TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN

BỘ LUẬN SỚ

SỐ 1846 - LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN NGHĨA KÝ

Chùa Ngụy Quốc Tây Tự ở phủ Kinh Triệu Sa-môn Thích Pháp Tạng soạn.

MỤC LỤC

QUYỂN THƯỢNG

1. NGUYÊN NHÂN LẬP GIÁO:

2. LUẬN NÀY THUỘC TẠNG NÀO TRONG CÁC TẠNG:

3. NÓI VỀ PHẠM VI CỦA GIÁO.

4. CÁC CĂN CƠ CỦA GIÁO:

5. GIÁO THỂ NĂNG THUYÊN:

6. TÔNG THÚ SỞ THUYÊN:

7. GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC CỦA LUẬN:

8. THỜI GIAN SOẠN LUẬN:

9. NGÀY THÁNG PHIÊN DỊCH:

10. GIẢI THÍCH THEO VĂN:

PHẦN TỰA:

PHẦN CHÁNH TÔNG:

Chương I. NHÂN DUYÊN

Chương II. LẬP NGHĨA

QUYỂN TRUNG (Phần Đầu)

Chương III. GIẢI THÍCH.

QUYỂN TRUNG (Phần Cuối)

QUYỂN HẠ (Phần Đầu)

QUYỂN HẠ (Phần Cuối)

Chương IV. TU HÀNH TÍN TÂM

Chương V. KHUYẾN TU LỢI ÍCH:

PHẦN LƯU THÔNG

 


QUYỂN THƯỢNG

Chân tâm rỗng lặng, dứt bặt ngôn ngữ vật tượng ở nơm, lồng. Sâu xa trùm khắp, quên cảnh trí ở năng sở, chẳng sinh chẳng diệt, bốn tướng chẳng dời đổi, không đến không đi, ba cõi đâu thể đổi dời. Chỉ lấy vô trụ làm tánh, theo dòng phân lối, thăng trầm theo mê ngộ, theo nhân duyên sinh diệt. Tuy lại đông đúc rộn ràng, vẫn chưa động nguồn tâm, yên lặng rỗng suốt mà không hề trái với nghiệp quả, nên khiến tánh bất biến mà duyên khởi nhiễm tịnh thường sai khác, chẳng bỏ duyên mà tức chân phàm thánh chỉ một. Giống như sóng động chẳng khác với nước, nên từ nước mà nói được sóng, nước chẳng khác với sóng động, ngay nơi sóng để nói về nước, thế thì động tĩnh xuyên suốt, chân tục dung thông, sinh tử Niết-bàn đồng thấu suốt. Chỉ vì lúc Như Lai còn tại thế, căn cơ thuần thục dễ điều phục, một phen vâng thọ lời Thế tôn đều huyền khế cả.

Sau khi Đức Phật diệt độ, dị chấp thêm nhiều, hoặc theo đường tà, hoặc đi lối nhỏ, khiến trong nhà có kho báu mà ta vô cùng đói khổ, hạt ngọc ngay trong túi áo mà chẳng hay biết, phải chịu kiếp nghèo cùng làm thuê. Do đó ý chỉ sâu xa của Đại thừa ẩn chứa nơi kinh sách mà chẳng tìm, như bọn người mù theo đuổi lối khác đâu biết quay lại. Có Đại sĩ hiệu Mã Minh cảm thương cho sự suy đồi, thương xót những kẻ chìm đắm. Vì muốn mở bày ý chỉ mầu nhiệm sâu xa của kinh, làm sáng lại đường mê, phá những tà kiến điên đảo, khiến trở về đường chánh. Người trở về nguồn thì gốc chẳng xa. Soạn luận Đại thừa ở đương thời làm lợi ích mọi người. Văn thì nhiều, nghĩa lại sâu xa, người trí cạn chẳng biết được, thương xót kẻ mê ở ngọn ngành. Lại soạn luận này có thể nói nghĩa dồi dào văn gọn gàng, gồm cả giải hạnh, người trung, hạ do đây ngộ nhập.

Nhưng Đại lấy bao dung làm nghĩa. Thừa lấy chuyên chở làm công năng. Khởi Là đối cảnh mà phát tâm. Tín là đối với duyên mà quyết định. Phân tích rạch ròi nên gọi là Luận, nên gọi là Luận Đại thừa Khởi Tín.

Các nghĩa sau đây sẽ nói riêng.

Giải thích luận này lược chia làm mười môn:

1. Nguyên nhân lập giáo.

2. Thuộc về các tạng.

3. Nói về phạm vi của giáo.

4. Các căn cơ thuộc về giáo.

5. Giáo thể năng thuyên.

6. Tông thú sở thuyên.

7. Giải thích đề mục của luận.

8. Thời gian soạn luận.

9. Năm tháng phiên dịch.

10. Giải thích theo văn.

1. NGUYÊN NHÂN LẬP GIÁO:

Lược có mười nhân:

1. Nương vào trí nào?

2. Chỉ bày pháp gì?

3. Làm sao chỉ bày?

4. Do đâu hiển bày?

5. Nương vào cội gốc nào?

6. Nhờ năng lực gì?

7. Là nghĩa gì?

8. Do duyên gì?

9. Do đâu khởi?

10. Được bao nhiêu lợi ích?

1. Nương vào trí nào? Nghĩa là nương vào trí rỗng rang khế hợp nguồn tâm và nói tùy căn cơ khéo léo của luận chủ. Luận Thập Địa nói:

Khen biện tài có ba thứ:

a) Trí chân thật: là trí vô lậu.

b) Thể tánh thành tựu biện tài vô lượng nghĩa.

c) Quả, Tự, Nghĩa thành tựu"

Lại nghĩa Tự thành tựu sống động, bén nhạy, cao siêu.

Giải thích rằng:

Đây là trí căn bản làm chỗ nương.

Trí hậu đắc làm nhân.

Lời nói giáo làm quả.

Cho nên, giáo khởi bên trong nương vào trí này.

2. Chỉ bày pháp gì? Nghĩa là các pháp: Nhất tâm, hai môn, ba đại, bốn tín, năm hành... Đây là chỗ chỉ bày pháp trong Đại thừa Khởi Tín.

3. Làm sao chỉ bày? Là dùng phương tiện khéo léo khai mở Nhất vị Đại thừa, tạo ra hai thứ pháp nghĩa, phân nhất tâm pháp lại tạo ra hai môn, phân tích một nghĩa lý, lại làm ba đại. Do phương tiện khéo léo này mà được khởi bày.

4. Lấy gì hiển bày? Là Thiện tự, Diệu âm, Thí dụ, Tông, Nhân, mới khiến nghĩa lý hiển hiện rõ ràng.

5. Nương vào cội gốc nào? Là lời của bậc thánh và lý chánh đạo định lượng làm gốc.

6. Nhờ năng lực gì? Là nương vào năng lực gia hộ của Tam bảo, nhờ năng lực thù thắng kia có sự phân biệt, mới viết được bộ luận này.

7. Vì nghĩa gì? Là giúp Phật hoằng dương giáo pháp, dẹp tà hiển chánh, khiến chánh pháp cửu trụ lâu ở đời, để báo ân Phật.

8. Do nhân duyên gì? Là duyên vào chúng sinh muốn cho lìa tất cả khổ được vui rốt ráo, nên soạn luận này.

9. Do đâu mà khởi? Do Bồ-tát vì tâm đại bi bao dung thương xót kẻ mê hoặc. Do đây soạn luận để bố thí pháp cho mọi lợi ích.

10. Được bao nhiêu lợi ích? Lược có sáu thứ:-Khiến người chưa tin phát khởi lòng tin.

- Người đã tin giúp họ được văn tuệ.

- Người đã nghe giúp họ được tư tuệ.

- Người đã hiểu giúp họ được tu tuệ.

- Người đã tu hành giúp họ được chứng nhập.

- Người đã chứng nhập giúp họ được viên mãn. Lược có mười nhân duyên như thế khiến giáo này hưng thịnh. Lại có sáu nhân, như quyển 64 Kinh Du-già nói: Người muốn soạn luận phải có đủ sáu nhân:

- Vì muốn cho pháp nghĩa truyền bá rộng rãi.

- Vì muốn các loài hữu tinh tin được, nhờ nhân duyên này mỗi loài hữu tình được nhập vào chánh pháp.

- Vì muốn khai mở hiển bày các thứ nghĩa môn bị mai một.

- Vì muốn thâu tóm nghĩa phân tán.

- Vì muốn hiển bày nghĩa sâu xa.

- Vì muốn dùng các thứ ngôn từ hay đẹp để trang nghiêm pháp nghĩa sinh khởi tịnh tín"

Nên luận này có tám nhân duyên, luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa, và Đại Tỳ-bà-sa v.v... đều có nhân duyên hãy tìm hiểu sẽ biết.

2. LUẬN NÀY THUỘC TẠNG NÀO TRONG CÁC TẠNG:

Có hai: Vì Sở thuyên (chỗ nói) có ba, nên giáo cũng chia làm ba.

Vì theo sở vi có hai, nên giáo cũng chia làm hai.

Sở thuyên: Nói về ba học nên lập ba tạng:

- Tu-đa-la, hoặc nói Tố-đát-lãm, Tu-đố-lộ v.v... đều phiên âm tiếng Phạm, khó phân tích được; Hán dịch là Khế kinh, nghĩa là khế lý, hợp với căn cơ gọi là Khế; thấu suốt tất cả gọi là Kinh. Luận Phật Đại nói: "Thấu suốt nghĩa nhiếp trì được nói và căn cơ được nghe, gọi là Tố-đát-lãm", tức nói giáo của định... Khế kinh tức là tạng, thuộc về Trì Nghiệp Thích.

- Tỳ-nại-da tạng, hoặc nói Tỳ-na-da, hoặc nói Tỳ-ni. Người xưa dịch là Diệt, các nghiệp ác của thân, ngữ, ý thiêu đốt hành giả, nghĩa đồng với lửa cháy. Giới có công năng dừng diệt, nên gọi là Diệt, nên nói là mát mẻ. Vì thiêu đốt dứt trừ điều ác nay dịch là Điều phục, điều là điều hòa, phục là chiết phục; là điều hòa giữ gìn thân, ngữ, ý nghiệp, chế phục trừ diệt các điều ác. Điều phục là hạnh, tức giới hạnh được nói. Tạng của điều phục là Y Chủ Thích, vì từ chỗ nói mà đặt tên nương vào chủ luận giải thích.

- A-tỳ-đạt-ma tạng, hoặc nói A-tỳ-đàm... người xưa dịch là Vô Tỷ Pháp. Nghĩa là A-tỳ nói là Vô Tỷ, Đạt-ma nói là Pháp, là trí vô phân biệt mà phân biệt được pháp tướng, không có pháp nào sánh bằng pháp này, nên nói là Vô Tỷ Pháp. Nay dịch là Đối Pháp. Tức A-tỳ là trí năng đối, Đạt-ma là cảnh sở đối, là dùng chánh trí nguồn pháp mầu nhiệm để phân biệt pháp tướng. Rõ ràng như ngón tay và bàn tay, như đối diện mà thấy, nên gọi là đối pháp. Đối pháp là tuệ sở thuyên, tức tạng đối pháp, cũng là Y Chủ Thích. Theo chỗ nói làm đề mục. Hoặc nói là Phục Pháp, Trạch Pháp, Số Pháp, Thông Pháp, Đại Pháp v.v... đều đặt tên theo nghĩa, như các chỗ khác nói.

Hỏi: Nếu ba tạng này đối với ba học kia, mỗi mỗi nói nhất học, vì sao Luận Tạp Tập quyển mười một nói: "Lại nữa, mở bày ba học lập Tố-đát-lãm, chỉ bày giới định gọi Tỳ-nại-da, chỉ bày tuệ học gọi A-tỳ-đạt-ma"

Đáp: Nếu y theo môn Khắc Tánh, như mỗi loại trước nói về một tạng. Nếu y theo môn Kim Chánh, thì như Tập Luận nói, do kinh rộng nên đủ cả ba, luật đủ hai, luận hẹp nên chỉ một, cũng là cửa gốc ngọn. Nghĩa là kinh là gốc, hai thứ kia thứ lớp là ngọn. Luận này trong ba tạng kia thuộc về Đối Pháp tạng.

Hỏi: Như Du-già quyển tám mươi mốt nói: "Các kinh điển lần lượt nghiên cứu, Ma-đát-lý-ca, như tất cả các kinh liễu nghĩa, đều gọi là Ma-đátlý-ca. Nghĩa là ở chỗ này Thế Tôn phân tích rộng pháp tướng, dùng văn này làm chứng, dù Đối pháp tạng cũng là Phật nói. Luận này sau khi Như Lai diệt độ Bồ-tát mới soạn, làm sao được xếp vào Đạtma tạng?

Đáp: Có hai nghĩa: theo Du-già là đồng loại, nên xếp vào đó.

Còn theo Ma ha Ma-da kinh, thì Phật nói: "Bồtát Mã Minh khéo nói pháp yếu". Đã nói là khéo nói, tức là lời Như Lai huyền ấn, nên biết cũng được xếp vào tạng này.

Do đây nói chung, Như Lai nói pháp có ba thứ:

Phật tự nói.

Thêm lời người khác mà nói.

Phật chấp nhận trước cho nói (huyền hứa nói). Luận này tức huyền hứa nói mà nói.

Mục đích có hai, nên giáo tức hai. Nhưng do căn cơ có lợi độn, pháp có cạn sâu, nên hợp ba tạng chia làm hai thứ. Luận Trang Nghiêm quyển tư chép: "Tạng này do thượng, hạ thừa có khác nhau.

Lại nói là Thanh văn tạng và Bồ-tát tạng".

Hỏi: Ba và hai kia, vì sao gọi là Tạng?

Đáp: Nhiếp, nghĩa là nhiếp tất cả nghĩa cần biết. Giải rằng, vì thế người Thanh văn độn căn hạ thừa, nương pháp chấp phân biệt mà lập ra ba tạng, chỉ bày lý, hạnh, quả của người Thanh văn, gọi là Thanh văn tạng. Vì các Bồ-tát lợi căn thượng thừa, nương trí ba vô tánh và hai vô ngã mà lập ra Ba tạng tuyên chỉ bày lý, hạnh, vị, quả của Bồ-tát, gọi là Bồ-tát tạng.

Hỏi: Trong kinh vì hàng Duyên giác nói pháp nhân duyên, vì sao Độc giác không đặt tên Tạng?

Đáp: Theo Kinh Phổ Siêu Tam-muội và Luận Nhập Đại thừa, thì đứng về Ba thừa mà lập Ba tạng. Nay nương Nhiếp Luận và Luận Trang Nghiêm thì đứng về mặt thượng, hạ thừa chia làm hai tạng nên chẳng lập.

Hỏi: Vì sao hai giáo ấy bỏ và lập khác nhau?

Đáp: Hàng Độc Giác và hàng Thanh văn có giống có khác, nghĩa là đứng về giáo hạnh có ít phần khác nhau, chia ra Ba thừa tạng. Đứng về lý, quả kia toàn thể chẳng khác nên hợp thành một tạng, nghĩa là đồng dứt ngã chấp, đồng chứng sinh không, và đồng A-la-hán nên chẳng lập riêng. Vì thế, kinh luận khai hợp chẳng đồng nên luận này trong hai tạng là xếp vào tạng Bồ-tát.

3. NÓI VỀ PHẠM VI CỦA GIÁO.

Có hai:

1. Trình bày các giáo;

2. Y theo giáo nói về tông.

1. Trình bày các giáo:

Ở Trung Hoa, các Đại đức lập giáo khai tông rắc rối nhiều mối, khó trình bày đầy đủ. Lược thuật có mười nhà, như trong sớ Hoa Nghiêm xét lại niên đại dịch kinh, Ba tạng từ Ấn độ đem đến, chỗ lập giáo tướng cũng có nhiều môn, lược nêu năm nhà cũng như kia nói. Nay Tam tạng pháp sư Địa-bàha-la ở nước Trung Thiên-trúc, đời Đường gọi là Nhật Chiếu, ở tại chùa phiên dịch. Tôi tự đích thân hỏi, nói rằng: gần đây ở Thiên-trúc chùa Na-lanđà, đồng thời có hai Đại đức Luận sư là Giới Hiền và Trí Quang, đều có sự hiểu biết hơn người, nổi tiếng ở Ngũ Ấn, sáu vỉ giáo chủ ngoại đạo cúi đầu, dị bộ quy ngưỡng, người học Đại thừa đều kính mến, như mặt trời mặt trăng, độc bộ ở Thiên-trúc mỗi người một cõi, bèn làm chỗ nương, mỗi tông khác nhau, nên lập giáo trái nhau.

Giới Hiền: xa thì bẩm thọ Di-lặc, Vô Trước; gần thì nối gót Hộ Pháp, Nan-đà. Y kinh Thâm Mật và luận Du-già lập ra ba thứ giáo, lấy pháp tướng Đại thừa làm liễu nghĩa chân thật.

Thời kỳ thứ nhất: Nghĩa là Phật đầu tiên ở vườn

Nai xoay bánh xe pháp Bốn Đế Tiểu thừa, nói các pháp hữu vi từ duyên sinh, để phá nhân tự tánh của ngoại đạo. Lại do duyên sinh không nhân ngã ngược lại ngoại đạo kia nói có ngã. Nhưng, vẫn chưa nói lý pháp vô ngã, tức bốn quyển kinh Ahàm.

Thời kỳ thứ hai: Tuy nương biến kế sở chấp mà nói các pháp tự tánh đều không để đi ngược lại Tiểu thừa, nhưng đối với y tha, viên thành vẫn chưa nói có, tức là các bộ Bát-nhã, v.v...

Thời kỳ thứ ba: Đứng về chánh lý của Đại thừa nói đủ ba tánh, ba vô tánh v.v... mới là tột lý, tức kinh Giải Thâm Mật v.v... Cho nên đối với pháp nhân duyên sinh kia, ban đầu chỉ nói có, tức rơi vào bên có; kế đến chỉ nói không, tức rơi vào bên không. Mỗi tông đã rơi vào một bên nên đều chẳng liễu nghĩa.

Thời kỳ sau cùng: Này nói đủ chỗ chấp tánh không, ngoài ra hai thời kỳ kia là chấp có, khế hợp Trung đạo mới là liễu nghĩa. Đây nương vào lối phán định của kinh Giải Thâm Mật.

Luận sư Trí Quang, xa thì bẩm thọ Văn-thù, Long Thọ, gần thì vâng theo Đề-bà, Thanh Biện. Y theo kinh Bát-nhã, luận Trung Quán v.v... cũng lập Ba giáo để nói về vô tướng của Đại thừa làm liễu nghĩa chân thật.

Thời kỳ thứ nhất: Nghĩa là Phật ở vườn Nai vì người tiểu căn nói pháp Bốn Đế, nói tâm cảnh đều có.

Thời kỳ thứ hai: Vì người Trung căn nói pháp tướng Đại thừa để giải thích đạo lý duy thức cảnh không tâm có. Do căn cơ kia vẫn còn yếu kém chưa thể khiến nhập chân không bình đẳng, nên nói như thế.

Thời kỳ thứ ba: Vì người thượng căn nói Đại thừa vô tướng, giải thích rõ tâm cảnh đều không, bình đẳng một vị, làm liễu nghĩa chân thật.

Lại, thời kỳ thứ nhất, dần dần phá tự tánh v.v... của ngoại đạo, thế nên nói pháp nhân duyên sinh quyết định là có. Thời kỳ thứ hai, dần dần phá chấp duyên sinh thật có của Tiểu thừa, nên nói y tha nhân duyên giả có, do kia sợ chân không này, vẫn đối với giả có mà dẫn dắt họ. Thời kỳ thứ ba, đứng về rốt ráo Đại thừa mà nói duyên sinh này, tức là nhất tướng tánh không bình đẳng. Cho nên xét định pháp tướng Đại thừa có sở đắc v.v... Vì thời kỳ thứ hai nên chẳng phải liễu nghĩa chân thật.

Ở đây, ba giáo này thứ lớp như Luận sư Trí Quang giải thích trong Luận Bát-nhã Đăng, dẫn lời kinh Đại thừa diệu trí.

Hỏi: Hai thuyết này đều là chỗ nói mỗi thánh giáo mâu thuẫn, chẳng hay hai thuyết có hòa hợp chăng?

Đáp: Ở đây có hai nghĩa, là Không hợp và chẳng phải không hợp.

Không hợp: Đều là thánh giáo tùy duyên làm lợi ích chúng sinh, đâu cần gì phải hợp. Tức là Trí Luận quyển bốn, trong phẩm Tất-đàn, mỗi thứ đều vì người Tất-đàn. Cho nên tuy có trái nhau mà không thể hợp. Cũng là trong phẩm Tứ Ý Thú của Nhiếp Luận nói về ý thú lạc dục của chúng sinh, trong một pháp hoặc khen hoặc chê. Cho nên hai thuyết không cần hoà hợp.

Chẳng phải không hợp: Nói chung hai thuyết này, chỗ giáo môn liễu và không liễu có hai môn kia. Đứng về mặt lợi ích chúng sinh thứ lớp hiển bày lý mạnh yếu để nói về liễu và không liễu.

Trong phần Không hợp này cũng có hai:

Đứng về mặt nhiếp sinh rộng hẹp, y theo kinh Giải Thâm Mật, thời kỳ đầu chỉ vì hướng đến Thanh Văn thừa mà nói. Trong thời kỳ thứ hai chỉ vì người hướng đến Đại thừa mà nói. Hai thời kỳ này chỉ nhiếp một hạng căn cơ, nhiếp căn cơ không tột cùng nên đều chẳng phải liễu. Trong thời kỳ thứ ba khắp vì người hướng đến Nhất thừa mà nói. Trong đây nhiếp khắp căn cơ bao gồm các thừa nên nói khắp vì tất cả thừa mà nói, nhiếp căn cơ đều khắp mới là liễu nghĩa.

Đứng về mặt ngôn giáo đầy đủ hay thiếu sót, về mặt căn cơ để nhập giáo, thì thời kỳ đầu chỉ nói cho người Tiểu thừa. Thời kỳ thứ hai chỉ nói cho người Đại thừa. Thời kỳ thứ ba nói đủ Ba thừa. Hai thời kỳ trước đều mỗi thuyết thiếu giáo không đầy đủ, nên chẳng phải liễu nghĩa. Thời kỳ thứ ba đầy đủ ba thừa giáo mới là liễu nghĩa. Do các nghĩa này, cho nên thời kỳ thứ ba mới là liễu nghĩa. Chỗ lập của Giới Hiền nương vào môn này phán định.

Trong phần chẳng phải không hợp, cũng có hai:

Đứng về mặt thứ lớp làm lợi ích chúng sinh: Nghĩa là thời kỳ ban đầu nói chỉ khiến chúng sinh được lợi ích Tiểu thừa, lợi ích chưa rốt ráo nên chẳng phải liễu nghĩa. Thời kỳ thứ hai tuy lợi ích chung cả Đại thừa, Tiểu thừa, nhưng không thể khiến hướng đến sự vắng lặng của Nhị thừa được Đại thừa, cho nên thuyết này cũng chẳng tột lý. Thời kỳ thứ ba khắp đều khiến được lợi ích Đại thừa, dù người vào trong vắng lặng Tiểu thừa cũng khiến hồi hướng đại Bồ-đề. Nên kinh nói: "Chỉ một thời kỳ này là sự thật, ngoài ra hai thời kỳ kia chẳng phải chân". Lại nói: "Nếu vì người Tiểu thừa mà giáo hóa thì ta sẽ rơi vào san tham, việc này không thể được". Cho nên thuyết này mới là liễu nghĩa.

Hiển lý tăng hay kém: Ban đầu nói duyên sinh cho là thật có, kế đến nói duyên sinh cho là giả có, sau cùng nói duyên sinh mới là tánh không. Hai chỗ nói trước hiển lý chưa chu toàn, hợp duyên chưa cùng tận, nên chẳng phải liễu nghĩa. Chỗ nói sau cùng hiển lý đến chỗ rốt ráo, hội duyên cùng tột nên thuộc về liễu nghĩa.

Trong các nghĩa này, nghĩa thứ ba mới là rốt ráo liễu nghĩa Đại thừa. Cũng tức ban đầu chỉ cho Tiểu thừa, kế đến đủ Ba thừa, sau cùng chỉ Nhất thừa. Chỗ lập của Trí Quang nương vào môn này mà phán định, do có hai môn như thế cho nên thánh giáo đều nương vào nhất thể này để nói về quyền, thật chẳng trái nhau.

Hỏi: Như chỗ nói hai tông mỗi tông ban đầu chỉ nói Tiểu thừa, vì sao kinh Hoa Nghiêm cũng nói lúc ban đầu mà chẳng phải Tiểu thừa?

Đáp: Câu hỏi này các Đại đức đều có ba lối giải thích.

Đứng về căn cơ tiệm ngộ lập ba pháp luân mà có thứ lớp này. Nếu căn cơ đốn ngộ thì lúc đầu cũng nói kinh Hoa Nghiêm kia. Nếu như vậy thì kinh Mật Tích Lực Sĩ thời kỳ đầu cũng nói đủ pháp Ba thừa, đây là tiệm hay đốn? Nếu là Tiệm giáo thì chỉ nên nói Tiểu thừa, nếu là đốn giáo lẽ ra chỉ nói Đại thừa, cho nên khó hiểu.

Nếu dựa vào môn Hiển Liễu thì như trước thứ lớp có ba pháp này. Nếu đứng về môn Bí Mật thì đồng thời đều có. Như vậy thời kỳ đầu Tiểu thừa hiển mà Đại thừa ẩn, tại sao không Đại thừa mà hiển Tiểu thừa ẩn ư!. Lại phán định ẩn hiển này xuất xứ từ thánh ngôn nào, lý đã không giống lại không có thánh giáo nên cũng khó nương theo.

Chỉ là một viên âm của Như Lai một lần giảng nói, khác loài đồng hiểu được. Đứng về mặt Tiểu thừa kết tập chỉ nói Tiểu thừa. Đứng về mặt Đại thừa kết tập thì chỉ nói Đại thừa. Đứng về mặt kết tập chung nên nói Ba thừa. Như vậy lúc nói Hoa Nghiêm tại sao người Thanh văn không nghe từ chỗ nghe của mình, cho đến như đui như điếc, không có thấy nghe, cũng thật khó hiểu.

Nay giải chỗ vặn hỏi này nói về viên âm nói pháp của Như Lai đại khái chia làm hai.

Đời này vì người căn cơ cố định mà nói. Đời này vì người căn cơ bất định mà nói.

Trong phần đầu, vì người căn cơ cố định, có ba tiết:

- Hoặc có chúng sinh đời này tánh cố định hạn cuộc ở Tiểu thừa, chỉ thấy Như Lai từ đầu đến cuối chỉ nói Tiểu thừa. Như các bộ phái Tiểu thừa chẳng tin Đại thừa.

- Hoặc có chúng sinh đời này thuộc căn tánh Ba thừa thuần thục, thấy Như Lai từ đầu đến cuối chỉ nói Ba thừa. Như kinh Mật Tích lực Sĩ nói: "Phật đầu tiên ở vườn Nai lúc nói pháp có vô lượng chúng sinh được quả A-la-hán, vô lượng chúng sinh được đạo Bích-chi-phật, vô lượng chúng sinh được phát tâm Bồ-đề, trụ ở Sơ địa, v.v...", rộng như kinh ấy nói. Trong kinh Đại Phẩm cũng đồng thuyết này. Cho nên thời kỳ sau nói đều chung Ba thừa. Như trong các kinh Đại thừa nói.

- Hoặc có chúng sinh đời này căn tánh Nhất thừa thuần thục, chỉ thấy Như Lai lúc đầu ở dưới cội cây thọ vương trong cõi Hoa Tạng nương Hải ấn Tam-muội nói pháp môn tự tại viên mãn vô tận, chỉ vì Bồ-tát. Như kinh Hoa Nghiêm, v.v... nói.

Cho nên các thuyết, mỗi thuyết đều y cứ chỗ được của đương cơ, nên không chống trái.

Trong phần hai nói vì người căn cơ bất định, có hai giai vị.

- Đời này là căn cơ Tiểu thừa bất định có thể kham tiến vào địa vị Ba thừa, thì ban đầu nghe kinh Tiểu thừa là kinh chẳng liễu nghĩa. Kế đến chỉ nói Đại thừa cũng chẳng liễu nghĩa. Sau nói đủ Ba thừa mới là liễu nghĩa. Nên trong kinh Thâm Mật có ba thời giáo.

- Đời này căn cơ Tiểu thừa bất định có khả năng tiến lên địa vị Nhất thừa. Ban đầu nghe Tiểu thừa là kinh chẳng liễu nghĩa, kế đến chung Ba thừa cũng chẳng phải kinh liễu nghĩa, sau chỉ nói Nhất thừa mới là liễu nghĩa. Chỗ lập của Trí Quang ý là ở đây. Cho nên căn cơ định và bất định ở đời này có hai địa vị khác nhau, nên khiến giáo môn này hoặc có trước sau, hoặc không có trước sau.

Từ trên đến đây nói chung về hoà hợp các giáo đã xong.

2. Y theo Giáo nói về Tông:

Hiện nay tất cả kinh luận ở phương Đông chung cho cả Đại thừa, Tiểu thừa, Tông đồ có bốn: Tông theo tướng pháp chấp: Tức các bộ Tiểu thừa.

Tông chân không vô tướng: Như kinh Bát-nhã, luận Trung Quán v.v... nói.

Tông Duy Thức Pháp Tướng: Tức kinh Giải Thâm Mật, luận Du-già v.v... nói.

Tông Như Lai tàng Duyên Khởi: Tức Kinh

Lăng-già, Mật Nghiêm, Luận Khởi Tín, Bảo Tánh v.v... nói.

Trong bốn tông này thì:

Tông thứ nhất theo sự chấp tướng mà nói.

Tông thứ hai hội sự hiển lý mà nói.

Tông thứ ba nương lý khởi sự có khác nhau mà nói.

Tông thứ tư lý sự viên thông vô ngại mà nói.

Vì trong tông này cho là Như Lai tạng tùy duyên thành thức A-lại-da, đây là lý suốt nơi sự. Cũng cho Y tha duyên khởi không tánh đồng như, đây là sự suốt ở lý.

Lại bốn tông này là:

Tông thứ nhất do các sư Tiểu thừa lập.

Tông thứ hai do Long Thọ, Đề-bà lập.

Tông thứ ba do Vô Trước, Thế Thân lập.

Tông thứ tư do Mã Minh, Kiên Tuệ lập.

Nhưng, trong bốn tông này cũng không có thời hạn trước sau khác nhau. Trong các kinh luận này cũng có sự xen lẫn nên có thể y theo đó mà biết, nay tông luận này chú trọng môn thứ tư.

4. CÁC CĂN CƠ CỦA GIÁO:

Có hai lớp: A-Quyền giáo; B-Thật giáo.

A. Quyền giáo: Vì chủng tánh Bồ-tát và chủng tánh bất định trong năm chủng tánh mà lập, còn ba tánh kia thì chẳng phải, do không có phần như luận Du-già nói.

B. Thật giáo: Tất cả chúng sinh vì sẽ được Bồđề.

Hỏi: Nếu các loài không tánh cũng sẽ thành Phật thì đâu được nói có hữu tình vô tánh?

Đáp: Luận giải thích có hai là luận Phật tánh và Luận Bảo Tánh, đều vì hạng phỉ báng Đại thừa y vô lượng thời nên nói như thế, chẳng cho rằng rốt ráo không tánh thanh tịnh. Luận Phật tánh quyển hai phán định rằng: "Không có Phật tánh là kinh chẳng liễu nghĩa". Y theo đây nên biết, thường không có chủng tánh chẳng tột lý mà nói, văn kinh Lăng-già có thể chứng biết.

Hỏi: Như có người hỏi rằng, nếu các chúng sinh đều có Phật tánh sẽ thành Phật, vậy chúng sinh tuy nhiều nhưng sẽ có lúc hết, đó là lỗi lớn. Lại nếu tất cả có tánh khiến Bồ-tát cuối cùng thiếu hạnh lợi tha, do không có chúng để giáo hóa, nên thiếu hạnh mà thành Phật, không hợp với đạo lý, lại khiến công đức lợi tha của chư Phật cũng dứt mất, vì không có duyên cảm ứng để giáo hóa. Ba câu hỏi như thế làm sao hiểu được?

Đáp: Câu hỏi này đều do vọng thấy cõi chúng sinh nên vọng khởi câu hỏi này. Nên kinh Bất Tăng Bất Giảm nói: "Người đại tà kiến là thấy cõi chúng sinh có thêm, thấy cõi chúng sinh có bớt, do không biết như thật về Nhất pháp giới, nên đối với cõi chúng sinh thấy có thêm bớt".

Hỏi: Tôi nói nghĩa phù hợp với văn kinh này. Vì sao? Vì nếu các chúng sinh tất cả đều có tánh sẽ được giải thoát thì chúng sinh có bớt, nay lập có chúng sinh không tánh này thường ở thế gian nên không thêm bớt sao?

Đáp: Nếu vậy ông đối với có tánh đã khởi cái thấy có bớt, tức ở cõi Phật sẽ khởi cái thấy có thêm, thấy có thêm có bớt này chẳng lìa cái chấp của ông. Nên biết ý kinh nói rõ tất cả chúng sinh cùng lúc thành Phật, cõi Phật không thêm cõi chúng sinh không bớt. Nên kinh ấy nói: "Chúng sinh tức Pháp thân, Pháp thân tức chúng sinh", chúng sinh và Pháp thân nghĩa một mà tên khác.

Giải thích rằng: Cõi chúng sinh như cõi hư không, dù cho một con chim bay trên hư không, từ hướng Tây đến hướng Đông đến trăm ngàn năm cũng không bao giờ được nói hướng Đông gần hướng Tây xa. Vì sao? Vì hư không chẳng phân giới hạn cũng không được nói tất cả không bay đi, do công lao luống uổng. Nên biết đạo lý ở đây cũng giống như thế, chẳng phải có diệt độ khiến có cùng tận, chẳng phải không cùng tận khiến có không diệt độ, nên cõi chúng sinh sâu xa rộng lớn, chỉ có trí Như Lai mới biết được, không thể dùng tâm cuồng loạn có hạn lượng thêm bớt khởi cái thấy thêm bớt. Đã không tột cùng nên ba câu hỏi đều có thể lìa bỏ.

"Nhị thừa hồi tâm", nếu chủng tánh bất định trước khi nhập Vô Dư thì có hồi tâm, ở đây không cần nói. Nếu người chủng tánh quyết định trước khi nhập Vô Dư quyết định không hồi tâm, phải nhập Vô Dư mới hồi tâm. Do người Nhị thừa xưa nay không được Niết-bàn Vô Dư

Y. Luận Phật Tánh quyển ba chép: "Người Nhị thừa có ba thứ dư: Phiền não dư, là vô minh trụ địa; Nghiệp dư, là nghiệp vô lậu; Quả báo dư, là thân ý sinh, thân biến dịch".

Lại, kinh Vô Thượng Y, kinh Thắng-man, luận Bảo Tánh, v.v... nói rộng về cõi vô lậu có ba thứ biến dịch sinh tử bất tư nghị, nghĩa là Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát Đại Lực. Nếu nói ở đây người Nhị thừa là chủng tánh bất định thì lý không đúng, do chưa hồi tâm mà có phần đoạn, hồi tâm trở đi là Bồ-tát tiệm ngộ, chẳng phải Nhị thừa. Luận nói Nhị thừa có ba thứ dư, chẳng phải Bồ-tát, nên biết nhất định là Nhị thừa từ trong địa vị Vô Dư Y. Đại thừa nói kia có ba thứ, nhưng người Nhị thừa đã không thể biết ba thứ dư này, cho nên biến hóa lửa đốt thân phần đoạn nhập Vô Dư Y, pháp như thế đều có quả báo biến dịch còn sót lại, mà họ không biết cho là Niết-bàn, thật ra chỉ là trước khi đốt thân dùng diệt định do sở đắc để diệt trí. Luận Pháp Hoa chép: "Phương tiện nhập vào thành Niếtbàn, thành Niết-bàn là thành các thiền Tam-muội, vượt qua thành ấy rồi khiến nhập thành Đại Bát Niết-bàn".

Giải thích rằng: Do đây nên biết vô dư của người Nhị thừa thể tuy diệt định cũng chung với phương tiện, nên nói là các thiền. Do người Nhị thừa căn cơ có lợi độn, diệt định phòng tâm có loại mạnh yếu, nên đối với định tột cùng tám muôn chỉ đến một niệm. Do căn dục tánh trí của Phật làm năng lực tăng thượng duyên, lại do năng lực Phật tánh sẵn có khiến tâm trở lại sinh về cõi tịnh, được năng lực của Phật, Bồ-tát và bạn lành tu đạo Đại thừa. Tuy nhiên, ở đây lợi độn có mau chậm. Các thánh lược có bảy địa vị là tám muôn, sáu muôn, bốn muôn, hai muôn, một muôn kiếp. Thứ lớp phối hợp bốn quả và người Độc Giác, năm địa vị này như kinh Niết-bàn nói. Trong địa vị thứ sáu như Lăng-già nói: "Rượu Tam-muội làm say, suốt kiếp không tỉnh, khi tỉnh sẽ giác được thân Phật vô thượng". Ở đây thuộc người lợi căn ở trước, chẳng đến muôn kiếp. Địa vị thứ bảy như kinh Pháp Hoa quyển ba nói: "Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử chẳng nghe kinh này, chẳng biết chẳng hay, chỗ thực hành của Bồ-tát, từ chỗ được công đức nghĩ là mình đã diệt độ nhập Niết-bàn, ta ở nước khác thành Phật lại có tên khác. Người này tuy nghĩ là mình đã diệt độ nhập Niết-bàn mà ở cõi kia cầu trí tuệ Phật, được nghe kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ, không có thừa nào khác, trừ các pháp Như Lai phương tiện nói".

Giải rằng: Đây là người rất lợi căn cũng bỏ phần đoạn, nhập Niết-bàn, tức ở cõi Phật thọ thân biến dịch, được Phật giáo hóa nhập Đại thừa. Cũng có người giải thích văn kinh này là Thanh văn biến hóa, lý nhất định không đúng. Nếu là biến hóa tạo tác sẽ dẫn nhiếp thật các loại chúng sinh, nếu chúng sinh kia được sự dẫn dắt này cũng học theo trước nhập Niết-bàn Vô dư, sau mới hồi tâm, mà ông chấp vô dư đoạn dứt, tức lầm chỗ dẫn dắt chúng sinh, thì chư Phật, Bồ-tát đối với các chúng sinh trở thành kẻ thù, đâu thể gọi là đại bi phương tiện nhiếp hóa, đã không có lý nên biết nhập diệt hồi tâm nhất định chẳng biến hóa. Trong địa vị thứ bảy này đều là định tánh Nhị thừa, phải nhập vắng lặng rồi mới hồi tâm, không đồng người bất định tánh chưa nhập vắng lặng mà trước có hồi tâm.

