TẠNG LUẬN
SỐ 1832 - THÀNH DUY THỨC LUẬN LIỄU NGHĨA ĐĂNG
Tỳ-kheo Tuệ Chiểu, chùa Đại vân, Truy châu soạn.
Sư thứ hai giải thích, Mạt-na thông với bốn thọ đồng thời.
Hỏi: Vì sao cõi Dục không phải cùng với khổ đồng thời, cho đến Nhị thiền vì sao không cùng với lạc thọ?
Đáp: Sớ đã lựa ra xong.
Vì sao cùng với ưu hỷ đồng thời?
Đáp: Vả lại cùng với hỷ đều có ba giải thích:
1. Hỷ cùng theo Thức thứ sáu đồng thời, Thức thứ bảy cùng với sáu đồng thời nói: Cùng với hỷ tương ưng, nếu không như vậy, vì sao nói rằng duyên theo hữu hỷ địa nghiệp thiện đã dẫn quả, không duyên theo Thức thứ sáu, nên giải thích này trái.
2. Quả theo nhân, hoặc theo hỷ thọ tương ưng tư, đã cảm được Thức thứ tám này, Thức thứ bảy duyên theo dẫn nghiệp quả này, tên gọi duyên theo hữu hỷ v.v... cùng với hỷ thọ đồng thời.
3. Tương thuận cho nên đồng thời, như nói năm thức duyên theo Tướng phần trước, tướng này theo năm thức trước huân tập mà thành, năm thức duyên sau nói duyên theo tướng trước, nghĩa này cũng như vậy. Quả này theo hỷ và tương ưng tư được chiêu cảm, tuy duyên theo cảnh này thuận theo duyên kia, nên nói cùng với hỷ đồng thời, còn lại thọ tương ưng ba giải thích, chuẩn theo đây.
Hỏi: Sớ ghi: Nếu bốn thọ đồng thời thì tâm Kim cương chẳng phải liền đoạn lỗi, nói cùng với thọ đồng thời, đâu không phải dần dần đoạn, vì thay đổi địa xả?
Đáp: Nếu hỷ v.v... đồng thời, nhất định tùy theo Địa riêng, nhiễm pháp đều đoạn, như sáu thức, nếu xả thọ đồng thời, tức là có thể liền đoạn, như Thức thứ tám, xả đồng thời liền đoạn, lý đó rất thành tựu, nên không có lỗi.
Hỏi: Luận rằng: Duyên bên trong chấp ngã, ngã kiến này là chỉ Kiến phần, gọi là ngã kiến, Tự chứng phần cũng thuộc về ngã kiến?
Đáp: Thiết lập đều lỗi gì!
Hỏi: Đều có lỗi, nếu không gọi là ngã kiến, tham sân cũng như vậy, tự chứng phần kia sẽ chẳng phải tham v.v... nếu gọi là ngã kiến sẽ thừa nhận duyên bên ngoài, vì sao gọi là duyên bên trong, cũng sẽ chẳng phải lượng nhiếp?
Đáp: Chỉ Kiến phần gọi là ngã kiến, chẳng phải Tự chứng phần ngã kiến Tự chứng phần chỉ gọi là nhiễm tuệ, vì sao không đồng với tham v.v...?
Đáp: Tham v.v... xứng hợp với cảnh cũng được sinh tham, như năm thức đồng thời v.v... ngã kiến không xứng hợp với cảnh, Tự chứng phần chẳng phải ngã kiến.
Hỏi: Vì sao không xứng hợp, tức là chẳng phải ngã kiến, chỉ gọi là nhiễm tuệ?
Đáp: Như duyên theo Vô vi, duyên theo cõi khác v.v... lúc Kiến phần không xứng hợp với Vô vi, cõi khác, chỉ Kiến phần gọi là Vô vi duyên, cõi khác duyên, Tự chứng phần không được gọi là Vô vi duyên v.v... ngã kiến cũng như vậy. Lại nếu tự thể của kiến gọi là ngã kiến tức là được nếu duyên theo ngã nên gọi là ngã kiến, tự chứng tức là trái, tham v.v... cũng như vậy, nếu duyên sắc khởi tham, gọi là tham v.v... Tự chứng tức là trái, không duyên sắc, tham tự chứng nên gọi là tham v.v... Tự chứng cũng phải.
Luận: Tương ưng này chỉ là xả thọ.
Hỏi: Thức thứ bảy duyên theo Thức thứ tám, tùy theo duyên chỉ là xả thọ Thức thứ sáu duyên theo Thức thứ bảy, thứ tám, tùy theo nó chỉ là xả thọ.
Đáp: Thức thứ bảy thường duyên bên trong, theo cảnh chỉ là xả thọ, Thức thứ sáu duyên theo trong ngoài, không phải chỉ là xả thọ.
Hỏi: Thức thứ sáu là năng dẫn, Thức thứ bảy là sở dẫn, tùy theo năng dẫn kia thành tựu Vô lậu, Thức thứ bảy là sở dẫn Thức thứ sáu là năng dẫn, nên tùy theo năng dẫn thông với ba thọ.
Đáp: Lúc Vô lậu khởi khó, tùy tha khởi Vô lậu, duyên cảnh thường mặc tình, nên không thông với ba thọ.
Hỏi: Thức thứ bảy Vô lậu, tha dẫn sinh, không tùy theo năng dẫn thông với ba thọ, Thức thứ bảy Vô lậu do tha dẫn, không tùy theo năng dẫn đồng với một Địa.
Đáp: Lúc tịnh pháp khởi khó, tùy theo năng dẫn khác đồng một địa xả thọ mặc tình khởi, không theo năng dẫn, thông với ba thọ.
Hỏi: Thức thứ bảy mặc tình khởi, không theo năng dẫn thông với ba thọ.
Đáp: Năm thức dễ thoát khởi, tùy thông với ba thọ, Thức thứ bảy duyên theo một loại, không theo ba thọ khác.
Hỏi: Năm thức mặc tình dẫn sinh kia, tức là theo năng dẫn thông với ba thọ, Thức thứ bảy một loại dẫn khởi kia, tức là tùy theo năng dẫn thông với ba thọ.
Chất vấn đáp rằng: Năm thức tuy dẫn nó, không theo năng dẫn tầm tứ, đồng thời, bình đẳng tuy dẫn nó không tùy theo năng dẫn, thông với ba thọ.
Luận: Nếu cùng với tàng thức có khác v.v...
Yếu Tập ghi: Có thuyết nói, có giải thích ba vị vô nên không phải nghĩa hằng chuyển, cũng không hợp với lý, chưa đoạn diệt, đến thường nối nhau khởi, đồng với Thức thứ tám, chưa nhập vào bốn vị, thường gọi là Lại-da, nên nương theo hữu giải thích, vô nên không nói, hoặc tướng đồng không nói. Nay cho rằng không đúng, Lại-da nếu nhập vào bốn vị, chưa thành tựu được Vô lậu, nên nói hằng chuyển, không phải theo tên gọi nói hằng chuyển như dòng nước, Mạt-na ba vị chuyển thành tựu Vô lậu chuyển thay đổi chẳng phải hằng, nên không như dòng nước.
Luận: Ý này tâm sở vì sao tánh nhiếp? Sớ có hai giải thích, ban đầu nói cả hai hỏi cả hai trả lời, tâm vương do tâm sở thành ra ba tánh, ban đầu nêu tâm vương được hiển bày, nên luận nói: Ý này tương ưng bốn phiền não là nhiễm pháp. Kế đến hiển bày do tâm vương tâm sở thành ra Hữu phú. Luận nói: Đây đều là nhiễm pháp, sở y vi tế, nên cả hai hỏi đáp.
Hỏi: Thức thứ bảy nương theo Thức thứ tám làm ngã, tùy theo cảnh trói buộc một cõi, Thức thứ sáu duyên theo ba cõi làm ngã trói buộc ba cõi?
Đáp: Tự địa hỗ tương tăng ích, tùy theo tự tự địa trói buộc, địa khác không phải tướng khác tăng ích không tùy theo địa khác trói buộc.
Luận: Nhiễm ý của vị này, Sớ ghi: Thông với hai chấp mà nói, Yếu Tập v.v... nói, chỉ nói nhân chấp, không nói pháp chấp, vì sao? Nếu nói pháp chấp, vì sao luận nói hàng Tam thừa Thánh đạo có nghĩa phục, diệt? Hàng Nhị thừa Vô học không phải vĩnh viễn xả.
Lại Hộ Pháp giải thích: Ba vị vô là nơi nương theo nhiễm ý, nên biết pháp chấp không gọi là nhiễm ý. Nay cho rằng chỉ nói đối với luận không trái là bản ý, tuy định tánh Nhị thừa không thể phục đoạn, trông mong nó chẳng phải nhiễm không gọi là nhiễm ý, đối với Đại thừa tánh bất định và định tánh, pháp chấp gọi là nhiễm. Nhưng bất định tánh Sinh không Thánh đạo cũng không thể phục, nên luận nói: Hàng Tam thừa Thánh đạo có nghĩa hàng phục, diệt, nếu chỉ nhân chấp, nên nói hàng Tam thừa Thánh đạo đều có thể phục diệt, nếu chỉ có nhân chấp, lẽ ra nói Tam thừa thánh đạo đều có thể phục diệt, đâu cần phải nói có? Ba vị không có nhiễm cũng lại không lỗi, pháp chấp mong định tánh của Nhị thừa, không gọi là nhiễm, trong ba vị chẳng phải không có, nếu trong mong Bồ-tát ba vị không có, văn bao hàm nghĩa ẩn, còn lại không hẳn như thế.
Luận: Lại như chưa chứng Bổ-đặc-già-la.
Tây Minh lượng nói: Chưa khởi Pháp không sẽ có pháp chấp hằng hành, vì chưa khởi đối trị, giống như địa vị của ngã chấp. Trong lượng dụ đó lập không thành tựu.
Xu Yếu ghi: "Pháp chấp chưa chứng được địa vị pháp không, nên hằng hành, hai chấp tùy một nhiếp, giống như sinh chấp. Có người vọng nêu ra lỗi nói: Nhân có pháp tự tướng tương vi, dẫn lầm Xu Yếu, giải thích trong văn luận tông, nhân sở lập liền đều có lỗi.
Hỏi: Trụ diệt định là Thế Tôn nhập vào diệt định chăng? Đáp: Có ba giải thích:
1. Không nhập, nếu như vậy vì sao đầy đủ các công đức? Đáp: Thành tựu diệt định mà không hiện khởi.
2. Nhập, nếu như vậy, vì sao quở trách Bồ-tát nhập vào? Đáp: Quở kẻ đam mê lạc, các kinh cũng có khuyên Bồ-tát nhập vào.
Hỏi: Tức là nhập vào diệt định, sáu thức không hiện hành, vì sao có thể lợi ích chúng sinh?
Đáp: Do gia hạnh nguyện lực của ý, không khởi diệt định, hiện ra oai nghi giáo hóa chúng sinh. Phật thì mặc tình, không mượn gia hạnh.
3. Tuy tợ như nhập vào mà thật không nhập vào.
Tương truyền kinh Tư Ích nói nhập vào lý diệt định, thức tức là không hành, nhập vào sự diệt định, thức tức là còn khởi. Nói tợ như nhập vào, tức là sự diệt định.
Nhưng kiểm văn trong ba giải thích, giải thích thứ hai trội hơn, nên luận này vặn hỏi, nếu Bình đẳng trí nương theo Thức thứ sáu nên có gián đoạn, thừa nhận Phật hằng hành như cảnh trí, nếu không nhập vào diệt, nếu nhập vào không diệt, tức là Thức thứ sáu hằng hành, làm sao thành tựu vặn hỏi?
Nói tông nhân sở lập liền đều có lỗi. Sớ nói có tự pháp tự tướng tương vi quyết định, sửa đổi nhân kia, nói: Trừ Thánh đạo v.v... ý thức không phải Câu hữu y, là ý thức, như ba vị ý thức, nhân sửa đổi trước, nhân trước cũng sẽ trừ ba vị, thuộc về sáu thức, không có lỗi bất định.
Xu Yếu ghi: "Lại nhân có tự pháp tự tướng tương vi, Vô lậu Vô học ý bất định làm đồng pháp", ý của lượng này nói: Vì bậc Vô học nhập vào hằng, không phải Thức thứ bảy. Nói là bất định là trừ ở diệt định, không phải Thức thứ sáu lúc nhận lấy không nhập vào định, ý Thức thứ sáu làm đồng pháp, nhưng dùng lý luận tông trong đây có hai: một là cùng lập ra ý thức thứ sáu; hai là lựa ra bỏ ba vị nhận lấy Thức thứ sáu khác. Nhân cũng có hai: một là nhân chung thuộc về sáu thức, hai là nhân riêng cũng lựa ra ba vị, chẳng phải ba vị sáu thức khác nhiếp, tùy theo chỗ ứng, do hai nhân đều thành hai tông, lỗi suy nghĩ có thể biết.
Luận: Ban đầu tất cả dị sinh tương tục. Tây Minh có hai giải thích: Một, nói rõ chấp tương tục; hai, nói thân của tương tục, ý lấy giải thích này.
Yếu Tập cũng ghi: "Đây nương theo thân của năm uẩn gọi là tương tục, chẳng phải chấp chẳng phải tâm". Nay cho rằng không đúng. Ý của văn này hiển bày ba vị sai biệt có tương tục có gián đoạn, trước tổng nói rõ, sau lại giải thích khởi, bất khởi, nên trước tương tục. Nói đây đều ý có gián đoạn có tương tục, không nói rõ thân đó, nếu dùng thân năm uẩn làm sở y thì gọi là tương tục, vả lại như ngã chấp cũng nương theo thân của Thánh, vì sao không nói tương tục? Bình đẳng tánh trí cũng nương theo Bồ-tát, vì sao cũng không nói tương tục?
Luận: Dụng của ngã pháp hai kiến, tuy có khác đồng, nương theo một tuệ, Yếu Tập v.v... nói: Nhất định không phải chủng tử riêng, định của Sở tri chướng, trước đã được rõ ràng, nay lại hiển bày, nếu không phải chủng tử riêng các bậc La-hán v.v... khởi pháp chấp, thì có thể huân tập chủng tử chăng? Nếu nói không huân tập, có thể huân tập bốn nghĩa ít vì sao không huân tập, nếu nói thừa nhận huân tập, đâu chẳng phải chủng tử riêng, có thể huân tập chỉ là Sở tri chướng. Lại nữa tự nói dụng của một tuệ, chia ra huân tập thành hai loại, tức là chủng tử riêng, vì sao nói ắt sẽ đồng? Nói là phiền não, là căn cứ theo căn bản và phần nhiều.
Luận: Pháp chấp câu ý đối với Nhị thừa v.v... đồng lấy phàm phu, tức là Nhị thừa phàm phu.
Tây Minh v.v... nói: Lấy luôn Bồ-tát Sinh không trí, vì không chướng ngại trí kia, cũng gọi là bất nhiễm.
Yếu Tập ghi: "Sau nói là thắng", nếu đồng với phàm phu, Bồ-tát cũng có, vì sao không đồng? Nay cho rằng trước là thù thắng.
Luận nói: Đối với chư Bồ-tát, tức là thông với phàm, Thánh. Nếu mong Bồ-tát Sinh không, không nhiễm, khởi Sinh không, thì có thể chẳng phải Bồtát. Lại lẽ ra nói đối với chư Bồ-tát, trừ Sinh không trí cũng gọi là nhiễm, câu trước nói chung, văn lại không trừ, nên biết cùng trông mong không đồng với Bồ-tát lúc khởi Sinh không, nhưng đối với Bồtát không nói đồng, vì thuộc về các lời, trước ảnh sau đều không có lỗi.
Luận là Dị thục sinh nhiếp, vả lại Dị thục sinh tâm cho đến biến hóa, Đại thừa Tiểu thừa khác nhau, Tiểu thừa bốn tâm, định chỉ Vô ký, nhưng biến hóa tâm thông với cõi Dục, cõi Sắc, tâm oai nghi rộng, ba thứ khác không nhiếp, đều nhập vào oai nghi, chỉ một chẳng phải hai.
Hỏi: Thọ giới đồng phát khởi oai nghi, đâu chẳng phải là thiện? Đáp: Ý của tông khác nói:
Muốn được thọ giới tâm này là thiện, khởi lễ bái v.v... tức là Vô ký, nhưng lập ra giới thể, không nương theo phát khởi thân, ngữ, nghiệp, tư nương theo sắc, thanh lập ra. Đại thừa biến hóa chỉ có bốn thiền định thông với thiện, Vô ký và lậu, Vô lậu, ba thứ khác thông với tánh, lậu Vô lậu, như trước đã nói rõ, nhưng được hòa hợp khởi, như đi giữa đường ca múa đánh trống, hoặc trước sau tâm phát khởi cùng thời cũng được, hoặc nghiệp quả tâm không thể đều phát khởi. Nếu chẳng phải nghiệp quả và thiện ác, có thể nói nghĩa của bốn tâm, chẳng phải nhiều tâm hợp lại.
Đại luận nói: Thế tục này có. Nói Vô ký là căn cứ theo thuyết khác. Luận nói ý thức của tâm. Luận Tát-bà-đa ghi: "Nghĩa của năm môn khác nhau".
1. Tên gọi môn: Chỉ cùng đặt ra tên.
2. Nghĩa môn: Tập khởi gọi là tâm, liễu biệt gọi là thức, tư lương gọi là ý.
3. Nghiệp dụng môn: Xa biết gọi là tâm, khai đạo gọi là ý, thọ sinh gọi là thức.
4. Thế môn: Quá khứ gọi là ý, hiện tại gọi là thức, vị lai gọi là tâm.
5. Thi thiết môn: Ở nơi uẩn gọi là thức, ở nơi xứ gọi là ý, ở nơi giới gọi là tâm, đều thông với sáu thức, chẳng phải lìa sáu thức bên ngoài riêng có tâm ý. Sau kiểm nghiệm văn chú, Đại thừa tức là riêng.
Kinh Giải Thoát ghi: "Nhân đạo đoạn chướng được giải thoát, nên gọi là kinh Giải Thoát". Yếu Tập ghi: "Như chư thiên thỉnh hỏi v.v... không gọi là kinh Giải Thoát". Nay cho rằng không đúng, vì sao kinh không khiến cho Tu đạo đoạn chướng, nếu không như vậy, vì sao được nói Dẫn đối trị, nên nói là Phật nói, nên trước nói là phải, nhưng chư Thiên thỉnh hỏi là tên riêng, nói giải thoát là tên chung để gọi chư Bồ-tát không nhập vào quả A-hàm.
Nhiễm ô ý hằng thời v.v... các bộ luận giải thích khác nhau. Vả lại Hữu bộ nói: Nhiễm ô ý nghĩa là Thức thứ sáu, hằng thời là chẳng phải không đoạn nên gọi là hằng thời, như thường ban bố thức ăn, thường thọ vui v.v... Câu sinh diệt, chẳng phải gọi là đồng thời, gọi là câu, sinh diệt câu hữu nên gọi là câu, tức là các hoặc đều có sinh diệt, nếu giải thoát là Đối trị đạo khởi chẳng phải từng, chẳng phải sẽ có, chỉ bỏ được đó lìa duyên trói buộc, chẳng phải không có thể tánh.
Thượng tọa bộ nói: Nhiễm ý hằng thời, nghĩa là ý thức vi tế, không phải gián đoạn, các hoặc câu sinh nói rằng đều sinh diệt, quá khứ, vị lai vô, chẳng phải từng, sẽ có.
Hỏi: Nếu ý thức vi tế, như thọ sinh v.v... hằng thời tương tục cùng với bốn hoặc đồng thời, vì sao Nhiếp luận quyển 3 ghi: "Nương theo nhiễm ô thì không có gián đoạn", lấy đây làm vặn hỏi, lại chín tâm chuyển, vì hữu phần tâm là thọ sinh tâm, chỉ là Vô ký? Lại sau luận Du-già ghi: "Địa ngục vô gián có Dị thục sinh", là nghĩa của Thượng tọa bộ, chuẩn theo đây chẳng phải nhiễm ý vi tế sinh thọ, nên chẳng phải giải thích kia.
Đáp: Trong Thượng tọa bộ có bản mạt kế, Vô ký thọ sinh là bản kế, nhiễm ý vi tế sinh là mạt kế, sư Kinh bộ cũng có bản mạt kế, giải thích kinh chuẩn theo đây.
Nói rõ bất cộng vô minh, Nhiếp luận quyển 5 ghi: "Đối với năm thức này không dung chứa nói có, là xứ không có năng đối trị, nếu xứ có năng đối trị, thì xứ này có sở trị, chẳng phải trong năm thức có năng trị kia, vì ở nơi Kiến đạo này, không phải sinh khởi". Ý này năm thức ở nơi địa vị Kiến đạo, chưa thành Vô lậu, nếu có bất cộng vô minh, tức là ở địa vị Thánh cũng gọi là say, trái với giáo, vì nói Dị sinh mà không nói bậc Thánh cũng thường hằng khởi. Lại căn cứ Bồ-tát khởi Kiến đạo mà nói, lúc ấy Thức thứ bảy cũng Vô lậu, chẳng cho rằng hàng Nhị thừa đã khởi Kiến đạo, cũng chẳng phải Thức thứ tám lập ra Thức thứ bảy.
Hỏi: Người vô tánh tức là không phải đối trị, nên tổng không có?
Đáp: Là dị sinh, lại ý vặn hỏi này, vả lại căn cứ lúc hữu tánh khởi Kiến đạo, nếu không như vậy thừa nhận năm thức có thành sự trí, nên có bất cộng.
Hỏi: Nhiếp luận lại nói cũng chẳng phải nhiễm ô. Trong ý thức, cùng với phiền não khác, cùng tương ưng thời, bất cộng vô minh gọi là chẳng thành, tức là như vậy, vì sao cùng với bốn hoặc câu, nên sư ban đầu trội hơn.
Đáp: Luận kia vặn hỏi rằng: Bất cộng vô minh cũng không thành tựu, cùng với thân kiến v.v... thường hằng tương ưng.
Tự giải thích rằng: Ông vặn hỏi không sòng phẳng, chẳng phải tôi nói nó cùng với phiền não khác không tương ưng, nên gọi là bất cộng, nhưng nói nó hoặc chỗ khác không nên gọi là bất cộng, thí như mười tám pháp bất cộng của Phật, trước nói cùng với phiền não khác tương ưng, gọi là không thành tựu, quán xét cái mà họ lập, hiển bày lỗi kia. Ý này chính là luận Tát-bà-đa v.v... nói: Cùng với câu khác không gọi là bất cộng, hiển bày nó tự trái, nên làm vặn hỏi này. Chẳng phải tôi nói cùng với hoặc câu thời khác, không gọi là bất cộng.
Luận: Thức này nếu không nương theo kia lẽ nào có, Đại thừa hiển bày Tiểu thừa, nếu không phải Thức thứ bảy, nghĩa của kinh không thành, nên vặn hỏi người ngoài rằng: Nhãn v.v... trong sáu thức nhiếp có đều khởi căn gọi là hai duyên, ý cũng thâu tóm trong sáu thức, nên nương theo ý hiện tại gọi là hai duyên. Ngoại đạo vặn hỏi Đại thừa rằng: Ý thức hai duyên sinh, duyên không phải ý được khởi, ngăn gì hai duyên sinh, căn không phải ý cũng khởi, Kinh bộ cùng Đại thừa đồng thừa nhận quá khứ vị lai vô, duyên không phải cũng thừa nhận khởi, nên làm ra vặn hỏi này?
Đáp: Giữ gìn tự hữu vô đều là pháp, duyên không hiện ra tướng hai duyên sinh, quá khứ diệt ý hiện ra chẳng có, căn của ý thức đều sẽ khởi. Nếu luận Tát-bà-đa thành tựu tông của Đại thừa, làm ra vặn hỏi trước cũng được, Kinh bộ diệt vô, giả lập tên của ý, chính là Đại thừa vặn hỏi: Năm thức mười hai duyên duyên theo thật căn cũng thật, ý thức mười hai duyên duyên giả căn cũng giả, nhưng sau phá Kinh bộ kia, trước giả nêu Hữu bộ là vặn hỏi, cũng chính là Đại thừa.
Đáp rằng: Căn pháp là sở y, ý câu chẳng phải là giả. Lại giải thích thận cận tướng nhau là duyên sinh, chất không có cũng là thật đồng với năm thức mười hai duyên, căn của sở y không giả. Ngoại đạo lại vặn hỏi rằng: Kinh nói mười hai duyên, căn giả thức không sinh, thức nương gá vào mười hai duyên, cảnh giả nên không khởi.
Đáp: Thế lực của sở duyên gần xa, thiết lập giả thức được sinh, sở y trội hơn tăng thượng, thế lực gần giả không khởi, nhưng vì gần gũi Tướng phần giống như căn, hiện ra thật nên tốt.
Không thể nói sắc là sở y kia, phá Thượng tọa bộ rằng: Năm thức nương theo sắc căn, năm thức không phải phân biệt, ý thức nương theo sắc căn, ý thức không phải phân biệt, chất vấn kia vặn hỏi Đại thừa rằng: Thức thứ tám nương theo ý căn, Thức thứ tám không phải phân biệt, vì sao ngăn cản
Thức thứ sáu nương theo sắc căn, ý thức có phân biệt.
Đáp: Tánh của sắc pháp là chậm chạp, năm y không phải phân biệt, ý pháp là thắng y, cần suy nghĩ mới phân biệt. Ngoại đạo vặn hỏi Thức thứ sáu nương theo ý căn, Thức thứ sáu có phân biệt, Thức thứ tám nương theo ý căn Thức thứ tám có phân biệt.
Đáp: Tự tánh của Thức thứ tám không phải rõ ràng, tuy nương theo ý căn không phải phân biệt, tự tánh của Thức thứ sáu có nhiều khả năng, lại được ý y nên phân biệt.
Hỏi: Hiện tại gọi là ý, đã diệt rồi nương theo đây lập ra tên ý, hiện tại cũng gọi là thức, đã diệt rồi nương theo hiện tại nên gọi là thức.
Đáp: Tên của ý thông với hai nghĩa, đã diệt nương theo được tên ý, thức là chỉ rõ biết đã diệt không thể không gọi là thức.
Luận: Do ngã chấp nên sai khiến trong sáu thức v.v... Sớ có hai giải thích, lấy sau giải thích chính. Tây Minh lấy trước, Yếu Tập cũng đồng. Nay cho rằng phần sau giải thích là trội hơn, do ngã chấp nên không thể mất tướng nói: Ngã có thể hành thí, đâu phải ngã của Thức thứ bảy duyên theo thí v.v... sinh ra ngã năng thí, nên ý của Sớ, ngã của Thức thứ sáu do ngã của Thức thứ bảy làm chỗ nương, hành tướng tăng thêm rõ ràng, chẳng phải nói ngã thí là ngã của Thức thứ bảy, nếu chấp theo tướng của tam luân, là ngã của Thức thứ bảy. Từ Địa thứ bảy trở về trước có lúc chưa hàng phục, huống gì Địa tiền đã không thể phục, thí v.v... tam luân vì sao có thể mất tướng?
Nói tướng trói buộc, có hai loại:
1. Thông với tất cả tướng, do ngã của Thức thứ bảy.
2. Chấp theo tướng của tam luân, tuy cũng do Thức thứ bảy, chính là nói Thức thứ sáu.
Nhưng Nhiếp Đại thừa căn cứ theo chỗ nương nói: Tự mình cho ngã hay tu hành bố thí v.v... chẳng phải lìa vô minh ngã chấp tuy theo thỏa thích, chẳng phải lìa chỗ nương mà có vô minh v.v... Nếu nói ngã chấp của Thức thứ bảy thì không thể mất tướng, nên nói chẳng phải lìa vô minh, ngã chấp tự tướng mà có thể chấp tướng v.v... vì sao cần phải nói chẳng phải lìa vô minh ngã chấp đuổi theo? Chẳng phải lìa chỗ nương nên nói nguyên nhân, chẳng phải nói tức là phải. Nhưng luận này dẫn luận Du-già làm chứng, là thông với chứng, chẳng phải chỉ chứng tướng của tam luân kia. Nếu nói do Vô lậu không phân biệt, nói có thể hàng phục được tướng này, tức là Kiến đạo trước nên chẳng phải Ba-la. Địa trước tu Hữu lậu gia hạnh, Vô phân biệt trí có thể hàng phục Thức thứ sáu nên thành tựu mật-đa.
Hỏi: Nói tướng trói buộc làm Phiền não chướng làm Sở tri chướng?
Đáp: Nếu như vậy vì sao có lỗi? Cả hai đều có lỗi, nếu do Phiền não chướng, hàng Nhị thừa Vô học Hữu lậu tâm vị sẽ không phải tướng trói buộc, ngã chấp đoạn, nếu do Sở tri chướng, Sinh không hậu trí sẽ có tướng trói buộc. Có hai giải thích:
1. Do Sở tri chướng, nếu như vậy Sinh không hậu đắc được nên trói buộc? Đáp: Không phải thuận theo nhau, nương theo giải thích của An Tuệ, đây tức là chính.
2. Phiền não chướng làm thể của tướng trói buộc, nếu như vậy hàng Nhị thừa Vô học Hữu lậu, tâm thiện, Vô ký lẽ ra không phải tướng trói buộc.
Đáp: Do thể của Tướng phần này là Hữu lậu là chỗ dẫn dắt kia huân tập thành chủng tử. Nay tuy đoạn thể của ngã chấp kia cuối cùng do có tướng trói buộc, nhưng thể của pháp chấp chẳng phải chính tướng trói buộc, chấp có tướng là y giúp ngã chấp kia khởi là giúp tướng trói buộc, bậc Vô học phân tán tâm thiện và Vô ký, cũng có giúp đây, chưa lìa tướng trói buộc, Sinh không hậu đắc được, tuy có giúp, không có tướng của Hữu lậu xưa đã huân tập, chính là tướng trói buộc, nên được nói rằng không; giải thích này là chính, nhưng chấp tướng của tam luân, chỉ Thức thứ sáu, Thức thứ năm, thứ tám mặc tình, Thức thứ bảy duyên bên trong. Nếu tướng của Hữu lậu gọi là tướng trói buộc, tức là thông với tám thức.
Đáp: Luận kia căn cứ theo tam luân, nay Thức thứ sáu do chấp ngã sáu thức trước đều là tướng câu nệ, không rõ được huyễn; Thức thứ bảy duyên theo Thức thứ tám cũng là tướng câu nệ, vì gốc của tướng trói buộc đều là tướng trói buộc. Nếu Thức thứ bảy chấp ngã, không gọi là tướng trói buộc, sáu Thức vì sao được gọi là tướng trói buộc?
Lại luận này nói: Nói tướng trói buộc nghĩa là đối với cảnh tướng không thể liễu đạt được việc như huyễn, do Kiến phần Tướng phần đây câu nệ không được tự tại, nên gọi là tướng câu nệ, vì đây nên biết thông với tám thức.
Hỏi: Nếu như vậy hàng Nhị thừa, Vô học, Thức thứ năm, Thức thứ tám sẽ có tướng trói buộc, vì không rõ được huyễn?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Nhiễm ý diệt nên Thức thứ năm, Thức thứ tám không trói buộc.
2. Tức là duyên theo Hữu lậu được sinh ra Tướng phần, là phân biệt tướng, giống như là tướng trói buộc.
Như tợ Hữu lậu xưa do Thức thứ bảy lậu đều thành lập, nhiễm Thức thứ bảy không phải thời hai Thức thứ năm và thứ tám, vẫn nhiếp Hữu lậu; tướng trói buộc lẽ ra như vậy.
Hỏi: Tướng trói buộc đối với Kiến phần nói tướng gọi là trói buộc, Kiến phần trói buộc tự chứng phần gọi là Kiến phần trói buộc v.v...
Đáp: Như Xu Yếu giải thích, cũng thừa nhận gọi là trói buộc. Có người nói đồng loại chẳng trói buộc, khác loại là trói buộc.
Yếu Tập ghi: Nay cho rằng Kiến phần có tam luân, chẳng phải như huyễn v.v... nên nói tướng trói buộc, phần khác không như vậy nên không nói trói buộc. Có thuyết nói trái với văn, chỉ ở nơi thí v.v... không mất tướng. Có người nói rằng trái với lý, đồng loại sinh ra quả, phân chia năng duyên sở duyên, vì sao không thừa nhận nói năng trói buộc sở trói buộc? Nay cho rằng Yếu Tập trước sau tự trái, vì sao vặn hỏi có nói, tức là nói trái với văn? Văn chỉ nói thí v.v... không mất tướng, tức là không thừa nhận phần khác gọi là trói buộc. Vặn hỏi có người nói: Tức là năng duyên sở duyên, nếu thừa nhận năng duyên sở duyên là trói buộc thì vặn hỏi tam luân trước sai, nếu chỉ tam luân gọi là trói buộc tức là năng và sở đều trói buộc là sai.
Nếu nói: Vặn hỏi có nói, căn cứ theo lời của tướng trói buộc, vặn hỏi có nói căn cứ theo lời của năng duyên và sở duyên trói buộc. Nếu nói như vậy năng duyên sở duyên trói buộc có thể chẳng trói buộc ư? Tức là tự thừa nhận trói buộc, vì sao vặn hỏi có nói, có nói tổng hợp luận nói tam luân, văn căn cứ dễ rõ được lời.
Lại luận về trói buộc là có nhiều loại, hoặc nói hai thứ trói buộc:
1. Tương ưng trói buộc
2. Sở duyên trói buộc.
Lại nói hai thứ trói buộc:
1. Năng duyên trói buộc
2. Sở duyên trói buộc. Lại nói hai thứ trói buộc:
1. Tướng trói buộc
2. Thô trọng trói buộc
Năng duyên tâm vương tâm sở và hoặc câu thời không được tự tại, vì làm sở trói buộc của pháp tương ưng, tương ưng tức là trói buộc, giữ gìn nghiệp là tên gọi, tâm năng duyên vương tâm sở là cảnh được câu nệ gọi là sở duyên trói buộc; thông với pháp chấp tâm. Năng duyên trói buộc tức là đã trói buộc cảnh làm tâm của năng duyên trói buộc, như tên của A-lại-da; tướng trói buộc nghĩa là tâm là tướng đã câu nệ tên gọi làm tướng trói buộc. Tướng trói buộc có ba:
1. Tất cả Tướng phần đều gọi là trói buộc, tức là sư An Tuệ căn cứ theo pháp chấp mà nói, năng thủ sở thủ, tuy biết như huyễn, không thể không phải tự tánh, hoặc đồng với luận Hộ Pháp chỉ căn cứ theo ngã chấp không rõ như huyễn, chẳng căn cứ theo pháp chấp. Lại nói Ý này lúc chưa diệt thức trói buộc cuối cùng không thoát, ba vị tức là không phải Mạt-na, tức là không phải tướng trói buộc.
2. Chỉ tướng của Hữu lậu tức gọi là tướng trói buộc, chỉ trừ Vô lậu thông với tám thức. Một là căn cứ theo pháp chấp, không rõ huyễn nêu chấp làm có; hai là căn cứ theo ngã chấp, chỉ không rõ huyễn tức là làm tướng trói buộc, nên thông với pháp chấp, nếu căn cứ không rõ như huyễn, trói buộc ở nơi sinh tử gọi là tướng trói buộc, chỉ ở nơi ngã chấp.
3. Căn cứ theo hành sáu độ, tướng của tam luân, chỉ ở nơi Thức thứ sáu ngã chấp tương ưng với tướng của thức sở duyên, do đây không thể thành tựu đến bờ bên kia. Nếu nói như vậy tâm thiện đều không phải ngã chấp, hành sáu độ là thiện nên không phải tướng trói buộc?
Đáp: Căn cứ theo gián đoạn tạp, nói không thể mất tướng.
Hỏi: Nếu không phải ngã lẫn lộn tức gọi là vô tướng. Xảo tiện tối thắng cùng với thanh tịnh tối thắng, hai thứ mỗi mỗi có gì khác nhau?
Đáp: Xảo thiện căn cứ theo không chấp, thanh tịnh căn cứ theo vô hối, các thuyết nói tướng trói buộc không có lỗi này. Thô trọng trói buộc, là nhiếp chung các văn, thô trọng có bốn:
1. Hiện hành Hữu lậu các tâm tâm sở, tức là Tạp Tập nói hai mươi bốn thô trọng.
2. Hiện hành hai chướng.
3. Hai chướng chủng tử.
4. Hai chướng tập khí.
Hoặc có thể hiện hành đồng nói Hữu lậu, ba tánh, tâm pháp, chủng tử sẽ như vậy, vì thiện, Vô ký, chủng tử, nghĩa của thô trọng ít ẩn, các thuyết lược không nói. Nay nói tướng trói buộc, căn cứ theo ngã chấp dẫn dắt và sáu độ mà nói, nương theo cộng để đối trị, Tiểu thừa, nên nương theo chấp mà nói, căn cứ theo tự nghĩa, nên theo sáu độ mà nói, nói thô trọng đây luận không rõ, dẫn kinh tụng có, tùy theo chỉ ứng đó, đều tu chỉ quán, mới có thể trừ được, đồng nói không lỗi.
Vì Hữu lậu nói biểu hiện lậu đồng thời, Hữu lậu có ba:
1. Thể là lậu là có hữu gọi là Hữu lậu, tức là trong ba lậu nói Hữu lậu, là có ba hữu, đây nói thân bên trong giới trên là hữu, vì hai cõi trên duyên theo thân khởi ái, lìa cảnh tham bên ngoài, lậu của hữu gọi là Hữu lậu, tức là hai cõi phiền não gọi là Hữu lậu, lậu là sở hữu.
2. Có tha lậu nên gọi là Hữu lậu, tức là nói năng hữu.
3. Là lậu tánh hợp gọi là Hữu lậu, cũng là tự thể của phiền não, do lậu này ở trong sinh tử, tức là thể có dụng gọi là Hữu lậu. Nay trong đây biểu hiện lậu đồng thời, nhận lấy thể của năng hữu gọi là Hữu lậu, không nhận lấy phiền não, nên trước riêng vặn hỏi.
Lại lúc tâm thiện, Vô phú, Vô ký, nếu không phải ngã chấp nên chẳng phải Hữu lậu. Luận Dugià chỉ nói có tha lậu, Tạp Tập đồng nói.
Hỏi: Nếu cùng lậu câu mới thành Hữu lậu, tức là cùng với luận Tạp Tập quyển 3, luận Du-già quyển 65 đều trái nhau; văn của hai lậu kia, không chỉ lậu đồng thời gọi là Hữu lậu, hai lậu nói như thế nào? Vả lại Đối Pháp nói: Lậu tự tánh, lậu tương thuộc, lậu sở phược, lậu sở tùy, lậu tùy thuận, lậu chủng loại.
Lậu tự tánh tức là thể của phiền não, lậu tánh hợp gọi là Hữu lậu, do tự thể này, lậu ở trong sinh tử, gọi là lậu tánh hợp. Năm thứ khác do tự thể này gọi là Hữu lậu. Lậu tướng thuộc là cùng với lậu tương ưng và lậu sở y, tức là nhiễm ô tâm, tâm sở, gọi là tương ưng, biến hành, biệt cảnh và năm thức trước cùng với hoặc câu là năm căn nhãn v.v... gọi là lậu sở y. Sở phược nghĩa là Hữu lậu thiện pháp. Do thế lực của lậu chiêu lấy hữu sau, trong đây cũng nhiếp cảnh bên ngoài của sáu thức, Vô ký tâm. Vả lại căn cứ theo thiện mà nói nếu chuẩn theo luận Du-già, quá khứ, vị lai Hữu lậu pháp thiện, Vô ký tâm đều chẳng phải sở phược, và hiện ra cảnh bên ngoài chẳng phải hiện lượng duyên, cũng chẳng phải sở phược, luận kia căn cứ theo lời chất vấn quá khứ vị lai vô, thiện, Vô ký tâm chẳng phải lậu tương ưng, lậu tâm trói buộc thì ở quá khứ, vị lai, hiện ra sắc, nếu chẳng phải hiện lượng tâm duyên, không phải thân cận trượng chất vấn nói chẳng phải sở duyên. Luận Đối Pháp căn cứ theo gần gũi Tướng phần và riêng sở duyên, nói cũng thành tựu sở duyên, đồng với quyển 69, đoạn duyên trói buộc mà nói, đều căn cứ một nghĩa, nên không phải trái nhau. Luận sớ tùy nghĩa là pháp của địa khác, không phải hỗ tương tăng. Lậu tùy thuận là thuận theo phần quyết chọn, địa khác không tăng, đồng với địa được tăng, dung chứa lậu đồng thời. Nếu Vô lậu chẳng phải tùy thuận, Hữu lậu tuy tăng ích trái với hữu; nhưng cùng lậu đồng thời, nếu không như vậy lậu đồng thời chẳng phải nhân của lậu, hoặc tuy lậu đồng thời mà không phải tăng ích, gọi là tổn sức, tăng ích có thể chuyển, nhưng thành tựu Hữu lậu nói là tăng ích, căn cứ theo lậu khác mà nói. Lậu chủng loại là các uẩn của bậc Vô học, trước sinh ra phiền não đã khởi, luận Du-già quyển 65 nói Hữu lậu sai biệt, do năm tướng nghĩa là sự tùy miên, tương ưng, sở duyên, sinh khởi. Sự nghĩa là thanh tịnh các sắc, ba tánh, tâm, tâm sở, đây là năng hữu thể sự của các lậu, tùy theo chỗ ứng đó. Do bốn tướng khác nói gọi là Hữu lậu nghĩa là tùy miên, tương ưng, sở duyên, sinh khởi, tức là các pháp phiền não trước chưa đoạn sở hữu chủng tử, gọi là thùy miên, kia do chủng tử này, gọi là Hữu lậu, các nhiễm tâm, tâm sở do tương ưng, nên nói gọi là Hữu lậu nếu các hữu sự, hiện lượng sở hành. Nếu Hữu lậu đã sinh tăng thượng đã khởi, như là sở duyên của tất cả lậu, gọi Hữu lậu, hiện tại gọi là hữu sự, nếu nương theo thanh tịnh sắc, thức sở hành gọi là hiện lượng sở hành. Đây căn cứ theo tham v.v... có thể hiện lượng duyên theo cảnh của sắc v.v... kia, gọi là lậu sở duyên, còn lại chẳng phải sở duyên. Luận nói: Chỉ do tự phân biệt được khởi tướng khởi các phiền não, chẳng phải các pháp làm rõ ràng cảnh sở hành này, nên như trước tổng hợp. Do sinh khởi nên thành tựu Hữu lậu, tùy miên chưa đoạn thuận theo phiền não, cảnh hiện tại trước, đây căn cứ theo hoặc để dẫn.
Lại nói: Theo tất cả bất thiện phiền não, các quả Dị thục và quả Dị thục tăng thượng được dẫn việc sinh khởi bên ngoài cũng sinh khởi nên gọi là Hữu lậu, quả của Hữu lậu này là nương theo mà được sinh cũng gọi là Hữu lậu.
Pháp của năm tụ ở trong địa vị Hữu lậu vô tánh, nương theo Tạp Tập quyển 6 và luận Du-già quyển 5 đều đầy đủ bao nhiêu nghĩa, gọi là Hữu lậu. Như Xu Yếu quyển hạ giải thích năm mươi hai chi ba đoạn, luận Trung Biên chuẩn theo hai chi này, không chỉ lậu đồng thời gọi là Hữu lậu?
Đáp: Đây căn cứ theo chánh nhân, kia căn cứ theo nghĩa khác nên không trái nhau.
Nói hỗ tương tăng ích.
Hỏi: Thức thứ bảy và thứ sau làm tạp nhiễm y, tăng ích đối với Thức thứ sáu, sáu thức vì sao tăng ích Thức thứ bảy?
Đáp: Có hai nghĩa: Một là tăng trưởng, hai là bất tổn.
Nếu Thức thứ sáu phát lên nghiệp hoặc, Thức thứ tám làm duyên của y kia được tương tục trụ, nên gọi là tăng ích, lúc khởi Hữu lậu, nếu tuy không thể tăng trưởng Thức thứ bảy mà không tổn hại cũng gọi là tăng ích, chẳng như Vô lậu khởi ắt sẽ tổn hại kia không gọi là tăng trưởng, cũng như thùy miên, tuy ở nơi nhãn căn không thể tăng trưởng mà không tổn hại, cũng gọi là trưởng dưỡng, đây lẽ ra như vậy.
Giải thích ý thức được tên.
Hỏi: Thức thứ năm, Thức thứ tám đều nương theo Thức thứ bảy, vì sao Thức thứ sáu gọi là bất cộng y, chỉ được gọi là ý thức, chẳng phải là Thức thứ năm, thứ tám ư?
Đáp: Nếu nhiễm tịnh y và Câu hữu y, Thức thứ bảy mong Thức thứ năm, thứ tám đều là sở y, nhưng gần gũi thuận theo sinh ra. Bất cộng y tức là chỉ Thức thứ sáu, nay nói ý của bất cộng, hiển bày gần gũi thuận theo sinh ra.
Vì sao chủng tử của Thức thứ sáu ắt sẽ tùy theo chủng tử của Thức thứ bảy? Chủng tử của Thức thứ bảy sinh ra hiện ý thức theo sinh ra, như chủng tử của nhãn thức nương theo chủng tử của nhãn căn, đây cũng như vậy, Thức thứ năm, thứ tám không nói nương theo chủng tử của Thức thứ bảy, nên đây được tên, không có lỗi tướng lạm tràn.
Nếu như vậy Thức thứ bảy nương theo thức tám sinh ra, vì sao không gọi là tâm? Thức thứ tám nương theo Thức thứ bảy sinh ra, vì sao không gọi là ý?
Đáp: Luận nói thức được tên, tâm, ý chẳng phải ví dụ, lại Thức thứ bảy thứ tám tự tương tục, nên thể được tên, sáu thức gián đoạn, theo y, duyên, nhân, hoặc chuẩn theo giới, xứ, đều gọi là tâm ý, Thức thứ bảy gọi là tâm ý, Thức thứ tám gọi là ý tâm, lý cũng không lỗi, nhưng không có thật văn.
Luận: Nếu được tự tại các căn hỗ tương dụng. Xu Yếu có hai thuyết: Đối với sư thứ nhất tự có hai giải thích:
Một là năm thức mỗi mỗi có thể duyên theo các cảnh đều được tự tướng, không hoại căn, cảnh lỗi, nói lìa hợp là căn cứ theo địa vị của nhân mà nói, không chướng ngại quả vị, được tự tại. Lại như Thức thứ tám tuy duyên theo các cảnh đều được tự tại, không có lỗi hoại, vì ở nơi quả vị, thể có nhiều khả năng, không phải thể chuyển biến làm thể của pháp khác. Không được vặn hỏi rằng: Thấy sắc gọi là nhãn, cũng thừa nhận nghe âm thanh v.v... năng tạo gọi là đại, sắc v.v... cũng có thể tạo tác, thể kia chuyển biến thay đổi đây là công năng, chẳng phải là thể chuyển biến, nhưng ý của Pháp sư giữ giải thích thứ hai. Nếu sư thứ hai đều trở lại tự căn duyên theo tự tướng không gọi là hỗ dụng.
Yếu Tập ghi: Tương truyền xưa có ba sư. Một là một thức đồng nương theo sáu căn; đều nhận lấy căn đã được tụ cảnh. Hai là một thức đồng nương theo sáu cảnh, đều nương theo tự căn, vì cảnh là cùng đồng, yếu kém được thông với thứ khác. Ba là một thức đồng nương theo sáu căn, đồng duyên theo sáu cảnh, chưa biết xác quyết thế nào. Căn, thức bất cộng, cảnh tức là cộng, không muốn hoại tự căn, thức sở hành, nếu một thức đồng nương theo các căn, tức là hoại căn thức, nên dùng cảnh khác, không dùng căn khác, nay còn chưa rõ ràng, nay cho rằng có khác, vì sao cảnh là cộng thủ, vốn tự cộng thành. Nếu không muốn hoại tự căn, thức sở hành đồng nương theo các căn, tức là hoại căn, thức, nên dùng cảnh khác không dùng cảnh khác. Nay nương theo tự căn, nhận lấy cảnh khác, không chia ly hợp được cảnh thật giả, đâu không còn có lỗi hoại căn cảnh, vì thức, căn còn lại nhận lấy cảnh khác, tức là không phải giải thích đồng, nêu nương theo Xu Yếu.
Hỏi: Cảnh của Phật năm thức duyên năm căn làm định sinh chăng?
Nếu định đã sinh nên thuộc về pháp xứ, năm căn cũng như vậy?
Đáp: Có hai giải thích, chuẩn theo quyển 5 sau ghi: Một là pháp xứ chỉ có ba cõi, thành tựu Vô lậu. Hai là hễ định đã biến đổi, chưa nhất định ở nơi pháp xứ được thâu tóm. Nếu cõi Vô sắc định lực đã khởi tức là thâu tóm pháp xứ, vì không phải sở căn, cảnh của sở y khác nhau. Nếu ở nơi cõi Sắc, định thông với lực sinh, đồng thuộc về tự xứ, như thiên nhãn, nhĩ, chẳng phải ở pháp xứ, hoặc nương gá theo chất biến năm cảnh để thâu tóm, nếu chỉ ảnh khởi tức pháp xứ nhiếp, hoặc ở địa vị Phật, pháp như vậy Vô lậu năm trần cảnh thâu tóm. Tân sở huân tức là pháp xứ nhiễm, vì pháp như vậy không do định thông nhau, nếu tân huân là do định, thần thông khởi.
Hỏi: Năm thức ba tánh thừa nhận được dung chứa đồng thời. Vả lại thiện nhãn thức cho đến Đẳng lưu mà thôi, bất thiện nhĩ thức sở duyên, duyên đến khởi tâm chợt hiện, bấy giờ ý thức cũng đồng nghe âm thanh, làm chợt hiện này, làm tâm Đẳng lưu, nếu tâm Đẳng lưu sẽ cùng nhãn thức đồng là thiện tánh, chực hiện Vô ký, chưa chuyển y vị ba Vô ký trước, không thể hai tánh, một tâm đều khởi, nếu là Vô ký, nhãn thức bấy giờ vì sao thành thiện, vì không có thiện ý thức làm năng dẫn?
Đáp: Vả lại thông với vặn hỏi ban đầu, nói nghĩa của năm tâm, thiện Đẳng lưu ý và nhĩ đồng duyên, tuy là thiện tánh, cũng gọi là chợt hiện, vì cảnh của âm thanh mới rơi xuống tâm, không thể nói là tâm của Đẳng lưu, trước chưa nghe âm thanh, không được chỉ có chợt hiện, vì cũng cùng với nhãn thức vẫn đồng duyên, nên có thể thông với hai, nhưng là thiện tánh. Nói ba tâm trước, chưa chuyển y vị chỉ là Vô ký hoặc căn cứ hoàn toàn chưa chuyển y, không được tự tại, riêng biệt năm tâm, nhiều phần mà nói. Nếu đã chia được chuyển y, được tự tại, năm tâm đồng thời có thể thông với ba tánh. Nếu không như vậy vì sao luận nói: Chẳng phải lúc nhận âm thanh, tức là liền xuất định, lãnh nạp âm thanh thọ rồi, nếu có hy vọng, lúc sau mới xuất, đây nói hy vọng tức là tâm tìm cầu, đâu thể nói lúc muốn hy vọng, tức là liền xuất định.
Luận nói: Nếu có hy vọng sau mới xuất định, cũng không được nói định trước gia hạnh lập ra mong cầu rằng: Nếu nghe khác âm thanh, tức là liền xuất định, tìm cầu cảnh sự, nên nói hy vọng, chẳng phải ở trong định làm ra tìm cầu, vì sao lúc hy vọng âm thanh là ở bên trong của định, làm rồi xuất định? Nếu ở bên trong định, tâm của hy vọng tức là tìm cầu, tâm của tìm cầu cùng với dục đồng thời, nếu hy vọng này chẳng phải tìm cầu vì sao tâm nhiếp? Nếu nói hy vọng tức là đã xuất định, thì trái với văn của luận.
Luận nói: Nếu có hy vọng lúc sau mới xuất.
Tây Minh giải thích: Nếu nương theo bản chính, chẳng phải tức là định kia tương ưng, ý thức có thể nhận lấy âm thanh này, do nhà giải thích này, hai giải thích không đồng, nay cho rằng không đúng, trái với văn của luận, đã dẫn nhà giải thích, chẳng phải kinh luận, nên không thể làm chứng.
Vặn hỏi sau giải thích, luận nói năm thức, do ý thức dẫn dắt, thành thiện nhiễm, căn cứ khởi ban đầu mà nói, chẳng phải căn cứ lúc theo tương tục thiện nhiễm, hằng do ý dẫn dắt. Nên sau luận ghi: "Các xứ chỉ nói năm câu ý thức cũng duyên theo năm cảnh", không nói đồng tánh.
Tây Minh nói: Chỉ có chợt hiện, nhiễm tịnh, Đẳng lưu ba tâm cùng với năm thức đồng thời, tìm cầu quyết định chỉ duyên theo quá khứ, tâm của tỷ lượng không cùng với năm thức đồng thời.
Hỏi: Như quyển 4 trước ghi: "Gặp chẳng phải thắng cảnh có thể thừa nhận tâm chợt hiện, năm thức của tâm sau gián đoạn, gặp thắng cảnh vị tâm chợt hiện, năm thức của tâm sau không gián đoạn", đâu không phải trung gian khởi tầm cứu rồi mới khởi quyết định nhiễm tịnh, Đẳng lưu? Nếu có tầm quyết định, vì sao không cùng với năm thức đồng thời?
Giải thích rằng: Gặp thắng cảnh, vị tuy nhiều sát-na, tâm chợt hiện không gián đoạn mà không phải tâm khác.
Hỏi: Nếu như vậy tâm chợt hiện chỉ là Vô ký, như Phẫn khuể thiên, tức là thắng cảnh, có thể chỉ Vô ký, không thấy Phẫn khuể vì thành Vô ký?
Giải thích rằng: Thừa nhận ban đầu khởi chợt hiện Vô ký, theo tâm này sau khởi đối với nhiễm tịnh, Đẳng lưu, hai tâm, vì bất thiện.
Hỏi: Nếu như vậy năm thức thành tựu thiện, nhiễm ắt sẽ ý dẫn dắt sinh, nếu không phải tìm cầu, vì sao khởi phẩn khuể, nếu khởi tìm cầu, vì sao chẳng phải đồng thời với năm thức?
Giải thích rằng: Tam Tạng có một giải thích nói: Thừa nhận năm đồng thời ý đồng có tỷ lượng, nhưng Tập Lượng nói năm câu hiện lượng, không nói chỉ có, như duyên theo giáo v.v... có tỷ lượng, lại giải thích không thừa nhận.
Hỏi: Nếu như vậy trước vặn hỏi còn chưa có thể thông?
Giải thích rằng: Năm đồng thời chợt hiện, tuy đồng với Vô ký không khởi tìm cầu, do phần sức của thế trước, ý thành tựu thiện nhiễm, dẫn dắt năm câu thành tựu thiện, nhiễm, đây cũng không như vậy.
Hỏi: Nếu do sức trước, vì sao không phải ban đầu gặp do sức trước, tức là thành tựu, thiện, nhiễm?
Giải thích rằng: Có thể như vậy, đây cũng không như vậy, thừa nhận chợt hiện, tâm chỉ là Vô ký.
Hỏi: Thế nào là thiện, nhiễm? Nếu nói trừ niệm ban đầu, tỷ lượng trái nhau, nếu tâm trước đã gặp bất thiện, có thể do sức trước, trước hoặc Vô ký sức mạnh mẽ bỗng nhiên khởi ở nơi phẩn khuể, lẽ nào trước có khuể chăng?
Nay giải thích rằng: Chợt hiện, tìm cầu cũng thừa nhận năm đồng thời, nói duyên theo quá khứ là căn cứ theo gián đoạn, nay nói đồng thời là căn cứ theo tương tục, nên không duyên theo quá khứ, không có lỗi hiện lượng tỷ lượng đồng thời.
Hỏi: Trong định không phải năm thức, gặp âm thanh nhĩ thức sinh, khi ngủ năm thức không có, khi gọi mới khởi trong giấc ngủ chăng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Không ví dụ, hữu tâm định có ý là nương theo nhĩ thức sinh ra, khi ngủ ý hoặc không có, không nương theo nhĩ không khởi.
2. Trong khi ngủ giả sử có ý, mê muội nên nhĩ không sinh, trong định ý rõ ràng nghe âm thanh nên nhĩ thức khởi.
Tây Minh nói: Ngủ khởi nhĩ thức, như định nghe âm thanh, định không phải văn chướng.
Hỏi: Trong định thân thức cũng khởi chăng? Đáp: Có hai giải thích:
1. Không được, chuẩn theo quyển 3 trước ghi: "Nghĩa là nếu ở định v.v..., đúng ra có rất nhiều thân thọ sinh khởi v.v..." nên không phải thân thức.
Nếu như vậy trước nói: Các định đều không phải năm thức thân, vì sao trong định thừa nhận có nhĩ thức? Đáp: Trước căn cứ theo tông khác, nếu như vậy do có tỷ lượng trái nhau.
2. Thừa nhận khởi không lỗi, nếu các Bồ-tát năm thức đều khởi, hàng Nhị thừa bất định.
Hỏi: Ở vô sở hữu xứ định, lúc ý duyên theo âm thanh và nhĩ đồng huân tập âm thanh của cõi Dục, làm vô sở hữu xứ?
Đáp: Định tâm sở biến thuộc về tâm năng duyên, không đồng với nhĩ thức.
Luận: Nêu sáu chuyển thức ba tánh dung chứa đồng thời.
Sớ không nói trong cõi Dục có thông với quả Vô ký. Yếu Tập ghi: "Luận Câu-xá quyển 7 từ thông quả tâm, vô gián sinh ra hai, nghĩa là tự giới: một tức là thông quả tâm; một tức là gia hạnh thiện". Đây nói cõi Dục thông quả tâm, chỉ là biến hóa. Theo quyển 69 ghi: "Lại từ cõi Dục Vô ký tâm, vô gián cõi Sắc, thiện tâm sinh, như cõi Sắc giả cõi Dục biến hóa tâm, cho đến lại nói tâm này là cõi Dục", nên biết là ảnh tượng loại kia, chẳng phải tự tánh.
Ý của Yếu Tập nói: Ban đầu nói từ cõi Dục, Vô ký tâm, vô gián, cõi Sắc, thiện tâm sinh đồng với luận Câu-xá, như quả của cõi Sắc, sau có hai thuyết: một đồng với Sớ; hai cũng đồng với luận Câu-xá. Nay cho rằng không đúng, văn đầu tức là cùng với văn sau, hai văn không khác. Nói lại từ cõi Dục, Vô ký tâm, vô gián, cõi Sắc, thiện tâm sinh là căn cứ theo tợ như cõi Dục gọi là cõi Dục chẳng phải tự tánh, lại nữa tức là tâm này, từ nơi cõi Sắc thiện tâm được sinh.
Luận giải thích chung rằng: Lại nói tâm này là cõi Dục, nên biết là ảnh tượng loại kia, chẳng phải tự tánh, văn trước lại nói: Các thần cảnh trí, hoặc gia hạnh đắc, hoặc sinh đắc. Nói Sinh đắc nghĩa là sinh ra sắc v.v... cho đến nói lại có cõi Dục chư thiên và người một phần phước quả đã dẫn đến, không nói có gia hạnh đắc, nếu thừa nhận cõi Dục có theo định dẫn dắt biến hóa tâm, tức là gia hạnh đắc, vì sao không nói có gia hạnh đắc?
Quyển 54 ghi: "Cõi Dục Vô phú Vô ký có biến hóa tâm". Nói đây chỉ là sinh đắc, nghĩa là trời, rồng v.v... Lại nói: Nhưng không phải tu quả tâm, nhưng luận Hiển Dương chỉ nói cõi Dục có biến hóa, hoặc là nghiệp quả, hoặc là cõi trên, tợ như cõi Dục, nên gọi là cõi Dục, chẳng thừa nhận cõi Dục có định đã dẫn dắt biến hóa Vô ký.
Trong thọ chia làm hai, khổ thông với Vô lậu, ưu căn không thông. Tây Minh giải thích: Năm thức tương ưng với thọ khổ, từ Hậu đắc trí sức của đại bi, thân cận đã dẫn sinh, nên thông với Vô lậu. Yếu Tập xác quyết rằng: Có giải thích là thắng.
Nay cho rằng giải thích này đồng với giải thích của quyển 2 trong Sớ, theo đâu là thắng? Trong nói rõ ba đoạn, có giải thích rằng: Trong khổ thọ cầu không đoạn, nên cũng chẳng đoạn, lìa dục xả nên đã đoạn nói chẳng phải sở đoạn. Yếu Tập xác quyết rằng: Có giải thích là thắng, nay làm ra giải thích này, vì cầu không đoạn, cũng chẳng đoạn, vì sao nói là thắng?
Còn lại như loại này, vạch ra nên biết, không thể nêu đủ.
Lại thân tâm thọ vì sao năm đồng thời gọi là thân thọ? Thức thứ sáu đều gọi là tâm thọ.
Đáp: Có hai giải thích:
1. Thân là nghĩa của tích tụ, năm thứ sắc căn đều tích tụ nương theo năm căn kia đều gọi là thân. 2. Thân chỉ thuộc về thân căn, bốn thứ khác nương theo thân theo nhau gọi là thân, nên năng y thọ được gọi là thân thọ.
Hỏi: Năm thức chỉ nương theo căn, thọ của tương ưng được tên thân, Thức thứ sáu chỉ nương theo ý, thọ của tương ưng nêu tên của ý?
Đáp: Năm căn đều tích tụ thọ, từ sở y được tên thân, đối trị sắc nói rõ nơi tâm, Thức thứ sáu tương ưng chẳng phải ý thọ.
Hỏi: Sắc tâm dùng tướng để đối trị Thức thứ sáu không đồng, năm thức gọi là thân thọ, thân nhãn cả hai mong nhau, nhãn không đều thân lập ra thân thọ?
Đáp: Thân, nhãn đồng thời sắc, đều được gọi là thân, đối trị sắc tâm khác với Thức thứ sáu gọi là sắc thọ. Lại thọ nương theo thân, tức gọi là thân thọ, thọ nương theo ý nên gọi là ý thọ. Vả lại chất vấn trả lời rằng: Sáu thọ nương theo ý, nương theo ý gọi là ý thọ, năm thọ nương theo nhãn v.v... nên gọi là nhãn v.v... thọ, căn cứ theo môn nói riêng, thân tâm đối nhau gọi là thân tâm thọ, không thể bắt lỗi như nhau.
Tam học phân biệt, Tập luận quyển 2, Tạp Tập quyển 4 đều nói, từ cầu giải thoát v.v... trong thân đã có Hữu vi thiện pháp, gọi là học Vô học, tức là lựa ra không vì cầu giải thoát, tuy có pháp thiện, không gọi là học Vô học pháp. Luận Du-già quyển 66 ghi: "Nghĩa là Dự lưu v.v... Bổ-đặc-già-la xuất thế pháp Hữu vi, dù pháp thiện của thế gian cũng gọi là học".
Luận Du-già quyển 5 ghi: "Dự lưu v.v... đều có một phần mười hai hữu chi là phi học phi Vô học", căn cứ theo lúc chưa hướng đến cần giải thoát đã tạo nghiệp thiện, chẳng phải học Vô học, nếu tư lương, gia hạnh làm hữu chi, có thể là học pháp, nên nói một phần. Nếu không như vậy, nên nói đã có hữu chi, đều phi học pháp, vì sao nói một phần? Nói tư lương v.v... chẳng phải hữu chi, căn theo Vô lậu mà nói. Lại giải thích hoặc tuy Hữu lậu, nhàm chán trái với hữu, chẳng phải hữu chi nhiếp. Nói một phần căn cứ theo Dự lưu bảy lần trở lại có và một lần đến v.v... gọi là một phần, chẳng phải học Vô học, còn lại như lý suy nghĩ?
Luận: Năm thức câu khởi mặc tình tham si v.v...
Tây Minh có một giải thích, không phát khởi nghiệp nói không lựa ra năm thức, chỉ có tùy chuyển, không làm chuyển nhân, có thể phát khởi nghiệp, ý tùy chuyển này không làm chuyển nhân, nói chẳng phải bất thiện, vì không phát khởi nghiệp.
Thứ hai lại giải thích rằng: Cũng thông với bất thiện, do ý đã dẫn dắt lý nên có thể phát khởi, không có văn ngăn ngại, nhưng ý nhận lấy giải thích trước. Yếu Tập cũng xác quyết, Tây Minh trước trội hơn, nay cho rằng không đúng, nếu do năm thức chỉ tùy chuyển nhân chẳng phải chuyển nhân, nên chẳng phải bất thiện, sân thông với năm thức, cũng ứng với Hữu phú chẳng phải bất thiện ư?
Lại luận bản tụng ghi: "Thiện bất thiện đều trái", nếu chẳng phải bất thiện trái với thuyết của bản luận, nên tuy tùy chuyển khởi ác nghiệp cũng là bất thiện. Lại luận Du-già quyển 89 ghi: "Nên biết trong đây có thể khởi tất cả pháp bất thiện", tham gọi là tham bất thiện căn, sân, si cũng như vậy; ba thứ bất thiện căn tức là thông với năm thức, rõ ràng biết tùy chuyển, khởi pháp bất thiện, cũng gọi là bất thiện. Lại quyển 6 luận này ghi: "Ba thứ tham, sân, si đều sinh ra phân biệt, tất cả dung chứa cùng với năm thọ tương ưng", rõ ràng biết ba thứ phân biệt này, khởi thông với năm thức có, nếu chỉ ý câu, chỉ bốn thọ đồng thời, không phải thọ khổ đều, thuần chỗ thọ khổ ý mới có khổ, vì ba đường ác không phải phân biệt, tức là luận thừa nhận năm thức có phân biệt hoặc, sau môn ba tánh nói: cõi Dục trói buộc phân biệt khởi là chỉ thuộc về bất thiện, phát ra hạnh ác, năm thức tức là chẳng phải chuyển nhân phát nghiệp, vì sao được nói: Chỉ thuộc về bất thiện, phát ra hạnh ác? Nên biết năm câu mặc tình tham, si không làm ra tùy chuyển phát nghiệp, tức là Hữu phú nếu tùy chuyển phát khởi tức là thuộc về bất thiện.
Lại thứ hai nói: Tập khí của Dị thục nghĩa là trong sáu thức Hữu lậu thiện v.v... lại tập khí của Đẳng lưu nói trong bảy thức, tức là đều thừa nhận có. Tức là nói: Trong sáu thức, nói sáu chuyển thức đều có Dị thục, tập khí, tuy không thể làm ra tập khí của dẫn nghiệp, mà làm ra mãn nghiệp, không nên tùy chuyển có thể làm ra mãn nghiệp, chỉ tánh Hữu phú, nên không nói phát nghiệp, cũng lựa ra trong năm thức vốn nói là thắng, nhưng nói quyển 67, quyển 68 cho rằng không phát ra nghiệp si v.v... là Vô ký, hoặc truyền chép sai lầm nên nói: quyển 57, quyển 58 cho rằng vì văn kia nói đều sinh thân kiến, chỉ là Vô ký, nghĩa chuẩn theo biên kiến và si, mạn, ái một phần Tu đạo cùng với thân kiến đều cũng là Vô ký, không thể phát ra nghiệp.
Nói hai thứ đầu cận phần gọi là tâm vui vẻ, chuẩn theo luận Du-già quyển 57 có mười một căn, văn sau của luận này hai thứ đầu gần gũi phần định không có lạc căn, nên chỉ có mười một, như Sớ đã nói. Nhưng nghĩa của Sớ chỉ dẫn theo văn kinh ly sinh hỷ lạc, cho rằng kinh nói hỷ tức là chứng có hỷ, kinh đã nói lạc vì sao không có lạc, chuẩn theo đạo lý này hợp có lạc căn, chỉ chưa rõ nói đủ mười một căn, chẳng phải ở trong đây thừa nhận có hai giải thích, văn sau nhất định phán phân không có lạc căn.
Hỏi: Khổ, lạc thông suốt thân tâm, hai thọ tức là chia làm hai, xả thọ thân tâm biến đổi, vì sao không phân ra nhiều?
Đáp: Khổ, lạc thông với lớn nhỏ cho nên mỗi mỗi phân làm hai, xả thọ chỉ một loại, cho nên không chia ra nhiều phần. Lại giải thích xả thọ tướng không khác, thân tâm đều gọi là xả, bức bách vui vẻ tướng có khác nhau, khổ lạc đều chia làm hai.
Hỏi: Vì sao không nói ưu hỷ xả cả ba thứ nhiếp khổ lạc?
Đáp: Ưu, lạc có Dị thục, thể chẳng phải là Dị thục; khổ, lạc có Dị thục. Lại thể là Dị thục, lại khổ lạc thông với ba tánh, ưu chẳng phải nhiễm Vô ký. Lại ưu ly dục xả, còn lại chẳng phải lý dục xả, thể của khổ lạc rộng rãi, nên nhiếp hết ưu hỷ.
Hỏi: Hai căn đầu gốc vui ngọn cực khổ, vui ở nơi thân tâm, chia ra hỷ lạc, trong cực khổ có bức bách, ngọn cực khổ, bức bách ở nơi thân tâm, chia ra ưu khổ?
Đáp: Nhị thiền không có năm thức, ý vui vẻ căn, chia ra hỷ lạc, Trung hữu sáu thức đồng thời, không ở nơi ý ưu, chia ra ưu khổ.
Hỏi: Nếu như vậy Sơ thiền tức là có ba thức, nên không phải ở nơi ý chia ra hỷ lạc?
Đáp: Cũng không có khắp, hai căn không có thức. Lại giải thích định hỷ thích vui vẻ trội hơn, biến khắp thân tâm, chia ra hỷ lạc, Trung hữu chưa cùng cực bức bách chẳng phải trội hơn, không phải ở nơi ưu thọ chia ra ưu khổ. Lại đầy đủ năm thức, đều bức bách căn, không mượn ý ưu chia khổ.
Hỏi: Hai ý ban đầu chỉ có hỷ, từ hỷ chia ra lạc, lẫn lộn thọ ý chỉ ưu, từ ưu lìa xuất khỏi khổ?
Đáp: Hỷ lạc thuận nhau được đồng bại, nên có thể từ hỷ chia ra lạc, ưu khổ trái nhau, chủng tử không đồng, không được nói ưu chia ra khổ, lại hai giải thích đồng với trước.
Hỏi: Hỷ của ý câu chia làm hai loại, hoặc đồng, sinh hiện riêng là một, không được hai thọ đều riêng mà sinh, không phải trong một tâm có hai thọ, tức là ở nơi một thân, chia làm hỷ, lạc, nên lẽ ra phải là giả?
Đáp: Ưa thích vui vẻ thân tâm, nghĩa có khác nhau, không phải bên tâm vui vẻ tức gọi là lạc, ưa thích bên thân tức gọi là hỷ cho nên thật có giống như hai trí.
Hỏi: Hai chấp theo nghĩa mà chia ra nói, làm thế tục hữu, hai thọ căn cứ nghĩa nói, vì sao được thể thành thật?
Đáp: Chấp nương theo biệt cảnh tuệ, nói làm thế tục hữu, hỷ lạc không nương theo thứ khác, đồng trí làm thật hữu.
Hỏi: Đồng từ loại sinh, vì sao vui vẻ căn gọi là lạc chẳng phải hỷ.
Đáp: Ý có phân biệt, căn không phân biệt. Xu Yếu có hai giải thích ưu căn: một là không thông với Vô ký, hai là tuy không phải văn nói, lý thông với Vô ký. Hối ắt sẽ ưu đồng thời, nó đã là Vô ký, ưu đâu có ngăn ngại gì! Luận Du-già nói chẳng phải Vô ký là Tùy chuyển lý môn, nhưng Yếu Tập ghi: "Xu Yếu cho rằng hối ắt ưu đồng thời". Nay có hai giải thích, nên nói thừa nhận ắt sẽ ưu đồng thời, vì sao? Tức là luận Du-già nói: Nếu thông với tất cả thức thân là biến cùng khắp tất cả căn tương ưng, nếu không thông với tất cả thức thân, ý địa tất cả căn tương ưng, nói tất cả là không phải lựa ra riêng, tức là thừa nhận Câu sinh thân biên kiến v.v... cũng cùng với ưu đồng thời, nó đã là Vô ký ưu cũng nhất định như vậy, vì chữ "hối thừa nhận" ít gần gũi, ở đây người chép có sự nhầm lẫn. Lại giải thích nên nói: Hối ắt có ưu đồng thời, chuẩn theo luận quyển 7, hai sư đều nói: Hối ưu thọ đồng thời, không nói thân kiến v.v... cùng với ưu thọ đồng thời. Luận Du-già tự lựa ra rằng: "Đều ở nơi ba thọ, hiện hành có thể được, không nói năm thọ", sau tức là giải thích trước, nên chỉ ba thọ. Nhưng Yếu Tập ghi: "Hai sư sau đều không thừa nhận hối được cùng với ưu đồng thời", là xác quyết thuyết này lỗi. Đây cũng không thể vậy, quyển 7 sau hai sư đều thừa nhận hối cùng với ưu như nhau. Sư trước nói: Có nghĩa ác làm ra ưu, bỏ tương ưng không nói khổ thọ, sư sau gia thêm khổ. Sư thứ hai nói: Có nghĩa bốn loại này, cũng là khổ thọ đồng thời, vì sao được nói hai đồng thời mà không nói hối và ưu đồng thời? Nhưng chuẩn theo giải thích sau, hối thông với tịnh Vô ký, không thông với nhiễm Vô ký, thân kiến biên kiến v.v... tức là nhiễm Vô ký, nên không được như nhau, chỉ có thể khổ đồng thời, nên biết chứng ưu là Vô ký, nhận lấy thừa nhận đồng thời trước, nếu không như vậy thì trái nhau. Nhưng luận Du-già ghi: "Nếu mặc tình sinh đều ở nơi ba thọ hiện hành có thể được, cũng nhiếp ưu, hỷ" là nói chung. Đối với phân biệt hoặc có câu, bất câu mới nói riêng, nên luận kia ghi: "Không phải mặc tình sinh, tất cả các phiền não, tùy theo sự thích hợp các căn tương ưng, tôi nay sẽ nói, tham ở nơi một lúc, lạc hỷ tương ưng, hoặc ở một lúc ưu khổ tương ưng". Nếu ở trong đây, chỉ nói ba thọ, vì sao không mặc tình, tức là đồng nói ưu hỷ, cho nên nghĩa này chuẩn thông với Vô ký, nhưng không nhất định phán phân giải thích này là chính.
Hỏi: Vì sao ưa thọ chẳng phải nhiễm Vô ký?
Đáp: Có người nói rằng, vì chẳng chấp nên không thông với Vô ký. Nếu như vậy oai nghi, công xảo cũng chẳng phải là chấp, vì sao thông với Vô ký? Nay giải thích sáng tối hai tướng khác nhau, nên không thông với Vô ký.
Hỏi: Nếu như vậy hỷ cũng sáng suốt nhanh nhạy, vì sao được Vô ký?
Đáp: Địa trên có hỷ vì do định lực, hoặc tuy sáng suốt hiển bày, nhưng đều là Vô ký, nên được nhiễm đồng thời, dục không phải định hàng phục, hoặc sáng suốt nhanh nhạy, tức là chẳng phải Vô ký. Phần sau nói: Nhờ vào khổ yếu kém, uẩn ưu tương ưng là phân biệt hoặc, vì ắt bất thiện. Đối với sự Vô ký mà khởi ưu là tịnh Vô ký, như sợ không sống được v.v... tuy duyên theo sự giúp đỡ đầy đủ Vô ký mà sinh, do phân biệt ngã khởi nên bất thiện.
Hỏi: Địa ngục nghiệp ác chiêu cảm, nhất định thành tựu nhãn v.v... khiến cho thọ khổ, vì sao không phải định thành tựu hai hình khiến cho thọ khổ?
Đáp: Hình căn thọ dục đầy đủ, không rảnh thọ dục có thể không có hình, năm thức năm căn nương, không căn không phải thức phải thành tựu. Luận: Tạp thọ xứ vô Dị thục lạc khác.
Tây Minh quyển 3 giải thích có ba nghĩa, hữu thứ ba tạp thọ xứ Đẳng lưu, Dị thục hai lạc đều có. Như luận Duy Thức quyển 20 ghi: "Các cõi bàng sinh sinh thiên ắt sẽ có thể cảm, nghiệp của khí lạc kia sinh ra định kia thọ khí sở sinh lạc". Lại Nhiếp luận ghi: "Trong các đường ác, toàn là khổ xứ", tức là nói dung chứa có lạc thọ. Luận Du-già v.v... nói đến căn cứ theo một nghĩa, nên không trái nhau, nay cho rằng không đúng, trái với văn của hai luận. Đại Luận nói định là không phải thành tựu, luận này lại nói, còn lại tạp thọ xứ không phải Dị thục lạc, gọi là thuần khổ, chỉ thừa nhận tạp thọ có Đẳng lưu lạc, chẳng phải là Dị thục. Nói trong đường ác là lựa ra dục nhân v.v... Nếu theo tổng hợp trước là lý của tùy chuyển, lựa ra tạp thọ còn lại, chẳng phải nói thừa nhận Dị thục lạc, nếu như vậy luận Duy thức quyển 20 làm sao thông? Đáp: Luận kia nói nghiệp cảm khí sở sinh lạc, không nói rằng nghiệp cảm sở sinh thọ lạc, nếu thừa nhận có nghiệp cảm Dị thục lạc, lẽ ra phải nói nó nhất định có lạc của nghiệp cảm, vì sao cần phải nói rằng khí? Như duyên theo cảnh bên ngoài, thông với ba tánh tâm, chẳng phải chỉ Dị thục, đây lẽ ra như vậy, khí tuy nghiệp cảm, sao lại phế bỏ lạc của Đẳng lưu.
Nói Vị chí định có hai mươi mốt căn, nghĩa là năm thứ tín v.v... ba Vô lậu căn, hỷ xả, ý căn, do không sinh, nó không phải sắc căn mạng, vì sao có ý? Ý tức là Thức thứ bảy, tùy theo sinh trói buộc?
Đáp: Lược làm hai giải thích:
1. Căn cứ theo hàng Tam thừa thông với ý căn mà nói, tức là thứ lớp diệt.
2. Căn cứ theo hàng Đại thừa có Thức thứ bảy khởi Vô lậu mà nói.
Hỏi: Hữu lậu năm thức, định thư tư không có, Vô lậu nói có, Hữu lậu lạc, hỷ định thứ tư không có, Vô lậu hỷ lậu định thứ tư có?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Vì nghĩa đều nhau cũng thừa nhận được hữu, như năm thức kia, nếu không thừa nhận năm thức thông với Tứ thiền, lại không phải vặn hỏi này. Lại như Kiến đạo của Đại thừa ắt định thứ tư, Sơ địa đã nói cực hỷ, nên có hy tho; lạc chuẩn theo đây.
2. Không cùng giải thích, Phật thành sự trí không cùng với hỷ câu, tướng thô động nên định thứ tư vô. Khởi lên nương theo sắc căn trong định thứ tư có năm sắc căn, nên có năm thức, nhưng Yếu Tập không thừa nhận Vô lậu năm thức thông với Tứ thiền, nếu không như vậy không phải văn ngăn ngại.
