đáng kính.
Hai câu tụng sau trong ý tạo luận lược có năm câu:
1. Chỉ vì pháp mà chẳng vì nhân, muốn khiến pháp nghĩa phải rộng lưu truyền, tuy luận nói phô lợi lạc hữu tình. Hữu tình lợi lạc, khiến pháp chẳng diệt, vì câu dưới thích câu trên, như nói "hữu tình nương giáo tu hành, chủng tánh Tam bảo chẳng đoạn tuyệt". Do đây, trong luật nói: "Nay nói pháp Tỳ-ni, khiến chánh pháp trụ lâu". Chẳng nói sự lợi sinh.
2. Chỉ vì hữu tình, chẳng vì chánh pháp, Bồ-tát tu hành vốn vì lợi sinh, tuy thích kia nói ý vì lợi lạc các hữu tình, nên hiển bày câu trên giải thích câu dưới. Trong luận Hiển Dương nói "Hiển Dương Thánh giáo từ bi". Văn ước lược, nghĩa tròn đầy mà dễ hiểu.
3. Cả hai đều vì pháp lợi hữu tình, câu thứ ba thứ tư như lần lượt phối đó, nên trong luận Phật Địa ghi: "Vì pháp trụ lâu cứu quần sinh."
4. Chỗ vì không trụ Niết-bàn, giải thích nói đại trí, lợi lạc đại bi, hai thứ huân tu nhanh chóng chứng đắc không trụ Niết-bàn. Sinh tử và Niết-bàn cả hai đều chẳng trụ. Nên luận Đối Pháp ghi: "Do ngộ Khế kinh và giải thích, bèn phát chánh cần và tham tống", ý đây là được không trụ Niết-bàn, cũng có thể nói cả hai chẳng phải nhân pháp.
5. Tự lợi lợi tha, khiến pháp trụ lâu, ba nghĩa nên tạo luận, giải thích nói khiến pháp trụ lâu, lợi lạc thêm cho kẻ khác, hai đây đã thi thiết tức là tự lợi nên trong luận Nhiếp Đại Thừa ghi: "Vì lợi tự tha, pháp trụ lâu".
Ta lược giải thích luận Nhiếp Đại Thừa, nên lập năm ý mà tạo luận. Trong luận Du-già giải thích: "Nay nói luận đây, nguyên do thế nào? Nghĩa là có hai duyên nên nói luận này: một là vì chánh pháp trụ lâu nơi đời; hai là vì lợi lạc các hữu tình. Lại có hai duyên: một là giáo đã ẩn mất, khiến khai mở lại, chưa ẩn mất thì gấp bội hưng thạnh; hai là các hữu tình có tánh tu thiện được quả tự thừa, còn không tánh tu thiện được quả trời người. Hai giải thích trên tùy lần lượt đó phối hai câu bài tụng sau. Lại có hai duyên: một là đối với nói không, kinh chẳng liễu nghĩa, như nói chấp trước ghét ganh hữu giáo xả bỏ không kiến; hai là đối với nói Hữu Kinh chẳng liễu nghĩa, như nói chấp trước ganh ghét không giáo xả bỏ hữu kiến. Thích đây chỉ vì lợi ích hữu tình trừ hai kiến. Hoặc năng học sở học phân nhân pháp nên tùy hai câu giải thích. Lại có hai duyên: Một là vì chủng tánh Bồ-tát chỉ nương Đại thừa giáo, khắp ở các thừa văn nghĩa hạnh quả, sinh trí xảo tiện, đoạn chướng tu thiện, chứng Bồđề Phật, cùng tận ngằn mé ở tương lai thường hai lợi vậy; Hai là vì chủng tánh các thừa khác và kẻ không tánh, cũng nương đại giáo, mỗi mỗi ợ tự thừa văn nghĩa hạnh quả sinh trí xảo tiện, đoạn phục chướng tu tự thiện, ra khỏi ba cõi, vượt ác thú. Duy thức giáo đây cũng được nói là thú tất cả thừa, đầy đủ không và hữu. Đều có thể phối hai câu và có nhân pháp. Lại có hai duyên: một là vì hàng ngoại đạo Tiểu thừa ngu si do dự sinh tiên hiểu vậy; hai là vì đối với ý kinh, tâm mê lầm phỉ báng sinh tâm tin. Đây chỉ vì hữu tình, cũng có thể ngược lại thứ lớp phối xem. Lại có hai duyên: một là vì ưa vui lược siêng tu hành, góp nhặt các kinh nghĩa pháp quảng yếu mà lược phân biệt; hai là vì ưa thích rộng siêng nói pháp, ở nơi mỗi mỗi pháp mở bày vô biên nghĩa riêng; Hai nghĩa đều thông cả pháp và nhân. Lại có hai duyên: Một là hiển bày thật tướng lập chánh luận vậy; Hai là trừ vọng chấp phá tà luận. Đây chỉ vì pháp, cũng có thể không vì nhân tức năng học. Lại có hai duyên: một là hiển bày Biến kế sở chấp tình có lý không, y tha viên thành lý có tình không, khiến bó tăng tích tổn giảm chấp; hai là hiển bày đạo lý, thế gian, chứng đắc, thắng nghĩa, pháp môn sai biệt, khiến tu hai Đế không hiểu biết điên đảo, đây chỉ vì pháp. Lại có hai duyên: một là vì khai mở Tùy chuyển lý môn chân thật, khiến biết hai tạng ba tạng chẳng trái nhau; hai là vì khai mở nhân duyên Duy thức không tướng lý môn Chân như, khiến tu quán hạnh có sai biệt. Lại có duyên: một là vì bày biện cảnh giới sai biệt, khiến biết tự tánh tướng trạng quả vị sai biệt của các pháp; hai là vì hiển bày tu hành sai biệt khiến biết ba Thừa phương tiện căn bản quả chứng sai biệt. Trong đây chỉ vì pháp mà chẳng phải nhân, cũng có thể thông cả nhân tức năng học. Tổng nói kệ tụng:
"Pháp tình, khai, hữu không Tánh thông và trong ngoài Lược, bày đồng, ba bốn Hai bốn, cảnh hạnh quả".
Sáu mươi hai thứ hữu tình, có kệ tụng:
"Năm, bốn, ba, ba, bốn Ba, hai, và ba, bảy Mười chín, bốn, bốn một Nên hữu tình là nhiều".
Năm nẻo là năm, bốn họ là bốn, nam nữ phi nam phi nữ là ba. Kém và diệu là ba. Tại gia xuất gia khổ hạnh phi khổ hạnh là bốn. Luật nghi chẳng luật nghi phi luật nghi phi chẳng luật nghi là ba. Lìa dục chưa lìa dục là hai, tà tánh định chánh tánh định chẳng định tụ định là ba. Năm chúng xuất gia cận sự nam cận sự nữ là bảy. Người tập đoạn, người tập tụng, người tịnh khí, tuổi già, trung niên, tuổi trẻ, quỹ phạm sư, thân giáo sư, đệ tử cùng ở gần, khách, người làm việc chúng tăng. Người tham cung kính lợi dưỡng, người chán bỏ, người nghe hiểu, người phước trí lớn, người pháp tùy pháp hạnh, người trì kinh người trì luật, người trì luận là mười chín. Dị sinh, kiến đế, hữu học, vô học là bốn, Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai là bốn, Chuyển luân vương là một, hợp gọi là sáu mươi hai thứ hữu tình.
Luận, nay tạo luận đây v.v... là trong sớ có hai giải thích: một y nhân, hai y pháp. Đều y năng mê, nếu giải thích thứ hai y sở mê, sinh pháp ngã không, chấp hữu gọi là sai nhầm, chẳng ngộ không ngã gọi là kẻ mê. Vì trừ tình chấp khiến sinh chánh giải, chánh trừ sai nhầm đó, giải đoạn mê đó, chấp tình đoạn nên sở chấp bèn khiển trừ sinh chánh giải, nói khiển trừ sở chấp, sinh giải là đoạn hai lớp chướng v.v... rõ đoạn y tha, thanh tịnh y tha, viên thành nhiếp. Đại Bồ-đề, chân giải thoát, phàm phu, Nhị thừa, Bồ-tát, mỗi mỗi tự là đại bi, Bồ-đề v.v... các câu. Lại vì phàm phu đối Nhị thừa đối Bồ-tát, vì Nhị thừa đối Bồ-tát là câu đều được, như vậy hợp có sáu đối. Tự đối là ba, trông nhau là ba. Bồđề đó sánh như giải thoát, hợp làm mười hai câu. Nếu ngộ đoạn được quả giải hai lớp chướng, chướng chỉ hai chấp, vì căn bản vậy, tức chìm nghĩa sau là trùng nghĩa. Nếu khiển trừ sở chấp, đoạn y tha chứng viên thành, tức bốn giải trùng, hủy trách danh. Nếu ước về năm vị bốn đoạn khoa tức phân biệt nhanh mạnh gọi đó là trọng, vì thô mạnh vậy, chỉ kiến đạo đoạn, nghĩa đây có thể như vậy. Nếu nói căn bản gọi là trọng, là nghĩa gốc của an tuệ, trong tâm Hữu lậu đều có pháp chấp, những gì gọi là trọng? Sao gọi là khinh? Nếu phiền não chướng trong thức thứ sáu và thứ bảy gọi đó là trọng, vì phân biệt rộng vậy, kế chấp sâu. Phiền não của trong năm thức trước gọi đó là khinh, vì do kẻ khác dẫn, không chúng sinh chấp. Nếu sở tri chướng trong thức thứ sáu gọi đó là trọng, vì kế sâu giải rộng. Do cùng tuệ đồng dẫn sinh năm. Vì dẫn nghiệp nhân sinh thứ tám, hành tướng mạnh. Năm thức và thức thứ tám chướng gọi đó là khinh, vì chấp cạn giải lược, do kẻ khác dẫn sinh, hành Tịnh độ chẳng mạnh, chẳng phải hẳn tuệ chung đồng. Trong thức thứ bảy đều không pháp chấp. Do hai thứ khinh trong đây riêng biệt nên luận bèn nói do ngã pháp hai chướng sinh đủ. Nếu chẳng như vậy thì sao gọi là do và đủ? Chỉ là pháp chấp hẳn vướng kẹt nhân chấp. Chẳng phải nghĩa sư đây. Chẳng nói năm thức trước và thức thứ tám có chúng sinh chấp, chẳng nói thức thứ bảy có pháp chấp. Nếu nói hiện hành gọi là khinh, chủng tập gọi là trọng, do không chủng tập, hiện hành đều đoạn, chướng thông nhiếp cả ba, trọng chỉ chủng tập, do ngã pháp chấp, do có chủng tập, hai chướng sinh đủ. Ngoài ra hiện hành v.v... mới được sinh khởi. Nếu đoạn chủng tập thì hiện hành trọn diệt, chỉ chẳng thể nói tuệ thể gọi là chấp gọi là trọng. Ngoài ra, các tương ưng gọi là khinh gọi là chướng, chẳng nói tuệ luôn là biến hành. Nói thức thứ tám không tuệ chung cùng. Do đây nên biết trước nói là thiện.
Lại ước về nhân quả lưu chuyển hoàn diệt mà giải đó. Hoàn diệt có nhân quả vị. Nhân vị có ba chuyển y, đó là tâm, đạo và thô trọng. Hai không là tâm, pháp tánh tâm. Chánh giải là đạo, đoạn là trọng chướng gọi là thô trọng chuyển. Trong luận Đối Pháp quyển 8 ghi: "A-lại-da là thô trọng chuyển". Đây gọi là hai chướng. Trong luận Phật Địa ghi: "Chỗ hai chướng phát, chỗ nghiệp được quả cũng gọi là hai chướng". Tánh không kham nhậm, vì trái với vi tế, hý luận đều phải. Đây thông cục kia, nên chẳng trái nhau, nhưng do hai chấp sinh đủ hai chướng, nên mê không gọi là chấp, đoạn gồm tất cả, đến cứu cánh vị, đoạn thô trọng chướng, tâm đạo tròn đầy nên gọi là được hai quả. Nếu y cứ giải đây, chướng kia tùy đoạn. Trước giải về nhân vị, sau giải về quả vị. Trong nhân phân làm hai: Một là giải về ba chuyển y, do ngã pháp chấp, sau giải ngộ không sinh giải nguyên do đoạn chướng. Lại y cứ sáu chuyển y để thích văn đây, y cứ văn Duy thức chẳng y cứ luận nhiếp Đại thừa. Sinh chánh giải là tổn lực ích năng chuyển, tại địa tiền nên đoạn hai trọng chướng là thông đạt chuyển, kiến đạo vị nên do ngã pháp chấp cho đến chướng kia tùy đoạn là tu tập chuyển. Tại trong Thập Địa Tu Tập vị nên đoạn chướng là được hai thắng quả nên sau là quả viên mãn chuyển. Tại Phật vị nên tổng hình sau yếu kém nên gọi là Quảng đại chuyển, tức trong văn đây thông nhiếp năm chuyển. Lại làm năm nhẫn, sinh chánh giải vị là phục nhẫn. Trước kiến đạo nên đoạn trọng chướng vị là tín nhẫn, vì tương đồng thế gian. Hai chướng sinh tử đủ là thuận nhẫn, vì thuận xuất thế. Đoạn trong địa thứ tư ở ngã chấp, đoạn trong sinh đủ có gần xa. Năm địa đoạn hại bạn gọi là gần, sáu địa đoạn suy kém một phần, gọi là xa. Đoạn chướng là được hai thắng quả, sau là vô sinh nhẫn, đoạn suy kém một phần và vi tế tùy miên phải ở Phật địa được hai quả. Do đoạn tục sinh ra là tịch diệt nhẫn. Do địa thứ mười đoạn hai chướng, đến Phật địa riêng được hai quả, khi ấy chỉ lấy Phật Địa gọi là tịch diệt nhẫn, chẳng phải lấy mười địa riêng đoạn hai chướng tại địa thứ mười. Lại có bảy địa. Có mê nhầm là chủng tánh địa, lúc chưa vào pháp có mê nhầm. Sinh chánh giải là thắng giải hạnh địa, văn tư tu vị gọi là chánh giải. Đoạn trọng chướng, nghĩa là tăng thượng ý lạc địa do sau ngã pháp chấp cho đến chướng kia tùy đoạn là hành Chánh hạnh địa, Quyết định địa, Quyết định hạnh địa, đoạn chướng là được hai thắng quả là đến Cứu cánh địa. Mười Địa đoạn chướng, Phật địa đắc quả. Lại y cứ Phật pháp không gì vượt quá tu đoạn. Tạp nhiễm là đoạn đó, thanh tịnh là tu đó, trước đoạn sau đắc, như văn nói có thể biết. Bên trong của phàm thánh đều có tu đoạn. Trước sinh chánh giải là phàm phu vị, phục đoạn tu hành, sau đoạn trọng chướng là Thánh nhân đoạn đắc. Trong chân đoạn đắc phân kiến tu riêng biệt. Trong tu do ngà pháp chấp v.v... có ba cật nật: một vặn hỏi, Luận sư An Tuệ nói trong phiền não chướng có chẳng phải chấp là hàng Nhị thừa đoạn chín phẩm tu hoặc đoạn tám phẩm trước còn lại ngã kiến chưa đoạn. Thế nào là đã đoạn các chướng khác! Rõ biết các chướng khác chẳng từ ngã chấp v.v... sinh; 2. vặn hỏi, Luận sư An Tuệ trừ thức thứ bảy nói có hai Thủ đều là sở chấp, chứng vị hai không. Nếu do chấp diệt, chướng tùy đoạn là tất cả đều chấp, năm địa làm sao mới trừ hại bạn, nên khinh chấp tùy sinh ngã chấp, bốn địa đoạn đó; ba, nếu tất cả chướng đều từ chấp sinh, tại sao địa thứ sáu thứ bảy v.v... chướng của sở đoạn chẳng gọi là hại bạn, gọi là suy kém v.v... đều là chấp khởi đó? Đáp: Có ba giải thích: một là y cứ tận xứ cứu cánh đây làm luận, chẳng nói khoảng giữa; hai là chỉ nói chướng do chấp sinh, chấp đoạn chướng diệt, chẳng nói cuối chướng diệt đều tùy bản chấp đoạn với chín phẩm của Nhị thừa, nghĩa đó có thể biết; ba là tuy tâm Hữu lậu đều có pháp chấp, Bồ-tát chấp sinh có ba lúc đoạn, chưa chấp tùy gốc. Thức thứ sáu chấp có ba vị đoạn: một là đồng thời, hai là thân gần dẫn sinh, ba là thế lực xa vời. Cùng khởi là bốn địa chấp cùng đoạn, thân gần dẫn sinh gọi là hại bạn, thế lực xa vời sinh gọi là suy kém v.v... Nên chướng và chấp đoạn có trước sau, được trong quả đoạn. Đoạn chướng là được hai thắng quả, hiển bày nhân năng mãn quả, do đoạn tục sinh ra là hiển bày quả mãn, nên văn trong văn quả phân làm hai. Nay tổng kết loại trên giải văn, đoạn thứ hai có hai: một là nhân quả ba chuyển y, hai là phàm thánh đoạn đắc. Đoạn thứ ba có hai: một là ngộ đoạn đắc, hai là khiển đoạn đắc. Đoạn thứ tư có hai: một là thắng giải hạnh v.v... bốn vị, hai là trong sáu chuyển y chỉ thành bốn vị, bốn vị nhiếp sáu. Đoạn thứ năm cũng có hai: một là năm Nhẫn, hai là bảy Địa vì phân thành năm, như vậy hợp thành nghĩa của tám đoạn. Lại vì mở bày lầm chấp trong ngã pháp v.v... vì ngoại đạo mở bày làm nội đạo, vì Tiểu thừa mở bày làm Đại thừa, vì biên chủ mở bày làm trung chủ, vì sơ căn mở bày làm thục căn. Trên đây là y nhân. Lại mở Duy thức bày ngã pháp, trên đây tổng giải thích hai chữ mở bày, dưới đây có mười giải thích:
1. Trừ tà hiển chánh, ngoại đạo tà lầm chấp ngã pháp, mê Chánh lý Duy thức, khiến đạt hai không nên trừ tà hiển chánh;
2. Đoạn sai nhầm để rõ chân. Tiểu thừa lầm chấp ngã pháp, mê ở chân Duy thức, khiến đạt hai không, nên đoạn sai nhầm để rõ chân;
3. Dứt hư vọng giữ chân thật, lầm chấp ngã pháp, chẳng rõ hư vọng Duy thức, mê Duy thức là chẳng rõ chân thật Duy thức, khiến đạt hai không dứt vọng giữ chân;
4. Rõ thế tục, biết thắng nghĩa, lầm chấp ngã pháp chẳng rõ thế tục Duy thức, nương y tha khởi mà khởi hai chấp, mê Duy thức là chẳng rõ thắng nghĩa Duy thức, khiến đạt hai không nên rõ tục biết thắng. Tiếp theo hai giải trên, quyển thứ chín nói hai lớp Duy thức. Bốn giải trên đều là lấy Chân như. Tại Đại Mâu-ni gọi là Pháp thân vậy;
5. Thấy cảnh quán tâm, lầm chấp ngã pháp chẳng rõ cảnh Duy thức, mê Duy thức là chẳng rõ tâm Duy thức, khiến đạt hai không nên thấy cảnh quán tâm;
6. Trừ không nói hữu, lầm chấp ngã pháp tăng thêm không pháp, mê Duy thức là tổn giảm hữu pháp, khiến đạt hai không, nên trừ không nói hữu;
7. Diệt ngu khởi trí, lầm chấp ngã pháp ngu si tăng thêm, mê Duy thức là thiều chánh trí, khiến đạt hai không nên diệt ngu khởi trí, lưu lại hoặc nhuận sinh được chủng trí vậy;
8. Bỏ kém được thắng, lầm chấp ngã pháp, sinh tử pháp kém khởi, mê Duy thức nên Phật quả hai vị không, khiến đạt hai không nên bỏ pháp kém sinh tử, được Phật vị Bồ-đề Niết-bàn ưu thắng. Đoạn phiền não chướng được Đại Niết-bàn, đoạn sở tri chướng được vô lượng giác, ý thành lập Duy thức là nghĩa quả chuyển y đây;
9. Khiến đoạn chứng, lầm chấp ngã pháp có sở chấp chuyển, mê Duy thức nên chẳng ngộ y tha, khiến đạt hai không chứng viên thành thật;
10. Thô đạo tâm, lầm chấp ngã pháp thô trọng khởi, mê Duy thức nên Thánh đạo không, khiến đạt hai không chứng chân tâm, đối với lý Duy thức như thật biết. Các thích trên đây, tùy chỗ xứng đáng lý phối hợp giải thích.
Thứ ba là phá tà chấp bên trong của tạo luận, lại giải mỗi mỗi có các Luận sư Đại thừa Tiểu thừa chấp:
Thứ nhất, Luận sư Thanh Biện y cứ Thế tục đế ngoài tâm có cảnh, cả hai đều chẳng phải không.
Thứ hai, Nhất thiết bộ trong Tiểu thừa, chấp tất cả pháp chỉ có giả danh, đều không tâm cảnh. Ngoại đạo không kiến cũng lại như vậy.
Thứ ba, Tiểu thừa chấp tâm ý thức nghĩa một văn khác. Luận Nhiếp Đại thừa nói tâm ý thức thể một là phải.
Thứ tư, Đại thừa thời thượng cổ, cũng có y cứ luận trang nghiêm chấp các tâm sở lìa tâm không thể, như ở sau, biện giải trong phần tâm sở hỏi đáp. Nên bốn thứ trên mỗi mỗi thông Đại Tiểu hai chấp. Do đây, gồm nên có chín câu để phân biệt:
1. Thứ nhất thứ hai Tiểu thừa Đại thừa chấp cảnh chấp tâm phi không phi hữu, thứ ba thứ tư Đại thừa Tiểu thừa chấp tâm chấp sở chẳng phải nhiều chẳng phải khác.
2. Thứ nhất thứ hai Đại thừa Tiểu thừa, thứ ba thứ tư Tiểu thừa Đại thừa.
3. Thứ nhất thứ hai Đại thừa Tiểu thừa, thứ ba thứ tư Đại thừa Tiểu thừa.
4. Thứ nhất thứ hai Tiểu thừa Đại thừa, thứ ba thứ tư Tiểu thừa Đại thừa.
5. Thứ nhất thứ hai Đại thừa Đại thừa, thứ ba thứ tư Tiểu thừa Tiểu thừa.
6. Thứ nhất thứ hai Tiểu thừa Tiểu thừa, thứ ba thứ tư Đại thừa Đại thừa.
7. Cả bốn đều Đại thừa.
8. Cả bốn đều Tiểu thừa.
9. Mỗi mỗi trong bốn đều có Tiểu thừa Đại thừa, mỗi mỗi như thứ lớp, nên nói chấp cảnh chấp tâm phi không phi hữu, chấp tâm chấp sở chẳng phải nhiều chẳng phải khác.
Văn bản tụng của Thành Duy Thức y cứ luận Du-già quyển 38 ghi: "Nghĩa là các Bồ-tát lúc cầu chánh pháp phải cầu ở đâu? Phải ở nơi tất cả ngũ minh mà cầu:
1. Nội minh xứ.
2. Nhân minh xứ.
3. Thanh minh xứ.
4. Y phương minh xứ.
5. Công nghiệp minh xứ.
Chư Phật nói năng gọi là Nội minh xứ. Như vậy cho đến tất cả thế gian công xảo nghiệp xứ gọi là Công nghiệp minh xứ. Đây mỗi mỗi có bao nhiêu tướng chuyển? Nghĩa là Nội Minh luận lược nêu hai tướng chuyển: một, hiển bày tướng chánh nhân quả; hai, hiển bày tướng đã làm chẳng mất, chưa làm chẳng được. Nhân Minh luận cũng hai tướng: một, hiển bày tướng xô dẹp luận khác thắng lợi; hai, hiển bày tướng thoát khỏi luận khác thắng lợi. Thanh Minh luận cũng hai tướng: một, hiển bày an lập giới là tướng năng thành lập; hai, hiển bày tướng nói khéo thắng lợi. Y Phương Minh luận có bốn thứ tướng: một, hiển bày bệnh thể; hai, hiển bày bệnh nhân; ba, hiển bày đoạn đã sinh bệnh; bốn, hiển bày đoạn đã chẳng sinh. Công Nghiệp Minh luận hiển bày mỗi mỗi công xảo nghiệp xứ riêng biệt, chỗ làm đã xong các thứ tướng khác. Bồ-tát trước đã học Nội minh xứ. Trong Nội minh xứ lấy chánh nhân quả mà làm tướng đó, nên đáng phân làm hai: một, chưa phát thú; hai, đã phát thú vị. Nêu luận Tam Thập Tụng, hai mươi lăm bài tụng đầu nói về tướng chánh nhân quả chưa phát thú vị, năm bài tụng sau nói về tướng chánh nhân quả đã phát thú vị. Trước, trong tướng chánh nhân quả chưa phát thú, lại phần làm hai; mười bảy bài tụng nói về tướng chánh nhân, do thức biến nên các pháp được sinh, lấy thức làm nhân. Tiếp đó, tám bài tụng nói về tướng chánh quả, do chủng thức nên sinh các phân biệt, quả của pháp thể và Dị thục v.v... quả của phân vị, trong đó nói về ba tánh v.v... văn của sáu bài tụng, nhân đó giải thích để ngăn vấn vặn hỏi, thuộc quả tướng nhiếp. Nếu các quả sinh Duy thức làm nhân, chỉ có thức là tại sao đức Thế Tôn nói có ba tánh v.v...? Nên thuộc ở quả, năm bài tụng sau đó đã phát thú vị, trong chánh nhân quả, văn lại phân làm hai: bốn bài tụng đầu hiển bày tướng chánh nhân, một bài tụng sau hiển bày tướng chánh quả. Trong hai vị đây, nghĩa gồm đủ nói về tướng đã làm chẳng mất, tướng chưa làm chẳng được. Nghĩa chưa thú đã thú đều đủ vậy, lý chuẩn cứ có thể biết. Có các ngoại đạo phần nhiều chấp là thường, nên nói rõ nhân tướng phá thường chấp đó. Có các Luận sư Tiểu thừa và Thất Đoạn luận v.v... phần nhiều chấp là đoạn, nói quả tướng phá đoạn chấp kia, nay vì phá đây nói rõ chẳng phải đoạn thường, nên mười bảy bài tụng nói về nhân được phân làm ba: Nửa bài tụng đầu nêu cảnh thức biến, ngã pháp không thật; mười bốn bài tụng rưỡi giải thích thể năng biến sở biến chẳng phải là ngã pháp; một bài tụng giải thích nghĩa biến. Hoặc hai mươi chín bài tụng đầu nói về tướng chánh nhân, hiển bày chẳng phải thường; một bài tụng sau nói về tướng chánh quả, hiển bày chẳng phải đoạn. Dùng nhân quả chánh pháp của Phật làm tông để phá thường đoạn kia. Nay nên nói tổng làm hai đoạn, nhân tướng có hai: hai mươi bài tụng đầu chánh chủ nói về thể nhân, vì chưa thú nhập; tiếp đó bốn bài tụng chánh chủ nói về nhân vị, đã phát thú. Bên trong của nhân thể, hai mươi bốn bài tụng trước nói về nhân thế tục, tiếp đó có một bài tụng nói về nhân thắng nghĩa. Tánh tướng cũng vậy. Hoặc nửa bài tụng đầu lược nói về nhân, hai mươi ba bài tụng rưỡi rộng nói về nhân, nêu và giải thích cũng vậy. Hoặc phân làm ba, đó là tánh tướng vị. Hai mươi bốn tụng trước nói về Duy thức tướng, tiếp đó một bài tụng nói về Duy thức tánh. Sau đó, năm bài tụng nói về Duy thức vị. Trong phần đầu có hai: một là nêu, hai là giải thích nghĩa, là nửa bài tụng đều lược thích vặn hỏi để nêu tông, hai mươi hai bài tụng rưỡi sau tùy chỗ nêu mà rộng giải thích. Trong rộng có ba: một, rộng nói về thể ba năng biến; 2. rộng nói về y thức sở biến; ba, rộng nói về những lời do giả mà nói. Hoặc gồm làm ba nghĩa là đầu, giữa, sau. Nửa bài tụng đầu gọi là đầu, tiếp đến hai mươi ba bài tụng rưỡi gọi là giữa, năm bài tụng sau gọi là sau. Đầu, giữa và sau, tất cả đều thiện. Nói rộng phần giữa phân làm ba: mười bốn bài tụng rưỡi đầu, rộng nói về thể ba năng biến, tiếp theo một bài tụng nói rộng về y thức biến, tám bài tụng sau rộng nói về giả nói v.v... Lại tổng phân làm ba: Nghĩa là cảnh, hạnh và quả. Hai mươi lăm bài tụng đầu nói về Duy thức cảnh, tiếp có bốn bài tụng nói về y cảnh khởi Duy thức hạnh, một bài tụng sau nói về y hạnh được Duy thức quả. Bên trong của biện cảnh nói về Chân tục đế. Hai mươi bốn bài tụng nói về Tục đế, tiếp đó một bài tụng nói về Chân đế. Trong nói về Tục đế phân làm hai: Trước nêu sau thích, như giải thích trong ba phần tướng tánh vị, tiếp theo ba phần trên như giải thích trong sớ. Lại, tổng phân ba nghĩa là lược, quảng và trung. Nửa bài tụng đầu gọi là lược, tiếp đến hai mươi ba bài tụng rưỡi gọi là quảng, năm bài tụng sau gọi là trung. Vì lợi căn mê ngã pháp, lợi căn mê ở thức, lợi căn mê hạnh vị. Hoặc mê sở chấp y tha viên thành như thứ lớp phối hợp. Hoặc phần đầu phá Hữu chấp, hai phần sau phá Không chấp, nên phân làm ba, chẳng thể tăng giảm. Hoặc tổng phân làm bốn: Nửa bài tụng đầu, tổng nêu phần cương yếu; mười bốn bài tụng rưỡi tiếp theo rộng bày phần năng biến. Tiếp theo, có chín bài tụng tổng kết giải thích phần vặn hỏi bên ngoài. Sau đó, năm bài tụng là phần y tu được ích. Trước chưa có nói nên tổng nêu tông, chẳng biết thức tánh thế nào, nên tiếp theo trình bày về năng biến, tuy thành lập vặn hỏi bên ngoài phải trừ nên đúc kết giải thích vặn hỏi. Đã như vậy rồi, nghe và tư duy lợi gì? Nên tiếp nói về tu được ích. Do đây thành bốn, chẳng tăng chẳng giảm. Hoặc tổng phân làm năm: một, lược nêu tông; hai, trình bày thức tánh; ba, nói rõ nghĩa biến; bốn, giải thích vặn hỏi bên ngoài; năm, tu thành quả. Tông, nghĩa là chủ nên nêu bày trước tiên. Tuy có thức ngôn nhưng chưa biết thức tánh, nên tiếp ở trước tùy tông bày biện giải. Tuy biết thể đó, nhưng chưa rõ nghĩa biến, nên tiếp theo thức thể mà nói nghĩa biến. Tuy nói nghĩa môn, nhưng ngăn ngừa vấn vặn hỏi chưa trừ, nên tùy nghĩa biến, tiếp giải thích vặn hỏi bên ngoài, đạt nghĩa tròn đầy, tùy giải thích vấn vặn hỏi rồi nên phải vào vị, nên phần làm năm. Trong đó, phần thứ ba nói về nghĩa biến, ở phần trước phân trong bốn khoa. Thứ ba, lìa khỏi phần đúc kết giải thích vặn hỏi bên ngoài, nghĩa ý có thể biết.
Luận: "Nếu chỉ có thức, tại sao thế gian và các Thánh giáo nói có ngã pháp?" Căn cứ luận Du-già giải thích là: Tổng hỏi về chỗ nói rõ tông yếu của luận đây. Hỏi là trước nghe ở các kinh nói tất cả duy tâm, nghĩa đó chưa rõ, nên đặt câu hỏi đây. Hoặc làm luận là trước tổng thọ thỉnh. Tông yếu của luận đều tại trong tâm, muốn vì người học mà phân biệt giải nói. Từ giả đặt vặn hỏi là để phát khởi nguyên nhân nói nên làm lời hỏi đây. Nếu không như vậy là trước không lược nói, thì không chấp nhận bỗng nhiên hỏi. Lại, phát khởi vặn hỏi lược có năm thứ: một, chẳng hiểu nên hỏi; hai, nghi hoặc nên hỏi; ba, thể nghiệm nên hỏi; bốn, khinh xúc nên hỏi; năm, vì muốn lợi lạc hữu tình nên hỏi. Nay là thứ năm chuyên vì lợi lạc các hữu tình, nên làm luận này. Đã đạt nên chẳng phải một hai. Tự hỏi nên chẳng phải thứ hai, nên y cứ thứ năm để phát khởi đầu mối vặn hỏi.
"Do giả nói ngã pháp, có các thứ tướng chuyển". Luận sư An Tuệ giải thích: "Thân Phật, các pháp chẳng thể nói là ngã hay là pháp, vì chứng đắc không thể nói, chấp tập đều hết. Thi thiết ngã pháp chỉ tại nơi khác, trừ Phật ra, các hàng Dị sinh đối với kế sở chấp rốt cuộc không có nên ở trên đó riêng chấp làm ngã pháp. Đức Thế Tôn vì trừ vọng thật chấp, ở nghĩa tổng Vô thượng mà thi thiết, làm ngã pháp trong Thánh giáo, như luận dẫn nêu hai bài tụng trong kinh Hậu Nghiêm. Hộ Pháp cho rằng: "Thế gian nương tình khởi vọng chấp không, Thánh giáo y cứ đạo lý nhân duyên giả thi thiết làm ngã pháp". Luận sư Nan-đà nói: "Nương trên Tướng phần khởi sở chấp ngã pháp, tùy kế chấp vọng tình nói là ngã pháp thế gian, tức nương trên y tha sở biến mà thi thiết làm ngã pháp Thánh giáo. Tại sao? Bài tụng đầu tiên đáp vặn hỏi nên nêu tông của luận. Luận Bát-nhã Đăng mới đầu giải thích tám Bất. Luận sư Thanh Biện có hai giải thích thuận thế tục giải. Nay lấy bài tụng đây nhiếp chỗ có nghĩa trong một bộ hết cả, do đó nêu phần đáp. Mười bốn bài tụng rưỡi sau nói rộng chỗ nêu ba thứ năng biến đây ở ba câu tụng sau, tiếp đến là một bài tụng các thức chuyển biến v.v... nói rộng câu tụng thứ ba "nó nương thức sở kiến". Sau đó có tám bài tụng nói rộng hai câu bài tụng trên đây là do giả nói ngã pháp v.v... Hai câu tụng trước đáp vặn hỏi văn bên ngoài trái lý. Sáu bài tụng sau đáp vặn hỏi trái kinh, lời nói tuy tợ riêng biệt, ý đều nương chỗ tâm biến hiện mà nói. Sau đó năm bài tụng gồm nói rộng tu, nửa bài tụng đây nói về chỗ trải qua hạnh vị, nên trước đáp vặn hỏi tức nêu tông luận, tổng nhiếp đại ý của một bộ. Nửa bài tụng đầu phân làm ba: hai câu đầu tùy trước hỏi mà đáp, tiếp một câu tùy riêng nêu giải thích, ba câu sau tùy bày tự liệt, đây dùng nghĩa khoa, chẳng phải nương vào giải thích đoạn.
Ngã, nghĩa là chủ tể. Pháp là quỹ trì. Chủ là câu sinh ngã, không phân biệt. Tể là phân biệt ngã, có cắt đoạn. Chỉ là ngã thứ bảy. Tể là ngã thứ sáu, chủ là thế gian ngã, hay tạo tác hay thọ dụng. Tể là Thánh giáo ngã, vì nương dụng mà biện, đều thông làm năm giải thích: Thánh giáo pháp gọi là quỹ, vì nương dụng mà biện. Thế gian pháp gọi là trì, vì chấp thật tự thể năng tự trì, đều thông làm năm. Trong đây đều nương nghĩa tăng thượng mà nói. Bốn giải thích cùng nương thế gian Thánh giáo, giải thích thứ năm phối hợp riêng.
Hữu tình mạng giả v.v... Kim Cang Bát-nhã nói có bốn, tuy các tên gọi khác nhau, nay Pháp sư Bồđề-lưu-chi phiên dịch là: Ngã, chúng sinh, mạng giả, thọ giả. Trong luận của Bồ-tát Thiên Thân giải thích: "Thấy năm uẩn sai biệt, mỗi mỗi ấm là ngã, vọng thủ như vậy gọi là ngã tướng", ý đây tổng chấp ba đời năm uẩn sai biệt làm ngã. Thấy thân tương tục chẳng đoạn, gọi là chúng sinh. Đây tính năm uẩn từ khoảng trước lại tương tục chẳng đoạn nên gọi là chúng sinh. Một báo mạng căn chẳng đoạn trụ, nên gọi là mạng giả. Đây tính hiện tại hiện có mạng. Mạng căn đoạn rồi lại sinh trong sáu đường, đó gọi là thọ giả. Đây thấy đời tương lai thọ lại khởi. Lý căn cứ đây gọi là dưỡng dục giả. Dưỡng là vị lai. Các nhà phiên dịch nhầm mất, gọi thọ giả là không đúng vì sinh giả là mạng giả. Ở trong các giáo nên riêng nói có thọ giả. Do đây kinh kia chỉ nói bốn thứ để duyên ba đời tổng biệt mà tính. Luận Du-già quyển 83 chỉ giải tám tên:
1. Ngã, ngã ngã sở thấy hiện tiền hành. Nêu có năng duyên để hiển bày sở duyên, ngã thể là có.
2. Hữu tình nghĩa là các Hiền thánh như thật rõ biết, chỉ có tánh đây, ngoài ra không pháp nào khác. Lại đối với kia có mến ái đắm trước. Tình là tánh vậy, mới đầu tổng nói nghĩa của hữu tình kia không thể có thể nêu bày, tức năm căn v.v... đều gọi là hữu tình. Đây tức là ngã, chỉ có tánh đây, ngoài ra không pháp nào khác, sau giải lấy ái làm tình, năng sinh ngã ái, nói là hữu tình, vì pháp tánh kia sinh ái trước. Nếu không có hữu tình, chỗ ái tình là ai?
3. Ý sinh là ý chủng loại, có năng tư lương thắng tác dụng. Hiển bày là ý loại nên gọi là ý sinh. 4. Ma-nạp-phược-ca y chỉ nơi ý mà có cao thấp. Nếu tổng thích nghĩa thì đây gọi là Nhu đồng. Nhu nghĩa là tốt đẹp, đồng nghĩa là tuổi trẻ, tuổi trẻ tốt đẹp gọi là Nhu đồng. Luận y cứ biệt thích, Ma-nạp nghĩa là cao, vì cao mạn kẻ khác. Phược-ca nghĩa là thấp, vì ty hạ kẻ khác. Do y chỉ ý, hoặc lăng mạn kẻ khác, hoặc ty hạ kẻ khác nên gọi là Ma-nạpphược-ca.
5. Dưỡng dục giả, tăng nghiệp hậu hữu, vì làm dụng Sĩ phu. Mới đầu dưỡng vị lai, sau trưởng dưỡng hiện tại.
6. Bổ-đặc-ca-la do năng luôn luôn thủ các thủ, các Hiền thánh v.v... cũng gọi như thế, là từ thân cũ chưa đắc đạo mà nói.
7. Mạng giả là cùng thọ mạng hòa hợp hiện tại nên gọi là mạng giả. Thọ mạng là biệt, giả là tổng vậy, tổng giả cùng biệt mạng hòa hợp, hiện tại nên gọi là mạng giả.
8. Sinh giả nghĩa là xuất hiện đủ v.v...
Luận Du-già quyển 10 ghi: "Sinh là gì? Nghĩa là thai sinh và noãn sinh, lúc mới đầu gá sinh, các sinh thế nào? Nghĩa là tức ở thân phần kia viên mãn. Nhưng lúc chưa sinh, thú thế nào? Nghĩa là từ đó sinh ra. Khởi thế nào? Nghĩa là ra rồi tăng trưởng. Xuất hiện thế nào? Nghĩa là thấp sinh và hóa sinh thân phần liền khởi. Uẩn được thế nào? Nghĩa là các sinh vị, năm thủ uẩn chuyển. Giới được thế nào? Nghĩa là chỗ các uẩn nhân duyên nhiếp tánh. Xứ được thế nào? Nghĩa là tức các uẩn chỗ duyên khác nhiếp tánh. Các uẩn sinh khởi thế nào? Nghĩa là chỗ nuôi lớn của các uẩn thường ngày ăn uống. Mạng căn xuất hiện thế nào? Tức thọ lực khác các uẩn nên được tương tục trụ. Lược nghĩa trong đây, nghĩa là sinh tự tánh, hoặc sinh xứ vị, hoặc sở sinh hoặc chỗ nhân duyên nhiếp, hoặc chỗ Tru trì dẫn, hoặc câu sinh y trì. Sinh thứ nhất trong mười trước và thứ năm xuất hiện là sinh tự tánh. Thứ hai, ba, tư là sinh xứ vị. Thứ sáu, uẩn được là sở sinh. Thứ bảy, giới được, thứ tám xứ được, là thuộc về nhân duyên sinh. Thứ chín, các uẩn sinh khởi, là chỗ nhận trì dẫn. Thứ mười, mạng căn xuất hiện là câu sinh y trì. Nghĩa là sinh thì có đủ mười nghĩa đây. Vì tổng tác dụng nên chỉ nói tám. Hợp dụng Sĩ phu vào dưỡng dục giả phần nhiều tính. Nếu khai mở làm hai, tăng thêm nghiệp hậu hữu, gọi là dưỡng dục giả. Dục thân hiện tại, làm dụng Sĩ phu, gọi là Sĩ phu, đứng về đời mà khai mở. Trong kinh Năng Đoạn Kim Cương Bátnhã y cứ Phạm bản của Đỗ Hành Khải, năm Trinh Quán thứ 23 (650) thời Tiền Đường, tại cung Ngọc Hoa, ban đêm phiên dịch sáng sớm tiến dâng. Bản đã riêng biệt, so tên cũng khác. Trước tám sau chín, y cứ các bản Đại Bát-nhã v.v... và Năng Đoạn Kim Cương trong Tự bản của Đại sư Huyền Trang phân Phạm bản cũng có bốn. Do đó, phần Thích của Bồtát Thiên Thân v.v... chỉ có bốn chẳng phải nhiều. Trước tám của năng đoạn kia là: Hữu tình, mạng giả, sĩ phu, sổ thủ thú, ý sinh, Ma-nạp-bà, tác giả, thọ giả. Văn sau nói chín là ở tám đây thêm ngã, văn trước nhân nói độ tất cả hữu tình. Hữu tình là đầu tiên, lược không có ngã đó. Sĩ phu trong đây tức là dục dưỡng giả, vì thân hiện tại làm dụng Sĩ phu. Luận Du-già nói sinh giả tức tác giả, thuộc tám thứ được nói trong đây. Sáu thứ trước là tướng biệt hành, hai thứ sau thông tướng hành, nên trước nói tám, sau gồm nói ngã. Sáu tướng biệt hành, hai thông với tướng hành do đó có chín. Đại Bát-nhã một xứ nói mười ba, trong tám loại của luận Dugià, thêm sĩ phu, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả, khai mở dưỡng dục trong tám thứ của Du-già phân làm hai đời, nên nói Sĩ phu. Y cứ đây, chín thứ trước là tác dụng biệt, bốn thứ sau tác dụng thông, y cứ tác dụng biệt, hành tướng đơn mà nói. Hoặc nói mười lăm, thêm sứ tác giả và sứ thọ giả, y cứ hành tướng đơn, trùng, thông, biệt nói đủ. Mười ba trước là đơn nói, hai thứ sau là trùng. Chín thứ trước biệt, sáu thứ sau chung cho cả hành tướng, Đại Bát-nhã quyển 7 nói có mười bảy, trong mười lăm trước thêm khởi giả, sử giả. Hoặc nói trong mười bảy trước, thêm sử tri giả, sử kiến giả. Hai bản văn sau cũng y cứ hành tướng đơn trùng chung riêng, tất cả nói đủ. Do đây, các giáo nói số chẳng đồng.
Dự lưu đẳng là ngang bằng với hai mươi bảy Hiền thánh, mười ba trụ đẳng Bồ-tát. Hai mươi bảy Hiền thánh gồm:
1. Tín giải
2. Kiến chí
3. Thân chứng
4. Tuệ giải thoát
5. Câu giải thoát
6. Dự lưu hướng
7. Dự lưu quả
8. Nhất lai hướng
9. Nhất lai quả
10. Bất hoàn hướng
11. Bất hoàn quả
12. A-la-hán hướng,
13. A-la-hán quả
14. Cực thất phản hữu
15. Gia gia
16. Nhất gian
17. Trung bát Niết-bàn
18. Sinh bát Niết-bàn
19. Vô hành bát Niết-bàn
20. Hữu hành bát Niết-bàn
21. Thượng lưu bát Niết-bàn
22. Thoái pháp A-la-hán
23. Tư pháp A-la-hán
24. Hộ pháp A-la-hán
25. Trụ pháp A-la-hán
26. Phạm đạt pháp A-la-hán
27. Trụ bất động pháp A-la-hán.
Mười ba Trụ thánh như Sớ quyển 9 giải thích.
Kệ tụng về phế lập và lìa hợp của ba thứ uẩn xứ giới ghi:
"Tùy tăng nói ngã sự Là y sở hành đây
Sinh trì phân hẹp rộng Không riêng căn sở duyên".
"Tùy tăng nói ngã sự" nghĩa là lập năm uẩn phế lập lìa hợp. Luận Đối Pháp ghi: "Do đâu uẩn chỉ có năm? Vì hiển bày năm thứ ngã sự đó là: Thân ngã sự, thọ dụng ngã sự, nói năng ngã sự, tạo tác tất cả pháp phi pháp ngã sự, chỗ kia y chỉ ngã tự thể sự. Thứ lớp như thế phối hợp giải thích năm uẩn, nên chẳng giảm tăng, có lìa có hợp. "Là y sở hành đây, sinh trì phân hẹp rộng", nghĩa là lập xứ giới, lìa hợp phế lập. Nghĩa xuất sinh là nghĩa xứ nên lược bỏ thức, y và sở hành đây là mười hai xứ, là nơi xuất sinh ra sáu thức đó, nên chẳng lìa là xứ. Nghĩa trì tự tánh, nghĩa năng nhậm trì, là nghĩa giới, nên nói rộng về sở y của thức và nói rộng thức này, đồng thời nói rộng về sở hành, thành mười tám giới là sáu căn sáu cảnh năng trì sáu thức. Tự thể của sáu thức năng trì dụng của thức. Thể năng tự trì, lìa thức lập giới. Thể chẳng tự sinh, chẳng lìa sáu thức để lập làm xứ, nên uẩn giới xứ chẳng giảm chẳng tăng, có lìa có hợp. "Không riêng căn sở duyên" là giải thích Thức thứ bảy, thứ tám chẳng nói riêng là xứ giới. Do vì lìa ngoài căn cảnh sáu thức, lại không có căn cảnh riêng có thể lập giới xứ cho nên chẳng lập. Luận Trung Biên quyển 2 giải thích nghĩa uẩn xứ giới bằng bài tụng:
"Phi nhất và tổng lược Nghĩa phần đoạn là uẩn Năng sở thủ thủ kia Nghĩa chủng tử là giới Năng thọ cảnh sở liễu Nghĩa dụng môn là xứ".
Nói rộng như luận này nói, mười loại ba khoa như Đối Pháp sao.
Trong đây tổng nêu ba môn phân biệt:
1. Giải thích danh nghĩa
2. Phế lập
3. Mười loại sai biệt.
Các tướng như vậy, bên trong hỏi khởi, thuật nói ba Luận sư An Tuệ v.v... riêng hỏi. Tướng kia đều y chỗ thức chuyển biến mà giả thi thiết. Thế gian đối với đây khởi chấp, Thánh giáo y cứ nghĩa đây nói. Sở chấp, y tha tùy nên riêng nói. Đây là Luận sư Hộ Pháp và Nan-đà giải thích. Luận sư An Tuệ giải thích: Hai thứ tức y Biến kế sở chấp. Lại cùng chẳng đồng giải thích, tướng kia chỉ y Kiến phần Tướng phần gọi là sở chuyển biến, cùng biệt giải thích sau là trong đây, tự chứng cũng sở chuyển biến, sau căn cứ ngã pháp thông y, xưa nay đồng thừa nhận, chỗ Đại Tiểu thành, chỉ y kiến tướng. Đây căn cứ thật y nên đều là tự thể, chủng tử biến hiện hành. Hiện hành cũng biến làm chủng tử vậy, Chân như chẳng phải y nên luận chẳng nói.
Tướng kiến, đồng chủng biệt chủng sinh có hai giải thích: Có thuyết nói Tướng kiến đồng chủng sinh, nghĩa là không bản chất. Ảnh tượng tướng và Kiến phần đồng chủng sinh. Đó có bản chất, bản chất cũng đồng chủng sinh, tức một Kiến phần chủng sinh. Lúc hiện hành, ba pháp đồng một chủng đó là kiến, ảnh chất. Có thuyết nói kiến tướng biệt chủng sinh là bản chất, Kiến phần định biệt chủng sinh. Ảnh tượng tướng đó cùng Kiến phần và bản chất, hoặc dị hoặc đồng, chủng Tướng phần v.v... hiện hành làm nhân duyên nên vốn có Câu sinh. Hiện hành Tướng phần hoặc hòa hợp sinh, chủng mới cũ đồng sinh. Với hai phần này, Luận sư An Tuệ cũng nói chủng sinh, kiến và thể đồng. Hai thuyết Tướng phần, hoặc đồng hoặc dị. Tướng phần không thể, chủng tử là giả. Chánh nghĩa của Sư Hộ Pháp là ảnh chất hai tướng cùng kiến phân làm ba. Ba đây, chủng tử ba tánh giới trói buộc v.v... chưa cần đều đồng, tùy chỗ ứng. Tức chỗ trước nói Tướng phần biệt chủng là chánh nghĩa đây. Bài tụng ghi:
"Tánh cảnh chẳng tùy tâm Độc ảnh chỉ tùy kiến Đới chất thông tình, bản Tánh chủng thảy tùy ứng".
Tổng nhiếp các cảnh, có ba loại:
1. Tánh cảnh. Thể các chân pháp gọi là tánh cảnh. Sắc là chân sắc, tâm là thật tâm, pháp chân thật đây chẳng định tùy tâm. Ba tánh chẳng định, như thật năm trần, chỉ tánh Vô ký, chẳng tùy năng duyên năm thức, thông ba tánh vậy, cũng chẳng tùy tâm đồng ở một trói buộc, như Thức thứ tám là một cõi trói buộc. Sở duyên chủng tử thông ba cõi trói buộc, thân tại cõi dưới lúc khởi hai thông duyên thiên nhãn nhĩ. Thân tại địa trên hai thức nhãn nhĩ thấy cảnh dục giới. Nhị thiền trở lên nhãn nhĩ thân thức duyên tự địa cảnh, thức sơ thiền trói buộc cảnh tự địa trói buộc. Các loại như vậy cũng chẳng tùy tâm, chỗ một chủng sinh. Do kiến tướng chủng mỗi mỗi thể riêng biệt.
