TẠNG LUẬN
SỐ 1833 - THÀNH DUY THỨC LUẬN DIỄN BÍ
Sa-môn Trí Châu soạn.
Sớ: Căn cơ có ba bậc không đồng.
Người tánh bất định quay về Phật pháp, trí hiểu sâu cạn, ba thời tỏ ngộ khác nhau nên gọi là ba cơ, không phải đứng về định lập ra ba bậc, chỉ đối với bất định lập ra ba thời.
Sớ: Do đây, hai bậc Thánh cùng chấp có chấp không.
Hỏi: Chỉ nhắm trong bất định lập có ba thời, tại sao có hai bậc Thánh cùng chấp không chấp có?
Đáp: Đâu nói bất định, duy chỉ có mỗi người đã có nhiều, ngộ cũng có trước sau, trước sau đều do sở chứng, cùng chấp có lỗi gì? Lại dù một người, chấp trước sau sai khác, đối chấp không đồng, cũng được gọi là cùng.
Sớ: Kinh Giải Thâm Mật chép: Duy thức là xét kinh ấy phẩm thứ nhất ghi: "Này Quảng Tuệ! Phải biết sinh tử trong sáu đường, hữu tình trong mỗi đường, hoặc phân thân sinh khởi ở bốn loài, ở trong đó tất cả chủng tử tâm thức đầu tiên thành tựu. Quảng Tuệ! Thức đây tên là A-đà-na, cũng gọi là A-lại-da, cũng gọi là tâm là y chỉ, nên sáu thức thân chuyển, như nhờ nước mạnh mà có sóng nổi, nhờ gương sáng sạch có ảnh tượng khởi".
Sớ: Kinh Hoa Nghiêm chép: Duy tâm, xét kinh ấy bài tụng thứ 19 ghi: "Ví như người thợ vẽ, không thể biết tự tâm, mà do tâm nên vẽ, các pháp tánh như vậy. Nếu người biết tâm hành, tạo khắp các thế gian, người ấy ắt thấy Phật, rõ Phật chân thật tánh, nếu người muốn biết rõ, tất cả Phật ba đời, nên quán tánh pháp giới, tất cả duy tâm tạo".
Lại, trong kinh Đại Bát-nhã phẩm 467 ghi: "Nghĩa là các Bồ-tát khởi tư duy như vầy: Các hành như huyễn, chỉ là do hư vọng phân biệt hiện khởi, tất cả đều tự tâm sở biến". Chuẩn theo đây Kinh Bát-nhã trong thời thứ hai cũng nói Duy thức, sớ nương theo phần nhiều nói thời thứ hai.
Sớ: Chia ba mươi bài tụng lìa rộng lược.
Có thuyết nói trong Du-già giảng rộng, trong Nhị Thập luận nói sơ lược, khác với hai luận trước gọi là lìa rộng lược.
Biện rằng: Chưa chắc như vậy, nhưng rõ ràng có sở đắc trong đó nên nói lìa rộng lược, đâu cần phải chỉ trích.
Sớ: Chỉ có Vô lậu đại định trí bi.
Hỏi: Chỉ có định v.v... rõ ràng không có văn nghĩa, đã chỉ về ba pháp nên không có sắc thân chăng?
Đáp: Có hai giải thích
1. Không có sở kiến, cũng chỉ có biến của thức năng kiến, như văn nghĩa v.v...
2. Phật lìa hý luận, danh ngôn v.v..., y bản nguyện, đại bi bản hiện sắc thân khiến người thấy có lợi ích, do chẳng phải hý luận cho nên có sắc thân.
Biện rằng: Xét trong luận Phật Địa, luận này quyển 10, nghĩa trước là chính, đến văn đó tự rõ.
Sớ: Nếu nương tự thức, nghe pháp là thức, gọi là tự thức.
Hỏi: Phật không có văn nghĩa, Hữu lậu thức biến tại sao nói giống?
Vì không có chỗ giống chăng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Gọi là đồng, thức Phật tuy không có nhưng nghe pháp, nghĩa là Phật thật nói, cho nên trên tự tâm có văn nghĩa giống, tuy không có bản chất, chỗ giống gọi là đồng, giống tự nơi tâm nên cũng không có lỗi, như nói "giống tôi" vì thuần giống bên trong.
2. Tợ Phật Vô lậu chẳng phải văn nghĩa, không có sở tợ, lời nói văn nghĩa cùng theo đến.
Biện rằng: Nghĩa sau khó nương, vốn nói giáo thể, vì không muốn chỉ biện lậu Vô lậu.
Có thuyết nói: Địa thứ bảy trở về trước tâm vị Hữu lậu quá ít nên gọi là tợ Vô lậu, chẳng phải đứng về ảnh chất gọi là tương tợ.
Biện rằng: Ý sớ tổng nói các văn nghĩa tâm sở biến Hữu lậu, không chỉ Địa thứ bảy, lẽ nào hàng Địa tiền v.v... không nghe Phật nói, nếu chịu nghe, thì tự biết sở biến đâu không được gọi là tợ Vô lậu? Đã được gọi tợ nên giải thích trước là đúng.
Hỏi: Nếu Phật không lấy lá rừng v.v... để dụ thì lấy gì thông?
Đáp: Căn cứ vì duyên cớ ấy khiến các hữu tình hiểu thức biến, nghĩa là những gì ta đã nói như lá trong tay; chưa làm tác duyên, tự tâm chúng sinh chưa khởi cách hiểu, nghĩa là những gì ta chưa nói như lá trong rừng, đứng về Tăng thượng duyên nên gọi là nói, không nói.
Sớ: Thành sở dẫn thanh, lược có ba giải thích:
1. Mười hai phần giáo: Là nơi dẫn sinh thành mãn các bậc Thánh gọi là thành sở dẫn.
2. Thành mãn Thánh: Vì các hữu tình thi thiết ngôn giáo, lại lập sở dẫn khởi đạo lý gọi là thành sở dẫn.
3. Thành nghĩa là thành thật, thật nghĩa là tiếng lợi lạc sở khởi gọi là thành sở dẫn.
Biện rằng: Hai nghĩa trước hạn cuộc, lý thứ ba thông. Luận Đối Pháp ghi: Thành sở dẫn thanh nghĩa là các Thánh đã nói, Hữu học không thể gọi là Mãn thánh, nếu nói tự phần mãn cũng gọi là mãn, bao gồm Hữu học là chuẩn theo đây có thể thông, nhưng cũng có lẫn lộn lý không rõ. Nay giải thích: Thành là thành tựu, tức được tên khác, được các Thánh nhân không luận Hữu học và Vô học, chỉ lợi vật làm pháp sở khởi ngôn giáo gọi là Thành sở dẫn.
Sớ: Pháp của ta chỉ có thiện, ông chỉ có Vô ký. Xét trong luận Thiên Thân ghi: Do tất cả thiện căn đầy đủ nên được Vô thượng Bồ-đề.
Lại có người nghi, nếu tất cả thiện pháp đầy đủ, được Vô thượng Bồ-đề thì pháp sở thuyết không được đại Bồ-đề, vì sao? Vì pháp sở thuyết là pháp Vô ký. Nghĩa này không đúng, vì sao? Vì pháp ông là Vô ký, pháp ta là ký, giải thích ông là Tiểu thừa Tát-bà-đa. Pháp ta Thiên Thân chỉ tự Đại thừa. Ký tức thiện tánh, có là ngay quả và thắng tự thể có thể ký biệt.
Sớ: Hai thức thành quyết định. Có hai giải thích:
1. Nói là thành bi quyết định, nghe là tuệ quyết định.
2. Do gần hai bạn thiện ác khiến khéo gần là thành đối với tà chánh hai thức quyết định.
Hỏi: Có người nói pháp nương các tâm khởi nghe pháp không hiểu, gần ác sinh thiện, gần thiện lại ác, nghĩa quyết định ở đâu?
Đáp: Căn cứ nhiều phần mà nói, hoặc làm nhân xa.
Sớ: Nghĩa là các tương tục khác đến thức sai biệt.
Nghĩa là người thuyết pháp là các người nghe khác, tương tục tức là thân, thân có hai phần thức duyên sai biệt, có thể cùng người nghe làm duyên, khiến các tương tục khác, trái lại trên có thể biết.
Sớ: Tùy đọa tám thời.
Nghĩa tám thời, đủ như trong Pháp Uyển giải thích.
Lại Tam tạng Hòa thượng Tiến Phước giải thích: Tùy theo lúc đọa lạc dục, vì sao? Đáp rằng: Tiếng Phạm là Nhất-sắc-tra, Hán dịch lạc. Ngạchsắc-tra, Hán dịch là tám thời. Nhiếp luận bản tiếng Phạm nói Nhất-sắc-tra, nghĩa là lạc dục.
Hỏi: Hai vị Tam tạng đều đích thân đến Kỳ Viên đồng xem kinh tạng, bỗng gặp một nghĩa, giải thành ý này ý kia chăng?
Đáp: Cả hai đều không có lỗi, vì sao? Xem Thiên Trúc, một vật danh nghĩa hợp nhiều. Lại như Đế Thích có đủ ngàn hiệu, giải thích trước căn cứ trải qua thời gian mà khởi văn nghĩa, cho nên nói tám chuyển tám thời, giải thích nương pháp mà mình mến mộ nên giáo thể sinh, nên nói Tùy đọa lạc dục.
Hỏi: Luận bản nếu có một hoặc hai lời, trước sau Tam tạng có thể tùy theo lấy một tưởng chăng? Phạm bản ắt không có hai chữ, tại sao được nói tùy theo lấy một?
Đáp: Tại sao bỏ luận Vô Tánh soạn, trước sau không đồng. Điều mà hai vị ấy thấy vốn có sai khác, cũng như phương đây các nhà trứ tác làm xen nhau trước sau, loại ấy rất nhiều, lấy đây chuẩn theo kia nào có lỗi gì.
Sớ: Như nói các chữ đến giáo thể cũng thành.
Một đoạn văn này căn cứ bảy tâm và mười hai tâm kia hợp làm pháp, suy nghĩ chuẩn theo có thể rõ, rộng như Pháp Uyển, Quyết Trạch giải thích.
Sớ: Nếu không như vậy thì Chân như cũng vậy. Nếu không lấy tánh dụng chất sai biệt đưa ra giáo thể, giáo Vô lậu tùy theo có thể nghe lại thành các lỗi lậu. Tam bảo vô vi tùy theo tâm năng duyên cũng thành các lỗi Hữu vi Hữu lậu.
Hỏi: Nếu Phật thật nói kinh, sao lại nói không nói một chữ? Đáp: Có ba giải thích:
1. Pháp chư Phật đồng, lìa ngoài pháp chư Phật đã nói, không có pháp để nói gọi là không nói.
2. Tất cả các pháp đều lấy Như làm tánh, Chân như lìa ngôn thuyết gọi là không thuyết pháp, lại không như pháp ngoại đạo có thể nói, tổng gọi là không nói.
Như mắt v.v... pháp tánh tự vốn có, không do nói rồi mới có, nên nói không nói.
Lại có giải thích khác, như Pháp Uyển, Quyết Trạch giải thích.
Hỏi: Chân như đứng về năng thuyên để phân ba tánh, nay tùy theo năng biến thông nhiễm có lỗi gì?
Đáp: Đứng về năng thuyên để phân ba tánh có thể như vậy, nay luận về thật thể, nhiễm tức không đúng, các vặn hỏi chuẩn theo giải thích.
Sớ: Bồ-tát Thiên Thân làm ba mươi bài tụng.
Hỏi: Đề luận vì sao không nêu bổn sư?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Văn bản tụng lược, nghĩa cũng chưa rõ, giải thích văn rộng rõ sẽ hiển bày đề.
2. Thành Duy Thức gọi Duy Thích luận, cho nên đây chỉ nêu sư Thích luận.
Biện rằng: Vốn vì nêu người tạo Thích luận, không phải Thế Thân cho nên không nói, lẽ nào liên quan đến văn lược nghĩa thiếu nên không nêu. Lại hiện làm tiêu đề tuy gọi là Thích luận, nêu bản tụng kia cũng lại là tiêu đề nên nói Thành Duy Thức luận. Nói Thành Duy Thức và Duy Thích luận cũng thiếu phân biệt lựa chọn.
Luận: Bồ-tát Hộ pháp v.v... tạo.
Hỏi: Luận Đại Tỳ-bà-sa các bậc Thánh soạn rõ, nên đầu đề nói các bậc La-hán tạo, luận đây cũng vậy, vì sao không đồng chữ để Bồ-tát ở sau?
Đáp: Luận kia La-hán cùng Hòa Tu Mật Bồ-tát cùng tu vì đồng hàng Bồ-tát nên để ở sau v.v... vì đồng khác loại, đây chỉ có Bồ-tát, nên đồng ở trên, như đồng chữ để sau, sợ nghi v.v... trong đó khác loại Thanh văn.
Sớ: Xét trong bản văn, trong khoa nói rõ kinh luận vốn ở Tây Vực, đại khái phân làm ba, trên dưới cũng có, như luận Trí Độ cũng nói ba phần, nghĩa là bài tựa, chánh tông, lưu thông.
Trong Luận Phật Địa cũng có ba phần:
1. Giáo khởi nhân duyên phần.
2. Thánh giáo chánh thuyết phần.
3. Y giáo phụng hành phần.
Còn lại như Xu Yếu giải thích. Phương này phân khoa giải thích bắt đầu từ An công, từ đó về sau các bậc cổ đức nhân đó làm theo. An công dùng lý xét các kinh luận phần nhiều phân làm ba phần, nghĩa là bài tựa, chánh tông và lưu thông, rộng như trong kinh Pháp Hoa, Nhiếp thích giải thích rõ.
Sớ: Y giáo quảng thành phần. Quảng thành có ba:
1. Quảng thành Thiên Thân nói bài tụng.
2. Quảng thành kinh của Như Lai.
3. Đều thành Phật, Thiên Thân nói. Có nghĩa luận đây có ba phần:
1. Chí giáo duyên khởi phần.
2. Chí giáo chánh thuyết phần.
3. Giải thích danh ký nguyện phần.
Hỏi: Tất cả các luận đều có ba phần ư?
Đáp: Tùy theo ý tác giả, không có nhất định, như Xu Yếu dẫn.
Có thuyết nói Du-già chỉ có chánh thuyết, do đức Từ Thị từ lực viên mãn, không mượn sức nương nhờ cho nên không có phần trước sau.
Biện rằng: Lý chưa chắc đúng, hiện ở sức nhân vị làm sao nói đầy đủ, giả sử tự đức đủ có thể không có phần đầu, sao không có thứ ba? Lại Thế Thân làm ba mươi bài tụng Duy thức cũng chỉ có chánh thuyết, lẽ nào cũng lực đủ? Nên chẳng phải khéo thể hội.
Sớ: Phân biệt không đồng khoa.
Đại loại ý khoa văn lược có bốn loại:
1. Phân biệt không đồng.
2. Nghĩa loại giống nhau.
3. Do văn theo nghĩa.
4. Do nghĩa nương văn.
Nay tức là nghĩa đầu, căn cứ thật Bản, Thích luận hai sư tạo luận nhưng ý một loại, nay y nghĩa khác xét cả hai thành ra khác, nghĩa là sư Bản luận vì khiến hàm thức đoạn chướng đắc quả, sư Thích luận thì khiến pháp trụ lâu, lợi lạc hữu tình.
Sớ: Khởi tâm ân tịnh v.v...
Câu đầu là ý nghiệp, câu thứ hai là thân nghiệp, ngữ nghiệp; câu thứ ba, thứ tư nói chung cả ba nghiệp là hiển bày tên khác của kính lễ. Hoặc ba câu đầu phối hợp riêng với ba nghiệp.
Sớ: Nhân tam luân, thân ngữ ý ba nghiệp như thứ lớp làm nhân luân của thần biến, ký tâm và giáo giới kia.
Lược giải thích tên gọi, quả tu sở thành, tác dụng của oai đức khó so lường gọi thần, chuyển biến bất định gọi đó là biến, biến tức là cảnh, thần tức là trí. Tâm nghĩa là tha tâm, ký nghĩa là biệt thức, thức khác với tâm kia, nên gọi là ký tâm, cả hai đều là Y chủ thích. Giáo là chỉ bày khiến họ sinh thiện, giới tức răn dạy bảo khiến ác kia diệt, giáo giới cả hai đều khác hợp được tên kia là Tương vi thích. Lại cũng dạy cũng răn, là Trì nghiệp thích, trước sai sau đúng, vì giáo giới đều là nghiệp của của trí.
Giải rằng: Trước chẳng phải là Tương vi thích sai, nay lấy Trì nghiệp thích, cả ba đều có nép phục, vận chuyển nên gọi chung là luân, đều là Trì nghiệp thích, các giải thích như trong chương.
Hỏi: Tam luân như thứ lớp thần cảnh, tha tâm thuộc Lậu tận thông. Như kế có thể thị hiện thân ý ngữ giáo hóa, ngữ ý hai nghiệp nhân nào không thứ lớp?
Đáp: Do ngữ lìa lỗi phát ngôn chân thật khiến họ tự tin biết chí của mình, nên được thông quả, khéo ngộ tha tâm, ý nghiệp lắng trong dứt ác làm thiện, nên chiêu lấy quả được Lậu tận thông, do đây phát lời dạy răn hữu tình đoạn ác sinh thiện, nhân quả giúp nhau, nên không có lỗi. Lại biết Tha tâm không đợi ở lời nói, dạy răn ở vật ắt nhờ lời kia, nên tam luân hóa tam nghiệp như thứ lớp, chẳng phải nhân ngữ nghiệp tức nói là quả.
Ý nghiệp cũng vậy.
Lại xét trong Tây Vức Ký ghi: "Phép tắc cung kính của Tây phương gồm có chín loại:
1. Phát lời thăm hỏi.
2. Cuối đầu tỏ bày cung kính.
3. Đưa tay xá cao.
4. Chắp tay bằng thẳng.
5. Co gối.
6. Quỳ dài.
7. Tay và gối sát đất.
8. Năm vóc đều co.
9. Năm thể sát đất.
Chín loại đây hiển bày chỉ hai nghiệp lý có thể thông ý".
Sớ: Một là hư vọng tức Biến kế sở chấp.
Biến kế sở chấp thể tánh tuy không có, nhưng sở chấp của thức hư vọng, cũng gọi là Duy thức.
Sớ: Ở sở đoạn trước thanh tịnh.
Tuy tổng nói đoạn ý đoạn nhiễm, hoặc pháp Vô lậu đều gọi là Viên thành, nói đoạn ở trước cũng không có lỗi.
Sớ: Tánh tức là thức viên thành tự thể.
Tánh đây tức là tự thể viên thành của Duy thức gia nhưng tiếp tục lâu dài, cho nên được nói tánh Duy thức, nếu không như vậy vì sao chân gọi là Duy thức?
Sớ: Tịnh thuộc về người.
Người tức năm uẩn Như Lai giả hợp. Trong kinh Niết-bàn ghi: "Xả sắc vô thường đắc sắc thường", các uẩn còn lại cũng vậy, nên người là tịnh.
Sớ: Tánh Duy thức thanh cảnh thuộc thứ bảy.
Thức thứ bảy bao hàm đủ y, cảnh, vì lựa chọn y nên nói cảnh thứ bảy.
Sớ: Năng sai biệt này là do tánh Duy thức mà làm chỗ chứng ngộ có cạn sâu bèn khiến hàng Tam thừa gọi là vị khác biệt, cho nên kinh Bát-nhã ghi: "Tất cả Hiền thánh đều do pháp vô vi mà có sai biệt".
Ngài Thiên Thân giải thích: Do tất cả Thánh nhân y pháp Chân như thanh tịnh mà được tên.
Sớ: Tất cả sở kính đều là chuyển thanh thứ tư. Hỏi: Vì sao?
Đáp: Thứ tư là thanh, làm nguyên do, nghĩa đã làm, duyên làm có đức có thể làm sở kính nên ở thứ tư.
Sớ: Thể Thiện Thệ sinh ra. Lược có hai giải thích:
1. Báo hóa hai thân gọi là Thiện Thệ, thể thông hai nghĩa. Nếu Thiện Thệ ngay thể thuộc Báo hóa, thể của Thiện Thệ thể thuộc Pháp thân, Từ tôn tiếp nối bảo vị của Phật là chân Phật tử gọi là thể kia sinh.
2. Thiện Thệ và thể chung là Pháp thân. Trí của Từ Thị muốn duyên ở nơi Như thì mới được sinh, trí nhân đó mà khởi gọi là sở sinh. Ngài Thiên Thân tự chỉ thân và đồng học gọi là ngã v.v... Sư tức là Bồ-tát Vô Trước.
Biện rằng: Thiện là tốt, Thệ tức đi. Ác đến sinh tử, thích đi Niết-bàn. Báo hóa hai thân thật là Thiện Thệ. Pháp thể vắng lặng vốn không có đến đi, sao gọi là Thiện Thệ? Nên giải thích ban đầu là hay. Hoặc hai chướng ngăn che chưa gọi là thiện, ra khỏi chướng viên minh mới gọi là thiện, lý cũng không có lỗi.
Sớ: Luận này sở y và năng khởi.
Luận sở y tức là Tam bảo; Vô Trước, Giác Sư Tử là năng khởi, như thứ lớp tạo Đối Pháp, Bản, Thích kia.
Nói Phật tùy chí tùy học, giải thích Phật và Tăng làm sở y để lược không nêu pháp, do đệ tử Thánh y pháp học theo truyền chỉ bày người sau khiến pháp không dứt, cho nên Tăng bảo cũng làm luận y. Nói không làm ngược luận là nói Bản, Thích sư có thể dùng ba tuệ nhiếp giáo nghĩa mà tạo luận, sớ lược nêu ý, giải thích đủ như trong luận kia.
Sớ: Thế Thân tuy là hàng Địa tiền.
Hỏi: Luận kia đã nói Thánh đệ tử Phật, ngài Thế Thân nếu không như vậy, tại sao có thể kính và tạo luận?
Đáp: Đệ tử Thánh gọi là Thánh đệ tử, cũng như chúng trời Dược-xoa. Trong Câu-xá luận cũng gọi là Thiên chúng.
Hỏi: Nếu vậy Du-già làm sao thông? Luận ấy nói chứng đế tích mới được tạo luận?
Đáp: Nói chung cho ba Thừa, nếu chỉ có Đại thừa không cần kiến đế, vì căn tánh lợi, hàng Địa tiền thời gian dài rèn luyện nên không đồng với Nhị thừa.
Sớ: Phép tắc thường hằng.
Đây giải thích chiết phục vặn hỏi, vặn hỏi rằng Pháp bảo có bốn, tại sao riêng kính lễ. Trong sớ có ba giải thích:
Ý thứ nhất nói, pháp tuy chấp trì, nếu thường chấp trì chỉ có Chân như cho nên riêng nói. Có thuyết nói, phép tắc thường hằng thì giải thích chung với bốn, tự hỏi đáp rằng: Giáo hành quả ba pháp tại sao gọi là thường? Đáp: Kinh là nghĩa thường nên gọi là thường.
Biện rằng: Tuy có lý này nhưng trái với ý chỉ bản sớ nên không lấy, còn lại như sớ giải thích.
Sớ: Thầy trò làm nhân cho nhau.
Có truyện giải thích rằng: Nếu căn cứ thứ lớp tu hành mà nói, Tăng đứng đầu, pháp ở giữa, Phật ở sau, do Tăng tu hành mới được chứng Phật.
Biện rằng: Tuy có lý ấy nhưng không có giáo nói, chưa làm chỉ nam.
Sớ: Vô úy vô lưu chứng giáo pháp.
Đây nói Pháp bảo. Nghĩa là bốn pháp vô uý dứt tuyệt bốn bộc lưu, pháp gồm có bốn nghĩa là giáo lý hạnh quả. Các văn còn lại dễ hiểu.
Sớ: Các bộ không đồng.
Lại trong Tát-bà-đa Lân Giác ba căn, Bồ-tát hai căn đều thuộc Pháp bảo, cho nên luận Bà-sa quyển 130 ghi: "Pháp chứng tịnh nghĩa là trong thân Độc giác có ba thứ Vô lậu căn, pháp học vô học; trong thân Bồ-tát có hai pháp Vô lậu các căn hữu học, và duyên khổ tập diệt đạo, Vô lậu tín kia gọi là pháp chứng tịnh". Luận Câu-xá quyển 25 đại ý cũng đồng. Giải thích Tăng nghĩa là hòa hợp, bốn người trở lên hòa hợp gọi là Tăng. Lân Giác Bồ-tát ba ngàn thế giới đều riêng ra đời nên không gọi là Tăng, vì chẳng phải Chánh giác nên lại không gọi là Phật, nên thuộc về về Pháp bảo.
Hỏi: Vì sao không thừa nhận Bồ-tát đồng xuất hiện? Lại vì sao có hai Vô lậu căn?
Đáp: Chỉ căn cứ hậu thân ngồi dưới cây Bồ-đề mà nói, ba mươi bốn niệm được thành Bồ-đề, ba mươi ba tâm trước là hai căn nhiếp, bất chướng về trước có nhiều Bồ-tát cũng không nói Bồ-tát có căn Vô lậu.
Hỏi: Thánh cõi trời không thành tăng chúng, tại sao thuộc về ngôi báu?
Đáp: Xưa có hai giải thích: một là thuộc về Pháp bảo, hai là thuộc về Tăng bảo, tuy thuộc về vô sự hòa lý hòa tăng.
Biện rằng: Giải thích ban đầu tuy thông nhưng luận không lựa chọn, nay giải thích sau.
Hỏi: Thánh cõi trời căn cứ lý thừa nhận ở Tăng, Lân Giác Bồ-tát sao nếu không như vậy?
Đáp: Trời có nhiều Thánh, lý hợp gọi là tăng, họ đã nếu không như vậy đâu được cùng thí dụ.
Sớ: Do tánh Như Lai điều thiện.
Hai chướng đã hết, như khéo luyện vàng thuần thục, do biết cơ tánh nên đối với việc điều phục có phương tiện khéo, tùy bệnh cho thuốc nên đối với khả năng điều phục cũng có phương tiện khéo, lợi vật không mỏi mệt, gọi là đủ đại bi.
Sớ: Vì sinh đại trí đại bi.
Đây có hai nghĩa: Một là Sinh tự bi trí của An Tuệ v.v..., hai là Sinh sở hóa bi trí. Họ do luận nên bi trí được khởi, Sinh tự có thể rõ.
Sớ: Tà định v.v... ba loại.
Xét trong luận Du-già phẩm 100 ghi: "Năm nghiệp vô gián và đoạn căn lành gọi là tà định tụ, pháp học vô học gọi là chánh định tụ, chẳng phải học chẳng phải vô học gọi là bất định tụ". Trong Đại Bát-nhã khác với thuyết này. Như kinh Pháp Hoa, Nhiếp thích tổng hợp.
Có người nói thứ sáu của Thập tín gọi là chánh định tụ, tạo năm nghiệp vô gián gọi là tà định tụ, chưa đến tâm thứ sáu của Thập tín là không tạo nghiệp nghịch ác, gọi là bất định tụ. Lại mong Đại thừa Thập tín thứ bảy gọi là chánh định tụ, nếu khởi năm nghiệp vô gián Đại thừa gọi là tà định tụ, bất định căn cứ đó nên biết.
Biện rằng: Trái với luận Du-già, lại không có văn căn cứ lý hơi khó nương.
Sớ: Như Phật Địa v.v... nói.
Xét luận Hiển Dương ghi: "Cung kính nghe pháp hiện tại được lợi ích và an lạc". Lại phân làm bốn câu:
1. Lợi ích chẳng phải an lạc, nghĩa là hiện thuận lý tinh cần tu đạo.
2. An lạc chẳng phải lợi ích, nghĩa là hiện trái pháp thọ ngũ dục lạc.
3. Vừa lợi ích vừa an lạc, nghĩa là hiện dùng đạo mà thọ đối với lạc.
4. Chẳng phải lợi ích cũng chẳng phải an lạc, nghĩa là từ ra tướng trước.
Lại xét trong luận Phật Địa cũng có bốn câu:
Lợi ích hiện tại gọi là nghĩa, lợi ích vị lai gọi là lợi, thế gian gọi là nghĩa, xuất thế gian gọi là lợi, lìa ác gọi là nghĩa, nhiếp thiện gọi là lợi, phước đức gọi là nghĩa, trí tuệ gọi là lợi.
Biện rằng: Sớ chỉ các luận như Phật Địa, Hiển Dương, ý rõ ở các giáo thuyết lợi lạc, chẳng phải chỉ chứng một thể lợi lạc kia.
Sớ: Lợi tức là mười lợi.
Nói đủ như Du-già quyển 35, quyển 36, không thể dẫn hết, chỉ lấy đại ý sơ lược. Mười loại như thứ lớp hợp thành năm cặp đối.
1. Sở lợi sai biệt.
2. Lợi thể bất đồng.
3. Lợi thời hiện tại, vị lai.
4. Đời này đời khác.
5. Chân vọng phân biệt.
Trong luận, cặp đối ban đầu kết hợp hai nghĩa để giải thích, người học khó thấu tỏ, nay giảng biện rõ, còn lại cứ theo thứ lớp của luận.
- Một là thuần tự lợi lợi tha, nghĩa là chuyên vì mình hoặc chỉ lợi tha sự không gồm cả hai nên gọi là thuần. Căn cứ trong thuần tự có đoạn có tu, nếu vượt trái không thuận oai nghi phép tắc của Bồ-tát, nghĩa là vì mình ưa cầu tài thọ dụng, hoặc vì sinh cõi trời mà trì giới tinh tấn tu tập định tuệ, hoặc vì lợi dưỡng cung kính cúng dường chư Phật, những điều này tự lợi Bồ-tát nên đoạn, nếu không vượt nghi tắc của Bồ-tát tùy thuận, chỗ có tự lợi cùng với trên trái nhau, Bồ-tát nên tu. Thuận lợi tha cũng là hai pháp đoạn tu, nghĩa là dùng tà kiến tu hạnh thí v.v... không nhân quả chấp hủy phạm giới, xa lìa chánh hạnh, vì người khác nói pháp, những điều này nên đoạn. Nếu các Bồ-tát đã vượt qua Địa dưới, do bi nguyện lực xả các Tịnh lự, tùy theo chỗ thích kia lại sinh cõi Dục, lại việc mình đã xong, đối với khắp vô lượng chúng sinh ở mười phương có thể làm vô lượng việc đại lợi ích, đây là thuần lợi tha Bồ-tát nên tu.
- Hai là cộng tự lợi lợi tha, vì tự đến vật vì vật đến mình, hạnh có thể bao gồm trai giới nên gọi là cộng. Trong đó cũng có hai:
1. Tự lợi cộng tha: Nếu các Bồ-tát lấy bi làm đầu, hoặc vì hồi hướng Vô thượng Bồ-đề, đối với tất cả thời tu trí nhẫn v.v... phải biết đây gọi là tự lợi cộng tha, buông trí để thực hành bố thí, khéo chứng được Bồ-tát, bi bao gồm giúp vật, nên gọi tự lợi mà cộng tha.
2. Tha lợi cộng tự: Lại trừ chỗ nói các tướng trước, còn lại tất cả đều có lợi tha. Buông trừ thuần lợi tha nên đoạn, do họ tà chấp không có hai lợi, hoặc trừ những điều cần tu trong trong thuần lợi tha, vì không có tự lợi.
-Ba là lợi ích các loại tự lợi lợi tha: Nghĩa là đối với một pháp mà tự hành khiến họ cũng hành, một loại tự tha hành một pháp, hạnh tự tha đồng gọi là chủng loại, hoặc lợi ích đây có năm loại cho nên có gọi là chủng loại. Nói chủng loại hiển bày chẳng phải một tương tợ.
Năm loại gồm:
1. Không có tướng tội: Nếu các Bồ-tát tự có nhiều ít nhiếp thiện tăng trưởng thiện pháp, khiến họ cũng vậy. Do nhiếp tăng trưởng thiện lìa các lỗi lầm nên gọi là vô tội. Vô tội tức là tướng, tướng là tướng trạng, thể tướng. Phần sau đều chuẩn theo đây.
2. Tướng nhiếp thọ: Nếu các Bồ-tát có thể dẫn tự tha không có nhiễm ô lạc, hoặc đầy đủ lạc, hoặc trụ định lạc.
3. Tướng đời này.
4. Tướng đời khác: Nếu các Bồ-tát tự lợi lợi tha, hoặc có tướng đời này có thể làm lợi ích chẳng phải đối với tướng đời khác, hoặc có đời khác có thể vì lợi ích chẳng phải ở đời này, hoặc đời này đời khác đều vì lợi ích, hoặc đời khác đời này đều vì lợi ích, hoặc đời khác đời này đều không có lợi ích.
5. Tịch diệt Tịnh độ: Nếu các Bồ-tát đã có Niếtbàn và đắc Niết-bàn là phần pháp Niết-bàn thế và xuất thế gian, đây gọi là Bồ-tát lợi ích chủng loại tự lợi lợi tha.
Bốn là an lạc chủng loại tự lợi lợi tha: Tương tợ với tên gọi thứ ba ở trước, lợi ích và an lạc hai tên có khác, nói chủng loại ý nghĩa đồng, đây có năm loại, tức trong sớ đã nói năm thứ lạc, nên đây không dẫn ra.
- Năm là nhân nhiếp.
- Sáu là quả nhiếp tự lợi lợi tha: Nhân quả thuận nhau luận riêng thì rõ. Ở trong nhân quả đều có hạnh tự lợi lợi tha, có ba nhân quả:
1. Dị thục nhân quả.
2. Phước nhân quả.
3. Trí nhân quả.
Quả Dị thục lược có tám loại:
1. Thọ lượng đầy đủ, nghĩa là sống lâu.
2. Hình sắc đầy đủ, nghĩa là hình sắc đoan nghiêm.
3. Dòng họ đầy đủ, nghĩa là sinh trong nhà quý tộc.
4. Tự tại đầy đủ, nghĩa là có nhiều của cải, địa vị, thông minh, quyến thuộc.
5. Tín ngôn đầy đủ, nghĩa là lời nói không hư vọng.
6. Đại thế đầy đủ, nghĩa là nổi tiếng hơn người.
7. Tánh người đầy đủ, đủ phần trượng phu thành tựu nam căn.
8. Đại lực đầy đủ, ít bệnh có khả năng gánh vác.
Nhân Dị thục: Không tổn hại vật là nhân trường thọ; ban bố ánh sáng, y vật tươi sạch là nhân đoạn nghiêm; xa lìa kiêu mạn là nhân dòng họ; ai xin gì cũng bố thí là nhân tự tại; lời nói chắc thật là nhân tín ngôn; cúng dường Tam bảo là nhân đại thế; thích nam nhàm chán người nữ là nhân dòng họ đầy đủ; trợ giúp chúng sinh, như pháp thi thiết các sự nghiệp, bố thí cơm nước cho người khác là nhân đại lực.
Phước trí nhân quả luận riêng thì rõ, nhóm họp thì khó biết nên nay giải thích riêng. Phước nghĩa là ba độ, cần định một phần, bốn vô lượng tâm ở trước. Nói nhân của phước ấy gồm có ba loại:
1. Đối với phước khéo được, khéo trụ, khéo tăng trưởng dục. Một là đối với điều chưa được khéo được lạc dục. Hai là đối với điều đã được khéo trụ lạc dục. Ba là đã trụ dục thường khiến cho tăng trưởng.
2. Đối với phước thiện hay tùy thuận không có duyên trái bỏ.
3. Đối phước trước đã tập quen.
Quả của phước nghĩa là các Bồ-tát nương tựa phước, tuy lại lưu chuyển sinh tử thời gian dài, nhưng không bị cực khổ làm tổn hại, lại có thể khởi làm vô lượng sự nghiệp thiện xảo, cho đến rốt ráo sẽ chứng Vô thượng Bồ-đề.
Trí tức tuệ độ hoàn toàn, một phần cần định và mười lực v.v...
Trí nhân quả là đồng như phước ở trước. Ở trong văn ấy chỉ bỏ chữ phước, thay vào chữ trí, tức trí nhân quả.
-Bảy là tự lợi lợi tha trong đời này: Văn có hai loại:
1. Tự lợi hiện tại: Nghĩa là các Bồ-tát dùng việc công xảo như chánh lý mà tích tập tài vật, tức là đối với tiền của biết dùng đúng mực, lại những việc thích làm trước đây đã thuần thục, ở trong hiện pháp thọ dụng quả kia.
2. Lợi tha hiện tại: Như các Bồ-tát hiện pháp tự lợi, Bồ-tát như vậy giáo hóa hữu tình, do đây được hiện pháp lợi ích.
- Tám là tự lợi lợi tha trong đời khác: Nếu ở cõi Dục có thể được tài bảo đời khác đầy đủ tự thể đầy đủ; cõi Sắc, Vô sắc được các thứ đời khác cũng lại như vậy.
- Chín là rốt ráo tự lợi lợi tha: Nếu các phiền não hằng đoạn tám chi Thánh đạo, hoặc đây làm chỗ nương được tất cả thiện pháp thế gian, do ba nhân duyên sau nên biết rốt ráo:
1. Do tự tánh rốt ráo Niết-bàn.
2. Do bất thối tám chi Thánh đạo không có lui sụt.
3. Do thọ dụng quả vô tận nên gọi là rốt ráo.
-Mười là chẳng rốt ráo tự lợi lợi tha: Nghĩa là ở cõi Dục tài bảo đầy đủ, tự thể đầy đủ, hoặc nhân hoặc quả thế gian thanh tịnh, hoặc nhân hoặc quả do ba nhân duyên sau mà biết không rốt ráo:
1. Do tự tánh vì tất cả Hữu vi.
2. Do lui sụt pháp thiện Hữu lậu do có lui sụt.
3. Do thọ quả có cùng tận nên gọi là không rốt ráo.
Sớ: Một là nhân lạc.
Nghĩa của năm lạc đủ như trong bản luận. Nay đối với mỗi mỗi lược biện danh thể. Làm nhân của nhân sinh lạc nên gọi là nhân lạc. Thể tức bốn pháp, như trong sớ đã nêu. Nói lạc tương ưng, tức các tâm pháp thuận lạc thọ xúc v.v... Nói nghiệp sở phát nghĩa là đối với lạc quả mà khởi ở nghiệp gọi là lạc sở phát. Do thiện nghiệp này được quả đáng ưa gọi là nhân lạc, hoặc lạc tương ưng tư gọi là sở phát nghiệp, sở phát nghiệp năng cảm ngay lạc quả gọi là nhân lạc.
Biện rằng: Trước đúng sau sai, chẳng phải lạc tương ưng tư đều có thể chiêu lấy lạc quả, cho nên Du-già ghi: "Nếu các quả nghiệp đáng ưa của hiện pháp đương lai gọi là nhân lạc", ý nói tùy theo nghiệp quả đáng ưa của hiện tại vị lai gọi là nhân lạc. Sớ lấy ý này nên nói là nghiệp sở phát.
Sớ: Hai là thọ lạc.
Thọ tức là lạc. Hỷ lạc xả ba pháp làm thể của nó, ba loại đều có nghĩa vui thích nên chung gọi là lạc, nếu không như vậy thì sao nói thông ba cõi?
Nói không chỉ lạc trong thọ, chẳng phải trong năm thọ chỉ có một lạc thọ gọi là thọ lạc. Nói tự tánh của lạc này thể là thọ tâm sở, lựa chọn khác với nhân lạc trước sau vậy.
Sớ: Khổ đối trị lạc.
Các khổ dứt diệt vị có lạc giác sinh, lạc của đối trị gọi là đối trị lạc, thể tánh có bốn giải thích:
1. Sóng lạc làm thể.
2. Do năng dứt khổ áo cơm các vật mà làm tánh ấy.
3. Do ưa thích thọ mà làm tự tánh, cùng với nghĩa thọ lạc trước phân làm hai. Nếu thuận lạc thọ căn cảnh gọi là thọ lạc, nếu khi khổ dứt thì thân tâm vui thích gọi là đối trị lạc.
4. Khi khổ dứt có tuệ năng giác, tức năng giác tuệ này làm thể.
Biện rằng: Ba vặn hỏi trước căn cứ thể hoặc sóng lạc tán tâm tán địa lẽ nào không có lạc này? Y v.v... làm thể, cùng nhân lạc kia lẽ đâu lại khác? Như hỷ lạc, lẽ nào khi khổ dứt đều sinh hỷ lạc không có xả thọ ư? Xả thọ nếu có, vì sao chẳng phải thể kia mà không thủ? Lại trong Du-già ghi: Trong đây thọ lạc lạc tự tánh, nên gọi là lạc, khổ đối trị lạc vì dứt các khổ, nên gọi là lạc, vì chẳng phải tự tánh, nếu thể hỷ lạc, tại sao luận nói chẳng phải tự tánh? Thông với nghĩa thứ tư.
Sớ: Thọ đoạn lạc.
Thọ v.v... không hành gọi là thọ đoạn lạc, tức diệt định, lạc của thọ đoạn y chủ lập tên, thể tức là diệt định.
Hỏi: Luận Du-già ghi: Khi trụ diệt định, Thắng nghĩa này khổ tạm thời vắng lặng nên gọi là lạc, đương khi nhập định chỉ diệt tâm Vô lậu pháp tâm sở, lẽ nào pháp Vô lậu gọi là Thắng nghĩa khổ?
Đáp: Các pháp Phi phi tưởng địa xả thọ v.v... gọi là Thắng nghĩa khổ, do nhập diệt định khi viễn Gia hạnh mà có thể diệt nó, căn cứ khổ đã diệt của viễn Gia hạnh.
Sớ: Không não hại.
Các loại phiền não gọi là não hại, xuất gia v.v... bốn hạng xa lìa phiền não đây gọi đó là lạc, không phiền não tức là lạc. Xuất ly lạc là tín giới làm thể, hoặc lìa bức bách thân tâm vui thích, hỷ lạc làm thể. Xa lìa lạc là Sơ thiền hỷ lạc, hoặc chung năm chi dùng làm thể của nó.
Tịch tịnh lạc, Đệ nhị thiền trở lên tùy theo dùng bốn chi, năm chi làm thể, hoặc chỉ có hỷ lạc tùy theo làm thể.
Biện rằng: Luận đã không nói vì lạc tự tánh nên gọi đó là lạc, nên biết không hẳn hỷ lạc làm thể, như kế đó tín giới cùng lấy thiền chi làm thể cũng không có lỗi.
Giác pháp lạc lấy Căn bản và Hậu đắc trí làm thể, lại có nhiều giải thích rộng biện như văn. Bốn lạc như thứ lớp, lìa nhà chật hẹp, xa ham muốn bất thiện, do không có pháp tầm tứ thô động, phiền não, sở tri như thật Đẳng giác nên lập bốn tên. Sớ phối hợp hai tên là Niết-bàn và Bồ-đề, không như Du-già lấy ý Bà-sa, nếu không như vậy thì trái luận.
Hỏi: Ba pháp trước sao gọi là não hại?
Đáp: Luận Du-già ghi: Tất cả các pháp khác không não hại lạc, ở lạc rốt sau có thể tùy thuận, là vì phần của nó, có thể dẫn nó, phải biết cũng gọi là không có não hại lạc.
Sớ: Phải đủ bốn duyên mới được tạo luận.
Xét trong luận ấy ghi: Phải đủ bốn đức mới có thể tạo luận:
1. Đối với các sư xưa phải lìa kiêu mạn, không có tâm nghĩ rằng các sư xưa còn có thể tạo luận, huống gì ta nay không được tạo ư?
2. Đối với loài hữu tình phải khởi đại bi, khởi quán như vầy: nếu không tạo luận thì vô lượng hữu tình đối với các thiện pháp quyết định có lui sụt, các loài hữu tình rơi vào sinh lão bệnh tử, nhân các hữu tình đây tạo luận, nếu có thể hiểu rõ nhẫn đến khéo nói một câu diệu nghĩa, như vậy như vậy sẽ phụng hành, ở trong đêm dài kia ắt được đại nghĩa lợi ích an lạc.
3. Đối với đồng học thì sinh kính ái thâm sâu, khởi quán như vầy: nếu không tạo luận vì muốn lợi tha, những người đồng học đối với việc lợi tha nhất định sẽ lui sụt.
4. Không muốn nêu bày mình có kỹ năng thù thắng, không có tâm nghĩ tưởng như vầy: phải khiến thế gian đều nói với ta thông suốt minh triết có thể tạo luận là xiển dương nghĩa, rất sinh tịnh tín, nhân đây ta được nhiều lợi dưỡng cung kính, chỉ vì tự tha thiện căn tăng trưởng, do không có tâm nhiễm mới có thể tạo luận.
Sớ: Ý của luận chủ tạo luận.
Các thuyết của An Tuệ v.v... sinh chánh giải, nghĩa là sinh Duy thức chân tục hai trí. Kế đến Hỏa Biện nói như thật biết là sinh chân trí, sau ngài Hộ Pháp nói được hiểu như thật là sinh tục trí.
Biện rằng: Căn cứ tướng hiển bày lời ít có lý kia. Nếu do thật luận, ba văn đều thông chân tục hai trí, nên sư thứ ba nói: Khiến ở trong lý Duy thức thâm diệu được hiểu như thật, lẽ đâu lý thâm diệu chỉ là tướng thức chẳng phải chân lý của thức? Lại biết tướng thức gọi là như thật trí thì cũng đâu trái lý, nên đều thông hai trí.
Sớ: Làm luận gọi là tạo.
Hỏi: Nghĩa của Duy thức trong kinh trước đã nói, luận làm sao gọi là tạo?
Đáp: Trong ba mươi bài tụng, kinh giáo trước không có, căn cứ đây gọi là tạo.
Sớ: Trên đây tức là đầu mối phát khởi. Lược có bốn giải thích:
1. Chữ trên là nhầm, lẽ ra phải dùng chữ "người tạo".
2. Ở đây và ở trên đều là đầu mối phát khởi, ý tuy nói đây nhưng bao gồm cả trên.
3. Nói nay tạo v.v... là nêu ra, ngay chữ "đây" cho nên nói "trên đây".
4. Nay tạo một câu luận đây để nói, là đầu mối phát khởi v.v...
Do trước nói riêng, nay vì tạo v.v... là xong, chỉ chung trên đây, tức là đầu mối phát khởi. Nhưng trong bốn giải thích, thì giải thích ban đầu lược qua, suy nghĩ có thể rõ.
Có người nói, trên bốn chữ "nay tạo luận đây", mỗi mỗi đều đủ bốn đầu mối phát khởi. Lại đầu mối phát khởi v.v... mỗi mỗi riêng phối hợp với "nay tạo luận đây".
Biện rằng: Nếu tự giải thích lý luận vẫn sai biệt, nếu biện ý sớ hoàn toàn trái với bản chỉ, xét kỹ sẽ biết.
Sớ: Nay nói vì chúng sinh.
Hỏi: Nhân ngã không khắp cho nên bị bỏ, sinh đã rộng sao nay mới lấy? Như nói chúng sinh lẫn lộn với vô tình chăng?
Đáp: Thế giới có chấp vô tình làm ngã, sinh nhiếp vô tình không có lỗi rộng lớn, như chấp sắc ngã, các loại tóc móng v.v... cũng ở chỗ chấp, đây lẽ nào không chấp vô tình làm ngã!
Hỏi: Ngã thông các nẻo, vì sao không cho nói? Đáp: Pháp cũng gọi là ngã, nếu nói ngã không mà lẫn lộn với pháp, nên cũng trừ.
Hỏi: Chúng sinh chấp có, lấy Không làm cửa ngõ, phá bệnh hiển lý, chúng sinh chấp không, nên cửa ngõ Hữu trừ chấp để hiển rõ lý?
Đáp: Nếu phá được bệnh chấp không nói có có thể trừ, nếu luận hiển bày lý thì cần phải thêm Không quán.
Hỏi: Có quán hữu tướng tức không hiển lý, không tướng chẳng trừ lẽ nào được lý ư?
Đáp: Do Không làm cửa ngõ trừ thủ năng sở, mới dứt hai tướng mà có thể chứng lý. Từ duyên do của môn mà gọi là Không hiển bày lý, lý cũng không có lỗi. Có thuyết nói, nếu vừa chấp Không vừa nói là có, từ nhiều mà chấp có, đây nói là không.
Biện rằng: Ý hỏi để khiến có hiển bày nơi lý.
Đáp rằng: Nói đối không cũng nói đối với có, lẽ nào có thể có quán có thể hiển ở lý? Nếu nói chẳng nói có hiển lý, tức đáp vặn hỏi trước có lỗi bất tận.
Sớ: Bốn pháp trước cùng thủ đoạn hai chướng. Hỏi: Chìm đắm trong sinh tử đều do phiền não, nào có liên quan đến trí chướng đọa trong ba cõi?
Đáp: Sinh tử có hai, do sở tri chướng đọa ở biến dị, biến dị tức thuộc về hóa sinh, cũng thuộc về ba cõi. Lại sở tri chướng chẳng phải tự thân diệt sinh, vì phiền não nương lời nói khó vượt, đều không có lỗi.
Sớ: Tức căn bản chìm đắm gọi đó là trọng.
Giải thích thứ năm là nghĩa trọng, có nghĩa đối nghiệp quả tham v.v... tự tánh có thể dẫn nghiệp quả, vì nó là gốc của các khổ nên gọi là trọng.
Sớ: Vì sao chướng lý chỉ nói hai không v.v...
Nêu lý chướng ban đầu để vặn hỏi chướng trọng ở sau, không được bao gồm những pháp khác.
Sớ: Trọng chỉ có hai chấp, nêu đoạn tham trọng sau cũng trừ, vặn hỏi chướng trước lý không chỉ có ngã pháp.
Sớ: Đây y theo kiến đạo đến ngã kiến cũng vậy. Như Xu Yếu giải thích, nghĩa là nói chứng không chướng tùy theo đoạn, y đoạn chủng mà nói, nên Địa thứ tư thân kiến chỉ phục, hại bạn v.v... là chướng địa sau vẫn có.
Hỏi: Ngã chấp có thể như vậy, pháp chấp chủng đoạn, tại sao các chướng cũng được hiện khởi?
Đáp: Chỉ đoạn chút phần, cho nên các chướng cũng được hiện hành. Kinh Hoa Nghiêm ghi: "Trong Địa thứ bảy, Bồ-đề phần quán mới tối thắng".
Biện rằng: Y đoạn chủng nói không vượt qua Kiến đạo của Bản sớ, vì sao Kiến đạo v.v... chủng không hết? Lại nói Địa thứ tư đoạn chút phần chấp của Thức thứ sáu, lý sợ rằng có trái. Xét luận Phật Địa, luận Duy Thức đều nói Địa thứ tư lại hằng đoạn diệt. Chuẩn theo các văn đây đâu chỉ có ít phần, trong kinh Hoa Nghiêm chỉ nói thù thắng trong Địa thứ bảy, không nói chấp kia Địa thứ bảy mới hết, đâu thể làm chứng cứ được! Do Địa thứ tư, hàng sơ học Nhị thừa, đối với Địa thứ năm, thứ sáu vẫn bắt chước địa ấy, Địa thứ bảy siêu vượt nó gọi là thù thắng cũng đâu có lỗi gì! Điều này nên suy nghĩ lại.
Sớ: Lại giải thích chung.
Không cần nói riêng ngã cùng với pháp, hợp hai pháp lại giải thích, giải thích trước không như vậy, tìm xem có thể rõ.
Sớ: Không có ít chướng nào mà chẳng nương chấp sinh.
Hỏi: Lẽ nào không thừa nhận riêng có hạnh tham v.v...?
Đáp: Tuy có hạnh riêng cũng do xa khởi chấp, như hại bạn v.v... gọi là nương chấp sinh nên không có ngăn ngại.
Sớ: Bao gồm bốn câu đáp câu hỏi thứ hai.
Biện rằng: Hai câu đầu đáp ngã pháp chấp là chướng sở do, hai câu giải thích sau thích đoạn cũng bao gồm tham v.v... các lý do, lý cũng không có lỗi.
Sớ: Hỏi: Phiền não chướng đến cọng lá cũng hết. Hỏi: Ở đây sư nào hỏi và sư nào đáp?
Đáp: Hỏi đáp đây đều thông các sư An Tuệ.
Hỏi: Nếu là Hộ Pháp, Hộ Pháp trí chướng thường đồng phiền não, chấp chướng lại sai biệt, sao nói chỉ chấp khác không có phẩm loại, ý thức cũng có chướng không có chấp, vì sao trong lời đáp chỉ dùng các pháp yêu ghét của năm thức làm Đẳng lưu?
Đáp: Sở tri chướng thường tuy đồng phiền não, danh phẩm không khác, nên nói không có phẩm loại. Trong lời đáp đã nói trong năm thức đồng với ý thức.
Hỏi: Như An Tuệ hỏi tức không trái, đáp cũng có lỗi, do sở tri chướng chướng chấp không sai khác, vì sao cành lá gốc ngọn có khác?
Đáp: Tuy chướng tức là chấp, nhưng đứng về các thức chấp có cạn sâu, nghĩa phân ra gốc ngọn cũng không có lỗi, đủ như Xu Yếu giải thích. Có nghĩa chấp tướng mong nhau có hai câu: Một là hễ chướng đều chấp, hai là có chấp chẳng phải chướng. Nghĩa là các tâm thiện Vô phú Vô ký. Lại nữa chấp chướng không có rộng hẹp, tự tánh các chướng đều gọi là chấp, các chấp đây đều gọi là chướng, nên biết An Tuệ chỉ có pháp Hữu lậu, chỉ trừ Thức thứ bảy còn tất cả đều gọi là sở tri chướng vì đều gọi là chấp.
Biện rằng: Nghĩa đầu hoàn toàn sai, nghĩa sau có lẫn lộn, nghĩa đầu có lỗi gì?
Đáp: Sở tri chướng, ngăn che cảnh sở tri không có tánh điên đảo khiến không hiển hiện gọi là sở tri chướng, lẽ nào có thể chấp mà không che lý sao? Nghĩa sau lẫn lộn là nói chướng đều là chấp, hễ có pháp Hữu lậu đều gọi là chấp. Đây nói có lẫn lộn.
Luận Phật Địa ghi: Chỗ chướng phát nghiệp và chỗ đắc quả cũng gọi là chướng, quả nghiệp này lẽ nào đều là chấp? Do đây đều đối với tánh sở tri chướng và đối với nghiệp quả mà có hai câu:
1. Hễ chấp đều là chướng, nghĩa chướng tâm tâm pháp trong tự tánh và nghiệp quả, vì có hai phần.
2. Chỉ chướng chẳng phải chấp, tức nghiệp và quả chẳng phải tâm tâm sở vì không có hai phần.
Sớ: Lúc tu thiền định thọ làm thắng chướng.
Đây thông hai nghĩa huân tu. Nếu không huân tu định thù thắng thì chướng thắng định, nếu thọ thắng hay chướng tu đối với định, thắng tức là chướng. Giải thích sau là chánh.
Sớ: Tất cả phiền não đều có thể sinh tương tục. Mỗi cõi hoàn toàn mê hoặc đều tương tục tự cõi. Du-già ghi: "Phải nói toàn cõi không đâu mà không toàn cõi, vì sao? Nếu chưa lìa dục, ở chỗ tự sinh mới được thọ sinh, vì không lìa dục". Chưa lìa dục là các nhiễm phiền não có thô trọng tùy theo ràng buộc tự thân, cũng có thể làm nhân cho dị thân kia sinh, do nhân duyên này phải biết tất cả phiền não đều có thể tương tục sinh. Giải thích rằng, nếu hiện khởi thấm nhuần thì chẳng phải tất cả. Nếu căn cứ thành tựu trợ nghiệp thọ sinh nên nói toàn cõi, nêu lìa dục hết, tức không thọ sinh, lại hiển chưa lìa tức tất cả hoặc đều tương tục. Hoặc căn cứ khởi hiện gọi là toàn cõi, nên luận ấy ghi: "Khi sắp thọ sinh, ở trên tự thể tham ái hiện hành, ở nam ở nữ thương giận xen nhau hiện hành, lại nghi nam nữ nay vì cùng ta cùng làm việc chăng?" Lại các pháp ngã kiến kiêu mạn cũng hiện hành, do đây nên biết tất cả phiền não đều sinh tương tục, nên biết căn cứ hiện gọi là toàn cảnh, hai cách giải thích mặc tình chọn.
Sớ: Nhẫn đến Hữu đảnh các hoặc tạm đoạn.
Chứng được Sơ thiền lên đến Hữu đảnh gọi là đến Hữu đảnh. Do được định kia có thể phục các hoặc gọi là hoặc tạm đoạn. Chiết phục hoặc các Địa từ Hữu đảnh trở xuống, chẳng phải hoặc Hữu đảnh cũng có thể chiết phục, vì không ưa thích cõi trên.
Sớ: Phần Niết-bàn kia. Lược có hai giải thích:
1. Lý phục phiền não đã hiển, đây là thiểu phần chân Niết-bàn nên gọi là phần kia.
2. Tức tất cả tịnh định của Tứ thiền, do chiết phục phiền não, có nghĩa tịch tịnh, gọi là Niết-bàn, đây do Hữu vi nên gọi là phần kia.
Phần là nghĩa tương tợ lưu loại, căn cứ bên không có hoặc, có nghĩa tịch tịnh cùng chân Niếtbàn hơi giống nhau, nên gọi là phần kia.
Nên luận Du-già quyển 12 ghi: "Bốn Tịnh lự hoặc còn gọi là bỉ phần Niết-bàn, do các phiền não một phần đoạn, vì chẳng phải quyết định, gọi là bỉ phần Niết-bàn". Giải thích sau là chính, giải thích trước tuy không có văn nhưng lý có thể thông.
Sớ: Trụ trong hai pháp đây chẳng phải là không trụ.
Hữu và Vô dư y gọi đó là hai, ưa trụ trong hai pháp đó gọi là chẳng phải không trụ. Đến chỗ này rõ ràng Vô trụ xứ gọi là Chân giải thoát, kia đã lạc trụ cho nên chẳng phải Chân giải thoát.
Sớ: Chướng của sở tri.
Hỏi: Chướng sở tri này cũng là sở tri, vì sao chẳng phải Trì nghiệp?
Đáp: Pháp lậu Vô lậu đều là sở tri, nếu là Trì nghiệp lẽ nào pháp Vô lậu cũng gọi là chướng ư? Do có lỗi này nên theo Y chủ chẳng phải Trì nghiệp.
Luận nói: Được hai thắng quả, đây đối với Đẳng giác Nhị thừa giải thoát vì sao được gọi là thắng? Rộng như Nghĩa Đăng giải thích. Đẳng giác ngăn ngại, trong truyện có ba giải thích:
1. Chánh thể và Hậu đắc trong một sát-na được cùng với Phật bình đẳng gọi là Đẳng giác, y thời gian dài nói đối với nó mà gọi là thắng.
2. Chân trí bình đẳng, Hậu đắc trí kém hơn Phật.
3. Chân tục hai trí đều chưa rốt ráo không gọi là bình đẳng.
Vô gián giải thoát đồng đoạn một chướng nên nói đồng nhau, tập khí chưa hết, tạp nhiễm chưa xả, gương trí chưa sinh, sự trí chưa khởi, chưa duyên khắp tục, biết chân chưa viên, nên thật không đồng.
Biện rằng: Tuy có ba cách giải thích nhưng mối nghi vẫn chưa trừ, vả lại vị Kim Cang là Vô gián đạo làm gì có thời gian dài đối trị mà nói là thắng? Giả sử nói nói vị này có nhiều sát-na Phật bình đẳng, là sát-na nào? Trong ấy đủ vô gián, ở trong đó chưa từng phân thành hơn kém. Nếu trước hình tướng thù thắng, thì trước chẳng phải Đẳng giác, có lỗi gì mà cần phải giải thích? Nếu hai trí của hình gọi là thắng đồng nhau thì chướng còn chưa hết. Lại chưa viên chứng, lấy gì gọi là đồng nhau? Nếu đối với đoạn chướng đồng gọi là ngang nhau, lý tức có lỗi mà văn chưa thấy. Do ba giải thích này đều chưa dám nương, chưa thấy chỗ căn cứ nên không có căn cứ. Nay thêm một giải thích, pháp mà Phật đã đắc họ đều chứng đắc nên Bồ-tát được gọi là "đẳng", đã được tự tại lìa chướng viên cực cho nên Phật nói thắng. Cho nên kinh Đại Bát-nhã phẩm 55 ghi: "Vì sao? Phải biết đã viên mãn. Pháp Vân Địa Bồ-tát thứ mười cùng các Như Lai lẽ ra phải nói không khác. Thiện Hiện là Bồ-tát đã viên mãn sáu pháp Ba-la-mật-đa, tám định, ba mươi bảy đạo, ba Tam-muội, năm nhãn, sáu thông, mười lực của Phật, bốn vô úy, vô ngại, vô lượng, mười tám pháp Bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, tất cả Phật pháp. Nếu lại hằng đoạn tất cả tập khí phiền não tương tục lại trụ Phật địa, thế nên phải biết cùng các đức Như Lai lẽ ra phải nói không khác".
Giải thích rằng: Hiện Chánh đẳng giác là Nhất thiết trí, Cực thiện thông đạt là Đạo tướng trí, hiện Đẳng biệt giác là Nhất thiết tướng trí.
Lại phẩm 477 ghi: "Nếu Vô gián đạo hành tất cả pháp, chưa lìa ám chướng, chưa đến bờ kia, chưa được tự tại, lúc chưa được quả gọi là Bồ-tát. Nếu Giải thoát đạo hành tất cả pháp, đã lìa ám chướng, đã đến bờ kia, đã được tự tại, lúc đã được quả rồi mới gọi là "khác", do vị có khác, pháp chẳng phải không khác".
Chuẩn theo văn này nói không khác là tên gọi khác của "đẳng", chướng chưa lìa "đẳng" hiển Phật là thắng, căn cứ chỗ này đối với lý sẽ thông.
Hỏi: Nghĩa hơn và ngang bằng nằm ở đâu?
Đáp: Đứng về đức, danh số sở đắc thì không sai, đẳng là đức số, không căn cứ dụng ngang nhau, đồng viên cực mới gọi là đẳng, nên luận Trí Độ ghi: "Như trăng rằm và mười bốn, tuy đồng là trăng, trăng nhỏ không tác động đến hải triều, tác động được hải triều có khác, Phật và Bồ-tát cũng lại như vậy. Lại như hướng và quả, tánh hơn kém khác nhau nhưng Thánh thì đồng. Như nói đốt áo, một phần cũng chuyển, căn cứ hình tướng này thì đẳng và thắng không có lỗi.
Sớ: Khiến thông suốt hai Không như nhau.
Ngã pháp không có tự thể gọi đó là Không, chẳng phải tánh hai Không.
Sớ: Nếu trong Đại thừa hiển bày lẫn nhau.
Chỉ nêu Tiểu thừa thì gọi là lầm ngã pháp, ảnh lấy không kiến gọi là lầm Duy thức. Không kiến của Đại thừa biết ngã pháp không có, chẳng phải lầm ngã pháp, bác bỏ lý của thức không có nên được gọi là lầm, chẳng phải hoàn toàn không hiểu, không được gọi mê, chỉ có ảnh hiển mà không có nghĩa xen lẫn, xen lẫn còn gọi là theo nhau.
Sớ: Tát-bà-đa lượng. Hỏi lượng có lỗi gì?
Đáp: Có thuyết cho rằng, tông nói thật có dụ của tâm tâm pháp. Phẫn v.v... của Đại thừa là giả chẳng phải thật. Dụ có một phần sở lập không thành, bình bồn v.v... của Đại thừa là cảnh chẳng phải thật, nhân có bất định. Nếu nói tông pháp quyết định chẳng phải không, nên không có lỗi.
Biện rằng: Tông nói chẳng phải không nhân, cũng quyết định có lỗi trái nhau.
Lượng rằng: Cảnh lìa tâm của ông, quyết định chẳng phải là có, trừ nội cảnh, vô vi, bất tương ưng v.v... của tâm tâm sở, vì là sở tri, như lông rùa v.v...
Sớ: Lượng của Thanh Biện.
Hỏi: Lượng có lỗi gì?
Đáp: Nhân có lỗi bất định, vì như cảnh bên ngoài là sở tri nên chứng thức là không có, như cảnh bên trong là sở tri nên chứng thức là có.
Sớ: Nương giáo của Viễn hành.
Xét luận Du-già quyển 57 ghi: Nương căn xứ nào mà nói Viễn hành?
Đáp: Nương ý căn xứ, do đối với khoảng trước không có khởi đầu vì duyên khắp tất cả cảnh sở tri, gọi là Viễn hành. Các tâm tương tục vì mỗi mỗi chuyển, vì không có chủ tể, gọi là Độc hành. Vô sắc, vô kiến, vô đối gọi là vô thân, y chỉ sắc nên gọi là ngủ trong hang. Sớ giải thích là theo Vô Tánh.
Sớ: Y cảnh sở hành của năm căn.
Nhiếp luận quyển 4 của Vô Tánh giải thích kinh này rằng: Nghĩa là cảnh giới của năm căn sở hành, chỉ là ý thức, mỗi mỗi đều sai khác, thể lãnh thọ nghĩa, đã nói ý thức mỗi mỗi riêng thọ, rõ ràng không có thức khác.
Hỏi: Lăng-già, Niết-bàn đều nói một thức, sở lập của sư này bèn giúp kinh kia, tại sao luận chủ nói là tà chấp?
Đáp: Ý Lăng-già nói Thức thứ bảy nương chủng thứ tám mới được sinh, nên nói Thức thứ tám khởi các sóng thức, chẳng phải nói Thức thứ tám chuyển thành bảy thức kia. Ý của kinh Niếtbàn cho rằng sáu thức kia tánh là đồng cho nên lập một thức, y căn phân thành sáu, chẳng phải sáu thể có một tên gọi làm một thức. Kinh kia cho rằng, như tánh một sắc, tùy theo năm căn duyên, được tên năm trần, lẽ nào nói một sắc thể tức một ư? Năm cảnh tuy khác nhưng nghĩa biến ngại thì đồng, đồng thuộc một uẩn nên gọi là một sắc, thức lẽ ra cũng như vậy, tánh liễu biệt đồng một uẩn nhiếp, nên gọi là một thức. Cho nên trong kinh Niết-bàn quyển 14 ghi: "Nhãn thức tánh khác, nhẫn đến ý thức tánh khác, thế nên vô thường". Nếu chỉ một thể làm sao nói khác? Cho nên phải hiểu như trước, nếu không như vậy thì trước sau lẽ nào tự mâu thuẫn!
Lại kinh Niết-bàn quyển 39 ghi: "Thí như một ngọn lửa nhân cỏ cây v.v...", gọi là lửa của cây v.v..., ý thứ cũng vậy, nhân nhãn căn v.v... gọi là nhãn thức v.v... Đây hiển sáu thức đồng chỗ ý nên gọi chung là ý thức. Văn khác chuẩn theo hiểu, lý ấy có thể rõ.
Sớ: Thứ tư, Kinh bộ v.v... chấp.
Hỏi: Ý nói vô sở, rõ ràng ba sở đồng, lẽ nào giúp bản ý?
Đáp: Hoàn toàn không, phần không, gọi chung là vô, nếu không như vậy phần không có bốn chấp làm so nhiếp? Nên trong sớ nói chung cũng không có lỗi, nên trong luận Đại Tỳ-bà-sa quyển 142 ghi: "Tôn giả Giác Thiên nói như vầy: các pháp Hữu vi có hai tự tánh: một là đại chủng, hai là tâm. Lìa ngoài đại chủng không có sắc sở tạo, lìa tâm không có sở, các sắc đều là sự sai biệt của đại chủng, chẳng phải sắc đều là sự sai biệt của tâm". Nếu sư Kinh bộ có hai giải thích: một là Thí dụ sư chỉ có tâm không có sở, đồng chấp như Giác Thiên. Hai là có tâm sở. Bốn giải thích không đồng, nên luận Thuận Chánh Lý quyển 11 ghi: "Nghĩa là chấp riêng có tâm sở luận, ở trong tâm sở khởi nhiều tranh luận, hoặc chỉ nói pháp ba đại địa, hoặc chỉ nói bốn, hoặc nói có mười, hoặc nói mười bốn".
Giải thích rằng: Như kế đến nói thọ, tưởng, tư, nói bốn thì thêm xúc, nói mười tức là pháp mười đại địa, mười bốn thì thêm tham, sân, si, mạn.
Luận: Cho nên tạo luận này.
Đoạn văn kết này hai sư trước cũng có, ở trên nói "nay tạo luận này", hai sư sau theo lý cũng có, không muốn dài dòng nên hiển bày lẫn nhau.
Sớ: Khoa thứ hai là ba phần.
Có thuyết nói tướng, kiến, tự thể gọi là ba phần.
Biện rằng: Không đúng, vì ba phần vốn là do Trần Na lập, lại cũng nên nói bốn phần, hai phần thành lập Duy thức, vì Hộ Pháp, Nan-đà giải thích luận này, tại sao lại dùng ba phần để làm thành? Trong ba mươi bài tụng, ba phần này nhiếp bao nhiêu? Hoàn toàn không có hành tướng thành tại sao lại có?
Sớ: Chuẩn theo Du-già, Nhiếp luận v.v...
Du-già là nghĩa tương ưng, cảnh hạnh quả cả ba đều tương ưng, tức là sở thuyên, luận từ sở thuyên nên gọi là luận Du-già. Trong Nhiếp luận phần Chánh tông nói mười thù thắng. Trong mười thù thắng thì tám loại trước là nhân, hai loại sau là quả. Căn cứ trong tám loại trước, hai loại đầu là cảnh, sáu pháp kế là trí, trí tức hạnh. Hai luận này chánh tông đã nói, chỉ có cảnh hạnh quả, trong Duy thức chuẩn theo luận cũng lấy cảnh hạnh quả làm sở tông của chánh tông.
Sớ: Tâm cùng cảnh ngầm hợp.
Khen ngợi tâm trí Thánh thân chứng cảnh, lìa nơi vọng chấp nên nói cùng cảnh ngầm hợp, thể diệu thù thắng công năng không ai sánh kịp, được thắng đức nên gọi là thần hội.
Có thuyết nói, như thứ lớp phối hợp với Hậu đắc và Căn bản trí. Lại nói, Căn bản trí duyên Như gọi là tâm cảnh ngầm hợp. Thế đệ nhất pháp gọi là trí, Kiến đạo gọi là thần.
Biện rằng: Tuy là xuyên tạc nhưng hoàn toàn không có chỗ căn cứ, có lý do gì? Hậu đắc và Căn bản trí riêng gọi là tâm trí. Cảnh của Bản trí mà gọi thần ư? Tại sao Hữu lậu cùng Vô lậu kiến lại có nghĩa để hiểu?
Sớ: Do tám chuyển thanh giải thích thế gian.
Xét kinh ấy quyển 498 ghi: "Sáu pháp Ba-lamật là nhân duyên gì? Gọi là thế gian và xuất thế gian. Này Xá-lợi-phất! Thế gian nghĩa là sáu pháp Ba-la-mật, vì đây là thế gian, nhẫn đến nương thế gian nên gọi là thế gian. Này Xá-lợi-phất! Xuất thế gian nghĩa là sáu Ba-la-mật, vì đây là xuất thế gian, vì cứu vớt xuất thế gian, vì từ thế gian mà ra, vì thế gian mà xuất, vì từ thế gian xuất, vì xuất thế gian, vì y thế gian xuất, gọi là xuất thế gian".
Biện rằng: Chuẩn theo kinh văn này, trong sớ dẫn rằng là thế gian xuất gọi là thế gian. Chữ xuất là dư thừa, tiêu đề và quyển đề cũng lầm.
Sớ: Về sau bèn có tướng, kiến.
Hỏi: Tướng kiến hai phần phát từ vô thỉ, tại sao về sau mới có?
Đáp: Đứng về thuyết tăng thêm, như kinh Pháp Hoa nói "lại vào nhà này". Lại từ vô thỉ tướng kiến cũng do huân tập, huân tập rồi sau khởi, huân tập tướng kiến khởi rất nhiều nên nói "về sau".
Sớ: Nếu An Tuệ giải thích đến biệt thì vô y, tổng thì vô đẳng.
Sở chấp ngã pháp Thánh giáo đã không, tại sao Thánh giáo cũng không có y vô? Cho nên phải giải thích riêng. Ngã pháp mà thế gian nói của tông ấy và một phần Thánh giáo do Bồ-tát, Nhị thừa biến hiện, diều này không có y vô, do tâm Hữu lậu đều gọi là chấp. Nếu tâm Vô lậu của các Bồ-tát và Phật hiện, đều gắng gượng thi thiết, nghĩa nương theo thể, không trái chánh lý.
Hỏi: Nếu vậy, hai phần đều là sở chấp, tâm ấy không có hai phần nương đâu giả nói?
Đáp: An Tuệ giải thích rằng, y hai phần vả lại y thế gian, một phần Thánh giáo, nếu tâm Vô lậu, Phật sở hiện v.v... đều nương tự chứng giả nói. Lại đây cũng được nương thức sở biến, trong tự chứng phần phân biệt nói có năng sở biến, nếu y giải thích này nói sở biến chưa được gọi là hai phần kiến tướng.
Biện rằng: Trừ Phật ra, tâm Vô lậu khác, trong truyện có hai giải thích: một là không có chấp vì có hai phần; hai là không có chấp vì hai phần Vô lậu chẳng phải hư vọng. Luận quyển 8 ghi: "Tám thức tâm tâm sở Hữu lậu sở nhiếp đều có chấp", đã lựa chọn Vô lậu, hoặc tâm Vô lậu đều không có tướng kiến. Sớ vả lại nương Đệ nhất nghĩa nói, hai phần đã chấp, chư Phật liền không, vì ngã pháp không nương Phật lập, y các bậc Thánh khác là tâm Hữu lậu, gọi là không có y vô. Căn cứ một nghĩa này, lý cũng không có lỗi, đủ như trong Nghĩa Đăng giải thích.
Sớ: Năng biến của sở biến này có ba loại.
Luận nói: "Này" tức là sở biến của nó, thể sở biến tức kiến phần và tướng phần. Đây có hai nghĩa: Một, "này" là thức năng biến này; hai, "này" là ngã và pháp này. Ngã pháp này nương thức năng biến của kiến tướng, vì có ba loại.
Biện rằng: Bản giải thích là chính, vì sao? Nói "này" là nghĩa trình bày. Trước nói ngã pháp nương thức sở biến, đã nói sở biến, ắt có năng biến nên khác với lời trước, năng biến này có ba, rõ biết lời này thuộc về sở biến, nếu vậy văn thế năng biến đây đoạn xa. Lại ngã pháp đây không thể vì nói ngã pháp tức là sở biến, chẳng phải là kiến tướng, kiến tướng lại chẳng phải ngã pháp sở y, đã có lẫn lộn này, cho nên giải thích theo bản sớ.
Sớ: Ba pháp chuyển nương nhau, ngã pháp nương tướng kiến, tướng kiến nương thể của thức. Hỏi: Vì sao tụng nói ngã pháp gọi kiến tướng kia là đây?
Đáp: Đối với tự chứng phần xa gần sai khác nên lập lời kia đây, ba pháp chuyển y xa gần sai khác.
Sớ: Tư lương tức là thức, chuẩn theo giải thích trước thích.
Dị thục có hai giải thích nhưng chuẩn theo Trì nghiệp, vì sao? Đã nói tư lương, rõ ràng chẳng phải là chủng, vì chủng vị không có nghĩa tư lương, cho nên trong sớ chỉ nói tư lương tức thức là chuẩn theo giải thích trước.
Sớ: Nhưng lẫn lộn Thức thứ bảy.
Hỏi: Vì sao không nói lẫn lộn Thức thứ tám?
Đáp: Thức thứ tám duyên chung cảnh ba loại, không lẫn lộn nên không nói.
Hỏi: Nếu vậy Thức thứ sáu duyên khắp các cảnh, lẽ ra không được gọi là liễu biệt cảnh thức? Đáp: Là do căn đối cảnh được gọi là liễu biệt.
Hỏi: Tướng căn cảnh đối với Thức thứ bảy, thứ tám phải như vậy?
Biện rằng: Chuẩn theo đây nói lẫn lộn Thức thứ bảy, thứ tám cũng được. Sớ căn cứ hiển tướng mà nói lẫn lộn Thức thứ bảy.
Sớ: Y thứ hai, thứ ba đến tướng không khác.
Hỏi: Vì sao không biện Thắng nghĩa ban đầu?
Đáp: Ban đầu căn cứ Thắng nghĩa đế nhưng có hai giải thích:
1. Thể ban đầu tức tục thứ hai, trong tục thứ hai có thể nói Thức thứ tám sai khác, nên trừ chân ban đầu.
2. Thể chân ban đầu tuy tức tục thứ hai, tục thì kém chân thì thù thắng, nên trong chân ban đầu cũng không có Thức thứ tám sai khác. Nay nương giải thích ban đầu, cho nên trừ chân ban đầu, như Thức thứ bảy sau trong sớ tự có hai cách giải.
Sớ: Cũng chẳng phải thể loại riêng có chín thức.
Ý giải thích này nói, chẳng phải thể sai khác, loại sai khác hợp có chín thức.
Sớ: Lẫn lộn với Lân cận.
Hỏi: Hoàn toàn thủ tên khác có thể gọi là Lân cận, nay nói Dị thục, tư lương, liễu biệt tự tha đều nói, làm sao thành Lân cận?
Đáp: Lân cận thích, pháp thủ đồng thời để lập tên của chính nó, nếu nói không kịp, sợ rằng nói dị thục do cùng tư lương liễu biệt đồng thời, dị thục gọi là tư lương liễu biệt, cũng không có lỗi. Lục thích sai biệt, như Pháp Uyển và Quyết Trạch giải thích đủ.
Sớ: Hợp làm hai văn.
Ban đầu lược giải thích tụng, toàn bộ văn luận phân làm hai đoạn:
1. Giải thích riêng ba câu kết hợp làm một đoạn.
2. Giải thích chung hai câu, kết hợp làm một đoạn. Có hai loại kết hợp nên gọi là kết hợp làm hai văn.
Sớ: Làm chung ba văn khoa.
Ban đầu lược giải thích tụng một đoạn luận văn, làm chung ba đoạn gọi chung ba văn.
Sớ: Trước là cộng tướng.
Quỹ gọi là trước, còn trước sau khác đều chuẩn theo đây mà biết.
Lại bốn cặp đối trước, không đứng về thứ lớp để phối hợp quỹ trì, lấy nghĩa phối hợp. Có nghĩa là quỹ chỉ có pháp, trì vừa thông với không có, một tận lý này thừa nhận tông vô nghĩa có thể sinh hiểu là nói về bản chất, chẳng phải không có ảnh tượng có thể sinh tâm, nên luận sau nói dụng của duyên ắt nương thể thật có.
Biện rằng: Nếu từ thù thắng của nó thì quỹ ở hữu pháp, căn cứ chỉ sinh hiểu thì không có cũng gọi là quỹ, cho nên trong quyển 52 của luận Dugià dùng năm loại lý thành duyên không thức, thức đã duyên không, lẽ nào chẳng phải không pháp sinh cách hiểu về vật? Nếu sinh cách hiểu về vật sao không gọi là quỹ? Nếu vậy tại sao dụng của duyên ắt thật?
Đáp: Căn cứ sinh thức thể duyên ắt có tự thể, nếu hành giải khởi, nhân không cũng sinh, như lập ngã không, lẽ nào không sinh nó? Ngã không có hành giải nên cũng không trái. Ý của các sớ như trong Nghĩa Đăng giải thích đầy đủ.
Sớ: Mười ba trụ.
Hỏi: Như Phật pháp nói ngã trời cho v.v... sao cũng không gọi là chủng chủng tướng của ngã?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Vả lại căn cứ đắc Thánh và tu hành, không nói các loại khác.
2. Tên gọi trời cho v.v... tuy là tên khác của ngã, nhưng chẳng phải tên chung, cho nên không lấy, nếu lấy mỗi mỗi thì tên sai khác ấy có đến hơn ức. Giải thành trước là chính.
Sớ: Hai hướng bất định Lược làm hai giải thích:
1. Chỉ có hướng thứ hai, vì siêu việt, thứ lớp có sai biệt. Nếu thứ lớp thì đoạn dục tu hoặc, năm phẩm trước đã khởi bốn đạo, đến Gia hạnh, Vô gián thứ sáu gọi chung là hướng. Hoặc siêu việt, thì ban đầu từ một phen Thuận quyết định phần, thấy mười lăm tâm gọi đó là hướng.
2. Hai loại hướng trước gọi là hai thứ bất định, không chỉ có thứ hai, thứ hai như trước. Hướng thứ nhất là mười lăm tâm trước có đoạn tu hoặc. Có bất đoạn, vì trước phục hay không phục có sai khác.
Biện rằng: Nếu căn cứ tu hoặc đoạn, bất đoạn sai khác, thứ hai có thể thông, nếu lý giáo thì rõ ràng hành tướng sai khác, giải thích trước là thù thắng.
Hỏi: Hướng thứ ba, thứ tư cũng có bất định, vì sao chỉ nói hai? Đáp: Căn cứ luận đã nêu, sơ lược không nói thứ khác.
Sớ: Sùng tụ sinh nhân.
Sùng tụ tức là tên khác của tích tụ, là nghĩa của uẩn. Câu-xá tụng rằng: "Tụ, sinh môn, chủng tộc; là nghĩa uẩn, xứ, giới".
Giải thích rằng: Tất cả các sắc lược thành một tụ gọi là sắc uẩn, do nghĩa tụ này mà nghĩa uẩn được thành. Uẩn khác cũng vậy, nghĩa là hay sinh trưởng pháp tâm tâm sở nên gọi là xứ, đây có thể sinh trưởng nghĩa tác dụng kia.
Như trong một quả núi có nhiều đồng, sắc, vàng, bạc v.v... nên gọi là nhiều giới, như vậy một thân có mười tám loại chủng tộc các pháp nên gọi là mười tám giới, trong đây chủng tộc là nghĩa sinh bản, như vậy nhãn v.v... là sinh bản của ai? Là đồng loại nhân.
Sớ: Ba thiện xảo khác.
Tất cả có bảy. Sớ chỉ nêu bốn, ba loại sau không nêu, nên nói ba pháp khác.
Sớ: Hoặc bốn thiện xảo.
Luận nêu ba loại, đồng nói đồng có bốn thành bảy thiện xảo, như trong Nghĩa Đăng có nêu.
Hỏi: Thiện xảo là nghĩa gì?
Đáp: Thiện xảo là trí, uẩn v.v... là cảnh, trí duyên uẩn v.v... nên gọi là uẩn thiện xảo, uẩn v.v... theo trí cũng gọi là thiện xảo.
Hỏi: Xét trong kinh Đại Bồ-tát Tạng quyển 8 và quyển 10 nói mười thiện xảo gồm:
1. Y thú thiện xảo, tức là bốn y, nghĩa là y nghĩa v.v...
2. Tư lương, nghĩa là hai phước trí.
3. Niệm trụ, nghĩa là bốn niệm trụ.
4. Bốn chánh thắng, nghĩa là bốn chánh cần.
5. Năm đạo phần, nghĩa là tín v.v... năm căn.
6. Giác phần, nghĩa là bảy giác chi.
7. Đạo phần, là tám Thánh đạo, tám nẻo làm một đạo gọi là Bồ-tát chứng Bồ-đề v.v...
9. Duyên khởi, nghĩa là mười hai duyên.
10. Nhất thiết pháp, nghĩa là vi, vô vi.
Hỏi: Vì sao mười loại mà sớ nêu không đồng?
Đáp: Trung Biên vì đối trị mười ngã kiến, kinh thì vì Bồ-tát tu Ba-la-mật-đa, mỗi loại căn cứ một ý nên lập mười pháp không đồng.
Sớ: Cho nên dùng liễu biệt giải thích nghĩa của thức.
Bản sớ nói, vì giải thích dụng của thức. Có cách giải cho rằng, nếu Hộ Pháp thì kiến phần gọi dụng, vì thể y tha, nếu An Tuệ thì kiến phần không có tự thể, cho nên trên tự thể có dụng của liễu biệt, thuộc về Y tha tánh.
Biện rằng: Chữ "dụng" là lầm, nên theo nghĩa mà nói, tức Hộ Pháp thức tự thể phần cũng gọi là liễu biệt, không cần phải đứng về kiến để nêu bày thức liễu biệt.
Sớ: Năm chủng loại ấy chẳng phải nhất định câu hành.
Trừ biến hành ra, các tâm sở còn lại đều là chủng loại, tức tham tín v.v... mà không câu hành chung. Có thuyết nói, như thứ tám biến hành kia khi khởi, các thức biến hành chưa chắc khởi.
Biện rằng: Nếu không như vậy, thì nếu do các thức kiến hành không khởi cho nên chỉ nói là tâm, cũng có thể các thức không thường vận hành, tám món kiến hành hằng khởi chỉ nói tâm sở nên biết không thể.
Sớ: Thức đều có tánh cùng thức chung mà lại là có.
Sớ: Luận chỉ có hai tánh y tha, trong nhiếp luận thứ tư như ở sau có dẫn.
Sớ: Nếu không như vậy làm sao gọi là tha tâm trí, nếu cũng không thừa nhận trừ duyên như trí còn bao nhiêu đều có tướng, tức tha tâm trí mà không được thành.
Sớ: Hậu đắc trí v.v... không thủ bên ngoài, giải thích lý do vậy. Đã không thủ bên ngoài, thì nếu tướng bất biến làm sao có thể nói gọi là biết tha tâm. Nếu nói thủ tướng bất biến bên ngoài, lẽ ra đích thân được nó, sao gọi là Duy thức?
Sớ: Như đại tạo sắc, như năng sở tạo tuy đều biệt chủng, nhưng do năng tạo sở tạo mới được khởi tên năng tạo, phải do tâm cảnh kia mới sinh nên nói Duy thức.
Hỏi: Tâm sở cũng do tâm vương mới khởi lẽ ra gọi là thức biến?
Đáp: Chỉ là kiến tướng hai phần do thức mà sinh, lại trên thức này có duyên dụng năng sở, nói biệt chủng là đồng chủng loại, lại vì dụng của thức này đích thân sở thủ. Tâm sở thì không như vậy, lại cũng tự riêng khởi kiến tướng, làm sao được cùng nêu!
Sớ: Tợ y tha có hai phần thể không
Tợ y tha kia có pháp của tự thể, tự thể là không. Sớ: Như tự chứng phần tướng mạo cũng có.
Nêu sở tợ, như là tợ, tợ tha tự chứng hiện tướng mạo.
Sớ: Vô minh chi thông ba tánh.
Luận về vô minh ắt có chấp kia, trong ba tánh tâm đã có vô minh, rõ biết ba tánh ắt đều có chấp.
Hỏi: Nếu tông Hộ Pháp làm sao khế hội với tánh kia?
Đáp: Chưa thấy văn của Hộ Pháp khế hội với tánh kia, lấy tông Hộ Pháp trong truyện có nhiều cách giải thích:
1. Căn cứ Thức thứ bảy tương ưng với vô minh, có khắp ba tánh vị của sáu Thức trước nên gọi là thông ba tánh.
2. Tùy theo Hữu tông thuyết, họ đứng về phần vị để biện duyên sinh, tất cả năm uẩn trong vị của vô minh chi đều gọi là vô minh, nên thông ba tánh.
3. Pháp chấp là vô minh địa, lấy đây làm duyên gọi là thông ba tánh.
Biện rằng: Ba cách giải đều sai. Sai thứ nhất là vô minh của Thức thứ bảy lẽ nào là vô minh chi? Phát nghiệp chung riêng mới gọi là chi. Sai thứ hai, Hữu tông chỉ nói uẩn của vị vô minh tổng gọi là vô minh, không nói vị năm uẩn kia đồng thời với thiện. Nếu thiện v.v... đồng thời tức là hành chi. Sai thứ ba, không chướng pháp chấp được gọi là vô minh, chấp đang khởi làm sao được cùng các tâm như thiện v.v... đều nói thông ba tánh? Nay làm một giải thích, căn cứ Thức thứ bảy vô minh mà nói, sao gọi là chi?
Đáp: Do sức vô minh của Thức thứ bảy, sáu thức khác mới khởi vô minh năng phát ở nghiệp, tuy chẳng phải chi, thể làm chi duyên xa giả gọi là chi. Căn cứ bên nghĩa này gọi là thông ba tánh. Các giải thích không lựa chọn nên không đồng.
Sớ: Hai chấp có khắp.
Hai chấp đều nương kiến tướng hai phần gọi chung là có khắp. Hỏi: Vì sao tự chứng chỉ có pháp chấp nương.
Đáp: Thật làm hai y, làm pháp nương tựa hiển bày, vì có quỹ trì nên nói có khắp, nghĩa chủ tể ẩn, ẩn nên ta không nói.
Sớ: Chẳng phải có mà tợ như có.
Không đồng Chân, chân như vậy thật có gọi là chẳng phải có, từ duyên sinh cho nên chẳng phải thể hoàn toàn không gọi là tợ có.
Sớ: Ngã gọi là năng kiến.
Chuẩn theo tông chấp kia, nhãn v.v... các căn gọi là thấy biết v.v... ngã hay lãnh thọ hiểu biết, các căn kia v.v... là thấy biết các việc, tức căn cứ căn bản mà nói, ngã có thể thấy, chấp suy nghĩ là ngã, nghĩa kia nên biết. Có nghĩa do nơi năng thủ thi thiết hai pháp ấy, cho nên nói y kiến lập tên gọi ngã pháp, lý thật chỉ y tướng phần thi thiết, đích thân sở biến kế chỉ có tướng phần. Lại giải thích rằng, y hai phần thông chấp năng sở, kiến năng thi thiết, tướng sở thi thiết, giải thích này lẽ ra hợp với huyền tông Duy thức, do năng biến chấp và sở biến chấp mới có thể thi thiết tánh sở chấp. Trong sớ tổng nói là không phân biệt.
Biện rằng: Nếu không chấp ngã làm năng duyên thì có thể như sở đoạn, nếu chấp năng duyên vì sao không nương kiến phần? Kiến phần là năng duyên tợ sở chấp, do đây nên nói tợ ngã pháp. Lại nay chánh biện chỗ thi thiết ngã pháp, không giải thích nghĩa năng sở biến kế, không thể nói rằng căn cứ năng sở chấp nói kiến tướng, giả sử đứng về biến kế thế gian thì ngã pháp có thể như đã giải thích, ngã pháp của Thánh giáo phải giải thích như thế nào? Lẽ nào ngã pháp của Thánh cũng chỉ có biến kế? Huống gì luận nói y hai phần này thi thiết ngã pháp! Nếu chỉ y tướng chấp ngã năng duyên, tướng phần và ngã thảy đều tương tợ, có lý do gì y tướng thi thiết? Cho nên lý sở đoạn trong sớ rất rõ. Sớ: Trong Nhiếp luận chỉ có hai nghĩa.
Xét luận Vô Tánh quyển 4 và Bản luận ghi: "Tại sao an lập các thức như vậy thành Duy thức tánh?" Lược do ba tướng:
1. Do Duy thức không có nghĩa.
2. Do hai tánh có tướng có kiến, hai thức sai biệt.
3. Do các loại hành tướng sinh khởi, Duy thức là nghĩa không có. Đã nói chỉ có là chuyên chỉ nghĩa khiển trừ. Do hai tánh nghĩa là kiến và tướng, ở trong một thức có hai phần đều chuyển chẳng tức chẳng lìa. Do chủng chủng là hai phần đều có các thứ hành tướng đồng thời khởi, rộng như trong luận ấy giải thích.
Sớ: Chấp nói ngã pháp.
Chấp chỉ là thế gian, nói tức là Thánh giáo.
Sớ: Kiến phần biết tợ năng thủ cũng thuộc tướng phần.
Đây giải thích Nan-đà không nương kiến phần lập ý ngã pháp, kiến phần sở biến tợ tướng năng thủ không khác tướng phần, cho nên ngã pháp đều chỉ nương tướng mà lập, không đồng các nghĩa của Hộ pháp v.v... là tùy theo ý tác giả, không thể trách chung.
Sớ: Như nêu bày bản hữu đến trong đây để phá. Đây là sư Hộ Nguyệt không giải thích ba mươi bài Duy Thức Tụng của Thiên Thân, là cùng Hộ Pháp đồng thời đưa ra nghĩa có trái khác, nên nêu để phá.
Sớ: Như ở đời nói lửa nhưng miệng không bị đốt cháy.
Hỏi: Tên gọi nói về lửa, tên gọi nếu được lửa thì tên gọi đó khiến bị đốt cháy, tại sao lại hỏi miệng bị đốt cháy.
Đáp: Tên nương nơi tiếng, tiếng phát ở miệng, tiếng và tên hai pháp đều chẳng thể đốt cháy, nên mới hỏi ở chỗ phát khiến cho thiêu đốt ở miệng.
Sớ: Sở biến này cho đến chỉ nói tợ tình.
Hỏi: Trước nói Hộ Pháp do có tợ không, do trong tợ ngoài, nay nói tợ tình, tình lẽ nào là ngoài và không có tự thể ư?
Đáp: Thật chỉ tợ tình và tợ ở trong. Nói tợ ngoài v.v... là đứng về tình chấp và tướng sở chấp kia mà nói. Tướng sở chấp là sở biến kế, vì thể là không, nên trong sớ trước sau luận về nghĩa nói khác, cũng không trái nhau. Có nghĩa luận cho rằng tợ hai phần, nhưng có hai giải thích:
1. Tướng tợ danh tợ, như trong sớ đã biện.
2. Do chẳng phải thật nên nói là tợ. Chẳng phải nghĩa là tợ, riêng có sở tợ.
Giải thích sau là thù thắng. Thánh giáo ngã pháp cũng nói trong đây, nhưng không thể nói danh tợ sở chấp, hoặc chung hai giải thích nhiếp nghĩa mới hết.
Sớ: Không thừa nhận Mạt-na có pháp chấp.
Hỏi: Tại sao như vậy?
Đáp: Luận nói Thức thứ bảy bốn hoặc tương ưng, đó là ngã kiến, vì không nói pháp.
Hỏi: Vì sao các thức khác thừa nhận có ngã chấp? Đáp: Luận nói ba cõi hư vọng phân biệt.
Hỏi: Pháp chấp nếu không có, làm sao thành hư vọng? Nếu vậy Thức thứ bảy không có, lẽ ra chẳng phải hư vọng chăng?
Đáp: Ngã pháp đều vọng, Thức thứ bảy có ngã nên cũng hư vọng, luận như ở sau có dẫn.
Sớ: Thức thứ tám đến thứ sáu, thứ bảy tợ ngã.
Lý thật ra Thức thứ bảy nhưng tợ đối với pháp, là nêu số chung, ngã căn cứ năng chấp, chỉ nói thứ sáu, thứ bảy.
Sớ: Lại giải đến Thức tự thể.
Hỏi: Giải thích sau ý như thế nào?
Đáp: Nếu không có hai tợ y tha này thì tự chứng lấy gì làm thân sở duyên? Kiến tướng không có tự thể, không thành duyên.
Hỏi: Nếu vậy, giải thích sau mới là thù thắng, tại sao lại khó biết?
Đáp: Hoặc do chấp chặt mới không có tự thể, Hộ Pháp có khác gì! Hộ Pháp đâu thừa nhận sở chấp hai phần là y tha đâu? Lại tự chứng biến y tha tánh gọi là tướng, kiến. Nương chấp chặt đây làm ngã pháp, gọi là tợ ngã pháp, lại có lỗi gì? Nếu thừa nhận như vậy thì không khác với Hộ Pháp, do đây nên khó biết.
Hỏi: Nếu vậy giải thích trước tức Tự chứng phần không có lỗi thân duyên?
Đáp: Có tự thể làm duyên là nghĩa của Hộ Pháp. An Tuệ thừa nhận tạm được thành duyên, nên giải thích trước là trội hơn. Lại chuẩn theo An Tuệ, thật pháp sinh giả, như Tự chứng phần sinh tướng kiến, giả pháp sinh thật, như Tự chứng phần từ tự chủng sinh, chủng tử đều là tướng của Thức thứ tám. Có nghĩa năng chấp sở chấp của An Tuệ đều là Tự chứng phần, nghĩa là y tha khởi, nương chấp chặt này mới gọi là hai phần, do ngã pháp này nương tự chứng mà lập. Nói y hai phần lập ngã pháp là tùy theo tâm chấp sinh sở chấp mà nói, do đây An Tuệ cũng nói có không y nơi có, có tự thể là gượng nói hai loại giả.
Biện rằng: Đây cùng với giải thích thứ hai của Bản sớ tên khác mà ý đồng, xem ý của tiên đức này, lấy đây làm thù thắng, nay lấy sớ đoạn, vì sao như vậy? Sớ chủ đích thân tham cứu dịch và đích thân vâng theo lời dạy bảo, lẽ nào những kẻ chưa học luận bàn được ư? Lại do thông ba tạng mà diễn kinh, người thông hai tạng lẽ nào sánh kịp!
Sớ: "Nhưng Hộ Pháp" cho đến "biến tợ ngã pháp".
Hỏi: Thức thứ năm, thứ tám vì sao gọi là tợ ngã pháp?
Đáp: Có kiến tướng phần tợ tướng kiến phần ngã pháp của Thức thứ sáu, thứ bảy, chẳng phải khởi hai chấp gọi là tợ ngã pháp, đủ như trong Nghĩa Đăng giải thích.
Sớ: "An Tuệ" cho đến "đều có chấp".
Hỏi: An Tuệ kế chấp, tùy theo sở duyên năng thủ sở thủ, chấp thật có ấy mới là tướng kiến, chẳng phải tất cả tâm đều duyên hai thủ, tại sao thức đều có hai phần?
Đáp: Tùy sở chấp, cảnh chưa chắc đồng thời, tổng nói các tâm có thể làm bốn câu. Chỉ có duy tướng chẳng phải kiến là Thức thứ năm, thứ tám; chỉ có kiến chẳng phải tướng là Thức thứ bảy; có hai phần đều đồng thời có là Thức thứ sáu; có hai phần đều đồng thời không là thức Vô lậu, nhưng Thức thứ sáu chưa hẳn đều đồng thời. Ý nói các thức duyên với kiến tướng có sai khác.
Biện rằng: Nay xem giải thích này, đáp hỏi bất tận, lại chẳng phải thỏa đáng, nguyên bản không hỏi duyên cảnh sai biệt, cho nên đáp không thỏa đáng, không nói lý do hai phần sinh, đây là bất tận, nguyên do hai phần sinh, giải thích đúng như trong Nghĩa Đăng. Nay lại giải thích rằng, tuy tùy theo một duyên, thức Hữu lậu khởi ắt có tướng của năng duyên, sở duyên, thiếu một thì không thể, cho nên thức lại khởi hai phần câu sinh, chẳng phải do sở duyên đủ kiến tướng hai phần, sau đó hai phần mới khởi.
Hỏi: Hữu lậu đều chấp, sao tâm Hữu lậu tự chứng phần v.v... đều chẳng phải hiện lượng?
Đáp: Nghĩa hoặc có thể như vậy.
Hỏi: Nếu như vậy trong Tạp Tập tại sao nói nhãn v.v... gọi là hiện lượng?
Đáp: An Tuệ chỉ hợp với Bản, Thích, đồng bộ sai, tức cho nó là định lượng.
Biện rằng: Kinh cũng nói rõ năm thức hiện lượng, nay nói sai đâu chẳng phải trái giáo? Giải thích đúng lẽ ra nói, vọng chấp khinh trọng gọi là phi hiện lượng, Thức thứ năm, thứ tám chấp vi tế nên gọi là hiện lượng, cũng như Thắng nghĩa, Thế tục thiện v.v...
Sớ: Ba giải thích như trước.
Giải thích ngã pháp phân biệt trước ở trong văn, ba sư giải thích như vậy.
Sớ: Không có cách giải của An Tuệ.
Trước nói nghĩa của An Tuệ có hai giải thích, đây là căn cứ nghĩa đầu, suy nghĩ nên biết.
Luận: "Chỉ tùy theo vọng tình" đến "nên nói là giả".
Biện đủ như trong sớ. Có nghĩa hai đoạn văn đây nói ngã pháp thế gian, chỉ tùy theo vọng tình v.v... không có tự thể tùy theo tình giả, nội thức sở biến v.v... do không nương có giả.
Biện rằng: Thánh giáo thế gian đều nói ngã pháp, vì sao nhiều văn chỉ nói ngã pháp thế gian? Lại chuẩn theo lý nào biết chỉ nói ngã pháp thế gian kia? Giả sử cũng nói ngã pháp Thánh giáo kia là trái với văn lý nào? Nên trong sớ là đúng, vì nghĩa đủ khắp.
Sớ: Giải thích sau không nương bốn Thắng nghĩa.
Nếu tướng phần thù thắng tuy giả, mà hình ở biến kế, là Thắng nghĩa ban đầu, đã một bề phán phân gọi là sai biệt, nên biết chỉ căn cứ thù thắng mà nói.
Sớ: Y nhân hai Đế.
Tổng chỉ bày trước phán phân hai sư đã nói và dẫn luận v.v... người thù thắng biết nên gọi là Thắng nghĩa, điều mà người yếu kém biết gọi là thế tục.
Sớ: Do ở trên lược nói v.v...
Đây tổng kết ngã pháp phân biệt ở văn sau, văn tổng kết đây là nghĩa của Nan-đà. Hộ Pháp cũng nêu, Hộ Pháp không chỉ lập hai phần nên thuộc về Nan-đà, đồng thừa nhận có tự thể nên cũng nêu.
Sớ: Tâm biến tợ ngã pháp thuộc về Đồng phần. Hỏi: Tâm biến tợ pháp tướng tùy thuộc vào uẩn, tức uẩn chấp ngã, thuộc về tương ưng uẩn chăng?
Đáp: Tức uẩn chấp ngã tướng thật tùy uẩn, lìa uẩn chấp ngã đã không có tướng bản chất, tùy năng biến tâm vương tâm sở để phán phân đối với uẩn, tức thuộc về bốn uẩn. Sớ nói đồng phần, lại căn cứ lìa uẩn ngã sở chấp ngay nơi tình hiển hiện tướng thường hằng có khắp gọi là pháp đồng phần, không nói thể của tướng phần sở biến ở trong pháp đồng phần. Lại tướng sở biến không sai biệt nhiều, tướng phần là giả nên thuộc về đồng phần, vì đồng phần rộng, giải thích trước là thù thắng.
Luận: Một là chấp thể cùng khắp.
Hỏi: Tại sao cùng khắp?
Đáp: Xét Quảng Bách luận quyển 3 ghi: Một loại chấp ngoại đạo, ngã cùng khắp tất cả chỗ thọ khổ lạc, ngã không có hình chất, cũng không có động tác, không thể tùy thân qua lại sinh tử, nên biết nội ngã ở khắp tất cả.
Luận: Hai là chấp ngã tùy thân không nhất định.
Hỏi: Ý lập thế nào?
Đáp: Quảng Bách luận ghi: "Một loại ngoại đạo nói như vầy: ngã nếu cùng khắp như hư không, không nên tùy thân thọ các khổ vui, như không giới không có chỗ qua lại, tánh ấy vắng lặng chẳng phải khởi thọ, thế nên ngã tánh lẽ ra như sắc v.v... tùy chỗ thân sở y mà hình lượng ấy không nhất định, tuy không có hình ngại, mà có sở y chuyển biến, tùy thân thọ các khổ vui, tuy nương hình chất có co có duỗi, nhưng thể tánh ngã không sinh không diệt, như nước dầu sôi, tùy nước rộng hẹp, tuy có co duỗi nhưng không tăng giảm".
Luận: Ba là chấp ngã như một cực vi.
Hỏi: Ý lại thế nào?
Đáp: Quảng Bách luận ghi: Có một loại ngoại đạo lại nói như vầy: nếu thể tánh ngã tùy theo hình lượng, tức lẽ ra như thân có phần có biến. Lại ông chấp ngã tùy thân sở y, tợ nước nương bờ đê, như dầu theo nước, vậy thì ngã đây như nước dầu kia, đã biến đã đổi, hoặc chẳng phải thường chẳng phải một, dẫn đây làm dụ mà nói, ngã thể là thường là trái với lý, thế nên ngã thể trụ ở trong thân, hình lượng rất nhỏ như một cực vi không thể phân tích, tự thể thường hằng không có biến đổi, suy nghĩ, động thân, năng tác, năng thọ.
Sớ: Như một Cù thanh là riêng nói về trâu, trong một Cù thanh nói về chín nghĩa, thú là một số, bao quát tất cả những loài thú chạy.
Nếu nói về trâu, tức một loài riêng trong các thú. Trong Câu-xá luận quyển 5 ghi: "Ở trong chín nghĩa cộng lập một Cù thanh", nên có bài tụng rằng:
"Hướng, thú, đất, sáng, lời Kim cang, mắt, trời, nước Trong chín loại nghĩa này Người trí lập Cù thanh".
Sớ: Như Phục Hy v.v...
Khéo chiết phục muông sinh nên gọi là Phục Hy, người có trí chiết phục muông sinh làm đế chủ.
Sớ: Như hư không của ông.
Hỏi: Chuẩn theo Số luận sư thì không, duy lượng là chuyển biến vô thường, nhân của thường không chuyển, lẽ nào chẳng phải dụ có năng lập không thành?
Đáp: Trong truyện có ba giải thích:
1. Hai loại có và không của tông ấy: Nghĩa là thường vô thường, thường chẳng thuộc về Đế vì nó là vô vi, cũng như Phật pháp vô vi không nhiếp ở trong uẩn, nên luận chỉ thường không mà dùng làm dụ.
2. Tức một lượng đây hợp phá hai tông, nhân thường biến riêng thuộc Thắng, Số, có khắp chỉ trong Số luận, thường biến đều đối với tông của Thắng luật sư.
3. Như pháp Nhân Minh, nhân dụ không tột lại làm tỷ lượng mà thành lập.
Nay ở đây cũng vậy, trước thành không thường sau đem làm dụ. Lượng rằng: Hư không mà ông chấp lẽ ra chẳng phải chuyển biến vô thường, vì thừa nhận có khắp, như thần ngã v.v... của ông.
Sớ: Nhân thường biến cũng phạm tùy theo một. Nói thường biến chẳng phải tự không thừa nhận. Nay nói ngã có, nên tự tông không thành tùy theo một loại. Nay tức là nhân có sở y không thành, ngã của hữu pháp tự không thừa nhận hữu, vì nhân thường biến không có sở y.
Sớ: "Nếu Đại thừa" đến "trái với tông". Trái có hai nghĩa:
1. Tự thừa nhận có ngã, nay lại vì phá nó thành ra tự trái.
Hỏi: Phá tự khổ lạc, không phá thể của ngã, sao thành tự trái?
Đáp: Phá thọ khổ lạc vốn vì phá ngã, nếu không như vậy thì phá ai không thọ khổ lạc!
2. Trong Thánh giáo không nói có ngã, nay thừa nhận có cho nên thành tự trái, giải thích trước là thù thắng.
Sớ: Vì thừa nhận nghĩa đồng.
Thừa nhận cùng với chấp nên nói nghĩa kia đồng, vì thế luận chỉ có chữ "chấp". Có thuyết nói, người hiểu Nhân Minh cùng thừa nhận đối với dụ của tha nhân kia đặt thêm chữ "chấp".
Biện rằng: Hoàn toàn thành hư cấu, giải thích trước là chính.
Sớ: Như sắc đồng xứ không lìa nhau.
Xét trong luận Du-già quyển 65 có ba loại sắc không lìa nhau:
Một là Một xứ chẳng lìa nhau: Nghĩa là các đại chủng và sắc sở tạo đồng trụ một xứ. Giải thích một tức là đồng, năng tạo, sở tạo lại mong nhau, lượng lớn nhỏ xen nhau thể nhập mà không ngăn ngại nhau. Xứ sở đã không khác, gọi là đồng xứ, không khác cực vi hai xứ mà trụ gọi là chẳng lìa nhau. Lại như một con mắt cùng nhìn bảy vật, xen nhau qua lại đồng ở một chỗ, nghĩa là nhãn, thân căn, sắc, hương, vị, xúc, năng tạo đại địa, bảy thứ đều cực vi đồng ở một xứ.
Hỏi: Sở tạo có sáu, năng tạo sao chỉ có một?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Tuy một đại thông sáu năng tạo, nên năng tạo có một.
2. Có sáu, nếu không như vậy sở tạo có sáu, tại sao riêng nói năng tạo có một? Căn cứ địa loại đồng hợp mà nói, như nói một nhãn mà bảy cực vi thành, nhưng thật ra một căn có vô lượng vi, chỉ nói bảy là căn cứ loại bàn luận. Năng tạo cũng vậy. Hai là Tương tạp chẳng lìa nhau: Giải thích như một nhãn căn có nhiều cực vi, chỗ rất nhỏ của một căn vi có bảy vật đồng trụ, do bảy vật đây đối bảy vật kia, tuy chẳng phải đồng xứ nhưng hòa hợp xen tạp lân cận mà trụ gọi đó là hòa, bảy vật mỗi vật đều có sai khác gọi đó là tạp, không gián cách nên gọi đó là chẳng lìa nhau. Cho nên luận Du-già quyển 3 ghi: "Hòa tạp chẳng lìa nhau, nghĩa là đại chủng cực vi đây cùng các thứ khác tụ tập, năng tạo sở tạo sắc xứ đồng thời", giải thích trước là đồng xứ chẳng lìa nhau, xứ sở có cực vi gọi là đại chủng cực vi v.v...
Ba là Hòa hợp chẳng lìa nhau: Lại nếu có tụ tập, hoặc đậu mè v.v... nhiếp trì trong các thứ keo, mật và đường v.v...
Giải thích khác đại sở tạo hai tụ hòa hợp, như nhiều đậu v.v... tuy dùng mật v.v... nhiếp trì, hòa hợp thành một khối, nhưng không trộn lẫn với nhau. Lại khác với đại sở tạo, khác với tụ mong nhau gọi là hòa hợp. Chẳng lìa nhau là không gián cách. Lược nêu đại cương, đủ như trong sớ sao.
Sớ: "Hữu tình cộng quả" đến "tất cả ngã xứ không sai khác".
Cộng quả như núi v.v... tuy chỗ không khác, mà thể chẳng phải là ngã, nhưng sở thọ này có thể một lúc thọ, còn lại không thể thọ, ngã có thể làm thọ, lẽ nào được cùng nêu bày!
Sớ: Lại do nghiệp quả thân làm nhân v.v...
Tông dụ đồng với trước, đổi nhân trước rằng: Nghiệp quả và thân cùng các ngã hòa hợp, suy nghĩ nên biết.
Sớ: Trước nói ba chấp đều thuộc về chấp.
Hỏi: Ngã tư của Số luận, tư tức là hành uẩn, tại sao ba pháp trước đều lìa uẩn?
Đáp: Tuy ngã là tư nhưng không nói tư là hành uẩn. Hỏi: Nếu vậy tư thuộc uẩn nào?
Đáp: Luận không lập uẩn nên chẳng phải thuộc về uẩn. Điều này cũng không đúng, như ngay nơi uẩn ngã Phật pháp bàn luận về nó.
Hỏi: Chẳng phải tông khác thừa nhận ở trong uẩn, tư ngã lẽ ra cũng như vậy chăng?
Đáp: Ngay nơi uẩn chấp, tuy không nói uẩn, nhưng chỉ năm uẩn dùng làm ngã ấy, mà Số luận sư tự nói, tư ngã lìa tâm, tâm sở riêng có tự thể, nên Quảng Bách luận quyển 3 ghi: "Ngoại đạo Số luận nói như vầy: tư tức là ngã, tánh ấy thường trụ". Luận kia phá rằng: Như vậy tư ngã lìa tâm, tâm sở, riêng có thể tướng khó có thể rõ biết, nên biết tư ngã chẳng phải là tâm sở, thuộc về lìa uẩn.
Hỏi: Trước nói nương kiến lập ngã pháp là như Số luận sư, đâu không mâu thuẫn?
Đáp: Lìa uẩn v.v... là căn cứ tông kia mà nói, nói nương kiến lập là Phật pháp bàn luận tông kia, cho nên sớ trước sau không trái nhau.
Sớ: Đại thừa một niệm tức đều được duyên.
Bản chất hữu vô đều duyên gọi là đồng thời. Hữu tông cần phải có chất ảnh tâm duyên, nếu chỉ thiếu chất tâm tức không khởi, gọi là đơn độc không sinh. Tướng chất của Kinh bộ đồng thời với vô tâm sinh nên gọi là đồng thời được khởi. Đây chính là tổng kết ba tông trước sai khác.
Hỏi: Hữu tông tự thừa nhận Thức thứ sáu duyên với hoa đốm trong hư không v.v... chăng? Nếu thừa nhận duyên, đây tức duyên vô tâm cũng được khởi, nếu không thừa nhận, tức trái với Thánh giáo?
Đáp: Luận tuy thừa nhân duyên, nhưng nhờ hoa thật mới duyên được, lúc duyên hoa đốm trong hư không tùy nương ba đời hoa thật đồng duyên. Thừa nhận pháp ba đời đều thật có, còn lại đều chuẩn theo biết.
Sớ: Lượng rằng, ngã lẽ ra chẳng phải thường v.v....
Hỏi: Chấp ngã là uẩn, ngã đã là thường, uẩn cũng phải vậy. Nếu không như vậy làm sao nói ngã tức uẩn? Nên biết uẩn là thường, nay dùng làm dụ, dụ thiếu sở lập chăng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Trước do lượng thành khiến uẩn vô thường, rồi sau làm dụ. Lượng nói uẩn nhất định vô thường, đợi các duyên, như bình chậu v.v... Lại nếu lập uẩn kia là thường là trái với thế gian, vì thế gian đều biết uẩn vô thường.
2. Họ tuy chấp ngã thể tức là uẩn, thừa nhận ngã vô thường tức gọi là thường.
Hỏi: Nếu vậy tại sao gọi ngã tức là uẩn?
Đáp: Lẽ nào trách đám người mù để rồi rơi xuống hầm chăng!
Trong phần phá riêng ở sau cũng có vặn hỏi này, giải thích đồng ở đây, nên không nêu riêng.
Sớ: Căn và thuộc sắc.
Tức phù trần căn gọi là thuộc sắc, vì thuộc ở căn. Cũng có bản nói căn và trần sắc, lời nói tuy có khác nhưng nghĩa không trái nhau.
Sớ: Và vô biểu sắc v.v...
Hỏi: Vô biểu sắc đây tức sắc uẩn bên trong, nay cần gì chỉ bày?
Đáp: Tuy sắc uẩn bên trong mong loại khác, nên riêng phá.
Sớ: Như đã nêu.
Trong luận đã nói, trong đó lìa uẩn, ngã lìa uẩn, tức là uẩn không thâu nhiếp, nên điều mà ở đây nêu là nhân.
Sớ: Nhưng riêng có tự thể v.v...
Hỏi: Nếu vậy, tại sao không phải là lìa uẩn, lại cùng ngã thứ tư của Du-già có khác gì?
Đáp: Tuy riêng có tự thể, thể cùng uẩn của nó chẳng tức chẳng lìa, chấp thứ tư kia tuy nói ở uẩn, uẩn cùng ngã kia nhưng tức có khác, cho nên không đồng.
Sớ: "Nếu phá chung" đến "không có đồng dụ".
Lông rùa v.v... các pháp tuy không thể nói, lấy đó làm ngã, có thể nói chẳng phải ngã. Lượng rằng: Không thể nói chẳng phải ngã, một phần tông đây lông rùa dụ nhưng không được chuyển, nên thiếu dụ.
Sớ: Lẽ ra nhất định nói là uẩn v.v... Lược có hai giải thích:
1. Tuy đều nói ngã và chẳng phải ngã, họ vốn chấp ngã, lại cũng nói chẳng phải ngã, cho nên phải gọi là tạp. Như nói ngã, chẳng phải ngã, nhưng thể thật chỉ có ngã, tuy nói uẩn, chẳng phải uẩn, ngã lẽ ra nhất định là uẩn.
2. Đây là chiết phục vặn hỏi, vặn hỏi rằng chấp ngã và uẩn chẳng tức chẳng lìa, chẳng tức chẳng lìa chính là bản chấp, nói ngã chẳng phải ngã cũng hợp bản chấp, tại sao chẳng phải ngã không phải chánh phá? Nên đây phá rằng: Lẽ ra nhất định là uẩn, như tợ ngã kia, ngã là chính chấp là bản nghĩa kia. Sớ lấy bản ý vặn hỏi khiến tức uẩn, nêu bày ý đồng với trước.
Sớ: "Lại lượng rằng" đến "nên không có lỗi".
Hỏi: Dụ của Vi, Vô vi làm nghĩa vô vi là thủ trong ngã hay là thủ các ngã khác?
Đáp: Chỉ thủ trong ngã, giải thích đủ như trong Nghĩa Đăng. Biện rằng: Lập thủ ngoài ngã làm nghĩa vô vi làm dụ cũng được, các vô vi khác có nghĩa không thể nói, có vô vi v.v... mà không ở ngã kia, ngã chẳng phải ngã tụ, trong ngã đã có nghĩa không thể nói, tại sao thuộc về ngã chẳng phải ngã? Dụ có hai lập, có thể làm chánh dụ.
Hỏi: Có các vô vi tại sao lại có nghĩa không thể nói? Đáp: Vô vi không được nói là Hữu vi, Hữu vi trái với đây.
Hỏi: Nếu vậy tại sao luận nói "hơn nữa đã không thể nói Hữu vi vô vi", lẽ nào các Hữu vi khác v.v... không thể nói làm Vô vi ư?
Đáp: Hai câu luận thành một lượng của nó, lẽ ra phải phân biệt. Không thể nói là nêu nhân, Hữu vi vô vi là nêu dụ, nhân dụ kết hợp nói nên không có lỗi. Nếu căn cứ thẳng luận, trong luận không nói không ở nơi tụ v.v..., tại sao tông nói đối với ngã chẳng phải ngã tụ cũng không thể nói?
Hỏi: Nếu thủ ngoài ngã, các vi, vô vi khác luận nói "lại cũng" là lại cũng với ai?
Đáp: Do trước vặn hỏi ngã mà chẳng phải là thật, nay lại vặn hỏi nó chẳng phải ngã tụ v.v... nên nói là "lại". "Cũng" là cũng với Hữu vi vô vi khác, Hữu vi vô vi khác không thể nói, tức không ở nơi ngã chẳng phải ngã tụ, ngã cũng đồng với nó, nên nói "cũng", điều này nên tư duy kỹ.
Sớ: "Tuy tánh thể thường" đến "chẳng phải cùng thừa nhận".
Biện rằng: Đây là tha tỷ lượng, phạm tha bất định, làm sao chẳng phải lỗi? Lẽ ra đổi nhân rằng: Thừa nhận chẳng phải tự tánh, tác dụng, hoặc có khi không khởi. Đã lựa chọn tự tánh thì liền không có bất định, hoặc có thể tự tánh được đặt trong tông nhưng cùng phá đó cũng không có lỗi kia. Nhưng giải thích ban đầu thù thắng, vì vốn phá ngã.
Luận: Nếu không có tư lự v.v...
Biện rằng: Sớ trừ Tăng-khư, lý thật bao gồm phá nghĩa thọ quả một phần của Số luận, cũng không có lỗi. Lượng rằng: Giải thoát của ông thật ngã, lẽ ra không thể thọ quả vui Niết-bàn, vì thừa nhận không có tư lự, cũng như hư không, tông ấy chấp ngã, khi được giải thoát tuy không có tư lự, nhưng có thể lãnh thọ quả vui Niết-bàn kia, nên phá không có lỗi.
Luận: Lý đều không thành Có hai giải thích:
1. Có lự không có lự đều không thành.
2. Nếu có lự là thường trụ không thành, nếu không có lự thì tác và thọ không thành.
Sớ: "Như đối với Phệ-thế" đến "như chân".
Hỏi: Chân v.v... của Thắng luận, sáu câu thuộc về câu nào? Đáp: Thuộc về câu thật, tức trong câu thật bốn đại làm thể. Luận: Nếu chẳng phải cảnh sở duyên của ngã kiến.
Có hai giải thích:
1. Đồng với sớ, ngã thể của ngoại đạo chẳng phải ngã kiến duyên, nên ở sau luận nói, nếu vô ngã kiến năng chứng Niết-bàn.
2. Nếu là cảnh ngã kiến là lập ngăn trách.
Hỏi: Nếu vậy ở sau nói, lại các ngã kiến không duyên ngã v.v... lẽ nào không giúp nhau?
Đáp: Lẽ ra nói ngã. Ngã kiến có hai: Một là chấp trước ngã kiến, hai là tuy duyên ngã mà không chấp trước, trước nhiễm sau tịnh. Nói vô ngã kiến đắc Niết-bàn là căn cứ vô nhiễm kiến, ở sau lập lượng phá, phá nhiễm ngã kiến nên không giúp đỡ nhau. Hai là các tông chấp ngã đều ngã kiến duyên, nên hai lượng sau không có lỗi tương phù, nhưng nói chẳng phải duyên ngã kiến, là lập ngăn trách.
Biện rằng: Nếu nói ngã kiến có hai loại, thì ngã thể kia cũng duyên ngã kiến, tại sao nói chẳng phải cảnh ngã kiến? Nên biết tông ấy là tịnh ngã kiến, không thể lấy làm cách hiểu của ngã, không gọi là ngã kiến.
Sớ: Tuy không làm cách hiểu của Như v.v...
Trí Vô phân biệt tuy lại không làm cách hiểu cho Chân như, nhưng vẫn gọi Chân như duyên, tâm Chân như duyên, ngã của ông lẽ ra cũng vậy, nhưng bản chấp kia lại không thừa nhận.
Luận: Tin chí giáo.
Hỏi: Tại sao nói giáo mà được tên chí giáo?
Đáp: Thông ở phàm thánh nói không sai khác, có thể tin là nói đều là chí giáo lượng, vì khế hợp với chí lý, khế hội sự thật, như tám ngữ phẩm, bốn Thánh ngôn v.v... Nên luận Hiển Dương quyển 11 ghi: "Chí giáo nghĩa là ngôn giáo mà người Nhất thiết trí thi thiết, hoặc theo họ nghe pháp tùy theo pháp mà hành". Đây lại có ba loại: Một là Thánh ngôn sở nhiếp, hai là Đối trị tạp nhiễm, ba là Không trái pháp tướng. Thánh ngôn sở nhiếp, nghĩa là kinh giáo mà Như Lai và các đệ tử nói, không trái chánh pháp, không trái chánh nghĩa. Đối trị tạp nhiễm, nghĩa là khi nương pháp này khéo tu tập có thể cầu điều phục các tham sân si. Không trái pháp tướng, trái lại với trái pháp tướng, phải biết đây gọi là không trái pháp tướng. Trái pháp tướng, nghĩa là đối với vô tướng tăng thêm hữu tướng, đối với pháp tạp nhiễm lập thành thanh tịnh, gọi là trái pháp tướng.
Hỏi: Ngôn giáo ngoại đạo ba nghĩa đều không có, làm sao gọi đó là chí giáo?
Đáp: Tùy theo ngôn luận của tông ấy, sở tín và chọn lựa trái với tông.
Sớ: Tổng phá các sư trước.
Hỏi: Lập tổng phá, lẽ nào cũng không có một phần tương phù? Vì mỗi sư đều thừa nhận tịnh kiến không duyên ngã. Lại cùng không thừa nhận nhiễm duyên ngã chăng?
Đáp: Cho nên trong sớ nói chỉ duyên ngã kiến đều không duyên ngã, ở đây lựa chọn tịnh kiến và cùng không thừa nhận thảy đều tận, luận lược chỉ pháp, trong sớ nói đủ.
Có thuyết cho rằng, nếu nói ngã kiến lẽ ra không duyên ngã tức có lỗi, vì nhiễm kiến không duyên ngã.
Biện rằng: Nếu không như vậy thì trái với luận và sớ, sớ luận nêu bày vặn hỏi đều nói nhiễm kiến, họ thừa nhận duyên ngã.
Hỏi: Nếu như vậy, nghĩa năng duyên sở duyên của tự tông đều không thành, nên người ngoài vặn hỏi rằng: Nhãn thức của tông ông lẽ ra không duyên sắc, vì có sở duyên, thanh v.v... các thức, vặn hỏi sở duyên, lượng chuẩn theo đây mà biết chăng?
Đáp: Lượng ấy lại có các lỗi tự giáo, thế gian trái nhau. Thế gian cùng thừa nhận nhãn duyên nơi sắc, ngã thì không như vậy.
Hỏi: Chánh trí duyên Như, chẳng phải thế gian cùng thừa nhận, họ lấy đó làm vặn hỏi, không có việc gì không đồng, vặn hỏi chuẩn theo trước chăng?
Đáp: Ý của Bản sớ chỉ tranh cãi ngã thể có hay không, ông vọng chấp ngã thường năng tác thọ, nên làm lượng trước, nhưng lý Chân như chẳng phải năng tác thọ, thể là thật có, nên chánh trí duyên, rộng như luận Chưởng Trân giải thích.
Hỏi: Nếu họ đem Thức thứ bảy, thứ tám kia làm vặn hỏi thì thế nào?
Đáp: Năng sở duyên của ta đều mượn ngôn thuyết, lại không lìa thức, ngã và kiến của ông thật năng sở duyên, ngã lại lìa thức, nên không làm ví dụ, phải suy nghĩ kỹ.
Sớ: Không có một ngã là tướng phần.
Trong hai luận kia nói mười sáu loại đại luận ngoại đạo, sở duyên đều là tự tâm tướng phần, nếu có một ngã thể là tướng phần, ngã thể có thể được gọi là sở duyên kiến duyên ở ngã, đã không có ngã thể kia là tướng phần, nên biết ngã thể không phải sở duyên, kiến cũng không duyên ngã làm cảnh của nó.
Sớ: Từ đây trở xuống phần thứ tư giải thích phân biệt câu sinh. Văn đây nêu bày chánh nghĩa, đối với lý là thù thắng.
Biện rằng: Câu sinh phân biệt lẽ nào ngoại đạo thừa nhận, tông ấy đã không, nay nêu rõ phân biệt câu sinh kia, sao trái với tự nghĩa? Nói chỉ bày tự nghĩa gọi là thắng chăng? Nên trong sớ không có lỗi.
Sớ: "Ngã chấp" đến "đều gọi là chấp".
Nếu nói ngã kiến không thông với tâm vương và các tâm sở, vì chấp rộng, bao gồm thấy đồng thời tâm tâm sở v.v... đều gọi là chấp, hoặc nói ngã chấp cũng chỉ là kiến, như ở sau chỉ nói kiến gọi là chấp, nay lấy giải thích trước.
Sớ: Do thừa nhận nhiễm tịnh xen tạp sinh.
Ở sau luận quyển 10 ghi: Ba tánh nhân duyên thừa nhận tạp dẫn sinh.
Hỏi: Tướng phần Thức thứ bảy tạp dẫn thế nào? Đáp: Có hai giải thích:
1. Hiện tướng Thức thứ bảy tùy nơi kiến và chất thông ở hai tánh, tướng này huân chủng, chủng tùy hiện tướng cũng gọi là hai tánh, tướng sau y hai tánh chủng đây sinh gọi là tạp dẫn sinh.
2. Tướng Thức thứ bảy này hoặc chất đồng chủng, hoặc kiến đồng chủng, chủng gọi là tạp dẫn, tánh tạp nên biết.
Giải thích trước là thù thắng, thừa nhận tướng Thức thứ bảy riêng có chủng.
Sớ: "Không xứng với bản chất" đến "gọi là có chấp".
Năm thức không thân duyên từ ngoài chất gọi là không xứng. Có thuyết nói, Sơ thiền nhãn thức thấy tướng phần của dục, hỏa tai cùng chất không tương tợ, vì chủng khác sinh.
Biện rằng: Sở duyên chất tướng của năm thức trong Địa này lẽ nào đồng chủng ư? Lại làm sao xứng? Nếu nói khác Địa không xứng nghĩa hiển nên nêu ra cũng là không thể, liền nghi đồng địa đồng chủng tương xứng.
Luận: Duyên thức sở biến năm thủ uẩn.
Hỏi: Năm thủ uẩn đây thức nào sở biến?
Đáp: Có nghĩa trừ Thức thứ sáu, bảy thức còn lại biến, Thức thứ sáu sở biến tự thân tướng phần, văn sau riêng nói khởi tướng tự tâm chấp làm ngã. Hỏi: Nếu là bản chất tại sao chỉ nói duyên thức sở biến?
Đáp: Lý thật cũng do thức năng biến khác, nói sở biến là nương tướng kiến, thật lý thân duyên chỉ có tướng sở biến. Nếu theo bản chất cũng duyên năng biến, đây tùy tướng hiển mà nói sở biến, thật sự lẽ ra không nên nói thức sở biến, nếu không như vậy, trước chấp nên nói biến, trước chỉ nói duyên Thức thứ tám, đây cũng chỉ nên duyên năm thủ uẩn.
Hỏi: Sao gọi là thủ uẩn?
Đối Pháp quyển 1 ghi: Do thủ hòa hợp nên gọi là thủ uẩn.
Giải thích: Hợp là hòa, là thuận, không lìa nhau, trợ giúp nhau, do uẩn cùng thủ lại hòa thuận nhau, không lìa nhau càng khiến cho sinh trưởng nên gọi là thủ uẩn. Ngoài ra như Xu Yếu giải thích đủ.
Sớ: Kỳ thật cũng có, vì có bản chất.
Sớ: Chẳng phải không có bản chất là câu sinh.
Chẳng phải có chấp câu sinh không duyên bản chất khởi.
Giải thích lý do câu sinh chấp cần phải có bản chất.
Sớ: Ban đầu lựa chọn tu đạo bất tương ưng hoặc.
Độc đầu tham v.v... gọi là bất tương ưng, thế đạo có thể điều phục.
Sớ: Nếu đốn ngộ cũng thông kiến đoạn v.v...
Câu sinh ngã kiến hành tướng vi tế, tại sao siêu vượt quả nói kiến đạo đoạn? Nếu nói trợ bạn trước chiết phục Hữu lậu, lý cũng không đúng. Tương ưng tham v.v... ngã kiến hành đồng, tại sao nói bạn trước chiết phục Hữu lậu? Nếu chiết phục tương ưng ngã kiến lẽ ra phải vậy vì hành tướng đồng. Đối Pháp v.v... nói siêu vượt hai quả đầu là Tùy chuyển lý môn, chẳng phải nghĩa của Đại thừa.
Biện rằng: Chướng và quả trái nhau, ngăn ngại liền đoạn, phiền não dục giới đã ngại Bất hoàn, kiến đạo đoạn nó lại có lỗi gì? Nếu nói hoặc vi tế, lẽ nào thù thắng hơn trí Vô lậu kiến đạo? Nếu không thù thắng thì thắng đoạn không thắng, vì sao không thừa nhận?
Lại nói, bạn là lưu loại tương trợ, chẳng phải cần tương ưng, cần tương ưng làm sao nói năm địa hại bạn? Nên trong sớ không nói tham tương ưng gọi là bạn đã chiết phục.
Lại nói, hành tướng tương ưng đồng, cũng không được. Các luận đều nói tâm vương tâm sở đồng một sở duyên, không đồng hành tướng. Nếu nói Đối Pháp tùy chuyển lý là chỗ nào Đại thừa không thừa nhận siêu vượt quả? Không thừa nhận siêu quả đoạn dục ngã kiến, luận đây nói rõ trên Vô sinh có lỗi thoái đoạn, đâu không trái nhau? Cũng không thể dùng Mạt-na để nêu hoặc, vì Mạtna phiền não không thể nhuận sinh chướng Bất hoàn. Hơn nữa luận chủ đã tự lựa chọn xong.
Sớ: Giới thứ chín
Phẩm thứ chín của cõi này.
Sớ: Khó đoạn không gọi là vi tế v.v...
Biện rằng: Sớ có ba câu, dùng lý nói thì có câu thứ tư, tức tâm thứ hai trong ba tâm, mong ban đầu chẳng phải vi tế, mong tâm thứ ba chẳng phải là khó đoạn.
Sớ: Đây căn cứ sở đoạn dùng làm hai cách giải thích.
Giải thích nghĩa khó đoạn, tức nói phẩm loại là giải thích thứ nhất.
Kế nói khó dễ là giải thích thứ hai.
Sớ: Do hành tướng mà nói trái.
Ngã chấp chánh trái trí sinh không, sở dĩ nay nói sinh không trừ diệt.
Hỏi: Nếu nói câu sinh tu đạo đoạn, cùng kinh Lăng-già đâu không trái nhau? Xét Lăng-già bộ bốn quyển, quyển 2 ghi: "Đại Tuệ! Thân kiến có hai loại, nghĩa là câu sinh và vọng tưởng. Tu-đàhoàn có hai loại thân kiến đoạn nên nghi pháp không sinh". Lăng-già bộ mười quyển, ý văn quyển 4 phần lớn đồng!
Đáp: Có nghĩa là câu sinh căn cứ phục, phân biệt thì đứng về đoạn, đoạn và phục đều gọi là đoạn. Hoặc người phiên dịch là không tỏ ngộ Đại thừa, tùy hiểu biết Tiểu thừa của mình mà nói: Tát-bà-đa v.v... đều có kiến đoạn.
Luận: Vả lại Số luận.
Theo Thiên Thân Bồ-tát truyện nêu bày việc của sư đây, như trong Nghĩa Đăng có dẫn đủ. Lại tương truyền, thời kiếp sơ có một ngoại đạo, cựu Bách luận v.v... gọi là Gia-tỳ-la, người này tu đạo thành Tiên ngũ thông, tạo Lược Số luận, đã biết đời vô thường, thân không trụ lâu, sợ người đời sau phá luận mình tạo, bèn muốn lưu thân trụ lâu để cùng họ luận bàn, ông đến Tự Tại Thiên xin pháp sống lâu.
Tự Tại Thiên nói:
- Ông nên đến rừng ăn các loại cam tử liền có thể sống lâu. Các loại cam tử ấy, khi chưa chín màu nó xanh, nếu đã chín thì màu nó vàng nhạt, đây tức thuốc tiên. Thuốc này khi mới ăn vị hơi chua đắng, ăn rồi nếu uống nước lạnh trong miệng có vị ngọt, cũng như ăn mật, nhân đó có tên là cam tử.
Tiên được thuốc này bèn sợ vô thường, lại đến chỗ trời xin cách sống lâu. Tự Tại Thiên nói:
- Ông nhất định phải làm một vật mới được sống lâu nhất.
Tự Tại Thiên bèn hóa Tiên thành khối đá vuông, lớn chừng một trượng, ở trong núi Tần-đà, trong rừng cam tử khác. Bồ-tát Trần Na tạo luận Nhân Minh thành lập tông nhân dụ phá Số luận kia. Môn đồ của Tiên ấy không thể thông suốt, đem lời vặn hỏi của Trần Na viết trên đá, đá liền viết lời đáp. Trần Na biết rồi cùng quyến thuộc của Tiên đến chỗ tảng đá, viết vặn hỏi trên đó để cùng luận nghị. Sáng sớm hôm sau đến xem, đá đã viết lời giải xong, như vậy Trần Na lại viết, ngày ngày đến xem, đến hai ba ngày đá mới hiểu. Trần Na lại viết, bảy ngày đá mới hiểu, cứ thế viết tiếp nhưng đá không giải thích được. Đá ấy toát mồ hôi thành một lỗ lớn, vỡ vụn bay lên hư không, lúc đó Thiên thần đưa tay đỡ ngài Trần Na, ở giữa hư không nói tụng khen ngợi. Lúc bấy giờ đại chúng đều thấy, vì thế các luận của Trần Na tạo thịnh hành ở đời.
Sớ: Hai là Biến dịch mà chẳng phải bản, một thuyết nói mười sáu Đế.
Hỏi: Ở sau nói năm đại lại có hai thuyết, hai thuyết đều thừa nhận năm đại thành căn, nhưng chung riêng khác nhau, đã có thể sinh khác, hợp lại chỉ có câu "đồng thời", làm sao đây nói chỉ biến dịch?
Đáp: Nói năm đại riêng thành căn, vả lại đứng về ít phần tướng triển chuyển thành thuyết, căn cứ thành thật căn thể chỉ có duy lượng, do mười sáu tên đây chỉ có biến dịch, hãy suy nghĩ kỹ.
Sớ: Một là tự tánh.
Hỏi: Thể của tự tánh tức ba loại như Thích-xà v.v... tại sao ba loại kết hợp gọi là một Đế?
Đáp: Thật thể có ba, tác nghiệp v.v... tức đồng, nên hợp thành một, ba đức loại đồng hợp làm một. Biện rằng: Không thể được. Dũng, trần, ám v.v... các loại sai biệt, sao gọi là loại đồng? Sớ: Nay nói vàng, đỏ, đen v.v...
Do ba loại đây là vàng v.v... nên thành tất cả các sắc, những tên gọi khác thảy đều chuẩn theo hành tướng này giải thích.
Sớ: "Lại từ minh tánh" đến "ngã thọ dụng".
Hỏi: Tại sao không thọ dụng có thể năng thành minh tánh?
Đáp: Pháp sở thành tuy không lìa bản, cần bản chuyển biến mới có thể thọ dụng, nên nói pháp thọ dụng thành, như món đồ thành tuy thể tức là vàng, cần phải thành món đồ ấy mới có thể thọ dụng, cho nên nói dùng món đồ không nói dùng vàng, đây cũng như vậy.
Sớ: Từ tự tánh trước sinh đại.
Hỏi: Tự tánh sinh đại, hai mươi hai pháp khác thừa nhận triển chuyển sinh, làm sao luận nói hai mươi ba pháp tổng tự tánh thành?
Đáp: Hai mươi ba thể đều từ tự tánh thành, căn cứ tướng cùng khởi chỉ nói sinh đại, còn truyền truyền sinh khác cũng không có lỗi.
Sớ: Ngã chấp.
Chấp biết ngã sở kia, sự nghiệp cần làm, cũng như luật nói người chấp sự.
Sớ: Ban đầu gọi là chuyển khác.
Ngã chấp ban đầu từ bờ mé của đại khởi gọi là chuyển khác, cũng như tô, dầu của thế gian để dưới ánh mặt trời thì chảy ra, ngã từ đại sinh nghĩa đồng với đây, gọi là dệt lụa. Hoặc chuyển khác là nói đại kia vậy. Do vì nói ban đầu, đại từ tự tánh chuyển có khác.
Sớ: Ngã mạn sinh năm đại.
Hỏi: Xét trong kinh Niết-bàn quyển 39 nói, từ mạn sinh mười sáu pháp, đó là năm đại, năm tri căn, năm tác nghiệp căn, tâm bình đẳng căn, nói một sao mà trái ngược đến thế?
Đáp: Có nghĩa kinh dịch lầm, kinh ấy ở sau nói là mười sáu pháp từ năm pháp sinh, đó gọi là năm trần. Nếu mạn đã sinh mười sáu pháp, tại sao lại nói là năm pháp sinh? Nên biết dịch lầm.
Biện rằng: Hoặc tại tông kia chấp có mười tám bộ sai khác, trước sau của kinh đều nêu một thuyết, đây cũng có lỗi gì?
Sớ: Nên mười một pháp biến dịch chẳng phải gốc, thuận với giải thích sau.
Vừa xem hai giải thích tuy chung riêng khác nhau, nhưng đều nói đại mà có thể tạo căn, mười một chẳng phải gốc, kết hợp thuận hai giải thích, trước thật lý giải thích lại đứng về triển chuyển có nghĩa trợ thành, căn thể thật thành là năm duy lượng, nên thuận giải thích sau.
Sớ: Đại khiển căn v.v...
Khiển là trừ bỏ, tức là các đường khạc nhổ, đại tiểu tiện.
Sớ: Không đồng với bình v.v...
Hỏi: Bình họ thừa nhận thật, lại có nhiều pháp thành, nay trong nhân đây lẽ nào không có bất định?
Đáp: Cũng nằm trong sở lập nên không có bất định.
Sớ: "Nếu nói ba đức" đến "không đồng dụ".
Mỗi người sai khác, do ba đức thành mà chẳng phải là giả, quân đội v.v... chỉ do nhiều người thành, nên gọi là giả, không nói quân đội v.v... dùng ba đức thành. Nếu ba đức làm người, quân đội v.v... đồng dụ thiếu không thể lập, nếu đem người khác dùng làm dụ ấy, người khác chẳng phải giả, thiếu không có sở lập, nên gọi là không có dụ. Sớ: Nếu căn cứ ba giả v.v...
Hỏi: Luận đây ở sau nói là tụ tập giả, đâu không trái nhau?
Đáp: Đây đứng về lúc chưa diệt mà nói, gọi là giả tương tục, luận căn cứ tích tập nhiều pháp để thành nên không trái.
Sớ: Chân như lìa ngôn thuyết.
Thể Chân như chẳng phải nhiều việc thành, nên không đồng với luận.
Sớ: Do khi được sắc cũng được đại v.v...
Luận kia nói năm căn, tâm bình đẳng căn là thể của hiện lượng.
Luận do đại v.v... thành ở sắc, nên khi được sắc cũng được đại v.v... Các pháp ngã chấp là hiện lượng đắc đều chuẩn theo đây biết.
Sớ: Chấp ấy là thường.
Do chẳng phải sinh diệt gọi là thường, không đồng với thường của thần ngã tự tánh v.v...
Sớ: Sở đắc của hiện lượng.
Nhãn v.v... thể năm căn là hiện lượng. Đại v.v... chỉ là hiện lượng sở duyên, nay nói như vậy là hiển bày Y chủ, không nói là nói thể của cảnh tức là hiện lượng.
Luận: Ba thể đã khắp v.v...
Hỏi: Người ngoài vặn hỏi rằng: Thức thứ tám trong tông của ông cũng đồng lỗi này, do thể của thức năng biến không khác, ông nếu không trái, ta có lỗi gì?
Đáp: Do sức huân tập của sáu thức, núi không có núi khác, nên Thức thứ tám chẳng phải tất cả chỗ đều biến thành núi, nên không đồng với ông.
Sớ: Tướng thật có ba v.v...
Các pháp khi ba đức chưa biến đại v.v... đều có một tướng gọi đó là ba, khi biến đại v.v... mới hợp thành một.
Sớ: Do vì trái tự tông nên thành một vặn hỏi.
Trong đây thể tướng đều nêu mà kết hợp thành hai vặn hỏi, do vì cùng trái tông nên chỉ nói một.
Sớ: "Lần thứ nhất" đến "giống vặn hỏi này".
Kế luận trước nói. Lại ba là sai khác, là lần thứ nhất. Nói giống như đây, tức là văn của lần thứ ba này, chẳng phải văn lần thứ hai, vì văn thứ hai chưa gạn lỗi kia vốn có ba tướng và bản thể nên sinh khởi văn sau, nên cuối lần thứ hai mới nói như đây. Sớ: "Do họ lại chấp" đến "đều có ba tướng".
Đây chuẩn theo văn sớ chỉ có năm lượng, đôi ba phen tác giả kết hợp có tám lượng, phân biệt làm bốn cặp, trong cặp thứ hai văn sớ có đủ cả hai, còn ba cặp sớ nói chỉ một lượng chỉ bày phương góc.
1. Tổng pháp tức phá riêng, trong sớ đại v.v... tổng pháp đến làm vặn hỏi cũng vậy.
2. Tổng tướng tức phá thể, trong sớ lại gạn ba việc đến như tổng tướng, trong văn có đủ hai lượng nghịch.
3. Tổng tướng chẳng phải phá một. Sớ nói ba việc tổng tướng đến như vốn có ba việc.
4. Biệt tướng ba lần phá, trong sớ có ba việc biệt tướng đến như đại v.v... ngược lại nên biết. Có thuyết nói, ba cặp có sáu lượng là lý bất tận.
Sớ: Đệ tử Nho Đồng là Ngũ Đảnh.
Có thuyết nói, Nho Đồng có năm đệ tử tên là Ngũ Đảnh. Nhưng lại nói Nho Đồng tên là Ngũ Đảnh. Nhưng trong sớ nói Nho Đồng tử kia xưng là Ngũ Đảnh cũng chưa thể nương đáng tin. Nho Đồng tức là tên khác của Đồng tử, vì cha của Bàla-môn chẳng phải Đồng tử.
Biện rằng: Nhưng nghĩa của sư thứ nhất tuy không có chỗ căn cứ, nhưng lý cũng có thể thông. Nghĩa của sư thứ hai bài xích sớ hoàn toàn sai, thế tục lập tên có các loại sai khác, tuổi trẻ dáng mạo đẹp gọi là Nho đồng, lúc già gọi theo cách xưa nào có lỗi gì? Nếu nói Nho đồng là chỉ cho những người nhỏ, nếu người đó có tên tục là Quán Âm thì lẽ ra họ phải là Thánh. Đây đã nếu không như vậy, thì việc kia làm sao đúng được!
Sớ: Nếu có sắc vị hương xúc gọi là địa.
Hỏi: Trong các môn sau của Thập Cú luận nói, đại do mười bốn đức gọi là hữu đức, như ở sau trong sớ nêu, tại sao nay nói địa có bốn đức?
Đáp: Nếu hiển bày thể của địa chỉ do bốn đức, nếu luận về địa ấy cùng với đức để nương gọi là hữu đức, có mười bốn đức, còn mười đức khác chẳng phải hiển bày địa nên không nói, cũng không trái nhau, còn thủy hỏa v.v... đều chuẩn theo đây giải thích.
Sớ: Nhân của duyên năng thuyên gọi là thời v.v...
Do đồng thời, thể là thật có, cùng tâm thuyên duyên, danh, cú v.v... mà làm nhân, còn lại phỏng theo đây.
Sớ: "Nếu giác lạc" đến "gọi là ngã".
Do ngã có thể khiến chín đức hòa hợp mà có thể khởi trí, cho nên nêu trí sở hòa và sở khởi để hiển bày thể của ngã. Có thuyết nói, hòa hợp tức hòa hợp cú do ngã và thể hòa hợp làm nhân hòa hợp tức khéo hòa hợp chín đức.
Biện rằng: Không đúng. Trong Thập Cú luận ghi: "Ngã nghĩa là giác, lạc, khổ, dục, sân, cần dõng, hành, pháp, phi pháp v.v...". Nhân duyên hòa hợp khởi trí làm tướng, nếu ngã cũng là nhân hòa hợp, thì luận ấy lẽ ra sau chữ "hòa hợp" phải đặt thêm chữ "vân vân", nếu đã không như vậy, nên biết ngã là chẳng phải nhân hòa hợp.
Lại luận kia giải thích ý rằng giác, lạc v.v... chín đức không có hòa hợp, nhân duyên khởi trí gọi là ý, có lẽ ý cùng pháp không hòa hợp mà làm nhân, chín đức mới có thể khởi ở trí ư? Nếu thừa nhận như vậy thì tông ấy có chỗ nào không hòa hợp? Nếu không như vậy thì ngã làm sao đúng? Hơn nữa Thập Cú luận không nói ngã cùng hòa hợp cú làm nhân duyên.
Sớ: Chỉ có nhãn sở thủ một y danh sắc.
Lựa chọn khác với những đức khác gọi là chỉ có nhãn sở thủ, sắc nương một thật gọi là một y, nên luận ấy nói thanh, xúc, sắc vị, hương đều là một căn sở thủ, hương v.v... đều nương một thật, nhưng khi nhãn thủ, phải nhiều vi trần hợp mới thành cảnh. Nay bàn về sắc, thể nương một thật chẳng phải một nương sắc tức nhãn năng thủ, nên luận kia nói: Sắc hương vị v.v... nếu y cực vi và quả hai vi gọi là phi hiện lượng. Nếu một y sắc tức nhãn năng thủ, sao chẳng phải hiện cảnh nhãn v.v...? Vì sở đắc đều là hiện lượng, hoặc căn cứ thể kia là nhãn sở thủ một y danh sắc, không phải thừa nhận nhãn thủ một vi sắc.
Sớ: Lượng có năm loại.
Hỏi: Nhỏ và ngắn đâu có khác? Dài và lớn cũng đâu có khác, đều nương quả hai vi, ba vi chăng?
Đáp: Thể tuy không khác, hình đợi thành khác. Có thuyết nói: Vi và đại hai lượng căn cứ khi nằm mà nói, dài ngắn hai loại căn cứ khi đứng để nói.
Biện rằng: Vì sao trong pháp đứng không thừa nhận vi và đại, trong lúc nằm không có dài ngắn ư? Trong luận lại không nói, giáo lý đều không, vốn khó nương.
Sớ: Ly v.v... của sở sinh.
Như cỏ cây v.v..., gặp gió v.v... các duyên nhánh lá suy tàn, cùng hư không lìa mé sinh được một ly, ly sở sinh này nên gọi là ly sinh, ly của sở sinh này là từ ngữ giải thích. Lại do thể ly hay khiến pháp ly, nghĩa hợp trái ở đây.
Sớ: Đây có hai loại.
Thuận nhau gọi là đồng, trái nhau gọi là không đồng. Có thuyết nói nhân quả đồng thời gọi là thấy đồng, như lửa cùng khói là đồng thời, nhân quả khác thời gọi là thấy bất đồng, như thấy lúa chết lại có sương, tuy có đồng thời là đứng về nhiều phần mà nói.
Biện rằng: Khó biết, nếu đồng thời thấy gọi là đồng thời, khi thấy khói đã không thấy lửa, đâu được gọi là đồng, nếu cũng thấy lửa, đây tức là cái biết của hiện lượng, đâu được nói tỷ lượng? Nếu nói khói lửa căn cứ thể đồng thời gọi là đồng thời, lúa hư tổn cùng với sương lẽ nào là khác thời ư? Nếu nói thấy khói ắt có thể lửa, lúa tổn nếu không như vậy, thì không cùng nêu bày, điều này cũng không đúng. Như ta thấy lúa chết gọi là thấy nhân, lẽ nào có nhân năng sinh lúc này có tự thể? Đây có lỗi không cùng khắp, lại trái với kia. Luận nói thấy không đồng cho nên so sánh, nghĩa là thấy nhân quả thuộc nhau một, nghĩa hòa hợp trái nhau, ở trong luận ấy rốt ráo không hiện thấy cảnh trí sở hữu sinh.
Luận đã tự nói do trái nhau v.v... mới có trí sinh, nói không đồng là chẳng phải nghĩa thuận, nghĩa đồng trái lại đây.
Sớ: Thường tập gọi là niệm nhân.
Nhưng thường tu tập gọi đó là tập, không đồng Phật pháp huân tập gọi là tập.
Sớ: Cắm, ném v.v...
Do lực làm tác nhân mà làm nhân, cắm mâu quăng đá đá mới đi, nếu không như vậy thì không phát.
Sớ: Thánh trí hỷ nhân.
Cùng trí đồng thời hỷ thọ gọi là nhân, hoặc lìa duyên nhiễm mà làm nhân thành chánh trí vui vẻ, hai giải thích mặc tình chọn.
Sớ: Thường ở thật chuyển
Lược làm hai giải thích: Một là thể tánh là thường, chỉ ở trên thật mới có nên gọi là thường thật chuyển. Hai là hằng thường chỉ ở trên thật cú chuyển nên gọi là thường.
Sớ: Là ngăn đức v.v... tâm tâm sở.
Do khác với đây, cho nên ngăn duyên đức v.v... tâm tâm sở pháp không duyên nó. Biểu duyên thật v.v... tâm tâm sở pháp mà năng duyên, hoặc khác làm nhân khiến duyên chín thật tâm tâm sở v.v... đều có sai biệt, nên luận ấy nói ngăn giác nhân kia, là nêu giác nhân này gọi là nghĩa câu khác.
Hỏi: Đức v.v... cũng có nghĩa tự loại sai biệt và khác thật nghĩa, sao không nương lập?
Đáp: Đức đều là đức của các nhà chấp thật, thật làm y, nên nói dùng đức mà hiển thật. Có và đồng dị cũng là thật tánh, nên chỉ nương bản mà lập dị kia.
Sớ: "Thể câu phần" đến "tất cả căn sở thủ".
Đây có tổng biệt. Câu phần là thật, đức, nghiệp ba pháp. Cả ba không đồng nên gọi là tổng khác. Chín thật, danh thật gọi là tổng đồng, đức nghiệp cũng vậy. Vả lại một địa thật có rất nhiều địa, tổng gọi là một địa gọi là biệt đồng, mỗi mỗi nghĩa sai khác gọi là biệt khác, đức nghiệp chuẩn theo đây. Tánh đồng dị này ở trên sắc tức nhãn căn thủ, các căn khác cũng vậy, gọi là đức các căn.
Hỏi: Không, thời, phương, ngã, ý đã chỉ là một, tại sao lại có câu phần khác?
Đáp: Có ba giải thích:
1. Chỉ tổng tướng nói có câu phần khác, chẳng phải hoàn toàn nhất nhất thật đều có khác.
2. Ngã, ý, thời đồng đối với nhiều người và các phương, thời cũng được có khác, hư không trông khác, khác năng hợp là nói cũng có nhiều nghĩa.
3. Đứng về đức nương nhiều ít cũng khác gọi là câu phần khác.
Hỏi: Xét văn luận ấy, đều câu phần không có tổng biệt, sớ chuẩn theo làm sao khai?
Đáp: Tuy không nói nhưng lý thật nhất định có, nên luận ấy nói câu phần là gì? Là thật tánh, tất cả thật hòa hợp với mỗi mỗi thật thật thuyên duyên nhân, đức, nghiệp cũng vậy, giải thích tức đều câu phần. Luận ấy nói, và một nghĩa kia hòa hợp địa tánh, sắc tánh, thủ tánh, giải thích như thứ lớp tức là nghĩa của thật, đức, nghiệp cả ba sai là câu phần khác. Do đây trong sớ khai khéo được ý chỉ kia.
Sớ: Hòa hợp v.v... chỉ có một vật.
Hỏi: Có năng mà khiến thật v.v... tạo quả, tạo quả không đồng, có năng cho nên nhiều, hòa hợp mà năng hòa hợp thật v.v... thật v.v... mỗi mỗi mà có nhiều loại thì hòa hợp lẽ ra nhiều?
Đáp: Thật v.v... đều khác, hoặc cùng tạo quả, vì tạo quả chẳng phải một, nên có khả năng nhiều, hòa hợp chỉ khiến tổng thật đức nghiệp tương thuộc không lìa, nên thể chỉ là một.
Sớ: Không, thời, phương, ngã, ý, năm pháp là một vật. Hỏi: Ý như hai cực vi làm sao thành một vật?
Đáp: Trong thân một người chỉ có một loại nên gọi đó là một, giả sử như hai cực vi không nói cực vi thành nên cũng gọi là một.
Sớ: Ý v.v... là thường.
Hỏi: Như hai vi đại sao gọi là thường?
Đáp: Chẳng phải cái khác tạo tác tức gọi là thường, tuy như hai cực vi nhưng không nói tha tác cho nên là thường.
Sớ: Giác lạc v.v... vô thường.
Hỏi: Như sắc, vị v.v... tùy sở y thật thông thường vô thường, giác lạc này v.v... tại sao không như vậy? Luận nói giác v.v... nhưng nương ngã?
Đáp: Nếu chẳng phải sở tác có thể gọi là thường, nếu là sở tác, dù sở y thường cũng là vô thường, giác v.v... mười bốn pháp đều là sở tác, nên luận ấy nói, mười bốn đức đây đều đợi nhân sinh, đợi nhân sinh tức là sở tác, nên là vô thường, như trong luận có nói đủ, sợ dài dòng nên không chép.
Sớ: Ly tánh vô thường.
Hỏi: Ly hợp tương đối, ly chỉ có vô thường, hợp tại sao không như vậy, lại nói hợp tánh cũng đợi nhân?
Đáp: Nghiệp v.v... hợp thời, có sở y thật mà là thường nên được thông thường, ly thì không như vậy nên không nêu. Lại tuy thể của đãi nhân chẳng phải sở tác nên được thành thường, còn lại chuẩn theo đây.
Sớ: Kia đây chỉ là vô thường.
Hỏi: Đây kia đã nói cận viễn hai giác đợi số, thời, phương. Thời phương cả hai đều là một phần của số, thể đã là thường, kia đây vì sao vô thường? Đáp: Luận về đợi tha sinh tức là sở tác, sở tác thể kia đây là vô thường, không đồng một v.v... đích thân nương thường nên được tên là thường, đây là đợi xa.
Sớ: Sắc vị hương xúc nếu địa sở hữu chỉ là vô thường.
Tức là luận ấy, nhân ở địa thô là Đồng loại nhân, nên đều vô thường.
Sớ: Trong môn nhân v.v...
Trong các môn luận ấy biện đức, đứng về nhân nói đức gọi là nhân môn.
Sớ: Lửa hợp làm nhân.
Xét luận kia nói hỏa hòa hợp làm nhân, nghĩa là địa sở hữu các cực vi như sắc hương vị xúc, giải thích mỗi mỗi trên địa chỗ có sắc hương vị xúc, do các cực vi cùng hỏa hòa hợp nên làm nhân sinh khởi. Nên luận lại nói: Sắc hương, vị xúc địa sở hữu, cực vi hòa hợp là cùng hỏa hòa hợp, đã nói Cực vi hòa hợp, cùng hỏa hòa hợp, rõ biết hỏa cùng địa v.v... cực vị hợp sinh hương v.v... Có thuyết nói hương của niệm trước cùng hỏa hòa hợp làm nhân, hay sinh hương của niệm sau. Lại nói sắc v.v... hỏa hợp làm hương nhân sinh. Lại nói hai hỏa cực vi mà sinh tử vi.
Biện rằng: Tóm lại không đúng lý, đều trái với luận kia.
Sớ: Đồng loại là nhân v.v...
Xét luận kia ghi: Sắc vị hương xúc đồng loại làm nhân, nghĩa là hai quả vi đồng hòa hợp. Giải thích hai quả vi v.v... sắc hòa hợp, từ sắc cực vi v.v... mà sinh, sắc cực vi v.v... là sắc quả vi Đồng loại nhân, nên luận lại nói, sắc cực vi v.v... năng tạo đồng loại, hai cực vi v.v... sắc đồng loại quả.
Sớ: Từ trước đồng loại làm nhân sinh.
Các nhà sớ giải giải thích nghĩa của Đồng loại nhân kia.
Hỏi: Nay dẫn hỏa hòa hợp Đồng loại nhân, văn tại sao dẫn chứng hương kia chỉ có vô thường?
Đáp: Hai quả vi v.v... luận thừa nhận vô thường, hương đã ở trên hai vi quả từ đồng loại sinh, nên biết vô thường, trong luận nói tất cả hương v.v... trong địa đều vô thường, nay dẫn hỏa hòa hợp hiển bày hương địa, rõ biết vô thường.
Hỏi: Đã chỉ có vô thường, vì sao luận ấy nói chỉ ở trong vô thường, chỉ có thứ mười ba không nói hương sao?
Đáp: Giác v.v... mười ba thuyết không đứng về sở y để biện vô thường, đồng loại hợp nói có mười ba đức, hương vị v.v... bốn thuyết do đứng về sở y biện thường, vô thường, cùng giác v.v... riêng không nói mười bốn.
Sớ: Tánh ướt địa hỏa đã có tất cả là vô thường, chuẩn theo tánh ướt đây không nương địa hỏa cha mẹ cực vi, có thể nương thủy vi, do đây kia thừa nhận, tánh ướt thông với thường. Địa v.v... cứng chắc, vi của cha mẹ không có chảy và ướt, hỏa tại sao không, vì chẳng phải cứng chắc chăng?
Đáp: Luận thừa nhận mắt thấy tro đỏ bền chắc v.v... cũng gọi là lửa, dù ngọn lửa v.v... cũng không đồng tánh nước, vì mạnh yếu khác nhau.
Sớ: Tùy theo sở y thật hoặc thường hoặc vô thường.
Sắc v.v... mười loại tùy theo chỗ kia thích hợp nương thủy hỏa phong cha mẹ cực vi tức gọi thường trụ, y tử vi v.v... là vô thường. Sắc vị hương xúc nếu y nơi địa, thì tông ấy tự nói chỉ là vô thường.
Hỏi: Sắc v.v... là y địa cha mẹ cực vi chăng? Nếu không nương là có lý do gì? Nếu thừa nhận y, sắc v.v... năng y làm sao chỉ có vô thường?
Đáp: Luận ấy không giải thích, dùng lý mà nói thì nghĩa đồng tánh ướt không nương địa cha mẹ cực vi, hỏa v.v... sắc cực vi có được nghĩa, năng y thông với thường.
Sớ: "Như địa" đến "toàn là thường".
Trong thật cú, địa cùng đức giác v.v... rốt ráo không tương ưng, gọi là thường không khế hội.
Sớ: Tự thừa nhận đức v.v...
Lại như các đức trong địa gọi là tự thừa nhận đức, đức đây cùng với thật của sở y có lúc khế hợp, chẳng phải thường không khế hội nên gọi là vô thường.
Sớ: Như thường, vô thường, sở tác, chẳng phải sở tác cũng vậy.
Có nghĩa hễ là thường tức là chẳng phải sở tác, nếu là vô thường tức có hai loại, có pháp vô thường đều là sở tác, không nói vô thường tức chẳng phải sở tác, không nói không có tự thể vì không thể tạo tác, nhưng chẳng phải hằng không gọi là vô thường. Sớ nói không nói sở tác phi tác nghĩa đây sẽ sai.
Biện rằng: Luận ấy không nói sở tác phi tác, nhưng căn cứ lý là có nghĩa có thể nương. Ý sớ thông kết thường vô thường đã nói trước, tùy theo thích hợp được nói sở tác phi tác, không phải riêng kết trong một câu "không nói", đã gọi là không sở tác làm sao có, mà thấy không ư? Do trong luận ấy tác phi tác đồng với nghĩa thường vô thường ở trước, nên trong sớ v.v... nói lại.
Sớ: Tử vi trở về trước là hiện lượng v.v...
Nay giải thích tử vi, cũng chẳng phải hiện đắc.
Biện rằng: Sớ đã nói tử vi trở về trước, rõ biết không nói tử vi là hiện. Ở sau phá Thuận Thế nói nhiều quả hợp dùng làm cảnh ấy, không chứng tử vi là hiện cảnh, đủ như trong Nghĩa Đăng.
Sớ: "Không, thời, phương v.v..." đến "chẳng phải hiện lượng đắc".
Không là thanh y, thanh chỉ có hiện cảnh, tại sao nói Không chẳng phải hiện cảnh? Cho nên có thể nói Không cũng là hiện cảnh.
Biện rằng: Không đúng. Tuy tai nương hư không, hư không lẽ nào là sở văn khiến tai nghe được sao? Là không đồng với địa v.v.... Họ thừa nhận sắc v.v... y địa có, nên mắt thấy địa. Lại trong luận giải thích hiện lượng nói: Ở thật sắc v.v... căn v.v... hòa hợp có liễu tướng sinh đây gọi là hiện lượng, không chẳng phải căn hợp cho nên chẳng phải hiện đắc. Lại nói, Hiện lượng là thế nào? Nghĩa là liễu tướng đối với sắc, vị nhẫn đến địa, thủy, hỏa, thật sở hữu trí, nếu hư không cũng là hiện lượng đắc, vì sao không nói đến hư không? Trái giáo trái lý nên khó nương.
Sớ: Văn không nói trọng v.v... sớ chủ lẽ ra sửa lại không có bản chánh. Nay đích thân sửa bản luận ấy rằng: Sắc hương vị xúc hiện chẳng phải hiện cảnh, nếu thêm cực vi và hai vi quả, gọi là chẳng phải hiện cảnh, nghĩa là nếu y vào đại chẳng phải nhất thật, đây gọi là hiện lượng cảnh, nghe tất cả là hiện cảnh, số lượng, biệt, hợp, ly, bỉ, thử, ướt, nhuận, trọng thế dụng, như sắc vị hương cũng vậy, nên biết tính trọng thông hiện, phi hiện.
Sớ: Tuy có sáu câu toàn là thường v.v...
Đây nói lại thường vô thường v.v... trong mười câu, muốn hiển trong cái thường hay sinh quả, nên nêu lại.
Sớ: Năm câu hoàn toàn tuy thường mà không sinh quả, hỏi ngã là tạo tác, sao không sinh quả?
Đáp: Chỉ có thể tạo nhân không tạo quả, quả sở thọ, tha sở tác.
Sớ: Câu đức chuẩn theo hữu năng.
Thật v.v... sinh quả cần phải có năng, sở dĩ có năng gọi là thường sinh quả, ướt v.v... mười đức sinh quả cần có, nên đồng có khả năng, gọi là thường sinh quả.
Sớ: Nhưng trong thật có v.v...
Chín câu trong mười câu thật có gọi là nhiều thật có, trong nhiều thật này năm câu là hiện lượng, hiện lượng sở dĩ được gọi là nhiều, nếu không như vậy không được gọi nhiều hiện lượng. Năm là hiện lượng, năm phi hiện lượng, hiện chẳng phải hiện v.v... hiện sao gọi là nhiều?
Biện rằng: Nói chung mười câu cũng được gọi là nhiều, nhiều chẳng phải là một, nên năm tên là nhiều, không cần hình tướng mới gọi là nhiều.
Hỏi: Mười câu, sáu câu nhiếp nhau thế nào?
Đáp: Thật, đức, nghiệp v.v... sáu câu có thể biết; khác, có, không có thể có nhiều giải thích, có nghĩa ba loại thuộc về câu đồng dị, ba loại đều là nghĩa sai biệt. Dị cú đã chỉ có thật chuyển, tức thuộc về thật cú, có năng, không có năng, thật, đức, nghiệp khi đắc quả đều mong tự quả và chẳng phải tự quả nhất định cần có nhân, trở lại nương thật v.v... ba câu sở nhiếp, sáu câu y có không thâu nhiếp nên không nói.
Biện rằng: Thuyết sau thù thắng, vì có nương tựa. Hoặc không nhiếp nhau, lý cũng không có lỗi, nếu nương thật v.v... tức thật v.v... nhiếp, đức cũng nương thật nên cũng thuộc về thật. Đây đã không gồm thâu, luận nói làm sao nhiếp? Lại trong luận ấy không có chỗ nhiếp nhau.
Sớ: Sáu câu đều thật.
Có nghĩa thông giả, nghĩa là quân đội, rừng v.v... nếu y giải thích trước quân đội, rừng v.v... là giả, chẳng phải sáu thủ gồm thâu, nên thuyết sau trội hơn.
Biện rằng: Quân đội, rừng v.v... lìa người, cây v.v... không có quân đội, rừng khác, nhiếp giả tùy thật danh, thật có lỗi gì? Lại không có nhiếp giả tức chẳng phải thù thắng, không nhiếp không nói lẽ ra chẳng phải thù thắng, cho nên trong sớ nói lý không lỗi.
Sớ: Không thể dùng không có dụng để hỏi v.v...
Nghĩa là tự Chân như thật không lìa thức, vì sợ họ vọng cho là lìa thức mà có thành bất định, vì ngăn điều này nên không nói vô tác.
Hỏi: Nếu vậy, thường trụ chẳng sinh quả, nhân cũng ở Như mà chuyển, trong luận sao không ngăn?
Đáp: Căn cứ thật vô tác không sinh quả v.v... đều là chánh nhân, Chân như tự thừa nhận không lìa thức, nên không thành bất định. Nhưng pháp lập nhân không thể đều nêu bày, nên luận lại nêu thường trụ để hỏi.
Sớ: Lượng rằng: Đây v.v... thật thường không sinh quả.
Hỏi: Tông nhân đã đồng, lẽ nào không có pháp thành ở hữu pháp nhân không nương sao?
Đáp: Sớ chỉ nêu pháp không thể dẫn rườm rà, lý thật nên lập lại thường không sinh quả, tên mỗi mỗi pháp dùng làm tông suy nghĩ đó có thể hiểu.
Sớ: Hoặc các câu khác vô thường tuy không sinh quả v.v...
Tức hợp ly v.v... trong câu đức, đức mà vô thường là không sinh quả.
Hỏi: Nay họ tỷ lượng, họ thừa nhận lìa thức thật có tự thể, sao chẳng phải bất định?
Đáp: Sớ chủ đã tạo trong sớ Nhân Minh, lập nhân tự tha lựa chọn phân tích như Sở, Việt kia mà biện luận này thường tướng hỗn tạp như mía với cỏ, nay lấy ngu độ trí lược phân hai ý:
1. Thử các học giả mà ngộ chăng? Tức trong Câu-xá luận có ý đây.
2. Các sư Nhân minh ở lỗi một nhân không phân chín, nay tùy theo họ nói, lại muốn phát sinh học giả giác tuệ nên chỉ bày sai lầm. Nếu nói sớ chủ thật không hiểu lý này, trong sớ Nhân Minh sao đối chiếu như vậy, cho nên phải không đưa ra hai ý trước, nên nhân lẽ ra nói thừa nhận là thường trụ không sinh quả, lựa chọn các bất định thảy đều không có.
Sớ: "Nay nói thường trụ" đến "ở dị dụ".
Tức nhân dị dụ, chuẩn theo giác lạc v.v... tông đồng nhân dị, lý môn chín câu, phải là câu thứ tám đồng phẩm phần chuyển cũng là chánh nhân.
Sớ: Lại không nói thường v.v...
Tức trong tông nhân đều trừ chữ thường, tông thì trừ giác v.v... nếu không như vậy sẽ mắc lỗi tương phù.
Biện rằng: Giả sử trừ thường, giác v.v... cũng chỉ là tông đồng phẩm, luận thừa nhận giác v.v... mà có thể sinh quả, chẳng phải nhân đồng dụ, nên luận ấy nói một thể, biệt thể giác ấy làm nhân, thể đây thể kia do giác xa gần mà làm nhân, đã nói làm nhân, rõ ràng quả năng sinh.
Sớ: Đồng dụ cũng chẳng phải định là hữu tánh. Căn cứ ý dụ nói chẳng phải định hữu, giác v.v... trên dụ nhân vô ngại mà được chuyển.
Sớ: Phần đầu có hai, dùng đức nêu bày thật v.v...
Biện rằng: Nếu chuẩn theo sớ phân khoa, địa, thủy, hỏa văn một đoạn không nhiếp, nên nay nói, trong ban đầu có hai: Một là Câu xúc lẽ ra đồng phá, hai là Đồng kiến không phá khác. Trong phần đầu lại có hai, văn dễ có thể biết.
Sớ: "Địa v.v... kia" đến "vì đều có xúc".
Do thân được xúc, địa v.v... có thân xúc được địa v.v...
Sớ: "Sắc đức" đến "trong phong không có sắc". Sắc không nương phong, do thân căn đây không được đối với sắc.
Hỏi: Nếu vậy thân đắc địa v.v... làm sao không được sắc, sắc nương địa?
Đáp: Căn, cảnh tương đối thân đắc phong v.v... do địa có xúc nên cũng được, chẳng phải đắc dịa v.v... tất cả đức chẳng phải tự cảnh.
Sớ: Họ nói do giả thật địa đều gọi là địa.
Phật pháp luận về họ chẳng phải tông khác lập có giả địa, tức chỗ thấy của nhãn gọi là giả địa, địa cứng làm tánh, thật thân căn được. Có thuyết nói nước mà mắt thấy gọi là giả địa.
Biện rằng: Không phải vậy, nước mà mắt thấy chỉ là nước giả, họ cũng thừa nhận nước là mắt thấy. Nếu nước mà mắt thấy gọi là giả địa, lại vì sao nước là chỗ thấy của mắt? Nếu nói mắt khác không thừa nhận thấy nước là trái với luận này.
Sớ: Văn nói tuy tổng v.v...
Kết trình bày chánh nghĩa là văn nói tổng, không dùng luận nói không thật địa v.v... tức vặn hỏi đối với sắc khác tức là địa, từ năm cảnh phân, sắc không phải địa, nếu vặn hỏi họ là có lỗi trái với tông.
Sớ: Cũng chẳng phải địa v.v... là ý trong đây.
Luận nói cũng chẳng phải mắt thấy thật địa v.v... ý nói địa v.v... chẳng phải chỗ mắt thấy, thuộc về thật cú. Ý đây, tức là ý kia đây cùng nêu bày.
Sớ: "Nghiệp" đến "tánh của ba sắc". Đại hữu, câu phần là sắc tánh.
Sớ: "Lúc nhận lấy thanh" đến "gọi là định nhĩ căn". Không của thân gần mà khởi tác dụng nhận lấy thanh.
Hỏi: Nhĩ căn là thường chăng?
Đáp: Nhĩ tức là không, nên nhĩ cũng thường, hoặc là vô thường như bản vi thường sở sinh tử vi là vô thường, nhưng giải thích trước thù thắng, luận ấy nói nhĩ tức là không, cùng với nghĩa của vi sai khác.
Sớ: "Hư không" đến "số làm dụ".
Chữ "số" e rằng lầm phải là chữ "bất", không, trạch diệt v.v... tuy không lìa tâm, không được đem làm dụ, vì sao? Không, trạch diệt v.v... là pháp của Phật pháp, nay đứng về tha tông dùng làm tỷ lượng, không thể đem các pháp tự trạch diệt v.v... mà dùng làm dụ, nên trong sớ căn cứ tông khác tỷ lượng là giải thích lý do, nếu không như vậy, từ trước đến nay chỗ nào có trạch diệt làm dụ mà nói là số?
Sớ: Tuy có tha tùy theo một lỗi khác.
Phật pháp gọi là tha, ngoại đạo tha, còn lại chuẩn theo nên biết.
Sớ: Tám câu khác, mỗi mỗi riêng trừ thành tám tỷ lượng.
Có nghĩa trong chín câu, tùy trừ câu nào dùng làm tông, nhân. Nói chẳng phải thật v.v... là chẳng phải hiển nhiều lượng, vì sao? Lại như tông ban đầu nói đức v.v... là trừ câu vô thuyết đều đồng chăng? Nếu không đồng không tận, nhân lại bất định. Nếu nói v.v... còn bao nhiêu chỗ đều đồng, tức một tông nhân đã có thể thành lập chỗ đồng tám câu, chẳng phải lìa thức có, lại còn làm tông phạm lỗi tương phù, trước đã thành cho nên do lượng tông ban đầu thành tám câu, sau lập riêng một tổng thành hai lượng.
Biện rằng: Ý sớ nói, trong chín câu tùy theo trừ một liền được thành lượng, không chỉ hạn cuộc ở không thật có hai, còn các câu khác đều có thể trừ làm nghĩa lượng, sợ những người lầm lạc y văn phong chấp chẳng phải thật chẳng phải có, cả hai được làm lượng khác bèn không được nên nói tám lượng, hoặc đứng về câu số mà có biệt biệt cả hai hợp đồng nghĩa, không cần khiến làm. Lại không nói hai hợp các lượng mà không có lỗi, vì khiến học giả được sinh dị trí nên nói như vậy.
Luận: Chỗ chấp kia có v.v...
Hỏi: Do chẳng phải không nhân, mà gạn hỏi người khác, tức trong Phật pháp có các thể pháp cũng không được thành, lượng khác vặn hỏi rằng: Thanh của ông nên lìa ngoài sắc không có tự tánh riêng, thừa nhận chẳng phải không, cũng như sắc v.v...
Đáp: Trong tông tự giáo, thế gian hiện lượng, từ ngữ tương vi, ông lẽ nào không thừa nhận thanh lìa sắc có, ở sau thừa nhận nhân dị thật cũng có vặn hỏi đây, phá cũng đồng.
Hỏi: Bên ngoài lại vặn hỏi rằng: Thức thứ bảy thứ tám của ông phải lìa Thức thứ sáu không có tự thể riêng, thừa nhận là thức tánh chẳng phải không, như mắt v.v... có thức, như rốt ráo không đồng, lượng ba chi đủ Thức thứ bảy, thứ tám lẽ ra không? Đáp: Nhân trước có quyết định lỗi tương vi, tương vi lượng rằng: Tự Thức thứ bảy, thứ tám lẽ ra lìa Thức thứ sáu có tự thể sai biệt, thừa nhận thức khác đồng có căn như nhãn v.v..., sau lượng tông có lỗi một phần khác sở biệt, Phật pháp không thừa nhận Thức thứ tám cùng thứ sáu hoàn toàn lìa tướng, nhân cũng một phần khác tùy theo một lỗi, Thức thứ tám làm y của Thức thứ sáu, chẳng phải nhất định dị. Lại tục có biệt, chân không có biệt, đã là tợ lập ba chi lẽ nào đủ? Nên Thức thứ bảy, thứ tám của ngã được thành, nên suy nghĩ kỹ.
Sớ: Ngăn quyết định tương vi.
Người ngoài lập lượng rằng: Đã nói hữu tánh lìa thật v.v... ba pháp có tự thể riêng, trừ ngoài không nói, còn trong sáu câu tùy theo một nhiếp như các câu dị v.v... Có thuyết nói, hữu tánh dị thật v.v... ba định lẽ ra riêng có, thật v.v... không nhiếp, như tánh đồng dị.
Biện rằng: Nói riêng có là riêng có tự thể của nó, nếu vậy nhân có lỗi bất định, vì như đồng dị thật không nhiếp có là có tự thể riêng, vì như không nói thật v.v... không nhiếp có là không có tự thể riêng, nên nương ở trước.
Sớ: Đây vặn hỏi hằng ngang nhau v.v...
Luận chủ nói, ông tuy giải thích trước, ta nay lại trách cứ sau, có không hằng đồng, ông nay vì sao mới trừ vặn hỏi của ta? Hoặc có không như nhau, luận chủ vì sao mới trừ vặn hỏi của người ngoài? Giải thích trước là chính. Có nghĩa như Thắng luận chống chế: Hữu pháp có, vặn hỏi khiến không có, sắc của ông v.v... chẳng phải không có đãi nhân cho nên có, lông rùa chẳng phải có đãi nhân cho nên không, đã thừa nhận hữu pháp từ nhân mà có, không đâu mà không đợi không, ngã cũng có pháp, do có cho nên có, không pháp nào không giả, không pháp nào mới không.
Giải thích rằng: Ngã pháp có nhân quả, nhân quả đều sinh diệt, nhân Hữu vi của ông khởi, lẽ ra chẳng phải một, chẳng phải thường.
Biện rằng: Giải thích ý chỉ rất rõ, lời còn hơi thiếu, có thể nói rằng ngọc Bạch khuê nhưng vẫn còn tỳ vết, vì sao? Lý vô vi làm Ly hệ quả và năng tác nhân, lẽ nào tức sinh diệt? Nếu căn cứ Hữu vi, văn không lựa chọn; thật, đức, nghiệp khác tuy có nhân khởi, họ cũng tự thừa nhận có vô thường, lẽ nào chẳng phải tương phù? Nếu chỉ vặn hỏi về thường, lẽ nào không lựa chọn? Cho nên nay nên nói pháp Hữu vi của ta có nhân quả, nhân quả đều sinh diệt, các pháp thật v.v... của ông có nhân khởi, thật v.v... lẽ ra đều chẳng phải một, chẳng phải thường.
Sớ: Lẽ nào đây cũng chẳng phải tánh đồng dị.
Tánh đồng dị này không những không phải các tánh thật kia, lại tự thể chẳng phải tánh đồng dị, thế nên nói "cũng".
Biện rằng: Hoặc cũng trước có, trước có rồi phá chẳng phải các tánh của thật v.v..., đồng dị đồng với kia, nên luận nói "cũng".
Sớ: Trong đây không tự nói các lỗi tương vi.
Có nghĩa đây nói ông chấp, tuy có thể hiển bày, chẳng phải tự đã thừa nhận. Nhưng pháp, hữu pháp, cả hai nói tương vi, không thể nói không trái lỗi tự ngữ, cho nên tông nói tánh đồng dị của ông lẽ ra chẳng phải tánh thật đức nghiệp.
Biện rằng: Nếu không nói lựa chọn, pháp trái hữu pháp có thể tự ngữ trái, hữu pháp nói ông rõ ràng chẳng phải tự thừa nhận, nay do pháp trái, sao tự nói lỗi? Nếu dùng lời lựa chọn cũng thành lỗi, tức Nhân Minh luận Thiên chủ nêu bày, nêu bày lượng hữu pháp tự tướng tương vi nên chẳng phải thật phá, cũng có lỗi tự ngữ tương vi. Luận đã không trái đây làm sao có lỗi? Cho nên đổi tông rằng: Tánh đồng dị của ông chẳng phải không có lý đây, nếu lập toàn văn luận mà thành hữu pháp nên phải nương sớ.
Sớ: Nay tông lẽ ra lựa riêng, nếu không lựa riêng, thẳng nương luận làm, tức hữu pháp thành hữu pháp v.v... các lỗi, đức nghiệp đều ở trong hữu pháp, lại đem làm dụ, nên có lỗi này.
Sớ: "Trong đây đã nói" đến "ngay câu làm tông".
Tức trong luận nói, không phải ở đây cũng chẳng phải thật đức nghiệp, đây chẳng phải trên thủ nói thật đức nghiệp có ba, nhưng họ đều trái, vì phi lượng phá nên nói biệt. Giải thích biệt ngay câu làm nghĩa tông, ý chính hiển trong luận không có lý tổng lượng.
Sớ: Các thủ đức dụ v.v...
Có nghĩa cũng đồng tổng dụ của tông, tổng dụ của tông chẳng phải thật đức nghiệp, biệt v.v... là lấy nghĩa của câu hòa hợp.
Biện rằng: Trong luận đã không có vặn hỏi tông tổng luận, đẳng đẳng là tổng dụ, dụ lập chỗ nào?
Sớ: Lẽ ra chẳng phải thật địa.
Chẳng phải thật địa nghĩa là thông hai nghĩa: Một là chẳng phải địa chân thật. Hai là chẳng phải địa trong câu thật.
Sớ: Nhưng văn chỉ có tánh nêu đồng thật.
Biện rằng: Ý của quán luận, khiến thật đức nghiệp đồng, tánh đồng dị không riêng lập tánh, đây chính do thật mà nêu đồng tánh.
Lại trong sớ nêu rằng: Vặn hỏi khiến lìa thật v.v... không có tánh đồng dị, nay trong luận dùng tánh đồng thật, lẽ ra viết lầm.
Sớ: Không riêng có đại chẳng phải thật tánh.
Trên chín câu đều có một tánh gọi là đại.
Hỏi: Vì sao vặn hỏi như vậy?
Đáp: Họ nương tương tợ lập tánh đồng dị, chín câu đều chẳng phải thật, chẳng phải thật tương tợ, nên vặn hỏi khiến lập đại chẳng phải thật tánh.
Sớ: "Nếu không vậy" đến "phạm lỗi tương phù". Đây có hai ý:
1. Nếu không trách thẳng như vậy, thì họ thừa nhận trên đức có phi thật tánh đây là lỗi tương phù.
2. Nếu tổng quát vặn hỏi trên chín câu mà cùng lập một đại chẳng phải thật tánh, tức có lỗi tương phù, họ thừa nhận có đức lập chẳng phải thật, nếu trên chín thì đại chẳng phải thật tánh, họ tức không thừa nhận nên không có lỗi tương phù, giải thích trước là chính.
Sớ: Năm câu trước hiện lượng sở đắc.
Nay giải thích thật đức thông hiện, phi hiện; nếu chỉ có hiện cảnh, vì sao Thập Cú nói thông phi hiện? Lại phần sau luận nói: Cực vi tụ tập đủ thành căn cảnh, cũng phá bản chấp, nên biết thật v.v... thông phi hiện cảnh, đây tức cả ba hoàn toàn ít phần hiện lượng sở đắc.
Biện rằng: Sớ nói năm câu là cảnh hiện lượng, căn cứ tổng tụ mà nói, không nói thật v.v... mỗi mỗi biệt pháp đều là hiện lượng, do đâu mà biết?
Đáp: Sớ nêu bày các nghĩa môn trong Thắng luận, rộng tự phân biệt hiện, chẳng phải hiện cảnh, đâu có thể trước sau như thịt cá trái nhau? Nếu nói sớ chủ bàn luận vốn sáu câu mà nói năm hiện lượng, thượng hạ của sớ sao không nói năm chỉ có hiện lượng? Đã không nói chỉ có, nên biết ý sớ căn cứ trong câu đây có cảnh hiện lượng gọi là năm hiện.
Sớ: "Chẳng phải duyên này chẳng lìa" đến "hiện lượng sở đắc". Đây chỉ ngăn thật chẳng phải duyên này lìa sở đắc của cảnh trí ngoài thức, mà không nêu bày duyên đây không lìa thức hiện lượng trí đắc, do thật cú kia vốn không có tự thể.
Lại cảnh trong thức chẳng phải đều là sở đắc của trí hiện lượng.
Sớ: Sợ lẫn lộn với Trì nghiệp thích v.v...
Nếu không nói duyên mà nói lìa thức thật có tự thể, tức là hiện lượng, luận nếu thừa nhận như vậy, tức tông tự tha đều nói tâm v.v... chẳng phải lìa thức nên có lỗi trái tông.
Sớ: Giác lạc ấy v.v... cũng ở trong pháp hữu pháp. Hữu pháp gọi là pháp.
Sớ: Tức có một phần lỗi tương phù v.v...
Có thuyết nói duyên là lựa chọn lỗi tương phù, đây tức chẳng phải lý nên hỏi họ rằng: Trong hữu pháp lựa chọn giác chăng? Nếu họ lựa chọn vì sao tương phù? Nếu không lựa chọn, lập duyên đâu có thể ngăn lựa chọn? Do đây liền phải lựa chọn tương phù, ở trong hữu pháp trước trừ giác v.v...
Biện rằng: Ý đây vặn hỏi rằng, luận nói duyên ở trong pháp, tại sao dùng pháp ngăn lỗi hữu pháp? Do đây liền phải ở trong hữu pháp nói trừ giác v.v..., liền không có lỗi tương phù. Nay dùng lý quán, lựa chọn cũng nào có lỗi, tóm lại ngay đây có thể hiểu.