Hỏi: Vì sao nói rõ biến hành, chỉ nêu xúc v.v... không nói tác ý? Đáp: Có hai giải thích:
1. Vì thuận theo trước, trước chỉ nói thọ, tưởng, tư v.v... sở y là nghiệp, không nói tác ý.
2. Thuận theo sư Kinh bộ, lập ra tâm sở khác; vì tác ý v.v... là phần vị của tư, nêu tư nhiếp Mạtna, nên không phải trình bày hết.
Nói sự sở duyên không đồng, lược có hai giải thích:
1. Chẳng phải thể và tướng, lúc duyên theo vô pháp nó không có thể. Vô phân biệt trí không có tướng trạng, chỉ duyên theo nghĩa của cảnh sai biệt, giải thích này không đúng, đâu phải lúc duyên theo cảnh, không được tự tướng.
2. Thể sự, nếu như vậy vô pháp vì sao có thể sự?
Đáp: Duyên theo vô tâm không khởi, vô pháp không gọi là sự, duyên theo vô tâm tức là sinh, hữu vô đều thể sự, đều được gọi là pháp đều giữ gìn tự tánh, vì sao chẳng phải là sự?
Luận: Tư khiến cho tâm chấp lấy tướng của chánh nhân v.v... Tây Minh nói: Đây khiến cho tâm chấp lấy tướng của chánh nhân, đâu không phải tâm vương cũng chấp lấy tướng khác? Giải thích rằng, không như vậy. Tư có hai dụng, nghĩa là có thể chấp lấy tướng của tự chánh nhân v.v... cũng khiến cho tâm vương chấp lấy chánh nhân v.v... tâm chỉ chấp lấy mình không thể khiến cho người khác chấp lấy chánh nhân v.v... nên không được nói tâm chấp lấy tướng khác. Lại giải thích nếu thừa nhận chấp lấy khác nhau, nghĩa cũng không lỗi, nhưng nói tâm vương chỉ chấp lấy tướng chung, căn cứ theo chánh dụng mà nói nên không trái nhau, lấy trước nói trội hơn. Nay cho rằng trước nói cũng ít vặn hỏi giải thích. Vả lại tướng của chánh nhân v.v... làm tướng chung làm tướng riêng ư? Nếu là tướng riêng tâm không nên nhận lấy, vì trái với các luận. Nếu là tướng chung trái với thuyết trước, trước giải thích tâm sở đều nói rõ ràng. Luận này tự giải thích nói, đây biểu hiện tâm sở cũng duyên theo tướng chung, đều lấy riêng để nêu chung, tướng của chánh nhân v.v... rõ ràng tức là riêng, nếu không như vậy lẽ ra không có tướng riêng sở liễu.
Luận: Khi cầu không hợp ly thì tự thể đáng vui chẳng phải nhàm chán, chẳng phải là chỉ vui vẻ tự thân, chỉ là vị vô xứ của sở nhàm chán kia gọi là tự thể.
Hỏi: Tiểu thừa nói căn và tác ý, có thể thù thắng phát khởi do giải thích kia trội hơn. Vặn hỏi rằng: Lẽ ra có lỗi vô cùng. Nếu họ vặn hỏi, tông của ông tác ý sẽ cũng đợi cái khác cũng có lỗi vô cùng?
Đáp: Vì họ chống chế nói, căn và tác ý làm phát khởi thù thắng, lại do giải thích thù thắng, tức là có hai lớp, nên ứng lại có, nên có lỗi vô cùng. Đại thừa tác ý, có thể răn bảo chỗ khác, lại không phải răn bảo, nên không thể vặn hỏi sẽ có vô cùng. Nếu gắng vặn hỏi, trái lại ví dụ tác ý khiến cho tâm hướng đến cảnh khác, tác ý cũng sẽ đợi thứ khác mới có thể hướng đến cảnh khác.
Giải thích nhân năng ghi nhớ, rộng như trước nói.
Yếu Tập ghi: Kinh Chánh Pháp Niệm quyển 17 liệt kê đầy đủ mười đại địa và kinh Bát-nhã quyển 27 ghi: "Định sau là mười đại địa trong định tâm sở". Tổng hợp nói: Kinh Chánh Pháp Niệm, nghĩa của Chánh lượng bộ, Niết-bàn tùy theo chuyển kia, chẳng phải lý chân thật, nên chẳng phải sở y.
Luận: Ngăn đẳng dẫn, định có bảy tên:
1. Tam-ma-tứ-đa, Hán dịch là Đẳng dẫn, Tamma là Đẳng, tứ-đa là Dẫn.
2. Tam-ma-địa, Hán dịch là Đẳng trì.
3. Tam-ma-bát-đề, Hán dịch là Đẳng chí.
4. Đà-na-diễn-na, Hán dịch là Tĩnh lự.
5. Chất-đa-ế-ca-a-yết-la-đa, Hán dịch là Tâm nhất cảnh tánh, chất-đa là Tâm; ế-ca là Nhất; a-yếtla là Cảnh; đa là Tánh.
6. Xa-ma-tha, Hán dịch là Chỉ.
7. Hiện pháp lạc trụ.
Đẳng dẫn thông với hữu vô tâm, chỉ có định không tán loạn.
Luận Du-già quyển 11 ghi: "Chẳng phải ở nơi cõi Dục tâm nhất cánh tánh". Đẳng trì có tâm thông với định và tán, nhưng trong kinh luận thành tựu thù thắng. Vả lại nói không vô tướng nguyện, gọi là Tam-ma-địa. Đẳng chí chỉ thông hữu vô tâm định, nhưng trong kinh luận thành tựu thù thắng chỉ năm nói, năm hiện kiến v.v... tương ưng với các định, gọi là đẳng chí. Tĩnh lự, thông nhiếp với hữu vô tâm định, lậu và Vô lậu, nhiễm và bất nhiễm, nương theo sắc bốn địa chẳng phải xứ hữu khác, các nơi căn cứ theo phần trội hơn nhiều nói sắc địa có tâm thanh tịnh công đức, gọi là tĩnh lự. Tâm nhất cảnh tánh tức là Đẳng trì, vì Tâm nhất cảnh tánh giải thích là Đẳng trì. Xa-ma-địa chỉ có tâm tịnh định, không thông với tán vị. Hiện pháp lạc trụ, chỉ ở tĩnh lự, căn bản chẳng khác, tịnh không thông với tán, nhưng đẳng dẫn rộng, thông nhiếp tất cả các công đức hữu vô tâm vị, nên trong luận Du-già riêng lập ra tên Địa. Đẳng chí thì không như vậy.
Luận: Đối với thật, đức, năng thâm sâu nhãn lạc, dục tâm tịnh là tánh.
Trong luận Tạp Tập lược nêu đồng với đây, căn nghiệp ít khác.
Luận Hiển Dương nói cảnh giống nhau, Câuxá luận nói, ở nơi hữu thể, hữu đức, hữu năng, vả lại thành tựu hữu thể, không nói duy. Nếu không như vậy tín duyên theo pháp quá khứ vị lai v.v... đâu phải hữu thể ư? Nhân quả tự tánh chính đồng với luận này. Luận kia ghi: "Nhẫn khả, thanh tịnh, hy vọng là thể". Luận Hiển Dương lược bớt quả, Ngũ Uẩn đồng với đây, nhưng nói nhân quả đầy đủ. Luận kia ghi: "Cực chánh phù thuận tâm tịnh là tánh". Nói phù thuận thông với hai thứ nhãn, dục, nên luận này ghi: "Nếu ấn thuận tức là thắng giải, nếu lạc thuận tức là dục".
Hỏi: Nhân quả này làm câu của trước sau?
Đáp: Hoặc câu thời, hoặc nhân trước quả sau, cũng không nhất định, cảnh cũng đồng với đây. Luận kia ghi: "Nghĩa là ở đối với nghiệp quả các đế, bảo trung, nghiệp quả tức là đế, chung là thật sự, thật lý của luận này. Trong nghiệp, luận Tạp Tập chỉ nói lạc, dục, sở y là nghiệp, không nói trị nghiệp. Luận Hiển Dương năm nghiệp, ban đầu một trị nghiệp, bốn thứ còn lại tức là lạc này thiện là nghiệp. Trong phần mở rộng, luận Ngũ Uẩn, Hiển Dương đều không có, luận Tạp Tập nêu rộng thể, luận này đầy đủ rộng, tùy ý người soạn đều không trái nhau.
Sớ ghi: Chẳng phải tàm tàm, tín là vô tàm, chẳng phải tín tín tàm là bất tín, hiển bày thể đều khác, chẳng phải do tín khiến cho tâm tịnh, tàm là bất tín, chẳng phải do tàm khiến cho tâm thiện, tín là không tàm, các thứ khác rộng lược tánh, nghiệp, đồng khác chỉ giải thích mà biết. Nhưng trong Tây Minh giải thích, nói tự, pháp, lực đồng như Tạp Tâm luận:
1. Tự cảnh thượng, nghĩa là người ở phẩm thượng, thẹn với thân mình, không làm các việc ác. 2. Pháp tăng thượng, nghĩa là người ở phẩm trung là ủng hộ Thánh giáo, không tạo các việc ác. 3. Thế gian tăng thượng, nghĩa là người ở phẩm hạ giữ gìn danh lợi của đời, không tạo các việc ác.
Nay cho rằng không đúng. Luận Hiển Dương, Ngũ Uẩn và trong luận này chỉ nói rằng hai thứ tự và pháp, không nói thế gian. Nếu nói rằng hạ phẩm thuộc về quý không ở nơi tàm, đây cũng không như vậy, đâu phải người ở thượng phẩm trung phẩm khởi tàm, không có quý ư? Nên không được đồng Tạp Tâm giải thích.
Mười một pháp thiện đã có tướng riêng, luận mỗi mỗi tự nói, như tín lấy tịnh làm tướng, tàm v.v... tuy thiện chẳng phải lấy tịnh làm tướng, tàm lấy sùng kính trân trọng, quý lấy khinh miệt chống đối v.v... Nhưng Yếu Tập ghi: "Ba thứ thật, đức, năng là tướng riêng của tín, hoặc có thể là cảnh, vì tướng quyết định là tướng khác của tín. Nay cho rằng không đúng, ba thứ thật, đức, năng nhất định là cảnh của tín, không cần nhọc công giải thích.
Luận nói: Đối với thật, đức, năng, tâm thanh tịnh là thể, nếu thật, đức, năng là tướng riêng của tín, đâu phải ở nơi tướng khác tự sinh ra tướng ư? Nếu lấy quyết định làm tướng khác của tín, thắng giải khác gì? Nếu nói: Đây nói đã nhận lấy cảnh tướng trái, nói có thể nhận lấy tự tướng, vì sao nói rằng, hoặc có thể ba thứ này là thể của tín cảnh, chẳng phải tướng khác của tín?
Lại nói: Có thể tàm có thể tín làm hai sở duyên, chuẩn theo sau nên nói: Tín lẽ ra có thể tín, thọ lẽ ra có thể thọ, tàm tức là có thể tôn sùng, quý vì có thể chống cự, đây làm tướng riêng, còn lại chuẩn theo nên biết, đây cũng vặn hỏi mà biết. Ba thứ thật, đức, năng tức là sở duyên của tín, thuận nghịch đều chẳng phải là thọ đã lãnh nạp. Các pháp tàm, quý v.v... văn sau đã nói tùy theo duyên vào cảnh nào, lẽ đâu đối với khổ, tập tông sùng, diệt, đạo có thể chống cự ư? Nếu nói: Luận nói đều có nghĩa của tông trọng và khinh rẻ chống cự, vì sao trước nói: Có thể tàm, có thể quý là hai sở duyên, đâu phải không duyên theo thể của diệt v.v... ư? Nay giải thích, tự tánh đều khác cảnh hoặc rộng hẹp, như hai thứ tàm quý và vô tham sân, đều nói rằng tùy theo duyên vào cảnh nào, còn lại có thể khác, tức là quyết định sở lạc v.v... Nhưng trong tâm sở, các luận trên dưới có nói tướng riêng của cảnh sở duyên tức là có thể định biết, nếu không nói tức là chưa thấy văn, không thể đoán định.
Hỏi: Lấy hai thứ hổ, thẹn làm thể của tàm quý, nghĩa của một thể phân chia thì thành giả, hai chấp bản sau đều đồng tuệ, dụng của một thể phân chai nên không thật, ban đầu ý của hai Tĩnh lự gọi là hỷ lục, là hỏi cũng như vậy chăng?
Đáp: Đồng nương theo một tuệ, không phải lập riêng, căn cứ theo nghĩa dụng riêng nên là thật, tàm quý đồng thể tức là lập riêng, như vong niệm v.v... nên sẽ là giả.
Hỏi: Nếu thừa nhận tàm quý nhất định đều khởi, vì sao quyển 53 ghi: Nếu có tàm chính hiện tiền, nhất định cũng có quý, chẳng có quý nhất định có tàm, cho nên tàm pháp rất là mạnh mẽ thù thắng ư?
Đáp: Luận kia căn cứ theo nghĩa khác, người thọ giới là theo ủng hộ tâm người khác, trông mong họ khởi quý, trông mong mình khởi tàm, vì ở nơi chỗ mình lúc xấu hổ, ắt sẽ nhìn lại người khác mà sinh ra quý, vì nhìn lại mình tăng thêm ắt sẽ xấu hổ với người. Nếu ở chỗ người khác lúc xấu hổ chưa nhất định sinh ra tàm, vì nhìn lại mình yếu kém, hoặc tùy theo tăng mà nói, các lỗi lầm chuẩn theo đây.
Hỏi: Tín nói khiến cho họ thanh tịnh, xả cũng khiến cho họ yên tĩnh, tàm v.v... này có thể khiến cho họ tông sùng, khiến cho họ chống cự ư?
Đáp: Luận đã không có văn, nếu lại không thể cũng đâu có lỗi gì, vì các tâm sở công dụng khác nhau. Vả lại như tác ý khéo cảnh giác người khác, chẳng phải khiến cho sở cảnh giác cũng có thể cảnh giác. Nếu khiến cho họ cũng tông sùng, chống cự v.v... cũng có lỗi gì, vì tâm, tâm sở dụng có rộng hẹp, pháp tánh như vậy, nhưng chẳng phải ắt sẽ đều ví dụ.
Hỏi: Căn bản sáu hoặc và hai mươi tùy. Chỉ ngược mười một làm thiện mười một, mười lăm thứ khác vì sao không ngược?
Đáp: Tây Minh giải thích rằng: Sở dĩ không ngược vì: một là không phải định thuộc về một thiện; hai là hoặc thuộc về thuần tịnh thiện; hoặc nhập vào tạp loại thiện, nay cho rằng không đúng. Vả lại phẫn hận v.v... định thuộc về vô sân, nhập thuần tịnh thiện, chẳng phải ở tạp loại, nên như luận. Một là tướng dụng có khác nhau, hai là biến khắp sáu thức, ba là chướng ngại thắng nhân, vì phẩm v.v... kia không khác tướng dụng, không biến khắp sáu thức chẳng phải chướng ngại thắng nhân, không riêng ngược lập làm thiện giáo, như bất phóng dật đối trị phóng dật, do bất phóng dật thành tựu đầy đủ tất cả thiện của thế xuất thế gian, ngăn ngừa ác tu thiện, vì thù thắng này sai biệt lập ra nó, còn lại không lập ra nên chuẩn theo đây mà biết.
Luận: Chẳng phải kiến sở đoạn, Sớ nói nó không nói thiện pháp đoạn duyên trói buộc, gọi là kiến đoạn, tuy Vô tưởng định đã chiêu lấy Dị thục nhập vào bậc Thánh gọi là đoạn, định chẳng phải kiến đoạn, nếu không phải như vậy, Tu đạo phiền não phát ra nghiệp, cũng chiêu lấy đường ác riêng quả báo khổ, quả tuy Kiến đạo, Tu đạo phiền não đâu phải Kiến đạo ư? Tức là có thể trói buộc hiện tại, chỉ căn cứ theo Kiến đạo, không sinh gọi là đoạn, chẳng phải theo đoạn trói buộc, không chướng ngại kiến, vì đây chứng biết thiện chẳng phải kiến đoạn.
Hỏi: Đây dẫn văn của hai mươi hai căn, ba đoạn trong quyển 57, nếu không duyên theo trói buộc gọi là kiến đoạn, bảy thứ sắc, mạng căn vì sao gọi là kiến đoạn? Đoạn có bao nhiêu thứ?
Đáp: Đoạn có bốn thứ: một là tự tánh đoạn; hai tương ưng đoạn; ba duyên trói buộc đoạn; bốn bất sinh đoạn. Nói tự tánh đoạn nghĩa là vốn là tùy theo hoặc, tánh là nhiễm, và bất thiện nghiệp, nghiệp tức là tư, như tợ năm kiến, chẳng phải tương ưng đoạn. Tương ưng đoạn là tám thức của Hữu lậu, năm biến hành hoàn toàn biệt cảnh bất định cả hai đều thiểu phần, tự tánh chẳng phải nhiễm, do cùng hoặc câu, lúc đoạn tương ưng tâm v.v... giải thoát, nên quyển 54 ghi: "Lại nữa tự tánh của các thức chẳng phải nhiễm". Kinh Niết-bàn cũng ghi: "Đoạn tương ưng tham v.v... gọi là tâm giải thoát". Lại quyển 59 ghi: "Theo tương ưng kia và sở duyên nên phiền não có thể đoạn", nhưng sở duyên đoạn hoặc không sinh đoạn nhiếp, không phải là cảnh trói buộc, gọi là sở duyên đoạn, nên kia ghi: "Tương ưng đoạn rồi, không phải lại duyên theo cảnh, nên theo sở duyên cũng gọi tên đoạn". Duyên trói buộc đoạn là tất cả Hữu lậu pháp không nhiễm ô. Bất sinh đoạn là nẻo ác Dị thục, Vô tưởng định v.v... trong quyển 8 lại sẽ phân biệt.
Hỏi: Trước nói đoạn là nương theo đoạn nào mà nói?
Đáp: Nương theo bất sinh vô duyên trói buộc đoạn. Mười bốn thứ, một phần kiến sở đoạn, căn cứ theo bất sinh mà nói, hoặc thông với tương ưng đoạn cùng với kiến hoặc đồng thời nên nói kiến đoạn, nhưng không hết lý, có chẳng phải đoạn. Một phần tu đoạn căn cứ theo duyên trói buộc mà nói, mười hai thứ một phần tu sở đoạn, một hướng theo duyên trói buộc đoạn, văn quyển 87 lại nói bốn đoạn ít đồng với đây, nên nói một phần tu đoạn, vì năm thứ tín v.v... Vị tri, Đương tri thông với lậu Vô lậu. Vô lậu tức là chẳng phải sở đoạn, ưu khổ hai thọ tánh chẳng phải Vô lậu, vì dẫn Vô lậu và Vô lậu dẫn nói là phi đoạn, thật chẳng phải Vô lậu.
Hỏi: Nếu như vậy ý hỷ lạc xả cũng thông với Vô lậu, vì sao chỉ nói đoạn? Vô tưởng định v.v... chuẩn theo Thức thứ tám nói cũng thông với kiến đoạn, ở đây vì sao không nói?
Đáp: Đây sau hỏi trong Sớ giải thích xong, giải thích vặn hỏi trước, ý, hỷ, lạc, xả Vô lậu là thật thông với phi đoạn, vì ý và xả tám thức đồng nơi, chẳng phải đều Vô lậu. Vả lại căn cứ nói hoàn toàn. Hỏi: Thân của Nhị thừa Vô lậu chẳng phải hoàn toàn, ở thân Phật, bảy sắc căn trừ nữ, năm thọ trừ ưu khổ, ba Vô lậu trừ hai, đều thông với Vô lậu, vì sao chẳng hoàn toàn không nói phi đoạn?
Đáp: Căn cứ theo Tam thừa đồng, nếu căn cứ theo Nhị thừa được thông với phi đoạn.
Hỏi: Các pháp Hữu lậu chẳng phải tánh nhiễm, thân của Nhị thừa, không phải năng duyên hoặc, nói làm tu đoạn, nhưng pháp còn tồn tại, nếu trong thân Phật đều diệt, không có là đoạn nhiếp gì?
Đáp: Không sinh đoạn nhiếp.
Hỏi: Vì sao biết?
Đáp: Trong Tập luận nói bậc Vô học sau uẩn không phải chủng tử đã sinh, chuẩn theo đây nhân không quả không phải sinh.
Hỏi: Như tám nạn, thân v.v... đã khởi lòng tin v.v... nhập vào Kiến đạo rồi thân kia không thọ, tín v.v... khởi chăng? Nếu không khởi thì thuộc về đoạn nào? Nếu thừa nhận khởi, không phải thân của sở y, vì sao được khởi?
Đáp: Có hai giải thích: một là không khởi không sinh đoạn nhiếp, vì sở y vô. Hai là được khởi nương theo thân hiện tại, nhưng sẽ phân biệt. Sinh đắc là không sinh không tạp loạn. Phương tiện là khởi thừa nhận tạp loạn, giới trói buộc định, thân bất định. Hoặc dụng chứa sinh đắc, giới tuy không phải tạp thú thừa nhận tạp như trong loài người tạo tác, nghiệp sinh lên cõi trời v.v..., thông với sinh đắc, quyển 3 trước ghi: "Không tán loạn là căn cứ theo giới địa mà nói".
Hỏi: Vì sao liệt kê trong phiền não, luận Du-già Thức quyển 8, quyển 58 đều nêu năm kiến ở trước; kế liệt kê tham, mạn vô minh, nghi.
Đáp: Lợi thuần trước sau, luận này, luận Hiển Dương và luận Tạp Tập v.v... vì chính ngược với thiện, trước nói rõ tham v.v...
Hỏi: Vì sao luận này sau nghi nói mạn, còn lại mạn sau si?
Đáp: Câu sinh phân biệt lợi thuần trước sau.
Năm uẩn v.v... Câu sinh phân biệt, nghi ở sau kiến, luận này v.v... căn cứ theo lợi thuần khác nhau, nghi ở trước kiến.
Luận: Đối với hữu có đủ. Sớ ghi: "Đại thừa thừa nhận tham duyên theo diệt đạo", quyển 58 v.v... không nói. Văn sau tự tùy theo tướng thô mà nói, đây thừa nhận được duyên. Nói tham cùng với kiến, mạn, dung chứa đều khởi. Ý này kiến mạn kiến mạn tức là chấp vào Phật tánh, lấy nó làm ngã, đều dung chứa tham đồng thời.
Yếu Tập xác quyết rằng: Tà kiến phát ra vô, không phải cùng với tham đồng thời, nếu phát ra hảo sự, tà kiến, sân đồng thời, ý này phát ra diệt, đạo là hảo sự, chẳng phải đạo chấp đạo, bất tử, kiểu loạn đều duyên theo pháp khác, chẳng phải diệt đế, Đạo đế. Nếu định pháp ái chẳng phải tà kiến đồng thời, thân kiến câu tham chỉ duyên theo khổ đế, vì sao kiến câu tham được duyên theo diệt, đạo? Nên chẳng phải hữu câu. Đây giải thích không như vậy, chuẩn theo trên nên biết. Lại hoàn toàn giới phiền não đều có thể kết hợp sinh, tức là thừa nhận phiền não có thân cận duyên, vì sao chẳng phải hữu câu? Mạn có chín. Sớ ghi: Quá mạn, mạn, ty mạn như lần lượt khởi ban đầu ba loại; nghĩa là đồng chấp mình thắng khởi ngã thắng mạn loại, đối với thắng chấp mình v.v... tuy cũng là quá mạn. Nay nói ngã thắng trừ kia. Đối với đồng chấp đồng khởi ngã v.v... các loại, không nói nơi yếu kém chấp trội hơn. Nói ngã v.v... nương theo ty mạn khởi có ngã liệt mạn loại, ty mạn, mạn, quá mạn như lần lượt khởi trong ba loại. Đây nương theo ty mạn khởi hữu thắng ngã mạn loại, đối với đồng chấp đồng khởi hữu v.v... các loại, đối với đồng chấp thù thắng khởi hữu liệt ngã loại mạn, quá mạn, ty mạn như lần lượt khởi ba thứ sau, đối với đồng chấp đồng khởi vô thắng loại, đối với đồng chấp thù thắng khởi vô v.v... các loại, nương tựa ty mạn khởi vô liệt mạn loại. Như luận Câu-xá quyển 19, luận Bà-sa quyển 199 giải thích.
Hỏi: Vả lại ngã thắng mạn, vì sao chỉ nương vào đồng chấp trội hơn không nói ở nơi trội hơn chấp v.v...
Đáp: Nay đã nói ngã thắng, nói chẳng phải ở nơi thắng chấp theo mình v.v... còn lại chuẩn theo nên biết.
Hỏi: Vì sao không ở nơi mạn quá mạn khởi?
Đáp: Căn cứ theo nhiều phần mà nói, không phải nhiều ở thắng chấp mình là thắng, đây nương theo luận Phát Trí mà nói, nương theo Phẩm Loại Túc luận cũng đối với nó khởi, nên luận Bà-sa quyển 199 ghi: "Đây nương theo bản luận đã giải thích như vậy, nương theo Phẩm Loại Túc luận trong ngã thắng mạn loại nhiếp theo ba loại. Nếu yếu kém nghĩa là mình thắng, tức là mạn, đối với đồng nghĩa là mình thắng tức là quá mạn, đối với thắng nghĩa là mình thắng là mạn quá mạn, tám mạn còn lại như lý nên biết. Căn cứ theo đây luận Phát Trí nương theo nhiều phần mà nói. Phẩm Loại Túc luận nương theo lý tận cùng mà nói nhưng chín loại này ba loại ở nơi quá mạn khởi; nghĩa là ngã thắng, hữu liệt, vô đẳng ba thứ ở nơi mạn sinh ra nghĩa là ngã đẳng, hữu đẳng, vô thắng, đều ở trung phẩm xứ sinh ra. Ba thứ còn lại nương theo hạ phẩm xứ khởi vì đối với thù thắng của người khác chấp yếu kém của mình.
Hỏi: Mạn loại về mạn có gì sai biệt?
Đáp: Có hai nghĩa: một là cần nương theo ngã kiến, sau sinh và đều hai loại phần nhiều không hoàn toàn, theo Phẩm Loại Túc tức lại có lỗi, như tợ quá mạn đối với thắng, nghĩa là mình đồng chấp mình trội hơn, ngã thắng chỉ đối với đồng chấp mình trội hơn, nên không phải toàn phần. Theo Phẩm Loại Túc, ngã thắng nương theo ba sinh, nghĩa là đối với liệt, đẳng, thắng, đều chấp mình thắng, nên tức là lỗi.
Hỏi: Ba thứ ngã, liệt, loại nương theo ty mạn khởi, tức là hoàn toàn chẳng phải phần và bảy thứ khác gì?
Đáp: Có một nghĩa ban đầu.
Hỏi: Vì sao ngã kiến đều sau khởi làm mạn, đâu không thừa nhận bảy mạn nương theo ngã kiến đều sau sinh?
Đáp: Không chướng ngại bảy mạn, sau đồng thời ngã kiến mới sinh, chỉ hành tướng riêng ngay thẳng, chấp ngã sau khởi làm mạn, chấp ngã thắng v.v... sau khởi mạn, tức là mạn. Hoặc không nương theo ngã mạn, cũng được sinh, loại ắt sẽ nương theo ngã, lại do phần và lỗi là bảy loại kia, lẽ ra nói: Ngã kiến sau khởi là mạn, ngã sở sau khởi là loại, chấp ngã có liệt thắng, liệt thắng thuộc về ngã đẳng, tuy chẳng phải tức là ngã sở, hành tướng tợ như nó.
Tây Minh nói: Chín loại, ba loại nương theo ba phẩm sinh ra, ba loại nương theo thượng phẩm sinh ra, ba loại nương theo trung thượng phẩm sinh ra, trong ngã thắng loại nhiếp theo ba loại mạn, nghĩa là đối với yếu kém chấp là thù thắng, đối với đồng cho rằng mình trội hơn, đối với thắng cho rằng mình trội hơn, như lần lượt mạn, quá mạn, mạn quá mạn tám mạn loại còn lại, lẽ ra như lý suy nghĩ. Ngã v.v... mạn loại nương theo trung thượng phẩm, sinh nhiếp theo hai mạn, ngã liệt chỉ nương theo thượng phẩm, sinh nhiếp theo một mạn, hữu thắng mạn loại đồng với ngã liệt này, vô liệt cũng đồng, hữu đẳng loại đồng với ngã đẳng, hữu liệt, vô thắng, vô đẳng loại đây ba loại cũng đồng với ngã thắng. Nay cho rằng tợ như sai lầm. Xu Yếu ghi: "Ba loại nương theo ba phẩm sinh ra", lại nói: "Hữu liệt, vô thắng, vô đẳng cũng đồng với ngã thắng", tức là bốn loại nương theo ba phẩm sinh ra, vì sao được nói là ba loại? Chuẩn theo nên vô thắng đồng với ngã đẳng kia trong thượng phẩm sinh ra. Lại nữa ngã liệt đẳng ba mạn loại nương theo hạ phẩm sinh ra, vì sao được nương theo thượng phẩm? Vì chấp mình yếu kém, ty mạn có thể thành tựu. Có cao xứ, vô liệt ngã mạn cao xứ là gì? Nghĩa là đối với như vậy tự mình đã thọ lạc, trội hơn hữu tình nhóm họp và ngoái nhìn thân mình, tuy biết rất yếu kém mà tự tôn trọng, tức là nói: Tuy biết rất yếu kém mà tự tôn trọng, rõ ràng chẳng phải thượng phẩm.
Luận: Do dự là tánh. Sớ ghi: Tức là duyên theo lý sự đều là nghi.
Tây Minh nói: Nương theo đế môn, giải thích gọi là đời khác v.v... mà không có việc nghi nói làm nhiễm ô, như nghi khúc gỗ là người, đều là việc trong nghi, không ẩn mất Vô ký, Dị thục sinh nhiếp. Yếu Tập xác quyết rằng: Có giải thích là thắng, luận này đoạn sau ghi: "Ba kiến và nghi, độc đầu vô minh gần gũi mê đế", quyển 58 đồng. Nếu có việc nghi, đồng với kiến thủ v.v... duyên theo kiến khác v.v... mà luận không nói, nay cho rằng không đúng. Quyển 58 ghi: "Nghĩa là đối với đời khác tác dụng nhân quả v.v...". Lại quyển 4 trước ghi: "Vả lại nghi đời khác là Hữu vi vô, đối với nó có tướng dục, thắng giải gì?" Nương theo nghi đời khác v.v... là sự chẳng phải lý. Nói mê muội lý sự. Sớ không nói nghi khúc gỗ là người, cũng là phiền não nghi, nếu dùng đế nhiếp, pháp nào chẳng phải đế? Sân còn lại ái v.v... mê muội sự khác sinh ra, lẽ ra là lý, sân, ái, sở duyên cũng đế nhiếp.
Nghi tuệ là thể, Tây Minh giải thích: Ba nhân thành tựu. Yếu Tập ghi:" Căn cứ theo sư sau phá", có giải thích thuận văn, nay cho rằng không đúng. Trong Huấn Thích Chứng ghi: "Mạt-để, Bát-nhã nghĩa không khác chuyển đổi giải thích Mạt-để, nếu không như vậy có nghi tỳ trợ Mạt-để, vì sao được là tuệ", nên chuyển giải thích rằng: Mạt-để, Bát-nhã nghĩa không khác nếu đem Bát-nhã làm nhân thứ ba có nguyên nhân gì?
Tát-ca-na-kiến các giải thích v.v... Yếu Tập ghi: "Đại thừa di chuyển", ý đồng với Thế Thân chẳng cho rằng hữu vô bất định hoặc khác với hai tông, gọi là di chuyển lý đã định nên gọi là bất thuận. Nay cho rằng không đúng, không được bản ý. Sớ ghi: Nay Đại thừa ý tâm trên đã hiện tợ như tướng của ngã, thể chẳng phải thật có, là giả pháp lại thể chẳng phải hoàn toàn vô, tánh y tha khởi thành tựu Sở duyên duyên, nói chẳng phải thật có cũng chẳng phải hư ngụy, chỉ là pháp của y tha di chuyển, sở y của ngã, đây đồng Nhiếp luận.
Lại nói: Lại nương theo sở chấp, có thể nói hư ngụy nên gọi là do chuyển. Ý này không nói rằng khác với hai tông, nên gọi là di chuyển, chỉ nói rằng các pháp của duyên sinh di chuyển, không đồng với thật của Hữu bộ, chẳng phải như Kinh bộ giả hòa hợp tướng, không cho hai tông hữu vô bất định gọi là di chuyển.
Luận: Kiến chấp này sai biệt hai mươi câu v.v... Tây Minh nói: Phân biệt hành duyên uẩn, cũng phân biệt sơ khởi xứ mà nói. Tam Tạng có hai giải thích: một là ngã sở làm sở khởi xứ, chấp sắc làm ngã v.v... đều nương theo ngã sở mà chấp ngã. Hai là lấy ngã làm sở khởi xứ, vì nương theo thể của ngã nên có các ngã sở. Sớ tự xác quyết rằng: Nay lấy giải thích ban đầu, đây nói rõ ngã, ngã sở kiến chấp hành tướng, không muốn nói rõ ngã ngã sở. Nay cho rằng khó biết, chỉ ngã sở kiến nương theo ngã kiến sinh ra, ngã kiến không nương theo ngã sở kiến khởi, lại lúc chấp vào sắc v.v... là ngã, không chấp là sở, đâu thể nói đều nương theo ngã sở, mà chấp ngã.
Hỏi: Hai mươi câu này là một người khởi, hay nhiều người khởi?
Đáp: Căn cứ theo tất cả mà nói, nếu chấp sắc ngã thì chẳng khác còn lại chỉ ngã sở.
Hỏi: Do đâu mỗi mỗi chấp làm ba sở?
Đáp: Luận Tạp Tập quyển 1 ghi: "Tương ưng ngã sở, tùy chuyển ngã sở, chẳng lìa ngã sở". Tương ưng sở nghĩa là ngã có sắc cho đến có thức do ngã và nó tương ưng nên nói có, đây do ngã đều nói làm tương ưng. Tùy chuyển nghĩa là nếu nó do sức đây tự tại chuyển, hoặc xả hoặc dịch, đều do thuộc về ngã, tùy theo ngã chuyển. Chẳng lìa ngã sở nghĩa là ngã ở bên trong biến khắp thể tùy hành, đều do ngã ở bên trong không lìa nó, còn lại đều chuẩn theo mà biết.
Sáu mươi hai kiến, luận Du-già quyển 6, luận Hiển Dương quyển 9 trong phá thường luận, nói rõ bốn biến thường bốn phần. Phần một và hai, có tưởng không tưởng chỉ chẳng phải trong ngã có sắc tưởng v.v... có khổ thọ v.v... hữu biên hai giải thích. Luận Du-già quyển 7, luận Hiển Dương quyển 10 nói rõ năm hiện Niết-bàn, biên vô biên, kiểu loạn, hai vô nhân, bảy đoạn. Luận Du-già quyển 5 có phẩn khuể vong niệm, không nói phần thường. Trong quyển 58 có tên biến thường v.v... mà không phải giải thích riêng, nhưng có các hoặc mê Đế xa gần, quyển 87 nêu đủ. Luận Bà-sa quyển 199, ban đầu nói rõ năm hiện Niết-bàn, kế bốn Kiến phần thường, hai vô nhân, hữu biên v.v... vô tử bốn. Quyển thứ 200 có tưởng v.v... mười sáu, vô tưởng đều trái, tám thứ đều bảy đoạn diệt.
Hỏi: Sáu mươi hai kiến do nhân gì khởi?
Đáp: Như chương này nói có hai nhân khởi, một Phật thuyết sở nhân, hai kiến khởi sở nhân.
Lại luận Du-già quyển 87 ghi: "Các ác kiến thú do sáu nhân duyên mà được kiến lập". Một là do nhân duyên; hai là do nương theo giáo; ba là nương theo thiền định; bốn là nương theo thế gian; năm là nương theo các kiến; sáu là do sinh ra xứ. Nhân duyên tức là Tát-ca-da-kiến, giáo tức là ngoại đạo, thầy trò trao cho nhau. Tĩnh lự tức là túc trụ, thiên nhãn. Thế tức là nương theo quá khứ và hiện tại, vị lai chấp đời trước đời sau. Kiến tức là ngã kiến, sinh tức là sinh xứ, một thân cận nương theo Tátca-da-kiến khởi biên kiến, lấy chấp ngã làm đoạn thường là biên kiến, gần ý khởi tà kiến, vì ngã kiến không cần chấp ngã mới khởi tà kiến. Ban đầu sức của nhân nương theo sức của giáo duyên là thông với nhân, nương theo Tĩnh lự sau là biệt khởi nhân, nương theo Tĩnh lự khởi bốn biên thường kiến bốn phần thường kiến, bốn hữu biên v.v... hai vô nhân kiến, bốn bất tử luận. Luận đều nói nương theo Tĩnh lự khởi. Nương theo thế nhân lại chẳng phải khởi riêng. Căn cứ theo phần tiền hậu tế, nương theo kiến sinh ra hai mươi bốn nghĩa là ngã có sắc v.v... bốn hữu biên v.v... bốn sinh có tưởng vô tưởng đều trái, nương theo sinh khởi có tám nghĩa là trong bốn tưởng có một tưởng v.v... trong bốn ngã có lạc v.v... Trong văn không nói bảy đoạn, năm hiện, nghĩa chuẩn theo bảy đoạn nương theo thế và kiến. Năm hiện, thứ nhất nương theo tà kiến khởi, các hiện còn lại nương theo Tĩnh lự mà sinh, được hiện pháp lạc sau mới khởi kiến này, nhưng trong vô nhân chỉ nói nương theo định, không nói nương theo tầm tứ mà khởi, nghĩa chuẩn cũng nương theo thế và tà kiến.
Hỏi: Các kiến này khởi, là đầy đủ sáu nhân duyên mới khởi hay không đầy đủ?
Đáp: Đồng nói rõ kiến khởi, không có lỗi sáu nhân, chẳng phải mỗi mỗi kiến đều đều sáu nhân này, như nương theo tầm tư bất tử kiểu loạn, chưa hẳn nương theo định sau mới khởi.
Hỏi: Sáu mươi hai kiến hết chăng?
Đáp: Không hết, như mười bốn loại không thể ghi nhớ, cũng có đoạn thường là Câu sinh v.v... đều không nhiếp.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao chỉ có sáu mươi hai kiến?
Đáp: Tùy theo tăng mà nói, như bất tương ưng và tùy hoặc v.v... thật chẳng phải nhiếp hết.
Hỏi: Căn cứ theo luận Bà-sa quyển 199, bốn hữu biên v.v... chấp ngã thế gian đều là hữu biên, vì sao chẳng phải biên kiến?
Đáp: Không chấp đoạn thường nên chẳng phải biên kiến.
Hỏi: Vì sao chẳng phải ngã kiến?
Đáp: Nương theo chấp của tông khác, hữu biên thường kiến, vô biên đoạn kiến nếu đều đồng thời là một phần đoạn kiến, chẳng phải hữu biên vô biên, chỉ là Tát-ca-da-kiến, nương theo Đại thừa mà nói, nương theo ngã kiến sau chấp hữu biên v.v..., hữu biên v.v... kiến không phải là ngã kiến, hoặc có thể. Đại thừa và luận kia có khác với luận Du-già, luận Hiển Dương đều không nói ngã chỉ chấp vào thế giới, nên thuộc về tà kiến. Luận Bàsa trong ba thuyết, thuyết thứ nhất, thứ hai thiên nhãn thông, thứ ba bao gồm thần cảnh, thứ tư ngăn ngại trước, trong thuyết thứ hai căn cứ theo tự thế gian kia ban bố khắp trên dưới, lại không phải riêng ba ngàn thế giới, chỉ nương theo thiên nhãn kia nói kiến lập ra hữu biên, kiến bên không biên. Trong thuyết thứ ba chỉ căn cứ theo ngã thể hữu biên vô biên, do có chấp ngã rộng hẹp bất định, nên biết tông khác nhau, không cần hòa hội.
Hỏi: Bốn biên thường kiến vì sao trói buộc địa giới? Vì sao địa giới khởi?
Đáp: Có hai giải thích: một là Sắc giới thông với bốn Tĩnh lự. Luận Du-già quyển 6 nói nương theo thượng, hạ, trung Tĩnh lự khởi túc trụ tùy niệm hoặc nương theo thiên nhãn chấp đời hiện tại, chuẩn theo đây tuy không phải ở định, được định sau khởi ở địa trên. Hai là tuy định sau khởi, là phân biệt Kiến thế đạo không hàng phục, khởi sau không có lỗi, nhưng chẳng phải chưa được định, nhưng khởi là thông với cõi Dục cõi Sắc. Lại giải thích chỉ cõi Dục, luận nói nghĩa là như có một, nếu Sa-môn nếu Bà-la-môn khởi thấy biết như vậy, lập ra luận như vậy, Sa-môn, Bà-la-môn chỉ là người trong cõi Dục. Lại luận Du-già quyển 7 nói rõ trong bốn hữu biên, Sa-môn, Bà-la-môn, nương theo Tĩnh lự khởi kiến như vậy, cho đến nói rằng nên biết trong đây, vì nói nhân duyên và năng kế, không được thông với cõi trên, nhưng trước nói trội hơn, nói khởi kia là căn cứ theo nhiều phần mà nói.
Trong bốn phần thường, thứ nhất và thứ hai hệ địa và năng khởi, như biến thường nói; phẩn khuể vong niệm kiến đã khởi có thể thông với cõi trên dưới. Năng khởi chỉ cõi Dục, vì sinh ra trong cõi người khởi túc trụ, sau khởi kiến này. Lại biến phần thường một chỉ khởi một, nương theo thượng trung hạ, túc trụ khác nhau, nhờ vào thiên nhãn sau. Trong hữu tưởng mười sáu, hữu tưởng và thọ hoặc một người khởi, vì sao biết? Chuẩn theo luận phá rằng: Ngã của sở chấp do tưởng sở tác và thọ sở tác là có biến đổi là không biến đổi, cho đến nói nếu nói vô là có một tưởng mà thôi, hậu chủng chủng tưởng, tiểu vô lượng tưởng, không hợp với đạo lý, lại thuần có lạc mà thôi. Sau thuần có khổ v.v... không hợp với đạo lý. Chuẩn theo chỗ phá này, nếu một chỉ khởi một, phá thành ra tương phù, không thừa nhận lại có tưởng thọ khác. Trong biên kiến, hữu biên có bốn câu. Một chỉ khởi một, vì sao biết? Luận ghi: "Vì đối trị đây tức là do câu khác văn khác mà khởi chấp", kia chấp ngã chẳng phải sắc chẳng phải phi sắc. Trong giải thích thứ hai cũng ghi: "Vì đối trị đây chỉ do văn khác không do nghĩa khác mà khởi chấp", kia chấp chẳng phải hữu biên chẳng phải vô biên, hệ địa và khởi tùy theo chỗ chấp pháp hữu vô mà nói hoặc năng khởi chỉ ở cõi Dục.
Hỏi: Trong tà kiến hữu biên v.v... bốn thứ trói buộc cõi nào? Có thể khởi như thế nào?
Đáp: Như bốn biên thường giải thích.
Bất tử kiểu loạn thông với cõi Sắc, cõi Dục, trói buộc thông với hai địa khởi. Bà-la-môn đối với Thích tử hành siểm loạn, hoặc trói buộc năng khởi chỉ là cõi Dục. Bà-la-môn đối với Thích tử chỉ là hành siểm không phải là tà kiến.
Hai vô nhân luận đồng chấp cõi Sắc cõi Dục, hai cõi có thể khởi vì sao? Nương theo Tĩnh lự và nương theo tầm tứ, đều được khởi nhưng nương theo tầm tứ khởi chỉ ở cõi Dục.
Hỏi: Bảy đoạn diệt cõi nào trói buộc, địa nào khởi?
Đáp: Tùy theo chấp bảy đoạn, tức là địa kia trói buộc khởi dưới không thấy trên.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao phá các Luận sư ngoại đạo lại nói rằng do giáo lý khởi, như là kiến ư?
Đáp: Căn cứ theo năng kế phá các ngoại đạo nếu kiến của sở khởi và kiến của năng khởi tức là tùy theo địa kia. Lại giải thích kiến và khởi, chỉ ở cõi Dục, do các ngoại đạo nương theo giáo và lý khởi, như là kiến, căn cứ theo phá đây, đây đáp trong chương thứ nhất hỏi. Lại giải thích sáu mươi hai kiến đều cõi Dục khởi trói buộc tùy theo chỗ hợp. Các luận Đại Tiểu đều nói ở đây, nếu như vậy biên kiến trong hai cõi trên đều không khởi ư?
Đáp: Rộng chấp đoạn thường, hai cõi trên khởi, chẳng phải sáu mươi hai kiến.
Hỏi: Vì sao biến thường nhớ nghĩ về hai mươi, bốn mươi, tám mươi kiếp không tăng giảm?
Đáp: Vì nương theo sức của thế Tĩnh lự ba phẩm sai biệt pháp, vì sao không chấp sinh?
Hỏi: Hoặc tức là nhiếp diệt, thành tức là nhiếp sinh, nhưng ngoại đạo chỉ chấp là ẩn hiện, vì sao không phải tiện trí?
Đáp: Tông nói riêng.
Hỏi: Trong một phần thường, vì sao không chấp sắc hai định trở lên chết sinh ra đây?
Đáp: Trên không có tầm tứ, không phải vua thần, không phải siểm cuống, do cuống nên nói ngã là hay sinh ra các ngươi, do siểm nên chấp vua là cha thường hay sinh ra.
Hỏi: Cõi Dục vì sao không chấp địa cư và ở một phần của tiên thú thường?
Đáp: Địa cư cảnh hai cõi này chẳng phải thù thắng. Cõi tiên không phải riêng hướng đến cảnh cũng chẳng phải thù thắng. Căn cứ theo đâu mà được biết phẫn khuể vong niệm ở nơi Không cư thiên?
Đáp: Sớ đã dẫn văn, lại luận Xuất Diệu trong phẩm Niệm ghi: "Xưa Đức Phật còn tại thế có Không giới thiên tên là Hoan Lạc Quá, do quá vui thích, từ đó chết đi nên đến sinh cõi này, từ Hỷ phệ thiên", văn cũng đồng với đây, đã nói Không giới thiên, rõ ràng chẳng phải Địa cư.
Hỏi: Vì sao biến phần gồm cả thường kiến, lập lấy tên của thường kiến, hữu tưởng v.v... luận cũng là thường kiến, không nên lên tên của thường kiến, lập ra tên của hữu tưởng v.v...
Đáp: Trong biến phần thường sinh xứ không khác, người kia ở ban đầu nên nêu tên gọi thường, hữu tưởng v.v... kiến sinh xứ có khác, lại ở sau nên lập ra tên hữu tưởng v.v... lại nếu gọi là thường tướng lạm dụng không tiện.
Hỏi: Vì sao không chấp ác đạo của Địa khác làm đoạn diệt ư?
Đáp: Ở trong nẻo ác không phân biệt kiến, hiện tại sinh cõi người không thể chấp nó sau khi chết đoạn diệt, trừ nẻo ác, bên ngoài đều có chấp khác.
Hỏi: Vì sao vô nhân chỉ ở Vô tưởng?
Đáp: Ở Vô tưởng thiên từ lâu không có tâm, còn lại cõi trời có tâm biết sinh nhân trước, tuy sinh trở xuống cũng không thể nhớ sinh nhân trước kia, do sức thế phần không chấp vô nhân, Vô sắc chết rồi đến tái sinh không có túc trụ thông, không biết từ sự chết kia, không ở nơi sau Vô sắc chấp làm vô nhân, rộng vô nhân chấp cũng thông cõi trời khác, như tầm tứ khởi.
Hỏi: Vì sao Vô sắc căn vốn cận phần và thiền định cận phần, không chấp làm hiện Niết-bàn? Luôn cận phần vui vẻ cầu chưa được an trụ, Tĩnh lự thứ tư lìa các lỗi họa, thân tâm đều an ổn, chấp làm Niết-bàn, Vô sắc tâm an ổn, không có thân an ổn, không chấp làm hiện Niết-bàn, Vô sắc căn vốn chấp sau sanh nó cũng làm Niết-bàn, không chấp làm hiện.
Hỏi: Vì sao người Lục dục thiên làm một Niếtbàn, đoạn diệt khai mở ư?
Đáp: Đồng với trụ dục trần lạc nên làm một Niết-bàn, thô tế hướng đến chỉ bảy đoạn riêng khai mở.
Hỏi: Vì sao sắc hợp làm một, Vô sắc làm bốn đoạn diệt?
Đáp: Tướng của sắc dễ biết nên hợp làm một, Vô sắc khó rõ, nên mở ra làm bốn.
Hỏi: Đây đồng các kiến bao nhiêu ở uẩn, ngã kiến sau khởi, bao nhiêu ở nơi lìa uẩn ngã sau khởi?
Đáp: Căn cứ theo luận nói: Mạng tức là thân, chấp ngã hữu biên mạng là thân khác, chấp ngã vô biên v.v... chuẩn theo đây hữu tưởng tám luận tám vô tưởng đều trái, nói hữu sắc hữu biên tức là uẩn, nói Vô sắc vô biên là lìa uẩn, câu "đồng thời" là lìa, hữu tưởng còn lại tám đều là uẩn. Lại giải thích Vô sắc cũng tức là uẩn ngã, chỉ chấp phi sắc tức là thọ tưởng v.v... nên cũng là uẩn, hữu biên v.v... là lìa uẩn, vì Đại luận quyển 6 ghi: "Chấp ngã tùy thân lượng không định, đều thông với tức, lìa. Nói thiểu sắc v.v... vả lại căn cứ theo tức uẩn mà nói, lý thật thông với hai thứ, chuẩn theo hữu ngã có sắc tức là chấp sắc làm ngã. Đã nói ngã một tưởng v.v... tùy theo tức là chấp kia làm ngã, trong bốn biến thường nêu y-sư-ca, tức là tăng-khư loại, lẽ ra lìa uẩn ngã. Bảy đoạn diệt lẽ ra tức là uẩn nga;, thắng, số lìa uẩn đều chấp thường, phần thường bất định.
Hỏi: Vì sao không nói kiến, giới và ngã sở kiến đều là tà kiến khác làm sáu mươi hai kiến trong kiến số?
Đáp: Ngã không phải nhiều tranh chấp, chấp thường đoạn v.v... có nhiều tranh chấp, lỗi tăng nhiều khởi, trong tà kiến cũng căn cứ theo lỗi tăng nhiều khởi, nói hai thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, nương theo chấp kia chẳng phải căn bản.
Hỏi: Vì sao chỉ lập ra trước sau hai tế, không lập hiện tại là trong tế kiến ư?
Đáp: Như hiện Niết-bàn là chấp hiện tại vì vị lai trước, quá khứ sau, nên không lập riêng, vì trước giải thích vặn hỏi, hoặc có văn của luận. Hoặc không văn, đều nói như đây, sau tìm văn lại. Luận: Như vậy trong mười phiền não chung riêng, vốn nói hoặc chung hoặc riêng chỉ có mười loại, như tham, sân v.v... đều có chung riêng sai biệt hành tướng, nếu là mê Đế và tự hành tướng, không ngoài chung riêng. Lại Yếu Tập quyết đoán chưa rõ ràng là thắng, nhưng do chưa hết mạn và ba kiến gọi là chung. Sáu thứ còn lại gọi là riêng, đây cũng không như vậy, mười phiền não này đều thông với chung riêng, nên chỉ nói chung.
Luận: Học hiện quán v.v... vốn giải thích như Sớ.
Tây Minh nói: Quyển 88 ghi: "Nhưng lúc đối với tu tập đế hiện quán, do ý vui vẻ, e rằng ở nơi Niết-bàn ngã sẽ không có v.v...", chuẩn theo đây chưa nhập vào Kiến đạo.
Yếu Tập xác quyết rằng: Có giải thích là thắng, nay ý nghi ngờ nói căn cứ theo quyển 88 là chưa nhập vào kiến, văn kia nói do sức tăng thượng tùy miên Tát-ca-da-kiến này. Đối với các hành, khởi tà phân biệt, nghĩa là ngã sẽ đoạn, liền ở nơi Niết-bàn phát ra sinh đoạn kiến, do nhân duyên này ở nơi bát Niết-bàn tâm trở lại, không thích hướng vào, tức là cũng với luận này dẫn văn không đồng, nghi ngờ dẫn văn này, lại là văn khác. Sớ vọng không dẫn, nhưng trong Sớ chỉ có tám mươi tám, nghi và sở v.v..., lại chỉ chứng là đoạn kiến tức là được, không chứng Câu sinh. Văn nói: Khởi tà phân biệt nghĩa là ngã sẽ đoạn, không rõ ràng nói là Câu sinh, hoặc văn này đều chẳng phải nhất định phàm thánh, nếu không như vậy vì sao văn không phải tương tợ? Nhưng chuẩn theo dẫn của luận, Sớ giải thích chính, vì sao? Ý chứng câu sau thông với đoạn kiến, dẫn dắt Kiến đạo sau khởi, có thể chứng thành thật, nếu Kiến đạo trước, sao biết là Câu sinh đoạn kiến?
Luận: Nghĩa là cầm thú v.v... có thể tạo nghiệp chăng? Như Xu Yếu nói, Yếu Tập ghi: "Thuần trong nẻo khổ và cầm thú v.v... loại của ngu thuần, không khởi phân biệt", luận có văn thật, đối với khổ tạp thọ, như rồng, quỷ v.v... những loài có trí sáng suốt cũng được nghe pháp, các thứ chấp hết nên có phân biệt. Như trong kinh nói, quỷ vỗ vào đầu của ngài Xá-lợi, thân vùi vào địa ngục, đủ biết được trong quỷ tạo tác đến nghiệp nẻo ác, người ngu độn làm việc sát sinh v.v... ắt sẽ có thể tạo tác đến nghiệp nẻo ác, nghĩa đồng với cầm thú. Nay cho rằng không đúng, trong ba đường ác tạo tác cảm được nghiệp thiện ác quả báo khác nhau, đây tức là có thể như vậy, quả báo chung không tạo, không phân biệt, khổ của cầm thú vi tế không lựa ra người ngu sáng suốt, đều không thể khởi. Nếu do quỷ đánh trên đầu của ngài Xá-lợi, tức là minh chứng tạo ra chung, cảm được nghiệp nẻo ác. Trong kinh cũng nói, loại rồng quỷ nghe kinh, thấy kỹ càng được đắc quả, đâu thừa nhận thật ư? Thừa nhận tức là trái với luận, không thừa nhận là trái với kinh, nên trong kinh căn cứ theo hóa tướng nói nhập vào Kiến đế v.v... cảm được nẻo thiện ác, căn cứ theo trợ cảm mà nói.
Luận: Cùng với thân tà kiến một phần cũng như vậy.
Tây Minh giải thích: Chấp cực khổ uẩn làm ngã, tức là không phải mạn đồng thời, chẳng phải cực khổ uẩn cũng được mạn đồng thời, nên văn sau nói: Nương nhờ vào khổ liệt uẩn, ưu tương ưng. Nay cho rằng giải thích trước là chính, thừa nhận mạn và chấp khổ uẩn kia, thân kiến như nhau, ở đây muốn nói một phần căn cứ vào nhiều phần, nên đoạn sau sư thứ nhất cũng thừa nhận duyên khổ đồng thời với uẩn khởi, mạn ưu đồng thời. Sư thứ hai cũng nói: Cũng khổ câu khởi. Tây Minh nếu nói chấp cực khổ uẩn làm ngã không phải mạn, mạn lẽ đồng thời với khổ nào? Không thể cùng với cái khác đồng thời, không thừa nhận thân kiến hợp nhau, vì không có nhân khác.
Hỏi: Căn cứ theo nhiều phần mà nói, thật lý làm sao đồng thời? Đáp: Căn cứ theo phân biệt mạn không cùng với chấp khổ uẩn, một phần ngã kiến đồng thời. Sau căn cứ theo Câu sinh, nên được đều khởi.
Lại mạn có bảy, ty nạn được đồng thời, nên luận Du-già quyển 59 ghi: "Nếu mặc tình sinh ra tất cả phiền não, đều ở nơi ba thọ, hiện hành có thể được". Nếu phân biệt lược có hai mạn: một cao cử mạn, hai ty hạ mạn. Cao cử mạn có ba: một là xứng lượng; hai là giải liễu; ba là lợi dưỡng. Cao sử mạn này hỷ căn tương ưng, nếu ty hạ mạn ưu căn tương ưng.
Hỏi: Luận nói: Tham, sân, si ba Câu sinh phân biệt tất cả, dung chứa năm thọ tương ưng, ý địa phân biệt, thuần khổ thú không có, trong tạp thọ nhân năm thọ tuy có khổ, lại không phải phân biệt, vì sao được nói tất cả đều dung chứa cùng với năm thọ tương ưng?
Đáp: Căn cứ theo quyển 59 thừa nhận năm thức có phân biệt phiền não, tuy chẳng phải tự lực, do ý dẫn sinh, vì sao biết? Luận kia ghi: "Không phải mặc tình sinh, tất cả các phiền não các căn tương ưng". Ta nay sẽ nói, tham ở nơi một lúc, lạc, hỷ tương ưng, ngã ở nơi một lúc ưu khổ tương ưng, trong khuể cũng nói khuể ở nơi một lúc ưu khổ tương ưng, hoặc ở một lúc hỷ lạc tương ưng.
Hỏi: Vì sao như vậy?
Đáp: Nghĩa là như có một lẽ tự nhiên là khổ bức bách cắt thân tâm, bèn khổ ở bên trong tác ý suy nghĩ phát ra tâm tức giận v.v... hỷ lạc tương ưng, ý cũng đồng với đây. Chuẩn theo ý của văn này, đối với chỗ cực khổ, ý tuy có khổ nhưng không phân biệt, phân biệt khởi mạn, không nói khổ đồng thời. Trong cõi người, năm tạp xứ đã có khổ nên được cùng đồng thời. Luận lại ghi: "Bèn khổ ở bên trong, tác ý suy nghĩ phát ra tâm tức giận v.v...", do đó cho nên khuể ưu tương ưng, nên do ý dẫn năm thức khởi phân biệt. Do hai luận này đều làm ra định thuyết, nếu không như vậy thì trái nhau.
Luận: Kiến chẳng phải tuệ đồng thời vì không khác với tuệ.
Hỏi: Năm kiến không khác với tuệ, không được cùng với tuệ đồng thời, vì sao quyển 4 trước nói thứ bảy tuệ đồng thời, ngã kiến hằng hành không khác với tuệ?
Đáp: Có hai giải thích: một là một đồng thời hữu gọi là đồng thời, hai là tương ưng gọi là đồng thời. Trước thì căn cứ theo Câu hữu, đây thì đứng về tương ưng, tha tánh tương ưng chẳng phải tự tánh; như phú, cuống v.v... là phần của tham si, phần của tham tuy là tham đồng thời, nói cùng với si tương ưng, nếu không như vậy đâu phải ở phần tham lập ra phá v.v... lúc không có si ư? Lại giải thích không như vậy. Các thuyết nói đồng thời là giải thích tương ưng môn. Căn cứ theo nghĩa nói trước, nên nói: Kiến tuy tức là tuệ, như trong tâm sở nghĩa riêng nên khai mở, nay căn cứ theo thể riêng, kiến chẳng phải tuệ đồng thời không chướng ngại phần của nghĩa, nói cùng với tuệ hợp nhau. Nếu như vậy vì sao tha tánh tương ưng? Nếu thừa nhận nghĩa riêng, gọi là tha tương ưng, phần của tham phú, cuống lẽ ra tương ưng với tham, luận đã không thừa nhận trước nói là thắng, đối với tương ưng môn nghĩa nói đều khởi, đây cũng lỗi gì?
Luận: Nên biết Câu sinh thân biên hai kiến chỉ Vô ký nhiếp không phát ra ác nghiệp.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao toàn giới phiền não đều có thể phát nhuận?
Đáp: Có hai giải thích: một là căn cứ theo nói chung, hai là đây căn cứ theo thân phát. Vô ký không thể được, nếu thông với trợ chánh, toàn giới có thể phát, thuyết này là chính.
Luận: Nếu được Căn bản định của Địa kia rồi.
Hỏi: Nương theo cận phần định hàng phục chín phẩm sau, chưa nhập vào căn bản, chưa khởi hoặc kia, người mạng chung vì sao hoặc nhuận sinh?
Đáp: Có hai giải thích: một là giải thích như Sớ; hai là thừa nhận Địa trên loại nhuận.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao không phải dụng dưới nhuận?
Đáp: Đã chiết phục chủng tử hiện tại không thể được.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao quyển 59 ghi: "Một triền và tùy miên kết sinh tương tục nghĩa là các dị sinh; hai chỉ tùy miên kết sinh tương tục, nghĩa là thấy được dấu vết của đế?"
Đáp: Đây căn cứ theo nhiều phần như nói Kiến đế, tùy miên, nhuận sinh không ngăn ngại, hai quả ban đầu, cũng khởi triền hiện tại, tuy nói dị sinh hiện ra chủng tử cùng nhuận, thì đâu ngăn ngại chỉ chủng tử?
Hỏi: Vì sao được biết hai quả ban đầu khởi triền hiện tại, nhuận sinh?
Đáp: Luận Du-già quyển 1 ghi: "Lại các dị sinh lúc sắp mạng chung, ngã ái hiện hành do sức này, nên liền yêu mến thân mình, do đây kiến lập thân Trung hữu, sinh báo". Nếu Dự lưu một lúc đến ngã ái cũng lại hiện hành, tuy nói chế phục, không nói chẳng nhuận.
Luận Tạp Tập quyển 5 ghi: "Do thế lực này các dị sinh đông", nay do trong vô gián có tương tục, chưa lìa dục Thánh cũng như vậy, lúc sắp mạng chung cho đến chưa đến không phải rõ ràng tưởng vị, trong đó có thể khởi ái này hiện hành, nhưng sau tuy nói đối trị nhiếp phục không nói chẳng phải nhuận, lìa dục Thánh là văn tự nói lời, đối trị sức mạnh, ái không phải hiện hành, do sức của tùy miên, khiến cho sinh tương tục. Lại giải thích Thánh chỉ là loại nhuận, phàm chỉ là loại hiện, nếu như vậy văn của hai luận làm sao thông được?
Đáp: Đều nói chế phục không nói năng nhuận, giả sử nhuận là trợ, văn của quyển 59 căn cứ theo chánh nhuận mà nói, cũng không trái nhau, như thật nghĩa, hai quả của phàm phu đều loại, hiện nhuận, văn như nói trước. Nếu như vậy vô tâm, lúc ngủ, buồn bực, bị giết, tức là không phải ái hiện tại, dụng chánh nhuận làm gì?
Đáp: Lúc lâm chung có tâm ắt sẽ định khởi luôn ái, chẳng phải một sát-na tức là có thể giết.
Hỏi: Ở nơi địa vị nhuận sinh, thân Trung hữu sinh khác nhau, lại khởi ái duyên theo thân mình cảnh riêng, là ở nơi hai vị đều khởi hai ái là không như vậy?
Đáp: Trong nhuận có khởi tự thể ái, nhuận sinh hữu khởi cảnh giới ái, vì ở nơi tử hữu không thấy Trung hữu, nghĩa là ngã không có khởi tự thể ái, ở nơi địa vị Trung hữu thấy sinh xứ nên khởi cảnh giới ái. Cho nên luận Du-già quyển 1 ghi: "Ngã ái hiện hành do sức này", nghĩa là ngã sẽ là vô mà liền yêu mến tự thể, do đây kiến lập tự thể của sinh báo, cho đến nói mình đối với nghiệp kia đã được sinh xứ, trở lại thấy chủng loại hiện tượng như vậy, hỷ lạc trì thú tức là ở nơi sinh xứ cảnh sắc đã ngăn ngại, thân Trung hữu bèn diệt, sinh hữu nối tiếp khởi.
Hỏi: Trung hữu mạt tâm gọi là chết chăng?
Tây Minh nói: Không phải gọi là chết, nói thân Trung hữu mất là căn cứ theo Thức thứ sáu mà nói, Thức thứ tám tương tục, nay cho rằng không đúng. Đối Trị, Du-già đều ghi: "Trung hữu trụ lâu nhất là bảy ngày, hoặc có chết non, cho đến trải qua bảy lần trở lại", lại không mắc lỗi. Nếu chuẩn theo văn này thừa nhận Trung hữu chết, nếu nói chỉ là Thức thứ sáu không hiện hành, vì sao bảy ngày mới ngày không hiện hành, lúc sáu ngày v.v... vì sao duyên không diệt? Nếu nói cũng thừa nhận tức là gặp duyên ngăn ngại Thức thứ sáu không khởi, vì sao nhất định bảy ngày đến bốn mươi chín ngày? Lại nữa thân Trung hữu đổi sinh ra đường khác, đâu phải Thức thứ tám không bỏ liền đến chỗ kia ư? Nếu như vậy sẽ thành tựu lỗi thú sinh tạp loạn. Lại đâu được nói hoặc có thân Trung hữu chết yểu? Nên thừa nhận thân Trung hữu có chết. Tạp Tập, Du-già đều nêu đủ. Nếu như vậy, vì sao chẳng gọi là tử hữu? Thức thứ tám sau nói chung gọi là sinh chi?
Đáp: Phương tiện của thú sinh tuy có sinh tử, chẳng phải riêng lão chi.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao gọi là sinh chi?
Đáp: Nương theo bốn hữu nói là trái, mười hai chi căn cứ không sửa đổi hướng đến.
Hỏi: Nếu Trung hữu mai một chỉ thú sinh, tức gọi là tử chi, vì sao cần phải lập ra bốn hữu này?
Đáp: Nghĩa sai biệt, nêu chuẩn theo tên có thể biết.
Hỏi: Tức là nương theo sáu hành, có thể hàng phục được hạ hoặc mới được định trên, sáu hành hàng phục hoặc nghĩa đó như thế nào?
Đáp: Lược có bốn nghĩa rõ ràng:
1. Nói rõ sáu hành tướng.
2. Căn cứ theo bảy tác ý mà nói.
3. Căn cứ theo bốn đại.
4. Đối trị.
Nói sáu hành, quán dưới là thô, khổ, chướng; quán trên là tĩnh, diệu, ly; năng quán chỉ là tuệ; thô, tĩnh sáu tương tức là cảnh sở quán, hành nghĩa là hành giải hành tướng, thông với năng sở quán, như mười sáu hành, nhưng năng quán thù thắng chỉ được tên hành, lúc quán ở địa dưới làm tướng thô, tầm, tứ sáu sự. Luận Du-già quyển 33 ghi: "Làm sao hiểu rõ tướng thô của cõi Dục? Nghĩa là chánh tầm tứ cõi Dục sáu sự; một là nghĩa; hai là sự; ba là tướng; bốn là phẩm; năm là thời; sáu là lý". Nghĩa là tổn hại, bệnh ôn dịch bệnh hủi, tai hại v.v...; sự là đối với cảnh khởi tham trong ngoài; tướng là đối với cảnh thuận theo thọ sinh, tưởng tâm thấy điên đảo, vốn tùy theo hoặc, chỗ của sở y; phẩm là các dục đã sinh lỗi hoạn rất nhiều chủng loại; thời là ba đời thường sinh ra lỗi hoạn; lý là tầm, tứ nương theo ba lượng, quán các dục kia sinh ra lỗi, đã tu tướng tĩnh lặng ngược với trên nên biết. Vả lại thành tựu cõi cõi Dục gọi là quán các dục, nhưng lúc đoạn hoặc, quán ba tướng sau tùy theo một tướng trước, ba tướng trước cũng như vậy, chẳng phải mỗi mỗi đầy đủ ba tướng, cũng không tùy theo quán trên dưới chỉ một, cần phải trên dưới đều là một, vì nhàm chán dưới, ưa thích trên. Nên Tạp Tập luận quyển 9 ghi: "Thấy trong cõi Dục lỗi loạn, nên liễu đạt được tướng thô trong Sơ thiền, tướng này vô gọi là tĩnh tướng, là gọi liễu tướng tác ý". Trong Thắng giải tác ý cũng nói: Như là tánh của tầm, tứ, thô, tĩnh tướng, gọi là thắng giải tác ý, năm thứ khác chuẩn theo nên mỗi mỗi quán hai tướng, do có khả năng khác, trong các luận lược không nói, nếu không như vậy, hoặc còn lại vì sao hành đoạn, chẳng phải đạo xuất thế? Nhưng vô gián, giải thoát mỗi mỗi một hành tướng, mỗi mỗi một sát-na vì thời gian nhanh chóng, nhưng vô gián quán thô, Giải thoát đạo quán tĩnh lặng, còn lại đều chuẩn theo mà biết, chưa thấy văn luận kinh của Đại thừa nói. Chuẩn theo luận Câu-xá quyển 24 ghi: "Các vô gián duyên đạo theo tự lần lượt địa dưới các pháp Hữu lậu, làm ra khổ, thô v.v... trong ba hành tướng tùy theo một hành tướng, các duyên Giải thoát đạo theo lần lượt địa trên các hữu pháp, làm ra tĩnh, diệu v.v... trong ba tướng tùy theo một tướng. Lại thô, khổ, chướng ba loại cảnh, tướng làm tĩnh, diệu, ly, như lần lượt ngược với nó, lại thô, tĩnh tướng hai loại mỗi mỗi là chung, hai loại còn lại hai thứ mỗi mỗi là riêng". Nên Tạp Tập Luận quyển 9 ghi: "Như vậy tướng thô lược có hai loại: một là trụ nơi trọng khổ, không phải tịch tĩnh trụ, hai là mạng hành dần dần ít, thọ mạng ngắn ngủi, tức là sở quán chướng".
Tĩnh tướng nghĩa là đối với tất cả địa trên cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ cùng với tướng thô trái nhau, luận Du-già quyển 33 văn rất đồng với đây, cả hai căn cứ theo bảy tác ý nói rõ, chín phẩm hoặc của cõi Dục đoạn ba phẩm ban đầu, đều dùng liễu tướng, thắng giải, hai thứ tác ý mà làm gia hạnh, mới khó đoạn, hoặc ba phần đồng một gia hạnh thắng tấn. Duy Thức quyển 10 ghi: "Lúc Nhị thừa căn độn tiệm đoạn chướng, vô gián, giải thoát ắt sẽ đều khởi khác nhau, gia hạnh, thắng tấn, hoặc chung hoặc riêng, trung, hạ cũng như vậy, mà làm gia hạnh, xa lìa tác ý làm Vô gián đạo, nhiếp lại tác ý làm Giải thoát đạo và thắng tấn".
Quyển 33 ghi: "Từ đây trở về sau ái lạc đoạn, ái lạc xa lìa ở trong các đoạn thấy được công đức thù thắng, xúc chứng được tiểu phần xa lìa hỷ lạc, đối với thời thời gian vui vẻ tác ý mà thâm sâu mừng vui, đối với thời thời gian nhàm chán xa lìa tác ý mà thâm sâu nhàm chán lo lắng". Chuẩn theo đây xúc chứng được tiểu phần, tức là Giải thoát đạo vui vẻ tác ý tức là Thắng tấn đạo, mà thâm sâu nhàm chán lo lắng tức là gia hạnh đạo, trong ba phẩm hoặc trở lại dụng nhiếp lạc mà làm bốn đạo phẩm trung dễ trừ, chẳng phải trừ tác ý mà làm gia hạnh, ba phẩm hoặc hạ quán sát tác ý làm gia hạnh đạo sẽ muốn ra khỏi giới tế khó đoạn. Một làm gia hạnh, lại không đồng với ban đầu mới rất khó đoạn, gia hạnh cứu cánh, tác ý làm Vô gián đạo, gia hạnh cứu cánh quả tác ý là Giải thoát đạo, nên luận Dugià quyển 33 ghi: "Liễu tướng tác ý ở nơi sở ứng đoạn có thể chính rõ biết, tâm sinh ra ít nguyện, Thắng giải tác ý là đoạn là đắc chánh chứng được gia hạnh, Viễn ly tác ý có thể bỏ được sở hữu phẩm thượng phiền não, Nhiếp lạc tác ý có thể bỏ được sở hữu phẩm trung phiền não, Quán sát tác ý có thể ở nơi sở đắc lìa được tăng thượng mạn, an trụ tâm; Gia hạnh cứu cánh tác ý có thể bỏ được sở hữu phẩm hạ phiền não, Cứu cánh quả tác ý có thể chính lãnh thọ các tác ý kia, khéo tu tập quả", đã nói có thể chính lãnh thọ, tức là chứng nghĩa cho nên giải thoát. Lại giải thích riêng khởi giải thoát, chẳng phải Thức thứ bảy tác ý. Luận Du-già quyển 11 ghi: "Do chứng phương tiện cứu cánh quả của tác ý phiền não đoạn rồi, mới được căn bản Tamma-địa". Gia hạnh cứu cánh quả tác ý, quyển 33 nói là căn bản định đều hành tác ý, quyển 11 lại ghi: "Do chứng quả phiền não đoạn rồi mới được căn bản", nên biết khởi riêng, cả hai thuyết đều được, sau sẽ giải thích.
Hỏi: Đã có chín phẩm, vì sao chỉ nói ba?
Đáp: Từ phẩm loại chung nói chỉ chia ra ba phẩm.
Hỏi: Căn cứ theo đoạn chín phẩm hoặc, có chín vô gián, chín Giải thoát đạo, vì sao chỉ nói ba tên là đoạn?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Ba tác ý này mỗi mỗi đoạn ba, hành tướng phẩm loại đều tương tợ nhau luận không phải nói riêng.
2. Hoặc tuy chín phẩm, chỉ ba phẩm đoạn, vì thế đạo có ba phẩm, các luận đều chỉ nói ba phẩm đoạn, chẳng phải chín phẩm.
Hỏi: Nương theo trong lời trước đoạn phẩm hoặc hạ, lại chia ra ba phẩm, đoạn phẩm thứ ba có thể gọi là cứu cánh, đoạn hai phẩm ban đầu và trung, vì sao gọi là cứu cánh?
Đáp: Chẳng phải mong ba phẩm tự loại mà nói, mong ba phẩm chung hợp mà đoạn, hạ ba phẩm chung là phẩm hạ nên gọi là cứu cánh, nếu không như vậy vì sao luận Du-già, Tạp Tập đều chỉ nói cứu cánh đoạn được phẩm hoặc của hạ ư? Nương theo giải thích thứ hai tức là không phải ngăn ngại đây.
Hỏi: Trong đoạn hạ phẩm, hai phẩm hoặc trước, dụng vì sao tác ý làm Giải thoát đạo?
Đáp: Một là dung nhiếp lạc tác ý làm hai phẩm giải thoát, quyển 62 nói thông với bốn đường. Luận Du-già quyển 33, Tạp Tập quyển 9 đều nói Thức thứ bảy tác ý là căn bản định đều tác ý. Lại đoạn phẩm hạ này lúc Vô gián đạo chưa nhập vào căn bản. Hai tức là Thức thứ bảy tác ý, nói căn bản định đều tác ý căn cứ theo đoạn hạ hạ Giải thoát đạo mà nói. Ba tức là gia hạnh cứu cánh tác ý, làm ba vô gián hai Giải thoát đạo, vì tên thể đồng, luận không nói riêng, đây lẽ ra tốt, như nhiếp lạc là đoạn ba phẩm trung, có thể làm bốn đạo.
Hỏi: Nếu cho nhiếp lạc là đoạn bốn đạo của phẩm trung, luận vì sao không nói?
Đáp: Vì cảnh hiển, hai phẩm thượng hạ đều nói gia hạnh và Giải thoát đạo, nên ở phẩm trung lược mà không nói, lại đoạn phẩm trung đồng một tác ý, tuy có bốn đạo, lại không nói riêng.
Hỏi: Vì sao được biết nhiếp lạc thông với bốn đạo? Đáp: Quyển 62 nói Nhiếp lạc tác ý bốn loại đạo nhiếp.
Hỏi: Vả lại đoạn phẩm hoặc thứ chín của cõi Dục, khởi Giải thoát đạo tức là căn bản làm cận phần ư?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Tức là nhập, quyển 33 Tạp Tập luận quyển 9 đều ghi: "Là tên Gia hạnh cứu cánh tác ý", từ vô gián này, do nhân duyên này, chứng nhập vào căn bản Sơ thiền định, tức là Sơ thiền này định đều tác ý, gọi là Gia hạnh cứu cánh quả tác ý, Thức thứ bảy tác ý là giải thoát kia, tức là nhập vào căn bản. 2. Hoặc có không nhập, nên luận Du-già quyển 11 ghi: "Ở trong Hữu lậu phương tiện, trước nói giải thoát, sau nói Tam-ma-địa, do chứng được phương tiện cứu cánh, quả của tác ý phiền não rồi, mới được căn bản Tam-ma-địa", tức là nói do chứng được quả rồi mới được căn bản Tam-mađịa, nên Giải thoát đạo chẳng phải là căn bản, chuẩn theo hai văn này, theo lợi độn khác nhau, hai giải thích đều đúng, đều không trái nhau.
Hỏi: Nếu Nhiếp lạc tác ý đoạn phẩm hoặc trung, vì sao quyển 33 nói vì trừ được hôn trầm v.v...?
Đáp: Căn cứ theo gia hạnh quán tịnh, diệu tướng, sách lệ giữ gìn tâm, chẳng phải Vô gián đạo. Hỏi: Nếu Quán sát tác ý là đoạn phẩm hạ, gia hạnh đạo, vì sao chỉ nói tăng thượng mạn?
Đáp: Vì đoạn ít được nghĩa là làm nhiều được tăng thượng mạn, tiến tu gia hạnh đoạn những thứ hoặc chưa được đoạn, có thuyết cho rằng đoạn chín phẩm. Sau phẩm vô gián tức là Giải thoát đạo của vô gián trước, nghĩa này tuy được nhưng trái với luận Thành Duy Thức. Luận kia quyển 10 ghi: "Nhị thừa căn độn tiệm lúc đoạn chướng, vô gián, giải thoát, ắt sẽ đều khởi riêng hoặc có thể không trái" luận kia căn cứ theo thật đoạn, đây căn cứ theo hàng phục mà nói. Căn cứ theo bốn đạo, sáu hành gia hạnh này, thắng tấn đều được làm đủ, vì thời gian dài, vô gián giải thoát đều một hành tướng. Quyển 62 ghi: "Các cận phần định, nếu phương tiện đạo, nếu Vô gián đạo, nếu Giải thoát đạo, hoặc làm đoạn diệt, hoặc làm chứng đắc mà tu tập, hoặc quán lỗi dưới quán vắng lặng trên, nếu Thắng tấn đạo sẽ biết kia là biến khắp đầy đủ sở y". Lại quyển
33 v.v... đối với Liễu tướng, Thắng giải hai loại tác ý đều nói quán thô, tĩnh. Luận Câu-xá cũng đồng, như đã dẫn trước.