2. Cảnh của độc ảnh chỉ từ Kiến phần, tánh trói buộc chủng tử đều định đồng. Như Thức thứ sáu duyên lông rùa, hoa đốm hư không, thạch nữ, Vô vi, giới khác duyên v.v... chỗ có các cảnh. Các loại như vậy đều là tùy tâm, không thể dụng riêng biệt, giả cảnh nhiếp vậy, gọi là độc ảnh;
3. Cảnh của đới chất, nghĩa là ảnh tượng đây có bản chất thật, như sở biến Tướng phần trong Thức thứ bảy được từ bản chất là vô phú Vô ký v.v... cũng từ Kiến phần là chỗ hữu phú nhiếp. Cũng được nói là từ bản chất chủng sinh, cũng được nói là từ Kiến phần chủng sinh, vì nghĩa chẳng định.
Tánh chủng thảy tùy ứng là nghĩa bất định, có hai tùy ứng:
1. Nghĩa hiển ba cảnh, các tâm tụ sinh. Có chỉ có một, có hai hai hợp có ba đồng tụ. Có một là, như trước đã nói. Có hai hợp là như Thức thứ tám duyên tán cảnh tự địa. Chỗ tâm vương duyên là tánh cảnh ở đầu, chỗ tâm sở duyên là cảnh độc ảnh, chỗ năm thức duyên là năm trần tự địa, là tánh cảnh đầu cũng được nói là cảnh của đới chất, như Thức thứ sáu duyên năm uẩn ở quá khứ và vị lai. Đắc là độc ảnh cũng được nói là cảnh của đới chất, huân thành chủng tử sinh bản chất. Có ba hợp là, như nhân thứ tám duyên định quả sắc, chỗ tâm sở duyên chỉ là độc ảnh, chỗ tâm vương duyên là thật tánh cảnh cũng được nói là cảnh của đới chất, chỗ thứ sáu duyên sắc của định quả, là bản chất.
2. Lại tánh chủng thảy tùy ứng là, hiển bày ba cảnh trên tùy chỗ đó ứng, hoặc tánh tuy đồng mà hệ chủng chẳng đồng. Như tại Hạ Địa duyên thượng giới Thiên nhãn nhĩ. Hoặc hệ tuy đồng tánh, chủng chẳng đồng. Như năm thức duyên năm trần tự giới. Hoặc chủng tuy đồng mà hệ chẳng đồng, ước về tụ mà luận đó tức có, một pháp luận tâm tức không, như Thức thứ tám, chỗ tụ tâm sở duyên cùng kiến đồng chủng, chỗ tâm vương duyên mà hệ chẳng đồng.
Hai hợp ba hợp tư duy chuẩn cứ có thể biết, dùng một bài tụng đây định thể các pháp ở trong tám thức hoặc nhân hoặc quả mỗi mỗi hành tướng ở pháp năm uẩn mỗi biệt điệp xuất, sợ nhiều phiền nên đây tạm thôi.
Biến, nghĩa là thức thể chuyển tợ hai phần, giải thích năng sở biến, y hai phần dưới đây giải thích năng sở y. Ngã pháp đều y chỗ thức biến. Nếu y tổng làm hai văn khoa là: Một văn giải thích trong câu thứ ba, hoặc là nội thức chuyển tợ ngoại cảnh. Giải thích năng sở biến, ngã pháp phân biệt huân tập lực nên dưới. Giải thích năng sở y, chỗ ngu phu kế chấp, phân làm hai văn. Năng sở biến là thức sở biến, năng sở y là kia y.
Ngã pháp phân biệt huân tập lực nên v.v... trong văn có hai vặn hỏi. Một, các thức lúc sinh tợ ngã pháp là đều do lực của ngã pháp phân biệt huân tập, hay cũng chẳng do? Nếu đều do là, tám thức năm thức không hai phân biệt, lúc sau sinh quả nên chẳng tợ hai. Nếu chẳng do là, trong đây tại sao chỉ nói ngã pháp huân tập làm nhân?
Đáp: Hai giải thích đều được. Giải thích đó đều do là tất cả Hữu lậu và hai phân biệt trong thứ bảy câu vậy hoặc hai phân biệt trong Thức thứ sáu dẫn vậy, lúc sau sinh quả đều tợ ngã pháp. Giải thích chưa hẳn là vậy, đây nói thứ sáu căn bản duyên khắp tất cả làm nhân duyên phát các thức khiến huân tập. Lúc sau sinh quả tợ ngã pháp cùng khởi.
Hoặc chẳng phải ngoài tợ ngoài, Thức thứ sáu, thứ bảy kế chấp làm tợ ngoài được khởi, như Sư An Tuệ nói tám thức có chấp, chẳng phải hỏi đây.
Như người nằm mộng là, Bà-thích-noa Hán dịch là Lưu Chuyển, trước đây dịch Bà-la-na là nhầm. Lưu Chuyển là vua nước My-hy-la, dung mạo đoan chánh, tự cho là không ai sánh bằng, tìm kiếm người có dung mạo thù thắng, muốn so với họ để thấy mình đẹp hơn. Bấy giờ có người nói: "Trong thành Vương-xá có Đại Ca-chiên-diên hình dung rất đẹp trong đời không sai sánh bằng". Vua bèn sai người đi nghênh đón Ca-chiên-diên đến. Vua ra ngoài cung để đón tiếp, vua chẳng bằng ngài, mọi người chỉ chăm nhìn Ca-chiên-diên mà chẳng ngó ngàn gì vua. Vua hỏi nguyên do, mọi người trả lời: "Ca-chiên-diên dung mạo hơn vua". Vua hỏi: "Đại đức! Quả nay do nhân xưa trước thế nào?" Ca-chiên-diên đáp: "Xưa kia tôi xuất gia, vua làm kẻ xin ăn. Tôi đang quét chùa, vua đến xin ăn. Tôi quét đất xong, sai vua hốt phân, vua hốt phân xong tôi mới cho vua ăn. Do nghiệp nhân ấy, sinh trong trời người được quả báo đoan chánh". Vua nghe như vậy rồi, sau đó xin xuất gia là đệ tử của Ca-chiên-diên. Sau lại cùng Ca-chiên-diên đi đến nước A-bát-địa, vào trong núi Tu đạo riêng tọa thiền một nơi. Vua nước A-bát-địa tên là Bát-thọđa, đem các cung nhân vào núi dạo chơi. Cung nhân thấy vua lưu chuyển hình mạo đoan chánh nên vây quanh ngắm nhìn. Vua Bát-thọ-đa thấy vua Bà-thích-noa nghi có dục ý, bèn hỏi rằng: "Ông là A-la-hán ư?" Vua Bà-thích-noa đáp: "Chẳng phải". Lần lượt hỏi mỗi mỗi ở ba quả còn lại, đều đáp là chẳng phải. Lại hỏi: "Ông lìa dục chăng?" Lại đáp: "Chẳng phải". Vua Bát-thọ-đa nổi giận bảo: "Nếu vậy tại sao ông vào trong các thể nữ của ta?" Và đánh đập Bà-thích-noa mình mẩy bầm dập ngất xỉu mà chết, đến tối mới tỉnh lại, bèn đến nơi Ca-chiên-diên. Ca-chiên-diên trông thấy vậy, tâm sinh xót thương. Các bạn đồng học với vua thăm hỏi chữa trị. Vua Bà-thích-noa nói với Ca-chiên-diên rằng: "Tôi đến xin thầy tạm được trở về nước cũ nhóm tập quân lính để đánh phá nước A-bát-địa, giết vua Bát-thọ-đa, công việc hoàn tất sẽ trở lại theo thầy Tu đạo". Ca-chiên-diên bảo: "Vua muốn đi cũng được, nhưng tạm nghỉ lại một đêm đã". Và Ca-chiên-diên an đặt một nơi tốt lành để cho ông ấy ngủ, muốn khiến ông ấy cảm mộng, mộng thấy nhóm tập binh lính chinh phạt A-bát-địa, quân mình bại trận, thân bị kia bắt, trói buộc tay chân, hoa đỏ đánh đầu, nổi trống muốn giết. Trong cơn mộng, vua kêu lớn thất thanh: "Nay con không trở về, xin thầy cứu giúp, làm nơi nương tựa để được thọ mạng lâu dài!" Ca-chiên-diên dùng thần lực từ ngón tay phát ra lửa, gọi vua khiến tỉnh, hỏi tại sao? Tâm vua chưa tỉnh, còn nói việc lửa cháy. Ca-chiên-diên dùng lửa soi chiếu mà hỏi vua: "Đây là xứ nào? Ông có thể tự xem". Tâm vua mới tỉnh, Ca-chiên-diên bảo: "Nếu ông đánh nước kia, hẳn sẽ bị bại như chỗ mộng thấy". Vua nói: "Xin thầy vì trừ ý độc". Ca-chiên-diên giảng nói tất cả các pháp, thí như cõi nước giả danh không thật, lìa phòng nhà v.v... thì không riêng có cõi nước cho đến rộng nói các thứ nhân duyên đến một cực vi cũng chẳng phải sự thật, không đây không kia không oán không thân vua nghe pháp đó, được quả Dự lưu, dần sau đắc quả A-la-hán.
Cảnh giới chỉ thế tục có là, sớ có hai giải thích, nay lại nói thêm: Biến kế sở chấp, cảnh phàm phu nên chỉ thế tục có, y tha khởi tánh, cảnh trí Thánh phàm, thức cũng thắng nghĩa, hiển bày gần đó.
Bên trong của phá ngã, Số luận, Thắng luận lập ngã tông là: Ngã, ngã tánh là thường, thừa nhận không trước sau vậy, như hư không v.v... Lại, ngã thể khắp cùng, thừa nhận thường trụ vậy, như hư không v.v... chỗ trước lập tông tức là nhân đây, ngã thể thường khắp, thừa nhận tùy thân tạo nghiệp thọ khổ lạc v.v... vậy, như hư không, vặn hỏi thứ nhất lập lượng là: Hữu, hữu pháp sai biệt lỗi trái nhau. Ngã trên hữu pháp, chỗ ý thừa nhận nghĩa, tùy thân tạo nghiệp, thọ khổ lạc ngã, chẳng tùy thân tạo nghiệp, thọ khổ lạc ngã, là sai biệt của ngã hữu pháp. Nay tạo trái nhau là: Ngã của ông nên chẳng phải tùy thân thọ khổ lạc ngã, thừa nhận không trước sau, như hư không. Vặn hỏi thứ hai lập lượng là: Làm pháp sai biệt lỗi trái nhau, thể khắp cùng trên tự tướng pháp, ý chỗ thừa nhận nghĩa, tùy thân tạo nghiệp thọ khổ lạc thể khắp cùng chẳng phải tùy thân tạo nghiệp thọ khổ lạc, thể khắp cùng là sai biệt. Nay làm trái nhau là: Ngã của ông nên chẳng tùy thân tạo nghiệp thọ khổ lạc thừa nhận thường trụ vậy, như hư không. Vặn hỏi thứ ba lập lượng là: Nhân của tùy thân đã tùy một chẳng thành, ở trên đồng dụ không không, tức chẳng cộng chẳng định. Tông của thường khắp, không là đồng dụ, bình là dị dụ. Nhân tùy thân tạo nghiệp v.v... cả hai cũng đều chẳng phải có. Luận văn hoặc riêng tỷ lượng trái nhau vặn hỏi rằng: Ngã của ông nên chẳng tùy thân tạo nghiệp thọ quả, thừa nhận thường khắp vậy, như hư không. Đây riêng dùng tỷ lượng nêu bày, chẳng cần thuật bản lượng đó.
Ly hệ lập lượng là: Ngã của chỗ nói tùy thân chẳng định, chỗ thân có vậy, giống như ảnh v.v... trong vặn hỏi sau nên nói: Ngã nên có thể bẻ, chấp tùy thân vậy, giống như ảnh v.v... chẳng cần dùng co duỗi giải thích nghĩa tùy thân. Luận Du-già quyển 6, quyển 64 và luận Hiển Dương quyển 10 ghi: "Chấp ngã có bốn:
1. Tức uẩn.
2. Khác uẩn trụ trong uẩn.
3. Khác uẩn trụ trong pháp lìa uẩn.
4. Khác uẩn chẳng phải trụ trong uẩn cũng chẳng phải trụ trong pháp khác uẩn mà không có uẩn, tất cả pháp uẩn đều chẳng tương ưng".
Ba loại sau đều thuộc về dị uẩn chấp, hợp làm hai ba loại. Một hai trong tánh nhiếp hết, nó chỉ phá ngoại đạo chẳng phá Tiểu thừa, nên không cùng uẩn chẳng tức chẳng lìa. Phá trong chẳng phải tức lìa, lại có lập lượng là: Chỗ ông chấp ngã, chẳng nên nói là ngã, ngã chẳng phải ngã kẻ khác, thừa nhận chẳng thể nói vậy, như Hữu vi, Vô vi. Nghĩa đây tuy có thể vậy, chẳng thuận ý văn, mới phá một ngã, chẳng phải tất cả. Luận đây lại chỉ phá một Sư chấp ngã, chẳng phải tất cả, giải thích này mới phá chung tất cả. Lại, chỉ nêu một pháp đủ làm đồng dụ, sao mượn Hữu vi Vô vi. Lại, luận tổng khiến ở ngã chẳng phải ngã tụ cũng nên chẳng thể nói, như Hữu vi Vô vi, sao được mới nói như Hữu vi Vô vi, ngã chẳng phải ngã kẻ khác, cho nên lẽ ra như sớ giải thích.
Trong phá tác dụng, lược có bốn loại:
1. Sinh tử có dụng, Niết-bàn không có dụng.
2. Tăng-khư v.v... không tác dụng động chuyển, các thứ khác có dụng ấy.
3. Thêu dệt cũng không dụng tác thọ v.v...;
4. Chánh vặn hỏi có dụng, đặt câu hỏi không có dụng.
Dục tham gọi là thủ, tuy văn của Đối Pháp đồng với Thập địa giải thích Thủ chi rằng: "Ái tăng thượng gọi là Thủ". Đây tùy nghĩa tăng, chẳng phải lý chân thật, căn cứ thật mà nói, như luận Du-già v.v... ghi: "Tất cả phiền não gọi là Thủ chi". Thủ uẩn cũng vậy, uẩn năng sinh thủ, như hoa quả cây, uẩn từ thủ sinh, như cỏ trấu lửa.
Chỗ Thức thứ bảy duyên Thức thứ tám cùng Kiến đồng một trói buộc, vì mặc tình duyên. Thức thứ sáu mặc tình duyên, tại sao? Tức tổng hoặc biệt, hoặc đồng địa chẳng đồng địa trói buộc, nên tư duy đó vậy, tùy chỗ duyên hiện hành trói buộc không tùy chủng, nhuận sinh kiến duyên sẽ sinh. Văn quyển 88 duyên khắp pháp ba cõi, hàng Nhị thừa trước phục tu vào Kiến đạo. Có thuyết nói Tu hoặc Kiến hoặc một lúc chóng đoạn, gia hạnh vui cầu vì trước bẻ gãy thế lực, có thuyết nói khởi Vô gián đạo đoạn. Nay lấy chóng đoạn, chẳng lấy biệt đoạn.
Nói khởi tướng tự tâm, có hai giải thích:
1. Tức tướng ảnh tượng.
2. Tức tướng sở chấp, tuy không thật thể, xứng tình mà hiện vậy, các thuyết nói về tướng tâm đều theo đây mà biết.
Hai ngã chấp đây tinh tế nên khó đoạn, sớ có ba giải thích:
1. Vì tướng hành kiến của Tu đạo vi tế, đi với Kiến đạo, hoặc trong Tu đạo tự mong tám thức trước là tế.
2. Vì Kiến đạo dễ đoạn nên gọi là tế, đạo trên khó trừ nên gọi là thô. Như tự phần thô tế trong ba tâm.
3. Kiến đạo đứng về năng trị đạo yếu kém, tướng sở đoạn từ phẩm đầu tiên gọi là tế, Tu đạo đứng về hành tướng tự phẩm, gọi là tế.
Khó đoạn, trong sớ giải thích cũng có ba:
1. Thế đạo chẳng phục.
2. Dần dần sơ đạo chẳng đoạn vì chẳng phải Kiến đạo.
3. Khuyết đạo chẳng trừ, cốt yếu chín phẩm đầy đủ, đạo mới có thể đoạn.
Nay, thứ tư nếu vượt người quả thứ ba, Thức thứ sáu chấp, ở đây có năm giải thích:
1. Kiến đạo không thể đoạn, sau khi vượt đắc quả mà cũng chẳng đoạn, cần phải đến tâm Kim cương cùng Thức thứ bảy chấp một lúc đoạn.
2. Sau vượt đắc quả, riêng khởi đạo đoạn, nó đã chẳng chướng quả, tại sao địa kia mê hoặc, như Thức thứ bảy chấp đây cũng đâu có trái ngược.
3. Lúc vượt đắc quả, sau tướng Kiến đạo lại chẳng vượt quán, riêng khởi Thắng tấn đạo, Gia hạnh đạo v.v... đoạn hoặc tu đạo đắc quả thứ ba, các xứ chỉ nói tâm thứ mười sáu đã biết căn nhiếp mà dựng lập quả, tại sao trong đây sau khởi Tu đạo đoạn hoặc đắc quả. Vì sơ quả chẳng phải vượt qua.
4. Lúc vượt đắc quả, từ tướng Kiến đạo tức vào
Tu đạo, không gián đoạn, giải thích thoát đoạn Tu hoặc đắc quả. Chẳng khởi gia hạnh, không duyên riêng khởi Gia hạnh đạo.
5. Lúc vượt đắc quả, tức một sát-na thân thật Kiến đạo, không gián đoạn, Kiến hoặc Tu hoặc cả hai đều đoạn, tuy đạo đời trước chẳng phục ngã chấp, do ý lạc thù thắng vào vị Kiến đạo.
Phục và chẳng phục trong một niệm đều đoạn, y cứ giải thích thứ nhất. Đạo luôn luôn tu, đoạn chẳng luôn luôn, y cứ giải thích thứ hai và thứ ba, đạo đoạn đều luôn luôn, y cứ giải thích thứ tư, trước lìa Vô sở hữu xứ sau đó muốn khởi thứ ba sau thành vô học, chỉ hai phẩm đoạn. Tóm lại, tùy chỗ xứng đáng trước mà thành nghĩa luôn luôn hoặc chẳng luôn luôn.
Vượt qua quả thứ tư chóng thủ hai quả là, tuy thiếu Hữu đảnh, thiếu tám phẩm trước, ngã chấp ba cõi mà không thể đoạn, lần lượt đắc quả. Trong Phi tưởng địa có hai nghĩa nói, nếu là chín phẩm đoạn, tám đạo trước cũng chẳng trừ đó, tức địa phẩm thứ chín. Nếu là một phẩm đoạn chỉ khuyết Hữu đảnh tức năng đoạn hết, nghĩa trước là chánh, nghĩa sau không có văn nói, ba mươi bốn niệm v.v... cần phải đủ chín phẩm. Thứ bảy cần yếu khuyết Hữu đảnh, thứ chín mới năng đoạn hết. Do khó đoạn đây nên luôn luôn đoạn. Đó là người vượt qua quả thứ tư, Thức thứ sáu chấp đạo luôn luôn tu, đạo chẳng phải luôn luôn, một phẩm đoạn vậy, lần lượt đắc quả, một địa mà giải thích, tám đạo trước luôn luôn tu, thân kiến phẩm thứ chín trừ, đoạn chẳng phải luôn luôn. Nếu gần chín chín địa mà luận, đạo đoạn đều luôn luôn nếu hồi tâm rồi chỉ tập luôn đoạn chẳng phải chủng.
Phân biệt hai chấp đã chẳng nói chung riêng, tức ngã của uẩn gồm hai mươi câu v.v... luận chỉ nói riêng, mà không có văn nói chung. Đây có hai giải thích:
1. Y cứ văn nghĩa thật không có chung, nhưng chưa thấy văn chỉ cùng Câu sinh trước chẳng đồng, do đó chẳng nói.
2. Giải thích thật có chung riêng vì đồng với trước nên lược mà chẳng luận, như uẩn chấp ngã lẽ đâu chọn lựa tổng ư? Giải thích này là thù thắng ngã của lìa uẩn chẳng nói chung riêng.
Hai ngã chấp đây, trước lúc Kiến đạo đoạn là như sớ có thể biết. Ba tâm Kiến đạo phân biệt hai chấp. Ba tâm Kiến đạo tại sao đoạn mới đầu, tại sao đoạn sau? Hai thứ đều thông, đều có lực của bạn tà, tư duy tà khởi. Một là lực tà giáo khởi nên đoạn sau, lực tư duy là đoạn trước, vì thô dễ đoạn. Giải thích thứ hai trái với đây, là lực tà giáo khởi là đoạn trước, như tiếp tục thiện căn trước thế mỏng kém. Lực tư duy tà khởi đoạn sau như tiếp tục thiện căn, địa ngục lúc chết tiếp tục, vì thế lực bền chắc. Giải thích thứ ba, tức uẩn kế chấp v.v... đoạn sau, vi tế nên uẩn ngã tương tợ, lìa uẩn kế chấp đoạn trước, vì thô mạnh. Giải thích thứ tư, bất định, trong chín Địa mỗi mỗi địa đều có thô tế. Thô là trừ trước, tế là đoạn sau. Do ở một lúc hành có thô tế, đoạn có trước sau, các phiền não đó cùng đây đồng lưu, tùy phẩm loại đó, nói đoạn trước sau. Luận về sức huân tập cho nên được thức có ghi nhớ. Hỏi: Tâm trước thiện, chẳng thiện huân nên sau có thể ghi nhớ, tâm trước nếu Dị thục, chẳng huân, sau chẳng ghi nhớ ư? Đáp: Tâm trước là năng huân, có chủng sau năng ghi nhớ. Tâm trước nếu Dị thục, chẳng huân sau chẳng ghi nhớ. Hỏi: Tâm trước là năng huân, có nhân quả năng ghi nhớ. Tâm sau nếu Dị thục, không nhân ghi nhớ chẳng phải quả ư? Đáp: Tâm trước là năng huân có nhân sau năng ghi nhớ, chưa hẳn cần đồng tánh, Dị thục đâu ngại ghi nhớ, như trước tâm sân, sau tâm thiện ghi nhớ, khác tánh làm nhân, khác tánh năng ghi nhớ. Phật ghi nhớ tất cả mọi sự từ vô thỉ. Hữu lậu túc mạng há chẳng thể ghi nhớ tâm Dị thục ư? Chỉ do lúc sau huân tập thù thắng nên có thể ghi nhớ việc trước, chẳng phải cần nhân đây sinh quả đây.
Đã có ba tướng, sao thấy là một? Đây là vặn hỏi ba đức mỗi mỗi nên thấy một, không đồng với sớ. Một căn lẽ ra được tất cả cảnh, vì căn không riêng biệt, một cảnh các căn được, vì cảnh không khác.
Phá các câu "thường" trong Thắng luận: phá chấp thường của Thắng luận thứ nhất vặn hỏi có dụng chẳng phải thường, thứ hai vặn hỏi không dụng tức là thức.
Trong phá vô thường: thứ nhất vặn hỏi có ngại chẳng phải thật, thứ hai vặn hỏi không có dụng tức là thức.
Trong phá thật đức: thứ nhất, vặn hỏi câu đại chẳng phải thật; thứ hai, vặn hỏi tánh cứng v.v... chẳng phải đức; thứ ba, vặn hỏi địa v.v... chẳng phải kiến; thứ tư, vặn hỏi câu sắc chẳng phải đức.
Trong câu "phá thật": thứ nhất vặn hỏi có phá vô thường; thứ hai, vặn hỏi không ngại thành có, thừa nhận sắc căn thủ nên khiến thành có ngại.
Trong câu "phá hữu", có bốn đoạn:
1. Lỗi pháp tự trái nhau. Họ nói: Hữu tánh, lìa ngoài câu thật có tự tánh riêng, vì thừa nhận chẳng phải không có, như đức nghiệp. Đây có lỗi bất định, vì câu thật là dị pháp dụ, vì nhân đi với nó là có. Nay nói: Lìa ngoài câu "thật", không có tự tánh riêng, vì thừa nhận chẳng phải không có, giống như câu "thật". Các sư ngoại đạo kia, nếu vì đức nghiệp như nhân dị hòa hợp làm lỗi bất định, chẳng phải lỗi bất định, vì nó bất định chẳng phải tự chung cùng. Luận đã dùng đức nghiệp làm đồng dụ, chỉ tỷ lượng trái nhau.
2. Có lỗi pháp tự tướng trái nhau. Họ nói: Có tánh lìa thật, có tự tánh riêng, thừa nhận khác thật vậy, như đức nghiệp, vì có tánh làm hữu pháp. Nay nói: Có tánh nên chẳng phải có tánh, nên thành tự tướng hữu pháp trái nhau. Nay nêu không có pháp làm dụ, cũng thành quyết định trái nhau.
Thứ ba, thứ tư đều cùng tỷ lượng trái nhau.
Vặn hỏi trong tánh đồng dị: Thứ nhất, lỗi tự tướng hữu pháp trái nhau. Họ nói: Tánh đồng dị, định khác thật riêng có, vì thừa nhận khác thật như đức nghiệp. Nay khiến đồng dị cũng chẳng phải đồng dị, nên thành tự tướng hữu pháp trái nhau, tại sao cũng gọi là thừa nhận khác thật v.v...? Nhân chẳng chỉ hiển bày có khác ở thật đức nghiệp, cũng hiển bày tánh thật v.v... chẳng phải thật tánh, như năng thành ngăn ngừa thật. Như vậy cũng năng thành ngăn ngừa tánh đồng dị, vì đều quyết định, nên thành tự tướng hữu pháp trái nhau. Lại chẳng chỉ có tỷ lượng và quyết định trái nhau và có tự tướng hữu pháp trái nhau. Nên luận nói là "cũng", nếu không như vậy cũng nói liền trở thành không dụng. Lỗi tỷ lượng trái nhau là ba thứ thật đức nghiệp là không tánh riêng, trong câu sáu, câu mười tùy một nhiếp, như đại, hữu v.v...
Lại, hoặc thật tánh, định khác thật không, vì thừa nhận hiển bày thật. Ngoài ra, đức nghiệp tánh cũng vậy, cũng thành quyết định trái nhau. Vặn hỏi thật chẳng phải thật, cũng đồng đây phá, nhân lời nói bèn phá chẳng phải chánh vặn hỏi; Thứ ba, chuẩn cứ trên trở lại hai vặn hỏi, tổng biệt có khác, nghĩa lý không riêng; Thứ tư, tỷ lượng trái nhau, kia nói thật tánh, không có tánh riêng, thừa nhận chẳng phải mới đầu có ba, như đại hữu v.v... chẳng chỉ thiếu không có đồng dụ mà thành lỗi bất cộng bất định cũng thành tỷ lượng trái nhau; thứ năm, cũng tỷ lượng trái nhau.
Phá lìa thức thật có tự thể trong trí hiện lượng, tâm, tâm sở trong câu đức đáng lẽ có chọn lựa. Trong phá Đại tự tại thiên, luận văn nói có bốn nhân, như thứ lớp trở xuống vặn hỏi ở tông trên, nhưng lại hỗ tương làm nhân. Một nhân vặn hỏi ba tông cũng được, như lý nên biết.
Trong luận về Thanh, luận Du-già quyển 15 ghi: Xứ sở căn tài thi thiết kiến lập là như rễ cây là cội rễ gieo trồng cây. Cội rễ của thanh, gọi đó là căn tài tức là chữ, biện ra Thanh xứ sở gọi là xứ sở, gốc Thanh Minh. Nghĩa là kiếp mới đầu khởi, Phạm thiên sáng tạo một trăm vạn bài tụng Thanh Minh, sau mạng tuệ giảm, sau đó Đế Thích lược làm mười vạn bài tụng, tiếp đến có Tiên Ca-đamột-la lược làm một vạn hai ngàn bài tụng, tiếp nữa có Tiên Ba-nị-ni lược làm tám ngàn bài tụng. Trên đây bốn luận đều gọi là xứ sở, nay hiện hành chỉ có hai loại sau, còn hai luận trước đều đã diệt mất. Thể chữ căn tài Thanh Minh luận có ba trăm bài tụng. Tiên Ba-nị-ni lại lược tạo thành Thanh Minh tụng có một ngàn bài tụng, gọi là Thanh
Minh lược bản tụng. Sau đó có Bát Giới luận, có tám vạn bài tụng, gọi là Nhân Duyên. Lại có Văn Thích-ca luận, một ngàn năm trăm bài tụng. Lại có Ôn-na-địa luận, hai ngàn năm trăm bài tụng. Năm Thanh Minh đây đều gọi là Căn tài, năng cùng căn bản xứ sở Thanh minh làm sinh trí giải thích gốc sở y. Nhưng Bồ-tát Hộ Pháp tạo hai vạn năm ngàn bài tụng, gọi là Tạp Bảo Thanh Minh luận, ở Tây phương lấy làm cực luận của Thanh Minh rốt ráo, rất thịnh hành ở đời, nhưng Thanh Minh luận có năm phẩm. Luận Du-già ghi: "Tương tục, Danh hiệu, Tổng lược, Bỉ ích, Tuyên thuyết".
Thứ nhất, Tương tục là pháp hợp thanh hợp chữ làm một phẩm là phần thứ nhất.
Thứ hai, Danh hiệu nói về kiếp mới đầu, Phạm thiên ở mỗi mỗi pháp đều lập ngàn tên gọi. Đế Thích sau giảm làm trăm tên gọi, sau lại giảm làm mười tên gọi, sau nữa lại giảm làm ba tên gọi, gồm cả thảy làm một phẩm, là phẩm danh hiệu phần trong danh hiệu phẩm thứ hai.
Thứ ba, Tổng lược là căn bản lược yếu trong Thanh Minh.
Thứ tư, Bỉ ích là tiếp trong lược đó, khiến vật sinh giải thích hiểu gọi là Bỉ ích.
Thứ năm, Tuyên thuyết là tuyên thuyết rộng, nghĩa là rộng trong lược, với ba phẩm sau tức là phần sau.
Trong ba Thanh luận có chấp: Tất cả âm thanh đều là thường, có hai giải thích:
1. Tất cả tất cả tức nội ngoại đều chấp thường.
2. Phần nhỏ tất cả, nghĩa là tất cả Thanh bên trong thường.
Tuy có hai giải thích, giải thích trước là thù thắng. Vật ngoài tuy là chẳng thuyên, hiển bày duyên của sinh thanh cũng có tất cả vật chung cùng, cũng có mỗi mỗi riêng biệt, tùy nên có đó.
Trong phá Tát-bà-đa có ba loại:
1. Thuật tông đều chẳng phải.
2. Phá riêng.
3. Tổng kết.
Phá riêng lại có ba:
1. Đồng luận Quán Sở Duyên.
2. Tỷ lượng có thể biết.
3. Tỷ lượng nói: Hòa hợp cực vi, chẳng phải lìa ngoài bản cực vi có thể tướng riêng biệt, tức là lúc không hòa hợp là cực vi như lúc không hợp.
Năm cảnh, lược lấy năm môn phân biệt:
1. Giả thật.
2. Hữu lậu Vô lậu.
3. Ba tánh.
4. Phân biệt Dị thục v.v...
5. Thức duyên phân biệt.
Cực vi, năm môn phân biệt là:
1. Biện về nhãn duyên.
2. Vặn hỏi lỗi trái nhau.
3. Nói về lợi thù thắng.
4. Tâm sở quán nào cần phương tiện, chẳng phải sinh được.
5. Tâm của năng duyên thuộc Đế nào.
Hữu lậu thông hai Đế, Vô lậu chỉ thuộc Đạo đế, nhưng chẳng phải chỉ có Khổ, thông thiện và bất thiện, chấp làm thật có. Vì chánh quán quán sát chẳng phải chỉ Khổ đế. Nhưng y cứ tư nguyện thiện ác phần hạn, đây là thân Phật là câu riêng của vô biểu, ngoài ra còn lại là câu chung của vô biểu. Do Phật vô biểu tuy là từng được chẳng phải niệm niệm mới sinh. Vì xưa trước phát nguyện chế phục nghiệp suy nghĩ rằng chúng sinh giới tận, ước mong ta mới tận, vì tâm không có cùng tận, hoặc thường có, ngoài Phật ra, hoặc đều chưa từng được. Do nguyện chế tư chẳng khô cạn. Chưa gặp phá duyên, hoặc thường tương tục, hoặc gặp duyên của Phạm xả, nguyện đã úa hết lại chẳng khởi mới, gọi là xả hoặc. Nhưng Định đạo vô biểu chỉ y cứ Thiện tư phần hạn. Biệt giải thích thoát vô biểu toàn y cứ Thiện tư nguyện phần hạn. Bất luật nghi vô biểu chỉ y cứ Ác tư nguyện phần hạn. Ở trong vô biểu thông y cứ thiện ác tư nguyện phần hạn, nên nay hợp nói.
Tăng trưởng vị lập là ngoài Phật ra, thân Phật tu như xưa chẳng tăng trưởng. Phát thân ngữ tư.
Trong sớ chỉ nói là nghiệp chẳng phải biểu, vô biểu. Nghiệp của danh thân biểu, là nghiệp của động thân biểu, đây là Y chủ thích. Chỉ nói thân nghiệp cũng là nghiệp của động thân. Nếu nói thân biểu, là biểu của y thân, ngữ đó tức nghiệp của biểu phát ngữ, cũng nghiệp của ngữ biểu tùy ứng đều được. Hai tư, hai nghĩa của phần giữa, phần sau trong ba tư gọi là đạo, tư trước có khắp. Thẩm tư lự đó chỉ sinh một nghĩa ngay quả gọi là đạo.
Hỏi: Nếu thừa nhận chỗ tư phát thân ngữ lập vô biểu gọi là ý cũng do tư làm, nên phải lập biểu xưng, hỏi chỗ thân ngữ tư làm thì thừa nhận tên nghiệp, chỗ ý thức tư tạo cũng nên lập nghiệp xưng ư?
Đáp: Không như vậy, ngoài thân ngữ bày rõ biểu khác biểu. Ý chỉ bên trong giải thích tự biểu chẳng phải kẻ khác. Tạo tác gọi là nghiệp. Thể thân ngữ tạo tác. Thể ý tuy kẻ khác dẫn, chẳng phải tác chẳng gọi là nghiệp. Xúc, tác ý, v.v... đó đều do tư tác để thành ba tánh. Thể chẳng phải tạo tác, cũng chẳng gọi là nghiệp, cũng chẳng gọi là tự biểu. Chẳng phải vương chẳng phải thắng vậy. Quyển 59 ghi: "Thân ngữ gọi là nghiệp đạo, phát tư gọi là nghiệp". Tham sân tà kiến gọi là đạo là tùy thuận Tát-bà-đa cùng với đây chẳng trái nhau. Trong biểu và vô biểu lược làm bài tụng là:
"Ác hoặc sinh nhà kia Phát tâm khởi nhẫn lạc Đó là bất luật nghi
Nghiệp đạo còn thích thành Ít nhiều làm sự kia Bèn thành nghiệp bất thiện Ngoài ra lại có người
Phát tâm thảy cũng vậy Đây do xả năm duyên Thề xả và thọ giới
Mạng chung được thượng định Giới mất hai hình sinh Tỳ-kheo chẳng tự thọ Từ khác chọn lựa vậy Cận sự và cận trụ
Tự thọ cũng từ khác Biểu nghiệp định từ khác Vô biểu thông hai thọ Tự thọ chỉ ý biểu
Chẳng biểu bày khác vậy Xuất gia bỏ năm duyên Xả học phạm trọng tội Hình mất hai hình sinh Đoạn thiện bỏ đồng phần Cận sự do ba duyên Xả học thiện căn đoạn Và bỏ Chúng đồng phần
Cũng trước chẳng pháp diệt Cận trụ cũng do ba Nhật Xuất bỏ học xứ
Và bỏ Chúng đồng phần Chẳng đoạn thiện pháp diệt Định giới thông Vô sắc Cận phần đầu là đoạn
Còn trì xa phần tánh Gọi là Định luật nghi Đạo giới chỉ chốn định Chín sắc ba Vô sắc.
(Vì Kiến đạo thừa nhận y cứ năm Địa, Tu đạo cũng chỉ thông ba Vô sắc. Luận Du-già quyển 100 ghi: "Chín Địa năng hết lậu tức sáu Địa ở Sắc giới và năng tận lậu, tức chỉ Tu đạo, Kiến đạo chẳng y cứ khoảng giữa, ba y, năm y sinh vậy"). Là đoạn y kiến tu
Đốn tiệm Vô gián đạo.
(Dự lưu vượt qua Thủ quả thứ tư, ở Dục giới có đoạn đối trị. Luận Đối Pháp quyển 13 ghi: "Dự lưu y chưa đến định được vượt thứ tư", chẳng nói y Địa khác là nay làm hai giải thích, như quyển 10 ở sau giải thích. Đốn tiệm đoạn hoặc, văn trong sớ tự giải thích).
Đây y ở phần xa
Tùy ứng và Hữu đảnh (Vì thừa nhận có tâm du quán vậy).
Nếu khởi tâm phần khác
(Hai duyên định tán, duyên Hữu lậu Vô lậu đều không phải như vậy thì sai).
Liền xả giới tùy tâm".
Luận: Nhưng y cứ tư nguyện thiện ác phần hạn v.v... là câu chung của tất cả vô biểu, cũng là câu riêng của thân Phật vô biểu. Thân Phật định giới cùng nhân chẳng khác, chỉ khác biệt thoát chẳng tăng trưởng. Tăng trưởng sau nói chỉ y cứ nhân vị, nên Phật biệt thoát vô biểu, chỉ y cứ tư nguyện phần hạn, nguyện cùng tận ở tương lai có thể xả nên chẳng đồng ở nhân, cho nên đây là câu riêng của Phật giới, câu chung của các vô biểu.
Hỏi: Nếu thừa nhận chỗ tư phát thân ngữ lập biểu danh, ý cũng do tư tác, nên phải lập biểu xưng ư?
Đáp: Thân ngữ tánh là nghiệp, có thể y cứ lập biểu danh, ý chẳng phải thể là nghiệp, làm sao được xưng biểu?
Hỏi: Thân ngữ tư tạo nên, tức thừa nhận lập tên nghiệp, ý thức tư tạo nên cũng nên lập tên nghiệp ư?
Đáp: Không như vậy. Tạo tác gọi là nghiệp, thể thân ngữ tạo tác, thể ý tuy kẻ khác dẫn chẳng phải tác nên chẳng gọi là nghiệp, xúc, tác, ý v.v... đó đều do tư tác để thành ba tánh, thể chẳng phải tạo tác, cũng chẳng gọi là nghiệp, nghĩa này nên tư duy. Quyển 59 ghi: "Thân ngữ gọi là nghiệp đạo, phát tư gọi là nghiệp". Tham sân tà kiến gọi là đạo, là tùy thuận Tát-bà-đa cùng đây chẳng trái nhau.
Vặn hỏi trong bất tương ưng. Luận Hiển Dương quyển 18 ghi: "Các Bất tương ưng đều có hai lỗi nên là giả có: một là nhân lỗi; hai là thể lỗi". Nhân lỗi là nếu sinh của sinh nên gọi đó là sinh, thì không quả riêng biệt sinh có thể được. Nếu sở sinh của sinh, gọi đó là sinh, thì chẳng nên gọi là năng sinh v.v... rộng như luận đó nói, nên nay vặn hỏi.
Phá thứ ba trong đắc, chánh phá có hai, trước là phá đắc, sau là phá phi đắc. Trong đắc lại có hai:
1. Y cứ giáo lý đều trưng bày, tức là bảy vặn hỏi.
2. Giả sử có nghĩa riêng biệt trưng bày, lại được ở pháp v.v... Trong đoạn đầu lại có bốn:
1. Dẫn giáo đều vặn hỏi.
2. Phá chống chế tự tại gọi là thành.
3. Do hiện tại có thể giả nói có.
4. Phá chống chế của họ.
Nếu không đắc nghĩa là pháp chưa khởi nên trọn chẳng sinh là hiện tại hẳn có thiện chủng v.v... nên dù có nghĩa riêng biệt. Trong trưng bày có hai: Trước là hỏi về định, sau là phá riêng. Trong phá lại có hai: Như văn có thể biết, trước phá trong năng khởi có ba, như văn tự hiểu.
Trong thành, bất thành: Chủng tử thành thục, nghĩa là có hai Thừa và thế đạo thành, bất thành, không nói Bồ-tát. Hai chướng trước Kiến đạo của Bồ-tát trước Kiến đạo. Lẽ ra nói phiền não chủng của hai Thừa có thành và chẳng thành, sở tri thuần là thành. Bồ-tát thì nói cả hai, tư lương vị Câu sinh thành và chẳng thành, phân biệt thành và chẳng thành, gia hạnh vị thuần là chẳng thành. Câu sinh có cả thành và chẳng thành. Vào Kiến đạo rồi, Tu đạo thành và chẳng thành, Kiến đạo thuần chẳng thành. Tu đạo thứ bảy thuần là thành; Thứ sáu có thành và chẳng thành, phiền não chướng chẳng đoạn thuần là thành, sở tri chướng chủng có thành và chẳng thành, cứ như thế mà tư duy.
Dị sinh tánh chỉ nhiễm chủng hai chướng trên mà lập. Hỏi: Trí chướng chẳng chướng ở Nhị thừa, tức nói là vô phú, người không tánh hai chướng đều chẳng chướng ba Thừa. Thể sở tri chướng thuộc về tánh nào, đều nên chẳng phải nhiễm ư? Đáp: Có thể đoạn chủng khinh trọng chẳng chướng để gọi là Vô phú. Hai thứ vô tánh đều trọng cùng chướng Thánh đạo của ba Thừa đều gọi là Phú. Nếu chỉ thủ phân biệt chủng gọi là Dị sinh, tức một cõi thành ba cõi, nên gọi là ba cõi Dị sinh. Nếu thủ sinh hiện hành chủng, tức đã lìa dục nên gọi là các cõi Dị sinh. Thủ cùng tánh đồng địa Dị sinh của Thức thứ tám, thể đó tức được.
Đồng phần lược dùng mười môn phân biệt:
1. Giải thích tên gọi (như sớ, Quyết Trạch 52 ghi: Do các phần kia hỗ tương tợ tánh, gọi là Chúng đồng phần. Ý đây thì hiển chúng là các phần kia nhiều chẳng phải một nghĩa. Phần nghĩa là loại. Đồng nghĩa là tương tợ, tức nhiều loại đồng phần tương tợ gọi là Chúng đồng phần).
2. Sở y của hiện hành chủng tử (vặn hỏi đều thông, mạng căn nương đó mà lập, nên đây đều thông, như Đối Pháp giải thích).
3. Đẳng lưu Dị thục v.v... (tất cả đều thông, quyển 52 nêu các vị như âm thanh v.v... nên chung cả ba).
4. Sở y ba tánh (đều chung, quyển 52 ghi: các loại như tà kiến v.v... chư Phật cũng đồng vậy).
5. Nội ngoại sở y (các luận chỉ có nội, trong đây vặn hỏi kẻ khác, nên đều chung cùng ngoại).
6. Hệ chẳng phải hệ y (đều thông).
7. Tổng biệt sở y (Hữu lậu vị Vô lậu vị đều thông biệt tổng).
8. Sở y của kiến sở đoạn v.v...
9. Sở y của học v.v...
10. Chung riêng được xả.
Đã thông nhân pháp, tùy ứng xả đắc, chuẩn cứ theo Tiểu thừa nói. Nay dùng lý lập, có chỉ một đắc chẳng xả, nghĩa là báo thân Phật, có chỉ một xả chẳng đắc, nghĩa là vào tâm vị vô dư. Có trọn định đắc xả, nghĩa là hữu tình không tánh chết đây sinh kia. Có định chẳng xả đắc, nghĩa là vô vi v.v...
Hỏi: Tướng Hữu vi lấy giả lập đồng phần, tướng trạch diệt tợ thừa nhận giả lập ư?
Đáp: Không như vậy. Hữu vi thể dụng tương tợ có đồng phần trạch diệt, không thể lại không dụng nên chẳng lập đồng phần. Chân như là một, vì không tương tợ, chẳng nói đồng phần.
Bốn chánh đoạn là:
1. Luật nghi đoạn, nghĩa là ác pháp đã sinh muốn khiến nó đoạn nên khuyên gắng.
2. Đoạn đoạn, ác pháp chưa sinh, khiến chẳng sinh.
3. Tu tập đoạn, thiện pháp chưa sinh, khiến cho nó sinh.
4. Phòng hộ đoạn.
Thiện pháp đã sinh là muốn khiến nó trụ nên khuyên gắng, đều tức tinh tấn khuyên phát. Tuệ tự có thể dần phục hoặc, từ quả đặt tên nên gọi là chánh đoạn.
Mạng căn, dùng năm môn phân biệt:
1. Thể.
2. Danh.
3. Dị thục phi Dị thục v.v...
4. Hữu lậu Vô lậu v.v...
5. Hỏi đáp phân biệt.
Hỏi: Mạng căn nếu chỉ là chủng tử, tại sao hiện hành chủng tử của tám căn trong địa ngục đều định thành thục?
Đáp: Lại, bảy căn có hiện chủng, mạng căn chỉ chủng, thông luận tám pháp, nên gọi là hiện chủng chẳng phải mạng căn có hiện hành. Lại, tám căn đây định hẳn thành thục, giả sử có chủng tử hiện hành đều định thành đó, chẳng phải nói mạng căn cũng có hiện hành. Lại, vì sở trì sáu xứ làm hiện, đó có gì lỗi ư? Đây do công năng nghiệp dẫn sai biệt, gọi là mạng căn. Phật do nguyện lực khiến chủng tử sinh hiện hành cùng với phần hạn của sắc tâm v.v... gọi là mạng căn.
Hỏi: Nhàm chán tâm nhập không tâm có tế tâm, nhàm chán sắc nhập Vô sắc có tế sắc, nhàm chán thân nhập không thân có tế thân không?
Đáp: Nếu nhàm chán thô thân cũng có tế thân, như thân Phật. Thô tế đều nhàm chán chẳng được có thân, so với tâm khác.
Hỏi: Nhàm chán tâm nhập vô tâm. Hai định gọi là vô tâm. Nhàm chán thứ nhất nhập thứ hai. Nhị thiền gọi là vô tâm ư?
Đáp: Nhàm chán tâm gồm nhàm chán sáu: Hai định gọi là vô tâm.
Nhàm chán dưới chẳng phải tâm trên. Định trên chẳng phải vô tâm.
Hỏi: Nhàm chán sắc vào Vô sắc, tuy có tế sắc gọi là Vô sắc, nhàm chán dưới lên định trên, định trên gọi là vô tâm ư?
Đáp: Nghiệp sắc thượng địa không, tuy có tế sắc, gọi là vô tâm.
Báo tâm thượng địa có, chẳng được gọi là vô tâm.
Hỏi: Tâm chủng phòng ngại ở tâm. Định thể chẳng phải tâm sắc, sắc chủng phòng ngại ở sắc, giới thể chẳng phải sắc tâm ư?
Đáp: Chỗ phòng ngại tánh là sắc, năng phòng ngại cũng là sắc thâu nhiếp.
Hỏi: Sở nhàm chán đã là tâm, năng nhàm chán nên là tâm nhiếp ư?
Đáp: Chỗ phòng ngại, chỗ phát đều là sắc, năng phòng ngại ở sắc cũng gọi là sắc. Chỗ nhàm chán tuy tâm không chỗ phát, năng phòng ngại ở tâm chẳng phải tâm sắc.
Hỏi: Tán sắc có thể vậy, Định đạo cộng giới không chỗ phát, sao có thể gọi là sắc. Ở trong vặn hỏi đây có thể gắng tư duy chọn lựa ư?
Đáp: Nhàm chán tâm nhàm chán tất cả, năng nhàm chán chẳng phải sắc tâm, phòng ngại sắc chỉ phòng ác, năng phòng ngại cũng gọi là sắc.
Hỏi: Nhàm chán tâm nhàm chán tất cả, năng nhàm chán chỉ tâm chủng, phòng ngại sắc chỉ phòng ác, năng phòng ngại nên hiện hành ư?
Đáp: Thông với hữu.
--------------------------------
Thượng tọa bộ lập hai tướng. Hóa địa bộ lập ba tướng:
1. Sát-na diệt uẩn, tất cả sắc tâm.
2. Một thời kỳ uẩn, nghĩa là thọ mạng. Cả hai phần này biện về tướng.
3. Cùng sinh tử uẩn, tuy riêng có pháp mà chẳng phải ở tướng.
Chánh lượng bộ lập bốn tướng, sắc pháp một kỳ hạn nhiều thời sinh diệt, tâm tâm sở pháp, ngọn đèn, tiếng linh từng sát-na sinh diệt. Động v.v... thời gian dài, đại địa trải qua kiếp trụ. Luận sư Kinh bộ dường như thuận Tát-bà-đa, nên luận Câuxá quyển 4 ghi: "Ý kia sinh dụng ở vị lai, ba tướng dụng hiện tại", nhưng là giả lập, chẳng phải là vốn chấp. Tướng sở chấp của sư kinh bộ đó vốn cùng
Đại thừa đồng đời. Các Luận sư Nhất thiết hữu xưa trước sinh tại vị lai, hiện tại một sát-na, ba tướng thời gian riêng biệt. Vị đầu tiên gọi là trụ, đây quả năng thủ có lực thù thắng. Dị và Diệt thì không thể, vì lực nó yếu kém. Trụ vị trở về sau khiến pháp suy kém, gọi là Dị vị. Dị vị trở về sau khiến pháp sau dụng không có, gọi đó là diệt. Nếu Luận sư Chánh Lý, sinh tại vị lai, ba thứ trụ dị diệt đồng một thời dụng, sinh khiến pháp sắc có dụng. Trụ khéo khiến pháp lấy ngay quả khởi, tức thời của trụ, Dị khéo khiến pháp sau chẳng kịp trở về trước, yếu kém so với trước. Pháp Hữu vi thế lực suy kém chẳng bằng trước, mà hoặc có thời pháp tăng trưởng là do các duyên khác đến khiến sinh, như vậy chẳng phải pháp tánh gốc. Pháp tánh gốc yếu, hẳn suy khác. Thời tăng trưởng đó dị nhưng thể tại tánh khiến pháp yếu. Diệt tức ở thời trụ khởi dụng khiến dụng đến sau niệm không. Nếu kinh chỉ nói có hai tướng, Luận sư Nhất thiết hữu nói: Nêu tướng trước và sau vì lược khoảng giữa, sinh chuyển khiến pháp có dụng, thời của có dụng ở hiện tại, thời vị lai sinh pháp chưa có dụng. Diệt nhân sinh khiến pháp sắp vô dụng. Trong sát-na sau chánh vô dụng. Trụ tuy có pháp chẳng bằng ở sinh. Dị tuy suy pháp, chẳng bằng ở diệt, cho nên lược trụ và dị, chỉ nói ở sinh diệt. Luận sư Chánh Lý nói: Đây hiển hai thời khởi dụng, vị lai khởi sinh công năng, khiến pháp vào hiện tại. Hiện tại có diệt thời, khiến pháp vào quá khứ. Dụng của Trụ và Dị cùng diệt đồng thời. Thời chẳng dị, do đó chẳng nói. Sinh diệt mới là có dụng, mới đầu của không dụng, chẳng nói sinh và trụ dị là hai dụng v.v...