Hỏi: Vì tất cả Định tánh Nhị thừa nhập diệt đều hồi tâm hay là có người chẳng hồi tâm?.

Đáp: Tất cả đều hồi tâm, do đâu được biết, như luận Pháp Hoa nói: Thọ ký cho người Thanh văn có hai hạng là Như Lai và Bồ-tát Bất Khinh. Thanh văn được thọ ký, văn có bốn thứ:

Thanh văn Quyết định.

Thanh văn Tăng thượng mạn.

Thanh văn Thoái Bồ-đề tâm.

Thanh văn Ứng hóa.

Hai hạng Thanh văn sau, do căn cơ thuần thục, Phật thọ ký cho họ. Nghĩa là Thanh văn Ứng hóa đã lui sụt trở lại phát tâm Bồ-đề. Thanh văn Quyết định, Thanh văn Tăng thương mạn do căn cơ chưa thuần thục, Bồ-tát cùng thọ ký phương tiện khiến họ phát tâm Bồ-đề.

Giải rằng: Thanh văn Quyết định đã được thọ ký, nên biết chắc chắn có phát tâm Bồ-đề. Đã nói căn cơ chưa thuần thục mà không nói đều chẳng thuần thục nên biết quyết định có tánh. Lại luận kia chép: "Ta chẳng khác các ông, các ông sẽ thành Phật" là chỉ bày các chúng sinh đều có Phật tánh.

Giải rằng: Đây là Bồ-tát thọ ký biết rõ Thanh văn định tánh có Phật tánh.

Hỏi: Vì sao kinh luận mới dịch nói có người Ba thừa định tánh nhập diệt chẳng hồi tâm?.

Đáp: Trong kinh luận mới dịch y cứ người chưa nhập diệt quyết định không hồi tâm, nhập diệt trở đi kinh ấy không nói nên không trái nhau. Giáo có liễu và chẳng liễu, riêng như Luận Phật Tánh nói, nên không lấy làm lạ. Lại trong kinh Niết-bàn chép: người nói Phật tánh có hay không đều chẳng hiểu ý ta, rằng Phật tánh là pháp lìa có lìa không, theo lời nói mà chấp là chẳng hiểu ý, chẳng cho rằng có một phần không tánh. Luận Phật Tánh chép: "Cho nên Phật tánh quyết định là có", lìa có lìa không là ở đây. Nên tất cả chúng sinh đều là chỗ kinh này nói cho họ nghe. Ngoài ra kinh luận đều giải thích theo đây.

5. GIÁO THỂ NĂNG THUYÊN:

Lược có bốn môn:

- Môn tùy tướng.

- Môn duy thức.

- Môn quy tánh.

- Môn Vô ngại.

1. Môn tùy tướng. Có bốn câu:

Lấy danh, cú, văn làm tánh, vì âm thanh là chỗ nương, chẳng phải chánh thể. Luận Duy Thức chép: "Nếu danh, cú v.v... chẳng khác tiếng thì lời nói pháp vô ngại, lẽ ra cảnh không khác".

Chỉ lấy âm thanh làm tánh, danh, cú, văn v.v... ở trong âm thanh có uẩn khúc, giả lập không có tự thể. Luận Tạp Tập nói: "Thành tựu dẫn dắt âm thanh là các bậc Thánh nói".

Hoặc có hai việc trước mới là tánh kia. Kinh

Duy-ma chép: "Có cõi lấy âm thanh lời nói, văn tự làm Phật sự". Trong Luận Thập Địa chép: "Người nói dùng hai việc mà nói, người nghe dùng hai việc mà nghe", đó là thanh danh.

Hỏi: Trong Đại thừa, âm thanh tiêu biểu cho thiện, ác, âm thanh là vô ký. Danh, cú, văn cũng là vô ký. Vì sao vô ký là thể của thánh giáo?

Đáp: chư Phật, Bồ-tát dùng trí Hậu đắc mà nói đều là thiện, chính là chữ thiện mà luận Thập Địa nói.

Đều chẳng phải hai việc lấy làm tánh kia, vì nói tức chẳng nói, lìa tánh văn tự. Kinh chép: "Người nói pháp không nói, không dạy, người nghe pháp cũng không nghe, không được" chính là đây.

Trong bốn câu chỉ lấy ba câu trước để hiểu Tiểu thừa, đầy đủ bốn câu nói là Đại thừa. Bốn câu này hợp thành một giáo, vô ngại lẫn nhau là Đại thừa giáo.

2. Môn duy thức: Nghĩa là người nói pháp biết hiện làm duyên tăng thượng, khiến người nghe biết tướng hiện văn nghĩa. Luận sau nói: "Nếu lìa tâm niệm thì không có tất cả tướng cảnh giới", Nhiếp Luận gọi là Ngôn thuyết thức. Lại người nghe trong thức nhóm họp mà hiện nên tất cả thanh, danh, cú v.v... đều là cái hiện ra của tự tâm. Luận ở sau chép: "Chỉ có tâm hiện, chẳng lìa chân như".

3. Môn quy tánh: Thức này không thể chỉ là chân như, luận ở sau nói: "Cho nên tất cả pháp từ xưa đến nay, lìa tướng nói năng, lìa tướng tên gọi, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng không có thay đổi, không thể phá hoại, chỉ là nhất tâm, nên gọi là Chân như". Do tất cả lời nói giả danh không thật, chỉ theo vọng niệm, chẳng thật có. Như thế nên biết.

4. Môn vô ngại: Đối với ba môn trước tâm, cảnh, lý, sự đồng một duyên khởi, lẫn lộn vô ngại, xen nhau nhiếp, nhau tròn sáng tự tại, chẳng chướng ngại nhau, lấy đó làm giáo thể. Do pháp nhất tâm có hai môn, đều tổng nhiếp tất cả pháp. Nên suy nghĩ lấy.

5. Môn giáo thông các pháp: Nghĩa là ở khắp sáu trần, tất cả cảnh sở tri đều là nghĩa sinh giải, đều là giáo thể.

6. TÔNG THÚ SỞ THUYÊN:

Có hai:

A-Chung. B-Riêng.

A. Chung: Lấy nghĩa pháp Nhất tâm làm tông. Tín, Hạnh, Đắc quả làm thú.

Tức có ba thứ: 1-Cảnh. 2-Hạnh. 3-Quả.

Cảnh có hai: Pháp. Nghĩa.

Hạnh cũng có hai thứ: Như văn sau nói rõ.

Hạnh thể, là bốn thứ tín tâm.

Hạnh dụng, là năm môn tu hành.

Quả cũng có hai thứ: Cũng như ở phần sau sẽ hiển bày.

Phần quả: Nghĩa là khiến được vào địa vị.

Mãn quả: là thành tựu Như Lai.

Đều giống như phần sau sẽ nói rõ, tông và thú đâu khác gì nhau. Nghĩa là chỗ tôn sùng của bộ phái gọi là Tông, chỗ quy hướng của tông gọi là Thú.

B. Biệt: Trình bày tông thú, lược có năm thứ:

- Giáo nghĩa đối nhau: Lấy giáo thuyết làm Tông, dùng ý nghĩa làm Thú. Như văn sau khiến bỏ lời giữ ý, v.v...

- Lý sự đối nhau: Nêu sự làm Tông, hiển lý làm Thú. Như văn sau nói: "Từ môn sinh diệt vào môn chân như"

- Cảnh hạnh đối nhau: Lấy cảnh chân tục làm tông, quán tâm hạnh làm thú.

- Chứng tín đối nhau: Lấy thành tín chẳng lui sụt làm tông, đăng vị nhập chứng làm thú.

- Nhân quả đối nhau: Lấy nhân làm tông, chứng quả làm thú.

Năm thứ này cũng là theo trước khởi sau, thứ lớp làm nguyên do cho nhau. Y theo giải thích sẽ hiểu.

7. GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC CỦA LUẬN:

Luận Đại thừa Khởi Tín: Đại là ngay thể làm tên, bao gồm làm nghĩa. Thừa là gọi theo ví dụ, chuyên chở làm công. Pháp dụ hợp lại mà nêu gọi là Đại thừa. Đại thừa là cảnh sở tín, thể làm nghĩa. Khởi Tín là tâm năng tín, lóng lặng làm tánh. Tâm cảnh gọi ghép chung là Đại Thừa Khởi Tín. Đây là khởi tin Đại thừa, là đối cảnh chọn tâm, chẳng phải là chứng v.v... cũng khởi tin Đại thừa là đối tông riêng hành hạnh, chẳng phải tin của Tiểu thừa. Lại Đại đứng về mặt nghĩa là: thể, tướng, dụng. Ba thứ lớn không gì hơn. Thừa là đứng về dụng tức ba địa vị của Phật tánh thành nghĩa chuyên chở... Tự tánh trụ Phật tánh là sở thừa, xuất phát ra Phật tánh là năng thừa. Đến được quả Phật tánh là chỗ thừa đến. Ba nghĩa thể, tướng, dụng chỉ một tâm chuyển, nên vừa là Thừa vừa là Đại, thuộc về Trì Nghiệp Thích. Lại theo luận Tạp Tập do tương ưng với bảy thứ đại tánh, nên gọi là Đại thừa.

- Cảnh đại tánh: Do đạo Bồ-tát duyên trăm ngàn vô lượng các kinh, giáo pháp rộng lớn làm cảnh giới.

- Hành đại tánh: Thực hành tất cả hạnh rộng lớn tự lợi, lợi tha.

- Trí đại tánh: Rõ biết pháp Bổ-đặc-già-la rộng lớn vô ngã.

- Tinh tấn đại tánh: Trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp, phương tiện siêng tu vô lượng hạnh khó hành.

- Phương tiện thiện xảo đại tánh: Chẳng trụ sinh tử và Niết-bàn.

- Chứng đắc đại tánh: Được Pháp thân Như Lai vô sở uý, bất cộng pháp v.v... vô lượng vô số công đức lớn.

- Quả đại tánh: Cùng tột mé sinh tử, thị hiện tất cả thành Bồ-đề, làm các Phật sự rộng lớn.

Giải thích rằng: Năm đại tánh trước là theo nhân, hai đại tánh sau là theo quả. Du-già, Hiển Dương cũng đồng thuyết này. Trong luận Trang Nghiêm Tánh thứ sáu tên Quả đại, là được Pháp thân v.v... Tánh thứ bảy tên Sự đại là thị hiện thành Bồ-đề v.v... Ngoài ra đều giống như ở đây. Lại có bảy nghĩa giải thích Đại thừa, như luận Thập Nhị Môn có nói.

Khởi là phát khởi, vì có bản giác huân tập bên trong làm nhân, nghe bạn lành huân tập dụng đại làm duyên, đối với thắng cảnh này phát sinh lòng tin ít có, khiến cho tâm thanh tịnh, như hạt ngọc lóng nước.

Trong luận Duy Thức: Tín phân biệt có ba:

Tin thật có: Đối với các pháp thật trong sự lý, tín nhận sâu xa.

Tin có đức: Tin ưa sâu xa đối với tịnh đức chân thật của Tam bảo.

Tin có khả năng: Đối với tất cả điều thiện thế gian và xuất thế gian tin ưa sâu xa, có nhiều sức để được, có thể thành tựu phát khởi hy vọng.

Theo Nhiếp Luận dịch vào đời Lương cũng có ba thứ:

Tin thật có: Tự tánh trụ Phật tánh.

Tin sẽ được: Xuất phát Phật tánh.

Tin công đức vô cùng: Đến được quả Phật tánh. Lại, văn sau có bốn thứ tín tâm, biện bày đầy đủ vì sao chỉ nói về tín mà không nói các hạnh khác. Do hạnh làm gốc, luận vì người sơ cơ. Văn sau nói: "Tự tin tánh mình, biết tâm vọng động, tu hạnh xa lìa v.v...". Kinh Hoa Nghiêm chép: "Tin là nguồn gốc của đạo, là mẹ sinh ra các công đức v.v...". Khởi tín trong đây là nói theo tín thành tựu. Nghĩa là Phật trụ bất thoái, khiến tín tâm trước thành tựu, cội gốc không mất.

Luận là Tập Nghĩa luận, nghĩa là giả lập khách chủ, chia chẻ gạn lọc qua lại, luận lượng chánh lý, nên gọi là Luận. Nên gọi là luận Đại thừa Khởi Tín. Bồ-tát Mã Minh soạn: Mã Minh là tên, y theo các truyện ký, lược giải thích có ba:

Lúc vị Bồ-tát này mới sinh, cảm động các loài ngựa hý vang không dứt, nên đặt tên này.

Bồ-tát này giỏi đánh đàn để giảng nói pháp, các loài ngựa nghe rồi cảm động hý vang, nên đặt tên này.

Bồ-tát này khéo nói pháp, khiến các loài ngựa hý vang, rơi nước mắt, bỏ ăn bảy ngày, do đây mà đặt tên.

Bồ-tát là theo các luận mà giải thích, giải thích có ba:

Nếu nói đủ là Bồ-đề Tát-đỏa. Bồ-đề, Hán dịch là Đại Giác, tức là sở cầu. Tát-đỏa, Hán dịch là Hữu Tình, tức sở độ. Từ cảnh mà đặt tên, nếu nói theo tâm thì chỉ bi và trí.

Bồ-đề là pháp để cầu, Tát-đỏa là người tìm cầu, tâm cảnh hợp rõ, nhân pháp cùng nêu, nên nói Bồđề tát-đỏa.

Tát-đỏa còn dịch là Dõng mãnh, nghĩa là có ý chí, có khả năng.

Đối với Đại Bồ-đề mạnh mẽ mong cầu, nên đặt tên này.

Tạo là chế tạo.

8. THỜI GIAN SOẠN LUẬN:

Các thuyết khác nhau, nay nương theo kinh Ma-da nói: "sau khi Như Lai sau khi diệt độ sáu trăm năm có chín mươi sáu thứ ngoại đạo tà kiến đua nhau khởi lên, hủy diệt Phật pháp. Có vị Tỳ-kheo hiệu là Mã Minh, khéo nói pháp yếu, hàng phục tất cả các ngoại đạo. Bảy trăm năm sau có vị Tỳ-kheo hiệu là Long Thọ, khéo nói pháp yếu, bẻ gãy cờ tà kiến, đốt đuốc chánh pháp".

Lấy văn của kinh này làm định thuyết.

9. NGÀY THÁNG PHIÊN DỊCH:

Chân Đế Tam Tạng dịch, đây là niên đại của lần dịch thứ chín. Dịch Kinh kỷ chép: Sa-môn Bàla-mạt-đà,... Hán dịch là Chân

Đế, cũng gọi Câu-na-la-đà, Hán dịch là Thân Y, ở phía Tây Ấn độ, người nước Ưu-thiền-ni. Dáng Ngài quang minh, khí chất nghiêm túc, phong thái thanh thoát, có cái nhìn cao xa, hiểu rộng các bộ kinh tạng và các kỹ thuật của ngoại đạo, nghiêng về luyện âm, v.v... Trải qua các nước, tùy theo căn cơ làm lợi ích. Thời Lương Võ Đế, vào niên hiệu Thái Thanh năm thứ hai (năm Mậu Thìn), vua ở điện Bảo Vân, ban sắc lệnh dịch kinh. Tức từ niên hiệu Thái Thanh năm thứ hai đến niên hiệu Thừa Thánh năm thứ ba (năm Giáp Tuất), tại chùa Chánh Quán... dịch xong các kinh như kinh Kim Quang Minh, Kinh Di-lặc Hạ Sinh, Luận Đại Thừa Khởi Tín... tổng cộng mười một bộ, hợp lại thành hai mươi quyển. Vào ngày mùng 10 tháng 9 năm ấy, cùng Kinh Ấp, Anh Hiền, Tuệ Hiển, Trí Khải, Đàm Chấn, Tuệ Mân và Hàng Việt Đại

Tướng Quân Thái Bảo Túc Công Bột v.v... ở chùa Kiến Hưng thuộc Hàng Châu dịch luận này. Samôn Trí Khải ghi chép. Nguyệt-bà-đầu-na dịch lời. Cùng phiên dịch luận Chỉ Huyền có hai mươi quyển. Gặp lúc Hầu Cảnh làm loạn và gặp lúc Dự Chương mới dấy hưng binh ở Nam Khang, v.v... Tuy được nghỉ nhàn mà nghiệp dịch không thôi nghỉ, liền đi thuyền về Tây, vì gió nghiệp bẩm mạng, nên lại trở lại Quảng Châu, gặp lúc Thứ sử Quảng Châu là Mục Quốc Công Âu Dương mời trụ chùa Chế Chỉ, thỉnh dịch kinh luận. Từ đời Trần, niên hiệu Vĩnh Định năm đầu (Bính Tý), đến niên hiệu Thái Kiến năm đầu (Kỷ Sửu) mới xong. Lại, dịch các kinh luận Phật như: A-tỳ Đàm, Câuxá, Nhiếp Luận v.v... Tổng cộng hai thời đại Trần và Lương, sắc lệnh dịch kinh luận có bốn mươi bốn bộ, một trăm bốn mươi mốt quyển.

Tuy nhiên, Chân Đế còn có khi hoặc trải bày tọa cụ ngồi kiết già trên nước, hoặc đi thuyền qua bờ bên kia, tiếp đối với sứ quân mà tọa cụ không nhơ. Hoặc mượn lá sen đi qua trên nước. Các thần dị như đây có nêu rất nhiều.

10. GIẢI THÍCH THEO VĂN:

Luận này chia làm ba:

- Phần tựa.

- Phần chánh tông.

- Phần lưu thông.

PHẦN TỰA:

Giải thích có ba môn:

A1. Luận chủ.

A2. Nói về pháp.

A3. Lợi ích chúng sinh.

A1. Luận chủ:

Có ba:

B1. Chỗ nương để khởi hạnh của luận chủ.

Đầu luận có ba bài tụng quy kính thỉnh cầu che chở.

B2. Thành tựu hạnh pháp thí của luận chủ.

Từ Luận nói... trở xuống, là vì chúng sinh giảng nói.

B3. Tổng kết nói hồi hướng, tức tùy hạnh khởi đại nguyện.

Một bài tụng sau cùng.

Cho nên ba phần này luận chủ hiển bày thành tựu mặt trời Phật, hạnh nguyện pháp thí chúng sinh.

A2. Nói về pháp:

Có ba:

B1. Phần nhân duyên.

Nhân duyên khởi pháp, là lời tựa.

B2. Phần lập nghĩa chính hiển bày chỗ nói.

Phần chánh tông.

B3. Phần khuyến tu lợi ích.

Khen ngợi pháp có công năng cao siêu, là phần lưu thông. Do ba phần này khiến pháp không mất, tồn tại lâu dài.

A3. Lợi ích chúng sinh:

Có ba:

B1. Phần nhân duyên. Nêu pháp vì căn cơ.

B2. Phần lập nghĩa. Chính trao giải hạnh.

B3. Phần khuyến tu.

Nêu lợi ích khuyến tu, khiến hạt giống Phật không dứt mất.

Cho nên, ba phần này mới thành tựu hạnh chúng sinh nhập pháp.

Trong ba môn trên, một môn đầu là nói riêng, hai môn sau hợp lại để giải thích. Cho nên năm phần đầu là chánh tông, đều là chỗ chính của luận chủ soạn.

A1. Luận chủ:

Nương vào môn đầu, trước giải thích ba bài tụng của bài tựa làm rõ phần nói ý quy kính. Nay giải thích văn này lược nói có năm:

B1. Nói về các luận có, không.

B2. Ý quy kính.

B3. Nghi thức năng quy.

B4. Tướng cao quý sở quy.

B5. Giải thích văn.

B1. Nói về các luận có, không:

Hoặc quy kính đầy đủ Tam bảo, như Trí Luận, Nhiếp Luận v.v... Hoặc chỉ quy y Phật bảo, như luận Địa Trì v.v... Hoặc chỉ quy y nhân và pháp, như luận Thập Địa v.v... Hoặc nói thẳng không quy y, như luận Thập Nhị Môn. Đây đều là ý tác giả, không có rộng, lược, như luận rộng của Long Thọ đã đủ quy y. Luận lược Thập Nhị môn không nói riêng.

B2. Ý quy kính:

Nhớ ân: Nếu không có Phật nói thì không có nguyên do pháp khởi. Nếu không có pháp thì không sinh hiểu. Nếu không có tăng truyền thì tự mình không nghe. Do ba ân này được thành tựu trí tuệ giác ngộ. Nay truyền pháp này lý phải nhớ ân chí thành quy kính.

Thỉnh che chở: Nghĩa là vào cuối thời Nghiêu truyền hóa không dễ, nếu không kính thỉnh oai lực của Tam bảo thì không do đâu tự thông suốt, nên phải chí thành quy kính.

Vì sinh lòng tin: Nghĩa là luận chủ tự không đủ để người tin theo mình, soạn luận mà người không tin nhận, cần phải quy kính Tam bảo nên thị hiện có tông thừa, khiến chúng sinh sinh lòng tin.

Nghi thức cung kính: Là như thế gian trung thần, hiếu tử, nếu có làm gì trước phải khải bạch với vua, cha. Nay Bồ-tát này kính trọng Tam bảo còn hơn vua và cha. Muốn soạn luận này để mặt trời Phật chiếu sáng đâu không kính thưa bẩm ư!.

Tiêu biểu cho sự cao quý: Như luận Thành Thật nói: "Tam bảo là cảnh giới tốt đẹp an lành", nêu ở chỗ ban đầu để nói lên sự cao quý.

Lợi ích chúng sinh: Như Tạp Tâm nói: "Vì khiến chúng sinh đối với Tam bảo phát tâm hướng cầu, tin hiểu quán sát, cúng dường quy y, nên đảnh lễ".

B3. Tướng khác của năng quy:

Không gì hơn ba nghiệp, là tiêu biểu cho thiên nhãn Phật thấy thân này mà lễ, tiêu biểu cho thiên nhĩ Phật, nghe được lời kia mà khen ngợi, tiêu biểu cho tha tâm của Phật biết ý mà quán sát. Lại nếu ở chỗ vừa thấy vừa nghe lễ đủ ba nghiệp. Nếu ở chỗ chỉ thấy, chẳng nghe thì dùng thân ý mà lễ. Nếu ở chỗ chỉ nghe, chẳng thấy thì dùng ngữ ý mà lễ. Nếu ở chỗ chẳng thấy chẳng nghe chỉ dùng ý nghiệp lễ. Lại trừ lỗi của ba nghiệp thành ba nghiệp lành, tiêu biểu nhân ba luân là đây.

B4. Tướng cao quý hiển bày quy kính:

Nói nghĩa Tam bảo rộng như chương riêng.

B5. Giải thích văn:

Ba bài tụng chia làm hai:

C1. Bài một và hai nói về quy kính Tam bảo.

C2. Một bài sau là ý cung kính.

C1. Quy kính Tam bảo:

Có hai:

D1. Hiển bày sự chí thành của năng quy:

Quy mạng

D2. Nói về quy kính sâu rộng.

Tận mười phương v.v... trở xuống

D1. Hiển bày sự chí thành của năng quy:

Nói Quy là nghĩa thú hướng, Mạng là tánh mạng của mình, là chỗ tôn trọng của sinh linh, không có gì khác hơn chỗ này, lấy đây làm trước. Ở đây nói về luận chủ được lòng tin chẳng hoại, đem hết mạng mình tôn trọng để quy hướng về Tam bảo, thỉnh che chở để soạn thuật, nên gọi là Quy mạng.

Quy là nghĩa kính thuận, Mạng là chư Phật dạy bảo. Ở đây nói luận chủ kính phụng giáo mạng Như Lai mà truyền pháp lợi sinh, nên nói quy mạng.

Hỏi: Quy mạng và đảnh lễ có khác nhau không?.

Đáp: Trí Luận nói: "Như trong kinh Tiểu thừa Tỳ-sa-môn Vương quy mạng Đức Thích-ca, đảnh lễ các Đức Phật khác". Luận chủ cho rằng chẳng phải trước trọng sau khinh. Do người Tiểu thừa nghiêng về nhớ ân Đức Thích-ca, nên có chỗ kia. Lại giải thích luận chung đều đầy đủ ba nghiệp, riêng thì phần đảnh lễ thuộc về thân, quy mạng là ý. Trong ba nghiệp, ý nghiệp là quan trọng, như vị tiên nổi sân làm cho người trong ba nước chết, rất dễ hiểu.

D2. Nói về quy kính sâu rộng:

Có hai.

E1. Nói về phần hạn của sở kính.

E2. Nói về chỗ quy kính Tam bảo.

E1. Nói về phần hạn của sở kính tận mười phương:

Có hai nghĩa:

G1. Chẳng trực tiếp quy y một phương Tam bảo.

Chính là muốn quy kính tận mười phương.

G2. Trong mười phương chẳng trực tiếp quy y một hay hai cõi.

Cũng chính là mỗi phương đều quy y tất cả Tam bảo vô tận ở thế giới kia. Như đây là sao? Là nói lên Tam bảo trùm khắp, tâm cung kính rộng lớn. Phân biệt khác với Tiểu thừa nên dựng cờ luận, vì thế nói là tận mười phương.

E2. Nói về chỗ quy kính Tam bảo:

Có ba:

G1. Ba câu đầu nói về Phật bảo.

G2. Ba câu kế đến nói về Pháp bảo.

G3. Một câu sau cùng nói về Tăng bảo.

Bậc nghiệp tối thắng biết khắp, sắc vô ngại tự tại, tâm đại bi cứu thế.

G1. Phật bảo:

Giải thích có bốn câu:

H1. Đứng về ba nghiệp mà phân biệt, tối thắng là nêu địa vị Phật:

Nghĩa là hơn Tiểu gọi là Thắng, vượt hơn người gọi là Tối, do chướng hết nên đức viên mãn, quả thành tựu tột cùng gọi là Tối thắng. "Nghiệp" là nêu chung ba, luân nghiệp dụng của Phật, nghĩa là nghiệp tối thắng, tối thắng tức nghiệp. Hai cách giải thích sẽ hiểu được nghĩa, là biết khắp, là biết khắp sự cao quý của ý nghiệp, sự vô ngại thù thắng của thân nghiệp, từ bi cứu độ thù thắng của ngữ nghiệp. Nghĩa là tổng kết đức thuộc về người, người đầy đủ các đức ở trên gọi là Phật.

H2. Đứng về mặt hai lợi ích mà phân biệt là nêu chung nghiệp cao quý:

"Biết khắp..." Tất cả là hiển bày riêng đức tự lợi, bên trong có trí biết khắp, bên ngoài có sắc vô ngại. Kinh Thắng-man nói "Sắc Như Lai vô tận, trí tuệ cũng như thế" cũng đồng với đây. "Cứu đời, v.v..." là hiển bày riêng đức lợi tha. Người có đủ hai lợi này gọi là Phật.

H3. Đứng về ba đức mà phân biệt:

Có ba:

Nghiệp tối thắng là nêu chung.

Trùm khắp là nói lên công đức đại trí của Phật.

Sắc vô ngại là nói về công đức đại định của Phật, nghĩa là nương định phát thần thông, hiện sắc vô ngại.

Cứu đời là nói về công đức đại bi của Phật.

Nhiếp Luận Đại thừa nói về công đức thân thọ dụng của Phật, ở đây chỉ nói ba đức này.

H4. Xét văn để giải thích:

Trong đây chỉ nói về báo thân và hóa thân, vì Pháp thân thuộc về Pháp bảo. Tối thắng như ban đầu giải thích, nghiệp là nghiệp dụng.

Biết khắp: Có hai:

Chân trí là tâm biết khắp, môn chân như công đức như cát sông Hằng.

Tục trí tâm biết khắp, môn sinh diệt duyên khởi sai biệt v.v... Lý lượng ngang nhau, biết khắp không điên đảo.

Sắc vô ngại là sắc thân tự tại vô ngại của Như Lai. Có nhiều thứ vô ngại, như phẩm Bất Tư Nghị Pháp trong kinh Hoa Nghiêm nói. Nay nói lược có bốn thứ:

Đại tiểu vô ngại: nghĩa là mỗi căn đều cùng khắp pháp giới mà không hoại tánh của các căn, lại cũng không xen lẫn tướng của các căn.

Dùng lẫn nhau vô ngại: nghĩa là các căn tương tác mà không ngại nhau.

Lý sự vô ngại: nghĩa là hiện sắc rõ ràng mà chẳng ngại, toàn thể tánh không, diệu lý thường vắng lặng mà không ngại nghiệp dụng vô ngại. Văn sau nói: "Sắc tức trí, còn gọi là trí thân".

Ứng cơ vô ngại: nghĩa là thân viên mãn mười phương đều cảm ứng, phần nhiều căn cơ chóng cảm ứng, thân cũng không phân, hiện khắp ở đây mà không ngại kia, ở kia mà chẳng ngại đây, ngồi chẳng ngại đi... Suy nghĩ lấy là tiêu chuẩn.

Cứu đời, đời là thế gian, có ba hạng, ở đây nói chúng sinh ở thế gian là sở cứu, cứu là năng cứu, tức Như Lai đại bi. Bi cũng có ba thứ: đó là duyên pháp chúng sinh, vô duyên và vô duyên bi. Vô duyên bi là cao nhất trong ba loại, nên nói Đại bi. Luận Phật tánh nói: "Người có tâm bi tạm cứu giúp, chẳng thể cứu giúp chân thật. Người có tâm đại bi sẽ thường cứu khắp, hằng không xả bỏ".

Nghĩa là tổng kết đức thuộc về người, rất dễ hiểu.

Xong phần Phật bảo.

Cùng thể tướng của thân kia là tạng công đức vô lượng của biển pháp tánh chân như.

G2. Pháp bảo:

Nói về Pháp bảo có bốn thứ là giáo, lý, hạnh, quả. Trong bốn thư này giáo cạn, lý sâu, hạnh phần, quả mãn. Nay sở quy này chỉ giữ lấy sâu và mãn, chỉ quy y lý và quả. Nên đứng về thân Phật để nói Pháp bảo, là quả pháp. Hiển bày thể tướng của thân là lý pháp. Trong văn có ba câu chia làm hai. Câu đầu là nêu, hai câu sau là giải thích. Trong câu đầu nói cùng có hai nghĩa:

H1. Nghĩa trái nhau:

Nói lên Pháp bảo này và Phật bảo ở trước là hai việc, nên nói là Cùng.

H2. Nghĩa nhóm họp:

Chẳng phải chỉ quy kính Phật bảo, mà còn quy kính Pháp bảo. Trong đây nói và là nói lên Phật và Pháp chẳng phải nghĩa một.

Thể tướng của thân kia là hiển bày Phật cùng

Pháp chẳng lìa nhau, là chẳng phải nghĩa khác. Thể là thể đại, tướng là tướng đại, vì trong dụng đại nói rõ hai thân biến hóa và thọ dụng của Phật, cho nên hai đại thể và tướng là Pháp thân, thuộc về Pháp bảo, do dụng đại nương thể tướng mà khởi, hội dụng trở về gốc, nên nói thể tướng của thân kia.

Hai câu sau trong phần giải thích.

Pháp tánh... là giải thích thể đại.

Vô lượng công đức tạng là giải thích tướng đại. Pháp tánh là nói về nghĩa trùm khắp của chân thể này, nghĩa là chẳng làm thể ngay với Phật bảo ở trước, cũng chính là cùng chung tất cả Pháp làm tánh, tức hiển bày nghĩa sâu rộng chân như ở khắp nhiễm tịnh, chung cả tình và vô tình. Luận nói: "Ở số chúng sinh gọi là Phật tánh, ở không phải số chúng sinh gọi là Pháp tánh".

Chân như này nói về lúc Pháp tánh khắp nhiễm tịnh nghĩa không đổi khác. Chân là thể chẳng luống dối. Như là tánh không đổi khác. Biển là đứng về dụ mà giải thích nghi.

Nghi rằng: Chân đã chẳng thay đổi, vì sao lại theo nhiễm tịnh. Đã theo nhiễm tịnh, vì sao chẳng thay đổi?

Giải thích: Như biển do gió thổi mà có sóng mòi, sóng tuy sinh rồi diệt mà tánh ướt không thay đổi, tánh không thay đổi nên chẳng ngại khởi sóng, sóng tuy muôn lần động mà chẳng ngại một tánh ướt, nên động tĩnh không hai. Pháp nên y theo đây mà suy nghĩ.

Lại giải thích: Hiển bày chân như này đầy đủ đức như biển, kinh Hoa Nghiêm nói: "Ví như biển sâu rộng, châu báu không thể hết, ở trong đó tất cả hiển hiện hình loại của chúng sinh. Biển nhân duyên sâu xa, báu công đức vô tận. Trong Pháp thân thanh tịnh không hình ảnh nào chẳng hiện". Lại có mười tướng đặc biệt, đều là chân như, y theo giải thích sẽ hiểu.

Kế đến là giải thích trong tướng đại, đây là trong Pháp thân Như Lai tạng, gồm nhiếp, chứa nhóm Hằng sa tánh công đức, nên nói "Tạng", có nghĩa trong đây cũng nhiếp hai pháp Giáo và Hạnh. Nghĩa là "giáo" bao gồm công đức sở thuyên, "hạnh" gồm nhiếp công đức sở thành. Cho nên cũng nói vô lượng công đức tạng. Nên biết trong đây chung cho cả bốn thứ pháp bảo, đều có dung chứa.

Xong phần pháp bảo. Bậc như thật tu hành.

G3. Tăng bảo:

Tăng có cả phàm và thánh. Bảo chỉ cho địa vị của bậc thánh. Thánh có Đại thừa lẫn Tiểu thừa, Bồ-tát là trên hết. Cho nên trong đây chỉ quy y Đại Bồ-tát tăng Địa thượng. Nghĩa là chứng lý khởi hạnh gọi là như thật tu. Văn sau nói: "Nương pháp lực huân tập là hạnh dưới Sơ địa. Như thật tu hành là hạnh từ Sơ địa trở lên, đầy đủ phương tiện là Địa mãn". Chữ "Bậc" ở đây là nêu cả bậc trước sau (Địa tiền và Địa thượng). Lại theo luận Bảo tánh nói Bồ-tát từ Sơ địa trở lên theo chánh thể, hậu đắc nói hai thứ tu hành. Luận ấy nói: "Một là như thật tu hành, rõ một vị như lý. Hai là trùm khắp tu hành, biết đầy đủ nhất tâm có Hằng sa pháp giới". Nay trong văn này nêu chánh thề v.v... để lấy hậu đắc, nên nói là "Đẳng". Nương theo kinh Pháp Tập bao gồm muôn hạnh là hai thứ tu hành. Kinh nói: "Như thật tu hành là phát nguyện Bồ-đề. Tu hành không buông lung là nguyện Bồ-đề đã viên mãn". Lại nữa, như thật tu hành là tu hạnh bố thí. Chẳng tu hành buông lung là không cầu quả báo. Ở đây cũng nêu hạnh đầu để giữ hạnh sau (Địa tiền và Địa thượng), rất dễ hiểu.

Xong phần quy kính Tam bảo.

C2. Ý quy kính:

Đầu các luận khác phần nhiều có hai ý, nghĩa là tự lợi và lợi tha, nên pháp được tồn tại lâu v.v...

Nay trong văn này lược có ba ý:

- Vì lợi ích chúng sinh.

- Vì hạt giống Phật chẳng dứt mất.

- Giúp cho chánh pháp được tồn tại lâu dài.

Tức giáo pháp trụ lâu cũng là hạt giống Phật chẳng dứt. Như trong luận Kim Cương Bát-nhã của ngài Vô Trước, do khéo phó chúc Bát-nhã Ba-lamật truyền bá trong thế gian, làm cho hạt giống Phật chẳng dứt mất.

Bốn câu trong văn này chia làm ba:

D1. Nêu chỗ vì chúng sinh.

D2. Nói về sự thành tựu lợi ích.

D3. Ý thành tựu lợi ích.

Vì muốn giúp chúng sinh dứt nghi, xả bỏ tà chấp, khởi niềm tin chân chánh đối với Đại thừa, khiến hạt giống Phật chẳng dứt mất.

D1. Chỗ vì chúng sinh:

Tuy phần nhiều gom cả trong ba nhóm, theo văn sau chính vì nhóm chúng sinh Bất định. Văn sau nói: "Vì hạng chúng sinh chưa nhập chánh định, tu hành tín tâm v.v... Và gồm vì hạng tà định làm nhân duyên xa, gồm vì hạng chánh định thêm lớn đầy đủ diệu hạnh". Văn sau nêu riêng trong phần nhân duyên sáu địa vị của chúng sinh, cho đến sẽ phân biệt.

D2. Thành tựu lợi ích:

Có hai:

E1. Khiến lìa lỗi được lợi ích.

E2. Được thành tựu hạnh có lợi ích.

E1. Khiến lìa lỗi, được lợi ích:

Do nghi nên quên chân mất an vui, do chấp nên khởi các thứ vọng khổ. Trong luận Thập Địa Bồtát có ba thứ quán sát đối với chúng sinh mà khởi đại từ bi:

Xa lìa vui bậc nhất nghĩa tối thượng. Có đủ các khổ.

Đối với hai thứ kia điên đảo.

Giải rằng: Chân lạc sẵn có, mất mà không biết, vọng khổ vốn không được mà chẳng giác. Đối với kia được mất đều chẳng hay biết, nên khiến sinh tâm đại bi soạn luận. Nên văn sau phần lập nghĩa và hiển bày chánh nghĩa, giải thích nghĩa căn bản của Như Lai, khiến chúng sinh hiểu biết chân chánh không lầm. Do dứt nghi ngờ khiến ngộ chân lạc để đối trị tà chấp, dứt hai chấp kia, khiến lìa nhân khổ. Văn sau nói: "Lìa bỏ sân mạn, ra khỏi lưới tà". Nên nói dứt nghi, xả bỏ tà chấp.

E2. Được thành tựu hạnh có lợi ích:

Đã đối với chân không nghi, đối với tà không chấp, chẳng hay đối với thừa nào khởi hạnh? Nghĩa là đối với Đại thừa, vì đó là pháp căn bản rốt ráo, chẳng hay đối với Đại thừa này khởi những hạnh gì? Là khởi hạnh tín tâm. Do tín là gốc của các hạnh, cũng là ngược lại với nghi trước, nên nói "Tín". Ngược lại tà chấp ở trước nên nói "chánh", nghĩa là nói "khởi chánh tín Đại Thừa". Do văn sau phân biệt đạo tướng phát thú và phần tu hành tín tâm thành tựu hạnh này.

E3. Ý thành tựu lợi ích:

Nghĩa là khiến chúng sinh lìa lỗi, thành tựu hạnh, giúp địa vị tín thành tựu viên mãn, bước lên địa vị bất thoái, thành tựu quả tương lai. Nên nói là hạt giống Phật chẳng dứt mất. Văn sau nói: "Người có tín thành tựu phát tâm rốt ráo không lui sụt, vào trong dòng Như Lai, tương ưng chánh nhân..."