Căn cứ theo đối trị, có bốn đối trị: Một là Yểm hoạn đối trị; hai là Đoạn đối trị; ba là Trì đối trị, bốn là Viễn phần đối trị. Trước căn cứ theo tác ý để nói rõ sáu hành, nay căn cứ theo tác ý phối hợp với bốn đối trị, tức là có thể chuẩn theo mà biết. Luận Du-già quyển 66 ghi: "Nên biết trong đây từ Liễu tướng tác ý cho đến Thắng giải tác ý, gọi là Yểm loạn đối trị tu, từ Viễn ly tác ý cho đến Phương tiện cứu cánh tác ý, gọi là Đoạn đối trị tu, Phương tiện cứu cánh quả tác ý, gọi là Trì đối trị tu". Từ đây trở lên bảy loại tác ý, tùy theo chỗ nhiếp Thắng địa Địa thượng, nên biết tất cả gọi là Viễn phần đối trị tu. Đây căn cứ theo một tướng, theo thật nhiếp lạc thông với bốn đối trị, quán sát cũng thông với yểm hoạn đối trị, nghĩa như nói trước.
Hỏi: Căn cứ theo quyển 33, Tạp Tập luận quyển 9, đều thông nói Quán sát tác ý làm năng đoạn hoặc, vì sao văn này nói Đoạn đối trị tu?
Đáp: Hai tác ý ban đầu hoàn toàn chưa có đoạn, tác ý thứ bảy căn cứ theo địa dưới, lại không thể đoạn giữa quán sát trước sau có đoạn, nên theo nhau nói, gọi là Đoạn đối trị.
Hỏi: Dưới khởi trên, giữa; thân kiến biên kiến là định hay là sinh?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Định phiền não được túc trụ thông, hoặc lại thiên nhãn thấy Phạm vương kia chấp ngã chấp thường tức là định loại.
2. Sinh hoặc, đây đối với thân khác khởi hai kiến này, là sinh loại kia gọi là sinh hoặc, nhưng định hoặc chỉ phân biệt khởi sinh hoặc thông với hai loại, nhưng chánh nhuận sinh không nhận lấy hai kiến, ở nơi địa vị này, khởi cũng lại không lỗi, nhưng là duyên chung, chẳng phải là duyên riêng, vì vị lai vô, chỉ duyên ngã kiến không phải đã giúp chất.
Luận: Sinh trên khởi dưới, vả lại như phỉ báng diệt.
Yếu Tập xác quyết rằng: Có giải thích là thắng, Trung hữu, bản hữu, dù sắc, Vô sắc đều được khởi chê bai và khởi các hoặc, đều sinh ra thân kiến biên kiến, tuy không cùng với nhuận sinh ái đồng thời nhưng trước sau khởi, ở nơi lý không ngăn ngại, nhưng lý khó thấy. Nay cho rằng, Trung hữu, bản hữu, dù sắc, Vô sắc đều được khởi chê bai. Căn cứ vào đầu mà nói? Nếu tăng thượng mạn được ba định đầu, lúc sắp chết sinh về cõi trên, chưa chứng quả vô sinh ở trong Trung hữu, bản hữu đều không nên chê bai, nếu đắc được định thứ tư nghĩa là quả thứ tư, tức là sinh về Trung hữu thứ tư, khởi chê bai. Luận có văn thật, không nói sinh về bản hữu, cũng không nên sinh về Vô sắc khởi chê bai, vì sao? Đắc được định thứ tư, chấp làm quả thứ tư, ắt sẽ không phải lại tu định của cõi Vô sắc, vì sao? Tức là chấp vào định Hữu lậu thứ tư, làm thể của quả, lại tu định của Vô sắc, sẽ làm ra pháp gì? Nếu làm ra công đức thù thắng, tức là không nên chấp vào định thứ tư làm, nếu các ngoại đạo sinh về cõi Sắc chê bai là sắc tà kiến, không nói ngoại đạo khởi, sau chê bai hủy diệt đọa vào địa ngục, nếu sinh về cõi Vô sắc, nhàm chán trái với dưới kia không duyên theo dưới, vì sao có thể nói chê bai giải thích Niết-bàn? Nếu chê bai kia chấp vào chỗ được Niết-bàn chẳng phải là thật Niết-bàn, bèn là chánh kiến chẳng phải tà kiến. Lại nữa vốn chấp cõi trời kia làm quả, được chê bai gì? Nếu nói dựa trên tà kiến chê bai địa dưới, đây cũng không như vậy, vốn giải thích sinh về cõi trên khởi dưới, không luận sinh về cõi trên khởi cõi dưới lại. Nếu sinh về cõi trên khởi cõi trên chê bai cõi dưới cũng chẳng phải Vô sắc, luận chỉ nói lời Bồ-tát Xá-da, Thanh văn quảng tuệ, vì tâm của Vô sắc rõ được tất cả pháp, không nói còn lại. Các thứ khởi nhiều ít, không phải văn nhất định phán quyết, tùy theo sự lấy bỏ.
Hỏi: Trên duyên theo ở dưới kiến thủ, giới cấm thủ, vì sao được duyên theo dưới mong trên không được tên thắng?
Đáp: Nhớ xưa cõi dưới đã khởi kiến thủ giới cấm thủ chấp làm thắng tịnh, mong cõi dưới nói là thắng là tịnh, không hình ở trên.
Tây Minh giải thích trên duyên theo tham, tổng hợp các điều trái nói: Hoặc nương theo duyên riêng nói chung riêng. Vả lại nói năm loại có ba câu:
1. Chỉ chung chẳng phải riêng nghĩa là Tát-cada-kiến và biên tà kiến Câu sinh, phân biệt.
2. Chỉ riêng chẳng phải chung nghĩa là sân tuy không phải chánh văn phân biệt, Câu sinh nghĩa cũng không ngăn ngại.
3. Thông với chung riêng, nghĩa là tham, mạn, nay cho rằng sân hoặc cũng được chung duyên, cùng với kiến, mạn câu, tà kiến chung phát ra, mạn cũng chung... sân tức là thừa nhận đồng thời, vì sao không duyên chung thân kiến, biên kiến cũng riêng, như bốn phần thường luận duyên theo Phạm vương và đại chủng v.v... kia, nếu chẳng chấp ngã làm đoạn thường, chẳng phải biên kiến, nhưng tuy được định trên mới chấp vào Phạm vương, kiến đã khởi chưa nhất định cõi trên.
Luận: Nhưng mê Đế tướng có chung có riêng. Luận Tạp Tâm ghi: "Cõi dưới khổ đầy đủ tất cả, hai hành kia ba kiến, đạo trừ được hai kiến, cõi trên không hành khuể. Nay Đại thừa tụng: "Dục mê bốn có mười; tùy hành ba, tám loại; tu lục thông hành mê, thượng kiến tu trừ khuể".
Nhưng mê Đế tướng có chung có riêng. Chung có bốn câu:
1. Số tổng hành biệt
2. Hành tổng số biệt
3. Số tổng hành tổng
4. Số biệt hành biệt
Số tổng hành biệt, mỗi Đế có mười, đều mê tự Đế, nhưng nương theo một Đế, duyên theo mê nhiều Đế, gọi là hành tổng, nếu số tổng hành tổng Đế mỗi mỗi có mười gọi là số tổng, hành tổng là mê hai, ba Đế v.v... đều gọi là tổng. Bốn Đế có sáu tức là có sáu mươi, hai cõi trên, Đế mỗi mỗi trừ sân, sáu lần chín là năm mươi bốn hợp thành một trăm lẻ tám. Ba cõi chung có một trăm sáu tám, nếu chín hợp thành có bốn câu, cõi Dục có bốn mươi, ba cõi trên Đế mỗi mỗi có ba mươi sáu, hợp thành một trăm mười hai, nếu bốn Đế hợp ba cõi bốn Đế có hai mươi tám, nếu số biệt hành biệt tức là trong tụng trước, đều mê tự Đế.
Hỏi: Trong đây y biệt duyên biệt, theo đâu mà nói mê? Đáp: Theo sở duyên mà mê y chẳng phải duyên.
Hỏi: Nếu như vậy lẽ ra là Đế hoặc của sở duyên, vì sao nói y? Đáp: Nhờ nó sinh, nương theo nó khởi.
Hỏi: Một trăm hai mươi tám nương vào đâu mà lập?
Đáp: Nương theo số tổng hành biệt đều Tu đạo hoặc, nếu nương theo câu khác, tức là có tăng giảm, suy nghĩ có thể biết.
Hỏi: Y duyên khác gì?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Duyên nghĩa là duyên hết, tức là sở y, gọi là duyên.
2. Y tức là nương gá, duyên cảnh sở duyên, như khởi vô minh, mê ở nơi khổ tập, nhân đây khởi nghi, nghi rồi tức là sinh ra tà kiến, chung phát ra không phải bốn Đế, tức là đã nghi phát ra làm sở duyên, vô minh tức là nhân y.
Hỏi: Theo gì đoạn, là theo sở y, theo sở duyên mà nói đoạn ư?
Đáp: Từ y, duyên đoạn đều không lỗi, vì trong Đại thừa kiến hoặc liền đoạn, không đồng với Hữu bộ trước sau đoạn riêng. Lại có bốn câu có mê mà không duyên nghĩa là hai thủ, có duyên mà không mê nghĩa là trí Vô lậu, có đều duyên mê, nghi tà kiến v.v... có chẳng phải duyên mê duyên theo lông rùa v.v... chẳng phải Đế nhiếp.
Hỏi: Mười phiền não này mê Đế thân cận, sân, mạn, tà kiến, nghi và vô minh gần gũi mê dễ biết. Hai kiến thân kiến, biên kiến đều không duyên lý, vì sao gần gũi mê?
Đáp: Tuy không duyên lý, chính mê muội ở nơi lý không vô ngã kia hành tướng thâm sâu mê gọi là gần gũi mê. Nếu mê muội Đế khác, theo thông với không vô ngã ngược với hành tướng kia, và chấp Đế dưới hoặc khác cho là ngã nên cũng gọi là mê hành tướng của hai thủ tuy thâm sâu, cũng duyên theo Đế dưới hoặc khác, nhưng chẳng phải chính, ngược với lý của không vô ngã, không gọi là gần gũi mê.
Hỏi: Sân, mạn, ghét diệt, đạo, có thể được thân mê, gần gũi mạn diệt, đạo, vì sao được gần gũi mê. Đáp: Luận nói: Tham, sân, mạn ba kiến, nghi đều sinh, tùy theo nên như kia, tham hai kiến câu nên được thân mê phẩn y đối trị hiện tiền, không lợi ích cảnh.
Tây Minh hỏi: Phẫn tức là duyên theo diệt, vì sao đây nói nương theo cảnh hiện tiền?
Giải thích rằng: Theo nhiều làm luận, luận này, Hiển Dương đều nói duyên theo hiện tiền, thật cũng duyên theo diệt. Nay nói giải thích này có trái với văn sau, sư trước mười chung không duyên theo trên, sư sau ghen ghét v.v... cũng duyên theo trên không nói phẫn còn không duyên trên, vì sao duyên theo diệt. Sau thừa nhận ghen ghét v.v... gần gũi mê muội diệt đạo, không nói phẫn này duyên theo diệt đạo. Nếu như vậy chuẩn theo sau nói phẫn cũng duyên theo sát-na quá khứ, chẳng phải chỉ cảnh hiện tiền. Nay vì sao nói hiện tiền? Nếu thấy oan gia nói diệt đạo v.v... đâu không phải ở nơi kia cũng khởi phẫn ư?
Từ Ân giải thích rằng: Thừa nhận cũng không lỗi, đây thành tựu tướng thô. Nói không phải gần gũi duyên tức là sân tuy nhiên chưa thấy chánh văn, mặc tình lấy bỏ. Nhưng Tây Minh nói: phẫn cần phải nương gá bản chất, chuẩn theo tức là được duyên theo sát-na quá khứ cũng không chỉ nương gá ở nơi bản chất.
Hỏi: Siểm cuống chỉ định ban đầu, định ban đầu ý thọ mà nói là hỷ, căn vui vẻ gọi là lạc, vì sao siểm cuống được cùng với lạc đồng thời?
Đáp: Chỉ căn vui vẻ gọi là chánh lạc, là ý tương ưng hỷ, nên được cùng hợp nhau.
Hỏi: Trong địa ngục nghiệp tướng đều hiện, vì sao có nói đối cùng với khổ đồng thời?
Đáp: Tuy nghiệp tướng hiện mà cùng khởi nói dối, lại kiểm luận Thập Địa, địa ngục có nói dối nghiệp đạo chăng?
Hỏi: Phẫn v.v... nương theo phần sân, sân được thân biên đồng thời Phẫn v.v... vì sao không như vậy?
Đáp: Vì thô tế khác nhau.
Hỏi: Phẫn v.v... thô mạnh mẽ đều khởi gọi là chủ, cùng với mạn v.v... đều đâu còn tên chủ?
Đáp: Vì tự loại chẳng phải đều nói là chủ.
Hỏi: Năm thức được pháp tự tướng, vì sao được cùng với phân biệt hoặc đồng thời?
Đáp: Tự không phải phân biệt, do tha dẫn sinh, chứng được cảnh rõ ràng, nên được tự tướng.
Hỏi: Tán loạn v.v... vì sao được cùng với định hợp nhau?
Đáp: Trong muội định tâm thảm ưu, nên cùng được tương ưng, lại tham sân chuyên chú duyên theo cảnh, cũng có nhiễm định, nên tán loạn hợp nhau.
Luận: Tùy theo sức của sở y duyên chung riêng hoặc.
1. Tùy theo sở duyên y kia, ở nơi bốn Đế, chung riêng hoặc khởi, như phiền não kia đều thông với bốn Đế.
2. Mê Đế phiền não hoặc y hoặc duyên, chia thành bốn câu, hữu y một Đế duyên nhiều, hữu y nhiều duyên một, hữu y một duyên một, hữu y nhiều duyên nhiều, hành tướng tư chuẩn theo, tùy hoặc tùy theo kia.
Hỏi: Từ đâu mà nói đoạn?
Đáp: Tùy theo sở y duyên, đều không ngăn ngại.
Luận: Vì một môn chuyển. Tây Minh nói: Một ý căn môn chuyển, nay cho rằng không đúng, đã có sắc căn, vì sao không phải y chuyển? Tức là nên giải thích rằng: Do không phải năm thức, không làm ra là giải thích, lại không phải nhân khác. Nếu nói do mê muội khinh suất, định tức là rõ ràng rộng rãi, vì sao không nương theo năm sắc căn môn kia?
Lại văn sau nói rõ năm câu ý, chẳng phải chuyên là rõ được sở duyên của năm thức, lại đối với sở duyên kia, có thể rõ ràng thủ, nên biết một môn chuyển, rõ ràng chỉ một ý thức, nếu một căn môn, nên nói nương theo một môn chuyển.
Luận: Như cái triền khác, Yếu Tập ghi: Có thuyết nói không lập lượng, Tây Minh có hai lượng:
1. Thùy miên chẳng phải không có dụng của thể vì là cái triền, như cái triền khác, nay cho rằng lượng này cũng một phần trái với lỗi của tông vì sao? Thùy miên giả thật thông với tâm, nay nếu thành lập giả thùy có thể, tức là trái với lỗi của tông, giống như nói không lựa ra, lập lượng nên nói, thật thùy miên chẳng phải địa vị của vô tâm, nhân, dụ có thể biết, nói thật thùy miên lựa ra địa vị vô tâm giả gọi là thùy miên, không hiển bày có riêng thật thể, do Luận sư Kinh bộ xúc, thọ, tưởng bên ngoài, cùng tư phần vị đều là gia, chấp lấy dụ của cái triền, tức là có một phần sở lập chẳng thành, ý lựa ra Luận sư Kinh bộ, ở địa vị vô tâm, thật lập ra thùy miên.
2. Lại lượng rằng: Thật thùy miên là tâm tương ưng, nhân, dụ có thể biết. Trong luận thứ hai tông pháp nhân, dụ dưới an ổn, trong văn chữ "cho nên" lẽ ra cái triền dưới chấp trước, là nhân cần có, tánh tướng là văn, chẳng nương theo thứ lớp. Trước nói
Hữu vô tâm vị là lập lượng nên nói chẳng phải vô tâm vị, trong văn lược không phải hữu pháp trong tông, văn trước đã nói rõ ràng, nên lược không nói. Sớ ghi: Chẳng phải tức là vô tâm, nhất định là tâm sở, là tông pháp thứ hai, như cái khác tức là chỉ cho dụ. Lại nói: Chẳng phải pháp của vô thể, là tông pháp thứ ba, tỷ lượng chuẩn theo mà biết, nên lược không đầy đủ, nhưng trong văn của luận hai câu ban đầu sơ có các thứ trái, hai câu sau phá Dị thục. Luận: Phi tư tuệ tưởng triền tánh kia, Sớ như lượng ban đầu nói, nhiễm tư tuệ một phần là hối, nhiễm tư tưởng một phần là miên, nên chẳng phải làm tánh của triền vì là tư tuệ tưởng. Lượng thứ hai làm ác tác v.v... một phần chẳng phải nhiễm tư tuệ tưởng là hữu pháp, chẳng phải ác tác v.v... tánh của hai pháp kia là tư tuệ tưởng.
Yếu Tập ghi: "Có thuyết nói giải thích ban đầu ít không thuận theo văn. Văn nói chẳng phải tư tuệ tưởng là tông pháp, chẳng phải là hữu pháp, cũng chẳng phải nhân". Nay cho rằng giải thích ban đầu cũng không có lỗi, vì tánh tướng là văn. Vả lại trừ đi chữ "phi" thêm một chữ "nhiễm", nói một phần của nhiễm tư tuệ tưởng làm hối miên làm hữu pháp chấp lấy chữ "phi" ban đầu và chữ "triền tánh" tức là tông pháp, chấp lấy chữ tư tuệ tưởng trước là chữ "tánh cố" sau làm nhân. Văn nói kia tức là tịnh Vô ký tư tuệ tưởng, vì tông hữu pháp chấp lấy nương theo nhiễm tư tuệ tưởng, hối miên, đồng dụ chấp lấy chẳng phải hối miên ngoại trừ tư tuệ tưởng. Nhân nói tánh của tư tuệ tưởng chung thông suốt với tông, nêu đều đầy đủ.
Luận: Suy lường không sâu và suy lường sâu.
Sớ phần đầu ghi: "Không thâm sâu tức là không phải suy lường, vì Đối Pháp nói không phải suy lường".
2. Tuy không như tuệ có suy lường thâm sâu, cũng suy lường cạn cợt hợp với Đối Pháp. Nói không phải suy lường là không phải suy lường thâm sâu. Yếu Tập ghi: "Tuy có hai lời hợp làm giải thích ban đầu, trái với văn của Đại luận". Nay cho rằng đoạn này quá mạnh mẽ ư? Vì hợp với thuyết của Đối Pháp đồng với luận Du-già, theo đâu mà nói là trái? Tây Minh thứ nhất nói khi tầm, tứ không phải suy lường, thì chỉ tư là tánh, vì không phải tuệ, lúc suy lường thâm sâu cho tuệ là tánh giải thích này chính là trái với luận Du-già đã nói, không phải nói suy lường thâm sâu. Thứ hai nói tầm, tứ ắt sẽ dụng hai pháp, giả hợp làm tánh, nghĩa là một sát-na hai dụng đều khác nhau, không phải suy lường sâu xa là dụng của tư, suy lường sâu xa là dụng của tuệ, nghĩa này không rõ, tầm tứ không đồng thời, vì sao hai dụng phần của một sátna, không suy lường thâm sâu, nếu cho rằng lúc tầm có tư, lúc tứ có tuệ, trái với luận đã nói. Nếu nói lúc khởi tầm hoặc lúc khởi tứ đều nương theo tư, tuệ hai pháp, phần của dụng, tầm tứ khác gì? Nên biết tầm suy lường cạn cợt, tư suy lường thâm sâu, nên luận này nói thô chuyển tế chuyển.
Lại nói: Hai loại đều khác nhau. Lại quyển 4 trước suy lường cạn cợt, thâm sâu thô tế phát ra lời, tuy đều nương theo hai loại, lúc tầm tư tăng gọi là không phải suy lường sâu, lúc tư tuệ tăng gọi là suy lường cạn. Nên luận Ngũ Uẩn ghi: "Tìm cầu ý nói tư, tuệ sai biệt, khiến cho tâm thô là tánh, tứ quán sát ý nói, tư tuệ sai biệt, khiến cho tâm tế làm tánh. Luận này lại ghi: "Tư tuệ hợp thành mà luận". Hiển Dương ghi: "Tầm hoặc do tư đối với pháp tạo tác, có lúc do tuệ ở nơi pháp suy cầu, căn cứ theo tướng tăng mà nói, tư tạo tác thù thắng, tuệ suy lường thù thắng. Luận Du-già quyển 5 cho rằng, không phải sở duyên suy lường thâm sâu, tư làm thể tánh, căn cứ theo tầm mà nói, nếu sở duyên suy lường sâu xa thâm sâu làm thể tánh, căn cứ theo tứ mà nói đều theo tăng thêm. Thật tầm tứ cả hai đều nương theo tư tuệ. Nếu như vậy vì sao Tạp Tập Luận quyển 1, tầm tứ đều nói suy lường, không suy lường?
Đáp: Căn cứ theo ý của luận này, giải thích luận kia rằng: Tầm nói suy lường, suy lường cạn cợt, không suy lường là không thâm sâu, tứ nói suy lường là thâm sâu, không suy lường là cạn cợt.
Hỏi: Nếu như vậy khi tứ suy lường cạn cùng với tầm khác gì? Lại vì sao luận này nói không thâm sâu và suy lường thâm sâu khác nhau? Đáp: Tứ nói không suy lường, trông mong tầm còn thâm sâu, chỉ mong tự tứ tuệ tăng thêm suy lường sâu, tư tăng không phải suy lường sâu nên cũng không có lỗi. Nên Tạp Tập Luận tầm tứ đều nói: Nương theo tư nương theo tuệ, đối với địa vị suy lường không phải suy lường, như thứ lớp không được riêng, vì suy lường cạn phối hợp với tầm, suy lường sâu phối hợp với tứ.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao luận Tạp Tập lại ghi: "Tầm tứ hai thứ tướng loại của hành tướng", cho nên thô tế kiến lập sai biệt?
Đáp: Cũng không trái nhau, tầm tứ đồng thời, đối với ý nói suy lường tướng loại của hành tướng, chẳng phải ở tướng loại cạn sâu thô tế, luận kia theo thô tế của tha dụng mà kiến lập, luận này căn cứ theo tự hành tướng. Luận này cũng nói, tầm khiến cho tâm thô chuyển, tứ khiến cho tâm tế chuyển, đều căn cứ theo một nghĩa, tận lý nên nói, tầm tứ đối với cảnh suy lường cạn sâu, khiến cho tâm ở nơi cảnh thô tế mà chuyển, như sai biệt dưới đây.
Luận: Tầm tứ cùng thức câu bất câu môn.
Sớ ghi: Tự tánh có hai:
1. Tầm tứ không làm thể, tức là Tạp Tập luận quyển 2 đã nói tự tánh phân biệt, tức là bảy thứ phân biệt, tướng của Trung hữu phân biệt.
2. Chẳng phải tầm tứ làm thể tức là luận này thứ năm và Nhiếp luận quyển 1 thừa nhận năm thức có tự tánh phân biệt, nhưng không thừa nhận có tùy niệm, kế độ phân biệt.
Hỏi: Luận không nói năm thức, Trung hữu, tự tánh phân biệt, chỉ phá ý thức khác nên không phải hai loại tùy niệm, kế độ chăng?
Đáp: Luận tuy không nói năm thức có, nhưng phá không thừa nhận có tùy niệm, kế độ, ý tức là thừa nhận có tự tánh phân biệt, nếu không như vậy vì sao hai luận đều phá hai thức phân biệt. Nhiếp không vặn hỏi tự tánh, lại có hai nghĩa: một là nương theo biến nghĩa, tức là luận Du-già nói có phân biệt chẳng phải tầm tứ. Và Duy Thức Luận, Nhiếp luận thừa nhận năm thức có tự tánh phân biệt. Hai là bất biến nghĩa, tức là luận Du-già nói nghĩa là các tầm, tứ nhất định là phân biệt. Đối Pháp căn cứ theo ba loại phân biệt này nói rằng: Chỉ một ý thức do ba phân biệt nên có phân biệt. Lại luận Du-già quyển 5 ghi: "Hoặc có phân biệt chẳng phải tầm tứ", nghĩa là mong thế gian trí, được tất cả ba cõi tâm, tâm sở khác, đều là phân biệt mà chẳng phải tầm tứ, tức gọi là phân biệt, lại chẳng phải tầm tứ, nếu chẳng phải tự tánh gọi là phân biệt, đâu do loại khác ư? Không phải định chấp hai luận, tự tánh tức là tầm tứ, thừa nhận năm thức kia có, chỉ là tùy chuyển, tuy phá Tiểu thừa, không phải luận nói.
Hỏi: Tức là căn cứ theo tự tánh, tám thức đều có mặc tình phân biệt Thức thứ bảy thứ tám vì sao không có?
Đáp: Căn cứ theo Tam thừa không nói Thức thứ bảy, thứ tám. Hỏi: Bảy phân biệt nghĩa nó như thế nào?
Đáp: Lược ba môn rõ ràng:
1. Liệt kê tên
2. Nêu ra thể
3. Các môn
Liệt kê tên, luận Du-già quyển 1 ghi: "Nghĩa là Hữu tướng phân biệt, Vô tướng phân biệt, Nhậm vận phân biệt, Tìm cầu phân biệt, Tự sát phân biệt, Nhiễm ô phân biệt, Bất nhiễm ô phân biệt". Luận Tạp Tập quyển 2 cũng có bảy phân biệt, tên đồng với luận Du-già, nhưng Nhậm vận phân biệt được liệt kê thứ nhất, còn lại nương theo thứ lớp.
Nêu ra thể, luận Du-già quyển 7 đều lấy tầm tứ làm thể, nên luận Du-già quyển 5 ghi: "Tầm tứ sai biệt, có bảy thứ sai biệt tức là bảy phân biệt". Lại nói: "Các tầm tứ đều sai biệt, có phân biệt chẳng phải tầm tứ", nghĩa là mong trí xuất thế, còn lại tất cả ba cõi, tâm, tâm sở. Nếu Đối Pháp có bảy thứ trừ nhậm vận, còn lại cũng tầm tứ làm thể, nên Đối Pháp quyển 2 lấy ba nhiếp bảy trừ nhậm vận, đều do ba loại nhiếp. Ba loại chỉ có Thức thứ sáu, tức là luận Du-già quyển 1 ý không cùng nghiệp tầm tứ làm thể; nhậm vận một loại. Luận này tổng hợp: Tức là năm Thức. Đối Pháp lại ghi: "Nghĩa là năm thức thân, tức là năm thức làm thể của nhậm vận, ba phân biệt thể, tùy niệm, kế độ cũng tầm tứ làm thể". Tự tánh một loại, có hai thuyết, chuẩn theo Tạp Tập Luận chỉ ở ý thức, tức là tầm tứ làm thể, chuẩn theo Nhiếp luận chỉ thức thừa nhận năm thức có, nếu tùy chuyển môn cũng lấy tầm tứ làm thể, nếu nghĩa của chân thật, tức là năm thức làm tánh. Trên là từ tướng chung nêu ra, nếu riêng nêu ra thể, rộng như Từ Ân, Đối Pháp, Sớ giải thích rõ. Các môn phân biệt: Một là căn cứ theo ba, bảy tướng nhiếp; hai là căn cứ theo thức, địa hữu vô; ba là lậu Vô lậu; bốn là nương theo hỏi đáp phân biệt.
Tướng nhiếp có hai: Một lấy ba nhiếp bảy; hai lấy bảy nhiếp bảy. Lấy ba nhiếp bảy có hai: một Nhiếp luận Tạp Tập bảy, hai Nhiếp luận Du-già bảy. Nhiếp luận Tạp Tập bảy là trước hiển bày ba hành tướng phân biệt, sau mới nói rõ nhiếp.
Luận Tạp Tập ghi: "Tự tánh phân biệt", nghĩa là ở hiện tại đã thọ tự các hành, tự tướng, hành phân biệt. Tùy niệm phân biệt nghĩa là ở quá khứ đã thọ các hành, nhớ lại hành phân biệt, kế độ phân biệt nghĩa là ở quá khứ, vô lượng nay không phải hiện tại, kiến, sự, tư cấu hành phân biệt, ban đầu nương theo tự tướng của cảnh hiện tại mà duyên, kế duyên theo quá khứ, sau thông với ba đời, ở nơi cảnh sở duyên, tướng khác phân biệt. Kế nói rõ nhiếp, nương theo bất biến hành tướng, ba phân biệt trong luận Tạp Tập không nhiếp Nhậm vận. Luận kia giải thích nhậm vận nghĩa là năm thức thân, nói rõ ba phân biệt, chỉ ý thức, luận kia nói rằng ở trong sáu thức có bao nhiêu phân biệt?
Đáp: Chỉ một ý do ba phân biệt nên có phân biệt, là đây không nhiếp một loại đầu trong bảy loại. Hữu tướng một loại tức là tự tánh, tùy niệm hai phân biệt nhiếp, vì tự tướng duyên theo hiện tại, tùy niệm duyên theo quá khứ, hữu tướng một loại đồng nương theo quá khứ, hiện tại, nên hai loại này nhiếp. Luận kia nói: Hữu tướng phân biệt nghĩa là tự tánh, tùy niệm chấp lấy các thứ tướng cảnh của hiện tại. Ý này do hữu tướng các thứ tướng cảnh của hiện tại. Hai thứ nhiếp kia, vô tướng phân biệt chỉ duyên theo vị lai kế độ phân biệt đồng duyên theo ba đời. Văn tuy không nói cùng ba tướng nhiếp thật kế độ nhiếp, vì duyên theo vị lai chẳng phải hai nhiếp ban đầu, tiểu phần của kế độ nên kế độ nhiếp, bốn thứ sau đều là kế độ nhiếp. Luận kia giải thích rằng: Còn lại phân biệt đều là dụng kế độ phân biệt cho là tự tánh, vì sao? Vì tư độ, có lúc tìm cầu, có lúc tư sát, có lúc nhiễm ô, hoặc bất nhiễm ô, trong ba thứ căn cứ theo chung hợp làm một, trong bảy thứ căn cứ theo riêng nên lìa làm bốn, lấy đây làm chuẩn mà biết. Bốn thứ sau đều đồng duyên theo ba đời chỉ là tầm tứ. Luận kia ghi: "Vì tư độ nên ba thứ không định trước, rộng hẹp mà nói, bảy thứ rộng ba thứ hẹp". Căn cứ theo biến hành tướng, Duy thức v.v... ghi: "Nhậm vận tức là thuộc về tự tánh, Hữu lậu, tâm, tâm sở nhân xoay vần lấy cảnh Vô lậu khác, gọi là phân biệt". Tâm, tâm sở này vốn tự tánh, nên gọi là tự tánh, tự tánh tức là phân biệt. Lại nói tự tánh cũng thông với cảnh mà nói.
Luận Tạp Tập ghi: "Như tướng của sở duyên, không phải phân biệt khác. Ở nơi tự cảnh giới mặc tình chuyển, tức là phân biệt của tự tướng, gọi là tự tướng phân biệt", nên biết nhậm vận cũng là tự tánh nhiễm, kế ba thứ nhiếp bảy thứ của luận Dugià kia, nương theo bất biến tương ưng, chỉ là ý thức. Bất cộng nghiệp, tức là hoàn toàn tướng nhiếp vì ba, bảy thứ đều dùng hai pháp tầm tứ làm thể, tức là tầm tứ đều phân biệt cú, hữu tướng tức là tùy niệm nhiếp. Luận Du-già giải thích hữu tướng rằng: "Ở trước đã nhận nghĩa, các căn thuần thục, khéo đặt tên", ở trước tức là duyên theo cảnh quá khứ, nên tùy niệm nhiếp, vô tánh tức là tự tánh và tùy niệm nhiếp, duyên theo quá khứ, hiện tại, nên luận kia ghi: Vô tướng phân biệt nghĩa là tùy theo sở dẫn trước và anh nhi v.v... không khéo đặt tên là sở hữu phân biệt; nhậm vận phân biệt cũng tự tánh nhiếp, vì duyên theo hiện tại. Nên luận kia ghi: "Tùy theo thế lực của cảnh mặc tình mà chuyển sở hữu phân biệt, nên tự tánh nhiếp". Bốn thứ còn lại đồng với trước kế độ nhiếp, đồng duyên theo cảnh. Nương theo tướng của biến hành, ít phần của tự tướng nhiếp nhậm vận, tức là luận Dugià quyển 5 đã nói, hoặc có phân biệt chẳng phải câu của tầm tứ. Kế do bảy thứ nhiếp bảy thứ vì luận Tạp Tập bảy thứ nhiếp bảy thứ của luận Du-già, nhậm vận của luận Tạp Tập không nhiếp luận Dugià, chẳng phải tầm, tứ; ít phần của tự tướng, nhiếp hữu tướng của luận Du-già, nó duyên theo quá khứ, hiện tại. Hữu tướng của luận Du-già chỉ duyên theo quá khứ, luận nói rằng nghĩa là trước đã nhận nghĩa, tức là nói trước thọ, nên chỉ quá khứ, hoặc thông với hiện tại, quá khứ. Luận ghi: "Ở trước đã nhận nghĩa, các căn thành thục khéo đặt tên" là đã khởi phân biệt, loại của trước thọ cũng nói: Thành thục khéo tên lời là sở khởi phân biệt, loại của thọ trước gọi là thọ trước tức là hoàn toàn nhiếp. Vô tướng nhiếp ít phần của tướng kia, luận Du-già đồng duyên với đời, luận Tạp Tập chỉ có vị lai, hoặc vô tướng của luận Du-già cũng là hữu tướng của luận Tạp Tập được nhiếp. Luận kia giải thích rằng: Tùy theo trước sở dẫn, và anh nhi v.v... không phải tên của thiện là được hữu phân biệt, nhưng căn cứ theo thiện bất thiện chia ra hữu vô tướng, duyên theo cảnh không khác, hữu tướng nhiếp trước giải thích là thù thắng, nhậm vận căn cứ đồng nhiếp với ít phần kia, vì nương theo tầm, tứ và tự tánh phân biệt.
Căn cứ theo bất biến mà nói, nhậm vận phân biệt của luận Tạp Tập không nhiếp nhậm vận của luận Du-già, vì thể tánh khác nhau, còn lại đều như tên tự loại nhiếp nhau, nói không khác nhau. Căn cứ theo thức, địa phân biệt, ban đầu theo thức, sau theo địa, theo thức rõ ràng, vả lại ba thứ phân biệt căn cứ theo tướng của biến hành, tự tánh phân biệt thông với tám thức hữu. Kế độ phân biệt thông với sáu thức, bảy thức, tầm, tứ là thể, Thức thứ bảy không có, hằng thẩm tư lương hư vọng kế độ Thức thứ bảy có, nếu không như vậy chấp ngã là phân biệt gì? Thể chẳng phải tầm, tứ mà nương theo tư tuệ, lập ra phân biệt này, hành tướng của bất biến chỉ ở Thức thứ sáu, như luận Tạp Tập nói chỉ Thức thứ sáu, lại không thông với loại khác. Bảy thứ trong luận Tạp Tập, nhậm vận phân biệt tức là thông với Thức thức năm, thứ tám, còn lại chỉ Thức thứ sáu. Trên căn cứ theo phi biến, biến hành tướng là chẳng phải các phân biệt đều là tầm, tứ làm thể, luận Du-già quyển 5 ghi: "Có phân biệt chẳng phải tầm tứ, hữu tướng cũng duyên theo hiện tại, lại nhiếp theo tự tánh có thể thông với sáu thức, nhậm vận tức là duyên theo cảnh hiện tại, đồng với tự tánh, có thông với bảy thức, chỉ trừ Thức thứ bảy, vì thường hằng kế độ". Năm thứ ở nơi Thức thứ sáu trừ một thứ vô tướng, bốn thứ còn lại thông với Thức thứ bảy vì kế độ nhiếp. Căn cứ theo giải thích của luận Du-già, hành, cảnh không trái với Thức thứ bảy, bảy thứ trong luận Du-già, hành tướng của bất biến chỉ Thức thứ sáu, nói là bất cộng nghiệp của Thức thứ sáu. Nếu biến hành tướng, hữu tướng, vô tướng là cảnh chợt hiện dẫn đến Đẳng lưu, gọi là thọ sinh trước, tùy theo sở dẫn trước tức là hữu tướng, vô tướng, nhậm vận nhiễm ô và bất nhiễm ô thông với sáu thức trước. Nếu là cảnh của quá khứ gọi là sở thọ trước, tùy theo sở dẫn trước tức là trừ hai thứ đầu không thông với năm thức, ba thứ thông với năm thức, nhiễm ô đồng duyên theo cảnh của ba đời. Đối với cảnh hiện tại chấp trước, đều hành khởi phân biệt, hoặc tùy theo cùng một bản tùy phiền não, tương ưng đã khởi pháp chấp, tức là thông với trong năm thức có chấp trước đều hành đã khởi phân biệt, nên thông với năm hữu, cùng với tín v.v... đều gọi là bất nhiễm ô, nên cũng thông với năm thứ. Nương theo địa phân biệt, chuẩn theo cuộc hành tướng tầm, tứ làm thể thì trói buộc cõi Dục và quả Sơ thiền, nếu căn cứ theo y khởi được thông với năm địa, trên được khởi pháp tầm, tứ dưới, chín thứ nhuận sinh tâm dung chứa đều khởi. Nếu thông với hành tướng chuẩn theo sở y thức, tùy theo địa hữu vô, lậu Vô lậu phân biệt là chuẩn theo luận Du-già quyển 5, các phân biệt đều Hữu lậu.
Luận: Nghĩa là mong trí xuất thế, còn lại tất cả ba cõi tâm, tâm sở đều là phân biệt.
Lại giải thích, hoặc thông với Vô lậu. Nói mong trí xuất thế là căn cứ theo Vô phân biệt trí gọi là xuất thế hậu trí tức gọi là thế xuất thế gian trí, vì duyên theo thế tục nên cũng gọi là thế gian, tức là như kinh luận nói khởi tâm thế gian là phải tức gọi là phân biệt. Chánh tư duy ở nơi nhân dùng tầm tứ làm thể, luận Biện Trung Biên gọi là phân biệt chi, Đại luận lại ghi: "Các tầm, tứ đều phân biệt, nên thông với Vô lậu".
Nương theo hỏi đáp phân biệt, hỏi: Chuẩn theo luận Du-già quyển 1, tầm tứ là ý nhiếp bất cộng nghiệp bảy thứ phân biệt tầm tứ làm thể, vì sao được thông với thức khác địa khác?
Đáp: Căn cứ theo luận Du-già quyển 5 ghi: "Nếu tầm tứ đều phân biệt có phân biệt chẳng phải tầm tứ", chuẩn theo hai câu này, chỉ nói tầm tứ nhất định là bảy phân biệt, không nói bảy phân biệt đều nhất định là tầm tứ, nếu không như vậy làm câu trả lời như thế này, do có phân biệt chẳng phải đều tầm tứ. Nhiếp luận, Duy thức thừa nhận một thứ tự tánh thông với sáu thức hữu. Luận Tạp Tập thừa nhận nhậm vận phân biệt tức là năm thức thân, nếu không như vậy thì trái nhau.
Hỏi: Giả sử nếu phân biệt đều là tầm tứ, lỗi gì không thừa nhận?
Đáp: Một là trái với thuyết của luận, có phân biệt chẳng phải tầm tứ, lại có ba lỗi: một là địa không biến đổi, hai là thức không biến đổi, ba là hành không biến đổi, không biến đổi chín địa. Hai là ở trong địa không biến đổi thức, ba là ở trong thức không biến đổi hành, không phải tầm tứ thì chẳng phải phân biệt.
Hỏi: Ba, bảy phân biệt cùng với trong năm pháp phân biệt khác gì?
Đáp: Căn cứ theo tướng biệt hành, trong năm pháp phân biệt rộng, thông với các Hữu lậu, ba, bảy phân biệt chỉ Thức thứ sáu đồng thời hai pháp tầm, tứ và năm thức nhãn v.v... nếu thông với hành tướng, ba, bảy, năm pháp rộng hẹp tương tợ nhau, hoặc, ba, bảy hẹp, thông với Vô lậu. Lại năm pháp phân biệt nghĩa chung, ba bảy phân biệt nghĩa riêng.
Luận nói: Tợ như ưu nên nói chung là ưu.
Hỏi: Luận quyển 5 ghi: "Có phân biệt nên ưu, không phân biệt nên khổ", làm sao được nói tợ như ưu?
Đáp: Phân biệt trước chẳng phải phân biệt, vả lại căn cứ theo sáu thức thì năm vô sáu hữu, cùng hiển bày nên nói ở trong ý thức phân biệt ý thức, được cùng với khổ ưu đồng thời, đều phân biệt nên cùng theo tên ưu.
Luận: Vì danh thân v.v... nghĩa là cảnh, lấy luôn cú, văn, nghĩa thông với hai loại: một là cảnh nghĩa; hai là đạo lý nghĩa, tức là nhận lấy tên gọi v.v... và nghĩa của sở thuyên, đều là cảnh của ý, chẳng phải năm thức duyên, căn cứ theo chưa tự tại nhưng văn tức là tự, chẳng phải chánh năng thuyên, làm hai sở y, nương theo mà nói, có nghĩa của năng thuyên, các luận chỉ nói danh thuyên tự tánh, cú thuyên sai biệt, không nói riêng tự là năng thuyên.
Luận: Trong bốn Vô ký, hối chỉ có trong hai.
Hỏi: Dị thục, thông quả, đều dung chứa được khởi oai nghi, công xảo, hối tức là dung chứa đồng thời trong hai tánh, nên thông với bốn thứ?
Đáp: Tuy cõi Sắc khởi thần thông, tâm đến chỗ Phật, khởi thân oai nghi và ngữ công xảo, lại bậc Thánh khởi thần thông quả tâm, nói năng co duỗi không làm lợi lạc, đều là Vô ký, đây đều là cõi trên và Dị thục tâm khởi, chẳng phải riêng lẻ bốn Vô ký, nên đều không đồng thời. Nay căn cứ theo riêng lẻ khởi oai nghi công xảo, dung chứa cùng với hối đồng thời.
Hỏi: Hối chẳng phải nhiễm Vô ký đồng thời, như Sở tri chướng mong Bồ-tát, người tức là nhiễm ô, đâu chẳng phải kia đồng thời.
Đáp: Căn cứ theo Phiền não chướng chẳng phải nhiễm Vô ký, nương theo Sở tri chướng thông với nhiễm Vô ký, nên không trái nhau, nhất định luận tầm tứ mười một đồng thời, tăng thêm khinh an.
Sớ ghi: Nói người nói: Tam Tạng nói Tây phương có hai thuyết:
1. Vị chí định có tầm tứ, chẳng phải Căn bản địa, nếu không như vậy tầm tứ chỉ chẳng phải Vị chí, luận có thật văn, sơ thiền. Ý này không phải là không thừa nhận tầm tứ thông với cận phần địa, nhưng nói lập ra thiền chi, không nương theo cận phần, phá vọng kia truyền Tam Tạng. Nói rằng Tây phương có hai giải thích:
2. Tầm, tứ lúc Vị chí định chẳng phải Căn bản địa, các đức không phải thảy đều vọng bài xích, nên tầm đây nói rõ được gốc là chân.
Hỏi: Vì sao được biết, Tĩnh lự chi lập ra chỉ nương theo Căn bản? Đáp: Luận Hiển Dương quyển 2 ghi: "Lìa pháp dục, ái bất thiện, hữu tầm hữu tứ ly sinh hỷ lạc sơ thiền cụ túc trụ". Giải thích rằng: Cụ túc nghĩa là tu tập viên mãn, trụ nghĩa là ở nhập trụ xuất, tùy theo ý tự tại, nếu các chi này ở cận phần lập ra, vì sao gọi là viên mãn xuất nhập tự tại, nếu phần hữu cũng được lập chi, Vô sắc nên lập, vì sao quyển 9 của luận Đối
Pháp không nương theo Vô sắc, nên chỉ là căn bản. Luận: Lại nói kia là nói nhân, giải thích như Sớ. Tây Minh giải thích rằng: Chính dẫn thỉnh văn thứ nhất trong mười địa trong ba thỉnh. Trường hàng giải thích rằng: Chỉ khen ngợi tịnh giác, tịnh giác là nói nhân, giác gọi là giác quán, tức là khẩu ngôn hành.
Tam Tạng giải thích rằng: Nên nói tầm tứ, nói giác quán là nhà giải thích sai lầm. Nay sư Hộ Pháp dẫn làm thật chứng, e rằng truyền bá sai lầm, vì sao? Luận chủ của Sớ nói đích thân theo ngài Tam Tạng nói: xét bản tiếng Phạm nói Tăng-ma-đằngba, chỉ là tư duy, không có chữ "chánh", huống gì là tầm nói giác là giác quán, đây nói giác là quán, nhà giải thích tăng thêm. Nay Tây Minh nói: Tam Tạng giải thích rằng, nên nói tầm tứ, nói giác quán là nhà giải thích sai lầm, kinh chỉ nói tịnh giác, giác tức là tầm, vì sao được nói sẽ nói rằng tầm tứ, nên biết truyền sai lầm?
Hỏi: Giả sử chỉ là quán, quán tức là tầm, tầm là nhân của ngữ, Luận sư sau vì sao không phải dẫn làm chứng?
Đáp: Thể tánh tư duy có hai loại: Một thông với bộ nhân quả của Nhị thừa, và nhân hậu đắc vị của Đại thừa, thể liền chỉ là tầm; hai là chỉ có Đại thừa, và nhân quả Hậu đắc, thể tức là tư và tuệ. Luận Dugià quyển 29 ghi: "Nếu tâm hướng đến nhập vào các chỗ tầm tứ, chỉ tầm tứ kia như vậy tướng trạng đã có tầm tứ. Cho đến nói khởi lên thiện tư duy, phát khởi các thứ như pháp ngôn luận, là gọi chánh ngữ". Chánh ngữ là quả tư duy ngữ nhân. Luận Hiển Dương quyển 2 ghi: "Tìm cầu cực tìm cầu hiện tiền tìm cầu giác liễu, tính toán quán sát, tư duy tánh của tư duy". Lại luận Du-già 29 ghi: "Nếu được kia rồi dùng tuệ để an lập, như chứng mà giác ngộ, lập chung hai loại này, gọi là chánh kiến", chuẩn theo biết đây đồng thời chánh tư duy chi, đều là thể ban đầu. Luận Đối Pháp quyển 10 nói tuệ uẩn nhiếp chánh kiến, chánh tư duy, chánh cầu.
Quyển 98 ghi: "Nếu ra khỏi thế gian lấy chánh trí làm tự tánh, trừ các giới chi, an lập chẳng an lập Chân như làm sở duyên".
Luận Du-già 29 ghi: "Do tám chi nhiếp hành tích chánh đạo, có thể không đoạn được tất cả phiền não khác, có thể ở nơi giải thoát, cứu cánh làm chứng quả, nên gọi là tám chi Thánh đạo", nên biết trong đây, nếu giác chi thời được chân giác, địa vị căn bản này nếu được kia rồi, lấy tuệ để an lập như chứng mà giác ngộ. Hậu đắc vị này nói: Như chứng mà giác ngộ, những thứ này đều là thể của tám chi sau, không nói tầm. Sư sau nương theo Đại thừa thông với nhân quả bản sau, chánh tư duy chi chẳng phải là tầm, nên sở dĩ không dẫn.
Hỏi: Thân, ngữ, tâm hành có biến phi biến, định thứ tư địa tuy không phải ra vào nghỉ ngơi, có tư biến hành, thân nghiệp được chuyển, ở nơi địa vị Phật quả, tức là không phải tầm, tứ, biến hành của ngữ, ngữ nên không chuyển?
Đáp: Như Sớ và Xu Yếu nói.
Hỏi: Tức là nói ngữ nghiệp lảm ngữ biến hành, định thứ hai địa trên pháp có ngữ, đồng với thân hành.
Đáp: Theo Phật có thể như vậy, ngữ không phải giả tầm, trừ Phật đã ngoài ngữ, ắt tầm dẫn trở lên không có.
Hỏi: Nói pháp hợp cơ, ngữ mượn tầm tứ, nói rộng như vậy vì sao mượn tầm tứ, giống như năm thức phần nhiều do kia khởi, cũng có năm thức chẳng phải tầm, tứ sinh ra, như Vô sắc định khởi tai nghe âm thanh v.v...?
Đáp: Hai định trở lên khởi ngữ thì khó, giống như năm thức ắt sẽ mượn tầm tứ.
Hỏi: Thân ở cõi Dục và sơ thiền, khởi ngữ thì dễ, nên đồng với năm thức.
Đáp: Ngữ đều suy luận khởi ắt sẽ tầm tứ, năm thức không như vậy nên không ví dụ. Lại nếu giải thích, cõi Dục nói rộng, hai định trở lên hoặc có ngữ ngôn, chẳng phải tầm tứ phát ra chỉ dùng tư sinh, các luận chỉ nói tầm tứ khởi, tùy theo tướng thô mà nói, như tư duy chi.
Hỏi: Chánh tư duy lấy tầm làm thể, Phật thân thiếu lỗi, các Tĩnh lự chi tức là nói tầm tứ, Phật không có lỗi, đều là công đức.
Đáp: Đạo chi chỉ Vô lậu, Phật không thể thành lỗi, thiền chi lậu vô tướng, dầu cho thiếu cũng có lỗi, nếu không như vậy tức là công đức khiến cho đầy đủ. Chư Phật sẽ thành tựu Hữu lậu thiền chi là công đức. Lại như Sớ giải thích, nương theo tư tuệ, nếu như vậy không phải thô tế, vì sao thành tựu đối trị chi?
Đáp: Cũng nương theo tư tuệ chia làm thô tế và đối trị chi, như chánh tư duy cũng không có lỗi.
Nói tâm, tâm sở, câu bất câu v.v... các môn phân biệt, rộng như Bách Pháp ngài Huyền Tán đã nói.
Luận: Làm lìa tâm thể có riêng tự tánh v.v... vốn giải thích như Sớ, Yếu Tập ghi: "Diệu âm không lập so sánh văn không được, Lăng-già, Trung luận, Bách luận v.v... ngài Hộ Pháp tạo luận, không thiếu địa này, các Luận sư đã vặn hỏi, luận Trí Độ v.v... rộng nói rõ tâm sở lại người nào, hoặc có thể Hộ Pháp giả nêu ra khách và chủ?
Nay cho rằng: Bản ý nói các sư Lăng-già, Trung luận, Bách luận chẳng nói địa này, bản ý nói các sư Lăng-già, Trung luận, Bách luận chẳng nói địa này, chỉ nói Tây quốc, như luận Lý Môn ghi: "Phá sư Cổ Nhân Minh, sư Cổ Nhân Minh không thiện, chẳng phải Vô Trước v.v...". Luận sư Lănggià v.v... đạo lý cũng như vậy, tuy luận Trí Độ rộng nói rõ tâm sở, ngại gì có nói tức là phần vị của tâm, như luận Trí Độ rộng nói rõ các pháp; ngăn ngại gì Thanh Biện nói Thắng nghĩa không tục vọng là có, không ngăn ngại Hộ Pháp, nương theo chấp của kia v.v..., giả lập khách chủ, khởi đầu mối hỏi đây. Tâm viễn độc hành, Nhiếp luận tức là nói không phải thứ hai nên gọi là xúc hành, tợ nương theo nghĩa của một ý thức để giải thích, chuẩn theo dẫn vặn hỏi này, không chỉ nương theo Kinh bộ.
Luận: Sĩ phu sáu cói, giải thích như Sớ dẫn.
Hỏi: Bốn đại và tâm thể tánh có thể biết, không thể là gì?
Đáp: Căn cứ theo luận Tạp Tập quyển 2 phế lập hai mươi lăm loại sắc, nghĩa là tác sở y, tác tướng, tức là lập ra nguyên do của huỳnh sắc và biểu sắc, biểu tức là co duỗi, chính là động tác, nên luận Dugià quyển 1 ghi: "Biểu sắc nghĩa là nghiệp dụng là tác, động chuyển sai biệt, tác sở y này tức là huỳnh sắc kia". Huỳnh sắc là luận Tạp Tập nói: Nghĩa là lìa ngại xúc khác, phương sở có thể được".
Hỏi: Vì sao chẳng phải không khác nói là huỳnh sắc; tức là nói rằng huỳnh sắc lại vì sao gọi là không?
Đáp: Sĩ phu giới chẳng phải hư không, hư không lìa ngại xúc, phương sở lại gọi là không.
Hỏi: Nếu nhận lấy huỳnh sắc, huỳnh sắc tức là lìa bốn đại hữu, vì sao bộ khác nói chỉ bốn đại thông lập ra sở tạo?
Đáp: Vì kia không rõ, tông chấp khác, không thể chê trách, Kinh bộ có sư không lập ra tâm sở. Đại thừa nói khác cũng lại đồng với luận kia, cùng dẫn kinh này, không phải chỉ Kinh bộ, luận Du-già chỉ nói: "Có một Sa-môn hoặc Bà-la-môn", muốn khiến cho trong tên gọi chỉ tâm thật có chẳng phải các tâm sở, hoặc cũng giả nêu ra, chẳng phải nhất định luận kia vặn hỏi.
Luận: Nương tựa thế tục này hoặc nương theo thắng nghĩa v.v... vốn giải thích như Sớ.
Yếu Tập ghi: "Định này không nương theo tục thứ nhất, Chân như ba, chân tục thứ tư, thức tâm, tâm sở nói rõ sai biệt". Văn sau các chân tục đối nhau mong thứ tư, chân tục v.v... dần dần lần lượt môn, vì lìa trọng ngôn. Nay cho rằng không đúng, vả lại dùng tâm cùng tâm sở, căn cứ theo hai Đế để biện, cũng lệ thuộc vào thức, dưới trong tám thức tâm sở đồng với tâm vương, tụ tập tướng khác nhiếp kiến tướng thảy đều quay về thức, vì tông của Duy thức, nên đoạn dưới nói: "Tám thức tự tánh, không thể nói định một, hành tướng, sở duyên, tương ưng khác nhau, tức là căn cứ theo duyên, y tương ưng rõ ràng khác", nên biết không khác cũng nói hành tướng, y, duyên, tương ưng, nếu không như vậy nên chẳng như huyễn sự v.v... vì có tánh của định, trước riêng sau chung, tướng mong đối rõ ràng, đều bốn chân tục cũng không có lỗi của trọng ngôn.
Luận: Trung hữu kia ắt sẽ khởi v.v...
Xu Yếu ghi: "So sánh có thân Trung hữu không phải thân Trung hữu".
Đáp: Bản kế không có, mạt kế có. Lại từng nghe giải thích, theo bản kế mà nói rằng không phải Trung hữu, nay căn cứ theo mạt kế nên có Trung hữu. Lại nói: Bản kế có hai: một, lý là lượng; hai, giáo là lượng. Do đó chia ra hai tranh luận, lý là lượng tức là lập ra Trung hữu, nay luận theo đây nên nói: Hữu nếu dẫn kinh là lượng tức là lập ra Trung hữu, nhưng Yếu Tập ghi: "So sánh luận Tông Luân, Thượng tọa bộ lại gọi là Vân Sơn, lập ra tám nghĩa riêng, còn lại đồng với Nhất thiết hữu bộ", tức là nói lập ra Trung hữu, Đại chúng bộ v.v... bốn bộ đều không phải Trung hữu. Nay cho rằng bất định, Nhất thiết hữu bộ bản tông đồng với văn Trung luận, không nói định có Trung hữu. Nói mạt tông nghĩa khác, loại vô biên, Vân Sơn đồng với luận kia đâu có Trung hữu, mà nói: Đại chúng bộ v.v... văn của luận không nói định không phải Trung hữu mà nói Bồ-tát lúc vào thai làm ra hình bạch tượng. Chuẩn theo đây tức là tợ như lập ra Trung hữu, nên Yếu Tập ghi không phải chuẩn theo định.
Luận: Trời kia chỉ ở Tĩnh lự thứ tư, rộng như Sớ. Lại nói cõi Vô sắc chẳng phải cảnh của thiên nhãn, nếu lúc vô tâm tức là không phải sắc thân, ai là người có thể chứng được Niết-bàn. Lại nữa, địa pháp không phải Vô tưởng định, nên Dị thục này không phải ở chỗ khác.
Luận: Tức là năng dẫn phát Vô tưởng định tư.
Yếu Tập ghi: "Có thuyết nói, có giải thích đều có ba giải thích, thuyết thứ ba kia là thuyết thứ nhất này, thứ nhất kia là thứ ba này", kia đây nghĩa thứ hai tức là không đồng, nay nhận lấy có giải thích thứ ba làm chính, tức là có nói thứ nhất, tức là có giải thích thứ ba, vì sao chỉ nhận lấy có giải thích thứ ba mà làm giải thích chính? Có thuyết nói sớ văn không đoạn thứ ba làm lời chính, nhưng vì lý chuẩn theo trái, cực yểm tâm chiêu lấy tổng báo kia, chủng tử của cực yểm tâm chiêu lấy biệt báo kia, vì sao trái nhau? Lại chủng tử của tâm nhỏ nhiệm là năng dẫn, phát ra Vô tưởng định tư, hay cảm lấy quả kia, thuận theo quyển 56, nếu không như vậy một nhân vì sao có thể cảm lấy hữu tâm vô tâm ràng buộc, hai quả trái nhau? Lại Tây Minh nói: Tâm nhỏ nhiệm và tâm vi tế tương ưng tư dẫn dắt tổng báo, vì hữu tâm, tức là hai loại kia, đến địa vị vô tâm dẫn dắt biệt báo, vì vô tâm, nay cho rằng không đúng, đâu phải ở nơi chủng tử của vi tâm cũng lập ra vô tâm định ư?
Luận: Khiến cho thân an hòa nên cũng gọi là là định.
Tây Minh nói: Tuy chẳng phải tâm sở chuyên chú một cảnh, khiến cho thân an hòa nên cũng gọi là định. Yếu Tập ghi: "Có giải thích ban đầu giải thích là thù thắng", nay cho rằng không đúng. Vô tâm thùy miên cũng chẳng phải tâm sở chuyên chú một cảnh, vì sao không phải an hòa? Cũng gọi là định, nên biết do định lực của gia hạnh trước, khiến cho thân an hòa, vì vô tâm thì an hòa, cũng hữu tâm kia thì an hòa, đồng được tên của định nên vốn giải thích chính.
Luận: Lại chỉ là thiện v.v...
Vốn nói luận kia đã dẫn, giải thích chỉ là thiện, Địa dưới Địa trên là không có, nói rõ thuộc về địa nhân. Tây Minh nói: Luận kia đã dẫn thông với hai nghĩa, nay cho rằng không đúng, thiện của gia hạnh định dẫn dắt nên thiện, không cho thiện định dẫn dắt là thuộc về định thứ tư. Ở văn tự giải thích, Địa dưới Địa trên vô do nói trước, chỉ đồng vô tưởng báo đã nói ở trước.
Luận: Bốn nghiệp thông ba trừ thuận hiện thọ, lược luận nghĩa đó tổng có hai giải thích: một là định cảm quả; hai là không phải định cảm quả, nên luận Du-già quyển 9 ghi: "Thuận định thọ nghiệp nghĩa là nên suy nghĩ rồi hoặc làm hoặc tăng trưởng nghiệp, thuận bất định thọ nghiệp nghĩa là nên siêng năng rồi làm mà không phải tăng trưởng nghiệp". Ý này tức là do thẩm xét quyết định tư làm phương tiện, gọi là cố tư duy, nên quyển 90 ghi: "Cố tư duy tạo nghiệp nghĩa là tư lương trước, đã tùy tầm tứ, đã tùy tư sát, đã khởi thân, ngữ gọi là tác nghiệp, khiến cho chủng tử tăng trưởng gọi là tăng trưởng nghiệp". Luận Tạp Tập quyển 7 ghi: "Tác nghĩa là khởi tạo các nghiệp, khiến cho hiện hành". Tăng trưởng nghĩa là khiến cho tập khí tăng ích, trừ đây ra rồi, nếu có cố tư duy không khởi thân, ngữ v.v... và tuy khởi thân ngữ v.v... mà không khiến cho chủng tử tăng thượng, không khiến cho chủng tử tăng trưởng nghiệp, tức là có mười loại. Du-già quyển 9 ghi: "Tăng trưởng nghiệp tức là trừ mười loại:
1. Việc làm trong một mộng
2. Việc làm không biết
3. Việc làm không phải cố suy nghĩ
4. Không lợi không thường làm
5. Việc làm cuồng loạn
6. Việc làm mất niệm
7. Việc làm chẳng phải lạc dục
8. Tự tánh Vô ký
9. Hối đã tổn hại
10. Đối trị đã tổn hại
Trừ được mười loại này gọi là tăng trưởng nghiệp. Không tăng trưởng nghiệp nghĩa là mười loại này, nhưng tăng trưởng là Dị thục định và thời báo, không tăng trưởng đều bất định nhiếp. Luận Tạp Tập quyển 6 căn cứ theo định thọ nghiệp nói có ba loại, tức là hiện, sinh, hậu. Ở nơi từ định v.v... tạo ra nghiệp thiện ác, là thuộc về hiện thọ, năm vô gián v.v... gọi là sinh thọ nghiệp, nếu sinh tạo này qua sinh mới thọ gọi là hậu thọ. Giả sử có một nghiệp hoặc hiện hoặc sinh thọ báo không hết cùng nhiều sinh thọ từ hiện sinh, không gọi là hậu thọ, nên quyển 8 ghi: "Ở trong nghiệp này, từ địa vị Dị thục ban đầu kiến lập tên của thuận hiện pháp thọ v.v... không chỉ thọ một vị Dị thục này". Luận Tạp Tập quyển 7 trong định và bất định chia làm ba, luận kia ghi: "Như kinh nói quyết định nghiệp", nghĩa là tạo tác nghiệp quyết định thọ Dị thục, quyết định phần vị định, tạo tác nghiệp thông với định bất định. Định thọ là bất định, lý như giải thích sau. Phần vị là định, vì thời, báo đều là định. Luận Du-già quyển 6 căn cứ theo định bất định, tổng nói bốn nghiệp. Luận kia nói lại có bốn nghiệp, một là Dị thục định, hai là thời bất định, ba là cả hai đều định, bốn là cả hai đều bất định. Thứ ba là định, ba thứ còn lại bất định. Thứ nhất căn cứ theo báo thọ, tuy là định, nhưng thời bất định. Thứ hai thời định mà báo bất định, nên đều là bất định. Luận Tạp Tập quyển 7 căn cứ theo định bất định nói có năm nghiệp, luận kia ghi: "Cho nên suy nghĩ tạo tác nghiệp lược có năm loại", nghĩa là họ đã chỉ bảo, họ đã khuyên mời, không phải đã có biết, căn bản chấp trước, điên đảo phân biệt, năm câu như thứ tự. Ba câu đầu không tăng trưởng, xem nhẹ nên không nhất định thọ Dị thục, tức thời định báo bất định và đều bất định. Hai câu sau tăng trưởng, nặng nên nhất định thọ Dị thục, tức là báo định thời bất định, và thời báo đều quyết định, nên văn dưới nói thọ Dị thục quyết định như trước đã nói, cho nên siêng năng tạo nghiệp. Nếu định này thọ thời báo đều định, tức là phần vị quyết định, vì sao được nói riêng? Nên định của phần vị dưới nói: Như do nghiệp này, ở trong pháp hiện tại ắt nhất định thọ Dị thục.
Sinh, hậu chuẩn theo đây. Lại Vô tưởng định này chính là điên đảo phân biệt. Vọng chấp Niếtbàn tức là thông với bốn nghiệp, biết rõ hai loại sau chẳng phải chỉ thời, báo đều quyết định.
Luận Hiển Dương quyển 9 căn cứ theo định bất định chia làm năm, luận kia ghi: "Như vậy nghiệp có năm loại quyết định: một là hiện thọ quyết định, hai là sinh thọ quyết định, ba là hậu sai biệt quyết định, bốn là thọ báo quyết định, năm là tác nghiệp quyết định". Ba loại thời định hoặc thời, báo đều định; thứ tư báo định thời bất định, thứ năm thông với báo định và thơi, báo định, vì ở loại thứ năm quyết định thọ báo, đều quyết định tác nghiệp cùng với trước có khác. Luận Tạp Tập quyển 7 ghi: "Tác nghiệp quyết định là do sức của nghiệp đời trước cảm được quyết định Dị thục tương tục, tương tục tức là thân". Ở trong đời này, quyết định tạo tác nghiệp này tức là nói cảm được quyết định Dị thục, không nói thời định nên biết là thông, nếu không như vậy đối với báo định kia chẳng phải thời, Dị thục trong thân đâu không phải tạo tác nghiệp ác? Lại thọ báo định mà thời bất định và báo định kia, chẳng phải chỉ biệt báo, tức là thông với tổng báo, đâu phải khiến cho hiện pháp thọ? Tuy có tổng báo, nếu đối với hiện pháp thọ dung chứa thọ biệt báo sẽ tổng báo kia, đây đồng các khai hợp có khác, không ngoài bốn nghiệp mà luận này nói.
Sớ ghi: "Luận Hiển Dương ở trong bất định, báo, thời, định, bất định riêng nêu ra". Yếu Tập ghi: "Luận Hiển Dương đều nói quyết định không nói bất định, do hai loại sau này, không gọi là bất định, nghiệp, báo tương đối vì nói rõ quyết định". Căn cứ theo thật bốn loại trước tức là thời và báo đều định trong luận Du-già quyển 60. Nay cho rằng không đúng, bốn loại trước thọ báo quyết định, chỉ là quả chẳng phải nghiệp, tức là không được nói nghiệp có năm loại, nếu nói rằng cũng nghiệp, báo quyết định là câu cú, tức là ba loại trước, vì sao cần nói riêng? Lại báo định thọ thời bất định là thuộc về câu nào? Tên sẽ không thâu tóm, trái với tướng nhiếp, không thấy lý này, nên nương theo gốc giải thích, lý giáo không trái nhau.
Hỏi: Căn cứ theo tu vô tưởng, tức là điên đảo phân biệt trong năm nghiệp của luận Tạp Tập quyển 7, luận kia nói định thọ, đây nói thông với ba loại đều là bất định thọ, đâu không phải trái nhau?
Đáp: Căn cứ theo tạo tác bất thiện nói làm chánh pháp v.v... nên là định thọ, đây theo tu thiện, nên thông với bất định.
Hỏi: Tu định này tức là thừa nhận sinh, sắc cũng được khởi sau, sinh ra tư của định sở tu kia có thể thọ báo, nếu thừa nhận thọ báo tức là chỉ sinh thọ, không thể sinh hai nghiệp sau đồng chiêu lấy, nếu chỉ xưa tu có thể cảm được quả sau, cái khởi sau, vì sao không cảm được?
Đáp: Sinh khởi kia chẳng phải mạnh mẽ lợi lạc, yếu kém nên không thọ, nếu không như vậy tu lại cũng có thể cảm riêng nên sinh lại nó, vì xưa trong cõi người hậu báo thọ.
Hỏi: Nếu xưa trong cõi người được rồi thoái mất, nhưng không thoái ba Tĩnh lự định dưới, mạng chung sinh về cõi kia được khởi lại chăng?
Đáp: Tức là hai sư nói đều không đồng nhau. Nếu sư đầu giải thích thoái và bất thoái, sinh về ba cõi trời sau không được khởi lại sinh về vô tưởng là ban đầu tu thoái sau sinh khởi lại, cũng gọi là hậu báo. Như sư thứ hai, cõi Dục tuy là thoái sinh về Tĩnh lự sau cũng được khởi lại. Quyển 56 ghi: "Trước ở đây khởi sau ở cõi Sắc thiền định thứ tư sẽ thọ quả kia", như văn của Sớ giải thích. Nếu nói ở cõi Dục giả sử không phải thoái mất cũng có sinh về trong ba Tĩnh lự sau mà được khởi lại, ba Tĩnh lự sau không như vậy, dị sinh nhuận sinh phải hồi hướng, nên không thoái mất vô tưởng, ba Tĩnh lự sau lìa nhiễm, nên vì sao được sinh? Nếu thừa nhận được sinh tức là không phải sáu hành chế phục được hoặc sinh lên trên.
Hỏi: Xưa định đã mất sinh ra trên tu lại, vì sao đã mất định sau trở lại có thể cảm được quả?
Đáp: Do định lực sau giúp nó có thể đồng với địa pháp.
Nói diệt tận định v.v... Sớ giải thích, Tây Minh đều như Sớ nói rõ. Yếu Tập ghi: "Có thuyết nói:
Trong đây chỉ căn cứ theo Nhị thừa học Vô học mà nói, nếu chư Bồ-tát văn dưới mới nói". Có giải thích rằng: Đây thông với hàng Tam thừa hữu học Vô học, nói người đều được diệt định, phải đoạn hoặc ba cõi là nói rõ đầu khởi, sau khởi, trước nói hàng Nhị thừa, sau nói rõ Bồ-tát, nếu không như vậy người đắc được diệt định, không nói Như Lai, lý có không tận. Nay cho rằng đoạn này hoàn toàn không tương ưng, vốn giải thích ý giải thích lựa ra người không đắc, trừ chỗ lựa ra này hiển bày đều là được, vì sao nhiếp không hết? Vọng làm kế chấp, các văn như vậy, đoạn sau nêu sơ lược, không thể mỗi mỗi nêu đủ các lỗi, người tìm đọc nên tư duy kỹ.
Nhưng Tây Minh giải thích, trong có thể được người, Bồ-tát hai loại, tiệm ngộ như Thanh văn, trong bốn vạn, hai vạn, mười ngàn kiếp cũng nhập vào diệt định, từ tín vị cho đến Đẳng giác có năm mươi mốt bậc Hiền thánh, nay cho rằng không đúng. Các kinh chỉ nói có bốn mươi hai bậc Hiền thánh, trừ Đẳng giác và Diệu giác còn có bốn mươi. Nếu bốn vạn, hai vạn, mười ngàn hợp lại là một, trở lại bốn mươi mốt, nếu mở thêm làm ba, tức là bốn mươi ba, vì sao có năm mươi mốt? Nhân Vương Bát-nhã tuy nói mười tín, trong bài tụng chỉ nói thai của bậc Thánh ba mươi, không nói bốn mươi, nên nay chính giải thích. Hàng Nhị thừa như luận kia, Bồ-tát có hai, đốn ngộ Bồ-tát hoặc mười, hoặc bốn. Sơ địa, Địa thứ bảy hai thuyết khác nhau, tiệm ngộ Bồ-tát hoặc bảy mươi bốn, trong bốn vạn có bảy mươi hai; hai vạn, bảy ngàn đều làm một người, thành ra bốn mươi bảy. Trong bốn vạn kiếp chia ra bốn mươi lăm, hai vạn mười ngàn hoặc bốn mươi bảy, vì trong luận này có hai thuyết, lấy đây trải qua bốn mươi bậc Hiền thánh kia hoặc bảy mươi bốn và bốn mươi bậc Hiền thánh, hoặc bốn mươi bảy và bốn mươi bậc Hiền thánh, trong tiệm ngộ hàng phục được phẩm Ly hoặc, căn vị khác nhau, tùy theo thô như vậy, tế càng có khác, như hai quả đầu, hồi tâm rồi cũng dung chứa được khởi, dưới chỉ ngăn phàm phu chưa đoạn được Kiến hoặc.
Lại nói phải đoạn dục tu hoặc v.v... căn cứ theo Nhị thừa mà nói không chướng ngại hồi tâm, tuy không đoạn dục, phiền não vốn có, nhưng hàng phục hoặc đắc được Tĩnh lựu thứ tư, nương theo biên tế định, thọ thân biến dị, đã có khả năng này, ngại gì không đắc được chín thứ lớp định. Lại không đắc được chín thứ lớp định, đều không thể chứng được biên tế định, nên luận Tạp Tập quyển 9 ghi: "Thiền định, Vô sắc, biên tế" là muốn dẫn công đức của phẩm phát khởi, được tự tại v.v... tu kham nhậm định đạt đến cứu cánh. Luận sau ghi: "Hoặc có bảy địa mãn tâm đồng khởi", căn cứ theo quyết định nói, như biến dị sinh không như vậy, vì sao có Sơ địa? Do luận này chỉ nói hoặc Thánh hữu học, chỉ lựa ra phàm phu quyết định không được, hữu học có được, không phải chỉ thân chứng, hồi tâm là được, trừ ra không nói là căn cứ theo chẳng phải hồi tâm, nếu lập thuyết này lẽ ra phù hợp với diệu lý.
Luận: Định này mới khởi chỉ ở trong cõi người. Vốn giải thích Dục thiên cũng được mới khởi, vì có thân chứng. Có giải thích chỉ cõi người chẳng phải ở Dục thiên, luận này nói duy chỉ. Tập luận quyển 5 ghi: "Phải ở trong loài người mới có thể dẫn phát". Luận Tạp Tập quyển 9 giải thích: "Nói dẫn phát là nghĩa mới khởi", nay nói rõ thêm Dục thiên thừa nhận có thân chứng nào có lỗi gì, nếu không thừa nhận có thân chứng, tức là chỉ tuệ giải thoát, đây đồng trở về nhập vào Sơ địa, sau có thể chẳng phải mới khởi. Chuẩn theo cõi Sắc này, bậc Thánh hồi tâm chẳng phải đều là thân chứng và câu giải thoát. Do đó, luận Tạp Tập quyển 9 lại ghi: "Các Thánh đệ tử vì muốn an trụ Tịch tĩnh trụ nên ở trong cõi người dẫn diệt định này khiến hiện tiền", đã nói như vậy thì rõ ràng các loại kia đều là mới khởi. Ở đây nói "duy chỉ" là căn cứ theo tự Thừa, từ phần nhiều mà nói, hoặc tùy theo tướng thô, không chướng ngại hồi tâm đối với loại kia đều mới khởi, như tợ Kiến đạo. Luận Hiển Dương nói chỉ là trời người cõi Dục, tuy nói duy chỉ nhưng cũng thừa nhận bậc Thánh nhị Thừa cõi Sắc sau khi hồi tâm nhập vào Kiến đạo Đại thừa. Diệt định chỉ có cõi người, mới khởi cũng chuẩn theo đó.
Luận: Trước nói tuy thuộc Hữu đảnh, vượt Đẳng chí.
Sớ có hai giải thích, nay lại giải thích thêm. Vả lại theo sư trước nương theo tâm gia hạnh, cũng được nói vượt. Căn cứ theo định thứ lớp còn lại phi tưởng phi, phi tưởng, định sau làm gia hạnh vào nay tùy theo tâm nào, hoặc dùng cõi Dục tâm hoặc sơ thiền tâm, làm gia hạnh vào, chẳng phải cần định sau khác, nên được gọi là vượt. Thuộc Hữu đảnh là căn cứ theo mới khởi mà nói, theo sư thứ hai, tùy theo địa nào tâm sinh tức là có thể vào, đây không cần gia hạnh, như tợ Như Lai mặc tình có thể vào chẳng khởi gia hạnh.
Hỏi: Nếu tâm trước khởi hàng phục rồi vào diệt kia vốn không khởi, vì sao được nói tâm nhỏ nhiệm, hậu yểm tâm, công năng không khởi vị lập? Đáp: Luận kia nương theo mới tu làm ra lời như vậy, chẳng phải tự tánh.
Hỏi: Nếu như vậy tâm kia đối với lúc định khác xưa nay không khởi, nên thường gọi là nhập diệt chăng?
Đáp: Có định tâm khác chẳng gọi là nhập định, định tâm khác không phải định này mới hiển bày, trong hai thuyết, thuyết sau trội hơn.
Luận: Kinh Ô-đà-di là thật chứng này, Vô sắc cũng gọi là Ý thành thiên.
Yếu Tập xác quyết vốn giải thích rằng: Ý của Xá-lợi tử ở sau Sắc khởi, chưa nói Vô sắc xuất hiện. Ý thành thiên nghĩa là Phi tưởng. Không rõ được ý của Xá-lợi tử cho nên bị quở trách, nương theo nghĩa của văn nào chứng được cõi Vô sắc cũng nhập vào diệt định? Nói đây thật chứng nên chẳng phải khéo giải thích. Nay cho rằng Yếu Tập không rõ được Sớ giải thích cho rằng chẳng phải khéo giải thích, tức là Ô-đà-di đời sau. Nói Ý thành thiên vượt qua đoạn thực, Xá-lợi tử nói có thoái lui định. Sắc giới sau khởi, xuất hiện không rõ, nghĩa là Phi tưởng, nên biết hai cõi trên đều gọi là Ý thành. Luận Câu-xá dẫn kinh lại nói: Tùy theo thọ một xứ Ý thành thiên thân, có thể ra vào định này, nên thông với Vô sắc, kinh không ngăn ngại luận kia, nói tùy theo một xứ. Lại luận Du-già quyển 56 nói lại hiện ở trước, gá vào sở y của sắc mới được hiện tiền, nếu đã kiến lập ở nơi tất cả xứ, đều được hiện ở trước. Nói tất cả xứ không lựa ra ba loại dưới, sư sau của luận này cần phải đoạn ba loại dưới mới khởi đây, chưa nhất định là chính, nên chỉ quở trách Sa-di không rõ được ý, vì sao chẳng phải khéo giải thích làm thật chứng ư?
Tây Minh nói: Nhưng tông của Đại thừa chia thành hai thuyết. Nan-đà đồng nói, cõi trên Địa thứ tám khởi diệt tận định nên gọi là Ý thành thiên. Giác Sư Tử giải thích, từ Tĩnh lự thứ tư trở lên Địa thứ năm mới khởi diệt định gọi là Ý thành thiên, Hộ Pháp đồng với giải thích thứ hai, chuẩn theo đâu được biết Nan-đà cũng nói? Giác Sư Tử nói chỉ năm địa trên gọi là Ý thành thiên. Nếu chuẩn theo luận Tạp Tập quyển 9, Giác Sư Tử giải thích, trong bốn câu, thừa nhận Tĩnh lự thứ tư lại khởi, không nói ba Địa dưới chẳng phải Ý thành thiên, đâu phải khéo giải thích ư? Nếu so sánh Hộ Pháp đồng với thuyết thứ hai, vì sao giải thích văn của quyển 56 kia ở tất cả xứ đều được hiện khởi? Nếu nói rằng ít phần tất cả, luận Tạp Tập không nói duy chỉ.
Luận: Đối với tàng thức giáo v.v...
Sớ nói kiến lập là nghĩa tín có, chẳng phải nghĩa thành lập, trong định tánh có ngu pháp là không tin không vào, không ngu pháp là tuy tin theo Đại thừa, không phải đem lại cứu cánh, do tin có nên sinh nhập vào định. Yếu Tập ghi: "Đã tin Đại thừa" vì sao chẳng phải cứu cánh?