Thứ ba, phá trong bốn tướng có hai đoạn: Trước tổng nêu các lỗi, sau phá riêng. Trong phá riêng có bảy:
1. Vặn hỏi sáu chuyển không sai.
2. Vặn hỏi năng sở chẳng khác.
Cả hai đều có tông, tỷ lượng trái nhau, lỗi bất định. Nghĩa là mới đầu, họ lập lượng: Ba tướng Hữu vi khác chỗ tướng pháp định biệt có thể, nói thuộc chủ, như y phục của Đề-bà-đạt-đa. Sau, Tỷ lượng là: Ba tướng Hữu vi, pháp khác sở tướng là năng tướng vậy, như tướng khói v.v... nên đều có hai lỗi.
Thứ nhất, vặn hỏi Tỷ lượng trái nhau. Danh, cú, văn của ngươi chẳng thật năng thuyên, thừa nhận khác tiếng vậy như sắc, hương v.v...; Thứ hai, kết quy thanh thuyên.
Thứ ba, ngoại đạo chống chế rằng: Tiếng trên chẳng phải tên gọi của khác tiếng. Lập lượng là: Tiếng trên gãy khúc, định khác sở y thật có. Sắc uẩn trên gãy khúc vậy, như dài ngắn v.v.... Hai, nếu lấy dài v.v... của Đại thừa làm dụ, trong đồng dụ không lỗi sở lập, dài v.v... của Đại thừa chẳng phải khác sở y thật có thể. Ba, nếu lấy tự dài v.v... làm dụ, trong nhân có lỗi pháp kia sai biệt trái nhau.
Trong sở y khác thật có, sở y khác biệt xứ thật có, sở y khác đồng xứ thật có v.v... là pháp sai biệt. Lập lượng là: Tiếng trên gãy khúc, định chẳng khác sở y Biệt xứ thật có trên sắc uẩn gãy khúc vậy, như dài ngắn v.v... hoặc văn tự v.v... xứ nhiếp chẳng riêng. Nên biết danh v.v... thật là vô dụng.
Thứ tư, ngoại đạo vặn hỏi: Trong tiếng gãy khúc, chẳng năng thuyên biểu, vì tiếng gãy khúc, như tiếng đàn sáo, luận chủ vì làm hữu pháp sai biệt trái nhau. Trong tiếng gãy khúc năng sinh danh chẳng năng sinh danh, là hữu pháp sai biệt. Lập lượng là: Trong tiếng ông gãy khúc, chẳng năng sinh danh, tiếng gãy khúc vậy, như tiếng đàn sáo. Đây là vặn hỏi y cứ tông khác.
Lại ai nói kia v.v... bày nghĩa tự tông, sợ trái tỷ lượng. Lập lượng là: Tiếng đàn sáo gãy khúc v.v... năng thuyên biểu. Có nhân nhận gãy khúc của tiếng lớn vậy, như tự thừa nhận tiếng bên trong kia lập lượng: Đại thừa tiếng chuông gió v.v... nên có thuyên dụng. Tiếng nhiếp như tiếng bên trong nói v.v... hoặc tiếng bên trong chẳng năng thuyên, tiếng nhiếp. Như chuông gió v.v... Tiếp theo nói: Lấy ngay lý đuổi theo, như chuông gió kia chẳng sinh danh v.v... Tiếng chuông gió của ta v.v... cũng chẳng năng thuyên. Lập lượng là: Tiếng chuông gió của ông v.v... nên sinh danh, tiếng nhiếp vậy, như tiếng bên trong nói.
Thứ năm, tiếng tranh cãi và thanh tức khác.
Thiên ái, tiếng Phạm là Một-kiếp, Hán dịch là ngu. Ngu có ba tên:
1. Đề-bà, Hán dịch là Thiên.
2. Nật-phược, Hán dịch là quang minh.
3. Bát-thích-xà-bát-để, Hán dịch là Hóa chủ, Bát-thích-xà là sinh, Bát-để là chủ, xưa gọi là Thế chủ.
Ma-ha-ba-xà-ba-đề gọi là Đại sinh chủ, đây tức là Phạm vương. Ưu thắng của thế gian không gì hơn trời, yếu kém của thế gian, không gì hơn ngu, gọi ngu là trời điều đó nên vậy, gọi nô là lang quân v.v... Quang minh nghĩa là chiếu liễu, người ngu si ám điều gọi là quang minh, như gọi người bần là vật giàu có của cải, cũng như gọi người dốt là vật thông minh, Phạm vương thế gian đều chấp là cha, giống như họ sinh ra chỉ biết ngồi thẳng. Tuy năng sinh tất cả, đều không động tác, người ngu si dụ cho họ, tuy bị sai sử, trăm thứ đều làm, đều không chỗ biết, không nhận biết riêng chút ít, yếu kém từ ưu thắng mà gọi là sinh chủ, kẻ ngu si đây thật đáng thương nên gọi là Thiên ái, các nghĩa khác đồng thường.
Hỏi: Chữ là danh cú y cứ mà không nêu bày, Đại thừa lìa tiếng không có tự thể, sao gọi là chữ?
Đáp: Phương này chỉ có một tên gọi chữ, chữ đó khó hiểu, ở phương kia phần nhiều không có tên gọi một chữ, như nói chữ "sát", có ba chữ hợp lại đó là Sa, sất, đa ba chữ hợp lại mới thành một chữ sát. Chữ "úm" như nói âm "ổ", chữ không thuyên biểu, cho nên tuy giả lập cũng có chữ chuyển danh, cú, văn thân. Văn thân khác danh thân. Văn là hiển rõ nghĩa, vì hiển rõ hai phần kia, lại gọi là hiển, đây là sở y hiển nghĩa kia. Lại, danh tự không khác chuyển, như chữ bao, ế v.v... như trong sớ giải thích tên gọi khác v.v... Danh thân, danh nghĩa là gọi vời, danh nhờ đó mà gọi tên. Cú, tiếng Phạm là Bát-đà, như trong sớ giải thích gọi là Dấu vết.
Một là danh nghĩa là danh thân v.v... đều là Y sĩ thích. Thân là hai tổng, danh là một biệt. Thân của biệt danh gọi là danh thân. Hai danh tích tập gọi là thân, nên thân của nhiều danh cũng lại như vậy, vì một danh chẳng phải thân, chẳng phải Trì nghiệp thích, nhưng ba thứ đây, chẳng đơn gọi là danh, lại chẳng gọi là nhiều danh thân. Chỉ căn cứ danh thân v.v... là trong lời nói nhiếp cả hẹp rộng, nói đơn danh thân, tạm dùng hẹp nói, nhiều tức là rộng.
Hai là biện về sự sai biệt, trong luận ghi: "Danh thuyên tự tướng v.v..." Quyển 52 ghi: "Sở y của danh, cú lẽ ra là chữ, ở tất cả chỗ biết, chỗ thuyên sự". Tướng cực hẹp là chữ, nếu vừa là danh, nếu rộng là cú.
Nếu chỉ y văn thấu rõ âm vận, chẳng khéo thấu rõ chỗ có nghĩa sự, nếu y chỉ danh, lại khéo thấu rõ tự tánh pháp kia, cũng rõ âm vận, chẳng khéo thấu rõ chỗ pháp giản trạch sâu rộng sai biệt. Nếu y với câu chung thì tất cả khéo rõ, Đối pháp cũng đồng. Luận Hiển Dương quyển 12 ghi: "Có chữ chẳng phải danh, nghĩa là một chữ. Có danh chẳng phải câu, nghĩa là một chữ danh". Câu hẳn có danh, danh hẳn có chữ nên thành sai biệt, nếu năng hiển gọi là hiển, tại sao danh cú chẳng gọi là hiển? Vì chẳng phải gốc, nghĩa là biện tự thể của câu, thuyên do văn thân hiển. Như uống ăn có vị do mặn mới hiển đó. Ba cõi phân biệt, danh có hai thứ: một, ngôn thuyết, trong đây là phải, dùng tiếng làm thể, chỉ hai Địa trói buộc, vì tức tiếng nói. Hành của phát âm, chỉ có hai Địa. Đây tùy tiếng trói buộc. Hai thức địa trên không, Vô lậu tức nói có, ngôn ngữ trong Sơ định có, sao phòng ngại Định thứ hai có? Lại, trong luận ghi: Hiển nhiều do nó khởi, chẳng phải nói nó tương ưng. Năm thức đã vậy, ngôn ngữ lẽ ra cũng vậy. Vô lậu địa trên nói có, ngôn ngữ Hữu lậu là y địa trên ý phát cũng không lỗi, như dẫn năm thức tìm ngôn thuyết. Định tự tại sở sinh tiếng Vô sắc;
3. Cõi khởi ngôn thuyết cũng có lỗi gì? Hữu lậu ngôn ngữ hẳn thô, tại sao Địa trên khởi mà vô tầm tứ;
4. Hữu lậu, Vô lậu tức rõ ba tánh, chỉ hai tánh thủ cảnh gọi là thông ba cõi;
5. Giải thích phòng ngại vặn hỏi, tại sao bốn uẩn cũng gọi là danh? Vì cảnh năng thủ nên tương tợ như danh. Thể tướng chẳng phải hiển, vì nhờ danh mà hiển, danh tại tụ này, y danh hành cảnh. Quyển 56 ghi: "Thuận thú các thứ nghĩa cảnh sở duyên, đồng giải thích thứ nhất, hoặc ngôn thuyết gọi là cảnh sở duyên của các thứ phân biệt, đồng giải thích thứ tư, gọi là một danh".
Hỏi: Vì sao hai danh trở lên mới gọi là thân? Một danh chẳng phải thân. Trong đây ba thứ đều gọi là thân v.v.... Danh và danh thân, nhiều danh thân chẳng vượt ngoài danh thân. Lại nữa trong ba thứ đó, hai danh thì gọi là thân, như nhiều danh thân danh thân, luận nói chỉ có hai thứ, tại sao gọi là nhiều?
Đáp: Thân tuy có hai, nhưng danh có nhiều. Thân của nhiều danh gọi là nhiều danh thân, chẳng phải danh của nhiều thân. Hoặc cách vượt gọi là nhiều, vì thân cũng có nhiều.
Đoạn hỏi vì sao chẳng lập bài tụng v.v... như trong sớ giải thích.
Mười bốn Bất tương ưng, đây tuy nói phi đắc, các luận phần nhiều nói Dị sinh tánh. Nay y lý Cộng hữu tạm nói mười bốn thứ. Dùng mười môn để phân biệt:
1. Nguyên do của có.
2. Phế lập.
3. Tụ y xứ.
4. Hiện hành chủng tử y.
5. Hữu lậu vô lậu.
6. Ba tánh.
7. Kiến đoạn v.v...
8. Năm vị.
9. Lỗi của giới trói buộc.
10. Chín địa.
Nhưng y cứ Đối pháp thì có hai mươi ba, trừ Bất hòa hợp, tuy nói có nhưng không giải thích riêng. Luận Du-già quyển 3, 56; Luận Hiển Dương quyển 1, Luận Bách Pháp v.v... lập hai mươi bốn, luận Ngũ Uẩn và luận đây lập mười bốn. Luận Hiển Dương ghi: "Lại có các chỗ khác chủng loại sai biệt như vậy nên biết, mỗi mỗi y một nghĩa để lập, thật có thể nói nhiều:
1. Nói nguyên do của sự có đó thuộc chủ ngôn luận v.v..., như luận Hiển Dương quyển 18 giải thích.
2. Phế lập tức văn trước.
3. Biện về tụ pháp y xứ.
Y xứ có ba: một là tâm, hai là tâm sở, ba là sắc. Vì có biệt y có tổng y, có một loại chỉ y tâm chủng, đó là mạng căn, chính là thuộc về đây. Cả ba chỉ nương sắc lập, đó là danh, cú, văn thân, tạm y cõi đây chẳng phải cõi Phật khác; bốn, hai pháp tâm, tâm sở lập, đó là hai định không tâm và quả Dị sinh tánh. Sáu, y ba pháp đó là đắc, chúng đồng phần, bốn tướng, thông y ba chủng lập, quyển 64 ghi: "Y gọi là phân lập định vô tưởng, diệt tận v.v... chỉ y tâm, tâm sở.
4. Biện về hiện hành, chủng tử y. Chỉ y chủng, đó là mạng căn. Hai là định vô tâm và quả Dị sinh tánh. Ba là chỉ y hiện, đó là danh, cú, văn. Sáu là chung cả chủng tử hiện hành, đó là đắc v.v...
5. Hữu lậu Vô lậu: một chỉ có Vô lậu, đó là diệt định. Ba chỉ có Hữu lậu, đó là vô tưởng định và quả Dị sinh tánh. Mười thông hai thứ, đó là: Đắc, đồng phần, mạng căn, danh, cú, văn, bốn tướng, Phật v.v... đều có vậy.
6. Biện về ba tánh, nay bốn chỉ có một tánh, hai chỉ có thiện, đó là vô tưởng, diệt định. Hai chỉ có Vô ký, đó là Dị sinh tánh, vô tưởng Dị thục chỉ vô phú. Bốn thông hai tánh đó là danh, cú, văn, mạng căn, bốn nhân chỉ vô phú Vô ký, quả chỉ là thiện. Sáu thông ba tánh, đó là đắc, đồng phần, bốn tướng.
7. Biện về kiến đoạn v.v... có ba, một chỉ có kiến đoạn, đó là Dị sinh tánh, một chỉ có chẳng đoạn, đó là diệt định, hai thông kiến đoạn tu đoạn, đó là vô tưởng định và quả. Quyển 53 ghi: "Chỉ kiến sở đoạn chẳng sinh". Quyển 57 ghi: "Thiện pháp tu sở đoạn, đoạn duyên phược vậy". Mười bốn thứ khác thông kiến đoạn, tu đoạn và chẳng đoạn.
8. Năm vị đó là kiến, tu v.v... Hai chỉ có tư lương, đó là vô tưởng định và quả. Tâm thứ sáu trong Thập Trụ mới chẳng thoái lùi, tức kinh Ưubà-tắc Giới nói Xá-lợi-phất qua sáu muôn kiếp Tu đạo còn thoái lùi, nên trở về trước còn chẳng khởi. Luận Du-già ghi: "Chẳng phải chỗ Thánh vào". Lại, thứ bảy trong Thập Trụ gọi là tâm chẳng thoái lùi, về sau lại chẳng thể khởi. Một chỉ có hai vị, đó là Dị sinh tánh tại một và hai, một chỉ có hai vị khởi, đó là diệt định, chẳng phải một ba. Nếu xoay tâm có thể. Ba chỉ có bốn vị, trừ Kiến đạo, nghĩa là danh, cú, văn. Bảy thông năm vị, đó là đắc, đồng phần, mạng căn, bốn tướng,
9. Giới trói buộc. Hai chỉ có một cõi, đó là vô tưởng định và quả. Ba thông hai giới và phi giới, đó là danh, cú, văn. Một thông ba cõi, đó là dị sinh tánh. Một chẳng phải ba cõi, đó là diệt định. Bảy thông ba cõi và chẳng phải trói buộc đó là đắc, đồng phần, mạng căn và bốn tướng. Mạng căn, quyển 57 nói chẳng thông Vô lậu, vì chẳng nói Phật.
10. Chín địa, ba chỉ có một địa, đó là hai định không tâm và quả. Ba thông hai địa đó là danh v.v... Ba, hoặc năm Địa, tám địa, chín Địa, đó là Dị sinh tánh và bảy thứ khác.
Riêng dùng lượng phá trong ba Vô vi có hai: Trước thẩm định hỏi, sau tùy hai vặn hỏi. Trong vặn hỏi có hai: Trước vặn hỏi một, sau vặn hỏi nhiều. Trong vặn hỏi một có ba: một tổng nêu một thể khắp tất cả xứ, hai riêng vặn hỏi đó và ba nêu ra nhân kia chấp thể kia hai, lý lẽ ra như vậy. Trong riêng vặn hỏi phân làm ba, là ba Vô vi. Trong hư không có bốn: một thể nên thành nhiều, hai nên hỗ tương khắp cùng, ba nên chẳng phải dung thọ, bốn có nên lẫn lộn. Có đồng xứ chẳng lìa sắc là lỗi bất định, là như sắc xứ, xứ không riêng biệt. Hư không tức sắc xứ, là như hương xứ v.v... không riêng biệt nên không chẳng phải sắc xứ.
Thừa nhận không nhân quả là trong Đại thừa Vô vi là quả lìa hệ trong mười nhân: Quán đãi, nhiếp thọ, dẫn phát, định dị, đồng sự, nhân không trái nhau. Đắc là quán đãi, nhiếp thọ, đồng sự, trái nhau, nhân không trái nhau. Năng đắc quả tăng thượng, nay căn cứ tông khác, lại là đồng phẩm cũng không có lỗi, vì định có tánh.
Thuật về tự tông, trong Vô vi có hai, trước tổng nêu kinh nói, nêu số làm rõ, sau tùy liệt bày. Trong đoạn sau có hai giải thích, vì hai riêng biệt. Trong đoạn trước có hai: một hiển bày ý thức biến, hai là giải thích chữ "thường". Trong y pháp tánh có năm: một, là nêu y pháp tánh; hai là hiển thể pháp tánh; ba là hiển nghĩa y; bốn là kết y giả; năm là giải thích các tên gọi. Môn phế lập nên lập một, đó là Chân như, ngoài ra chẳng phải thật. Lại có thể lập hai, thuận thế gian lập hai đó là không, chẳng phải chọn lựa. Chân như lập một hoặc nên lập ba. Chân là một, tùy chướng đoạn là một, thuận thế gian là một, nay thuận thế gian lập hai, tùy chướng đoạn lập ba, Chân lập một, tùy chỗ thích ứng mà nói riêng khai hợp.
Vô vi, dùng năm môn phân biệt:
1. Các giáo tăng giảm, hoặc nói ba, bốn, sáu, tám v.v...
2. Nêu thể.
3. Ba tánh phân biệt, thừa nhận ba tánh thức biến vậy, hai sở chấp v.v... ba tánh. Quyển 8 nói thông ba. Thứ hai đây chỉ nói hai tánh.
4. Đế nhiếp: gồm An lập chẳng phải an lập đế, chân đế tục đế, ba đế, bốn đế.
5. Giải thích vặn hỏi. Trong đó có năm môn:
1. Một nhiều, tùy tâm nói nhiều, đứng về thể chỉ có một.
2. Nhân nào nhiếp, mười nhân, sáu nhân nên tư duy. Trong sáu nhân, chỉ năng tác nhân, ngoài ra đều là Hữu vi, mười nhân thông cả năm: một là Quán đãi nhân; hai là Nhiếp thọ nhân, cảnh giới y xứ; ba là Đồng sự nhân, đồng là sinh v.v... một sự nghiệp; bốn là Bất tương vi nhân, khiến Thánh đạo sinh; năm là Tương vi nhân cùng ngại pháp sinh pháp nhiễm ô trái nhau, nên nói là diệt, tánh lìa chướng v.v.... năm quả nhiếp nhiếp gì? Trạch nghĩa là ly hệ, hư không, phi trạch nhiếp quả tăng thượng.
3. Phàm thánh đắc, hư không chẳng phải trạch thông Thánh phàm đắc, tưởng thọ diệt, trạch diệt Chân như. Định chỉ Thánh và đắc, chẳng động hai thuyết.
4. Phục đoạn chướng đắc, tưởng thọ diệt thông cả phục và đoạn như thường. Vì sao trạch diệt chẳng phải phục đắc? Vì đã chẳng phải hại, tùy miên.
Bất động có hai giải thích:
Một là Nội đạo đắc chỉ đoạn đắc, ngoại đạo phục đắc, chấp là Niết-bàn, diệt tâm tâm sở. Nội đạo không như vậy. Lại giải thích, nội đạo cũng phục đắc, như tưởng thọ phục đắc. Đây phục Tam thiền trở xuống, chẳng đắc phục Dục giới rồi hai tánh phiền não tăng mạnh vậy, như chẳng phục đắc Tam thiền trở xuống chướng đắc tưởng thọ diệt, đã biến khác thọ mạnh. Theo lý mà luận bàn, đã có phục Tam thiền trở xuống, hoặc được bất động, tức người ấy phục Tứ thiền trên được hưởng thọ, đây có lỗi gì.
Hai là Thọ mạnh nên luận chẳng thừa nhận đó. Nếu vậy, lại nên phục Dục giới chướng được chẳng động diệt. Đã thừa nhận hai tánh chướng khiến chẳng được phục được chẳng động. Tam thiền trở xuống chẳng chướng phục, chẳng năng được, thọ tưởng lỗi gì.
5. Hỏi đáp:
Vì sao trạch diệt ba cõi chỉ lập một. Định chướng riêng mở hai?
Đáp: Vì biến dị, chẳng biến dị cùng hiển ở phiền não.
Hỏi: Vì sao phục hoặc được phi trạch, cũng phục phiền não diệt, cũng được phục định chướng, tại sao chẳng phân làm hai mà chỉ phân hại và tùy miên?
Đáp: Định chướng thông ở sự quán đoạn, cũng có phục đắc, nghĩa là phiền não cần chỉ lý quán trừ nên không phục đắc. Giả sử có Dị sinh đắc định, phục phiền não cũng gọi là định chướng, vì vốn cầu định mà chưa cầu lý. Thắng đắc là ẩn mà khó biết, nên phân biệt nói khiến dễ thể nhập. Phàm đắc là có thể đoạn, lại phàm đắc dễ mà cùng hiển, sao lại phải khai mở trong pháp chấp.
Hỏi: Thứ bảy ảnh tượng nhiếp tướng về kiến có thể gọi là Hữu phú, nhiếp ảnh về chất có thể gọi là Vô phú, thì lẽ ra nhiếp tướng về kiến gọi là phân biệt, nhiếp ảnh về chất được gọi là Dị thục?
Đáp: Chẳng lìa kiến nên tánh loại có thể đồng, chẳng phải là năng duyên nên chẳng gọi là phân biệt. Thác chất vừa mới khởi có thể từ Vô phú, chẳng phải nghiệp quả nên chẳng từ Dị thục.
Hỏi: Chẳng phải là năng duyên, chẳng từ phân biệt, hữu phú lẽ ra phải vậy, chẳng phải là nghiệp quả chẳng từ Dị thục, Vô phú nên như vậy ư?
Đáp: Tánh thông nhiều pháp, hai tánh có thể từ kiến, quả nghĩa hạn cuộc chẳng từ phân biệt và gọi là Dị thục. Hai pháp chấp đây thô nên dễ đoạn. Lúc vào Sơ địa cho đến trừ diệt. Phần đầu có bốn thứ:
1. Địa vị, ban đầu tại Sơ địa đoạn chẳng phải các Địa khác.
2. Thánh đạo, ban đầu trong đó chỉ có Kiến chẳng phải Tu vậy.
3. Chân tướng, ban đầu tại chân Kiến đạo chẳng phải tướng Kiến đạo vậy.
4. Bốn đạo, ban đầu lại Vô gián đạo chẳng phải Giải thoát đạo. Đây y cứ một tâm Kiến đạo, chẳng phải đoạn thô trọng giải thích.
Tại bốn loại đây, ban đầu đoạn phân phá riêng chấp. Nếu Giải thoát đạo đoạn thô trọng, ba tâm Kiến đạo v.v... tùy nghĩa nên nói, mê cạn hẳn sâu, nhân chấp hẳn pháp. Giải thích cạn chẳng phải sâu, nhân không chẳng phải pháp, ngộ sâu hẳn cạn, pháp không có nhân, mê sâu cũng cạn, pháp nhân đều khởi, nhưng nhân hẳn thường nhất. Hữu pháp chẳng kẹt nhân, nhân dụng hẳn kẹt thể, nhân chấp nhất định có pháp.
Duyên dụng hẳn y cứ thật có thể nghĩa là đây căn cứ Chánh Lý. Ngoại đạo, Tiểu thừa chấp trước, thể không gì chẳng được thành duyên, có nghĩa sở duyên. Quyển trước đã nói thừa nhận Tát-bà-đa v.v... vì có cực vi, thành nghĩa duyên mà không có sở duyên. Căn cứ tha tỷ lượng, chẳng phải chỗ tự thừa nhận, nay thuật về chánh nghĩa nên chẳng trái nhau. Đồng tụ tâm sở đồng thừa nhận duyên nhau, quyển 8 sau ghi: "Chớ thấy phần cảnh vì chẳng đồng chất", ngăn lỗi thấy phần cảnh chẳng đồng chất, chẳng phải khiến biết năng duyên hẳn đồng là Kiến phần. Kiến phần thứ tám và Phật cùng pháp tương ưng tự thể chứng phần v.v... đồng một sở duyên, Kiến phần của tự nên chẳng trái nhau.
Hỏi: Pháp tâm, tâm sở pháp đã tự tương ưng, các Tự chứng phần đã chẳng đồng một sở duyên, sở duyên cũng chẳng tương tợ, tại sao nói là tương ưng? Chứng tự chứng phần là hỏi đồng. Tự chứng là thức thể, vì sao chẳng tương ưng? Phải đủ thời v.v... y, v.v... sự, v.v... xứ v.v.... Đây khuyết xứ v.v... mỗi duyên tự thấy chẳng phải kẻ khác vậy. Nghĩa này nên tư duy.
Ngã pháp nếu không y vì sao giả nói, nghĩa là chỗ tương tợ đã không nói ai là năng tợ, vì năng tợ giả nói không, tợ của cộng pháp cũng chẳng thành, chẳng được riêng giải thích nghĩa y ở thể v.v... là giả. Thế gian và Thánh giáo, hai tợ đều chẳng thành.
Trong phá Tiểu thừa chân sự có ba: Thứ nhất tổng nêu các lỗi, kế tiếp là nêu riêng, sau cùng kết y. Trong nêu riêng có ba: Thứ nhất nêu chẳng y chân chỉ y cộng tướng chuyển. Tiếp theo hiển thuyên trí có công năng thù thắng cũng chẳng phải lìa đây v.v.... Sau cùng tổng bày giả nói chẳng y chân sự, nhưng giả trí thuyên hẳn y tiếng khởi v.v.... Do đây, chỉ y dưới, tổng kết giả trí sở y.
Theo luận Phật Địa quyển 6 ghi: Nếu cảnh cộng tướng hai lượng sở tri, tại sao hai tướng y hai lượng lập? Có nghĩa hai tướng tại tán tâm vị y hai tướng lập, chẳng nói định vị. Nếu tại định tâm duyên tất cả tướng, đều thuộc hiện lượng, có nghĩa định tâm chỉ duyên tự tướng.
Nhưng do cộng tướng phương tiện dẫn nên duyên các cộng tướng chỗ hiển bày lý, là căn cứ phương tiện nói. Chẳng như vậy thì gọi là biết tự tướng. Do đạo lý này, hoặc nói Chân như gọi là không, vô ngã, các pháp cộng tướng. Hoặc nói Chân như do hai Không hiển bày, chẳng phải là cộng tướng. Như thật nghĩa là, hai tướng Nhân Minh so với đây có khác chút ít. Luận kia nói trên pháp chỗ có thật nghĩa đều gọi là tự tướng, vì trên các pháp, tự tướng cộng tướng vì mỗi mỗi gá tự thể, chẳng cùng thể khác. Nếu phân biệt tâm lập một chủng loại, thì năng thuyên sở thuyên thông ở các pháp, như chỉ xâu hoa gọi là cộng tướng. Đây cần tán tâm phân biệt giả lập cảnh tỷ lượng này, tất cả định tâm lìa phân biệt này đều gọi là hiện lượng. Tuy duyên các pháp khổ, vô thường v.v... cũng mỗi một pháp mỗi riêng có nên gọi là tự tướng. Chân như tuy là do cộng tướng hiển bày, vì là các pháp tánh tự thật. Tự có tánh nên cũng chẳng phải cộng tướng, chẳng thể lấy đó so với tất cả pháp chẳng một chẳng khác tức gọi là cộng tướng. Tự tướng cũng cùng cộng tướng chẳng một chẳng khác. Cho nên luận kia nói trên các pháp chỗ có thật nghĩa đều gọi là tự tướng, nghĩa kinh chẳng như vậy nên chẳng trái nhau, cũng chẳng phải lìa đây có phương tiện riêng, có hai giải thích:
1. Tức dùng giả trí thuyên thi thiết tự tướng làm giả sở y, do giả trí thuyên hiển nơi pháp vậy, như ngón tay chỉ mặt trăng v.v... nếu không như vậy tại sao nói là tự tướng năng chứng đắc.
2. Giả trí thuyên cảnh chẳng được tự tướng, cũng chẳng phải lìa hai thứ này lại riêng có phương tiện thi thiết tự tướng có thể làm giả sở y.
Hiển hai thứ này đã chẳng được tự tướng. Lìa đây cũng không có phương tiện có thể được tự tướng. Ý hiển bày tự tướng trừ ngoài chứng trí thì chẳng thể có được.
Quyển 49 lập bảy Địa:
1. Chủng tánh địa.
2. Thắng giải thích địa.
3. Tịnh thắng ý lạc địa.
4. Hành chánh hạnh địa.
5. Quyết định địa.
6. Quyết định hạnh địa.
7. Đáo cứu cánh địa.
Trong quyển 47 có Chủng tánh, Thắng giải thích hạnh, Cực hỷ, Tăng thượng giới, Tăng thượng tâm, Tam tuệ Đế giác phần, Duyên khởi, Vô tướng có công dụng, Vô tướng không công dụng, cho đến Vô ngại giải thích, Tối thượng Bồtát trụ, Tối cực Như Lai trụ. Chủng tánh địa tức Chủng tánh vị, Thắng giải thích hạnh địa là Thắng giải thích hạnh địa vị. Tịnh thắng ý lạc địa tức Cực hỷ trụ, Hành chánh hạnh địa tức Tăng thượng hoặc, Tăng thượng tâm, ba thứ Tăng thượng tuệ, có công dụng gia hạnh vô tướng trụ, Quyết định địa tức không gia hạnh không công dụng không tướng trụ.
Có ba quyết định:
1. Chủng tánh định.
2. Phát tâm định.
3. Bất hư hành định.
Trong Địa đây, Bồ-tát rơi ở quyết định thứ ba. Quyết định hạnh địa tức Vô ngại giải thích trụ. Đáo cứu cánh địa tức Tối thượng thành mãn Bồ-tát và Như Lai trụ hợp lập.
A-lại-da đó gọi là tại bốn Địa trước, Tỳ-bá-ca gọi là thông sáu Địa rưỡi. Trong Địa thứ bảy nhiếp Bồ-tát Địa thứ mười. A-đà-na gọi là suốt thông bảy Địa, nhưng y cứ tạp nhiễm vị, phần nhiều Dị thục thông A-lại-da. Lại mười ba trụ, thứ nhất gọi là thông chín, thứ ba gọi là thông mười ba, Dị thục gọi là gồm cả mười hai nên gọi là nhiều, y cứ sinh tử nêu nên chỉ lấy đây. Hai giải thích này y cứ chỗ duyên bất cộng, lấy cảnh ba tánh làm sở duyên là chẳng nói hai Thừa, hai Thừa hồi thú cũng thuộc đây. Hai giải thích của sớ thông với giải thích ba Thừa. Trên đây chọn tự thể mà gọi, hẳn đó chọn chẳng gọi là tâm, do đó đồng với tên gọi A-lại-da. Tên gọi ý không bằng Thức thứ bảy nên chẳng lấy. Lại chọn thức khác, nhiều là nghĩa tương tục. Tất cả thời, hành gọi đó là nhiều, nhiều thời hành. Dị thục là nghiệp quả. Dị thục quả trong năm quả. Sáu thức tuy có Dị thục mà chẳng phải nhiều. Thức thứ bảy tuy nhiều mà chẳng phải Dị thục vậy, chỉ có tên gọi này. Lại, nhiều là nghĩa rộng, tức là tổng nghĩa. Nghĩa của Dị thục tuy thông sáu thức, chẳng phải là tổng báo chủ nên chẳng lập nhiều tên gọi. Thức thứ bảy chẳng phải nhiều chẳng phải Dị thục nên gọi là Dị thục, các thức khác chẳng gọi vậy.
Lại, Tư lương là chọn lựa thức khác như sớ, lại chọn lựa tự. Tại sao đây gọi là ý? Có hai nghĩa:
1. Y chỉ gọi là ý.
2. Tư lượng gọi là ý.
Tại sao gọi tư lượng, chẳng gọi là y chỉ? Danh của y chỉ là cộng tha, nay chẳng cộng. Lại, y chỉ, danh gồm tha hiển tự. Vì năng y chỉ hiển bày sở y vậy, tên gọi của tư lượng, nghĩa tự hành tướng, vì hành hiển thể, vì duyên nhiều nên tương tục hằng khởi. Hành tướng duyên xa gọi đó là thẩm, nên dùng hành tướng tư lượng mà hiển tự tánh, chẳng gọi là y chỉ. Lại hiện chánh tư lượng gọi đó là ý.
Luận Đối Pháp quyển 2 ghi: "Vô gián giác nghĩa là ý, tức lần lượt diệt căn". Nay tư lượng đây là chánh tư lượng hiện hành, chọn lựa vô gián, nên gọi là hằng, hiển tư lượng đây bằng hiện tại. Lại, chọn lựa tên gọi của tự thể, tại sao chẳng gọi tâm thức, mà riêng gọi là ý? Luận Bách Pháp v.v... nói thức có tám thứ. Hữu tâm địa nói tám thức đều gọi là tâm, vì nghĩa của hằng thẩm tư lượng ưu thắng hơn các tên gọi khác. Nếu hằng tập khởi gọi là tâm, chẳng bằng Thức thứ tám. Nếu liễu cảnh gọi là thức, chẳng bằng sáu thức khác, nên dùng tên gọi ý mà nêu tự thể chứ không nói là tâm thức. Do đây chọn lựa thức khác có hai nghĩa, các thức khác đây chẳng phải hằng và chẳng phải thẩm, điều này như sớ giải thích. Thứ hai, tâm thức trong đây chẳng bằng Thức thứ tám, Thức thứ sáu. Hằng dụng của tư lượng tự thức ưu thắng hơn tâm thức. Chọn lựa trong tên gọi tự thể cũng có hai: một, chẳng chỉ y chỉ giải thích ý, chẳng phải nghĩa của y chỉ trong các luận hành đó gọi chung; hai, hiển thường hiện tại chẳng phải vô gián giác.
Lại, Liễu cảnh là:
1. Chỉ hành tướng Kiến phần mà hiện tự thể.
2. Chọn lựa thức khác có bốn nghĩa:
Dễ cùng biết, thuộc của trẻ con đều biết có vậy.
a. Cùng thừa nhận có.
b. Thừa cùng thừa nhận, vì ba hành tướng thô.
c. Sở duyên thô.
Chỉ thức thức sáu gọi là Liễu cảnh, các thức khác chẳng được gọi. Lại, tự thể có thể gọi là tâm ý. Vì sao chỉ gọi là thức, chẳng gọi là tâm ý v.v...? Vì hành tướng của Liễu cảnh thô nên dễ biết, hiển tự tánh của nó. Tâm ý chẳng như vậy, nhãn thức v.v... gọi là tâm, nghĩa khó biết. Hữu tâm địa ghi: "Tám thức đều là tâm". Đối Pháp v.v... ghi: "Vô gián giác ý, nên chọn lựa tên gọi của tự thể nó". Lại chọn lựa chẳng gọi Dị thục v.v..., tên gọi Dị thục v.v... tướng khó biết vậy, phần nhiều chẳng phải phần, ngoài ra những nghĩa riêng khác như Đối pháp sao và Biệt chương giải thích.
Thể tướng ngầm ẩn gọi đó là nhân, nên chỉ tại chủng. Thể dụng hiển hiện lập làm quả, gọi là kiến nên chẳng tại chủng. Nếu không như vậy, lẽ ra phải thông cả nhân quả.
Trong năng biến có tám câu, trước tiên gom chung nhân quả làm một câu, tiếp đến Đẳng lưu, Dị thục mỗi mỗi riêng nhân quả làm một câu, tiếp đến dùng hai tướng làm một câu, và sau cùng chuyển biến, biến hiện làm một câu, tổng cộng có hai mươi câu, nên suy xét. Có chỉ chuyển biến gọi biến, chẳng phải biến hiện gọi là biến, đó là tất cả chủng tử. Có chỉ biến hiện gọi là biến chẳng phải biến hiện gọi là biến, đó là nhân thứ tám và nghiệp quả hiện hành trong sáu thức, và công đức Phật, tất cả các tâm, tâm sở. Câu có đồng thời nghĩa là do bảy thức. Đều chẳng phải nghĩa là Tướng phần Dị thục chỉ là sở biến. Tất cả nhân vị có lực, vì Tướng phần là năng huân, cũng chuyển biến gọi là biến chẳng phải biến hiện gọi là biến, thuộc về câu thứ nhất. Tướng phần nghiệp quả sáu thức trong nhân đó và tất cả, Thức thứ tám, Tướng phần Phật quả, các tâm, tâm sở đều là câu thứ tư. Lại có nhân biến chẳng phải quả biến, đó là thành Phật rồi, bỏ tất cả chủng Hữu vi Vô lậu, Phật lại không hiện huân sinh, có quả biến chẳng phải nhân biến, đó là nghiệp quả trong Thức thứ tám, thứ sáu và Phật tất cả hiện tâm, tâm sở. Câu đồng thời nghĩa là do bảy Thức năng huân hiện hành và năng sinh chủng. Câu phi là tất cả Tướng phần trên Phật quả, chỉ lấy Đẳng lưu làm nhân quả năng biến làm bốn câu. Hoặc chỉ nhân Đẳng lưu chẳng phải quả biến. Quả của Bồ-tát Đại bi, chủng Vô lậu Pháp nhĩ chỉ có quả Đẳng lưu chẳng phải nhân biến, đó là Phật quả hiện tám thức. Câu có đồng thời tức nhân thứ bảy và sáu thức Vô lậu đều do oai nghi công xảo biến hóa làm chủng của nhân. Câu câu phi tức Tướng phần Phật quả. Trong phần dùng Dị thục làm nhân quả năng biến làm bốn câu, chỉ có ba câu, không có câu thứ ba. Chủng tử Hữu lậu thiện ác làm câu đầu. Nghiệp quả hiện hành chủng tử của Thức thứ tám và sáu thức làm câu thứ hai, không có câu thứ ba. Câu phi thì như lý mà tư duy.
Văn tụng các khoa đều thuật riêng.
Thức thứ bảy và sáu thức chẳng phải thiện ác và tâm nghiệp quả v.v... là ở tám thức, mỗi thức làm năm câu, sau riêng nên tư duy. Chân Dị thục đủ ba nghĩa:
1. Nghiệp quả.
2. Chẳng đoạn.
3. Khắp ba cõi.
Thức thứ bảy đủ hai nghĩa sau, chẳng phải nghĩa trước. Thức thứ sáu báo tâm đủ hai nghĩa trước và sau, chẳng có nghĩa giữa. Chẳng phải báo tâm đủ một nghĩa sau, chẳng có hai nghĩa trước. Báo tâm của năm thức đủ một trước, chẳng có hai nghĩa sau. Chẳng phải báo tâm, ba nghĩa đều không, nên chỉ Thức thứ tám riêng được tên gọi đó. Trong mười nhân, Thức thứ tám hiện hành mong các pháp năng làm bao nhiêu nhân?
1. Quán đãi.
2. Nhiếp thọ, vì tác dụng, y xứ nhiếp thọ nhau.
3. Đồng sự.
4. Bất tương vi, vì chẳng phải ngôn thuyết.
Chẳng phải nhuận, chưa nhuận sinh quả sau, chẳng phải dẫn phát, định vị, chẳng thân dẫn tha sinh, chẳng phải định phân biệt sinh, nên chẳng trái nhau. Tư duy có thể biết, chủng thức mong các pháp năng làm bao nhiêu nhân? Có thể làm Quán đãi, Khiên dẫn, Sinh khởi, Nhiếp thọ, Dẫn phát, Định vị, Đồng sự, Bất tương vi hợp thành tám nhân, chỉ không có hai thứ Tùy thuyết và Tương vi.
Chuẩn cứ trong đây nói, ba tướng đều chỉ có hiện hành, vì hiện có thể thấy, chấp trì thù thắng, từ thù thắng làm tướng. Ba tướng của Thức thứ tám, Nhiếp luận quyển 2 nói lấy chủng làm nhân tướng, vì các pháp nhân duyên; hiện hành làm quả tướng, vì hai chủng sinh. Hiện hành chủng tử đều làm tự tướng, Hiện hành chủng tử đều làm tự thể. Lại, nói chỉ có hiện hành, xứ sở tàng gọi là sở tàng. Bản ý văn của bản luận như đây. Lại nói, tự tướng, nhân tướng chung giải thích hiện hành và tất cả chủng tử năng tàng, sở tàng của Thức thứ tám. Thể tự tướng thông tất cả chủng tương ưng lại phân biệt. Nhân tướng cũng thông. Quả tướng đó chỉ là hiện hành chủng tử của Thức thứ tám, trừ chủng tử khác, vì chẳng phải Dị thục. Quyển 4 nói, ba tướng đều lấy hiện hành và tất cả chủng tử cùng chuyển thức hỗ tương làm nhân quả. Nhiếp luận ghi: "Nói các pháp do huân tập sinh", đây từ Dị thục kia cùng chuyển thức lại hỗ tương làm duyên sinh. Quả tướng cũng thông. Lại các pháp ở tạng thức, thức ở pháp cũng vậy v.v... tại nhân đủ ba tướng. Phật quả chỉ tự tướng, nhân tướng, không có quả tướng, chẳng phải huân, chẳng phải Dị thục. Nếu chuẩn cứ bài tụng ở Nhiếp luận nói chẳng chỉ Dị thục gọi là quả tướng, chỉ từ tha sinh, gọi là quả tướng. Phật quả hiện hành có thể gọi là quả tướng, tự chủng sinh. Giải thích trước là thù thắng, mong thứ khác làm nhân quả.
Hỏi: Ba tạng khuyến một chẳng gọi là A-lại-da, ba trì khuyết một chẳng gọi là chấp trì ư?
Đáp: Vốn lấy chấp tàng giải thích tạng, khuyết một chẳng gọi là chấp trì ư?
Đáp: Vốn lấy chấp tàng giải thích tạng, khuyết đây bèn mất tên đó. Vốn mỗi mỗi lấy chấp trì gọi là trì, khuyết một cũng gọi là chấp trì. Lại, ba cảnh có sai biệt, khuyết một cảnh còn gọi là năng trì. Tạng là dụng của sở tàng, khuyết một chẳng gọi là A-lại-da.
Hỏi: Thức thứ bảy khuyết nghĩa của một trong ba, nên chẳng gọi là Mạt-na ư?
Đáp: Nói Mạt-na, nhưng nghĩa chung có nhiễm, nghĩa riêng không còn gọi là Mạt-na, có tư lượng vậy, nghĩa là thân sinh tự quả trong bản thức. Nay chọn lựa Số luận, Số luận lớn bằng tàng trong tối thắng.
Nếu do tánh chủng tử bản thức thì cùng theo Vô ký cũng nên cùng theo một cõi trói buộc. Trói buộc là căn cứ nghĩa trói buộc. Kiến tướng trói buộc riêng, Vô ký là tánh. Tánh loại lại đồng, chẳng thể vặn hỏi vì đồng một tánh nên tương ưng chẳng phải sắc. Luận Du-già quyển 57, trong hai mươi hai căn ghi:
Hỏi: Có bao nhiêu Dị thục?
Đáp: Một là ưu, mười thiếu phần, nghĩa là tín v.v... năm, bốn thọ, ý, thông Vô lậu.
Hỏi: Không có bao nhiêu Dị thục?
Đáp: Mười một nghĩa là bảy sắc, mạng, ba Vô lậu. Mười thiếu phần, nghĩa là bốn thọ, ý, thông Vô ký. Tín v.v... năm thông Vô lậu.
Hỏi: Có bao nhiêu Dị thục trợ bạn?
Đáp: Ba sau cùng, năng trợ có pháp khả ái Dị thục, khiến chuyển rõ thạnh năng cảm quyết định Dị thục trời người.
Hỏi: Bao nhiêu là Dị thục?
Đáp: Một mạng căn, chín thiếu phần, bảy sắc, ý, xả.
Hỏi: Bao nhiêu loại có chủng tử Dị thục?
Đáp: Tất cả đều có.
Hỏi: Bao nhiêu chẳng phải Dị thục?
Đáp: Mười hai, nghĩa là tín v.v... năm, ba Vô lậu, bốn thọ, chín thiếu phần, đó là chín trước, chung với trưởng dưỡng thiện tánh v.v....
Hỏi: Bao nhiêu là Dị thục sinh?
Đáp: là tất cả những gì thuộc chủng tử vì do Dị thục sinh. Trong đây tuy có bảy câu hỏi, gồm ba môn phân biệt. Ba loại trước là một môn, tiếp theo hai loại là một môn, và hai loại sau là một môn. Câu hỏi thứ hai trong môn thứ hai, và câu hỏi thứ hai trong môn thứ ba, đúng là vặn hỏi tánh Vô ký trong chủng tử Duy thức. Hoặc làm hai môn: ba loại trước là một môn và bốn loại sau là một môn.
Chẳng phải huân khiến lớn có thể gọi là nhân duyên, nghiệp thiện ác cùng quả Dị thục làm nhân duyên là, nếu nghiệp hiện hành mong tự nghiệp chủng khiến tăng gọi là nhân, tức nghiệp chủng cũng khiến quả chủng tăng, nên gọi là nhân duyên. Nghĩa đây có thể vậy, nhưng chẳng phải đúng lắm. Mới đầu huân tập vị đã khiến quả chủng tăng, chẳng phải về sau. Chẳng phải nghiệp chủng khiến quả chủng tăng, chỉ nên như sớ giải thích. Trong đây Bồ-tát Hộ Pháp nói hiện hành mong chủng tử vốn không có nghĩa nhân duyên, chỉ là tăng trưởng. Vì sao có thể nói chủng tử hiện hành hỗ tương làm nhân duyên? Bồ-tát Hộ Pháp đã còn mới cũ, mong cái mới huân tập chính là nhân duyên, mong chủng vốn có là tăng thượng duyên, vì chẳng biện về thể. Luận nếu vậy thì Chân như nên là giả có, đây có nhiều lỗi. Tông có tỷ lượng trái nhau, cũng có quyết định trái nhau, cũng có tự bất định. Tỷ lượng trái nhau là chủng tử nên chẳng phải nhất định giả, cùng pháp chẳng phải một hay khác, cũng như nói Chân như, là như bình v.v... cùng pháp chẳng phải một hay khác, nên chủng tử là giả. Như Chân như cùng pháp chẳng phải một hay khác, nên chủng thật có ư? Nên đây là lỗi bất định. Chủng tử dùng các môn phân biệt, như Biệt sao giải thích. Phần sau là chỉ giải thích vặn hỏi thứ hai trong tân huân, giải thích phần một và bốn trước thông với văn làm chứng, thứ tư giải thích tương vi, sau cùng có ba đoạn văn làm chứng khác nhau.
Trong phá tân huân, toàn văn có năm đoạn, như sớ giải thích. Thứ nhất, phá nghĩa bản tông, trong đó có ba: một, vặn hỏi đạo mới đầu không có nhân; hai là vặn hỏi trái nhau cùng khởi; ba là vặn hỏi phàm thánh chuyển đổi.
Trong phá Phân Biệt luận có ba đoạn: Thứ nhất thuật tông, kế tiếp phá riêng và sau cùng tự giải thích. Trong phá riêng có hai đoạn: Trước vặn hỏi lý Không chẳng phải nhân, sau vặn hỏi khởi tâm chẳng phải tịnh. Trong vặn hỏi khởi tâm chẳng phải tịnh có tám đoạn:
1. Vặn hỏi tướng chuyển thể thường trụ.
2. Vặn hỏi hai tánh lẽ ra đồng.
3. Vặn hỏi ác và thiện đồng thời.
4. Vặn hỏi chẳng đồng thời chẳng phải thiện.
5. Vặn hỏi ác chẳng phải nhân.
6. Vặn hỏi trị chướng tánh đồng.
7. Vặn hỏi phàm phu khởi thánh.
8. Vặn hỏi hiện hành chủng tử lẽ ra đồng, Đại chúng bộ v.v... không chủng tử.
Phá Phân Biệt luận mà nói thành chủng là, riêng phá các dị sư Đại thừa. Lại Kinh bộ riêng có chủng tử. Tát-bà-đa nghĩa nhân nghĩa chủng tử, nhân Hữu lậu vô lậu ở tương lai. Đại chúng so đây cũng vậy. Trong thân phàm phu có thể sẽ sinh nghĩa nhân của Vô lậu gọi là chủng tử, chẳng đồng Kinh bộ v.v... Lại, chẳng tương ưng Tùy miên cũng gọi là chủng tử v.v...
Thứ tư trong tương hợp tương vi có bốn đoạn:
1. Đoạn từ "trong các Thánh giáo tuy nói nội chủng" trở xuống là văn tổng hợp nội chủng trước, nhất định có huân tập và ba huân tập v.v...
2. Đoạn từ "nghe huân tập" trở xuống là văn tổng hợp Nhiếp luận trước nói nghe huân tập nghe tịnh pháp giới Đẳng lưu.
3. Đoạn từ "tánh Hữu lậu trong nghe huân tập" là tổng hợp văn Nhiếp luận trước là tánh chủng tử tâm thế gian và xuất thế gian.
4. Đoạn từ "nương chướng kiến lập chủng tánh riêng" trở xuống là văn tổng hợp luận Du-già trước nói hữu tình xưa nay chủng tánh sai biệt.