Giải thích: Do chỗ nói này giúp các chúng sinh tu hành nhân Phật thường hằng không dứt, nên nói "chẳng dứt". Kinh Hoa Nghiêm nói: "Gieo hạt giống Phật trong ruộng chúng sinh, nẩy mầm Chánh giác, cho nên làm cho Phật bảo chẳng dứt, chính là nghĩa này.

Lại giải thích: Do giáo pháp này truyền bá, như ở trước giải thích, cũng là chẳng dứt, đây là tương đương phần khuyến tu tạo được lợi ích.

Từ trên đến đây là phần quy kính đã nói xong.

PHẦN CHÁNH TÔNG:

Có hai:

A1. Nêu lợi ích mà khởi nói.

A2. Nói có năm phần, sau đây là trình bày chỗ nói.

A1. Nêu lợi ích mà khởi nói:

Luận rằng: Có pháp làm cho khởi tín căn Đại thừa, nên phải nói.

Trong phần đầu: Luận rằng là lời phân biệt luận khác kinh, Có pháp năng khởi là nêu lợi ích, tức hiển bày điều được nói có công dụng cao quý. Nên cần nói là khởi nói, hiển bày giáo nghĩa năng thuyên cần phát khởi. Có pháp là nêu chung pháp nghĩa của pháp Nhất tâm, hai môn và ba đại là pháp thể được nói. Hay khởi tín căn Đại thừa là nói rõ công năng của pháp, nghĩa là đứng về môn chân như thì tin lý quyết định, đứng về môn sinh diệt, thì tin nghiệp dụng không mất, đứng về nghĩa đại thì tin Tam bảo không hoại. Trong đây Tín căn là tin viên mãn nhập trụ, thành tựu căn không lui sụt. Căn có hai nghĩa:

Nghĩa năng trì: Là tự phần không mất. Nghĩa sinh hậu: Là cầu tiến lên cao siêu.

Lại căn và tín đối nhau, ảnh hưởng thành bốn câu:

Có tín mà không có căn: Là theo lời người khác nói nên tin. Có căn mà chẳng tín: Là các tuệ căn khác...

Vừa tín vừa căn: Trong đây nói rõ thấy lý nên thành tựu tín, v.v... Chẳng phải tín chẳng phải căn: Là chỗ của các pháp khác

Luận này do thấy được lợi ích này "nên cần nói".

Luận này từ trên đến đây là Khởi Tín Đại thừa, nên cần nói là luận, đề mục nương theo đây mà lập.

A2. Chính thức trình bày điều phải nói:

Có ba:

B1. Nêu số.

B2. Kể tên.

B3. Nói về tướng.

B1. Nêu số:

Nói có năm phần, năm phần là:

B2. Kể tên:

Phần nhân duyên. Không tự khởi mà soạn luận thì phải có nguyên do gọi là Nhân duyên. Chương có các đoạn văn khác chia nên gọi là Phần.

Phần lập nghĩa. Nguyên do đã hưng khởi, kế đến lược nêu cương yếu khiến chúng sinh sinh tin, nên gọi là phần lập nghĩa.

Phần giải thích. Tông yếu đã nói lược, kế đến nên giải thích, rộng giúp kia sinh hiểu, nên nói là phần giải thích.

Phần tu hành tín tâm. Giải thích đã sinh hiểu, kế đến nên nương vào sự hiểu biết mà khởi hành, có hiểu mà không hành là không tương ưng, nên có phần tu hành tín tâm.

Phần khuyến tu lợi ích. Tuy chỉ bày hành nghi, độn căn biếng nháo ngã mạn, kế đến nêu lên lợi ích khuyến tu, nên có phần khuyến tu lợi ích.

B3. Nói về tướng:

Giải thích năm phần là năm chương:

Chương I. Nhân Duyên.

Chương II. Lập nghĩa.

Chương III. Giải thích.

Chương IV. Tu hành tín tâm.

Chương V. khuyến tu lợi ích.

Chương I. NHÂN DUYÊN

Có hai:

A1. Trình bày nhân duyên.

A2. Dứt nghi

A1. Trình bày nhân duyên:

Hỏi rằng: Do nhân duyên gì mà soạn luận này.

Đáp rằng: Có tám nhân duyên:

Nạn: Tám nhân duyên ấy là gì?

Đáp chung. Có ba: B1-Nêu số.

B2-Nói tướng.

B3-Tổng kết.

Một là nhân duyên tướng chung:

B2. Nói về tướng:

C1. Một phần đầu là chung.

C2. Bảy phần sau là riêng.

Sỡ dĩ như vậy, vì chung là chung cả (gồm) và chánh. Riêng là đương cơ. Nên phải như vậy (có chung và riêng).

Nghĩa là, vì giúp chúng sinh lìa tất cả khổ, được vui rốt ráo, chẳng cầu sự cung kính danh lợi thế gian.

C1. Trong phần chung:

Lìa tất cả khổ, nghĩa là khiến hữu tình lìa ba khổ, hai chết (sinh tử phần đoạn và biến dịch).

Được vui rốt ráo, là khiến được vô thượng Bồ-đề Đại Niết-bàn. Chẳng cầu sự cung kính và danh lợi thế gian, có hai lối giải thích.

Chẳng muốn kia cầu lợi lạc trời người v.v... ở đời sau.

Luận chủ tự nói: "Ta vì làm lợi ích chúng sinh nên soạn luận này, chẳng vì danh lợi, v.v..."

Môn này chung cho tất cả tâm Bồ-tát, chẳng hạn cuộc ở luận này. Nên nói là tướng chung. Lại chung làm nguyên do phát khởi của luận này, nên nói là "nhân duyên chung tướng".

Hai là, Vì muốn giải thích nghĩa căn bản của Như Lai, giúp các chúng sinh tin hiểu chân chánh không lầm.

C2. Trong phần riêng:

Mỗi thứ phát khởi riêng ở văn sau, riêng là vì đương cơ.

Hạng một, làm nhân duyên phát khởi phần lập nghĩa và phần giải thích ở sau, tức nói lên chánh nghĩa đối trị tà chấp, vì trong văn kia nói: "Nương pháp nhất tâm có hai thứ môn". Mỗi môn nhiếp tất cả pháp tức các pháp môn căn bản mà Như Lai nói. Lại trong môn sinh diệt, Bản giác gọi là Như, Thỉ giác gọi là Lai. Thỉ, Bổn không hai gọi là Như Lai. Nên luận Chuyển Pháp Luân nói: "Chân đế gọi là Như, chánh giác gọi là Lai, chánh giác và chân đế gọi là Như Lai". Đây tức là chân lý sở chứng gọi là Như, trí năng chứng vô phân biệt gọi là Lai. Khi các chúng sinh chưa có trí vô phân biệt là Như mà không Lai. Nay do Như Lai nương tâm này được thành tựu, gọi tâm này là nghĩa căn bản của Như Lai. Trong văn giải thích có đủ nghĩa này, khiến các Bồ-tát địa vị thắng giải hạnh thuộc về bậc Tam Hiền trước Sơ địa, tỷ quán tương ưng. Nên nói hiểu bày chân chánh, tức văn hiển bày chính nghĩa này. Ở đây quán lìa điên đảo, nên nói "chẳng lầm", tức văn này là đối trị tà chấp.

Ba là, vì khiến chúng sinh gốc lành thuần thục đối với pháp Đại thừa, giữ được lòng tin không lui sụt.

Hạng hai, làm nhân duyên phần, phân biệt đạo tướng phát thú. Vì trong văn kia khiến người lợi căn phát tâm quyết định, tiến đến đại đạo, có khả năng trụ vị không lui sụt, đây là tâm cuối cùng của người Thập tín, tự phần đầy đủ, nên nói "Gốc lành thuần thục", tiến vào nhóm chánh định của Thập Trụ, khiến giữ được tín tâm ở trước không lui sụt.

Bốn là, vì khiến chúng sinh gốc lành ít ỏi tu tập tín căn.

Hạng ba, làm nhân duyên nghe bốn thứ tín tâm và bốn thứ tu hành ban đầu trong phần tu hành tín tâm ở sau. Vì trong văn kia giúp người tin chưa đầy đủ, tu hành tín tâm để được đầy đủ. Đây là trụ tâm của người Thập tín, do địa vị tin chưa viên mãn, nên nói gốc lành thiếu mỏng, khiến tiến tu được viên mãn, nên nói tu hành tín tâm.

Năm là, vì chỉ bày phương tiện dứt nghiệp chướng ác, khéo giữ gìn tâm kia, xa lìa si mạn, ra khỏi lưới tà.

Từ đây trở xuống là bốn thứ căn cơ, tương đương sơ tâm của Tín vị. Vì sao ba hạng trước đều do một môn nhiếp, trong đây có riêng bốn thứ? Do ba hạng căn cơ trước cao siêu tiến dễ khó lui, không nhờ nhiều năng lực phương tiện giúp đỡ mà vẫn thành đạo. Trong đây hạng căn cơ kém, thoái dễ tiến khó, phải nhờ nhiều phương tiện nên có bốn. Trong bốn hạng, ba hạng trước là thượng, trung, ha. Một hạng sau là sách tấn khuyến tu. Hạng đầu tiên làm nhân duyên cho văn cuối tu hành thứ lớp trong phần tu hành tín tâm ở sau. Vì trong văn kia khiến chúng sinh nghiệp nặng mê lầm nhiều, gốc lành khó phát, lấy sám hối v.v... làm phương tiện dứt nghiệp chướng ác. Nghiệp chướng được nhẹ là bên trong lìa bỏ ngu si kiêu mạn, bên ngoài ra khỏi lưới tà ma. Nên nói "Khéo giữ gìn tâm kia khiến xa lìa si mạn, ra khỏi lưới tà", đây là hạ phẩm.

Sáu là, vì muốn chỉ bày tu tập chỉ quán đối trị lỗi tâm của phàm phu và Nhị thừa.

Hạng thứ hai này làm nhân duyên môn chỉ quán tu hành phần thứ năm ở sau, vì trong văn kia nói rõ hai thứ chỉ quán, bỏ hai chấp của phàm phu và Tiểu thừa, nên nói đối trị lỗi tâm. Sau đây tự nói rộng, đây là hạng trung phẩm.

Bảy là, chỉ bày phương tiện chuyên niệm mà sinh ở trước Phật, chắc chắn không lui sụt tín tâm.

Hạng thứ ba làm nhân duyên cho văn phần cuối tu hành tín tâm và làm nhân duyên văn khuyến tu tịnh độ. "Lại nữa chúng sinh mới học" là pháp này. Vì trong văn kia nêu phương tiện cao quý khiến kia quán hiểu, được phần tương ưng. Chúng sinh sợ quả báo sau dời đổi gặp duyên thành lui sụt, nên khuyên vãng sinh không để cho lui sụt, đây là hạng Thượng phẩm.

Tám là, vì chỉ bày lợi ích khuyến tu hành, nên có các nhân duyên như thế, đó là lý do soạn luận.

Hạng thứ tám làm nhân duyên cho phần khuyến tu lợi ích ở sau. Vì trong văn kia nêu lên sự tổn giảm lợi ích mà khuyên chúng sinh tu xả bỏ, là sách tấn thành tựu chung các hạnh ở trước, trong phần hỏi thứ ba rất dễ hiểu.

A2. Dứt nghi:

Hỏi: Trong kinh có đủ pháp này đâu cần nói lại.

Trong phần chung thứ tư, văn có hai:

B1. Là lời hỏi kia.

B2. Dứt mất nghi tình, để nói rõ cần soạn luận Do chúng sinh căn hạnh v.v... trở xuống:

Có hai:

C1. Nêu hai tướng căn duyên để lập tông.

C2. Giải thích riêng căn duyên. Như Lai tại thế, v.v... trở xuống.

Đáp rằng: Trong kinh tuy có pháp này, nhưng do chúng sinh căn hạnh khác nhau nên thọ hiểu duyên riêng.

C1. Nêu hai tướng căn duyên để lập tông:

Có: Căn cơ có đồng khác.

Duyên có tăng trưởng hay yếu kém.

C2. Giải thích riêng về căn duyên:

Có hai:

D1. Nói, nghe đều cao siêu. Văn kinh còn không truyền giấy mực huống chi cần soạn luận.

D2. Nói về căn duyên kém mỏng cần kinh cần luận.

Như Lai diệt, v.v... trở xuống,

Nghĩa là: Như Lai tại thế vì chúng sinh lợi căn, người nói sắc, tâm, nghiệp cao quý, dùng một viên âm giảng nói các loài khác nhau đều hiểu thì không cần nói.

D1. Đứng về thời thù thắng để nói căn thù thắng:

Người hay nói v.v... trở xuống, là nói về duyên cao quý, trong đó ba nghiệp rất dễ hiểu.

Nhất âm và viên âm có hai:

Như Lai dùng một âm nói tất cả pháp đều hiển bày rõ ràng, nên gọi là viên âm. Kinh Hoa Nghiêm chép: "Như Lai ở trong một lời giảng nói biển khế kinh vô biên".

Như Lai đồng tất cả âm, nên nói là viên âm.

Kinh Hoa Nghiêm nói: "Pháp ngữ ngôn của tất cả chúng sinh, dùng một lời giảng nói trọn hết không dư". Vì tất cả âm tức là một âm, nên nói là một âm, một âm tức tất cả âm, nên nói viên âm, v.v...". Mỗi ngôn ngữ âm thanh trùm khắp cõi chúng sinh, âm vận kia thường không lẫn lộn. Nếu âm thanh không trùm khắp thì âm thanh chẳng tròn đầy. Nếu do âm thanh đồng trùm khắp thì mất vận khúc, là viên chẳng âm. Nay chẳng hoại khúc mà đồng khắp, bất động khắp mà khéo có vận, đây là viên âm của Như Lai, chẳng phải là cảnh giới mà tâm thức suy lường được.

D2. Nói về căn duyên kém mỏng cần kinh, cần luận:

Hạng thấp kém có bốn thứ:

- Hai kinh lược và rộng.

- Hai luận lược và rộng.

Nếu sau khi Như Lai diệt độ:

Có chúng sinh do tự lực nghe rộng mà hiểu lấy: là được hiểu ý Phật không cần luận khác, nên nói tự lực, tức đầy đủ cả hai thứ văn trì và nghĩa trì.

Có chúng sinh cũng do tự lực nghe ít mà hiểu nhiều, cũng do tự lực tìm văn của kinh lược mà hiểu được ý kinh nên cũng không cần luận khác, ở đây có nghĩa trì, không có văn trì.

Có chúng sinh không tự tâm lực, nhờ luận rộng mà được hiểu. Chỉ nương văn của kinh không thể hiểu ý, nhân luận rộng khác mới hiểu được ý kinh. Nên nói không có tự tâm lực, đây là văn trì mà không có nghĩa trì.

Có chúng sinh lại do luận rộng văn nhiều làm phiền nên tâm ưa tổng trì, văn ít mà nhiếp nhiều nghĩa cũng có thể hiểu được. Hạng người này chẳng chịu văn nhiều, chỉ nương vào luận văn giản dị mà nghĩa dồi dào, hiểu sâu ý chỉ của kinh Phật nói, nên nói tâm ưa tổng trì mà nhiếp nhiều nghĩa, ở đây không có văn trì, nghĩa trì. Văn này có hai:

- Nói về căn cơ thấp kém:

- Đối với căn cơ thấp kém này để nói về sự hưng khởi của giáo.

Như thế luận này v.v... trở xuống.

Như thế luận này vì muốn gồm nhiếp nghĩa vô biên, pháp sâu xa rộng lớn của Như Lai, nên nói luận này.

Như thế luận này, văn cú tuy ít mà nhiếp khắp tất cả ý chỉ của kinh luận Đại thừa, nên nói "Gồm nhiếp kinh luận rộng lớn của Như Lai, v.v...". Như cảnh lý trí, nên nói là "Sâu". Như cảnh lượng trí, nên nói là "Rộng". Sâu không bờ mé, nên nói là "vô biên".

Chương II. LẬP NGHĨA

Văn chia có hai:-Kết trước sinh sau.-Chính nêu lập nghĩa. Văn này có ba:

- Nêu chung khai riêng.

- Nương lời hỏi để kể tên.

- Nương vào tên để nói rõ tướng.

Đã nói phần nhân duyên, kế đến nói về phần lập nghĩa. "Đại thừa" nói chung có hai thứ, hai thứ đó là Pháp và Nghĩa.

Pháp ở trong tên xuất xứ từ pháp thể Đại thừa, là Tự thể, Đối trí, Hiển nghĩa, tức là bổn pháp của tông, đại vị ở nhân, chung cho cả nhiễm tịnh.

Nghĩa nói về danh nghĩa Đại thừa. Vì sao tâm này là Đại thừa? Vì trong tâm này đầy đủ nghĩa ba đại, nên gọi là Đại. Có hai thứ vận chuyển nên gọi là Thừa. Tức nương vào tông để hiển bày nghĩa lý khác nhau. Đại vị ở quả chỉ lấy tịnh. Cho nên, Đại thừa nói chung có hai, nghĩa là trước trình bày về pháp thể, sau là giải thích nghĩa lý, thâu nhiếp nghĩa đầy đủ.

Phần nói về tướng: Có hai:

A1. Lập pháp.

A2. Lập nghĩa.

A1. Lập pháp:

Có hai:

B1. Nêu pháp để lập chung.

B2. khai môn để lập riêng. Vì sao v.v... trở xuống,.

Có chỗ nói pháp nghĩa là tâm chúng sinh.

B1. Nêu pháp để lập chung:

Có ba câu:

Câu 1: Tâm chúng sinh xuất xứ từ pháp thể kia, là Như Lai tạng tâm bao gồm hai môn hòa hợp và chẳng hòa hợp, do kia ở địa vị chúng sinh. Nếu ở địa vị Phật thì không có nghĩa hòa hợp. Do thỉ giác đồng bản giác, chỉ là chân như, tức ngay đây hiển bày nghĩa. Nay ở địa vị chúng sinh theo nhiễm mà được đầy đủ hai môn kia.

Tâm này nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian.

Câu 2: Nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian là nói về công năng của pháp, do tâm này thể tướng vô ngại, nhiễm tịnh đồng nương, theo dòng ngược dòng chỉ chuyển tâm này. Cho nên, nếu theo nhiễm thành Bất giác thì thuộc về pháp thế gian. Bản giác bất biến và thỉ giác ngược dòng là thuộc về pháp xuất thế gian. Ở đây vẫn nói theo môn sinh diệt. Nếu theo môn Chân như thì bao dung, gồm nhiếp, nhiễm tịnh chẳng khác, cho nên nhiếp chung. Văn sau hiển bày đầy đủ.

Nương tâm này trình bày nghĩa Đại thừa:

Câu 3: Nương vào tâm này trình bày nghĩa Đại thừa. Giải thích tên pháp kia, nghĩa là nương vào bổn pháp của tông nhất tâm này mà hiển bày nghĩa ba đại của Đại thừa, nên dùng tâm này để làm pháp.

B2. Khai môn để lập riêng:

Có hai:

C1. Trách hỏi lập chung.

C2. Khai giải thích riêng thành tựu

Vì sao? Vì tâm này là tướng chân như, tức chỉ bày thể Đại thừa.

C1. Trách hỏi lập chung:

Có hai ý:

Tâm chung cho cả nhiễm tịnh: Là Đại thừa chỉ có tịnh, sao tâm này có thể hiển bày nghĩa Đại thừa? Lại nói tâm pháp là một, Đại thừa nghĩa rộng, làm sao tâm này chỉ bày được nghĩa?

Giải thích ý: Đại thừa tuy là tịnh tướng nhưng dụng sẽ đối nhiễm mà thành. Nay trong môn Sinh diệt đã bao gồm đầy đủ nhiễm tịnh cho nên có thể hiển bày. Vì lúc bỏ nhiễm thì không có dụng tịnh, ở đây giải thích ý ban đầu.

Lại tâm pháp tuy một mà có hai môn. Trong môn chân như chỉ bày thể Đại thừa. Trong môn sinh diệt đầy đủ ba đại của tông, nghĩa Đại thừa đâu ra khỏi ba đại, nên nương vào nhất tâm này được hiển bày nghĩa ba đại.

C2. Khai giải thích riêng thành tựu:

Nói Tâm chân như là nêu chung môn chân như, văn bắt đầu từ Nhất pháp giới trở xuống, nói tướng tức tướng chân như, trong văn bắt đầu từ Lại nữa, chân như là y theo văn Nói năng phân biệt trở xuống. Là tướng nhân duyên, tâm sinh diệt chỉ bày tự thể, tướng, dụng của Đại thừa.

Tâm sinh diệt là theo huân tập biến mà động, nêu chung môn sinh diệt. Văn bắt đầu từ Nương vào nơi Như Lai tạng nên có tâm sinh diệt trở xuống.

Nhân duyên là nguyên do sinh diệt, là văn bắt đầu từ "Lại nữa, nhân duyên sinh diệt" trở xuống.

Tướng là tướng trạng sinh diệt, là văn bắt đầu từ Lại nữa, tướng sinh diệt trở xuống.

Vì sao trong môn Chân như nói "tức chỉ bày", trong môn Sinh diệt nói "hay chỉ bày", vì môn Chân như là môn bất khởi, cùng chỗ hiển bày thể đại kia không có tướng khác, giảng nói ý chỉ không khác nhau, nên nói "tức chỉ bày". Vì không phát khởi, chỉ hiển bày thể.

Môn Sinh diệt là môn khởi động, nhiễm tịnh đã khác, giảng nói ý chỉ lại phân biệt, năng sở khác nhau nên chẳng nói tức.

Tự, thể, tướng, dụng: Thể là nghĩa bản giác trong môn Sinh diệt, là nhân sinh diệt, tự thể sinh diệt. Trong môn Sinh diệt cũng nói rõ thể, tướng tịnh trái với nhiễm và nghiệp dụng theo nhiễm đều ở trong môn này, nên nói đủ. Cho nên, văn sau giải thích trong môn Sinh diệt hiển bày đầy đủ, chỗ chỉ bày nghĩa ba đại ý ở đây. Vì sao trong môn Chân như nói thẳng về thể, trong môn Sinh diệt lại nói tự thể?. Vì chỗ chỉ bày nghĩa ba đại lại hay chỉ bày trong môn Sinh diệt, hiển bày ngoài đó không có gì khác, nên nói là Tự.

Hỏi: Chân như là môn bất khởi, chỉ hiển bày ở thể. Môn sinh diệt là khởi động lẽ ra nên chỉ bày tướng, dụng?.

Đáp: Môn chân như là bất khởi, bất khởi thì chẳng cần do phát khởi mà lập, vì không phát khởi nên chỉ chỉ bày thể. Sinh diệt là môn khởi động, khởi thì nhờ bất khởi, khởi bao gồm bất khởi, nên trong khởi có đủ ba đại, ngoài ra như văn sau nói.

Giải thích pháp đã xong.

A2. Lập nghĩa:

Nghĩa đại là văn bắt đầu từ Lại nữa, tướng tự thể của chân như, v.v... trở xuống.

Trong đây có hai:

B1. Nói về Đại.

B2. Giải thích Thừa.

B1. Nói về Đại:

Có hai: a-Nêu. b-Giải thích.

Nói nghĩa có ba thứ, ba thứ ấy là: Trong phần giải thích có ba:

Nghĩa là tất cả pháp chân như bình đẳng không thêm không bớt. Thể Chân tánh sâu rộng, phàm, thánh nhiễm tịnh đều nương vào đây, nên gọi là Đại. Theo dòng thêm nhiễm mà không thêm, ngược dòng dứt nhiễm mà chẳng bớt. Lại ngược dòng thêm tịnh mà chẳng thêm, theo dòng thiếu tịnh mà chẳng bớt. Bởi nhiễm tịnh chẳng thiếu, trước sau chẳng thay đổi, nên nói bình đẳng chẳng thêm bớt.

Nghĩa là Như Lai tạng đầy đủ vô lượng tánh công đức, tướng đại là nghĩa bất không trong hai thứ Như Lai tạng, nghĩa là tướng chẳng khác thể, nên nói tánh đức. Như tám đức của nước chẳng khác với nước.

Sinh ra tất cả nhân quả lành thế gian và xuất thế gian. Dụng đại là dụng đại tự nhiên, nghiệp huyễn theo nhiễm, dụng thô tế của báo thân và hóa thân khiến chúng sinh ban đầu thành thiện thế gian, sau thành tựu xuất thế gian. Văn sau sẽ trình bày.

Vì sao chỉ nói thiện, chẳng nói bất thiện? Vì pháp bất thiện trái chân là chỗ đối trị, chẳng phải dụng. Nếu như vậy các pháp bất thiện lẽ ra lìa chân?.

Giải thích: Vì trái với chân chẳng được lìa chân, vì trái với chân mà chẳng phải dụng ấy.

B2. Giải thích Thừa. Có hai:

Vốn là chỗ nương của tất cả chư Phật, nêu quả hướng về nhân để giải thích thừa.

Tất cả Bồ-tát đều nương pháp này mà đến địa vị của Như Lai, nêu nhân hướng về quả để thành tựu nghĩa chuyên chở, tức trí Thỉ giác là năng thừa, lý bản giác là Sở thừa. Nhiếp luận nói: "chuyên chở đại tánh nên gọi là Đại thừa".

Phần Lập Nghĩa đã xong.

QUYỂN TRUNG (Phần Đầu)

Chương III. GIẢI THÍCH.

Có hai: Kết trước, Sinh sau. Đã nói trong phần lập nghĩa xong, kế là nói phần giải thích.

-Nói về giải thích. Trong văn giải thích:

Có ba: Nêu số; Kể tên; Nói về tướng. Nêu số: Giải thích có ba thứ, ba thứ ấy là:

Kể tên: Đầu tiên hiển bày chánh nghĩa, giải thích nghĩa lập pháp Đại thừa.

Kế là chánh lý đã nói, tình hoặc đã mất nên có đối trị tà chấp.

Tà chấp đã mất, kế là nói hướng đến thứ bậc chân chánh, nên có phân biệt đạo tướng phát thú.

Nói về tướng: Giải thích ba tên trên tức là ba mục.

Mục 1. Hiển bày chánh nghĩa.

Mục 2. Đối trị tà chấp.

Mục 3. Phân biệt đạo tướng phát thú.

Mục1. Trình bày chánh nghĩa:

Có hai:

Đoạn 1. Giải thích chính.

Đoạn 2. Hội tướng về thật.

Đoạn 1. Giải thích chính:

Có hai:

Tiểu đoạn 1. Giải thích lập pháp Đại thừa.

Tiểu đoạn 2. Giải thích lập nghĩa Đại thừa.

Tiểu đoạn 1. Giải thích lập pháp Đại thừa.

Có hai:

A1. Chung: Giải thích trong phần lập nghĩa ở trước. Tâm chúng sinh gồm nhiếp tất cả, v.v...

A2. Riêng: Giải thích nghĩa hai môn phân biệt. Từ Vì sao?, v.v... trở xuống là nói về phần lập nghĩa ở trên.

A1. Phần chung:

Có ba:

B1. Nương pháp khai môn.

B2. Nêu ra hai môn.

B3. Hai môn bao gồm, thu nhiếp.

B1. Nương pháp khai môn:

Hiển bày chánh nghĩa là nương pháp nhất tâm, có hai môn, hai môn ấy là:

B2. Nêu ra hai môn:

- Tâm chân như môn.

- Tâm sinh diệt môn.

Trong phần đầu nói nhất tâm nghĩa là tâm Như Lai tạng bao gồm hai nghĩa: đứng về nghĩa thể dứt tướng, tức môn Chân như, nghĩa là chẳng nhiễm, chẳng tịnh, chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng động, chẳng chuyển, bình đẳng một vị, tánh không khác nhau, chúng sinh tức Niết-bàn, chẳng cần đợi diệt. Phàm phu, Di-lặc đồng một bờ.

Nghĩa sinh diệt tùy duyên: tức môn Sinh diệt, nghĩa là theo huân tập chuyển động thành nhiễm tịnh, nhiễm tịnh tuy thành tánh mà hằng bất động, hằng bất động mà thành nhiễm tịnh, cho nên bất động cũng ở môn động, cho nên, văn sau nói: "Thức có hai nghĩa, nó là bản giác", là văn trên nói về tự thể trong môn Sinh diệt. Trong kinh Thắngman nói: "Chẳng nhiễm mà nhiễm, nhiễm mà chẳng nhiễm, v.v...". Đây nói theo môn Sinh diệt. Kinh Lăng-già chép: "Như Lai tạng tên thức A-lại-da cùng chung bảy thức vô minh. Như sóng trên biển lớn thường không dứt". Lại nói: "Như Lai tàng là ác tập luống dối huân từ vô thỉ, nên gọi là thức tàng". Lại nói: "Như Lai tàng là nhân thiện, bất thiện chịu khổ vui, hoặc sinh hoặc diệt chung với nhân. Giống như cô đào hát làm các thứ kỹ nhạc". Rộng như hai bộ kinh Lăng-già nói, đều nói theo môn Sinh diệt.

Nhưng, hai môn này toàn thể dung thông, giới hạn bờ mé không chia thể tướng đâu có hai, vì văn hỏi tên gọi nên nói là "nhất tâm có hai môn, v.v...".

B3. Hai môn bao gồm thu nhiếp:

- Ban đầu lập.

- Kế giải thích.

Hai môn này mỗi môn đều gồm nhiếp tất cả pháp.

Nói: Mỗi môn đều nhiếp tất cả pháp là trong phần lập nghĩa ở trước, nói thẳng là Nhiếp. Nay trong phần giải thích nói: "Mỗi môn đều nhiếp", vì môn chân như là tướng chung cả nhiễm tịnh, ngoài tướng chung không có nhiễm tịnh riêng nên được nhiếp chung. Như hạt bụi là tướng chung, là: ngói, bình v.v... ngoài tướng chung không có ngói, bình riêng. Ngói, bình là chỗ nhiếp của hạt bụi. Nên biết môn Chân như cũng giống như vậy, y theo đây rất dễ hiểu. Môn Sinh diệt là tướng riêng của nhiễm tịnh, pháp của tướng riêng là thuộc về Sinh diệt. Lại, đây là chân như hoà hợp với duyên biến thành các pháp, các pháp đã không có tự thể riêng, trở lại thuộc môn Chân như. Vì ngói, bình v.v... thuộc về hạt bụi, v.v... Hai môn này cùng nhiếp không hai, nên nói là "nhất tâm".

Hỏi: Hai môn đã thu nhiếp lẫn nhau, vì sao văn trên trong môn chân như chỉ chỉ bày thể Đại thừa, chẳng hiển bày tướng, dụng. Trong khi môn Sinh diệt trình bày đủ ba đại?

Đáp: Chân như là môn dứt tướng, hiển bày chân thật, chẳng hoại tướng mà trừ dẹp, được xếp vào môn Sinh diệt, dẹp tướng mà chẳng còn, chỉ chỉ bày thể. Sinh diệt là môn nương lý thành sự, chẳng hoại lý mà thành sự, được nhiếp vào môn

Chân như, thành sự mà lý chẳng mất, chỉ bày đủ ba đại.

Hỏi: Trước đã dẹp tướng, tướng không còn, chỉ hiển bày thể, cũng có thể nương cả lý mà lý chẳng còn, nên chỉ bày tướng dụng?

Đáp: Không có việc đó. Vì sao? Vì Sinh diệt khởi phải nhờ chân như, nương lý, lý chẳng mất, chân như chưa nhờ sinh diệt, mất tướng chẳng còn. Vì mất tướng chẳng còn nên chỉ bày thể, vì lý chẳng mất nên chỉ bày đủ ba đại. Cho nên nhiếp nghĩa thì đồng mà chỉ bày nghĩa thì khác. Ở sau gạn trách giải thích thành.

Nghĩa này thế nào?.

Trách rằng: Nếu hai môn khác nhau thì chẳng thể theo nhau, nếu vốn chỉ một nhất tâm thì không là thuộc về?

Do hai môn chẳng lìa nhau.

Trong phần đáp nói: "Chẳng lìa nhau" là do thể tướng không lìa nhau. Như vàng và các đồ trang sức, nếu do vàng thâu nhiếp các đồ trang sức thì đồ trang sức không có mất, lấy đồ trang sức xếp vào vàng thì vàng đều hết. Bởi vì hai môn một con đường toàn thể thâu khắp. Nghĩa này cũng như vậy, suy nghĩ sẽ thấy.

A2. Giải thích riêng:

Có hai:

B1. Nói riêng hai môn: Là trình bày động tĩnh chẳng phải một.

B2. Nói về hội tướng vào thật, trình bày động tĩnh chẳng khác.

Từ môn Sinh diệt vào môn Chân như v.v... trở xuống,

B1. Giải thích hai môn:

Có hai:

C1. Môn Chân như.

C2. Môn Sinh diệt C1. Môn Chân như.

Có hai:

D1. Nêu.

D2. Giải thích. Có hai:

- Giải thích nghĩa chân như trong phần lập nghĩa ở trên. Thể Như lìa ngôn ngữ để rõ cảnh trí.

- Giải thích tướng chân như trong phần lập nghĩa ở trên.

Lại nữa chân như v.v... trở xuống, Nương ngôn ngữ nói về đức để làm sáng tỏ cảnh sinh tín.

D1. Nêu:

Có hai:

E1. Nêu chung pháp thể.

E2. Hỏi đáp giải thích nghi ngờ.

E1. Nêu chung về pháp thể.

Có hai:

G1. Trình bày thể như.

G2. Hội chấp giải thích tên do tất cả lời nói, v.v... trở xuống G1. Trình bày thể như:

Có ba:

H1. Đứng về mặt thật để lược nêu.

H2. Hội vọng hiển chân. "Tất cả pháp v.v..." trở xuống.

H3. Tổng kết chân lìa vọng. "Cho nên v.v..." trở xuống.

H1. Đứng về mặt thật để lược nêu:

Tâm chân như tức là thể nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn. Tức chân tâm không hai là nhất pháp giới, ở đây chẳng phải một trong phép tính toán. Nghĩa là như lý rỗng rang dung nhiếp bình đẳng không hai gọi là Một. Lại đối ở sau nương ngôn ngữ có hai nghĩa. Nay đứng về thể chỉ nói một. Nương đó sinh thánh pháp, nên nói "pháp giới". Luận nói Trung Biên: "Pháp giới là nhân, Thánh pháp làm nghĩa nên nói pháp giới. Thánh pháp nương cảnh này sinh, trong đây nghĩa nhân là nghĩa giới". Nói "Đại tổng tướng" trong hai môn chẳng lấy môn biệt tướng, trong đó chỉ lấy Tổng tướng. Tuy nhiên cũng thâu nhiếp tất cả biệt, nên nói là "Đại". Nhất pháp giới này toàn thể tạo ra tất cả môn Sinh diệt, toàn thể tạo môn chân như, vì hiển bày nghĩa này nên nói thể. Phép tắc làm cho chúng sinh hiểu gọi là Pháp, Thánh trí thông suốt gọi là Môn.

Nghĩa là, tâm tánh chẳng sinh diệt. là giải thích pháp thể ở trên, nghĩa là theo vọng chẳng sinh, theo đối trị chẳng diệt, lại khởi tu chẳng sinh, chỗ nhiễm chẳng diệt. Nên Nhiếp Luận chép: "Thế gian chẳng phá hoại, xuất thế gian chẳng cùng tận".

H2. Hội vọng bày chân:

Có hai câu:

Tất cả các pháp chỉ nương vọng niệm mà có khác nhau, nếu lìa tâm niệm thì không có tất cả tướng cảnh giới.

Có người chấp: Hiện thấy các pháp khác nhau thay đổi, vì sao nói tánh không sinh diệt?

Giải thích: Tướng khác nhau là biến kế vọng tình của ông tạo tác, xưa nay không thật, như nương theo mắt nhặm thấy hoa đốm lăng xăng trong hư không. Nên nói "Đều nương theo vọng niệm mà có khác nhau".

Người nghi nói: Do đâu biết được y theo vọng niệm sinh?

Giải thích: Do các bậc thánh lìa bỏ các vọng niệm, đã không có cảnh này thì xét thấy cảnh này chắc chắn từ vọng sinh. Lại, nếu cảnh này chẳng do vọng tạo tác quyết định thật có mà bậc thánh không thấy, lẽ ra là mê mờ điên đảo. Phàm phu đã thấy lẽ ra giác ngộ, như không thấy hoa đốm giữa hư không, nên là mắt nhặm, ngược lại tổng kết y theo đây, nên nói "nếu lìa niệm thì không, v.v..." H3. Tổng kết: Có tám câu.

Cho nên, tất cả pháp từ xưa đến nay lìa tướng nói năng, lìa tướng tên gọi, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng không thay đổi, không thể phá hoại, chỉ là nhất tâm nên gọi Chân như.

- Cho nên là chỗ chấp vốn không, chân tâm không động, do đây tất cả các pháp đều tức là chân như.

- Lìa tướng nói năng là chẳng ở trong lời nói, âm thanh.

- Lìa tướng tên gọi là chẳng ở trong văn cú, nói năng mà biểu hiện được.

Hai câu này đường ngôn ngữ dứt, chẳng phải cảnh văn tuệ.

- Lìa tướng tâm duyên là chẳng phải ý nghĩ lời nói phân biệt được, là chỗ tâm hành diệt, chẳng phải cảnh tư tuệ.

Từ trên đến đây lìa luống dối nên nói là "chân". Từ đây trở xuống lìa tướng khác nên nói "Như". Lại ba câu sau lần lượt giải thích tướng.

- Lìa thế gian là cảnh tu tuệ, do chánh trí tương ưng.

- Rốt ráo bình đẳng là tuy gồm cả nhiễm tịnh mà tánh thường không hai. Sở dĩ được không hai, là do lúc ở duyên trước sau không đổi, nên nói không có đổi khác. Sở dĩ ở trong hữu vi được chẳng đổi khác là do chẳng đồng hữu vi để phá hoại. Đây là ở nhiễm không phá, đạo đối trị chẳng hoại.

Chỉ là nhất tâm là kết luận trở về pháp thể, nên nói Chân như là nương theo nghĩa lập tên.

G2. Hội chấp giải thích tên:

Có hai.

H1. Giải thích.

H2. Kết luận. H1. Giải thích Có ba:

I1. Chính hội đối trị chấp.

I2. Y theo tên để giải thích nghi, tột nói năng, v.v... trở xuống.

I3. Y theo tướng để giải thích dẹp, thể chân như này v.v... trở xuống.

I 1. Chính hội đối trị chấp:

Do tất cả lời nói giả danh không thật, chỉ theo vọng niệm không thật có, nên nói chân như cũng không có tướng.

Nói do tất cả lời nói giả danh không thật là nói ngôn giáo chẳng thật, không nên chấp ngôn ngữ.

Chỉ theo vọng niệm v.v... là giải thích nguyên do thành không thật. Sợ các phàm phu nghe nói tên chân như ở trên thì cho rằng luận chủ tự nói trái nhau. Văn trên đã nói "lìa tướng danh tự". Vì sao lại đặt tên chân như này, cho nên nay giải thích, dẹp bỏ giả danh chẳng thật thì không trái nhau.