Lại như Phật pháp đối với Thanh luận sư lập thanh vô thường, tông pháp vô thường, lại lựa chọn trên thanh tất cả nghĩa thường. Nếu không lựa chọn, họ thừa nhận thanh thường đâu không tương phù, tương phù không có nên biết có thể lựa chọn. Nay thật v.v... trong hữu pháp bao gồm duyên năng sở, trong pháp nói duyên ý trừ hữu pháp năng duyên giác v.v... cùng lập thanh tông thì có sai biệt gì? Chỉ không được thừa nhận cho nên một duyên nói bao gồm lựa chọn tương phù, bao quát hết nên không có lỗi, xin xét rõ ràng.
Sớ: "Nếu luận nói" đến "nói chữ duy".
Chuẩn theo ý văn đây dường như lập lại vặn hỏi bên ngoài. Ý người ngoài vặn hỏi rằng: Họ đã thừa nhận có, chỉ duyên thật tâm, trong luận nên để hai chữ "duy duyên". Nói duy duyên là lựa bỏ giác v.v... không có lỗi tương phù, duyên hiển bày năng duyên, không có lỗi trái tông.
Sớ: " Cả hai thông duyên" đến "vì hiện lượng đắc".
Đã thừa nhận một tâm nhưng duyên hai cảnh, hai cảnh xen nhau theo, là lìa chẳng lìa thật có, tự thể hiện lượng sở đắc, vì sao? Vì không thể một tâm phân làm hai, đây do hai cảnh, lại xen nhau theo gọi là lìa chẳng lìa hiện lượng sở đắc, do đây chỉ nói lựa chọn, điều này không được.
Sớ: Tổng duyên của nó cũng là sở lựa chọn.
Trong tổng duyên ấy nếu là lìa thức thật có tự thể, hiện thật đắc cũng ở trong sở phá, cho nên luận duyên nói lựa chọn hết các lỗi.
Luận: Đại Tự tại thiên.
Xét Bồ-tát Đề-bà giải thích luận Niết-bàn của Tiểu thừa ngoại đạo rằng: Ma-hê-thủ-la luận sư nói như vầy: Quả là Na-la-diên làm ra. Phạm thiên là nhân, Ma-hê-thủ-la một thể ba phần, đó gọi là Phạm thiên, Na-la-diên, Ma-hê-thủ-la, địa là chỗ nương, địa chủ là Ma-hê-thủ-la, tất cả mạng, chẳng phải mạng vật ở trong ba cõi đều là trời Mahê-thủ-la thiên sinh. Thân Ma-hê-thủ-la, hư không là đầu, đại địa là thân, nước là nước tiểu, núi là phân, tất cả chúng sinh là trùng trong bụng, gió là khí, lửa là hơi ấm, tội phước là nghiệp, tám loại đây là thân Ma-hê-thủ-la. Tự tại thiên là nhân sinh diệt, tất cả từ Tự tại thiên sinh ra, từ Tự tại thiên diệt gọi là Niết-bàn, nên Tự tại thiên là thường, tất cả vật là nhân Niết-bàn.
Lại truyện giải thích rằng: Tông ấy Tự tại có ba thân sai khác, nghĩa là Pháp thân, Báo thân, Hóa thân. Nói Báo thân ở cõi trời Sắc cứu cánh không sinh trở lại, tướng trạng giống như Thọ dụng thân của Thế Tôn, thân biến hóa ấy tùy hiện trong sáu đường giáo hóa chúng sinh, nhưng nói phần nhiều ở phía Bắc của núi Tuyết hoặc ở Nam Hải phía đỉnh núi Vị-thích-da. Pháp thân thì như luận này nói.
Sớ: "Có khắp" đến "hay sinh các pháp".
Có khắp vì sao không ở tất cả xứ hay sinh các pháp? Thường vì sao không ở tất cả thời hay sinh các pháp mà phân sai khác?
Luận: Các chấp khác như Phạm vương v.v...
Xét trong luận Đề-bà nêu bày các chấp này. Nói Đại Phạm là sư Vi-đà luận nói, từ cõi trời Na-ladiên đều sinh trong hoa sen lớn, từ hoa sen sinh tổ ông Phạm thiên, Phạm thiên kia làm tất cả vật có mạng, chẳng phải mạng, từ trong miệng Phạm thiên sinh Bà-la-môn, giữa hai vai sinh Sát-đế-lợi, giữa hai về sinh Tỳ-xá, dưới hai bàn chân sinh Thủ-đà, tất cả đại địa là giới tràng tu phước đức, sinh tất cả cỏ hoa, dùng để mà cúng dường, hóa thành các loại sơn dã, cầm thú, người, heo, dê v.v... ở giới tràng sát hại cúng dường Phạm thiên, được sinh về chỗ ấy gọi là Niết-bàn.
Nói thời, nghĩa là sư Thời luận nói như vầy: Thời gian thuần thục thì tất cả vật thuần thục, thời tán thì tất cả vật tán, thế nên trong luận ta nói, như mang cung tên bắn, thời không đến không chết, thời đến thì cỏ nhỏ xúc chạm liền chết, tất cả vật thời sinh, thời thuần thục, thời diệt, thời không thể qua, nên thời thường sinh tất cả vật.
Nói phương, nghĩa là sư Phương luận nói như vầy: Tối sơ sinh các phương, từ các phương sinh người thế gian, từ người sinh trời đất, trời đất diệt không trở lại vào chỗ kia gọi là Niết-bàn, thế nên phương là thường.
Nói bản tế, nghĩa là bản sinh. Luận sư An Trà nói: Vốn không có mặt trời mặt trăng, sao, hư không và đất, chỉ có lửa, nước. Bấy giờ Đại An Trà sinh như trứng gà, xung quanh màu vàng, thời chín phá làm hai đoạn, một đoạn ở trên làm trời, một đoạn ở dưới làm đất, ở trong khoảng ấy sinh Phạm thiên, gọi là ông tổ của tất cả chúng sinh, tạo tất cả vật có mạng, không có mạng, các vật như vậy tán mất, chỗ ấy gọi là Niết-bàn.
Nói tự nhiên, nghĩa là Luận sư Vô Nhân nói như vầy: Không có nhân, không có duyên sinh tất cả vật, không có nhân duyên nhiễm tịnh, như trong luận ta nói: Như gai nhọn không có ai tạo ra, khổng tước v.v... các loại màu vẽ đều không ai tạo ra, tự nhiên mà có, không từ nhân sinh gọi là Niết-bàn, tự nhiên là thường, sinh tất cả vật.
Nói hư không, nghĩa là Luận sư Khẩu Lực nói như vầy: Hư không là nhân của muôn vật, tối sơ sinh ra hư không, hư không sinh gió, gió sinh lửa, lửa sinh khói, khói sinh nước, nước liền đông cứng thành đất, đất sinh các loại dược thảo, dược thảo sinh ngũ cốc, ngũ cốc sinh ra mạng, thế nên trong luận ta nói: Mạng là thức ăn, về sau lại mất, hư không gọi là Niết, hư không là thường gọi là nhân
Niết-bàn
Sớ: "Ngã ấy" đến "trước sau sai biệt".
Đây giải thích lỗi, lỗi rằng nay nói pháp chấp, vì sao luận ngã? Đáp: Ý nên biết.
Sớ: "Ở sau phá" đến "là bất định".
Do thừa nhận tánh thanh thường, không thể thuyên, trong phần phá ở sau họ không được đem tánh thanh làm dụ, mà cùng luận chủ mà làm bất định, nên nói không có dụ. Có thuyết nói, do đây không được cùng Đại thừa tác pháp vì tự tướng tương vi.
Biện rằng: Không đúng. Giả sử thừa nhận năng thuyên chỉ có lỗi bất định, lỗi pháp tự tướng tương vi là đồng thì không có nhưng dị thì có, nay năng thuyên nhân hai dụ đều có nên là bất định, năng thuyên thanh khác vô thường là đồng, tánh thanh là dị, suy nghĩ có thể rõ.
Luận: Có ngoại đạo chấp cực vi là thường, sư đây chỗ chấp ngã pháp sắc tâm đều bốn đại tạo, cho nên Quảng Bách quyển 2 ghi: "Thuận Thế ngoại đạo nói như vầy: Các pháp và ngã đại chủng làm tánh, ngoài bốn đại chủng không có vật khác", tức bốn đại chủng hòa hợp làm ngã và thân tâm v.v...
Hỏi: Nội ngoại nam nữ đã có sai biệt, năng thành đại chủng cũng sai biệt chăng?
Đáp: Tuy tánh đại chủng trong ngoài không khác, nhưng có an lập hình tướng sai biệt. Có nghĩa cực vi của Thuận Thế có ba loại: Một là Cực tinh hư, hai là Thanh tịnh, ba là Phi hư tịnh. Quả sở sinh cũng có ba: Một là tâm tâm sở, hai là căn như nhãn v.v...., ba là sắc thanh v.v... Như ba thứ lớp đó ba nhân sinh ra.
Biện rằng: Tuy nói như thế nhưng không biết căn cứ ở đâu. Chuẩn theo Quảng Bách luận đây nêu bày khó nương, luận ấy nói: Trong ngoài tánh đại chủng không có sai biệt, làm sao được ba loại không đồng?
Hỏi: Thuận Thế ý gì chấp vi là thường?
Đáp: Sợ rằng kiếp sau thành không có chủng tử, nên Câu-xá luận quyển 12 ghi: "Một loại ngoại đạo chấp cực vi là thường", họ cho rằng không kiếp, còn lại ở cực vi khác, vì sao họ chấp còn cực vi khác? Chớ cho rằng việc thô sinh không chủng tử, do đây sư này chấp vi là thường.
Luận: Nếu không có phương phần v.v...
Hỏi: Họ vốn chấp vi tạo tất cả pháp, tâm tâm sở cũng hợp có ngại, nay dùng làm dụ lẽ nào được thành?
Đáp: Như trong Nghĩa Đăng có giải thích, nay giải thích thêm, mong đại năng tạo thật không sai khác, nhưng tâm sở tạo vô ngại, tâm năng duyên không thành thô, tạo sắc có ngại, tập thành sắc thô, tông chấp vậy, không thể nương theo kẻ cuồng phu mà không giữ gìn lễ nhạc, nên phá hai sư dùng tâm tâm sở làm dụ cũng được.
Sớ: Trong câu đức, lượng đức v.v...
Thật cũng có lượng dài ngắn hợp lại, không khác thể của hai lượng nhỏ và lớn, nên không nói. Có nghĩa tức là lượng nhỏ, lượng ngắn, đức tử vi có.
Biện rằng: Nói quả sắc, chỉ có nhân tử vi có thể như sở đoạn, tôn vi trở đi cũng gọi là quả sắc, làm sao không lấy lượng lớn dài?
Luận: Nếu nói quả sắc có khắp ở tự nhân v.v...
Có nghĩa ở đây y tông nêu bày. Văn trước nói, không vượt được nhân lượng chẳng phải là tông này.
Biện rằng: Nay xem thế của luận, trước làm bản chấp cũng không có lỗi, nên trước luận rằng: Lại quả sở sinh không vượt nhân lượng, đây lập mà phá, nếu chẳng phải bản chấp thì luận nêu đối với ai? Nên bản chấp trước, đây chỉ nêu lại nên cũng không có lỗi.
Sớ: Do ba vi quả v.v... nhân chẳng phải cực vi. Nói ba vi nghĩa là quả tử vi thứ ba tức là quả thứ bảy, nhân của quả thứ bảy tức gọi là vi, không gọi là cực, cho nên tổng nói, như nhân sở tại, nên không nói riêng, như cực vi sở tại. Nói cực vi vì không thông với vi, cực vi tử vi đều được gọi là nhân sở tại.
Sớ: Trong đây hai lượng như thứ tự ở trước.
Không thành sắc thô và chẳng phải lượng của căn lấy hai loại, tức luận trước nói: "Lại quả sở sinh" đến "liền trái tự chấp", trong hai đoạn văn đã làm xong, nên đây không nêu.
Sớ: Đây là nghĩa của tông.
Tông của Đại thừa, Đại thừa không thừa nhận thể cát thọ nước, thể của đồng thọ dược.
Sớ: Căn cứ tông vặn hỏi.
Căn cứ tông ngoại đạo, luận thừa nhận quả sắc nhập vào trong nhân vi, cũng thừa nhận nước vào trong vi của cát, cho nên được lấy cát mà làm dụ.
Hỏi: Sắc đồng xứ chẳng lìa nhau của Đại thừa xen nhau nhiếp nhập, đâu chẳng phải thể tướng nhân quả thể tướng thọ nhập?
Đáp: Không có thật cực vi, là giả thức biến, nên được nhiếp nhập, không đồng tông ấy.
Sớ: "Lượng rằng" đến "như thuốc biến thành đồng".
Căn cứ tha làm lượng, họ thừa nhận vi của thuốc nhập trong vi của đồng, nên được làm dụ.
Sớ: "Một lẽ ra không có thứ lớp hành v.v... Văn một bài tụng này nhưng lượng lại có năm:
1. Luận ấy nói, nếu không cách biệt, cảnh sở hành của nhãn chấp làm một vật, nên không có thứ lớp lý hành đại địa. Nếu ở sau "một đủ" đến "tất cả", lượng rằng không có chỗ ngăn cách, từ đây trở xuống đến "một khi đủ", chỗ chưa đến thì thời cũng lẽ ra đã đến, vì ông chấp một, cũng như ở đây.
2. Luận ấy nói, lại phải chung thời ở đây, đối với họ không đến chưa đến, một vật một thời, lý lẽ ra không có được chưa được. Lượng rằng, tông của ông thế gian không cách đoạn vật, không có một pháp có đến chưa đến, chấp là một, như tay nắm lấy hạt châu.
3. Luận kia lại nói, lại một phương xứ lẽ ra không được có nhiều voi ngựa, có việc gián cách, nếu chỗ ở có một cũng tức có dư, tại sao kia đây có thể biện sai khác? Lượng rằng, ở đây không ngăn cách một phương xứ chỗ có nhiều voi ngựa, chỗ ở một con voi lẽ ra các con ngựa cũng ở đó, chấp là một như chỗ ở của voi đây.
4. Luận ấy nói, hoặc cả hai tại sao có thể ở một xứ có chỗ đến chưa đến chặng giữa thấy rỗng. Lượng rằng, không có ngăn cách một xứ, voi ngựa ở hai nơi, lẽ ra không được có chặng giữa rỗng không, vì chấp là một, như tay cầm hạt châu.
5. Luận ấy nói, lại lẽ ra cũng không có những vật nhỏ khó thấy như giọt nước, trùng nhỏ v.v..., nó và vật thô đồng một xứ, lượng lẽ ra đồng. Lượng rằng, nước, trùng nhỏ v.v... nương nước không chảy làm năng y, lẽ ra các lượng sở y đó chấp sở y là một, do như không cách một Phả-chica một sắc sở y.
Sớ: "Không nói đồng dị" đến "là tánh ấy".
Hiển bày có đồng dị, đã là tánh các pháp, cho nên luận nói v.v..., nếu luận nói có và đồng dị, không biết hai pháp đây là tánh các pháp.
Sớ: Lại v.v... đồng dị hiển loại sai khác.
Trừ các pháp khác như có, đồng dị, chẳng phải hiển loại sai khác, lại chẳng phải pháp tánh nên không đồng.
Hỏi: Số luận của bản tông không lập sáu câu, nay có đồng dị tại sao nói họ chấp?
Đáp: Họ tuy không lập riêng nghĩa sáu câu, pháp thể chẳng phải không, tức gọi là có, pháp có đồng dị gọi là tánh đồng dị, không đồng với Thắng luận. Có thuyết nói ba đức gọi là hữu tánh, hai mươi ba Đế gọi là tánh đồng dị.
Biện rằng: Chuẩn theo đây phá luận, hữu tánh không chỉ ở ba đức, nên luận kết rằng lại trái ba đức, thể của ngã v.v... khác cũng trái các pháp sai biệt của thế gian, nên biết hữu tánh thông hai mươi lăm Đế, hai mươi lăm Đế sai khác tức là đồng dị.
Sớ: "Lại ngã v.v..." đến "tướng sai biệt".
Nếu luận về thể của nó, hai mươi lăm Đế tức là tự tánh nên thể không sai khác, nếu căn cứ tướng mà nói thì hai mươi lăm Đế sai khác. Nay đứng về tướng cũng là sở phá, ban đầu đứng về thể nên cả hai sai khác.
Sớ: "Trong đây sắc v.v..." đến "là lỗi bất định". Mười một loại đức và địa thủy hỏa, đều là cảnh của mắt. Nếu không như nhau thì có lỗi bất định. Lỗi bất định nói, sắc mà họ nói là như thanh v.v... chẳng phải sắc tánh, cho nên chẳng phải là cảnh của mắt, vì như số v.v... chẳng phải sắc tánh nên là cảnh của mắt.
Sớ: Như chung cùng cho nên chẳng phải một v.v...
Đây xen nói thêm, nếu thuận nói là chung cùng nên chẳng phải khác, tức sai khác, chẳng phải một. Biện rằng: Hoặc chỉ như sớ cũng không xen thêm, nói chung cùng chẳng phải một, có tánh đồng dị cùng tất cả pháp mà chẳng phải là một, giống như cộng tướng, cùng pháp sở tướng mà chẳng phải là một, giả thật năng sở các thứ khác. Nói khác mà chẳng phải khác, tánh có tánh đồng dị khác với sở hữu của nó, ngoài pháp khác mà không có tự thể, thể tức là nó nên gọi là không khác, tương tợ như tất cả cộng tướng trong Phật pháp, nên nói như chung cùng.
Có thuyết nói, do không khác nói gì là một, nghĩa sai biệt nên lại nói cũng khác, như trong tông lấy sóng nước làm dụ, đại ý đồng với sớ.
Sớ: Đều không nói vì không có chỗ nêu bày.
Hễ nói không có con, tức biết là gái đá, đâu cần nói lại không có người nữ.
Sớ: Lại đây nói biểu tức đồng với chấp thứ hai. Trong chấp thứ tư có bốn câu phá, biểu đồng với thứ nhất không đều chẳng phải vặn hỏi, ngăn đồng với thứ hai không có vặn hỏi sở chấp.
Hỏi: Lại như trong Đại thừa trên tất cả sắc có tánh chất ngại, đây gọi là hữu tánh, sắc pháp tức có chẳng phải sắc pháp không gọi là tánh đồng dị, hai tánh đây cùng với các pháp sắc cũng được gọi là cũng một cũng khác, chẳng phải một chẳng phải khác, lại đồng với ngoại đạo tại sao phá họ?
Đáp: Tông nghĩa Đại thừa giả danh thi thiết, chẳng phải ngoại thức thật, mê ngộ có khác. Do ngộ đây nên bốn câu đều đúng, nếu mê là bốn câu đều sai, nên không đồng với họ.
Hỏi: Nay do bốn câu phá tông ngoại đạo kia, chánh nghĩa Đại thừa thuộc về câu nào?
Đáp: Chánh pháp Đại thừa chẳng phải nằm trong bốn câu, không thể nói vì không có định tánh. Biện rằng: Nếu đồng ngoại chấp một câu cũng chẳng phải, nếu nương giả mà nói thì có cả bốn câu, đâu có lỗi gì? Lại cùng mong nhau mà được thành bốn câu, nên hiểu như trước.
Sớ: Nay nói lìa thức lựa chọn lỗi trái tông.
Hỏi: Giả sử nói khác thức, đâu có trái tông?
Đáp: Trong tông Đại thừa sắc của thức khác không phải không có.
Sớ: Hơi tương cận v.v...
Tương tợ gọi là cận, Đại thừa Tiểu thừa đều nói tâm là năng thủ, tâm tức là thức. Có thuyết nói, thể tức là thức nên bàn tâm vương ấy, hơi tương cận nên nói tâm sở kia.
Biện rằng: Đây chưa chắc đúng, ý nào tâm sở chỉ gọi là tương cận? Nếu tợ gọi là cận, vì sao không bao gồm tâm? Cận tâm vương gọi là cận cảnh, lại càng gần hơn, sao trước bèn phá? Hoặc căn cứ một bên nghĩa ắt thông, nhưng thành phiền toái.
Sớ: Đối có ba loại.
Hỏi: Đối là nghĩa gì?
Đáp: Là ngại.
Ngại có hai nghĩa: Một là chướng ngại gọi là ngại, hai là câu ngại gọi là ngại, ba là trong hữu đối chướng ngại hữu đối. Chướng ngại gọi là ngại, sở duyên cảnh giới, câu ngại gọi là ngại.
Sớ: Cảnh giới hữu đối v.v...
Nhưng cảnh câu ngại năng chiếu căn, thức có nhiều sai biệt, cho nên Thi Thiết luận nói như vầy: Có mắt đối với nước có ngại chẳng phải đất liền, như mắt của cá v.v...; có mắt đối với đất liền có ngại chẳng phải nước, từ nhiều phần nói như mắt người v.v...; có mắt đều ngại, như mắt của Tất-xágiá, Thất-thú-ma-la v.v...; có đều không ngại, nghĩa là trừ tướng trước; có mắt đối với đêm có ngại chẳng phải ban ngày, như mắt chim cú v.v...; có mắt đối với ngày có ngại chẳng phải ban đêm, từ nhiều phần thuyết như mắt của người v.v...; có mắt đều ngại, như các mắt của dã can v.v...; có mắt đều không ngại, nghĩa là trừ tướng trước, giải thích Thi Thiết luận là một trong Lục Túc do Đại Ca-nadiễn-na tạo. Tất-xá-giá là Hán dịch là Thực huyết nhục, là tên khác của quỷ. Thất-thú-ma-la là loài bàng sinh, thân hình giống như ấu trùng của loài rùa vàng, nhỏ thì hai trượng, lớn thì một trăm thước. Đều không ngại, tức là những người mù.
Hỏi: Căn, thức đều có thể duyên chiếu tự cảnh, sao gọi là ngại?
Đáp: Chỉ vì tự cảnh câu tự căn thức, không khiến đối với các cảnh v.v... chuyển, hoặc khi tự cảnh v.v... hòa hợp chuyển, đối với các cảnh khác không được khởi nên gọi là ngại. Cho nên trong Câu-xá luận ghi: Tại sao nhãn v.v... lúc đối với tự cảnh giới sở duyên chuyển gọi là hữu đối? Vượt khỏi nó, ngoài ra ở đây không chuyển. Hoặc lại ngại là nghĩa hòa hợp, nghĩa là nhãn v.v... các pháp đối với tự cảnh giới và tự sở duyên hòa hợp chuyển. Giải thích rằng, cùng hỏi cùng đáp, cảnh giới sở duyên cả hai hữu đối, trong giải thích có hai, đều do câu ngại gọi là ngại.
Sớ: "Tâm tâm sở pháp" đến "gọi là sở duyên".
Hiển bày sở duyên hữu đối, chấp còn suy nghĩ nương gá, tâm tâm sở pháp tánh nó yếu kém, chẳng phải cảnh không sinh, giống như người yếu không có gậy không đứng dậy được, cho nên cảnh ấy là tâm sở lự, gọi là sở duyên. Đây căn cứ hữu duyên dụng của nó mới khởi, chẳng phải ắt chánh khởi cho nên tâm quá khứ, vị lai cũng gọi hữu đối, ngại duyên cảnh dụng gọi là sở duyên đối.
Sớ: Nếu đối với pháp ấy v.v...
Hiển cảnh giới đối, đối với sắc kia, nhãn nhĩ này có công năng thủ cảnh thấy nghe v.v... nói sắc này là cảnh của nhãn v.v..., công năng sở thác gọi là cảnh giới, như người đối cảnh có công năng thù thắng, liền nói nó là cảnh giới của ngã, đây đứng về có công năng, chẳng cần khởi dụng nên cảnh đồng phần vẫn gọi là hữu đối, ngại thủ dụng của cảnh gọi là cảnh giới đối.
Hỏi: Thủ và duyên có gì khác?
Đáp: Thủ nghĩa là chiếu soi, duyên nghĩa là duyên lự, nên hai pháp sai khác.
Lại trong Câu-xá luận liệu giản câu và số rằng: Nếu cảnh giới pháp hữu đối cũng chướng ngại hữu đối ư? Nên làm bốn câu, nghĩa là bảy tâm giới, pháp giới một phần các pháp tương ưng là câu thứ nhất, sắc v.v... năm cảnh là câu thứ hai, nhãn v.v... năm căn là câu thứ ba, một phần pháp giới chẳng phải pháp tương ưng là câu thứ tư. Nếu pháp cảnh giới hữu đối cũng sở duyên hữu đối ư? Lẽ ra thuận câu sau?
Đáp: Nghĩa là như sở duyên hữu đối nhất định là cảnh giới hữu đối, tuy cảnh giới hữu đối mà chẳng phải sở duyên hữu đối, nghĩa là nhãn v.v... năm căn.
Sớ: "Nhưng Kinh bộ" đến "mười chỗ sở nhiếp". Cũng như Đại thừa mười tám giới, Thức thứ sau, thứ tám duyên làm cảnh đối căn hợp pháp xứ nhiếp, từ sở sinh hiện mười tám giới, đây cũng tương tợ.
Sớ: "Chánh Lý luận" đến "vì riêng có sắc".
Hỏi: Hữu bộ cũng vậy, sao lại tranh cãi?
Đáp: Chánh lý vặn hỏi ý ngã thô tế thật, có thể tế từ thô ở mười chỗ, thô của ông đã giả, tại sao thật tế từ giả mười xứ chẳng phải pháp xứ? Ý của
Kinh bộ nói, tuy giả thật sai khác tùy chỗ thành thô ở mười chỗ chẳng phải pháp xứ nhiếp nên có tranh cãi.
Sớ: Trong Tát-bà-đa v.v... thô tế đều thật.
Thuyết xuất thế và Thuyết giả bộ. Thuyết giả bộ chấp uẩn môn đều thật. Thuyết xuất thế nói xuất thế đều thật, nên sắc thô tế ở uẩn, xuất thế ắt đều là thật, nên sớ v.v... nói "vân vân". Hai tông đây đều là phần nhỏ, bộ khác hoàn toàn đồng, hoặc lại hoàn toàn khác, cho nên không đồng.
Sớ: Năm căn v.v... cũng nhiếp ở trong đó. Hỏi:
Lượng đây đối với ai?
Đáp: Lược làm ba giải thích:
1. Đối với Hữu bộ, năm căn cảnh v.v... nhiếp nhập trong tông nên không có bất định, nếu với Kinh bộ có lỗi tương phù. Kinh bộ căn v.v... đều là giả, tuy phá năng thành để ngăn bất định, bao gồm phá căn v.v... cũng không có lỗi.
2. Đối với Kinh bộ, năm căn, cảnh v.v... nhiếp nhập đồng dụ, ý luận chỉ phá vi năng thành.
3. Nhưng phá hai tông, nhưng riêng làm lượng, nếu dùng một lượng phá hai tông tiến thoái có lỗi, suy nghĩ có thể biết, nghĩa thứ ba đủ, hai lý trước thông.
Sớ: "Vô vi" đến "không có bất định".
Chẳng phải sắc dụ nói nhiếp Vô vi v.v... Vô vi không ngại, không thành y v.v... nên vào đồng ở trong, cho nên trong luận không được làm bất định.
Sớ: Hai lượng đây phá Kinh bộ.
Biện rằng: Do bài xích tông pháp mà làm nhân kia thành chẳng phải thật có, thông ba lượng trước cũng nên không có lỗi, đã thành tông pháp vì được làm nhân.
Sớ: Cực vi có phương phần, lý lẽ ra không thành một.
Dùng một cực vi đối sáu phương diện gọi là có phương phần, đã có sáu phương sở đối không đồng, vi năng đối tại sao một thể? Nên lập lượng rằng, sở chấp cực vi thể lẽ ra chẳng phải một vì có thể phân tích, vì có phương phần, như các sắc thô.
Sớ: Không đúng, nhân có tùy theo không thành. Nếu dùng văn đây đối Kinh bộ, không có phương phần nhân lại thành tùy một, Kinh bộ không thừa nhận vì không phương phần.
Sớ: Làm lượng đồng với trước.
Đồng với trước nương ánh sáng phát lượng trong bóng, vặn hỏi cực vi kia khiến có phương phần.
Sớ: Tụ lẽ ra như cực vi.
Một chỗ cực vi nếu có sáu vi, lẽ ra các sắc tụ như lượng cực vi, triển chuyển đến nhau lượng không có lỗi thì phải tụ sắc cũng không có thể thấy. Sớ: Xúc cùng không xúc đều nên có phần.
Nếu xúc thì tương đối ngại, lý có phương phần, giả sử không xúc chạm, suy nghĩ phải sáu phương cũng phải có phần, nếu không như vậy sao gọi là đối sắc?
Sớ: Tụ không khác, không hai.
Tụ không khác là nêu lại Hữu tông chống chế, tụ sắc cùng vi mà không khác. Nói không hai, ngài Thiên Thân vặn hỏi họ, tụ sắc lẽ ra không ảnh và chướng, pháp tức cực vi, cũng như cực vi.
Sớ: Đây kết lỗi.
Đã phá cực vi chẳng phải thật có, đã thành lượng trước rằng: Sắc hữu đối bên ngoài nhất định chẳng phải thật có, nhân đó không có lỗi.
Sớ: Đây chẳng phải tha tâm v.v... các cảnh.
Tha tâm trí chỉ duyên tha tâm không duyên căn, vả lại y phàm phu, sáu thức tán tâm không được, Thức thứ sáu tuy duyên nhưng chẳng phải hiện được, nên ắt trừ, lý thaửca các bậc Thánh khác chẳng phải nhất định sáu thức cũng không được, trong nhân của Thức thứ bảy kia tự tha đều không duyên căn, quả tha không thừa nhận nên cũng không lựa chọn.
Luận: Do năng phát thức so sánh biết là có. Sơ lược nói so sánh biết lược có bốn loại:
1. Dùng nhân so sánh quả, như quán hiện pháp có dẫn dụng ở sau biết quả sở dẫn.
2. Dùng quả so sánh nhân, tức quán hiện pháp có đáp nghĩa trước biết nhân năng dẫn.
Dùng thể so sánh dụng, quán pháp sở thành mà biết tác giả, tác cụ sai khác.
Dùng dụng so sánh thể, quán tác giả v.v... biết pháp sở thành. Nay luận đã nói dùng quả biết nhân, do dụng so sánh thể.
Luận: Sắc hữu đối bên ngoài lý không thành v.v...
Trong luận ý nói năm căn chỉ là nội thức biến hiện vì ở sau tự nói năm trần cảnh. Nhưng hữu đối nói và nội thức biến nghĩa bao gồm căn cảnh. Sớ chủ nhân nêu bày các tông năm trần, không nói văn đây là rõ trần, nên tổng kết rằng: Hữu đối ngoài tâm trước đã ngăn phá, nên các căn đây chỉ là sở biến hiện của nội thức.
Hỏi: Nếu vậy vì sao dẫn nghĩa tụng quán sở duyên duyên mà dùng làm chứng?
Đáp: Ý lấy thức biến một bên làm chứng, có nghĩa phá rằng: Sớ nói ở đây nói cảnh sở duyên là thức sở biến chẳng phải vi bên ngoài thành, nay không y nơi đây, nếu đã hiển cảnh là nội thức biến, vì sao kế sau lại nói nhãn v.v... sở duyên duyên lý chẳng phải có ư? Đủ biết văn đây chỉ hiển năm căn là thức sở biến.
Biện rằng: Bàn luận sao dễ dàng mà thấy riêng bài xích, trong sớ tại sao có thuyết nói đây nói sở duyên đâu không tự thêm? Lại khoa trước trong sớ phân rõ tự chỉ rõ căn cảnh v.v... sai khác, rõ ràng sớ không lầm, phải tìm xét kỹ.
Sớ: Do có quá khứ năm thức tướng phần làm năm trần.
Năm thức sở biến tướng phần ở đời quá khứ huân thành hiện hành đời sau, nay làm cảnh của thức, nên luận Quán Sở Duyên ghi: "Hoặc tướng thức trước làm duyên thức sau", dẫn sinh trong bản thức tợ công năng tự quả khiến khởi, vì không trái lý.
Sớ: Không thấy hương vị thông với giả.
Tuy không rõ văn, theo lý mà nói cũng được có giả, như hòa hợp hương có thể thừa nhận là giả, cho nên trong luận Du-già quyển 54 ghi: "Trong hư không, trong phong không có câu sinh hương". Chỉ có giả hợp, đã nói giả hợp thì biết rõ là giả, trong vị ắt có vị hòa hợp, loại hương thông giả.
Sớ: Nghĩa là từng hiện thấy sắc v.v...
Thích luận giải thích rằng: Từng thấy sắc, nghĩa là năng trì thức quá khứ thọ dụng nghĩa hiển giới tánh. Hiện thấy sắc, nghĩa là năng trì thức hiện tại thọ dụng nghĩa để hiển giới tánh.
Giải thích rằng: Thọ là thủ, tức giải thích hiện thấy trước. Nghĩa là cảnh, tức sắc trước do năng trì thức căn mới thủ cảnh, nên nêu sở trì để biết rõ giới, đây chỉ nói giới, giới nghĩa là năng trì, không nói nghĩa của nhãn, hoặc trì thức là hiển bày nghĩa giới kia, nghĩa của thọ dụng là nói nghĩa của nhãn kia.
Sớ: Và chủng tử đây.
Thích luận cho rằng, nghĩa là chủng tử nhãn hoặc chỉ có tích tụ là dẫn nhãn đương lai, hoặc đã thành tựu, vì sinh nhãn căn hiện tại.
Giải thích rằng: Do chủng tử này hay sinh nhãn căn hiện hành của hai đời, nhân nhãn căn cho nên cũng gọi là nhãn giới, nên luận ấy ghi: Nên hai loại đây gọi là nhãn giới, vì nhãn sinh nhân, nhãn chủng hai đời gọi là hai chủng, nhân nghĩa gọi là giới, tổng lấy hai nghĩa trì và nhân gọi là giới. Nhưng luận Du-già quyển 56 có sáu nghĩa gọi là giới, sợ dài dòng nên không chép đủ, các căn khác chuẩn theo đây.
Sớ: Do khi bản huân v.v...
Căn thật chỉ có chủng, do khi huân chủng tâm biến tợ sắc, Đối Pháp căn cứ khi huân này tương tợ sắc gọi là hiện sắc, các căn khác cũng vậy.
Sớ: Quả thức của đối sở sinh v.v...
Quả pháp năng sinh gọi là công năng, sắc căn hiện hành năng sinh quả thức, căn cứ giả thuyết này hiện hành sắc căn gọi là công năng, công năng tức là tên khác của chủng tử.
Sớ: Công năng sinh thức v.v...
Đại thừa Tiểu thừa đều thừa nhận căn gọi là công năng, sở dĩ luận nói phát nhãn v.v... thức gọi là nhãn v.v... căn, nêu công năng hiển bày, do thể có tranh cãi nên luận không đưa ra thể của căn.
Biện rằng: Chỉ có hiện gia hiểu ý luận sở duyên gọi là công năng. Luận nói công năng căn cứ thuyết cực thành, tuy thật hiện sắc là nhãn v.v... căn do không cực thành nên luận không nói.
Sớ: "Ở sau phá sở duyên duyên" đến "thứ ba kết nghĩa chánh".
Biện rằng: Xét trong văn sau, đoạn kết quy về nghĩa chánh, chính là đoạn văn lớn thứ ba tổng phá trong hữu đối sắc, trừ ở đây lại không có chỗ quy về chánh nghĩa. Sau phá Hữu bộ, tuy kết lại rằng: Thừa nhận có cực vi cũng gây ra lỗi đây, nhưng không có chỗ kết quy về chánh nghĩa. Theo lý nên nói rằng, sau tổng kết tức là lại nói thừa nhận có văn của cực vi v.v... Hoặc có thể, văn nói huống gì không có chân thật cực vi ngoài thức, tức chánh nghĩa.
Sớ: "Người ngoài chấp tha thân tâm" đến "nên nay phủ nhận nó".
Có nghĩa đây cũng không đúng, văn luận chỉ phá hữu đối thật sắc không phá tâm, lại lý chẳng phải có, trước chỉ văn phá, trước chỉ phá sắc vì không phá tâm, chỉ nói nghĩa lại tổng nêu tông, chẳng phải ý văn, tức không có lỗi.
Biện rằng: Tuy bản ý phá hữu đối bên ngoại, luận nay dùng sở duyên duyên kia phá, sở duyên duyên rộng, nghĩa hữu đối hẹp, do rộng thành hẹp phá tha tâm v.v... chẳng phải tự thân duyên, đây có lỗi gì? Nếu không thừa nhận, tức luận đây nêu sở duyên duyên để nói, nghĩa nhiếp không hết lại có lỗi bất định, họ thừa nhận tha tâm tuy là sở duyên chẳng phải tự thức biến, là vì từ ngoài, nên biết luận bao quát tất cả sở duyên duyên, không được nói chẳng phải ý văn. Lại ý sớ nói: Tha tâm, tâm v.v... chẳng phải tự thân duyên, chẳng phải sở duyên, không bài xích nghĩa của tâm, vì sao vặn hỏi rằng: Luận chỉ phá sắc không phá tâm? Vặn hỏi đánh mất ý chỉ của sớ, đắc luận huyền diệu, sớ thật có thể xem.
Sớ: Các hàng Dự lưu v.v...
Trong khoảng một sát-na thọ v.v... tâm sở lại có thể tự duyên.
Hỏi: Vì sao chỉ riêng Sơ quả?
Đáp: Tất cả đều được, phàm phu không rõ, cho nên không nói, Dự lưu là Thánh quả đầu tiên nên nêu để ví dụ các quả khác.
Sớ: Đây tức tổng nêu cùng thừa nhận nghĩa sở duyên duyên.
Có nghĩa bài xích rằng: Nếu tổng nêu cùng thừa nhận sao gọi là ông chấp? Lại nghĩa tự tông đoạn trước đã nói, đâu cần nói lại, nay biện thân duyên, lẽ nào trong Đại thừa hay dẫn tự thức là sở dẫn thân sở duyên duyên này?
Biện rằng: Sở duyên duyên là cảnh sinh thức, danh nghĩa đây Đại thừa Tiểu thừa cùng thừa nhận, gọi đó là cộng, chẳng phải nói duyên thể tánh đây sai khác, tất cả dẫn đồng gọi là cộng. Cũng như Nhân Minh nghĩa cộng tỷ lượng mà chỗ tranh cãi tông thật không đồng. Trước nêu sở duyên nói rõ là tự thức biến, chưa rõ nghĩa nào gọi là sở duyên duyên? Nay lập cùng thừa nhận trong sở duyên duyên tha thừa nhận nghĩa nói chấp nào có trái?
Vặn hỏi dẫn tự thức nêu bày đủ biết đây sai.
Sớ: "Pháp ắt có tự thể" đến "là sở duyên".
Có nghĩa tợ cảnh tướng kia chẳng phải là sở duyên, thuộc về năng duyên nên nói tợ, cảnh gọi là sở duyên ắt không đúng lý.
Biện rằng: Đây bởi tợ phá, ở trong không có lỗi vọng sinh lỗi. Sớ bàn ý kia, trên thức ắt có tướng tợ cảnh, cảnh của sắc ấy v.v... mới gọi là sở duyên, nếu không như vậy liền trái, vì sao? Năng duyên không có nó vì lấy dụng của cảnh. Lại như khi nhãn thức duyên sắc, trên thức nếu không có tướng tợ cảnh, sắc cảnh gọi là nhãn sở duyên, sắc ắt là nhĩ thức sở duyên, nhĩ thức cũng không có tướng tợ sắc, nếu không như vậy tỷ lượng trái nhau. Nếu thừa nhận như vậy có lỗi tạp loạn, do đây cần phải có tướng tợ cảnh, nhưng văn giản lược mà nghĩa rườm rà, cần phải đọc nhiều và suy xét kỹ, mới tỏ ngộ ý chỉ thâm sâu, trong sớ không quyết đoán vì tướng tợ cảnh thuộc về sở duyên. Lại trong sớ nói tiếp: Tướng tợ cảnh ấy tức là hành tướng Đại thừa
Tiểu thừa sai khác, giải thích bốn phần xứ ắt tự rõ.
Sớ: Nay lấy làm dụ, ý lấy ít phần.
Nhưng lấy chẳng phải duyên một phần làm dụ, gọi là ít phần.
Sớ: Do năm thức là hữu pháp gồm thâu v.v... Không có lỗi, như trong Nghĩa Đăng chép đủ.
Hỏi: Vốn thành hòa hợp chẳng phải năm thức duyên, nay ý ở trong pháp, năm ở trong hữu pháp, bèn thành hòa hợp chẳng phải là ý duyên, liên quan gì đến năm thức, nếu vậy vì sao trong tụng nói năm thức?
Đáp: Năm thức tuy hữu pháp cũng gọi là sở lập, cho nên như trong luận Du-già ghi: Vì sao sở lập có hai, đó là tự tánh và sai biệt? Lý môn cũng nói, chỉ do pháp cho nên thành ở pháp, như vậy thành lập hữu pháp.
Hỏi: Trong pháp nói lập, rõ chẳng phải thật thừa nhận trên mặt trăng thứ hai lập năm sở duyên, lý rốt cuộc có lỗi gì mà ở trong pháp phải trừ năm? Đáp: Họ thừa nhận tự trái dù họ gọi là lập, họ vốn không thừa nhận làm sao gọi là lập.
Biện rằng: Xem khắp các kinh điển lập có hai đường:
1. Họ thừa nhận tự tông không thừa nhận có lập.
2. Tự tha tuy tổng không thừa nhận vì có chỗ tranh đoạt giả, giả sử họ cũng nói lập, tức nhiếp
Đại thừa lập thừa nhận Kinh bộ nói sắc tâm cùng làm nghĩa Vô gián duyên, như ở sau sẽ rõ. Mặt trăng thứ hai dụ tha tuy không thừa nhận là năm sở duyên, vì đoạt ở duyên, giả sử thừa nhận sở duyên, lý cũng đâu có lỗi, vì đồng Nhiếp luận. Nếu chuẩn theo lý đây, bài tụng năm thức kia đối với pháp lẽ ra cũng không có lỗi, cần phải xét kỹ.
Sớ: Cũng chẳng phải pháp tánh v.v...
Tánh là thể, vì không có thật thể nên gọi là chẳng phải pháp tánh.
Sớ: Nghĩa cần phải thêm bớt.
Hoặc có sớ nói không cần thêm bớt, lược làm hai giải thích:
1. Nghĩa là đúng, chữ "chẳng" là sai, nhưng cảnh hữu vô tuy đều là sở duyên, nhưng ý sở duyên chẳng phải cảnh năm thức, căn cứ nghĩa mà nói cần phải thêm bớt, chẳng phải văn không đúng cần phải thêm bớt.
2. Chữ "chẳng" là đúng, nghĩa nói lầm, văn ấy đã đúng. Trong giải thứ nhất không cần bớt năm chữ "năm thức lập sở duyên", chỉ như ban đầu làm năm ở trong hữu pháp, tức không có lỗi. Hai giải thích đều thông, giải thích sau thuận hơn.
Sớ: "Nhưng xúc" đến "không đồng với dài".
Nhưng địa v.v... tăng thêm gọi là nhám, trơn v.v... không đồng với hình tướng đối lập là dài. Hỏi: Dài ngắn vì sao thuộc tụ và tập?
Đáp: Nếu nói về hình tướng tức tương đãi giả, căn cứ nhiều pháp thành gọi là tụ tập giả, cũng không trái nhau.
Sớ: Như mạng v.v...
Mạng căn của tông Đại thừa, thể là giả pháp, ý sở duyên duyên chứng tự năm thức duyên nội thức giả.
Sớ: Trên năm thức không có tướng cực vi kia như nhãn căn.
Hỏi: Nhân nói năm thức không có tướng cực vi, trên dụ nhãn thức không có căn tướng kia, căn cùng cực vi cả hai đã không đồng, làm sao năng lập ở dụ được chuyển?
Đáp: Chuẩn theo luận Sở duyên, trong nhân chỉ nói ở trên nhãn thức không có tướng kia cho nên lược cực vi mà nói, tức không có lỗi, do căn v.v... dụ năm thức cũng không có tướng kia.
Sớ: "Nếu họ chống chế rằng" đến "chuẩn theo lượng cũng vậy".
Biện rằng: Cũng có thể do lượng vặn hỏi vi ẩn tướng, lượng rằng lúc chưa hòa hợp, tướng hợp cũng nên hiển hiện, thể tức cực vi hòa hợp, như khi đã hòa hợp.
Sớ: Tuy có nhiều tướng.
Như trên một sắc có tướng khổ, vô thường, ái chẳng phải ái, nhẫn đến tất cả cực vi tròn v.v... cho nên gọi là nhiều, năm thức chỉ duyên sắc v.v... tự tướng nói một phần.
Luận: Có chấp sắc v.v... là sở duyên này.
Nghĩa của sư Chúng Hiền đủ như trong sớ nói. Lại luận Chánh Lý nói, sắc v.v... lúc cực vi tán chưa hòa hợp, đồng chẳng phải cảnh năm thức của Tỳ-bà-sa và sư Kinh bộ, do trên thức không có tướng cực vi, phần nhiều tụ tập triển chuyển mong nhau, mỗi mỗi cực vi có thô tướng sinh, phương, nhãn v.v... cảnh thức sở duyên, lại như bảy vi cộng tụ giúp nhau, mỗi mỗi đều có một thô tướng mà sinh lượng v.v... bảy vi, nhưng tướng thô đây duy hiện tại có, tuy là chất ngại xen nhau lưu nhập, như sắc sở tạo của Kinh bộ. Lại cùng nhân năng sinh tế cực vi ắt được đồng xứ, như trong Kinh bộ năng tạo sở tạo xen nhau lưu nhập, nên duyên thô tướng ắt duyên cực vi, do vi đồng xứ. Nhưng tướng hòa hợp tuy nói sinh, chẳng phải khác năng sinh riêng có thể tánh, chỉ là cực vi gốc không có thô tướng, nay hòa tập rồi, thể tuy không đổi, tướng chuyển thành thô, cho nên nói sinh, chẳng phải như bản chấp nhiều vi cộng tụ cộng thành một tướng.
Sớ: Hỏi: Nhãn duyên tâm, lý nào không đồng.
Ý vặn hỏi này cho rằng, như duyên tự tướng, lại biến tướng mới duyên, lại không biến tức năng duyên. Nếu chẳng biến thì liền đồng chánh lượng, chánh lượng duyên cảnh vì tướng chẳng biến, Hữu bộ duyên vi cũng vô tướng, còn lại chuẩn theo đây nên biết.
Luận: Nhưng lúc thức biến, chợt hiện một tướng v.v...
Hỏi: Vì sao sắc của đại không hợp vi thành mà chợt biến?
Đáp: Không thật cực vi năng sinh sắc thô, cho nên chợt biến, không do vi thành, cho nên luận Dugià quyển 3 nói, ở trong sắc tụ từng không có cực vi, nếu lúc từ tự chủng sinh chỉ có tụ tập sinh, hoặc nhỏ, hoặc vừa, hoặc lớn, lại chẳng phải cực vi tập thành sắc tụ, nên biết sắc thô nhưng lại chợt biến.
Sớ: Hình lượng lớn, thể là thật có.
Hỏi: Bình, chậu v.v... chợt biến cũng chẳng phải vi thành, vì sao gọi là giả.
Đáp: Có hai giải thích:
1. Bình, chậu v.v... tướng tuy thức chợt biến, nhưng chỉ là hình, nên gọi là giả. Nay nói sở duyên thức chợt biến vì ý hiển sắc, nên thật chẳng phải giả. Nói một tướng, lý thật là hình, nay dùng hình sắc nêu ở sắc tướng, ắt không trái.
2. Nói bình v.v... chợt biến chỉ là tướng bốn cảnh, nên bốn cảnh thật nói là bình v.v... nên gọi là giả, thuyết sau trội hơn.
Sớ: Sau như hối v.v...
Thể của hối tuy có si tăng thêm gọi là hối, đối đãi với không si nói si là hối.
Sớ: Chẳng phải như xanh v.v... đối đãi nhưng là thật.
Xanh đối vàng v.v... mà được tên xanh, nhưng không được nói tên xanh là vàng, như ngắn đối đãi dài, không những không được gọi đó là dài, ắt lại không được nhất định gọi là ngắn, cho nên không đồng các sắc hiển như xanh v.v...
Sớ: Không có riêng duyên giả.
Cần phải có thật duyên, không thể lìa thật mà riêng duyên giả.
Sớ: Chỉ có ý được.
Ý thức có thể được giả riêng kia.
Sớ: Gọi là duyên giả.
Chỉ nói duyên giả, năm thức ắt có năng duyên, nó nương phần vị xanh kia mà giả lập.
Sớ: "Nhưng y tha" đến "phân tích sắc mà nói".
Nhưng vi này là y tha, chỉ y thể của sắc được phân tích mà nói, thật thể của vi không đâu mà không nương tha.
Sớ: Do năm duyên nên Phật nói cực vi.
Xét luận ấy nói, kiến lập cực vi có năm lợi ích thù thắng, nghĩa là do phân tích một hợp tụ sắc an lập phương tiện, ở cảnh sở duyên liền có thể thanh tịnh rộng lớn tu tập, đây là lợi ích thù thắng thứ nhất. Lại có thể dần đoạn Tát-ca-da-kiến là lợi ích thứ hai. Như có thể dần đoạn Tát-ca-da-kiến, như vậy cũng có thể dần đoạn kiến mạn là lợi ích thứ ba. Lại có thể dần chế phục các triền phiền não là lợi ích thứ tư. Lại có thể mau chóng trừ bỏ các tướng là lợi ích thứ năm.
Giải thích:
1. Phá thường mà chứng vô thường.
2. Biết vô thường mà không chấp ngã v.v...
3. Đã vô ngã, ngã và kiêu mạn ắt có thể đoạn diệt.
4. Đoạn kiến mạn rồi ở cảnh giới ấy phục hoặc không khởi.
5. Do phục hoặc cho nên không lấy tướng hay trừ pháp chấp.
Hoặc năm lợi ích thù thắng tức ba giải thoát, hai loại đầu là Không giải thoát môn. Thứ ba, thứ tư là Vô nguyện giải thoát. Thứ năm tức Vô tướng môn, hành tướng dễ chuẩn theo.
Sớ: Lại không có tế phần.
Xét luận kia quyển 3 ghi: Nhưng sắc tụ có phần chẳng phải cực vi, vì sao? Do cực vi tức là phần, đây là tất cả tụ sắc, chẳng phải cực vi lại có cực vi khác, thế nên cực vi chẳng phải có phần.
Sớ: Chẳng phải cảnh của nhục nhãn, thiên nhãn v.v...
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Xét luận kia ghi: Do thiên nhãn kia chỉ lấy trong sắc tụ nêu trên dưới trước sau hai bên, dù sáng dù tối ắt không thể lấy xứ sở cực vi, do thể cực vi lấy tuệ phân tích mà kiến lập. Luận nêu thiên nhãn, nhục nhãn so sánh nên biết, nên không giải thích riêng, ba nhãn còn lại đều duyên cực vi.
Hỏi: Tuệ nhãn, pháp nhãn lấy gì làm thể năng quán cực vi?
Đáp: Lấy tuệ làm thể, nhưng Bản trí, Hậu trí phân làm hai giải thích:
1. Nói hai nhãn là Hậu đắc trí, tuệ nhãn quán không, Pháp nhãn quán hữu, hoặc hai loại nhãn cùng quán không, hữu.
Hỏi: Nếu vậy, không làm sao duyên vi?
Đáp: Duyên cực vi không, không trí được duyên.
2. Nói tuệ nhãn quán Như tức Căn bản trí, pháp nhãn quán Không tức Hậu đắc trí.
Hỏi: Nếu vậy, tuệ nhãn làm sao duyên vi?
Đáp: Duyên cực vi Như gọi là duyên cực vi.
Biện rằng: Nay y giải thích sau, vì có chỗ nương tựa. Đối Pháp luận rằng: Chân như chỉ là cảnh Thánh tuệ nhãn, nên biết tuệ nhãn mà duyên Chân như.
Hỏi: Thể của Phật nhãn thế nào?
Đáp: Có hai nghĩa:
1. Nhân khác pháp tuệ, quả bao gồm Phật nhãn, nên trong Trí Độ luận nói, cũng như bốn sông cho đến ao lớn tổng gọi là biển.
2. Vô phân biệt tuệ làm thể của nó, cùng tuệ pháp nhãn thể có sai khác, hoặc dùng đại bi gọi là Phật nhãn.
Biện rằng: Giải thích trước là chính, văn Trí Độ luận tự giải thích rõ ràng. Giải thích sau nghĩa đại bi cũng hạn cuộc.
Hỏi: Xét Trí Độ luận, bốn nhãn đến Phật tổng gọi là Phật nhãn, tại sao cực vi chẳng phải cảnh của nhục nhãn, thiên nhãn?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Tuy đến ngôi vị Phật cũng năng duyên vi, nhân vị thì không như vậy, không đồng tuệ pháp, nhân quả đều có thể dùng vi làm cảnh.
2. Nói Phật nhãn năng duyên, chỉ lấy một phần tuệ làm tánh, nhục nhãn thiên nhãn đến Phật tuy gọi Phật nhãn, do thể chẳng phải tuệ cho nên không duyên vi.
Giải thích sau là chính.
Hỏi: Cực vi Đại thừa lẽ nào không có bản chất? Đáp: Thánh giáo đã nói do giả tưởng tuệ phân tích kiến lập, thì làm gì có bản chất. Có nghĩa cực vi có hai: Một là bản tánh, hai là tướng ảnh tượng. Nói bản tánh là Phật, đại Bồ-tát dùng sức thần thông phá tan đại địa ấy mà làm cực vi nên gọi là bản tánh.
Hỏi: Các luận như Du-già v.v... chỉ nói tuệ phân tích lấy làm cực vi, đây tức là ảnh tượng, sao có bản chất?
Đáp: Đối địch trình bày tông lược nên không nói, vì hơi đồng bên ngoài, nên Thuận Chánh Lý quyển 32 ghi: "Cực vi có hai: Một là thật, hai là giả". Thật nghĩa là tự tướng cực thành sắc v.v..., ở vị hòa và tập hiện lượng sở đắc. Giả do phân tích tỷ lượng sở tri, sợ lẫn lộn hữu tông nên chỉ nói giả. Lý thật Đại thừa cũng có hai nhưng nói tụ sắc không có cực vi, cũng chuẩn theo đây biết, lẽ nào ở tự tông không có tế sắc ngại? Lại trong Đại thừa chẳng phải do tán vị tập thành tụ sắc, nói tụ sắc không chỉ tụ thành nghĩa vi không trái. Lại Bồ-tát v.v... khởi quán nước, biến các loại ở bản chất căn trần đều thành nước, lửa, vàng, bạc, tô v.v... đâu chỉ riêng vi quán, không thể biến bản chất nó thành vi. Nếu thừa nhận thành vi vì sao không thừa nhận có bản chất vi?
Hỏi: Đã có bản bản chất tại sao gọi là giả.
Đáp: Hơn nữa bản chất vi do Thức thứ tám sở biến, chẳng phải ngoài thức, cho nên không đồng tông khác, nên nói giả. Nhưng có chất ngại nên nói là thật, bản chất cực vi là tướng dị thục nên không huân thành chủng, ảnh tượng vi ấy chẳng phải như bản chất có dụng chất ngại nên nói là giả, tác sở duyên duyên sinh nhãn thức nên nói là thật có, tướng ảnh tượng vi huân thành chủng tử, nếu không như vậy thức sau không có ảnh tượng.
Hỏi: Các xứ như sắc v.v... thuộc về xứ nào?
Đáp: Chất và ảnh hai vi chỉ có pháp xứ thâu nhiếp, vì chỉ có cảnh của ý, lại cùng ảnh tượng đồng một chủng, chất mười xứ thâu nhiếp, ảnh ắt cũng như vậy.
Biện rằng: Xem lý sở đoạn thì phong phú, giáo thật diệu chứng, nay căn cứ tông Đại thừa trình bày thô sơ phải trái, bản tánh vi lược có năm lỗi:
1. Nghĩa không có bằng chứng, Đại pháp vương ngự thế, kẻ mê tự quyết trong lời vàng, Thượng sĩ phóng quang, người lầm đoạn nghi trong tiếng ngọc, tiếng ngọc truyền xa, có thể nhận lãnh mà phụng trì tự, vượt thoát tình thường vốn vốn dần dà không thể căn cứ được, nay nghĩa sở lập Thánh giáo lại không, muốn khiến học giả nương đâu mà tin nhập.
2. Lỗi trái Thánh giáo, xét trong Du-già quyển 54 ghi: Hỏi: Vì sao cực vi không sinh không diệt?
Đáp: Do các tụ sắc lúc đầu tiên sinh toàn phần mà sinh, lúc rốt sau diệt không đến khoảng giữa vị cực vi đều diệt, cũng giọt nước.
Lại do năm pháp tương ưng mà biết, gọi là không như lý tư nghì cực vi, nghĩa là trong sắc tụ có tự tánh cực vi mà trụ, hoặc có sinh diệt, hoặc nói cực vi cùng cực vi hoặc hợp hoặc tán, hoặc nói các sắc cực vi tích tập, hoặc nói cực vi hay sinh biệt dị rất nhiều sắc tụ. Lại luận Hiển Dương quyển 18 ghi: "Nghĩa là các cực vi chỉ nhờ giả tưởng lập, tự thể thật không có", nếu nói Hữu vi, đâu không trái các Thánh giáo trên? Nếu nói giáo trước căn cứ không tán vi thành tụ sắc v.v... gọi là không có cực vi, không chướng ngại chia chẻ thô thành vi, đây chẳng phải khéo chống chế. Chia chẻ vi thô tức diệt sau cùng, vì sao chẳng phải có diệt? Đây đã chia chẻ vi sau hợp thành thô, vì sao không gọi là sinh? Lẽ nào là chỗ phân tích vi hằng không hợp ư? Lại trong sắc tụ tức có hai phần, đại Thánh phân tích tự tánh cực vi lại chia chẻ vi, lại mong nhau cũng có hợp tán, sắc lượng cũng có vi lượng tích tập cũng gọi là biệt sinh các tụ. Tại sao ý Du-già tổng phán phân gọi là vô sinh vô diệt không như lý mà suy nghĩ? Lại chỗ chia chẻ là thể đã chẳng phải không, các luận tại sao phán phân thể không thật chỉ giả tưởng lập? Nếu nói các luận đối địch trình bày tông sợ lẫn lộn ý ngoài nên lược không nói, cũng chẳng phải thành chống chế, tự thừa nhận thật vi vốn không nói, làm sao gọi là trình bày tông? Đã thừa nhận giả thật hai loại câu cực vi, đâu riêng nói giả tức trình bày tông? Lại vi tự thừa nhận sợ lẫn lộn không nói, ba khoa họ có rõ ràng nên sợ lẫn lộn Đại thừa nên không nói. Nếu nói ba khoa đồng cho nên nói, cũng không thể được. Nếu căn cứ gọi là đồng thì cực vi cũng vậy. Nếu đứng về thể mà nói, Tiểu thừa Đại thừa thể tánh ba khoa giả thật các loại cũng khác, làm sao gọi là đồng? Lại bản chất vi do Thức thứ tám sở biến, chẳng phải ngoài thức, nên gọi là giả, tức căn trần v.v... Thức thứ tám thân duyên đều gọi là giả, nhãn v.v... năm thức thân sở duyên loại cũng như vậy, vì chẳng phải ngoài thức. Những điều này không, vì sao họ nói như vậy? Nên biết vốn không có cho nên giáo không nói.
Hỏi: Lẽ nào Phật Bồ-tát không thể chia chẻ thô làm cực vi? Đáp: Cũng không thể phân tích đến cực vi, cho nên Du-già ghi:
Không đến cực vi, chặng giữa đều diệt, cũng như giọt nước.
Giải thích nhẫn đến thần thông phân tán tụ sắc mà diệt thô kia, thô cũng không đến cực vi, chặng giữa diệt tận, cũng như gọt nước, từ lớn đến nhỏ cũng không được đến vị cực vi, vì sao như vậy? Do trong tụ sắc không có tánh cực vi, như Phật Bồtát phân tích thô thành vi, giáo cũng nên nói, giáo đã không nói là không có ý sao?
3. Giả sử có lỗi không huân, dù Phật Bồ-tát phân tích thô thành vi, vi đây sáu thức của Bồ-tát duyên chăng? Nếu không duyên, đã từ Thức thứ sáu quán tâm sở phân tích, đâu được không duyên? Vị thức tự tại các căn hỗ dụng, chỗ chia chẻ vi đã thừa nhận thật sắc, tại sao không duyên? Nếu nói duyên tại sao không huân chủng? Vì quả chưa mãn, nên không nên nói bản chất cực vi tướng dị thục nên không huân thành chủng. Nếu nói dị thục không huân thành chủng, không chướng sáu thức khác huân thành chủng, tại sao không nói? Nếu nói dễ biết cho nên không nói, dị thục không huân thì ai mà không tỏ ngộ, tại sao cần phải nói?
4. Lỗi không có nhân chủng đồng: Nếu chất ảnh vi đều huân thành chủng, dễ dàng được ảnh chất hai vi chủng đồng, tự đoạn ảnh huân mà chất không huân, nhân vì sao không được hai vi đồng chủng? Nếu nói chất vi tuy không mới huân mà có bản hữu cùng ảnh đồng chủng, lý cũng không được. Nhân Phật Bồ-tát chia chẻ mà mới lập làm sao gọi là bản hữu? Nên không được nói bản ảnh đồng chủng.
5. Lỗi giả thật chủng đồng: Giả sử vi của chất ảnh cùng đồng một loại, ảnh giả chất thật, thật giả không đồng tại sao chủng đồng? Hoặc thừa nhận như vậy thì tâm sắc v.v... khác, lẽ ra đều đồng chủng. Thừa nhận tức trái giáo, không thừa nhận thì trái lý.
Do năm lỗi đây lập bản chất vi rất khó nương, nếu ảnh tượng vi thừa nhận huân chủng là lỗi cũng nhiều loại, rộng như trong Nghĩa Đăng giải thích rõ.
Sớ: Nghĩa đây tuy thông v.v...
Y chỉ danh thân thông các căn, nhưng thân căn thù thắng được gọi chung là thân, các lập khác là biệt xưng.
Sớ: "Trước đã phá biểu" đến "nay lại phá vô biểu".
Trước phá đối sắc, biểu cũng ở trong mà đã phá xong, nay vì người ngoài ở trong tổng sắc riêng chấp biểu thật, nên lại phá. Phá biểu khiến không còn, gọi là phá vô biểu, không phải phá sắc vô biểu ấy gọi là phá vô biểu.
Luận: Nếu nói là hình v.v...
Họ lấy một phần hình sắc của tông thân mà có thể nêu bày tâm tự phát nghiệp, nên nói hình sắc gọi là thân biểu. nghiệp do thân tạo gọi là thân nghiệp. Cho nên trong luận Thành Nghiệp ghi: Trong đây có thuyết lại thân biểu nghiệp hình sắc làm tánh, nghĩa là thân hình sắc, nếu thân hình sắc, vì sao trước nói chỗ thân tạo nghiệp nên gọi là thân nghiệp? Nghĩa là tổng danh thân một phần nhiếp nên gọi là thân hình sắc. Nương thân đại chủng mà phát sinh nên gọi là thân sở tạo. Do tổng thân nói đối với biệt cũng chuyển, năng biểu đây chỉ bày tâm tự phát nghiệp khiến họ biết, vì hiển bày nghĩa đây nên nói bài tụng rằng: "Do ngoài phát thân ngữ, biểu sở tư trong tâm, thí như cá vực sâu, sóng nổi tự ngoi lên". Hình sắc là thế nào? Nghĩa là tánh dài v.v... Cái gì gọi là dài? Nghĩa là đối với nó sinh dài, gọi là tưởng, đây thuộc về sắc xứ.
Luận: Nếu nói là động.
Động nghĩa là hành động, hành động tức là thuộc về sắc xứ, cho nên luận Thành Nghiệp ghi: Có thuyết nói thân biểu lấy hành động làm tánh. Sao gọi là hành động? Nghĩa là chuyển đến phương khác. Nó thuộc về xứ nào? Nghĩa là thuộc về sắc xứ. Do đâu biết nó chuyển đến phương khác? Nghĩa là tướng sai biệt không thể biết.
Giải thích rằng: Đã là tướng sai biệt nên biết có động đến phương khác. Câu-xá cũng nói, động gọi là thân biểu, vì khi thân động là do nghiệp động.
Sớ: Tuy tự tông kia không có lỗi bất định.
Biện rằng: Hoặc có thể trong nhân do nói để lựa chọn, lẽ ra nên nói trừ sắc tâm v.v... là Hữu vi, hoặc sắc tâm v.v... nhiếp nhập trong tông, đều không có bất định. Tuy vốn phá động, vì ngăn bất động bao gồm phá sắc tâm khiến sát-na diệt, trái họ thuận mình, cũng không có lỗi.
Sớ: Nghĩa là diệt rồi lại sinh đến không có bất định.
Biện rằng: Trụ không sinh lại, nhân của đãi nhân trụ được chuyển, lý nào mà không được thành bất định? Nếu trụ phi diệt phi bất định, luận về bất định, chỉ đối với tông pháp, diệt đã hữu pháp, trụ tuy phi diệt làm sao bỏ bất định? Do trụ tướng đây nhiếp nhập trong tông, hoặc trong nhân lựa chọn tức không có lỗi.
Luận: Phi hiển phi hình v.v...
Xét trong luận Thành Nghiệp ghi: "Nhật Xuất luận nói như vầy: Các hành thật không đến nghĩa phương khác, pháp tánh Hữu vi niệm niệm sinh diệt, nhưng riêng tâm có pháp sai biệt làm nhân, nương tay chân v.v... khởi", pháp đây có thể làm tay chân, vật lạ mới sinh nhân, đây gọi là hành động, cũng gọi là thân biểu, nghĩa là thuộc về sắc xứ, tuy cũng gọi là động, nhưng niệm niệm diệt không đến phương khác, khác với chấp trước.
Sớ: Năm xứ Thiên trúc có năm luận sư.
Xét Tây Vực truyện gồm: Mã Minh ở Đông thiên, Đề-bà ở Nam thiên, Thất-lợi-la-đa ở Tây thiên, Câu-ma-la-da ở Bắc thiên, Long Thọ ở Trung Thiên, chép đủ như trong truyện ấy.
Sớ: Lẽ nào lấy hiển v.v... làm biểu mà biết.
Thấy sắc thân tướng hảo của Phật mà sinh cung kính, sắc được thấy đây chỉ gọi là hiển sắc, vì vô biểu hiển bày. Xúc v.v... chuẩn theo nên biết.
Sớ: Hoặc lại nói v.v...
Hỏi: Giải thích trước nào có khác?
Đáp: Giải thích trước chỉ nói năng biểu, mà không phân biệt, giải thích sau phân biệt, do tiếng nói ấy có giả danh v.v... mà có biểu.
Sớ: Thức biến lựa chọn Kinh bộ v.v...
Hỏi: Thân ngữ hai biểu Kinh bộ, Hữu tông đều chẳng phải thức biến, vì sao thân biểu mà nói thức biến tức lựa chọn Hữu tông, nói biểu thức biến, tức lựa chọn Kinh bộ?
Đáp: Kinh bộ chấp có động làm thân biểu, chân tợ tương đối, tợ lựa chọn chân động, Hữu tông thì không như vậy, nên thức biến lựa chọn. Hữu tông thô thật nên thanh là thật, cho nên tợ lựa chọn, Kinh bộ thì không như vậy, nhưng thức biến lựa chọn, mỗi bên căn cứ một nghĩa, cũng không trái nhau.
Sớ: Nghĩa là thân dũng mãnh, thân tinh tấn.
Dũng là cố gắng, tinh tấn là chuyên cần, do cả hai ở bên trong mà chẳng hiển bày cái khác nên gọi là vô biểu.
Sớ: Tâm dũng v.v...
Tâm dũng này thuộc về tâm sở, nay nói về sắc nên không lấy, văn đồng tiêu biểu.
Luận: Nhưng nương tư nguyện v.v...
Có nghĩa định đạo cũng nương thệ nguyện mà khởi tư lập, nghĩa là khi sắp khởi định đạo giới ấy, nguyện rằng: Lúc ta thừa nhận nhập định, do đây lại hay dẫn khởi thắng tư, ngăn ngừa sắc xấu, giả gọi là vô biểu. Lại đứng về tự tánh nói chỉ nương tư, nếu thông quyến thuộc, tức y câu hành tâm tâm sở lập, nghĩa cũng không trái, hay ngăn ác hoặc vì thông với tương ưng. Như thể hai định quyến thuộc mà nói y hai mươi hai tâm chủng lập, nếu tự tánh chỉ nương năng nhàm tuệ chủng lập, nay đây ắt như vậy. Thánh nói nương tư nghiệp tự tánh.
Biện rằng: Nhập định khởi nguyện chỉ vì khi xuất định có phần hạn, không duyên ở giới mà mới phát nguyện, cùng biệt giải thoát nguyện có sai khác, không thể làm ví dụ. Lại quyến thuộc ấy thông nương cái khác mà lập, có lý không có giáo, lý cũng khó căn cứ, vì sao? Nếu dùng hai định nương nhiều loại lập nêu bày giới đồng. Biệt giải thoát giới, lý cũng như vậy, tư chủng đồng thời có nhiều loại, lại phải biểu giới cũng nương pháp hiện tư tương ưng lập. Nếu nói đây v.v... không ngăn ác cho nên không nương lập, định đạo tương ưng làm sao liền có? Nếu nói chẳng phải thắng, lại chẳng phải nghiệp tánh nên không lập, định đạo lẽ ra như vậy. Nếu biểu giới và biệt giải thoát cũng nương câu thời chủng và tương ưng, lý tức có nhưng giáo thì chưa thấy.
Luận: Thiện ác tư chủng tăng trưởng vị lập.
Tán vô biểu này, đâu cần nương chủng, nếu không nương chủng, thọ giới về sau tán loạn các tâm, nên không gọi là cụ luật nghi, ngăn lỗi đây nên nương chủng lập. Luận Thành Nghiệp nói, nếu ba loại nghiệp chỉ tư làm thể, đối với tâm tán loạn và vô tâm vị lúc bấy giờ không có tư, tại sao có tên cụ luật nghi, bất luật nghi? Do tư sai biệt sở thành huân chủng không tổn hoại gọi là cụ luật nghi, bất luật nghi, nên không có lỗi.
Sớ: Tư thù thắng.
Trong phần lựa chọn ở sau, tư không phát vô biểu, xét luận Thành Nghiệp ghi: Tư sai biệt chọn lấy tư thù thắng năng phát luật nghi, bất luật nghi biểu, do tư đây nên huân thành hai loại chủng tử thù thắng, nương hai chủng tử chưa tổn hoại vị, giả lập thiện ác luật nghi vô biểu.
Sớ: Do hiện tại vô y các việc phước nghiệp. Nghĩa vô y lược có hai giải thích:
1. Y là những vật tài vật, tài vật đây v.v... là nghiệp sở thác gọi đó là y, nay tuy không có các vật sở y không khởi thân nghiệp, chỉ nghe các thiện mà khởi thâm tâm tùy hỷ cung kính, mà ở trong thân phước cũng tiếp tục khởi, phước sở khởi đây gọi là phước vô y.
2. Chẳng phải chỉ khởi tâm mà cũng có thân cung kính, phước được tăng thêm, nhưng không bố thí vật gọi là vô y.
Sớ: Thí chủ ở xa.
Đây có y phước, tức vật sở thí gọi đó là y, nên trong Câu-xá luận quyển 13 ghi: Như trong Khế kinh chép: Thiện nam tử v.v... thành thục có nương bảy phước nghiệp: hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngủ, hoặc thức, hằng thường, tương tục phước nghiệp dần tăng.
Giải thích bảy việc phước:
1. Bố thí chỗ ngủ cho người ở xa đến.
2. Bố thí người đi đường.
3. Bố thí người bệnh.
4. Bố thí người nuôi bệnh.
5. Bố thí vườn rừng.
6. Bố thí thức ăn hàng ngày.
7. Tùy thời bố thí.
Như vậy bảy loại việc có chỗ nương việc nên gọi là hữu y. Vì thiện nên gọi là phước, vì làm cho nên gọi là nghiệp, tư thác gọi là sự.
Sớ: Nếu tâm huân chủng v.v...
Nghĩa của sư Nan-đà chỉ là mới huân, nhưng đối với tông ấy phân làm hai giải thích:
1. Chủng tử niệm niệm thể tăng, tức như sớ giải thích.
Hỏi: Nếu vậy thời sau đã không có hiện hành huân chủng tử làm sao tăng?
Đáp: Do phát giới tư, sức năng huân thù thắng, khiến sở huân chủng tử về sau thể tăng, như nước đất v.v... có công năng thù thắng, khiến các giống lúa sinh mầm cộng nhiều các loại quả. Giới v.v... chủng thể lại tăng thêm, có nương không nương các việc phước nghiệp thì thể cũng tăng.
2. Tăng là giới hay ngăn ác trên chủng tử, bảy chi công năng tăng thêm gấp bội, vì sao? Cần phải hiện hành huân tập thì chủng tử mới sinh. Lại nếu thể tăng, lúc sau hiện hành sinh từ chủng tử nào khởi? Không thể có sinh có không sinh, thế lực của chủng v.v... sau cũng không được nhiều chủng cộng sinh, vì trái thế gian, nên chỉ có dụng tăng.
Biện rằng: Tuy có hai giải thích nhưng dụng tăng là chính.
Sớ: Nếu mới cũ hợp dụng.
Đây là giải thích của Hộ Pháp. Trong truyện có năm giải thích:
1. Thể tăng, thể có hai loại là mới và cũ, chỉ có mới huân mà chẳng phải vốn có, thế lực vốn có không bằng mới huân, lại chẳng phải lúc này tư nguyện mới khởi.
2. Do phát giới tư hợp với mới, thể tăng, dụng vốn có tăng, y thể tăng lập.
3. Nói mới cũ ắt thể tăng trưởng, nương hai tăng mà lập.
4. Dụng của tân chủng tử tăng, thể ấy không tăng, thể dụng của vốn có đều không tăng. Lý đồng sư trước, tìm thì có thể biết.
5. Dụng của bản cũng tăng nhưng thể không tăng, nhưng chỉ có bản hữu chung thành một giải thích, như trong sớ đã nói.
Ba sư hợp luận bao gồm có tám giải thích, đều là dụng tăng thắng, như sớ giải thích.
Hỏi: Sắc vô biểu nương chủng biểu lập, biểu chủng đã nhiều, nương đâu mà lập?
Đáp: Chánh giải thích như trong Nghĩa Đăng. Trong truyện có năm giải thích:
1. Tâm niệm sau cùng của Yết-ma thứ ba, nếu trụ cầu giới, thiện tâm Đẳng lưu tức nương chủng này mà giả kiến lập, nếu vào lúc này đi đứng không đồng phân tâm, hoặc ở vô tâm, tức nương cận nhân vị trước đồng khởi tâm rốt sau.
2. Ban đầu khất giới nhẫn đến yết-ma thứ ba niệm sau sở huân thành chủng, trông mong tâm đủ đều có thể tăng trưởng, nên có thể nói tổng nương nhiều loại giả lập. Nếu vậy tại sao niệm đầu chỉ lập một pháp đủ bảy chi vô biểu sắc?
Đáp: Chủng tuy có nhiều, mỗi mỗi có công năng, chỉ phòng một mà đủ cả thân ngữ bảy chi, nên nói niệm đầu chỉ có bảy chi, thật chẳng phải chỉ có bảy, lại chủng tử hòa hợp, không thể phân biệt, thế lực đã đồng, tổng lập không có lỗi.
3. Chỉ có nương cận nhân v.v... khởi rốt sau tâm niệm tư chủng tử lập, chẳng phải nương nhiều chủng, không có lỗi trước, một niệm tâm đây cận có thể phát giới, cho nên chỉ nương đây.
4. Chỉ có nương cận nhân v.v... khởi tâm niệm đầu, chủng phát trong thân ngữ, vì đây là tối thắng, thân ngữ nhân thiện ác đây, sau đều tùy chuyển, chẳng phải nhân chuyển, như sát-na tự tánh bất định, do tối sơ đây hay phát vô biểu.
5. Cận nhân v.v... trong lúc khởi không luận trước sau, chỉ có tối thắng là việc rốt ráo, tư chủng tăng trưởng năng phát vô biểu. Có nghĩa xác quyết rằng: Có thể nương thắng tư tương tục thứ hai, sức công năng đồng có nương, không nương sở dĩ không, chẳng phải như hữu tông luận về biểu chỉ có một niệm, thân ngữ Đại thừa đã tương tục, năng phát tư ấy đều gọi là biểu, nên vô biểu sắc nương nhiều niệm tư, nhưng biểu đều năng phát vô biểu, luật nghi đã vậy, bất luật nghi v.v... chuẩn theo đây nên biết.
Biện rằng: Xem ý xác quyết này, lý ấy chẳng phải không có, nhưng hơi tạp loạn, chuyển cùng tùy chuyển có gì sai khác? Cận nhân, sát-na hai pháp khởi nào có sai khác? Thừa nhận ở niệm đầu có nhiều, bảy chi lại không có văn, cho nên giải thích thứ tư lý rất thù thắng, còn lại đều có lỗi, tư chuẩn theo đây có thể tỏ ngộ. Lại mới huân v.v... trước có tám giải thích, do nay nghĩa vô biểu sở y chủng đã có năm giải thích, xem tám giải thích kia, mỗi mỗi có năm thành bốn mươi giải thích, đúng hay không đúng so sánh thì có thể biết.
Sớ: Lúc ban đầu huân chủng, cũ cũng sinh chủng.
Hiện hành huân nó, lúc mới huân chủng, chủng cũ của bản hữu lại cũng chuyển sinh một chủng tử, tức là bốn pháp đồng thời khởi. Đây chẳng phải chánh nghĩa.
Sớ: Lại lựa chọn xa gần v.v...
Suy nghĩ kỹ quyết định xa gần như thứ lớp đều là khởi thân ngữ gia hành. Trong gia hành phân xa gần.
Sớ: Và cùng sát-na.
Nó động phát tư, phát thân ngữ gọi là cận nhân, vì nhân dẫn khởi thân và ngữ, nên gọi là đẳng khởi, năng khởi gọi là khởi. Thứ hai niệm tâm tâm sở v.v... chỉ gọi là sát-na, tự tướng sát-na sát-na dẫn khởi. Cận nhân khởi, gọi đó là chuyển, nương hiện hành và chủng tử ấy lập biểu vô biểu. Sát-na v.v... khởi gọi là tùy chuyển, vì tùy theo trước chuyển, chẳng nương hiện hành chủng tử lập vô biểu v.v..., do chẳng phải quyết định là tánh thiện ác khởi thân ngữ, do có tùy nghiệp khởi rõ ràng nên lập có.
Sớ: Họ quyết định đắc sắc gọi là nhân v.v...
Các luật nghi giới thảy đều có thể dừng sắc xấu của thân ngữ, Hiển Dương căn cứ đây nên có thể dừng giới, từ chỗ dừng pháp để lập tên của sắc, nếu phát thân ngữ các giới bất định, nó không nương thân ngữ sở phát mà lập tên sắc.
Sớ: Định đạo hợp thuyết.
Luận Hiển Dương định đạo biệt thoát ba giới hợp thuyết, y không hiện hành kiến lập tánh sắc, cả ba đều ngăn ác thân ngữ.
Sớ: Đây hiển bày sai biệt.
Duy Thức luận đây hiển bày tùy tâm và không tùy tâm hai giới sai biệt, cho nên biệt thoát nói phát thân ngữ vậy, định đạo chưa hẳn đều có thể phát.
Hỏi: Luật nghi ngăn ác, ác thông ba đời, phòng đời nào? Đáp: Trong truyện có ba giải thích:
1. Ngăn chung ba đời, quá khứ vị lai tuy không y hiện mà lập, nên phòng hiện tại tức là phòng ba đời.
2. Chỉ phòng hiện tại, quá khứ vị lai không.
3. Chỉ phòng vị lai, quá khứ hiện tại đã khởi, vì phòng không có công dụng.
Biện rằng: Giải thích đầu là thù thắng, như Vô lậu kiến nương Du-già v.v... cũng được nói đoạn hoặc ba đời, đây cũng nên như vậy, ở sau sẽ rõ.
Hỏi: Tư nguyện phát giới ngăn ác sắc, ác sắc cả bảy đều là sở duyên, nên huân bảy loại nương lập vô biểu?
Đáp: Như hai định thể y năng nhàm chán lập, đây cũng nên như vậy, nương có thể ngăn chủng.
Sớ: Chẳng phải là biểu.
Không phát thân ngữ chỉ gọi là vô biểu, nếu vậy vì sao gọi là chánh ngữ v.v...
Đáp: Dừng thân ngữ ác gọi là chánh ngữ v.v...
Sớ: Như phát thân ngữ tư v.v...
Không chỉ bày tha, vì chẳng phải chủng tử.
Hỏi: Đạo tương ưng tư chẳng phải biểu vô biểu, y pháp nào gọi là đạo luật nghi?
Đáp: Lại đứng về biệt thoát nương chủng tử lập, đạo tương ưng tư chẳng phải chủng tử, cho nên nói biểu vô biểu chẳng phải tận lý.
Sớ: Lại mong không đồng v.v...
Mong phát thân ngữ mà gọi là biểu, căn cứ phòng sắc ác gọi là vô biểu.
Sớ: Nếu không như vậy v.v...
Đây hiển lý. Địa thứ tám trở đi, Như Lai đã hằng ở định, thứ sáu thuần Vô lậu, lẽ nào có thể không có thân ngữ biểu ư? Sớ tuy có ba giải thích, giải thích sau là chính.
Sớ: Không phát thiện thân ngữ v.v...
Căn cứ Địa thứ tám trở về trước và trong Địa thứ tám lúc không phát mà nói.
Sớ: Nhưng không có vô biểu, chương có hai thuyết, nay sớ đồng chương, sư thứ hai nói.
Hỏi: Nghĩa biểu là thế nào?
Đáp: Tư sau liễu tư trước gọi là ý biểu nghiệp.
Hỏi: Tư trước đã diệt chỗ nào biểu?
Đáp: Như yết-ma thứ ba lúc vô tâm mới gọi là biểu, biểu trước phương tiện tư nên được gọi là biểu, đây cũng vậy, lại tư kiến phần và tự chứng phần lại xen nhau biểu, gọi là biểu.
Sớ: Ba nghiệp vô biểu đều giả v.v...
Xét luận Phật Địa ghi: Tuy có hủy phạm chế lập học xứ, nhưng mượn an lập mà chẳng phải thật có, các vô biểu nghiệp chỉ lấy bất tác làm thành tánh ấy nên cũng không thật có.
Luận: Năng động thân tư v.v...
Xét luận Thành Nghiệp giải thích ba tên. Thân nghĩa là các căn đại tạo hòa hợp sai biệt làm thể, tích tập sở thành là nghĩa thân. Nghiệp tức là tư sai biệt làm tánh có chỗ tạo tác là thành nghĩa nghiệp, tư năng động thân gọi là thân nghiệp, khiến thân tương tục dị mới sinh nhân, vì phong giới khởi đầy đủ nên nói là nghiệp động thân, trừ động thân nói chỉ gọi là thân nghiệp, như thêm sức của dầu, chỉ nói là lực dầu, như gió động bụi, chỉ gọi là gió của bụi.
Ngữ nghĩa là nói năng, âm thanh làm tánh, đây có thể biểu rõ nghĩa muốn nói nên gọi là ngữ. Hoặc ngữ là sở y của chữ, do mang theo chữ có thể nêu bày nghĩa nên gọi là ngữ, năng phát ngữ tư thuyết gọi là nghiệp, đầy đủ nên nói nghiệp phát ngữ, trừ phát ngôn ngữ chỉ gọi là ngữ nghiệp, dụ đồng thân nghiệp.
Ý là ý thức vì năng tư lượng, thú hướng các loài và cảnh giới nên gọi là ý, tác động ý tư nói gọi là ý nghiệp, đầy đủ nên nói nghiệp tác ý. Hoặc ý tương ưng nghiệp, trừ chữ "tác" và "tương ưng" nói, chỉ nói là ý nghiệp. Dụ như trước có nói lược nêu đại ý, đủ như luận đã biện.
Luận: "Thân tư năng động" đến "gọi là ý nghiệp".
Hỏi: Tư có bốn loại, ba loại như luận đã giải thích, thứ tư là sát-na đây vì sao không nói?
Đáp: Có nghĩa sát-na v.v... khởi ba tánh bất định, tội phước hai hành, kia chẳng phải định nương. Đây nói nghiệp, không luận loại thứ tư, nếu sau rốt tư tánh đồng tức thuộc về động phát, thứ ba thông với chuyển và tùy chuyển, cho nên không nói riêng, hai pháp đầu mong thân ngữ nghiệp nhân xa v.v... khởi, động phát nhân gần do đây nên nói nhân xa v.v... khởi ắt hai tư đầu, có hai tư đầu chẳng phải nhân xa khởi, như tà kiến đều không phát thân ngữ, nhân gần v.v... khởi ắt động phát tư, có động phát tư, chẳng phải nhân gần khởi như sátna tư.
Sớ: Hỏi: Nếu phát thân ngữ tư v.v...
Có nghĩa nay không nương đây, như chủng sở huân tuy chẳng phải là sắc, mà có thể ngăn sắc, giả gọi là sắc làm sao ngăn? Hiện tư do chẳng phải sắc cho nên tuy không thể biểu, mà sắc năng phát giả gọi là biểu sắc. Nhưng ý sớ chủ gần hiểu biết sai, chương biểu vô biểu thừa nhận gọi là biểu.
Biện rằng: Sớ không lầm, không đồng sắc thanh có chỉ bày nghĩa khác là thật biểu sắc, không đồng chủng tử có nghĩa tương tục là giả vô biểu, nói chẳng phải biểu v.v... không ngăn dùng làm giả biểu sắc, nếu không như vậy, sau đã biết chẳng phải trong chương thừa nhận biểu, làm sao với sớ mà không đổi ư? Lẽ nào muốn làm mê người học chăng? Sớ đã không đổi, nên biết không lầm, bản ý như trước.
Sớ: Tạo tác ở tâm v.v...
Hỏi: Nếu tâm tạo tác sao chẳng phải ý nghiệp?
Đáp: Họ chỉ có ý động, nay đây lại có thể động thân ngữ cho nên vốn chẳng phải ý nghiệp. Có thuyết nói, tư này năng khởi thân ngữ, sở khởi thân ngữ tất cả tạo tác, có nghĩa do phát động tư năng khởi thân ngữ, tức gọi là tạo tác, thân ngữ là tư sở tạo tác.
Biện rằng: Sớ giải thích là đúng, cho nên ở sau luận nói tư là khiến tâm tạo tác làm tánh, đối với thiện phẩm sai tâm thành nghiệp, sai khiến tự tâm, khiến tạo việc thiện. Luận đã có văn nói rõ, đây tại sao không thừa nhận tạo tác ở tâm gọi là có sở tạo? Không thể nói luận chỉ nói ý nghiệp, văn không có lựa chọn, vì cùng nói tư. Lại nói, khiến tâm tạo tác thiện v.v... lẽ nào ngữ cả hai không thiện? Khiến tâm đã là tâm tạo tác, các giải thích khác sai lầm, suy nghĩ có thể biết.
Sớ: Đạo có hai nghĩa.
Có nghĩa chỉ nói, nói dạo qua là nghĩa sở duyên, đây lại chẳng phải lý, nếu đối hiện tại nói quá khứ gọi là trước, quá khứ không có tự thể sao gọi là năng dạo qua? Nếu đối trị lại hiện tại gọi là trước, vị lai chưa sinh vì sao gọi là sở dạo qua? Nếu nghĩa dẫn phát gọi là dạo qua, lý cũng không đúng. Dẫn phát ấy là thông với nghĩa sinh, đã hai tư trước là năng dẫn phát, đạo nghĩa tức là trước xét quyết tư, tại sao sở dẫn thứ ba gọi là đạo?
Biện rằng: Sớ lập không trái, hiện tại gọi là trước, vị lai gọi là dạo qua, đâu không thừa nhận ý duyên vị lai? Nếu thừa nhận duyên sở duyên gọi là dạo qua rốt cuộc có lỗi gì? Nếu nói dẫn phát là nghĩa thông sinh thì xét quyết vặn hỏi cũng sai lầm, giả sử dẫn phát là nghĩa thông sinh, vì sao chỉ là thẩm quyết, lẽ nào phát động tư chẳng phải thông sinh ư? Nếu nói sai là trái với các Thánh giáo, vì ba nghiệp đều chiêu cảm lấy dị thục. Lại trong sớ nói, sở dẫn phát nghĩa gọi là sở dạo qua, mà không nói là thuộc năng dẫn, vả lại cũng như đồng hoang vốn không có đường tắt, sau nhân người đi đường ấy mới có, đường này lẽ nào chẳng phải người sở dẫn sao? Phát động sở dẫn mà được tên đường, đối với lý lỗi gì mà bị bài xích?
Sớ: Thân ngữ ba nghĩa nghiệp đạo. Nghĩa nghiệp đạo, nghĩa tức là cảnh. Sớ: Vì không tương tợ.
Không tương tợ nên gọi là không tương ưng; không tợ sắc, tâm, chất ngại, duyên lự.
Luận: "Chẳng phải như sắc tâm" đến "có tự thể khả đắc".
Chẳng phải sớ giải thích rằng, nhân chẳng phải như sắc v.v... hiện lượng sở đắc, chẳng phải như tâm v.v... tỷ lượng sở đắc, như thế mà lập nhân thì nhân này có lỗi bất định. Họ nói Vô vi chẳng phải như sắc tâm hai lượng sở đắc, thể tướng có thể được, nên nói thừa nhận là Hữu vi, chẳng phải như sắc tâm, chất ngại, duyên lự hai lượng sở đắc, thể tướng có thể được, tức không có bất định.
Biện rằng: Sớ đã lựa chọn nói, từ pháp Vô vi nêu sắc, Vô vi tông khác chẳng phải ở đây thừa nhận ngăn lỗi đã hết, sao có bất định? Chuẩn có nghĩa nhân bèn có lỗi tương vi quyết định. Nhân tương vi nói, thừa nhận chẳng phải lự, ngại và giả Vô vi, trong vi Vô vi tùy theo một nhiếp, như thật Vô vi tông nghĩa nên biết. Lại lẽ nào tông ấy, không thừa nhận Thánh chứng đắc Vô vi, nếu thừa nhận đắc, Vô vi vì sao chẳng phải hiện lượng sở đắc, trừ trí hiện lượng lại có pháp nào năng chứng Vô vi? Nếu nói không đồng sắc tâm mà được gọi chẳng phải đắc cũng là không thể, dụ lấy ít phần, có hiện lượng đắc tức làm dụ.
Sớ: Lại trạch diệt v.v... chẳng phải chỗ đây thừa nhận cũng không có bất định.
Có nghĩa đây cũng không đúng, cộng tỷ lượng đối với tha có lỗi bất định, gọi là bất định, cho nên chỉ như văn tức không có bất định, Vô vi cũng như sắc, tâm, tâm sở, thể tướng là khả đắc, chẳng phải không có tự thể.
Biện rằng: Nếu cộng tỷ lượng phạm tha bất định, tức không có lỗi, vì sao có chánh lượng? Lại như chín câu, nhân thứ hai cũng phạm quyết định tương vi của tha tông, do luận tự thừa nhận có tánh thanh, Vực Long làm sao quyết đoán làm chánh nhân? Và đem nhân thanh thù thắng đây tương đối lại là bất định? Do đây nên biết, cộng tỷ lượng trái cộng và tự mới gọi là lỗi, trái tha liền sai, nếu không như vậy bèn trái các giáo lý. Lại nói Vô vi như sắc tâm v.v... chẳng phải không có tự thể làm tự tha ư? Nếu tha Vô vi thừa nhận ngoài tâm, ngoài tâm không có tại sao nói chẳng phải không có? Nếu tự tông, tại sao không có tha bất định? Nếu nói chẳng phải thừa nhận không có bất định, so với sớ có gì khác? Tuy có nhiều thuyết khác nhau nhưng vốn khó làm căn cứ.
Luận: Chẳng phải sắc tâm khác tác dụng khả đắc.
Như trong sớ lựa chọn đủ, các pháp như Chân như v.v... có lỗi bất định, có nghĩa nói nhân lẽ ra nói thừa nhận là Hữu vi hoặc không thuộc về Vô vi, chẳng phải sắc tâm khác, tâm và các tâm sở tác dụng khả đắc, tức lựa chọn bất định.
Biện rằng: Tự tông Vô vi chẳng phải định dị tông, tha tông Vô vi chẳng phải tự cùng thừa nhận, làm sao có bất định? Cần phải thêm luận ư?
Hỏi: Sắc, tâm, tâm sở tức là nhân hay không phải nhân? Giả sử la nhân như vậy là lỗi gì?
Đáp: Cả hai đều có lỗi, nếu nói nhân, nhân chỉ lấy nghĩa tác dụng không khác sắc tâm kia, đâu lấy thể của nó. Lại nhân là nghĩa hữu pháp, nếu thật sắc tâm nương giả được v.v... đâu chẳng phải đảo ngược?
Hỏi: Nếu chẳng phải nhân, thành chẳng phải thật tông. Thật sắc tâm v.v... lẽ nào chẳng phải dị dụ? Nhân ở nơi chuyển kia, sao chẳng phải bất định? Sắc tâm cũng chẳng phải dị sắc tâm v.v... có tác dụng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Nhân nhiếp, tuy nhân chánh thủ chẳng phải tác dụng khác, sắc tâm chính là chỗ pháp bất dị, cho nên thuộc về nhân, chánh nhân nương tông không có lỗi nương ngược.
2. Dị dụ, nhân nên thêm rằng: Thừa nhận không lự ngại chẳng phải khác sắc tâm, và tác dụng các tâm sở khả đắc, lại không có bất định, sắc tâm, dị dụ, vì có lự, ngại. Hai giải thích mặc tình chọn lấy. Luận: Rốt ráo không có v.v...
Xét luận Du-già quyển 16 có năm loại không có:
1. Chưa sinh nên không có, nghĩa là các hành vị lai.
2. Đã diệt nên không có, nghĩa là các hành quá khứ.
3. Xen nhau nên không có, nghĩa là các pháp do các tướng, hoặc xa lìa tánh, hoặc chẳng phải hữu tánh, hoặc các pháp khác cùng các pháp khác không hòa hợp tánh.
4. Thắng nghĩa nên không có, là do tự tánh ngôn thuyết thế tục giả lập an lập tánh của ngôn luận.
Rốt ráo không có, nghĩa là con của gái đá v.v...
Luận: Hoặc các thật pháp không nhiếp.
Sớ nói nhân giả thật đối nhau, nghĩa là các giả pháp, chính là các thật pháp, điều này phi lý, tông ấy được v.v... đều là các giả pháp, vì thật pháp nhiếp, nhân lại không thành, nên nay nói trừ sắc, tâm của bất tương ưng các v.v... thật pháp không nhiếp.
Biện rằng: Trong Quán sớ lựa chọn nhiều lớp, thật không có lỗi, vì sao luống dư thừa? Cho nên sớ lựa chọn rằng, ở đây nói sắc, tâm v.v. không nhiếp, đã nói sắc tâm không nhiếp, đâu không ngăn tùy một lỗi kia ư? Lại trong sớ nói: Không nói thừa nhận là tùy một bất thành, đây chính hiển bày tha tuy thật nhiếp, nói tự thừa nhận được thật pháp không nhiếp nên đặt lời thừa nhận. Nói thừa nhận có hai:
1. Thừa nhận sắc tâm thật pháp không nhiếp, tự tha đều thừa nhận, đối phương thừa nhận đắc cũng chẳng phải sắc tâm.
2. Thừa nhận chỉ là thật pháp không nhiếp, chỉ có tự tông thừa nhận, lời thừa nhận rộng hẹp, lựa chọn lỗi chính là cùng tột, sớ vì sao chẳng phải lý? Sớ: Nhân năng khởi có ba.
Người ngoài dùng ba nhân nói được năng khởi, tức ở phần sau trong luận người ngoài chống chế.
Sớ: Luận chủ có sáu vặn hỏi. Dùng sáu vặn hỏi mà phá ba nhân.
Luận: Chưa được đã có lỗi, lẽ ra hằng không sinh.
Hỏi: Vị lai lẽ ra sinh, thiếu duyên không khởi cũng gọi là đã có lỗi, đây nhất định không sinh, được phi trạch diệt, nay vặn hỏi ở đây lẽ nào không tương phù?
Đáp: Trong luận nói tổng, lượng lẽ ra nên chọn. Luận: Tất cả phi tình lẽ ra hằng không khởi.
Tông ấy không thừa nhận tha thân, phi tình mà lập được, nên Câu-xá luận quyển 4 ghi: "Chẳng phải tha tương tục, không có thành tựu pháp tha thân, chẳng phải phi tương tục, không có thành tựu, vì chẳng phải pháp phi tình".
Giải thích rằng: Nếu thành thân khác có nghiệp thú hướng thân, có lỗi tự tha xen tạp. Chẳng phải phi tương tục, nghĩa là phi tình, nếu thành phi tình, lại hoại pháp tánh, là hữu tình hay là phi tình?
Sớ: Cần duyên.
Tức trí Vô lậu muốn duyên Chân như mà liền có thể duyên, do trí có chủng tử hay khởi duyên hiện hành.
Sớ: Trước cần gì?
Không lìa pháp hữu tình, pháp tự thành tựu lẽ nào giả được sao?
Sớ: Sau tức không có.
Lìa pháp hữu tình, pháp thể tức không có, như lông rùa v.v... đâu nương lập được!
Luận: "Nhưng nương hữu tình" đến "lập ba loại thành tựu".
Hỏi: Đắc, hoạch, thành tựu, ba loại nào sai khác ư?
Đáp: Nếu theo tông Tiểu thừa tổng biệt có khác, được tổng biệt khác, cho nên Câu-xá luận quyển 4, đắc có hai loại: Một là chưa được đã mất nay được, hai là đã được không mất thành tựu, nên nghĩa của thể đồng, y môn tổng biệt phân sai biệt.
Giải thích hoạch, thành tựu có hai loại sai biệt. Có thuyết nói: Nếu pháp chưa được và được rồi, nay đều mới được, trên pháp đây đều được sáng lập đến sinh tướng tức gọi là hoạch, nếu lưu đến hiện đắc rồi không mất gọi là thành tựu, khi được không gọi là thành, thành tựu không gọi là đắc. Như cổ đức giải thích: Thành thông cả cũ mới, đắc chỉ căn cứ mới, được mất trong ấy như phần Sao trong luận. Nếu Đại thừa thì nghĩa bèn thông, như pháp hiện hành, tuy chỉ có mới đắc, cũng được gọi là hiện hành thành tựu, chủng có tân huân vốn có hai loại sai khác, đều gọi là thành tựu, cũng gọi là đắc hoạch, cho nên luận Du-già quyển 52 ghi: "Thế nào là đắc, hoạch, thành tựu? Là như lược nói sinh duyên, nhiếp thọ, nhân tăng thạnh gọi là đắc".
Giải thích rằng: Chủng là nhân duyên sinh quả nên gọi là sinh duyên, do chủng có công năng sinh quả mới được có chủng gọi là nhiếp thọ, tức quả sở sinh gọi là tăng thạnh, hoặc chủng có thế dụng sinh quả kia gọi là tăng thạnh, tăng thạnh tức là nhân, do có công năng này giả lập là đắc, rộng có đồng dị như trong phần Sao ấy giải thích.
Hỏi: Đối với tha thân và trên phi tình ấy mà có đắc ư? Đáp: Chánh biện như sớ, lại có hai thuyết:
1. Ngoại khí phi tình tự sở biến là chủng thành phi hiện, hiện hành phi tình chẳng phải nội thân, nếu thành tựu nó lẽ ra phải gọi là hữu tình, nếu tha sở biến chẳng phải tự chủng sinh, hoặc chủng tử hoặc hiện hành đều chẳng phải thành tựu. Nếu đối tha thân tự sở biến, là chủng thành phi hiện, nếu thành hiện hành phải tự thân nhiếp, nếu tha sở biến hoặc chủng, hoặc hiện, đều chẳng phải sở thành.
2. Phi tình và tha thân tự sở biến, chủng tử hiện hành đều thành, tuy chẳng phải chấp thọ nhiếp làm tự thể, từ tự chủng tử, chẳng phải ngoài khởi, vì tự thức biến, vì không lìa thức, nó cũng gọi là pháp có thể thành, tha biến ngoại khí tha thân hư không, gọi là chẳng phải có thể thành, vì chẳng phải tự chủng sinh, tự thức biến.
Biện rằng: Thuyết sau là thù thắng, không trái với duy thức, lại thuận ở sau nói biến tha phù trần chánh nghĩa đã nói. Nếu biến tha, khí hiện không thành, làm sao thọ phù trần và ngoại khí sắc của dụng tha? Lại lẽ nào sở thọ chỉ có chủng tử chẳng phải hiện hành mà nói chủng tử thành chẳng phải hiện hành thành ư?
Sớ: Nhưng năm mươi sáu.
Xét luận ấy ghi: Được y nhân, tự tại hiện hành phần vị kiến lập, đây lại có ba loại là chủng tử, tự tại, hiện hành thành tựu, lại không có dư. Sớ đối với Tạp Tập mà nêu ra, ý rõ là văn nói đắc v.v... không nói họ cùng Tạp Tập đồng một chỗ dẫn.
Sớ: "Đối Pháp quyển 5" đến "cũng gọi là không thành tựu".
Xét luận ấy ghi: Chủng tử thành, nghĩa là nếu sinh Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới ràng buộc phiền não, tùy phiền não do chủng tử thành tựu, cho nên thành tựu và sinh đắc thiện.
Giải thích: Đây là bản luận, chỉ nói rõ phiền não và sinh đắc thiện, luận dựa vào chưa lìa dục dị sinh mà nói, nếu đã lìa dục hoặc sinh địa trên, tùy chỗ lìa dục, tức phiền não tùy phiền não địa đây, cũng thành tựu cũng không thành tựu chưa hại tùy miên, vì Đối trị đạo đã tổn, như thứ lớp và sinh đắc thiện tùy địa sở sinh, tức địa đây thành tựu.
Giải thích: Sư Tử Giác giải thích, bản luận chỉ nương thuyết Dục giới chưa lìa dục. Thích luận gồm căn cứ lìa dục sinh lên và hai cõi trên nói rõ thành không thành, đây tức Dục giới. Luận nói nếu sinh sắc giới Dục giới phiền não tùy phiền não ràng buộc, do chủng tử thành tựu, thành tựu cũng gọi là không thành tựu. Sắc, Vô sắc giới ràng buộc phiền não tùy phiền não, do chủng tử thành tựu, thành tựu và sinh đắc thiện. Nếu sinh Vô sắc giới Dục giới sắc giới, ràng buộc phiền não tùy phiền não, do vì chủng tử thành tựu, thành tựu cũng gọi là bất thành. Vô sắc giới ràng buộc phiền não tùy phiền não, vì do chủng tử thành tựu, thành tựu và sinh đắc thiện.
Giải thích rằng: Luận đây nói rõ hai cõi trên thành không thành tựu. Luận về sinh cõi trên ắt phục hoặc cõi dưới, cho nên trên đối dưới gọi là thành không thành, chủng ở danh thành, cõi ấy sinh đắc thiện không khởi cõi khác, cho nên đương địa đều gọi đó là thành.
Hỏi: Sinh hai cõi trên có lìa tự nhiễm, vì sao tự địa không gọi là bất thành?
Đáp: Vì văn lược, hoặc Dục giới trước nói lìa tự nhiễm gọi thành bất thành, trên nêu bày như vậy cho nên không nêu.
Hỏi: Như trên sắp trở xuống khởi ái hạ địa, đây tức chỉ có thành, tại sao gọi là cũng không thành?
Đáp: Căn cứ nhiều phần mà nói, lại y trên sinh không nói sinh ở sau, chẳng phải bỏ bớt bàn luận.
Hỏi: Khi sinh hai cõi hai địa trên cũng lìa ở nhiễm ở dưới, làm sao sinh lên hoặc đương giới tổng gọi là thành?
Đáp: Nương giới mà luận, không căn cứ địa mà nói. Sớ: Không đâu mà không thành tựu.
Không có dụng phiền não gọi là không thành tựu.
Sớ: "Nhưng chuẩn theo Đối Pháp" đến "thông thành bất thành".
Như ở một cõi, các cõi khác sinh được mong hữu chủng nên gọi là thành tựu, hiện hành không khởi gọi là không thành tựu.
Sớ: "Do ở giới địa" đến "chỉ nói thành tựu".
Giải thích: Luận Đối Pháp không nói lý do, phiền não dung chứa có khởi địa khác, đối với khởi không khởi gọi là thành bất thành, sinh đắc thiện pháp không khởi dị giới, không đồng phiền não, cho nên chỉ nói thành.
Sớ: Cũng không nói hiện hành gọi là chủng tử thành tựu.
Nhưng sinh đắc thiện chủng có dụng ấy tức gọi là thành tựu, không cần sinh hiện mới bắt đầu gọi là chủng tử thành tựu. Có thuyết nói, luận này Thức thứ tám đối với hiện hành cũng gọi là chủng, nên nay lựa chọn.
Biện rằng: Tuy có lý này nhưng trái với ý chỉ của sớ.
Sớ: "Đây y ngã kiến" đến "và không thành". Đoạn ngã kiến này có hai thuyết:
1. Tức cùng đương địa hoặc Địa thứ chín đồng thời đoạn.
2. Địa thứ chín ngã kiến thứ sáu, đến Kim cang đều một thời đốn đoạn, nay y nghĩa đầu hoặc nghĩa sau, lúc lìa dục có đoạn chưa đoạn. Có thuyết nói, đứng về phục có thành, không thành.
Biện rằng: Không đúng, trong sớ tự nêu rằng, nếu Vô lậu đạo nương nhiễm chủng thể gọi thành bất thành, nên biết đứng về đoạn, nếu là phục là sắp về trước nói xong, cần gì nói lại!
Sớ: Như đoạn thiện căn dụng không thành.
Hỏi: Chánh đoạn thiện chỉ trừ sinh đắc, tại sao dụng gia hành không thành?
Đáp: Sinh đắc thiện yếu lúc ấy vẫn không có, Gia hành thiện mạnh làm sao nói có được? Lại nếu đoạn thiện lúc Gia hành vị, phương tiện thiện ấy mới khởi, sau mới chánh đoạn sinh đắc thiện. Nếu không như vậy tâm tà kiến kia lực nào năng đoạn mà sinh đắc thiện? Đây do tổng nói tà kiến đoạn thiện, tà kiến gia hành cũng gọi là tà kiến, tức đoạn hai thiện gia hành và sinh đắc, nếu căn bản tà kiến gọi là tà kiến, nói kiến đoạn thiện, chỉ có đoạn sinh đắc, các Thánh giáo nói đoạn ở thiện rộng hẹp không đồng, nên hiểu như đây.
Sớ: Do chủng loại ẩn khó biết v.v...
Hỏi: Xét Hiển Dương luận, chủng hợp thành một, hiện hành khai làm hai, tại sao không đồng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Như trong Nghĩa Đăng.
2. Hiển Dương luận chủng tử loại đồng, cho nên hợp thành một, tướng hiện hành sai khác, nên khai ra hai loại.
Hỏi: Như trong Tiểu thừa đắc có ba loại, nghĩa là đồng thời, trước, sau, Đại thừa đồng chăng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Đã không có hai đời không có trước sau đắc, chỉ tùy theo chỗ thành có thể gọi là pháp đồng thời. 2. Hoặc có thể nói nghĩa nên an lập riêng, như pháp hiện hành, do sức huân tập đắc mà không mất gọi là pháp hậu đắc, dẫn phát chủng tử làm sinh hiện hành gọi là pháp đắc trước. Thời trước sau này chỉ nương chủng lập, chủng tử hiện hành đồng thời gọi là pháp câu đắc, đắc của Vô vi gọi là chẳng phải trước sau.
Biện rằng: Lý tuy có thể thông, nhưng nghĩa hơi hẹp, không nói chủng có ba loại đắc. Nhưng nay giải thích, quá khứ vị lai tuy không có nhưng đối với hiện tại giả lập ba đời, nương ba dời như thứ lớp lập đắc sau, trước và đồng thời.
Sớ: Nay đắc của trạch diệt Đại thừa định thuộc đạo v.v...
Có thuyết nói đắc chỉ nương Hữu vi vì phần vị sai khác, Vô vi không có đắc, không có nghĩa công năng trước sau phần vị sai biệt, các luận đều nói đối với chủng và hiện kia mà lập đắc, chưa từng có chỗ đối với pháp Vô vi lập bất tương ưng, mà các chỗ nói đắc trạch diệt, do Giải thoát đạo chứng hội trạch diệt giả nói đắc, không kiến lập riêng bất tương ưng, cho nên đối với Vô vi chỉ có trí chứng. Biện rằng: Xét giáo chuẩn lý, các pháp Vô vi cũng có đắc, cho nên luận Tạp Tập quyển 5 ghi: "Nghĩa là đối với pháp thiện, bất thiện, Vô ký, hoặc tăng hoặc giảm giả lập đắc, hoạch, thành tựu". Đã nói đối với thiện mà lập đắc v.v... Vô vi vì sao không có? Vì văn không ngăn. Nói tăng giảm tức là đắc, phi đắc, chứng đắc gọi là tăng, không đắc gọi là giảm.
Lại hỏi: Những gì gọi là nhân giải thoát đắc?
Đáp: Nếu đối với Chân như, trước đã tận khởi phiền não thô trọng, nếu gặp tùy thuận, đắc duyên đối trị lại có thể hằng hại, tánh kham nhậm này gọi là nhân giải thoát đắc.
Giải thích: Từ vô thỉ đến nay chướng chân mê lý gọi là trước khởi hoặc, thiện hữu chánh giáo gọi là tùy thuận đắc đối trị duyên, tánh kham nhậm đây tức năng đối trị, thể Vô lậu chủng, hoặc tức là hiện hành Vô lậu Thánh đạo, Vô lậu Thánh đạo tức là nhân giải thoát đắc, đã tự nói rõ đắc giải thoát, rõ biết Vô vi lập đắc có lỗi gì? Lại nói Thánh đạo là nhân năng đắc nên Vô vi đắc thuộc đạo năng đắc.
Lại xét trong Câu-xá, đắc của trạch diệt thuộc đạo năng đắc, phi trạch diệt đắc tùy thân sở y, tuy lại giáo Tiểu thừa Đại thừa không phá cũng có thể làm chứng. Đây nói hữu giáo, không đồng Hữu vi có nhiều phần vị đắc thuộc sở đắc, nên các Thánh giáo không nói đủ cũng không có lỗi. Nhưng nói lý, lại thật thể Chân như chỉ một loại đối vọng không đồng, phân làm ba, bốn và sáu, tám v.v... nay mong chứng hội mà có không đồng, lập đắc có lỗi gì? Nếu không có phần vị không thừa nhận lập đắc, đã không có phần vị cũng nên không được nói nhiều sai biệt, kia đây nhân sai khác, quả thật không thể được, nên lập làm thiện.
Luận: Ngược lại đây giả lập không thành tựu.
Hỏi: Đã ngược với đắc v.v... là phi đắc cũng gọi là chẳng hoạch, chẳng thành, chẳng hoạch chẳng thành tại sao sai khác?
Đáp: Đại thừa không có văn, người tu Tiểu thừa giải thích rằng: Nghĩa là nếu hữu pháp trước chưa từng mất và sau khi đắc lại chỉ là nay mới mất, pháp phi đắc này thành lập đến sinh tướng lúc không thành gọi là chẳng hoạch, nếu lưu đến hiện tại gọi là thời chẳng thành, nhưng lúc chẳng hoạch chưa gọi là chẳng thành tựu, lúc chẳng thành tựu không gọi là chẳng hoạch.
Hỏi: Tiểu thừa phi đắc có trước pháp v.v... cả ba loại sai biệt. Đại thừa đồng ư?
Đáp: Có ba giải thích, ngược với nghĩa đắc ở trước, nghĩa chuẩn theo nên biết, đồng với Tiểu thừa lập cũng không ngại, chỉ có giả thật sai khác.
Sớ: Một, thuộc sở đắc v.v...
Thuộc nghĩa là hệ thuộc, tất cả năng đắc trên pháp Hữu vi đều thuộc sở đắc vì đồng Hữu vi.
Sớ: Hai, thuộc đạo năng đắc.
Đắc là Hữu vi, nên diệt năng đắc không thuộc sở đắc, vi, Vô vi sai khác, sáu hành đoạn hoặc, năng đắc này đắc tức là Hữu lậu, nếu trí Vô lậu chỗ chứng diệt đắc đắc tức Vô lậu. Tông có sáu hành mà năng đoạn hoặc đắc trạch diệt.
Sớ: Ba, thuộc sở y.
Hỏi: Tại sao như vậy?
Đáp: Hữu vi Vô vi sai khác, không thuộc phi trạch diệt chẳng phải lậu Vô lậu sở đắc, không thuộc đạo nên thuộc sở y.
Sớ: "Một, thuộc đạo" đến "thế đạo đắc".
Hỏi: Sáu hành đắc diệt, cũng do trí tuệ lựa chọn mới chứng, vì sao là phi trạch diệt?
Đáp: Nếu trí lựa chọn năng đoạn hoặc chủng hiển bày lý mới gọi trạch diệt. Sáu hành nếu không như vậy nên lý phi trạch diệt.
Sớ: Như cứu cánh đắc phi trạch diệt.
Như nhập kiến đạo, thân huỳnh môn v.v... hằng không sinh lại đều gọi là tất cánh đắc phi trạch diệt, lý ấy như trong Nghĩa Đăng.
Sớ: Ba, thuộc chủng tử v.v...
Duyên này thiếu pháp lại sinh nghĩa nên thuộc chủng tử.
Sớ: Chẳng phải tâm duyên chứng.
Đạo duyên sáu hành, chứng đạo Vô lậu.
Sớ: Thông Hữu lậu ba tánh.
Đủ như trong Nghĩa Đăng có nói.
Luận: "Loại này tuy nhiều" đến "gọi là dị sinh tánh".
Xét luận Bà-sa quyển 45 giải thích rằng: "Tôn giả Thế Hữu nói như vầy: hay khiến hữu tình khởi dị loại kiến, dị loại phiền não, tạo nghiệp dị loại, thọ sinh dị loại nên gọi là dị sinh. Lại nữa hay khiến hữu tình đọa vào cõi dị loại, nên đến dị thú nên thọ dị sinh gọi là dị sinh tánh".
Luận: Đối với các Thánh pháp vì chưa thành tựu.
Hỏi: Đã đối với các Thánh chưa thành tựu nên gọi là dị sinh, nếu đối với các Thánh tùy được một loại nên chỉ gọi là Thánh?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Nghĩa đồng với Tiểu thừa, không được tất cả pháp Thánh của Tam thừa gọi là dị sinh. Nếu được phần nhỏ tức gọi là Thánh, nên trong Câu-xá luận quyển 4 ghi: "Không được tại sao Thánh pháp gọi là dị sinh tánh? Nghĩa là không được tất cả". Đây không được rõ ràng khác với hoạch, hoặc khác ở đây nghĩa là chư Phật Thế Tôn cũng không thành tựu Thánh pháp Nhị thừa cũng gọi là dị sinh, nên biết không cần đủ được các Thánh mới gọi là Thánh. Đại thừa cũng vậy, ở sau nói nương hai chướng lập dị sinh tánh. Nhị thừa đoạn một tức chẳng phải dị sinh, tức đồng trong Câu-xá không được tất cả Thánh pháp gọi là dị sinh tánh, nếu được chút phần tức gọi là Thánh.
2. Cùng nghĩa Tát-bà-đa có sai khác, hàng Nhị thừa hồi tâm chưa đến cõi trên cũng gọi là Thánh, đắc trí sinh không, đoạn phiền não nên gọi là dị sinh, chưa được trí pháp không vì chưa đoạn sở tri. Nhưng y thuyết ấy đem làm thuận lý. Nay đây cũng nói đối các Thánh pháp không thành tựu.
Biện rằng: Nay lấy giải thích sau, như hàng Nhị thừa hồi thú Đại thừa đến Sơ địa gọi được Thánh tánh, nếu được tiểu Thánh tức toàn được, gọi là Thánh không có dị sinh, vì sao đến Sơ địa nói được Thánh? Nếu nói được Đại thừa thánh tánh kia gọi là đắc Thánh, trước khi chưa đắc Đại vì sao không gọi là dị sinh? Lại đây chỉ nói chưa thành các Thánh gọi là dị sinh, không được nói được ít thì toàn gọi là Thánh.
Hỏi: Nhị thừa vô học trước khi chưa hồi tâm chỉ là Thánh tánh, hay đồng thời?
Đáp: Nếu tánh quyết định chỉ gọi là Thánh tánh vì tự quả mãn, nếu tánh bất định thì có hai loại:
1. Chỉ có bậc Thánh, căn cứ quả sở cầu nay đã đủ.
2. Đồng thời, tuy chưa hồi tâm cầu Đại thừa, nhưng có tánh chướng mà chưa hiển nên được đồng thời.
Hỏi: Đại thừa dị sinh tánh cả ba là phi đắc, trong đó phi đắc nào nhiếp?
Đáp: Thánh tánh tuy thông tự tại, hiện hành, chẳng phải chủng tử thành tựu, dị sinh trái lại, nên chỉ tự tại, hiện hành không thành.
Hỏi: Tự tại căn cứ có chủng tánh, tại sao cũng gọi là tự tại không thành?
Đáp: Tuy thể dụng hữu chủng không thành, nên cũng không thành, nếu dụng thành chẳng phải dị sinh. Có thuyết nói, đã tự nói y chướng chủng lập, cho nên lẽ ra chỉ nói gọi là chủng không thành.
Biện rằng: Đây chẳng phải là giải thích hay, nếu mong chướng chủng, đây tức chủng thành, vì sao gọi là không thành? Nên biết phi đắc mong chưa đắc gọi là phi đắc, như trước nói thiện.
Sớ: Chuẩn theo Câu-xá, Chánh Lý lập v.v...
Xét trong luận Câu-xá quyển 5, đây lại có hai loại: Một là không có sai biệt, hai là có sai biệt. Không sai biệt, nghĩa là các hữu tình đồng phần, tất cả hữu tình đều có. Có sai biệt là các cõi hữu tình, địa, thú, sinh chủng tánh nam nữ cận sự, bísô, học, vô học v.v... đều sai biệt đồng phần, một loại hữu tình đều có, lại có pháp đồng phần, nghĩa là tùy uẩn xứ giới.
Giải thích rằng: Tất cả hữu tình đồng có nên gọi là không sai biệt, sai biệt hữu tình đồng loại v.v... có gọi là có sai khác, chuẩn theo pháp đồng phần cũng hợp có hai, nhưng luận sơ lược. Lại như năm uẩn, nghĩa uẩn là đồng, nhân tương tợ đây gọi là không sai biệt, uẩn uẩn đều khác nhân tự tương tợ gọi là có sai biệt, giới xứ v.v... pháp đều phỏng theo đây.
Hỏi: Hữu tình đồng phần không có sai biệt làm một hay nhiều của thể?
Đáp: Có hai giải thích: Một là thể một, như mạng căn; hai là nhiều thể, như pháp sở y, sau nói có nương tựa, trước không có văn. Cho nên Chánh Lý luận ghi: "Thế nào là dị thục? Nghĩa là thú sinh v.v... đồng phần. Tại sao gọi là Đẳng lưu? Nghĩa là chủng tánh v.v...". Lại trước nghiệp sớ dẫn đây là dị thục, hiện gia hành khởi gọi là Đẳng lưu, nếu đồng mạng căn tức chỉ có Dị thục làm sao có Đẳng lưu? Pháp ấy đồng phần cũng có hai giải thích, chuẩn theo trước có thể biết.
Sớ: Như sắc dị thục v.v...
Tức sắc nghiệp sở cảm trong năm căn của hữu tình gọi là dị thục, nếu các sắc bên ngoài và phi nghiệp sở cảm trong thân bên trong mà có hai phần là sắc đẳng lưu.
Sớ: Lại có các vặn hỏi chuẩn theo sinh mà lập.
Vặn hỏi rằng: Ngoại pháp phi thú sinh, phi thú sinh nên không có đồng phần, ngoài pháp phi thú sinh, phi thú sinh nên vô sinh v.v... Nếu nói ngoài pháp là Hữu vi, ngoài đồng trong pháp hữu sinh v.v... cũng nên ngoài pháp có tương tợ, ngoài đồng trong lập pháp đồng phần, do xưa có ngoài tông không có đồng phần nên lập vặn hỏi này.
Sớ: Đây lập ngoài chống chế đưa ra văn của tự luận. Tức nêu ra thuận Chánh Lý.
Sớ: Sau lập vặn hỏi văn ngoài ý.
Không có văn luận, sớ chủ tự ý. Lại sư An Tuệ chống chế trong Câu-xá, cũng có vặn hỏi này, sớ chủ ít đồng.
Sớ: Nghĩa này lỗi với tông.
Lỗi tông Tiểu thừa, vốn không do tạo mà giải thích ở sắc, nay dùng tạo mà làm vặn hỏi đó, nên trái bản tông, tức căn cứ bản chấp lại vặn hỏi luận rằng: Chất ngại gọi là sắc, cho nên năng sở tạo đều nhiếp sắc, nhưng tương tợ nên lập đồng phần, đồng phần tương tợ vì sao không có?
Sớ: Giả sử muốn ngược lại Thắng luận v.v...
Đổi Thắng luận ấy đã nói đồng để làm đồng phần, gọi là ngược lại Thắng luận. Cho nên trong luận Câu-xá quyển 5 ghi: Lại phải hiển bày thành Thắng luận sở chấp, tông chấp kia có tổng đồng nghĩa, ở tất cả pháp chung đồng nói trí do đây phát sinh. Có thuyết nói: Khéo bàn luận gọi là Thắng luận, ngược lại diệu luận này ta không lập, lý cũng vặn hỏi biết. Kinh thừa nhận giả có, nay ngược lại là không có vì có lỗi trái giáo, nên nói vặn hỏi để biết.
Biện rằng: Giải thích trước là chính vì thuận sớ luận.
Sớ: Không đồng Tiểu thừa v.v...
Xét Thuận Chánh Lý quyển 13 ghi: "Thân hình, nghiệp dụng, lạc dục trong đây triển chuyển tương tợ nên gọi là đồng, phần là nghĩa của nhân, tức thật vật khác là đồng nhân đây nên gọi là đồng phần".
Sớ: Câu-xá Kinh bộ v.v...
Xét luận ấy ghi: Nếu vậy, nói đồng phần là thế nào? Tức lúc các hành của những loại ấy sinh, ở trong đó giả lập người đồng phần v.v... như các lúa mạch v.v... đồng phần.
Sớ: Và Vô sắc giới khởi tâm không đồng phần v.v...
Đây nêu hữu tông vặn hỏi Kinh bộ. Xét Thuận Chánh Lý quyển 13 ghi: "Nếu xứ không có sở dẫn dị thục năm sắc xứ bên trong, ở trong luận hoặc khi không có nghiệp sở dẫn chỗ ý thứ sáu", nghĩa là thời gian dài thức khởi nhiễm ô, hoặc thiện Hữu lậu và Vô lậu thức tương tục trong vị, không có nghiệp sở dẫn phần dị thục, nói thế nào là mạng?
Giải thích rằng: Ý vặn hỏi Chánh Lý ở cõi Vô sắc không có năm xứ bên trong, hoặc khởi các tâm không có ý dị thục, thế phần dị thục đối với nó đã không, làm sao nói là thọ? Sớ nêu bày vặn hỏi chỉ lấy ý kia không đủ văn ấy. Nói tâm không đồng phần tức là nhiễm ô, Hữu lậu thiện v.v... cùng nghĩa sở dẫn dị thục tâm sai biệt gọi là không đồng phần, tuy tâm Vô lậu cũng không đồng phần, Vô lậu, lậu sai biệt, nên nói riêng. Kinh bộ mạng căn có hai thuyết:
1. Chánh Lý nói nương sáu xứ lập.
2. Trong Câu-xá nói nương chúng đồng phần.
Nhưng sư Câu-xá chống chế phá trước rằng: Nếu nương dị thục lập là dị thục, nếu nương cái khác lập, tuy y luận lập chẳng phải tùy pháp ấy mà phán phân tánh, như danh cú v.v... y tiếng thiện ác. Luận: Nhưng y thức này lập mạng căn.
Nếu y luận này chỉ nương chủng tử dùng làm mạng căn, mạng tức là căn, là Trì nghiệp thích. Nếu Hiển Dương luận nghĩa là nghiệp sở dẫn dị thục khi sáu xứ trụ quyết định gọi là mạng căn, Thức thứ tám hiện hành ở xứ thứ sáu lấy đó làm mạng căn, tức căn của mạng, căn là chủng, hoặc mạng tức căn, đều là hiện hành.
Sớ: Nói thức lựa chọn tương ưng pháp chủng.
Hỏi: Tâm vương tâm sở thứ tám đều là nghiệp sở dẫn, nên đồng có khả năng quyết định, đâu không nương chỗ chủng lập mạng?
Đáp: Có hai thuyết:
1. Nếu vậy một thân tức có sáu mạng, tùy chỗ nương chủng mà có sáu.
2. Nói y sáu diệt sinh ắt đồng, vì sự nghiệp v.v...
Luận nói thức chủng do yếu theo mạnh, như nói duy tâm cũng nhiếp tâm sở, lại câu dị thục, vì nghiệp sở dẫn, như y năm uẩn lập một đồng phần, mạng nương nhiều chủng thể cũng chỉ có một.
Biện rằng: Giải thích là chính, chủng tử tương ưng không có lực trì, như tướng sở biến không có thật dụng, dụng trì đã không nương đâu mà lập?
Không do chút đồng khiến tất cả đồng.
Sớ: Chẳng phải thủ sinh thức hiện hành v.v...
Có thuyết nói, chủng này do nghiệp sở dẫn, có năng sinh thức một kỳ phần vị công năng sai biệt, y đây giả lập.
Biện rằng: Sớ giải thích là chính, giáo pháp Đại thừa Tiểu thừa không nói năng sinh gọi là mạng căn. Lại trong Câu-xá có bài tụng: Thể mạng căn tức thọ, năng trì hoãn và thức.
Tạp Tập luận ghi: Các uẩn tương tục giữ gìn quyết định khiến chúng đồng phần thường được an trụ hoặc trăm năm, gọi là mạng căn. Các luận Dugià, Hiển Dương, Ngũ Uẩn đều dùng trụ trì mà gọi mạng.
Hỏi: Nếu do nghĩa năng trì làm mạng, nghiệp chủng cũng có công năng trì sao không lấy?
Đáp: Đại thừa Tiểu thừa giáo đều nói mạng là sở dẫn dị thục Vô ký của nghiệp. Nếu lấy nghiệp chủng lại trái nghĩa trước, cho nên lựa chọn.
Sớ: Mạng căn không phụ thuộc v.v... Xét quyển 57 ghi:
Hỏi: Mạng căn có những gì làm căn phần, trong hai mươi hai căn là phần căn nào?
Luận chủ đáp: Đây không có sở thuộc, nghiệp trước sở dẫn thời lượng quyết định mà kiến lập cho nên chỉ nói giả có.
Giải thích rằng: Nên biết mạng căn chẳng phải y hiện thức. Hiện thức tức thuộc ý căn.
Hỏi: Chủng từ hiện cũng thuộc ý xứ, sao không thuộc ư?
Đáp: Như hai người nam nữ, ba món Vô lậu căn, do sở y thân căn, chín căn phần nhỏ kia làm thể không gọi là không thuộc, đây chỉ nương trên chủng kia giả lập, không phải phần của sở y căn, nên gọi là không sở thuộc.
Hỏi: Y hiện giả lập không lấy hiện của thể, sao chẳng phải không thuộc?
Đáp: Chuẩn lý này y hiện giả lập không trái Dugià y văn Duy thức nói chủng, lại nương chủng lập có nhiều lý, cho nên lấy y chủng.
Hỏi: Trong ba khoa pháp xứ, pháp giới, hành uẩn nhiếp mạng, sao gọi là không thuộc?
Đáp: Giả lập mạng căn đứng về công năng khác, cho nên nói chẳng phải căn, chẳng phải pháp xứ nhiếp.
Biện rằng: Không đúng, ý Du-già hỏi trong hai mươi hai căn là căn phần nào, không nói ba khoa sở nhiếp, nên luận ấy nói:
Hỏi: Nam nữ hai căn nhưng căn phần nào?
Đáp: Là phần thân căn.
Hỏi: Ba căn rốt sau những căn phần nào?
Đáp: Là chín căn phần, nghĩa là tín v.v... chín căn.
Hỏi: Mạng căn những phần nào?
Đáp: Đây không có sở thuộc, chỉ có giả lập, chuẩn theo đây nên biết, đối với hai mươi hai căn nói nhiếp nhau.
Hỏi: Chủng có mới cũ y chủng nào lập?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Pháp nhĩ, mới cũ tùy theo sở ứng ấy nghiệp trước đã dẫn chánh làm nhân duyên sinh hiện thức, y chủng kia lập.
2. Y hai chủng lập, cộng làm nhân duyên sinh Thức thứ tám, thế lực v.v... nên hòa hợp tợ một, không thể nói có thể đều khác, không có lỗi hai mạng.
Xác quyết rằng, nay y trước nói, gọi là chủng tử đã có rất nhiều, không thể tất cả cộng sinh quả. Nhưng nay chủng mạng căn sở y, cần sinh huân trước, vì trước dẫn nghiệp.
Biện rằng: Hộ Pháp đã thừa nhận hợp dụng của mới cũ mạng căn sở y cũng nên như vậy, hoặc chỉ y cũ, hoặc chỉ y mới, hoặc thông y hai pháp, gặp duyên liền nương, không thể phân phán nhất định. Lại chỉ thừa nhận y mới cũ hai loại, không nói tất cả đều y, nói sở y chủng tướng phải sinh huân, tức duy mới cũ, tại sao xác quyết lấy giải thích trước?
Sớ: Lại là thức hiện hành sở trì.
Giải thích thứ hai này, ở đây trong giải thích, có ba ý:
1. Hiện hành, Hiển Dương sáu xứ đều là hiện hành, hiện hành tức là chủng thức sở trì.
2. Hiện hành, Hiển Dương sáu xứ là hiện thứ sáu, hiện thứ sáu là thứ tám hiện thức, thứ tám hiện Thức thức chủng sở trì.
3. Hiện hành, Hiển Dương sáu xứ là hiện hành. Thức sở trì, sáu hiện là Thức thứ tám kia trì, từ sở trì mà nói năng trì v.v... sáu hiện hiện tám tổng gọi là sở trì tám chủng trì. Tuy có ba nghĩa, giải thích trước là chính, giải thích sau hai lý thông.
Sớ: Tuy hai cách giải, trước lại giải thích trở trên gọi là giải thích thứ nhất, lại giải ở sau thành giải thứ hai.
Sớ: Hoặc thức chủng hoặc lục xứ chủng v.v...
Nêu lại hai cách giải trước, thức chủng thứ nhất, lục xứ thứ hai.
Sớ: Thủ năm căn chủng v.v...
Hỏi: Đã dùng chủng tử gọi là mạng căn, hiện lập gián đoạn mà chủng không mất, đâu được vặn hỏi rằng lẽ ra gọi là chết.
Đáp: Chủng có công năng hiện không nên đoạn, hiện hành đã đoạn nói chủng không công năng, công năng đã mất vậy sao không gọi là chết. Có thuyết nói lấy sáu căn chủng lập mạn làm thiện. Biện rằng: Không đúng, có phần bỏ mạng, mạng ba cõi sai khác, lỗi của chủng chủng, như trong sớ đoạn thiện.
Luận: Lẽ ra khi Vô sắc có thật pháp sai biệt v.v...
Trong sớ tạm nêu bày có năm hỏi đáp, chuẩn theo lý nói họ vặn hỏi chưa dứt. Lại ngược thứ năm rằng: Tâm pháp thông năng nhàm chán, chỉ có tâm chủng gọi là vô tâm. Sắc pháp chỉ có sở nhàm chán, chỉ có tâm pháp gọi là Vô sắc, ngoài nói cũng vây, tâm pháp thông năng nhàm, phi sắc phi tâm gọi là vô tâm, sắc pháp chỉ có sở nhàm, chỉ có tâm tâm pháp gọi là Vô sắc, cho nên chưa dứt tranh cãi. Lại giải thích trong sớ thứ hai vặn hỏi người ngoài, trong truyện bốn sư giải thích:
1. Nhàm tâm năng nhàm không có, y chủng lập vô tâm, nhàm sắc năng nhàm còn, không y chủng giả lập, đây giải thích không đúng, người ngoài nói cũng như vậy nhàm tâm năng nhàm không có, có sai biệt thật pháp ngại, nhàm sắc năng nhàm còn, không có thật pháp ngăn.
2. Ta nói vô tâm là giả pháp, cho nên ở hai vị có không bất định, ông nói thật có không y sắc tâm, tại sao không thừa nhận hai chỗ đều có? Đây cũng không đúng. Người ngoài vặn hỏi rằng: Ông đã là giả một cái có một cái không, nào ngại ngã thật một không một có.
3. Nói nhàm tâm nhập vô tâm y nhàm tâm chủng lập, nhàm sắc nhập Vô sắc, cũng nương nhàm tâm chủng lập, đây cũng không đúng, nhàm tâm tâm không hành, có thể nương tâm chủng lập, nhàm sắc tâm còn hành, đâu được nương tâm chủng, lại không có Thánh giáo nói Vô sắc định là giả lập.
4. Vì phá chấp thật y chủng lập giả, thật chấp nêu không giả cũng không có, đây cũng không đúng. Lại diệt tận định Tam thừa thông đắc lẽ nào vì đối chấp mà thi thiết ư?
Biện rằng: Xem các giải thích trước tuy gồm có lý đều chưa gạn cùng, nay có thêm hai giải thích.
1. Ngã vô tâm định năng nhàm không có, vô tâm y tâm chủng giả lập, Vô sắc năng nhàm tâm không dứt, Vô sắc không nương sắc chủng lập, ông Vô sắc định, năng nhàm còn, Vô sắc dung chứa thật không nương cái khác, vô tâm năng nhàm đã nói vô, vô tâm nên mượn y tha lập, do tông ấy nói phi sắc phi tâm làm định thể, không nói y tha mà giả lập, nên vì đây vặn hỏi.
2. Do Vô sắc định, hoặc tha như vậy. Không dứt tha chống chế, ý suy nghĩ có thể biết, do đây cho nên có giả thứ hai ngăn phi thật phá.
Luận: Giả cũng có thể ngăn v.v...
Sớ nói cực vi là thật hòa hợp là giả, lại nói bình v.v... của tông ấy có thể ngăn thật không thể ngăn, đây đều là lầm, tất cả năng thành, sở thành của hữu tông đều là thật, tức sở thành thật cũng là năng ngăn.
Biện rằng: Có tông sở thành năm trần tuy thật, trần hợp thành bình, bình v.v... là giả. Lại sớ nói pháp thật cực vi mà không thể ngăn, vì không hòa hợp, rõ biết sở thành đã là hòa hợp, thừa nhận là năng ngăn, một thuyết tại sao vọng phá, lại sớ đây ban đầu dùng bốn câu biện tông sai biệt, nói Tát-bà-đa thô tế đều thật, lẽ nào có thể trước sau tự mâu thuẫn ư? Văn sớ văn ước lược mà nghĩa rộng khắp. Sớ: Đây dẫn có biệt pháp v.v... Đây là Câu-xá.
Hỏi: Xét trong Câu-xá nói, nếu sinh trong cõi trời vô tưởng hữu tình, hữu pháp hay khiến tâm tâm sở diệt gọi là vô tưởng, là thật có vật có thể ngăn tâm vị lai tâm sở pháp, khiến tạm không khởi, như đập ngăn nước sông. Đã chứng vô tưởng là thật có vật, tại sao nói sai? Nghĩa là giả thật dùng làm dụ ư?
Đáp: Ý dụ thành, hữu pháp trước hay khiến tâm tâm sở diệt, hiển bày sở ngăn người ngoài mà có năng ngăn không thành thật có, nếu không như vậy thì hữu tông, Kinh bộ đều thừa nhận đập nước v.v... chẳng phải là thật có, là dụ của thật, dụ lẽ nào không có cả hai sở lập không thành lỗi? Vì lìa lỗi này cho nên không thành thật, đây chính là sớ chủ thâm đắc ý chỉ. Nói như đê đập cùng lượng người ngoài làm lỗi bất định, nghĩa là người ngoài lượng rằng, hai loại vô tâm định, vô tưởng dị thục, định là thật có là vì năng ngăn, như định Vô sắc, cùng làm lỗi rằng, vì như định Vô sắc là năng ngăn là thật có ư? Vì như bờ đê, là năng ngăn cho nên chẳng phải thật có chăng?
Biện rằng: Pháp này là lỗi sai biệt, do thật có pháp tự tướng, lìa sắc tâm thật có, không lìa sắc tâm thật có là pháp sai biệt, có ý tông thành lìa sắc tâm có không có sắc định là không lìa tâm, trái lại làm dị dụ, nhân chuyển kia thành lỗi sai biệt.
Luận: Phát kỳ nguyện thù thắng v.v...
Hỏi: Trong gia hành cũng năng phát chăng?
Đáp: Có hai giải thích: Một là năng phát, hai là ban đầu tu chuyên chú tâm nhàm không có cơ hội năng phát. Nếu được tự tại, phát không có lỗi.
Luận: Trước vô tướng định cầu quả vô tưởng, cho nên sở huân chủng chiêu lấy dị thục thức.
Trong tâm thấu tỏ, cầu quả vô tưởng, tâm nhỏ nhiệm sở huân thành chủng làm dị thục nhân năng chiêu lấy dị thục, trong tâm nhỏ nhiệm hành tưởng yếu kém, chẳng phải riêng năng cầu dị thục ngay đó.
Biện rằng: Luận tự nói rõ Vô tưởng định trước cầu quả vô tưởng không lựa chọn xa gần, tâm nhỏ nhiệm lẽ nào chẳng phải định trước? Nếu tâm nhỏ nhiệm kém không cầu, tại sao trước nói khi tâm nhỏ nhiệm huân dị thục thức thành tăng thượng tâm nhàm các chủng? Lẽ nào hiện hành kém sở huân đắc chủng bèn thành tăng thượng? Cho nên hành tướng tế gọi là nhỏ nhiệm, chẳng phải căn cứ hơi kém gọi là nhỏ nhiệm, nên sớ nói là chính.
Sớ: Khi tâm minh liễu chiêu lấy dị thục.
Tức tâm nhỏ nhiệm gọi là minh liễu, đối vô tâm ấy nên gọi là minh liễu, thứ hai giải thích nói tâm minh liễu đối tâm nhỏ nhiệm gọi là minh liễu.
Sớ: "Đây nói tuy tổng" đến "hai quả sai khác".
Một chủng tử thể ước lược, vị trước sau chiêu lấy hai loại quả v.v... khi tâm nhỏ nhặt diệt rồi tức không có, tại sao riêng nói chiêu lấy tổng dị thục? Cho nên cũng chẳng phải lý, nếu y biệt báo chuyển thức các căn nói biệt nghiệp chiêu lấy tức không có lỗi. Nhưng nên nói minh liễu tâm v.v... chiêu lấy biệt dị thục khi tâm nhỏ nhiệm chiêu lấy tổng dị thục hoặc tâm nhỏ nhiệm thông chiêu lấy tổng biệt. Luận Du-già ghi: Năng dẫn định tư năng cảm quả dị thục của cõi trời kia, tại sao trái giáo nói ngược chiêu lấy sai khác?
Biện rằng: Nếu nói minh liễu chiêu lấy chuyển thức biệt báo dị thục, tâm nhỏ nhiệm chiêu lấy tổng báo dị thục ấy, vô tưởng dị thục giả cho nên không chiêu lấy, tại sao Thánh nói nhân vô tưởng định, vô tưởng dị thục mà thành quả? Giả gọi là chiêu lấy, như trong Nghĩa Đăng có chép đủ.
Sớ: "Vô tâm trở đi" đến "vô tưởng dị thục".
Tức là trên các chủng tử của Thức thứ sáu của cõi trời kia khéo ngăn Thức thứ sáu của địa ấy, hiện không khởi công năng gọi là thể vô tưởng dị thục.
Sớ: Cho nên giải thích trước thù thắng. Hỏi: Thắng nghĩa thế nào?
Đáp: Nói vô tưởng định chiêu lấy quả ấy, do chủng vi tế kiến lập định, do trước chẳng phải định, nếu thủ tâm trước mà cảm định ấy, làm sao nói do định sinh cõi ấy? Lại biệt báo ấy mà không có tự thể, làm sao thật chủng có thể chiêu lấy cõi ấy? Cho nên giải thích trước thù thắng. Sớ nói tâm nhỏ nhiệm mỗi mỗi chiêu lấy một quả, nay không nương nó.
Biện rằng: Sớ đã đoạn xong, đâu cần phiền lập lại?
Sớ: Nay giải thích v.v...
Sớ chủ đưa ra sự thể vô tưởng ấy, trong sớ nói có hai giải thích. Lại có thuyết nói, luận vốn có biệt báo dị thục chuyển thức đầu tiên tạm khởi sức nhân duyên đời trước, sau không sinh lại. Cho nên y Thức thứ tám sinh được tâm Vô ký tâm sở diệt, đã không có hành vị giả lập vô tưởng, khi vô sinh ấy đắc tâm tâm sở, y Thức thứ tám hiện hành ấy mà giả kiến lập vô tưởng dị thục, vô tưởng dị thục đã là quả chẳng phải nhân, cho nên không thể nói y chủng tử lập, có nghĩa đoạn đây dùng làm chánh thuyết.
Biện rằng: Y chủng là chính, nếu nói vị ấy có hiện hành Thức thứ tám cho nên y lập, hai loại định vô tâm cũng có Thức thứ tám, sao không nương lập, mà nương chủng? Nếu nói là quả ở sau nương chủng, chủng giúp hiện hành huân chủng nên chẳng phải quả, công năng trên chủng lại thường thường thời định thành quả lỗi gì?
Sớ: Thiện v.v... tâm hằng hành v.v...
Đồng nói hữu phú vô phú ấy, đường dài khởi gọi là hằng hành, chẳng phải không gián đoạn gọi là hằng hành. Hoặc sớ bỏ qua, lẽ ra nên nói không hằng hành.
Sớ: Vô tưởng dị thục thông Trì nghiệp, Y sĩ.
Đương thể lập danh tức Trì nghiệp, từ nhân được tên gọi là nên Y sĩ.
Sớ: Như tưởng đồng nữ v.v...
Tây Vức lập pháp gặp đồng nữ biểu hiện có cát tường, lại như răng đồng nữ trắng môi mỏng, gót chân đầu gối thon tròn, biểu hiện người nữ đây sinh con ắt đẹp, khác tướng trước sinh con ắt xấu.
Sớ: "Nhưng ngăn sinh" đến "quyết định tương vi".
Ngăn sinh ấy v.v... quyết định riêng có, cùng định ấy sai biệt mà làm trái nên gọi là quyết định trái, chẳng phải là Thức thứ sáu quyết định tương vi, quyết định tương vi đổi tông pháp khác, và nhân dụ v.v...
Có thuyết nói: Thức thứ sáu tuy không đổi nhân cũng được thành.
Biện rằng: Không đúng, hai chủng thứ nhất và thứ sáu bất định, đâu có gì sai khác? Cho nên ban đầu giải thích chính.
Sớ: Vô vi không sinh ba loại năng tướng. Đây là người ngoài vặn hỏi.
Sớ: Thể không khởi hết. Luận chủ đáp vậy.
Sớ: Đây vặn hỏi không đúng v.v...
Hỏi: Người ngoài nói cũng vậy, lập và không lập sai khác làm sao có thể dứt vặn hỏi?
Đáp: Tông của ta Vô vi cũng lập giả tưởng, cho nên trong kinh Đại Tập quyển 20 ghi: "Pháp Vô vi có ba loại tướng, nghĩa là không xuất, không diệt, không trụ". Du-già quyển 88 nói, Hữu vi là vô thường, ba tướng Hữu vi giả sử có thể được, tương vi với đây nên biết thường trụ ba tướng Vô vi.
Hỏi: Nếu vậy vì sao pháp không tương ưng chỉ có hai mươi bốn?
Đáp: Nêu thù thắng mà bàn hai mươi bốn, ngã đã giả lập. Lại vặn hỏi luận ấy rằng, tông ta thể Vô vi là một không có sai khác nên không giả tướng, tông ông diệt v.v... thừa nhận nhiều thể đồng Hữu vi phần nhiều có thật tướng.
Sớ: Nhân có thân sơ.
Nghĩa là trong sáu nhân trừ nhân năng tác, năm nhân còn lại đều là nhân duyên sở nhiếp, lại Đồng loại nhân ba tánh năm uẩn đều tự làm nhân, như thiện thức uẩn mong tự làm thân, mong bốn uẩn khác, gọi đó là sơ, do vì chẳng phải thức, còn lại xen nhau mong thân sơ, chuẩn theo đây.
Sớ: Pháp duyên cũng vậy.
Trong bốn duyên trừ ngoài nhân duyên đều gọi là duyên, vả lại tự sáu căn mong tự sáu thức gọi là thân tăng thượng, còn lại mong sáu thức gọi đó là sơ, vì không bị ngại, chẳng phải cận sinh, còn lại chuẩn theo đây biết.
Sớ: "Chánh lý sư" đến "là thủ dụng".
Xét ý Chánh Lý luận quyển 14, sinh tướng vị lai chỉ khởi công năng chẳng phải là tác dụng, hiện thủ quả dụng mới là tác dụng, tác dụng ắt là công năng, công năng chẳng phải ắt có tác dụng.
Sư Câu-xá phá công năng tác dụng là tên khác, vì sao sinh dụng chỉ gọi là công năng, trụ v.v... ba loại gọi là tác dụng? Lại trái với các nhà luận thuyết của Bà-sa, nói rằng: Không có đẳng vô gián duyên khác thời thủ quả dị thời cùng quả. Chuẩn theo chủ luận ấy, nhập định vô tâm tức là thủ quá khứ cùng quả, đã thủ quá khứ nên gọi là hiện tại.
Sư Chánh Lý nói: Đẳng vô gián duyên hiện tại đốn thủ quá khứ lần lần cùng quả, đây là không được, tức vô gián duyên dị thời thủ cùng trái Bà-sa ở trước.
Sớ: Sao không có pháp đi đến đều có công năng.
Đây là vặn hỏi quá khứ vị lai tất cả các pháp đều có công năng, không chỉ sinh tướng và cùng quả đều là bản hữu.
Sớ: Sinh, chẳng phải tác dụng v.v...
Đây chính là lập lại chấp thành ý vặn hỏi trước, do bản ông nói sinh cùng quả v.v... không phải tác dụng hiển bày công năng, không nói pháp khác có công năng. Lại vặn hỏi sinh tướng không làm công năng, làm công năng không nên gọi là công năng, còn vị lai cũng không có tác dụng, vì không có tác dụng nên gọi là công năng, vặn hỏi pháp quá khứ cũng chuẩn theo đây nên biết.
Sớ: "Dị diệt" đến "liền chẳng phải hiện tại".
Hỏi: Chuẩn theo luận Chánh Lý, trụ dị diệt cả ba đều quả năng thủ, khởi dụng đều sai khác, đối với sở tướng pháp trụ khiến an trụ, khiến thủ quả thù thắng, dị tức suy tổn khiến thủ quả yếu kém, diệt tức hoại diệt khiến vào quá khứ vặn hỏi lẽ nào chẳng phải lỗi?
Đáp: Dị v.v... không thể dẫn ở quả thắng gọi là không thủ quả, căn cứ một bên vặn hỏi cũng không có lỗi.
Sớ: Bà-sa quyển 3 nói vị lai ba pháp có tác dụng.
Xét luận kia rằng, nghĩa là tất cả pháp có thể ở vị lai có tác dụng, đều có ba loại: Một là nội pháp như khổ pháp trí nhẫn, hai là ngoại pháp như trăng sáng, ba là nội ngoại pháp.
Hỏi: Pháp khổ trí nhẫn tác dụng thế nào?
Đáp: Tức luận ấy nói khổ pháp trí nhẫn hay chánh xả dị sinh tánh, nghĩa là chánh sinh thời xả dị sinh tánh, ở vị chánh diệt năng đoạn Dục giới chấp khổ sở đoạn mười loại tùy miên.
Giải thích rằng: Nói chánh sinh tức đời vị lai, đời vị lai xả dị sinh tánh là tác dụng của nhẫn, hai loại còn lại nên biết.
Sớ: Tức dị trước không thành v.v...
Xét luận ấy Kinh bộ phá, hữu bộ nói, dị ở một pháp tiến thoái suy vi lý không nên có, dị nghĩa là trước sau tánh tướng chuyển biến, phi tức pháp đây có thể nói dị đây, nên nói bài tụng rằng:
"Tức dị trước không thành Dị trước chẳng một pháp Thế nên đối một pháp Lập dị trọn không thành".
Giải thích rằng: Tướng khác pháp khác, nếu tức là trước trụ tướng trụ pháp nghĩa khác không thành, vì chẳng phải pháp khác, đây chính là trách về tiến. Nếu tướng khác pháp khác trước trụ tướng pháp sở trụ, pháp tức chẳng phải một, nếu trụ pháp khác mà có biệt, có lỗi trái tông, họ thừa nhận một pháp, có trụ khác, đây là trách về thoái.
Sớ: Mười thời phần vị.
Trong thai ngoài thai có năm thời đều như pháp số.
Sớ: Các luận chỉ mong ở trước.
Các luận thông nói tất cả hữu tình, tên của hữu tình cũng nhiếp vô học, sau vô học tâm lại không có hậu uẩn, không hậu có thể khác nên nói mong ở trước.
Sớ: Cũng nói trừ mạt tâm ấy.
Trừ tâm vô học sau cùng ấy, đối các hữu tình cũng được dị hậu, nên không có tương vi.
Luận: Nếu danh cú văn chẳng phải thật năng thuyên.
Hỏi: Đại thừa tự thừa nhận cõi Phật phương khác màu sắc cũng năng thuyên là dị thanh có, nhân lẽ nào không phạm tự bất định ư?
Đáp: Chẳng phải thật nên nói do lựa chọn dị ấy xong nên không có bất định.
Sớ: Nếu không nói pháp xứ v.v...
Hoặc tông chỉ nói chẳng phải lìa sở y riêng có thật thể, tha thừa nhận gãy khúc lìa sắc sở y riêng có thật thể, nên thiếu sở lập, nếu nói pháp xứ, tha cũng không thừa nhận trên sắc gãy khúc ở pháp xứ, nên dụ không có lỗi.
Sớ: Không thể vặn hỏi nói giới thể chỉ y tư v.v...
Ý người ngoài vặn hỏi rằng: Dài v.v... chỉ nương sắc chỉ khiến thuộc biệt xứ, vô biểu chỉ y tư, nên không đồng xứ nhiếp.
Ý đáp: Vô biểu cùng tư đồng pháp xứ đâu được vặn hỏi khiến không đồng xứ ư? Đây tức lại căn cứ đồng xứ đáp họ, không lìa điều họ vặn hỏi. Họ vặn hỏi dài ngắn cũng vậy, vì hiện đồng xứ, đâu được vặn hỏi khiến biệt xứ ư? Từ đây trở xuống sẽ chánh giải thích. Có thuyết nói, hiện hành là ý cảnh, nên đồng pháp xứ.
Biện rằng: Định đạo vô biểu lý dung chứa có thể như vậy, biệt thoát vô biểu, tại sao y hiện, lại nếu ý cảnh tức đồng pháp xứ, sắc v.v... gãy khúc cũng tự ý cảnh, nên chỉ có pháp xứ, nên biết trái.
Luận: Đây lẽ ra như thanh kia v.v...
Sớ có hai ý ban đầu lượng phá, mà nói đây là thanh trong tiểu đây, kia là tiếng nhạc kia nhỏ. Lại nói, nếu tiếng nói v.v... đây nói đây tự tiếng gãy khúc bên trong, kia tức kia trong ngoài sinh gọi là tiếng. Nhưng lượng trong sớ cùng ngoài lượng trước làm hữu pháp sai biệt, suy nghĩ có thể biết.
Sớ: Chỉ như ông hóa thân nói hai nghiệp v.v... Ý như trong Nghĩa Đăng giải thích.
Hỏi: Đã thừa nhận năng thuyên thành ngữ nghiệp chăng?
Đáp: Thật thể ngữ nghiệp Đại thừa chỉ có tư, nếu căn cứ giả nghiệp, dù lìa chất thanh gọi nghiệp không có lỗi, cho nên trong Luận Phật Địa quyển 7 nói hóa thân ngữ nghiệp đều có ba loại, nghĩa là thân tự tha, chẳng phải thân tương ưng, ý nghiệp chỉ có hai, nghĩa là thân tự tha, không đâu chẳng phải thân. Phi thân nghĩa là phi tình, nếu tâm tương ưng chẳng phải phi tình, cho nên chỉ hai loại.
Hỏi: Tiểu thừa hóa ngữ được thành nghiệp chăng?
Đáp: Nếu y Hữu bộ tức chất hóa ngữ năng sinh danh v.v... là ngữ nghiệp tánh, nếu lìa hóa chất, theo ý Bà-sa có hai giải thích:
1. Hóa ngữ tánh là ngữ nghiệp, do tâm phát, tuy lìa hóa không chấp thọ sinh, nhưng thuộc về hữu tình chẳng phải thuộc ngoại khí, cho nên chuông gió âm thanh khí bên ngoài cùng với đây trái nhau không có năng thuyên, các loại tiếng nhạc ống nhạc dây cũng như vậy, cũng không nêu bày, có ca khúc tợ gọi là chẳng phải chân, thừa nhận là tiếng nói, gió khí gió v.v... dẫn phát, tuy gọi là tiếng nói vẫn thuộc bên ngoài, không có danh chẳng phải nghiệp, vì không thành tựu.
2. Tuy là năng thuyên nhưng không có danh thật, đã có nêu bày tợ danh chẳng phải thật, như lửa trong gương giống như lửa chẳng phải chân, tánh cũng chẳng phải nghiệp, lại không thành tựu, do không chấp thọ đại chủng sinh. Các luận căn cứ tợ thuyết tên hữu tình, y tức hóa chất nói thành hóa ngữ.
Sớ: Nay Đại thừa nhân đồng thời v.v...
Xét Đối Pháp quyển 1 nói, nhân thọ đại chủng, nghĩa là âm thanh của tiếng nói, nhân không thọ đại chủng, nghĩa là các tiếng của cây v.v... nhân đồng thời, nghĩa là các tiếng của tay đánh trống.
Giải thích rằng: Nhân nghĩa là sở do, thọ nghĩa là chấp thọ, tỉnh lược nên nói thọ, tức tiếng đại chủng dẫn phát thuộc sở hữu tình, nhân không thọ tiếng trái ở trước nên biết, do tiếng duyên trong ngoài dẫn phát gọi là đồng thời, hai tăng thượng duyên phát sinh một tiếng, nhưng có tông không thừa nhận, nên hiển bày tông luận, không có tánh của tiếng để chấp thọ, và không chấp thọ đại chủng làm nhân. Hai và bốn đại chủng đều là quả sai khác, tuy hai đại chủng có tiếng gõ đánh mà chúng làm nhân đều phát tiếng sai khác. Căn cứ tự y xứ không thành ba thể, tuy có tướng tay đánh tiếng làm nhân phát sinh hai tiếng, mà tướng sáng đoạt tùy theo lấy một loại, tướng sai biệt khó biết, thế nên thanh xứ chỉ có hai loại, nay y Đại thừa không lấy nghĩa Tiểu thừa.
Sớ: Như tiếng cây rừng thuyết pháp cũng được có thiện v.v... Đối với Phật hóa đều thuộc thiện, còn lại thì không như vậy, do
Phật sắc thanh đều chỉ có thiện, có nghĩa lập chẳng phải là hóa, hữu tình thắng nghiệp đã cảm có khí bên ngoài như là tiếng, các pháp năng thuyên đồng tiếng nhạc ống nhạc dây, cũng không có lỗi.
Biện rằng: Trong kinh nói Phật hóa làm, mà các tiếng nhạc ống nhạc dây cần người thổi đánh, không có giáo không nêu bày nên khó nương.
Sớ: Do ngữ và danh chẳng tức, chẳng lìa v.v...
Đây ngăn phục vặn hỏi, vặn hỏi rằng danh ta lìa ngữ, ông không thừa nhận, đã không thừa nhận lìa, ông liền nói ngữ nên có lời đáp đây.
Sớ: Trời thương v.v...
Lược có hai loại;
1. Trời thuộc năng ái, ái thuộc sở ái, sở ái gọi là ái của mỗi cõi trời là Y chủ thích.
2. Trời cùng ái thuộc về năng ái, nay sở ái được trời ái, tức là Hữu tài thích. Như luận Tỳ-đa-la nói việc đây, tức trong Xu Yếu đã nói vậy.
Sớ: Văn là nêu bày nghĩa.
Danh, cú hai loại là nêu bày thành hiển, hiển nêu bày tự tánh nghĩa sai biệt, văn thành sở y, từ năng y nói gọi là ảnh hiển, có văn thuyết thể tức danh hiển, do năng thuyết hai danh cú ấy, năng thuyên tức là nghĩa ảnh hiển.
Biện rằng: Sớ giải thích là chính, vì có chỗ nương tựa, cho nên luận Du-già quyển 52 nói, nếu chỉ có nương văn chung có thể liễu đạt âm vận mà thôi, không thể liễu đạt sự nghĩa sở hữu, nếu y chỉ danh lại có thể liễu đạt các pháp tự tánh, tự tướng cũng liễu đạt âm vận, không thể liễu đạt sâu rộng sai biệt, nếu y chỉ cú phải tất cả đều có thể liễu đạt. Câu-xá quyển 5 nói, những chữ như "bao", "a" chẳng phải năng thuyên biểu hiện. Luận Thuận Chánh Lý quyển 76 nói, văn nghĩa là không thể thân gần đối với nghĩa, nhưng cùng với danh cú là nghĩa năng thuyên nương, điều này các luận nói văn không thể liễu đạt sự nghĩa năng thuyên với pháp, tại sao gọi là hiển? Nếu gọi là năng hiển, tại sao không thể liễu đạt sự nghĩa? Cho nên trong sớ giải thích là hay.
Hỏi: Nếu vậy vì sao quyển 52 nói đối với tất cả ở trong việc sở tu sở thuyên, cực lược tưởng là văn, nếu ở trong đó là danh, nếu rộng là cú?
Đáp: Do năng là nương giúp danh cú ấy khiến thành thuyên biểu, xa có nghĩa thuyên, nghĩa thuyên sơ lược gọi đó là lược, chẳng phải thân sơ thuyên tiểu gọi là lược. Nay lại giải thích rằng, nếu nói năng thuyên chỉ có danh cú hai pháp, nếu nói năng hiển thông danh cú văn, văn năng hiển âm vận ấy sai biệt danh cú ấy. Cho nên luận Du-già quyển 52 ghi: "Nếu chỉ y văn, chỉ có thể liễu đạt âm vận mà thôi". Hiển Dương quyển 12 ghi: "Hiển phát danh cú, nên gọi đó là văn là năng ảnh", vì hai thuyết ấy lại đây gọi nghĩa hiển năng hiển, nghĩa là lý do, văn là lý do âm vận của thanh năng hiện.
Sớ: Tự tướng cộng tướng thể chẳng phải là biến, hai tướng này không biến khắp nhau gọi là chẳng phải biến khắp.
Sớ: Thể tự tánh sai biệt tức biến thông.
Hai pháp này cùng biến tự tướng cộng tướng, nên gọi là biến khắp.
Sớ: Nay không đồng với họ v.v...
Nay luận này nói tự tánh danh thuyên, không đồng với tự tánh của các giáo hiện lượng sở chứng tự thể các pháp. Trong sớ nói, các pháp chỉ có chứng hiện lượng, tức nêu thể tự tánh sở chứng.
Sớ: Nếu vậy, tất cả pháp đều không thể nói v.v...
Hỏi: Cùng thứ lớp hỏi đáp sao có sai biệt ư?
Đáp: Trước thô sau tế, cho nên cả hai sai khác, suy nghĩ kỹ có thể hiểu.
Sớ: Lại chỉ có năm căn năm trần, tâm, tâm pháp đắc, căn trần tự tướng đều gọi là bất đắc, cho nên chỉ có tâm đắc. Phật quả, Thức thứ tám thảy đều đắc, trong nhân thứ tám được hai tự tướng, năm thức chỉ được tự tướng năm trần, Thức thứ sáu, thứ năm đồng duyên được tự tướng trần, ý thức trong định cũng được năm căn, còn lại thì không như vậy.
Hỏi: Năm căn chiếu cảnh, tự tướng năm cảnh căn nào không được?
Đáp: Tâm hiện lượng gọi là được tự tướng, căn chẳng phải hiện lượng nên không được tánh ấy.
Hỏi: Nếu vậy vì sao Hiển Dương luận hỏi như vậy hiện lượng ai có?
Đáp: Sắc căn hiện lượng v.v... chuẩn theo lời đáp ấy tức thể của năm căn cũng gọi là hiện lượng. Hỏi: Nay sao lại nói chẳng phải?
Đáp: Ý văn kia nêu căn cảnh của tâm để làm tâm có thể có hiện lượng mà nói hiện lượng, thể của hiện lượng thật chỉ là tâm pháp.
Sớ: Không được nghĩa sai biệt của cộng tướng. Tức nghĩa cộng tướng sai biệt, nghĩa cú sai biệt sở đắc.
Hỏi: Danh cú này cả hai sở thuyên, tự cộng cùng hiện lượng, tỷ lượng sở duyên nào có khác?
Đáp: Có đồng biệt, lại tâm tỷ lượng mà có đồng, duyên thông cả hai, nếu không như vậy, tại sao được nói nghe là tỷ lượng, tỷ lượng căn cứ đây được duyên có hai? Nói biệt là đối với tự, cộng tướng vì muốn liễu tri, tâm tướng, hành giải thật so sánh các pháp khác mới gọi là tỷ lượng sở thủ cộng tướng, hiện lượng mong luận nó cho nên nói đồng. Chỉ nói danh cú là nêu bày đối với sắc thanh thường vô thường v.v... Tự, cộng tướng hiện lượng ở đây cũng duyên mà nói sai biệt, là danh cú sở thuyên chỉ nương tâm biến không thật thể tánh, chỉ là cộng tướng chuyển, hiện lượng mang cả thuyên, hai tướng kia chung gọi là tự tướng. Lại tâm hiện suy tìm, danh ngôn ấy là pháp sở thuyên, tuy chấp bất định gọi là nghĩa thuộc v.v... nhưng khởi hành giải cũng cùng nghĩa ấy đồng, nơi thanh không đến thì trí không chuyển. Phật biết pháp ấy không do duyên biến, cũng cùng pháp ấy đồng, trừ các nghĩa trước. Nếu Thức thứ năm, thứ tám ở tướng nhân vị, chánh nghĩa có tự thể, tướng mà định mang theo thông với thể hữu vô, danh cú sở thuyên cộng tướng không có, nên sai khác với nó.
Hỏi: Danh cú sở thuyên tâm biến không có tự thể chỉ có cộng tướng chuyển, tỷ lượng cũng vậy, hai thứ tâm năng biến và hai cảnh sở duyên sao lại khác?
Đáp: Cú v.v... sở thuyên bao gồm tất cả pháp tự loại gọi là cộng tướng, tỷ lượng sở duyên thông ở dị loại gọi là cộng tướng, như nhân sở tác thông với thanh, bình v.v... tâm tỷ lượng lập một chủng loại so sánh các pháp khác, tầm cú v.v... tâm tức không như vậy, cho nên có sai biệt.
Hỏi: Nếu vậy trí tầm cú v.v... thuộc về lượng nào?
Đáp: Định tâm duyên gọi là hiện lượng thâu nhiếp nhiếp; tầm gọi là hoành kế tức là biến kế, thuộc về phi lượng. Nếu chẳng hoành kế, tuy không tác ý thông suốt các pháp khác cũng thuộc tỷ lượng. Nếu không như vậy tâm đây là thuộc pháp nào? Điều này càng nên suy nghĩ lại.
Hỏi: Danh cú sở duyên cùng với kinh đã nói hai tướng có gì sai khác?
Đáp: Kinh nương pháp thể, danh cú sở duyên tâm tưởng an lập.
Hỏi: Vì sao không thủ duyên gọi là đẳng trí, tất cả tướng phần là cộng tướng v.v... chỉ thủ hành giải, tâm biến là vì sao?
Đáp: Tướng phần sở biến không thông các loại, không được gọi là cộng, hành giải thông các pháp nên gọi là cộng tướng.
Hỏi: Trí tầm danh ngôn đã nương cộng tướng, tướng ấy thể không có, làm sao gọi là huân tập hay sinh bản thể?
Đáp: Trí tầm danh ngôn tướng phần chẳng phải không có, thuận hành giải tâm năng sinh bản thể, nhưng ở trên tướng khởi kiến giải các màu xanh vàng, sắc thanh, tâm giải sở duyên, cộng tướng này thể tánh là không, ở trên tư tướng tăng ích ở đây. Lại có hỏi đáp, như chương ấy có nêu bày đủ.
Sớ: Chưa rõ hữu danh v.v... Lược có hai giải thích:
1. Do chưa có pháp năng liễu tự tướng nên không được hữu danh, văn khéo lược, còn lại chuẩn theo đây giải thích.
2. Tuy có chữ "nhiều" cũng chưa có tự tánh của pháp năng liễu, nên phải có danh, có cú chuẩn theo đây.
Đây nói lập danh cú văn ấy, không lấy lý do ở tụng, cho nên đoạn sau kết rằng không khác tụng nói, giải thích sau là thù thắng.
Hỏi: Chữ y có danh cú, cả ba đều không tương ưng, y cú tụng mới thành, tụng thuộc bất tương ưng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Như sớ đã biện.
2. Chữ thành danh cú v.v... nghĩa là thế tương tục bất tương ưng, tụng tuy dùng câu thành, nghĩa là thế có gián cách, chẳng phải thuộc pháp ấy.
Sớ: Tuy hai tự tánh hỗ tương không lìa nhau v.v...
Tức là pháp, từ cả hai thể đều vô ngại. Thể chỉ là tuệ, sở đối có sai biệt, thể chẳng phải khác.
Sớ: Từ đối cơ v.v...
Vả lại như Đức Như Lai dùng một âm khởi tất cả tiếng để thích hợp các căn cơ.
Sớ: Tai nghe rồi v.v...
Đây đứng về nghe pháp hành tướng phân làm hai, chẳng phải tiếng danh v.v... có hai thể sai khác, hoặc có thể, chẳng phải nói tự thể có sai khác, hiển bày từ và pháp ở trước, hai cách giải không ngại.
Luận: "Các cõi Phật khác" đến "lập có ba". Các kinh như Duy-ma v.v... là chứng cứ.
Hỏi: Xét kinh ấy ghi: "Như Lai ở cõi ta không có văn tự để nói, chỉ dùng các hương khiến các trời người vào các luật hành", đây chính là ngay trên hương không lập, làm sao được làm thể?
Đáp: Đối với cõi đây âm thanh gãy khúc lập danh tự, nghĩa là cõi ấy không có, không nói hương ấy không có văn danh v.v...
Hỏi: Danh trên hương v.v... hành tướng như thế nào?
Đáp: Hương nhân sai biệt vì ngộ pháp tự tánh sai biệt v.v... cũng như cách hiểu âm thanh gãy khúc.
Hỏi: Tư v.v... tại sao nương lập danh?
Đáp: Do y tư v.v... liễu các pháp tánh, giả lập các danh. Nếu vậy, cõi ấy Phật thuyết pháp chăng? Đáp: Cũng thuyết pháp.
Hỏi: Làm sao nêu bày khiến họ hiểu được mà gọi là thuyết?
Đáp: Do người năng thuyết suy nghĩ các danh trên, khiến phải hóa cơ suy nghĩ các danh số trên được phát khởi gọi thuyết, phàm thuyết pháp cốt yếu là khiến họ hiểu, suy nghĩ v.v... làm duyên họ nhân đó mà hiểu khởi danh nói lỗi gì?
Hỏi: Há là chúng sinh ấy bao gồm được tâm họ, lại ở sau làm sao có thể biết ý trên?
Đáp: Thế giới đã sai khác, chung quy có lỗi gì! Hỏi: Phương đây cũng có thấy sắc, nghe hương tự suy nghĩ hiểu nghĩa, nên nương suy nghĩ v.v... lập danh cú văn.
Đáp: Có hai giải thích:
1. Y nhiều phần.
2. Do từng nghe tiếng trước hiểu danh v.v..., sau thấy sắc v.v... ở nghĩa hiểu sinh nhớ nghĩ danh cú lúc trước v.v...
Hỏi: Đây y các hương để sinh hiểu, nói nhớ giáo y tiếng, họ hiểu nhờ hương sinh, đồng nhớ hương chẳng phải giáo.
Đáp: Trước muốn nghe tiếng thấy sắc sinh hiểu, tuy thấy sắc hiểu giáo nương tiếng, nghe hương sinh hiểu vì không do tiếng, thừa nhận các danh y các hương, giải thích trước là thù thắng, đây sắc v.v... lập danh cú v.v... mà không có giáo ngăn, lại không trái lý.
Hỏi: Trong thanh siêng năng dũng phát, danh v.v... có thể tức thanh, hương đợi bên ngoài mới sinh, danh v.v... lẽ ra chẳng phải có?
Đáp: Hương bên trong cũng cần phát như hương có được tên, hương bên ngoài đồng với nước rừng, danh có gì trái lý? Do nghe hương v.v... được sinh hiểu.
Hỏi: Nếu vậy cũng nương sở thuyên sinh tỏ ngộ, nên cũng nương kia lập đối với danh?
Đáp: Do nhân năng thuyên sở thuyên mới hiểu, cho nên gọi là cú v.v... không nương sở thuyên.
Hỏi: Kinh nói, y hương dùng làm Phật sự, tức y hương v.v... lập văn danh cú, kinh cũng nói rằng hoặc có cõi Phật vắng lặng không nói, hoặc chỉ hư không mà làm Phật sự, lẽ nào liền nương vô ngôn thuyết ấy đồng lập danh cú ư?
Đáp: Lập danh lỗi gì? Như nương tư v.v... tức việc ấy, không nương thanh ngôn gọi là vô ngôn, cũng không trái lý.
Hỏi: Đã không nương thanh mà lập đồng, lẽ ra không có tiếng, tai nghe?
Đáp: Cõi đây không nương thanh v.v... gọi là giáo, hương v.v... chẳng phải không, cho nên thanh và tai ấy cũng lại có được.
Sớ: Phát thân ngữ ý phần nhiều lập pháp đồng.
Vả lại căn cứ chỗ phát để biện đối với nhiều, lý đối chỗ ngăn ngại, gọi là nhiều cũng được.
Sớ: Mạng căn v.v...
Sở trì có sáu, mạng năng trì mà được nhiều tên, đây chính là chánh đáp người ngoài vặn hỏi ở trước, không biểu hiện nương nhiều, thân sở y nói sắc thanh gồm thâu nhiếp năng y, vô biểu nên thuộc pháp xứ, mạng căn cũng vậy, danh đồng loại như vậy, dài v.v... thì không như thế, nên đồng sắc xứ.
Sớ: Có nghĩa thuộc pháp xứ.
Nếu vậy người ngoài nói, ta cũng như vậy, lý gì riêng trách?
Biện rằng: Căn cứ thật nương tư để lập vô biểu, chỉ là một pháp, đây giải thích không trái, nếu chỉ người khác vặn hỏi mà nương sở phát để nói vô biểu, giải thích trước thích là thù thắng.
Sớ: Mười loại pháp khác v.v...
Bất tương ưng của Đại thừa có hai mươi bốn, đã nói xong mười bốn, còn mười bốn pháp khác chuẩn theo trên nên biết, cho nên không nói.
Luận: Có chấp tùy miên v.v...
Xét Tông Luân luận, Đại chúng bộ v.v... nói: Tùy miên chẳng phải tâm, chẳng phải tâm sở pháp, cũng không có sở duyên, tùy miên khác triền, cùng tâm bất tương ưng.
Hỏi: Ý chấp thế nào?
Đáp: Ý ấy nói tùy miên tức tham v.v... Tùy miên cũng có mười loại, nếu vị vô tâm và khi khởi thiện, do có tùy miên gọi là dị sinh v.v... nếu là tâm sở, vô tâm vị đã không có các nhiễm, nên gọi là Thánh. Nếu họ lập có, sao gọi là vô tâm, và thiện tâm? Do đây chấp thành tâm bất tương ưng.
Sớ: Nghĩa đây tâm rất thô.
Đây là lý do luận Tát-bà-đa gọi là thô, nếu triền là hiện hành, hiện hành triền cùng nghĩa tùy miên mà không tương ưng. Nói tùy miên là tùy theo hữu tình ngủ mê không dậy. Nếu hiện hành triền không tương tục, vì chẳng phải miên phục, cho nên cùng tùy miên gọi đó là cập nghĩa, đều không tương ưng. Hỏi: Sao biết tùy miên của Hữu bộ là hiện hành?
Đáp: Xét luận Câu-xá quyển 19 ghi: "Sư Tỳbà-sa nói như vầy, dục tham v.v... thể tức là tùy miên". Lại nói, Tỳ-đạt-ma nương thật tướng đây mà nói, tức có thuyết phiền não gọi là tùy miên, cho nên trong bản luận nói dục tham tùy miên ba căn tương ưng. Đã nói tương ưng, rõ ràng biết là hiện hành.
Có nghĩa hỏi rằng: Đại thừa đã dùng chủng tử nhiễm ô làm tánh tùy miên, người ngoài cũng vặn hỏi rằng: Vì danh tham v.v... như hiện tham v.v... cho nên nhân không thành, nếu vậy đối với ngã lý đây chẳng phải không, chỉ có thể nói là tham v.v... tùy miên, Tỳ-kheo gọi là tham v.v..., luận chủ đã lập nhân, cũng không thành, vặn hỏi này nên suy nghĩ.
Biện rằng: Nhân của danh tham v.v... phá tùy miên kia chẳng phải bất tương ưng, mà không chướng nó là thuộc tùy miên. Vì sao nhân đây vặn hỏi trở lại các nhiễm không gọi là tùy miên, rất trái với ý chỉ luận. Nếu nói lập ngăn Đại chúng bộ v.v... vì đây mà vặn hỏi, cũng không nên nói tông tùy miên của ta không gọi là tham v.v... vì sao? Như mười tám giới tùy theo loại hiện, gọi là mười tám giới, tham v.v... tùy miên vì sao không như vậy? Lại nếu tùy miên không gọi là tham v.v... tham v.v... tùy miên chẳng phải tham, nếu thừa nhận như vậy, các tùy miên thuộc pháp nào? Cho nên không được, nay cùng nhân ấy làm quyết định tương vi. Loại nhiễm tông ta, định là tùy miên gọi là tham v.v... vì không có sở duyên, như tùy miên của ông đối với Đại chúng lại không có lỗi. Nếu họ chống chế, ta cũng vậy, nên kết lời ấy rằng: Không ngăn tùy miên, nhưng không thừa nhận ông thuộc bất tương ưng. Lại vặn hỏi thẳng rằng: Loại nhiễm tông ta gọi là tham v.v..., tùy hiện tham v.v... thuộc tâm sở, tông tùy miên tham của ông gọi là bất tương ưng, trong ấy làm sao nhiếp?
Luận: Chấp riêng có những pháp khác v.v...
Xét trong Thành Nghiệp luận, nêu bày Chánh lượng bộ nói vô biểu, giới là bất tương ưng. Có thuyết nói pháp đây gọi là không hư mất, do pháp đây cho nên có thể được quả ái phi ái đương lai, ý nghiệp cũng vậy, thừa nhận có pháp đây. Nếu không như vậy thì khi các tâm khởi đây lại đoạn diệt, trong tâm tương tục, nếu không dẫn khởi như vậy là pháp sai khác, làm sao được quả đời đương lai? Thế nên định lẽ ra thừa nhận có pháp đây, pháp đây thật có, thuộc về tâm bất tương ưng hành uẩn.
Còn lại như trong sớ giải thích.
Luận: Một là pháp sở tri của hiện lượng.
Chẳng phải nói sắc v.v... là cảnh hiện lượng gọi là hiện sở tri, nếu nói tâm v.v... là cảnh trí tha tâm, làm sao ở sau nói đời cùng liễu tri, trí cảnh tha tâm chẳng phải đời biết. Lại đứng về tha tâm gọi là hiện sở tri, nhãn v.v... lẽ ra thuộc hiện sở tri, tâm hiện lượng của Phật duyên nhãn v.v... cho nên biết chỉ là thế gian cộng liễu gọi là hiện tri.
Biện rằng: Nếu thế cộng liễu gọi là hiện sở tri, tại sao sự phân làm ba? Ba lẽ nào là người đời không liễu tri? Hiện chấp đời gọi là nhãn nhĩ v.v... nếu nói không biết nhãn v.v... thể tướng gọi là phi liễu, tâm v.v... thể tướng, đời lẽ nào liễu ư? Bình v.v... hiện biết, cần gì riêng nói nên biết luận nói hiện sở tri, căn cứ trong thế gian chấp nhận có để mà bàn, chẳng phải đứng về tất cả, do tha tâm trí mà đời có được, năm căn thế gian, ắt không hiện được, Thức thứ tám tuy duyên chẳng phải nghĩa cực thành, cho nên không nương nói. Do ba loại nghĩa không đồng cho nên khai riêng, nên theo ý của bản sớ.
Luận: Hoặc tánh sở hiển của sắc tâm v.v... Sắc tâm hiển nhau, phân làm bốn câu:
1. Dùng sắc hiển sắc.
2. Dùng sắc hiển tâm, đều sai như trong sớ.
3. Dùng tâm hiển tâm, là tha tâm trí.
4. Dùng tâm hiển sắc, là tâm duyên sắc. Hỏi: Vô vi làm sao sắc tâm hiển?
Đáp: Có nghĩa hư không Vô vi thông sắc tâm hiển. Trong Luận Phật Địa nói, năm uẩn không có chỗ vì hiển hư không. Lại tâm duyên không nên gọi là tâm hiển. Trạch diệt Vô vi nếu y năng chứng chỉ có tâm sở hiển, nếu nương lìa ràng buộc, tự tánh đoạn cũng chỉ có tâm hiển, do tâm lựa chọn đoạn nhiễm hiển, thông nói ba đoạn là sắc tâm hiển, do đoạn năm uẩn mà chứng được, hoặc chỉ có tâm hiển. Nếu chẳng phải trạch diệt thông sắc tâm hiển, sắc tâm duyên thiếu mà hiển được, bất động tưởng thọ chỉ có tâm sở hiện, nghĩa ấy nên biết, nay đây thông hiển, các nhân Vô vi, chung quy nói tánh sở hiển của sắc tâm v.v....
Hỏi: Nếu nhân sở tri dùng phá họ.
Họ cũng dùng nhân này phá Đại thừa nói: Chân như của ông v.v... chẳng phải không lìa thức tự tánh Vô vi, vì tánh sở tri, như sắc tâm v.v... lượng đây cũng nên thành tựu chân năng phá.
Đáp: Lỗi tông tương phù, Đại thừa Vô vi cùng tâm sắc v.v... mà chẳng phải tức, lìa. Nay vặn hỏi chẳng phải lìa cho nên thành lỗi. Nếu vậy họ đổi tông nói chẳng phải không tức lìa thức tánh Vô vi, lại làm sao thông?
Đáp: Cũng phạm lỗi tương phù, con đường tâm ngôn vắng lặng mà chẳng phải có không, và tức lìa v.v... ngăn định tức lìa mà nói chẳng tức, chẳng lìa. Sớ: Do trên chuyển thứ ba Y chủ thích.
Thứ ba chuyển gọi là do thanh, cũng gọi thanh đủ, do sức trí tuệ đoạn hoặc sở hiển nên thuộc do thanh, lại có nghĩa khác, như Nhân Minh sao.
Sớ: Chẳng phải sức lựa chọn sở đắc cũng vậy, cũng là thứ ba Y chủ thích.
Hỏi: Thứ ba do thanh, nay nói chẳng phải do đâu được đồng ư?
Đáp: Tuy không do trì, nhưng do duyên thiếu Vô vi mới hiển, nên thuộc thứ ba.
Sớ: Hư không ấy bất động v.v...
Không thể ngại vật gọi là hư, Vô sắc v.v... nên nói đó là không, hư tức là không, là Trì nghiệp thích.
Biện rằng: Lìa các chướng ngại gọi là hư không, không thể ngại vật, không sắc v.v... đều lìa nghĩa chướng, nghĩa đã không sai khác, sao thành Trì nghiệp?
Luận: Hư không dung chứa thọ sắc các pháp.
Nếu trong ngoài pháp đều có hư không gọi là biến, gọi là không, nhưng ngoài pháp có thì không gọi là dung chứa khắp, đã có thể hợp pháp đều có hư không, không tùy theo năng hợp, thể lẽ ra chẳng phải một.
Hỏi: Nếu có thể hợp pháp lại khó thành nhiều, lẽ đâu không tự giáo mà thấy trái ư? Cho nên trong kinh Phật Địa ghi: "Thí như hư không tuy có khắp trong các sắc, trong các loại tướng mà không thể nói có các thứ tướng, thể chỉ một vị, pháp giới Như Lai cũng lại như vậy", ý trong kinh Giải Thâm Mật cũng đồng.
Đáp: Tánh hư không Đại thừa chẳng phải là có, chỗ không chất ngại giả gọi là hư không, vô pháp vô ngại nên biến khắp các sắc, tuy ở trong đó biến khắp sắc, vô tánh không đổi, thể tánh không sai biệt, chỉ có một vị.
Hỏi: Ở sau nói hư không như thức lập, tại sao có thể tánh là không?
Đáp: Kinh ấy chỉ căn cứ không có chỗ chất ngại, tức gọi là hư không.
Hỏi: Làm sao để chứng biết?
Đáp: Trong kinh dùng hư không dụ tịnh pháp giới. Nếu lấy nương tựa Như sở lập hư không, năng sở dụ pháp lại không có khác. Lấy y thức biến, thức biến Hữu vi, không thể làm dụ, cho nên kinh ấy nói: Như giữa hư không các loại sắc tướng hiện sinh hiện diệt, nhưng hư không này vô sinh vô diệt. Như vậy trong tịnh pháp giới của Đức Phật, các biết biến hóa lợi ích các chúng sinh, sự hiện sinh, hiện diệt mà tịnh pháp giới không sinh diệt, nên biết không lấy y thức biến vậy.
Luận: Các pháp lẽ ra xen nhau biến khắp.
Hỏi: Ý vặn hỏi thế nào?
Đáp: Họ chấp không là một, cùng với pháp hợp, trước vặn hỏi hư không tùy theo pháp năng hợp, thể lẽ ra thành nhiều, nay vặn hỏi năng hợp tùy theo sở hợp, thể hư không lẽ ra thành một. Nếu lại hỗ tương biến khắp có thể gọi là thể một, nếu không biến khắp sao gọi là một? Lẽ ra lập lượng rằng: Pháp ấy, lẽ ra biến khắp pháp đây, chấp pháp thể kia đây là một, thể ấy lẽ ra như đây, cũng đồng Nhị Thập Duy Thức vặn hỏi lượng của hành v.v.... không có thứ lớp.
Sớ: Nghĩa là biến hư không làm các ngại Vô sắc. Pháp Vô sắc là tướng của các chướng ngại.
Sớ: Nhân của một thức Hữu lậu.
Như Nghĩa Đăng giải thích. Có thuyết nói, một thức Hữu lậu, chỉ có Thức thứ sáu, nhân Vô lậu hai thức là Diệu quán, Bình đẳng đối quả cứu cánh gọi là nhân, quả Vô lậu ba trí chỉ là Phật vị, nên gọi là quả.
Biện rằng: Tuy lý cũng thông, pháp sư đã là người nhập thất, cho nên y Nghĩa Đăng là chính.
Luận: Hiện tướng này giả nói là thường v.v...
Xét luận Hiển Dương quyển 18 nói, hư không Vô vi, là do tâm sở biến cảnh tướng tương tợ cho nên lập là thường, chẳng phải duyên tâm ấy, cảnh giới ấy có khi đổi khác.
Hỏi: Thức biến Vô vi huân chủng sai khác ư?
Đáp: Độc ảnh từ kiến không huân chủng sai khác, rộng như trong Nghĩa Đăng biện rõ.
Có nghĩa huân sai khác, luận tự nói tùy phân biệt có các tướng hư không, sức thường tập, cho nên khi các tâm sinh tợ hiện tướng Vô vi của hư không, nên biết huân sai khác thành chủng tử. Duyên sinh tướng này thật là Hữu vi, pháp sinh diệt trước sau tương tợ, tợ một thường v.v... nói là Vô vi không sinh diệt, nên gọi là giả.
Biện rằng: Tuy nói thường tập tâm sinh tợ hư không, mà không nói huân chủng sai khác, rộng như trong Nghĩa Đăng phá.