Hoặc phân làm năm đoạn, nếu làm bốn đoạn, tổng hợp văn của nhà nêu dẫn tân huân trước, nay làm năm khoa, cũng kết hợp với văn của Đối Pháp trước. "Tánh Hữu lậu trong nghe huân tập" trở xuống là văn tổng hợp Đối Pháp nói quyết trạch thiện căn khéo được kiến lập làm tánh Vô lậu và Tu đạo sở đoạn. "Đây là chánh nhân duyên vi tế ngầm ẩn vặn hỏi rõ" trở xuống mới hợp Nhiếp luận là xứ tánh chủng tử tâm xuất thế, nghĩa gồm hợp bên cạnh, ở lý là ưu thắng. Kinh Đa Giới trong tân huân trước tức là chứng cứ của nghĩa tân huân nhà đây, nên chẳng phải tổng hợp. Tổng hợp trong luận Du-già có hai: Trước hợp, sau vặn hỏi. Trong hợp có ba: Thứ nhất nêu, tiếp theo giải thích, sau cùng tổng kết. Trong vặn hỏi cũng có ba: Thứ nhất lập lý, tiếp theo phá chứng chế và sau cùng phân bày vặn hỏi.
Luận Du-già quyển 5 kiến lập nhân có bảy tướng:
1. Pháp vô thường là nhân. Pháp không có thường năng làm nhân của pháp, đó là làm sinh nhân, đắc nhân, thành lập nhân, thành biện nhân, tác dụng nhân, tức ngay sát-na diệt thứ nhất trong sáu nghĩa.
2. Tuy pháp vô thường làm nhân của pháp vô thường, nhưng cùng tánh khác làm nhân, cũng cùng tự tánh niệm sau làm nhân, chẳng phải tức sát-na đây, tức ngay quả đồng thời thứ hai và hằng tùy chuyển thứ ba trong sáu nghĩa. Nó cùng tánh khác làm nhân tức là chủng mong ở hiện hành gọi là tánh khác. Duyên, chẳng duyên ngại, chẳng ngại ẩn hiển v.v... các thứ khác nên gọi là tánh khác, tức quả cùng có. Nó cùng tự tánh sau làm nhân chẳng phải tức sát-na đây. Chủng tử tương sinh gọi là tự tánh, trước sau cùng sinh, tức hằng tùy chuyển. Nên Duy thức ghi: "Đây hiển chủng tử tự loại tương sinh". Nhiếp luận, Duy thức lấy quả thế gian riêng mở làm hai. Luận Du-già căn cứ một niệm nhân năng sinh hai quả, nhân không riêng nên hợp làm một, cũng chẳng trái nhau. Nếu các chủng tử sinh quả nên lấy thuyết trong sở huân. Đồng thân chẳng lìa nhau, tức vì người chết bảy trai tuần cầu phước, nào có người khác làm mà được tự thân thọ quả ưu thắng v.v... Lại, thân trong nẻo khác làm sao thọ quả? Có giải thích nẻo trước có tướng thiện ác khiến người chịu tội khéo phát tâm thiện. Lại, trong kinh ghi: "Phía trên địa ngục v.v... có phướn đen trắng bày tướng thiện ác, khiến người tội kia phát tâm thiện. Nếu vậy thì quỷ, súc sinh, người, trời, không có phướn đen trắng lẽ ra chẳng thọ quả. Có giải thích chỉ là thế tục kia nói, đâu hẳn được quả. Ta giết thì ta lại chạy tránh cũng là khó. Lại giải thích do người làm nguyện ưu thắng nguyện giúp khiến người chịu tội trong bảy phần được một. Lại do người chết từng có xứ phần làm việc thiện ác. Hiện tại là làm quả toại bản tâm. Có quả báo đồng nẻo có thể nhận chịu, nẻo khác thành khó. Lại không tướng nhận chịu hết, y cứ danh ngôn chủng sinh tự đồng loại. Có tướng nhận chịu hết, đó là nghiệp thiện ác được danh ngôn chủng cảm tánh khác, tiếp đến lúc khô héo, chẳng phải thiện ác chủng sinh tự thiện ác mà có khô héo.
3. Tuy cùng tánh khác và tự tánh sau làm nhân, nhưng đã sinh chưa diệt mới có thể làm nhân, chẳng phải chưa sinh đã diệt, tức ngay quả cùng có và hằng tùy chuyển trong sáu nghĩa. Duy Thức ghi: "Tuy nhân và quả có cùng chẳng cùng, nhưng lúc hiện tại có thể có dụng của nhân, chưa sinh đã diệt không có tự thể", đây là chánh hiển thế của vi nhân, chẳng phải nghĩa của chánh chủng tử. Nhân của hiện hành được các quả v.v... đều cũng vậy. Nên Nhiếp luận, Duy thức dùng thông các pháp chẳng chỉ có chủng tử. "Nhân nói năng mà nêu ra" trong quả đồng thời, luận Du-già trước đã hợp hai làm một, nên Biệt môn nói thế của vi nhân, nên chẳng trái nhau. Hiện tại, quá khư, vị lai chẳng phải chủng tử.
4. Tuy đã sinh chưa diệt mới có thể làm nhân, nhưng được các nhân khác chứ chẳng phải không được, tức Đãi chúng duyên thứ năm trong sáu nghĩa.
5. Tuy được các duyên khác nhưng thành biến dị mới có thể làm nhân, chẳng phải chưa biến dị tức là môn "không có Biệt tướng" trong sáu nghĩa, thuộc về Đãi chúng duyên. Đãi duyên có hai: một là nhân thể chẳng có thể sinh quả nên đợi các duyên; hai là đợi duyên rồi mới biến dị. Luận Dugià căn cứ thể tức có khác, mở một làm hai. Nhiếp luận, Duy thức dùng nghĩa đợi duyên v.v... hợp hai làm một, cũng chẳng trái nhau, biến dị là nghĩa chuyển đổi.
6. Tuy thành biến dị hẳn cùng công năng tương ưng mới có thể làm nhân, chẳng phải mất công năng, tức tánh quyết định thứ tư trong sáu nghĩa.
7. Tuy cùng công năng tương ưng, nhưng hẳn tương xứng tương thuận mới có thể làm nhân, chẳng phải chẳng tương xứng tương thuận, tức dẫn tự quả trong sáu nghĩa.
Nói tóm lại, hợp quả đồng thời thứ hai và hằng tùy chuyển thứ ba trong sáu nghĩa. Nghĩa môn thứ hai, thứ ba của luận Du-già đối thuyết, mở Đãi chúng duyên thứ năm trong sáu nghĩa làm thứ tư, thứ năm trong luận Du-già. Ngoài ra, tất cả sáu và bảy không sai biệt. Xét luận Du-già sao quyển 5.
Trong Sinh dẫn nhân, luận Du-già v.v... ghi: "Chủng tử chưa đượm nhuần gọi là Khiên dẫn nhân, chủng tử đã đượm nhuần gọi là Sinh dẫn nhân. Ba tánh, mười nhân thảy đều như vậy". Quả tuy hợp làm một, chẳng luận viễn, cận chánh, tàn sinh, dẫn, chủng năng sinh đó thông nghiệp và nhân duyên, chưa đượm nhuần bỏ quả xa gọi là Dẫn nhân. Đã đượm nhuần bỏ quả gần gọi là Sinh nhân. Chánh hợp năng dẫn sở dẫn nói là Dẫn nhân, năng sinh là nghĩa Sinh nhân. Ba tánh mười nhân tức là ba nghĩa của Sinh nhân, Dẫn nhân và hai không tánh hợp thành năm giải thích. Đã có chánh, tàn làm Sinh, Dẫn; cũng có nội ngoại, quả làm Sinh và Dẫn.
Nhân quả đồng thời trong ba pháp triển chuyển, vặn hỏi: Chủng tử cũ sinh hiện hành mới là nhân quả chủng sinh. Chủng tử và hiện hành mới huân thành là nhân quả hiện khởi, nếu là chủng tử mới không có lực sinh chỉ theo hiện hành sinh, thì lẽ ra hiện hành mới lực còn kém nhỏ làm sao khởi chủng tử mới?
Đáp: Hiện hành mới duyên đều đủ, chủng tử mới lẽ ra theo đó sinh, chủng tử mới chưa gặp duyên nên chẳng thể sinh hiện hành.
Hỏi: Chỗ hiện hành mới khởi tức nói duyên đã đủ, chủng tử mới cũng mới sinh, sao chẳng gọi là duyên đủ?
Đáp: Hiện hành mới năng huân bốn nghĩa đủ, nói hiện hành gặp duyên, chủng mới chưa gặp, gia hạnh dẫn nên chẳng gọi là duyên đủ, vì cần phải do thế lực gia hạnh trước dẫn dắt, chủng tử mới sinh hiện hành.
Hỏi: Năng huân bốn nghĩa đủ, tức nói hiện hành sinh chủng tử.
Chủng tử sáu nghĩa thành, nên nói có thể sinh hiện hành ư?
Đáp: Gặp và chẳng gặp duyên cả hai có khác, như trước đã giải thích.
Quyển 66 ghi: Năm tướng gọi là chấp thọ, tướng thứ nhất có ba:
1. Chỉ sắc gọi là có chấp thọ, đây ngăn tâm, tâm sở v.v... vì chẳng phải chấp thọ.
Tất cả nội căn, chỗ căn nương thuộc trong sắc gọi là chấp thọ; đây ngăn ngoài, chẳng thuộc căn sắc, vì chẳng phải chấp thọ.
2. Tâm, tâm sở nhậm trì chẳng xả bỏ gọi là chấp thọ, phải biết đây ngăn quá khứ, vị lai và đời hiện tại nương thuộc căn tóc, móng v.v... và ngăn sau khi chết chỗ có thân bên trong, vì chẳng phải chấp thọ.
Chấp thọ có ba nghĩa:
1. Nghĩa sinh giác thọ, tức văn luận Đối pháp.
2. Năng sinh giác tụ loại, tức văn quyển 56.
3. Thân lãnh làm cảnh, an ách đồng nghĩa, tức văn đây và văn quyển 51 v.v....
Thứ hai, ba biến đều giải thích hạnh của thể, chỉ Năng biến thứ nhất giải thích hạnh chẳng phải thể. Đây có hai giải thích:
1. Luận đủ là chất, luận chẳng đủ là ảnh.
2. Biến thứ nhất có ba tướng, hai biến sau đều không, tự tướng tức tự thể.
Biến thứ nhất chỉ giải thích hạnh, chẳng thể lập lại bày rõ tự thể. Hai biến sau chẳng như vậy, hạnh và thể đều giải thích, giải thích đây ít năng.
Trong "đạt cảnh sở duyên không lìa thức", nói hành tướng tương tợ, tuy quyển 3 có hai hòa hợp, nhưng không phân biệt trí duyên Chân như, sở duyên chẳng tương tợ, nên nói đồng nhất, văn Duy thức đây chẳng tận lý. Nếu căn cứ luận Du-già nói đồng nhất tức không có bản chất, tâm chỉ tương tợ nên chẳng thể đồng nhất. Nên hợp hai văn để làm chánh lý, lấy nghiêng một thứ có thể đều sai, chẳng phải giải thích đúng, nên như lý tư duy. Hoặc hai văn nói, luận Du-già đứng về tương tợ đồng nhất. Luận đây đứng về cảnh đồng nhất gọi là tương tợ, vì đồng một cảnh chuyển, cũng chẳng trái nhau. Giải thích sở duyên tương tợ cùng luận Du-già đồng nhất sở duyên có năm giải thích:
1. Căn cứ văn kia.
2. Căn cứ văn đây.
3. Kia đứng về bản chất, đây y cứ ảnh tượng.
4. Kia đây đều đồng.
5. Kia y cứ Vô vi có duyên bản chất, đây y cứ Hữu vi không có duyên bản chất.
Tâm phân đã đồng nên đều có chứng, lượng này chẳng định. Trong phần thứ tư tâm phân nên có năng chứng. Thứ ba cũng vậy, tại sao không có? Lập bốn phần lượng rằng: Tâm, tâm sở pháp, trong một sát-na nhất định khéo tự hiển, vì năng hiển thứ khác, như đèn, mặt trời v.v... nhân này có pháp sai biệt trái nhau. Dụ có chỗ lập chẳng thành, vì đèn không có duyên lự, tâm có duyên lự. Luận như các đèn sáng mỗi mỗi khắp tợ một tướng mỗi mỗi riêng biệt. Luận Đối Pháp quyển 2 ghi: "Nhãn thức ở hai căn như hai đèn cùng phát một ánh sáng". Điều này làm sao thông? Đây dùng pháp tùy thuyết của Tiểu thừa làm dụ, luận kia căn cứ nghĩa thể Đại thừa làm dụ, cũng chẳng trái nhau. Như nhân cùng tiếng cộng biệt tạo. Nếu vậy, như nhiều đèn cùng xứ, ảnh nó bèn khác làm sao cùng tạo? Nay chánh giải thích là như trong một chén có nhiều tim đèn, và nhân cùng tiếng, đại chủng thân gần cùng tạo một sắc, hai chén riêng đốt chẳng cùng phát sáng nên ảnh có riêng biệt.
Sư thứ hai, trong biến ngoài xứ có ba:
1. Phá tha.
2. Bày tự.
3. Giải thích phòng ngại. Trong phá tha có ba:
1. Vặn hỏi Thánh lẽ ra biến uế.
2. Vặn hỏi phàm lẽ ra biến tịnh.
3. Vặn hỏi không dụng biến sau. Trong sư thứ ba cũng có ba:
1. Phá tha.
2. Bày tự nghĩa.
3. Giải thích phòng ngại.
Đây nói tất cả cùng thọ dụng v.v.... Trong phá có ba:
1. Vặn hỏi khí vật hoại không có nhân.
2. Vặn hỏi đã nhàm chán không có dụng.
3. Vặn hỏi có thân không có ích.
Trên đây, thiên nhãn nhĩ thấy nghe, sắc thanh dưới chẳng gá bản chất, như quyển 7 giải thích. Thứ tám được tự tướng, kiến, tướng, dị giới nhiếp.
Năm thức được tự tướng, nên thừa nhận Biệt giới thâu nhiếp, chẳng thừa nhận Biệt giới làm sao gọi được tự tướng? Quyển 7 giải thích chẳng thừa nhận, nay giải thích là thừa nhận dị giới không lỗi. Trước giải thích được xứ nghĩa tự tướng, nay giải thích được sự tự tướng.
Thắng định quả sắc đại chủng tạo, như luận Đối Pháp cuối quyển 1 sớ, tuy có năm đoạn văn nói về tạo chẳng đồng. Nói biến thứ nhất là đại chủng, sau tạo sắc sinh đều là đồng trói buộc, có nghĩa đây nói Dục giới, Sắc giới địa định quả sắc, vì có thân sở y. Vô Sắc giới định quả sắc từ bản chất đại chủng tạo, trong định không có đại chủng vì không có thân sở y.
Định v.v... có giới địa tự tha chẳng định là, đây có năm:
1. Định lực.
2. Thông lực.
3. Thiện pháp lực.
4. Mượn thức lực.
5. Đại nguyện lực.
Do hành đại nguyện dẫn địa sắc khác hiện tại trước, nhưng Thức thứ tám chỉ có một và hai, sau cũng thông các thứ khác, nhân tiện hiển đó, cũng không có lỗi, như Thức thứ tám Vô lậu ý dẫn định quả sắc, khiến thứ tám ở Dục giới biến, chẳng phòng ngại ở Dục giới có định quả sắc chủng, không năng dẫn biến. Như trong thứ tám duyên cảnh, trong sắc thanh xúc giả sắc duyên, duyên là pháp xứ, giả sắc tại sao chẳng duyên? Tâm nhậm vận và tám tâm sở đồng thời có phòng ngại, đây thật tùy chủng tử sinh gọi là nhân duyên biến. Đây là nghĩa chánh.
Thắng định quả sắc, lược dùng bảy môn phân biệt:
1. Phàm thánh khởi, như Đối Pháp sao, Sắc giới thông quả có thể thông phàm thánh, như văn của quyển 33. Nếu vô Sắc giới, Bồ-tát Tỳ-bát-xá-na duyên ba cõi và Vô lậu cũng có định sắc rót xuống như mưa và hương cung điện, hẳn cần phải là Thanh văn năng biến, chẳng phải là Địa tiền nên đều không phàm thánh đều năng khởi, có dụng không dụng tức thành sai biệt, như quyển 33 giải thích.
2. Y địa, có hai môn: Một là y năng biến, hai là y sở biến. Ở trong năng biến chỉ thông bốn định, như Duy thức sớ giải thích. Định lực thông Vô sắc, Sắc giới sáu địa, Vô sắc bốn địa cũng vậy. Ngoài ra bảy phương tiện làm dụng hẹp kém, giải thích chán trên dưới không có công năng thù thắng nên không thể biến. Hoặc phương tiện mới đầu chưa đến cũng không có tướng, có nghĩa là hành tướng phi tưởng nhỏ nhiệm mờ tối nên chẳng thể. Mới đầu gần phần địa cũng không thông rộng nên cũng chẳng thể. Trên đây tùy y thông Hữu lậu Vô lậu.
Sở biến y là biến sắc, vô Sắc giới và cùng Vô lậu quyết định đều được, vì tùy năng biến. Ở trong Dục giới, như thân tại cõi dưới, ý dẫn định quả sắc cùng sắc loại cõi trên. Tương tợ và Vô lậu là Dục giới năm thức chưa hẳn năng quán, gọi là vô kiến vô đối. Cõi dưới, chỗ Thức thứ tám duyên cũng vậy, như nhãn nhĩ thông phù căn trần v.v... loại này rất nhiều. Nếu Tứ thiền có chút ít tạo tác giáo hóa Dục giới năng dẫn thô sắc tợ Dục giới là vì khiến chúng sinh ở Dục giới thọ dụng, tức khiến năm thức và sở duyên của Thức thứ tám đều do Dục giới trói buộc, tùy lực ý lạc khởi sắc quả cũng không ngăn ngại. Quyển 33 ghi: "Thần thông của bậc Thánh biến hóa khéo khiến người thọ dụng hoàn thành mọi việc".
3. Hữu lậu Vô lậu, sở biến của phàm phu chỉ có Hữu lậu, không thể khiến người thọ dụng, chỉ khiến kẻ khác thấy. Quyển 33 ghi: "Sở biến của bậc Thánh thông cả Hữu lậu Vô lậu. Tại nhân thì năm thức và thức thứ tám đều chỉ có Hữu lậu, vì tướng và thế lực đồng, chỉ có tánh Vô ký. Tại quả chỉ có Vô lậu thiện, vì tự tha như nhau. Thức thứ sáu biến tự tha đều thông Hữu lậu, Vô lậu, thông thiện, Vô ký, vì lợi và hý khác nhau. Nhưng vô Sắc giới và khoảng giữa, chỉ là thiện tánh không thông quả, chỉ là định cảnh, Vô ký định thì chẳng thể vậy. Bốn quả Tĩnh lự tức thông Vô ký. Đây tại Địa thứ bảy trở về trước, Nhị thừa, Dị sinh, chẳng phải Địa thứ tám v.v...
4. Đủ cảnh ít nhiều, chẳng biến căn v.v... ở trong đó, như Đối Pháp sao giải thích.
5. Đại chủng tạo tánh, như Đối Pháp sao giải thích.
6. Định chung và riêng, như Duy thức sớ giải thích.
7. Sở nhiếp của giới xứ, trong nhân ý thức là sắc sở biến của Thức thứ tám. Năm thức chẳng được định thuộc pháp xứ, vì cảnh đối căn và quả đối nhân đều là định. Căn của năng duyên đều là ý xứ, ý giới, ý thức giới, do quả thuộc nhân, vì thuộc về định pháp xứ, chứ không phải thuộc về ảnh từ chất năm trần v.v..., vì năm thức chẳng thấy; cũng được từ chất làm danh, gọi là sắc, thanh, hương, vị, xúc v.v.... Nhưng có chẳng y chất mà biến, vì chẳng thuộc về ảnh từ chất. Nếu khiến năm thức được thọ dụng tức thông năm xứ bên ngoài và thuộc về pháp xứ. Pháp xứ nhiếp như đã nói ở trước. Năm cảnh nhiếp là vì cảnh đối căn, lìa nhân theo quả. Nếu cảnh ngoài năm thức là vì quả từ nhân gọi là Thắng định quả, cũng thuộc về pháp xứ. Ý thức và Thức thứ tám cùng cảnh theo nhau cũng vậy. Tại Phật quả, thật sắc sở biến của năm thức, ý thức, Thức thứ bảy và thứ tám từ năm thức nên đều gọi là năm trần, nếu không như vậy thì Phật quả mười tám giới làm sao gọi là Vô lậu?
Luận Phật Địa, Duy thức rộng thành lập đó. Như tán tâm, năm trần sở biến của năm thức và Thức thứ tám đều là năm trần. Phật quả, giả sắc sở biến của ý thức, Thức thứ bảy, thứ tám như tám Thắng xứ v.v... chỉ là pháp xứ. Nếu năm thức v.v... cũng thuộc về năm cảnh ngoài, nay chỉ ở pháp xứ nói thắng định quả là do căn bản sắc ở trong nhân, phần nhiều năm thức chẳng duyên, tự thể nhỏ nhiệm gọi là vô đối kiến. Nếu chỗ thần thông v.v... phát thừa nhận năm kiến như luận Hiển Dương quyển 1 nói Thắng định quả pháp xứ sắc. Sở tác thành tựu cũng khiến kẻ khác thấy, tức chẳng phải vô kiến vô đối, chẳng phải như tán sắc gọi là vô kiến đối, từ gốc mà đặt tên, chẳng phải thật không có. Quyển 33 ghi: "Thần thông định của phàm phu còn khiến kẻ khác thấy", tức y cứ nghĩa đây. Có thuyết nói Phật quả không có mười lăm giới, nếu không như vậy thì Thắng định quả sắc lẽ ra không chỉ có pháp xứ. Bồ-tát Hộ Pháp v.v... giải thích: đứng về An lập đế trong nhân vị, chỉ nói có xứ giới, chỉ pháp xứ nói Thắng định quả, nếu không như vậy tại sao kinh nói mười tám giới chủng thông Hữu lậu Vô lậu được thường sắc v.v...? Nên giải thích trước là hợp lý.
Trong nhân duyên cho nên biến v.v... sớ có bốn giải thích:
1. Nhân duyên là nghĩa mặc tình, phân biệt là nghĩa gắng gượng tư duy. Luận sư Nan-đà nói xúc v.v... năm pháp cũng hay thọ huân trì các chủng tử, biến đều có dụng, tức trái thành nghiệp nhiều giống sinh mầm. Quyển 3 sau tự sẽ giải thích rộng lỗi này.
2. Nhân duyên là nhân duyên thật của các pháp, phân biệt là bảy thức còn lại vì chẳng phải thật chủng tử. Chỉ lấy sở biến của Thức thứ tám làm nhân duyên thì nhân duyên ở đây nói là nghĩa gì? Nếu luận về Dị thục lẽ ra thông với năm tâm sở, tại sao chẳng như vậy? Nếu sở biến của năm thức chẳng phải thật pháp, tại sao gọi là được tự tướng? Nếu nói được xứ tự tướng chẳng phải sự tự tướng tức xanh vàng v.v... và bốn đại mà chẳng phải năm thức được thì thật là khác thường! Lúc lửa đốt thân lẽ ra chẳng biết đau nóng v.v... và bản thức được thật chẳng phải năm thức tức là lẽ ra năm trần thuộc về pháp xứ chẳng phải thuộc về năm cảnh. Thừa nhận năm thức được tự tướng nghĩa là tổng từ biệt, chỗ năm trần thâu nhiếp đã chẳng thừa nhận duyên tự tướng, tại sao dùng giả từ thật thuộc về năm trần? Như Thắng định quả sắc, vốn chỉ do ý biến, giả sử tuy năm thức được, vì từ ngọn theo gốc, gọi là Thắng định quả, thuộc về pháp xứ. Lìa gốc nói ngọn, vì cảnh đối căn, đáng lý thuộc về năm trần. Các sắc xanh vàng v.v... cả năm vốn chẳng được, chỉ là sở duyên của ý, lẽ ra thuộc về pháp xứ, vì sao cho thật từ giả thuộc về năm trần?
3. Giải thích rằng nhân duyên là tâm Dị thục.
Nhân nghĩa là danh ngôn chủng tử, duyên nghĩa là nghiệp duyên thiện ác, nếu tùy đây sinh biến hẳn có dụng, bản thức xúc v.v... lẽ ra cũng như vậy. Nếu chẳng tự tại nên gọi là chẳng phải thì năm thức chẳng phải tất cả thời, vì là nghiệp quả. Ý đồng thời cũng vậy, vì sao biến hẳn có dụng. Lại, ý của xúc đầu là tâm của nghiệp quả. Nhân duyên biến nên lẽ ra cũng có dụng, do đây nên biết.
4. Thuyết thiện, nhân duyên là pháp thể thật từ chân chủng tử sinh, từ chân chủng tử sinh là sở biến có dụng, ngoài ra gọi là phân biệt.
Tánh cảnh chẳng tùy tâm, Độc ảnh chỉ từ kiến, Đới chất thông tình bản, Tánh chủng thảy tùy ứng, tánh cảnh toàn và một phần đới chất là nhân duyên biến. Độc ảnh và một phần đới chất là phân biệt biến. Nhưng đới chất cảnh có thể thông cả hai môn nhân duyên và phân biệt, tùy thuộc hai môn chủng và kiến. Nếu tâm sở duyên không có tâm dụng nghĩa là Kiến phần làm duyên của cảnh Tự chứng phần làm sao có dụng? Đáp: Vì tự thể nghĩa phần chẳng phải Tướng phần.
Biến Vô vi v.v... bèn không có thật dụng nghĩa là đồng lấy pháp bất tương ưng. Vô vi không thật, chỗ đồng chẳng tương ưng không có dụng, hợp mà làm văn, chẳng phải Vô vi không có dụng. Có giải thích Chân như chưa chứng thật, giả Vô vi không có dụng, cả hai đều chẳng duyên, hợp mà làm văn, nên nói không có thật dụng. Lại giải thích Chân như tuy không có tác dụng thật, nay nói dụng là lực dụng tức là lực của Chân như lìa trói buộc. Nay nói bản thức biến là Chân như chẳng như bản thể, không có lực của thật lìa trói buộc gọi là không có lực dụng. Chẳng phải không có tác dụng gọi là vô dụng. Đây giải thích là chánh. Lại, giả sử trong tâm ảnh tượng cũng không có thật dụng, do đó chẳng biến. Nói Thức thứ tám duyên ba loại cảnh, chẳng nói pháp xứ cảnh là y chẳng phải lực của định và thần thông vì là sở duyên của Pháp nhĩ, giả sử biến pháp xứ chẳng khác thân bên trong và khí vật bên ngoài, tức hai loại nhiếp hết.
Quyển 51 ghi: "Cho đến chưa đoạn, đoạn thì trọn đoạn không còn gì, chứ chẳng phải lìa phược đoạn".
Giải: Trong xúc có ba đoạn:
1. Nêu lược
2. Biện rộng 3. Phá bác bỏ.
Trong biện rộng có hai phần: Thứ nhất nêu rộng đoạn trước, luận Du-già nói cùng thọ tưởng tư v.v.... Thứ hai tổng hợp trái ngược. Trong nêu rộng đoạn trước có hai phần: Trước nêu rộng thể, sau nêu rộng nghiệp tức là đoạn từ "đã tợ thuận khởi tâm" trở xuống. Trong nêu rộng thể có hai phần: Trước nêu rộng ba hòa hợp phân biệt biến dị, sau kết nêu rộng khiến tâm tâm sở xúc cảnh làm tánh, tức là đoạn từ "hòa hợp tất cả" trở xuống. Trong phần trước lại có hai phần: Trước giải thích rộng ba hòa hợp, phân biệt biến dị; sau kết hợp Tập luận, tức là căn biến dị lực v.v.... Trong đoạn trước lại có ba phần: một là giải thích ba hòa hợp, hai là giải thích biến dị, ba là giải thích phân biệt. Do ba hòa hợp biến dị đều chẳng phải khả năng của mình, nên nói riêng trước, sau mới giải thích phân biệt.
Trong đây, do tưởng khởi ngôn thuyết, vì sao chẳng nói là ngôn ngữ? Nhân là dùng tầm tứ gần, tưởng xa. Tư khiến tâm là lấy chánh nhân v.v... Nhân gì nói tín v.v... tức là tự tánh thiện. Trong đây, ba hòa hợp đều có sinh công năng của tâm sở gọi là biến dị. Vô vi không có biến dị. Vì sao có sinh công năng của tâm sở? Nay giải thích, đây căn cứ Hữu vi duyên ba biến dị. Nếu Vô vi duyên tâm hai biến dị, vì Vô vi không có công năng biến dị. Lại giải thích, y Vô vi có ẩn có hiển phần vị biến dị, vì chẳng đồng Hữu vi thể có biến dị, Vô vi có vị Dị nên gọi là công năng, vì thể không có công năng. Như Thức thứ bảy lấy Thức thứ tám làm căn, lại làm cảnh y, nói xúc là hai hòa hợp.
Trong giải thích nghiệp, trước giải thích tổng văn, đoạn từ "kinh Khởi Tận ghi" trở xuống là dẫn kinh chứng thành. Trong tổng hợp trái ngược có hai đoạn: trước kết hợp với Du-già, sau kết hợp với Tập luận.
Trong giải thích tương ưng: thời, y đồng, sở duyên, sự v.v... nếu đứng về bản chất, hoặc pháp không bản chất, tất cả gọi là đồng duyên một cảnh, cùng sự chẳng đồng. Nếu tướng ảnh tượng tương tợ gọi là đồng, sự gì một chủng? Trí không phân biệt duyên như không có ảnh, chẳng thể tương tợ, chẳng đồng nhất. Nên biết, có bản chất là ảnh tượng gọi là tương tợ, anh chất gọi là đồng nhất. Nếu không có bản chất là Hữu vi duyên tương tợ gọi là đồng nhất. Vô vi duyên cảnh một gọi là đồng nhất. Đây căn cứ thật duyên nên chẳng trái nhau.
Che lấp tâm có hai:
1. Tâm pháp tánh.
2. Tâm y tha.
Trong so sánh tâm sở, sư thứ nhất chẳng so sánh Dị thục v.v... lẽ ra là tư, mỗi mỗi chẳng nêu nguyên do vì nghĩa chẳng đồng. Vì sao xúc, tác ý, tư cả ba đều nói ở tâm v.v... thọ, tưởng chẳng như vậy? Thắng nghĩa bất thiện, nghĩa là sinh tử lưu chuyển. Tại sao cùng Vô lậu làm y? Vì nói thiện, nhiễm trái ngược nên lẽ ra chẳng cùng cả hai làm y.
Trong so sánh tâm sở, sư thứ ba nói dùng sáu nghĩa so sánh. Nay quán sát ý vặn hỏi của sư thứ tư, chẳng so sánh liễu biệt cùng thọ đồng thời thì so sánh sáu môn, tuy có vặn hỏi nói xúc cùng xúc đồng thời. Chấp thuận năm pháp đồng thời là so sánh đồng. Ba giải thích đều lấy chỗ chẳng xả tàng của A-la-hán sau, chỉ tâm vương xả tàng, là chẳng phải gọi tâm sở xả tàng là nguyên do. Trước so sánh như vậy, nếu không như vậy tại sao giữa đường so sánh? Đây thì y cứ giải thích một và hai làm chánh và giải thích thứ tư. Trong vặn hỏi có mười đoạn:
1. Tổng nêu các lỗi.
2. Lại vặn hỏi.
3. Vặn hỏi khiến chẳng thọ huân.
4. Mặc tình vặn hỏi thọ huân.
5. Kẻ khác chống chế.
6. Lại vặn hỏi.
7. Họ giải thích.
8. Chánh vặn hỏi.
9. Chuyển hỏi.
10. Bày rõ tông.
Trong đoạn thứ tư mặc tình thọ huân có năm đoạn:
1. Mỗi mỗi thành lỗi sáu thể.
2. Lỗi nhiều nhân một quả.
3. Lỗi năm thứ vô dụng.
4. Lỗi thế lực v.v... chẳng phải thứ lớp.
5. Lỗi chóng sinh sáu giả.
Lại, "chỗ kia nói" là chuyển hỏi. "Do đây v.v..." là bày rõ tông. Ba dụ trong Hằng chuyển gồm:
1. Dù chìm nổi giữa hai nẻo.
2. Dụ gặp duyên nổi sóng.
3. Dụ trôi chảy vật trong ngoài, chẳng phải Phật, làm sao có thể dừng.
Có bốn Tát-bà-đa, trong đây có bốn thứ: Loại, tướng, vị, đãi dị.
Thứ ba y cứ tác dụng lập thế gian là tối thiện, như luận Câu-xá quyển 20 giải thích.
Trong phá nghĩa nhân quả v.v... của sư Thượng tọa có hai đoạn: Một là thuật tông, hai là chánh phá. Trong thuật tông có ba đoạn: một là nêu chung, hai là nêu riêng, ba là tổng kết, tức là đoạn từ "nhân quả như vậy v.v..." trở xuống.
Trong nêu riêng có ba đoạn:
1. Nêu cực mau để nói rõ về thời.
2. Nêu một thể mà thành hai.
3. Nêu hai thể mà làm rõ đều có. Trong chánh phá có bảy đoạn:
1. Tổng nêu các lỗi mà khởi trưng bày.
2. Hiển trái nhau mà phá thế gian.
3. Định có không mà phát hỏi.
4. Mặc tình diệt có mà hỏi vặn.
5. Thuật trái nhau mà thể là một.
6. Theo một và khác mà lý trái nhau.
7. Tổng kết bày ý vặn hỏi.
Bát-nhã hủy Bồ-tát chẳng khiến vào diệt định, Du-già nói bốn người chẳng thành Lại-da, Bất thoái cũng vào, há chẳng trái nhau? Thuận trong ba thuyết đây, Địa thứ tám chẳng vào. Sư thứ nhất lấy đây làm thể, nên chẳng thừa nhận lấy ngay đến Địa thứ tám, vì là chỗ Phật quở trách, nên xa hợp gọi là Bất thoái. Thứ hai nói rõ ngay đến gọi là Bất thoái, tức có hai nghĩa: Một nói là Du-già làm chánh, Phật quở trách đắm ngoan không, không có lợi ích thù thắng, chẳng phải họ chẳng thể nhập. Lại giải thích kinh là chánh, Du-già y cứ Bất thoái là đứng về thành thục mà nói, trước đã từng vào, sao quở trách nên chẳng vào? Do tự tại nên cũng nói Bất thoái vào định, kỳ thật là chẳng vào.
Xét những tên gọi như Bồ-tát địa, hạnh nhỏ, hạnh lớn, hạnh rộng v.v... kinh Giải Thâm Mật quyển 3, luận Du-già quyển 78 ghi: "Bồ-tát Quán Tự Tại thưa:
- Bạch Đức Thế Tôn! Các vị Bồ-tát ở trong các Địa phát sinh phiền não, phải biết là tướng gì, lỗi gì, đức gì?
- Này thiện nam! Tướng không nhiễm ô. Tại sao? Các vị Bồ-tát ở trong Sơ địa, thật đối với tất cả các pháp, pháp giới đã khéo thông đạt. Do nhân duyên này, Bồ-tát cần biết mới khởi phiền não, chẳng phải là chẳng biết, cho nên gọi là tướng không nhiễm ô, ở trong tự thân chẳng hay sinh khổ, nên không lỗi lầm. Bồ-tát sinh khởi phiền não như vậy, ở hữu tình giới khéo đoạn nhân khổ, cho nên Bồ-tát đó có vô lượng công đức rất kỳ đặc.
- Bạch Đức Thế Tôn! Bồ-đề vô thượng mới có công đức lợi lớn như vậy, khiến các Bồ-tát sinh khởi phiền não, còn hơn tất cả thiện căn của hữu tình Thanh văn Độc giác, huống gì là vô lượng công đức khác, làm sao tâm thông các vị thì nói tùy nghĩa nên nói, Dị thục cũng thông các vị chẳng nói tùy nghĩa, đã riêng nói xả, sao phải nói lại?"
Theo luận Vô Tướng và kinh Đồng Tánh thì thức vô cấu là tự tánh tâm thức thì lý Chân như, nên biết vô cấu thông cả hai thứ. Nhưng bản thức có mười tám tên. Bài tụng ghi:
Không mất, bản, trạch, tạng Chủng, vô cấu, trì, duyên Hiển, hiện, chuyển, tâm, y Dị, thức, bản, sinh, hữu.
"Cõi Vô thỉ đến nay, tất cả pháp thảy y, do đây có các nẻo, và Niết-bàn chứng đắc", luận Vô Tánh và Nhiếp Đại Thừa ghi: Cõi Vô thỉ đến nay là hiển bày thức tánh đây ở khoảng đầu tiên là không. Cõi là nhân thì chủng tử thức là nhân chủng của ai? Nghĩa là tất cả pháp sở y khéo nhậm trì vậy, chẳng phải nhân tánh. Nghĩa năng nhậm trì là nghĩa sở y, chẳng phải nghĩa nhân tánh. Sở y, năng y, tánh đều khác nhau, nếu không như vậy là giới, tiếng đã rõ sao mượn lời khác? Ý hai câu đây, cõi Vô thỉ đến nay là hiển tánh thức đây không có câu "khoảng đầu tiên thông". Cõi của tất cả pháp, nghĩa là cũng lấy pháp Hữu lậu làm nhân duyên, cùng Vô lậu pháp v.v... làm sở y. Do tất cả pháp giới, nên có các nẻo, do đẳng làm sở y, có Niết-bàn chứng đắc, có chút phần tương tợ với Duy Thức quyển 2 nhưng hơi sai biệt, như văn có thể biết.
Trong phần do nhiếp tàng tất cả chủng tử thức của các pháp có ba giải thích:
1. Trong đây chỉ nêu năng tàng gọi là A-lại-da, chẳng phải là nghĩa tàng đầy đủ, vì đối thắng tánh làm rõ năng tàng vậy.
2. Ba tàng trong đây tất cả đều đủ, nêu năng nhiếp tàng hiển bày tánh sở tàng, chủng tử tạp nhiễm hỗ tương làm duyên. Do đây trì năng chấp bên trong làm ngã thì là nghĩa chấp tàng nên đủ ba tàng.
Hai giải thích trên đây trong luận thể văn trường hàng có nói.
3. Căn cứ thật Lại-da chỉ lấy chấp tàng, nay căn cứ năng tàng có đại tự tại tợ thường và một. Riêng tợ ở ngã, hiển làm nghĩa sở chấp tàng của ngã ái, ý muốn dùng sở chấp tàng nên gọi là A-lại-da. Nếu lấy năng tàng giải thích A-lại-da thì Phật quả xứng với tên gọi này, nếu dùng nghĩa năng tàng sở tàng để giải thích thì hàng Nhị thừa vô học, Địa thứ tám trở đi nên được tên đây, nên chỉ có chấp tàng gọi là A-lại-da, thiếu thì liền thành lỗi. Nay nêu năng tàng để nói rõ tàng tạp nhiễm. Phật chỉ có một năng tàng. Hàng Nhị thừa vô học, Địa thứ tám trở lên có cả năng tàng sở tàng, ngoài ra thì đều có đủ ba tàng, nên lấy chấp tàng gọi là A-lại-da.
Trong phần "Ta chỉ khai mở cho người thù thắng", luận văn chỉ y cứ cứu cánh chứng quả mà nói nên lập chánh danh, chánh danh cũng thông cả hàng Địa tiền v.v.... Bất định tánh đúng lý cũng ở trong đó. Địa thượng, Địa tiền tùy ứng mà nhiếp. Quyết định Nhị thừa sinh cõi Vô sắc tin có Thức thứ tám vào được diệt định, rõ ràng cũng vì nói, nhưng chẳng phải chánh, cứu cánh chẳng thể đắc quả lớn, trong đây chọn lựa đó.
"Ta đối với phàm phu chẳng vì chỉ bày", Vô Tánh giải thích: Hàng chấp ngã kiến, chẳng vì họ chỉ bày, sợ họ phân biệt kế chấp làm ngã, đâu thể chấp nhận phân biệt kế chấp kia, tận cùng khoảng sinh tử, hành tướng một loại không cải chuyển. Vì hiển bày Nhị thừa định tánh phàm phu, kiến của Câu sinh chưa trừ, chẳng được vì họ nói, sợ tăng thêm phân biệt kiến, chẳng phải hàng đắc Thánh nên chẳng vì họ nói. Nay vặn hỏi nếu vì phàm phu có Câu sinh kiến chẳng vì họ nói, hàng Nhị thừa đã đoạn cũng nên vì họ nói. Nếu vì hàng chẳng ngu pháp nói, thì phàm phu định tánh cũng có chẳng ngu, tại sao chẳng nói? Nên biết chẳng vì phàm phu chánh nói, Vô Tánh tuy nói hàng chấp ngã kiến chẳng vì chỉ bày là chẳng phải lời nói tận lý. Lại, luận đây nói chướng sinh Thánh đạo, phàm quyết định tánh có thể vậy, đồng với Vô Tánh, chẳng phải thân bậc Thánh lại chướng Thánh đạo. Lại, tuy bậc Thánh Nhị thừa chẳng vì họ nói là phần nhiều chẳng ngu pháp vậy, chẳng phải đồng với Dị sinh. Ý đây chẳng vì chánh nói, chẳng phải chung. "Thành Đại thừa là trong lời Phật nói" luận có mười lượng, trong bốn cặp trước, lại thêm chữ "lạc Đại thừa thừa nhận", chọn lựa tùy một chẳng thành. Dùng chí giáo nhiếp làm tông nên thành bốn nhân. Trong bảy nhân chứng, trong phần "trước chẳng thọ ký" lại có ba lượng: một, nếu Đại thừa là trụ trong tự pháp là rộng hoại chánh pháp, nói Phật nên trước dự ghi trí Vô công dụng Phật hằng có, như Diệt Pháp Sự giải thích. Lại, hằng chánh cần giữ chánh pháp, lại biết vị lai trí không chướng ngại. Lại có một lượng nói là: Hữu pháp như trước, pháp nói là Phật nên trước phân biệt dự ghi riêng, thời sau hoại chánh pháp là sở khởi v.v... vậy, như Chánh Pháp Diệt Sự giải thích, và giáo pháp lừa đội lốt sư tử có bảy tỷ lượng. Luận Hiển Dương quyển 20 dùng mười nhân nói ngôn giáo Đại thừa là điều Phật nói:
1. Trước chẳng khởi, tức nhân đầu tiên ở đây.
2. Nay chẳng thể biết, tức nhân thứ hai ở đây.
3. Có nhiều chỗ làm.
4. Cực trọng chướng là chỗ không có trong đây.
5. Chẳng phải cảnh tầm tư vậy, tức nhân thứ ba ở đây.
6. Chứng đại giác, tức "nếu có nhân Đại thừa" trong nhân thứ năm.
7. Không có lỗi của Thừa thứ ba.
Đây nếu không có nên không có Nhất thiết trí, tức "không có nhân Đại thừa" trong nhân thứ năm.
8. Có đối trị tức nhân thứ sáu.
9. Chẳng nên như nói lấy ý, tức nhân thứ bảy. Trong bảy nhân đây, mỗi mỗi lại lấy Tư để làm tỷ lượng. Các sư Thượng tọa bộ lập chín tâm luân:
1. Hữu phần.
2. Năng dẫn phát.
3. Kiến.
4. Đẳng tầm cầu.
5. Đẳng quán triệt.
6. An lập.
7. Thế dụng.
8. Phản duyên.
9. Hữu phần.
Nhưng thật chỉ có tám tâm, vì bao quát mà nói tổng có chín, nên thành chín tâm luân. Vả lại, như mới đầu lúc thọ sinh chưa thể phân biệt, tâm chỉ nhậm vận duyên ở cảnh gọi là tâm hữu phần. Nếu lúc có cảnh đến tâm muốn duyên bèn sinh cảnh giác, gọi là năng dẫn phát. Tâm đó đã ở trên cảnh đây chuyển kiến chiếu soi nó. Đã thấy nó rồi, bèn đồng tầm cầu xét thiện ác đó. Đã xét nó rồi, bèn đồng quán triệt nhận thức thiện ác đó mà an lập tâm, khởi nói phân biệt nói thiện ác đó, tùy thiện ác đó bèn có tác động dụng tâm sinh. Động tác đã dấy khởi sắp muốn ngừng phế bèn lại phản duyên việc chỗ làm trước. Đã phản duyên rồi bèn trở về hữu phần nhậm vận duyên cảnh, gọi là chín tâm, mới thành nghĩa luân. Trong đó, tâm kiến thông nơi sáu thức. Ngoài ra, chỉ ý thức. Tâm hữu phần thông sinh tử, tâm phản duyên chỉ được tử. Nếu người lìa dục chết thì tâm hữu phần. Đã không ngã ái, không chỗ phản duyên chẳng sinh lưu luyến. Người chưa lìa dục vì tâm phản duyên mà chết, có luyến ái. Nếu có cảnh đến thì tâm có thể sinh. Nếu không cảnh khác, luôn làm hữu phần, nhậm vận tương tục. Nhưng, kiến và tầm cầu trước sau chẳng định. Luận Vô Tánh và Nhiếp Đại Thừa quyển 2 ghi: "Năm thức đối với pháp không chỗ rõ biết, trước nói tâm kiến. Lại nói, kiến chỉ chiếu soi tức tổng kết tâm trước.
Ngũ dục chẳng phải xứ đắm chấp là, sinh hai cõi trên cũng khởi ngã thức.
Trong chứng thứ nhất, tâm tập khởi là giải thích lại chỗ tập chủng.
Chỗ khởi sinh pháp, nhân nên gọi là tâm.
Trong phá sắc chẳng tương ưng và tâm sở, cũng nên có chẳng phải chỗ tâm tập khởi chủng nhiễm tịnh, vì lược nên không nói. Chấp thuận loại là giả chẳng năng trì thật chủng pháp bên trong. Quyển 1 trước nói, như đê đường v.v... giả ngăn nước thật, ở đây vì sao chẳng vậy? Tạm dứt diệt ngăn giả định có thể vậy. Rốt ráo trọn trì ở lý chưa thể. Nếu vậy, thân Phật, giới biệt giải thích thoát v.v... cũng rốt ráo ngăn. Nghĩa gì chẳng đồng? Ngăn là nghĩa dứt, có thể giả ngăn thật. Trì là nghĩa giữ gìn nên giả chẳng trì.
Phá Tợ tỷ lượng của luận sư Thanh Biện, tông có một phần sở biệt chẳng thành. Trung Đạo thắng nghĩa trong luận cũng có lỗi của một phần trái ngược tông, chẳng thành như trong sớ giải thích. Đồng dụ như huyễn là, y Tục đế, như huyễn có hai trưng bày: một là thật sự như huyễn, chẳng phải duyên sinh nên năng lập chẳng thành; hai là tợ sự như huyễn, tông đây chẳng phải không lập nên chẳng thành, y Thắng nghĩa đế. Tất cả pháp hai tông đây kia đều chẳng thể nói, chẳng phải không, chẳng phải chẳng không, chẳng phải duyên sinh, chẳng phải phi duyên sinh, đâu thể dùng hoa đốm hư không v.v... làm dụ được? Đồng dụ cũng có lỗi câu bất thành gọi là Tợ tỷ lượng.
Trong Chứng thứ hai, thân khí lìa tâm chẳng phải có thì nghiệp quả chứng thứ năm trong tám Chứng.
Trong thú sinh, nói năm nẻo là luận Phật Địa ghi: "Vì A-tố-lạc nhiều dối trá nên nói là phi thiên". Có trong các kinh mở làm sáu nẻo, thật thì cõi trời nên năm nẻo các kinh khác cũng nói cùng thuộc nẻo quỷ, vì tùy thuận lý, hoặc luận Phật Địa đứng về nghĩa nhiều phần, thật thông hai nẻo, như Pháp Hoa sao quyển 1.
Khởi không có tạp là giới địa có thể vậy, như năm thú bốn loài ở Dục giới. Tại sao? Phiền não, nghiệp, quả định thuộc nẻo đây sinh, mà nói khởi tạp, như chuyển trọng khiến khinh, cũng có quả nẻo ác thọ trong loài người và sáu cõi trời. Người trời cũng khởi phân biệt phiền não v.v... cũng có nẻo ác thọ quả thiện nghiệp biệt báo, như rồng voi ngựa v.v... quỷ có phước đức v.v... ở trong trời người, đều không nhất định thuộc, nay nói khởi các thứ khác có thể gọi là tạp luận. Nay giải thích chẳng như vậy, kia không nhất định thuộc, chỉ Thức thứ tám nẻo sinh nhất định chẳng thể chuyển thọ, chuyển thọ chỉ là biệt báo, nên các thứ khác gọi là tạp, chẳng biết nẻo nào sinh loại nào, nên nếu khởi đó bèn gọi là tạp. Thức thứ tám không như vậy, nên gọi là không có tạp.
Sinh đắc thiện và ý thức nghiệp quả khởi không có tạp là như sinh đắc thiện, tuy Dục giới đây cũng có định thuộc, thú sinh gọi là không tạp thì không như vậy, chỉ ý nghiệp quả không tạp, đây là tên cùng theo, chẳng phải thật không tạp, giải thích đây là chánh, thông năm nẻo được quả. Ý Dị thục là sư đây chẳng thừa nhận các thú chuyển thọ, chỉ bản xứ, hoặc nhiều phần, cũng có thật Dị thục nương Dị thục chuyển thọ. Nghiệp quả trong ý là văn của Bồ-tát Hộ Pháp, sinh đắc thiện là nghĩa của các sư khác, hợp đó lại một xứ, nhưng chẳng phải chuẩn đúng. Thật chỉ có Dị thục và tâm sở kia gọi là chánh thú sinh, hỏi: Thể của thú sinh là một hay là nhiều? Nếu là một, y sáu biệt thật tâm và tâm sở để lập chung là một, như bình, bồn v.v... thú sinh nên giả. Nếu thừa nhận giả là trái với văn trên. Nếu thật một, tại sao y nhiều thật pháp mà lập thể một thật ư? Nếu là nhiều, nên như một người, sáu người riêng nẻo, chỗ sáu loài nhiếp, nên là lỗi lớn. Nghĩa này nên tư duy. Thú sinh là giả các sư Kinh bộ vặn hỏi, y sáu căn lập mạng căn, mạng căn nên là thú sinh, tổng thành một giả, cốt yếu y thật pháp mới có thể kiến lập, chẳng trái với trên, sở y lập. Giải thích sau là chánh. Hoặc chỉ tâm vương là thể thú sinh, tâm sở cùng theo thật chẳng phải thú sinh, nên chỉ là một. Hoặc đồng tại một tụ đều nói không lỗi, là thật, chẳng phải giả, nên xét giả thật trong Du-già. Chánh thật thú sinh là chánh, là nghĩa bản thức, vì thú sinh là bản, ngoài ra năm uẩn Biệt báo y cùng theo đây mà gọi là thú sinh, không như vậy nên là tạp loạn, một nẻo khởi nẻo khác. Trong đây chỉ lấy chánh cảm chỗ nghiệp sau chiêu thức v.v... làm thể thú sinh.