Nói không có tướng là dẹp bỏ tướng, bởi tên nương vào tướng mà lập, đều là chỗ duyên của biến kế. Kinh Lăng-già nói: "Danh tướng thường theo nhau mà sinh các vọng tưởng", nên nay cả hai đều dẹp.

I 2. Y theo tên để giải thích nghi ngờ:

Có Hai câu:

- Lập phần hạn của tên.

- Lập ý của tên.

Nghĩa là tột cùng lời nói là dùng lời dẹp lời.

Ban đầu nghi: Đã dứt danh tướng chỉ giả lập tên khách, vì sao chẳng lập tên khác mà chỉ nói Chân như?

Giải thích: Chân như là tột cùng của lời nói, nghĩa là sau tên này không còn tên, nên trong các tên là bờ mé rốt cùng. Mười tên trong Nhiếp luận, tên Chân như là tên rốt ráo thứ mười, nên nói tột cùng.

"Dùng lời dẹp lời" là đặt tên tột cùng này vì dẹp tên, nếu không có tên này thì không do đâu dẹp tên, nếu còn tên này thì cũng không dẹp tên. Như tiếng đã tịnh, nếu không có tiếng này thì không dừng được các tiếng khác, nếu còn tiếng này thì cứ thường là tịnh, tức tự làm ồn, cũng chẳng dừng tiếng. Nên biết ở đây ý thú cũng giống như vậy, khéo phải dứt bỏ.

I 3. Theo tướng để giải thích dẹp:

Có hai câu:

Thể chân như này không thể dẹp, do tất cả pháp đều chân, nên cũng không thể lập, do tất cả pháp đều là Như.

Nói "Thể chân như này không thể dẹp, v.v...". Giải thích có hai:

- Đứng về mặt quán mà giải thích: Người ngoài thấy ở văn trước cả hai đều dẹp danh tướng của Chân như. Nghĩa là bổn thể chân như cũng là pháp để dẹp thì sinh ra đoạn kiến. Nên nay giải thích rằng: Chỉ dẹp danh tướng luống dối mà không dẹp pháp thật Chân như. Đó là trí mầu quán cảnh, vì sao không dẹp? Câu sau giải thích rằng: Vì tất cả pháp đều là chân, không có pháp để dẹp. Người ngoài đã nghe chân lý không dẹp thì cho là có pháp để lập, ngay tình mà duyên chấp, nên nói cũng thể lập. Vì lìa vọng tình vì sao không lập? Câu sau giải thích trình bày rất dễ hiểu.

- Đứng về mặt pháp mà giải thích: "Không thể dẹp", là chẳng do thể chân mà dẹp pháp sinh diệt, vì sao chẳng dẹp?

Giải thích rằng: Vì tất cả pháp đều chân, do trong môn Sinh diệt tất cả pháp nhiễm tịnh không có tự tánh, chẳng khác chân như, không đợi mất.

"Cũng không thể lập": Các pháp sinh diệt không hề chẳng chân, chân như này không đợi lập, vì sao không đợi lập? Câu sau giải thích rằng: Vì tất cả pháp đều Như, do tất cả pháp sinh diệt xưa nay đồng như, chân như này không hề chẳng hiển, làm sao có chỗ lập. Lại theo hai môn ở văn trên, mỗi môn đều nhiếp chung, tất cả pháp môn ở đây nên chia thành bốn câu:

Đứng về mặt chân không có chỗ dẹp: Vì tục tức chân.

Đứng về mặt chân không đợi lập: Chân tức tục vốn hiện.

Đứng về tục không trái nhau: Do chân tức tục.

Đứng về mặt tục không đợi lập: Tức chân tục khác nhau.

Do đó nghĩa này không hoại môn Sinh diệt mà nói môn Chân như, không hoại môn Chân như mà nói môn Sinh diệt, bởi hai môn chỉ là nhất tâm, do đó chân tục cả hai viên dung không chướng ngại.

Trong bốn câu này thì hai câu trước là ở môn Chân như, hai câu sau là ở môn Sinh diệt. Do ở đây là môn Chân như, nên chỉ có hai câu.

Nên biết tất cả pháp không thể nói, không thể nghĩ, nên gọi là chân như.

H2. Kết luận:

Nên biết v.v... trở xuống, là nghĩa dứt bặt nói năng, suy nghĩ.

E2. Hỏi, đáp, giải thích nghi:

- Hỏi nghi chân dứt tu.

- Đáp nêu chân khuyến tu.

Hỏi: Nếu nghĩa như thế các chúng sinh v.v... làm sao thuận theo mà được vào?.

Trong câu hỏi "làm sao thuận theo" là hỏi về phương tiện quán. "Mà được vào" là hỏi về chánh quán. Trong phần đáp cũng có hai.

Đáp: Nếu biết tất cả pháp tuy nói không có năng thuyết, sở thuyết, dù niệm cũng không có năng niệm, sở niệm, đó gọi là thuận theo, nếu lìa niệm gọi là được vào.

Trong câu đầu nói "tuy nói, tuy niệm, đều không có năng sở" là nói niệm tức vô niệm, chẳng diệt niệm, chẳng diệt niệm gọi là tuy niệm lìa đoạn kiến tức vô niệm. Đều không có năng sở là lìa thường kiến. Trong khoảng một niệm lìa hai kiến chấp này, thấy pháp không hai này được gọi là thuận theo trung đạo, thuận theo pháp tánh. Lại cũng có thể đối với kia nói niệm quán niệm này v.v... thường không có năng sở. Tuy chưa thể lìa niệm mà thuận theo vô niệm, nên nói thuận theo, đây là giải thích phương tiện quán. Quán lâu không dừng thì lìa được vọng niệm, khế hợp chân lý vô niệm kia, nên gọi là chánh quán.

Nói "Được vào" là quán trí khế nhập. Luận nói Thập Địa: "Trí là chỗ trí hành". Lại nói: "Là cảnh giới khó thấy, sẽ thấy tự tâm thanh tịnh, cảnh giới này không thể nói". Kinh Hoa Nghiêm nói: "Chân pháp tánh trí mầu sâu xa thuận theo mà vào", vì thế nên biết dù chẳng phải cảnh giới vọng niệm, nhưng chẳng nên nghĩ mình không có phần.

D2. Giải thích chân như:

Từ đây trở xuống, là chân như nương ngôn thuyết. Văn có ba:

E1. Kể số nêu chung.

E2. Khai chương biện tóm lược.

E3. Y theo chương giải thích rộng.

E1. Kể số nêu chung:

Lại nữa, chân như là nương lời nói phân biệt có hai nghĩa.

Trong câu đầu "nương ngôn thuyết có hai nghĩa" là trình bày hai nghĩa này, nếu lìa lời nói thì chỉ một vị. Nay đã nương lời nói nói có hai, không thể chấp giữ theo ngôn ngữ. Chỉ vì chúng sinh sinh tin hiểu nên nói văn này. Địa luận nói: "Vì sao không nói vô ngôn, thị hiện nương vào lời nói mà cầu hiểu".

E2. Khai chương nói tóm lược:

Hai nghĩa gồm:

1. Như thật không: do rốt ráo hiển bày thật. Ở đây dùng không vọng nhiễm trong như thật không, nên nói như thật không, chẳng cho rằng như thật tự không, đây là không của như thật, thuộc về Y Chủ Thích. Do vọng không nên hiển bày chân lý, mà nói là hiển thật. Luận Trung Biên nói: "Không năng thủ có sở chấp, có năng thủ không sở chấp, gọi là tướng Không"

2. Như thật chẳng không: do có đủ tánh công đức vô lậu của tự thể. "Chẳng không" có hai thứ:

-Khác với vọng không có thể, nên nói có tự thể.

Khác với hằng sa phiền não hữu lậu, nên nói đầy đủ tánh công đức vô lậu.

Nên Nhiếp luận nói: "Bốn đức vốn có". Kệ luận Phật Tánh nói:

Do khách trần là không Cùng lìa với pháp giới

Pháp vô thượng chẳng không Cùng theo với pháp giới.

Văn xuôi kia giải thích rộng, rất dễ hiểu.

E3. Giải thích rộng:

Có hai:

G1. Như thật không.

G2. Như thật chẳng không.

G1. Như thật không:

Có ba:

H1. Lược nói về lìa nhiễm, chẳng phải lược mà có thể trọn.

H2. Giải thích rộng, chẳng phải rộng mà khắp được.

H3. Kết luận:

H1. Nói lược về lìa nhiễm, chẳng phải lược mà trọn được:

Cái gọi là không lìa tất cả pháp nhiễm không tương ưng từ xưa đến nay, nghĩa là lìa tất cả pháp tướng sai biệt, vì không có tâm niệm luống dối.

Trong câu đầu nói "Không tương ưng Tất cả pháp nhiễm" là nêu chung năng sở phân biệt đều không tương ưng.

"Lìa tướng sai biệt" là lìa tướng sở thủ. "Do không vọng niệm" là lìa cái thấy năng thủ. Lại do vọng cảnh từ vọng niệm sinh, giải thích nói không là chẳng có, vì cảnh tâm vọng điên đảo, nên tình có lý không, đức của chân như lý có tình không, nên chẳng tương ưng.

H2. Phần giải thích rộng:

Chấp thủ tuy nhiều nhiếp chung không gì hơn hai mươi bốn câu này. Nên luận Quảng Bách chép: "Lại nữa vì nói về chấp các pháp thế gian đều chẳng chân thật, và trình bày chỗ chấp ngoại đạo chẳng đồng". Nói bài tụng rằng:

Có và chẳng có

Đều là chẳng thật Một chẳng phải một Cả hai đều mất.

Theo thứ lớp phối hợp, người trí hiểu nó chẳng phải chân, luận kia thứ lớp rộng phá nghĩa bốn tông ngoại đạo, đầy đủ như luận kia nói. Nay trong luận này, theo ngoại đạo chuyển chấp, nên có các câu này không giống với kia.

Nên biết tự tánh chân như chẳng có tướng có, chẳng có tướng không, chẳng có phải chẳng tướng có, chẳng phải chẳng có tướng không, chẳng có tướng có, không.

Nói "chẳng có tướng có" là nói chân lìa cái có luống dối.

Người nghi cho rằng: Đã chẳng có thì lẽ ra là không mới phải chứ!

Giải thích: Ta chẳng phải có luống dối của ông, nên nói chẳng có, chẳng nói là không, vì sao chấp là không, nên nói chẳng phải không.

Người nghi ngờ nghe ở trên nói chẳng phải có, lại nghe chẳng phải không, phân biệt cho rằng cả hai đều chẳng phải pháp chân như.

Giải thích: Chẳng phải của ta ông nói là có, nói chẳng có chẳng phải pháp thể là chẳng phải có. Chẳng phải của ông nói là không, nói chẳng phải không, chẳng phải pháp thể là chẳng phải không, vì sao lại chấp chẳng phải có chẳng phải không, nên nói chẳng phải chẳng có, chẳng phải chẳng không.

Người nghi ngờ lại nói: Ta ở trên lập có lập không, nói cả hai đều chẳng phải, nếu cả hai chẳng phải còn thì có và không mất theo đó, nay cả hai chẳng phải, đã chẳng phải, thì có không của tôi lập trở lại.

Giải thích: Cái chẳng phải của ta ông nói, cả hai chẳng phải, nên nói chẳng phải chẳng phải, chẳng chấp nhận cả hai là phải. Vì sao lại chấp, nên nói chẳng có, không.

Chẳng phải tướng một, chẳng phải tướng khác, chẳng phải chẳng tướng một, chẳng phải chẳng tướng khác, chẳng phải tướng một và khác.

Một, khác v.v... y theo trước rất dễ hiểu.

Cho đến nói chung, nương tất cả chúng sinh, có vọng tâm niệm niệm phân biệt đều chẳng tương ưng, nên nói là không.

H3. Kết luận:

Vọng chấp trần sa khó có thể trải khắp, nên ở đây nhiếp chung nói rõ không tương ưng, đây là kết luận thuận.

G2. Như thật chẳng không:

Nếu lìa vọng tâm thật chẳng có thể không.

"Nếu lìa" trở xuống, là kết luận trái lại. Do đối trị nhiễm chẳng nói chân là không, chẳng phải không thể như lấy làm không. Cũng có thể văn này là giải thích nghi. Người nghi nghe chân không ở trên thì cho rằng dứt bỏ không có chân thể và hằng sa công đức. Nay giải thích như văn rất dễ hiểu, là nói rõ không chẳng khác bất không.

Trong văn, bất không có bốn:

H1. Văn.

H2. Giải thích.

H3. Kết luận.

H4. Giải thích nghi.

H1. Văn:

Cái gọi là chẳng không đã nói lên pháp thể không, chẳng thật có vọng.

Ban đầu có trước là văn, sau hiển bày.

Tức là chân tâm thường hằng bất biến, pháp thanh tịnh đầy đủ, gọi là chẳng phải không.

H2. Giải thích:

Kế đến là trình bày chẳng không, đức của chẳng phải không trái lại đối với cái không luống dối. Luận lược có bốn thứ, nên luận Thật Tánh nói:-Do thường nên chẳng sinh, vì lìa thân ý sinh.

- Do hằng nên chẳng chết, vì lìa lui sụt không thể nghĩ bàn.

- Chẳng biến nên chẳng già, vì không có nghiệp vô lậu.

- Mát mẻ nên không bệnh, vì không có tập phiền não.

H3. Kết luận:

Trong đây, pháp thanh tịnh là mát mẻ trong luận ấy, vì lìa hoặc nhiễm.

Lại "Chân tâm" là nêu thể, "Thường" là đức Thường, "Hằng" là đức Lạc, vì lìa khổ biến dịch. "Bất biến" là đức Ngã, vì chẳng nghiệp trói buộc được tự tại. "Tịnh pháp" là đức Tịnh.

Cũng không tướng để chấp.

H4. Giải thích nghi ngờ:

Người nghi nghe pháp thanh tịnh chẳng phải không thì cho rằng đồng với có của tình chấp, nên giải thích, không có tướng để chấp, là bất không chẳng khác không.

Vì cảnh giới lìa niệm chỉ chứng mới tương ưng: Nói "Vì cảnh giới lìa niệm, v.v..." là giải thích nguyên do không tướng. Nếu là chỗ vọng niệm duyên theo thì có tướng, đã là cảnh của chân trí rõ biết thì không có tướng vọng chấp.

Giải thích xong môn Chân như.

C2. Giải thích môn Sinh diệt: Có hai:

- Giải thích pháp tâm sinh diệt.

Nói rõ nghĩa chỗ chỉ bày. Tức nói về pháp này có hiển bày nghĩa công năng. Từ "Lại nữa, tướng tự thể chân như v.v..." trở xuống,

Hỏi: Tại sao trong môn Chân như không nói về chỗ chỉ bày nghĩa của Đại. Trong môn Sinh diệt nói đủ chỗ chỉ bày nghĩa của Đại?

Đáp: Vì môn Chân như tức chỉ bày thể Đại thừa, năng sở không phân, bày tỏ ý chỉ chẳng khác, nên không nói. Trong môn Sinh diệt thì nhiễm tịnh chẳng phải là một nghĩa, pháp có khác nên nói đủ. Trong phần lập nghĩa ở trên, môn Chân như nói "Tức chỉ bày", trong môn Sinh diệt nói "Năng chỉ bày" là giải thích nghĩa ở đây.

Về Pháp sinh diệt: Có Hai:

Tiểu phần 1. Nói rõ nhiễm tịnh, sinh diệt. Tiểu phần 2. Nói về Nhiễm tịnh nương nhau. Sau "Bốn thứ huân tập v.v..." trở xuống.

Tiểu phần1. Nói về nhiễm tịnh, sinh diệt. Có hai:

A1. Đứng về mặt thể nêu chung.

A2. Y theo nghĩa giải thích riêng.

A1. Đứng về mặt thể nêu chung:

Có ba:

B1. Nêu thể.

B2. Nói về tướng.

B3. Đặt tên.

B1. Nêu thể:

Tâm sinh diệt là nương theo Như Lai tàng mà có tâm sinh diệt.

Nói "Nương Như Lai tàng có tâm sinh diệt" nghĩa là tâm chẳng sinh diệt, do gió vô minh động mà có sinh diệt. Cho nên nói tâm sinh diệt nương tâm bất sinh diệt. Tuy nhiên, hai tâm này rốt ráo chẳng có hai thể, chỉ theo hai nghĩa để nói nương nhau. Như nước chẳng động, vì gió thổi làm nước động, động tĩnh tuy khác mà thể nước là một. Cũng có thể nói nương nước lặng nên có nước động. Nên biết trong đây lý thú cũng giống như vậy. Theo đây mà suy nghĩ, nghĩa là tự tánh thanh tịnh tâm gọi là Như Lai tạng, do gió vô minh động mà có sinh diệt, cho nên nói nương Như Lai tạng có tâm sinh diệt. Kinh Lăng-già, Thắng-man đều đồng thuyết này. Ở đây trình bày chân tâm theo động nên có sinh diệt. Chẳng cho rằng nêu sở y để lấy năng y. Vì trong môn này có hai nghĩa hay chỉ bày ba đại. Cho nên cũng xếp chung sở y vào môn này.

B2. Nói về tướng:

Nghĩa là, chẳng sinh chẳng diệt hòa hợp và sinh diệt, chẳng phải một, chẳng phải khác.

"Chẳng sinh diệt" là Như Lai tạng thanh tịnh tâm ở trên, vì đông nên có sinh diệt chẳng lìa nhau, vì vậy nói hòa hợp, chẳng cho rằng có sinh diệt riêng đến hợp với chân. Nghĩa là tâm sinh diệt là sinh diệt của tâm không hai tướng, sinh diệt của tâm do vô minh mà thành. Tâm sinh diệt từ bản giác khởi mà không có hai thể, không xa lìa nhau, nên nói hòa hợp, văn sau nói: "Như nước biển lớn, do gió có sóng động, tướng nước, tướng gió không lìa nhau". Cho đến nói rộng trong đây động của nước là tướng gió, tánh ướt của động là tướng nước, lấy nước mà toàn thể động, vì nước không lìa tướng gió, không có gì động mà chẳng phải ướt, nên động chẳng lìa tướng nước. Tâm cũng như thế, tâm bất sinh diệt toàn thể động, vì tâm chẳng lìa tướng sinh diệt, tướng sinh diệt không đâu chẳng phải chân. Sinh diệt chẳng lìa tướng tâm, chẳng lìa như thế gọi là hòa hợp. Đây là tâm bất sinh diệt hòa hợp với sinh diệt, đó là môn tùy duyên, chẳng phải sinh diệt hòa hợp với bất sinh diệt. Do đây chẳng phải hướng về môn Chân như cũ.

"Chẳng phải một chẳng phải khác" là chân tâm toàn thể động nên tâm chẳng khác với sinh diệt, mà chân tánh thường không thay đổi, nên chẳng phải một với sinh diệt. Kinh Lăng-già cho bảy thức nhiễm pháp là sinh diệt, cho Như Lai tạng tịnh pháp là bất sinh diệt. Đây là cả hai đều hòa hợp, làm thức A-lại-da. Vì hòa hợp nên chẳng phải một chẳng phải khác.

"Môn chẳng phải khác" có ba thứ:

- Vì lấy gốc theo ngọn để nói chẳng khác, kinh nói: "Như Lai tạng là nhân thiện, bất thiện, hay trùm khắp tạo ra chúng sinh trong tất cả đường". Nên văn sau nói: "Hoặc sinh hoặc diệt, v.v...". Trong Nhiếp Luận dịch vào đời Lương cũng nói: "Thức này luống dối là tánh kia". Nên nói là thuộc về luống dối phân biệt. Lại kinh nói: "Phật tánh tùy duyên thành vị khác, v.v...".

- Nhiếp ngọn đồng với gốc, nói về chẳng khác. Kinh nói: "Chúng sinh tức như". Lại kinh Niết-Bàn nói: "Mười hai nhân duyên tức Phật tánh". Lại Thập Địa nói: "Ba cõi chỉ một tâm". Luận ấy giải thích là: "Đệ nhất nghĩa đế". Lại trong luận này văn sau nói: "Bốn tướng xưa nay bình đẳng đồng một giác", v.v... và v.v... Trước tức gốc của ngọn, gốc không có gốc khác, chỉ có sinh diệt, lại không có pháp riêng để khác nhau. Sau tức ngọn của gốc, ngọn không có ngọn riêng, chỉ có bất sinh diệt, cũng không có pháp riêng để khác nhau.

- Gốc ngọn bình đẳng, là nói về chẳng khác. Kinh nói: "Như Lai tạng sâu xa mà cùng chung bảy thức". Lại kinh nói: "Thức A-lại-da tên Như Lai tạng cùng chung bảy thức vô minh, như sóng biển lớn thường không ngừng dứt". Lại luận nói: "Chỉ chân thì bất sinh, riêng vọng thì chẳng thành, chân vọng hòa hợp mới có chỗ tạo". Đây là gốc ngọn dung thông, bờ mé chẳng phân, nên nói chẳng khác.

"Nghĩa chẳng phải một": Tức do trước nhiếp gốc của ngọn là bất sinh diệt, cùng nhiếp ngọn của gốc kia là pháp sinh diệt mà chẳng phải một. Nương theo nghĩa này nên kinh nói: "Như Lai tạng chẳng ở trong A-lại-da, nên bảy thức có sinh có diệt, mà Như Lai tạng chẳng sinh diệt".

Giải thích rằng: Trong đây chỉ sinh diệt là bảy thức, chỉ bất sinh diệt là Như Lai tạng. Hai nghĩa đã phân, khiến A-lại-da không có tự thể khác, nên nói chẳng ở trong đó. Đây là nói theo nghĩa chẳng phải một, chẳng nói rằng không hòa hợp. Vì sao? Vì trong đây Như Lai tạng bất sinh diệt, tức là bất sinh diệt của bảy thức sinh diệt, nên chẳng phải một với tự sinh diệt, tức là sinh diệt của Như Lai tạng bất sinh diệt, nên cùng cũng chẳng phải một với tự bất sinh diệt. Trong đây chẳng thẳng, chẳng trái, chẳng khác, để nói lên chẳng phải một. Cũng chính do chẳng khác nên thành chẳng phải một. Vì sao? Vì nếu Như Lai tạng tùy duyên lúc tạo sinh diệt, mất bất sinh diệt của mình thì không được có sinh diệt. Cho nên do bất sinh diệt được có sinh diệt thì chẳng khác, nên chẳng phải một. Lại trong đây chân vọng hòa hợp, các thức duyên khởi lấy bốn câu để nói:

Vì Như Lai tạng chỉ là bất sinh diệt, như tánh ướt của nước. Bảy thức chỉ là sinh diệt, như sóng của nước.

Thức A-lại-da vừa sinh diệt vừa bất sinh diệt, như biển bao gồm cả động tĩnh.

Vô minh điên đảo chấp chẳng phải sinh diệt, chẳng phải bất sinh diệt, như gió mạnh khởi sóng, chẳng phải nước chẳng phải sóng.

Trong bốn nghĩa này, theo đó nêu một nghĩa tức dung nhiếp toàn thể, nghĩa lý duyên khởi không hai tướng. Vả lại, ở đây lại theo nghĩa tánh ướt chẳng mất, động tĩnh chẳng một. Nên nói nước chẳng ở trong sóng, há có thể sóng này lìa ngoài nước có tự thể riêng ư! Các nghĩa khác theo đây mà suy nghĩ.

Hỏi: Đã nói động tĩnh không phải một, lẽ ra nói Như Lai tạng chẳng ở trong bảy thức, vì sao lại nói chẳng ở trong A-lại-da?.

Đáp: A-lại-da dung nhiếp cả động tĩnh, động tĩnh không hai là toàn thể A-lại-da. Đã phân ra động tĩnh, A-lại-da không có tự thể riêng, nên nói chẳng ở trong đó.

Hỏi: A-lại-da đã chung cho động tĩnh thì chẳng nên chỉ ở trong môn Sinh diệt phải không?

Đáp: Vì khởi tĩnh để thành động, chẳng có thể động riêng, nên tánh tịnh theo động cũng ở trong sinh diệt, chẳng phải ngay A-lại-da đầy đủ động tĩnh ở trong môn Sinh diệt này. Cũng là Như Lai tạng chỉ bất động cũng ở trong môn này. Vì sao? Vì sinh diệt kia chẳng có pháp riêng. Có thể y theo đây suy nghĩ. Lại, nếu là một thì tướng thức sinh diệt lúc diệt tận, chân tâm lẽ ra diệt, tức rơi vào lỗi đoạn. Nếu là khác thì nương gió vô minh lúc huân động, thể của tâm tĩnh lẽ ra không theo duyên, tức rơi vào lỗi thường. Lìa hai bên này lẽ ra chẳng phải một, khác. Lại nếu một thì không hòa hợp, nếu khác cũng không hòa hợp, vì chẳng phải một, khác nên được hòa hợp. Như kinh nói: "Thí như cục đất và hạt bụi chẳng khác, chẳng phải chẳng khác. Vàng và đồ trang sức cũng giống như thế". Nếu đất khác chẳng phải do hạt bụi làm thành mà thật do hạt bụi mà thành, nên chẳng khác. Nếu chẳng khác thì đất và hạt bụi lẽ ra không khác nhau. Cho nên chân tướng chuyển thức, tạng thức nếu khác, thì tạng thức chẳng phải có nhân. Nếu chẳng khác thì chuyển thức diệt, tạng thức cũng nên diệt, mà tự chân tướng thật chẳng diệt, cho nên, chẳng phải tự chân tướng thức diệt, chỉ nghiệp tướng diệt.

Giải thích rằng: Trong đây chân tướng là Như Lai tạng, chuyển thức là bảy thức. Tàng thức là Alại-da. Ở đây luận chủ bao gồm chung ý văn trên dưới của kinh Lăng-già mà tạo lập phần này, nên nói chẳng phải một, khác.

B3. Phần đặt tên:

Tên là thức A-lại-da.

Trong phần một: Tuy là, sinh diệt và bất sinh diệt này, nếu tức thì nghĩa chẳng phải một, mà nói thì tâm chẳng phải khác, gọi hai nghĩa này là tâm không hai, tên là thức A-lại-da. A-lợi-da và A-lạida là tiếng Phạm nói lầm. Chân Đế Tam Tạng đời Lương, dịch là Vô Một Thức. Thời nay, Pháp Sư Huyền Trang theo nghĩa phiên dịch là Tàng thức. Nhưng Tàng là nghĩa bao nhiếp, dung chứa. Vô Một là nghĩa chẳng mất, nghĩa một mà tên khác. Sở nhiếp gọi là Tàng, nghĩa là các chúng sinh chấp làm ngã. Sở dĩ như vậy là do chân tâm chẳng giữ tự tánh theo huân tập hòa hợp dường như một dường như thường. Cho nên những người ngu lấy tương tự làm chân, chấp làm ngã bên trong, ngã kiến thâu nhiếp nên gọi là Tàng. Do nghĩa này nên hai thứ ngã kiến thường không khởi vị, tức mất tên A-lại-da. Lại năng tàng tự thể ở trong các pháp. Lại năng tàng là các pháp trong tự thể. Nên luận nói: "Năng tàng, sở tàng, ngã ái chấp tàng" là nói ở đây.

Đây là y theo nghĩa mà đặt tên.

A2. Giải thích riêng:

Có ba:

Chi 1. Giải thích tâm sinh diệt ở trên.

Chi 2. Giải thích nhân duyên sinh diệt ở trên.

Từ "Lại nữa, nhân duyên sinh diệt v.v..."trở xuống.

Chi 3. Giải thích tướng sinh diệt ở trên. "Lại nữa tướng sinh diệt v.v..."trở xuống, Chi1. Giải thích tâm sinh diệt ở trên:

Tiết 1. Khai số để nói về đức.

Tiết 2. Nương câu hỏi kể tên.

Tiết 3. Nương tên giải thích.

Tiết 1. Khai số để nói về đức:

Nói: "Thức này có hai nghĩa", nghĩa này hơi khó, nay bao gồm văn trên dưới lược trình bày ý, theo văn sẽ biết, vì sao? Vì nghĩa chân như. Có hai nghĩa:-Nghĩa bất biến và nghĩa tùy duyên.

Vô minh cũng có hai nghĩa:-Nghĩa vô thể tức không và nghĩa có dụng thành sự.

Trong chân vọng này mỗi thứ do nghĩa đầu mà thành môn Chân như ở trên. Đều do nghĩa sau mà thành môn Sinh diệt này. Đây là chân như tùy duyên và vô minh thành sự, cũng đều có hai nghĩa:-Nghĩa trái với mình thuận với người và nghĩa trái với người thuận với mình.

Vô minh trái với mình thuận với người cũng có hai nghĩa:

- Hay phản đối chỉ bày tánh công đức và hay biết danh nghĩa thành dụng tịnh.

Trái với người thuận với mình, cũng có hai nghĩa:

- Che chân lý và thành vọng tâm.

Trong phần chân như, trái với người thuận với mình, cũng có hai nghĩa:

- Đối nghịch vọng nhiễm, hiển bày tự đức. Bên trong huân vô minh mà khởi dụng tịnh.

Trái với mình thuận với người, cũng có hai nghĩa:

- Nghĩa ẩn chân thể của mình và nghĩa hiển bày pháp vọng.

Chân vọng trên đây trong mỗi thứ có bốn nghĩa. Vì nghĩa phản đối chỉ bày trong vô minh và nghĩa ngược vọng để hiển bày đức trong chân như, từ hai nghĩa này có được bản giác. Lại do nghĩa hay biết danh trong vô minh và nghĩa bên trong huân tập của chân như, từ hai nghĩa mà có được thỉ giác. Lại do nghĩa che chân trong vô minh và nghĩa ẩn thể trong chân như, từ hai nghĩa này lại có căn bản bất giác. Lại do nghĩa thành vọng trong vô minh và nghĩa hiện vọng trong chân như, theo hai nghĩa này có bất giác chi mạt. Trong môn Sinh diệt này chân vọng lược khai bốn nghĩa, rộng có tám môn. Nếu theo từng hai cặp đối nhau hòa hợp thành duyên khởi thì có bốn môn, nghĩa là hai giác và hai bất giác. Nếu theo bổn mạt không lìa nhau, chỉ có hai môn là giác và bất giác. Nếu bao gồm nhiếp chung thì chỉ có một môn, là môn nhất tâm sinh diệt. Lại nếu đứng về các thức phân tướng môn, bản giác bổn bất giác ở trong bổn thức. Ngoài ra hai thứ kia ở trong sinh khởi thức. Nếu đứng về môn bổn mạt bất nhị thì đều ở trong một bổn thức, nên nói thức này có hai nghĩa.

Tiết 2. Nương câu hỏi kể tên:

Hỏi: Trong đây, một thức có hai nghĩa, cùng nhất tâm ở trên có hai môn, khác nhau thế nào?

Đáp: Trong nhất tâm ở trên bao gồm hai nghĩa là nghĩa không giữ tự tánh mà tùy duyên và nghĩa tự tánh bất biến mà dứt tướng. Nay ở đây chỉ đứng về tướng nhiễm tịnh sự lý không hai trong môn tùy duyên để nói về thức này. Cho nên nghĩa nhất tâm ở trước rộng bao gồm hai môn, nghĩa là một thức này hạn cuộc ở một môn.

Hỏi: Trong đây bản giác khác với môn Chân như ở trên thế nào?

Đáp: Môn Chân như là đứng về mặt thể dứt tướng mà nói. Bản giác đứng về tánh công đức mà nói, là nghĩa trí tuệ sáng suốt rộng lớn gọi là bản giác. Bổn là nghĩa tánh, giác là nghĩa trí tuệ. Vì thế đều hiển bày ngược lại vọng nhiễm thâu nhiếp trong môn Sinh diệt. Vì trong môn Chân như không có nghĩa ngược lại nhiễm, v.v... không đồng với đây. Cho nên hai đại thể và tướng đều gọi là bản giác, cùng trong môn Sinh diệt, nên đầy đủ ba đại.

Gồm nhiếp tất cả pháp, sinh ra tất cả pháp:

Nói "Gồm nhiếp tất cả pháp" là trong hai môn trên nhiếp chung nói thứ. Trong đây không nói mỗi thứ, vì hai nghĩa này hạn cuộc ở hai môn, chỉ rõ một thức bao gồm hai nghĩa nên nhiếp tất cả, chẳng nói hai nghĩa mỗi thứ đều nhiếp tất cả. Lại trong văn trên chỉ nói nhiếp mà không nói sinh, vì môn chân như không có nghĩa năng sinh. Trong thức này do bất giác huân tập bản giác sinh ra các pháp nhiễm trôi lăn trong sinh tử. Do bản giác huân tập bất giác sinh ra các pháp tịnh, ngược dòng xuất triền thành thỉ giác. Nương hai nghĩa này sinh ra khắp tất cả pháp nhiễm tịnh, nên nói năng sinh. Ở sau trong bốn thứ huân tập sẽ biển bày rộng việc này. Chẳng ngay nơi tướng huân tập các pháp năng sinh, cho đến sinh các pháp đã không lìa tâm này, bị tâm này nhiếp, như hai môn ở trên đều giải thích chỗ nhiếp.

Thế nào là hai? 1. Nghĩa giác. 2. Nghĩa bất giác.

Tiết 3. Nương theo tên giải thích riêng:

Có ba:

A1. Giải thích giác.

A2. Nói về bất giác.

A3. Cả hai nói về đồng khác.

A1. Biện giác. Đứng về mặt pháp thanh tịnh để nói tâm sinh diệt.

Có hai:

B1. Lược nói thỉ giác và bản giác.

B2. Nói rộng hai giác. "Lại giác nguồn tâm" trở xuống,

B1. Lược nói thỉ giác và bản giác:

Có hai:

C1. Bản giác.

C2. Thỉ giác.

C1. Bản giác:

Có hai:

D1. Hiển bày thể bản giác.

D2. Giải thích tên bản giác, "Do đâu v.v..." trở xuống.

D1. Trình bày thể bản giác:

Nghĩa giác là tâm thể lìa niệm, lìa tướng niệm, đồng cõi hư không đều trùm khắp, nhất tướng pháp giới tức lá Pháp thân bình đẳng của Như Lai, nương vào Pháp thân này gọi là Bản giác.

Trong câu đầu nói "Lìa niệm" là lìa vọng niệm, nói lên không có bất giác.

"Đồng có hư không" Chẳng những không có sự tối tăm của bất giác, mà còn có nghĩa trí tuệ sáng suốt rộng lớn, hư không có hai nghĩa so sánh với bản giác:

- Nghĩa tròn khắp: Nghĩa là ngang khắp ba cõi, thẳng chung phàm thánh, cho nên nói không chỗ nào chẳng tròn khắp.

- Nghĩa không sai khác: Nghĩa là tại triền ra khỏi chướng ngại, tánh hằng không có hai nên nói nhất tướng pháp giới.

Muốn rõ nghĩa giác tướng xuất triền hiển lộ, nên nói tức là Pháp thân bình đẳng của Như Lai. Đã là giác của Pháp thân, lý chẳng phải mới thành, nên nói nương Pháp thân này gọi là bản giác. Của Nhiếp Luận Vô Tánh nói: "Vô cấu vô quái ngại trí gọi là Pháp thân". Kinh Kim Quang Minh gọi trí Đại viên cảnh là Pháp thân, đều là nghĩa này.

D2. Giải thích tên bản giác:

Vì sao? Nghĩa bản giác đối với nghĩa thỉ giác mà nói, vì thỉ giác tức đồng với bản giác

"Vì sao?" Là trách lập tên kia, trách có hai ý.

- Trong phần mở đầu chương trên nói thẳng nghĩa giác, vì sao nay kết luận là bản giác.

- Trong đây đã gọi là Bản giác, vì sao văn trên nói thẳng là giác, trách tới lui.

Giải thích: Vì đối Thỉ nên nói Bổn, là đáp ý ban đầu. Vì Thỉ tức đồng Bổn, lúc đến nguồn tâm thỉ giác tức đồng bản giác, không có hai tướng.

Nên văn trên chỉ nói giác là đáp ý sau. Bởi do bản giác theo nhiễm sinh thỉ giác, lại đối đãi thỉ giác mới gọi là Bản giác. Nên nói Bản giác đối với Thỉ giác mà nói. Tuy nhiên, thỉ giác này là chỗ thành tựu của Bản giác, lại khế hợp với nguồn tâm, dung đồng một thể mới gọi là thỉ giác. Nên nói vì Thỉ giác tức đồng Bản giác.

Hỏi: Nếu Thỉ giác khác Bản giác thì không thành thỉ giác, nếu thỉ giác đồng bản giác thì không khác thỉ giác, vì sao nói đối với Thỉ giác gọi là Bản giác?

Đáp: Nay ở trong môn Sinh diệt, đứng về nghĩa tùy nhiễm y theo bản giác nói thỉ giác, mà thật khi thỉ giác đến nguồn tâm, nhiễm duyên đã hết, thỉ bổn chẳng khác, bình đẳng dứt lời, tức thuộc về môn Chân như. Cho nên bản giác ở trong môn Sinh diệt, chẳng phải môn Chân như.

C2. Nghĩa Thỉ giác:

Nghĩa Thỉ giác là nương bản giác mà có bất giác, nương bất giác nên nói có Thỉ giác.

Trong phần thỉ giác: Nói thỉ giác là tên lặp lại. "Nương bản giác có bất giác" là nói nguyên do khởi thỉ giác, nghĩa là tức tâm thể này theo duyên vô minh động tạo ra vọng niệm, mà vì bản giác bên trong có năng lực huân tập, dần dần có giác sâu kín nhàm chán mong cầu, cho đến rốt ráo trở lại đồng với bản giác, nên nói "Nương bản giác có bất giác, nương bất giác có thỉ giác".

Văn sau nói: "Bản giác theo nhiễm sinh ra tướng trí tịnh", tức là thỉ giác này. Trong đây đại ý nói về bản giác thành bất giác, bất giác thành thỉ giác, Thỉ giác đồng với bản giác, đồng với bản giác nên không có bất giác, không có bất giác nên không có thỉ giác, không có thỉ giác nên không có bản giác, không có bản giác nên bình đẳng, bình đẳng lìa ngôn ngữ, dứt suy nghĩ, nên quả Phật viên dung không nương gá. Cái khác của thỉ giác, bản giác đâu có khác với ba thân. Nhưng theo vật nên tâm hiện, vì thế nói dụng của báo thân, hóa thân.

Văn sau sẽ nói rõ.

B2. Hiển bày rộng hai giác:

Có hai:

C1. Nói về thỉ giác.

C2. Nói về bản giác.

C1. Thỉ giác:

Có ba:

D1. Nêu chung hai giác nhân quả.

D2. Rộng nương bốn tướng giải thích thành tựu.

D3. Nói Rõ thỉ chẳng khác bổn. "Mà thật chẳng có" trở xuống.