Sớ: Đại chúng bộ v.v... nói có chín Vô vi.
Ba loại đầu thể đều là một vật, hiển có phần vị chẳng phải thể thành nhiều, kế hư không v.v... bốn tức bốn chỗ Vô sắc sở y, riêng có Vô vi là thuộc về diệt, muốn được diệt đây phải nương nó mới sinh diệt, năng y năm uẩn vi tế vốn là vô thường, bốn Vô sắc sở y là thường trụ.
Hỏi: Sắc giới vì sao không có?
Đáp: Do uẩn chẳng phải tế, cõi chẳng phải cực thắng, tâm năng y v.v... trên năng duyên dưới không chướng ngại. Vô sắc thì không như vậy, tâm không duyên ở dưới, đã có cách ngại, riêng có Hữu vi làm sở y. Chi tánh duyên khởi là pháp sinh tử, định sau vô minh mới sinh hành v.v..., các định hành trước có các vô minh, lý đây là một, tánh thường quyết định, các vô minh ấy là thuộc Hữu vi, lý là Vô vi, do sinh tử đây có lý sai khác cho nên hay bị ngăn ngại. Do đó trước vô minh, sau các hành khởi, tất cả tánh Thánh đạo hay lìa nhiễm, lý thường là một, Thức thứ tám nào sai biệt tự là sinh diệt, lý là vô thường, do có lý sai biệt hay bị ngại, nên nói quyết định thứ lớp sai biệt hay lìa các khổ. Căn cứ thật tất cả Thánh đạo đều như vậy, trong đây nêu thù thắng lại nói tám Thánh đạo.
Sớ: Hóa địa bộ có chín Vô vi, trạch diệt v.v... ba pháp ba thể đều là một, định chướng gọi động là tán động, do đoạn động này mà được Vô vi gọi là bất động, thiện v.v... ba thể Chân như đều một, tánh đều là thiện, chi đạo, duyên khởi đồng với Đại chúng bộ.
Sớ: Trong ba diệt lập vô thường diệt v.v...
Nghĩa là trạch, phi trạch, vô thường diệt gọi là ba diệt. Vô thường diệt là tướng diệt trong tướng Hữu vi, chẳng phải chỉ có trạch diệt, phi trạch diệt cả hai gọi là Vô vi, tức tướng diệt đây cũng thuộc Vô vi, do Vô vi này có thế lực cho nên khiến pháp dời đổi. Nếu không như vậy thì năng tướng sở tướng đều là Hữu vi, làm sao năng tướng khiến sớ tướng diệt? Nên biết tướng diệt là Vô vi, như luận Bà-sa quyển 38 giải thích.
Lại xét trong Trí Độ luận quyển 42 nói, diệt có ba loại, nghĩa là trí duyên diệt, chẳng phải trí duyên diệt, vô thường diệt. Không nói vô thường diệt là Vô vi, vì Đại thừa Tiểu thừa sai khác.
Sớ: Đứng về thuyên, đứng về lý v.v...
Thuyên nghĩa là hiển bày, hay hiển ở pháp gọi là thuyên, không chỉ có danh mới gọi là thuyên. Ba tánh không đồng, lý từ thuyên cho nên phân ba loại, bàn lý là một, chỉ gọi là Chân như.
Sớ: Không có giải thích danh riêng.
Nhưng nói Vô vi không thành Lục thích, không kết riêng. Nếu nói hư không Vô vi v.v... đều thành Trì nghiệp, đều như sớ trước đã giải thích. Có nghĩa tưởng thọ diệt ấy diệt thuộc tưởng thọ, là Trì nghiệp thích, tưởng thọ diệt Vô vi tức Y chủ thích, diệt nếu Vô vi diệt của tưởng thọ, tức Y chủ thích, tưởng thọ diệt Vô vi tức Trì nghiệp thích, y Bất động địa được Vô vi, bất động Vô vi cũng là Y chủ thích.
Biện rằng: Sớ giải thích là chính, lý đã không trái, có nghĩa cũng được.
Sớ: Tức y giả thể đều có thể nói giả.
Y thức sở biến lập tám loại, tám loại đều giả.
Sớ: Thật cũng có thể như vậy. Nếu y pháp tánh thì đều là thật.
Sớ: Không chướng một pháp được nhiều Vô vi. Lược có ba giải thích.
1. Lại như một tham có chín phẩm không đồng, đoạn một tham này chứng chín pháp Vô vi, Vô vi không có phẩm, đứng về sở đoạn mà nói nên gọi là nhiều.
2. Giải thích người ngoài vặn hỏi, ý vặn hỏi rằng đoạn tưởng thọ v.v... đã được trạch diệt, vì sao mong ở đây lại gọi là bất động Vô vi v.v... ư? Không chướng một tưởng thọ các diệt này mà năng chứng được trạch diệt, bất động nhiều Vô vi.
3. Nêu đoạn một tham được nhiều Vô vi, chứng thọ v.v... đoạn mà lập trạch diệt, cũng được bất động nhiều Vô vi, giải thích sau là thù thắng.
Sớ: Không tự nói tương vi.
Trước hữu pháp nói năng thủ giác kia, sau lại nói cũng không duyên. Đã nói năng thủ sao không duyên pháp tánh sao gọi là năng thủ? Nên thành tương vi, lượng nêu lời ông nên không có lỗi này.
Sớ: Không trái tông.
Hữu pháp tông nói năng thủ sắc kia, sắc ngoài tâm kia, sắc pháp ngoài tâm tự tông chẳng phải có, lại chẳng phải tâm thủ, nay nói thủ pháp tánh nên trái tự tông, tông đặt lời của ông cũng không có lỗi.
Sớ: Lỗi hai chướng ba trụ.
Có bản nói thông chính là viết lầm, quá nghĩa là lỗi lầm, lỗi của hai chướng có khắp ba trụ.
Sớ: Có chỉ có chủng tử pháp chấp.
Như La-hán khởi pháp chấp, như trong Nghĩa Đăng có nói đủ.
Sớ: Lại nói đủ sở biến v.v...
Khi biến tợ ngã ắt biến tợ pháp, khi biến tợ pháp chưa chắc có ngã, nói cũng vậy cũng là hai chấp trước.
Luận: Duyên thức sở biến uẩn xứ giới v.v...
Hỏi: Đã nói sở biến, trong tám Thức thức nào là thức năng biến? Trong truyện có ba giải thích:
1. Chỉ trừ Thức thứ sáu hiển bảy thức còn lại, sở biến của Thức thứ sáu tức thân sở duyên, văn sau nói riêng, khởi tướng tự tâm chấp thành pháp.
2. Thông tám thức, tuy Thức thứ sáu biến là thân sở duyên, văn ban đầu đồng nói, sau mới nói thân sở duyên duyên, nên cũng không có lỗi.
3. Duy hiển ý Thức thứ sáu, do đây liền nói chỉ có thân sở duyên, đã là thân duyên, nên uẩn xứ giới chỉ là Hữu lậu, đồng với trước thủ uẩn, chỉ khai hợp khác nhau. Xác quyết rằng, nói thức sở biến, tức thân sở duyên, tại sao lại nói khởi tướng tự tâm? Do đây chỉ y sớ giải là chính.
Sớ: Lại ngã chỉ có tổng chấp. Chấp pháp tổng tụ dùng làm ngã.
Hỏi: Riêng chấp năm uẩn cũng là ngã ấy, sao được gọi là tổng?
Đáp: Tuy riêng chấp uẩn cũng được tên uẩn, lại như sắc uẩn hợp căn cảnh v.v... không đồng xứ giới, gọi là tổng cũng không có lỗi. Có thuyết nói, lại nêu tổng chấp, căn cứ thật có sai khác.
Biện rằng: Đây chẳng phải khéo giải thích, đánh mất ý của bản sớ. Nếu mỗi mỗi uẩn đều riêng chấp sai khác, bèn phân biệt ngã chẳng phải câu sinh chấp.
Sớ: Nhưng Thượng tọa bộ v.v...
Xét luận Bà-sa quyển 9 ghi: "Hoặc lại có chấp, tâm tâm sở pháp năng liễu tương ưng", như Pháp mật bộ cho rằng, tuệ v.v... năng liễu tương ưng thọ v.v... Hữu bộ phá rằng:
Hỏi: Vì sao không biết tương ưng các pháp?
Đáp: Đồng một sở duyên đồng thời chuyển, nghĩa là một hữu tình tâm tâm sở pháp đối với một cảnh giới, đồng thời mà chuyển, lý không triển chuyển xen nhau duyên nghĩa, thí như nhiều người nhóm ở một chỗ, hoặc cùng nhìn xuống, hoặc cùng ngước lên, hiện tại ắt không thể cùng thấy mặt, tâm tâm sở pháp, cũng lại như vậy, nếu trí có thể biết tương ưng thọ, thọ ấy lại làm năng duyên tự thể chăng? Nếu duyên tự thể, thì trước có nói lỗi duyên tự tâm, nếu không có năng duyên thì tâm tâm sở lẽ ra đồng thời khởi không đồng sở duyên, không có lỗi đây nên không thể biết tương ưng các pháp.
Sớ: Hóa địa bộ nói duyên cộng pháp.
Xét luận Bà-sa quyển 9 ghi: "Hoặc lại có chấp, tâm tâm sở pháp năng liễu cùng có", như Hóa địa bộ nói như vầy: Tuệ có hai loại đồng thời sinh, một là tương ưng, hai là bất tương ưng. Tương ưng tuệ biết bất tương ưng, bất tương ưng biết tương ưng.
Biện rằng: Giải thích tương ưng v.v... biện đủ như trong Nghĩa Đăng, nghi chữ "cộng" là lầm, chữ cộng lẫn lộn với chữ "câu", do người chép lầm, hoặc nghĩa của "câu" và "cộng" tương tợ, trong sớ lấy ý bàn nên chẳng phải lầm.
Hữu bộ phá rằng:
Hỏi: Vì sao không biết đều có các pháp?
Đáp: Vì rất gần nhau, như Trù Triêm lấy thuốc An-thiện-na để ở trong mắt, rất gần nhau nên mắt không thể thấy, đây cũng như vậy.
Sớ: Phương Tây nói tuệ đồng thời năm uẩn v.v....
Xét trong Bà-sa quyển 9 ghi: "Các sư phương Tây nói như vầy: Cùng các tuệ câu sinh các uẩn tương tục, tự thân nhiếp là câu hữu pháp". Hữu bộ vặn hỏi rằng: Nếu vậy nhãn thức lẽ ra không thể lấy tự thân các sắc, các thức cũng vậy. Họ nói như vầy: Năm thức hay thủ cảnh trong tự thân, ý thức không có khả năng. Hữu bộ vặn hỏi rằng: Nếu vậy ý thức lẽ ra không thể thủ tất cả cảnh giới, lại thành phi lý. Hữu bộ tự nói: Tùy chuyển sắc này và tùy chuyển bất tương ưng hành này gọi là câu hữu pháp.
Biện rằng: Trong Hóa địa bộ nói phương Tây có hai nghĩa, đại khái giống nhau.
Sớ: Nói năm thức ý sắc căn v.v...
Giải thích lý do năm thức duyên câu sắc.
Sớ: Giả sử cảnh trí của Phật v.v...
Hỏi: Phàm phu tự chứng cũng đều tự biết, nên gọi là Phật?
Đáp: Phật trong một sát-na biết tất cả và tự tương ưng, phàm phu thì không như vậy, nên không gọi là Phật.
Sớ: Cảnh tâm kiến phần ắt đồng.
Đây là tổng hợp các lỗi, nghĩa là có người vặn hỏi rằng: Tâm tâm sở đều duyên tự kiến, tự kiến đã sai khác, tại sao tâm vương tâm sở gọi là đồng sở duyên, nên có lời đáp này.
Sớ: Nhưng mỗi mỗi tự chứng v.v...
Vả lại đồng thời tâm trừ thọ ra, khi cùng các tâm sở duyên thọ kiến, thọ tự chứng phần cũng duyên tự kiến, gọi là đồng sở duyên, không cần thọ kiến cùng các kiến phần đồng duyên thọ kiến mới gọi đồng duyên, duyên các tâm sở cũng lại như vậy.
Sớ: "Tự duyên ngăn ngại" đến "giải thích thứ hai".
Trước tuy nhiều giải thích, giải thích sau thù thắng, nên chỉ thứ hai.
Luận: Lập vặn hỏi này v.v...
Có thuyết nói chỉ nêu ngoại đạo vặn hỏi, có nghĩa nêu chung hàng Tiểu thừa, nếu không như vậy, vì sao trong phần vặn hỏi chung ở sau nói lại tạm nương việc chân mà lập? Lý ắt nếu không đúng, đây lập lại với ai? Đã có ở sau lập, rõ trước có vặn hỏi.
Biện rằng: Có nghĩa là thù thắng, Độc tử bộ thừa nhận có ngã, còn vô ngã khác cũng hữu ngã chấp hợp lại mà nói. Trong sớ chỉ nói, đây là Phệthế vặn hỏi, không nói chỉ có là ý cũng thông.
Sớ: Nghĩa vô sở thuyết giả nói.
Lập lại sở vô là giả, giải thích trước do giả nói ngã pháp, trong sớ có hai cách phán phân:
1. Giả ngã pháp thuộc về thuyết, nhưng mượn ngôn thuyết dùng làm ngã pháp.
2. Giả ngã pháp không ở lời nói để làm sở thuyết. Nay chẳng phải cách phán phân thứ hai.
Sớ: Thể tợ pháp ấy cũng không thành. Chánh vặn hỏi tợ không có.
Sớ: Vì tợ vô y.
Giải thích lý do, tông thuyết của ông tợ nương giả lập, sở y giả không có, tợ năng y cũng không có.
Sớ: Tức nghĩa y thể giả.
Đây là tổng kết nương thể giả mà làm vặn hỏi.
Sớ: Lại tợ sở biến đã không có v.v...
Do vì không chân thật, nên tợ không có.
Sớ: Giả năng thuyết chẳng có.
Lập giả sở biến tợ y, do tợ đã không có nên giả chẳng lập. Nói năng thuyết giả, tức giả ngã giả pháp thứ nhất ở trước, chỉ nương thuyết lập, gọi là năng thuyết.
Sớ: Tức có tự thể giả sử giả.
Tổng kết nương hữu thể gượng lập vặn hỏi giả. Sớ: Ngã pháp thế gian nêu tông thuyết không có.
Luận chủ nêu tông không có ngã pháp thế gian, cho nên người ngoài chỉ vặn hỏi Thánh giáo.
Luận: Họ vặn hỏi phi lý.
Biện rằng: Khoa phán phân đầy đủ như sớ. Lại nay khoa tổng phân làm hai:
1. Họ vặn hỏi phi lý, trước đó đã phá tổng quát Tiểu thừa và ngoại đạo.
2. Y các loại ở sau, riêng phá hai chấp, các chấp trong Độc tử bộ đã thừa nhận có ngã, nên làm khoa đây cũng lẽ ra không có lỗi.
Luận: "Y loại" đến "đều chẳng thành".
Hỏi: Giả nương loại và thật là ý người ngoài chăng?
Đáp: Họ nói giả y tợ, cộng lập. Loại có tợ, cộng, như nói nhân loại, do người tương tợ mới được tên loại. Nghiệp con người phần lớn đồng gọi là cộng pháp. Do loại có tợ và cộng pháp này nên giả nương loại. Lại thật cú lửa trong ngoài đều có, lửa trong thân tợ lửa ngoài thân, lập lửa cùng bên ngoài đồng có lửa đỏ rực, cũng có tợ và cộng cho nên giả nương thật, tức trong thân người có loại và thật này, cho nên nương loại và thật mà nói người tợ lửa. Lại nương tông chấp, phàm các giả thuyết đều nương loại và thật hai câu nhiếp, chẳng phải chỉ có lửa giả.
Luận: Y luận giả nói lý lại không thành.
Đoạn sau riêng phá loại và thật, trong phá loại và thật đều phân tích tợ cộng, có nghĩa trước phá y loại tợ sự không thành, sau phá y thật cộng pháp không thành, văn tự nói rõ. Nhưng các sư nói y loại y thật, đều phá chung, luận tợ sự cộng pháp, đây nhất định chẳng phải phi lý.
Biện rằng: Song phá định như vậy, chẳng phải phi lý. Luận phá loại rằng: Nếu không cộng đức mà giả nói luận ấy. Phá y thật rằng: Nếu cho rằng người lửa đức tương tợ v.v... Đây tức như thứ lớp phá cộng tợ pháp, vì sao nói phi lý? Nếu nói như thứ lớp nêu không có cộng, tợ để phá tợ cộng, lý cũng không như vậy. Văn đã nói rõ luận không có cộng tợ, vì sao không được gọi là phá cộng tợ, cho nên phải từ trước, phá cả hai là chính.
Luận: Người, loại, mạnh v.v... hiện kiến cũng có xen nhau lìa. Đủ như trong sớ giải thích.
Hỏi: Ý người ngoài chống chế nói người, đỏ, mạnh mà tợ lửa, nhân loại đây cùng với đỏ v.v... đức không lìa nhau, không nói tất cả nhân loại mạnh v.v... đều không lìa nhau, đều tợ với lửa, vì sao các đức đều dùng các việc nghèo giàu trước sau để biện tướng lìa mà thành vặn hỏi ư?
Đáp: Có thuyết nói, khi người khởi sân mặt đỏ tâm nóng vội, tạm nói là lửa, người kia nếu vui mừng mặt trắng tâm chậm rãi, tuy không đỏ rực, từng khởi đỏ rực cũng nói tợ lửa, tuy cùng đức lìa cũng nói tợ lửa, nên không được nói không lìa nhau nên mới tạm nói, đây cũng không đúng. Nói người tợ lửa, đều y ở hiện không đứng về từng nói. Nếu căn cứ đã từng nói không dứt tha chống chế, chống chế là ông nương từng có danh thành giả, ngã căn cứ có thể gọi đó là không lìa nhau gọi đó là giả, đây cũng đâu có lỗi, nên biết không thể.
Biện rằng: Người nóng gấp, nhân loại cùng với đức có lìa không lìa, nội đức không lìa, lửa mạnh bên ngoài đức cùng nhân loại xen lìa. Luận cứ ngoại đức rằng: Xen nhau lìa, mà nói cũng là do ngoài lìa đức, cũng bên trong không lìa đức đỏ mạnh. Luận nếu cứu là nương nội đức, lý cũng nếu không như vậy, có nội không ngoại lại không có cộng pháp, không nói cộng pháp nên lỗi đồng với trước nên luận không nói.
Sớ: Đây tổng kết chẳng phải đều có tỷ lượng, trong hai phá trước đều có lượng ấy, nay lược nói phá lượng đầu rằng: Ông nói loại cú, nhất định không nương đó mà lập ở lửa giả, vì không có cộng đức, cũng như nước v.v... phá lượng thứ hai, tông đồng với trước, nhân nói: Các đức đỏ rực xen lìa, cũng như nước v.v... càng suy nghĩ.
Luận: Lửa ở người không ở đức.
Hỏi: Người ngoài chỉ nói: Do người cùng đức lửa tương tợ, nên nói người là lửa, không nói lửa ấy mà ở nơi đức. Nếu vặn hỏi về lửa là không ở nơi đức, đâu không tương phù.
Biện rằng: Các đức v.v... rộng như các luận biện rõ lý đều khó chống chế, nay giải thích thêm, nếu nói người và lửa đức tương tợ ở sau lẽ ra có vặn hỏi chống chế mà luận rằng: Nếu căn cứ tương tợ mà giả nói thì phải nói người và lửa mạnh các đức mà tợ lửa đức không nên nói người tợ lửa. Do người cùng lửa không giống nhau, họ chống chế rằng, vậy thật do trên người các pháp vội gấp dùng so sánh lửa, nói người tợ lửa nêu người chọn đức, nên kế vặn hỏi rằng: Nói lửa ở người không ở đức, thế gian nói người tợ lửa nói chỉ gọi ở người, không thuộc các đức mạnh mẽ trên người, luận văn ẩn bao quát mà không nói đủ.
Sớ: Đức là nhà thật đức có thể nương giả thuyết.
Đây lập theo. Đức là thật đức, mà nương ở đức tạm nói lửa, có thể thừa nhận nói tạm mà nương ở thật.
Sớ: Nay ở đức v.v...
Thế gian chỉ nói lửa ở người người chẳng phải thật đức, tại sao bèn nói tạm nương thật ư?
Sớ: Đây lại nương mượn người nói thật lửa.
Tạm hợp gọi là người, lửa là thật pháp, tức nương giả mà lập lửa thật, không phải nương thật lập lửa giả, lại trái bản chấp.
Sớ: Đã nói lửa ở người v.v...
Người đời nói lửa giả ở nơi người, tức do người giống gọi là lửa giả, chẳng phải do đức giống, đã nương ở người lập về lửa giả, người chẳng phải là thật, thì làm sao được nói giả nương thật lập?
Sớ: Trong đây có chống chế v.v...
Người ngoài vặn hỏi: Lửa có lửa đỏ rực gọi là lửa thật, có người mạnh v.v... tợ lửa gọi là giả, thì ai nói lửa ấy mà nương đức lập? Lại vặn hỏi nói lửa không ở đức, nên kết lửa ấy rằng: Người và lửa đỏ mạnh chỗ nương đều khác, đã không có cộng đức nương đâu nói giả, không cộng giả nói lỗi như trước đã nói: Do đây v.v... vặn hỏi trước đã nói đủ nên không nêu.
Hỏi: Nếu người ngoài chống chế rằng: Cộng nói tương tợ, như Đại thừa của ông thức biến ngoại khí, tuy không đồng tương tợ gọi là cộng, không nói một vật suốt hai chỗ mới gọi là cộng.
Đáp: Lược có ba giải thích:
1. Lửa có đức mạnh, do người chẳng phải là thuộc thật cú, tại sao nói có ở cộng pháp mà giả nói ư? Nếu nói người nhóm họp, lửa nhóm họp trong hai pháp có đức tương tợ gọi là cộng, cũng là không thể, không chỉ y thật trong một tụ vì thông các pháp.
2. Do tợ gọi là cộng, cộng tợ không sai khác, tức nương hai pháp mà lập ở giả, tại sao trước nói y ba pháp lập, nên chống chế phi lý.
Sớ: Kế phá Tiểu thừa chiết phục vặn hỏi.
Tiểu thừa tuy lập chân v.v... ba loại, văn không nói rõ nên nói chiết phục. Đây căn cứ vặn hỏi trước không có thuyết Tiểu thừa.
Sớ: Tiểu thừa v.v... tự biện các việc chân.
Không thông ngoại đạo gọi là tự, tuy Tiểu thừa mà chẳng phải một loại chung quy đều là nội pháp, gọi là tự không có lỗi.
Sớ: Hoặc là ngoại đạo v.v...
Địa cứng hỏa nóng, như vậy tự tướng tất cả pháp gọi là cùng thừa nhận, tuy là cùng thừa nhận giả cũng không nương ở đây v.v... mà lập.
Sớ: Chẳng phải nói cùng thừa nhận nêu bày thân người v.v...
Đây giải thích lý do lượng căn cứ tông khác, do tông Đại thừa không thừa nhận nhiều pháp thành tự tướng ấy, rất nhiều pháp thành chỉ hòa hợp giả.
Sớ: Hiện giác như mộng v.v...
Trong Tát-bà-đa v.v... thừa nhận cảnh ngoại thức, cho nên làm vặn hỏi rằng: Nếu không có ngoại cảnh, đâu có giác đây, ta nay hiện chứng cảnh như vậy. Vì đáp vặn hỏi kia nên có bài tụng này.
Nói hiện giác là tâm hành giải tác chứng các sắc. Như mộng v.v... đây nêu dụ. Trong mộng cũng nói ngã kiến sắc v.v... cảnh các sắc lìa ngoài tâm không có, chẳng phải mộng hiện giác, cảnh cũng như vậy. Kiến và cảnh đã không, là chánh nêu bày ý vặn hỏi, luận sư đây không thừa nhận sáu thức đều khởi, nhãn v.v... năm thức tùy một duyên hiện, mà không phân biệt ta nay hiện thấy, sau hiện tác giải là Thức thứ sáu, cảnh hiện lượng và tâm hiện lượng trước đều đã mất, lẽ nào thừa nhận có hiện lượng, khi khởi hiện giác, đã không có hiện thức, năng kiến cũng không, tại sao lúc này thừa nhận có hiện lượng chứng có ngoại cảnh?
Sớ: Nếu nói cộng tướng chỉ có quán tâm.
Đại thừa cộng tướng thể tánh là không, chỉ trong quán tâm tác giải cộng tướng, tóm ước hành giải đây gọi là cộng tướng, đủ như trong Nghĩa Đăng có biện rõ.
Luận: "Cũng chẳng phải lìa đây" đến "là giả sở y".
Chép đủ như trong Xu Yếu, có nghĩa cho rằng thông với người ngoài vặn hỏi. Người ngoài vặn hỏi rằng, nếu nói nêu bày pháp không được tự tướng, tại sao gọi lửa liền được lửa v.v...? Nên đây thông, nghĩa là mượn trí nêu bày tuy không được tự tướng, cũng chẳng phải lìa ngoài tự tướng, riêng có phương tiện giả sử tự tướng vì mượn sở y, do nêu bày lửa gọi là thông suốt tập quán từ vô thỉ, nương tự tướng của lửa mà không nương nước, mượn trí tùy theo gọi là chỉ duyên ở lửa, lại như mượn danh nêu bày tự tướng của pháp, tuy không xứng thật muốn nương tự tướng sở thuyên giả sử, giả trí cũng vậy, không lìa tự tướng vì giả trí sinh.
Hỏi: Đây tức giả nói ắt phải nương chân, tại sao phá tha?
Đáp: Tuy nương tự tướng không xứng sở y, cho nên không thể nói giả ắt nương chân.
Hỏi: Nếu vậy người ngoài nói ngã cũng như vậy, tuy giả nương chân cũng không nói năng mà gọi là chân?
Đáp: Việc chân của ông thừa nhận có ngoài thức, như trước rộng nói, ngã chỉ thức biến đâu được nêu bày tướng.
Biện rằng: Chẳng phải không có lý ấy, nhưng nương ý luận vốn giải thích là chính, cho nên trước luận nói, trí nêu bày không được tự tướng, văn đây liền nói cũng chẳng phải lìa đây. Nếu chẳng phải trí nêu bày đây thì ở đây là ai? Lại như tự tướng, tại sao tự tướng giả sử tự tướng. Lại giả sử là nghĩa lý do an lập phương tiện khéo léo, do tự tướng ấy an lập tự tướng vì mượn sở y, nghĩa cạn lại mê mờ. Lại tuy thức biến, bất biến có sai khác, mà giả nương thật là có lỗi lẫn lộn, cho nên nay không căn cứ.
Sớ: "Giả trí và thuyên" đến "nói là giả".
Giả trí sở biến, giả thuyên sở thuyên, cùng pháp tự tướng mà tương tợ nên nói trí nêu bày mà làm giả.
Sớ: Cho nên biết tướng chẳng phải sở y.
Là chẳng phải giả trí nêu bày thân sở y, chẳng phải là không thừa nhận làm sở y.
Sớ: Nhưng duyên tự tánh sắc và nêu bày. Duyên thù thắng sắc nêu bày sắc thù thắng. Sớ: Không nghe thanh khởi trí so sánh.
Không thể nương thanh mà khởi trí so sánh. Nói không nghe thanh, chẳng phải như trẻ con hoàn toàn không nghe tiếng.
Sớ: Con chuột đây đời trước làm thức ăn cho mèo.
Hỏi: Trước làm người sau chết làm chuột, thấy các loài chim lẽ ra không nên sợ chạy?
Đáp: Do vì đời trước kia từng làm chuột, hoặc ở trong loài người từng nghe thấy, nên cũng sợ vậy. Hỏi: Các loài chuột, lẽ nào đều được túc mạng trí biết được thức ăn của mình sao?
Đáp: Ý của nghĩa như thế, chẳng phải chắc các loài chuột khởi các tâm đây mới sợ chạy, chỉ vì đều ham sống mà nuôi dưỡng mạng sống.
Sớ: Tâm tâm sở pháp đây là ai duyên?
Căn trần chủng v.v... là tâm sở duyên, tâm biết tự tướng, tâm năng duyên sở duyên đây của ai? Ai năng duyên tự tướng của tâm đây?
Sớ: Nếu nói tha tâm trí năng duyên như các tâm tán loạn.
Hỏi: Tha tâm trí tức thuộc về thần thông, sao gọi là tán?
Đáp: Hơn nữa tha tâm trí lược có ba loại:
1. Như Lai, Địa thứ tám trở đi đã được định thông suốt không sai khác.
2. Hàng Nhị thừa từ Địa thứ bảy trở lại Bồ-tát đã được và hàng phàm phu tu được, nương định mà khởi, nhưng chẳng phải ngay định lại không đồng tán loạn.
3. Báo đắc, đây chỉ có tán tâm, nếu y định khởi gọi là chứng lượng, báo đắc thì không như vậy, do tha tâm có nhóm họp chẳng phải chứng lượng, nên nói chẳng phải chứng chẳng phải nói tất cả, tha tâm chứng lượng nghĩa tức không khắp. Nếu tự chứng phần chứng lượng nghĩa đủ, nên trừ tha tâm mà lấy tự chứng.
Sớ: An Tuệ nói Phật tha tâm trí duyên.
Hỏi: Sư đây vì sao không thủ tự chứng làm năng tri?
Đáp: An Tuệ nói kiến phần biến kế không có tự thể mà chẳng phải là tâm, tâm tức tự chứng nên không tự tri, nhưng Phật có tha tâm liễu ngộ các tâm.
Sớ: Các pháp y tha nói một sắc v.v...
Chẳng phải nói cộng tướng là pháp y tha tánh hữu thể, ý nói rõ cộng tướng do nương trên pháp hữu thể mà khởi, gọi là nương hữu pháp.
Sớ: "Và ở trong đây" đến "tướng đây là không". Tướng tâm sở năng biến kế đây tăng, đồng ở cộng tướng thể cũng là không, nên nói "và".
Sớ: Tâm biến cộng tướng, ngoài ắt có tự thể.
Ngoài nghĩa là bản chất.
Sớ: Nhẫn đến duyên ngã v.v...
Hỏi: Tức uẩn chấp ngã nên nói là thật hợp danh ắt có tự thể, lìa uẩn chấp ngã sao làm thể bên ngoài?
Đáp: Cũng nương danh giáo mà khởi chấp nên cũng gọi là hữu.
Sớ: Hoặc duyên riêng v.v...
Tuy không có chất nhưng tướng không đâu không đến nương ngôn giáo, cũng được gọi là có hợp duyên.
Sớ: Lại giải tức cộng tướng biệt duyên v.v...
Hỏi: Trước nói cộng tướng chỉ là quán tâm không có thể tánh khác, đây tại sao lại nói cũng y tha?
Đáp: Thông khắp các pháp gọi là cộng tướng, đây thật quán tâm hành giải nào khắp? Nay bàn pháp của tâm sở duyên đây là tướng y tha, nếu không như vậy thì tâm duyên đây sao làm cảnh? Nhưng tướng phần đây thật không thông khắp, chỉ là quán tâm khởi các cách hiểu khác, do đây trước sau cũng không trái nhau, lại có nhiều phương ngại, như trong Nghĩa Đăng có nói rõ.
Sớ: Lẽ ra không có năng duyên hai ba Đế v.v... Hai với hai, ba với ba, nhẫn đến bốn hợp để duyên đế, cho nên nói như vậy, đây tức hoại duyên bốn Đế quán.
Sớ: Như trong Phật Địa có ba cách giải, như Khu Yếu đã dẫn, trong sớ phần sau cũng nói rõ.
Sớ: Đây chẳng phải văn của An Tuệ.
Trong kinh tụng đã nói thức sở biến là tức kiến tướng phần, thể ấy chẳng phải không có, An Tuệ nói hai phần thể tức không có, cho nên biết chẳng phải, và kết văn Trường hàng cũng chẳng phải An Tuệ.
Luận: Nhiều dị thục tánh.
Lẽ ra nên làm bốn câu, có dị thục chẳng phải nhiều, nghĩa là nghiệp sở cảm trong sáu thức có gián đoạn nên không gọi là nhiều; có nhiều chẳng phải dị thục, nghĩa là Thức thứ bảy tánh hữu phú, đều chẳng phải ngay trong sáu thức chẳng phải nghiệp chiêu cảm. Câu đồng thời thứ tám, ngăn ba câu khác nên nói nhiều.
Sớ: Rộng hẹp việc gì ngăn không nói.
Dù khiến rộng hẹp nào có trái sự, ngăn không nói.
Sớ: Trong đây ý nói v.v...
Hỏi: Tại sao ý phải đứng về vị huân tập lại chọn lấy dị thục?
Đáp: Do trước người ngoài vặn hỏi nếu không có thật ngã, tại sao thế gian và các Thánh giáo nói có ngã pháp, trước đáp họ rằng, khi ngã pháp huân tập các thức sinh biến tợ ngã pháp, vì đây nên thủ huân tập thức vị.
Luận: Liễu cảnh tướng thô.
Lẽ ra nên làm bốn câu, có liễu cảnh chẳng phải tướng thô tức Thức thứ bảy, thứ tám; có tướng thô chẳng phải hữu cảnh, tâm sở sáu thức, có đồng thời chẳng phải là tâm sở của Thức thứ bảy, thứ tám; có đồng thời là thứ sáu tâm vương vừa liễu vừa thô.
Sớ: Sáu thức không chung nghĩa.
Lựa chọn Thức thứ bảy, thứ tám, năm nghĩa trước đều đối với Phật quả duyên ở cảnh tế trong sáu thức nói rõ.
Sớ: Tên gọi này chỉ mong hiện quả làm danh.
Nhân năng biến chỉ đối với quả sở sinh hiện hành mà nói.
Sớ: Chủng và hiện hành này dẫn sinh. Giải thích chủng đắc danh, lý do quả biến. Sớ: Không do Đẳng lưu sở biến v.v...
Tức tập khí này có nhân có quả, trong luận chỉ nêu nhân tập khí để hiển bày thể, không nêu quả mà biện thể.
Sớ: Nghĩa hiển bày sở sinh v.v... Thích luận nêu nhân không nói ý quả.
Hỏi: Bổn ý muốn nói quả sở sinh thông tám thức v.v... sao không nêu quả để nói thẳng mà nêu nhân phương tiện hiển bày?
Đáp: Nếu nêu nhân kia, hiển bày tập khí đây cũng có nhân sinh, hiển bày sở sinh thông tám thức v.v... lại có thể hiển bày tự mình cũng có thể làm nhân, nếu nêu thẳng quả, sợ nghi tập khí không từ nhân được, vì bao hàm nhiều nghĩa nên nêu nhân ấy, tập khí dị thục cũng chuẩn theo đây mà biết.
Sớ: Lưu nghĩa là lưu loại.
Có thuyết nói Đẳng nghĩa là tương tợ, đã hiển bày loại đồng. Lưu là nghĩa lưu chú, quả từ nhân khởi, nhân sở lưu nên gọi đó là lưu, vì lưu của đẳng, cũng là Y chủ thích. Hoặc quả sở sinh cùng nhân nhân tương tợ gọi đó là đẳng, từ chỗ khởi kia gọi đó là lưu, đẳng đây tức là lưu, là Trì nghiệp thích, cho nên luận nói do quả tợ nhân gọi là Đẳng lưu.
Sớ: Nêu nhân năng huân.
Hai nhân tập khí, thể là năng huân, gọi là nhân năng huân, năng huân tức là nhân.
Sớ: Không nói ngã kiến huân tập v.v...
Hỏi: Tập khí dị thục lẽ nào khác ngoài Đẳng lưu tập khí có mà nói sai khác?
Đáp: Chủng tử thiện ác sinh tự hiện chủng gọi là Đẳng lưu, có các duyên trợ cảm sau dị thục tức gọi là dị thục, tuy thể không khác riêng có khả năng thù thắng nên khai ra làm hai, ngã kiến huân tập, phương đây không giống cho nên không thể nói, do dị thục đây ắt là Đẳng lưu, tự có Đẳng lưu không gọi là dị thục, tức Vô ký chủng và thiện ác kia không chiêu lấy quả.
Sớ: Ba cõi đủ bao nhiêu v.v...
Dục giới Đẳng lưu có đủ ba tánh, dị thục hai tánh, hai tánh Đẳng lưu trong hai cõi trên, dị thục chỉ có một, không đâu mà không thiện.
Sớ: Chưa biết sinh những gì?
Tức luận nói tám thức sinh là đáp sinh gì. Nói làm nhân duyên gì là đáp tại sao sinh, gọi là Đẳng lưu là đáp khởi quả gì. Ở sau dị thục quả cũng chuẩn theo đây nên biết.
Sớ: Các pháp cũng vậy.
Tâm sở thứ tám gọi là các pháp khác.
Sớ: Nếu vậy, tức chân dị thục.
Hỏi: Xét luận kia ghi: Thức a-lại-da tương ưng thọ ở tất cả thời, chỉ là không khổ không vui, chỉ là dị thục sinh, không nói thể thức cũng dị thục sinh, nói dị thục sinh, lẽ nào không trái với luận?
Đáp: Thọ tương ưng đã là dị thục sinh, thức từ nó quyết định đồng, nên luận không nói.
Sớ: Nay trong năm nghĩa lấy nghĩa thứ nhất.
Hỏi: Chuẩn theo ý trước nói gồm có sáu nghĩa tại sao nói năm?
Đáp: Ý nói dị thục đối dị thục sinh, trong sáu nghĩa, thứ ba chẳng phải dị thục sinh lại chẳng phải dị thục, cho nên trừ một chỉ nói năm nghĩa.
Sớ: Nay nói tánh Viên thành. Lược có hai giải thích:
1. Đoạn lớn thứ hai nói rộng tánh tướng, đối trước lược nêu, nên gọi là nay.
2. Chữ "nay" là lầm, lẽ ra là chữ "chẳng", rõ ràng ban đầu nêu một bài tụng trong nửa bài tụng, không nói viên thành, giải thích trước là thù thắng. Sớ: Ban đầu lược giải ba đoạn, sau rộng phân biệt.
Ban đầu lược nói ba tướng, sau rộng giải nhân tướng. Sớ nói văn sau rộng giải ba tướng, đây quyết định phi lý, văn sau tự nói tất loại tương ưng lại phân biệt, không nói nên lại nói rộng ba tướng.
Biện rằng: Do tổng thanh kia riêng chuyển, trong Thánh giáo nói thừa nhận chủng tướng tức là một trong ba, cũng đâu có trái.
Luận: Tạp nhiễm xen nhau làm các duyên.
Hỏi: Nếu năng tàng tức gọi là Lại-da, chân tánh Tăng-khư lẽ ra là thể của Lại-da, vì thừa nhận năng tàng chăng?
Đáp: Năng sở tàng kia không có khác nên không gọi là Lại-da, cho nên Nhiếp Đại Thừa quyển 1 nói, chẳng phải như trong đại đồng hiển rõ pháp tàng tánh tối thắng, thức A-lại-da nhiếp tàng các pháp, cũng lại như vậy.
Giải thích: Họ chấp minh tánh có công năng tối thắng gọi là tàng tối thắng, đại v.v... các pháp quả tướng hiển chấp danh liễu pháp tánh, nếu khi chưa biến, ở trong minh tánh, không khác minh tánh, nếu đã biến dịch cũng lại không lìa, minh tánh làm nhân, đại v.v... làm quả, nhân quả đồng thể để rõ nhiếp tàng, nay lập Lại-da nhiếp tàng nhân quả, nhưng chẳng phải tức là khác nên không đồng luận. Lại năng sở tàng trong truyện có ba giải thích:
1. Thức thứ tám hiện hành cùng sở trì chủng xen nhau làm hai tàng, nghĩa là hiện trì chủng, chủng gọi là sở tàng, hiện hành gọi là năng tàng, chủng sinh hiện thức, thức gọi là sở tàng, chủng là năng tàng.
2. Ban đầu hiện hành năng biến cùng các chuyển thức xen nhau làm duyên khởi gọi là năng sở tàng, bản thức làm nhân, bảy thức là quả, bảy thức làm nhân, bản thức là quả, sở tàng làm nhân, năng tàng làm quả.
3. Do chủng mong hiện năng huân bảy thức gọi là năng sở tàng, từ bảy thức sinh, vì năng sinh nó.
Có nghĩa xác quyết rằng, nhưng nay ý luận y Thức thứ hai, luận chủ ở giải thích sau thích. Kinh Đạt-ma ghi: Ý bài tụng nói A-lại-da thức cùng các chuyển thức xen nhau làm nhân quả, cho nên chỉ nên nói dùng hiện mong hiện gọi là năng sở tàng, nói là nhân quả. Lại trong phá sớ nói: Năng tàng chỉ lấy nghĩa hiện thức năng trì chủng, điều này không đúng, luận nói năng tàng hiển là nhân tánh, không thể hiện thức cùng sở trì chủng làm nhân duyên, sau nói hiện thức năng trì chủng nên gọi là nhân tướng, do năng sở trì thể không khác, năng sinh các pháp, nói hiện mong hiện gọi đó là nhân, chẳng phải nói năng trì mong sở trì chủng gọi là nhân. Lại năng sở tàng đều thông chủng tử hiện hành, vì không có tự thể khác.
Biện rằng: Tuy có xác quyết đây, lý cũng khó nương, hiện mong ở hiện nhân duyên làm sao lập? Hiện không thân năng sinh đối với hiện, nếu nói chẳng phải nhân, do có lực ấy cùng tên gọi của nhân là hiện mong ở chủng sao không thừa nhận? Lẽ nào hiện mong chủng không có lực ư?
Lại trong giải thích nhân tướng của sớ, tự xác quyết ba tướng đều thông chủng hiện, tự đã chính mắt thấy việc gì phải phân tích? Còn nhiều phân biệt khác như Nghĩa Đăng biện rõ.
Hỏi: Vô lậu tịnh chủng cũng nương Thức thứ tám, hiện tịnh nhân sinh lại huân thành chủng, Thức thứ tám mong hiện sao chẳng phải hai tạng chỉ nói tạp nhiễm?
Đáp: Năng nhiếp làm nhân, sở nhiếp làm quả, chẳng phải năng sở trị được làm nhân quả, cho nên không lấy.
Hỏi: Nếu Lại-da lẽ ra chẳng phải tịnh y?
Đáp: Là tăng thượng duyên, vì y không hẹp.
Hỏi: Các Hữu lậu thức trừ sinh Thức thứ tám, các Hữu lậu chủng chẳng phải tám nhân quả sao gọi là hai tạng?
Đáp: Các Hữu lậu chủng bản thức sinh đồng, vì không có thể khác, chuyển thức cùng Thức thứ tám được xen nhau làm duyên, vì chung Hữu lậu nên không nêu bày.
Sớ: Lại lìa hai, không có tổng v.v...
Hỏi: Hai giải thích vì sao khác?
Đáp: Trước đứng về nhân quả, sau căn cứ thể nghĩa, nên phân làm hai giải thích.
Hỏi: Trước chung tự thể, lìa nhân quả không có, vì sao thứ hai mới nói lìa hai không có tổng biệt ư?
Đáp: Sự thật có hai giải thích, thảy đều riêng bên ngoài mà không có tổng, đứng về môn phân làm hai, nêu sau hiển trước cũng không có lỗi.
Sớ: Nhưng nhân quả chủng hẹp, chủng làm quả tướng, quả tướng chủng hẹp, chỉ có nghiệp chiêu cảm mới gọi là quả, tức là Thức thứ tám thân gần danh ngôn chủng là quả chủng thể, nói chỉ có nghiệp quả là giải thích lý do.
Sớ: Kinh bộ chấp trong sắc căn có tâm tâm sở v.v...
Xét luận Du-già quyển 51, y nghĩa Kinh bộ lập nhân duyên rằng: Lại nữa nếu các sắc căn, và tự đại chủng, chẳng phải tâm tâm sở chủng tử tùy theo. Nhập diệt tận định, nhập định vô tưởng, sinh cõi trời Vô tưởng, sau đó không có các thức lại sinh, nhưng lại sinh, thế nên phải biết tâm tâm sở pháp chủng tử tùy theo sắc căn, lấy đây làm duyên thức được sinh lại. Lại nữa nếu các thức chẳng phải sắc chủng tử tùy theo, là sinh cõi Vô sắc dị sinh, từ thọ tận nghiệp tận ấy mất rồi sinh lại lúc sau. Sắc không có chủng tử lẽ ra không sinh lại, nhưng ắt sinh lại, thế nên phải biết các sắc chủng tử tùy theo ở thức, lấy đây làm duyên sắc pháp lại sinh.
Sớ: Hiện hành mong chủng sai, chẳng phải đều có nhân.
Hỏi: Hiện hành mong chủng sở huân kia sao chẳng chung nhân? Đáp: Mong sinh hiện chủng không vọng hiện hành chủng sở huân, lại nói Thức thứ tám, Thức thứ tám không huân nên mong chủng sai, không biện các thức, nên không có lỗi.
Sớ: Như bốn tướng Tiểu thừa.
Tiểu thừa mong bản pháp chỉ là có mà chẳng phải là nhân, đồng hiện mong chủng nên dẫn làm dụ.
Sớ: Nay ở có thể ở trong làm nhân biện rõ trì chủng.
Trì chủng nhân nghĩa trong sáu nhân có thể thuộc nhân, có thể làm rộng.
Sớ: Lại cũng làm chủng thanh tịnh.
Thức đây có thể làm thanh tịnh chủng y gọi là thanh tịnh chủng.
Sớ: Do tự chứng phần chỉ có ba nghĩa. Nhân, quả, thể cả ba gọi là ba nghĩa.
Luận: Tất cả chủng tương ưng lại phân biệt.
Hỏi: Tập khí dị thục làm nhân tướng chăng? Nếu vậy tại sao nói sinh tự quả, không phải tại sao quả gọi là dị thục?
Đáp: Trong truyện có hai giải thích:
1. Nhân tướng, luận nêu thân sinh hiển bày nghiệp chủng.
2. Chỉ lấy Đẳng lưu tập khí, cho nên nay đây nói thân sinh tự quả, dị thục nhân quả y nghĩa biệt mà nói.
Biện rằng: Ý của quán luận giải thích sau là thù thắng, tìm luận có thể hiểu.
Luận: Thể dụng nhân quả lý lẽ ra như vậy.
Trong Nhiếp luận chỉ có mong thể dụng để nói rõ, trong Du-già chỉ căn cứ nhân quả để biện, luận đây gồm đủ. Trong Nhiếp luận ghi: "Trong A-lạida thức các tạp nhiễm phẩm pháp chủng tử, làm biệt dị trụ, vì không có biệt dị, chẳng phải chủng tử ấy riêng có vật thật trụ ở trong đây, cũng chẳng phải không khác". Vô Tánh luận quyển 2 giải thích rằng: "Tất cả chủng tử là A-lại-da có công năng sai khác, như pháp khởi dụng, cùng thể các pháp, chẳng phải một chẳng phải khác, đây cũng lại như vậy". Du-già quyển 52 ghi: "Chủng tử tại sao không chia chẻ các hành riêng có vật thật gọi là chủng tử, cũng chẳng phải chỗ khác". Nhưng tức các hành chủng tánh như vậy, đồng sinh như vậy, an bố gọi là chủng tử, cũng gọi là quả, quả cùng chủng tử không tạp loạn nhau, nếu mong về các hành quá khứ tức đây gọi là quả. Nếu mong về các hành vị lai, đây tức gọi là chủng tử, mong về các pháp ấy không thể quyết định nói tướng khác không khác, cũng như Chân như".
Sớ: Đây tức Đế chỉ có.
Chỉ có ở Tục đế gọi đây là chỉ có, không mong về giả thật gọi là chỉ có.
Sớ: Đây là thật chỉ có, là chỉ có ở tục đế chủng có thể nói thật, Thắng nghĩa tức trái.
Sớ: Đây Du-già tổng hợp ở đây v.v...
Hỏi: Có thể hiểu nó, tại sao thêm kia mà tổng hợp ở đây ư? Tôn ty trước sau tạo luận có sai khác, lại họ có trái gì mà đợi tổng hợp?
Đáp: Trợ giúp người học kia là hiển giáo không trái cho nên thành tổng hợp chung, luận ấy nói chủng chỉ có ở Tục đế, Tục đế đối chân gọi là giả, luận đây nói thật lẽ nào không trái nhau? Nay hiển bày luận kia đối một Chân đế, luận đây thì không như vậy, hai luận mong sai, cho nên không trái.
Sớ: Cũng chẳng phải kiến phần.
Không nương kiến phần gọi chẳng phải kiến phần, do sư Hộ Nguyệt thừa nhận chủng y kiến phần, vì khác với nó nên nói chẳng phải kiến phần. Sớ: Không thể kiến phần ban đầu thọ các huân v.v... Lập ngăn người khác chấp thọ huân. Sớ: Ẩn khí sắc không luận.
Vô sắc kiến phần duyên khí giới cõi dưới, Dugià ẩn chỉ nói duyên chủng.
Sớ: "Xưa tương truyền" đến "chỉ có ba phần".
Do vì tự chứng làm năng duyên nên y kiến phần, kiến phần không thừa nhận duyên ở chủng tử không y tự chứng, phần thứ tư kia không lìa thứ ba riêng có thể tánh, nên chỉ có ba phần. Có thuyết nói, chủng của Hộ Nguyệt không có tự thể khác, chỉ nương trên thức Lại-da công năng giả nói chủng tử, cho nên tự chứng phần khi duyên kiến phần cũng gọi duyên chủng, không có tướng khác cho nên chẳng phải sở duyên của kiến. Lại có thuyết nói, y tâm tự thể nên tự chứng duyên.
Hỏi: Sư này chủng tử thuộc về phần nào?
Đáp: Có ba thuyết:
1. Tức tự chứng phần thâu nhiếp nhiếp, do giả nói pháp ấy không thật thể nên chuẩn theo giải thích thứ hai.
2. Là nói kiến phần thâu nhiếp nhiếp, vì cảnh tự chứng, thuận sớ đã nêu bày.
3. Tuy nương tự chứng mà lập cũng thuộc về kiến phần, vì tự chứng duyên, thuận giải thích thứ ba.
Biện rằng: Đã không nói giáo hơn kém thật khó xác quyết, mặc tình lấy bỏ.
Luận: Nhân quả đều là các thiện tánh.
Hỏi: Đã tùy nhân quả để phán phân ở tánh, nên tùy theo nhân quả có nhiều sai biệt?
Đáp: Có thể như vậy, cho nên luận Du-già quyển 96 ghi: "Trụ tự tánh giới, nghĩa là mười tám giới tùy theo tự tương tục, mỗi mỗi đều quyết định chủng tử sai biệt. Tập tăng trưởng giới, nghĩa là các pháp hoặc là thiện ác ở trong các loài, trước đã thường tập khiến pháp hiện hành, cho nên thời nay chủng tử càng thạnh nương theo tương tục do đây làm nhân, tạm gặp duyên nhỏ lại có thể hiện khởi định không thể chuyển. Lại nữa, tuy giới chủng loại mười tám giới có thể được, nhưng mỗi mỗi giới nghiệp thú hướng hữu tình các thứ phẩm loại có sai khác nên phải biết vô lượng". Ba tánh đều có nhiều loại sai biệt.
Luận: Các loại Vô lậu.
Hỏi: Đã chẳng phải dị thục thức tánh nhiếp, nương nghĩa Hộ Pháp là thức phần chăng?
Đáp: Trong truyện có hai thuyết: Một là tướng phần thâu nhiếp.
Hỏi: Nếu vậy Thức thứ tám lẽ ra duyên chủng đây?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Thừa nhận duyên không có lỗi, giải thích này không đúng.
2. Không duyên, chỉ nói kiến phần thân sở duyên đều gọi là tướng phần, không nói các tướng đều hiển sở duyên.
Hỏi: Nếu vậy không duyên, nên chẳng phải chỉ có thức?
Đáp: Không lìa thức cho nên chỉ có thức, không trái.
Hỏi: Giả sử thừa nhận duyên nó lại có lỗi gì?
Đáp: Nhân vị thứ tám chỉ là Hữu lậu, chẳng phải tướng của tâm Hữu lậu sở duyên là chân Vô lậu, vì đây không duyên.
Hai là đã chẳng phải kiến duyên y tự chứng phần thuộc tự chứng phần, hoặc đến Vô lậu mới thuộc tướng phần vì tịnh kiến duyên.
Xác quyết rằng: Giải thích trước là thù thắng, tuy ở nhân vị chẳng phải kiến sở duyên, là tướng phần, từ các tướng phần khác, tướng phần sở nhiếp.
Luận: Tuy gọi dị thục, mà chẳng phải Vô ký v.v...
Hỏi: Y dị thục nên gọi là dị thục, y Vô ký nên gọi là Vô ký?
Đáp: Đúng vậy, trước nói chỉ có thiện đứng về tự tánh tự quả mà nói.
Biện rằng: Không đúng. Nghĩa dị thục rộng, Vô ký thì hẹp, cho nên không cùng nêu bày. Lại nói thiện là nghĩa của thể thù thắng, không thể thắng thiện, từ nơi sở y lập gọi là kém, không đồng Hữu lậu, Hữu lậu cùng y tánh loại đồng.
Sớ: Đây trừ Phật vô lậu v.v...
Phật chủng không nương dị thục thức. Lại năm căn của Phật cũng là thiện, lấy dụ không thành cho nên trừ, thức năng y cùng nhãn sở y mà tánh không đồng, chủng và dị thục, nghĩa ấy cũng vậy, nên nói đồng.
Sớ: Ba nhà không tranh cãi v.v...
Tân huân, bản hữu, tân cựu hợp dụng gọi là ba nhà, nhà bản hữu kia tuy không thừa nhận sinh, nhưng huân tăng trưởng mà cũng thừa nhận, cho nên thông cả ba.
Sớ: Nghĩa của Hộ Nguyệt cũng gọi là Nguyệt Tạng.
Luận: Như ác-xoa tụ.
Trong một tụ, pháp nhĩ có nhiều phẩm loại. Tây Vức có loại này, người ta dùng để nhuộm và lấy dầu của nó, cho nên trong luận Du-già quyển 96 ghi: "Nhưng mỗi mỗi giới phẩm loại có sai khác, tuy nói là một mà có vô lượng loại", ý của sớ có sai khác chút ít, như Du-già sao mà hiểu.
Sớ: Lại quyển thứ ba kế văn trước.
Du-già quyển 2 nói các trên chủng tử sở huân, nói các hữu tình có không Niết-bàn, từ đây sinh xuống.
Sớ: Ban đầu chỉ có một.
Hỏi: Bản hữu từ vô thỉ đâu được nói ban đầu?
Đáp: Căn cứ bản gọi là sơ, như một tâm tham vốn chỉ một loại, chủng này sinh hiện, hiện hành diệt rồi trở lại tự loại thứ lớp dẫn sinh, đến Đối trị đạo chủng mới vĩnh viễn đoạn, cho nên không có lỗi đoạn trong tạp loạn.
Sớ: Chẳng phải Vô lậu năng huân cũng mới có. Vị Vô lậu chưa có thể khởi, nên không được nói năng huân Vô lậu cũng có từ vô thỉ.
Sớ: Chẳng phải hoa không huân v.v...
Chẳng phải là khí hoa không xông ướp dầu mè đen, hương thơm dầu mè đen tự vốn có.
Luận: Nói nghe huân tập v.v...
Xét trong Vô Tánh luận quyển 3 ghi: "Lại nữa làm sao tất cả chủng tử dị thục quả thức làm nhân tạp nhiễm, lại làm năng đối trị xuất thế tịnh tâm chủng tử ấy lại là tâm xuất thế, xưa chưa từng huân tập, cho nên huân tập ấy quyết định lẽ ra không có", đã không huân tập, từ chủng nào sinh? Thế nên lẽ ra đáp, từ pháp giới tối thanh tịnh đẳng lưu chánh pháp, nghe huân tập chủng tử phát sinh.
Giải thích rằng: Chư Phật pháp giới hằng lìa tất cả chướng khách trần, cho nên gọi là tối thanh tịnh. Nghĩa là từ pháp giới phát khởi giáo pháp gọi là Đẳng lưu, không đảo lộn nghe tiếng giáo pháp như vậy nên gọi là chánh văn, nương chánh văn đây phát khởi huân tập đây gọi là huân tập, đây tức huân tập hay sinh tâm xuất thế Vô lậu gọi là chủng tử, chủng tử như vậy chẳng phải A-lại-da vì chưa từng được, các văn còn lại nên rõ.
Sớ: Năm mươi hai Chân như sở duyên duyên chủng tử sinh.
Xét trong luận ấy ghi: Các pháp xuất thế gian từ chủng tử nào sinh? Nếu nói thô trọng, tự tánh chủng tử sinh không hợp đạo lý.
Đáp: Các pháp xuất thế gian từ Chân như sở duyên duyên chủng tử, chẳng phải tập khí ấy tích tập chủng tử phát sinh.
Giải thích rằng: Trong truyện Thiên Trúc lược có ba giải thích: Một là chỉ có tông tân huân, luận sư Thắng Quân tự có hai giải thích:
1. Chư Phật Bồ-tát do chứng Chân như, triển chuyển lưu xuất mười hai phần giáo. Kiến đạo trở về trước, thắng giải hành địa duyên kinh giáo ấy làm sở duyên sinh, từ gốc thành danh, danh từ Chân như sở duyên duyên sinh.
2. Sơ địa xuất thế Thánh đạo: Một là từ Thế đệ nhất pháp là tăng thường vô gián hai duyên mà sinh; hai là từ Chân như sở duyên duyên sinh.
Hai bản hữu tông, luận sư Hộ Nguyệt cũng có hai giải thích:
1. Bản hữu Vô lậu chủng tử làm tăng thượng duyên, Chân như làm sở duyên duyên, thuận giải thoát các thiện căn được sinh.
2. Bản hữu Vô lậu chủng tử làm nhân duyên Giải thoát phần làm tăng thượng duyên, pháp Thế đệ nhất làm Vô gián duyên, Chân như làm sở duyên duyên, pháp hàng Sơ địa xuất thế gian được sinh. Luận theo duyên sau, ẩn trước không nói, nghĩa là từ Chân như sở duyên duyên sinh.
Ba là tân cựu hợp lại, luận sư Giới Hiền giải thích, cùng sư thứ hai nghĩa ý đồng. Lại có đồng dị, đủ như trong sớ sao kia.
Sớ: Nghĩa là cùng các thức làm hai duyên tánh v.v... Như trong Nghĩa Đăng có chép đủ.
Sớ: "Ông nói các pháp" đến "đều một chủng sinh".
Sư tông bản hữu tự có hai cách giải, đây nêu lại giải thích đầu. Ý của giải thích đầu cho rằng, thiện ác hai nghiệp là nhân dị thục, dị thục và nhân cùng một chủng sinh, đây có một vặn hỏi, như văn có thể hiểu.
Sớ: "Lại nếu ông nói" đến "mỗi loại một chủng".
Lập lại cách giải thứ hai. Ý giải thích này cho rằng, ai nói dị thục cùng nhân thiện ác chỉ một chủng? Ở trong đây giải thích vặn hỏi có hai, như văn dễ biết.
Sớ: Giả sử cùng tân huân v.v...
Đây vốn có vặn hỏi, ý vặn hỏi rằng, ta nói bản hữu, tức khiến thiện ác cùng dị thục quả làm nhân duyên, ông cùng tân huân, lẽ nào là tân nghiệp mong tân dị thục làm nhân duyên ư? Đây đã không đúng, họ làm sao bảo đúng được.
Sớ: Nhưng quán bản ý, giải thích sau là chính.
Nghĩa của sư bản hữu tuy có hai cách giải, giải thích trước nêu bày, giải thích sau là chính.
Sớ: Lẽ ra các hiện hành huân tăng trưởng.
Chánh vặn hỏi chuyển thức, mong Thức thứ tám không gọi là nhân duyên, chỉ huân tăng trưởng đồng với nghiệp.
Sớ: Bản hữu chủng đây dùng tự loại làm nhân duyên. Chánh nghĩa tự nêu bày.
Sớ: "Đã vậy" đến "tân huân sinh".
Sư bản hữu vặn hỏi, ý vặn hỏi có thể hiểu.
Sớ: Nhưng do sinh chủng loại đồng v.v...
Chánh nghĩa giải thích cựu chủng sinh chủng loại đồng, tân chủng sinh ở hiện hành được gọi là nhân duyên, nhưng căn cứ Hộ Pháp tân cựu hợp sinh. Nay lại tùy theo chứ không phải chánh đáp.
Sớ: Không đồng chỉ có bản hữu.
Tân cựu đều có, lấy cựu để làm loại cho tân, cựu cũng là nhân duyên, ông chỉ có bản hữu, không thể nào làm loại, cho nên chẳng phải nhân duyên.
Luận: Không có Vô lậu chủng sinh Hữu lậu.
Có thuyết nói, họ cũng thừa nhận Vô lậu chủng làm nhân Hữu lậu, như pháp kéo dài tuổi thọ và pháp Vô lậu làm nhân Hữu lậu cảm đến mười vua v.v...
Biện rằng: Không đúng. Pháp kéo dài tuổi thọ là chỉ do Vô lậu giúp nghiệp cũ ấy, lẽ nào thừa nhận thân sinh quả Hữu lậu? Lại báo xứ của mười vua đều nói: Nhân địa tu trước lẽ nào dung chứa Địa tiền khởi Vô lậu, giả sử quay đầu thú hướng cũng chẳng phải Vô lậu thân cảm quả ấy, Vô lậu không chiêu lấy quả ba cõi.
Sớ: Thiện bất thiện chủng Tiểu thừa cũng vậy.
Đây giả sử thừa nhận, chẳng phải bản chấp của họ. Có thuyết nói, Hữu bộ trừ nhân năng tác còn lại đều là nhân duyên, bất thiện được làm nhân Hữu phú Vô ký, là Đồng loại nhân vì đồng Đế.
Biện rằng: Giả sử bất thiện kia làm nhân Vô ký cũng không làm chứng cứ, đây nói pháp thiện làm nhân bất thiện.
Luận: Phân biệt luận.
Xét luận Du-già quyển 27 nêu chấp ấy nói: Phân biệt luận là kế chấp như vầy: tâm tánh vốn tịnh, khách trần phiền não nhiễm ô cho nên không thanh tịnh. Lại nói, tâm nhiễm ô, không nhiễm ô thể của nó không khác, nghĩa là nếu tương ưng phiền não chưa đoạn gọi là tâm nhiễm ô, nếu khi đoạn rồi gọi là không nhiễm ô. Ý của tông ấy nói, từ vô thỉ đến nay tâm thể tự tịnh, do khởi phiền não nên gọi là nhiễm ô, nhiễm ô chẳng phải tâm bản tánh từ vô thỉ, nên lập tên khách.
Hỏi: Hữu tình từ vô thỉ có tâm xứng bản tánh tịnh tâm tánh vốn không nhiễm, đâu chẳng phải bản là Thánh?
Đáp: Hữu tình tâm tánh từ vô thỉ cũng vậy, có tâm tức nhiễm cho nên chẳng phải là Thánh.
Hỏi: Hữu tâm tức nhiễm, vì sao nói tâm tánh vốn tịnh nói nhiễm làm khách?
Đáp: Sau khi tu đạo do nhiễm đoạn diệt, chỉ có tánh tịnh, cho nên nhiễm gọi là khách.
Sớ: Khởi tâm chẳng phải vặn hỏi tịnh. Tâm y tha khởi gọi là khởi tâm.
Sớ: "Nếu nói thể Vô lậu diệt" đến "cũng không đúng".
Đây lập lại người ngoài chống chế, ý của họ chống chế rằng, ngã vốn là thể Vô lậu không đoạn tuyệt, nếu ông nói ngã Vô lậu đoạn nên cũng không đúng.
Sớ: Do Hữu lậu làm tướng tánh là Vô lậu.
Lập lại ý người ngoài chống chế, sinh ở văn luận sau.
Sớ: Các dị sinh lẽ ra Vô lậu hiện hành v.v...
Khi Dị sinh thoạt khởi các tâm, tâm đây lẽ ra gọi là Vô lậu, do vì tánh tịnh, như các Thánh là tâm Vô lậu. Nếu thừa nhận như vậy, tức khi dị sinh vị khởi tâm nên gọi là Thánh, do thừa nhận khởi tâm Vô lậu kia. Trong sớ văn bao gồm nên khai ra.
Luận: "Nhưng trong Khế kinh nói" đến "nói lý tâm không v.v...".
Xét trong kinh Thắng Man ghi: Như Lai tạng là Pháp giới tạng, Pháp thân tạng, Xuất thế gian thượng thượng tạng, Tự tánh thanh tịnh tạng, đây là tự tánh thanh tịnh Như Lai tạng, mà khách phiền não, thượng phiền não nhiễm.
Sớ: Có pháp viên tịch.
Pháp viên tịch tức là nhân Vô lậu Bồ-đề.
Luận: Hoặc nói tâm thể chẳng phải phiền não.
Xét luận Du-già quyển 54 ghi: "Lại nữa, các thức tự tánh chẳng phải nhiễm, do Thế Tôn nói tất cả tâm tánh vốn thanh tịnh, vì sao? Vì chẳng phải tâm tự tánh rốt ráo bất tịnh hay sinh lỗi lầm, cũng như tham v.v... tất cả phiền não".
Sớ: Nghĩa chuyển đồng v.v...
Nghĩa này đủ như chương Tam thân trong Pháp Uyển biện rõ, sợ dài dòng nên không dẫn ra.
Sớ: Thế Thân thì thông.
Xét luận kia quyển 2 ghi: "Tất cả chủng tử lại có sáu nghĩa. Sát-na diệt là hai chủng tử đều vô gián định diệt hoại, vì sao? Không phải pháp thường làm thể chủng tử, do tất cả thời tánh như ấy vốn không sai biệt".
Giải thích rằng: Hai chủng tử là chủng trong ngoài. Nói câu hữu là chẳng phải quá khứ vị lai cũng chẳng lìa nhau được làm chủng tử, vì sao? Nếu lúc này chủng tử có, ngay lúc bây giờ quả sinh. Hằng tùy chuyển nghĩa là A-lại-da thức, nhẫn đến trị sinh, ngoài pháp chủng tử nhẫn đến căn trụ, hoặc nhẫn đến dị thục. Nói quyết định nghĩa là chủng tử này đều quyết định sai khác, không từ tất cả tất cả được sinh, từ vật chủng này lại sinh vật này. Đợi các duyên nghĩa là chủng tử này đợi tự các duyên mới có thể sinh quả, chẳng phải tất cả thời mới có thể sinh tất cả, nếu ở chỗ này là lúc tự gặp các duyên, tức ở chỗ này lúc này tự quả được sinh. Chỉ có thể dẫn tự quả, nghĩa là tự chủng tử chỉ dẫn tự quả, như A-lại-da thức chủng tử chỉ có thể dẫn sinh A-lại-da thức, như lúa gạo chỉ có thể dẫn sinh các quả lúa gạo. Còn lại không nói pháp chủng bên ngoài vì dễ cho nên không nói, nêu vặn hỏi để hiển bày, lại văn ban đầu nêu nên nói tất cả chủng.
Sớ: Cũng hiển bày Đại chúng v.v... Lược có hai giải thích:
1. Nói mười hai duyên khởi là không đúng, vì chẳng phải chủng tử. Nói Vô vi vô thủ v.v... là giải thích lý do.
2. Nói không đúng là thuộc ở câu sau, hiển bày duyên khởi kia thể chẳng phải Vô vi. Nói vô thủ v.v... là giải thích lý do.
Giải thích trước là chính, vốn hiển Vô vi chẳng phải là chủng tử, vì không muốn phá nghĩa Vô vi ấy.
Hỏi: Nhân luận sinh luận, nếu họ chống chế rằng, Vô vi thể tánh tuy chẳng phải duyên sinh, mà có thể cách nó lập tên duyên sinh kia, đây cũng có lỗi gì? Cũng như các nghĩa tưởng thọ Vô vi?
Đáp: Lẽ ra nên vặn hỏi họ rằng, vả lại Vô vi của ông là có công năng, hay là không có công năng? Nếu có công năng chẳng phải Vô vi, có công năng cho nên như pháp ngăn cách, nếu không có công năng tại sao có thể ngăn cách?
Hỏi: Nếu vậy Vô vi Đại thừa cũng vậy, tất cả
Hiền thánh đều do Vô vi mà có sai biệt, hai lỗi cũng đồng chăng?
Đáp: Chỉ do Hiền thánh chứng có sâu cạn mà có sai khác, lẽ nào do Vô vi mà có công năng, khiến Hiền thánh sai khác? Nên không thể cùng nêu bày. Nếu nói Vô vi thể tức là duyên sinh, lỗi ấy lại quá nặng, suy nghĩ có thể biết.
Có nghĩa cũng ngăn Thượng tọa hiện tại một niệm tâm tâm sở pháp mà có trước sau, trước sinh sau diệt, sắc pháp bốn thời sinh, trụ, dị, diệt và cổ Tát-bà-đa hiện tại một niệm trụ, dị, diệt ba pháp thứ lớp trước sau.
Biện rằng: Lý chưa chắc như vậy, các pháp tuy chấp hai bốn ba pháp đồng thời mà có, đều chỉ có một niệm gọi là sát-na diệt, nếu nói một niệm có nhiều pháp đồng thời nên không thừa nhận, khi chủng sinh hiện có ba pháp đồng thời, chủng lẽ ra chẳng phải chủng. Nếu nói chấp ấy có thứ lớp cho nên chẳng phải chủng, chấp nhận lựa chọn Thượng tọa, Hữu tông một niệm lẽ nào phân thời ư? Đâu được lựa chọn. Lại luận chỉ ngăn thường không chuyển pháp; hai, bốn, ba kia lẽ nào là thường không chuyển? Do đây chưa chắc ngăn pháp sinh, nhưng theo nghĩa khác lựa chọn, lý lẽ ra cũng thông.
Sớ: Ngay nêu bày hiện hành lựa chọn thứ bảy kia.
Nghĩa là người vô tánh khi hiện hành thứ bảy huân thành chủng, tuy quả cùng có, do quả chủng tử thể tánh trầm ẩn nên hiện hành thứ bảy không gọi là chủng tử.
Hỏi: Luận nói là cùng hiện hành quả pháp, lựa chọn các hiện thức không gọi là chủng, luận lại làm sao dùng chữ hiện ở sau, sao phiền sớ nói nêu bày hiện lựa chọn ư?
Đáp: Nếu không có hiện ở sau, nghi nhân không có tự thể và quá khứ vị lai cũng được gọi là chủng, vì ngăn việc này nên nói hiện.
Hỏi: Nếu vậy trong hiện chỉ nhiếp hai nghĩa, trước hiện hành nói rồi lựa chọn hiện thức, trong chữ hiện sau lẽ ra trừ hiển hiện?
Đáp: Ngay hiển hiện nói giải thích thứ bảy chẳng phải lý do chủng. Nếu không như vậy sao có lý do vô tánh hiện Thức thứ bảy không gọi là chủng ư?
Hỏi: Nếu vậy luận tại sao không nói hiển hiện? Đáp: Nếu nói hiển hiện chỉ có được một nghĩa, mất hai nghĩa khác nên không nói hiển hiện.
Hỏi: Hiển hiện bèn ngăn tất cả hiện hành, tại sao chỉ là vô tánh?
Đáp: Các hiện khác thiếu, còn lại chẳng phải một nghĩa này, vô tánh thứ bảy chỉ có thiếu một nghĩa này, nên riêng lựa chọn.
Sớ: Hiện có chỉ ở nhân.
Hỏi: Quả pháp sở sinh, thể đã chẳng phải không, không chẳng phải nhân khởi, vì sao hiện có chỗ riêng ở nhân?
Đáp: Chẳng phải chỗ sinh quả tất cả đều có, như Độc ảnh cảnh cùng kiến đồng chủng nhân có thể chẳng phải không, nên hiện có nói chỉ trên chỗ nhân, hoặc thông ở quả. Trong sớ căn cứ biệt tổng phối hợp với pháp, cũng không trái nhau.
Sớ: Đồng ở hiện tại cũng không trái nhau.
Tuy nhân ở sinh quả ở nơi diệt, nhưng đồng hiện tại, nên cũng không trái, nghĩa là quả đều có, chuẩn theo thứ ba ở sau, nhân ở diệt, quả ở sinh, ở đây sớ nhầm.
Sớ: Nếu vậy chủng mong chủng v.v...
Nhân chủng ở diệt, quả chủng ở sinh, nên đồng chủng hiện, gọi là quả cùng có, giả sử như vậy nào có lỗi gì. Nếu vậy chủng tử sinh hiện hành, chủng sinh chủng cả hai rốt ráo nào có sai biệt, vì đều có quả, cho nên trong sớ kết làm sao làm liệu giản?
Lại trái với Du-già.
Luận: Hiện chủng dị loại.
Hỏi: Vì sao trước vặn hỏi phân biệt luận, tánh tướng đồng ư?
Đáp: Đứng về lậu Vô lậu mà nói tánh tướng đồng, chẳng phải căn cứ tất cả, hoặc căn cứ tông ấy, tâm thể tông ấy gọi đó là chủng tử, tướng gọi là hiện hành, không đồng tự tông hiện hành, chủng tử.
Sớ: Kiến phần duyên kiến v.v...
Tức tự chứng phần duyên với kiến phần, là thể kiến phần cũng gọi là kiến phần.
Sớ: Tức chẳng phải thuộc nhân duyên.
Kiến kiến đồng thời tuy gọi là nhân quả, không phải nhân duyên.
Sớ: Nếu vậy chủng mong hiện khởi v.v...
Là loại đồng chủng chủng, chỉ là nhân quả không gọi là nhân duyên.
Sớ: Không thừa nhận chủng sau sinh quả.
Kết không có nhân duyên, nếu trước sau kia sau có thể sinh quả, nên có nhân quả, đã nhiều đồng khởi, đã không có sau, nên không có nhân duyên.
Sớ: Chủng vọng đối với chủng, loại cũng nên như vậy.
Loại đồng hiện hành, không có hai tự thể một niệm được như nhau.
Hỏi: Bản, tân hai chủng lẽ nào không đồng ư?
Đáp: Nếu làm nhân duyên đồng tức không được, bản tân chẳng phải nhân nên đều không có lỗi.
Hỏi: Nếu vậy tân chủng đều sinh hiện hành, cùng bản chủng hiện cũng chẳng phải nhân duyên, sao không thừa nhận đồng?
Đáp: Ngay trong một sát-na có hai tâm đều lỗi. Hỏi: Nếu vậy sắc chủng tân lẽ ra sinh hiện, mong không chướng sắc có nhiều loại như nhau?
Đáp: Vì duyên chưa đủ. Lại nếu sinh hiện có không có lỗi cùng tột.
Sớ: Hỏi nếu vậy thể trái nhau.
Ý vặn hỏi này nói cũng nên kiến đạo nương theo sinh tân chủng, không do đồng thời vốn có chủng tử làm nhân mà sinh, vì trái nhau.
Sớ: "Đây không đồng thời" đến "lỗi chủng sinh chủng".
Ý giải thích ở đây cho rằng: Đây nương theo sinh chủng, do Thế đệ nhất đồng thời Vô lậu chủng tử dẫn sinh, không do đồng thời Vô lậu chủng khởi, cho nên không đồng chủng khởi, nên không đồng niệm chủng sinh chủng.
Hỏi: Nương theo sinh chủng này sao gọi là tân huân?
Đáp: Sức Thế đệ nhất huân tập cho nên tăng Vô lậu chủng, Vô lậu chủng tử dẫn sau nương theo sinh, nương theo sinh sở dĩ được gọi là tân huân.
Sớ: "Tức chủng bản hữu" đến "chỉ có ba pháp". Bản chủng, tân hiện cùng làm nhân duyên sinh tân huân chủng, đây chẳng phải chánh giải thích, bản chủng mong tân vì chẳng phải nhân duyên, nếu căn cứ sơ lược duyên lý cũng không có lỗi.
Sớ: Do biệt thoát này v.v...
Do đồng niệm này không nương sinh chủng, lại chứng ở trước biệt giải thoát giới dụng tăng là thù thắng.
Sớ: Giải thích trước tức thể tăng v.v... Tức là nghĩa bốn pháp đồng thời.
Luận: "Tuy nhân cùng quả" đến "không có tự thể".
Có nghĩa vặn hỏi rằng: Nhân hiện có dụng, quả chẳng phải không, có thể nói quả do nhân hiện tại khởi, quả ở vị lai thể chẳng phải có, tại sao nói quả do nhân sinh?
Đáp: Chánh do quả sau không có mới nói từ nhân khởi, vặn hỏi nhân thể lạc tạ dụng thường còn, có thể nói quả do nhân dụng khởi, nhân thể rơi mất, dụng tùy theo đó cũng mất, quả sau không có nhân nên không sinh khởi.
Có giải thích như ở sau nói: Quán pháp hiện tại dẫn dụng sau, giả lập đương quả đối nói nhân hiện, thế nên nhân hiện năng dẫn quả sau. Phá rằng: Không đúng. Nghĩa chủng tử này trước sau sinh nhau, nhân quả đều thật, họ nói hiện thức giả gọi là nhân quả, không nên lấy đó mà chứng nghĩa này.
Biện rằng: Các giải thích khác có trái lý, như trước phá nhân sinh quả sau, nay lược đáp rằng: Do nhân rơi mất sinh quả sau, nhân không có quả sau nên không sinh, nhân hiện tại thể dụng đã chẳng phải không, quả sau có nhân khởi nào lỗi gì?
Các vặn hỏi khác nên suy nghĩ.
Sớ: Vì nhân đã thông chủng cùng có chủng.
Chủng trước mong cùng hiện hành làm nhân, chủng sau mong cùng chủng tử làm nhân, chủng năng chủng sinh gọi là hữu chủng. Hoặc trái lại hiện năng huân chủng kia gọi là hữu chủng, chủng tử cùng hữu chủng này làm nhân, ý nói chủng tử cùng hiện và chủng cả hai làm nhân.
Hỏi: Xét trong luận Vô Tánh quyển 2 giải thích dẫn tự quả nói: Nay chủng chủng tử này là chủng tử gì?
Đáp: Chỉ năng dẫn tự quả, nói "chỉ" là nếu vào lúc này năng sinh tự quả, tức lúc bấy giờ gọi là chủng tử, chủng cùng hữu chủng đều từ vô thỉ.
Giải thích: Chủng nghĩa là chủng tử, hữu chủng tức là A-lại-da thức, A-lại-da thức hay có chủng nên gọi là hữu chủng. Lại nhân gọi chủng, giải thích trước là thù thắng. Chủng, hữu chủng này trước khi chưa sinh quả cùng có từ vô thỉ, đối dẫn tự gọi là chủng tử, trong sớ đã nói đâu không trái với đây?
Đáp: Sớ tuy dùng tên gọi chủng, hữu chủng kia nhưng ý có sai khác, nên cũng không trái.
Sớ: Vì năng huân sinh.
Chủng tử là năng hiện sinh kia.
Hỏi: Nếu vậy nghĩa bản hữu kia thế nào?
Đáp: Cũng vì do tăng hoặc tướng từ lời nói tổng gọi là sinh.
Sớ: Thắng Quân tại sao giải thích như vậy.
Luận nói không có lỗi, sinh diệt hai tướng, tuy đồng một đời, là hai sát-na, dùng làm nhân quả nên cũng không phải tức là sát-na.
Sớ: Lại vì sao giải thích không có chủng đã sinh.
Thắng Quân giải thích chủng tùy theo chuyển lý, chẳng phải nghĩa Đại thừa lại nào có lỗi, ở sau sẽ giải thích đầy đủ.
Sớ: Tát-bà-đa cùng thiện pháp v.v... cùng ác Vô ký làm Đồng loại nhân.
Hỏi: Xét trong luận Câu-xá ghi: Nghĩa là pháp tương tợ cùng pháp tương tợ làm Đồng loại nhân, ba tánh năm uẩn tự bộ tự địa, chỉ có cùng tự bộ tự địa làm nhân, tại sao nay nói thiện mong bất thiện làm đồng loại ư?
Đáp: Sớ văn nói chung, ý cho rằng bất thiện được cùng Hữu phú Vô ký làm nhân, do vì đồng bộ.
Sớ: Các Biến hành nhân là quả dị tánh.
Chuẩn theo nghĩa Hữu tông, thân kiến biên kiến là Biến hành nhân, thể là Vô ký, biến cùng đồng địa năm bộ nhiễm pháp mà làm nhân ấy, trong năm bộ nhiễm đã có bất thiện, cho nên được nhân quả thành dị tánh, nếu vậy tại sao được Đẳng lưu quả? Đều là nhiễm nên gọi là Đẳng lưu.
Sớ: Câu hữu nhân lấy quả dị thục.
Cho nên Câu-xá quyển 6 nói, nghĩa là nó cùng với tâm một quả dị thục và một Đẳng lưu.
Hỏi: Vì sao ở sau nói Câu hữu, tương ưng được quả Sĩ dụng?
Đáp: Trong quả Sĩ dụng lại có chung riêng, riêng quả Sĩ dụng chỉ là Câu hữu, và Tương ưng nhân được, nếu thông Sĩ dụng sáu nhân đều được, mà chỉ dùng lực quả sở đắc đều gọi là Sĩ dụng, nên không trái nhau, trong sớ căn cứ nói chung.
Sớ: Đây thiếu nghĩa gì v.v...
Hỏi và đáp, Thức thứ tám chẳng phải năng huân nên thiếu quả đồng thời.
Sớ: Người vô tánh ấy.
Nhân trước mà hỏi, Thức thứ tám không huân, không có nghĩa quả đồng thời, Thức thứ bảy đã huân sáu nghĩa đầy đủ, cho nên gọi là chủng.
Sớ: Trong môn Thức thứ tám.
Nói lại nhân tướng gồm có mười môn, nghĩa của chủng tử tức môn Thức thứ tám.
Hỏi: Nói dẫn tự quả tức sắc tâm v.v... đều tự chủng sinh, tướng phần Thức thứ bảy làm sao sinh Thức thứ tám?
Đáp: Là vì tâm tướng nên năng sinh tâm.
Hỏi: Sở huân chủng là một hay là hai?
Đáp: Giả sử như vậy nào có lỗi gì.
Hỏi: Nếu chỉ có một chủng làm sao sinh lự chẳng phải lự?
Đáp: Vì bảy tướng tám kiến có sai khác.
Hỏi: Nếu huân hai chủng, năng huân đã một, chủng tại sao có hai?
Đáp: Tuy năng huân có một, do có bản chất huân hai cũng không có lỗi, các vặn hỏi khác nên suy nghĩ lựa chọn.
Luận: Lúa gạo bên ngoài v.v...
Hỏi: Chủng tử trong ngoài đều có thể làm nhân, vì sao chỉ nói ngoài giả chẳng phải thật chủng?
Đáp: Xét Nhiếp luận của Vô Trước nói hai bài tụng giải thích, đủ như trong sớ đã dẫn.
Vô tánh giải thích rằng, lại chủng tử ngoài nếu lúa gạo v.v... hoặc có tuy chủng nhưng là mất hoại. Nếu cỏ kê cỏ đề v.v... hoặc có không chủng mà lại được sinh, tại sao chủng bên trong chẳng phải như chủng bên ngoài có lỗi tác bất tác được mất? Nên kế đáp rằng: Nên thành tương vi, do chủng tử bên trong cùng chủng tử bên ngoài không đồng pháp nên gọi là tương vi, nếu chủng tử bên trong cùng chủng tử bên ngoài có sai biệt, tại sao văn trước nói A-lại-da thức là Nhất thiết pháp chân thật chủng tử? Vì tránh vặn hỏi này nên nói ngoại chủng nội chủng làm các duyên, do lúa gạo v.v... đều là chúng sinh cảm thọ dụng nghiệp huân tập chủng tử, y sức A-lại-da biến hiện, thế nên ngoại chủng lìa nội chủng không có chủng nào khác.
Lại Thế Thân nói, nghĩa là chủng tử ngoài chỉ có căn cứ thế tục nói thành chủng tử. Vì sao? Vì chủng tử cũng đều là A-lại-da thức biến hiện.
Sớ: Do nhiều lần biến.
Chủng tử căn ấy Thức thứ tám biến rồi sinh hiện căn, lại biến hiện căn.
Luận: Thế lực chủng này sinh quả gần v.v...
Hỏi: Tại sao phải dẫn ra?
Đáp: Xét Nhiếp luận của Vô Tánh quyển 2 nói đủ, đại lược rằng nếu hai chủng tử chỉ làm nhân sinh chẳng phải dẫn nhân, gồm thâu nhiếp để các loại chủng tử lúa gạo vào kho, không nên để thời gian lâu dài tương tợ tương tục, sau khi mai táng, thi hài như mụt ứ máu các phần tùy theo đó chuyển lẽ ra cũng có, tại sao vừa chết liền phải hoại diệt? Tại sao thí như mặc tình sau diệt, thí như tên bắn buông dây cung sức bay đi làm nhân năng sinh, khiến tên lìa dây cung, không phải rơi xuống ngay, sức bay đi dây cung là nhân dẫn tên, khiến tên đi trước xa đến chỗ cần đến, không chỉ buông dây cung sức bay đi năng sinh, lẽ ra rơi liền, cho nên cũng chẳng phải thế lực khởi động, lần lựa đẩy nhau nên không rơi liền. Đã lìa dây cung đi xa có chỗ đến, cho nên biết trong này có hai sức bay đi năng sinh năng dẫn.
Sớ: "Nếu vậy hư không" đến "giả pháp không luận".
Ý này cho rằng, nếu giả là không nên không cần lựa chọn, Vô vi lẽ ra cũng không cần lựa chọn, Chân như Vô vi khéo nói nhiếp chẳng phải trạch diệt v.v... đồng sinh, tuy các thiện nhiếp cũng lại lựa chọn sai khác, giả pháp tuy không ngăn cũng có lỗi gì.
Sớ: Do đây cho nên thứ nhất nói thiện.
Tức trước nói y tha nhiếp giả, giải thích này là thù thắng.
Sớ: Vô minh huân Chân như v.v...
Từ xưa Cổ đức phần nhiều làm chấp này, luận này nói lựa chọn, nên biết xưa trái. Bồ-tát Mã Minh cũng nói Chân như thọ huân trì chủng, sợ rằng người dịch lầm.
Sớ: Người vô tánh ấy.
Hỏi: Giả sử không nói nhiễm cũng chẳng phải thọ huân, tại sao phải nhọc công lựa chọn?
Đáp: Chánh thủ tâm vương gọi là có thể huân tự thể, Thức thứ bảy lẽ nào chẳng phải là tâm vương ư? Do đây chỉ dùng nhiễm ô lựa chọn.
Sớ: Tức thành lỗi một chủng sinh hai mầm.
Như một thức chủng sắc tâm hai chỗ thảy đều trì, huân đã đồng thời, thế lực lại đồng, sau gặp sinh duyên hai chỗ đều sinh, cho nên có hai thức đồng thời mà khởi, chỗ tuy có hai là một thức nên gọi là một chủng.
Hỏi: Nếu vậy vì sao ở sau vặn hỏi luận ấy nói tức có nhiều lỗi chủng sinh?
Đáp: Lý thật mà có một chủng sinh nhiều, lỗi nhiều sinh một, trước sau xen nêu cũng không có lỗi.
Luận: Cả hai có thắng dụng là năng huân v.v...
Có thuyết nói, nghiệp cảm trong sáu thức có mạnh có yếu, yếu thì không năng huân. Luận nói không huân là căn cứ yếu kém, nếu do văn luận không lựa chọn chung riêng mà nói không huân, lẽ ra pháp chấp chẳng phải thuộc năng huân, gọi là dị thục, nên biết nghiệp cảm thù thắng là năng huân. Thắng là sao? Nghĩa là thọ ba phần, xả thọ đồng thời chỉ là yếu kém cho nên chẳng phải năng huân; khổ, lạc thọ đồng thời gọi là hành tướng thù thắng, là năng huân. Hoặc trong xả thọ lại phân ra ba loại là trái, thuận và trung dung, trung dung không huân, hai loại còn lại năng huân.
Lại có thuyết nói, ở đây chỉ ngăn tâm phẩm của Thức thứ tám, dị thục của sáu thức chẳng phải không năng huân, không riêng Thánh giáo nói không năng, Thức thứ tám không có sở huân có thể chẳng phải năng huân, sáu thức có sở huân, vì sao có tâm pháp chẳng phải năng, sở huân?
Biện rằng: Cả hai đều chẳng phải lý, nghĩa của sư thứ nhất phân tích như trong Nghĩa Đăng, lại đứng về ba thọ, để biện mạnh yếu, đã chẳng phải Thánh giáo, chẳng phải ý của ông sao? Nếu sư sau nói, chỉ ngăn Thức thứ tám, còn lại đều năng huân. Luận này nên kết chỉ có bảy chuyển thức có thể là năng huân, vì sao mượn nói có thế dụng thù thắng? Đã nói thù thắng là rõ ràng có ngăn lựa chọn, lại sáu thức có sở huân cho nên đều khiến năng huân, Thức thứ tám tâm sở lẽ ra cũng năng huân, vì có sở huân.
Lại nói vì sao có tâm pháp chẳng phải năng, sở huân? Thức thứ tám tương ưng lẽ ra chẳng phải tâm sở, chẳng phải năng sở huân, đã có nhiều lỗi nên không thể nương.
Sớ: Hai chủng sở sinh v.v...
Tự gọi là chủng, và nghiệp chủng.
Sớ: Hoặc pháp nhĩ này v.v...
Không cần đứng về hai chủng sở sinh kia, chỉ do không có dụng nên không năng huân.
Sớ: Như Da kiến v.v...
Hỏi: Phẩm loại tuy đồng tăng giảm có khác lẽ nào chỉ có tăng trưởng tức gọi năng huân?
Đáp: Luận nói tăng giảm gọi là năng huân, cả hai tùy theo có một tức là năng huân. Nếu không như vậy thì kiến đạo trở đi sở sinh Vô lậu chỉ có tăng mà không giảm nên không có năng huân, họ còn có năng huân, ở đây vì sao không thừa nhận?
Sớ: Trước đốn đoạn có được nghĩa chăng?
Thập địa trở về trước trong các địa có thể đốn đoạn chăng? Đây giả sử lập lời hỏi vậy, dễ biết nên không đáp, lý chuẩn theo Bồ-tát có lực nên đoạn, một là cố ý lưu, hai là không chướng địa, cho nên ắt chẳng phải không có Kim cang đoạn hoặc tu đạo. Sớ: Mỗi mỗi địa thông sở đoạn ba cõi.
Đây nói ngược, ý nói trong mỗi mỗi địa năng đoạn sở tri chướng trong ba cõi.
Sớ: Nếu có chín phẩm.
Ba cõi chín địa hợp thành chín phẩm, chẳng phải mỗi mỗi địa riêng có chín phẩm.
Sớ: Giải thích trước mới thành.
Tức giải thích thứ nhất chỉ có nghĩa tăng mà được thành, nên trong sớ tự nói: Ngay nay vì tăng, rõ ràng không kết thành giải thích thứ hai ở trước.
Hỏi: Tuy sinh trong ba cõi sở duyên không khác, hành tướng năng duyên chỉ là một là thường, vì sao có nhân sai khác được thành chín phẩm?
Đáp: Vô minh lần tăng ba cõi pháp nhĩ chín phẩm sai khác, đây cũng đâu có lỗi gì?
Sớ: Nếu do vô tánh hữu tình Thức thứ bảy v.v... Hiển bày giải thích thứ hai ở trước phi lý.
Biện rằng: Xem giải thích thứ hai, không do hữu tánh vô tánh cùng nêu bày, còn có các giải thích này nên nêu bày sai lý.
Hỏi: Trong giải thích thứ hai của sớ, cái gì là ưu?
Đáp: Giải thích trước thù thắng có thêm nghĩa hiển bày, nếu giải thích thứ hai nghĩa giảm khó biết, tuy ba cõi sai khác năng sở duyên v.v... vì sao nhất định có hình tướng giảm ư? Cho nên giải thích thứ nhất thù thắng.
Sớ: Nếu tướng phần huân nhau tại sao pháp bị ngăn ngại.
Có pháp gì ngăn mà không khiến biến, vì tướng phần huân ư?
Pháp chướng đã không, cho nên được huân.
Sớ: Như tự chứng phần v.v...
Hỏi: Nếu vậy vì sao nói kiến tướng huân?
Đáp: Đứng về dụng mà nói.
Sớ: Tức là bản thức đồng này không ngại.
Nói trong bản thức chủng sinh hiện hành gọi là chung có nhân, đồng với Duy thức này.
Sớ: Như Câu hữu nhân thể không có năng huân.
Kết nhân thể Tiểu thừa chẳng phải Câu hữu nhân. Nói không huân là giải thích lý do, lại do tự nghĩa mà hiển bày lỗi của họ.
Sớ: Chẳng phải hiện mong hiện làm nhân duyên nhiếp Đồng loại nhân.
Không phải hiện hành mà mong ở hiện làm Đồng loại nhân.
Sớ: Nương nghĩa làm lời hỏi.
Nghĩa là nghĩa của thể, do không thể biết mà không có thể riêng cho nên không hỏi.
Sớ: Kế trong giải thích nương tụng mà lập lại.
Giải thích ở sau lời hỏi gọi đó là kế. Nói không thể biết tức bản tụng vậy.
Sớ: "Đối Pháp chỉ có căn cứ" đến "nên lược không nói".
Thế nên luận ấy ghi: Nghĩa gì quán chấp thọ? Nghĩa là thọ sinh sắc sở y nên là nghĩa chấp thọ. Nếu y sắc thọ này được sinh gọi là chấp thọ.
Sớ: Chẳng lìa thanh do đại phát.
Bốn đại đã là Thức thứ tám sở chấp, nên chỗ phát kia không lìa tiếng của đại, cũng gọi là chấp thọ.
Sớ: Cũng như mao luân.
Sở duyên huyễn hóa, Hữu vi không thật, nên vị dụ mao luân. Có thuyết nói, nói cảnh vi tế, hoặc nhiều cảnh, nên so sánh mao luân.
Sớ: Nếu không như vậy v.v... tâm tương ưng là sở duyên ấy.
Nếu cũng không thủ như trước khế hội tên của bốn uẩn, tâm đã do danh nhiếp, lẽ ra tức là Lê-da sở duyên, các tướng cũng vậy, hoặc là lầm chữ, lẽ ra phải là chữ "lẽ nào", giải thích trước là chính.
Sớ: Nhân chấp tâm sở chấp v.v...
Tâm thiện, Vô ký là năng biến kế, là tâm vọng chấp pháp sở chấp, từ năng chấp ấy dùng lập tên kia, sở chấp tự do kiến tướng huân chủng, cũng được gọi là biến kế sở chấp vọng chấp tập khí, hoặc năng biến kế trong tướng phần huân sở chấp chủng tử, sở chấp chủng tử gọi là chấp tập khí, giải thích trước là thù thắng.
Sớ: "Tất cả sắc" đến "lẽ ra không duyên".
Sắc chẳng phải năng huân, cũng chẳng phải năng chấp, Thức thứ tám lại không chấp, trong sắc tướng này lại không có chủng tử, lẽ ra Thức thứ tám cũng không duyên tướng này. Do thuyết ấy nói duyên chấp chủng, nếu nói tuy thật mà được duyên sắc, lại căn cứ chủng luận nói duyên chấp tập, đã vậy nào ngại thật duyên ba tánh chủng, lại nương nhiễm chủng mà nói.
Sớ: Đã vậy Thức thứ tám lẽ ra cũng năng huân.
Đây phá phục chấp. Chấp, có thuyết nói, đã nói Thức thứ tám duyên chấp tập khí, sao không chấp ư? Nên có vặn hỏi này.
Sớ: Tức lấy đây làm chứng.
Hỏi: Sở huân chủng tử gọi là chấp tập khí, chứng thức năng huân làm chấp nên như vậy, tạng thức nếu không như vậy, ở đây vì sao làm chứng?
Đáp: Các thiện tâm v.v... do hai phần nên gọi là chấp, tạng thức cũng vậy vì sao không chấp có? Nên được làm chứng.
Hỏi: Nếu vậy tạng thức cũng năng huân, đồng bảy thức khác? Đáp: Không có sở huân khác chẳng phải thuộc năng huân.
Sớ: "Nay ý của sư này" đến "như ở sau tự biết". giải thích trước tự chứng, kiến, tướng đồng chủng, sau giải thích chủng sai khác, có nhiều cách hỏi đáp, như ở sau trình bày đủ.
Sớ: "Nếu vậy Vô sắc giới" đến "nghĩa này nên suy nghĩ".
Hỏi: Xét luận ấy ghi: Ở trong Dục giới duyên nhỏ hẹp chấp thọ cảnh, ở trong sắc giới duyên rộng lớn chấp thọ cảnh. Ở Vô sắc giới, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ duyên vô lượng chấp thọ cảnh, ở Vô sở hữu xứ duyên vi tế chấp thọ cảnh, ở Phi tưởng phi phi tưởng xứ duyên cực vi tế chấp thọ cảnh, tại sao duyên Vô sắc rộng lớn?
Đáp: Xét văn là lầm. Ý sớ chủ lấy Vô sắc làm vặn hỏi, do Vô sắc giới chỉ có duyên chủng, đã nói thức duyên vô lượng đẳng chấp thọ cảnh, rõ biết Thức thứ tám duyên chủng.
Hỏi: Tại sao chủng ấy gọi là vô lượng?
Đáp: Duyên vô lượng cảnh tâm sở huân nên gọi là vô lượng. Hoặc vô lượng v.v... công năng trên chủng năng sinh vô lượng hiện hành, giải thích trước là thù thắng.
Sớ: "Tức là năng sinh" đến "không trái bản thức".
Tuy trên chủng ấy có nhiều công năng sai khác, tức là thiện và rộng lớn. Công năng rộng lớn đồng thức Vô ký, nên năng duyên. Rộng lớn tức công năng, tức chủng tử.
Sớ: Lại dụng Vô sắc giới rộng lớn.
Giải thích này lẽ ra là thiện, vì lược các lỗi. Có nghĩa chỉ duyên chủng thể tùy theo có công năng đều năng duyên, vì sao? Nếu thiện chủng tử công năng sai biệt, do tánh sai khác nên nói không duyên, lẽ ra Vô lậu thiện ác sở huân thành chủng đều thông hai tánh, thể là phần của dụng thiện ác Vô ký, đã nếu không như vậy, sao nói thể đồng bản thức Vô ký nói là sở duyên, dụng thông các thiện chẳng phải sở duyên? Nếu nói một chủng thể dụng sai khác nên thông hai tánh, nếu vậy luận nói nhân quả đều thiện, lẽ nào là chỉ đứng về dụng. Lại thể không lìa thức, thể các thiện chủng gọi là Vô ký, dụng không lìa thể tùy thể Vô ký, nên chủng thể dụng cùng thức sở duyên, thể dụng đều là các thiện sở sinh, năng sinh các thiện đều thuộc các thiện.
Hỏi: Nếu vậy Vô tưởng định v.v... há đều là sở duyên?
Đáp: Nó chẳng phải sở duyên.
Hỏi: Đã vậy tại sao chỉ từ công năng đều nói là sở duyên?
Đáp: Trên chủng của tâm nhàm chán, công năng phòng tâm chẳng phải vô tưởng định, nhưng đứng về năng giả lập này định ấy, tuy chỉ có chủng tử công năng sai biệt không duyên giả. Nhưng giả pháp ấy không lìa thật, khi duyên chủng cũng duyên giả, tức không có lỗi.
Biện rằng: Lý không một đường, sao không có nghĩa này? Tùy tìm ý chỉ sớ vốn cũng không trái, lại vặn hỏi thành tợ. Lý do ấy, nói tùy bản thức và đối nhân quả để phán phân tánh, nương chủ thể luận không nương dụng mà nói, dụng thiện ác hai tánh tự thành, sao đợi nhân quả mới gọi là thiện ác? Lại thể của chủng tùy thức nhân quả, tánh đã không hằng, đâu được vặn hỏi khiến các loại thiện ác định chỉ có hai tánh? Lại do chủng thể không lìa thức nên gọi là Vô ký, liền vặn hỏi chủng dụng không lìa chủng thể thành Vô ký, lẽ ra sắc chủng không lìa thức nên không có chất ngại, sắc chủng hiện quả không lìa chủng cho nên phải không có chất ngại, thể dụng nhân quả chẳng phải tức, chẳng phải lìa, đây đã không như vậy, họ đâu thể nói vậy. Lại nói: Chỉ duyên công năng nhàm chán chủng Vô tưởng định v.v... giả không duyên, nếu vậy định thể ấy hoàn toàn không có. Công năng nhàm chán chủng chẳng phải định chẳng phải giả, trước luận nói giả cũng có thể ngăn, giả gọi là pháp gì? Giả đứng về ngăn năng lập định ấy là vì định tức năng vì nương ở năng mới giả lập định. Định nếu tức năng định tại sao giả? Nếu nương năng lập cùng tột lỗi có không, nên biết định ấy tức chủng phòng năng, chẳng phải cảnh biệt định, định cho nên gọi là giả bản thức không duyên chẳng phải là giả.
Lại nói: Duyên chủng cũng duyên giả, nếu vậy bản thức lẽ ra phân biệt biến, do sớ này đạo lý sớ bèn thông.
Sớ: Lại chủng có ba phẩm.
Các loại tâm sắc ba tánh đồng sai khác đều có ba phẩm, hoặc ba cõi chủng gọi là ba phẩm.
Sớ: Tức thể của chính mình.
Tướng không lìa thức gọi là thể của chính mình.
Sớ: Hoặc đoạn chưa đoạn tùy theo tăng giảm.
Đoạn giảm chưa tăng thêm, Phàm thánh Thức thứ tám sở duyên sai khác.
Luận: Có căn thân.
Tức thể của năm căn gọi là hữu căn gọi là có căn, không riêng năng hữu, như nói hữu sắc, sắc sở y các thể tuy chẳng phải căn mà căn năng hữu cũng gọi là hữu căn, căn và hữu căn hòa hợp tích tụ nên gọi là thân.
Sớ: Do căn vi tế v.v...
Ý biện căn thân trong thể đều nêu, căn vi tế cho nên không chỉ nói căn, thân lẫn lộn ngoại trần không chỉ nói thân, nên gồm nói hai lỗi đều trừ.
Sớ: Tức năm chỗ các căn. Tức năm phù trần.
Sớ: Duyên năm cảnh khác. Tức là năm phù trần khác. Sớ: Đây có lượng.
Lượng rằng, từ Thức thứ tám không thể chấp tha phù trần, vì chẳng phải tự nơi thân như năm cảnh bên ngoài.
Luận: Hai pháp này đều là sở chấp thọ v.v...
Nghĩa chấp thọ này thông Đại thừa Tiểu thừa, trong đó lớn nhỏ chẳng phải không sai khác. Đối Pháp quyển 5 chỉ có đứng về sinh thọ. Du-già quyển 53 thông y cứ nương trì sinh thọ mà nói, nên Đối Pháp nói nghĩa là thọ sinh sắc sở y nên là nghĩa chấp thọ, nếu y sắc thọ này được sinh nên gọi là chấp thọ.
Luận Du-già ghi: "Nếu thức nương chấp gọi là chấp thọ sắc", điều này lại thế nào? Thức thức đã dựa vào việc an nguy, đồng hòa hợp sinh trưởng. Lại đây vì nương năng sinh các thọ, cùng tương vi này chấp thọ sắc, trước hẹp sau rộng, hai luận sai khác. Hiện chủng căn cảnh đủ như trong sớ tổng hợp. Nếu theo Tiểu thừa, Câu-xá quyển 2 nói năm căn hiện tại, phù căn bốn trần gọi là có chấp thọ, các loại khác chẳng phải chấp thọ. Nghĩa chấp thọ, tức luận ấy nói tâm tâm sở pháp cùng sở chấp thọ, nhiễm là chỗ nương gọi là có chấp thọ, tổn ích triển chuyển lại tùy nhau, tức các thế gian nói có giác xúc, vì các duyên đã xúc giác lạc. Đây đồng với Du-già có hai nghĩa. Căn cảnh v.v... chín loại lại như Đối Pháp.
Hỏi: Đại thừa tại sao ý chỉ có Thức thứ tám gọi là năng chấp thọ?
Đáp: Xét luận Du-già 51, do vì năm nhân:
1. A-lại-da thức đời trước tạo nghiệp hành làm nhân, nhãn v.v... chuyển thức hiện duyên làm nhân, nghĩa là căn cảnh v.v...
2. Sáu thức ba tánh có thể được.
3. Sáu thức Vô phú Vô ký dị thục sở nhiếp loại không thể được.
4. Sáu thức riêng nương nó, nó nương các chuyển thức kia, tức sở y kia lẽ ra có chấp thọ, còn lại không chấp thọ, giả sử thừa nhận chấp thọ cũng không đúng lý, vì thức xa lìa.
5. Lại sở y ngăn, lẽ ra thành thường thường, là lỗi chấp thọ, vì sao? Do nhãn thức kia đồng thời không chuyển, các thức cũng vậy, Thức thứ tám dị thục nên năng chấp thọ.
Sớ: Biến tức chuyển biến.
Tức là sinh biến, ở sau sớ kết rằng, cho nên năng sinh nhân gọi là năng biến.
Sớ: Duyên Vô lậu chủng chuẩn theo đây nên biết.
Trong nhân Thức thứ tám mong Vô lậu chủng hai biến đều không có, không duyên, không huân như thứ lớp không gọi là duyên sinh hai biến, quả vị bản thức duyên nên gọi là biến, nhân vị Vô lậu thứ sáu, thứ bảy hai thức có đủ hai biến, trong quả Thức thứ bảy chỉ duyên gọi là biến, nghĩa suy nghĩ có thể biết.
Sớ: Tức căn chủng v.v... đủ hai nghĩa biến v.v...
Hiện hành Thức thứ tám mong căn cùng chủng đủ duyên và chấp, khí bên ngoài chỉ duyên, chủng tử thức ấy đối hiện Thức thứ bảy chỉ có sinh một biến, hiện mong hiện bảy ba biến đều không, nếu chủng tử thức mong hiện căn khí, tức sinh gọi là biến, khí cũng là thức, cùng chủng sinh. Sớ chỉ bày phương góc lại nêu hiện thức, hiện thức và chủng hợp lại mà nói, căn đủ ba biến, ngoại khí hai biến.
Sớ: "Kinh bộ" đến "đã lược giải xong".
Tức sư Kinh bộ đều không khởi v.v... như trong sớ quyển 1 giải thích.
Sớ: Nhưng chỉ có giải thích trước v.v... Lược có hai giải thích:
1. Như nhân Thức thứ tám duyên tự ba cảnh, nhưng tướng vô chất, tâm sở nương Thức thứ tám cùng làm chất duyên, hoặc lại xen nương gá làm chất khởi, nên không thể nói bản chất là đồng, gọi là đồng một, do đây nên nói tướng gọi là hành tướng, hành tướng tương tợ gọi là đồng sở duyên.
2. Sớ sai lầm, lẽ ra nói là đúng, nhưng chỉ có giải thích thứ hai, không có giải thích ban đầu, còn lại nói đồng với trước.
Biện rằng: Giải thích sau thù thắng.
Hỏi: Làm sao để rõ?
Đáp: Kiến gọi là hành tướng, tướng chỉ tương tợ gọi là đồng sở duyên, không gọi hành tướng, rốt cuộc có lỗi gì.
Lại trong sớ ở sau kết hợp với luận Du-già, Dugià căn cứ chất gọi là đồng sở duyên, đây đứng về ảnh tượng gọi là sở duyên v.v... lẽ nào có thể trước sau tự làm kia đây? Lại xét trong sớ chủ Du-già sao rằng: Nếu ảnh tượng gọi là hành tướng, tức do bản chất làm sở duyên, thể một gọi là đồng, thể hình tướng sai khác nên gọi là không đồng. Nếu do kiến phần gọi là hành tướng, tức thể của thân tướng phần tuy đều sai khác, tợ gọi là đồng một, thể kiến phần phải mỗi mỗi đều sai khác nên gọi là không đồng. Do đây nên biết, kiến gọi là hình tướng, Thức thứ tám tâm vương sở tướng phần tương tợ gọi là đồng sở duyên, kiến phần đều sai khác gọi là hành không đồng. Nếu vậy tướng phần gọi là hành tướng, tức hành tướng đồng, tại sao nói không đồng một hành? Thức thứ tám chẳng phải nhất định duyên cảnh bản chất, lại làm sao nói đồng một sở duyên? Nếu nói tướng phần tương tợ gọi là đồng, nếu vậy sở duyên hành tướng là một, tại sao nói đồng, không đồng? Do đây nên biết trong sớ đảo lộn.
Sớ: Không có tâm tâm sở tự năng duyên.
Tông ấy không thừa nhận tâm tâm sở pháp mà có thể tự duyên.
Luận: "Nếu tâm tâm sở" đến "tự sở duyên cảnh".
Các sư đều nói, lượng trước phá Chánh lượng và An Tuệ, không phá các bộ khác, nay giải thích rằng không đúng. Nghĩa mười chín bộ tuy khi tâm tâm sở duyên cảnh có hành cảnh tướng, hành cảnh tướng ấy là tướng năng duyên chẳng phải là sở duyên, tại sao lượng trước chỉ có phá Chánh lượng? Thế nên nói lượng đầu phá chung hai mươi bộ.
Biện rằng: Tuy tướng kèm theo chấp thuộc về năng duyên, nhưng nói tương tợ sở duyên này, nên sở duyên tức tướng, tướng sở duyên gọi là tướng sở duyên, không đồng chánh lượng, tợ này cũng không, do đó nghĩa của các bậc cổ đức cũng không lỗi.
Luận: Nếu tâm tâm sở không có năng duyên.
Các sư đều nói phá sư An Tuệ và nghĩa Thanh Biện. Nay giải thích phá chung nghĩa Chánh lượng bộ, nói tâm ấy v.v... là khi tâm duyên cảnh, lại không riêng nói ở tâm năng duyên có hành tướng.
Biện rằng: Đây nói hai phần, nói tướng năng duyên tức tâm kiến phần, chẳng phải đứng về kiến phần nương trên tâm mà lập. Nếu riêng lập thì ba phần tại sao sai khác? Như kiến phần trước gọi là hành tướng lẽ nào trên kiến phần mà riêng nói ư? Do Chánh lượng này có tướng năng duyên, nên biết các cổ đức nói không trái luận.
Sớ: Thanh Biện cũng nói v.v...
Do Thắng nghĩa đế không những không có tướng năng duyên mà tâm thể cũng không. Trong văn luận đã nói có tâm tâm sở, nhưng khi duyên cảnh không có tướng năng duyên, nên biết chỉ căn cứ Thế tục để phá. Các sư đều nói, Thanh Biện nói có hữu tướng mà không có kiến phần, đây không nương tông, kiến phần nương thế tục nói chỉ có thức, ở trong thế tục tuy có tâm, cảnh, ẩn liệt hiển thắng gọi là Duy thức.
Biện rằng: Chẳng khéo phá, trong không có lỗi lại nói có lỗi. Sớ đã nói, nếu đứng về thế tục kiến tướng đều có. Nay ông nói tất cả chỉ có cảnh, đây lẽ nào không thừa nhận cảnh có kiến chấp ư? Nếu nói phá các thứ khác, sớ không bài xích, phá tha có thể thông, tự lập nếu không như vậy, đã căn cứ thế tục kiến tướng đều còn, lý nào riêng trừ tướng năng duyên kia? Lại nói tâm thể là hiện chủng ư? Nếu hiện hành, là đã không có năng duyên sao gọi là hiện thức, nên xét rõ.
Sớ: Thứ hai hợp phá An Tuệ.
Lại nói, ở đây phá nghĩa của An Tuệ, tuy giải thích ở đây là hai phần chẳng phải văn ba phần, tại sao nói không năng duyên kia ư? Tự chứng tức là dụng năng duyên, nên đối với hai phần chỉ có thể phá không có tướng sở duyên kia, hoặc có thể, văn này chẳng phải nghĩa hai phần, tức là ba phần.
Biện rằng: Đây nói hai phần kiến tướng tương đối gọi là năng sở duyên, do phá An Tuệ thì làm gì có lỗi! Lại luận tự kết nên tâm tâm sở ắt có hai tướng, nên không thể phán phân thuộc về ba phần. Sớ: Lại Đại chúng bộ cùng với đây đồng. Đây giải thích ở trước ý nêu mười chín bộ. Sớ: Tự duyên thể tức không như vậy.
Hiển bày đoạn trên nói trừ Đại chúng ra.
Sớ: Do không từng làm duyên tướng phần.
Như các sắc v.v... từng làm tướng phần, bị kiến phần duyên, nên sau mới có thể nhớ, tâm đã không như vậy, sau làm sao có thể nhớ? Nên sau có thể nhớ nói do lúc trước tự chứng duyên.
Sớ: Phật địa thứ ba v.v...
Xét luận ấy dẫn Tập Lượng luận nói, Tập Lượng luận cho rằng các tâm tâm pháp đều chứng tự thể gọi là hiện lượng. Nếu không như vậy thì như không từng thấy, không nên nhớ nghĩ.
Sớ: "Trong này có hành tướng" đến "gọi là tướng tợ".
Lập lại giải thích ý của Du-già kia. Nói trong này là luận Du-già, tức dùng tướng phần gọi là hành tướng. Nói cảnh căn cứ tổng, tướng phần tương tợ, như duyên màu xanh tướng phần đều xanh, nên gọi là tổng. Do luận này nói đồng một sở duyên, nói kiến phần căn cứ biệt gọi là tương tợ. Tương tức tức là nghĩa không đồng, nên luận nói không đồng hành tướng.
Hỏi: Phàm nói tương tợ tuy thể không đồng có chút so sánh, nay kiến phần nói tự có tướng loại gì?
Đáp: Như duyên các màu xanh v.v... tâm vương tâm sở đều như vậy nên gọi là tương tợ. Có thuyết nói cảnh căn cứ tổng, bốn câu sau ở sau văn đều khế hội với Du-già, Duy thức.
Biện rằng: Không đúng. Giải thích trước là chính, tìm xem có thể rõ.
Sớ: Khi tâm tâm sở đây thừa nhận nương đồng. Luận này quyển 3 nói các sở duyên, đẳng cũng là nghĩa tương tợ, các văn khác cũng thế.
Sớ: Hiện lượng là so sánh quả, hỏi đáp cũng vậy.
Hỏi: Hỏi đáp này cùng với trước nào có sai khác mà cần phải nêu?
Đáp: Trước nương phần vặn hỏi, nay căn cứ lượng vặn hỏi.
Sớ: Như chương Mạt-na.
Đây chỉ Nhiếp luận nói chỗ Mạt-na gọi là chương Mạt-na, do họ rộng dùng nghĩa môn mà biện nên gọi là chương. Ý sớ vặn hỏi: Năm thức hiện lượng tại sao có trình bày? Nên trong sớ đáp, vì phiền não này bị tướng nhiễm ô nên có ràng buộc. Người ngoài vặn hỏi: Làm sao biết được? Cho nên chỉ chương ấy. Nay xét Vô Tánh luận quyển 1 ghi: "Đây tức là thức, lìa nhiễm sở y, ở định bất định trong các thiện vị đều không trái nhau vì hằng hiện hành". Hiện hành như thế nào? Nghĩa là khi thiện tâm cũng chấp ngã, do năm thức này có ràng buộc nhau. Nói sớ chủ nói Mạt-na chướng là sai.
Sớ: Tức do tự chứng làm duyên tướng phần. Vì dụng không lìa thể nên nói như vậy.
Sớ: Đắc được pháp đắc và phi đắc.
Đại đắc tiểu đắc nên nói lại là đắc. Pháp sở đắc thể chẳng phải là đắc gọi là pháp phi đắc.
Hỏi: Ý vặn hỏi thế nào?
Đáp: Như đại kia đắc năng đắc bản pháp, lại được tiểu đắc, không lập thứ tư, sinh cũng như vậy, nêu bày kiến phần đồng với họ, duyên tướng, tự chứng không cần thứ tư.
Sớ: Không có chủng khác sinh.
Tùy theo tướng kiến kia, sư đồng chủng giải thích, hoặc đứng về độc ảnh chẳng phải tận lý mà nói.
Luận: Hoặc nội hoặc ngoại đều có sở thủ v.v...
Như trong sớ có nói đủ, có nghĩa đồng như sớ mà lập lý rằng: Trước trong Trường hàng nói là phần thứ hai chỉ duyên phần thứ nhất, Phật tâm kiến phần không chỉ duyên ban đầu, vì cũng thông ở sau. Lại trong nêu bày tông giải thích Hữu lậu thức vì chẳng phải Vô lậu. Lại ba phần vị Vô lậu đều năng duyên ba phần khác, tại sao trong ngoài xen nhau hệ thuộc?
Sớ: Tuy duyên Chân như cũng không được duyên.
Tuy có chỗ nói kiến phần duyên Như, kiến đã ngoài dụng, thật không được duyên.
Biện rằng: Lại y nghĩa kiến phần không duyên Như, vì thuận ở đây kiến gọi là bên ngoài, chẳng phải tận lý.
Sớ: Nếu vậy trong tâm lẽ ra chẳng phải quả bên ngoài,
Ý vặn hỏi này cho rằng, trong ngoài có sai khác, ngoài chẳng phải quả pháp trong, nghĩa trong ngoài không đồng, trong cũng chẳng phải quả ngoài?
Đáp: Chỉ đồng với nghĩa lượng, phi lượng ở trước, suy nghĩ có thể biết. Nay lại đáp rằng: Một kiến thông duyên trong ngoài ngăn ngại, cho nên ngoài không làm pháp quả, tự chứng phần duyên hai lỗi không có, cho nên trong được làm quả ngoài.
Sớ: Tâm nếu tự duyên không có lỗi sai biệt.
Tức tự chứng phần mà duyên kiến phần, căn cứ này thành vặn hỏi, năng sở tác v.v... thảy đều là tâm, nên không có sai biệt. Có thuyết nói, đứng về Duy thức mà vặn hỏi không đứng về bốn phần, đã chỉ là thức thì có các nhân quả nào sai biệt ư?
Biện rằng: Không đúng. Vốn duyên bốn phần mà vặn hỏi này sinh, sau sớ kết rằng, y kiến phần mà nói, nên biết không phải y Duy thức mà vặn hỏi.
Luận: Tức ngoài đại chủng.
Nói ngoài là lựa chọn khác với trong, nghĩa trong ngoài sai khác có năm giải thích:
1. Sở chấp gọi là ngoài, nghĩa là ngoài tâm, còn lại gọi là trong, vì không lìa thức.
2. Bản chất gọi là ngoài cũng là ngoài tâm, ảnh tượng gọi là trong, vì trong tự tâm.
3. Nghĩa lý các pháp sai biệt gọi là trong, thể sự tự tánh các pháp gọi là ngoài, nên mê lý là nói y nội môn, phát ra thân ngữ v.v... gọi là y ngoại.
4. Tự tại tương tục gọi đó là trong, tha thân phi tình gọi là ngoài, do các chất đều là ngoài tự thân.
5. Trong mười hai xứ các tâm nương sáu căn gọi là trong, do vì thân cận, các tâm sở duyên sáu cảnh gọi là ngoài, do vì thưa xa. Nay luận nói ngoài nương môn thứ tư, nhưng trong sớ nói tuy chẳng phải ngoài thức xứ ngoài gọi là ngoài, giải thích này không đúng. Căn và căn nương nhau, phần sau luận tự nói: đều gọi là trong. Nếu đứng về xứ môn căn có thể gọi là trong, phù căn y xứ nên gọi là ngoài.
Biện rằng: Tự xác quyết có lẫn lộn, trong sớ giải thích không trái, chỉ nói khí sắc do ngoại xứ nên được tên gọi bên ngoài, thì ai nói nhiếp phù trần sắc kia? Đây là do biệt xứ của tưởng thanh chuyển. Xác quyết y thứ tư, tha thân lẽ nào được đồng ngoại khí ư? Ý của luận chỉ nói khí sắc bên ngoài. Nếu nói chỉ lấy một phần thứ tư sao bỏ thứ năm? Không lựa chọn thứ năm cho nên tự xác quyết là sai.
Sớ: Du-già quyển 66 nói có hai thứ cộng trung. Xét luận ấy nói, do thiện bất thiện Vô ký tác ý dẫn phát nghiệp trước, có thể dẫn các hành khiến trụ không dứt, nghĩa là do nghiệp cộng bất cộng ngoại phần sinh khởi.
Giải thích rằng: Nói hữu tình trụ do ba nghiệp này hay cảm khí giới, khí giới vì nương hữu tình được trụ.
Sớ: Bất cộng trong cộng như ruộng vườn mình v.v...,
Có nghĩa chỉ ở trong câu đầu, phần nhiều là tự thọ dụng, nhưng cũng có nghĩa tha thọ dụng.
Lại như phù trần chỉ có ở tự thân có chút phần làm nghĩa tha dụng, cũng gọi là cộng, tại sao ruộng v.v... lại gọi là bất cộng?
Biện rằng: Không thể, nếu vậy phù trần lẽ ra cũng ở trong câu đầu, có nghĩa tha dụng, như ruộng vườn v.v... Nếu nói thuộc tự chẳng phải câu đầu, ruộng vườn v.v... lẽ ra như vậy cũng thuộc tự, nên nếu nói phù trần thuộc tự nội thân nên không nêu bày, thì chỉ do nghĩa này phù trần gọi là cộng trong bất cộng, nhà v.v... gọi là bất cộng trong cộng, vì trong ngoài sai khác. Lại không thuộc tha, nên thuộc về ban đầu.
Hỏi: Tịnh độ mà Phật, Bồ-tát biến hiện không lìa chỗ uế, tướng tịnh uế mong nhau lẽ ra là câu thứ hai chăng?
Trong truyện có hai cách giải thích:
1. Hữu lậu bất tịnh do đồng xứ, nghiệp lại ít đồng, thọ dụng có sai khác gọi là câu thứ hai, Phật chỉ có Vô lậu, Bồ-tát cực tịnh đồng xứ, nghiệp tịnh bất tịnh có sai khác, cho nên chẳng phải câu thứ hai.
2. Tịnh uế chỗ ấy đã đồng, tức là thứ hai bất cộng trong cộng.
Biện rằng: Giải thích trước là thiện, lại đồng với địa khí hữu tình cùng biến, do có biệt nghiệp, ở đây lại phân ruộng vườn v.v... các cảnh, dị sinh Phật v.v... tức không bằng, sao được mong nhau mà thuộc câu thứ hai?
Sớ: Duyên lúc dài đều là duyên màu xanh v.v...
Có nghĩa, duyên dài v.v... là chính. Luận Phật Địa nói mười tám viên tịnh chỗ hiện Tịnh độ hiển bày hình sắc đầy đủ, chuẩn theo biết cõi uế tùy theo thức sở biến rộng hẹp phân lượng có hình sắc. Luận trước cũng nói, tùy lượng lớn nhỏ đốn hiện một tướng.
Biện rằng: Nói duyên dài v.v... là căn cứ biệt duyên, vì đứng về dài v.v... không lìa các màu xanh, khi duyên các màu xanh nghĩa nói là duyên. Nếu nghĩa nói duyên, trong sớ đã nói xong. Nếu biệt duyên tại sao Thức thứ tám nhân duyên biến ư? Cũng không thể lấy Phật Địa làm chứng vì tịnh uế khác nhau.
Luận: "Tuy các hữu tình" đến "biến tợ một".
Hỏi: Lại như một cây, hữu tình cộng biến, mà khi một hữu tình thay dụng thành dụng tự biến, vì bao gồm dụng tha, nếu chỉ có tự, những người khác biến lẽ ra còn hoài không mất, cây tại sao không thấy? Nếu cũng dụng tha sao gọi là Duy thức?
Đáp: Cây v.v... đã là cộng tướng chủng sinh, đều tùy thuận nhau xen có tăng ích, một hữu tình tự sở biến là sở duyên thân dụng, tha sở biến là cùng với tự sở biến làm tăng thượng duyên, cũng duyên dụng thưa xa, tất cả mong nhau tự làm sở thuận, tha là năng thuận, do sở thuận không có nên năng thuận cũng diệt, do đó cây này chết thì Duy thức cũng thành.
Hỏi: Vì sao được biết cùng nhau tăng ích?
Đáp: Đối Pháp quyển 7 nói có cộng nghiệp là tăng thượng duyên, như thứ lớp ở sau có dẫn.
Hỏi: Nếu vậy trong Nghĩa Đăng nói nghĩa dụ không thành, ánh sáng một ngọn đèn tắt các ánh sáng khác vẫn còn, pháp không tương tợ sao được làm dụ?
Đáp: Dụ lấy ít phần nên không trái nhau.
Sớ: Năm mươi bốn các hữu đối pháp v.v...
Sớ văn dẫn lược, nay lại nói đủ, vì nhân duyên gì các hữu đối pháp đồng ở một chỗ không xa lìa nhau mà không nói tên vô đối tánh ư?
Đáp: Vì tùy thuận chuyển, do tánh triển chuyển tương tùy thuận sinh không ngăn ngại nhau, lại do chủng loại như vậy, ba nghiệp tăng thượng chiêu cảm như vậy mà sinh, vì sao? Tất cả sắc tụ tất cả sắc căn cùng thọ dụng.
Giải thích rằng: Ý vặn hỏi, như một sắc tụ các hương nhẹ khác cũng đồng xứ ấy nên gọi là vô đối. Ý đáp nói, trong các sắc có trái hay không trái, trái là ở khác, thuận là đồng xứ. Lại nghiệp lực gây nên, do đâu được biết một chỗ có nhiều? Như một sắc tụ, mắt thấy là sắc, mũi ngửi có hương, lưỡi nếm tức vị, thân giác có xúc, nên nói sắc căn cùng thọ dụng.
Sớ: Lại khi thành khí, tam thiền phương khác.
Do Tứ thiền không hoại không thành nên chỉ nêu thành hoại ấy đồng xứ.
Luận: Do đây giả sử sinh tự giới phương khác.
Hỏi: Khí chủng đều có cảnh, vì sao duyên không đồng?
Đáp: Khí là y trì nhưng biến đồng địa, chủng thì không như vậy vì cảnh duyên chung. Lại chủng ba cõi tùy cõi sở sinh do thức năng biến nên được duyên, khí thì không như vậy, làm sao được cùng nêu bày?
Sớ: Như Đại Phạm biến.
Tức kinh Duy-ma, Phạm Thiên Vương nói: Ta thấy cõi này như Tự tại cung, tức việc ấy. Lại từ trời ở cõi trên mà đến cõi này, ắt biến tịnh khí làm xứ tự nương, do cõi này thô nên không trì nó.
Sớ: "Đối Pháp quyển 5" đến "nghiệp chủng tùy theo".
Xét quyển 5 kia không có văn nói, trong quyển 7 nói có cộng nghiệp, nên nói như kinh nói có cộng nghiệp, thế nào là cộng nghiệp? Nếu nghiệp hay khiến các chủng loại khí thế gian sai biệt, hoặc lại có nghiệp khiến các hữu tình triển chuyển tăng thêm, do nghiệp lực này nói các hữu tình lại xen nhau mong làm tăng thượng duyên, do hữu tình cùng nhau có sức tăng thượng nên cũng gọi là cộng nghiệp. Sợ trong sớ viết lầm cho quyển 7 là quyển 5, ý dẫn Đối Pháp cũng đồng với luận này nhưng có kinh để minh chứng, việc cộng nghiệp nên suy nghĩ lại.
Sớ: Đây hiển sinh Vô sắc v.v...
Sớ giải thích ý kia do căn cứ nghiệp chủng nói khiến khí giới các loại sai biệt gọi là cộng nghiệp, không tóm ước tất cả khởi ở hiện hành biến các khí giới mới gọi là cộng nghiệp.
Sớ: Nếu không như vậy lại không có nghĩa bốn phần.
Không biến ảnh, kiến đã thân chứng phần thứ ba rồi, cần gì thứ tư làm quả chứng lượng? Nên không có bốn phần.
Sớ: "Ba tánh chủng trong này" đến "tùy thức chẳng phải phiền não".
Có thuyết nói ba tánh tuy có khác, tùy theo nương nói Vô ký, phiền não tức đồng các bất thiện, nên không gọi là phiền não.
Biện rằng: Tánh do nghĩa của thể loại, tùy y có thể Vô ký, phiền não nghĩa sai biệt tăng thêm nên chủng gọi là phiền não.
Hỏi: Phiền não chẳng phải nhiễm ô, có thể tùy theo chỗ nương mà gọi, đã thuộc về hai tánh, tùy tánh chẳng phải phiền não chăng?
Đáp: Giới chủng tánh tuy đồng, căn cứ biệt dị nương tựa, hoặc chủng loại cũng như vậy nên không theo chỗ nương mà gọi, trong hai giải thích mặc tình lấy bỏ.
Sớ: "Tức thiên nhãn nhĩ" đến "lẽ ra chẳng phải hữu tình".
Do nếu không thừa nhận duyên cảnh giới khác, thiên nhãn nhĩ căn cùng Thức thứ tám trói buộc sai khác, Thức thứ tám không trì cho nên cho nên phải hư hoại, nếu vậy sao gọi là hữu tình?
Sớ: Tức chúng sinh có các lỗi tăng giảm.
Thiên nhãn nhĩ căn tức số hữu tình, một thân riêng khởi mà không thuộc ở đây nên gọi là tăng, lại nếu hư hoại lại gọi là giảm.
Hỏi: Nghĩa thật thừa nhận trì, tại sao chẳng phải lỗi tăng thêm, trói buộc không đồng?
Đáp: Tuy trói buộc không đồng, nhưng không lìa thức năng trì của cõi này, có sở y thuộc nên gọi là tăng thượng.
Sớ: Vặn hỏi sư thứ nhất.
Là ở sau trong căn thân là sư thứ nhất. Sớ nhân sơ hở ấy dự định vặn hỏi nghĩa này.
Sớ: Người mù bẩm sinh cũng vậy.
Người nào con ngươi không thụt sâu thì căn vẫn còn, nhưng vật bên ngoài che mờ nên không thể thấy, người có con ngươi thụt sâu thì không như vậy.
Sớ: Cựu bản bài tụng thứ tư v.v...
Hỏi: Cựu tân hai bài tụng, cảnh và thức trước sau không đồng, đại ý tương tợ, tại sao riêng vặn hỏi?
Đáp: Cựu bản nói bản thức hạn cuộc ở một, nói tợ ở kia nên thành lỗi ấy. Tân bản nói thức sinh, thức thông tám thức, tùy duyên ngã v.v... nên không có lỗi, Tân luận giải thích rằng: Nghĩa biến tợ là tợ sắc v.v... các cảnh tánh hiện. Biến tợ tình nghĩa là tợ tự tha thân năm căn tánh hiện. Biến tợ ngã, nghĩa là nhiễm Mạt-na cùng ngã si v.v... vì hằng tương ưng. Biến tợ liễu là sáu thức, vì rõ tướng thô.
Luận: Nên sinh tha địa v.v... Hỏi: Ở đây chứng nghĩa gì?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Chứng tự biến tha phù trần
2. Chứng tự bất biến tha căn.
Phù trần cùng thừa nhận không đợi nói, nhưng ý chứng rằng: Nếu tự năng biến tha y và căn, nó đến tha, các căn y hợp còn, đều là sở biến, đã chỉ nương ở mà căn diệt không còn, trở lại chứng các thời khác đều là y xứ của biến.
Hỏi: Nếu vậy tại sao chỉ có nêu sinh tha địa và Niết-bàn? Há các trường hợp chết khác còn có căn sao?
Đáp: Lý đều không có căn, lại căn cứ hiển mà nói, nếu sinh tự địa sợ họ chống chế nói do tự thức biến. Giải thích trước là chính.
Hỏi: Y xứ tha trái lại, nghĩa của tự dẫn nhân lẽ ra không lập, cũng năng biến đến cuối kiếp mới có, thi hài sở biến lẽ ra đồng hay trái lại?
Đáp: Như nói Duy thức thừa nhận cảnh thân sơ, để hài cốt đợi biến, tự tha lỗi gì? Thế phần của hữu vi dài ngắn không đồng, không đồng năng biến, chỉ có mất đi mà không có lỗi.
Sớ: Nhờ thức khởi.
Hỏi: Cùng sức định và thần thông có hai sai biệt chăng?
Đáp: Thân ở cõi trên không khởi định và thần thông cõi dưới v.v... cho nên như sớ khởi tán thức ở cõi dưới nên có sai khác.
Hỏi: Khởi tán thức ở cõi dưới lẽ nào không nương định, thần thông cõi trên dẫn ư? Nếu thừa nhận như vậy tức thuộc định và thần thông, tại sao khai sai khác?
Đáp: Do không như vậy cho nên khai riêng.
Hỏi: Giả sử định thần thông làm duyên dẫn lẽ nào không được sao?
Đáp: Giả sử định, thần thông dẫn nhưng là tha địa, do đây khai riêng nên suy nghĩ lại.
Sớ: Thân ở địa dưới ở trên thiên nhãn v.v...
Hỏi: Thiên nhãn nhĩ căn đã cùng dị thục nhãn nhĩ đồng xứ, đồng lấy cảnh chăng? Nếu đồng lấy thì làm sao dị thục mà năng lấy xa? Lại tại sao năng phát nhãn nhĩ thông? Nếu không phát tại sao đồng lấy? Nếu không đồng lấy hai căn đồng xứ, làm sao có được lấy và không lấy? Đáp: Có hai giải thích:
1. Đồng lấy, sức thần thông dẫn sinh lấy xa có lỗi gì? Như Dục giới căn có trưởng dưỡng v.v... đã đồng phát thức, đây cũng như vậy.
2. Không đồng lấy, nói định v.v... lực căn cứ thức duyên cảnh.
Lại nếu dị thục năng phát thần thông ấy đâu cần khởi thiên nhãn nhĩ căn ấy cũng đồng một chỗ nghiệp lực không đồng, kiến v.v... đều sai khác, đồng xứ riêng phát cũng lại có lỗi gì? Xét trong Trí Độ luận, tu được thiên nhãn ở trong nhục nhãn, dẫn dắt nhục nhãn ấy cũng có thể thấy xa.
Sớ: Đức Phật phóng hào quang v.v...
Hỏi: Phạm thiên cũng nhân ánh sáng ấy mà được thấy cõi dưới, vì sao không nói?
Đáp: Phạm thiên quán cõi dưới tự lực cũng có thể, nên không nói. Nếu cũng thấy khắp một vạn tám ngàn cõi, cũng do Phật lực, tự lực không kịp, lại căn cứ trên dưới nên không nói Phạm thiên.
Sớ: "Tuy Thức thứ tám biến" đến "văn nội thân".
Tuy nói Thức thứ tám nhân sức của định và thần thông mà đều năng biến, ở định không thấy văn nói biến nhục thân.
Sớ: Cũng chẳng phải là thân do vì không có căn.
Hỏi: Đã không có căn làm sao được nói ở bên Phật nghe pháp?
Đáp: Thức thứ sáu nghe không đợi ở căn, cho nên trong Du-già ghi: Nghe nghĩa là tỷ lượng.
Sớ: Địa Thức thứ tám trở đi thần thông và định không sai khác.
Thông trí, định định, thể thật có khác, đứng về tánh không sai khác, khởi không có trước sau, sở tác tương tợ, căn cứ một bên mà nói.
Sớ: "Do đây cho nên biết" đến sở duyên duyên xa.
Như ở cõi dưới thiên nhãn nhĩ khởi duyên sắc cõi trên, Thức thứ tám cõi dưới lại không duyên cõi trên, tức thiên nhãn nhĩ không có cảnh Thức thứ tám làm chỗ nương chất, nên thiếu duyên xa.
Hỏi: Địa trên mắt thấy khắp tam tai cõi dưới, Thức thứ tám cõi trên cũng duyên tam tai chăng?
Đáp: Thật không duyên, Hộ Pháp không thừa nhận Thức thứ tám cõi khác biến khí giới.
Hỏi: Nếu vậy nhãn trên không có sở duyên xa, lỗi tại sao còn? Đáp: Do Thức thứ tám cõi dưới sở biến, cũng có lỗi gì?
Hỏi: Nhân ở định và thần thông khiến Thức thứ tám duyên tha, địa khác thân khí được chăng?
Đáp: Sớ phán phân không nhất định. Trong Xu Yếu và ý của Nghĩa Đăng thừa nhận. Có nghĩa giải thích nói, biến tự thân tha địa có thể như vậy. Địa dưới năng dẫn thiên nhãn nhĩ, tha địa tha thân và tha địa khí, giả sử sức định tại sao năng biến? Biến để làm gì? Thô tế ngăn cách không nương trì, nếu vậy tại sao nói sức của định v.v... liền không quyết định? Điều này cũng không trái. Nghiệp lực sở biến thân khí trong ngoài quyết định đồng địa, nếu sức của định biến tự nội thân tức không quyết định. Cõi dưới năng dẫn thiên nhãn nhĩ cõi trên, khí biến và tha thân này thuần là định. Nói biến thân khí, bất định v.v... là nói chung mà ý riêng, không nói thân khí đều có bất định. Sớ nói cõi trên khởi thần thông đến cõi dưới khiến cõi dưới được thấy gọi là nhân, thông là nương tha thông, định thì không như vậy, cõi trên đến cõi dưới giáo hóa Dục giới, cõi dưới thấy tức là tự địa.
Biện rằng: Như Bồ-tát v.v... biến thân làm cá, đất, biển, vàng, lạc tô, hữu tình cõi dưới được thọ chăng? Nếu không thọ thì biến có ích gì? Nếu thừa nhận dụng hữu tình Thức thứ tám lẽ nào không duyên biến ư? Không duyên mà thọ chẳng phải Duy thức, nên biết nhân sức thần thông của họ mà dẫn năng biến dị địa, thân khí v.v... tức phù trần ấy gọi là thân; cá, vàng, lạc tô v.v... chẳng phải Dục giới. Giả sử chống chế rằng: Sáu thức hữu tình nương gá Bồ-tát v.v... sở biến, dùng làm bản chất biến mà bèn dùng, cũng như nhãn cõi trên duyên tam tai cõi dưới, nương Thức thứ tám sở biến cõi dưới làm chất, điều này cũng không đúng, dù duyên tự Thức thứ sáu sở biến, Thức thứ tám từ bản nói do sức thần thông cũng nào tổn hại, cùng lúc thường khác cảnh không đồng. Trước nói nhãn cõi trên nương gá Thức thứ tám cõi dưới, do Thức thứ tám cõi trên không được duyên cõi dưới, tại sao như vậy? Nếu Thức thứ tám cõi trên tự biến tam tai cõi dưới, thô tế đã ngăn cách, đối với nó không có lực dụng, nếu nương tam tai của Thức thứ tám sở biến cõi dưới làm chất mới biến, thì biến có tác dụng gì? Lại chẳng phải sở dẫn của định và thần thông cho nên do đó không biến. Nếu biến gạo, cá mà có dụng, lại sức thần thông dẫn đâu được cùng nêu bày? Nếu thô tế sai biệt không thừa nhận biến, tức sáu thức khác lẽ ra cũng không duyên, vì thô tế ngăn cách.
Hỏi: Nếu vậy nhân tám duyên Vô lậu có lỗi chăng?
Đáp: Cũng không trái, vì không thân duyên, nếu nói thân dụng nên mới biến, thì Thức thứ tám không nên biến tha phù trần, sáu thức cũng không biến Bồ-tát, cá v.v... vì chẳng phải thân dụng. Nếu thừa nhận thân dụng liền chẳng phải Duy thức. Lại luận nói sức định và thần thông giới địa tự tha mà không quyết định, sao gượng phân biệt đến nỗi có trái nhiều? Có thể nói vẽ rắn thêm chân. Lại nói từ cõi trên đến giáo hóa Dục giới, cõi dưới thấy tự địa, lý cũng không đúng. Nói giáo hóa Dục giới, vì tợ Dục giới, thật ra địa trên trói buộc, Dục giới địa pháp không tu được giáo hóa, như ở sau biện rõ.
Sớ: Được định uy đức.
Có uy đức sở khởi thắng định gọi là định uy đức, đây có hai giải thích:
1. Tự tại Bồ-tát và Nhị thừa là định sở đắc, nên trong Du-già ghi: Chẳng phải là tất cả định tâm sở hữu, đều có năng sinh công năng của sắc này, chỉ có một loại, nên biết tuy có bậc Thánh.
2. Cũng thông dị sinh, y định tập lâu dài được tự tại là lựa chọn chẳng phải tự tại gọi là có một loại, cũng không có lỗi ấy.
Giải thích trước là thù thắng.
Sớ: Lại giải thích do sơ thiền nhãn nhĩ v.v...
Đây không thiếu, hợp ở cảnh thiên nhãn nhĩ trước trở xuống mà nói.
Hỏi: Trước nói nhãn nhĩ bản chất có không, ý nào nói thiếu đồng dị nhãn nhĩ duyên cõi trên trói buộc?
Đáp: Trước tuy nói chất, chưa luận tướng sai biệt trói buộc nên kế đó mới nói. Tướng chất tuy khác, do vì chung cảnh, nên nói lại giải thích.
Hỏi: Sơ thiền nhãn v.v... kiến địa trên sắc có bản chất chăng?
Đáp: Tuy không nói lý hợp có, do tha Thức thứ tám biến làm chất.
Sớ: Do ba thức sở tri này ắt đồng v.v...
Nhãn nhĩ thân ba thân thức tướng phần đã chỉ có sơ thiền, nên nhãn nhĩ hai tướng chẳng phải cõi trên trói buộc. Sớ: "Năm mươi bốn" đến "sinh nhân thiếu". Nghĩa nhân thiếu lược có hai giải thích:
1. Chủng tử gọi là nhân, vì không có chủng ấy nên gọi là nhân thiếu.
2. Nhân là nghĩa của lý do, là các đạo lý của hương vô sinh ấy.
Hỏi: Giả sử thừa nhận cũng đâu có trái lý?
Đáp: Nếu thừa nhận định tâm mà hiện hương vị, hương vị tùy tâm địa trên trói buộc, ở đây tức địa trên mà có hương vị, có lỗi trái với các giáo, do định tâm này chẳng biến hương vị, kết hợp trong sớ thành ba giải thích. Nói tâm gia hành tức là nhân, hoặc trong sớ đã giải thích không khác hai cách trước. Nhân gia hành, nhân tức hai pháp trước, lại không có sai khác.
Sớ: Lại không có dụng.
Hương vị nương ở đoạn thực thi thiết, hương vị không có đoạn thực, giả sử có hương vị thì dùng để làm gì?
Sớ: Hoặc là căn bản và sở biến v.v...
Như thứ lớp đã khởi gọi là sắc của định và thần thông, thần thông nương định sinh nên thần thông gọi là quả.
Sớ: Đều thông biến và hóa.
Biến nghĩa là nghĩa là chuyển biến, cải đổi thật kia. Hóa nghĩa là hóa hiện không mà bỗng có, sức định và thần thông của Phật đều hay làm được.
Sớ: Thần thông có thể dẫn khởi căn cùng các trần.
Hỏi: Nếu ở Phật hai vị tâm sở đã hằng tương ưng làm sao thần thông và định dẫn căn trần sai biệt.
Đáp: Tuy đồng thời khởi, lực dụng không đồng sở biến có sai khác, cũng đâu có lỗi gì?. Lại tâm Vô lậu ắt có định đạo đồng thời khởi, tương ưng với một tư, đối với hai loại này gọi là định đạo giới, do hai pháp trợ giúp tư có ngăn ngại. Nay định và thần thông hai pháp tuy lại đồng thời, chỗ khởi các sắc đối năng khởi cả hai gọi là định và thần thông đồng giới cũng đâu có lỗi gì?
Sớ: Do sức định biến dị thân khí.
Trước tuy lược nói ý chánh nói thông, lại chưa dẫn chứng, nay đủ dẫn cứ nên nêu ra lại.
Sớ: Biến thân vạn ức v.v...
Xét luận ấy ghi: Tâm tự tại chuyển tánh vi tế, nghĩa là các sắc hai cõi sắc Vô sắc, như trong kinh ghi: Chư thiên có tâm bình đẳng, từng ở trong loài người cứ thế giúp huân mài sáng tâm mình, tùy theo sức tu này trụ một đầu mảy lông, lượng như hư không, ở khắp địa xứ, triển chuyển hỗ tương không ngăn ngại nhau.
Giải thích rằng: Hai sắc của Sắc giới gọi là tự tại. Một là định tâm hiện, hai là tự tại định chỗ chiêu cảm báo sắc. Vô sắc chỉ một định tâm sở hiện, sắc định của hai cõi nhân định tự tại mà khởi gọi là tự tại vi tế tánh. Như trong kinh đã dẫn, trong truyện giải thích chỉ chứng báo sắc ở sắc giới, tức Tịnh cư thiên gọi là Đẳng tâm thiên, đích thân đến Phật nghe pháp là thân một vạn sáu ngàn do tuần, mỗi mỗi thân đều trụ đầu mảy lông, lượng nhiều như đất, cũng như ánh sáng đèn không ngăn ngại nhau. Lại cõi Tịnh cư hàng Bồ-tát Thập địa trở lên gọi là Đẳng tâm thiên.
Biện rằng: Y định Vô sắc cũng có thể khởi thân mà đến chỗ Phật gọi là Đẳng tâm thiên, điều này cũng đâu có lỗi gì? Vì trong kinh không lựa chọn. Lại trong luận đều nói hai cõi trên, vì sao dẫn chứng chỉ chứng Sắc giới? Nên biết thông chứng lý không tổn hoại. Lại trong luận Du-già không nói cộng lập, hoặc bản không đồng, hoặc là sớ chủ chuẩn theo các văn nên nói cộng. Cho nên trong Trí Độ luận quyển 93 ghi: "Biến tịnh thiên có sáu mươi người ngồi ở một đầu cây kim". Lại sắc Vô sắc đều có tự loại không ngăn ngại nhau, chẳng phải là hai cõi xen nhau không ngại, thoạt xem văn kia mà nói hai cõi xen nhau không ngại.
Sớ: Sắc giới cũng nói có, cũng khiến thấy nhau. Trong Du-già đã nói chư thiên Sắc giới cũng biến thân v.v... nên biết không chỉ Vô sắc giới, mà có sớ bản viết chữ "giả sử" là nhầm, theo đó nói là chánh.
Sớ: Lẽ ra cũng không duyên các sắc Đẳng lưu có gián đoạn.
Hỏi: Trừ nghiệp chiêu cảm sắc dị thục, ngoài ra tức các thiện ác và ngoại khí v.v... đều gọi là Đẳng lưu, nhân gián đoạn lẽ nào chẳng phải một phần cả hai đều bất thành?
Đáp: Sớ lược chỉ bày pháp, đầy đủ lẽ ra nói lựa chọn, lựa chọn lý nên biết. Lại ý sớ chỉ bày lượng trước bất định chẳng phải lập lượng phá.
Luận: "Lược nói Thức này" đến "sắc sở hiện biến".
Hỏi: Thức thứ tám đã duyên pháp xứ thật sắc, ngã thức cũng duyên chăng? Nếu không duyên là Thánh biến ra cá v.v... người phàm lẽ ra không thấy. Nếu thừa nhận duyên thì năm mươi bốn thuyết pháp xứ nhiếp sắc, gọi là vô kiến đối, lại làm sao thông?
Đáp: Như trong Nghĩa Đăng quyển 2 đã phân biệt. Lại có thuyết giải thích, các sắc biến dịch mà không có kiến đối, nhưng cùng với nhãn v.v... làm tăng thượng duyên gọi là thấy vàng v.v...
Sớ: Ở đây có vặn hỏi nên như lý nên suy nghĩ.
Vặn hỏi rằng: Do nhân từ quả tùy hiện pháp giới thâu nhiếp, do cảnh đối với tâm thuộc về thức pháp giới chăng?
Đáp: Nhân duyên gần biện thể, chủng tùy theo hiện thâu nhiếp, làm cảnh dẫn tha thưa sơ cho nên chẳng phải thuộc pháp xứ.
Sớ: Cực lược cực quýnh sắc.
Phân tích căn khí v.v... làm cực vi gọi là cực lược, phân tích các sắc tượng làm cực vi gọi là cực quýnh.
Sớ: Nếu chỉ có ý duyên v.v...
Độc đầu ý thức duyên căn trần v.v... do phân biệt sinh, cũng gọi là thuộc về Biến kế sở khởi.
Sớ: Do tối theo sáng.
U ẩn hiển che mờ gọi là tối sáng, mười xứ nghiệp xứ gọi là sáng tối, là nghĩa có thể xác quyết. Sớ: "Cũng chẳng phải do nói" đến "cũng duyên có". ý nói Thức thứ sáu cùng Thức thứ năm đồng duyên, tuy gọi là phân biệt, nhưng duyên cảnh có dụng.
Luận: Ban đầu ắt có dụng, sau ắt có cảnh.
Sớ giải thích nhân duyên, phân biệt, cả hai biến tổng có bốn giải thích, lấy giải thích thứ tư, tìm xem có thể rõ. Có nghĩa có ba giải thích:
1. Chỉ có tâm hiện lượng gọi là nhân duyên kiến, các tỷ lượng phi lượng đều phân biệt kiến.
2. Thức thứ tám tâm vương, tâm sở gọi là nhân duyên biến, các tâm tâm sở khác gọi là phân biệt biến.
3. Chỉ có Thức thứ tám tâm vương là nhân duyên biến, tương ưng tâm sở cũng là phân biệt biến, đây là nghĩa của Hộ Pháp, trì chủng thọ huân chỉ có tâm vương, tự phán phân hai pháp trước có nhiều lỗi lầm, thứ ba có thể thông.
Hỏi: Nếu nói nhãn v.v... sắc sở duyên đều không có thật dụng, lẽ nào nhãn v.v... các thức đều duyên giả pháp?
Đáp: Giả có danh chủng tự có ước lược về nghĩa, nương thật nói giả chẳng phải năm thức duyên, là tâm phân biệt, vì nói nghĩa sai khác, các sắc ảnh tượng tuy không ngại nên được gọi là giả sắc. Nhưng nói chủng sinh tức gọi là thật, nên không có lỗi.
Biện rằng: Không những hai pháp trước có nhiều lỗi lầm mà giải thích thứ ba cũng đồng lỗi trước, vì sao? Như Thức thứ tám mặc tình mà khởi, cảnh sở biến từ thật chủng sinh gọi là nhân duyên biến, tức năm chuyển thức một phần Thức thứ sáu cùng ngã đồng thời khởi. Mặc tình duyên là cũng nhân, nhân duyên khởi cảnh thật chủng sinh, vì sao phán phân thành phân biệt biến? Nên nay nương trong sớ lấy giải thích thứ tư.
Sớ: Nhưng trong một niệm tâm được thành hai chủng v.v...
Duyên căn trần v.v... gọi là nhân duyên biến, duyên bảy tâm giới thuộc phân biệt biến.
Sớ: Trái lại hiển Thức thứ tám đều có đủ hai biến.
Tâm vương tâm sở như nhân duyên và phân biệt hai biến kế tiếp thâu nhiếp.
Luận: "Nếu biến tâm" đến "vì không thể duyên".
Trong kinh Giải Thâm Mật ghi: "Tâm biến hóa không tự nương tâm, có tâm y tha". Xét luận Phật Địa quyển 6 giải thích rằng: "Nghĩa là hóa tâm v.v... nương thật tâm hiện", nhưng tướng phần trên thật tâm, tợ có các tâm duyên lự, như lửa trong gương, không có tự thể khác. Ý giải thích này nói, không tự nương thật tâm kiến phần gọi là không có tự nương, nhưng có tư lự gọi là hữu y tha. Lại kiến, tự chứng, chứng tự chứng phần gọi là tâm tự nương, hóa tâm sai khác gọi là không có tự nương tâm có y tha tâm, đồng với trước nên biết.
Sớ: "Tức hiện tỷ hai lượng" đến "có thể nên phân biệt".
Như Thức thứ sáu ý duyên cảnh từng thật, huân chủng thành thật, sau sinh thật hiện. Đây tuy thuộc về tỷ lượng phân biệt biến, nhưng dung chứa có thật dụng, hiện lượng Thức thứ sáu cùng Thức thứ năm đồng duyên cũng có thật dụng. Nếu định tâm duyên mười tám giới, dụng thông giả thật như trước nên biết.
Sớ: Trong này là gồm đứng về thân khí là tiểu.
Thân tức là khí, chẳng phải khí ngoài khí, trong quyển 51 phần y thân khí khí đã nói có rộng hẹp. Có nghĩa sớ nói thông nương thân khí để giải thích, nay không nương ở đây, luận ấy chỉ nương cảnh chấp thọ nói hẹp nhỏ rộng lớn.
Biện rằng: Không lãnh hội được ý chỉ sớ, luống làm mai một, xin xét rõ vậy.
Sớ: Đây cũng lập đồng.
Đồng với diệt định trước ở trong sở lập.
Sớ: Hai chấp mỗi tông giải thích không đồng.
Kinh bộ, Hữu tông giải thích có sai khác, đến sau sẽ biết.
Sớ: Khiến cùng tùy thuận v.v...
Đây là Tùy chuyển môn, nên trong Câu-xá luận quyển 10 ghi: Ba hòa có ba:
1. Đồng ở một đời nên gọi là ba hòa.
2. Nhân quả thuận nhau không trái phản nhau nên gọi là ba hòa, nghĩa là căn cùng cảnh tuy ở quá khứ vị lai, thức ở hiện tại, nghĩa nhân quả thành.
3. Xen nhau tùy thuận đồng được một quả, nghĩa là căn cảnh thức tuy mỗi một đời đồng một quả xúc, nên gọi là hòa hợp.
Một nghĩa ban đầu nương năm thức nói, hai nghĩa sau là ý thức.
Sớ: Hoặc nương tăng thượng v.v...
Nương nghĩa Đại thừa, do Thức thứ bảy đồng thời có.
Luận: Xúc tợ nó khởi nên gọi là phân biệt.
Hỏi: Căn v.v... có khả năng sinh tâm, sai khác ở trước gọi là biến dị, xúc đã tợ nó có công năng nên đồng các căn gọi là biến dị?
Đáp: Các căn vì nương vô sở tợ nên căn cứ sinh năng gọi là biến dị, xúc là năng y tợ sở y, chỉ gọi là phân biệt chẳng phải biến dị.
Sớ: Lẽ ra nói xúc xúc làm duyên v.v...
Như mười hai chi xúc sinh ở thọ gọi là xúc duyên thọ, đã xúc sinh xúc sao không nói xúc duyên ở xúc?
Sớ: Nếu tự không tợ v.v...
Xúc gọi là tợ nó, tợ nó sinh thọ, xúc gọi là tợ nó, cũng nên tợ nó mà sinh ở xúc, vì sao nói tợ có sinh, không sinh, xúc không sinh xúc, xúc lẽ ra chẳng phải tợ.
Sớ: Như thọ v.v... các pháp.
Thọ v.v... tâm sở hoàn toàn không thể sinh các tâm sở khác, nên không gọi phân biệt, xúc khác thọ v.v... được tên phân biệt.
Sớ: Lại như thọ lãnh xúc, không lãnh các tác ý. Đây nói tâm sở tuy có công năng nhưng có phần hạn nhất định, thọ chỉ lãnh xúc và tướng vừa ý mà không lãnh xúc sinh tác ý, xúc chỉ tợ ba mà không tự tợ. Lại thọ nói lãnh xúc, xúc này nhận lấy những việc vừa ý mà không tợ xúc để sinh ở thọ và tác ý v.v...
Sớ: Lại nói đối với thứ ba có sáu chuyển.
Chữ "ba" ắt lầm, chữ "nó" mới thích hợp, trong luận nói "nó" mà không nói ba.
Luận: Tư đối với hành uẩn làm chủ thù thắng.
Đại tiểu Thánh giáo đều có nghĩa này, nên trong Câu-xá luận quyển 1 ghi: "Trừ trước và sau sắc thọ tưởng thức, còn tất cả hành đều gọi là hành uẩn". Nhưng Bạt-già-phạm ở trong Khế kinh nói sáu tư thân gọi là hành uẩn, do vì tối thắng. Tại sao? Hành gọi là tạo tác, tư là nghiệp tánh, nghĩa tạo tác mạnh nên gọi là tối thắng, thế nên Phật nói nếu hay tạo tác Hữu lậu Hữu vi gọi là hành thủ uẩn. Luận: Nghĩa là các tướng xúc sở thủ vừa ý.
Hỏi: Tướng sở thủ ấy nếu căn cứ bản chất tâm vương tâm sở đều đồng. Nếu y tướng phần Du-già v.v... nói hành tướng tương tợ, tại sao chỉ nói tướng xúc thọ sở thủ làm lân cận ư?
Đáp: Sớ có hai cách giải thích, có nghĩa tuy nói tâm tâm sở duyên tương tợ, xúc thọ sở duyên nhưng rất tương tợ.
Biện rằng: Trong cảnh sở thủ đã có tương tợ, rất tương tợ sai biệt, đây chính là sở duyên lại không đồng. Nói thật nghĩa, tuy là cảnh chất sở duyên đồng ảnh tợ, nhưng năng duyên mà đối với cảnh thủ chẳng phải không sai biệt, nêu cảnh sở thủ hiển bày năng duyên.
Luận: Nhưng xúc tự tánh là thật chẳng phải giả. Sư Kinh bộ chấp xúc giả, luận lập tự tánh này có, nên trong Câu-xá luận quyển 10 nêu bày nghĩa Kinh bộ có hai sư. Có thuyết nói ba hòa hợp tức gọi là xúc, như trong Khế kinh nói, ba pháp tụ tập hòa hợp như vậy gọi là xúc. Có thuyết nói biệt pháp cùng tâm tương ưng, ba hòa hợp phát sinh gọi là xúc. Nay phá sư trước.
Sớ: Nay lấy giới thân đủ.
Biện rằng: Lấy chung Câu-xá lý cũng không trái, tánh tâm sở nói lựa chọn thức, căn, cảnh, không có lỗi bất định.
Sớ: "Sáu ái Kinh bộ" đến "không đồng giả xúc".
Đã không có tự thể khác từ tha phần khác, làm sao gọi là thật? Tuy không đồng xúc do nhiều pháp thành, nương thật lập ái gọi là định giả, nên biết nhân đầu đối với giới thân đủ, cũng có bất định, chẳng phải chánh nhân.
Biện rằng: Nghĩa giả thật hình đợi bất định. Như chủng Đại thừa, chân tục tương đối, chủng chẳng phải chỉ có chân, tức gọi là giả, có không tương đối, chủng chẳng phải hoàn toàn không, lại gọi là thật. Ái cũng đồng, làm dụ có lỗi gì? Đối sở lập ba hòa hợp ấy giả xúc, ái được gọi là thật, nhân đầu không có lỗi.
Sớ: Lượng rằng, xúc riêng có tự thể.
Biện rằng: Họ đã thừa nhận ái nương tư phần lập, lẽ nào chẳng phải dụ có sở lập không thành? Nên như trong luận nói là thật chẳng phải giả, tức không có lỗi ấy. Tuy tư phần lập nhưng được gọi là thật.
Luận: Là thuộc về thực.
Sớ có hai giải thích, giải thích sau dễ biết. trong giải thích trước nói thừa nhận thật, lựa chọn trên dụ, lỗi của sở lập, trong Kinh bộ thô sắc nói đều là giả, nên nhân thứ hai cũng không có lỗi. Có nghĩa nói nhân thứ hai ấy nếu bao gồm ba cách ăn làm đồng dụ là sở lập không thành, ba cách thô của đoạn thực là giả có, riêng dùng thức và tư hai pháp làm đồng dụ nhân thành bất định. Sớ vì sao nói đoạn thực thật có?
Biện rằng: Pháp Nhân Minh, tông nhân dụ cả ba nếu có lỗi là do chấp nhận dẫn đến nói lựa chọn, vì văn luận sơ lược, trong sớ nói thừa nhận. Lại nói tâm sở cũng thông ở sau, nói lỗi ngăn dụ nhân mới hết, vì sao lại bị vặn hỏi?
Luận: Vì làm duyên.
Có nghĩa nhân thứ ba đồng với nhân ban đầu ở trước cũng có bất định.
Biện rằng: Ái chẳng phải hoàn toàn giả, như trước đã giải thích, nên không có bất định.
Luận: Chẳng phải tức là ba hòa hợp.
Ba nhân trước thảy đều thành, đây chẳng phải ba hòa hợp thì tông không có lỗi ấy, chẳng phải tức ba hòa hợp, tông nếu thành thì thật ra Hữu tông ấy tự nhiên thành, không cần lập nhiều lần để làm tông.
Biện rằng: Giả sử thành xúc ấy chẳng phải ba hòa hợp, tại sao lý thật có tự nhiên được thành? như ái kia tuy chẳng phải ba hòa hợp cũng chẳng phải thật có, bốn tướng cộng, rốt ráo, vô sinh v.v... cũng chẳng phải ba hòa hợp, lẽ nào thật có ư? Nên biết không thể chẳng phải ba hòa hợp thành thật có tự lập.
Luận: Nghĩa là cảnh tỉnh này lẽ ra khởi tâm chủng.
Có nghĩa nương trong sớ ban đầu nói tác ý chủng tử, cảnh tỉnh rồi gặp duyên lẽ ra khởi tâm chủng, do cảnh tỉnh chủng thì chỉ có nghĩa của chủng tử này không tương ưng, nay giải thích tương ưng vì hiện tác ý.
Giải thích: Do hiện tác ý hành tướng khó biết, đây nêu chủng để giải thích thể tánh. Tuy làm lời giải này nhưng lý ấy rất khó, nên nay chỉ nương giải thích thứ hai. Nghĩa là hiện tác ý cảnh giác hiện khởi tâm chủng tương ưng, lấy đó làm tánh, hiện hành khiến khởi chủng tử, gọi là ưng khởi chủng, chẳng phải đương khởi chủng gọi là ưng khởi.
Biện rằng: Lý nào được biết nói hiện tác ý? Nếu nói bản nói pháp tương ưng nên biết hiện, nếu vậy tâm sở cùng tâm tương ưng gọi là tương ưng, lẽ ra nên biện đủ hiện, tại sao Thức thứ tám trước cũng nói chủng? Lại nếu cảnh giác hiện khởi chủng, phàm nói chủng tử sinh quả làm nghĩa, hiện quả đã sinh tại sao ý phải cảnh giác? Nếu khiến thú hướng cảnh, từ hiện năng này luận bàn lập nói cảnh lẽ ra khởi hiện. Nếu nói do chủng hiện mới được sinh, tuy ở hiện vị chỉ nói cảnh chủng, nếu vậy trước xúc nêu bày cũng nên như vậy, trước tại sao không nói hòa hợp ba chủng? Nó đã không như vậy, ở đây tại sao như vậy? Cho nên trong sớ ban đầu giải thích lý vốn không có lỗi, còn lại như trong Nghĩa Đăng nên hiểu.
Sớ: "Chất bất định này" đến "lại nên suy nghĩ lựa chọn".
Đây sinh v.v... D ụ có tùy theo một lỗi, trong Đại thừa không thừa nhận có tiểu sinh, giả sử có sinh v.v... các sinh lại là giả, nên không có bất định. Luận: "Chỉ có tự tánh thọ" đến cùng các tướng khác.
Xét trong Hiển Tông luận quyển 2 ghi: "Tại sao thọ này lãnh nạp tùy xúc? Nghĩa là thọ là lân cận quả của xúc", đây tùy theo xúc chạm với thanh để hiển nghĩa nhân, vì hay thuận thọ, thọ hay lãnh nạp, hay thuận với nhân xúc, thế nên nói thọ lãnh nạp tùy xúc. Lãnh nạp tùy xúc gọi là tự tánh thọ, lãnh nạp sở duyên tuy cũng là thọ, tất cả thảy đều cảnh lãnh nạp, thế nên chỉ nói lãnh nạp tùy xúc gọi là tự tánh thọ, biệt tướng định nên lãnh nạp sở duyên gọi là chấp thủ thọ, chẳng phải là điều ở đây biện, vì tướng bất định.
Luận: Nếu tợ súc sinh gọi là lãnh xúc.
Xét trong Thuận Chánh Lý ghi: Như cha sinh con, lông mày của con đẹp đều giống ở cha, cũng như quả từ hạt sinh, quả tợ ở nhân, thọ từ súc sinh nên biết cũng vậy.
Sớ: Hoặc ngay nhân là quả v.v...
Nếu nói không có, sợ có người chấp nhân tức là quả, phàm nhân quả thì không tức không lìa, vì lựa chọn lẫn lộn đó nên luận nêu ra.
Luận: Lại đã thọ nhân.
Không từ người khác mà chỉ căn cứ ở tự mình mới có thể gọi là tự tánh, nay đã tợ tha sao gọi là tự tánh? Lẽ ra phải gọi là thọ tợ nhân mà không thể nói thọ tự tánh.
Luận: Nếu là thức ăn trong quốc ấp của vua.
Chánh Lý luận nêu đủ như trong sớ đã dẫn, thức ăn trong quốc ấp là nêu nhân để hiển quả.
Luận: Thi thiết chủng chủng danh ngôn làm nghiệp. Hỏi: Đã thi thiết danh, đâu chẳng phải nói nhân?
Đáp: Như trong Xu Yếu, Nghĩa Đăng có biện rõ.
Có nghĩa nói, nhân có hai: Một là ý thi thiết, hai là ngôn thi thiết. Có các cảnh tượng tướng trạng không đồng, ý giải thích thi thiết danh sai khác, tầm tứ so lường pháp nghĩa cạn sâu, tùy nghĩa tùy cơ mà khởi thuyết, tưởng tư chỉ có danh mà không khởi thuyết.
Đáp: Có nghĩa khiến tâm tổng quát ở trong các pháp thiện mà tạo tác, tánh của tư này ở trong ba tánh cải chuyển tạo tác gọi là nghiệp, nên nghiệp dụng này cũng chẳng phải có khắp trong nhân. Sớ nói ba biến nên chưa tận lý.
Biện rằng: Phàm nói cải chuyển dễ đổi tên khác. Nếu cũng là một loại việc thỉ chung lẽ ra không có tư nghiệp, vì không có cải chuyển, nên nay giải thích là tánh chỉ khiến tạo tác, nghiệp sai khiến tạo tác, đơn kép lần rộng lược hành tướng có khác. Đã nói các thiện các ác Vô ký, Vô ký thông ở tám thức đều có, nói tư gọi là biến thì lý cũng đâu có lỗi. Nếu chuẩn theo Du-già quyển 3, hành tướng của tư là biệt chẳng phải biến khắp, như trong sớ đã thuật, điều đó nên biết.
Luận: "Các xúc này có năm" đến "nên gọi là tương ưng".
Sớ có hai giải thích, trừ hành tướng là thuận giáo lý. Trong Du-già nói có bốn, luận này tự nói hành tướng tuy khác, làm sao được chọn lấy?
Hỏi: Lựa chọn các pháp, nghĩa trước không hết, cần pháp sau lựa chọn trước, nếu ngăn hết thì cần pháp sau làm gì? Như khi luận bốn nghĩa, thời và y hai pháp ngăn lựa chọn đã khắp, có liên quan gì đến hai pháp sau? Lẽ nào thời và y đồng cảnh và sự chăng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Luận này có bốn nghĩa không có thứ lớp, kế đó lẽ ra nói cảnh, thời, y sự, lựa chọn ý là sao?
Đáp: Phàm nói tương ưng, tuy tâm tâm sở chẳng phải tâm tâm sở bao gồm cộng tương ưng nên phải lựa chọn. Nếu tâm tâm sở tổng gọi là tương ưng, sở duyên sai khác nên gọi là tương ưng, nên lựa chọn các cảnh, trước sau các tâm sở duyên các cảnh nên gọi là tương ưng, nên thời đồng lựa chọn, các thức chung khởi nên gọi là tương ưng, nên nương đồng lựa chọn, sáu thức tám thức nương đồng nên gọi là tương ưng, nên lựa chọn các việc.
2. Luận nói y thứ lớp, tuy có y đồng chẳng phải tương ưng.
Nếu nương đồng nên liền gọi là tương ưng, Thức thứ sáu, thứ tám hai thức lẽ ra gọi là tương ưng, nên lựa chọn sở duyên. Thức thứ sáu, thứ tám đồng thời duyên cảnh lẽ ra là tương ưng, nên lựa chọn sự. Giải thích sau là chính.
Sớ: Hành lựa chọn y đồng v.v...
Tức cùng duyên lựa chọn sai biệt thấy tương tợ, do sớ này xác quyết chỉ có bốn nghĩa, nên lại không nói, lựa chọn sơ lược khởi phục như trước đã nêu đủ.
Sớ: Cực bất minh liễu là tướng xả thọ.
Hỏi: Quả vị cũng xả, lẽ nào bất minh liễu?
Đáp: Phàm nói xả là trong đó dung chứa tịch tĩnh và bất minh liễu, quả tuy minh liễu nhưng là tịch tĩnh nên được gọi là xả.
Sớ: "Nếu có thể phân biệt" đến "thủ cảnh định". Hỏi: Vì không duyên cảnh trái thuận ấy gọi là không phân biệt, vì duyên ở cảnh không khởi phân biệt gọi là không phân biệt?
Đáp: Trái thuận có nhiều, nếu oán ái v.v... cảnh trái thuận thì nó không duyên. Nếu cảnh tổn ích, như ấm lạnh, nóng, đánh vỗ, mài ấn, bức bách, vui thích gọi là trái thuận. Tuy duyên ở cảnh mà không phân biệt tướng trái thuận gọi là không phân biệt.
Hỏi: Nếu vậy tại sao gọi là thủ cảnh định.
Đáp: Nhân theo đó mà duyên thường không phân biệt, gọi là thủ cảnh định.
Hỏi: Nếu vậy sao gọi là trong thủ chứa cảnh?
Đáp: Tuy cảnh trái thuận, tâm năng duyên một loại mà duyên không phân biệt trái thuận, do cảnh từ tâm gọi là cảnh bên trong dung chứa, nếu không như vậy tại sao ở sau nói do thức chấp thọ lúc sau thân thọ sai biệt mà sinh? Nên biết bản thức duyên cảnh ấy. Có nghĩa, sớ giải thích không duyên thủ cảnh định. Nếu nói duyên không định, lý này không đúng.
Biện rằng: Thủ cảnh định ngữ ý như trước đã giải thích, không đâu mà không nói duyên, tại sao được thêm vào vọng thành bài xích?
Sớ: "Như trong tám chứng" đến "mặc tình sinh hiểu".
Đầu tiên chấp thọ chứng mà có năm nhân, điều mà ở đây nói là nhân thứ nhất trong năm nhân ấy. Cho nên Đối Pháp ghi: "A-lại-da thức trước hành nhân cảm, nhãn v.v... chuyển thức hiện duyên nhân phát, như nói sức tác ý của căn cảnh nên các chuyển thức sinh, đây gọi là nhân đầu".
Luận: Thức này mặc tình sát-na duyên riêng.
Hỏi: Hằng duyên ba cảnh, sao gọi là duyên riêng?
Đáp: Cảnh của ảnh tượng luôn luôn khởi mới, trước sau chẳng phải một nên gọi là duyên riêng, đủ như trong sớ giải thích.
Có nghĩa chẳng phải là sở duyên trước sau dễ bỏ, nhưng chẳng phải như định chuyên chú sở duyên, nghĩa là nói riêng.
Biện rằng: Nói không đồng định chuyên chú sở duyên lý liền có thể như vậy. Nói chẳng phải dễ thoát thì đạo lý khó tường, lẽ nào tám sở duyên chẳng phải thuộc Hữu vi? Nếu pháp Hữu vi, pháp Hữu vi thì sinh diệt trong sát-na, tại sao không gọi là dễ thoát trước sau?
Sớ: Đại thừa cũng có tự tánh thiện, như trong bản có giải thích.
Trong luận Đối Pháp, bản luận của ngài Vô Trước, Sư Tử Giác giải thích đều nói đủ ở sau sẽ dẫn đủ.
Sớ: Cả ba đồng khởi các thiện.
Hỏi: Chuẩn theo Đối Pháp nói tùy theo thiện, nghĩa là ngay các pháp tập khí ấy. Phát khởi thiện nghĩa là chỗ khởi thân nghiệp ngữ nghiệp ấy, chuẩn theo chủng tử kia tùy theo thiện thâu nhiếp nhiếp, tại sao phán phân nó thuộc đồng khởi thiện? Đáp: Luận khai sớ hợp, mong nghĩa không đồng cũng không có lỗi.
Sớ: Thắng nghĩa Vô ký là hư không trạch diệt phi trạch diệt.
Đáp: Sao chỉ có hai tên Vô ký này ư?
Đáp: Tánh Chân như tịnh, các trạch diệt ấy đồng đoạn hoặc hiển bày, do tịch tịnh nên thuộc về Thắng nghĩa thiện, hư không trạch diệt phi trạch diệt thể không thật có, không đồng với Chân như, lại chẳng phải trí tuệ đoạn hoặc đồng được không đồng ba pháp khác, do hai nghĩa này nên thuộc Vô ký.
Hỏi: Cũng nương thức biến lập hư không, vì sao không tùy theo ba tánh thức nhiếp?
Đáp: Lại y như lập các thuyết giả không, nếu y thức biến thật thông ba tánh.
Luận: Lưu chuyển hoàn diệt nên không được thành.
Hỏi: Khổ tập hai Đế gọi là lưu chuyển, giả sử thường sinh trong cõi người cõi trời, chưa vượt qua khổ tập, nghĩa lưu chuyển việc gì không thành?
Đáp: Nói lưu chuyển bao quát năm đường, nếu chỉ có trời người lưu chuyển không đủ nên nói không thành, chẳng phải căn cứ hoàn toàn không có gọi là không thành.
Sớ: Các vặn hỏi khác cũng vậy. Lược có hai nghĩa:
1. Khác ở đây chỉ cho thọ v.v... bốn pháp.
2. Khác là chỉ cho các hành tướng, đã không nêu bày cũng nên vặn hỏi, vặn hỏi suy nghĩ có thể rõ.
Sớ: Lẽ ra thọ v.v... nêu bày thành lỗi.
Biện rằng: Nay quán chất này không đồng với vặn hỏi. Ý của vặn hỏi trước cho rằng xúc không cùng tự xúc tương ưng, có các tương ưng khác nêu bày tương ưng môn, hành tướng tuy lại liễu biệt, nhưng cũng mỗi mỗi tự có hành tướng, cũng lại thiếu nghĩa hành tướng, sao không nêu bày hành tướng môn của tâm vương ư? Nay thì thọ tâm sở hoàn toàn không cùng thọ mà được tương ưng, nghĩa rộng hẹp có sai khác, sao được ở đây mà chất ở kia?
Hỏi: Chất này không thành, lập vặn hỏi ấy để làm gì?
Đáp: Xúc v.v... tuy lại không tự tương ưng, nhưng còn bốn pháp khác cũng là pháp tương ưng của tâm vương ấy, vì thế nên được nêu bày tương ưng môn, hành tướng cùng tâm vương giao thiệp không ít, lẽ nào được cùng nêu bày!
Sớ: Liền có ba mươi sáu loại kiến tướng phần chủng v.v...
Kiến phần, tướng phần mỗi phần đều có ba mươi sáu loại, suy nghĩ có thể biết.
Sớ: Đốn sinh sáu quả.
Hỏi: Sáu xứ thọ huân, năng huân tâm vương tâm sở đều huân bản thức, bản thức hợp có ba mươi sáu loại đồng thời đốn sinh, vì sao chỉ nói sáu?
Đáp: Tuy sáu sở huân đều có sáu loại đồng xứ cộng sinh một quả, quả cho nên chỉ có sáu đốn sinh ngăn ngại.
Sớ: Không thể luận bản chất ấy sinh cùng không sinh v.v...
Không thể nói năng tâm vương sở huân mà sinh bản chất, tâm sở sở huân thì không sinh, vì sao?
Tâm vương sở sáu món đều là sở huân.
Sớ: Chợt bàn luận bản chất ảnh tượng ấy.
Thức năng huân tạm có thể luận, tâm vương năng huân ấy sinh ở bản chất, tâm sở năng huân sinh ở ảnh tượng.
Sớ: Sở huân ấy không như vậy, Không được luận vương sở sở huân ấy sinh khác đối với bản chất, ảnh tượng.
Sớ: "Nếu vậy, Tạp Tập" đến "thọ báo trong một thời kỳ".
Xét luận ấy ghi: Nếu nói một đời đốn thọ tất cả sở đắc dị thục cũng không có lỗi, vì sao? Nếu tạo rất nhiều nghiệp vô gián, thân hình sở cảm rất mềm mại, sở cảm khổ đủ quá nhiều lanh lợi, do đây đốn thọ các thứ đại khổ.
Sớ: Luận Thành Nghiệp tự giải thích ngăn ngại này.
Xét luận ấy ghi: Tại sao mỗi mỗi tâm tâm sở pháp, từ hai chủng tử sai biệt tương tục mà sinh, không thấy các mầm từ chủng sinh pháp? Có việc như vậy, có thể mượn nhiều duyên sinh ở một quả, không từ hai chủng sinh có một quả sinh.
Sớ: Nay thêm đoạn xả.
Có nghĩa năm tâm sở được gọi là nhân quả không khác, tại sao nêu bày tâm có tên xả ư? Cho nên chỉ như sư thứ hai trước đã nói.
Biện rằng: Nói đoạn xả là căn cứ xả ràng buộc mà nói, tuy lại không chấp xúc v.v... làm ngã, nhưng là pháp phiền não tạp nhiễm, tâm vương xả tàng, tâm sở năng tạp nhiễm cũng lại không có, căn cứ đây nêu bày xả, nên quyển 8 luận này nói, pháp không nhiễm ô có hai nghĩa nói đoạn. Ly phược đoạn, nghĩa là đoạn duyên, tạp, phiền não ấy, Lạida tức là đoạn duyên hoặc ấy, gọi đó là xả, xúc v.v... tức là đoạn tạp hoặc ấy, gọi đó là xả, tại sao lý không thuận mà không thừa nhận mà nói tên xả? Tên gọi Lại-da là căn cứ ràng buộc mà lập, cho nên chỉ ràng buộc không được tên xả, do tên gọi của xúc v.v... không nương ràng buộc mà lập, tên ràng buộc xả còn, thật ra không có trái.
Lại giải thích: Lại-da chưa xả các tên như xúc v.v.. là A-lại-da thức tương ưng tâm sở, tâm xả chấp tàng xúc v.v... không gọi là A-lại-da tương ưng tâm sở, căn cứ tên xả này lý cũng nên thông. Giải thích sau thù thắng hơn giải thích trước.
Luận: "Như dòng nước chảy xiết" đến "tùy dòng không xả".
Có thuyết nói, điều này bao gồm có ba dụ, như thứ lớp so sánh, nghĩa là ái chẳng phải ái, thọ dụng, tự tánh ba loại duyên khởi. Ban đầu dụ hiển bày do Thức thứ tám, năm đường lưu chuyển; thứ hai hiển bày sinh nhẫn v.v... thức thọ dụng cảnh giới, thứ ba hiển bày tự tánh tương tục mà không đoạn tuyệt. Sớ: Quả pháp vị lai lẽ ra không đợi nhân.
Hỏi: Quả hiện tại đợi nhân mới sinh, lẽ nào chẳng phải dụ thiếu tông sở lập ư?
Đáp: Tuy từng đợi nhân, nay đã sinh xong lại không đợi nhân. Nói đã sinh quả, ý lựa chọn ở đây. Sớ: Tức quá khứ có nửa tác dụng.
Tâm tâm sở pháp có lấy quả dụng, sắc pháp thì không như vậy, nên gọi là nửa. Nếu vậy tác dụng là quá khứ đã có, làm sao được nhất định nói chỉ có nương hiện tại ư?
Sớ: Nó cùng quả dụng diệt lại diệt lỗi.
Hiện tại cùng quả mà do ở diệt, quá khứ đã cùng quả nên lại phải diệt, nếu không diệt là chướng quả ấy sinh, sao gọi là cùng quả? Lại cùng hiện có lỗi cùng nêu bày. Nếu thừa nhận có diệt, diệt lại diệt lỗi, nên trong Thành Nghiệp nói nên diệt lại diệt.
Sớ: Thủ dụng của quả sinh lại sinh lỗi.
Khi hiện thủ quả sinh tướng sinh rồi mới có thể thủ, quá khứ đã thủ quả lại phải đợi sinh mới có thể thủ, nếu thừa nhận như vậy sinh lại sinh lỗi, nếu không thừa nhận tức hiện thủ quả nên không đợi sinh, kia đây nhân khác không thể được.
Sớ: "Như trong luận Du-già" đến "nương chủng tử lập".
Trong Du-già, Trung Biên như trong Nghĩa Đăng đã dẫn Đối Pháp, Hiển Dương, nay lược dẫn. Xét trong luận Đối Pháp ngài Sư Tử Giác nói: Nhân quả đã thọ dụng, nghĩa là đã sinh nên đã diệt, công dụng nhiễm tịnh đã hết, nghĩa là như hiện tham, tín v.v... khiến tâm nhiễm tịnh, công năng không có. Nhiếp nhân đã hoại, đặt tập khí rồi mới diệt. Quả và tự tướng có chẳng phải có, nghĩa là nay đã dẫn tập khí có, năng dẫn thật sự không. Tướng nhớ nghĩ phân biệt, là nói chỉ có sở duyên cảnh tướng ấy, tất cả một phần là quá khứ, trừ vị lai hiện tại và Vô vi. Nói vị lai có nhân chẳng phải đã sinh, là lựa chọn Vô vi, nó tuy chẳng phải đã sinh là vì không có nhân. Chưa được tự tướng, là tự thể chưa sinh, nhân quả chưa thọ dụng, nghĩa là chủng tử ấy chưa làm sở tác, tánh ấy chưa sinh, tất cả một phần là vị lai. Nói nhân quả hiện tại thọ dụng chưa thọ dụng, nghĩa là nhân đã diệt, quả vẫn còn. Hay hiển tướng quá khứ vị lai, là đời hiện tại là hay thi thiết tướng đời quá khứ, vì sao? Nương hiện tại giả lập quá khứ vị lai, đứng về vị sẽ được giả lập vị lai, đứng về vị từng được giả lập quá khứ. Tác dụng hiện tiền, nghĩa là nhãn v.v... chánh làm thức các việc sở y, tất cả một phần là hiện tại.
Lại Hiển Dương luận quyển 9 ghi: "Nói có nghiệp quá khứ, do vì nghiệp này cho nên chúng sinh có thọ tổn hại, thọ không tổn hại", đây cũng nương tập khí ấy, mật ý giả nói pháp ấy là có, là ở trong các hành từng có nghiệp tịnh, bất tịnh sinh diệt, do nhân này cho nên hành thắng ấy dị tương tục mà chuyển đây gọi là tập khí, do tương tục này sở nhiếp tập khí nên ái không ái quả sinh. Lại nói ba đời sắc nhẫn đến thức, đây cũng nương ba chủng hành tướng mật ý cho nên nói, nương nhân tướng mật ý nói nói có vị lai, nương tự tướng ấy mật ý nói có hiện tại, nương quả tướng kia mật ý nói có quá khứ.
Sớ: "Sáu mươi sáu" đến "đều nói sáu thông".
Lại trong luận Du-già quyển 37, kinh Đại Bátnhã quyển 9, kinh Giá-ni-càn Tử quyển 7, kinh Anh Lạc quyển 6, kinh Thanh Tịnh Tỳ-ni Phương Quảng, kinh Tịch Điều Âm Thiên Tử Vấn, Thập
Địa Luận quyển 5, Tạp Tập luận quyển 14, Nhiếp luận Vô Tánh quyển 9 thảy đều nói, đủ như trong chương đã dẫn.
Sớ: Trong này cũng đồng luận sư Thắng Quân v.v... Hỏi: Thượng tọa, Thắng Quân tất cả đồng sao?
Đáp: Có đồng dị, Thắng Quân sắc tâm đồng có ba tướng. Thượng tọa thì không như vậy, nghĩa đồng có thể rõ. Có nghĩa Thượng tọa, Thắng Quân có sai khác, Thượng tọa ấy chấp tâm tâm sở pháp sinh diệt hai thời, thời hai thể một sắp diệt gọi là diệt, lý mà Thắng Quân nói nương Du-già v.v... đã diệt gọi là diệt, nếu sắc và tâm đều có ba tướng, ba tướng tuy sai biệt mà thể đồng một.
Luận: "Hiện tại" đến sinh diệt hai thời.
Hỏi: Ý ấy như thế nào?
Đáp: Do kinh chỉ nói là pháp sinh diệt nên lập hai thời.
Hỏi: Nếu vậy tại sao sắc có ba tướng?
Đáp: Sắc pháp trì độn thật có ba thời, kinh nương quyết định chỉ nói sinh diệt, do trụ tướng ấy có không bất định nên không nói.
Sớ: "Khi pháp sinh nhân thù báo" đến "hai pháp làm hai thời".
Ảnh nêu hai pháp thời nhân quả, đối hiển một pháp hai thời nhân quả, đối hiển một pháp hai thời nhân quả, mong khiến tỏ ngộ một và hai sai biệt.
Sớ: Làm thời của quả cùng pháp trước chung cùng.
Hỏi: Khi làm nhân quả đã là trước sau, tại sao gọi là một pháp biện?
Đáp: Khi làm nhân quả tuy trước sau đều như vậy, căn cứ tự thể mà ở hiện tại sinh diệt có hai. Không mong pháp khác để phân hai thời nên gọi là một pháp.
Hỏi: Một pháp này khi làm nhân quả, là mong ở tự mình, hay đối tha ư?