Ắt trụ tán tâm, chẳng phải không tâm và định thì Tiểu thừa và Đại thừa cùng đồng, kinh Ma-hama-da nói Phật vào diệt định mới vào Niết-bàn, đồng với Du-già quyển 80. Văn trong đây hoặc phân sáu đoạn: một là phá Kinh bộ, như ngủ không mộng, chuyển thức không vậy, các bộ khác chẳng như vậy; hai là phá Tát-bà-đa v.v...; ba là hiển chân Dị thục. Ba đoạn còn lại như văn tự nêu bày.
Trong thọ sinh mạng chung, hành tướng sở duyên của sáu thứ chuyển thức có hẳn có thể biết, Tát-bà-đa v.v... nói có hành tướng ý thức có thể biết, nên nay vặn hỏi đó là: Như có thể biết, nên như các vị khác phân minh có thể biết, đã chẳng phân biệt, rõ ràng chẳng phải ý thức.
Danh sắc hỗ tương làm duyên, như Tâm Kinh Tán giải thích.
Át-bộ-đàm, Hán dịch là Mụt nước, vì tạm đông đặc như mụt nhọt. Bế hộ là ngưng kết, luận kia gọi là Nhiệt huyết, cũng nói là Bế hộ. Kiện nam, Hán dịch là Sâu dày, vì tạm ngưng sâu dày, đồng kinh Ngũ Vương. Bát-la-xà-khư tức là Cụ căn, tức ba mươi lăm ngày.
---------------------------------
* Phần cuối bốn thực chứng ghi: "Nói là hữu tình nương ăn uống mà sống là đều nương vào thị hiện. Phẩm Phá Như Lai trong luận Trung Quán ghi: "Như Lai là cũng gọi là chúng sinh". Lại, luận Đại Trí Độ quyển 30 ghi: "Ở trong loài chúng sinh hai chân, bốn chân v.v... rất là tôn thắng, nói là hữu tình đều là thị hiện". Lại nói: "Tôn quý trong chúng sinh, thân Phật sao hẳn là chúng sinh, vào thành khất thực v.v... đều gọi là nương ăn uống mà sống, cũng thị hiện". Luận Đối Pháp quyển 5 ghi:
1. Bất tịnh y chỉ trụ thực, nghĩa là Dị sinh ở Dục giới, do đủ thứ trói buộc.
2. Tịnh bất tịnh y chỉ trụ thực, nghĩa là Hữu học và Sắc, Vô sắc giới các loài dị sinh trong đó có các sự trói buộc khác.
Thanh tịnh y chỉ trụ thực, nghĩa là A-la-hán v.v... giải thích thoát tất cả trói buộc.
4. Thị hiện y chỉ trụ thực, nghĩa là chư Phật và các Bồ-tát đã chứng uy đức lớn.
Do chỉ thị hiện thực lực trụ, Nhiếp luận quyển 10 cũng đồng, chỉ thị hiện thực, chỉ nói là Phật, Thế Tôn thật chẳng thọ thực cũng chẳng mượn ăn uống. Luận kia đứng về bốn cách ăn làm luận nên chẳng nói Bồ-tát. Dị thục thức thực kia chẳng phải thị hiện, nên luận Đối Pháp y cứ ba cách ăn mà làm luận. Hằng Vô lậu đồng thời thật không ba cách ăn, nên xưng là thị hiện, thật chẳng trái nhau. Lại, luận đây y cứ Bồ-tát từ Địa thứ tám trở đi thật là hữu tình chẳng phải là thị hiện, tuy hiện ba cách ăn cũng chẳng nói đó. Phật thị hiện hữu tình nên không chẳng làm so sánh, hoặc nghiêng về y đoạn thực. Địa thứ tám đã qua thật chẳng đợi tư lương.
Hỏi: Vì sao trong bốn cách ăn, một vào trưởng dưỡng, còn ba kia chẳng phải. Bốn thứ trưởng dưỡng, ba chẳng phải thực ư? Du-già tự giải thích vặn hỏi sau, vặn hỏi trước như thế nào?
Trong diệt định, luận Thành Nghiệp ghi: Tâm có hai thứ:
1. Tâm tập khởi, nơi vô lượng chủng tử tập khởi.
2. Tâm chủng chủng, hành tướng sở duyên sai biệt chuyển.
Vị diệt định v.v... khuyết tâm thứ hai, nên gọi là không tâm, như ngựa bốn chân khuyết một nên cũng gọi là không chân, nghĩa là hành tướng nhãn thức v.v... thô động khởi hẳn lao lự v.v... là theo thông nghĩa của ba Thừa, căn cứ thật Bồ-tát địa thứ tám đã qua, không tâm Hữu lậu, sao hẳn phải lao lự?
Phá Tát-bà-đa, trong phần Diệt định thức chẳng lìa thân có hai đoạn: Trước nêu kế chấp, sau chánh phá. Trong phá có năm đoạn:
1. Vặn hỏi như tưởng khởi diệt.
2. Vặn hỏi thọ chẳng lìa thân.
3. Vặn hỏi lẽ ra chẳng phải hữu tình.
4. Vặn hỏi căn thọ không trì.
5. Vặn hỏi kinh nói không thuộc.
Tát-bà-đa ghi: Thọ tưởng trước nghiêng về nhàm chán. Tâm hành nói là không có, Thức thể chẳng phải tâm hành, Diệt định nên nói có. Nếu vậy, vặn hỏi: Thức thể chẳng phải tâm hành, diệt định thật không mà nói có. Thọ v.v... chẳng phải tâm hành. Trong định thật không mà nói có. Nên luận ghi: Thọ, noãn, các căn lẽ ra cũng như thức, bèn thành lỗi lớn.
Trong phá bản kế của Kinh bộ có hai đoạn: Trước nêu bốn vặn hỏi, sau tổng kết. Bốn vặn hỏi là:
1. Không nhân quả chẳng sinh.
2. Không thể chẳng phải nghĩa nhân.
3. Các thứ khác chẳng phải thọ huân v.v...
4. Do lượng thành có thức.
Thứ hai, do lý đây hướng đến sau kết.
Bảy đoạn phá trong tâm sở. Đoạn thứ tư phá chống chế có tám đoạn:
1. Do nói đồng tâm hành.
2. Thẩm định biến chẳng phải pháp biến hành để khởi vặn hỏi sau. Trong đây có ba: một là tổng nêu, hai là hiển tùy có không, ba kết chánh.
3. Vặn hỏi tư như thọ tưởng cũng nên đồng diệt.
4. Vặn hỏi tín v.v... cũng không có.
5. Thọ tưởng sánh như tư nên có.
6. So sánh xúc nên có.
7. Thọ so sánh nên như vậy.
8. Tưởng so sánh đồng đây.
Đoạn thứ bảy, trong phá có năm phần:
1. Tổng chống chế lỗi.
2. Dẫn kinh phá so sánh.
3. Kết thành nghĩa.
4. So sánh có thọ tưởng.
5. Lỗi trái với giáo.
Vặn hỏi không trong tâm sở có năm hỏi đáp.
Trong vặn hỏi thứ nhất có bảy đoạn:
1. Vặn hỏi tâm đồng sở không.
2. Vặn hỏi pháp tùy biến hành diệt.
3. Vặn hỏi thọ chẳng phải đại địa.
4. Vặn hỏi thức chẳng phải tương ưng.
5. Vặn hỏi lẽ ra không y duyên.
6. Vặn hỏi như kinh có xúc.
7. Vặn hỏi thọ v.v... hẳn chung cùng.
Vặn hỏi tâm diệt định nhiễm Vô ký là các nhiễm khác tâm Vô ký hẳn có tâm sở, tâm trong đây hẳn có tâm sở, là tông, thêm đó diệt định vị tâm, văn ngôn mới đủ, chẳng như vậy thì có lỗi tương phù cực thành, vì tâm nhiễm Vô ký là nhân, như các nhiễm khác tâm Vô ký là dụ. Nhân không có chữ "cho nên", dụ thiếu chữ "như", các thứ khác đều đủ văn, hãy đọc lấy nghĩa.
Trong Chứng thứ mười lấy tâm làm gốc. Câu chung của các bộ, pháp Hữu vi, Vô vi, nhiễm tịnh đều lấy tâm làm gốc. Tát-bà-đa v.v... cho là Vô vi do tâm hiển, Hữu vi do tâm nên khởi. Do tâm khởi pháp nhiễm tịnh lực dụng rất thắng mạnh, nên nói là gốc. Do đây, kinh ghi: "Nếu tâm nhiễm tịnh thì hữu tình nhiễm tịnh", ý các sư Kinh bộ tuy cũng như vậy, nhưng tâm thọ huân ưu thắng so với căn v.v... vì khắp cùng các cõi nên nói tâm là gốc. Tuy câu chung của Hữu vi và câu riêng của Vô vi nhân tâm mà sinh, nghĩa là sắc, chẳng tương ưng do tâm làm đồng loại, câu hữu, Dị thục nhân v.v... mới bắt đầu sinh. Các pháp tâm sở, lý tuy cũng vậy, thân gần nơi tâm, y tâm mới trụ. Hai câu trên đây riêng đối Tát-bà-đa. Hai câu dưới đối Kinh bộ, như văn có thể rõ. Trong sớ chỉ thuật bốn giải thích của Đại thừa, trong đây tổng giải thích, nhưng quán xét ý của văn sau thảy đều phá bộ kia nên nêu giải thích này.
Nghiệp quả giới địa qua lại sau khởi lẽ ra không có nhân. Nhiếp luận quyển 3 ghi: "Nếu có ở đây chẳng phải thảy đồng dẫn địa lúc mất rồi sinh, y trong có vị ý khởi ý thức nhiễm ô kết sinh tương tục, ý thức nhiễm ô này đối với diệt trong Trung hữu. Ở trong bào thai mẹ thức Yết-la-lam lại cùng hòa hợp. Nếu vậy thì ý thức cùng hòa hợp sau đã hòa hợp rồi y chỉ thức này, ở trong bào thai mẹ có ý thức chuyển. Nếu vậy, tức nên có hai ý thức ở trong bào thai mẹ đồng thời mà chuyển, cho đến nói rộng.
Thời phần cách biệt không có duyên là đối Tát-bà-đa, vì sắc trong thức vị là Dị thục, gọi là hành duyên thức:
1. Thời kiếp số xa vời.
Trái cách, vốn không có quả thức có thể gọi là chi thức.
Vì sao gọi là cảm sắc trong thức vị? Các sư Kinh bộ ở đời vị lai không có mà nói cảm là thời phần vời xa, thời lâu cách tuyệt. Thế nào gọi là cảm? Lại nếu nói cảm gọi là sắc vị, thức gọi là duyên, thì cách thức chi, nên nói cùng danh sắc làm duyên, chẳng phải cùng thức làm duyên.
Mười Chứng nhiếp tám Chứng là Dị thục thứ hai đây là thứ sáu kia. Chấp thọ thứ tư đây là chấp thọ thứ nhất kia. Tâm sinh tử thứ sáu đây là mạng chung thứ tám kia. Diệt định thứ chín đây là diệt định thứ bảy kia, trì chủng thứ mười đây là chủng tử thứ tư kia.
Trong Năng biến thứ nhất, tại sao tâm sở thứ tám sánh đồng tâm vương nói cũng như vậy? Năng biến thứ hai, thứ ba chỉ nêu tương ưng chẳng nói sánh đồng? Sợ đây lẫn lộn với kia nên ở đoạn thứ bảy chỉ lập tên ý v.v..., tại sao Thức thứ sáu chẳng chỉ gọi ý, Thức thứ bảy cũng là thức vậy? Thứ bảy trì nghiệp, hai nghĩa để nói rõ thể của thức. Thứ sáu y chủ, lấy tha để rõ tự, nếu thứ sáu nêu một ý chẳng nói thức là chẳng khéo hiển tự. Thứ bảy thêm thức sợ lạm y chủ, nên thứ bảy chỉ nêu tên ý, sợ đây lạm kia. Thứ sáu thêm thức, hiển y tha nên được tên.
Vì sao trong bốn duyên, thứ ba gọi là sở y? Sở duyên duyên thể chẳng gọi là sở y. Thắng, gọi là y, thế cùng thân gần, sở duyên duyên xa cho nên chẳng lập, nhân thì có thể vậy, nghĩa y thì chẳng phải. Chỉ có trong y, thứ hai là nghĩa của luận sư An Tuệ, Kiến phần Tướng phần kia tuy là sở chấp, thể tánh đều không có, cũng có tướng của tợ sắc, như chỗ mộng thấy. Thời nay núi sông tất cả đều vậy, nên có tạng thức chỗ biến căn cảnh làm duyên sở y nên không có lỗi.
Trong y và sở y khác nhau, sở y đủ bốn nghĩa, thân căn mong bốn thức, khuyết ở nghĩa nào mà chẳng phải sở y? Có nghĩa giải thích là không có nghĩa quyết định, vì y thân dưới khởi nhãn trên v.v.... Đây cũng chẳng phải như vậy, năm thức dưới cùng khởi ý thức trên, nên chẳng phải năm y, cũng bất định. Lại, có giải thích thiếu nghĩa có cảnh. Phàm lập có cảnh là hẳn căn đồng phần khởi dụng có cảnh, căn đồng phần kia chẳng phải là sở y, chỉ là y nhiếp do thân căn đây hẳn không cùng bốn đồng phần có cảnh. Giả sử tự thân thức chưa hẳn cùng khởi làm bốn thức y, do nói y dụng gọi là có cảnh chẳng phải y thể, đây cũng chẳng phải như vậy. Văn luận sau nói, tuy có Sắc giới cũng y sắc căn mà chẳng nhất định có, chẳng phải thuộc về sở y. Nếu thừa nhận y dụng để gọi là có cảnh, năm căn ở tám khởi thức chẳng khởi đều gọi là có cảnh. Vì y thể nói, chẳng trừ có cảnh, chỉ không có quyết định. Nếu y dụng nói cũng nên nói là không nghĩa có cảnh, chẳng phải tất cả thời hằng khởi thức. Hoặc thức thứ bảy, thứ tám chẳng phải Thức thứ năm, thứ sáu nhất định đồng phần. Do đây nay giải thích có nghĩa riêng đó, phàm chỗ nương gá đều gọi là y. Đủ bốn nghĩa là tối thắng trong y lập làm sở y, yếu kém thì chẳng lập.
Trong đủ quyết định, sao gọi là quyết định? Chẳng phải nhất định cùng có gọi là quyết định. Quyết định có bốn:
1. Thuận lấy sở duyên quyết định, phần sau gọi là đồng cảnh.
2. Minh liễu sở duyên quyết định, phần sau gọi là phân biệt.
3. Phân vị sai biệt quyết định, phần sau gọi là nhiễm tịnh.
4. Năng khởi làm y quyết định, phần sau gọi là căn bản.
Có cảnh đó là chủ cũng mỗi mỗi có bốn. Bốn quyết định này có cảnh, là chủ, cũng tùy có một thứ, tức là quyết định, có cảnh, là chủ. Năm căn ở năm thức, có thuận lấy sở duyên quyết định, có cảnh, là chủ. Ý thức ở năm thức, có minh liễu sở duyên quyết định, có cảnh, là chủ. Thứ bảy ở năm thức có phần vị sai biệt quyết định, có cảnh, là chủ. Thứ tám ở năm thức có năng khởi làm y quyết định, có cảnh, là chủ, nên năm thức đây đủ bốn sở y. Năm căn khéo thuận năm thức lấy sở duyên. Ý thức khéo hỗ trợ năm minh liễu sở duyên vậy, nghĩa nói minh liễu cảnh của phân biệt, chẳng như vậy, định tâm nên chẳng phải năm y. Bảy thức khéo khiến năm phần vị riêng biệt. Lúc Thức thứ bảy rốt ráo thành Vô lậu, năm định Vô lậu, chẳng như vậy, Hữu lậu nhân Thức thứ bảy tuy chuyển, chẳng phải rốt ráo. Thứ tám ở năm chủng tử hay khởi hiện hành làm y. Gồm nói thứ tám là năng khởi y, chuẩn cứ chứng đây v.v... nên biết tùy đủ thì được tên kia. Nếu quyết định, có cảnh, là chủ, duy chỉ một thứ chẳng thông bốn thì lẽ ra năm thức không bốn thứ căn, do nghĩa đây nói. Thức thứ bảy đối với Thức thứ sáu và Thức thứ tám chỉ có phần vị sai biệt quyết định, có cảnh, là chủ. Thức thứ tám đối với Thức thứ sáu và thứ bảy chỉ có năng khởi làm y quyết định, có cảnh, là chủ, nghĩa bốn y sau đều thông ba trước. Bản ý của luận tùy ứng sớ nêu ra. Thể của sở y đã đủ ba nghĩa, khiến quả sở sinh thủ sở duyên của chính mình. Bốn nghĩa đây ưu thắng đều tùy năng trong ba có thể đủ tức gọi là sở y, ngoài ra là chẳng lập. Ở quả sở sinh chẳng phải thù thắng. Vả lại, năm căn trong sắc uẩn mong năm thức khác và Thứ thứ sáu, bảy, tám. Năm trần, pháp xứ, sắc mong tất cả thức. Bất tương ưng hành và Vô vi mong tất cả thức, chẳng phải chủng tử thức mong tất cả thức đều chẳng đủ ba, không trước tùy ứng nghĩa trong ba, nghiên cứu kỹ đều không có. Tất cả tâm sở tùy mong thức nào? Chỉ có quyết định, có cảnh, bốn thứ tùy ứng có thể đủ chỉ không có là chủ. Các chủng tử đó mong tự thức đó, có thể có phần vị sai biệt quyết định, vi chủ hai nghĩa, chỉ không có cảnh. Năm thức trước đó tự hỗ tương mong nhau và mong Thức thứ sáu, bảy, tám. Và Thức thứ sáu mong thứ bảy, thứ tám, tất cả đều không, không có bốn nghĩa trong ba tùy chỗ ứng. Ngoài ra, tâm, tâm sở tất cả hiện hành, sắc, bất tương ưng mong các chủng tử tất cả đều không có. Các pháp tâm sở mong chủng tử của chính nó, thiếu không có làm chủ. Do có phần vị sai biệt quyết định, có cảnh, nhiễm, tịnh đồng. Thể là bề tôi nên không làm chủ, cũng không khiến quả lấy chỗ tự duyên. Có thể có nghĩa phần vị sai biệt quyết định, có cảnh, làm chủ. Trong đó, đủ khuyết tùy nghĩa nên biết. Đã lược sơ điệp, sau đọc nên xót, nhưng trong văn dưới, năm căn mong thứ tam. Chỉ trừ định có, chẳng trừ các thứ khác là: Nêu chỗ không đầu sánh không sau vậy, chỉ nêu không một thì chẳng thành sở y, đâu cần thuật đủ.
Thức chủng không thể hiện lấy tự cảnh có thể có nghĩa y, trong sớ có hai nghĩa: Một là thức chủng của sư trước thừa nhận y bản thức. Bản thức đủ ba nghĩa, có thể cùng chủng làm sở y. Chủng quả không thể hiện lấy tự cảnh, quả không tự sở duyên. Dị thục thức cùng nó làm y, vì chẳng phải sở y, nên nói chủng có y, chẳng nói có sở y.
Lại giải thích thức chủng đây không thể cùng hiện hành làm sở y, có thể có phần vị sai biệt quyết định, là chủ, không có cảnh. Có thể có nghĩa thức y mà chẳng phải thức sở y. Từ trước đến đây, phần vị sai biệt tức nhiễm tịnh y, riêng cùng làm tên, gọi là phần vị sai biệt. Thân căn mong bốn thức, bốn nghĩa đều không có, nên không có lỗi.
Thứ ba, Đẳng vô gián duyên trong y. Lại, Dị thục tâm y ý nhiễm tịnh. Thiên Thân giải thích là Thức thứ bảy, văn luận chỉ nói phiền não câu hành ý. Vô Tánh cũng ghi: Hoặc có thuyết nói cùng bốn phiền não tương ưng tâm, gọi là ý thức nhiễm ô, nên biết Thiên Thân nói là Thức thứ bảy. Lại nói, duyên này vị lai làm cảnh, chẳng phải hẳn là Thức thứ bảy, cùng Vô Tánh đồng. Nếu như sớ giải thích nói là Thức thứ bảy thì tại sao Thế Thân nói là Thức thứ bảy, Vô Tánh nói là Thức thứ sáu? Thiên Thân lấy Thức thứ sáu tướng hiển nên lược mà chẳng luận. Thức thứ bảy tướng ẩn, cũng hay trợ nhuận, nên nói rõ y đó. Vô Tánh căn cứ duyên sẽ có làm cảnh, chẳng phải lực của Thức thứ bảy, nên ẩn chẳng nói, chỉ nói Thức thứ sáu, mỗi một Thức căn cứ một nghĩa cũng chẳng trái nhau. Lại, thứ ba của Vô Tánh cũng đồng với thứ bảy của Thiên Thân, như trước trong câu hữu y đã dẫn xong.
Trong sớ có hai giải thích, năm hạng Pháp sư và sáu ngàn công đức trong luận Pháp Hoa, phàm phu chưa được Vô lậu, trong năm căn cũng nói được hỗ dụng, có hai giải thích:
1. Các căn hỗ dụng, nghĩa là giả sử Tiểu thừa sắc tâm trước sau có Đẳng vô gián thì Nhiếp luận quyển 3, Kinh bộ của Thượng tọa chấp sắc tâm triển chuyển trước làm chủng sau. Nay vặn hỏi thì A-la-hán tâm sau chẳng thành. Vô Tánh ghi: "Cho nên sắc tâm trước sau cùng sinh, chỉ nên chấp nhận có Đẳng vô gián duyên, không có nhân duyên.
Tại sao Thức thứ bảy duyên kia tức có bốn thuyết, chánh nghĩa duyên Kiến phần? Thuyết kia chỉ có hai sư hiện hành chủng tử, vì y hiện hành làm chánh, nhưng chẳng riêng nói bốn phần y, sao nay giải thích tự thể y có thắng lực, Kiến phần có dụng của tác thọ, vì vậy duyên đó. Chẳng lìa thể nên tổng gọi duyên kia. Lại giải thích y ba phần, gồm có lực. Chỉ duyên Kiến phần, chỉ tác, thọ. Hoặc sở duyên kiến là nghĩa năng duyên, tức y, duyên đồng. Ba phần đều gọi là kiến. Do đó luận ghi: "Hằng cùng các pháp làm sở y".
Nói trong sáu tùy biến, không trạo cử là trái nhau đây.
Hỏi: Trạo, hôn trái nhau chẳng thừa nhận cùng quyết định loạn phản ngược nhau nên chẳng đều sinh?
Đáp: Kia chẳng trái ngược nên câu khởi, đây phản ngược nhau nên riêng sinh.
Hỏi: Hai hai hành tướng mỗi mỗi trái nhau, tại sao chẳng đồng?
Đáp: Chảy tràn là tán loạn. Một hành được định đồng thời, cao thấp gọi là hôn, trạo, nên hai hành phản ngược nhau. Do hành tướng riêng biệt, thể đó cũng không có, là ý của sư này.
Trong sư thứ ba, Tát-bà-đa cho là tham, khuể, mạn chỉ là độn. Năm kiến, nghi chỉ lợi. Si thông cả lợi độn. Nay, Đại thừa cho là kiến, nghi chỉ là lợi, bốn thông cả lợi độn, tùy ứng thừa nhận cùng kiến, nghi chung cùng. Chẳng được dùng kiến cùng tham v.v... chung cùng cũng gọi là độn, không có độn riêng, kia có độn riêng. Do đây, tham v.v... thông mê cả lý và sự. Nghi chỉ mê lý, kinh Nhân Vương ghi: "Năm địa đoạn nghi, do dự trong sự, A-la-hán nghi dơi và rắn cũng vậy, đều Dị thục sinh, nên loại pháp chấp, bền chặt dính trước tức chấp".
-----------------------------
Đây cùng biến thứ nhất có đồng và chẳng đồng, kệ tụng nói và chẳng nói. Sở chỉ như Xu Yếu như trong quyển 10 giải thích.
Bình đẳng tánh trí chỉ xả thọ chung cùng nghĩa là quán trí là Sơ định. Bình đẳng trí, thuộc Sơ định, quán trí hỷ lạc chung cùng. Bình đẳng trí tùy hỷ lạc, có hai giải thích:
1. Giải thích về đắc: nhưng nay nói thủ đến Phật vị chỉ xả một định, chưa tự tại tùy quán trí. Tự tại thì không như vậy. Nếu như vậy, bảy thức nhân xả chung cùng. Tịnh do tha hỷ, lạc, trong nhân không có tầm tứ, quả do tha dẫn sinh ư? Hành tướng tầm tứ thô, chẳng phải do tha dẫn chuyển, lẽ ra hỷ lạc chẳng phải một loại. Tha dẫn chẳng tùy sinh, nên nghĩa thứ hai tất cả là xả. Tại sao địa đồng? Thọ đó tức riêng biệt, hỷ lạc dễ thoát nên hằng chỉ xả thọ, vì định chẳng trái nhau. Theo năng dẫn, nếu năng y của Hữu lậu vị thông chín Địa, sở y thuộc một Địa. Tùy sở sinh, nếu đến Phật vị, năng y thông chín Địa, sở y chỉ là Định thứ tư, cùng tịnh thứ tám y tương tục không lay động, mười Địa vô lậu, năng y sở y chung cùng định đồng Địa, tùy tha dẫn vậy, chưa động. Đây nói phẩm Pháp quán, chẳng phải phẩm Sinh quán, vì vẫn còn Hữu lậu.
Trong Mạt-na trói buộc, hỏi: Sở duyên một Địa trói buộc, năng duyên trói buộc tùy cảnh. Sở duyên chín Địa trói buộc, năng duyên trói buộc thông cả chín, như tổng duyên ngã kiến v.v... ư?
Đáp: Hiện hành làm cảnh hiển, năng duyên tùy nó trói buộc, chủng v.v... cảnh chìm ẩn, năng duyên trói buộc chẳng tùy.
Hỏi: Hiện hành tướng hiển có thể duyên khởi kiến, chủng tử tướng chìm, nên chẳng sinh kiến ư? Đáp: Cảnh thông ẩn hiển, chủng tử hiện hành chung cùng cảnh, tùy nghĩa trói buộc hiển, chẳng tùy chủng trói buộc.
Lại hỏi: Năng duyên duyên Địa kia, năng sở một Địa trói buộc, cảnh là năng duyên duyên, năng sở chung cùng Vô phú ư?
Đáp: Tánh y cứ loại khác, tánh năng sở riêng biệt. Trói buộc y cứ nghĩa phược, chẳng thể trói buộc riêng.
Hỏi: Thức thứ bảy duyên hiện hành kia, năng sở thuộc một cõi.
Thức thứ tám duyên chủng ba cõi, nên tùy ba cõi trói buộc?
Đáp: Thức thứ bảy, thứ tám hỗ tương tăng trưởng, năng sở một cõi trói buộc, tám cảnh chẳng hỗ tương tăng trưởng, kiến cảnh mỗi trói buộc riêng. Lại, Thức thứ tám là nghiệp kia chiêu lại, chẳng tùy cảnh giới trói buộc, Thức thứ bảy chẳng phải chỗ nghiệp cảm, tùy cảnh một Địa trói buộc.
Hỏi: Phiền não trói buộc ba Thừa. Sở chấp gọi là tàng, pháp chấp trói buộc Bồ-tát, sở chấp lập tên tàng ư?
Đáp: Trói buộc có hai: một là trói buộc ở trong sinh tử; hai là trói buộc chẳng được chủng trí. Do đây được tên tàng, chẳng phải là Bồ-tát hằng khởi pháp chấp. Lập lượng là: Pháp chấp, chưa chứng quả vị pháp không nên hằng hành. Hai chấp tùy một nhiếp, như sinh chấp, chỗ lập tông nhân bèn cùng chung có lỗi, như sớ nói mỗi mỗi có hai lỗi.
Lại nhân có tự tướng tự pháp trái nhau, vì vô học, Thánh đạo ý là đồng pháp. Đồng phẩm nhất định có thể thành hại đối với tông pháp, nên thành pháp tự tướng trái nhau.
A-la-hán vĩnh viễn đoạn nhiễm trong Mạt-na, chỉ nói tất cánh đoạn nhiễm gọi là xả, chẳng nói tất cánh phục là xả, nên chẳng nói thẳng đến Bồ-tát Bất thoái, cũng xả thứ tám bốn người trái nhau. Do tâm từ cảnh thật cũng nên xả, chủng chẳng phải trọn không, nên lược chẳng nói, kỳ thật cũng xả, thì thuộc môn Thánh đạo xả, nên chẳng nói. Lại, Địa thứ tám trở đi, pháp chấp vẫn còn, Mạt-na chẳng được tên xả. Lại-da y cứ phiền não mà được tên. Địa thứ tám v.v... gọi là xả, chẳng trái nhau.
Bồ-tát Hộ Pháp lập Mạt-na trong tranh cãi thông pháp chấp, có mười đoạn:
1. Lỗi trái với kinh.
2. Lỗi trái với lượng.
3. Lỗi trái với Du-già.
4. Lỗi trái với Hiển Dương.
5. Lỗi Thức thứ bảy, thứ tám so sánh nhau.
6. Lỗi bốn trí chẳng ngang bằng.
7. Lỗi Thức thứ tám không có y.
8. Lỗi hai chấp chẳng đều.
9. Lỗi Thức thứ năm, thứ sáu chẳng đồng.
10. Tổng kết hợp.
Hoặc tổng phân ba đoạn:
1. Lập lý dẫn chứng.
2. Tổng kết.
3. Tổng hợp trái ngược.
Trong phần thứ nhất có chín đoạn, tức chín đoạn trước, cho nên nhất định có kết sau. Nói kia không là sau hợp trái ngược.
Trong ba Sai biệt, lấy tâm đối cảnh, cảnh có ba vị, đó là ngã ái chấp tàng v.v... tâm lẽ ra cũng có ba:
1. Bổ-đặc-già-la chấp vị, gọi là nhiễm Mạt-na.
2. Pháp chấp vị, gọi là chẳng nhiễm Mạt-na.
3. Tư lương vị, chỉ gọi là Mạt-na, cùng ba cảnh trước tương ưng chẳng rộng chẳng hẹp.
Nay, phần thứ ba nói Bình đẳng trí, không nói tư lương vị là nay hiển Thức thứ bảy có hai vị riêng biệt: một là Hữu lậu, hai là Vô lậu. Vô lậu không riêng biệt. Trong Hữu lậu vị có nhiễm và chẳng nhiễm. Lại phân làm ba. Lại ba vị trước, tâm cảnh tuy tương ưng mà vô cấu trong cảnh chẳng riêng hiển rõ. Nay đối cảnh kia, tuy rộng hẹp chẳng đồng nghĩa Vô lậu v.v... nên nói bình đẳng mà không nói là Mạt-na, căn cứ tên gọi bản thức lẽ ra cũng có bốn. Đây thêm tư lương, đối lại với chấp trì kia. Kia nếu chỉ nói hai tên Dị thục và Vô cấu, đây chỉ gọi là Vô phú, Bình đẳng trí; kia chỉ gọi là Chấp trì, đây cũng chỉ gọi là Mạt-na, vì chung cùng nhiễm tịnh, nay đây nói riêng biệt nên có ba tên.
Kiến đạo toàn sinh bình đẳng trí là trong sớ chỉ có một tâm Kiến đạo giải thích, bày ba tâm Kiến đạo, hai tâm sau có trí đây, trước một tâm không có, vì nhiều phần có. Chỗ luận tổng nói chẳng phải trong đó chỉ khởi Bình đẳng trí. Lại, đọc dài luận văn Kiến đạo pháp không trí khởi, mới có bình đẳng trí, không chỉ có Tu đạo.
Hỏi: Như có Bồ-tát vô phân biệt trí vào pháp quán, ý lạc, tức vào Hậu đắc trí pháp quán ư?
Đáp: Chẳng được. Bồ-tát Hậu đắc hẳn do Phân biệt trí làm dẫn trước. Luận Phật Địa ghi: "Quán của Đẳng lưu cùng căn bản quán đồng".
Hỏi: Nếu vậy, tại sao nói xa Đẳng lưu tức được, gần tức chẳng được?
Đáp: Thế gần khó vào, xa thì dễ vào. Lại giải thích tổng không có Hậu đắc vào Biệt quán, hẳn mỗi mỗi lại khởi Vô phân biệt trí dẫn nó sinh.
Hỏi: Trước khởi chưa tự tại, sau được do trước dẫn, lâu khởi tự tại sinh, ngại gì sức tự chuyển?
Đáp: Tức y nghĩa đây, bèn có ý lạc, hậu đắc, chẳng đồng Vô phân biệt trí, hai quán riêng biệt. Luận Phật Địa và luận này căn cứ đa phần đó và chưa tự tại.
Bình đẳng tánh trí không có phân biệt, Diệu quán trí dẫn tức duyên Chân như. Nếu Diệu quán trí tướng Kiến đạo dẫn bình đẳng trí, tức duyên tướng tợ Chân như. Diệu quán vào sinh không, tự chẳng thành bình đẳng, chỉ duyên Thức thứ tám, tướng đây có thể biết. Nếu Thức thứ sáu vào vị pháp quán, lắng nghe chánh pháp v.v... vào riêng du quán tâm, Bình đẳng tánh trí duyên cảnh giới nào? Chẳng thể duyên Chân như và duyên Thức thứ tám, thứ sáu vì chẳng phải hạnh đây. Nếu duyên duyên bên ngoài lắng nghe chánh pháp v.v... và duyên ba nẻo ác v.v... là trong nhân đã có hành tướng đây ư? Nếu nó chẳng duyên, tại sao duyên tợ Chân như v.v...? Tức thừa nhận tha dẫn, đây chẳng thừa nhận tùy tha dẫn ư?
Trong sở tri chướng, buông bất thiện chẳng ngăn che, Nhị thừa gọi là Vô phú, chướng Bồ-tát gọi là Hữu phú. Lại giải thích trong tâm bất thiện cũng chỉ có Vô ký, chẳng trái với phiền não chướng.
Hỏi: Trí chướng chẳng chướng ở Nhị thừa tức gọi là Vô phú. Hoặc chướng chẳng chướng Bồ-tát nên gọi là Vô phú ư?
Đáp: Thanh văn chỉ cầu một quả, trí chướng nên gọi là Vô phú.
Bồ-tát cầu cả hai quả. Hoặc chướng nên chẳng phải Vô phú.
Hỏi: Trí chướng chướng Bồ-tát, tức chỉ gọi là Hữu phú, hoặc chướng ba Thừa, nên chẳng phải là bất thiện ư?
Đáp: Trí chướng chỉ chướng chân kiến, chỉ gọi là Hữu phú. Hoặc chướng khiến ở sinh tử, nên thông bất thiện, lại vì tổn tự tổn tha.
Luận Du-già quyển 16 dẫn kinh ghi: "Ý nhiễm ô luôn luôn cùng các hoặc sinh diệt, nếu giải thoát các hoặc, chẳng phải trước cũng chẳng phải sau". Luận kia tự giải thích rằng: "Chẳng phải trước là cùng các phiền não luôn chung cùng sinh. Chẳng phải sau tức cùng hoặc kia chung cùng thời diệt".
Bất cộng vô minh có hai: một là cùng căn bản chung cùng hằng hành tất cả phần, chỗ các thức khác không gọi là bất cộng; hai là chẳng chung cùng với căn bản, gọi là bất cộng. Nhưng lại có hai: 1. Cùng tiểu, trung, đại tùy phiền não chung cùng, chẳng cùng căn bản hoặc chung cùng, gọi là bất cộng.
2. Chẳng cùng tiểu tùy hoặc và căn bản chung cùng, cùng trung đại tùy chung cùng, gọi là bất cộng.
Tùy chỗ ứng đó, hai loại sau cũng thông cõi trên, nhưng cùng tương ưng nhiều nhỏ cõi trên dưới riêng biệt, nhưng phân làm ba câu:
1. Chỉ kiến đoạn, nghĩa là riêng hành bốn đế.
2. Chỉ tu đoạn, nghĩa là Thức thứ bảy.
3. Thông cả kiến tu, nghĩa là phẩn v.v... tương ưng.
Trong vặn hỏi thứ ba, đã diệt y đây giả lập tên ý, tại sao chẳng y hiện hành gọi là tâm thức, chỉ tợ ý ư? Ý có hai nghĩa: một là y chỉ, hai là tư lương, đủ cả mười bốn nghĩa, ngoài ra chỉ là y chỉ, quá khứ y chỉ tợ Thức thứ bảy. Tư lương cũng tợ Thức thứ bảy gọi là ý, chẳng tợ tâm thức, gọi là tâm thức. Hỏi: Đã diệt làm y v.v... tư lương cũng gọi là tợ. Thức thứ sáu, thứ tám hiện hành làm y, tợ Thức thứ bảy có tư lương, nên đều được gọi là ý, căn cứ thật các thức khác đều được tên ý. Đã diệt tợ hiện hành Thức thứ bảy, chỉ nói đó là ý.
Mạt-na là gốc của thức trói buộc, nay quán ý đây, nếu duyên trói buộc thể chỉ căn cứ phiền não chướng, nếu tướng trói buộc thể, căn cứ pháp chấp nói, nên diệt rồi đây tướng trói buộc giải thích thoát. Đây nếu có lúc khởi nên bố thí v.v... chẳng thể mất tướng, nếu y phiền não nói có tướng trói buộc, thân A-la-hán nên không có tướng trói buộc, vì y duyên trói buộc, gọi là lúc tàng, không thời gọi là xả tàng, chẳng gọi là xả tướng trói buộc, lúc không pháp chấp, gọi là xả tướng trói buộc.
Nếu vậy, sinh không trí cùng pháp chấp chung cùng, nên gọi là tướng trói buộc. Do vậy, tổng hiển tương ưng trói buộc của sở duyên, cả ba Thừa đoạn. Tướng trói buộc là chỉ Bồ-tát đoạn, nếu do pháp chấp, tức Nhị thừa sinh không quán lẽ ra cũng có tướng trói buộc. Lại, luận chỉ nói nhiễm ô Mạtna là thức y chỉ, lúc nó chưa diệt cùng liễu biệt trói buộc chẳng được giải thích thoát, nên chỉ do sinh chấp thành liễu biệt trói buộc. Cho nên, chỉ như trong sớ giải thích. Do có Mạt-na nên bố thí v.v... chẳng mất tướng, tức chẳng phải trong bảy nghĩa chỗ vô tướng trí nhiếp thọ, tại sao trước Kiến đạo và Địa thượng Hữu lậu bố thí v.v... thành bố thí v.v... ư? Nay hiển khác Vô lậu, tướng đó chẳng mất, chỗ vô tướng trí đó nhiếp thọ, nghĩa là không chấp trong Thức thứ sáu gọi là vô tướng trí, chẳng phải Thức thứ bảy chấp. Nếu chẳng như vậy sẽ không có nghĩa Ba-la-mật. Lại, tướng trói buộc kiến gọi là tướng phược, kiến trói buộc tướng gọi là kiến phược. Kiến chẳng minh chứng, chẳng tự tại, nên do tướng phược. Tướng không có thể chứng lực tự tại, làm sao nói kiến trói buộc ở tướng? Nếu chẳng như vậy, tại sao sở thủ năng thủ trói buộc? Văn sau nói tuy do phiền não dẫn nghiệp bố thí v.v... mà chẳng cùng chung khởi, chẳng phải chánh nhân Hữu lậu, tức hiển duyên trói buộc v.v... chẳng phải chánh thể Hữu lậu. Quyển 65 ghi: "Chỗ hiện lượng hiện hành có duyên trói buộc, sắc thanh tịnh đó chẳng tương ưng thiện và một phần Vô ký tâm tâm sở, chẳng phải có duyên trói buộc, chỉ do tùy miên gọi là Hữu lậu. Cùng phiền não chủng chung cùng là đây y cứ nghĩa riêng biệt, cũng chẳng trái nhau v.v... rộng nói rất tinh, nên lấy kia hợp, tức hiển năm cảnh có chỗ duyên trói buộc, ngoài ra, căn tâm v.v... tức không nghĩa đó, chỉ hiển cùng đây bày Hữu lậu chung cùng, nói là tương thuận, nhưng cùng năm mươi chín đoạn hai phược nghĩa trái nhau. Do đây, chỗ duyên trói buộc có hai: một là thân gần tức chỉ chỗ hiện lượng hiện hành; hai là thưa xa tức tịnh sắc v.v...
Tâm cảnh triển chuyển hỗ tương tăng thêm. Nói tịnh sắc, thiện tâm, một phần Vô ký v.v... chẳng phải có chỗ duyên trói buộc là căn cứ Tướng phần thân gần, nên phàn sau luận này nói Thức thứ tám v.v... nói hai phược đoạn là y cứ nghĩa sơ mà nói. Nếu chẳng như vậy liền cùng hai luận trái nhau. Lại xét hòa hợp, đã nói tuy do phiền não dẫn nghiệp bố thí v.v... mà chẳng phải chánh nhân, ngã năng hành bố thí, rõ chỉ tướng phược, chẳng phải Hữu lậu nhân, như đoạn duyên trói buộc. Tuy đoạn Kiến đạo và Thức thứ tám trước Tu đạo, vì chưa toàn tận, chẳng gọi là đoạn. Hữu lậu nên như vậy, như duyên một sắc, năm thức và ý hai chỗ duyên trói buộc và vì Thức thứ bảy cùng lậu chung cùng, nên cần phải đến Kim cương mới có thể đoạn tận. Đây như chỗ đoạn của phẩm đầu Tu đạo tuy cũng là tám phẩm hoặc sau trói buộc, nhưng được gọi là đoạn, vì tự lực mạnh. Hữu lậu cũng vậy, duyên trói buộc tương ưng hai lực, tăng thượng nên nói chưa đoạn, Thức thứ bảy cũng gọi là đoạn. Nếu vậy, tại sao hai Thức trước đã thù thắng, tại sao chẳng làm chánh nhân Hữu lậu mà lấy lậu chung cùng, hoặc lại trói buộc căn cứ hai trói buộc? Hữu lậu căn cứ lậu chung cùng, đoạn y cứ hai trói buộc, nên có thể nói đoạn, chẳng đứng về lậu chung cùng nói đoạn, cũng chẳng trái nhau. Chủng tử Pháp nhĩ từ vô thỉ chẳng từng hiện khởi chung cùng với Thức thứ bảy, tại sao được thành Hữu lậu? Chẳng cần hiện hành cùng hoặc Thức thứ bảy chung cùng mới gọi là Hữu lậu. Hoặc chủng tử hoặc hiện hành từ vô thỉ đều cùng, hoặc Thức thứ bảy chung cùng, hỗ tương tăng ích, cùng tùy thuận vậy, đều thành Hữu lậu, chẳng phải Vô lậu chủng cũng hay tương thuận. Lại nói Pháp nhĩ chẳng cần Thức thứ bảy chung cùng, chẳng phải Pháp nhĩ là hẳn chung cùng tăng ích, nhưng nghĩa của Hữu lậu, Vô lậu trong quyển 65 như quyển 8 sau giải thích.
Tùy cảnh lập danh, y năm sắc căn chưa tự tại v.v..., hỏi: Một cảnh nhiều thức nắm lấy, quả vị chỉ tùy căn, một căn nắm lấy nhiều cảnh, chẳng thể xứng hợp tùy căn ư?
Đáp: Một thức cảnh thành nhiều, chẳng thể xứng hợp tùy cảnh, sở y căn chỉ một, tùy căn lập tên thức, nghĩa này rất khó nên tư duy.
Các căn hỗ dụng có hai thuyết khác nhau. Sư thứ nhất giải thích: thật năng duyên các cảnh, trong đó có hai nghĩa: một nghĩa nói mỗi mỗi thức thể chuyển dụng thành nhiều, chẳng phải chuyển pháp thể, nên chẳng phải thọ v.v... cũng thành tưởng v.v... dụng của thủ chấp ảnh tượng, tất cả không ngăn ngại, chẳng thể vặn hỏi lấy đại chủng làm tạo, vì đây là thể chuyển của nó, như Thức thứ tám duyên năm trần, cũng được tự tại, chẳng thể vặn hỏi hoại căn chẳng hoại cảnh v.v... Nghĩa thứ hai giải thích sợ hoại pháp tướng, chỉ chọn lấy tự cảnh đều là thật cảnh, chỗ chọn lấy cảnh khác đều là giả cảnh, vì dụng của thức rộng lớn chẳng phải được các tự tướng khác. Sợ nhãn nhĩ căn lúc được ba trần, nếu đến năng thủ hoại căn chẳng hoại cảnh nếu chẳng đến năng thủ, hoại cảnh chẳng hoại căn, ngoài ra, ba căn thủ sắc thanh cũng vậy, đều có lỗi này. Sư thứ hai giải thích: mỗi mỗi căn xứ khắp có các căn, mỗi mỗi tự khởi dụng, chẳng phải do một căn được tất cả cảnh, vì dụng của các căn có khắp tất cả nên gọi là hỗ dụng. Nếu không như vậy bèn thành hoại pháp tướng. Tâm vương lẽ ra cũng có tâm sở dụng, mà chọn lấy tướng riêng biệt v.v...
Sở y, kệ tụng ghi: "Năm bốn sáu có hai, bảy tám một câu y, và khai đạo nhân duyên, mỗi mỗi đều tăng hai". Năm, bốn là năm thức mỗi thức có bốn y: một là thuận thủ y, hai là minh liễu y, ba là phần vị ý, bốn là y khởi y. Sáu có hai là ý thức có hai sở y: một là phần vị, hai là y khởi. Bảy tám một là hai Thức thứ bảy và thứ tám mỗi thức có một y. Bảy có một, đó là y khởi. Tám có một đó là phần vị. Câu y là hiển chỗ trên nói rõ thuộc về Câu hữu y. Khai đạo tức là Đẳng vô gián y, nhân duyên tức là chủng tử y và là nói các thức đây lại thêm hai y. Mỗi mỗi đều tăng hai đó là năm thức có sáu, Thức thứ sáu có bốn, Thức thứ bảy và thứ tám mỗi thức có ba, như quyển 4 trước giải thích.
Sở duyên, kệ tụng ghi: "Nhân kiến mỗi tùy ứng, năm ba sáu có hai, sáu mỗi mỗi chẳng định, tự tại thảy phân biệt". Nhân là chọn lựa tự tại vị. Kiến là ở trong nhân chọn lấy Kiến phần trừ Tự chứng phần. Mỗi mỗi là hiển nghĩa riêng biệt. Tùy ứng là hiển thức năng duyên chẳng phải quyết định, tùy chỗ đó ứng thức duyên các pháp. Năm, ba là sắc v.v... năm giới chỗ ba thức duyên. Một là năm thức, hai là Thức thứ sáu, ba là Thức thứ tám. Thức thứ tám thuộc về ý giới. Sáu có hai là đó là nhãn v.v... năm giới, chỗ hai Thức thứ sáu và thứ tám chọn lấy. Ý giới cùng làm thể, thức thứ sáu thứ bảy chọn lấy. Luận Du-già v.v... ghi: "Thức thứ bảy thứ tám thuộc về ý giới". Sáu một là đó là nhãn v.v... sáu thức giới chỉ một ý thức duyên. Thức thứ bảy thứ tám chẳng gọi là ý thức giới. Một chẳng định tức là pháp giới. Nếu chẳng phải chỗ dẫn của lực tha định, thần thông v.v... chỉ ý thức duyên. Nếu là tha dẫn năm thức, Thức thứ tám, thứ sáu chung cùng năng dẫn đó. Trong đó lại có Dị sinh, Nhị thừa, Bồ-tát là sở dẫn, mỗi mỗi có sai biệt. Tự tại phân biệt đó là hoặc Sơ địa hoặc Địa thứ tám, Như Lai vị mỗi vị có sai biệt, mỗi vị là tám thức khác duyên. Thảy phân biệt đó là nếu pháp giới tâm sở trong nhân đều là Tự chứng phần, chứng Tự chứng phần, ở trong bảy tâm giới, xứ xứ thêm bản thân nó và mười tám giới trong quả là chỗ bảy tâm giới và pháp giới biết rõ, như lý nên biết.
Ba nghiệp hóa là, thân hóa có ba:
1. Hiện thần thông hóa, nghĩa là hiện các thứ công xảo v.v... dẹp phục các chúng sinh kiêu mạn, tức là bi, tuệ, bình đẳng vận đạo, như hiện thần thông độ Ca-diếp v.v...
2. Hiện thọ sinh hóa, nghĩa là đến xứ kia thị hiện đồng loại nhưng ở vị tôn quý nhiếp phục tất cả chúng sinh khác loại.
3. Hiện nghiệp quả hóa, nghĩa là thị hiện lãnh thọ bản sự bản sinh các hạnh khó tu, như Tỳ-thấpphạn-đát-la v.v... tất cả bản sinh sự gọi là bản sinh sự, y bản sinh này, các thứ khổ hạnh trước đây tu hành, gọi là hạnh khó tu.
Hoặc ở đời nay nương thân biến hóa, trước tu khổ hạnh, sau xả hạnh kia, ở nơi tu hạnh mới được Bồ-đề, gọi là hạnh khó tu. Như nói Đức Như Lai ở đời Phật Ca-diếp nói lời trách mắng: Sa-môn xứ nào cạo bỏ râu tóc có đại Bồ-đề, Bồ-đề Vô thượng rất khó được, do ác nghiệp ấy, nay chịu quả khổ. Đây là ngăn hành ác hạnh, thị hiện tạo tác để giáo hóa.
Ngữ hóa cũng có ba:
1. Dùng lời tốt đẹp an ủi để giáo hóa, nghĩa là tuyên dương các thứ văn nghĩa khéo hay, tùy vui thích chúng sinh tiểu trí mới nghe sẽ tin.
2. Dùng lời phương tiện để giáo hóa, nghĩa là tập học xứ, hủy phá các phóng dật, tán thán chẳng phóng dật. Lại còn kiến lập tùy người tin hiểu, tùy pháp hạnh v.v...
3. Dùng lời luận bàn xiển dương để giáo hóa, nghĩa là đoạn vô lượng nghi hoặc của chúng sinh.
Ý hóa có bốn:
1. Quyết trạch có hóa, nghĩa là chọn lựa tám vạn bốn ngàn hạnh sai biệt kia, như trong sớ giải thích, trong kinh Hiền Kiếp quyển 2 ghi: "Bồ-tát Hỷ Vương ngồi yên tư duy" v.v...
2. Tạo tác ý hóa, nghĩa là quán hạnh mà chúng sinh hành, hành và chẳng hành, hoặc được hoặc mất, vì khiến thủ xả tạo tác đối trị.
3. Phát khởi ý hóa, nghĩa là vì muốn nói đối trị, hiển bày danh, cú, tự thân mà họ vui thích.
4. Lãnh thọ ý hóa, tức nương vào bốn thọ ký. Bốn thọ ký có hai: một là bốn thọ ký của nhân; hai là bốn thọ ký của pháp, như Biệt sao giải thích.