D1. Nêu chung hai giác nhân quả:

Lại do giác nguồn tâm nên nói rốt ráo giác, chẳng giác nguồn tâm nên chẳng phải rốt ráo giác.

Trong câu đầu nói "Giác nguồn tâm" là nguồn tâm nhiễm, nghĩa là tánh tịnh. Lại nguồn tướng thô là tướng sinh. Đạo thỉ giác tròn đầy đồng nơi bản giác, nên nói rốt ráo, đây ở địa vị Phật. Chẳng rõ nguồn kia, Thỉ chưa đồng Bổn, nên nói chẳng rốt ráo, đây ở địa vị kim cương về trước.

D2. Rộng nương về bốn tướng hiển bày riêng: Ba tướng trước giải thích chẳng phải giác rốt ráo ở trước, một tướng sau là giải thích giác rốt ráo ở trên, trong đây có hai:

E1. Chính nương bốn tướng hiển bày bốn địa vị.

E2. Dẫn kinh giải thích thành nguồn tâm vô niệm.

E1. Chính nương bốn tướng trình bày bốn địa vị:

Có hai:

G1. Nói về đại ý.

G2. Giải thích văn.

G1. Thuật đại ý:

Trong đây ý văn dùng bốn tướng thô tế phối hợp để trình bày bốn địa vị ngược dòng sẽ rõ giới hạn Thỉ giác.

Tuy nhiên, bốn tướng này chỉ đứng về mặt chân tâm theo sự huân tập thô tế khác nhau mà nói có bốn, chẳng phải đứng về tâm một sát-na nói về bốn tướng. Cho nên biết là đứng về mặt tâm trong một sát-na mà nói. Như văn sau nói Bồ-tát Địa Thượng tâm vi tế sinh diệt trong nghiệp thức ở trong tướng dị, diệt, phàm phu, tiểu thừa đâu thể biết. Lại như trong sự thức tướng thô sinh trụ, Bồ-tát Địa Thượng chẳng thể biết. Cho nên bậc Thập địa trở xuống có đầy đủ bốn tướng sâu kín. Trong tướng diệt, há địa vị tín có thể biết ư! Nên biết ý văn hơi khác.

Nay dùng hai môn để nói lược:

H1. Nói chung.

H2. Nói riêng.

H1. Nói chung:

Vốn là tâm tánh lìa niệm, không sinh không diệt mà có vô minh mê tự tâm thể, trái với tánh vắng lặng, phát động khởi niệm có bốn tướng sinh diệt, nên do sức gió vô minh khiến cho tâm thể sinh, trụ, dị, diệt từ tế đến thô. Kinh nói: "Phật tánh theo dòng thành các thứ vị, v.v...". Lại kinh nói: "Tức Pháp thân này bị các phiền não xao động qua lại trong sinh tử gọi là Chúng sinh".

Luân này ở sau nói: "Tự tánh tâm thanh tịnh do gió vô minh động, v.v...". Nay đứng về nghĩa này để nói bốn tướng. Đã mất tĩnh khiến động nên có vi tế dính mắc chẳng đồng mé trước sau khác nhau. Theo mé trước rất tế gọi là tướng Sinh, cho đến mé sau rất thô gọi là tướng Diệt. Nên luận Phật Tánh chép: "Tất cả pháp hữu vi mé trước tương ưng với tướng sinh, mé sau tương ưng với tướng diệt, mé giữa tương ưng với tướng trụ, dị, v.v..." H2. Nói riêng:

Đối với văn sau kia, theo địa vị biệt mà phân tướng sinh có một, tướng trụ có bốn, tướng dị có hai, tướng diệt có một.

"Tướng sinh có một", gọi là nghiệp tướng, nghĩa là do vô minh bất giác tâm động, tuy có sinh diệt mà tướng kiến chưa phân. Do năng lực vô minh chuyển tâm tịnh kia đến chỗ rất sâu kín này gọi là tướng sinh, rất nhỏ nhiệm, chỉ có Phật mới biết.

Văn sau nói: "Nương vào vô minh khởi lên các thức, cho đến chỉ có Phật mới biết" Tức văn sau phần một trong ba tế, phần sau trong sáu nhiễm, phần thứ nhất trong năm ý. Những thứ này đều thuộc về tướng sinh.

"Tướng Trụ có bốn".

- Chuyển tướng: Là do năng lực vô minh bất giác ở trước tức tướng động, không động, cho nên chuyển thành năng kiến.

- Hiện tướng: Vì vô minh nương năng kiến ở trước chẳng rõ tướng không, khiến cho cảnh giới vọng hiện.

Hai tướng này đều trong địa vị A-lại-da thuộc tâm bất tương ưng.

- Trí tướng: Vì vô minh mê các cảnh do tự tâm hiện ở trước, vọng khởi phân biệt tướng nhiễm tịnh, nên nói là Trí.

- Tương tục tướng: Do vô minh không rõ chỗ phân biệt ở trước là chẳng phải không chỗ có, lại khởi niệm tương ưng chẳng dứt.

Hai tướng này đồng ở địa vị phân biệt sự thức phần tế, thuộc tâm tương ưng. Vô minh sinh nhau ở trước hòa hợp chuyển tâm tịnh kia cho đến địa vị này, hành tướng còn tế, pháp chấp trụ vững, gọi là tướng trụ. Văn sau là thuộc hai phần sau trong ba tế, hai phần đầu trong sáu thô, cùng bốn phần sau trong năm ý và bốn phần giữa trong sáu nhiễm, những tướng này đều đồng tướng trụ.

"Tướng dị có hai":

- Tướng chấp thủ.

- Tướng kế danh tự.

Nghĩa là vô minh ở trước mê pháp nhiễm tịnh, trái thuận, lại khởi tham, sân, nhân ngã, ái kiến, v.v... chấp tướng chấp tên, chấp đắm càng sâu, đây là trong địa vị sự thức phần thô. Vô minh và tướng trụ ở trước hòa hợp chuyển tịnh tâm kia khiến đến địa vị này, hành tướng hơi thô, phát động thân, khẩu, khiến kia tạo nghiệp gọi là tướng dị, là trong văn sau hai phần giữa trong sáu thô, một phần đầu trong sáu nhiễm và ý thức sau trong năm ý. Những thứ này đều đồng tướng dị.

"Tướng diệt có một": Còn gọi tướng khởi nghiệp, nghĩa là vô minh chẳng rõ hai nghiệp thiện ác, nhất định cảm với hai quả báo khổ vui, nên rộng đối với các duyên tạo nhóm các nghiệp, nương nghiệp mà chịu quả báo, diệt tâm dị ở trước, khiến rơi vào các đường. Do năng lực vô minh chuyển tịnh tâm kia đến mé sau này, hành tướng rất thô, đến đây là tột cùng, khắp tận sau cùng gọi là tướng diệt.

Văn sau là tướng thứ năm trong sáu thô. Do quả báo chẳng thể dứt, nên chẳng nói tướng thứ sáu. Vì thế bốn tướng trong ba cõi chỉ là một tâm mộng, đều do năng lực của vô minh căn bản. Nên kinh nói: "Năng lực vô minh trụ địa rất lớn". Luận này văn sau nói: "Nên biết vô minh sinh ra tất cả các pháp nhiễm" là đây.

Tuy lại từ tế đến thô, chấp trước nói rõ thềm bực bốn tướng, nhưng rốt ráo không có trước sau. Gom bốn tướng này thành một niệm, vì thô tế dung thông chỉ là nhất tâm, nên nói đồng thời có, đều không tự lập.

Tuy nhiên, người chưa tột nguồn theo hạnh cạn sâu giác có trước sau. Người đạt nguồn tâm, một niệm bốn tướng đồng thời biết. Kinh nói: "Bồ-tát biết sau cùng mà không phân biệt ban đầu, chỉ có Phật Như Lai đều biệt sau cùng và ban đầu". Ban đầu là tướng sinh, sau cùng là các tướng cho đến tướng Diệt.

Đã do năng lực vô minh bất giác khởi tướng sinh v.v... các thứ niệm mộng động nguồn, tâm kia chuyển đến tướng diệt, ngủ mê trong ba cõi, trôi lăn trong sáu đường. Nay do năng lực huân bất tư nghì bản giác khởi tâm nhàm chán tìm cầu. Lại do chân tâm trôi chảy nghe được giáo pháp huân vào bản giác. Vì thể đồng dụng dung thông lãnh nạp, văn huân kia thêm sức hiểu của tánh, tổn giảm công năng vô minh, dần hướng đến nguồn tâm, ban đầu dứt tướng diệt, sau dứt tướng sinh, rỗng rang đại ngộ, giác liễu nguồn tâm, vốn không có chỗ động. Nay tĩnh ban đầu từ vô thỉ bình đẳng bình đẳng không khác thỉ giác. Như kinh nói ví dụ về mộng qua sông. Đại ý như đây.

G2. Giải thích trong văn:

Đứng về bốn tướng để phân biệt bốn địa vị, trong bốn địa vị, mỗi địa vị có bốn nghĩa.

- Người năng quán.

- Tướng sở quán.

- Lợi ích của quán.

- Phần hạn quán.

Nghĩa này thế nào? Như phàm phu giác biết niệm trước khởi ác nên dừng, niệm sau không để khởi. Tuy là nói giác tức bất giác.

Ở địa vị đầu: Như phàm phu là người năng quán là ở địa vị Thập Tín.

"Giác biết niệm trước khởi ác" là nói về tướng sở quán, nghĩa là chưa lên giai vị Thập Tín trở xuống, tạo nhiều nghiệp ác ở thân miệng mà không hay biết, nay vào địa vị Tín, hay biết nghiệp ác nhất định chiêu cảm quả báo khổ, nên nói giác biết, đây là nói rõ nghĩa giác diệt tướng.

"Dừng được niệm sau không để sinh khởi" là nói về lợi ích của quán, trước do bất giác thường khởi nghiệp ác ở thân miệng, nay đã giác nên chẳng tạo tác là dừng tướng diệt.

"Tuy lại nói giác tức là bất giác" là kết phần hạn của quán.

Biết được tướng diệt thật là bất thiện nên không tạo tác, gọi là tuy quán mà vẫn chưa biết tướng diệt là mộng, nên nói bất giác. Đây chỉ cho là năng dừng nghiệp ác, nên nói tuy quán mà chưa hay biết phiền não nên nói bất giác.

Hỏi: Giác dị tướng, v.v... sau cũng bất giác. Vì sao chẳng lập tên gọi bất giác?

Đáp: Nếu y cứ trước giác sau bất giác thì cũng được gọi là bất giác. Nên văn sau cho đến bậc Thập địa đều bất giác, nên được giác nghiệp mà bất giác hoặc, chính gọi là bất giác. Tức văn này giác với hoặc đối đãi chẳng phải ở nghiệp.

Như người Nhị thừa quán trí Bồ-tát Sơ phát ý giác ở niệm dị, niệm không có tướng dị. Vì xả tướng chấp đắm phân biệt thô gọi là tương tự giác.

Trong địa vị thứ hai: Người năng quán là Bồ-tát Tam hiền Thập Giải trở lên. Thập giải sơ tâm gọi là Phát tâm trụ, nêu hàng ban đầu này đồng lấy địa vị sau nên nói Sơ phát ý, v.v... Vì Bồ-tát này lưu hoặc nên chẳng chứng nhân không, nhưng địa vị Bồ-tát này ở nhân không được tự tại, cùng nói về Nhị thừa đồng địa vị.

"Giác nơi niệm dị" là tướng sở quán. Như trên nói hai thứ phần dị tướng, phân biệt trong ngoài chấp ngã, ngã sở, Tham, Sân, Ái kiến, v.v... Hai hạng này cũng rõ biết. Nói tâm vốn tịnh là chỗ ngủ mê của vô minh, mộng ở dị tướng khởi các phiền não, mà nay tạm tương ưng với trí tuệ, từ mộng dị tướng được giác vi tế nên nói giác ở niệm dị.

"Quán lợi ích" là đã hay biết mộng dị tướng, nên mộng dị tướng kia thường không có, nên nói niệm không dị tướng.

"Vì xả bỏ tướng phân biệt chấp thô" là giải thích thành tướng lợi ích, khởi tham, sân gọi là phân biệt thô, chấp trước cảnh thuận nghịch gọi là tướng chấp trước. Vì giác biết mộng dị tướng hay xả bỏ mà còn ngủ mê trong mộng trụ tướng, nên gọi tương tự giác, tức kết phần hạn quán. Bồ-tát ở địa vị này chưa đến địa vị chứng ngộ, người Nhị thừa chẳng rõ pháp không, nên nói Tương tự giác.

Như Bồ-tát Pháp thân giác ở tướng niệm trụ mà niệm không tướng trụ để xa lìa tướng phân biệt niệm thô, gọi là Tùy phần giác.

Ở địa vị thứ ba: Người năng quán là Bồ-tát Sơ địa, chứng nghĩa Pháp thân biến mãn cùng khắp, cho đến Cửu địa tất cả đồng chứng đắc, đều gọi là Bồ-tát Pháp thân.

"Giác Niệm trụ" là giác biết bốn thứ trụ tướng ở trước, tuy biết tất cả pháp chỉ là thức không khởi vọng chấp thô phân biệt ngoài tâm. Nhưng, sau xuất quán ở trên tự tâm hiện pháp, vẫn khởi pháp chấp phân biệt nhiễm tịnh. Vì tâm tịnh kia ngủ mê trong vô minh, mộng ở trụ tướng. Nay tương ưng với trí vô phân biệt, từ mộng trụ tướng mà được giác ngộ, phản chiếu trụ tướng rốt ráo không có, nên nói giác ở niệm trụ, niệm vô tướng trụ.

"Vì lìa phân biệt và tướng niệm thô" là nói về quán lợi ích khác với phần người chấp và chấp đắm cảnh ngoại ở trước. Nay đứng về tâm chỉ nói phân biệt, lại khác với vô minh căn bản sinh tướng niệm tế ở sau, nên nói tướng niệm thô.

Trong bốn thứ trụ tướng này ở Sơ địa, Thất địa, Bát địa, Cửu địa mỗi địa lìa một tướng, văn sau sẽ trình bày. Tuy ở niệm thô trụ tướng mà được giác ngộ vẫn tự ngủ mê trong mộng sinh tướng. Giác đạo chưa viên mãn nên nói tùy phần, tức kết phần hạn quán.

Như Bồ-tát Địa Tận đầy đủ phương tiện, một niệm tương ưng giác tâm, tâm mới khởi không có tướng ban đầu. Vì xa lìa niệm sâu kín nên thấy được tâm tánh, tâm tánh thường trụ nên nói rốt ráo giác.

Trong địa vị thứ tư: Bồ-tát Địa Tận là bậc Thập địa giác ngộ tột cùng nên nói là tận, đây là nêu chung. Hai câu sau là nói riêng.

"Phương tiện đầy đủ" là phương tiện đạo, "Một niệm tương ưng" là Vô gián đạo. Như Đối Pháp Luận nói: "Cứu cánh đạo là kim cương dụ định", ở đây có hai thứ là thuộc về phương tiện đạo và thuộc về Vô gián đạo, tức là người năng quán ở đây. "Giác tâm sơ khởi" là nêu cảnh sở quán. Tâm mới phát khởi nói về vô minh căn bản nương vào giác nên mê, động tâm tĩnh kia, khiến khởi niệm sâu kín. Nay giác biết lìa bản giác chẳng có bất giác, tức tâm động xưa nay vắng lặng. Như người mê muốn cho hướng Đông là hướng Tây, lúc ngộ tức Tây là Đông, lại không có hướng Tây, nên nói tâm không có tướng ban đầu.

Trong địa vị thứ ba ở trước tuy mỗi thứ có chỗ giác, do động niệm kia chưa dứt, chỉ nói niệm không có tướng trụ v.v... Nay ở địa vị rốt ráo động niệm đều dứt, chỉ còn nhất tâm, nên nói tâm không có tướng ban đầu.

"Lìa niệm tế" là nói về lợi ích của quán, trong niệm nghiệp thức động niệm rất tế, gọi niệm vi tế là tướng sinh. Tướng này dứt hẳn không còn, nên nói xa lìa. Xa lìa tướng luống dối, chân tánh liền hiển hiện, nên nói thấy tâm tánh.

Trong địa vị thứ ba ở trước, tướng không dứt nên chẳng nói thấy tánh. Trong các địa vị ở trước giác chưa đến nguồn vẫn mộng sinh tướng động tâm tĩnh kia thành nghiệp thức, v.v... sinh diệt chẳng trụ. Nay mộng sinh tướng này dứt, gió vô minh dừng, sóng tánh biển yên, vắng lặng thường trụ, nên nói được thấy tâm tánh, tâm tức thường trụ.

"Giác rốt ráo" là trước chưa đến nguồn tâm, mộng niệm chưa dứt, cầu diệt tâm động nên hướng đến bờ kia. Nay mộng niệm đều dứt, giác rõ nguồn tâm vốn không trôi lăn, nay không phải mới tĩnh, thường tự nhất tâm, bình đẳng bình đẳng, thỉ giác chẳng khác bản giác, gọi là rốt ráo giác, tức kết luận phần hạn.

E2. Dẫn kênh giải thích:

Có bốn:

G1. Dẫn kinh:

G2. Giải thích lại văn trước.

G3. Nêu mất bất giác. "Cho nên v.v..." trở xuống,

G4. Hiển bày được giác. "Nếu được v.v..." trở xuống,

G1. Dẫn kinh:

Cho nên kinh nói: nếu có chúng sinh quán được vô niệm là hướng về trí Phật:

Nói "Quán được vô niệm là hướng về trí Phật", nghĩa là ở nhân địa, tuy chưa lìa niệm mà quán được đạo lý vô niệm này, nói hay quán là hướng về trí Phật, vì chứng biết địa vị Phật là vô niệm, đây là nêu nhân hướng đến quả mà nói. Nếu dẫn địa vị nói chung, như kinh Kim Quang Minh nói: "Nương các phục đạo tâm khởi sự diệt, nương pháp đoạn đạo y tâm căn bản diệt, nương thắng bạt đạo tâm căn bản dứt".

Ở đây nói các phục đạo là địa vị Tam hiền.

Tâm khởi sự diệt tức trong luận này bỏ tướng phân biệt chấp trước thô, là dị tướng diệt.

Pháp đoạn đạo là ở địa vị Pháp thân.

Nương tâm căn bản diệt là như trong luận này bỏ tướng niệm thô tức trụ tướng diệt.

Thắng Bạt đạo là định kim cương Dụ.

Tâm căn bản dứt như trong luận này lìa niệm sâu kín là sinh tướng diệt.

G2. Giải thích lại văn trước:

Lại tâm khởi là không có tướng đầu để biết, mà nói biết tướng đầu tức là Vô niệm.

Trong phần, nói: "Lại tâm khởi" là lặp lại lời "giác tâm ban đầu khởi" ở trên, chẳng cho là lúc giác biết có tướng ban đầu, nên nói không có cái ban đầu để biết. Đã không có tướng ban đầu, vì sao nói biết tướng đầu ư!.

Giải thích: Nếu biết ban đầu tức là Vô niệm, ví như lúc mới biết hướng Tây hướng Đông, thì không có tướng hướng Tây để biết, nói biết hướng Tây tức là hướng Đông. Lúc giác tâm là biết động niệm ban đầu, tức tịnh xưa nay, nên nói tức Vô niệm.

G3. Nêu mất bất giác:

Cho nên tất cả chúng sinh không gọi là giác, vì từ xưa đến nay niệm niệm nối nhau chưa từng lìa niệm, nên nói vô minh từ vô thỉ.

"Cho nên" là vô niệm ở trước gọi là Giác, tức là nói có niệm chẳng được gọi là Giác.

"Vì từ xưa đến nay, v.v..." là trình bày nguyên do bất giác, tức địa vị Kim cương trở xuống, tất cả chúng sinh chưa lìa niệm vô minh từ vô thỉ thì chẳng được gọi là Giác. Nhưng, đối với sai biệt mộng bốn tướng ở trước, nên nói Tiệm giác. Nay đứng về mặt vô minh ngủ say chẳng khác nên nói bất giác. Như kinh Nhân Vương nói: "Ban đầu là phục nhẫn đến đảnh Tam-muội chiếu soi nghĩa đế đệ nhất, chẳng gọi là Kiến, cái gọi Kiến là Tát-bà-nhã", là chỗ này.

"Nên nói vô minh từ vô thỉ" tổng kết thành nghĩa bất giác. Ở đây là nói không có pháp nhiễm ban đầu ở vô minh, nên nói vô thỉ. Lại vô minh nương chân không có nguồn cội ban đầu.

G4. Hiển bày được giác:

Nếu được vô niệm thì biết tâm tướng sinh, trụ, dị, diệt. Vì vô niệm, v.v...

Nếu đến nguồn tâm được vô niệm thì biết khắp tất cả chúng sinh một tâm động chuyển bốn tướng khác nhau, nên nói: "Nếu được vô niệm thì biết tâm sinh, trụ, dị, diệt". "Do vô niệm, v.v..." là giải thích thành tựu nghĩa trên.

Nghi: Phật được vô niệm, chúng sinh có niệm, có và không ngăn cách, làm sao biết được?

Giải thích: Chúng sinh có niệm, xưa nay không niệm. Phật đã được vô niệm, vô niệm và niệm xưa nay bình đẳng, nên nói: "Vì vô niệm, v.v..." cho nên biết được.

Lại giải thích: Vì trong niệm bốn tướng mỗi tướng tức vô niệm, nên nói vì vô niệm, v.v... cho nên người được vô niệm biết khắp niệm bốn tướng. D3. Nói Thỉ chẳng khác Bổn:

Từ đây trở xuống, ở đây ban đầu là Nêu, kế là Giải thích.

Mà thật chẳng khác thỉ giác, vì bốn tướng có đồng thời, đều không phải tự lập, xưa nay bình đẳng đồng nhất giác.

Tuy mới được giác vô niệm, nhưng chỗ giác bốn tướng kia xưa nay không khởi, làm sao đối đãi bất giác mà có thỉ giác.

"Vì bốn tướng đồng thời, v.v..." trở xuống, là giải thích thành nghĩa trên, vì bốn tướng kia một tâm làm thành. Như dây xích liên kết nhau chẳng có trước sau, lìa tâm tịnh không có tự thể riêng, không tự thể nên xưa nay bình đẳng, đồng một bản giác. Nhưng, chưa đến địa vị này, theo sức trí kia giác có trước sau, chưa xứng pháp nên không được đồng bổn, nay bốn tướng đã đồng thời bình đẳng, giác biết đều không có tự thể, đồng một bản giác nên chẳng khác thỉ giác.

Hỏi: Bốn tướng làm sao được đồng thời, đã đồng thời tại sao văn trên nói giác có trước sau?

Đáp: Trên đã nói xong, nghĩa là chỉ một tâm mộng thấy bốn tướng trôi lăn, người ở trong mộng hỏi có trước sau, mỗi pháp tùy theo năng lực trí cạn sâu từng phần mà giác. Nhưng, người Đại giác biết bốn tướng là mộng, chỉ một tâm tịnh, chẳng có thể tánh để biện bày trước sau, nên nói đồng thời không có tự lập, Nhiếp luận nói: "Mộng trải qua nhiều năm, ngộ chỉ cần trong khoảnh khắc, nên thời gian tuy vô lượng mà nhiếp trong sát-na". Trong đây một sát-na tức Vô niệm. Kinh Lăng-già nói: "Tất cả pháp chẳng sinh, ta nói nghĩa sát-na, mới sinh tức có diệt, chẳng vì người ngu nói".

Giải thích: Vì sát-na trôi lăn nên không có tự tánh, không tự tánh tức là vô sinh, nếu không phải Vô sinh thì không trôi lăn, nên khế hợp vô sinh mới thấy sát-na.

Lại Kinh Tịnh Danh chép: "Chẳng sinh chẳng diệt là nghĩa vô thường". Kinh Lăng-già lại nói: "Bảy thức chẳng trôi lăn, chẳng chịu khổ vui chẳng phải là nhân Niết-bàn. Như Lai chịu khổ vui, hoặc sinh hoặc diệt đồng thời". Những kinh này ý nói chân tâm theo dòng mà tạo các pháp nhiễm tịnh, pháp nhiễm tịnh vốn không có tự thể, không có tự thể nên chỉ một chân tâm, cho nên bốn tướng tức một chân tâm. Bất giác tức đồng bản giác, nên nói xưa nay bình đẳng đồng một giác.

QUYỂN TRUNG (Phần Cuối)

C2. GIẢI THÍCH BẢN GIÁC:

Có hai:

D1. Nói Bản giác theo nhiễm.

D2. Nói Bản giác tánh tịnh. "Bốn gương" trở xuống.

Lại cũng có thể từ trên đến đây nói chung giác thể. Văn này nói tướng giác là văn bốn gương ở sau, đều nói về thể tướng.

D1. Bản giác theo nhiễm.

Văn có ba:

E1. Nêu chung.

E2. Kể tên.

E3. Nói về tướng.

Lại nữa, Bản giác theo nhiễm phân biệt, sinh ra hai thứ tướng không xa lìa Bản giác kia.

E1. Nêu chung:

Nói sinh hai tướng, hai tướng này ở trong môn theo động nên nói sinh, sinh rồi chẳng lìa giác thể bất động, nên nói chẳng lìa kia.

Thế nào là hai? Là: Tướng trí tịnh và Nghiệp tướng không thể nghĩ bàn.

E2. Kể tên:

"Tướng trí tịnh" là nói rõ tướng Bản giác theo nhiễm trở lại thanh tịnh. "Nghiệp tướng không thể nghĩ bàn" là nói tướng nghiệp dụng Bản giác trở lại thanh tịnh. Nếu hai tướng này lìa duyên nhiễm thì không thành được, nên nói tùy nhiễm.

E3. Nói về tướng:

Có hai:

G1. Nói về trí tịnh.

G2. Nghiệp tướng không thể nghĩ bàn.

G1. Nói về trí tịnh:

Có hai:

H1. Nói thẳng tướng tịnh.

H2. Hỏi, đáp, giải thích nghi. "Nghĩa này thế nào? v.v..." trở xuống.

H1. Nói thẳng tướng tịnh:

Có hai:

I1. Nhân.

I2. Quả.

I1. Nhân:

Tướng trí tịnh nghĩa là nương pháp lực huân tập, như thật tu hành, đầy đủ phương tiện.

"Nương pháp lực huân tập", nghĩa là năng lực chân như huân tập bên trong và năng lực duyên huân tập giáo pháp lưu dẫn bên ngoài, đây là trước

Sơ Địa nương năng lực huân tập này tu tập tư lương gia hạnh. Đăng địa trở lên hạnh khế chứng với chân, nên nói như thật tu hành. Bậc Thập địa hạnh tròn nên nói phương tiện đầy đủ, đây là kim cương nhân vị cùng cực.

I2. Quả:

Có hai: Đoạn quả và Trí quả.

Phá tướng diệt của thức hòa hợp, tướng tâm nối tiếp hiển hiện trí Pháp thân thuần tịnh.

Vì phương tiện trước phá được tướng sinh diệt trong thức hòa hợp hiển bày tánh bất sinh bất diệt kia, căn bản vô minh này dứt nên tâm không có chỗ hợp, tức hiển bày nghĩa Pháp thân Bản giác, tức lúc này diệt được tướng nối tiếp của nghiệp tướng v.v... trong tâm nhiễm, chẳng diệt thể tâm nối tiếp khiến tâm Bản giác theo nhiễm liền trở về nguồn, thành viên trí thuần tịnh, thành nghĩa ứng thân Thỉ giác. Song, Thỉ giác này không có khởi thỉ riêng tức Bản giác theo nhiễm mà tạo. Nay duyên nhiễm đã dứt thỉ trở lại đồng bổn nên nói thuần tịnh.

H2. Giải thích nghi:

Ban đầu hỏi, sau đáp. Trong phần hỏi nạn vấn chấp chân đồng vọng. Sau đáp phân biệt vọng khác chân.

Nghĩa này thế nào?

Ý nạn: Như trên nói động tâm tĩnh kia thành khởi diệt, nay đã dứt sinh diệt, lẽ ra diệt tâm tĩnh, nên nói nghĩa này thế nào?

Trong phần đáp có dụ, pháp, hợp đủ cả ba.

Vì tất cả tướng tâm thức đều là vô minh, tướng vô minh chẳng lìa tánh giác chẳng phải hoại được, chẳng phải chẳng hoại.

Ý đáp: Các tâm nghiệp nhiễm gọi là các thức tướng, những thứ này đều là tướng bất giác nên nói tướng tâm thức đều là vô minh, chẳng phải nói về mặt tâm thể.

Lại chuyển câu hỏi: Đã nói thức tướng đều là vô minh nên nói diệt, tức lẽ ra có thể tánh riêng lìa chân như, tức bắt bẻ chân vọng có tự thể riêng.

Đáp: Như tướng các thức bất giác này không lìa tánh Bản giác theo nhiễm, do đó nên nói chẳng lìa tánh giác. Tướng vô minh này và tánh Bản giác kia chẳng phải một chẳng phải khác, cho nên chẳng thể hoại, chẳng phải một nên chẳng phải chẳng hoại. Nếu nương nghĩa chẳng khác nên chẳng thể hoại. Nói vô minh tức là minh, kinh Niết-bàn chép: "Minh và vô minh tánh kia không hai, tánh không hai tức là thật tánh". Nếu đứng về nghĩa chẳng phải một thì chẳng phải chẳng hoại. Nói vô minh diệt tánh giác chẳng hoại, nghĩa diệt hoặc y theo đây sẽ hiểu.

Trong phần dụ, có bốn câu.

Như nước biển lớn, do gió mà có sóng động, tướng nước tướng gió không có lìa nhau mà nước không phải tánh động, nếu gió dừng diệt tướng động sẽ diệt, tánh ướt chẳng hoại.

Câu 1: Dụ chân theo vọng mà chuyển.

Câu 2: Nước, gió không lìa nhau, là dụ chân vọng nương nhau.

Câu 3: "Nước chẳng phải tánh động" là dụ chân thể bất biến. Ở đây nói lâu chẳng phải tự tánh động, chỉ theo cái khác động.

Câu 4: "Nếu gió ngừng thổi, v.v..." trở xuống: là dụ dứt vọng bày chân, ở đây nói nếu tự tánh động thì tướng động khi diệt tánh ướt diệt theo đó, mà chỉ động theo cái khác, nên khi tướng động diệt mà tánh ướt không hoại.

Trong phần hợp, là thứ lớp hợp.

Như thế, chúng sinh tự tánh tâm thanh tịnh, do gió vô minh động tâm và vô minh đều không hình tướng, không xa lìa nhau, mà tâm chẳng phải tánh động. Nếu vô minh diệt thì sự nôi tiếp sẽ diệt, tánh trí chẳng hoại.

Ban đầu tâm tịnh hợp thành biển, "do gió vô minh động" là phải có gió thổi nước thành sóng, vì nước không thể tự có sóng, phải do có gió mới dậy sóng. Gió không thể tự hiện tướng động, phải nương nước mới hiện động, nên động tức là nước, động không có tự thể riêng, so sánh sẽ biết.

"Đều không hình tướng, chẳng lìa nhau" là phải nương nhau. Vì ướt là hoàn toàn động nên không có tướng nước, do động là toàn ướt nên không có tướng gió. Tâm pháp cũng giống như vậy. Chân tâm theo huân tập hoàn toàn tạo sóng thức nên không có tướng tâm. Nhưng sóng thức kia đều chân, không có tướng vô minh. Nên Nhiếp Luận chép: "Thấy đây chẳng thấy kia, v.v...". Lại nói": "Nếu thấy một phần thì các phần khác tánh chẳng khác, v.v...". Lại nói: "Tức sinh tử nên chẳng thấy Niết-bàn, tức Niết-bàn nên chẳng thấy sinh tử, v.v..." như phẩm Thù Thắng trong Nhiếp Luận quyển hai ở sau có nói rộng.

"Tâm chẳng phải động" là nói nước chẳng phải tánh động. "Vô minh diệt" là vô minh căn bản diệt, hợp với gió diệt. "Nối nhau diệt" là nghiệp thức diệt, hợp tướng động diệt. "Tánh trí chẳng hoại" là Bản giác theo nhiễm có tánh quán sát chiếu soi, là hợp tánh ướt không hoại.

G2. Nghiệp tướng không thể nghĩ bàn:

Có hai:

H1. Nêu chung.

H2. Giải thích.

H1. Y theo thể nêu chung:

Nghiệp tướng không thể nghĩ bàn do nương vào tướng trí tịnh có khả năng tạo ra tất cả cảnh giới cao siêu mầu nhiệm.

Nghĩa là cùng chúng sinh tạo cảnh giới sáu căn. Luận Bảo Tánh nói: "chư Phật Như Lai thân như hư không vô tướng vì các bậc thắng trí là tạo cảnh giới sáu căn thị hiện sắc thân mầu nhiệm, phát ra âm thanh mầu nhiệm, khiến ngửi giới hương của Phật và pháp vị mầu nhiệm của Phật, giác xúc Tam-muội khiến biết pháp sâu xa mầu nhiệm nên gọi là cảnh giới mầu nhiệm".

H2. Nói riêng: "Nghĩa là" trở xuống.

Có chỗ cho rằng vô lượng tướng công đức thường không dứt mất, theo căn cơ chúng sinh tự nhiên tương ưng, mỗi tướng hiện được lợi ích.

Trong đây có bốn câu:

Câu 1: Về chiều ngang nói lên nghiệp đức rộng nhiều vô lượng.

Câu 2: Về chiều dọc nói lên nghiệp tướng sâu xa cùng tận đời vị lai.

Câu 3: Nói lên nghiệp cao quý không có công năng mà ứng với các căn cơ.

Câu 4: Nói lên nghiệp cao quý lợi ích thấm nhuần mà không có dối.

Như đây Báo thân và Hóa thân chân như đại dụng không trước không sau, nối tiếp không mất. Như kinh Kim Quang Minh chép: "Ứng thân là từ sinh tử vô thỉ nối tiếp không dứt, pháp bất cộng của tất cả chư Phật năng nhiếp trì, chúng sinh chẳng tận dụng cũng chẳng cùng tận, nên nói là thường trụ". Luận Bảo Tánh nói: "Thế nào là thành tựu lợi ích tự thân? Nghĩa là được giải thoát, dứt bỏ phiền não chướng, trí chướng, được Pháp thân thanh tịnh không chướng ngại, đó gọi là thành tựu lợi ích tự thân. Thế nào là thành tựu lợi ích tha thân? Đã được thành tựu lợi ích tự thân rồi, từ vô thỉ đến nay tự nhiên nương hai thứ thân Phật kia, thị hiện năng lực tự tại ở thế gian mà thực hành, đó gọi là thành tựu lợi ích tha thân".

Hỏi: Ban đầu được tự lợi rồi mới khởi nghiệp lợi tha, vì sao nói lợi tha từ vô thỉ?

Đáp: Có hai cách giải thích:

- Như Lai một niệm ứng khắp ba đời, chỗ ứng không có đầu mối, năng ứng thì vô thỉ. Giống như một niệm trí tròn đầy, đạt khắp cảnh ba đời vô biên, cảnh vô biên nên trí cũng vô biên, tướng trí vô biên hiện nên được vô thỉ cũng được cả vô chung. Điều này tâm thức chẳng thể suy lường được, nên gọi là nghiệp không thể nghĩ bàn.

- Vì vô minh dứt, Thỉ giác tức Bản giác, nhưng Bản giác kia từ vô thỉ đến nay thường khởi nghiệp dụng lợi ích chúng sinh. Thỉ giác đồng Bản giác nên cũng là vô thỉ, vì tất cả chư Phật không khác nhau, không mới cũ, đều chẳng khác Thỉ giác. Bản giác bình đẳng không thỉ không chung, nên thường giáo hóa chúng sinh là dụng của Chân như, nên nói nghiệp không thể nghĩ bàn. Dụng Bản giác này và tâm chúng sinh xưa nay không hai, chỉ vì bất giác theo dòng mà dụng chẳng hiện, vọng tâm chán cầu. Dụng thì ở trong tâm kia xứng căn cơ hiển hiện mà không tác ý hiện khác nhau, nên nói theo căn cơ tự nhiên tương ưng. Tuy không tác ý mà hiện đều lợi ích, nên nói mỗi thứ hiện đều lợi ích.

Từ trên đến đây là tướng Bản giác tùy nhiễm đã giải nghĩa xong.

D2. Nói về Bản giác tánh tịnh:

Cũng có thể nói thể tướng hợp, từ đây trở xuống Có hai:

E1. Nêu chung.

E2. Giải thích riêng:

Lại nữa, thể tướng của giác có bốn thứ nghĩa lớn, đồng như hư không, giống như chiếc gương trong sáng.

E1. Nêu chung:

Vì hư không và gương đều có bốn nghĩa để làm ví dụ: Gương không: Nghĩa là thể lìa tất cả vật bên ngoài.

Gương chẳng không: Thể gương đều hiện muôn vật. Gương trong: Lau chùi đối trị lìa nhỏ.

Gương thọ dụng: Treo ở chỗ cao, người cần thì dụng.

Trong bốn phần, hai phần đầu là tịnh tự tánh, hai phần sau là tịnh lìa cấu. Lại, hai phần đầu là nói theo lúc nhân ẩn, hai phần sau là nói theo lúc quả hiện. Trong hai phần đầu nói không và chẳng không, hai phần sau theo thể và dụng. Lại, hai phần đầu là thể, hai phần sau là tướng, nên nói "Giác thể tướng". Lại, một phần đầu và phần thứ ba có nghĩa không, phần hai và phần bốn có nghĩa gương, nên nêu hai ví dụ.

E2. Giải thích riêng:

Có bốn nghĩa, bốn nghĩa ấy là:

G1. Gương như thật không:

Nói rõ trong pháp chân như, vọng vốn không, chẳng phải trước có sau không, nên nói "như thật không":

Xa lìa tất cả tâm gương giới tướng không có pháp để hiện, chẳng phải nghĩa giác chiếu.

Ở sau giải thích nghĩa không, tâm điên đảo vọng cảnh vốn chẳng tương ưng nên nói xa lìa, v.v... chẳng phải có mà chẳng hiện, chỉ do pháp vọng lý là không nên chẳng thể hiện như gương chẳng phải không có khả năng hiện, chỉ do sừng thỏ không có nên chẳng thể hiện.

"Chẳng phải giác chiếu" có hai nghĩa:

- Dùng vọng tưởng hướng đến chân trí, không có công giác chiếu. Vì tình chấp trái lý, như gương chẳng phải tức là vật bên ngoài, vì vật bên ngoái không có nghĩa chiếu dụng, tức nói lên trong gương không thể của vật bên ngoài.

- Vì Bản giác hướng về pháp vọng, cũng không có công năng giác chiếu, do vọng vốn không. Như hai mắt sáng nhìn thấy hoa đốm giữa hư không, không có công năng chiếu nhìn, như gương hướng về sừng thỏ.

Hỏi: Nếu như vậy, tại sao phần sau do huân tập mà hiện tất cả pháp thế gian?