Đáp: Đối tha làm, do tự sinh tha pháp đến diệt đối diệt gọi là quả, từ trôi đến diệt, tha pháp đến sinh, đối sinh gọi là nhân.
Hỏi: Nếu vậy cùng hai pháp sau nào có khác?
Đáp: Sau đối tự tha hợp thành sinh diệt, đây chỉ có mong tự phân làm hai thời, sau nêu tự tha làm sinh diệt có hai, ẩn tự một pháp hai thời không luận, trước chỉ có nêu tự một pháp hai thời, ẩn tự tha hai sinh diệt không nói, văn nêu bày sơ lược.
Luận: Sinh diệt trái nhau lẽ nào đồng với hiện tại.
Hỏi: Nếu họ chống chế rằng: Sinh diệt chẳng phải nhân quả trái nhau không đồng đời, diệt sinh nhân quả bao gồm tương thuận, nên đồng đời chăng?
Đáp: Nếu nói sinh diệt mà tương thuận, lại có thế gian, tự giáo trái nhau.
Sớ: Trừ Nhị thừa Kim cương v.v...
Hàng Nhị thừa Kim cương cũng không có Lạida, thời phần giảm bớt chỉ nói vô học.
Hỏi: Vì sao không nói Tam thừa Kim cương.
Đáp: Đại thừa Địa thứ tám đã xả Lại-da, không đồng với Nhị thừa nên không nói.
Sớ: Nếu nói bốn vị tập khí không thành.
Nếu nói tập khí gọi là thô trọng. Hàng Nhị thừa vô học, Bồ-tát Địa thứ tám thảy đều có, liền không được nói tên Lại-da, bốn vị xả.
Luận: Làm sao biết như vậy.
Trong sớ giải thích ý hỏi có hai loại, có nghĩa nay không nương đây, vì sao? Trước chỉ giải thích tên A-la-hán, đã chưa giải thích xả tại sao trước hỏi, nên đây chỉ hỏi tên chung của Tam thừa vô học, lý do của A-la-hán.
Biện rằng: Trước nói La-hán mới xả rốt ráo, xa nương lời hỏi ấy làm gì có lỗi? Lại nếu không hỏi Tam thừa xả, vì sao nêu Quyết trạch phần nói nghĩa Tam thừa để đáp vặn hỏi ở trước? Nếu nói tuy nói xả tên A-lại-da, ý giải thích Tam thừa đều gọi là A-la-hán cũng không thành chống chế. Luận tự nói các bậc A-la-hán Độc giác Như Lai, lý nào có thể chứng đồng là La-hán? Lại nếu lấy bản văn Du-già cũng không thể, luận ấy chỉ nói Tam thừa vô học, không nói Tam thừa đồng gọi là La-hán. Lại bản ấy nói đoạn A-lại-da, nên biết sớ văn hạn hẹp, trước sau thâm ngộ bản chỉ.
Sớ: "Nhị thừa thì không như vậy" đến "khiến thông Nhị thừa". Hỏi: Nếu Như Lai gọi là không thông Nhị thừa, vì sao trong Du-già nói Như Lai gọi là cộng đức?
Đáp: Thông hết chín hiệu khác gọi là cộng đức, chẳng phải là tất cả có nghĩa tương ưng, đều gọi là Như Lai, gọi là cộng đức.
Sớ: Nếu một phần hiện hành không có v.v...
Đây là sư thứ nhất lấy ý sư thứ hai kế ở sau để nêu ra nghiên cứu, có lập lại có vặn hỏi, suy nghĩ có thể hiểu.
Sớ: Do chưa xả hoàn toàn.
Sư thứ hai đáp, do ở sau hợp có sư thứ nhất vặn hỏi, vặn hỏi rằng: Bảy pháp trước chưa xả hoàn toàn không gọi là xả, Địa thứ tám chủng chưa trừ, đây do Lại-da còn. Trong sớ không nói là do ý sư thứ nhất như vậy nên lược không nêu đủ.
Sớ: "Nếu vậy" đến "không thể xả Lại-da". Đây là sư thứ hai gạn hỏi.
Sớ: "Nếu vậy" đến "chưa xả Lại-da".
Tức sư thứ nhất nêu bày chất. Hàng Sơ địa Thánh giáo gọi là bất thối, nên biết bất thối không căn cứ Lại-da xả hay không xả.
Sớ: Du-già quyển 48, sơ kiếp gọi là Ba-la-mậtđa v.v...
Xét trong quyển 48 không có, quyển 78 có, bốn và bảy lẫn lộn, xét văn lầm.
Lại trong kinh Giải Thâm Mật quyển 4 cũng đồng, kinh ghi: "Thế nào là Ba-la-mật-đa? Thế nào là cận Ba-la-mật-đa? Thế nào là Đại Ba-la-mậtđa? Này thiện nam tử! Nếu các Bồ-tát ở vô lượng thời tu hành bố thí v.v... thành tựu thiện pháp, mà các phiền não vẫn cố hiện hành, nhưng có thể chế phục những thứ chưa chế phục ấy, nghĩa là ở Giải hành địa, khi ở trong thắng giải chuyển này gọi là Ba-la-mật-đa. Lại khi ở vô lượng thời tu hành bố thí lần lần tăng thêm thành tựu pháp thiện, mà các phiền não vẫn cố hiện hành, nhưng có thể chế phục mà chẳng phải chỗ phục ấy, nghĩa là từ Sơ địa trở lên, gọi là cận Ba-la-mật-đa. Lại khi ở vô lượng thời tu hành bố thí v.v... chuyển lại tăng thêm, thành tựu pháp thiện, tất cả phiền não đều không hiện hành, nghĩa là từ Bát địa trở lên, đây gọi là Đại Ba-la-mật-đa".
Giải thích rằng: Sơ độn Hữu lậu cách xa không có trái nhau, đới tướng tu tập do đây chỉ gọi là Ba-la-mật-đa. Kế thông Vô lậu thân cận vô tướng nên được tên cận, vị sau vô tướng mặc tình lâu dài nên gọi là đại. Hoặc nói cận là cận không có Gia hạnh.
Tuy có hai giải thích, giải thích sau là thù thắng.
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Trong Địa thứ bảy cũng có vô tướng mà sao nói cận vô tướng nên gọi là cận ư, nên ở giải thích sau hay hơn.
Luận: "Nhưng A-la-hán" đến "làm tự nội ngã". Có nghĩa giải thích tụng xả nói, trong sớ nói giải thích tên La-hán này chẳng phải lý.
Biện rằng: Trước tuy phá tha, nay lại nêu bày chánh lý cũng đâu có gì thiên lệch, đâu chỉ bài xích tha không nêu tự nghĩa? Lại trong văn sau mà tự nói xả, nên nay văn này đối với phá tha nêu bày nghĩa chánh, nếu không như vậy khi biện về xả có lỗi nói trùng lập.
Sớ: Trong Nhiếp luận nói: Tâm thể thứ ba v.v... Xét Vô Tánh luận quyển 1 giải thích rằng: Tâm thể thứ ba nếu lìa thức A-lại-da không sai khác có thể được, nghĩa là như ý thanh nói ý nhiễm ô ý vô gián diệt, thức thanh thì nói sáu loại chuyển thức, như vậy tâm thanh lìa hai loại ấy không có tự thể để có được. Chẳng phải không có tự thể mà có năng thuyên, cũng chẳng phải dị môn, ý thức hai thanh sở thuyên sai khác, thể thanh trong này ý thủ sở thuyên, thế nên thành tựu A-lại-da thức v.v... Hiển bày A-lại-da thức là tâm thanh sở thuyên đạo lý quyết định.
Sớ: Đối Pháp quyển 2 cũng có nghĩa các tâm.
Xét luận ấy nói, tâm nghĩa là uẩn xứ giới tập khí sở huân tất cả chủng tánh.
Biện rằng: Xem ý luận ấy cũng do tích tập mà nói nghĩa tâm, nêu ba khoa tập khí sở huân kia, hiển bày năng tập thức ấy là tâm. Luận này cũng chỉ có nghĩa tích tập mà nói tâm, văn sau mới dùng tích tập khởi hai nghĩa để giải thích tâm.
Luận: Hoặc gọi là sở tri y v.v...
Xét trong Nhiếp luận nói, chỉ ở trong Đại thừa là đều có nói, nghĩa là A-lại-da thức gọi là thể sở tri y; y tha, biến kế, viên thành thật v.v... ba loại tự tánh gọi là tướng sở tri. Vô Tánh giải thích rằng: Những điều được biết nên gọi là sở tri, y nghĩa là sở y, thanh sở y này chọn lấy năng y tạp nhiễm thanh tịnh các pháp hữu vi, không thủ Vô vi, do sở tri không có nghĩa sở y, sở y tức là A-lại-da thức là vì nhân sở y, vì thức năng dẫn.
Luận: Hoặc gọi chủng tử thức.
Đối Pháp cũng nói tất cả chủng tử thức, nghĩa là năng sinh các uẩn các pháp chủng tử đã tích tập, trong Đại luận cũng đồng.
Sớ: Trước sau mà luận v.v... Phàm phu là trước, Phật là sau.
Sớ: Trong này gọi là tàng không lấy năng tàng v.v...
Không lấy nhiễm pháp dùng làm năng tàng, ý nói không lấy Thức thứ tám làm sở tàng, nhiễm pháp làm năng tàng.
Chỉ có các nhân, là giải thích lý do. Văn này trước do chấp tàng năng tàng hai nghĩa giải thích tàng.
Sớ: Là Vô lậu Niết-bàn, trong sớ ghi chữ "như", nên nói như Niết-bàn v.v...
Luận: Như Lai vô cấu thức v.v...
Có nghĩa nay ý tụng chứng Thức thứ tám ở Như Lai địa gọi là Vô cấu thức.
Biện rằng: Chứng vô cấu thức gọi đó là sở tùng, thông sớ hợp thành ba giải thích, hơn kém nên suy nghĩ.
Sớ: A-lại-da làm tánh.
Xét luận ấy nói như vậy sở tri y nói A-lại-da thức làm tánh, A-đà-na thức làm tánh, tâm làm tánh, A-lại-da làm tánh, căn bản thức làm tánh, cùng sinh tử uẩn làm tánh.
Giải thích rằng: Luận ấy rộng nói A-lại-da thức cùng sinh tử uẩn sáu loại gọi đó là thể sở tri y, nên mỗi mỗi đều nói là tánh, ý sớ lập lại tên của ba pháp sau dùng làm lời hỏi, các văn khác đồng có, do ba tên ở trên trước đã nêu xong, không hạn cuộc ở lời hỏi.
Sớ: Một là chủng sinh hiện đồng thời v.v...
Các loại nhiễm khác, Vô gián đạo phát khởi nó đã xả rồi, Thức thứ tám chủng hiện với tâm Kim cương đồng thời, dị thục Vô ký dung chứa đồng thời cũng không có lỗi.
Sớ: Bồ-đề đứng về thành tựu v.v...
Ý ngăn người ngoài vặn hỏi. Ý người ngoài vặn hỏi, nếu Vô gián đạo xả dị thục thức, thì lúc này sao không gọi là Phật? Nên đứng về thành tựu để giải thích mối nghi ấy, lúc ấy mới được chứ chưa thành viên mãn nên không gọi là Phật.
Sớ: Khi chủng sinh hiện khác nhau, đồng với sư thứ nhất ở trước.
Hỏi: Sư thứ nhất chủng hiện mà được cùng thời, nay ở đây thì không như vậy đâu được đồng với sư thứ nhất?
Đáp: Lấy Vô gián đạo có Dị thục thức chút phần không đồng, không nói chủng hiện đồng thời gọi là đồng, nếu chủng hiện đồng thời tức không được nói chủng hiện dị thời.
Sớ: "Chẳng phải Vô sắc giới" đến "duyên tất cả".
Không thể duyên đủ sắc tâm tâm sở và địa dưới v.v... điều này không tận lý. Thánh giáo có nói, Vô sắc giới tâm liễu tất cả, nên thứ hai nói không thể niệm niệm biến duyên tất cả, giải thích này là thù thắng.
Sớ: Ắt không hiện khởi, như ba loại trí sở hữu khác.
Đây do Hữu tông lấy các trí làm dụ. Ba loại trí, nghĩa là khổ tập diệt ba loại đế trí, khởi loại trí này hiện quán hậu biên mà có thể gồm tu Hữu lậu biết khổ, đoạn tập, chứng diệt sở hữu tục trí, tức tục trí này nhân ba loại trí hiện quán hậu biên mà tu tập nên gọi là hiện quán. Thế nên trong Câu-xá luận quyển 26 ghi: Chỉ có khổ tập diệt ba loại trí thì có thể gồm tu hiện quán biên tục trí vị lai. Ở trong mỗi mỗi đế hiện quán hậu biên mới có thể gồm tu nên lập tên gọi này.
Hỏi: Khi Đạo loại trí vì sao không gồm tu trí?
Đáp: Do thế tục vô thỉ đến nay thường từng biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, ba loại cũng vậy, sự nghiệp đồng cho nên gồm tu. Lại khổ v.v... ba biến tri đoạn chứng, nên được gồm tu, đạo trí thì không như vậy. Đạo trí hiện quán mà chỉ có Vô lậu, vô thỉ chưa khởi, lại chưa biến tu, nên trừ đạo trí. Trong Câu-xá nói, từng ở đạo vô sự hiện quán, lại ắt không ở đạo biến sự hiện quán, nghĩa là đối với khổ tập diệt có thể biến tri đoạn chứng.
Hỏi: Tu đạo phiền não và chỗ hiển diệt cũng chưa đoạn chứng, tại sao được nói biến tri đoạn, chứng?
Đáp: Ngay tự đế ở sau các trí đều biến, trong Câu-xá nói tuy tập diệt biên chưa biến đoạn chứng mà ở đương vị đoạn chứng đã khắp. Hỏi: Đạo vì sao không như vậy?
Đáp: Do đạo không có biến sự quán này, lại tu bất biến, như sáu loại tánh khi nhập kiến đạo, tu ngay tự tánh không thể tu khắp. Trong Câu-xá nói, đạo thì không như vậy, vì chủng tánh nhiều.
Hỏi: Chỗ tu tục trí sau khởi chăng?
Đáp: Chuẩn theo Hữu tông nghĩa rốt ráo không khởi, chánh lập kiến đạo, không dung chứa mà khởi, được hơn xả kém, sau cũng không khởi. Trong Câu-xá nói, Thế tục trí này là pháp bất sinh, ở tất cả thời không dung chứa khởi.
Hỏi: Trí sở tu này trở về trước khởi chăng? Nếu nói khởi thì tại sao luận nói gồm tu vị lai quán hiện tục trí? Nếu chưa từng khởi tại sao lại cùng với ba loại trí biết đoạn chứng nên gồm tu ư?
Đáp: Chưa từng khởi, căn cứ đồng loại ấy trở về trước khởi gọi là đồng.
Hỏi: Nó từng khởi lúc này tu chăng?
Đáp: Căn cứ thật cũng tu do chẳng phải mong kỳ lạ nên luận không nói, như trong Câu-xá phân biệt rộng.
Sớ: "Đây hiển bày nương ban đầu" đến "thông các vị".
Đây tức vị đoạn và thường. Nói kia là đến chuyển y vị và tên gọi Thức thứ tám.
Sớ: Đây lìa cùng thừa nhận năm thủ uẩn ngoài không có tự thể riêng.
Chỉ tâm sở, sắc, bất tương ưng kia, tức là hai nhà cùng thừa nhận thuộc về năm uẩn.
Sớ: Đây lìa thức uẩn vì không cùng thừa nhận
Đây tức Thức thứ tám này, ngoài cùng thừa nhận uẩn riêng có thể gọi đó là lìa, chẳng phải tha thừa nhận gọi là bất cộng.
Luận: Giới là các nghĩa như nhân v.v...
Có thuyết nói giới có ba nghĩa: Một là nhân, hai là tánh, ba là chủng. Nay nương nghĩa nhân để giải thích giới. Sớ chỉ lấy chủng, nay lấy hiện hành cùng thể sở trí chủng không khác. Nói hiện thân sinh gọi đó là nhân, hiện thức cũng gọi chủng tử thức, nhân tướng chỉ có lấy thức hiện hành, nên ở sau nương dụng chỉ nói hiện y, không nói chủng.
Biện rằng: Giới nếu hiện thức tức y không khác, luận chủ vì sao riêng giải thích có hai ư? Giới thì nói thân sinh, nói các pháp vì sao không nói y? Xét nói thân là nghĩa nhân duyên, Thức thứ tám hiện hành tại sao khéo làm nhân duyên mà không thể năng huân? Lại hiện cùng chủng tuy không gọi là dị, cũng không được là một, một đã không thành, lấy chủng nào có lỗi gì? Lại nhân tướng trước cũng chẳng phải chỉ có hiện, lại nghĩa không đồng, không thể làm chứng, đã có nhiều lỗi, nay lại y sớ. Sớ: Đây đã tùy theo một.
Nếu trước thành Mạt-na dùng nhân chuyển thức, trong nhân lại có sở y tùy theo một và hai không thành lỗi, hoặc chữ "sở" là viết nhầm, lẽ ra phải là chữ "nhân". Giải thích trước là chính, do Mạt-na thức họ không thừa nhận, nên có hai lỗi.
Sớ: "Hoặc nếu không như vậy" đến "có lỗi bất định".
Biện rằng: Đây chính là phòng kỹ sai lầm nhân minh, sợ thấy nhân trước có thức nên liền cho là bất định. Lại lý chân thật, Thức thứ tám có nương nhân này mà lập, lý thật nhân trước không có lỗi bất định, trong nhân nói thuộc chuyển thức.
Sớ: Đây giải thích cùng với trước có sai khác.
Đây giải thích chỉ có quả báo trong năm đường gọi đó là nẻo, trước sau đều thông hoặc nghiệp khổ v.v... đều gọi là nẻo.
Luận: Thuận pháp hoàn diệt.
Hỏi: Vì sao Đạo đế gọi đó là hoàn?
Đáp: Hoàn là thú hướng, do đạo mà thú hướng đến chỗ chứng
Niết-bàn nên gọi là hoàn, hoặc xả mong về chân là nghĩa hoàn, cũng còn có nghĩa phản phát hoàn thuần.
Luận: Trong này chỉ nói năng chứng đắc đạo.
Đồng với Vô Tánh luận, quyển 1 luận ấy ghi: "Sở tri y là lựa chọn lấy năng y tạp nhiễm thanh tịnh các pháp Hữu vi, không lấy Vô vi, do Vô vi Hữu vi ấy là nghĩa sở y".
Giải thích rằng: Pháp Hữu vi đều y thức sinh nên gọi là y. Niết-bàn Vô vi chẳng phải thức sinh nên gọi là vô y.
Luận: Hoặc đây chỉ nói sở chứng Niết-bàn v.v...
Đồng với Nhiếp luận của Thế Thân, quyển 1 luận ấy ghi: Cũng do đây nên chứng đắc Niết-bàn. Vô Tánh cũng nói sinh v.v... tạp nhiễm rốt ráo ngừng dứt gọi là Niết-bàn, nếu lìa A-lại-da không nên chứng đắc.
Giải thích rằng: Niết-bàn tuy không y thức này sinh nhưng do thức này trì hoặc, đạo chủng. Đạo sinh đoạn hoặc chứng đắc Niết-bàn, triển chuyển nói cũng y ở thức mới có thể chứng đắc.
Sớ: Hoặc cùng nghĩa hiện hành giới tánh nhân. Giải thích lại câu đầu, ban đầu đồng với thứ hai gọi là câu hiện hành, nói giới tánh v.v... là giải thích lý do.
Sớ: Lại trong Đại thừa có khổ chẳng phải tập v.v...
Đây là pháp dị thục, nhân thù báo là khổ, chẳng phải huân chẳng phải tập, nếu y Hữu tông khổ tập là một vật, nhân quả nên nói hai.
Sớ: Đây do khổ tập khởi v.v...
Đây nói biến kế, khổ tập nghĩa là các nẻo, từ sở biến kế mà có tên các nẻo.
Sớ: Bốn pháp thanh tịnh là thành thật tánh. Như trong Pháp Uyển, Quyết Trạch giải thích.
Sớ: Không chỉ có năng tàng để giải thích Lạida v.v...
Chánh dùng chấp tàng để nói rõ Lại-da, nếu dùng năng tàng làm Lại-da, thì Địa thứ tám cũng có nghĩa năng tàng, làm sao được nói tên Lại-da? Nói Địa thứ tám v.v... đồng các vô học, Như Lai cũng có nghĩa năng tàng.
Sớ: "Hoặc làm chủng y" đến "gọi là chấp thủ".
Hỏi: So với trước có gì khác nhau?
Đáp: Trong này cùng với trước đồng, ban đầu và sau có khác, suy nghĩ có thể biết.
Luận: Trong kinh Giải Thâm Mật.
Hỏi: Kinh này đến nay trải qua bốn lần dịch, bản dịch đời Ngụy gọi là Tương Tục Giải Thoát, hai bản đời Lương đời Tùy tên là Giải Tiết kinh, nay bản đời Đường dịch lấy tên là Giải Thâm Mật, tại sao không đồng?
Đáp: Kinh này, Phạm bản là San-địa Niết-mộchiết-na, Niết-mộ-chiết-na, Hán dịch là Giải. Sanđịa bao gồm có ba nghĩa:
1. Các vật tương tục.
2. Đốt xương liền nhau.
3. Nghĩa của Thâm Mật.
Phong tục phương Tây gọi ba loại này tên là San-địa, cũng như tiếng Tát-đạt-ma bao gồm ở hai nghĩa, Tiên-đà-bà gồm bốn tên, người dịch trước sau đều lấy một nghĩa để lập đề kinh, đều không trái nhau, nhưng căn cứ ý chỉ của kinh, tên gọi Giải Thâm Mật là lý là tối ưu.
Luận: Cũng năng chấp thủ kết sinh tương tục.
Hỏi: Tại sao chấp thủ? Lúc nào kết sinh? Kết sinh nghĩa gì? Đáp: Thủ có ba nghĩa:
1. Thủ nghĩa là nhân, tức ngay nhân sinh quả năm uẩn, nay do Thức thứ tám trì ngay quả nhân mới có kết sinh ngay quả tương tục, nên nói Thức thứ tám gọi là chấp thủ, kết sinh tương tục tức thủ chấp gọi là chấp thủ.
2. Do vì chủng tử hiện hành, Thức thứ tám thọ một thời kỳ sinh gọi là chấp thủ, cho nên Nhiếp luận quyển 1 của Thế Thân ghi: Do trong A-lại-da thức một thời kỳ tự thể huân tập vị nên thể ấy khởi gọi là nó sinh, thọ sinh ấy nên gọi là nó sinh.
3. Thủ nghĩa là năng thủ, do nay Thức thứ tám hiện hành chấp nó đương sinh nhân quả, nên có kết sinh ngay nghĩa tương tục, chấp tức là thủ gọi là chấp thủ, nên trong Nhiếp luận ghi: "Lại đối tương tục, ngay khi kết sinh thủ sinh ấy nên chấp thọ tự thể, thế nên thức này gọi là A-đà-na". Thế Thân giải thích như thứ hai dẫn. Kinh là một đoạn văn nhưng nghĩa thông cả hai, thứ hai thứ ba giải thích chung dùng làm chứng, ý chứng nên rõ.
Nói lúc kết sinh có bốn giải thích:
1. Kết sinh là nhuận sinh, nếu sinh cõi Vô sắc khi mạng chung gọi là kết sinh, nếu sinh trong cõi Dục giới sắc giới, mạt tâm của Trung hữu gọi là kết sinh, nên trong Nhiếp luận nói: Nương vị Trung hữu khởi nhiễm ý thức kết sinh tương tục. Lại nói, tâm chết của Trung hữu gọi là kết sinh tâm.
2. Ngay khi thọ sinh gọi là kết sinh, cho nên trong Du-già quyển 1 ghi: Ở trong lúc này nói thức đã trụ kết sinh tương tục, tức đây gọi là Yết-la-lam vị.
3. Hợp hai nghĩa trước gọi là kết sinh, thiếu một không được.
4. Tức tâm mạng chung và mạt tâm của Trung hữu đều gọi là kết sinh, đều có thể nhuận sinh, tâm Trung hữu như trong Nhiếp luận đã nói. Lại trong luận Du-già quyển 66 nói, nếu kết sinh tương tục tâm vô gián cũng là dị thục.
Giải thích rằng: Tâm kết sinh tức tâm trung hữu, tâm vô gián tức là sinh hữu, tâm sinh hữu chỉ là dị thục, tâm mạng chung như Đối Pháp quyển 5 nói, nghĩa là từ Dục giới sinh trở lại Dục giới, tức do tự thể Dục giới ái tương ưng tâm mạng chung kết sinh tương tục, các cõi khác chuẩn theo đây mà biết.
Hỏi: Chuẩn theo luận Du-già quyển 66 nói khi sắp mạng chung, tâm niệm sau cùng là pháp dị thục, vì sao Đối Pháp gọi là ái tương tục?
Đáp: Đã nói sau cùng là pháp dị thục, không chướng ban đầu chặng giữa mà được ái đồng thời, ý của hai luận sai khác nên không trái nhau. Lại khởi ái nên hay kết sinh. Mạng chung, Trung hữu đều có khả năng khởi ái, nên lấy hai vị cũng không có lỗi. Tuy có bốn giải thích, giải thích ban đầu và sau là thù thắng, hai giải thích giữa lý trái. Ý nhiễm kết sinh, ngay khi thọ sinh Yết-la-lam vị không có ý nhiễm. Du-già quyển 1 nương đã kết sinh nên làm thuyết này, chẳng phải ngay khi kết sinh nên không có lỗi, tức Du-già luận quyển 59 nói, lại khi sắp thọ sinh ở trên tự thể tham ái hiện hành, người nam người nữ hoặc ái hoặc sân cũng xen hiện hành, do nhân duyên này nên biết tất cả phiền não đều được kết sinh tương tục.
Nói sắp thọ sinh và khởi các ái là chẳng phải sinh Hữu vi kết sinh vị. Nghĩa kết sinh là do nhân thủ quả, như hoa kết hạt gọi là kết sinh, nên Nhiếp luận Vô Tánh quyển 3 nói, nhiếp thọ sinh nên gọi là kết sinh, hậu báo tiếp theo ở trước khiến sinh không đoạn, như con nối nghiệp cha nên gọi là tương tục, tức luận ấy nói liên tục trì sinh nên gọi là tương tục.
Luận: Đây đồng các kinh Vô Lượng Đại thừa.
Trong các kinh khác gọi là Lại-da, như luận Hiển Dương dẫn kinh nói: Làm sao biết có thức này? như Bạt-già-phạm nói: "Vô minh che lấp, ái kết ràng buộc ngu phu chiêu cảm thân hữu thức". Ý này nói có dị thục A-lại-da thức.
Giải thích rằng: Kinh đã nói phát nghiệp, nhuận sinh hai loại phiền não mà cảm được thức, nói thức sở cảm quyết định chỉ có A-lại-da chân dị thục. Lại nói, như năm chủng tử, đây gọi là có thủ thức, ý này hiển bày có tất cả chủng tử A-lại-da thức. Xét trong kinh Niết-bàn có năm chủng tử: Một là rễ, hai là cành, ba là trái, bốn là đốt, năm là hạt. Lấy năm pháp bên ngoài so sánh chủng tử bên trong nên nói "như". Năm chủng tử bên trong, nghĩa là thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ. Lại có năm đạo chủng, chủng này đều nương A-lại-da làm thủ v.v... thấm nhuần, hay có đương quả, cho nên nói có thức thủ.
Sớ: Bốn nhân trước làm tông.
Hỏi: Thuận vô ngã v.v... đã có tám câu mà làm tám tông, rốt cuộc có lỗi gì? Hợp thành bốn ư?
Đáp: Vô ngã ngã v.v... đối đãi nhau mà lập, nên hợp làm bốn.
Biện rằng: Lý thật vô ngã, ngã v.v... nghĩa khác nhau, mỗi câu làm tông lẽ ra cũng không lỗi, làm tông đã có tám, làm nhân cũng vậy, tông nhân đều có hai và ba hợp đồng, tỷ lượng ấy thường làm tông biệt tổng có ba mươi sáu, làm nhân biệt tổng có bốn mươi lăm, tổng cộng có tám mươi mốt lượng, nếu đứng về siêu vượt chặng giữa, một và hai đồng làm lượng mới nhiều, nghĩa chuẩn theo nên biết, sợ dài dòng nên không chép đủ.
Sớ: "Lại trong Phát Trí luận" đến "chẳng phải như ghét một v.v...".
Nhưng chẳng phải Phật nói mà có nhiều nghĩa. Một là ngoại đạo các giáo gọi là chẳng phải Phật nói, Tam tạng nội giáo đều gọi là Phật nói, luận Đại thừa Tiểu thừa tuy chẳng phải Phật nói, mà do các bậc Thánh sau này kết tập lời Phật mà thành, nên gọi là Phật nói. Hai là đích thân Phật nói gọi là Phật nói, luận Đại thừa Tiểu thừa tuy kết tập lời Phật, nhưng chẳng phải Phật nói, nên đều chẳng phải Phật nói.
Nếu chuẩn theo nghĩa trước, Phật nói làm tông, luận Đại thừa Tiểu thừa đều làm dị phẩm, nhân họ chuyển nên thành bất định. Nếu nói Phật nói tức là Phật nói không có bất định, lý cũng không có đúng, chẳng phải luận Đại thừa Tiểu thừa đều là Như Lai ở đời đích thân diễn nói, đích thân ấn chứng, dù kết tập ít lời mà Như Lai ngày xưa nói, nhưng nay làm huyền luận, chẳng phải Phật đích thân nói, gọi là phi Phật thuyết, cuối cùng thành dị phẩm, vì sao chẳng phải bất định?
Lại giả sử người lập thừa nhận đều Phật nói, hàng Tiểu thừa chống lại như Phát Trí luận một phần không thừa nhận, nay đối với tha dị dụ nhân chuyển sao không có lỗi ư? Nương nghĩa sau nhân ở dị phẩm một phần chuyển, do Phát Trí luận, Bàsa hai thuyết cho rằng Phát Trí là Phật nói và một thuyếta cho rằng không phải, là do Ca-tha-diên-ni tử tạo. Đối với sư trước nhân ở thức chuyển nên cũng bất định, trong sớ nương nghĩa sau.
Hỏi: Tiểu thừa có người nói kinh Đại thừa là do những người hoại chánh pháp nói ra, so với đây tức là thuộc về chẳng phải Phật nói, nhân nói không nhiếp lẽ nào chẳng phải tùy theo một?
Đáp: Nói ý của hai cực thành lựa chọn tùy theo một, người chống đối tuy nói Đại thừa chẳng phải Phật nói, người lập không thừa nhận nên không được nói cả hai đều cực thành chẳng phải Phật nói, người chống đối cũng thừa nhận cả hai đều cực thành, chẳng phải trong Phật nói không nhiếp Đại thừa, người lập đã thừa nhận sao thành tùy theo một? Nghĩa này nên suy nghĩ kỹ.
Hỏi: Nói cả hai đều đối lập và chống đối nói, ngoại đạo chẳng phải chống đối nói, sao được nói Đại thừa ngoại đạo là cả hai?
Đáp: Các ngoại đạo nói các Tiểu thừa, tuy nêu ngoại đạo ý lấy một phần sở đẳng Tiểu thừa gọi là cả hai, do ngoại đạo ấy lập các luận này, nhân đó mà nói như vậy.
Sớ: Nhân phạm cả hai bất thành v.v...
Nhân, tông đều phạm lỗi một phần, trong nhân cũng phạm một phần cả hai sở y bất thành, nhân không có khắp, trong tông ấy và Phát Trí cả hai gọi là đồng nên trong sớ không khai.
Hỏi: Sở y không thành, hữu pháp ắt không có, Phát Trí đã có, sao thành lỗi này?
Đáp: Một phần Phát Trí không thừa nhận Đại thừa là Phật nói, làm sao có sở y? Cho nên thành một y phần sở y bất thành, nhưng cả hai không có lỗi sở y, lý như trước đã biện.
Sớ: Mỗi một niệm uẩn gọi là pháp sát-na sinh diệt.
Hỏi: Pháp Hữu vi đều diệt trong sát-na, hai uẩn sau cần gì lập riêng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Tùy theo hai uẩn sau diệt trong sát-na, trước căn cứ theo tương tục, đứng về nghĩa mà chia ra cho nên có ba uẩn.
2. Phương tiện phát khởi thiện ác sắc tâm, do trong ba tánh nên gọi là một niệm.
Biện rằng: Giải thích trước là thù thắng, lẽ nào trong ba tánh chỉ có một niệm ư?
Sớ: Hai là một thời kỳ sinh uẩn.
Chỉ căn cứ dị thục một thời kỳ phần hạn tương tục nói, hoặc đồng Chánh lượng thời gian dài bốn tướng, như mạng căn v.v... ban đầu sinh gọi là sinh, sau cùng chết gọi là diệt, trung gian lại không có tướng sinh diệt.
Sớ: Ba là cùng sinh tử uẩn.
Đến Kim cương định, đoạn phiền não hết, sinh tử hằng dứt gọi là cùng sinh tử.
Hỏi: Vì sao luận đời Lương nói "đến Vô dư" gọi là cùng sinh tử? Đáp: Hoặc tận lý chứng đều cùng sinh tử. Hai luận cùng nói nên không có lỗi, hoặc nhân quả sinh tử đều gọi là sinh tử, nhân Kim cương cùng, quả Vô dư hết, đây cũng có hai luận cùng nói.
Luận: Nghĩa là A-lại-da là tổng biệt của tham.
Nhiếp luận và Luận thích đủ như trong sớ dẫn. Lại xét trong kinh Đại Bát-nhã quyển 47 nói các pháp ái lạc, kinh ấy tuy lại không nói Lại-da mà lấy nó để giải thích các tên ái lạc kia, nhưng giải thích đối với ái này, A-lại-da lẽ ra cũng không có lỗi, nên kinh ấy ghi: Nói pháp ái nghĩa là pháp này khởi ham muốn mong cầu. Nói pháp lạc nghĩa là công đức xưng tán đối với pháp này. Nói ưa thích pháp, nghĩa là đối với pháp này, hoan hỷ tin thọ. Nói hỷ pháp, nghĩa là đối với pháp này trông mong tu tập nhiều. Lại xét trong Du-già quyển 92 ghi: "Đối với cảnh ba đời sinh ái lạc v.v...", cũng có thể lấy đồng loại ấy để giải thích, cho nên luận ấy ghi: Nghĩa là đối với trời người trụ cảnh giới ái nương đời hiện tại, trụ cảnh giới lạc nương đời quá khứ, trụ cảnh giới ưa thích đời hiện tại nương cảnh quá khứ sinh ái lạc, trụ cảnh giới hỷ ở đời vị lai nương cảnh hiện tại sinh ái lạc, nếu ở trong cảnh ba đời như vậy trụ ở nhiễm ô, phải biết đó gọi là xưng tán ham muốn, có khổ thiếu hụt". Theo luận Du-già giải các ái lạc, giải thích bốn A-lại-da cũng có hành tướng của một nhà, gồm chánh hợp nói tổng thành bốn giải thích.
Hỏi: Nói A-lại-da là nghĩa chấp tàng, vì Thức thứ bảy chấp gọi là Lại-da? Nhiếp luận đứng về ba đời để giải thích, tức chỉ có Thức thứ sáu, lẽ nào trái ngược?
Đáp: Có ba giải thích:
1. Tên gọi A-lại-da chỉ nương ngã ái Thức thứ bảy mà được, luận chỉ có nương Thức thứ sáu giải thích là đối với tha tông.
2. Thông ngã ái Thức thứ sáu, thứ bảy mà có tên, ngã ái chấp tàng không lựa chọn sai khác, dù có chỗ nói chỉ nương Thức thứ bảy, nên biết nương tương tục ấy mà nói, trong Địa thứ tư không bỏ tên ấy, phải đến Địa thứ tám mới xả, y chỗ cứu cánh cùng tận ấy mà nói. Nhưng hai luận ấy y đối tha mà giải thích.
3. Được tên như sư thứ hai trước đã nói. Trong hai luận, thông nương Thức thứ sáu thứ bảy. Vả lại Vô Tánh giải thích ái A-lại-da không nói về ba đời, do tổng nói tức thông Thức thứ bảy. Giải thích sau của Thế Thân giải thích tên ái ấy cũng thông Thức thứ bảy, duyên hiện tạng thức làm ngã, đối với lý không trái.
Luận: Là sinh một khổ ái xứ.
Hỏi: Nếu Hữu tông nói ái chấp căn cứ nẻo thiện mà nói, nói khổ thọ không ái chấp bèn có lỗi tương phù chăng?
Đáp: Trong kinh ấy ghi: Chúng sinh thế gian ái A-lại-da v.v... lẽ nào chỗ khổ ấy chẳng phải thế gian sao? Đã là thế gian sao không có các pháp sở chấp, cho nên khổ xứ tức ngã A-lại-da làm chỗ chân chấp.
Sớ: Trong Nhiếp luận không nói các trừ chấp.
Do Hữu tông ấy nói các Thánh đều là vô ngã kiến không chỉ có vô học, là đối với tông ấy, nên không riêng trừ người vô học, tức Vô Tánh luận quyển 2 ghi: Tuy đối với chánh pháp tín giải vô ngã nhàm chán nghịch ngã kiến, nhưng tánh hằng ấy đối với A-lại-da thức ngã ái tùy chuyển.
Sớ: Thức thọ tưởng uẩn hoàn toàn v.v...
Trong hành uẩn không tương ưng chẳng phải các tâm sở, chẳng phải sở v.v... nên nói ít phần.
Hỏi: Nói chuyển thức rõ ràng lựa chọn Lại-da, tại sao được nói thức uẩn hoàn toàn ư? Nếu có Lạida thức uẩn tại sao không phải chấp chỗ?
Đáp: Nêu thức uẩn cực thành ấy để nói.
Sớ: Ở trên tổng lấy trong uẩn sai biệt lạc thọ thân kiến ba pháp v.v...
Tổng chỉ văn trước, đối Nhiếp luận ấy biện ít nhiều. Tổng biệt hợp nói có ba loại, tức luận trên nói không nên chấp năm thủ uẩn gọi là tổng thủ uẩn, năm dục trở xuống ở trong tổng uẩn nhưng riêng lìa khỏi gọi là trong biệt.
Sớ: Ở sau riêng ngăn năm pháp v.v...
Nay nói các thức, các sở tâm sở cùng lạc thọ và thân kiến ở trước có rộng hẹp. Suy nghĩ có thể rõ.
Sớ: Nhưng ở đây tổng nêu bày các bộ v.v...
Đủ như trong Nghĩa Đăng có biện rõ, nên không nói lại.
Sớ: "Lại tâm tương tục" đến "lưu chuyển không dứt".
Xét Đối Pháp luận quyển 2 ghi: Lại tâm tương tục, thời gian dài gián đoạn trải qua lưu chuyển lâu không dừng, thế nên chuyển thức năng trì chủng tử không đúng đạo lý. Nay trong sớ nói không đúng với văn kinh, hai chữ "không đúng" là văn viết nhầm.
Hoặc là sớ chủ lấy ý luận ấy, thêm vào hai chữ "không đúng" để nói văn kinh. Văn giải thích luận ấy ghi: Tâm tương tục là tạng thức, thời gian dài gián đoạn tức diệt định v.v..., lưu chuyển không dừng tức chủng tử. Lại xét trong luận Du-già quyển 51 ghi: "Lại các thức ấy thời gian dài gián đoạn, không nên tương tục, thời gian dài lưu chuyển".
Sớ: Nhiếp luận Vô Tánh quyển 2 giải thích v.v...
Xét luận ấy ghi: Lại các chuyển thức quyết định chẳng phải sở huân, do sáu thức ấy không quyết định tương ưng, vì sao? Vì lấy ba sai biệt cùng trái nhau. Nếu sáu chuyển thức quyết định đồng thời có, không lẽ sở y sở duyên, tác ý ba loại đều sai khác? Do mỗi mỗi sai biệt nên sáu món chuyển thức không nhất định câu sinh, không câu sinh nên không quyết định tương ưng, không tương ưng vì sao có nghĩa sở huân năng huân?
Sớ: "Trong đây nói" đến "hỗ tương trái nhau".
Trong này luận nói căn căn tác ý tức là Nhiếp luận do ba sai biệt hỗ tương trái nhau, lời khác mà ý đồng, trong sớ nói cùng huân nhau, chữ "trái" mới đúng.
Sớ: Nhiếp luận chỉ có một nhân trong đây.
Nhân luận này có bốn, trong Nhiếp luận chỉ có căn cảnh tác ý nhân sai biệt.
Hỏi: Xét ý luận ấy, do không tương ưng mà làm nghĩa nhân, lẽ nào không trái nhau sao?
Đáp: Không tương ưng là chánh nhân đó, căn cảnh đồng biệt là nhân của thành nhân, ngay chánh nhân này căn cứ nhân của thành nhân cũng không có lỗi.
Sớ: "Giải thích trước" đến "đồng thời thọ huân".
Trước nêu rằng, đây phá Kinh bộ, giả sử thừa nhận sáu thức đồng thời, đến khiến không được hỗ tương huân nhau, tổng giải thích trước, đồng với Nhiếp luận, trong đó dẫn Nhiếp luận làm chứng, vặn hỏi sáu thức ấy, không hỗ tương huân nhau.
Sớ: Nay giải chỉ ngăn thể của sáu thức, chẳng phải thọ huân v.v...
Tức trước nói hoặc như tha tự thân v.v... trở xuống vậy, chỉ có nương luận này không lấy Nhiếp luận, nên trong sớ kết rằng, không đồng Vô Tánh.
Sớ: Không khởi kiến giải này tự làm bất định.
Hỏi: Tám thức ba sai biệt, thể của Thức thứ tám lẽ ra chẳng phải thọ huân, lẽ nào chẳng phải lỗi ư? Đáp: Do có lỗi này nên ở sau sớ nói, lại Thức thứ sáu và thứ tám chẳng phải thuần khác, ý lựa chọn lỗi trước. Nếu chuẩn theo lựa chọn này, cũng bèn ngăn hỗ tương huân ấy, lượng có lỗi bất định. Do hai giải thích này lý đều thông, nên trong sớ không phán phân hai cách giải hơn kém.
Đáp: Tám thức làm sao hỗ tương huân nhau?
Đáp: Năng sở giúp nhau gọi đó là hỗ, chẳng phải làm năng huân sở huân, gọi là hỗ.
Luận: Các loại thiện sai biệt dễ thoát khởi.
Xét trong luận Du-già quyển 51 ghi: "Nếu không có A-lại-da thức có tánh chủng tử, không hợp đạo lý", nghĩa là sáu thức thân triển chuyển khác, vì sao? Từ thiện vô gián bất thiện tánh sinh, từ hai vô gián Vô ký tánh sinh, liệt giới vô gián giới sinh, trung giới vô gián diệu giới sinh, diệu giới vô gián nhẫn đến liệt giới sinh, Hữu lậu vô gián Vô lậu sinh, Vô lậu vô gián Hữu lậu sinh, thế gian xuất thế gian sinh, xuất thế vô gián thế gian sinh chẳng phải tướng như vậy, có tánh chủng tử đúng chánh đạo lý.
Giải thích rằng: Ba tánh, ba giới mỗi mỗi làm đầu đối hai pháp khác, hai pháp có nghĩa vô gián. Trong luận chỉ bày pháp làm không đủ, suy nghĩ có thể biết.
Hỏi: Hữu lậu thế gian, Vô lậu xuất thế, rốt cuộc có gì sai khác mà phân làm hai đối?
Đáp: Nghĩa thế gian rộng, nghĩa Hữu lậu hẹp, Vô lậu hậu trí Thánh giáo cũng gọi là trí thế gian, Vô lậu cũng rộng, nghĩa xuất thế hẹp, Vô lậu thông ở Căn bản và Hậu đắc trí, xuất thế phần nhiều thuộc Căn bản, rộng hẹp đã khác cho nên phân làm hai.
Luận: Vì không trụ chắc.
Hỏi: Không trụ chắc này cùng với trước gián đoạn dễ đổi các nhân có gì sai khác.
Đáp: Không bền chắc tổng mong nghĩa không có tương tục, gián đoạn dễ đổi riêng đứng về năm vị ba tánh v.v... để nói. Do đối với nhân bền trụ của Thức thứ tám nên nói riêng.
Luận: "Sắc không tương ưng" đến "lẽ nào là năng trì chủng".
Nếu Tùy chuyển lý thì thừa nhận sắc trì chủng, nếu chân thật lý thì kiến lập Lại-da rồi, tức chỉ có Thức thứ tám năng trì chủng, nên trong luận Dugià quyển 51 ghi: "Thế nào là nhân duyên? Nghĩa là các sắc căn, căn y và thức, hai pháp này lược nói năng trì, tất cả các pháp chủng tử tùy theo sắc căn, có các sắc căn chủng tử và các sắc pháp chủng tử, tất cả tâm tâm pháp v.v... làm chủng tử, nếu tùy theo thức có tất cả thức chủng tử, và Vô sắc pháp chủng tử khác, các sắc căn tu, nhưng sắc pháp chủng tử khác, nên biết những sắc pháp tự tánh chỉ có tự chủng tử đã tùy theo, trừ đại chủng sắc, do đại chủng sắc hai loại chủng tử đã tùy theo, nghĩa là đại chủng chủng tử và tạo sắc chủng tử". Tức sở lập này tùy theo sai biệt chủng tử tương tục, tùy theo sở ưng kia mong chỗ thuyết pháp này gọi là nhân duyên. Nếu các sắc căn và tự đại chủng, chẳng phải tâm tâm pháp chủng tử, nhập Diệt tận định, nhập Vô tưởng định, sinh Vô tưởng thiên, lúc sau không hợp các thức lại sinh. Nếu các thức chẳng phải sắc chủng tử đã tùy theo, là sinh Vô sắc giới dị sinh, từ thọ tận nghiệp hết không sinh trở lại thời sau. Sắc không có chủng tử lẽ ra không sinh trở lại, tâm sắc ấy v.v... nhưng ắt sinh lại, thế nên phải biết các loại tâm sắc chủng tùy theo tâm sắc lấy đây làm duyên tâm, sắc sinh lại. Chỗ kiến lập này đạo lý chủng tử, phải biết lại nương cái chưa kiến lập A-lại-da thức Thánh giáo mà nói, nếu đã kiến lập A-lại-da thức phải biết lược nói các pháp chủng tử tất cả đều nương A-lại-da.
Luận: "Có thuyết nói sáu thức" đến "nhưng không sai biệt". Nhưng chuẩn theo các giáo, sư Kinh bộ chấp tổng cộng có bốn loại:
1. Bản Kinh bộ thừa nhận sáu căn bên trong là tánh sở huân, như trong luận Du-già quyển 51 phần cuối nói: Sắc trì chủng, tùy theo lời nói kia như trước đã dẫn. Lại Thuận Chánh Lý quyển 18 ghi: Đây là xưa tùy theo thể không thể nói, chỉ nên nói là nghiệp phiền não sở huân sáu xứ, cảm quả khác sinh.
Giải thích: Tùy theo giới tức là tên khác của chủng tử, tân cựu sư riêng gọi là cựu tùy giới.
2. Sáu thức triển chuyển mà hỗ tương huân nhau.
3. Niệm trước huân niệm sau.
4. Cùng loại thọ huân.
Cho nên Vô Tánh luận quyển 2 ghi: "Lại có chỗ huân tập dị chấp như vậy, hoặc nói sáu thức triển chuyển huân nhau. Hoặc nói niệm trước huân ở niệm sau, hoặc nói huân thức chủng loại mạt-na".
Hỏi: Luận này ở sau nói: Sáu thức thân hoặc sự, hoặc loại, hai niệm trước sau đã không cùng có, chẳng phải hỗ tương huân, chuẩn theo đây tha thừa nhận việc trước sau so sánh lại hỗ tương huân, nếu không phải như vậy thì phá tha có lỗi tương phù, đã không tương phù chấp vì sao chẳng phải năm?
Đáp: Có ba giải thích:
1. Căn cứ đây quả thật có năm loại, nói bốn pháp là không đúng.
2. Luận này cùng phá chấp thứ ba, thứ tư ở trước, chẳng phải là biệt chấp.
3. Lập ngăn chẳng phải là bản chấp.
Biện rằng: Thứ ba thù thắng, còn lại thì Đại thừa Tiểu thừa không có nói, nếu nói cùng phá ba và bốn chấp làm sao vặn hỏi nói chẳng phải hỗ tương huân? lẽ nào là ba và bốn chấp thừa nhận hỗ tương huân ư?
Luận: Thức chuyển biến.
Có thuyết nói chuyển biến nhưng có ba nghĩa:
1. Tự loại không đồng thời, trước sau chuyển biến.
2. Tự tha không đồng thời, trước sau chuyển biến.
3. Tánh, giới, địa v.v... trước sau chuyển biến.
Cho nên thể sự của thức không thể trì chủng, nếu thừa nhận trì chủng, tâm sở y diệt, chủng cũng mất theo, niệm sau quả khởi lẽ ra không có nhân, nên ở trên thức giả lập một loại, thể của thức tuy khác mà loại của thức thì đồng, quán thông trong hai niệm trước sau, ở trong hai niệm không có chuyển biến trì chủng thọ huân, như Thượng tọa bộ nhân quả sinh diệt, như thức của niệm ban đầu khi ở trong sinh tướng, loại của nó cũng vậy. Đến niệm thứ hai thức ở diệt tướng, không có tự thể, chẳng phải nhân, loại ở dị tướng năng sinh hậu thức và loại sinh tướng, cùng với niệm sau này thể của thức đồng thời có hai loại ấy, nhân ở dị tướng, quả ở sinh tướng, thức đồng thời này huân sinh tướng loại, loại trước lực kém chỉ trì chủng cũ không thể thọ huân, như vậy loại này niệm niệm tương tục, trước đến dị tướng, sau đến sinh tướng, trì chủng không đoạn, nếu đối với năm chủng, không có tâm vị, tuy không sinh tâm nhưng loại không đoạn. Văn sau phá rằng: Lại vô tâm vị loại này quyết định không có, y tự tông phá, hoặc có tâm vị như sinh tướng trước, hoặc vô tâm vị loại ấy cũng không, giả ắt nương thật vì không có sở y. Biện rằng: Căn cứ kinh Đại thừa Tiểu thừa các luận tạng và cổ đức xưa nay biên chép đều không nói Kinh bộ hiện đang thừa nhận có hai thời, sợ tự xuyên tạc do ý định. Chuẩn theo tông chấp ấy, trước sau hai thức đồng một loại thức, không nói hiện đang phân hai thời. Cho nên Vô Tánh luận quyển 2 ghi: "Sáu loại chuyển thức hoặc hai sát-na đồng một loại thức". Nếu nói tợ là nương ít phần ấy mà nói, nhưng không nói hiện đang đồng với hai phần ấy. Nếu lập chống chế này, lý có thể thông chút ít, nhưng lập không rõ ràng, cho nên vặn hỏi chuẩn theo đây.
Luận: Nếu là thiện ác lẽ ra không thọ huân v.v... Hỏi: Nếu pháp thiện ác, không thể thọ huân nên không trì chủng, tại sao Du-già thừa nhận pháp ba tánh hỗ tương trì chủng? Cho nên quyển 51 ghi: "Nếu khởi tâm thiện, hoặc tâm nhiễm ô, hoặc tâm Vô ký, tất cả tâm này đều thiện chủng tử, nhiễm ô chủng tử, Vô ký chủng tử đã tùy theo kiến lập này". Đáp: Tùy chuyển lý môn, chẳng phải nghĩa chân thật, trong Du-già tự hiểu, văn như trước có dẫn.
Luận: "A-la-hán" đến "pháp Vô lậu huân v.v...".
Hỏi: Chuẩn theo trong sớ phán phân, hoặc căn cứ tự thân thứ lớp của phàm thánh, hoặc đứng về tha tự phàm thánh huân nhau, do đâu làm vặn hỏi này?
Đáp: Do bản chấp thức hai niệm không đồng thời, không có nghĩa tương ưng, bị Đại thừa phá huân tập không thành, cho nên chưa chấp loại hai thức trước sau mà so sánh là một, nên thức trước huân loại, năng huân sở huân không có lỗi không đồng thời, năng sở y sai khác, cũng được gọi là năng sở huân cả hai. Đoạn loại lìa thức mà không có thự thể khác, cũng được gọi là do trước huân sau, cho nên Vô tánh luận quyển 2 ghi: "Nếu nói y chỉ chủng loại cú nghĩa, sáu loại chuyển thức hoặc hai sát-na đồng một thức loại, do dị phẩm nên có tướng huân tập, chẳng phải tất cả".
Giải thích rằng: Thức trước sau sai khác, năng sở huân khác gọi là dị phẩm. Lại nói gần kế trước sau tương huân không nói tất cả, nói chẳng phải tất cả.
Hỏi: Nhưng thức huân loại sao gọi là hỗ tương? Đáp: Giả thật năng sở hình đối đãi gọi là hỗ, cũng như ở đời nói cha con tương sinh. Lại loại đã một thức sau huân lúc bấy giờ cũng được gọi là huân niệm trước, như trước huân thức sau ý nghĩa đồng. Hoặc có thể họ thừa nhận loại, thức huân nhau, đồng với luận này nói, nếu không như vậy sao gọi là hỗ tương? Đã thừa nhận trước sau nhiều thức tuy khác mà loại là đồng, cho nên trước huân sau, trước phàm sau Thánh, loại đồng thức khác, sao không đồng họ trước huân sau?
Hỏi: Nếu vậy chỉ có thể vặn hỏi tự trước sau, tại sao vặn hỏi khiến dị thân huân nhau?
Đáp: Tự thức trước sau dị loại đồng được huân nhau, tha thân loại cũng đồng nên vặn hỏi lại huân tập, nên trong Vô Tánh luận ghi: Tâm A-la-hán không phát ra thức loại, nó cũng phải là bất thiện sở huân, cùng với đây đồng.
Sớ: Do bản chấp ấy là bản ý này.
Phán phân ý này rằng, trước sau thức khác mà thức loại đồng, thức loại thọ huân, thức gọi căn, phá; căn, pháp khác đồng với căn và pháp của thức, cũng được gọi là thức loại đồng. Loại pháp này lẽ ra hỗ tương huân nhau, đồng với loại của thức trước sau ấy.
Hỏi: Trước sau đều là thức đồng loại có thể huân, còn căn pháp chẳng phải thức đồng loại, sao được nêu bày huân?
Đáp: Loại là tương tợ, thức có căn pháp, các căn pháp tợ khác đã tợ đối với thức sao chẳng phải thức loại? Thức loại đã đồng, vì sao chẳng phải huân lẫn nhau?
Sớ: Hoặc hợp ý căn thành tạo sắc tánh v.v...
Xét luận ấy quyển 2 ghi: Nghĩa là nhãn v.v... căn thanh tịnh sắc tánh đều là chỗ tùy theo của căn chủng loại, ý căn cũng lẽ ra thành tạo sắc tánh, vì các nghĩa căn.
Hỏi: Loại thuộc đồng phần, tức thuộc hành uẩn, vì sao ý vặn hỏi khiến thành tạo sắc?
Đáp: Vả lại năm căn tợ giả thật nếu luận riêng thì thuộc về pháp đồng phần, nhiếp giả từ thật gồm thâu nhiếp sắc giới, thức loại cũng vậy. Luận căn cứ nhiếp giả tùy thật môn mà nói, cũng không có lỗi. Nhưng ý vặn hỏi rằng: Hai tâm trước sau thức dị loại đồng, đều đồng thời với thức uẩn, sắc tâm hai pháp khác căn đồng loại, đều đồng thời với sắc uẩn, nếu nói sắc tâm sai biệt, không được đồng tạo sắc, cũng có thể sắc tâm sai khác căn loại không nên đồng, rộng phá như các luận.
Sớ: Hậu Vô ký có thể như vậy.
Đây giả sử thừa nhận, trong Vô ký rõ ràng rước huân sau, lý thật không đúng, huân tập cùng thời, không được trước sau. Hậu Vô ký chẳng phải đều là Thức thứ tám, nên biết giả sử thừa nhận.
Luận: Cũng không nên chấp sắc tâm triển chuyển hỗ tương làm chủng sinh.
Như quyển 51 rộng nêu bày chấp ấy, đủ như trước đã dẫn.
Luận: Y tợ tỷ lượng v.v...
Như trong sớ, Xu Yếu, Nghĩa Đăng nói đủ.
Hỏi: Như Phật pháp là đối Thanh luận sư lập thanh vô thường, thanh tông hữu pháp không lập lỗi ấy, chân tánh Hữu vi đã là hữu pháp, vì sao các sớ phán phân thành lỗi? Do trong hữu pháp không nói không chăng?
Đáp: Như Số luận sư đối với Phật pháp nói ngã là tư, tuy trong Phật pháp thừa nhận có giả ngã, trong luận nói không phân biệt, ý bàn tư ngã nên có lỗi sở biệt, loại này cũng vậy, cho nên có lỗi của pháp.
Hỏi: Nếu vậy tông thanh cũng không phân biệt tông đối thanh thường, nên có lỗi sở biệt?
Đáp: Tạm nói thanh lập, đối phương đều thừa nhận, chân tánh Hữu vi đạo lý sai biệt, lập đối phương bèn có sai khác, nên có lỗi của pháp, không đồng tông thanh. Chuẩn theo Chưởng Trân luận có rộng phân tranh, như trong Nhân Minh có dẫn.
Luận: "Ngoại đạo" đến "thành đại tà kiến".
Có nghĩa, nếu nói phá này họ chống chế khiến đồng ngoại đạo, là tự tông y tha cũng chẳng phải thật có, hai lỗi đã đồng tại sao riêng vặn hỏi? Nên nay riêng giải thích. Ngoại đạo hủy báng chỉ nói chẳng phải thật, chứ không phải vì nêu bày nên đều là đại tà kiến, nay ông nói không thành đại tà kiến, giải thích thành đại tà kiến không phải phá chống chế.
Biện rằng: Thật nói chỉ có thuộc pháp thường tịch, có thể như đã phán phân, nếu nhân chiêu cảm đạo lý chẳng phải lầm gọi đó là thật, tự tông y tha sao không gọi là thật? Tức đoạn sau nói, thể của thú sinh là phải thật có, thể thú sinh này lẽ nào chẳng phải y tha? Trong Thánh giáo nói chỗ thật chẳng phải một. Do đây phá chống chế đạo lý không trái, lại nếu không chống chế, tại sao luận nói ngoại đạo hủy báng, cũng không nói hoàn toàn không, cũng nói cũng là ai, cho nên biết sớ giải thích thâm đắc diệu chỉ.
Luận: "Nếu tất cả pháp" đến "tư lương của Bồđề".
Hỏi: Xét luận Chưởng Trân ghi: Y thế tục phước trí tư lương hai loại chẳng phải không có, y tha cũng có, nay vặn hỏi y tha lẽ nào tông không có lỗi sao?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Vặn hỏi chẳng phải thật không trách cái không kia, tức luận kế nói không nói hoàn toàn không có, nhưng chấp chẳng phải thật, nên biết tông ấy thế tục tuy có mà chẳng phải thật, nếu không như vậy lại có tha tùy theo một lỗi.
2. Căn cứ Thắng nghĩa, bản được tư lương cực quy về chân đế, chân đế tức không, tư lương dùng làm gì.
Sớ: "Và Nhiếp luận quyển 2" đến "nghĩa trong quyển 3".
Nhiếp luận Vô Tánh quyển 2 rộng nói huân tập, trong huân tập mà biện nghĩa nhiễm tịnh do tâm.
Lại nói: An lập tướng Thức thứ tám lược có ba loại:
1. Tự tướng.
2. Nhân tướng.
3. Quả tướng.
Trong quả tướng cũng nói rõ tạp nhiễm thanh tịnh do tâm, như ở sau trong phần sớ sao có dẫn, nên ở đây không nói đủ.
Luận: Mạng căn ấy v.v... vì không có việc này. Hỏi: Các căn như nhãn v.v..., nhãn v.v... căn đoạn, Hữu tông chánh nghĩa không thừa nhận lại tương tục, dựa vào đâu nói?
Đáp: Xét luận Đại Bà-sa quyển 150 ghi: "Nếu khi thiên nhãn hiện tiền sinh đắc nhãn là đoạn chăng? Nếu đoạn tại sao không nói dị thục sinh sắc đoạn rồi sau tương tục, nếu không đoạn thì cả hai đều thấy sắc vì sao không lẫn lộn?"
Đáp: Nên nói không đoạn, do dị thục sắc đoạn rồi lại không tương tục, có thuyết nói khi thiên nhãn khởi sinh đắc nhãn đoạn. Đoạn có hai loại: Một là tạm thời đoạn, hai là rốt ráo đoạn. Tạm thời đoạn là có thể tương tục, rốt ráo đoạn là không tương tục, nên không có lỗi. Có thuyết nói sinh đắc thiên nhãn cùng nhau tương tục vì sinh chưa từng không có, nên không thể nói đoạn. Có thuyết nói khi nhãn sinh đắc nhãn đoạn cũng không có lỗi, cũng có dị thục sắc đoạn rồi mà tương tục, tại sao biết như vậy? Như trong Khế kinh ghi: "Vua trong tất cả hành bố thí tự móc hai mắt bố thí cho Bà-lamôn, do tư nguyện thù thắng khiến mắt bình phục". Lại như trong kinh ghi: "Ác Hành lúc đó do Kiệtđịa-la-câu lấy con mắt thiện hành, cũng do thắng tư nên lại được nhãn căn". Giả sử luận nói, địa ngục có núi đè ép khiến hữu tình thân thể hư hoại, sau đó không bao lâu các căn sinh lại, trong các địa ngục loại này chẳng phải một, nên biết dị thục sắc đoạn rồi lại tương tục.
Biện rằng: Nói như vậy, khi khởi thiên nhãn sinh đắc không diệt, dị thục sắc đoạn cũng không có nghĩa tương tục.
Hỏi: Trước đã dẫn sự tại sao nói thông?
Đáp: Thật chưa móc mắt, việc ấy thế nào? Nghĩa là Phật ngày xưa khi làm Bồ-tát, từng làm Quốc vương gọi Nhất thiết thí, hay do làm mãn nguyện cho tất cả người đến cầu, người trên trời gọi là lưu bố, lúc bấy giờ Thiên Đế Thích liền đến suy nghiệm biết ý thí ấy, lại tự hóa thành thân Bàla-môn, đi đến trước vua chú nguyện rằng:
- Nguyện thường tôn thắng. Vua hỏi:
- Phạm Chí đến đây muốn cầu việc gì? Phạm Chí đáp:
- Ta đang cần mắt vua.
Vua dùng bốn báu làm mắt để cúng thí, Phạm Chí không chịu nhận lời và nói ta cần mắt vua, không cần lấy thứ này. Vua nghe việc này lại đưa hai tay sắp tự móc mắt, Đế Thích biết tâm bố thí của vua quyết định ngăn lại và hỏi vua:
- Ông muốn cầu gì? Vua nói:
- Chỉ có các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là mong cầu của ta.
Đế Thích nghe rồi hiện trở lại thân hình cũ, khen ngợi vua rằng:
- Thật là Bồ-tát không bao lâu quyết định được Vô thượng Bồ-đề.
Nói lời này rồi bỗng nhiên ẩn mất, cho nên lúc bấy giờ vua thật chưa móc mắt. Lại họ dẫn trong Thiện Ác Hành kinh, trong các địa ngục có các chủng tử khác, nếu không như vậy thì đoạn rồi lại không sinh.
Giải thích rằng: Đây nói chủng tử, như quyển 19, tức luận kia nói, nếu trong địa ngục tháo các chi tiết, nhẫn đến mài nát cũng có thân căn. Có thuyết nói lúc bấy giờ cũng có nhãn v.v..., dị thục đoạn rồi lại không tương tục. Có thuyết nói nhãn v.v... đoạn rồi lại tương tục, do nghiệp dẫn cho nên các nẻo pháp vốn như vậy. Thân căn ắt không đoạn lại tương tục, các sắc căn này là chỗ nương dừng. Các sư khác nói trong các địa ngục tuy tháo chi tiết thành trăm ngàn phần, nhưng trong các phần đều có thân căn, trong các phần nối nhau liên tục, như đập dập cây đỗ trọng và gốc cọng ngó sen. Lại như đập dập dây dưa bị gãy mà không đứt lìa, nếu lìa nhau thì thân căn cũng không có. Chẳng phải mười hữu tình có hai thân, nhưng ở đời hiện thấy các thân côn trùng đứt nhiều đoạn mà vẫn còn ngọ nguậy là do sức của phong chuyển, chẳng phải có thân căn.
Giải thích rằng: Đây chính là nhà luận chủng tử. Nếu y Kinh bộ, dị thục sắc pháp đoạn rồi lại tương tục, nay y Đại thừa, các dị thục sắc tuy đoạn rồi lại tương tục, nếu lìa các căn lại không chấp thọ, cũng gọi là không tương tục, nhưng sau khi căn đoạn rồi từ chủng sinh cũng gọi là tục, vua bố thí các việc ấy lý không trái. Nhưng đối với địa ngục, trong truyện có hai thuyết:
1. Tất cả các căn như nhãn v.v... ở trong địa ngục ắt không có nghĩa đoạn, vì tương tục thọ khổ không có gián đoạn.
2. Vô gián địa ngục các căn không đoạn, sáu thức sáng suốt lanh lợi vì khổ tương tục. Trong các địa ngục khác cũng có gián đoạn, tùy đoạn tùy sinh, vì trong Khế kinh nói, có nghĩa là tuy chưa thấy văn nhưng thuyết sau là thù thắng.
Biện rằng: Đã không có văn phán phân, thuyết trước sao lại không thù thắng? Do đây lấy bỏ tùy ý.
Luận: Lại ở trong định v.v...
Xét luận Du-già quyển 51 ghi: Nghĩa là như lý suy nghĩ đến định và tán loạn bao gồm có sáu vị, đủ như trong sớ nói. Hành tướng ấy là suy lường an lập, phi an lập đế. Chánh tư duy gọi là như lý tư duy, các loại ngoại đạo lẽ nào sánh kịp chăng? Tư duy lường xét là không như lý mà tư duy. Các duyên mặc tình và vô tâm vị gọi là không tư duy. Nếu tâm tư duy lựa chọn gọi là suy cầu. Nghĩa của hai vị định và tán nên biết. Luận này chỉ có bốn, rộng lược có sai khác, nhưng nhiếp nhau với lý kia, suy nghĩ có thể biết.
Luận: Lý có rất nhiều thân sinh khởi.
Thân này thọ tức là trong các định là xúc cảnh sở duyên Thức thứ tám, là hậu thân thức sở thủ bản chất, như trong sớ giải thích. Lại có thuyết nói, nhập các vị của định có năm thức thân, thân thọ sinh khởi, chứng có Thức thứ tám, nghĩa là do Thức thứ tám biến xúc của bản chất, thân thức nương khởi xúc ảnh tượng ấy, nếu không có bản chất ảnh tượng cũng không, tại sao ở định được có thân thức? Nghĩa là thọ cảnh ấy, việc làm lao nhọc hay vừa ý liền thành. Xác quyết rằng, sớ giải thích là chính, khiến thân nhọc tổn vì chẳng phải ảnh tượng, các thời khác cũng có tướng ảnh tượng, cho nên ở trong tất cả vị lẽ ra đều nên nói.
Biện rằng: Các giải thích khác và xác quyết, lý đều có thừa, lẽ nào khi vô tâm hậu thân thức khởi không biết lao nhọc hay vừa ý? Nếu vậy tại sao chỉ có đứng về trong định có thức mà nói? Lý năm thức được nhân duyên biến thâu nhiếp, xúc ảnh tượng tại sao vô dụng? Nếu nói năm thức là phân biệt biến, liền trái chánh lý, như trước biện đủ.
Sớ: Thân sở thọ nên trái nghĩa là thọ tâm sở.
Các xúc như lao nhọc hay vừa ý là thân sở thọ, sở thọ gọi là thọ, chẳng phải thọ của năng thọ.
Sớ: "Đây lựa chọn khởi tâm dị thục" đến "không có đồng dụ".
Nếu không nói lựa chọn các tâm dị thục mà chỉ nói chẳng phải thật hữu tình nên khởi dị thục, đây liền tương phù, tha cũng có khởi tâm dị thục, lại do không lựa chọn các tâm dị thục, lại ở trong tông không thể lấy tông mà dùng làm dụ, nên thiếu lỗi dụ.
Sớ: Nếu không như vậy lại có sở lập không thành v.v...
Nếu cũng không có thừa nhận như vậy, thì dụ của luận chủ có lỗi tự sở lập, do tự không thừa nhận sáu loại chuyển thức chân dị thục.
Sớ: Họ nói không có nên không có câu bất thành.
Tiểu thừa ấy không thừa nhận Thức thứ tám, Thức thứ tám đã không có, lại không có tự thể của dụ, do không có dụ y, cả hai lập liền không, gọi là không có câu bất thành.
Luận: Chẳng phải pháp dị thục thú sinh tạp loạn v.v... Lựa chọn sắc, tâm, tâm sở, biện đủ như trong Nghĩa Đăng.
Hỏi: Chiêu lấy nghiệp trong ba đường, khởi ắt trong cõi người, nghiệp hoặc này thuộc nẻo nào? Nếu thuộc ở cõi người lẽ nào có thể người chiêu cảm nghiệp ba đường ác ư? Nếu thuộc về ba đường, cảm nghiệp trong ba đường phân biệt hoặc phát khởi, nó không phân biệt làm sao được thuộc về nó?
Đáp: Trong truyện có hai giải thích:
1. Trong loài người tạo nghiệp nẻo ác mà cảm quả báo ấy, hay chiêu nghiệp cảm nên thuộc ở cõi người, do ba đường ác không phân biệt.
2. Tuy ở cõi người khởi hoặc nghiệp ấy, hoặc nghiệp lại thuộc chiêu cảm báo thú, không thể nghiệp hoặc cõi khác chiêu cảm quả cói khác, nhưng nói nẻo ác không phân biệt hoặc, căn cứ không hiện nói, không chướng thành tựu.
Biện rằng: Cả hai đều có lý, lại nương giải thích sau. Như ở trong loài người khởi nghiệp cõi trên nghiệp thuộc cõi trên. Lại trong loài người, nghiệp làm duyên xa, cũng không có lỗi, như do muốn thiện được định trên, nếu y giải thích trước thì thiếu nhân của định dị.
Sớ: Trong dị thục sắc có chín xứ trừ thanh.
Do tha không thừa nhận thanh là dị thục, nay lựa chọn cùng thừa nhận cho nên trừ thanh.
Sớ: Nhưng đây tuy nói bất cộng nhân.
Tức nhân hằng, sinh đắc thiện v.v... không gọi là bất cộng.
Sớ: Cũng nói cộng v.v...
Tức biến không tạp, sinh đắc thiện v.v... tự tha đều có gọi là cộng.
Sớ: Có tự thể thông, ở trên cũng có.
Kỳ thật có nhân thông, ở trước đã nói chẳng phải dị thục v.v..., và sắc dị thục năm thức nghiệp cảm, cho nên nay không nêu.
Luận: Cũng chẳng phải thuộc về giới vì chẳng phải Hữu lậu.
Hỏi: Thú sinh hữu lậu lấy chứng thứ tám, giới chẳng phải Vô lậu sao không nói có Thức thứ tám? Đáp: Giới tuy Hữu lậu, nhưng thông ba tánh và tình phi tình, cho nên không thể chứng đối với hữu tình dị thục thức.
Sớ: Năm căn ở tự thân.
Hiển tự năm căn là tự tám tướng, Thức thứ tám chấp thọ.
Sớ: Chẳng phải tướng phần, tha thân năm căn khác nương v.v...
Đây nói tha thân năm căn và y, không phải tự Thức thứ tám tướng phần từ Thức thứ tám không chấp.
Sớ: Tát-bà-đa chẳng phải quá khứ vị lai.
Đời quá khứ vị lai không gọi là chấp thọ, gọi là chẳng phải quá khứ vị lai, không nói quá khứ vị lai nhưng không có tự thể nên gọi là chẳng phải quá khứ vị lai. Thế nên Câu-xá ghi: Trong mười tám giới có chín giới không có chấp thọ, nghĩa là bảy tâm giới, thanh giới, pháp giới, còn chín giới khác đều thông hai loại, nghĩa là nhãn v.v... căn trụ đời hiện tại gọi là có chấp thọ, quá khứ vị lai gọi là không chấp thọ. Sắc hương vị xúc trụ đời hiện tại không lìa năm căn gọi là có chấp thọ, nếu trụ hiện tại chẳng phải không lìa căn, quá khứ vị lai gọi là không chấp thọ. Như ở trong thân trừ cùng căn hợp, tóc lông móng răng, đại tiểu tiện lợi, đàm dãi máu v.v... và ở ngoài thân như sắc hương vị xúc trong đất nước v.v..., tuy cũng hiện tại mà không chấp thọ.
Trong Chánh Lý luận ghi: Các sư khác nói không lìa căn thanh cũng có chấp thọ.
Hỏi: Trụ vô tâm vị hiện tại, năm căn sao gọi là chấp thọ?
Đáp: Chấp thọ loại cho nên cũng gọi là chấp thọ. Nếu vậy quá khứ vị lai nên gọi là chấp thọ, vặn hỏi này nếu không đúng, năm căn hiện tại dung chứa có phát thức gọi là có chấp thọ, quá khứ vị lai thì không như vậy. Lại giải thích hiện căn thức khi không khởi gọi là không chấp thọ, y hiện phát thức nói có chấp thọ, không nói hiện tại chỉ có chấp thọ. Như định đạo giới hay tạo đại chủng, tuy không lìa thân cũng là hiện tại mà không chấp thọ, năm căn cũng vậy. Sư trước giải thích rằng: Định đạo đại chủng tại định liền có, xuất định liền không gọi là không chấp thọ, năm căn tương tục cùng thức không đồng. Sớ y nghĩa trước, có xác quyết cho rằng giải thích sau là thù thắng.
Biện rằng: Đã chưa có văn, cả hai đều có lý, mặc tình lấy bỏ.
Sớ: Giả sử Thức thứ bảy cũng hiện duyên khởi.
Đây giải thích chiết phục vặn hỏi, vặn hỏi rằng: Nếu mặc tình sinh tức năng chấp thọ thứ bảy lẽ ra như vậy, nên văn này sinh. Do Thức thứ bảy Hữu phú Vô ký, chẳng phải nghiệp trước dẫn, nên hiện duyên sinh, không gọi là năng chấp.
Luận: "Chỉ có tâm dị thục" đến "không có nghĩa như vậy".
Xét luận Du-già quyển 51, do năm nhân nên hiển năng chấp thọ là A-lại-da. Sớ tuy đã dẫn nhưng cùng bản văn có khác nhiều ít, thoạt bị vặn hỏi nên dẫn lại. Luận ghi: Nghĩa là A-lại-da thức đời trước đã tạo nghiệp hành làm nhân, nhãn v.v... chuyển thức ở đời hiện tại, các duyên làm nhân, như nói căn và cảnh giới do sức tác ý nên chuyển thức sinh, nhẫn đến rộng nói, đây gọi là nhân đầu. Lại sáu thức thân có các tánh thiện và bất thiện có thể được, đây là nhân thứ hai. Lại sáu thức thân Vô phú Vô ký dị thục thuộc sở nhiếp không thể được, đây là nhân thứ ba. Lại sáu thức thân đều riêng y chuyển ở nơi bỉ bi y bỉ bỉ thức chuyển, tức bỉ sở y nên có chấp thọ, còn không chấp thọ không đúng đạo lý, giả sử thừa nhận chấp thọ cũng không đúng lý, vì thức xa lìa, đây là nhân thứ tư. Lại sở y lẽ ra thành thường, thường là lỗi chấp thọ, vì sao? Do nhãn thức ấy ở trong một thời chuyển, một thời không chuyển, các thức cũng vậy, đây là nhân thứ năm.
Luận: "Ý đây nói" đến "chấp thọ v.v...".
Hỏi: Trước chánh chấp đủ lựa chọn lời nói này lẫn lộn sao chỉ có ba?
Đáp: Đủ như trong sớ và Nghĩa Đăng. Có nghĩa, lựa chọn lẫn lộn trong văn nên trước nêu vặn hỏi. Nghĩa là người ngoài vặn hỏi rằng: Nếu chỉ có dị thục năng chấp thọ thì báo thân chư Phật lẽ ra không chấp thọ, không có dị thục, nên đáp như trong luận. Chỉ có ba nghĩa trước hiển chấp thọ Hữu lậu, nên năm nghĩa lựa chọn, nay hiển chấp thọ Vô lậu căn thân nên chỉ nói ba, Phật tịnh Thức thứ tám chẳng phải nghiệp sở dẫn, là thiện tánh nên không có hai nhân đầu. Nếu y sớ nói, đây chỉ nên nói nhãn v.v... chuyển thức không có nghĩa như vậy, cần gì nêu lại. Một loại đồng ba, so với Nghĩa Đăng, đại ý tương tợ, nhưng có khác chút ít, suy nghĩ có thể biết.
Luận: Chẳng phải các sắc căn v.v...
Đối phá hai tông đủ như trong sớ đã nói. Có nghĩa, sớ nói sắc căn, chánh phá Kinh bộ bản chấp sắc căn cũng năng trì chủng và thọ huân, bất tương ưng hành riêng nói mạng căn và chúng đồng phần, chánh phá Nhất thiết hữu bộ, Kinh bộ không khác bất tương ưng, nên nay giải không đúng. Kinh bộ sắc tuy năng trì chủng, đã không có sở duyên, lý không đúng vì là năng chấp thọ, tông Nhất thiết hữu chỉ nói sắc căn, và căn y xứ, là có chấp thọ, mạng căn, đồng phần chẳng phải năng sở thọ cũng không nói là năng chấp thọ, nên nay riêng nói sắc căn chẳng phải chấp là ngăn phá Kinh bộ, bất tương ưng hành là ngăn Tát-bà-đa.
Lại giải thích văn này thông ngăn hai bộ, chỉ là chẳng phải chánh phá, đều không có lỗi.
Biện rằng: Sớ chỉ nói phá Kinh bộ, Hữu bộ mà không chánh nói, đây bèn vọng nói ra lỗi, lại giả sử chánh nói, lý nào có lỗi, do sư Kinh bộ thừa nhận sắc căn trì chủng thọ huân, sắc căn v.v... đối với luận gọi là chánh, không nói tha thừa nhận sắc căn chấp thọ, đối với luận gọi là chánh, trong Hữu bộ chuẩn theo đây. Lại nói ngăn chung cũng là không thể, việc của bất tương hành trì chủng hai bộ không sai khác, sao lại giả ngăn hết? Lời nói vô nghĩa sợ phiền bút nghiên.
Sớ: Thân cúi ngước.
Ngước là ngửa lên, cúi là gập xuống.
Sớ: "Dụ này có lỗi" đến "chẳng phải thức năng trì".
Hỏi: Dụ làm sao có lỗi?
Đáp: Sở lập không thành, y luận lượng rằng: Dị thục thức là tông Hữu pháp, có thể lập thành trì thọ, noãn thức là pháp, cũng như thọ, noãn là dụ của nó, nhân pháp có thể biết. Trên dụ thọ, noãn không có pháp có thể trì thọ noãn thức, do thọ noãn ấy mà thể không phải trì thọ noãn thức nên thành lỗi. Trong sớ giải thích, do thọ noãn chẳng phải trì thọ noãn thức.
Sớ: "Trước ta đã nói" đến "dùng noãn làm lý".
Trước nếu ta nói chuyển thức không khắp mà không năng trì, ông có thể nêu noãn không khắp làm ví dụ, mà chỉ nói chuyển thức gián đoạn không trì, đâu được dùng noãn không khắp làm ví dụ.
Sớ: "Đây cũng không đúng" đến "và chẳng phải Vô lậu".
Ý người ngpài vặn hỏi, nếu thức thọ noãn đều năng trì, vặn hỏi thức đồng, còn lại không thông ba tánh, và ở Vô lậu cũng nên thọ noãn, đều năng trì, noãn đồng với thọ, noãn không phải noãn, noãn tuy năng trì không đồng với thọ, mà được gọi là noãn, thức tuy năng trì không còn hai mà thông ba tánh và với Vô lậu.
Sớ: "Ý này không đúng" đến "nêu bày thành lỗi".
Ý giải thích này nói: Ý vặn hỏi trước là không thể Vô lậu năng trì Hữu lậu, còn hai pháp năng trì pháp Hữu lậu, đã là Hữu lậu thức lẽ ra đồng với Vô lậu. Vặn hỏi ba tánh ý nghĩa cũng đồng với trước, lẽ nào có thể đem các vặn hỏi ba tánh, nương vặn hỏi thọ v.v... tất cả hợp đồng.
Sớ: Nếu không trì thì liền mất hoại.
Chủng nếu không có hiện thức trì, tức lại mất hoại.
Sớ: Tâm mê mờ ám muội tánh yếu kém.
Có nghĩa vị vô tâm này tại sao mê mờ yếu kém? Giải thích rằng: Tức ở vị trước, thân tâm hôn muội nên niệm sau các tâm không hiện hành, sở nhân ở đây nói chẳng phải vô tâm vị, nhưng lập nhân này lẽ ra nói thân tâm rất mê mờ, nếu không như vậy thì bất định, có tâm thùy miên cũng mê mờ.
Biện rằng: Chẳng phải không có nghĩa ấy, nhưng đối với hữu tâm nói vị thù thắng, vô tâm tâm gọi là mê mờ yếu kém. Yếu kém nghĩa là không có sức lực, không sinh hiện hành, như nói mặt trời lặn gọi là tối tăm, lý cũng đâu có lỗi. Nếu nói niệm sau mới vô tâm, dụ thiếu năng lập, trong văn đã nói khi cực muộn tuyệt, cực nghĩa là thông ở trên, văn phương tiện khéo léo, không phiền nêu ra.
Sớ: Văn này có thể như vậy vì nói không khác. Văn Duy thức này mong giải thích thứ nhất, lý có thể như vậy. Nói không khác là giải thích có thể đúng lý, tức luận này nói nghĩa là khi sinh khi tử hiển bày không có chuyển thức, nhưng có sớ bản nói tông không khác, chữ tông là nhầm, lẽ ra phải là chữ "nói" mới đúng.
Sớ: Tức dùng văn này chứng minh có Thức thứ sáu.
Đối Pháp luận lấy văn của tâm Vô ký mạng chung mà làm chứng. Hoặc có thể, do đây làm dẫn kinh mà làm chứng. Kinh ghi: Sinh tử ắt trụ tán tâm, nói tán tâm mà gọi là Thức thứ sáu, nếu không như vậy thì Thức thứ tám vốn có, nhọc gì nói lại? Thuyết trước là chính, thuận với văn sớ. Nếu giải thích riêng thì giải thích sau cũng không trái.
Sớ: "Kế là Nan-đà" đến "tiếng khen ngày nay". Đây nói tin nó là nhân làm người mê muội. Đối chư hiền ở trên nên gọi là "kế đến".
Sớ: Không thức để trù tính v.v...
Đây bèn sinh ở sau, người tin dị thuyết của Đại thừa, hoặc Nan-đà v.v... ở sau nói chung là tin dị thuyết Đại thừa, giải thích trước là chính.
Sớ: "Vô tâm riêng khởi" đến "ắt phải như vậy". Thân sơ hợp nói không lìa ba nhân, như các duyên nghe giáo đối với trần, tức sơ y ba, thân có thể biết.
Sớ nói: "Nếu họ ngầm nói" đến "không có tán ý".
Tức ý này chống chế rằng, Thức thứ tám thọ sinh rồi không khởi tán ý, kế đến Thức thứ sau liền khởi định tâm, định tâm đã có, ý lại được sinh. Sớ: Hoặc sinh đắc thiện dẫn sinh mới khởi.
Hỏi: Sinh đắc thiện này lẽ nào chẳng phải tư v.v... cần gì nói riêng?
Đáp: Sinh đắc nhân tu, tư v.v... Gia hạnh làm sao được đồng? Lại có rộng hẹp sai khác, sinh đắc thiện tâm thông ở trong ba cõi, tư v.v... không biến khắp.
Sớ: Tức lấy nhân của ông trở lại phá ông.
Họ nói ý thức hành, duyên khó hiểu, nay lấy nghĩa của họ vặn hỏi phá sở chấp kia, mà chẳng phải ý thức.
Luận: Lẽ ra biết tức là Thức thứ tám này.
Nhiếp luận của Vô Trước có ba nhân để phá, luận này chỉ có một. Quyển 3 của luận ấy ghi: Lại tức cùng với thức hòa hợp là tánh ý thức không hợp lý, vì y nhiễm ô, lúc bấy giờ không đoạn, ý thức sở duyên không thể được.
Vô tánh giải thích rằng: Y nhiễm ô là do lập tông môn, ý nói cùng pháp ấy tự tướng trái nhau, nghĩa là cộng quyết định nên có ba giải thích:
1. Y nhiễm ô mà lập tông pháp, nay dùng làm nhân cùng ý thức tông pháp Tiểu thừa, lỗi tác pháp tự tướng tương vi.
2. Đại thừa lập hòa hợp thức chẳng phải là ý làm tông pháp môn, Tiểu thừa sở lập là ý thức tánh làm pháp tự tướng y nhân nhiễm ô trái với tự tướng ấy.
3. Y nhiễm ô thật là nhân môn làm tông môn, do luận chủ lập trước hòa hợp thức, y nhiễm ô chỉ bày người ngoài, người ngoài tức thừa nhận lại không lập nhân, do sở lập này y tông môn nhiễm ô, cùng người ngoài ấy khởi lỗi ý thức tông pháp tự tướng tương vi, y chánh đạo lý, trước hòa hợp thức trên Hữu tông pháp có hai loại pháp: một là y nhiễm ô, hai là chẳng phải ý thức. Có chỗ nhiễm ô ắt có chẳng phải ý tông pháp tánh tùy theo, người ngoài tuy thừa nhận trước hòa hợp thức hằng y nhiễm ô, nhưng hòa hợp thức tức là ý thức, cũng như trên thanh có nhân sở tác, tông vô thường tùy theo tức cùng trên thanh pháp của thường tông tự tướng tương vi.
Hỏi: Nếu y nhiễm ô làm tông trong pháp lập lượng thế nào?
Đáp: Lập lượng rằng: Trước hòa hợp thức định y nhiễm ô, do năng chấp trì danh sắc v.v... cũng như mạng căn, đây do nhiễm ô ấy mà nói, mong ở luận chủ tự lập tức tông. Nếu mong phá tha tức là nhân.
Hỏi: Phá tha thì thế nào?
Đáp: Lập lượng rằng: Trước hòa hợp thức chẳng phải là ý thức, vì y nhiễm ô, cũng như mạng căn.
Biện rằng: Lý thứ hai thù thắng, do bản luận nói, lại tức cùng thức ấy hòa hợp là ý thức tánh không đúng đạo lý vì y nhiễm ô, nên biết y nhiễm chỉ gọi là nhân, tánh ý thức này không đúng lý chính là tông pháp. Nhưng giải thích ở văn, nói cũng chưa đủ, cho nên nay giải thích, do trước hai nhà lập tông pháp, rõ biết nhiễm ô cùng tông pháp của định tự tướng tương vi. Vì sao như vậy? Phàm nhân tương vi cùng tông pháp tương vi làm nhân. Nếu cũng không thấy hai pháp tông sai khác, nhân mong ở đâu gọi là tương vi? Do đây nên nói do lập tông mà nói. Lại nhân tương vi lập đối phương cùng thừa nhận, nếu không như vậy nhân ấy tức tùy theo một pháp để nhiếp, vì lựa chọn tùy theo một pháp nói cộng quyết định, nên Bản luận nói: Thức Yết-la-lam lại cùng hòa hợp như là ý thức. Đây là nêu lại tha tông. Lại nói, nếu hòa hợp thức này là tất cả chủng thức, tức A-lại-da thức, đây tức phá tha tự lập tông, nên biết Vô Tánh nói lập tông môn, không nói nhiễm ô là tông pháp. Lại trong Vô Tánh ghi: Như vậy khi kết sinh tướng tục, thức đối với tất cả xứ, chủng loại, thời phần đều y nhiễm ô, tức Trung hữu nhiếp hậu tâm làm y, tâm sở y này sinh cảnh Hữu vi, đối với tất cả xứ, chủng loại, thời phần là nhiễm ô, thức năng y chẳng phải là ý thức, do đây vượt qua pháp ý thức. Hoặc có thuyết nói, cùng bốn phiền não hằng tương ưng tâm gọi là y nhiễm ô.
Giải thích rằng: Khi mới thọ sinh cùng thức Yết-la-lam hòa hợp, đối với ba cõi, bốn loài chủng loại, ba đời thời phần đều nương nhiễm ô. Nói Trung hữu v.v... đây đưa ra thể sở y nhiễm ô.
Hỏi: Sinh Vô sắc giới đã không có Trung hữu tại sao làm y?
Đáp: Trong đây lại căn cứ sắc mà nói, nếu sinh Vô sắc lấy tâm mạng chung câu sinh ngã ái làm sở y xa, do nhân nhiễm này vượt qua sở lập ý thức tông pháp ấy, do ý thức đó chẳng phải Nhất thiết xứ, chủng loại, thời phần đều nương nhiễm ô.
Nghĩa của các sư khác, văn có thể biết.
Hỏi: Vì sao ý của hai sư không đồng?
Đáp: Vô gián, câu hữu hai y không đồng, mỗi người chọn lấy một.
Hỏi: Đã là dị loại, sao gọi là vô gián?
Đáp: Đứng về tông Hộ Pháp tức là không thể, các sư khác không trái, như ở sau tự giải thích.
Thời vô gián, trong Vô Tánh giải thích do dị thục tánh khi vô gián đoạn, do đây cũng ngăn tánh ý thức này.
Giải thích rằng: Không chỉ nhân trước ngăn ý thức, đây cũng là ngăn. Nếu khi ý thức này có gián đoạn, trước hòa hợp thức tức không như vậy, nếu thức ban đầu có gián đoạn, lúc sau nếu khởi lẽ ra nên gọi là sinh lại, rộng như ở sau có dẫn.
Ý thức sở duyên không thể biết được, Vô Tánh giải thích rằng: Nghĩa này lại tăng thêm ngăn nhân ý thức. Nếu ý thức quyết định có thể được tự cảnh sở duyên, nghĩa là có thể liễu tri, như vị Trung hữu ý thức rốt sau đã tương tục tâm sở duyên cảnh giới không thể liễu tri, nên chẳng phải ý thức.
Giải thích rằng: Nhân ban đầu nhiễm ô, không đoạn nhân thứ hai, là thứ nhất tăng nên không thể biết là thứ hai tăng nên gọi là tăng thêm, vị hòa hợp đầu nếu là ý thức, tự cảnh sở duyên liền liễu tri, đã không thể biết thì rõ ràng vị thức ấy chẳng phải là ý thức. Văn luận chỉ bày pháp, suy nghĩ có thể biết. Biện rằng: Xem bản luận, thích, lượng không có văn nói rõ, cho nên sớ chủ bỏ hai nhân trước chỉ vặn hỏi thẳng. Cổ đức lấy mạng căn ấy làm dụ mà lập lượng của nó, lượng như trước đã biện, dụ luận đã không có, không mượn làm lượng. Lại tự Thức thứ tám cũng không được thành, tha lượng phá rằng: Thức khi mới sinh chẳng phải là Thức thứ tám vì y nhiễm ô, cũng như mạng căn, kia đây đã đồng làm sao có thể sai lầm? Do đây nên biết vặn hỏi thẳng là hay. Hoặc có thể, làm lượng luận chỉ bày phương góc, sơ lược không nói dụ, tông ta mạng căn bất định khác Thức thứ tám, mạng căn của ông dụ sở lập không thành, do đây làm lượng lý cũng nên thông. Nghĩa đã nhiều đường mặc tình lấy bỏ, thời nhân không đoạn cũng có thể lấy mạng căn ấy làm dụ.
Sớ: Lại sở y này là chủng tử thức v.v...
Nhiếp luận của Vô Trước ghi: Lập hòa hợp thức tức là ý thức, vì ý thức này hòa hợp tức là tất cả chủng tử thức, làm y chỉ thức này chỗ sinh ý thức khác là tất cả chủng tử thức, nếu hòa hợp thức này là tất cả chủng tử thức, tức là A-lại-da thức, ông lấy tên khác lập làm ý thức.
Luận: Lại lúc sắp chết v.v...
Xét trong Nhiếp luận của Vô Trước ghi: Lại lúc sắp mất tạo thiện tạo ác, hoặc dưới hoặc trên sở y lạnh dần.
Vô Tánh giải thích: Nếu tạo thiện ác, tức đối phần dưới của thân ấy lạnh dần, nếu tạo thiện ác cùng với đây trái nhau.
Thiên Thân giải thích rằng: Do tạo thiện quyết định thăng lên, nếu tạo ác quyết định đọa xuống.
Giải thích rằng: Nêu tạo thiện ác sinh cõi trên cõi dưới, cho nên cảm giác lạnh trên dưới có khác. Hỏi: Luận Du-già ghi: Chỗ thức gá đầu tiên gọi là nhục tâm, tức từ chỗ này sau cùng xả mạng, tại sao không đồng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Tướng bên ngoài lạnh, trên dưới không đồng, thức đối với chỗ tâm cùng trên dưới ấy đồng thời đốn xả.
2. Nếu người tạo thiện, từ dưới dần xả đến nhục tâm tạng, sau từ trên xả, người tạo ác thì trái lại, do nhục tâm thật sau cùng xả, trên dưới căn cứ tướng trước khi xả mạng, lý cũng không trái.
Hỏi: Chúng sinh chưa hẳn như vậy, kinh Tam Giới ghi: "Người khi lâm chung, sắp sinh địa ngục, thần thức từ chân xuất ra, sinh loài súc sinh là từ đầu gối xuất ra, đọa làm ngạ quỷ thì từ bụng xuất ra, sinh loài người thì từ tim xuất ra, sinh cõi trời từ mắt xuất ra, làm Thánh nhân từ đảnh đầu xuất ra", cùng Du-già v.v... vì sao sai khác?
Đáp: Có thuyết nói, kinh đứng về tướng ngoài da, trong Nhiếp luận căn cứ ngoài da, trong Du-già thì căn cứ tâm tạng rốt sau xả.
Biện rằng: Chuẩn theo đâu được biết kinh y tướng bên ngoài? Luận nói xúc trên dưới bên ngoài cũng chẳng phải không có, tại sao Nhiếp luận chỉ có căn cứ trong da? Lại trong kinh nói tim, nào khác Du-già nói tâm tàng? Xác quyết chỉ có ngoài da, cho nên biết chỗ hiểu khó có thể nương chuẩn. Nay lại giải thích rằng: Kinh đứng về Thánh phàm mạnh yếu có phần sai khác mà chia ra xả tướng, lý thật tâm xứ tối hậu xả. Không căn cứ trong ngoài da sai khác, tướng thứ ba xả xuống, tướng thứ hai thăng lên, tướng thứ nhất là nơi chánh xả, đồng Dugià lên xuống dần, chỉ là kinh luận khai hợp có khác, nhưng nghĩa không trái.
Luận: Gá khắp trong thân. Trong truyện có hai giải thích:
1. Hiển bày Thức thứ sáu tương tục gá khắp, chẳng phải như Thức thứ tám, nói hằng tương tục lẽ ra ở trong thuyết đầu, vì pháp vốn như vậy.
2. Đây nêu hành tướng Lại-da trái nhau, hiển Thức thứ sáu không có hành tướng này, cho nên không thể nương cảm giác lạnh dần khởi. Có nghĩa ngăn trong chuyển thức gồm có sáu nhân. Trong nhân thứ sáu, các bậc Cổ đức có hai giải thích, giải thích trước là chánh, phá bản sớ rằng, gặp cảnh liền duyên là nhân thứ năm, gặp nương liền dừng là nhân thứ tư, lìa nhân thứ tư, thứ năm tại sao lại nói riêng?
Biện rằng: Nếu giải thích thứ tư, thứ năm cùng thứ sáu đồng, có thể như đã vặn hỏi, giải thích đã có sai khác, nghĩa liền không đồng, nói sai khác có lỗi gì? Giả sử đồng thứ tư thứ năm, trước riêng sau chung, giải thích kết không đồng, lại cũng có lỗi gì? Nếu chuẩn theo các giải thích không đứng về nương cảnh, lại căn cứ lý nào mà nói gá nương khắp? Nếu căn cứ căn, cảnh, so với sớ nào có khác?
Vì thích hay ghét khác nhau.
Sớ: Bảy ngày sau các thân thức sinh.
Hỏi: Năm, bảy ngày rồi mới gọi đủ căn, trước đó không có căn tại sao có thức?
Đáp: Năm, bảy ngày trở đi, năm căn đầy đủ, trước đó chưa đủ, có được thân căn, cho nên bảy ngày sau có được thân thức, không nói bảy ngày sau các thức thảy đều đủ.
Sớ: "Đồng thức lùi lại" đến "đều thuộc trong đây".
Đồng thức lùi lại, đủ như trong Nghĩa Đăng. Lại có khác và đồng như trong kinh Pháp Hoa có giải thích. Không đoạn hoại v.v... xét Vô Tánh Nhiếp luận quyển 3 ghi: "Lại như trong kinh nói, A-nan-đà, hoặc nam hoặc nữ, thức nếu đoạn hoại diệt, danh sắc được tăng trưởng rộng lớn chăng? Không". Thế Tôn đã nói như vậy, nay nếu muốn lìa A-lại-da thức, lý không thể thành.
Giải thích rằng: Đã nói thức hoại danh sắc không tăng, rõ ràng là duyên thức ắt tương tục, thức tương tục là tức ngã Lại-da, các văn nghĩa này nay nghĩa của Chứng thứ bảy thâu nhiếp.
Sớ: Ngoại đạo cười nói: Người ngu cũng hiểu v.v...
Hỏi: Như Lai thuyết pháp lìa tứ phi, ngoại đạo nghe kinh tại sao khởi chê bai?
Đáp: Đại sĩ hành hóa nhiều lợi ích, bọn này tuy có chút khinh khi, nhưng người được lợi vô kể, bởi vậy đức Như Lai tứ phi gọi là lìa. Lại ngoại đạo ấy ban đầu tuy tạm chê bai, rốt ráo nương đây dùng làm xuất yếu, trước tổn sau lợi ích, chánh hợp hóa nghi, do đó động tịnh đều là Phật sự.
Sớ: Quyển 66 ghi: Nhiếp thực do các câu.
Xét luận ấy ghi:
Hỏi: Nếu có đoạn vật cũng là thực? Giả sử thực cũng là đoạn vật ư?
Đáp: Như thích ứng ấy phải làm bốn câu: hoặc có đoạn vật mà chẳng phải là thực, nghĩa là các đoạn vật không thể trưởng dưỡng các căn đại chủng; hoặc có thức ăn mà chẳng phải đoạn vật, nghĩa là nếu có xúc ý tư và thức, có thể khiến các căn, đại chủng trưởng dưỡng; hoặc có cách ăn này cũng là đoạn vật, nghĩa là các đoạn vật hay khiến các căn đại chủng trưởng dưỡng; hoặc chẳng phải đoạn vật cũng chẳng phải là ăn, nghĩa là nếu có xúc ý tư và thức không thể trưởng dưỡng các căn đại chủng, như vậy các xúc nhẫn đến thức tùy theo thích ứng ấy đều làm bốn câu.
Sớ: Quyển 66 ghi: Gọi là xúc thực.
Vì cảnh năng sinh xúc thực trong bốn thực, nhân từ quả gọi là xúc thực. Nếu chuẩn theo Hữu tông, ban đầu chưa biến hoại, cũng được gọi là thực, vì trừ đói khác, nên luận Bà-sa ghi: Thực ở hai thời, hay làm việc thực đều được gọi là thực. Một là khi mới ăn có thể trừ đói khát, hai là tiêu hóa rồi giúp các căn và đại. Có nghĩa Đại thừa lý thật thực ban đầu có thể trừ đói khác cũng được gọi là thực, nghĩa đồng với Hữu tông. Trong Du-già, Đối Pháp lại nói thắng thực rằng, khi biến hoại gọi là thực.
Biện rằng: Lý tuy có thể như vậy, rõ ràng giáo vặn hỏi trái, cho nên Du-già ghi: Nếu các đoạn vật khi nuốt xuống khiến tâm vui mừng, các căn vui thích, bấy giờ đều không gọi là đoạn thực, chỉ gọi là xúc thực. Nếu thọ dụng rồi, an ổn tiêu hóa, tăng trưởng hỷ lạc, ngay lúc tiêu hóa mới gọi là đoạn thực. Nếu có thuần thục biến không thể trưởng dưỡng các căn an lạc, tuy có thuần thục biến nhưng không gọi là đoạn thực. Nếu các đoạn thực ngay khi nuốt xuống chẳng sinh vui mừng, cũng không thể khiến các căn vui thích, lúc ấy đều không gọi là thực. Văn đã trịnh trọng mà giản lược, làm sao hiểu được mà cho rằng căn cứ thù thắng để nói?
Lại Du-già v.v... mong tăng trưởng các căn giúp ích biến hoại mới gọi là thực, tạm trừ đói khát, chưa lợi ích các căn biến hoại tiêu hóa nghĩa thực ở đâu? Do lý này nên không vì đó mà chọn lấy.
Hỏi: Muốn hương vị xúc có được đoạn thực, sắc giới xúc có, họ lập đoạn thực là sao?
Xét luận Câu-xá, ba cõi phân biệt mười tám giới là sắc giới ràng buộc chỉ có mười bốn loại, trừ cảnh hương vị và thức tỷ thiệt, trừ hương vị là tánh đoạn thực, lìa đoạn thực dục mới được sinh cõi ấy, trừ tỷ thiệt thức không có sở duyên. Nếu vậy xúc giới ở cõi sắc lẽ ra không như hương vị cảnh tánh đoạn thực, cõi ấy đã có xúc chẳng phải tánh đoạn thực. Nếu vậy hương vị so sánh cũng như vậy. Hương vị lìa đoạn thực không riêng thọ dụng, xúc có dụng riêng, trì căn y v.v... nó lìa thực dục, hương vị không có dụng; có căn y v.v... nên xúc chẳng phải không có, do sắc giới này tuy có xúc trần không có đoạn thực. Còn lại rộng hỏi đáp như trong chương và Nghĩa Đăng.
Luận: Do sắc xứ này chẳng phải đoạn thực.
Lại trong Câu-xá luận quyển 10 cũng giải thích sắc không có thực, sắc cũng có thể thành đoạn khác với ăn nuốt, duyên nào chẳng phải thực? Đây không thể lợi ích tự sở đối căn giải thoát. Phàm gọi là thực trước ắt giúp ích tự căn đại chủng sau đó đến các pháp khác, khi ăn nuốt sắc tự căn lớn còn không làm lợi ích huống gì đến pháp khác, do các căn cảnh ấy đều sai khác, có khi thấy sắc sinh hỷ lạc là duyên sắc xúc sinh, là thực chẳng phải sắc. Lại Bất hoàn đến A-la-hán giải thoát tham thực, tuy thấy các thứ ăn uống thượng diệu mà không có lợi ích, do sắc xứ này không gọi là thực.
Lại tương truyền Kinh bộ có hai giải thích:
1. Trừ thanh bốn trần làm thể, do thanh hư xa, không có công dụng trợ giúp.
2. Chỉ dùng ba trần làm thể, khi sắc thanh biến hoại không có công dụng trợ giúp.
Hỏi: Thanh và căn v.v... đều không gọi là thực, vì sao riêng lựa chọn sắc?
Đáp: Có thể đoạn ăn uống có giúp ích gọi đó là thực, sắc có thể đoạn ăn nuốt có lẫn lộn lựa chọn, thể của thanh hư xa, ý v.v... không đoạn, căn là giúp ích, không có nghĩa ăn uống, không lẫn lộn không lựa chọn.
Luận: Ba ý tư thực hy vọng làm tướng.
Hỏi: Tư là tạo làm các tướng chánh nhân, tại sao nay nói là hy vọng?
Đáp: Như trong Nghĩa Đăng đã biện rõ. Có nghĩa có hai giải thích: Một là giải thích đồng với Nghĩa Đăng, hai là giải thích do pháp tương ưng, khiến suy nghĩ ở cảnh khởi hành trông mong.
Hỏi: Nếu vậy các tâm cùng các dục đồng thời, tâm lẽ ra cũng do pháp tương ưng hy vọng làm tướng?
Đáp: Các tâm nhân suy nghĩ hy vọng không có lỗi, như vậy các tâm cùng các thọ đồng thời, khởi các lãnh nạp đều không trái lý, các tâm đều dung chứa khởi nhiều hành. Nhưng tự tướng hành chánh hành chẳng phải khác, nên nương chánh hành các tâm không tạp.
Biện rằng: Lý sợ rằng chưa hẳn như vậy. Dugià và luận này đều nói các tâm sở duyên hành tướng đồng không đồng, nên luận này nói tâm cùng tâm sở đồng sở y căn, sở duyên tương tợ, hành tướng đều khác, liễu biệt lãnh nạp v.v... tác dụng đều khác, cũng không thể nói căn cứ tự tướng mà nói, như tướng phần tướng sở duyên đều sai khác, tức nói tương tợ, hành tướng có đồng, vì sao không nói? Giáo đã không có bằng chứng, chỉ đoán chừng mà vặn hỏi, có thể từ giải thích ban đầu.
Sớ: Quyển 57 nói khiến thức tăng thạnh.
Đủ như trong Nghĩa Đăng có dẫn, nên nay không nói lại.
Sớ: Lại luận nói thông Đẳng lưu v.v... Riêng có tứ thực chương môn rộng nói.
Luận: Bốn thứ thực này năng trì thân mạng hữu tình v.v...
Lại xét luận Bà-sa quyển 129 ghi: Thực là nghĩa gì? Nghĩa là thọ, tiếp tục, trì, dưỡng, tăng, cùng với đây đồng.
Luận: "Xúc ý tư thực" đến "tùy thức có không".
Có nghĩa chỉ nên nói nương sáu thức có không, Thức thứ bảy, thứ tám đã chẳng phải cùng có, nay đối tha tông trình bày nghĩa cùng thừa nhận, cho nên không nên nói tùy theo Thức thứ bảy, thứ tám. Biện rằng: Xem thế văn trước, nói tự tông không có ý đối tha, nương Thức thứ bảy, thứ tám biện rõ tùy tự nói, cũng có lỗi gì? Nếu nói văn trước đều đối với tha cho nên trừ Thức thứ bảy, thứ tám, biện thức thực thể cũng nên chỉ có sáu, tại sao lại nói Thức thứ tám làm thể? Do đây xác quyết văn trước là tự đối Thức thứ bảy, thứ tám mà nói, lý không có lỗi.
Sớ: "Tuy hiện tại" đến "được thành chánh nhân".
Giải thích chiết phục vặn hỏi. Vặn hỏi rằng: Nếu chẳng phải hiện tại tức chẳng phải là thực, lẽ nào các hiện tại đều là thực? Hiện tại tức là thực lượng nhân, cho nên mới phát sinh đáp này, suy nghĩ có thể hiểu.
Luận: "Cũng không thể chấp" đến "Hữu lậu chủng".
Chánh giải thích như trong sớ, lại giải thích thêm, ý họ chống chế nói: Tức Vô lậu thức trì Hữu lậu chủng, tức do sở trì lậu chủng làm thực, đây cũng có lỗi gì? Cho nên nêu lại phá rằng, Vô lậu đã không trì Hữu lậu chủng, Hữu lậu chủng không có thực cũng không lập. Nếu không như vậy, trước đã vặn hỏi Vô lậu ấy chẳng phải thực, cần gì phải ở đây vặn hỏi, vì nghĩa không khác. Nếu nói đứng về trì chủng ấy có sai khác để vặn hỏi ở sau, lẽ nào chỉ có mong trì chủng gọi là thực, nên biết họ lấy lậu chủng ấy làm thực. Giả sử bản tông ấy không lập nghĩa này, mượn nêu bày chấp ấy, lý chuyển chấp ấy đều không lỗi.
Hỏi: Vô lậu trái với lậu, không thừa nhận Vô lậu trì Hữu lậu chủng lậu trái với Vô lậu, lẽ ra nhân Thức thứ tám không trì Vô lậu?
Đáp: Hiện Vô lậu pháp chánh phá Hữu lậu, không được dùng Vô lậu trì lậu, Vô lậu pháp chủng đã chẳng phải năng trì, cho nên nhân vốn thức trì Vô lậu chủng.
Luận: Thân ngữ tâm hành v.v...
Hỏi: Định tâm, ngữ tịch, hai hành có thể không, tại sao không có thân hành ngừng dứt?
Đáp: Y luận Tỳ-bà-sa quyển 26 ghi: Có bốn duyên cho nên thân hành mới chuyển:
1. Hơi thở ra vào, thân sở y.
2. Phong đạo thông, nghĩa là miệng mũi v.v...
3. Lỗ chân lông mở.
4. Nương hơi thở địa thô tâm hiện tiền.
Trong bốn duyên nếu tùy theo thiếu một thân hành không chuyển, như sinh Dục giới Yết-thíchlam, Át-bộ-đàm, Tài thi, Kiện-nam, trong bốn vị chỉ có vị thứ tư tâm thô hiện tiền, không có ba việc trước cho nên hơi thở không chuyển. Bát-la-xakhư v.v... các vị căn hình đầy đủ, đủ bốn việc nên mới có hơi thở chuyển, như sinh ở Dục giới và ba định sau nhận vô tâm định và Vô sắc định, tuy có ba pháp trước không có thứ tư cho nên hơi thở không chuyển, vào định thứ tư tuy có hai pháp trước, nhưng không có hai pháp sau, hơi thở cũng không chuyển. Lại hơi thở ra vào nương tâm thô chuyển, tịnh lự thứ tư trở lên, các địa tâm rất vi tế nên hơi thở không chuyển.
Lại Thuận Chánh Lý ghi: Nhập định thứ tư, thân không có lỗ chân lông, do pháp ấy trì rất thuần hậu, dẫn định thứ tư đại chủng biến khắp thân, tức do duyên này Tôn giả Thế Hữu nói, vào định ấy thân lỗ chân lông hợp lại, nhập lậu Vô lậu định đều như vậy. Nếu sinh định thứ tư khởi ba định sau và tâm Dục giới, tuy có thứ nhất, thứ hai và duyên thứ tư, thiếu duyên thứ ba nên hơi thở không chuyển, khởi tự địa tâm và tâm Vô sắc đều định vô tâm, tuy có hai pháp đầu không có hai việc sau nên hơi thở không chuyển. Nếu sinh Vô sắc bốn việc đều không nên hơi thở không chuyển. Sở dĩ diệt định thân hành cũng không, chuẩn theo nghĩa Đại thừa thân hành không chuyển, lại đồng với Hữu tông, cũng nên không có lỗi.
Sớ: Nhưng muốn xuất, kinh đồng pháp làm ví dụ v.v...
Thọ mạng không diệt, cũng không lìa noãn, đây là đồng pháp, nêu đây làm dụ mà ví dụ thể thức tại định khiến có, tâm hành v.v... văn đồng như vậy.
Sớ: "Luận Thành Nghiệp" đến "như luận kia".
Ở sau trong diệt định, sớ đã dẫn xong ở đây không lập lại.
Sớ: Lẽ ra là sinh trở lại. Chết không sinh trở lại. Luận: Các định đều không có năm thức thân.
Hỏi: Nhân này lẽ nào chẳng phải tự tùy theo một lỗi, ở sau thừa nhận trong định tai nghe tiếng? Đáp: Nay tùy theo tha tông, ở sau nương tự nghĩa, do Tiểu thừa xuất định nghe tiếng. Lại trong sớ làm lượng.
Có nghĩa phá rằng, sớ nói nhân này nương muộn tuyệt v.v... có bất định, nghĩa này không đúng, lập tông nếu nói lẽ ra tất cả định đều gọi là định vô tâm, muộn tuyệt v.v... vị chẳng phải vô tâm định, có thể nói nhân trước có lỗi bất định, trong tông pháp đã không có chữ "định" nên không có bất định.
Biện rằng: Xem thẳng lời trình bày tợ như bài xích. Nếu tìm ý thừa nhận thì ý chỉ sớ rất xa, nghĩa là định vô tâm chẳng phải định vô tâm, mà lại sai biệt, nhân không nói định, tức muộn tuyệt v.v... nhân ở đó chuyển, cùng ý thừa nhận tông liền thành bất định, nhân khiến cho nói định, lỗi này mới bỏ, nên nghĩa như vậy.
Sớ: "Nay nên vặn hỏi thêm" đến "gọi là tâm hành diệt".
Ý vặn hỏi này nói định là vô tâm và tâm hành diệt, vô tâm tức căn cứ cả năm mà gọi là vô tâm, tâm hành diệt lẽ ra cũng chỉ đứng về năm thức tương ưng thọ tưởng v.v... mà nói. Lại nói, "nhưng có tâm sở" đến "nói diệt" là lập lại ý vặn hỏi, do hai nhà ấy tâm hành diệt đều nói căn cứ Thức thứ sáu không nương năm thức, nên biết diệt thức không đứng về năm mà nói.
Luận: "Hoặc vị này" đến "chẳng phải Thức thứ sáu".
Có nghĩa sớ đã làm lượng có lỗi tự nói, nên chỉ nói diệt định vị thức chẳng phải Thức thứ sáu.
Biện rằng: Sớ đã nói là ông, rõ ràng lựa chọn lỗi này, nếu không như vậy nói "ông" để làm gì? Lượng thứ tư ở sau tuy cũng phá, cũng đồng với giải thích này.
Hỏi: Tha cũng lấy thọ noãn này làm dụ, vặn hỏi tông Đại thừa diệt định Thức thứ tám lẽ ra chẳng phải là thức, tự đã có trái sao trách lỗi tha?
Đáp: Ngã thọ noãn thức chẳng tức chẳng lìa, lẽ ra chẳng phải tông thức đối với các dụ như thọ nhưng không chuyển, không thể ví dụ nhau.
Sớ: Họ cũng tự nói tự vị không có hành tướng thức v.v...
Tuy có thể của thức nhưng không có hành tướng, do vì vi tế tiếp nối lâu dài, nếu không như vậy thì họ thừa nhận trong định nhưng có hữu thức, làm sao được nói tự vị không có thức.
Sớ: Đối với tịnh lự Vô sắc tu hành thù thắng.
Tu tập các định này, các pháp thọ tưởng có công dụng thù thắng.
Luận: "Nếu không có tâm sở" đến "lìa tâm sở". Có thuyết lấy Vô dư Niết-bàn làm dụ, tông ấy diệt định đã thừa nhận có tâm, còn vô tâm vị khác lẽ ra cũng như vậy, cho nên Thành Nghiệp ghi: Các vô tâm vị cũng có tâm ư? Lẽ ra như một loại kinh làm lượng đã thừa nhận tâm vi tế, vị ấy vẫn có, cho nên không lẽ dùng muộn tuyệt làm dụ. Có nghĩa nếu vậy nhân thành bất định, muộn tuyệt v.v... vị tâm sở không có, nên lẽ ra hợp thành, diệt tận v.v... vị lẽ ra không có ý thức, không có đại địa tâm sở như nhãn v.v... thức không có trong hành vị. Hoặc Vô dư y cũng được làm dụ, hoặc tử thi v.v... làm dụ cũng được.
Biện rằng: Trước nhiều lần phá không có ý thức vi tế, đã lấy muộn tuyệt các dụ cũng đâu có lỗi gì. Lại phá dụ Vô dư có lý bất định như đã nói, nếu dùng nhãn v.v... thức không có hành vị mà làm dụ, lý cũng bất định, riêng ý thức chuyển cũng là nhãn v.v... không có hành vị, nay lấy tử thi để dụ thành các vô tâm vị thứ sáu không có, tuy vô tâm khác chẳng phải là tranh biện, vì ngăn bất định làm tông cũng không có lỗi.
Sớ: Như Vô biểu sắc chẳng phải có chất ngại.
Ý chống chế này cho rằng, chất ngại gọi là sắc vô biểu, vô ngại vẫn gọi là sắc, tâm pháp tuy tương ưng, giả sử không tương ưng cũng là tâm pháp, nếu không tương ưng tức chẳng phải tâm, lẽ ra không có chất ngại tức chẳng phải sắc.
Sớ: Nhưng trừ miên muộn tuyệt.
Do Tát-bà-đa không thừa nhận miên v.v... thuộc vô tâm vị, đối với người cùng thừa nhận cho nên trừ.
Sớ: "Do không có sở nhàm" đến "cho nên tâm vương vẫn còn".
Các giải thích văn này rõ ràng trừ lý do miên muộn tuyệt, nay giải thích nếu không đúng, chỉ biện vô tưởng v.v... vô tâm. Nói do không có sở nhàm, nêu nó do không có sở nhàm, tâm sở hiển tâm cũng không có. Nói có sở nhàm tâm sở tâm liền không diệt, lại thành ở trước không có sở nhàm, tâm sở diệt. Nói chẳng phải không nhàm cho nên tâm vương vẫn còn là giải thích người ngoài chiết phục vặn hỏi, người ngoài vặn hỏi rằng: Tâm sở là sở nhàm, vị ấy có thể gọi là không có, tâm vương đã chẳng phải nhàm, chỗ ấy lẽ ra vẫn còn, nên mới giải thích rằng: Chẳng phải là không nhàm tức khiến nơi ấy còn, do tâm sở không có nên tùy theo đồng diệt.
Luận: Vì tâm tạp nhiễm v.v...
Tuy trong kinh Duy-ma cũng có văn này, nay dẫn A-hàm, do kinh Duy-ma chẳng phải họ cùng thừa nhận.
Sớ: Tâm nhiễm nên hữu tình nhiễm, như trong Du-già quyển 54.
Xét luận ấy ghi: Do thức nhuận này năng cầu năng mãn trong thân đương lai, do đây triển chuyển năng thủ năng mãn, không thể xả bỏ các dị sinh tánh, do ở nội thân năng cầu mãn, ở trong lưu chuyển tương tục quyết định.
Lại nói, hơn nữa do thức ấy hằng thanh tịnh nên không đợi nhân khác, mặc tình tự nhiên vào nơi tịch diệt, thức này tương tục cứu cánh đoạn, ở trong mười phương cõi lại không lưu chuyển, đối với mạng và tử không mong cầu nên gọi là hằng lìa dục.
Giải thích rằng: Trước do tâm nhiễm hữu tình tạp nhiễm, sau do tâm tịnh hữu tình giải thoát.
Luận: Nghĩa là nhiễm tịnh do tâm là chính v.v... Sớ có bốn giải thích, năm giải thích khác đủ như đã biện rõ. Có nghĩa, lại giải thích, nói pháp tạp nhiễm do tâm là chính, Hữu lậu Vô lậu, Hữu vi Vô vi, nhưng lẽ ra nói tâm có nhiễm tịnh hai pháp, Hữu lậu nhiễm tâm thông lậu Vô lậu, Hữu vi, Vô vi tổng hợp là chính, Vô lậu tịnh tâm nhưng cùng Vô lậu Hữu vi Vô vi làm căn bản, chẳng phải gốc Hữu lậu, nhân tâm mà sinh, hợp giải thích Hữu lậu Vô lậu nhân hiện hành nhiễm tâm sinh, do tâm là chính, riêng giải thích Vô lậu hiện hành các nhân pháp tịnh tâm sinh tâm cũng là chính, tịnh tâm không sinh pháp Hữu lậu, y tâm trụ, là hợp giải thích Hữu lậu Vô lậu vốn có chủng tử y nhiễm tâm trụ, cho nên tâm là chính. Riêng giải thích Vô lậu vốn có chủng tử y tịnh tâm trụ cho nên tâm là chính, tâm thọ huân trì ấy vì chủng kia, hợp giải thích Hữu lậu Vô lậu tân huân chủng tử nhiễm tâm là chính, riêng giải thích Vô lậu tân huân chủng tử tịnh tâm là chính, tịnh Thức thứ tám tâm tuy không theo huân, nhân vị từng huân quả trì chủng. Trước sau hai sớ tuy có nhiều giải thích, nghĩa đều không đủ, cho nên mới có giải thích này, đều không có tịnh tâm là chính v.v...
Biện rằng: Xem văn kinh nói tâm tạp nhiễm nên hữu tình tạp nhiễm, nhưng đứng về hữu tình không y Phật nói. Nếu bao gồm cả Phật, tức không nên nói hữu tình v.v... nhưng Như Lai chẳng phải hữu tình, cho nên trước nói chỉ có y tha uẩn kiến lập hữu tình, Phật không có Hữu lậu chẳng phải thuộc hữu tình. Luận đã giải thích kinh, nên đồng với ý kinh, nếu nói thị hiện gọi là hữu tình, cũng không được. Chuẩn theo luận giải thích kinh nhiễm tịnh hai môn phá tha trình bày tự, thảy đều không nói Phật quả tịnh thức, nên biết hai sớ khéo ngộ áo chỉ. Lại lập bao gồm căn cứ tịnh tâm giải thích, cũng thành thấy nhiều, vì sao? Nói tâm là chính, tức là câu chung nhiễm tịnh Hữu vi Vô vi, sau lại đối với nhân tâm ấy mà sinh. Lại nói, do tâm là chính, riêng giải thích Vô lậu hiện hành các pháp nhân tịnh tâm sinh cũng lấy tâm là chính, trước đã nói là chung, sau tại sao nói là riêng? Nếu nói căn cứ riêng tịnh tâm ấy mà nói, nếu vậy biệt nhiễm sao không phải biệt nhiễm ấy là chính ư? Nếu thừa nhận như vậy, tại sao không phải riêng giải thích nhiễm hiện? Lại nếu giải thích riêng nhiễm hiện là chấp nhận có lý này, nhưng trong một giải thích đâu thể chấp nhận có mâu thuẫn? Còn lại chuẩn theo đây.
Luận: "Nếu không có thức này" đến "đều phải không có nhân".
Bản luận của Vô Trước đủ như trong sớ có dẫn. Luận Vô Tánh giải thích, từ vô tưởng v.v... từ cõi trên không sinh lại Dục giới, lúc bấy giờ phiền não v.v... nghĩa là tham sân v.v... sở nhiễm sơ thức, nghĩa là khi tương tục sinh sinh có sơ thức, lúc bấy giờ tất cả phiền não tự địa đã nhiễm ô.
Hỏi: Vì sao nêu vô tưởng ấy mất? Lẽ nào chỗ khác không có thức trì chủng?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Như trong Nghĩa Đăng có biện rõ.
2. Xét trong kinh Chánh Pháp Niệm Xứ và Câu-xá luận thì Bắc Uất-đan-việt quyết định có nghiệp hậu báo sinh thiên, chư thiên Vô tưởng quyết định có nghiệp Dục giới hậu báo, các địa bất định, cho nên riêng nói về nó.
Luận: Sau khi không có nhiễm tâm v.v...
Bản luận của Vô Trước như trong sớ đã nói. Vô Tánh giải thích, nay cũng lược nêu, đối trị phiền não v.v... nghĩa là như tối sơ quả và hướng Dự lưu, kiến đoạn phiền não đối trị đạo sinh, tất cả thế gian các thức đã diệt, lúc bấy giờ nếu lìa A-lại-da thức, tu đoạn phiền não tất cả tùy miên nương chỗ nào mà trụ? Chẳng phải đối trị thức mang theo chủng tử ấy lẽ ra đúng đạo lý, do đây đối trị thức tự tánh giải thoát, tức là nghĩa tự tánh cực thanh tịnh cùng phiền não không chung cùng, năng trị sở trị trái nhau, cũng như sáng tối. Lại vào lúc sau v.v... nghĩa là sau khi kiến đạo trong vị tu đạo. Các văn khác có thể hiểu.
Luận: Nếu không có thức này trì nghiệp quả chủng v.v...
Nhiếp luận của Vô Trước trong sớ có dẫn ra sơ lược, Vô Tánh giải thích sớ do không nói, khiến hàng sơ học lẩn quẩn khó tiến, nay bản và thích lấy cốt yếu để dẫn, mong người học không ngăn trệ lậu lược.
Luận của Vô Trước ghi: nếu có điều này chẳng phải đồng dẫn địa khi chết rồi sinh, nương vị Trung hữu ý khởi ý thức nhiễm ô kết sinh tương tục, trong ý thức nhiễm ô này đối với Trung hữu có diệt, ở trong thai mẹ thức Yết-la-lam lại cùng hòa hợp, nếu ngay ý thức cùng hòa hợp ấy, đã hòa hợp rồi y chỉ thức này ở trong thai mẹ có ý thức chuyển, nếu vậy liền phải có hai ý thức ở trong thai mẹ đồng thời mà chuyển. Vô Tánh giải thích, chẳng phải đồng dẫn địa gọi đó là Dục giới, "một" tức là chết, nương vị Trung hữu nghĩa là y nơi khoảng giữa của chết và sinh ra. Khởi nhiễm ô là thương giận đều có điên đảo.
Giải thích rằng: Nam nữ cùng đối với chỗ cha mẹ khởi tham giận.
Nói ý thức, các thức lúc bấy giờ mất đã lâu.
Giải thích rằng: Trong các nhãn thức v.v... mạt vị Trung hữu diệt lâu rồi, chỉ còn ý thức, Trung hữu đầu và giữa sáu thức đều có, nối tiếp trì sinh nên gọi là tương tục, nhiếp thọ sinh nên gọi là kết sinh, ý thức nhiễm ô này, vì duyên sinh hữu.
Giải thích rằng: Cha mẹ bất tịnh là chỗ thức gá, gọi là sinh, duyên bất tịnh này gọi là đã có mà sinh tham ái, hoặc duyên đương sinh có quả khởi ái nên được nhuận sinh
Đối với Trung hữu có diệt, đây nếu không diệt thì không có sinh hữu, ở trong thai mẹ v.v... nghĩa là diệt này khi ở trong thai mẹ có dị thục thức cùng màu trắng đỏ ấy đồng một an nguy, khiến cùng hòa hợp tạp thành Yết-la-lam.
Giải thích rằng: Thức cùng đỏ trắng tăng giảm cùng chung hòa trộn thành thân. Nếu ngay ý thức, nghĩa là nó nếu chẳng phải A-lại-da thức; đã hòa hợp rồi, là thọ sinh rồi, y chỉ thức này là y dị thục thức.
Giải thích rằng: Ý thức vi tế, có ý thức chuyển, là có biệt chuyển thức, nghĩa là cùng tín, tham v.v... tương ưng, lạc khổ đồng thời, phân biệt ý thức hậu hậu vị chuyển.
Giải thích rằng: Ba tánh ba thọ đều dễ hiểu, từ khi mới thọ sinh nhẫn đến già, ý phân biệt này lần lượt mà khởi, nên nói hậu hậu vị chuyển. Có hai ý thức chuyển v.v... nghĩa là dị thục thể hữu tình bản sự, không đợi đến nay Gia hạnh mà chuyển Vô ký ý thức, và có thể liễu tri sở duyên hành tướng lạc khổ thọ v.v... tương ưng với ý thức. Hai ý thức này, giải thích rằng: Dị thục thức tức là tế ý thức, có thể thức liễu tri, tức ý thức thô. Lẽ ra trong một thân đồng thời mà chuyển nhưng không nên thừa nhận, vì trái với kinh, cho nên bài tụng nói: "Không chỗ không chứa, không trước không sau, đồng thân đồng loại, hai thức đều sinh". Giải thích người ngoài chống chế rằng: Cả hai nào có lỗi, cho nên dẫn kinh để vặn hỏi, ý kinh nói, không thọ thân xứ, không chứa đạo lý, chẳng thuộc trước sau, đồng trong một thân, đồng giống hai thức, đồng thời đều sinh. Lại không nên thừa nhận hai thức này là một, vì tự tánh sai khác.
Giải thích rằng: Người ngoài lại chống chế rằng, hai thức này thể đồng mà nghĩa phân biệt, thể ấy là một cũng không trái kinh, vì không đồng loại, nên nay phá rằng: Tự tánh sai biệt nên như nhãn v.v... năm thức. Lại dị thục thức không nên gián đoạn, kết tương tục rồi sau ở xứ khác lại kết sinh.
Giải thích rằng: Người ngoài lại chống chế, hòa hợp ý thức biệt sinh ý thức trước sau khởi gián đoạn, cũng không trái kinh không có đồng loại, nên lại phá rằng, hòa hợp thể thức thừa nhận là dị thục, nếu sinh gián đoạn là thể liền gián đoạn. Nếu vậy sau tương tục nên gọi là sinh lại, nên lượng phá rằng: Hòa hợp ý thức không nên sinh gián đoạn, thừa nhận là dị thục, cũng như báo sắc. Lại thể dị thục chỉ có hằng tương tục lại không có nẻo khác. Giải thích rằng: Người ngoài lại chống chế, ngại gì báo sắc không đoạn, tâm dị thục đoạn. Lại này phá rằng: Nhân đồng với trước, mạng căn làm dụ, theo vặn hỏi mà giải thích sơ lược, còn lại dễ hiểu nên không bàn.
Sớ: "Lại nếu từ đây mất" đến "nhất định không thể được".
Đây là văn của Vô Trước. Vô Tánh giải thích rằng: Như vậy đã biện đối với Dục giới, nếu lìa Alại-da thức kết sinh tương tục không thành, đối với sắc Vô sắc cũng không được thành. Nay hiển bày, nếu từ đây mất v.v... là khi Dục giới chết sinh lên, do chẳng phải Đẳng dẫn nghĩa là cùng với địa ấy tham mùi vị của định, phiền não tương ưng.
Giải thích rằng: Ở hai cõi trên duyên định khởi ái mới được nhuận sinh. Lìa dị thục thức thể định của các chủng tử không được, là chẳng phải Dục giới ràng buộc tâm chết đó có tự thể chủng tử kia, vì sinh diệt không đồng thời.
Giải thích rằng: Người ngoài chống chế, trong dục trói buộc tâm chết kia có chủng tử định địa nhiễm tâm, nên có phá này, vì định tán hai tâm chẳng phải câu sinh, vì không thành huân tập, trong tâm cõi dưới không có chủng nhiễm cõi trên. Lại nói, chẳng phải định địa sinh tâm làm thể chủng tử kia, tức ở một tâm chủng có chủng tánh không tương ưng.
Giải thích rằng: Người ngoài lại chống chế rằng, ngay định sinh tâm làm thể của chủng ấy, nên này phá rằng: Chủng là nhân, hữu chủng là quả, quả này bao hàm chủng nên gọi là hữu chủng, ở trong sát-na nhân quả đều có, lý không tương ưng, tuy tông Đại thừa nhân quả đều có, căn cứ tông kia vặn hỏi cũng không trái nhau.
Lại nói, chẳng phải trong các đời khác, trước được các sắc ràng buộc tâm làm thể của chủng tử, trì huân tập ấy, còn các thức khác thì không có.
Giải thích rằng: Người ngoài lại chống chế, trong đời quá khứ được sắc giới tâm làm chủng tử ấy, đây có lỗi gì, nên lập lại mà phủ nhận, ông không có thức năng trì chủng kiai, làm sao có thể chủng tử sở trì.
Lại nói, chẳng phải sắc tương tục làm thể chủng tử vì không có nhân duyên.
Giải thích: Người ngoài lại chống chế rằng, quá khứ huân tập y trong sắc căn làm chủng hiện nay, lại nêu bày và bài xích, nói không có nhân duyên có ba giải thích:
1. Căn cõi dưới chẳng phải nhân tâm cõi trên.
2. Trong sắc cõi dưới không có địa chủng cõi trên.
3. Trì chủng là thể ắt là sở huân, sắc căn không có nhân duyên sở huân ấy, cho nên không có chủng ấy. Nói nhân duyên là tức đạo lý.
Luận: "Sau pháp dị loại" đến "lẽ ra cũng không có nhân".
Luận của Vô Trước văn đủ như trong sớ có dẫn. Luận Vô Tánh giải: Tức Vô sắc giới Vô lậu tâm sinh thế gian tâm diệt, nẻo kia sở nhiếp dị thục không có, không do công dụng tự nhiên nên được Vô Dư Niết-bàn, năng trị hiện tiền tất cả sở trị đều hằng đoạn.
Lại giải thích diệt hai thú v.v...
Sinh hữu thứ nhất khi muốn đoạn các phiền não địa kia, tưởng yếu kém nên tự địa vô đạo. Vô sở hữu xứ địa minh lợi nên khởi trước vô tâm tâm hiện tại ấy, lúc bấy giờ hai thú đều nên diệt lìa, nghĩa là thứ nhất có vô sở hữu xứ hai thú diệt lìa, lúc bấy giờ hữu tình lẽ ra thành tử diệt hai thú sở y đều không có, chẳng phải pháp Vô lậu thú này nhiếp, vì không trói buộc, vì đối trị thú.
Hỏi: Chuẩn theo Nhiếp luận vặn hỏi lỗi diệt hai thú, luận này bèn trách sau khởi không có nhân. Hai luận đã khác, đâu được dẫn dụ mà chứng ở đây?
Đáp: Nêu văn bỏ ý chỉ tợ hồ nước sông Kinh, sông Vị, lấy lý tăng trưởng thành thật đồng nước và sữa, bản ý luận ấy trách không có bản thức thiện nhiễm vô chủng, vô chủng tức là tên khác của vô nhân, đây nương lại vặn hỏi diệt lìa hai thú, cho nên Bản luận nói: Lại nữa sinh Vô sắc giới nếu lìa tất cả chủng tử dị thục thức nhiễm ô thiện tâm lẽ ra không có chủng tử nhiễm ô, thiện tâm lẽ ra không y trì. Kế ở sau mới vặn hỏi lẽ ra diệt hai thú, nên biết hai luận thật mới đồng, lấy làm chứng không có lỗi.
Sớ: Hơn nữa trong nghiệp.
Luận trước nay cùng phá quả nghiệp, ở sau chỉ bài xích nghiệp mà bỏ quả, cho nên nói hơn nữa sinh khởi văn sau.
Luận: Lại hành duyên thức lẽ ra không được thành v.v...
Vô Tánh Nhiếp luận như trong Nghĩa Đăng có biện đủ. Thế Thân giải thích: Nghiệp là duyên thức bất tương ưng, nghĩa là phước phi phước và bất động hành sinh rồi thì diệt, nếu không tin có A-lạida thức thì ở chỗ nào an lập huân tập? Như sáu thức thân không thể nhậm trì tất cả huân tập.
Giải thích rằng: Rõ ràng A-lại-da không có, không trì chủng thức, tức hành huân thức gọi là duyên không thành.
Hỏi: Kinh bộ thức chi khắc thể nên lấy cái nào? Đáp: Nương cả hai, Nhiếp luận tương truyền có ba giải thích:
1. Ba nghiệp sở huân năng trì chủng tử thức dùng làm thức chi.
2. Sở trì nghiệp chủng dùng làm thức chi.
3. Năng trì chủng thức và sở trì chủng đều làm thức chi.
Hoặc nói kết sinh nhiễm thức cũng được. Có nghĩa xác quyết rằng, tuy có ba giải thích, chỉ có lấy chủng tử làm thức chi là chính, nhưng đồng với Đại thừa lấy danh ngôn chủng làm thức chi là chính, nên trong Câu-xá luận nói Đồng loại nhân sở hành cùng Đẳng lưu quả công năng đem làm thức chi thì tương đương.
Biện rằng: Nếu chỉ có chủng tức là giải thích thứ hai, luận này đoạn sau nói: Nghiệp chủng làm thức chẳng phải khắc thật thể, làm sao xác quyết rằng đồng Đại thừa là chính? Nếu nói lấy giải thích thứ ba ấy, thứ ba đã lấy năng sở hai trì, làm sao xác quyết nói chỉ có chủng tánh ư? Tiến thoái đều trái, sợ rằng chép lầm. Lại y trong Câu-xá tợ có nghĩa chủng, nếu y Nhiếp luận chủng tướng vặn hỏi rõ, cho nên luận Vô Tánh ghi: Nghĩa là hành làm duyên tham v.v... câu sinh nhãn v.v... các thức thừa nhận làm thức chi.
Lại nói: Thừa nhận tương tục sinh thức làm thức chi. Đây cũng không đúng. Xét hai đoạn văn này là lập lại kế chấp của tông kia. Thức chi chỉ là hiện, Thế Thân cũng là hiện, văn như trước đã dẫn. Nay lẽ ra nên nói, căn cứ Đại thừa Tiểu thừa hợp làm ba giải thích, y Vô Tánh luận hai văn không đồng tức là hai giải thích đều y theo hiện mà nói, chuẩn theo văn Câu-xá lại làm một giải thích, nhưng y theo chủng thuyết, văn như trên có dẫn, hoặc làm bốn giải thích cách thứ tư lấy chủng hiện làm chi, như văn luận của Thế Thân nói tổng quát, cho nên nghĩa có thể thông, văn như trước đã nói, quán xét có thể hiểu rõ.
Luận: Thời phần cách xa v.v...
Luận chủ lại vặn hỏi họ rằng, Dục giới sắc giới có sắc, hành cảm có thể gọi là duyên, Vô sắc giới sắc không có, tại sao cảm sắc.
Sớ: "Sắc quả ở vị lai" đến "tám muôn kiếp v.v...".
Hỏi: Giả sử quả vị lai làm sao được nhân quá khứ nhiều kiếp ư?
Đáp: Nếu sinh báo nghiệp quả chưa chắc xa. Nếu hậu báo nghiệp quả xa sao cảm? Như thọ Phi tưởng tám muôn kiếp về sau mới thọ báo cõi người, báo mong nhân xưa cách tám muôn kiếp lẽ nào không xa ư?
Hỏi: Nghiệp sinh báo như hủy báng bai diệt v.v... quả đã không xa lẽ nào gọi là hành duyên? Đáp: Lược có hai giải thích.
1. Hễ nói cách xa cho nên không được làm duyên, chẳng phải thừa nhận gần liền thành nghĩa duyên, vì ngăn tha luận.
2. Giả sử sinh báo nghiệp nhân quả khác đời, đạo lý hơi xa cũng gọi là cách xa, dù không có xa có cách chẳng phải duyên.
Giải thích thứ hai hay hơn.
Hỏi: Nếu vậy tự tông như thế nào?
Đáp: Có thức sở cảm, đây cũng đâu có lỗi gì!
Sớ: Như ngoại pháp v.v... chẳng phải nhân dị thục.
Nêu dụ để giải thích thành, hành chi của ông đã do cách xa, cho nên không thể cảm quả, lẽ ra đồng ngoại pháp không được gọi là nhân dị thục.
Luận: Đây không thành nên ở sau cũng không thành.
Xét trong Vô Tánh nói, thủ làm duyên hữu cũng không tương ưng, nghĩa là vị huân tập các nghiệp chủng tử, dị thục hiện tiền chuyển gọi là hữu, hoặc lại chuyển được công năng sinh quả nên gọi là hữu, thức do hành sở huân nếu không thành tựu thì dựa vào đâu an lập nghiệp chủng tử ấy? Nhưng lại nói sinh quả hiện tiền chuyển gọi là hữu, giải thích dị thục quả sắp hiện tiền nên gọi là hiện tiền, hoặc nhân hiện tiền có công năng cảm quả, thế lực thành thục nhưng khác với vị trước gọi là dị thục.
Hỏi: Thứ lớp mong nhau duyên cũng không thành làm sao ý vượt qua nói thủ duyên ở hữu?
Đáp: Ý Nhiếp luận nói nghĩa nghiệp nhiễm, có hữu nghiệp chủng, chi khác thì không như vậy, nên không nói. Hoặc nêu trước sau để chỉ bày phương góc. Giải thích trước là chính.
Sớ: Không chỉ nói sở duyên mà không có y v.v...
Chẳng phải do văn tụng chỉ nói Thức thứ tám có cảnh sở duyên, không nói sở y, tức nói Thức thứ tám không có pháp sở y, lý thật ra là có, không nói là vì như trong sớ có nói đủ.
Sớ: Tên ý không có nghĩa.
Sớ chủ lấy luận nói văn ý ý dùng làm câu, chẳng phải luận kia có nói hoàn toàn, cho nên luận ấy rộng nói ý kia mà lập lý rằng: Nghĩa là nếu không nói có ý nhiễm ô ở tất cả thời nghĩa không tương thuận. Sớ nói không có tức lập lại luận ấy không nói có ý, nghĩa tức lập nghĩa kia không tương thuận, tâm thể thứ ba, như trước dẫn đủ.
Sớ: "Lại nếu không có Thức thứ bảy" đến "y hiện hành chủng tử Thức thứ tám".
Đây căn cứ Hộ Pháp năm thức ắt nương Thức thứ bảy. Do ở sau nói đủ, đây không nói rõ.
Sớ: "Y Du-già" đến "nói vô lượng tên v.v...".
Xét luận ấy ghi:
Hỏi: Các tâm tâm pháp phàm có mấy loại tên sai biệt?
Đáp: Có nhiều loại tên, nghĩa là có sở duyên, tương ưng, hữu hành, hữu sở y v.v... vô lượng sai biệt.
Hỏi: Vì sao nhãn v.v... cũng có cảnh giới, nhưng chỉ nói tên hữu sở duyên ấy, chẳng phải nhãn v.v... là sao?
Đáp: Do nhãn v.v... lìa cảnh sở thủ cũng được sinh khởi, tâm cùng tâm pháp thì không như vậy.
Hỏi: Vì sao gọi là tương ưng?
Đáp: Do sự, xứ, thời, sở tác v.v...
Hỏi: Sao gọi là hữu hành?
Đáp: Đối với tất cả sở duyên làm vô lượng chủng sai biệt, hành tướng chuyển.
Giải thích: Đồng duyên một chất, tướng tuy tương tợ, kiến hành đều khác, gọi là sai biệt chuyển.
Hỏi: Vì sao gọi là hữu sở y.
Đáp: Do một chủng loại nương gá các sở y sai biệt chuyển, tuy pháp Hữu vi không có vô y, nhưng chẳng phải trong này đã nói nghĩa y, chỉ có hằng sở y làm lượng này.
Giải thích: Có hai thuyết:
1. Như một nhãn thức nương gá ba căn sinh, nghĩa là thứ nhất là nhãn, kế đến là diệt ý và cuối cùng là mạt-na. Tuy sau Hữu vi giải thích chiết phục vặn hỏi, ý vặn hỏi nên biết, nay đứng về căn y sắc chẳng phải y căn, cho nên không được gọi là có sở y.
2. Tương ưng tâm vương, tâm sở gọi là một chủng loại, như nhãn tâm vương tâm sở đồng nương gá nhãn căn.
Biện rằng: Cả hai không đủ, nhà trước thiếu giải thích chủng loại, rõ ràng các sở y lý cũng không tận; nhà sau giải thích không biện các nghĩa sở y, nay nên nói, như nhãn v.v... thức đều có y căn, bao gồm có bốn loại, đó là đồng cảnh, phân biệt, nhiễm tịnh, căn bản, như trong luận này Hộ Pháp đã nói, do y chẳng phải một, gọi là các sở y. Ý luận chỉ y câu hữu căn mà nói, không được lấy vô gián diệt y hiển tâm vương tâm sở, lựa chọn sắc kia v.v... gọi là một chủng loại.
Hỏi: Thức thứ bảy, thứ tám hai thức tại sao y lại nói là các?
Đáp: Từ nhiều mà nói, hoặc tâm sở y kia cũng gọi là các, các chẳng phải một nghĩa, bao gồm tự tâm vương y thành hai, tâm vương tâm sở đồng loại, cho nên tổng hợp nói nương gá các sở y.
Sớ: Nhưng sở y kia bao gồm có ba loại v.v...
Du-già kia quyển 1 và Duy Thức luận do sở dẫn gián đoạn, quyển 55 sau mới nói, thoạt xem tợ văn quyển 55 kia.
Hỏi: Tâm tâm sở khởi ba y hằng định, đâu được nói trong ba hợp nói bất hằng bất định.
Đáp: Lược có hai giải thích:
1. Y ở sau các Sư giải thích Câu hữu y, trừ Hộ Pháp có thông hằng định, bất hằng định gọi là sở y, chẳng phải căn cứ nhân duyên và Đẳng vô gián có bất hằng.
2. Y chánh nghĩa sau đủ bốn nghĩa mới gọi là sở y, Đẳng vô gián duyên thiếu quyết định v.v... không thời nào mà không y gọi là thành bất định. Tuy do sinh đời đã không đồng, không được gọi là không thời nào mà không y.
Lại nói hằng nghĩa là đồng thời chuyển, đã là quá khứ thì nghĩa của hằng liền không có, y nhân duyên ấy có bất hằng định, như hiện huân chủng là chủng nhân duyên, rồi sau hiện không mà có nhưng chủng chẳng dứt, cho nên chẳng phải hằng định, cũng chẳng phải sở y. Sớ bàn chung bất hằng bất định, cũng không có lỗi. Hai nghĩa đều được, giải thích sau thuận với sớ. Có nghĩa bài xích sớ hằng không đồng. Quyển 55 và Duy thức nói: Cho nên chỉ nói y có hai chủng, đó là chủng và hiện. Du-già lại y hiện hành mà nói, hiện y có hai là Câu hữu và vô gián, luận ấy đứng về Câu hữu y nói, chỉ do nói lược không có sở do khác, luận này nói đủ nêu chung ba loại.
Biện rằng: Sớ đã nói hằng bất hằng v.v...như trước có hai giải thích, lỗi cũng không có, xác quyết rằng y hai, sợ rằng không đồng, luận này luận kia đều nói sở y không nói y. Nếu nói y thì tất cả đều thừa nhận chủng và hiện đều như vậy, cần gì phải khế hội! Nếu nói y cùng sở y không khác, lẽ nào không trái với Hộ Pháp nói ở sau? Do đây nên biết Du-già quyển 55 chính nói sở y, luận này nói cả giả thật, không thể lấy rộng lược ấy mà khế hội.
Sớ: Hiện hành mong chủng tử lẽ ra không có y này.
Hiện hành huân chủng, tuy là thể chủng y, thể đã là hiện, nên không được gọi là chủng tử. Nếu nói nhân duyên, lý liền có thể nhiếp.
Có bản sớ nói: Chủng mong chủng tử, chữ "chủng" là nhầm, do đâu mà biết? Đáp: Chủng sau nương gá chủng trước mà khởi, đâu được nói không có, nên biết là nhầm.
Có nghĩa riêng nói: Không chỉ luận này nói tâm tâm sở gọi là có sở y, luận Du-già kia cũng nói nhãn v.v... thức có ba loại sở y, luận kia luận này đều nói các tâm gọi là có sở y, không nói chủng tử hay có hữu sở y, gọi là chủng tử y, cũng đâu có lỗi gì! Ở đây không muốn giải thích nhân duyên, nên ở sau văn rộng nói chủng y, như tăng thượng duyên y chẳng phải nhiếp tất cả tăng thượng duyên, đây lẽ ra cũng như vậy, không nhiếp hết tất cả nhân duyên.
Biện rằng: Tuy vốn muốn nói sở y của tâm v.v... và trong nêu bày giải thích căn cứ rộng lập tên gọi, nhưng làm sao để rõ? Tức luận này nói, các pháp Hữu vi đều nương gá y này, nên biết căn cứ khắp. Nếu chỉ có đứng về tâm, vì sao không nói các tâm tâm sở đều nương y này? Nói các Hữu vi, lại trong sớ nếu nói ba y mỗi mỗi nhiếp hết nhân duyên, có thể như đã vặn hỏi, chỉ nói y đầu nương rộng lập tên, đâu được lấy tăng thượng duyên ấy ví dụ, nên biết sớ xác quyết thật không có lỗi.
Sớ: "Nếu vậy đồng thời" đến "tâm vương là sở y".
Ý hỏi đáp này chủng và hiện đồng thời, chẳng phải tăng thượng duyên để tăng thượng lựa chọn, tâm sở đồng thời đã là tăng thượng, lại không có lựa chọn khác, lẽ ra được gọi là tăng thượng duyên y. Luận về Câu hữu y phải có chủ, sở đã chẳng phải chủ, không lựa chọn không có lỗi.
Có nghĩa nói: Đây cũng không đúng, do tên gọi câu hữu trước lẫn lộn nên nói tăng thượng, là căn chủng mong hiện nghiệp chủng tử v.v... và phù căn trần v.v... lẽ ra là y này, đã đồng có lẫn lộn tại sao riêng trách? Cho nên đối với giáo pháp của Phật không nên hiển bày lỗi.
Biện rằng: Lẫn lộn có thân sơ, thân vặn hỏi biện cho nên có thể phải lựa chọn, sơ là dễ biết, không mượn phân biệt, cho nên ở sau tịnh nguyệt chủng, hiện cùng nêu bày làm câu hữu. Lại trong sớ chỉ nói cả hai đều rộng hẹp đối mong có sai biệt, chỗ nào có hiển bày lỗi của Từ Tôn hư cấu chỉ trích.
Sớ: Chỉ có chủng tương tợ, chỉ có hiện câu chủng tợ câu hữu y, sở v.v... không tợ, nói tăng thượng duyên cho nên lựa chủng.
Sớ: Nên lại lựa chọn như ở sau sẽ biện. Phần sau Tịnh Nguyệt nói, đã thừa nhận hiện thức dùng chủng làm y là các văn này.
Sớ: "Giả như Tiểu thừa" đến "không có tăng thượng".
Hỏi: Nếu y tự nghĩa ba y đều không, đã giả đồng tha, sao chỉ có hai? Bài tụng Câu-xá ghi: Tâm tâm sở do bốn, hai định chỉ do ba. Ba là trong bốn trừ sở duyên duyên, cho nên không chỉ có hai?
Đáp: Chẳng phải tăng thượng duyên đều câu hữu y, tuy có tăng thượng không có câu hữu y cũng không có lỗi.
Hỏi: Bất tương ưng căn cứ tự ba "vô" vì sao trước nói các pháp Hữu vi đều nương gá nhân này, lẽ nào bất tương ưng chẳng phải Hữu vi?
Đáp: Có nghĩa y tha thật pháp mà được sinh nên nói từ nhân sinh, chẳng phải riêng sinh.
Biện rằng: Hoặc nương hữu pháp nhiều phần mà nói.
Luận: Vô chủng đã sinh tập luận nói.
Xét Đối Pháp ghi: Vô chủng đã sinh, nghĩa là uẩn sau cùng, giải thích vô chủng đã sinh là bản luận, uẩn sau cùng là thích luận này. Nay sư Nanđà lấy ý luận ấy để làm chứng, ý ấy thế nào? Nanđà giải thích rằng: Nhị thừa vô học lân cận không có tâm khác gọi là uẩn sau cùng, sinh chủng uẩn này rồi vào quá khứ gọi là vô chủng, pháp sở sinh còn gọi là đã sinh, nhân đã diệt mà quả hiện còn, rõ ràng biết nhân quả ắt không đồng.
Sớ: Trong này văn lược.
Không dẫn văn giải thích uẩn sau cùng kia cho nên gọi là là lược.
Sớ: Nay nhà giải thích lấy dùng làm chứng.
Tức sư Nan-đà gọi là nhà giải thích, lấy ý luận ấy dùng làm chứng.
Sớ: Hoặc có nhãn chẳng phải nhãn giới v.v...
Như trong Nghĩa Đăng quyển 1, cho nên không dẫn.
Sớ: Đây trước sau chung.
Thể trước sau có tên là câu hữu, chẳng phải đồng thời có gọi là câu hữu.
Sớ: Lúc này thiếu duyên.
Không duyên lại sinh chủng niệm sinh gọi là vô chủng, nếu vậy sao gọi là đã sinh?
Đáp: Năng sinh kia đồng thời hiện xong gọi là đã sinh, hoặc chủng hiện tại lựa chọn vị lai ấy gọi là đã sinh, lấy trước là chính. Có nghĩa chỉ nói, nếu làm lời giải này luận ấy lẽ ra nói vô chủng rồi không sinh, luận này nên nói y luận không dẫn sinh chủng sau, tại sao nói căn cứ không thể sinh chủng sau, tại sao nói căn cứ không thể sinh hậu chủng mà nói, nay riêng giải rằng: Vô chủng đã sinh, y dẫn sinh sau tự loại chủng nói, nếu sinh hiện hành, tức mười một hữu chủng trước đã sinh, nếu vậy tại sao Tạp Tập luận giải thích hữu chủng đã sinh, nghĩa là trừ La-hán sau cùng uẩn. Vô chủng đã sinh nghĩa uẩn sau cùng.
Đáp: Ý của Sư Tử Giác chủng tử lúc khác làm nhân năng sinh chủng tử, hiện hành niệm sau, tâm sau cùng này niệm chủng nhân trước chỉ có năng sinh hiện, luận bản gọi là vô chủng đã sinh, do vô chủng cho nên sau lại đoạn diệt, nay y Nan-đà cũng tức đồng với kia. Hộ Pháp không nương luận, cho nên chỉ như trước y chủng tử nói, chẳng phải Nanđà, Sư Tử Giác v.v... sở tri kiến ý của Vô Trước Đại sư nói chủng tử trước sau cùng sinh nhau gọi là vô chủng đã sinh.
Biện rằng: Nghĩa có muôn đường lẽ nào không có lý này, nếu thuận hai luận sớ giải thích là tối ưu. Nói vô chủng là nêu bày không có loại sau, nói đã sinh rõ ràng là cùng hiện hành đồng thời, lại cầu nữa, phải để chữ "chẳng". Luận này lẽ ra nên nói họ nương không thể mà lại dẫn sinh chủng sau, nghĩa rườm rà văn ước lược, tỉnh lược bớt chữ "đẳng", cho nên luận ấy giải thích nói uẩn sau, nếu chỉ căn cứ chủng tự loại dẫn nhau, thời khác đều như vậy, đâu nhờ uẩn sau mà giải thích, cũng không thể nói nhà giải thích không được ý của Vô Trước, vì sao? Sư Tử Giác xếp y đi quay mặt về phương bắc, phủ phục mà tạo nên giải thích kia, lẽ nào lầm với bản chỉ? Lấy đây mà suy ra hơn kém có thể biết.
Sớ: Đây trở xuống tỷ lượng v.v...
Sư trước lượng rằng: Chủng sinh ở quả, quyết định có trước sau, do vì nhân quả, như giống lúa v.v... đưa ra lỗi kia, giống lúa v.v... các dục năng lập không thành, lúa v.v... mà chẳng phải nghĩa thù thắng nhân quả. Giả sử nói ta thừa nhận có tha tùy theo một, căn cứ thật dụ cũng sở lập không thành, do ở sau luận nói chẳng phải cực thành cho nên không đưa ra.
Luận: Giống diệt mầm sinh chẳng phải cực thành v.v...
Lượng ấy đồng với trước căn cứ mầm thật, giống chẳng phải dị thời, dụ thiếu sở lập, nếu nói ta thừa nhận tức dụ sở lập tha tùy theo một lỗi, lại nhân bất định; lửa, đèn, rễ sen đồng thời.
Luận: "Kế có câu y" đến "vì quyết định có".
Du-già quyển 76 làm chứng này, cho nên luận kia nói, thức A-đà-na làm y chỉ làm kiến lập cho nên sáu thức thân chuyển. Trong đây có thức nhãn và sắc làm duyên sinh nhãn thức, cũng nhãn thức chung tùy theo hành đồng thời đồng cảnh có ý thức phân biệt chuyển, còn nhĩ v.v... các thức cũng vậy, nếu lúc bấy giờ một nhãn thức chuyển tức vào lúc này chỉ có một ý thức phân biệt cùng nhãn thức đồng sở hành chuyển, nếu lúc bấy giờ hai ba bốn năm các thức thân chuyển, tức lúc này chỉ có ý thức phân biệt cùng năm thân thức đồng sở hành chuyển.
Giải thích: Ở đây có thức có thức Đà-na, dùng thức Đà-na làm chỗ nương các thức. Nói đồng cảnh có hai nghĩa:
1. Căn cứ bản chất, chất một tên đồng.
2. Căn cứ tướng phần, tướng tợ tên đồng. Sớ: Do ba nhân cho nên đồng.
Ý thức vốn muốn duyên ở cảnh trước gọi là tác ý. Nói tư dưỡng, tức bản luận nói: Hai y tư dưỡng, trong sớ bỏ chữ "hai", thế nào là hai y?
Đáp: Xét kỹ sớ chủ Du-già trong sớ sao có hai giải thích: một là đồng với sớ này; hai là nương ý căn, tức là Mạt-na và các căn như nhãn v.v... Do nhãn thức kia nương nhãn nhận lấy cảnh, khiến ý thức kia lấy cảnh rõ ràng, do năm căn này gọi là ý trưởng dưỡng, năm căn tùy nêu một gọi là hai y.
Hỏi: Chánh nghĩa ý thức không nương nhãn v.v... đâu được lấy nhãn gọi là hai y?
Đáp: Căn cứ nhãn làm môn lấy cảnh rõ ràng gọi đó là y, không được câu hữu y gọi là y.
Biện rằng: Như trong sớ đã nói nhưng không hiển bày nghĩa của hai y, lấy Du-già sớ sao giải thích nghĩa thứ hai, giải thích văn kia đủ.
Sớ: Căn lìa thức, cho nên không riêng nói có. Hỏi: Không thừa nhận căn riêng làm sao lìa thức?
Đáp: Không đồng tự cảnh là tự tướng phần gọi là lìa thức, chẳng phải nói ngoài thức riêng có thật thể, gọi là lìa thức.
Luận: Thức từ tự chủng sinh v.v...
Xét luận ấy giải thích rằng: Đây nói nghĩa gì? Tợ sắc hiện thức từ tự chủng tử duyên hợp chuyển biến sai biệt mà sinh, Phật nương chủng và sắc sở hiện kia, như kế nói là nhãn xứ, sắc xứ, như vậy nhẫn đến thân xứ, xúc xứ.
Giải thích: Tức là nhãn thức nhưng năng hiện tợ cảnh tướng chuyển, lý ngoài thức không có sắc thể chân thật, nên gọi là tợ sắc, thức hiện tợ sắc nên nói nhãn thức gọi là tợ sắc hiện, từ năng sinh rồi là chủng của thể thức, chủng này lại do cảnh giới các duyên hợp rồi khác xưa gọi là chuyển biến, do thể của thức này mới từ tự chủng sai biệt được sinh.
Sớ: Không dụng thức trước thành sở duyên ngày nay. Hiển bày năm căn không duyên tâm tâm sở.
Sớ: Tướng trước cũng vậy cũng làm sở duyên.
Đây hiển bày tướng trước đủ hai chi nên thành sở duyên duyên, tướng thể trước có gọi đó là duyên, thức làm theo tướng ấy thành nghĩa sở duyên, cho nên luận Quán Sở Duyên ghi: Sở duyên duyên nghĩa là thức năng duyên mang theo tướng kia khởi, và có thật thể khiến thức năng duyên nương gá thể mà sinh.
Sớ: "Lại đây đã nói" đến "cũng không trái".
Đây giải thích người ngoài vặn hỏi, tổng nêu không trái, tức kế ở sau nói từ niệm trước hiển bày lý không trái. Ý người ngoài vặn hỏi: Bài tụng nói cảnh sắc, Trường hàng nói sắc thức, nhưng sắc là đồng. Cảnh thức khác xa, Trường hàng giải thích bài tụng, lẽ nào không mâu thuẫn?
Sớ: "Từ trước nói niệm sau" đến "hỗ tương làm nhân".
Ý này cho cảnh có trước và đồng thời, cho nên tụng và Trường hàng đối mong nói khác, lập tên cũng sai, lý thật cảnh trước cũng gọi sắc thức, cảnh đồng thời cũng gọi là cảnh sắc.
Sớ: Tức hiển bày hai niệm tương tợ chủng là một.
Tướng phần niệm sau là trước hiện tướng sở huân chủng sinh gọi là một chủng.
Hỏi: Danh ngôn tướng chủng tại thức vô biên, tại sao tướng sau cần phải chủng trước khởi?
Đáp: Giả sử không lấy tướng trước chủng sinh, tức tương tợ nên gọi đó là một, so sánh bài tụng ấy nói quyết định theo nhau, đồng thời cũng làm duyên, hoặc trước làm duyên sau dẫn công năng ấy. Luận ấy giải thích rằng: Cảnh tướng cùng thức nhất định theo nhau, tuy đồng thời khởi cũng làm thức duyên. Nhân Minh nói: Đây cùng với kia có không theo nhau, tuy đồng thời sinh mà cũng được có tướng nhân quả, hoặc thức tướng trước làm thức duyên sau dẫn trong bản thức sinh tợ tự quả công năng khiến khởi không trái lý. Trong luận tuy không nói chủng đồng là dùng ý mà nói, sớ cũng không có lỗi.
Sớ: "Nếu dùng kiến phần này" đến "thay nhau làm nhân". Đạo lý căn cảnh phải nhân nhau khởi gọi là cần dụng.
Hỏi: Kiến chủng không sinh, sắc tướng hiện hành, tướng lại không huân kiến phần chủng tử, tại sao có được nghĩa hỗ tương làm duyên?
Đáp: Do cảnh làm duyên kiến phần mới được khởi, huân thành tự chủng, thức chủng làm duyên sinh thức kiến phần kiến tướng phần sinh, cảnh nếu không có, kiến phần không sinh, kiến phần không sinh làm sao huân kiến chủng? Kiến chủng nếu không có, kiến từ đâu khởi? Kiến phần nếu không có nhân tướng làm sao sinh? Chưa có vô tâm riêng có cảnh, do đây xa mong được hỗ tương làm nhân. Biện rằng: Xem sớ giải thích, một đoạn văn chủng này cùng sắc thức, bao gồm có ba tiết:
1. Do kiến chủng gọi đó là chủng, hiện gọi là sắc thức.
2. Hoặc tướng ở sau, tướng chủng gọi là chủng, hiện gọi là sắc thức, nhưng đây có hai: trước là nói về tổng tướng, sau đoạn từ ở đây đã nói v.v... trở xuống, giải thích chiết phục vặn hỏi hiển bày tụng và Trường hàng hai ý sai biệt.
3. Nếu dùng kiến phần chủng trở xuống, kiến chủng gọi là chủng, hiện tướng gọi là sắc thức.
Nay thêm một nghĩa, ngược lại thứ ba ở trước, tướng chủng gọi là chủng, hiện kiến gọi sắc thức.
Hỏi: Trong bốn pháp cái nào thù thắng?
Đáp: Lý tuy đều thông, nếu thuận luận kia quyển 2 lẽ ra rất xứng hợp. Chánh thuận văn tụng, văn tụng đã nói: "Công năng, cảnh sắc vô thỉ làm nhân", rõ ràng nói tức tướng phần chủng, hiện phân làm hai, cho nên họ giải thích rằng: Do thức năng phát so sánh biết có căn, đây chỉ có công năng chẳng phải ngoài sở tạo, cho nên trên bản thức công năng năm sắc gọi là nhãn v.v... căn cũng không trái lý, công năng phát thức lý không trái, tại thức tại chỗ khác tuy không thể nói, nhưng ngoài các pháp lý chẳng phải có, quyết định lẽ ra thừa nhận tại thức này chẳng phải chỗ khác, công năng căn này cùng cảnh sắc trước, từ vô thỉ lần lược làm nhân, nghĩa là công năng này đến vị thành thục, sinh trên hiện thức năm nội cảnh sắc, nội cảnh sắc này, lại hay dẫn khởi công năng năm căn trên dị thục thức, căn cảnh hai sắc cùng với thức là một là khác, hoặc chẳng phải một chẳng phải khác, tùy theo ưa thích nên nói. Đã nói sinh năm nội sắc cảnh ấy, lại nói căn cảnh hai sắc, rõ biết công năng tức tướng phần chủng, hiện gọi là sắc thức.
Luận: "Nhưng mười tám giới" đến "xứ xứ đều nói".
Xét trong Du-già quyển 51 ghi: Y tất cả chủng tử A-lại-da thức này, Bạt-già-phạm nói có nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhẫn đến có ý giới, pháp giới, ý thức giới, do trong A-lại-da thức có chủng chủng giới. Lại như kinh nói dụ như ác-xoa tụ, do ở trong A-lại-da thức có nhiều giới, lại dẫn quyển 66 nói, tại sao chủng chủng giới, tức là mười tám giới triển chuyển dị tướng tánh, tại sao chẳng phải một giới? Nghĩa là giới ấy có vô lượng hữu tình chủng chủng sai biệt sở y trụ tánh, làm sao vô lượng giới? Nghĩa là bao gồm cả gọi là vô lượng giới. Lại trong quyển 96 Nhiếp sự phần ghi: Trụ tự tánh giới, nghĩa là mười tám giới rơi vào tự tương tục, mỗi mỗi đều quyết định chủng tử sai biệt. Lại nữa nói tóm lại, tuy giới chủng loại có mười tám có thể được, nhưng mỗi mỗi giới nghiệp thú hữu tình chủng chủng phẩm loại có sai biệt, cho nên phải biết vô lượng, thí như thế gian đại ác-xoa tụ, ở trong tụ này có nhiều phẩm loại, chủng loại đồng, tuy nói là một nhưng có vô lượng, như vậy ở trong mỗi mỗi giới đều có vô lượng phẩm loại sai biệt, chủng loại đồng, cho nên tuy đều nói một, nhưng thật ra là vô lượng. Lại Đối Pháp luận quyển 1 nói: Hỏi: Nhãn giới tướng thế nào?
Đáp: Nghĩa là đã từng thấy, hiện thấy sắc và chủng tử này, như tướng nhãn giới, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới tướng cũng vậy. Chuẩn theo các văn trên, mười tám giới sai khác, cho nên không thể lấy các thức chủng tử dùng làm căn. Trong Đối Pháp đã nói và chủng tử này, rõ ràng nhãn v.v... căn sai biệt có chủng hiện, chẳng phải các thức chủng sự mới rõ.
Luận: "Liền trái với Thánh giáo" đến "nội xứ sở nhiếp".
Xét luận Du-già quyển 54, quyển 57 ghi: Hơn nữa sắc uẩn nhiếp bao nhiêu uẩn? Bao nhiêu giới? Bao nhiêu xứ? Nghĩa là sắc uẩn nhiếp một uẩn đầy đủ, mười giới mười xứ hoàn toàn, một giới một xứ ít phần. Chuẩn theo đây cho nên chẳng phải kiến chủng làm căn. Lại trong quyển 55, văn như trong sớ, từ trên xuống dưới thường có chỗ sai khác, cho nên không trùng lập.
Luận: Không nên nói là tăng thượng duyên.
Xét trong Đối Pháp quyển 5 giải thích tăng thượng duyên đại khái có chín loại. Thứ nhất là nhậm trì tăng thượng, Sư Tử Giác giải thích, nghĩa là phong luân v.v... đối với thủy luân, khí thế gian đối với hữu tình thế gian, đại chủng đối với sở tạo, các căn đối với các thức. Giải thích phong hay trì thủy, thủy hay trì địa, cho nên phong thủy luân đều nói v.v... Do khí thế gian, đại chủng, các căn, năng trì hữu tình, sở tạo, các thức, khí, đại chủng, căn v.v... ba loại cũng gọi là tăng thượng. Lại luận Dugià quyển 56 nói nhãn cùng nhãn thức chẳng phải nhân chánh sinh, chỉ có kiến lập nhân, thế nên hai pháp này đồng thời mà có, các căn các thức nên biết cũng vậy.
Giải thích: Kiến lập nhân là tăng thượng duyên. Nếu năm thức chủng, tức là năm căn, cho nên trái với các văn tăng thượng duyên.
Sớ: Mười một chỉ có Dục giới sắc giới ràng buộc.
Nghĩa là năm sắc căn, sắc thanh xúc ba pháp, nhãn nhĩ thân thức, thiệt tỷ, hương vị sắc giới không có, ý ý thức giới và pháp giới cả ba đều thông ba cõi, do Dục giới sắc giới này chỉ có mười một.
Sớ: Địa trên không có tầm tứ khởi nhãn thức v.v... vặn hỏi này. Cũng là trong này đã trái văn. Xét luận ấy nói:
Hỏi: Sinh Tĩnh lự thứ hai hoặc sinh địa trên, nếu có tầm có tứ, nhãn v.v... thức hiện ở trước, tại sao địa này không tầm không tứ? Nếu không hiện tiền tại sao đối với hữu sắc kia các căn hữu lại lãnh thọ địa cảnh giới ấy?
Đáp: Do có tầm có tứ các thức chủng tử tùy theo không tầm không tứ Tam-ma-địa, từ tầm tứ khởi rồi được hiện tiền này. Lại khi đây khởi rồi thức hiện hành, lại vì không có tầm tứ Tam-ma-địa chủng tử tùy theo, thế nên địa này chẳng phải là một bề không tầm tứ, do hữu tình ấy ở các tầm tứ do tánh ly dục, mà ly dục cho nên địa ấy tuy gọi không có tầm tứ, do hữu tình kia đối với tầm tứ lấy tánh lìa dục, nhưng vì lìa dục cho nên địa kia tuy gọi là không tầm không tứ, đây lại hiện hành cũng không có lỗi. Đã nói có tầm có tứ, các thức chủng tử tùy theo mà tầm tứ được khởi, rõ biết thức chủng không phải là căn này. Nếu là căn, trước hỏi sau đáp đều không đúng lý, điều này suy nghĩ có thể hiểu, lý đã không trái, nên biết thức chủng rõ ràng chẳng phải căn.
Sớ: Các thức cũng lẽ ra chỉ có chủng tử ngăn ngại.
Ý vặn hỏi này cho rằng, luận nói nhãn giới thông chủng và hiện, chấp lời chỉ nói chủng mà không lấy hiện, cũng nói nhãn thức có hiện chủng, lẽ ra cũng đồng căn chỉ có lấy chủng, tức Đối Pháp nói:
Hỏi: Nhãn thức giới tướng thế nào?
Đáp: Nghĩa là y nhãn duyên sắc tợ sắc liễu biệt, và chủng tử này tích tập dị thục A-lại-da thức là tướng nhãn thức giới, tướng của nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới cũng vậy.
Sớ: Sáu thức cũng không có căn chỉ có lỗi của chủng.
Hỏi: Lấy luôn hiện nghiệp có thể không có lỗi này, nhưng lấy nghiệp chủng lỗi làm sao tránh? Cũng trái với văn căn thông chủng, hiện?
Đáp: Nghiệp đã có ba, rõ ràng chủng phải một, không đồng ở trước chỉ có một chủng, căn cứ một bên này để lập ngôn hoặc tuy nói nghiệp chủng cũng lấy hiện nghiệp. Giải thích sau là chính, như trong Nghĩa Đăng có nói đủ.
Sớ: "Nếu nói" đến "chẳng phải chỉ có Vô ký".
Ý chống chế này cho rằng, nếu nghiệp đã thuần thục, năm thức bị chiêu cảm lý chỉ có Vô ký, khi nghiệp chưa thuần thục, năm thức sở khởi đã chẳng phải nghiệp cảm, cho nên thông với thiện ác.
Luận: Lẽ ra không có nhãn v.v... vì câu hữu y.
Tức thiện, nhiễm nhãn lấy pháp nào làm câu hữu y, chẳng phải nghiệp chiêu lấy cho nên không thể lấy nghiệp chủng làm y.
Hỏi: Nan-đà đã thừa nhận căn thức khác thời, trách không có câu hữu lẽ nào không tương phù?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Y giáo vặn hỏi, họ không đứng về tông để trách, Du-già v.v... nói nhãn v.v... làm câu y của thức.
2. Đây là vặn hỏi các nhà chống chế, các nhà chống chế tuy mượn lấy chủng làm căn, kỳ thật tự thừa nhận căn, thức đồng thời, cho nên vặn hỏi không có lỗi.
Biện rằng: Nay xem ý luận do thiện, nhiễm thức chẳng phải nghiệp chiêu cảm, không nương nghiệp chủng, riêng về vặn hỏi ở đây có hai pháp không câu hữu y, vốn không luận thời đồng dị.
Sớ: "Nay Tây phương" đến "thật có căn sai khác".
Ý sư này căn cứ riêng tăng cho nên được làm chánh nghĩa.
Luận: "Lại các Thánh giáo" đến "khí thế gian v.v...".
Xét luận Du-già quyển 51 ghi: Làm sao kiến lập sở duyên chuyển tướng? Nghĩa là nếu lược nói A-lại-da thức do ở hai chủng sở duyên cảnh chuyển, một là do liễu biệt chấp thọ bên trong, hai là do liễu biệt không phân biệt khí tướng bên ngoài. Liễu biệt chấp thọ bên trong nghĩa là năng liễu biệt Biến kế sở chấp tự tánh vọng chấp tập khí và các sắc căn, căn sở y xứ. Liễu biệt không phân biệt khí tướng bên ngoài, nghĩa là năng liễu biệt y chỉ duyên A-lại-da thức chấp thọ bên trong, trong một thời không có tướng khí thế gian gián đoạn. Lại quyển 76, kinh Giải Thâm Mật v.v... nói xứ chẳng phải một, đại khái giống nhau nên không chép, luận Trung Biên thì như sớ trước sau đã dẫn.
Sớ: Tức là nói có thể dừng.
Dùng nghĩa là dừng trụ, đây nói tức là dừng và thân gần, cho nên kế nói không bằng sư trước, chữ "hoặc" là nhầm, lẽ ra thành chữ "chỉ" mới hợp lý.
Sớ: "Nếu không nói tha" đến "không thể tự y".
Lỗi bất định nói, là như Thức thứ bảy hằng chuyển y tha chứng Thức thứ tám hữu y, là như Thức thứ bảy tuy lại hằng chuyển, mà không tự nương chứng Thức thứ tám vô y.
Hỏi: Nhân đối với đồng, dị hai dụ chuyển gọi là bất định, nay chỉ có Thức thứ bảy sao thành bất định?
Đáp: Tuy thể không có hai nghĩa, tức có sai khác, đối với hai nghĩa nên cũng không có lỗi.
Sớ: Cho nên nay sư này khiến thành nghĩa câu hữu y.
Hỏi: Khiến tâm, tâm sở lấy tự sở duyên mới thành sở y, chủng đã không thể lấy tự sở duyên, hiện mong đối với nó làm sao thành sở y?
Đáp: Bốn nghĩa sở y là tông Hộ Pháp, chẳng phải ý của sư này, không thể làm vặn hỏi.
Sớ: "Lại các thức hiện hành" đến "nay sơ lược không thuật lại".
Sáu thức Dị thục không thể năng huân, hiện mong ở chủng cũng đồng với Thức thứ tám nhưng chẳng phải nhân duyên, luận lược qua không nói. Sớ: "Nay không nói y" đến "mong hiện là y".
Sáu thức Dị thục tuy không có năng huân đồng với Thức thứ tám, nhưng hiện mong chủng không có sức năng trì, không đồng Thức thứ tám hiện cùng chủng làm sở y, cho nên không lấy.
Sớ: Trước sau làm luận.
Bản hữu, tân huân như thứ lớp trước sau.
Luận: "Như Khế kinh" đến "hằng tương tục chuyển".
Xét kinh Lăng-già quyển 9 ghi: Thể người và năm uẩn, các duyên và vi trần, thắng nhân tự tại làm, chỉ là tâm phân biệt, tâm biến tất cả xứ, tất cả xứ là tâm.
Lại nói: Nương cha mẹ hòa hợp, A-lại-da ý hợp, như chuột trong bình sữa, cùng đỏ trắng lớn lên; phách-thi, hậu, bào, sang; bất tịnh nương tiết hết, gió nghiệp nuôi bốn đại, như các quả thành tựu.
Biện rằng: Cùng luận đã dẫn văn tuy không đồng, yếu chỉ thì đồng, cho nên trong sớ nói, so sánh văn ấy đồng, hoặc có thể trong sớ so sánh bản tiếng Phạm đồng, không căn cứ bản Hán, bản Hán thiếu đoạn văn mà luận này dẫn.
Sớ: Từ ở sau nêu giải thích cũng như vậy.
Vốn rõ ràng tâm có sở y, nay trước vặn hỏi các nghĩa sở y, gọi là từ ở sau, văn giải thích đồng nêu cho nên nói cũng như vậy. Cho nên ở giải thích sau, trước là giải thích hai sai biệt, sau nói các tâm đều y nhiều ít.
Sớ: Nếu vậy bốn đại chủng và năm căn phù trần bốn đại.
Bốn đại chủng ban đầu tạo năm căn, sau tức tạo phù trần bốn đại kia.
Sớ: Trừ thức uẩn có chút phần mong nhau.
Các thức mong nhau có quyết định, nhưng chẳng phải tất cả, nên nói chút phần, đây quyết định thức không lấy thành vặn hỏi, do quyết định thức là sở y, cho nên trừ.
Sớ: Đây lựa chọn thọ tưởng uẩn hoàn toàn, hành uẩn chút phần.
Chỉ lựa chọn tâm sở pháp của hành uẩn, lại mạng hành uẩn cũng là chủ, nên nói chút phần, văn này không thứ lớp, tổng kết pháp lựa chọn thứ ba ở trước.
Sớ: Đều cần ở đây.
Nói ở đây là khiến tâm này lấy tự duyên.
Sớ: Luận ấy nói hữu y, đây nói là như vậy.
Trong luận Du-già nói hữu sở y tức là luận này đã nói đúng như vậy.
Sớ: Tức trước có cảnh nhãn v.v... là quả.
Do có sở duyên cùng với nghĩa có cảnh nhưng lại có sai khác, nếu có sở duyên, thể chỉ là năng duyên, nếu nói có cảnh tức thông năm căn, cần phải có sở duyên mới có sở y, nên trừ căn.
Sớ: Đây giải thích tất cả năng y v.v...
Đây giải thích chiết phục vặn hỏi, ý chiết phục vặn hỏi cho rằng, vốn nói sở y, vì sao lại biện các tâm năng y, cho nên giải thích tất cả pháp năng y, ý muốn đưa ra thể năng y hiển bày y kia. Sớ nói đây giải thích tất cả năng y, là nêu lại xác định.
Sớ: "Đây là y bên ngoài" đến "nên nói lại".
Đây tổng kết, trước đưa ra lý do lựa chọn pháp. Y nghĩa là sở y, sắc tâm sở v.v... là pháp ngoài sở y lựa chọn, cho nên sau sở y mới chỉ ra lựa chọn nên gọi là nêu lại. Hoặc chỉ có hiển bày tâm sở để giải thích mối nghi bên ngoài, ý nghi bên ngoài cho rằng Thánh giáo đã nói chỉ có tâm tâm sở gọi là hữu sở y, tức tâm sở lẽ ra cũng thuộc sở y, nên có giải thích này. Ý giải thích này nói, đây là sở y này, nghĩa là sở y, sở là một sở y bên ngoài lựa chọn pháp, nếu không lựa chọn sợ nghi đồng chủ cũng sở y, cho nên phân biệt lại gọi là nêu lại. Đối với văn kế tâm tâm sở xứ nên gọi là nêu lại.
Có nghĩa, hỏi: Vì sao riêng lựa chọn tâm sở mà chẳng phải lựa chọn cái khác?
Đáp: Người lập luận ý không nên nêu trách, do trước dẫn nói tâm tâm sở gọi là hữu sở y, tức sợ tâm sở cũng là sở y nên lựa chọn tiếp, tuy đều có sở y, sở y chỉ có tâm, còn lại chẳng phải sở y, cùng hiển bày nên không nói.
Sớ: "Nhưng các thức" đến "lược mà không luận".
Nhưng có cái không được làm sở y, tức trong bốn nghĩa mà thiếu nghĩa quyết định thứ nhất.
Luận: "Đồng cảnh" đến "sở y sai biệt".
Hỏi: Nhãn v.v... năm thức đắc tự tại vị thông duyên năm cảnh, thành sự trí phẩm duyên mười tám giới, năm căn làm sao cùng thức đồng cảnh?
Đáp: Căn cứ trong nhân vị chưa tự tại mà nói, lại có các giải thích, như ở sau sẽ biện rõ.
Sớ: Cũng làm nghĩa này vì không trái nhau.
Ba vị không có bảy nhà, cũng đồng với An Tuệ thành Thức thứ tám vô y, cũng làm nghĩa này cũng hiển bày ba vị của An Tuệ không có Thức thứ bảy. Sớ: Hỏi: Lẽ ra thiết lập cù lao chăng?
Đáp: Thức thứ sáu nương Thức thứ bảy, Thức thứ bày nương thân gần, thân gần nương chuyển, Thức thứ sáu cũng chuyển, Thức thứ tám nương Thức thứ bảy, vì Thức thứ bảy chẳng phải thân gần.
Hỏi: Thức thứ bảy Vô lậu, Thức thứ tám chẳng chuyển, hữu chấp vô chấp hành có tương tợ không tương tợ nên gọi là thân không thân?
Đáp: Quyển 2 ghi: Nếu do Thức thứ tám chuyển, Thức thứ bảy mới chuyển, có thể vặn hỏi Thức thứ bảy chuyển Thức thứ tám cũng chuyển, vị của Thức thứ tám chuyển thì Thức thứ bảy chuyển trước. Khi Thức thứ bảy chuyển, Thức thứ tám không chuyển, do thân sơ sai biệt, chuẩn theo trước nên biết.
Lại giải thích: Hai chấp Thức thứ sáu, thứ bảy sai vì chẳng phải chấp, Thức thứ bảy chuyển thì Thức thứ sáu cũng chuyển, Thức thứ tám không chấp, không trái hoàn toàn, cho nên không tùy theo sở y chuyển, lý này nên tư duy.
Sớ: Hai là tâm chợt hiện gặp cảnh vị.
Hỏi: Luận không có tâm chợt hiện, vì sao thêm vào?
Đáp: Chuẩn theo trong đoạt ở sau đã có ba vị, rõ ràng nay dù ở ba vị chẳng phải không có, cho nên nói "gặp" là bao hàm tâm chợt hiện. Có nghĩa, gặp chẳng phải cảnh thù thắng tức nhiếp chợt hiện, cần phải gặp cảnh chẳng phải thù thắng tâm chợt hiện vậy sau đó mới không tương tục. Nếu gặp cảnh thù thắng, tâm chợt hiện sau đó tương tục phát sinh. Nếu nói riêng tâm chợt hiện, tức hiển sau chợt hiện đều không tương tục, đã sau chợt hiện đều chẳng phải không tương tục, cho nên tức nhiếp ở trong vị thứ hai, do đây nên có bốn câu phân biệt:
1. Tâm thù cảnh thù thắng chẳng phải thù thắng, nghĩa là đối với cảnh yếu kém khởi tâm Đẳng lưu.
2. Cảnh thù thắng tâm không thù thắng, nghĩa là đối với cảnh thù thắng khởi tâm chợt hiện.
3. Tâm cảnh đều thù thắng, nghĩa là đối với cảnh thù thắng khởi tâm Đẳng lưu.
4. Đều chẳng phải thù thắng, đối với cảnh chẳng phải thù thắng khởi tâm chợt hiện. Chỉ có nương câu thứ tư nói không tương tục.
Biện rằng: Nghĩa sợ chưa hẳn như vậy, hiện thấy người có chủ ý thiên lệch. Tuy cảnh thù thắng đến không xả duyên trước, lẽ nào chẳng phải cảnh thù thắng tâm chợt hiện sau đó lại không tương tục sao? Tuy cảnh chẳng phải thạnh, do tâm trước không thiên lệch nơi chú ý, gặp duyên tương tục không dứt, lẽ nào chẳng phải cảnh yếu kém tâm được tương tục? Do đây cho nên biết, dù ba vị phần nhiều không tương tục, chưa thể lấy đó làm câu số nhất định.
Luận: Nếu vị tự tại.
Bố thí mà không ôm giữ gọi là tự tại, phàm sắp biến hiện tùy theo mong muốn mà thành, có chỗ quán sát không đâu mà không minh ngộ.
Sớ: Địa thứ tám trở đi đều có thể mặc tình.
Căn cứ tự lợi mà nói, nếu căn cứ lợi tha, đối với thuốc và bệnh có chỗ chưa thông hiểu.
Sớ: "Vì chẳng phải lỗi này" đến "được tương tục".
Vì không chỉ có lỗi thứ nhất này, mà có Đẳng lưu các vặn hỏi ở sau, vì sinh ở sau luận nên mới có lời nói này. Có bản sớ nói ban đầu, lý cũng được, nay theo chữ "này".
Sớ: Thứ lớp tương tục sinh.
Nhãn thức cùng ý rơi rụng trong quá khứ, ý sau tiếp tục khởi, ý rơi rụng xong, nhãn v.v... lại cùng với ý thức tương tục khởi gọi là thứ lớp tương tục, chẳng phải riêng ý thức sau khi diệt chỉ một mình nhãn sinh gọi là cùng tương tục, do năm thức cùng ý thức đồng thời khởi.
Luận: Hý vong thiên.
Xét trong Du-già ghi: Nghĩa là các cõi trời ở cõi Dục giới gọi là du hý vong niệm, các thiên chúng ấy hoặc có khi đắm trước vô số thú vui, trải qua thời gian lâu trụ tương tục, do trụ lâu nên quên mất chánh niệm, do quên mất niệm, nên từ cõi trời kia chết. Hoặc lại có cõi trời gọi là Ý phẫn, các thiên chúng kia có khi lần lượt lấy mắt nhìn nhau, do nhìn nhau nên ý giận tăng thêm, ý giận tăng thêm cho nên từ chỗ ấy chết. Lại xét trong Đối Pháp quyển 3 ghi: Thanh tịnh đã sinh, nghĩa là Du hý vong niệm, Ý tương tục oán, Lạc biến hóa thiên, Tha hóa tự tại, Sắc vô sắc giới chư thiên phần nhiều buông lung, nên tùy theo thích ứng ở cảnh thọ dụng và định sở trụ tự tại mà chuyển.