Đây không hiểu ý, vốn giải thích ý rằng: Tuy tin Đại thừa không đem lại cứu cánh, chỉ có Nhất thừa tin có ba Thừa, như cầu Thanh văn tin có Độc giác, không đem lại cứu cánh chỉ một Độc giác không phải Thanh văn thừa. Lại chỉ tin tánh Đại, nhưng tự không có sức để chứng được Đại. Luận Pháp Hoa là tin các Thừa khác, chỉ nói một thừa. Tây Minh nói: Kinh không phải là nói không cầu Nhất thiết trí, nay là nói khiến cho nhập vào diệt định. Nay hỏi họ vì sao khiến cho nhập trong đại giáo? Vì nói luận A-tỳ-đạt-ma, Giải Thâm Mật v.v... đều không phải vì họ mà nói, đến kinh Niếtbàn chỉ nói là Đại. Kinh A-hàm v.v... đã mật thuyết, nên biết kiến lập là tin có nghĩa. Thế nên luận này nói, người chưa tin thọ ở tàng thức giáo, Vô sắc không khởi đã tin; sinh cõi kia cũng được hiện tiền, không nói thành lập tàng thức sau đó tin mới khởi.
Luận: Bất hoàn nhuận sinh chỉ chủng tử chẳng hiện.
Yếu Tập ghi: "Quyển 55 ghi: Chỉ tùy miên nhuận, Kiến đế tích".
Quyển 52 ghi: "Kiến thánh tích là đối với hậu hữu ái đắc phi Trạch diệt", hai văn cùng nêu bày, nên biết hai thánh đầu cũng chỉ chủng tử nhuận. luận Đối Pháp quyển 5, luận Du-già quyển 1 nói ly dục hoặc ít hoặc gấp bội hoặc hoàn toàn ly dục đều gọi là ly dục. Nay cho rằng không đúng. Nói Kiến đế tích, bốn quả đều đúng, nói ly dục chẳng phải chẳng phải ít phần lìa được tên ly dục. Giáo lý của Đại thừa Tiểu thừa nói ly dục chẳng phải hai loại đầu. Đối Pháp quyển 5 ghi: "Tự thể này ái chỉ là Câu sinh", cho đến nói do thế lực này các Dị sinh khiến cho trong vô gián có tương tục, bậc Thánh chưa ly dục cũng như vậy. Lúc sắp mạng chung, cho đến chưa đến không rõ được tưởng vị, trong đó có thể khởi ái này hiện hành. Luận Du-già tuy nói "chế phục mà không chấp trước", không nói rằng không khởi. Luận Đối Pháp nói "nhưng có thể nhiếp phục", chẳng không phải sinh khởi. Nay nói không khởi, đâu không phải trái ngược? Nên nương theo bản giải và Tây Minh giải thích.
Lại hỏi: Luận Tạp Tập quyển 5 ghi: "Trung hữu mai một, tâm thường nhiễm ô, giống như tử hữu", chuẩn theo văn đồng nói quả Bất hoàn chăng?
Đáp: Đây cũng bất định, nói như tử hữu, đâu phải quả Bất hoàn, hữu tử tâm thường nhiễm ô ư? Nên chỉ đồng nói lẽ ra có thể lựa chọn.
Hỏi: Lúc nhập vào diệt định có hai gia hạnh: một là duyên theo diệt thọ tưởng, hai là duyên theo vô tướng giới, đối với lúc xuất định duyên theo cảnh nào, xúc chạm vào xúc nào?
Đáp: Luận Du-già quyển 12 ghi: "Lúc ra khỏi diệt định, xúc chạm vào ba thứ xúc: một là bất động xúc; hai là vô sở hữu xúc; ba là vô tướng xúc", nghĩa là lúc xuất định, phần nhiều do ba cảnh mà ra khỏi định: một là do hữu cảnh; hai là do cảnh cảnh; ba là do diệt cảnh. Do ba cảnh này, lúc ở xuất định như thứ lớp đó. Xúc chạm ba thứ xúc như Xu Yếu nói, lại nói nương theo sơ học, duyên theo diệt thọ tưởng mà nhập, duyên theo hai cảnh đầu mà xuất, đồng là Hữu vi. Nương theo học lâu, duyên theo vô tướng mà nhập, duyên theo cảnh thứ ba mà xuất, đồng là Vô vi.
Nếu tự tại, trước tùy theo cảnh nào mà nhập, sau tùy theo cảnh nào xuất? Lại chưa được tự tại, xuất ắt sẽ định tâm, ở phương tiện trước, nương theo không đẳng trí mà nhập, nay nương theo không đẳng trì mà xuất, duyên theo hữu cảnh, xúc chạm vào bất động xúc, nương theo quán năm uẩn vô ngã trong thân cho là Không nhập, khiến cho không phải ngã kiến chấp bên trong làm ngã gọi là bất động, không làm ngã kiến nó đã chuyển động, nương theo vô nguyện đẳng trì, nhập duyên theo cảnh cảnh, xuất xúc chạm vô sở hữu xúc, là cảnh của năm căn cảnh, gọi là cảnh cảnh. Ở trong sáu trần cảnh, không có tham, sân, si nên gọi là vô sở hữu xúc; nương theo vô tướng đẳng trì, nhập duyên diệt cảnh, xuất xúc chạm vô tướng xúc, do diệt tánh này gọi là diệt cảnh, không phải mười tướng đó gọi là vô tướng. Duyên sự là thứ nhất và thứ hai, duyên lý là một loại sau, nhưng ba Đẳng trì thông với định và tán. Chưa được tự tại chỉ nương theo định mà xuất, nếu được tự tại đồng nương theo định tán, hoặc nương tựa không mà nhập, nương theo vô tướng mà xuất. Đây nói xúc là chẳng phải xúc trần, xúc nghĩa là xúc đối, tức là xúc tâm sở năng khiến cho căn cảnh thuận sinh ra tâm sở, vì lúc xúc chạm vào cảnh không khởi ngã kiến, không khởi tham v.v..., không làm ra tướng trạng, như thứ lớp tức là ba xúc được tên.
Luận: Hoặc đây đều là xúc xứ ít phần.
Hỏi: Trong cõi Vô sắc tức là nói: Vô sắc, tử, sinh vì sao là thuộc về muộn tuyệt?
Đáp: Tức là nương theo giải thích trước, phần vị của bốn uẩn giả lập muộn tuyệt, cũng không có lỗi, đây đều cộng thành.
Nói các Thức thức khác, vốn giải thích như Sớ. Tây Minh nói: Ý thức thứ sáu và Đại chúng bộ v.v... đã lập ra ý thức tế, tự tông Thức thứ bảy, Thức thứ tám đều là hữu pháp Thức thức khác, nhưng Thức thứ bảy, thứ tám, trước nương theo lý giáo, đã thành lập nên hữu pháp được thành lập. Nay cho rằng không đúng. Nếu trước thành lập hữu pháp được thành tựu, chẳng phải chấp lấy pháp bên ngoài, trước đã lập xong, lẽ ra lập rồi thành tựu. Nếu nói rằng trước lập là hữu, nay lập ra chẳng lìa, nên chẳng phải đã thành tựu, trước cũng từng thành tựu, không lìa thức xong. Lại Đại chúng bộ lập ra thô tế ý Thức thứ sáu, nay cũng lập ra nó, đâu không trái với tông? Nếu nói tế của họ tức là Thức thứ tám của ta, làm sao thành lập Đại chúng bộ kia được lập ý thức tế, lập ra tự thức thứ tám? Nếu không đặt lời cực thành, thân sau Bồ-tát ý thức bất thiện, chư Phật phương khác ý Thức thứ sáu cũng trong hữu pháp, lẽ ra có một phần sở biệt chẳng thành. Nếu đặt vào cực thành tức là Thức thứ bảy, Thức thứ tám chẳng phải tha thừa nhận. Yếu Tập ghi: "Nếu trong thức khác, gần cả Thức thứ bảy, thứ tám, hữu pháp tuy nói thức khác, vẫn có bất định", do có giải thích này đối với lý là thắng. Nay cho rằng không đúng, hữu pháp của thức khác tức là gồm cả Thức thứ bảy và Thức thứ tám, lại có thức nào mà làm bất định? vì tránh được lỗi này, chỉ nói Thức khác, không nói Thức thứ sáu. Lại nếu chẳng gồm cả Thức thứ bảy, Thức thứ tám gần gũi cảnh sở duyên không lìa tâm năng duyên, cũng không phải bất định.
Luận: Nghĩa là lúc các thức sinh không có thật tác dụng v.v...
Đại thừa trong gương thật không phải sắc khởi, luận Tát-bà-đa thừa nhận có sắc khác sinh, luận này nói chỉ như gương v.v... tợ như cảnh hiện ra. Vốn giải thích như ông tức là như luận Tát-bà-đa kia v.v... nếu sư Kinh bộ, tuy không phải sắc khác cũng có tợ như hiện ra chẳng phải tông của Đại thừa thừa nhận có sắc khác. Kinh Duy-ma ghi: "Như mầm lúa cháy, như tiếng vọng trong hang, như hình tượng trong gương v.v... đều dụ là không có", nếu như vậy vì sao Nhiếp Đại thừa v.v... lấy hình tượng trong gương dụ cho y tha khởi, không thể đứng về tha, vì tha là thật, vốn không có sắc riêng, vì sao dụ y tha?
Đáp: Có hai giải thích: một là chấp lấy nghĩa chẳng lìa; hai là chấp lấy tợ nghĩa. Vả lại như hình tượng trong gương, luận Tát-bà-đa thừa nhận một là không lìa gương; hai là tợ như mặt gương v.v... mà chẳng phải mặt thật, không chấp lấy tượng sắc thật cùng với chẳng thật, đối đáp luận Tát-bà-đa chấp lấy hai nghĩa đó, đối đáp sư Kinh bộ chấp lấy nghĩa tợ có, thật không lìa tâm.
Hỏi: Đại thừa trong gương tức là thật không tượng, vì sao Giải Thâm Mật phẩm Tâm Y Thức ghi: "Như một ảnh sinh ra duyên hiện ở trước chỉ một ảnh khởi v.v...", kinh Phật Địa ghi: "Như nương theo gương tròn các tượng ảnh hiện ra"?
Đáp: Đứng về tông khác và thế gian thừa nhận, chấp lấy cho là dụ lại cũng không trái, Kinh bộ tuy không thật ảnh, chấp lấy tợ cũng lại không lỗi. Nhiếp luận ghi: "Do mê loạn" nghĩa là thấy được ảnh tượng v.v... Căn cứ vào tự thật nghĩa vì phá tông khác, nên Giải Thâm Mật ghi: "Như gương là duyên trở lại thấy tự chất, chẳng phải gương có ảnh". Luận Đại Trí Độ quyển 36 ghi: "Như thấy hình tượng trong dầu v.v..." cũng là đứng về tha, chẳng phải Long Mãnh v.v... chấp nó là thật.
Hỏi: Vặn hỏi tâm trí khác lẽ ra duyên theo cảnh bên ngoài, nay nói duyên theo tự tâm, chẳng phải gần gũi duyên theo tâm khác, lẽ ra như gương là duyên trở lại thấy được tự chất, lấy gương dụ tâm, làm chấp lấy chất?
Đáp: Nếu như vậy lỗi gì, cả hai đều có lỗi, vì gương dụ tâm, nên nói lấy gương làm duyên trở lại thấy được gương đó, tâm làm duyên trở lại thấy tâm đó.
Hỏi: Đâu thể nói trở lại thấy tự chấp, lấy chất dụ tâm làm vấn nạn, chuẩn theo đây chăng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Vả lại căn cứ theo tán vị lẽ ra nói như chất cho gương là duyên trở lại thấy được tự chất, nay tha tâm trí lấy tha tâm duyên trở lại thấy được tự tâm.
2. Theo định như định là duyên, tự tâm biến hiện vô số ảnh tượng, chẳng lìa tự tâm, như tự tán tâm cho gương là duyên trở lại thấy được bản chất, chẳng lìa được chất, trong gương sinh ra khác.
Hỏi: Tự tâm tha là duyên trở lại có thể thấy được tự tâm, tự chất gương là duyên chất không thể thấy được, chất vì sao là dụ?
Đáp: Dụ chấp lấy ít phần, như tợ nhãn chất cho gương là duyên trở lại thấy được nhãn chất, nên nói rằng trở lại thấy tự chất, tuy đã thấy chẳng phải nhãn, nhãn nương theo xứ, tùy theo thế tục.
Hỏi: Trong sở kiến căn cứ theo tông của Đại thừa, chất tướng có khác, vì sao được nói trở lại thấy tự chất?
Đáp: Nhiếp tướng từ chất, do tợ như chất, căn cứ theo thật sở kiến gần gũi thấy được tự tướng, chấp lấy dụ của ít phần, dụ cho tha tâm trí v.v... cảnh của sở thủ, thảy đều không lỗi, nên luận Vô Tánh quyển 5 ghi: "Chẳng phải đẳng dẫn địa thiện ác tự nghiệp bản chất là duyên quả của ảnh tượng sinh ra cũng lại như vậy".
Hỏi: Các mê loạn kiết sở thấy ảnh tượng, lấy gì làm thể, chỗ nào được nhiếp?
Đáp: Độc đầu tán ý phân biệt, vọng chấp nghĩa là gương có ảnh v.v... là mê loạn v.v... đã thấy ảnh tượng. Chỗ nào nhiếp? Yếu Tập ghi: "Có thuyết nói trở lại là sắc xứ tợ như tướng trước", Sớ không có văn. Giải thích trong chương Pháp Xứ của Pháp Uyển rằng: "Sắc của ảnh tượng là sắc xứ". Căn cứ theo độc ý thức tán, duyên theo năm trần gọi là phân biệt ý, vì tướng theo chất thuộc về sắc xứ, không hiểu trong gương chấp có thật sắc làm ảnh tượng. Pháp sư vốn giải thích không nương gá theo chất vọng chấp tượng của gương làm thật có là trong pháp xứ biến kế đã khởi.
Hỏi: Trong luận Hiển Dương cảnh của năm trần sắc cũng có ảnh tượng sắc, trong pháp xứ sắc có cảnh định sở hành, cũng có ảnh tượng sắc, trong biến kế sắc cũng có ảnh tượng sắc, có gì sai biệt? Đáp: Ảnh tượng của sắc xứ có hai giải thích:
1. Phân biệt ý thức, duyên theo tướng của năm trần, vì cảnh đối căn nên thuộc về pháp xứ, nay từ chất và sơ sinh quả, nên thuộc về sắc xứ.
2. Năm thức đã biến đổi gọi là ảnh tượng sinh, bản thức đã biến đổi làm sắc khác, vì căn đối cảnh, Thức thứ tám đã biến đổi nên thâu tóm pháp xứ, vì tối từ sáng nên thuộc về sắc xứ.
Hai giải thích đều được, nhưng giải thích thứ hai trội hơn, ảnh tượng của biến kế trước đã lược rõ ràng. Định sở hành là đã biến đổi vàng v.v... không phải thật dụng, gọi là định ảnh tượng.
Hỏi: Cho cảnh là duyên, vì sao không nói trở lại thấy được tự cảnh duyên theo ảnh tượng?
Đáp: Duyên theo ảnh không phải cực thành, nhiếp theo tướng nói rằng thấy được chất.
Giải thích tha tâm trí, gọi là trong Duy thức. Tây Minh nói: An Tuệ có ba giải thích, Hộ Pháp có hai giải thích, An Tuệ không trái. Hộ Pháp trong giải thích thứ hai nói: Tất cả sở duyên không lìa năng duyên, nên gọi là Duy thức, thông với tất cả vị nói trong có lạm dụng. Nói tất cả sở duyên không chia ra thân sơ, sơ Sở duyên duyên lạm dụng thân sở duyên, tổng nói không lìa năng duyên. Nếu sơ Sở duyên duyên cũng không lìa tâm năng duyên, vì sao cần phải nói rằng duyên theo tha tâm trí? Không phải thân duyên theo tha tâm, nên chẳng lìa thức thủ. Nếu thân duyên theo tha tâm cũng không lìa tự tâm. Lại trước vì sao nói lẽ ra không phải thân duyên theo lìa sắc v.v... của mình; vì sở duyên kia không lìa mình. Chánh giải nên nói tất cả thân sở duyên không lìa năng duyên gọi là Duy thức.
Luận: Nhất thiết chủng tử thức.
Tây Minh nói: Hay dẫn dắt tự loại, và dẫn dắt đồng thời tự hoại hiện hành là tánh của nhân duyên, tức là tự hỏi rằng: Nếu như vậy vì sao lôi kéo dẫn dắt chủng tử làm tánh của nhân duyên?
Giải thích rằng: Thật chẳng phải nhân duyên, nhưng Bồ-tát địa giả gọi là nhân duyên, nhân duyên loại, nay cho rằng không đúng, từ xa mong hiện tại gọi là khiên dẫn, chưa thấm nhuần các chủng tử tự loại tướng sinh cũng là nhân này, nên gọi là nhân duyên.
Luận: Vì Cực vi tròn.
Tây Minh có ba giải thích, giải thích thứ ba nói: Văn trước đồng giải thích nhân quả thứ sáu, tức là không phải sở huân, văn sau giải thích riêng nhân quả thứ sáu, nhân vi tế quả vô minh. Yếu Tập ghi: "Ở trong các giải thích, có giải thích thứ ba, đối với lý thuận nhau". Nay cho rằng không đúng, nghĩa là bảy chuyển thức giải thích riêng Thức thứ bảy Thức thứ tám trước phẩm tâm dưới, giải thích Thức thứ tám, cực vi tròn đồng giải thích tám thức ở nơi nhân Dị thục, quả vị Vô lậu, nguyên do không huân tập, vì nghiệp Dị thục rất vi tế yếu kém, nên không huân tập, quả vị Vô lậu rất viên mãn nên không huân tập. Nếu không như vậy trước nói trừ Phật quả thiện rất Vô ký yếu kém không thể huân tập. Có nguyên do gì? Do đây vốn nói đối với lý là thắng, vì Sớ giải nói. Lại giải thích Thức thứ tám trong nhân và sáu thức trong tâm Dị thục, đều không huân tập vì rất vi tế, quả thứ tám trên vì rất viên mãn, riêng lựa ra Thức thứ tám quả mới Vô lậu, năm thức khác giải thích có thừa nhận đồng nhân, thân Phật pháp thiện không phải tăng giảm, thật quả tám thức đều nên lựa ra, đồng giải thích tám thức. Do đây luận trước chỉ nói có bảy thứ hay huân tập bản thức sinh ra chủng tử của tự loại.
Luận: Dị sinh cầu hướng đến tâm của cõi Sắc sau dần sinh Vô lậu v.v...
Sớ giải thích đốn ngộ, đến Địa thứ tám sinh Tĩnh lự thứ tư, ban đầu đắc được thân thù thắng, mới thọ biến đổi. Tây Minh nói: Dị sinh cầu Phật là người đốn ngộ, chưa đoạn được sức của phiền não tùy miên, tâm cõi Sắc sau dẫn dắt sinh Vô lậu. Nay cho rằng, nếu đã tùy miên chưa đoạn tức là sinh về cõi trời kia, quả thứ nhất, thứ hai người tùy miên, và chưa đoạn sắc quả thứ hai người hồi tâm cầu Phật, lẽ ra định sinh về Đệ tứ thiền. Có tùy miên do đây nên biết, đốn ngộ thù thắng có thể không nhàm chán sinh tử, chấp lấy thân hơn hết, mới thọ được biến đổi, nên nhất định sinh cõi kia, hàng Nhị thừa không như vậy nên không phải định sinh. Yếu Tập ghi: "Từ Địa thứ tám trở lên cũng không đoạn tùy miên, thọ sinh có dụng, nên Địa thứ mười mới sinh ra tự tại, địa còn lại Bồ-tát chưa phải cực huân tu, nên không được sinh". Do đây luận Du-già quyển 4 ghi: "Do cực huân tu Địa thứ mười nên được sinh trong đó". Luận Hiển Dương quyển 2 ghi: "Nếu khéo tu tập Tam-ma-địa không nghĩ bàn". Trong Địa thứ mười, chỗ thiền thứ tư, thọ vượt khỏi Tịnh cư, Đại tự tại thiên sinh quả, văn của kinh luận đều nêu bày. Nhị thừa hồi tâm, nếu bậc Vô học là tất cả sinh sau đều đắc được phi Trạch diệt, trải qua cõi Dục sinh về hai quả ban đầu. Hai cõi trên sinh cũng phi Trạch diệt, tức là ở cõi Dục thọ biến dị sinh. Quả Bất hoàn, người cõi Dục hồi tâm, tức là ở cõi Dục thọ biến dị báo, cõi Sắc hồi tâm tức là cõi Sắc thọ, bậc học Vô học này thọ biến dị rồi nhất định không phải tử sinh, nhưng đến tự tại không phải gọi là sinh. Bồ-tát đốn ngộ chỉ trừ ba ác, còn lại tất cả sinh chưa đắc được phi trạch, phiền não chưa đoạn tuy thọ biến dị, cũng có sinh tử. Nay cho rằng không đúng. Các thọ biến dị ắt sẽ không xả thọ, riêng thọ sinh tử, nếu riêng thọ báo làm nghiệp Quảng quả thiên, làm nghiệp Đại tự tại thiên, nếu nghiệp của Quảng quả không khác với thọ trước, vì sao cần phải thọ lại? Nếu nghiệp Tự tại thiên kia lúc nào tạo tác? Nếu là mới tạo chẳng gọi là hậu báo, nếu là xưa tạo nên năm Nahàm xưa tạo tác nghiệp Tịnh cư, kia tức là không như vậy đây vì sao như vậy? Lại nữa Nhị thừa hữu học hồi tâm đến Địa thứ mười lẽ ra biệt sinh tử, văn nói Địa thứ mười Bồ-tát sinh, không nói đến thẳng chẳng phải tiệm ngộ.
Lại luận này quyển 8 ghi: "Nghĩa là Bất định tánh, Độc giác, Thanh văn và đắc tự tại đại nguyện Bồ-tát đã vĩnh viễn đoạn, hàng phục Phiền não chướng, không dung chứa lại thọ đương phần đoạn thân", e rằng phế bỏ thời gian dài tu hạnh của Bồtát, bèn dùng nguyện lực Vô lậu thắng định, như pháp kéo dài tuổi thọ giúp cho nhân của thân hiện tại khiến cho thời gian dài kia, cùng với quả không dứt vài lần như vậy, định nguyện giúp thêm, cho đến chứng được Vô thượng Bồ-đề. Nếu Địa thứ mười có sinh tử, nên càng dung chứa thọ đương phần đoạn thân, cũng chẳng phải vĩnh viễn hàng phục Phiền não chướng. Lại không được nói giúp cho nhân của thân hiện tại và quả không dứt.
Hỏi: Nhị thừa Kiến đạo, trước hồi tâm mong Đại làm tiệm, làm đốn.
Đáp: Như bản Pháp Hoa sớ và Pháp Hoa Nghĩa Quyết nói rộng, sợ dài dòng nên không dẫn ra.
Luận: Cung Đại tự tại.
Đối Pháp quyển 6, kinh Giải Thâm Mật, luận Du-già quyển 78, quyển 79 đều nói tổng tướng. Như luận Du-già quyển 79 đã nói, Tịnh độ hoặc Bồ-tát Địa thứ ba v.v... vãng sinh. Mười địa cũng ở trong đó, luận Đối Pháp chỉ nói rõ cõi Tịnh độ của Phật, nói: "Chỉ Phật được giác ngộ chẳng phải đắc được thiền định, cảnh giới của thiền định, tổng tướng nói cõi nước không lựa ra Phật nào, cũng thông với Bồ-tát mà được vãng sinh". Trong văn cũng bao hàm cung Đại tự tại, chỗ Bồ-tát sinh về, nếu không như vậy Bồ-tát Thập địa không được sinh, vì do văn ẩn. Yếu Tập ghi: "Còn lại vốn không được", nhưng cung Tự tại là nơi thọ Phật vị, ở cõi tha dụng, xứ đã bất định, vì sao biết? Chuẩn theo kinh Đại Địa ghi: "Ngay lúc Bồ-tát Tam-muội hiện tiền, có hoa sen báu lớn tròn khắp như mười a-tăng-kỳ, trăm ngàn ba ngàn đại thiên thế giới của chư Phật, là lúc Bồ-tát hiện tiền thù thắng vi diệu ở đó, gọi là Khả hoa tòa", thế giới đã có mười phương, chẳng đồng với Hữu bộ cho là trải bên cạnh, nên xứ sở của Tự tại cung bất định. Nhưng kinh luận Thập Địa ghi: "Hậu báo lợi ích Ma-êthủ-la trí xứ sinh", căn cứ theo Địa thứ mười, vừa đến mà nói, Địa thứ mười có đầy đủ xứ sở để thọ Phật vị, chẳng phải nhất định đến chỗ cung Tự tại. Hỏi: Như Sơ địa Bồ-tát, thấy cõi tha thọ dụng như một trăm ba ngàn, gấp bội ở trên, chấp Địa thứ mười đã thấy Tịnh độ vô lượng vô biên, vì sao còn sinh về cõi Tịnh cư ở tại Tự tại trên? Lại từ Sơ địa trở xuống không sợ đường ác, vì thường sinh về cõi Phật, chẳng phải cõi Phật kia, chỉ Tịnh cư trên? Đáp: Cõi Phật tuy lớn nhỏ có khác, Bồ-tát Hữu lậu cũng hiện khởi thức, giống như là Hữu lậu thuộc về giới địa, chẳng phải lìa ba cõi có riêng chúng sinh, tùy theo sinh về cõi nào, căn cứ theo Thức thứ tám đều thuộc về cõi, theo đây mà nói Bồ-tát Thập địa, do cực huân tu chiêu lấy Ngũ tịnh cư sinh về cung Tự tại nên cũng không lỗi, nhưng cung Tự tại chẳng phải thuộc về Tịnh cư. Luận Dugià quyển 4 ghi: "Trong cõi Sắc mười tám trụ xứ, Vô tưởng thiên là Quảng quả thiên nhiếp, nên cung Tự tại chẳng phải Ngũ tịnh cư, nếu Tịnh cư nhiếp xứ sẽ là mười bày chẳng phải mười tám".
Luận: Chuyển thức thứ sáu ba cõi chín địa càng dẫn dắt nhau.
Hỏi: Tổng có bao nhiêu tâm? Từ cõi Dục tâm gì? Sinh về cõi Dục tâm gì? Tâm sinh về hai cõi trên và không trói buộc tâm, là hỏi cũng như vậy?
Đáp: Căn cứ theo luận Hiển Dương quyển 18 ghi: "Cõi Dục trói buộc có tám tâm: Một là Sinh đắc thiện; hai là Phương tiện thiện; ba là Bất thiện; bốn là Hữu phú vô ký. Và Vô phú vô ký chia làm bốn loại, nghĩa là Dị thục, oai nghi, công xảo, biến hóa tâm. Cõi Sắc trói buộc có sáu tâm trừ bất thiện, công xảo. Cõi Vô sắc trói buộc có bốn: Trừ bất thiện, oai nghi, công xảo, biến hóa tâm. Không trói buộc tâm có hai, nghĩa là hữu học, Vô học, tổng có hai mươi tâm", nhưng tổng tướng nói cõi Dục khởi ba cõi, cõi Sắc khởi hai cõi, cõi Vô sắc khởi Vô sắc, đều mỗi mỗi khởi không trói buộc. Lại từ cõi Dục không phải biến hóa tâm, từ tương tợ nói thật là cõi trên, nên quyển 69 ghi: "Như quả của cõi Sắc, cõi Dục biến hóa tâm", tức là từ cõi Sắc tâm thiện vô gián duyên, cõi Dục này Vô ký tâm. Lại nói tâm này là cõi Dục, nên biết là loại của ảnh tượng kia, chẳng phải tự tánh. Chuẩn theo đây căn cứ theo cõi Dục bảy tâm, trừ biến hóa tâm chẳng phải cõi Dục trói buộc, nên hỗ tương sinh làm vô gián. Vả lại căn cứ theo cõi Dục, lược làm bài tụng rằng:
Dục sinh đắc khởi bảy
Đắc định hoặc chín, mười
Tự từ nơi mười sinh
Phương tiện cũng định bảy
Sơ đắc định sinh chín
Tự tại khởi mười ba
Từ tha sinh cũng vậy
Bất thiện tự địa bảy
Cõi khác có hai thuyết
Tự, thượng đều bảy sinh
Hữu phú đồng mười hai
Từ tha mười sáu sinh
Sinh tử đẳng phân biệt
Dị thục chỉ sinh chín
Tự bảy, hai Hữu phú
Cũng từ tự bảy sinh
Oai nghi, xảo định chín
Hoặc mười lăm bất định
Hai từ tha tự bảy
Hai cõi trên bất định.
Nói: Dục sinh đắc khởi bảy, đắc được định hoặc chín, mười là: Vả lại cõi Dục sinh đắc chẳng phải đắc định là vô gián sinh ra bảy tâm, nghĩa là bảy tâm của cõi Dục. Nếu ban đầu đắc định vô gián sinh ra chín tâm, lại thêm sắc, Vô sắc, Hữu phú vô ký tức là nhuận sinh vị. Nếu tu tập tâm vô gián sinh ra mười tâm, lại thêm sắc, oai nghi, nên luận Dugià quyển 69 ghi: "Nếu đã khởi thiền định, Vô sắc không phải thoái mất, từ cõi Dục tâm thiện vô gián, tùy theo sở thích Địa trên các tâm và học, Vô học tâm, muốn khởi hiện tiền, trước đã thiện chấp lấy hành tướng kia, ở các tâm kia, như ý có thể khởi". Chuẩn theo ý văn này, tổng nói hai thiện, nay chấp lấy sinh đắc nên khởi oai nghi. Tự từ nơi mười tâm sinh, nghĩa là cũng từ nơi bảy tâm của cõi Dục hợp với ba tâm trên khởi, cõi Sắc hai tâm oai nghi Hữu phú, Vô sắc hữu phú căn cứ theo cõi Dục mà nói có thể được.
Mười hai tâm cũng từ hai phương tiện trên thiện sinh ra, trước nói là tốt, gần gũi tâm thù thắng kia, chẳng khởi sinh đắc. Phương tiện cũng định bảy tâm, ban đầu đắc được định sinh ra chín tâm, tự tại khởi mười ba tâm, nếu phương tiện thiện sinh ra bảy tâm của cõi Dục. Nếu ban đầu đắc định tức là có thể khởi chín tâm, lại thêm sắc định thiện, nên quyển 69 ghi: "Nếu trước chưa khởi thiền định Vô sắc, ban đầu cõi Dục sinh thời cần phải theo cõi Dục thiện tâm, vô gián, Địa của Sơ thiền thiện tâm được sinh, trong thọ sinh vị khởi Hữu phú trên.
Nếu tu tập lâu vô gián sinh ra mười ba tâm, sáu tâm của cõi Dục, trừ bất thiện, cõi Sắc ba tâm Hữu phú hợp và oai nghi, khởi hai tâm của Vô sắc, phương tiện thiện tâm và lấy Hữu phú, gồm học Vô học tâm, đều mong thiện mà nói. Từ tha sinh cũng như vậy, nghĩa là cũng từ mười ba tâm trước, phương tiện thiện này sinh.
Bất thiện, bảy tâm tự địa, giới khác có hai thuyết, định đắc được vô gián sinh ra bảy tâm của tự địa. Địa trên có hai thuyết:
1. Nếu các Dị sinh lìa dục của cõi Dục, tuy không thể hàng phục dục Kiến đạo hoặc mà định, tàm v.v... sức bị chiết phục, không khởi bất thiện, tức là dục bất thiện chẳng làm vô gián, sinh ra tâm Địa trên, do mê lý hoặc đều không chế phục nên nó được khởi, duyên theo sự không xấu hổ, các loại đã chế phục, tuy khởi mê lý, nên chẳng phải bất thiện.
2. Tức là không thể chế phục kiến sở khởi hoặc phân biệt kiến v.v... nên dung chứa bất thiện, vô gián sinh ra Dị thục cõi Sắc sinh tâm oai nghi, Hữu phú, sinh ra hai Dị thục, Hữu phú trong cõi Vô sắc, tổng có mười hai tâm. Từ trên đều bảy tâm sinh ra, nghĩa là từ bảy tâm của tự địa cũng bảy tâm trên sinh ra, từ Hữu phú của cõi Sắc, sinh đắc oai nghi gồm Dị thục sinh. Căn cứ theo tánh định con người, Sở tri chướng, nói bất thiện dưới khởi, chẳng phải thanh tịnh thiện, vì thế lực mạnh trội hơn, chẳng phải nghiệp Dị thục, khởi chẳng lẫn lộn. Ba tâm của cõi Vô sắc, sinh đắc, Hữu phú, Dị thục sinh tâm từ mười bốn tâm sinh ra. Nếu chuẩn theo giải thích ban đầu chỉ có bảy tâm của cõi Dục khởi.
Hữu phú đồng mười hai tâm, nghĩa là như sư thứ hai bất thiện tâm nói. Từ mười hai tâm khác sinh ra, nghĩa là từ bảy tâm của tự địa, năm tâm của cõi Sắc, hai thiện, Dị thục, Hữu phú, oai nghi, bốn tâm của cõi Vô sắc, trừ oai nghi của cõi Sắc. Sinh tử v.v... phân biệt nghĩa là, quyển 69 ghi: "Lúc thoái lui định hai cõi đã đắc từ trước, do nhiễm ô tâm hiện tiền nên thoái lui, nhiễm tâm dưới này từ thiện nhiễm trên vô gián mà sinh". Đây nói thoái lui định khởi tâm dưới, lại từ chết trên theo địa trên thiện, nhiễm, Vô ký, vô gián, chỉ sinh ra địa dưới nhiễm ô. Đây nói nhuận sinh, từ loại kia khởi, lại Kiến đạo hoặc cũng dung chứa ba tánh gián đoạn sinh của cõi trên, chỉ trừ phương tiện, nghĩa như trước đã nói. Dị thục chỉ sinh ra chín tâm, tự bảy tâm hai Hữu phú nghĩa là, sinh ra bảy tâm tự địa hai Hữu phú trên tức là nhuận sinh vị. Cũng từ bảy tâm tự địa sinh, nghĩa là quyển 69 ghi: "Từ cõi Dục trói buộc, nếu thiện, nếu nhiễm ô, nếu Vô phú Vô ký, vô gián biến khắp sinh ra cõi Dục trói buộc tất cả", nên biết Dị thục cũng từ bảy tâm khởi.
Oai nghi công xảo định chín tâm, mười lăm bất định nghĩa là, sinh ra bảy tâm tự địa hai tâm trên Hữu phú, cũng nhuận sinh vị, hoặc mười lăm bất định, nghĩa là đắc định tự tại từ hai tâm này cũng có thể khởi hai tâm, nếu không phải công xảo, chỉ khởi oai nghi và hai tâm phương tiện. Học Vô học tâm, hoặc cùng không được, vì thế lực yếu kém. Theo tợ như tâm cõi Dục biến hóa Vô ký, sinh ra thiện tâm của cõi Sắc, quyển 69 nói, văn như trước dẫn. Hai tâm từ tha tự bảy tâm, hai cõi trên bất định, nghĩa là oai nghi, công xảo từ bảy tâm của cõi Dục sinh ra, hai cõi trên bất định, trên dưới gián đoạn sinh, từ hai Hữu phú cõi Sắc oai nghi sinh đắc Dị thục, hoặc cùng không được, vì thế lực cách xa. Vả lại, căn cứ theo tâm của cõi Dục sinh ra tha tự, còn lại chuẩn theo mà biết. Luận Tạp Tập quyển 5 chỉ căn cứ theo sinh nhân, có mười thứ tâm sinh thứ lớp, lược nêu ra đại cương, cũng không thuật lại đầy đủ.
Năm thức v.v... vô gián có hai luận sư.
Hỏi: Thứ hai nói nhân vị vì sao không sinh ra Vô lậu?
Đáp: Vì năm căn của nhân vị, Tướng phần của Thức thứ tám, không thể Hữu lậu, bất cộng ắt sẽ đều đồng cảnh, Hữu lậu phát ra thức Vô lậu, vì sáng tối khác nhau.
Hỏi: Vả lại năm căn cũng có chủng tử của Hữu lậu, Vô lậu, nhưng thức Dị thục thừa nhận duyên theo Hữu lậu không duyên theo Vô lậu, chỉ giữ gìn không mất, ngại gì năm căn cũng khởi Vô lậu giữ gìn mà không phải duyên phát ra Vô lậu thức, tướng tốt của Vô lậu, cũng lại như vậy chăng?
Đáp: Chủng tử của Vô lậu ẩn trong Thức thứ tám không duyên, căn của Vô lậu hiển bày vì sao không duyên? Tướng tốt của Vô lậu không biến đổi chẳng phải chấp, cũng không duyên không đồng với năm căn. Lại nói năm căn ắt sẽ giác thọ, không có năm căn Thức thứ tám không duyên; chủng tử chẳng phải giác thọ, tự có chủng tử Thức thứ tám không duyên.
Hỏi: Hai quả đầu, người đắc được cận phần ban đầu Vô lậu Thánh đạo, hồi tâm sau thọ biến dị sinh, khởi Vô lậu nào?
Đáp: Địa của định thứ tư, vì sao? Do hồi tâm này trội hơn tu tập, nên đắc được định thứ tư, nên luận Du-già quyển 80 ghi: "Nếu có khéo tu bốn thần túc, hoặc trụ một kiếp hoặc hơn một kiếp", văn kia nương theo trước, tuy căn cứ Vô học, căn cứ theo quyết định mà nói. Nay ba quả trước này, nếu không khéo tu sẽ không ở thọ, đã thừa nhận được thông mới có thể ở thọ, nên cùng tột huân tập tu thiền định Vô sắc. Luận Du-già quyển 69 ghi: "Thế nào là nguyện trí? Đều phần giải thoát lợi căn La-hán, huân tập tu biên tế thiền định thứ tư làm chỗ nương". Tuy nói Vô học, chuẩn theo biết hồi tâm hữu học cũng như vậy. Nếu không phải nguyện trí, vì sao có thể biết thọ sẽ muốn hết, thọ biến dị ư!
Hỏi: Đã nương Vô lậu thắng định thứ tư mới thọ biến dị, vì sao không đoạn địa hoặc dưới? Nếu thừa nhận đoạn nên đắc được quả Bất hoàn, mới thọ biến dị, vì sao kinh Niết-bàn ghi: "Người chứng quả Tu-đà-hoàn trải qua tám vạn kiếp, người chứng quả A-na-hàm, trải qua sáu vạn kiếp"?
Đáp: Tuy khởi Vô lậu nương tựa Thắng tấn đạo, chẳng phải Vô gián đạo, nên không đắc được quả. Cho nên, luận Tạp Tập quyển 9 giải thích nhập vào Vô sắc tịch tịnh giải thoát, chưa lìa được dục của cõi Sắc. Nghĩa là bậc Thánh đã đắc được thiền định thứ tư, không cầu sinh về cõi Vô sắc. Xả bỏ đoạn kết đạo, nương theo thắng tấn tu, dần dần lần lượt có thể nhập vào cõi Vô sắc tịch tịnh giải thoát định, đây nói chưa lìa sắc dục, theo không đoạn chủng tử, tịch tịnh giải thoát định tức là diệt tận định tiểu quả còn như vậy, huống gì hồi tâm rồi mà không thể được ư? Hỏi: Căn cứ theo Vô học kia hướng đến đại quả thì nhanh chóng, hữu học tâm vì sao không chấp lấy quả?
Đáp: Tuy biết hướng đến nhanh chóng, vì nhàm chán tiểu quả, cho nên không chấp lấy.
Trong Sở duyên duyên, sư thứ hai nói: Tướng phần của Thức thứ tám đỡ cho chất sinh, sư thứ ba nói: Chẳng phải chủng tử của các hữu tình đều đồng. Pháp sư Tây Hà Tuyển nói: Nhân vị thứ tám không duyên theo Vô lậu, tuy năm tánh khác nhau, chẳng phải có thể làm vặn hỏi. Lại như trưởng dưỡng sắc, tất cả hữu tình mạnh, yếu bất định cũng được làm duyên tuy năm tánh khác nhau, ngại gì được lo nghĩ. Vả lại làm một giải thích, trưởng dưỡng sắc v.v... tuy hoặc mạnh yếu nhưng hữu tình đều có, nên được làm duyên chủng tử của Vô lậu hữu vô vô thể, không được lo nghĩ. Lại chủng tử nhiều ít không phải chỉ Vô lậu, đối với các hữu tình, căn cứ theo Hữu lậu, đoạn chưa đoạn khác nhau, nên được làm vặn hỏi, chính giải thích như Sớ.
Tây Minh giải thích rằng: Sư thứ ba vặn hỏi, sư thứ hai nói, nên không phải phàm thánh khác nhau. Vặn hỏi này chẳng phải lý. Nhân vị thứ tám không duyên theo chủng tử Vô lậu. Lại nữa Luận sư trước chỉ nói từ ảnh thứ tám nhất định giúp đỡ chất, chẳng phải tự không chủng tử sẽ cần biến đổi khác nếu vì khác có tức là lệ thuộc theo chất, nên nhãn v.v... khởi. Sở hữu sắc v.v... thường đầy đủ ảnh kia, nhất định giúp đỡ chất, tức là nhãn v.v... hoặc chỉ duyên theo màu xanh v.v..., nên căn cứ theo tự tướng, nhất định cần phải giúp đỡ họ, chẳng phải sở hữu của họ đều cần phải là chất. Nay vặn hỏi này theo sở hữu của mình biến đổi có nhiều chủng tử, sở đối hữu tình, chẳng phải nhất định tương tợ. Nay chuẩn theo ý của vặn hỏi, thông với nhân quả vị, nếu quả vị thứ tám duyên theo chủng tử Vô lậu hoặc có hữu tình không phải chủng tử Vô lậu, nếu mong đây nói tự tướng không có chất. Nếu nói: Nương theo Hữu vi chất không có là không giúp đỡ, vì sao không thừa nhận ở nơi mình có dụng giúp đỡ chất kia biến đổi? Đối với mình không dụng chỉ tự mình gần gũi duyên tức là không giúp đỡ chất, nhưng Tây Minh nói: Hộ Pháp nương theo tự thức thứ tám biến đổi có dụng, vì vặn hỏi với người khác cũng không đúng lý. Luận sư kia cũng thừa nhận có dụng biến đổi. Quyển 3 trước, biến đổi căn của mình và người, đều thừa nhận có dụng, chẳng phải vô dụng biến đổi. Lại vặn hỏi biến đổi khí cũng thừa nhận có dụng, chẳng phải là thừa nhận có vô dụng cũng biến đổi.
Luận: Trừ sát-na sau.
Sớ giải thích nghĩa chuẩn, Bồ-tát ba tâm trong tướng Kiến đạo, hai tâm trước căn ban đầu, tâm thứ ba thuộc về về căn thứ hai, văn của luận không lựa ra, trừ Kiến đạo nào? Sát-na sau cùng vì tổng tướng nói. Hoặc nương theo luận Tạp Tập tổng có mười sáu tâm tùy theo tướng khác mà nói.
Luận Tạp Tập quyển 9 ghi: "Vị tri nhiếp kiến, Dĩ tri nhiếp tu, Cụ tri nhiếp Vô học, vì luận Tát-bàđa tâm thứ mười sáu phán phân thuộc về Tu đạo, nên là tùy theo tha". Hoặc một sát-na ít, ẩn theo nhiều nói tu. Lại do Tiểu thừa nói, mười sáu tâm duyên với bốn Đế, đến tâm thứ mười sáu không có gì chưa biết, nên thuộc về Dĩ tri.
Nếu Đại thừa nói chung mười sáu tâm đồng duyên theo lý trí, Đạo loại trí chịu duyên theo trí đã khắp, khác với Hữu bộ, nên tâm thứ mười sáu thuộc về Dĩ tri căn. Hoặc nương theo Nhị thừa, hoặc nương theo họ chuyển, nay căn cứ theo luận Du-già, Duy Thức quyển 9, tướng kiến của Bồ-tát lại có ba tâm, do pháp chân trước, vô gián, giải thoát, riêng chung kiến lập. Hai tâm đầu quán riêng tâm thứ ba hợp với pháp, tức là quán lại, chẳng phải vị tri đương tri vì có thể sẽ biết. Lại luận Tạp Tập quyển 10 ghi: "Như vậy mười căn, trước chưa biết chân, là muốn được hết tu tập chuyển, gọi là Vị tri đương tri căn". Hai tâm chánh tri, nên tâm thứ ba tức là thuộc về căn thứ hai, tuy là Kiến đạo thuộc về căn thứ hai, nhưng luận Tạp Tập nói" Bồtát không quán hai mươi sáu tâm", có thể như đã nói, đến tâm thứ ba gọi là Dĩ tri căn, nhưng không phải văn lựa ra hai mươi sáu tâm. Lại như chỉ quán chân trí mười sáu tâm có thể như đã nói, trên dưới bốn Đế mười sáu tâm như thế nào? Lại luận Dugià v.v... ghi: "Ban đầu vô tướng, từ Thế đệ nhất vô gián mà sinh". Ba tâm, mười sáu chỉ nói theo đây, không thể nói là chân tướng đồng thời, do đạo lý này, chân sau ba tâm và hai mươi sáu tâm đều gọi là tướng kiến.
Căn cứ theo ý đây nói, không thừa nhận Sớ giải thích ba tâm, tâm thứ ba thuộc về căn thứ hai. Lại nói: Vô tướng từ Thế đệ nhất pháp vô gián mà sinh, nghĩa là sư thừa nhận chân, tướng đồng thời, nghĩa nói trước sau, nay cho rằng không đúng. Ba tâm Kiến đạo, luận Du-già quyển 55 cũng nói: "Từ Quyết trạch phần biên tế thiện căn vô gián mà sinh", luận này cũng hợp, các tướng Kiến đạo nương theo chân giả nói Thế đệ nhất pháp vô gián mà sinh, chẳng phải chỉ vô tướng. Lại hai mươi sáu tâm đều là duyên lại, vì sao hai mươi sáu tâm đều là pháp chân kiến, tức là ba tâm sau, quán lại pháp kia, vì sao chẳng phải Dĩ tri? Nếu theo quán tục, mười sáu tâm trên dưới tâm mười sáu chưa có trí biết nên gọi là Đương tri. Nếu nói rằng luận nói từ sát-na sau, luận cũng nói rằng không có gì là chưa biết, tức là thuộc về tâm thứ hai. Nên biết luận Tạp Tập nói mười lăm tâm trước là chưa biết, tùy theo tướng khác nói đã biết, tức là nhiếp Tu đạo. Căn cứ theo Đại thừa tâm thứ mười sáu tuy đã biết căn là Kiến đạo nên biết các thuyết nghĩa ý đều khác nhau, nhưng trong Sớ tự chia ra lớn nhỏ, lập thành ba căn khác nhau.
Luận: Ba loại trước Vô sắc v.v... Sớ giải thích rằng: Nó không có gia hạnh, lại từng chưa khởi hiện hành, Vô lậu chấp lấy dị sinh trước tu đắc gọi là hiện quán biên, tuy không phải hiện hành cũng thuộc về căn này, Tu đạo được khởi. Nay lại chuẩn theo văn quyển 69, tư lương, gia hạnh, Kiến đạo cũng tăng, trong Tu đạo khởi. Luận kia giải thích trí của thế tục, khoảng đầu, giữa, sau sinh khởi thứ lớp nói: Năm kiến tham v.v... là nhiễm ô v.v... các trí của thế tục lẽ ra đoạn, nên biết là muốn sinh khởi đối trị kia nên khởi vô đảo kiến, là thiện Hữu lậu thuộc về trí của thế tục. Cho đến nói: Lại vì Thế đệ nhất pháp kia đã nhiếp trí của thế tục làm chỗ nương, nên có thể nhập vào Kiến đạo. Lúc tiến lên Kiến đạo, tức là trước đã tu thiện trí của thế tục đã có chủng tử, do họ huân tu đều được thanh tịnh, cũng gọi là tu. Đây thì gọi là đế hiện quán biên, các trí của thế tục ra khỏi Kiến đạo rồi sinh khởi trí này chứng được kiến sở đoạn, các pháp giải thoát.
Văn này đồng nói Tam thừa đều khởi. Kế văn sau nói lại có thể rõ biết ngã rồi chứng được quả Dự lưu v.v... nên biết Đại thừa ở nơi Kiến đạo giải thoát phần vị trước, khởi thiện của Vô sắc, cũng sinh về Vô sắc nên biết tư lương đồng tu Vô sắc, nhập vào kiến tu các Thừa khác, trong luận không nói, tu các Thừa khác là chỉ Căn bản vị, chỉ là Vô lậu, chuẩn theo luận sau giải thích Vô sắc cũng có ba thứ Vô lậu căn. Quyển 57 ghi: "Ba thứ dưới Vô sắc có mười một căn, thông với lậu Vô lậu". Căn cứ theo Đại thừa đây không đồng với Hữu bộ nhập vào Kiến đạo rồi lại không hiện khởi.
Hỏi: Nếu ở nơi Tu đạo bốn thiện căn v.v... đều được khởi lại, vì sao không lìa đoạn?
Đáp: Cũng không như vậy, vì địa vị khác nhau. Nếu địa vị Tu đạo chẳng gọi là thiện căn, như chủng tử của Kiến đạo, sau cùng sinh ra tu, nếu không như vậy, Tu đạo từ chủng tử nào khởi? Tuy chủng tử của Kiến đạo sinh, không phải gọi là kiến. Sau địa vị Tu đạo, tuy chủng tử kia sinh, không gọi là thiện căn. Lại vốn chủng tử của Vô lậu ở nơi tư lương, gia hạnh cũng gọi là đạo kia, luận Tạp Tập nói là thuộc về Đạo đế, đều thừa nhận không lẫn lộn nên nó cũng như vậy.
Hỏi: Ở địa vị Căn bản thế tục tu các Thừa khác cũng được gọi là Căn bản chăng?
Đáp: Gọi là Căn bản là lỗi gì!
Hỏi: Chẳng phải Vô lậu nên lỗi chăng?
Đáp: Nói Vô lậu là căn cứ theo hiện hành mà nói, căn cứ theo Vị tri, Đương tri căn mà nói, chẳng phải căn cứ theo chủng tử. Yếu Tập ghi: "Thế tục chẳng phải Vô lậu, không được gọi là căn bản cũng lẽ ra Vô sắc không phải Kiến đạo, không được gọi căn bản, tuy không có Kiến đạo, nói là căn bản, tuy thuộc về Hữu lậu, tướng từ tên căn bản nên cũng không có lỗi".
Hỏi: Luận nói trở lại hướng đến Đại thừa là chứng được Pháp không, đã khởi Sinh không, thuận theo lợi ích Pháp không, có thể thuộc về căn này Hữu lậu không thuận theo, vì sao cũng thuộc về đây?
Đáp: Nhị thừa Sinh không có bất thuận, chỉ nêu trở lại hướng đến Đại thừa, sở tu Hữu lậu, đều thuận theo Kiến đạo, tu các thừa khác làm căn lỗi gì? Nên Yếu Tập ghi: "Tu các Thừa khác là chỉ chấp lấy Vô lậu, trí thế tục v.v... không giúp đỡ Kiến đạo", có thể thừa nhận mắc lỗi. Yếu Tập v.v... ghi: "Bồ-tát địa trước chưa khởi Vô lậu, Nhị thừa Sinh không, trí Vô lậu là chủng tánh kia". Chẳng phải là Bồ-tát vì lượng thành lập, Sinh không Vô lậu địa trước không khởi, nay cho rằng không đúng. Luận này nói, hoặc địa vị của hàng Nhị thừa trở lại hướng đến Đại thừa, là chứng được Pháp không, Địa trước cũng khởi chín Địa đã nhiếp Sinh không Vô lậu, luận kia đều Bồ-tát thuộc về căn này, nay không thừa nhận đâu phải không trái ư? Nhị thừa Thánh hồi tâm mong Đại thừa, đâu có thể không khởi trí Vô lậu ư? Hồi tâm rồi bỏ tức gọi là Bồ-tát, đã khởi Vô lậu vì sao chẳng phải căn này. Kinh Pháp Hoa ghi: "Sở hành của các ông là đạo của Bồ-tát". Căn cứ theo bất định đều là căn này.
Hỏi: Pháp của bậc học Vô học thông với lậu Vô lậu, vì sao hai thứ sau đều chỉ Vô lậu không thông với lậu?
Đáp: Căn cứ theo nghĩa tăng thượng, để lập ra nơi căn Hữu lậu ở trong các Đế quán hiện tại, chẳng phải tăng thượng thù thắng. Nếu chuẩn theo luận Tạp Tập quyển 5, hai thứ sau cũng thông với Hữu lậu, Vô lậu, Dĩ tri thông với Cụ tri xả ưu, nên đây nói Vô lậu.
Hỏi: Căn cứ theo tăng thượng thù thắng, nếu như vậy căn ban đầu sẽ không thông với lậu?
Đáp: Vì ở trong dị sinh, tăng thượng này thù thắng.
Hỏi: Luận Du-già quyển 57 hỏi rằng: Có bao nhiêu căn nhập vào Sơ thiền?
Đáp: Tám căn, một phần của ba căn sau có thể nhập vào, một phần không thể nhập vào. Trước nói tám căn tức là chung tướng nói nghĩa là tín v.v... năm căn hỷ, lạc, xả căn. Ba căn sau một phần có thể nhập vào, lợi căn chiêu lấy quả và nhập vào Đại thừa, một phần không thể thuần căn, tuệ thoát A-la-hán v.v...
Nói thứ ba cũng tám căn, nhưng chẳng phải ngay nơi hỷ, đây căn cứ y có thể nhập vào thuyết kia, nên thông với hỷ căn, chẳng phải ngay nơi kia là chẳng nhập vào địa kia, thiền định thứ tư và định của Vô sắc bảy căn có thể vào. Căn cứ theo lạc làm chỗ nương nhập vào định thứ tư, chẳng phải định của Vô sắc cũng lạc làm chỗ nương, hoặc căn cứ theo lân cận siêu việt, nêu một căn hiển bày cái khác. Ba căn sau có một căn có thể vào, có một căn không thể vào, thứ lớp tuệ thoát ba căn không thể vào, siêu việt lấy thứ ba. Độc giác, Bồ-tát đây đều có thể vào, hoặc thông với chủng tử, hiện hành, chẳng phải chỉ theo hiện hành.
Hỏi: Chẳng phải lạc, hỷ, xả ba thọ đều sinh, vì sao đều nói chín căn làm thể?
Đáp: Ba Vô lậu căn thông với chín căn kia, chẳng phải nói sát-na mỗi mỗi đều đầy đủ, như nương theo cận phần chỉ có hỷ căn, ba thiền định dưới tức là có lạc căn, nương theo định thứ tư tức là có xả căn, nên chỉ nói chung.
Hỏi: Căn cứ theo tông của Đại thừa, phi phi tưởng xứ cũng có Vô lậu, vì sao không nói bốn định của Vô sắc cũng có căn này? Nhưng quyển 57 ghi: "Địa của phi tưởng nhưng chỉ có tám căn". Căn cứ theo đây tức là có tín v.v... năm căn và ý, xả, mạng, không phải ba căn Vô lậu, vì sao như vậy ư?
Đáp: Căn cứ theo tông của Đại thừa, tuy có Vô lậu, tùy theo tướng khác mà nói, nên không có Vô lậu, hoặc Vô lậu kia vì mê muội yếu kém chẳng phải thể của ba căn. Nếu như vậy luận này lại nói: từ Kiến đạo, sau đã có tín v.v... chín căn của Vô lậu, tất cả đều là thể của hai căn sau, chuẩn theo đây được vặn hỏi, trước giải thích là thù thắng.
Luận: Như vậy bốn duyên nương theo mười lăm xứ lập mười nhân.
Hỏi: Nương theo xứ có mười lăm, vì sao nhân chỉ có mười mà không tăng giảm?
Đáp: Lược bài tụng giải thích rõ ràng. Tụng rằng:
Quả đối nhân thuận nghịch Hiển cho đến hình trì
Thân sơ và viễn cận Thuận biệt lập mười nhân. Giải thích có sáu đối. Một là vi thuận đối, chia làm hai nhân là Tương vi nhân và Bất Tương vi nhân. Vi là tương vi, nhân có thể trái với các pháp, không sinh v.v... Tương vi có sáu loại, luận Du-già quyển 38 ghi:
1. Ngôn thuyết tương vi, nghĩa là các luận trước sau trái nhau, tức là tự ngôn thuyết trái nhau, v.v... 2. Đạo lý tương vi, tức là bốn tương vi v.v...
3. Sinh khởi tương vi, có thể sinh duyên thiếu chướng kia sinh hợp.
4. Đồng xứ tương vi, nghĩa là sáng tối v.v... không thể đồng xứ.
Oán địch tương vi như rắn độc chuột sói v.v... hỗ tương làm oán địch.
6. Chướng trị tương vi nghĩa là bất tịnh quán trái với tham v.v... Nay chấp lấy sinh khởi tương vi lập ra Tương vi nhân. Thuận nghĩa là chín nhân khác đều thuận theo sinh quả, gọi là Bất tướng vi nhân.
Hai là đứng về thuận phần hiển và đối, "hiển" nghĩa là Tùy thuyết nhân, vì do lời nói có thể hiển bày các pháp, chẳng phải là nhân sinh; "và" nghĩa là Đồng sự nhân, nghĩa là từ quán đãi cho đến định khác, đều đồng có thể sinh giúp cùng quả. Đứng về Đồng sự nhân phân chia hai nhân Hình trì đối với Ly xuất. Hình nghĩa là hình đãi, lập ra quán đãi nhân, đợi nhân quả khởi; Trì nghĩa là giúp nghĩa lập ra nhiếp thọ nhân. Lại đối với Đồng sự, phân ra viễn cận đối ly xuất Khiên dẫn, Sinh khởi hai nhân. Trong hai nhân có Đẳng lưu, Dị thục. Hai nhân khác nhau gọi là thân sơ, do nhân cách quả có viễn cận. Ở trong viễn cận thuận phần biệt đối với ly làm hai nhân là Dẫn phát và Định dị, nên mười nhân này lại không tăng giảm.
Hỏi: Vì sao y xứ chia làm mười lăm xứ, nương theo xứ lập làm nhân tức là chỉ có mười?
Đáp: Như luận giải thích rõ ràng.
Hỏi: Nhân vì sao khai mười, quả chỉ lập năm?
Đáp: Nhân ẩn mà khó biết cho nên khai làm mười, quả tướng hiển bày mà dễ rõ cho nên lập làm năm. Lại là trong quả vi và Vô vi khác nhau Vô vi lập ra một, Hữu vi lập ra bốn, sinh ra tự tha khác nhau chia làm hai nghĩa là Đẳng lưu, Dị thục. Nhân pháp có khác nhau, lại chia ra Sĩ dụng, Tăng thượng, hoặc thân sơ có khác chia ra Sĩ dụng, Tăng thượng, do đây được kia lập làm Sĩ dụng, không chướng ngại tha tánh cũng thành lập Tăng thượng. Hỏi: Vì sao quả của Vô vi chỉ lập ra một?
Đáp: Vô vi lý đồng đương quả lập ra một, Hữu vi sự khác gần thành lập bốn loại. Lại giải thích nhân tuy có mười nhưng không ngoài sinh và liễu, quả của sở đắc không ngoài Vi và Vô vi. Trong Vi và Vô vi chia ra cộng bất cộng. Bất cộng nghĩa là trong Hữu vi, Dị thục, Đẳng lưu, trong Vô vi tức là một thứ lìa trói buộc; Cộng nghĩa là Sĩ dụng và cùng với Tăng thượng, bất sinh Sĩ dụng tức là Vô vi, dụng của Tăng thượng rộng rãi, nên được thông với hai, cho nên quả chỉ có năm.
Luận: Một là Ngữ y xứ v.v...
Tây Minh có hai giải thích: Thức nhất lấy Sớ giải thích luận kia tợ như nghĩa, thứ hai Sớ chánh giải thích văn kia. Căn cứ thật Sớ giải thích, luận này chính giải thích văn của luận Du-già v.v... lấy sở khởi ngữ làm ngữ y xứ, tức là y xứ này làm Tùy thuyết nhân, nên luận Du-già quyển 5 nói rõ nhân y xứ rằng: "Nghĩa là nương theo y xứ lập ra Tùy thuyết nhân", cho đến nói "tưởng là trước nên ngữ chuyển do ngữ nên tùy theo kiến, văn giác, tri khởi các ngôn thuyết". Đã nói do ngữ nên khởi các ngôn thuyết, không nói do danh, tưởng, kiến khởi các ngôn thuyết, là biết rõ không lấy ba thứ danh, tướng, kiến làm ngữ y xứ và Tùy thuyết nhân. Luận Hiển Dương quyển 18 cũng đồng với luận Du-già quyển 5. Tuy luận Du-già, luận Hiển Dương giải thích ngữ nhân nói: tên gọi là trước nên tưởng, tưởng là trước nên thuyết, nghĩa là các pháp kia Tùy thuyết nhân, tợ như chấp lấy ba thứ tên gọi, tưởng, ngữ, làm Tùy thuyết nhân. Chuẩn theo giải thích nhân y xứ, tức là chỉ nói rằng do ngữ nên khởi các ngôn thuyết, không nói do tên gọi, tưởng, ngữ khởi các ngôn thuyết, cũng không nói rằng do ngữ v.v... nên khởi các ngôn thuyết. Các nhà giải thích đâu cần phiền phức chia làm hai giải thích, vì vậy luận Tạp Tập chuẩn theo luận này nên có khác.
Nói tùy theo kiến, văn giác, tri nghĩa là sư Tạp Tập sớ nói: Lược làm hai môn phân biệt: một là nêu thể, hai là phế lập.
1. Nêu thể, Tạp Tập quyển 2, luận Du-già Dugià quyển 56 đều làm ra thuyết này. Căn cứ theo Thắng nghĩa đế, kiến v.v... chẳng phải căn, cũng chẳng phải thức v.v... vì các duyên sinh, sát-na diệt, không phải tác dụng, do có hòa hợp, giả gọi là kiến v.v.... Nương theo Thế tục đế, kiến v.v... là căn, chẳng phải thức kia v.v... đầy đủ năm nghĩa. Luận kia nói sáu nghĩa, nay nói năm là chỉ nhận lấy căn nghĩa, không nhận lấy giáo lượng, nói năm nghĩa là:
1. Do sinh nhân vì nhãn sinh thức.
2. Do y xứ vì thức nương theo nhãn.
3. Do vô động vì tương tục một loại.
4. Do tự tại vì không đợi duyên bên ngoài, niệm niệm sinh khởi.
5. Đoan nghiêm chuyển vì trang nghiêm Y thân.
6. Do thuyết vì Thánh giáo nói nhãn có thể thấy sắc.
Luận Du-già quyển 2 ghi: "Kiến nghĩa là nhãn căn hiện thấy sắc bên ngoài, văn nghĩa là tùng tha, giác nghĩa là không thấy và không từng nghe, chỉ tự tư duy gọi là lượng quán sát, tri nghĩa là đối với bên trong đã thọ đã chứng". Quyển 93 ghi: "Hai loại kiến tri thuộc về hiện lượng, giác thuộc về tỷ lượng, văn là thánh ngôn lượng". Chuẩn theo đây tức là nói nhãn căn gọi là kiến, ý nhờ tai sinh duyên theo giáo gọi là văn, đồng duyên theo tất cả danh, cú, văn ba gãy khúc sinh, nên ngài Trần Na nói: Thánh ngôn lượng kia thuộc về tỷ lượng, nên văn là ý, nhờ tai nghe tiếng nên nhĩ gọi là văn, tai thật không thể duyên theo tên gọi v.v... chẳng phải là tỷ lượng, duyên theo chẳng phải là Thánh ngôn cũng thuộc về văn này. Luận phần nhiều nương theo văn Thánh ngôn kia. Giác tức là không nương theo kiến v.v... chỉ sinh ý thức và Thức thứ bảy, luận Du-già chỉ nói là tỷ lượng, nương theo ý thức mà nói Mạt-na cũng có thể khởi tạo, cũng chưa từng ngửi, chưa từng nếm, xúc chạm, chưa từng tri chứng, nhưng ý tư duy trù lượng quán sát, cũng thuộc về giác. Trong luận chỉ nêu chưa từng thấy nghe, vì nêu thắng thuyết, tùy theo năm thức sau đã khởi ý thức tỷ lượng, cũng thuộc về giác này, chỉ nêu Độc đầu rõ ràng dụng thù thắng, nếu không như vậy liền thiếu ý thức này. Tri tức là nhĩ, tỷ, thiệt, thân, năm câu ý thức, phẩm tâm thứ tám và các định tâm, luận Du-già chỉ nói từ bên trong đã thọ đã chứng v.v.... Lại nói tri nay thuộc về hiện lượng, tức là hiển bày kiến tri chỉ thuộc về hiện lượng. Hai thứ văn giác thông với tỷ, phi lượng; và hiển bày kiến tri thông với lậu Vô lậu, văn, giác chỉ có Hữu lậu. Các tâm Vô lậu, duyên theo giáo sinh thuộc về tri sở, chẳng phải là tỷ lượng. Hoặc nói bốn thứ này nhiếp thức không hết, duyên theo phi giáo thanh có phi lượng, tỷ lượng, văn không nhiếp. Mạt-na cấu tạo thuộc về phi lượng, giác không nhiếp hoặc bốn thứ chỉ căn cứ theo sáu thức làm ra luận; bảy thức không thể phân biệt rõ ràng cảnh, khởi ngôn thuyết.
Lại luận Hiển Dương quyển 18 ghi: "Ở trong cõi Dục đầy đủ bốn ngôn thuyết, cõi Sắc không có giác không có suy lường, vô sắc hoàn toàn không", nên biết bốn loại này nhiếp không hết, nghĩa này không như vậy. Thánh phi Thánh ngôn đồng nương theo bốn thứ; nương theo Thức thứ bảy khởi ngôn thuộc về vô xứ; Sắc giới ý thức nhiễm tâm v.v... sau đã khởi ngôn thuyết thuộc về vô xứ, nhưng tâm địa kia phần nhiều không phải cấu tạo mà khởi ngôn thuyết, chẳng phải nó hoàn toàn không phải giác ngôn thuyết, nói cõi Vô sắc không có bốn ngôn thuyết, đâu phải trong cõi kia biết cũng chẳng có, tà kiến của ngoại đạo giác cũng không ư? Do cõi Sắc đây đầy đủ bốn thứ, Vô sắc có giác tri mà không phải ngôn thuyết nên tri như trước đã nói là thiện.
2. Phế lập, là dùng lý để luận. Vả lại nên lập làm hai: một là tri, hai là giác. Tất cả hiện lượng đều thuộc về tri, tất cả tỷ lượng, phi lượng thuộc về giác. Hoặc nên lập làm ba vì hiện lượng, tỷ lượng, phi lượng khác nhau. Nay lập làm bốn vì dụng của nhãn xa, biết rõ trong tri lìa ra khỏi độc lập là dụng của kiến. Ý thức rộng, văn, giác tri nhiếp. Phần vị khai làm ba, bên ngoài duyên theo sư giáo và tự suy tầm, bên trong do chứng được cảnh, Mạt-na chỉ có hai loại nhiễm và tịnh, cấu tạo chứng được cảnh của hai loại, năm thức còn lại dụng chẳng phải thù thắng, bên trong tư duy nghĩa v.v... chung lập tên tri, lại ban đầu tướng gặp nhãn trước năng kiến, nghe ngôn thuyết kia, tâm cấu tạo xa nó. Sau đó các căn lãnh nạp cảnh giới khác, thứ lớp như vậy dụng có mạnh yếu, hoặc hợp hoặc khai, nên chẳng phải tăng giảm. Các nghĩa môn khác như Biệt chương nói.
Luận: Tập khí y xứ v.v...
Tây Minh tự hỏi: Chuẩn theo Bồ-tát Địa nương theo Khiên dẫn nhân dẫn dắt hai quả Niết-bàn, vì sao luận này dưới đắc quả không được lìa trói buộc? Luận này chủng tử của đối trị quả Hữu vi trong năm quả trừ Khiên dẫn, Sinh khởi, không thể thân chứng được quả ly phược, đây giải thích không như vậy. Nay cho rằng nếu căn cứ theo năng dẫn tức là chấp lấy chủng tử, là Bồ-tát địa. Nếu căn cứ theo năng chứng tức là trừ chủng tử, văn của luận này là chẳng phải trong luận này chỉ mong Hữu vi, nhưng chủng tử, hiện hành khác nhau, dẫn chứng có khác nhau, đều căn cứ theo một nghĩa, nên không phải trái nhau.
Lại hỏi rằng: Luận Du-già quyển 5 nói chủng tử của nghiệp làm Khiên dẫn nhân, chủng tử của danh ngôn làm Sinh khởi nhân, vì sao trong đây theo nhuận và chưa nhuận khai làm hai nhân?
Giải thích rằng: Loại hai nhân này thông với các chủng tử, như luận này nói, nhưng Tầm tứ địa đứng về tương hiển mà nói, vì nghiệp đối thưa xa nên gọi là Khiên dẫn. Danh ngôn sinh ra quả gần gũi gọi là Sinh khởi. Khiên dẫn, Sinh khởi này nhiều nghĩa không đồng, hoặc có chỗ nói cận viễn tương đối hai nhân môn, như luận Tạp Tập quyển 4, vô minh mong lão tử làm dẫn dắt, vô minh mong hành làm sinh. Hoặc có chỗ nói danh ngôn, nghiệp chủng làm hai nhân môn như Tầm tứ địa. Luận kia ghi: "Nương theo tập khí y xứ do tịnh bất tịnh nghiệp v.v... lôi kéo dẫn tự thể", cho đến rộng nói có nhuận chủng tử y xứ, ba cõi trói buộc pháp đều từ chủng tử sinh, gọi là Sinh khởi nhân, luận Hiển Dương đồng với đây. Nay cho rằng văn này cũng bao gồm vị nhuận dĩ nhuận, tên gọi làm dẫn, sinh; đối với sinh nói nhuận hiển bày dẫn vị nhuận, không chỉ nghiệp chủng và danh ngôn đối, nên hai luận nói ái làm năng nhuận. Chủng làm sở nhuận, nên dẫn kinh rằng: "Nghiệp làm Cảm sinh nhân, ái làm Sinh khởi nhân". Hoặc có chỗ nói chủng tử có thể sinh ra dị loại, tự loại hai nhân môn, như luận Bồ-tát địa, trong Tạp nhiễm nói ở trong hiện pháp, pháp vô minh v.v... có chủng tử dĩ sinh dĩ trưởng, nay chủng tử này mong sinh sinh lão tử khác làm Khiên dẫn nhân, pháp vô minh v.v... đều riêng chủng tử gọi là Sinh khởi nhân. Nay cho rằng trong đây cũng căn cứ theo xa gần, đã sinh đã lớn nên gần, mong sinh lão tử v.v... khác tức là mong xa, nên trong nhân Vô ký nói: Do đến riêng tự chủng tử, các thứ cày cấy sai biệt mà sinh làm Khiên dẫn nhân, tức là hạt giống kia mong chỗ sinh ra mầm lúa gọi là Sinh khởi nhân. Lại nói, tất cả chủng tử mong tự quả sau gọi là Khiên dẫn nhân, đứng về tự quả ban đầu gọi là Sinh khởi nhân, chẳng phải ắt sẽ loại khác. Hoặc có chỗ nói chủng tử đối Niếtbàn, pháp Bồ-đề phần hai nhân môn như luận Bồtát Địa trong nhân thanh tịnh nói. Nay cho rằng trong đây cũng bao gồm địa vị đã thuần thục gọi là dẫn sinh, nói nhiếp thọ nhân gần gũi cận thiện sĩ, nghe theo văn chánh pháp, các căn thuần thục, gọi là Nhiếp thọ nhân, kế nói sinh khởi, nên do thuần thục.
Luận: Nhiếp thọ năm v.v...
Hỏi: Vì sao các luận giải thích mười nhân này thứ lớp có khác nhau, luận này khiên sinh sau nói nhiếp thọ, văn của luận Bồ-tát địa nhiếp thọ nhân, sau mới giải thích năng sinh?
Đáp: Văn của luận Bồ-tát Địa căn cứ theo sinh, hiện thứ lớp, do có tập khí các duyên nhiếp thọ mới bản chất năng sinh, văn khác tức là căn cứ theo thể loại thứ lớp, dẫn, sinh đồng chủng tử, vị nhuận, nhuận khác nhau, nên không trái nhau.
Sớ giải thích rằng: Giúp đỡ thành nhân duyên, gọi là nhiếp thọ, nên trừ nhân duyên thân năng sinh. Cho nên, luận Tạp Tập ghi: "Tuy có chủng tử sinh, có thể tăng thêm sức kia gọi là nhiếp thọ nhân".
Tây Minh giải thích rằng: Có thể tăng thêm sức kia là giải thích nhân nghĩa kia, chẳng giải thích tên nó, nay cho rằng không đúng. Nếu giải thích nhân nghĩa, nhận lấy giải thích tên này có lỗi gì? Như luận kia giải thích, Tùy thuyết nhân là tùy khởi thuyết, Quán đãi nhân là vì muốn sinh nhân, Khiên dẫn nhân là chiêu lấy đương hữu. Sinh khởi nhân là sinh ra đương hữu, Nhiếp thọ nhân là có thể tăng thêm sức kia. Nếu không lấy nghĩa của giải thích nhân này, giải thích tên nhân, lại nghĩa giải thích như thế nào? Lại nữa tự nói Nhiếp thọ nhân, các luận giải thích tên không đồng, luận Dugià v.v... luận về nhân có thể nhiếp lấy quả gọi là Nhiếp thọ nhân. Luận Tạp Tập giải thích tên nhân khác, đều đồng với các luận, vì sao chỉ nhiếp thọ chỉ giải thích nghĩa của nhân? Lại luận Du-già quyển 38 ghi: "Nhờ tất cả tâm và tâm sở kia, trước sinh khai đạo đã nhiếp thọ, cảnh giới của sở duyên đã nhiếp thọ, mới sinh mới chuyển, nhiếp thọ tức là tha tăng thêm sức", nếu không như vậy vì sao mới sinh mới chuyển?
Luận: Dẫn phát nhân.
Sớ giải thích rằng: Nhất định là đồng tánh, mong phẩm hậu thắng, tánh luận thì hẹp, giới luận thì rộng.
Tây Minh nói: Chỉ hiển bày tùy theo đồng loại, chưa nhất định đồng tánh. Yếu Tập giải thích: Có giải thích cho rằng chủng tử của ba tánh, tùy theo sở y thức thành tựu Vô ký tánh, tuy tánh không đồng nhưng tướng thuận nên có thể sinh ra thiện v.v...
Hỏi: Đây nói tùy theo sở y thức, thành tựu Vô ký tánh, tuy tánh không đồng, nhưng tướng thuận nên có thể sinh ra thiện v.v... là chủng tử của thiện nương theo thức gọi là Vô ký, sinh ra hiện thiện pháp, gọi là tướng thuận, vì sinh ra tánh khác gọi là tương thuận, nếu sinh ra tánh khác, trái với các luận nói, nếu trở lại sinh ra thiện, đây tức là tánh đồng, vì sao được nói chưa nhất định tánh đồng? Nên quyển 2 trước ghi: "Nhân quả đều có tánh thiện v.v... nên cũng gọi là thiện v.v...". Yếu Tập lại ghi: "Như ba tánh, thứ sáu duyên theo kiến thứ tám được hiện ảnh tượng, tùy theo tự Kiến phần tức là thông với ba tánh, mà có thể huân tập thành chủng tử Vô ký", đây cũng tánh khác tương thuận có thể sinh, ai nói tướng này nhất định tùy theo kiến tánh? Nếu nhất định tùy theo kiến tánh sinh ra quả Vô ký, chẳng phải tánh quyết định đều dẫn dắt tự quả, nếu nói sáu nghĩa kia nói chủng tử, đâu phải tướng huân tập chủng tử kiến kia, chẳng phải gần gũi nhân duyên ư?
Luận: Bồ-tát Địa nói v.v...
Sớ giải thích rằng: Khiên dẫn chủng tử, Sinh khởi chủng tử, hợp trong sáu nhân, các chủng tử của nhân duyên, vị nhuận trở về trước cũng chưa thuần thục gọi là khiên Dẫn chủng, tức là Khiên dẫn nhân hoàn toàn thiểu phần của bốn nhân, trừ Sinh khởi nhân. Nếu được nhuận trở xuống đều gọi là đã thuần thục tức là Sinh khởi nhân hoàn toàn thiểu phần của bốn nhân trừ Khiên dẫn nhân là đây Sinh khởi nhân này.
Tây Minh nói: Ở trong các nhân duyên chưa nhuận chưa thành gọi là Khiên dẫn chủng, đã nhuận đã thành thục gọi là Sinh khởi chủng.
Yếu Tập ghi: "Có thuyết nói thuận trước trái sau, có thuyết giải thích thuận sau trái trước". Nhưng nói có giải thích đối với lý là thù thắng, nay cho rằng không đúng. Căn cứ theo Tây Minh giải thích, sáu nhân đều thông với Khiên dẫn, Sinh khởi, tức là Khiên dẫn, Sinh khởi, hai thứ vì sao khác nhau? Nếu nói mong quả vị chia làm hai nhân duyên chủng, chính sinh ra hiện quả, đã nhuận thục gọi là sinh khởi chủng, tức là chủng tử của nhân này mong tự quả sau, chưa nhuận thục gọi là Khiên dẫn chủng, do đây đều thông, đây nói cũng trái. Chuẩn theo đây tức là lẽ ra Sinh khởi ở đầu, Khiên dẫn ở sau. Lại không thể có nhuận mong quả xa gần, cũng chia thành ha. Văn trước tự nói chưa thuần thục vị nghĩa là có thể lôi kéo dẫn xa tự quả, đã thuần thục vị nghĩa là sinh ra khởi gần tự quả, nên biết khiên dẫn tức là Khiên dẫn chủng, Sinh khởi tức là Sinh khởi chủng, trái với văn kia v.v... không thể chia lại. Văn kia đoạn sau nói: Trong sáu nhân kia, các nhân duyên chủng, đều nhiếp ở trong hai vị này, nên ý nói, chủng tử đã nhuận lại nói khi chưa nhuận, gọi là Khiên dẫn chủng, chủng tử chưa nhuận hiển rõ luận, nếu nhuận đã qua gọi là sinh khởi chủng. Nói sáu nhân kia đều nhiếp ở trong hai vị này, căn cứ theo luận thể nó, chỉ là chưa nhuận hoàn toàn gọi là Khiên dẫn chủng, đã nhuận hoàn toàn gọi là Sinh khởi chủng, nên không trái với sau. Nhưng luận dưới giải thích Tầm tứ địa văn nói Sinh khởi nhân và giải thích Bồ-tát địa văn có khác, văn kia không căn cứ theo phần của nhuận chưa nhuận, chỉ căn cứ theo gần gũi có thể sinh ra tự quả, tức là sinh khởi, không làm một ví dụ.
Luận: Nếu Tăng thượng quả mười nhân bốn duyên tất cả dung chứa được.
Hỏi: Tương vi nhân, vì sao làm Tăng thượng quả? Yếu Tập ghi: "Có thuyết nói như sương v.v... và lá màu xanh v.v... làm Tương vi nhân, lá màu vàng v.v... làm Tương vi quả.