Đáp: Kia đứng về mặt y tha tợ pháp, là chân tâm này theo huân tập tạo tác không có tự thể, chẳng khác chân như. Nên văn kia nói: "Vì tất cả pháp tức tánh chân thật", nay đứng về mặt biến kế sở chấp thật pháp nên chẳng thể hiện.

Hỏi: Chỗ hiện tợ pháp, há không do chấp thật kia có ư?

Đáp: Tuy do thật chấp nhưng dường như chẳng thật, như bóng do chất mà bóng hằng chẳng phải chất, trong gương hiện bóng không hiện ở chất, không hiện chất nên nói gương rỗng không hiện bóng, đó là nhân huân tập.

G2. Gương do nhân huân tập: Nghĩa là như thật chẳng phải không.

Phần Nhân huân, giải thích có hai nghĩa về nhân:

- Nhân hay tạo tác ra hiện pháp.

- Nhân tạo tác huân tập bên trong.

Cũng có thể phần đầu là nghĩa nhân, phần hai là nghĩa huân tập, nên nói nhân huân tập.

"Như thật chẳng không" ở đây xuất phát chung nhân huân pháp thể, nghĩa là có tự thể và tánh công đức.

Sau đây giải thích riêng hai nhân.

Tất cả cảnh giới thế gian đều hiện trong đó chẳng ra, chẳng vào, chẳng mất, chẳng hoại, thường trụ nhất tâm, vì tất cả pháp là tánh chân thật.

Trong phần "Tất cả cảnh giới thế gian đều hiện" là nói tất cả pháp lìa ngoài tâm này không có thể tánh riêng, giống như trong gương hiện bóng.

"Chẳng ra" là nói tâm đợi huân tập nên biến hiện các pháp, chẳng phải là không đợi huân mà tự xuất hiện.

"Chẳng vào" là lìa tâm không thể huân tập, chẳng từ bên ngoài vào.

"Chẳng mất" tuy chẳng từ bên trong ra, bên ngoài vào, nhưng pháp duyên khởi hiển hiện chẳng không nên nói chẳng mất.

"Chẳng hoại" là các pháp duyên tập không từ đâu khởi, chẳng khác chân như nên không thể hoại. Như bóng trong gương chẳng dùng dao làm tổn hoại được, vì đồng gương nên chẳng thể hoại.

"Thường trụ nhất tâm" là hội tướng đồng thể.

"Vì tất cả pháp" trở xuống, là giải thích lý do thành đồng gương. Vì trong tâm hiển hiện không ra vào v.v... tức không có thể tánh, vì không thể tánh nên xưa nay bình đằng không khác chân như, nên nói thường trụ nhất tâm cho đến tánh chân thật. Lại tất cả pháp nhiễm, không thể nhiễm trí thể bất động, đầy đủ vô lậu huân chúng sinh.

"Lại tất cả pháp nhiễm" trở xuống, là giải thích nghĩa nhân phần sau.

"Pháp nhiễm chẳng thể nhiễm": do tánh tịnh tuy hiện pháp nhiễm mà chẳng thể nhiễm các ô uế, chẳng phải lúc hiện thẳng nhiễm, chẳng phái nhiễm làm nhiễm. Cũng chính do hiện nhiễm nên hiển bày ngược gốc tịnh. Như gương trong sạch hiện các vật nhơ, khi các vật nhơ hiện, lại hiển bày gương sạch. Há ở đây các vật nhơ có thể làm nhiễm ô gương hay sao! Nếu không hiện nhiễm thì không hiển bày bất nhiễm.

"Trí thể bất động" vì xưa không nhiễm, nay chẳng phải mới sạch. Nên trí Bản giác không hề dao động. Lại tuy hiện pháp nhiễm mà chẳng bị nhiễm, nên nói bất động. Như trong gương hình tượng theo chất chuyển biến, nhưng thể gương không hề động.

"Đầy đủ vô lậu, v.v..." đây là trong Bản giác hằng sa tánh đức không thiếu. Lại cùng chúng sinh tạo nhân huân tập bên trong, khiến nhàm chán sinh tử ưa cầu Niết-bàn. Nên kinh Thắng-man nói: "Vì có Như Lai tạng chán khổ sinh tử, ưa cầu Niếtbàn". Luận Phật Tánh chép: "Tâm tự tánh thanh tịnh gọi là Đạo đế". Lại là Nghiệp tánh trong mười thứ Phật tánh.

G3. Gương là pháp xuất ly: Nghĩa là pháp bất không, ra khỏi phiền não ngại, trí ngại lìa tướng hoà hợp thuần tịnh sáng suốt.

Phần ba này có: Nêu và giải thích.

"Pháp xuất ly" là pháp chân như ra khỏi hai chướng lìa nơi hoà hợp nên nói xuất ly. Trước nói Như Lai tạng bất không tại triền tánh tịnh. Nay nói Pháp thân bất không xuất triền lìa cấu. Như luận Thật Tánh chép: "Có hai thứ tịnh: Một là tự tánh tịnh, vì đồng tướng. Hai là lìa cấu tịnh, vì tướng tốt đẹp".

"Pháp bất không" là pháp thể xuất thế tức là nhân huân tập ở trước.

"Ra khỏi phiền não, v.v..." là tâm nhiễm thô tế, gọi là phiền não ngại, nương tựa vô minh gọi là trí ngại.

"Lìa hoà hợp..." là tâm tịnh ra khỏi chướng phá nghiệp thức, v.v... hoà hợp, lìa tướng tạp hoà hợp gọi là thuần, không hoặc nhiễm gọi là tịnh, ra khỏi vô minh gọi là Minh, là trí tuệ sáng suốt rộng lớn nên nói thuần tịnh sáng suốt.

G4. Gương là duyên huân tập: Là nương pháp xuất ly nên chiếu khắp tâm chúng sinh, khiến tu gốc lành theo niệm thị hiện.

Trong phần bốn có: Nêu và Biện.

Nghĩa là Bản giác kia khi ra khỏi chướng, tùy chiếu căn cơ thị hiện muôn hóa, cùng chúng sinh kia tạo năng lực huân tập duyên ngoại, nên nói nương pháp cho đến thị hiện.

Hỏi: Trong phần tùy nhiễm ở trước, trí tịnh có gì khác với pháp xuất ly này? Lại nghiệp dụng ở trước cùng duyên huân tập này có gì khác nhau?

Đáp: Trước đứng về mặt theo nhiễm trở lại tịnh, nên nói là trí. Tức rõ trí dụng kia đều nói về mặt Thỉ giác. Ở đây đứng về mặt tự tánh nên lìa chướng mà hiển bày pháp thể. Tức nói pháp dụng này đều nói theo pháp thể. Cho nên trước nói trí, ở đây nói pháp. Trước nói nghiệp, ở đây nói duyên. Nhưng, pháp trí tuy khác mà thể không khác nhau, vì Thỉ giác tức Bản giác. Nay nói về mặt nghĩa chia ra thì nên có cảnh trí khác nhau.

A2. Nói về Bất giác:

Có ba:

B1. Nói về cội gốc bất giác.

B2. Nói về ngọn ngành bất giác. "Sinh ba thứ" trở xuống.

B3. Kết ngọn trở về gốc: "Nên biết vô minh v.v..." trở xuống.

Lại cũng có thể nói phần một về thể bất giác. Phần hai nói về tướng bất giác, phần ba kết luận tướng đồng thể.

B1. Cội gốc bất giác:

Có hai:

C1 Nương giác thành mê.

C2. Nương mê bày giác. Cũng là giải thích nghi.

Vì vọng kia nương chân mà khởi, không có tự thể riêng, lại hiển bày ngược chân, tức là công năng huân tập bên trong. Do nghĩa này trong kinh nói rằng: "Hễ có tâm thì đều có Phật tánh". Vì các vọng niệm đều nương vào chân, vì năng lực của chân nên khiến vọng niệm này không thể ngược dòng.

C1. Nương giác thành mê:

Có ba là: Pháp, Dụ và Hợp.

Nghĩa bất giác là không như thật biết pháp chân như là một, nên bất giác tâm khởi mà có niệm kia, niệm không tự tướng không lìa Bản giác.

Trong phần Pháp: ban đầu không rõ như lý một vị, nên giải thích nghĩa cội gốc bất giác, như người mê là phương chính.

"Bất giác niệm khởi" là niệm về các tướng nghiệp v.v... tức phương tà.

"Niệm không tự tướng" trở xuống, v.v... nói là tà không có tự thể riêng, không lìa phương chính tức nói bất giác chẳng lìa giác.

Giống như người mê y theo phương hướng nên mê, nếu lìa phương hướng thì không mê. Chúng sinh cũng như vậy, nương giác cho nên mê, nếu lìa tánh giác thì không có bất giác.

Hợp và dụ rất dễ biết.

C2. Nương mê bày giác:

Vì có tâm vọng tưởng bất giác, nên biết được danh nghĩa gọi là chân giác. Nếu lìa tâm bất giác thì không có tự tướng chân giác để nói.

Trong văn sau chia làm hai là: Nói rõ vọng có công năng sinh khởi tịnh, và nói nghĩa chân có đợi vọng. Bởi vọng nương chân mới bày được chân, chân theo vọng lại đợi vọng mà hiển.

B2. Ngọn ngành bất giác:

Giải thích sơ lược có hai:

C1. Đứng về mặt dụ mà nói ý.

C2. Đứng về mặt thức mà giải thích văn.

C1. Đứng về mặt Dụ mà nói ý:

Ban đầu Bản giác chân như giống như hai mắt trong sáng, hơi nóng của bệnh như vô minh căn bản. Bệnh hợp với mắt làm động mắt trong sáng kia. Nghiệp thức cũng như thế. Do mắt trong sáng động nên có mắt bệnh pháp khởi, tướng năng kiến cũng giống như thế. Vì mắt bị nhặm hướng ra bên ngoài nhìn xem, liền có cảnh giới vọng như hoa đốm giữa hư không hiện. Tướng cảnh giới cũng giống như vậy. Vì có cảnh hoa đốm giữa hư không, khiến phát khởi tâm phân biệt hoa đẹp hoa xấu, v.v... Tướng trí cũng giống như vậy. Vì tâm phân biệt này chấp cứng không thay đổi. Tướng nối nhau cũng như vậy. Vì cố chấp nên đối với cảnh thuận nghịch lấy bỏ đuổi tìm. Tướng chấp chặt cũng như vậy. Vì chấp lấy nên đối với đó đặt tên gọi, nếu có tướng mà lúc chưa đối diện, chỉ nghe tên liền chấp. Tướng chấp danh tự cũng giống như vậy. Đã kế danh chấp tướng phát động ở thân miệng, vin theo hoa đốm giữa hư không tạo nghiệp thiện ác, thọ quả báo khổ vui, ngủ vùi trong sinh tử, không thể thoát ra, đều do năng lực căn bản vô minh.

C2. Đứng về mặt thức mà giải thích văn:

Có hai:

D1. Vô minh làm nhân sinh ba đời.

D2. Cảnh giới làm duyên sinh sáu thô.

D1. Vô minh làm nhân sinh ba đời:

Có hai:

E1. Nêu chung.

E2. Giải thích riêng.

E1. Nêu chung:

Lại nữa, nương bất giác nên sinh ba thứ tướng, cùng bất giác tương ưng không lìa nhau.

"Không lìa bất giác kia" là nói tướng không lìa thể, ngọn không lìa gốc. Vì nương vô minh thành vọng tâm, nương vọng tâm khởi vô minh.

Thế nào là ba?

Trong phần đầu nói ba tế tức là ba. Mỗi thứ có nêu và giải thích.

E2. Giải thích riêng:

1. Nghiệp tướng vô minh, vì nương bất giác nên tâm động gọi là nghiệp, giác thì chẳng động, động thì có quả khổ chẳng lìa nhân. "Vì nương bất giác" là giải thích nêu trong vô minh, tức cội gốc vô minh. "Tâm động gọi là nghiệp" là giải thích nêu trong nghiệp. Ở đây nghiệp có hai nghĩa:

- Nghĩa động tác, là nghĩa nghiệp. Nói nương bất giác có tâm động gọi là Nghiệp.

"Giác thì chẳng động" là nêu ngược để giải thích được thành. Khi đã được Thỉ giác thì không động niệm, là biết nay động chỉ do bất giác.

- Nghĩa nhân, là nghĩa nghiệp: nên nói động thì có khổ. Như khi được vắng lặng vô niệm tức Niếtbàn diệu lạc, nên biết nay động thì có họa khổ sinh tử.

"Quả không lìa nhân" là bất động, là an vui, tức biết động sẽ có khổ, nhân động quả khổ đã chẳng khác thời, nên nói chẳng lìa nhau. Ở đây tuy động niệm mà rất sâu kín. Duyên khởi một tướng năng sở chẳng phân, tức ngay trên phần tự thể A-lại-da.

Như luận Vô Tướng nói.

Hỏi: Thức này là tướng gì? Là cảnh giới nào?.

Đáp: Tướng và cảnh giới chẳng thể phân biệt, một thể chẳng khác nên biết ở đây nói theo nghĩa nghiệp tướng A-lại-da. Hai phần sau nói về mặt bổn thức là kiến phần và tướng phần.

2. Tướng năng kiến, vì nương động nên thấy, chẳng động nên không thấy. Tướng năng kiến, tức là chuyển tướng. Vì nương nghiệp tướng trước chuyển thành năng thấy, nên nói do nương vào động nên thấy, nếu nương vào môn Tánh Tịnh thì không thấy, nên nói chẳng động thì không thấy. Ngược lại, hiển bày năng thấy là nương nghĩa động. Như thế, chuyển tướng tuy có năng duyên, vì cảnh giới sâu kín nên vẫn chưa biện rõ. Như Nhiếp Luận chép: "Ý thức duyên cảnh ba đời và chẳng phải cảnh ba đời". Như thế rất dễ biết, cảnh thức này duyên không thể biết. Đã nói sở duyên không thể biết, tức là đứng về năng duyên để nói nghĩa chuyển tướng bổn thức.

3. Tướng cảnh giới, vì nương hay thấy nên cảnh giới vọng hiện, lìa cái thấy thì không có cảnh giới. Tướng cảnh giới, tức là hiện tướng.

Nương chuyển tướng ở trước năng hiện cảnh giới, nói nương cái thấy nên cảnh giới vọng hiện. Sao ở đây nêu ngược lại để giải thích, rất dễ hiểu. Như Kinh Lăng-già chép: "Thí như gương sáng giữ các sắc tượng. Chỗ hiện của thức cũng giống như thế". Lại luận này văn sau nói rõ hiện thức rằng: "Năng hiện tất cả cảnh giới, giống như gương sáng hiện sắc tượng, hiện thức cũng giống như vậy". Cho đến dùng tất cả thời hồn nhiên mà khởi thường ở trước. Những thứ này đều theo nghĩa bổn thức hiện tướng mà nói. Hiện tướng này thường ở tại bổn thức. Huống là chuyển tướng, nghiệp tướng ở thức thứ sáu thứ bảy ư! Ba tướng này đều do vô minh căn bản làm động, tâm vốn vắng lặng hiện thành ba đời, tức tâm bất tương ưng thuộc về địa vị A-lại-da.

D2. Cảnh giới làm duyên sinh sáu thô:

Tức thức phân biệt sự, từ đây trở xuống, kinh Lăng-già chép: "Gió cảnh giới động các sóng thức, v.v..." chính là nghĩa này.

Hỏi: Ba đời thuộc A-lại-da, sáu thô thuộc ý thức, vì sao không nói thức Mạt-na?

Đáp: Ý này có hai nghĩa:

- Trước đã nói A-lại-da, Mạt-na phải là chấp tương ưng nên không nói riêng. Du Già nói: "Thức A-lại-da khởi thì hai thức tương ưng". Lại do ý thức lúc duyên cảnh ngoại ắt bên trong nương Mạtna làm căn nhiễm ô mới có thể sinh khởi được. Cho nên kế nói sáu thô ắt bên trong nương Mạt-na cũng không nói riêng.

- Vì nghĩa bất tiện nên lược không nói. Tướng bất tiện là do vô minh trụ địa động tâm bổn tịnh, khiến sinh khởi hòa hợp thành A-lại-da, Mạt-na không có nghĩa này nên trong ba đời trước lược không nói. Lại do cảnh ngoại dẫn khởi sự thức, Mạt-na không có nghĩa duyên cảnh ngoại, nên trong sáu thô cũng lược không nói. Cũng có thể là chấp bên trong làm ngã, thuộc ba đời ở trước, chấp bên ngoài làm ngã thuộc sáu thô sau. Nên lược bỏ không nói đến, trong Kinh Lăng-già cũng đồng thuyết này. Vì vậy kinh ấy nói: "Này Đại Tuệ lược có ba thứ thức, nói rộng có tám tướng. Ba thức là: chân thức, hiện thức và thức phân biệt sự". Cho đến nói rộng hiện thức trong kinh tức là hiện tướng trong ba đời, thức phân biệt sự là sáu thô ở sau. Sở dĩ biết là kinh kia sau giải thích trong phần thức phân biệt sự, là nói: "Phan duyên cảnh giới bên ngoài khởi ra sự thức, v.v...". Vì vậy biết sự thức chẳng phải Mạt-na. Luận này văn sau cũng đồng như thế, phải nên ghi nhớ.

Giải thích riêng: Có hai:

E1. Nêu chung.

E2. Giải thích riêng.

E1. Nêu chung:

Vì có cảnh giới duyên nên sinh ra sáu tướng, sáu tướng là:

E2. Giải thích riêng:

Sáu tướng sáu đoạn. Mỗi đoạn nêu trước, giải thích sau. Trong sáu tướng này gồm có ba cặp. Đó là hai tướng đầu là một cặp, là hoặc sâu kín trong sự thức, chấp cảnh pháp cho là thật. Trong sáu nhiễm đồng là pháp chấp. Chỗ đoạn của Bồ-tát Địa Thượng cũng nhiếp vào trong năm ý ở phần sau. Vì có nghĩa y chỉ hai tướng, kế đến là một cặp, là hoặc thô trong sự thức. Ở trên cảnh thật trước lại khởi hoặc tham, sân, v.v... tức là nhập vào năm ý ở phần sau. Lại làm rõ riêng về ý thức, chấp trước càng sâu, chấp ngã, ngã sở, v.v... là sáu nhiễm phải dứt bỏ của người nhị thừa, v.v... Hai tướng sau là một cặp, nghĩa là nương hoặc tạo nghiệp khổ báo đắm chìm mãi.

1. Trí tướng là nương cảnh giới tâm khởi phân biệt ái và chẳng ái. Trí tướng là đối với tướng mà hiện thức ở trước, hiện ra chẳng rõ tự tâm hiện. Ban đầu khởi tuệ số phân biệt nhiễm tịnh, chấp có định tánh, nên nói nương cảnh giới cho đến chẳng ái.

2. Tướng tương tục nương vào trí nên sinh khổ vui, giác tâm khởi niệm tương ưng chẳng dứt. Tướng tương tục tướng nương vào trí là nói chỗ khởi nương, là nương vào sự phân biệt khởi chấp đối với cảnh yêu thích thì lãnh thọ cảm giác vui, đối với cảnh không yêu thích thì lãnh thọ cảm giác khổ, thường niệm khởi nối nhau hiện tiền. Đây là nói tự tương tục. Lại khởi lên sự thấm nhuần hoặc nghiệp dẫn dắt trong sinh tử, tức tha tương tục. Văn sau nói: "Chấp giữ khổ vui, v.v..." nên nói sinh cho đến chẳng dứt.

3. Tướng chấp thủ là nương vào duyên tương tục niệm cảnh giới chấp giữ khổ vui, tâm khởi mê đắm. Tướng chấp thủ là các cảnh khổ vui ở trước, chẳng rõ rỗng không mê đắm khởi sâu, nên văn sau nói; "Tức thức tương tục này nương vào phàm phu chấp trước càng sâu, chấp ngã, ngã sở, v.v...".

"Nương vào tương tục cho đến khổ vui" là tướng tương tục ở trước, tâm khởi mê đắm là tương chấp thủ này.

4. Tướng kế chấp danh tự là nương vào vọng chấp phân biệt tướng giả danh. Tướng danh tự là nương vào điên đảo ở trước chấp tướng ở trên. Lại lập danh từ ngôn ngữ là phân biệt. Kinh Lăng-già chép: "Danh tướng thường theo nhau mà sinh ra các vọng tưởng". Nên nói nương vọng chấp.

Từ trên đến đây là khởi hoặc, từ đây về sau là tạo nghiệp chiêu cảm quả báo.

5. Khởi nghiệp tướng là nương vào danh tự, tìm danh chấp trước, gây ra các thứ nghiệp. Khởi nghiệp tướng là mê đắm tướng mà đặt tên, nương hoặc thô này, phát động ở thân miệng tạo ra tất cả nghiệp tức nhân khổ.

6. Tướng nghiệp hệ khổ là do nương nghiệp thọ quả báo chẳng được tự tại. Tướng nghiệp hệ khổ là nghiệp dụng đã thành, chiêu cảm quả phải như thế, xoay vần trói buộc triền miên trong các đường sinh tử, nên nói nương nghiệp thọ quả báo chẳng được tự tại.

Từ trên đến đây là xong phần tướng ngọn ngành.

B3. Kết ngọn về gốc: "Nên biết" trở xuống. Nên biết vô minh sinh ra tất cả pháp nhiễm.

Như ba tế, sáu thô ở trước gồm chung tất cả pháp nhiễm, đều do vô minh căn bản không rõ chân như mà khởi, nên biết vô minh sinh ra tất cả pháp nhiễm.

Từ đây trở xuống là giải thích lý do.

Vì tất cả pháp nhiễm đều là tướng bất giác.

Nghi: Pháp nhiễm có nhiều thứ khác nhau chẳng đồng. Vì sao căn bản chỉ là một vô minh?

Giải thích: Pháp nhiễm tuy nhiều nhưng đều là hơi hám của vô minh, tất cả đều là tướng khác nhau của bất giác, nên chẳng khác bất giác. Nên nói tất cả pháp nhiễm đều là tướng bất giác.

Từ trên đến đây giải thích chung nghĩa bất giác, tức đứng về mặt pháp nhiễm mà nói rõ tâm sinh diệt đã xong.

A3. Nói về Tướng nhiễm tịnh đồng khác: Từ đây trở xuống. Trong đây có ba: 1. Nêu chung. 2. Kể tên. 3. Nói rộng.

Lại nữa, giác và bất giác có hai tướng, hai tướng ấy là:

1. Tướng giống. 2. Tướng khác. Nói rộng.

Có hai:

B1. Tướng giống.

B2. Tướng khác.

B1. Tướng giống:

Có ba:

C1. Dụ.

C2. Hợp.

C3. Dẫn chứng.

C1. Dụ:

Tướng giống là giống như các thứ đồ dùng bằng sành, đều đồng tánh tướng là hạt bụi.

Tướng giống là hai pháp nhiễm tịnh giống nhau, lấy chân như làm thể, chân như dùng hai pháp này làm tướng, nên nói tánh tướng giống nhau. Các thứ bằng sành giống như các pháp nhiễm tịnh, đều đồng với tánh cát bụi. Đồ dùng lầy hạt bụi làm tánh, hạt bụi lấy đồ dùng làm tướng, nên nói tánh tướng cát bụi.

C2. Hợp:

Vô lậu như thế, các thứ nghiệp huyễn vô minh đều đồng tánh tướng chân như.

Nói vô lậu là Bản giác và Thỉ giác. Vô minh là gốc ngọn bất giác: Hai câu này đều có nghiệp hiển hiện mà chẳng thật có, nên nói nghiệp huyễn. Những thứ này là hợp các thứ đồ dùng.

"Đều đồng tánh tướng chân như" là lấy động môn chân như tạo ra hai pháp nhiễm tịnh trong môn Sinh diệt này. Lại không có tự thể riêng, nên nói là tánh. Chân như cũng dùng hai pháp này làm tướng. Tướng tịnh rất dễ hiểu.

Về tướng nhiễm, văn sau nói: "Chỉ do vô minh mà huân tập thì có tướng nhiễm".

C3. Dẫn chứng:

Cho nên trong kinh nương vào nghĩa này mà nói tất cả chúng sinh xưa nay thường trụ, nhập pháp Niết-bàn, Bồ-đề, chẳng có tướng tu, chẳng có tướng "vô sở đắc" rốt ráo.

Nói: "Nương vào nghĩa này cho đến Niết-bàn" là nương vào tướng đồng môn.

Như trên nói gốc ngọn bất giác xưa nay tức chân như, nên nói tất cả chúng sinh tự tánh Niếtbàn, không còn diệt độ nữa. Kinh nói: "Tất cả chúng sinh là tướng Niết-bàn, chẳng còn diệt nữa". "Pháp Bồ-đề cho đến không có chỗ được" là nương vào tướng đồng môn này. Như Bản giác Thỉ giác ở trên tức là chân như. Nên Bồ-đề của chư Phật chẳng phải tu mà được. Lại ở trước đứng về mặt bất giác tức là như, nên chúng sinh xưa nay nhập Niết-bàn. Nay đứng về mặt giác cũng tức là chân, nên Bồ-đề của chư Phật không phải là mới được.

"Không phải tướng để tu" là hướng về Niết-bàn ở trước, chẳng phải liễu nhân để tu hiển.

"Không phải là tướng để tạo" là hướng về Bồđề ở trước, chẳng phải là do sinh nhân tạo tác.

"Rốt ráo không thật có" là hai quả này tức tánh tịnh sẵn có, nên không thật có.

Từ đây trở xuống là giải thích để xóa bỏ nghi ngờ.

Nghi: Nếu chúng sinh xưa nay đã nhập Niếtbàn, lại chẳng phải mới diệt, tức đã đồng chư Phật, vì sao không hiện sắc là báo thân và hóa thân?

Cũng không có sắc tướng để thấy, mà có thấy sắc tướng chỉ là theo nhiễm tạo tác nghiệp huyễn, chẳng phải tánh trí, sắc chẳng phải không, do đó trí tướng không thể thấy được.

Giải thích: Tự thể pháp tánh vốn không có sắc tướng để thấy, làm sao hiện được các sắc ư! Nên nói cũng không có sắc tướng để thấy.

Lại nghi: Nếu pháp tánh chẳng phải pháp sắc tướng để thấy thì, nên chẳng hiện hai sắc. Vì sao chư Phật hiện các thứ sắc báo thân và hóa thân?

Giải thích: Kia thấy các thứ sắc của chư Phật đều là theo huyễn nhiễm chúng sinh, trong tâm biến khác hiển hiện thuộc môn dị tướng ở sau, chẳng phải trong môn đồng tướng này.

Trong trí Bản giác có sắc ngại tánh bất không này. Lại cũng có thể Bản giác chẳng không trong Hằng sa đức cũng không có sắc tướng này, nên nói: "Thấy sắc tướng cho đến tánh bất không", làm sao biết được trong pháp thể kia không có sắc tướng?

Giải thích: Vì Bản giác trí tướng chẳng phải pháp để thấy.

B2. Tướng khác:

C1. Dụ.

C2. Hợp.

C1. Dụ:

Tướng khác là như các thứ đồ gốm mỗi thứ khác nhau, vì thế vô lậu vô minh tùy nhiễm huyễn mà khác nhau, nên tánh nhiễm huyễn có sự sai biệt.

C2. Hợp:

"Tùy nhiễm huyễn có sự sai biệt:" là pháp vô lậu. "Tánh nhiễm huyễn có sự sai biệt" là pháp vô minh.

Vì vô minh kia mê lý bình đẳng, nên tự tánh kia có sự khác nhau, văn sau nói: "Như thế vô minh tự tánh có sự khác nhau". Các pháp vô lậu thuận theo tánh bình đẳng, nói thẳng về tánh thì không có sự khác nhau, chỉ theo pháp nhiễm mà có tướng khác nhau, nên nói pháp vô lậu có sự khác nhau. Trong văn sau đối với các pháp nghiệp thức có sự sai biệt, nói Bản giác có Hằng sa tánh đức. Lại do đối trị pháp nhiễm có sự khác nhau kia, thành Thỉ giác có muôn đức sai biệt. Như thế nhiễm tịnh đều là chân như theo duyên hiển hiện, dường như có mà không tự thể, nên gọi chung là huyễn.

Từ trên đến đây nhiễm tịnh chẳng đồng, giải thích tâm sinh diệt đã xong

Chi II. Giải thích nhân duyên trong phần lập nghĩa ở trên:

Từ đây trở xuống. Có ba:

Tiết 1. Nói về nghĩa nhân duyên sinh diệt.

Tiết 2. Trình bày thể nhân duyên sở y. "Từ vô minh khởi thức" trở xuống.

Tiết 3. Trình bày lại thể tướng nhân duyên nương theo.

Tiết 1. Nghĩa nhân duyên sinh diệt:

Có hai:

A1. Nêu chung.

A2. Giải thích riêng.

A1. Nêu chung:

Lại nữa, nhân duyên sinh diệt nghĩa là chúng sinh nương theo tâm, ý, ý thức mà chuyển.

Nói nhân duyên là tâm thể A-lại-da. Không giữ tự tánh là nhân sinh diệt. Vô minh căn bản huân động tâm thể là duyên sinh diệt. Lại vô minh trụ địa các nhiễm căn bản là nhân sinh diệt, cảnh giới vọng bên ngoài động dậy sóng thức là duyên sinh diệt. Nương vào hai nghĩa này để hiển bày nhân duyên. Các thức sinh diệt nhóm hợp mà sinh nên gọi là chúng sinh, nhưng không có tự thể riêng. Chỉ nương vào tâm thể nên nói nương vào tâm, tức tâm tự tướng A-lại-da. Chúng sinh năng y là ý, ý thức, nương tâm thể khởi nên nói chuyển, chuyển là khởi.

A2. Giải thích riêng:

Trước là nêu câu hỏi: Nghĩa này thế nào? Nghĩa là tâm này tạo ra chúng sinh như thế nào?

Tiết 2. Hiển bày riêng thể nhân duyên sở y:

Có ba:

A1. Giải thích tâm sở y.

A2. Giải thích ý chuyển.

A3. Giải thích ý thức chuyển.

A1. Giải thích tâm sở y:

Vì nương vào thức A-lại-da nói có vô minh. Alại-da là tâm đã nói ở trên, tức nhân sinh diệt. "Có vô minh" là nghĩa bất giác trong hai nghĩa của thức A-lại-da, tức duyên sinh diệt.

Muốn nói về nương nhân duyên này ý, ý thức chuyển. "Vì nương, v.v..." là trong phần chung ở trên lược nêu nhân kia, chỉ nói nương tâm. Trong phần giải thích riêng trình bày đầy đủ nhân duyên, nói là nương tâm mà có vô minh.

Hỏi: Ở trên nói nương giác có bất giác, do năng lực bất giác này nên động tâm thể kia, khiến sinh diệt hoà hợp, mới có nghiệp thức A-lại-da. Vì sao trong đây nói nương A-lại-da có vô minh?

Đáp: Đây giải thích có ba:

- Vì A-lại-da có hai nghĩa, nghĩa là do vô minh xao động chân tâm thành A-lại-da. A-lại-da này trở lại làm chỗ nương cho của vô minh kia, chẳng hề lìa nhau. Vì sao? Vì nương mê mà khởi tương tự, tức động chân tâm khơi nghiệp thức, mê tương tự là thật, tức nương A-lại-da mà có vô minh.

- A-lại-da có hai nghĩa, là giác và bất giác. trước chỉ đứng về mặt gốc mà nói nương theo giác có bất giác. Nay nói về mặt ngọn, nên nói nương A-lại-da có vô minh. Đây tức trong hai nghĩa là nghĩa bất giác trong A-lại-da, nên nói là nương.

- Trong đây ý chính chỉ lấy nghĩa chân tâm tùy duyên. Nghĩa tùy duyên này khó gọi tên, hoặc chưa khởi nói nương chân như mà có vô minh. hoặc đã nói nương A-lại-da mà có vô minh. Nhưng, hai tên này mới tột được nghĩa. Nên văn trước sau nương nhau mà nói.

A2. Giải thích ý chuyển: "Bất giác" trở xuống Có ba:

B1. Lược nói.

B2. Nói rộng.

B3. Tổng kết quy về tâm.

B1. Lược nói năm thức tướng:

Bất giác mà khởi năng kiến, năng hiện, năng thủ cảnh giới, khởi niệm nối tiếp nên nói là ý.

"Bất giác mà khởi" là chỗ nương của tâm thể, do vô minh huân nên toàn thể động, tức là nghiệp thức. Trước nương A-lại-da mà có vô minh, tức nương tương tự mà khởi mê. Nay huân tâm thanh tịnh thành A-lại-da, tức là nương cho nên khởi tương tự. Hai nghĩa này cùng lúc nói có trước sau.

"Năng kiến" tức tâm thể kia chuyển thành năng kiến, tức là chuyển thức.

"Năng hiện" tức tâm thể kia lại thành năng hiện, tức là hiện thức.

"Năng thủ cảnh giới" là chấp giữ cảnh giới cho hiện thức hiện ra, đó là trí thức.

"Khởi niệm nối tiếp" là cảnh bị chấp giữ khởi các niệm thô, là thức tương tục.

Nương năm nghĩa này lần lượt chuyển thành y chỉ, y chỉ nghĩa này mà sinh ra ý thức, nên nói là ý. Nên Nhiếp Luận chép: "Ý lấy y chỉ năng sinh làm nghĩa".

B2. Nói rộng:

"Ý này" trở xuống là giải thích, có hai: Nêu và giải thích.

Trong phần giải thích năm ý là năm đoạn, mỗi đoạn có nêu và giải thích.

Ý này lại có năm tên, năm tên là:

1. Nghiệp thức, nghĩa là do năng lực vô minh nên bất giác tâm động. "Năng lực vô minh" là vô minh căn bản tức duyên sở y. Nói tâm không tự khởi, mà phải do duyên. "Bất giác tâm động" là nói về tướng khởi, giải thích thành nghĩa nghiệp. nghĩa khởi động là nghĩa nghiệp.

2. Chuyển thức là nương vào tướng năng kiến tâm động. Chuyển thức nói: "Nương năng kiến tâm động" là nương động của nghiệp thức trước chuyển thành tướng năng kiến. Chuyển thức có hai:

- Nếu theo vô minh, chỗ động chuyển thành năng kiến.

- Trong bổn thức như chỗ động cảnh giới kia chuyển thành năng kiến. Còn trong sự thức, trong đây chuyển tướng thuộc nghĩa ban đầu.

3. Hiện thức, nghĩa là năng hiện tất cả cảnh giới, giống như gương sáng hiện các sắc tượng. Hiện thức cũng giống như thế, theo năm trần đối đãi không có trước sau, vì tất cả thời hồn nhiên mà khởi thường hiện tiền. Hiện thức có: Pháp, Dụ và Hợp.

"Năng hiện tất cả cảnh giới" là nương vào sự thấy biết của chuyển thức ở trước, khởi lên công năng hay hiện này nên hiện cảnh giới vọng, năng lực của tâm thể kia hòa hợp huân tập với vô minh, nên hiện các thứ cảnh giới vô biên.

Trong phần hợp nói: "Năm trần" là nêu thô hiển để hợp với sắc tượng, mà thật hiện chung tất cả cảnh giới. Nên trong pháp ở trên nói là tất cả. Nếu theo luận Du-già thì hiện hạt giống của năm căn và khí thế gian. Nay trong luận này nghiêng về năm trần, vì đây là theo nghĩa dẫn khởi thức phân biệt sự mà nói như thế.

"Hồn nhiên mà khởi" là chẳng phải như thức thứ sáu, thứ bảy có lúc dứt mất, nên giản trạch khác kia.

"Thường hiện tiền" là gốc các pháp, nói về thức này có trước các pháp, do đó là chỗ nương của các pháp. Đây phân biệt khác với thức Mạt-na.

4. Trí thức, nghĩa là phân biệt pháp nhiễm tịnh. "Trí thức" là phân biệt nhơ nhiệm trong sự thức. Nghĩa là chẳng rõ cảnh do tâm hiện ở trước khởi phân biệt sâu xa nhiễm tịnh, nên nói là Trí.

5. Tương tục thức, vì niệm tương tục không dứt nên giữ gìn nghiệp thiện ác trong vô lượng đời quá khứ không để mất. Lại có công năng thành thục quả báo khổ vui hiện tại, vị lai không sai trái, khiến việc hiện tại qua rồi bỗng nhiên nhớ lại, việc vị lai bất giác vọng nghĩ. "Tương tục" cũng là phần tế trong sự thức, là tướng tương tục trong sáu tướng trước. "Vì niệm tương ưng chẳng dứt" là pháp chấp được nối tiếp lâu dài. Đây là đứng về tự thể chẳng dứt mà giải thích nghĩa nối tiếp. "Giữ gìn" trở xuống, giải thích có hai:

- Chỉ thuộc thức tương tục này, vì đứng về mặt công năng mà giải thích nghĩa tương tục. Thức này làm tươi nhuận nghiệp phiền não, dẫn dắt nghiệp thiện ác của các hạnh do vô minh ở quá khứ phát khởi, khiến thành tựu năng lực chịu đựng quả báo. Nếu không có nhuận hoặc thì hạt giống nghiệp tiêu mất, nên nói: "Giữ gìn" cho đến "không mất". Đây là dẫn từ sống khiến chín. Lại nữa, làm sinh khởi sự tươi nhuận sinh phiền não, khiến cho nghiệp đã chín cảm quả báo tương ưng, nên nói thành thục không sai trái. Nhân quả ba đời như thế trôi lăn, giữ gìn nối tiếp không dứt. Công do ý thức, vì nghĩa này gọi là thức tương tục.

- Nói: "Niệm đã qua" cho đến "vọng nghĩ" là nói lên thức này tướng phân biệt dụng thô không đồng với trí thức phân biệt nhơ nhiệm.

Trong phần hai nói Rộng công năng năm ý trước:

Giữ gìn nghiệp quả là công năng của ba tế ở trước, thuộc A-lại-da.

Nhớ cảnh đã qua và chưa đến là hai công năng sau thuộc phần tế sự thức.

B3. Tổng kết quy về tâm:

Có hai:

C1. Chính tổng kết quy về tâm.

C2. Giải thích nghi ngờ và nói rộng. "Nghĩa này thế nào?" trở xuống,

C1. Chính tổng kết quy về tâm:

Trước kết luận thuận ba cõi, sau kết luận ngược sáu trần.

Cho nên ba cõi luống dối chỉ do tâm tạo tác, lìa tâm thì không có cảnh giới sáu trần.

Trước nói "Cho nên" là nhất tâm ở trước theo vô minh động tạo năm thứ thức, nên nói ba cõi chỉ do tâm chuyển. Tâm này theo sự huân tập hiện tương tự gọi là hư, ẩn hiển hư rỗng, kia trá hiện thật trạng gọi là ngụy. Hình trạng hư ngụy tuy có nhiều thứ, nhưng tột cùng nhân duyên kia đều do tâm tạo. Trong kinh Thập Địa cũng đồng thuyết này. Lìa hiện thức kia thì không có trần cảnh, ngược lại xét sáu trần chỉ là nhất tâm, nên nói lìa tâm thì không, v.v...