Biện rằng: Chuẩn theo luận Đối Pháp, Vong niệm, Ý phẫn, Biến hóa, Tha hóa thứ lớp mà nói, Vong niệm Ý phẫn tức đương thời phần và tri túc. Lại người phẫn giận là phần nhiều do cảnh sắc, Dục giới trở lên hai cõi trời đối với các thê thất không có nhiếp thuộc, do đâu nhìn nhau sinh tức giận? Vì sao biết được? Luận Du-già quyển 5 nói, ba châu nhiếp thọ thê thiếp lập bày cưới gả, trừ ở Bắc châu vì không có ngã sở, như vậy Đại lực quỷ và trời Dục giới cũng vậy, chỉ có trừ Lạc hóa, và Tha hóa tự tại thiên đã không có nhiếp thuộc, lý lẽ ra không có nhìn nhau oán giận.
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Do hai cõi trời này ngoại cảnh phần nhiều biến hóa, cho nên nội tình cũng không phối hợp, do đây lấy hai cõi không thiên ở dưới, không trái tự tha hại v.v... bốn câu, cũng thuận Đối Pháp, lý lẽ ra không lỗi.
Hỏi: Vì sao trong Trí luận ghi: Trong sáu tầng trời cõi dục lại riêng có cõi trời gọi là Hý vong niệm, Tâm sân thiên?
Đáp: Tuy ở chặng giữa, ngại gì được thuộc về hai cõi trời này. Trong Trí luận tự nói đều thuộc sáu cõi trời, cũng còn trong Phạm vương, thiền giả sơ định nhiếp, hoặc thông sáu cõi trời, trong Trí luận nói các cõi trời đều thuộc sáu cõi trời, trong Du-già lại nói chư thiên Dục giới, cho nên có thể thông sáu.
Hỏi: Nếu vậy bốn câu lẽ nào không trái ư?
Đáp: Chẳng phải sáu cõi trời kia đều là Hý và Phẫn, lấy đùa giỡn giận ấy gọi là tự hại, như gọi chung là người, duy chỉ có Phật sai khiến v.v... mới đủ không hại, sáu cõi trời tuy bao gồm các cõi trời, chỉ có đùa giỡn giận, là chỉ có tự hại cũng nào có trái với lý, y thật hữu tình ít phần mà nói, hai cõi Không cư cũng có nhiếp thọ, như Ma vương nữ quy thuộc về ma.
Luận: "Cho nên Du-già" đến "gọi là ý căn".
Sư thứ hai giải thích văn có hai đoạn: một là chánh ngược lại ba vị để phá, hai là dẫn Du-già làm chứng. Sớ nói dẫn chứng thuộc văn thứ ba, nay không y cứ. Dẫn văn Du-già chứng năm thức được dùng tự loại làm y, không chứng thứ ba vì gặp cảnh thù thắng.
Biện rằng: Xem qua thế của luận, thật có lý này, nếu xét lý tìm văn thì sớ là chính, vì sao? nêu cảnh tăng thạnh chứng năm tương tục. Dẫn trong Du-già tự loại làm y, lẽ nào không hiển bày năm là tương tục? Nên ở sau kết luận rằng nên biết năm thức có nghĩa tương tục, tuy lại ba nhân đều nói tương tục, tùy tự nhân trở xuống văn có dẫn làm chúng riêng, đây cũng đâu có lỗi gì?
Sớ: "Tuy ngay sáu thức" đến "thật chẳng phải Thức thứ bảy".
Thể bình đẳng trí tuy là thứ bảy, do chuyển bỏ Mạt-na nhiễm ô kia kia, trí này mới được, nên từ nơi chỗ chuyển Thức thứ bảy thành tên.
Hỏi: Vì sao Thức thứ bảy vô trí gọi là bình đẳng?
Đáp: Do ngã vô ngã, có bình không bình, cho nên Thức thứ bảy ngã hết, bình đẳng mới lập.
Luận: Hoặc do bi nguyện tương ưng thiện tâm. Xét luận Du-già quyển 59 ghi: Trí sở dẫn phát kết sinh tương tục, nghĩa là các Bồ-tát. Lại có nghĩa lợi năng dẫn phát kết sinh tương tục, nghĩa là trí sở dẫn phát kết sinh tương tục. Lại Tập luận quyển 3 ghi: Đã được cứu cánh Bồ-tát Ma-ha-tát v.v... nương sức đại bi nguyện nên sinh trong các cõi. Lại Đối Pháp ghi: Nếu các Bồ-tát nguyện lực thọ sinh, các tâm mạng chung nên biết tất cả thuần là thiện. Sớ chủ giải thích:
Nếu phần đoạn, biến dịch cũng do hai trí thiện tâm làm duyên Thức thứ tám được khởi. Nói hai trí tức trí tương ưng của Thức thứ bảy, thứ sáu. Có nghĩa chỉ lấy Thức thứ sáu là thù thắng.
Biện rằng: Lấy cả hai mới là tốt, lấy đâu làm chứng?
Đáp: Xét trong luận Phật Địa quyển 5 ghi: Không đợi đại bi bình đẳng pháp tánh, Như Lai đại bi cứu giúp khắp tất cả hữu tình duyên thông ba cõi. Lại nói, tùy theo những điều các chúng sinh ưa thích mà thị hiện, bình đẳng pháp tánh là tùy theo các hữu tình ưa thấy sắc thân sai biệt mà Như Lai thị hiện.
Giải thích: Đã nói Bồ-tát đối với Thập địa, một địa được một địa, rõ biết mà dụng bình đẳng tánh trí làm duyên thọ sinh mà cứu vật, nếu không như vậy tại sao mỗi địa được chứng đắc? Trong phần giải thích nói Đức Phật nêu thành tựu là hiển phần chứng đắc kia, cho nên không trái nhau, như ở sau có dẫn rộng.
Luận: "Khai đạo y" đến "chẳng phải tâm sở".
Trong đoạn này nói, Khai đạo y đến gọi là Khai đạo y là biện về nghĩa của y, đây chỉ thuộc tâm trở xuống, chỉ bày y thể kia ngăn lựa chọn chẳng phải y, ban đầu biện nghĩa y có bốn nghĩa lựa chọn, tâm sau giai đoạn này là nghĩa thứ tư, lựa chọn tư hiển thức tâm sau không làm chỗ nương của tâm trước, vì không dẫn dắt, hoặc tuy tâm này đồng thời không làm sở y của tâm sở, chẳng phải khai tránh cho nên lại nói ở đây. Tâm diệt trước này, sau tâm sở sinh và tâm sở làm y, nhưng thành bốn nghĩa, lẽ nào là thù thắng?
Biện rằng: Nói Đẳng vô gián lý nào không ngăn tự hiển bày tâm sau đồng thời tâm sở? Lẽ nào lại có thừa nhận tâm sau làm trước và đồng thời sở vô gián duyên ư? Lại nghĩa thứ tư lựa chọn các tâm sau, thứ ba là lựa chọn pháp nào? Nên ba nghĩa thù thắng. Lại nói "đây" là tâm diệt trước này, ý tức có thể thông, căn cứ văn không thuận, trong văn không nói tâm trước diệt, làm sao gọi là "đây"? Cho nên nay nên nói ở tâm sau này gọi là Khai đạo y là biện về danh nghĩa của nó, đây nói trước đầy đủ ba nghĩa pháp, đây chỉ thuộc về tâm trở xuống, đưa ra thể để ngăn những thứ khác.
Sớ: Lựa chọn dị loại thức khác. Tự tâm tám thức gọi là dị loại.
Luận: "Lại Thánh giáo" đến "tâm tâm sở".
Xét luận Du-già quyển 38, Đẳng vô gián duyên và Sở duyên duyên chỉ có mong tất cả tâm pháp mà nói, do tất cả tâm và tâm pháp đó trước khi sinh thì thuộc về Khai đạo, thuộc về cảnh giới sở duyên mới sinh mới chuyển.
Luận: "Nhưng Nhiếp Đại thừa" đến "vì đoạt nhân duyên".
Xét trong Nhiếp luận của Vô Tánh ghi: Nghĩa là sư Kinh bộ khởi chấp như vầy: sắc, tâm vô gián sinh, nghĩa là các sắc tâm trước sau thứ lớp tương tục mà sinh, chủng tử các pháp này là các Hữu vi sinh nhân tánh, nghĩa là chấp và nói như vậy, từ sắc sát na trước, sắc sát-na sắc sau vô gián mà sinh, từ tâm sát-na trước tâm sát-na sau và tương ưng pháp vô gián mà sinh. Trong đây nhân quả đạo lý thành tựu, cần gì lại chấp A-lại-da thức là nhân các pháp? Vì ngăn chấp này, nên kế đó nói, đây không được thành như trước đã nói, như nói hai niệm không câu hữu v.v... lại có lỗi gì? Nghĩa là khi Vô sắc diệt sắc giới sinh, chủng tử sắc trước năng sinh sắc nay, lý không được thành, vì đoạn diệt từ lâu. Từ Vô tưởng chết, khi tâm tưởng sinh và khi diệt định v.v... xuất tâm sinh, chủng tử tâm trước năng sinh tâm sau, đều không đúng lý, vì đoạn diệt từ lâu. Lại nếu lìa câu sinh, câu diệt đó, nhiếp thọ chủng tử tương ưng đạo lý, nhưng chấp chỉ có tâm sát-na trước hay làm chủng tử dẫn sinh vô gián, tâm sát-na sau tức A-la-hán tâm sau không thành, không nên được nhập Vô hay Hữu dư y Niết-bàn, do tâm sau hay làm chủng tử Đẳng vô gián duyên sinh tâm khác, như vậy thì phải không có lỗi Vô dư y Niết-bàn. Thế nên sắc tâm trước sau cùng sinh, nhưng chấp nhận có Đẳng vô gián duyên và Tăng thượng duyên, không có nhân duyên. Giải thích sắc tâm trước sau đều tự tướng sinh, chẳng phải hỗ tương sinh làm Vô gián duyên.
Luận: "Tuy tâm, tâm sở" đến "pháp khác cũng khai đạo".
Xét luận Du-già ghi: Như trong kinh nói bốn Vô sắc uẩn này phải nói hòa hợp, chẳng phải không hòa hợp, không thể nói các pháp như vậy có thể phân tích khiến nó sai biệt.
Hỏi: Vì sao pháp dị tướng ấy thành tựu mà nói hòa hợp không sai biệt ư?
Đáp: Đông nhiều hòa hợp, đối cảnh sở duyên thọ dụng lãnh hiểu mới viên mãn, nếu không như vậy thì tùy theo thiếu một loại, đối với việc làm lẽ ra không viên mãn.
Luận: "Vô tâm vị" đến "tức tự loại ở trước".
Trong Đối Pháp đồng với đây, xét luận đó quyển 5 ghi: Đẳng vô gián duyên nghĩa là trong đó không gián cách, không gián đoạn.
Giải thích: Luận nói chưa hẳn trong sát-na gián cách, tuy cách sát-na, nhưng ở trung gian không khác tâm gián cách, cũng gọi là trong đó không gián cách, nếu không như vậy tâm nhập vô tâm định, mong tâm xuất định lẽ ra chẳng phải Đẳng vô gián duyên, nhưng là duyên kia, thế nên ở trong một tương tục, tâm trước mong tâm sau, trung gian không còn tâm gián cách là Đẳng vô gián duyên.
Giải thích Vô dư tự loại tâm lại ngăn cách, tức tự loại khác tuy là đồng mà chẳng phải tức đây, cũng gọi là dị. Nếu nói dị thức gọi là cái khác dị, trụ vô tâm vị có Thức thứ bảy, thứ tám gián cách, làm sao được nói nhập xuất hai tâm vô gián? Cho nên giải thích như trước.
Luận: "Trước khi diệt" đến "làm Khai đạo y".
Hỏi: Trước vặn hỏi Tiểu thừa hành duyên ở thức, thời phần ngăn cách nghĩa vô duyên, nay đồng với nó nên không thể khai?
Đáp: Luận về khai đạo, trước khai đường ấy sau dẫn khiến sinh, nay tránh đường ấy là thi thiết công rồi, do đây sau khởi mà không thấy ngăn, dù nói thời gian dài cố nhiên cũng không có lỗi, không đồng với quá khứ ấy làm duyên, pháp quá khứ nghĩa vô duyên làm sao lập?
Sớ: "Hỏi như trong kinh Giải Thâm Mật" đến "nay vì sao giải thích ngược lại".
Đây là sớ các giáo, trong Nghĩa Đăng trước sau thường dẫn. Nhưng người xướng đạo đến khi luận cứ giở ra xem, chẳng phải không nhọc tinh thần, nay lược nêu lại. Sư thứ nhất vặn hỏi rằng: Trong Du-già quyển 1 ghi: Nghĩa là nhãn thức sinh ba tâm có thể được, tâm chợt hiện, tâm tìm cầu cho đến quyết định. Lại quyển 3 ghi: Lại trong một sátna năm thức sinh rồi, từ vô gián này ắt ý thức sinh, đây tức năm thức dẫn sinh ý thức. Lại sư thứ nhất và sư thứ hai vặn hỏi rằng: Trong Du-già lại nói sau tâm quyết định mới có nhiễm tịnh, sau đó mới có Đẳng lưu, nhãn thức thiện bất thiện chuyển. Lại trong kinh Giải Thâm Mật v.v... cũng nói năm thức do y dẫn, đây tức năm thức do ý dẫn sinh. Sư thứ hai nói: Lại như trong Nhiếp luận và Trang Nghiêm luận, kinh Phật Địa, ý các bộ đều nói chuyển Thức thứ bảy được Bình đẳng trí, chuyển Thức thứ tám chứng Viên cảnh trí, đây tức do pháp Thế đệ nhất ý Thức thứ sáu dẫn sinh Bình đẳng tánh trí tương ưng tịnh thức, hai trí Quán sát và Bình đẳng tương ưng Thức thứ sáu, thứ bảy, dẫn sinh cảnh trí tương ưng tịnh thức. Lại Dị thục thức y ý nhiễm ô, như trong Đối Pháp nói, hoặc nương bi nguyện tương ưng thiện tâm, đây tức Hữu lậu Vô lậu Thức thứ sáu, thứ bảy dẫn Hữu lậu Thức thứ tám.
Sớ: Như một pháp chưa đạt chưa khắp biết ý.
Vô Trước nói Thức thứ tám không nói cho Tiểu thừa, Vô Tánh nêu bên ngoài, lấy kinh làm vặn hỏi mà thông suốt. Nay lược dẫn rằng, bản luận ấy ghi: Lại nữa vì sao trong Thanh văn thừa không nói tâm này gọi là A-lại-da thức, A-đà-na thức? Do đây thuộc cảnh thâm tế. Vô tánh lập bên ngoài dẫn kinh vặn hỏi rằng: Như nói ngã không nói một pháp chưa thông đạt chưa biết khắp v.v... là giải thích ý người ngoài vặn hỏi rằng, Lại-da thâm tế không nói cho Tiểu thừa, tức hàng Tiểu thừa không thấy Thức thứ tám, làm sao đoạn hoặc, thành A-la-hán? Như Thế Tôn nói: Ta không nói một pháp chưa thông đạt chưa biết khắp thành A-la-hán, Ta chỉ nói tất cả pháp đã thông đạt đã biết khắp mới có thể đoạn hoặc thành A-la-hán.
Giải thích: Đã nói biết khắp mới thành A-lahán, La-hán tại sao không thể nghe Thức thứ tám? Thức thứ tám nếu không nghe tức chẳng phải biết khắp, làm sao gọi là Vô học? Tiến thoái đều có lỗi. Luận này mật ý nói không đoạn phiền não, lấy thanh và tướng biệt để nói chỗ tổng tướng, có hai nghĩa để đáp lời hỏi đó. Giải thích thứ nhất căn cứ Chân đế giải thích thanh là danh, xứ là nghĩa, chân lý Sinh không gọi là nghĩa tổng tướng, lấy tên gọi một pháp biệt tướng ấy nói về lý tổng tướng Sinh không, cho nên gọi là là mật. Ý kinh tổng nói, nếu lý sinh không chưa được Vô gián, Giải thoát hai đạo thông đạt biết khắp, không thể đoạn hoặc thành
A-la-hán, không nói tất cả đều phải rõ biết mới đoạn và chứng quả, do đây Thức thứ tám La-hán không biết cũng không có lỗi.
Người ngoài vặn hỏi rằng, vì sao biết được biệt thanh nói tổng?
Vô Tánh đáp: Chẳng phải các phiền não có đoạn sai khác.
Giải thích: Trí biệt tướng duyên các pháp như sắc v.v... gọi là mỗi mỗi sai khác, phiền não đã chẳng phải trí biệt tướng đoạn, cho nên biết kinh nói thông đạt biết khắp là trí tổng tướng.
Hỏi: Lấy biệt nêu tổng, nghĩa ấy thế nào?
Đáp: Hiển tổng là tánh chân thật của biệt. Luận hoặc lấy các hành cộng tướng vô thường.
Giải thích thứ hai y Tục đế giải thích hàng Nhị thừa nương mười sáu hành mà quán bốn đế, Lạida đã ở trong khổ đế, vô thường v.v... các hành cũng bao gồm trong Thức thứ tám. Căn cứ cộng tướng Nhị thừa này cũng biết, cho nên Thánh giáo đứng về hai tướng cộng bất cộng mà nói biết và không biết.
Sớ: Tức là các nghĩa không duyên chủng tử.
Nếu các nhà duyên chủng tử cho rằng nương duyên đồng, lựa chọn vô gián đã xong, không cần nói về thù thắng mà lựa chọn lại, vì nghĩa rõ ràng nhất định, do đây nên biết chẳng phải là nghĩa ấy.
Luận: Luận nói Mạt-na ngã ngã sở chấp vì hằng tương ưng.
Tức luận Du-già quyển 63 ghi: Mạt-na gọi là ý, trong tất cả thời chấp ngã ngã sở và ngã mạn v.v... so lường làm tánh.
Lại xét trong Đối Pháp quyển 2 ghi: Ý nghĩa là tất cả thời duyên A-lại-da thức suy lường làm tánh, cùng bốn thứ phiền não hằng tương ưng, nghĩa là ngã kiến, ngã mạn, ngã ái, vô minh. Chuẩn theo luận Đối Pháp, vô ngã, ngã sở chỉ có thể chứng sở duyên của ý.
Sớ: Không thể duyên nó lập nghĩa này. Nó ở đây là cảnh, nghĩa là ngã sở.
Sớ: Nên biết ngã cảnh v.v...
Ngã tức là cảnh vì Mạt-na duyên.
Luận: Tướng kiến đều lấy thức làm thể.
Có nghĩa ngay tự thể của tâm gọi là kiến phần, chẳng phải kiến phần thứ hai trong bốn phần. Thế Thân đồng thời chỉ có hai phần.
Sớ: Năm thức cũng vậy, vì là cảnh Đẳng lưu.
Nói Đẳng lưu là nghĩa tương tợ, cảnh sở duyên bản chất của Thức thứ bảy, thứ năm đều thuộc tướng phần của bản thức.
Sớ: Nếu nói thể của thức năng sinh.
Lẽ nào các pháp như sắc v.v... thể chẳng phải năng sinh? Đáp: Thức là các bản khác năng biến sinh cái khác, sắc v.v.. thì không như vậy.
Luận: Luận nói chủng tử có thật vật.
Xét trong Đại luận quyển 52 ghi: Vì sao lược nói an lập chủng tử? Nghĩa là trong A-lại-da thức, tất cả các pháp biến kế tự tánh vọng chấp tập khí, đây gọi là an lập chủng tử. Nhưng tập khí này là có thật vật là Thế tục có, đứng về các pháp ấy không thể nhất định nói tướng khác, chẳng khác, cũng như Chân như.
Lại trong Nhiếp luận quyển 2 ghi: Lại nếu lược nói A-lại-da thức dùng tất cả chủng tử dị thục thức làm tự tánh của nó. Lại nói, A-lại-da thức là thật chủng tử, là tánh nhân duyên thật của tất cả chủng tử. Chuẩn theo đây nhiều văn nói chủng tử là có.
Hỏi: Nếu thật có vì sao luận Du-già quyển 52 nói, lại nữa chủng tử tại sao không phân tích các hành riêng có thật vật gọi là chủng tử, cũng chẳng phải chỗ khác? Nhưng ngay các hành chủng tánh như vậy, đẳng sinh như vậy, an bố như vậy gọi là chủng tử. Như các vật lúa bắp đã có các chủng tử như mầm, cọng, lá v.v.. ở trong vật ấy so lường phân tích, tìm chủng tử khác rõ ràng không thể được, cũng chẳng phải chỗ khác, nhưng các đại chủng chủng tánh như vậy, đẳng sinh như vậy, an bố như vậy, các vật lúa bắp có thể làm các duyên khiến các thứ được sinh gọi là chủng tử. Lại nói, là thế tục có. Lại trong Nhiếp luận quyển 2 ghi: Chẳng phải chủng tử ấy có thật vật sai khác trụ ở trong này, cũng chẳng phải chẳng khác. Hai luận đều nói không có thật vật khác, lại nói thế tục, làm sao nhất định xác quyết luận nói thật có?
Đáp: Thế tục nói có, chẳng phải nhất định nêu giả, như ở sau luận có giải thích, nhân quả đạo lý chẳng tức chẳng khác, vì đối với dị thục nhân quả nhất định khác, nên nói không khác. Lại không đồng các pháp tâm, sắc của hiện hành duyên lự, chất ngại, nói không có thật khác, nên không trái.
Luận: Vì tợ thường một.
Y trong sớ đã lựa chọn có thể làm bốn câu: một tợ thường chẳng phải một, Thức thứ tám tâm sở; tợ một chẳng phải thường, nhãn v.v... chuyển thức; tợ một tợ thường, thể thức Lại-da; chẳng phải tợ một thường, chuyển thức chung các chủng sắc v.v...
Hỏi: Ngã còn là nghĩa chủ, có thể chấp một chấp thường, ngã sở thì không như vậy chấp nhiều có lỗi gì? Như chấp các uẩn ngã là một sở là bốn, đây vì sao không đúng?
Đáp: Câu sinh phân biệt vì có sai khác, lại tuy câu sinh duyên trong ngoài sai khác, sao được làm ví dụ.
Sớ: Là ngã của ngã.
Như sớ có bốn giải thích. Ở đây có hai giải thích:
1. Ngã hiển bày Thức thứ bảy chấp Thức thứ tám làm ngã, ngã là hiển nghĩa Thức thứ bảy lại không chấp các thức khác, chỉ có chấp Thức thứ tám lấy đó làm ngã.
2. Ngã là nghĩa lựa chọn ngã của ngã khác, nghĩa là lựa chọn chẳng phải ngã.
Biện rằng: Lại thêm một giải thích, nói Thức thứ bảy chấp sở chấp ngã là ngã thừa nhận ngã, trước là ngã Thức thứ bảy tạm gọi là ngã, sau ngã Thức thứ tám tức ngã sở chấp, là cùng thừa nhận ngã ý tương tợ.
Luận: Nhiều chỗ chỉ nói có ngã kiến.
Xét trong Đại luận quyển 51 ghi: A-lại-da thức hoặc vào một thời chỉ có cùng một loại chuyển thức câu chuyển, đó gọi là Mạt-na, vì sao? Do Mạtna ngã chấp mạn v.v... này hằng cùng tương ưng suy lường hành tướng, nếu có tâm vị hoặc không tâm vị, thường cùng A-lại-da thức đồng thời câu chuyển, duyên A-lại-da thức dùng làm cảnh giới, chấp ngã khởi mạn suy lường hành tướng. Lý của Hiển Dương như sớ dẫn đủ.
Sớ: Tức trừ bốn hạng người v.v...
Tam thừa Vô học, bất thối Bồ-tát bốn hạng này quyết định không duyên tạng thức cho nên trừ. Ngoài bốn người này có duyên, không duyên phải nên phân biệt, phân biệt nên biết Hữu lậu, Vô lậu duyên, không duyên.
Luận: Chứng đắc mười loại bình đẳng tánh.
Như luận Phật Địa đều nói đủ, nay nêu lại kinh ấy lược dẫn luận giải thích.
Kinh: Lại nữa Diệu sinh bình đẳng tánh trí, do mười chủng tướng viên mãn thành tựu.
Luận: Phải biết tức là tu quả Thập địa, trong mỗi mỗi địa lược nói, đều chứng một tánh bình đẳng tu tập viên mãn thành tựu Phật địa.
Kinh: Chứng đắc các tướng, tăng thượng, hỷ ái bình đẳng pháp tánh.
Luận: Nghĩa là tướng, và các tướng tùy hình hảo của các Đại sĩ sai biệt nên đều gọi là tướng, các tướng như vậy xa lìa biến kế sở chấp tự tánh gọi là Bình đẳng. Tăng thượng nghĩa là phú quý tự tại, sắc v.v... các uẩn đều sai biệt đều chẳng phải phú quý tự tại, hòa hợp cũng chẳng phải phú quý tự tại, lìa kế sở chấp gọi là Bình đẳng. Hỷ ái là do sức biến kế thuận pháp ấy phát sinh hoan hỷ, trái pháp kia phát sinh lo lắng, biến kế sở chấp các pháp không có, đối với kế sở chấp hỷ ái cũng không nên gọi là Bình đẳng. Thông đạt và hiểu các tướng, tăng thượng, hỷ ái bình đẳng pháp tánh như vậy nên gọi là chứng đắc. Sơ địa Bồ-tát chứng đắc đầu tiên, trong những địa sau lần lần phương tiện tu khiến tăng trưởng, Phật địa sau cùng viên mãn thành tựu.
Kinh: Chứng đắc tất cả lãnh thọ duyên khởi bình đẳng pháp tánh.
Luận: Duyên khởi có hai, nghĩa là bên trong và bên ngoài, duyên khởi bên trong nghĩa là vô gián v.v... mười hai hữu chi, duyên khởi bên ngoài nghĩa là giống mầm v.v... tất cả ngoại vật, hai duyên này khởi tất cả đều do nhân có nên quả có, nhân sinh nên quả sinh, không có nghĩa tác dụng, nghĩa của không vô ngã, không có nghĩa Bổ-đặcgià-la, là nghĩa duyên khởi, các nghĩa như vậy duyên khởi tự tướng là chỗ lãnh thọ, nên gọi là lãnh thọ. Duyên khởi v.v... nghĩa lìa kế sở chấp gọi là Bình đẳng, thông đạt và hiểu biết tất cả lãnh thọ duyên khởi bình đẳng pháp tánh đã nói như vậy gọi là chứng đắc.
Kinh: Chứng đắc xa lìa dị tướng phi tướng bình đẳng pháp tánh.
Luận: Các pháp như sắc v.v... là tướng biến hoại, không tương tợ nên gọi là dị tướng, xa lìa như vậy đều là tướng sai biệt tức là cộng tướng. Cộng tướng như vậy lấy gì làm tướng? Lấy phi tướng làm tướng, như trong Khế kinh nói, tất cả pháp tánh chỉ có một tướng. Cái gọi là phi tướng, phi tướng tức là pháp tánh bình đẳng, thông đạt và thấu tỏ kế sở chấp như vậy pháp rốt ráo hằng không có pháp tánh bình đẳng, nên gọi là chứng đắc.
Kinh: Rộng cứu độ đại từ bình đẳng pháp tánh. Luận: Từ có ba loại, nghĩa là hữu tình, pháp và vô duyên từ, do ba loại này bình đẳng cứu tế tất cả hữu tình, không đồng phàm phu và Nhị thừa nên gọi là đại từ. Cứu độ tất cả, thời gian dài tích tập phước tuệ thành mãn cho nên gọi là rộng cứu độ, như vậy đã nói rộng cứu độ đại từ, khắp tất cả xứ vô sai biệt chuyển, nên gọi là bình đẳng. Rộng cứu độ đại từ bình đẳng pháp tánh là sở duyên, đứng về cảnh cho nên gọi là Bình đẳng pháp tánh.
Kinh: Không đợi đại bi bình đẳng pháp tánh.
Luận: Thanh văn v.v... bi không thể cứu giúp tất cả hữu tình, hình tướng chút phần tạm thời mà chuyển, Như Lai đại bi khắp cứu giúp tất cả hữu tình, thông duyên ba cõi, khắp đủ hành tướng hằng thời mà chuyển, không có sở quán đãi hằng cứu giúp không xả, tùy chỗ thích ứng cứu giúp hữu tình bị khổ trong ba cõi, không đợi đại bi vô sai biệt chuyển, nên gọi là Bình đẳng. Đây tức pháp tánh, hoặc duyên pháp tánh bình đẳng làm cảnh.
Kinh: Tùy theo nhưng cái vui của chúng sinh, thị hiện pháp tánh bình đẳng.
Luận: Tùy theo các hữu tình ưa thấy sắc thân của Như Lai sai biệt, Như Lai thị hiện sắc thân như vậy, như vậy thị hiện tất cả hình tướng bình đẳng của Đức Như Lai, bình đẳng như vậy tức là pháp tánh bình đẳng, thế nên gọi là pháp tánh bình đẳng. Kinh: Tất cả chúng sinh kính thọ pháp tánh bình đẳng đã nói.
Luận: Nếu có chủng loại ngữ nghiệp như vậy, hay khiến loài hữu tình thiện căn thành tựu, nghe sinh hoan hỷ được sự ưa thích tịnh tín, Như Lai liền thị hiện ngữ nghiệp như vậy khiến họ được nghe. Như Lai nói ra tất cả ngữ ngôn thích hợp căn cơ, các trời người đều không trái nghịch nên gọi là kính thọ. Tuy có chúng sinh không thuận lời Phật, đây là hóa tác, hoặc sẽ có lợi ích sau ắt tin thọ, căn cứ nơi tổng mà nói nên nói tất cả kính thọ pháp đã nói, ngôn ngữ như vậy, do đạo lý trước chư Phật đồng thị hiện nên gọi là bình đẳng, bình đẳng như vậy gọi là pháp tánh.
Kinh: Thế gian tịch tịnh đều đồng một vị pháp tánh bình đẳng.
Luận: năm uẩn Hữu lậu gọi là thế gian; niệm niệm, đối trị hai loại hư hoại.
Giải thích: Một là Hữu vi nên niệm hoại, hai là Hữu lậu nên đối trị hoại, chỉ có khổ tập đủ cả hai hoại này.
Luận: Tức nó dứt diệt gọi là tịch tịnh. Giải thích: Nó tức là hai pháp khổ tập ấy.
Luận: Do đây đối với đây mà tịch tịnh, tức là Thánh đạo cho đến Niết-bàn, y tha khởi tánh thế giới tịch tịnh đồng quy về Chân như viên thành thật tánh, nên gọi là một vị, đây gọi là pháp tánh bình đẳng.
Kinh: Các pháp khổ vui thế gian một vị pháp tánh bình đẳng.
Luận: Các pháp thế gian lược có tám loại, đó là lợi, suy v.v... như vậy tám loại đều có hai phẩm, bốn vị nghịch gọi là khổ, bốn thuận gọi là lạc, vì sinh ưa thích, nơi bậc Thánh ở hằng thường một vị, đắc lợi không cao, gặp suy không thấp, như vậy nhẫn đến vui mà không ái, khổ mà không sân, do xa lìa biến kế sở chấp tám pháp thế gian, ở tất cả chỗ đều đồng một vị, tức đây gọi là Bình đẳng pháp tánh.
Kinh: Gieo trồng vô lượng công đức cứu cánh bình đẳng pháp tánh.
Luận: Công đức tức là các công đức pháp Bồđề phần, huân tu trưởng dưỡng thành tựu giải thoát gọi là gieo trồng, Bình đẳng tánh trí tuy không phân biệt, do sức trí tăng thượng của Phật, Bồ-tát, giống như ngọc châu Như ý khiến công đức trong thân khác sinh trưởng thành tựu giải thoát. Nói cứu cánh là hay được Niết-bàn của Tam thừa, trí như vậy gọi là bình đẳng pháp tánh, xa lìa tánh biến kế sở chấp.
Sớ: Thật tư lương ấy chỉ là hành tướng.
Tự thể phần của thức thật chẳng phải tư lương, nay nêu hành tướng kiến phần tư lương hiển bày tự thể ấy.
Hỏi: Làm sao hiển bày?
Đáp: Thể tư lương này gọi là tư lương, nêu ngọn hiển gốc như cây có hoa quả.
Sớ: Thể ấy tức là thuộc về thức uẩn.
Hỏi: Lẽ nào hình tướng ấy chẳng phải thức uẩn sao?
Đáp: Tuy cũng là thức uẩn, ngăn vặn hỏi ấy mà có lời này, vì người ngoài vặn hỏi cho rằng hành tướng tư lương so với tư cũng đâu có khác, nên nay đáp rằng: Thể của hành tướng đã là thức uẩn, tướng cũng đồng, tư tức là hành uẩn nên không thể cùng ví dụ.
Luận: Do đây bao gồm giải thích sở lập tên khác.
Tâm, ý, thức cả ba đều có chung riêng, nếu duyên lự gọi là tâm, y chỉ gọi là ý, liễu biệt gọi là thức, đây là tên chung, tám thức đều có ba tên này. Nếu tích tập gọi là tâm, tư lương là ý, liễu thô gọi là thức, chính là tên riêng, như thế riêng thuộc về Thức thứ tám, thứ bảy, thứ sáu.
Hỏi: Tâm hành tướng là A-lại-da ư?
Đáp: Là duyên lự.
Hỏi: Vì sao ý dùng biệt tướng làm hành, tâm thông hành sao?
Đáp: Có nghĩa tuy nêu tổng gọi là tức tên riêng, như mười một sắc, sắc được tên.
Biện rằng: Đây không thể ví dụ, sắc không có tên gọi khác, không đồng như hương, nên lấy tên chung để nêu tên riêng. Tâm có tên riêng, đâu được nêu bày đồng? Nên nay giải thích rằng: Hành tướng cần gì lấy tướng riêng, lấy tên chung cũng đâu có lỗi gì. Trước giải thích Thức thứ tám liễu biệt làm hành, cũng lấy tên chung, nên không cần nêu bày, tùy theo thích ứng mà nói.
Luận: "Vị chưa chuyển y" đến "vì không có ngã tướng".
Xét luận Du-già quyển 63 ghi: Nếu Mạt-na kia ở trong tất cả thời tư lương làm tánh, tương tục mà chuyển, như Thế Tôn nói, xuất thế Mạt-na làm sao kiến lập? Gọi là giả thi thiết ắt chẳng như nghĩa.
Lại vì đối trị viễn ly điên đảo chánh tư lượng kia.
Giải thích: Trong đây ý vặn hỏi, nếu bốn hoặc đều hằng tư lương, tức là vị xuất thế mà không có bốn hoặc, lại không có tư lương, sao gọi là Mạtna? Ban đầu đáp ý, phàm lập gọi đó là giả thi thiết, chưa hẳn xứng hợp nghĩa, cho nên ý xuất thế tuy không tư lương cũng được gọi là ý, so với sớ có hơi khác.
Luận: Bốn hoặc này thường khởi, nhiễu loạn uế trược nội tâm. Nghĩa trong tâm tương truyền có hai giải thích:
1. Thể nội tâm tức là Thức thứ tám, do Thức thứ bảy tương ưng bốn hoặc, duyên Thức thứ tám khiến thành Hữu lậu nên gọi là nhiễu loạn uế trược.
2. Nội tâm tức là Thức thứ bảy, do tương ưng hoặc mà thành nhiễm ô gọi là nhiễu loạn uế trược.
Biện rằng: Nay đồng với giải thích sau, vì sao? Đáp: Nói nhiễu loạn nội tâm khiến ngoài chuyển thức hằng thành tạp nhiễm, mà không do Thức thứ tám, thứ bảy có khả năng làm. Lại giải thích riêng, trong tâm cùng lấy Thức thứ tám, thứ bảy, Thức thứ tám do đó thành Hữu lậu.
Sớ: "Nói bốn loại ái" đến "bảy mạn phân biệt". Nhiếp nhau như trong Nghĩa Đăng, nói đủ bốn ái như trong Pháp Hoa, Nhiếp Thích quyển 3, quyển 4.
Luận: "Luận Du-già" đến "lẽ nào không trái nhau".
Xét quyển 58 ghi: Tham nhiễm khiến tâm thấp hèn, kiêu mạn khiến tâm cao ngạo, thế nên tham và mạn lại càng trái nhau. Xét hai bản luận đều là quyển 58, sớ nói quyển 55 là người kiểm xét văn nhầm.
Luận: "Phân biệt câu sinh" đến "nghĩa trái ngược".
Xét quyển 55 nói tham sân hỗ tương không có, đây nếu cùng với ngã mạn, ngã kiến, nghĩa là khi nhiễm ái hoặc cao ngạo hoặc tìm cầu, thì mạn và kiến hoặc lại tương ưng, nghĩa là khi cao ngạo lại suy cầu tà. Xét hai bản luận đều là quyển 55, sớ nói quyển 58 sợ rằng người kiểm xét nhầm. Lại xét trong Đối Pháp quyển 6 nói, nghĩa là tham không cùng sân tương ưng, như sân nghi cũng vậy, còn lại đều tương ưng, nên biết tham cùng ngã kiến, ngã mạn tương ưng. Lại nói, ngã kiến ngã mạn không được cùng sân nghi tương ưng, không chướng ngại ngã kiến ngã mạn tự tương ưng.
Sớ: Văn cùng luận có sai khác.
Cùng với quyển 3 trước đã nói văn có sai khác. Sớ: Cùng Thức thứ tám lựa chọn thì đồng.
Đồng với lựa chọn ấy bỏ biệt cảnh, thiện, tùy hoặc, bất định.
Luận: "Định chỉ có buộc tâm" đến "sát-na duyên riêng".
Hỏi: Nếu căn cứ Hữu vi định, cảnh chẳng phải một, theo tương tục mà nói thì Thức thứ tám chẳng phải gián đoạn, tại sao nói Thứ thứ bảy sát-na duyên riêng? Thức thứ bảy trói buộc đối với Thức thứ tám, do Thức thứ tám mà có tợ một, thường chăng?
Đáp: Định có tướng chuyên chú một cảnh, cảnh đối xứng một, Thức thứ bảy thì không như vậy, căn cứ cảnh Hữu vi nên nói duyên riêng mà chẳng phải Thức thứ bảy làm duyên riêng để hiểu, mà tợ một thường là theo tương tục mà nói.
Hỏi: Nếu vậy bản trí tương ưng không nhất định, vì không có một tướng?
Đáp: Cách hiểu một tuy không có nhưng có nghĩa chuyên sâu, có định không có lỗi. Các sư trước sau hoặc nói duyên riêng, hoặc nói duyên một, chuẩn theo đây có thể rõ.
Sớ: Hỏi như định biến hóa chướng.
Nương định mà được thần thông hay khởi biến hóa, do tánh cứng rít ấy tánh không kham nhậm, hay chướng ở các việc biến hóa ấy, chướng của biến hóa nương chủ mà được tên.
Sớ: Hoặc ngay ngoại ý.
Ngoài văn Du-già luận ấy không nói thế tục có là có thật thể.
Sớ: "Nhưng vọng niệm một" đến "không nói riêng".
Cùng biệt cảnh niệm hành tướng tương tợ, niệm trước nói không có, vọng niệm đồng niệm cho nên không nói. Có nghĩa, nếu vậy bất chánh tri cũng vậy, đâu cần gì giải thích, cho nên đây chỉ là luận chủ bỏ sót.
Biện rằng: Nếu sớ xác quyết vọng niệm, biệt cảnh thuộc về niệm phần cho nên không nói, có thể như điều đã vặn hỏi, sớ dẫn hành tướng có tợ và không tợ, cho nên nói, không nói, lẽ nào vội bài xích mà tự không được diệu chỉ của luận, suy tìm lỗi của luận chủ nói sót mất ư? Kế ở trước sớ nói là biệt cảnh nên đây không nói, đối với tà dục giải nói nhiếp nhau, nay sẽ trình bày.
Sớ: "Tà dục tà giải" đến "nên đây không nói".
Có nghĩa chẳng phải do biệt cảnh, nhưng y nơi hai mươi tùy phiền não cho nên không nói.
Biện rằng: Năm nhà biến nhiễm cũng không nói, mà y nơi hai mươi tùy phiền não để nói, tại sao chọn lược y hai mươi tùy phiền não ư? Nếu nói tuy không nói y hai mươi tùy phiền não, trong hai mươi tùy có cái không khắp cho nên cần phải lựa chọn. Nếu vậy trong hai mươi hai tùy cũng có pháp không khắp, vì sao không y lựa chọn? Cho nên như trong sớ nói lý thật không trái.
Luận: Cần phải duyên đã từng thọ cảnh giới các chủng loại v.v... Có nghĩa như trong Đẳng lưu năm thức hiện cảnh sở duyên, tuy chẳng phải từng thọ nhưng là chủng loại cảnh sở đắc của năm thức chợt hiện gọi là cảnh từng thọ. Năm thức đã vậy, ý thức chuẩn theo nên biết. Tâm sau này duyên loại cảnh trước cũng được niệm khởi, nay Thức thứ bảy chỉ có duyên loại, nên nói có niệm, sở chấp Lại-da là từ vô thỉ từng thọ loại, duyên hiện cảnh cho nên chẳng phải duyên từng thọ.
Hỏi: Giả sử duyên quá khứ, quá khứ đã diệt nên chỉ duyên hiện ảnh, đây tức tất cả đều duyên cảnh loại, tại sao từng thọ cùng cảnh loại khác nhau?
Đáp: Lý thật hai cảnh đều là hiện tại, bản chất quá khứ gọi là từng thọ, chất nếu hiện tại chỉ gọi là loại, thì Thức thứ bảy và thứ năm cảnh chất chỉ có hiện nên chỉ gọi là duyên loại, ý thức có lúc chất diệt lâu, gọi là duyên từng thọ nên có sai khác.
Biện rằng: Hiện tại cảnh của năm thức Đẳng lưu, lẽ nào chẳng phải loại của các cảnh thức Đẳng lưu quá khứ? Nếu thừa nhận thì tại sao không nói, nếu không thừa nhận có lý do gì? Lại hiện ý thức duyên cảnh diệt lâu, thể của cảnh đã không có tại sao từng thọ? Cho nên tuy giải thích lại nhưng vẫn còn sai sót, cho nên nay lẽ ra nói, loại cảnh của thức chợt hiện, thức Đẳng lưu, bản chất quá khứ tuy thể thật không có, nhưng biến tướng duyên, tương tợ đối với nó gọi là duyên từng thọ.
Sớ: Là năng phát ác v.v..
Giải thích sư trước vặn hỏi, sư trước vặn hỏi rằng: Bất chánh tri nghĩa là đứng ngoài cửa hay phát ác nghiệp, lẽ nào là Thức thứ bảy có thể có việc này? Nên nay tổng kết rằng, họ đứng về Thức thứ sáu mà không căn cứ Thức thứ bảy.
Luận: "Luận Du-già" đến "ba cõi trói buộc".
Xét quyển 58 ấy ghi: Thế nào gọi là tùy phiền não? Đại khái là do bốn tướng kiến lập sai biệt, một thông tất cả tâm bất thiện khởi, nghĩa là vô tàm, vô quý hai loại thông thì tất cả tâm nhiễm ô khởi, nghĩa là phóng dật v.v..., cả ba sai khác, tâm bất thiện khởi. Tiểu tùy có mười thứ tùy hoặc, nếu một khi sinh thời ắt không có cái thứ hai. Bốn thiện bất thiện tâm Vô ký khởi, nghĩa là bốn thứ bất định, bốn thứ bất định trong pháp Du-già cũng gọi là tùy phiền não. Phóng dật v.v... mười loại đã nói nhiễm khắp, rõ biết Thức thứ bảy, có hoặc bất định.
Luận: "Các lý nghi" đến "cũng là thắng giải".
Hỏi: Vì sao lý sự nghi cần phải ấn chứng?
Đáp: Lý sự tuy sai khác nhưng ắt nương nhau, như ở trong khổ đế tức có khổ sự, khổ lý, khổ như, do lý nghi này đối với sự có ấn chứng.
Sớ: Sự quyết không sinh nghi v.v...
Ý vặn hỏi này nói, nghi cùng thắng giải đồng thời mà sinh, cảnh có lý sự, duyên nghi đối với lý, thắng giải duyên sự, đã không đồng lấy, lại trái với đồng một nghĩa sở duyên.
Sớ: Lý nghi cũng sinh hiểu, ý giải thích này nói: Thắng giải đối với lý đã nghi mà cũng sinh hiểu, tức sở duyên đồng hành tướng có sai khác.
Hỏi: Nghi của lý sở nghi mà thắng giải sinh có thể đồng sở duyên, ấn chứng sự sở ấn, nghi không duyên nó, sở duyên lại khác?
Đáp: Sự cũng có nghi, nhưng tướng ẩn vi tế, trong sớ chỉ bày một phần nên không nói đủ.
Sớ: Giải thích trước chỉ đứng về sự nghi.
Tức trước dẫn quyển 58 nói nghi do năm tướng, tại sao có dục, thắng giải, cách giải này đứng về sự nghi kia thành vặn hỏi.
Sớ: Do lý nghi đã dẫn.
Ngoài thuộc vặn hỏi trước nên ở đây giải thích. Ý người ngoài vặn hỏi, nếu duyên sự nghi là phiền não, thì lẽ ra chẳng phải kiến đoạn, kiến đoạn chỉ có mê lý hoặc, nên đáp ý này dễ rõ.
Luận: Trái Thánh ngôn.
Tức trái với Du-già quyển 11 nói các thiền xuất thọ. Sớ nói hai chữ "mười hai" là nhầm. Xét luận ấy ghi: Vô tướng, trong kinh nói là vô tướng tâm định, ở trong định này xả căn hằng diệt, nhưng hại tùy miên, phẩm ấy thô trọng không có các đoạn, chẳng phải diệt triền phược hiện tại, trụ vô tâm định ắt có thọ. Ở trong định này có ba thọ, nghĩa là hỷ lạc xả.
Giải thích: Vô lậu định tâm nhưng duyên Chân như gọi là vô tâm định, hoặc tương ưng xả bị hoặc xen tạp, hoặc bị duyên trói buộc, hay xen tạp hay duyên xả căn, hoặc chủng gọi là xả thô trọng, đoạn hoặc chủng này gọi là đoạn tùy miên, căn cứ các đoạn này gọi là đoạn xả căn, chẳng phải đoạn thọ hiện tại. Các văn còn lại có thể rõ.
Sớ: Nếu thừa nhận hỷ lạc v.v...
Hỏi: Sư trước chỉ nói hỷ thọ tương ưng, tại sao lại nói thừa nhận hỷ lạc?
Đáp: Có hai giải thích: Một là y ba thọ để nói rõ hỷ lạc, hai là căn cứ lý nói hỷ thô lạc tế, thô vẫn còn có thì tế ắt chẳng phải không.
Sớ: "Thức thứ bảy sở duyên" đến "làm cảnh giới".
Ý giải thích này cho rằng, tùy theo duyên địa nào mà dẫn ra quả thức, Thức thứ bảy đồng thời thọ tức cùng đời trước dẫn nghiệp thọ đồng. Tại sao? Duyên nó dẫn nghiệp mà cảm quả. Sớ nói tương ưng là nghĩa tùy thuận, nếu cùng nghiệp ấy thọ không tùy thuận, tức không có năng duyên quả của nghiệp kia.
Sớ: "Lại địa sở hữu" đến "cùng với nó thọ đồng thời".
Đây là giải thích thứ hai, tùy theo thức sở duyên, địa sở sinh, Thức thứ bảy cùng địa ấy, ý Thức thứ sáu kia tăng thượng thọ đồng thời. Đồng thời tức hỷ ưu v.v... đồng. Tại sao như vậy? Do duyên quả dẫn nghiệp của địa kia, nên cùng với địa đó tăng thượng đồng. Như sinh ở chỗ ác, lo thọ tăng thượng, các nẻo khác chuẩn theo đây để biết. Trước căn cứ cùng với nó năng dẫn thọ đồng, sau đồng sở duyên, đương địa tăng thọ cho nên hai pháp sai khác. Có nghĩa tùy theo Thức thứ sáu tăng thượng thọ đồng thời. Như sơ chuyển y tùy theo Thức thứ sáu tăng thượng, nên thọ đồng thời khởi cũng tùy theo Thức thứ sáu.
Luận: Mặc tình một loại.
Như A-lại-da mặc tình một loại mà không chuyển đổi, không cùng tư duy với thọ sở dẫn mà cùng tương ưng, điều này tại sao không như vậy, sao biết như vậy?
Đáp: Xét luận Du-già quyển 63 ghi: A-lại-da thức tương ưng thọ đối với tất cả thời, chỉ là thọ không khổ không vui, đối với tất cả thức, ba thọ vị hằng luôn tương tục, nhẫn đến mạng chung không có đoạn tuyệt, hai thọ khác nên biết do tư duy dẫn phát, chẳng phải là câu sinh, thường thường tác ý dẫn phát hiện tiền, lấy Thức thứ tám làm ví dụ Thức thứ bảy, Thức thứ bảy đồng chỉ có xả.
Sớ: Đó là nghĩa tự tướng sai biệt.
Quả tướng của Dị thục, nhân tướng của chủng tử là nghĩa tự tướng sai biệt của A-lại-da thức, nhiếp trì nhân quả làm tự tướng.
Sớ: Trong Dục giới không phục tu hoặc v.v...
Tức dục ý thức câu sinh ngã kiến y nơi không đoạn để hỏi, y nơi đoạn để đáp.
Sớ: Định tâm ấy là Hữu đảnh y.
Ý nói bình đẳng thông các địa hữu, pháp quán thứ sáu dẫn bình đẳng trí ấy dùng làm sở y, sinh không thứ sáu, tức do tùy thân giới ràng buộc ở Thức thứ bảy mà làm sở y, nên nói là bất định.
Hỏi: Vô lậu Thức thứ bảy cùng thức năng y tức thừa nhận đồng địa, Hữu lậu Mạt-na thì cùng Thức thứ sáu địa ràng buộc thừa nhận sai biệt, rốt cuộc ý nào?
Đáp: Hữu lậu Mạt-na có hai nghĩa:
1. Tùy y trói buộc, duyên y kia.
2. Chẳng phải thức sáu dẫn cho nên cùng địa thứ sáu không ắt đồng, Vô lậu cũng có hai: một là vì không ràng buộc mà tùy theo quán sát thông duyên lý sự, hai là do Thức thứ sáu dẫn, nên tùy theo năng y mà đồng địa.
Sớ: Không thể dùng nhân số làm vặn hỏi.
Không thể dùng thọ nhân, quả là đồng, liền vặn hỏi nhân quả khiến tợ sở v.v...
Sớ: Đây vi tế nói Nhiếp luận hai bản đều là thuyết thứ nhất.
Xét luận Vô Tánh nêu lại Bản luận rằng: Ý này nhiễm ô cho nên tánh Hữu phú vô ký, cùng bốn phiền não thường tương ưng, như Sắc vô sắc hai triền phiền não là thuộc tánh Hữu phú vô ký, Sắc vô sắc triền là Xa-ma-tha sở nhiếp tàng, ý này tất cả thời tùy theo vi tế.
Giải thích: Ba cõi là nơi hữu tình quy về tụ tập, còn ràng buộc, nên tiếng Phạm gọi là A-phược-giála.
Luận: "Nghĩa là sinh Dục giới" đến "nên biết cũng vậy".
Xét luận Du-già quyển 63 nói cũng đồng với đây, nên luận ấy ghi: Tùy chỗ sở sinh, các phiền não ấy thuộc địa này.
Giải thích: Thức thứ bảy này là chỗ sở sinh, tương ưng hoặc kia cũng đồng địa nhiếp.
Lại luận Hiển Dương quyển 19 ghi: Nếu sinh trong Bổ-đặc-già-la, phải biết ý này tương ưng phiền não, tức là thể tánh sở nhiếp của cõi này.
Giải thích: Du-già đứng về địa, luận Hiển Dương căn cứ giới, thô tế hỏi sai khác, đại ý cũng một loại.
Luận: A-la-hán diệt định v.v...
Chuẩn theo trong Du-già quyển 63 không nói diệt định, nên luận ấy ghi: Các ly dục là thế gian trị đạo, nếu hiện ở trước hoặc không hiện trước, các phiền não này hiện hành không dứt. Nếu các hữu học đã kiến tích thì đạo xuất thế gian hiện ở trước, các phiền não này không được hiện hành, từ đó xuất rồi trở lại hiện hành, vì khéo thông đạt, vì chưa hằng đoạn. Nếu các Vô học thì tất cả chủng này không hiện hành, các phiền não này phải biết chỉ có lìa dục Phi tưởng phi phi tưởng xứ nên đồng thời đoạn ngay, chẳng phải như các hoặc dần dần mà đoạn.
Giải thích: Phiền não này là Thức thứ bảy này tương ưng với bốn hoặc, cùng luận này sai khác, tổng hợp giải thích như sớ.
Sớ: "Quyển 88" đến "không phục tương tợ".
Thức thứ sáu, thứ bảy hoặc nghiệp sai khác. Kim cương đoạn dị là không đồng, nhưng câu thế đạo không thể phục, gọi là không phục tương tợ. Xét luận ấy ghi: Lại thấy tạp nhiễm khi được giải thoát cũng có thể cứu cánh giải thoát, chẳng phải các tạp nhiễm được giải thoát, liền có thể giải thoát các kiến tạp nhiễm, vì sao? Là do sinh này y thế gian đạo, nhẫn đến mới có thể lìa, tất cả tham dục của Vô sở hữu xứ, đối với các địa sau, các phiền não ấy tâm được giải thoát, mà chưa có thể thoát Tát-ca-da-kiến. Do kiến này cho nên ở địa trên dưới đã có các hành xen tạp tự thể không quán sai biệt, biến kế thành ngã, hoặc chấp thành sở, do nhân duyên này tuy lên cõi Hữu đảnh mà lùi trở lại, do thế đạo trước đoạn tất cả Tát-ca-da-kiến, sau có thể hằng đoạn chỗ có các phiền não, do nhân duyên này lại không thoái chuyển.
Sớ: "Hỏi" đến "năng duyên thức này lẽ ra cũng đoạn".
Ý vặn hỏi đây cho rằng, nếu không thừa nhận đoạn thì trái với lý ấy, nếu tùy theo sở duyên cũng gọi là đoạn, tại sao luận nói cùng với Hữu đảnh địa phiền não các địa dưới đồng thời đoạn ngay, trước đã đoạn, sao gọi là đoạn ngay?
Sớ: "Thật lý giải" đến "lấy đây nêu bày kia".
Lại không chiêu cảm quả ác nghiệp, Thức thứ tám nói trừ, tu hoặc vẫn còn, ngã chấp chưa mất, năng duyên Thức thứ bảy không được gọi là đoạn. Hỏi: Kiến đạo chỉ không có một phần Thức thứ tám, Thức thứ tám gọi là xả, cũng thiếu một phần năng chấp Thức thứ bảy, Thức thứ bảy nên xả?
Đáp: Nhân mất quả hết Thức thứ tám có thể xả, Thức thứ bảy chẳng phải nghiệp chiêu cảm, chấp thể chẳng phải không có, đâu được gọi là xả.
Sớ: "Nay đây không nương" đến "cũng thông Vô lậu".
Tuy lại trong hai luận Phật Địa, Vô Tánh nói có tịnh thức, nhưng kinh Phật Địa và luận của Vô Trước không nói có, do đây không lấy cuối luận làm chứng.
Luận: "Luận Hiển Dương" đến "hành bình đẳng".
Xét luận ấy ghi: Ý nghĩa là từ chủng tử A-lạida thức đã sinh rồi duyên lại thức kia. Ngã si, ngã ái, ngã ngã chấp, ngã mạn tương ưng, hoặc trái lại tương ưng với thức, tất cả thời ỷ lại nêu làm hành, hoặc hành bình đẳng cùng thức câu chuyển liễu biệt làm tánh.
Sớ: "Nhưng thức sở dẫn" đến "không có tạng thức".
Lấy luận Du-già mà nói tạng thức hoặc hai chuyển v.v... cho nên luận này không vặn hỏi Vô học, do Vô học ấy không có tàng thức, văn lược không nói.
Biện rằng: Chẳng phải sơ lược, vì dẫn trong Đại luận thức khởi nhiều ít lấy đó làm vặn hỏi, bản luận đã nêu tạng thức thành pháp nên không được vặn hỏi đối với Vô học, thế nên trong sớ nói là chính, nếu cũng không lấy văn ấy làm lý mà vặn hỏi Vô học, tức không có lỗi.
Sớ: "Thức thứ tám" đến "như Thức thứ bảy khác".
Hỏi: Sư trước tự thừa nhận Thánh đạo, hàng Vô học Thức thứ sáu không nương, nhân thức tánh chuyển, lẽ nào chẳng phạm ở bất định khác ư?
Đáp: Trong câu hữu y bao gồm cộng bất cộng, các vị Thánh đạo ý Thức thứ sáu họ cũng thừa nhận có cộng câu hữu y, trong tông pháp đã không nói riêng nên không có bất định.
Sớ: "Nếu thành tổng tông trước" đến "ý thức không y".
Có nghĩa chỉ nói Vô học Thánh đạo ý thức đều ở trong hữu pháp, lẽ nào được đứng về tông trong hữu pháp có bất định chăng?
Biện rằng: Năm nhân bất định ở trong hai dụ, hoặc có hoặc không, không có chỗ sở lập tức dị dụ. Người lập tuy lập Thánh đạo, ý ở trong Hữu pháp, rồi sau trình bày ý tông thánh chẳng phải có, theo lý mà nói hợp ở dị dụ, nhân đã ở chuyển, vì sao chẳng phải bất định, ai đứng về Hữu pháp đưa ra bất định? Nếu nói trước lập ở trong hữu pháp, tại sao lại nói dị pháp này? Đây cũng không lỗi, trước nương tông lập nói hữu pháp, đưa ra lỗi căn cứ lý hợp ở dị phẩm, cũng như xưa lập tông nhân trái nói: Như lập thanh thường, tất cả đều là vô thường, cho nên nhân như Trần Na nói, tất cả đều là vô thường cho nên thành dị dụ, chẳng phải là nhân, họ đã dùng lý chánh nhân làm dụ, nay cũng dùng lý chánh tông làm dị dụ cũng đâu có lỗi gì!
Lại trong Nhân Minh luận ghi: Dị pháp nghĩa là nếu ở chỗ này nói sở lập không có.
Giải thích: Trừ sở lập ra, những pháp xứ khác, hễ không có sở lập tức tông dị pháp, Thánh đạo ý đã không có sở lập, làm dị có lỗi gì? Nếu không như vậy thì đối với chỗ nói nhiếp không có pháp sở lập bất tận, dứt lẫn lộn không cùng, liền khởi các lỗi, do đây sớ phán phân lý cố nhiên không trái. Sớ: "Nếu dùng sáu thức" đến "không có Thức thứ bảy".
Có nghĩa chỉ nói tông khác như tông trước trái với tỷ lượng, nhân có bất định đã thành tợ lượng, ngoại lượng như ba chi trước không có lỗi. Nhân nói: ý Thức thứ sáu nhiếp thuộc, như Vô học v.v... ý Thức thứ sáu, người ngoài lẽ nào đem chân lượng cùng tợ lượng làm thành lỗi bất định? Nếu ngoại lượng ấy lấy nhân nội lượng nói thuộc sáu thức, cũng có lỗi bất định, đây tức là cộng bất định, tại sao nói có lỗi quyết định? Riêng ý này nói, tương vi quyết định trước sau ba chi của hai nhà đều đủ, nay lượng trước sáu thức nhiếp, nhân đã phạm bất định. Sở lập tông khác lại trái với ba chi tỷ lượng, văn liền thiếu, sau nêu nhân ba chi của ý Thức thứ sáu mới đủ, thiếu không thiếu sai khác, lý nào được thành quyết định tương vi? Nếu đối phương lại lấy nhân trước, tức là trong sáu thức thuộc cộng bất định, làm sao thành lỗi Thức thứ sáu bất định ư?
Biện rằng: Xem thẳng văn sớ thật có lỗi này. Chủ ý của luận sớ căn cứ đổi nhân ấy, trong nhân trước nói sơ lược, như trong Nghĩa Đăng đúng, cho nên sớ không có lỗi.
Sớ: Đây là đầu tiên không có.
Thức thứ bảy ngã chấp ban đầu không khởi vị. Sớ: Không thể nói các chấp được hỗ tương xả.
Không được lấy Thức thứ tám đồng Thức thứ bảy khiến cho xả, do Thức thứ bảy đồng Thức thứ tám mà cũng không xả, vì sao không được?
Đáp: Lỗi nhiễm ô càng nặng, tạm diệt gọi là xả, tịnh pháp tha chuyển trọn không gọi là xả.
Sớ: "Nếu nhất định như vậy" đến "chẳng phải quả pháp quán".
Ý vặn hỏi này cho rằng, nếu nhất định thừa nhận pháp quán và quả đều bình đẳng, Địa thứ tám trở đi không có phi pháp quán và pháp quả, liền phải hằng thời khởi bình đẳng trí.
Sớ: Do đây nên nói lân cận quả.
Ý đây đáp rằng: Tuy hai pháp sau đều được gọi là quả, xa gần đã khác, cho nên bình đẳng trí mà không hằng khởi.
Sớ: "Hoặc Địa thứ tám trở đi trí vô phân biệt" đến "không ngăn ngại".
Đây là giải thích thứ hai, do hai bản trí tự vào hai quán, hai Hậu đắc trí đều mong tự bản, gọi đó là quả.
Sớ: Nếu đứng về nghĩa sau tức là quả toàn luận. Nhưng quả pháp không liền khởi bình đẳng, liền không xả quả mà bỏ đi, nên gọi là là toàn luận. Sớ: "Hoặc Thức thứ tám chưa xả tên" đến "giải thích này khó biết".
Do nghĩa chấp tàng chánh gọi là Lại-da, bình đẳng chẳng phải chấp, cho nên Thức thứ tám sở duyên đâu thể gọi là Lại-da.
Sớ: Đã không có nghĩa năng tàng nên tạm xả.
Đây chính là lập lại vặn hỏi khó biết ở trước, nếu không có năng tàng sở duyên Thức thứ tám không gọi là Lại-da, đã không có năng tàng Lại-da thì nên xả chăng?
Đáp: Ý vặn hỏi này như vị đầu biện rõ nên không nói lại.
Biện rằng: Tên gọi Lại-da thì đã chưa xả, thừa nhận duyên cũng đâu có lỗi? Nếu muốn khởi chấp mới gọi là Lại-da, khi đã không chấp tên sao gọi là không xả? Do lý này luận thừa nhận duyên không có lỗi.
Sớ: "Dụ sâu" đến "người khởi sự chấp".
Pháp không lý sâu xa, mê chí lý này gọi là sâu. Hỏi: Nói người là nhân chấp, cùng với dụ cạn rốt cuộc nào có sai biệt?
Đáp: Căn cứ mê chấp phân thành cạn sâu.
Hỏi: Nói người lập dụ mê lý sinh không gọi là sâu, có lỗi gì?
Đáp: Ý nói ngã pháp nương nhau mà khởi, rộng hẹp không đồng, sự lý nương nhau nên không dụ.
Sớ: Tuy chẳng phải chấp v.v...
Tuy nói bao gồm ở được mất, nay lấy cái được. Sớ: "Nếu không như vậy" đến "không có tâm Hữu lậu ngăn cách".
Nếu cũng không thừa nhận tế chướng hành như vậy, tức ngay tam địa pháp quán hằng hành, do không có Hữu lậu mà bị ngăn cách, nếu không như vậy, thì khi hiển bày tế chướng kia có lúc không hành, tức pháp quán khởi. Giải thích trước là thù thắng.
Sớ: Lấy đây làm chứng.
Do Địa thứ tám trở lên pháp quán không hằng, chứng ba địa trên thì Thức thứ bảy có được pháp chấp, hoặc lấy luận này mà làm chứng, tức văn này nói: Vẫn khởi pháp chấp, vì không trái nhau.
Sớ: Nói địa địa ấy đều năng đoạn.
Thức thứ sáu pháp chấp địa địa đã đoạn, làm sao nói sở tri chướng còn? Nếu nói có, căn cứ thì ít có, điều này không đúng, đã là pháp chấp khởi phiền não liền hành, như ở sau sớ có vặn hỏi.
Sớ: "Hỏi: Vì sao trên nói" đến "đều nói là có".
Sinh khởi ở luận sau.
Sớ: Bốn bộ A-hàm không nhiếp.
Biện rằng: Giải thích nghĩa giải thoát gọi là kinh Giải Thoát, với lý thành thù thắng, cho nên trong kinh ghi: Nếu giải thoát các hoặc, cho nên các kinh luận từ sở thuyết ấy để lập tên, loại ấy rườm rà, nếu không như vậy, phàm tên kinh là Như Lai kiến lập, hoặc người tập pháp lập, lẽ nào là Phật, A-nan căn cứ sau khi tản mác mà lập tên gọi này? Nếu người sau lập tên, cũng là chưa được, liền khiến tên kinh khó lấy làm mực thước.
Luận: Đây y theo sáu thức đều không được thành.
Như luận Vô Tánh, sớ, Nghĩa Đăng có lược dẫn, người học còn mê cho nên nay chép đủ.
Luận: Đây đối với năm thức không được nói có, xứ này không có năng đối trị, nếu xứ có năng trị thì xứ này có sở trị, chẳng phải trong năm thức có năng trị, với kiến đạo này không sinh khởi.
Giải thích: Do trong năm thức không có kiến năng trị, nên không có được sở trị vô minh. Nói kiến đạo ấy là lựa chọn hai đạo khác, do thành sự trí Phật quả có.
Hỏi: Thức thứ sáu lẽ ra có bất cộng vô minh, vì có kiến đạo? Đáp: Thức thứ sáu có trị chung, chẳng phải vì riêng trị.
Hỏi: Thức thứ bảy có kiến đạo, Thức thứ bảy tương ưng hoặc lẽ ra gọi là kiến đoạn?
Đáp: Tuy không đoạn, phục tạm không khởi cũng là sức kiến đạo, do kiến đạo này có trí bình đẳng. Căn cứ Đại thừa mà nói, luận chẳng phải ở trong ý thức không nhiễm mà có, do kia đây nên thành nhiễm tánh.
Giải thích: Người ngoài chấp, ở trong sáu thứ tịnh, do trong sáu thứ tịnh không có các phiền não khác, tương ưng vô tri được gọi là bất cộng, cho nên vặn hỏi ý tịnh đã có vô minh nên thành nhiễm. Luận: Cũng chẳng phải nhiễm ô, trong ý thức có, lúc cùng phiền não đồng tương ưng bất cộng vô minh thì gọi là chẳng thành.
Giải thích: Lập chuyển chấp phá, ý có các hoặc khác mới gọi là nhiễm, bất cộng đã cùng ý hoặc kia đồng thời, liền là tương ưng, sao gọi là bất cộng?
Luận: Nếu lập ý thức do phiền não kia thành nhiễm ô, nay phải rốt ráo thành tánh nhiễm ô.
Giải thích: Bất cộng vô minh hằng hành không dứt, ý thức làm sao có lúc được tịnh?
Luận: Các thí v.v... tâm lẽ ra không thành thiện, tướng phiền não ấy hằng tương ưng.
Giải thích: Phá văn người ngoài chống chế, người ngoài chống chế đã nói ý hằng thành nhiễm cũng đâu có lỗi, cho nên khởi vặn hỏi này.
Luận: Nếu lại có nói thiện tâm đồng thời chuyển có phiền não kia.
Giải thích: Các Tiểu thừa chống chế, thí v.v... thiện tâm cùng phiền não đồng thời, do đó bất cộng vô minh này hằng hành rốt cuộc có lỗi gì?
Luận: Đây tức thuần cùng phiền não tương ưng, còn lại không có được, ý thức nhiễm này dẫn sinh đối trị không đúng đạo lý.
Giải thích: Chánh là vặn hỏi chống chế trước, ý đã thuần hằng có vô minh, ngoài vô minh còn có các pháp thiện, ý này chẳng phải có, đã không có tín v.v... ý gọi là thế thiện nhưng không được thành. Lại ý hằng nhiễm không thể năng dẫn Vô lậu thiện sinh, sở trị không làm nhân năng trị, cho nên thiện xuất thế cũng không có được.
Luận: Nếu có nói ý nhiễm ô đồng thời có thiện tâm sai khác năng dẫn đối trị, năng trị sinh cho nên sở trị liền diệt nên đúng đạo lý.
Giải thích: Hiển nghĩa chánh. Có thuyết Đại thừa nói ngoài ý nhiễm có thiện của đời khác, thế thiện năng dẫn năng trị kiến đạo, lẽ ra nó tương sinh trị chướng lý.
Luận: Nếu vậy sở lập bất cộng vô minh cũng không thành tựu, cùng thân kiến v.v... các phiền não khác hằng tương ưng.
Giải thích: Đây là người ngoài vặn hỏi, ý vặn hỏi này cho rằng, Thức thứ bảy đồng thời vô minh có các kiến v.v... ba hoặc tương ưng, lẽ ra cũng không được gọi là bất cộng, nếu tuy kiến đồng thời cũng gọi là bất cộng, trước ngã ý nhiễm đồng thời vô minh, tuy các hoặc đồng thời, tại sao không thừa nhận gọi là bất cộng? Luận nói ông vặn hỏi không bình đẳng, chẳng phải ta nói nó không tương ưng với các phiền não nên gọi là bất cộng, nhưng nói chỗ các hoặc khác đã không có nên gọi là bất cộng, thí như mười tám pháp bất cộng Phật pháp, trước nói tương ưng với các phiền não gọi là bất thành, quán tha sở lập hiển bày lỗi ấy.
Giải thích: Trong lời đáp người ngoài vặn hỏi ở trước, bình đẳng tức là ngang bằng nhau. Trước xem tông của ông nói các hoặc đều có lỗi nên không gọi là cộng, chẳng phải Đại thừa của ta thừa nhận nghĩa này.
Sớ: "Bất kiến, bất chánh tri" đến "trạo gọi là ngã trạo".
Hỏi: Sư trước chỉ nói do trong tùy hoặc không có chánh tri, là trong thức này ngã kiến mạn v.v... ai nói trong tùy bất chánh tri gọi là ngã kiêu?
Đáp: Nếu trong tùy hoặc không nói ngã kiêu, ngã trạo v.v... do đâu biết được? Kiêu trong tùy v.v... là Thức thứ bảy tương ưng mạn v.v... Nếu nói ngôn thuyết thì giáo không có văn, cho nên làm vặn hỏi này.
Sớ: "Duy ở đây đồng thời với tham" đến "vì không làm chủ". Lược có hai giải thích:
1. Thức thứ bảy này tham không đồng thời sáu thức mạn v.v... nên mới gọi là tương ưng.
Hỏi: Lẽ nào sáu thức tham chẳng phải tương ưng vì sao mà nói duy ở đây?
Đáp: Sáu thức tương ưng tham thông hai loại có cộng bất cộng, Thức thứ bảy thì không như vậy, cho nên chỉ nói lựa chọn.
Hỏi: Thức thứ bảy tham chẳng phải chủ tức rõ ràng tương ưng, vì sao nói cùng Thức thứ sáu mạn v.v... không đồng thời gọi là tương ưng?
Đáp: Vì ngăn người ngoài vặn hỏi nên đối sáu thức để nói, sợ có vặn hỏi nói Thức thứ bảy tham v.v... đã không cùng Thức thứ sáu mạn v.v... tương ưng nên gọi là bất cộng, nên nay đối hiển.
2. Nói ở đây là sáu thức này, chữ "chẳng" trong sớ là nhầm, đúng ra phải là chữ "cũng". Sáu thức này tham cũng cùng sáu thức mạn v.v... đồng thời, hoặc gọi là tương ưng.
Hỏi: Tương ưng tham v.v... Thức thứ bảy lẽ nào không nói chỉ có sáu thức này?
Đáp: Lựa chọn từ sáu thức không đồng thời với tham v.v... mà nói "chỉ có", chẳng phải đối với Duy thức mà nói chỉ có thức này.
Sớ: "Mười tăng thượng này" đến "chỉ có vô minh tăng".
Do mười tăng thượng được mười tên chủ, đồng thời vô minh không được tên chủ gọi là tương ưng. Luận: Lại trong Khế kinh nói nhãn sắc làm duyên v.v...
Xét Nhiếp luận của Vô Trước ghi: Lại năm đồng pháp cũng không có được, vì thành lỗi, vì sao? Vì năm thức thân ắt có nhãn v.v... câu hữu y. Luận của Thế Thân giải thích cùng với đây có sai khác, luận Vô Tánh đồng. Luận Thế Thân ghi: Nói đồng pháp là ý Thức thứ sáu cùng năm thức có pháp tương tợ, có năm căn ấy và A-lại-da là câu hữu y, đây cũng như vậy có ý nhiễm ô Alại-da thức là câu hữu y. Năm đồng pháp này lìa ý nhiễm ô quyết định chẳng phải có.
Giải thích: Sở y có hai gọi là hai duyên. Trong Vô Tánh Nhiếp luận căn cảnh hai loại gọi là hai duyên, trong căn không lấy A-lại-da thức, do vì cộng y, cho nên luận ấy ghi: Năm thức cùng ý thức ấy có đồng pháp tánh, nghĩa là từ hai duyên mà được sinh khởi, ý nhiễm ô kia nếu không có, cùng với đây trái nhau, đó gọi là câu sinh tăng thượng duyên y vô hữu sai biệt. A-lại-da thức tuy là ý thức câu sinh sở y, nhưng không nên lập làm biệt y này, là cộng y, là nhân duyên tánh.
Luận: "Nghĩa là như năm thức" đến "câu hữu sở y".
Có nghĩa trong sớ giải thích rằng nếu là tông pháp vì sao nói ắt nhãn v.v... Nay giải thích, nghĩa là như câu hữu y đều đồng pháp dụ, tức dùng dụ này lựa chọn pháp sai biệt làm tông pháp của nó.
Biện rằng: Nghĩa của y rộng thông, nêu nhãn cho nên lựa chọn các lỗi khác, đây cũng đâu có trái. Nếu nói dụ tại sao mượn đưa ra thuyết ắt có, xem các Nhân Minh chưa thấy trong dụ có ví dụ này, ắt có nghĩa quyết định, lỗi có không của tông, ở sau tổng lượng rằng: Ắt có bất cộng hiển bày chỗ của tên mình là tông pháp. Lại tổng là dụ, liền có pháp gì là lựa chọn mà lấy làm tông? Nếu nói ý căn tức là đã lựa chọn, văn đã không nói nên là ý thừa nhận, nếu như vậy, lẽ nào là tông pháp này chỉ có ý thừa nhận không nói trình bày? Lại chưa từng thấy dùng dụ để lựa chọn biệt pháp làm tông, chuẩn theo đây nên trước nêu ở sau dụ mới nói tông, lấy dụ để lựa chọn lỗi của tông pháp, theo đây mà luận thì biết sớ không nhầm.
Luận: "Không thể nói sắc" đến "có hai phân biệt".
Căn cứ luận Vô Tánh, văn này đều phá Kinh bộ, Thượng tọa lẽ ra cũng không có lỗi, cho nên luận ấy ghi: Kinh bộ đã lập sắc là ý thức câu sinh diệt y, điều này không thành tựu, không đúng đạo lý, do căn cứ suy nghĩ lựa chọn, tùy niệm phân biệt nên tất cả thời không có phân biệt. Trong truyện giải thích rằng: Nhục đoàn tâm tạng bốn trần sắc pháp là ý thức nương. Lại nói, do đạo lý này bộ khác lập sắc vật trong ngực ý thức biệt y cũng không thành tựu.
Giải thích: Loại phá Thượng tọa, vì đồng sắc này, cho nên luận này ban đầu bao hàm ở hai tông, sau phá Kinh bộ, lý lẽ ra đầy đủ.
Sớ: Như trong Du-già sớ sao tổng hợp.
Phần sau tự biện đầy đủ, trong Nghĩa Đăng lại nói rõ.
Sớ: Sinh sở y.
Thân năng phát khởi gọi đó là sinh, chẳng phải đồng chủng tử biện quả thể sinh gọi là sinh.
Sớ: Pháp chỉ là cảnh v.v...
Tức quyển 52 nói vô pháp ấy được là ý cảnh, là chứng cứ này, văn ấy biện rộng, nay lược dẫn.
Luận: Hỏi: Như Thế Tôn nói các hành quá khứ vị lai là duyên sinh ý, quá khứ vị lai chẳng phải có vì sao nói quá khứ vị lai là ý duyên sinh? Nếu ý cũng duyên thì chẳng có sự cảnh, tại sao Phật nói do hai loại duyên các thức được sinh?
Đáp: Do chấp trì các nghĩa năm thức thân đã không hiện hành, cho nên Đức Phật giả nói danh pháp, thế nên nói duyên ý và pháp ý thức được sinh.
Giải thích: Trì tự vô thể khiến năm thức không hiện hành khiến ý thức chuyển, cho nên giả gọi là pháp, chẳng phải nói là pháp tức có thật thể.
Luận: Lại hữu tánh an lập.
Có nghĩa năng trì, nếu Vô Tánh an lập vô nghĩa, năng trì vô nghĩa cho nên đều gọi là pháp, do ý thức kia ở nghĩa hữu tánh, nếu do nghĩa này mà được an lập, tức do nghĩa này khởi thức liễu biệt, nếu ở hai chủng không do hai nghĩa khởi liễu biệt, không nên nói ý duyên tất cả nghĩa lấy tất cả nghĩa.
Giải thích: Tướng phần tuy có, căn cứ bản chất nói duyên không có.
Luận: "Nếu nói hiện tại" đến "lẽ nào gọi là ý".
Hỏi: Trong Hữu bộ mười tám giới thông ba đời, tại sao vặn hỏi nói hiện chỉ gọi là thức?
Đáp: Ý đủ tư lương, y chỉ hai nghĩa, nhưng thức hiện tại tuy chưa khởi dụng làm y sinh thức, nhưng trụ ý tánh cũng được tên ý, không căn cứ tư lương hiện gọi là ý, cho nên cũng không có lỗi.
Luận: Đã diệt y giả lập tên ý này.
Có nghĩa y chỉ gọi là ý tự mong giả thuyết, chẳng phải y Thức thứ bảy, tư lương gọi là ý y Thức thứ bảy lập, cho nên nói đã diệt y này là giả gọi ý tư lương, lập tông chỉ tranh cãi ý tư lương.
Biện rằng: Đã diệt tuy không có, nhưng mở ra con đường ấy, thức sau nương đây mà có thể được sinh, tợ hiện y chỉ giải thích lập tên ý, ý đã diệt cùng hiện tư lương sai khác không tương tợ, tại sao y Thức thứ bảy giả lập tư lương? Tuy ý tư lương là vốn đã tranh chấp làm người ngoài vặn hỏi nói diệt chẳng phải tư lương sao được gọi là ý? Nên luận đáp rằng: Diệt tợ hiện ý y chỉ một bên nương đó mà giả lập, nếu nói y chỉ tự mong nói là tại sao tự mong? Nếu mong hiện tại, hiện tại gọi là thức, tợ làm sao xứng ý, nếu mong về trước thể trước kia không có, tợ tợ ở đâu? Luận phá ở tha giả nương chân lập, nghĩa lẽ ra không thành.
Lại xét Nhiếp luận quyển 1 của Thế Thân ghi: Quá khứ đã diệt không có chỗ tư lương, làm sao phải có tánh năng tư lương? Chuẩn theo ý văn này, không dùng tư lương làm ý quá khứ, nên xét kỹ để rõ.
Sớ: Không có tưởng diệt một thức v.v...
Do năm chuyển thức vị trước đã xã, nên nói chỉ diệt một hai thức.
Sớ: Trong Nhiếp luận vặn hỏi rằng đều diệt nào có khác.
Xét luận ấy ghi: Do hai tự tướng không sai biệt, tâm và tâm pháp đồng thời diệt nào có khác.
Luận: Nếu nói Gia hạnh v.v...
Xét Vô Tánh Nhiếp luận quyển 1 ghi: Không thể nói ở Tĩnh lự thứ tư, ở Tĩnh lự thứ nhất có địa sai khác. Xuất ly, tịnh trụ dục sai biệt, hai định sai biệt, chỉ nêu Gia hạnh và địa hai pháp sai khác.
Lại chuẩn theo Câu-xá quyển 5 có mười thứ sai biệt:
1. Địa có sai khác: Nghĩa là Thiền thứ tư, Hữu đảnh sai biệt.
2. Gia hạnh sai khác: Xuất ly, chỉ tức hai tưởng sai biệt.
3. Tương tục sai khác: Dị sinh, Thánh vì thân không đồng.
4. Cảm quả sai khác: Năm uẩn, bốn uẩn báo sai biệt.
5. Thuận thọ sai khác: Chỉ có thuận sinh thọ thông sinh hậu v.v... sai biệt.
6. Ban đầu khởi sai khác: Vô tưởng hai cõi, diệt định chỉ có người.
Thối hữu sai khác: Được không trải qua sinh, trải qua sinh sai biệt.
7. Danh hiệu sai khác.
8. Hoàn bất hoàn sai khác: Như tên bắn hư không, không hoặc không phản lại.
9. Hai đắc sai khác: Ban đầu chỉ có Gia hạnh, sau thông hai đắc ly nhiễm chỉ có Phật, các Thánh Gia hạnh, như thứ lớp phối hợp với vô tưởng diệt định ấy là hai pháp sai biệt.
Sớ: "Trong này nói chung" đến "thứ sáu ràng buộc nhau".
Luận này dẫn văn ấy không đủ, không có ý thức để nói, nay xét luận ấy để nói, hơn nữa ý thức Mạtna nhiễm ô dùng làm y chỉ này bỏ câu đầu, văn khác ắt đồng.
Sớ: Đối Pháp v.v... lậu đã tùy theo.
Các văn Du-già luận, như trong Xu Yếu có biện rõ, trong Đối Pháp nói như Nghĩa Đăng giải thích, nên đây không nói.
Sớ: Tức là Nhiếp luận ngã chấp không có lỗi v.v...
Văn này cùng Thức thứ sáu kia rất giống, trong ấy uyển chuyển mà vặn hỏi, họ không theo kịp cho nên nói rất sai.
Sớ: "Trong Đại thừa" đến "do lý này thông".
Tuy Thức thứ tám khác, tổng được gọi là ý, do đối với sáu cảnh nên hợp thành một.
Hỏi: Vì sao không giải thích mười tám giới?
Đáp: Văn này chánh giải thích, cho nên ở sau sớ không nói.
Sớ: Câu đầu tức là thức này được tên.
Tức trong Đối Pháp nói: Y nhãn duyên sắc, y chỗ y nhãn thức được tên nhãn.
Sớ: Mỗi loại đều có chủng, như trong Du-già.
Xét luận ấy quyển 1 ghi: Thế nào là nhãn thức tự tánh? Nghĩa là y nhãn liễu biệt sắc, sở y ấy đều có y, nghĩa là nhãn v.v... vô gián y gọi là ý, chủng tử y tức là tất cả chủng tử chấp thọ sở y sở nhiếp A-lại-da thức, nhẫn đến ý thức cũng lại như vậy. Lại nói, câu hữu tương ưng mỗi mỗi mà chuyển, lại tất cả pháp ấy đều từ chủng tử mà sinh.
Sớ: "Lại căn cứ tướng thô" đến "thức không hẳn sinh".
Hỏi: Nay người mờ mịt có cảnh không căn mà thức không sinh, chứng minh thức y nhãn, như người có mắt do cảnh không có nên thức không sinh, lẽ ra thức y cảnh, lại chỉ có căn thức tức y sinh, sắc giới lẽ ra có tỷ thiệt hai thức?
Đáp: Lý thức sinh thật nhờ căn cảnh, căn cứ nơi thắng duyên nói y nhãn chẳng phải sắc, cũng do thức cảnh hỗ tương sinh, nhưng y chủ thắng gọi là là Duy thức. Lại khi vượt sông ngòi lớn không chỉ có một thuyền, mà nhờ các buồm mái chèo mới có thể đi nhanh được, ở đời căn cứ thắng duyên nói thuyền là vượt qua.
Sớ: Như bệnh Ca-mạt-la v.v...
Hỏi: Chẳng phải màu vàng thấy là màu vàng, tự là ý thức, tại sao lấy đây chứng minh nhãn thức? Đáp: Do căn tổn cho nên khiến cho ban đầu nhãn thức không rõ ràng, nhưng sau ý thức thấy có lẫn lộn nên nói ý hoại chứng minh nhãn thức thay đổi.
Sớ: Nghĩa là do căn hợp thức khiến căn cơ tổn ích v.v...
Do căn thức hợp quán ánh sáng mặt trời mặt trăng, như thứ lớp ở căn mà có tổn ích. Lại xét trong Câu-xá luận quyển 2 ghi: Do hai nhãn cho nên từ căn lập tên gọi.
1. Do căn là tánh sở y, cảnh thì không như vậy.
2. Do sở y là bất cộng cho nên chỉ có tự thức y, sắc cũng thông làm nhãn thức thân khác và tự ý thức mà sở thủ. Bốn pháp khác chuẩn theo đây, do đây không từ các sắc lập tên gọi, tuy là hai nghĩa mà lựa chọn lẫn lộn cũng xong.
Sớ: Ý thức không như vậy, nhãn v.v... có thể như vậy.
Căn cứ đẳng vô gián sáu thức đều gọi là ý, nay gọi là Thức thứ sáu nên không đúng, năm thức căn sai biệt, y căn lập tên không có lẫn lộn nên đúng.
Luận: Hoặc gọi là sắc thức v.v...
Có nghĩa sớ nói cũng là Y chủ thích, nay giải thích thông với Hữu tài thích, do khả năng có cảnh gọi là sắc thức v.v... tức Hữu tài thích.
Biện rằng: Nếu nói rộng thì không có nghĩa này, biện luận sở thuyết chỉ Y chủ thích, nên luận xác quyết nói tùy cảnh lập tên vì thuận theo nghĩa thức, nghĩa là ở sáu cảnh liễu biệt gọi là thức, không nói có cảnh mà gọi là thức.
Sớ: Mắt rắn nghe tiếng v.v...
Xét trong kinh kia quyển 64 ghi: Người Cù-đàni nhãn thức nghe tiếng, như loại rắn rết trong Diêm-phù-đề mắt nghe tiếng, người Cù-đà-ni cũng lại như vậy, như cách chướng ngại nghe nhiều âm thanh, thấy các sắc tượng cũng lại như vậy, do vì pháp thù thắng.
Luận: "Luận Trang Nghiêm" đến "cảnh đồng loại".
Xét luận ấy quyển 3 kệ tụng: Như vậy năm căn chuyển, biến hóa được tăng thêm, các nghĩa biến sở tác, ngàn hai trăm công đức.
Giải thích: Bài kệ này hiển bày chuyển năm căn biến hóa, biến hóa này được hai loại tăng thượng: Một là được các nghĩa biến sở tác, nghĩa là mỗi mỗi căn đều có thể hỗ dụng tất cả cảnh giới; hai là được một ngàn hai trăm công đức, nghĩa là mỗi mỗi căn đều được một ngàn hai trăm công đức.
Sớ: "Hoặc tức Sơ địa" đến "đây là bản nghĩa".
Trong luận Phật Địa nghĩa có bản và biệt, nêu bản để lựa chọn biệt, thứ lớp như sớ ở trước để giải thích rõ.
Luận: "Kinh Phật Địa" đến "làm bốn ký".
Sớ và Xu Yếu tuy đều có đưa ra, người học chưa thông thì khó mà tỏ ngộ. Nay rút lấy cốt yếu tùy theo vặn hỏi mà giải thích, mong hậu học gặp văn không có mê mờ.
Kinh: Do Đức Như Lai thị hiện các loại phương tiện thiện xảo, bẻ dẹp các kiêu ngạo ngã mạn của chúng sinh, do sức phương tiện thiện xảo này dẫn dắt các chúng sinh khiến vào Thánh giáo thành tựu giải thoát.
Giải thích: Chín loại hóa hiện khác đều lấy thiện xảo này mà nói, ở sau đồng nên không chép.
Luận: Trong đây hiển bày thần thông biến hóa, khi làm Bồ-tát thị hiện vô số thợ thầy, công xảo các nghề, đây là hiện thân nghiệp tướng trên trí, vì bẻ dẹp cao ngạo nên hiện việc này. Thiện xảo phương tiện tức là bi tuệ bình đẳng, trước khi vận dụng đạo thì hiện thần thông để trước khiến họ sinh lòng tin, nên gọi là dẫn sinh khiến vào Thánh giáo, như hiện thần thông độ Ca-diếp v.v... Kế đến là khiến họ điều thuận, có khả năng kham nhận nên gọi là thành tựu, dẫn dắt khiến trưởng dưỡng các thiện căn, sau khiến cho thoát khỏi nẻo ác trong ba cõi.
Kinh: Do Như Lai đến các chỗ chúng sinh thị hiện sinh đồng loại, mà ở đạo vị nhiếp phục tất cả dị loại chúng sinh.
Luận: Trong này hiển bày thị hiện thọ sinh hóa, nghĩa là hiện hóa thân ở mọi nơi trong cõi người cõi trời, thị hiện đồng loại sinh, ở trong Sát-đế-lợi, Bà-la-môn hàng phục mọi loài khiến được lợi lạc.
Kinh: Do Đức Như Lai thị hiện lãnh thọ bản sinh, bản sự, các hạnh khó tu.
Luận: Ở đây hiển thị hiện nghiệp quả để hóa độ, thành sở tác trí hiện dùng hóa thân lãnh thọ hóa nghiệp, do nghiệp này cho nên thị hiện thọ tất cả bản sự bản sinh các hạnh khó tu, đời trước tương ưng chỗ có các việc gọi là bản sự, đời trước đã thọ sinh loại sai biệt gọi là bản sinh. Như Tỳ-thấpphạn-đát-la v.v... y việc bản sinh này trước đã tu hành các loại khổ hạnh gọi là hạnh khó tu.
Giải thích: Lãnh là nhiếp kiểm, thọ nghĩa là nạp thọ, nương hóa nghiệp này mà nhiếp nạp hóa quả nên gọi là lãnh thọ. Cùng thân tương ưng chẳng phải việc của thân gọi là bản sự, chỗ thọ việc của thân gọi là bản sinh. Tỳ-thấp v.v... Hán dịch Chúng Dị, dùng nhiều đức lạ để làm kinh ngạc mọi người, tức tên khác của Thái tử Tu-đạt-noa, là nêu việc để giải thích rõ.
Luận: Hoặc ở đời nay nương biến hóa thân trước tu khổ hạnh, sau xả hạnh tu ấy ở trong đó hành mới được Bồ-đề. Có Khế kinh ghi: Đời trước của Đức Như Lai, vào thời Phật Ca-diếp nói lời mắng nhiếc như vầy: "Ở đâu có Sa-môn cạo tâu tóc là có đại Bồ-đề, Vô thượng Bồ-đề rất khó được", do các ác nghiệp ấy nay chịu quả khổ khó làm như vậy.
Giải thích: Đời này sống sáu năm khổ hạnh cũng được gọi là thị hiện nghiệp quả. Trong kinh ghi: Thời quá khứ mắng Phật Ca-diếp, nay chịu quả báo sáu năm khổ hạnh là cũng hóa hiện, hóa hiện thích nghi nên dứt các ác.
Kinh: Do Đức Như Lai tuyên dương vô số pháp tùy theo sự ưa thích, văn nghĩa khéo léo, chúng sinh trí nhỏ vừa nghe còn tin chuộng.
Luận: Trong đây hiển bày lời nói an ủi để giáo hóa, vui mừng an ủi tức là vui thích sai biệt, do nói năng sinh ra cho nên gọi là vui mừng an ủi. Thành sở tác trí hóa làm ngữ nghiệp tự hiện âm thanh mầu nhiệm khiến tâm họ thay đổi, nghĩa là nghe Phật nói sinh vui mừng, tùy theo pháp ưa thích, tùy theo nhân lực kia mà thích ứng, thích nghe trời người các pháp Tam thừa sai biệt. Văn xảo diệu là câu chữ hiển bày cái đẹp khiến họ ưa nghe. Nghĩa xảo diệu là lý thú rõ ràng dễ hiểu, hàng tiểu trí nghe tin, huống gì người thông tuệ.
Kinh: Do Đức Như Lai lập chánh học xứ, hủy bỏ các buông lung, khen ngợi việc không buông lung, lại kiến lập tùy theo người tin hành, tùy theo người tin pháp vâng làm.
Luận: Đây hiển bày phương tiện ngữ hóa, Đức Như Lai đại bi vì các hữu tình mà an lập học xứ khiến cho họ nhiếp phục các ác tu thiện thế gian, an lập Thánh đạo phần vị sai biệt, khiến nhập chánh đạo, ra khỏi ba cõi.
Kinh: Do Đức Như Lai đoạn hết vô lượng nghi hoặc của tất cả chúng sinh.
Luận: Đây hiển bày biện rõ ngữ hóa. Thành sở tác trí tùy theo ý thích của chúng sinh sai biệt, hiện hóa ngữ nghiệp nói các thứ nghĩa đoạn các nghi hoặc, nghĩa là phát ra một tiếng biểu hiện tất cả nghĩa, khiến các hữu tình tùy loại được lợi ích.
Kinh: Do quyết trạch chúng sinh tám vạn bốn ngàn tâm hành sai biệt.
Luận: Đây hiển bày ý hóa quyết trạch. Thành sở tác trí tương ưng ý nghiệp hay khởi hóa hiện nên gọi là hóa ý nghiệp, năng quyết trạch này đã hóa chúng sinh tám vạn bốn ngàn tâm hành sai biệt, tâm hành sai biệt như trong sớ có chép đủ, đây không ghi lại.
Kinh: Do Đức Như Lai quán sát các hành của sở hành, hành hay không hành của tất cả chúng sinh hoặc được hoặc mất, vì khiến cho họ lấy bỏ, tạo tác đối trị.
Luận: Đây hiển bày tạo tác ý hóa, tùy theo chỗ quán sát tất cả hành sở hành của hữu tình, nếu các ác hành không hành mà có đức, hành tức có lỗi, nếu các thiện hành hành tức có đức, không hành có lỗi, ở nơi đức tạo tác mặc tình đối trị, ở nơi lỗi tạo tác xa lìa đối trị.
Kinh: Do Đức Như Lai vì muốn tuyên nói đối trị ấy, hiển bày danh cú văn thân mà chúng sinh ưa thích.
Luận: Đây hiển bày phát khởi ý hóa, Thành sở tác trí tương ưng ý nghiệp năng phát thân ngữ, hoặc ý nghiệp này do trí phát khởi, hoặc trí tướng phần hiện tợ, thế nên nói tên phát khởi ý nghiệp, vì nói hữu tình đối trị các hành, ở đây đã nói pháp danh cú văn thân dùng làm tự tánh thế nên hiển bày danh cú văn thân, khiến khởi cú lạc phát sinh đối trị.
Kinh: Do Đức Như Lai ở trong định bất định lại hỏi ghi chép làm biệt ký, tùy theo chỗ thích ứng thọ lãnh các nghĩa quá khứ vị lai hiện tại.
Luận: Đây hiển bày thọ lãnh ý hóa, thọ tương ưng suy nghĩ năng động tâm ấy khiến thọ khổ vui, thế nên gọi là thọ lãnh ý nghiệp. Thành sở tác trí thọ suy nghĩ tương ưng, năng khởi hóa nên gọi là hóa ý nghiệp. Ghi trong bốn lời hỏi làm ký biệt, tùy theo thích ứng, như thật liễu tri tất cả đã hỏi lãnh thọ ba đời vô lượng nghĩa, như thật biết rồi tùy theo thích ứng mỗi mỗi ký biệt không có điên đảo. Bốn ký gồm:
1. Nhất hướng ký: Như hỏi: tất cả sinh là quyết định diệt ư? Phật pháp tăng bảo là ruộng phước tốt?
Những câu hỏi như vậy phải ghi lại cả, vì đây là nghĩa quyết định.
2. Phân biệt ký: Như hỏi: tất cả diệt là định lại sinh ư? Phật pháp tăng bảo chỉ có một ư?
Giải thích: Đối với pháp đã hỏi mà chẳng phải một bề nên làm phân biệt. Có người mê lầm chết rồi ắt sinh trở lại, có người mê lầm chết rồi không sinh trở lại, nếu đứng về chân lý Tam bảo chỉ có một, nếu căn cứ nơi Hữu vi Tam bảo có sai khác.
3. Phản vấn ký: Như hỏi, Bồ-tát Thập địa là thượng là hạ? Phật pháp tăng bảo là hơn hay kém? Nên hỏi ngược lại rằng: Ông dựa vào đâu mà hỏi như vậy?
Giải thích: Pháp đã hỏi hình tướng đối đãi nói hoen kém bất định nên phải hỏi lại. Lại trong Tam bảo giữa thầy trò pháp là tối thắng, khởi nói thứ lớp tức Phật là thù thắng, do Phật xuất thế mới thuyết pháp, lại nội giáo ngoại đạo đều có Tam bảo, đứng về Tam bảo ngoại đạo thì Tam bảo nội giáo đều thù thắng. Hình tướng Thập địa hơn kém có thể hiểu rõ, vì đây không đồng nên phải hỏi lại. Nếu không hỏi lại mà làm lời đáp, thì tùy theo lời nói hơn kém mà có vặn hỏi sinh lời hỏi, tức vặn hỏi dứt.
4. Mặc trí ký: Như hỏi: thật có tánh ngã là thiện là ác? Con của gái đá là màu đen hay màu trắng? Các lời hỏi như vậy nên im lặng mà ký, không nên ghi vì tăng trưởng hý luận.
Giải thích: Nên nói lời hỏi ấy đây không nên ghi, không hiểu lời hỏi ấy gọi là thầm ghi, chẳng phải quên hết ngôn từ gọi là mặc ký.
Sớ: "Đầu tiên tu tập" đến "ba trăm năm mươi". Từ ban đầu tu tập pháp đến bờ bên kia, cuối cùng phân bố pháp đến bờ kia, tính chung là ba trăm năm mươi pháp đến bờ ấy, mỗi mỗi đến giữa bờ ấy đều đủ sáu độ, ba mươi bảy đạo phẩm, sáu Ba-la-mật, tứ nhiếp, vô úy, mười lực, mười tám pháp Bất cộng, đều là ba trăm năm mươi pháp.
Sớ: Sáu vô nghĩa.
Đây là sáu trần v.v..., hữu tình đắm nhiễm mà không có nghĩa lợi, hoặc gọi là dục, hoặc gọi là lục suy, năng suy tất cả thiện pháp của hữu tình.
Sớ: Như trong Du-già nói nhãn là bốn đại v.v... Trong Pháp Uyển có nói đủ, nên ở đây không dẫn ra. Luận: Khéo làm đời này đời khác thuận ích v.v...
Hỏi: Vả lại tu Lục độ ở hiện đời có khổ, xả bỏ hết tài, có khổ đói lạnh v.v... nhẫn đến tu tuệ đến máu chảy vỡ tim, tại sao nói hai đời lợi ích? Không khéo trái lại đây thành vặn hỏi cũng vậy?
Đáp: Có tên thiện ác tức thành tổn ích, lại ở chỗ khác lại có tổn ích, không chỉ đứng về tự mình, mà lại có thể họ xan tham mà trưởng dưỡng ở tham cũng gọi là ích tổn, cho nên nghĩa tổn ích hai đời cũng thành.
Sớ: Như trong Tạp Tập thiện có mười ba. Xét luận ấy quyển 3 ghi:
1. Tự tánh thiện: Nghĩa là tín v.v... mười một loại.
2. Tướng thuộc thiện: Nghĩa là pháp tương ưng.
3. Tùy trục thiện: Nghĩa là các pháp tập khí.
4. Phát khởi thiện: Là chỗ phát ra thân nghiệp ngữ nghiệp.
5. Đệ nhất nghĩa thiện: Là Chân như.
6. Sinh đắc thiện: Do tập quán trước sinh lại liền khởi không nhờ tư duy.
7. Phương tiện thiện: Thân gần bạn tốt tư duy mới khởi.
8. Hiện tiền cúng dường thiện: Là đối với Tam bảo phát khởi việc cúng dường.
9. Nhiêu ích thiện: Là do tứ nhiếp nhiêu ích hữu tình.
10. Dẫn nhiếp thiện: Do bố thí, trì giới phước dẫn nhiếp sinh thiên hưởng dị thục v.v...
11. Đối trị thiện: Là nhàm hoại đối trị v.v... đối trị hai chướng.
12. Tịch tịnh thiện: Nghĩa là hằng đoạn phiền não tưởng thọ diệt Hữu dư y Niết-bàn giới v.v...
13. Đẳng lưu thiện: Nghĩa là người đã được tịch tịnh, do sức tăng thượng này cho nên phát khởi thắng phẩm thần thông, thế xuất thế cộng bất cộng công đức.
Sớ: Bất thiện có mười hai. Xét luận ấy quyển 4 ghi:
1. Tự tánh bất thiện: Nghĩa là Dục giới ràng buộc không mặc tình khởi và mặc tình khởi năng phát ác hạnh tất cả phiền não.
2. Tương thuộc bất thiện: Nghĩa là phiền não tùy phiền não tương ưng pháp này.
3. Tùy trục bất thiện: Nghĩa là tập khí ấy.
4. Phát khởi bất thiện: Nghĩa là nó phát khởi thân nghiệp, ngữ nghiệp.
5. Đệ nhất nghĩa bất thiện: Nghĩa là tất cả lưu chuyển.
6. Sinh đắc bất thiện: Nghĩa là do tập quán sinh lại tự khởi không nhờ tư duy.
7. Phương tiện bất thiện: Thân gần bạn ác, tư duy mới khởi.
8. Hiện tiền cúng dường bất thiện: Tương đối quy y tùy theo một thiên chúng sát hại, tà kiến kiến lập miếu thờ phát khởi việc cúng dường.
9. Tổn hại bất thiện: Nghĩa là ở tất cả chỗ khởi thân ngữ ý các loại tà hạnh.
10. Dẫn nhiếp bất thiện: Làm ác ba nghiệp dẫn không ưa dị thục.
11. Sở trị bất thiện: Nghĩa là các pháp đối trị sở đối trị.
12. Chướng ngại bất thiện: Nghĩa là hay chướng ngại các pháp thiện phẩm, như số chúng vân tập v.v...
Sớ: Vô ký có mười bốn. Xét luận ấy quyển 4 ghi:
1. Tự tánh Vô ký: Nghĩa là tám sắc giới xứ ý tương ưng phẩm, mạng căn chúng đồng phần, danh cú văn thân.
2. Tương thuộc Vô ký: Nghĩa là hoại chẳng phải tâm uế tịnh, tất cả tên gọi, tên gọi sở nhiếp thọ tâm và tâm sở.
3. Tùy trục Vô ký: Nghĩa là tập khí hý luận.
4. Phát khởi Vô ký: Nghĩa là chỗ nhiếp các tâm tâm sở phát thân nghiệp ngữ nghiệp.
5. Đệ nhất nghĩa Vô ký: Nghĩa là hư không, phi trạch diệt.
6. Sinh đắc Vô ký: Nghĩa là các pháp bất thiện Hữu lậu thiện dị thục.
7. Phương tiện Vô ký: Nghĩa là phi nhiễm thiện tâm tất cả đường uy nghi, chốn công xảo.
8. Hiện tiền cúng dường Vô ký: Nghĩa là như có một người tưởng đối với quy y tùy theo một thiên chúng xa lìa ý sát hại ác tà kiến, mà kiến lập từ miếu phát khởi việc cúng dường khiến cho vô lượng chúng ở chỗ như vậy không sinh thêm phước phi phước.
9. Nhiêu ích Vô ký: Nghĩa là như có một người đối với nô bộc vợ con dùng chẳng phải tâm uế tịnh mà thật hành tuệ thí.
10. Thọ dụng Vô ký: Nghĩa là như có một người do không lựa chọn không có tâm nhiễm ô thọ dụng tư cụ.
11. Dẫn nhiếp Vô ký: Nghĩa là như có một người thợ khéo léo do tập quán, ở đời đương lai lại dẫn thân tướng như vậy, do thân này cho nên người thợ có thói quen khéo léo, mau chóng rốt ráo.
12. Đối trị Vô ký: Nghĩa là như có một người vì trị tật bệnh được an lạc, do tâm lựa chọn ưa thích uống thuốc.
13. Tịch tịnh Vô ký: Nghĩa là sắc Vô sắc giới các phiền não v.v... Do Xa-ma-tha tiềm phục.
14. Đẳng lưu Vô ký: Nghĩa là biến hóa tương ưng cộng hữu, gọi là câu sinh phẩm, tâm, tâm pháp này, nghĩa là đùa giỡn nên phát khởi biến hóa là tánh Vô ký, nếu vì lợi lạc hữu tình phải biết là thiện.
Sớ: Năm thức không thể chuyển tâm phát nghiệp.
Xét luận ấy ghi: Nhãn v.v... năm thức nghĩa là tùy ý thức chuyển, tùy thiện nhiễm chuyển, tùy phát nghiệp chuyển.
Giải thích: Tùy ý dẫn sinh tùy ý thiện nhiễm năm tịnh cấu chuyển, năm thức chỉ tùy theo phát nghiệp ý chuyển tự phi chuyển, chuyển nghĩa là phát khởi, tức nhân v.v... khởi phát nghiệp tâm.
Tùy chuyển nghĩa là thế lực chuyển nghiệp tùy theo trước mà sinh, tức sát-na đồng khởi.
Luận: Có nghĩa sáu thức ba tánh không đồng thời. Chuẩn theo luận Du-già giải thích bao gồm có ba nghĩa:
1. Năm thức chỉ có một sát-na, năm thức lại không đồng thời.
2. Tuy một sát-na năm thức được đồng thời khởi.
3. Năm thức được đồng thời khởi lại nhiều sátna, cả ba đều không thừa nhận năm thức ba tánh đồng thời.
Có nghĩa trong sớ chỉ nương vặn hỏi ban đầu. Nay giải thích riêng rằng: Trong này chỉ nương pháp thứ hai, đã nói năm tánh không đồng thời, vì sao? Lại luận này trước sau không nói năm tánh không câu sinh. Lại trong Du-già ghi: Nếu khởi năm thức thì bảy thức đồng thời chuyển. Văn này các sư đều nói rõ, tại sao nói có năm thức không đồng thời? Lại ngay văn này nói nhãn v.v... thức thành tựu thiện nhiễm là ắt do ý dẫn, thừa nhận năm tánh đồng thời, sáu thức cũng nên như vậy, rõ biết tức thừa nhận năm thức câu sinh. Lại thứ hai vặn hỏi tâm chợt hiện, Đẳng lưu nhãn v.v... năm thức, hoặc nhiều hoặc ít, nói chấp nhận câu khởi. Sư thứ nhất nếu không thừa nhận đồng thời, vì sao sư thứ hai lập vặn hỏi như vậy.
Biện rằng: Đã không rõ giáo, riêng giải thích lý thông, mà giúp giáo bài xích sớ, chưa thấy ai làm như thế cả. Trong luận Du-già giải thích ba nghĩa thừa nhận chẳng? Không thừa nhận làm sao dẫn? Thừa nhận tức vì sao mà chẳng phải trong sớ nói, vì thuận thứ nhất.
Lại luận này ghi: Du-già v.v... nói chuyển thức tương ưng ba tánh câu khởi y theo niệm nhiều, đây lẽ nào không phải đều kết hợp ba tánh và các thức đồng thời? Nếu nói chỉ có kết hợp ba tánh đồng thời cũng không đúng lý. Luận ghi: Tánh đồng thời nương niệm nhiều kết hợp, niệm nhiều kết hợp thức ấy đồng thời cũng đâu có lỗi gì? Tánh và thức đồng thời đều là luận ấy, kết hợp thừa nhận hay không thừa nhận? Giả sử văn này chỉ có kết hợp ba tánh, do tánh nêu bày thức cũng không trái, huống lại nghĩa trong văn thông tánh thức, lại luận không nói năm thức không đồng thời, chứng minh lời sớ sai. Luận này chỗ nào nói năm thức đồng thời chỉ có một sát-na? Nên lấy nghĩa thứ hai là đúng. Luận nói năm thức do ý dẫn thành thiện nhiễm, lý nào liền chứng năm thức đồng thời? Năm thức không đồng thời lẽ nào ngại ý dẫn? Nếu do trong văn nói năm thức liền chứng năm thức đồng thời, lẽ ra năm thức không đâu mà không đồng thời, vì nói năm thức. Kế nói Thức thứ sáu thông ba tánh, là căn cứ vặn hỏi, chẳng phải thừa nhận năm thức đồng phá tha Thức thứ sáu. Lại sư sau vặn hỏi nói chấp nhận đồng thời, hiển bày năm thức chẳng phải lúc này cũng như nhau, lựa chọn đồng thời khởi nên nói chấp nhận đồng thời, chẳng phải hiển bày sư trước thừa nhận năm thức đồng thời khởi nên nói chấp nhận đồng thời, do sớ này nghĩa lý không trái.
Sớ: "Trong Hiển Dương luận quyển 19" đến "câu sinh nhĩ".
Liễu biệt định sở duyên v.v... là nhân thứ nhất, do câu sinh nhĩ thức này là nhân thứ hai, hiển bày định ý thức năng duyên định cảnh và phi định cảnh, nên nói các thứ sở duyên cảnh, định cảnh pháp xứ. Các loại cảnh, là thông năm trần.
Luận: "Có nghĩa" đến "chấp nhận câu khởi".
Hoặc nhiều hoặc ít sớ có hai giải thích, thứ nhất căn cứ niệm nhiều ít, thứ hai đứng về thức có nhiều ít, có nhiều ngăn ngại, vặn hỏi đủ như trong Nghĩa Đăng có biện đủ.
Luận: "Luận Du-già" đến "lúc sau mới xuất".
Xét luận ấy ghi: Chẳng phải ngay định ấy tương ưng ý thức, mà không có chữ "duy", chữ "duy" và chữ "tức" nghĩa có ít tương tợ, ý luận này chứng không riêng ý lấy, đổi chữ "tức" thành chữ "duy" lại thiếu chữ "giả". Lại trong sớ nói là người có hành cũng là thêm ý, văn khác đều đồng.
Sớ: "Nếu gặp tiếng mà duyên" đến "tức là nhĩ thức".
Có nghĩa trong sớ có hai thuyết, nay giải thích riêng, từ định sau khởi nên tên gọi tán tâm từ định khởi.
Biện rằng: Đây cũng có thể như vậy. Nhưng luận đã nói: Sau mới xuất định, khởi thuộc về ở định, khởi ý, nhĩ thức nghĩa ý thâm sâu.
Sớ: Tán ý nhập xả.
Đây đáp câu hỏi trước bao gồm có hai giải thích, "tán ý nhập xả" đến "nhĩ thức ắt không sinh" là giải thứ nhất. Từ "hai giải thích tuy lại" đến "tánh ấy cũng thừa nhận có không đồng" là giải thứ hai. Căn cứ lời giải thứ nhất lại có hai ý: Một là nhập xả định, hai là sơ khởi định. Khởi định tức là khi sắp xuất định, hai thời này ý cùng nhĩ đồng duyên.
Sớ: Quyển 69 nói Dục giới có biến hóa v.v...
Đủ như trong Nghĩa Đăng có biện rõ.
Sớ: Bốn thức duyên oai nghi v.v...
Lược có ba giải thích, do oai nghi ấy phần nhiều nương đạo lộ nên được tên lộ.
1. Oai nghi tức là biểu sắc, thể của lộ có bốn trần, bốn trần là oai nghi ấy gá nương gọi là oai nghi lộ.
2. Oai nghi có bốn trần làm tánh, tức phát tâm kia gọi đó là lộ, vì oai nghi nương. Cả hai đều là Y chủ thích.
3. Bốn trần tổng gọi là oai nghi, cùng oai nghi sắc không lìa nhau, là tâm sở nương gá tức gọi là lộ, đây là Trì nghiệp thích. Duyên oai nghi ấy là tâm của lộ đều là Y chủ thích.
Chốn công xảo cũng có ba giải thích, do vì công xảo ấy phần nhiều nương xứ sở mà thi thiết nên được gọi là chốn.
1. Công xảo nghĩa là thân, ngữ hai loại, thân xảo tức do tạo các điện đường, tăng trưởng các biểu sắc mà làm thể ấy, xứ tức biểu sắc, sở y sắc hương vị xúc làm tánh, nói ca hát hay tức do chỗ phát ra tiếng làm thể ấy, xứ tức ca v.v... làm sở y năm trần.
2. Bốn trần, năm trần gọi là công xảo, năng phát tâm ấy gọi đó là xứ, vì nó nương, cả hai đều là Y chủ thích.
3. Công xảo tức gọi là xứ, do bốn trần, năm trần là tâm sở gá nương, Trì nghiệp là tên gọi, duyên chỗ công xảo tâm đều là Y chủ thích.
Luận: Hằng y tâm khởi v.v...
Có nghĩa vặn hỏi rằng: Thọ y tâm khởi thọ gọi là tâm sở. Tâm y thọ v.v... sinh nên gọi là thọ đẳng sở. Lại thọ v.v... bốn nghĩa gọi là tâm sở, tâm cũng có bốn nghĩa đủ nên gọi là thọ đẳng sở, như trong sớ dùng hai ba nghĩa ấy lựa chọn, nhưng trong sớ nói lẽ ra gọi là tâm sở, điều này không đúng, đã dùng tâm vương mong thọ mà nói, vì sao vẫn nói là làm tâm sở.
Biện rằng: Tâm sở là gọi chung, do y đối với tha bốn nghĩa khác lập đủ. Sớ lấy tên chung tâm vương, tâm sở để nêu bày, do tâm y tha đủ bốn nghĩa, không căn cứ biệt biệt thọ v.v... làm vặn hỏi. Hỏi: Luận đã tự nói hằng y tâm v.v... gọi là tâm sở, tâm không y tâm vì sao vặn hỏi nói nên gọi là tâm sở?
Đáp: Y nơi tâm hiển bày y chẳng phải mình y chẳng phải mình nên được tên tâm sở, tâm y cũng vậy, vì sao chẳng phải tâm sở? Trong sớ y lý trách, nếu không như vậy tổng tâm, mà thọ v.v... sai khác, biệt tổng không đồng, vặn hỏi không đồng. Nay thêm một vặn hỏi thọ v.v... y tâm khởi, từ y gọi là tâm sở, tâm y tâm sở sinh nên gọi là tâm sở, còn các vặn hỏi khác chuẩn theo đây. Điều này không trái với luận, cũng không có chung riêng, không có lỗi đồng.
Luận: Tức các tâm sở sở thủ biệt tướng.
Hỏi: Du-già chỉ nói tác ý rõ chỗ này, tướng chưa rõ vì sao biết được? Sở chưa rõ là các tâm sở sở thủ biệt tướng?
Đáp: Các tâm sở v.v... sở thủ biệt tướng, đều là tâm vương sở chưa liễu tướng, đã nói tác ý liễu đây chưa liễu, rõ biết các sở sở thủ biệt tướng đều năng liễu.
Sớ: Luận Hiển Dương quyển 18 có bài tụng v.v...
Xét bài tụng ấy ghi: Y nhiều cảnh liễu biệt, đều là tự nghiệp sinh, tâm pháp không ưng tư, vì cảnh tương tợ chuyển. Luận nói tâm sở hữu pháp y chỉ năng duyên nhiều cảnh vì tám loại thức, mỗi mỗi tạo tác tự nghiệp mà khởi, y tâm mà có nên gọi là tâm sở hữu pháp, không nên lại suy nghĩ cảnh sở duyên kia, do nó cùng thức duyên chuyển.
Giải thích: Chỉ dùng một nghĩa lập tên tâm sở, nói đồng duyên chuyển, rõ ràng tâm sở ấy cũng là duyên tổng tướng.
Luận: "Chỗ khác lại nói" đến "các tướng lỗi của đức".
Luận Trung Biên quyển 1 chỉ nói tâm sở cũng duyên biệt tướng, trong Du-già quyển 3 chỉ nói duyên biệt cảnh có thể vui v.v... mà không có chữ "cũng". Hai luận hợp dẫn cho nên nói cũng năng liễu có thể vui đồng.
Hỏi: Tâm lấy tổng tướng, sở thông tổng biệt, vì sao nói được đồng một sở duyên?
Đáp: Có nghĩa nói đồng sở duyên, tổng luận cảnh này, không nói cảnh này biệt tướng cũng đồng. Lại tâm vương, tâm sở thủ nghĩa tổng biệt tổng mà làm bốn giải thích:
1. Tâm chỉ có lấy tổng, tâm sở chỉ có biệt, các luận đều nói thức liễu tổng tướng, trong Du-già chỉ nói tâm sở liễu này chưa liễu tướng, không nói liễu tổng, luận này tuy nói biểu tâm sở đây cũng duyên tổng tướng, ý của người giải thích luận là không nương.
2. Tâm vương chỉ có lấy tổng tướng, sở thủ tổng biệt, trong Đại luận, luận Trung Biên như luận chủ giải thích đã có nói lý thành thật không thể trái.
3. Tâm sở đồng với sư thứ hai ở trước, tâm vương cũng duyên hai tướng tổng biệt, cho nên ở sau luận nói: Thọ năng lãnh nạp cảnh thuận, nghịch, không thuận không nghịch, khiến các tâm khởi vui thích xả tướng, nếu cũng rõ cảnh nghịch, thuận, không nghịch không thuận, vì sao có thể khởi xả tướng ưa thích? Giải thích các tâm sở đều có khiến tâm lấy nghĩa biệt tướng, văn luận trên dưới có rất nhiều, nên biết tâm vương cũng duyên biệt tướng. Các thuyết trong Đại luận đều đứng về tự lực tâm vương mà nói, giả như không có tự lực tâm sở thì không thể lấy biệt tướng, như vua nhân nơi bề tôi mà có thể biết được việc khác, nếu không nhờ bề tôi tức không thể biết.
4. Tâm vương đồng với sư thứ ba trước, tâm sở chẳng phải chỉ duyên tự biệt tướng, như tâm năng duyên tất cả biệt tướng, các pháp tương ưng, pháp nhĩ đồng duyên chỉ có một việc của cảnh, nếu không như vậy vì sao nói khiến các tâm khởi ưa thích? Đã nói các lỗi, cho nên biết biệt tướng tâm sở đều lấy. Tuy có bốn cách giải thích khiến y nơi thuyết sau, các pháp tướng tương ưng sức mong nhau đồng, vì có duyên, không duyên, không đúng lý. Luận nói các thọ sở thủ sai biệt, hơn nữa đứng về tự hành sở thủ mà nói, dùng thật mà nói, do sức tương ưng hỗ tương lấy sở duyên, đều không trái lý.
Hỏi: Do sức tương ưng, cùng lấy sở duyên, cũng do hành tướng tương ưng hỗ tương khởi, các thọ lẽ ra khởi các hành lấy tượng?
Đáp: Các tâm cảnh đồng sức tương ưng, hành tướng nói biệt, các thọ không đồng. Lại giải thích do sức tương ưng năng khởi các hành thọ khiến các tâm khởi vui mừng, lại nương thù thắng mà nói, nhưng nói khiến tâm, lý thật cũng khiến các thọ ghi nhớ rõ ràng.
Hỏi: Đã vậy đồng tụ tâm tâm sở hành, hành tướng đều đồng nên thành tạp loạn?
Đáp: Hành tướng, cảnh tướng bao gồm chánh không đồng cho nên không trái lý. Quyển 2 ghi: Tâm tâm sở pháp hành tướng đều sai biệt. Quyển 3 ghi: Chớ đụng chạm năm thức năng liễu biệt, y nơi chánh hành mà nói, đều không trái nhau.
Biện rằng: Nay căn cứ quyển 2, luận Du-già, Trung Biên, các văn Duy thức có nói đủ, còn ba giải thích khác đã không phải nói đúng, vốn là vặn hỏi nương chuẩn theo, không thể phàm tình gượng khế hội ý chỉ bậc Thánh, văn sau tự nói: Thọ năng lãnh nạp cảnh thuận, nghịch, không thuận không nghịch, không nói tâm lấy cảnh thuận nghịch. Các tâm sở nói, khiến cho tâm đồng, đến văn đó sẽ hiểu. Lại chuẩn theo đâu để biết căn cứ chánh hành? Thứ hai, thứ ba trước nói: hành tướng tâm tâm sở đều sai biệt, không có xúc v.v... năm thúc năng liễu ư? Trong bản giáo không nói, lẽ nào chẳng phải ý sao? Xin xét rõ điều này, đừng làm mê lầm cho hậu học! Luận: "Lãnh tướng thuận cảnh" đến "không khổ không vui".
Hỏi: Thân thức đồng thời lãnh thọ cảnh thuận nghịch, vì sao thọ tương ưng?
Đáp: Trong truyện nói có hai giải thích:
1. Không có đồng thời năng lãnh thọ hai cảnh, cho nên tùy theo một mà đồng thời.
2. Tức trong một thời năng lãnh thọ hai cảnh cảnh đều đến, tùy theo cảnh thù thắng ấy chỉ có một thọ chung, như năm thức đồng thời với ý tùy theo cảnh nào thù thắng mà thọ đồng thời, cho nên đây lẽ ra cũng vậy.
Hỏi: Thọ có năm thọ, ý nào hợp.
Đáp: Hỷ, lạc ưu, khổ vui thích tương tợ, cho nên hợp thành ba.
Hỏi: Nếu vậy vì sao không nói hỷ ưu xả?
Đáp: Do khinh theo trọng, do hẹp theo rộng, vui khổ thông ở nhiều địa thức.
Sớ: "Đối Pháp" đến "tập sắc sở y".
Xét luận ấy ghi: Tập sắc sở y kiến lập thân thọ, tập Vô sắc sở y kiến lập tâm thọ.
Giải thích: Thân tâm đều do tích tập làm nghĩa, cho nên Sắc vô sắc đều nói tập. Từ hai sở y được xứng hợp thân tâm.
Hỏi: Thức thứ sáu y Thức thứ bảy, Thức thứ bảy vì sao gọi là tâm mà không có nghĩa tập?
Đáp: Sát-na tương tục trước sau rất nhiều gọi là tích tập, hoặc căn cứ bản thức, hoặc trong ý căn thông Thức thứ bảy, thứ tám nên gọi là tập tâm.
Sớ: Thọ rộng căn hẹp.
Như ba thọ môn, khổ lạc hai thọ bao hàm ưu hỷ, mà nói căn thì liền không như vậy, hai mươi hai căn hỷ, lạc, ưu, khổ đều lập riêng, cho nên rộng hẹp có sai khác.
Sớ: Không câu khởi cho nên không thuộc Vô lậu.
Hỏi: Phàm tâm Vô lậu ắt có khinh an, khinh an đều vui thích, đồng thời năm thức vì sao được có khổ?
Đáp: Thức tương ưng vui thích mà khổ không có, năm thức không tương ưng thì khổ nào có lỗi. Sớ: Nếu hỗ tương hiển tùy theo thích ứng kia.
Bảy sắc, mạng căn cứ không sinh đoạn, do hiển tín v.v... cũng thông kiến đoạn mà vặn hỏi, Địa tiền tín v.v... tám kiến đạo đã hằng không sinh, tín v.v... duyên trói buộc mà hiển bày bảy sắc, nhưng không gọi là kiến đoạn, hay trói buộc hữu.
Sớ: "Không thể nói sáu" đến "Vô học thân có". Lập lại người ngoài để nói rõ, ý nói rằng: Vô học học viên mãn được gọi là phi đoạn, mạng ở nơi thân ấy chẳng phải đoạn thì đâu có lỗi gì.
Sớ: Năm căn lẽ ra cũng như vậy v.v...
Sớ chủ chất vấn, Vô học cũng có sắc v.v... năm căn, năm căn lẽ ra cũng thông với bất đoạn, đây đã không như vậy, kia vì sao như vậy.
Hỏi: Chẳng phải sở đoạn, lý có hai nghĩa: Một là có tánh trong thân Vô học, trong thân Vô lậu gọi là Vô lậu, cũng gọi là phi đoạn. Hai là thể Vô lậu cũng là Vô lậu, mà chẳng phải là đoạn, Vô học sắc căn thừa nhận chẳng phải đoạn, điều này có lỗi gì?
Đáp: Căn cứ thể Vô lậu và thuận Vô lậu gọi là phi đoạn, không y nghĩa ban đầu.
Hỏi: Phật sắc, mạng căn lẽ nào chẳng phải là Vô lậu, vì sao tám căn không thông phi đoạn?
Đáp: Thông ba Thừa để nói rõ, cho nên chẳng phải phi đoạn.
Luận: Lại học Vô học chẳng phải hai mà là ba. Xét luận Du-già quyển 57 ghi: Có bao nhiêu học học làm nghĩa.
Giải thích: Trong hai mươi hai căn có bao nhiêu học, lại dùng học v.v... mà làm nghĩa cảnh. Luận đáp: chín học, vô học, phi học phi Vô học, do ba loại thành nghĩa.
Giải thích: Tín v.v... năm căn ý hỷ lạc xả lại do học v.v... ba loại thành nghĩa, một thông ba loại phi học phi Vô học thành nghĩa.
Giải thích: Một là khổ căn, năm thức tương ưng cho nên không do học Vô học thành nghĩa, chuẩn theo đây nên biết ba thọ thông tam học.
Hỏi: Khổ v.v... thể lậu, vì sao gọi là học Vô học?
Đáp: Ở các học thân có chỗ tiến đến cũng gọi là học, cho nên quyển 66 ghi: Thế nào là học pháp? Nghĩa là Dự lưu v.v... hữu học Bổ-đặc-già-la, nếu xuất thế pháp Hữu vi hoặc thiện pháp thế gian này gọi là học pháp, vì sao nương pháp này ở trong đó thường thường tinh tấn tu học các giới v.v.. tam học? Thế nào là Vô học? Nghĩa là A-la-hán các lậu đã hết nếu xuất thế pháp Hữu vi hoặc thiện pháp thế gian này gọi là Vô học pháp, nghĩa là trước trừ chỗ nói học Vô học pháp, còn Dự lưu nhẫn đến pháp La-hán, nếu đọa vào tất cả dị sinh các pháp sở hữu, phải biết đây gọi là phi học phi Vô học pháp.
Lại Đối Pháp quyển 2 ghi: Cầu giải thích thoát là tất cả thiện pháp là nghĩa học, đối với các học xứ đã được cứu cánh, tất cả thiện pháp là Vô học, nghĩa là các pháp dị sinh tất cả ba tánh và các học nhiễm ô Vô ký, các Vô học là các pháp Vô ký và pháp Hữu vi, là phi học phi Vô học. Đối Pháp thông ở trước nói cầu giải thích thoát, Du-già căn cứ thù thắng nói trên kiến đạo, người làm luận ý cũng không trái.
Hỏi: Pháp thế gian trong thân Vô học, nghĩa nào cũng gọi là Vô lậu ư?
Đáp: Căn cứ không phiền não, cho nên quyển 66 hỏi: Thế Thiện La-hán, do nhân duyên nào gọi là Vô lậu?
Đáp: Đọa trong ba cõi nên gọi là hữu sở nhiếp, các lậu tùy miên hằng giải thích thoát nên gọi là Vô lậu.
Sớ: Các chỗ khác không phát khởi ác hạnh.
Luận ấy chỉ nói các chỗ khác là hữu phú Vô ký không phát khởi ác hạnh, thân biên v.v... như sớ giải thích.
Sớ: "Quyển 58" đến "chuẩn theo không phát nghiệp".
Xét luận ấy ghi: "Câu sinh Tát-ca-da-kiến chỉ có tánh Vô ký vì thường hiện hành, chẳng phải rất tổn não ở tự tha". Trong luận Đối Pháp ghi: "Các Vô ký là phát các nghiệp, câu sinh thân kiến đã là tánh Vô ký, rõ ràng thuộc về chỗ khác. Không thể phát nghiệp, thân kiến đã vậy, biên kiến cũng vậy, định tùy theo có, cho nên không luận đến.
Sớ: "Ý thức bấy giờ" đến "bất thiện vô phú".
Hỏi: Nếu đã dẫn năm thức phải cùng năng dẫn Thức thứ sáu đồng tánh, vì sao năm thức ba tánh thừa nhận đồng thời?
Đáp: Nay trong này ý không được sở dẫn cùng ý năng dẫn thuần là dị tánh, chẳng phải là quyết định khiến cho ý đồng tánh, hoặc thuận ba tánh không đồng với sư.
Luận: "Do không phân biệt" đến "có phân biệt".
Sớ đã giải thích, ý nói đứng về thức bức bách vui thích sai biệt, cho nên thành lạc hỷ khổ, ưu v.v... sai biệt, không chướng ý thức có vô phân biệt, nhẹ nhàng, chỉ có động gọi là khổ vui.
Có không hiểu liền vặn hỏi: Sư sau giải thích, không chỉ năm thức bức bách vui thích, càng nặng không phân biệt, trong ý khổ vui cũng không phân biệt vì rất nặng, như ở sau luận có nói rõ, cho nên tổng nói phân biệt rất nặng gọi là ưu hỷ. Không phân biệt, nhỏ nhẹ gọi là khổ lạc.
Biện rằng: Tìm sớ trước có nói rõ, biết ở sau phá lỗi.
Luận: "Không khổ không vui" đến "bình đẳng chuyển".
Hỏi: Vả có trái thuận tức thành bức bách vui thích, vì sao gọi là bình đẳng?
Đáp: Lý thật đều là nghĩa sai biệt, tướng vi tế ẩn, cho nên không khai.
Sớ: "Du-già cuối quyển 57" đến "mười một căn". Xét luận ấy ghi: Vị chí địa mấy căn có thể được?
Đáp: Mười một.
Giải thích: Nghĩa là tín v.v... năm pháp, ba Vô lậu căn, và ý hỷ xả.
Có thuyết nói: Trừ ý lấy lạc, lý thật nên nói có mười hai căn, cũng có ý, nhưng không nói ý căn thông hiển tám thức tự tánh, trong Vị chí địa chỉ có Thức thứ sáu, cho nên lược không nói.
Biện rằng: Nay lấy giải thích trước, phàm có tâm sở như có tâm vương, nếu không nói ý, sợ rằng nghi có tâm sở mà không có tâm vương, dù không có lạc nhưng lý vẫn không ngăn ngại.
Hỏi: Vì sao không nói có nhãn v.v... và mạng?
Đáp: Không nương nó sinh nên không nói có.
Hỏi: Chỉ nói mười một, vì sao biết được hỷ có tám? Đáp: Tức luận ấy ghi: Hỷ đối với nó mà có.
Hỏi: Giáo nào làm chứng?
Đáp: Như Thế Tôn nói: Như vậy Bi-sô Ly sinh hỷ lạc tư nhuận thân mình, tư nhuận khắp, biến khắp vui khắp, không có chút phần nào mà không đầy đủ, như vậy gọi là Ly sinh hỷ lạc. Trong này môn đầu nói vị Vị chí, môn sau nói Căn bản vị.
Giải thích: Trong kinh đều nói chưa có căn bản, Ly sinh hỷ lạc tư nhuận thân là môn đầu, cùng khắp v.v... ở sau là môn sau. Cho nên biết trong mười một, hỷ là một, luận Hiển Dương, Đối Pháp rất đồng nên không chép.
Hỏi: Căn bản định ban đầu vì sao một thọ phân thành hỷ lạc?
Đáp: Như trong Nghĩa Đăng có chép đủ, có nghĩa lẽ ra khi trước sau khởi sai biệt, nghĩa là có lúc thân vui không khắp chỉ gọi là hỷ, lúc bấy giờ cùng khắp gọi là lạc.
Biện rằng: Luận này tự nói vì thân tâm vui, biện rõ hai việc hỷ lạc đã trái sở học cho nên không nương.
Hỏi: Căn bản ban đầu và thứ hai, thân tâm cả hai vui thích phân thành hỷ lạc, lìa khổ thọ xứ bức bách thân tâm nên phân ra ưu não?
Đáp: Như trong Nghĩa Đăng ghi: Nghịch thuận khác nhau, chủng loại có đồng và biệt, nên giải thích nghi này.
Lại giải thích căn bản thư nhất và thứ hai năm thức vui thích căn phát động ý phân ra làm hai, tạp thọ năm thức hoàn toàn ý bức ép, ý ưu nên không không phân làm hai.
Luận: Tĩnh lự thứ ba v.v...
Hỏi: Thứ ba phân bản lẽ nào không có căn vui thích, căn nếu vui thích vì sao không nói ư?
Đáp: Hai định trước sẽ động khởi cho nên căn ưa thích mới lạc, thế nên nêu nói, thứ ba an tịnh, không chỉ có đối căn mới gọi là lạc, cho nên mới nói. Tĩnh lự thứ ba không chỉ đối với căn mới gọi là lạc, cho nên không nói, lý thật căn ưa thích còn ở trước.
Sớ: "Quyển 66 có thông luận này".
Trong quyển 66 cũng nói bàng sinh khổ ưu tương tục, cho nên luận ấy ghi: Sinh loại hữu tình Na-lạc-ca, dị thục vô gián có dị thục sinh khổ ưu tương tục, như vậy nếu sinh một phần ngạ quỷ và trong bàng sinh, phải biết cũng như vậy.
Sớ: "Quyển 57 nói cùng địa ngục đồng".
Tức luận ấy nói, còn ba hiện hành khác cho nên không thành tựu, chủng tử cho nên thành thục, như sinh đường Na-lặc-ca một bề khổ, bàng sinh, ngạ quỷ phải biết cũng vậy. Lại quyển 66 nói dị thục vô gián v.v... cũng có ba đường không đồng, như trước đã dẫn.
Sớ: "Một căn thiện bất thiện v.v... ".
Xét luận ấy ghi: Tám thức chỉ có thiện. Thiện, bất thiện, Vô ký thành nghĩa. Năm thiện, bất thiện, Vô ký. Thiện, bất thiện, Vô ký thành nghĩa. Một thiện, bất thiện; thiện, bất thiện, Vô ký làm nghĩa. Năm Vô ký, Vô ký làm nghĩa. Hai Vô ký, thiện, bất thiện, Vô ký làm nghĩa.
Giải thích: Tám nghĩa là tín v.v... và ba Vô lậu. Năm nghĩa là năm thọ trừ ưu lấy ý. Một nghĩa là ưu căn. Lại năm nghĩa là thân, nam, nữ, tỷ, thiệt. Một nghĩa là nhãn nhĩ. Căn cứ biểu nghiệp mà nói, mạng bất tương ưng cho nên không nói nghĩa.
Luận: "Luận nói ưu căn chẳng phải Vô ký" đến "bàng sinh cũng vậy".
Có nghĩa nay trợ giúp sư trước chống chế vặn hỏi thứ nhất rằng:
Luận tùy chuyển lý, nói thiện bất thiện, thật thông Vô ký. Sau chống chế vặn hỏi rằng: Ưu là thứ tám, xả là thứ ba, nói ưu định thành là nương phần nhiều mà nói, nghĩa là trừ sinh tử, các vị khác ưu căn hằng tương tục.
Biện rằng: Nay trợ giúp sư sau vặn hỏi sư trước rằng, luận căn cứ việc gì phải tùy theo thiếu ý, lại chủ bỏ khách nào không thủ, lẽ nào không chủ ý mà nêu bày nhau ư? Lại xả chủ vì sao bỏ mà không lấy, lẽ nào không chủ ý mà cùng ví dụ chăng? Lại bảy pháp khác thành không căn cứ phần nhiều, vì sao riêng ưu căn đứng về phần nhiều? Cho nên chống chế chưa được.
Sớ: Tám căn hiện chủng đều thành tựu.
Hỏi: Mạng căn, y Thức thứ tám chủng mà lập, vì sao nói Thức thứ tám đều hiện chủng thành?
Đáp: Hiện Thức thứ tám gọi là mạng, tám chủng gọi là căn hợp lại mà nói mạng căn, cho nên thông chủng hiện.
Sớ: Vì thuần ánh sáng của khổ.
Xét luận ấy ghi: Nếu Na-lặc-ca v.v... thì trong đó đã đoạt mất ánh sáng, không khổ không lạc thọ cùng thuần khổ không xen tạp, thọ đồng thời mà chuyển, phải biết thọ này bị ánh sáng đoạt mất nên khó có thể rõ biết, như Na-lặc-ca trong đó một bề khổ thọ đồng thời chuyển.
Giải thích: Đẳng là nói đồng với thuần khổ quỷ súc kia, Lại-da trong ấy tuy có xả thọ, vì trong các thức khổ thọ rất thạnh, đoạt mất ánh sáng không hiện cho nên nói khổ thọ, một bề khổ thọ căn cứ thừa nhận thọ mà nói, lược không nói xả.
Luận: Không có dị thục lạc gọi là thuần khổ.
Đây giải thích chiết vặn hỏi, ý vặn hỏi nói: Có Đẳng lưu lạc vì sao gọi là thuần khổ, nên nay đáp rằng: Mong vô dị thục được tên thuần khổ.
Sớ: Cho nên trong Du-già quyển 59 nói quyển 58 ấy v.v...
Hiển bày quyển 59 khế hội với quyển 58. Nói trong ý giận lo tương ưng y theo tùy chuyển v.v... Xét quyển 58 ghi: Lại mười phiền não, bảy chỉ có ý địa, tham, khuể, vô minh cũng thông năm thức, lại đối với Dục giới tham lạc hỷ xả tương ưng, khuể khổ ưu xả tương ưng.
Giải thích: Khổ căn cứ năm thức, ưu chỉ có Thức thứ sáu, xả thông sáu thức. Lại quyển 59 ghi: Nếu mặc tình sinh tất cả phiền não, đều ở ba thọ hiện hành có thể được, thế nên thông tất cả thức thân là cùng tất cả căn tương ưng, không thông tất cả thức thân là cùng ý địa tất cả căn tương ưng, không mặc tình sinh tất cả phiền não, tùy theo thích ứng ấy mà các căn tương ưng. Trước biện phiền não các căn tương ưng, nhưng đứng về tướng thô đạo lý kiến lập, khiến hành giả mới tu tập hiểu mà không bị loạn, nay đứng về thô tế kiến lập đạo lý, khiến người thực hành đã lâu rõ được tự tha thân chủng chủng hành giải thích sai biệt chuyển, rộng làm pháp ấy đại đồng luận này quyển 6 nói rõ, cho nên không chép. Sớ chỉ văn này cho rằng quyển 58 nói y tùy chuyển và tướng thô.
Sớ: Quyển 66 nói địa ngục cũng có thực.
Xét luận ấy ghi: Nếu thô đoạn thực ở trong năm đường Dục giới đều hiện có thể được, đây đối một phần đều sai khác Na-lạc-ca, chẳng phải đại Nalạc-ca.
Hỏi: Văn đã nói lựa chọn, thừa nhận có lỗi gì?
Đáp: Quyển 57 ghi: Trong Na-lạc-ca không có đoạn thực, định địa các cõi trời cũng lại như vậy, các Na-lạc-ca phần nhiều do nghiệp đời trước đã nhậm trì mà được trụ lâu. Tuy có các căn rộng lớn nhân duyên tổn hại đại chủng, mà không thể chết, sau đó có các gió nhẹ theo vào phần thân, lấy đó làm thức ăn, khó có thể rõ biết thế nên không nói. Văn này đã nói: Các Na-lạc-ca, nên biết văn sau giả nói, nếu không như vậy trước sau có trái ư? Nói các gió v.v... ăn là phải biết là giả nói.
Sớ: Nghĩa là Đại chúng bộ các thức đều sinh.
Do vì thức đều sinh, hậu dị thục năm thức khổ ý ưu được tương tục, còn lại chuẩn theo nên biết.
Sớ: Tổng khen ngợi giáo hưng khởi.
Luận nói nay nên nói rộng là lời khuyên. Có sớ thì nói hiển bày, hiển bày hay khuyên đều được.
Hỏi: Luận đã tự thuật vì sao tự nói khuyên?
Đáp: Mượn phát khởi tân chủ, hoặc tự khen để tấn phát.
Luận: "Như trong Khế kinh" đến "bốn biến hành này".
Có nghĩa ban đầu là kinh Khởi Tận và sở dẫn này, đều nói nhẫn đến rộng nói là rộng nói việc gì, do thành thật này chứng minh biết tâm vương cũng duyên biệt tướng, nếu không như vậy vì sao tâm vương do tư lấy chánh nhân v.v... Do định thuyết này cũng duyên biệt tướng, mà vô tâm sở tự không thể duyên, cho nên các luận nói chỉ duyên tổng tướng. Tâm sở duyên biệt, chuẩn theo đây nên biết, vì có nói.
Biện rằng: Trong kinh chỉ bày phương góc, nêu nhãn thức sinh không nói các thức cho nên nói nhẫn đến, hoặc luận lược dẫn nên nói nhẫn đến, cho nên luận Hiển Dương quyển 1 cũng dẫn kinh này nói, như vậy nên biết nhẫn đến thân thức. Trong này sai biệt, nghĩa là đều nương tự căn, đều duyên tự cảnh đều biệt liễu biệt tất cả, nên dẫn như hai kinh trước. Chẳng phải nói nhẫn đến là hiển bày tâm vương duyên biệt, lại tướng có tà chánh ấy và chung cho nên đồng nói v.v... Cho nên luận tự nói vô tâm khởi vị không có pháp này tùy theo một pháp, nên biết "vân vân" không biểu đạt tâm vương mà cũng lấy biệt. Lấy biệt trước sau liền thành sông khe. Lại khi tâm khởi chưa từng không có sở, đâu được căn cứ vô tâm đã nói tổng, nếu không có tâm sở tổng cũng không duyên, vì sao chỉ có biệt tướng? Thuận lý giáo là tâm vương lấy tổng tướng có thể làm khéo bàn, tà chánh v.v... tức tổng tướng. Luận: Thánh giáo này thành chứng chẳng phải một.
Xét luận Du-già quyển 55 cũng có thuyết này gọi là biến hành, tức luận ấy nói:
Hỏi: Khi các thức sinh, cùng bao nhiêu biến hành tâm pháp câu khởi?
Đáp: Năm, nghĩa là tác ý v.v...
Luận: "Lý nghĩa là" đến "ắt có tư".
Hỏi: Vì sao biết được, xúc nghĩa là tam hòa, nhẫn đến tư khiến tâm tạo tác?
Đáp: Xét luận Du-già quyển 55 ghi: Tác ý vì sao gọi là năng dẫn phát tâm pháp? Xúc vì sao gọi là tam hòa hợp? Cho nên có nghĩa năng nhiếp thọ. Thọ vì sao gọi là tam hòa hợp? Cho nên có nghĩa năng lãnh nạp. Tưởng vì sao gọi là tam hòa hợp? Cho nên thi thiết sở duyên giả hợp mà thủ. Tư vì sao gọi là tam hòa hợp? Nên khiến tâm tạo tác, ở cảnh sở duyên, cùng tùy theo lãnh nạp hòa hợp trái lìa.
Sớ: Trong luận Hiển Dương quyển 1 dẫn chứng nói có.
Chứng có biến hành, tức luận ấy ghi: Như trong kinh nói khổ đối với tác ý này v.v... Lại nói: Do chỗ sinh tác ý kia chánh khởi, như vậy chỗ sinh nhãn các thức sinh, như trong kinh nói có sáu xúc thân. Lại nói, nhãn sắc làm duyên năng khởi nhãn thức, như vậy ba pháp tụ tập hợp cho nên hay có sở xúc. Lại nói: Xúc làm thọ duyên, như trong kinh nói có sáu thọ thân. Lại nói thọ là ái duyên, như trong kinh nói có sáu tưởng thân. Lại nói như tưởng ấy mà khởi ngôn thuyết, như trong kinh nói có sáu tư thân. Lại nói phải biết sáu xứ xúc hiện nay của ta, tức là nghiệp cũ do tư đã tạo trong đời trước.
Luận: Kế đến đến biệt cảnh v.v...
Luận Du-già quyển 55, luận Hiển Dương quyển 1 nói năm thể nghiệp, cùng với đây đại khái giống, cho nên không chép. Nhưng luận Hiển Dương dẫn kinh để làm chứng, luận này không có, nên dẫn rằng: Như trong kinh nói, muốn làm căn bản của tất cả pháp, như trong kinh nói, chúng ta ngày nay tâm sinh thắng giải thích, là sáu xứ bên trong quyết định vô ngã.
Giải thích: Do vô ngã quán duyên cảnh vô ngã mà sinh thắng giải thích, nhất định biết sáu xứ đều là vô ngã, cho nên như trong kinh nói các niệm cùng tùy niệm, biệt niệm niệm và ức không quên không mất pháp, tâm minh ký là tánh.
Giải thích: Nhớ lại cảnh qua gọi là tùy niệm, ức biệt biệt cảnh gọi là biệt niệm, hoặc trước tổng tướng niệm, sau biệt tướng niệm, nhớ không quên là tên gọi khác của niệm. Như trong kinh nói khiến các tâm trụ cùng đẳng trụ an trụ cận trụ và định trụ, không loạn không tán nhiếp tịch chỉ, đẳng trì tâm trụ một duyên tánh.
Giải thích: Buộc tâm trụ bên trong không dong ruổi bên ngoài gọi là khiến tâm trụ. Ngăn chế tâm kia lần lần vi tế khác trước khắp nhiếp khiến trụ gọi là cùng đẳng trụ. Nhưng vì thất niệm tán động bên ngoài trở lại thu nhiếp mà trụ nội cảnh gọi là an trụ. Trước thân cận niệm trụ tức do niệm này, thường thường làm ý nội trụ tâm kia không khiến tâm kia ở ngoài trụ gọi là cận trụ. Các tướng năm trần khiến tâm tán loạn, trước ở tướng ấy thành tướng lỗi, sức tướng tăng thượng bẻ dẹp tâm kia không khiến cho trôi nổi gọi là định trụ. Dục sân hại v.v... khiến tâm nhiễu động, cho nên trước ở tưởng lỗi lầm, vì sức của tưởng cho nên ở đối với tầm tư các tùy hoặc v.v... chánh trực tâm kia mà không lưu diệt gọi là bất loạn. Do cực tịnh tịnh nên tâm không tán loạn, tức chánh nhiếp trì gọi là nhiếp tịch chỉ. Bình đẳng trì tâm gọi là đẳng trì. Rõ các tâm trước đều ở một cảnh buộc tâm khiến trụ gọi là trụ sở duyên. Như trong kinh ghi: Giản trạch các pháp tối cực giản trạch, cực giản trạch pháp biến liễu, cận liễu, điểm liễu, thâm đạt, thẩm sát, thông duệ, giác, minh, tuệ hành, Tỳ-bát-xá-na.
Giải thích: Hay chánh suy nghĩ lựa chọn tịnh sở duyên, thiện xảo sở duyên, hoặc hai sở duyên gọi là giản trạch pháp. Đối với ba cảnh trước mà giản trạch Chân như thật tánh ấy gọi là tối cực trạch. Nghĩa đối với khổ đế và sai biệt khổ tướng giản trạch, Khế kinh thể tánh các khổ gọi là cực giản trạch pháp. Đối với cảnh sở duyên cùng khắp tầm tư gọi là biến liễu. Đối với biến liễu trước cảnh sở duyên, suy xét tìm cầu tiệm chân tiệm cận gọi là cận liễu. Liễu tâm tâm pháp gọi là điểm liễu. Tri tâm tâm pháp việc sở duyên gọi là thông đạt. Năng định lấy hết sở hữu ấy gọi là thẩm sát. Trước sau tiệm thứ ở trong nghĩa ấy, không quên sót nên gọi là thông duệ. Có thể tuệ giản trạch câu sinh gọi đó là giác. Tập sở đắc tuệ gọi là minh. Tụng hỏi luận quyết trạch, mà nghĩa ấy chuyển tăng minh liễu nên gọi là tuệ hành. Tỳ-bát-xá-na Hán dịch là quán, như trong Đại luận giải thích rộng đủ.
Sớ: "Nếu nói như ái" đến "là gốc của các pháp".
Lập lại người ngoài vặn hỏi sinh khởi văn sau. Ý người ngoài vặn hỏi: ông đã dùng ái ví dụ, dục chẳng phải biến khắp, vì sao trong kinh nói dục là gốc.
Luận: Đây lại phải đợi các duyên khác, có lỗi không cùng tận.
Có nghĩa trong luận ở giải thích sau niệm khiến tâm ghi nhớ rõ ràng, tông ấy cũng nói có thể minh ký, là đứng về tâm; đã minh ký là vì ngay các pháp, nếu do đây cho nên các tâm minh ký, đây lại phải đợi duyên khác, lại có lỗi không cùng tận. Người thích luận tông phải khéo tư duy lựa chọn.
Biện rằng: Thù thắng ấy phát khởi vốn là nghiệp dụng của tác ý căn, nhưng lại đợi các thắng giải thích có dụ cho nên lỗi không cùng, ngã tông minh ký chẳng phải gốc nghiệp của tâm cho nên tuy đợi các niệm vô loại ấy không có lỗi nào mà không cùng tột.
Sớ: Tâm thừa nhận trước có trên thể lại lập các dụng.
Hỏi: Tâm thể lập dụng tự thừa nhận chẳng phải tha đâu được làm chứng.
Đáp: Trước đã rộng thành làm chứng không có lỗi.
Luận: Căn lực giác chi chẳng phải tức tâm.
Hỏi: Phá vì sao thừa nhận ư? Nếu phá bản sư, bản sư tâm sở đều thể là tâm, tuệ v.v... đồng dụ sở lập không thành, nếu phá mạt chấp có lỗi tương phù, chưa thừa nhận tâm sở lìa tâm có.
Đáp: Chuẩn theo sớ phá trong mạt chấp lập ba bốn tâm sở, tuệ v.v... y tư vì chẳng phải tức tâm, dụ không có lỗi ấy. Có nghĩa chỉ phá bản chấp, nhưng dụ không có lỗi, trước lại thành lập tuệ đẳng biệt có cho nên được làm dụ. Lại giải thích tông ấy lấy kinh làm lượng, nói định tức tâm các biệt có tự thể.
Biện rằng: Trước tuy thường nói các tâm sở, mà chưa thành lập lìa tâm có thể, vì sao chẳng phải lỗi dụ? Lại chưa thấy Kinh bộ không lập nhất định thừa nhận các tâm sở. Hai giải thích vặn hỏi chung, cho nên sớ nói trội hơn.
Luận: "Như vậy" đến "ba mươi mốt câu". Nói tổng biệt trong truyện có hai giải thích:
1. Hai và hai đến năm gọi đó là tổng, mỗi mỗi riêng khởi gọi là biệt.
2. Khởi một đến bốn gọi đó là biệt, hợp khởi năm loại gọi là tổng.
Biện rằng: Giải thích sau là chính.
Hỏi: Lại hợp duyên, cảnh hai hoặc bốn, lẽ nào không trái đồng tụ tâm pháp một sở duyên?
Đáp: Cảnh bản chất một, đối với năng duyên nghĩa phân ra bốn gọi là sở lạc v.v..., lý vốn không trái, lại như một cảnh, nghĩa là muốn quán sát tức gọi là sở lạc, thắng giải thích ấn trì tức gọi là quyết định, khi niệm minh ký tức gọi là từng tập, định duyên chú tuệ giản trạch tức gọi là sở quán, do đồng tụ tâm pháp một cảnh này.
Sớ: Sư này dùng thiên nhãn thông thiên nhĩ thông là ý thức tương ưng tuệ v.v...
Chuẩn theo ý của sư này không có hai thần thông, tức thành sự trí, cũng chẳng phải năm thức tương ưng tuệ, nhân quả năm thức đều không có tuệ, hoặc chỉ nhân không, quả vị thừa nhận có, thế nên sư sau dùng năm thức của Phật thành vặn hỏi của sự trí. Giải thích sau thích lý trội hơn.
Luận: "Ngăn đẳng dẫn" đến "cho nên khách có quyết định". Định sai biệt mà có nhiều loại, như trong Nghĩa Đăng đã biện đủ, lại có đồng dị, như luận luận Du-già sao giải thích.
Sớ: Trong luận Phật Địa nói trừ lậu tận thông v.v...
Xét luận ấy quyển 3 ghi: Như vậy các Tĩnh lự giải thích thoát không tranh cãi nguyện trí thông vô ngại, nhiều phần nhiếp ở trong diệu quan sát trí, thần cảnh trí thông nhiều phần nhiếp ở Thành sở tác trí, Lậu tận trí thông, Lậu tận trí lực. Nếu nói lậu tận tương tục trong đó có bốn trí sở nhiếp. Nếu nói duyên lậu tận Niết-bàn ấy, nhiều phần nhiếp ở Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí.
Giải thích: Tác dụng của Quán sát trí rất thù thắng nhiếp nhiều công đức, Thần cảnh trí thông duyên ngoại trần phát, có đồng với năm thức phần nhiều ở thành sự. Tương tục là thân ở lậu tận thân gọi là lậu tận, cho nên bốn trí gồm thâu nhiếp. Nếu duyên lậu tận Niết-bàn pháp nên gọi là lậu tận, cho nên thuộc Bình đẳng, Cảnh trí. Hai duyên rất mạnh, lại được hai trí đủ Niết-bàn. Văn trong sớ dẫn do người kiểm xét nhầm, nên y ngày nay để nêu bày.
Luận: Thiện nghĩa là tín tàm v.v...
Hỏi: Các pháp thiện này là luận tự đưa ra, là luận hay kinh nói?
Đáp: Trong bản kinh đã nói, luận sau đó dẫn giải thích, cho nên luận Hiển Dương quyển 1 dẫn kinh để dẫn chứng rằng: Như trong Khế kinh nói, đối với Như Lai khởi tin kiên cố, tàm đối với sở tàm, quý đối với sở quý, vô tham sân si ba loại thiện căn khởi tinh tấn trụ, có thế ân cần thích hợp với ý thân và tâm an, tất cả vô lượng thiện pháp sinh khởi, tất cả đều nương tướng bất phóng dật, lại trừ tham ưu tâm y chỉ xả do vì không hại, nên biết nó rất thông tuệ.
Sớ: "Đây căn cứ về lập y" đến "lý phải hợp nhau".
Ba căn, tinh tấn bài tụng gần kế đến gọi là hợp nói. Bốn đồng thời là y lập xả v.v..., nếu không như vậy, thì không ngộ bốn pháp đều làm y, gọi là lý phải hợp.
Sớ: Trừ vô si.
Họ nói vô si lấy tuệ làm tánh, chẳng phải tự tánh thiện cho nên chỉ có mười.
Sớ: Sư Chánh Lý luận nói có mười hai v.v...
Tức luận ấy nói, tụng thuyết và nói tổng nhiếp hân yếm, yếm nghĩa là nhàm trái bỏ, như duyên khổ tập. Hân nghĩa là ưa thích, như duyên diệt đạo, hai pháp này hỗ tương khởi ắt ở một tâm không được câu sinh, tuy chỉ là thiện chẳng phải khắp thiện tâm, cho nên trong pháp thiện đại địa không nêu bày riêng.
Sớ: Luận Bà-sa nói riêng có hân yếm.
Luận ấy quyển 28 ghi: Có biệt pháp gọi là yếm, chẳng phải tuệ chẳng phải vô tham, là tâm sở pháp cùng tâm tương ưng. Có biệt pháp gọi là hân, chẳng phải tham dục chẳng phải không sân, là tâm sở pháp cùng tâm tương ưng. Nhưng kiến đạo nói khổ tập nhẫn trí gọi là năng yếm, diệt đạo nhẫn trí gọi là năng hân, do nhẫn trí yếm ấy, hân tương ưng gọi là năng hân yếm, nhẫn trí thật chẳng phải hân yếm tự tánh.
Luận: Chỉ có thiện.
Cũng ngăn Kinh bộ tín, tinh tấn hai thông ba tánh, cho nên Thành Thật luận phẩm Tín ghi: Tín thông ba tánh, tinh tấn cũng vậy.
Sớ: Là cảnh Thức thứ bảy.
Hỏi: Đã là tín y vì sao chẳng phải y Thức thứ bảy?
Đáp: Tuy tín y khởi, nhưng tín sở duyên, gọi là cảnh Thức thứ bảy.
Luận: Lạc thiện là nghiệp.
Xét luận Hiển Dương quyển 1, tín nghiệp có năm, xác quyết bất tín chướng là nghiệp, năng đắc Bồ-đề tư lương viên mãn là nghiệp, lợi ích tự tha là nghiệp, năng thú thiện đạo là nghiệp tăng trưởng tịnh tín là nghiệp. Bốn loại sau thuộc lạc thiện này, vì lạc đối với thiện mới khởi bốn.
Sớ: Tức là tín kiên cố trong luận này.
Tức nhiếp Đại thừa Thức thứ bảy tụng rằng: Sức tăng thượng thanh tịnh, tâm kiên cố thắng tấn, là Bồ-tát mới tu, vô số ba đại kiếp.
Lại xét trong Du-già quyển 57 ghi:
Hỏi: Thế Tôn y căn cứ vào đâu mà nói như vầy: đối với Như Lai tịnh tín sâu kiên cố căn sinh kiến lập, tất cả thế gian như các Sa-môn, hoặc Bà-lamôn hoặc Thiên ma, Phạm, không có như pháp năng dẫn?
Đáp: Y tín căn mà nói, đây là hiển bày tín ấy ở văn tư tu thắng giải thích kiên cố.
Luận: Một tín có thật v.v...
Đủ như trong sớ có nói. Có nghĩa vặn hỏi: Hoặc như cổ sư nói thật sự là nhân quả thế sự, như sự bốn đế, nói thật lý, là chân lý bốn đế, tức lý nhân quả, cho nên ngũ uẩn nói nghĩa là ở nghiệp quả chắc thật, rất phù hợp gọi là tín nghiệp quả.
Đại thừa hư không diệt đế tổng thâu nhiếp, chẳng phải như Hữu tông, nên không có lỗi. Trong sớ nói là nhiếp hư không nhưng bao tổng nói thật, đây chẳng phải Đại thừa không thể y cứ.
Biện rằng: Sớ nói bản không, hư không không có cho nên chẳng phải thuộc đế, không nói thức biến, y Chân như lập đế không thâu nhiếp, cho nên trong sớ quyển 2 nói, thức biến hư không ba đế sở nhiếp. Lại y nơi thức, Chân như lập hư không tạm gọi là hư không, chẳng phải thật không, lập căn cứ y Chân như thức biến hư không nói để nhiếp, cũng không tận lý, tùy theo tâm năng biến, vì sao không có khổ tập đạo đế ba nhiếp? Lại thức thứ bảy Chân như thừa nhận bốn đế nhiếp, y Chân như lập không, vì sao chỉ có diệt đế? Lại bản không vốn không, vì sao được tên là lý nhân quả? Nếu nói chẳng phải là lý nhân quả, vì sao nói chân lý bốn đế tức là lý nhân quả, do nó từ rộng nên không nói đế, đối với lý không ngại, luận này bàn chung, năm uẩn riêng bày, cũng không trái nhau.
Hỏi: Cảnh sở y vì sao thứ lớp khởi nhẫn, lạc, mong cầu?
Đáp: Cần phải quyết mới mong cầu. Lại nhân quả có thứ lớp như vậy.
Hỏi: Đối với thật v.v... ba tín có khởi, không thể như đã nói, đã tin đều khởi, nhân nêu nhân quả mà để rõ, vì sao nhẫn, dục lại có không có?
Đáp: Ban đầu căn cứ tổng biết pháp thể lý sự cho nên chỉ tín nhẫn, sau riêng quán đức tự tha có năng lực cho nên tin ưa muốn. Lại ban đầu trong thật cũng bao gồm bốn đế, khổ tập, bất lạc nên tổng nói là nhẫn.
Luận: Ba tín có khả năng v.v...
Tín có lực bao gồm có hai giải thích:
1. Y người biện rõ, như trong sớ đã nói.
2. Đứng về pháp mà nói.
Cho nên có nghĩa, hoặc có lực nói tức thiện sở tín, nghĩa là tín thiện pháp năng đắc năng thành Hữu vi Vô vi quả thể xuất thế, khởi hy vọng cho nên tu tập, tuy chẳng phải văn luận cũng không trái lý.
Luận: Nhẫn nghĩa là thắng giải thích v.v...
Hỏi: Nhân quả của tín này là đồng thời hay khác thời?
Đáp: Giải thích đủ như trong Nghĩa Đăng và sớ. Chuẩn theo ở sau câu khởi, sư thứ nhất ắt đồng thời, suy tìm sự lý khi chưa quyết định thời tín không sinh, do đây tín v.v... ắt dục và giải thích đồng thời, nếu y theo sư sau cũng thừa nhận dị thời. Giả sử đối với sự lý khi chưa quyết định tín cũng sinh.
Biện rằng: Sư sau nhân quả đồng dị không trái, sư trước ắt đồng, lý làm sao có? Vì sao như vậy? Hễ nói quyết định mới có tín sinh, không nói dục, giải thích phải đồng thời khởi, trước quyết sau tin, lẽ nào mất ở quyết mới sinh nghĩa tin? Giả sử y văn ấy chỉ có thể nhân đồng, chuẩn theo đâu nói quả cũng câu sinh ư? Do đây mà nói không che thì có thể thấy.
Luận: Tàm v.v... tuy có thiện chẳng phải tịnh làm tướng.
Hỏi: Nếu tàm chẳng phải tịnh vì sao trước vặn hỏi nếu khiến tâm tịnh tàm v.v... vì sao sai khác?
Đáp: Tàm đã gọi là thiện, vì sao được phi tịnh? Nhưng không tợ tịnh ấy làm tướng, cùng tín không đồng, do vặn hỏi này, đáp mong nghĩa không đồng nên không có lỗi.
Luận: Dứt các ác hành làm nghiệp.
Chuẩn theo luận Hiển Dương quyển 1, nghiệp có năm loại, một là đoạn không có tàm chướng làm nghiệp, thứ năm là tăng trưởng tàm làm nghiệp, ba loại ở giữa đồng ba loại trong tín, cho nên luận ấy nói chỉ đồng với tín trước.
Sớ: Tức là hai duyên.
Luận Hiển Dương tự pháp v.v... hai pháp là duyên tàm.
Luận: Dừng dứt ác là nghiệp.
Luận Hiển Dương nghiệp có năm: Ban đầu đoạn vô quý, sau là tăng trưởng vô quý, ba pháp giữa đồng với trước. Nghiệp của các thiện khác đều có năm loại, nhưng ban đầu và sau nghiệp mong trừ tự chướng có thể tự tăng trưởng, ba pháp ở giữa đều đồng nên không chép, chuẩn theo trước có thể hiểu.
Luận: Nghĩa là y theo thế gian nhàm trách tăng thượng. Có nghĩa nói, trách nghĩa là quở trách, nhàm nghĩa là nhàm lìa, thấy người thế gian và pháp thế gian, quở trách người bạo ác nảy nhàm lìa ác pháp, cho nên đối với bạo ác mà sinh khinh chống. Trong sớ nói, nghĩa là tự mình nhàm ác, đây nhất định không đúng. Tự mình nhàm ác tức là khinh chống, tự tánh hổ thẹn vì chẳng phải thế gian, nay đã hiển bày thế gian quở nhàm, nên giải thích trước là chính.
Biện rằng: Ác pháp trái mình được tên thế gian, là trước nhàm sau mới khinh chống, lý nào không được. Cho nên văn sau nói, đối với mình càng tổn gọi là tự tha, nên ác gọi là tha gọi là thế gian, mà không có lỗi, lại nhàm khinh chống hai nghĩa không đồng. Nếu trước không nhàm, vì sao chống? Sớ: Do một lý hai giáo trước, tức trước nêu tông là lý này, hai giáo nên biết.
Luận: "Nhưng tập luận nói" đến "lý ấy ắt phải như vậy".
Đây nói luận căn cứ nhân quả, chẳng phải luận tự đứng về nhân quả để biện, luận ấy đã nói như trong sớ có dẫn ở trước.
Sớ: Nếu vậy tức ba niệm trụ v.v... cũng vậy.
Ý chất vấn này cho rằng, niệm trụ cũng dùng không sân làm thể, nên đồng với đại bi chẳng phải căn sở nhiếp.
Sớ: Niệm trụ y tuệ nên căn sở nhiếp.
Sư này lấy Đối Pháp là chính, xét luận ấy quyển 14 nêu thể của niệm trụ nói: Đối với tất cả chủng ái, khuể, phiền não và tập khí không hiện hành đầy đủ trong ấy đã có định tuệ v.v... làm thể.
Giải thích: Tổng dùng năm pháp, không tham, không sân, đại xả, định, tuệ mà làm thể.
Sớ: Lại y đứng về ảnh hiển chẳng phải văn chân lý.
Hợp với luận Du-già, xét luận ấy quyển 57 ghi: "Niệm trụ chẳng phải căn nhiếp, không tham sân sở nhiếp", kết hợp lại nói hiện bày chẳng phải thật, nêu các đức của Phật y tuệ căn thâu nhiếp, hiển niệm trụ này lý cũng như vậy.
Sớ: Điều này cũng không đúng.
Sau sư bắt lỗi sư trước, chưa đưa ra lý do.
Sớ: "Như năm kiến" đến "ở đây không si cũng vậy". Sư trước nêu kiến chứng không có thật si.
Sớ: "Hoặc làm việc thiện" đến "chẳng phải cần Thánh quả".
Tùy theo vị nhân quả sở tu, việc xong tức gọi là mãn, không chỉ có bậc Thánh phương Tây được tên mãn.
Sớ: "Nếu nói cần" đến "nhưng trong này".
Hỏi: Khởi sinh ở sau, nói nhưng trong này là ý nói cần trong này là cần nào? Văn tỉnh lược.
Sớ: Vừa có thể gọi là thuần.
Tuy chẳng phải là tinh cũng là pháp thắng nhiễm, gọi là vừa có thể thuần.
Luận: Nhị thừa rốt ráo đạo vui thích Đại Bồ-đề. Có nghĩa nói vui thích đại Bồ-đề gọi là không đủ. Lại y Thắng nghĩa mà nói, lý thật thường thường nhập Vô lậu quán, khiến quán tăng thêm rõ ràng, cũng gọi là không đủ, nếu không như vậy định tánh không đâu mà không đủ.
Sớ: Và trước hợp làm năm cách giải thích. Trước là luận, kinh đã nêu bày năm tên.
Hỏi: Bốn nghĩa sau giải thích năm vị trước, vì sao giải thích được để làm năng giải thích ư?
Đáp: Tức đã nêu bày năm vị tức là giải thích nghĩa tinh tấn ấy, cho nên hợp làm năm.
Sớ: Hỏi vì sao trong này dùng vô tham làm đầu.
Ý vặn hỏi ấy nói, trước nêu bất phóng dật lấy cần làm đầu, vì sao sau kết vô tham làm đầu.
Sớ: "Đáp trở về trước" đến "từ gần mà kết".
Ý đáp này nói: Y nơi thứ lớp trước nói, nếu văn kết thiện y trì, không tham làm đầu.
Luận: Tịnh trụ làm nghiệp.
Có nghĩa, hỏi tịch tịnh trụ chỉ có thể gọi là tánh vì sao gọi là nghiệp, do tánh hiển bày trước sau không có, cho nên trong Tập luận ghi: "Không cho tạp nhiễm sở y làm nghiệp", nên luận chủ lẽ ra là lầm.
Biện rằng: Nếu khiến tâm bình đẳng ba loại mà làm nghiệp ấy có thể như đã trách, tịnh trụ đã chẳng phải bình đẳng đồng với ba, vì sao vặn hỏi rằng: Dùng tánh làm nghiệp. Lại tịnh trụ tức là nghĩa không chấp nhận nhiễm, Đối Pháp vì sao chỉ riêng trách luận này? Do các văn luận này, tuy nghĩa lý hơi khác đại khái đồng may mắn không đến nỗi mê hoặc. Lại tánh hiển bày nghiệp cũng đâu trái, như Thức thứ bảy, thứ sáu tư lương liễu biệt làm tánh tướng. Nếu nói tâm sở không như vậy, lý cũng không đúng, như trong luận này nhẫn lấy giận phát mà làm tánh của nó, trong Đối Pháp tức do giận phát làm nghiệp, lẽ nào chẳng phải tánh, nghiệp đồng giận phát? Cho nên hai luận cùng nêu. Lại đây nói não, bộc v.v... làm tánh, giòi rỉa làm nghiệp; luận Ngũ Uẩn nói: Phát ra lời ác lại càng hơn giòi làm tánh, cũng là tánh, nghiệp, hai luận hỗ tương nói rõ, đây vì sao không thừa nhận? Do đây mà xét thì luận thật không nhầm.
Sớ: Chẳng phải nói hạnh.
Chữ hành chẳng phải bình thanh, lẽ ra phải đọc theo khứ thanh.
Luận: Trong vị ban đầu, giữa, sau biện xả sai biệt.
Hiển bày lý do bình đẳng ba sai biệt, cho nên Tạp Tập quyển 1 ghi: Tâm bình đẳng tánh, nghĩa là do ngôi vị ban đầu chặng giữa sau biện xả sai biệt, vì sao? Do xả cùng tâm tương ưng lìa chìm đắm v.v... không có tánh bình đẳng, ban đầu chứng đắc tâm tánh bình đẳng, do tâm bình đẳng xa lìa Gia hạnh tự nhiên tương tục. Kế đến lại chứng đắc tâm tánh chánh trực, do tâm chánh trực ở các tạp nhiễm không có suy nghĩ, sau cùng chứng đắc tâm không tánh Vô công dụng trụ.
Sớ: "Đối Pháp quyển 10" đến "là tham ưu".
Xét luận ấy, trong giải thích bảy Giác chi, Xả giác chi nói, xả là thể không nhiễm ô, hằng trừ tham ưu không có vị nhiễm ô làm tự tánh. Có bản sớ nói, Đối Pháp quyển 18 phần Đạo chi nói là nhầm.
Sớ: Do ưu căn cũng có xả. Nghĩa là vì ưu thông thiện.
Luận: "Tuy có nghĩa sai biệt" đến "nên không có lập riêng".
Chuẩn theo Du-già quyển 56, y sân tham v.v.. lập các pháp nhiễm, nên ngược lại là tịnh, vì không có khác, nên đây không nói. Tức luận ấy ghi: Phần nhiều tùy theo sân giận tự tại nghĩa chuyển tất cả một phần là có tranh cãi, phần nhiều tùy theo ái kiến tụ tại chuyển nghĩa tất cả một phần là có vị ái, phần nhiều tùy theo tham tự tại chuyển nghĩa tất cả một phần là y nơi ham muốn. Những chỗ khác có văn như thế này nên không dẫn.
Luận: Hân nghĩa là ham muốn đồng thời v.v...
Hỏi: Vì sao căn bản, tùy hoặc không có thứ lớp mà trái lại?
Đáp: Đồng loại nên dễ rõ, hân, không nhẫn v.v... không có phần sân, cho nên kế đến nói hân thích, sau nói không nhẫn v.v... Nhàm, không xan tham v.v.. đều không có tham phần, cho nên sau hân yếm nói không xan tham v.v... còn lại chuẩn theo có thể biết.
Luận: Không hận não tật v.v...
Chuẩn theo luận Du-già quyển 89, y theo sân mà lập bảy pháp sai biệt, cũng hợp và trái với nó, y nơi không sân mà lập ở thiện pháp, cho nên nói đồng v.v..., tức luận ấy nói, nếu phiền não ràng buộc hay khiến phát khởi cầm nắm dao gậy đánh nhau tranh giành gọi là giận phát. Đối với không thuận ngôn tánh không kham nhẫn nên gọi là ác thuyết, đối với mắng mắng trở lại, đối với sân sân trở lại gọi là bất nhẫn, là tánh não tha nên gọi là đểđột, tánh ưa cơ hiềm nên tỷ-tý, ôm lòng oán ghét, đối với người khác phan duyên không nhiêu ích, cùng khởi phát ý ngôn tùy thuận tùy chuyển gọi là khuể tầm tư, ôm lòng tổn não, đối với người khác phan duyên não loạn cùng khởi phát ý ngôn. Còn lại như trước đã nói gọi là hại tầm tư.
Luận: Không xan tham kiêu mạn v.v...
Cũng đồng với Du-già quyển 89 nói y tham sở lập các pháp phiền não trái lập trong thiện, tức luận ấy ghi: Hiện hành ngăn bức, có chỗ khất cầu nên gọi là nghiên cứu tìm tòi, đối với sở đắc lợi không sinh vui mừng đầy đủ, dù được tha lợi liền cầu lợi thù thắng, gọi là lấy lợi cầu lợi. Đắm trước tài lợi hiển bày đức không có thật, muốn khiến người biết, nên gọi là ác dục. Đối với đại nhân muốn cầu lợi dưỡng cung kính rộng lớn, nên gọi là đại dục. Ôm lòng nhiễm ô hiển bày đức không có thật, muốn khiến người biết gọi là tự mong cầu dục. Đối với các dục của mình sinh tham ái nặng gọi là đắm mê. Đối với các dục khác sinh tham đắm nặng gọi là đắm vị khắp. Đối với các cảnh giới sinh đắm trước nặng gọi là tham. Đối với các ác hạnh sinh đắm trước nặng gọi là tham phi pháp. Đối với các tài bảo của cha mẹ tự mình thọ dụng bất chánh gọi là chấp trước. Đối với tài vật người khác gởi cho mình muốn đoạt lấy gọi là ác tham. Đối với cảnh sở duyên ràng buộc, cũng như ngủ mê che lấp tâm ấy gọi là không xứng lý chuyển. Tâm ôm ái nhiễm, phan duyên các dục phát khởi ý ngôn, tùy thuận tùy chuyển gọi là dục tầm tư. Tâm ôm lòng nhiễm ô phan duyên thân cảm phát khởi ý ngôn, còn lại như trước đã nói gọi là thân lý tầm tư. Tâm ôm lòng nhiễm ô phan duyên quốc độ phát khởi ý ngôn, còn lại như trước đã nói gọi là quốc độ tầm tư. Tâm ôm nhiễm ô phan duyên tự nghĩa suy tìm nương gá dời đổi, lúc sau mong được phát khởi ý ngôn, còn lại như trước đã nói gọi là bất tử tầm tư. Tâm ôm nhiễm ô phan duyên tự tha, hoặc kém hoặc hơn khởi phát ý ngôn, còn lại như trước đã nói gọi là khinh miệt tương ưng tầm tư. Tâm ôm nhiễm ô phan duyên thí chủ, qua lại nhà quyền thế khởi phát ý ngôn, tùy thuận tùy chuyển gọi là gia thế tương ưng tầm tư.
Hỏi: Trong đây nói tham và căn bản tham vì sao lại khác?
Đáp: Căn bản tham ấy gọi là bất thiện căn, đây thì không như vậy, nên có sai khác.
Luận: Không che giấu dối nịnh v.v...
Tức luận Du-già quyển 62 và quyển 89 thừa nhận kiêu mạn dối trá cũng ở trong trái ngược. Quyển 62 ghi: Thế nào là kiêu mạn? Nghĩa là ở trên giới tăng thượng hủy phạm Thi-la, do thấy nghe nghi khi người khác nêu bày bèn nương gá các việc, nhờ các việc khác ấy giới lập ngoại ngôn mà dẫn dụ lẫn nhau. Thế nào là thừa nhận? Nghĩa là vì sợ họ, hoặc lại ở nơi họ có chỗ trông mong, tuy có phạm giới trọng mà không phát lộ, cũng không hiện hành, chẳng phải ý lạc thật, dối trá với người trí đồng phạm hành hiện hành, thân ái cung kính, khôn khéo hai nghiệp thân ngữ". Quyển 89 ghi: "Tâm ôm nhiễm ô vì hiển đức mình giả hiện oai nghi nên gọi là kiêu, tâm ôm nhiễm ô vì hiển đức của mình, hoặc hiện thân sự, hoặc thực hành ngữ nghiệp khôn khéo, nên gọi là dối".
Hỏi: Hai văn vì sao sai khác?
Đáp: Ban đầu đứng về che giấu tội, sau vì hiển đức, nên hai văn sai khác.
Sớ: Đối Pháp giải thích mạn.
Xét sớ giải thích rằng: Bất kính nghĩa là đối với sư trưởng và bậc có đức mà sinh ra cao ngạo. Khổ sinh nghĩa là sinh hậu hữu.
Sớ: Hợp căn bản hai mươi sáu tùy phiền não.
Ý nói, căn bản và tùy tổng có hai mươi sáu, trong đó có mười một loại ngược với thiện. Văn sớ đảo ngược, lẽ ra nói hợp căn bản và tùy phiền não có hai mươi sáu.
Luận: Tướng dụng sai biệt nên lập nó.
Hỏi: Bất phóng dật v.v... tướng dụng sai biệt làm thế nào lập được?
Đáp: Trước nói vô dụng, không có bốn dụng biệt thể bên ngoài, nay nói hữu dụng là có dụng đồng thể sai biệt.
Hỏi: Tuy dụng có thể biệt nhưng thể tướng lại đồng vì sao lập riêng?
Đáp: Tướng cùng dụng tùy theo có một khác nhau, tức lập trong thiện, chẳng phải tướng dụng cả hai đều khác nhau mới lập.
Sớ: Tám pháp sau hoặc lại có mười pháp.
Tám nghĩa là đại tùy, mười là thêm tà dục, giải. Luận: Luận nói mười một khởi trong sáu vị.
Hỏi: Đối với sư này, thiện pháp rất nhiều, có bao nhiêu pháp đồng thời?
Đáp: Như trong sớ có nói đủ. Có nghĩa ở vị Vô lậu cho chín pháp câu khởi, khinh an Hữu lậu, tàm quý khởi một, vì không có pháp thứ hai, Hữu lậu định tâm chấp nhận tám pháp câu khởi, trừ xả, bất phóng dật, tàm, quý tùy một, tán thiện chấp nhận có bảy, trong tám pháp trước trừ khinh an.
Biện rằng: Đây căn cứ sớ bàn, tùy hiển nêu nghĩa hơi sai khác không vượt quá. Nhưng ý sớ nói, do sư này dẫn sáu vị làm chứng, sợ người mê lầm nói sư này thừa nhận quyết định đẳng vị, chỉ có người tin một mới cho rằng sư này đều thừa nhận đồng thời, tức hiển bày sáu vị mỗi mỗi chấp nhận cùng các tâm sở đều gọi là đều thừa nhận, chẳng phải nói mười một câu khởi gọi là đều. Chín tám, bảy đồng thời, lý chuẩn theo nên biết, cho nên không nói cặn kẽ, cũng không có lỗi.
Có thuyết nói, sớ chủ thừa nhận mười một đồng thời, điều này trái với ý chỉ của bản sớ, lẽ nào có thể sớ chủ không hiểu tàm v.v... của sư trước đều không nói mười một đồng thời?
Sớ: "Tuy tàm cùng với quý" đến "hợp thuộc một vị".
Đây là giải thích vặn hỏi. Ý vặn hỏi rằng, tàm quý hai pháp khởi đã không đồng thời, vì sao sáu vị hợp ở một chỗ, cho nên phát sinh câu trả lời này. Luận: "Lẽ ra nói tín v.v..." đến "mười biến khắp thiện tâm".
Hỏi: Phẫn v.v... là y sân lập, sân vị phần v.v... không có, hành xả nương y tha, bốn pháp không có phương hướng khởi chăng?
Đáp: Giả sử như vậy cũng đâu có lỗi gì? Nếu vậy vì sao mười biến khắp thiện tâm?
Có nghĩa hỏi đáp lần lượt giải thích, văn nhiều nên không dẫn, nhưng ý người viết cho rằng phẫn v.v... là sân phần, cùng với sân không đồng thời, xả v.v... nghĩa khác nhau nên được câu khởi.
Hỏi: Xả v.v.. nghĩa sai biệt nên gọi là giả, phẫn đã sinh riêng nên chẳng phải giả nhiếp?
Đáp: Do thể tức sân không khác nên gọi là giả.
Hỏi: Sân đã không đồng thời vì sao là thể sân? Đáp: Tức nói thể sân gọi là phẫn v.v...
Hỏi: Đã phẫn tức sân, như sân chẳng phải giả?
Đáp: Nói sân làm phẫn, phẫn vì sao không giả. Hỏi: Khi phẫn không có sân, vì sao nói sân lấy đó làm phẫn?
Đáp: Từ sân chủng sinh nên nói sân làm phẫn.
Hỏi: Thọ thọ chủng sinh gọi là thọ phi tưởng, phẫn sân chủng sinh gọi sân là phi phẫn chăng?
Đáp: Phẫn sân chủng khởi, nghĩa khác nhau gọi là khởi, thọ thọ chủng sinh, lãnh nạp phi tưởng.
Biện rằng: Phẫn sân chủng sinh giả không đồng thời, bất hại thì lẽ ra như vậy, lìa không có, sân không có, cả hai lẽ ra không như nhau, lẽ nào có thể bất hại riêng có chủng sinh? Do đây không được nói sân phẫn hai chủng đều không đồng thời, nên phải nói phẫn v.v... y cảnh sân hành thô trái mà không câu khởi, bất hại thì không như vậy, tùy theo thiện vị nào đều không tổn vật, nên được câu sinh, hành xả v.v... chuẩn theo đây nên biết.
Luận Du-già quyển 56 nói: Hỏi: Các pháp nào tương ưng?
Đáp: Tha tánh tương ưng, chẳng phải tự tánh. Hỏi: Đã không tương ưng vì sao câu khởi?
Đáp: Hễ là tương ưng thì ắt câu khởi, tự có câu khởi thì không phải tương ưng. Sắc, bất tương ưng tuy có tâm đồng thời nhưng chẳng phải tương ưng. Hỏi: Bốn sự thiếu sự nào?
Đáp: Bốn nghĩa tương ưng thiếu sự v.v... bất hại, vô sân không có sự biệt thể; xả, bất phóng dật đối với cần, ba căn cũng chuẩn theo đây để biết. Đứng về tín v.v... nên gọi là tương ưng, dụng không lìa thể, bất hại xả v.v... cũng đủ bốn nghĩa.
Luận: Có nghĩa định Gia hạnh, cũng được tên định địa.
Hỏi: Vì sao luận Du-già quyển 56 ghi: Nghĩa là khinh an đồng thời
Tam-ma-địa và quyến thuộc của nó, và quả pháp ấy không nhiếp nghĩa, là Dục giới ràng buộc. Đã nói khinh an không nhiếp nên mới gọi là Dục giới. Vì sao nói dục được có khinh an?
Đáp: Như trong sớ đã giải thích.
Sớ: Nhưng tự có tầm tứ v.v... có dài ngắn v.v... Có khắp Tam-ma-địa gọi là dài, tuy Tam-địa có nhưng không biến khắp nên nói là ngắn, tức như khinh an sơ tầm tứ địa không có biến khắp nên gọi là ngắn.
Sớ: Thứ hai lại giải thích định dẫn thiện v.v...
Đây giải thích định dẫn để chứng nhân của năm thức, thành sự trí đồng thời, chứng chung nhân quả.
Sớ: Đây căn cứ nhân vị. Tổng kết định dẫn nhân.
Sớ: Nếu ở Phật quả, đây là nghĩa chánh.
Đoạn thứ hai từ "nhân thành sự trí" trở xuống, chánh nghĩa thừa nhận thành sự trí ở Phật mới có.
Sớ: Hoặc khi Sơ địa v.v...
Đây là hiển nhân thành sự cũng chứng nhân có năm.
Sớ: "Nếu làm giải thích này" đến "vì có khinh an".
Đây là hiển bày giải thích sự ở nhân vị sai và nói rõ phi lý.
Sớ: "Trước đó chỉ căn cứ" đến "chẳng phải là tận lý".
Giải thích vặn hỏi trước và kết hợp lý do dục không có khinh an trong giải thích trước.
Sớ: Thứ ba lại giải thích v.v...
Ý giải thích này cho rằng văn tuy tổng nói năm thức có khinh an, ý bàn ba thức, khinh an ở sắc, tỷ thiệt chỉ có dục, cho nên chỉ có ba thức. Nghĩa là tổng ý sai biệt nên không trái với trước.
Hỏi: Ba cách giải thích cách nào chánh?
Đáp: Có thuyết xác quyết rằng thứ ba là chánh. Giải thích thứ nhất trái văn, quả vị chỉ có thiện, tự tha cùng thừa nhận, cần gì lại nói định sở dẫn? Giải thích thứ hai trái lý, trước nói Dục giới không có khinh an, nay lại nói cho có nên trái lý. Có nghĩa, giải thích rằng cả ba đều không trái. Ban đầu nêu tông, chưa luận nhân quả nên nói thiện. Đại địa Bồtát sinh trong Dục giới Vô lậu dẫn sinh cũng không có lỗi. Kết hợp văn trước như trong sớ có nói đủ.
Biện rằng: Trong giải thích thứ hai, định dẫn thiện, ở nhân có thể như vậy, Thành sở tác trí không chỉ có quả là trái với nghĩa của Hộ Pháp. Ba giải thích hơn kém, suy nghĩ có thể biết.
Sớ: Các thọ có thể có tức thông quả tâm.
Các lạc xả thọ khác được có khinh an, nói tức thông quả là chỉ cho tâm của hữu.
Sớ: "Nếu vậy tỷ thiệt" đến "làm sao thông".
Hiển bày thông quả mới có khinh an, lý chẳng phải khéo đúng, có lỗi nêu bày nhau.
Sớ: "Khổ căn tuy gọi là Vô lậu" đến năm thức không đồng thời".
Năm thức không đồng thời, có hai nghĩa: Một là cả năm không cùng khinh an đồng thời, do vì có khổ. Hai là chỉ có khổ thọ tương ưng, không đồng thời chẳng phải các xả lạc không chấp nhận đồng thời. Giải thích trước trội hơn. Cho nên sớ ở sau nói, nhưng thật ra Bồ-tát chỉ trừ khổ thọ. Nếu chuẩn theo giải thích sau để hiển bày Bồ-tát cả năm đều có đã xong, nhưng đoạn văn nói "thật ra" lẽ nào không phải dài dòng dư thừa? Nên biết giải thích trước hay hơn.