Từ định khởi, Du-già sao giải thích:
1. Khởi nhĩ thức gọi là khởi.
2. Khởi định tâm cùng Nhĩ thức duyên tiếng gọi là khởi.
3. Xuất định, gọi là khởi.
Khởi đầu nối tiếp vị trước, rộng như kinh luận Phật Địa quyển 6 giải thích.
Bồ-tát khởi năm thức trong Hậu trí cũng đẳng dẫn vị khởi, Tạp Tập nói căn cứ Nhị thừa thiếu, Dị sinh toàn vẹn.
Hằng y tâm khởi v.v... giải thích tâm sở cần đủ ba nghĩa, gọi là tâm sở, không chỗ chọn lựa riêng biệt, ngoài ra như Sớ giải thích.
Tưởng chung riêng của tâm, tâm sở, nên nói Vô vi duyên đồng, Hữu vi duyên riêng. Trong Hữu vi duyên có bản chất duyên riêng, không bản chất cảnh cũng riêng. Tướng là nghĩa, chẳng phải thể chẳng phải tướng.
Từ căn gọi là ý và đó gọi là thọ, mới gọi là tâm thọ. Nay giải thích gọi căn cứ cận y nên gọi là ý thức. Thọ đối nơi sắc nên nêu tên tâm. Nếu lúc chẳng đối, có thể gọi là ý thọ, nhưng không có văn này. Hai Thức thứ bảy, thứ tám đó vì đối thân nên có thể gọi là tâm thọ. Lại, thọ từ tâm tương ưng gọi là tâm. Thức thứ sáu chung cùng theo sở y nên Thức thứ bảy gọi là ý. Tâm thông Thức thứ sáu, bảy, tám.
Năm thức mặc tình tham si là Vô ký, hãy xem trong kinh Duyên Khởi.
Năm thọ chia làm hai, đó là thân và tâm. Văn luận chỉ lấy riêng nghĩa duy để giải thích, như Đối Pháp sao quyển 1 giải thích. Tại sao Thức thứ sáu gọi là thức? Trong ba thọ, tại sao chỉ nói khổ lạc mà không nêu ưu hỷ? Vì khổ đối lạc chung cùng thông ba tánh, vì ưu đối hỷ, lý thì chẳng như vậy, vì rộng nhiếp hẹp chỉ gọi là khổ lạc. Lại, khổ và lạc hành tướng mạnh nhanh, vì sáng nhiếp tối, ưu hỷ chẳng đồng. Lại, khổ và lạc đều là Dị thục, đều có Dị thục. Ưu đó và hỷ chẳng thể đầy đủ. Lại, quả nhân đủ nhiếp chẳng đủ. Lại có giải thích khác: vì khổ đối lạc chung cùng thông sáu thức, vì ưu đối hỷ chỉ tại trong ý. Lại, nói khổ, lạc chán thích hành tăng, ưu hỷ chẳng như vậy, nên nêu khổ lạc. Lại, khổ đối lạc chung cùng thông vô học vì ưu đối hỷ, lìa dục bèn trừ, nên nói khổ lạc. Lại, vì khổ đối lạc chung cùng Địa thượng xả, vì ưa đối hỷ đều Địa hạ trước trừ nên nói là khổ lạc.
Ba thọ chia làm hai, nghĩa là thân và tâm, văn luận chỉ lấy riêng duy để giải thích đó, y năm căn thọ, tùy căn mỗi riêng biệt, do đâu tổng lấy thân thọ làm danh?
Đáp: Do năm căn này thể đều là sắc.
Hỏi: Nếu vậy, nhãn v.v... nên đều gọi là thân chăng? Đáp: Tự thể sinh thức, tướng trạng khác.
Hỏi: Nếu do tướng khác chẳng đều gọi là thân, tùy riêng thọ sinh, nên chẳng phải thân thọ ư?
Đáp: Do nhãn v.v... bốn thứ chẳng lìa thân, đều từ sở y, nên gọi chung là thân thọ.
Hỏi: Ý căn cũng vậy, nếu chẳng lìa thân đều nên gọi là thân chẳng gọi là tâm thọ ư?
Đáp: Hai giới nhãn v.v... đều chẳng lìa thân. Vô sắc, ý căn lìa sắc mà chuyển, làm sao kiến lập thân thọ chẳng phải tâm. Thể tướng đã khác, nên phân hai thứ.
Hỏi: Trong luận những gì chẳng thông tất cả thức thân thì ý địa tất cả căn tương ưng, đã nói là căn, tại sao chứng ý có khổ căn?
Đáp: Trước nói Câu sinh tất cả phiền não đều ở ba thọ hiện hành có thể được, nên biết căn tức là khổ căn. Ưu căn định chẳng phải tánh Vô ký. Lại, nêu ưu căn tuy thông và đều cùng, chỉ có thân kiến thì không như vậy. Nên trong địa ngục ý có khổ căn, mà cùng câu, nên thuộc về năm căn. Ưu tuy không thật chứng, nay dùng lý giải thích nói ưu thông Vô ký, rốt cùng có lỗi gì? Hối ắt ưu chung cùng, nó đã Vô ký, đâu ngại gì định. Luận Du-già nói chẳng phải Vô ký là tùy chuyển lý. Do hai giải thích đây hỗ tương có ngắn dài, mặc tình thủ xả, nghĩa ba tánh ba thọ câu và chẳng câu, xem Du-già sao quyển 51.
Địa ngục tám căn, hiện hành, chủng tử, định chung cùng thành tựu, mạng căn đã là chủng tử, làm sao thành hiện hành?
Đáp: Một tổng nói tám gọi là thành, đâu cần mạng có hiện hành, chủng tử trong thức có thể là mạng thể gọi là chủng. Hiện hành năng làm căn gọi là hiện. Lại, thể là chủng tử, dụng là căn gọi là hiện hành. Lại, năng trì gọi là chủng tử, sở trì gọi là hiện hành.
Hỏi: Tại sao định thứ ba, cận phần, căn bản đồng là lạc căn, trong hai định trước có hỷ có lạc, phương tiện chỉ có hỷ mà không có lạc, chẳng đồng thứ ba, cả hai cùng chung tương tợ ư?
Đáp: Ba định chung cùng rất trùng không phân biệt. Bản, nhân, chung cùng là lạc. Phương tiện thứ nhất và thứ hai không có hỷ căn, chỉ đồng căn bản mà nói có hỷ.
Hỏi: Ba định phương tiện dẫn căn bản, tức là nói hai Địa chung cùng hỷ ưu thắng đồng lạc. Hạ địa phương tiện dẫn căn bản, cũng nên chung cùng gọi là hỷ năm căn?
Đáp: Phương tiện, căn bản, hỷ sai biệt, ba định không khác. Phương tiện, căn bản cùng chung gọi là lạc, phương tiện hạ Địa căn bản có sai biệt, cùng chung có sai biệt đều gọi là hỷ, trong hai định căn bản sau chẳng do vô phân biệt nên gọi là lạc, chỉ vì hỷ căn gọi là lạc.
Hỏi: Lẽ ra định thứ ba chẳng do vô phân biệt, hỷ tâm gọi là hỷ?
Đáp: Dưới có phân biệt hỷ căn gọi là lạc, trên không phân biệt hỷ tâm gọi là lạc, nghĩa này nên tư duy.
Hỏi: Như khổ cùng cực nên ý có khổ căn, căn của địa ngục xoay thọ trong người, như kinh Hiền Ngu quyển 12 ghi: "Ương-quật-ma-la đắc quả A-la-hán trong cõi người rồi bị lửa đốt giết", vậy căn rất khổ ấy có trong cõi người không? Có giải thích trong địa ngục, cõi người chỉ thọ bốn xứ hoặc năm xứ, chẳng thọ quả sáu thức. Mười Chứng trong Duy thức ghi: "Nghiệp quả trong ý, tuy khởi không tạp mà có gián đoạn, tức nói chẳng ở các nẻo khác thọ, theo văn này chỉ xoay thọ quả bốn xứ hoặc năm xứ. Năm căn sáu thức đều chẳng được. Lại giải thích, luận căn cứ chẳng phải sám hối và vào Thánh là thú sinh không tạp, vì từ nhiều phần. Chẳng phải xoay thọ là, nên sáu thức đều có thể thông xoay thọ, vì trong sáu thức đều thọ khổ.
Hỏi: Luận sư Hộ Pháp nói ưu, khổ, chủng tử là đồng hay là khác?
Đáp: Nếu vậy thì chẳng có lỗi.
Hỏi: Nếu nói đồng, tại sao địa ngục khổ căn cũng chẳng gọi là ưu? Nếu khác, tại sao hai định đầu gọi hỷ lạc. Địa ngục ưu khổ chẳng thừa nhận hai tên. Nếu một khổ căn cũng gọi là ưu, ba căn chẳng thành lại là tự hại, thì căn thứ ba tức là ưu căn chẳng thành?
Đáp: Nay chủng tử hai căn ưu khổ nhất định khác, cùng chung hành bức bách, do không phân biệt có phân biệt. Hai căn hỷ lạc, hoặc đồng hoặc khác, như Vô phân biệt trí và hậu sở đắc, Địa thứ tư trở về trước mỗi do chủng riêng sinh. Địa thứ năm trở lên hoặc đồng hoặc khác. Hai chủng tử sinh một hiện hành, một chủng tử sinh hai năng cũng không có lỗi. Bên trong của hiện hành không có hai tuệ, hành chẳng trái nhau, một niệm cùng chung nói, hỷ lạc cũng vậy, nên chẳng đồng ưu khổ.
Hỏi: Luận sư An Tuệ nói ưu khổ chủng tử cũng vậy, tại sao địa ngục ưu căn cũng chẳng gọi là khổ, như hỷ hai định sau? Tại sao khổ cực chẳng gọi là khổ như lạc định thứ ba?
Đáp: Ưu khổ hành tăng, cả hai chẳng chung cùng, hỷ lạc chẳng trái ngược nên một niệm sinh. Hỏi: Tại sao đẳng thuận khác với trái ngược?
Đáp: Khổ cực chẳng phải ý. Trái ngược ở thuận, lạc cực tại tâm, do có phân biệt không phân biệt. Sư đây cho là địa ngục thừa nhận khởi phân biệt phiền não. Sư trước chẳng như vậy. Nghĩa này tư duy, rất khó giải thích.
Thiện v.v... ba tánh, sáu thức là nhân xa khởi, sát-na đều khởi phân biệt. Bốn Vô ký v.v... mấy thứ có ba nghiệp? Dị thục tâm v.v... năng phát nghiệp không? Chẳng phải nghiệp quả tâm định được phát nghiệp và tùy chuyển. Nghiệp quả là tuy chưa thấy văn nhưng lý thật khó, phán các thứ khác là được. Mới đầu khởi khổ lạc thọ đó, như thiện và bất thiện cùng khó vậy, hẳn do tâm nhiễm tịnh dẫn mới tùy Đẳng lưu. Lìa dục khổ căn đã không có ưu dẫn, tại sao mới đầu khởi tánh thiện ác bức vặn hỏi. Mới đầu sinh tánh tùy ý, khổ lạc chẳng phải tánh riêng biệt, xả dẫn tức tùy sinh.
Giải thích trong dục, sư thứ nhất nói có thể nhàm chán sự tức không có dục. Vô lậu tâm đó có lúc không có dục. Vô lậu thứ bảy duyên nhân thứ tám cũng nên không có dục. Lý đây chẳng phải trái ngược. Sư thứ hai cho rằng nếu có cầu mong tư cụ, những vật mong muốn như lúa thóc v.v... há không có dục ư? Nên đều chẳng đúng.
---------------------------------
Nhẫn, lạc, dục riêng biệt trong tín, ở trong ba cảnh, tùy nghĩa tăng nói. Hai loại sau chỉ là thiện, cũng chỉ là lạc dục làm tên, loại trước thông nhiễm tịnh, nên nêu tên nhẫn, kỳ thật ở Diệt đạo cũng lạc dục vậy, ở hai loại sau cũng có thể có nhẫn. Trong hữu năng, nghĩa là ở tất cả thiện thế gian và xuất thế gian, tin sâu có lực năng được năng thành. Đối Pháp chỉ nói, nghĩa là ngã có lực năng được năng thành. Nếu theo giải thích đây, tin hai thiện đó tức được Vô vi năng thành giác giả, tức tin thật có, tin có dụng. Hoặc tin đức nhiếp, nhiếp trong pháp. Nay lại giải thích tin hai thiện đây năng đắc Niếtbàn, năng thành Đại giác v.v... là tin có năng, có công năng.
Mặc giáp gia hạnh v.v... luận đã tự giải thích. Có thế lực v.v... không có văn giải thích. Thế nghĩa là uy thế, cần nghĩa là sách tấn. Dõng nghĩa là dõng mãnh. Kiên mãnh nghĩa là tiến vững chắc. Chẳng xả thiện ách nghĩa là trọn chẳng lùi chẳng ngừng. Thiện pháp lập ít, nhiễm pháp lập nhiều là nhiễm pháp từng huân thời gian dài, pháp rộng nên nói nhiều về nó. Thiện pháp khởi thiếu thời ngắn, pháp lược nên ít nói. Nếu tại Phật vị, do nhân rộng nên quả thiện vô biên, muốn khiến người nghe hoan hỷ mong cầu, do đó nói nhiều.
Trong thiện pháp tu đoạn và chẳng đoạn, nên thuật sáu mươi lăm nghĩa của duyên phược, và năm mươi chín nghĩa của hai đoạn, đến quyển 8 sau sẽ rộng phân biệt. Oai nghi, công xảo, biến hóa đã thông thiện tánh, trong thiện đủ bao nhiêu, mỗi mỗi nên tư duy.
Hai mươi câu trong Tát-ca-da-kiến trong quyển 65 chuẩn cứ chấp ngã trước, lược có ba thứ: một là tức uẩn, hai là lìa uẩn, ba là cùng uẩn chẳng tức chẳng lìa. Câu này chỉ là mới đầu tức uẩn chấp, không có hi chấp sau. Lìa uẩn tổng nói mà làm một ngã. Uẩn riêng có ba, như vậy ngã sở có mười lăm câu. Đã nói cùng uẩn chẳng tức chẳng lìa, chẳng thể định nói uẩn là ngã sở, nên không có câu.
Nhưng theo Du-già quyển 6 và 64, lìa uẩn có ba:
1. Dị uẩn trụ tại trong uẩn.
2. Dị uẩn trụ trong pháp lìa uẩn.
3. Dị uẩn chẳng phải trụ trong uẩn, chẳng phải trong dị uẩn.
Tất cả uẩn pháp đều chẳng tương ưng. Như vậy ba thứ đều có mười lăm ngã sở, hợp thành bốn mươi lăm câu ngã sở và ngã tổng có bốn mươi tám câu. Nói tướng sở hành, mỗi loại có khởi, xứ, duyên, đó là duyên lịch, y khởi, sở duyên ba nghĩa đều được, nếu duyên xứ là chẳng phải phân biệt xứ, lại có bốn mươi tám, nếu phân biệt là một xứ có ba mươi ba ngã sở, một ngã, hợp thành ba mươi bốn, mười hai lần ba mươi bốn, hợp thành bốn trăm lẻ tám, mươi hai ngã kiến, ba trăm chín mươi sáu ngã sở kiến, mười tám giới v.v... theo đó mà biết.
Du-già quyển 8 nói có bảy đảo, đó là: Tưởng đảo, kiến đảo, tâm đảo và tịnh, ngã, lạc thường. Bốn vọng tưởng phân biệt kia là tưởng đảo. Ở trong sở vọng tưởng phân biệt kia thì nhẫn, dục lạc, kiến lập, chấp trước là kiến đảo. Phiền não ở sở chấp trước tham v.v... gọi là tâm đảo. Phiền não có ba:
1. Đảo căn bản, nghĩa là vô minh.
2. Đảo tự tánh, nghĩa là Tát-ca-da-kiến, một phần biên chấp kiến, kiến, giới thủ và tham.
3. Đảo Đẳng lưu, nghĩa là tà kiến và một phần biến chấp kiến, khuể, mạn và nghi.
Tát-ca-da-kiến là vô ngã ngã đảo. Một phần biên kiến là vô thường thường đảo, kiến thủ là bất tịnh tịnh đảo, giới thủ là ở khổ lạc đảo, tham thông cả hai thứ, vì thông hai đảo tịnh và lạc, như sớ giải thích.
Lại giải thích tùy thuận môn nên thuộc về hai thủ, chẳng nói kiến giới có sở y duyên và hai nghĩa chẳng đủ, chẳng phải thuộc hai thủ. Nếu đơn duyên kiến và câu duyên đồng thời năm uẩn và bạn loại trước sau làm thắng, năng tịnh là kiến thủ. Nếu đơn duyên câu đồng thời và năm uẩn trước sau cùng tất cả pháp làm thắng, năng tịnh, hoặc thắng chẳng phải tịnh, hoặc năng tịnh chẳng phải thắng đều duyên kiến và câu duyên đồng thời năm uẩn làm thắng chẳng phải năng tịnh, làm năng tịnh chẳng phải thắng, đều chẳng phải kiến thủ, giới thủ cũng vậy. Nếu duyên kiến tăng tùy thuận giới kém cũng gọi là kiến thủ, giới tăng tùy thuận kiến kém cũng gọi là giới thủ, nếu duyên hai câu tăng, hành tướng cũng câu tăng là hẳn chẳng phải hai thủ, vì hai thủ chẳng tương ưng, chỉ là pháp chấp nhiễm tuệ, chẳng phải thuộc hai kiến. Hai kiến nhiếp là hẳn tìm cầu sâu, hành tướng riêng thù thắng. Chẳng làm giải thích như trước v.v... bèn trái với đây và văn Du-già. Hai nghĩa chẳng đủ, giả sử hai nghĩa đủ, chẳng phải kiến giới là chẳng phải gọi sở mục, nên chẳng phải hai thủ.
Ba đường ác cực khổ xứ, chẳng tạo qua nghiệp đường ác, không phân biệt hoặc. Có thể tạo nghiệp người trời ư?
Đáp: Chẳng chướng ngại, chỉ nói không phân biệt phiền não, chẳng nói không nghiệp trời người. Nếu tự chẳng khởi, chẳng cùng vô minh, làm sao tạo nghiệp trời người? Nên cũng chẳng tạo. Đây luận tổng báo, biệt báo có thể tạo, thiện ác cùng chung được.
Sinh tại địa ngục, khởi bao nhiêu phiền não Vô sắc giới? Chỉ khởi ở sáu hoặc bảy, nghĩa là kiến thủ, mạn, nghi, ái, si và ngã kiến. Hoặc định hoặc sinh chẳng qua đây. Lại có thể khởi giới thủ kia, vì chấp định kia là nhân thù thắng, không khởi tà kiến và biên kiến, văn không đồng Sắc giới có ba mươi hai kiến. Sinh Dục giới khởi Sắc giới định có năm là thân, biên, mạn, ái, nghi, hai thủ trong tán tâm, chẳng biến khởi tướng của tà kiến. Cả hai luận không có nhân cũng là định sau khởi tà kiến kia, chín loại đều chấp nhận khởi, và khởi giới thủ, vì chấp định kia là nhân thù thắng, nhưng không có văn nói sinh Vô sắc giới trừ hạ nhuận sinh ngã, tham, mạn, hai kiến, si, ngoài ra lại chẳng được khởi. Luận kia không có Trung hữu, có thể nói khởi báng v.v.... Sinh Vô sắc giới chỉ khởi hạ Câu sinh, không khởi tướng phân biệt, không có Trung hữu khởi báng.
Đầu quyển 62 nói năm thứ ái duyên thượng, nghĩa là hoặc chứng đắc Đẳng chí, kế chấp làm thanh tịnh, khả hân, khả lạc, khả ái, khả ý, tùy niệm ái vị. Hoặc chưa chứng đắc, hoặc đã chứng đắc, vì sức vị lai ái vị tăng thượng, tấn cầu hân lạc mà sinh ái vị. Hoặc đã chứng đắc tính chấp làm thanh tịnh, khả hân, cho đến rộng nói hiện hành ái vị. Nếu từ định ra có thể sinh ái vị. Nếu chánh tại định không có ái vị. Ái vị là ở trong đó sinh khắp tham trước, văn sau nói hai thứ, nghĩa là chưa đắc định là có nhiễm ô, đó là mong thượng sinh, sinh ái trước sâu. Chẳng nhiễm ô ái duyên thượng định, đó là mới cầu lìa dục sinh, rộng như quyển 62 giải thích.
Ngã kiến duyên riêng chẳng duyên Địa khác là Tu đạo ngã kiến có hai hành tướng: một là duyên chung được Địa khác, hai là duyên riêng chẳng được.
Kiến đoạn ngã kiến cũng có hai loại: một, kiến là tha ngã thì được; hai, kế chấp là tự nội ngã tức chẳng được. Nay nói chẳng được, tùy nghĩa nên biết.
Hoặc không phân biệt ngã kiến duyên địa khác là Phạm vương đều tức định ngã kiến. Trong trên dưới duyên nhau, Địa dưới duyên Địa trên, hai cõi đều đồng, không có văn ngăn ngại. Trong trên duyên dưới, trong Vô sắc giới không duyên riêng mạn, duyên chung cũng có mạn. Ngoài ra, như trước đều có kiến, giới hai thủ lý nhất định chẳng được, trừ duyên chung hành tướng không có thể riêng.
Tham sân si Câu sinh cùng ba thọ đồng thời, Du-già quyển 55 ghi: "Câu sinh thông tất cả thức thân, là tương ưng với tất cả căn. Phân biệt đó là luận Du-già nói tham trái duyên với ưu khổ đồng thời, sân gặp cảnh thuận hỷ lạc đồng thời. Nay văn đây thông tất cả, chẳng ngăn ngại Câu sinh phân biệt, cả hai dẫn đều đồng, rộng như luận đó giải thích.
Mạn có hai thứ: một cao cử, hai ty hạ. Cao cử có ba: một là xứng lượng, hai là giải thích liễu, ba là lợi dưỡng. Vì ty hạ mạn cùng ưu tương ưng, cao cử chẳng như vậy, nên chỗ trước nói chẳng cùng Thân thức và một phần A-lại-da đồng thời, đây cùng ưu đồng thời, căn cứ ty hạ nói cũng chẳng trái nhau.
Chánh nghĩa, như địa ngục không có phân biệt phiền não, lẽ ra không có sức nhân đoạn thiện là lúc chết tiếp tục v.v... Giải thích la thế lực chẳng sinh, vì chẳng phải nhân tà kiến. Quyển 59 ghi: "Đối với lợi dưỡng v.v... tha dẫn do dự nghi cùng ưu tương ưng, đối với đường ác v.v... tha dẫn do dự hỷ căn tương ưng, tà kiến trước làm diệu hạnh, ưu căn tương ưng, trước làm ác hạnh, hỷ căn tương ưng, hai thủ tùy cảnh nên bốn thọ đồng thời. Trong quyển 59 chỉ y cứ nghi, tà kiến v.v... ở Dục giới mà nói, đây thông tất cả Địa, nên tương ưng với lạc.
Cần phải được căn bản định phiền não mới khởi, hữu y chưa đến đoạn Dục chín phẩm rồi, chẳng được căn bản mạng chung, người này tại sao hiện hành nhuận sinh? Có giải thích không có điều này, hẳn được mới mạng chung. Như Thức thứ bảy sinh Dự lưu không có mạng chung. Chẳng được ứng quả là tâm được căn bản định mới mạng chung. Có giải thích cũng có như vậy, chỉ vì tùy miên nhuận sinh, như Kiến đế do tùy miên, vì cũng có hiện hành nhuận. Đây lẽ ra cũng như vậy, phục tu chẳng phục kiến, Kiến hoặc đã bất thiện, sao chẳng chiêu cảm đường ác mà sinh cõi trên ư? Nếu do thế lực chẳng hiện hành, sao chẳng gọi là phục? Nay lấy nghĩa giải thích, do thế chẳng hiện hành, chẳng khéo phát nghiệp, giả sử có là nhẹ chẳng phải nặng, chẳng phải quyết định nghiệp, chẳng chiêu cảm Dục giới sinh. Nếu chánh chỗ sáu hành nhàm chán, vì gọi là phục, nếu không như vậy bèn thoái lùi, vì phiền não mạnh, định thế lực kém yếu. Vì không có bạn tu, yếu nên chẳng có thể.
Tất cả hữu sự vô sự phiền não chẳng qua ba thứ:
1. Chỗ các kiến duyên vốn là vô sự, ngoài ra là hữu sự. Nhân đây, hành tướng kiến vốn không có quyết định. Ngoài ra, chẳng nhất định như vậy, như Đối Pháp quyển 7 giải thích.
2. Hành tướng mê sâu vô ngã, gọi là duyên vô sự, ngoài ra gọi là hữu sự. Chỗ gọi là hành tướng cảnh sâu, vì ắt hẳn mê vô ngã, ngoài ra hẳn chẳng nhất định. Quyển 59 ghi: "Kiến, mạn gọi là vô sự. Tham, khuể gọi là hữu sự. Vô minh, nghi thông cả hai thứ". Đối Pháp quyển 5 đồng giải thích như đây.
3. Chỗ Kiến đạo duyên gọi là duyên vô sự, tu gọi là hữu sự, Kiến đạo các hoặc phân biệt mạnh nhanh vì nhiều hoành chấp, Tu đạo ít. Du-già ghi: "Kiến sở đoạn gọi là duyên vô sự, ngoài ra gọi là hữu sự, trừ duyên hiện tại, Vô vi là pháp hữu thể". Duyên quá khứ, vị lai các thứ gương ảnh v.v... gọi là duyên gọi là duyên vô sự. Ngoài ra các thứ khác, gọi là duyên hữu sự, vì vốn cảnh có. Đối Pháp ghi: "Chẳng phải có sở duyên, đó là tâm điên đảo, tâm sở và duyên quá khứ vị lai v.v... ngoài ra gọi là duyên hữu sự, bản chất hoặc không, gọi là duyên vô sự, ngoài ra hẳn có, gọi là duyên hữu sự". Quyển 59 ghi: "Duyên vô sự nghĩa là vô sự phiền não, duyên hữu sự nghĩa là hữu sự phiền não", cùng Duy thức đồng. Nay quán nghĩa đây, môn thứ nhất và thứ hai gồm:
1. Bản thể có gọi là hữu sự.
2. Không có thể dụng trong không có chất ảnh tượng gọi là vô sự, trong ảnh tượng có quyết định chấp gọi là vô sự. Chỉ năm kiến, chẳng nhất định gọi là hữu sự. Si, ái, mạn tuy cũng có chấp, vì chẳng quyết định. Hai chấp gọi là vô sự, hai chẳng chấp gọi là duyên hữu sự, nên kiến, mạn, ái v.v... đây gọi là vô sự. Ngoài ra gọi là hữu sự.
3. Tương thuộc Kiến đạo gọi là vô sự, Tu đạo gọi là hữu sự, tùy các văn trước căn cứ thật có hai môn hữu sự vô sự tức hết. Một là bản chất, ảnh tượng. Hai là bên trong ảnh tượng có thể không thể, như duyên quá khứ, vị lai v.v... gọi là vô sự. Hiện tại pháp hữu thể và Vô vi gọi là duyên hữu sự. Nhưng trong nghĩa lại phân riêng ba thứ:
1. Quyết định, chẳng quyết định.
2. Chấp, chẳng chấp.
3. Tương thuộc kiến, pháp Tu đạo, tức ba lớp trước trong năm lớp.
Như Đại Luận quyển 11, trong năm Cái, nói hai tướng riêng hôn trầm, thùy miên rất rõ ràng.
Trong Tùy phiền não, siểm, cuống, phú v.v... si phần là cũng chẳng phải sân đồng thời, y cứ nhiều tướng thô mà nói, căn cứ thật cũng đồng thời, như sân nên dối cuống tha dẫn siểm, che giấu tội mình là lý cũng nên như vậy, tướng tế ẩn nên luận lược không nói, ngoài ra giải thích như sớ.
Trong Tùy phiền não, phẫn v.v... tùy sở y, duyên chung riêng hoặc lực đều thông bốn bộ. Hữu y ít Đế duyên nhiều Đế, hữu y nhiều Đế duyên ít Đế, hữu y nhiều duyên nhiều, hữu y ít duyên ít. Hai hành tướng sau có thể biết, hai trước là Đế hoặc nào? Là từ sở y phán phân
Đế, là từ sở duyên, đều bất định. Do đây nên nói, sở duyên tức sở y, duyên nghĩa là duyên nhờ, chẳng phải cảnh sở duyên, vì cảnh chẳng định. Có nghĩa sở y tức cảnh sở duyên, vì cảnh sở duyên làm sở y nương tựa, y từ sở duyên phán phân Đế, vì y bất định. Có nghĩa y và duyên riêng biệt, như trong sớ giải thích. Hai câu đầu thế nào? Có giải thích hẳn không có điều này. Có giải thích tùy tăng thuộc Đế, y tăng duyên kém, thân gần dẫn nên thuộc y, duyên tăng y kém thuộc duyên, vì dẫn thưa xa.
Các bản tùy hoặc, bao nhiêu Dị thục sinh, thông oai nghi công xảo? Che giấu tội mình là phú, che giấu kẻ khác là phú là không đúng. Tỳ-kheo ni này che giấu tội thô kẻ khác cũng gọi là phú, Bồ-tát nói tội kẻ khác là tội là phước, ưu não Câu sinh thế lực phục có thể trừ. Thiện và phân biệt phiền não, thế gian lìa dục, tâm nào là của ông? Nên ác tâm đều là phú. Trong đây tạm nói tự che giấu, không có ác tâm đều là thiện, nghĩa là tánh chẳng thực hành sức của thế lực.
Y đối với tầm tứ có nhiễm và lìa nhiễm, lập ba Địa riêng biệt. Chẳng y chủng tử hiện hành kia khởi có không, nghĩa là Du-già Thích Lược có ba giải thích, nghĩa là có ba Địa căn cứ hai tương ưng trước sau kiến lập, nghĩa là cõi Dục địa và Sơ tĩnh lự thô tâm, tâm sở, trước sau tương tục có thể có tầm tứ cùng tương ưng, gọi là Hữu tầm hữu tứ địa. Thô tâm, tâm sở khoảng giữa tĩnh lự trước sau tương tục, định không có tầm, chỉ có thể có tứ cùng tương ưng, gọi là Vô tầm duy tứ địa. Thứ hai, các tâm tâm sở của các Địa từ Tĩnh lự trở lên, trước sau tương tục quyết định chẳng cùng tầm tứ tương ưng, gọi là Vô tầm vô tứ địa. Nếu cõi Dục địa và Sơ tĩnh lự, tế tâm tâm sở khoảng giữa tĩnh lự chẳng cùng tầm tứ cùng tương ưng là, tất cả sắc chẳng tương ưng hành, các pháp Vô vi chẳng cùng tầm tứ cùng tương ưng, cũng đều gọi là Vô tầm vô tứ địa, nên luận sau ghi: "Hữu tầm hữu tứ địa, Vô tầm duy tứ địa, thuần là có tâm địa, không có tâm thùy miên, không có tâm muộn tuyệt, vô tưởng định, vô tưởng sinh, diệt tận định, và vô dư y Niết-bàn giới, đều gọi là Vô tâm địa. Có nghĩa ba loại này căn cứ hai lìa dục phần nương kiến lập, nghĩa là cõi Dục địa, và Sơ tĩnh lự, các pháp giả là đối với tầm và tứ đều chưa lìa dục, gọi là Hữu tầm hữu tứ địa. Các pháp giả khoảng giữa tĩnh lự là tầm đã lìa dục, tứ chưa lìa dục, gọi là Vô tầm duy tứ địa.
Thứ hai, các pháp giả của các Địa từ Tĩnh lự trở lên là ở tầm và tứ đều đã lìa dục, gọi là Vô tầm vô tứ địa, nếu tại hạ Địa và đã lìa dục cũng được gọi là Vô tầm vô tứ địa. Nên Du-già quyển 4 ghi: "Trong đây do lìa tầm tứ dục gọi là Vô tầm vô tứ địa, chẳng do chẳng hiện hành". Tại sao như vậy? Chưa lìa dục của cõi Dục là do giáo dẫn tác ý sai biệt, ở một thời gian cũng có Vô tầm vô tứ ý hiện hành. Đã lìa tầm tứ dục là cũng có tầm tứ hiện hành, như xuất định kia và sinh địa kia. Như thật nghĩa là ba loại này chỉ căn cứ giới địa kiến lập, nghĩa là cõi Dục địa và Sơ tĩnh lự, các pháp Hữu lậu Vô lậu, ở trong tầm tứ chung cùng có thể được nên gọi là Địa thứ nhất. Các pháp Hữu lậu Vô lậu khoảng giữa tĩnh lự, ở trong không có tầm chỉ có tứ nên gọi là Địa thứ hai. Tĩnh lự thứ hai trở đi, các pháp Hữu lậu Vô lậu của các Địa, ở trong tầm tứ chung cùng không có nên gọi là Địa thứ ba. Nên Du-già quyển 4 ghi: "Trong đây, cõi Dục và Sơ tĩnh lự, hoặc định hoặc sinh, gọi là Hữu tầm hữu tứ địa. Hoặc định hoặc sinh khoảng giữa tĩnh lự, gọi là Vô tầm duy tứ địa". Tĩnh lự thứ hai trở đi, cõi Sắc cõi Vô sắc hoàn toàn gọi là Vô tầm vô tứ địa. Vô lậu, Hữu vi, Sơ tĩnh lự định cũng gọi là Hữu tầm hữu tứ địa. Y tầm tứ xứ pháp duyên Chân như làm cảnh vào định này, chẳng do phân biệt hiện hành, ngoài ra như trước nói. Nếu căn cứ tương ưng và lìa dục kiến lập ba Địa, nhiếp pháp chẳng tận, cũng rất tạp loạn, tuy nói có tầm có tứ v.v... các Địa chỉ là có tâm. Đây căn cứ một môn thô tướng để biện Địa, ở trong môn này chỉ nói Vô tầm vô tứ địa từ Tĩnh lự thứ hai trở lên. Vô tưởng định, vô tưởng sinh, diệt tận định gọi là Vô tâm địa. Ngoài ra, tất cả vị, gọi là Hữu tâm địa. Sau có bốn môn đồng dị kiến lập, phần sau sẽ giải thích. Tuy nói trong đây do lìa tầm tứ dục nên gọi là Vô tầm vô tứ địa, nhưng chỉ nói các Địa từ Tĩnh lự thứ hai trở lên hẳn định đã lìa tầm tứ dục. Chẳng nói đã lìa tầm tứ dục là các pháp của Địa dưới, cũng được gọi là Vô tầm vô tứ. Nếu như vậy là chưa lìa tầm tứ dục của Địa dưới là các pháp của Địa trên lẽ ra cũng gọi là Hữu tầm tứ v.v... Kiến lập như vậy thành rất tạp loạn. Cho nên cả ba loại này chỉ căn cứ trên dưới của giới địa mà kiến lập. Nay quán ý đây, y nhiễm, lìa nhiễm chẳng phải giải thích Hữu tầm hữu tứ, Vô tầm duy tứ địa. Chỉ giải thích Vô tầm vô tứ địa, thì văn luận đây chẳng phải tận lý, đâu thể y có nhiễm không nhiễm lập ba Địa riêng biệt. Thân tại cõi dưới thành ba Địa nhiễm nên gọi là ba Địa, đã tùy chỗ lìa nên chẳng phải Địa kia.
Nay nên hỏi: Sư thứ ba giải thích, giới địa do đâu được thành sai biệt? Do có địa pháp thô tế khác nhau, thô tế khác nhau đó làm sao được thành, hẳn y có nhiễm trói buộc pháp riêng biệt. Vô lậu lìa nhiễm y địa pháp đây cũng khác. Đã đoạn là có nhiễm chủng loại đây, nên thuộc về Địa kia. Nói có nhiễm là có hiện hành nhiễm, nên thân tại cõi dưới tuy thành ba cõi, chủng tử có nhiễm chẳng gọi là ba Địa. Nói lìa nhiễm là căn cứ nghĩa sinh cõi trên tức chẳng phải hàng Địa tiền, chẳng nói đã lìa nhiễm đây tức chẳng phải Địa đây vậy, chỉ nhận biết văn chánh, chẳng đồng Du-già. Du-già chỉ y Tĩnh lự thứ hai trở lên làm dụ, như sư thứ ba trước tổng hợp.
Lại giải thích, trong đây nói có nhiễm là có hiện hành nhiễm kia. Lìa nhiễm là tức Vô lậu v.v... tùy chỗ lìa nhiễm Địa, tức Địa của có nhiễm trước, nay lìa nên nói gọi là lìa nhiễm, tùy hai thứ có nhiễm lìa nhiễm đây có khác, địa giới pháp khác, đều ứng chỗ ứng hai thứ đều là chỗ Địa kia nhiếp. Chẳng nói có nhiễm là Địa kia lìa nhiễm tức chẳng phải, nên văn không ngăn ngại, chẳng đồng Du-già. Dugià chỉ nói Địa thứ ba, do đây chân trí cũng thuộc ba Địa, y tầm tứ xứ pháp duyên Chân như làm cảnh vào định đây, chẳng do phân biệt hiện hành, vì các tánh Vô lậu lìa nhiễm pháp, y tha pháp kia, vẫn còn tức Địa kia, huống gì đã lìa nhiễm. Ba địa Hữu lậu pháp mà chẳng phải ba Địa, nên nghĩa văn chánh, chẳng phải như vậy thì nghĩa chẳng đúng.
Quyển 56 ghi: Hỏi: Sinh ở Định thứ hai, hoặc sinh Địa thượng, nếu có tầm có tứ, nhãn thức v.v... hiện tại trước, tại sao Địa đây Vô tầm vô tứ? Nếu chẳng hiện trước tại sao ở đó các căn có sắc mà khéo lãnh thọ cảnh giới Địa kia?
Đáp: Do có tầm có tứ chủng tử các thức, vì tùy theo Vô tầm vô tứ Tam-ma-địa, theo kia khởi rồi đây được hiện hành, cho đến rộng nói.
Ba, bảy khác nhau, nay dùng mười môn phân biệt:
1. Nêu thể.
2. Hành tướng.
3. Giải thích tên gọi 4. Phế lập.
5. Chỗ tám thức nhiếp.
6. Hữu lậu Vô lậu.
7. Chỗ ba đời duyên.
8. Cùng mười tán động mười phân biệt nhiếp nhau.
9. Đoạn vị.
10. Hỏi đáp phân biệt. Kệ tụng gốc ngọn tầm tứ:
"Thể, cảnh, hạnh, thảy khởi Sai biệt và quyết trạch Hành, xúc, dẫn, tương ưng Cầu nghiệp là lưu chuyển".
Du-già quyển 5 nói, tầm tứ dùng bảy môn phân biệt:
1. Thể tánh.
2. Sở duyên.
3. Hành tướng.
4. Đẳng khởi.
5. Sai biệt.
6. Quyết trạch.
7. Lưu chuyển.
Thể tánh là chẳng tầm đạt tư duy sâu làm thể tánh, nếu tầm đạt tuệ sâu làm thể tánh.
Sở duyên là dùng nghĩa danh, cú, văn thân làm sở duyên.
Hành tướng là tầm cầu hành là tầm, quán xét hành là tứ.
a. Đẳng khởi là nghĩa là mở lời ngôn thuyết.
b. Sai biệt là đó là bảy phân biệt.
Quyết trạch là nếu tầm tứ tức phân biệt tà v.v... nếu tầm tứ đều phân biệt, có phân biệt chẳng phải tầm tứ, nghĩa là mong đạo xuất thế, ngoài ra tất cả pháp tâm và tâm sở trong ba cõi. g. Lưu chuyển là xứ của năm đường đều là sáu vặn hỏi, như Na-lạc-ca tầm, tứ hành những gì, thuộc chỗ nào, dẫn chỗ nào, tương ưng gì, chỗ nào cầu, nghiệp nào chuyển, cho đến sơ tĩnh lự tầm tứ là hỏi cũng vậy.
Vả lại, giải thích hành chuyển trong địa ngục, xúc chẳng phải cảnh ái, dẫn phát ở khổ, cùng ưu tương ưng, thường cầu giải thoát, nhiễu tâm nghiệp chuyển, chỉ thuần thọ khổ, ngạ quỷ cũng vậy. Bàng sinh, cõi người, ngạ quỷ sức lớn, nhiều phần thích hành, ít phần hân hành, nhiều xúc chẳng phải ái, ít xúc cảnh ái, nhiều phần dẫn khổ, ít phần dẫn lạc, tương ưng ưu nhiều, tương ưng hỷ ít, nhiều phần cầu thoát khổ, ít phần cầu gặp lạc. Nhiễu tâm nghiệp chuyển, các trời cõi Dục tầm tứ, nhiều phần hân hành, ít phần thích hành, nhiều xúc khả ái, ít xúc chẳng phải ái, nhiều dẫn lạc, ít dẫn khổ, tương ưng hỷ nhiều, tương ưng ưu ít, nhiều phần cầu gặp lạc, ít phần cầu thoát khổ. Nhiễu tâm nghiệp chuyển, Sơ tĩnh lự địa chỉ thuần hân hành, chỉ thuần xúc cảnh khả ái, chỉ thuần dẫn lạc, chỉ thuần hỷ câu, chỉ cầu chẳng lìa lạc, chẳng nhiễu tâm nghiệp chuyển.
Mười lăm nghiệp bất cộng, kệ tụng ghi:
"Phân biệt, thẩm sở duyên Túy, cuồng, mộng, giác, muộn Tỉnh, phát nghiệp, lìa dục Thoái, đoạn, tục, sinh, tử".
Du-già quyển 1 nói ý thức có mười lăm thứ nghiệp Bất cộng:
1. Phân biệt sở duyên, tức bảy phân biệt.
2. Thẩm lự sở duyên, nghĩa là như lý, chẳng như lý và câu phi sở dẫn.
3. Túy.
4. Cuồng.
5. Mộng.
6. Giác.
7. Muộn.
8. Tỉnh.
9. Năng phát thân ngữ nghiệp.
10. Lìa dục.
11. Lìa dục thoái lùi.
12. Đoạn thiện.
13. Nối tiếp thiện.
14. Sinh.
15. Tử.
Kinh Pháp Hoa quyển 2 ghi: "Xá-lợi-phất thưa: "Nhưng nay từ Phật nghe pháp chưa từng nghe, chưa từng có, dứt các nghi hối". Kệ tụng kia lại ghi:
"Ta đã được lậu tận Nghe cũng trừ ưu não".
Nghi hối tức ố tác, tức là nhàm chán, tuệ chung cùng không tham, nghi tức sự nghi, nghi chẳng làm Phật. Ưu tức là hối, vì hối ác trước, hối tức là nghi.
Trong đây, chánh tư duy nếu thể là tầm thông Vô lậu thì tại sao quyển 57 nói năm căn trong hai mươi lăm căn chẳng nhiếp sáu pháp trong ba mươi bảy pháp, đó là ngữ, nghiệp, mạng, hỷ, an, xả, nên chánh tư duy riêng tức tuệ căn. Sư đây dùng nhân quả luận chung nên thể tức là tuệ. Sư trước đây có thể đúng, nên tầm chẳng phải Vô lậu, lấy tên tầm mà nói, như ba cõi vui thích gọi là lạc. Du-già quyển 4 ghi: "Nếu Vô lậu giới Hữu vi định sở nhiếp Sơ tĩnh lự cũng gọi là Hữu tầm hữu tứ, y tầm tứ xứ pháp duyên Chân như làm cảnh mà vào định này, chẳng do phân biệt hiện hành". Nên biết tầm tứ dẫn Vô lậu, trong Vô lậu dẫn hai giải thích đều được. Nếu nói tầm tứ hẳn là phân biệt, mà chẳng nhất định nói chỉ thuộc loại thứ ba nên thông Vô lậu, sao chẳng đối phân biệt, bốn câu phân biệt? Vì hỗ tương có rộng hẹp. Hối lìa dục xả là, kinh Pháp Hoa quyển 2 ghi: "Xá-lợi-phất thưa: "Con từ xưa lại trọn ngày liền đêm thường tự trách mình mà nay từ Phật nghe pháp chưa từng có, chưa từng nghe, dứt các nghi hối". Hối là pháp nghi hối, chẳng phải phiền não.
Quyển 56 ghi: "Thân hành có ba, nghĩa là hơi thở ra vào và thân nghiệp. Ngữ hành cũng có ba, nghĩa là tầm tứ và ngữ nghiệp. Chánh tư duy cùng ngữ làm nhân, tầm thông Vô lậu". Quyển 57 ghi: "Năm căn chẳng nhiếp sáu ngữ, nghiệp, mạng, hỷ, an, xả trong ba mươi bảy phẩm, chẳng nói chẳng nhiếp chánh tư duy tức là tuệ". Đây nói vì sao thông? Du-già quyển 56 ghi: "Thân hành có ba, đó là hơi thở ra vào và thân nghiệp. Ngữ hành cũng có ba, đó là tầm, tư và ngữ nghiệp. Ý hành cũng có ba, đó là thọ, tưởng và ý nghiệp", nên Phật không có tầm tứ, thì đâu ngại ngữ chuyển, vì nghiệp chẳng phải không có. Trong Đệ tứ thiền, hai hơi thở đã không có, thân nó được trụ. Hai định xứ nên không có tầm tứ và ngữ nghiệp nên ngữ lẽ ra cũng chuyển. Biến chẳng phải biến hành, như trước đã nói, thân nghiệp chỉ nhiễm chẳng thể làm so sánh. Lại, luận nêu thân nghiệp nhiễm, luận thật cũng có thiện pháp Vô lậu, nếu không như vậy thân và ngữ của Phật làm sao được chuyển? Nên dùng nghiệp tư làm chuyển, vì thường vào Định thứ tư.
Tâm sở câu sinh, kệ tụng ghi:
"Năm pháp năm câu khởi
Chín pháp hẳn sáu câu
Chín pháp hẳn mười bốn
Hai mươi mốt mười lăm
Ba pháp khởi mười sáu
Tám pháp mười bảy câu
Là tâm sở tương ưng
Tuệ cần nên tư duy".
Du-già quyển 57 ghi: "Trong hai mươi hai căn, hỏi: Thế Tôn y căn xứ nào nói lời như vậy, viễn hành và độc hành, không có thân ngủ nơi hang? Đáp: Y ý căn xứ, do ở khoảng trước thời vô thỉ, duyên khắp tất cả cảnh sở tri gọi là viễn hành. Các tâm tương tục mỗi mỗi chuyển vậy, vì không có chủ tể gọi là độc hành. Không sắc không kiến cũng không có đối gọi là không thân". Y chỉ sắc nên gọi là ngủ nơi hang. Nhiếp luận quyển 4 ghi: "Dạo khắp tất cả cảnh được biết nên gọi là viễn hành", là chứng nghĩa đây. Lại nói độc hành, vì không có thứ hai. Nói không có thân là không có hình chất. Ngủ nơi hang là ở bên trong. Nói điều phục là ở trong tâm như vậy tạo tác tự tại, khó điều phục tâm là tánh ngang bướng.
Thượng tọa bộ xét có Trung hữu, không có vì sao được nói Trung hữu hẳn khởi nhuận sinh phiền não? Gốc kế chấp không có Trung hữu, ngọn kế chấp có. Từ đây trở xuống, lý văn xem trong Duy thức.
Vô tưởng Dị thục, oai nghi trừ hành, không có ở trong nhân, hành nhập vào định vì quả khó khởi. Hòa với chỗ lập Duy thức trên, tỷ lượng là chân nên cực thành sắc, chẳng lìa nơi nhãn thức. Tự thừa nhận nó thuộc về thứ nhất và thứ ba vì nhãn không nhiếp, giống như nhãn thức, thuận với sư Cảnh quyết định trái nhau nghĩa là chân nên cực thành sắc, định lìa nơi nhãn thức, tự thừa nhận nó thuộc về thứ nhất và thứ ba vì nhãn thức không nhiếp, giống như nhãn căn. Đây như phần Sao giải của sư Cảnh, như biên thủ của sư Dụ.
Trong tha tâm trí, nên thuật sư An Tuệ giải thích văn của Nhị Thập Duy thức. Du-già quyển 89 nói thọ có tám loại. Thứ nhất và thứ hai thuộc trong ngoài, sáu loại sau tức sáu chỗ sáu pháp kiến lập, do đó xét luận thứ ba ở trước đã chú giải.
Nhưng, bất hoàn là sức đối trị mạnh chánh nhuận sinh vị chẳng khởi phiền não v.v... là ở trong có năm vặn hỏi, lấy vặn hỏi thứ năm ở sau làm vặn hỏi thứ nhất, hỏi thứ hai làm thứ hai, hỏi thứ nhất làm thứ ba, ngoài ta như thứ tự.
1. Hỏi: Như quyển 59 ghi: Kiến đế chỉ dùng Tùy miên nhuận, mới đầu Thánh cũng dùng hiện hành nhuận, đã nói Dị sinh hiện hành chủng tử nhuận, Dị sinh lẽ ra chỉ có chủng tử nhuận ư?
Đáp: Thánh nhiều bậc giáng nhuận có hiện hành, Dị sinh loại v.v... không chỉ có chủng tử, lẽ ra Thánh sinh Địa khác chỉ có chủng tử nhuận sinh, nếu sinh tự Địa là do hiện hành nhuận, Dị sinh lẽ ra cũng như vậy. Nếu sinh tự Địa chưa có Đối trị đạo nên có thể dùng hiện hành, sinh Địa khác nên chỉ có chủng tử nhuận. Nay giải thích chẳng như vậy. Vô lậu đạo tròn đầy, thế lực mạnh hơn phiền não, Vô lậu đạo thiếu, hoặc hiện bèn mạnh, chẳng đồng dị sinh, nên chẳng làm so sánh.
2. Hỏi: Thánh quả thứ nhất và thứ hai sinh tự Địa thì nhuận có cả hiện hành. Bất hoàn sinh tự xứ, theo nghĩa lẽ ra hiện hành nhuận chăng? Đáp: Đây có thể vậy, vì căn cứ quả thứ nhất và thứ hai, như xứ xứ Bất hoàn v.v... luận lược chẳng nói. Lại, lý chẳng như vậy. Quả vị thứ nhất và thứ hai chưa có đạo viên mãn, có thể dùng hiện hành nhuận. Quả thứ ba đã có đạo viên mãn, giả sử sinh tự Địa cũng chỉ có chủng tử nhuận. Luận chẳng nói do hiện hành nhuận, chỉ trong quả vị thứ nhất và thứ hai nói dùng hiện hành.