C2. Giải thích nghi ngờ:

Có ba:-Hỏi.-Đáp.-Kết luận. "Nên biết" trở xuống. Nghĩa này thế nào?

Ý hỏi: Hiện có trần cảnh, sao lại nói là duy tâm? Vì tất cả pháp đều từ tâm khởi, vọng niệm mà sinh ra tất cả phân biệt, tức phân biệt tự tâm, tâm không thấy tâm, không có thể tướng nào khác thật có.

Đáp: Vì tất cả pháp đều từ tâm này theo huân tập mà khởi, lại không có thể nào khác, nên nói là duy tâm.

Nghi: Do đâu duy tâm này tạo ra các pháp?

Giải thích: Do vọng niệm huân nên sinh khởi các pháp, vì thế nói là do vọng niệm mà sinh.

Lại cũng có thể nghi ngờ: Pháp đã duy tâm, vì sao không thấy, mà chỗ tôi thấy chỉ là khác tâm?

Giải thích: Nói khác tâm là ông vọng niệm phân biệt tạo tác, nên nói vọng niệm sinh. Tức phân biệt tự tâm là cảnh hiện thức, không có pháp thật bên ngoài, cho nên phân biệt chỉ là phân biệt tự tâm, tức nói lên nghĩa không có trần, chỉ có thức.

"Tâm chẳng thấy tâm" là trần không tướng, thức không tự duyên, nên không có trần thì thức không sinh. Nhiếp Luận chép: "Không có chút pháp nhỏ hay chấp pháp nhỏ". Năng sở đều vắng lặng, gọi là không có tướng nào khác để được.

Bài kệ trong luận Trung Biên chép:

Vì nương vào Duy thức,

Nghĩa cảnh không thành được. Bởi vì không có trần

Thì bổn thức không sinh.

Trong đây phân biệt tự tâm tức nương Duy thức để dẹp bỏ trần, là đồng nửa bài kệ đầu của luận Trung Biên. "Tâm chẳng thấy tâm" là nương không trần để dẹp thức, là đồng nửa bài kệ sau của luận Trung Biên. Những thứ này là nói theo hạnh, là dẹp tánh y tha.

Luận Du Già nói: "Hỏi: Người tu quán hạnh lúc thấy biến kế sở chấp không có tướng, nên nói nhập các tánh nào?

Đáp: Nhập tánh viên thành thật.

Hỏi: Khi nhập tánh viên thành thật, sẽ nói dẹp những tánh nào?

Đáp: Dẹp tánh y tha khởi".

Do đây nên biết, Duy thức quán thánh tựu thì không có thức. Kinh Lăng-già cũng nói: "Chẳng có tâm lượng của tâm, ta nói là tâm lượng" là nghĩa này.

Nếu nương vào luận này mà vô minh xao động chân như thành duyên khởi sinh diệt, gió vô minh diệt, sóng thức liền dừng, chỉ là chân như bình đẳng.

Trong phần tổng kết có bốn:

- Tổng kết tướng thuộc tâm.

- "Cho nên" trở xuống, là nêu ví dụ để nói.

- Câu "Duy tâm" trở xuống, là giải thích nghi ngoài tâm.

- "Vì tâm sinh" trở xuống, ngược lại xét duy tâm, bày cảnh thành vọng.

Nên biết tất cả cảnh giới thế gian đều nương vào vọng tâm vô minh của chúng sinh mà được trụ trì.

- Trong phần tổng kết tướng thuộc tâm: Vô minh là vô minh căn bản, vọng tâm là nghiệp thức, v.v... Vì tất cả cảnh ở thế gian nương theo đây mà thành tức hiện thức... Nếu vô minh chưa hết về trước, thì thức này gìn giữ cảnh giới không dứt, nên nói là gìn giữ trụ trì, v.v... Cho nên tất cả pháp như hình bóng trong gương, không có thật thể, chỉ là tâm luống dối. Vì tâm sinh thì các pháp sinh, tâm diệt thì các pháp diệt.

- Trong phần Nêu ví dụ: "Không thật có tự thể" là nói cảnh giới này lìa tâm không thật có tự thể. Lại cũng tức là tâm, nên không có tự thể. Như ngoài gương không có ảnh, trong gương lại không có thể.

- Trong phần Giải thích nghi:

Nghi rằng: Kia đã không có thể, do đâu hiển hiện rõ ràng?

Giải thích: Đây đều là hiển bày luống dối trên chân tâm, chỗ nào có tự thể mà được ư!

- Trong phần ngược lại xét duy tâm:

Nghi: Do đâu biết được hiển hiện chân tâm?

Giải thích: Vì tâm sinh thì các thứ pháp sinh, cho nên biết. Ở đây vì có năng lực vô minh bất giác tâm động, cho đến hiện ra tất cả cảnh, v.v... Nói tâm sinh thì các thứ pháp sinh, đây là tâm theo huân động, nên nói là sinh. Nếu vô minh diệt thì cảnh giới diệt theo, các thứ phân biệt đều diệt không còn. Nói tâm diệt thì các pháp diệt, đây là nguồn tâm thanh tịnh trở lại, nên nói là diệt. Tâm đã theo bất giác vọng hiện các cảnh, tức xét các cảnh do tâm không có tự thể.

Hỏi: Ở trên nói sinh diệt kết luận lỗi thuộc về vô minh, văn này nói nhân duyên, tại sao kết luận thuộc về tâm?

Đáp: Trước do vô minh động tâm tĩnh kia, khiến kia sinh diệt, công sinh diệt này là do vô minh. Nay lý nhân duyên hoà hợp để nói thành các pháp, nói lên nghĩa vô tánh, rõ nghĩa bất trụ, đứng về mặt hòa hợp kết luận thuộc về tâm.

A3. Giải thích ý thức chuyển:

Có hai:

B1. Nêu.

B2. Giải thích.

B2. Giải thích. Có năm:

- Đứng về nhân để nói về thô.

- "Chấp ngã" trở xuống, xuất xứ mê lầm về thể.

- "Theo việc" trở xuống, là nói chỗ chấp nương vào duyên.

- "Tên là" trở xuống, là đặt tên kia.

- "Thức này" trở xuống, nói chỗ nương cho thức khởi.

Lại nữa, nói ý thức tức thức tương tục này nương vào phàm phu chấp trước càng sâu, chấp ngã, ngã sở, các thứ vọng chấp theo việc phan duyên, phân biệt sáu trần gọi là ý thức, cũng gọi thức phân ly, lại gọi là thức phân biệt sự, thức này nương nghĩa ái kiến, phiền não mà lớn lên.

Ban đầu nói "Thức tương tục này" là nói thức sinh khởi này thô tế tuy khác, đồng một thức lại không có tự thể riêng. Thức chỉ cho thức thứ năm ở trước, nhưng ở trước theo phân biệt pháp chấp tương ưng phần tế, môn nghĩa y chỉ nên nói là ý. Ở đây hay khởi ái kiến tương ưng hoặc thô, theo môn Sinh khởi ở trước nên gọi là ý thức. Nghĩa là thức của ý nên gọi là ý thức.

"Nương các phàm phu" là phân biệt chẳng phải ý thức của bậc thánh, vì trí thức ở trước và thức tương tục chung cho cả chỗ khởi Nhị thừa và Bồtát trước Sơ địa, nên nay đứng về mặt phàm phu trình bày cái thô ấy.

"Chấp trước càng sâu" là do không đối trị nên mê đắm vọng cảnh, chuyển hiện hoặc thô tột cùng nên nói sâu.

"Mê lầm thể" là chẳng phải ngay ngoài tâm chấp cảnh làm thô, cũng lại chấp ngã ở thân, chấp sở ở trần. Hoặc chấp tức uẩn, hoặc chấp lìa uẩn... các thứ vọng chấp. Đây là nói lên tướng chấp ngã.

"Duyên bị nương" là việc phan duyên điên đảo nơi cảnh, không rõ chánh lý nên nói là theo việc, v.v...

" Tên ý thức" là luận này theo nghĩa một ý thức, nên không nói riêng năm thức, chỉ nói ý thức phân biệt sáu trần.

"Cũng gọi là thức phân ly" là nương sáu căn chấp riêng sáu trần, nên nói phân ly.

Lại phân biệt các thứ sự tướng đến đi trong ngoài, nên nói là thức phân biệt sự.

Sau đây nói về chỗ nương của thức khởi. Kiến nghĩa là kiến nhất xứ trụ địa, tức kiến đạo hoặc. Ái nghĩa là ba ái, dục, sắc; Hữu tức tu đạo hoặc. Do đây, cả hai hoặc kiến đạo và tu đạo huân vào bổn thức khiến khắp sinh ra sinh thức phân biệt sự, nên nói là thêm lớn.

Trong phần sáu thô ở trên chấp thủ, kế danh và khởi nghiệp tướng đều theo nhau vào trong ý thức này, và trong sáu nhiễm sau, chấp tương ưng nhiễm cũng xếp vào đây.

Từ trên đến đây là nói rộng nghĩa nhân duyên sinh diệt đã xong.

QUYỂN HẠ (Phần Đầu)

Tiết 3. Trình bày lại chỗ Thể tướng nhân duyên nương vào:

Từ đây trở xuống.

A1. Nói tóm lược về duyên khởi sâu xa.

A2. Trình bày đầy đủ nghĩa khác nhau của duyên khởi từ "Nghĩa là tâm tánh" trở xuống, A1. Nói về duyên khởi sâu xa. Có hai:

B1. Khen ngợi chỗ sâu xa.

B2. Giải thích lý do sâu xa từ "Vì sao" trở xuống.

Thức nương vô minh huân tập mà khởi. "Thức nương vô minh huân tập khởi" là lặp lại điều đã nói. Nương vô minh căn bản khởi tâm tĩnh kia thành các nghiệp thức, v.v...

B1. Khen ngợi chỗ sâu xa:

Trong đây có:

- Không phải phần của phàm phu, Tiểu thừa.

- Bồ-tát biết một phần.

- Chỉ Phật mới biết tột cùng.

Phàm phu chẳng thể biết được, trí tuệ nhị thừa giác ngộ cũng chẳng biết được.

Vì người nhị thừa chỉ giác bốn trụ, chẳng rõ vô minh, thức do vô minh khởi này chẳng phải cảnh của họ.

Nghĩa là Bồ-tát từ Sơ chánh tín phát tâm quán sát, nếu chứng Pháp thân chỉ biết được chút phần, cho đến Bồ-tát ở địa vị rốt ráo cũng không thể biết hết được, chỉ có Phật mới biết tột cùng.

"Bồ-tát từ Sơ chánh tín, v.v...", bắt đầu là Thập tín lúc mới phát tâm tức quán thể tự tánh, duyên khởi nhân quả của bổn thức, thành tựu chánh tín. Nên trong Nhiếp Luận đứng về mặt bổn thức nói: "Bồ-tát sơ khởi trước hết nên quán các pháp nhân duyên như thật" chính là nghĩa này. Trong địa vị Tam hiền ý nói tỷ quán, nên nói quán sát. Từ Sơ địa trở lên chứng chưa tột cùng, nên nói chút phần. Vì họ chỉ giác được tướng Trụ, không giác được tướng Sinh. Như Lai rõ cả bốn tướng nên được tột nguồn.

B2. Giải thích nguyên do sâu xa: "Vì sao, v.v..." trở xuống, Vì sao?

Trước ý trách rằng: Chuỗi duyên khởi diệu lý thông suốt cả phàm và thánh. Vì sao nói thấy chỉ ở quả?

Đáp: Có ba:

- Ngay nơi tịnh mà thường nhiễm.

- "Tuy có tâm nhiễm, v.v..." trở xuống: ngay nơi nhiễm mà thường tịnh.

- "Vì thế" trở xuống, là tổng kết thành khó lường, cho nên chỉ có Phật biết.

Trong ba câu trước:

Tâm này từ xưa đến nay tự tánh thanh tịnh mà có vô minh, vì vô minh nhiễm nên có tâm nhiễm kia.

- Ban đầu là thể duyên khởi tức nhân.

- Kế đến là xuất xứ lý do duyên khởi tức duyên.

- Sau cùng là trình bày tướng duyên khởi, ngay nơi chẳng nhiễm mà nhiễm.

Tuy có tâm nhiễm mà thường hằng bất biến, cho nên nghĩa này chỉ có Phật mới biết được.

"Tuy có" trở xuống, là giải thích nghĩa duyên khởi sâu xa, tức nhiễm mà chẳng nhiễm. Kinh Thắng-man chép: "Tâm tự tánh thanh tịnh khó thể rõ biết. Tâm kia bị phiền não nhiễm cũng khó rõ biết, cho đến kết luận rằng, chỉ có Phật mới rõ biết". Trong kinh Lăng-già cũng đồng thuyết này. Nên kinh ấy chép: "Như Lai tạng là tướng thanh tịnh, khách trần phiền não cấu nhiễm chẳng thanh tịnh", cho đến nói rộng. Sau đây kết luận rằng: "Nay ta cùng ông và các Bồ-tát mà có trí sâu xa, có thể phân biệt rõ ràng".

A2. Trình bày rộng về tướng duyên khởi khác nhau: "Nghĩa là, v.v..." trở xuống Có hai:

B1. Trình bày thể tướng duyên khởi ở trước.

B2. Khoa này phân biệt trở lại. "Chẳng rõ nghĩa một pháp" trở xuống, B1. Trình bày thể tướng duyên khởi:

Có ba:

C1. Giải thích nghĩa bất biến ở trên:

"Nghĩa là tâm tánh, v.v...",

Nghĩa là tâm tánh thường vô niệm gọi là bất biến.

Tuy toàn thể động mà xưa nay tịnh, nên nói thường vô niệm, trình bày thể của duyên khởi nhân ở trên.

C2. Trình bày lý do vô minh duyên khởi ở trên:

"Vì chẳng thông đạt, v.v..." trở xuống,

Vì chẳng thông đạt nhất pháp giới nên tâm chẳng tương ưng, bổng nhiên niệm khởi gọi là Vô minh.

Cũng giải thích lý do vô minh phát khởi ở trên. Vì chẳng rõ nghĩa chân như bình đẳng bậc nhất, tâm bất tương ưng bỗng nhiên động niệm gọi là vô minh, đây là nói vô minh căn bản rất sâu kín, chưa có năng sở, tâm vương, tâm sở khác nhau, tức tâm mê lầm nên nói bất tương ưng, chẳng đồng tâm vương, tâm sở tương ưng. Vì vô minh này là nguồn gốc của pháp nhiễm rất sâu kín tột cùng, lại không có pháp nhiễm nào khác để làm cội gốc, nên nói bổng nhiên khởi niệm. Như Kinh An Lạc Bổn Nghiệp nói: "Trước Tứ trụ địa không có pháp khởi, gọi là vô thỉ vô minh trụ địa, cho nên nói trước vô minh không có pháp riêng làm gốc tụ tập ban đầu, nên nói vô thỉ". Tức nghĩa của luận này là "bỗng nhiên", ở đây theo môn thô tế nương nhau nói là không trước, cũng nói là bổng nhiên. Chẳng phải đứng về thời gian để nói bỗng nhiên, vì khởi không có chỗ ban đầu.

C3. Trình bày tướng duyên khởi ở trên:

"Tâm nhiễm, v.v..." trở xuống là nghĩa, là câu có "tâm nhiễm". Có ba:-Nêu, hỏi, giải thích riêng.-Giải thích riêng:

Sáu nhiễm tức ý thức ở trên và năm ý. Nhưng ở trước nói nghĩa nương nhân duyên thứ lớp sinh khởi từ tế đến thô mà nói. Nay muốn nói đối trị thứ lớp và dứt trừ nên nói từ thô đến tế. Trong sáu thứ mỗi thứ có hai:-Chướng và Đối trị.

Tâm nhiễm có sáu thứ, sáu thứ là:

1. Chấp tương ưng nhiễm. "Chấp tương ưng nhiễm" là tướng chấp thủ và tướng kế danh tự trong sáu thô, cũng là ý thức ở trước, nghĩa ái kiến phiền não thêm lớn cũng là tướng chấp trước phân biệt thô trong bốn tướng trên. Nhưng cho tâm thô chấp bên ngoài tương ưng với cảnh làm nhiễm ô hạnh thanh tịnh kia, nên nói là nhiễm.

Theo người Nhị thừa giải thoát và địa vị Tín tương ưng xa lìa (phiền não). Nếu người nhị thừa đến địa vị vô học kiến, tu phiền não rốt ráo xa lìa. "Tín tương ưng" là bậc Thập giải trở lên, tín căn thành thục, không còn lui sụt, gọi là Tín tương ưng. Trong Địa Luận nói, trước Sơ địa gọi chung là Bồtát Tín hạnh địa. Trong luận của Vô Trước cũng đồng thuyết này. Bồ-tát này được nhân không kiến, tu phiền não không hiện hành, nên nói xa lìa. Chẳng phải đứng về mặt phiền não để lưu hoặc. Nhiếp luận nói: "Nếu không dứt tâm trên thì chẳng khác phàm phu. Nếu không lưu hạt giống thì chẳng khác Nhị thừa". Lại hai ý lưu hoặc là tự và tha. Ở đây là nói theo Chung giáo. Nếu theo Thỉ giáo thì từ Sơ địa trở lên mới nói lưu hoặc, như các luận nói. Nay Bồ-tát này chẳng dứt thẳng bốn trụ nhân chấp, chỉ phần đoạn vô minh trụ địa. Luận này văn sau nói: "Chẳng rõ nghĩa nhất pháp giới, từ địa vị Tín tương ưng, quán sát học đoạn". Nay chỉ trình bày chấp nhân ngã thô chẳng phải luận ấy.

2. Chẳng dứt tương ưng nhiễm, nương Tín tương ưng địa phương tiện tu học dần dần xả, được Tịnh tâm địa mới rốt ráo xa lìa. "Chẳng dứt tương ưng", trong năm ý gọi là thức tương tục, trong sáu thô gọi là tướng tương tục. Nhưng pháp chấp tương tục sinh khởi chẳng dứt, chẳng dứt gọi là tương tục. Từ Thập giải trở lên tu Duy thức quán, phương tiện tầm tư, cho đến Sơ địa chứng ba vô tánh, trùm khắp chân như, pháp chấp phân biệt không được hiện hành, nên nói là tịnh tâm địa rốt ráo xa lìa.

3. Phân biệt trí tương ưng nhiễm, là nương cụ giới địa dần dần lìa, cho đến vô tướng phương tiện địa rốt ráo lìa. "Trí phân biệt tương ưng", là trí thức trong năm ý, là trí tướng trong sáu thô. Vì phân biệt các pháp nhiễm tịnh thế gian và xuất thế gian, nên nói là trí. Là pháp chấp tu hoặc từ Thất địa trở xuống, có quán ra vào khác nhau, nên đối với cảnh giới có phân biệt sâu kín. Nhưng, mỗi địa trừ từng phần, nên nói dần dần lìa. Từ Bát địa trở lên không quán duyên cảnh bên ngoài, cho nên bậc Thất địa dứt sạch hết hoặc này, nên nói Vô tướng phương tiện địa rốt ráo lìa. Vì Nhị địa ba nhóm giới đầy đủ, nên nói Cụ giới địa. Vì Thất địa đối với quán vô tướng có công dụng gia hạnh phương tiện, nên nói Vô tướng phương tiện địa. Từ Bát địa trở lên đối với vô tướng không có công dụng phương tiện.

4. Hiện sắc bất tương ưng nhiễm, nương sắc tự tại địa có thể xa lìa. "Hiện sắc bất tương ưng nhiễm", trong năm ý thì trên là hiện thức, trong ba đời thì trên là tướng cảnh giới. Giống như gương sáng hiện sắc tượng, v.v... Ở đây nương vô minh căn bản động khiến hiện cảnh. Vì trong Bát địa được ba thứ tự tại ở thế gian, sắc tánh theo tâm không có ngăn ngại, nên nói sắc tự tại địa năng xa lìa. Vì địa sắc không tự tại hiện thức chẳng mất, trong địa vị này dẹp tướng kia.

5. Năng kiến tâm bất tương ưng nhiễm, nương tâm tự tại địa năng xa lìa. "Tâm năng kiến", là chuyển thức trong năm ý, là tướng năng kiến trong ba tế. Vì vô minh căn bản động khiến năng thấy. Văn trên nói: "Nương tâm động thành năng thấy". Trong Cửu địa khéo biết mười thứ tâm hành rối rắm của chúng sinh, nên nói tâm tự tại. Ở tha tâm này được tự tại, lại dùng bốn mươi trí vô ngại mà mình được thì thức năng duyên sắc trần hữu ngại, thường không khởi được, nên nói tâm tự tại địa xa lìa được.

6. Căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm, Bồ-tát tận địa được vào Như Lai địa có khả năng xa lìa. "Nghiệp căn bản" là nghiệp thức trong năm ý, là nghiệp tướng trong ba tế. Vì năng lực vô minh bất giác tâm động. Bồ-tát địa tận, v.v... nghĩa là bậc Thập địa cuối cùng của định Kim cương dụ trong Vô cấu địa, tập khí sâu kín tâm niệm đều dứt hết. Văn trên nói: "Được thấy tâm tánh, tâm tức thường trụ" nên nói xa lìa được.

B2. Khoa này phân biệt trở lại:

Có ba:

C1. Nói về vô minh ở trên:

Đứng về mặt đối trị dứt để phân biệt.

C2. Giải thích nghĩa tương ưng, bất tương ưng ở trên.

C3. Nêu tâm nhiễm và vô minh ở trên.

Đứng về cảnh thành nghĩa hai ngại.

C1. Nói về vô minh ở trên:

Đứng về mặt đối trị dứt để phân biệt. Có:-Nêu và Giải thích.

Chẳng rõ nghĩa nhất pháp giới, từ địa vị Tín tương ưng quán sát học đoạn vào địa vị tịnh tâm tùy phần được lìa, cho đến Như Lai địa rốt ráo xa lìa được.

Giải thích:

Ban đầu "thô" là đến Sơ địa xa lìa. Sau "tế" đến Phật địa là tận cùng. Đây là vô minh trụ địa nhiễm tâm ở trên nương vào hay nhiễm chân như thành tâm nhiễm. Trên nói: "Phá thức hòa hợp là diệt vô minh, diệt tâm nối tiếp là dứt tâm nhiễm". Nay vô minh và tâm nhiễm tuy nói có trước sau, nhưng đối trị và diệt thì cùng một lúc.

Nói nghĩa tương ưng là tâm niệm pháp khác, nương nhiễm tịnh khác nhau mà biết tướng và duyên tướng đồng nhau.

C2. Giải thích nghĩa tương ưng và bất tương ưng:

Trong sáu nhiễm nói ba thứ trước là tâm tương ưng, tương ưng có hai cách giải thích:

1. Giải thích theo tâm vương, tâm sở, vì ba thứ này đều là tâm thô. Nói "Tâm niệm pháp khác" tâm là tâm vương, niệm pháp là tâm pháp. Tâm vương tâm sở khác nhau, nên nói là khác. Trong Luận, Ca-chiên-diên gọi là tâm và tâm sở niệm pháp. "Nương nhiễm tịnh khác nhau" là cảnh bị phân biệt. "Biết tướng và duyên đồng nhau" là như tâm vương biết nhiễm, tâm pháp cũng đồng. Tâm vương duyên tịnh, tâm pháp cũng đồng. Biết tướng tức năng tri đồng, duyên tướng tức sở duyên đồng.

2. Giải thích theo tâm cảnh tương ưng: Vì ba thứ này nương cảnh sinh nhiếp trong sáu tướng nương cảnh khởi ở trong văn trên. Văn sau cũng nói: "Cảnh giới diệt cho nên tâm tương ưng diệt". "Tâm niệm pháp khác": tâm là tâm năng duyên, pháp là pháp trần sở duyên, khác là tâm cảnh khác nhau, nương nhiễm tịnh nên đều là đồng, nghĩa là ở đối với cảnh nhiễm tạo cái hiểu nhiễm, ở cảnh tịnh tạo cái hiểu tịnh, nên nói là đồng.

Nghĩa bất tương ưng là tức tâm bất giác thường không riêng khác, chẳng đồng với tri tướng, duyên tướng.

Ba thứ nhiễm sau và vô minh đều gọi là bất tương ưng, cũng có hai cách giải thích:

1. Giải thích theo tâm vương, tâm sở: Nói "Tức tâm bất giác thường không riêng khác", ở đây trình bày vô minh căn bản làm động thể của tâm tĩnh, ngay tâm động này là tướng bất giác, lại không có tâm vương, tâm sở nào khác, nên nói "Tức tâm bất giác thường không khác nhau". Đây ngược lại tâm niệm pháp khác nhau ở trước.

"Chẳng đồng tri tướng, duyên tướng", đã không có tâm vương, tâm sở khác nhau làm sao có đồng tri đồng duyên. Ngược lại có thể thấy, như ở trước. Vì ba thứ này nương bất giác mà khởi, chẳng khác bất giác nên nói là "tức". Văn trên nói: "Nương vào bất giác nên sinh ba thứ tướng, chẳng lìa bất giác, là ngay tâm mà bất giác, nên nói chẳng lìa, chẳng phải là tương ưng mà chẳng lìa". Văn sau cũng nói: "Vô minh diệt nên tâm bất tương ưng diệt".

2. Cũng giải thích theo tâm cảnh: "Tức tâm bất giác" nghĩa là vô minh này tức tâm nhiễm mà không có thể khác, chẳng đứng về mặt tương ưng ngoại cảnh mới có bất giác này, chỉ ở trên bản tâm nên nói tức tâm.

"Chẳng đồng tri tướng" là chọn lựa tương ưng ở trước, tâm bất tương ưng này đã là thức A-lại-da, trong đó không phân ra nghĩa vương, sở và không tương ưng với nghĩa ngoại cảnh, đều có nghĩa giác, bất giác. Đều trái với các luận, hòa hợp như trong Biệt Ký nói.

C3. Nêu tâm nhiễm và vô minh ở trên:

Giải thích nghĩa hai ngại: Có hai:

D1. Nêu lập.

D2. Giải thích trở lại.

D1. Nêu lập:

Có:-Hoặc chướng, Trí chướng.

Lại, nghĩa tâm nhiễm gọi là phiền não ngại, chướng căn bản trí chân như.

Trước nói tâm nhiễm là có sáu tâm nhiễm, "Làm chướng căn bản trí chân như" là nói lên nghĩa ngại kia, nghĩa là trí như lý chiếu tuệ tịch diệu, gọi là trí căn bản, tức văn trên nói là tướng trí tịnh. Tâm nhiễm náo động trái với tịch tĩnh này, nên gọi tâm nhiễm là phiền não ngại, vì phiền não động, nay ở đây nương môn gốc ngọn này, lấy tâm nhiễm do vô minh khởi làm phiền não ngại. Vô minh làm khởi tâm nhiễm làm trí ngại. Chẳng đứng về mặt chấp nhân và pháp để nói về hai ngại.

Nghĩa vô minh gọi là trí ngại, làm chướng nghiệp trí tự nhiên ở thế gian.

Nói "vô minh" là vô minh căn bản. "Làm chướng nghiệp trí thế gian" là nói lên nghĩa ngăn ngại. Nghĩa là hậu đắc như lượng trí, tức nghiệp dụng không thể nghĩ bàn ở trên. Do vô minh mê mờ không phân biệt, trái với trí dụng này gọi là trí ngại, từ chỗ chướng mà có tên này.

Nghĩa này thế nào?

D2. Giải thích trở lại:

Trước hỏi: vô minh này đã là khuấy động tâm tĩnh kia thành tâm nhiễm, thì vô minh là tế, lẽ ra chướng lý trí, tâm nhiễm là thô nên chướng lượng trí mới phải chứ?

Vì nương tâm nhiễm năng kiến, năng hiện vọng chấp cảnh giới, trái với tánh bình đẳng.

Trong phần đáp, trước giải thích phiền não ngại:

"Vì nương tâm nhiễm nên năng kiến, năng hiện" là ba nhiễm tế ở sau.

"Vọng chấp cảnh giới" là nhiếp chung ba tâm nhiễm ở trước. "Vì nương cảnh khởi, trái tánh bình đẳng" là giải thích thành nghĩa ngại. Do tâm nhiễm này mà năng sở khác nhau, trái với trí căn bản, năng sở bình đẳng, do đó chướng lý trí.

Vì tất cả pháp thường tĩnh không có tướng khởi, vô minh bất giác vọng trái với pháp, không thể thuận theo các thứ hiểu biết tất cả cảnh giới ở thế gian.

Sau đây giải thích trong Trí ngại:

"Vì tất cả pháp thường tĩnh không có tướng khởi" là nêu pháp tánh bị vô minh mê mờ.

"Vô minh bất giác vọng trái với pháp" chính là nói lên vô minh trái với pháp tánh ở trước. Vì chẳng rõ tịch tĩnh như pháp vọng có khởi diệt, nên trái với pháp.

"Không thể được" cho đến "Các thứ hiểu biết" là do bên trong quên chân lý, ngoài thức thấy trần ở nơi cảnh như lượng, không thể thuận theo các thứ hiểu biết. Đây chính giải thích nghĩa chướng như lượng trí.

Từ trên đến đây là giải thích nhân duyên sinh diệt đã xong.

Chi III. Giải thích Tướng sinh diệt:

Từ đây trở xuống. Có ba:

A1. Nêu số khởi hỏi.

A2. Kể tên lược trình bày.

A3. Giải thích rộng tướng kia.

A1. Nêu số khởi hỏi:

Lại nữa, tướng phân biệt sinh diệt có hai thứ, hai thứ ấy là:

A2. Kể tên lược trình bày:

1. Thô tương ưng với tâm. "Thô tương ưng với tâm", là ba nhiễm trước trong sáu nhiễm, là tướng thô hiển của tâm tương ưng, trong kinh nói là tướng sinh diệt.

2. Tế bất tương ưng với tâm. "Tế bất tương ưng với tâm", tức ba nhiễm sau là tâm bất tương ưng.

Vì không có tướng tâm, tâm pháp thô hiển, thể kia sâu kín thường trôi chảy không dứt. Trong kinh nói là lưu chú sinh diệt. Ở đây nương kinh Lănggià bốn quyển, còn trong loại mười quyển nói: "Thức có hai thứ diệt: Một là tướng diệt, hai là tương tục diệt" Sinh trụ cũng giống như thế. Trong kinh đặt tên không hiển bày tướng riêng. Nên nay Luận Chủ đứng về mặt nghĩa tương ưng và bất tương ưng hiển bày hai thứ tướng sinh diệt của tâm thô tế.

A3. Giải thích:

Có hai:

B1. Theo nhân mà đối hiện.

B2. Nói về chỗ sở y của tướng.

B1. Theo nhân mà đối hiện, là đối ba địa vị của (người):

Lại thô trong thô là cảnh giới phàm phu.

Ba tâm nhiễm trước đều gọi là thô, trong đó ban đầu là chấp tương ưng nhiễm lại càng thô, nên nói thô trong thô. Địa vị Ba hiền gọi là nội phàm, hay giác nhiễm này nên nói cảnh giới phàm phu.

Tế trong thô và thô trong tế là cảnh giới Bồ-tát. Lại trong ba thô trước, hai thô sau là bất đoạn tương ưng nhiễm và phân biệt trí tương ưng nhiễm, là trong tâm thô có chút tế, nên nói tế trong thô. Thô trong tế là ba tâm nhiễm sau đều gọi là Tế. Trong đó, hai tế trước là năng kiến năng hiện, đồng là bất tương ưng gọi là Tế. So với nghiệp thức căn bản sau lại gọi là thô. Đây là cảnh trong địa vị Bồtát, bậc Thập trụ trở xuống biết được.

Tế trong tế là cảnh giới Phật.

Tế trong tế là căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm, năng sở chưa phân, hình tướng rất tế, chỉ Phật mới biết được.

B2. Nói về chỗ sở y của tướng: Từ đây trở xuống.

Có hai:

C1. Nói về chỗ duyên theo lối thuận.

C2. Nói về nghĩa diệt nghịch.

C1. Nói sinh duyên theo lối thuận:

Có hai:

D1. Nói về duyên chung.

D2. Trình bày nhân riêng.

D1. Nói về duyên chung:

Hai thứ sinh diệt này nương vô minh huân tập mà có. Nghĩa là nương nhân, nương duyên. Nương nhân là nghĩa bất giác, nương duyên là nghĩa vọng tạo cảnh giới. Hai thức thô tế đều nương vô minh trụ địa mà khởi, vì căn bản vô minh động khởi ba tế, nương ba tế này chuyển khởi tâm thô, do vô minh làm gốc chung, nên nói nương vô minh huân tập mà có.

D2. Trình bày nhân riêng:

Nương vô minh nhân sinh ba tế tâm bất tương ưng. Nương cảnh giới duyên sinh ba thô tâm tương ưng, nên nói nương nhân cho đến nghĩa vọng tạo cảnh giới. Trong đây văn ít, nếu nói đủ thì mỗi thứ có hai nhân. Như kinh Lănggià nói: "Này Đại Tuệ! Bát tư nghì huân và bất tư nghì biến là nhân hiện thức. Chấp các thứ trần và huân vọng tưởng từ vô thỉ là nhân của thức phân biệt sự".

Giải: "Bất tư nghì huân", nghĩa là vô minh có công năng huân chân như, chỗ không thể huân mà huân được, nên nói bất tư nghì huân.

Lại huân tức chẳng huân, chẳng huân mà huân, gọi là bất tư nghì huân. "Bất tư nghì biến", nghĩa là tâm chân như bị vô minh huân, không thể biến khác mà biến khác, nên nói bất tư nghì biến. Lại biến tức bất biến, bất biến mà biến, gọi là bất tư nghì biến. Trong Kinh Thắng-man nói: "Không nhiễm mà nhiễm, nhiễm mà không nhiễm" khó có thể rõ biết không thể nghĩ bàn này. Nhưng, huân biến này rất sâu kín, nên ẩn hiện thức bị khởi hành tướng rất sâu kín, trong đó cũng có chuyển thức nghiệp thức. Nêu thô gồm tế, nên chỉ gọi hiện thức tức là tâm bất tương ưng này. Chấp các thứ trần tức các thứ cảnh giới do hiện thức hiện, lại hay động biển tâm kia khởi các sóng sự thức.

"Huân vọng tưởng từ vô thỉ" tức trong biển tâm hòa hợp kia, vọng niệm tập khí từ vô thỉ đến nay huân tập chẳng dứt. Vì chưa từng lìa niệm, trần và niệm này huân động biển tâm các thứ thức sinh, do vọng niệm và trần thô nên hiển bày. Chỗ khởi phân biệt sự thức hình tướng thô hiển bày thành tâm tương ưng. Trong kinh muốn nói về hiện thức nương bất tư nghì huân nên được sinh, nương bất tư nghị biến nên được trụ. Sự thức nương cảnh giới mà được sinh, nương biển tâm mà được trụ. Nay trong luận này chỉ nói duyên sinh, nên chẳng nói nương nơi Trụ. Cho nên trong tế chỉ nói vô minh huân, trong thô chỉ nêu cảnh giới duyên.

C2. Nói về nghĩa diệt nghịch:

Có hai:

D1. Chính nói.

D2. Giải thích nghi.

D1. Chính nói. Có hai:

Nếu nhân diệt thì duyên diệt.

Nói về diệt chung: nghĩa là khi được đối trị thì vô minh diệt, do cảnh giới vô minh khởi hiện thức cũng theo đó diệt, nên nói nhân diệt thì duyên diệt. Nhân diệt nên tâm bất tương ưng diệt, duyên diệt nên tâm tương ưng diệt.

Trình bày riêng về diệt: Trước nói nhân diệt, vì tâm tế đích thân nương ngay nhân vô minh mà sinh, khi vô minh diệt cũng diệt theo. Sau nói duyên diệt, vì ba thô nhiễm đích thân nương ngay duyên sinh mà sinh, khi cảnh giới diệt cũng diệt theo.

Đây nương đạo lý trước sau khởi tận để nói hai thứ nghĩa sinh diệt, chẳng phải nói theo nghĩa sát na sinh diệt.

D2. Giải thích nghi: Có hỏi và đáp.

Hỏi: Nếu tâm diệt làm sao nối tiếp, nếu nối tiếp làm sao nói rốt ráo diệt?

Nói: "Nếu tâm diệt làm sao nối tiếp", hoặc "Nếu khi cảnh giới diệt thì tâm thể cũng diệt" là vô minh ba tế chưa hết. Tâm thể đã mất lại nương pháp gì mà được nối tiếp? Đây là tương ưng với tâm nghi.

"Nếu nối tiếp làm sao rốt ráo diệt", hoặc "Nếu vì tâm thể chẳng diệt khiến vô minh được nối tiếp" là tâm thể kia đã chẳng diệt, vô minh thì thường nối tiếp, làm sao đạo đối trị được rốt ráo diệt? Đây là bất tương ưng với tâm nghi.

Đáp: Sẽ đáp cả hai câu này, gồm có: Pháp, Dụ và Hợp. Trong phần pháp là nói chung, trong phần dụ, hợp là nói riêng.

Pháp: Đáp: Nói diệt là chỉ cho tâm tướng diệt, chẳng phải tâm thể diệt.

Nói "Chỉ tâm tướng diệt, chẳng phải tâm thể diệt", là khi cảnh giới diệt chỉ tướng tâm thô diệt, chẳng phải tự thể tâm diệt. Lại khi vô minh diệt chỉ tướng tế của tâm diệt, cũng chẳng phải tâm thể diệt. Đây là đáp chung hai câu hỏi, trong phần dụ trình bày riêng hai câu này.

Dụ: Như gió nương nước mà có tướng động, nếu nước diệt thì tướng gió dứt sẽ không có chỗ để nương, vì nước chẳng diệt tướng gió nối tiếp, nhưng gió diệt nên tướng động diệt theo, chẳng phải nước diệt.

Như gió nương nước mà động là dụ cho gió vô minh nương tâm thể nên có tướng động. Ở đây chỉ bày vô minh lìa tâm thể, chẳng thể tự hiện tướng động.

"Nếu nước diệt" cho đến "Không có chỗ nương" là chỉ bày khi cảnh giới diệt, khiến tâm thể cùng diệt, thì gió vô minh không có chỗ động, các nghiệp ba tế sẽ phải dứt mất.

"Vì nước không diệt tướng gió nối tiếp" là vì khi cảnh giới diệt nhưng tâm thể chẳng diệt. Vô minh ba đời được nối tiếp lâu dài. Bởi vô minh diệt nên cảnh giới diệt, chẳng phải do cảnh giới diệt nên vô minh diệt. Do đó nghĩa này khi cảnh giới diệt vô minh tâm động, ba đời nối tiếp. Đây đáp câu hỏi đầu về nghĩa tâm tương ưng diệt.