Sớ: Bất đoạn trái văn.
Trái với báo ác thú của Đối Pháp luận đều là văn kiến đạo.
Sớ: Thiện nhiễm hai nhân đều gọi là đoạn.
Tổng đứng về nhân quả đều được tên đoạn. Đứng về bốn nghĩa đoạn có nói riêng rất rõ. Như ở sau, và trong Nghĩa Đăng nên ở đây không dẫn.
Sớ: Không sinh gọi là đoạn nhân ấy cũng đoạn. Căn cứ không sinh cho nên dùng giải thích nghĩa đoạn, nhân của Vô tưởng thiên nhập kiến gọi là đoạn vì hằng không sinh.
Sớ: Bách Pháp v.v... nói.
Bách pháp hiển si thông với lợi độn, cho nên để độn lợi hai hoặc trung gian, trong Duy thức nói si là bất thiện căn, cho nên tham, sân ở sau, mạn đồng với trên nêu bày.
Sớ: Ái Phật tham diệt đều nhiễm ô tổng thâu nhiếp.
Có nghĩa nay giải thích chẳng phải là pháp chấp. Nếu không chấp chặt chỉ khởi hân cầu, đây đã là thiện tâm không thể gọi chấp, có thể đồng với Hữu bộ gọi là thiện pháp dục. Nếu khởi nhiễm ái là phiền não tham.
Biện rằng: Như gọi là khởi nghĩa, đã nói tham Phật lẽ nào có pháp tham chẳng phải là nhiễm chấp gọi là thiện ư? Nếu chỉ hân cầu không khởi nhiễm chấp, thì ai nói các tên này là tham? Lại ai không biết là thiện pháp muốn lao nhọc thành phân biệt?
Luận: Nghĩa là do sức ái thủ uẩn sinh.
Giải thích tham này, Thánh giáo chẳng phải một, đại ý Vô Trước chỉ rộng lược có hơi khác. Bởi ý tác giả ý lấy bỏ không đồng, nay dẫn có khác muốn đồng ràng buộc không thủ. Hiển Dương quyển 1 ghi: Nghiệp có năm năng chướng, không tham làm nghiệp. Chướng đắc Bồ-đề tư lương viên mãn là nghiệp, tổn hại tự tha là nghiệp, năng thủ ác đạo là nghiệp, tăng trưởng tham dục là nghiệp. Các sân các nghiệp đều có năm loại, trước sau hai pháp sai biệt, trong ba pháp đều đồng, suy nghĩ nên rõ.
Trong quyển 55, tham do mười việc sinh.
1. Thủ uẩn
2. Các kiến
3. Chưa được cảnh giới
4. Đã được cảnh giới
5. Đã thọ dụng cảnh giới quá khứ
6. Ác hành
7. Nam nữ
8. Thân hữu
9. Tư cụ
10. Hậu hữu, vô hữu
Luận: Thế nào là sân v.v...
Trong quyển 55, do mười việc sinh.
1. Thân mình.
2. Thương yêu hữu tình
3. Không thương yêu hữu tình
4. Oán thân quá khứ
5. Oán thân vị lai
6. Oán thân hiện tại
7. Không thể nhớ cảnh
8. Ganh ghét
9. Quen tập từ trước 10. Tha kiến.
Lại trong quyển 58 nói, nghĩa là có bốn loại, đủ như trong sớ có nêu bày, lược làm hai giải thích:
1. Tổn tự tha kiến.
2. Tổn tự tha hữu tình.
Trong tổn tự có hai: một là tổn mình, hai là tha kiến tha hữu tình.
Hai pháp còn có thể biết.
Sớ: Độc đầu vô minh mê lý v.v...
Hỏi: Quyển 5 trước nói, Độc hành vô minh có hai loại: nghĩa là chủ, phi chủ, phi chủ vô minh thông ở kiến tha, vì sao nay phán phân chỉ có mê lý ư?
Đáp: Cũng đúng, Du-già là chủ giả thuyết. Trong quyển 58 ghi: Lại vô minh này bao gồm có hai loại: một là phiền não triền tương ưng, hai là độc hành, nếu vô tham v.v.. các phiền não ràng buộc nhưng khổ ở trong các đế cảnh, lực không như lý tác ý cho nên sĩ phu độn tuệ không lựa chọn như thật. Tánh của tâm sở ngăn che trói buộc, ám muội v.v.. gọi là độc hành vô minh. Lại phi chủ là phần nhiều mê lý, từ phần nhiều mà nói, do trong sớ này không nói "duy chỉ".
Sớ: "Bác không tà kiến" đến "các tạp nhiễm".
Có thuyết nói, tà kiến bao gồm hiển bày năm kiến. Nếu nói tà định chỉ có hiển bày tà kiến, còn bốn kiến vì sao không nói? Nếu nói, vì sao sau tà kiến nêu độn lợi?
Lại trong Tạp Tập ghi: Tà quyết định nghĩa là trí điên đảo, mà tổng tướng nói thì không nói tà kiến, nên biết tà định đồng với luận thông cả năm pháp. Có nghĩa chống chế rằng: Sớ không có lỗi, tà kiến phần nhiều do nghi hoặc sinh, nên tà định nói chỉ nói tà kiến, còn các kiến đồng. Giới cấm thủ v.v... lập vô si nhưng cũng sinh, cho nên ở đây không nói.
Biện rằng: Lại chống chế thêm: Sớ nói tà kiến nói thông bao hàm năm kiến, kiến không chánh cho nên có tên tà. Hỏi: Giáo nào làm chứng? Đáp: Luận Du-già quyển 58 ghi: Tà kiến là tất cả đảo kiến ở việc sở tri điên đảo mà chuyển được tên tà kiến, phải biết kiến này lược có hai loại: một là Tăng ích, Tát-ca-da v.v... bốn kiến; hai là Tổn diệt, các chấp chê bai nhân quả, cũng như Tạp Tập điên đảo trí nói bao quát ở năm kiến. Sớ nếu không đặt để tà kiến mà nói, thì sợ hoặc là không biết tà định nhân ở nơi kiến. Nếu năm cách nói sai khác lại ràng buộc ở ngôn luận, chỉ nói là tà kiến. Văn đứng về yếu chỉ để nói, lý vốn không có lỗi. Lại quyển 58 ghi: Có bốn loại vô minh, nếu ở trong nghĩa không thấy nghe hay biết, những điều không biết gọi là vô giải ngu. Nếu ở trong nghĩa thấy nghe hay biết sở tri, tán loạn thất niệm đã không có trí gọi là phóng dật ngu. Đối với tâm điên đảo không có trí gọi là nhiễm ô ngu, tâm sở hữu không điên đảo vô trí gọi là bất nhiễm ô ngu.
Giải thích: Bốn thứ điên đảo các hoặc tương ưng vô minh gọi là nhiễm ô, sở tri chướng gọi là bất nhiễm ô. Đối với Nhị thừa nói lại có các giải thích khác, như Du-già sao.
Sớ: Hoặc xa từ căn bản mà nói.
Đối Pháp luận nói, y chỉ Tát-ca-da-kiến tâm cao ngạo làm thể, là căn cứ gốc mà nói.
Luận: "Mạn này sai khác" đến "ngã đức xứ sinh".
Hỏi: Ba phẩm, ngã, đức hợp có năm việc. Xét luận Du-già quyển 55, bảy mạn y sáu sự, bốn pháp trước đồng với đây, năm đã được hay chưa được điên đảo? Sáu công đức điên đảo, vì sao không đồng?
Đáp: Đây thì hợp, kia thì khai, đức phân làm hai loại nên không trái nhau.
Hỏi: Lại luận ấy ghi: Phải biết hai mạn y thắng hữu tình sự sinh, còn lại mỗi loại y một sự. Giải thích rằng, hai nghĩa là ty mạn và mạn quá mạn, năm uẩn đối với nó vì sao lại khác?
Đáp: Trình bày năm uẩn, trong Du-già chỉ bày sơ lược. Lại mạn có hai, cho nên quyển 58 ghi: Mạn lược có hai, nghĩa là loạn, không loạn. Không có hoặc loạn nghĩa hạ liệt chấp mình là thù thắng, đối với ngang bằng lại chấp ngang bằng mà sinh kiêu mạn, hoặc loạn mạn nghĩa là sáu mạn khác. Lại do thọ dụng thấp kém tư cụ tự cho rằng tôn quý gọi là hoặc loạn mạn, hoặc do thọ dụng thắng diệu tư cụ tự cho phú lạc gọi là không mạn loạn, cũng do tà hạnh nghĩa là sau có thù thắng gọi là hoặc loạn, hoặc do chánh hạnh nghĩa là sau có thù thắng gọi là không hoặc loạn.
Hỏi: Đối với liệt cho là thắng, đối với ngang bằng cho là bằng, đây là xứng với cảnh biết, không có cao ngạo, vì sao gọi là mạn?
Đáp: Thuận Chánh Lý ghi: Như vậy tuy thật liệt v.v... xứ sinh nhưng hay khiến tâm cao ngạo nhiễm não gọi là mạn phiền não, đối với lý có lỗi gì? Lại trong Chánh Lý luận ta, tăng thượng mạn đều làm hai giải thích, tăng thượng có hai:
1. Chưa chứng được thù thắng, trong đức cho là đã chứng đắc.
2. Đối với chứng ít, trong đức cho là đã chứng nhiều. Tà mạn có hai:
1. Các ác hành gọi là không đức, họ thành pháp này cho là đã có công đức thù thắng rất ghét cao ngạo.
2. Tức như trước đều không nói có.
Nhưng tức nghĩa Đại thừa không đồng suy nghĩ có thể biết, mạn v.v... các nghĩa đủ như trong Nghĩa Đăng.
Luận: Thế nào là nghi?
Hỏi: Du-già quyển 58 nói, phải biết nghi này lược do năm tướng sai biệt kiến lập, nghĩa là ở đời khác, tác dụng nhân quả, các đế, trong thật ôm lòng do dự, trong này vì sao chỉ nói đế lý?
Đáp: Tức trong đế này nhiếp hết năm pháp ấy.
Hỏi: Tướng nhiếp thế nào?
Đáp: Thật diệt đạo tổng thâu nhiếp. Tác dụng nghĩa là nghiệp tức là nhân ấy, cho đến quá khứ tập đế nhiếp. Tổng tướng mà nói quá khứ là nhân hiện tại, vị lai và quả khổ đế sở nhiếp, nên Tạp Tập luận quyển 1 ghi: Đế do dự cũng thuộc về thật do dự, tùy sở ứng mà diệt đạo đế nhiếp.
Luận: Do dự giản trạch nói là nghi.
Tức luận Du-già quyển 8 ghi: Nghĩa là thân cận trượng phu bất thiện, nghe phi chánh pháp, tức đối với việc sở tri chỉ có dụng phân biệt dị giác làm thể.
Luận: Nghĩa là người ác kiến thọ khổ nhiều.
Có nghĩa là thọ khổ nhiều thông với khổ của năm nẻo, tất cả khổ quả không đâu mà không do ác kiến sinh. Cho nên trong luận Phật Địa ghi: Nghiệp hoặc và quả tất cả đều do ngã kiến sinh, khắp nơi đều nói, do sức ác kiến nên sinh tử luân hồi không ngừng nghỉ.
Biện rằng: Nếu thông năm nẻo, làm nhân xa của ba khổ, nhưng không có lỗi. Nếu y theo các khổ tam đồ trong Dục giới là cận nhân phát, nay y theo sớ để biện. Nhưng xem luận này, sớ nói là thù thắng, luận nói chiêu lấy khổ, người chiêu lấy khổ là khác.
Sớ: Phân biệt câu sinh như luận Hiển Dương quyển 1 nói.
Ý hiển câu sinh, phân biệt hai ngã đều duyên năm uẩn, tức luận ấy ghi: Một Tát-ca-da-kiến, nghĩa là đối với năm lấy uẩn chấp ngã, ngã sở niệm tuệ làm thể, hoặc là câu sinh, hoặc phân biệt khởi.
Luận: Kiến này sai biệt có hai mươi câu.
Như trong Đối Pháp, sớ, Nghĩa Đăng tuy dẫn nhưng người đọc vẫn còn khó hiểu, nay lược nói lại. Luận ấy hỏi rằng: Vì sao mười lăm là ngã sở kiến, vì tương ưng ngã sở, tùy chuyển ngã sở, vì không lìa ngã sở. Tương ưng ngã sở, nghĩa là ngã có sắc, do ngã cùng với nó tương ưng nên nói có nó. Tùy chuyển ngã sở, nghĩa là sắc thuộc ngã, nếu nó do sức tự tại chuyển này, hoặc xả hoặc chuyển, thế gian nói nó là ngã sở. Không lìa ngã sở, nghĩa là ngã ở trong sắc chấp ấy thật ngã xứ ở trong uẩn biến thể tùy hành. Các uẩn khác đều như vậy.
Hỏi: Ngã cùng ngã sở hành tướng không đồng, vì sao là ngã lại tức là sở?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Như căn trần trong sắc uẩn v.v... sai biệt, vả lại thân làm ngã các sắc là sở.
2. Bàn mỗi mỗi uẩn đều có một ngã ba sở sai biệt, không nói ba sở tức là đương uẩn sở của ngã, mà là biệt uẩn sở của ngã. Giải thích sau là chính.
Hỏi: Nếu vậy vì sao ngã trụ trong đó biến thể tùy hành?
Đáp: Lại sắc làm sở là thọ v.v... ngã ở trong đó mà trụ.
Hỏi: Sắc thọ v.v... sai biệt vì sao biến thể gọi là tùy hành?
Đáp: Như thuốc ở ống đồng tùy theo hành thể mà lý khắp cũng đâu có lỗi, do đây nói phân biệt hành duyên uẩn v.v..., hiển bày hai mươi câu, sáu mươi lăm câu có sai biệt.
Hỏi: Phân biệt hành v.v... ai nói?
Đáp: Là Phật pháp bàn, ngoại đạo ấy chấp ngã sai biệt, có bất đồng này khiến học giả biết nói lời đây, cũng chẳng phải ngoại đạo tự nói chấp ngã có hai mươi câu sai biệt, đây là nội bàn ngoại đạo vì khiến biết khắp có xả bỏ.
Sớ: Sáu mươi hai kiến v.v...
Xét trong Đại Trí Độ luận quyển 15 ghi: Thân biên kiến lấy đây làm căn bản, năm uẩn đều có bốn ngã, ngã sở kiến ba đời đều thành hai mươi câu kiến, và thân kiến, biên kiến gốc hai loại hợp thành sáu mươi hai.
Sớ: Lấy gì làm chứng?
Xét quyển 58 ghi: Ngu phu ở trong năm uẩn này khởi hai mươi câu Tát-ca-da-kiến, năm câu ngã kiến, các kiến ngã sở khác, đây gọi là mê khổ Tát-ca-da-kiến. Lại tổng kết rằng: Mười phiền não này đều mê khổ đế kiến khổ sở đoạn. Đã nói mê khổ kiến khổ sở đoạn, nên phân biệt hoặc, lý ấy cực thành.
Sớ: Có mười bốn sự không thể nhớ.
Như có người hỏi, mười bốn việc ấy không nên làm giải thích, không có nghĩa lợi nên gọi là không thể nhớ. Mười bốn việc ấy là xét trong kinh Đại Bát-nhã ghi: "Thế giới thường hay vô thường? Vừa thường vô thường hay chẳng thường chẳng vô thường" làm bốn cách. "Thế gian hữu biên hay vô biên" bốn câu. "Như lai sau khi diệt độ là có hay không có, vừa có vừa không, chẳng có chẳng không" làm bốn câu. "Mạng cùng thân một là một, hay khác là một" hợp thành mười bốn.
Sớ: Sáu mươi hai kiến này chỉ có phân biệt khởi.
Xét luận ấy ghi: Biên chấp kiến nghĩa là sáu mươi hai kiến trong các nẻo chấp so lường đời trước các biến thường các luận, một phần thường luận và chấp đời sau các hữu tưởng luận, vô tưởng luận. Vô tưởng luận, phi tưởng phi phi tưởng luận, đoạn kiến sở nhiếp. Biên chấp kiến, nghĩa là bảy việc đoạn luận, biên chấp kiến này chỉ có phân biệt khởi, tà kiến phân biệt không đợi nói thành cho nên không chép.
Sớ: Văn ấy lại nói, Phạm vương thường v.v...
Luận ấy quyển 58 ghi: Có các kiến vọng chấp Tự tại, Thế chủ, Thích phạm, và các vật loại là thường là hằng, không có biến đổi, tà kiến như vậy cũng mê khổ đế.
Sớ: Y hiện tại đến quá khứ.
Tức luận Du-già quyển 87 ghi: Vì sao phải có đời trước sau câu hành? Nghĩa là như có một người khởi tư duy như vầy: Ta từng có ai, ai sẽ có ta? Nay hữu tình này từ chỗ nào đến, ở đây chết rồi sẽ đi về đâu? Lại luận Tỳ-bà-sa quyển 199 nói, nếu y hiện tại khởi chấp phân biệt hoặc gọi là đời trước, hoặc gọi là đời sau, là trước vị lai sau quá khứ, hoặc nhân vị lai, quả quá khứ.
Luận: Bốn biến thường.
Hỏi Du-già quyển 6 ghi: Nghĩa là hoặc y ba phẩm Tĩnh lự khởi túc niệm trụ, hoặc y thiên nhãn, không nói kiếp số, Hiển Dương, Phạm Võng cũng vậy. Xét trong kinh Trường A-hàm ghi Hoặc có Sa-môn Bà-la-môn v.v... Dùng sức Tam-muội có thể nhớ bốn mươi tám kiếp sự của thành hoại, chúng sinh trong ấy không tăng không giảm thường trụ thường tán. Thứ tư thẳng dùng trí kiến lanh lợi nói tất cả thường vì sao không đồng?
Đáp: Tông chấp đã khác, không phiền hòa hợp, hoặc ngoại đạo chấp phẩm loại không đồng, một nêu bày một chấp, cho nên trong Du-già ghi: "Hoặc y thiên nhãn", đã đặt để hoặc nói chấp chẳng phải một lại nêu bày một. Trong luận Bà-sa đồng biệt chuẩn theo đây nên biết, không đồng không có lỗi. Các luận Du-già không nói kiếp số chỉ lược cho nên nói như vậy. Thế nên quyển 6 ghi: "Như trong kinh rộng nói" nên biết tóm lược. Nói các kiến sai biệt khác, ở đây đã rõ.
Có nghĩa tổng hợp rằng: Trong các luận Du-già y kinh Phạm Võng, nghĩa là sư bản chấp nói y định tâm, do Y sư ca v.v... vốn là tiên thượng cổ, do được ngũ thông không như thật biết mà khởi chấp. Luận Tỳ-bà-sa y kinh A-hàm thông bản mạt chấp nói y tán tâm. Các hàng hậu học y theo trước truyền thọ riêng khởi chấp. Hai kinh nêu lược, nghĩa không có lỗi.
Sớ: Đại chủng thường vô thường v.v...
Hỏi: Đã không nói ngã, vì sao thuộc biên mà chẳng phải sau ngã?
Đáp: Văn tuy không nói, lý thật là chấp uẩn ngã ấy nên khởi chấp này, vì vậy thuộc về biên.
Sớ: "Toàn thường" đến "vì sao toàn thường".
Cũng có bản nói, như toàn thường trước, sớ đã không đồng, lược có ba giải thích:
1. Nên nói như thế nào? Như thế nào tức là nghĩa tùy chỗ nào, tùy chỗ nào toàn thường đều có tự ngã.
2. Nên nói như bốn, như bốn trong toàn thường đều có tự ngã.
3. Nên nói như trước, như trước thường nói tổng kết chỉ như trước.
Cả ba đều có lý nên theo nhiều bản.
Sớ: "Một biên kiến" đến "là kiến nào".
Có giải thích rằng, một biên kiến duyên trên dưới sinh, thuộc về văn trước là không đúng, đây thuộc văn sau, lập lại để làm lời hỏi duyên trên là thường, dưới là vô thường, từ nhiều phần mà nói. Trong bốn phần thường, đại chủng cùng với tâm chẳng phải trên dưới, hoặc y Phạm bản mà nói là trên không có lỗi, nhưng thiếu nghĩa dưới.
Sớ: "Đây tuy phi đoạn" đến "là nhiễm tuệ".
Giải thích chẳng phải vô thường đều gọi là đoạn kiến, bác ở sau hằng không có mới gọi là đoạn kiến, nên đây là phi đoạn.
Hỏi: Duyên vô thường dưới cùng duyên thường trên, hai kiến đồng thời ư?
Đáp: Không đồng thời, không có trong một tâm mà có hai tuệ.
Sớ: Đây đều là ngã v.v...
Tổng chấp năm uẩn mà làm một ngã, lại không có sai khác, uẩn không đâu mà không biến khắp, như kế đến gọi là kiến mãn, không hai, không khác, không thiếu.
Sớ: Ngã có sắc v.v...
Tức có sắc ngã có tưởng ấy nên gọi là hữu tưởng.
Hỏi: Đã nói sau khi chết nhưng có ở tưởng, lại đứng về địa vì sao được nói là ngã có đối với tưởng gọi là có tưởng ư?
Đáp: Do sau khi ngã có tưởng tùy theo sinh xứ gọi là có tưởng, chẳng phải thời nay không có sau mới có, nếu không như vậy vô tưởng đều chẳng phải nói có tám, không nên mỗi thứ đều có tám.
Sớ: Hai ngã Vô sắc v.v...
Hỏi: Bốn Vô sắc uẩn đều làm một ngã, là biệt là đồng? Đáp: Biệt chấp có bốn.
Hỏi: Nếu vậy tưởng uẩn làm ngã vì sao được nói ngã có tưởng, ắt có ở nơi khác mới gọi là có?
Đáp: Có tưởng dụng ấy gọi là có tưởng.
Sớ: Một tưởng ở trước ba Vô sắc v.v... Hỏi: Vì sao gọi là một?
Đáp: Chỉ có một ý thức, còn năm loại khác không có. Nên luận Bà-sa ghi: Do các tưởng ấy một môn chuyển cho nên gọi là một tưởng.
Sớ: Các loại tưởng ở Dục sắc giới v.v...
Thế nên luận Bà-sa ghi: Do các tưởng ấy bốn sáu môn chuyển và duyên các loại cảnh giới để khởi.
Sớ: "Thuần có khổ" đến "tầm tứ đều là khách được khởi".
Do y Đẳng chí mà có thể khởi thông, thấy khổ vui v.v... mà sau khởi chấp, người y tầm tứ nương giáo thuyết của tà sư, thích những việc vui ở chỗ sai biệt, đồng chấp mà sinh, hoặc thấy những khổ vui hiện đời, nhân này họa vẽ luận chấp mà khởi, đời này đã khổ, đời khác cũng vậy, những việc vui cũng vậy.
Luận: Vô tưởng đều chẳng phải mỗi loại có tám luận.
Hỏi: Vì sao hữu tưởng có đủ mười sáu, vô tưởng đều chẳng phải đồng thời, trừ tám pháp sau? Đáp: Tám loại sau ít lạc, nói đều là hữu tưởng, cho nên vô tưởng không có, tưởng lại minh lợi, đều chẳng phải cũng thiếu.
Sớ: Thấy người khác đắc định v.v...
Hỏi: Vì sao hữu tưởng không nói thấy người khác đắc định sinh v.v...
Đáp: Vô tưởng xứ có một, cho nên cần phải thấy người khác thì mình mới sinh chấp, hữu tưởng thì không như vậy, đâu được làm ví dụ, hoặc ảnh hiển, không bằng giải thích trước.
Sớ: Đẳng chí, tầm tứ đều khách đồng khởi.
Xét luận Bà-sa ghi: Các tầm tứ là chấp sắc làm ngã, thấy hoặc có lúc ngủ say, muộn tuyệt, khổ thọ bức bách hoàn toàn không có tưởng, lại khởi niệm như vầy: "Ta tuy có sắc, mà không có tưởng ấy, như ở đời này đời khác cũng vậy, do đây nên nói sau khi chết không có vô tưởng", chuẩn theo đây chưa hẳn chấp sinh vô tưởng mới gọi là vô tưởng, cùng với đắc định trước chấp vô tưởng sai biệt, trước có các khổ cũng chuẩn theo đây nên biết.
Luận: Đều chẳng phải tám.
Nêu bày như trong sớ. Xét luận Bà-sa lược lấy cốt yếu nói:
Các Tầm từ chấp sắc làm ngã, thấy hữu tình ấy tưởng không rõ ràng lại khởi niệm như vầy: "Ta có chẳng phải có tưởng chẳng phải vô tưởng, như ở đời này đời khác cũng vậy", chẳng phải do họ nhất định có thể khởi chấp này vì sao? Muốn lìa nhiễm vô sở hữu xứ, mới chấp phi tưởng phi phi tưởng xứ các uẩn làm ngã, nó đã Vô sắc, lý chấp này không, có nghĩa y biệt nói được định ấy cũng có chấp này, nghĩa là sinh ham muốn sắc đã lìa nhiễm vô sở hữu xứ, chấp phi tưởng phi phi tưởng xứ ấy các uẩn làm ngã, sở chấp ngã ấy thể tuy chẳng phải sắc, nhưng cùng sắc hợp gọi là có sắc ngã. Như nói người giống nhau, thể của mỗi người có giống nhau, nó tuy không chấp dùng sắc làm ngã, nhưng sở chấp ngã chưa lìa sắc, nhẫn đến mạng chung vẫn còn tùy thân, nên nói có sắc. Do chỗ nhập định tưởng không rõ ràng, nên chấp ngã hiện, chẳng phải hữu tưởng chẳng phải vô tưởng, sau khi chết cũng vậy, thừa nhận Vô sắc giới cũng là có sắc. Họ thừa nhận có chấp phi tưởng phi phi tưởng xứ, ngã thật có sắc mà chẳng phải có tưởng cũng chẳng phải vô tưởng, cả hai được định ấy, chấp phi tưởng phi phi tưởng xứ ấy các Vô sắc uẩn lấy đó làm ngã, hoặc làm ngã sở sở chấp ngã ấy Vô sắc làm tánh hoặc có ngã Vô sắc. Do nhập định tưởng không rõ ràng, chấp ngã hiện chẳng phải hữu tưởng chẳng phải vô tưởng, sau khi chết cũng vậy. Các tầm tứ chấp Vô sắc là ngã, nó thấy hữu tình tưởng không rõ ràng, lại khởi niệm như vầy: "Ta không có sắc, chẳng có tưởng, chẳng phải vô tưởng". Trong câu thứ ba có ba đoạn, ban đầu chỉ có trong tầm tứ thừa nhận y định, sau thừa nhận có sắc, tất cả dụ đều đồng câu đầu.
Sớ: Một là do khi định ấy thời phần ngắn.
Do thời ngắn nên tùy duyên một uẩn gọi là mỗi mỗi, nên sau khởi mới được tên hữu biên, còn lại chuẩn theo đây nên biết.
Luận: Bảy đoạn diệt.
Đủ như trong sớ có nói. Lại trong kinh A-hàm ghi: Có vị Sa-môn, Bà-la-môn thấy như vậy, khởi luận như vầy:
1. Thân ta là bốn đại từ cha mẹ sinh, bú mớm nuôi dưỡng nhưng là vô thường.
2. Nay ta không được gọi là đoạn diệt, ngã Dục giới và chư thiên đoạn diệt không còn.
3. Đây chẳng phải đoạn diệt, Sắc giới hóa sinh, các căn đầy đủ, đoạn diệt không còn, bốn pháp này chẳng phải đoạn diệt, ngã Vô biên không xứ đoạn diệt nhẫn đến Phi tưởng đều là sau chẳng phải trước lập làm đoạn diệt.
Luận: Ba tà kiến v.v...
Phỉ báng nhân quả, luận Du-già quyển 7, quyển 55, quyển 58; Đối Pháp quyển 1 hỗ tương không đồng, như trong Du-già sao tổng hợp.
Hỏi: Quyển 58 nói, tà kiến là tất cả cái thấy điên đảo đều gọi là tà kiến, phải biết kiến này lược có hai loại, trừ tà kiến còn có bốn, tất cả đều gọi là tăng ích tà kiến, phỉ báng nhân quả tất cả các kiến đều gọi là tổn diệt. Đối Pháp quyển 1 nói, bốn pháp tăng ích, đối với cảnh sở tri tăng ích tự tánh và sai biệt, tức bốn kiến ngoài tà kiến. Một phần nhiều phần là tổn diệt kiến, một nhiều phần do tà phân biệt chưa hẳn tổn giảm. Một thì nói toàn tổn, một thì nói nhiều phần, đâu không trái nhau?
Đáp: Trong quyển 58 riêng chỉ phỉ báng nhân quả tà kiến mà nói là đều tổn giảm, trong Đối Pháp nói chung tất cả tà kiến, nên nói nhiều phần, như chấp Thích Phạm thường hằng không biến đổi là vật, chẳng phải tổn giảm vì đối vọng không đồng nên không có lỗi. Lại có dị đồng, như hai luận sao tổng hợp.
Luận: Không có hai nhân luận.
Y túc trụ chấp như trong sớ đã nói, y tầm tứ là xét luận Bà-sa ghi: Hai do tầm tứ hư vọng suy cầu, nay thân đều có thể nhớ, thân trước nếu có những việc ấy, thì nay lẽ ra cũng nhớ, đã không thể nhớ nên biết nó không có. Còn lại như chương có biện rõ.
Hỏi: Đã nói túc thông vì sao không thể nhớ việc trước khi ra khỏi tâm?
Đáp: Ngoại đạo biết nhiều nhất không vượt quá tám mươi, tâm lúc nhập mong tâm sau xuất cách năm trăm kiếp nên không thể nhớ. Trong năm trăm kiếp mà vô tâm thì làm sao nhớ được, do đây vẫn còn chấp sinh.
Hỏi: Tâm ấy tuy không, sắc thân là có, lẽ nào không thấy? Nếu nói không thấy, lại trái với nghĩa túc trụ nhớ tám sự, nếu thừa nhận thấy là nhân đó thân sinh, đây vì sao không có nhân?
Đáp: Tuy thấy sắc thân nhưng không biết nguyên nhân mà thân ấy có, do thấy không quá năm trăm kiếp, đã có thân ấy không thấy nhân sinh, cho nên thân ngày nay cũng không có sở nhân, ngay thân mà khởi. Có người mê lầm cho rằng túc mạng, tầm tứ đều không thể nhớ, sau khi ở vô tưởng chết mới ra khỏi việc trước của tâm gọi là hai không nhân. Điều này trong phần hỏi đáp của sớ lập làm hai nghĩa, chỉ có đứng về vô tưởng để đáp vặn hỏi trước, vì thế dẫn đến mê lầm nó, người học nên biết.
Luận: Hoặc chấp Tự tại v.v...
Hỏi: Các tà kiến này và ngã ngã sở, kiến giới hai thủ đều chẳng phải sáu mươi hai kiến nhiếp, lẽ nào không trái với kinh ư? Cho nên trong kinh Ahàm ghi: Có các Sa-môn, Bà-la-môn v.v... bản kiến, mạt kiến vô số các thứ tùy ý nói hết trong sáu mươi hai kiến, đều là không có lỗi, cũng như người thợ khéo bắt cá, do mắt lưới nhỏ che trên nước ít, phải biết những loài thủy tộc trong ao đều vào trong lưới không chỗ trốn tránh?
Đáp: Có nghĩa giải thích: Lý thật riêng mê bốn đế tà kiến, tùy theo ứng nhiếp vào trong toàn thường, nhưng luận này ở trong biên kiến nói toàn thường v.v... cho nên toàn thường không nhiếp tà kiến. Do đây nên biết chỉ có biên kiến toàn thường v.v... nhiếp, chẳng phải toàn thường đều do biên kiến nhiếp. Bốn đế tà kiến ở trong toàn thường v.v... vì chẳng phải biên kiến.
Biện rằng: Giải thích cũng chưa hết, lý cũng khó rõ. Kinh nói bản mạt vô số kiến, vào trong sáu mươi hai kiến, lẽ nào là ngã ngã sở kiến giới thủ v.v... lại chẳng phải tà kiến? Vì sao không rõ? Lại nói, luận này ở trong biên kiến nói toàn thường v.v..., điều này cũng không đúng. Xem trong kinh ấy, bốn kiến thường v.v... cũng y biên kiến, vì sao chỉ có đoạn luận y nơi biên kiến mà nói? Nay có hai giải thích:
1. Ngoài sáu mươi hai, các biên kiến tà kiến y theo đời trước sau, do sáu mươi hai tà kiến mà khởi chấp, cũng đều nhiếp nhập trong sáu mươi hai kiến, như bốn pháp toàn thường. Kinh v.v... chỉ đứng về y định v.v... khởi, cũng có loại không nương Đẳng chí khởi chấp, tuy y tầm tứ lại có nhiều sai biệt. Những loại này đều vào trong bốn pháp toàn thường, còn lại chuẩn theo đây nên biết. Trong kinh căn cứ lý này gọi là nhiếp các kiến, đây tức là nghĩa ít phần tất cả, cũng như bốn đế nhiếp tất cả pháp, khổ nhiếp các khổ, các đức cũng vậy. Nói nhiếp các kiến, cũng căn cứ đồng loại nhiếp nhau mà nói.
2. Y phẩm loại do khinh theo trọng gọi là nhiếp tất cả, các kiến là sáu mươi hai kiến loại đồng, trong đồng loại kiến lại có đồng dị, ngã kiến tức là loại biên kiến vì biên kiến y khởi, tà kiến chấp tự tại thường là loại thường kiến biên kiến, tuy chẳng phải sau ngã mới chấp vì đối với thường thường tương tợ, còn lại chuẩn theo nên biết.
Hai thủ tùy theo chấp, làm sao thấy pháp v.v... tức là loại đó? Do hai loại ấy, và ngã ngã sở, lẽ ra đều nhiếp nhập trong sáu mươi hai, cũng như năm kiến gọi chung là tà kiến, lại khinh từ trọng, như nói vua bề tôi, bề tôi cũng gọi là vua, trong kinh tác pháp chỉ căn cứ trọng mà nói.
Sớ: Đã không có trong biên kiến, văn nhiếp đế đoạn.
Trong quyển 58 thì có văn nói, chỉ là người kiểm văn sơ lược nên có xác quyết này, nên luận ấy ghi: "Tức dụng Tát-ca-da-kiến" lấy làm y chỉ, ở trong năm uẩn kiến ngã đoạn thường, cho nên biên chấp kiến cũng mê đối với khổ.
Luận: Bốn kiến thủ v.v...
Nhưng chuẩn theo Hữu tông chỉ chấp biệt pháp cho là thù thắng, tức gọi là kiến thủ, không chỉ có chấp kiến và uẩn đồng thời. Cho nên Câu-xá Luận quyển 19 ghi: Đối với liệt cho là thắng gọi là kiến thủ, chấp liệt là thắng gọi chung là kiến thủ, lý thật lẽ ra lập kiến v.v... tên là thủ, lược bỏ "vân vân" chỉ gọi là kiến thủ.
Luận: Năm giới cấm thủ v.v...
Lại chuẩn theo Hữu tông chỉ chấp chẳng phải nhân làm nhân tức gọi là giới thủ, không chỉ có chấp giới và uẩn đồng thời. Cho nên luận Câu-xá ghi: Đối với chẳng phải nhân, đạo cho là nhân đạo kiến, tất cả tổng gọi là giới cấm thủ, chẳng phải giải thoát đạo vọng khởi chấp đạo, lý thật lẽ ra nên lập tên thủ của giới cấm, lược bỏ "vân vân" chỉ gọi là giới cấm thủ.
Sớ: "Nhưng ở một tụ" đến "nói vân vân cũng được".
Tuy thấy quyến thuộc mà không có biệt chấp, nhưng trong một tụ kiến là thù thắng nhất, nêu thắng so sánh với liệt để nói "đẳng" cũng không có lỗi, không đồng với Tiểu thừa mà lập chữ "đẳng".
Luận: "Nhưng có chỗ nói" đến "gọi là giới thủ". Xét luận Hiển Dương quyển 1 ghi: Bốn kiến thủ nghĩa là ở ba kiến trước và kiến sở y uẩn, chấp tối thắng và Đệ nhất nghĩa. Đối Pháp quyển 1 ghi: Nghĩa là đối với các mục và sở y năm thủ uẩn v.v... tùy quán chấp làm tối thắng, làm thượng làm diệu, năm uẩn đồng sở y. Lại luận Hiển Dương quyển 1 ghi: Năm giới cấm thủ, nghĩa là các kiến và sở y uẩn trước chấp làm thanh tịnh giải thoát xuất ly. Đối Pháp quyển 1 ghi: Đối với các giới và giới cấm sở y năm thủ uẩn v.v... tùy theo quán chấp làm thanh tịnh, làm giải thoát xuất ly. Luận Ngũ Uẩn rất đồng, Du-già quyển 8 đại ý đồng luận Hiển Dương.
Luận: Nếu không như vậy vì sao chẳng phải diệt chấp diệt v.v...
Xét quyển 58 ghi: Lại các Sa-môn nói luận hiện pháp Niết-bàn tất cả tà kiến, lại có người hoành chấp các tà giải thoát chỗ có tà kiến, các chấp như vậy là mê diệt đế phát khởi tà kiến. Lại nói, ngoại đạo kia khởi chấp như vầy: sở hành của ngã v.v... hoặc hành hoặc đạo là chân hành đạo có thể hết, có thể ra khỏi tất cả khổ, như vậy cũng gọi là mê đạo tà kiến, chẳng phải pháp Niết-bàn chấp là Niết-bàn, gọi là phi thắng chấp thắng, chẳng phải Vô lậu đạo thật, chẳng phải lìa khổ, chấp làm chân đạo có thể ra khỏi khổ gọi là phi tịnh chấp tịnh,
Luận: Các tổng biệt như vậy, giải thích như trong sớ, Nghĩa Đăng. Nay thêm một giải thích nói tham v.v... sáu pháp gọi đó là tổng. Ác kiến khai ra năm gọi đó là biệt, nay nói cả hai, gọi là tổng biệt mười phiền não. Hoặc có thể, sớ nói hoặc tổng hoặc biệt ý cũng đồng với đây.
Sớ: "Nghĩa là phải không trái" đến "ngã chẳng thường". Mượn phát khởi vặn hỏi sinh dẫn giáo và văn thế sự ở sau. Luận: Người học hiện quán khởi các sợ sệt như vậy v.v...
Quyển 86, Đối Pháp quyển 7, văn của hai luận này nói. Luận Du-già ghi: Lại do hai duyên y chỉ dục vô ngã thắng giải, ở Niết-bàn đó do kinh sợ nên tâm ấy lui sụt. Một là do đối với dục này không khéo tập quen, chưa đến cứu cánh. Hai là khi tác ý do nhân duyên ấy niệm quên mất, đương lúc như vậy ở trong các hành chỉ có hành trí, tâm ấy ngu muội, thường thường tư duy, ngã của ta lúc bấy giờ phải ở chỗ nào, tìm cầu ngã hành vi tế, câu hành chướng ngại mà chuyển. Do duyên này nên khởi suy nghĩ như vầy: ta sẽ không có, không khởi niệm này chỉ có các hành đương lai không có. Nó do như vậy tùy theo thân kiến làm chỗ y chỉ, phát sinh thức biến dịch tùy thức. Do nương sợ cho nên đối với tịch diệt tâm ấy lui sụt.
Giải thích: Tuy biết rõ chỉ có các hành vô ngã, do tâm duyên hành còn muội liệt, thường thường tư duy ngã ở chỗ nào, tức suy nghĩ tâm ta có thể làm chướng ngại, lại chấp ngã không, lại không có niệm nghĩ chỉ có các hành, cho nên đối với Niếtbàn mà sinh kinh sợ. Luận Đối Pháp ghi: Câu sinh biên kiến là thuộc về đoạn kiến, do kiến này nên đối với cõi Niết-bàn tâm ấy lưu chuyển sinh khiếp sợ lớn, cho rằng ngã của ta hiện giờ ở đâu?
Nhưng sớ nói trong quyển 88 có hai nghĩa: một là nhầm sáu thành tám, hai là nêu tám đồng với sáu. Sáu chính là sở dẫn, trong tám cũng có văn đoạn kiến, nên nói cả hai, tổng nêu chánh hiển mà không nói sáu.
Hỏi: Dẫn chứng câu sinh, Đối Pháp có thể như vậy, luận Du-già thì như thế nào?
Đáp: Văn của quyển 88 như trong Nghĩa Đăng đã giải thích.
Hỏi: Quyển 86 cũng nói câu sinh, làm sao để rõ?
Đáp: Luận nói tìm cầu ngã hành vi tế câu hành. Lại nói, do ngã như vậy tùy theo thân kiến làm y chỉ nên biết là câu sinh, hoặc thông cả hai kiến, tìm văn thì có thể rõ.
Hỏi: Hai luận câu sinh là phàm thánh khởi chăng?
Đáp: Chung cả thông phàm thánh.
Hỏi: Nếu vậy, vì sao quyển 86 ghi: "Lại nữa vì đoạn kinh sợ như vậy, có hai loại pháp, có nhiều sở tác", nhẫn đến nói "nếu đã dẫn phát Thánh đế hiện quán, do chánh kiến nên mới được xuất ly". Trong Đối Pháp lại ghi: "Nay ngã của ta ở chỗ nào", chuẩn theo luận Du-già này, chỉ có phàm khởi, Đối Pháp chỉ có bậc Thánh?
Đáp: Trong Du-già vả lại căn cứ đoạn phàm khởi, hoặc tổng đoạn phàm thánh kia khởi, Thánh đế hiện quán lời này được thông. Lại nói, do đối với dục này không khéo quen tập, chưa được rốt ráo mà khởi kinh sợ, tức Thánh hữu học cũng chưa rốt ráo, khởi cũng đâu có lỗi gì. Đối Pháp nói "nay ta ở đâu", Phàm thánh khi khởi vô ngã giải đều được gọi là nay. Lại giải thích, luận Du-già căn cứ phàm, Đối Pháp đứng về Thánh, hai cách giải thích mặc tình lấy, lại nên suy nghĩ kỹ.
Luận: Mười phiền não này, có bao nhiêu loại tương ưng.
Các luận biện tương ưng này không đồng, nay lược dẫn. Quyển 55 ghi: Vô minh tương ưng tất cả, nghi đều không có, tham sân không tương ưng, đây hoặc cùng mạn kiến, nghĩa là khi nhiễm ái hoặc cống cao hoặc suy cầu, như nhiễm ái ghét giận cũng vậy. Mạn và kiến ngã lại tương ưng, nghĩa là khi cống cao, tà lại suy tìm. Quyển 58 ghi: Năm kiến là tuệ tánh nên không cùng tương ưng, tự tánh tự tánh vì không tương ưng. Tham, khuể, mạn, nghi lại trái nhau nên không cùng tương ưng. Tham nhiễm khiến tâm thấp hèn, ngã mạn khiến tâm cao ngạo, thế nên tham mạn lại trái nhau. Đối Pháp quyển 6 ghi: Tham không tương ưng với sân, thuần là trái nhau pháp ắt không đồng thời. Lại tham không tương ưng với nghi, do tuệ đối với cảnh không quyết định ắt không có nhiễm trước, còn lại được tương ưng. Như tham sân cũng vậy, nghĩa là tham không cùng sân mạn kiến tương ưng, nếu đối việc này khởi giận ghét, tức không đối với nó sinh cao ngạo và suy cầu, các loại khác tương ưng như lý nên biết. Mạn không tương ưng với sân, nghi. Vô minh có hai là tương ưng và bất cộng, bất cộng không cùng sân nghi tương ưng, nghi không cùng tham mạn kiến tương ưng. Tổng hợp như luận và sớ này, ở đây không nói lại.
Luận: Nghi trái thuận v.v...
Khổ, tập do nhân y xứ này nên hữu tình nhiễm trước, nghi có không sân diệt đạo là chỗ sợ sệt ấy, nên hữu tình không ái, có nghi liền có khuể, nghi không trái với đây, lý chuẩn theo đây mà biết.
Luận: Đây cùng ba kiến hoặc được tương ưng v.v...
Có nghĩa phân biệt thân, biên hai kiến nhưng cùng sân đồng thời, do câu sinh chỉ có tánh Vô ký, sân chỉ có bất thiện nên chẳng phải đồng thời với nó. Luận nói, khổ uẩn chỉ ở nẻo thiện có khổ thọ đồng thời gọi là có khổ uẩn, trong sớ nói khổ lại thông hai kiến, điều này nhất định không đúng.
Biện rằng: Thoạt xem văn sớ, thật ra như vẫn còn, xét kỹ lý ấy, lý tức không trái.
Hỏi: Vì sao không trái lý?
Đáp: Chỗ có khổ tức gọi là khổ xứ, ai nói phải ở trong ba đường mới là khổ xứ? Lại ở sau môn hai kiến năm thọ đồng thời, sư thứ nhất tam đồ có phân biệt hoặc, nay y thuyết ấy cũng không trái nhau. Đây thông ở sau hiển bày luận này nói chỗ cực khổ thông, có phân biệt, câu sinh hai hoặc, cho nên chỉ như ở sau, chẳng phải nói câu sinh, phân biệt hai kiến đều cùng sân đồng thời, do khổ xứ này phân biệt hai kiến đồng thời với sân đều không ngăn ngại. Nếu không như vậy, lại do nghĩa gì mà nói như ở dưới?
Luận: Năm thức chỉ có ba v.v...
Hỏi: Xứng lượng, suy cầu năm thức không có, nói kiêu mạn không, thức thứ bảy lẽ ra như vậy?
Đáp: Xứng lượng giải thích mạn, thứ bảy đồng thứ năm không, mạn sinh nên Thức thứ bảy thừa nhận có. Nghĩa của kiến chuẩn theo đây mà biết.
Hỏi: Năm kiến đoạn hoặc, sáu dẫn đắc sinh, mạn v.v... do năm pháp khác lẽ ra cũng khởi chăng?
Đáp: Hạnh không trái, trái cho nên khởi, không khởi.
Luận: "Tham sân si ba pháp" đến "năm thọ đồng thời".
Trong quyển 59, phân biệt tham, lạc v.v... tương ưng riêng riêng tác pháp, tức luận này nói tham gặp nghịch duyên, sân gặp thuận cảnh lược đã nhiếp nó, còn lại chuẩn theo nên tìm, nên không dẫn ra.
Luận: Dục không có khổ v.v...
Có nghĩa lựa chọn luận Tát-bà-đa dục và nghi chỉ có ưu, cho nên Hiển Dương luận quyển 27 ghi: Vì sao hai nghi đều không quyết định mà trên được cùng hỷ lạc tương ưng? Chẳng phải Dục giới nghi cùng hỷ câu khởi, do các phiền não ở ly dục địa, tuy không quyết định cũng không ưu diệt, tuy tâm ôm lưới nghi nhưng không có biếng nhác, như ở nhân gian cầu được sở ái, tuy nhiều mệt nhọc mà sinh tưởng ưa thích. Sớ nói cõi trên không có dục nghi có hỷ thọ, dục tợ như không được, ý văn ở đây địa trên vì sao không cùng hỷ đồng thời?
Biện rằng: Ý sớ nói nghi không có quả khổ mới cùng hỷ đồng thời, trên không có nghi này, do trên không tạo ác hành ấy, nên si khổ không mới có hỷ đồng thời. Hễ trong Dục giới không chướng cõi thì si mới được đồng thời với hỷ. Trong tướng thô ở sau sớ nói cõi trên si có hỷ. Tự nghĩa đã lập tha chấp liền ngăn, không nói thành. Đây tự được bản ý trong sớ, chẳng phải sớ không được ý của luận.
Luận: "Hai thủ" đến "ưu tương ưng".
Quyển 59 ghi: Kiến thủ, giới thủ lấy kiến ấy, tùy theo sở ưng kia như tương ưng ấy, như thân biên hai kiến tương ưng trở xuống thọ mà nói.
Luận: Đây y thật nghĩa.
Hỏi: Sở y giáo nào? Vì sao cần có thô tế hai thuyết?
Đáp: Nói một cách gãy gọn gọi là thật nghĩa, tức quyển 59, nói một cách thẳng thắn gọi là tướng thô, tức quyển 58, Đối Pháp quyển 7. Cho nên quyển 59 tổng kết mười phiền não thọ tương ưng rằng: Trước biện phiền não, các căn tương ưng, chỉ đứng về đạo lý tướng thô mà kiến lập, khiến ban đầu hành giả hiểu không loạn, nay tức đứng về đạo lý thô tế kiến lập, khiến hành giả rõ tự thân tha thân các thứ hành giải sai biệt chuyển.
Luận: Tham si đồng thời với lạc v.v...
Trong Đối Pháp có nói đủ, đại ý trong sớ nêu lại đã xong, nhưng nói rõ ý thức xả tương ưng rằng, ở ý thức thân xả tương ưng, ở tất cả chỗ tương tục chưa có vị.
Giải thích: Do lạc, hỷ, xả thông Thức thứ sáu, sáu thức lạc hỷ khi chưa có vị nhưng cũng có xả, nên nói tất cả chưa có vị v.v... Lại nói, si ở Dục giới chẳng phải hỷ tương ưng, tâm không quyết định nếu chưa dứt diệt thì hỷ không sinh. Lại nói, vì sao phiền não đều tương ưng với xả? Do trong tất cả tùy phiền não vị trung dung mới dứt hết, vì sao? Vì phiền não sinh khởi lần lượt tương tục lần lần nhẹ mỏng, thế lực sắp hết, tùy vị trong xứ, đối với vị này ắt xả tương ưng.
Luận: Phải biết câu sinh thân biên hai kiến v.v...
Hỏi: Vì sao biết như vậy?
Đáp: Xét trong quyển 58 ghi: Lại nữa câu sinh Tát-ca-da-kiến chỉ có tánh Vô ký, vì thường hiện hành, chẳng phải cực tổn não tự tha xứ, tuy luận không nói câu sinh biên kiến, lý đồng ngã kiến cũng là tánh Vô ký.
Sớ: "Nếu như ở giải thích sau" đến "thể có chín phẩm". Ở đây có hai ý:
1. Hiển sau là sai, như sắc giới v.v... phiền não Vô ký, thể có chín phẩm, chín phẩm đoạn riêng, ngã kiến có chín phẩm vì sao trừ một phẩm? Đã trừ một phẩm rõ ràng không có chín loại.
2. Nói sau là đúng, như cõi trên mê hoặc thể tuy Vô ký, có được chín phẩm, ngã kiến chín phẩm cũng đâu trái nhau? Lại nay sớ xác quyết lại tùy theo một tướng, văn trên dưới trong sớ đều lấy chín phẩm làm loại thuyết.
Sớ: "Không có nhiễm ô" đến "mới tự tại".
Ắt không có dục nhiễm, phẩm thứ chín còn, có thể nhập căn bản khởi Vị chí hoặc, cần phải dục nhiễm hết mới vào căn bản định, mới chấp nhận khởi Vị chí hoặc kia.
Sớ: "Do đây" đến "cũng không thể khởi". Không thể khởi Vị chí định hoặc kia.
Hỏi: Đắc căn bản định rồi, Vị chí định hoặc là thật khởi chăng? Đáp: Có hai giải thích:
1. Thừa nhận được khởi, nếu vậy vì sao quyển 62 các pháp địa dưới hoặc sinh ở địa trên không hiện ở trước? Đáp: Địa khác thì không như vậy, đồng địa chấp nhận khởi, Vị chí cũng là sơ thiền nhiếp, lại địa sau thân được sơ căn bản khởi Vị chí hoặc cũng lại không trái.
2. Không được khởi, không có những điều cần, được thắng xả liệt, nếu vậy rốt ráo không có nghĩa khởi cần gì Hữu vi? Đáp: Như ba cõi Vô sắc có được kiến đạo Vô lậu thứ tám, chín địa khác thì có, tuy không có nghĩa khởi địa pháp vẫn được có, điều này lẽ ra cũng như vậy, mặc tình lấy bỏ, nhưng phần nhiều thừa nhận khởi
Sớ: Chỉ có định chẳng phải sinh phiền não v.v... Khi nhuận sinh khởi gọi là sinh phiền não, hoặc sinh địa ấy đã khởi cũng gọi là sinh hoặc, chẳng phải nay nói, trừ các thời này duyên định khởi đều gọi là định sinh, như biến thường kiến, nhân định sau đó mới khởi gọi là định phiền não, còn lại chuẩn theo đây để biết. Nhưng sớ nói như biến thường, mới xem qua giống như chứng sinh phiền não, nhưng lý là chứng định hoặc.
Luận: Các Hữu lậu đạo tuy không thể phục phân biệt hoặc v.v...
Hỏi: Ở sau quyển 9 ghi: Tư lương Gia hạnh có thể phục phân biệt, hai vị lẽ nào chẳng phải Hữu lậu đạo?
Đáp: Sau đứng về Bồ-tát, nay căn cứ nơi Nhị thừa và ngoại đạo v.v... có nghĩa có hai giải thích: một là nghĩa đồng với trước, hai là sau căn cứ lý quán. Nay y theo sự quán Hữu lậu sáu hành gọi là sự quán quán vô ngã v.v... gọi là lý quán. Lại phân biệt hoặc có mê sự, thế đạo cũng phục, vì hay chướng định. Luận đứng về mê lý mà nói không phục, nếu không phục thì câu sinh phải như vậy, vì là câu mê sự. Nếu chấp sự hoặc chấp lý hoặc dẫn cho nên không phục, nên tu sự hoặc tu lý hoặc dẫn đồng nó không phục. Lại thấy sự hoặc tán loạn thô động vượt hơn câu sinh, chướng định lẽ ra thù thắng, vì sao không phục? Nên biết luận lại căn cứ mê lý mà nói không phục.
Biện rằng: Lý sợ chua hẳn như vậy, tu hoặc làm ví dụ có lỗi tương phù, cho nên luận Du-già quyển 58 ghi: Nếu các dị sinh lìa dục cõi Dục hoặc sắc giới, chỉ do tu đạo không có kiến đạo, ở cõi Dục khi được ly dục, tham dục sân giận, và tùy pháp ấy lân cận kiêu mạn, nếu các phiền não tương ưng vô minh, không hiện hành cho nên đều gọi là đoạn. Chỉ có nói các pháp tham lân cận dị sinh, không nói chấp các pháp lân cận cũng năng đoạn. Cho nên biết thế đạo không thể phục mê lý ấy dẫn tất cả sự hoặc, nếu không như vậy ý nào Du-già không nói? Tu đạo đã như vậy kiến hoặc nhất định như vậy, lẽ nào không tương phù? Nhưng hãy xét rõ văn.
Sớ: Nay giải thích cũng đoạn.
Có nghĩa vặn hỏi rằng: Chưa phục nói đoạn. Người thứ lớp ở kiến đạo lẽ ra cũng đoạn nó, cũng không thể nói trước phục trợ bạn. Luận nói câu sinh vi tế khó đoạn, vị tu đạo mới trừ, nói kiến đạo trừ lý ắt chưa được, do vi tế ấy không chướng kiến đạo mà tự chống chế rằng: người thứ lớp đạo y Vị chí, do đạo liệt cho nên không thể đoạn tu, người siêu việt căn bản nhập, nói tùy sở phục đều có thể đoạn hẳn.
Biện rằng: Nếu lấy Vị chí để giải thích vặn hỏi sợ chưa trừ, thứ lớp không trở lại năng y Vị chí đoạn tu hoặc. Nếu nói ngã y kiến đạo, Bồ-tát kiến đạo y căn bản định lẽ ra cũng đoạn tu. Nếu nói chỉ căn cứ tiểu Thánh, vượt qua hàng sơ quả, sáu phẩm dục hoặc lẽ ra không thể đoạn trừ, vì y Vị chí. Nếu nói từng phục cho nên năng đoạn, đây tức do phục không phục có khác. Vì sao thiếu căn bản. Vị chí y biệt? Do đây phục kiến đạo nào có lỗi. Luận nói, tu trừ căn cứ thứ lớp, nhưng y định nêu bày lý ấy cũng thông, căn cứ bạn để nói là thù thắng, suy nghĩ có thể biết.
Sớ: "Nếu vậy kiến hoặc" đến "là khởi, không khởi".
Trong Nghĩa Đăng quyển 6, tâm tướng khởi nêu bày có hai giải thích. Nay xét luận Du-già quyển 58 lẽ ra thừa nhận được khởi, cho nên luận ấy ghi: Do các hoặc ấy trụ ở trong thân này, từ định mà khởi có khi hiện hành, chẳng phải sinh cõi trên nó lại hiện khởi.
Giải thích: Hoặc chưa đoạn kiến đạo trước kia, thân ở địa dưới mà được khởi, nếu sinh địa trên, thì kiến hoặc địa dưới không khởi. Chuẩn theo ý văn này thừa nhận khởi, nên khéo suy nghĩ lại.
Luận: Sinh định thứ tư trong Trung hữu.
Đây là văn kinh. Luận của Đại thừa Tiểu thừa giải thích sai khác. Kinh bộ, Đại thừa thừa nhận Trung hữu cõi trời có chuyển sinh địa ngục, Hữu tông thì không như vậy. Cho nên Đối Pháp ghi: Hoặc có khi dời chuyển, nghĩa là ở vị này thường sinh ở các chỗ duyên mạnh hiện tiền, như được Tĩnh lự thứ tư khởi A-la-hán tăng thượng mạn Tỳ-kheo, khi Trung hữu sinh trong địa ấy, do phỉ báng giải thoát tà kiến, chuyển sinh địa ngục.
Sư Kinh bộ trong luận Bà-sa ghi: Thí dụ là nói Trung hữu có thể chuyển, do tất cả nghiệp đều có thể chuyển. Hữu Tông chấp, như luận Bà-sa quyển 69 ghi: Hỏi: Nếu trung hữu đối với cõi không chuyển, không nghe việc Bí-sô vì sao thông? Ở trong Phật pháp vừa xuất gia xong, tu định thế tục, lúc sơ Tĩnh lự cho là được sơ quả, nhẫn đến thứ tư nói được A-la-hán, khởi tăng thượng mạn chưa được nói được. Lúc nó mạng chung Tĩnh lự thứ tư Trung hữu hiện tiền, lại khởi niệm như vầy: tất cả ràng buộc ta đã dứt hết nên nhập Niết-bàn, không còn sinh xứ, vì sao có Trung hữu này hiện tiền? Bèn khởi tà kiến bác không giải thoát, do sức phỉ báng kiến kia nên Trung hữu diệt, Trung hữu vô gián địa ngục hiện tiền, sinh trong ngục vô gián? Đáp: Lúc trụ bản hữu có dời chuyển này, chẳng phải vị Trung hữu, nói ní sắp chết do thế lực của nghiệp Tĩnh lự thứ tư sinh tướng hiện tiền nên khởi tà kiến sinh ngục vô gián
Luận: Nhưng nói sinh lên trên, không khởi xuống v.v...
Xét luận Du-già quyển 58 ghi: Các phiền não ràng buộc chưa lìa dục tự địa phiền não là tự địa hiện khởi, đã lìa dục tức không hiện khởi, nếu ở địa dưới địa trên các trói buộc cũng được thành tựu, chẳng phải ở địa trên được nói thành tựu các trói buộc địa dưới.
Lại quyển 62 ghi: Các pháp địa dưới hoặc sinh địa trên không hiện ở trước. Các pháp địa trên nếu sinh địa dưới, lìa dục ấy là hoặc hiện ở trước, có trái với văn này nên luận thông.
Hỏi: Nói nhiều phần là căn cứ thời mà nói hay đứng về hoặc số?
Đáp: Lý bao gồm ở hai.
Hỏi: Thời thì làm sao như vậy? Nếu đứng về hoặc mà nói, vì sao trước nói chấp nhận hiện tiền, lại có bao nhiêu loại không khởi?
Đáp: Khởi thông kiến tu gọi là đều, khởi số tăng giảm, lược có ba loại:
1. Khởi ba: Nghĩa là tà kiến, tham và vô minh.
2. Khởi sáu: Như trong sớ đã nói.
3. Khởi mười.
Nên luận nói các hoặc, phân biệt, câu sinh của địa dưới đều chấp nhận hiện khởi. Có nghĩa xác quyết rằng đối với thứ hai nói vậy, lại suy cầu khởi năm thù thắng, trừ một ngã kiến, không thấy thế gian chấp địa pháp khác cho là ngã, cho nên phân biệt kiến chẳng phải duyên địa khác, sắc của xứ đương sinh vẫn còn chưa khởi, ái của nhuận sinh duyên xứ đương sinh, tăng thượng quả sinh, đã chỉ có mê sự, cũng không thể nói cùng lý hoặc đồng thời.
Biện rằng: Nhuận sinh ngã kiến căn cứ tổng duyên mà nói. Lại nhuận sinh này chẳng phải một sát-na, lý sự hai hoặc, trước sau gián đoạn khởi, nhưng nói nhuận sinh mê tăng thượng quả, căn cứ vị chánh nhuận của cảnh ái ấy mà nói, lý lẽ ra không lỗi. Trong Xu Yếu, Nghĩa Đăng có ý này, cho nên năm sáu giải thích mặc tình lấy bỏ.
Luận: Phiền não địa dưới cũng duyên địa trên v.v...
Xét luận Du-già quyển 58 ghi: Mười loại phiền não đã nói như vậy, cũng duyên sự chuyển, cũng duyên phiền não, phiền não địa dưới năng duyên phiền não và sự địa trên. Quyển 62 nói ái duyên trên, như Xu Yếu dẫn.
Luận: "Nhưng có chỗ nói" đến "hoặc y duyên riêng v.v...".
Xét trong Tập luận ghi: Dục giới phiền não trừ vô minh, kiến, nghi, còn lại không thể duyên địa trên làm cảnh. Các vô minh này tuy cũng có thể duyên địa trên, nhưng nó không thể thân gần năng duyên địa trên. Tạp Tập giải thích, nói vô minh duyên địa trên, nghĩa là cùng các kiến tương ưng. Kiến là trừ Tát-ca-da-kiến, không thấy thế gian duyên các pháp địa khác chấp làm ngã. Lại luận Du-già quyển 58 ghi: Chẳng phải hoặc địa trên hay duyên phiền não và sự địa dưới.
Sớ: Trong này nêu biên kiến đồng với ngã kiến vì ắt nương khởi.
Do toàn thường kiến được duyên địa khác, ví dụ ngã kiến ấy cũng được duyên khác, không có biên kiến không y ngã kiến, biên kiến duyên tha, ngã kiến cũng vậy.
Sớ: Chấp Dục giới văn tư xưa khởi.
Có nghĩa xác quyết rằng văn tư Dục giới đã chẳng phải ba kiến và giới sở khởi, vì sao hai thủ nói duyên địa dưới, cho nên không duyên lấy đó là thù thắng.
Biện rằng: Ý nói hai thủ nhớ giới sau, nhân văn tư khởi hai thủ sở hữu gọi là duyên địa dưới, không nói văn tư là hai thủ sở chấp kiến giới. Còn các vặn hỏi khác như Nghĩa Đăng giải thích.
Luận: Phân biệt khởi chỉ có kiến sở đoạn v.v...
Đối Pháp quyển 4 cũng đồng với đây, nên luận ấy ghi: Phân biệt sở khởi nhiễm ô kiến, nghi, kiến xứ, nghi xứ là kiến sở đoạn. Trong Tạp Tập giải thích rằng: Kiến xứ nghĩa là các kiến tương ưng cộng hữu pháp và chủng tử, nghi xứ cũng vậy.
Luận: Kiến sở đoạn mười thật đồng thời đốn đoạn v.v...
Xét luận Du-già quyển 59 ghi: Kiến đoạn phiền não đốn đoạn chẳng phải tiệm, vì sao? Do vì hiện quán trí đế hiện quán, năng đoạn kiến đạo sở đoạn phiền não, nhưng hiện quán này và hoại duyên đế tác ý tương ưng, thế nên ba tâm đốn đoạn tất cả mê khổ đế các kiến đoạn phiền não.
Giải thích: Tổng duyên bốn đế cộng tướng tác ý gọi là hoại duyên đế, biến duyên các đế khởi vô ngã quán mới có thể đoạn hoặc.
Hỏi: Vô phân biệt trí lẽ nào có duyên tổng các hành vô ngã?
Đáp: Giải thích như trong sớ. Lại có thuyết giải thích, căn cứ cộng tướng phương tiện sở dẫn, gọi là duyên các đế, tác quán vô ngã, chẳng phải chân kiến đạo có hành tướng này.
Sớ: Như hoại niệm trụ.
Hoại còn xen tạp, thân thọ tâm pháp, hai ba bốn pháp hợp thành để quán gọi là hoại niệm trụ.
Sớ: Đối Pháp quyển 7 v.v...
Xét luận ấy ghi: Lại mười phiền não đều mê khổ tập khởi các tà hành, là nhân duyên và sở y xứ ấy, vì sao? Khổ tập hai đế đều là mười loại nhân duyên phiền não, lại là y xứ, thế nên tất cả mê nhân duyên và y xứ này khởi các tà hành. Lại mười phiền não đều mê diệt đạo khởi các tà hành, do vì năng sinh này sợ sệt các pháp ấy, vì sao? Do sức phiền não ưa chấp sinh tử, đối với pháp thanh tịnh khởi tưởng phập phồng sinh quá sợ sệt. Lại các ngoại đạo đối với diệt đạo đế vọng khởi các thứ phân biệt điên đảo, thế nên mười hoặc đều mê diệt đạo khởi các tà hành.
Sớ: Phiền não ấy khởi đều đủ hai duyên này.
Nhân y và sợ sệt là hai duyên.
Sớ: Chấp thấy các giới quyến thuộc.
Xét quyển 58 ghi: Nếu tùy thuận thấy giới cấm sở thọ của các pháp này, lấy làm Đệ nhất năng đắc thanh tịnh giải thoát xuất ly, là mê tập đế giới cấm thủ.
Luận: Riêng nghĩa là riêng mê v.v...
Có nghĩa hỏi: Kiến tu đạo hoặc một trăm hai mươi tám y đâu mà nói? Có thuyết nói y mê riêng nói, do tổng mê là thể đã là một, không thể riêng ghi bốn đế khác y tướng thô mà nói. Tùy chuyển lý môn nói thân kiến, biên kiến chỉ có mê khổ đế, uyển chuyển mà nói là cũng mê ba đế, tuy không đích thân mê, duyên ba đế hoặc làm ngã ngã sở và đoạn thường. Hoặc có thể, đây y tổng mê mà nói, thể tuy là một, tuy theo chỗ mê cảnh bốn đế cũng sai khác, nên không có lỗi. Nhưng trong sớ nói chỉ y nơi số tổng duyên riêng mà nói, nghĩa này không đúng. Nếu duyên riêng là số ấy cũng riêng, số ấy tổng là duyên cũng chẳng phải riêng, đã không có số tổng mà duyên riêng, vì sao căn cứ luận ở đây để rõ số ấy? Lại trong sớ ghi: Đối Pháp quyển 7, Du-già quyển 8 đứng về tổng mê đế nói mười bốn mê, quyển 58 đứng về riêng mê đế, cả hai chỉ có mê khổ, tám thông bốn mê, một trăm hai mươi tám tức là Đối Pháp, Du-già quyển 78 nói, vì sao nói đứng về duyên riêng nói có số như vậy? Cho nên văn sở lập tự trái nhau.
Biện rằng: Nếu thừa nhận mê riêng dùng là chính. Đã nói mê riêng làm căn cứ số chung hành riêng gọi là riêng, vì căn cứ số hành đều riêng gọi là riêng. Nếu số chung hành riêng tức đồng với số đã nói. Vì sao lấy xả ái tăng không đồng? Nếu số hành riêng một trăm hai mươi tám số vì sao được có? Lại cần gì nói uyển chuyển tướng thô? Nếu nói đứng về chung cũng không có lỗi, lẽ nào là hai ba hợp duyên chẳng phải chung ư? Nếu là tổng thì một trăm hai mươi tám số cũng có tăng giảm, nếu chẳng phải là chung nên thuộc về riêng, tức trước riêng mê một trăm hai mươi tám số lại tăng giảm, tấn thối có trái, vì sao xác quyết riêng chung không có lỗi? Lại nếu nói riêng y mười mỗi mỗi đều duyên riêng đế nói, tổng đứng về mười thông duyên bốn đế, không căn cứ tự các chung riêng nói, lý cũng không đúng. Giải thích trước cùng sớ rốt ráo có khác gì? Sau nói số ấy chỉ là giả lập, bỏ thật lấy giả cũng chưa thể được. Lại trong ghi: Lý cũng chưa được, lại đế mỗi mười mươi, số lẽ nào chẳng phải chung? Đều duyên tự đế vì sao chẳng phải hành riêng? Cho nên Đối Pháp nói, Dục giới thấy khổ sở đoạn có đủ mười phiền não, như kiến sở đoạn, tập diệt đạo sở đoạn cũng vậy, đây nói để chứng minh, vì sao phá nói không có số chung mà duyên riêng ư? Lại phá tổng hợp trái cũng không được ý. Nói Đối Pháp v.v... là đứng về mê chung là số chung gọi là chung, trong quyển 58 căn cứ mê riêng là số riêng gọi là riêng, do đây mà nói mâu thuẫn đâu có uổng chấp bác bỏ. các nghĩa còn lại như Nghĩa Đăng giải thích.
Luận: Hai thủ chấp nó.
Các dụng này duyên ba kiến đồng khởi, đứng về khổ tập, lý có ngăn cách nên gọi đó là thưa xa, là chú trọng duyên hoặc.
Sớ: Tức bốn kiến khác và nghi không có pháp chấp v.v...
Nghi cùng bốn kiến ngã kiến không đồng thời, ông nói ngã kiến nhiếp pháp chấp hết, tức bốn kiến, nghi lại không có pháp chấp lại thành lỗi lớn, lẽ nào có phiền não không y pháp chấp mà được khởi ư?
Sớ: Nếu trừ ngoài ảnh v.v...
Có nghĩa nói, nay không y nơi này, ngoài ảnh gá nương chưa hẳn đồng thời, như trước nghe có quá khứ, vị lai gọi là sau mới duyên, vì tâm sau sinh không có danh tướng. Lại lựa chọn các cảnh không có tên, giả sử xa mượn danh nhưng có thể thừa nhận gọi là tăng thượng duyên, làm sao thành bản chất? Đồng thời phát ảnh gọi là chất, trước tâm duyên danh, tùy danh phân biệt, tâm sau duyên nghĩa ảnh tượng mới sinh, năng thuyên sở thuyên đều không tương tợ, lẽ nào được gọi là hậu nghĩa chất? Nên biết ảnh tượng cũng có chất hoàn toàn không gá nương, nếu không như vậy lại trái với quyển 1 ở trước nói uẩn ngoài tự tâm hoặc có hoặc không.
Biện rằng: Sớ này hỏi ý đáp lựa chọn Hữu tông, Hữu tông tâm sinh không đâu mà không nương chất, dù duyên hoa đốm trong hư không, lông rùa sừng thỏ cũng dùng tên làm chất sinh khởi. Dù cho lựa chọn, do các tên ấy là tâm năng duyên, xa gần nương gá tương tợ với chân thật. Nói tức không không có bản chất, chẳng phải thừa nhận các tên đồng thật các trần thể bản chất nói không là không? Vì sao được dùng thật chất làm vặn hỏi? Lại năng thuyên sở thuyên hỗ tương không tương tợ v.v... điều này cũng không đúng, lẽ nào là các chất, tướng đều tương tợ ư? Như ngại, không ngại, lự, không lự v.v... chẳng phải một. Các vặn hỏi khác chuẩn theo đây lỗi của đức có thể biết, không đợi phải nói.
Sớ: Nay trong duyên Vô lậu không được làm giải thích sau.
Lậu, Vô lậu duyên chất ảnh đều nói, nêu bày sự vô sự không chỉ có mong chất.
Sớ: Du-già nói mười phiền não v.v... Đây là văn quyển 58.
Sớ: Diệt đạo Phật pháp rộng lớn v.v...
Phân biệt diệt đạo, duyên an lập đế. Phật pháp rộng lớn, duyên chẳng phải an lập Chân như làm cảnh.
Sớ: Đối Pháp quyển 5" đến "đồng văn đầu quyển 59".
Có nghĩa sớ nói là đồng, nay giải thích có khác. Mạn kiến sáu pháp đồng, tham sân hai loại, văn quyển 59 từ nhiều phần cho nên chỉ nói hữu sự. Trong Đối Pháp tận lý, cùng kiến mạn đồng thời cũng gọi là vô sự, nhưng nghi một loại Du-già tận lý nói thông hai loại. Trong Đối Pháp đã nói kiến mạn đồng thời mới gọi là vô sự, nghi chẳng phải câu ấy không thông vô sự nên lý không tận, vô minh một loại hai luận không trái.
Biện rằng: Sớ bao quát các văn, khảo xét lý nó, lý văn thuận là nói không trái nhau, nếu văn sai lệch lấy ý chỉ để khế hội. Ban đầu quyển 59 văn có trái, do như trước đã khế hội. Đối Pháp quyển 5 lý cũng có thiếu, bàn lý đồng bất tận gọi là đồng, chẳng phải căn cứ văn ấy mỗi mỗi đồng. Lại như lý sở đoạn cũng còn thừa, trong Đối Pháp tham sân đâu được tận lý, tà kiến, kiến giới lẽ nào chỉ có vô sự? Nói kiến tương ưng đều gọi là vô sự, vì sao chẳng phải là lỗi lớn? Lỗi thái quá còn thì lý tận ở đâu? Nếu nói căn cứ kiến vô sự mà nói, nếu vậy văn lẫn lộn vì sao gọi là tận lý? Do đây mà nói thì sớ không trái.
Luận: Thân sở duyên ấy tuy đều Hữu lậu.
Xét luận Đối Pháp quyển 6 ghi: Lại duyên Diệt đạo đế các phiền não, không thể thân duyên diệt đạo làm cảnh, do diệt đạo đế xuất thế gian trí và Hậu đắc trí nội sở chứng, chỉ là y vọng khởi phân biệt ấy nói là sở duyên, vì cảnh phân biệt sở chấp không lìa phân biệt.
Sớ: Cùng hữu sự duyên khác nhau, không thể làm ví dụ.
Ở đây có hai ý: một là thành hữu sự duyên giải thích thứ nhất, hai là thành Vô lậu ắt đứng về ảnh chất không được, do trong hữu sự duyên kia ban đầu giải thích cùng nêu bày.
Hỏi: Vì sao gọi là khác?
Đáp: Hữu sự duyên hoặc năng sở hai duyên nhưng đều là Hữu lậu, có nghĩa thuận nhau, nên căn cứ thẳng vào chất để nói, Vô lậu duyên hoặc, năng sở hai duyên chỉ có trái không thuận, nên không chỉ có chất được duyên này.
Luận: "Duyên tự địa" đến "sở khởi gọi là cảnh". Tướng, danh, phân biệt cả ba gọi là sự. Sự y phân biệt mà sở khởi, y chủ thọ mà gọi. Diệt đạo v.v... gọi là y phân biệt khởi, y chủ đồng với trước làm cảnh nên biết. Cho nên luận Du-già quyển 58 ghi: Nếu duyên khổ tập sự cảnh tất cả các lậu, là duyên tà phân biệt sở khởi sự cảnh. Duyên diệt đạo cảnh và duyên không đồng phân giới cảnh tất cả các lậu, là duyên tự phân biệt sở khởi gọi là cảnh. Vì sao? Chẳng phải phiền não năng duyên này diệt đạo cũng không thể năng duyên không đồng phân giới, chẳng phải không có sở duyên.
Giải thích: Nói không thể duyên, là hiển bày chẳng tương tợ, chẳng phải không có sở duyên, hiển bày tuy không tương tợ nhưng nương gá ở danh, cũng lại duyên nó.
Luận: Chỉ là phần vị phiền não Đẳng lưu tánh.
Hỏi: Mỗi phần vị nào là Đẳng lưu nào?
Đáp: Xét luận Du-già quyển 58 ghi: Các tùy phiền não phải biết đều là phẩm loại phiền não, lại như phóng dật, là tất cả phẩm loại phiền não, vì sao? Lúc ở nhiễm ái phần nhiều sinh phóng dật, nhẫn đến lúc nghi cũng có phóng dật, tham chấp xan lận, kiêu mạn trạo cử v.v... đều là phẩm loại tham, đều là Đẳng lưu tham. Phẫn hận, não, tật, hại v.v... là phẩm loại sân là Đẳng lưu sân. Siểm, cuống là phẩm loại tà kiến, là Đẳng lưu tà kiến. Phú là phẩm loại siểm, nên biết tức phẩm loại Đẳng lưu ấy, các tùy phiền não là phẩm loại si là Đẳng lưu si. Các luận không đồng như ở sau tùy theo văn sớ tự giải thích, nên không nói lại.
Luận: Hai mươi loại này, riêng có ba.
Có nghĩa phẫn v.v... mười loại chỉ có ý thức đồng thời gọi là tiểu. Vô tàm v.v... cả hai thông sáu thức nên gọi là trung, trạo cử v.v... tám loại này có khắp bảy thức nên gọi là đại.
Biện rằng: Cũng có lý này, nhưng không có chỗ nương, lại y luận giải thích.
Luận: Năng chướng không phẫn, cầm gậy là nghiệp.
Trong luận Hiển Dương quyển 1, hai mươi tùy hoặc đều đủ năm nghiệp, phẫn nghiệp có năm, năng chướng không sân thành nghiệp, nhẫn đến tăng trưởng phẫn thành nghiệp.
Giải thích: Ba nghiệp ở giữa cùng bản hoặc đồng nên nói "nhẫn đến", còn lại chuẩn theo đây nên biết, sau bỏ không nói.
Sớ: Nhân này bất định cũng không biến khắp.
Dị phẩm thiếu nó vì biến khắp vô tánh.
Luận: "Tạp sự v.v..." đến "nhiều tùy phiền não".
Xét luận Du-già quyển 58 cũng dẫn. Nếu trong Tạp sự đức Thế Tôn trước nói các tùy phiền não rộng nói nhẫn đến sầu, than, ưu, khổ theo nhiễu não v.v... Lại quyển 86 ghi: Tên khác của tham phiền não có mươi lăm loại, si có bảy loại, đủ như luận kia nói.
Luận: Nghĩa là tên tùy phiền não cũng nhiếp phiền não.
Xét luận Đối Pháp quyển 7 ghi: Tùy phiền não là tất cả các tùy phiền não đều là tùy phiền não, có tùy phiền não chẳng phải phiền não, nghĩa là trừ phiền não còn nhiễm ô hành uẩn đã nhiếp tất cả tâm pháp, đây lại thế nào? Nghĩa là trừ tham v.v... sáu thứ phiền não, còn các nhiễm ô khác hành uẩn đã nhiếp phẫn... các tâm pháp. Lại tham sân si gọi là tùy phiền não tâm pháp, do tùy phiền não này tùy phiền não ở tâm, khiến không lìa nhiễm, khiến không giải thoát, khiến không đoạn chướng cũng gọi là tùy phiền não.
Sớ: Thú hướng đến trước.
Xét luận ấy ghi: Nghĩa là thọ tăng-kỳ, hoặc lại người khác có các y phục, lợi dưỡng, hoặc thỉnh Tăng-kỳ và cùng người khác đều gọi là thú hướng. Nếu các Bí-sô đối với việc như vậy đầu tiên đi trước nên gọi là thú hướng đến trước.
Luận: Có nghĩa phẫn v.v... bốn pháp đồng thời trừ lạc.
Hỏi: Trong Na-lạc-ca mới có khổ thọ, vì sao nó có xan thông bốn thọ?
Đáp: Trong truyện có hai giải thích:
1. Tuy không có tài vật v.v... đối với tự khổ cụ cũng có xan.
2. Đối với pháp tự sở tri chấp nhận có xan.
Biện rằng: Giải thích trước hoàn toàn sai, ai đối với khổ cụ thấy luyến tiếc? Thứ hai lý thông. Xét trong Đại Bát-nhã Bồ-tát đối với họ dùng đạo Tam thừa giáo hóa hữu tình, rõ ràng thừa nhận nghe pháp, nên biết đối với pháp, xan cũng đâu có lỗi gì. Nay lại giải thích rằng: Chỉ nói xan pháp được khổ thọ đồng thời, chẳng phải nói có khổ đều có xan. Thuần khổ quỷ, súc khổ được xan đồng thời, không trái ý chỉ luận.
Sớ: "Chẳng phải nói bất cộng vô minh" đến "ác tuệ đồng thời".
Bất cộng vô minh đã có không cùng ác kiến đồng thời, bất chánh tri của vị vô minh này nương đâu mà lập? Do đây nên biết, y vô minh mà lập bất chánh tri v.v... mới gọi là nhiễm khắp.
Sớ: Tụ vô minh này các pháp khác cùng với đây đồng thời.
Đây ngăn người ngoài vặn hỏi, ý người ngoài vặn hỏi rằng bất cộng vô minh ác tuệ không có, lẽ nào chỉ có một, cho nên nay đáp rằng tuy không có ác tuệ cùng các pháp đồng thời cũng không chỉ có mình nó.
Sớ: Tức đối với vô minh giả kiến lập.
Nghĩa này như trước luận quyển 4 phần cuối, trong tám biến nhiễm thì sớ Nghĩa Đăng giải thích đủ, tìm xem có thể rõ, đây không ghi lại.
Luận: Phạm đối với Thích tử khởi siểm cuống.
Xét luận Bà-sa quyển 129 dẫn kinh ghi: Như Phật xưa ở trong thành Thất-la-phiệt rừng Thệ-đa, lúc bấy giờ có Bí-sô tên là Mã Thắng, là A-la-hán, khởi tư duy như vầy: "Các bốn đại chủng sẽ ở vị nào diệt hết không sót, phiền não ràng buộc vì muốn biết nên nhập thắng đẳng trì", liền dùng định tâm ở rừng Thệ-đa chết, ở tứ đại Thiên vương từ trong định xuất mà hỏi Thiên chúng ấy: Các bốn đại chủng sẽ ở vị nào diệt hết không sót? Thiên chúng đáp: Không biết. Như vậy Dục giới Lục dục thiên v.v... cứ thế tìm cầu, nhẫn đến tìm khắp Tha hóa tự tại thiên. Mã Thắng lại khởi tâm suy tìm các chúng Phạm thiên, muốn đến Phạm thế lại nhập thắng định, lại dùng định tâm từ Tự tại cung chết, từ Phạm chúng thiên xuất định mà hỏi như trên.
Phạm chúng đều nói: Chúng tôi không biết. Mã Thắng lại tìm đến Đại phạm. Mã Thắng hỏi như trước, Đại phạm chúng bị Mã Thắng bất ngờ hỏi, Phạm vương không biết nên đáp loạn rằng: "Tôi ở chúng này là Đại phạm, Tự tại, Tác giả, Hóa giả, Sinh giả, Dưỡng giả, là cha tất cả" nên biết có cuống. Nói xong, dẫn ra ngoài chúng, siểm khúc hổ thẹn trở lại hỏi Phật, nên biết có cuống.
Luận: "Nhưng phẫn v.v... mười" đến "mới được sinh".
Có nghĩa giải thích riêng mười tên ở trước là hữu sự, chẳng phải là đại môn, trong sớ nói sai, Hữu lậu ở sau v.v..., mới là thứ mười ba.
Biện rằng: Nếu chẳng phải đại môn, đây thuộc môn nào? Nếu nói thuộc môn trước chỉ nói mê đế thân sơ, nghĩa môn hoàn toàn sai khác đâu thuộc nó. Lại hữu sự v.v... tự là một nghĩa. Văn nghĩa hữu sự tự làm môn ấy, rốt cuộc trái lý nào mà không thừa nhận? Không nói mười biến nhiễm ở sau. Mười biến nhiễm, tâm bất thiện ở sau tùy theo chỗ biến ấy thông sự vô sự, dễ cho nên không nói, duyên Hữu lậu v.v... đã nói chuẩn theo trên nên không lập pháp, tức phần thứ hai nêu bày các môn. Sớ: Kế đến chữ "năm" là nêu bày tên.
Thứ nhất chữ "nghĩa là" nêu tên cần có, cũng gọi là nêu tên.
Sớ: Là ngã ác biên tác.
Nói ngã biên là hiển bày tự chỉ mình, nhưng văn sớ ngược, nên lẽ ra nói rằng: Ngã biên ác tác. Có bản giải thích, chữ "chỉ" viết nhầm thành chữ "thố", nên luận Du-già quyển 11 ghi: Lại đối với việc nên làm, không nên làm, tùy theo thích ứng ấy hoặc đã từng làm, hoặc chưa từng làm tâm sinh hối hận rằng tại sao ta xưa nên làm, không nên làm, việc chẳng nên làm lại làm.
Luận: Như các cái triền khác.
Nói cái là xét trong Đối Pháp quyển 7 nói, hay khiến thiện phẩm không được hiển bày là nghĩa của cái, che lấp tâm kia ngăn các thiện phẩm khiến không lưu chuyển.
Hỏi: Đối với những vị nào chướng các thiện pháp?
Đáp: Đối với vị ưa thích xuất gia, giác chánh hành, chỉ cử xả, nghĩa là khi ưa thích xuất gia, tham dục cái là chướng, tham cầu thọ dụng cảnh giới bên ngoài, vì đối với nó không ưa thích. Lúc ở giác chánh hành, sân khuể cái là chướng, ở chỗ phạm học xứ đồng với người có hạnh thanh tịnh ngay khi phát giác, do tâm sân khuể không chánh học. Đối với hai vị chỉ cử thì hôn trầm, thùy miên trạo cử, ác tác cái là chướng, như trước đã nói năng dẫn hôn trầm và tán loạn, ở vị xả nghi cái là chướng, xa lìa quyết định không thể xả. Trong sớ biện có khác chút ít, ý đồng ở đây.
Hỏi: Hôn trầm v.v... bốn pháp thành hai cái, ý ấy làm sao?
Đáp: Hôn trầm, thùy miên hành tướng tương tợ, thùy miên lại làm hôn trầm cận duyên sinh các phiền não nên hợp thành cái. Luận Du-già quyển 11 ghi: Không có tánh kham nhậm gọi là hôn trầm, tâm mê mờ cực lược tánh gọi là thùy miên, do hôn trầm này sinh các phiền não, tùy phiền não, không còn cận duyên như thùy miên là trạo cử, ác tác sở khởi xứ, giả sử xứ không đồng do trạo cử náo động, ác tác, tướng ưu biến tương tợ nên hợp lập một cái, tức luận Du-già ghi: Trạo cử ác tác đều do thân thuộc, tầm tư, quốc độ, xưa đã trải qua sự việc mà khởi, nên tổng kết rằng, do trước trạo cử cùng chỗ ác tác này đồng nên hợp nói một cái. Xứ sở không đồng nhưng như tướng kia nương tựa náo động, nay đây cũng lại là tướng ưu biến, thế nên cùng với nó tạp nói một cái.
Hỏi: Chỉ, cử, xả hành tướng thế nào?
Đáp: Xét Đại luận quyển 77 ghi: Nếu tâm trạo cử, hoặc sợ trạo cử, lúc này các pháp đáng nhàm chán tác ý, và tâm vô gián kia tác ý gọi là tướng của chỉ. Nếu tâm chìm đắm hoặc khi sợ chìm đắm, các pháp đáng thích tác ý và tâm tướng ấy tác ý gọi là tướng của cử. Nếu một bề dứt đạo, hoặc một bề quán đạo, hoặc lúc song vận chuyển đạo hai tùy phiền não bị nhiễm ô, không có công dụng tác ý và tâm mặc tình chuyển, trong đó tất cả tác ý gọi là tướng xả.
Luận: Tùy phiền não và si phần.
Xét luận Du-già quyển 55 ghi: Tùy phiền não tự tánh nghĩa là phẫn đến ác tác, thùy miên, tầm tứ. Lại nói, thùy miên, ác tác là si phần nên đều là thế tục có.
Luận: Chẳng phải tư tuệ tưởng trói buộc tánh nó.
Đủ như sớ ấy biện. Lại nói, hoặc thùy miên kia lẽ ra đều nên nói trong nhiễm không nhiễm tùy theo một nhiếp. Hoặc nói nhân trước tự tùy theo một pháp không thành, tự nói chẳng phải là tư tuệ tưởng. Nếu nói nhân sau hữu pháp làm nhân là trái với lý môn.
Biện rằng: Xem trong sớ, nhiễm tịnh trước sau hai nhân thật không có lỗi. Lại hữu pháp trước không nói tư tuệ mà nói thẳng là thùy miên, có thể như đã trách, trước đã nói nhiễm tư tuệ, sau nhân đó nêu lại cũng đâu có lỗi gì. Lại nếu nhân sau toàn lấy hữu pháp nên trái với lý môn, nay hữu pháp cùng nhân tăng giảm toàn có không đồng vì sao có trái luận? Nếu như nhiễm sở lập chẳng phải nhiễm nhân mới là chẳng phải ý của luận, như trong sớ nói lý thông văn thuận. Lại thùy và hối đều có nhiễm tịnh, nhiễm tịnh khai riêng lại thành bốn lượng, trong sớ hợp nói hai.
Sớ: Tên không giống như Niết-bàn.
Nếu chỉ nói cảnh không đâu chẳng phải cảnh, nói tên duyên tên cảnh thì cảnh liền hạn cuộc, do tên không giống như Niết-bàn v.v... nay nói ý cảnh, ý cảnh bèn rộng, do trong ý chứng Chân như v.v... Luận: "Hai pháp này đều lấy" đến "vì nghĩa loại sai biệt".
Hỏi: Trong Đối Pháp quyển 1 ghi: Tầm y tư y tuệ, là đối với vị suy tìm không suy tìm, như thứ lớp ấy truy cầu hình tướng ý nói phân biệt. Tứ y tư y tuệ là đối với vị suy tìm không suy tìm, như thứ lớp kia quán sát hành tướng, ý nói phân biệt. Như vậy hai loại an, bất an trụ sở y làm nghiệp, nay nói suy tìm sâu xa, suy tìm không sâu xa, lẽ nào không trái nhau?
Đáp: Hiểu như trong sớ, Nghĩa Đăng.
Sớ: Sở đối khác nhau.
Tầm tứ đứng về tướng giả thật đối nhau. Hối, miên căn cứ ở hình tướng chân tục, nên tuy tổng giả lập gọi là hữu khác nhau.
Sớ: "Nhưng sở đối khác nhau" đến "tất cả định giả".
Tuy thật có tự thể, chẳng phải Thắng nghĩa nên được tên thế tục.
Luận: Y nơi tầm tứ có nhiễm ly nhiễm v.v...
Đây đồng với Du-già quyển 4 nói. Xét luận ấy ghi: Dục giới và Sắc giới sơ Tĩnh lự, trừ trung gian
Tĩnh lự, hoặc định hoặc sinh gọi là Hữu tầm hữu tứ, tức trung gian Tĩnh lự, hoặc định hoặc sinh gọi là Vô tầm chỉ có tứ địa, tùy theo một hữu tình do tu đây cho nên được làm Đại phạm. Từ Tĩnh lự thứ hai, hữu sắc giới và vô sắc giới khác đều gọi là Vô tầm vô tứ địa. Trong này do lìa tầm tứ dục đạo lý gọi là Vô tầm vô tứ địa, không do đâu mà không hiện hành, vì sao? Chưa lìa dục của Dục giới, do tác ý dạy dẫn dắt sai biệt, ở một thời gian cũng có Vô tầm vô tứ ý hiện hành, đã lìa tầm tứ dục cũng có tầm tứ hiện hành, như xuất định ấy và sinh cõi ấy. Nếu cõi Vô lậu Hữu vi định nhiếp sơ Tĩnh lự cũng gọi là Hữu tầm hữu tứ địa, y tầm tứ xứ pháp duyên Chân như làm cảnh, vào định này nên không do phân biệt hiện hành. Còn lại như trước đã nói.
Luận: Luận nói năm thức có tầm tứ.
Tức luận Du-già quyển 56. Trong đó có hỏi đáp, lời hỏi dẫn trong sớ, văn đáp nay dẫn rằng, do Hữu tầm hữu tứ chủng tử các thức tùy theo Vô tầm vô tứ Tam-ma-địa, từ Tam-ma-địa khởi rồi, đây được hiện tiền. Lại ở đây khởi thức hiện hành lại là Vô tầm vô tứ Tam-ma-địa, chủng tử đã tùy theo, thế nên địa này chẳng phải là một bề Vô tầm vô tứ, do hữu tình ấy đối với các tầm tứ, do tánh ly dục mà ly dục. Địa ấy tuy gọi là Vô tầm vô tứ, này lại hiện hành cũng không có lỗi. Chuẩn theo hỏi đáp này cho nên năm thức có tầm tứ.
Sớ: "Tuy không có tự tánh" đến "cũng có tầm tứ".
Tuy không có văn nói tự tánh ấy là tầm tứ, nhưng luận Đối Pháp nói tự tánh ấy tức là hữu tướng. Hữu tướng Du-già nói là tầm tứ, do đây triển chuyển mà bàn, nên biết năm thức có tầm tứ. Luận: Hiển bày phần nhiều do nó khởi.
Sớ có hai giải thích. Có nghĩa giải thích thứ hai kia rằng: Sớ nói sinh trên ắt tầm tứ dẫn mới có thể khởi các thức ở sau như nhãn v.v..., lẽ nào khởi năm thức phải ý sau dẫn sinh? Địa dưới còn dùng định trên có thể dẫn ra năm thức, vì sao sinh trên mới khởi tầm tứ thức dẫn ở cõi dưới? Chưa hẳn tận lý, nhưng sắp khởi trên, các địa ý thức năng dẫn nhãn thức ở sau là thù thắng, như Đại Bồ-tát lẽ nào không thể dùng các địa tâm trên dẫn ở sau năm thức khởi? Cho nên quyển 56 nói, từ Vô tầm tứ Tam-ma-địa khởi rồi được hiện tiền này, không nói lại khởi tâm địa dưới. Luận này lại nương trước sau dẫn sinh mà nói, từ định khởi được hiện tiền này, lý thật ra từ Địa thứ tám trở đi Bồ-tát ở các địa tâm đủ năm thức, cho nên phần nhiều nói cũng còn sinh trên mà khởi dưới.
Biện rằng: Nếu thừa nhận ý trên dẫn nhãn dưới, hai định ý trên tầm tứ không có, vì sao được nói hiển bày phần nhiều do nó khởi? Lại quyển 56 không nói xuất định liền khởi tâm dưới liền chứng tâm trên dẫn thức dưới. Sư thứ hai này căn cứ lý nào nói phần nhiều do nó khởi? Nếu nói địa dưới phần nhiều do nó khởi, đây không phải chống chế bản thông ở trên không khế hội cõi dưới. Nếu nói chỉ ngăn, sớ nói nhất định không chướng, có lúc thức sau dẫn. Nếu vậy vì sao dẫn "không khởi tâm dưới" trong quyển 56 lấy đó làm chứng? Bản khế hội văn ấy, phần nhiều do nó khởi, đã do nó chứng không do ở sau dẫn, vì sao mà có thể khế hội văn ấy ư? Lại lúc nào mà do nó khởi? Giả sử nói lúc khác vì không có nhân khác, lại nói sinh ở sau còn dụng định trên dẫn năm thức, dẫn năm thức nào? Nếu dẫn địa trên, lại bị tự hại trái lại chứng nghĩa khác, nếu dẫn thức sau, thức tự địa quán tập có thể như vậy, thân trên dẫn địa dưới đã không đồng đâu được cùng ví dụ. Lại ví dụ Bồ-tát cũng chưa hợp lý, nhưng khởi dưới có lỗi gì? Lẽ nào khởi thức dưới là đánh mất nghĩa tự tại? Sự trí của Như Lai không thân chứng lý, lẽ nào đánh mất nghĩa trí của Như Lai biến khắp? Lại sớ đối với chỗ tranh luận để rõ không nói tất cả, chưa thể dùng Bồ-tát làm ví dụ.
Sớ: Đây trái với trong định nghe tiếng v.v...
Biện rằng: Trong kinh Thâm Mật căn cứ tán phần nhiều mà nói, nên cũng không trái.
Luận: Hối chỉ chấp nhận cùng vô minh tương ưng.
Hỏi: Đồng thời vô minh này lẽ ra chỉ có bất cộng, bất cộng mê lý, đây mê hay không mê.
Đáp: Giả sử như vậy cũng đâu có trái.
Hỏi: Cả hai đều có lỗi, nếu không mê thì vì sao gọi là tương ưng?
Đáp: Vì sở duyên khác nhau.
Hỏi: Nếu nói mê nhưng nhân tà kiến dẫn sinh, nghĩa thân ở đâu?
Đáp: Trong truyện có ba giải thích:
1. Chỉ nói bất cộng có thân mê lý, chẳng phải đều thân mê.
2. Tuy sức tà kiến dẫn sinh, không duyên kiến khởi nên cũng thân mê.
3. Hối đồng thời vô minh cũng là phi chủ, do nhiễm hối này chẳng phải thuộc thân mê.
Xác quyết rằng, nhưng hối thân mê lý khéo chấp, nên nói bất cộng chẳng phải thân mê, tuy trái với văn luận, nhưng lý thuận nhau.
Biện rằng: Nhiễm hối là hối tu ở thiện, hối không làm ác, đây lẽ nào chẳng phải mê lý khổ đế ư? Tuy lại tà kiến trước sau dẫn sinh không duyên làm cảnh, thân mê cũng đâu có lỗi gì, vì không có văn ngăn.
Luận: Trong vị văn tư có hối miên.
Hỏi: Hối miên không có năm thức, vì sao được có văn?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Duyên cảnh sở thọ, nghe nói pháp cũng được gọi là văn.
2. Miên chỉ có tư.
Trong văn tổng nêu chẳng phải hiển bày vị miên được gọi là văn, nay lấy giải thích trước.
Luận: Cũng chẳng phải như ưu thâm cầu giải thoát.
Ưu cầu giải thoát là căn Vô lậu, nên thông bất đoạn. Luận Đối Pháp quyển 11 ghi: Vị tri căn nghĩa là tín v.v... năm ý hỷ là ưu xả, Dĩ tri thể căn số cũng đồng.
Luận: Nếu đã đoạn nên chẳng phải thuộc sở đoạn.
Hỏi: Bất hoàn đoạn miên, vì sao chỉ có nói Vô học đoạn gọi là phi sở đoạn?
Đáp: Hất hoàn năng duyên trói buộc chưa hết nên không đồng Vô học.
Luận: "Chánh tư duy" đến "tìm cầu".
Xét luận Hiển Dương quyển 2 nói là Vô lậu và tầm, tức luận ấy ghi: Hai là chánh tư duy, nghĩa là y chánh kiến cùng Vô lậu câu hành, ly dục tư duy, không sân giận tư duy, không hại tư duy, ở trong tu đạo tương tục tác ý tư duy các đế, cùng Vô lậu tác ý tương ưng khiến tâm thú nhập, cực thú nhập, tìm cầu cực tìm cầu.
Giải thích: Thú là hướng, nhập là giải, tầm nghĩa là suy tìm. Thú và tầm này đều có mạnh yếu nên nói "cực", các văn khác nên rõ.
Hỏi: Tứ vì sao không nhập bát chánh đạo?
Đáp: Chưa thấy văn của Đại thừa nói. Vả lại y Hữu tông, luận Bà-sa quyển 99 ghi: Tứ không có tướng ấy, cho nên không lập. Lại nữa, phần pháp Bồ-đề hành tướng nhanh mạnh, dụng của tứ kém liệt thế nên không lập. Lại nữa, dụng của tứ bị tầm ngăn che tổn hại, đối với cần chánh kiến dụng của tầm tăng thêm, nên tứ không lập phần pháp Bồ-đề. Luận Hiển Dương ghi: Tìm cầu cực tìm cầu, đây tức là tầm, thú nhập cực thú nhập đây tức là tứ, hai loại gọi chung là chánh tư duy, cùng Tiểu thừa sai biệt nên cũng không có lỗi. Lại trong Du-già quyển 29 ghi: Do sức tăng thượng của chánh kiến này khởi xuất ly, vô khuể vô hại phân biệt tư duy gọi là chánh tư duy, nếu tâm thú nhập vào các tầm tứ. Nó chỉ có tầm tư, tướng trạng như vậy có tầm tư, nếu tâm thú nhập vào các ngôn luận.
Luận: Lại nói nó là nhân ngôn thuyết.
Trong luận Đối Pháp ghi: Chánh tư chỉ là chỉ dạy chi khác, như sở chứng này phương tiện an lập phát ra lời nói, tức trong Du-già nói nếu tâm thú nhập vào các ngôn luận cũng là nhân ngôn thuyết.
Sớ: Thập địa thứ nhất" đến "tầm Vô lậu".
Hỏi: Luận ấy không nói chánh tư duy, căn cứ ở đâu nói có?
Đáp: Luận ấy lập lại tụng của người tịnh giác. Y luận Phạm bản gọi là tư duy, sớ y Phạm văn nên không có lỗi.
Hỏi: Kinh nói tư duy, vì sao là chứng tầm thành
Vô lậu?
Đáp: Nói tư duy là một trong Bát chánh đạo, thể tức là tầm, nên được làm chứng. Lại các chúng Bồ-tát như Giải Thoát Nguyệt thỉnh Kim Cương Tạng giải thích nghĩa Thập địa, chuẩn theo kinh Thập Địa khen ngợi đức của Bồ-tát. Kim Cương Tạng v.v... Địa thứ tám trở lên, thượng vị ý thức chỉ là Vô lậu. Giải thoát Nguyệt v.v... khen là Tịnh giác, Tịnh giác rõ biết thể chẳng phải Hữu lậu.
Sớ: "Hỏi đã dẫn Thập địa" đến "vì là nhân ngữ ngôn".
Ý vặn hỏi cho rằng, nói tư duy là bản kinh tụng, luận gia giải thích rằng: Vì sao chỉ có khen Tịnh giác? Vì Tịnh giác là nhân ngôn thuyết. Giác gọi là giác quán là ngôn hành của miệng, chuẩn theo văn luận ấy cũng được làm chứng vì sao không dẫn ra? Sớ: Nên dẫn không đồng, lẽ ra nên nói là Tịnh tư duy.
Hiển bày luận gia nay chỉ dẫn bản kinh không dẫn luận thích, không dẫn ý luận biện đủ như trong Nghĩa Đăng.
Hỏi: Nếu dẫn bản kinh, kinh tụng không nói chánh tư duy là nhân ngôn ngữ, đâu được dẫn chứng làm nhân của thuyết?
Đáp: Văn tuy không nói lý ắt có thể, nên kinh tụng ghi: "Vì sao người Tịnh giác niệm trí công đức đủ, nói các thượng diệu địa, có lực không giải thích". Đã nói Tịnh giác nói thượng diệu địa nay vì sao không giải thích? Rõ biết Tịnh giác tức là nhân thuyết, nếu không như vậy vì sao nêu bày có Tịnh giác trách không giải thích?
Biện rằng: Xem văn xét lý bao gồm luận không tổn hại, vì sao? Hơn nữa nói Giác quán, nếu Phạm bản có, tức không nên trách dịch chủ tăng thêm. Nếu Phạm bản không, sư tưởng Duy thức không dẫn sự nhầm này, lấy nghĩa "tư duy" của chánh luận kia thông chứng nguyên do của nhân quả ngôn thuyết, rốt cuộc có lỗi gì? Luận nói nhân thuyết rất rõ ràng, nên suy nghĩ lại.
Luận: "Hậu đắc trí" đến "ắt nhờ tầm tứ".
Hỏi: Trong căn bản trí có tầm tứ chăng?
Đáp: Không có, cho nên luận Du-già quyển 73 ghi: Hỏi: Nếu tư duy Chân như tức quán Chân như ư? Giả sử quán Chân như tức tư duy Chân như? Đáp: Nên làm bốn câu, có tư duy Chân như chẳng phải quán Chân như, nghĩa là do phân biệt sở nhiếp như lý tác ý tư duy Chân như, nhưng thấy tướng Chân như không thấy thật Chân như, nhẫn đến chưa được chánh thông đạt vị và thông đạt hậu tác ý tư duy an lập Chân như; có quán Chân như chẳng phải tư duy Chân như, nghĩa là khi thông đạt Chân như do Thắng nghĩa nên tư duy tướng ấy; có tư duy Chân như cũng là quán Chân như, nghĩa là sau khi thông đạt tương tục tư duy phi an lập Chân như; có không tư duy Chân như cũng không quán Chân như, nghĩa là lìa như lý sở dẫn các tướng tác ý tư duy.
Giải thích: Câu thứ hai ấy tức căn bản trí nói chẳng phải tư duy, rõ ràng không có tầm tứ.
Hỏi: Nếu vậy vì sao nói do Thắng nghĩa tư duy tướng kia?
Đáp: Không đồng với Gia hạnh, Hậu đắc trí v.v... nói chẳng phải tư duy. Nhưng thân chứng chân nói do Thắng nghĩa gọi là tư duy tướng ấy. Tư duy chính là tên khác của năng duyên, cũng như tên gọi Mạt-na xuất thế, chẳng phải nhiễm ý nên không gọi là tư lương. Vô lậu chánh tư cũng gọi là ý.
Luận: Luận Trang Nghiêm thừa nhận tâm tợ hai hiện.
Theo Thích luận quyển 5 (dịch vào đời Tùy) ghi: "Hai pháp năng thủ và sở thủ chỉ có tâm quang, không có hai pháp tham quang và tín quang".
Giải thích: Người học Duy Thức phải biết hai pháp năng thủ và sở thủ chính là tâm quang. Như vậy tham v.v... là phiền não quang, và tín v.v... là thiện pháp quang. Hai loại quang này không có hai pháp nhiễm và tịnh, vì hai pháp nhiễm tịnh chẳng lìa tâm quang mà có pháp nhiễm, tịnh của tham...
Biện rằng: Chuẩn theo sớ này nói năng thủ và sở thủ là tợ hai hiện, lý văn hợp nhau.
Luận: Tha tánh tương ưng chẳng phải tự tánh.
Theo Đối Pháp ghi: "Cùng tương ưng với hành đó là tâm, tâm sở đối với một sở duyên triển chuyển đồng hành". Sự tương ưng này có nhiều nghĩa. Đối với tha tánh tương ứng chẳng phải tự tánh, giống như tâm không tương ứng với tâm khác. Thọ không hòa hợp cùng với thọ. Luận Dugià giải thích đầy đủ như trước dẫn.
Luận: "Lại vì sao lại nói" đến "như ánh sáng mặt trời".
Theo kinh Lăng-già quyển 7 ghi: Tâm, tâm sở pháp có cùng một lúc chẳng có trước sau, giống như ánh nắng mặt trời chiếu tỏa một lúc, nhưng các hình tướng phân biệt khác nhau.
Sớ: Họ chấp thể sáu thức chỉ có một.
Có nghĩa, điều này chưa hẳn đúng, ý họ chỉ nói đồng với liễu biệt, phân chia vị trí sáu thức trước sau thì không đồng nhau.
Biện rằng: Nếu thức có sáu dụ lẽ nào được thành? Sở dụ bốn uẩn thể chỉ có một, nếu liễu biệt đồng là dựa theo vị trí thức chia thành sáu. Thể thật có khác, sự có sai biệt. Lấy uẩn thể so sánh nghĩa của uẩn giống nhau nhân chia theo vị trí có bốn thể theo mỗi cái khác phân biệt lại đồng dụ với thức. Do lỗi này nên cho thể có hai, dù chẳng phải bản chấp nhưng vì câu hỏi trước này cho nên chuyển kế chấp, huống gì kinh luận chỉ nói một tâm.
Sớ: Trong kinh thường dụ ánh đèn. Sơ lược có hai giải thích:
1. Ánh đèn và tim đèn, lấy dụ đồng thời tâm, tâm sở pháp.
2. Khi các ngọn đèn đều thắp sáng, ánh sáng của chúng hòa quyện lẫn nhau; các tâm và tâm sở hòa hợp cũng như vậy.
Biện rằng: Giải thích trước hay hơn, vì sao? Luận Du-già ghi: Như vậy các kinh khác đều nói các pháp cùng hòa hợp. Lại như Thế Tôn vì muốn lập nghĩa hòa hợp lấy thí dụ ánh đèn, nếu như giải thích sau thì dụ không có khắp, vì việc thắp đèn hoặc một, hoặc nhiều không cố định, nhưng ánh đèn và tim đèn hoàn toàn đều tỏa sáng hòa quyện lẫn nhau.
Luận: Duyên gọi là tác ý các duyên.
Có nghĩa, như lấy sắc cần phải có ánh sáng, nếu ở trong bóng tối thì bị chướng ngại. Theo lý, vật ở trong bóng tối có loài mắt có thể nhìn thấy, có loài đi trong đêm tối không cần ánh sáng, có loài đi trên nước như bình thường. Trong lưu ly, pha-ni-già v.v... bị sắc làm chướng ngại cũng chẳng cần hư không, thiên nhãn phát sinh thức chẳng mượn hư không, ánh sáng.
Biện rằng: Người đi đêm cần ánh sáng để nhìn thấy sự vật, đối với người tuy tối, nhưng đối với loài chim cú mèo làm sao bỏ ánh sáng này được? Như vậy chỉ có một cảnh mà có bốn cách nhìn khác nhau, giống như người nhìn thấy màu sắc lưu ly bị chướng ngại bên ngoài, phải để lưu ly đó cách xa mới thấy, nếu gần với mắt, khoảng giữa không có hư không cũng không thể nhìn thấy. Do đây mà nói rất lại phải chờ có hư không. Các loài như cá v.v... cũng như vậy.
Luận: Nghĩa là năm thức thân, bên trong nương bản thức. Hỏi: Nay nói cả trong lẫn ngoài đều nương theo là nghĩa gì? Đáp: Có hai giải thích:
1. Dựa vào mười hai xứ, ý xứ sở nhiếp bản thức, nên gọi là bên trong; tác ý nhiếp và pháp xứ nên gọi là bên ngoài.
2. Chỉ có Thức thứ tám, hoặc chủng tử, hoặc hiện sinh làm căn bản gọi là bên trong. Các duyên khác không phải căn bản đều gọi là bên ngoài.
Luận nương giải thích sau.
Sớ: Tuy nói chung có sáu, xa có ba gần có một. Có hai giải thích:
1. Đương địa gọi là gần, ở nơi khác gọi là xa, ba pháp địa dưới là nhãn, nhĩ và thân.
2. Diệt trước gọi là xa, diệt sau gọi là gần, bốn thức không sinh từ cõi trời kia vì có trước sau.
Giải thích trước là chính, bản ý nói thức sở diệt kia chẳng phải đều là đương địa, nên nói có xa gần. Luận: Thánh giáo nói cõi Vô tưởng thiên không có chuyển thức. Luận Hiển Dương quyển 1 ghi: Vô tưởng thiên là trước kia đắc vô tưởng định ở cõi này, do đó về sau sinh vào cõi thiên xứ của vô tưởng hữu tình, tánh của nó diệt các tâm, tâm sở không thường hiện hành" Luận Ngũ Uẩn cũng nói không thường hiện hành, tâm, tâm pháp diệt.
Đối Pháp cũng nói như vậy.
Luận: Nhất định khởi nhuận sinh phiền não.
Luận Du-già quyển quyển 59 ghi: Kết sinh tương tục lược có bảy loại:
1. Triền và tùy miên kết sinh tương tục: chỉ Dị sinh phàm phu.
2. Tùy miên kết sinh tương tục: thấy được Thánh tích.
3. Chánh biết nhập thai kết sinh: chỉ bậc Luân vương.
4. Chánh biết nhập trụ kết sinh: chỉ hàng Độc giác.
5. Đối với tất cả vị không mất chánh niệm kết sinh: chỉ hàng Bồ-tát.
6. Do nghiệp dẫn phát kết sinh: trừ hàng Bồ-tát.
7. Do trí dẫn phát kết sinh: chỉ hàng Bồ-tát.
Đối Pháp luận quyển 5 ghi: Thân trung ấm ban đầu tương tục từng sát-na chỉ có Vô phú và Vô ký, do đó nó thuộc về Dị thục, từ đó về sau hoặc thiện, bất thiện và Vô ký theo sự tương ưng của nó trừ tâm chết, bởi tâm chết của Trung hữu thường là nhiễm ô, cho nên biết nó có tâm.
Sớ: "Chẳng phải như thế" đến "tâm niệm thứ nhất".
Tức là thân bản hữu ban đầu gọi là niệm thứ hai. Đối với thân sinh hữu trước này gọi là thứ hai, đây nêu sở trừ.
Sớ: "Nếu không như vậy" đến "vì có ý".
Nêu lý do trừ bỏ, do noãn sinh kia, ban đầu ở trong thai tạng, không có ý thức.
Luận: "Do nghiệp dẫn dắt" đến "quả dị thục".
Hỏi: Dị thục sáu thức khi mới sinh về cõi trời kia, ý thức có không hai tâm, thì cảm tâm nào?
Đáp: Chiêu cảm quả báo có chung và riêng gọi là hành chi. Cho nên cảm nghiệp của Thức thứ tám mà chiêu nó. Nếu ban đầu sáu thức là thiện, điều này khỏi cần hỏi, đáp.
Hỏi: Theo tông Tiểu thừa, nó chết thì sinh về cõi Dục, cõi Dục có năm đường, nó sinh về đường nào?
Đáp: Theo luận Bà-sa tổng có ba thuyết, có thuyết nói quyết định sinh về địa ngục. Có thuyết nói quyết định sinh về nẻo ác. Có thuyết nói quyết định sinh về cõi Dục, xứ sở không cố định.
Luận: "Có nghĩa" đến "cứu cánh".
Chuẩn theo nghĩa của Hữu tông, luận Thuận Chánh Lý quyển 12 ghi: Cùng Dục giới và sắc giới phát khởi. Trong sắc giới có hai giải thích:
1. Chỉ có đệ Tam thiền trở xuống, không ở Đệ tứ, nhân và quả rất gần nhau.
2. Có thuyết nói ở đệ Tứ thiền, trừ cõi Vô tưởng thiên, người sinh về cõi nào thì thọ quả báo ở cõi ấy.
Luận Câu xá nói đồng như đây. Căn cứ luận Bà-sa quyển 152 có ba thuyết khác nhau. Có thuyết nói chỉ có người trong cõi Dục tâm mãnh liệt, có thuyết nói do lực. Hai thuyết sau đồng với Thuận Chánh Lý. Sắc giới có hai nghĩa, luận Bà-sa và luận Tạp Tâm, như sư thứ nhất nói.
Sớ: Tuy biết các địa ly nhiễm đều như vậy.
Đây là ngăn người ngoài vặn hỏi. Ý người ngoài vặn hỏi rằng, trong Đệ tứ thiền các địa đều đồng, lìa nhiễm cõi trời Biến tịnh, về sau khi đắc Đệ tứ thiền, ái nhiễm cõi trời Vô tưởng cũng lìa, tại sao về sau không sinh ở cõi trời này lại sinh ở cõi thứ ba? Ý sớ đáp: Nếu lìa nhiễm cùng sinh về cõi trời này, như vậy cõi trời kia lẽ ra không có chín xứ, vì lìa nhiễm đồng. Chín xứ đã sai khác, rõ ràng lìa nhiễm thì đồng nhưng huân tu thì khác. Mặc dù lại được Đệ tứ thiền, nhưng Vô tưởng định chưa rảnh để huân tu, thì liền mạng chung sinh ở tầng thứ ba, rốt cuộc đâu có lỗi gì?
Sớ: "Lại giải thích" đến "gọi là thoái lui".
Hỏi: Vì sao lìa nhiễm cõi dưới mới đắc định đệ Tứ thiền? Giả sử như vậy cũng đâu có lỗi gì? Nếu thế khi mới đắc đệ Tứ thiền thì phải đắc Vô tưởng định?
Đáp: Khi mới chứng đệ Tứ thiền, do trước đây chưa đắc Vô tưởng định thì cần phải tu tập, sau mới đắc được định này, thoái lui vì do trước được, cho nên không thể ví dụ.
Hỏi: Thoái lui Đệ ứ thiền, lại còn tác ý, nhàm chán ái nhiễm cõi trời Biến tịnh mới được dẫn sinh, đắc lại cõi Vô tưởng, như thế có được không? Nếu phải tu tập thêm nhưng chưa kịp tu thì mạng chung sinh về cõi trời thứ ba, lý nào không chấp nhận?
Đáp: Phải vừa sinh cõi này nhưng khéo tu thành mới mạng chung nên không sinh ở cõi dưới. Hỏi: Sớ có hai giải thích, sư nào cho là thù thắng?
Đáp: Lại có nghĩa xác quyết rằng, giải thích sau là thù thắng, nhưng không nói rõ nguyên do.
Biện rằng: Giải thích trước lẽ ra hay hơn, nghĩa sau tuy nói sinh về cõi này nhất định đắc Vô tưởng định, nhưng không có văn làm chứng, giả sử không đắc trái với lý nào?
Luận: "Do đây nhàm chán tưởng" đến "chẳng phải bậc Thánh sinh khởi".
Luận Du-già quyển 53 ghi: Vô tưởng định trước chẳng phải nhập định của bậc học và Vô học, vì sao? Vì trong đó không có tuệ hiện hành vì cõi này có trụ và sinh thù thắng tịch tĩnh. Lại định này không thể chứng đắc, vì chưa chứng đắc các thiện pháp thù thắng, do đó chỉ dừng lại nơi không có thật.
Giải thích: Như cầu diệt định sinh khởi tuệ Vô lậu, Vô tưởng thì không như vậy nên gọi là vô tuệ. Vì diệt tận định ở cõi vô tưởng nên gọi cõi này trụ vào thù thắng tịch tĩnh trên cõi Vô sắc, các cõi có thể vãng sinh gọi là sinh, hoặc cõi Ngũ tịnh cư là chỗ vãng sinh của bậc Thánh gọi là sinh. Như bậc A-la-hán nương diệt định mới chứng Vô dư y Niết bàn. Cõi vô tưởng thì không như vậy, nếu chưa chứng các thiện pháp thù thắng, hoặc diệt định thì theo phương tiện trước nhập cõi sắc, Vô sắc các định Hữu lậu gọi là chứng thiện pháp. Cõi vô tưởng thì không như vậy, do nhiều nguyên nhân cho nên bậc Thánh không nhập cõi này.
Luận: Nương bất hằng hành, hằng hành nhiễm ô tâm tâm sở diệt.
Luận Hiển Dương quyển 1 ghi: Các tâm, tâm sở hiện hành nơi ý thức là một phần hằng hành các tâm và tâm sở diệt". Đối Pháp quyển 1 và luận Ngũ Uẩn giống nhau, nhưng Duy thức có sai khác, như sớ đã phân biệt.
Luận: Định này khi mới tu.
Địa thứ bảy trở về trước cùng hàng Nhị thừa đều gọi là bắt đầu. Vì thế, luận Du-già quyển 12 ghi: "Lại nữa thế nào gọi là siêu việt nhập các Đẳng chí? Là đối với mình đắc pháp thanh bạch đầy đủ viên mãn.
Từ sơ thiền, định không gián đoạn nhập đệ Tam thiền, đệ Tam thiền nhập Không vô biên xứ, Không vô biên xứ nhập Vô sở hữu xứ, cho đến khi nhập định ngược trở lại cũng như vậy" vì chứng đắc rất cao, cho nên các vị này không nhập Đẳng chí thứ ba được, chỉ trừ Như Lai và các Đại Bồ-tát trải qua hai A-tăng xí-da, nên các ngài nhập các định theo ý muốn của mình.
Giải thích: Nói pháp thanh bạch là hiển bày Gia hạnh cao siêu, vì đã đoạn trừ nhiễm ô. Nếu chưa chứng quả thứ ba nhưng hiểu rõ hai quả vẫn có thể chứng quả thứ ba, văn khác có thể hiểu. Nhưng sớ nói, chỉ chứng đắc Địa thứ nhất nhập Vô lậu, hành giả vẫn chưa được tự tại. Theo luận Du-già chỉ chứng Địa thứ nhất là vị này sắp nhập diệt định. Từ sơ thiền dần dần chứng đến Vô sở hữu xứ là chứng phi tưởng nhập diệt định, gọi là chứng Địa thứ nhất. Nếu như thế vì sao nói nương theo phi tưởng để nhập diệt định?
Đáp: Dựa vào chẳng phải siêu việt mà nói, dựa theo phi tưởng như sớ đã giải thích hai cách.
Luận: Du quán Vô lậu.
Có nghĩa sớ lựa chọn bản trí, nay giải thích cùng lựa chọn Căn bản trí và Hậu đắc trí. Trong Hậu đắc trí cũng có đoạn đạo. Du quán là lựa chọn toàn bộ Căn bản trí, Hậu đắc trí đạo đoạn. Lại Căn bản trí cũng có Du quán. Nếu nói không có lẽ nào tâm căn bản đều có thể đoạn hoặc? Như bậc Vô học không cần đoạn hoặc, từ Địa thứ tám trở lên tâm thuần Vô lậu, lẽ nào trong từng niệm đều có thể đoạn hoặc? Cho nên nói Căn bản trí và Hậu đắc trí đều có Du quán thì nhập Gia hạnh cũng không trái nhau. Các luận đều nói, hành giả tu tập có đủ hai duyên nhưng mới tu tập chỉ có Hậu đắc trí.
Biện rằng: Nay dựa theo giáo lý lấy sớ là chính. Lại gọi Du quán là chẳng phải không đoạn hoặc mà được tên như thế, giả sử như vậy cũng có lỗi gì? Nếu vậy thì quả vị Phật chỉ có Du quán, vì không đoạn hoặc, do đây mà biết nếu không đoạn hoặc và không quán lý đều gọi là Du quán. Vì thế, trong quả vị Phật không có Du quán. Du quán không nhiếp Căn bản trí nên xác định rõ Gia hạnh nhất định là Hậu đắc trí. Giả sử Căn bản trí là Gia hạnh dẫn, lại có lỗi gì?
Đáp: Đã gọi là Gia hạnh, vì sao Căn bản trí có tướng Gia hạnh? Dù cho đến quả vị Phật, tuy khởi định tự tại cũng phải nương tướng nhập diệt tận. Quán tướng diệt tận định không phải dụng của Căn bản trí. Nếu không như vậy hiển bày hai nhân có lỗi bất tận. Nếu nói hai nhân là căn cứ ở nhân vị cũng không thể được, vì quả vị diệt định giáo vì sao không luận bàn? Cũng không có văn để xác quyết cả hai chỉ có nhân vị, duyên tướng diệt tận mặc tình thông với quả đâu có lỗi gì.
Hoặc nói nương theo tướng diệt tận kia tức là Căn bản trí, điều này cũng không đúng. Kinh Sắtsĩ-la ghi: "Chánh tư duy là cõi vô tướng". Chánh tư duy theo các văn bản đều nói là Hậu đắc trí. Huống gì ở đây lại nói "nếu muốn chứng hai Không cần phải có sự dẫn dắt của Hậu đắc trí" vì sao có thể thuận tình miễn cưỡng hiểu? Do chuẩn theo lý này dựa vào Hậu đắc trí làm Gia hạnh.
Hỏi: Hữu đảnh không có Căn bản trí làm thế nào chứng Hậu đắc trí?
Đáp: có ba giải thích:
1. Căn bản trí đưa đến Vô sở hữu xứ.
2. Sơ thiền có Căn bản trí sau.
3. Hậu đắc trí sinh, Căn bản trí sau.
Vì thế không hiểu rõ tục đế không chứng minh đúng, chẳng phải cần thân cận sau ssó mới sinh, cho nên cõi Vô sở hữu xứ có Hậu đắc trí, bậc trí cần suy xét. Lại luận Du-già quyển 12 nương hai nhân mà nhập. Luận ấy hỏi: Dùng phương tiện gì để nhập Đẳng chí này?
Đáp: Như các bậc Thánh lìa dục cõi Vô sở hữu xứ, hoặc nương vào tướng Phi tưởng phi phi tưởng xứ mà nhập định, hoặc dựa vào tướng diệt tận mà nhập định. Nương theo tướng cõi phi phi tưởng xứ mà nhập định là đối với cõi này sinh tâm chán xả bỏ đoạn tuyệt. Từ cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ tu tập tiến lên, đối với các cảnh sở duyên đều diệt tận, cho nên tâm vắng lặng, nương theo tướng diệt tận nhập định cũng như vậy.
Giải thích: Tâm, tâm sở pháp duyên cõi Phi phi tưởng sinh tâm nhàm chán xa lìa mà nhập định, khi mới tu nương theo đây. Nương vào diệt tận tức là các tâm, tâm sở mặc tình duyên cõi Phi phi tưởng xứ sinh tâm nhàm chán xa lìa, giống như trước đây nói cũng như vậy, là nương theo này mà tu tập lâu ngày.
Lại giải thích: Khi mới tu nương pháp hữu vi để thực hành, sinh tâm chán từ bỏ vọng tưởng. Sau đó, duyên vào pháp Vô vi tu tập đoạn trừ tâm vọng tưởng, nghĩa chán, xa lìa cũng như vậy, cũng dựa vào hai cách tu mới và lâu khác nhau. Sớ: Do hạ phẩm có tâm thù thắng.
Chữ "thắng" nghi là nhầm, lẽ ra chữ "duyên" mới đúng, vô tâm dụng nó, hữu tâm làm duyên, rồi sau đó sinh khởi. Văn giản lược, suy nghĩ có thể hiểu.
Sớ: Thể tức là chủng tử Vô lậu.
Dựa theo chủng tử Vô lậu đặt tên, cho nên gọi là Vô lậu chủng.
Sớ: Chẳng phải tương ưng.
Là không tương ưng cùng tâm, tâm sở, cho nên gọi chẳng phải tương ưng.
Luận: Đã chứng đắc tự tại.
Hỏi: Dựa theo Đại Bát-nhã, hành giả tu tập tâm vượt Dục giới nhập Đẳng chí, xuất nhập diệt tận định tự tại. Luận Du-già quyển 12 ghi: "Từ Địa thứ tám trở lên cho đến Như Lai mới có thể nhập định này". Địa thứ tám trở lên ý thuần thục Vô lậu, vì sao chứng đắc rồi được khởi tâm trong Dục giới?
Đáp: Như sớ tổng hợp. Lại có thuyết nói, trong kinh đã nói khởi tâm Dục giới, rõ ràng biết chứng đắc Địa thứ tám vẫn sinh khởi Hữu lậu, nhưng nói Vô lậu là theo phần nhiều mà nói
Biện rằng: Nếu Địa thứ tám trở đi thừa nhận Thức thứ sáu sinh khởi Hữu lậu là Thức thứ bảy chấp ngã chính là hành. Vậy vì sao luận Du-già nói Địa thứ tám chuyển thành thức, không chuyển thành A-lại-da? Căn cứ vào phần nhiều thì Vô học Nhị thừa cũng chuyển như vậy, vì đồng một câu. Lại Đại Bát-nhã ghi: "Vị bất thoái đắc lậu tận thông, các lậu kia vĩnh viễn không còn sinh khởi, nếu thừa nhận khởi lại lẽ nào không trái với kinh? Nếu căn cứ phần nhiều nói, Địa thứ bảy gọi là lậu tận và xả A-lại-da vì phần nhiều không sinh khởi. Hoặc nói Địa thứ bảy mới được, Địa thứ tám không được thì cũng phải nói Địa thứ tám không bằng địa sau. Đến Địa thứ chín mới được gọi là xả chấp đắc lậu tận thông. Nếu nói Địa thứ tám là Bất thoái, thì không nêu Địa thứ bảy, đã thừa nhận có ngã chấp cùng với hành không nên gọi Địa thứ bảy là bất thoái, hoặc dựa vào sự hơn, kém hợp với Địa thứ chín gọi là bất thoái. Do đó nhất định biết ở vị này không còn khởi Hữu lậu. Sớ tổng hợp là trội hơn.
Nay thêm một giải thích, Đại Bát-nhã ghi: "Tâm sinh khởi Dục giới thông cả thật và tợ. Kinh này chỉ nói Bồ-tát khéo vượt các Đẳng chí, không nói chỉ là vị bất thoái. Cho nên thông các địa đều có thể nhập định, tùy theo chân và tợ. Vả lại Dugià chỉ dựa vào bậc Vô lậu chứng đắc tự tại mà nói, cũng không trái với tâm ở Dục giới.
Hỏi: Tâm, tâm sở pháp các cõi trói buộc tự khác, dựa vào đâu để biết nó có giống nhau mà đặt tên?
Đáp: Theo luận Du-già quyển 69 ghi: Lại từ tâm Vô ký ở Dục giới không gián đoạn sinh thiện tâm ở sắc giới. Nếu tâm biết tu tập ở Dục giới là quả sắc giới. Nghĩa là sinh tâm Vô ký ở Dục giới này không gián đoạn là thiện tâm Sắc giới. Lại nói tâm này là Dục giới, nên biết tâm đó là loại ảnh tượng, chẳng phải tự tánh. Đã nói là loại ảnh tưởng chẳng phải tự tánh, vì sao tâm thật chứng đắc lại ở Dục giới? Nếu tâm thật ở Dục giới cần gì nói loại chẳng phải tự tánh? Luận đã tự giải thích loại ảnh tượng chẳng phải tự tánh, rõ ràng tâm biến hóa tợ như dục nên gọi là dục. Nếu không như vậy, vì sao gọi là loại ảnh tượng chẳng phải tự tánh? Sắc giới tợ như Dục giới, Bồ-tát tợ dục gọi là dục cũng đâu có lỗi gì?
Sớ: "Giải thích thứ hai" đến "nhưng Phi tưởng địa làm y".
Hỏi: Vô học thường trụ trong định, vì sao chủng Phi tưởng còn có thời gian lâu dài?
Đáp: Người từng đắc định cõi phi tưởng, sau đó tâm đắc định khác dẫn vị vô tâm, họ nương theo chủng đó kiến lập định này. Lẽ nào chỉ có chủng mới đắc định?
Hỏi: Người nhập định, theo lý trong thân có chán hay không? Khi bắt đầu tu cảm thấy chán sự khó khăn, nay dựa vào đâu để lập?
Đáp: Theo nhân vị thông thường có thể chán khi thực hành lâu. Quả vị thì không như thế, khi đắc định thù thắng xả bỏ sự thấp kém thì không còn chán.
Sớ: Không có hành tướng tiến tới, ngừng nghỉ. Không có tiến thì không đồng hữu học, không có ngừng thì không đồng Vô học.
Sớ: Không đồng loại khác vì chẳng phải ngừng nghỉ
Đây giải thích ngoại đạo vặn hỏi, ý có thể rõ. Ở đây luận về định, khi các tâm không sinh khởi là có tâm ngừng nghỉ, năng không nghỉ đó gọi là không ngừng nghỉ, không đồng Vô học, học rốt ráo thì gọi là ngừng.
Sớ: Thông Hữu vi và Vô vi, trong hữu vô tổng có Vô lậu. Hiển bày pháp rộng hẹp của bậc học và Vô học.
Luận: "Trong hai cõi trên" đến "trời ý hành".
Hỏi: Địa thứ bảy trở về trước chưa biến dịch vẫn trở lại hai cõi, theo giáo lý không ngăn ngại, vì sao Dục giới không chứng đắc được?
Đáp: Ở đây bàn về Nhị Thừa, không đề cập đến Bồ-tát. Do đó chỉ dẫn kinh Ô-đà-di để chứng minh. Sớ căn cứ lý này nói "Dục không khởi". Sự này kinh Ô-đà-di giống như luận Bà-sa quyển 153 ghi: Như Khế kinh nói, Tôn giả Xá-lợi tử bảo các Tỳ-kheo rằng: "Người đầy đủ giới định tuệ thường nhập Diệt thọ tưởng định. Vị này luôn ở trong pháp hiện tại, cho đến khi thị tịch. Nếu không phân biệt rõ Thánh chỉ của Như Lai thì khi mạng chung vượt cõi trời Đoạn thực, sinh vào trời Ý thành, ở cõi này thường xuất nhập cõi Diệt thọ tưởng định. Nên biết cõi này là có thật, phải như thật biết". Nhưng Tỳ-kheo Ô-đà-di ngồi trong pháp hội thưa với Tôn giả Xá-lợi tử: "Các Tỳ-kheo sinh về cõi Ý thành, thường xuất nhập Diệt thọ tưởng định là điều phi lý". Ô-đà-di thưa lần thứ hai, thứ ba cũng như vậy. Đức Phật bảo Ô-đà-di:
- Ông dựa vào đâu cho đó là cõi Ý thành. Lẽ nào ông không thừa nhận cõi Phi phi tưởng xứ là Ý thành thiên chăng?
Ô-đà-di thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Đức Phật dạy:
Ông thật là kẻ ngu si đui mù không có tuệ nhãn. Vì sao ông cùng các Tỳ-kheo, Thượng toạ luận bàn về A-tỳ-đạt-ma rất thâm sâu như Ta đã nói, bây giờ ông nói sai như vậy?"
Hỏi: Chuẩn theo kinh đã dẫn không nói Vô sắc được khởi diệt định, lấy gì để chứng thành?
Đáp: Do kinh ẩn mật, Đại thừa và Tiểu thừa giải thích không đồng, minh chứng cũng khác, cho nên Hữu tông nói: "Trời Ý thành thuộc Sắc giới". Đức Phật biết điều này nên quở trách Sa-di như đã nói. Nếu Kinh bộ chấp thông trong Vô sắc giới thì trong cõi này cũng khởi Diệt định. Cho nên luận Bà-sa quyển 152 ghi: "Ví như người đầy đủ giới, định, tuệ" do đó Vô sắc khởi cũng không có lỗi.
Có nghĩa Đại thừa nói, Tôn giả Xá-lợi tử bảo cõi sắc và Vô sắc gọi là trời Ý thành đều được khởi định, vì thế Đức Phật quở trách Ô-đà-di, hai cõi và Địa thứ tám như Xá-lợi tử nói đều có thể khởi định, ông vì sao đem cõi Phi tưởng cho là cõi Ý thành không được khởi định. Vì thế, nay dẫn chứng cõi Vô sắc có khởi định.
Biện rằng: Nay xem ý luận để dẫn kinh chứng minh cõi sắc, Vô sắc là cõi Ý thành, nhập định cõi Vô sắc tức chứng đắc trời Ý thành. Ý thành thiên liền được chứng thành cõi Vô sắc kia nhập định, lý chứng thế nào?
Đáp: Nếu cõi Vô sắc không phải trời Ý thành, Sa-di không hiểu hỏi Xá-lợi tử, Đức Phật lẽ ra không nói "lẽ nào ông không thừa nhận cõi Phi phi tưởng xứ là trời Ý thành". Chuẩn theo lời Đức Phật quở Sa-di, rõ ràng trước thừa nhận trời Ý thành thông với Vô sắc giới, kế đến chứng định rằng: Xálợi tử chỉ nói cõi trời Ý thành là có nhập định chứng đắc, nghĩa là không lựa chọn cho nên thông với Vô sắc. Nếu nói ý Xá-lợi tử bàn về cõi Vô sắc điều này cũng không đúng, vì văn không nói, giả sử văn bản có đề cập đến cũng không trở ngại gì. Nên biết rõ ý kia chỉ tác dụng một thời. Đức Phật quở chỉ nói không hiểu được tôn ý, chứ không nói Vô sắc không được khởi. Từ đó luận chủ dựa theo văn, đưa ra lý để chứng minh.
Sớ: "Chẳng phải người bất đinh" đến "không có địa khác".
Xét luận ấy ghi: Như hàng Thanh văn hồi hướng Bồ-đề, nhờ gặp duyên nương Vô thượng thừa chứng nhập Niết bàn. Như vậy, Như Lai và chư Bồ-tát tu tập chứng đắc nhờ thực hành hạnh xả ly. Có những người thực hành sai lầm nương theo Bát Niết-bàn lại cầu hạ liệt thừa phải nương Tiểu thừa để chứng Niết-bàn. Chư Phật và Bồ-tát không thừa nhận điều này, vì xả bỏ buông lung mong cầu đắc định là điều phi lý.
Sớ: So với người định tánh có khác gì?
Nếu tâm bất định vĩnh viễn nhập Vô dư cùng với định tánh kia có sai biệt gì?
Sớ: Hoặc văn này cùng quyển 56 khác.
Ý của quyển 56 căn cứ kiến lập rồi tất cả đều sinh khởi. Ở đây căn cứ ít phần, tức luận kia nói tương tục của bậc Thánh thông cả bậc hữu học và Vô học khởi. Trước đối với đây khởi, sau đối với sắc giới hiện tiền lại, vì gá nương sắc sở y mới hiện tiền. Đây căn cứ chưa kiến lập A-lại-da giáo. Nếu đã kiến lập thì đối với tất cả xứ đều đắc ngay hiện tại.
Luận: "Phải đoạn trừ ba cõi" đến "mới phát sinh".
Có nghĩa, ở đây dựa vào thiện tâm cõi trời Hữu đảnh mà nói, vì ý thức cõi này thô động không thể chán hoạn, chế phục diệt dứt, chẳng phải nói chế phục tâm và tâm sở, pháp nhiễm ở cõi Hữu đảnh chưa khuất phục đoạn trừ hoàn toàn, cũng có lúc hiển khởi Diệt tận định. Như luận đã nói ở phần trước, đối trị tham cõi trời Hữu đảnh hoặc chế ngự hoặc đoạn trừ không nhất định. Lại nếu y nhiễm thì từ Địa thứ tám trở xuống, kiến sở đoạn hoàn toàn, nhưng vẫn còn mê lý, Hữu lậu của phàm phu cũng chưa hàng phục.
Biện rằng: Hiển rõ căn bản Diệt định phải đoạn trừ kiến hoặc mới hiện khởi, cho nên nói dị sinh không thể hàng phục, diệt trừ phiền não, hiển bày kiến đạo nên họ không đắc được. Nay có người nói: "Ngay cả thiện không hàng phục được nói làm gì" câu nói này cùng ý luận văn sai khác không tương phù. Lại phân biệt kiến hoặc vì sao lấy Hữu đảnh chưa đoạn diệt Hoặc để vặn hỏi? Phân tích tỉ mỉ thì bị cười chê, các lỗi khác nên suy nghĩ.
Sớ: "Có thuyết nói" đến "năng nhập định này".
Hỏi: Ý của họ thế nào?
Đáp: Diệt tận định cả ba Thừa đồng chứng đắc, đối với pháp Không chỉ có bậc trí giả Đại thừa mới có, cho nên không thừa nhận.
Luận: "Chỉ có Bất hoàn" đến "chứng đắc định này".
Nhiếp luận quyển 3 ghi: Những bậc nhập định này, ngoài trừ Đức Phật còn có Độc giác, A-la-hán hoặc quả Bất hoàn, Bất thoái vị và chư Bồ-tát, còn lại không thể nhập.
Luận: Tùy ứng sinh Địa thứ tám trở lên.
Hỏi: Từ Địa thứ tám trở lên tùy ứng sinh, tức là hiển bày Bất định chứng Đệ thứ thiền, như thế cùng luận Đối Pháp lẽ nào không trái nhau? Luận kia quyển 9 lập bốn câu rằng: "Nếu hành giả đã lìa dục cõi Sắc thì nhập định giải thoát tịch tĩnh cõi Vô sắc, giả sử hành giả nhập định giải thoát vắng lặng cõi Vô sắc thì hành giả này có đoạn trừ dục cõi Sắc chăng?
Đáp: Theo câu đầu hành giả chưa đạt đến định đã lìa dục cõi Sắc nhưng không thể chứng đắc nhập định giải thoát cõi Vô sắc.
Giải thích: Na-hàm chưa chứng đắc căn bản định cõi Sắc và Vô sắc nhưng đã lìa dục cõi Sắc, lại không thể nhập định cõi Vô sắc. Nói giải thoát tịch tĩnh cõi Vô sắc, tức là định cõi Vô sắc, vì đã lìa những cảm giác khổ, vui v.v... được tên giải thoát, chẳng phải diệt định.
Câu thứ hai: Là các bậc Thánh khi chứng đắc Đệ tứ thiền, chẳng mong cầu sinh về cõi Vô sắc.
Lại còn chán thực hành Đệ tứ thiền, thường trong hiện tại xả đoạn kết đạo, nương vào đạo thù thắng mà tu tập tiến lên dần dần nhập định tịnh tĩnh giải thoát cõi Vô sắc.
Giải thích: Na-hàm nương theo đạo sáu hành vì chưa đoạn ái nhiễm cõi sắc nên trước thích sau chán chỉ đắc định cõi Vô sắc. Thắng tấn đạo tức là sáu hành đạo, trước đắc đoạn đạo gọi là Thắng tấn, sau nhờ năng lực tu tập nhập giải thoát cõi Vô sắc mới nhập diệt định.
Câu thứ ba: Hành giả này siêng năng cầu lìa dục, nương vào đoạn kết đạo dần dần nhập định tịnh tĩnh giải thoát cõi Vô sắc.
Câu thứ tư: Trừ những điều vừa nói trên.
Đáp: Hiểu đúng như sớ, hoặc như sư Duy thức nói: "Ta không lấy những lời tạp loạn để làm định lượng, vì sao lại lấy đó mà làm vặn hỏi.
Sớ: Nếu như thế, Dị sinh lẽ ra chỉ có chủng tử nhuận sinh.
Ý vặn hỏi này cho rằng quả Bất hoàn hàng phục hiện hành, tức chủng tử nhuận sinh, Dị sinh cũng vậy vì sao chẳng phải chủng tử nhuận sinh, giả sử như vậy có lỗi gì?
Đáp: Dị sinh không sinh được cõi trên, chỉ sinh ở cõi dưới vì chủng tử phiền não chưa đoạn trừ.
Sớ: Dị sinh luôn bị nhuận sinh hiện hành nên sinh cõi trên.
Ý vặn hỏi này cho rằng như nói Dị sinh mà lấy nhuận sinh hiện hành, cõi dưới tuy có chủng tử nhưng không có nhuận sinh cõi trên. Bậc thánh nói chủng tử nhuận sinh. Chủng tử tuy có cõi dưới, nhuận sinh không sinh cõi trên.
Đáp: Như sớ đã nói rõ. Có nghĩa giải thích rằng: Chủng tử của Thánh nhân là chánh nhuận, có chủng tử sinh cõi trên. Dị sinh là chánh nhuận hoặc vì không hàng phục được phiền não nên không sinh cõi trên, do khi phân biệt khởi và vi tế câu sinh, chẳng phải chánh nhuận, hoặc tuy không hàng phục được mà được sinh cõi trên, cõi này hoàn toàn là phiền não nhuận sinh. Nếu có chánh nhuận cũng có thể nhuận sinh, không có chánh nhuận chủng tử còn lại không sinh được vì không có sự trợ giúp.
Biện rằng: Ý thức thứ sáu câu sinh ngã kiến tương ưng với tham v.v... lẽ nào chẳng phải chánh nhuận? Nếu nói đó là Hoặc ở trong chánh nhuận vì sao nói không được sinh cõi trên? Hoặc nói không phải là trái với Thánh giáo, hoặc nói do thiếu thừa, điều này với ý sớ có phiền phức gì? Lại không được nói đến câu sinh phiền não vi tế, chẳng phải chánh nhuận?
Sớ: Nếu hàng phục Địa thứ tám ở sau hoặc địa thứ năm.
Tức hai sư trước nói chế phục hoặc của Địa thứ tám, thứ năm hiển bày Diệt định cho nên gọi là dưới. Hoặc Địa thứ tám chế phục hai loại Vô vi đều là phi trạch diệt, hoặc địa thứ năm chỉ hàng phục Tưởng thọ diệt không đắc Trạch diệt nhưng Trạch diệt sở nhiếp Bất động Vô vi. Bốn Địa sau đều đoạn Hoặc. Sớ văn đã nói chung có thể hiểu như vậy.
Sớ bản lại ghi: "Địa thứ nhất, địa thứ năm, chữ "nhất" là nhầm, lẽ ra phải là chữ "tám". Có người dựa theo chữ "nhất" có nhiều giải thích, có nhiều lỗi vặn hỏi, cho nên chữ "tám" mới đúng. Luận: Nói Bồ-tát nhập viễn Hành địa.
Luận Du-già quyển 62 ghi: "Tất cả Dị sinh không thể hành, chỉ trừ Bồ-tát đã nhập Viễn hành địa".
Luận: "Lại từ Sơ địa" đến "đều nhập định này". Hỏi: Đối Pháp chỉ nói đoạn trừ phiền não, không có khởi định, luận này với văn Đối Pháp vì sao lại khác nhau?
Đáp: Tuy văn không nói nhưng ý chắc chắn khởi định giống nhau, vì sao? Vì chưa hàng phục phiền não nên không đắc định. Tất cả hoặc đã không đoạn trừ vì sao năng sinh khởi định? Luận này lấy ý luận kia mà nói đều khởi định này thì cũng không lỗi.
Luận: "Kinh nói" đến "Diệt tận định".
Kinh Lăng-già quyển 7 trong phẩm Đạo nói rõ sáu địa trước. Địa thứ bảy trở đi cùng hàng Nhị thừa đều nhập diệt định nhưng có sai biệt, vì thế kinh ghi: "Phật bảo Đại Tuệ: Bồ-tát từ Sơ địa đến Địa thứ sáu đều nhập diệt tận định. Thanh văn, Bích-chi-phật cũng nhập diệt định. Này Đại Tuệ! Chư Bồ-tát ma-ha-tát ở trong Địa thứ bảy mỗi niệm đều Diệt tận định. Vì chư Bồ-tát đã xa lìa tất cả pháp tướng có, không. Hàng Thanh văn, Bíchchi-phật không thể mỗi niệm nhập Diệt tận định chỉ tùy theo cảnh giới năng thủ, sớ thủ, vì thế Thanh văn và Bích-chi-phật không thể trong từng niệm nhập định như Bồ-tát Địa thứ bảy".
Sớ: "Tuy luận Du-già" đến "không trái".
Ý này nói lấy thật duyên cảnh giới vô tướng mà không lấy tương tợ, cho nên trừ Nhị thừa, bởi vậy không trái với mười tám nghĩa. Bồ-tát và Nhị thừa đầy đủ Hậu đắc trí, sự thay đổi gần và xa nên phân biệt chân và tợ.
Nay giải thích thêm: Địa thứ bảy trở lên duyên vào cảnh giới vô tướng, tướng duyên cũng là tướng biến duyên, nếu không như vậy liền chẳng phải y Hậu đắc trí mà nhập Diệt định. Đối với Nhị thừa không thể nhập định trong mỗi niệm nên gọi là bất cộng. Luận Du-già nói đối với tất cả tướng không có tư duy chỉ có chánh tư duy mới thật sự là vô tướng, dần nhập Diệt định diệt chuyển thành thức. Kế đến Dị thục thức xả chỗ nương, vì thức này không có chấp, các thức bị chuyển không sinh lại được, chỉ trừ thức ở trong chân pháp giới thanh tịnh Vô vi xa lìa cấu nhiễm.
Hỏi: Đã trụ vô tâm, về sau vì sao còn xuất?
Đáp: Luận Du-già quyển 2 hỏi: Khi đang nhập định không có niệm phân biệt ta đang nhập định hay ta đang xuất định. Lúc nhập định tâm vắng lặng xa lìa Gia hạnh, khi sắp xuất định, tâm diệt trước tiên không có tác ý, làm thế nào có thể xuất? Đáp: Thời kỳ đầu tâm khéo phòng hộ, nếu có các hành tướng các trạng thái đều có thể nhập định cũng như xuất định. Đối với hành giả tu tập lâu định lực thâm sâu có thể xuất, nhập tự tại.
Giải thích: Nhờ định lực tu tập tuy không còn phân biệt, nhưng có thể xuất nhập định này tự tại. Lúc đầu nhờ tu tập tâm có định dù có các hành tướng, trạng thái nhập, xuất định, đối với tâm có định, nhờ tu tập lâu chán lìa Gia hạnh, nhưng năng lực Gia hạnh xuất, nhập định tự tại.
Lại theo định tự tại để giải thích: Nếu chưa đắc định tự tại cũng nhờ mong cầu nên mới xuất định. Nay xem văn này thông khi mới tu và tu lâu, nghĩa là tâm kỳ hạn trước là mới tu, khéo tu tập là lâu ngày. Văn dưới chỉ giải thích xuất định nhờ tu tập lâu, không nói lúc đầu. Quyển 12 ghi: "Khi xuất Diệt định duyên vào ba loại xúc". Như Xu Yếu, Nghĩa Đăng giải thích đầy đủ rõ ràng. Nay căn cứ luận Bà-sa quyển 153 hỏi: Ba loại xúc có sai khác không? Luận có bốn thuyết. Thuyết thứ hai nói không là bất động xúc, vô nguyện là vô sở hữu xúc, vô tướng là vô tướng xúc. Dựa và ba giải thoát để phối hợp ba xúc. Những thuyết còn lại rườm rà nên không dẫn.
Luận: Muộn tuyệt.
Muộn có hai loại: một là muộn xúc, hai là muộn tâm sở. Do muộn xúc dẫn sinh tâm muộn. Sớ lấy nghĩa trước, luận lấy nghĩa sau, vì sao? Vì khi tâm muộn khởi chỉ có ý thức, nên biết đó là ý thức tâm tụ gọi là bất cộng, cũng không thể nói do xúc dẫn sinh, chẳng phải muộn tức là tâm. Miên do duyên dắt dẫn nhưng khác với thể, muộn do xúc dẫn nên tâm không sáng suốt gọi là muộn thì có lỗi gì? Phần sau không nói vô tâm muội vì duyên dẫn đến tợ, có hai giải thích:
1. Khi thức tụ, tâm không sáng suốt gọi là muộn, chẳng phải như khi ngủ có pháp tâm sở khác, cho nên không nói.
2. Dựa theo nghĩa mà biết nên không nói.
Biện rằng: Xem nghĩa dẫn chứng thành lý sợ rằng lý chưa thông suốt. Luận chỉ nói khi muộn xúc sinh khởi chỉ có ý thức, không nói ý tụ là thuộc về muộn, lấy gì chứng đắc tâm tụ cho là muộn? Lấy ví dụ người ngủ cũng khác nhau, như duyên làm cho ngủ dần dần ngủ say, giống như duyên dẫn đến muộn. Vì sao muộn lại dẫn đến tâm muộn? Lại duyên dẫn đến ngủ lập tâm sở thùy miên thì duyên dẫn đến tâm muộn lẽ ra cũng lập muộn làm tâm sở khác. Đã không lập khác nhau, vì sao lấy người ngủ làm ví dụ? Vì không đồng nhau. Nhưng ý bản sớ hiển bày muộn không đồng người ngủ nên có sai biệt. Lại nói muộn chẳng phải tâm, dựa vào ý thức không có chướng ngại nên giả lập kia gọi là tâm muộn.
Sớ: Do xúc và Mạt-na.
Tiếng Phạm gọi là Mạt-na, Hán dịch là Tử huyệt hoặc Tử tiết. Luận Thuận Chánh Lý quyển 30 ghi: "Mạt-na không phân biệt sự vật, bản thân có chi tiết khác nhau, xúc dẫn đến tử".
Sớ: Giải thích thứ hai lấy một phần của xúc làm thể.
Tức là nói văn này là giải thích thứ hai, lấy luận văn trước là giải thích thứ nhất.
Luận: Như sóng, hình tượng khởi một hoặc.
Xét luận Du-già quyển 51 ghi: "Sát-na có bốn nghiệp, các thức không đủ bốn nghiệp không lập". Cho nên luận ghi: Vì sao không có các thức đều chuyển? Vì nghiệp dụng có sai biệt, không tương ưng đạo lý. Nghĩa là nói sơ lược về bốn loại nghiệp gồm:
1. Liễu biệt khí nghiệp
2. Liễu biệt ly nghiệp
3. Liễu biệt ngã nghiệp
4. Liễu biệt cảnh nghiệp.
Liễu biệt này chuyển trong từng sát-na, cho nên một thức có một sát-na. Các nghiệp dụng sai biệt như vậy cho nên không tương ưng với đạo lý.
Giải thích: Khí thế giới gọi là khí, năm căn nương vào trần cảnh và chủng tử gọi là y, là thức nhân duyên tăng thượng y. Cảnh sở duyên của thức thứ tám là thứ hai nhưng Mạt-na thường chấp làm ngã thứ nhất nên gọi là liễu biệt ngã. Sáu thức còn lại mỗi thức đều liễu tự cảnh nên gọi là Liễu biệt cảnh. Theo bốn thức trước lại duyên với cảnh đều gọi là nghiệp. Ý sở chứng này như Khế kinh ghi: "Liễu biệt cảnh thứ tư một thức hiện tiền thì trong mỗi sát-na chuyển bốn nghiệp". Nếu các thức không đủ lại chuyển bốn nghiệp thì trái với Thánh giáo.
Hỏi: Năm vị vô tâm không có sáu thức, làm thế nào trong một sát-na chuyển bốn nghiệp?
Đáp: Nghiệp thứ tư nhất định có đủ bốn nghiệp, không nói thời gian lâu dài đều có bốn nghiệp, cho nên không có lỗi, nếu đủ thời gian lâu dài chỉ có ba nghiệp trước.
Sớ: "Trong này ý phát khởi" đến "lại trợ giúp năm thức sinh".
Ngũ câu ý thức có hai nghĩa: Một là minh liễu thủ, hai là năng trợ năm. Nếu hai loại này nhãn thức tuy có minh liễu nhưng không trợ giúp dẫn đến phát sinh, vì vậy không nêu ra. Như định ý thức tuy thật có minh liễu nhưng không có năng trợ năm.
Sớ: Lý thật sự có tục và chân.
Sinh khởi ở phần sau, thứ hai tục đối với chân cũng có bốn, ba, hai, vô số sai biệt.
Sớ: Hoặc chuyển biến là nghĩa chuyển khác.
Hỏi: Giải thích ban đầu có khác gì?
Đáp: Dụng của sở biến là y tha khởi cho nên khác với trước. Dụng này thật sự chẳng có hai phần kiến phần và tướng phần, nương theo hai dụng này chấp làm sở thủ mới gọi là hai phần, dụng là nơi sinh khởi chấp lấy hai phần của dụng nên gọi là hai phần.
Sớ: Văn trước do An Tuệ nói chẳng phải Phật dạy.
Phần trên nói hai phần rõ ràng An Tuệ không dựa theo lời Đức Phật dạy. Đức Phật không nói hai phần, văn sau nói có hai phần là ý của Hộ Pháp không phải là ý của An Tuệ.
Luận: Khế kinh nói ba cõi duy tâm.
Câu này trong kinh Thập Địa, Nhiếp luận của Vô Tánh đã giải thích rộng ý nghĩa. Sớ tuy dẫn chứng theo văn gồm cả giải thích, nhưng người mới học thật khó phân biệt. Nay xin giải thích để dễ hiểu. Luận nói chỉ có tâm, tâm thức là một, chỉ trừ thanh nhưng lấy nghĩa của cảnh, do âm thanh không có nên năng thủ cũng không, chẳng phải làm trở ngại tâm sở, vì tâm và tâm sở không lìa nhau. Nếu nói không có tâm sở hữu pháp, tâm chưa từng chuyển, nếu như thế vì sao Diệt định chỉ có tâm?
Giải thích: Đây là Kinh bộ vặn hỏi, nếu nói có tâm, định là có tâm sở, vì sao Diệt định chỉ có tâm vương? Vì Diệt định theo Kinh bộ chỉ có tâm.
Luận: Là lỗi của tông kia. Đại thừa tông của ta nếu giải thích quyết có tâm thì nhất định cũng có tâm tương ưng với pháp, giả sử không có tâm tương ưng với pháp thì tâm và định cũng không. Như vậy ba cõi chỉ có tâm, câu nói này hiển bày ba cõi chỉ có thức. Ba cõi là các dục cùng ái kết tương ưng nhau nên rơi vào ba cõi.
Giải thích: Tất cả ái kết ở hai cõi Sắc và Vô sắc là Vô lậu trong sáng, ái ở cõi dục là Hữu lậu gọi là tùy.
Luận: Đây là Duy thức nói thành lập chỉ có các tâm, tâm sở không có ba cõi kế chấp sở duyên. Ở đây nói không trừ Chân như sở duyên và y tha sở duyên, nghĩa là Đạo đế nhiếp hai loại sở duyên là Căn bản trí và Hậu đắc trí. Do sở chấp chẳng phải là ái nên không cần đối trị, chẳng phải mê loạn, chẳng nhiếp ba cõi cũng không lìa thức nên không cần nói đến. Nếu thế phải nói là hai cõi, vì trong cõi Vô sắc theo Kinh bộ chỉ có tâm tâm sở.
Giải thích: Nếu lấy hai trí không chấp cảnh bên ngoài thì sở duyên hai trí không lìa thức tự thành Duy thức nên không cần phải nói. Theo Kinh bộ cõi Vô sắc tâm không chấp bên ngoài, cõi này Duy thức nên không nói, đối với hai cõi còn lại cũng Duy thức.
Luận: Vặn hỏi này không đúng, nghĩa thức sở thủ đều không có nghĩa chẳng những không nói sắc mà gọi là Duy thức.
Giải thích: Chỉ có thức sở thủ, cảnh bên ngoài tâm đều không, nên gọi là Duy thức, sắc cũng không được tên của Duy thức.
Luận: Vì sao?
Giải thích: Ngoại đạo hỏi. Ngoài sắc... ra vì sao còn có thức sở thủ?
Luận: Cũng không ngoài hư không và nghĩa sở thủ. Giải thích: Ngoài sắc này còn có nghĩa sở thủ. Luận: Các sư Kinh bộ thừa nhận các tâm, tâm sở cõi Vô sắc là Vô sắc tướng, không có tự thể ý nghĩa cảnh sở thủ không có thật.
Giải thích: Nêu kế chấp của họ. Họ chấp hư không là Vô sắc tướng, không có thật thể, nhưng Không này là do tâm, tâm sở phá sắc quán không mới hiển bày hư không, cho nên tâm tâm sở là Không sở y.
Luận: Sợ họ chấp là chẳng phải tâm, tâm sở cho nên nói ba cõi chỉ có tâm.
Giải thích: Nếu chấp hư không lìa tâm, tâm sở gọi là phi tâm sở, hoặc sợ họ chấp năng y Không không có, tâm pháp sở y cũng lại chẳng có. Do đó nói ba cõi chỉ có tâm, hãy đọc trong sớ có thể hiểu ngay.
Luận: Lại nói Duy thức sở duyên sở hiện.
Xét kinh Giải Thâm Mật, Bồ-tát Từ Thị hỏi Thế Tôn:
- Ảnh tượng sở hành của Tỳ-bát-xá-na, Tamma-địa, nó cùng tâm này nên nói khác hay không khác?
Đức Phật dạy:
- Này thiện nam tử! Nên nói không khác, vì sao? Vì ảnh tượng định của nó chỉ là Duy thức. Thiện nam tử! Ta nói thức sở duyên sở của thức chỉ do thức hiện.
- Bạch Thế Tôn! Nếu ảnh tượng sở hành kia cùng tâm này không có khác, vì sao tâm này vẫn thấy tâm này?
- Này thiện nam tử! Trong này không có pháp Tiểu thừa mà thấy pháp Tiểu thừa. Như thế giống như tâm này khi sinh tức có hiển hiện ảnh tượng như vậy. Thiện nam tử giống như mặt kính trong sáng lấy chất làm duyên vẫn thấy được bản chất, như Ta nay thấy ảnh tượng cho đến lìa chất có khác nhau, ảnh tượng sở hành cũng hiển hiện như vậy. Khi tâm này sinh tương tợ, có khác là do ảnh tượng sở hành của Tam-ma-địa hiển hiện.
Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình tự tánh mà trụ, khi tâm duyên sắc... ảnh tượng sở hành, vậy nó cùng tâm này có khác nhau không?
- Này thiện nam tử! Không khác, giống như người ngu do điên đảo thấy các ảnh tượng, không biết đó là thức biến hiện lại hiểu điên đảo.
Nhiếp luận của Vô Tánh quyển 4 giải thích: Tam-ma-địa là tánh chất làm cho tâm trụ một cảnh, tâm sở làm thể, gọi cảnh sở duyên là sở hành, cảnh này gọi là chất. Giống như cảnh hiện gọi là ảnh tượng, nghĩa là tác dụng tất cả pháp tạo nên đều không thành. Nói không có pháp Tiểu thừa, lại chấp pháp Tiểu thừa, ví như chất nương trên mặt gương, trong gương vẫn thấy bản chất vì do mê loạn, nghĩa là ta thấy hình là nhờ gương, tuy hình không khác nhưng hình bóng hiển hiện có giống và khác nhau, tâm này cũng vậy.
Hỏi: Hình trong gương có thật không?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Trong gương có hình ảnh khác nhau, khi nhãn thức duyên ảnh mà sinh khởi, nếu không như vậy lẽ ra liền có thấy vô tướng, vì dụ không tương tợ pháp. Lại Nhiếp luận lại dùng hình ảnh tấm gương để dụ y tha, hoa đốm trong hư không dụ cho Biến kế. Lại quyển 76 ghi: "Như tấm gương trong sáng nếu có một ảnh duyên phát sinh thì ngay hiện tại chỉ có một ảnh sinh khởi, nhiều ảnh cũng vậy". Căn cứ theo đây có sai khác, nhưng không có thật dụng, nói lìa chất không có, nhiếp ảnh từ chất nên nói thấy tự chất.
2. Lìa thật không có ảnh tượng sai khác, do mê loạn nên thấy ảnh tượng. Vì thế luận Phật Địa quyển 4 ghi: Nghĩa là các hữu tình do điên đảo chấp trước huân tập hình ảnh bên ngoài thành nghiệp lực. Mặt gương làm duyên tự thức, biến dị tợ ảnh hiện. Do đó thế gian sinh khởi tăng thượng mạn, nghĩa là ta thấy mặt mình hiện trong gương, như ảnh trong gương sinh không khác. Kinh chỉ nói các hình bóng hiển hiện, không nói sinh khởi. Luận Phật Địa quyển 5 nói sinh khởi nương nơi hiện là giả nói. Nhiếp luận của Vô Tánh quyển 5 cũng ghi: "Lại như hình bóng ở trong gương vẫn thấy bản chất, như nói ta nay thấy hình bóng, nhưng hình bóng này thật sự không có". Nhiếp luận của Thế Thân quyển 5 cũng ghi: "Ví như hình ảnh thật không có nghĩa, nhưng đối với bản chất khi sinh khởi cái biết ảnh tượng, nhưng nghĩa của ảnh tượng không thể có sai khác".
Biện rằng: Giải thích sau là thù thắng, tổng hợp các văn trái nhau như Nghĩa Đăng biện rõ, Tiểu thừa đồng và dị như Du-già sao.
Sớ: Không nhất định chỉ có không.
Hành giả khi quán phải nương theo Không nhất định quán cảnh đều không. Nếu người nào đối với cảnh ấy cho là thật có tức trái giáo lý, rõ ràng cảnh tùy tâm có vô số cái thấy sai biệt.
Luận: Hai vô sở duyên thức trí.
Có nghĩa lẽ ra nói không vô sở duyên thức tướng trí, vì vô sở duyên tướng thức vẫn sinh. Văn lược không nói, nay mới nói.
Biện rằng: Ý nói không có cảnh mà thức vẫn sinh, không có sở duyên thì cảnh không hiện, vì sao nói nhiều tướng? Nếu nói tướng mà có cảnh tướng thì chỉ cần trong bốn loại duyên lẽ ra cũng nói tướng sở duyên, vì tướng là cảnh, họ không nói tướng vẫn biết đó là cảnh. Tướng cũng gọi là tướng sở duyên. Nếu luận nói không có tướng sở duyên, lẽ nào không lạm đến tướng phần? Vì lỗi lạm tướng cho nên Vô vi là thiện. Nhưng thấy văn trước có nói thức tướng, liền cho là văn thứ hai cũng hợp với tướng. Nhưng hai văn hoàn toàn khác biệt, không thể cùng nêu.
Sớ: Lẽ ra nói cảnh chẳng phải do tư duy chân thật khởi.
Có nghĩa xưa nói duyên không được khởi lự cũng không có lỗi, chỉ căn cứ bản chất nói điều này, ảnh tượng tức là tâm chẳng phải là điều ở đây nói. Nghĩa xưa thù thắng hơn sớ.
Biện rằng: Nếu nói duyên không được khởi lự, sở người lầm nói tướng không có tâm sinh, vì cảnh đó không có thật lại rơi vào tư hoặc, vì sao chẳng phải thù thắng? Lại ảnh tượng không lìa tâm, vì sao gọi là tâm?
Sớ: Do pháp này tức pháp có tự thể.
Luận nói pháp sở duyên, tức là nhân pháp đã nói sở duyên ắt phải có tự thể cho nên nhân của sở duyên trừ hoa đốm trong hư không kia. Sớ nói do pháp này nghĩa là do pháp này duyên pháp, lược bỏ sở duyên chỉ nói là pháp này.
Sớ: Lại giải thích trừ nó cũng được.
Trong nhân lẽ ra nói, sở duyên pháp nên trừ hoa đốm trong hư không kia, vì nói tóm lược cũng không có lỗi.
Sớ: Căn cứ lý mà nói bốn sự đều thông.
Có nghĩa gạn hỏi rằng, thân bất định làm sao nói thông cả loài phi tình? Nếu nói cảnh tình và phi tình nhiều tương tục đều thuộc bất định, nói thông cả loài phi tình điều này cũng không đúng. Cảnh thông với loài phi tình vẫn dựa theo hữu tình nên gọi là bất định. Cho nên cần suy nghĩ điều này.
Biện rằng: Bốn sự đều thông, gồm chung định và bất định, hoặc thông hữu tình, không nói bốn loại thông cả tình, phi tình gọi là đều thông.
Luận: "Nghĩa là thức sở biến" đến "nói là pháp không".
Luận Nhị Thập Duy Thức ghi: Nếu biết tất cả chủng của các pháp đều không, mới được gọi nhập pháp vô ngã, nhưng tự tánh Biến kế sở chấp của người ngu có sai biệt. Hiểu các pháp vô ngã như vậy mới gọi tám pháp vô ngã, chẳng phải cảnh giới chư Phật tánh lìa ngôn ngữ cũng đều không, cho nên gọi pháp vô ngã.
Luận: Ác thú không này chư Phật nói là không nên không thể đối trị.
Xét kinh Bảo Tích ghi: " Tất cả các kiến lấy không chứng đắc giải thoát, nếu khởi Không kiến thì không thể trừ.
Luận: Loạn tướng và loạn thể.
Nhiếp luận Vô Tánh quyển 4 giải thích: Loạn tướng thừa nhận là tợ sắc biến thức, loạn thể thừa nhận là phi sắc biến thức, thuận theo pháp để tổng kết tụng. Văn tuy cách quãng nhưng ý nghĩa quan hệ lẫn nhau. Nếu không có tợ sắc sở biến nhân thức thì phi sắc thức quả cũng không có được. Tợ như không có cảnh, có cảnh cũng không.
Giải thích: Nói thuận kết là giải thích người ngoài vặn hỏi. Ý người ngoài vặn hỏi rằng, theo Trường hàng giải thích cùng kinh văn tụng, vì sao không có thứ tự?
Đáp: Họ đứng về thuận kết tụng, lấy nghĩa tương thuộc nên văn cách quãng cũng không trái nhau. Văn ấy tuy cách quãng, nhưng đối với người xem có thể hiểu nhân trước quả sau gọi là thuận. Lại nói, tợ như không có cảnh, không có tợ sắc cảnh, có cảnh cũng không, vì có cảnh kia do tâm điên đảo gọi là có cảnh.
Luận: Khi chứng hiện lượng không còn chấp cảnh bên ngoài.
Theo luận Nhị Thập phá chung Chánh lượng bộ và Tát-bà-đa bộ vì thế luận ghi: Như người nằm mộng tuy không có cảnh bên ngoài như vẫn thấy có cảnh hiện tại, hiện thấy ở thời gian khác lẽ ra cũng biết như vậy. Thế nên họ dẫn đây làm chứng nhưng không thành.
Giải thích: Phá chung hai tông. Lại nếu như lúc đó thấy cảnh hiện tại này, nay ta lấy hiện chứng như sắc... lúc ấy đối với cảnh thấy không còn, chỉ còn lưu lại trong ý thức có thể phân biệt, lúc này nhãn thức ắt đã mất.
Giải thích: Phá Chánh lượng bộ. Vì họ chấp có cảnh tương tục cho nên chỉ phá kiến. Lại luận về sát-na khi thấy có cảnh này thì sắc trần cùng cảnh hiện tại cũng điều diệt, vì sao khi đó nói có hiện lượng?
Giải thích: đây là phá Hữu tông. Cảnh thức đối với Hữu tông đều diệt từng sát-na.
Sớ: Sau năm thức sinh sinh vì sao gọi là chấp đoạn.
Có nguyên do gì ý chấp đoạn? Chấp đã không đoạn, cùng với năm thức đồng duyên cho nên biết năm câu ý thức có chấp cũng không ngăn ngại.
Sớ: "Như Tiểu thừa vặn hỏi" đến "lại không phải phá tha".
Vốn tuy phá tha, lập người khác vặn hỏi. Văn này đã tức thành chánh nghĩa.
Hỏi: Giả như có người khác hỏi dựa theo năm thức mà nói, vì sao không phá năm thức kia?
Đáp: Trước đã nói rõ năm thức không chấp cảnh bên ngoài, vì thế không nói phá.
Có nghĩa gạn hỏi rằng sớ nói điều này hiển nêu chánh nghĩa không phải phá tha, nay giải thích phá tha.
Biện rằng: Ý sớ giống như trước chẳng phải không phá tha. Hỏi: Làm thế nào biết được sớ cũng phá tha?
Đáp: Sớ đã nói không chấp cảnh sắc trần bên ngoài là thật, nếu không phá tha thì sự thật ai nói không chấp?
Lại sau đó nói, như Tiểu thừa phần trước nói phá tha. Vì sao phần giữa nói giống nhau? Từ đó mà xét ý sớ không chỉ nói nghĩa của mình mà còn hiển vặn hỏi đối với tha, lý thông chánh biện, cho nên cần suy nghĩ điều này.
Luận: Như thấy sắc lúc tỉnh.
Nhiếp luận ghi: Nếu lúc tỉnh thấy tất cả thời gian không gian đều giống như mộng thì Duy thức. Như từ mộng lại biết, biết trong mộng đều Duy thức. Khi biết vì sao không chuyển như vậy?
Luận: Phải đợi đến khi tỉnh.
Nhiếp luận ghi: Chân trí khi tỉnh cũng chuyển như vậy, đang ở trong mộng thì giác này không chuyển, từ trong mộng mà biết, giác này mới chuyển. Như vậy khi chưa đắc chân trí thì giác này không chuyển, đắc chân trí thì giác này không chuyển, đắc chân trí rồi giác này mới chuyển.
Lại luận Nhị Thập Duy Thức ghi: "Như ở vị chưa giác, không biết cảnh mộng bên ngoài chẳng phải thật có, khi giác rồi liền biết. Như người thế gian sống trong hư vọng, phân biệt, quen tập mê mờ, như người đời nằm mộng tất cả những gì được thấy đều chẳng phải thật có. Người chưa đắc chân giác không thể tự biết, nếu khi vị ấy đắc xuất thế đối trị trí vô phân biệt kia mới gọi là chân giác. Sau khi đắc trí thanh tịnh thế gian hiện tiền, hiểu biết đúng như thật thấy cảnh bên ngoài là không có thật. Sớ: Đẳng lưu chủng kia.
Nghĩa là phần thứ hai nói rõ Đẳng lưu và dị thục nhân.
Sớ: Nếu giải thích trước.
Là giải thích thứ nhất trong giải thích Đẳng lưu, đối với hai loại nghĩa Đẳng lưu kia để phân biệt các nhân khác, phần cuối dựa theo sớ mà biết.
Sớ: Nếu dựa vào sau giải thích quả Đẳng lưu.
Nghĩa là phần sau giải thích Đẳng lưu chủng tử sinh ra hiện hành cũng là quả Đẳng lưu, cho nên lấy chủng tử tác ý mong tâm làm quả Sĩ dụng.
Sớ: "Nếu sau giải thích Đẳng lưu" đến "cúng là Tăng thượng".
Sau giải thích cũng là quả Đẳng lưu, hiển bày chủng tử sinh hiện hành mong chủng năng có hai quả.
Luận: Có sức triển chuyển.
Co nghĩa nay nêu vặn hỏi riêng. Vặn hỏi rằng lẽ nào không do chủng tử sinh sinh hiện hành đối trị mới chứng Ly hệ? Vì sao không nói? Vì luận chung.
Biện rằng: Chủng tử năng trị mong quả Ly hệ nhưng vì duyên xa, so với sớ lấy tăng thượng duyên làm vặn hỏi đâu có khác nhau mà nói nêu vặn hỏi riêng? Điều này nên xét kỹ.
Sớ: Tất cả chủng tử đối với bốn quả kia nhiếp quả không hết. Không nhiếp quả Vô lậu Hữu vi.
Luận: "Có thuyết nói dị loại", đến "hoặc tùy chuyển môn".
Đối Pháp ghi: "Nên biết trong đó lấy tự tánh cùng tướng sáu loại nhân mà hiển nghĩa nhân duyên", đủ như luận kia biện, sợ rằng văn rườm rà nên không chép. Vì thế luận Xiển Dương quyển 18 ghi: "Hữu tông không nói rộng sáu nhân nên không gọi là nhân duyên. Vả lại Đồng loại nhân có ba lỗi. Nếu nói nhân của Đồng loại gọi là Đồng loại nhân thành có lỗi. Tại sao? Vì thể tánh thiện và pháp thiện trước đã thành tựu nhân vì sao còn dùng nhân? Hoặc nói đồng loại tức là nhân gọi là Đồng loại nhân, nghĩa là không có quả, có lỗi bất định, vì sao? Vì không chỉ rõ quả đó do nhân nào sinh, vì không xác định thể của nhân đồng loại, pháp chẳng tương tợ cũng là nhân. Nếu nói chẳng phải đồng loại tức là nhân thì cũng chẳng phải nhân đồng loại, là có lỗi nói không căn cứ. Nói Đồng loại nhân không có sở sinh chỉ là thi thiết suông. Do đó bốn nhân có ba lỗi, như lý đã rộng nói.
Hỏi: Điều này cùng với luận Nhiếp Đại thừa vì sao không trái nhau? Luận kia thừa nhận đều có đủ là nhân duyên chăng?
Đáp: Luận Hiển Dương phá tướng hiện hành mong câu hữu nhân thì không đồng Nhiếp luận, điều này như trước đã nói.
Luận: Cung Đại tự tại ở cõi trời Tịnh cư.
Luận Thập Địa ghi: "Lợi ích hiện báo được quả vị Phật, lợi ích hậu báo trí xứ sinh về cõi Ma-hêthủ-la".
Giải thích: Người tu hành được viên mãn ngay đời này chứng quả vị Phật, gọi là hiện báo. Trước đây họ thực hành nhưng còn xa nhân, cho nên quả vị Phật không gọi là hậu báo. Nghiệp hoặc hậu thân của Bồ-tát Địa tiền gọi là hậu báo. Chư Bồ-tát không tạo nghiệp chiêu cảm quả báo về sau nên hậu thân của Bồ-tát gọi là trí. Nhờ trí tối thắng nên lấy trí để nêu tên gọi, tức Bồ-tát này ở trong cõi trời Ma-hê-thủ-la nên gọi trí xứ sinh. Xứ là chỗ ở an ổn. Nhưng vì chư Bồ-tát ở cung Tự tại các giáo nói không đồng nhau. Trong Nghĩa Đăng có lược giải thích. Trong phần sao của Du-già và Đối Pháp đã tổng hợp và giải thích lại.
Luận: Nhị thừa hồi thú.
Hỏi: Ba quả trước hồi thú về Đại thừa phải trải qua thọ sinh mới được thân biến dịch hay không trải qua?
Đáp: Có trải qua hoặc không trải qua xưa nay không cố định. Vì thế luận Địa Phật quyển 2 ghi: "Như có bậc Hữu học hồi hướng Bồ-đề, hoặc tùy thế lực sinh hoặc lậu của phiền não, chiêu cảm sinh rồi, đối với thọ sinh cuối cùng các phiền não này đều bị hàng phục khởi sức định nguyện, giúp cho thân hiện tại được chứng thành Phật, hoặc hồi tâm hàng phục phiền não sinh khởi sức định nguyện, giúp cho thân hiện tại chứng đắc thành Phật.
Hỏi: Nếu phải trải qua thọ sinh như người Sơ quả chưa trải qua bảy lần thọ sinh, vậy có được không?
Đáp: Trong luận Phật Địa chỉ thừa nhận trải qua thọ sinh, nhưng số lần thọ sinh không cố định, theo sự thọ sinh nhiều hoặc ít chưa hẳn đầy đủ.
Hỏi: Đã thừa nhận trải qua thọ sinh lấy quả cuối cùng phải không?
Đáp: Luận Phật Địa nói trải qua thọ sinh hàng phục hoặc nhưng không nói đoạn, cho nên không lấy quả chưa chưa đắc sau cùng.
Luận: "Chuyển thức thứ sáu" đến "lại dắt dẫn".
Các tâm dẫn nhau, đã giải thích đầy đủ trong Nghĩa Đăng, cho nên ở đây không nói.
Luận: "Ban đầu sinh khởi Vô lậu" đến "chỉ ở cõi Dục". Luận Hiển Dương minh chứng như dưới này sẽ dẫn.
Luận: "Ba sở duyên duyên" đến sở suy nghĩ và nương gá".
Như sớ đã trình bày đầy đủ rõ ràng. Có nghĩa, người và vật tuy tự thể là có vật chất, nhưng những pháp như nước, gương sáng có đới kỷ tướng lại không có tự thể, gương nước cũng có chất, chất kia chỉ có sinh ra hình bóng hiện trong gương nhưng không sinh ra gương, chẳng những có sinh ra hình bóng gọi là duyên mà còn phát sinh chiếu sáng mới gọi là duyên, vì thế chất chẳng phải gọi là sở tư duy của gương, cũng chẳng phải sở nương gá, cho nên giản lược hai nghĩa này.
Biện rằng: Theo lý thật ra tư duy nương gá, gương đứng về chất thì không, nhưng hình ảnh trong gương đều từ chất. Căn cứ một bên mà nói, thiếu sở lự cũng đâu có lỗi gì! Hoặc gương cùng với thể không cần chất sinh ra, dụng của năng chiếu, nhân sở chiếu mà hiển bày. Nếu không có sở chiếu thì cái gì được gọi là năng chiếu? Cũng do chân tính vốn từ Vô vi, cần phải đợi hoặc mất thì nghĩa của quả mới hiển bày. Năng chiếu của gương đại khái cũng vậy. Căn cứ nghĩa này mà nói có sở thác lý cũng thông. Lại sớ nói giả sử, bản ý có thể biết.
Sớ: Thân sở duyên.
Tức gọi kiến phần là Đới kỷ tướng, tướng phần gọi là kỷ, kiến phần mang theo tướng gọi là Đới kỷ tướng.
Sớ: Trong thưa xa tức tướng phần ảnh tượng là đới tướng bản chất.
Có nghĩa gạn hỏi rằng, nếu vậy thưa xa lẽ ra là sở duyên duyên là của tướng phần, cho nên lẽ ra phải nói thân sở duyên duyên là tướng tự thể, là tâm năng duyên, là sở đới của thân. Sơ sở duyên kia tuy chẳng phải thân đới, nhưng thân sở đới nương thân sở duyên mà sinh, cùng thân sở duyên giống nhau, triển chuyển nói cũng gọi là sở đới. Sở duyên đã vậy, nghĩa của duyên cũng thế. Tướng sở đới của thân nhờ nó sinh mới khởi tâm, cho nên triển chuyển nói là duyên. Nhưng thân sở duyên chẳng phải không mang nghĩa sở duyên thưa xa kia. Nay văn luận nói Đới kỷ tướng, ý hiển rõ năng duyên mang theo tướng tự thể của sở duyên kia.
Biện rằng: Tâm đới cảnh tướng theo triển chuyển nói, chẳng phải sớ không thừa nhận, nên phần trước sớ nói, duyên sinh với cái gì? Cái gì là Đới kỷ tướng? Là tâm tương ưng cùng tâm đới cảnh. Nếu nói, sớ căn cứ thân sở duyên thì trong sớ không có văn chứng minh. Khoa sớ lại nói, trước giải thích xuất thể, vì sao trong đoạn đầu sớ chủ không thừa nhận duyên chung thân và sơ, do đó mà biết sớ chủ thừa nhận tâm đới cảnh tướng. Nay nói ảnh tượng là đới chất, đới là nghĩa nương gá, mang theo. Theo nghĩa này gọi là tướng đới chất. Kiến mong bản chất cách xa tướng nên không nói. Do đó xem ý nghĩa trước, nghĩa mong nhau không đồng, lý không có lỗi.
Nay lại giải thích: Đới có hai nghĩa:
1. Đới là nương gá, mang theo, năng duyên nương gá cảnh sở duyên, lại không rời xa nhau nên gọi là mang theo, giống như người đời nói "thân đeo kiếm".
2. Đới là tợ, vì năng duyên có tướng bản chất của tợ, tướng tức là tướng phần, bản chất tâm lìa nhau gọi là đới tợ, cũng như người đời nói "mặt đỏ như lửa". Mặc dù cảnh hướng đến tâm gần xa khác nhau, nhưng tâm đới với cảnh gọi chung là đới. Như theo thứ tự gọi là hai sở duyên duyên, tâm do hai cảnh mà sinh khởi thân và sơ cho nên luận nói chung là Đới kỷ tướng, hoặc tâm tương ưng cũng không ngăn ngại tướng. Trong đó có khác biệt mới nói hai duyên năng sở không lìa nhau. Do đó không cần theo thuyết triển chuyển mới gọi là Đới. Người trí suy nghĩ điều này.
Luận: Chẳng phải chủng hữu tình đều như nhau. Hỏi: Giả sử chủng hữu tình biến đổi có lỗi gì?
Đáp: Chủng khác là chất, tự chủng là ảnh, nếu có nhiều ít thì có lỗi chất ảnh khác nhau. Nếu nói không đồng nhau thì có lỗi gì? Lỗi này giống như chất màu xanh mà tướng là loại màu vàng. Lại thay đổi loại khác thì có lỗi phàm Thánh tạp loạn. Như Thức thứ tám của phàm phu duyên vào Vô lậu của bậc Thánh thì phàm phu trở thành bậc Thánh, vì có chủng tử Vô lậu, chủng tử của Thánh Nhị thừa duyên vào phàm phu vẫn trở thành phàm phu vì có đủ chủng tử hoặc. Hoặc nói Thức thứ tám của phàm phu không duyên vào Vô lậu, nếu thế thì không có lỗi. Bậc Thánh duyên vào Hữu lậu thành lỗi chủng tử hoặc.
Hỏi: Đức Phật duyên vào phàm phu không trở thành phàm phu, Nhị thừa duyên vào phàm phu, vì sao lại sinh khởi hoặc?
Đáp: Thức thứ tám duyên vào Hữu lậu biến đổi tức có tác dụng, Thức thứ tám duyên vào Vô lậu chỉ hiện hình bóng, đều không có tác dụng, cho nên không đồng.
Luận: Hay đối với các pháp khác.
Ngoài tự thân, tất cả các pháp khác đều là duyên không đồng sở duyên. Sở duyên duyên chỉ đối với năng duyên lấy làm duyên.
Luận: Bốn sự sinh, trụ, thành, đắc khác nhau.
Xét luận Hiển Dương quyển 18 ghi:
Hỏi: Lấy cái gì làm trước tiên? Kiến lập bằng gì? Cái gì hòa hợp?
Vì sao pháp sinh ra?
Đáp: Từ chủng tử làm trước tiên; ngoài chủng tử sở y ra, còn có các pháp khác như sắc, phi sắc, sở y và nghiệp lấy làm kiến lập; bạn và cảnh sở duyên làm hòa hợp; như theo sự trói buộc Dục, Sắc, Vô sắc và không không trói buộc thì sinh ra các pháp. Điều này giống Đại luận.
Nói về trụ, Đối Pháp quyển 5 ghi: "Nhậm trì tăng thượng là phong luân cùng với thủy luân, khí thế gian với hữu tình thế gian đại chủng với sở tạo, các căn với các thức".
Giải thích: Phong luân, khí thế gian, đại chủng các căn là chỗ nương, làm cho thủy luân hữu tình, sở tạo, các thức được trụ.
Luận về thành, như sớ đã dẫn đầy đủ.
Nói về đắc, luận Hiển Dương quyển 18 ghi:
Hỏi: Lấy cái gì làm trước tiên? Kiến lập bằng cái gì? Cái gì hòa hợp? Và chứng đắc pháp gì?
Đáp: Chủng tử tam Thừa là trước tiên, kiến lập bằng sức nhân bên trong, hòa hợp bằng sức nhân bên ngoài, chứng đắc Niết bàn xa lìa não trói buộc. Sức nhân bên trong ở đây là tác ý như lý, thiểu dục tri túc là phần thiện pháp bên trong. Lại được thân người sinh vào cõi Thánh, đầy đủ các căn không có các nghiệp chướng, đối với Đức Như Lai đầy đủ tín tâm thanh tịnh, các pháp như vậy gọi là sức nhân bên trong. Sức nhân bên ngoài là được Đức Phật xuất thế, thuyết pháp vi diệu làm cho chánh pháp cửu trụ cùng làm bạn lữ, đầy đủ bi, tín lấy làm thí chủ. Các pháp như vậy gọi là sức nhân bên ngoài. Luận Hiển Dương lại nói có tác dụng, luận này không có nên luận kia ghi:
Hỏi: Văn có giống như trước không?