3. Hỏi: Tại sao Dị sinh nhuận thì hiện hành chủng tử đồng thời nhuận. Thánh nhân chỉ có chủng tử, chủng tử mạnh hơn chăng? Đáp: Thánh nghiệp quyết định, nghiệp mạnh có thể chỉ gá chủng tử. Dị sinh nghiệp không phải như vậy nên thông cả hiện hành. Hỏi: Nếu vậy, quả vị thứ nhất và thứ hai, nghiệp cũng đã quyết định, nên chỉ có chủng tử nhuận chăng? Đáp: Phàm sinh khổ bức bách thiện nghiệp kém cõi, ắt gá hiện hành mới có thể nhuận. Thánh sinh khổ ít thiện nghiệp ưu thắng, do đây chỉ dùng chủng tử nhuận, vì Vô lậu cũng có thể giúp Hữu lậu, chẳng đồng phàm phu. Lại phàm phu bất giác sinh nhiều ít, có thể gá phiền não, hiện hành chủng tử đều trợ nhuận. Thánh nhân biết nghiệp nhiều ít nhất định, do đây chỉ dùng chủng tử nhuận.
4. Hỏi: Chỗ sáu hành phục và chẳng phục nhuận sinh tham v.v... chỉ phục tán cảnh tham v.v... tại sao phàm phu đắc định mà chẳng nhuận sinh Địa dưới? Nghiệp đều tồn tại mới sinh Địa khác chăng? Đáp: Nhờ trợ bạn tham ái v.v... nên có thể nhuận sinh. Bạn kia đã mất, lúc yếu kém chẳng thể một mình nhuận, do đây chẳng sinh Địa dưới. Lại, phàm tạo nghiệp mới ưu thắng mà sinh lên. Thánh do nghiệp cũ mà sinh. Có chủng tức sinh Địa kia, như phàm phu tại cõi Dục đủ nghiệp của năm nẻo, tùy một nghiệp mạnh hơn mà sinh trước, nên tuy nghiệp dưới chẳng phải không có, nghiệp trên mạnh hơn nên đến trước. Nếu nghiệp trên kém, bài bác đó làm hậu báo, lùi mất định trên mà sinh tự giới cũng không có lỗi.
5. Hỏi: Tại sao chẳng thừa nhận Câu sinh ngã kiến v.v... trong sáu thức, tuy đắc thế đạo mà chẳng khéo phục, tuy đắc quả thứ ba nhưng chẳng năng đoạn cõi dưới. Đến cõi trên mới đoạn như Thức thứ bảy ư? Đáp: Vì nó chướng quả và chướng ra khỏi tự địa, chẳng đồng Thức thứ bảy vi tế chẳng chướng quả và ra khỏi tự địa.
Du-già quyển 12 nói, trong diệt định trước ở tâm đó khó tu trị, chẳng phân biệt tướng trạng các hành, khéo vào định đây, khéo ra ở định, do tu tập rất nhiều nên mặc tình mà vào ra. Lúc ra diệt định xúc hai thứ xúc: một là chẳng động, hai là vô sở hữu, ba là vô tướng. Lúc xuất định phần nhiều do ba cảnh mà ra khỏi định: một là do có cảnh, hai là do cảnh cảnh, ba là do diệt cảnh. Thứ tự như đây xúc ba thứ xúc, duyên nơi có cảnh mà lúc xuất định không có ngã mạn nhiễu động tâm cho đây là ngã, cho đến kế chấp tương lai ngã sẽ có v.v... nên xúc chẳng động, xúc duyên nơi cảnh cảnh mà lúc xuất định không tham không sân, không si, nên định xúc vô sở hữu xúc, duyên nơi diệt cảnh mà lúc xuất định đối với tất cả tướng không tư duy. Duyên vô tướng giới nên nói xúc vô tướng xúc. Ý đây nói xuất định đã duyên ba cảnh, có cảnh là có làm năm uẩn, tức nương tướng phi tưởng mà vào định tâm nay xuất ra. Diệt cảnh tức nương tướng diệt tận mà vào định nay xuất ra. Trên hai quá trình đó không ba phiền não, nên xúc vô sở hữu xúc gọi là duyên cảnh cảnh. Dẫn bất định sau tùy tâm xuất kia chẳng đồng lúc vào, vì hành tướng riêng biệt. Hoặc duyên sáu trần mà xuất định gọi chung là cảnh cảnh, đây chỉ là cảnh của cảnh. Đây nói mặc tình tự tại xuất định, nếu chưa tự tại mà lúc xuất định duyên nơi cảnh giới, tuy không có văn nói nhưng không ngoài ba loại này.
Hỏi: Tại sao muộn tuyệt, thùy miên cùng dẫn vô tâm? Muộn thì có thể của xúc trần, thùy chẳng như vậy ư? Thùy có thùy tâm sở, muộn tức không ư? Lúc có tâm muộn, muộn này là gì? Do muộn xúc tăng dẫn sinh muộn vị, chẳng đồng Thùy tâm sở dẫn vị sinh riêng vì không có tâm sở muộn. Thùy tại sao chẳng phải xúc trần? Trần năng dẫn tâm sở tức là thùy tâm sở, năng dẫn muộn xúc tức là tâm muộn do đó không có. Muộn hoặc hôn trầm không kham nhậm, hoặc muộn tức y năm Cái trên mà giả lập, như sinh Vô sắc, muộn tâm sở sinh tử tức sáu tâm sở tương ưng của bản thức.
Năm vô tâm thì ba chỉ có một cõi, đó là thùy chỉ có dục, vô tưởng định, sinh chỉ có sắc. Một chung cả ba cõi đó là muộn. Một chẳng phải cõi đó là diệt định. Hai chỉ có một cõi khởi đó là thùy và Vô tưởng thiên. Một thông hai cõi khởi đó là vô tưởng định. Một thông ba cõi khởi đó là muộn. Một thông ba cõi chẳng phải cõi khởi, đó là diệt định, cũng tại Tịnh độ khởi. Hai chỉ có thiện đó là hai định. Ba chỉ có Vô ký, đó là ba thứ còn lại.
Hành tướng có hai: một là tướng ảnh tượng gọi là hành tướng. Tại sao tức tợ bản cảnh? Hai là Kiến phần gọi là hành tướng, tại sao chẳng tợ?
Đáp: Ảnh tượng gọi là hành tướng, tướng trạng hành giải của Kiến phần, tướng mạo hành cảnh của Kiến phần. Kiến phần gọi là hành tướng, vì hành ở trong cảnh của thể, như Vô phân biệt trí không có tướng trạng, nên tợ chẳng tợ. Lại, chưa hẳn tướng ảnh tượng chỉ thuần tợ cảnh, vì Vô vi duyên tức chẳng phải tợ.
Trong phần đáp Đẳng vô gián duyên có sáu:
1. Đáp tạm tùy nghĩa khác. 2. Đáp nêu tự chánh nghĩa.
3. Đáp thức khởi không mới đầu.
4. Đáp so sánh tâm sở đồng.
5. Đáp chỉ dụ hiển pháp.
6. Đáp riêng dùng lý trưng bày.
Ba cõi duy tâm, y pháp Hữu lậu để nói rõ Duy thức. Lại nói, Sở duyên chỉ là chỗ thức hiện, y tâm sinh cảnh để rõ Duy thức. Lại nói các pháp đều chẳng lìa tâm, đây y chẳng lìa để hiển bày Duy thức, chỉ một môn đây đủ nhiếp các pháp. Lại nói, hữu tình tùy tâm cấu tịnh, y Dị thục bên trong để rõ Duy thức. Lại nói Bồ-tát thành tựu bốn trí, y tu nhân để rõ Duy thức. Lại, Già-tha nói chỗ tâm ý thức duyên v.v... cũng lấy sở duyên, gọi là Duy thức.
Trong bốn trí, thứ nhất chỉ quán cảnh, thứ hai chỉ quán trí, thứ ba quán cả tâm và cảnh. Lại, thứ nhất chỉ phá Tát-bà-đa, thứ hai chỉ phá kinh bộ tức là hai phá sau.
Trong phần vặn hỏi hiện lượng trái với tông lẽ ra nên nêu Tát-bà-đa, Chánh lượng bộ, Đại chúng bộ, lại lấy tâm hữu tình khác làm vặn hỏi. Trong giải thích lẽ ra cũng nên nêu lại.
Ánh sáng của đèn tỏa đến, trái với Đối Pháp quyển 2, phá rằng: Như ánh sáng của đèn, âm thanh chợt phát cũng vậy. Xét trong phần Sao, tỏa sáng là Tùy thuận lý môn để chóng phát nghĩa Đại thừa.
Các Dị sinh cầu Phật quả là định sau cõi Sắc dẫn sinh Vô lậu, kia hẳn sinh ở cung trời Đại tự tại phía trên trời Tịnh cư, vì đắc Bồ-đề. Trong đây hỏi: Du-già quyển 4 ghi: Trong bốn Tĩnh lự, Phàm thánh đồng ở trời, mỗi do ba phẩm nhuyễn, trung, thượng huân tu nên sinh. Trời Vô tưởng tức thuộc về Quảng quả, lại không có xứ riêng biệt. Lại có các Thánh trụ dừng chẳng cùng năm Tịnh cư địa, đó là Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến và Sắc cứu cánh. Do nhuyễn, trung, thượng, thượng thắng, thượng cực phẩm tạp huân tu Tĩnh lự thứ tư. Lại có vượt qua trụ xứ Đại tự tại, trời Tịnh cư. Bồ-tát Thập địa do cực huân tu nên được sinh trong đó. Nay quán nghĩa ý huân tu định v.v... mà chiêu sinh liền có bốn câu. Một câu chỉ có Hữu lậu huân, như Thức thứ tám nói xả phước mạng hành v.v... phần đoạn sinh tử và trong bốn Thiền mỗi cõi có ba xứ sinh. Luận chỉ nói huân tu, chẳng nói tạp tu, nên quyển 12 ghi: "Ngoài ra, thủ tạp tu sinh năm Tịnh cư, vì chẳng nói sinh cõi dưới". Có cõi chỉ có Vô lậu tu, như tất cả biến dịch sinh tử. Có cõi có Hữu lậu, Vô lậu tạp tu, nghĩa là sinh năm Tịnh cư. Du-già quyển 12 ghi: "Như có một cõi đã được Hữu lậu và cùng Vô lậu bốn Tĩnh lự, thời gian lâu dài tương tục vào các Tĩnh lự. Hữu lậu, Vô lậu lại cùng xen tạp, cho đến Hữu lậu vô gián, Vô lậu hiện tiền, Vô lậu vô gián trở lại vào Hữu lậu, phải biết ngang bằng đây huân tu thành tựu.
Đây là ở định được tự tại, tức đắc quả Đẳng chí tự tại, tức hiện pháp lạc trụ chuyển càng sáng sạch, lại do đây nên được đạo Bất thoái đạo. Lại tịnh tu trị giải thoát thắng xứ v.v... thắng phẩm công đức, đạo của năng dẫn. Nếu có các thủ khác mà mạng chung là do nhân duyên đây bèn vào Tịnh cư, vì chẳng nói sinh các Tĩnh lự dưới, tức y sở tu này trợ giúp chỗ trước tạo nghiệp ba cõi trời dưới, khiến nó chuyển thắng sinh năm Tịnh cư, chẳng phải nghiệp mới hiện tại khéo chiêu cảm Dị thục, vì bậc Thánh chẳng tạo nghiệp. Thứ tư đã nói cực huân tu Địa thứ mười nên Địa thứ mười sinh cõi kia, từ Địa thứ tám trở đi đã thọ biến dịch sinh, làm sao mười Địa lại huân tu sinh? Tức là Địa thứ tám đã sinh xứ ba đời dưới Định thứ tư. Nay cực độn Vô lậu thắng nghiệp vốn do ba Địa trước cảm nghiệp nay mà được sinh. Căn cứ thật chẳng phải lại mới sinh, do nghiệp đồng Địa ở đó thọ quả xứ sang gọi là sinh, đồng địa gọi là sinh, qua địa riêng biệt nên gọi đó là vãng, chẳng trái nhau. Câu thứ tư chẳng phải hai chỗ trợ giúp mà sinh, tức tất cả Dị sinh ở cõi Dục v.v... vì cõi Sắc v.v... nghiệp định tâm trụ cảnh, gọi là Bất động, chẳng phải chẳng khác xứ thọ, nên gọi là Bất động. Đã nói Bồ-tát Thập địa chủ của bốn Thiền, ở cung trời Tự tại khởi mười thứ quả tướng, hiện tòa sen báu lớn, nên cần được sinh cõi kia, chẳng phải Địa thứ tám đã được sinh, chỉ nói Địa thứ mười cực huân tu. Lại, Bồ-tát Địa thứ tám chẳng phải chủ cõi kia, cũng chẳng phải biến dịch có sinh tử, giả sử thừa nhận sinh tử, thì cái gì là nghiệp mới sinh?
Thức thứ bảy, chẳng nói vừa khởi thì cõi nào sinh sau, vì bất định. Nếu nói cõi Sắc không hồi tâm, mới đầu chỉ khởi cõi Dục, nếu nói cõi Sắc có hồi tâm, mới đầu khởi thông cả cõi Sắc, vì định chẳng tồn tại, mới đầu khởi pháp Không, nếu bình đẳng trí, mới đầu khởi tại thân cõi Sắc.
Chủng tử Vô lậu tại thức và năm trần Vô lậu ở bên trong tức chất biến hóa. Thức thứ tám đều chẳng duyên, nghĩa là nhân có năm căn Vô lậu, làm sở y của năm thức, Thức thứ tám chẳng duyên, đây có lỗi gì? Giải thích là: năm căn thật là Thức thứ tám hẳn duyên, giải thích là chẳng cần Thức thứ tám duyên. Chủng tử, sắc v.v... chẳng cần Thức thứ tám duyên mới thành thật dụng, nên ở trong nhân không có năm căn Vô lậu. Hỏi: Sắc v.v... có thể vậy, tại sao chủng tử Thức thứ tám chẳng duyên mà thành chủng tử thật? Như pháp tương ưng và Thức thứ sáu duyên đều chẳng phải chủng tử thật, tại sao chẳng cần Thức thứ tám duyên có dụng chủng tử thật? Nghĩa này nên tư duy.
Sở duyên duyên hẳn duyên hữu, trái với quyển 52, luận kia nói duyên không sinh tâm, lẽ ra kết hợp với luận kia nói.
Năm thức hẳn có sở duyên thưa xa là đây y quán nghiệp lực giới địa kia, nếu sức của Định và thần thông biến năm trần, chẳng phải hẳn có bản chất. Như sinh cõi trên duyên Địa sắc cõi dưới, hoặc thân tại cõi dưới khởi Thiên nhãn, Thiên nhĩ duyên Địa sắc cõi trên v.v... Lại giải thích, tâm của Dị thục duyên cảnh nổi cạn, chẳng phải cần nhờ gá bản chất. Thức Thức thứ tám là tuy duyên thân tợ tha, nhưng chẳng gọi là bản chất. Năm thức trước v.v... có phân biệt nên hẳn nương tựa bản chất, lúc duyên Địa khác, tuy không có tự bản chất, có tha biến là làm bản chất. Nếu vậy, tức sáu Thức trước không lúc nào không có bản chất, vì hằng phân biệt, giải thích trước là thù thắng. Năm thức thô là hành tướng dễ biết, độn là hành tướng cạn chẳng tương tục, yếu kém là tha dẫn mới sinh, không có tự lực khởi.
Bản thức đồng đẳng là chỗ Thức thứ sáu biến, do đới chất thông tình bản, nay tùy bản mà giải thích.
Trong hai mươi hai căn, có bao nhiêu căn bị cõi Dục trói buộc?
Đáp: Bốn căn là nam nữ ưu khổ, mười lăm căn có ít phần, trừ ba
Vô lậu và bốn căn trước.
Hỏi: Có bao nhiêu căn bị cõi Sắc trói buộc?
Đáp: Mười lăm căn có ít phần.
Hỏi: Có bao nhiêu căn bị cõi Vô sắc trói buộc? Đáp: Tám căn có ít phần, ý xả mạng, tín v.v... năm thứ.
Hỏi: Có bao nhiêu căn chẳng bị trói buộc?
Đáp: Ba Vô lậu, chín căn có ít phần.
Hỏi: Có bao nhiêu căn bị cõi Dục trói buộc, cõi Dục làm nghĩa?
Đáp: Có bốn căn bị Dục và cõi Sắc trói buộc, cõi Dục trói buộc làm nghĩa. Có ba căn bị Dục và cõi Sắc trói buộc, dùng hai cõi làm nghĩa. Có hai căn bị Dục và cõi Sắc trói buộc và chẳng trói buộc, tất cả trói buộc và chẳng trói buộc làm nghĩa. Có bảy căn do ba cõi trói buộc và chẳng trói buộc, tất cả trói buộc và chẳng trói buộc làm nghĩa. Một căn do cõi Sắc trói buộc và chẳng trói buộc, tất cả làm nghĩa, hai căn chẳng trói buộc tất cả làm nghĩa.
Hỏi: Năm sắc căn có nghĩa là gì?
Đáp: Sắc v.v... năm thứ mỗi mỗi cảnh riêng.
Hỏi: Căn thứ sáu nghĩa là gì?
Đáp: Tất cả pháp giới.
Hỏi: Nam nữ căn nghĩa là gì?
Đáp: Nhân dục tương ưng tức khổ xúc nhiếp.
Hỏi: Năm thọ căn nghĩa là gì?
Đáp: Tùy thuận khổ lạc ưu hỷ xả thọ tức nghĩa sáu căn.
Hỏi: Tín căn nghĩa là gì?
Đáp: Lẽ ra được nên xả chỗ có cảnh giới. Tinh tấn căn tức ở đắc, xả cùng chung không chỗ kiêng sợ, niệm căn ở văn, tư, tu, nhớ giữ chẳng quên.
Hỏi: Định căn nghĩa gì?
Đáp: Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na.
Hỏi: Tuệ căn nghĩa là gì? Chỗ biết chân thật.
Hỏi: Chưa biết Đương tri căn nghĩa là gì?
Đáp: Tu hiện quán là từ thiện pháp dục trở đi ở trong tất cả đạo phương tiện, tức nghĩa năm căn kia, tức là nghĩa căn đây. Đã biết căn từ quả Dự lưu cho đến Kim cương dụ định, tức là nghĩa năm căn kia và căn đây. Đủ biết căn từ khởi đầu Vô học đạo, cho đến nghĩa năm căn vào Vô dư Niết-bàn là nghĩa căn này. Theo quyển 69 và Đối Pháp quyển 9, 10, 13 đều nói rõ tu, nên rộng phân biệt. Địa trở về trước, đắc, hành cả hai tu Hữu lậu, chỉ đắc tu Vô lậu. Nếu tại Kiến đạo, đắc và hành cả hai tu Vô lậu, đắc tu Hữu lậu. Địa thứ bảy trở về trước, cả hai tu thông Hữu lậu Vô lậu. Địa thứ tám trở về sau, hai tu chung cùng Vô lậu, đắc tu Hữu lậu vì thọ làm mười vương vị. Nếu thế gian trí, xuất thế gian trí đã biện rõ tu và tu cõi trên cõi dưới, tập quen, chưa tập quen v.v... vị nào khởi chẳng khởi, tất cả đều như lý nên tư duy.
Trong ba Vô sắc không có bốn thiện căn. Chỗ Vô lậu Kiến đạo nói có là nên biết tu là Hữu lậu từng được. Đối Pháp đã biết căn, hoặc mười hoặc chín căn, ưu căn ở trong, tức thông Hữu lậu. Hữu lậu tín v.v... trong Tu đạo vị cũng là đã biết căn. Trong đây tuy trừ ưu căn, tại sao chẳng lấy Hữu lậu tín? Nếu nói vì không ưu Hữu lậu đều trừ tức chưa biết căn đã trừ ưu căn, cũng nên chẳng chọn lấy các Hữu lậu khác. Hữu lậu kia đã đều chọn lấy, đây cũng nên như vậy, mới đầu căn vui thích tâm ưu căn sâu cũng vậy. Căn Hữu lậu này yếu kém so với Vô lậu. Vô lậu đó là căn, cứ thật mà nói, Hữu lậu cũng vậy, trừ yếu kém chọn lấy ưu thắng, chỉ nói Vô lậu là căn đã biết, căn biết đủ đó nếu thành
Vô học tức chung cả Hữu lậu làm căn tăng thượng, chẳng lấy Hữu lậu. Hữu lậu đó gọi là tín v.v... chẳng gọi là căn biết đủ. Căn đã biết đó lẽ ra cũng nên chuẩn cứ văn đây gọi là Vô lậu, nên Hữu lậu đó cũng trong chỗ trừ một nghĩa tăng thượng là nghĩa văn. Tại sao nghĩa tăng thượng lập căn? Vì hiển nghĩa tối thắng đối với sự kia và pháp kia, chẳng phải pháp một căn đối với tất cả pháp có nghĩa tăng thượng. Ý hiển đối với pháp sai biệt có nghĩa tối thắng, nên lập làm căn.
Hai phế lập, quyển 57, 58 giải thích phế lập chọn lấy cảnh. Thứ sáu là tiếp tục gia tộc, thứ hai là hoạt mạng, thứ nhất là thọ nghiệp quả, thứ năm là thế gian, thứ năm là xuất thế tịnh, thứ ba là y lượng đây lập căn, năng thọ cảnh ẩn hiển, thứ tám là thời gian biên tế thọ dụng, thứ nhất là thọ cảnh phát tạp nhiễm, thứ năm là lập căn sau thanh tịnh, tâm sở y, biệt đây, trụ đây, tạp nhiễm đây, tư lương đây, tịnh đây do lượng đây lập căn.
Ba giả thật là mười sáu thật, sáu chẳng phải thật, nghĩa là nam, nữ, mạng ba Vô lậu, phần ít thân căn nam nữ, mạng căn tức ý chủng tử nên là giả có. Ba Vô lậu chín căn phần nên thành sáu giả. Bốn tâm tâm sở sắc chẳng tương ưng Vô vi phân biệt là bảy sắc gồm sắc nhãn v.v... có năm, và nam nữ, một tâm đó là ý. Ba phần ít, ba Vô lậu phần ít, mười toàn tâm sở đó là năm thọ, tín v.v... năm và ba Vô lậu căn phần ít. Một chẳng tương ưng đó là mạng căn. Tất cả Hữu vi Vô vi chẳng phải căn, năm căn có bao nhiêu thiện? Tám căn chỉ có thiện, đó là tín v.v... gồm năm, ba Vô lậu. Tám căn chỉ có Vô ký, đó là bảy sắc và mạng căn. Một căn thông thiện và bất thiện, đó là ưu căn. Năm căn thông ba tánh, đó là bốn thọ và ý. Sáu căn có bao nhiêu căn cõi Dục trói buộc? Bốn căn chỉ có dục, đó là nam, nữ, ưu, khổ. Mười lăm căn có phần ít, đó là năm sắc căn, ý, mạng, ba thọ, tín v.v... gồm năm, trừ ba Vô lậu căn, tức mười lăm căn phần ít trước cõi Sắc trói buộc, tám căn phần ít cõi Vô sắc trói buộc, đó là tín v.v... gồm năm, ý, mạng, xả, ba Vô lậu căn, chín căn có phần ít tức chẳng trói buộc. Bảy căn chưa đến, bao nhiêu căn có thể được?
Đáp: Có mười một gồm ý, hỷ, xả, tín v.v... gồm năm, ba Vô lậu, Sơ tĩnh lự, mười tám căn có thể được trừ ưu, khổ, nam, nữ. Định thứ hai cũng vậy. Định thứ ba gồm mười bảy căn, trừ hỷ căn. Định thứ tư gồm mười sáu căn, trừ lạc. Ba Vô sắc trước gồm mười một căn, đó là mạng, ý, xả, tín v.v... gồm năm, ba Vô lậu. Phi tưởng gồm tám căn trừ ba căn Vô lậu.
-------------------------------------
(Thấy, nghe, hiểu, biết, như Đối Pháp sao quyển 1 giải thích).
Tuy bên trong hai nhân có chẳng phải năng sinh chủng thắng hiển là, hai nhân này gọi là Khiên dẫn và Sinh khởi, vì nhuận và chưa nhuận riêng biệt đắc quả hiển, vì tương tục không đoạn. Nghĩa của mười hai nhân như Biệt chương giải thích. Quyển 66 nói rõ có nhân pháp là các nghiệp, phiền não đã tạo tác trước đây ở trong ba cõi là quả Dị thục thù thắng. Quả Dị thục này do nghiệp, phiền não dẫn phát nhân nên gọi là có nhân pháp. Đây chẳng phải dẫn phát nhân thứ sáu trong mười nhân. Dẫn phát nhân, luận chẳng nói đắc quả Dị thục. Đây là mong dị biệt nhân v.v... trong định, tùy chỗ đó ứng. Dị thục nhân là đối với mãn biệt quả giả lập tên dẫn phát nhân, vì xa cùng dẫn phát, đối với mãn quả mãn nhân mà nói.
Sáu loại trái nhau, quyển 38 ghi:
1. Ngữ ngôn trái nhau.
2. Đạo lý trái nhau.
3. Sinh khởi trái nhau.
4. Đồng xứ trái nhau.
5. Oán địch trái nhau.
6. Chướng trị trái nhau.
Năm quả, như Biệt Chương giải thích. Quyển 38 ghi: "Vô ký nhiếp Sĩ dụng, tức ruộng, nước v.v..." nên biết phá riêng cũng gọi là Sĩ dụng. Nếu chẳng như vậy, Vô ký lẽ ra không có nhân này. Sáu thứ ý xứ đều nói Vô ký, đã biết tác dụng, Sĩ dụng y xứ tức ruộng nước v.v... rõ biết quả Sĩ dụng chẳng chỉ giả có được.
Vô gián diệt và cảnh giới, trong sớ nói hoặc ba hoặc bốn y xứ, tại sao trong hai chân kiến và tùy thuận không có Vô gián diệt? Đáp: Đủ nhiếp thọ sáu biện Vô lậu pháp. Nếu vậy, có hai Đẳng vô gián, chân kiến thủ Vô lậu trước dẫn sinh sau nên chẳng dẫn Đẳng vô gián diệt, tùy thuận phần sau dẫn phần giữa.
Nếu quả Dị thục khiên dẫn sinh khởi định dị, đồng dị, chẳng Tương vi nhân được là ở đây nói tạp nhiễm mười nhân được quả Dị thục. Nếu mười nhân pháp Vô ký, theo quyển 38 thì không được quả này. Nó kia cũng Vô ký là Tùy thuyết nhân, Quán đãi nhân, đồng sự, Bất tương vi nhân, và dùng Vô ký làm Tương vi nhân. Trong mười nhân thanh tịnh đó, hai nhân đắc quả Dị thục, đó là Nhiếp thọ nhân và Tương vi nhân. Thanh tịnh nhiếp thọ nhân nghĩa là thân gồm bậc thiện, lắng nghe chánh pháp, như lý tác ý pháp tùy pháp hạnh, và chỗ trước làm các căn thành tựu, gọi là Nhiếp thọ nhân, tức hiển đây cùng pháp xuất thế làm Nhiếp thọ nhân, nên đắc quả Dị thục. Tương vi nhân là nếu thanh tịnh phẩm Tương vi nhân, tức là tạp nhiễm pháp nhân nên đắc quả Dị thục. Do đồng sự và tương vi đây cũng đắc Dị thục, tức Nhiếp thọ nhân. Trong luận căn cứ Tạp nhiễm nhân nên không có lỗi. Hoặc đây đều chẳng phải, vì thanh tịnh pháp nhân dùng thanh tịnh pháp làm quả, không có quả Dị thục.
Ba thứ Đẳng lưu quả thì mười nhân đều được. Sĩ dụng quả chẳng nói sinh khởi nhân v.v... đắc như quyển 2 trước ghi: "Năng huân sinh chủng tử, chủng tử khởi hiện hành, như Câu hữu nhân đắc quả Sĩ dụng". Cuối quyển 7 ghi: "Đây sinh quả Sĩ dụng, gọi là Nhất thiết chủng". Tại sao chẳng nói nhân duyên đắc quả Sĩ dụng? Có hai giải thích:
1. Như Tiểu thừa, chẳng phải nghĩa Đại thừa thừa nhận.
2. Như văn kia cũng đắc, trong đây căn cứ thể riêng của quả Sĩ dụng, chẳng phải tạp thể nên chẳng trái nhau.
Quả Ly hệ chỉ nhân Thanh tịnh đắc, chẳng phải hai nhân khác. Pháp Tạp nhiễm, nhân Tương vi tại sao chẳng đắc quả Ly hệ? Quyển 38 ghi: "Nghĩa là chủng tánh xuất thế gian đầy đủ, gặp Phật ra đời, giảng nói chánh pháp, thân gần bậc thiện, lắng nghe chánh pháp, như lý tác ý pháp tùy pháp hành, và cùng tất cả pháp Bồ-đề phần là pháp Tạp nhiễm, nhân Tương vi". Do đây, chẳng nói đắc quả Ly hệ. Nhưng luận kia giải thích nhân Thanh tịnh pháp là nếu Tạp nhiễm phẩm các nhân Tương vi, phải biết tức là nhân Thanh tịnh pháp. Nên biết Tạp nhiễm, nhân Tương vi cũng đắc quả Ly hệ. Trong đây chỉ nói nhân Thanh tịnh thuận, nên lược chẳng nói. Lại cùng tạp nhiễm làm nhân Tương vi, pháp tạp nhiễm chẳng phải quả Ly hệ nên chẳng đắc.
Nhiếp luận quyển 4 ghi: "Đây lại thế nào? Nghĩa là thân, thân giả, thọ giả, thức, sở thọ thức kia, năng thọ thức kia, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức". Đây do danh ngôn huân tập chủng tử, nếu tự tha sai biệt thức. Đây do ngã kiến huân tập chủng tử, nếu thiện thú ác thú sinh tử thức. Đây do chi hữu huân tập chủng tử. Do đây, các thức do tất cả giới thú tạp nhiễm nhiếp, y tha khởi cùng hư vọng phân biệt đều được hiển hiện.
Trong ba huân tập, dùng tám môn biện rõ:
1. Nêu thể.
2. Giải thích tên gọi.
3. Phế lập, nên tư duy.
4. Ba cõi, cõi Vô sắc định quả sắc, thanh có cũng không lỗi.
5. Ba tánh.
6. Tám thức.
7. Hữu lậu Vô lậu.
8. Vị thứ.
Tại sao quyển 2 nói năng biến chỉ có Đẳng lưu và Dị thục, chẳng nói ngã chấp, trong đây nói ư?
Mười hai chi phế lập, như luận Biện Trung Biên quyển 1 ghi: "Phú chướng và an lập, dẫn dắt, nhiếp, viên mãn, ba phân biệt, thọ dụng, dẫn khởi đều buộc liền vì đây là khổ và quả hiện tiền. Chỉ đây não thế gian; ba, hai, bảy tạp nhiễm, do hư vọng phân biệt.
Luận nói chi thức đã là sở dẫn, tức hiển nghiệp chủng thuộc về nghiệp năng dẫn, như thức tức nghiệp là năng dẫn, thức chủng gọi là sắc thâu, cùng ba chủng, hai chủng duyên sinh nhiếp nhau.
Hỏi: Do đâu phát nghiệp cần phải hiện vô minh, nhuận trong nghiệp vị cũng thông duy chủng?
Đáp: Hai lý đều ngang bằng. Phước dị sinh, bất động trong Bất phóng dật chỉ có chủng phát. Kinh nói chẳng phải vô minh phát, nếu chủng cũng chẳng phát, đâu thể được gọi là chẳng phải minh làm duyên, chẳng phải trái với chi hữu, có khác gì với Kiến đế? Do đây nên biết, duy chủng cũng phát.
Hỏi: Nếu vậy, tại sao sinh cõi trên, chi hành ban đầu chẳng duy chủng phát? Có hiện vô minh làm nhân thù thắng khởi mê nghĩa chân thật vì ngu hiện thấy có, chẳng đồng Bất phóng dật dị sinh.
Quyển 89 ghi: "Năng thủ, sở thủ, sở làm thủ gọi là chi thủ". cõi Dục sinh ác thú cực trọng, thấy tướng ác rồi chẳng sinh mong cầu nghiệp cõi Dục nhẹ dẫn và hai giới trên. Sinh tử ác thú là chẳng thấy tướng ác, thấy tướng vãng sinh đồng loại, liền ngay đời này mong cầu căn ái, duyên khởi chẳng y nghĩa trước nên nói không nói cầu, gồm ái kiến trong chi hữu. Nếu chẳng như vậy, cõi trên chẳng sinh ác thú, nên không có ái, thủ. Hiện tại và vị lai đều chẳng có ái. Trong đây, chi giả quấy tha làm tự gọi là giả, chẳng quấy tha làm tư gọi là chẳng phải giả, chẳng nói trong chi tự không có thể dụng gọi là giả. Trong hành có giả gọi là tư v.v... sắc.
Thức chỉ nói một sự, trái với Du-già quyển 9, nó chọn lấy sáu thức, nên quyển 93 ghi: "Nó nương tất cả tương tục làm luận, chẳng phải thể chi thật, vì đây nói là thật".
Pháp nên đoạn, quyển 59 ghi: "Từ tương ưng kia và sở duyên nên phiền não có thể đoạn". Tại sao như vậy? Đối trị đạo sinh phiền não, chẳng khởi được pháp vô sinh, cho nên nói đoạn tương ưng kia, tương ưng đoạn rồi chẳng duyên lại cảnh, nên từ sở duyên cũng gọi là đoạn. Nhưng quyển 65 ghi: "Do năm tướng nên kiến lập Hữu lậu: một là do sự, hai là vì Tùy miên, ba là vì Tương ưng, bốn là vì Sở duyên, năm là vì Sinh khởi.
Thế nào là pháp sự Hữu lậu? Nghĩa là sắc bên trong thanh tịnh, và sắc bên ngoài cùng y, chẳng cùng y kia, hoặc các tâm tâm sở nhiễm ô, hoặc thiện, hoặc tâm tâm sở Vô ký v.v... pháp Hữu lậu này tùy chỗ ứng đó do bốn tướng khác gọi là Hữu lậu, nghĩa là vì Tùy miên v.v... Nếu ở các sắc thanh tịnh và ở như chỗ trước nói trong tất cả tâm tâm sở, chủng tử phiền não chưa hại chưa đoạn gọi là Tùy miên, cũng gọi là thô trọng. Nếu nó cho đến chưa được đoạn không còn thừa, nên biết tất cả do Tùy miên, nên gọi là Hữu lậu. Trong đây ý nói đối với sắc thanh tịnh nếu nhiễm thiện tâm tâm sở Vô ký v.v... do tất cả phiền não có chủng tử chưa hại chưa đoạn, gọi là Tùy miên, cũng gọi là thô trọng, nên do Tùy miên gọi là Hữu lậu. Đối với tâm sở này, nếu có tâm và tâm sở nhiễm ô, do tương ưng nên gọi là Hữu lậu, cùng nó đồng thời. Nếu các hữu sự, như chỗ hiện lượng hiện hành, như chỗ Hữu lậu sinh, chỗ tăng thượng khởi, chỗ tất cả Hữu lậu duyên như vậy, nên gọi là Hữu lậu. Trong đây, hiện tại gọi là hữu sự, quá khứ và vị lai gọi là chẳng phải hữu sự, tức trong hiện tại. Nếu nương sắc thanh tịnh, chỗ năm thức hành gọi là chỗ hiện lượng hành. Ý đây tức năm thức và chỗ chung cùng ý duyên năm trần gọi là chỗ hiện lượng hành. Nếu các chỗ hành khác, gọi là chẳng phải chỗ hiện lượng hành. Nếu các trần bên trong tăng thượng sinh khởi tất cả xứ bên ngoài thì gọi là chỗ Hữu lậu sinh chỗ tăng thượng khởi, tức biến xứ bên ngoài của Thức thứ tám v.v... Hoặc tuy chỗ hiện lượng hành, chẳng phải chỗ duyên nên thành Hữu lậu, gọi là cảnh giới tất cả định tâm v.v... Cho nên lớp thứ ba nói chỗ Hữu lậu sinh, chỗ tăng thượng khởi, chỉ ở Thức thứ năm, thứ sáu, thứ tám duyên năm trần. Chỉ những gì mà nó duyên phải biết là Hữu lậu. tại sao như vậy? Nếu duyên quá khứ và vị lai khởi các phiền não, quá khứ và vị lai chẳng phải là hữu sự, nên chẳng do chỗ duyên gọi là Hữu lậu. Nếu sự hiện tại chẳng phải chỗ hiện tại hành như sắc thanh tịnh và tất cả nhiễm ô, thiện, tâm tâm sở Vô ký, nó cũng chẳng phải phiền não sở duyên nên gọi là là Hữu lậu, chỉ do chỗ tự phân biệt khởi tướng mà khởi các phiền não, chẳng phải các pháp kia vì đây phân rõ cảnh sở hành. Theo đây chỉ có năm cảnh, hai trần căn bản, ảnh ở hiện tại gọi là chỗ duyên Hữu lậu, ngoài ra tất cả đều chẳng phải. Do sinh khởi nên thành Hữu lậu nghĩa là các Tùy miên chưa vĩnh viễn đoạn, vì thuận cảnh phiền não hiện tại trước. Đối với hiện khởi kia chẳng như lý tác ý. Do nhân duyên này, tất cả hữu pháp đang sinh, đã sinh hoặc sẽ sinh, tất cả như vậy, do sinh khởi nên gọi là Hữu lậu. Lại từ tất cả bất thiện phiền não, các quả Dị thục và quả Dị thục tăng thượng dẫn sự bên ngoài sinh khởi, tất cả như thế cũng sinh khởi, nên gọi là Hữu lậu, cho đến nói rộng tướng của sinh khởi Hữu lậu. Đang sinh là lậu chung cùng, sẽ sinh là dẫn khởi, đã sinh là gián sinh, và tương ưng, sở duyên hợp có năm so sánh. Đây nói Hữu lậu tuy năm tướng sai khác, nhưng luận về đoạn môn, chánh đối trị đoạn chẳng vượt qua hai thứ. Hai thứ thân gần và thưa xa đều là sở duyên trói buộc, nên luận nói đoạn chẳng vượt qua hai thứ. Nay nói nghĩa riêng biệt thân gần và thưa xa có khác, nên có khác của chỗ hiện lượng hành v.v... Nếu chẳng như vậy thì Thức thứ bảy duyên Thức thứ tám nên chẳng gọi là tàng, năng duyên đoạn nên gọi là sở duyên đoạn, do đó chỉ nên nói như trong đây. Lại giải thích hai đoạn kia là Tùy chuyển lý môn, nay căn cứ thật nghĩa nên nói Hữu lậu có năm tướng đó. Nhưng các Hữu lậu, lược làm năm so sánh:
Thứ nhất, năm trần ngoài trời người chỉ do một sở duyên trói buộc gọi là Hữu lậu, chẳng ở bên trong nên chẳng phải lậu chung cùng.
Thứ hai, năm căn nội trần trong nẻo thiện do hai thành Hữu lậu, đó là sở duyên và lậu chung cùng, vì ở bên trong, trần bên ngoài nghiệp bất thiện của nó cũng hai: một là sở duyên; hai là lậu dẫn.
Thứ ba trừ quả ác thú, ngoài ra Vô phú, Vô ký tâm tâm sở do ba duyên:
1. Sở duyên, như Thức thứ bảy duyên Thức thứ tám v.v...
2. Lậu chung cùng.
3. Gián sinh, năm căn bốn trần bên trong ác thú cũng do ba duyên, đó là sở duyên, lậu đồng thời và lậu dẫn.
Thứ tư, thiện tâm tâm sở do bốn duyên, đó là sở duyên, lậu đồng thời, gián sinh và lậu dẫn. Quả ác thú Vô phú Vô ký tâm tâm sở đó cũng có bốn, do chỗ dẫn của Hữu lậu bất thiện.
Thứ năm, tất cả tâm tâm sở nhiễm ô do năm duyên, đó là sở duyên, lậu đồng thời, gián sinh, lậu dẫn và tương ưng.
Tương ưng, sở duyên hai trói buộc của Đại thừa khác với Tiểu thừa. Thể của lậu là phiền não và tùy. Tám thức, biến hành, biệt cảnh, bất định tánh là Vô ký, cùng mười một thiện tương ưng gọi là thiện. Tâm, tâm sở đó cùng phiền não và tùy phiền não chung cùng gọi là tâm tâm sở nhiễm. Phiền não đó và tùy là tự tánh đoạn pháp, tương ưng với đồng thời gọi là đoạn, tức tất cả tâm tâm sở nhiễm đều tương ưng đoạn. Ngoài ra, pháp chẳng nhiễm là sở duyên đoạn. Sở duyên thưa xa thông tất cả hữu. Trong văn luận nói tự tánh đoạn, tức tâm tâm sở nhiễm. Lìa duyên phiền não là tức hai sở duyên thân gần và thưa xa. Tạp phiền não của nó là Câu sinh tạp, Dẫn sinh tạp, và Gián sinh tạp. Do đây nên phân biệt, Thức thứ tám năng duyên nẻo thiện có hai nghĩa: một là Sở duyên, hai là Lậu chung cùng.
Nẻo ác có ba, thêm lậu dẫn. Tướng phần hiện hành của Thức thứ tám, tùy nẻo thiện nẻo ác cũng vậy, nhưng Tướng phần các chủng tử, tùy các hiện hành phân biệt đủ nghĩa, trần bên ngoài chẳng phải vậy. Kiến phần của Thức thứ bảy có năm duyên:
1. Tương ưng.
2. Sở duyên.
3. Dẫn khởi.
4. Gián sinh.
5. Lậu chung cùng, là nhiễm ô.
Tướng phần thông hai tánh tình và bản, chỉ có sở duyên, lậu chung cùng cũng được lậu dẫn, vì ảnh tượng tại tâm, nhiễm là kiến dẫn. Kiến phần của Thức thứ sáu thông ba tánh, như trước nói ba tánh tâm tâm sở. Hai tâm oai nghi và công xảo trong Vô ký do ba thứ đó là Gián sinh, Câu sinh và Sở duyên. Trong đây, sở duyên do duyên chủng tử, hiện hành cũng gọi là sở duyên. Quá khứ và vị lai không có thể, hiện tại hẳn không có tâm nhiễm duyên nó, ngoài ra đều chuẩn cứ như đây. Tâm Dị thục do bốn thứ, là ba thứ này thêm Lậu dẫn. Nó thông quả Vô ký tâm tâm sở do hai duyên: một là Sở duyên, hai là Lậu chung cùng.
Thiện tâm, tâm sở do bốn thứ đó là Lậu chung cùng, Gián sinh, Sở dẫn và Sở duyên. Nhiễm ô do năm thứ. Trong Tướng phần, tất cả Dị giới duyên, Vô lậu duyên, Vô bản chất duyên đều gọi là Độc ảnh, chuẩn cứ năng duyên nói chỉ trừ tương ưng. Nẻo thiện có bản chất riêng duyên năm căn và năm trần bên trong do hai duyên, đó là Sở duyên và Lậu chung cùng. Quả bên ngoài nẻo ác cũng có hai, đó là Sở duyên và Lậu dẫn. Căn trần bên trong nẻo ác do hai thứ là Sở duyên và Lậu dẫn đều đồng căn môn trước. Kiến phần năm thức cũng thông ba tánh, đều đồng Thức thứ sáu. Tướng phần bên ngoài nẻo thiện chỉ sở duyên, bên trong thông cả lậu chung cùng, nẻo ác thêm Lậu dẫn. Tuy có Hữu lậu nhưng chẳng đồng như vậy, chỉ vì hai trói buộc tương ưng và sở duyên, tăng thượng đoạn tùy hai thứ, chẳng y đoạn lậu chung cùng v.v... gọi là đoạn, như phân biệt trong Chứng thứ sáu của Thức thứ bảy.
Trong ba khổ, nếu theo tướng sinh khổ thì một và hai chỉ có dục, một khổ sau thông cả ba. Nếu căn cứ tánh thì Khổ khổ chỉ là dục vì có duyên bức bách. Hoại khổ thông cõi Sắc, vì có lạc thọ. Như trong kinh nói vào biến hoại tâm, một loại sau, thức v.v... sáu chi trong ba thọ đã là chủng tử, làm sao tương ưng? Giải thích có hai nghĩa:
1. Y vị Đương sinh mà nói.
2. Y nghĩa tùy thuận câu hữu cũng không trái, nên chủng tử gọi là Câu, vì câu là tên khác của tương ưng. Nếu vậy, y chi hữu không có Đương sinh, làm sao tương ưng? Thức v.v... năm thứ sẽ có hiện hành chủng tử gọi là tương ưng. Chi hữu oai lực từng ở trong chi hành v.v... có tương ưng. Chủng cũng gọi là tương ưng, hoặc từ vị Đương sinh của Thức v.v... mà nói.
Quyết trạch phần nói khổ v.v... thể của bốn Đế, như sớ giải thích.
Trong Nhiếp sự phần nói trong mười hai phần nghịch quán, chi sinh và thức v.v... cả năm đều là Lão tử tập, tức thể của Khổ và Tập đồng. Tập có hai thứ:
1. Chiêu cảm Dị thục gọi là Tập, tức Quyết trạch nói chỉ có nghiệp và phiền não.
Năng sinh khổ quả gọi là Tập, là chi sinh v.v... trong phẩm Nhiếp sự.
Hai luận tuy khác nhưng chẳng trái nhau. Hai thứ sinh tử, dùng tám môn phân biệt:
1. Nêu thể.
2. Giải thích tên gọi.
3. Biện rõ tướng chiêu cảm sinh tử sai biệt.
4. Giải thích vị thứ.
5. Giải thích đắc xứ.
6. Bốn thứ sinh tử tương nhiếp.
7. Tổng hợp ba thứ sinh tử chẳng đồng.
8. Hỏi đáp phân biệt.
Thể và tên gọi, hỏi đáp như ba môn trong luận giải thích. Đắc xứ, như quyển 7 trước nói trong Thức thứ tám sinh Vô lậu, nhưng nên cân nhắc chọn lựa các quả chẳng đồng. Vị thứ Dự lưu v.v... Sơ địa tức đắc, như Du-già, Quyết trạch, Thanh văn địa và luận Phật Địa giải thích. Ba thứ sinh tử đó chẳng đồng, như trong sớ nêu dẫn kinh Lănggià. Nhưng, vả lại kinh Thắng Man và luận đây nói ba thứ thân y ba Thừa quyết định, kinh Lăng-già nói chỉ y Đại thừa đốn ngộ, khiếp sợ phiền não mà nói, hoặc nói chung cho bất định tánh sai biệt thắng vị, Địa tiền một kiếp cùng bản không riêng biệt, do đó chẳng nói.
Biện về tướng chiêu cảm sinh tử sai biệt, phần đoạn có hai: một là Tán, hai là Định. Trong tán có hai:
1. Như mười hai nhân duyên sinh, chỉ cõi Dục toàn vẹn. Cõi trên chỉ có ít phần, y sinh đắc thiện, đắc báo riêng biệt.
2. Y văn tư thù thắng sinh được thiện tâm, chuyển dài phước thọ, chỗ vốn tạp khởi chỉ tại cõi Dục, tâm nhanh mạnh.
Trong định có ba:
1. Hữu lậu định nguyện chuyển phước thọ hành, chỉ cõi Dục có.
2. Sinh bốn Tĩnh lự, dưới trời Quảng quả và bốn Vô sắc, chỉ nghiệp Hữu lậu huân ba phẩm thiền sinh.
3. Sinh năm Tịnh cư.
Hữu lậu Vô lậu tạp biến dịch chỉ hai:
1. Hữu lậu tán hạnh nguyện v.v... đều vô lậu, hợp với tư lương cho nên thành nghiệp. Nghĩa là từ Địa thứ bảy trở về trước, tất cả Nhị thừa đều đã hiện hành vô minh v.v... làm tư lương của duyên.
2. Từ Địa thứ tám trở lên chỉ có tư của Vô lậu định, hiện hành trí chướng v.v... đều đã không có. Nhiếp bốn sinh tử, kinh Vô Thượng Y ghi: "Anan! Tất cả A-la-hán, Bích-chi-phật, Bồ-tát Thập Địa, vì bốn thứ chướng nên chứng đắc Pháp thân Như Lai; bốn đức Ba-la-mật. Bốn thứ ấy là gì? Một là sinh duyên, hai là sinh thân, ba là hữu hữu, bốn là vô hữu. Thế nào là sinh duyên hoặc? Tức là vô minh trụ địa hay sinh tất cả hành, như vô minh sinh nghiệp. Thế nào là sinh nhân hoặc? Là chỗ vô minh trụ địa sinh các hành, thí như vô minh sinh ra các nghiệp. Thế nào là hữu hữu? Duyên vô minh trụ địa, nhân vô minh trụ địa khởi nên Vô lậu hành, ba thứ ý sinh thân sinh, thí như bốn thủ làm duyên, ba nghiệp Hữu lậu làm nhân, khởi ba thứ hữu. Thế nào là vô hữu? Duyên ba thứ ý sinh thân, chẳng thể hay biết vi tế đọa diệt. Thí như duyên sinh trong ba hữu, niệm niệm già chết". Văn sau lại nói: "A-nan! Trong ba cõi có bốn thứ nạn: một là nạn phiền não hai là nạn nghiệp, ba là nạn sinh báo, bốn là nạn lỗi lầm. Vô minh trụ địa khởi ra phương tiện sinh tử, như nạn phiền não bên trong ba cõi. Vô minh trụ địa khởi nên nhân duyên sinh tử, như nạn nghiệp bên trong ba cõi. Vô minh trụ địa khởi nên hữu hữu sinh tử, như nạn sinh căn bên trong ba cõi. Vô minh trụ địa khởi nên vô hữu sinh tử, như nạn lỗi lầm bên trong ba cõi". Hữu hữu là có ba cõi, có Dị thục thể.
Vô hữu là không có khổ khổ v.v... chỉ có tướng hành khổ. Vì Vô lậu tư sinh tử cũng gọi là nạn.
Hỏi đáp phân biệt, đã được biến đổi qua ba đại kiếp cũng có biến đổi được trăm kiếp Lân Giác chăng?
Đáp: Chẳng được, vì không lấy sở tri chướng làm duyên. Nếu chỗ lưu thân Hữu lậu, chỗ định nguyện trợ giúp là thuộc về thân phần đoạn. Giả sử thừa nhận chỗ Vô lậu định nguyện trợ giúp cảm phần đoạn đó, có lỗi lầm gì mà chẳng thừa nhận? Vì cực thắng nên chẳng phải thuộc phần đoạn. Chẳng phải biến dịch là chẳng được Vô lậu giúp thân trụ lâu, vì thế lực kém.
Đối Pháp quyển 14 nói mười phân biệt, đó là: Vô tánh phân biệt, Hữu tánh phân biệt, Tăng ích phân biệt, Tổn giảm phân biệt, Một tánh phân biệt, Dị tánh phân biệt, Tự tánh phân biệt, Sai biệt phân biệt, Tùy danh nghĩa phân biệt, Tùy nghĩa danh phân biệt. Rộng như luận kia kết hợp giải thích văn kinh Bát-nhã.