Tây Minh giải thích: Tức là do sương, khiến cho màu xanh không sinh, tức là Tương vi quả. Yếu Tập ghi: "Nay có giải thích thù thắng, nếu do sương v.v... là màu vàng sinh là bất tương vi chẳng phải Tương vi nhân". Lại nói: "Do sương v.v... làm tổn hại màu xanh khiến cho màu xanh v.v... mất duyên không sinh được phi Trạch diệt, sương làm Tương vi nhân, phi Trạch diệt làm Tương vi quả", nay cho rằng hai giải thích không thích hợp điều vặn hỏi.
Hỏi: Nếu màu xanh v.v... không sinh tức là Tương vi quả, không sinh ra pháp nào, nếu màu xanh v.v... kia không sinh tức là pháp vô thể, vì sao vô pháp cùng với quả Hữu vi? Lại Bất tương ưng nhân nói: Tương vi nhân này thiếu, nếu lìa là Bất tương ưng nhân, không thể vô pháp cùng với nhân của Hữu vi. Nếu nói rằng màu xanh v.v... mất, duyên không sinh được phi Trạch diệt, sương làm Vi nhân, phi Trạch diệt làm quả, cũng không như vậy. Nếu mong phi diệt trở lại là thuận nhân, không thể cùng với màu xanh v.v... làm Tương vi nhân, chỉ chấp lấy Phi trạch làm quả. Lại luận giải thích, nhân thuận lợi ích nghĩa, duyên chỉ kiến lập nên biết không cùng bất sinh trụ v.v... làm nhân. Nếu nói mong bất sinh trụ v.v... là thuận ích, lại không được nói Tương vi nhân lại vô thể, ai làm ra quả? Hỏi: Nếu trái nhau như vậy, nhân quả của ai?
Đáp: Nay cho rằng vốn giải thích chấp lấy màu vàng v.v... làm quả tức là nhân của màu vàng. Nếu như vậy tương thuận, thế nào gọi là tương vi?
Đáp: Đây nói không lỗi, như bốn Tương vi nhân cùng với Tương vi pháp làm nhân. Luận Bồtát Địa ghi: "Nếu phẩm tạp nhiễm các Tương vi nhân, nên biết tức là thanh tịnh pháp nhân, nếu phẩm thanh tịnh các Tương vi nhân, nên biết tức là tạp nhiễm pháp nhân", cho nên luận này chung nói mười nhân đắc được tăng thượng quả, trông mong nghĩa khác nhau.
Yếu Tập hỏi: Mười nhân bốn duyên chỉ căn cứ theo hữu pháp Hữu vi mà nói, cũng thông với vô pháp và Vô vi ư?
Đáp: nói: Có thuyết nói chỉ nương theo Hữu vi để luận vô pháp vô thể, Vô vi vô tác dụng, nên chẳng phải nhân quả.
Yếu Tập tự nói, nay cho rằng quán đãi lẽ ra có vô pháp Vô vi làm nhân, cảnh giới y xứ cũng thông với Vô vi, vì sao được nói chẳng phải lập nhân quả? Nay cho rằng Yếu Tập phần lớn có tâm phụ thêm, Sớ chánh giải thích văn này mười nhân bốn duyên đắc được tăng thượng quả.
Hỏi: Vì sao trong Bất tương vi nhiếp Vô vi? Vì sao đắc được tăng thượng?
Đáp: Mười nhân đều được không phải không được, không đồng với Tiểu thừa, Vô vi chẳng phải sáu nhân, nhân quả của năm quả, không nói có thủ càng làm nhân, nhưng cùng với sở không chướng ngại làm nhân, sở không ngại tức là quả của Vô vi này, không phải cùng thủ, nghĩa không đồng với Tiểu thừa. Lại xét bản chương, trong quả môn nói: Hỏi: Tức là đã do sở chứng của giả, vì sao Chân như không được gọi là Sĩ dụng quả?
Đáp: Nếu năm uẩn giả làm sĩ phu, Chân như chẳng phải Sĩ dụng quả, nếu căn cứ theo chỗ cần cù được biệt biệt pháp đã hiển bày, ngại gì Sĩ dụng quả? Vì chánh trí chứng đắc, không nói Vô vi chẳng phải là nhân quả lại chung lược hỏi.
Hỏi: Nương theo luận Tạp Tập tên gọi, tưởng, kiến ba thứ là ngữ nhân, tức là lấy tên gọi làm Tùy thuyết nhân chăng?
Đáp: Căn cứ theo giải thích trước ngữ làm Tùy thuyết nhân, chẳng phải danh, tưởng, kiến.
Hỏi: Tức là ngữ nhân, vì sao không gọi là Tùy thuyết nhân?
Đáp: Đây không nói làm Tùy thuyết nhân, ý cho rằng tất cả pháp là sở thuyết, ngữ tùy thuyết kia gọi là Tùy thuyết nhân, đây chính là nhân của tùy sở thuyết, tức năng thuyết làm thể, không muốn nói rõ ngữ nhân kia làm Tùy thuyết nhân. Nếu nói đây là nhân, tức là nói tùy sở thuyết nhân của năng thuyết, mong sở thuyết pháp vì gần xa.
Hỏi: Luận cho rằng trừ bốn thứ trước, còn lại đắc quả là tăng thượng quả vì căn cứ theo pháp Sĩ dụng giả Sĩ dụng, nếu pháp Sĩ dụng nhiếp pháp hết, lại có pháp nào đắc được tăng thượng quả?
Đáp: Đều không có lỗi, nhưng trong pháp Sĩ dụng không nhiếp Vô vi, Vô vi không chướng ngại, pháp khác được sinh, đều tăng thượng quả.
Hỏi: Tương vi nhân tức là nhiễm thiện, vì sao không nói đắc được quả Dị thục? Vô gián diệt y và căn y xứ đều thông với ba tánh, vì sao nhiếp thọ không đắc được quả Dị thục?
Đáp: Vô gián diệt y và căn y xứ hợp với Tương vi nhân đều là hiện hành quả Dị thục là căn cứ theo trông mong chủng tử đắc.
Hỏi: Nếu như vậy, vì sao gọi là hữu Dị thục?
Đáp: Căn cứ theo thật năng hữu gọi là hữu Dị thục, bỏ quả ít xa không nói đắc được.
Luận: Các luận khác đã rõ v.v...
Có hai giải thích, ý nói rằng bốn duyên nương theo mười lăm xứ dưới là các luận khác, trước giải thích bốn duyên đều là chánh luận, vì sao? Vì kết chỉ một bên nên nói rõ chánh luận xong, dưới tức là nói rằng bản thức, trong chủng tử dung chứa làm ba duyên, sinh hiện phân biệt v.v...
Tây Minh có hai giải thích, tức là chấp lấy bốn duyên trở xuống, dài là các luận khác, ý của bài tụng là hiển bày duyên sinh phân biệt, ý chẳng muốn nói rõ duyên sai biệt.
Yếu Tập ghi: Nếu giúp bài tụng ý làm chánh luận, không giúp bài tụng ý làm các luận khác, tức là có thích hợp với sau giải thích là thắng, nay cho rằng không đúng. Vốn giải thích vặn hỏi bên ngoài, nếu không phải cảnh bên ngoài, phân biệt không sinh vặn hỏi.
Bài tụng của Luận chủ đáp: "Do sức chủng tử thức triển chuyển nên nó phân biệt sinh", tức là hiển bày do duyên phân biệt mới khởi, nên nói rõ bốn duyên, duyên sinh ra phân biệt, đều là chánh luận, như dưới sinh tử quả nhân đều là chánh luận.
Nếu nói bốn nhân chẳng phải làm chánh luận, vì sao luận kết chỉ các luận khác mà thôi? Do căn cứ theo bốn nhân nói rõ sinh ra phân biệt, vì sao sau kết nương theo thức bên trong này hoàn toàn làm duyên khởi, phân biệt nhân quả, lý giáo đều thành tựu xả chánh chấp tà? Vì sao chắc chắn chấp?
Luận: Bảy thứ trước đối với tám sở duyên dung chứa hữu.
Tây Minh nói: Sở duyên thứ sáu biến khắp hư không tâm, tâm sở v.v... để làm Tướng phần, cũng là huân tập sinh ra chủng tử của tướng hư không v.v... kia, chẳng phải là có khổ huân tập sinh ra hiện hành kiến, tướng chủng tử Thức thứ tám vì Thức thứ tám không duyên theo chủng tử của hư không v.v... nay cho rằng không đúng. Nếu duyên theo hư không v.v... chỉ huân tập thành chủng tử, hư không, cực vi v.v... đều sẽ chẳng phải giả, từ chủng tử sinh, nhiều lỗi như quyển 1 nói trước. Lại thừa nhận thành chủng tử, tuy chủng tử của kiến riêng, chẳng phải nhất định Vô lậu. Thức thứ tám vì sao không duyên? Nếu nói giả nên Thức thứ tám không duyên, tức là lẽ ra như vô không thể thành chủng tử, tức là thừa nhận thành chủng tử, tức là thể thật hữu Thức thứ tám nhất định năng duyên, Thức thứ tám tức là không duyên, rõ ràng hư không cực vi không phải chỉ thành chủng tử, tuy vốn giải thích rằng: Thức thứ sáu huân tập thành chủng tử của hư không v.v... không sinh ra Tướng phần của Thức thứ tám hiện hành, vì Thức thứ tám không duyên theo hư không v.v... nên không nói lìa kiến chỉ huân tập thành chủng tử, không nói chủng tử này chẳng phải sở duyên của Thức thứ tám, nên nói không lỗi.
Luận: Chỉ trừ Kiến phần phi tướng sở duyên v.v...
Vốn giải thích như Sớ. Tây Minh có bốn giải thích, ở trong bốn giải thích, ban đầu giải thích chia làm hai; thứ hai trong giải thích chia làm ba, thứ ba trong giải thích chia làm bốn, thứ tư trong giải thích chia làm sáu, thành ra mười lăm giải thích, tổng bốn giải thích cùng với Sớ giải thích đồng, riêng chia thành sáu, tức là không đồng với Sớ.
Yếu Tập ghi: "Trong bốn giải thích, thứ tư là chính, vì tâm Vô lậu v.v... dụng biến khắp. Đối với biến bất biến, trong mười lăm giải thích, giải thích thứ mười ba là hơn hết, chánh trí chứng được Chân như và tâm khác v.v... chứng được tự chứng, đều không biến khắp tướng, đây còn lại tất cả kiến v.v... duyên theo tướng nhất định biến khắp mà duyên". Nay cho rằng trong mười lăm giải thích của Tây Minh, đều không phải Nhất chánh, vì sao? Vả lại đứng về Lục thích chia làm bốn:
1. Kiến duyên theo tướng biến, còn lại đều bất biến là không như vậy, tức là đứng về bốn phần của thể, vì nói rõ tướng duyên, kiến duyên theo tự tướng tức là thân duyên, vì sao gọi là biến? Nếu đới khởi gọi là biến, là tự chứng phần, nên quyển 1 trước ghi: "Biến nghĩa thức thể chuyển, tợ như hai phần, cũng không lựa ra kiến, lại biến khắp tướng duyên không phải văn nói, hai duyên tưởng còn lại vì sao là bất biến?".
2. Kiến duyên theo ba biến, còn lại đều bất biến, đây cũng không như vậy kiến duyên theo tướng biến có lỗi đồng với trước, hai thứ khác duyên theo ba đều không biến khắp, hai thứ duyên theo thường vì sao bất biến? Thứ tư duyên biến không biến khắp tướng, tự chứng phần gì?
Yếu Tập ghi: "Gồm chính có riêng, tức là bao gồm chính khác nhau, vì sao không phải biến khắp tướng, không biến khắp tướng đều vì sao gồm chính?".
3. Kiến duyên theo bốn biến, còn lại đều không biến khắp, lỗi chuẩn theo trước mà biết.
4. Ba duyên kiến duyên theo tương biến, duyên còn lại bất biến.
Yếu Tập ghi: "Trong đây giải thích là chính", nay cho rằng đồng với trước đều cũng không chính, vì sao kiến duyên theo hai thứ sau? Biến khắp tướng có thể cũng không chính, vì sao kiến duyên theo hai thứ sau? Biến khắp tương có thể như vậy, vì sao duyên theo tướng lại nói biến khắp tướng? Đâu không phải thân duyên theo đồng với thể Tướng phần? Lại phần thứ tư duyên theo tướng là bao gồm biến khắp tướng duyên, duyên với Kiến phần, cũng gồm chẳng phải chính, vì sao không biến khắp tướng? Nói quả duyên theo lời khác cũng chuẩn theo mà biết. Yếu Tập ghi: "Có thuyết nói Kiến duyên theo tự chứng biến khắp ảnh mà duyên, chứng tự chứng phần, duyên theo Tướng phần, Kiến phần, kiến duyên theo ba, bốn, vì gián cách", biến khắp ảnh mà duyên đều không ứng với lý, đồng thể phần của nghĩa, vì sao nói gián cách? Vì kiến mong tự chứng. Vì sao gọi là cách? Vì kiến duyên theo tức chứng tức là tự bên trong chứng. Vì sao biến khắp duyên? Nếu biến khắp tướng duyên, vì sao gọi là duyên theo tự chứng? Do đây bên trong chứng không biến khắp mà duyên, ba thứ duyên theo Tướng phần, biến khắp ảnh mà duyên, không do gián cách, và do thật tánh. Nay nương tựa văn của Sớ chỉ nói thân đắc tức là biến khắp ảnh duyên, không phải nói gián cách, vì hai phần sau trông mong tướng gọi là ngăn cách biến mong thứ tư, nghĩa vượt lên gọi là ngăn cách lý cũng không trái. Nếu nói rằng tức là biến khắp tướng duyên vì sao gọi là duyên tự chứng? Vặn hỏi này cũng trái, như lấy gương làm duyên trở lại kiến tự chất, lấy tâm làm duyên trở lại thấy tự tâm đồng nói đâu không phải biến khắp tướng ư? Kiến duyên theo tự chứng, nên gọi là duyên theo tự chứng, đối với lý trái gì?
Luận: Các nghiệp nghĩa là phước, phi phước, bất động v.v... Chuẩn theo luận Tạp Tập quyển 7 ghi: "Bất động nghiệp nghĩa là
Sắc, Vô sắc trói buộc thiện".
Hỏi: Vì sao Sắc, Vô sắc trói buộc nghiệp gọi là bất động?
Đáp: Như trong cõi Dục, đường khác viên mãn nghiệp thiện bất thiện, gặp duyên chuyển được đường khác Dị thục, chẳng phải Sắc vô sắc trói buộc nghiệp có việc như vậy, vì đã thọ Dị thục địa quyết định.
Cho nên đứng về Dị thục không thể di chuyển, gọi là bất động.
Sớ ghi: Như giúp nghiệp dưới sinh về Ngũ tịnh cư, chẳng không phải di chuyển, nên giải thích này trái. Luận quyển 2 giải thích: "Lại định địa nhiếp nên nói là bất động". Sớ ghi: "Vì định có thể ở nơi một cảnh", giải thích này là thắng.
Tây Minh giải thích: Luận Tạp Tập ban đầu giải thích thành tựu nhờ vào nghiệp tánh mà nói, nếu căn cứ theo thắng duyên không có cái gì không di chuyển, sau nói Địa trên phân tán thiện từ định giả gọi là bất động. Nay cho rằng không đúng, đâu phải nghiệp của cõi Dục không gặp duyên khác, tuy nhờ vào tánh nghiệp cũng đường khác xứ thọ, nếu như vậy chung bất định, vì sao được có định thọ? Lại nữa, năm đường lẽ ra không phải định dị nhân nếu như vậy vì sao luận Du-già, Tạp Tập v.v... đều nói định dị? Tức là đều chỉ cảm được năm đường nhân quả, nếu thừa nhận gặp duyên mới riêng đường thọ, không duyên không khác nhau, cùng với trên khác gì không gọi là bất động. Có giải thích rằng: "Huân tập thiền đồng với địa, nhưng chẳng phải dị quả địa, nên gọi là bất động". Yếu Tập ghi: Có giải thích là thắng, nay cho rằng không đúng, đâu phải dục trói buộc nghiệp ở nơi dị giới địa thọ ư, cũng đồng với địa thú bất định nên đồng với bất động. Nếu thừa nhận dị giới thọ, tức là dị địa lậu tùy theo tăng, cùng riêng giới riêng thọ, trái với các Thánh giáo, nên làm không thể được.
Lại nói: Tạp Tập sau giải thích chỉ nói Định địa nhiếp nên gọi là bất động nghiệp. Dù định dù tán đều Định địa nhiếp, không thể vặn hỏi lời phân tán thiện chẳng phải thiện nên chẳng phải bất động, nay cho rằng không đúng. Nếu thừa nhận tán thiện chẳng phải riêng xứ thọ, tự tánh bất động, vì sao cần phải định nhiếp? Nếu thừa nhận riêng xứ thọ, vì sao được gọi là bất động? Nếu nói vì định bất động, từ định gọi là bất động, cũng lẽ ra định đều gọi là tu tuệ, văn tuệ từ định cũng gọi là tu định, đây đã không như vậy, kia nói rằng vì sao như vậy? Lại thừa nhận tán thiện định địa nhiếp, gọi là bất động, tức là nghiệp của Hữu phú Vô ký, lẽ ra gọi là bất động, vì đồng Địa nhiếp.
Hỏi: Thừa nhận nghiệp Dị thục di chuyển dị thọ, vì sao mười nhân lập ra định dị nhân?
Đáp: Chẳng nói các nghiệp đều gọi là định dị đều có thể di chuyển, nhưng căn cứ theo tổng báo định nghiệp giới địa thú dị lập làm định dị, bất định biệt báo thừa nhận di chuyển ở nơi dị thú, mà thọ, đồng địa tổng báo không ngăn ngại dị thọ, như sinh về tịnh cư, nên luận Tạp Tập ghi: "Như trong cõi Dục đường khác viên mãn nghiệp thiện bất thiện, gặp duyên chuyển được, đường khác Dị thục, không nói dẫn nghiệp, lại nghiệp viên mãn đủ được Dị thục có cộng bất cộng, như cánh tay của Lộc vương, ngực của sư tử v.v... là cùng thông với đường thiện, đường ác, đảnh nhục kế cả hai loại trừ lớn thông với đường người, đường trời, lập ra định dị nhân, chuyển đổi thọ nghiệp khác, mỗi mỗi căn cứ theo nghĩa riêng đều không phải tương vi.
Luận: Ba nghĩa của huân tập.
Sớ có năm môn, nhưng Tây Minh giải thích rằng: "Năm thức nhãn v.v... kiến, tướng có thể huân tập cũng gọi là biểu nghĩa, biểu nghĩa là chỗ của Thức thứ sáu dẫn, lại Tướng phần của nhãn thức v.v... được huân tập làm ra ba nhân duyên, Thức thứ tám thứ sáu và tự Tướng phần, nay cho rằng không đúng, làm ra hai thức nhân tự và Thức thứ tám, vì sao cũng với Thức thứ sáu làm ra nhân duyên? Tướng phần của Thức thứ sáu tự nó có thể huân tập, nhãn v.v... không duyên theo tướng của Thức thứ sáu.
Lại nói tướng của Thức thứ bảy chỉ hiển bày cảnh, từ hiển bày cảnh mà sinh ra, Kiến phần của Thức thứ bảy thể tức là hiển bày cảnh, cũng niệm trước sinh mà gọi là hiển bày cảnh, mà không phải biểu nghĩa, cũng chẳng phải ý thức duyên theo tên gọi dẫn, nay cho rằng giải thích này nghĩa vốn có khác, nương theo Hữu lậu nói nghĩa thì có thể như vậy, danh ngôn của biểu nghĩa được thông với Vô lậu, bình đẳng Thức thứ sáu dẫn đâu không duyên theo tên gọi, thừa nhận tùy theo Thức thứ sáu dẫn, tùy theo duyên vào cảnh nào? Thông cũng là thắng. Tây Minh nói: Hai chấp hiện tuệ không đều nhau, nên không phải hai tuệ, đoạn có trước sau, vì hay đoạn đạo có sai biệt, một hiện huân tập thành hai loại, nay cho rằng không đúng, nếu vì đoạn có trước sau, một hiện huân tập thành hai loại: Chủng tử, hiện hành tánh tướng đồng, vì sao không sinh ra hai hiện? Lại nữa, hiện hành, chủng tử đều nói đoạn, lại trước tự đoạn, huân tập tuy có ba, tùy theo nghĩa chia làm ba, mà có thể huân tập một, hoặc thành ra một loại, hai chấp hiện một, vì sao huân tập hai? Lại trước tự nói: "Nhãn thức đã huân tập Tướng phần tức là sinh ra ba hiện, làm thành một loại làm thành ba loại ư?"
Đáp: Có hai giải thích: một là sinh ra ba, hai là sinh ra một. Dẫn Tam Tạng phán phân một loại là thù thắng, ba thức tức là không phải luôn đồng thời, giới dị hữu vô lại khác nhau, thừa nhận huân tập thành một. Hai chấp đoạn tuy trước sau, nương theo thức giới địa không sai biệt, vì sao liền khiến cho loại riêng? Do đây nên biết, đã có ngã chấp và Phiền não chướng, nhất định cùng với pháp chấp và Sở tri chướng đồng loại mà sinh ra nhưng có pháp chấp và Sở tri chướng, không cùng với ngã chấp và Sở tri chướng đồng loại, như hàng Nhị thừa, Vô học đã khởi chấp chướng hiện hành huân tập thành chủng tử, còn lại có đồng dị, chuẩn theo loại này mà biết.
Luận: Nói rằng tụng này đã nói v.v...
Hỏi: Tướng kiến v.v... thủ do nghiệp chiêu lấy, nói cùng với thủ đồng thời, nay ba loại huân tập, tập khí của ngã chấp chẳng phải nghiệp chiêu lấy, vì sao nói do tập khí của nghiệp, tập khí của hai thủ đồng thời?
Đáp: Trước nói do nghiệp và tập khí đều có thể sinh hiện quả là thân sơ duyên, nay đây cũng mong nghiệp, tập khí, có hai đều có thể sinh hiện quả, thân sơ sai biệt, không nói nghiệp chiêu lấy tập khí của ngã chấp.
Luận: Trong đây vô minh chỉ chấp lấy hay phát ra chính cảm được nghiệp thiện ác đời sau.
Hỏi: Vì sao luận này vô minh làm hành năng dẫn, năm thức v.v... gọi là sở dẫn, luận Du-già tức là nói vô minh đến thọ đều gọi là Dẫn nhân?
Đáp: Luận này căn cứ theo hành năng dẫn, nghiệp quả chủng tử năm đường, địa vị của vị nhuận phân làm hai dẫn, nghiệp dẫn dắt chủng tử của quả, nên hai loại năng dẫn, năm loại sở dẫn, năng dẫn sở dẫn khác nhau, luận Du-già mong quả, địa vị của nhuận, cách quả còn xa, bảy chi ban đầu chung gọi là dẫn, dị nhuận bảy chi quả gần gọi là sinh, tức là thuộc về hai nhân, khiên dẫn và sinh khởi đã khởi gọi là quả, quả tức là xa gần nhân quả kia, nên nói ở trong pháp hiện tại pháp sau, thức cho đến thọ, đối với địa vị sinh, lão, tử đã nhiếp các chi, nói pháp hiện tại tức là bảy loại trước, pháp sau tức là ba loại sau, hoặc pháp hiện tại tức là mười loại trước, pháp sau là sinh, lão, tử hoặc pháp hiện tại là quả ngày nay, pháp sau là quả, đều hiển bày hai đời sinh, lão, tử chi đều dẫn quả, sinh quả. Hai loại này là quả của dẫn nhân sinh nhân, nghĩa có khác, nên không phải tương vi.
Hỏi: Chính phát ra hành chi chỉ kiến vô minh, phát ra ba thứ nghiệp mỗi mỗi thuộc về tánh nào?
Đáp: Bên ngoài pháp khác sinh ở trong cõi Dục phát ra ba thứ nghiệp, đều là bất thiện, thứ sáu của luận này và luận Tạp Tập đều ghi: "Cõi Dục phân biệt phiền não là bất thiện". Lại kinh Duyên Khởi quyển hạ ghi: "Bên ngoài pháp khác sinh phi lý, tác ý đã dẫn bốn loại chuyển khác vô minh, tức là khởi bất cộng, tương ưng, trói buộc và tùy miên của cõi Dục, nên là bất thiện, phát ra sơ thiền hành chi, vô minh cũng là bất thiện là cõi Dục, trở lên các địa phát ra hành vô minh tức là Hữu phú, vì định địa nhiếp". Bên trong pháp khác sinh nếu là phóng dật phát ra hành vô minh, có thể thông với hai tánh, bất phóng dật là phát ra hành vô minh tức là chỉ Hữu phú.
Hỏi: Căn cứ theo đâu mà được biết?
Đáp: Căn cứ theo kinh Duyên Khởi ghi: "Bên ngoài pháp khác sinh phi lý, tác ý đã dẫn bốn loại chuyển khác vô minh, tức là do phi lý tác ý, dẫn sinh bốn loại vô minh; rõ ràng biết bất thiện, lại do ngoại đạo mê quả của sinh tử chấp làm Niết-bàn, khởi bất động hạnh, đã khởi vô minh cùng với tà hạnh làm chỗ nương mới khởi hạnh kia, nên là bất thiện. Bên trong pháp khác sinh phát ra phi thiền hạnh, cũng chỉ là bất thiện, chẳng phải Hữu phú mê hoặc có thể phát ra nghiệp của phi phước bất thiện".
Nếu bất phóng dật khởi phi phước nghiệp, tuy là vô minh phát ra không thể làm duyên chiêu lấy ba đường ác, nên chẳng phải vô minh chi, bên trong pháp khác sinh, nếu các phóng dật và bất phóng dật khởi phước bất động, đã có vô minh.
Thứ nhất, Hữu phú, tín là chỗ nương, nên kinh Duyên Khởi quyển thượng ghi: "Nếu do dục ái tạo ra các phước hạnh, tín kia làm chỗ nương bèn tạo ra hạnh này, đối với sinh đối với lão khởi định tín, ái này và thủ do tín nhiếp phục, ngã thiết lập làm Hữu phú Vô ký, nên bên trong pháp khác sinh cầu được sinh về đường thiện, tuy không thể rõ được khổ của sinh tử kia, chính là nơi sinh tử khởi định tín". Lại nữa, cầu được sinh về cõi Tịnh độ biết đủ, cũng là sinh tử, do định tín, nhiếp theo vô minh kia là Hữu phú tánh.
Thứ hai, nếu phóng dật khởi ở nơi phước hạnh, thông với Hữu phú, bất thiện, vô minh được phát ra vì phóng dật sẽ cảm lấy đường ác. Kinh chỉ nói bất phóng dật kia, tạo ra phi phước hạnh, không cảm lấy đường ác, vì sao không khởi bất thiện vô minh, phát ra phước hạnh? Tức là các đường chỉ cần được phước lạc của người, trời, phóng dật khởi bất thiện phát ra nếu cần biết đủ hiếm thấy Phật v.v... tức là Hữu phú phát, giải thích này là thắng. Nếu bất phóng dật phát ra phước, bất động, lại có hai thuyết.
Thứ ba, Tùy miên chẳng phải hiện hành phát luận Tạp Tập quyển 7 ghi: "Chưa thấy rõ ràng tuy khởi tâm thiện, do tùy miên kia đã đuổi theo nên cũng biết, liền phát ra phước, bất động nghiệp". Kinh Duyên Khởi quyển hạ ghi: "Lại bất phóng dật bên trong quả khác sinh, nếu tạo ta phước hạnh và bất động hạnh, kia là chánh pháp như lý tác ý, tương ưng tâm thiện đã dẫn phát". Giải thoát là nương theo hồi hướng giải thoát mà dẫn phát, tuy ở đường ác cảm lấy sự sai khác thắng sinh, mà chẳng phải vô minh khởi tăng thượng duyên tức là nói: "Tương ưng tâm thiện đã dẫn phát, rõ ràng không phải hiện hành, nhưng nói tuy ở đường thiện cảm lấy sự sai khác thắng sinh, nên do chủng tử phát ra, nếu không như vậy nên chẳng phải thuộc về hành chi".
Hỏi: Nếu thừa nhận dị sinh chủng tử phát ra nghiệp, vì sao dụng vô minh dưới phát ra địa hành trên?
Đáp: Xu Yếu giải thích rằng, có hiện hành vô minh dưới là nhân khởi, tự mê mờ nghĩa của chân thật, ngu si hiện kiến hữu, ý này do ngu si cầu sinh địa trên nên ngu si phát ra dưới.
Thứ tư, chỉ trừ bất cộng, còn lại vô minh phát, các bất phóng dật và Thánh hữu giáo sẽ khởi ba thứ vô minh, phát ra phi phước hạnh tuy không chiêu lấy quả, chẳng có cái gì không phải vô minh, nên biết khởi phước và bất động hạnh, có hiện phát ra khác, nên duyên khởi trên nói: "Lại có loại nương theo vô hữu ái tạo ra các phước hạnh hoặc bất động hạnh", cho đến nói: "Lại không biết, chẳng phải đối trị khởi đối trị tưởng, tạo ra các phước hạnh hoặc bất động hạnh, do là lý đạo, như là các hạnh, nên biết chỉ dụng vô minh là duyên chẳng phải ái và thủ". Đây cầu vô hữu nói: "Nương theo vô hữu ái thông với thuyết của ngoại đạo, cầu được Niết-bàn, gọi là nương theo vô hữu ái, tức là bên trong pháp khác sinh, nên khởi hiện ngu si phát ra phước bất động, tức là có hai giải thích, vì sao là thắng?"
Đáp: Căn cứ theo luận Tạp Tập nói có tùy miên. Lại kinh Duyên Khởi lấy thuyết của ngoại đạo, từ bất như lý, tác ý sinh ra, do vô minh phát ra, bên trong pháp bất phóng dật phát ra phước, bất động hạnh, như lý tác ý sinh ra, như lý tác ý chẳng phải nhân của vô minh kia sinh khởi, tức là thắng giải trước, nếu chuẩn theo kinh Duyên Khởi do ba vô minh khởi phi phước hạnh, vì sao không được hiện hành phát ra hành? Nếu không khởi vô minh, phát ra hạnh cảm lấy quả, lẽ ra không khởi hiện ái, thủ, nhuận lại kinh Duyên Khởi chỉ nói các bậc Thánh, hữu học, bất cộng vô minh đã vĩnh viễn đoạn, không tạo ra nghiệp mới, không nói dị sinh hữu học ba vô minh khác thảy đều không khởi không tạo ra nghiệp mới; đã có nghiệp do sức tùy miên, chưa vĩnh viễn đoạn diệt, tạm thời xúc trở lại nói ra, chuẩn theo đây sau trội hơn, tức là không phải nhà bình luận nhờ vào ý thủ xả.
Hỏi: Bên trong pháp khác sinh, vì sao gọi là địa vị phóng dật? Chỗ nào là địa vị của phi phóng dật? Đáp: Không phải văn xét định, hoặc có nói, ở mười tín đã qua, hoặc mười trụ địa vị trục thứ tư, hoặc nói địa vị bốn thiện căn, nay làm hai giải thích:
1. Chỉ căn cứ theo khuyến khích và không khuyến khích, chia làm hai loại khác nhau; vì kinh không định xứ.
2. Địa vị bốn thiện căn, phần nhiều ở môn bên trong, tu bất phóng dật.
Hỏi: Nếu bên trong pháp khác sinh bất phóng dật, cũng tạo ra cảm lấy phước chung, bất động nghiệp, vì sao kinh Duyên Khởi trên ghi: "Do đạo lý này nên biết bên trong các bấc hữu học không duyên theo vô minh lại tạo ra các hạnh?".
Đáp: Căn cứ không cho bất cộng vô minh là duyên phát ra hạnh. Nói không duyên theo vô minh, lại tạo ra các hạnh, khác với pháp bên ngoài kia đã có dị sinh". Nên văn kia ghi: "Cho nên chỉ nương theo bên ngoài pháp khác sinh, ngã thuận theo thứ lớp, tạp nhiễm duyên khởi rất viên mãn, chẳng phải ở bên trong pháp". Hoặc liền nương theo văn, nên biết pháp bên trong các bậc hữu học, đều không tạo hạnh, cùng với tương vi trước. Trước nói bên trong pháp khác sinh, nếu phóng dật là kia trừ một loại bất cộng vô minh, Vô minh còn lại là duyên sinh ra hành. Lại kinh Duyên Khởi, luận Tạp Tập và luận này đều là bậc Thánh không tạo ra nghiệp mới, không nói các bậc hữu học đều không tạo ra nghiệp mới. Nhưng Yếu Tập ghi: "Nhiếp luận quyển 8 của Vô Tánh ghi: "Do gia hạnh chứng đắc", nghĩa là có thể cảm lấy nghĩa của quả Dị thục, chẳng phải nhân Dị thục, có thể đối trị kia, tức là tăng thượng quả giả gọi là Dị thục, do đây nên biết bên trong pháp khác sinh, không tạo ra tổng nghiệp là không như vậy. Văn của Nhiếp luận kia, căn cứ theo Kiến đạo trước sau tu Vô phân biệt trí không nói còn lại đã tu thiện, đều là tăng thượng giả gọi là Dị thục, nên không phải là chứng cớ.
Hỏi: Bốn vô minh vì sao là phải?
Đáp: Ý của kinh kia dùng chủng tử hiện hành, tướng đối lập để trói buộc phiền não, câu trong trói buộc không phải câu hành, đối lập làm tương ưng, bất cộng. Nên kinh Duyên Khởi ghi: "Trói buộc vô minh còn vi tế, huống gì có tùy miên, tương ưng vô minh còn vi tế, huống gì bất cộng vô minh", nên nương theo hai đối, lập ra bốn vô minh, tức là các chủng tử gọi là tùy miên, hiện hành chia làm hai, cùng với căn bản hoặc đều gọi là tương ưng, không phải cùng với bản câu gọi là bất cộng.
Nhưng phần nhiều nói là chủ độc hành mê lý của nhân quả, hành tướng vi tế, không đồng với phi chủ độc hành vô minh.
Hỏi: Đã phát hành chi tức là ba thứ nghiệp, nghiệp có ba, tư, thân, ngữ, chỉ động phát, ý có thể thông với ba nghiệp, làm ra động ý, cũng có động phát, nhưng phước, bất động nhất định chẳng phải si đồng thời, vì là thiện chuẩn theo đây chỉ có xa duyên dẫn khởi, không rõ được nên khổ mà vui vẻ cầu v.v... chỉ Kiến đạo hoặc tức là chỉ chánh phát không phải trợ phát.
Đáp: Cùng với kiến hoặc, trước sau mà sinh có giúp đỡ không ngăn ngại.
Hỏi: Bên ngoài pháp khác sinh phát ra phước, bất động, vô minh đồng thời tư, có bất thiện này, vì sao chẳng phải hành chi?
Đáp: Luận kia không phải gia hạnh, chẳng phải nghĩa tư cũ, nên chẳng phải hành chi. Sau chánh khởi tức là do tư cũ, tư đã khởi nghiệp, nên làm hành chi.
Hỏi: Phước, bất động hạnh tức là chẳng phải ngu si đồng thời, vì sao luận này hợp với luận Tạp Tập nói vô minh cùng với hành làm nhân duyên, nương theo vô minh đồng thời tập khí của nghiệp mà nói, vô minh đồng thời, giả nói vô minh thật là hành loại?
Đáp: Đây cũng không trái. Nói vô minh đều gọi là tập khí của nghiệp trong nhân nói quả, nên khởi hiện tư làm hành chi. Lại căn cứ theo bất thiện, chẳng phải phước, bất động.
Hỏi: Chẳng phải phước bất động thiện, chánh kiến hoặc phát, chính là khởi hành thời cùng với hoặc nào đồng thời? Nếu cùng kiến hoặc đồng thời, sẽ phát trở lại, nếu cùng với tu hoặc đồng thời, mặc tình chẳng phải mạnh mẽ lợi ích?
Đáp: Cả hai đều không lỗi, giả sử cùng với kiến hoặc đồng thời cũng chẳng phải phát lại, nếu cùng với tu hoặc đồng thời, do kiến hoặc dẫn dắt cùng với tàm v.v... đồng thời, nên thành lập bất thiện.
Hỏi: Thể của danh sắc chi do nhiếp sáu thức, trong thể của sáu xứ lấy gì làm ý?
Đáp: Trong Sớ giải thích: "Nếu có Dị thục ở đời quá khứ nói là ý", đây căn cứ theo một ý, hai đời phân biệt tức là nghĩa nói riêng, nếu như vậy sẽ giả như kiến tuệ v.v...?
Giải thích rằng: Thừa nhận giả lỗi gì.
Hỏi: Có trái với lỗi sau, môn giả thật sau nói, danh sắc, sáu xứ đều là thật chăng?
Giải thích rằng: Căn cứ theo phần nhiều mà nói, như trong hành chi cũng giả nói sắc, trong môn giả thật cũng nói thật, nay giúp một giải, như danh sắc chi, sắc trừ năm căn, ở trong tên gọi trừ thức thì lỗi gì, chỉ có tưởng hành cũng được làm tên gọi, chẳng giả chẳng lẫn lộn.
Luận: Do thức này v.v... cũng nói hiện hành.
Tây Minh ban đầu nói: "Tướng từ giả nói, mười hai hữu chi, đều thông với chủng tử, hiện hành". Nói hữu chi thông với hiện hành, trừ luận nghiệp hành, giả nói hữu chi do kia huân tập thành có chủng tử, nay cho rằng không đúng. Thức v.v... đều hữu chi hiện hành, không căn cứ theo lời mà nói, căn cứ đang sinh mà nói, nên biết hữu chi, căn cứ theo đang khởi mà nói vì chủng tử của năm quả nhuận làm hữu chi đồng với hành chi, vì sao không căn cứ theo quá khứ để bỏ luận? Nếu nói mong sinh, lão, tử chỉ năm thức v.v... không thông với hành. Lại luận về nghiệp hành, cũng chỉ hành chi không phải năm quả hiện hành. Lại luận này ghi: "Nên mong đang sinh hiện khởi, giả nói đối với lý là thắng", nên luận Thập Địa ghi: "Mười hai chi đều có tử thời, quả thời, tử nghĩa là địa vị của chủng tử, quả tức là hiện hành". Kinh Duyên Khởi và luận này đều đồng.
Luận: Lại do thuyết này sinh dẫn đồng thời v.v... có bốn giải thích:
1. Chi của sinh dẫn v.v... thời của vị nhuận, không cùng với sinh chi đồng thời, nếu nhuận trở về sau chỉ gọi là hữu chi, nên tên gọi không đồng giải thích này chỉ nhuận, vị nhuận không đồng thời, không giải thích được sinh, dẫn đồng thời.
2. Tuy nói rằng nhuận vị nhuận thời không đồng thời, thời của chánh nhuận sinh dẫn được đồng thời, giải thích này tuy tợ như thuận theo văn chưa khế hợp, lại do thuyết này, tức là chỉ từ trước, nương theo đang hiện khởi cũng trái với kinh Thập Địa tử, quả đồng thời.
3. Ở trong hiện tại địa vị của sinh dẫn hai chi, có năm thức v.v... của đương lai chủng tử của quả, làm sở dẫn chi của đương lai, cùng với sinh, lão hiện tại đồng thời mà có. Sinh, lão chi này là ái sở sinh, thủ của quá khư, nên gọi là sinh, dẫn đồng thời. Cách giải thích trên đây đều không chính xác. 4. Nhuận, vị nhuận thời, nhất định là không đồng thời, được nhuận đã qua chính sinh ra hiện thời, quả nhân đồng thời, tức là sinh lão này, mong, ái, thủ, hữu, là sở sinh tức là địa vị của sinh lão này. Chủng tử của thức v.v... mong vô minh, hành chi trước là sở dẫn kia, thời của vị nhuận ắt sẽ không được đồng thời, ái nhuận đã qua, tức được là đồng thời, gọi là sinh, dẫn đồng thời, đây đồng với Sớ.
Tây Minh giải thích đồng với cách thứ ba, không thuận theo kinh luận. Luận này nói nương theo đang hiện khởi nói có trước sau, do thức v.v... này cũng nói hiện hành, nhân thời nhất định không hiện hành nghĩa, nên lại do đây nói sinh, dẫn đồng thời, tức là nói rằng lại do đây nói, tức là do trước nói hiện khởi thứ lớp, căn cứ theo một lớp này cũng chưa có thể giải thích được duyên khởi của hai lớp. Lại kinh Duyên Khởi ghi: "Nếu dẫn nếu sinh làm một thời khởi, làm thứ lớp khởi". Thế Tôn bảo rằng: "Một thời mà khởi thứ lớp tuyên nói?. Nếu một thời khởi, vì sao là nhân duyên? Trước nói dẫn, sau nói sinh.
Thế Tôn bảo rằng: "Phải do có dẫn sau có phương hướng sinh, chẳng có cái gì không dẫn", nếu căn cứ theo sinh, lão của hiện tại, tức là do sinh rồi mới tạo ra nghiệp của đương lai, dẫn dắt năm thức v.v..., tức là có sinh rồi mới bắt đầu có dẫn, vì sao được nói rằng phải có phương hướng sinh chẳng có cái gì không dẫn?
Luận: Lại nương theo mê bên ngoài tăng thượng quả ngu si v.v...
Hỏi: Căn cứ theo văn của luận này, do gặp cảnh của mê khởi thọ sinh, ái. Chuẩn theo luận Du-già quyển 9 ghi: "Lại do cảnh giới thứ hai sở sinh thọ, ái ngu, khởi duyên theo cảnh giới thọ, ái, ngu duyên theo thọ sinh, vì sao hợp với giải thích?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Do vô minh là trước không rõ được cảnh bên ngoài tăng thượng quả, nên phát ra khởi nơi thọ, thọ là duyên sinh ra ái, chẳng phải duyên theo thọ khởi ngu, nhưng nói cảnh giới đã sinh thọ quả ngu, do ngu là nhân của cảnh giới quả thọ kia. Luận nói do cảnh giới thứ hai đã sinh ra thọ quả ngu, khởi duyên theo cảnh giới thọ ái, không nói cảnh giới ngu ái, nên quyển 4 trước ghi: "Chỉ vô minh thọ là duyên sinh ra ái, đây chẳng phải thọ chi".
2. Do cảnh giới thú hai đã sinh ra thọ, mê mờ tăng thượng quả ngu si, ý nói cảnh giới này đã sinh ra thọ, là mê mờ bên ngoài tăng thượng quả, chỗ sinh của ngu si, tức là nói thọ này do hai sức cảnh và ngu được sinh ra tức là do cảnh giới thứ hai, đã sinh ra thọ, nhờ vào cảnh đã sinh. Lại chấp lấy chữ thọ nói thọ quả ngu, tức là nhờ vào ngu khởi nêu quả hiển bày nhân. Nói cảnh giới thứ hai đã sinh thọ quả ngu, lẽ ra nói mê mờ cảnh giới bên ngoài tăng thượng quả, ngu là duyên khởi thọ. Thọ quả bên ngoài kia mới khởi ái thủ. Trước nói thọ hai loại nghiệp quả trước, nghĩa là thọ quả Dị thục bên trong và cảnh giới đã sinh, thọ tăng thượng quả. Ý đây nói cảnh giới đã sinh thọ, thọ tăng thượng quả bên ngoài, không được nói quả của cảnh là thọ. Luận ghi: "Thọ hai loại nghiệp quả trước". Lại quyển 93 ghi: "Lại do cảnh giới thứ hai đã sinh tăng thượng quả ngu, duyên theo cảnh giới thọ, phát ra sinh tham ái, đây tức là nói thẳng". Tây Minh có hai giải thích:
1. Mê mờ thọ sinh ra ngu, thọ này là cảnh giới tăng thượng quả bên ngoài, tức luận này nói "Tăng thượng quả ngu bên ngoài, nên không phải tương vi".
2. Mê mờ cảnh giới sinh ra ngu, tức luận Dugià nói cảnh giới đã sinh thọ quả ngu.
Yếu Tập ghi: "Giải thích sau là thắng", nay cho rằng đều là trái, vì sao giải thích ban đầu nói thọ là cảnh giới tăng thượng quả bên ngoài? Nếu như vậy, nói thọ hai loại nghiệp quả trước. Sau giải thích rằng: "Cảnh giới là thọ tăng thượng quả, cũng trái với căn trước, hai loại nghiệp quả trước". Lại cảnh giới là thọ Sở duyên duyên, tức là lẽ ra thọ là quả, vì sao nói sở duyên, trở lại cho là quả?
Hỏi: Đây nói mê mờ Dị thục bên trong, đồng bao hàm thế tục, thắng nghĩa, chưa biết mê mờ thế tục, thắng nghĩa nào?
Đáp: Một là mê mờ tục thứ hai.
Hỏi: Nếu như vậy duyên theo sự nên chẳng phải kiến hoặc?
Đáp: Kiến thủ, giới cấm thủ v.v... tuy duyên theo sự sinh, thì ngại gì kiến hoặc. Hai là mê mờ khổ của đường ác, làm tục ngu, mê mờ khổ của người trời làm thắng nghĩa, giải thích này là chính, nhưng đều thuộc về Đế. Nhưng luận Tạp Tập quyển 7 ghi: "Ngu si là nghĩa Dị thục chân thật bên trong", nghĩa chân thật tức là bốn Thánh đế, nhưng mê mờ thế tục được chung tên. Nói Dị thục bên trong, mê mờ chân thật là vi tế, nên nói Chân nghĩa tức là bốn Thánh đế. Căn cứ theo bốn Thánh đế cũng nhiếp Dị thục bên trong, Dị thục bên trong cũng nhiếp nghĩa chân thật, hỗ tương nêu nghĩa chung.
Luận: Bắt đầu từ Trung hữu đến bản hữu v.v...
Hỏi: Từ địa vị Trung hữu tức gọi là sinh chi. Ở trong Trung hữu cũng có thừa nhận lão, vì sao chẳng phải lão tử?
Tây Minh nói: Là sinh phương tiện sáu thức khó dứt có Thức thứ tám, nên chẳng phải lão tư., Nay giải thích có lão chẳng gọi là lão tử chi, vì là thuộc về phương tiện của thú sinh, nên chưa gọi là lão tử.
Luận: Nhưng như luận kia chấp nhất định có chủng tử.
Hỏi: Ái trước tăng gọi là thủ, ái, thủ đồng thời chủng tử vì sao nói tăng?
Đáp: Căn cứ theo lúc huân tập chủng tử hiện hành xưa mà nói.
Luận: Sinh đường ác đối với cảnh của ngã hiện hành, cũng có ái.
Tây Minh cựu sớ ghi: Duyên khởi đã sinh về đường ác, nói không khởi ái, kinh Quán Phật Tammuội căn cứ theo sẽ sinh mà nói, chuẩn theo đây hợp với giải thích, không hợp với văn của kinh. Văn nói rằng theo không có mong cầu, tức là căn cứ theo chưa sinh mà nói không có, không đứng về đã sinh. Nay chuẩn theo Yếu Tập ghi: "Có hai giải thích:
1. Giải thích đồng với Sớ, sau giải thích rằng: Đây căn cứ theo cõi Dục cuối cùng sinh về đường ác mà nói, nếu cõi trên mạng chung sinh về đường ác, nếu khởi cõi Dục ái, có lỗi duyên trên, nếu cõi trên ái chẳng phải tự Địa duyên.
2. Sinh về đường ác rồi, đối với tự chân ngã thật có ái sinh tức là do lý này chứng được ái biến hữu, chẳng phải nhuận sinh này.
Tuy có hai giải thích, giải thích sau là chính. Nay cho rằng giải thích trước thừa nhận ái duyên trên, cũng không có lỗi. Như quyển 6 trước ghi: "Cầu địa trên sinh vị định trên, thừa nhận ái duyên trên". Giả sử nói nhuận sinh không được duyên trên, theo không phải riêng duyên, chung duyên lỗi gì? Nếu nói sinh rồi mới bắt đầu khởi ái, trái với cách thứ ba trước, ở nơi năm thủ uẩn chẳng phải ái trước xứ, nghĩa là sinh về chỗ ác, niệm ngã lúc nào sẽ bỏ được mạng này, đây là khổ thân tâm, vì sao khởi ái căn cứ theo thật sinh rồi, cũng thừa nhận khởi ái, chẳng phải ắt sẽ ái kia. Quyển 5, quyển 6 trước dẫn Đại luận, nói không thông với tất cả thức thân, ý địa tất cả căn tương ưng, nhưng tranh luận nhuận sinh, nó chẳng phải tranh luận.
Tây Minh lại nói: Nếu như vậy hai thuyết trong luận đều không phải đường ác nhuận ái, lẽ ra chỉ là loại nhuận. Giải thích rằng do nghiệp lực nên ở trong chỗ lạnh nóng có thể tướng của ái sinh, như kinh Quán Phật Tam-muội nói, nay hỏi lời này đối với cõi Dục có thể như vậy, cõi trên sinh về dưới khởi ái, vì sao chẳng ở cõi trên có tướng của lạnh nóng v.v...? Nên do đây tức là hiển bày nhuận sinh khởi ái dẫn dắt sinh về đường ác, ở nơi cảnh của ngã hiện tại, rõ ràng là muốn sinh, chẳng phải sinh về cõi kia rồi mới bản chất khởi ái, nên giải thích trước thù thắng.
Luận: Như vô minh dưới phát địa hành trên.
Hỏi: Kinh Duyên Khởi ghi: "Vì sao không nói ái, thủ và hành là duyên?" Thế Tôn bảo rằng: "Hai loại ác, thủ, tự giới được hành, cho đến ái thủ cùng với cõi Sắc, cõi Vô sắc kia, các bất động hành, làm đẳng khởi duyên không đúng với đạo lý, vì chẳng phải cảnh giới", chuẩn theo đây ái thủ chỉ tự cảnh giới duyên, trên chẳng phải cảnh giới, vì sao quyển 6 ghi: "Mong cầu địa trên sinh vị định trên" nên ái cũng duyên theo trên?
Đáp: Kinh căn cứ theo phần nhiều chưa được định, luận căn cứ theo được định phần ít duyên trên nên không phải tương vi. Lại nữa ý kinh tuy ái, thủ duyên, phải do vô minh không rõ được khổ kia mới khởi ái thủ, nên vô minh phát, chẳng phải ái thủ phát, tuy lúc tác ý như lý tương ưng, không khởi vô minh vì do có chủng tử kia sức của vô minh, khiến cho đây không rõ cõi trên là khổ tạo ra bất động v.v... nên vô minh phát. Như Nhị thừa Hữu lậu tâm thiện không rõ được cảnh, nói do sức tập khí của vô minh, đây cũng như vậy.
Hỏi: Tức là có chủng tử của địa trên vô minh v.v... không thừa nhận phát ra hành, rõ ràng bên trong pháp khác sinh bất phóng dật, tạo ra phước, bất động, dụng tùy miên phát, cũng chẳng phải hành chi, đồng với chủng tử kia chăng?
Đáp: Không lệ thuộc, như cận phần định sát-na ban đầu suy nghĩ là địa hành trên, lúc mới khởi không do tâm trên không rõ mới khởi, nên do địa trên vô minh được phát. Nếu ở cõi Dục là mong cầu thiện quả, khởi tạo ra phước nghiệp, tức là do không rõ là khổ mới mong cầu tức là cùng như lý tác ý tương ưng, rõ ràng chẳng phải hiện ngu có thể phát ra hành chi. Nếu tư của cận phần định tương ưng, không cảm được căn bản tổng báo quả, có thể gần phần tâm là mong cầu thượng sinh. Tu tập căn bản định, do chủng tử kia phát, tức là luận dưới nói là khổ thô v.v... sáu loại hành tướng, có mong cầu thượng sinh mà khởi kia nên gần phần định nói làm hành chi, rõ ràng do dưới phát.
Hỏi: Hành chi là tư, vì sao dưới nói Địa trên hành chi đều hàng phục địa dưới, tức là khổ thô v.v... sáu loại hành tướng, sáu loại hành tướng là tuệ hành?
Đáp: Tư của tuệ đồng thời, cũng gọi là hành tướng, là hành lỗi gì?
Luận: Mười hai chi này mười nhân hai quả v.v...
Theo luận Du-già quyển 9 chia làm ba khoảng, nghĩa là đầu, giữa, sau, do đợi bảy loại trước có ái, thủ, hữu; do đợi ba loại này có hiện sinh, lão, tử. Đây tuy hai đời, căn cứ theo hậu báo nghiệp tạo nhuận, lúc đắc quả ba đời khác nhau, chia làm đầu, giữa, sau. Đứng về thật nghĩa trở lại quá khứ mười chi nhân, có hiện hai chi quả, nghĩa là sinh, lão, tử. Do nay sinh lão mong sau lại khởi vô minh, hành v.v... tức gọi là khoảng giữa, vì đợi sinh v.v... khởi vô minh v.v... nên gọi là khoảng sau tức là hai lớp, chẳng đồng với Hữu bộ.
Luận: Chín thật ba giả v.v...
Hỏi: Căn cứ vào đâu gọi là giả?
Đáp: Sớ giải thích hiển bày địa vị của ba tướng sinh, dị, diệt khác nhau, gọi là sinh, lão, tử, thể tức là thức v.v... nên hữu, sinh, lão tử ba thứ là giả, nó không có tự thể, vì nắm lấy Y tha, không căn cứ theo nhiều pháp gọi nó không phải giả. Danh sắc, sáu xứ cũng nhiều pháp, cũng không đắc thật tánh, nói rõ giả thật. Hành chi chẳng phải một, thông với giả thân ngữ tên gọi là hành, không thể nói tư có ba chẳng phải một, chẳng căn cứ theo sắc thanh, cũng lẽ ra vô minh, xúc, thọ và ái đều chẳng phải một việc, đều có nhiều. Tuy sáu xúc thọ và bốn ái v.v... không gọi là đa sự, nên sắc, thanh, tư đa sự là hành, nên biết hữu chi không phải tự thể tức là đã nhuận sáu chi, sinh, lão, tử chi, tức là thức v.v... trước. Địa vị của ba tướng, riêng lại không phải thể khác, nên gọi là giả.
Tây Minh có ba giải thích:
1. Thức v.v... nhiều pháp lập ra ba nương theo đời sau v.v...
2. Năm thức v.v... pháp tùy theo tên gọi nêu ra thể, ở bất tương ưng.
3. Hợp với hai thuyết trước, nên gọi là giả.
Nay cho rằng không đúng, nếu nhiều pháp lập ra nói có gọi là giả, danh sắc đều đồng, nếu nương theo đương lai sinh, luận không nên nói địa vị của ba tướng khác nhau, sinh, dị, diệt tướng chẳng phải vị lai, sinh, lão chi chẳng phải bất tương ưng. Lại nói hoặc có thể được, thể không khác nên nói là giả. Đây đồng với Sớ giải thích, nên có thể là chính. Yếu Tập tuy phần nhiều nói tự làm ra hỏi đáp, tướng của ái thủ lệ thuộc nhau, trở lại nói ái, thủ thể, dụng đều khác nhau, hành v.v... dụng khác thể đồng. Chuẩn theo đây tức là nói dụng khác thể đồng gọi là hữu, nên là giả. Đây tức là nhân trước, đâu cần lao nhọc nêu riêng.
Luận: Tạp tu Tĩnh lự tư dưới nên nghiệp v.v...
Căn cứ theo luận Câu-xá, trước sau đều một sát-na Vô lậu, trung gian sát-na khởi Hữu lậu định, Tĩnh lự thứ tư, ba tâm thành viên mãn, kế tiệm tu tam thiền đều có ba, Đại thừa ít khác, vả lại luận về tạp tu, tổng có năm loại:
1. Thuần Hữu lậu định huân tu, nghĩa là sinh ra Tứ thiền, trừ Ngũ tịnh cư.
2. Thuần Vô lậu định huân tu, từ Địa thứ tám trở xuống thọ biến dịch sinh, Hữu lậu định hết.
3. Lậu Vô lậu tạp tu, tức là định đắc được tự tại, vì thọ quả Đẳng chí tự tại tức là hiện pháp lạc trụ, đều sinh về Tịnh cư v.v...
4. Hữu lậu định tán tạo huân tu, nghĩa là A-lahán xả phước, mạng hạnh, giúp mạng, phước quả.
5. Vô lậu định tán tạp huân tu, nghĩa là Nhị thừa và Địa thứ bảy về trước Bồ-tát biến dịch sinh tử, đây giúp đỡ nghiệp cũ sinh về Tịnh cư, thuộc về thứ ba.
Nhưng tạp tu này Hữu lậu làm hai bên, Vô lậu một sát-na ở trong, gọi là tu thành viên mãn, như Ngũ tịnh cư nghiệp khác sinh thân tạo ra chủng tử ở trong thân, mặc tình chỉ có thể cảm được Thiên xứ dưới, do khởi ít trông mong huân tu thành viên mãn, định lực của Vô lậu, đổi chuyển giúp cho chủng tử cảm sinh nghiệp khiến cho thế lực thù thắng. Sinh về Ngũ tịnh cư, nên chẳng phải Hữu lậu làm trung gian vì sức nó kém, sát-na ban đầu Hữu lậu làm gia hạnh, hàng phục trừ định chướng, kế niệm Vô lậu làm Vô gián đạo, chính trừ định chướng, một niệm sau Hữu lậu làm Giải thoát đạo, nên huân tu viên mãn. Nếu lấy Hữu lậu làm trung gian, Vô lậu làm trước sau, đâu lấy Vô lậu làm gia hạnh, Hữu lậu làm Vô gián đạo ư? Giải thoát sau cuối làm năng tư, tướng sở tư thuận mới có thể sinh ra quả. Lại tạp tu ban đầu này ở nơi ba châu của cõi người, vì tu diệt định ban đầu chỉ ở cõi người hoặc thông với Lục thiên, đều nhập vào kiến, nhưng không trải qua sinh mới tạp tu sinh, thông với lợi thuần căn, thuần căn có thoái, sinh ra thiền định dưới, lại khởi mới sinh.
Luận: Lại nói toàn giới tất cả phiền não v.v...
Hỏi: Chánh vô minh chi chỉ Kiến đạo đoạn, trợ là thông với tu, đường thiện đường ác đồng nhau, vì sao nói đến đường ác? Hành chỉ phân biệt khởi, đâu phải đường thiện tổng nghiệp mặc tình có thể phát ư?
Đáp: Đến đường ác tổng báo nghiệp, chánh trợ chỉ phân biệt phát ra, tổng báo của trời người mặc tình cũng trợ, do đây có thể phát ra đường ác hành là nói chỉ phân biệt. Cho nên quyển 59 ghi: "Nếu các phiền não nhanh mạnh hiện hành mới có thể phát khởi đến nghiệp đường ác, chẳng phải các thất niệm mà hiện hành, lại phân biệt khởi có thể phát ra nghiệp này, chẳng phải mặc tình khởi".
Hỏi: Nếu thừa nhận tu hoặc giúp phát ra tổng báo, đây vì sao lựa ra? Nếu như vậy vì sao nói toàn phiền não đều có thể phát ra nghiệp?
Đáp: Căn cứ theo trời và người mà nói, nếu nẻo ác hành chỉ phân biệt phát ra nên nói duy chỉ. Lại chính là cảm được nghiệp của nẻo ác biệt báo, cũng phân biệt phát ra, tự tánh chỉ có thể giúp phát ra biệt nghiệp nên nói duy chỉ. Nếu như vậy sinh về đường ác rồi, đâu không thể tạo ra biệt báo biệt nghiệp ư? Nếu không tạo ra, vì sao quyển 3 nói Alại-da thức tùy theo nghiệp trước chuyển? Sáu thức nhãn v.v... tùy theo hiện duyên pháp. Nếu nói rằng trước tạo nghiệp cảm đợi hiện duyên pháp, nếu như vậy tức là không phải thuận theo hiện thọ nghiệp, đều trước tạo ra. Nếu nói chỉ tạo ra ở trời người đường ác không thể được, đây có lỗi gì? Nếu như vậy rồng quỷ không được cúng dường, ban đầu xuất từ định, Kiến đạo v.v... ư? Nếu thừa nhận đúng, chuẩn theo đây cũng có thể chánh tạo cảm được nẻo ác biệt báo kia, đây cũng không như vậy. Nghiệp cúng dường này đã cảm được thiên báo là quả của trời người, chẳng phải quả báo của đường ác, nếu như vậy ở nơi ngục tốt v.v... khởi đường ác bị tổn hại, đâu chẳng phải biệt báo? Chuẩn theo đây nên biết tức là có lý này thủ xả mặc tình.
Luận: Hai chi ái thủ chánh nhuận sinh v.v...
Hỏi: Tuy biết câu sinh mà làm chánh nhuận, bốn loại ái thủ chánh trợ thì thế nào?
Đáp: Vả lại bốn loại ái đều thông với hai đoạn, như quyển 55 vì căn cứ theo Tập đế nói bốn hành tướng đối trị bốn loại ái, tức là kiến đoạn, vì nêu ra nương theo thường lạc tịnh ngã mà sinh. Lại quyển 55 ghi: "Ái như thế nào? Nghĩa là đối với tự thể rất thân mật chứa đựng giữ gìn. Hậu hữu ái như thế nào? Nghĩa là cầu đương lai tự thể sai biệt. Hỷ, tham đồng thời ái nghĩa là ở hiện tiền hoặc ở vị lai được có thể ái sắc v.v... khởi tham chấp trước ái. Mỗi mỗi đều mong lạc nghĩa là ở chỗ khác có thể ưa sắc v.v... khởi mong cầu ái". Quyển 67 giải thích ý cũng rất đồng, chuẩn theo đây thông với tu. Ở trong bốn thủ, ở dục cảnh thủ và ngã ngữ thủ đều thông với tu đoạn; ở kiến thủ, giới cấm thủ chỉ có Kiến đạo đoạn, nhưng chỗ khác nói bốn thủ kiến đoạn, nương theo một tướng mà nói. Căn cứ theo thật cũng thông, nên trong luận này hai sư đều thừa nhận thông với Tu đạo đoạn, trợ chánh nhuận sinh chuẩn theo đây có thể biết.
Hỏi: Thể của thủ như thế nào?
Đáp: Quyển 87 nói bốn thủ chỉ là tham. Luận kia ghi: "Lại có bốn thủ, nghĩa là ở dục, kiến, giới cấm, ngã ngữ đã có tham dục". Luận Du-già quyển 14 thủ cũng đồng, nhưng quyển 93 nói lại chấp lấy dục thủ, hoặc chấp lấy kiến, giới cấm thủ, ngã ngữ thủ chấp lấy các thủ rồi ái thủ hòa hợp, nhuận dẫn nhân trước chuyển gọi là hữu, đều nói chấp lấy bốn sở thủ kia. Ý chấp lấy năm thủ, tức là tham, quyển 89 thông với năng thủ sở thủ đều là thủ chi. Cho nên luận kia ghi: "Dù sở thủ, dù năng thủ, dù sở vi thủ, đều gọi là thủ".
Hỏi: Thế nào là sở thủ?
Đáp: Dục, kiến, giới cấm, ngã ngữ là sở thủ.
Hỏi: Thế nào là năng thủ?
Đáp: Bốn loại tham dục.
Hỏi: Thế nào sở vi thủ?
Đáp: Vì đắc được các dục và làm thọ dụng, nên khởi thủ ban đầu, là tham lợi dưỡng v.v... vì sức tăng thượng nên khởi thủ thứ hai, Xa-ma-tha là chỗ nương là đến lìa dục khởi thủ thứ ba, vì muốn tùy theo lời phân biệt sở chấp tác nghiệp, thọ quả, tướng của sĩ phu, khởi ngã ngữ thủ, ý này do muốn được thọ dụng sáu trần cảnh, cho nên khởi tham cho đến vì muốn rõ biết sở chấp, tác nghiệp thọ quả khởi ngã ngữ thủ.
Hỏi: Nếu cảnh của sở thủ tức là thuộc về sở thủ, nếu có thể nhiếp ái tức là thuộc về năng thủ. Thế nào là sở vi?
Đáp: Hai loại trước nói riêng, một loại sau là nói chung, hoặc sở thủ trước vả lại đối với tâm, sở vi sau là thủ, căn cứ do đối với nó có tướng vui mới khởi tham dục gọi là sở vi. Điều này phần nhiều khác nhau, nên luận kia ghi: "Như vậy bốn thủ nương theo hai phẩm thủ", nghĩa là phẩm tại gia khởi ban đầu một, phẩm xuất gia khởi sau ba, nên là khác nhau. Nếu là câu sinh vì sao chia làm hai phẩm? Lại bốn thủ này loại đầu chỉ ở cõi Dục còn lại thông với ba cõi, nên luận Du-già quyển 4 ghi: "Loại đầu chỉ có thể sinh về khổ quả của cõi Dục, ba loại còn lại đồng sinh về khổ quả ba cõi", tức là do đây nói chướng thọ được tăng thượng quả bên ngoài, là duyên khởi ái, có thể nhuần sinh. Căn cứ theo cõi Dục mà nói, trong hai cõi trên lìa cảnh tham.
Lại giải thích bốn ái nêu cảnh rõ ràng, cũng căn cứ theo cõi Dục, nếu như vậy vì sao ái nhuận Địa trên sinh?
Đáp: Tuy chưa thấy văn, chuẩn theo chấp thường ngã có thể thông với kiến, tu tức là sau hữu ái và do độc ái nhuận ba cõi sinh, hoặc tham hỷ đồng thời, mỗi mỗi mong lạc. Tuy nêu sáu cảnh, thật thông với thân bên trong, nương theo thân bên trong mà khởi, bốn loại đều thông với nhuận.
Hỏi: Bên trong pháp khác sinh không mong hậu hữu, lúc mạng chung đã khởi phiền não là thủ chi?
Đáp: Cũng là thủ chi.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao quyển 49 ghi: "Ngã làm các thủ" đủ biết vĩnh viễn đoạn các sư chánh luận, nên ở pháp này, thề nguyện tu hành, tuy mang theo phiền não, thân hoại diệt mạng chung mà không đối với nó kiến lập các thủ. Vì sao họ ở nơi các dục không lưu luyến mà xuất gia?
Đáp: Căn cứ theo phân biệt khởi, không chướng ngại đều sinh, như bên trong sinh khác, không phải bất cộng, tuy khởi hành mà nói không nói vô minh là duyên, chẳng không phải ngu khác; đây không gọi là thủ nên biết cũng như vậy, không trở lại Bất hoàn, chỉ chủng tử nhuận nên không gọi là ái thủ.
Luận: Mười lạc xả câu thọ không cùng thọ tương ưng v.v...
Hỏi: Nếu căn cứ theo địa vị chủng tử, hiện thọ và chủng tử, vì sao chẳng phải thọ đồng thời? Nếu căn cứ theo đương khởi, thức và danh sắc, sáu thức chưa khởi vì sao có lạc, xả?
Đáp: Sớ nói rằng địa vị sinh chi này rộng, nên cùng với lạc xả đồng thời, nghĩa là từ Trung hữu đến trong Bản hữu chưa suy biến đến đều sinh chi. Căn cứ theo trong địa vị sinh chi này, thức, danh sắc v.v... chẳng căn cứ theo sát-na gọi là thức chi, địa vị được cùng với thọ đồng thời. Theo luận Thập Địa thì tử, quả thời nghĩa, vì sinh chi đó là quả của chủng tử trước, vì chủng tử từ hiện nói được thuyết nên không trái.
Hai loại sinh tử lược làm tám môn phân biệt: Một là nêu thể; hai là giải thích tên; ba là nói rõ tướng trạng; bốn là địa vị thứ lớp; năm là căn cứ theo xứ sở; sáu là cùng với bốn loại sinh tử nhiếp nhau; bảy là hợp với ba, sinh tử không đồng; tám là hỏi đáp biện luận.
1. Nêu thể: Nghĩa là hai loại sinh tử chính chấp lấy thức Dị thục thức tám làm thể, gồm thông với Dị thục năm uẩn thức khác. Vả lại phần đoạn sinh chấp lấy danh ngôn, huân tập năm loại thức v.v... mà làm thân nhân. Ba nghiệp phước, phi phước, bất động làm thắng tăng thượng có thể chiêu cảm duyên, tất cả phiền não đều có thể làm phát nghiệp, duyên của nhuận sinh, do nương theo duyên khác mà được sinh. Kinh Thắng Man, kinh Vô Thượng Y, luận Thật Tánh v.v... đều ẩn thức, vì danh ngôn gần gũi chủng tử, chỉ hiển bày nghiệp tăng thượng, gọi là nhân. Phát ra nghiệp nhuần sinh cảm gọi là duyên. Nên kinh Thắng Man ghi: "Như thủ là duyên Hữu lậu nghiệp nhân mà sinh ra ba hữu", biến dịch sinh tử tức là thức trước v.v... chủng tử của năm quả đều là biến dịch sinh tử tức là thức trước v.v... chủng tử của năm quả đều là thân nhân.
Phước nghiệp của cõi Dục đều là sắc bất động, trừ Vô tưởng thiên và Ngũ tịnh cư làm cận thắng duyên, nương theo Tứ thiền duyên theo sự Vô lậu sau, được bi trí tương ưng định nguyện mà làm thắng duyên xa. Nên luận này nói: "Do sức bi nguyện chuyển đổi thân mạng".
Lại nói: Vô lậu định nguyện chính được tư cảm. Lại nói: Vô lậu có phân biệt nghiệp, có phân biệt nghiệp tức là sau được duyên theo sự, tư của trí đồng thời, tư cũng là nguyện, nên không nói riêng. Do Sở tri chướng chấp vào Bồ-đề hữu tình kia là có khởi bi nguyện, cùng làm đoạn trừ, giữ thân lâu dài, nên Sở tri chướng có thể làm duyên. Tuy thật biến dịch dùng chủng tử của danh ngôn làm thân nhân; phước, bất động nghiệp làm tăng thượng duyên. Nếu Vô lậu không kham chịu có thể cảm được biến dịch sinh, do Sở tri chướng mới phát ra bi nguyện, nên khởi Vô lậu giúp cho thân nghiệp cũ. Nên luận này nói Vô lậu định nguyện giúp cho nghiệp Hữu lậu. Nay ẩn sở tư, chỉ nêu năng tư và dùng năng phát hơn kém hai duyên, nên kinh Thắng Man đều nói nghiệp nhân của Vô lậu Sở tri chướng duyên, có ý sinh thân, tức là do thức v.v... chủng tử của danh ngôn làm thân nhân sinh ra, rõ ràng biến dịch sinh thể là Hữu lậu. Nói Vô lậu giới sinh tử bên ngoài là nương theo thắng duyên mà nói, hoặc là Vô lậu người đã thọ sinh tử, hoặc không phải phiền não lậu đã thọ sinh tử, nên gọi là Vô lậu, chẳng phải thể Vô lậu giới bên ngoài sinh khác, chẳng lìa ba cõi có hữu tình khác. Nhân Vương Bát-nhã ghi: "Ba cõi bên ngoài có chúng sinh khác là nghĩa của ngoại đạo, chẳng phải giáo pháp của chư Phật". Đây lược nêu ra thể.
2. Giải thích tên: một là phần đoạn, hai là biến dịch.
Nói phần đoạn, phần nghĩa là đều giới hạn, tức gọi là mạng căn; đoạn nghĩa là sai biệt tức là thể của năm uẩn, bỏ đây thọ các khác sai biệt. Sai biệt nàY thân mạng có cùng giới hạn, tức là phần của đoạn gọi là phần đoạn, mong thuộc về thân, tức là Y sĩ thích. Hoặc phần đoạn này đều thông với thân mạng, đều tùy theo nhân duyên, có định cùng giới hạn, nên gọi là phần đoạn, cũng phần cũng đoạn gọi là phần đoạn, tức là Trì nghiệp thích.
Biến dịch sinh tử, vả lại nương theo luận này lược liệt kê ba tên:
a. Bất tư nghì biến dịch sinh tử, giải thích tên như luận cũng thông với hai giải thích y sĩ, trì nghiệp, vì do Hữu lậu đã giúp cảm, đã thọ biến dịch diệu dụng khó lường, chẳng phải cảnh thấp kém, biến dịch tức là bất tư nghì, là Trì nghiệp thích. Hoặc Vô lậu định nguyện diệu dụng khó lường, gọi là bất tư nghì, bất tư nghì biến dịch sinh tử, tức là Y sĩ thích.
b. Ý thành thân: Thân tức là thuộc về quả, ý nguyện là nhân, thành thông với năng sở, tức là tùy theo thân của ý sở thành, thân thuộc về nhân nên Y sĩ thích.
c. Biến hóa: Biến là sửa đổi cũ, hóa nghĩa là cái mới khởi, biến hóa tức là thân, là Trì nghiệp thích, lại có nhiều tên, như trong luận Hiển Trung Biên Tuệ Nhật giải thích rõ ràng.
3. Tướng trạng v.v... đều nói như Xu Yếu. Nhưng phần đoạn tử nói thuộc về ba cõi, biến dịch không nói, vì phần đoạn tử tùy theo nghiệp trói buộc địa.
Yếu Tập ghi: "Tùy theo ở ba cõi là ý của luận không khéo, biến dịch ẩn không nói, vì nghiệp của Hữu lậu kia, xứ sở sai biệt", lược chuẩn theo có thể biết.
Loại sáu và bốn sinh tử nhiếp nhau. Kinh Vô Thượng Y ghi: "Có bốn loại sinh tử: một là phương tiện, hai là nhân duyên, ba là hữu hữu, bốn là vô hữu sinh tử". Như phần đoạn sinh tử có bốn loại nạn: một là phiền não nạn, hai là nghiệp nạn, ba là báo nạn, bốn là quá thất nạn. Phiền não nạn nghĩa là vô minh, ái, thủ, nghiệp nạn hành hoàn toàn và có thiểu phần. Báo nạn tức là năm quả của thức v.v... đều sinh lão tử. Quá thất nạn nghĩa là sinh, dị, diệt, ưu, bi, khổ não, vì biến dịch bốn loại, như thứ lớp thí dụ kia tức là Sở tri chướng làm phương tiện, hữu phân biệt nghiệp làm nhân duyên. Sở đắc biến dịch làm hữu hữu, vì năm uẩn có sinh, dị, diệt v.v... làm vô hữu sinh tử, tức là dụ cho lỗi kia, tức là biến dịch trên sinh, dị, diệt v.v... thuộc về hành khổ, lại không phải quả khác. Nói Vô hữu sinh tử, chuẩn theo đây mà nói niệm niệm có bốn, không đồng với người xưa. Phương tiện sinh tử, ở nơi Địa đồng, nhân duyên sinh tử bốn Địa, năm Địa, sáu Địa, hữu hữu sinh tử Địa thứ bảy, thứ tám, thứ chín, vô hữu sinh tử ở Địa thứ mười. Nhiếp luận đời Tùy, Đường đều không văn, kinh Vô Thượng Y và luận Thật Tánh cũng không phối hợp Địa.
Tây Minh giải thích: Vô minh chi gọi là phương tiện, sở phát hành chi gọi là nhân duyên, thức v.v... ám chi gọi là hữu hữu, sinh, tử chi gọi là vô hữu. Nay cho rằng ít trái với văn, tức là vì vô minh dụ nói nghiệp nạn, tức là thiểu phần của hữu chi, cũng nhân duyên nhiếp, còn lại lược không luận. Chuẩn theo luận Sớ và quyển 7 trước, Đẳng vô gián duyên đều đã biện luận rộng.
Luận: Vị vô thỉ đến nay v.v...
Giải thích tịnh tương tục, vì nương theo bản thức, Thức thứ tám Vô lậu, chủng tử của Pháp nhĩ cho là nhân, do chuyển thức thường thường huân tập phát, cho là duyên, có tịnh thứ tám hiện hành tương tục, tức là cho đến cứu cánh trở xuống giải thích thành tương tục.
Hỏi: Thức thứ bảy cũng nối tiếp, vì sao không nói?
Đáp: Chẳng phải giữ gìn chủng tử thức, nên không nói. Nhưng cảnh trí này chỉ chủng tử của bản hữu làm nhân, có thể sinh ra sở sinh hiện thức gọi là mới khởi, có thể giữ gìn chủng tử, cũng gọi là chủng tử. Nên luận này nói chuyển được thỉ khởi thanh tịnh chủng tử thức, chẳng gọi là chủng tử, không thể nói do mới huân tập thù thắng, do Thức thứ sáu, thứ bảy huân tập thành chủng tử của cảnh trí, nói đây làm Phật. Nói đắc được mới khởi thanh tịnh chủng tử thức, vì công đức của Phật chỉ Phật và Phật mới có thể biết. Bồ-tát không biết, duyên vì sao huân tập thành? Cũng không nói danh ngôn huân tập, chẳng phải cảnh kia, là duyên theo cảnh của tên gọi, chẳng duyên theo sự, quả được cũng như vậy, nên chỉ chủng tử của bản hữu được sinh, như Vô lậu đầu, do huân tập cái khác phát ra, nhân đầy đủ mới sinh, thành sự cũng như vậy.
Luận: Như vô duyên dụng v.v...
Vặn hỏi Luận sư An Tuệ, trí của Phật và Bồ-tát cũng chẳng phải trí phẩm, không phải Kiến phần có thể duyên theo dụng, như hư không v.v... Hộ Pháp có thể như vậy. Nan-đà như thế nào? Chỉ một Kiến phần lại không phải dụng khác. An Tuệ lại nói, nếu có dụng mới là năng duyên, nên có lỗi vô cùng. Kiến phần không khởi dụng của năng duyên, nên không phải năng duyên. Giải thích rằng, căn cứ theo đây chẳng phải Nan-đà vặn hỏi, chỉ Hộ Pháp v.v... Nếu như vậy cũng có lỗi vô cùng. Nếu kiến nhập diệt không phải có dụng, nên có lỗi bất định?
Đáp: Không phải lỗi vô cùng, vì dụng của Kiến phần từ thể, cũng có thể chẳng cần tác dụng.
Luận: Do lý thú này v.v...
Tổng kết phần trên. Sớ ghi: Năm, tám tên, thức nhập vào ý thức, nhiếp chưa thấy văn, nếu như vậy tên thứ bảy ý hợp gọi là ý thức, chuẩn theo đâu được biết?
Đáp: Thứ bảy riêng gọi là ý, đồng gọi là thức, thông riêng hợp với tên gọi, nên quyển 4 trước ghi: "Y chủ thích kia tức là Trì nghiệp thích này", nên biết chỗ khác đều gọi là ý thức.
Luận: Nhiếp Đại thừa nói v.v...
Nhiếp luận quyển 4 nói, nương theo tha khởi làm sở biến kế, tướng, chất đồng thời là đúng, nên luận này nói biến kế tâm đều với Sở duyên duyên, lựa ra Viên thành thật, vì tướng và chất không phải tương tợ, cho nên vốn giải thích gần gũi Tướng phần nhất định Y tha khởi, bản chất bất định tức là trừ Vô vi, nên luận này nói thường xa lìa tánh trước.
Hỏi: Năng chấp của An Tuệ biến ở tâm nào? Đáp: Căn cứ theo năng kế trước, biến ở tám thức.
Hỏi: Nếu như vậy An Tuệ tự thừa nhận Thức thứ tám chẳng phải sơ, tuệ đồng thời, vì sao phải có chấp?