Đáp: Tự chủng là trước tiên, tức luận kia lấy trước khi sinh làm kiến lập, lấy sinh duyên làm hòa hợp. Tự mình tạo nghiệp là sở tác dụng của chính mình mà được thành biện. Nghiệp tự sở tác là như mắt nhìn thấy nghiệp mình tạo. Như vậy các căn còn lại nên biết đều tạo nghiệp khác nhau. Lại như đất có công năng giữ gìn, nước tạo nên sóng lớn, lửa có công năng đốt cháy, gió có công năng làm bão. Những loại như vậy gọi là những pháp bên ngoài đều tạo nghiệp khác nhau. Luận này không chép đủ, hiểu như bản sớ.
Luận: "Nhưng tăng thượng duyên" đến "hai mươi hai căn".
Xét luận Đối Pháp quyển 5, Tăng thượng duyên có chín tăng thượng, sáu tăng thượng sau nương hai mươi hai căn kia mà kiến lập, cho nên luận ghi: "Về sau tăng thượng dựa vào hai mươi hai căn mà kiến lập". Cảnh giới tăng thượng đó là nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Do sức tăng thượng này mà sinh ra sắc v.v... Sản sinh tăng thượng, như hai căn nam, nữ do sức tăng thượng này mà thọ thai. Trụ trì tăng thượng là mạng căn từ sức tăng thượng này mà Chúng đồng phần được trụ. Thọ dụng quả tăng thượng là khổ, vui, mừng, giận, xả căn nương theo đây mà thọ ái, phi ái và dị thục. Thế gian thanh tịnh ly dục tăng thượng là năm căn như tín v.v... vì chế phục các phiền não này. Xuất thế thanh tịnh ly dục tăng thượng đó là ba căn Vô lậu, vì đã đoạn trừ các phiền não và tùy miên.
Lại nói, vì sao căn cơ gọi là căn, nghĩa là gì mà quán căn? Nghĩa là chấp cảnh tăng thượng, chủng tộc không ngừng tăng thượng, chúng đồng phần trụ tăng thượng, thọ dụng nghiệp quả tịnh bất tịnh tăng thượng, thế gian ly dục tăng thượng, xuất thế ly dục tăng thượng. Căn này chấp cảnh tăng thượng, nghĩa là khi sáu căn như nhãn v.v..., do lực tăng thượng này tiếp xúc với cảnh, sắc... làm chuyển tâm, tâm sở. Chủng tộc bất đoạn tăng thượng là khi căn nam và nữ giao hợp do sức tăng thượng này mà có con cháu... lưu chuyển mãi đến đời sau không dừng. Những điều còn lại như trước đã nói, vì xả bỏ chấp trước tăng thượng ngã cho nên quán sát các căn.
Sớ: Phong tục gia tộc.
Là khi hai căn nam nữ. Ngoài ra luận phối với tụng, nghĩa có thể hiểu. Lại luận Du-già quyển 57 có tám lần "lại nữa" để phế lập nghĩa này. Thứ nhất đồng như Đối Pháp, bảy lần còn lại có khác nhau, sợ rườm rà nên không chép.
Luận: Trừ sát-na sau.
Như sớ đã trình bày đầy đủ rõ ràng. Các luận có trái nhau, tổng hợp đủ như Nghĩa Đăng, cho nên ở đây không nói.
Luận: Cận năng dẫn phát vị căn bản.
Hiển bày nguyên nhân được căn Vô lậu. Hoặc giải thích người ngoài vặn hỏi, ý họ hỏi "ba căn Vô lậu tư lương, Gia hạnh, vì sao gọi là Vị tri, Đương tri căn", cho nên dẫn sinh xa để giải thích.
Luận: "Đối với ba vị này" đến "là căn tánh này".
Hỏi: Bồ-tát phải nương vào Đệ tứ thiền, nếu dựa vào ba thọ của Nhị thừa cũng chưa đủ, vì sao ở vị này đắc có chín căn?
Đáp: Nương chung ba Thừa đắc có chín căn, không nói chín căn đều sinh khởi đủ.
Luận: "Gia hạnh vị" đến "vì có nhiều nên không nói".
Hỏi: Thiện căn Gia hạnh là pháp sắc giới, ly dục mới chứng đắc, vì sao ở vị này vẫn còn ưu căn? Đáp: Quyết trạch phần thiện nương chung bản địa và cận phần của Sắc giới. Khi cận phần khởi tức chưa ly dục nên có ưu căn, tất nhiên không có lỗi. Vì thế căn cứ Đối Pháp quyển 10, bản luận ghi: "Vị tri, Dục tri căn là tất cả các căn trong mười lăm tâm sát-na của Phương tiện đạo và Kiến đạo".
Thích luận ghi: Các căn đó là năm căn như ý căn, tín căn v.v... do Vị chí định địa sở y sai biệt, như đối với sở ứng của nó mà có lạc, hỷ, ưu, xả.
Sớ: Nhưng căn Vô lậu này thông ba cõi.
Sinh khởi sẽ bàn ở luận sau. Nay xét luận kia ghi:
Hỏi: Không vô biên xứ địa có bao nhiêu căn cơ?
Đáp: Tổng có mười một. Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ địa nên biết cũng như vậy.
Giải thích: Năm căn như tín v.v..., ý, xả, mạng là ba và ba căn Vô lậu cộng lại thành mười một.
Luận. Hỏi: Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa có bao nhiêu căn cơ?
Đáp: Có tám.
Giải thích: Trong mười một căn trước trừ ba căn Vô lậu. Ba căn Vô lậu sẽ giải thích ở phần sau. Điều này đều dựa vào những người thừa nhận có hiện hành mà nói, không dựa tất cả mà nói chủng tử, phàm phu chưa chứng Vô lậu thân có chủng tử cõi dưới, không chỉ có tám. Luận nói bảy căn vẫn nhập cõi Vô sắc. Như Nghĩa Đăng giải thích rõ.
Luận: Ba Vô sắc ở trước có kiến đạo thù thắng. Như sớ đã nói rõ, các đồng và dị cũng phân biệt rõ trong Nghĩa Đăng. Ba loại biên trí như sớ sao phần trước đã nói, cho nên không nói lại.
Sớ: Chỉ đắc tu tu, chẳng phải hành tu tu.
Đắc nghĩa là sở đắc. Tu là huân tu, nhờ đạo lực hiện hành làm cho chủng tử sở đắc pháp tăng trưởng sáng suốt, cho nên pháp sở đắc gọi là tu. Hành là hiện hành. Tu gọi là tập học, cũng gọi là tập tu.
Luận: Vì sao ở đây y theo mười lăm xứ lập?
Có hai giải thích: Một là vì sao mười nhân này y theo mười lăm xứ lập; hai, đây là bốn duyên trước. Đã nói bốn duyên như vậy y theo mười lăm xứ, nghĩa có sai khác, kiến lập mười nhân, vì sao đây duyên y xứ lập nhân? Có nghĩa xác quyết rằng, giải thích sau là thù thắng. Y xứ sai biệt lập duyên làm nhân không lìa ngoài duyên riêng có nhân. Mười nhân đã như vậy, y xứ cũng như vậy, tức khai bốn duyên làm mười lăm xứ, không lìa ngoài duyên riêng có y xứ. Do nghĩa này nên khai rõ bốn duyên trước làm mười lăm xứ. Đứng về mười lăm xứ, nghĩa có sai khác, thành lập bốn duyên để làm mười nhân, nhưng khai bốn duyên làm mười lăm xứ. Nghĩa chuẩn theo đó lẽ ra như vậy, chẳng phải ở đây có văn.
Biện rằng: Giải thích trước thù thắng, vì sao? Văn sau riêng hỏi bốn duyên y xứ nhiếp nhân v.v... vì thế ở phần sau luận ghi: Nói bốn duyên nương xứ nào mà lập? Lại vì sao nhiếp mười nhân, hai nhân? Lại trước hỏi rồi, tức nêu y xứ mà biện mười nhân để đáp mà không nói bốn duyên. Do đây nên nói giải thích trước là thù thắng. Nếu lấy giải thích sau thì văn sau lại hỏi, thì thật là dài dòng. Văn trước không đáp, vì sao thiếu ư? Nay lại giải thích rằng, đây nói cả hai là bốn duyên và mười nhân, vì sao bốn duyên cho đến mười nhân đều nương theo y xứ? Sau đáp, trước biện mười nhân y xứ, sau nói duyên y, trong duyên y do chia ra mười nhân, thế văn xa nên hỏi lại, cũng không trái nhau.
Sớ: Nhưng y đối với nghĩa cùng chuyển thanh thứ bảy. Lược thành hai giải thích:
1. Nói y đối với cùng chuyển thứ bảy, không nói y ấy là nó đối với nghĩa. Y nếu đối nghĩa vì sao được nói cùng chuyển thứ bảy? Thể không hai nên không thể nói "đồng thời".
2. Nói y đối với có đồng có khác. Như căn cảnh, y đối không đồng.
Nói y ngữ xứ lập, tùy nói nhân y tức đối với nghĩa. Nay y nhân kia nói rằng y đối với nghĩa, đối y đối với danh là đồng thời thứ bảy. Điều này nên suy nghĩ.
Luận: Nghĩa là pháp danh tưởng sở khởi ngữ tánh.
Đây là văn của luận Du-già quyển 38, đủ như sớ dẫn. Nay lược giải thích rằng: Pháp là tất cả pháp Hữu vi, Vô vi, trói buộc, không trói buộc là nhân khởi ngôn thuyết gọi là pháp. Danh là tên pháp, do nghe các loại tên của các pháp rồi, hoặc từ giáo tìm danh cú văn mà khởi nơi tưởng, lấy cảnh sai biệt thiện ác mới khởi ngôn thuyết, cũng y văn cú mà khởi nơi tưởng. Nêu loại ban đầu để nhiếp các loại khác nên chỉ nói danh.
Hỏi: Luận nói tầm tứ gọi là biến hành, vì sao đâu tưởng vừa khởi ngôn thuyết?
Đáp: Lấy cảnh sai biệt mới phát khởi ở ngôn, thật ra do đối với tưởng duyên pháp nghĩa kia. Nhưng khởi đối với ngôn cũng nhờ tầm tứ. Nay căn cứ theo lấy cảnh khởi ngôn nên chỉ nói nơi tưởng. Lại do ngôn thuyết mà có rộng hẹp, thân sơ, hai trường hợp khác nhau, tầm tứ tuy thân mà không khắp cõi Phật, tưởng nhân tuy sơ mà thông suốt nhân quả, do đó mà nói.
Sớ: Chỉ dùng ba tướng và được nêu vặn hỏi.
Ý nêu kia cho rằng: đắc và tướng kia là y pháp lập. Tùy pháp sở y để phán phân đối với tánh, danh v.v... cũng như vậy, vì sao không tùy thanh để thông thiện ác?
Sớ: "Không thể nói cùng" đến "không đồng danh".
Đây là nêu lại người ngoài chống chế, ý người ngoài chống chế rằng: Đắc và sinh v.v... là pháp sở y, đều có nhân nghĩa. Danh v.v... thì không như vậy, vì sao được nêu ra?
Sớ: Đại thừa đều có nhân.
Đây là phá ý chống chế, hiển rõ nhân Đại thừa chỉ đắc v.v... không thể lấy đó chống chế nghĩa của tự tông.
Hỏi: Nhân thanh bản chất có thể chỉ Vô ký, do vì thức tám chỉ là Vô ký. Nếu nương thanh của tha biến tướng phần thì tánh nó như thế nào?
Đáp: Có thể thông với thiện. Như dùng tâm thiện nghe Phật thuyết pháp, bản chất đã thiện có thể nghe thanh thiện sở biến cũng không lỗi. Do thanh Vô ký, căn cứ bản chất mà nói, tướng phần, danh v.v... tùy thanh sở y cũng thông với thiện.
Sớ: Không phải thể khác y thể lập nghĩa.
Ngữ y là thể, thuyết nhân là nghĩa. Do trên ngữ thể có nghĩa năng thuyên, tức do ngữ y mà làm thuyết nhân, không đồng nhãn thức y căn riêng có, không đồng đắc v.v... y pháp giả lập.
Hỏi: Do ngữ y nghĩa là Tùy thuyết nhân, vì sao nói ngữ y tức là Tùy thuyết nhân, thể là Trì nghiệp thích ư?
Đáp: Vì nghĩa không lìa thể, Trì nghiệp vì sao trái được.
Sớ: Nếu như vậy tức do ngôn thuyết làm quả.
Hỏi: Giả sử như vậy cũng đâu có lỗi gì?
Đáp: Liền trái với ngữ y, tức nghĩa thuyết nhân. Luận: "Nếu y kia nói" đến "ngữ y xứ v.v...".
Hai luận không đồng, đều như sớ tổng hợp. Có nghĩa, sớ nói văn luận không tổng hợp, điều này không xứng lý, tức trong văn này chính là giải thích nghĩa tương vi, lại giúp luận chủ lập riêng đạo lý. Bồ-tát địa nói ba chủng mười nhân, Đối Pháp luận nói tức hiển nhân ban đầu, tánh chỉ là nhiễm.
Biện rằng: Trong luận vì sao có do năng thuyên sở thuyên sinh khởi thứ lớp thuận nghịch? Căn cứ theo luận không có điều này, nói luận không tổng hợp, vì sao có phi lý? Lại sớ tổng hợp rằng, Đối Pháp chỉ y phần nhiễm sinh để nói nhân quả, mà ẩn không nói rằng giúp luận chủ lập riêng đạo lý, y nhân nhiễm ban đầu, e rằng có xem nhẹ người mà xem trọng mình lắm chăng!
Hỏi: Văn này nếu không phải tổng hợp tương vi thì nhân do đâu mà có? Lại nói khoa nào tổng hợp tương vi?
Đáp: Chỉ hiển rõ văn kia, lấy Tùy thuyết nhân làm ngữ y xứ, rõ ràng ý luận khác nhau mà nói tổng hợp tương vi, không có năng thuyên sở thuyên, tương sinh nghĩa hợp, nói luận không hợp cũng không có lỗi.
Hỏi: Ba tánh Tùy thuyết nhân nghĩa là thế nào? Đáp: Luận Du-già quyển 38 ghi: Đối với các việc gieo trồng ở thế gian, tùy các thứ ngũ cốc ở đời giúp cho sự sống chỗ có các thứ danh tưởng ngôn thuyết. Nghĩa là ngũ cốc lúa mạch tức hướng đến các việc gieo trồng kia làm Tùy thuyết nhân.
Lại đối với tất cả tạp nhiễm duyên khởi tất cả các thứ danh tưởng ngôn thuyết, vô minh hành thức, cho đến ưu khổ phiền não, tức nó hướng đến các pháp tạp nhiễm kia làm Tùy thuyết nhân. Lại đối với tất cả phẩm pháp thanh tịnh, cho đến nhập Niết-bàn, tất cả các thứ danh tưởng ngôn thuyết, tức nó hướng đến các pháp thanh tịnh kia làm Tùy thuyết nhân.
Luận: Lãnh thọ y xứ.
Lãnh nghĩa là lãnh nạp, thọ là nhiếp thọ, nghĩa là năng thọ sở thọ đều gọi là lãnh thọ, tức lãnh thọ xứ lập Quán đãi nhân. Quán đãi nhân cũng gồm năng sở, do đây dựa vào nó có thể lập bốn câu:
1. Năng thọ là nhân, sở thọ là quả, trước trông mong ăn, sau trông mong được ăn.
2. Sở thọ là nhân, năng thọ là quả, do đối với cảnh mới lãnh thọ nó.
3. Năng thọ là nhân, năng thọ là quả, do định thứ hai là định Sinh hỷ lạc địa sinh lạc Tam thiền v.v...
4. Sở thọ là nhân, sở thọ là quả, như do phong luân trì thủy luân v.v...
Còn lại có thể biết. Vì thế, luận Du-già quyển 38 ghi: Quán đãi, do đây làm nhân. Đối các việc kia hoặc cầu hoặc giữ, đây gọi là Quán đãi nhân kia. Như Quán đối với tay, nên tay làm nhân, nên có nghiệp cầm nắm. Quán đối với chân, nên chân làm nhân, có công năng đi tới đi lui. Quán đối với đói khát, đói khát làm nhân, đối với các thứ ăn uống hoặc cầu xin, hoặc cất giữ.
Hỏi: Đây nhân ba tánh, nghĩa nó thể nào?
Đáp: Trong luận Du-già ghi: Quán đãi đói khát yếu kém thân trụ. Quán đãi đoạn thực chỗ có mùi vị ưa thích. Đối kia tìm cầu chấp lấy thọ dùng, tức nói pháp kia là Quán đãi nhân. Lại quán đãi cảnh giới, tất cả mùi vị ưa thích, các hữu chi tương tục lưu chuyển, tức nó hướng đến các pháp tạp nhiễm này làm Quán đãi nhân. Lại Quán đãi các hành vì nhiều lỗi lầm, ưa cầu thanh tịnh nhiếp thọ thanh tịnh, thành mãn thanh tịnh, nó hướng đến đây làm Quán đãi nhân.
Luận: Tức y xứ này lập Khiên dẫn nhân.
Khiên dẫn nhân này cũng có ba tánh. Luận Dugià ghi: Do nó từ hạt giống sai khác, các loại gieo trồng khác nhau mà sinh, tức nói hạt giống kia là Khiên dẫn nhân. Lại đối với hiện tại các pháp vô minh tất cả các chủng tử đã sinh và trưởng thành. Nay chủng tử này hướng đến sinh và sinh, lão, tử v.v... làm Khiên dẫn nhân.
Giải thích: Đây hướng đến quả thông gần và xa. Lại an trụ chủng tánh, Bổ-đặc-già-la chủng tánh đầy đủ có thể làm thượng thủ chứng hai quả Hữu dư Niết-bàn và Vô dư Niết-bàn, hướng pháp thanh tịnh kia làm Khiên dẫn nhân.
Giải thích: Chủng tánh hướng đến trí năng chứng Niết-bàn làm Khiên dẫn nhân, không hướng đến Niết-bàn, vì Niết-bàn không phải là nhân sở sinh. Nêu lý sở chứng hiển rõ trí năng chứng.
Sớ: Chưa được sức thiện hữu thấm nhuần.
Hỏi: Trong các giáo pháp chỉ nói hoặc là có thể thấm nhuần, nay nói thiện hữu thấm nhuần, thật chưa từng được nghe?
Đáp: Nhuận là trợ giúp khiến cho sinh tưởng. Căn cứ sinh trong ba cõi giáo nói hoặc thấm nhuần. Nếu luận về xuất thế đa văn, thiện hữu có thể trợ giúp gọi là thấm nhuần, điều này cũng đâu có trái nhau. Sớ nói "vân vân" nghĩa là nghe và huân tập.
Luận: Sinh khởi nhân.
Y theo Du-già luận cũng thông ba tánh. Luận nói tức hạt giống kia hướng đến mầm mộng sở sinh. Lại các pháp vô minh đều có chủng tử khác nhau. Lại chủng tánh đã nhiếp tất cả Vô lậu Bồ-đề phần pháp tất cả chủng tử, hướng đến tất cả Bồ-đề phần pháp. Vô ký, nhiễm, thiện như thứ lớp ba tánh sinh khởi nhân.
Luận: Nghĩa là đối với nghiệp sở tác.
Nghiệp sở tác là quả, nghiệp tức năng tác, tức tám chín xứ năng tác nghiệp dụng. Đối quả xứ nói nghiệp dụng thanh là nghiệp sở tác.
Sớ: Vô ký tức nhân trừ vô gián duyên.
Hỏi: Biến hóa Vô ký vô gián được sinh tâm của học, Vô học, vì sao vô gián quả không phải là Vô lậu?
Đáp: Tức tâm biến hóa thông thiện, Vô ký. Nếu vì vui thích khởi sự biến hóa thì tánh thuộc Vô ký, vì dẫn dắt cho người khác hoặc vì lợi ích các loài hữu tình nên khởi sự biến hóa. Phải biết là thiện, nên khéo biến hóa dẫn tâm Vô lậu. Vô ký cũng như vậy, vì mê mờ yếu kém. Các nghĩa khác đồng như đây nên không dẫn dài dòng.
Luận: Tổng y sáu vị này lập Nhiếp thọ nhân.
Ba tánh nhân này, luận Du-già ghi: Đất, nước các duyên năng sinh mầm mộng. Lại gần người bất thiện nghe pháp bất chánh, tác ý không đúng lý và thế lực tập quán trước dẫn sinh vô minh v.v... Lại thân cận người thiện nghe chánh pháp, tác ý đúng lý và các căn đã tạo trước được thành tựu. Như thứ lớp ba tánh Vô ký, nhiễm, thiện nhiếp thọ nhân.
Luận: Dẫn phát nhân.
Có ba tánh khác nhau. Luận Du-già ghi: Mầm, nhánh, lá v.v... triển chuyển tương tục, mong vào sự gieo trồng hoặc thành hoặc thục. Lại từ chi vô minh cho đến chi Hữu, triển chuyển dẫn phát tương tục về sau. Hướng đến các sinh chi sinh, lão tử v.v... Lại từ chủng tử sinh tất cả Bồ-đề phần pháp, thứ lớp có thể chứng hai quả Niết-bàn là Hữu dư và Vô dư. Như thứ lớp ba tánh Vô ký, nhiễm, thiện dẫn phát nhân.
Luận: Định dị nhân.
Luận Du-già nói có ba tánh sai khác, nghĩa là từ giống lúa đại mạch sinh mầm đại mạch. Giống lúa đại mạch gieo trồng không mọc loại lúa khác. Như vậy những giống khác phải biết cũng như vậy. Lại chi vô minh và tự chủng tử cho đến chi Hữu năng sinh Na-lạc-ca, sinh các đường khác phải biết cũng như vậy, tức nó hướng đến các pháp tạp nhiễm gọi là Định biệt nhân. Lại tánh Tam thừa đều đối tự thừa có thể nhập Niết-bàn, nó hướng đến thanh tịnh là Định biệt nhân.
Luận: Đồng sự nhân.
Ba tánh khác nhau. Luận Du-già ghi: Đồng là do cày bừa mà được thành tựu, không phải việc cày bừa kia thiếu một nhân nào mà được thành tựu. Vì thế tất cả hòa hợp gọi là Đồng sự nhân. Lại tức do tất cả nhân kia từ Quán đãi nhân đến Định biệt nhân gọi là Đồng sự nhân.
Giải thích rằng: Từ nhiễm Quán đãi đến nhiễm Định biệt gọi là nhiễm pháp Đồng sự nhân. Lại từ phẩm thanh tịnh Quán đãi nhân đến Định biệt nhân kia hướng đến thanh tịnh là Đồng sự nhân.
Luận: Tương vi và Bất tương vi nhân.
Ba tánh của nó như luận Du-già ghi: Sương móc, thiên tai, mưa đá v.v... các pháp chướng ngại, mong mầm tăng trưởng kia là Tương vi nhân. Nó thiếu không bị chướng ngại là các mầm tăng trưởng Bất tương vi nhân. Lại pháp tạp nhiễm này Tương vi nhân, nghĩa là chủng tánh xuất thế gian đầy đủ, gặp Phật xuất thế diễn nói chánh pháp, thân cận thiện tri thức nghe chánh pháp, tác ý đúng lý, tức như các thứ pháp thiện đã nói, hoặc khai mở, hoặc lìa, đây là pháp tạp nhiễm Bất tương vi nhân. Lại chủng tánh không đầy đủ, không gặp Phật xuất thế, sinh nơi không nhàn tịnh, không thân cận bạn lành, không được nghe chánh pháp, tác ý không đúng lý, thường học theo các tà hạnh, nó hướng đến thanh tịnh là Tương vi nhân. Tương vi nhân này hoặc thiếu hoặc lìa, đây là thanh tịnh Bất tương vi nhân.
Hỏi: Đại thừa diệt pháp mà không nói Đãi nhân nói Tương vi nhân lẽ nào chẳng phải tự trái ư?
Đáp: Như sớ và Nghĩa Đăng đều nói cùng pháp tương vi kia làm nhân cũng như bốn tương vi nhân trong Nhân Minh. Có nghĩa phá rằng: Nếu nói cùng tương vi kia làm nhân khiến cho nó sinh v.v... đây chính là tương thuận, vì sao gọi là tương vi? Nay giải thích tức cùng hiện tại sinh v.v... các pháp làm nhân. Nghĩa là lẽ ra sinh do vì trái, nó khiến không được sinh. Do trái không sinh trụ v.v... mà làm quả, vì thế tương vi làm nhân.
Biện rằng: Lý cũng chưa thể được, lẽ ra sinh pháp nó đã không sinh tức là không có pháp, làm sao hữu pháp cùng với vô làm nhân? Nếu nói do nó không sinh trụ v.v... mà làm quả, đã nói cùng nó lẽ ra sinh pháp mà làm nhân kia, vì sao nói do nó không sinh trụ v.v... mà làm quả kia? Chính là quả không có nhân, nhân không có quả vậy. Nếu nói cùng với nó lẽ ra sinh pháp trên không sinh trụ v.v... mà làm nhân, vì thế nói rằng cùng sinh pháp làm nhân. Nếu như vậy thì do hướng đến không sinh trụ v.v..., vì sao gọi là Tương vi nhân? Vì chánh thuận với nó không sinh, cho nên theo sớ là chính. Văn như Nghĩa Đăng dẫn.
Sớ: Sáu tương vi.
Xu Yếu, Nghĩa Đăng hai chỗ đều dẫn, nên ở đây không nêu.
Sớ: "Hai chỗ trong luận" đến "năng sinh nhân". Tức hai vị Bồ-tát địa và tầm tứ địa nói.
Sớ: Chuẩn theo, nghĩa là luận kia nói sinh khởi nhân v.v...
Cũng có sớ viết chữ "thùy", nay theo hai giải thích chữ "chuẩn" và chữ "thùy".
1. Ý cho rằng, "chuẩn" theo luận Du-già nói sinh khởi nhân vì thế luận này nói sinh khởi nhân. Như luận này đã dẫn văn. Luận này nói trong sinh khởi nhân có nghiệp chủng, rõ biết sinh khởi nhân luận kia có nghiệp như vậy.
2. Ý cho rằng, "thùy" nghĩa là trong luận Dugià nói sinh khởi chỉ là nhân duyên. Sớ nói nhân này là nhân duyên vậy. Sớ nói "như văn này" là giải thích Bồ-tát địa sinh khởi không chỉ có lý do nhân duyên, vì sao? Luận này giải thích các nhân sinh khởi. Trong phần giải thích đã nói trong sinh khởi nhân có nghiệp chủng, rõ biết sinh khởi kia bao gồm nghiệp là điều không còn nghi ngờ gì nữa. Nếu không như vậy, luận này liền trái với bản kia.
Hai giải thích đều được, phải theo nhiều bản.
Sớ: Khiên dẫn nhân hoàn toàn.
Hỏi: Trong Khiên dẫn nhân có phi nhân chủng, vì sao nói là hoàn toàn?
Đáp: Toàn chưa thấm nhuần cho nên gọi là toàn, nói sinh khởi hoàn toàn cũng chuẩn theo đây mà biết.
Sớ: Hai loại khác hợp với trước để làm thể. Tức hòa hợp và không chướng ngại kia.
Sớ: "Nếu không như vậy" đến "đầy đủ ba duyên".
Nếu lìa khỏi thể, trong phương tiện kia không nhiếp hai duyên trung gian, như vậy vì sao luận không nói hai duyên trung gian là thuộc về năng sinh? Luận đã không nói thuộc về năng sinh nhân, rõ ràng là tăng thượng. Vì thế biết phương tiện đều nhiếp ba duyên. Tăng thượng tức là phương tiện nhiếp.
Luận: Một là Dị thục quả.
Hỏi: Chuẩn theo phẩm Phật Mẫu trong kinh Bản Nghiệp ghi: Tất cả thiện thọ quả Phật, vô minh thọ quả Hữu vi sinh diệt. Vì thế thiện quả từ nhân thiện, quả ác từ nhân ác sinh. Nói thiện không thọ quả sinh diệt, chỉ có thọ quả thường hằng như Phật. Luận nói thiện ác đều chiêu cảm dị thục lẽ nào không trái nhau sao?
Đáp: Có chỗ giải thích rằng, cảm quả thiện và bất thiện trong ba cõi đều do vô minh dẫn, gọi chung là vô minh tư lương v.v... Nói có Vô lậu thiện đều hướng đến quả Phật, không phải vô minh phát, gọi chung là thiện, không phải cho rằng vô minh phát các điều phước, không chiêu cảm ba cõi. Biện rằng: Nếu tư lương đạo Hữu lậu thiện pháp đều hướng đến quả Phật, thì quả nghiệp của Thập vương ở vị nào tạo? Nếu cho rằng vị này tạo nghiệp kia, thì vì sao nói là đều hướng đến quả Phật? Nên nghĩa có khác. Nay lược có hai giải thích: Một là kinh tùy chuyển tùy Hóa địa bộ. Hóa địa bộ nói thiện chẳng phải có nhân. Hai là căn cứ Tam thừa Vô lậu tư lương, Gia hạnh chánh vị lậu thiện, xa gần đều gọi là nhân của Phật quả. Minh là duyên, vô minh hoặc vốn dẫn thiện hữu lậu nên cũng gọi là vô minh. Vì thế nói vô minh chiêu cảm quả trong ba cõi. Do đây không nói các phiền não khác và lậu thiện khác cảm quả sinh diệt. Nếu như vậy chấp văn không thừa nhận nhân thiện khác cảm quả dị thục, lẽ ra cũng chấp văn chỉ có một vô minh có thể cảm quả hữu lậu, những phiền não khác đều không thể chiêu cảm. Vì trong văn chỉ nói vô minh được. Đây đã không như vậy, thì luận kia vì sao lại như vậy, vì thế biết kinh luận đều y cứ một nghĩa, đều không trái nhau.
Sớ: Chỉ một pháp này, không phải pháp khác đều là giả nói. Lược có hai giải thích:
1. Nhân quả đồng tánh gọi là một pháp, một pháp nhân quả là thật Đẳng lưu, không phải tánh khác là Đẳng lưu. Dù nói Đẳng lưu chỉ là giả nói mà thôi.
2. Chỉ có báo nghiệp này tương tợ một pháp giả nói Đẳng lưu, không phải từ pháp khác cũng đều giả nói Đẳng lưu, vì không đồng nhau. Sớ nêu nhân quả một nghiệp sát sinh, hiển rõ nghiệp thiện ác khác, quả báo đều là giả Đẳng lưu, ngoài đây ra không thể nói là giả nói. Hai giải thích này mặc tình chọn lấy.
Luận: Bốn quả sĩ dụng.
Xét luận Du-già ghi: Các cõi một loại đối với trong hiện pháp, y chỉ tùy một công xảo nghiệp xứ khởi dụng sĩ phu. Nghĩa là các việc, làm nông, buôn bán, thờ vua, thư họa, toán số, bói toán v.v... do đây thành biện các việc cày bừa, các quả tài lợi v.v... gọi là sĩ dụng quả. Lại y theo Hữu tông, Thuận Chánh Lý luận, quyển 18 ghi: sĩ dụng quả có bốn:
1. Câu sinh: Trong một lúc xem nhau làm nhân, do sức dẫn khởi.
2. Vô gián: Kế đến sau đó do niệm trước dẫn phát. Như Thế đệ nhất năng sinh khổ pháp trí nhẫn kia.
3. Gián cách: Cách thời gian xa, triển chuyển làm nhân dẫn khởi. Như nông phu làm nông đối với lúa gạo v.v.
4. Bất sinh: Niết-bàn do Vô gián đạo lực mà chứng. Nếu Vô gián đạo đoạn các tùy miên chứng trạch diệt, gọi là quả Ly hệ và Sĩ dụn. Nếu không đoạn hoặc chỉ chứng lại diệt thì chỉ gọi là Sĩ dụng. Đại thừa không có văn, nghĩa giống như luận kia, cũng không có lỗi.
Sớ: "Tâm, tâm sở khác" đến "tất cả Hữu lậu".
Ý này cho rằng, luận về tâm và tâm sở đủ năm y xứ. Nghĩa là từ vô gián diệt cho đến sĩ dụng xứ. Luận về sắc khác v.v... trừ ba y trước, chỉ lấy hai loại sau. Hai loại sau thông, có thể biện quả sâu sắc tâm. Dị thục đã là Hữu lậu quả thâu nhiếp, vì sao được không y tác dụng sĩ dụng? Do nghĩa này, có thể y sáu xứ.
Luận: "Tùy thuận xứ" đến "tất cả công năng".
Sớ có ba thuyết, có nghĩa cho rằng vì sao vô gián không được Đẳng lưu? Đáp: Chín phẩm ngang nhau thành vô gián duyên, quả này thì không như vậy. Luận sau chỉ nói vì hai duyên được, trong đó chẳng phải không thể dẫn thượng phẩm đồng tánh. Y toàn xứ nói nên không lấy. Nếu nói toàn không, do hiện mong hiện làm Đẳng lưu quả, lẽ nào chỉ có tha thức thừa nhận là thù thắng? Nếu nói đủ thì y mười xứ.
Biện rằng: Nếu cho hoàn toàn thiếu mà tổng hợp văn thì lý cũng không đúng. Vả lại tùy thuận xứ cũng không hoàn toàn, Niết-bàn sở dẫn không có Đẳng lưu, còn chỗ khác chuẩn theo có thể biết. Vì thế y sớ xác quyết rằng, vô gián duyên, hình đối chín phẩm, không phải định tùy thuận, nên luận không lây nghĩa được Đẳng lưu quả. Lại chân Đẳng lưu chủng tự sinh nhau, sinh tự hiện hành, hiện hành huân vào chủng tử. Vì thế Đẳng vô gián không có chân Đẳng lưu, dường như bất định nên không lấy.
Luận: "Chân kiến xứ" đến "tất cả công năng".
Sở phán phân bảy xứ được quả Ly hệ. Này dùng lý xét lẽ ra tám xứ đắc, đã đợi năng chứng mới có sớ chứng, lấy lãnh thọ xứ cũng đâu trái lý. Văn trong đoạn sau không nói Quán đãi nhân được quả Ly hệ, căn cứ Hữu vi quả ẩn Vô vi quả mà không nói. Sớ y theo văn sau nên nói bảy xứ, cũng không trái nhau.
Luận: "Sĩ dụng xứ" đến "tất cả công năng".
Sớ ghi: Mười một y xứ, nghĩa là thật căn y xứ cũng được quả này. Sớ giải thích lược chỉ nói mười một, không phải nói là bản ý của sớ, làm sao mà rõ? Đáp: Sớ, trước chánh giải thích sĩ dụng xứ mà lập pháp rằng: Như nhãn căn v.v... sinh nhãn thức v.v... gọi là pháp sĩ dụng, do đó biết được. Nếu không như vậy lẽ nào sớ trước sau không vượt quá mấy lời, tức tự mâu thuẫn nhau? Nên nhất định phải giải thích lược. Đã thêm y căn bản nên hợp thành mười hai xứ. Có chỗ nói mười ba vì thêm cảnh giới xứ.
Biện rằng: Không lấy cảnh giới hướng đến quả sĩ dụng kia thì thế của nó thật thưa xa. Vì thế hai sư sau nói sĩ dụng quả nhưng đều không thừa nhận sở duyên duyên đắc.
Luận: "Vì bảy thức trước đối với thức thức tám" đến "chủng tử của tướng phần kiến phần".
Có hai giải thích:
1. Bảy chủng thức trước, mỗi mỗi có thể huân tập bảy chuyển thức kia từ chủng tử tướng phần kiến phần trong bản thức. Thức thứ tám duyên chủng tử tướng phần kiến phần kia làm thân sở duyên, tức sở duyên kia có thể huân tập và dẫn phát. Vì thế nói năng huân là sở duyên kia. Tuy hiện hành cùng chủng tử nhưng hai tướng không đồng, thể loại thì đồng.
2. Nói đồng sớ, chủng tử quả tướng phần kiến phần kia sinh kiến phần tướng phần của Thức thứ tám là thân sở duyên. Có thể huân bảy thức là sơ sở duyên. Vì đây kia dẫn phát.
Như vậy hai giải thích đều thành sở duyên. Nhưng giải thích sau dường như nghĩa riêng nói, thật ra cũng trái lý. Dẫn nhân cùng quả vì không đồng với đời, lại y dẫn chủng tử vì lập mạng căn. Niệm này huân rồi niệm sau liền sinh và cùng nó trái nhau. Giả sử nói cách thân nhưng năng sinh, nên có nghĩa duyên, điều này cũng không đúng. Như duyên xa này vì sao thành duyên nghĩa? Lại Thức thứ sáu đối với Thức thứ năm, thứ bảy, nghĩa này chẳng phải không, vì sao không nói có? Nay Thức thứ sáu đối với Thức thứ năm, thứ bảy cũng có sở duyên, Thức thứ sáu có thể huân chủng tử Thức thứ năm, thứ bảy, luận không nói điều này là vì chỉ tóm lược. Các người khác không nói, bèn nói huân tướng phần và kiến phần của Thức thứ tám kia. So sánh hàng trước hàng sau, cách nhau đến mấy dặm!
Biện rằng: Xét luận xem sớ, sớ thật không trái, có nghĩa giải thích trước chẳng phải thuận giáo. Luận nói năng huân chủng tử tướng phần kiến phần kia, năng huân tự chủng vì sao được gọi là kia? Lại mang theo tướng của bản thân nó là sở duyên duyên. Thức thú tám duyên đối chủng tử, mong hiện hành của thức thứ bảy năng huân tướng phần kiến phần, vì sao gọi là Đới kỷ. Đới nghĩa là mang theo, đới tợ. Do đây thân duyên dường như sơ cảnh kia. Sơ cảnh cũng gọi là sơ sở duyên duyên, nếu không như vậy, do đâu được gọi là sở duyên? Há dùng thể loại giải thích sở duyên ư? Lại nói bảy thức trước huân tướng phần kiến phần Thức thứ tám, há có thể huân thức, có thể dẫn nghiệp ư? Vì sao được dùng nó dẫn nhân, nhân quả không đồng làm vặn hỏi? Giả sử tránh dẫn nhân cùng quả đồng đời, nay có đời này tạo nghiệp chịu tội, còn lại không phải nghiệp v.v... đã không có lỗi này, vì sao không lấy?
Lại đã là sơ duyên cách đời vì sao lại có lỗi? Luận chỉ nói trước không lựa xa gần. Nếu không thừa nhận năm duyên, tướng trước lẽ ra cũng không thành, vì cũng khác đời, vì thế biết sư này có sức cách đời thành duyên nghĩa, vì gần xa tuy khác mà đều cách. Lại xem ý của sớ thông chủng tử, hiện hành, không chướng ngại có thể huân chủng tử, kiến phần tướng phần làm tám sở duyên. Chỉ do luận nói có huân nó. Đứng về huân đối với tướng phần kiến phần của Thức thứ tám mà nói, nay đã hạn cuộc đoạn nên khó căn cứ.
Hỏi: Hiện thức trước mong Thức thứ tám, vì sao có tướng sở duyên?
Đáp: Thức thứ tám tân huân năm trần cảnh, năm tướng huân được, vì thế Thức thứ tám tương tợ năm tướng khởi. Do đó năm tướng là sơ sở duyên duyên kiến phần Thức thứ tám. Kiến phần Thức thứ bảy duyên kiến phần Thức thứ tám mà huân chủng tử kia, sau sinh kiến phần kia là tự chứng duyên, kiến phần Thức thứ tám tương tợ kiến phần Thức thứ bảy. Lại tướng phần Thức thứ bảy sinh cho nên hiện hành Thức thứ bảy làm tự chứng sơ sở duyên duyên của Thức thứ tám. Thức thứ sáu chuẩn theo đây có thể biết. Lại trong sớ nói Thức thứ sáu mong Thức thứ bảy v.v... chuẩn theo đây nên biết. Ý nói rằng Thức thứ sáu huân chủng tử năm thức trước và Thức thứ bảy được làm sở duyên duyên của năm thức trước và Thức thứ bảy. Sớ đã nói rồi, vì sao bảo rằng không nói. Văn luận không đầy đủ, sợ rằng hàng cách hàng quá xa.
Sớ: Lẽ ra lập bốn câu.
Thức thứ bảy chỉ huân kiến phần, năm thức trước chỉ huân tướng phần. Thức thứ sáu duyên chủng tử kiến phần tướng phần Thức thứ tám, hoặc duyên tâm tâm sở khác. Vô vi, cả hai đều không huân.
Luận: Đồng tụ khác thể.
Có nghĩa hỏi rằng: Như quyển trước nói đồng tụ tâm v.v... do hỗ tương hòa hợp dường như một, hỗ tương là vô gián, vì sao nay nói chỉ có Tăng thượng duyên?
Đáp: Phải biết rằng đây không tột lý, lại giải thích văn này y đồng thời mà nói. Y trước sau nghĩa là Thức thứ sáu có ba duyên, còn các thức khác chỉ có hai duyên.
Biện rằng: Văn này căn cứ theo đồng thời mà nói, vì sao lại nhầm lẫn đến nỗi vặn hỏi phiền phức như vậy? Trước sau mong nhau, trước đã nói rồi.
Lại hỏi đồng tụ khác thể, lại còn nói hỗ tương làm Đẳng vô quán duyên, đồng thể bốn phần, trừ tướng phần, ba phần còn lại thể là một. Một Khai đạo thì thể khác cũng Khai đạo, vì sao không thừa nhận ba phần trước sau hỗ tương làm Đẳng vô gián duyên? Nghĩa này nên suy nghĩ.
Biện rằng: Luận nói "đồng tụ" trở xuống đến "tịnh thức thứ tám" đều y đồng thời, đồng tụ bốn phần mà nói duyên nghĩa, không chướng ngại trước sau, tự loại ba phần là Khai đạo. Ba phần đã đối với nghĩa phần một thức, nghĩa hỗ tương khai đạo tương ưng không có lỗi. Nói luận không thừa nhận, sợ rằng sai ý chỉ của luận.
Sớ: Tức không có lỗi trước chỉ có lỗi sau.
Nếu thừa nhận đồng thời kiến phần duyên nhau, tổng có hai lỗi.
1. Không có lỗi đồng một sở duyên, như nói tự thấy được tự duyên.
2. Tức có tâm tự duyên ngại, như dao tự cắt.
Nay có ngăn ngại tự duyên thứ hai cho nên gọi là lỗi sau, không phải trong sớ trước nêu có hai lỗi mà nói rằng lỗi sau. Hoặc sớ trước nói kiến phần tướng phần không duyên nhau, nay thừa nhận tự chứng phần được duyên tự kiến phần. Không có kiến phần tướng phần mong nhau là thiếu lỗi đồng duyên. Nhưng đồng thời tâm và sở thấy mà không duyên nhau, mong tướng phần kia đồng thời tâm vương tâm sở không đồng duyên là lỗi. Tướng phần thấy sau cho nên gọi sau lỗi.
Sớ: "Nay y có thể như vậy" đến "chẳng phải cần như vậy".
Nay y duyên cảnh của Thức thứ tám mà nói có thể có bản chất, không phải tất cả thức đều cần có bản chất. Như ý thức duyên hư không liền không có bản chất.
Sớ: Hoặc đứng về sơ sở duyên duyên cũng chẳng phải.
Chẳng phải chỉ không được thành thân sở duyên mà sơ cũng không được. Lại sớ nói kiến phần và tướng phần không tương tợ, là giải thích lý do không được làm sơ sở duyên. Phàm thân sở duyên thể giống như sơ sở duyên, như tướng phần sắc giống như chất sắc.
Biện rằng: Giải thích trước là trội hơn, hoặc Đới kỷ tướng sau cũng lý thông.
Sớ: "Một là trước y theo nhân y" đến "không hẳn đồng".
Trước nói tâm vương tâm sở đồng một sở duyên, là căn cứ theo nhân vị mà nói, quả không hẳn đồng, vì sao như vậy?
Đáp: Quả vị tự tại, không đồng cũng đâu có lỗi gì. Lại ngoài nhân duyên ắt đồng sở duyên. Quả cũng từ duyên bên trong tương ưng pháp. Do sở duyên này ắt nhất định đồng. Giải thích sau là chính.
Sớ: Nghĩa này tuy thù thắng nhưng hơi khó biết.
Hỏi: Khó biết lý thế nào?
Đáp: Do không đồng một nghĩa sở duyên. Hỏi: Vì sao lại không đồng?
Đáp: Tâm vương duyên sở biến kia dường như kiến phần, tâm sở có thể duyên tâm, kiến phần lại làm bản chất kia. Như vậy vì sao được thành đồng sở duyên?
Hỏi: Tâm vương và sở duyên nương gá tự tâm biến, vì sao không đồng?
Đáp: Nhưng không thể một lúc có hai tâm vương. Tâm vương vì sao có năng và sở nương gá? Năng sở nương gá tâm vương đã không có, vì thế chỉ có một tâm duyên tợ duyên cảnh. Đồng thời tâm sở biến tâm làm bản chất. Bản chất dường như không đồng nhau vì sao tâm vương, tâm sở đồng một sở duyên? Nếu tương tợ gọi là đồng một, lý tuy có thể như vậy. Nhưng bản luận bản chất gọi là đồng một. Vì thế căn cứ kiến phần tự duyên, tương tợ duyên đồng gọi là nghĩa thắng. Bản chất không đồng nên nói là khó biết.
Luận: Chỉ trừ kiến phần không phải tướng phần sở duyên.
Như trong Nghĩa Đăng và sớ đã nói đầy đủ rồi. Có nghĩa xác quyết lấy nghĩa thứ tư của Tây Minh mà tự hỏi rằng: Vì sao thừa nhận ba phần có thể duyên ba phần khác? Vì sao tự duyên lại đồng với nghĩa của Tiểu thừa, Đại chúng? Giải thích: Họ nói tâm v.v... thân liễu tự tánh, nếu như vậy một thể phân năng duyên sở duyên lại thành tạp loạn. Nay biến ảnh duyên cho nên không đồng, không có lỗi tự duyên. Nếu không như vậy thì chư Phật lẽ ra không thể biết cùng khắp. Lại vì sao nói đồng một cảnh? Vì thế phải biết như thọ duyên tưởng kiến phần, tưởng kiến tức là có thể biến ảnh rồi tự duyên, chỗ gá nương chất đồng, ảnh tượng tương tợ nên gọi là đồng. Lại nói, thứ tư duyên phần thứ hai, như vậy phần thứ ba và bốn lại duyên nhau. Kiến phần duyên hai phần sau, có hai giải thích: Một là biến tướng, nghĩa là kiến phần duyên hai phần sau, đã là Hậu đắc trí, nên nhất định là biến tướng. Hai là không biến tợ hai phần sau, tức tự chứng phần nên không đồng duyên các phần khác. Tuy Hậu đắc trí cũng không biến tướng. Nay lấy cách giải thích sau.
Biện rằng: Tuy có sự xác quyết sâu xa, nhưng e rằng vẫn chưa được, vì sao nói chưa được? Nếu cho rằng tương tợ gọi là đồng thì có thể đúng, nhưng nói kiến phần v.v... biến ảnh tự duyên, rõ ràng là sở duyên đồng. Sớ trước đã xác quyết thù thắng nhưng khó biết, lý khó biết như trước đã nói, hay dở có thể biết.
Lại do phần thứ tư duyên thứ hai, phần thứ hai lại duyên hai loại sau, đều chẳng phải biến tướng.
Hai duyên ba bốn, khi bốn và ba kia duyên với ba bốn vì sao lại khác? Vì đều bất biến. Bốn duyên thứ hai, trách cũng đồng. Do đây đều có lỗi lẫn lộn, nên bản sớ nói không tạp loạn.
Luận: Quyến thuộc của nghiệp cũng lập tên nghiệp.
Có nghĩa giải thích rằng, sớ nói năm uẩn gọi chung là nghiệp. Nay chỉ có thể lấy pháp tương ưng làm quyến thuộc, căn, cảnh hữu sắc chỉ là Vô ký. Tuy nghiệp câu hành nhưng không thể chiêu Dị thục dẫn và mãn.
Biện rằng: Luật nghi và bất luật nghi đã gọi là sắc, bị quyến thuộc của nghiệp giúp chiêu cảm dẫn và mãn, vì sao lý lại trái nhau? Các kinh giáo đều nói do giới thiện ác sinh thiện ác, sớ cũng không nói năm căn và cảnh v.v... là quyến thuộc, tự nghĩa không đủ, vặn hỏi trong sớ hơi thừa.
Sớ: Không đồng Tiểu thừa đủ mười tùy chuyển.
Do mười nhân nên được tên tùy chuyển, gọi là mười tùy chuyển. Thể của tùy chuyển, xét luận Câu-xá quyển 6 ghi: Tất cả chỗ có tâm tương ưng pháp, Tĩnh lự Vô lậu hai thứ luật nghi, tướng pháp kia và tâm sinh, như vậy đều gọi là tâm tùy chuyển pháp. Vì sao pháp này gọi là tâm tùy chuyển? Lược nói do thời, quả, thiện nên pháp này gọi là tâm tùy chuyển. Vả lại nói do thời, nghĩa là đây cùng tâm đồng, bốn tướng và tùy một đời. Do quả nghĩa là đây cùng với tâm cùng một Dị thục và một Đẳng lưu. Do thiện nghĩa là đây cùng với tâm đồng các tánh thiện, bất thiện và Vô ký. Do đây mười nhân gọi là tâm tùy chuyển. Nay Đại thừa bốn tướng, thể không chiêu Dị thục, không đồng Tiểu thừa tùy chuyển có thể được quả Dị thục.
Sớ: "Hóa tha bộ" đến "hiện đều có thể".
Hỏi: Đại thừa thể của hiện cũng chẳng không, vì sao lại lựa nó?
Đáp: Đại thừa thể của hiện chỉ có nghiệp tập khí, không có nghiệp hiện của thể nên không đồng với nó, nên cần phải tự lựa chọn.
Sớ: Trước nói trong tướng cũng thông Vô vi.
Thể tướng và tướng trạng đều gọi là tướng, nên nhiếp Vô vi.
Sớ: Tất cả năm uẩn không lìa hai thứ này.
Sắc uẩn là tướng phần của tâm và tâm sở cũng gọi là tâm sở. Tâm sở và tâm nên nhiếp năm uẩn.
Sớ: Ái lạc chấp lấy duyên thủ.
Rõ ràng thủ thông cả hai, chấp và duyên đều gọi là thủ.
Sớ: "Biệt báo của thức khác" đến "tất cả pháp nhiếp hết".
Thức khác nhiếp báo và phi báo. Tâm phẩm của bảy thức không chỉ nghiệp cảm, nên gọi là nhiếp hết.
Sớ: Chỉ lựa Dị thục cho là rất hẹp.
Nêu trước để giải thích sau chỉ nhiếp biệt báo, không lấy thức khác và tâm sở v.v... nên gọi là rất hẹp.
Hỏi: Bốn phần tướng phần kiến phần v.v... Bốn phần này đều nhiếp được năm uẩn chăng?
Đáp: Đều có thể nhiếp được, kiến phần chỉ nhiếp bốn uẩn phi sắc kia. Tướng phần nhiếp toàn sắc và một ít phần uẩn khác. Bản mạt tướng phần tổng thâu nhiếp sắc uẩn. Tâm năng duyên tức bốn uẩn khác. Hai phần giữa có thể biết.
Sớ: Tức bốn thủ trên kia.
Kia tức là bốn năng sở thủ kiến phần tướng phần v.v... ở trước, lấy bốn thủ kia nên gọi là thủ kia.
Sớ: "Lấy phần thứ nhất" đến "ba phần sau lấy cũng như vậy".
Hỏi: "Ba phần đối trước có năng sở thủ, lý tức có thể như vậy, bản mạt thì thế nào?
Đáp: Bản mạt chưa có thể nhiếp cả hai duyên năng sở, cả hai thủ cho nên có. Hoặc bản là sở thủ, mạt là năng thủ. Mạt duyên đối với bản là huân chủng tánh của bản. Căn cứ thừa nhận có nói thủ thông đối với duyên, chấp hai thứ cho nên nói không trái.
Sớ: Cho nên có tám giải thích.
Đơn và phức hai thủ mỗi loại đều đều có bốn.
Sớ: "Bản mạt" đến "cũng đủ hai nghĩa".
Tự mình không thể huân, chỉ là sở thủ gọi là thủ, cũng đủ hai nghĩa năng sinh và sở sinh.
Sớ: "Tức danh ngôn chủng" đến "năng sinh bản thức".
Hiển đủ hai lý, tức hai thứ danh ngôn của bản mạt, có thể huân bảy thức được sở huân chủng này, sau đó năng sinh niệm thức của bản mạt, vì thế bản mạt cả hai đều có được hai nghĩa năng sinh và sở sinh.
Sớ: "Hai thủ ở đây" đến "tướng phần và kiến phần".
Hỏi: Có thể huân bảy thức không kém Vô ký, vì sao nói năng sinh bản mạt Dị thức?
Đáp: Tướng phần huân chủng tử của bản mạt kia, tướng phần và kiến phần tánh quyết không đồng nhau, huân nó đâu có lỗi gì.
Luận: "Tuy hai thủ chủng" đến "tánh đồng dễ cảm".
Có nghĩa hỏi rằng: Chủng tử của thân nhân duyên khi huân hướng đến quả là nhất định khác đời, như Dị thục chủng, là cũng thừa nhận thân và đời đồng một thời kỳ?
Đáp: Sớ nói Đẳng lưu và Tăng thượng tánh đồng dễ cảm, niệm này huân rồi niệm sau liền năng sinh, không phải như Dị thục, vì khó chiêu cảm. Thứ hai, đây như nghiệp chủng nhất định không đồng đời. Mười nhân, hai quả không đồng đời, mà lập mạng căn nói y thân chủng sinh Thức thứ tám, một thời kỳ công năng. Nếu thừa nhận đồng đời tùy huân sinh quả, một thời kỳ sinh chủng nghĩa tức không thành. Sở dẫn và sở sinh đời đều có khác. Tự chủng sinh quả tuy không có cùng tận, tùy nghiệp có thể nói một thời kỳ sai khác. Nếu như vậy cùng chủng tử của nghiệp vì sao khác nhau. Nói có tận tướng hay không tận tướng ư?
Giải thích: Nghiệp chiêu cảm sinh rồi tuy có chủng tử, sau lại không thể chiêu Dị thục quả, pháp kéo dài tuổi thọ kia, thánh sinh Tịnh cư, đều giúp nghĩa thọ nghiệp quả chưa cùng tận. Nghiệp nếu thọ quả đã cùng tận giả sử được thắng duyên trọn không có thể thọ nơi quả, nên gọi là có cùng tận. Như danh ngôn chủng có là một nghiệp dẫn sinh quả một thời kỳ, sau đó gặp duyên dẫn lại năng sinh quả nên gọi là vô tận, chẳng phải công năng không sinh quả một thời kỳ gọi là vô tận.
Biện rằng: Xem ý giải thích, lấy giải thích sau. Nay trước bàn về đời, sau định hơn kém. Đời có ba thời khác nhau là sát-na, phần vị và sinh tử. Như chủng sở huân, hiện quả sở sinh cùng năng huân hiện, tùy theo các đời trước mà không đồng, vì không có trong một niệm mà có hai hiện. Các chủng tử sở huân hướng đến quả sở sinh thừa nhận có đồng đời. Chủng tử tự sinh nhau cũng gọi là quả nên phần vị của đời đồng. Các chủng tử danh ngôn đều được gọi là hai thủ tập khí, chủng tử thiện ác v.v... sinh hiện quả thiện ác v.v... đời sát-na và nghiệp dẫn cảm danh ngôn chủng của thức. Mong sinh quả hiện hành có thể đồng. Sở căn cứ nghĩa này nên nói là đồng, nếu không như vậy, luận nói tánh đồng dễ cảm v.v... chỉ là lập suông, nghĩa sau rất đồng, tổng phán phân đời khác nhau, lý cũng chưa thỏa đáng.
Luận: "Nhưng các tập khí tổng có ba loại".
Nhiếp luận của Vô Tánh có ba huân tập, nghĩa không đầy đủ, nên ở đây không chép.
Sớ: Nếu y theo bên ngoài gọi là Biểu nghĩa.
Có nghĩa giải thích rằng, năm thức tất cả đều y bên ngoài nên lẽ ra gọi là Biểu nghĩa.
Biện rằng: Do từ tên khác tự có thể huân tu, do tự tha đối lập nên gọi là ngoài, không đứng về căn trần để nói trong ngoài, vì sao lầm cho rằng năm thức để vặn hỏi? Người trí nên biết.
Sớ: "Nếu y Vô lậu" đến "bên trong gọi là duyên".
Hỏi: Trước nói Biểu nghĩa là đối với ngoài, nay vì sao nói là trong?
Đáp: Hiển rõ tên kia do bên trong phát, lập tên bên ngoài, không hướng đến tự tha cho nên không mâu thuẫn.
Luận: "Tùy theo hai danh ngôn" đến "đều khác nhân duyên".
Hỏi: Biểu nghĩa thanh giới, hiển cảnh danh ngôn tức bảy tâm giới và một phần pháp giới hợp thành chín giới, vì sao có thể làm nhân riêng của các pháp?
Đáp: Nhân hai danh ngôn tùy ứng tướng kiến huân chủng của các pháp làm nhân các pháp, lý không có lỗi. Sớ nói đầy đủ ý này, tìm đọc có thể biết. Vì thế Nhiếp luận của Thế Thân ghi: Danh ngôn huân tập sai khác, nghĩa là nhãn danh ngôn huân tập, trong Dị thục thức làm nhãn sinh nhân, khi Dị thục sinh nhãn từ nó sinh. Dùng nó làm nhân trở lại gọi là nhãn. Như vậy, nhĩ v.v... tất cả danh ngôn sai khác cũng vậy.
Luận: "Tùy hai ngã chấp" đến "tự tha có khác". Hỏi: Hàng phàm phu và bậc Hữu học có ngã chấp này là tự tha có khác, còn bậc Vô học các bậc Thánh hai chấp đã trừ thì thể tự tha đồng ư?
Đáp: Do có chấp trước kia đây nên tình sinh khởi chấp tự tha. Chấp kiến đã đoạn, vật ngã tâm đã hết, được đồng thể bi, tự tha dứt bỏ. Y chấp và không chấp do ngã và ngã không, không phải ngã và ngã không thể đồng nhau, vì thế, bậc thánh Vô học thể được thành khác.
Luận: "Nên biết ngã chấp" đến "Tăng thượng duyên".
Hỏi: Ba thứ huân tập này là đồng hay khác?
Đáp: Nghĩa của nó không nhất định. Hai thứ sau huân tập nhất định là danh ngôn. Danh ngôn tự có không phải do hai thứ sau, tức các tánh Vô ký nhưng chẳng phải chấp và Vô lậu chủng, đều không phải do hai thứ sau huân tập.
Nếu cho rằng ngã kiến đối Hữu chi thì thì lẽ ra có bốn câu:
1. Có ngã huân tập mà chẳng phải hữu chi, nghĩa là Vô ký chấp chủng tử sở huân.
2. Có hữu chi huân tập mà chẳng phải ngã kiến, nghĩa là tâm thiện và ác không khởi chấp.
3. Có cả hai huân tập: Nghĩa là bất thiện chấp chẳng phải cả hai thứ huân tập nghĩa là vô phú, Vô ký và Vô lậu chủng v.v.
4. Có đủ ba thứ huân tập: Như trong Dục giới phân biệt ngã kiến, các pháp tương ưng.
Luận: "Các đồng thời khác, văn nghĩa như trước đã nói".
Hỏi: Ba thứ trên huân tập cùng mười một thức nhiếp nhau như thế nào?
Đáp: Xét Nhiếp luận của Vô Tánh quyển 4 và Bản luận ghi: Trong đó hoặc thân, thân giả, thọ giả thức, bỉ sở thọ thức, bỉ năng thọ thức, thế thức, số thức, xứ thức, ngôn thuyết thức, đây do danh ngôn huân tập chủng tử. Như tự tha sai biệt thức thì do ngã kiến huân tập chủng tử. Như thiện thú ác thú sinh tử thức, đây là do hữu chi huân tập chủng tử. Tên của mười một thức sẽ giải thích ở sau, nên ở đây không nói.
Sớ: "Vô minh có mười chín, bảy, năm, sáu v.v." Xét luận kia nói đủ mười chín vô minh, nay lược nêu gồm:
1. Không biết đời trước
2. Không biết đời sau
3. Không biết đời trước đời sau
4. Không biết bên trong
5. Không biết bên ngoài
6. Không biết bên trong bên ngoài
7. Không biết nghiệp
8. Không biết Dị thục
9. Không biết nghiệp Dị thục
10. Không biết Phật
11. Không biết pháp
12. Không biết tăng
13. Không biết pháp khổ tứ đế
14. Không biết pháp tập tứ đế
15. Không biết pháp diệt tứ đế
16. Không biết đạo tứ đế
17. Không biết nhân
18. Không biết từ nhân sinh ra các hành
19. Không biết sáu thứ xúc xứ như thật thông đạt, trong sở chứng điên đảo tư duy.
Như vậy được mười chín thứ vô minh. Bảy thứ vô tri gồm:
1. Không biết đối với đời
2. Không biết đối với sự
3. Không biết đối với di chuyển
4. Không biết đối với tối thắng
5. Không biết đối với chân thật
6. Không biết đối với nhiễm tịnh
7. Không biết đối với tăng thượng mạn. Năm thứ vô minh gồm:
1. Không biết đối với nghĩa
2. Không biết đối với kiến
3. Không biết đối với phóng dật
4. Không biết đối với chân thật nghĩa
5. Không biết đối với tăng thượng mạn. Sáu thứ vô minh gồm:
1. Không biết
2. Không thấy
3. Không có hiện quán
4. Hắc ám
5. Ngu si
6. Vô minh ám.
Hỏi: Mười chín thứ vô minh và bảy, năm, sáu thứ kia nhiếp nhau thế nào?
Đáp: Nhiếp bảy thứ kia: Ba thứ ba đầu nhiếp thứ nhất, ba thứ kế đến nhiếp thứ hai, ba thứ kế đến nhiếp thứ ba, ba thứ kế đến nhiếp thứ tư, bốn thứ kế đến nhiếp thứ năm, hai thứ kế đến nhiếp thứ sáu, một thứ sau nhiếp thứ bảy.
Kế đến nhiếp năm thứ vô minh: Trong năm thứ vô minh, nghĩa ngu thông nhiếp mười chín thứ. Kiến ngu nhiếp sáu thứ trước và nhân sở sinh trong mười chín thứ. Phóng dật ngu nhiếp nghiệp vô tri và Dị thục vô tri. Chân thật nghĩa ngu nhiếp từ đối với Phật vô tri cho đến Đạo đế tất cả vô tri. Tăng thượng mạn ngu nhiếp thứ vô tri cuối cùng.
Kế đến sáu tướng nhiếp: Trong luận chỉ nói sáu, bảy tướng nhiếp, không nói mười chín thứ nhiếp, nghĩa chuẩn theo đây có thể biết. Vì thế luận ghi: Sáu thứ vô minh sai khác như vậy tùy ở trước đã nói bảy vô tri, thứ lớp nên biết, đối với hai việc vô tri sau hợp chung thành một khởi vô minh hắc ám sau cùng này.
Sớ: "Đại luận quyển 10" đến "đều nói thật có". Xét quyển 10 ghi: Chín thật ba giả. Đồng như luận này nói. Quyển 56 ghi: Phải biết có sinh chi và lão tử là giả có. Các sở hữu chi là pháp thật có. Quyển 55 ghi: Các chi phiền não giả và thật. Như trước đã dẫn, nay không chép lại.
Sớ: "Phát khởi phước, phi phước và bất động, ba thứ vô minh khác nhau".
Phước sở phát phước v.v... có ba loại, vô minh năng phát chỉ có hai loại. Xét Đối Pháp ghi: Do Dị thục ngu phát phi phước hành, do nó một bề hướng đến tánh nhiễm ô, khi vô minh hợp nhất định không dung chứa thọ, tín giải dị thục hành tướng chánh kiến. Do chân thật nghĩa ngu phát phước hành phi và bất động. Chân thật nghĩa tức bốn Thánh đế đối ngu si kia gọi là chân thật nghĩa ngu. Chưa kiến đế, tuy khởi tâm thiện, do tùy miên kia tùy chuyển nên cũng gọi là ngu si. Do thế lực kia đối với khổ trong ba cõi không biết đúng như thật, liền có thể phát khởi tánh phước và bất động hành quả báo đời sau.
Sớ: "Ba thức chi" đến "hằng tùy chuyển".
Xem qua quyển 93, tợ chứng chi thức chỉ lấy chủng tử không lấy thức khác. Lý thật chỉ chứng A-lại-da làm chi, lựa chuyển thức khác, chẳng phải chứng chủng tử.
Sớ: "Trong thai mẹ do thức làm duyên".
Hành chi trong quá khứ huân chủng tử của thức gọi là nhân thức. Nhân thức năng sinh trong bào thai, ban đầu kết sinh thức. Kết sinh thức tức là quả thức. Quả thức tương tục có thể giữ gìn các danh sắc v.v... của vị yết-la-lam, nhẫn đến mạng chung giữ gìn không cho dứt tuyệt.
Sớ: "Văn nói" đến "sự đuổi theo".
Nói thức này là thức chặng giữa, danh sắc đời sau gọi là đương lai. Do thức chặng giữa có thể dẫn danh sắc đời sau. Vì thế, chủng tử của danh sắc theo thức kia.
Hỏi: Nói đuổi theo là nói sở dẫn, tức luận kia nói, chủng tử của danh sắc lại là chỗ đuổi theo chủng tử sáu đường đời sau, cho đến chi thọ tác pháp cũng như vậy, vì sao có thể chứng Thức thứ tám này?
Đáp: Như Thức thứ tám, Thức thứ tám có thể giữ gìn các chủng tử. Chủng tử đời sau có thể làm đuổi theo. Chủng tử chặng giữa, nếu không phải là A-lại-da, vì sao có chủng tử đuổi theo nhau, trước dẫn sau ư?
Sớ: "Hỏi" đến "không có sắc chỉ có một".
Xét luận kia ghi: Nhãn thức thì sao? Nghĩa là đối với đời sau y chỉ nhãn căn liễu biệt thức cảnh sắc. Tất cả hành phước, phi phước, bất động huân phát chủng tử thức, và quả thức mà chủng tử kia sinh ra. Nhãn thức như vậy nhẫn đến ý thức nên biết cũng như vậy.
Sớ: "Đáp" đến "vì hằng tùy chuyển"
Xét luận kia ghi: Phải biết thức này đối trong hiện pháp chỉ là nhân tánh. Còn lại trong văn sớ có đầy đủ, giải thích cũng có thể biết. Lại có giải thích rằng: Như ban đầu thọ sinh chỉ là ý thức, vì thế đứng về tương tục có sáu thức thân.
Biện rằng: Đại thừa nói ban đầu sinh chỉ có Thức thứ tám. Nay nói ý thức, như vậy có lỗi trái với tông. Nay thêm một giải thích, lý thật kết sinh là Thức thứ tám. Căn cứ sau tương tục thừa nhận có sáu thức, nên nói có sáu thức.
Sớ: "Đại luận quyển 18 nói thai tạng khổ".
Xét luận kia ghi: Có bao nhiêu năng sinh khổ? Là năm. Có bao nhiêu khổ thai tạng? Là năm. Có bao nhiêu chỉ là khổ? Là hai.
Giải thích: Đó là vô minh, hành, ái, thủ, hữu là năm. Năng sinh đương khổ gọi là năng sinh khổ. Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ của nó năm chi này là chủng tử, đây là các nhân sinh lão đời sau gọi là khổ thai tạng. Sinh và lão tử chỉ là khổ. Đã nói rằng thức v.v... là khổ thai tạng, rõ ràng không nói là hiện tại.
Hỏi: Đã nói rằng khổ thai rõ ràng năng sinh khổ, vì sao không đồng năng sinh khổ thâu nhiếp.
Đáp: Nhuận và không nhuận cách nhau, quả xa gần được gọi không đồng, sinh và lão tử hai chi chính gọi là khổ. Đây do khổ kia gọi là khổ thai tạng, là Y chủ thích. Bản sớ phần nhiều nói thai tạng khổ là người viết nhầm.
Hỏi: Giả sử cho rằng thai tạng khổ giữ nghiệp được tên cũng đâu có lỗi gì?
Đáp: Tuy có pháp Hữu lậu thể đều là khổ, nhưng văn đã dẫn ý nói sinh v.v... hai quả gọi là khổ, vì thế vô minh v.v... gọi là năng sinh khổ. Sinh, lão tử, cả hai chỉ là khổ, cho nên biết thai tạng là nhân của khổ. Y chủ thích là thù thắng.
Sớ: "Nếu không như vậy lại trái" đến "thai tạng khổ".
Hiển rõ là trái. Quyển 10, quyển 56 văn nói chung. Khổ thai tạng tức văn trong quyển 10, văn như trước đã dẫn. Quyển 56 ghi: Thức trong hiện pháp là chỗ huân tập của các nghiệp phước, phi phước và bất động, là chỗ đuổi theo của chủng tử sau, có thể dẫn các thân thức đời sau sinh khổ lão tử. Lại nói tức là tánh chủng tử của thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, khi tùy sở y từng được các khổ dẫn nhân. Nay đã dùng quả gọi là sinh, lão tử được gọi là khổ. Chuẩn theo các văn này nói thức v.v... năm thứ chỉ lấy chủng tử.
Sớ: "Luận này phần sau" đến "thông lấy ba tánh".
Có nghĩa giải thích rằng, ba tánh năm uẩn là chi này, vì sao được dẫn quyển 2 của luận này, thứ lớp nói ư? Như nói năm chi chỉ là Dị thục, rõ ràng biết tổng nhiếp không thông ba tánh, vì sao được cho là chứng thông nhiếp ba tánh?
Biện rằng: Biệt tổng đã khác, tánh làm sao đồng. Nếu cho rằng biệt tánh nêu tổng tánh đồng, thì lẽ ra cho rằng biệt thể nêu tổng thể, thể khiến cho đều đồng, thể đã không đồng, tánh làm sao đồng được.
Lại trong Đại luận quyển 9 nói ba tánh của danh sắc, cách giải thích thứ hai này làm sao biết không y theo nghĩa kia mà bàn? Nếu không như vậy vì sao phải phân làm hai giải thích. Do đây mà nói sớ vốn không có lỗi.
Sớ: "Đây đứng về một lúc đều có năm loại".
Hỏi: Lục xứ ý nói không có, vì sao đều có?
Đáp: Cùng thời thức chuyển đối với đời gọi là ý, cho nên năm loại đồng thời. Nghĩa Đăng có một giải thích cùng với sớ hơi khác.
Sớ: Chưa gọi là lục xứ.
Không có dụng của lục xứ nên không gọi là lục xứ.
Sớ: Giải thích tên duyên khởi.
Xét luận Du-già quyển 10 ghi: Do phiền não ràng buộc dẫn đến các đường, thường thường sinh khởi nên gọi là duyên khởi. Đây y theo chữ mà giải thích tên. Lại y theo sự nương gá các duyên mau trừ diệt, tương tục hòa hợp sinh khởi nên gọi là duyên khởi. Đây là y theo nghĩa sát-na mà giải thích. Lại các duyên quá khứ không bỏ lìa, y tự tương tục mà được sinh khởi, nên gọi là duyên khởi. Như nói đây có cho nên kia có, đây sinh cho nên kia sinh, không phải gì khác. Đây là y nghĩa giải thích tên. Lại thường thường từ diệt rồi lại tương tục khởi nên gọi là duyên khởi. Đây là y theo nghĩa thường hoại thường diệt mà giải thích. Lại trong thời quá khứ giác duyên sinh rồi tương tục khởi nên gọi là duyên khởi. Như Đức Thế Tôn nói Ta đã giác ngộ chánh khởi tuyên thuyết, tức do đây gọi là triển chuyển truyền nói, gọi là duyên khởi.
Sớ dẫn sơ lược, sợ kẻ sơ học khó phân biệt nên nay chép đủ.
Sớ: "Vô minh này không đoạn".
Xét luận kia ghi: Hai chi vô minh và hành tác pháp đối với chi khác để nêu rõ minh, vô minh như trong sớ đã nói. Còn luận về minh, như sớ kia ghi: Chủng tử của các hành không đoạn nên các hành được sinh, các hành sinh nên có chuyển thức. Các chi còn lại chuẩn theo đây có thể biết.
Sớ: Biến ngại có hai.
Xét trong quyển 56 ghi: Nghĩa biến ngại lại có hai loại: Một là tay xúc chạm liền biến hoại, hai là phương xứ xúc sai khác, có vô số tướng nghĩa.
Sớ: Thứ lớp thứ ba.
Sớ tuy dẫn đủ nhưng văn ẩn khó biết. Nay lược hỏi đáp.
Hỏi: Hành thông thiện ác vì sao gọi chung là tà?
Đáp: Có hai giải thích: Một là căn cứ theo bất thiện mà nói, hai là vô minh phát hành đều chiêu cảm ba cõi. Trái với hoàn diệt nên gọi chung là tà. Hỏi: Thức chỉ có Thức thứ tám vì sao gọi là điên đảo?
Đáp: có hai giải thích:
1. Hành có hiện và chủng: Hiện hành gọi là hành, chủng gọi là thức. Chủng do hiện mà huân tập nên nói khiến cho điên đảo. Đối Pháp cũng nói, nghiệp chủng là thức.
Hỏi: Chủng tử của nghiệp vì sao gọi là điên đảo?
Đáp: Chuẩn theo hành gọi là tà. Hai giải thích đều vậy.
2. Khi kết sinh đối với cha mẹ v.v... hỗ tương khởi điên đảo và tâm tương ưng sân, ái nên gọi là điên đảo, vì điên đảo làm nhân mới kết sinh được.
Biện rằng: Tức chủng tử của Thức thứ tám gọi là điên đảo. Hữu lậu thiện hành do trái với hoàn diệt, còn được gọi là tà. Hữu lậu Vô ký là căn bản sinh tử thì gọi điên đảo cũng đâu có lỗi gì. Vì thế luận nói ba cõi hư vọng, tâm tâm sở v.v... Hư vọng tức là tên khác của điên đảo. Hoặc do điên đảo phát cũng gọi là điên đảo. Nói kết sinh v.v.., tức là chi danh sắc. Hai thọ dụng tức hai chi xúc và thọ. Thức này v.v... năm là căn cứ năm vị đang khởi nói thứ lớp. Chi khác có thể biết. Còn lại hai thứ lớp, đầy đủ như trong bản luận, sợ dài dòng nên không chép. Giải thích có giống có khác, cũng như trong phần sớ sao giải thích.
Sớ: "Kinh Thập Địa" đến "si trong duyên".
Xét trong kinh kia ghi: Ở đây vô minh có hai thứ tác: một là si trong duyên khiến cho chúng sinh mê hoặc, hai là cùng với hành làm nhân.
Hành có hai: một là quả báo một đời vị lai, hai là cùng thức làm nhân.
Thức có hai: một là có thể khiến tương tục, hai là cùng danh sắc làm nhân.
Danh sắc có hai: một là trợ giúp nhau thành tựu, hai là cùng lục nhập làm duyên.
Lục nhập có hai: một là có thể duyên sáu trần, hai là cùng xúc làm nhân.
Xúc có hai: một là xúc có thể sở duyên, hai là cùng thọ làm nhân.
Thọ có hai: một là giác tăng ái, hai là cùng ái làm nhân.
Ái có hai: một là trong có thể nhiễm sinh tâm tham, hai là cùng lấy làm nhân.
Thủ có hai: một là tăng trưởng phiền não nhiễm phược, hai là cùng hữu làm nhân.
Hữu có hai: một là có thể đối đạo khác mà sinh, hai là cùng sinh làm.
Sinh có hai: một tăng trưởng năm uẩn, hai là cùng lão tử làm nhân.
Lão tử có hai: một là khiến các căn thuần thục, hai là cùng tử cùng nhân.
Tử có hai: một là hoại thân năm ấm, hai là do không hiểu biết nên khiến tương tục không dứt.
Luận kia ghi: Hoại năm ấm làm nhân đời sau, không thấy không biết cho nên có thể làm nhân đời sau.
Giải thích: Duyên là sở duyên. Đối với tất cả cảnh sở duyên mà không hiểu biết nên gọi là si trong duyên. Các hoặc nhân đó khởi gọi là khiến cho chúng sinh mê lầm. Do có thể dẫn sinh các đạo khác nên gọi sinh đường khác, không phải đã sinh rồi gọi là sinh. Thế nên Đối Pháp quyển 4 ghi: Khiến các loài hữu tình quả báo đời sau hiện tiền, nghĩa ý đồng vậy. Văn khác có thể biết. Đối Pháp phần nhiều đồng, nên không dẫn ra.
Sớ: Nếu như vậy tức sắc Vô sắc không có hoại khổ.
Ý vặn hỏi này cho rằng, cõi sắc và cõi Vô sắc không phải là phi phước cảm. Cõi kia lẽ ra không có pháp hoại khổ.
Hỏi: Vô sắc không có hoại, lẽ nào chẳng phải tương phù?
Đáp: Hiển rõ cõi kia đều chẳng phải phi phước hành chiêu cảm, do đó nêu cả hai, nói đều không có hoại khổ là chỉ đối với sắc. Văn bao gồm lý rộng, không trái nhau.
Sớ: Nếu cũng mê nó lẽ nào chỉ phát phi phước. Đây là phá người ngoài chống chế. Ý người ngoài chống chế cho rằng, sắc có hoại khổ, đối lý cũng đâu có trái, vì thế ở đây vặn hỏi rằng: nếu có hoại khổ lẽ nào chỉ mê nó, chỉ phát phi phước? Nếu không như vậy tức trái với luận Du-già nói mê khổ thế tục phát nghĩa phi phước. Lại có lỗi cùng ví dụ Dục giới mê hoại khổ phát hành phi phước, liền trái với giáo lý. Nếu thừa nhận như vậy thì lại trái với Thánh giáo. Ở cõi trên chỉ là hành bất động chiêu cảm, vì thế không được đứng về ba khổ để phân làm hai đế.
Sớ: Cho đến chi lão hỏi đáp đều như vậy.
Hai chi vô minh và hành như sớ đã dẫn, còn lại nay lược dẫn. Xét luận kia ghi:
Hỏi: Thức cũng dùng danh sắc làm duyên, vì sao trong này chỉ có hành?
Đáp: Hành là duyên tạp nhiễm của thức, có thể dẫn sinh quả đời sau, không phải như danh sắc đều là sở y.
Hỏi: Sở duyên sinh khởi, lẽ nào danh sắc cũng do đại chủng tạo ra và do xúc sinh, vì sao chỉ nói là xúc?
Đáp: Thức có thể làm nhân thân sinh nó, hoặc đã sinh hoặc lúc đang sinh, đại chủng và xúc chỉ có thể cùng nó làm kiến lập nhân.
Hỏi: Như trong kinh nói sáu cõi làm duyên được vào thai mẹ, này vì sao chỉ nói thức?
Đáp: Nếu có thức quyết định ở trong thai mẹ, vì có đủ tinh huyết, đại chủng, bụng, huyệt.
Hỏi: Lục xứ cũng do ăn uống làm duyên, vì sao trong này chỉ nói danh sắc?
Đáp: Đây nói danh sắc là nhân sinh nó, nó đã sinh rồi cũng do ăn uống làm nhân giữ gìn.
Hỏi: Xúc do ba thứ hòa hợp làm duyên, đây vì sao chỉ nói lục xứ làm duyên?
Đáp: Nếu có lục xứ quyết định có ba thứ kia mà không thiếu, lại lục xứ thù thắng nên nhiếp hai thứ kia.
Hỏi: Nếu tự tha bị bức bách, hoặc lúc đó biến dị, do nghiệp trước dẫn mà được sinh thọ, ở đây vì sao chỉ hiển rõ xúc làm duyên của nó?
Đáp: Xúc là duyên gần vì xúc dẫn. Các duyên khác sinh cũng từ xúc sinh, ắt không lìa xúc nên riêng nói xúc.
Hỏi: Trong kinh cũng nói vô minh làm duyên sinh ái, thuận cảnh giới ái cũng được làm duyên, ở đây vì sao chỉ nói thọ?
Đáp: Do sức của thọ nên đối với cảnh tương tợ cầu hợp cầu lìa, do sức ngu si chỉ đối với các thọ khởi hết các tướng không như thật biết. Do đây không thể chế ngự tâm của nó.
Hỏi: Do tùy miên chưa đoạn, thuận các pháp kia thủ đều được sinh, vì sao chỉ nói ái?
Đáp: Do hy vọng sinh nên đối với nó khi tìm cầu có thể phát tùy miên và có thể phát pháp tùy thuận với nó.
Hỏi: Trước đã nói vô minh làm duyên phát khởi nghiệp hữu, vì sao nay nói thủ duyên hữu?
Đáp: Do sức của thủ khiến cho nghiệp kia đối với sinh xứ của nó dẫn thức v.v... các quả.
Hỏi: Sinh cũng do tinh, huyết v.v... làm duyên, vì sao chỉ nói hữu?
Đáp: Do có hữu cho nên quyết định hữu làm duyên, lại vì hữu thù thắng hơn.
Hỏi: Cũng do viễn hành, bất tránh, bất bình đẳng bức bách khác làm duyên lão tử, đây vì sao chỉ nói sinh làm duyên?
Đáp: Tuy do các duyên ắt sinh là chính, dù thiếu các duyên nhưng sinh làm duyên nhất định có lão tử.
Sớ: Thông hai loại.
Xét luận kia ghi: Ở trước nói sáu chi, ái, thủ và hữu ba chi này là phần nhân, hai chi sau là phần quả, một chi còn lại là phần tạp, vì sao có hai thứ thọ gọi là phần tạp? Một, nghĩa là pháp sau lấy xúc làm duyên nhân thọ. Hai, nghĩa là hiện pháp cùng ái làm duyên quả thọ. Đây là hai tạp.
Giải thích: Nghĩa là chủng tử của thọ lấy xúc làm duyên đời sau hiện thọ nhân của quả, vì thế gọi là nhân thọ. Hiện khởi quả báo thọ làm duyên sinh ái, đây là quả đời trước, nên gọi là quả thọ.
Hỏi: Thức v.v... năm chi đều thông nhân quả, vì sao chỉ nói thọ?
Đáp: Thức v.v... năm chi chỉ lấy chủng tử. Từ thọ khởi ái nhiều nhân hiện khởi quả thọ mà sinh, vì thế đối với trong thọ đều nói nhân quả. Thức v.v... bốn chi không cần khởi hiện mới sinh chi sau, nên không nêu ra.
Sớ: Đã có nghiệp đều chẳng phải hành chi. Tức cảm nghiệp biệt báo đời sau.
Sớ: Tất cả nghiệp của hiện cũng chẳng phải thể của hành.
Cảm nghiệp biệt báo đời sau đã chẳng phải hành chi, rõ ràng chiêu cảm biệt báo hiện đời cũng chẳng phải hành chi.
Sớ: Nếu không như vậy, biệt báo có lỗi cùng nêu.
Ý cùng nêu cho rằng, chiêu cảm biệt nghiệp hiện tại được hành chi này. Cảm biệt nghiệp sau lẽ ra cũng là thể của hành, vì đều là biệt nghiệp.
Sớ: Nếu không như vậy tức có lý ngăn ngại như trước. Như ở trước nói biệt báo danh sắc cùng nêu. Sớ: Cho nên trừ ra.
Hễ chẳng phải cảm chung thì chẳng phải là chánh hành, vì thế luận trừ ra. Chẳng phải cho nên trừ, vì thế thể chẳng phải là hành.
Sớ: "Nội Dị thục thọ" đến "gọi là năng sinh".
Hỏi: Giả sử căn cứ đương sinh, vì sao tức gọi năng sinh nhiếp ư?
Đáp: Do đương khởi thọ lãnh nạp nơi cảnh, do cảnh khởi ngu si tạo tác các hành, ngu si nên thọ khởi, thọ gọi là năng sinh. Vì thế luận Du-già quyển 93 ghi: Một là lãnh thọ nội Dị thục quả, hai là lãnh thọ quả thọ tăng thượng do cảnh giới sinh.
Do đối với nội Dị thục quả có ngu si, không thể hiểu biết đúng sự thật đời sau quả báo đời sau sinh khổ, như trước tạo tác tăng trưởng các hành.
Sớ: Và thật sinh quả có trước sau.
Căn cứ tổng báo kia, danh sắc, xúc thọ cùng với thức kia, thật không có trước sau, hoặc có trước sau tổng báo tân chủng các thức huân khác nhau, chưa hẳn đồng thời. Thức thứ sáu huân cũng tổng hợp trước sau, do đây mà nói cũng đều có trước sau. Nếu biệt báo thì thức, danh sắc, xúc, thọ và năm căn đều chẳng phải không có trước sau.
Luận: Lại do đây nói sinh dẫn đồng thời.
Hỏi: Sinh và dẫn đều có hai, là bốn đồng thời hay không phải như vậy?
Đáp: Có hai giải thích, như trong Nghĩa Đăng có nói đầy đủ, nhưng sớ ghi: "nhuận duyên của nó hợp" đến "gọi chung là có", xem thế của văn kia, rõ ràng năng sinh và dẫn là hai đồng thời, được thấm nhuần nghiệp chủng, thể tức là trước có thể dẫn nhân. Do được thấm nhuần rồi gọi là năng sinh. Căn cứ theo thể không khác, tên gọi thì đồng thời.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao nói "lại do". Nói "lại do" là căn cứ theo hiện khởi?
Đáp: Khi quả sắp khởi gọi là hiện khởi. Hoặc khi bắt đầu thấm nhuần tuy quả chưa khởi nhưng sau chánh sinh quả cũng có chi hữu. Căn cứ chi Hữu này gọi là sinh và dẫn đồng. Nếu không như vậy, luận vì sao nói thấm nhuần và chưa thấm nhuần? Lại sớ tổng hợp kinh hoặc hướng đến quả sở sinh xa gần, rõ ràng biết ý sớ đứng về năng sinh và dẫn gọi là đồng. Hoặc ý sớ hiển rõ sở dẫn và sinh, cả hai đồng thời. Nói thấm nhuần duyên v.v... ý nói do nhuận quả mới được sinh. Hiển rõ nhuận và chưa nhuận không cùng khởi, nghĩa đồng như Nghĩa Đăng xác quyết. Do luận tổng hợp với kinh, căn cứ hiện khởi mà nói. Nếu có thể dẫn và sinh liền chẳng phải hiện.
Biện rằng: Nghĩa trước là chính, vì thế kinh ghi: Đây là năng nhiếp tụ phần và năng chuyển xuất phần một lúc mà sinh, thứ lớp tuyên nói.
Giải thích: Kinh kia nói năng nhiếp tụ phần, nghĩa là vô minh v.v... năng chuyển xuất phần là ái, thủ v.v..., cho nên thuận theo văn kinh, nghĩa trước là thù thắng.
Hỏi: Phần trước và sau của sớ lấy ý của kinh kia, vì sao không đồng?
Đáp: Văn giáo tuy một lý nhưng có nhiều đường, vì thế sớ có trước sau nhưng giải thích có khác. Pháp quy về phân biệt nên có như vậy.
Luận: Có chỗ chỉ nói nghiệp chủng gọi là hữu.
Xét luận Du-già quyển 10 ghi: Thứ lớp thành lập hữu chi có hai: một là căn cứ theo phần thù thắng mà lập, nghĩa là lấy thủ nhiếp ái nghiệp. Hai là toàn phần mà lập, nghĩa là các chủng tử nghiệp và thức.
Giải thích: Lấy sở huân phát gọi là thủ nhiếp thọ, tức là được thấm nhuần nghiệp chủng gọi là hữu.
Luận: "Trung hữu" đến "đều là sinh chi nhiếp". Xét trong kinh Duyên Khởi ghi: Sinh có năm loại:
1. Hạ chủng sinh
2. Thứ lớp tăng trưởng sinh
3. Thứ lớp xuất thai sinh
4. Thứ lớp tăng trưởng sinh
5. Tăng trưởng sinh rồi có thể được thọ dụng thế tục sinh.
Giải thích: Trường hợp thứ hai và thứ tư là căn cứ trong và ngoài thai tăng trưởng phân làm hai. Tử có sáu trường hợp, như trong sớ dẫn đầy đủ. Loại tử thứ ba, kinh kia giải thích rằng: Tự tướng tử là thức đối trong thân đời đổi xuất phân biệt và sắc căn diệt hết.
Giải thích: Năm trường hợp còn lại đối với trường hợp thứ ba, hình tướng có thể biết, vì thế không chép.
Sớ: "Quyển 56" đến "đối với đây không trái".
Xét luận kia ghi: Lại do năm tướng thành lập duyên khởi sai khác.
Năm gồm những gì?
1. Các khổ dẫn nhân y xứ.
2. Các khổ sinh nhân y xứ.
3. Các khổ dẫn nhân.
4. Các khổ sinh nhân.
5. Các khổ sinh khởi.
Giải thích: Hiện thân sáu xứ là quả đời trước, do mê quả này mà khởi vô minh. Hành nhẫn đến thọ, vô minh bảy loại năng dẫn sở dẫn đều gọi là dẫn nhân. Lục nhập hiện tại là vô minh v.v... sở duyên khởi xứ gọi là Dẫn y xứ. Do tham hiện thọ khởi ái, thủ, hữu, vì thế nói hiện thọ là sinh nhân y. Nếu dẫn nhân thể tức trước có thể y theo vô minh v.v... bảy loại. Sinh nhân cũng ba chi trước là ái, thủ, hữu. Sinh, lão đời sau gọi là khổ sinh khởi.
Sớ: "Do mê hoặc mà sinh ra nghiệp mê hoặc".
Xét luận Câu-xá quyển 9 ghi: Từ hoặc sinh hoặc, nghĩa là ái sinh thủ. Từ hoặc sinh nghiệp nghĩa là thủ sinh hữu, vô minh sinh hành. Từ nghiệp sinh sự nghĩa là hành sinh thức và hữu sinh sinh. Từ sự sinh sự nghĩa là từ thức sinh danh sắc, nhẫn đến từ xúc sinh thọ, và từ sinh sinh lão tử. Từ sự sinh hoặc nghĩa là thọ sinh ái. Do lập chi hữu, lý kia chỉ như đây. Đã hiển rõ lão tử là sự hoặc nhân, và vô minh là sự hoặc quả. Vô minh, lão tử sự, hoặc tánh, lẽ nào lại lập duyên khác khởi chi?
Luận: "Do đây luận nói" đến "hai cõi trên có".
Luận Du-già ghi: Các loài hữu tình ở cõi trời
Vô sắc, thức nương nơi chủng tử của danh và sắc.
Chủng tử của danh và sắc nương thức mà chuyển, do vì trong thức kia có chủng tử của sắc. Sắc tuy gián đoạn nhưng sau sẽ sinh lại.
Biện rằng: Chuẩn theo ý của văn kia, nói chỉ nương theo báo chủng không lấy định chủng, đây là thuận với văn lý.
Hỏi: Ở cõi khác danh sắc vì sao nương nhau?
Đáp: Như vô minh địa dưới phát hành của địa trên, đây cũng đồng như kia.
Luận: Đối với cảnh ngã của hiện cũng có ái.
Giải thích như Nghĩa Đăng và sớ. Có nghĩa sinh vào địa cõi khác đã dùng đương sinh xứ ái nhuận sinh. Dục giới khác đường cũng duyên đương sinh xứ ái nhuận. Nghiệp biến khổ đầy đủ là lạc khiến ưa thích. Khiến vui thích đủ hiện tại ngã, gọi là ngã hiện cảnh, không phải hiện ngã thân gọi là ngã hiện cảnh.
Biện rằng: Hễ ái khởi liền có thể nhuận sinh, cảnh sở duyên vì sao lại hạn cuộc đương xứ? Như nước chảy vào ruộng không lựa đây kia. Lại ái duyên thọ, thọ thông hiện thọ, cảnh vì sao không thừa nhận hiện cảnh làm duyên? Vì thế sớ nói không có lỗi.
Luận: "Vì sao duyên phát nghiệp" đến "lập riêng ái và thủ".
Chuẩn theo lời đáp ở sau, văn hỏi gồm có bốn.
Văn lược nghĩa nhiều, nên nay mở rộng.
1. Hỏi toàn giới phiền não đều có thể phát nghiệp, vì sao đây chỉ nói một.
2. Hỏi nhuận sinh các hoặc, vì sao chỉ nói có ái.
3. Hỏi nhuận hoặc không phải một phần ái thủ, phát hoặc cũng nhiều chi, lẽ ra không phải một.
4. Hỏi thủ nhiếp các hoặc, vì sao chỉ nói ái tăng gọi là thủ. Ở phần đáp sau, như văn thứ lớp đáp, suy nghĩ có thể biết. Sớ: "Nói bốn ái là tập đế".
Luận Du-già quyển 55 ghi: Thế nào là ái? Nghĩa là đối với tự thể thân gần thủ hộ. Ái của quả báo đời sau là thế nào? Nghĩa là cầu đời sau tự thể sai biệt. Hỷ và tham câu hành ái là thế nào? Nghĩa là đối với hiện tiền hoặc đã được có thể ưa thích sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà khởi tham trước. Nó mong lạc ái là thế nào? Nghĩa là đối với các thứ khác ưa thích sắc v.v... khởi hy vọng ưa thích.
Luận: Như vô minh địa dưới phát hành của địa trên.
Có hai giải thích: Một là đồng như trong sớ đã nói, hai là vô minh ở Dục giới phát chung hành trong ba cõi, vì vô minh phát nghiệp kiến sở đoạn, được định trên vì không phục định dưới. Nhưng chứng định trên lẽ ra nói là căn bản. Phần gần chưa có thể phục dưới hết nên gọi là hành chi, vì căn bản mới sinh và nhiễm chưa khởi, nên nói định trên phát vô minh định dưới, cho nên sớ không đúng lý.
Biện rằng: Vả lại, như khi khởi không xứ Vị chí định, Tứ thiền si phát hành kia không? Nếu không phát thì lý do vì sao? Nếu thừa nhận có phát vì sao phải Dục giới vô minh phát, còn hai cõi kia thì vô minh không thể cùng khởi? Nếu trước sau đều phát thì chính là phát trùng nhau, trái với điều mà luận nói, vì thế nay không lấy ý đó. Lại Vị chí định có thể chiêu quả báo, vì sao chẳng phải là hành chi. Hành chi lẽ nào cần phải phục hết hoặc ư? Còn lại như trong Nghĩa Đăng biện rõ.
Nay thêm một giải thích, Vị chí và Căn bản đều thừa nhận địa dưới do vô minh phát khởi. Hai thứ đều thuộc về nghiệp bất động, đều được gọi là hành. Như thứ lớp chiêu cảm quả báo chung riêng.
Sớ căn cứ ban đầu, nghĩa là chỉ nói phần gần.
Luận: Ái kia cũng duyên Đương sinh địa.
Ý của văn này như sớ đã nói. Có nghĩa vặn hỏi luận rằng, nhưng vặn hỏi này Hộ Pháp có nhiều văn, thọ kia đã chẳng phải thọ chi, vì sao lại phải hỏi như vậy.
Biện rằng: Xét luận Du-già, mười hai chi phân nhân quả xen tạp, như trước đã nói rõ. Chi thọ gọi là tạp, do xúc làm nhân gọi là nhân thọ, cùng ái làm duyên gọi là quả thọ, vì quả đời trước. Do thọ hai riêng khác nên có văn này, lẽ nào thừa nhận không có nghĩa, chỉ dẫn suông văn nhiều? Lấy trí phàm mà muốn vượt qua Thánh, e rằng không thể được.
Sớ: "Luận Thập Địa" đến "chỉ nói là ba đời".
Xét luận kia dẫn kinh ghi: Vô minh duyên hành là thấy việc đời quá khứ. Thức danh sắc, lục nhập, xúc thọ là thấy việc đời hiện tại. Ái, thủ, hữu, sinh lão tử là thấy việc đời vị lai, vì thế thấy có ba đời chuyển.
Biện rằng: Nay xem văn kia, tên của ba đời đồng với tông Tiểu thừa. Năm chi đời vị lai khác với Tiểu thừa.
Sớ: Chẳng phải chuyển ái làm tăng thượng tham.
Do thượng phẩm tham mà làm chi thủ, nên nói là ái tăng. Không phải chuyển chi ái để thành thượng phẩm là chi thủ nên gọi là ái tăng. Do đây các tên như thủ v.v... là Độc tướng.
Luận: Vô minh ái thủ chi thông bất thiện.
Có nghĩa vặn hỏi giải thích sớ rằng: Nói vô minh cõi Dục chỉ là bất thiện, điều này là không đúng lý, vì trợ phát cũng thông tu sở đoạn.
Biện rằng: Sớ tự hỏi đáp có trợ và có chánh khác nhau. Chánh chỉ là bất thiện, trợ có thể có Vô ký. Đã có hai giải thích mà không nhất định phán lấy chính không lấy trợ, vì sao lỗi lại thấy không phải lỗi?
Sớ: Cũng không thể chỉ nói Thánh không tạo nghiệp.
Đây là nêu lại người ngoài chống chế. Ý họ chống chế rằng, trong kinh chỉ nói Thánh không tạo nghiệp, vì sao được lấy đây mà chứng cho người nội pháp cũng tạo nghiệp ư? Vì thế chỉ nêu chung, không phải dẫn Đối Pháp để làm chứng.
Luận: "Do đây nên biết" đến "không mê cầu".
Nếu căn cứ theo Hữu tông có hai sư nói, vì thế luận Bà-sa quyển 53 ghi: Hỏi: Thánh có tạo nghiệp đồng phần ở cõi Dục không? Có thuyết nói là không tạo. Cõi dục nhiều tội lỗi, nhiều tai ương cho nên chỉ tạo Mãn nghiệp. Có thuyết nói cũng tạo, thuyết trước là chính. Vì thế trong Thuận Chánh Lý quyển 64 ghi: Chẳng phải chư Thánh lại có thể tạo nghiệp mới lôi kéo nghiệp sau, do vì trái sinh tử hướng đến Niết-bàn. Vì thế kinh nói Thánh chỉ thọ nghiệp xưa.
Luận: Tạp tu Tĩnh lự.
Nếu chuẩn theo Hữu tông thì tạp tu Tĩnh lự mới tạo dẫn nghiệp, chiêu cảm quả Tịnh cư, gọi là tạp tu, không căn cứ theo sự huân tập. Vì thế, luận Câu-xá quyển 24 ghi: Nên biết trong này thế lực Vô lậu huân tu Hữu lậu khiến chiêu cảm quả Tịnh cư.
Giải thích: Trước sau Vô lậu, chặng giữa Hữu lậu gọi là thành tựu. Do trước sau trong tâm tu Hữu lậu nên chiêu cảm quả kia. Đã nói "khiến cảm" rõ ràng là tạo dẫn nghiệp, nếu không như vậy vì sao nghĩa cảm được thành? Lại luận Bà-sa ghi: Nhân Dị thục tạp tu Tĩnh lự dẫn Ngũ tịnh cư, chúng đồng phần. Đã nói nhân Dị thục có thể dẫn Đồng phần, đây là nói nhất định tạo nghiệp.
Sớ: Nếu nói phát nghiệp biệt báo.
Liền không phải là hành chi, câu đầu nêu lại chống chế, câu sau chánh phá. Ý họ chống chế rằng, Đại luận nói phát nghiệp ba đường ác là phân biệt. Đây là căn cứ phát biệt báo, ý vặn hỏi có thể biết.
Sớ: Lại trong này có hai thuyết. Giải thích ba đoạn này có hai sư.
Sớ: "Người kia" đến "kiến khác đoạn".
Nêu lý do Dị thục ngu tu sở đoạn, vì sao vậy? Luận Du-già đã nói mê chân đế tục đế phát phi phước v.v... Đối Pháp lại cho rằng hai khổ tục và chân nhiếp trong tám khổ. Bảy khổ đã là sự, Dị thục ngu mê phát hành phi phước, cho nên Dị thục ngu chỉ tu sở đoạn, do vì mê sự. Lại luận Đối Pháp quyển 7 ghi: Do chân thật nghĩa ngu phát hành phước và bất động. Chân thật nghĩa tức là bốn Thánh đế. Đối với bốn Thánh đế này không hiểu biết gọi là chân thật nghĩa ngu. Vì thế luận Du-già nói hai ngu thế và thắng mê sự lý sai khác, nên tu và kiến đoạn hai cõi không đồng.
Hỏi: Chuẩn theo luận Đối Pháp nói mê Dị thục ngu đã là mê sự, ngu này tu đoạn lý khế hợp chung đường, sớ vì sao lại trách?
Đáp: Xét luận Đối Pháp, giải thích Dị thục ngu rằng: Do họ một bề hướng đến tánh nhiễm ô này, khi vô minh hợp ắt không thừa nhận thọ tín giải thích Dị thục hành tướng chánh kiến. Chuẩn theo luận này, lẽ nào chỉ mê sự đều sinh mê hoặc ư? Do đó sớ khiển trách không trái với giáo lý.
Sớ: Thứ sáu, bảy là hoại.
Xét luận đối Pháp quyển 6 ghi: Ba khổ, tám khổ triển chuyển nhiếp nhau. Nghĩa là từ Sinh khổ cho đến Oán tắng hội khổ có thể hiển khổ khổ, vì thuận với nghĩa tự tướng khổ của pháp khổ thọ. Ái biệt ly khổ và Cầu bất đắc khổ có thể hiển hoại khổ, vì đã được chưa được thuận với nghĩa tự tướng hoại của pháp khổ thọ. Lược nhiếp tất cả năm thủ uẩn khổ có thể hiển hành khổ, vì không giải thoát nghĩa bất an ổn của hai vô thường sở tùy.
Giải thích: Hai vô thường gồm: một là sinh vị khổ,nghĩa là khổ khổ; hai là diệt vị khổ, nghĩa là hoại khổ. Sinh và diệt hai vị đều thuộc về vô thường, nên gọi là hai vô thường.
Luận: Chín thứ tâm mạng chung.
Xét luận Đối Pháp quyển 5 ghi: Sức tương tục có chín thứ tâm mạng chung cùng tự thể ái tương ưng. Trong ba cõi đều khiến Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới sinh tương tục. Nghĩa là từ Dục giới chết, trở lại sinh ở Dục giới, tức do Dục giới tự thể ái tương ưng, tâm mạng chung kết sinh tương tục.
Nếu sinh cõi Sắc và cõi Vô sắc tức do cõi Sắc và cõi Vô sắc tự thể ái tương ưng, tâm mạng chung kết sinh tương tục. Như vậy từ cõi Sắc và cõi Vô sắc mạng chung hoặc liền sinh về cõi kia, hoặc sinh về cõi khác. Có sáu thứ tâm như sở ứng kia đều phải biết. Lại tự thể ái này chỉ là câu sinh, không rõ cảnh sở duyên, thuộc tánh Hữu phú vô ký.
Sớ: Có thuyết nói từ Vô tưởng chết.
Tức là nghĩa của sư trước nói từ Vô tưởng thiên chết không có tâm.
Sớ: Đây chẳng phải nhân đều khởi.
Sáu thức này đều do phiền não gián đoạn sinh gọi là tạp, chẳng phải do phiền não làm nhân khởi mới được gọi là tạp. Lại các pháp Vô ký v.v., nên chứng thành, Vô ký cùng với hoặc hỗ tương gọi là tạp, không căn cứ nhân khởi. Thức v.v... gọi là tạp loại cũng như vậy.
Sớ: "Đã như vậy" đến "cũng tự nhiên không".
Đã do lý trước, sinh thiện của Thánh trên địa dưới v.v... tuy chưa đoạn pháp tạp phiền não kia, nhưng các pháp thiện kia cũng gọi là được đoạn. Tự nhiên không, nghĩa là hiển rõ không do tạp phiền não không, cho nên được đoạn.
Sớ: "Như kiến đạo" đến "cũng gọi là đoạn".
Nêu tự tánh của kiến đạo mạnh, không do duyên ràng buộc mà gọi là đoạn. Nêu các pháp thiện kia duyên ràng buộc mạnh không có tức gọi là đoạn. Tuy bị duyên ràng buộc cùng các pháp thiện và tạp phiền não có sai khác, nhưng đều chẳng phải mạnh, dùng làm thí dụ cũng không có lỗi. Có nghĩa duyên ràng buộc kia đoạn và tạp phiền não đoạn đều nương theo sáu thức, không phải là Thức thứ bảy, vì thế lìa dục là lìa địa này vậy. Các pháp không nhiễm tức gọi là được đoạn, như chẳng đoạn, sau được quả Bất Hoàn vì không chướng ngại quả. Đây cũng như vậy, chỉ đứng về sáu thức vì các hoặc mạnh hơn, vì có thể phát nhuận tự địa đoạn tức gọi là đoạn. Nếu như trong sớ nói chỉ đứng về duyên ấy cũng chưa thông thiện, Địa dưới thứ bảy hoặc duyên hoặc ràng buộc đều chưa lìa được.
Biện rằng: Chỉ đứng về năng duyên vì sao không thông thiện? Tuy Thức thứ bảy có thể duyên, ràng buộc ở năng sở duyên hẹp. Nhưng thiện cói Dục v.v... theo nghĩa rộng mà nói rằng đoạn cũng đâu có lỗi. Nếu cho rằng duyên tạp chỉ y theo sáu thức, hai thứ duyên tạp nhiếp pháp không hết, vì Thức thứ bảy phiền não không nhiếp hai pháp. Nếu nói hai thứ duyên và tạp nhiếp các pháp thiện của Thức thứ bảy, mà nói lìa duyên và tạp thì chỉ căn cứ nơi sáu thức. Nếu như vậy cũng đâu ngại gì nói duyên tạp do hoặc của Thức thứ bảy, Dục thiện v.v... đoạn. Căn cứ năng duyên kia rộng cho nên không nói, đó đó ý của sớ này, lý vốn không trái.
Sớ: Đã như vậy, vì sao do nó mà gọi là Hữu lậu.
Ý vặn hỏi này cho rằng, đoạn đã không do tạp phiền não không có, được thành Hữu lậu lẽ ra không do nó.
Biện rằng: Nay có hai giải thích:
1. Đã có ngăn ngại, tức là đứng về sáu thức giải thích tạp phiền não. Đương địa sáu thức phiền não tạp không có, đương địa thiện v.v... gọi là được lìa trói buộc.
Thành lậu do lậu đầy đủ. Thiện v.v... do bảy lậu đoạn phược, căn cứ theo duyên mạnh, tạp ở thiện đều đoạn. Nếu như vậy vì sao nói thiện v.v... đoạn là do đoạn duyên tạp kia và phiền não kia?
Đáp: Thiện đoạn có hai: một là tiểu phần đoạn, hai là toàn phần đoạn. Nói lìa dục v.v... Dục thiện gọi là đoạn, đây là căn cứ theo tiểu phần đoạn. Nói do đoạn tạp gọi là đoạn, đây là y toàn phần đoạn. Vô học mãn vị, hai hoặc duyên tạp thảy đều không có.
Sớ: Kiến thể này là phược, chẳng phải kiến thì chẳng phược. Tuệ cùng năm kiến là thể lẽ ra đoạn, không phải thể của năm kiến chẳng phải tự tánh đoạn.
Sớ: Do mười thứ này.
Biến hành và Biệt cảnh hợp lại mà nói.
Sớ: "Vô tưởng định" đến "nhân vong quả mất".
Hỏi: Chỉ y ngoại đạo mới khởi định này. Nhập kiến liền xả, ngoại đạo y thân định hằng không khởi, vì sao không gọi quả mất nhân vong?
Đáp: Sớ nêu bày phương góc, nêu ba ác khởi biệt báo thiện nghiệp quả mất nhân vong, hiển định cũng như vậy. Nhưng sợ có người chấp định chỉ là quả mất nhân vong một nghĩa, nên lại nêu nhân vong quả mất, hiển thông hai nghĩa. Nếu không như vậy vì sao ở đây lại biện về quả mất nhân vong này?
Sớ: "Tuy có bảy lần sinh" đến "bất định".
Ý này hỏi rằng, được quả Dự lưu rồi muốn cùng tột bảy lần sinh liền không sinh thượng vô dục Thức thứ tám. Đây tức hoàn toàn lìa chi hữu ở cõi trên, vì sao được nói không toàn đoạn? Ý kia đáp rằng: Cũng có quả Dự lưu mà được quả Bất hoàn được sinh cõi trên, do đó không được nói là toàn đoạn.
Luận: Mười hai toàn phần hành khổ sở nhiếp.
Đây đồng luận Du-già quyển 66 nói. Xét luận ấy ghi: Nghĩa là nghiệp quả báo đời sau phiền não sinh ra các hành. Đối trong tự thể kia có thể tùy thuận sinh tất cả phiền não và các khổ. Tất cả an lập, tất cả biến hành thô trọng sở nhiếp, cũng gọi là thô trọng là tánh hành khổ. Lại hành khổ này biến khắp trong ba thọ. Nhưng đối với xả thọ thì tánh của thô trọng này hiển hiện rõ ràng, vì thế chỉ nói không có khổ thọ, lạc thọ vì do hành khổ, thí như ung nhọt, do xúc chạm lạnh thì sinh tưởng vui, rơi trên tro nóng liền sinh tưởng khổ, nếu cả hai đều lìa thì lúc bấy giờ chỉ có tự tánh khổ của ung nhọt hiển hiện rõ ràng. Lại trong tánh của hành khổ, lạc như đối với lạnh, khổ như bị tro nóng, xả lìa hai khổ tự tánh ung nhọt.
Sớ: "Tập là nghĩa hữu báo".
Đại luận quyển 55 ghi: Hỏi khổ đế nghĩa là gì?
Đáp: Là phiền não sinh ra hành.
Hỏi: Tạp đế nghĩa là gì?
Đáp: Năng sinh khổ đế.
Sớ: "Đại luận quyển 10" đến "văn đồng ở đây". Sớ dẫn văn mới đọc khó hiểu, nay dẫn đầy đủ.
Hỏi: Có mấy chi bị khổ đế nhiếp và hiện pháp làm khổ?
Đáp: Có hai chi là sinh và lão tử.
Hỏi: Có mấy chi khổ đế nhiếp và đương lai làm khổ?
Đáp: Tánh chủng tử của chi thức cho đến chi thọ.
Hỏi: Có bao nhiêu chi tập đế nhiếp?
Đáp: Những chi còn lại.
Luận: Vô minh hướng đến hành có hai duyên khác.
Có nghĩa hỏi rằng: Vô minh hướng đến hành đã không đồng loại, vì sao lại được có vô quán duyên?
Đáp: Một là thật ra lý chỉ cùng hành câu vô minh là vô gián duyên. Nhưng hành là quyến thuộc của nghiệp nên cũng gọi là nghiệp, cho nên nói cùng với hành làm vô gián duyên. Hai là vì đồng tụ, khác thể triển chuyển được làm vô gián duyên. Như ở giải thích trước các hành phước và bất động chẳng phải vô minh đồng thời, vì sao thành duyên, cho nên giải thích sau là thù thắng.
Hỏi: Như hành phi phước cũng vô minh đồng thời, vì sao hướng đến hành làm vô gián duyên.
Đáp: Đều nương theo các hành nói có duyên này. Nay ở đây không nói hướng đến ba thứ hành đều thành vô gián. Hướng đến hành phước và bất động thành vô gián, phi phước nên suy nghĩ.
Biện rằng: Xem lời hỏi sau thì hành phi phước kia đã là vô minh đồng thời, tức là vô minh làm duyên vô minh chăng? Ý đáp có thể biết. Nay thêm một giải thích tụ tâm phẩm trước hướng đến tu phẩm sau đều vô gián. Vô minh hướng đến hành là vô gián duyên, không đứng về riêng đối với vô minh sau mà nói. Do đây chỉ nói vô minh hướng đến hành là vô gián duyên, cũng không có lỗi.
Luận: "Trong này vả lại y theo" đến "như lý nên suy nghĩ".
Nếu theo như thật không nương duyên khởi, như luận Đối Pháp đã nói. Xét luận ấy quyển 4 ghi:
Như vô minh hướng đến hành trước sinh tập khí, nên được làm nhân duyên, do nó huân tập tương tục sinh ra các nghiệp, năng tạo quả báo đời sau. Lúc bấy giờ, vô minh hiện hành có thể dẫn phát, vì thế làm Đẳng vô gián duyên. Do nó dẫn phát các hành sai khác lưu chuyển tương tục sinh, do tư duy làm sở duyên duyên, do đó kế chấp tối thắng v.v... Không suy nghĩ đúng như lý, vì duyên ngu si làm cảnh giới, câu hữu kia làm Tăng thượng duyên. Do sức tăng thượng đó hợp tương ưng tư duy điên đảo duyên cảnh mà tạo tác. Như vậy, tất cả tùy sở tương ưng kia phải biết là đều hết.
Luận: Do sức bi nguyện nên gọi biến dị.
Hỏi: Xét luận Nhiếp Đại Thừa ghi: Bồ-tát lưu hoặc chứng Nhất thiết trí. Nay nói bi nguyện chiêu cảm sinh nơi đời được chứng quả Phật, lẽ nào không trái nhau sao? Lại sinh chỉ do bi nguyện mà có, thì dùng phiền não làm gì? Bất thối Bồ-tát mà không đoạn ư?
Đáp: Địa thứ bảy trở về trước dụng thọ phần đoạn, Địa thứ tám trở đi không chướng đạo do đó không đoạn.
Hỏi: Nếu như vậy, lẽ ra không phải là pháp nhiễm ô. Pháp nhiễm ô vì sao không đoạn?
Đáp: Như Mạt-na thức hoặc, tuy đoạn trừ sau cùng cũng được gọi là nhiễm, điều này cũng không có lỗi. Lại có thể giúp sở tri khiến biến dịch tương tục nên không đoạn.
Hỏi: Nếu như vậy hàng Nhị thừa Vô học hồi tâm lẽ ra không biến dịch, vì phiền não không còn? Đáp: Có hoặc tập khí có thể trợ duyên cũng thọ biến dịch. Vả lại y theo giải thích trước.
Sớ: "Quyển 80" đến "cũng được thọ biến dịch". Xét luận kia ghi: Hồi hướng Bồ-tát, Thanh văn hoặc vị Hữu học có thể xả bỏ cầu nguyện Thanh văn. Hoặc vị Vô học mới có thể xả bỏ, do vì căn tánh kia có sai khác, vì đợi các duyên có sai khác.
Sớ: Xả thân trùng.
Phần đoạn sinh thân gọi là thân trùng, vì thân có trùng. Trong kinh Đại Bát-nhã quyển 326, quyển 448 ghi: Thiện Hiện bất thối Bồ-tát thân tâm thanh tịnh, không phải như thân người thường, thường bị tám vạn con trùng xâm phạm thân thể để ăn, vì sao? Vì các Bồ-tát này căn lành tăng thượng vượt hơn thế gian. Thân hành đã thọ trọng ngoài thanh tịnh, nên không bị loài trùng xâm phạm thân kia. Như căn lành dần dần tăng trưởng lợi ích, thân tâm như vậy chuyển thanh tịnh. Do nhân duyên này thân tâm các vị Bồ-tát bền chắc như Kim cương, không bị các duyên khác xâm phạm não hại.
Sớ: Kinh Lăng-già bộ mười quyển.
Sớ tuy giải thích sơ lược, kẻ sơ học còn mê mờ. Nay y theo bậc cổ đức, tùy theo vặn hỏi mà lược giải thích. Tâm của lý tuệ chứng pháp tương ưng có ý tịnh diệt gọi là Tam-muội lạc, hiển nhân sinh thân, do vì nhập Tam-muội có thể hiện thân. Lại do Tam-muội an trụ trong biển tâm thấy cảnh tự tâm, quên thức tâm chuyển và tướng sóng thức không sinh khởi. Hoặc thấy tự cảnh hiển, do quên thức không sinh mới biết.
Thân thứ hai, văn sớ dẫn ở sau. Nhưng kinh ghi: Diệu Hoa Trang Nghiêm mau chóng như ý, giống như mộng huyễn, như trăng trong nước, như hình trong gương, không phải bốn đại sinh tợ như tướng bốn đại đầy đủ thân phần. Tất cả tu hành được như ý tự tại, tùy nhập vào đại chúng của cõi nước chư Phật.
Giải thích: Do tuệ vô tánh ngộ được lý này. Được định như huyễn có thể biết các pháp đều như huyễn. Bồ-tát khởi ý sinh thân, tướng tốt đoan nghiêm như trang nghiêm kia, pháp Hữu vi do duyên sinh nên như hình trong gương v.v... Nói như thật thấy biết tướng của các pháp, cũng khởi thân nhân.
Thân thứ ba nói rằng: Chủng loại sinh v.v...
Giải thích: Ứng vật hiện hình, hình không phải một, cho nên nói là chủng loại. Tùy cảm liền phát nên gọi là câu sinh. Khởi không gia công gọi là hạnh vô tác. Hạnh vô tác v.v... là khởi thân nhân.
Thân gọi là chủng loại câu sinh v.v...
Sớ: Tức phi trạch diệt lại sinh nghĩa.
Thân và nghiệp đã được phi trạch diệt lại không khởi. Do đây chỉ giúp nghiệp cảm thân, khiến thân không đoạn. Chuẩn theo văn sớ này thì dưới chữ "cánh" mất chữ "vô". Hoặc không mất, vả lại trước khi chưa kéo dài tuổi thọ khiến được một trăm năm. Ngoài một trăm năm mạng được phi trạch diệt. Do sau kéo dài, cho nên ngoài một trăm năm mạng được tương tục. Vì thế nói phi trạch diệt lại sinh. Phi trạch thừa nhận sinh như sớ sau biện rõ. Hơn nữa y theo giải thích sau.
Sớ: Không đồng với Tiểu thừa huân các pháp Thiền.
Đây chỉ là pháp Vô lậu. Lậu, Vô lậu kia nên có sai khác. Hoặc Tiểu thừa huân thiền mà lại tạo nghiệp. Nay chỉ giúp cho nghiệp nên nói là không đồng.
Sớ: "Nay tuy không có văn" đến "lý không trái".
Đứng về người năng đắc được tứ thiền định, từ trong sở đắc rất thù thắng tức gọi là biên tế. Nếu hướng đến tha tự, dưới không biết trên, người dưới vì sao gọi là được biên tế? Biên tế không được thì làm sao được biến dịch? Do đây không thể hướng đến tự tha mà nói.
Luận: "Đã chưa viên chứng" đến "bi nguyện nhanh mạnh".
Hỏi: Chấp Bồ-đề kia có thể là pháp chấp, chấp hữu tình vì sao không phải là ngã chấp?
Đáp: Nếu chấp hữu tình là một, là thường, chủ tể có thể là ngã chấp không phải pháp chấp. Chỉ chấp có tự thể không bỏ tự tánh, cho nên chỉ thuộc pháp chấp.
Luận: Lại sở tri chướng là chỗ nương của Hữu lậu.
Hỏi: trước nói Hữu lậu do cùng với lậu đồng thời, vì sao lại nói rằng do sở tri chướng?
Đáp: Nếu thành Hữu lậu ắt do lậu đồng thời, cùng với lậu nương nhau thì nhất định phải nhờ sở tri chướng kia thành lậu, thành y, hai nghĩa đã khác, trước sau không trái.
Luận: Nếu thân sở lưu Hữu lậu định nguyện v.v...
Giải thích như sớ. Có nghĩa Nhị thừa cho nên ý dùng Vô lậu định giúp vì sao không được. Nhưng không có sức đại bi đại nguyện nên sức Vô lậu kém yếu, vì thế chỗ giúp thân chỉ gọi là phần đoạn. Nếu không như vậy thì huân thiền định chỉ có Hữu lậu. Biện rằng: Luận đã nói rõ, lẽ nào lấy tình thức con người ức chế mà không theo? Lại huân thiền kia cùng với sự lưu thân nhưng nghĩa không đồng. Nghĩa là huân thiền giúp nhân Dị địa sinh quả Dị địa. Có thể thừa nhận Vô lậu định huân kéo dài tuổi thọ chỉ kéo dài nhân trước của quả báo này, vì sao được cùng ví dụ? Lại quả của sự kéo dài ấy không bền chắc, không bằng với biến dịch sinh, cho nên có thể y theo luận.
Luận: "Vọng chấp này" đến "tự tánh sai biệt"
Hỏi: Trong pháp tự tánh sai biệt có thể biết, còn hai ngã thì thế nào?
Đáp: Chỉ chung là ngã gọi là tự tánh. Khắp thường đồng khác gọi là sai biệt, tức lìa uẩn v.v... đều chuẩn theo có thể biết, cũng tức Nhân Minh nói ngã là tự tánh sai biệt v.v...
Luận: Đều tợ hiện của sở thủ năng thủ.
Hỏi: Vì sao biết được tợ như năng thủ sở thủ đều gọi là chấp?
Đáp: Nhiếp luận của Vô Tánh quyển 4 ghi: Y tha khởi nghĩa là y nghiệp, phiền não, sở thủ, năng thủ, Biến kế tùy niệm mà được khởi. Lại nói, như ở trước đã nói thân v.v... các thức sở thủ năng thủ hư vọng phân biệt an lập làm tánh.
Lại nói, thí như con nai do sức ái tự tương tục, an lập tợ như nước. Sở thủ năng thủ tánh tà biến kế phải biết đều gọi là y tha khởi tánh. Do đây nên biết có hai thủ đều gọi là chấp.
Hỏi: Hai tướng sở chấp là đồng thời hay không đồng thời?
Đáp: Nghĩa văn này là chung. Lý thật tùy tâm, khi chấp năng thủ có tướng năng thủ, sở thủ cũng vậy chẳng phải tất cả thời chấp hai thủ.
Luận: "Nói A-lại-da" đến "là sở duyên". Hỏi: Đây là nói muốn chứng gì?
Đáp: Có hai giải thích: Một là chứng năng huân, Hữu lậu bảy thức đều có chấp kia; hai là chứng chung thức tám thức, vì năng sinh nhân đều có chấp này.
Hỏi: Sư này, Thức thứ sáu thừa nhận có hai chấp, hay hai chấp đều không?
Đáp: Có hai giải thích: một là giống như Hộ Pháp, hai là không thừa nhận. Như ngã của Thức thứ bảy không có pháp chấp.
Luận: "Kế độ phân biệt năng biến kế"
Đây đồng với Nhiếp luận của Vô Trước nói. Vô Tánh giải thích rằng: Phải biết ý thức là năng biến kế vì có phân biệt. Do có hiển bày, tùy niệm phân biệt lẫn lộn.
Giải thích: Lẫn lộn tức là nghĩa tương ưng câu khởi. Ý thức do cùng với hai thứ phân biệt chung nên có thể phân biệt, ý nói đây là tên khác của kế độ, còn gọi là tư trạch.
Luận: Dùng tự danh ngôn huân tập làm chủng tử.
Từ vô thỉ sinh tử đã có ý thức hý luận danh ngôn huân tập chủng tử làm sinh nhân này.
Giải thích: Hiển tự kiến phần sở huân chủng tử này là tự hiện hành thể thân sinh nhân.
Luận: Và dùng tất cả thức danh ngôn huân tập chủng tử.
Nghĩa là vô biên sắc v.v... ảnh hiện danh ngôn của thức huân tập chủng tử làm nhân vì giống như kia sinh. Vì thế cho nên tất cả vô biên hình tướng phân biệt mà chuyển.
Giải thích: Duyên mười tám giới và thức khác v.v... trong tướng phần huân thành chủng tử, gọi chung là dụng tha. Do ý thức kia giống như tất cả sinh, vì thế có vô biên hình tướng chuyển, chẳng phải do năm thức, tám thức mà có điều này.
Luận: "Người chấp ngã pháp nhất định cho là tuệ"
Hỏi: Hộ Pháp nói năm thức được cùng với tuệ chung. Nay vặn hỏi khác lẽ nào không tự trái sao?
Đáp: Có hai giải thích: Một là năm thức không thắng tuệ cho nên yếu kém không thể chấp, hai là nhân này chỉ vặn hỏi thứ Thức thứ tám.
Biện rằng: Phàm có chấp thì quyết có tuệ chung, không nói có tuệ đều là chấp kia. Do Hữu lậu tâm kia đều chấp trước. Vì thế dùng không tuệ mà vặn hỏi có. Cho nên hai giải thích chưa phải là giải thích khéo, nhưng không lìa vặn hỏi, suy nghĩ có thể biết.
Sớ: "Chuẩn theo luận Nhị Thập Duy Thức giải thích" đến "cũng có pháp chấp".
Nhị Thập Duy Thức nói Tha tâm trí thông Hữu lậu và Vô lậu. Giải thích Vô lậu Tha tâm trí có ba nghĩa. Sư thứ nhất giải thích Vô lậu Tha tâm trí của Bồ-tát thể cũng có pháp chấp. Luận nói không biết như Phật trí, rõ ràng nói biết có chấp, không biết tức là nghĩa vô tri. Do vô tri kia dụ như chưa đoạn nên che lấp tâm nên không bằng Phật.
Sớ: Nghĩa bài kệ của An-đà-sư.
Xét kinh kia ghi: "Như vô minh và các kiến chấp là một tướng thì lẽ ra không có ràng buộc và giải thoát, phàm và thánh không hai, vì sao? Vì phiền não đồng một thể tướng. Vì sao vậy? Vì cùng một tâm sinh diệt, một thời không sai không khác. Này Phật tử! Nếu được ràng buộc và giải thoát một tướng thì bốn đại có thể là một, sáu vị lẽ ra không khác, mà trái lại rất khác nhau cho nên ràng buộc và giải thoát cũng vậy. Này Phật tử! Tất cả Bồ-tát khi còn phàm phu đầy đủ tất cả kiết sử, nhưng khi đoạn thì phần thô đoạn trước phần tế trừ sau. Nếu tâm phiền não là một thì không thể sáng tối có hai. Này Phật tử! Lại lấy gần để so sánh xa. Trong tâm thiện của phàm còn không đâu không thiện, huống gì trong tâm vô tướng mà có vô minh. Này Phật tử! Nói thiện và ác một tâm. Đây là trong nước của vua Bình Sa có bài kệ của ngoại đạo An-đà-sư rằng: "Sáng tối một tướng, hiện ác một tâm".
Luận: "Thức phẩm tuy hai" đến "nên nói kia kia".
Đây phân biệt giống như sớ đã nói. Luận cũng nói rộng nên ở đây không thể chép đủ. Nay tùy theo chỗ cốt yếu mà sơ lược. Hai biến kế trong quyển 73, xét luận kia ghi: Vô sai biệt nghĩa là Biến kế tất cả tên gọi của tất cả pháp. Hữu sai biệt nghĩa là biến kế, tên này là sắc v.v... các pháp, mỗi mỗi đều có tên khác.
Giải thích: Tổng chấp các tên là thật có nên gọi là vô sai biệt. Lại Gia hạnh chấp gồm:
Một là Gia hạnh chấp lại có năm tên: tham, sân, hợp hội, biệt ly và xả.
Giải thích: Do Gia hạnh này mà khởi chấp, tham sân như thứ lớp làm biệt ly và hợp hội hai Gia hạnh.
Hai là tên gọi thi thiết chấp lại có hai: không văn tự và có văn tự sở tác. Không văn tự sở tác nghĩa là chấp đây là vật gì? Thế nào là vật này? Vật này vì sao gọi là vật này? Văn tự sở tác nghĩa là chấp đây là vật này, vật này như thế này. Đó là năm uẩn, ba tánh, Hữu vi, Vô vi v.v... đồng vơi luận Hiển Dương.
Lại phân biệt tự thể, nghĩa là trong tám thứ phân biệt, nay nói tương nhiếp. Lại tùy giác v.v... giải thích rằng, như hiện và chủng là năng biến kế cảnh tâm sở chấp. Lại xét quyển 73, chấp tự tướng v.v... bốn thứ sai biệt, nghĩa là chấp ba khoa tự tánh các pháp gọi là chấp tự tánh. Đó là chấp sắc v.v... tất cả các pháp, có kiến vô kiến, Hữu lậu Vô lậu v.v... tất cả đạo lý sai biệt gọi là chấp sai biệt. Chấp sắc v.v... tất cả các pháp đây kia đều ba cõi ba tánh, Hữu lậu, Vô lậu v.v... tâm và tâm sở thủ gọi là chấp sở thủ. Chấp sắc v.v... năng thủ các sắc, và chấp tâm vương tâm sở năng thủ các pháp gọi là chấp năng thủ.
Lại y theo tên chấp nghĩa, xét Nhiếp luận của Vô Tánh quyển ghi: vậy.5
1. Y tên biến kế nghĩa tự tánh: Nghĩa là tên như vậy có nghĩa như vậy.
2. Y nghĩa biến kế tên tự tánh: Nghĩa là nghĩa như vậy có tên như
3. Y tên biến kế tên tự tánh: Nghĩa là biến kế độ tên chưa hiểu nghĩa.
Giải thích: Nghĩa là rõ được tên kia, chưa rõ được việc kia, chấp tên cho là thật. Vì thế luận Dugià ghi: sự bất liễu sắc phân biệt tên sắc.
4. Y nghĩa biến kế nghĩa tự tánh: Nghĩa là biến kế độ chưa rõ tên nghĩa.
5. Y hai biến kế hai tự tánh: Nghĩa là biến kế độ tên này nghĩa này như thể tánh này.
Lại xét quyển 73, biến kế nghĩa tự tánh v.v... năm thứ sai biệt:
1. Nghĩa tự tánh: có bốn sai biệt, tức trước dẫn biến kế năng thủ, sở thủ v.v... bốn loại.
2. Danh tự tánh: Tức trước dẫn sai biệt và vô sai biệt hai tên.
3. Nhiễm tự tánh: Chấp sắc này có tham, sân, si là không thể xa lìa sự ràng buộc của tham, sân, si. Lại cùng với tất cả pháp thiện không tương ưng, chấp các uẩn v.v... cũng như vậy.
4. Tịnh tự tánh: Trái với nhiễm tự tánh, nên biết.
5. Phi nhiễm tịnh: Chỉ chấp các pháp là năng sở thủ.
Lại trong Hiển Dương quyển 16, Gia hạnh thứ năm tức hai thứ Gia hạnh trước vậy. Gia hạnh thứ sáu không có văn, cũng giống hai thứ trước, vì thế không dẫn lại.
Xét luận Du-già quyển 36 nói tám thứ phân biệt. Phân biệt các thứ tự tánh của sắc v.v... gọi là Tự tánh phân biệt. Phân biệt sắc v.v... có kiến chấp không kiến chấp, ba tánh ba cõi ba đời đối với tất cả đạo lý, gọi là Sai biệt phân biệt. Tổng chấp tất cả tình cùng vô tình, các pháp giả và thật, nhân đó khởi phân biệt, gọi là Tổng chấp phân biệt. Y năm uẩn v.v... mà chấp là ngã và ngã sở, gọi là hai loại Ngã phân biệt và Ngã sở phân biệt. Duyên các tịnh diệu và cảnh vừa ý mà sinh phân biệt gọi là Ái phân biệt. Duyên pháp bất tịnh và cảnh không vừa ý mà khởi phân biệt gọi là Phi ái phân biệt. Duyên pháp tịnh và bất tịnh và lìa cảnh vừa ý không vừa ý mà sinh phân biệt gọi là Câu tương vi phân biệt.
Sinh có ba sự: Ba pháp phân biệt sinh sự thứ nhất, hai thứ phân biệt kế đến là sinh sự thứ hai, ba thứ phân biệt sau là sinh sự thứ ba.
Lại trong Nhiếp luận v.v... nói mười thứ phân biệt.
Giải thích: Mười thứ phân biệt là năng phân biệt. Mười thứ luận Đối Pháp là năng phân biệt và sở phân biệt đều gọi là phân biệt. Như phần sao của luận kia tổng hợp.
Xét luận Vô Tánh ghi: A-lại-da là phân biệt căn bản. Tự tánh cũng là phân biệt cho nên gọi là căn bản. Duyên tướng phân biệt là phân biệt sắc v.v... có tướng như vậy. Hiển tướng phân biệt, nghĩa là nhãn thức v.v... cùng sở y thức hiển hiện dường như tướng sở duyên kia.
Giải thích: Các thức như nhãn v.v... đều lấy ý thức.
Sở y thức là Mạt-na, tức sáu chuyển thức có thể hiện dường như tướng sở duyên kia gọi là hiện tướng. Duyên tướng biến đổi phân biệt, nghĩa là tợ sắc v.v... ảnh thức biến đổi mà khởi phân biệt.
Giải thích: Tức tướng sở duyên mà có biến đổi. Năng duyên phân biệt từ nó lập tên, nghĩa là già bệnh ba thứ thọ, tham sân si v.v... làm duyên biến đổi, khiến cho thần sắc kia có sự biến đổi. Thể biến đổi tức là sắc thân v.v... như nói vui vẻ nên mặt đoan nghiêm. Hiển tướng biến đổi phân biệt, nghĩa là do nhãn v.v... làm sở y căn, khiến cho ảnh tượng của sắc v.v... hiển hiện. Các thức như nhãn v.v... có vô số biến đổi, tức đối trong này khởi các phân biệt, tức như trước đã nói lão v.v... biến đổi.
Giải thích: Do sở y căn thân biến đổi khiến thức năng y cũng có biến đổi. Nêu hiển hiện cảnh sắc của năm trần, ý lấy thức năng duyên phân biệt, nghĩa là lão v.v... là hiển duyên biến đổi giống như trước, còn lại như sớ dẫn, văn có thể biết.
Lại trong Nhiếp luận có mười thứ tán động:
1. Không tướng
2. Có tướng
3. Tăng ích
4. Tổn giảm
5. Một tánh
6. Dị tánh
7. Tự tánh
8. Sai biệt
9. Như tên lấy nghĩa
10. Như nghĩa lấy tên
Vì đối trị mười thứ tán động này, nên trong tất cả Bát-nhã Ba-la-mật-đa nói trí vô phân biệt.
Giải thích: Tán động tức là tên khác của phân biệt.
Lại luận Đối Pháp quyển 12 nói kiến vô kiến mười loại, đây tức trong hai mươi tám kiến thâu nhiếp, cho nên nay không dẫn.
Lại trong quyển 77 có mười thứ tướng, trừ ra mười tám thứ Không, luận kia nói rất rộng, nay dẫn tóm tắt, có mười thứ tướng Không, có thể trừ bỏ.
1. Liễu tri pháp nghĩa có tướng văn tự, tất cả pháp Không, có thể trừ bỏ.
2. Liễu an lập Chân như nghĩa, cho nên có các tướng sinh diệt tương tục chuyển. Đây là do tướng Không và trước sau không, có thể trừ bỏ.
3. Liễu năng thủ có luyến tiếc thân và tướng ngã mạn. Đây là do nội Không và vô sở đắc Không, có thể từ bỏ.
4. Liễu sở thủ có tướng mến tiếc tài. Do ngoài Không, có thể trừ bỏ.
5. Thọ dụng nam nữ thừa sự và tự cụ tương ưng, trong có an lạc, ngoài tướng tịnh diệu. Do bản tánh trong ngoài Không, trừ bỏ.
6. Liễu kiến lập có lượng tướng, đại Không, trừ bỏ.
7. Liễu Vô sắc, trong có tướng vắng lặng giải thoát pháp Hữu vi Không, trừ bỏ.
8. Liễu tướng Chân như có hai tướng vô ngã nhân và pháp và tướng thức Thắng nghĩa rốt ráo vô tánh, tự tánh vô tánh và thắng nghĩa Không, trừ bỏ. 9 Liễu rõ Chân như thanh tịnh có tướng Vô vi, không có tướng biến đổi, Vô vi và không biến đổi cả hai Không, trừ bỏ.
10. Tức đối với nó đối trị tánh Không, tác ý tư duy tướng tánh Không. Đây là do không Không, trừ bỏ.
Lại mười hai thứ phân biệt, xét trong kinh Lăng-già quyển 4 ghi:
1. Ưa đắm trước các thứ ngôn ngữ, âm thanh tốt đẹp gọi là Ngôn ngữ phân biệt.
2. Khởi tư duy như vầy, lẽ ra có tướng thật sự của pháp trước. Thánh nhân tu hành biết y theo pháp kia sinh ngôn ngữ gọi là Khả tri phân biệt.
3. Họ có thể biết trong cảnh giới, nóng, ướt, động chắc thứ thứ tướng, chấp cho là thật gọi là Tướng phân biệt.
4. Ưa thích vàng, bạc v.v... các thứ cảnh giới thật, gọi là Nghĩa phân biệt.
5. Chuyên nhớ nghĩ hình tướng tự thể của pháp. Pháp này như vậy, như vậy, không khác, không chánh kiến phân biệt gọi là Tự thể phân biệt.
6. Những gì là nhân, những gì là duyên, có nhân tướng vô liễu biệt sinh tưởng liễu biệt gọi là Nhân phân biệt.
7. Có, không, một, khác, câu, bất câu, tà kiến, ngoại đạo chấp trước phân biệt, gọi là Kiến phân biệt.
8 Lấy tướng ngã và ngã sở, nói pháp hư vọng gọi là Kiến lập phân biệt.
9. Y các duyên trong pháp có không, sinh tâm chấp trước gọi là Sinh phân biệt.
10. Tất cả pháp xưa nay không sinh, do vốn không nên y nhân duyên có mà không nhân quả, gọi là Vô sinh phân biệt.
11. Những gì là pháp hòa hợp như sợi tơ bằng vàng, những gì là pháp hòa hợp gọi là Hòa hợp phân biệt.
12. Ràng buộc do chấp trước như bị ràng buộc, như người phương tiện cột dây làm gút, cột rồi mở ra, gọi là Phược bất phược phân biệt.
Này Đại Tuệ! Đây gọi là tướng hư vọng phân biệt pháp thể sai khác.
Lại có mười sáu loại. Mười sáu thứ Không bị trừ bỏ, không đã có thể trừ, rõ ràng pháp bị trừ cũng như vậy, sở trừ tức là pháp phân biệt. Phần sau nói pháp sở trừ đều chuẩn theo đây mà biết.
Lại có hai mươi tám kiến. Xét luận Đối Pháp có nói đủ, nay lược nói:
1. Tướng kiến: Nghe Đại thừa mật ý không giáo, chấp trước các tướng vô tánh như vậy, này gọi là Tướng kiến, do đây liền phỉ báng Đức Phật nói ba tánh, bèn khởi:
2. Tổn giảm thi thiết kiến.
3. Tổn giảm phân biệt kiến. 4 Tổn giảm chân thật kiến.
Lại muốn thành lập tà kiến, nhiếp một ít đạo lý y theo kinh liễu nghĩa, phương tiện chuyển biến, khiến thuận theo ý kiến của mình. Do đó lại khởi:
5. Nhiếp thọ kiến.
6. Chuyển biến kiến.
Lại khởi chấp trước, hoặc y theo kiến này mà làm việc thiện và không thiện đều không có tội. Tất cả chướng cấu đều được xa lìa. Do đây lại khởi:
7. Vô tội kiến.
8. Xuất ly kiến.
Chấp kiến tự mình rồi đối với kinh Thanh văn và bậc Thanh văn khinh chê, tật đố. Lại khởi:
9. Khinh hủy kiến.
10. Phẫn phát kiến.
Lại thuận theo ác kiến của mình, điên đảo lập không vô tướng, vô nguyện. Lại nghĩ tự mình ngộ và giác ngộ cho người khác. Pháp tánh sở lập tất cả đều sinh vô lượng công đức lại khởi:
11. Điên đảo kiến.
12. Xuất sinh kiến.
Do đây, dùng lý trách sở lập, không lập tự tông và dùng cơ lộng vọng lý trách người khác, nên khởi:
13. Bất lập tông kiến.
14. Kiêu loạn kiến.
Lại khởi tâm kiêu mạn cho là tu như vậy, chân thật cúng dường cung kính chư Phật như vậy, đây tức là:
15. Kính sự kiến.
Lại người thông suốt kiến bỏ ác kiến dùng lý chân thật, phương tiện khai ngộ, cố chấp không xả tâm, cho rằng chỉ đây là chân còn lại đều là tà vọng.
Đây là:
16. Kiên cố ngu si kiến.
Trên đã nói tập khí thô trọng của kiến chấp, đây gọi là:
17. Căn bản kiến.
18. Kiến và vô kiến kiến, tức tướng kiến trước. Đây thật có chấp các tướng vô tánh mà khởi tưởng không chấp tất cả tướng.
19. Xả phương tiện kiến: tức ba kiến trước là tổn giảm, thi thiết, phân biệt và chân thật, kiêu mạn các pháp tánh đối với sự tinh tấn khởi tưởng vô dụng.
20. Bất xuất ly kiến: Tức hai kiến ở trước là nhiếp thọ và chuyển biến, không phương tiện tu và không chứng quả.
21. Chướng tăng ích kiến: Tức hai kiến trước là vô tội và xuất ly, sở hành tà ích không thừa nhận chướng ngại.
22. Sinh tội phước kiến: Tức từ hai kiến khinh hủy và phẫn phát, do đối với chánh pháp đồng phạm hành khởi môn tà hành liền phát sự tổn giảm.
23. Vô công quả kiến: Tức hai kiến điên đảo và xuất sinh lập pháp không có không có người trao, không có người nhận, đều không thể chứng quả thắng tấn.
24. Thọ nhục kiến: Tức từ hai kiến bất lập tông và kiêu loạn, không đúng lý khởi luận không được thù thắng.
25. Phỉ báng kiến: Tức từ kính sự kiến không nên nói tăng ích mạnh.
26. Bất khả dữ ngôn kiến: Tức kiên cố ngu si kiến. Người tà chấp không không nên cùng nói, vì cùng nói không có ích.
27. Quảng đại kiến: Tức căn bản kiến nói ở trước, do đây có kiến đời sau tăng nhiều.
28. Tăng thượng mạn kiến: Hai mươi bảy kiến trước đều gọi là tăng thượng, đều có thể phát khởi hư vọng, không có thật tăng thượng mạn. Luận: Nhiếp Đại Thừa nói y tha khởi.
Luận kia ghi: Như Biến kế sở chấp tự tánh mà nương theo y tha khởi thì thật không có, dường như nghĩa hiển hiện. Lại nói y tha khởi tự tánh gọi là sở Biến kế.
Sớ: Nếu không đối tâm, vì sao lại phải biết. Hỏi: Nói phải biết là giáo pháp gì để chứng?
Đáp: Luận Du-già quyển 74 ghi: Hỏi: Ba thứ tự tánh có bao nhiêu loại biết khắp? Đáp: Có tất cả, vì thế biết biến kế cũng là pháp sở tri.
Luận: "Các Thánh giáo nói" đến "biến sở chấp".
Xét tân Trung Biên luận tụng rằng: "Không có hai có không, không có cũng chẳng không, không khác cũng chẳng một, đây nói là không tướng". Trường hàng giải thích rằng: không hai nghĩa là không sở thủ và không năng thủ. Có không nghĩa là có không của hai thủ. Đây tức là hiển không vô tánh tức là tánh.
Giải thích: Hai thủ không tánh gọi là vô tánh.
Tánh này chẳng không nên gọi là có không.
Luận: Vì sao chẳng phải có, không hai có.
Giải thích: Vọng chấp năng thủ sở thủ là có, không có hai vọng chấp kia là không hai có.
Luận: Vì sao chẳng phải không, vì có hai không.
Giải thích: Hai lý thể của vô ngã không đâu chẳng không, nên gọi là có hai không. Không của luận này cùng với hư vọng phân biệt kia không khác, không đồng. Nếu khác thì lẽ ra thành pháp tánh, khác với pháp, liền trái với chánh lý, như khổ v.v... các tánh. Nếu đồng thì lẽ ra không có tịnh trí cảnh, cũng không có cộng tướng.
Giải thích: Khác không nên nói hai Không tánh, nghĩa là các pháp tánh này cùng với pháp khác. Nếu đồng không nên nói hai Không lý là cảnh vô phân biệt tịnh trí cùng với sự là một.
Sớ: Kiến phần và tướng phần đều có vô số hình tướng.
Xét trong Nhiếp luận quyển 4, Vô Tánh giải thích rằng: Trong một thức, một phần biến dịch dường như tướng phần sở thủ, một phần biến dịch dường như kiến phần năng thủ. Hai phần này đều có vô số hình tướng sai biệt đồng thời khởi. Nếu không thừa nhận một thức cùng một lúc có các biết các thứ tướng sai biệt, lẽ ra không có cùng một lúc biết nhiều cảnh.
Luận: Mười một thức.
Đầy đủ như trong sớ đã nêu. Nay bèn vặn hỏi giải thích. Thân thức là A-lại-da, năm thức thân sở y gọi là thân, nếu như vậy thì Thức thứ sáu cũng y Thức thứ tám vì sao chỉ nói có năm? Đã có ngăn ngại này, nên liền giải thích Thức thứ tám chấp năm căn năm thức mới khởi. Năm căn gọi là thân chấp thân là thức, gọi thân là thức. Thức thứ sáu không nêu. Luận của Thiên Thân cho rằng nhiễm Mạt-na là thân, nghĩa là thức. Thọ và thức gọi là Mạt-na. Do vì Thức thứ sáu không cùng nương. Năm thức không nêu, thức của thọ giả gọi là thọ giả thức.
Hỏi: Vì sao không lấy sáu vô gián diệt ý là hai ba?
Đáp: Vì lìa sáu có thể thọ thức không khác, nên không lấy.
Sớ: "Trong này đã nói" đến "y tha khởi".
Trong mười một thứ này, năm là tướng phần. Kia nói mười một đều y tha khởi, vì thế biết tướng phần không phải là Biến kế sở chấp.
Hỏi: Thế, số hai thứ vì sao không phải tướng phần? Vì sao luận kia nói vì ba thời toán số mà ảnh hiện?
Đáp: Nếu luận ảnh tượng thật như sở trách. Sớ căn cứ theo bản kia, cũng chỉ là cảnh tướng, nên chỉ nói năm. Như năm căn v.v... đều là tướng phần của Thức thứ tám, các đường thiện ác thể thật chỉ là báo thức. Thông năng thủ sở thủ tư cụ v.v... mà luận, cho nên các đường cũng là tướng. Thế và số không nêu, suy nghĩ có thể biết.
Sớ: Nếu không như vậy thì văn đây là nghĩa đuổi theo tha, không gọi là cực thành.
Nếu vặn hỏi hai phần khác không có tự thể thì lẽ ra không huân chủng. Đây không vặn hỏi như vậy. An Tuệ nói huân chủng không cần có tự thể. Hộ Pháp nay dùng nghĩa tự bức bách tha, không phải là nghĩa cực thành của hai nhà.
Sớ: Nhưng chẳng phải tướng phần.
Tuy tự chứng duyên chủng thể, nhưng không phải trong tướng phần nhiếp, do đó như trong Nghĩa Đăng. Sớ trước sau nói tướng phần là do nghĩa của Hộ Pháp mà giải thích là tha.
Sớ: Thế nào là duyên tự chứng.
Tự duyên là hiện lượng, duyên chủng là Phi lượng.
Sớ: Giải thích hai câu là hai.
Biến kế và Y tha là hai câu. Hoặc tụng Y tha chỉ có hai câu, văn của khoa đầu ở trước có hai nghĩa: Một là do ba tánh riêng nêu có là ba, hai là do ba tánh chung nên phân làm hai. Biến kế và y tha hợp thành một. Do hai tánh này cần phải tương đối phân biệt.
Sớ: "Nếu là tánh ban đầu" đến "sư trước tổng kết".
Y theo hai phần khoa, đây tức là đầu tiên do Nan-đà kết.
Hỏi: Nói sở biến kế, trong văn của Hộ Pháp nói rõ bốn. Kết thứ tư chính là văn này, vì sao nay nói là sư trước kết?
Đáp: Do Ngài Nan-đà, hai phần y tha kết văn thuận theo kia, không nói tự chứng phần và chứng tự chứng phần, có một ít giống như Hộ Pháp, ẩn từ tha nói rằng sư trước kết. Trước hiện tự nghĩa nói rằng bốn kết chính cho nên không trái nhau. Hoặc chữ "trước" là viết nhầm, lẽ ra là chữ "sau", hiển rõ văn kết này không phải của An Tuệ. Đã thông hai nghĩa thì chắc là từ nhiều bản.
Luận: Lựa chọn tự cộng tướng hư không ngã.
Có nghĩa sớ nói cộng tướng như trong Nhân Minh nói, không có thể tánh riêng biệt, nên không thể nói thường, vì thế thường là lựa chọn. Nay giải thích y theo kinh Phật Địa nói khổ và vô thường v.v... Có nghĩa cộng tướng nên có thể gọi là biến. Do vì sinh diệt nên không gọi là thành tựu. Lại kinh Phật Địa nói cộng tướng chỉ ngăn mà không biểu lộ, khổ vô thường v.v... có đủ ngăn che và biểu lộ. Trước vô tánh nên sau sinh diệt, vì thế không thể thường, đều là ngăn lựa chọn.
Biện rằng: Sớ không có văn phán định, y theo Nhân Minh không y theo kinh Phật Địa, nhưng nói quán tâm cộng tướng vô thể. Vả lại luận nói không và vô ngã là hai khổ, vô tướng là ba. Luận nói "vân vân", sớ không giải thích tùy luận tỉnh lược, chẳng phải không thừa nhận kia cũng là sở lựa chọn, thông lựa chọn cộng tướng mà kinh luận nói. Nếu nói chỉ có lựa chọn thì kinh nói cộng tướng. Luận nói cộng tướng, vì sao ý không lựa chọn? Há luận nói cộng tướng không phải là sở lựa chọn ư? Nếu không phải sở lựa chọn thường, lựa chọn cộng tướng có lỗi không cùng tận, vì thế sớ không trái, có nghĩa không đủ.
Sớ: Như sở biến kế không có như vậy.
Đây là dẫn tóm lược, nên nói như sở Biến kế rốt ráo không có như vậy.
Giải thích: Tục có vọng tình chấp có này hằng không gọi là Viên thành thật.
Sớ: Đây cùng với Thế Thân ở trước khác.
Trước hiển tâm năng sinh, năng biến kế, gọi là biến kế. Đây cùng với Biến kế sở chấp làm y gọi là Biến kế.
Sớ: "Lại y tha khởi" đến "gọi là Biến kế sở chấp". Đây cùng với giải thích sau của Thế Thân đồng.
Sớ: Kia gọi là Biến kế sở chấp. Kia là Vô Tánh. Hỏi: Chuẩn theo hai vị Bồ-tát cho rằng y theo y tha giả gọi là Biến kế, mà nói là không khác để giải thích bản luận. Nếu không giả nói hai tánh tướng mong nhau mà giải thích thì luận của Vô Trước có không lìa chăng?
Đáp: Lý cũng có thể thành. Nhưng bản luận nói do tướng Biến kế sở duyên này.
Giải thích: Do y tha khởi có thể khởi tâm, năng Biến kế thứ sáu mới chấp lìa thức thật có ngã pháp v.v... Nếu không có cảnh y tha này thì năng Biến kế không khởi. Năng Biến kế không khởi thì vì sao có tánh sở chấp Biến kế ư? Do hai tánh này, cho nên không khác, cũng giống như đối với sợi dây mới khởi sự biết là con rắn. Còn lại chuẩn theo đây có thể biết.
Luận: Dụ như huyễn sự không có mà dường như có.
Bản luận của Vô Trước nói những thí dụ này, đầy đủ như trong sớ đã nêu. Vô Tánh giải thích luận, nay ở đây sẽ dẫn.
Luận: Dụ về huyễn sự, như không có voi mà voi huyễn sở duyên cảnh giới. Tánh y tha khởi cũng như vậy. Tuy có sắc v.v... duyên sáu xứ, khi Biến kế độ tợ như có sáu xứ bị duyên hiển hiện.
Giải thích: Ngoài do trần v.v... tám thứ cho là thật có. Trong dùng tám dụ ngược lại kia là hư vọng, lẽ ra có tám lượng.
1. Sắc v.v... sáu trần không phải là thật có, hiển hiện rõ ràng là cảnh kế độ, dụ như voi huyễn. Chân như không có cảnh sở hành của Kế độ hiển hiện. Vì thế là Dị phẩm, vì không phải là Năng Biến kế và sở biến kế, nên không có bất định.
2. Như sóng nắng khi bị gió động, thật không có nước mà có cảm giác như có nước. Ngoại khí thế gian cũng như vậy. Lượng rằng: Ngoại khí thế gian hư dối không có thật có, năng sinh chấp thật có tâm vương và tâm sở, dụ như sóng nắng. Chân như không có dị chấp sinh y, vì thế không có bất định.
3. Lại như trong mộng ngủ say khởi tâm, tâm sở tụ cực thành muội lược. Tuy không có người nữ v.v... các cảnh nghĩa mà có cảnh giới ái phi ái thọ dụng, khi thức cũng vậy. Lượng rằng: Trong mộng không có cảnh ái và phi ái, hư giả không có thật có, vì đây là chỗ thọ của tâm thương ghét, dụ như giấc mộng.
4. Lại như ảnh tượng trong gương v.v... trở lại thấy bản chất mà nói ta nay riêng thấy ảnh tượng. Nhưng ảnh tượng này thật không có, chẳng phải đẳng dẫn địa thiện ác tư nghiệp bản chất làm duyên. Ảnh tưởng quả sinh cũng như vậy. Lượng rằng: Nghiệp của thiện ác hư giả chẳng phải thật có vì nương nhờ duyên mà hiện, dụ như ảnh tượng.
5. Lại như bóng sáng do bóng chiếu vào ánh sáng kia khởi các thứ hình ảnh. Trong Định đẳng địa các thức đối với nghĩa không có thật sai biệt mà chuyển.
Giải thích: Như trong ánh sáng thân múa động nhiều hình trạng. Bóng kia cũng vậy. Định ý phân biệt khởi các nghiệp chướng của thân vô sai biệt. Như thân trong ánh sáng kia nương theo thức khởi, vì thế nói thân kia gọi là chủng chủng thức. Hoặc hai cõi trên định tâm không phải một gọi là chủng chủng thức. Thức này dẫn nương gá, cảnh không có thật chuyển, nói tâm này là hư giả, y theo trước lượng rằng: Định khởi thân nghiệp hư dối không có thật có vì các thứ chuyển, dụ như bóng ánh sáng. Y theo sau lượng rằng: Định địa các thức hư dối chẳng phải thật có, nương vô số thứ khởi, như bóng ánh sáng vậy.
6. Lại như tiếng vang trong hang thật không có tiếng, nhưng người nghe giống như nghe nhiều cảnh giới ngôn ngữ, vô số ngôn ngữ. Ngữ nghiệp cũng vậy. Lượng rằng: Ngữ nghiệp không có thật vì nghe chỗ nghe, cũng như tiếng vang trong hang.
7. Như trăng trong nước, do tánh nước lắng trong, cho nên tuy không có mặt trăng mà mặt trăng có thể lấy. Duyên cảnh sở huân của cảnh thật nghĩa, lắng trong làm tánh, các Tam-ma-địa tương ưng, ý cũng như vậy, tuy không có cảnh giới sở duyên thật nghĩa mà dường như có chuyển. Đây cùng với ảnh tượng có gì sai khác, định bất định địa mà có sai khác.
Giải thích: Cảnh định có thể khiến thiện phẩm tương tục gọi là thật nghĩa. hoặc lựa cảnh Biến kế sở chấp cho đó là thật. Lượng rằng: Định cảnh sở hiện hư dối chẳng phải thật có, nương theo duyên lắng trong mà hiện, cũng như trăng trong nước.
8. Lại như biến hóa nương biến hóa này, gọi là biến hóa, tuy không có thật nhưng có thể biến hóa, nghĩa là không có điên đảo đối với việc bị biến hóa, riêng làm công dụng. Bồ-tát cũng vậy, tuy không Biến kế sở chấp hữu tình, nhưng đối y tha khởi các loài hữu tình. Do vì thương xót mà đến các chỗ sinh xứ kia nhiếp thọ tự thể.
Giải thích: Nghĩa là tức y theo tâm có thể biến hóa này khởi việc biến hóa. Hoặc y chỗ bị biến hóa khởi tâm biến hóa không có cảnh nghiệp sinh gọi là tuy không có thật. Lượng rằng: Bồ-tát thọ sinh hư giả không chân thật, không khởi tâm điên đảo, dụ như biến hóa.
Hỏi: Luận Trung Biên có bài tụng rằng: "Với bất động không đảo", nghĩa là biết nghĩa chẳng có, chẳng không, như huyễn v.v... là dụ Biến kế sở chấp. Hai luận đã khác, đều có ý gì?
Đáp: Luận Trung Biên căn cứ các thể của huyễn sự kia và tâm năng chấp sở chấp, nước v.v... dụ chung hai tánh. Còn Nhiếp luận thì căn cứ sự nhưng đồng y tha, vì thế không trái nhau.
Luận: Lưu chuyển Chân như.
Văn của hai luận là luận này và luận Du-già không đồng nhau, như trong sớ tổng hợp. Có nghĩa Hữu vi có hai: Một là bốn nhân dời đổi nhau v.v... là sở vi, hai là phiền não sở vi. Nay nói Hữu vi là y theo nghĩa sau mà nói, cho nên Hữu vi chỉ nói duyên khởi. Thuyết này là thù thắng. Trong văn sau nhiếp vì hai tánh nhiếp. Nhưng Hiển Dương nói, đối với pháp nhiễm tịnh tư duy các hành lưu chuyển thật tánh. Căn cứ theo thế gian tịnh nên không trái nhau.
Biện rằng: Chẳng phải không có lý này. Nhưng sau nhiếp rằng: Tùy tướng nhiếp là lưu chuyển và khổ tập, hai tánh trước nhiếp. Đã nói tùy tướng, rõ ràng không trái lý. Căn cứ theo tăng mà bàn thì Hiển Dương lại nói đối với pháp nhiễm tịnh. Pháp tịnh không nói y thế gian tịnh. Do đây giáo lý và sớ nói không trái nhau. Lại sớ sau nói lưu chuyển chỉ đứng về Hữu lậu bàn về luận Du-già kia, rõ ràng là nói lưu chuyển.
Luận: Bốn đế an lập Chân như.
Hỏi: Bốn đế đều an lập, vì sao chỉ nói về khổ đế?
Đáp: Tuy nêu tên chung, nhưng do pháp riêng như sắc v.v... Lại bốn đế, đầu tiên từ tên chung mà gọi, còn ba đế sau từ riêng khác mà lập tên.
Luận: "Nghĩa là hoặc có chỗ" đến "không nhiếp năm sự" Xét luận Du-già quyển 74 ghi:
Hỏi: Tự tánh đầu tiên trong năm pháp có bao nhiêu sở nhiếp?
Đáp: Đều không có sở nhiếp.
Hỏi: Tự tánh thứ hai có bao nhiêu sở nhiếp? Đáp: Có bốn sở nhiếp.
Hỏi: Tự tánh thứ ba có bao nhiêu sở nhiếp?
Đáp: Có một sở nhiếp.
Luận: "Hoặc lại có chỗ" đến "Viên thành thật". Xét bài tụng luận Trung Biên ghi: "Là Biến kế sở chấp, tướng phân biệt y tha, Chân như và chánh trí, Viên thành thật sở nhiếp".
Sớ: Nếu thể tướng nhiếp thành trái nhau.
Nếu theo Nhiếp luận thì danh nghĩa hai thể. Nhiếp thể danh nghĩa năm pháp thì liền thành trái nhau, vì sao? Vì trong năm pháp, nghĩa tức là tướng và phân biệt, còn thể tức là y tha. Nghĩa kia là tánh đầu tiên, do không nhiếp có, nay nói có nhiếp, lẽ nào không trái nhau sao?
Sớ: "Luận Trung Biên cho ba tánh cùng với mười Chân như nhiếp nhau".
Luận kia, phần thứ hai rộng nói nhiếp nhau, nay chỉ nêu tên lược phân biệt về ý của mỗi tên.
1. Căn bản chân thật: Y theo đây lập các Chân như khác, vì thế nương ba tánh lập.
2. Tướng chân thật: Đây đối trong tướng căn bản Chân như không điên đảo.
3. Vô điên đảo chân thật: Có thể đối trị, bốn thứ đảo, vô thường, khổ, không vô ngã.
4. Nhân quả chân thật: Nghĩa là bốn Thánh đế, vì nhiễm tịnh nhân quả có sai khác.
5. Thô tế chân thật: Nghĩa là thế tục và Thắng nghĩa có hai có sai khác.
6. Cực thành chân thật: Thế gian và đạo lý cả hai cực thành.
7. Tịnh trí sở hành chân thật: Tịnh trí sở hành của hai chướng phiền não và sở tri có khác.
8. Nhiếp thọ Chân như: Tức ba tánh và năm sự nhiếp nhau.
9. Sai biệt chân thật: Bảy Chân như và ba tánh nhiếp nhau.
10. Thiện xảo chân thật: Đối trị mười ngã kiến, do tu uẩn, v.v... mười thứ thiện xảo.
Sớ: "Lấy phân biệt toàn" đến "là sở thuyên".
Hỏi: Tâm chánh trí v.v... thông năng thuyên và sở thuyên, phân biệt vì sao chỉ là sở thuyên?
Đáp: Pháp Hữu lậu riêng khai danh, tướng và phân biệt. Phân biệt do đó chỉ gọi là sở thuyên. Pháp Vô lậu thì hợp chung, vì thế chánh trí năng thuyên sở thuyên đầy đủ. Có chỗ cho rằng tướng chỉ là sở thuyên, danh chỉ là năng thuyên, phân biệt thông cả hai năng và sở thuyên, tùy hai sở biến nên có sai khác. Tuy có nhiều giải thích nhưng thuyết nay trội hơn.
Biện rằng: Như gọi là năng thuyên, gọi là sở thuyên, lẽ nào chẳng phải là danh ư? Nếu là danh thì vì sao không phải là sở thuyên? Danh nương thức biến vì sao không gọi là tướng? Nếu thừa nhận là tướng, thì tướng tức năng thuyên. Nếu cho rằng thức là năng biến năng thuyên, thì lẽ ra phải tùy theo nhau. Vì thế tùy theo năng biến chỉ gọi là phân biệt, tùy theo sở biến chỉ có hai tướng và danh. Đây nếu đã không như vậy, kia vì sao nói như vậy? Cho nên theo sớ là hơn. Nay thêm một giải thích: Tướng và phân biệt chỉ là sở thuyên, danh tổng năng và sở thuyên. Tuy danh do thức biến nhưng cũng là tướng thâu nhiếp. Nhưng căn cứ nghĩa khác chỉ gọi là danh. Nếu không như vậy tức có nghĩa tùy theo nhau như trước nói là sai. Suy nghĩ có thể biết.
Sớ: Cũng gọi hòa hợp.
Xét luận Du-già ghi: Cũng gọi là Biến kế sở chấp, cũng gọi là hòa hợp sở thành, cũng gọi là sở tăng ích tướng, cũng gọi là hư vọng sở chấp, cũng gọi là ngôn ngữ sở hiển, cũng gọi là văn tự Gia hạnh, cũng gọi là chỉ có âm thanh, cũng gọi là vô hữu thể tướng.
Sớ: Vì thế thứ tư nói Biến kế sở chấp, tự tánh chấp. Tức trong năm sự là chấp thứ tư.
Sớ: Bốn đạo lý.
Xét luận Đối Pháp quyển 11 ghi:
1. Quán đãi đạo lý: Các hành sinh phải đợi các duyên.
2. Tác dụng đạo lý: Như nhãn căn v.v... là sở y tác dụng của nhãn thức.
3. Chứng thành đạo lý: Chứng thành nghĩa sở ứng thành, tuyên nói các lượng bất tương vi ngữ.
4. Pháp nhĩ đạo lý: Từ vô thỉ đến nay pháp tướng pháp như vậy. Như lửa có thể cháy, nước có thể thấm ướt.
Sớ: "Cũng lấy trí Vô lậu" đến "nếu không như vậy liền giảm".
Không lấy trí Vô lậu là chân thật. Thể của bốn chân thật không nhiếp Đạo đế, nên nói là giảm. Chân thật thứ tư, chuẩn theo chân thật thứ ba thì biết, nên sớ không nêu.
Luận: "Hai chướng" đến "hai sự nhiếp".
Hỏi: Căn cứ theo luận Du-già quyển 36 nói, hai thứ chân thật sau cùng bốn đế lý Chân như làm thể. Trong quyển 73 nói đều lấy chánh trí, ý vì sao không đồng?
Đáp: Có ba giải thích:
1. Giải thích như trong sớ.
2. Trong truyện Tam tạng giải thích rằng ngay khi chứng hai chướng sở hành cũng chứng trí tuệ. Dụ như khi kiến phần duyên Chân như, tức tự chứng phần cũng duyên kiến phần.
3. Hai trí Không quán có thể có sở hành, cũng gọi sở hành, không nên nói rằng hai chướng tịnh trí thông duyên chân và tục, vì thế trí Vô lậu cũng gọi là sở hành. Nói sau được duyên ấy, lý này không đúng, nhưng sau được thông duyên nhiễm tịnh và y tha, nên nói phần nhiễm cũng là sở hành Chân như của hai trí. Nếu như vậy, tức sở hành của hai trí nhiếp chung năm việc. Đã là hai sự nhiếp, cho nên có thể quán trí, có thể có sở hành gọi là sở hành.
Biện rằng: Sớ và truyện giải thích nghĩa kia hơi thông. Có chỗ nói sở đoạn sợ trái với ý chỉ của luận. Ý chỉ của luận nói gì? Luận nói cảnh sở duyên. Hiển cảnh không đồng có bốn thứ chân thật, vì thế quyển 34 ghi: Phẩm loại của chân thật nghĩa này sai khác, lại có bốn loại, nghĩa tức là cảnh. Nay lấy trí kia có thể có sở hành gọi là có sở hành, không đứng về cảnh, lẽ nào cùng bản luận không thành đây kia? Luận căn cứ một phần cảnh tịnh mà nói, không có nghĩa cảnh đồng dùng nhiễm y tha, liền nêu lời trách.
Nay thêm hai giải thích:
1. Căn bản trí sở hành Chân như, Chân như sở nhiếp, Vô lậu trí khác duyên an lập v.v... tướng sở biến.
2. Hai trí sở hành chân thật, chánh trí sở nhiếp, không đồng pháp Hữu lậu hư vọng phân biệt, không có tướng nhiếp. Vì thế trong quyển 73 nói Vô lậu, Hữu vi gọi chung là chánh trí.
Hỏi: Thế nào là chứng trí?
Đáp: Quyển 36 ghi: Tất cả cảnh giới sở hành của hàng Nhị thừa Vô lậu trí, hoặc Vô lậu Hậu đắc trí, thế gian trí, đây hoặc gọi là phiền não chướng tịnh trí sở hành chân thật. Lại trong Hiển Dương ghi: Trong này vì sao là chân thật?
Đáp: Nghĩa là bốn Thánh đế đã là cảnh Hậu đắc trí cũng gọi chân thật, vì thế sở duyên của Hậu đắc trí là bốn đế chân thật v.v... Các tướng đều gọi là chân thật. Nhưng trong quyển 36, chân thật thứ ba nói đủ có ba trí. Chân thật thứ tư không đủ ba trí, chỉ ảnh hiển mà thôi, nếu không như vậy vì sao ý có đủ và không đủ? Hoặc lấy ý của sớ truyện và ý nay nói hợp làm một giải thích. Vì thế, Đại luận trước sau cũng không trái nhau, lại nên suy nghĩ.
Sớ: "Luận Trung Biên" đến "y Viên thành thật".
Trong bốn câu, thứ nhất hiển thật y Biến kế đầu có một; thứ hai hiển y biến kế thứ hai có ba; thứ ba và thứ tư hiển ba thật cùng y Viên thành thật thứ tư.
Sớ: Đây là căn cứ thiên phần vị là cấu tịnh.
Do có nhiễm và tịnh, ẩn hiện hai vị. Căn cứ phần thuyết này hiển tợ như khổ kia sắp về sau tâm năng duyên không thường hành. Giả danh thì vô thường, thể thì thật thường.
Sớ: Hình tướng vô thường thật không duyên.
Hình tướng vô thường chỉ duyên ba đế Hữu vi làm nghĩa, không duyên diệt đế Vô vi làm cảnh.
Sớ: Lại y tất cả vô thường mà nói.
Nói hành vô thường duyên tánh đầu tiên và sau. Đây là hành năng duyên không phải là vô thường trong mười sáu hành. Mười sáu hành này ngoài duyên tâm vô thường. Vì sao vậy? Vì trong mười sáu hành, vô thường chỉ duyên ba đế làm cảnh. Tánh đầu tiên không phải Đế, tánh Vô vi, không phải là vô thường.
Sớ: Sáu vô thường.
Bốn là biệt ly vô thường, năm là đắc vô thường.
Còn lại như sớ dẫn.
Sớ: Tâm chỉ ở nơi danh.
Không phải sắc, bốn uẩn gọi chung là danh.
Sớ: Mười lăm thứ vô thường.
Xét luận kia ghi: Trong sáu thứ vô thường, năm vô thường sau đều gọi là biến dị. Biến dị không đồng có mười lăm loại:
1. Phần vị biến dị: Trẻ nhỏ v.v...
2. Hiển biến dị: Từ sắc đẹp biến thành xấu v.v...
3. Hình biến dị: Đói khát, mỏi mệt v.v...
4. Hưng thạnh biến dị
5. Thân phần biến dị
6. Lạnh nóng biến dị
7. Tha tổn biến dị
8. Mệt mỏi biến dị
9. Oai nghi biến dị
10. Xúc đối biến dị: Do khổ v.v... xúc.
11. Nhiễm ô biến dị
12. Bệnh v.v... biến dị
13. Tử biến dị
14. Xanh bầm v.v... biến dị
15. Tất cả chủng không hiện tận biến dị: Nghĩa là xương cốt tiêu mòn, hư hoại, ly tán, tất cả các thứ đều không thấy.
Luận: Một tập khí huân tập. Sớ có hai giải thích:
1. Do tâm năng chấp chấp nơi ngã pháp huân thành chủng tử, chủng tử tuy có tự thể, nhưng do vì Biến kế sở chấp ngã pháp, tâm năng chấp huân thành trong chủng tử. Chủng tử gọi là tánh đầu tiên, không phải là huân riêng chủng tử sở chấp. Hoặc năng Biến kế giả gọi sở chấp. Chủng tử sở huân từ tâm năng huân giả gọi tánh ban đầu.
Tâm năng chấp chấp tập khí kia là sở biến kế. Tập khí huân tập đây kia sở chấp sở y. Từ năng y kia giả gọi sở chấp.
Luận: Diệt Đế có ba.
Luận này và luận Trung Biên, các thuyết của An Tuệ và Hộ Pháp không đồng, như Nghĩa Đăng đã dẫn.
Sớ: "Nghĩa là duyên y tha" đến "tức là không cảnh".
Đây nói ba tánh đều đủ lý do của Không cảnh. Biến kế thể Không nên sớ không nói. Chỉ hiển Y tha và Viên thành thật là lý do của Không.
Sớ: Đều không đối với đây khởi nguyện.
Ba Không trước đều đứng về Biến kế. Đối với đây ba Không đều không nguyện nên gọi là đều chẳng nguyện.
Sớ: "Chẳng phải duyên Biến kế" đến "khởi nguyện cầu".
Biến kế sở chấp Chân như vô thể, vì thế không đối với sở chấp như trên mà khởi nguyện cầu. Nhưng quyển 72 căn cứ thật Chân như không gọi là không nguyện, cũng không trái nhau.
Sớ: "Như Không duyên ba tánh này" đến "là cảnh vô tướng".
Đây là nêu Không cảnh để thành vô tướng. Ba tánh là Không đều đứng về biến kế. Vô tướng cũng vậy. Do thể kia không có, vì sao có tướng của nó?
Sớ: Tướng thông ba loại.
Tướng trong năm sự. Nhưng ba thứ giải thoát có năng tri và sở tri. Tướng phần nhiều là sở tri, ít thông năng tri. Sở tri và năng tri đủ ba giải thoát.
Sớ: Tướng cũng nhiếp ba thứ cảnh.
Tướng cũng nhiếp sở tri ba thứ giải thoát kia, tức là cảnh.
Hỏi: Ý gì mà nói như vậy?
Đáp: Ý muốn nói Y tha và Viên thành thật cũng là ba giải thoát. Vì thế, trước dẫn văn sau mới thành lập. Kế đến sau sớ nói. Đã như vậy v.v... nghĩa là chánh thành lập.
Sớ: "Đã như vậy" đến "gọi là vô tướng".
Đây là lập lý. Trong năm sự, tướng thông Hữu lậu và Vô lậu. Lại nói tướng là ba cảnh giải thoát. Vô lậu không khác Y tha và Viên thành. Vì thế, biết Y tha và Viên thành đều gọi là ba cảnh.
Hỏi: Vô lậu Hữu vi vì sao gọi là vô tướng?
Đáp: Luận Hiển Dương quyển 2 ghi: Duyên trí vô tướng, Đạo tác đạo, như, hành, xuất hành, đây cũng là hành vô tướng.
Giải thích: Trí duyên vô tướng cũng gọi là vô tướng. Các giáo pháp khác nói không đồng, rộng như Nghĩa Đăng dẫn hợp giải thích.
Sớ: Khi chứng Viên thành thật hoặc khổ không khởi.
Có nghĩa giải thích rằng, khi chứng Viên thành thật không có Dị nhẫn. Vô sinh nhẫn nghĩa là ý hiện rõ chứng cảnh vô sinh kia nên gọi là Vô sinh nhẫn. Khi chứng Viên thành thật hoặc khổ không sinh, lẽ nào nương quán ư? Vì thế, nên nói quán Viên thành thật không có hoặc khổ. Không có hoặc khổ sinh nên gọi là Hoặc khổ Vô sinh nhẫn.
Biện rằng: Khi liễu tri chứng Viên thành thật kia hoặc khổ không khởi gọi là Vô sinh nhẫn. Không nói rằng đang lúc chứng Viên thành thật riêng khởi nhẫn này. Hoặc khổ không sinh cũng tức là cảnh. Vì thế sớ không trái. Có nghĩa đã nói lý cũng thông, tùy lý thù thắng đó.
Luận: Hai đắc Thắng nghĩa.
Đây gọi là Niết-bàn. Thể là thắng, quả lập dùng tên thắng, lại có thể thuận ích, lại là nghĩa lợi, vì thế cũng gọi là nghĩa, cũng thắng, cũng nghĩa, là Trì nghiệp thích, do hiển danh được Thắng nghĩa.
Những giải thích khác như trong Nghĩa Đăng.
Sớ: Ba tánh năm nghiệp.
Xét luận Hiển Dương quyển 6 ghi: Biến kế có năm nghiệp.
1. Năng sinh y tha khởi tự tánh: Do Biến kế sở chấp ngã pháp làm cảnh, tâm năng chấp huân thành chủng tử, lại sinh tợ như tướng ngã pháp kia, có chất không chất, kiến tướng đồng khác như lý có thể biết.
2. Tức trong này khởi các ngôn thuyết.
Giải thích: Do nó khởi năng thuyên ngã này v.v... các thứ ngôn thuyết.
3. Năng sinh chúng sinh chấp.
4. Năng sinh pháp chấp.
5. Có thể nhiếp thọ hai chấp tập khí thô trọng.
Giải thích: Do tướng phần của tâm sở chấp năng chấp huân tợ như chủng tử của ngã pháp v.v... Kiến phần lại huân thành chủng tử năng pháp. Chủng tử do nó khởi gọi là nhiếp tập khí, không phải nó vô thể có thể giữ tập khí gọi là nhiếp.
Y tha có năm nghiệp:
1. Năng sinh các thể tạp nhiễm.
2. Có thể làm sở y cho Biến kế sở chấp và Viên thành tự tánh.
3. Có thể làm sở y cho chúng sinh chấp.
4. Có thể làm sở y cho pháp chấp.
5. Có thể làm sở y cho hai chấp tập khí thô trọng.
Viên thành thật có năm nghiệp, nghĩa là có thể làm sở duyên cho hai thứ năm nghiệp, Biến kế năm nghiệp và y tha năm nghiệp đối trị sinh khởi. Lại nói, tùy nghĩa ba thứ tự tánh giải thích tất cả kinh bất liễu nghĩa. Trong vô lượng kinh, đức Như Lai, Bồ-tát ẩn mật ngôn ngữ, đều tùy ba thứ tự tánh có thể làm tất cả phương tiện Thanh văn, Duyên giác, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Sớ: Nhiếp Đại Thừa nói.
Xét Nhiếp luận của Vô Tánh và Bản luận nói đức Thế Tôn y theo mật ngữ gì? Trong kinh Phạm Vấn nói đức Như Lai không được sinh tử, không được Niết-bàn.
Giải thích: Theo kinh mà hỏi Đức Phật lìa các cõi có thể không có sinh tử, nhưng hiện chứng viên tịch vì sao không có Niết-bàn? Luận đối trong y tha khởi tự tánh. Y Biến kế sở chấp tự tánh và Viên thành thật tự tánh và sinh tử Niết-bàn không có mật ý sai khác.
Giải thích: Do y tha khởi, Biến kế, Viên thành làm sở y. Phật chứng y tha khởi sinh tử Niết-bàn không có hai riêng được, do y thể là một mà thông hai phần, thật lý mà nói sinh tử và Niết-bàn có khác, không khác, chỉ đứng về không khác nên nói là mật ý.
Luận: Vì sao như vậy?
Giải thích: Là vặn hỏi thăng trầm đã khác vì sao lại nói không khác. Luận cho là y tha khởi tự tánh này, do Biến kế sở chấp thành sinh tử. Viên thành thật thành viên tịch v.v... năng thành không lìa thể sở thành nên không sai khác.
Hỏi: Thể của Biến kế không, vì sao do đó mà thành sinh tử?
Đáp: Do Biến kế sở chấp, y tha tương tục sinh tử không dứt, do ngộ Viên thành thật đoạn các phiền não, cho nên chứng Niết-bàn.
Lại nói trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma nói Đức Phật thuyết pháp có ba phần: Một là phần tập nhiễm, hai là phần thanh tịnh, ba là cả hai phần đó. Y mật ý gì mà nói như vậy? Căn cứ trong kinh mà hỏi. Luận đối trong y tha khởi tự tánh. Biến kế sở chấp là phần tạp nhiễm, Viên thành thật hữu tánh là phần thanh tịnh, tức y tha khởi là hai phần kia. Y mật ý này nói lời như vậy. Dụ như kho vàng trong đất ở thế gian, ba pháp có thể được là địa giới, đất và vàng vàng. Trong địa giới, đất không có thật có mà hiện có thể được. Vàng là thật có mà không thể được, khi dùng lửa đốt luyện thì tướng đất không hiện mà tướng vàng hiện rõ. Thức cũng như vậy, trí vô phân biệt khi lửa chưa đốt, đối trong thức này có hư vọng Biến kế sở chấp tự tánh hiển hiện, Viên thành thật tự tánh không hiển hiện. Thức này nếu là trí vô phân biệt khi lửa này đã đốt, đối trong thức này chân thật Viên thành tự tánh hiển hiện, hư vọng Biến kế sở chấp tự tánh không thể hiện, vì thế cho nên thức hư vọng phân biệt y tha khởi tự tánh có hai phần kia, như tất cả địa giới trong kho vàng của đất.
Thích luận ghi: Địa dụ y tha, Đất dụ biến kế, vàng dụ Viên thành. Do quy thức tánh là y tha khởi, Biến kế và Viên thành là phần tánh này.
Lại nói Thế Tôn có chỗ nói tất cả pháp thường, có chỗ nói tất cả pháp vô thường, có chỗ nói tất cả pháp không thường, không vô thường. Y mật ý gì mà nói lời này? Đó là y tha khởi tự tánh, do Viên thành thật là thường, do Biến kế sở chấp tánh là vô thường, do hai phần kia không phải thường, không phải vô thường.
Thích luận ghi: Nghĩa là y tha khởi thể pháp tánh Chân như là thường trụ. Biến kế sở chấp tự tánh một phần thể là vô thường, không có sinh diệt nói là vô thường.
Sớ: "Thông đạt ba tánh" đến "vô tướng ư" Xét quyển 74 ghi:
Hỏi: Nếu cho rằng trí thế gian khi thông suốt, phải nói hành đối với tướng. Như Biến kế sở chấp tự tánh, Y tha và Viên thành cũng như vậy. Lại nếu quán hành nghĩa là khi như thật ngộ nhập Biến kế sở chấp tự tánh, thì phải nói tùy nhập tự tánh gì?
Đáp: Viên thành thật tự tánh.
Hỏi: Nếu quán hành ấy tùy nhập Viên thành thật tự tánh, thì phải nói trừ bỏ tự tánh nào?
Đáp: Y tha khởi tự tánh.
Lại nói, Biến kế sở chấp y chỉ ba sự là tướng, danh và phân biệt. Tánh y tha khởi tức nương Biến kế sở chấp, tự tánh chấp và tự đẳng lưu tánh, Viên thành thật không chỗ an trụ, không chỗ y chỉ.
Giải thích: Tự tánh chấp là tâm năng phân biệt, tức ở đây dẫn tâm và tâm sở Hữu lậu, và tự loại kia triển chuyển huân tập mà sinh. Lại nói, không có ba tánh thì nhiễm tịnh không thành. Như trong sớ đã dẫn đầy đủ.
Lại nói, Biến kế sở chấp phải nói rằng vi tế khó thấy khó hiểu. Tánh y tha khởi phải nói là thô nhưng cũng khó thấy rõ. Viên thành thật phải nói là cực vi tế, rất khó thấy, rất khó hiểu.
Giải thích: Tánh biến kế, trí thế gian không giác ngộ gọi là vi tế. Tánh y tha như tâm và tâm sở thường hiện tiền nên gọi là thô. Tánh Viên thành thật, tất cả dị sinh đều không rõ nên gọi là rất vi tế. Bậc Thánh Nhị thừa, dụ như chưa rõ nên gọi rất vi tế. Kiến là trước thấy, liễu tức sau hiểu.
Lại nói, một là vô thể năng chuyển hữu thể, hai là hữu thể chuyển thể của hữu vô, ba là hữu thể nhưng không thể chuyển.
Giải thích: Thể của Tánh Biến kế không. Là cảnh có thể khởi y tha chấp tâm gọi là chuyển hữu thể. Chuyển dụ như khởi, do tánh y tha có thể khởi y tha gọi là hữu chuyển hữu. Đây là sở chấp y gọi là chuyển đối với vô.
Hỏi: Vô pháp thể không có, vì sao được gọi là chuyển? Đáp: Đối với vọng tình kia, cho nên gọi là chuyển.
Lại nói, một là bất sinh năng sinh đối với sinh, hai là sinh năng sinh sinh và bất sinh, ba là phi sinh không thể sinh sinh và bất sinh.
Giải thích: Biến kế không có thể nên gọi là bất sinh, làm cảnh năng sinh tâm năng chấp v.v... gọi là năng sinh. Y tha có thể duyên khởi gọi là sinh.
Năng sinh y tha, gọi là sinh sinh. Tâm năng sinh chấp tâm không sinh kia gọi là sinh bất sinh.
Lại nói, Biến kế sở chấp tự tánh chấp hay không chấp, vì sao biết được? Đáp: Đây có hai trường hợp.
1. Giác ngộ chấp hoặc không chấp, như do ngôn thuyết giả lập danh tự. Biến kế các pháp quyết định tự tánh gọi là giác ngộ chấp. Nếu khéo rõ biết chỉ có danh nghĩa là biết chỉ có danh, không phải các pháp kia có tánh quyết định gọi là không chấp.
Giải thích: Hai chấp ngã và pháp hiện hành gọi là giác ngộ chấp. Các tâm Vô lậu, thiện, vô phú, Vô ký v.v... gọi là không chấp. Trong tâm không chấp đối với các danh có bất liễu và liễu, suy nghĩ có thể biết.
2. Tùy miên chấp gọi là không chấp. Nếu chưa trừ được tập khí tùy miên kia thì có chấp tùy miên. Nếu đoạn trừ rồi thì biết đây là không chấp.
Giải thích: Chủng gọi là tùy miên. Chưa đoạn và đã đoạn rồi gọi là chấp và không chấp. Luận nói Y tha khởi tự tánh chấp và không chấp vì sao biết được? Đáp: Như vì Biến kế sở chấp tự tánh giác ngộ chấp, lại Biến kế sở thành tự tánh gọi là chấp đầu tiên. Nếu khéo rõ biết chỉ có các tướng, không có Biến kế sở thành tự tánh gọi là không chấp.
Giải thích: Đây là giác ngộ chấp và không chấp hai thứ, sở thành tự tánh tức y tha khởi. Do hai chấp kia vọng chấp y tha cho là ngã và pháp, do Biến kế nhiễm sinh gọi là sở thành.
Luận: Đối với tướng ràng buộc vĩnh viễn chưa trừ.
Trong các tướng khi có sở đắc gọi là chấp lấy hai. Như đối với tướng ràng buộc đã hằng trừ, nghĩa là đối với cảnh giới vô tướng đã liễu tri. Đối với tướng vô đắc phải biết đây là không chấp.
Giải thích: Đây là hai chấp. Tùy miên chấp và không chấp, chủng tử ràng buộc nhau gọi là tướng ràng buộc.
Luận: Viên thành thật, tánh này không có chấp. Vì cõi này không phải là cõi an túc. Nếu ở cõi này chưa được xúc thể khởi được xúc thể tăng thượng mạn tức trên chấp Biến kế sở chấp và y tha khởi tự tánh.
Lại nói, Biến kế tự tánh vì sao biết?