Đoạn trước và sau trong Chứng ba tánh khác với ba đoạn văn nói về các xứ, như trong chương Duy thức giải thích. Tại sao lý hai Không có cạn sâu? Ngộ sinh chưa hẳn ngộ pháp. Hai tánh cạn sâu, lúc chẳng ngộ sâu hẳn chẳng ngộ cạn, cần phải đạt lý mới đạt sự ư? Đáp: Hai lý chướng riêng biệt, đoạn sinh chấp chẳng ngộ pháp Không. Hai tánh không chướng riêng biệt, lúc chẳng ngộ gốc chẳng thể ngộ việc ngọn. Chưa có trước ngộ sự mà sau ngộ tánh Không. Ngộ lý chân mới rõ sự tục, tư duy đó có thể biết.
Ba môn giải thoát không đồng với nhiếp hành của các luận, lẽ ra nên giải thích như Biệt sao.
Vô tánh vô thường, Đối Pháp v.v... nói Khổ đế vô thường hành đều có hành này. Mới đầu trừ sở chấp, kế tiếp quán y tha, cũng có thể tánh, Đế chung cùng thật. Pháp sở biến kế, chỉ nói y tha, là chỉ Luận sư Hộ Pháp, hay cũng chỉ An Tuệ? Văn hai sư đây, Luận sư Hộ Pháp thân lấy Tướng phần, Luận sư An Tuệ thì bản chất đều được. Hai giải thích đều được, hãy xem văn đó.
Nhiếp Đại thừa ghi: "Bồ-tát như vậy ngộ nhập ý ngôn tợ nghĩa tướng, nên ngộ nhập Biến kế sở chấp. Ngộ nhập Duy thức nên ngộ nhập tánh Y tha khởi. Nếu đã diệt trừ ý ngôn nghe pháp huân tập chủng loại tướng của Duy thức, cho đến khi ấy Bồtát bình đẳng, bình đẳng trí không phân biệt đã được sinh khởi, ngộ nhập tánh Viên thành thật". Lại nói: Danh, sự hỗ tương làm khách, tánh đó lẽ ra tầm tư, đối với hai tánh cũng phải suy tầm chỉ là lượng và chỉ là giả. Thật trí quán không có nghĩa, chỉ có phân biệt thành ba, kia không nên đây không, tức là nhập ba tánh. Nửa bài tụng đầu ngộ nhập Biến kế sở chấp, nửa bài tụng kế ngộ nhập tánh Y tha khởi, một bài tụng sau ngộ nhập tánh Viên thành thật. Luận Thành Duy Thức ghi: "Chẳng phải chẳng thấy Chân như mà khéo rõ các hành đều như huyễn sự v.v... tuy có mà chẳng phải chân thật, ba xứ trên dưới như vậy chẳng đồng". Văn phần đầu Nhiếp luận nói Noãn và Đảnh hai vị ngộ nhập sở chấp, Nhẫn và Pháp đệ nhất ngộ nhập Y tha, Sơ địa sơ tâm nhập Viên thành thật.
Nhiếp luận quyển 2 ghi: "Noãn, Đảnh tầm tứ ngộ nhập hai tánh đầu, bốn trí như thật ngộ nhập Viên thành". Văn luận Thành Duy Thức nói cần phải vào Sơ địa mới ngộ ba tánh, tuy có ba văn mà nghĩa lý chỉ hai: một là thật chứng, hai là tương tợ. Trong luận Thành Duy Thức căn cứ thật thân chứng, do hai trí Vô lậu chân tục trước sau mới có thể chứng hai tánh Hậu đắc. Lúc chứng hai tánh, chẳng thấy hai thủ, tức gọi là chứng Biến kế sở chấp kia không, không có pháp, thể cũng không, trí chứng nơi nào? Tâm sở biến không có Y tha khởi nghiệp, lý Chân như không có Viên thành thật nhiếp, nên Biến kế sở chấp chẳng nói riêng chứng, chỉ ở hai tánh chẳng thấy hai thủ, có thể gọi là ngộ nhập Biến kế sở chấp. Nhưng chánh thể trí đạt không chứng lý, phần nhiều nói trí này chứng Kế sở chấp, tuy trước Kiến đạo cũng đã chẳng thấy, chưa thân gần được hai nên không gọi là Chứng không, ở Sơ địa mới gọi là chứng đắc. Nhiếp luận, văn phần đầu nói ngộ Viên thành là căn cứ thật chứng đắc, cùng Duy thức đồng. Ngộ hai tánh trước là căn cứ tương tợ ngộ. Thời gian lâu dài phần nhiều ý giải thích tư duy hai tánh trước, thời gian ngắn phần ít tuy cũng tương tợ ngộ nhập Viên thành, chẳng phải thời gian lâu dài nhiều phần cũng chẳng phải thân chứng, nên căn cứ thật mà nói. Nhiếp luận, văn kế tiếp nói ngộ nhập ba tánh tổng căn cứ ý thú tương tợ mà nói. Mở đầu quán tên gọi, sự chẳng thuộc nhau nên gọi là ngộ sở chấp, tiếp quán các pháp chỉ có thức lượng và giả danh v.v..., tuy chưa chứng thật, gọi là ngộ Y tha. Như thật trí vị tuy thật có tướng mà chưa chứng chân. Hai thủ đều mất cùng chân trí quán tương tợ hướng vào, ý giải thích cũng cho là Chân như, nên thật trí vị, gọi là nhập Viên thành, thật chưa ngộ nhập. Nhiếp luận căn cứ tương tợ ý giải thích ba tánh riêng rõ ngộ nhập. Duy thức căn cứ chân thật, riêng chứng hai tánh, thông chứng sở chấp, tuy văn có khác mà chẳng trái nhau. Ngoài ra, các văn khác đều căn cứ giải thích này.
Nhiếp luận quyển 5 ghi: "Tám dụ, dụ Y tha", tại sao không có nghĩa lúc biến kế chấp, hiển hiện rõ ràng tợ cảnh sở hành? Vì trừ nghi đây nói huyễn sự dụ, như thật không có tượng mà có huyễn tượng, cảnh giới sở duyên, tánh Y tha khởi cũng lại như vậy. Tuy Vô sắc v.v... sáu xứ sở duyên, lúc biến kế chấp tợ có sáu xứ sở duyên hiển hiện. Vo Tánh ở sau tự giải thích đây đối với sự bên trong sinh nghi. Các luận sư giải thích rằng, đây đối với thân sắc thanh hương v.v... bên trong mà sinh nghi hoặc nên gọi là huyễn sự dụ. Bồ-tát Thiên Thân có hai chữ "lại nữa" để giải thích. Giải thích thứ hai cho rằng huyễn dụ trong đây là trừ nhãn v.v... sáu loại xứ bên trong. Thí như huyễn tượng tuy thật chẳng phải có mà hiện có thể được, điều này chuẩn cứ theo sắc v.v... sáu xứ pháp bên trong của Vô Tánh. Nhãn v.v... là sắc nên nói sắc v.v... Nói sắc v.v... sáu xứ lý cũng không ngăn ngại. Nếu chẳng như vậy cùng chỗ trừ thứ hai, có gì khác nhau? Xưa giải thích là: Thứ nhất là thể của trần, thứ hai là khí giới, nên hai thứ khác nhau. Lại như sóng nắng vào lúc gió động, thật không có nước mà cảm giác như là có nước. Khí thế gian bên ngoài cũng lại như vậy. Lại như trong mộng ngủ say khởi lên tâm tâm sở tụ để cực thành muội lược, tuy không có nghĩa các thứ cảnh như nữ v.v... mà có cảnh giới thọ dụng như ái, chẳng phải ái; lúc tỉnh giấc cũng vậy. Lại như ảnh tượng trong gương trở lại thấy bản chất mà cho là nay ta riêng thấy ảnh tượng, mà ảnh tượng này thật chẳng có gì cả, chẳng phải đẳng dẫn địa thiện ác tư nghiệp bản chất làm duyên, quả ảnh tượng sinh cũng lại như vậy, Duy thức gọi là ảnh tượng trong gương. Lại, thí như ánh sáng ảnh do lộng ảnh là võng mạc che ánh sáng đó khởi các thứ ảnh, trong định địa v.v... các thứ thức đối với không thật nghĩa sai biệt mà chuyển. Lại như âm vang nơi hang hốc thật không có tiếng mà khiến người nghe tợ nghe nhiều thứ cảnh giới ngôn thuyết, các thứ ngôn thuyết ngữ nghiệp cũng vậy. Lại như trăng trong nước, do nước trơn nhuần lắng trong, tuy không có trăng mà trăng có thể nắm bắt, duyên chỗ cảnh thật nghĩa huân tu nhuần trong làm tánh, ý của các Tam-ma-địa tương ưng cũng lại như vậy, tuy không có sở duyên cảnh giới thật nghĩa mà tợ có chuyển. Đây cùng ảnh tượng thứ tư có gì khác nhau? Vì Định và Bất định địa mà có khác nhau. Lại như biến hóa nương biến hóa này gọi là biến hóa, tuy không có thật mà khéo hóa là không có điên đảo, đối với sự sở hóa thì có công dụng tạo tác. Bồ-tát cũng vậy, tuy không có Biến kế sở chấp hữu tình, nhưng đối với Y tha khởi các loại hữu tình là do xót thương mà đến nơi kia các chỗ sinh xứ nhiếp thọ tự thể. Vô Tánh giải thích rằng, nên biết trong đây dụ là có, chỗ hư vọng chấp sự, chỗ gọi là thọ dụng sai biệt trong ngoài, thân nghiệp, ngữ nghiệp, ba thứ ý nghiệp, chẳng phải Đẳng dẫn địa. Hoặc Đẳng dẫn địa, hoặc không có điên đảo, ở tám sự đây, chư Phật Thế Tôn nói tám thứ dụ, những người có trí nghe điều nói đó, đối với hai nghĩa của Định địa và Bất định địa khéo hiểu rõ đích xác.
Trong đây, bên trong là dụ huyễn sự thứ nhất, bên ngoài là dụ sóng nắng thứ hai, thọ dụng sai biệt là dụ cảnh trong mộng thứ ba, thân nghiệp là dụ bóng ánh sáng thứ năm, ngữ nghiệp là dụ âm vang trong hang hốc thứ sáu. Trong ba thứ ý nghiệp, thứ nhất chẳng phải Đẳng dẫn địa, là dụ ảnh tượng thứ tư. Nếu Đẳng dẫn địa là dụ trăng trong nước thứ bảy, nếu không điên đảo là dụ biến hóa thứ tám.
Bồ-tát Thiên Thân dùng hai chữ "lại nữa" để giải thích. Chữ "lại nữa" thứ hai giải thích rằng: nói huyễn sự dụ là trừ nhãn v.v... sáu xứ bên trong, nói sóng nắng dụ là trừ khí thế gian, nói sở mộng dụ là trừ cảnh thọ dụng như sắc v.v..., hiển bày như chỗ mộng sắc v.v... nhất định không có mà khéo làm nhân khởi thọ dụng sai biệt như ái, phi ái. Nói ảnh tượng dụ là trừ thân nghiệp quả, hiển bày thiện nghiệp bất thiện nghiệp làm duyên mà có các thứ sắc ảnh tượng v.v... sinh khởi. Nói âm vang hang hốc dụ là trừ ngữ nghiệp quả, hiển bày ngữ nghiệp nhân cảm ngữ nghiệp quả giống như âm vang trong hang hốc. Nói ánh sáng ảnh dụ là trừ phi Đẳng dẫn địa các ý nghiệp quả, hiển bày chỗ ý nghiệp đây được các quả, giống như ánh sáng ảnh, nói trăng trong nước dụ là trừ Đẳng dẫn địa các ý nghiệp quả, hiển bày Đẳng dẫn địa các ý nghiệp quả giống như trăng trong nước. Nói biến hóa dụ là trừ nghe chủng loại ý nghiệp, nghe chủng loại tức là chỗ huân tập của văn tư. Đây tức hiển bày nghe chủng loại ý sai biệt mà chuyển, giống như biến hóa. Ý đây là trừ thọ dụng sai biệt trong ngoài, thân ngữ nghiệp quả, ba thứ ý nghiệp, nên nói tám dụ, chẳng đồng với Vô Tánh. Kim Cương Bát-nhã ghi: "Tất cả pháp Hữu vi; như sao, che, đèn, huyễn; sương, bọt, mộng, chớp, mây; nên quán như vậy". Trong đây có chín dụ, Bồ-tát Thiên Thân giải thích rằng, riêng dụ chín sự, đó là kiến, tướng, thức, khí, thân, thọ, quá khứ, hiện tại và vị lai nên nói chín dụ, mỗi mỗi nương vào nghĩa riêng. Chẳng thể kết hợp đồng nhau, giải thích bài tụng khác nhau. Luận Biện Trung Biên nói tám dụ, thông hai tánh Y tha và Sở chấp, tợ dụ Y tha, thật dụ Sở chấp, cũng không trái nhau.
Ba tánh trong cảnh phàm thánh, trước sau bốn văn và nên thật nói hợp lại thành năm, như lý nên tư duy.
Nên tổng lập ba giải thích, đó là nên lập một Thật một Giả. Chân như thật vì đây là nghĩa thù thắng. Như quyển 100 ghi: "Ngoài ra, thế tục giả, hoặc chẳng đợi đây. Ngoài ra, như sắc thọ v.v... phải đợi đây. Ngoài ra giả như bình v.v... hoặc chẳng đợi danh ngôn thật, đó là tất cả pháp đợi danh ngôn giả, đó là tất cả pháp". Như Tạp Tập quyển 3 sớ giải thích.
Du-già quyển 60 giải thích về nghiệp, nghiệp đạo v.v... trái với Duy Thức quyển 1, nên xem xét.
-----------------------------------
Hỏi: Ngu phu đối với Tăng ích kia vọng chấp là cũng có tà kiến bác bỏ không có, tạo sao chỉ nói Tăng ích?
Đáp: Vì nhiều phần, vì pháp môn chấp ngã hẳn Tăng ích. Nói có ba tánh ngăn Tổn giảm môn, nói ba vô tánh ngăn Tăng ích môn.
Y tha khởi không có tự nhiên sinh, tự nhiên có hai:
1. Không có nhân tự nhiên sinh, nêu đây nhiếp tất cả không có nhân.
2. Vì tự nhiên là nhân sinh, nêu đây nhiếp tất cả minh tánh v.v... chẳng bình đẳng nhân sinh.
Không có đây, không có nhân tự nhiên và không có bất bình đẳng nhân tự nhiên sinh, nên gọi là tự nhiên không sinh.
Trong y tha khởi cũng có không có nhân, ác nhân chẳng phải một hoành chấp, tại sao chỉ ngăn tự nhiên sinh?
Đáp: Tạm nêu tự nhiên, ngoài ra bất bình đẳng nhân đều thuộc ở đây. Đây nói ba, Vô Tánh phá các lỗi tăng ích khác. Ngoài ra, Tổn giảm môn chỗ ba tánh trái ngược nên chẳng phải phá không có nhân.
Tánh y tha khởi gọi là Thắng nghĩa vô tánh, văn luận chỉ nói hữu vô, chẳng phải tánh của thắng nghĩa, gọi là Thắng nghĩa vô tánh, cũng có thể là Thắng nghĩa, không có Biến kế sở chấp gọi là Thắng nghĩa vô tánh, đây là nghĩa sở hành của Hậu đắc trí. Như nói bốn Thắng nghĩa kia nhiếp, luận được không nói, nhưng lý thì có.
Trong Duy thức chỉ có hai đối, tại sao chẳng nói hai loại trước để làm hư vọng? Vì Vô lậu Hữu vi chẳng phải hư vọng. Tại sao chẳng nói hai loại trước để làm Thế tục đối thắng nghĩa? Như nói trong hai Thắng nghĩa, nghĩa trước cũng gọi là Tục. Nay căn cứ hữu thể gọi là Thế tục, vì nó không có thể. Lý thật cũng có, vì chuẩn cứ hai Đế. Trong đây, thật tánh chỉ lấy Chân như chỉ có môn Thường và Vô thường, chẳng nói môn Lậu và Vô lậu vì Vô lậu Hữu vi chẳng phải thật tánh.
Nhiếp luận nói bốn vị tu Duy thức, như chương Duy thức giải thích. Oai nghi, công xảo trong Lý thật cùng sở tri chướng pháp chấp cũng chung cùng, nay đứng về hành riêng lẻ nói chẳng phải oai nghi v.v... cũng không trái nhau. Căn cứ lúc thật chấp chẳng phải tâm kia là tâm kia v.v... mà chẳng khởi chấp.
Ba mươi bảy phẩm dùng chín pháp làm thể. Biến hành có một đó là hỷ thọ. Biệt cảnh có ba đó là niệm, định và tuệ. Thiện có bốn đó là tín, tinh tấn, xả và khinh an. Sắc pháp có một đó là đạo cộng vô biểu.
Hỷ có một, đó là hỷ giác chi. Niệm có bốn là căn, lực, giác, đạo, mỗi thứ có một. Định có tám là bốn thần túc; căn, lực, giác, đạo, mỗi thứ có một. Tuệ có chín là bốn niệm tru; căn, lực, giác, chi, mỗi thứ có một. Đạo có hai, đó là chánh kiến, chánh tư duy, vì tự trong tư duy là nương tuệ tầm. Phật quả chỉ có tuệ. Du-già quyển 57 ghi: "Ba mươi bảy phẩm cùng năm căn làm sao tương nhiếp? Đạo phẩm nhiếp căn, chẳng phải căn nhiếp đạo, đó là: ngữ, nghiệp, mạng, hỷ, an, xả cho nên chánh tư duy, thể của nó tức tuệ. Tín có hai đó là căn và lực.
Tinh tấn có tám, đó là bốn chánh đoạn, trong căn lực giác đạo mỗi thứ có một. Xả có một, đó là xả giác chi. Khinh an có một, đó là an giác chi. Vô biểu có ba, đó là chánh ngữ, nghiệp và mạng, nên chín phẩm mở thành ba mươi bảy phẩm. Bốn nhiếp sự thí lấy vô tham và ba nghiệp làm thể. Ái ngữ lấy ngữ nghiệp làm thể. Lợi hành, đồng sự, ba nghiệp làm tánh, đó là vô tham và tư. Giả thật hòa hợp mà nói vậy. Bốn vô lượng lấy ba pháp làm thể, đó là vô sân, bất hại và xả. Hỷ lấy bất tật làm thể, thể tức vô sân, nên chỉ có ba pháp. Lục độ hợp lấy chín pháp hoặc mười một pháp làm thể. Biến hành có một, đó là tư. Biệt cảnh có bốn là dục, thắng giải, định, tuệ. Thiện có bốn là tín, tinh tấn, vô tham, vô sân. Thân nghiệp, ngữ nghiệp, biểu sắc, vô biểu sắc như thế mà biết. Từ đây trở xuống nói rộng đồng như phần Lục độ ở sau. Bốn thiện căn đã chỉ cõi Sắc năm địa, lại đối chiếu Vô sắc không có Vô lậu kiến đạo, nên là Hữu lậu tu, như đã nói ở trước.
Nhập Kiến đạo chỉ y thân nẻo thiện ở cõi Dục khởi, ngoài ra tâm tuệ nhàm chán chẳng phải thù thắng, là đây y sở tri chướng chung cùng có phiền não chướng đối trị, hoặc chỉ đoạn phiền não chướng, vào nghĩa Kiến đạo, chẳng phải y nghĩa chỉ đoạn sở tri chướng đối trị, vì cõi Dục kiến đạo phiền não có bất thiện, năm nẻo, bốn loài, tâm nhàm chán có thể vào Kiến đạo sâu. Cõi trên chẳng như vậy, nếu chỉ đoạn sở tri chướng, chẳng nhờ tâm nhàm chán sâu, chỉ cầu Bồ-đề chẳng vui thích giải thoát, cõi trên cũng được vậy, có Thanh văn ở cõi Sắc hồi tâm vào Kiến đạo v.v... đây gọi là trực vãng, kia nói là đến nhóm hợp, cũng không trái nhau.
Quyển 73 giải thích vô tướng chọn hữu tâm sở có mười lần giải thích, nên xem văn đó.
Hỏi: Nếu thừa nhận trí Vô phân biệt có kiến không có tướng, như Tự chứng phần, sao chẳng tức duyên tự chứng? Nếu vì trong ngoài thủ nên chẳng được, đã vậy, nên thành chỗ Tướng phần nhiếp, tức Tự chứng phần nên chẳng thành Tướng phần, tức tự chứng nên duyên tự chứng. Nếu vì tướng tánh riêng biệt nên chẳng được duyên là tướng tánh riêng biệt nên Tướng phần duyên, nó không tướng nên chẳng thể làm so sánh. Lại, lẽ ra Vô phân biệt nên gọi là không thể chọn thật có Tướng phần, lẽ ra Vô phân biệt nên gọi là không có thật tướng, có Tướng phần. Tướng tức là tướng trạng, trạng mạo, không có tướng trạng này thì pháp của thể tướng chẳng phải là không có thể của cảnh. Vì tướng sai biệt của vô phân biệt nên gọi là không có Tướng phần. Nói Kiến phần thông cả phi phân biệt, nên trí kia có.
Kiến đạo, hai sư nói Thắng tấn đạo duyên gì làm cảnh? Tức duyên cảnh của Giải thoát đạo, lại không có hành tướng riêng, nghĩa này nên tư duy. Có nghĩa tiệm là, y sớ dùng ba tâm làm tiệm.
Quyển 59 ghi: "Ba tâm là đốn", chuẩn cứ văn đây giải thích, đốn thông một tâm, ba tâm. Các giải thích tiệm như Biệt sao nhiều ít dẫn riêng.
Ba tâm phân thô tế như Biệt sao quyển 1 giải thích. Kiến đạo của Đại thừa là chỉ an lập, cũng có một tâm chẳng phải an lập, có hai thuyết; hoặc có hoặc không. Ba tâm Kiến đạo Nhị thừa đó là chỉ đoạn nhân chấp, chỉ y hai tâm, chẳng phải an lập cũng không ngăn ngại. Hai loại mười sáu tâm, Đế cảnh trên dưới tạo tác trước, mười sáu tâm trước tạo tác sau. Trước quán sơ sự, sau quán kỹ lý. Lại, các giáo chỉ nói Đạo loại trí gọi là đã biết căn, vì kiến lập quả Dự lưu. Nay lấy tướng thô hiển, do đó trước nói quán trí, sau nói hiện tiền, chẳng hiện tiền, y thân cõi Dục nhập hiện quán. Luận sư đối với phi Sắc giới nhập hiện quán cũng vậy. Họ nói cõi trên cõi dưới riêng biệt. Mười sáu tâm đây, Độc giác Thánh giả tại sao chẳng nói? Vì hành vi chẳng ra khỏi quán, tâm đây chưa mãn, tuy đến tâm thứ mười sáu vẫn chẳng gọi là quả thứ ba. Nếu chẳng phải tưởng đoạn chín phẩm chướng, vô gián, giải thoát, sát-na, tư duy đó có thể biết. Nếu chẳng tạo tác tướng Kiến đạo này thì có ý gì? Ý đó nên tư duy.
Ba thứ hiện quán hãy xem trong phần Sao. Thánh tánh, có giải thích lấy chung tất cả năng sinh hiện hành chủng tử Vô lậu, chẳng đồng dị sinh tánh, vì nó khéo phát nghiệp chiêu sinh phẩm loại, chỉ có Kiến đạo. Từ Địa thứ tám trở lên, Bồ-tát chẳng sinh cõi Dục, tại sao chẳng gọi là Bất hoàn? Lại có tánh bất định vì muốn trở lại sinh cõi Dục, Bồ-tát đốn ngộ trở lại cõi Dục làm việc lợi sinh.
Đối Pháp quyển 13 nói mười hiện quán gồm:
1. Pháp hiện quán, tối thắng thuận giải thoát phần chỗ thiện căn nhiếp thanh tịnh thắng giải. Nếu chuẩn cứ Du-già nói sáu hiện quán, chỉ có thủ hỷ thọ tương ưng tư sở thành tuệ. Nếu chuẩn cứ luận Hiển Dương nói mười tám hiện quán, thông văn tư tu, ba tuệ tối thắng. Nhưng Đối Pháp giải thích nghĩa hiện quán, tức ở như chỗ trên nói trong pháp. Như lý tác ý tăng thượng duyên lực, nên biết pháp quán cũng tức tư tuệ, vì như lý tác ý, nay theo Duy thức chỉ lấy tư.
2. Nghĩa hiện quán, tức tối thắng thuận quyết trạch phần Noãn làm hạ phẩm, Đảnh Nhẫn làm trung phẩm, Thế đệ nhất pháp làm thượng phẩm.
3. Chân hiện quán, nghĩa là Kiến đạo.
4. Hậu hiện quán, nghĩa là Tu đạo. Hai đây chung, Duy thức riêng, Duy thức đứng về an lập và phi an lập riêng biệt. Đối pháp đứng về đạo vị riêng biệt cũng chẳng trái nhau.
5. Bảo hiện quán, tức tín hiện quán, được bốn tín chẳng hoại, chẳng riêng lấy vô tướng. Du-già v.v... rộng, vì thông Hữu lậu, hoặc khéo vượt ác. Đối pháp chỉ nói tên bảo. Duy thức lấy chung tất cả tín.
6. Chẳng hành hiện quán, nghĩa là giới khéo ngăn phạm giới, chẳng phải chẳng hành.
7. Cứu cánh hiện quán, đồng Duy thức.
8. Thanh văn.
9. Độc giác.
10. Bồ-tát.
Ba loại này đứng về năng chứng thừa riêng biệt. Duy thức chỉ đứng về sở chứng, hành rõ rộng gọi là hiện quán. Do đó, trừ Quyết trạch phần, chẳng đứng về nhân làm luận, do đó không có ba Thừa. Đối Pháp chẳng đứng về rộng lược, chỉ rõ minh liễu thân đắc, gọi là hiện quán. Đứng về nhân và pháp làm luận, do đó có mười sáu, chẳng trái nhau. Luận Hiển Dương quyển 17 ghi: "Sáu và mười tám", sáu thì đồng luận đây, còn mười tám gồm:
1. Văn.
2. Tư.
3. Tu.
4. Quyết trạch phần trí.
5. Kiến đạo.
6. Tu đạo.
7. Cứu cánh đạo.
8. Bất thiện thanh tịnh thế tục trí.
9. Thiện thanh tịnh thế tục trí.
10. Thắng nghĩa trí.
11. Bất thiện thanh tịnh hữu phân biệt trí.
12. Thiện thanh tịnh hạnh hữu phân biệt trí.
13. Thiện thanh tịnh hạnh vô phân biệt trí.
14. Thành sở tác gia hạnh trí.
15. Thành sở tác trí.
16. Thành sở tác hậu trí
17. Thanh văn v.v... trí
18. Bồ-tát v.v... trí hiện quán.
Trong mười tám hiện quán này chia làm năm vị. Bảy thứ đầu đứng về năm đạo để nói rõ hiện quán. Hai loại tiếp theo, y chân tục trí để nói rõ hiện quán. Ba loại tiếp theo, y Hữu lậu Vô lậu có phân biệt và không phân biệt để nói rõ hiện quán; Ba loại tiếp theo, y ba trí gia hạnh, căn bản và hậu đắc để rõ hiện quán, sau cùng hai, y thượng thừa và hạ thừa để nói rõ hiện quán. Nhưng đây chỉ nói rõ tuệ quán. Quán sát các pháp nên chẳng lấy tín và giới, nhưng Giải thoát phần trí có định, tán khác nhau. Ba tuệ loại khác nên phân ba thứ. Trong chân tục trí, Hữu lậu chỉ có thế tục, Vô lậu thông cả hai, nên hợp phân ba thứ, trong có phân biệt và không phân biệt cũng có Hữu lậu Vô lậu riêng biệt, Vô lậu thông cả hai, Hữu lậu chỉ có phân biệt. Y ba nghiệp hành để hiển trí riêng khác. Trong đây, Thành sở tác chẳng phải Thành sở tác trí trong bốn trí, mà chính là vốn mong Sở tác trí. Gia hạnh, chánh thể, hậu đắc, như các Vô lậu trí thượng thừa hạ thừa nhân quả đều luận chung, nên chỉ có hai thứ. Duy thức nói sáu hiện quán, Đối Pháp nói mười hiện quán cũng không trái nhau. Nhiếp luận quyển 6 nói mười một thứ hiện quán sai biệt, tức đồng Đối Pháp quyển 13. Thanh văn, Bồ-tát hiện quán sai biệt có mười hai loại, lại không có loại khác.
Trong Kiến lập sáu độ, ba tướng sáu độ, nên hỗ tương nhiếp nhau. Sáu độ lấy tám pháp làm thể, túc là Vô tham, thân nghiệp sắc, ngữ nghiệp thanh, ý nghiệp tư, vô sân, tinh tấn, tuệ và định. Hoặc mười một, tức là thêm dục, thắng giải, tín. Biến hành có một là tư. Biệt cảnh có bốn là Dục, giải, định, tuệ. Thiện có bốn là Tín, cần, vô tham và vô sân. Sắc pháp có hai là thân và ngữ nghiệp. Hành tướng ba cõi chín Địa. Địa tiền, Địa thượng mỗi mỗi hành tướng thuần bốn câu, mỗi mỗi tự làm sáu độ, cùng mong nhau làm bốn câu, gọi là tạp. Y chủng loại phước có bốn câu, chẳng y câu có không. Sáu độ, năm quả, nên mỗi thứ chẳng đồng.
Dị sinh tánh chướng tức phân biệt chướng chủng. Ba cõi đủ có tên vì sao lại Dị sinh? Nếu lấy năng sinh có lìa hạ nhiễm, trên dưới khác nhau, nhiễm pháp đều khởi. Tên tại sao là Dị sinh? Nếu lấy y địa này thì Thức thức tám có nên được tên Địa đây, nên tự Thức thứ tám gọi là Dị sinh. Sao phải chướng chủng? Nếu chẳng như vậy, Bồ-tát Thập địa,
Địa này Thức thứ tám chưa đoạn, nên thành Dị sinh. Do đây nên biết, y Địa này, Thức thứ tám phân biệt hai chướng ngại chủng lập. Tánh chỉ nhiễm ô, thuộc về tánh Hữu phú. Thể của hai chướng nhất định, mong hai chướng cũng vậy, nên tư duy.
Quả nẻo ác đó chẳng phải pháp nhiễm ô, tại sao Kiến đạo nói chẳng đoạn? Vì như diệt không còn thừa.
Địa thứ hai gọi là Ly cấu, không nhầm chấp phạm ba nghiệp. Sơ địa nhầm phạm, còn phải tư duy chọn lựa. Địa này chẳng như vậy, như lúc bò đi, trùng tự phân đường, mặc tình chẳng bị tổn thương, nên không nhầm phạm. Sơ địa chẳng như vậy, do có nhầm phạm. Tại sao mười chướng chỉ gọi là tà hạnh? Hai ngu gồm nói nhầm phạm ba nghiệp, là căn bản, nó cũng thuộc về tà hạnh. Giải thích thứ hai cho rằng, hoặc chỉ khởi nghiệp, chẳng rõ nghiệp ngu, tức thuộc về tà hạnh.
Địa thứ ba ám năng chướng, đối với pháp văn tư tu quên mất, tại sao Sơ địa gọi là đã được Bất thoái, đây còn quên ư? Lại, Bồ-tát địa giải thích: "Thắng giải hạnh vị đối với điều làm, điều tư duy, pháp sơ thuyết đã lâu có lúc quên mất". Nhập Địa thì không như vậy, tại sao nay nói có quên mất? Chỗ định vị đắc, phần nhiều quên mất, hàng Địa tiền còn có, hàng Địa thượng đều không, gọi là chứng Bất thoái. Chỗ văn tư tu đó đắc, còn ít có lùi quên, chẳng phải nhiều. Lại, chỗ Vô lậu đắc không quên, chỗ Hữu lậu đắc cảnh ba tuệ còn quên, cũng chẳng trái nhau, ba định thành không, nên lẽ ra không phải là Bất thoái. Tại sao các Địa trong mười chướng đều nêu phần ít, chỉ có Địa thứ hai, thứ ba, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy, thứ tám, thứ chín, thứ mười, thứ mười một, chướng nhiếp hai ngu đều hết, vì nhiếp pháp hết. Chỉ bốn Địa đầu có chung có riêng. Sơ địa, Dị sinh tánh là gốc, nẻo ác ngu là ngọn. Đây theo giải thích trước, nếu theo giải thích sau, tức tổng nhiếp hết, nên không cần phải nói. Địa thứ tư chướng thân kiến v.v... không nằm trong hai ngu. Hai ngu chẳng nói là mười chướng là có ý gì? Đáp: Hai ngu căn cứ nhân, chỗ Địa tiền khởi ngôn thuyết cùng với loại sau làm chướng. Thân kiến v.v... căn cứ chỗ hành lâu xa, gọi là mười chướng. Lại mười chướng căn cứ nhân nói, thân kiến v.v... khéo khởi các phiền não chướng. Hai loại sau làm quả chánh cho năng chướng nên nói là hai ngu, nghĩa này cũng không trái nhau.
Tại sao chín Địa chướng? Ba Vô ngại giải là một chướng, ngoài ra một Vô ngại giải làm một chướng là có ý gì? Cần phải thông đạt ba loại trước mới biện luận được. Trước, sau, nặng, nhẹ, khai hợp chẳng đồng. Địa thứ mười chướng thần thông là một, Trí vân và Sở tàng là một, vì đức bên trong và nghiệp bên ngoài khác nhau.
Tại sao các Địa khác, chướng đều có hai ngu, chỉ có Địa thứ tư chướng chẳng tức là hai ngu? Dị sinh đã chẳng đoạn thô trọng, tại sao hai Tĩnh lự đoạn khổ căn thô trọng? Nhị thừa cũng như vậy, nay giải thích phàm phu chiết phục phần nhỏ hiện hành thô trọng. Nhị thừa cũng có thể diệt được phần ít chủng tử, khổ căn thô trọng trong định chướng, nghĩa này cũng không ngăn ngại, như lý nên tư duy.
--------------------------------------
Nên nói ba Thừa đoạn kiến, tu khác nhau. Thức thứ bảy trong đốn đoạn mặc tình chọn lựa Kiến đạo, tất cả bên trong khởi chọn Tu đạo, bên ngoài duyên sự Độc đầu tham sân si v.v... vì hai nghĩa này nên không có thô tế. Nói không có thô tế, chọn lựa Tu đạo trong ngoài duyên mê lý, thân kiến biên kiến và đây tương ưng. Chín địa đoạn vì có thô tế, như vậy tổng chọn lựa hết tất cả hoặc.
Trong phần Bồ-tát dùng phiền não trợ nguyện thọ sinh, chỉ dùng thế lực hiện hành xa giúp, chẳng phải như nhuận sinh ái v.v... như Hoặc của hành sát sinh, tham, sân v.v... mới được lợi lạc, chưa được Vô lậu thắng đạo lợi sinh, cho nên dùng tham sân dẫn Vô lậu đạo, năng lợi ban đầu, gọi là trợ nguyện, chẳng phải như tham v.v... nhuận sinh dụng đó. Do đây nên làm bốn câu phân biệt, chỉ có hiện hành nhuận chẳng phải chủng tử, nghĩa là Bồtát từ Địa thứ bảy trở về trước. Chỉ có chủng tử nhuận chẳng phải hiện hành, đó là quả thứ ba. Có đồng thời nhuận, đó là tất cả chúng sinh. Có đồng thời chẳng phải nhuận, đó là biến dịch và hóa thân v.v...
Câu sinh Địa tiền chiết phục dần dần, hàng Địa thượng chiết phục hết. Đây y sáu thức làm luận. Tại sao Kiến sở đoạn phiền não tùy chỗ biết phục và chẳng phục? Câu sinh phiền não chỉ có nhập Địa mới chiết phục, chẳng tùy chỗ biết. Chỗ biết phục sau, phiền não phục trước. Kiến sở đoạn thì không như vậy, kiến chướng lợi nên đồng thời, tu chướng ngại độn nên dần theo thứ lớp. Lại Kiến đạo mạnh, Tu đạo chẳng như vậy, nên lưu lại phiền não vốn nghĩ nhuận sinh. Từ Địa thứ tám trở đi không có Phần đoạn tử, chẳng gá phiền não trợ nhuận, tức phục mà thọ biến dịch, tại sao chẳng đoạn?
Đáp: Như Sơ địa khiếp sợ phiền não, tức phục mà thọ biến dịch, cũng như Nhị thừa hữu học hồi tâm tức thọ biến dịch, tuy không có Phần đoạn, chẳng đoạn phiền não, tại sao như vậy? Phiền não tuy chẳng phải thân gần trợ nhuận biến dịch, như phần đoạn sinh, thế xa cũng có. Lại, hoặc chủng tại biến dịch thời gian dài, chẳng mượn thường trợ giúp. Nếu không có Hoặc chủng biến dịch thời gian ngắn, như Nhị thừa vô học phải luôn luôn trợ giúp. Nhưng có bốn câu, chỉ có định thắng không có hoặc trợ, cũng chẳng có thời gian dài thọ biến dịch, như Nhị thừa vô học hồi tâm, tuy có hoặc chủng trợ mà không có thắng định giúp, cũng chẳng có thời gian dài. Như Nhị thừa hữu học hồi tâm, có hoặc trợ và thắng định trợ giúp, tức biến dịch thời gian dài thọ, như Bồ-tát Thập địa cho nên nguyện lưu lại đó, chẳng đồng Nhị thừa đoạn dứt, chẳng được chẳng phải cho nên lưu lại. Lại, Nhị thừa chỉ có chủng tử trợ, chẳng do nguyện giúp, mà chẳng gọi là lưu lại. Bồ-tát chánh do nguyện giúp, bên cạnh do chủng tử trợ giúp, nên nói lưu lại đó, nếu tức đoạn đó ở sinh không có lực, nhân của Hoặc mất quả tùy theo đó cũng hết. Lại do Bồ-tát ý vui thích Bồ-đề, Thập địa luyện căn chẳng nhờ đoạn phiền não, phiền não hiện tại chẳng chướng ngại việc đắc Địa, nên gọi là lưu lại.
Kiến đạo đốn đoạn, quyển 59 ghi: "Ba tâm cũng gọi là đốn, nhưng sở tri chướng và phiền não chướng, mỗi phân làm hai. Thế nào là hai? Nếu do chín phẩm, thô phẩm đoạn trước, tức mười địa Tu đạo nên trước đoạn thô, nếu do tùy sở chướng đạo để biện rõ thô tế, chín địa chẳng định, tức phiền não phẩm. Thế nào là tùy sở tri để rõ thô tế? Nghĩa này nên tư duy. Nay giải thích là, như mười địa Tu đạo, chỗ đoạn của mỗi địa, trước là thô, sau là tế.
Phiền não tùy kia để nói thô tế, đây cũng nên vậy. Trong Kiến đạo tự phân biệt lực thô đoạn trước. Tha dẫn lực tế đoạn sau, có trước phục phiền não vượt quả thứ hai thứ ba, không phục sở tri chướng mà vượt vào hai địa, nhưng vào địa rồi, như nghe nửa bài tụng để xả thân cũng có vượt là, nhưng không vượt đại kiếp, vì rất khó đoạn v.v... vậy, nghĩa này nên tư duy.
Trong một loại Nhị thừa ba cõi chín Địa mỗi phẩm đoạn riêng, có hai nghĩa: một là thiếu không có người vượt qua; hai là trong đây gồm hết. Đạo đời trước cũng chín phẩm, sau chẳng phục cũng có chín phẩm. Bồ-tát lợi căn Kiến đạo đã thừa nhận phân làm ba. Nhị thừa căn độn Kiến đạo lẽ ra có ba phẩm, tại sao kia chỉ có một, đây có ba? Bồ-tát hai chướng làm ba, Nhị thừa một chướng làm hai, vì phân ra thô tế.
Quyển 69 nói trước có Thắng tấn tức sau có Gia hạnh, chỗ sau có đạo tức Thắng tấn trước, văn đồng với Đối Pháp. Bốn đạo dùng các môn phân biệt tác dụng có hai giải thích.
Trong tổn lực ích năng chuyển, có sám hối tội diệt, lẽ ra phải thuật. Quyển 60 nói nghiệp có bốn thứ đó là: Dị thục quyết định thời quyết định, hai chung cùng bất định, hai chung cùng định và A-lahán thọ tàn khổ v.v... và vua A-xà-thế diệt được nghiệp ngũ nghịch. Du-già ghi: "Người nương chưa giải thoát kiến lập định nghiệp" là hai giải thích, hòa hợp nên biết.
Bốn trí, như Phật Địa giải thích, mỗi thứ có mười dụ, nên xem văn đó.
Hữu lậu từng tập cùng chấp chỗ dẫn v.v... nay quán ý đây, Hữu lậu quán tâm do cùng chung Hoặc của Thức thứ bảy trước cùng chấp thế lực sở dẫn, mới thuận ở chướng chẳng đoạn Tùy miên, Vô lậu thì không như vậy.
Mới đầu có nghĩa Vô phân biệt trí thân chứng hai Không có thể đoạn Tùy miên, như quyển 64 ghi: "Nếu An lập đế đã lập làm Đế thì đâu cần phải nói Phi an lập?
Đáp: Do An lập đế chọn đối với có tướng, vì có tướng nên tướng trói buộc chưa thoát, tướng trói buộc chưa thoát, nên đối với thô trọng trói buộc cũng chưa có thể đoạn. Do đây, nên biết chỉ có Vô phân biệt trí đoạn các Tùy miên. Thứ hai, có nghĩa Hậu đắc vô phân biệt trí đoạn mê sự Tùy miên, như văn trước giải thích, trước căn cứ đoạn mê lý Tùy miên chẳng phải đoạn mê sự. Lại, trước đứng về đoạn rốt ráo tất cả thô trọng, chẳng phải trong nhân vị đoạn hai chướng chủng mà nói. Lại, trước đứng về Hữu lậu an lập và Vô lậu An lập đế, chẳng phải Hậu đắc duyên phi An lập, vì cũng không phân biệt tướng, tức luận kia ghi: "Nếu chẳng cần duyên phi An lập là có định tâm cực tịnh thuận Quyết trạch phần lúc chuyển duyên các Đế, nên đoạn Tùy miên kia đã chẳng như vậy, nên chỉ chọn lựa Hữu lậu v.v... chẳng phải là tận lý, không phải là quả". Hãy tìm đọc trong văn đó.
Trong sớ nói chỉ có Nhị thừa dùng nó chứ chẳng phải Bồ-tát, nay giải thích Bồ-tát cùng dùng trí này. Trong mười Địa, chẳng phải niệm niệm chỉ đoạn pháp chấp, cũng có lúc đoạn riêng pháp chấp sở tri chướng. Sư trước giải thích thế và xuất thế đoạn đạo trong Tu đạo là, đây y Bồ-tát Tu đạo chỉ dùng Vô phân biệt trí, gọi là thế xuất thế đạo, có chân tục hợp dùng trí đoạn. Như nêu thù thắng nghĩa là người hạ hạ Địa đoạn chướng, tuy chẳng do tục nhưng hẳn cùng chung thời. Nếu chẳng như vậy thì lẽ đâu Thắng địa sau chỉ có Vô phân biệt trí, chẳng cùng Hậu đắc đồng thời mới đoạn hoặc ư? Mới đầu, chỉ có xuất thế đoạn đạo thông ba Thừa, sau gồm Bồ-tát nên làm thuyết đó. Hai lý giáo ngang bằng, mặc tình lấy bỏ.
Thể Đại Niết-bàn có hai nghĩa: một là lý, hai là sự, tức ở Chân như có ba nghĩa: Ma-ha Bát-nhã, Giải thoát và Pháp thân. Hai thể ba sự, ba thể mỗi loại riêng biệt, hợp chung gọi là Đại Niết-bàn.
Mười địa chẳng khởi năm thức Vô lậu. Tỷ lượng rằng, năm căn Hữu lậu trong mười Địa hẳn chẳng có thể phát năm thức Vô lậu, Hữu lậu chẳng chung cùng ắt chung cùng đồng chỗ căn cảnh nhiếp, như vị của Địa tiền.
Nói thường, lạc, ngã, tịnh v.v... để trừ bốn tâm điên đảo của Nhị thừa. Nhị thừa chánh chứng pháp tánh đây là chẳng phải làm giải thích thường và vô thường v.v... do tâm Gia hạnh làm giải thích vô thường v.v... đây thể nhập. Sau, lúc xuất quán lại quán quán trước, chẳng xét sở duyên bèn thấy gia hạnh, cho rằng chỗ chân trí đó duyên cũng là vô thường, bèn cho các pháp chân thật vô thường. Các tâm gia hạnh và Hữu lậu hậu đắc tuy chẳng phải là chấp tánh đều là thiện, nhưng do Thức thứ sáu, thứ bảy pháp chấp chưa mất, dẫn thiện tâm Hữu lậu mà làm giải thích đây. Đối với quả của pháp sở chấp dẫn Hữu lậu quán tâm, nói năng dẫn pháp chấp chướng là điên đảo. Nếu lúc không có pháp chấp thì quán này chẳng sinh, nên do phàm vị trước khởi bốn điên đảo, hoặc mười hai đảo, đó là tưởng, tâm, kiến v.v... chấp thân v.v... là tịnh, Phật vì trừ chấp đó nên nói hành vô thường v.v... là chẳng phải thường v.v... khiến họ chứng đắc. Luận chân lý đó chẳng phải thường, vô thường, nhưng Nhị thừa là tùy Phật phương tiện nói và pháp chấp dẫn làm giải thích vô thường v.v... Nay vì trừ khiến họ chứng cực quả, nói Chân như đây là thường, ngã v.v... khiến họ khởi hành phương tiện này hướng vào chứng pháp đó. Chánh lúc chứng nó chẳng thường, vô thường, chư Phật hoặc nói ngã, hoặc có lúc nói vô ngã. Trong các pháp thật tướng, vô ngã không gì chẳng phải ngã, ngoài ra đều như vậy. Đây y các pháp chỉ có Thức thứ sáu, thứ bảy có nhiễm tâm có chấp làm luận. Từ Địa thứ tám trở về trước, khởi bát Niết-bàn chướng, tế sinh diệt v.v... chướng của Thừa sau, đều chuẩn cứ giải thích như đây. Từ Địa thứ tám trở đi chẳng luận hiện hành, quán tâm làm chướng.
Luận sư An Tuệ nói Vô lậu, tất cả Hữu lậu trong nhân đều có pháp chấp. Nói Nhị thừa tâm Vô lậu v.v... bốn điên đảo, từ Địa thứ tám trở về trước nói công dụng gia hạnh là chướng. Nếu không như vậy thì Gia hạnh đạo lẽ ra chẳng phải thuộc về hai ngu. Do đây, tất cả thiện tâm Hữu lậu và nhân Vô lậu đều có pháp chấp, nay luận chân lý chẳng phải thường, vô thường là đoạn pháp chấp vô thường mà nói là thường, lạc v.v... chỗ các thiện y. Hiển tánh không tham sân si v.v... các thứ phiền não, nhân đó làm thiện, năng thuận các thiện cùng thiện làm y nên gọi là đủ công đức.
Nói Pháp thân chánh tự lợi, hiển bày chẳng đồng thuyết lợi tha mà triển chuyển nói. Tự thọ dụng thân đó tu nhân, vốn vì lợi tha nên tu, lại là chỗ lợi tha y chỉ nên chẳng nói. Đối tha thọ dụng v.v... nghĩa tự lợi nhỏ nhiệm, do đó chẳng nói, lý cũng không ngăn ngại.
Tha thọ dụng biến hóa, tại sao chẳng nói tự lợi? Chư Phật lợi tha, tức tự lợi, lý cũng nên như vậy. Ý cho rằng lợi tha biến hiện sinh, từ ý lạc nói là lợi tha. Tư lương vị trước gọi là tất cả công đức đều thuộc hai lợi, tùy lực ý lạc, nay đây tùy tăng thượng, nên ba thân khác nhau.
Tự thọ dụng thân như Tịnh độ thân lượng khắp pháp giới là phải làm hai giải thích: một là Thật như vậy, hai là Y dụng nói vì trí là Phật, do sở chứng vô biên, như thế gian nói chỗ thấy ở cao nói là lỗ mắt lớn, sở học rộng nên nói trí tuệ lớn.
Trong môn Bốn trí duyên cảnh, tự thọ dụng độ, chỉ có tịnh Vô lậu, ngoài ra chẳng thấy vậy, chỉ chỗ Phật biết. Tha thọ dụng độ vốn chỉ có Vô lậu, tịnh, những gì được thấy chỉ là tịnh, vì tất cả bất thiện, các quả Dị thục đều đã không có, nhưng thông Hữu lậu Vô lậu. Thức thứ tám, năm Thức quán Hữu lậu, người thấy là ở uế độ, lợi lạc hữu tình cũng là hiện uế, thấy cũng thông uế, thông các thức cảnh. Hóa độ vốn chỉ có Vô lậu, nhưng có tịnh uế, thấy cũng vậy thông cả Hữu lậu, Vô lậu nhưng có tịnh uế. Bồ-tát Thập địa cũng được thấy vậy, vì trên biết dưới. Nhưng do vốn là Bồ-tát Thập địa hiện Tịnh độ, luận nói Hóa độ có nói tịnh đó. Hóa độ vốn là chỗ thấy của hàng Địa tiền v.v... chẳng riêng nói tịnh. Tổng nói thấy thân độ mỗi căn cứ tăng thắng mà nói, cũng không trái nhau vì dưới chẳng thấy trên. Hàng Địa tiền và Nhị thừa hẳn không thấy Tịnh độ Vô lậu.
Trong đây, các độ đều có cảnh bốn trí, do tùy tăng thắng, vốn kích phát nhân nói trí riêng hiện. Nếu chẳng như vậy thì liền có lỗi chẳng phải biến trí. Nếu năm uẩn của Phật thừa nhận là uẩn v.v... thâu, tại sao chẳng thừa nhận Phật là thuộc về hữu tình? Hữu tình y Dị thục, Phật chẳng phải hữu tình, tánh nhiếp trì gọi là pháp, Phật có thể là pháp thâu nhiếp.
Giải thích nghĩa thuần tạp do tăng kém chẳng đồng, chỉ y Tướng phần thân gần mà nói. Nếu y ảnh, chất, lại nói chẳng đồng. Tự địa trong ảnh biến thuần, sức thần thông dẫn tạp, chẳng phải tám duyên hiện thuận trong sức thần thông, duyên chủng tạp. Trong Thức thứ bảy gọi là ảnh thuần tạp, vì ảnh từ kiến, chất mà nói tánh. Năm thức tâm thiện ác tạp, tâm Vô ký thuần. Thức thứ sáu, thứ năm chung cùng đều thông. Pháp nên tư duy chuẩn cứ. Trong giả thật đứng về thức phân biệt lại riêng biệt, có không đối nhau, Hữu vi Vô vi đối nhau, Hữu lậu Vô lậu đối nhau, Tự giới tha giới duyên đối nhau, Tư duy chuẩn cứ thuần tạp.