Đáp: Căn cứ theo bản kế kia, lẽ ra thừa nhận có, chỉ tướng vi tế không nói hai thứ đồng thời. Nay ngài Hộ Pháp trách, nêu ra kinh luận nào? Thức thứ tám được cùng với hai thứ si, tuệ đồng thời, nếu thừa nhận được đồng thời, thường hành bất cộng nên ở Thức thứ tám. Nếu nói tuy chấp chẳng phải vô minh đồng thời, tức là vặn hỏi rằng ngã chấp nhất định do vô minh, mới bắt đầu được khởi, tức là không phải vô minh, vì sao khởi chấp? Nên nếu có chấp nhất định có vô minh. Chuẩn theo vặn hỏi này, văn trước nói hai chấp nhất định cùng với vô minh đồng thời, sư kia dứt chống chế.
Lại nói: Không nói vô minh có tánh thiện, dưới chỉ vấn nạn tâm thiện khởi cũng có chấp, tức là si và vô si, hai pháp nên đồng thời, nếu thừa nhận như vậy là trái với kinh Anh Lạc Bản Nghiệp. Sáng, tối một tướng; thiện, ác một tâm, là kệ của Luận sư ngoại đạo nước Bình Sa, vì sao không đồng thời chánh tương vi?
Hỏi: Ngài An Tuệ có thể chấp ở nơi tâm Vô lậu phải không? Đáp: Nếu chuẩn theo An Tuệ luận Nhị Thập Duy Thức giải thích
Bồ-tát Thập địa Vô lậu cũng có, do luận này chỉ nói Như Lai hậu đắc lẽ ra có chấp, trước nói tám thức, Vô lậu tâm, căn cứ theo hiển bày xứ mà nói.
Hỏi: Kiến, tướng của An Tuệ đều là sở chấp, Thế Tôn tức là không có, vì sao nay vặn hỏi kinh nói Phật trí hiện ra nơi thân sĩ v.v...? Đáp: Sư kia giải thích rằng: Căn cứ theo tăng thượng duyên, nói Phật đã hiện, căn cứ thật hữu tình có thể cảm được biến, như việc thuyết pháp, do đây luôn luôn vặn hỏi, nếu không phải duyên dụng, nên chẳng phải trí v.v... tức là thành tựu duyên dụng, lại thành hiện tướng, lại cũng không lỗi.
Luận: Tuy mỗi mỗi thể là một mà tợ như hai loại sinh.
Vốn giải thích như Sớ. Yếu Tập ghi: "Các giải thích nói đồng mà ý ít khác", có thích hợp với An Tuệ, tướng, kiến hai phần từ duyên sinh, là sư Hộ Pháp căn cứ theo mình hay là người khác, chẳng cho rằng An Tuệ thừa nhận từ chủng tử khởi, như nói tập khí là thuộc về Tướng phần, đây là ý chủng tử của An Tuệ chẳng phải Tướng phần nói là Tướng phần. Hộ Pháp nương theo mình mà vặn hỏi người khác. Nay cho rằng An Tuệ vốn chấp chủng tử, nương theo tự chứng phần, nghĩa dụng của công năng, chẳng phải Tướng phần nhiếp. Quyển 2 trước ghi: "Giả pháp như không có, chẳng phải nhân duyên", nếu là Tướng phần làm sao được nói như vô? Thể tức là vô, lại thừa nhận tự chứng phần, duyên sinh chẳng phải vô nên có chủng tử, chủng tử tức là chẳng phải tự chứng phần, năng sở sinh khác nhau, nhân quả tánh khác nhau, lại tự chứng duyên. Bồ-tát Hộ Pháp dùng lý thỏa thích này, chẳng phải tướng là gì? Nên lập ra vặn hỏi này, nếu nói Kiến phần Tướng phần từ chủng tử, sinh cũng chẳng phải chấp kia, căn cứ theo đạo lý nào? Theo mình vặn hỏi người khác nên biết rằng: Nếu duyên đã sinh bên trong Tướng phần, Kiến phần chẳng phải Y tha khởi; thí dụ tự chứng kia cũng là vô, vô không phải nhân khác, là cùng thừa nhận nghĩa. Lại quyển 4 trước ghi: "Mười tám giới chủng tử sẽ thành lẫn lộn v.v...", nên thừa nhận Tướng phần Kiến phần cũng từ chủng tử sinh không như vậy đây nói rỗng không, không được lợi ích.
Hỏi: Tướng, kiến của An Tuệ tức là Biến kế sở chấp, vì sao Nhiếp luận ghi: "Chỉ lượng chỉ hai đều gọi là Y tha"?
Tây Minh có ba giải thích:
1. Phần tự thể của thức cùng với chủng tử của Tướng phần, Kiến phần là chỗ nương, giả nói tự thể gọi là Kiến phần, Tướng phần, chẳng phải chấp lấy Kiến phần, Tướng phần, gọi là Y tha khởi.
2. Tự chứng phần trên nương tựa Kiến phần Tướng phần hiện ra, do đạo lý này, nói Kiến phần Tướng phần gọi là Y tha khởi.
3. Căn cứ theo thật Kiến phần Tướng phần ý chấp lấy sở y, chẳng phải ngay nơi hai phần làm Y tha khởi ba giải thích này. Thứ nhất do tự chứng và chủng tử của Kiến phần Tướng phần làm chỗ nương, tức là giả nói tự chứng làm Kiến phần, Tướng phần. Thứ hai do Kiến phần Tướng phần nương theo Y tha hiện ra, nói Kiến phần Tướng phần này, giả gọi là Y tha. Thứ ba nêu hai loại Kiến phần, Tướng phần hiển bày sở y, gọi là chỉ hai.
Luận: Phẩm Hậu đắc trí hai phần nên gọi là Biến kế sở chấp.
Hỏi: Kiến phần, Tướng phần của An Tuệ là kế sở chấp. Phật quả sẽ là vô, vì sao nay nói hai phần của Vô lậu nên gọi là biến kế?
Đáp: Bản kế là vô, kia nương theo vặn hỏi trước, nếu không phải Kiến phần, vô có thể duyên dụng, do lượng lập hữu, lại giáo pháp chứng thành, thành tựu Phật được hữu; nên làm ra vặn hỏi này.
Hỏi: Ngài An Tuệ vốn chấp Phật không phải Kiến phần Tướng phần, vì sao trí duyên theo chân? Vì sao trí duyên theo tục?
Đáp: Duyên theo tự chứng phần gọi là tục, duyên theo như gọi là chân.
Hỏi: Địa vị của nhân Vô lậu cũng thừa nhận có chấp, thế nào gọi là hiện lượng, tỷ lượng, phi lượng v.v... lại gần gũi được duyên theo như chăng?
Đáp: Căn cứ theo duyên vào tâm khác, nói rằng không biết như Phật trí cũng không gần gũi duyên theo như, địa vị của nhân gọi là Vô lậu, tên gọi duyên theo như, tên gọi duyên theo hai không v.v... Căn cứ theo vô minh dần dần nhỏ, tên gọi làm Vô lậu duyên theo như duyên theo hư không, chia làm phàm thánh, nên các tự chứng địa vị nhân không thể rõ ràng gần gũi được. Hiện lượng, tỷ lượng, phi lượng, chuẩn theo tư có thể biết.
Hỏi: Luận kia thừa nhận địa vị nhân, thể của Kiến phần Tướng phần là vô, lại không gần gũi được tự chứng và như, lấy gì làm thân Sở duyên duyên. Quyển 7 ghi: "Thân Sở duyên duyên năng duyên đều là hữu".
Đáp: Luận kia chấp thân Sở duyên duyên, chẳng phải nhất định có thể.
Nếu như vậy vì sao dưới đây vặn hỏi rằng: Lại nếu hai phần kế sở chấp, nên như sừng thỏ, chẳng phải Sở duyên duyên?
Đáp: Lược có ba giải thích:
1. Luận kia thừa nhận sừng thỏ chẳng phải nhân sinh, nên chẳng phải Sở duyên duyên, hai phần nhân sinh thành Sở duyên duyên nay. Căn cứ đây không đồng với sừng thỏ kia, nên được làm vặn hỏi.
2. Bản kế tuy không phải thân Sở duyên duyên, tâm cũng được sinh, vì lập ra Duy thức, nhưng ngài Trần Na đã nói, không có cái gì là không phải Sở duyên duyên, là phá được chấp khác, thành tựu cái khác là ngữ. Nay Hộ Pháp tự phá kia, nên làm tỷ lượng.
3. Hộ Pháp căn cứ theo Nhiếp Đại thừa, có năng biến kế sở biến kế, đều Y tha khởi, sở biến kế này tức là sở Sở duyên duyên.
An Tuệ cùng thừa nhận, thí dụ thân Sở duyên duyên cũng sẽ có thể nói Sở duyên duyên, chuẩn theo Vô Trước, Trần Na đều có hai loại thân sơ Sở duyên duyên. Nay phá nương theo cùng thừa nhận giáo, lập lượng phá kia, chẳng phải là ngài Hộ Pháp căn cứ theo tự phá tha, giải thích này là thắng. Nay văn của luận này nêu trái phá lượng, không nêu thuận thành, nêu thuận thành nên nói Phật thân Sở duyên duyên, Tướng phần, Kiến phần hữu, thí dụ Tướng phần Kiến phần khác cũng sẽ là hữu, là Sở duyên duyên như Tướng phần Kiến phần của Phật, nhưng ban đầu trái với thành. Nếu hai phần vô, nên chẳng phải Sở duyên duyên, thể chẳng phải hữu, như sừng thỏ v.v... An Tuệ nếu thừa nhận cũng Sở duyên duyên, năng, sở biến kế là thuộc về loại nào? Nếu sở biến kế là Y tha hữu, nếu năng biến kế chẳng phải là bên trong tâm, nếu kế sở chấp chẳng phải Sở duyên duyên, không nói vô pháp làm sở biến kế. An Tuệ tự thừa nhận địa vị của nhân, các tâm đều năng kế, đã nói năng kế tức là gá vào Y tha là sở biến kế, nên Kiến phần, Tướng phần vô, chẳng phải Sở duyên duyên. Nên nay vặn hỏi rằng Kiến phần Tướng phần thể vô, chẳng phải Sở duyên duyên.
Hỏi: Nếu kế sở chấp chẳng phải Sở duyên duyên, vì sao dưới nói làm cảnh phàm Thánh?
Đáp: Cảnh rộng duyên hẹp, nếu chẳng phải sở duyên, căn cứ theo trí xa duyên, cũng được gọi cảnh, Tướng phần của thân duyên là Sở duyên duyên, năng duyên đều hữu, lý của Duy thức, chẳng phải chất hữu mới khởi tâm.
Luận: Lại các tập khí v.v... Vốn giải thích như Sớ.
Tây Minh nói: Lại các chủng tử là tướng thứ tám, nếu là sở chấp nên chẳng phải nhân duyên, vì vô thể, như hoa đốm trong hư không v.v... nay cho rằng không đúng. Nếu thừa nhận chủng tử là thuộc về Tướng phần, luận kia chấp tướng vô, vì sao Hộ Pháp quyển 2 vặn hỏi rằng giả pháp như vô thể tức là vô? Lại không nên nói đã chẳng phải một, khác, lẽ ra như bình v.v... là quả chẳng phải thật, bình nương theo bốn trần, chẳng phải hoàn toàn vô, không đồng với hoa đốm trong hư không v.v...
Luận: Hai không sở hiển v.v...
Vốn giải thích như Sớ, có nói: Chân như làm hai không hiển là do thật vô hai ngã và không vô hai ngã, lìa tăng giảm này, mới là Viên thành.
Yếu Tập ghi: "Không tuy chẳng phải biểu thuyên cùng với biểu thuyên là nhân, nên gọi là không hiển, trí duyên theo hai không, chưa hiển bày được chân", nay cho rằng không đúng. Lúc trí duyên theo không, tuy chưa chứng ngay, nhờ vào năng hiển này. Nếu liền do không mới hiển bày chân, trí chính quán về không Chân như chưa hiển bày, trí chứng được chân lại không làm ta không không thể trí quán về không, không tự hiển bày chân, lìa trí quán không, không tự hiển bày chân, lúc nào có thể hiển bày? Trong luận Phật Địa chỉ nói đứng về gia hạnh quán gọi là cộng tướng, không nói do tánh không, hiển bày gọi là cộng tướng.
Luận: Giống như huyễn sự v.v... như Xu Yếu và luận Biện Trung Biên sớ thuật.
Hỏi: Như nương tựa gương duyên trở lại thấy tự chất, như hình tượng trong mặt trăng, ai là chất? Giải thích rằng: Vì mặt trăng là duyên trở lại thấy bản chất, kia là chất của biển lớn núi lớn, cá.
Hỏi: Nếu như vậy đâu thấy được chướng ngại sắc bên ngoài ư?
Giải thích rằng: Thừa nhận cũng không lỗi, như cách ngăn lưu ly thấy sắc bên ngoài, lại chẳng phải chướng bên ngoài, nhớ vào vầng trăng kia không thọ tầm mắt, dưới thấy núi biển, như nhờ vào gương trước mặt, tự thấy trái.
Luận: Ba Duy thức Chân như.
Sớ ghi: Thấy thức Chân như, liền có thể biết đây, ý nói sở quán như. Yếu Tập ghi: "Có giải thích nói Tam Tạng giải thích rằng: Hoặc dùng quán trí gọi là Chân như, nếu không như vậy liền cùng với văn sau trái nhau, nhiễm tịnh Duy thức sẽ thông với ba tánh", ý này nếu nói sở quán như, biến khắp ba tánh, nên thông với ba tánh. Nay cho rằng Sớ giải thích là chính, vì sao? Nếu chấp lấy năng quán, gọi là Duy thức như, vì sao quyển 77 ghi: "Gọi tất cả hành chỉ là duy tánh?" Lại vì sao nói do tướng Chân như rõ biết được Chân như, tất cả các pháp bình đẳng bình đẳng, do năng quán trí tuy thuộc về hành, chẳng phải tất cả hành, lại năng quán trí hàng Nhị thừa đều vô, vì sao bình đẳng. Nếu nói đứng về sở quán, nói tức là chẳng phải năng quán; nếu như vậy tức là chấp lấy sở quán Duy thức, vì sao không thông với hai tánh đầu nhiếp?
Đáp: Đứng về sở quán tánh tức là chỉ thành thật, căn cứ theo thuyên hiển, có thể thông với ba tánh. Luận nói: Tùy theo tướng không chướng ngại thông với cái khác.
Luận: Không, hữu ba v.v...
Sớ không chia ra giả thật, chỉ tổng tướng giải thích. Yếu Tập ghi: "Hoặc không vô ngã, ban đầu giữa tánh, đế đều thật. Sau tức là tánh thật tế giả". Nói có nói không vô ngã đều tánh, đế thật, là trái, hai không sở hiển và sở chấp tánh chẳng phải Khổ đế. Nay cho rằng không đúng, một sớ văn không phán phân, tầm thinh đây giải thích lý như vậy. Nếu nói hai không sở hiển và sở chấp tánh là chẳng phải Khổ đế, vì sao tự đoạn nói không vô ngã ban đầu giữa tánh, đế đều thật? Vì không vô ngã hai loại hành tướng và kia tương tợ, cũng hành tướng này được hành cảnh. Biến kế tánh vô, gọi là không vô ngã Viên thành thật tánh, không vô ngã tánh cũng không vô ngã, bản tánh của Khổ đế chẳng phải ngã sở nên không, chẳng phải nhất thường nên vô ngã, năng quán sở quán hành tướng đều thông, nên nói đều là thật. Căn cứ theo thật hai tánh chẳng phải Khổ đế nhiếp, hai hành tướng trước sau tánh thật đế giả, nên biết khổ dưới bốn hành đều ba, như lần lượt nương theo biến kế, Y tha, Viên thành, đều chia làm ba hành, đầu sau đều tánh thật. Luận Biện Trung Biên nói tức là tánh kia, từ đế đều giả, giữa tức là Y tha, tánh, Đế đều thật nhưng giữa Y tha, Vô lậu Y tha là Đạo đế nghiệp, Hữu lậu Y tha là Khổ đế nhiếp, nhiếp thiểu phần của Y tha. Chuẩn theo Pháp sư Biện Trung Biên sớ giải thích, hành tướng của vô thường, nói nay vô thường đồng duyên với ba tánh, nói năng duyên hành tướng có kế sở chấp v.v... thật chẳng phải hành tướng này thông với tánh trước sau; lại chuẩn theo lý. Vô thường duyên với ba Đế, tánh ban đầu chẳng phải thuộc về Đế, nói duyên theo kia, thông với tất cả tâm, duyên vô thường ngữ, giả nói làm vô thường hành thật chẳng phải thuộc về hành, lại vì tánh kia giả gọi là vô thường, các hành tướng dưới chuẩn theo đây nên biết. Nay chuẩn theo giải thích này, vô thường khổ v.v... là hành tướng của Khổ đế, chẳng phải hành tướng của tánh trước sau, nói tánh trước sau đều là giả nói. Chuẩn theo không vô ngã nhiếp về tánh trước sau; cũng là giả nói, kia chẳng phải Đế nhiếp, nên chẳng phải hành tướng này.
Nay lại giải thích thêm, trước giải thích căn cứ theo Tam thừa Khổ đế, Tập đế v.v... không nhiếp Chân như, nương theo tông của Đại thừa, bốn Đế cũng nhiếp Viên thành thật tánh. Nên kinh Niếtbàn ghi: "Thanh văn có thể có Đế mà không phải thật, Bồ-tát cũng có thật thật tức là Chân như", Bồtát cũng có thể nương theo bốn Đế rõ ràng, quán Viên thành thật, nên Khổ đế Tập đế cũng nhiếp hai thứ kia, tuy chẳng phải Khổ đế Tập đế mà là tánh kia. Nếu nương theo giải thích này bốn hành ba hành mỗi mỗi sau tánh, Đế đều thật, lại tà hạnh như v.v... tức là Đế chân tánh, căn cứ theo thuyên hiển bày thể Chân như thông với bốn Đế, nên bốn hành ba hành sau tánh, Đế đều thật.
Chưa lìa trói buộc tập, giả thật chuẩn theo mà biết, đều làm hai giải thích, do là tánh tập hợp, chưa lìa trói buộc, lìa trói buộc chẳng phải tập hợp tức là Trạch diệt, căn cứ theo chân tánh của chưa lìa trói buộc tập, gọi là tập, tánh, Đế đều thật, do nghiệp phiền não, gọi là tập, đây tức là Đế giả.
Diệt đế sơ diệt. Yếu Tập có ba giải thích: Ban đầu giải thích đế thật tánh giả, tự tánh không sinh, là Trạch diệt tức là cùng với thứ hai không khác, sau giải thích tánh, đế đều thật, vô nên không sinh, tánh thật có thể như vậy, thường nên không sinh, cùng với bản tánh diệt khác gì, nên chỉ thứ hai nương theo Sớ chính.
Trung diệt, nương theo Pháp sư Biện Trung Biên sớ, hai sư Hộ Pháp, An Tuệ giải thích khác nhau, nương theo Hộ Pháp nói: Đoạn hai thủ này đã được bất sinh, bất sinh là Trạch diệt, do nương theo Y tha khởi mà được diệt, giả nói làm Y tha khởi, ý này tức là tánh giả đế thật.
An Tuệ giải thích rằng: Hai thủ tức là Biến kế sở chấp. Sở y của hai thủ phần tự thể của thức là Y tha khởi, sở y của hai thủ phần tự thể đoạn được bất sinh, bất sinh là diệt, giả gọi là Y tha. Nay nói hai thủ ý chấp lấy sở y tự thể của thức.
Ba bản tánh diệt, luận Biện Trung Biên ghi: "Nghĩa là hai loại cấu tịch tức là Trạch diệt và Chân như", Pháp sư Trung Biên sớ nói An Tuệ cho rằng hai loại cấu tịch, một nhiễm cấu tịch tức là Phiền não chướng đoạn, nghĩa là Trạch diệt, hai bất diệt cấu tịch tức là Sở tri chướng đoạn, nghĩa là Chân như diệt, chung giải thích rằng: Do cấu tịch nên dung được hai loại nghĩa là Trạch diệt và Chân như, hoặc cấu tịch nên được Trạch diệt, hoặc tánh vắng lặng tức là Chân như, chung hợp hai loại, nên nói hai loại cấu tịch. Nhưng luận Thành Duy Thức ghi: "Hai thủ diệt tức là Trạch diệt", luận Biện Trung Biên nói Trạch diệt tức là thuộc về bản tánh, hai luận nói khác nhau, luận Trung Biên căn cứ theo sở y sở đắc, hai loại đều khác nhau, sở y Y tha giả tên gọi làm hai thủ diệt, hoặc sở đắc thuộc về bản tánh. Luận Duy Thức không căn cứ theo sở y chỉ nói rõ sở đắc, giả gọi là Y tha, nên chia ra Trạch diệt, ý này do luận Trung Biên nói hai, hai thủ diệt, tức là năng thủ, sở thủ, hai thủ bất sinh, ba bản tánh diệt, nghĩa là hai loại cấu diệt tức là Trạch diệt và Chân như, do luận Biện Trung Biên nói sở y tức là năng thủ sở thủ làm hai thủ diệt, nói sở thủ tức là đoạn hai thủ, đã được Trạch diệt nên chia làm hai, luận Duy Thức không nói sở y hai thủ, chỉ nói rõ sở đắc đoạn hai thủ đã được Trạch diệt, giả gọi là Y tha, thật là Trạch diệt, nên ở trong bản tánh diệt, chia ra xuất Trạch diệt, gọi là hai thủ diệt, tức là đế thật.
Luận Biện Trung Biên nói sở y hai thủ vô gọi là hai thủ diệt, tức là sở diệt kia gọi là diệt, thật Y tha khởi, tánh thật đế giả. Nếu nương theo thức biến, gọi là Trạch diệt, cũng đồng với giải thích này. Bản tánh diệt là nương theo luận Trung Biên Trạch diệt làm bản tánh, tánh, đế đều thật, Chân như hai thuyết. Nếu chỉ căn cứ theo duyên tánh thật đế giả, thuyên chỉ hợp lời, tánh đế đều thật. Chuẩn theo kinh Niết-bàn Đế nhiếp pháp hết, Chân như chẳng phải diệt, tức là nhiếp pháp không hết, hoặc thật tánh của diệt, Chân như gọi là bản tánh diệt, cũng là tánh Đế đều thật.
Đạo đế ba loại. Yếu Tập ghi: Ba loại đều tánh giả đế thật, biết sở chấp vô, đoạn được nhiễm Y tha, chứng được lý Chân như, phần tịnh Y tha chẳng phải sở đoạn chẳng phải chứng, nay cho rằng không đúng. Ba loại làm chứng đạo có thể chứng được Viên thành thật, thường vô thường nên chẳng phải thuộc về Viên thành, lậu Vô lậu cũng thuộc về Viên thành, Chân như đã chứng thành thật, bốn trí có thể chứng thành thật, nên tánh, Đế đều thật.
Luận: Ba giải thoát môn v.v...
Nếu luận Tát-bà-đa chuẩn theo luận Câu-xá 28 thì nói Không Tam-ma-địa nghĩa là không, phi ngã, hai loại hành tướng tương ưng đẳng trì, Vô tướng Tam-ma-địa nghĩa là duyên theo Diệt đế, bốn loại hành tướng tương ưng đẳng trì. Kinh Niếtbàn lìa mười tướng nên gọi là Vô tướng, duyên theo Tam-ma-địa được tên Vô tướng, mười tướng là gì? Nghĩa là năm cảnh là năm, hai loại nam, nữ, ba tướng Hữu vi. Vô nguyện Tam-ma-địa nghĩa là duyên theo Đế khác, mười loại hành tướng tương vi đẳng trì, có duyên do gì?
Đáp: Luận kia nói chẳng phải thường khổ, nhân có thể nhàm chán hoạn, đạo như thuyền bè, nhất định sẽ bỏ, có thể duyên theo định kia, được tên vô nguyện đều là vượt qua sở đối hiện tại, ý này là muốn hướng đến Niết-bàn, nên gọi là vượt qua sở đối.
Hỏi: Nếu như vậy phi ngã tướng là Khổ đế hành, vì sao chẳng phải vô nguyện?
Đáp: Luận kia nói chẳng phải đã nhàm chán bỏ, vì cùng với tướng Niết-bàn tương tợ nhau, ba loại này đều là hai loại thế và xuất thế gian, giữ gìn khác nhau. Trung Vô lậu gọi là giải thoát môn, có thể cùng với Niết-bàn làm nhập môn, lại có trọng, chỉ định của Hữu lậu, nhàm chán Thánh đạo, Vô lậu không như vậy, tức là bậc Vô học không lúc nào giải thoát ban đầu không không, duyên theo Vô học trước. Không Tam-ma-địa chấp lấy không tướng kia, không tướng thuận nhàm chán, thù thắng phi ngã, vô nguyện vô nguyện duyên theo Vô học trước. Vô nguyện đẳng trì, chấp lấy tướng phi thường, không chấp lấy khổ nhân v.v... chẳng phải Vô lậu (không chấp lấy khổ và tập nhân tập sinh ra nguyên do của duyên) không chấp lấy đạo v.v... làm yểm xả (vì pháp Vô lậu không thuận nhàm chán). Vô tướng vô tướng nghĩa là duyên theo Vô học vô tướng, Tam-ma-địa, phi trạch làm cảnh, vì pháp Vô lậu không phải Trạch diệt (giải thích này không duyên theo nguyên do của Trạch diệt), chỉ chấp lấy tĩnh tướng, chẳng phải diệt, diệu, ly, lạm dụng phi thường, (giải thích không chấp lấy nguyên do của tướng diệt), là Vô ký tánh (giải thích không chấp lấy nguyên do của diệu, ly) chỉ người trong ba châu nương theo mười một địa trừ bảy cận phần.
Theo thuyết của Đại thừa, các văn không đồng, ban đầu nói về nhiếp hành, sau nói rõ hành cảnh.
Luận Du-già 55 ghi: "Có bao nhiêu không hành, nghĩa là hai hành, tức là hai hành Khổ đế sau". Có bao nhiêu vô nguyện hành? Tức là hai hành trước Khổ đế và Tập đế tất cả. Có bao nhiêu vô tướng hành? Nghĩa là Diệt đế tất cả. Có bao nhiêu thanh tịnh nhân sở hiển hành? Nghĩa là Đạo đế tất cả, ý này không, vô ngã hành thuận theo không hành. Sáu là Hữu lậu, không thể nguyện. Bốn là Diệt đế không phải mười tướng, đạo dưới bốn hành có hai giải thích:
1. Thông với ba thoát môn, luận nói rằng là thanh tịnh nhân sở hiển hành ba giải thoát môn đều thanh tịnh nhân, có thể đắc được Niết-bàn, vì không, vô ngã thông với các đế, vì là Hữu vi không thể nguyện, không phải tướng của nam, nữ v.v...
2. Chẳng phải ba nhiếp, chỉ nói thanh tịnh nhân hành được hiển bày, không nói ba thoát môn, đạo dưới bốn hành, chẳng phải không vô ngã, không phải là không hành, chẳng phải Hữu lậu, nên không phải là vô nguyện, là Hữu vi nên không có cái gì không phải mười tướng, nên chẳng phải ba thân, trước giải thích là thắng, đây là "lại nữa" thứ nhất.
Theo quyển 68 ghi: "Không hành, vô ngã, hành kiến gọi là không hành, hành kiến khác gọi là vô nguyện hành, một hành kiến gọi là vô tướng hành, nghĩa là đối với Diệt đế lìa trói buộc hành kiến", ý này tức là nói không và ngã hành là không hành, vô thường, khổ, tập, đạo tám thứ là vô nguyện hành, Diệt đế dưới bốn thứ là vô tướng hành, ý này Đạo đế là Hữu vi nên thuộc về vô nguyện hành, nghĩa khác chuẩn theo trước, đây là "lại nữa" thứ hai.
Theo luận Du-già quyển 12 ghi: "Thế nào là không Tam-ma-địa? Không có bốn thứ, một quán sát không", nghĩa là quán sát các pháp, không, vô thường, lạc cho đến không vô ngã và ngã sở v.v... đây có hai giải thích:
1. Khổ dưới bốn hành đều là không hành, không phải thường, lạc, ngã và ngã sở kia, đều gọi là không.
2. Chỉ nói vô thường, vô lạc, không nói là khổ, chỉ không vô ngã là không đẳng trì.
Thế nào là vô nguyện tâm Tam-ma-địa? Nghĩa là đối với năm thủ uẩn, tư duy vô thường, hoặc tư duy khổ, tâm trụ theo một duyên, chuẩn theo đây cũng có hai giải thích:
1. Đã nói đối với năm uẩn quán vô thường, khổ không với khổ tập dưới sáu thứ hành tướng chỉ nói vô thường khổ, nêu quả hành tướng, nhiếp bốn loại tập nhân, chuẩn theo đạo lý này, không giữa hai giải thích, trước giải thích cũng được.
2. Căn cứ theo văn chỉ vô thường, khổ gọi là vô nguyện hành, tức là không nhiếp tập, vì đối với quả trên phần nhiều chấp thường, lạc mà khởi nguyện cầu, nay riêng đối trị đây, chỉ khổ dưới, vô thường, khổ hai thứ làm vô nguyện hành.
Thế nào là vô tướng tâm Tam-ma-địa, nghĩa là ngay nơi các thủ uẩn kia diệt, tư duy vắng lặng, tâm trụ nơi một duyên, chuẩn theo đây vô tướng nhiếp bốn hành của diệt, tánh vô tướng. Đạo bốn hành tướng chẳng phải ba đẳng trì, nghĩa chuẩn theo giải thích trước, đây là "lại nữa" thứ ba.
Quyển 12 kế dưới nói: Lại diệt đạo đều lẽ ra hiểu rõ, ý nói vô tướng hành đã hiểu rõ, tức là diệt, đạo tám loại đều vô tướng môn, Diệt đế là quả, đạo là công đức, đều là được rõ, tức là vô tướng môn, nhiếp diệt đạo tám loại, căn cứ theo năng vô tướng và tánh vô tướng, đây là "lại nữa" thứ tư.
Lại nói: Quyển 12 kế dưới nói: Nếu ở nơi chỗ này không có vật kia do đạo lý quán nó là không, nên gọi là không tánh, tức là sở quán không không thể cầu mong, nên gọi là vô nguyện, tức là đây xa lìa tất cả hành tướng, nên gọi là vô tướng, chuẩn theo đây đã nói mười sáu hành tướng đều thuộc về ba loại, nương theo nghĩa của vô tướng, đây là "lại nữa" thứ năm.
Luận Du-già quyển 86 ghi: "Do ba giải thoát môn, sức tăng thượng nên lập ra bốn Ôn-đà-nam (tứ pháp ấn), tất cả hành vô thường, tất cả hành khổ là nương theo vô nguyện lập ra, tất cả pháp vô ngã là nương theo không mà kiến lập, Niết-bàn tịch tịnh là nương theo vô tướng lập ra", chuẩn theo đây được rõ ràng, vô nguyện nhiếp mười hai loại, vô thường thông với ba Đế, không nhiếp mười sáu hành tướng đều vô ngã, vô tướng nhiếp bốn hành, diệt là Niết-bàn, nương theo thông hành tướng, trước không phải sở nguyện, kế mới quán không, nhờ không chứng được diệt, đây là "lại nữa" thứ sáu.
Lại nữa, theo quyển 72 ba giải thoát cùng với năm việc trong tướng nhiếp, nếu tướng bên mười sáu hành tướng đều thông với ba nhiếp, luận kia nói như là năm việc bao nhiêu là không, là không cảnh, vô nguyện vô tướng hỏi cũng đồng chăng?
Đáp: Tướng thông với ba loại, cũng hai loại cảnh, ý này ba giải thoát môn lấy tướng làm thể, tức thiểu phần là năng quán, toàn phần là sở quán, đều thông với ba nhiếp, Đế hành là tướng nên tên thông với ba phần. Nếu căn cứ theo tên nói tên thông với ba Đế, thật chỉ khổ, đạo là Vô ký, chẳng phải Tập đế nhiếp, tùy theo âm thanh giả nói cũng là Tập đế, được thông với Vô lậu cũng thuộc về Đạo đế, nương theo tên hành tướng, thông với không, vô nguyện, nên ba Đế dưới bốn hành thiểu phần không, vô nguyện nhiếp. Nên luận kia nói tên chẳng phải ba loại, là hai loại cảnh, ý trừ vô tướng, nếu nương theo phân biệt khổ, tập, đế tám loại đều có thể ba loại nhiếp, năng quán thông với ba loại. Nếu căn cứ theo sở quán, không, vô nguyện nhiếp, luận kia nói rằng phân biệt thông với ba là hai loại cảnh, diệt dưới bốn hành không, vô tướng nhiếp. Luận kia nói Chân như chẳng phải ba loại, là không vô tướng cảnh, đạo bốn hành tướng, nếu nương theo năng quán thông với ba môn nhiếp, nếu căn cứ theo sở quán, không hành sở nhiếp. Luận kia nói Chánh trí thông với ba loại, là không sở hành cảnh, chuẩn theo trên được rõ ràng, nương theo tướng mười sáu đều thuộc về ba loại, căn cứ theo bốn loại khác mà nói, không nhiếp mười sáu hành tướng, vô nguyện nhiếp khổ, tập tám loại, vô tướng nhiếp diệt dưới bốn loại. Lại nói nếu không phải sai biệt, chung nói là không, vô nguyện, đây tướng đồng, chuẩn theo trong đây rõ ràng, nương theo tướng bèn không sai biệt, đồng với quyển 12, lại nữa thứ năm. Nay trong đây nương theo cảnh sở sở quán, chấp lấy nương theo bốn nhiếp khác, hành có khác nhau làm "lại nữa" thứ bảy.
Căn cứ theo quyển 74 và luận Hiển Dương quyển 6 nương theo ba tự tánh, như lần lượt kiến lập ba giải thoát môn, đều duyên theo một cảnh. Nếu căn cứ theo lời này, không giải thoát môn, không nhiếp đế hành, Biến kế sở chấp chẳng phải là Đế, vô nguyện giải thoát nhiếp khổ, tập, đạo mười hai tướng hành là Y tha vô tướng giải thoát nhiếp Diệt để bốn loại, đây là "lại nữa" thứ tám.
Luận Hiển Dương quyển 2 ghi: "Không vô tướng vô nguyện đều có sở tri và năng sở tri trí", nhiếp hành có hai, ban đầu lấy bốn đều làm cảnh sở quán, đoạn vọng chứng chân, ở trong sinh tử không khởi nguyện ít, luận kia nói không hành nghĩa là đối với các hành ngã không thể đắc, và trong các tướng, thế tục phân biệt, pháp không thể đắc, ý này quán nhân ngã, pháp ngã cả hai đều là không, cũng nhiếp Khổ đế, dưới không hành tướng, vì ngã và sở đều là không nên nhiếp hai hành tướng, vô tướng hành nghĩa là ở trong các hành, chúng sinh vô ngã tánh có thể đắc, và pháp vô ngã tánh có thể đắc, và ở trong diệt, diệt, tĩnh, diệu lìa hành, ý này quán Chân như và Trạch diệt làm vô tướng. Hai tánh của vô ngã tức là Chân như, căn cứ theo phế thuyên đàm chỉ lìa diệt, tĩnh v.v... chỉ nói hai Chân như, nếu thuyên, chỉ hợp rõ ràng tức là thuộc về tĩnh, diệu v.v... chuẩn theo đây vô tướng nhiếp bốn hành của diệt. Vô nguyện hành nghĩa là vô thường, khổ cho đến nói nhân, tập, sinh, duyên hành. Chuẩn theo đây tức là nhiếp vô thường, khổ và bốn hành tướng của khổ, tập. Chuẩn theo trên đã nói, đạo bốn hành tướng, chẳng phải ba sở nhiếp, chẳng vọng nên chẳng không, chẳng chân nên có tướng, Bồ-đề nên có thể nguyện. Nếu căn cứ theo hành tướng của năng quán, đạo có thể làm ra ba loại cũng nhiếp được ba loại, nên trước kia nói không có hai loại: một là sở, hai là trí. Hai loại còn lại cũng như vậy, lại nói duyên theo đạo của trí không, làm ra Đạo đế, Chân như, hành tướng, xuất hành tướng, đây cũng là không, ý này trí duyên theo cảnh của không, trí cũng gọi là không, Đạo đế đã nhiếp, gọi là trí không đoạn, còn lại chuẩn theo đây. Duyên theo đạo của trí vô tướng, làm ra Đạo đế, Chân như, hành tướng, xuất hành tướng, duyên theo đạo của trí vô nguyện làm ra Đạo đế làm ra Đạo đế, Chân như, hành tướng, xuất hành tướng đây cũng là vô nguyện, tuy năng sở khác nhau, đồng với quyển 55, ba môn đều nhiếp, văn quyển 55 có hai giải thích, nương theo giải thích trước đồng với luận kia, căn cứ theo giải thích sau đây tức là khác, đây là "lại nữa" thứ chín.
Luận Tạp Tập quyển 21, ba giải thoát môn nhiếp mười sáu hành cùng với luận Du-già quyển
12 đồng về tướng nhiếp tám loại nghĩa là Diệt đế, Đạo đế, ý ít có khác. Luận kia nói: Do kia không thể làm ra các tướng, vì đây diệt tánh vô tướng, năng quán trí làm ra vô tướng hành, có thể sai khiến các tướng các văn không đồng, đều căn cứ theo một nghĩa, lược như trước đã nói, rộng phiền phức tạm dừng lại, trước do rộng rõ ràng, nay lược bớt. Một là chuẩn theo quyển 55 không nhiếp hai hành, nghĩa là Khổ đế dưới không, vô ngã hành, vô nguyện nhiếp sáu nghĩa là Khổ đế dưới vô thường và khổ đều tập dưới bốn loại, do quán khổ quả nhân ở trong ba cõi không phải nguyện cầu, vô tướng nhiếp bốn loại, tức là bốn hành của Diệt đế, đạo hoặc thông với ba loại, hoặc chẳng phải ba loại nhiếp. Thứ hai chuẩn theo quyển 68 không nhiếp đồng với trước, vô nguyện nhiếp mười loại, Khổ đế hai loại trước, Tập đế Đạo đế đều bốn loại, vô tướng nhiếp bốn loại, Diệt đế dưới bốn hành. Thứ ba chuẩn theo luận Du-già thứ mười hai, không nhiếp bốn loại, hoặc chỉ nhiếp hai loại, nghĩa là không, phi ngã, vô nguyện nhiếp hai loại nghĩa là khổ, vô thường, hoặc có thể nhiếp sáu loại, đều Tập đế dưới bốn loại, vô tướng nhiếp bốn loại đồng với trước đã nói.
Thứ tư mười hai thuyết, nếu theo nên biết, vô tướng nhiếp tám loại, Diệt đế Đạo đế đều bốn loại, còn lại đồng với thứ ba. Thứ năm cũng mười hai thuyết, ba giải thoát môn đều nhiếp mười sáu hành tướng.
Thứ sáu nói chuẩn theo 86 vô nguyện nhiếp mười hai loại, chỉ trừ bốn loại của Diệt đế, không nhiếp mười sáu loại, vô tướng nhiếp bốn loại. Thứ bảy nói chuẩn theo 72, căn cứ theo tướng, tên gọi v.v... năm pháp rõ ràng: Một nói rằng theo mười sáu loại tướng đều thông với ba giải thoát nhiếp, không chẳng phải tướng, căn cứ theo tên gọi nhiếp, không và vô nguyện nhiếp ba Đế đầu, mười hai loại thiểu phần, có chẳng phải tên gọi, căn cứ theo phân biệt mà nói, Khổ đế, Tập đế tám loại hành đều thông với ba nhiếp, căn cứ theo chánh trí mà nói, không nhiếp bốn loại của Đạo đế. Căn cứ theo như như mà nói, không và vô tướng nhiếp bốn loại dưới của Diệt đế, nương theo tướng đồng với trước, nương theo bốn loại của tên gọi v.v... nhiếp liền có khác, hợp với thứ bảy khai thành mười, tên gọi v.v... nhiếp đế đều có rộng hẹp, nhiếp hành không đồng. Mười một nói chuẩn theo 74 không giải thoát môn không nhiếp mười sáu hành tướng, nương theo tánh biến kế lập ra không giải thoát, vô nguyện giải thoát nhiếp ba loại Khổ đế, Tập đế, Đạo đế, bốn mươi hai, vô tướng nhiếp bốn loại, tức là hành tướng của Diệt đế. Thứ mười hai nói nương theo luận Hiển Dương quyển 2 nói cùng với văn 55 đồng có mười một giải thích khác với văn 55, thành ra mười hai giải thích. Trước bày ra có thể biết, lược không nêu, chuẩn theo luận Hiển Dương v.v... giải thoát tức là môn, vì năng quán trí Vô lậu, lìa được trói buộc gọi là giải thoát. Nên luận kia nói nếu giải thoát nói là vô, chỉ là Vô lậu, tu tuệ chẳng khác, tức là Trì nghiệp thích, hoặc có thể chính hay làm giải thoát môn, Hữu lậu là xa phương tiện chẳng phải chính, không được gọi là Giải thoát môn, căn cứ theo xa phương tiện, Hữu lậu cũng phải, nương theo giải thích này, giải thoát tức là Niết-bàn, nhờ quán trí này làm môn, được nhập vào môn giải thoát, Y chủ thích. Căn cứ Trì nghiệp thích trước, giải thoát môn có ba, căn cứ theo Y chủ thích sau, thể của giải thoát có một, không thể nói là biết, do ba loại này không có thể làm môn kia, nên nói ba loại là môn của giải thoát hoặc ba môn của giải thoát.
Theo luận Hiển Dương quyển 2, không vô tướng nguyện đều thông với cảnh trí, tức là cảnh làm môn, nếu không phải cảnh kia, trí khởi như thế nào? Nếu cảnh chẳng phải kia, trí không xứng hợp cảnh, không gọi là chánh trí, trí xứng hợp với cảnh sinh mới gọi là chánh trí, nên năng quán trí dùng cảnh làm môn, như giáo cùng với trí và nghĩa làm môn, trí nhờ vào ngôn giáo, mới có thể ngộ lý, lý cũng nhờ vào giác mà mới được hiển bày, cùng với hai loại làm môn, ba giải thoát môn nên biết cũng như vậy, nhưng sở quán cũng gọi là môn, tức là sở biến tướng chưa được chân chứng. Nên luận Phật Địa đại không vô tướng làm sở nhập môn, rõ ràng có năng nhập, năng nhập tức là tri, hoặc năng quán trí gọi nó là môn, lý do trí hiển bày. Nói sở nhập môn là nhân trí làm cửa quả trí mới vào, như bốn thần túc, thần túc tuy tức là định, từ bốn nhân sinh ra định, cũng là định sinh ra, nên trí do trí nhập. Chuẩn theo đây mà nói lý thông với hai giải thích, nói hai không môn, nghĩa cũng chuẩn theo đây.
Luận: Thế tục có ba đều Trì nghiệp thích, do đây hai không có thể hiển bày rõ chân, chẳng phải ngay nơi Chân như, nên gọi là thế tục, hoặc chấp lấy đã hiển bày, mang theo tướng quán chân, chưa phải là thân chứng, mong phế bỏ thuyên chứng, nên gọi là hiển liễu, cũng là Trì nghiệp thích.
Luận: Thắng nghĩa có ba, một nghĩa thắng nghĩa, Sớ là Y sĩ thích, nay giải thích thêm, cũng được Trì nghiệp thích, nghĩa nghĩa là đạo lý, thắng là không lỗi, như tợ Niết-bàn gọi là Vô thượng, thắng này cũng như vậy, lại không lỗi cũng tức gọi là thắng, lý này tức là thắng, gọi là nghĩa thắng nghĩa, nghĩa ban đầu là lý, sau tức là thắng đạo lý, nghĩa giữa là tối thắng, hoặc cảnh nghĩa giữa thắng gọi là nghĩa thắng nghĩa. Luận nương theo đối pháp, trí Y chủ làm tên, nay luận pháp thể, tướng hình hơn kém, trì nghiệp làm tên gọi, hành giải nghĩa cũng thông với trì nghiệp, như pháp Thế đệ nhất, căn cứ theo trong pháp hành Vô lậu tối thắng, Vô lậu hành tức là thắng nghĩa. Luận căn cứ theo duyên cảnh, nay luận trí thể tướng hình hơn kém, hành tức là thắng nghĩa, đều gọi là đạo lý, đều là Đế, lấy riêng lựa ra chung, trong hành là Thắng y sĩ làm tên.
Luận: Tu tập phần vị v.v... phần vị giả là nương theo pháp phần vị, tác dụng không đồng, lập ra tên pháp khác, gọi là phần vị giả tức là phẩn, phú v.v... Luận nói rằng phần vị của phiền não là tánh của Đẳng lưu, phần vị tức là phẩn v.v... Đẳng lưu, vô tàm v.v... như danh, cú v.v... chỉ phần vị quả. Luận nói rằng ba phần vị, nên một sát-na của Phật âm thanh cũng năng thuyên, không phải văn nói pháp bất tương ưng này là tương tục giả, lại phóng dật v.v... đã phần vị giả, bất phóng dật v.v... trái lại đây có thể biết, nếu nói rằng tức là bốn loại đều không đồng với phẩn v.v... vì gọi là phần vị, cũng không như vậy. Sinh các pháp đồng thời, vì sao gọi là phần vị? Nếu nói rằng phần vị trước sau khác nhau, gọi là phần vị. Cũng phòng ngừa tu, không ngăn ngừa tu phần vị khác nhau, gọi là phần vị, hoặc thông với phần vị và tụ tập giả, Trạch diệt, phi Trạch diệt cũng phần vị giả, Vô vi tuy chẳng phải khởi kết, phần vị cũng đắc, gọi là nhiễm tịnh phần vị, nên kinh Pháp Hoa gọi là pháp vị, nhưng nay luận nói: Viên thành thật tánh chỉ là thật hữu, không do duyên khác mà thiết lập ra căn cứ theo Chân như mà nói, chẳng cho rằng Trạch diệt đợi duyên khác, lại giải thích chỉ thật, tuy do trí hiển bày, bản tánh tự có, không do duyên sinh mà thiết lập nên.
Luận: Tức là nương theo ba tánh v.v... đã nói ở trước, giải thích trước sau này, lược làm ba giải thích:
1. Vô tánh nêu trước, ba tánh nói sau. Nay giải thích vặn hỏi ngoại đạo tức là chỉ luận, tức là nương theo ba tánh đã nói ở trước. Trong kinh Thế Tôn nói pháp, thời sau giải thích nói ba loại vô tánh, tuy trước chung nói vô tánh của các pháp, không hiển bày nói ba loại vô tánh, sau mới phân biệt được nói vô, tức là nương theo ba tánh. Nói lập ra lời sau, chẳng phải sau ba tánh mới nói vô tánh, như quyển 1 giải thích ngoại đạo vặn hỏi: Nếu chỉ có thức, vì sao thế gian và các Thánh giáo nói có ngã pháp? Luận chủ trả lời ngã pháp được nói đều nương theo thức biến, không phải trước nói chỉ thức, sau nói ngã pháp. Giải thích này không thuận với ba thời của kinh Giải Thâm Mật.
Hỏi: Đã ba tánh nêu sau, vô tánh nói trước, vì sao luận này và kinh Giải Thâm Mật v.v... trước nói rõ ba tánh?
Đáp: Muốn hiển bày tánh nhất định nương theo ba tánh, cho nên nêu trước. Vì sao? Vì năng biến kế nhất định nương theo sở kế mới khởi vọng chấp, do đó nêu trước.
Hỏi: Nếu như vậy, vì sao trong kinh Giải Thâm Mật trước nói ba tánh?
Đáp: Luận kia là Đức Bản Bồ-tát hỏi vì sao cùng đến? Vì sao lập ra thiện xảo Bồ-tát? Thế Tôn đáp: "Đối với ba tánh này cùng với ba tánh này, thiết lập thiện xảo, chẳng phải bắt đầu hỏi, trả lời đã nói ba tánh, như luận Bách Pháp hỏi đáp tất cả các pháp và vì vô ngã, chẳng phải trước không nói. Lại kinh Giải Thâm Mật trong Thắng Nghĩa Sinh Bồ-tát không nêu ba tánh nói trước là hỏi, chỉ nêu Thế Tôn trước nói các uẩn, Đế v.v... thiện xảo, vì sao lại lập ra tất cả các pháp đều không phải tự tánh? Rõ ràng không phải là nói trước ba tánh trước, nay bên ngoài nêu kinh vặn hỏi trước nói đây, nên Luận chủ đáp, không trái với giáo kia, sau nói vô tánh.
2. Trước sau kinh nói ba tánh, vô tánh, nên nay luận nói rằng tức là nương theo trước đây, trước đây gần có hai, nương theo luận trước đây và nương theo trước kinh và nói ba tự tánh, quán sinh ý lạc, mật ý thú, sau lập ra vô tánh, nay đây làm hợp với hiển không phải trái nhau.
Hỏi: Vì sao trước nói ba thứ tự tánh, sau nói vô tánh?
Đáp: Thuận theo căn cơ muốn, muốn hiển bày vô tánh nương theo ba tánh, nên luận Hiển Dương quyển 16 ghi: "Nên biết vô tánh không lìa được tự tánh cho nên trước nói nghĩa của ba tự tánh".
Hỏi: Nếu như vậy, vì sao nói ba tánh giáo làm thời thứ ba, lẽ ra thời thứ hai, ở không trước, lại chuẩn theo kinh Giải Thâm Mật đồng trong một kinh, chẳng phải trước, sau?
Đáp: Kinh nói rõ ba thời, chẳng căn cứ theo trước sau, chỉ vì loại tướng từ hữu làm ra thứ nhất, không làm ra thứ hai, câu làm ra thứ ba, vì ba tự tánh biến kế là không, hai loại còn lại là hữu, nên lẽ ra là thứ ba. Lại căn cứ theo tiệm ngộ một loại Bồ-tát nói ba thời này, chẳng mong đốn ngộ.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao trước nói liễu nghĩa, sau trình bày bất liễu nghĩa?
Đáp: Kinh Pháp Hoa v.v... ghi: "Như mặt trời mọc soi sáng núi cao trước", đối với Đại thừa giáo đốn ngộ trước thuần thục, nên ba tánh trước, tiệm ngộ sau thành tựu, sau nói vô tánh.
Hỏi: Nếu như vậy lại trái với lời dạy của kinh Pháp Hoa v.v..., lấy làm tiệm ngộ, thứ hai nói không, thứ ba không hữu, như thế nào được nói làm tiệm ngộ, nên thời sau nói không?
Đáp: Căn cứ theo hai tánh đốn tiệm, vô tánh ở sau, riêng căn cứ theo tiệm ngộ đầu, giữa, sau khác nhau, không làm thứ hai. Nay trong luận này, đồng đối trị đốn tiệm, hai giáo trước sau, nên nói rằng tức là nương theo trước đây, Bồ-tát đốn ngộ đã nghe ba tánh, thời sau làm đốn ngộ Bồ-tát kia, bí mật lập ra ba tánh, nên không trái nhau. Sớ đã nói rõ ý bao hàm hai giải thích, đây thuận theo văn kinh hữu trước không sau, lại giải thích hai giáo chẳng nhất định trước sau. Kinh Giải Thâm Mật vả lại đối trị một loại nên nghe hữu không, trước sau. Luận ghi: "Tức A-la-hán nương theo trước đây v.v...", đây thuận theo kinh Hoa Nghiêm, Như Lai ở trong một ngôn ngữ diễn ra biển vô biên Khế kinh, văn đều có một lý, nhờ vào tâm thủ xả, nhưng thứ hai trội hơn, nương theo vẫn đối cơ có sai biệt. Luận: Tuy Y tha khởi phi thắng nghĩa v.v...
Nói phi là vô, không có nghĩa của Vô phân biệt trí sở duyên, nên gọi là thắng nghĩa vô tánh, nên luận Hiển Dương quyển 16 ghi: "Do không phải thắng nghĩa tánh", ý Y tha này gọi là thắng nghĩa vô tự tánh. Tánh có hai nghĩa:
1. Do thể của Y tha, chẳng phải thắng nghĩa tánh, gọi là thắng nghĩa vô tánh, vô là chẳng phải.
2. Do Y tha không phải tự nhiên sinh tánh, cũng gọi là vô tự tánh tánh, nếu như vậy lẽ ra nói thắng nghĩa sinh vô tự tánh tánh, vì sao chỉ nói Thắng nghĩa vô tự tánh tánh?
Đáp: Nói thắng nghĩa vô, không có thắng nghĩa kia, nếu nói sinh vô, e rằng duyên sinh cũng vô, lại không có cái gì không phải sinh vô, chỉ nói thắng nghĩa vô. Lại lạm dụng hai tánh, cũng là thắng nghĩa cũng là sinh vô, trước đã nói sinh vô, nay chỉ nói thắng nghĩa vô, nên không phải cả hai vô. Lại nữa Y tha không phải chỉ tự nhiên sinh vô, tướng của sở chấp cũng vô, nên không nói sinh vô. Lại nữa không phải thắng nghĩa kia vô, không phải có cái gì không phải tướng sinh vô. Căn cứ theo cảnh nghĩa của Vô phân biệt trí, Y tha không phải nên nói rằng phi thắng nghĩa.
Hỏi: Vì sao không gọi là phi thắng nghĩa vô tánh mà nói rằng thắng nghĩa vô tánh?
Đáp: Hiển bày một nghĩa nên nói thắng nghĩa vô tánh, thắng nghĩa là tướng, chỗ của sinh vô hiển bày tánh. Lại hiển bày Y tha trên thắng nghĩa tánh vô, tức là thắng nghĩa tánh của vô, cũng gọi là thắng nghĩa vô tánh, nói sơ lược, tổng nói thắng nghĩa vô tánh tánh.
Hỏi: Vì sao được biết có lời đó?
Đáp: Kinh Giải Thâm Mật quyển 2 ghi: "Vô tự tánh tánh đã hiển bày, nếu bốn tục chân tương đối mà rõ ràng, Y tha cũng là cảnh trí của nhà hậu đắc thắng trí. Nếu căn cứ theo thân duyên, sau được Tướng phần, cũng được thanh tịnh sở duyên gọi là thắng nghĩa, kinh Giải Thâm Mật chỉ nói căn bản thanh tịnh sở đắc, nói rằng Y tha khởi chẳng phải là thanh tịnh sở duyên. Lại thắng nghĩa có ba nghĩa: một là nghĩa của thắng; hai thắng làm nghĩa; ba thắng tức là nghĩa, thông với bản sau nói. Bốn thứ thắng nghĩa đều đầy đủ ba loại này, chỉ ban đầu thế tục không đầy đủ ba loại này, không gọi là thắng nghĩa, nếu như vậy vì sao chỉ nói Chân như? Đáp: Muốn hiển bày các pháp chân thật tánh, nên kinh Giải Thâm Mật ghi: "Là tất cả các pháp Thắng nghĩa đế, chỗ của vô tự tánh tánh hiển bày". Cho nên, nay luận này gọi là thức thật tánh, Yếu Tập không hiểu nói vốn đã nói trái với kinh lầm nói.
Hỏi: Y tha chẳng phải thắng nghĩa, cũng nói Y tha làm thắng nghĩa vô tự tánh tánh, Viên thành chẳng phải duyên sinh, cũng được nói viên thật, làm vô tự tánh tánh.
Đáp: Không lệ thuộc, nếu căn cứ theo già thuyên, chẳng phải là sinh vô tự tánh tánh. Nói rằng sinh vô tự tánh tánh, tức nghĩa là Viên thành chẳng phải là tánh của sinh vô tự tánh tánh. Nếu căn cứ theo biểu thuyên là sinh vô tự tánh tánh, nói sinh vô tự tánh tánh tức là để hiển bày tánh của hai tánh trước, nên không phải tánh lệ thuộc. Nhưng Yếu Tập ghi: "Tánh ví dụ đều được", chuẩn theo đây biết trái. Lại nữa, Sớ ghi: "Y tha khởi cũng nghĩa của hậu đắc thắng, gọi là thắng nghĩa", tức là đoạn trái với kinh, nói Y tha v.v... làm tướng vô tự tánh tánh v.v... nêu ra Thánh giáo nào, tức chẳng lầm lẫn.
Luận: Nhưng lạm dụng thứ hai, nên đây không nói.
Tây Minh nói: E rằng Y tha này thắng nghĩa, lạm dụng thứ hai sinh vô tự tánh tánh, nên đây không nói. Yếu Tập nói rằng thắng, nay cho rằng không đúng. Trong kinh luận kia nói hai thắng nghĩa, Y tha tánh ban đầu, thành thật thứ hai, e rằng Y tha thắng nghĩa lạm dụng thứ hai. Viên thành thắng nghĩa, chính là giải thích thắng nghĩa, tướng đối lựa ra lạm dụng, vì sao thiếu sinh vô tự tánh, sợ lạm dụng lựa ra, luận kia vì sao cần lựa ra? Trong đây ý nói các pháp thắng nghĩa chỉ thức chân tánh, luận kia chẳng phải chân tánh, e rằng lạm dụng nên lựa ra. Nếu do Y tha e rằng lạm dụng sinh vô tự tánh tánh, không nói làm thắng nghĩa vô tự tánh tánh, cũng lẽ ra Y tha gọi là Viên thành thật, e rằng lạm dụng thứ hai Y tha khởi, không nói làm Viên thành thật. Đã căn cứ theo nghĩa riêng gọi là thắng nghĩa, cùng với sinh vô tự tánh tánh, nghĩa không phải tướng lạm dụng, nên không cần lựa ra, đồng gọi là thắng nghĩa, lạm dụng nên cần lựa ra.
Hỏi: Vì sao ba loại đều nói rằng vô tánh tánh?
Đáp: Tướng vô tự tánh tánh, ban đầu nói tướng vô tự tánh, là pháp bản tánh, tương tợ thể vô, lại nói tánh, giáo lập là tánh, ý hiển bày nơi tướng không phải tự tánh, nói làm tướng vô tánh, chẳng nói hữu tánh, gọi là vô tánh hai loại còn lại chuẩn theo mà biết.
Hỏi: Vì sao luận Hiển Dương chỉ nói rằng, tướng vô tánh v.v... không nói tướng vô tự tánh tánh?
Đáp: Luận kia lược bớt bản tánh, chỉ nêu Tĩnh lự, nên luận kia ghi: Nên biết do ba vô tự tánh nói ba vô tánh: một tướng vô tánh nghĩa là tự tánh của Biến kế sở chấp, do tự tánh này thể tướng vô, ý này nói, tướng vô tánh tức là nói tự tánh của Biến kế sở chấp, do thể kia vô, nên nói làm tướng vô tánh", còn lại chuẩn theo đây mà biết.
Hỏi: Ba tánh đều vô, vì sao nói kinh Giải Thâm Mật nói biến kế và Viên thành thật làm vô sinh vô diệt v.v... không nói sinh vô tự tánh, làm vô tánh vô diệt v.v...?
Đáp: Chẳng do quán riêng ba tự tánh nên khởi Biến kế sở chấp, chỉ chung ở hai tánh, tăng thêm lợi ích tự tánh của Biến kế sở chấp nói tánh của biến kế không sinh diệt v.v... tức là thông với Y tha, Viên thành. Hai biến kế trên, không muốn nói Y tha, Viên thành kia hai vô, không được nói sinh vô tự tánh tánh không sinh không diệt v.v... vì có sinh diệt, Viên thành thể thường, không phải sinh diệt, tánh chẳng phải tạp nhiễm, nên vốn vắng lặng, như kinh Giải Thâm Mật quyển 2, luận Du-già quyển 56 đều giải thích đầy đủ.
Luận: Gọi là đầy đủ Nhị thừa hai chủng chủng tánh v.v...
Tánh chủng tánh nói rõ bản hữu tánh, nói rõ tánh hữu vô, chánh trợ, ẩn hiện, rộng như luận Năng Hiển Trung Biên, Tuệ Nhật giải thích. Nhưng luận Du-già quyển 35 ghi: "Nghĩa là Bồ-tát sáu xứ thù thắng có tướng như vậy, từ đời vô thỉ triển chuyển truyền pháp như vậy đã được gọi là bản tánh trụ chủng tánh".
Tây Minh có bốn giải thích, thứ hai là chính, chính là chấp lấy Vô lậu, chủng tử của pháp như vậy, lựa ra dị vô tánh, nên nói rằng thù thắng không thể nêu quả vị v.v... gọi là sáu xứ. Sáu xứ kinh Thiện Giới ghi: "Nghĩa là ấm giới sáu xứ", nên biết sáu xứ là sáu xứ bên trong, sáu xứ bên trong ý căn xứ nhiếp chủng tử của Vô lậu là sáu xứ, chẳng phải biến khắp sáu xứ đều có thể giữ gìn chủng tử, cũng không được nói rằng đầy đủ hiển bày quả vị trong ngoài sáu xứ. Sáu xứ bên ngoài không giữ gìn chủng tử, nói là nhân tánh, nhưng có lời vặn hỏi nếu ở sáu xứ bên trong gọi là pháp thù thắng của Nhị thừa như vậy. Thanh văn huân tập chủng tử của người vô tánh, cũng ở sáu xứ, đâu gọi là thù thắng? Nên chấp lấy sáu vị tư lương, gia hạnh, kiến, tu, Đẳng giác và địa vị Diệu giác gọi là sáu xứ, điều này cũng không đúng. Luận Du-già quyển 21 tuy giải thích Thanh văn đồng với ý này, nói rằng dựa vào ở sở y có tướng như vậy, thuộc về sáu xứ, từ đời vô thỉ, triển chuyển truyền đến, đâu thừa nhận hàng Tiểu thừa cũng có sáu vị? Nếu nói rằng căn cứ theo thuyết bất định, định tánh như thế nào? Lại như vì sao nói thuộc về sáu xứ? Từ đời vô thỉ truyền đến, đâu phải chủng tử của sáu vị? Sai biệt của pháp như vậy, nếu như vậy Bồ-tát đồng với hàng Nhị thừa, thế nào gọi là thù thắng?
Đáp: Mong vô tánh chung gọi là thù thắng, chẳng phải chỉ lựa ra Tiểu thừa được tên thù thắng, nếu không thừa nhận Tiểu thừa cũng gọi là thù thắng, trái với quyển 21 kia ghi: "Như là chủng tử, chẳng phải ở nơi sáu xứ có tướng khác biệt", tức là ở nơi bốn chủng loại phần vị như vậy sáu xứ thù thắng, từ đời vô thỉ, triển chuyển truyền đến pháp đã đắc. Lại do văn này nói rằng sáu xứ chỉ là đề mục sáu xứ bên trong, chẳng phải quả vị v.v... Tập chủng tánh nghĩa là Sớ nói rằng nghe chánh pháp rồi khiến cho Vô lậu tăng thêm, gọi là tập chủng tánh, hiển bày nhân thành Phật và ngộ nhập vào Duy thức, Hữu lậu chẳng phải chính, chẳng có thể chánh ngộ, chẳng phải chánh tập tánh, bao gồm cũng đúng. Luận Duy Thức quyển 2 ghi: "Nghe trong huân tập tánh Hữu lậu cảm được Dị thục thù thắng, chẳng sinh ra Kiến đạo", tu y chủng tử của bản hữu nhờ nghe huân tập cũng gọi là văn huân, như luận Nhiếp Đại Thừa và luận Du-già đều ghi: "Nghe nhiều huân tập sở y chẳng phải A-lại-da đã nhiếp tập khí", nếu chấp lấy Hữu lậu Lại-da được nhiếp, vì sao chẳng nhiếp? Lại Nhiếp luận của Vô Tánh nói vì trưởng dưỡng có thể xúc chạm vào chủng tử của pháp thân? Vì muốn tăng trưởng tất cả, hàng Đại thừa nghe nhiều huân tập do đây là trước đắc được pháp thân.
Hỏi: Từ địa vị nào qua, gọi là tập tánh?
Đáp: Từ thắng giải địa đã qua đều gọi là chủng tánh Bồ-tát. Tánh chủng tánh nghĩa là căn cứ theo chưa phát tâm, vốn chủng tử của Vô lậu, Tập chủng tánh nghĩa là căn cứ theo phát tâm rồi, chủng tử đã huân tập thành. Luận Địa Trì ghi: "Nếu từ trước đến nay tu thiện đã đắc gọi là tập chủng tánh". Luận Du-già quyển 35 ghi: "Nghĩa là trước xuyên suốt tập thiện căn đã đắc gọi là tập sở thành", thành tựu thuyết Hiển Dương, lựa ra chưa huân tập, chẳng cho rằng ban đầu tu không gọi là tập tánh, nên luận Tạp Tập quyển 13 nói có bốn thuận giải thoát. Một là Y bằng thuận giải thoát, nghĩa là từ thiện pháp dục cho đến cầu giải thoát đều gọi là Thuận giải thoát phần, đã gọi Thuận giải thoát phần, nên là tập chủng tánh. Tây Minh giải thích rằng: Mười tín trở về trước, gọi là tánh chủng tánh, mười hạnh trở lên gọi là tập chủng tánh. Lại giải thích kinh Nhân Vương quyển 1 mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, như thứ lớp tập chủng tánh, tánh chủng tánh và kinh Đạo Bồ-tát Bản Nghiệp cũng đồng, không nói mười tín làm tập chủng tánh. Nhưng Nhân Vương nói hàng phục nhẫn bào thai của bậc Thánh ba mươi người. Vả lại nêu phương tiện nói mười tín, chẳng phải ngay nơi mười tín làm tập chủng tánh. Lại tín có hai loại: một là vị địa mười tín tức là ở mười trụ trước, nên kinh Bản Nghiệp nói chưa phải mười trụ trên, trước có mười vị tên gọi tự Bồ-tát, thường hành mười tâm tín v.v... Hai là hành giải mười tín thông với mười trụ trở lên, tức là mười trụ, mười hạnh mười hồi hướng, như lần lượt phối hợp thuộc về tập chủng tánh, tánh chủng tánh, đạo chủng ba vị Bồ-tát. Nói vị địa tín, chẳng gọi là chủng tập, nay cho rằng không đúng. Ban đầu phán phân mười hạnh trở lên mới gọi là tập tánh, mười trụ Bồ-tát đâu chẳng phải thuộc về tập tánh. Lại nói: Kinh Nhân Vương quyển 1 mười trụ, mười hạnh v.v... như lần lượt tập chủng tánh, tánh chủng tánh v.v... kinh Bản Nghiệp đồng, không nói mười tín không như vậy. Nhân Vương quyển 1 không phải riêng tên mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, tức là tín, chỉ, chắc chắn như lần lượt phối hợp tập chủng tánh, tánh chủng tánh và đạo chủng, không thể trái với văn, phán phân mười tín v.v... là ba phương tiện, chẳng phải thuộc về trụ v.v... kinh Bản Nghiệp v.v... không nói tên của mười tín, nương theo địa vị chung mà nói, không luận hạnh riêng. Căn cứ theo mười tín là thuộc về mười trụ, có nói riêng là vì trụ ban đầu vặn hỏi lìa ra khỏi mười tín, như bốn thiện căn, vặn hỏi môn bên trong, thứ mười trong hồi hướng vị riêng khai ra thiện căn, đã thuộc về hồi hướng mười tín nhất định là thuộc về mười trụ, kinh Nhân Vương, Hoa Nghiêm, Ưu-bà-tắc giới v.v... bốn mươi hai bậc Hiền thánh không nói năm mươi.
Lại nói: Mười tín v.v... là mười trụ v.v... phương tiện tức là thuộc về trụ như sơ cận phần thuộc về sơ định nhiếp. Lại mười tín vị địa ở trước trong kinh Nhân Vương lại có mười thiện Bồ-tát, đâu có thể địa trước khai làm năm mươi? Lại vị địa mười tín ở mười trụ trước, hành giải mười tín thông với mười trụ trở lên, không phải Thánh giáo nói, nếu nói Bản Nghiệp cho rằng chưa phải mười trụ trên, trước có mười vị tên gọi tự Bồ-tát, thường hành mười tâm tín v.v... tức là chứng được vị địa mười tín ở mười trụ trước, ở trong vị này, trải qua tu bao nhiêu thời? Lại kinh Nhân Vương nói trong mười ngàn kiếp hành Bồ-tát đạo mới nhập vào mười tín, đâu phải vị địa tín trước lại mười vạn kiếp làm mười thiện vị? Đây đã không lập, vị địa mười tín cũng không nên khai. Lại nếu dầu cho khai riêng, vì sao phế bỏ được vị tập chủng tánh?. Kinh Nhân Vương v.v... ở nơi phần của tập chủng vị, mười vương vị nói đồng chủng vương là tập chủng tánh, không nói rằng trước chẳng hợp đều, đây trở về sau mới là tập chủng, chỉ tập chủng trước chưa được thù thắng chưa được đồng luân, căn cứ theo lúc thắng tập đắc được đồng luân vị.
Nói tập chủng tánh làm ra đồng luân vương, nếu như vậy tánh chủng tánh v.v... lẽ ra cũng thông với trước.
Đáp: Không ví dụ, ở nơi tập chủng vị trước sau hơn kém, chia ra khác nhau. Lại Bồ-tát địa nói rõ tánh chủng rồi lần lượt nói rõ phát tâm, phát tâm tức là tập chủng tánh vị, không thể nói luận kia căn cứ theo bất thoái vị rồi sau mới gọi là phát tâm. Văn dưới lại nói: Thoái và bất thoái đều gọi là phát tâm. Trong kinh Pháp Hoa, Xá-lợi-phất sẽ phát ra đại thoái. Phật nói: Các ông đã hành là Bồ-tát đạo. Lại nói rằng khiến cho phát ra Nhất thiết trí tâm, vẫn còn không mất, nên biết chung gọi là phát Bồđề tâm, không phải chỉ bất thoái. Lại quyển 47 nói rõ ba mươi trụ rằng: Thắng giải hành trụ, từ lúc phát tâm ban đầu cho đến chưa được thanh tịnh ý lạc, gọi là thắng giải hành trụ. Lại văn 49 nói có bảy địa, thắng giải hành địa tức là trụ thứ hai. Lại nói: Ban đầu từ thắng hành địa cho đến đạt đến cứu cánh địa, ở trong tất cả Bồ-tát địa này, nếu mười tín chẳng ở tập chủng, tức là thắng giải hành v.v... nhiếp hành không hết, chẳng phải chưa phát tâm chẳng phải tánh chủng tánh, không ở mười trụ, chẳng phải thắng hạnh giải. Nếu nói tuy chẳng phải mười trụ, thắng giải hạnh nhiếp, đã thừa nhận hành nhiếp, vì sao chẳng phải tập chủng? Lại thiện pháp dục đã bỏ, được gọi là học, Hữu vi thiện pháp gọi là học pháp, vì sao chẳng phải tập chủng tánh? Căn cứ theo khởi hiện hành phát ra Bồ-đề tâm hạnh, huân tập thành chủng tử rồi tức gọi là tập chủng. Nếu không như vậy hàng Nhị thừa hồi tâm hướng đến Đại thừa, trải qua mười vạn kiếp cho đến mười ngàn kiếp là Bồ-tát nào? Không thể được nói là tánh chủng tánh, vì sao? Đã tu các điều thiện chẳng có cái gì là không suy nghĩ lựa chọn, đối với Đại Bồ-đề không có cái gì không hướng đến cầu, tuy chưa được nhập vào địa vị tư lương thù thắng, có thể gọi là tập chủng hoặc khởi đầu phát tâm, và hàng Nhị thừa hồi hướng, tám vạn kiếp v.v... chẳng phải thắng giải hạnh, hạnh chưa được thù thắng, chưa phải ở tăng-kỳ, tuy nhiên không được ở tăngkỳ số và tư lương v.v... có thể gọi là tập chủng, không phải văn nhất định phán phân mười trụ rồi, trước không được gọi là tập chủng Bồ-tát.
Hỏi: Trong mười trụ đã qua có thể tám tướng thành đạo và Phật khác gì? Vì sao Phật hiện ra tám tướng, vì sao lẽ cái khác hiện ra tám tướng?
Đáp: Chưa thấy được văn rõ ràng, vả lại làm một giải thích, Phật hiện ra tám tướng đầy đủ lâu dài, trước sau không khác, Bồ-tát hóa sinh tùy theo thích nghi tạm thời hiện ra, hoặc không phải đầy đủ trước sau hoặc khác, hoặc trở lại hình cũ, nên khác với Phật.
Hỏi: Mười trụ mười hạnh v.v... mười đều gọi là trụ, vì sao mười tín chỉ một loại được tên, còn lại không gọi tín?
Đáp: Lập ra tên bất định, như ba không môn, ban đầu một tên không, hai tên còn lại chẳng phải không, lại mười trụ v.v... đều riêng địa vị, đều gọi là trụ v.v... tín chẳng phải địa vị riêng, chẳng phải đều gọi tín.
Hỏi: Thoái, bất thoái các thuyết không nhất định chấp lấy vì sao làm chính?
Đáp: Bất thoái có bốn nghĩa là tín, vị, chứng, hạnh, vị như thường nêu bày. Đối với mười trụ sau, nói thoái là căn cứ theo chứng pháp mà nói, nói bất thoái là căn cứ theo vị thừa mà nói, còn lại chuẩn theo đây. Hoặc nói phát tâm đều bất thoái là căn cứ theo phẩm thượng mà nói, hoặc là nhân có thể khiến cho sau không thoái, chẳng phải phát tâm rồi tức là có thể không thoái, ít có thể hợp thành nhiều, không dẫn ra dài dòng.
Luận: Đối với hai thủ tùy miên v.v...
Hỏi: Kinh Hoa Nghiêm quyển 10 giải thích trong mười trụ Bồ-tát nói: Trừ diệt các phiền não, vĩnh viễn hết không còn cái khác v.v... vì sao đây nói chưa hàng phục được hai thủ?
Đáp: Do tà giáo tà sư đã khởi bất cộng vô minh làm bạn phiền não loại hết, chẳng hết được tất cả tự phân biệt sinh và Câu sinh phiền não, lại giải nói công năng của Phật pháp, có thể diệt được phiền não, chẳng phải đều đã hàng phục. Lại giải tự phân biệt hàng phục, tà sư v.v... khởi không thể hàng phục diệt. Văn kinh Duyên Khởi cả hai hỗ tương tùy theo hợp nhau, nhưng Sớ dưới kết, nên trong vị này tự phân biệt phiền não chưa hết, nên trước giải thích là chính. Chuẩn theo phát Bồ-đề tâm, duyên sức phát ra gọi là bất kiên cố, nhân sức phát ra gọi là kiên cố, khởi hoặc cũng như vậy. Tà giáo khởi đổi trừ, tự sức khởi khó hàng phục. Lại giải thích kinh căn cứ theo thiểu phần có thể hàng phục nghĩa, luận nương theo toàn phần nói không thể hàng phục, trước sau giải thích là chính. Văn Sớ tợ như thoát, lại so sánh bản chánh.
Luận: Phần nhiều trụ bên ngoài môn v.v...
Sớ hợp với kinh Hoa Nghiêm nói Bất cộng vô minh này đã hàng phục.
Hỏi: Bất cộng vô minh mê Đế lý, khởi không tin nhân quả, mười tín tín tâm thứ sáu bất thoái, đối với lý của nhân quả đã sinh ra tín giải, tức là Bất cộng vô minh mười tín đã trừ, vì sao nói thứ tư trụ hàng phục?
Đáp: Mười tín thứ sáu thâm sâu sinh ra tín tâm, không nghiêng về nhân quả, không phế bỏ, còn đối với Đế lý không rõ, nên thứ tư trụ mới hàng phục bất cộng tuy chưa chứng giải, mà có thể tín giải.
Hỏi: Căn cứ theo giải thích trước, bên trong pháp khác sinh, nếu phóng dật do vô minh làm duyên, không nói có bất cộng, vì sao nay nói Bất cộng vô minh trụ thứ tư hàng phục?
Đáp: Căn cứ theo không tin nhân quả, bất cộng mà nói, thứ sáu tin trước tuy khởi tạm thời hàng phục, không do kia, phát ra nẻo ác hành, hoặc nhờ tà giáo được khởi bất cộng pháp phóng dật không khởi, nếu ở nơi đế lý mê gọi là bất cộng, thứ tư trụ hàng phục.
Luận: Phẩm pháp trí không và đều khởi đây phá luận An Tuệ.
Nhưng Sớ ghi: Thứ bảy có pháp chấp, pháp không trí khởi tức là không hành, thứ tám pháp chấp hữu, pháp không trí khởi, đây lẽ ra diệt, là phá sư khác, chẳng phải sư An Tuệ. Hoặc chép lầm, nếu phá An Tuệ, nên nói rằng thứ bảy có ngã chấp, Sinh không trí khởi tức là không hành, thứ tám pháp chấp hữu, pháp không trí khởi nên diệt.
Luận: Bảy chuyển thức bên trong hoặc nhiều hoặc ít, như nói phiền não.
Căn cứ theo phiền não đồng thời số nhiều ít, nói như nói phiền não, chẳng phải nhất định phán phân tất cả sở tri định cùng với phiền não, đồng loại mà sinh, lại Sở tri chướng chấp nhất định là tuệ cùng với vô minh đồng thời, Dị thục tâm nghi, đây đều gọi số, các thức đã khởi, số như phiền não. Nhưng Sớ ghi: "Không lìa phiền não, chỉ khởi chấp", nên số nhiều ít cùng với phiền não động, căn cứ theo câu thời khởi không đoạn phiền não, trong thân đã khởi Sở tri chướng mà nói. Nếu thừa nhận định đồng, như hàng Nhị thừa Vô học đã đoạn phiền não, còn khởi pháp chấp, sau huân tập thành chủng tử, thà có phiền não và đồng loại sinh, lại Dị thục tâm nghi, người gỗ v.v... là Sở tri chướng, đâu cùng với phiền não, đồng loại sinh ư?
Hỏi: Chấp người gỗ mê đã là sở tri, làm pháp chấp, là chẳng phải chấp ư?
Đáp: Là pháp chấp loại, chẳng phải chánh pháp chấp, chấp nhất định si đồng thời, kia chẳng phải sớ đồng thời, là Dị thục, lại giải thích là chấp, nếu nghiệp cảm được Dị thục, không phải cùng sớ đồng thời, Dị thục sinh rộng, nên cùng sớ hợp nhau. Hoặc mê gỗ, tâm, cùng với Vô minh, thông với câu, bất câu, câu là chấp, bất câu chẳng phải chấp chỉ là Đẳng lưu.
Luận: Đây ở trong tánh Vô phú Vô ký v.v...
Hỏi: Trong Sở tri chướng có pháp khuể ái, pháp khuể tức là sân, thế nào là Vô ký?
Đáp: Có hai giải thích.
1. Mong phiền não nói sân chỉ bất thiện, mong Sở tri chướng tức là Vô ký.
2. Pháp khuể cũng là bất thiện, nếu như vậy nêu phược có thể cảm được Dị thục.
Đáp: Tuy là bất thiện, mong nghĩa có khác, không phải gọi là phược, cũng không cảm được quả, hai giải thích trước chính, luận nói Vô ký không thông với bất thiện.
Luận: Địa vị hai chướng này tuy chưa phục trừ v.v...
Hỏi: Ba loại rèn luyện v.v... Thế nào là khác thế nào là vị?