Đáp: Ngay khi rõ biết chỉ có danh, chỉ có Biến kế sở chấp không tướng không tánh, không sinh, không diệt nhẫn đến như hư không. Y tha khởi tánh ngay khi rõ biết sở thuyên Hữu vi sự nhiếp. Viên thành thật tánh ngay khi rõ biết như tướng sai biệt đã nói ở trước, đó là pháp giới Chân như thật tế, các loại như vậy.
Lại nói, một là tự mình không nhiễm có thể khiến nó nhiễm, hai là chỉ tự nhiễm, ba là tự thanh tịnh khiến nó thanh tịnh. Khổ v.v... cũng như vậy.
Giải thích: Thể của tánh Biến kế không có, không gọi là nhiễm. Khiến hai chấp khởi gọi là nhiễm khác. Đứng về nhiễm y tha gọi là tự nhiễm. Do đối với tánh đầu tiên không căn cứ tự loại mà nhiễm nhau nên gọi là chỉ tự nhiễm. Hoặc pháp sở nhiễm tánh đồng không khác, gọi là chỉ tự nhiễm.
Lại nói, Biến kế sở chấp thí như hư không. Y tha khởi tánh như hại như oán. Viên thành thật tánh thí như kho báu lớn vô tận.
Giải thích: Nương y tha nhiễm nói là như oán v.v... Chân như là sở y của các công đức kia nên gọi là kho báu lớn.
Lại nói, Biến kế sở chấp do đâu mà Biến kế? Là do y tha tự tánh. Tánh y tha khởi do đâu mà y tha? Là do nhân duyên. Tánh Viên thành thật do đâu duyên thành? Là do không bị tất cả phiền não vì các khổ tạp nhiễm, lại do tánh thường.
Luận: Gọi là pháp giới.
Xét luận Đối Pháp có bảy tên gọi:
1. Chân như: Do tự tánh kia không biến đổi. Thích luận ghi: Trong tất cả thời thật tánh vô ngã, không biến chuyển nên gọi là không biến đổi. Không cải chuyển là nói không biến đổi, tức là nghĩa Như này.
2. Tánh vô ngã: Vì lìa hai ngã.
3. Tánh không: Vì không thực hành tất cả tạp nhiễm. Thích luận ghi: Do duyên này nên có thể khiến tất cả việc tạp nhiễm đều vắng lặng.
Giải thích: Do trí vô phân biệt chứng Chân như kia khiến phiền não kia đều vắng lặng. Nhưng nói không thực hành nhiễm pháp nghĩa là không bị nhiễm pháp sở duyên chấp trước gọi là không thực hành.
4. Vô tướng: Như sớ đã dẫn.
5. Thật tế: Không có sở duyên điên đảo. Thích luận ghi: Thật nghĩa là không điên đảo, chỗ này rốt ráo nên gọi là tế. Quả vô ngại tánh lại không có sở cầu.
Giải thích: Do trong sở duyên được rốt ráo nên gọi là tế. Tế là cùng tột. Tỏ ngộ nó rồi lại không có pháp nào hơn nó để duyên cầu nên gọi thật tế. còn lại như trong sớ dẫn.
Luận: "Phải đầy đủ Đại thừa" đến "ngộ nhập Duy thức".
Hỏi: Bản tánh không có tập, tánh tập chẳng phải bản vì sao đủ hai mới tỏ ngộ Duy thức?
Đáp: Có nghĩa y đời trước và sau nói đủ hai thứ, không phải đồng thời có đủ. Lại tánh tập lập không phải là không có bản tánh, tức một chủng tử được hai tên, vì bản chủng và huân tập có sai khác. Nếu y đây giải thích thì khi chưa phát tâm trở về trước gọi là Bản tánh trụ, khi đã phát tâm rồi cho đến khi thành Đẳng giác thì được hai tên. Giải thích này đều thù thắng.
Biện rằng: Giải thích trước thích hơi thông, lý vẫn chưa hiển, giải thích sau giáo lý đều không khế hợp. Một là vị tạp loạn, hai là kinh Nhân Vương, Anh Lạc, luận Du-già, Nhiếp luận đều nói cả hai vô số tánh ở trước Kiến đạo, phán phân chung đều được, lẽ nào không trái giáo? Lại luận này ghi: Bản nhân vô thỉ gọi là Bản tánh trụ. Nghe huân tập rồi sắp về sau mới gọi tánh tập tuy một chủng tử mà chưa từng tăng khác. Tăng vị không thể được lại tên của bản. Giải thích sau vặn hỏi về y, nay xem ý của luận ắt có hai tánh sau mới có thể ngộ. Nói "đủ" giống như nói "có", chứ không phải đồng thời gọi là đủ.
Sớ: Dụng và dụng đủ.
Tư và tu hai tuệ này là năng nhập đủ. Đủ này có thể hiện tợ pháp, tợ nghĩa. và có thể nhập công năng nghĩa của pháp sở tri, vì thế gọi là dụng. Đủ này và dụng ắt đợi năng chấp. Nói đủ kia giả, nghĩa là đủ mới có dụng. Do đây trước nói tư và tu đủ có rồi, nên nay hỏi tác giả năng chấp.
Sớ: Hai vị đầu này dùng đạo làm vị tức thể phần xuất.
Do trong năm đạo, hai đạo đầu nêu tên hai vị, đầy đủ Hữu lậu đạo. Trong Hữu lậu đạo tán và định thể khác nhau, phân làm hai. Phân là biệt vậy.
Sớ: Ba vi sau dùng phần làm vị.
Không dùng năm đạo mà bày tên vị, chỉ dùng tu v.v... ít phần nhiều phần, toàn phần không đồng, phân làm ba vị, thể bày đủ Vô lậu và Vô vi nhiếp, nên gọi là thông thể.
Sớ: Đối với hiện hành kia.
Nói các pháp thiện trước thừa nhận trong thân Bồ-tát được hiện hành.
Sớ: Cũng có hiển hiện do tánh nhân hiền.
Hiển rõ hiện hành trước chỉ so nhân hiền mà khởi, hoặc yếu hoặc mạnh riêng biệt mà phân hiện hành và hiển hiện cả hai.
Sớ: Tánh không thể khởi phiền não.
Hỏi: Kinh Lăng-già ghi: Đốt cháy tất cả căn lành, Xiển-đề thừa nhận thành Phật. Trong kinh Niết-bàn nghĩa kia cũng vậy, lẽ nào sau khi thành Phật trước không có chủng tánh? Chủng tánh đã có vì sao nói đoạn căn lành? Kinh và luận vì sao trái nhau?
Đáp: Luận căn cứ nhiều phần, còn kinh thì y lý cũng tận. Điều này nên tư duy.
Sớ: Chưa được, chưa tịnh.
Chưa phát tâm cầu, chưa đến vị kia gọi là chưa phát khởi và chưa được. Lại chưa vì các địa sau tu các chánh hành gọi là chưa thanh tịnh.
Sớ: Việc làm lâu xa và nói lâu xa nên có chỗ quên mất.
Nghĩa là việc làm và nói pháp nói kinh thời gian lâu xa nên quên không nhớ.
Sớ: Tại gia, xuất gia hai bậc Bồ-tát.
Trong hai bậc Bồ-tát hành này không thể đều tu đầy đủ hạnh kia gọi là không hiển hiện.
Sớ: "Ở đây nói" đến dần dần khinh vi".
Ở trước đã nói tướng mạo của lỗi, đến khi hạ nhẫn có lỗi thượng phẩm, khi trung thượng nhẫn có lỗi trung hạ phẩm.
Hỏi: Ba nhẫn vị thế nào?
Đáp: Có hai vị: một là như thứ lớp trong ba mươi tâm, hai là trong luận đã nói về nhẫn. Trong bốn thiện căn nhẫn có ba phẩm. Ngôi vị của ba nhẫn thì lỗi cũng thành ba phẩm. Nhưng ba mươi tâm đồng hạ nhẫn, Thế đệ nhất nhanh chóng nên không luận, hoặc đồng thượng nhẫn.
Sớ: Có năm Bổ-đặc-già-la.
Vô Tánh giải thích: Nên biết chỉ có một Bổđặc-già-la, vị sai khác nên kiến lập năm loại, như Dự lưu v.v..., văn còn lại như trong sớ giải thích.
Nhưng có chỗ giải thích rằng: Từ sơ phương tiện đến sơ Địa là thứ nhất. Từ Địa thứ hai đến địa thứ tư là thứ hai. Từ địa thứ năm đến địa thứ sáu là thứ ba. Địa thứ bảy là thứ tư. Địa thứ tám đến địa thứ mười là thứ năm. Sơ Địa tức thuộc về sơ kiếp.
Biện rằng: Luận đã nói rõ, nghĩa là thắng giải hành Bổ-đặc-già-la trải qua đại kiếp đầu tiên. Sơ địa lẽ nào là Giải hạnh địa? Lại kiếp thứ hai phân làm ba, nhân lại không có lý do. Nay giải thích riêng rằng: Hai kiếp trước sau là người trước và sau. Bắt đầu từ sơ Địa đến địa thứ bảy là kiếp thứ hai phân làm ba người. Ba Địa đầu đồng với người đời tu. Địa thứ tư, năm, sáu đồng Nhị thừa kia. Địa thứ bảy y Đại thừa. Ba loại không đồng phân làm ba người, vì thế hợp thành năm. Địa thứ tám trở lên đều thuần vô tướng, vì thế hợp làm một. Nói Dự lưu là nêu thí dụ để nói rõ. Xét Nhiếp luận đời Lương ghi: Như ba quả và ba vị trước cũng được thành lập năm nhân. Từ sơ hướng đến Tu-đà-hoàn là thứ nhất, tại gia xuất gia là thứ hai, Tư-đà-hàm là thứ ba, một chủng tử là thứ tư, A-na-hàm là thứ năm.
Hỏi: Trong thí dụ đã dùng phương tiện sơ quả hợp thành một, trong pháp vì sao không nói Sơ địa phương tiện hợp thành một?
Đáp: Trong thí dụ là y theo phần ít, chẳng phải tất cả đồng, vì thế không nên trách, tức quả thứ hai trước sau, đều tự cho là ba loại. Trong kiếp thứ hai, ba vị không đồng, ít giống với kia.
Hỏi: Nếu kiếp thứ hai khai làm ba, vì sao Vô Tánh nói như vậy hai thứ Bổ-đặc-già-la trải qua hai kiếp tu hành viên mãn?
Đáp: Trong kiếp thứ hai, sáu vị trước là hữu tướng, vị thứ bảy là vô tướng. Vả lại hữu tướng và vô tướng đối nhau gọi là hai. Trong phần hữu tướng lược không nói, chỉ nêu bày sơ lược mà thôi. Sớ: Ở trong mộng nghĩa là nhiều năm.
Xét Nhiếp luận của Vô Tánh có bài tụng rằng: "Ở mộng là nhiều năm, thức dậy trong khoảnh khắc, thời gian tuy vô lượng, nhiếp trong một sátna".
Lại trong Tây vức truyện chép: Có ẩn sĩ, kết am giấu mình, rộng học kỹ nghệ, cùng tột thần lý, có thể khiến cho ngói đá thành vật báu, người và súc vật khác hình, nhưng chưa có thể cỡi mây gió đi theo xa giá của tiên nhân, bèn xem đồ thư, tìm sách cổ để cầu thuật của tiên. Trong phương thuật ấy nói thần tiên tức là thuật trường sinh, trước khi muốn cầu học, phải định được trí. Ông kiến lập đàn tràng, bảo một liệt sĩ cầm dao dài đứng ở một góc đàn, nín thở im lặng. Người cầu tiên ngồi trong đàn tràng, tay đè kiếm dài, miệng tụng chú, thâu cái nhìn, quay cái nghe để thông đạt lên tiên. Người này đã được tiên phương, bèn hỏi thăm tìm liệt sĩ. Ông tìm khắp nhiều năm vẫn chưa thỏa tâm nguyện, sau được liệt sĩ. Người liệt sĩ này trước đây từng giúp sức cho người, trải qua năm năm, sai trái một ngày liền bị đánh mắng, lại bản thân chẳng được gì nên lang thang buồn khóc. Ẩn sĩ thấy thế chu cấp trọng hậu, hạ mình kính phục. Liệt sĩ nhiều lần xin mệnh lệnh để đáp đền ân tri ngộ, ẩn sĩ nói:
- Ta tìm Liệt sĩ trải qua nhiều năm, may mắn được gặp một người dung mạo khác thường, ứng với đồ thư, ngoài ông ra thì chẳng còn ai khác nữa! Ta chỉ xin ông đừng lên tiếng trong một đêm mà thôi!
Liệt sĩ đáp:
- Tôi chết còn không từ chối, huống gì chỉ là nín thở im lặng!
Lúc bấy giờ, ẩn sĩ lập đàn tràng lãnh thọ pháp tiên. Y phương pháp mà hành sự, ngồi đợi đêm xuống. Sau khi ánh mặt trời lặn, ai nấy lo việc của mình. Ẩn sĩ tụng thần chú, liệt sĩ cầm dao nhọn. Trời sắp sáng, liệt sĩ bỗng phát một tiếng kêu lớn, lúc bấy giờ lửa trên hư không rơi xuống, khói mây mù mịt. Ẩn sĩ vội dẫn người này xuống ao tránh nạn, rồi hỏi:
- Ta dặn ông không được phát ra tiếng vì sao lại có tiếng kêu kinh hoàng đó?
Liệt sĩ đáp:
- Sau khi vâng lời dặn của ông, đến khoảng nửa đêm thì tôi mơ hồ như trong mộng, biến sự lại nổi lên. Thấy khi xưa, ông chủ đích thân đến an ủi cảm tạ, tôi cảm kích ân sâu dày kia, nhưng vẫn nhẫn chịu không mở lời báo đáp. Người kia nổi giận nên tôi liền bị giết. Lại thấy mình thọ thân trung ấm, nên tự thương tiếc, nhưng vẫn nguyện trải qua nhiều đời không nói, do vì báo đáp ân đức sâu dày. Tôi lại thấy mình thác sinh vào nhà đại Bà-la-môn ở Nam Ấn, nhẫn đến thọ thai, xuất thai, tu hành trải qua khổ ách, mang ân mang đức, nhẫn chịu không nói. Đến khi đi học, lớn lên cưới vợ, song thân đều mất, vì thường nhớ ân trước, nên tôi nhẫn chịu vẫn không nói năng. Tông thân quyến thuộc đều lấy làm lạ. Năm sáu mươi tuổi tôi mới có được đứa con trai, vợ tôi hỏi: "Ông có thể nói chăng? Nếu không nói thì tôi sẽ giết con của ông". Lúc đó tôi nghĩ, mình sắp lìa đời, lại tuổi già nua mà chỉ có một đứa con trai, do vì muốn cấm người vợ không được giết hại con, nên tôi mới la lớn như vậy.
Ẩn sĩ nói:
- Đây là lỗi của ta. Đây là do ma nhiễu loạn mà thôi!
Liệt sĩ cảm ân kia, buồn cho việc không thành, ôm hận mà chết.
Sớ: Chỗ làm nhỏ hẹp.
Chí ưa thích không rộng, việc làm không lớn, lại không phải một hành có thể tu tất cả, gọi là nhỏ hẹp. Dù tu gián đoạn gọi là có thiếu. Các hành sở tu có thể bền vững, ý chí có lúc khởi, có lúc không khởi. Hoặc tùy lục độ mà tu, đối với đây kia không khuôn phép, gọi chung là bất định. Tùy chỗ tu thiện, hoặc lúc thối xả gọi là sở đắc thối.
Luận: Tư lương vị.
Trong vị có pháp tư lương này nên gọi là tư lương vị, tức Hữu tài thích.
Luận: Cũng gọi luận giải thoát phần.
Sớ có hai giải thích: Có nghĩa gạn hỏi giải thích thứ hai kia rằng:
Lý này không đúng, lẽ nào cho là hữu tình cầu thắng giải? Cho nên giải thích trước là chính.
Biện rằng: Sớ tuy không xác quyết, nay dùng lý chuẩn theo giải thích trước là chính, giải thích sau cũng không trái. Các giáo đều nói Vô lậu thắng giải gọi là giải thoát. Tự mình chưa giải thoát thì đâu thể giải thoát cho người, nghĩa là vì hữu tình cầu có lỗi gì?
Sớ: Thứ bảy quán nghiệp, Thức thứ tám quán quả.
Xét phẩm Thập Trụ trong quyển 8 ghi: Bồ-tát này từ trong chánh giáo tất cả Thánh pháp sinh tu mười pháp. Đó là:
1. Tin Phật không hoại
2. Cứu cánh đối với pháp
3. Tịch nhiên định ý
4. Phân biệt chúng sinh
5. Phân biệt cõi Phật
6. Phân biệt thế giới
7. Phân biệt các nghiệp
8. Phân biệt quả báo
9. Phân biệt sinh tử
10. Phân biệt Niết-bàn.
Luận: "Cho nên đối với hai thủ"đến "hai thủ hiện hành". Kinh và luận trái nhau, sớ có bốn giải thích:
1. Sớ ghi: "Nó y phục nhân" đến "câu sinh phiền não"
2. Lại nói, công lực nói Phật pháp v.v
3. Do tự phân biệt v.v... trở xuống
4. Lại chỉ nói chung v.v... trở xuống
Xác quyết như trong Nghĩa Đăng đã biện rõ.
Luận: Sở tri chướng này không cùng Dị thục thức đồng thời.
Ba nhân trong này đồng với luận Phật Địa. Luận kia ghi: Tất cả Dị thục thức tâm phẩm Vô ký vì sức phân biệt kém không thể chấp. Như có chấp điên đảo thành chấp ngã chấp pháp, chấp kiến có vô minh v.v... không chỉ cùng năm pháp tương ưng, vì có kiến. Lại pháp Không quán khi mới hiện tiền, thức này lẽ ra đoạn, chướng trị trái nhau và không câu hành.
Giải thích: Phật Địa ban đầu do thông tất cả tâm Dị thục, không phải chỉ có Thức thứ tám, hoặc đây cũng tổng nói Dị thục khác.
Sớ: "Lại sau Dị thục tâm" đến "không thể làm thí dụ".
Đây lập lời ngăn. Giả sử họ ví dụ rằng: Nếu các thức như nhãn v.v... là tâm Dị thục, không có pháp chấp, pháp không trí đầy đủ. Trong bốn Vô ký, Dị thục vô ký, tất cả lẽ ra cùng pháp không trí đồng thời, đều không có pháp chấp như Thức thứ tám v.v... vì thế nay ý Dị thục gọi đồng. Chấp và không chấp khác nhau, không thể làm thí dụ.
Sớ: "Thức thứ bảy" đến "mười ba pháp" Chỉ nói chướng, cho nên chỉ có mười ba. Luận: Phiền não chướng là sở y.
Xét trong kinh Thắng Man nói sở tri chướng là sở y của phiền não. Lại có pháp dụ là hợp thành ba đoạn. Như trong sớ đã dẫn. Ý chỉ sâu ẩn nên vặn hỏi để lược giải thích.
Kinh: Đối với đây khởi phiền não v.v...
Giải thích: Đối với vô minh địa này phiền não sở khởi hiện hành trong khoảng sát-na, ắt cùng với vô minh từng sát-na sát-na tương ưng mà khởi.
Kinh: Thế Tôn nói tâm bất tương ưng, vô minh vô thỉ trụ địa.
Giải thích: Vô minh địa chủng gọi là bất tương ưng, ý nói vô minh đồng với phiền não thông chủng hiện. Hoặc nói tương ưng là nghĩa chung cùng. Bốn trụ phiền não ba Thừa đều đoạn gọi là tương ưng, vô minh trụ địa riêng chỉ có Đức Phật trừ được gọi là bất tương ưng.
Kinh ghi: Trải qua hằng sa.
Giải thích: Hiểu rõ y theo vô minh phiền não không cùng cực gọi là trải qua hằng sa. Văn khác dễ hiểu.
Luận: Thể tuy không khác mà dụng có khác.
Dụng khác có hai: một là hiện hành dụng khác, hai là chủng tử dụng khác, vì có chướng dụng Bồđề, Niết-bàn. Giải thích trước là chính, giải thích sau lý cũng thông.
Luận: Vì thế hai Tùy miên đoạn có trước sau.
Hỏi: Đoạn đã có trước sau, vì sao gọi thể là một? Tam thừa đoạn hoặc, thì sở tri lẽ ra đoạn do vì thể có một. Lại trong Thập Địa nói đoạn là sở tri chướng và phiền não chướng đoạn, vì một là do thể đồng, hai là Khế kinh nói khi như đất bị hư hoại thì hạt giống cũng theo đó mà hoại?
Đáp: Có nghĩa nói chủng thể tuy có một, nhưng có thô và tế, vì cùng hòa hợp. Như vàng sắt đồng trong một vật, nhưng tinh thô khác nhau. Bậc Thánh sinh không, đạo lực không bằng Bồ-tát phương tiện, vì thế còn lại không đoạn hết. Kinh y theo kiến đạo, cứu cánh đạo mà nói cho nên không trái nhau.
Biện rằng: Đã do thô và tế hòa hợp mà thành thì chủng thể lẽ ra là giả, như bình, y phục v.v... giả chẳng phải nhân duyên vì sao được sinh hiện? Vì thế nay giải thích rằng: Dụng đã có sai khác, đoạn sở y thể một phần dụng kia vì công sức Thánh đạo có phần hạn, vì thế luận Phật Địa ghi: Trong phiền não chướng có sở tri chướng, vì đây là sở y. Nhất định chấp có pháp thì có chấp ngã, thể tuy không khác mà dụng có khác. Như một thể của thức lấy cảnh nhiều dụng. Đây là huân chủng tử, thể cũng nhiều dụng, khi khởi tuy chung nhưng thứ lớp đoạn, vì thế lực của Thánh đạo có phần hạn. Còn lại nghĩa đồng như trước.
Luận: "Như sở tri chướng" đến "vô minh trụ địa".
Đây là dùng kinh để vặn hỏi. Kinh như sớ đã dẫn, đây vặn hỏi để lược giải thích. Nói trụ và khởi hai phiền não, trụ nghĩa là chủng tử, khởi là hiện hành. Hoặc sở y sinh xứ gọi là trụ địa. Khởi là hiện hoặc, vì đang sinh khởi. Kiến hoặc trong ba cõi nhưng do kiến thù thắng, vì kiến đạo đoạn, hợp nói là kiến một xứ. Ba cõi đều sinh hoặc tu đạo, nhuận sinh ái thù thắng, riêng phân ba loại, không chỉ ba cõi đều sinh ái. Nói Vô minh trụ địa, các sở tri chướng đều có thể chướng trí, vô minh riêng tăng, gọi chung là vô minh. Nói trên tất cả phiền não, Hoặc của bốn trụ địa trước hiện chủng đều nương trên vô minh địa nên gọi là trên phiền não.
Sớ: Gọi chung là vô minh vì không có phẩm số. Có nghĩa giải thích, nghĩa này không đúng. Thể đồng phiền não, tức như phiền não vì phẩm số riêng, chỉ nên nói là vì hành vi tế. Không nhiễm nghĩa đồng, hợp làm một trụ.
Biện rằng: Không đồng phiền não, địa địa chín phẩm phân làm thô tế để đoạn trước và sau. Nói không có phẩm số, không nói là không có ái, khuể v.v... các thứ gọi là không có phẩm, vì thế sớ không trái. Hoặc nói bất nhiễm nghĩa đồng hợp làm một, lẽ nào trong kinh kia chỉ đối với hàng Nhị thừa biện về năm trụ địa? Nếu gồm hàng Bồ-tát vì sao có nhiễm? Đối hàng Bồ-tát là lẽ ra nhiễm phần, như phiền não chướng đã không riêng khai, vì thế biết không đứng về bất nhiễm mà hợp.
Luận: "Hằng đoạn hai chướng" đến "thông Hữu lậu đạo".
Có nghĩa gạn hỏi sớ giải thích: Nếu như vậy thì khi hàng Nhị thừa phục phiền não đồng thể, sở tri chướng lẽ ra đều không khởi. Lại đoạn phiền não chướng thì sở tri chướng lẽ ra cũng đoạn, chủng tử của sở tri chướng không chướng ngại trí kia, vì đạo lực kém nên hàng Nhị thừa không đoạn. Hiện hành cũng như vậy, không phải phục được. Nay nói phục cả hai là y theo hàng Bồ-tát nói, khi dùng pháp Không quán phục phiền não, đồng thể sở tri chướng cũng liền có thể phục. Như khi dùng Sinh không quán phục phiền não, cũng không thể phục, vì chẳng phải trị đạo, do đạo lý này hướng đến sở tri chướng. Sinh không Vô lậu không bằng Pháp không Hữu lậu đạo.
Biện rằng: Sớ không nói hàng Nhị thừa phục hoặc, cũng không nói sinh không trí, vì sao được nói hàng Nhị thừa không đoạn thể của sở tri chướng mà vặn hỏi? Làm sao biết sớ chủ không y theo Pháp không trí phục hoặc mà nói? Nay y hàng Bồ-tát mà nói ư? Sớ lý thật thông, không thể hạn cuộc nơi tình, tự lấy mình để phá người.
Sớ: Hằng đoạn tập khí.
Xét luận kia ghi: Hằng đoạn tập khí, chẳng phải căn sở nhiếp, nhưng sáu căn này sở chứng phiền não hằng đoạn sở nhiếp.
Giải thích: Hằng đoạn tập khí trạch diệt Vô vi. Do đoạn được tập khí cho nên được tên tập khí. Tín v.v... năm căn và Cụ tri căn sáu sở chứng. Sớ: Sáu thứ thiện xảo.
Ba khoa, duyên khởi, và xứ phi xứ, bốn Đế là sáu.
Sớ: Nghĩa là trí có sáu loại.
Văn này lược, nói đủ phải là phước và trí có sáu, tức lục độ nói ở trước. Phước và trí hợp nói là sáu. Vì thế quyển 36 tổng kết trước nói rằng, phước và trí như vậy lược có sáu loại. Mỗi mỗi phân biệt lẽ ra có vô lượng.
Luận: Ba sự mài giũa.
Ba thứ đại ý như sớ đã nói. Chuẩn theo Nhiếp Đại Thừa lại trừ bốn chướng duyên nơi pháp nghĩa, vì thế Vô Tánh luận quyển 6 nói, trừ bốn chướng ấy.
Một là do lìa tác ý của Thanh văn, Độc giác, vì đoạn tác ý,
Giải thích: Do nghĩa là nhân vì. Do lìa chướng tác ý, năng nhập tướng sở tri. Ba chướng còn lại chuẩn theo đây. Hiển lý do lìa tác ý chướng gọi là đoạn tác ý. Đoạn nghĩa là phục đoạn, chướng khác cũng đồng. Hiển hàng sơ Bồ-tát thấy sinh tử là khổ, Niết-bàn là vui, muốn bỏ sinh tử ưa đến Niết-bàn, gọi là tác ý của Nhị thừa, chướng đại Bồ-đề, vì thế cần phải đoạn trước. Do quán sinh tử và Niết-bàn đều không có tánh tướng và tu đại bi, đoạn chấp tác ý sinh tử Tiểu thừa. Tác ý tức là chướng. Hoặc hai hàng Vô học chấp thừa của mình là cùng tột mà không chịu hướng đến Đại thừa. Hoặc hai hàng Hữu học chấp hướng đến hai quả, không ưa Đại thừa. Hoặc trước kiến đạo, Nhị thừa phàm phu ưa cầu hai quả. Đây đều gọi là tác ý của Nhị thừa.
Biện rằng: Bốn trường hợp lý đều thông. Hai giải thích trước là chính.
Hai là luận ghi: Do đối hàng Đại thừa, các nghi đã được lìa, do có thể hằng đoạn nghi dị tuệ.
Giải thích: Tuy lìa ý Nhị thừa, nhưng đối với các pháp môn của Đại thừa trước khởi nghi hoặc, sau chấp là một, liền sai bác bỏ các lỗi khác, năng phát tà tuệ và chánh tuệ sai khác, cho nên gọi là Dị tuệ. Thể tức pháp chấp, thuộc về tà kiến. Vì thế Thế Thân nói: Trong đây Dị tuệ gọi là tuệ thô xấu, đối với lý lay động khởi ba tánh quán. Dị tuệ và nghi hằng không chuyển lại, gọi là đoạn nghi tuệ. Nghi tuệ tức là chướng.
Hỏi: Đoạn nghi là nói từ pháp nào?
Đáp: Có bốn giải thích.
1. Có thể đoạn nghi kia gọi là lìa nghi.
2. Các nghi tức hàng Nhị thừa, lìa nghi tức tiệm đốn Bồ-tát.
3. Bất định: Các tiểu Bồ-tát tuy trước đã phát tâm, nhưng đối với Đại thừa khởi tưởng cao xa, thường thường thối lui, bèn khởi tâm nghi. Được không được gọi là các nghi, muốn thành tựu Nhị thừa, tâm sinh quyết định, gọi là lìa nghi.
4. Các Tiểu Bồ-tát trước đối với Phật ba tạng hiển mật v.v... vô số không đồng mà Phật nói sinh tâm nghi hoặc gọi là các nghi. Sau chấp làm một là chê trách kia là sai, tự quyết định gọi là lìa nghi. Căn cứ thật chưa ngộ y theo vọng giải thích, gọi là lìa nghi.
Biện rằng: Giải thích ban đầu là chánh, vì thế bản luận: ghi Vì sao có thể nhập tướng sở ứng tri? Họ đáp chung rằng: Do đoạn bốn thứ chướng v.v... nên có thể nhập. Trong phần giải thích riêng ở sau, bốn thứ đều nói hai thứ năng trị và sở trị. Nếu lìa nghi mà nói không gọi là năng trị, loại thứ hai làm sao được làm năng trị? Nếu nói không nói, vì sao chỗ khác thì có còn riêng ở đây thì không? Vì thế lìa nghi mà nói là hiển rõ có thể lìa. Nếu như vậy vì sao giải thích thứ nhất, thứ ba trước nói lìa? Giải thích thứ hai có thể lìa rồi sau mới nói ư?
Đáp: A-tỳ-đạt-ma tánh tướng mà cầu tìm liền thấy rõ, vì sao trách trước sau! Giải thích thứ tư cũng nói không phân biệt, lẽ nào không phân biệt cũng là chướng ư? Nhưng giải thích thứ tư lý cũng thông Tiểu thừa, đã không phải là ý của luận, nên cũng không lấy.
Ba là luận ghi: Do lìa ngã và ngã sở chấp, đoạn pháp chấp trong pháp đã nghe, đã tư duy.
Giải thích: Tuy lìa các nghi nhưng tùy theo chỗ đã nghe hoặc giáo lý v.v... đều chấp có tánh, liền chướng ngại Duy thức pháp trí không quán. Vì thế đoạn pháp mới gọi là chân quán.
Bốn là luận ghi: Do hiện tiền trụ an lập trong tất cả tướng không có sở tác ý, sở phân biệt vì đoạn phân biệt".
Giải thích: Đối với trong tướng an lập hiện tiền này mà không tác ý và lìa phân biệt. Nói đoạn phân biệt nhưng thông tất cả pháp phân biệt. Nếu tùy theo phân biệt mà nói là nhẫn một vị trí năng quán. Đây tức là thắng chướng. Khi nhập sơ Địa dứt diệt gọi là đoạn.
Hỏi: Vì sao lại cần phải đoạn vị nhẫn quán trí phân biệt này?
Đáp: Nhẫn này tuy lìa năng phân biệt và sở phân biệt nhưng tự có phân biệt vi tế kia chướng ngại trí vô phân biệt sơ trụ, vì thế cần phải diệt.
Hỏi: Thế nào gọi là xứ?
Đáp: Xứ nghĩa là xứ sở, tức bốn thứ sở chướng. Do bốn chướng này làm chướng ngại bốn quán hành. Tùy theo chỗ chướng kia nên có tên chướng. Chướng của bốn xứ là Y chủ thích. Hoặc bốn chướng này là chỗ trụ của tâm phân biệt. Chướng tức là xứ, là Trì nghiệp thích.
Ý ở đây cho rằng, hai chướng trước đều nhàm chán hành Tiểu thừa ham thích hành Đại thừa. Hai tướng sau là xả vọng chứng chân, vì thế gọi là chướng. Nếu có thể đoạn trí tức quán vô tướng và ba tánh, do chứng pháp không, chứng không năng sở, đoạn tâm phân biệt. Như bốn trí đoạn bốn chướng kia.
Hỏi: Ở địa vị nào đoạn bốn chướng?
Đáp: Vị Thập tín đoạn chướng đầu tiên, do lìa tâm Tiểu thừa, bắt đầu nhập vị Đại thừa Thập tín. Vị Thập giải đoạn chướng thứ hai, do đối với pháp Đại thừa lìa các nghi hoặc mà được chánh giải tu hành Bồ-tát. Vị Thập hồi hướng cho đến vị Nhẫn đoạn chướng thứ ba, do vì quán Biến kế trừ sở chấp. Vị Thế đệ nhất đoạn chướng tứ tư, do thứ nhất phân biệt quán trí Gia hạnh dứt diệt, được thành Sơ địa tối thượng giác. Nếu căn cứ tương vi chánh diệt mà nói thì đoạn phân biệt chướng tức ở vị sơ Địa, thành tựu lìa chướng phân biệt thứ tư này.
Luận dẫn tụng rằng: "Hiện tiền tự nhiên trụ, an lập tất cả tướng, trí đó không phân biệt, được tối thượng Bồ-đề".
Giải thích: Nói hiện tiền nghĩa là nói chung định và tán hai cảnh, tâm ngay lúc đó gọi là hiện tiền. Tự nhiên trụ là riêng hiển cảnh tán. An lập là nói riêng cảnh định. Tất cả tướng là hiển tướng hai cảnh. Trí đó không phân biệt nghĩa là lìa tâm năng thủ. Được tối thượng Bồ-đề là lìa chướng được quả tức Sơ địa gọi là tối thượng Bồ-đề. Hình ở Địa tiền nên gọi tối thượng. Nói duyên pháp nghĩa, pháp là văn, danh, cú năng thuyên; nghĩa tức là sở thuyên. Vì thế luận Vô Tánh ghi: Tợ văn, tợ nghĩa.
Giải thích: Dường như tướng bên ngoài chuyển mà thật ra chỉ ở bên trong, có giống như không, trong giống như ngoài.
Luận: "Noãn v.v... bốn pháp" đến "vị trước sau lập".
Tầm tư và thật trí hai thứ này là thể Gia hạnh. Xét Nhiếp luận của Vô Tánh quyển 6 ghi: Khi Gia hạnh tuy cầu hành kiến, giả có thật không, phương tiện nhân tướng gọi là tầm tư.
Giải thích: Đứng về ngôi vị để nói hành tướng tầm tư. Suy cầu hành kiến tức trí năng quán. Hành tướng kiến giải gọi là hành kiến. Suy cầu danh nghĩa thấy trên thức giả ngoài tâm thật không có, tức tầm tư này là vị gia hạnh ban đầu tu nhân tướng. Lại nói, rõ biết giả có thật không, sở đắc quyết định hành trí phương tiện quả tướng gọi là Như thật trí.
Giải thích: Quyết định rõ biết danh nghĩa v.v... giả gọi như thật trí, tức vị phương tiện trọn thành gọi là quả.
Sớ: Nay ở trong trụ này rất thanh tịnh.
Xét luận kia ghi: Trong vô tướng trụ, bốn thứ tai hoạn nay đều trừ đoạn.
1. Trong vô tướng có Gia hạnh, có sự công dụng.
2. Đối với thanh tịnh trụ ở trước tinh cần ngưỡng mộ.
3. Trong tất cả việc lợi ích cho hữu tình, có sức kham lãnh, siêng năng ngưỡng mộ.
4. Có tưởng vi tế hiện trong hành trước. Vì thế trụ này gọi là rất thanh tịnh.
Giải thích: Trong Địa thứ bảy còn có pháp chấp, ý trước chấp thanh tịnh kia v.v... siêng năng ngưỡng mộ v.v... vì thế vô sinh nhẫn gọi đó là tạp. Sớ: Chẳng phải tầm tư cùng với tầm tương ưng. Chẳng phải bốn thứ tầm tư cùng với tầm trong bất định tương ưng, cho nên được tên tầm. Nếu tầm tương ưng mới được gọi tầm tư. Tầm tư không tương ưng Đệ tứ thiền. Trong Đệ tứ thiền không có pháp thể của tầm trong Bất định.
Sớ: Tám thứ tà. Như trước đã dẫn.
Sớ: Y danh nêu bày việc bên ngoài. Danh sở thuyên nêu bày việc ngoài thức.
Luận: "Y ấn thuận định" đến "gọi là Thuận lạc nhẫn".
Sớ có hai giải thích. Có nghĩa gạn hỏi giải thích sau rằng: Nếu ấn năng thủ không tùy theo quán sát thuận, thông nhẫn trên, lẽ ra ấn sở thủ không có, cũng thuận quán thuận kia thông nhẫn dưới, vì lý đều đồng. Nhẫn dưới do ấn đã không gọi là thuận, nhẫn trên cũng ấn, vì sao có tên thuận? Vì thế nay giải thích thuận chỉ ở trung nhẫn. Nhẫn trên như ở sau chỉ gọi là Ấn nhẫn.
Biện rằng: Căn cứ theo văn, hiển bày sơ lược, có nghĩa thù thắng, sau tổng nhiếp nghĩa, giải thích văn Bản tụng mà nói ba nhẫn ấn năng thủ và sở thủ. Trước sau hai nhẫn đều không có chữ "thuận". Nếu bàn cùng tột lý thì sớ cũng không có lỗi. Ban đầu nhẫn chưa tu thuận không năng thủ, nên không lập tên thuận. Sau thuận quán kia, cho nên có thuận. Trong phần Nhiếp nghĩa ở sau nêu đoạn giữa hiển đoạn sau, do văn tóm lược mà thôi. Nay thêm một giải thích. Thuận thông hai thứ đầu. Ban đầu nhẫn tuy chưa tu không có năng thủ, ấn sở thủ không có tức là thuận không có nghĩa năng thủ. Năng thủ và sở thủ đối đãi nhau mà lập. Vì thế luận tổng kết: Ấn trước thuận sau lập tên ấn thuận. Nhẫn trên đã ấn, không thể nói thuận. Văn sau hiển rõ. Nhưng chặng giữa nói thuận cũng không trái nhau.
Luận: Trong pháp Dị sinh đây là tối thắng.
Chỉ có phàm hướng đến Thánh mới có thể như chỗ đã nói. Bậc Thánh hồi tâm, quy hướng Đại thừa, đối với đây vì sao nói Dị sinh là thứ nhất?
Đáp: Thánh hồi tâm hướng đến tức thuộc về câu "đồng thời". Đại thừa Dị sinh tánh chướng chưa đoạn, do đây cũng được gọi là thứ nhất.
Sớ: "Nghĩa là có tùy miên" đến "không có tánh kham nhậm". Đây là hiển rõ lậu sở đoạn, chỗ ở của A-la-hán để nói về thể.
Phàm phu và Hữu học năm ấm là giả gọi là có Tùy miên. Có thức thân tức có thân tùy miên. Lậu như thuốc độc, khiến cho thân không an, không có tánh kham nhậm. Tùy theo thí dụ mà gọi.
Sớ: "Khi Tùy miên đoạn" đến "đều được kém cỏi".
Đây là khí phần của phiền não lậu độc. Do vì độc mà có tên sở phát v.v... Từ vô thỉ mà có, nên gọi là vốn được. Không an ổn v.v... đồng phiền não trước gọi là tương tợ nó. Do độc xưa trừ cho nên phát khí chỉ được kém cỏi.
Sớ: Đối Pháp quyển 14 có hai mươi bốn thô trọng.
Nghĩa là biến hành, hý luận thô trọng, chấp tập khí các pháp như nhãn v.v... Lãnh thọ là Hữu lậu các thọ tập khí. Phiền não là phiền não tùy miên. Nghiệp là tập khí nghiệp Hữu lậu. Dị thục là Dị thục không có tánh kham thọ. Phiền não chướng là tánh phiền não khi mạnh. Nghiệp chướng là vô gián nghiệp v.v... các tánh. Dị thục chướng là tự thể của Na-lạc-ca v.v... Cái là có thể chướng thiện phẩm, dục tham v.v... các tánh. Tầm tư là có chướng sự ưa thích tầm tư của người xuất gia. Ẩm thực là ăn nhiều ít đối với phương tiện tu hành không có tánh kham nhậm. Giao hội là hai hình giao nhau thân tâm mỏi mệt, tổn hại tánh. Mộng là trong khi ngủ say phát ra, thân hôn mê liệt tánh. Bệnh là các đại hỗ tương trái, tánh không ổn. Lão là đại chủng suy biến mà có thân già, tánh không tùy chuyển. Tử là khi lâm chung, tánh các căn loạn. Lao quyện là đi xa v.v... thân thể mỏi mệt, tánh mê mờ. Kiên cố là không có pháp Niết-bàn, như sở ứng kia tất cả tánh hý luận v.v... Tế nghĩa là ba tế trong thô, là tất cả thô trọng của ba cõi. Phiền não chướng là sở trị Bồ-đề của hàng Nhị thừa. Định chướng là công đức sở trị do chín định phát ra. Sở tri chướng là sở trị của tất cả trí tánh. Sau mỗi loại đều có chữ "thô trọng", nay tỉnh lược bớt. Tổng hợp giải thích các văn như trong Nghĩa Đăng có biện đủ.
Luận: Chẳng phải như Nhị thừa chỉ quán An lập.
Sớ có hai giải thích, không xác quyết hơn kém. Nay xem hai giải thích lý vẫn khó hiểu, vì sao vậy? Tam thừa chân kiến đều không an lập. Vì sao Nhị thừa phương tiện an lập dẫn không an lập? Như ở trước không thừa nhận dùng chấp dẫn dắt Không vì dị loại. Nếu thừa nhận tác giả thì lại trái với văn này.
Đáp: Nhân thân của Dị loại lý thật ra chưa được. Tướng tăng thượng phát thô dẫn diệu sinh, đối với lý có lỗi gì? Như Hữu lậu và Vô lậu thừa nhận dẫn dắt nhau. Vì thế Luận Du-già quyển 73 ghi:
Hỏi: Như trước không có, biết trí vô tướng, do không có nên cũng không huân tập. Đã không có nhân kia thì lẽ ra không được sinh ư?
Đáp: Có tướng cũng được làm nhân không tướng, vì tùy thuận nó. Như trí thế gian làm duyên sinh trí xuất thế gian. Trí Hữu lậu làm duyên sinh trí Vô lậu. Định hữu tâm làm duyên sinh định vô tâm. Đây cũng như vậy. Nay dùng an lập dẫn phi an lập cũng nào có sai lý. Nhưng an lập quán vốn mong đoạn hoặc chứng lý Vô vi. Có thể ít phục hoặc cũng được gọi là thuận Phi an lập. Lại các loại khác không phải một, Niết-bàn, Thắng Man v.v... đều nói vô tác. Tứ đế không phải là sở tri của Nhị thừa. Hoặc Nhị thừa ngu pháp và bất ngu pháp hai hạng không đồng. Đầu tiên không thể làm, sau thừa nhận tu. Kinh và luận y theo trước nên nói không làm, lẽ ra cũng không có lỗi.
Sớ: Một là y phi y.
Nghĩa là tư hiện quán chỉ ở Dục giới vì thế không nương theo tám định gọi là y phi y. Năm phần còn lại thông nương theo tám định địa, căn cứ tu đạo mà nói. Lại ba nương theo năm, ba phần này ban đầu sinh nương nơi kiến đạo. Tứ thiền căn bản và một chưa được gọi là năm y, kiến đạo quyến thuộc tín cũng gọi năm y. Tín hiện quán còn lại thì không như vậy, nên nói là một phần.
Sớ: "Nay" đến "tu đều duyên khắp".
Kia là sở tu trí chủng thế tục, đến vị tu đạo đều năng sinh hiện duyên khắp các pháp, không đồng như Hữu tông rốt ráo không khởi. Vì thế quyển 69 ghi: Khi chứng được kiến đạo tức trí thế tục tu thiện có được chủng tử, do huân tu kia đều được thanh tịnh cũng gọi là tu.
Giải thích: Do nhập kiến đạo đoạn nhiễm ô. Vì thế chủng tử thế tục lìa một phần pháp có thể làm ô nhiễm gọi là thanh tịnh. Căn cứ thanh tịnh này nên gọi là tu.
Lại nói, các trí thế tục phát kiến đạo rồi, sinh khởi trí này chứng kiến ở đoạn các pháp giải thoát, khéo phân biệt đúng không tùy theo đường ác, lại có thể rõ biết được quả Dự lưu đã đoạn. Như vậy tất cả phiền não là tha ký biệt.
Giải thích: Đây đều là bàng tu trí năng thế tục, không nói Hậu đắc trí Vô lậu.
Sớ: Lại quyển 96.
Xét luận kia ghi: Lại đối với vị kiến đạo, khi bắt đầu trí sinh, các trí khác do năng sinh duyên nhiếp thọ, vì thế đều được tăng trưởng. Tất cả kiến đạo tức trong sát-na này đều gọi là được. Đối với đây sau khi đã chứng đắc lần lần thứ lớp hiện tiền, phải biết kiến đạo là vị mau chóng.
Giải thích: Mười sáu trí của vị kiến đạo, trí đầu tiên sinh, mười lăm trí còn lại vốn có chủng tử, nhưng tăng trưởng nên đều gọi là được. Do trí đầu tiên làm sinh duyên nhiếp thọ. Đã nói tất cả rõ ràng Vô sắc giới Vô lậu kiến chủng, lúc này cũng tăng gọi là tu Vô sắc, đối với lý không trái.
Sớ: "Nếu tự tại được trước" đến "như loại trí duyên" Xét luận kia ghi:
Hỏi: Tất cả trí khi hiện tiền đều biết rõ sắc và Vô sắc giới ư?
Đáp: Nếu có hợp với các pháp đã có ở sắc và Vô sắc giới, khéo nghe khéo tư duy, khéo lấy tướng tức là có thể rõ biết. Nếu không như vậy thì không thể liễu biệt.
Giải thích: Trí có hai là chân trí và tục trí. Nay ở đây đứng về tục trí mà nói. Nếu chân trí thì nhất định duyên ở trên, như Đế trên dưới tám loại trí. Đã khéo tu tập thì có thể rõ đối với trên. Nói tự tại thiện cũng có thể tu thượng, vì đều từng được.
Luận: "Nếu không có tướng kia" đến "trí của danh thanh".
Sớ có lượng phá. Có nghĩa nói tác này lập nhân cũng không có đồng dụ, chỉ nên trách thẳng không cần lập lượng.
Biện rằng: Lập lượng trách thẳng, lý đều vặn hỏi tường tận, vì sao như vậy? Sư trước chỉ nói trí vô phân biệt không có tướng phần, không nói không có phần khác, vì sao được dùng trí ở cõi sắc và cõi Vô sắc mà lập lượng thẳng trách? Nay dùng lý chuẩn theo văn thiếu một lần vặn hỏi và đáp. Vặn hỏi rằng: Trừ trí vô phân biệt, tất cả tâm khác khi duyên cảnh lẽ ra không có tướng phần, gọi là duyên cảnh, như trí vô phân biệt của ông khi duyên cảnh hay sao? Sư trước đáp: Giả sử như vậy, cũng đâu có lỗi. Vì thế luận ghi: Nếu không có tướng kia gọi là duyên nó v.v... Vặn hỏi trí của sắc v.v... triển chuyển thành lập chân kiến có tướng, luận không nói là vì khéo lược văn khiến sinh trí sau. Vặn hỏi trí của sắc v.v... nay lập lượng rằng: Trí duyên sắc của ông, có thể duyên thanh v.v... thừa nhận không có các tướng như thanh v.v... Như trí duyên thanh v.v... lượng khác có thể biết. Có nghĩa xác quyết rằng lượng này không đồng dụ, chân tợ có thể biết.
Luận: Nói vô tướng lấy vì không lấy tướng.
Xét quyển 73 ghi:
Hỏi: Đối với vô tướng giới, hoặc lấy tướng kia không lấy vô tướng. Nếu không có chỗ lấy thì cũng không được thành lấy vô tướng. Nếu như vậy vì sao gọi vô tướng lấy?
Đáp: Không nói tùy miên vì đã xa lìa. Lấy đây tuy lại lấy vô tướng giới, không lấy tướng cho nên thành vô tướng lấy.
Hỏi: Nếu không cấu hoặc vì sao thành lấy?
Đáp: Tuy không cấu hoặc tướng sai biệt nhưng có chỗ tăng ích.
Nhưng lấy vô tướng, cho nên thành lấy.
Hỏi: Nếu không cấu hoặc không chỗ tăng ích. Lấy này tướng trạng vì sao biết được?
Đáp: Lấy Thắng nghĩa cho nên lấy vô tướng. Năm thứ sự tướng đều không hiển hiện cho là tướng kia.
Hỏi: Nếu không phân rõ có thể lập làm thủ, vì sao không thừa nhận các thủ diệt không?
Đáp: Vì diệt không, không có nghĩa tu tác. Người không tu quán nương nơi diệt không, có chỗ tu tác tướng biết nó.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao chứng?
Đáp: Từ sở chứng tri của trí nội chứng.
Hỏi: Nếu như vậy vì sao không như sở chứng kia mà ký biệt như vậy?
Đáp: Trí nội chứng này không phải chỗ an lập của các danh ngôn.
Luận: Một là quán phi an lập có ba phẩm tâm.
Có nghĩa nay nói, ba tâm là phi an lập, là đối mười sáu tâm. Nếu đối một tâm vô tướng kiến đạo cũng gọi là an lập. Bốn Thắng nghĩa trong hai Chân như thuộc tâm thứ ba.
Biện rằng: Tuy có lý nhưng trong các giáo đều không nói chỗ an lập này. Vì thế, biết an lập chỉ nương bốn đế sai biệt quán mà nói, cùng với Thắng nghĩa lập có chỗ không đồng, không thể làm thí dụ. Nên luận Đối Pháp quyển 9 ghi: An lập nghĩa là Thanh văn tùy sở chứng của tự mình rồi đã được rốt ráo, vì muốn cho người khác cũng được liễu tri. Do Hậu đắc trí dùng vô lượng danh, cú, văn, thân mà an lập đạo đế, nghĩa là trong các Đế có nhẫn như vậy như vậy, có trí như vậy như vậy, chỉ đứng về bốn đế mà biện an lập vậy.
Luận: Trong trừ hữu tình giả duyên trí. Nói trong, trong truyện có hai giải thích.
1. Như trong sớ nói tự thân gọi là trong. Vì thế luận Đối Pháp ghi:
Vì sao bỏ hữu tình giả trí ở duyên pháp làm tướng? Do tướng của trí này đối trong tự tương tục có ngã tướng không phân biệt. Không phân biệt là nghĩa trừ bỏ. Vì sao bỏ pháp giả trí sở duyên pháp làm tướng? Do trí này đối trong sự tương tục không có tướng phân biệt sắc v.v... các pháp. Còn lại giống như trước, vì thế biết trong là căn cứ tự thân mà nói.
2. Đứng về giới để biện trong ngoài. Ban đầu bỏ sự tha hữu tình giả ở Dục giới. Thứ hai bỏ tự tha pháp giả ở Dục giới. Đồng ở Dục giới nói trong, dụ như trong người thông tự và tha đều gọi là trong. Thứ ba bỏ hết, ngã pháp hai giả ở cõi trên đều bỏ hết nên nói bỏ hết.
Biện rằng: Lý sau tuy thông nhưng không có chứng cứ. Nay y theo thuyết ban đầu.
Luận: "Pháp chân kiến đạo" đến "gọi là tướng kiến đạo".
Hỏi: Chân giải thoát đạo đã không đoạn hoặc, vì sao gọi là pháp thứ ba đối với nó trừ hết tùy miên?
Đáp: Có hai giải thích:
1. Nay đã giả nói không có thật đoạn chứng, vì thế không nên trách.
2. Tuy không đoạn chủng trừ thô trọng, nhưng trừ tùy miên cũng đâu trái lý.
Biện rằng: Thuyết sau lẽ ra trội hơn. Phàm nói pháp là nghĩa tợ. Sở pháp đã không thì năng pháp làm gì có. Tuy biết giả nói cũng giả tợ chân. Do từ thô trọng tợ như là kia đoạn chủng. Giả nói trừ hoặc, vì thế thuyết sau hay hơn.
Sớ: "Do tự chứng phần thể nghĩa sai khác".
Hỏi: Hữu vi và Vô vi khác nhau, vì sao nói là không khác?
Đáp: Không có năng duyên và sở duyên sai khác. Do tự chứng phần tuy là năng duyên, không phải là năng duyên của Vô vi pháp, vì thế nói không khác.
Sớ: Nhẫn khổ pháp trí trước.
Nhẫn là ấn nhẫn. Nhẫn trí trong vị Gia hạnh, do trí này thông duyên hai cảnh: một là duyên trí Gia hạnh, hai là duyên chân kiến sở quán Chân như, Chân như cực thành. Vì thế, sớ không nói chỉ nói trí nhẫn. Có nghĩa gạn hỏi: Nhưng trí nhẫn này đã không duyên trí, vì sao nói nhẫn pháp trí trước? Cho nên chỉ nói hiện chứng Chân như gọi là nhẫn. Biện rằng: Không trái, như trong Nghĩa Đăng có dẫn đủ lý giáo. Nhưng nói trí nhẫn hoặc từ nhân mà có tên, hoặc từ quả mà gọi, đều có đủ trong Nghĩa Đăng.
Luận: Khổ loại trí nhẫn.
Đây tức là hai chứng nhẫn trước và trí, nên luận Đối Pháp ghi: Khổ loại trí nhẫn, nghĩa là trí khổ pháp vô gián Vô lậu tuệ sinh. Đối với trí nhẫn khổ pháp và trí khổ pháp đều riêng nội chứng. Nói các Thánh pháp sau đều là chủng loại này, vì sao vậy? Do hai loại đầu là tất cả chủng loại Thánh pháp sau, vì từ đây mà kia được sinh. Vì thế Vô lậu tuệ sinh đều riêng nội tướng, duyên này làm cảnh. Nói các Thánh pháp sau đều là chủng loại này, vì thế cho nên gọi là khổ loại trí nhẫn.
Giải thích: Hai trí nhẫn đầu là chủng loại Thánh đạo sở sinh sau, gọi là khổ loại. Trí duyên nhẫn này gọi đó là nhẫn. Hoặc các Thánh đạo sở sinh sau là chủng loại trước nên gọi đó là duyên.
Luận: Bốn khổ loại trí.
Tức duyên loại nhẫn thứ ba làm cảnh. Hoặc cũng duyên pháp nhẫn trí trước, tức là ấn loại sở duyên, không duyên loại nhẫn gọi là ấn loại nhẫn.
Luận: Pháp chân cụ đạo.
Sớ có hai giải thích. Có nghĩa, trước giải thích rằng, luận này và luận Đối Pháp đều nói loại Nhẫn đối với trí pháp nhẫn đều nội chứng khác nhau, tức gồm hai tự chứng phần là vô gián và giải thoát. Lại nói, loại trí ấn có thể là loại nhẫn, không nói loại trí riêng chứng pháp trí, vì sao nói pháp chân kiến đạo giải thoát tự chứng? Nay có hai giải thích:
1. Pháp nhẫn trí nhẫn khác với pháp chân kiến vô gián và giải thoát kiến phần duyên Chân như. Loại nhẫn gồm pháp vô gián và giải thoát tự chứng phần duyên trí. Nhưng chưa quyết định loại trí trọng pháp, trở lại quyết ấn trì, cũng đồng hai tự chứng phần của pháp loại nhẫn.
2. Ba loại trước giống như trước, loại thứ tư đã nói ấn khả loại nhẫn, do đây gồm pháp vô gián và giải thoát chứng tự chứng phần duyên tự chứng phần. Trong hai đạo tự chứng duyên kiến phần, thứ tư duyên thứ ba. Nay loại trí nhẫn đã là pháp tự chứng, thứ tư duyên nhẫn nói pháp chứng tự chứng phần của hai đạo, chỉ nói pháp kiến và tự chứng là lược không luận đến, nghĩa cũng như vậy.
Biện rằng: Nhưng nói pháp là chỉ nói chân kiến duyên trí Chân như. Riêng không căn cứ hình tướng sai biệt kia, do vì trong chân kiến không có hành riêng. Phần thứ ba tuy chỉ chứng hai trí trước. Phần thứ tư cũng vậy, hoặc duyên phần thứ ba.
Nhưng trí này duyên với trí, căn cứ một bên này riêng nói hai đạo, không căn cứ và giải thích hành thứ ba, thứ tư để phân chia, vì thế cũng không có lỗi, nên luận kết rằng kiến lập sai biệt gọi là tướng kiến đạo.
Hoặc phần ba bốn đều đủ hai pháp tự chứng phần của hai đạo trước, nghĩa sau khác mà không hiển rõ. Nếu pháp chứng tự chứng phần của hai đạo có lý mà không có văn, hoặc cũng không có lỗi, vì văn lược mà thôi.
Sớ: Lại giải thích tổng pháp này.
Hễ pháp duyên trí Chân như, không phân kiến phần và tự chứng phần của hai đạo, gọi là tổng pháp.
Sớ: Tuy duyên trí, duyên Chân như không đồng kiến phần là một.
Nghĩa là hai trí chân vô gián và giải thoát đều duyên Chân như, loại nhẫn duyên trí, căn cứ kiến phần năng duyên, nên hợp pháp.
Luận: Hai loại ấy nương quán đế trên dưới.
Xét trong quyển 55 ghi: Hiện quán biên trí đế hiện quán, phải biết trí này tâm thứ ba vô gián từ kiến đạo khởi mới hiện tiền. Duyên thế trí trước sở quán sát. Hai địa trên dưới hai tăng thượng an lập đế cảnh. Tợ như pháp loại trí và thế tục trí nhiếp, thông thế và xuất thế. Đây là trí xuất thế gian sau mới được. Như thứ lớp kia, mỗi mỗi Đế có hai thứ chủng trí sinh, đó là Nhẫn khả dục lạc trí và Hiện quán quyết định trí. Như vậy từ Hiện tiền quán khởi rồi đối trong trên dưới các Đế hai trí sinh.
Giải thích: Duyên đời trước, lược có hai cách giải thích:
1. Duyên kiến đạo, trước hợp sở quán sát, dưới là Dục giới địa, trên là hai sắc và sắc giới. Phiền não tức là khổ đế và Tập đế. Hai tăng thượng tức đế là diệt và đạo hai an lập cảnh đó.
2. Duyên chân kiến trước gọi là quán sát, do chân kiến duyên Địa trên dưới và tất cả tăng thượng an lập tứ Đế cho đó là cảnh.
Nói vô gián thứ ba, tâm thứ ba trong ba tâm kiến đạo sau khởi mười sáu quán gọi là vô gián thứ ba. Văn khác có thể biết. Lại xét luận Hiển Dương quyển 17 ghi: Tứ đế hiện quán này trở lên, đối vị tu đạo có mười sáu hành trí thanh tịnh thế và xuất thế gian sinh, nghĩa là đối Dục ràng buộc và khổ đế sinh hai trí, một là Hiện quán thẩm sát trí, hai là Hiện quán quyết định trí. Đối với khổ đế và dục trói buộc ở cõi sắc và Vô sắc cũng có hai trí như vậy. Trong khổ đế này có bốn trí, như vậy đối với Tập đế, Diệt đế, Đạo đế cũng đều có bốn đế.
Giải thích: Bốn đế hai trí đồng quyển 55 giải thích, Kiến đạo và tu đạo vị riêng như trong Nghĩa Đăng tổng hợp.
Luận: "Các tướng kiến đạo" đến vì chân đã đoạn".
Đây là văn trái nhau. Trong quyển 55 ghi: Thế đệ nhất vô gián có ba tâm sinh đoạn kiến sở đoạn. Luận Hiển Dương quyển 17 ghi: Từ pháp vô gián thứ nhất có ba tâm sinh. Đoạn kiến sở đoạn một trăm hai mươi phiền não. Luận Đối Pháp ghi: Thế đệ nhất pháp vô gián, khổ pháp trí nhẫn v.v... sinh, do tuệ này hằng xả kiến khổ sở đoạn tất cả phiền não. Những đoạn văn này đều nương chân mà giả nói. Luận Đối Pháp tổng hợp: Lại như trước nói kiến đạo sai biệt đều giả kiến lập, không phải chân thật như vậy, vì sao? Vì trong xuất thế trụ nội chứng khác nhau, vì lìa hý luận.
Sớ: Nhân của phi an lập không khắp ba tâm.
Tướng phần và kiến phần của ba tâm phi an lập nên không được dùng nhân của phi an lập để chứng ba tâm không phải chân kiến đạo.
Sớ: "Luận Phật Địa" đến "nghĩa của hai sư".
Sư thứ nhất đồng như sư thứ hai. Hai sư sau đồng sư thứ ba này. Hai sư kia tổng nói Vô lậu trí có kiến phần và tướng phần. Sư thứ ba nói Căn bản trí không có Hậu đắc trí, thừa nhận có nên thành hai cách khác nhau.
Luận: Lại nói trí này phân biệt các pháp.
Xét luận Phật Địa, sư thứ ba nói: Trí Vô lậu vô phân biệt tương ưng tâm phẩm vô phân biệt, vì sở duyên Chân như không lìa thể, như chiếu tự thể không có tướng phần khác. Nếu Hậu đắc trí tương ưng tâm phẩm có phân biệt vì sở duyên cảnh giới lìa chân, như tâm Hữu lậu tợ như cảnh tướng hiện rõ duyên chiếu. Nếu tâm Vô lậu duyên thì lìa thể, cảnh không tợ như tướng kia mà được duyên. Luận Quán Sở Duyên không nói trên năm thức không có tướng tợ cực vi nên không có sở duyên. Cảnh tướng như vậy đồng tâm Vô lậu, chủng tử Vô lậu khởi. Tuy có pháp tướng tương tợ Hữu lậu nhưng chẳng phải Hữu lậu, như tâm Hữu lậu tương tợ tướng Vô lậu nhưng chẳng phải là Vô lậu.
Luận: Sáu hiện quán.
Hiện quán sai biệt trong các luận đã nói rộng như chương đã nêu. Luận Đối Pháp và Hiển Dương nói mười và mười tám nay lược dẫn. Luận Đối Pháp quyển 13 ghi: Kiến lập hiện quán lược có mười loại:
1. Pháp hiện quán: Do trong các đế tăng thượng trong Khế kinh v.v... từ sức tăng thượng nghe âm thanh khác đã được sau cùng thuận giải thoát phần thiện căn nhiếp thượng phẩm thanh tín thắng giải.
Do pháp mà được nên gọi là Pháp hiện quán.
2. Nghĩa hiện quán: Do đối với pháp tăng thượng phẩm Đế trên, sức tăng thượng như lý tác ý đối với khổ đế v.v... đã được sau cùng thuận quyết trạch phần thiện căn nhiếp thượng phẩm đế, sát pháp nhẫn.
3. Chân hiện quán: Đã được kiến đạo mười sáu sát-na tất cả Thánh đạo, lại trong Kiến đạo được Hiện quán an lập đế thế tục trí.
4. Hậu hiện quán: Tất cả tu đạo, do sau thấy tất cả đạo thế gian và đạo xuất thế gian đều gọi là Hậu Hiện quán.
5. Bảo hiện quán: Do đệ tử của Phật Thánh đối với Tam bảo đã được quyết định chứng thanh tịnh tín. Nghĩa là Đức Phật là chân Chánh đẳng giác. Pháp Tỳ-nại-da là chân thiện diệu pháp, chúng đệ tử của Phật là chân tịnh hành.
6. Bất hành hiện quán: Đã chứng được giới và luật nghi mà Thánh ưa thích nhiếp thọ, do được điều này nên đã đối trị Na-lạc-ca, Dị thục v.v... nhất định không hiện hành nữa, hằng dứt không hiện hành nên gọi là Bất hành hiện quán.
7. Cứu cánh hiện quán: Như cứu cánh đạo trong Đạo đế, nghĩa là đã dứt tất cả thô trọng rồi, được lìa tất cả sự ràng buộc mà được như vậy.
8. Thanh văn hiện quán: Tức bảy thứ hiện quán đã nói trước, từ người khác nghe âm thanh mà chứng được gọi là Thanh văn hiện quán.
9. Độc giác hiện quán: Từ bảy thứ hiện quán trước, không do âm thanh mà chứng được nên gọi là Độc giác hiện quán.
10. Bồ-tát hiện quán: Các vị Bồ-tát đối với bảy thứ hiện quán trước thương tiếc chúng sinh không đối với hạ thừa mà xuất ly. Nhưng Bồ-tát Cực hỷ địa nhập Bồ-tát chánh tánh quyết định gọi là Bồtát Hiện quán.
Lại xét trong Luận Hiển Dương quyển 17 ghi:
Lại hiện quán này sai biệt có mười tám thứ, đó là:
1. Trí do nghe sinh ra
2. Trí do tư duy sinh ra
3. Trí do tu sinh ra
4. Thuận quyết trạch phần trí
5. Kiến đạo
6. Tu đạo
7. Cứu cánh đạo
8. Trí thế tục thanh tịnh bất thiện
9. Trí thế tục thanh tịnh thiện
10. Thắng nghĩa trí
11. Trí hữu phân biệt bất thiện thanh tịnh hành
12. Trí hữu phân biệt thiện thanh tịnh hành
13. Trí vô phân biệt thiện thanh tịnh hành
14. Thành sở tác tiền hành trí
15. Thành sở tác trí
16. Thành sở tác hậu trí
17. Thanh văn trí
18. Bồ-tát trí
Trong truyện giải thích: Ba trí đầu trong vị tư lương có ba tuệ như thứ lớp, trí thứ tư như trên tên gọi, trí thứ tám tức Thuận giải thoát phần, vì chưa có thể khéo hiểu lý bốn Đế. Trí thứ chín tức Thuận quyết trạch phần khéo hiểu lý bốn Đế. Trí thứ mười tức vị kiến đạo, tu đạo và Vô học. Trí thứ mười một tức trí cõi Dục. Trí thứ mười hai là tu tuệ ở cõi sắc và Vô sắc. Trí thứ mười ba tức kiến đạo, tu đạo, cứu cánh đạo duyên Phi an lập trí. Trí thứ mười bốn, mười lăm, mười sáu như thứ lớp Gia hạnh, chánh thể, Hậu đắc trí. Trí thứ mười bảy là tất cả hiện quán của Thanh văn. Trí thứ mười tám là các trí hiện quán của Bồ-tát.
Lại y theo luận kia quyển 14 giải thích chín trí rằng: Bất thiện thanh tịnh thế tục trí tức là Thuận quyết trạch phần trí. Thiện thanh tịnh thế tục trí là xuất thế Hậu đắc trí thế gian trí. Thắng nghĩa trí là kiến đạo trí. Lại Bất thiện thanh tịnh tướng hữu phân biệt trí, Thiện thanh tịnh hữu tướng phân biệt trí, Thiện thanh tịnh tướng vô phân biệt trí. Lại Thành trở tác tiền hành trí, Thành sở tác trí, Thành sở tác hậu trí.
Nói ba loại trước sai biệt nghĩa là, chưa đoạn phiền não sinh phi phiền não đối trị, đã đoạn phiền não sinh phi phiền não đối trị, đã đoạn phiền não sinh thị phiền não đối trị. Ba loại giữa sai biệt, tức ba thứ này do có phân biệt, không phân biệt, thế tục và Thắng nghĩa trí tánh sai biệt. Nói ba trí sau sai biệt, là ba thứ này hiển bày trước đoạn, đang đoạn và hậu trí tánh sai biệt. Nay văn của luận kia phối vị là chính.
Lại xét trong Nhiếp luận quyển 6 nói sáu hiện tướng. Đại thừa Tiểu thừa có mười một thứ sai khác không đồng, vì thế bản luận ghi: Bồ-tát hiện quán cùng Thanh văn khác nhau, do mười một thứ sai biệt, nên biết.
1. Sở duyên sai biệt, vì pháp Đại thừa làm sở duyên.
2. Tư trì sai biệt, vì hai thứ tư lương đại phước trí làm tư trì.
3. Thông đạt sai biệt, vì có thể thông đạt Bổđặc-già-la và pháp vô ngã.
4. Niết-bàn sai biệt, vì nhiếp thọ vô trụ đại Niếtbàn.
5. Địa sai biệt, vì y vị Thập địa mà xuất ly.
6, 7. Thanh tịnh sai biệt vì đoạn phiền não, tu tịnh cõi Phật.
8. Tự tha bình đẳng tâm sai biệt, vì thanh tịnh hữu tình Gia hạnh không thôi dứt.
9. Sinh sai biệt, vì sinh vào nhà Như Lai.
10. Ái sinh sai biệt, thường ở trong hội chư Phật nhiếp thọ sinh.
11. Quả sai biệt: Mười lực, bốn vô úy, mười tám pháp bất cộng, vô lượng công đức quả thành tựu viên mãn.
Luận: Được các bình đẳng.
Nhiếp luận của Vô Tánh quyển 6 ghi: Được hữu tình bình đẳng tâm tánh, vì thấy khắp tất cả đều vô ngã.
Có thuyết nói: Tất cả các pháp đều là Như lai tạng, được tất cả tâm tánh bình đẳng của Bồ-tát vì được tánh ý lạc bình đẳng kia; được tất cả tâm tánh bình đẳng của Đức Phật, vì được tánh pháp thân bình đẳng. Trong kinh Phật Địa có mười thứ bình đẳng, như ở trước đã dẫn.
Sớ: Mười thứ phát tâm.
Kinh luận đã dẫn văn rất nhiều, nên ở đây không dẫn nữa.
Sớ: Lại khởi thức A-lại-da y tha tánh quán.
Xét quyển quyển 51 ghi: Thức A-lại-da căn bản tạp nhiễm này, nhờ tu thiện pháp nên mới được chuyển thức. Tu thiện pháp này, nếu các Dị sinh dùng duyên chuyển thức là cảnh tác ý. Phương tiện trụ tâm có thể nhập tối sơ thánh đế hiện quán, chẳng phải chưa kiến đế, nghĩa là trong các đế chưa được pháp nhãn, liền có thể thông suốt tất cả chủng tử thức A-lại-da. Chưa kiến Đế, nghĩa là tu hành như đây rồi, hoặc nhập Thanh văn chánh tánh ly sinh, hoặc nhập Bồ-tát chánh tánh ly sinh, thông đạt tất cả pháp chân pháp giới rồi, cũng có thể thông suốt thức A-lại-da. Lúc bấy giờ có thể tổng quán sát tất cả tạp nhiễm có bên trong, cũng có thể rõ biết, bên ngoài thân bị tướng trói buộc ràng buộc, bên trong bị thô trọng ràng buộc.
Giải thích: Tư lương, Gia hạnh, Dị sinh duyên chuyển thức nhãn v.v... đây có hai nghĩa:
1. Nói chung cho ba Thừa, lý thật Đại thừa cũng duyên Thức thứ tám làm Duy thức quán.
2. Đối chất cảnh và Độc cảnh không đồng, Alại-da là đới chất cảnh, Chuyển thức là Độc ảnh cảnh, ẩn Đới chất bàn Độc ảnh nên nói duyên chuyển thức.
Hỏi: Nhị thừa vì sao có thể quán A-lại-da mà nói nhập Thanh văn chánh tánh ly sinh, thông suốt A-lại-da?
Đáp: Có hai nghĩa:
1. Căn cứ Bất định Thanh văn tánh căn thuần thục mà nói, họ nhập tự kiến, sau đó hồi nhập Đại thừa có thể thông suốt A-lại-da. Định tánh cũng vậy.
2. Đứng về chủng tử A-lại-da mà nói, ba Thừa đều khéo biết khổ đoạn tập. Rộng như luận Du-già sao giải thích.
Luận: Y nghĩa là sở y, đủ như trong sớ biện. Có nghĩa chuyển là thuộc đạo năng chuyển, cũng là y của chuyển, do đạo năng chuyển chuyển y của sở chuyển gọi là chuyển y. Nay giải thích này là rõ ràng nhất.
Biện rằng: Cùng chuyển làm y gọi là chuyển y, chuyển tức năng y, năng y luận nói là pháp nhiễm tịnh. Vì sao đối với chuyển nói là thuộc về đạo năng chuyển? Vì Đạo năng chuyển chẳng phải là nhiễm. Nay giải thích chuyển có hai nghĩa: Một là chuyển thuộc đạo năng chuyển, hai loại xả và đắc do chuyển mà xả và đắc, đây là y chủ mà gọi. Hai là thuộc sở chuyển xả và đắc hai loại, chuyển tức xả và đắc là Trì nghiệp mà lập tên. Nay nương nghĩa ban đầu hợp nói chuyển y cũng là Y chủ thích.
Sớ: Vô Tánh nói sở y chỉ.
Xét luận kia quyển 9, trong bản luận ghi: Hai sở y chỉ, chuyển y làm tướng, trong đây sinh tử gọi là y tha khởi tánh phần tạp nhiễm, Niết-bàn gọi là y tha khởi tánh phần thanh tịnh. Hai sở y chỉ gọi là thông hai phần. Y tha khởi tánh chuyển y nghĩa là tức y tha khởi tánh khi đối trị khởi chuyển bỏ phần tạp nhiễm, chuyển chứng phần thanh tịnh.
Vô Tánh giải thích rằng, hai sở y chỉ chuyển y làm tướng, hoặc Y sĩ thích hoặc Trì nghiệp thích.
Luận: Sơ cực hỷ địa.
Xét luận Du-già quyển 47 thì Cực hỷ trụ Bồ-tát có bốn tướng phát tâm:
1. Tướng nào phát tâm: Nghĩa là thắng giải hành trụ đã khéo chứa nhóm tất cả căn lành, đối với Bồ-tát hạnh đã chánh vượt khỏi, lược nói là tướng.
2. Sở duyên nào: Lo nghĩ duyên Bồ-đề tư lương ở đời sau, lợi ích hữu tình, phụng thờ tất cả Phật pháp, sở hành của chư Phật viên mãn.
3. Phát tâm do hình trạng nào, tướng nào, tự tánh nào khởi: Nghĩa là các Bồ-tát phát khởi tất cả tư lương Bồ-đề tùy thuận hữu tình, tất cả những sự Bồ-tát thành Phật.
4. Phát tâm có lợi ích thù thắng gì: Nghĩa là các Bồ-tát phát tâm này rồi là vượt qua Bồ-tát phàm dị sinh địa chứng nhập Bồ-tát chánh tánh ly sinh, sinh nhà Như Lai, nối dòng Như Lai.
Lại nói, lại trong hiện pháp hay khởi tất cả sức tinh tấn tín tăng thượng của Bồ-tát làm tiền đạo.
Lại nói, dẫn phát mười đại nguyện:
Dẫn nguyện thứ nhất, vì muốn cúng dường tối thắng hữu tình mà nói pháp vô thượng.
1. Dẫn nguyện thứ hai, vì muốn thọ trì pháp đã nói kia.
2. Dẫn nguyện thứ ba, vì muốn khuyến thỉnh chuyển pháp luân.
3. Dẫn nguyện thứ tư, vì muốn thuận họ làm hạnh Bồ-tát.
4. Dẫn nguyện thứ năm, vì muốn thành tựu khí hữu tình kia.
5. Dẫn nguyện thứ sáu, vì muốn đến cõi Phật, gặp Phật cúng dường, nghe chánh pháp.
6. Dẫn nguyện thứ bảy, vì tịnh cõi Phật.
7. Dẫn nguyện thứ tám, vì không lìa Phật cùng các Bồ-tát, thường đồng một vị ý lạc Gia hạnh.
8. Dẫn nguyện thứ chín, vì lợi ích hữu tình chưa từng luống qua.
9. Dẫn nguyện thứ mười, vì chứng Bồ-đề làm việc chư Phật.
Mười nguyện, xét quyển 45 ghi: Nếu chư Bồtát nguyện ở đời sau đem tất cả đồ cúng dường mà cúng vô lượng Phật gọi là đại nguyện thứ nhất. Nguyện ở đời sau hộ truyền chánh pháp của Phật khiến không dứt đoạn là đại nguyện thứ hai. Nguyện ở đời sau từ Đô sử xuống đến bát Niết-bàn gọi là đại nguyện thứ ba. Nguyện ở đời sau hành Bồ-tát hành là đại nguyện thứ tư. Nguyện ở đời sau khắp thành tựu hữu tình gọi là đại nguyện thứ năm.
Nguyện đời sau khắp bày thế giới gọi là đại nguyện thứ sáu. Nguyện ở đời sau khắp tịnh cõi Phật gọi là đại nguyện thứ bảy. Nguyện ở đời sau tất cả Bồtát đều đồng một thứ ý lạc Gia hạnh hướng vào Đại thừa gọi là đại nguyện Thức thứ tám. Nguyện ở đời sau không đảo ngược Gia hạnh đều không luống bỏ gọi là đại nguyện thứ chín. Nguyện ở đời sau mau chứng Bồ-đề gọi là đại nguyện thứ mười.
Lại quyển 47 nói rõ trong Sơ địa có mười tịnh tu trụ pháp, do đây có thể khiến Cực hoan hỷ trụ mau được thanh tịnh:
1. Đối với Phật pháp sinh tịnh tín sâu.
2. Quán sát hữu tình chỉ có khổ nên khởi lòng bi.
3. Thệ khiến thoát khổ được vui nên khởi lòng từ.
4. Vì cứu lo khổ mà hành bố thí.
5. Vì lợi hữu tình cầu pháp thế xuất thế không mỏi mệt.
6. Không nhàm mỏi cho nên khéo biết các luận.
7. Khéo biết luận cho nên khéo hiểu thế gian.
8. Tức ở trong chánh Gia hạnh như vậy mà tu tâm quý.
9. Tức ở trong chánh Gia hạnh như vậy được không thối chuyển.
10. Dùng lợi dưỡng nhiệm mầu và chánh hạnh cúng dường Như Lai.
Lại nói, các Bồ-tát đối mười pháp này nhận học tùy chuyển nhiều tu tập rồi, lại ở chín giới tăng thượng khác, các Bồ-tát trụ theo Phật Bồ-tát chuyên cần tinh tấn cầu hỏi tất cả lỗi công đức chủng đạo và thần thông, không có lỗi hoại đạo v.v... đây tức hiển rõ chín địa khác.
Lại nói, nguyện gặp chư Phật, nguyện sinh cõi Phật, như thật xứng ý toại nguyện. Lại do gặp Phật thành tựu căn lành cho hữu tình, hồi hướng vô thượng Bồ-đề. Do ba thứ nhân duyên thanh tịnh này các căn lành kia cùng thêm sáng sạch gọi là tu thiện căn.
Lại nói, mỗi mỗi sinh xứ có nhiều luân vương làm vua ở Thiệm-bộ châu, được đại tự tại được Bách pháp minh môn v.v... là giới sinh xứ, như luận kia nói rộng.
Sớ: Thập địa nói là không quên củi phiền não.
Quên nghĩa là bỏ quên, quên mất. Phiền não từ vô thỉ nối nhau không dứt gọi là không quên.
Luận: Thứ năm, Cực nan thắng địa.
Hỏi: Kinh Nhân Vương có tụng rằng: "Bồ-tát Sơ địa Tứ thiên vương, song chiếu hai đế lý bình đẳng" vì sao luận này v.v... chỉ nói Địa thứ năm mới tương ưng?
Đáp: Như Nghĩa Đăng giải thích đầy đủ. Có nghĩa giải thích rằng, thế trí có hai: một là duyên, sắc v.v... tự tánh các pháp; hai là rộng phân biệt thành năm, rõ ràng sai khác, duyên và sắc v.v... các pháp không nhiều sai khác. Sơ địa chân hợp, duyên năm là rõ ràng trí có nhiều hành khác, đến Địa thứ năm chân tục mới hợp.
Sớ: Trong Thức thứ hai ở trước đã có ngăn vặn hỏi.
Tức từ Thức thứ bảy gọi là đoạn thứ hai, theo từ gốc ngọn để làm thứ lớp, ngã và ngã sở kia không thừa nhận cùng khởi.
Sớ: "Thập Địa nói" đến "có gián đoạn đại trí hiện tiền trụ".
Do quán trí duyên khởi tâm Gia hạnh, có khi dẫn trí Bát-nhã vô phân biệt kia mà được hiện tiền.
Trí duyên khởi sau mới hiện tiền.
Sớ: Thập Địa nói báo hành thuần thục.
Nhân theo mặc tình không đợi Gia hạnh mà có thể thành đó gọi là báo hành, như nói báo tánh tự có thể như vậy.
Luận: Thứ mười là Pháp vân địa.
Xét Thập Địa quyển 12 ghi: Bồ-tát Pháp vân địa ngồi có mười tướng, năm tướng trước sớ đã đủ. Thứ sáu là Thành tướng vì làm các pháp tánh như huyễn cảnh giới sở thành. Thứ bảy là Nhất nghĩa tướng, ánh sáng khéo chiếu tất cả pháp giới cho nên khéo chiếu gọi là chánh quán. Tám là Công đức tướng, vượt hơn tất cả cảnh giới của chư thiên. Chín là Thể tướng, đại lưu ly ma ni làm cành v.v...
Mười là Trang nghiêm cụ túc tướng, thân của hoa có vô lượng ánh sáng, tất cả các báu trang sức trong đó, vô lượng lưới báu che trùm ở trên.
Luận: Như vậy Thập địa.
Thể của địa này các luận không đồng. Xét luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa ghi: Giai cấp trụ xứ căn lành là nghĩa của địa này, đồng Nhiếp luận dùng trí làm thể, do pháp Vô vi không có giai cấp. Lại Nhiếp luận đời Lương chỉ nói xuất ly Chân như làm địa, như là gốc pháp cho nên riêng nói. Lại luận Phật Địa quyển 1 ghi: "Địa gọi là sở y, sở hành, sở nhiếp, dùng tịnh pháp giới cảnh trí v.v... các pháp hợp làm địa". Như thứ lớp gọi là sở y, sở hành, sở nhiếp, cảnh trí có thể có sở hành gọi là hữu sở hành. Trí tương ứng pháp là Phật sở nhiếp gọi là sở nhiếp. Du-già v.v... các thuyết như sớ đã dẫn, đứng về nghĩa không đồng, các giáo không trái.
Có nghĩa gạn hỏi sớ giải thích nghĩa của địa rằng: Nói thật pháp khác cùng tổng giả gọi đó là địa. Nay giải thích không đúng. Luận tự nói cùng với sở tu hành làm làm thắng y trì, khiến được sinh trưởng sở tu hành kia, nhất định chẳng phải là giả. Không thể là giả vì riêng từ thật sinh chỉ nên nói là pháp Hữu vi, Vô vi tích tập, cùng pháp sở tu hành khác làm y làm nhân sinh trưởng gọi là địa.
Biện rằng: Nếu chỉ nói là địa không đối với người có thể như đã xác quyết, nếu đối với người nói rằng Bồ-tát địa. Tên gọi Bồ-tát đâu chẳng phải gọi giả kia là thể ư? Nếu thừa nhận vậy thì cùng giả làm địa, lý nào không được? Lại vốn lập địa chỉ căn cứ hành nhân giai cấp địa vị sai khác, nếu không đối người sau thì cần gì lập địa? Lại người không riêng, xét pháp thành người, hành sở tu cũng tức phần tổng, bỏ tổng bàn biệt nói rằng cùng tu hành làm y sinh nhân lại cùng tu hành làm thắng y v.v... chính giải thích lý do cùng giả làm địa.
Lại các Bồ-tát năm uẩn thù thắng, viễn nhân thật pháp mà được sinh khởi, lỗi gì không thừa nhận? Cho nên quyển 47 ghi: Do hay nhiếp trì nghĩa Bồ-tát cho nên tên địa chánh đồng luận này, vì đối với hành Bồ-tát hay nhiếp, cho nên cùng Bồtát mà làm địa.
Sớ: Có thể làm nghĩa thọ dụng cư xứ cho nên gọi là trụ.
Khi Bồ-tát thọ dụng hai lợi hành, nghĩa sở cư xứ gọi đó là trụ.
Sớ: Đây căn cứ quả cùng nhân.
Dùng quả cùng nhân mà làm địa, do vì cầu quả mới khởi hành, liền tùy tự địa, lý trí hai cực đều gọi là quả, chẳng phải chỉ có quả Phật.
Luận: Thí có ba.
Xét quyển luận Du-già quyển 39 ghi: Tài thí nghĩa là dùng tài vật thượng diệu thanh tịnh như pháp bố thí. Điều phục cấu bỏn xẻn tham lam mà hành bố thí. Điều phục cấu chứa nhóm mà làm bố thí. Vô úy thí, nghĩa là cứu giúp sự sợ sệt sư tử, cọp, sói, quỷ mị v.v... cứu giúp sự sợ sệt vua quan giặc cướp, cứu giúp sự sợ hãi về nước và lửa. Pháp thí, nghĩa là thuyết pháp không điên đảo, thuyết pháp xứng lý, khuyên tu học xứ. Như vậy tất cả tổng nói chín tướng.
Luận: giới có ba loại.
Xét luận Du-già quyển 40 ghi: Nghĩa là Bồ-tát thọ luật nghi biệt giải thoát của bảy chúng, y chỉ hai phần tại gia và xuất gia gọi là giới luật Bồ-tát. Nghĩa là các Bồ-tát sau khi thọ luật nghi giới, chỗ có tất cả là đại Bồ-đề, do thân ngữ ý tích tập các căn lành tổng gọi là Nhiếp thiện pháp giới. Nghĩa là các Bồ-tát đối với các hữu tình có thể dẫn nghĩa lợi, mỗi mỗi sự nghiệp cùng làm trợ bạn gọi là Nhiêu ích hữu tình giới.
Hỏi: Du-già tự nói ba giới đồng thọ, lại nói vì sao nói thọ luật nghi, sau tất cả các thiện mới gọi là nhiếp thiện?
Đáp: Lý thật ra là đồng thọ, hiển sở khởi sau cũng nhiếp thiện nhiếp, nếu không nói sợ nghi sau khởi chẳng phải giới nhiếp. Cho nên hiển luật nghi là các giới vốn có ra lời nói trước sau thật đồng thọ. Hỏi: Thế nào là khéo trụ khéo hộ luật nghi?
Đáp: Xét Du-già ghi: "Thành tựu mười chi gọi là khéo trụ khéo hộ, nghĩa là không đoái hoài luyến tiếc các dục quá khứ, lại không mong cầu các dục tương lai, lại không tham đắm các dục hiện tại, lại ưa xa lìa không sinh mừng đủ, lại có thể quét trừ ngôn luận bất chánh và các ác tầm tứ, lại có thể đối với mình không tự khinh, lại tánh hay nhu hòa, có thể kham nhẫn, lại không phóng dật, có thể đầy đủ phép tắc tịnh mạng.
Hỏi: Thế nào là khéo trụ khéo hộ nhiếp thiện?
Đáp: Tức luận kia ghi: Do mười thứ tướng gọi là trụ nhiếp thiện, mau có thể nhiếp thiện tất cả thứ tướng, nghĩa là tức thí v.v... mười thứ Ba-la-mậtđa.
Hỏi: Thế nào khéo trụ khéo hộ Nhiêu ích hữu tình giới?
Đáp: Tức luận kia ghi: Do mười một tướng gọi là trụ Nhiêu ích hữu tình giới, nghĩa là các Bồ-tát đối với các hữu tình, mỗi mỗi sự nghiệp đều làm trợ bạn. Lại các Bồ-tát vì cõi hữu tình như lý tuyên nói khiến đoạn các ác. Lại các Bồ-tát đối với họ có ơn, các hữu tình rất biết ân tuệ thường suy nghĩ báo đáp. Lại các Bồ-tát gặp các sự sợ hãi của hữu tình có thể làm cứu hộ. Lại các Bồ-tát đối với sự suy não của hữu tình có thể khai mở khiến lìa lo buồn. Lại các Bồ-tát đầy đủ đồ nuôi sống, tùy ai đến xin liền thí cho. Lại các Bồ-tát tánh ưa nhiếp thọ các hữu tình, như pháp mà chế phục chúng, các phương tiện nhiêu ích, dùng tâm vô nhiễm trước cho nương tựa, dùng tâm thương xót hiện làm lợi ích. Lại các Bồ-tát đối với tâm hữu tình tánh ưa tùy chuyển, trước biết thể tánh mới tùy họ chuyển, vì tùy tâm họ mà khiến ác dứt, pháp lành được sinh. Lại các Bồ-tát tánh ưa khen ngợi công đức chân thật, khiến họ vui mừng. Lại các Bồ-tát tánh ưa thương xót dùng pháp điều phục để điều phục hữu tình. Lại các Bồ-tát vì muốn nhiêu ích các hữu tình nên hiện sức thần thông này nói ba thứ giới tạng của Bồ-tát, cũng gọi là vô lượng đại công đức tạng.
Như luận kia dẫn rộng.
Luận: Nhẫn có ba loại.
Xét luận Du-già quyển 42 nói ba tướng rằng: Thế nào Bồ-tát chịu đựng người oán hại? Nghĩa là các Bồ-tát dũng mãnh khi không gián đoạn trong thời gian dài, tùy người oán hại sinh, khi các khổ hiện tại trước, nên học như vầy: như đây là lỗi tự nghiệp của ta, do ta đời trước tự tạo các thứ nghiệp bất tịnh, nay thọ các thứ quả khổ như vậy. Ta nay đối với khổ lợi vô nghĩa này nếu không nhẫn chịu sẽ lại làm nhân xứ đại khổ của đời sau. Lại thân tự tha đều khổ làm thể, họ không biết cho nên ở thể khổ của ta lại thêm khổ kia. Ta đã biết rồi há lại thêm khổ. Lại người Thanh văn tu hành tự lợi không sinh khổ khác, huống gì ta vì người mà sinh không nhẫn chịu.
Thế nào là an thọ khổ nhẫn? Nghĩa là các Bồtát nên học như vầy: ta từ xưa nương dục làm chuyển thường cầu các dục, như vậy khi truy cầu khổ vô nghĩa, nay ta nhận đủ các thứ khổ lớn, đều do lỗi lầm vô trí suy nghĩ chọn lựa. Ta nay vì cầu hay dẫn thiện phẩm an lạc tối thắng, còn nên suy nghĩ lựa chọn, nhẫn thọ trăm ngàn câu-chi đại khổ, huống gì chút khổ cỏn con này mà không nhẫn chịu. Như vậy như vậy chánh suy nghĩ vì cầu Bồđề đều có thể nhận chịu tất cả sự khổ. Thế nào Bồ-tát pháp tư thắng giải nhẫn? Nghĩa là các Bồ-tát ở tất cả pháp có thể chánh suy nghĩ lựa chọn, do Bồtát khéo quán sát thắng giác tuệ, có thể đối với tám thứ sinh thắng giải xứ, khéo an thắng giải:
1. Tam bảo công đức xứ
2. Chân thật nghĩa xứ
3. Chư Phật Bồ-tát đại thần lực xứ
4. Nhân xứ
5. Quả xứ
6. Ưng đắc nghĩa xứ
7. Tự ư bỉ, nghĩa đắc phương tiện xứ 8. Nhất thiết sở tri sở ưng hành xứ Luận: Tinh tấn có ba loại.
Xét Du-già quyển 42 nêu rõ tướng kia rằng: Thế nào Bồ-tát mặc giáp tinh tấn? Nghĩa là các Bồtát ở trước khi phát Gia hạnh tinh tấn, tâm họ gan dạ dũng mãnh, trước khoác giáp thệ nguyện, nếu ta vì giải thoát khổ cho một hữu tình mà dùng ngàn đại kiếp v.v... làm một ngày đêm ở Na-lạc-ca không ở đường khác, nhẫn đến Bồ-tát trải qua thời như vậy chứng được Bồ-đề, giả sử quá trăm ngàn câu-chi bội số thời kiếp như vậy mới chứng Bồ-đề thì sự dũng mãnh gan dạ của ta cũng không lui sụt. Thế nào là Bồ-tát nhiếp thiện tinh tấn? Nghĩa là các Bồ-tát tất cả tinh tấn, khéo hành bố thí v.v... các độ Gia hạnh thành tựu thí. Lại do tinh tấn này là có thể tu chứng, có thể thành nhân duyên tối thắng tất cả pháp lành của Bồ-đề, các pháp khác thì không như vậy. Cho nên Như Lai cùng các thứ pháp môn khen ngợi tinh tấn có thể chứng Bồ-đề.
Thế nào Bồ-tát tinh tấn nhiêu ích hữu tình? Nghĩa là tinh tấn này có mười một thứ, như phẩm Giới nói, kia nói thi-la, đây nói tinh tấn, như trước đã dẫn.
Luận: Tĩnh lự có ba.
Xét luận Du-già quyển 43, thì Tĩnh lự này lược có hai loại: Một là thế gian, hai là xuất thế gian. Phải biết hai thứ này tùy sở ứng kia lại có ba loại:
1. Nếu các Bồ-tát có Tĩnh lự xa lìa tất cả phân biệt, hay sinh sự nhẹ nhàn của thân tâm, tịch tĩnh tối cực, xa lìa kiêu mạn trạo cử, lìa các ái vị, dứt tất cả tướng, phải biết đây gọi là Bồ-tát hiện pháp lạc trụ Tĩnh lự.
2. Nếu các Bồ-tát có Tĩnh lự, hay dẫn hay trụ các thứ công đức thù thắng không thể nghĩ bàn, phải biết đây gọi là hay dẫn Bồ-tát đồng giữ công đức Tĩnh lự.
3. Nhiêu ích hữu tình Tĩnh lự có mười một thứ như Giới độ dẫn. Lại luận Đối Pháp quyển 12 ghi:
Chế ngự các nghiệp nhậm trì, nghĩa là y chỉ nội chứng, cho nên giáo thọ giáo giới hóa độ hữu tình, người tâm chưa định khiến tâm họ định. Người tâm đã định khiến họ giải thoát, do vì nhiêu ích hữu tình Tĩnh lự giữ gìn.
Luận: Bát-nhã có ba.
Xét luận Du-già quyển 43 ghi: Tuệ có hai là thế gian và xuất thế gian. Hai thứ này lược nói lại có ba loại:
1. Nếu các Bồ-tát đối với pháp lìa ngôn thuyết không có ngã tánh, hoặc đối với chân đế sắp muốn giác ngộ, hoặc đối với chân đế khi chánh giác ngộ, hoặc đối với chân đế sau khi giác ngộ rồi, có được diệu tuệ tối thắng vắng lặng hiện tiền rõ ràng, không có phân biệt lìa các hý luận, đối với tất cả pháp tu tánh bình đẳng, nhập đại tổng tướng, rốt ráo hiểu rõ tất cả bờ mé hiểu biết, xa lìa hai bên, thuận vào Trung đạo, đây gọi là Bồ-tát có thể ở nơi hiểu biết có trí tuệ chân thật tùy giác thông đạt.
2. Nếu các Bồ-tát đối với Ngũ minh và Tam tụ quyết định khéo léo, nghĩa là ở nơi năng dẫn nghĩa lợi pháp tụ, năng dẫn phi nghĩa lợi pháp tụ, năng dẫn phi nghĩa lợi phi phi nghĩa lợi pháp tụ đều như thật biết, ở tám chỗ này có diệu tuệ khéo léo nhiếp thọ, hay mau viên mãn tư lương rộng lớn, mau chứng Bồ-đề, đây gọi là Bồ-tát có thể đối với Ngũ minh và trong Tam tụ quyết định thiện xảo tuệ.
3. Năng tác nhất thiết hữu tình nghĩa lợi tuệ, có mười một thứ như trước đã nói đủ.
Luận: Phương tiện thiện xảo.
Xét Vô Tánh giải thích rằng: Nếu do sáu Ba-lamật-đa tích tập căn lành, cùng các hữu tình vì muốn lợi ích các hữu tình, cho nên không bỏ hữu tình, phải biết tức là không bỏ khổ sinh tử. Do đây khéo hồi hướng cầu Bồ-đề vô thượng chánh đẳng, vì chứng Phật Bồ-đề, phải biết đây tức là mong cầu Niết-bàn. Sớ dẫn lược, nên căn cứ ở đây để hiểu.
Lại Đối Pháp quyển 14 có bốn thiện xảo:
1. Thành tựu hữu tình thiện xảo, nghĩa là bốn Nhiếp pháp, do nhiếp thọ họ, khiến xứ khéo léo.
2. Viên mãn Phật pháp thiện xảo, nghĩa là tuệ Ba-la-mật-đa.
3. Tốc chứng thông tuệ thiện xảo, nghĩa là ngày đêm sáu thời phát lộ các ác, tùy hỷ công đức khuyến thỉnh chư Phật hồi hướng căn lành.
4. Đạo vô đoạn thiện xảo, nghĩa là không trụ Niết-bàn. Do đây thường thường rốt ráo không dứt, trùm khắp mười phương, tất cả thế giới, tùy chỗ ứng hóa thị hiện hành tất cả Phật và Bồ-tát.
Luận: Lực có hai loại.
Có thuyết nói là tư trạch tư tuệ, tu tập tu tuệ.
Nếu vậy Hậu đắc đâu có tư tuệ, chỉ có Vô lậu?
Đáp: Có chánh tư duy gọi là tư, cũng đâu có lỗi gì!
Luận: Giới dùng thọ học v.v... làm thể.
Lại xét kinh Văn-thù Vấn nói đủ tướng này, nay dẫn sơ lược. Hoặc dùng tâm phân biệt là người, chẳng phải người, nam nữ, chẳng phải nam nữ v.v... hoặc thọ giới Bồ-tát xuất thế gian mà không khởi tâm từ bi, hoặc vật của người mà khởi tưởng ăn trộm, hoặc khởi tâm vọng ngữ, đều phạm Ba-la-di. Nếu dùng thân khẩu hành không kham được Tam thừa, hoặc lá cây, vỏ cây, nước cây dùng tâm muốn lấy, hoại khởi tưởng ca múa làm nhạc, hoa hương anh lạc, hoặc khởi tưởng giường cao rộng lớn, hoặc khởi tưởng cầm giữ vàng bạc chân bảo đều là phạm Tăng-già-bà-thi-sa của Bồ-tát. Nếu dùng thân khẩu hành không kham chứng Tam thừa, lại hoặc cạo lông trên thân, hoặc cắt móng tay như hình mặt trăng đầu tháng, hoặc khởi tưởng này, hoặc khởi tưởng chặt phá cỏ cây, hoặc tưởng khởi hủy hoại danh dự của người đều phạm Thâu-lan-giá. Nếu người dùng thân khẩu hành không kham chứng Tam thừa, lại nếu hoa, hương, y, vật báu của Phật pháp tăng mà lấy chân đạp giẫm lên, hoặc tháp Phật hay chỗ Phật đi, hoặc chỗ cây Bồđề chuyển pháp luân mà lấy chân giẫm đạp đều phạm Ba-dật-đề. Nếu người không tin, không kham chứng tam thừa, hoặc khạc nhổ, le lưỡi, động mắt chê hủy các oai nghi, người khởi tưởng phạm như đây thì phạm Đột-kết-la. Nếu dùng thân miệng hành không kham chứng Tam thừa, hoặc thấy vật của người, nhạc của người, vô số đồ chơi dối hiện cầu lợi và nói lỗi người, nếu khởi tưởng này phạm Ba-la-đề-xá.
Sớ: Cũng không tùy miên lưu chú tương tục.
Dù không hiện khởi hoại ác, không bỏ kết oán trong tâm gọi là tùy miên.
Sớ: Thế pháp xứ có chín loại.
Hỏi: Thế pháp có tám thứ là khen lợi, khen lạc và khổ v.v... bốn loại, vì sao không nói khen v.v... bốn loại?
Đáp: Khen v.v... là đáng mừng, chẳng phải tướng khổ cho nên không nói. Nghĩa là tư cụ v.v... tánh là pháp hoại, lại gặp duyên hoại gọi là hoại pháp hoại. Đây vẫn là chất còn, gặp duyên chất hết gọi là tận pháp tận.
Hỏi: Hoại tận cả hai cùng già, bệnh, chết ba thứ nào có gì khác?
Đáp: Trong ngoài có khác cho nên chia làm năm loại.
Luận: Đây nói tự tánh v.v...
Hỏi: Nhẫn, tinh tấn v.v... thể chẳng phải ba nghiệp, vì sao nay nói là tự tánh?
Đáp: Có thật nghĩa chẳng phải tự tánh mà làm dụng trong ba nghiệp thù thắng, ở trong quyến thuộc đối các thứ khác nó kém hơn nên giả gọi là tự tánh.
Biện rằng: Nhẫn và tinh tấn ắt có ba nghiệp, hai hành mới hành, cho nên lấy ba nghiệp cũng không trái lý, các luận phần nhiều nói tự tánh kia thông cả ba nghiệp.
Luận: An trụ tối thắng v.v...
Xét luận Đối Pháp quyển 11 chỉ có năm loại. Thích luận ghi: Chủng tánh nghĩa là pháp tánh Bồtát. Nguyện nghĩa là tâm Bồ-đề. Ý lạc nghĩa là tâm bi dẫn dắt. Sự nghĩa là bỏ các sở hữu. Tự thể là thân, ngữ ý ba nghiệp.
Luận: Xảo tiện tối thắng.
Tức Nhiếp luận gọi là vô phân biệt trí sở nhiếp thọ. Vô Tánh giải thích rằng: nghĩa là tam luân thí thanh tịnh, người nhận, người thí, vật thí phân biệt đều xa lìa.
Luận: Do đây thí v.v... bốn câu phân biệt.
Có ba bốn câu như sớ đã nói rõ. Lại xét kinh Ưu-bà-tắc Giới rộng phân làm bốn câu. Thí bốn câu nói rằng: "Là thí chẳng phải độ", nghĩa là Thanh văn, Duyên giác, phàm phu, ngoại đạo, ban đầu hai a-tăng-kỳ, Bồ-tát đồng thí. Độ mà chẳng phải thí nghĩa là năm độ kia, chỉ bày độ cũng là thí. Tăng-kỳ thứ ba Bồ-tát sở thí, chẳng phải độ chẳng phải thí, nghĩa là Nhị thừa đều tu năm độ. Bốn câu các độ khác chuẩn theo đây có thể biết.
Hỏi: Kinh luận vì sao lại trái?
Đáp: Kinh y cứ mặc tình tiến tu, bất thối tăng thắng gọi là độ. Luận y cụ tướng thoái, bất thoái, gia hạnh, vô gia hạnh để lập tên độ. Căn cứ nghĩa không đồng cho nên không trái.
Luận: "Lại nữa" đến "tương vi chướng".
Xét Nhiếp luận quyển 7 ghi: Vì thành lập đối trị sở trị chướng, vì muốn đối trị nhân không phát thú cho nên lập thí giới. Nhân không phát thú, nghĩa là đắm trước tiền tài, địa vị, nhà cửa, vì muốn đối trị tuy đã phát thú mà lại có nhân lui sụt, cho nên lập nhẫn tấn. Nhân lui sụt nghĩa là ở sinh tử hữu tình trái phạm sinh ra các khổ, và đối với thời gian dài thiện phẩm Gia hạnh sinh mỏi mệt biếng nhác. Vì muốn đối trị tuy đã phát thú không lại lui sụt mà nhân mất hoại cho nên lập định tuệ. Nhân mất hoại nghĩa là các tán động và tuệ tà ác. Như vậy thành lập đối trị sở trị chướng cho nên chỉ lập thành sáu.
Luận: Lại thí v.v... ba tăng thượng sinh đạo.
Tăng thượng sinh là chỗ chiêu cảm quả thể. Đạo là nhân. Tài sản lớn v.v... quả theo nhân khởi gọi là Tăng thượng sinh. Quyết định thắng cũng là quả. Đứng về ba quả trước, tăng thượng quả là thể, thể ba quả sau thù thắng hơn nên đối với nó gọi là Quyết định thắng. Đạo là nhân vậy.
Luận: Trí trợ Bát-nhã.
Lại xét luận Biện Trung Biên chướng mười Độ quả có tụng như sớ đã dẫn, Trường hàng giải thích rằng: Đây nói mười thứ Ba-la-mật-đa sở đắc quả chướng để hiển mười thứ chướng Ba-la-mật-đa tự tánh, nghĩa là đối với bố thí nói chướng giàu sang, đối với tịnh giới nói chướng thiện thú, đối với an nhẫn nói chướng bất xả hữu tình, đối với tinh tấn nói chướng giảm lỗi tăng công đức, đối với Tĩnh lự nói chướng khiến sở hóa đến tám pháp, đối với Bát-nhã nói chướng giải thoát, đối với phương tiện nói chướng thí v.v... khéo vô cùng tận. Do đây hồi hướng vô thượng Bồ-đề, khiến thí v.v... thiện vô cùng tận. Đối với nguyện nói chướng tất cả sinh trung thiện vô gián chuyển, do đại nguyện lực nhiếp thọ hay thuận sinh pháp lành. Đối với lực nói chướng sở tác thiện đắc quyết định, do sức suy nghĩ lựa chọn và sức tu tập có thể phục chướng kia, chẳng phải phục nó. Đối với trí nói chướng tự tha thọ dụng pháp thành tựu, không như nghe nói mà hiểu nghĩa.
Luận: Nghĩa là do trước trước dẫn phát sau sau v.v...
Xét Đối Pháp ghi: Do thí quen tập xả thí trong ngoài, không đoái hoài thân mạng, bỏ kho báu lớn, thọ trì cấm giới. Do vì hộ giới dù người hủy nhục mắng nhiếc trọn không trả thù, có thể kham nhẫn. Do hay kham nhẫn các khổ lạnh nóng, Gia hạnh không dứt phát siêng năng tinh tấn, phương tiện tinh tấn chứng quả rốt ráo, đầy đủ Tĩnh lự. Tĩnh lự đầy đủ rồi, chứng được đại tuệ rốt ráo xuất thế, lại nữa trước trước sau sau sở trì. Do đủ thi-la thí được thanh tịnh, do thực hành bố thí nhiếp lợi ích hữu tình, do đầy đủ thi-la không bị não hại, do sức nhẫn cho nên giới được thanh tịnh, do hay nhẫn thọ sự không lợi ích của người trọn không hủy phạm sở học xứ. Do tinh tấn cho nên nhẫn được thanh tịnh. Do sức dũng mãnh nên ở lâu trong sinh tử mà không cho là khó, hay thọ các khổ trái nghịch của chúng sinh. Do Tĩnh lự cho nên tinh tấn thanh tịnh. Do hỷ lạc đầy đủ hay siêng tu tập tất cả pháp lành không thôi nghỉ. Do đủ tuệ cho nên Tĩnh lự thanh tịnh, nếu do vô lượng môn thường thường quán các pháp hay chứng vắng lặng bên trong, tăng trưởng Tam-ma-địa. Du-già, Nhiếp luận, cùng Đối Pháp đồng cho nên không dẫn nữa.
Sớ: Tối thắng sở tác v.v...
Xét luận kia giải thích rằng: Tất cả chỗ làm, chỗ đến của Phật và Bồ-tát, có người giải thích chỗ làm tối thắng là chỗ làm của Phật, chỗ đến tối thắng là chỗ đến của Bồ-tát Thập địa.
Biện rằng: Phật và Bồ-tát đều làm đều đến, hoặc chỗ đến của Phật, chỗ làm của Bồ-tát lẽ ra cũng không lỗi.
Sớ: An trụ Phật tánh.
Phật tánh chính là thể của bờ kia, do có thể an trụ gọi là đến. Lại bờ kia là tổng nhiếp giáo, lý, hành, quả bốn môn của Đại thừa xuất thế. Phật tánh tức là lý sở nhiếp, hoặc thông nơi quả.
Sớ: Lại ba-la là sở tri.
Đây chẳng phải văn Đối Pháp mà chính là sớ chủ giải thích luận kia.
Sớ: Hợp có sáu giải thích.
Chữ "sáu" lẽ ra là sai, chữ "năm" mới đúng.
1. Du-già năm duyên.
2. Mười hai tối thắng.
3. Tối thắng sở tác. Sớ nói ba-la là nghĩa chỗ đến. Đây là sớ chủ giải thích sở tác sở chí luận kia, chẳng phải là văn luận.
4. Chỗ biết bờ kia.
5. Tế độ tự tha. Hoặc ba-la là nghĩa sở tri. Đây là một cách giải thích chữ "sáu" không lầm.
Lại xét Trí Độ luận lại có ba giải thích:
1. Một là độ xan tham v.v... các biển phiền não đến rốt ráo cho nên gọi là đến bờ kia, liền dùng sáu chướng mà làm bờ này, sáu độ làm bờ kia.
2. Nói bờ này là thế gian, bờ kia là Niết-bàn, liền dùng sinh tử, Niết-bàn hai thứ làm bờ này bờ kia.
3. Nói có cảnh vô đẳng gọi là bờ này, trí biết hữu vô gọi là đến bờ kia, liền dùng phân biệt hữu tướng vô tướng gọi là bờ kia.
Sớ: Giải thích tên riêng.
Xét Nhiếp luận quyển 7 ghi: Lại có thể dứt diệt ác giới, ác thú và có thể chứng được thiện thú đồng giữ gìn cho nên gọi là giới. Lại có thể diệt hết phẫn nộ oán thù và có thể khéo trụ mình và người đều an ổn cho nên gọi là nhẫn. Lại có thể xa lìa tất cả pháp biếng nhác ác không lành và năng sinh ra vô lượng pháp lành khiến nó tăng trưởng cho nên gọi là tinh tấn. Lại có thể tiêu trừ sự tán động và hay dẫn được nội tâm an trụ cho nên gọi là Tĩnh lự. Thí và tuệ như sớ đã dẫn.
Sớ: Do đại thí.
Xét luận kia ghi: Đại thí là bỏ hết cả việc trong ngoài, vì bố thí thời gian dài, xa lìa lỗi là xa lìa sự không bình đẳng truy tìm các lỗi. Lìa cấu là hằng đoạn tất cả, trị dứt xan tham.
Giải thích: Lìa tham phi pháp cũng là lìa lỗi. Năm độ khác đều có ba nghĩa, ý dễ biết nên luận không giải thích. Lại nói, có thể khiến các căn hằng vắng lặng, hay khởi thanh tịnh các đường lành, hay làm thanh tịnh chỗ sở y, gọi là giới. Tùy thứ lớp kia hộ trì các căn môn, là nhân để đến đường lành, sở y của Niết-bàn. Xa lìa tất cả lửa phẫn hận nóng bức, xa lìa tâm không bỏ oán hại, hiển phát tổn, vì thường an ổn gọi là nhẫn. Tâm oán hại nghĩa là khởi tâm báo oán. Không bỏ nghĩa là không bỏ tâm này, hay ôm lòng oán gọi là tổn. Hiển rõ vô úy này cho nên gọi là hiển phát. Tổn là thường an ổn cho nên tổn hại. Sinh trưởng tác dụng tương ưng cho nên gọi là tinh tấn. Tổn hại tác dụng tương ưng nghĩa là hai chánh đoạn ở trước, do vì có thể tổn hại pháp bất thiện. Sinh trưởng tác dụng tương ưng, nghĩa là hai chánh đoạn sau, do vì hay sinh trưởng các pháp lành, hay giữ gìn hay dứt diệt, hay vắng lặng, hay điều phục. Lại có thể dẫn phát cho nên gọi là Tĩnh lự. Hay giữ gìn nghĩa là đối cảnh nhóm tâm. Hay dứt diệt nghĩa là dứt các tán loạn. Hay vắng lặng nghĩa là khiến tâm vắng lặng. Hay điều phục, nghĩa là chế phục các ràng buộc. Hay dẫn phát, nghĩa là có thể dẫn phát tác dụng tự tại.
Thí tuệ hai văn như sớ đã dẫn. Trong thí kia nói, có thể xả thí v.v... xả nghĩa là xả bỏ, trừ dứt. Vì do thí cho nên có thể đoạn sự nghèo khổ đời sau cho người thí. Lại do thí cho nên có thể trừ nghèo thiếu bức bách nhiệt não hiện đời của người nhận.
Lại tuệ độ, luận kia giải thích rằng: Người khác chỗ phát, nghĩa là theo âm ngôn người đến như lý tác ý tương ưng. Tuệ nội chứng nghĩa là tuệ xuất thế gian. Chủng biệt nghĩa là tuệ hậu sở đắc xuất thế gian. Được vắng lặng nghĩa là tuệ trị phiền não trong tu đạo. Thắng đức nghĩa là tuệ hay dẫn phát công đức thù thắng.
Luận: Y chỉ ý lạc tu.
Xét luận Đối Pháp có sáu ý lạc, nghĩa là các Bồ-tát dùng bảy báu đầy cả hằng hà sa cõi. Lại hằng hà sa đồng với thân mạng khoảng sát-na, hoặc trải qua hằng hà sa đại kiếp bố thí một hữu tình nhẫn đến tất cả điều khiến họ đối với Bồ-đề mau thành tu hành. Như vậy với thí sai biệt, Bồ-tát ý lạc vẫn không nhàm đủ gọi là vô nhàm ý lạc. Lại các Bồ-tát khi tu hành thí triển chuyển tương tục không một sát-na có lui sụt có dứt đoạn, nhẫn đến Bồ-đề gọi là quảng đại ý lạc.
Lại các Bồ-tát khi tu hành thí, đối với thí sở nhiếp các hữu tình chỗ sinh vui mừng lớn gọi là hoan hỷ ý lạc. Lại các Bồ-tát khi tu hành thí, quán thí sở nhiếp tất cả hữu tình, đối với thân mình có đại ân đức, không thấy thân mình có ân với người khác, do giúp đỡ ta ba Bồ-đề cho nên gọi là ân đức ý lạc.
Lại các Bồ-tát khi tu hành thí, dù đối với vô lượng các hữu tình khởi phước đại thí mà không mong báo ân của dị thục đời sau gọi là vô nhiễm ý lạc. Lại các Bồ-tát khi tu hành thí sở đắc dị thục thí các hữu tình chứ không vì tự mình. Lại đem phước này cùng các hữu tình hồi hướng Bồ-đề gọi là thiện hảo ý lạc. Các độ chuẩn theo đây mà biết.
Sớ: Bốn y chỉ phương tiện tu cũng có ba loại.
Tức quán tam luân để làm ba.
Luận: Đây là mười nhiếp.
Xét Nhiếp luận ghi: Thế Tôn đối với tất cả sáu thứ Ba-la-mật-đa này hoặc có chỗ sở dĩ thí âm thanh mà nói.
Giải thích: Trong kinh có chỗ dùng một lời thí nhiếp hết sáu độ, tiếng của giới v.v... cũng lại như vậy.
Vô Tánh giải thích: Nghĩa là ở trong tất cả tu Gia hạnh liền có tất cả hỗ tương giúp đỡ, nghĩa là khi tu thí, giới, nhẫn khéo thọ tâm sách tấn chuyên cần, hay khéo rõ biết nghiệp quả tương thuộc. Như vậy trong thí liền có các chuyển. Nếu khi tu giới xa lìa xẻn tiếc, phẫn khuể, giải đãi, tán động, tà kiến, như vậy trong giới liền có các chuyển, tu tập các chỗ cũng như vậy.
Luận: "Y tu hành" đến "lẽ ra làm bốn câu".
Mở rộng quyết trạch hỏi đáp các pháp, nhưng có rộng hẹp sai khác không đồng, do đây trong Đối Pháp quyển 15 nói rõ một hành thuận trước, thuận sau, hai, ba, bốn. Cho nên luận kia ghi: "Một hành, tức pháp hỏi luận, nghĩa là dùng một pháp cùng các pháp mỗi mỗi hỗ tương hỏi xong, trừ pháp này lại dùng pháp thứ hai cùng các pháp hỗ tương hỏi. Như vậy mỗi mỗi hỏi tất cả pháp.
Nay có người hỏi rằng: Nếu thành tựu nhãn xứ cũng là sắc xứ ư? Giả sử thành tựu sắc xứ cũng là nhãn xứ ư? Nên thuận câu trước đáp, các câu mong nhau hỏi, đáp thuận trước sau và dùng bốn câu như lý nên suy nghĩ, như vậy thứ lớp mỗi mỗi lần thành, như lý nên nói.
Thuận câu trước, nghĩa là ở trong các pháp tùy lấy hai pháp lại hỗ tương hỏi, y chỉ pháp trước để đáp câu hỏi. Như có người hỏi: Nếu trí cũng là sở tri ư? Giả sử sở tri cũng là trí ư? Đây nên làm thuận câu trước đáp: Các trí cũng là sở tri, có sở tri chẳng phải là trí, nghĩa là các pháp khác.
Thuận câu sau ấy, nghĩa là tức hai pháp triển chuyển hỏi nhau, y chỉ pháp sau để đáp lời hỏi. Như có người hỏi: Nếu sở thủ cũng là năng thủ ư? Đây nên làm thuận câu sau đáp, các năng thủ cũng là sở thủ, có sở thủ chẳng phải năng thủ. Nghĩa là sắc v.v... năm cảnh là pháp xứ trừ tương ưng.
Hai câu, nghĩa là đối với câu hỏi nên dùng hai câu để đáp, không được có dư. Như có y uẩn kiến lập. y giới kiến lập mà phát lời hỏi rằng: Nếu uẩn số cũng là giới số ư? Lập giới số cũng là uẩn số ư?". Đây nên làm hai câu để đáp: Hoặc uẩn số chẳng phải giới số nghĩa là sắc uẩn thức uẩn, vì sao? Vì có, không một giới toàn nhiếp tướng sắc uẩn, hoặc làm nhiếp tướng thức uẩn, hoặc giới số chẳng phải uẩn số, nghĩa là pháp giới.
Ba câu, nghĩa là đối với lời hỏi chỉ có ba câu đáp. Như có người hỏi: Nếu uẩn số cũng là xứ số? Lập xứ số cũng là uẩn số ư? Đây nên ba câu đáp: Hoặc uẩn số chẳng phải xứ số, nghĩa là sắc uẩn. Hoặc xứ số chẳng phải uẩn số, nghĩa là pháp xứ. Hoặc uẩn số cũng là xứ số gọi là thức uẩn ý xứ.
Đều sai nghĩa là ở trong uẩn và xứ quyết định không có.
Bốn câu, nghĩa là đối lời hỏi dùng bốn câu đáp. Như có người hỏi: Nếu thành tựu nhãn căn cũng là nhĩ căn ư? Giả sử thành tựu nhãn căn cũng là nhĩ căn ư? Nên bốn câu đáp: Câu đầu nghĩa là người điếc, nhãn căn đã sinh không bỏ. Câu thứ hai là người mù, nhĩ căn đã sinh không bỏ. Câu thứ ba là nhãn và nhĩ căn đã sinh không bỏ. Câu thứ tư là trừ sở tướng ở trên.
Câu đáng thuật, nghĩa là đối câu hỏi thuận vậy mà đáp, do lời như vậy gọi là hỏi đáng thuật. Như có người hỏi: Các vô thường đều là hành ư? Giả sử phải là hành đều vô thường ư? Nên thuật đáng đáp chỗ hỏi như vậy.
Câu ngăn dừng, nghĩa là đối với lời hỏi nếu không như vậy mà đáp, do nếu không như vậy nói ngăn dừng câu hỏi. Như có người hỏi: Ngoài uẩn các hành bao nhiêu đế nhiếp ư? Nên ngăn dừng đáp: Ngoài uẩn không có hành.
Sớ: Đây y thỉ nghiệp địa.
Do y thỉ nghiệp địa, người, cho nên thuận câu sau.
Đáp: Nếu y tập quán sáu đều là đốn tu, đều hỗ tương nhiếp.
Luận: Nếu y thuần tạp.
Đối Pháp quyển 12 có hai loại bốn câu. Bốn câu đầu như sớ, bốn câu thứ hai nói: Lại nữa tất cả hành thí đều hay sinh thí Ba-la-mật-đa chủng loại phước ư? Đây nên làm bốn câu: Câu đầu, nghĩa là chỗ hành bố thí không hồi hướng đại Bồ-đề. Câu thứ hai nghĩa là đối với thí Ba-la-mật-đa khuyên gắng, khen ngợi, tùy hỷ, vui mừng. Câu thứ ba, nghĩa là chỗ thực hành bố thí hồi hướng đại Bồ-đề. Câu thứ tư nghĩa là trừ các tướng ở trên. Tuệ v.v... cũng lại như vậy, bốn câu nên suy nghĩ.
Giải thích rằng: Câu đầu, thực hành bố thí chẳng sinh Ba-la-mật-đa loại phước. Câu thứ hai, sinh Ba-la-mật-đa, phước chủng loại nhưng chẳng phải hành bố thí. Câu ba câu bốn có thể biết.
Lại xét Nhiếp luận quyển 7, Vô Tánh giải thích nghĩa tướng nhiếp rằng: Là vì tướng kia, là nhiếp thể tướng, nghĩa là đây thí cùng kia thí lại hỗ tương nhiếp. Là vì tùy thuận, là nhiếp tùy thuận tín v.v... các pháp lành, thí v.v... thiện tâm sở tu, ở trong thí v.v... kia tùy chuyển. Tín v.v.., tức là các thiện, đại địa và niệm trụ đồng pháp Bồ-đề phần. Là vì Đẳng lưu nên nhiếp Đẳng lưu, nghĩa là vô tránh v.v... và mười lực v.v... đây là quả Đẳng lưu đến bờ kia.
Luận: Mười quả này.
Xét Du-già quyển 78 ghi: Tất cả Ba-la-mật-đa quả gì dị thục?
Phải biết đây cũng lược có sáu loại:
1. Được đại tài phú
2. Vãng sinh đường lành
3. Không oán không hoại có nhiều vui mừng
4. Làm chủ chúng sinh
5. Thân không não hại 6. Có tông nghiệp lớn.
Vả lại dùng một quả dị thục để nói rõ, không chướng được các thứ khác. Lại xét Nhiếp luận Vô Tánh giải thích rằng: Giàu sang nhiếp là thí được lợi thù thắng. Đại sinh nhiếp là giới được lợi thù thắng, đường lành thù thắng nhiếp cho nên gọi là đại sinh. Đại bằng đại thuộc nhiếp, là nhẫn được lợi thù thắng, bằng nghĩa là thân tộc, thuộc nghĩa là tôi tớ. Sự nghiệp rộng lớn Gia hạnh thành tựu nhiếp, nghĩa là siêng năng được lợi thù thắng, sự nghiệp rộng lớn nghĩa là luân vương, ở trong đó siêng năng cố gắng gọi là Gia hạnh, chỗ làm đều xong gọi là thành tựu.
Không các tánh não hại, nhẹ mỏng trần cấu nhiếp, là Tĩnh lự sở đắc lợi thù thắng, do vì tự lự cảm được oai lực này khéo biết tất cả. Ngũ minh xứ nhiếp là tuệ được lợi thù thắng.
Luận: Đây cùng Nhị thừa có cộng bất cộng.
Nhiếp luận quyển 7 có bốn thứ thù thắng, rõ ràng cùng Nhị thừa có sai khác. Vô Tánh giải thích rằng: Thù thắng sai khác, nghĩa là các Bồ-tát đủ ba thứ giới, Thanh văn thừa chỉ có một thứ luật nghi thi-la, cho nên Bồ-tát đứng về thù thắng kia. Còn ba thứ thù thắng chuẩn theo đây nên biết, như sớ lược dẫn.
Luận: Định học có bốn.
Sớ phán phân định này chẳng phải Địa tiền được. Có nghĩa gạn hỏi: Cũng chưa thể nương, tuy lại thắng định phần nhiều nương thứ tư, vì cũng có thông nương các địa sinh. Lại không thể do Nhị thừa không chứng được Vô lậu này. Địa tiền Bồtát tất cả tu hành cũng chẳng phải cảnh Nhị thừa biết được. Giới và tuệ học đều thông Địa tiền, vì sao định học chỉ nói Địa thượng? Cho nên thông Địa tiền là thù thắng.
Biện rằng: Ý sớ không nói, nói định học chỉ chứng Vô lậu, nhưng nói rõ luận sở học bốn định chẳng phải tướng Địa tiền. Lại Nhị thừa không biết thông lậu và Vô lậu, nay chỉ lấy nghĩa không biết, chứng định Vô lậu chứ chẳng phải nói Hữu lậu tức họ đều biết. Lại xét Nhiếp luận nói rõ định sai biệt, bốn sai biệt sau nghĩa là đối trị, kham năng, dẫn phát, tác nghiệp, nếu chẳng phải Vô lậu, đâu có khả năng này. Cho nên biết luận kia y cứ Vô lậu định, ở đây nêu định đồng với luận kia, cũng đâu có lỗi. Lại ba học tùy y cứ một thuyết, đâu cần trách đó là một.
Sớ: Lại hay dẫn phát mười hạnh khó làm. Xét luận kia ghi:
1. Tự thệ khó làm: Thệ thọ nguyện vô thượng Bồ-đề.
2. Bất thối khó làm: Sinh tử các khổ không thể lui sụt.
3. Không trái khó làm: Tất cả hữu tình dù hành tà hạnh mà không bỏ.
4. Hiện tiền khó làm: Oán hữu tình sở hiện làm tất cả sự lợi ích.
5. Không nhiễm khó làm: Sinh ở thế gian mà không bị thế gian làm ô nhiễm.
6. Thắng giải khó làm: Ở trong Đại thừa rất sinh tín giải.
7. Thông đạt khó làm: Đủ hay thông đạt Bổđặc-già-la, pháp vô ngã.
8. Tùy giác khó làm: Đối với các lời sâu xa bí mật mà Như Lai đã nói có thể tùy giác.
9. Không lìa không nhiễm khó làm: Không bỏ sinh tử mà không nhiễm.
10. Gia hạnh khó làm: Có thể an trụ giải thoát của chư Phật, tất cả chướng ngại cùng mé sinh tử không tác công dụng, thường khởi tất cả hữu tình, tất cả hành nghĩa lợi.
Luận: Ba tự tánh này.
Nhiếp luận quyển 8 có mười sáu môn, nay lược dẫn rằng: Trong đây trí vô phân biệt lìa năm thứ tướng để làm tự tánh. Bản luận như sớ. Vô Tánh giải thích rằng: Nếu không tác ý là trí vô phân biệt thì nhủ mê, say v.v... lẽ ra thành trí vô phân biệt. Nếu quá tầm tứ địa là trí vô phân biệt thì Tĩnh lự thứ hai trở lên các địa, tất cả dị sinh và Thanh văn v.v... lẽ ra thành trí vô phân biệt. Hoặc tưởng thọ diệt là trí vô phân biệt, trí này thể tướng khó có thể thành lập, trong vô tưởng diệt lìa tâm không có các tâm khác, nếu như sắc kia là trí vô phân biệt, lẽ ra không được thành trí vô phân biệt. Thí như đại chủng tạo sắc, hoặc đối với chân nghĩa dị tướng chấp độ là trí vô phân biệt, trí này không thành tánh vô phân biệt, do đối với chân nghĩa dị tướng chấp độ, nói đây là chân, là vô phân biệt, là có phân biệt. Hai là trí sở y, nghĩa là sở y của trí vô phân biệt chẳng phải nghĩa của tâm chẳng phải nghĩa của tư, cũng chẳng phải phi tâm làm sở y chỉ vì là tâm chủng loại. Dùng tâm làm nhân thường tu tập thế lực, dẫn được địa vị này gọi là tâm chủng loại. Đây tức hiển bày trí sở y tâm, vượt ra ngoài tất cả so lường phân biệt.
Giải thích: Tâm nói thông với mắt, tư chẳng phải suy lường. Ngoài lại riêng dùng tâm suy lường vặn hỏi, trong đáp y cứ hai thứ tâm kia, cho nên nói không y nương. Trí sở y tâm tuy không phân biệt, đây là vô gián trước, chủng loại của tâm cũng được gọi là tâm. Còn lại như sớ dẫn.
Ba là trí nhân duyên, bốn là trí sở duyên, năm là trí hành tướng, đều như sớ dẫn.
Sáu là trí sở trì, nghĩa là trong vô phận biệt Hậu đắc trí được các thứ hành của Bồ-tát, hành này đều dùng trí làm sở y.
Bảy là trí vô phân biệt, ai làm trợ bạn? Nếu chỉ có một lẽ ra không có sở năng, nghĩa là năm độ trước chia làm hai đạo, bốn cái đầu là đạo tư lương, một cái sau là đạo y chỉ làm năng trợ bạn.
Tám là trí vô phân biệt phải ở chỗ nào cảm quả dị thục, nghĩa là ở trong hội chư Phật biến hóa thọ dụng hai thân, đây chẳng phải là dị thục nhân, vì hay trị nó, tức tăng thượng quả giả gọi là dị thục, do đây giúp huân các nghiệp Hữu lậu khiến cảm dị thục, cho nên lập tên này.
Chín là trí vô phân biệt ai làm Đẳng lưu? Nghĩa là trong tiền tiền sinh trí vô phân biệt, sinh xứ hậu hậu triển chuyển tăng thắng là quả Đẳng lưu.
Mười là trí vô phân biệt xa lìa thế nào? Nghĩa là Sơ cực hỷ địa khi nhập kiến đạo, thấy tất cả địa vô phân biệt, lý ban đầu được xuất lý. Sau địa vị tu đạo các địa mới thành.
Mười một là trí vô phân biệt ai là rốt ráo? Nghĩa là trong Sơ địa tuy được ba thân mà chưa thanh tịnh, đến địa thứ mười bèn được thanh tịnh mới gọi là rốt ráo.
Mười hai là trí vô phân biệt như theo đâu, do đâu, vì sao không nhiễm? Nghĩa là như hư không theo vô số cực ác, do tín tuệ giải dùng làm nhân mà được không nhiễm.
Mười ba là Gia hạnh, Căn bản, Hậu đắc ba thứ trí vô phân biệt có sai khác. Tụng rằng: "Như câm cầu thọ nghĩa, như câm chánh thọ nghĩa, như chẳng câm thọ nghĩa, như ngu cầu thọ nghĩa, như ngu chánh thọ nghĩa, như chẳng ngu thọ nghĩa. như năm cầu thọ nghĩa, như năm chánh thọ nghĩa, như Mạt-na thọ nghĩa, như chưa hiểu về luận, cầu luận thọ pháp nghĩa, thứ lớp dụ ba trí, nên biết là Gia hạnh".
Nghĩa gọi là cảnh nghĩa, ban đầu chưa thọ chưa nói, kế đến thọ mà chưa nói, sau thọ cũng nói. Năm thức v.v... là căn cứ vô không phân biệt và có phân biệt. Cầu luận v.v... là y cứ cầu ôn tập thông hiểu để biện. Ý thức nương ý gọi là Mạt-na.
Mười bốn là Căn bản và Hậu đắc hai trí sai khác. Tụng rằng: "Như người đang nhắm mắt, là trí vô phân biệt, khi họ mở mắt lại, Hậu đắc trí cũng vậy".
Mười lăm là trí vô phân biệt thế nào là khéo làm việc lợi hữu tình? Tụng rằng: "Như vui trời Mạt-ni, không nghĩ thành việc mình, các thứ Phật sự thành, thường lìa tư cũng vậy".
Mười sáu là trí vô phân biệt làm duyên phân biệt tánh y tha khởi, làm duyên các cảnh, tự thể cũng vậy, vì trí chẳng phải trí. Nếu duyên y tha vì sao được thành trí vô phân biệt? Nếu duyên cảnh khác, cảnh khác quyết định không, phải duyên thế nào? Là trí lẽ ra có sở tri, chẳng phải trí thì vì sao gọi là trí vô phân biệt? Nghĩa là trí vô phân biệt không duyên y tha, vô phân biệt cũng không duyên thứ khác. Duyên pháp tánh phân biệt này làm cảnh, pháp cùng pháp tánh chẳng phải là một là khác. Cho nên trí này không thể quyết định nói duyên cảnh phân biệt, hay chẳng phải cảnh phân biệt. Tự thể cũng vậy không thể nói rằng quyết định là trí, như Gia hạnh, Hậu đắc vô phân biệt cũng chẳng phải phi trí, dùng trí Gia hạnh làm nhân đầu, trí này cùng cảnh không có tướng sai khác. Như hư không và tất cả ánh sáng trong hư không, cho nên trí này thành vô phân biệt.
Luận: "Như vậy ba tuệ" đến "thảy đều đã xả".
Hỏi: Dưới nói Bồ-tát mỗi mỗi sát-na bốn đạo đều đủ có, vì sao nay nói trong kiến đạo v.v... không có Gia hạnh?
Đáp: Nếu đạo Gia hạnh thông lậu và Vô lậu, thì trí Gia hạnh chỉ là lậu nhiếp, cho nên không nêu, hoặc trí Gia hạnh cũng thông Vô lậu, nay y lậu mà nói cũng không trái nhau.
Luận: "Địa thứ tám trở đi" đến "hiện chỉ có Vô lậu".
Hỏi: Địa thứ tám trở về trước, thiện trong năm thức cũng chẳng phải Vô lậu, vì sao thí v.v... chỉ là Vô lậu?
Đáp: Thiện trong năm thức đã chẳng phải tăng thắng, chẳng phải lập làm độ cho nên không trái nhau.
Luận: Mười nghĩa này loại sai khác vô biên.
Xét luận Du-già quyển 78 rộng có các môn cho nên chỉ nó. Nay lược dẫn rằng: Tổng nói tất cả tướng Ba-la-mật-đa thanh tịnh, phải biết bảy loại:
1. Bồ-tát đối với các pháp không cầu người biết.
2. Đối với pháp này thấy mình không sinh chấp.
3. Tức nơi các pháp như vậy không sinh nghi hoặc, nghĩa là nghi có được đại Bồ-đề hay không.
4. Trọn không khen mình chê người, có sự khinh miệt.
5. Trọn không kiêu ngạo phóng dật.
6. Trọn không vì được chút ít mà sinh vui mừng.
7. Trọn không do các pháp này mà đối với người khởi tật đố tham tiếc.
Lại nói, không tánh nhiễm trước, không tánh luyến tiếc, tánh thẳng hồi hướng rất là rộng lớn. Tánh không tội lỗi, tánh không phân biệt, không có ô nhiễm, suy nghĩ lựa chọn việc làm rất là rõ ràng, đã vào địa pháp không thối chuyển gọi là không thể động. Nếu Thập địa nhiếp, Phật địa nhiếp gọi là tối thanh tịnh.
Lại nói, nhân duyên gì Bồ-tát được Ba-la-mậtđa, các quả đáng ưa, và các Dị thục thường không có hết, Ba-la-mật-đa cũng không có hết? Này Thiện nam tử! Vì lần lượt nương nhau sinh khởi tu tập không gián đoạn.
Lại nói, phải biết tất cả Ba-la-mật-đa đều có bốn thứ uy đức tối thắng:
1. Đối với Ba-la-mật-đa này khi đang tu hành có thể bỏ tâm tham tiếc, phạm giới, giận dữ, biếng nhác, tán loạn, kiến thú sở trị.
2. Đối với khi đang tu hành có thể làm tư lương chân thật của vô thượng chánh đẳng Bồ-đề.
3. Đối với khi đang tu hành, ở trong hiện pháp có thể tự nhiếp thọ lợi ích hữu tình.
4. Đối với khi đang tu hành, ở đời vị lai có thể được các quả dị thục rộng lớn vô tận rất đáng ưa.
Lại nói, phải biết tất cả Ba-la-mật-đa, lấy đại bi làm nhân, các quả dị thục vi diệu đáng ưa nhiêu ích tất cả hữu tình làm quả viên mãn, Bồ-đề rộng lớn vô thượng làm đại nghĩa lợi.
Lại nói, do Bát-nhã Ba-la-mật-đa hay chứng tánh không tự tánh của các pháp.
Luận: Nương chủng kia lập tánh dị sinh.
Hỏi: Nếu vậy thì vì sao ngu tướng ở sau liền nói chấp trước ngã pháp ngu là đều sinh tánh chướng? Lẽ nào ngu này chỉ căn cứ chủng bàn luận?
Đáp: Tánh hẹp chướng rộng, tánh dị sinh chướng liền thông chủng và hiện. Nghĩa là tánh dị sinh và tánh dị sinh chủng loại hiện hành tổng gọi là dị sinh tánh chướng, cho nên không trái.
Sớ: Quyển 66 lập năm Vô ký.
Nghĩa là di thục v.v... là bốn, thêm một tự tánh nữa. Thể tự tánh, nghĩa là các sắc căn trưởng dưỡng và tất cả sắc bên ngoài v.v... chẳng phải dị thục sở nhiếp, trừ thiện, nhiễm ô sắc xứ, thanh xứ. Sớ: "Như thật nghĩa" đến "gọi là tự tướng".
Tổng nêu rõ tự tướng và cộng tướng trong Nhân Minh. Chỉ có tâm phân biệt an lập mới gọi là cộng tướng, nếu phi an lập, giả sử hư không, vô thường v.v... trong uẩn đều gọi là tự tướng, mỗi mỗi đều gá nương vào tự sở y, vì uẩn không thông các thứ khác, tức vô thường v.v... cũng gọi là thật nghĩa, vì khác với tâm phân biệt sở lập kia.
Hỏi: Trong kinh nói hai tướng nghĩa kia thế nào?
Đáp: Thể của năm uẩn v.v... gọi là tự tướng, vô thường, khổ, vô ngã v.v... trong uẩn gọi là cộng tướng. Tuy mỗi mỗi uẩn vô thường v.v... sai khác mà kia đây tương tợ để lập tên cộng, không nói tán tâm phân biệt an lập gọi là cộng tướng, cho nên so với Nhân Minh không đồng.
Hỏi: Hai sư trước sau, nghĩa vì sao lại khác?
Đáp: Đại ý là đồng, rộng lược là khác. Ý nói trong kinh cùng sư trước đồng, chỉ nêu bày Nhân
Minh có khác trước. Nhưng trong sớ nói rằng Nhân Minh luận kia đây không đồng là đều nương Phật Địa mà nêu nghĩa, hai tướng của Nhân Minh luận, kết cùng kinh khác thì nghĩa kinh khác giống với sư trước lại không nói. Cho nên luận Phật Địa nêu Nhân Minh mà tổng kết rằng kinh này không như vậy, cho nên không trái nhau.
Luận: Đoạn hoặc, chứng diệt, kỳ hạn tâm riêng. Hỏi: Nếu Vô gián đạo không chứng diệt, vì sao nói trí vô phân biệt kia là duyên lý trí?
Đáp: Lý sở duyên chỉ có Chân như không gọi trạch diệt, vẫn có thô trọng mà chưa đoạn.
Hỏi: Nếu vậy đoạn hoặc chứng diệt sai khác, vì sao ở sau nói Bồ-tát lợi căn sát-na sát-na đoạn hoặc chứng diệt?
Đáp: Luận kia y dị phẩm mong nhau mà bàn, đây căn cứ một phẩm cho nên không cùng nêu.
Sớ: "Vô gián đạo thô" đến "vì giải thoát được tự tại".
Có nghĩa giải thích rằng: Vô gián đạo khi phục thọ v.v... các thứ vị Giải thoát đạo trừ thô trọng kia.
Sớ: Cũng hiển sở tri chướng đoạn, không được Vô vi.
Biện rằng, nay thêm một giải thích, đoạn sở tri chướng cũng được Vô vi, như Hiển Dương ghi: Tưởng thọ, bất động hai thứ Vô vi, nếu đoạn chướng được trạch diệt sở nhiếp thì chướng kia tức sở tri chướng nhiếp. Lại luận này đoạn sau nói rằng: Thừa nhận vô trụ xứ cũng là trạch diệt nhiếp. Kinh nói ba Thừa không sai khác nhưng y lìa ràng buộc đoạn phiền não mà nói, cũng không trái nhau. Luận: Như nhập hai định nói đoạn gốc khổ.
Tức khổ thọ trong Dục giới dẫn tánh không an ổn gọi là khổ thô trọng. Sức sơ định kém chưa thể phát sinh hỷ lạc và khinh an thù thắng, chưa khắp vui mừng cho nên chưa thể đoạn khổ thô trọng kia. Hai định trái nhau cho nên nó mới đoạn. Lại luận Bà-sa quyển 81 ghi:
Hỏi: Khi lìa dục nhiễm đoạn ái và khổ, Khế kinh vì sao nói định thứ hai lại diệt khổ?
Đáp: Y đối trị lỗi cho nên nói như vậy, nghĩa là lìa dục, nhiễm tuy đoạn gốc khổ mà chưa gọi là qua khổ đối trị. Ở Sơ tĩnh lự khi được lìa dục, quá khổ đối trị cho nên nói khổ diệt khổ đối trị nghĩa là sơ định, rộng như luận kia đã dẫn.
Luận: Lại mười vô minh.
Xét Nhiếp luận ghi: Do đối mười tướng pháp giới sở tri, có mười vô minh sở trị chướng trụ.
Giải thích: Do mười tướng kia hiển Chân như gọi là mười tướng pháp giới. Lại nói, nên biết vô minh như vậy đối với Thanh văn v.v... chẳng nhiễm ô, đối với các Bồ-tát là nhiễm ô. Tên của mười vô minh mỗi mỗi như sau trong sớ đã nêu, chuẩn theo đây nên biết. Dị sinh tánh chướng chẳng phải mười vô minh, do dị sinh tánh chẳng phải Vô ký, cho nên chẳng phải chỉ có trí chướng.
Sớ: Hoặc có chín.
Như trong Sơ địa chỉ đoạn kiến hoặc, nhưng lại không đoạn hoặc của tu đạo, tu đạo chỉ nên có ở chín địa, vì sao luận nói tu đạo Thập địa?
Luận: Bốn chướng vi tế phẩm sau cùng.
Đủ như sớ biện. Có nghĩa gạn hỏi rằng, nên nói địa địa phẩm thứ chín nhiếp, không nên nói là ba phẩm trung hạ.
Biện rằng: Kiến v.v... các hoặc phẩm thứ chín, tất cả lẽ ra là chướng vi tế này, vì là hạ phẩm. Đã có lẫn lộn này cho nên ba phẩm của sớ ngăn lựa chọn rất khéo.
Luận: Hai thân kiến.
Hai giải thích như sớ. Có nghĩa trong pháp chấp, có ngã và có ngã sở hai thân kiến.
Biện rằng: Tuy Tát-ca-da tổng nhiếp ngã sở, xem thế văn này không lấy phẩm ngã sở, vì sao?
Đáp: Rõ ràng hai kiến đã hỏi, làm sao biết chỉ có thứ sáu đồng thời? Đã cùng thứ bảy đối nhau hỏi đáp, thức thứ bảy lẽ nào thừa nhận có ngã sở kiến? Do đây cho nên giải thích thứ hai của sớ là trội hơn.
Sớ: "Dùng mười thứ phương tiện trí" đến "để nhập".
Nhập Địa thứ bảy, mười phương tiện trí kia rộng không chép.
Luận: "Vào Thập địa" đến "sở hàm tàng".
Hỏi: Tất cả công đức trong hậu hậu địa, trong tiền tiền địa cũng được cả chăng?
Đáp: Cũng thừa nhận được, cho nên luận Dugià quyển 48 ghi: Nói như vậy, chi phần công đức trong hậu hậu địa chẳng phải tiền tiền trụ tất cả đều không, nhưng hạ phẩm cho nên không tùy số kia. Phải biết tức nó triển chuyển tu tập thành trung hạ phẩm, đối các địa sau chứng được đầy đủ mới kiến lập.
Sớ: Trong này ý nói đã đoạn xứ.
Hỏi: Nếu căn cứ đã đoạn phiền não lẽ ra cũng nói là Như Lai vị.
Nếu nương chánh đoạn sở tri lẽ ra cũng ở tâm Kim cương, vì sao không đồng?
Đáp: Hai chướng trong Đại luận y cứ ảnh mà lược mà nói. Nói hai chướng kia, một ở Kim cương, một ở Như Lai địa, cũng không trái nhau.
Luận: Trong chân kiến đạo tất cả đều đốn đoạn. Dù ba tâm kiến đạo cũng đốn đoạn, cho nên luận Du-già quyển 59 ghi: Kiến đạo đoạn, phiền não, đốn đoạn chẳng phải dần đoạn, vì sao? Do vì hiện quán trí đế, hiện quán có thể đoạn sở đoạn phiền não của kiến đạo. Nhưng hiện quán này cùng hoại duyên đế tác ý tương ưng, cho nên ba tâm đốn đoạn tất cả mê, khổ đế v.v... kiến đạo đoạn phiền não.
Sớ: Vẫn không thừa nhận chín Vô gián đạo vào căn bản định. Thứ lớp Na-hàm đoạn chín phẩm dục vô gián, đều y Vị chí định khởi.
Luận: "Thông duyên trong ngoài" đến "có đông nhiều".
Có nghĩa gạn hỏi sớ mà tự giải thích rằng: Nay giải thích chung phiền não, sở tri, sáu thức đồng thời là lý do dần đoạn, như Thức thứ bảy ở trước đều giải thích lý do đốn đoạn hai chướng, cho nên biết văn này kết hợp giải thích lý do dần đoạn hai chướng, nếu không như vậy phiền não vì sao không giải thích?
Biện rằng: Thức thứ bảy hai chướng đốn đoạn không sai, kế đến đều nêu rõ lý do đốn đoạn. Sáu thức hai chướng trước sau phân biệt rõ, căn cứ trong phiền não lớn nhỏ có khác, nhỏ tiệm lớn đốn. Kế đến nêu rõ sở tri chỉ là lớn chỉ là tiệm, sau mới giải thích lý do nó dần đoạn. Thế văn đã cách nhau đâu được cùng giải thích tiệm nhân phiền não? Lại phiền não chướng, Bồ-tát đốn đoạn, văn đã tự nêu, nói duyên trong ngoài làm sao hiển đốn ngược lại rõ tiệm? Do đây chỉ biện lý do tiệm sở tri, chỉ bày thô cạn mà thôi.
Luận: Quyết mỗi riêng khởi vô gián.
Hỏi: Bốn nghĩa thế nào?
Đáp: Xét luận Đối Pháp quyển 9 ghi: "Gia hạnh đạo, nghĩa là do đạo này có thể bỏ phiền não, vì sao? Do khi chánh tu đạo như vậy có thể dần các thượng phẩm riêng khác v.v... các phiền não sở sinh, phẩm loại thô trọng một phần dần được chuyển y.
Vô gián đạo, nghĩa là do đạo này không ngừng hằng đoạn phiền não khiến không còn thừa, vì sao? Do Vô gián đạo này có thể hằng trừ bỏ phẩm loại thô trọng do phiền não sinh, khiến không còn thừa. Lại chuyển thô trọng y được không thô trọng.
Giải thoát đạo, nghĩa là do đạo này chứng đoạn phiền não, được giải thoát, vì sao? Do đạo này có thể chứng hằng đoạn phiền não được chuyển y.
Thắng tấn đạo, nghĩa là đoạn trừ phẩm phiền não, tất cả Gia hạnh, vô gián, giải thoát đạo này gọi là thắng tấn, vì sao? Vì đoạn các phiền não hậu phẩm này có được Gia hạnh, vô gián, giải thoát, mong phẩm thù thắng này gọi là Thắng tấn đạo.
Giải thích: Sở đoạn thô trọng tức chủng tử của hoặc, hoặc không kham nhậm. Nói chuyển y tức Thức thứ tám, hay lìa một phần thô trọng trên thức gọi đó là chứng đắc. Hoặc tánh thành thật cũng là chuyển y, nghĩa chứng đồng như trước.
Lại xét Câu-xá ghi: Vô gián đạo là căn cứ đoạn hoặc được vô chướng ngại.
Giải thích: Do đoạn hoặc mà được khiến không đi đến mà sinh, không có sức có thể ngăn ngại Thánh đạo, khiến không chứng diệt, gọi là Vô gián đạo. Do Giải thoát đạo đã đến sinh tướng, quyết định hiện khởi hay chứng diệt. Đã giải thoát hoặc được cùng lìa ràng buộc đồng thời khởi.
Giải thích: Đã giải thoát, được cùng Ly hệ đồng thời mà sinh, chính là chứng quả Ly hệ, cho nên gọi là giải thoát, dụ như thế gian đuổi giặc đóng cửa. Cho nên tùy phẩm nào phải đủ hai đạo, khác với Đại thừa, như trước đoạn hoặc chứng diệt đã giải thích riêng.
Sớ: Đây y thừa nhận, nếu không như vậy liền trái Đối Pháp.
Thừa nhận thắng tấn mà liền riêng khởi, chẳng phải thừa nhận là dùng mỗi mỗi phẩm Gia hạnh, Vô gián, Giải thoát ba đạo làm Thắng tấn đạo. Đối Pháp nói cho nên ý trái có thể biết.
Sớ: "Nếu riêng riêng đoạn" đến "cho nên đủ bốn đạo".
Bàn thể một trí y cứ nghĩa không đồng, chia làm bốn đạo. Thừa nhận, hân cầu tức là nghĩa của Thắng tấn, Gia hạnh.
Sớ: Tức là riêng riêng mong trước.
Đây hiển luận kia y cứ Bồ-tát riêng khởi đạo mà nói, cho nên nói ba loại sau là Thắng tấn của trước, cùng luận này sai khác.
Sớ: "Lại nói" đến "tức Nhị thừa".
Lại kết hợp Đối Pháp, sau nói rõ Thắng tấn y
Nhị thừa mà nói. Xét luận kia ghi: Lại bỏ trừ đoạn phiền não Gia hạnh, hoặc siêng năng phương tiện tư duy các pháp, hoặc siêng năng Gia hạnh an trụ các pháp, hoặc tiến tu các Tam-ma-bát-đề, tất cả đạo gọi là Thắng tấn đạo. Thích luận ghi: Lại nữa là hiển các nghĩa khác. Xả đoạn phiền não, các Gia hạnh đạo, chỉ chánh tư duy các pháp Khế kinh, hoặc lại ở trước trong sở tư duy, sở chứng pháp an trụ quán sát, hoặc lại tiến vào thắng phẩm định. Các điều như vậy gọi là Thắng tấn đạo.
Giải thích: Rõ ràng chẳng phải đoạn hoặc, các Thắng tấn đạo lựa chọn đoạn hoặc Thắng tấn đạo, cho nên nói bỏ xả đoạn phiền não hành. Các văn có thể xét biết.
Sớ: Hoặc gồm thông ba Thừa.
Nêu lại hai văn của Đối Pháp đều thông ba Thừa mà nói.
Sớ: "Nay đã luận" đến "là Thắng tấn trước".
Hiển luận này nói Thắng tấn của Nhị thừa. Nói hoặc tổng nêu nghĩa là đồng hậu phẩm ba đạo của Đối Pháp kia đều là Thắng tấn trước.
Sớ: "Nếu không như vậy" đến "vì là thắng tấn". Lại hiển luận này hoặc tổng biệt nói không đồng Đối Pháp đứng về phẩm sau mà nói. Nếu không như vậy là sơ phẩm đến tất cả phẩm đạo sau đều thù thắng hơn ở trước. Đây tức không có, chẳng khởi hoặc biệt hoặc tổng hai Thắng tấn đạo, đã không như vậy sẽ không đồng luận kia. Hoặc nói tổng là nêu không nhất định, nghĩa như sớ đã biện. Đối Pháp không nói hoặc tổng biệt, thừa nhận có khi không khởi Thắng tấn đạo.
Sớ: Được mười ý lạc bình đẳng tịnh tâm. Xét luận Thập Địa quyển 7 ghi:
1. Phật quá khứ bình đẳng tâm nhiễm tịnh
2. Phật vị lai
3. Phật hiện tại
4. Giới định
5. Tâm tịnh
6. Trừ kiến nghi hối tịnh
7. Đạo phi đạo trí tịnh
8. Hạnh đoạn trí tịnh
9. So lường tất cả pháp Bồ-đề phần thượng thượng tịnh
10. Hóa độ tất cả chúng sinh tịnh.
Luận kia giải thích: Ở trong bình đẳng tâm được thanh tịnh là pháp chư Phật và tùy thuận pháp chư Phật, nghĩa là tâm thứ nhất chư Phật ba đời mười phương tức là pháp chư Phật, bảy tâm còn lại tùy thuận pháp chư Phật. Phật pháp nhân giới, định, trí tuệ này giáo hóa chúng sinh thành tựu, giới tức thứ tư, định tức thứ năm. Tâm thứ sáu, bảy, tám, chín, gồm trí tịnh nhiếp.
Giải thích: Đối với Tam bảo lìa tâm nghi hoặc, biết Phật nói đạo có thể xuất ly, ngoài đạo chẳng phải đạo không thể xa lìa. Lại cho là ta nên đoạn hạ trung hành, mà phát khởi thánh hành thượng diệu, như thứ tự là tướng sáu, bảy, tám kia.
Sớ: Bất hành, Khế kinh v.v... trong vô số pháp tướng.
Do vì biết pháp vô tướng, không vì có tướng hành. Đối Khế kinh v.v... trong các pháp tướng, xem Khế kinh v.v... là có tướng.
Luận: Tám không tăng giảm Chân như.
Như sớ biện đủ. Nhiếp luận, Trung Biên cùng này đồng khác, có nghĩa tự giải thích, lại gạn hỏi sớ rằng: Ban đầu nên chánh đồng như Thế Thân nói, vì nghĩa không sai khác. Giải thích sau của Vô Tánh cũng đồng với đây, không thể như sớ nói đây kia sai khác.
Biện rằng: Mói xem qua dường như đồng, xét cùng lý thì có hơi khác. Nhiếp luận thẳng y cứ đoạn nhiễm được tịnh, rõ ràng không tăng giảm. Đây căn cứ lìa chấp nói rõ không có tăng giảm, liền đồng Trung Biên. Do chứng như đây mà lìa nơi chấp, không thấy một pháp lại có tăng giảm. Nêu sở kiến của họ là pháp không từng tăng giảm để hiển Chân như. Chân như không tăng giảm là Y chủ thích, do đây mà nói ý sớ rất xa.
Luận: Tức đây cũng gọi là tướng tự tại.
Hỏi: Tướng tự tại này tức trong bốn tự tại của Trung Biên, thuộc về vô phân biệt, vì sao tướng này gọi là vô phân biệt?
Đáp: Vì trí vô phân biệt khởi, từ nhân mà gọi. Luận này nói tướng là y quả mà gọi, cho nên không trái nhau.
Luận: Hữu lậu từng tu tập.
Hỏi: Do đâu từng tu tập không thể đoạn hoặc?
Đáp: Nói từng tu tập là từng chứng đắc. Đạo từng tu tập này nếu có thể đoạn, đã lẽ ra hai chướng từ vô thỉ không thành. Do đạo năng trị trước đã khởi, tuy đạo từng đắc mà chướng không mất, cho nên biết từng tu tập chẳng phải năng đoạn.
Sớ: "Nhưng căn cứ duyên ràng buộc"đến "có thể nói địa đoạn".
Hiển sở tri chướng mà không thể nói thượng, hạ, tự, tha đoạn sai khác. Do chẳng phải tương ưng, sở duyên ràng buộc không đồng hoặc chướng.
Sớ: "Đây tức ở dưới đoạn trên" đến "chẳng phải pháp ràng buộc".
Ở đây nói tức là sở tri chướng. Nói chẳng phải nhuận sinh, chẳng phải pháp ràng buộc là hiển phiền não khác, cho nên ở trên dưới tùy đoạn dưới trên, lý cũng không trái.
Sớ: "Lại giải thích" đến "loại lẽ ra cũng như vậy". Loại đồng phiền não, đoạn có thứ lớp.
Sớ: "Tức hai chướng" đến "mỗi mỗi có bốn câu".
Do loại sở tri chướng đồng phiền não đoạn có thứ lớp, cho nên tướng sáu và bảy của sở tri chướng mong nhau cũng thành bốn câu. Bốn câu tác pháp đồng phiền não mà nói, chỉ đổi tên của nó, suy nghĩ có thể biết.
Luận: "Tất cả hữu tình" đến "có thể nói đủ bốn".
Hỏi: Vô trụ Niết-bàn, Bồ-tát chứng chăng?
Đáp: Trong truyện có hai giải thích:
1. Không được. Luận này nói vì ra khỏi sở tri chướng mà chứng đắc, nếu vậy Nhiếp luận nói làm sao để hiểu? Luận kia cho là vì Bồ-tát có vô trụ.
Giải thích: Vô trụ Niết-bàn do Bồ-tát chứng chẳng phải kia đã được. Như vị tu tập nói được chuyển y chẳng phải đã được.
2. Thừa nhận được. Phần đoạn sở tri hiển Chân như là sở y của bi trí. Có nghĩa xác quyết rằng: Nay y giải thích trước nói ra khỏi phiền não được sở y khác cần phải toàn xa lìa. Nói ra khỏi sở tri chướng được vô trụ xứ, rõ ràng chẳng phải nhân được.
Biện rằng: Giải thích sau là thù thắng. Nói ra khỏi sở tri lại có hai nghĩa: Một là hoàn toàn ra khỏi gọi đó là ra. Ở đây nói người thù thắng là hiển bày Bồ-tát, nói các y khác là nêu Nhị thừa để hiển nơi Phật. Hai là từng phần hay hoàn toàn đều gọi là ra. Cũng như tam Thừa, kiến đạo, tu tập, Vô học tam Vô lậu đạo đều gọi là xuất thế. Do đây có chỗ khác nói chướng hằng vắng lặng, vô trụ thì không như vậy, nếu muốn chướng hết thì lẽ ra đồng như luận kia nói chướng hằng vắng lặng, đã không như thế, cho nên khác với trước, không thể làm dụ.
Lại do bi trí không trụ nơi hai, lý sở chứng gọi là vô trụ xứ, Địa thứ năm đã đoạn trái với ngu sinh tử vui Niết-bàn, mà do chứng lý vô sai khác kia, điều này lẽ đâu không gọi là nghĩa vô trụ? Huống gì Nhiếp luận nói là có, lẽ nào tùy tình mình mà gượng nói thông thánh giáo?
Luận: "Nếu Thanh văn" đến "nói kia chẳng có". Xét kinh Thắng Man ghi: A-la-hán, Bích-chiphật sinh pháp hữu dư bất tận, cho nên có sinh.
Giải thích: Rõ ràng ngã sinh đã tận, trí không rốt ráo, liền biết khổ trí, biết khổ trí có hai: một là biết phần đoạn, hai là biết biến dịch.
Nhị thừa đoạn, ban đầu chưa đoạn biến dịch cho nên nói có sinh, có các phạm hạnh khác thành cho nên không thuần.
Giải thích: Phạm hạnh đã lập không rốt ráo tức chứng diệt trí. Niết-bàn gọi là Phạm, chứng nhân Phạm gọi là phạm hạnh, phạm hạnh có hai:
1. Phần đoạn nhân hết hiển Hữu dư y, phần đoạn quả hết hiển Vô dư y.
2. Quả biến dịch hết hiển Vô dư y, Vô lậu y còn hiển Hữu dư y.
Nhị thừa định tánh và bất định tánh, ở trong thứ nhất trước được có toàn phần, không được thứ hai, tuy có sở thành mà làm nhân quả biến dịch, nhân quả tạp cho nên gọi là không thuần, sự không rốt ráo cho nên sẽ có sở tác.
Giải thích: Chỗ làm đã xong không rốt ráo là trí tu đạo. Tu đạo có hai: một là trị phần đoạn, hai là biến dịch. Nhị thừa chỉ tu phần đoạn đối trị, còn các trị khác chưa tu, cho nên sự không rốt ráo. Vì sự không rốt ráo nên phải có sở tác, không vượt qua kia cho nên phải có sở đoạn.
Giải thích: Không thọ quả báo đời sau chẳng rốt ráo. Đây là trí đoạn tập, sở đoạn có hai: một là nhân phần đoạn, hai là biến dịch. Nhị thừa đoạn nhân ban đầu và thứ hai gọi là không qua bờ kia, không qua bờ kia cho nên cần phải đoạn. Vì không đoạn nó, cho nên nói cách quả Niết-bàn xa.
Giải thích: Do bốn trí trước đều không rốt ráo, cách đại Niết-bàn của Như Lai rất xa, nêu trí thứ tư hiển ba trí trước.
Luận: Chẳng phải trạch diệt nhiếp nói là tạm lìa.
Tức luận Hiển Dương quyển 18 ghi: Nghĩa là phi trạch diệt v.v... bốn loại Ly hệ, nghĩa là duyên giải thoát rốt ráo lìa Ly hệ, chọn lựa phiền não rốt ráo lìa Ly hệ, khổ vui tạm thời lìa Ly hệ, tâm tâm pháp tạm thời lìa Ly hệ. Giải thích phi trạch, trạch diệt, bất động, thọ tưởng, như thứ lớp làm bốn. Hai loại sau đã nói là tạm thời lìa Ly hệ, rõ ràng là trong bốn thứ phi trạch diệt nhiếp.
Sớ: "Đối Pháp" đến "không thể làm vặn hỏi".
Đây ngăn vặn hỏi. Ý vặn hỏi cho rằng, xét Đối Pháp ghi: Có hai thứ nên đoạn pháp, nghĩa là các phiền não và sở y thọ này. Thọ có hai loại, nghĩa là biến dịch và không biến dịch, như thứ lớp khổ vui chẳng khổ vui kia. Phải biết phiền não đoạn cho nên kiến lập trạch diệt. Hai thọ đoạn cho nên như thứ lớp kiến lập bất động và tưởng thọ diệt kia. Đã nói đoạn thọ được hai Vô vi, hai Vô vi như thế nào? Không là trạch diệt nhiếp ư? Ý sớ giải thích chủng đoạn hiện dứt đều gọi là đoạn. Thọ v.v... y cứ hiện tạm nên không hành, nếu không như vậy thì ở trong trạch diệt vì sao không nhiếp bất động và tưởng thọ kia? Đã khai không nhiếp, rõ ràng chẳng phải là trạch.
Sớ: Không đồng Hữu lậu.
Ngăn tông Tiểu thừa chống chế, tông Tiểu thừa chống chế rằng: Tông Đại thừa của ông Hữu lậu đoạn hoặc cũng chỉ chẳng phải trạch, vì sao trách ta bất nhiễm vô tri được phi trạch diệt? Ý đáp dễ biện.
Luận: Nhiếp quán vô lượng.
Đều giải thích như sớ. Có nghĩa quán là tên quán, tức là niệm trụ v.v... vì nó có thể giữ gìn niệm trú quán. Luận Phật Địa ghi: Nếu đứng về tướng thô, Diệu quan sát trí nhiếp, Tứ niệm trụ quán sát tất cả thân, độ các pháp.
Biện rằng: Lý đã nhiều đường, hai nghĩa đều được.
Sớ: Nay nói vị nhân quả thông.
Nay là nói thông hai vị nhân và quả, đều có hai mươi hai. Tầm và tứ chỉ có nhân không thông quả, cho nên không nói.
Luận: Chuyển Hữu lậu này có năm, sáu, bảy, tám.
Hỏi: Luận Trang Nghiêm tụng rằng: "Thức tám, bảy, sáu, năm; như thứ lớp mà được", tức chuyển năm thức thành Diệu quan sát, vì sao lại trái nhau?
Đáp: Phật Địa quyển 3 có hai sư giải thích, nghĩa đồng với đây. Sư thứ hai nói: Chuyển Thức thứ sáu làm Thành sở tác trí, chuyển năm thức trước thành Diệu quán sát trí. Chánh nghĩa phá rằng: Đây không nên vậy, vì chẳng có thứ lớp. Chuyển pháp trừ nghi ra thì cùng khắp Quán sát chẳng phải dụng của năm thức.
Giải thích: Ý sư thứ hai đồng với luận Trang Nghiêm, chánh là hiển luận Trang Nghiêm kia nói chẳng phải thứ lớp, cho nên không trái nhau.
Luận: Trí tuy chẳng phải thức.
Phật Địa quyển 3 đại ý đồng với đây, nhưng giải thích hơi rộng hơn, và hiển tương ưng tổng gọi là trí. Luận kia nói bốn trí như vậy chuyển pháp nào được? Nhiếp Đại Thừa nói chuyển thức uẩn được. Vì sao chuyển tâm mà được tâm pháp? Chẳng phải được tâm pháp vì bốn tâm trí Vô lậu tương ưng giả gọi là trí, cho nên luận hỏi: Chánh trí phải nói là thật có hay phải nói là giả có?
Đáp: Phải nói đều có. Trong này trí là thật có, nếu trí quyến thuộc của các tâm, tâm pháp cũng gọi là trí, nói đó là giả, cho nên có hai loại. Trong này Vô lậu tâm, tâm pháp các trí làm chủ, cho nên đều gọi là trí, chuyển thức uẩn y được bốn trí Vô lậu tương ưng tâm, nghĩa là Đại viên cảnh tâm nhẫn đến Thành sự tác tâm.
Sớ: "Vì sao Thức thứ tám" đến "thứ năm thì không như vậy?",
Đây vặn hỏi giải thích ban đầu. Vì sao do thức thứ tám duyên ở định sắc? Định sắc dẫn cho nên sở biến tức thuộc pháp xứ định sắc. Năm thức cũng duyên định sắc làm chất, sở biến tức chẳng phải thuộc về pháp xứ sắc.
Sớ: Năm gọi là tán năm thường duyên.
Đây là lời đáp. Một là tánh tán động, hai là thường duyên năm trần làm cảnh, không đồng Thức thứ tám, cho nên sở biến sắc thuộc về năm trần.
Luận: Lại đây là thường v.v...
Có nghĩa luận nói, sở y thường nghĩa là cảnh sở duyên. Do vì cảnh thường giả nói trí thường, cho nên kinh Niết-bàn ghi: Thầy của chư Phật là pháp, do pháp thường cho nên chư Phật cũng thường. Nói không đoạn tận là tổng giải thích bốn trí là nghĩa thường. Tương tục không gián đoạn cho nên gọi là vô đoạn. Hậu tế không có cho nên gọi là vô tận, không cần riêng phối ba thân mà nói. Biện rằng: Tuy luận này chánh căn cứ bốn trí nói đoạn tận, nhưng thân thể lìa bốn trí là không, cho nên không đoạn tận, tổng phối hợp nơi thân, lý lẽ ra cũng khéo. Trang Nghiêm luận có thuyết này. Luận: Pháp thân như vậy có ba tướng sai khác. Hỏi: Ba thân như vậy Phật Phật đồng thể, thường hay vô thường?
Đáp: Tự tánh thân đồng, nghĩa các thân đồng, cũng được gọi là đồng, tuy đều nói là thường nhưng thường có sai khác. Cho nên luận Trang Nghiêm ghi: Ba thứ thân kia chư Phật thảy đều bình đẳng vì do y, cho nên tất cả chư Phật tự tánh thân bình đẳng vì pháp giới không sai khác. Do tâm cho nên tất cả chư Phật sắc thân bình đẳng, vì Phật tâm không khác. Do nghiệp cho nên tất cả chư Phật hóa thân bình đẳng, vì đồng một sở hóa cho nên tất cả chư Phật đều đồng thường trụ. Do vì tự tánh thường nên tất cả chư Phật tự tánh thân thường, vì rốt ráo Vô lậu. Do vô gián thường nên tất cả chư Phật sắc thân thường trụ, vì nói pháp không dứt đoạn. Do tương tục thường nên tất cả chư Phật hóa thân thường trụ, tuy ở đây diệt lại hiện ở kia.
Luận: Hai tha thọ dụng do bình đẳng thị hiện. Trong truyện có ba giải thích:
1. Quán sát kích phát Bình đẳng cho nên thị hiện.
2. Bình đẳng kích Viên cảnh trí mà khiến thị hiện, do nó năng kích phát nên nói là bình đẳng hiện.
3. Bình đẳng tự có thể thị hiện, không nhờ tha kích phát cũng không kích phát tha.
Biện rằng: Giải thích sau là chính. Đã là trí tự tại chẳng phải chỉ có căn bản, hiện tướng thân cõi, lý nào không thể. Giải thích thứ hai lý thông vì cảnh trí là gốc, giải thích thứ nhất là sai.
Luận: Ba biến hóa thân đến các sự lợi lạc.
Hỏi: Luận Du-già quyển 79 nói Địa tiền Bồ-tát không sinh tịnh độ, Nhiếp luận cũng nói người sinh tịnh độ là ý khác thời, vì sao nay lại nói hóa ở tịnh độ vì chưa lên Bồ-tát địa?
Đáp: Trong truyện có hai giải thích:
1. Nhị thừa, dị sinh cũng sinh. Quán kinh v.v... đều nói thành thật. Du-già, Nhiếp luận nói không sinh là y cứ Thọ dụng độ không ngăn Hóa độ.
2. Không sinh, vì Du-già, Nhiếp luận đứng về tự hiểu, lại kinh Đại Thừa Đồng Tánh ghi: Tịnh độ thành Phật đều là thọ dụng thân, trong uế độ đều là Hóa thân. Cho nên biết cõi mà Hóa thân cư trú không được gọi là tịnh. Đây nói tịnh độ là y cứ tạm biến, tức như kinh Pháp Hoa nói ba biến cõi tịnh. Kinh Duy-ma v.v... đồng.
Biện rằng: Nay đồng thuyết trước vì nhiều kinh luận nói sinh tịnh. Trong kinh Đồng Tánh vì đối với Hóa thọ dụng mà gọi là uế, cũng không trái nhau.
Luận: Luận nói chuyển bỏ A-lại-da thức được tự tánh.
Nhiếp luận ghi: Nên biết pháp thân do bao nhiêu Phật pháp nhiếp trì? Một do thanh tịnh gọi là chuyển A-lại-da thức được pháp thân. Cho nên biết cảnh trí tự tánh thân nhiếp.
Luận: Phẩm viên cảnh trí mà chứng đắc.
Nhiếp luận Vô Tánh quyển 9 giải thích: Phải biết trong này chuyển A-lại-da thức cho nên được Đại viên cảnh trí.
Luận: Nói Bình đẳng trí.
Nhiếp luận Vô Tánh quyển 9 ghi: Chuyển Mạtna nhiễm ô được thành Bình đẳng tánh trí, do đây an trụ Vô trụ Niết-bàn, đại từ đại bi hằng cùng tương ưng, khéo vì sở thích của chúng sinh mà hiện hình bóng Phật.
Lại nói, Diệu quán sát trí đầy đủ tất cả môn Đàla-ni, môn Tam-ma-địa, dụ như kho báu, ở trong đại hội hay hiện tất cả tác dụng tự tại, hay đoạn các nghi, hay rưới mưa pháp.
Lại nói, Thành sở tác trí khắp ở mười phương tất cả thế giới hay hiện biến hóa, tám tướng Thành đạo, hay hiện giữ gìn tất cả sự lợi lạc cho hữu tình. Luận: "Nhưng nói chuyển bỏ tạng thức" đến "thật tánh kia". Xét luận Vô Tánh quyển 9 ghi: Do thể pháp thân kia thanh tịnh, tịnh thì ai chuyển ai mà được thanh tịnh? Vì đáp câu hỏi này nên nói như vầy: Chuyển A-lại-da thức được pháp thân. Do A-lại-da thức giữ gìn tất cả chủng tử tạp nhiễm, khi đối trị khởi, chuyển diệt tất cả chủng tử nhiễm như vậy, chuyển được tùy thuận tất cả công đức vô tội viên mãn. Thí như thuốc A-yết-đà ở thế gian có thể biến độc trở thành không độc, cho nên gọi là chuyển.
Luận: "Bình đẳng trí phẩm" đến "nhiếp Biến hóa thân".
Hỏi: Xét kinh Phật Địa ghi: Quán sát trí ở trong đại chúng rưới mưa pháp lớn, nói pháp đoạn nghi, cho nên khởi Hóa tướng, thuộc thân gì?
Đáp: Y thọ dụng tha, vì Thánh Bồ-tát nói pháp v.v... là thuộc về tha thọ dụng, y nơi Hóa thân nhiếp cũng như vậy.
Hỏi: Đại viên cảnh trí duyên tướng sở biến của hai thân khác, còn ba trí khác duyên tướng sở biến của tự thọ dụng, đều thuộc thân gì?
Đáp: Viên cảnh trí biến tất cả của hai thân độ khác có hai giải thích:
1. Cũng là tự thọ dụng nhiếp, do cực vi tế chẳng phải cảnh kia, do hai trí này tự biến hai thân, chẳng phải kích phát Thức thứ tám mà khiến nó hiện.
2. Sở biến tùy chất hai thân độ nhiếp, nếu ba trí khác duyên tự thân độ tướng sở biến thì tự thân độ nhiếp chẳng phải là tha.
Luận: Nói Viên cảnh trí là Phật thọ dụng.
Hỏi: Đây tức trong luận Trang Nghiêm nói, sư trước làm sao hiểu mà giải thích?
Đáp: Nay vì nói chung rằng, do nhờ sức duyên Viên cảnh trí mới được thọ dụng, y cứ sở nhân mà nói, cũng không trái nhau.
Luận: Ba nghiệp hóa thân.
Xét kinh Phật Địa ghi: "Thân, ngữ và tâm hóa nghiệp phương tiện khéo léo" Luận kia quyển 7 ghi: Đây hiển Thành sở tác trí khởi ba nghiệp hóa, do trí này có thể dùng phương tiện khéo léo hay khởi thân, ngữ và tâm ba nghiệp hóa.
Thân hóa có ba loại:
1. Tự thân tương ưng, nghĩa là hóa tự thân làm vô số hình loại như Luân vương và hiện các thứ sự bản sinh.
2. Tha thân tương ưng, nghĩa là hóa ma vương làm thân Phật, biến Xá-lợi tử làm Thiên nữ v.v... nương trên thân khác thị hiện các thứ hình loại biến hóa.
3. Phi thân tương ưng, nghĩa là hiện đại địa làm bảy báu, hoặc hiện vô lượng hóa thân Phật, hoặc phóng hào quang chiếu vô lượng cõi. Các loại như vậy lìa thân tự tha riêng biến hóa làm vô số hình loại tình và phi tình sắc. Các việc như đất chấn động, phóng quang, tỏa hương thơm... đều vì lợi lạc các hữu tình, tất cả đều gọi là thân Phật hóa nghiệp.
Ngữ nghiệp cũng có ba:
1. Tự thân tương ưng, nghĩa là Phật tự thân hóa hiện Phạm âm bảo khắp vô biên các thế giới, vo số ngữ nghiệp.
2. Tha thân tương ưng, nghĩa là khiến Thanh văn đại đệ tử dùng Phạm âm Phật tuyên nói diệu pháp Đại thừa sâu xa. Cho nên Thanh văn, các Bồtát v.v... nói chẳng phải diệu pháp sâu xa của phần mình mà đều là Như Lai biến hóa làm ra chứ chẳng phải sức của tự họ.
3. Phi thân tương ưng, nghĩa là hóa các loại biển lớn, cỏ, cây v.v... nhẫn đến hư không cũng phát ra âm thanh nói đại pháp. Như vậy đều gọi là biến hóa ngữ nghiệp.
Ý hóa chỉ có hai:
1. Tự thân tương ưng, nghĩa là trên tự tâm hóa các thứ tâm và tâm pháp ảnh tượng sai khác.
2. Tha thân tương ưng, nghĩa là khiến tâm người cũng hiện vô số tâm và tâm pháp ảnh tượng sai khác. Đây là tướng phần tợ kiến phần hiện.
Hỏi: Vì sao không hóa phi tình khiến tâm tướng hiện?
Đáp: Phi tình đã là tâm, đồng tướng phần, vì sao lại khiến có tâm tướng hiện? Nếu tâm tướng hiện thì gọi là hữu tình chẳng phải phi tình, cho nên hóa tâm chỉ có hai loại.
Hỏi: Đã thừa nhận hóa làm phi tình sắc tướng như hóa Phật v.v...
Ở đây hiện tâm nói chẳng phải thân hóa, đây có lỗi gì?
Đáp: Sắc có lìa chất hóa, thông phi thân, tâm pháp thì không như vậy, không có phi thân hóa. Luận kia lại có sư cho rằng, tâm không thể hóa, chỉ do định lực có thể khiến tự tâm hiểu, chẳng phải phần pháp gọi là hóa tự tâm. Nếu giúp đỡ người khiến kẻ ngu muội hiểu pháp sâu xa, khiến người cuồng điên được tỉnh lại, gọi là hóa tha tâm. Giải thích là chính.
Luận: "Nghĩa là tự tánh thân" đến "lìa tạp nhiễm".
Lìa tạp nhiễm là hiển không thể khởi tham khuể. Cho nên sớ y không khởi tham v.v... này và nói lẽ ra là cây, đá, và dùng đó làm vặn hỏi, không vặn hỏi thật tánh trong cây, đá, vì thật tánh cũng là thể Chân như. Có nghĩa nói, nhưng sớ nói pháp thân chuyển y Chân như thuận sinh công đức bốn trí Vô lậu vì trong thân hữu tình sẽ có thể thuận sinh, cũng được nói đủ có hằng sa công đức. Tánh cây, đá chẳng phải hiện không thuận, sẽ cũng không có nghĩa thuận sinh. Lại lẽ ra phải nói tánh của cây đá tức pháp thân Phật, vì pháp thân Chân như thể tròn khắp.
Biện rằng: Tuy lập giải thích này nhưng chẳng phải bản ý của sớ, bản ý như trước.
Luận: Tự thọ dụng thân chỉ có tự lợi.
Hỏi: Do tự thọ dụng mới có tha hóa, lại cùng hữu tình không làm chướng ngại, làm y tăng thượng, hai nghĩa đã đủ, vì sao chỉ có tự lợi?
Đáp: Tự tánh thân kia chẳng phải chỉ có hai nghĩa, lại là cảnh các Thánh đã chứng. Tự thọ dụng thân chẳng phải các hàng khác biết được, cho nên không nêu. Nhưng thật ra chẳng phải không có nghĩa lợi tha, đứng về nghĩa tăng thắng cho nên không có lỗi.
Luận: Tự tánh thân độ.
Đây nói rõ thân độ chư Phật đồng và khác. Trong các Thánh giáo đứng về nghĩa không đồng, nên có đồng dị, đều không trái nhau. Vả lại luận Trang Nghiêm ghi: Do y tâm, nghiệp nên ba thân đều bình đẳng.
Giải thích: Ba thứ thân kia thứ lớp như vậy, tất cả chư Phật thảy đều bình đẳng, do y cho nên tự tánh thân tất cả chư Phật bình đẳng. Pháp giới không sai khác, do tâm cho nên sinh thân tất cả chư Phật bình đẳng. Phật tâm không sai khác, do nghiệp cho nên hóa thân tất cả chư Phật bình đẳng vì đồng một sở tác. Nếu theo Phật Địa quyển 7 thì ba thân chư Phật đều có đồng và khác, cho nên luận kia ghi: "Pháp thân tất cả Như Lai cùng có cho nên không sai khác". Đứng về nhân năng chứng có sai khác, cho nên giả nói là sai khác. Còn hai thân kia đều riêng nhân cảm, đều riêng tự tánh thật có sai khác, nhưng không riêng chấp. Đồng xứ tương tợ, lợi lạc ý lạc, sự nghiệp bình đẳng nói là không sai khác.
Lại xét Nhiếp luận cũng có đồng và khác, quyển 9 ghi: Pháp thân chư Phật phải nói có khác, phải nói không khác. Y chỉ, ý lạc, nghiệp không riêng khác, phải nói không khác.
Giải thích: Đồng luận Trang Nghiêm. Lại vô lượng thân Phật hiện Đẳng giác cho nên phải nói có khác. Đây hiển pháp thân căn cứ năng chứng nói đồng luận Phật Địa. Lại nói, vô lượng Phật thân sai biệt chuyển cho nên phải nói có khác, hóa thân cũng vậy, tức luận này căn cứ sắc thân mà nói, y cứ có khác mà nói.
Luận: Hai thân độ khác có cộng và bất cộng.
Phật Địa quyển 7 có ba sư nói, đây đồng với chánh nghĩa thứ ba. Luận kia rất rộng, nay lược rằng: "Tất cả Như Lai giáo hóa hữu tình là cộng và bất cộng". Có nghĩa đều cộng, do mỗi mỗi Phật đều độ tất cả, phước đức, trí tuệ tất cả bình đẳng, đồng vì cứu giúp hữu tình cầu Bồ-đề, như nói một Phật giáo hóa hữu tình tức tất cả Phật. Có nghĩa bất cộng, do Phật giáo hóa hữu tình loại bản thuộc nhau, vì thế vào thời Phật Để-sa, Như Lai từng cùng Từ Thị đồng làm đệ tử, Phật quán căn lành hữu tình mà Thích-ca giáo hóa thuần thục trước, giáo hóa hữu tình của Từ Thị thuần thục sau. Từ Thị nhân đầy đủ trước, Thích-ca đầy đủ sau, nên Phật Để-sa liền nhập Hỏa quang định khiến Thíchca khen ngợi, vượt lên thành Phật trước. Phật sắp nhập diệt nói "những người đáng độ đều đã độ xong".
Lại Khế kinh ghi: "Quán một sự giáo hóa ở Hữu đảnh xứ hóa lưu một thân, họ từ chỗ kia chết sinh lại trong này. Hóa thân sở lưu vì họ nói diệu pháp khiến thành La-hán.
Như thật nghĩa là có cộng và bất cộng. Nếu giáo hóa chúng sinh một bề cộng thì đâu cần nhiều Phật, vì một Phật có thể giáo hóa tất cả chúng sinh. Nếu giáo hóa chúng sinh một bề bất cộng thì Bồtát không nên phát thệ nguyện rộng lớn thờ phụng nhiều chư Phật tu học Đại thừa, chư Phật không nên đem sở giáo hóa của mình phó chúc cho Phật sau.
Sớ: Năng biến đó là không có uế phiền não.
Hỏi: Địa thứ bảy trở về trước, phiền não vẫn khởi vì sao nói không có uế phiền não?
Đáp: Tuy có phiền não đều là vì lợi ích, đủ vô lượng đức cho nên không bị lỗi làm dơ uế.
Sớ: Bản chất thông tịnh uế.
Phật sở biến chất tương tợ như nhiễm nên gọi là uế.
Sớ: Tướng gọi là chẳng thuận lý.
Đây hiển lý do biết tướng chưa hẳn đều đồng. Tánh tướng thuận cho nên kiến và tướng đồng tánh, chẳng phải tướng thuận tức sắc tâm v.v... các thứ sai khác.
Sớ: Không thể Hữu lậu đồng Vô lậu.
Vặn hỏi rằng: Vô lậu kiến, tướng thiện v.v... các thứ đồng tánh, Hữu lậu hai phần khác tánh chủng vì sao không đồng?
Đáp: Trói buộc và không trói buộc sai khác, không thể làm vặn hỏi.
Sớ: "Hỏi" đến "Hữu lậu Vô lậu hẳn đồng".
Kiến và tướng hai phần Hữu lậu Vô lậu ý gì ắt đồng?
Đáp: Thuận nhau, đồng lậu và Vô lậu có thể gọi là thuận nhau, lỗi một lậu Vô lậu nghĩa thuận nhau. Sớ: Ba thân đối nhau bốn câu.
Xét luận kia ghi: Ba thân như vậy có bốn phần cho nên được làm bốn câu.
1. Thọ dụng chẳng phải biến hóa: Nghĩa là tự lợi phần thật thọ dụng thân.
2. Biến hóa chẳng phải thọ dụng: Nghĩa là biến hóa thân, vì giáo hóa Địa tiền tạp loại sinh. Hoặc thô hoặc diệu, hoặc khiến vui mừng, hoặc khiến sợ sệt, chuyển đổi không nhất định, chỉ gọi là biến hóa, không là thọ dụng, vì chưa hẳn khiến thọ hiện pháp lạc.
3. Vừa thọ dụng vừa biến hóa: Nghĩa là vì Địa thượng Bồ-tát sở hiện các thứ hóa thân, khiến các Bồ-tát thọ pháp lạc, tùy thời chuyển đổi không quyết định.
Lại nói, hoặc có chỗ nói Phật có hai loại thân: một là sinh thân, hai là pháp thân. Hoặc tự tánh thân, hoặc thật thọ dụng đều gọi là pháp thân, do các pháp công đức sở y chỉ, các pháp công đức nhóm thành. Hoặc biến hóa thân, hoặc tha thọ dụng thân đều gọi là sinh thân, vì tùy sở nghi của họ mà hiện sinh.
Lại nói, các kinh khác nói có mười thứ Phật.
1. Hiện đẳng giác Phật
2. Hoằng thệ nguyện Phật
3. Nhiệp dị thục Phật
4. Trụ trì Phật
5. Biến hóa Phật
6. Pháp giới Phật
7. Tâm Phật
8. Định Phật
9. Bản tánh Phật
10. Tùy lạc Phật.
Năm loại trước là Thế tục Phật, năm loại sau là Thắng nghĩa Phật, tùy chỗ ứng kia mà ba thân nhiếp.
Giải thích: Hóa thân thị hiện thành đạo ở dưới cây gọi là Hiện đẳng giác. Dùng nguyện nương thần thông giáo hóa tất cả chúng sinh gọi là Hoằng thệ nguyện. Trăm kiếp tu tướng nghiệp, cảm thân tướng hảo ở cung vua, gọi là Nghiệp dị thục. Các tranh tượng gọi là Trụ trì. Tự thể pháp thân gọi là Pháp giới. Thức thứ tám Vô lậu gọi là Tâm Phật.
Thân đại định gọi là Định Phật. Tự thọ dụng thân theo bản chủng tánh ba kiếp tu hành gọi là Bản tánh Phật. Tùy Địa chỗ ưa thích của địa trên không đồng nên hiện thân có khác gọi là Tùy lạc Phật. Năm loại trước là hóa và do trụ trì cho nên gọi là Thế tục. Năm loại sau là thật thân và thù thắng cho nên gọi là Thắng nghĩa. Thứ nhất đến thứ tư là Hóa thân, thứ năm là Hóa tượng, thứ sáu Pháp thân. Bốn thân sau là Thọ dụng.