Đáp: Ba loại khác nhau. Một sợ lúc lớn khó được, hai sợ hành rộng khó tu, ba sợ quả vi khó chứng, hoặc có thể ban đầu chung nói: Rộng lớn thâm nhiệm mầu, thông với nhân và quả, vì đồng thời rộng lớn đều đủ đều sâu kín mầu nhiệm, hoặc nhân rộng lớn quả sâu kín mầu nhiệm, do đây lúc lớn tu mới viên mãn, sâu kín mầu nhiệm khó thành, lúc lớn mới được, nên luận này nói: Một nghe Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề rộng lớn sâu xa, hai loại sâu là khác, lại ba loại rèn luyện đều thông với ba xứ, đối với lúc lớn kia, dẫn dắt người khác đã được, tỉnh giác lại mình có thể được, thế thiện còn có thể cảm được quả mười giới xa nhiệm mầu, ngã có thiện vi diệu, vì sao không được quả sâu xa lớn? Cho đến viên mãn chuyển y kia tức là đã được, ngã lẽ ra như vậy, tỉnh giác mình có thể đã có thiện vi diệu, vì sao không thể chứng? Nên Sớ ghi: "Ban đầu nêu Bồ-đề, sau nêu chuyển y", luận thật đều được.
Hỏi: Rèn luyện đây ở vị nào?
Đáp: Căn cứ theo văn luận này nói: Hai chướng vị này, tuy chưa phục trừ, tu thắng hạnh, thời có ba thoái khuất, mà có thể ba việc rèn luyện tâm. Ở vị tư lương thông với ba mươi tâm, không thể chỉ phối hợp, nếu không như vậy mười trụ lẽ ra không tu mười hanh Ba-la mật, chưa thể khởi kham nổi có thể rèn luyện. Lại giải thích cũng thông với gia hạnh và bảy Địa trước, chỉ trừ Kiến đạo, vì chỉ ở định. Lại nữa thời gian gấp gáp, bốn vị của thiện cảm, tuy phục trừ được hai chướng phân biệt khởi, Câu sinh chưa phục trừ, vì văn nói không phân biệt, chưa phục trừ, nên thông với Câu sinh. Lại bảy Địa trước, tuy phục trừ phiền não Sở tri chưa hoàn thành, phải cần gia hạnh. Lại thích ở dưới thừa bát Niết-bàn. Chướng năm địa nói đoạn, bất thoái mong nó, hoặc có thể khởi tâm, nếu không như vậy thế nào năm địa mới đoạn, nếu không khởi hiện chủng tử đến đây trừ, nên chưa đoạn trước, do cần phải rèn luyện, luận vả lại nêu ban đầu ảnh hiển ở sau, như đoạn bốn xứ, không chỉ địa trước, các nghi lìa nghi chấp chấp trước. Phân biệt bảy địa vẫn còn, lại giải thích ba luyện đoạn bốn xứ chướng, chỗ ở địa trước, văn của luận không nói không với địa trên, địa trên hai chướng, phẩm Phiền não chướng, đều có thể phục trừ, đã trừ bốn xứ, căn cứ theo phân biệt mà nói, nhưng không phải văn đoạn, nhờ vào ý lấy bỏ.
Hỏi: Căn cứ theo luận Tạp Tập quyển 11, lại tu Du-già có năm loại, nghĩa là trì, nhậm, cảnh, minh, y. Y nghĩa là chuyển y, tức là Kiến đạo. Trì, nhậm, cảnh, minh, bốn loại này nhân được quả chuyển y.
Bốn loại trì nhậm v.v... nương theo vị nào khởi, lại là pháp nào?
Đáp: Căn cứ theo luận kia nói: Nương theo địa vị của noãn v.v... tức là thông với bốn thiện căn, đều có bốn loại này. Trì tức là văn tuệ, nhậm tức là tư tuệ, cảnh tức là tu tuệ, minh nghĩa là sở quán, không phải năng thủ sở thủ, hoặc cảnh tức là định, minh là tuệ, noãn, đảnh, nhẫn ba loại đều nhờ bốn loại này mới được viên mãn, nhập vào Thế đệ nhất. Hoặc nhẫn trên không phải trì, nhậm, vì phẩm nhẫn trên chỉ một Sát-na tức là nhập vào pháp Thế đệ nhất. Chỉ định thời gấp gáp, không phải trì, nhậm, chỉ nương theo vị này, có trì, nhậm v.v... Chẳng phải nhất định bốn vị đều có bốn loại. Lại giải thích bốn vị đều có bốn vị này, trì, nhậm hai hành chẳng phải là văn, tư, vì ở trong định nương tựa vào Thánh giáo nên cho là trì. Luận nói, như đã đa văn, yên lập cảnh của chỉ quán Sở duyên, và định tương ưng, như lý tác ý cho là nhậm, không ngược tư duy nhờ vào trì tâm. Tức là Sở y định gọi là cảnh, nói rằng Tam-ma địa này, còn mang theo tướng, có thể quán nó, trí gọi là minh. Nói cho rằng năng thủ Sở thủ, không phải trí Sở đắc, lại giải thích trì, nhậm chỉ trừ chân kiến và Phật quả vị, trong Phật quả vị lại không quả, trong chân kiến vị, không ảnh tướng v.v... thông với vị khác, nên luận Hiển Dương quyển 20 ghi: "Có năm thứ pháp, các thể nhiếp tất cả Du-già hạnh, các Du-già địa, Địa thứ tám trở lên", nghĩa nói văn, tư, cũng duyên theo giáo v.v... nên thông là chính. Lại bốn thiện căn cũng gần gũi được Phật giáo thọ, nên luận Trang Nghiêm quyển 7 tụng rằng: "Từ sau các Phật pháp lưu chuyên mà làm giáo thọ". Giải thích rằng: Từ đây trở xuống, sau được chư Phật Như Lai lấy pháp tu Đa-la v.v... mà làm thuyết. Căn cứ theo ý văn này, hoặc được giáo thọ rồi. Tu trì, nhậm, cảnh, minh, trì nghĩa là đối với giáo khởi sáu loại tâm, nhậm tức là lần lượt khởi mười một tác ý. Cảnh tức là tu chín loại trụ tâm. Minh lại nương theo làm ra các thần thông, hoặc không phối hợp đây, nhưng bốn thiện căn và trì, nhậm v.v... đều thời kỳ đầu mãn tâm mới bắt đầu tu. Luận Trang Nghiêm quyển 7 ghi: "Hành tận một tăng-kỳ dài, tín khiến cho tăng thượng v.v... rồi sau mới nói khởi bốn thiện căn", các giáo đều đồng, từ xưa ý của các luận sư không đồng chấp lấy văn đều khác, không được ý của giáo, ý của giáo Bồ-tát tu bốn thiện căn, có chánh tu mãn vị. Có ngưỡng tu tập vị, ngưỡng tu tập vị lan ra quán, thông với ba mươi tâm, như chỉ thức quán v.v... thành tựu ở quán, học thông vế trước, đây lẽ ra như vậy, học tuy thông với trước, chánh tu hành mãn tức là ở sau, địa vị của tư lương v.v... Có thể ngưỡng tập. Quán Sở thủ không phục trừ ngã pháp chấp, quán năng thủ vô, có thể phục trừ pháp chấp, nếu không như vậy như thế nào phục trừ được hai chấp. Luận Tập Tạp, Trang Nghiêm, luận Duy Thức này v.v... căn cứ theo chánh tu vị, không thông với tư lương, kinh Anh Lạc Bản Nghiệp ghi: "Trụ ở nơi mười trụ tu học bốn thiện căn là ngưỡng học tu tập", nhưng Nhiếp luận đời Lương ghi: "Như đạo Tu-đà-hoàn trước có bốn phương tiện, Bồ-tát cũng có bốn phương tiện, như bốn mươi tâm, hoặc như hàng Tiểu thừa năm đình tâm quán, tổng tướng niệm xứ, biệt tướng niệm xứ, hợp thành bốn thiện căn làm bốn phương tiện, như bốn mươi tâm, chẳng phải bốn thiện căn gọi là bốn phương tiện", hoặc lời chung ý riêng, ý chấp lấy bốn mươi tâm đầy đủ, tu bốn thiện căn. Văn nói lược chỉ nói: Bốn mươi tâm, hoặc phiên dịch lầm, đời Ngụy, Lương, Tùy, Đường, đồng bản phiên dịch khác nhau, còn lại vốn chung vô, nên chép truyền nhầm.
Kinh Đại Phẩm ghi: "Rơi từ cảnh Bồ-tát rơi xuống Thanh Văn, địa vị Bích chi Phật, hoặc học quán Sở thủ tợ như đảnh gọi là rơi xuống đảnh, hoặc hàng Nhị thừa ở nơi đảnh vị, hồi tâm mong Đại thừa cũng gọi là Bồ-tát". Nên nói: Đọa đảnh Bồ-tát, nói thoái này, rơi xuống địa vị của Nhị thừa, đối với lý không trá, nhưng kinh Bản Nghiệp, Đại Phẩm lại xét văn kia.
Hỏi: Bốn thiện căn đã thuộc về kiếp đầu, vì sao nói phước trí mãn rồi? Luận Đại Trang Nghiêm ghi: "Vì sao nói hành hết tăng-kỳ", luận Tạp Tập vì sao nói qua vô số kiếp thứ nhất?
Đáp: Căn cứ theo phần nhiều mà nói, lại căn cứ theo kiếp đầu định tán tạp tu, đã mãn đã qua đã hết, thuần định được tu, vị này mới làm.
Luận: Y minh đắc định, minh là Vô lậu tuệ, nay nói minh là Vô lậu tuệ, tướng trước của minh, lập làm tên minh, cầu tướng trước này, nay hiện khởi nên gọi là đắc, tức là Sở đắc gọi là đắc, minh tức là Sở đắc là Trì nghiệp thích, nên Nhiếp luận Vô Tánh nói: Minh nghĩa là có thể chiếu rõ nghĩa của hữu, vô, trí đã cầu quả bèn gọi là đắc. Luận này lại nói, ban đầu ủng hộ Tuệ Nhật, hành tướng trước, nên lập tên minh đắc tức là Vô lậu, Tuệ Nhật chính gọi là minh, minh tướng trước này cũng gọi là minh.
Luận Vô Tánh nói: Minh nghĩa là có thể chiếu rõ nghĩa trí của hữu, vô, đây chưa được chứng năng chiếu, tướng trước của chiếu lập ra tên năng chiếu, đây nương theo chứng đạt, tuệ là minh giải, nên kinh tụng rằng: "Chẳng có cái gì không thấy Chân như, mà có thể rõ được các hành", như gọi là đạo hỏa, ý dụ việc lửa chính lửa cháy chiếu rõ tướng ấn của trước, tợ như thiêu đốt kia, lập cho là tên noãn. Chẳng phải thể không ấn, nhưng chẳng phải chính lửa, lửa chẳng chính gọi là noãn, nếu quán vô nghĩa, trí thể tức là minh, vì sao gọi là tướng trước lập ra tên minh đắc? Dưới cũng không nên nói rằng, minh tướng chuyển đầy đủ, lại minh đắc này tức là tầm tứ. Luận Vô Tánh nói: Giả hữu thật vô, phương tiện nhân tướng nói gọi là tầm tứ, lại Vô lậu trí có thể không gọi là minh ư?
Hỏi: Nương theo định đã phát là tầm tứ dưới, vì sao không gọi là định của tầm tứ dưới, gọi định của minh đắc ư?
Đáp: Mong nghĩa có khác nhau, chiếu rõ vô của Sở thủ, gọi nó là minh, tìm cầu Sở thủ giả hữu thật vô, gọi là tầm tứ, nên luận Vô Tánh nói: Định này khởi đầu đắc được nghĩa trí minh của vô. Nên đắc được tên minh đắc Tam-ma-địa còn lại chẳng khởi đầu, không cùng với tên đắc.
Hỏi: Nếu như vậy nên nói: Minh của đắc gọi là minh đắc, Y chủ thích, vì sao gọi là Trì nghiệp?
Đáp: Nêu lên năng đều với Sở có thể gọi là Y chủ, nay Sở đắc này gọi tên đắc, nên chẳng phải Y chủ, hoặc có thể đắc là thể của tìm cầu, minh là dụng của chiếu, thể có thể có dụng, minh của đắc gọi là minh đắc. Định của minh đắc đều Y chủ thích, hoặc Lân cận thích, định chẳng phải minh đắc, minh đắc đồng thời định gọi là minh đắc định. Y vô gián định v.v... Vô gián sau đây tức nhập vào Kiến đạo, lập ra tên vô gián, nếu do trí gọi là vô gián định. Y chỉ là tên, định vô gián này nhập vào Kiến đạo, gọi là vô gián định, tức là Trì nghiệp thích, không đồng với minh đắc, định chẳng phải minh. Vô gián chẳng phải trí, nhưng không phải biết cách, tức gọi là vô gián, trí định đồng thời. Tây
Minh giải thích rằng: Thứ nhất pháp quán, gọi là vô gián, định của Sở y này gọi là vô gián định. Tức là Y chủ thích, thiếu Trì nghiệp thích, vô gián tên rộng, chẳng phải chỉ trí, thông với hai giải thích thù thắng, không đồng với ba cách trước, vì tên hẹp.
Hỏi: Căn cứ theo luận nói: Tên gọi, nghĩa tướng khác nhau nên chỉ tìm cầu, hai loại tướng đồng, nên hợp với tư sát, ly hợp làm bốn, đồng với luận Du-già, vì sao Nhiếp luận của Vô Tánh quyển 6 nói dù tên gọi, dù nghĩa tự tánh sai biệt giả lập tự tánh sai biệt nghĩa, như sáu loại nghĩa đều vô?
Đáp: Luận kia nói pháp có sáu loại, nếu quán tầm tứ tức là tên gọi, nghĩa biết khai, hai tự tánh hai sai biệt hợp quán nên thành bốn loại, luận Dugià quyển 36, luận Hiển Dương quyển 6, luận Vô Tánh quyển 6, luận Đại Trang Nghiêm quyển 12, đều nói bốn tầm tứ, bốn như thật trí, không nói sáu xứ của tầm tứ.
Tây Minh nói: Ly tức là sáu hợp quán làm bốn, chuẩn theo đây biết trái, giải thích rộng, tên gọi, nghĩa, tự tánh, sai biệt, như Nhiếp luận quyển 6, luận Du-già quyển 36 rõ ràng.
Luận: Như là noãn đảnh y năng thủ thức, quán, sở thủ không cho đến Thế đệ nhất pháp, hai không cả hai ấn khả. Điều này trước giải thích ngộ nhập vào ba tánh kết Sở minh trước, vì noãn, đảnh, vị chưa quán năng thủ vô. Nói rằng nương theo năng thủ thức quán Sở thủ không, vì Sở thủ kia danh, nghĩa hai loại nương theo năng thủ thức, mà giả lập, đây quán tên gọi, nghĩa đầu sau hai vị không phải cảnh của tâm bên ngoài, chỉ nương theo tâm bên trong. Một lại chỉ thức ngộ biến kế trên, nhẫn dưới ngộ Y tha. Trong nhẫn khởi vị quán năng thủ không, chỉ thức như huyễn v.v... Hai lại chỉ ý thức ban đầu ngộ biến kế Sở chấp cũng biết tánh của năng thủ chẳng phải hữu; cũng ngộ Y tha, nhẫn trên thứ nhất riêng lẽ cả hai năng thủ Sở thủ không kia, đều ngộ Viên thật, đây nói ngộ là căn cứ theo lời tợ như ngộ, chẳng phải là thật ngộ, nên dưới tổng kết rằng an ổn lập ra ít vật nghĩa là chỉ thích chân thắng nghĩa tánh.
Hỏi: Nếu nhẫn trên thứ nhất ngộ Viên thành, vì sao nói rằng trong bốn vị này còn ở nơi hiện tiền, an ổn lập ra ít vật nghĩa là tánh của Duy thức, chuẩn theo đây nên thông với bốn vị chăng?
Đáp: Đã nói ở trong bốn vị minh lựa ra nhẫn trên và vị thứ nhất, nếu không như vậy chỉ nên nói ở trong bốn vị này, vì sao cần phải nói?
Lại giải thích ở trong noãn, đảnh vị, quán tên gọi, nghĩa, hai loại lìa thức là không hỗ tương. Không phải thuộc về tướng, tên gọi ngộ được biến kế, quán tên gọi, nghĩa v.v... Chỉ có thức lượng và giả tên gọi nghĩa, tên gọi ngộ được Y tha, nhẫn, vị thứ nhất ngộ được Viên thành thật, đây nương theo tên gọi, nghĩa của Nhiếp luận là chỗ khác hiểu.
Hỏi: Trong nhẫn khởi vị quán năng thủ không, lui nhẫn trên khởi mới bắt đầu có thể ấn chứng, nên ở trong nhẫn vị mới ngộ được Y tha, vì sao hai thuyết đầu ngộ được Y tha?
Đáp: Nhiếp luận căn cứ theo thiểu phần tên gọi ngộ được Y tha, trong hai nhẫn trên, từ nhẫn trên nói tên gọi ngộ được Viên thành, hoặc nhẫn vị dưới ấn chứng Sở thủ không, tâm được biến không là Y tha khởi, căn cứ theo lý không của Chân như, tức là Viên thành thật, nên trong Nhiếp luận dẫn luận Trang Nghiêm rằng: Trụ hai loại này không chân thật lý.
Hỏi: Căn cứ theo Nhiếp luận của Vô Tánh, ban đầu ngộ được biến kế, kế ngộ được Y tha, sau ngộ được viên thật, chuẩn theo luận quyển 8 này dẫn kinh tụng rằng: "Chẳng có gì không thấy Chân như mà có thể rõ được các hành v.v..." tức là trước ngộ được Viên thật, kế ngộ được Y tha. Lại nữa Nhiếp luận của Vô Tánh văn ban đầu, địa trước ngộ được hai tánh đầu, văn thứ hai địa trước đồng ngộ được ba tánh, vì sao không đồng?
Đáp: Nương theo học quán sát hướng đến nhập vào một phương tiện tương tợ ngộ mà nói, trước ngộ được biến kế, kế Y tha, sau Viên thật, tức là quán tên gọi, nghĩa lại hỗ tương làm khách, biết kia chẳng phải chân, kế quán chỉ lượng và chỉ giả v.v... Nếu nương theo chân chứng được, phải đạt đến Viên thành, mới biết thức huyễn, nên kia đây nói đều không phải trái nhau.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao Nhiếp luận ghi: "Đối với sợi dây nghĩ là con rắn"? Thấy sợi dây rõ được nghĩa vô v.v... Căn cứ theo đây tức là trước ngộ được Y tha, kế ngộ được biến kế chăng?
Đáp: Đây căn cứ theo ngộ nhập trừ được chấp mà nói, ban đầu tuy quán tên gọi, nghĩa v.v... chưa có thể quyết định, phải biết nương theo thức rồi chấp kia mới trừ. Như lúc thấy cây trụi mới trừ được hiểu nhầm là người.
Nhiếp luận cũng nói: Như là nương theo Duy thức hiển hiện giác của Y tha khởi. Xã sáu nghĩa giác của biến kế chấp, không phải trước quán Y tha khởi rồi mới quán biến kế, nên không phải trái nhau, lại giải thích ở nơi sợi dây khởi trí con rắn v.v... Căn cứ theo học lâu mà nói tên gọi, nghĩa hỗ tướng làm khách, nương theo sự học mà nói, chuẩn theo văn đây ngộ nhập có ba:
1. Ban đầu ngộ được biến kế, kế ngộ được Y tha, sau Viên thật, tức là tên gọi, nghĩa hỗ tương làm khách.
2. Trước ngộ Y tha, kế biến kế sau Viên thật, tức là thấy sợi dây rõ được nghĩa vô đều là đúng.
3. Đầu ngộ được Viên thành, kế Y tha sau biến kế, tức là đều thấy được Chân như là đúng.
Nhập vị cũng có ba, chuẩn theo ban đầu chung ở Kiến đạo trước, chuẩn theo sau chung nhập vào Kiến đạo sau. Ba loại ban đầu hai tánh ở Kiến đạo trước ngộ, Viên thành thật tánh nhập vào Kiến đạo rồi ngộ, tức là thấy sợi dây rõ được nghĩa v.v.. nên luận kia nói: Như là nương theo chỉ giác của Viên thành thật, khiến cho giác của Y tha khởi mê loạn và kia lần lượt dưới. Nên tợ như Duy thức cũng không được sinh, do là nhân duyên, Vô phân biệt trí đã được sinh khởi.
Hỏi: Ở trong bốn vị này chỉ sai khiến biến kế không sai khiến Y tha, Viên thật tức là quán giả có và tánh của Duy thức, vì sao nói pháp Thế đệ nhất cả hai ấn chứng hai không?
Đáp: Riêng nói ấn chứng không, không có cái gì không ấn chứng có, do từ nhân vọng chấp tên gọi, nghĩa v.v... có, không rõ được Y tha, Viên thật. Lúc quán thông kia có thể ngộ được hai loại sau, nên nói ấn chứng không lý cũng ấn chứng có, nên đoạn dưới nói: Do ở hiện tiền an ổn lập ra ít vật, nghĩa là chỉ thức chân thắng nghĩa tánh.
Hỏi: An ổn lập ra ít vật nghĩa là Duy thức tánh, tức là hữu quán ấn chứng hai không kia tức là không quán, không hữu đã trái nhau, như đoạn thường kiến, nhờ vào đâu được hợp nhau?
Đáp: Chấp, không chấp khác nhau, nêu được đều khởi, quán lại không hai tức là hiển bày không tánh là Viên thành thật, căn cứ theo tương tợ mà nói, ẩn chứng không tánh này, gọi là ấn chứng hai không.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao trước nói nhãn, cảnh, thức không, nên cũng gọi là nhẫn, chuẩn theo ý chính này, ấn chứng hai thủ không?
Đáp: Căn cứ theo đây trước sau cả hai ấn chứng không, hữu, trước nói là tốt đẹp.
Hỏi: Đã nói cả hai ấn chứng, ấn chứng hai thủ không, và Y tha hữu, tức là quán tục, ấn chứng hai không tánh nghĩa là chân thắng nghĩa tức là quán chân, chân tục cả hai quán năm địa mới đấu được, vì sao địa trước đã có thể hợp quán?
Đáp: Năm địa hợp quán, căn cứ theo hai trí hợp nhau khởi, hoặc chân chứng mà nói, đây căn cứ theo tương tợ chẳng phải là chánh chứng, đều mang theo tướng cũng không trái nhau.
Đây không hữu hai tướng, Tây Minh nói Tam Tạng có hai giải thích:
1. Ở trong bốn vị, hai vị đầu quán Sở thủ không, hai vị sau quán năng thủ không, như là lúc quán tên gọi v.v... bốn loại hoặc sáu hoặc bốn giả có thật không, giả có là Y tha tánh, tức là có tướng, thật không tức là biến kế, đây tức là không tướng, hai tướng đều diệt an ổn lập ra chân tánh.
2. Trong bốn vị trước có năng thủ Sở thủ không tướng cùng với Tướng phần không tướng, không phải một không phải khác, không phải riêng thể nên không khác. Hữu vô riêng nên chẳng phải một, nhưng không tướng kia chỉ là Sở duyên chẳng phải duyên, vì là vô thể, nên hữu tình hiện, tức duyên sinh là Sở duyên duyên, nên nói quán tâm mang theo tương hữu vô, nay cho rằng hai giải thích đều truyền lại. Sai lầm, vì sao ban đầu giải thích rằng hai vị đều quả Sở thủ không, hai vị sau quán năng thủ không? Không ứng hợp với đạo lý, pháp Thế đệ nhất cả hai ấn chứng hai không, tức là cả hai quán hai không, đâu ấn chứng được hai không mà không quán ư? Trong giải thích thứ hai duyên theo hai thủ không, được biến không tướng gọi là hữu, đâu có thể chỉ muốn trừ được hữu tướng của Tướng phần này, không trừ được Tướng phần của thức tánh ư? Nếu không như vậy vì sao hiện tiền lập ra ít vật? Nghĩa là chỉ thức, tánh, vì có Sở đắc, nên biết quán hai thủ là không, quán thức và tánh là hữu, còn mang theo hai loại này nên không chứng chân, không thể chỉ nói duyên theo không, Tướng phần nói là hữu.
Hỏi: Nói đều mang theo tướng nên chưa có thể chứng được chân, nói hiện tiền an ổn lập ra ít vật là ở vị nào?
Đáp: Căn cứ theo văn chánh, ở vị bốn thiện căn, đã nói rõ vị trước, nói đều mang theo tướng, chưa có thể chứng thật.
Lại nói: Mang theo tướng quán tâm có Sở đắc, lại giáo thọ tụng rằng: "Bồ-tát ở định vị, quán ảnh chỉ là tâm v.v...", nhưng ở định vị, nhưng không chấp chặt, là định hiện lượng.
Yếu Tập ghi: Căn cứ theo xuất quán vị mà nói, quán trong hiện lượng không làm ra giải thích này, nay cho rằng không đúng. Nếu thừa nhận trong quán không mang theo không, hữu hai tướng là lẽ ra xúc chạm vào vô Sở đắc, tức là trụ ở chân kiến, thế nào gọi là gia hạnh, lại lẽ ra phục trừ tướng thô trọng trói buộc, lại trái với các văn trước.
Luận: Gia hạnh vị này chưa sai khiến tướng trói buộc.
Vốn giải thích như Sớ, nay lại giải thích thêm, thể của tướng trói buộc này hai chấp của Thức thứ bảy làm gốc, khiến cho các thức không thể mất tướng, là tướng đã buộc, nhưng Thức thứ năm trước nói do ngã chấp khiến cho trong sáu thức đã khởi bày ra v.v... không thể mất tướng. Căn cứ theo chấp ngã có thể hành bố thí v.v... và có thọ, nếu chấp đã bố thí, không mất tướng, đâu phải ngã chấp ư? Do chấp pháp hữu nên không mất tướng; nếu nói thấy đã bố thí vật thuộc về mình là ngã sở kiến, cũng là ngã chấp khởi, ở trong đệ khác không mất tướng, đâu phải chấp làm ngã sở v.v... nên luận Dugià chỉ nói Mạt-na-nhiễm ô lầm chỗ nương. Lúc nó chưa diệt tướng rõ được chỉ trói buộc, không được giải thoát, không nói do ngã mong Bồ-đề, nói gọi là nhiễm ô, Nhị thừa không hành vô tướng thí v.v... Lại trước giải thích nói tướng phược nghĩa là ở trong cảnh tướng, không thể liễu đạt, như việc huyễn v.v... Lại như ngã chấp làm tướng trói buộc, Nhị thừa Vô học đoạn ngã chấp này, nên không phải tướng trói buộc đây đều hồi tâm vị của gia hạnh v.v... nên không phải hai phược, quán lại an lập, nên có thể đoạn phược, vì sao luận Du-già quyển 64 ghi: "Nếu lìa chẳng An lập đế nên biết hai phược chưa được giải thoát"?
Hỏi: Nếu như vậy Nhị thừa Vô học sau đắc được, tức là hành với tướng, nên có tướng phược?
Đáp: Vì lậu Vô lậu tánh trái nhau, nên tạm thời có thể phục trừ, tuy hành nơi tướng, không phải là tướng phược, tức là căn cứ theo lý này bốn phần tướng mong làm Sở duyên, cũng được gọi là tướng, tuy chẳng phải Tướng phần mà là cảnh tướng, thứ năm trước nói: Do Kiến phần này tướng kia đã buộc, căn cứ theo hiển tướng rõ ràng, chẳng phải chỉ Tướng phần, gọi là tướng phược, nên luận Du-già quyển 75 ghi: "Tướng thô trọng trói buộc có mười bốn loại, năm ở cảnh Sở tri không phải trí trói buộc". Sáu ở năng tri trí không phải trí trói buộc, tức là năng tri Sở tri đều gọi là tướng thô trọng trói buộc, rõ ràng Kiến phần v.v... cũng được gọi là trói buộc, Sớ lại nói tất cả Sở thủ năng thủ trói buộc v.v... chứng được bốn loại đều trói buộc. Tây Minh, Yếu Tập đồng thời, đều không thừa nhận Kiến phần, tự chứng phần v.v... cũng gọi là trói buộc. Yếu Tập vặn hỏi rằng: Nếu do nói triền tức là nói phược, vì sao luận sư dẫn kinh tụng kia chứng được thành bốn phần của Hữu lậu, Vô lậu? Vô lậu không phải phược chẳng chứng được Vô lậu cũng có bốn phần, nếu nói lời phược, không được chứng Vô lậu, lẽ ra nói lời của chúng sinh, không được chứng Phật hữu. Lại nói: Chánh trí chứng Chân như, tức là không phải Tướng phần, nhất định có Kiến phần v.v... có liễu bất liễu? Vặn hỏi này trái lý, căn cứ theo Hữu lậu mà nói, không căn cứ theo Vô lậu, vì sao được nêu Vô lậu là vặn hỏi?
Nói thô trọng là các văn không đồng, đầy đủ như sớ dẫn, nói như Biệt sao nói, thô trọng không đồng lược có năm loại:
1. Hai chướng tử gọi là thô trọng, tức là tụng luận này xã hai thô trọng, nên liền chứng được chuyển y.
2. Hai chướng đã dẫn sinh, còn lại tập khí, không kham chịu tánh gọi là thô trọng, tức là dưới đoạn chướng giữa nói: Hai chướng đã sinh không kham chịu tánh, như ở hai định, nói đoạn khổ căn.
3. Hai chướng hiện hành gọi là thô trọng tức là nói chính là chướng khinh an, trái với tế khinh. Nên gọi là thô trọng, như thứ sáu rõ ràng.
Lại Đối pháp thứ mười nói: Lãnh thọ thô trọng, tức là Dị thục thọ, có thể chướng định.
4. Các chủng từ của Hữu lậu chung gọi là thô trọng, luận Hiển Dương 16 nói tự tánh của Y tha do tướng thê sinh ra thô trọng, thô trọng làm duyên lại sinh ra tướng.
5. Tất cả chủng tử của Hữu lậu và hiện hành gọi là thô trọng. Luận Du-già quyển 58 ghi: "Thô trọng trói buộc tức là tất cả pháp Hữu lậu", nên biết trên đây, hoặc lậu tùy theo, hoặc đã sinh gọi là thô trọng, hoặc lậu tự tánh, hoặc tương ưng, gọi là thô trọng, vì sao luận Du-già 64 nói không phải chỗ kham chịu được? Không phải tướng điều nhu là tướng thô trọng, đây có năm loại:
1. Tướng trầm trọng.
2. Tướng cang cường.
3. Tướng chướng ngại.
4. Tướng khiếp liệt.
5. Không phải tự tướng chuyển.
Không phải tướng kham chịu nổi, do Hữu lậu này, tùy theo sở hữu, chung nói Hữu lậu, gọi là thô trọng, mong Vô lậu mà nói "bất thiện, Vô ký" gọi là thô trọng, tức là hai chủng tử của chướng, hiện và Vô ký thọ mong tâm thiện mà nói, thiện có kham chịu được, hoặc chỉ nói phân tán gọi là thô trọng, mong định mà nói, định có khinh an, trong năm tướng trước, đầy đủ, không đầy đủ v.v... tùy theo sở ứng. Vả lại Hữu lậu thiện gọi là thô trọng, lậu đã tùy theo hoặc chẳng phải thô trọng, chẳng phải tánh của lậu, vì chẳng phải chủng tử, chẳng phải tập khí, còn lại hoặc gọi là thô trọng hoặc không thô trọng, hoặc chỉ nói phiền não. Gọi là thô trọng, lậu tự tánh, hoặc thông với hai chướng gọi là thô trọng, chấp tự tánh, lậu tánh lậu đồng thời, hoặc chỉ chướng chủng tử nói là thô trọng, vì lậu chấp tánh tánh chìm ẩn sinh ra hiện chướng, nên riêng được tên, hoặc chỉ tập khí gọi là thô trọng, vì vi ẩn, tánh khó đoạn, các thuyết không đồng, chuẩn theo đây sẽ giải thích.
Luận: Bồ-tát khởi noãn v.v... thiện căn v.v...
Nếu Nhị thừa tăng thượng nhãn, Thế đệ nhất đồng nương theo năm địa, trung gian, hạ nhẫn và noãn, đãnh có thể thông với trung gian, chẳng phải Kiến đạo gần Sở y, lại giải thích phương tiện có thể không. Nếu thành mãn chẳng phải ở trung gian, nếu Đại thừa thượng nhẫn, Đệ nhất chỉ định thứ tư, còn lại có thể đồng nương theo cận phần. Trung gian lại giải thích trung gian, hạ phẩm nhẫn và noãn, đảnh, hai phương tiện đồng nương theo, thành mãn chỉ ở Tĩnh lự thứ tư, nên văn đây nói tuy lúc phương tiện thông với các hiện định, mà nương theo thứ tư, mới được thành mãn, chuẩn theo đây thành mãn sẽ không thông dưới, nên biết trung gian định không được có ba Thừa thành mãn, phương tiện đều thông, vì nhập vào Kiến đạo. Văn quyển 71 và quyển 69 chỉ nói năm y, chẳng phải trung gian địa. Tây Minh, Yếu Tập đều chấp nhân được nương theo, trái với văn tự nói. Tây Minh dẫn luận Du-già quyển 100 ghi: "Lại có chín y, có thể hết các lậu", nghĩa là vị chí, trung gian tứ thiền, ba Vô sắc, có thể khởi đoạn đoạn hoặc, có thể khởi thiện căn, lý nhất định sẽ như vậy, nay cho rằng không đúng. Luận kia nói hết lậu theo Tu đạo đoạn, chẳng cho rằng biến đạo, văn quyển 71 ghi: "Ba loại năm y sinh", và văn 69 hiện quán nướng theo Vị chí, và Tứ thiền không nói Vô sắc và trung gian, nếu cho chín y có thể đoạn là chứng, cũng sẽ Vô sắc có thể nhập vào Kiến đạo, có thể khởi thiện căn, nếu thừa nhận khởi. Trái với kinh Niết-bàn, noãn v.v... thiện căn là Sắc giới trói buộc và văn quyển 71, quyển 69.
Lại trong luận này và văn quyển 69 luận Hiển Dương v.v... nói nương theo cõi Dục khởi bốn thiện căn, và nhập vào Kiến đạo, chính là đoạn được phiền não, đều trong Đại thừa đến ngộ mà nói. Nếu là tiệm ngộ đoạn được Sở tri chướng, Sắc giới cũng nghe theo, Nhị thừa trở lại hướng đến cũng nương theo thân kia khởi bốn thiện căn nhập vào Kiến đạo.
Hỏi: Đã thừa nhận Tỳ-bát Bồ-tát sinh về Sắc, Vô sắc tuy là đốn ngộ, cũng nương theo thân kia khởi bốn thiện căn, nên thông với Vô sắc, cũng có thiện căn?
Đáp: Noãn, đảnh, hạ nhẫn dung chứa thừa nhận sinh về cõi trên, chẳng phải lân cận có thể thừa nhận sinh về cõi trên, tuy chấp nhân sinh về cõi trên. Đã khởi noãn v.v... là Sắc giới, định, tuệ đều trội hơn, chẳng phải pháp địa kia vì tuệ yếu kém. Nói sinh về địa trên, không khởi hạ nhẫn, căn cứ theo phàm phu và Nhị thừa mà nói hoặc bốn thiện căn Bồ-tát sinh về cõi kia không thể hiện khởi bốn thiện căn này, hoặc không sinh về địa trên, trong tư lương vị thừa nhận có sinh về Địa trên, chưa khởi noãn v.v... người làm ra lời này là thuận theo các kinh luận.
Luận: Thật chứng hai không thật đoạn hai chướng v.v...
Tam Tạng giải thích đốn tiệm hai luận sự hợp với giải thích của quyển 25. Vả lại, tiệm đoạn luận sư có mười bốn giải thích. Vả lại phiền não, sở tri đều chia ra ba phẩm chung có năm giải thích:
1. Đã đều chia ra ba phẩm, trước đoạn phiền não trong ba phẩm, đều có vô gián, giải thoát, thành tựu được sáu tâm, kế đoạn Sở tri, đã khởi loại khác đoạn đạo, tức là khởi Thắng tấn. Lại có một tâm, chung có bảy tâm, kế đoạn Sở tri ba phẩm cũng có sáu tâm, muốn nhập vào tướng kiến khởi một Thắng tấn, cung chung bảy tâm, hợp thành mười bốn tâm chân kiến cứu cánh, vì sao nhập vào tướng khởi thắng Kiến đạo? Vì tướng Kiến đạo chưa từng được.
Hỏi: Sát-na sát-na trước sau tướng mong đều đầy đủ bốn đạo, tức là không phải khởi riêng, vì sau nay nói có mười bốn tâm?
Đáp: Nghĩa của luận sư khác kia, lại giải thích kia căn cứ theo tu đoạn chẳng phải phát khởi lời ban đầu.
Hỏi: Luận Du-già quyển 55 chỉ nói hai chướng đều chia ra trên dưới, riêng chung ba tâm chân kiến cứu cánh, vì sau nay nói có mười bốn tâm?
Đáp: Như luận này hợp nhau. Nương theo thuyết chân giả, thật tướng Kiến đạo trọng pháp ở trước, vì hợp được, đều là phẩm dưới riêng pháp, phẩm trên hợp pháp, nên nói ba tâm, chẳng phải thật như vậy.
2. Chướng của Sở đoạn tuy thành tựu sáu phẩm, đoạn phiền não rồi muốn đoạn Sở tri, một loại duyên theo chân lại không riêng, khởi Thắng tấn, mới vào đoạn Sở tri, đạo, nên mười ba tâm chân kiến cứu cánh.
3. Từ chân nhập vào tướng vì hợp nhau tu, thắng nhập vào liệt cũng không khởi Thắng tấn, chỉ mười hai tâm.
Hỏi: Từ chân nhập tướng không khởi Thắng tấn, từ tướng nhập vào tu chân Vô lậu đạo, khởi Thắng tấn chăng?
Đáp: Tướng nhập vào chân, tu khó khăn, khởi Thắng tấn đạo.
Hoặc đã hợp nhau được nhập vào tu, không phải lại khởi Thắng tấn đạo, tuy có hai giải thích, khởi sẽ là thắng, chẳng phải tướng kiến sau tức là nhập vào Tu đạo chân đoạn hoặc đạo, lúc trung gian khởi phân tán riêng, mới nhập vào tu chân đoạn đạo, nên có Thắng tấn.
4. Căn cứ theo quyển 10 nói Nhị thừa căn thuần tiệm lúc đoạn chướng, nhất định đều riêng khởi vô gián, giải thoát, Bồ-tát không như vậy, tức là vô gián sau, giải thoát trước, lúc đoạn phiền não có ba Sát-na vô gián đoạn đạo, khởi Thắng tấn đạo, muốn đoạn Sở tri, tức là làm phiền não thứ ba giải thoát của vô gián, tức là có bốn tâm, trong đoạn Sở tri, ba phẩm cũng như vậy, muốn nhập vào tướng kiến, khởi Thắng tấn đạo, tức là làm thứ ba vô gián giải thoát, nên chỉ có tám tâm, chân kiến cứu cánh. 5. Đoạn Phiền não chướng ba vô gián rồi, tức là đoạn Sở tri, không khởi Thắng tấn, lấy Sở tri ban đầu Vô gián đạo, làm phiền não thứ ba Giải thoát đạo của vô gián kia, nên chỉ có bảy tâm, chân kiến cứu cánh.
Căn cứ theo đây nên làm ra sáu giải thích, vì nhập vào tướng kiến cũng trừ được Thắng tấn. Chuẩn theo một giải thích trước, lại giải thích hai chướng đều chia ra trên dưới, thê tế khó dể, đoạn sai biệt, như mười sức của Phật, sức của căn trên dưới trong căn tùy theo nên thuộc về trên dưới, đoạn chướng cũng như vậy. Phẩm trung tùy theo nên do quán hành là sức của ý lạc, tùy theo trên dưới đoạn đều chia làm hai. Nếu như vậy nói vì sao gọi là tiệm đoạn?
Đáp: Do trên dưới khác nhau, đắc được gọi là tiệm. Lại giải thích bản ý hai chướng đều hai loại không chia ra phẩm trung, vì đều thô tế dễ khó đoạn, hai chướng hợp có bốn phẩm đoạn khác nhau, cũng có năm giải thích, nghĩa chuẩn theo trước rõ ràng. Chuẩn theo nghĩa gia hạnh, cũng lẽ ra sáu giải thích nghĩa cũng như trước. Lại giải thích hai chướng, đều chia ra trên dưới, hai chướng phẩm hạ, nhất định đều riêng đoạn, vì khởi đầu đoạn. Hai chướng phẩm thượng tức là hợp cùng đoạn, vì hai trọng khởi đoạn chướng đạo, vì trước đoạn hai loại phẩm kia, tức là cho phiền não phẩm hạ là dưới, Sở tri phẩm hạ là giữa, mong ban đầu vặn hỏi, hai loại đều phẩm thượng là trên, vì khó đoạn, tức là ba phẩm đoạn, ở trong bốn giải thích:
1. Bảy tâm ba Vô gián đạo ba Giải thoát đạo khởi một Thắng tấn, nhập vào kiến tướng đạo.
2. Sáu tâm, từ chân nhập vào tướng không khởi Thắng tấn.
3. Năm tâm sau Vô gián đạo là trước giải thoát đoạn, phẩm thứ ba riêng khởi giải thoát, tứ chân nhập vào tánh, khởi một Thắng tấn.
4. Bốn tâm trừ được Thắng tấn đạo, liền đoạn được nghĩa của luận sư, có mười một giải thích.
Vả lại đoạn hai chướng đều trong ba phẩm, mỗi phẩm thượng, trung, hạ cùng hợp làm ba, có bốn thuyết:
1. Bảy tâm, ba vô gián, ba giải thoát khởi một Thắng tấn, nhập vào tướng Kiến đạo.
2. Sáu tâm, trừ đoạn tiến đạo.
3. Năm tâm, tức là vô gián sau làm giải thoát trước, thứ ba vô gián sau khởi giải thoát và một Thắng tấn.
4. Bốn tâm trừ Thắng tấn.
Hỏi: Đã có bảy tâm bốn Sát-na sai biệt, thế nào gọi là đốn?
Đáp: Hai chướng đồng đoạn gọi là đốn.
Nếu như vậy vì sao văn 56 v.v... nói ba tâm?
Đáp: Đồng với tiệm trước, giải thích ba tâm kia, chính là đoạn hai chướng đều một phẩm trung, có ba thuyết:
1. Ba tâm.
2. Hai tâm.
3. Một tâm.
Nghĩa nói là hai vô gián, giải thoát. Có thể đoạn gọi là Vô gián đạo, chứng được Vô vi gọi là Giải thoát đạo, luận này tuy nhiều Sát-na, là nghĩa của luận sư khác, trên tiệm đoạn mười bốn đốn đoạn mười một chung hai mươi lăm giải thích. Lại quyển 26 giải thích tiệm có mười sáu, đốn đoạn có mười. Vả lại, trong tiệm mười sáu giải thích. Như đoạn hai chướng đều ba phẩm trung chia làm bốn giải thích. Ở trong giải thích trước, chỉ trừ đoạn phiền não, rồi khởi Thắng tấn đạo, mới đoạn sở tri, còn lại giải thích đồng với trước, nên chỉ bốn giải thích. Đoạn hai phẩm trung đồng trước trừ Thắng tấn, cũng chỉ bốn giải thích, lại hai phẩm hạ riêng đoạn, trong thượng phẩm hợp đoạn, cũng đồng với bốn giải thích trước, mỗi mỗi một phẩm trung cũng có bốn giải thích: một là năm tâm; hai là bốn tâm, trừ được Thắng tấn, ba là bốn tâm tức là vô gián sau làm giải thoát trước, riêng khởi Thắng tấn nhập vào tướng Kiến đạo; bốn là ba tâm cũng trừ Thắng tấn, chung mười sáu giải thích, đốn đoạn mười giải thích, đều chia ra làm ba phẩm, hợp trong đốn đoạn, đồng với tiệm đoạn trước. Trừ được một Thắng tấn, cũng làm bốn giải thích, đều chia ra ba phẩm, cũng đồng với tiệm đoạn trước, trong hai giải thích, như tiệm đoạn, đốn đoạn đều chia làm ba, đều chẳng phải chính giải thích, đều phẫn hai phẩm trung, thứ hai hai phẩm trung, sau hai giải thích chính, thứ ba và còn lại đều không phải chính giải thích.
Tây Minh nói: Tuy hai mươi lăm giải thích, lý còn chưa hết, mỗi mỗi một phẩm trung hợp có tiệm, đốn. Hai luận sư nói khác nhau, hợp thành hai mươi tám giải thích, nay cho rằng đây nói cũng chưa hết lý. Một, Tây Minh chỉ nghe theo Tam Tạng trước hai mươi lăm giải thích, không nghe theo hai mươi sáu giải thích, đều một phẩm trung, chính là Tây Minh giải thích chỉ làm ba giải thích, hợp có bốn giải thích, như trước đã rõ ràng, cũng là ít một giải thích. Lại ba phẩm trong hai phẩm trước, đoạn phiền não rồi, muốn đoạn sở tri, nên gia thêm Thắng tấn, trong ba loại trước đều ít một giải thích, không thể nói lời, một chân Kiến đạo không thể khởi Thắng tấn, vì đã giải thích chướng phẩm loại khác nhau, lại nhiều không chính làm ra giải thích này.
Yếu Tập ghi có giải thích rằng: Hai mươi tám giải thích cũng chưa hết lý, đều một phẩm trung tiện đoạn chướng gia hợp có năm giải thích: một, có ba tâm; hai, có bốn tâm; ba, có năm tâm; bốn, có sáu tâm; gia thêm hai tâm của Tây Minh. Lại ba tâm Kiến đạo chỉ làm bốn giải thích cũng không hết lý, gia thêm ba giải thích trước, một nói rằng ban đầu hai tâm là hai phẩm vô gián, thứ hai là hai Giải thoát đạo trước, lại từ thứ nhất nhập vào thứ hai, từ thứ hai nhập vào thứ ba, đã là loại khác nên có Thắng tấn, tức là hợp thành bảy giải thích, hộp ba mươi ba mới được hết lý, nay cho rằng không đúng. Ba tâm Kiến đạo, ban đầu hai vô gián, thứ ba giải thoát, cùng với mỗi mỗi một trước ba tâm khác gì, nên trừ được giải thích này, ba mươi hai giải thích.
Yếu Tập ghi: "Đây đều chưa hết, ở trong một phẩm đốn đoạn, trong hợp có bốn", tức là một vô gián đoạn, hoặc chứng diệt, nghĩa nói làm hai chỉ là một tâm, lúc nhập vào tướng kiến khởi một
Thắng tấn, nên làm bốn giải thích. Lại ba, hai, một tâm đều riêng đoạn giữa, từ đoạn phiền não muốn đoạn sở tri, đều khởi Thắng tấn tức là gia thêm ba Thắng tấn, ở trong hữu giải ba mươi ba giải thích. Trừ ba tâm khiên đạo hai giải thích, chỉ có năm giải thích, ở nơi vô gián sau, không thừa nhận khởi Thắng tấn, chỉ chấp lấy hai tâm vô gián một tâm giải thoát, hợp thành ba mươi mốt, gia thêm bốn loại của Thắng tấn, một phẩm đến đoạn giữa gia thêm một, giữa của tiệm đoạn. Một, hai, ba phẩm đều gia thêm một, hợp thành ba mươi lăm giải thích, nay cho rằng không đúng, bốn Thắng tấn đạo lẽ ra đốn đoạn giữa gia thêm, trong tiệm đoạn chuẩn theo có giải thích có, lại có thể thừa nhận đều một phẩm trung, đốn tiệm chỉ được có bốn loại, tiệm đoạn có năm loại, ba tâm Kiến đạo hai vô gián một giải thoát, lỗi cũng không đồng trước, nên ba mươi bốn giải thích. Nay nghĩa chuẩn hợp thành ba mươi chín, đều hai, ba phẩm trung, tiệm đốn, đều sáu giải thích thành hai mươi bốn mỗi mỗi một phẩm trung cộng có chín giải thích, như trước chuẩn theo biết. Ba tâm Kiến đạo hợp có sáu giải thích, Vô gián đạo sau, làm giải thoát trước, giải thích giữa, ở nói đoạn hạ phẩm Phiền não chướng rồi, cũng khởi Thắng tấn, hoặc trừ được tướng mong vô gián giải thoát, nhưng ở nơi riêng khởi vô gián giải thoát, đoạn được phiền não dưới, muốn đoạn Sở tri, khởi một Thắng tấn, làm một giải, lại đoạn trung phẩm, khởi một Thắng tấn, hướng đến chung đoạn đạo cũng làm một giải thích.
Luận: Hai tướng Kiến đạo v.v...
Nếu nương theo tiệm đạo là chân Kiến đế, giải thích như trước, nên văn quyển 55 ghi: "Thế nào gọi là hiện quán thứ tư", cho đến nói rằng thiện căn vô gián, có ban đầu bên trong sai khiến hữu tình giả pháp. Duyên tâm sinh, đều trừ được noãn, phẩm Kiến đạo đã đoạn phiền não thô trọng v.v... nên biết chân kiến tiệm đoạn chẳng phải đốn, đều như Sớ dẫn, nếu luận sư thứ hai cũng giống như Sớ dẫn, nói ba phẩm tâm như lần lượt dưới hợp nhau.
Lại luận Tạp Tập quyển 9 ghi: "Lại như trên nói, Kiến đạo sai biệt đều giả kiến lập, chẳng phải chân thật như vậy", vì sao? Trong vị xuất thế đều riêng bên trong chứng dắt được hý luận, cũng không thể nói đây nương theo mười sáu tâm. Luận nói rằng đều giả, nếu nói mười sáu tâm, chỉ nên nói là giả kiến lập, vì sao cần nói đến? Nên biết chung riêng hai loại Kiến đạo đều là giả lập, nếu như vậy là tiệm đoạn không phải đốn đoạn, lại như Sở dẫn. Duyên, năng duyên, bình đẳng bình đẳng trí làm tướng, cũng sẽ là giả?
Đáp: Không như vậy chẳng phải sai biệt mà nói nên là chân kiến, từ đây trở xuống mới nói. Lại sai khiến mỗi mỗi riêng hữu tình quả pháp giả v.v... ba tâm Kiến đạo sai biệt mà nói, nên giả kiến lập.
Luận: Hai loại trước gọi là pháp trí, mỗi mỗi riêng duyên v.v... Sớ có ba thí dụ, đây tức là riêng duyên gọi là pháp, chung duyên gọi là loại.
Tây Minh nói: Chỉ có hai thí dụ: một là căn cứ ba tâm, hai là căn cứ theo mười sáu tâm. Luận Tạp Tập quyển 9 duyên theo Chân như gọi là pháp, trí của pháp. Luận Du-già v.v... hai loại trước gọi là pháp, thứ ba gọi là loại. Hộ Pháp giải thích rằng, mỗi mỗi riêng duyên như là trí của pháp, sau chung riêng, trước hai trí loại, loại tức là trí, nên đoạn dưới nói, nói Thánh pháp sau đều là loại này. Yếu Tập ghi: "Có giải thích là thắng, như thể chẳng khác không thể nói loại, trí của năng duyên, trước sau tuy khác, là trí loại khác", nay cho rằng không đúng. Luận Du-già quyển 55 chỉ ghi: "Lại hai tâm trước pháp trí tương ưng, tâm thứ ba loại trí tương ưng", cũng không văn giải thích. Văn quyển 58 ghi: "Là như trí tướng tương ưng loại", giải thích nói một tâm ý nghĩa là tâm riêng đoạn, vì sao gọi là một tâm? Vì đồng duyên như trí không riêng nên gọi là một tâm, không giải thích pháp, loại, nếu do chúng kia chung gọi là pháp trí. Nhưng luận này nói: "Nói Thánh trí sau đều loại này", giải thích mười sáu tâm, chẳng phải là ba tâm, trong ba tâm, tự nói rằng, hai tâm trước gọi là pháp trí, mỗi mỗi riêng duyên, tâm thứ ba gọi là loại trí, chung hợp duyên lại mười sáu tâm. Do tâm thứ ba duyên theo tâm thứ nhất thứ hai, nghĩa là sau duyên như trí đều là loại này, do tâm thứ ba này làm ra chủng tử loại ấn giải, gọi là loại trí, nay tâm thứ ba này cũng tự duyên theo Chân như, vì sao được đồng với luận kia? Lại luận này tự giải thích, vì sao không nương? Nếu nói văn này không giải thích pháp trí loạn gọi là sở dĩ, tức là nói rõ pháp, loại được gọi là sở do, nên giải thích này là thù thắng.
Hỏi: Hàng Đại thừa chân kiến đoạn hại chướng, căn cứ theo chung riêng kia lập làm ba tâm, Nhị thừa chân kiến đoạn một chướng, nên cũng chung riêng lập ra hai tâm?
Đáp: Nói sáu hiện quán đã thông với Tam thừa, hiện quán trí đế, trong hiện quán, nói rõ ba tâm này, nên thừa nhận Tiểu thừa có, cũng lại không ngăn ngại. Lại giải thích không thừa nhận, Nhị thừa chỉ quán An lập đế, đây chẳng phải an lập Nhị thừa không làm, nếu thừa nhận làm, vì sao trong các bộ Tiểu thừa đều không nói có hai tâm Kiến đạo? Nếu như vậy, ban đầu mười sáu tâm các bộ cũng không, đâu có thể không làm, nếu cũng không làm, trái với luận Tạp Tập quyển 9 kia nói rằng an lập nghĩa là Thanh văn tùy theo Sở chứng của mình được cứu cánh, là muốn khiến cho họ cũng rõ biết, cho đến nói: An lập Đạo đế, nghĩa là ở trong các Đế, có như vậy vì sao các bộ không nói chung mười sáu tâm, chỉ có ở trên dưới mười sáu tâm?
Đáp: Căn cứ theo bất ngu pháp nương theo Đại thừa giáo trong pháp Thanh văn thừa, làm ra an lập quán, các bộ Tiểu thừa căn cứ theo ngu pháp nương theo giáo của Tiểu thừa kia, nên không thể làm ra. Hỏi: Nếu như vậy ba tâm lẽ ra như vậy?
Đáp: Trong luận Tạp Tập chỉ nói an lập, không nói Thanh văn làm ra phi an lập, kinh Thắng Man cũng nói: Thanh văn biết có làm, hai cách giải nhờ vào hữu tình.
Hỏi: Thanh văn, Bồ-tát có chân tướng kiến, Độc giáo cũng nhập vào tướng Kiến đạo chăng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Cũng nhập.
Hỏi: Nếu như vậy Thanh văn đến tâm thứ mười sáu, kiến lập Sơ quả, Duyên giác đã nhập vào, vì sao không lập quả?
Đáp: Gia hạnh này tâm có sai biệt, Thanh văn ra khỏi đây tâm tạm thời dừng, lại như Bồ-tát tuy đến mười sáu tâm cũng không đặt ra quả.
2. Không nhập.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao nói ba mươi bốn tâm thành ra Duyên giác quả.
Đáp: Hàng Tiểu thừa kia nói, chẳng phải của Đại thừa, hai thuyết trước thù thắng.
Hỏi: Vì sao chân sau làm ra tướng kiến ư?
Đáp: Là vì thành tựu Phật pháp, ba Thừa đồng rõ ràng, Đại thừa cũng làm ra hàng phục Nhị thừa, muốn dẫn nhiếp.
Luận: Hai duyên An lập đế v.v...
Hỏi: Chưa biết Nhị thừa đầy đủ làm ra hai loại, làm tùy theo làm ra một.
Đáp: Biết ngu pháp là làm ra hai mươi sáu tâm, ngu pháp làm ra mười sáu tâm sau, hoặc quảng ngu là làm ra hai mươi sáu tâm, phi quảng ngu là chỉ lần ra trên dưới. Sở dĩ luận Du-già quyển 55 chỉ nói trên dưới mười sáu tâm, căn cứ theo Tam thừa thông và phi quảng ngu. Trong luận Tạp Tập nói, chung mười sáu tâm, nay trong luận này nói đầy đủ hai loại.
Hỏi: Hai mươi sáu tâm vì sao trước sau làm ra? Đáp: Căn cứ theo văn quyển 55 trên dưới ở trước, vì sao? Luận kia nói nên biết trí này tâm thứ ba vô gián, từ Kiến đạo khởi, mới trước hiện tại. Lại nói do thế lực của tâm này, ở trong khổ v.v... An lập đế, có tâm thứ hai hiện quán vị thanh tịnh vô ngại khổ v.v... trí sinh, nếu như vậy vì sao luận Tạp Tập nói chung mười sáu tâm từ pháp Thế đế nhất vô gián mà sinh?
Đáp: Trong luận này sẽ nương theo chân giả mà nói, không có ba tâm vô gián sau sinh, nên làm ra ở sau. Lại luận Hiển Dương quyển 17 ghi: "Không do hạnh sai biệt", tức là ngôn giáo tùy theo chân Kiến đạo, nghĩa nên mà nói, giáo pháp trao cho người khác, chẳng phải bên trong chứng trí, lại giải thích chung ở trước, trên dưới ở sau. Luận Tạp Tập luận này đều trước nói, luận Hiển Dương quyển 17 nói rằng trên dưới quán mười sáu loại.
Trí Tu đạo làm ra, nếu như vậy luận Du-già vì sao đồng giải thích?
Đáp: Luận kia căn cứ từ chân Kiến đạo, nhập vào tướng Kiến đạo, đến tâm thứ ba, vô gián tức là ra khỏi mới hiện tại trước, lại nói hiện quán bên trí Đế hiện quán, hai mươi sáu tâm đều quán nhiếp đây, tùy theo nêu một, không nói vô gián, duyên theo Thế đệ nhất trước sẽ được quán sát, trên dưới hai địa đều sinh, nói thứ hai hiệp quán thanh tịnh vô ngại khổ v.v... trí sinh. Theo văn quyển 58, hiện quán có hai, nương theo quảng bố giáo, tướng kiến thứ nhất, bên trong chứng tướng quán là thứ hai, chẳng nói trên dưới là thứ hai hiện quán. Lại giải thích bất định, tùy theo quán hành là chân Kiến đạo trước, nguyện lực của ý trước, đến tướng Kiến đạo, tức trước làm ra, chưa thấy giáo đoạn, tùy hữu tình lấy bỏ.
Hỏi: Căn cứ theo luận Du-già v.v... trên dưới mười sáu tâm ở tướng Kiến đạo, vì sao luận Hiển Dương quyển 17 nói từ Đế hiện quán này trở xuống ở trong Tu đạo có mười sáu hành thế xuất thế gian thanh tịnh trí sinh?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Luận Du-già căn cứ theo trọng pháp trí của chân Kiến đạo trước, Vô tướng, hữu tướng hai trí Sở hành đều mỗi mỗi khởi sáng được, nên hữu tướng trí gọi là tướng Kiến đạo. Lại căn cứ theo không ra khỏi quán tức là nhập vào hữu tướng hành trí đều gọi là Kiến đạo. Luận Hiển Dương căn cứ theo chân, tướng riêng khởi, tướng kiến ở sau càng trọng tu nên gọi là Tu đạo, nếu căn cứ theo trọng duyên theo chân kiến Sở duyên cũng thuộc về Kiến đạo. Lại giải thích luận Du-già căn cứ không phải ra khỏi quán, ban đầu làm ra nó gọi là Tu đạo, chẳng phải ở Tu đạo không làm ra để quán, nên luận Hiển Dương ghi: "Như là hiện quán trí", nếu là Sở đắc của Thanh văn v.v... là đối trị. Cõi Dục, Sắc, Vô sắc, ba cõi tạp nhiễm, nếu sở đắc của Bồtát là đối trị mười loại địa chướng, cho đến cũng gọi là cứu cánh hiện quán, đều căn cứ theo một nghĩa hợp không phải trái nhau.
2. Giải thích nhờ vào thủ.
Hỏi: Luận Hiển Dương ghi: "Như là ba trí có thể đoạn được một trăm mười hai phiền não"; luận Du-già v.v... nói đồng với đây, vì sao như vậy?
Đáp: Luận này đều nói chung căn cứ theo hai chướng mỗi mỗi chia ra một phẩm hoặc phẩm thượng, hạ, đoạn chứng sai biệt, không nói đoạn số, lại căn cứ chẳng An lập đế, luận Hiển Dương theo đoạn, tuy một, hai phẩm, căn cứ theo An lập đế chia một trăm mười hai phiền não, thật không trái nhau.
Luận: Một khổ pháp nhẫn v.v...
Trong đây có hai ý, một pháp chân duyên theo như, chỉ nương theo gia hạnh vị trước trong hai quán năng và sở. Trong đây căn cứ theo pháp chân quán đế, nói quán ba cõi Khổ đế Chân như. Nếu chuẩn theo luận Tạp Tập hai loại đầy đủ, nên nói là khổ, nghĩa là Khổ đế. Nếu là pháp nghĩa là Khổ đế tăng thượng đã khởi giáo pháp, pháp trí nghĩa là ở trong gia hạnh đạo, quán sát để tăng thượng pháp trí, trí nhẫn nghĩa là sức quán sát tăng thượng trước, ở trong đều chỉ Khổ đế, khởi hiện chứng Vô lậu trí, do tuệ này vĩnh viễn xả bỏ kiến khổ sở đoạn tất cả phiền não. Lại nữa nhẫn tức là ấn chứng khổ trước. Không duyên như thế nào, nhẫn như thế nào? Lại giải thích chỉ duyên theo chân kiến Sở duyên, nói khổ pháp trí là nêu nhân của nhẫn này, nên dưới giải thích cho đến nói Như lý tác ý được sức nhiếp trí tăng thượng, ở trong tự tương tục Khổ đế, hiện chứng được tuệ Chân như xuất thế gian kia. Chánh kiến thể sinh tức là bốn nhân làm tên, nếu nương theo luận Câu-xá quyển 23, bốn quả làm tên, nên luận kia nói: Đây có thể sinh ra pháp trí, là pháp trí nhân đắc được tên pháp trí nhẫn, như hoa cỏ cây, đây từ tên nhân, hoặc chính là tên quả, nghĩa ý của Tây Minh. Nay cho rằng luận Câu-xá giải thích sau mười sáu tâm, có thể từ tên của quả nay chung duyên này cùng với trên dưới riêng, lại luận Câu-xá giải thích cũng không hết lý, khổ pháp trí là quả, nhẫn là nhân, nay cả hai nêu nhân quả hợp tên gọi. Khổ pháp trí là nhân, nên như tợ hối từ nhân lập ra tên, gọi là ác tác, không nói ác tác hối. Nay nhân quả hợp nêu rõ ràng không phải chỉ nhân tức là Y chủ thích, thông với y và ư, ư tức là âm thanh của cảnh, nghĩa như trước hiển bày. Lại hai tướng kiến đã có các trí có hai Sở duyên: một là phóng pháp Sở duyên, hai là tự tánh Sở duyên. Phóng pháp Sở duyên, duyên theo kiến Sở chứng và năng Sở chứng, như ba tâm ban đầu và mười sáu tâm sau, tức là duyên theo Sở chứng. Tâm thứ nhất trong mười sáu tâm duyên theo năng Sở chứng. Hai, tự tánh Sở duyên tức là gồm cả duyên theo tư lương, gia hạnh trước, năng Sở quán chấp, chuẩn theo luận này nói. Trên dưới hiện quán pháp chân Kiến đạo vô gián, giải thoát, luận Du-già quyển 55 ghi: "Nên biết trí này tâm thứ ba vô gián, từ Kiến đạo khởi mới hiện ở trước, duyên theo Thế đệ nhất trước, trí sẽ được quán sát, trên dưới hai địa và hai tăng thượng An lập đế cảnh. Lại giải thích chỉ duyên theo chân Kiến đạo pháp, văn quyển 55 ghi: "Duyên theo Thế đệ nhất sẽ được quán sát v.v..." Duyên nghĩa là duyên mượn nhân duyên, chẳng phải Sở duyên lự, hai giải thích trước trội hơn. Nếu không duyên theo trước, vì sao nói khổ pháp trí nhẫn, như ba Vô tánh nhẫn. Chẳng có cái gì không phải duyên ấn chứng, lập ra ba nhẫn kia, nên đây gọi là nhẫn định.
Hỏi: Mười sáu tâm trước khổ pháp trí nhẫn và khổ pháp trí đều duyên theo như, vì sao chia ra khổ pháp trí nhẫn, khổ pháp trí?
Đáp: Căn cứ theo ấn quyết định, đều nên gọi là nhẫn, cũng đồng gọi là trí, căn cứ theo nghĩa sai biệt ban đầu nhẫn sau trí, do xưa thấy trước, tuy nương theo Thánh giáo, quán Khổ đế v.v... nhưng có trí sinh, chưa thể chứng trí, nay ban đầu Vô lậu khởi đầu chứng cảnh kia, nên được tên nhẫn. Sau tuy cũng ấn chứng, không được hiệu nhẫn, lại nhẫn trí đều quyết định, nên đều gọi nhẫn, e rằng sau lạm dụng trước, không phải đều gọi nhẫn.
Hỏi: Trước nói khổ pháp, trí nhẫn, sau chỉ nói rằng khể pháp nhẫn, tức là không phải lạm dụng nhau?
Đáp: Căn cứ theo đạo lý này, nói nhẫn cũng đắc, hiển bày nhân quả khác nhau, không phải đều gọi là nhẫn, chỉ tùy theo nêu một tên nhẫn không trái, cũng không thể nói, chỉ nói rằng trí không đắc gọi là nhẫn, đều đồng với ấn chứng.
Hỏi: Vì sao trước nói khổ pháp, pháp tức là giáo pháp, sau khổ pháp trí pháp tức là Chân như?
Đáp: Tuy đều duyên theo Chân như, ban đầu sáng lập duyên theo Chân như, chưa ấn chứng chẳng phải nhẫn, chỉ ấn chứng giáo trước, không được nói rằng Chân như, thứ hai là chứng lại, nên pháp tức là như, giáo trước ấn chứng, lý này ấn chứng.
Luận: Các tướng Kiến đạo nương theo chân giả nói v.v...
Hỏi: Ba tâm Kiến đạo, Nhị thừa Thánh là hồi tâm hướng đến Đại thừa đã đoạn phiền não, lúc nhập vào tướng kiến, cũng ba tâm ư?
Đáp: Cũng có, khiến cho xa chướng kia, và trừ tập khí, pháp chân kiến kia vô gián, giải thoát, đã có công năng, nên cũng định làm. Hai mươi sáu tâm nên biết cũng làm, tuy Sở tri chướng, không theo mê đế, tùy theo phiền não mà nói, cũng lại không trái.
Hỏi: Ba tâm trong mười sáu tâm ở Kiến đạo vị nào trước, trước tu khiến cho tướng kiến khởi?
Đáp: Căn cứ theo luận Hiển Dương quyển 16, tu khởi thứ lớp, ở địa vị tư lương tu mười sáu tâm, kế nói thiện căn, chuẩn theo luận này, rõ ràng trong gia hạnh vị nói: Vị này Bồ-tát ở An lập đế, phi An lập đế, đều học quán sát hai luận riêng, lược làm hai giải thích. Luận Hiển Dương căn cứ theo trên dưới mười sáu tâm, ở tư lương tu, Tu đạo mới khởi, luận này căn cứ theo chung mười sáu tâm, gia hạnh vị làm ra, trong tướng kiến khởi trên dưới quán, văn tuy không nói, chuẩn theo luận kia cũng ở tư lượng tu, trong tướng Kiến đạo ở trước khởi sau. Lại giải thích Hiển Dương nói ban đầu tu ở tư lương vị, luận này căn cứ theo tập khí sau nên ở gia hạnh, đều căn cứ theo một nghĩa, đều không phải trái nhau.
Luận: Một tư hiện quán v.v...
Tư đây v.v... sáu loại nêu ra thể có bốn loại: một là khắc tánh, hai là căn cứ thắng, ba là tương ưng, bốn là quyến thuộc, như tư hiện quán v.v... Nói là tuệ, tức là đắc thật tánh và câu hành Bồ-đề, pháp tức là hai thể sau, văn quyển 55 ghi: "Quyết định tư duy", tư duy tức là tư, căn cứ theo thắng nêu ra thể. Giải thích tên, như tư hiện quán là Lân cận thích, như bốn niệm trụ thể thật là tuệ, do cùng với tuệ đồng thời, gọi là niệm trụ, tư hiện quán cũng như vậy". Luận này, luận Hiển Dương, luận Du-già quyển 71 đều ghi: "Tư được thành tuệ mà làm tự tánh".
Tây Minh nói: Tư hiện quán hoặc Trì nghiệp, hoặc Y chủ, tín lân cận, giới như tín. Vả lại, tư hiện quán các luận nói là tư được thành tuệ, như thế nào là trừ nghiệp cũng chẳng phải Y chủ, như giới chẳng quán, gọi là hiện quán, nói là Lân cận, tư cũng chẳng quán gọi là hiện quán, vì sao chẳng phải Lân cận? Nếu nói rằng hiện quán chẳng phải tư, nhờ tư được khởi nên là Y chủ, vì sao không được nói hiện quán chẳng phải tư? Nói rằng tư hiện quán là Lân cận ư? Tín hiện quán thế ở Tam bảo, tịnh tính là thể, đây chế phục được thể của tánh. Luận Du-già quyển 55 ghi: "Và Thanh văn đã thành tựu quyết định trí tuệ, căn cứ theo thắng nêu ra thể". Luận Hiển Dương quyển 17 ghi: "Hoặc đây đầy đủ phần vị của hạnh Bồ-tát, thông với tương ưng quyến thuộc", còn lại đều chuẩn theo đây, tín, giới giải thích tên hoặc cùng Hữu tài, tuy thể chẳng quán, có thể giúp đỡ hiện quán, hoặc Y chủ thích, giúp thêm cho tín của hiện quán, khiến cho giới cũng hiện quán, gọi là tín, giới hiện quán, hoặc như niệm trụ cũng là Lân cận".
Luận: Ban đầu được tánh của Thánh v.v...
Tây Minh nói: Có thể sinh về Vô lậu của Sơ địa, chủng tử của pháp như vậy, và nói huân tập chủng tử mới làm tự tánh. Nay luận này tuy có chủng tử mới, chẳng phải thắng không lập ra, do chính năng sinh có sở sinh hiện, chứng được lý đoạn chướng, nên có thể sinh ra thắng, không chấp lấy huân tập mới, không thể sinh ra. Tây Minh nói: Địa trước tuy có chủng tử Vô lậu mà hai tánh đồng thời hỗ trương trái nhau nên chẳng phải thuộc vô tánh của Thánh, như diệt tận định nương theo chủng tử giả lập, tâm nhỏ nhiệm thời tuy có chủng tử này mà chẳng phải diệt định, hữu tâm Vô tâm nghĩa trái nhau. Nay cho rằng nếu ban đầu nhập vào kiến thời hai tánh không đồng thời, nên chủng tử của Vô lậu đều gọi là tánh của Thánh, lại như diệt định ngăn ngừa tâm có thể gọi là diệt định, chẳng phải các chủng tử, nên tánh của Thánh này chẳng phải chánh năng sinh, tức là không nên chấp lấy. Tây Minh lại hỏi tánh của Thánh trông mong đồng với tánh phàm, cũng bất tương ưng ư?
Đáp: Trong đây cũng lập, tức là được thâu tóm, nếu mong hai chướng tức là chẳng được nhiếp, tông đã thừa nhận chẳng, được cũng thông với Vô lậu. Lại giải thích sức Vô lậu thù thắng, không giả lập riêng. Yếu Tập cũng nói không lập là thắng, nay cho rằng không đúng. Nếu Vô lậu thù thắng không lập ra bất tương ưng diệt định Vô lậu nên không lập bất tương ưng pháp. Lại quyển 1 trước ghi: "Nhưng nương theo hữu tình có thể thành tựu phần vị của các pháp, giả lập ba loại thành tựu, ngược với giả này lập nên chẳng thành tựu". Nên biết tánh của Thánh ngược với Dị sinh tánh, nên gọi là đắc, không gọi là phi đắc, không ngược vì sao lập ra? Dị sinh tánh gọi là phi đắc, hoặc mong không thành tựu Dị sinh tánh, giả gọi là phi đắc.
Luận: Cực nan thắng địa v.v...
Tây Minh nói: Kinh Nhân Vương Bát-nhã ghi: "Sơ địa Bồ-tát Tứ thiên vương", cả hai chiếu rõ hai Đế bình đẳng đạo, vì sao năm địa của luận này mới năng dẫn? Tam-Tạng giải thích: Căn cứ theo thật Sơ địa hai trí cả hai hành, mà theo nhậm vận, nên nói năm địa, có giải thích đã phá. Yếu Tập chống chế: Công đức của mười Địa phần nhiều nương theo Địa quán, nhưng từ Địa thứ năm trở lên mặc tình song hành, từ Địa thứ tám trở lên nói được nhậm vận, chưa thấy biệt giáo, nay cho rằng không đúng. Từ Địa thứ tám trở lên gọi là vô công dụng, các luận cùng đồng, nhậm vận của năm Địa nêu ra
Thánh giáo nào? Lại hành tướng hỗ tương trái nhau, ban đầu tức là có thể hợp, vì sao cực nan? Nếu nói Địa thứ tám căn cứ theo nhậm vận trường thời, Địa này căn cứ theo nhậm vận năng hợp, đây cũng không như vậy, đã nhậm vận năng hợp vì sao không phải trường thời? Nếu nói hoặc có gián đoạn nhau, nên không phải trường thời, đã là có tướng gián đoạn không phải tướng quán, có lúc không hợp, vì sao thành tựu nhậm vận? Nếu như vậy hợp đây trái nhau?
Đáp: Trong kinh Nhân Vương căn cứ theo tướng Kiến đạo biến đổi tướng cả hai duyên, luận này đều nói căn cứ theo chân tục trí đều nhau, chưa từng có chỗ nói ở Kiến đạo, có hai trí đều nhau, năm Địa khởi đầu hợp nhau, nên nói là cực nan.
Luận: Mười tu này, Nhiếp luận quyển 7 nói có năm tu: một là hiện khởi gia hạnh tu, hai là thắng giải tu, ba là tác ý tu, bốn là phương tiện thiện xảo tu, năm là thành sở tác sự tự tu. Nói bốn loại như giải thích trước. Một là hiện khởi gia hạnh tu, tức là phát khởi siêng năng gia hạnh. Hai là thắng giải tu cùng đồng với thắng giải tác ý của luận Tạp tập. Ba là tác ý tu tức là ba tác ý sau của luận Tạp Tập. Bốn là phương tiện thiện xảo tu, Nhiếp luận không phải giải thích riêng, tức là trong bảy tối thắng phương tiện thiện xảo tối thắng. Năm là thành sở tác sự tu, tức là luận Tạp Tập nương theo tự tại tu, Nhiếp luận ghi: "Nghĩa là các Đức Như Lai theo việc của Phật không có dừng, ở nơi viên mãn Ba-la-mật-đa lại càng tu Tập sáu đáo bỉ ngạn".
Luận Tạp Tập ghi: "Nương theo tự tại", tức là như lần lượt ba thân, thân, thành nói ba thân đều được tự tại, tuy được tự tại vẫn tu không ngừng, hai luận khai hợp hỗ tương có chỗ bất đồng, đều căn cứ theo một nghĩa. Luận Tạp Tập không phải Nhiếp luận khai ra luận Tạp Tập bốn tác ý giữa đầu thắng giải, tác ý, lược không phải nhậm trì, cho là sở bằng sở tu hai sai biệt, giáo là sở bằng, còn lại ba chánh tu, cho nên khai riêng. Luận Tạp Tập vì tác ý nên hợp với thắng giải kia, nên chỉ nói nó, hoặc gia hạnh nhậm trì này giữa sau thuộc hai sở, tức là nêu hai sở sau, rõ ràng hiển bày hai sở trước, luận Tạp Tập chỉ nói rõ ý lạc, Nhiếp luận tức là thuộc về tác ý, Nhiếp luận hiển bày các thắng hạnh, đều đầy đủ sáu loại ý lạc, nên không phải nói riêng, luận Tạp Tập căn cứ theo chung riêng không đồng chỉ nói rõ ý lạc, đều không phải trái nhau, lại sáu ý lạc hai luận ít khác. Nhiếp luận ghi: "Một là quảng đại, hai là trường thời, ba là hỷ lạc, bốn là mang ân, năm là đại chí lạc, sáu là thuần thiện". Luận Tạp Tập ghi: "Một là vô yểm tức, hai là quảng đại, ba là tên gọi đồng, bốn là mang ân đức, năm gọi là vô nhiễm, sáu là thiện hảo". Tên không đồng, luận giải thích, lấy vật quý báu trong sông Hằng để bố thí cho một hữu tình, hà-sa thân mạng đều có thể tuệ xả gọi là quảng đại, đây tức là thành tựu cảnh và sở hành sự, gọi là quảng đại, tức là trưởng thời năng xả, cũng gọi là quảng đại. Hai luận hỗ tương nêu, Nhiếp luận lấy trải qua nhiều kiếp để xả bỏ thân, mạng, của cải, mỗi mỗi Như Lai mỗi mỗi hữu tình thảy đều cúng dường, mà không thấy đủ gọi là trưởng thời. Luận Tạp Tập căn cứ tuy nhiều thời, lập ra thành mãn, vẫn tu hành không ngừng, gọi là quảng đại. Quảng đại, trường thời, nghĩa chung một tên khác, như bảy đại tánh trường thời. Quảng đại đều gọi là đại, luận Tạp Tập căn cứ theo không tự cầu đời sau quả đầy đủ, hóa ra người khác, khiến cho được mà chẳng phải là ái kiến, nhưng vô si v.v... khởi gọi là vô nhiễm. Nhiếp luận căn cứ khiến cho người khác nối nhau xả bỏ ba đường ác đắc được thắng Dị thục, không làm tự thân, gọi là đại chí lạc, thuần thiện, thiện hảo tên nghĩa tương tợ nhau. Tây Minh nói: Nhiếp luận năm tu như lần lượt tức là năm tu luận này, chuẩn theo trước đã liệt kê, tên gọi nghĩa đồng dị, không được như lần lượt, luận kia phán phân có lầm.
Luận: Hai nhiếp thiện pháp giới v.v...
Vốn giải thích rằng lấy Hữu vi Vô vi lậu, thiện pháp làm thể. Tây Minh nói: tu Hữu vi thiện, chứng tức là có thể chứng được công đức của Vô vi, mà chẳng phải Vô vi làm giới thể tánh, lại nói mười thắng hạnh, nói chẳng phải Vô vi. Yếu Tập ghi: "Ba tịnh giới này đều dùng chủng tử của tư nguyện hiện", nay cho rằng Sớ giải thích ý ít có khác. Nếu căn cứ khắc tánh tức là chính ba nghiệp, nếu căn cứ theo tướng theo, sở tu sở chứng, thông với vi, Vô vi, như tợ tương ưng, quyến thuộc nêu ra thể, lại các luận v.v... căn cứ theo giới sở tu, đây bao gồm sở chứng, nhưng đã tu chứng hoặc thông với nhân quả nhân gọi là sở tu, quả gọi là sở chứng, tức là trong bảy đại chứng được lực, vô uý v.v... ý này nhân quả đều muốn tu chứng gọi là nhiếp thọ, tuy nhiên sở chứng cũng thông với Vô vi.
Luận: Đây cùng với hàng Nhị thừa có cộng bất cộng v.v...
Tây Minh nói: Xưa nói tánh độn, nghĩa là sát sinh v.v... nhổ sạch cỏ mọc là tội giá, nay nương theo Nhiếp luận ghi: "Sát, sinh, trộm cắp, dâm dục, tham v.v... được sinh ra gọi là tánh tội, cát cỏ tươi v.v... chẳng phải tham v.v... sinh ra, nên gọi là giá tội". Ý nhiễm tâm này cát cỏ tươi v.v... tức gọi là tánh tội, nay cho rằng không đúng. Ý của luận kia, nếu cố ý sát sinh ắt sẽ tham khởi, nên là tánh tội. Nên cát cỏ tươi chẳng phải ắt sẽ tham khởi, nên là giá tội. Lại cát cỏ tươi v.v... trong mười nghiệp đạo là nghiệp đạo nào? Lúc nhiễm tâm khởi được gọi là tánh tội, nên nói rằng do tham v.v... là ý nghiệp, tự do khởi tham v.v... vì sao thiếu đoạn cỏ? Lại vì lúc tham khởi sát sinh sẽ phạm thân, ý hai chỗ nghiệp đạo. Lại kinh Giải Thâm Mật ghi: "Trong mười địa đã khởi tướng phiền não bất nhiễm ô, do biết mà khởi chỉ vì lợi ích chúng sinh, không làm lỗi", đây khởi tham v.v... sẽ thành tánh tội, vì sao gọi là bất nhiễm ô? Nếu tuy khởi tham v.v... chẳng phải tướng nhiễm ô không phạm tánh tội, nên không được nói chỉ tham v.v... sinh tức là tánh tội. Luận: Định học có bốn v.v...
Tây Minh nói: Xưa Pháp sư phán phân, ban đầu bốn địa, năm, sáu, bảy, tám, chín, mười địa, Kim cương dụ cho định và Phật có bốn định, như lần lượt tuy dẫn thích hợp, lại không phải phán phân riêng, nay cho rằng không đúng, vì sao? Nếu định có bốn tức là chỉ phối hợp với địa, giới, tuệ cũng nhiều, vì sao không phối hợp với Địa? Nên biết tùy theo phần địa địa đều tu.
Luận: Một Dị sinh tánh chướng v.v...
Vốn giải thích chướng quả Dị sinh tánh tức là tùy y cùng với bản thức đồng địa có thể sinh ra hai chướng phân biệt chủng tử trên giả lập, đoạn được năng y, nói sở y cũng như vậy. Yếu Tập ghi: "Vô gián đạo chỉ đoạn được hai chướng, vì sở y đoạn, năng y Dị sinh tánh cũng đoạn theo", nay cho rằng Dị sinh tánh thể chẳng phải thuộc về chướng, có thể nói vì sở y đoạn, năng y cũng đoạn, tức là Dị sinh tánh thể cũng là chướng, vì sao không đoạn? Do chính đây cùng với tánh của Thánh trái nhau, nên nhập vào Sơ địa, ban đầu chánh nói đoạn, đây đoạn thì chủng tử v.v... cũng đoạn, căn cứ theo tăng ích mà nói. Lại Sớ ghi: Luận Thập Địa quyển 1 ghi: "Phàm phu ngã tướng chướng", đây cũng không như vậy, chướng thể thông với ngã chấp, chẳng phải chỉ ngã. Tây Minh, Yếu Tập đều nói ngã tướng thông nhiếp hai chấp, chỗ khác cũng nói pháp ngã v.v... nay cho rằng vốn giải thích do lạm dụng tên kia nên nói như vậy, chẳng có cái gì không biết ngã, thông nhiếp với hai chấp, ý này nếu do ngã nói thông với hai chấp, chỉ nói ngã tướng chướng, nên chỉ nói ngã tướng không, cũng là nhiếp hai không, các chỗ nào cần phải chỉ nói ngã pháp. Tây Minh nói Dị sinh tánh đồng nương theo chủng tử hiện tại là không như vậy. Luận này quyển 1 và văn này đều nói nương theo phân biệt chủng tử kia lập ra, tuy dưới chấp trước ngã pháp ngu nói tức là chướng này, không phải định hiện hành, dưới hai thuyết, không phải văn nói, đồng nương theo hiện tại nếu như vậy vì sao nói tức là chướng này?
Đáp: Dị sinh tánh hẹp, nói chướng tức là rộng, tuy nêu Dị sinh tánh, ý cũng gồm cả sở y, vả lại như phẩm ngu còn chung gọi là ngu, huống gì thể của hai chấp đều là chướng, nên do đó ban đầu ngu nói tức là chướng này.
Lại giải thích chấp trước ngã pháp ngu, tức là Dị sinh tánh, nương theo chủng tử của ngã pháp kia, lập được tên kia, chẳng phải tức nói là hai chấp chủng tử, hiện hành, nên nói rằng nên biết phẩm ngu chung nói là ngu. Nếu nói rằng chấp trước ngã pháp ngu tức là vô minh, cùng với giải thích thứ hai không khác, dưới nói rằng phẩm lợi thuần chướng đều khởi hai ngu, tức là chỉ nói ngu. Nếu nói rằng tức là cũng nói chấp, vì sao không thừa nhận Dị sinh tánh thể là ngu v.v... phẩm cũng gọi là ngu v.v...?
Lại Dị sinh tánh, bất định của Tây Minh tánh người đắc được Thánh đã qua, cũng Thánh cũng phàm, lại giải thích chỉ Thánh. Yếu Tập xác quyết rằng: Giải thích sau là thắng, nay cho rằng trước thắng, đồng với Sớ, ở trong Sơ địa, đắc được tánh của Thánh.
Trong các kinh luận đã nói mười chướng và ngu hỗ tương nhiếp, nên làm ra bốn câu, có chướng chẳng phải ngu, thứ tư vi tế phiền não hiện hành chướng định pháp hai ngu không nhiếp chướng kia, nay cho rằng không đúng. Luận dưới giải thích thân kiến v.v... nói cũng nhiếp từ vô thỉ, Sở tri chướng nhiếp định ái, pháp ái, chuẩn theo biết ngu này cũng tức là chướng, vì đều nói nhiếp, luận rõ ràng nói, pháp quán đã vĩnh viễn đoạn, hàng phục ngã kiến và đều tham, sân, si v.v... chỉ có một mình khởi tham, sân, si v.v... Câu sinh trước đây bạn đã hại, gọi là hại bạn tùy miên. Yếu Tập ghi: "Tìm trong ý này, ý thức thân kiến cùng với Sở tri chướng đồng thể khởi, nên gọi là Câu sinh", tham v.v... còn lại hoặc chẳng đồng với thể, nên tên không phải Câu sinh, vì do Câu sinh bạn đoạn, không phải Câu sinh khác v.v... tùy theo vô, nhưng bốn địa đoạn đồng với thể thân kiến, ba địa đoạn đồng nói thể tham v.v... nay cho rằng không đúng. Có Phiền não chướng không cùng với Sở tri chướng đồng sinh có thể như đã nói, không có phiền não đoạn thì Sở tri chướng sinh, các Phiền não chướng nhất định cùng với Sở tri chướng đồng loại mà khởi, vì sao chỉ thân kiến cùng với Sở tri chướng đồng có khác không đồng? Ba tùy miên này hai địa đầu Địa thứ sáu đồng thời, Địa thứ bảy trở về trước đoạn, vi tế tùy miên tức là thông với Địa thứ bảy, Địa thứ tám trở lên còn hiện hành, không nói đoạn, nhưng nói Địa thứ sáu ngã kiến đã do xa gần chia làm hai, nói Địa thứ sáu đồng thời, chẳng phải Địa thứ bảy đồng thời, Địa thứ bảy đều không do Địa thứ sáu dẫn dắt.
Hỏi: Ý của Bồ-tát chưa đoạn phiền não chỉ đoạn Sở tri chướng, lúc đoạn Sở tri chướng phiền não sẽ hoại diệt, vì sao kinh Thắng Man ghi: "Nếu vô minh đại địa hoại diệt, tất cả tùy miên kia hoại diệt"?
Đáp: Căn cứ theo Kiến hoặc Tu hoặc, đều cứu cánh mà nói, ở trong mười Địa tu chưa được cứu cánh, tuy phần đoạn sở tri có chỗ nương khác.
Luận: Khiến cho pháp văn tu tư kia quên mất.
Hỏi: Văn tư ở rải tác tư tuệ chỉ dục, vì sao dục tham đắc được định rồi, sau phát ra ba tuệ thù thắng?
Đáp: Do đắc được định này, khiến cho trong cõi Dục đã có văn tư đắc được tăng thân rõ ràng định này không khởi ba tuệ chẳng phải thù thắng.
Hỏi: Ở trong Sơ địa được chứng quả bất thoái, vì sao ở trong pháp văn, tư, tu kia quên mất?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Vì đọa trước có hai, nghĩa là đắc và chứng, văn, tư là đắc, tu tuệ là chứng, địa trước hai loại đều thoái, địa trên Vô lậu định là chứng, Hữu lậu là đắc, nay nói quên mất, căn cứ theo đắc thoái của Hữu lậu chứng của Vô lậu là bất thoái.
2. Từ Sơ địa trở lên chứng được bất thoái là căn cứ theo tự địa mà nói.
Hỏi: Tham v.v... phiền não từ Đại thứ bảy trở về trước vẫn còn cố ý khởi, vì sao địa này đoạn dục tham v.v...?
Đáp: Cố ý khởi là căn cứ theo tướng riêng, có ngu chẳng phải chướng, nẻo ác, tạp nhiễm, định pháp hai ái cũng cho rằng không như vậy, định, pháp hai ái như trước đã nói rõ cũng là chướng.
Luận: Do Sơ địa này nói đoạn hai ngu v.v...
Hỏi: Vì sao trong chướng chỉ nói Dị sinh tánh, không nhiếp ngu thứ hai trong Địa thứ hai đoạn được tà hạnh chướng, tức là đều nhiếp ngu thứ hai? Đáp: Tà kiến chướng kia vì dựng lên luận, thông với quả tức rộng, luận tức là hẹp, không biến khắp phiền não, Dị sinh tánh chướng luận nên rộng, biến khắp hai chướng, dựng lập nói tức là hẹp, không nhiếp ngu thứ hai. Căn cứ theo dựng lập khác nhau, nên không phải trái nhau, lại giải thích tà kiến chứng rộng nên nhiếp hai ngu, Dị sinh tánh hẹp nên không nhiếp ngu thứ hai, vì sao như vậy? Chướng tánh của Thánh, tăng thêm chỉ Dị sinh tánh, chướng thắng giới nên khởi nghiệp cũng như vậy, lại nương theo giải thích thứ hai, ngu của phẩm lợi thuần, Dị sinh tánh chướng cũng nhiếp hai ngu.
Lại luận nói: Tuy Kiến đạo sinh v.v...
Sớ ghi: "Năng khởi phiền não cũng nhiếp sở tri". Yếu Tập ghi: "Phiền não nói không nhiếp được sở tri, mong nghiệp quả thế lực gần xa, nay cho rằng không đúng, vì thông với hai chướng chuẩn theo sở tri dưới cũng phiền não nói nhiếp".
Luận: Như nhập vào hai định nói đoạn khổ căn. Hỏi: Định ban đầu không phải tập khí của khổ nên trừ, vì sao hai định bắt đầu nói đoạn?
Đáp: Vì Sơ thiền còn có ba thức, là khổ sở y, định thứ hai vô, cho nên nói đoạn.
Hỏi: Ưu, hỷ, lạc thọ nương theo ý căn, vì sao định ban đầu ưu nói xuất ly?
Đáp: Năm thức tự không phải tự đạo, thức không phải thô trọng mới trừ, ý địa tự có đoạn đạo, ưu ở định ban đầu tức là diệt, lìa hỷ, lạc v.v... chuẩn theo đây nên biết.
Luận: Đây thô kia tế đoạn có trước sau. Sớ ghi: "Như thế nào là hại bạn?" Như chương đoạn chướng, đã rộng giải thích xong, chỗ kia nói, hại bạn tùy miên ở năm địa đoạn". Kinh Giải Thâm Mật và luận Du-già quyển 78 ghi: "Một là hại bạn nghĩa là năm địa trước", các bất Câu sinh hiện hành phiền não, là Câu sinh phiền não hiện hành trợ bạn kia bấy giờ vĩnh viễn không phải, lại có đây nói Câu sinh là chẳng phải đối trị phân biệt, mặc tình khởi gọi là Câu sinh, ý nói trong Thức thứ sáu cùng với thân kiến, đều khởi tham, sân, si gọi là Câu sinh, chỉ khởi tham v.v... không cùng với ngã kiến đồng thời nên gọi là bất Câu sinh, bất Câu sinh này do ngã kiến đồng thời đều thế lực được dẫn dắt, là bạn trước kia, kia cũng là bạn đây, do trong bốn địa làm ra Bồ-đề phần nói là chướng thắng, ở trong đoạn được sở y sở tri, năng y không khởi.
Hỏi: Đây dục tham v.v... đã chướng thắng định, làm chung đoạn phục trừ, là không như vậy ư?
Đáp: Không như vậy, đã duyên cảnh sinh, riêng chướng có thể phát ra ba tuệ, định thù thắng, trong đây đoạn nó, chẳng phải cái khác đều đoạn được.
Hỏi: Trước chướng ba tuệ, đồng nói ám thuần, vì sao đoạn chướng tu và cái khác riêng?
Đáp: Căn cứ theo thật đồng chướng, căn cứ theo hơn kém khác nhau, đều căn cứ lời thù thắng. Lại giải thích tuy tên đồng ám thuần, một chướng thắng định và thắng tu tuệ, hai chướng tổng trì và văn tư tuệ, đoạn tuy đồng thời, căn cứ theo hành tướng khác nhau, nên riêng nói đoạn.
Hỏi: Tu tuệ là trội hơn văn tuệ là yếu kém, vì sao trước trội hơn sau trình bày yếu kém?
Đáp: Chướng tu tuệ là cùng với định đồng, do đắc định rồi phát ra thắng tổng trì và đồng thời văn tuệ, tuy đồng thời thời đoạn, căn cứ theo phần của nhân quả.
Luận: Thức thứ sáu đều thân kiến đều nhiếp v.v...
Hỏi: Vì sao đây chướng Bồ-đề phần pháp? Vì sao không phải trước trừ, bốn địa mới đoạn?
Đáp: Bồ-đề phần pháp tu niệm trụ v.v... do chấp ngã nên chướng niệm trụ kia quán pháp vô ngã v.v... nên nói là chướng.
Sơ địa, Địa thứ hai, thứ ba đồng với thế gian, tu thí, giới, tu, Địa thứ tư, thứ năm, thứ sáu tướng đồng với hàng Nhị thừa, nên bốn địa tạo tác.
Hỏi: Đã chẳng phải Đại thừa chính đã tu học, vì sao cần phải làm ra?
Đáp: Ba thừa thông với tu, chẳng có có gì không phải là chính.
Hỏi: Tu có khác gì?
Đáp: Nếu hàng Nhị thừa tu đoạn được Phiền não chướng, Đại thừa đã tu tức là đoạn được hai chướng, lại như hàng Nhị thừa quán bất tịnh v.v... không làm hoại Đại thừa hoại duyên như quán thân bất tịnh, phi bất tịnh, chẳng phải một hướng bất tịnh, tức là quán bất tịnh trừ được phiền não, quán chẳng phải bất tịnh trừ được sở tri, lại hàng Thanh văn v.v... quán An lập đế, Bồ-tát quán phi an lập.
Hỏi: Nói các chướng khác, tên đồng với ngu, chướng này vì sao chẳng phải tên đồng với ngu?
Đáp: Chướng căn cứ theo căn bản, ngu theo khả năng định, pháp hai ái lại chướng căn cứ theo chung ngu căn cứ theo riêng chướng.
Đáp: Trong Sở tri chướng đâu có thể không phải ái, nói sở tri nhiếp hai ngu đoạn, phiền não hai ái cũng vĩnh viễn không hành?
Đáp: Đoạn được sở tri, trong thật cũng có ái, vô minh tăng nên chỉ nói là ngu trong Phiền não chướng ngại cũng phục trừ được vô minh, do ái tăng nên riêng nói phiền não hai ái không hành.
Hỏi: Các kinh luận nói hai chướng ba trụ đoạn, vì sao bốn địa phục trừ được ngã kiến v.v...?
Đáp: Kia căn cứ theo ba loại: Da, thịt, xương v.v... mà nói, chẳng mong biệt biệt sở chướng địa. Hỏi: Vì sao địa này trừ được định, pháp ái?
Đáp: Quán ái là khổ, trừ được ái định, quán pháp vô ngã nên trừ được pháp ái.
Hỏi: Vì sao không ở nơi, Sơ địa, Địa thứ hai, thứ ba, thứ tư đoạn được hại bạn cho đến vi tế v.v... Đáp: Nếu không đoạn được thân kiến, hại bạn không đoạn được và không đoạn được yếu kém, vi tế không đoạn được, nên ở Địa thứ năm, thứ bảy, thứ tám v.v... đoạn riêng.
Đáp: Vì sao đoạn được ngã kiến v.v... rồi hại bạn v.v... mới đoạn? Đáp: Căn cứ theo thường có thể biết.
Đáp: Bốn vô ngại giải, vì sao ba loại trước đồng làm một chướng thứ tư chỉ làm một chướng?
Đáp: Ba loại trước vô ngại tuy thể có ba, duyên theo cảnh đầu một, không phải nhiều hành giải, thứ tư thể một hành phần nhiều, nghĩa là ngay nơi bảy biện. Lại nói rằng ba loại trước là nhân, thứ tư là quả, nên ba chướng, một chướng có sai biệt.
Hỏi: Trước nói mười chướng, nay vì sao mười một chướng?
Đáp: Trước căn cứ theo chướng nhân mười địa nên mười; đây gồm cả chướng quả nên có mười một.
Hỏi: Phật địa chướng này dùng trí nào để đoạn? Tây Minh nói: Bình đẳng, Diệu quán nương theo Kim cương định, cùng đoạn chướng này, vì chỗ chứng đồng, đây thông với căn bản và Hậu đắc trí, mà sai biệt là căn bản cả hai đoạn được mê lý mê sự, Hậu đắc trí đoạn sự. Nay cho rằng không đúng, nếu thừa nhận bình đẳng cũng chánh năng đoạn, nên tự năng sinh, đã quán sát dẫn, chánh chỉ là quán sát, nếu không như vậy mười chướng đều hai trí được, vì sao chỉ là Phật địa? Lại đoạn trước sau, Hậu đắc trí đoạn sự, một sát-na trừ căn bản đầy đủ khả năng, vì sao Hậu đắc trí chỉ đoạn mê lý? Đàm luận có thể như vậy, chánh đoạn tức là phi.
Hỏi: Kim cương dụ định, vì sao thuộc về định? Yếu Tập ghi: "Có người nói hai giải thích:
1. Địa thứ mười đầy đủ tâm, nếu như vậy tiền tiền địa địa, đều đối trị hậu hậu địa chướng?
Đáp: Giáo thuyết nêu ra mười địa tức là thành Phật, nên vị trước đoạn không đồng với nhân vị.
2. Nêu ra Địa thứ mười đầy đủ tâm, trở về sau mới là Đẳng giác. Kinh Nhân Vương và Bản Nghiệp đều vượt qua mười địa nói là Đẳng giác. Sau trải qua thời kiếp mới nhập vào Diệu giác. Yếu Tập ghi: "Giải thích sau là thắng", nay cho rằng không đúng, như bốn thiện căn các nơi đều nói ban đầu vô sở tích chứa trí, phước đầy đủ mới khởi thiện căn, đâu chẳng phải kiếp đầu đầy đủ thuộc về tâm, đây tuy lìa được Địa thứ mười chỉ nói rằng Đẳng giác, cũng Địa thứ biết nhiếp, tức là thuộc về mãn tâm, chẳng phải đầy đủ tâm bên ngoài. Nếu thừa nhận nêu ra mười Địa, bên ngoài lại trải qua nhiều thời, sau mới nhập vào Phật, nên nêu ra Sơ địa v.v... cũng trải qua nhiều thời, mới nhập vào địa sau.
Hỏi: Nếu ngoài mười Địa, không trải qua nhiều thời, vì sao kinh Bản Nghiệp ghi: "Kim cương dụ định", thừa nhận trải qua nhiều thời. Lại kinh ghi: "Phật tử Ma-ni Bảo Anh Lạc Bồ-tát tự là một người trong Đẳng giác, tên Kim Cương Tuệ Bồ-tát, cho đến ở thọ trăm kiếp tu ngàn Tam-muội v.v...?"
Đáp: Nay đồng nói kinh Nhân Vương Bát-nhã từ Sơ địa trở lên gọi là Thánh chủng tánh, Địa thứ mười nêu ra mãn tâm sau cùng, gọi là Đẳng giác vì nhập, trụ, xuất đều trải qua nhiều kiếp. Anh Lạc Bản Nghiệp căn cứ theo nêu ra tâm đầy đủ đoạn tự địa chướng hết, tu gia hạnh là đoạn được Phật địa chướng thứ mười một, nhiều thời tu tập và ngay khi đoạn đều gọi là Đẳng giác. Định đã tu đều gọi là Kim cương, vì có thể đoạn được ở thật thô trọng chứng cuối cùng, chẳng nêu ra mười địa mãn tâm trở về sau. Chỉ có Đẳng giác, trải qua nhiều kiếp trụ, nên luận Du-già quyển 48 ghi: "Ở trong tối thượng thành mãn Bồ-tát trụ". Nên biết tất cả phiền não tập khí tùy miên chướng ngại, thảy đều vĩnh viễn đoạn nhập vào Như Lai trụ, trong đây đã nói Bồ-tát Pháp Vân làm thành mãn trụ, thảy đều vĩnh viễn đoạn nhập vào Như Lai trụ, rõ ràng chẳng phải ở bên ngoài lại riêng nhiều thời. Nếu thừa nhận nhiều thời, nên riêng lập trụ, đã không lập riêng, rõ ràng ở Địa thứ mười đã thuộc về mãn tâm. Lại luận này quyển 10 ghi: "Mười một chướng này thuộc về hai chướng", cho đến nói trong Sở tri chướng đã đoạn được chủng tử, ở Địa cực hỷ, Kiến đạo ban đầu đoạn, tu đã đoạn chủng tử ở trong mười địa, dần dần lần lượt đoạn diệt, Kim cương dụ định lúc hiện tại mới vĩnh viễn đoạn hết, đã nói ở trong mười Địa, nói chẳng nêu ra mười Địa mãn tâm trở về sau, nếu như vậy vì sao chỉ nói Đẳng giác nhiều thời tu v.v...?
Đáp: Đã ở địa này đoạn được tự chứng của Địa thứ mười hết rồi mới muốn đoạn chướng thứ mười một kia, nên cần phải gia hạnh chủng chủng tu học, được trải qua nhiều thời, nên riêng lập tên.
Hỏi: Các mười địa chúng đều vào đoạn ban đầu, vì sao Phật địa chướng ở Địa thứ mười đoạn? Đáp: Mười địa đều chia ra nhập, trụ, xuất vị, hơn kém không đồng, nên nhập vào địa đoạn, Phật vị không như vậy, nên mười địa đoạn, nếu thừa nhận Phật địa đồng với mười địa, tức là Phật địa có hơn kém, đã không phải hơn kém gọi là chánh Đẳng giác, nên đều đoạn rồi mới nhập vào Phật địa, làm ra thông hội này, không trái với kinh luận.
Luận: Mười một chướng này v.v... Sớ nói thể tánh rộng hẹp lại không phải riêng khác, chẳng phải chỉ mười một chướng, vì mười loại chướng đều nêu sơ đoạn. Ảnh hiển trụ xuất sở đoạn chướng, Sớ ghi: Mười địa đã đoạn tuy chỉ sở tri, câu phẩm bất hành tức là thông với hai chướng, chẳng phải chỉ mười một chướng ban đầu đã đoạn chướng, ý luận như vậy, vốn nói rõ đoạn chướng đắc quả, tuy đoạn mười một chướng, chẳng phải chỉ có đoạn không thành, cũng không thể được quả, nên văn của luận sau chung chia ra riêng đoạn, chẳng phải là không biết mười một chướng không nhiếp trụ, xuất đoạn.
Luận: Trong phiền não đoạn chướng v.v... vốn giải thích nói Cực hỷ trụ, lựa ra Nhị thừa kia, sơ kiến sơ đoạn lựa ra tướng Kiến đạo, chính là chân Kiến đạo, chỉ chấp lấy vô gián, nên nói sơ đoạn. Tây Minh đều lấy vô gián, giải thoát, hai tâm đồng đoạn, lựa ra ba tâm sau, mười sáu tâm v.v... Yếu Tập ghi: Có giải thích là thù thắng. Nay cho rằng không đúng, văn quyển 9 trước ghi: "Vô gián giải thoát đoạn hoặc chứng diệt, tâm này riêng, không nói đồng đoạn", nếu nhất định đồng đoạn, vì sao được nói tâm này riêng, không nói đồng đoạn, nếu nhất định đồng đoạn, vì sao được nói tâm này riêng; lại cần phải hai đạo mới có thể đoạn hoặc, tức là trái với văn dưới, Bồ-tát lợi căn, sát-na sátna có thể đoạn chứng, vì hai đạo cùng đoạn chẳng phải sát-na. Lại luận Tạp Tập quyển 9 ghi: "Đoạn đối trị nghĩa là gia hạnh và Vô gián đạo, trì đối trị nghĩa là Giải thoát đạo, không phải nói là đoạn chỉ nói rằng trì, đắc".
Hỏi: Phẩm Phiền não chướng ở trong mười Địa, nên ý mới khởi, vì sao hai Địa còn có lầm phạm ba nghiệp ngu?
Đáp: Nên khởi phiền não, ngu là sở tri, cũng không trái nhau. Hỏi: Cho nên khởi phiền não nhất định nương theo sở tri, không có phiền não lìa sở tri khởi?
Đáp: Ngu lầm kia phạm ngu chỉ căn cứ theo khởi riêng, Sở tri chướng mà nói, chẳng phải phiền não đồng thời.
Luận: Chướng kia hiện khởi địa trước đã phục trừ, vốn giải thích như Sớ, Tây Minh nói:
Hỏi: Mười địa tu sở đoạn chủng tử và Câu sinh ngã kiến đồng thể khởi cho đến sân v.v... đồng thể khởi, vì sao địa đoạn hết?
Đáp: Đều nói từ Sơ địa đến Kim cương, mỗi vị đều đoạn, thì mười chướng bốn địa đoạn được thân kiến, trái với phẩm đạo, nương theo tướng thô hiển bày nói bốn địa đoạn, căn cứ theo thật ngã và sân v.v... đều nên nhiều loại, địa địa đoạn riêng, nếu không như vậy vì sao trước đoạn được ngu phạm tế chướng, sau đoạn sân v.v... của cõi Dục thô hoặc? Kinh Nhân Vương ghi: "Sơ địa đoạn tham, Địa thứ hai đoạn tham v.v... Địa thứ ba đoạn si, Địa thứ tư đoạn năm kiến, Địa thứ năm đoạn nghi v.v...", nay cho rằng không đúng. Bồ-tát đoạn chướng chẳng như Nhị thừa đoạn Phiền não chướng, ba cõi chín địa phẩm phẩm thứ lớp mỗi mỗi đồng đoạn, tùy theo các chướng nào, chướng địa này. Bồ-tát tức là đoạn, không ngăn ngại trước đoạn cõi Sắc, sau đoạn cõi Dục, cũng không phải địa khác đoạn thứ sáu tương ưng Kiến phần. Kinh Nhân Vương, luận này đều nói Địa thứ tư chướng đạo phẩm v.v... sở tri đoạn đây, phiền não tùy theo phục trừ, nếu thừa nhận địa khác còn có ngã kiến, vì sao được nói có tên hại bạn v.v...? Lại chuẩn theo kinh Nhân Vương ngu phạm cùng sân đều Địa thứ hai đoạn, cũng không phải trước sau.
Luận: Do đây nên nói hai chướng thô trọng ba trụ đoạn nghĩa, như trong Sớ giải thích nguyên do. Yếu Tập ghi: Ba thô trọng, một là từ Sơ địa cho đến Địa thứ bảy đoạn bì thô trọng, các luận không có văn.
Ba thô trọng luận Du-già quyển 18, quyển 73, kinh Giải Thâm Mật quyển 4 đều nói ba trụ đoạn, nhưng văn quyển 48 chỉ nói hai chướng đều ba trụ đoạn, đoạn được phiền não năng chướng đầu sau thô trọng, thông với hiện hành, chủng tử đều nhau và thô trọng, trung gian thô trọng chỉ đoạn hiện hành và cộng tập khí. Nếu đoạn sở tri đều thông với hiện hành, chủng tử đều nhau và tập khí, nhưng quyển 48 trong phần đoạn phiền não căn cứ theo chánh đoạn mà nói, trong đoạn được sở tri căn cứ theo đã đoạn mà nói, hai chướng hỗ tương hiển bày lý thật tương tợ. Lại Sở tri chướng là khác với Nhị thừa, nên theo hiển thuyết, lại quyển 48 ở trong Sở tri chướng lập ra tên ba thô trọng da, da ngoài thịt, ở trong phiền não chỉ nêu ra tên chung, lý thật da, thịt, tâm v.v... ba tên đều thông với hai chướng, nên luận Du-già quyển 73 chung riêng hỗ tương hiển bày, thô trọng thứ nhất chung gồm hai chướng, không riêng nói là phiền não, sở tri. Thứ hai thuộc về phiền não, thứ ba thuộc về sở tri, nên luận kia nói một phẩm nẻo ác bất lạc ở nơi da thô trọng, hai phẩm Phiền não chướng ở nơi thịt thô trọng, ba phẩm Sở tri chướng ở nơi tâm thô trọng. Kinh Giải Thâm Mật đều nói chung cả ba, nên kinh kia ghi: "Các tùy miên này có bao nhiêu loại thô trọng đoạn đã hiển bày, chỉ do hai loại", nghĩa là do ở da thô trọng đoạn, nên hiển bày đầu và thứ hai kia, lại do ở do ngoài thô trọng đoạn nên hiển bày thứ ba kia, nếu ở nơi xương thô trọng đoạn, ta nói vĩnh viễn đoạn tất cả tùy miên hại bạn, yếu kém tuy thứ chín trước chính đoạn sở tri, gọi là hai tùy miên, Phiền não chướng phục trừ cũng được hai tên. Yếu Tập dẫn nói: Có thuyết nói quyển 48 cho rằng hai chướng hai trụ đoạn, phiền não không phải ba trụ, xét văn Sớ không có phiền não không phải văn của ba trụ, luận này luận Du-già nói hai chướng có ba trụ đoạn, Sớ không trái với luận, đoạn chủng tử của hai chướng, tiệm đốn như thế nào? Sớ có hai ý: một là trước nói Bồ-tát chưa nói rõ Nhị thừa, nay đối trị Nhị thừa nói rõ đoạn sai biệt; hai là trước nói đoạn không chia ra tiệm, đốn, nay nói rõ tiệm đốn, Tiểu thừa, Đại thừa, đoạn khác nhau.
Luận: Tu sở đoạn tùy theo sở ứng v.v... chuẩn theo Thanh văn thừa, đắc quả có bốn: một là thứ lớp được bốn, tức là văn luận này ban đầu một loại, hai là vượt lên ban đầu một loại, chấp lấy thứ hai, ba là vượt lên ban đầu ba loại chấp lấy thứ ba. Luận Tạp Tập ghi: Nghĩa là bội ly dục và toàn ly dục, nhập vào Kiến đạo như lần lượt vượt lên loại đầu và quả thứ hai, bốn là vượt lên giữa hai loại chấp lấy quả đầu, quả sau. Luận này loại thứ hai và luận Tạp Tập quyển 13 nói, nhưng nay luận này chỉ nêu hai loại lược không có hai loại giữa, vì sao? Nói rõ tiệm, đốn đoạn, vì vượt lên hai loại trước, kiến nhất định độn đoạn, còn lại chưa phục trừ tu nhất định tiệm đoạn, cùng với thứ lớp đồng nguyên do không nói, vượt lên hai quả giữa là đốn đoạn tu, cùng với cái còn lại nó khác cho nên nói riêng. Chuẩn theo đạo lý này nếu đã từng phục trừ ba phẩm nhập vào Kiến đạo, cũng là thứ lớp chẳng phải hay đốn siêu, luận Tạp Tập nói nếu ít đoạn dục cũng tiệm lần lượt nhiếp.
Hỏi: Bội ly, toàn ly hai loại tánh người làm chủng tử sinh ra trước, Thuận quyết trạch phần là chưa khởi ư? Làm tức là sinh ra đây nhập vào Kiến đạo làm lại sinh ư?
Đáp: Tuy chưa thấy văn, nay do nghĩa chuẩn, đây đều hợp theo chủng tử, Thuận quyết trạch phần thiện, gặp duyên của ngoại đạo, hoặc trước sức tu tập có thể bội ly toàn ly, hồi tâm hướng đến Tiểu thừa tức là ở đây sinh, nhập vào Kiến đế vì sao? Nếu thừa nhận kinh sinh mới nhập vào Kiến đế, nếu toàn ly dục không thoái chuyển định trên, lúc mạng chung sinh về cõi Sắc không được nhập vào Kiến đế, nếu bội ly dục trải qua sinh tức là thoái chuyển đã phục trừ phiền não, trọng dẫn hiện tiền, nhập vào Kiến đạo, lúc nào có thể tùy đoạn? Như còn lại không phục trừ nhập vào Kiến đế, nếu chưa từng khởi Thuận quyết trạch phần, không thể hồi tâm hiện tiền, tức là nhập vào Kiến đế, không có một đời tu tức là nhập vào hàng Thánh, phải ba đời tu v.v... mới nhập vào hàng Thánh, nhưng trong kinh luận không nói, trước khởi Quyết trạch phần v.v... là ẩn lược.
Hỏi: Luận này vì sao không nói vượt lên sơ quả và quả thứ hai?
Đáp: Lược hiển bày tiệm đốn đoạn phiền não khác nhau, không phân biệt đầy đủ, đắc quả sai biệt.
Hỏi: Vượt lên sơ quả, quả thứ hai trước đã phục trừ hoặc, lúc nào có thể đoạn? Vị nào đắc quả?
Đáp: Căn cứ theo luận Tạp Tập ghi: "Ở trong Kiến đạo, tâm thứ mười sáu, tùy theo đắc được hai quả", chuẩn theo quyển 9 luận này mười sáu tâm v.v... là tướng Kiến đạo, chẳng phải thật đoạn hoặc, nương theo chân giả nói buông thả pháp chân kiến, nên ở chân kiến và kiến hoặc nhất thời đồng đoạn, không nhọc nói khác.
Hỏi: Trong Độc giác có Bộ hành và Lân giác, chuẩn theo luận Du-già quyển 35 cùng với luận Tạp Tập quyển 13 đồng, nhưng luận Du-già ghi: "Thế nào là Độc giác đạo? Nghĩa là do ba tướng, một loại an trụ Độc giác chủng tánh, trải qua trăm kiếp gặp Phật ra đời, gần gũi, phụng thờ, cho đến như là gọi là Độc giác đạo ban đầu. Lại có một loại gặp Phật ra đời, gần gũi Ngài, nghe pháp tác ý, ở trước chưa khởi Thuận quyết trạch phần, dẫn phát khiến cho khởi, nghĩa là noãn, đảnh, nhẫn, mà không phải năng lực tức là ở đây sinh, chứng pháp hiện quán, cho đến ở đời đương lai, có thể chứng pháp hiện quán, đắc được quả Sa-môn, gọi là Độc giác đạo thứ hai, đời đương lai này tập hợp lẫn lộn hoặc trước đã khởi Thuận quyết trạch phần, đây thông với bản lai là người của Độc giác chủng định tánh và Bất định tánh, Thanh văn chủng tánh khởi Thuận quyết trạch phần chưa đạt đến thượng nhẫn, chỉ đến trung nhẫn và hạ nhẫn. Nếu đến thượng nhẫn, chỉ là một sát-na nhập vào đệ nhất pháp, tức là có thể chứng được pháp hiện quán, là thuộc về Thanh văn, chẳng phải Duyên giác thừa. Lại có một loại, gặp Phật ra đời, gần gũi Ngài, nghe pháp tác ý chứng được pháp hiện quán, đắc quả Sa-môn, mà không phải năng lực cuối cùng chứng được quả phạm hạnh biên tế A-la-hán, lại tu uẩn thiện xảo v.v...", cho đến nói nương theo đạo xuất thế ở đời đương lai, cuối cùng chứng được quả phạm hạnh biên tế A-la-hán gọi là Độc giác đạo thứ ba, đây là tập hợp lẫn lộn trước đã đắc quả. Chuẩn theo ý của văn này nói gặp Phật là có giáo pháp của Phật, từ Thanh văn khác cũng gọi là gặp Phật, tuy có giác pháp của Phật, không có người truyền nói, gọi là đời không có Phật. Nếu không như vậy chỉ chấp lấy Phật tự tại ở đời gọi là gặp Phật, nếu sau khi Phật nhập diệt rồi, chánh pháp, tịnh, pháp v.v... cũng gọi là không có Phật, liền không phải Phật diệt độ đắc được quả Thanh văn, đều thành tựu, thắng xuất, vì sao? Luận Du-già, Tạp Tập đều nói hai quả sau gọi là Độc thắng bộ hành.
Hỏi: Vì sao được biết tuy có giáo pháp của Phật không có người truyền nói cũng gọi là không có pháp?
Đáp: Cung rồng, kho trời, sau đời tượng pháp mạt pháp Phật pháp đây không có, do đây chuẩn theo mà biết, tuy có giáo pháp của Phật chỉ trên trời giữa thế gian không có người hoằng truyền gọi là không có Phật.
Hỏi: Tu tập Thanh văn Thuận quyết trạch rồi trở lại làm Độc giác, lại tu tập Thuận giải thoát trong Độc giác thừa là tức đến đó Thuận quyết trạch?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Tùy theo ở Thanh văn hoặc noãn, đảnh, vị, vị nào hồi thú tức là Độc giác, noãn, đảnh, nhẫn vị, do chỗ đoạn chướng, thảy đều đồng, nếu không như vậy đắc quả rồi mới làm Độc giác, lẽ đâu lại tu tư lương, gia hạnh kia.
2. Lại tu Độc giác tư lương, gia hạnh, chứng đoạn tuy đồng tu hành có khác; ba, bốn đời tu có xa gần, nếu không như vậy hai đời tu Thanh văn Thuận quyết trạch rồi tức là ở đời sau, thành Độc giác ư? Không đồng đắc quả mới mong lập ra, rồi đoạn hoặc, đắc hiện quán, chưa thấy văn đoạn, lấy bỏ nhờ vào hữu tình.
Hỏi: Trước tu Thanh văn Thuận quyết trạch rồi trở lại làm Độc giác, lại được trăm kiếp tu hành luyện căn làm Lân giác chăng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Không được, người hồi thú này ắt là Bất định tánh là độn căn. Lại nữa luận Du-già, Tạp Tập đều nói loại này là Bộ hành, nếu như vậy vì sao luận Tạp Tập ghi còn lại sinh Thuận quyết trạch phần, là hướng đến Đại thừa và Duyên giác thừa nhận lại sinh?
Đáp: Nếu đây sinh đắc được quả Thanh văn, vẫn lại sinh khác mới thành Độc giác, chẳng nói được thừa nhận trải qua nhiều kiếp tu.
Hỏi: Nếu như vậy hồi tâm hướng đến Đại thừa, đâu không phải nhiều kiếp?
Đáp: Hướng đến Độc giác là độn căn tánh, hướng đến Đại thừa là hướng đến kia làm lợi ích, căn tánh khác nhau, nên phải nhiều kiếp.
2. Chuẩn theo văn luận kia nói hoặc chưa khởi Thuận quyết trạch phần, hoặc chưa đắc quả, được thành tựu Lân giác, chuẩn theo đây nếu ở Thanh văn Thuận quyết trạch phần, hướng đến Độc giác là chưa đắc quả, cũng phải một trăm kiếp tu hành luyện căn vì nói các đời khác, như hướng đến Vô thượng Đại Bồ-đề là phải nhiều kiếp tu, nhưng chỉ nói thành tựu, Bộ hành loại, căn cứ từ đây trở về sau, hướng đến làm Độc giác, không phải luyện căn, nếu như vậy vì sao cần phải nói ở quyết trạch, hướng đến Độc giác mới thành tựu Bộ hành, đồng Thuận giải thoát, đều phải trải qua trăm kiếp, hai vị đều nhau?
Đáp: Ở vị tư lương chưa nhất định sinh, trăm kiếp luyện căn, lý tức là không vặn hỏi, ở Thuận quyết trạch rồi định sinh cách Đế quán gần, căn cứ theo vặn hỏi riêng nói.
Hỏi: Từ phàm phu hướng đến nhập vào Độc giác Kiến đạo và khởi Tu đạo, đoạn hoặc như thế nào?
Đáp: Tùy theo luyện căn kia và không luyện căn, đều đời trước đạo phục trừ vô sở hữu nhập vào kiến liền đoạn chỉ Phi tưởng địa chín phẩm chỉ đoạn được thành tựu Độc giác, Đại thừa chưa thấy chánh văn. Chuẩn theo Hữu bộ mà nói, nhất định không nêu ra kiến. Tám mươi mốt phẩm đoạn được tu hoặc, vì lợi căn, không làm ra quả, có nghĩa tu hoặc Kiến đạo đầy đủ rồi, tám mươi mốt phẩm mỗi mỗi đoạn riêng, nhưng không phải xuất quán, không phải chỉ tức, nên không lập ra quả, hai thuyết trước thù thắng, vì tánh lợi căn chẳng phải dần dần lần lượt đoạn.
Đáp: Như đắc sơ quả, ra đời không có Phật, làm Độc giác, đoạn tu như thế nào?
Đáp: Tùy theo ba quả trước, chuẩn theo luận Du-già mà nói, nhất định tu tập các thiện xảo quán, tùy theo chế chưa đoạn, hoặc lại liền đoạn, như liền xuất ly hoặc không phải xuất quán, thứ lớp dần dần đoạn, nhưng luận Du-già quyển 34 ghi: "Lại tất cả kia nên biết bản lai luôn mong vắng lặng", căn cứ theo không gặp Phật một loại mà nói, trừ dụ Lân giác, còn lại như gặp Phật thành tựu Bất định tánh. Luận: Gia hạnh v.v... bốn sát-na sát-na v.v... giải thích đầy đủ như Sớ, nay lược ra lấy chín môn liệu giản: một là nêu ra thể, hai là giải thích tên, ba là tác dụng, bốn là nương theo giới địa, năm là Lậu Vô lậu, sáu là nhiếp đối trị, bảy là theo tu biện, tám là bốn đạo sai biệt, chín là nhân quả khác nhau.
1. Nêu ra thể, một là chế phục được tánh thể, thông với trí của thế gian xuất thế gian làm thể của bốn đạo, nên luận Du-già 69 ghi: "Lại tu trí này lược có bốn đạo: một là gia hạnh v.v...; hai là dẫn phát thể, thông với giới, định, tuệ; ba là tương ưng thể, thông với các Vô lậu, gia hạnh, căn bản, Hậu đắc trí và Hữu lậu trong có phương tiện, thiện tâm, tâm sở pháp, vì bốn đạo này thông với lậu Vô lậu". Các thứ còn lại nêu ra thể lược mà không nói rõ.
2. Giải thích tên gọi, nghĩa là ở trong các sở đoạn, gia thêm sức công dụng, thuận hướng đến năng đoạn, gọi là gia hạnh, hoặc thuận hướng đến đoạn tánh cũng gọi là gia hạnh, chẳng phải gia hạnh này không cầu chứng lý. Vả lại căn cứ theo hướng đến cầu năng đoạn đạo mà nói, nên luận Dugià quyển 69 ghi: "Ở nơi tất cả địa Tu đạo sở đoạn nhuyễn trung, thượng v.v... chín phẩm phiền não tùy theo phẩm sớ mỗi mỗi sai biệt, có thể tùy theo thuận đoạn, là gọi sơ đạo". Luận Tạp Tập quyển 9 ghi: "Nghĩa là có thể do đạo này, có thể xả bỏ phiền não", ý nói do gia hạnh này có thể khiến cho hiện hành, phiền não không khởi gọi là xả ly, hoặc căn cứ theo Tu đạo, lúc tu gia hạnh, cũng có thể ít phần phục trừ thô trọng, gọi là xả ly, chẳng phải là chánh đoạn được sở đoạn phiền não, được tên xả ly, đây căn cứ theo chỉ khởi bốn đạo mà nói, nếu căn cứ theo tướng vọng, tuy lại gia hạnh, cũng có thể chánh đoạn, không do gia nghĩa, gọi là vô gián, mong nghĩa riêng đạo là thông với phục nghĩa, gia hạnh tức là dục là Trì nghiệp thích. Nói Vô gián đạo là hai nghĩa vô gián: một quán lý vô gián, không đồng với gia hạnh, còn mang theo tướng; hai đoạn hoặc vô gián không đồng với gia hạnh còn chưa chánh đoạn, có gián sau này. Luận Du-già và luận Tạp Tập đều căn cứ theo một nghĩa sau mà giải thích, nên quyển 69 ghi: "Có thể vô gián đoạn là đạo thứ nhất". Luận Tạp Tập quyển 9 ghi: "Nghĩa là đạo vô gián này vĩnh viễn đoạn khiến cho không còn sót", vô gián tức là đạo. Nếu Hữu lậu đạo, năng vô gián phục trừ, đều là Trì nghiệp thích.
Giải thoát đạo, giải thoát có hai:
1. Năng giải thoát thể đều được tự tại, tức là lìa trói buộc, như tám môn giải thoát nay giải thoát này cũng lại như vậy, có thể trừ được thô trọng, được tên giải thoát.
2. Lý sở hiển gọi là giải thoát, tự tánh lìa trói buộc gọi là giải thoát.
Từ xưa đến nay mê hoặc chứng trí không thể chứng được, nay trừ được hoặc rồi trí mới có thể chứng được giải thoát là lý, đạo là trí, nên luận Tạp Tập quyển 9 ghi: "Nghĩa là do đạo này chứng đoạn được phiền não, đã được giải thoát", nếu nương theo giải thích trước cũng là Trì nghiệp, luận phần nhiều nương theo sau, tức là Y chủ, đạo của giải thoát vì sao như vậy? Vì lựa ra Vô lậu Thắng tấn đạo. Y chủ là tên, nếu như vậy Hữu lậu vì sao gọi là giải thoát?
Đáp: Cũng thông có thể Trạch diệt, phi Trạch diệt vì đã phục trừ hoặc có vĩnh viễn tạm thời, nói Thắng tấn đạo, thắng nghĩa là thù thắng, tấn nghĩa là thắng tấn, nên luận Tạp Tập quyển 9 ghi: "Hoặc lại tiến vào phẩm định thù thắng khác, các thứ như vậy v.v... gọi là Thắng tấn đạo", cũng là Trì nghiệp hoặc hướng đến trước là thù thắng, mong sau là tấn, thắng tấn tức là đạo, luận Tạp Tập quyển 9 là đoạn phẩm này sau còn lại phiền não, đã có gia hạnh, vô gián, Giải thoát đạo hướng về phẩm này, là thắng tấn gọi là Thắng tấn đạo.
3. Tác dụng nghĩa là các thế gian và xuất thế gian, các cõi đã tu, hoặc là đoạn nhiễm, hoặc là chứng lý và công đức thù thắng, đều do bốn đạo, có thể được thành mãn. Nếu căn cứ theo trước sau, tướng mong bốn đạo, bốn đạo đều có thể đoạn hoặc chứng lý, khởi công đức thù thắng. Nếu căn cứ theo sự khác nhau khởi bốn đạo có khác. Vả lại căn cứ theo đoạn hoặc, gia hạnh có khả năng phục trừ phiền não, vô gián có dụng chánh vô tướng hoặc, giải thoát có thể chứng được sở đắc diệt, thắng tấn có thể có công tấn đoạn khác, chứng lý khởi đức, chuẩn theo nghĩa có thể biết.
4. Nương theo giới địa: Năm lậu Vô lậu đều như Sớ giải thích rõ ràng. Sớ ghi: "Đảnh có Giải thoát đạo loại, gọi là giải thoát cũng có, chẳng phải giải thoát kế sau vô gián. Giải thích rằng: Đạo loại gọi là giải thoát, chẳng phải giải thoát sau vô gián là loại này, như lúc dung chứa do dự lại duyên theo lúc trước đó được giải thoát, chẳng phải kế vô gián sau giải thoát. Nếu là chứng chân vô gián sau giải thoát, cũng gần gũi chứng lý, Hữu đảnh này giải thoát kế vô gián này, sau tức là khởi, như trong thân của Vô học thời khác đã khởi chẳng phải là thứ lớp, nay lại giải thích thêm, như sáu hành phục trừ, nương theo cận phần định đều đầy đủ bốn đạo, trong Căn bản địa tu tám giải thoát, cũng thông với Hữu lậu nương theo Hữu đảnh địa, Vô lậu bốn đạo đoạn hoặc là không có, tu tám giải thoát, thứ bảy thứ tám đều nương theo địa kia, thừa nhận có bốn đạo, đây cũng lỗi gì? Các xứ chỉ nói là đoạn hoặc, nên tu bốn đạo. Vả lại căn cứ theo một nghĩa chẳng cho rằng tu khác không có bốn đạo. Quyển 69 ghi: "Thứ nhất trong hữu đã có các trí, đều tục trí nhiếp", căn cứ theo sơ học là theo không thân cận chứng lý Chân như mà nói, vì sao biết? Luận kia chỉ làm ra Phi tưởng phi phi tưởng hành, xuất thế tác ý có tưởng các định đã nhiếp thọ, đã nói rằng xuất thế tác ý, rõ ràng thông với Vô lậu. Lại nữa du quán Vô lậu cực thành, lại địa tâm kia duyên theo Chân như. Chuẩn theo văn quyển 12 trước, nhập vào diệt tận định có hai phương tiện: một là duyên theo phi tưởng phi phi tưởng mà nhập. Hai là duyên theo vô tưởng giới tướng mà nhập. Nên biết luận nói "chỉ làm ra phi tưởng phi phi tưởng" là không phải tận lý mà nói.
6. Nhiếp đối trị là chuẩn theo luận Tạp Tập quyển 9 ghi: "Do đầy đủ bốn loại đối trị nên gọi là đối trị tu", nghĩa là Yểm hoạn đối trị, Đoạn đối trị, Trì đối trị, Viễn phần đối trị, thấy họa hoạn của Hữu lậu, như bệnh ung nhọt v.v... gọi là yểm hoạn. Vui vẻ đoạn chính đoạn các phiền não nên gọi là đoạn đối trị, tức là thuộc về gia hạnh, vô gián hai đạo. Căn cứ theo thật yểm hoạn cũng là gia hạnh, vì gần xa khác nhau, gần vô gián đoạn, gia hạnh được tên gia hạnh, nhiếp đoạn đối trị, nhậm trì đoạn đắc gọi là trì đối trị. Tuy tông Đại thừa không phải lập riêng đắc, tức là đối với hiện hành có thể chứng được đoạn kia, vì thể giữ gìn dụng, dụng tức là đắc. Sáng tối trái nhau cũng gọi là đối trị, hoặc giữ gìn sở đắc tức là chân đối trị tánh, tức thuộc về Giải thoát đạo, do Giải thoát đạo chứng được đối trị tánh, gọi là trì đối trị, khiến cho trước đã đoạn phiền não chuyển viễn ly, nên gọi là viễn phần đối trị, thuộc về Thắng tấn đạo.
7. Theo tu mà biện, luận Tạp Tập quyển 9 có bốn loại tu nghĩa là Đắc tu, Tập tu, Trừ khử tu, Đối trị tu. Luận kia tự làm ra hai "lại nữa" để giải thích, văn tuy chỉ phối hợp một Đối trị tu, lấy lý mà nói đầy đủ nhiếp bốn tu. Hai loại gia hạnh, thắng tấn đều nhiếp Đắc và Trừ khử tu vì khiến cho chủng tử của Vô gián đạo tăng, lúc tu gia hạnh có thể phục trừ hiện hành, nên luận kia giải thích Đắc tu rằng: "Là đắc cho nên tu". Giải thích Trừ khử tu nói: "Do sức tu đây, trừ bỏ được hiện hành vị, các pháp bất thiện". Vô gián, giải thoát nhiếp tập tu, đối trị tu, luận kia giải thích rằng: "Do sức tu này, nhiều lần tập đã đắc các pháp thiện, đối trị vị lai các pháp bất thiện, khiến cho thành tựu bất sinh pháp". Hoặc mỗi mỗi đạo đều đầy đủ nhiếp bốn loại tu, cũng lại không trái.
8. Bốn đại sai biệt, nếu mong tướng trước sau, mong sát-na đầy đủ bốn loại, căn cứ theo nghĩa có khác, thể tức là không khác, nếu căn cứ theo khởi riêng bốn tướng biệt hành, như nêu thể biện, nhưng chỉ Vô lậu, có thể căn cứ theo sát-na, đều đầy đủ bốn đạo, sát-na sát-na có thể đoạn hoặc, chẳng phải Hữu lậu đạo.
9. Nhân quả có khác, ở địa vị Nhị thừa, nhân quả đều có bốn loại, nhưng trừ Lân giác và câu giải thoát định tánh, không hướng đến Đại, tự thừa đầy đủ, chỉ khởi giải thoát, bộ hành, tuệ thắng định, tánh định đều mỗi mỗi khởi bốn loại, quyết định chủng tánh, tự thừa thắng đức, chưa thành mãn, hoặc chỉ khởi hai loại giải thoát, thắng tấn, bất định chủng tánh hướng đến Đại thừa, nhân vị của Đại thừa từ Địa thứ tám trở về trước đầy đủ hai loại bốn đạo, từ Địa thứ tám trở lên, khởi Vô lậu bốn đạo, nếu ở Phật vị có ba đạo sau, thể chứng sở đắc trước, mong nhân thắng tấn, chẳng phải tự quả vị.
Hỏi: Trong năm địa lập bốn Đế quán, vì sao chứng được đắc vô sai biệt như?
Đáp: Tuy làm ra bốn Đế quán mà không nói duy, thông với tám Đế mà lại hoại duyên không do Chân như chỉ thuộc về Đế, biết lý thông, không như Tiểu thừa định chấp quán, chứng được vô biệt như.
Giải thích sở khí xả, trong đó có hai giải thích:
1. Căn cứ chuyển như nhau, bản hữu Vô lậu chủng tử ba phẩm, như gia hạnh vị hạ phẩm chủng tử tăng, sinh ra Kiến đạo Vô phân biệt trí ban đầu, tức là hiện hành Vô lậu này có sức giúp đỡ chủng tử của trung phẩm, khiến cho có thể sinh hiện, cũng khiến cho tự chủng tử chuyển thành trung phẩm, gọi là chuyển như nhau. Lại giải thích do chủng tử trung phẩm sinh hiện hành rồi, giúp chủng tử hạ phẩm chuyển thành trung phẩm cùng với chủng tử trung phẩm của bản hữu và mới huân tập sinh cũng làm trung phẩm, cũng có thể sinh ra từ chủng tử của bản hữu, ba hợp sinh ra một, niệm sau hiện hành, hoặc đều sinh khác, đều thừa nhận không ngăn ngại thượng phẩm trung phẩm sinh chuyển ngang bằng cũng như vậy. Nói chuyển diệt tức là chủng tử của bản hữu có một cái, trong gia hạnh vị gọi là hạ phẩm, nhập vào kiến đã qua, có thể sinh ra hiện hành, hiện hành huân tập chủng tử, tức thành tựu trung phẩm, nên gọi là chuyển diệt, hoặc bản hữu ba phẩm chủng tử, trung phẩm sinh rồi hạ phẩm không sinh, cũng không thể sinh ra niệm sau trung phẩm, mới sinh trung phẩm chỉ do hiện hành. Nếu như vậy tức là trái với luận Tạp Tập nói văn của hành tập tu. Luận kia thừa nhận ban đầu tập tu từ trung phẩm Địa dưới chủng tử tăng, không thể chỉ nói trung phẩm, thượng phẩm tăng, không thông với hạ phẩm, không phải riêng nhân, trái với tỷ lượng. Chuẩn theo đây tức là lẽ ra ba phẩm mỗi mỗi hai loại, chỉ khiến cho chủng tử của bản hữu sinh ra trung phẩm sau, tức là chủng tử của hạ phẩm sinh ra hiện hành, tự thể không tăng. Nếu như vậy đã thừa nhận ở chủng tử của hạ phẩm, vì sao gọi là diệt? Nếu do không sinh tức gọi là diệt, lẽ nào các chủng tử đều định sinh ra hiện hành? Căn cứ theo đạo lý này, chuyển ngang bằng nên thù thắng. Nếu như vậy tức là lẽ ra chuyển đều chủng tử của hai Thừa, thành tánh của Đại thừa. Nếu nói loại khác không chuyển hạ phẩm, trung phẩm chủng tánh của hai Thừa, là tánh của Bồ-tát, cũng lẽ ra chủng tánh ba phẩm của Bồ-tát khác nhau, không chuyển hạ phẩm trung phẩm thành trung phẩm thượng phẩm.
Đáp: Thừa tánh khác nhau, không chuyển hai Thừa thành tánh của Bồ-tát, ba phẩm hạ, trung, thượng đồng với tánh của Bồ-tát, nên có thể chuyển khiến cho thành trung phẩm thượng phẩm. Luận: Bồ-tát nên không có sinh tử, ý này lẽ ra không có biến dị sinh tử, chẳng phải đây không có sinh tử, tức là vặn hỏi khiến cho không có pháp sinh tử, sinh đều là tử, thuần ghi nhớ. Cổ Đức nói: sau Giải thoát đạo tức là không có sinh diệt, đắc được riêng chân thường các thân tướng tốt, vĩnh viễn không dời đổi rơi rớt. Lại nói: Không Như Lai tạng tức là Chân như, đầy đủ huân tập rồi sinh ra thường thân, như luận của ngài Tuệ Nhật phá.
Luận: Hai sở khí xả v.v... vốn giải thích như Sớ, Tây Minh có hai giải thích:
1. Xả bỏ Vô lậu của hàng Nhị thừa, đối trị Bồtát gọi là Vô lậu yếu kém.
2. Vô lậu của hàng Nhị thừa và nhân vị của Bồtát, chưa viên mãn Vô lậu gọi là yếu kém, ý của ngài Tam Tạng chấp lấy thuyết đầu là chính, còn lại là Yếu Tập đều đồng với có giải thích. Nay cho rằng không phải chỉ Nhị thừa gọi là yếu kém, nhân vị của Bồ-tát cũng thuộc về yếu kém, nếu không gọi là yếu kém, nhân quả vì sao khác nhau, vì sao luận nói: Kim cương dụ định dẫn dắt cực viên minh thuần tịnh bản thức? Lại sư thứ hai nói: đối với Vô gián đạo nên gọi là Phật, sau Giải thoát đạo sẽ là vô dụng, do đây nên biết, nhân vị Vô lậu cũng gọi là yếu kém, nếu không như vậy văn luận có lựa ra khác nhau, tiệm ngộ Bồ-tát xả Vô lậu yếu kém, đốn ngộ Bồ-tát không có Vô lậu yếu kém, lại nhân không bỏ đâu được thành Phật, không bỏ Kim cương dụ định vô gián ư?
Lại luận Tạp Tập quyển 14 ghi: "Lúc ở nơi các hiện quán vị chứng được đắc hậu hậu thắng phẩm đạo, bỏ hạ liệt phẩm đạo sở đắc trước", nên biết được Phật bỏ nhân vị yếu kém, nói bỏ chẳng phải là hoàn toàn bỏ, chỉ nói chuyển ngang bằng, lại Nhị thừa tức là chuyển diệt, cả hai đều gọi là xả.
Luận: Giải thích Niết-bàn, Sớ giải thích thể của tự tánh Niết-bàn, lý của tướng Chân như, tức là bảy như trong thật tướng Chân như. Có giải thích tức là nói: Là tất cả pháp thông với tướng Chân như, nay cho rằng không đúng. Chân như không có hai, đâu có tất cả pháp chỉ tướng Chân như. Lại trong bảy như nói có thật tướng, không nói tướng chung, căn cứ theo đâu được biết thông tướng là thể? Lại giải thích kinh Niết-bàn quyển 2 nói ba việc Niếtbàn, có hai giải thích: một là theo lý; hai là theo ba thể. Tây Minh chỉ thuần giải thích ý của kinh kia, chỉ chấp lấy lý nêu có thể thành trí, chấp lấy lý sở hiển làm tự tánh, nay cho rằng thông với hai loại nhiếp nghĩa viên mãn đầy đủ, vì sao? Như nơi khác nói Bồ-đề, Bồ-đề đoạn đều gọi là Bồ-đề, nên biết Niết-bàn cũng thông với tướng, tánh, nếu không như vậy vì sao nói Ma-ha Bát-nhã, giải thoát, pháp thân gọi là Đại Niết-bàn? Nếu chấp lấy lý sở hiển nên chỉ nói pháp thân của Như Lai gọi là Đại Niếtbàn, vì các công đức đã hiển bày. Lại nếu chấp lấy lý sở hiển là thể, vì sao được nói lời ba việc không phải một khác gọi là Đại Bát Niết-bàn, tức là không chỉ nói pháp thân làm Niết-bàn, tướng, tánh hợp mới gọi là đại. Kinh luận Pháp Hoa ghi: "Chỉ có Như Lai chứng được Đại Bồ-đề cứu cánh đầy đủ tất cả trí tuệ gọi là Đại Niết-bàn". Lại hiển bày khác với Nhị thừa đắc được Vô dư y, không phải công đức.
Luận: Trong những người đắc được bốn Niếtbàn, vốn giải thích như Sớ, nhưng Yếu Tập v.v... không thừa nhận Bồ-tát có vô trụ xứ Niết-bàn. Nếu thừa nhận có, luận nên nói hàng Nhị thừa, Vô học dung chứa có bốn loại, vì sao chỉ nói dung chứa có ba loại trước? Nay cho rằng chẳng vặn hỏi hàng Nhị thừa, Vô học dung chứa có ba loại trước, căn cứ theo định tánh mà nói, nếu Bất định tánh, hồi tâm đã qua tức gọi là Bồ-tát chẳng phải hàng Nhị thừa, không nói Nhị thừa dung chứa có bốn loại, nếu nhập vào Sơ địa đắc được vô trụ xứ Niết-bàn, là phần chứng chứ chẳng phải viên mãn đắc, đầy đủ bi, trí, chứng được sinh tử, Niết-bàn không có sai biệt như, rộng như trước đã giải thích. Như Lai đầy đủ bốn, là nói rõ có hữu dư Niết-bàn, trong luận có hai giải thích, vốn giải thích như Sớ. Có giải thích rằng: Theo Kim Quang Minh quyển 1, theo ứng hóa thân nói có hữu dư Niết-bàn. Có thuyết nói đồng như giải thích này.
Yếu Tập ghi: "Có giải thích là thắng", nay cho rằng đồng với Sớ. Kinh Kim Quang ghi: "Theo ứng hóa thân", tức là sớ giải luận này có tợ khổ nương vương cung sinh thân, người trí nên biết. Nếu nói: Dẫn chứng nên nói là thắng, đây nghĩa là cực thành, vì sao phiền phức dẫn chứng? Các kinh luận đều nói hóa thân chẳng phải chân thân.
Nêu ra thể của Niết-bàn, các bộ sai biệt, Đại thừa đầy đủ bốn loại, bộ khác chỉ nói hai, nhưng thể dư và Vô dư của Luận sư Tát-bà-đa tuy không khác, đầy đủ Trạch diệt làm thể, nhưng thể có nhiều, tùy theo pháp Hữu lậu, đều Trạch diệt. Đại thừa nương theo một Chân như giả lập. Kinh bộ không có thể, chỉ khổ nhân diệt xứ gọi là hữu dư y Niết-bàn, đều là giả lập, không nói có thể, Vô vi cũng như vậy. Nhưng Hữu dư Vô dư đều thuộc về Trạch diệt, Sớ giải thích rằng: trong đó hai Trạch diệt nhiếp, vì đoạn trói buộc mà đắc, sở y trói buộc hết, lúc đầu đắc quả gọi là Trạch diệt, sở y sau không có mới hiển bày Niết-bàn, sau đó ngay khi nương vô là do sức trạch diệt trước. Yếu Tập ghi: "Đại thừa Thánh đạo đoạn phiền não, đã chứng được Trạch diệt gọi là Hữu dư y Niết-bàn, nhân phiền não diệt, khổ quả mặc tình diệt vị, chỉ đắc được Trạch diệt, xa do sức chọn, mà diệt được y, nên đoạn sau nói trong đó hai Trạch diệt nhiếp, nhưng nhập vào Vô dư Niết-bàn không phải chỉ vô gián, Giải thoát đạo, nay cho rằng không đúng. Đã nói nhân phiền não diệt, khổ quả mặc tình diệt vị, vì sao chỉ đắc được Trạch diệt? Tự mình không thừa nhận có vô gián giải thoát. Lại luận Phật Địa ghi: "Bồ-tát lúc đầu chứng được Như Lai địa, đốn chứng hai loại Đại Niết-bàn giới", chuẩn theo đây hàng Nhị thừa ban đầu đắc được Vô học, lẽ ra đốn chứng hai loại Niết-bàn, do đây nên nương theo Sớ là đúng hơn. Nếu nói tuy không chỉ khởi vô gián, giải thoát, do trí trước nên sau đoạn diệt gọi là Trạch diệt, vì sao không thừa nhận chính đoạn chướng thời rồi đắc được hai loại? Vô dư sau hiển bày nên là Trạch diệt. Nếu nói Bồ-tát lúc chứng Như Lai địa, xả bỏ Hữu lậu nên đắc được hai quả Niết-bàn, hàng Nhị thừa khổ còn tồn tại không được chứng Vô dư Niết-bàn, nên lúc sau đắc là sau đã mặc tình các khổ không sinh nên phi Trạch diệt, đồng với Hoàng Môn v.v... kiến hoặc nhân hết, nó mặc tình diệt đắc được phi Trạch diệt.
Luận: Đại viên cảnh trí tương ưng phẩm tâm, giải thích như Sớ. Tây Minh nói: Từ dụ là tên, nhưng nói cảnh trí tức là dụng tương ưng phẩm trí là thể. Yếu Tập v.v... ghi: "Hoặc tịnh thứ tám cũng gọi là trí, từ dụ tương ưng gọi là viên cảnh trí", là Hữu tài thích. Lại nói, hoặc trí dụng tăng, tức là biệt cảnh tuệ, gọi là viên cảnh trí hoặc là Y chủ, hoặc là Trì nghiệp, tâm, tâm sở khác hoặc là Hữu tài, hoặc Y chủ thích, sở biến chủng hiện chỉ là Hữu tài thích. Nay cho rằng vốn giải thích chỉ là giải thích chung tên của Viên cảnh trí, Viên cảnh tuy dụ. Trong Lục thích không phải từ dụ giải thích, nhưng trí và thức các phẩm tương ưng, cũng chung gọi là trí. Trí tương ưng, Viên cảnh tức là trí, đều Trì nghiệp thích, trừ chủng tử và tướng định đạo giới v.v... không thể ảnh hiện ra sinh thân, hiện ra tu Y chủng tử sinh, hiện hành mong chủng tử, hiện hành chẳng phải ảnh của chủng tử, chỉ do hiện trí biến khắp mang theo sinh, nên gọi là trí, như nói thức ngôn, thức tự tướng v.v... nhưng chỉ giải thích năm pháp đắc được tên trí, tâm, tâm sở pháp, tương ưng pháp, lân cận được tên, bất tương ưng v.v... nương theo tương ưng giải thích tức là chẳng gọi lân cận cũng thông với lân cận, nên đoạn sau nói: Như là bốn trí tương ưng với phẩm tâm, tuy nói đều có hai mươi hai pháp năng biến sở biến, chủng tử hiện hành Câu sinh mà trí dụng tăng, vì trí gọi là hiển nên tên khác trí đều là Lân cận thích, như Vô vi gọi là trí, hoặc tên của Lân cận, hoặc Hữu tài thích. Trong luận Thật Tánh ghi: "Do đây có hướng đến và Niết-bàn, được gọi là Hữu tài", nhưng căn cứ giải là Y chủ thích, tánh của trí không thể tương ưng gọi là cảnh trí, từ Hữu tài thích, trí chẳng phải năng hữu, chẳng chẳng phải sở hữu. Nếu nói rằng thức và chỗ khác có tuệ đồng thời, nên gọi là Hữu tài, cũng không thích hợp với lý, không làm chỗ khác có trí này, nên lý tương ưng, là Lân cận thích. Như bốn niệm trụ, nếu tịnh thức thứ tám gọi là trí, cùng đồng với niệm trụ, chính là Lân cận, không thông với Y chu. Y, sở y định đây văn dưới nói: Thức là chủ, tuy quả trí mạnh mẽ không gọi là chủ, nếu Y chủ nói không đồng với năng y sở y, vì thức nương theo trí nên gọi là trí thức, như nhãn thức v.v... đã không như vậy, rõ ràng chẳng phải y chỉ. Nếu biệt cảnh tuệ gọi là Viên trí cũng chẳng phải Y chủ, chủ chẳng phải trí, biệt cảnh tuệ này là trí tự tướng, chỉ tâm của Trì nghiệp, nhưng các kinh luận nói không đồng, đều căn cứ theo một nghĩa. Nhưng luận Phật Địa ghi: "Các Đức Như Lai tịnh thức thứ tám, ảnh tượng có thể hiện có thể sinh ra trí v.v... như Đại viên cảnh". Căn cứ theo thân năng sinh ra thật thân, sĩ ảnh, tương ưng trí v.v... giúp nó biến đổi, chẳng giữ gìn chủng tử, chỉ nói tịnh thức không nói tâm sở. Nếu căn cứ theo chất, tướng, giả, thật hợp mà nói, thông với các tâm sở, cũng có thể hiện sinh ra các ảnh của Tướng phần. Luận Phật Địa quyển 4 ghi: "Tịnh thức là căn cứ theo nghĩa trước", nay trong luận này, giả thật hợp với luận, chung nêu ra thể, là chung nói, luận dưới tổng kết rằng phẩm của bốn trí này nhiếp công đức hết, chỉ trừ Vô vi vì nói sinh đắc, tánh, tướng khác nhau.
Luận: Bình đẳng tánh trí, vốn giải thích Chân như gọi là Bình đẳng tánh, trí duyên theo đây, nên gọi là Bình đẳng tánh trí. Tây Minh nói: Nghĩa là hữu tình bình đẳng. Luận Trang Nghiêm gọi là chúng sinh bình đẳng trí, do đâu có thể duyên theo chúng sinh bình đẳng? Ý do trí chứng được Chân như bình đẳng, là tất cả pháp tánh bình đẳng, nên có thể duyên theo sinh mà làm bình đẳng. Lại nữa nói bình đẳng tánh trí, không chỉ nói nhân duyên trí, chúng sinh không phải là tánh của bình đẳng. Lại kinh ghi: "Chẳng phải không thấy Chân như mà có thể rõ được các hành". Luận Phật Địa ghi: "Lúc trước thông đạt với chân pháp giới, đắc được tâm của các hữu tình bình đẳng, không chướng ngại bình đẳng, tánh trí đồng duyên khởi theo tánh tướng", chỉ chính giải thích tên không chỉ căn cứ theo hữu tình.
Trong giải thích chuyển thức đắc trí, luận Đại Trang Nghiêm chuyển Thức thứ sáu đắc được Thành sự trí, chuyển Thức thứ năm đắc được Diệu quan sát trí, luận này trái nhau, làm sao khế hợp?
Đáp: Vốn có hai giải thích:
1. Luận Trang Nghiêm không phải nương theo thứ lớp mà nói, chẳng nói chuyển Thức thứ sáu đắc được Thành sự trí, nên không phải trái nhau.
2. Sớ ngoại đạo chỉ giải thích: Trong luận Trang Nghiêm căn cứ theo Thức thứ sáu có thể làm ra thần thông v.v... các thành nghiệp. Nói đắc được Quán sát, nên cũng không trái.
Hai giải thích của Vô Tánh đều tùy theo một nghĩa, không trái với hai luận, nhưng luận Phật Địa phá chuyển năm thức đắc được Quan sát trí, nói rằng nói pháp đoạn nghi chẳng phải năm thức có thể được, là phá sư khác, chẳng phải phá luận Trang Nghiêm, như luận lý nên phá lời của Cổ Nhân Minh, các sư giải thích khác nhau, nhiều không kể hết.
Luận: Kim cương dụ định vô sở huân tập thức v.v... Yếu Tập ghi: "Do hiện hành đa văn có thể huân tập sức, chủng tử của Pháp nhĩ tăng trưởng dụng thù thắng", nên văn dưới nói bốn chủng tánh này tuy đều bản hữu, mà phải huân tập phát ra mới được hiện hành, nhân vị dần dần tăng, quả vị viên mãn v.v... nay cho rằng đây phán phân Kiến đạo có thể như vậy, vì Kiến đạo trước không hiện hành Vô lậu, huân tập khởi chủng tử mới, đến Tu đạo đã có hiện hành có thể huân tập, huân tập được chủng tử mới. Nếu nói cho đến thành Phật, chủng tử pháp nhĩ sinh. Lại nói, do đạo lý này, hiện hành chủng tử của huân tập v.v... chủng tử sinh ra hiện hành thù thắng, vì do sức hiện hành, nên chủng tử yếu kém thành trội hơn, nghĩa là Kim cương vị thể của chủng tử tuy đầy đủ, dụng của nó chưa thành trội hơn đến địa vị Phật quả, trước niệm loại chủng tử sinh ra thắng giải thoát hiện hành quả đạo, do đạo lực này, nó có thể sinh ra chủng tử, cũng thành tựu tối thắng, nên nói chuyển đều nhau, lý tức là không như vậy. Ý của Hộ Pháp, tân huân, chủng tử đều thừa nhận sinh hiện hành, làm sao được sinh quả mới chỉ không sinh, chỉ bản hữu khởi? Cảnh trí, thành sự, nhân không hiện trí mà làm năng huân, do hiện hành khác giúp đỡ chỉ bản hữu khởi, lý tức thật như vậy. Bình đẳng, Diệu quán tuy chủng tử vốn có khởi, lý tức là không thể được. Nếu nói Kim cương, vô gián hiện hành đã yếu kém, làm sao huân tập chủng tử? Tức là được thành trội hơn, nên bản hữu sinh, đây cũng không như vậy. Chủng tử vốn có đã yếu kém, làm sao có thể sinh thắng hiện giải thoát? Đã thừa nhận chủng tử yếu kém có thể sinh ra hiện hành thù thắng, làm sao không thừa nhận hiện hành yếu kém sinh ra năng huân, sinh ra chủng tử thù thắng? Lại hiện hành sinh ra năng huân không sinh ra chủng tử thù thắng, chủng tử chẳng phải năng huân, sinh ra hiện hành thù thắng, đạo lý không thể được. Lại năng huân nghĩa đến quả không tăng, hiện thắng giải thoát tăng lên chủng tử của bản hữu, tức là quả vẫn còn tăng, nên không xứng hợp với lý, do đây nên tin Kim cương, vô gián hiện hành tuy yếu kém, có thể huân tập chủng tử thù thắng, đều khiến cho chủng tử của bản hữu công năng cũng tăng. Viên cảnh, Thành sự chỉ vốn chủng tử sinh, Diệu quan, Bình đẳng bản hữu mới hợp khởi có thể thích hợp với chánh lý, chuyển ngang nhau, chuyển diệt nghĩa như trước giải thích.
Luận: Thành sự trí mà đa văn đoạn v.v... Tây Minh nói: Tác ý khởi tức là có gián đoạn. Có giải thích cho rằng duyên nhiều không đầy đủ, lại phân biệt căn tác ý mới khởi, nên chẳng phải luôn nối tiếp. Yếu Tập ghi: "Nhất định do tác ý nhưng là bản nguyện tác ý, chẳng nói là Phật quả", nghĩa là do bản nguyện căn của hữu tình thuần thục tức là ứng hiện hóa ra, căn của hữu tình thuần thục, chẳng phải luôn hiện ra, nên việc của tác ý tức là đoạn. Lại nói, do sức của ý thức, năm thức được khởi, tác ý của ý thức có thể khởi thành sự, mặc tình nên căn cơ không phải riêng tác ý, năm thức nhất định nương theo mới được khởi, nghĩa là đã hóa ra căn thuần thục, mặc tình tác ý có thể dẫn dắt năm thức, căn thuần thục không thường dẫn dắt năm thức kia có khởi không khởi, nhất định nương theo căn, cảnh v.v... mới bắt đầu được khởi. Nay cho rằng, nếu do nương theo căn, cảnh v.v... mới bắt đầu được khởi, trí đã biến khắp duyên, duyên vì sao không đầy đủ? Chỉ là Phật quả sự trí duyên theo cảnh, không phải hy vọng năm trần, cảnh khởi, chỉ nguyện độ cho hữu tình, muốn không giảm, vì căn cơ không phải luôn hợp nhau, hỗ tương có thuộc về nhau, nên đa văn đoạn, hóa Bồ-tát địa trên. Hai trí Bình đẳng, Quan sát có thể không mượn sự trí.
Thường vô phân biệt, Yếu Tập ghi: Tướng chuyển có hai giải thích:
1. Tự tánh pháp thân thể vắng lặng thường tịch, thọ dụng biến hóa đều là vô thường.
2. Ba thân vắng lặng thường tịch, nói vô thường là căn cứ theo tướng biến hóa
Hai nhà giải thích đều mở rộng đạo lý thành lập, sau xác quyết rằng: từ trên đến đây hai nhà giải thích đều xứng lý. Nay cho rằng ắt không có cả hai đều xứng lý mà hỗ tương trái nhau, vốn nói chỉ lược ra, vì nói rõ lý tận, nên nương theo Nhiếp luận, kinh Kim Quang Minh, kinh Vô Thượng Y, kinh Lăng-già v.v... nói báo thân, hóa thân vô thường, cho là tận lý, kinh nói thường là văn của kinh và luận đều tự hợp nhau xong.
Luận: Đồng hay biến thức đều thiện Vô lậu v.v... vả lại Thức thứ tám lậu Vô lậu phân biệt, Vô lậu năng duyên sở duyên đều Vô lậu, thuần chủng tử sinh; hai là ba tánh phân biệt, năng duyên sở duyên đều thiện, thuần chủng tử sinh, căn cứ theo gần gũi mà nói. Ba là giới địa trói buộc không trói buộc đối nhau, năng duyên sở duyên đồng không trói buộc, cũng căn cứ theo tướng gần gũi như là các thức. Căn cứ theo địa vị của nhân quả, các môn nói rõ gần xa, năng duyên sở duyên, chuẩn theo lý có thể biết.
Nghĩa Duy thức thâm sâu Trí phàm đâu xét được Phật, Bồ-tát khéo biết Nay hình lượng là lỗi.