"Nhưng gió diệt" cho đến "Chẳng phải nước diệt" là khi vô minh tận tướng động các nghiệp cũng diệt theo, chẳng phải thể của tâm tịnh cũng diệt. Ở đây đáp câu hỏi sau về nghĩa tâm bất tương ưng diệt.

Hợp: Thứ lớp hợp hai thứ tâm trước.

Vô minh cũng giống như vậy, nương tâm thể mà động. Nếu tâm thể diệt thì chúng sinh dứt bặt không có chỗ nương, do tâm thể bất diệt được nối tiếp, chỉ có Si diệt thì tướng tâm diệt theo, chẳng phải tâm trí diệt.

"Chẳng phải tâm trí diệt" là văn trên đối với bất giác nên gọi là giác, vì một thức có hai nghĩa. Nay để đối trị Si nên gọi là trí thì nhất tâm có thể và tướng. Tướng Si bất giác chuyển diệt thành Thỉ giác, trí thể Bản giác chẳng diệt, cùng trở về nguồn chẳng hai chẳng khác.

Từ trên đến đây giải thích tướng nhân duyên sinh diệt nhiễm tịnh đã xong.

Tiểu phần II. Nói về nhiễm tịnh nương nhau: Từ đây trở xuống nói về nhiễm tịnh huân nhau sinh nhau chẳng dứt, tức hiển bày nghĩa sinh ra tất cả pháp trong phần chung ở trên:

Có bốn:

Chi I. Nêu số, nêu chung.

Chi II. Kể tên pháp nhiễm, tịnh.

Chi III. Giải thích rộng nghĩa nhiễm, tịnh huân tập.

Chi IV. Nói về nghĩa nhiễm, tịnh tâm không cùng tận.

Chi I. Nêu số, nêu chung:

Lại nữa, có bốn thứ nghĩa huân tập pháp nhiễm, pháp tịnh khởi chẳng dứt mất.

Vì pháp nhiễm tịnh nương nhau mà khởi chẳng dứt.

Chi II. Kể tên pháp nhiễm tịnh:

Bốn pháp ấy là:.

- Pháp tịnh gọi là chân như.

- Tất cả nhân nhiễm gọi là vô minh.

- Tâm vọng gọi là nghiệp thức.

- Cảnh giới vọng, gọi là sáu trần.

Pháp tịnh gọi là chân như đây là chân như trong môn Sinh diệt, vì có ba nghĩa nên nói là pháp tịnh: a-Đứng về mặt thể xưa nay tịnh.

b- Đứng về mặt thể tướng, do bên trong huân tập khiến ngược nhiễm thành tịnh ban đầu. Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: "Năng thành lập là pháp chân như có mười thứ công đức, sở thành lập là mười thứ chánh định mới sinh".

Đứng về mặt dụng huân tập nên ứng cơ thành duyên tịnh.

Nhân nhiễm gọi là vô minh: là sáu thứ nhiễm và chín tướng đều do vô minh mà có.

Tâm vọng thông sự thức và nghiệp thức nay y cứ vào cội gốc nên chỉ nói nghiệp thức.

Vọng cảnh là sáu trần là chỗ cảnh do sự thức duyên.

Ba loại sau này đều là pháp nhiễm, vì pháp nhiễm này tự tánh khác nhau, nhờ vào nhân duyên nên nói đủ ba thứ. Pháp tịnh đối với nhiễm tuy thành nghĩa huân, nhưng thể dụng kia không hề riêng khác, nên nói rõ một thứ.

Chi III. Giải thích rộng nghĩa nhiễm tịnh:

Có hai:

Tiết 1. Chung.

Tiết 2. Riêng.

Tiết 1. Chung:

Có hai:-Dụ.-Hợp.

Nghĩa huân tập: như y phục thế gian thật sự không có mùi thơm. Nếu người dùng hương xông ướp thì có mùi thơm, ở đây cũng như thế, pháp tịnh chân như thật không ô nhiễm, chỉ vì vô minh huân tập nên có tướng nhiễm, pháp nhiễm vô minh thật không có nghiệp tịnh, chỉ do chân như huân tập mà có dụng tịnh.

Hợp, có hai:

- Nghĩa là nhiễm huân tịnh: "Nói huân nên có tướng nhiễm" là hiển bày chân vô tướng theo huân tập mà hiện tướng. Lại nói pháp vọng không có tự thể, nên chỉ nói tướng. Lại ngay nơi tướng tự không có dụng ngược dòng, nên nói tướng chẳng nói dụng. Đây là nói theo dòng trong môn sinh diệt. Giải thích này trong kinh, Như Lai tạng bị tập khí xấu huân xông.

- "Có dụng tịnh" đây là Bản giác chân như trong môn Sinh diệt, nên có nghĩa huân. Trong môn chân như thì không có nghĩa này. Vì Bản giác này bên trong huân bất giác khiến thành nhàm chán và ưa cầu. Ngược dòng thuận chân nên nói Dụng. Giải thích này trong kinh, là do có Như Lai tạng nên chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn. Kinh Niếtbàn nói: "Hạng xiển-đề nhờ có năng lực Phật tánh, đời vị lai trở lại sinh gốc lành". Kia nói năng lực Phật tánh tức năng lực huân tập bên trong của Bản giác này". Bởi do một thức bao gồm hai nghĩa, lại huân biến lẫn nhau mà sinh nhiễm, tịnh. Trong đây Phật là giác, tánh là bổn, nên gọi Phật tánh là Bản giác.

Tiết 2. Giải thích Riêng: Từ đây trở xuống, v.v...

Có hai:

A1. Nhiễm.

A2. Tịnh.

A1. Nhiễm:

Có hai:

B1. Lược.

B2. Rộng.

B1. Lược:

Thế nào là huân tập khởi pháp nhiễm chẳng dứt.

Nói chung về huân tập có hai thứ: Tập huân là huân xông tâm thể thành nhiễm, tịnh. Tự huân là tâm cảnh hiện hành và các hoặc giúp nhau.

Nghĩa là vì nương pháp chân như nên có vô minh, vì có nhân pháp nhiễm vô minh tức huân tập chân như, vì huân tập nên có vọng tâm, có vọng tâm tức huân tập vô minh. Vì chẳng rõ pháp chân như nên bất giác niệm khởi, hiện cảnh giới vọng. Vì có duyên pháp nhiễm cảnh giới vọng tức huân tập vọng tâm, khiến niệm kia mê đắm gây ra các thứ nghiệp, chịu tất cả khổ của thân tâm.

Ban đầu nói "Nương chân như có vô minh" là nêu pháp năng huân và pháp thể sở huân. Lại cũng có thể trong đây chỉ nêu năng huân vô minh, nhưng nương chân là theo gốc mà nêu. "Vì có vô minh" cho đến "huân chân như" là nghĩa căn bản vô minh huân tập.

"Vì huân tập nên có vọng tâm" là nương vô minh huân động chân như có tâm nghiệp thức, vì vọng tâm này lại giúp huân vô minh làm thêm lớn cái không rõ, khiến chuyển thành chuyển thức và hiện thức, nên nói bất giác niệm khởi hiện cảnh giới vọng. Cảnh giới này trở lại huân động biển tâm khởi các sóng thức, duyên niệm cảnh kia tức khởi sự thức.

Trong sáu thô ở trên, hai thô đầu gọi là niệm; hai thô giữa gọi là mê đắm; hai thô sau tên cũng đồng như ở đây. Nghĩa là nương hoặc tạo nghiệp, nương nghiệp chịu quả báo khổ.

B2. Giải thích Rộng:

Từ đây trở xuống là nói ba thứ trước, từ sau hướng về trước thứ lớp nói:

Trước nói về Cảnh giới huân động vọng tâm:

Nghĩa cảnh giới vọng huân tập này có hai thứ, hai thứ đó là:

1. Thêm lớn niệm huân tập.-2. Thêm lớn chấp huân tập.

"Thêm lớn niệm" là do năng lực cảnh giới làm thêm lớn trí tướng, tương tục tướng trong sự thức là pháp chấp niệm phân biệt.

"Thêm lớn chấp" là thêm lớn chấp thủ tướng, kế danh tự tướng trong sự thức, là nhân, ngã, ái kiến phiền não.

Kế nói Nghĩa vọng tâm huân tập có hai thứ, thế nào là hai?

1. Nghiệp thức căn bản huân tập hay thọ sinh diệt khổ của tất cả Bồ-tát, A-la-hán, Bích-chi-phật.

2. Thêm lớn phân biệt sự thức huân tập, thọ khổ nghiệp hệ của phàm phu.

Trong phần Vọng tâm huân tập:

"Nghiệp thức căn bản huân tập": vì nghiệp thức này giúp huân xông trụ địa vô minh, mê mờ vô tướng, sinh khởi chuyển tướng, hiện tướng, v.v... nối tiếp, khiến người Ba thừa tuy ra khỏi ba cõi, xa lìa phần khổ đoạn thô của sự thức, mà vẫn chịu hành khổ biến dịch của A-lại-da. Nhưng khổ tế có từ vô thỉ đến nay. Chỉ vì chọn lựa tế khác tho, nói về mặt khi đã lìa khổ thô chỗ tướng hiển bày.

"Sự thức huân tập" là do sự thức lúc giúp huân khởi vô minh, khởi kiến ái, thô hoặc phát động nơi thân miệng, tạo các thứ nghiệp, chịu khổ phần đoạn của phàm phu.

Nghĩa vô minh huân tập có hai thứ, hai thứ đó là:

1. Căn bản huân tập, vì thành tựu nghĩa nghiệp thức.

2. Chỗ khởi kiến ái huân tập: vì thành tựu nghĩa thức phân biệt sự.

Trong phần vô minh huân tập:

"Căn bản huân tập" là căn bản bất giác huân động chân như thành các thức nghiệp, v.v... Nhưng nay chỉ nêu ban đầu nên nói nghiệp thức. "Chỗ khởi kiến ái huân tập" là bất giác chi mạt huân tập tâm thể thành thức phân biệt sự.

Văn trên nói: "Thức này nương nghĩa ái kiến phiền não thêm lớn, vì ngọn theo gốc sinh nên nói chỗ khởi". Trong kinh Thắng-man nói: "Vô minh trụ địa sinh khởi tất cả bốn trụ phiền não".

A2. Nói về Tịnh huân tập:

Có hai:

B1. Hỏi.

B2. Đáp.

B2.. Đáp:

Có hai:

C1. Lược.

C2. Rộng.

C1. Lược:

Có hai:

D1. Chính nói về huân tập.

D2. Nói về công năng kia. "Tự tin tánh mình" trở xuống,

Làm sao huân tập khởi pháp tịnh chẳng dứt? Vì có pháp chân như nên huân tập vô minh, nhờ năng lực nhân duyên huân tập sẽ khiến vọng tâm chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn. Vì vọng tâm này có nhân duyên nhàm chán và ưa cầu tức là huân tập chân như.

D1. Chính nói về nhân duyên huân tập:

Trước nói về chân như bên trong huân vô minh khiến thành nghiệp tịnh. Sau ngay dụng tịnh này ngược lại huân tập chân như, tăng thêm thế lực kia. Trước là huân cũ, sau là huân mới, y theo văn sẽ thấy.

D2. Nói về công năng nhân quả:

Chia làm hai:

E1. Nhân.

E2. Quả.

Tự tin tánh mình biết tâm vọng động không cảnh giới ở trước, tu pháp xa lìa. Do như thật biết không cảnh giới ở trước, nên các thứ phương tiện khởi hạnh thuận theo chẳng chấp, chẳng niệm, cho đến năng lực huân tập lâu xa.

E1. Nhân:

"Tự tin tánh mình" là tin ở địa vị Thập tín.

"Biết tâm vọng động" trở xuống, là tu ở địa vị Ba hiền. "Biết tâm vọng động không cảnh giới ở trước" là giải thích.

"Tu pháp xa lìa" là nương vào giải thành tựu hạnh. Nghĩa là quán tầm tư, v.v... Hạnh là chỉ có thức, không có các trần, v.v...

"Vì như thật biết không có cảnh" là bậc Sơ địa kiến đạo chứng lý duy thức. Vì khác tỷ quán ở trước, nên nói như thật biết.

"Các thứ" trở xuống, v.v... cho đến "Huân tập lâu xa" là nói trong địa vị Thập địa tu đạo, rộng tu muôn hạnh, khéo hiển bày chân như.

"Chẳng chấp" là sở thủ vô tướng. "Chẳng niệm" là năng niệm chẳng sinh. "Lâu xa" là ba atăng-kỳ huân xông.

E2. Quả: Từ đây trở xuống là nói rõ.

Có hai:

G1. Dứt hoặc.

G2. Chứng lý.

Vô minh sẽ diệt, vì vô minh diệt nên tâm không khởi, vì không khởi nên cảnh giới diệt theo. Do nhân duyên đều diệt nên tâm tướng đều hết, gọi là được Niết-bàn, thành tựu nghiệp tự nhiên.

G1. Dứt hoặc:

"Vô minh diệt" là vô minh căn bản dứt.

"Vì vô minh diệt, tâm không khởi" là vọng tâm dứt. "Vì không khởi cảnh giới diệt" là cảnh vọng diệt.

Tức ngược lại ba thứ pháp nhiễm ở trước.

G2. Chứng lý:

"Do nhân duyên" trở xuống cho đến "Nghiệp tự nhiên" là nói về đức chứng pháp.

Nhân: Nghĩa là vô minh. Duyên: Nghĩa là vọng cảnh.

Tâm tướng: Nghĩa là tâm nhiễm.

Đây đều dứt nên tâm thể chuyển y gọi là được Niết-bàn. Khởi nghiệp dụng không thể nghĩ bàn gọi là nghiệp tự nhiên.

C2. Rộng. Từ đây trở xuống:

Có hai:

D1. Nói về vọng tâm huân tập.

D2. Nói về chân như huân tập.

D1. Vọng tâm huân tập là nêu và giải thích:

Nêu: Nghĩa vọng tâm huân tập có hai thứ, hai thứ ấy là:

1. Thức phân biệt sự huân tập: nương theo phàm phu, nhị thừa chán khổ sinh tử, tùy theo năng lực mà dần dần thú hướng về đạo Vô thượng.

Giải thích:

"Thức phân biệt sự" là ý thức ở trên, vì thức này không biết các trần chỉ là thức, chấp ngoài tâm có cảnh giới thật. Phàm phu, Nhị thừa tuy có phát tâm thú hướng giải thoát, vẫn còn chấp có sinh tử để chán, có Niết-bàn để ưa, không rõ lý duy tâm. Nhưng nhờ năng lực tác ý này lâu sau được trở lại Bồ-đề, nên nói thức phân biệt sự huân tập, cho đến dần dần hướng về đạo vô thượng.

2. Ý huân tập: Nghĩa là các Bồ-tát phát tâm mạnh mẽ, mau chứng Niết-bàn.

"Ý huân tập" nếu nói về mặt gốc thì, gọi là nghiệp thức. Nói chung tức năm thứ ý trước. Vì các Bồ-tát biết tất cả pháp chỉ là thức lượng, xả bỏ ngoài chấp thức phân biệt sự kia. Đã rõ duy tâm hướng lý mau chóng, khác với tiệm ngộ ở trước, cho nên nói, chóng hướng về Niết-bàn.

Hỏi: Trong đây vọng tâm đã huân tập chân như khởi hạnh ngược dòng, ý huân đã thuộc A-lại-da, vì sao mỗi hạng có thể tự phát tâm tu hành?

Đáp: Trước nói phàm phu, Nhị thừa không biết A-lại-da, chỉ nương thức phân biệt sự giúp sức giữ gìn mà phát tâm tu hành. Do không đạt được cội gốc hướng về đại Bồ-đề, vả lại còn xa nên nói chậm. Bồ-tát này đã rõ A-lại-da bổn thức, tức nương thức này giúp sức giữ gìn mới được phát tâm tu hành. Vì rõ được gốc hướng về đại Bồ-đề, thân mà lại gần nên nói là mau. Đây đứng về chỗ giúp nương nhau mà nói về huân tập.

"Chẳng phải mỗi mỗi tự phát tâm" đây như trong văn sau trong phần chứng phát tâm nói.

D2. Chân như huân tập:

Có ba:

E1. Nêu số.

E2. Kể tên, là bên trong huân, bên ngoài duyên.

E3. Nói về tướng.

Có hai:

G1. Giải thích riêng.

G2. Nói chung.

G1. Giải thích riêng:

Có hai:

H1. Thể tướng.

H2. Dụng đại.

H1. Thể tướng:

Có hai:

I1. Chính hiển bày.

I2. Dứt nghi ngờ.

I 1. Chính hiển bày: Trước nói về huân tập: Nghĩa chân như huân tập, có hai thứ, hai thứ ấy là: 1. Tự thể tướng huân tập.-2. Dụng huân tập.

Tự thể tướng huân tập là từ vô thỉ đến nay có đủ pháp vô lậu, có đủ không thể nghĩ bàn nghiệp, tạo tánh cảnh giới, nương hai nghĩa này thường được huân tập. Do có năng lực nên khiến cho chúng sinh chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn, tự tin thân mình có pháp chân như phát tâm tu hành.

Nói "Từ vô thỉ" đền "không thể nghĩ bàn" là Bản giác bất không, gọi là pháp vô lậu. Pháp này thầm huân chúng sinh, chúng sinh chẳng thể rõ, nên nói không thể nghĩ bàn. Trong đây nghiệp là tác dụng ngầm huân xông.

"Tạo tánh cảnh giới" là nói chẳng phải trực tiếp huân vọng tâm kia, khiến chúng sinh chán cầu thành trí năng quán, cũng chính là cùng trí quán tạo cảnh giới sở quán.

"Do hai pháp này" trở xuống, là trình bày công năng huân tập, nghĩa là hai pháp tâm cảnh này cũng có thể là hai pháp thể tướng này, thầm huân xông chúng sinh có năng lực khiến khởi hạnh chán cầu.

"Tự tin..." là nói nương huân tập khởi tướng tu hành.

I 2. Dứt nghi:

Có hai: Hỏi-Đáp.

Hỏi: Nếu nghĩa như thế, tất cả chúng sinh đều có chân như, đều có huân tập. Vì sao vô lượng sai biệt như có tin, không tin, trước sau đều nêu, một lúc tự biết có pháp chân như, siêng tu phương tiện nhập Niết-bàn?

- Đứng về mặt hiện tại tin tâm có không.

- Đứng về mặt vị lai tin tâm, trước sau bên trong huân xông đã như nhau, đâu được như thế?

"Đều nêu một lúc" trở xuống: là tổng kết thành câu hỏi, đây là chấp nghi riêng, hỏi chung.

Đáp. Có hai:

Đáp: Chân như vốn một mà có vô lượng vô biên vô minh. Từ xưa đến nay tự tánh khác nhau, dày mỏng khác nhau, trải qua hằng sa các phiền não ở trên, nương vô minh khởi sai biệt. Ngã kiến, ái kiến, phiền não nương vào vô minh mà khởi ra tất cả phiền não sai biệt. Nương vô minh mà khởi như thế trước sau vô lượng sai biệt, chỉ có Như Lai mới biết được.

Một câu đầu chung cho thể, nói rõ bên trong huân chẳng phải không. Văn này có hai:

- Đứng về mặt nhiễm hoặc, đối duyên khởi có dày mỏng.

- Đứng về mặt pháp tịnh, nhờ duyên trước sau có khác nhau.

Trong phần trước nói: "Có vô lượng" cho đến "Chẳng đồng" là căn bản vô minh trụ địa, xưa nay tự tánh khác nhau theo người mà nghiệp có dày mỏng. Dày thì chẳng tin, mỏng thì có tin. Trước sau cũng như thế, chẳng phải bên trong huân khiến như vậy.

"Trải qua hằng sa các phiền não trên, nương vô minh mà khởi khác nhau", là theo mê vô minh khởi các pháp môn do đối với sự không biết. Trong sở tri chướng là thuộc về phần thô.

"Ngã kiến ái nhiễm phiền não" là tướng trụ vô minh khởi phiền não, thuộc về phiền não chướng.

"Như thế" trở xuống là kết luận hai thứ phiền não ở trước, đều nương căn bản vô minh mà khởi. Do nghĩa này trước sau chẳng phải một, như thế tánh mê lầm khác nhau vô lượng trước sau khó biết. Cho nên chỉ Phật mới rõ được.

Sau đây nói về Pháp tịnh, theo duyên nên có trước sau.

Lại, pháp chư Phật có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ mới được thành tựu.

Nếu chỉ có nội nhân không nhờ duyên ngoại thì thật đáng trách. Nhưng, nay nhờ dụng huân bên ngoài và chánh nhân bên trong mới được thành tựu, cho đến trước sau không thể cùng lúc. Vì thế trên khai mở hai thứ huân tập, chẳng nói là một.

Trong đây có: Pháp, Dụ và Hợp.

Pháp: Chỉ nói rõ nhân duyên đầy đủ mà thành tựu "Được", lược đều đầy đủ về "Mất".

Dụ: Nghiêng về một bên nói chẳng đầy đủ "mất", lược không đầy đủ duyên "được".

Trong phần Hợp nói cả hai nghĩa pháp, dụ, rất dễ hiểu.

Như tánh lửa trong cây, lửa là chánh nhân. Nếu không ai biết, chẳng nhờ cách thức mà lửa ấy tự đốt cây, thì không việc đó. Chúng sinh cũng giống như vậy, tuy có năng lực chánh nhân huân tập, nhưng nếu không gặp chư Phật, Bồ-tát, thiện tri thức để làm duyên, mà tự dứt phiền não, nhập Niếtbàn thì không có việc đó. Nếu có năng lực ngoại duyên mà bên trong pháp tịnh không có sức huân tập, cũng không thể rốt ráo chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn.

Hợp: Là hợp chúng sinh và cây, chánh nhân hợp với tánh lửa, nếu không gặp chư Phật, Bồ-tát là hợp không có ai biết.

"Hay tự dứt" trở xuống là hợp với tự đốt, không có việc đó. Đây là nói lên thiếu duyên nên mất. "Nếu tuy có" trở xuống là nói thiếu nhân thì chẳng thành là dòng vô minh dày nặng. Tuy Bản giác huân bên trong nhưng chưa có năng lực, nên tuy gặp năng lực ngoại duyên của bạn lành cũng không thể giúp cho được đạo, đây là nói về nhân duyên thiếu qua lại lẫn nhau nên mất.

"Nếu nhân duyên đầy đủ" trở xuống là nói tánh dụng tương ưng nên được, có hai:

- Nói duyên đầy đủ.

- "Hay khởi" trở xuống, v.v... là nói lợi ích huân tập.

Nếu nhân duyên đầy đủ, là tự có năng lực huân tập, lại được chư Phật, Bồ-tát từ bi nguyện giúp.

Trong phần lợi ích, có hai:

- Trước nói về tự phần.

- "Vì tu gốc lành" trở xuống, là nói tinh tấn thù thắng.

Khởi tâm chán khổ, tin có Niết-bàn, tu tập gốc lành. Vì tu gốc lành thuần thục, nên gặp chư Phật, Bồ-tát chỉ dạy lợi ích vui mừng mới có thể hướng về con đường Niết-bàn.

Chỉ cho nghĩa dạy khiến thực hành, được nghĩa lợi ích thực hành thành vui mừng.

H2. Dụng đại: Theo dụng huân tập. Có hai:

I 1. Nêu chung về sự.

I 2. Theo duyên hiển bày riêng. "Duyên ngoại như thế" v.v... trở xuống,

I 2. Theo duyên trình bày riêng:

Có ba:-Nêu, kể, giải thích.

Dụng huân tập tức là năng lực của duyên bên ngoài của chúng sinh, như thế duyên bên ngoài có vô lượng nghĩa. Lược nói hai thứ, hai thứ là:

1. Duyên khác nhau. 2. Duyên bình đẳng.

Nêu: Nói "Duyên khác nhau" là ở phàm phu, Tiểu thừa huân tập sự thức mà tạo duyên. Nghĩa là hiện thân khác nhau nên nói như vậy, cũng có thể khác nhau làm duyên với căn cơ bậc Hàng Tam hiền trở lên cho đến chư Phật hay tạo duyên này.

"Duyên bình đẳng" là chư Phật nghiệp thức huân tập mà tạo duyên, chỉ hiện thân Phật bình đẳng không hai nên nói như vậy. Cũng có thể làm duyên với căn cơ tâm bình đẳng bậc Sơ địa trở lên cho đến chư Phật phải nương trí lực đồng thể tạo ra duyên này.

Giải thích: Có hai:

K1. Duyên khác nhau.

K2. Duyên bình đẳng.

K1. Duyên khác nhau:

Có hai:

L1. Chung.

L2. Riêng.

L1. Chung:

Có hai:

M1. Nói về nhân cảm dụng.

M2. Nói về tướng dụng. "Hoặc làm quyến thuộc v.v..." trở xuống, M1. Nhân cảm dụng:

Duyên khác nhau là người này nương chư Phật, Bồ-tát từ lúc mới phát tâm cầu đạo, cho đến được địa vị Phật, trong đó hoặc thấy, hoặc nhớ nghĩ.

"Người này", là người có căn cơ muốn cầu đạo.

"chư Phật, Bồ-tát" là xuất phát thể của duyên bên ngoài.

"Từ mới phát tâm, v.v..." trở xuống là nói lúc có thể chiêu cảm căn cơ được duyên mà tu hành.

"Hoặc thấy hoặc nhớ nghĩ" là nói tâm hành giả cảm được dụng khí, nghĩa là thấy thân kia, nhớ nghĩ đến công đức kia.

M2. Tướng dụng:

Có hai:

- Nói về dụng khác nhau.

Nói lợi ích của dụng, "do khởi đại bình đẳng" v.v... trở xuống,

Hoặc làm những người thân quyến thuộc như cha mẹ, hoặc làm tôi tớ, hoặc làm bạn lành, hoặc làm kẻ thù, hoặc khởi bốn thứ nhiếp.

Nói về dụng khác nhau: Có hai:

- Năm câu đầu khai chung thành riêng.

- Nhiếp riêng thành chung, "cho đến", v.v... trở xuống, Năm câu đầu khai chung thành riêng.

- Từ ái để nhiếp chúng sinh.

- Ở chỗ thấp hèn để dẫn dắt chúng sinh.

- Đồng loại để khuyến phát.

- Sợ hãi để vào đạo.

- Dùng ngay bốn pháp nhiếp khiến tu lợi ích. Y theo văn rất dễ hiểu.

Cho đến tất cả chỗ tạo tác vô lượng hạnh duyên, do khởi năng lực đại bình đẳng huân tập, khiến cho chúng sinh gốc lành thêm lớn, hoặc thấy hoặc nghe được lợi ích.

L2. Khai mở riêng:

Có hai:

- Đứng về mặt căn cơ thuần thục, chẳng thuần thục mà mở ra hai duyên gần xa.

- Đứng về mặt gần xa ở trước, lại mỗi việc chia ra làm hai, mỗi thứ có nêu và giải thích.

Duyên này có hai thứ, hai thứ ấy là:

1. Duyên gần mau được độ. 2. Duyên lâu xa mới được độ.

Cho nên, phân biệt hai duyên gần xa. Lại có hai thứ, hai thứ ấy là:

1. Duyên tăng trưởng hạnh. 2. Duyên thọ đạo.

"Tăng trưởng hạnh", là hạnh phương tiện tức tự phần.

"Thọ đạo" là nương phương tiện trước, tương ưng chánh quán, tức thắng tấn. Cũng có thể ban đầu là thuộc về bốn pháp hạnh lợi tha, sau là hạnh tự lợi ba không.

K2. Duyên bình đẳng:-Nói về năng tạo duyên. Duyên bình đẳng là tất cả chư Phật, Bồ-tát đều nguyện độ thoát tất cả chúng sinh, tự nhiên huân tập thường hằng không xa. Do đồng thể trí lực, tùy ứng thấy nghe mà tạo nghiệp.

Trong đó "nguyện độ sinh" là tâm bình đẳng. "Tự nhiên" là thường dụng xứng với căn cơ.

"Do đồng thể trí lực" là giải thích thành thường dụng. "Tùy ứng" là nói lên tướng dụng kia.

Nói rõ đối cơ, là nói lên nghĩa bình đẳng.

Nghĩa là chúng sinh nương vào Tam-muội mà được bình đẳng thấy chư Phật.

Nghĩa là các Bồ-tát hàng Thập Trụ trở đi, nương vào năng lực Tam-muội, tất cả thấy chư Phật thân lượng bình đẳng, không có tướng giới hạn kia đây, nên nói thấy bình đẳng.

Từ trên đến đây nói riêng về thể dụng đã xong.

G2. Đứng về người hợp mà giải thích thể dụng: Từ đây trở xuống, có hai:-Nêu và giải thích.

Thể dụng này huân tập phân biệt. Lại có hai thứ, hai thứ ấy là:

1. Chưa tương ưng là người phàm phu, Nhị thừa, Bồ-tát sơ phát tâm, v.v... Do ý, ý thức huân tập nương vào sức tin có thể tu hành.

Giải thích: Nói về chưa tương ưng. Có ba:

- Đứng về địa vị mà nêu người.

- Nói về hạnh thấp kém.

- Nói về chưa tương ưng.

Trong hạnh ý thức phàm phu, Tiểu thừa huân tập, Bồ-tát dùng năm ý huân tập, đều chưa khế hợp với chân như, nên nói nương Tín tu hành.

Chưa được tâm vô phân biệt tương ưng với thể, cho nên chưa được nghiệp tự tại tu hành tương ưng với dụng.

Chưa tương ưng có hai:

- "Chưa được tâm vô phân biệt tương ưng với thể" là nói không có thể trí chân chánh, nên chưa tương ưng với thể Pháp thân.

- Sau do không chứng trí hậu đắc chân thật, nên chưa dụng ứng tương ưng với hoá thân.

2. Đã tương ưng, nghĩa là Bồ-tát Pháp thân được tâm vô phân biệt tương ưng với tự thể chư Phật, được nghiệp tự tại trí dụng tương ưng với của chư Phật. Chỉ nương pháp lực tự nhiên tu hành huân tập chân như, diệt trừ vô minh.

Đã tương ưng, cũng có ba:

- Nói lên địa vị người là Bồ-tát Địa thượng.

- Nói tương ưng được tâm vô phân biệt, nghĩa là như lý trí mà tương ưng với thể, tương ưng với trí dụng của chư Phật là do có trí như lượng nên được như thế.

- Nói về hạnh thù thắng kia, từ Sơ địa trở lên chứng pháp chân như mà tu hành, chẳng phải như địa vị trước, chỉ có tín lực nên nói "nương pháp lực".

"Tự nhiên tu hành" là từ Bát địa trở lên tu hạnh vô công dụng. "Huân chân như diệt vọng" là nói lên hạnh đã thành.

Phần biện rõ ràng pháp huân đã xong: từ trên đến đây riêng nói rõ, kế là giải thích. Trong phần nói chung nghĩa nhiễm, tịnh huân tập đến đây đã xong.

Chi IV. Nói về nghĩa tận và bất tận:

Từ đây trở xuống: Có hai:

A1. Nói pháp nhiễm trái chân, không thỉ mà có chung.

A2. Nói về pháp tịnh thuận lý, có thỉ mà không chung.

A1. Nói về pháp nhiễm trái chân, không thỉ mà có chung:

Lại nữa, pháp nhiễm từ vô thỉ đến nay huân tập chẳng dứt, cho đến được thành Phật rồi sẽ có dứt.

A2. Nói về pháp tịnh thuận lý, có thỉ mà không chung:

Có hai:

B1. Chính thức hiển bày.

B2. Giải thích thành.

B1. Chính thức hiển bày:

Pháp tịnh huân tập thì không dứt hết ở đời vị lai, nghĩa này thế nào? Vì pháp chân như thường huân tập, nên vọng tâm diệt, Pháp thân hiển hiện khởi dụng huân tập nên không dứt.

B2. Giải thích thành:

Vì huân chân diệt vọng nên dụng tịnh vô tận, y theo văn rất dễ hiểu.

Từ trên đến đây giải thích pháp nghĩa năng hiển trong môn Sinh diệt đã xong.

Tiểu đoạn II. Giải thích Nghĩa đại sở hiển trong môn Sinh diệt:

Từ đây trở xuống. Có hai:

A1. Giải thích hai thứ đại là thể và tướng.

A2. Giải thích riêng dụng đại.

A1. Giải thích hai đại là thể và tướng:

Có hai:

B1. Nêu chung tên hai đại.

B2. Giải thích riêng nghĩa hai đại.

B2. Giải thích riêng nghĩa hai đại:

Có hai:

C1. Nói về nghĩa Thể đại.

C2. Giải thích nghĩa Tướng đại

C1. Nói về nghĩa Thể đại:

Lại nữa, chân như tự thể tướng là tất cả phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, chư Phật không thêm bớt, chẳng phải mé trước sinh, chẳng phải mé sau diệt, rốt ráo thường hằng.

Nghĩa là đứng về địa vị người tuy chia ra hơn kém, nhưng chân thể theo người không hề thêm bớt, nên nói không thêm bớt.

"Chẳng phải mé trước" cho đến "thường hằng" là nói lên nguyên do chẳng thêm bớt, chẳng phải mé trước sinh nên là thường, chẳng phải mé sau diệt nên hằng, địa vị phàm phu là mé trước, quả Phật là mé sau.

C2. Giải thích nghĩa Tướng đại: "Từ xưa" v.v... trở xuống. Có hai:

D1. Nói về tánh đức.

D2. Hỏi đáp nói trở lại.

D1. Chính nói về tánh đức:

Có hai:

E1. Nói về tướng đức.

E2. Nói về đặt tên.

E1. Nói về tướng đức:

Có ba:-Chung, riêng, kết luận.

- Chung: Từ xưa đến nay tự tánh đầy đủ tất cả công đức.

- Riêng: Là sáu câu trong phần riêng.

Nghĩa là, tự thể có nghĩa trí tuệ rộng lớn sáng suốt, nghĩa cùng khắp pháp giới, nghĩa chân thật tức tri, nghĩa tự tánh thanh tịnh tâm, nghĩa thường lạc ngã tịnh, nghĩa mát mẻ, không thay đổi, tự tại.

- Nghĩa Bản giác trí minh.

- Nghĩa Bản giác chiếu rõ pháp giới.

- Nghĩa khi chiếu rõ không điên đảo.

- Nghĩa tánh lìa hoặc nhiễm.

- Nghĩa tánh đức tròn đủ.

- Nghĩa tánh đức không thay đổi.

Đầy đủ như thế trải qua hằng sa Phật pháp chẳng lìa, chẳng dứt, chẳng khác không thể nghĩ bàn. Cho đến nghĩa đầy đủ không có chỗ thiếu, nên gọi Như Lai tạng, cũng gọi là Pháp thân Như Lai.

- Kết luận: Nghĩa là tánh đức trần sa chẳng lìa chân thể, nên nói chẳng lìa. Vô thỉ nối tiếp nên nói chẳng dứt, cũng có thể nói trị đạo chẳng mất. Đồng vị với thể nên nói chẳng khác, chẳng khác mà có nghĩa Hằng sa nên nói không thể nghĩ bàn. Chỉ có Phật thông đạt tột cùng nên nói là Phật pháp, cũng có thể đây là pháp sở giác. Nếu chân thể này không có tánh đức, là Như Lai chứng tánh này lẽ ra không nên đủ đức. Đã chứng tánh rồi muôn đức đầy đủ, tức xét thấy chân như vốn đầy đủ Hằng sa đức, nên nói đầy đủ không có thiếu sót.

E2. Nói về đặt tên:

Sau đây đặt hai tên:

- Khi ẩn thì sinh ra Như Lai, gọi là Như Lai tạng.

- Khi hiển thì muôn đức nương đây, gọi là Pháp thân.

D2. Hỏi đáp nói lại:

Có hai:

1. Hỏi về vấn về chấp thể, nghi về tướng.

2. Đáp tướng không trái thể.

Hỏi: Ở trên nói thể chân như kia bình đẳng, lìa tất cả tướng, vì sao lại nói thể có các công đức như thế?

Đáp: Tuy thật có các nghĩa công đức này mà không có tướng khác nhau. Đồng một vị chỉ một chân như, lại do nghĩa này vì không phân biệt, lìa tướng phân biệt cho nên không hai.

Văn đáp có hai:

E1. Nói tuy khác nhau mà không hai.

E2. Nói tuy chẳng hai mà khác nhau. "lại do nghĩa này" v.v... trở xuống,

E1. Nói tuy khác nhau mà không hai:

Có hai:

- Nói thật đức tuy nhiều mà đồng một vị như.

- Giải thích thành chẳng hai.

Do vô phân biệt chẳng phải là năng phân biệt, lìa tướng phân biệt là chẳng phải sở phân biệt, kế đến không năng sở phân biệt nên không hai.

E2. Nói tuy chẳng hai mà khác nhau:

Có hai:

G1. Lược

G2. Rộng.

G1. Lược:

Lại do nghĩa nào mà được nói khác nhau. Do nương tướng sinh diệt của nghiệp thức mà chỉ bày. Nghi: Khi đã chẳng hai, do đâu mà nói khác nhau?

Giải thích: Do nương thức tướng sinh diệt hằng sa pháp nhiễm, ngược lại đây tiêu biểu chỉ bày chân như tịnh đức hằng sa khác nhau. Vả lại, nêu gốc nhiễm kia nên chỉ nói nghiệp thức.

G2. Rộng:

Có hai:

H1. Hỏi tướng đối nhiễm để chỉ bày.

H2. Nêu pháp nhiễm kia mỗi thứ đối đãi hiển bày.

H1. Hỏi tướng đối nhiễm để chỉ bày:

Vì sao chỉ bày? Vì tất cả pháp xưa nay duy tâm thật vô niệm, mà có vọng tâm bất giác khởi niệm thấy các cảnh giới, nên nói tâm tánh, vô minh chẳng khởi, tức nghĩa trí tuệ rộng lớn sáng suốt.

"Vì tất cả pháp" cho đến "Vô niệm" là nêu chỗ mê lý.

"Mà có vọng tâm, v.v..." là nương chân khởi vọng, nghĩa là tâm nhiễm thô tế, gốc ngọn bất giác. H2. Nêu pháp nhiễm kia mỗi thứ đối đãi hiển bày:

Sắp giải thích tịnh, trước nêu nhiễm đối lại để hiển bày. Các câu sau đây kể ra rõ ràng.

Làm sao hiển bày? Là do tâm tướng khởi niệm, tức vô minh bất giác. Biết tâm tánh chẳng khởi tức Bản giác trí minh, nên nói nghĩa trí tuệ rộng lớn sáng suốt.

Nếu tâm khởi thấy thì có tướng chẳng thấy, tâm tánh lìa thấy tức là nghĩa trùm khắp pháp giới.

"Nếu tâm khởi thấy, v.v..." là nói vọng kiến chẳng khắp. "Nếu tánh lìa thấy, v.v..." là hiển bày chân chiếu tròn sáng. Nếu tâm có động chẳng phải chân thức tri không có tự tánh.

"Nếu tâm có động chẳng phải chân thức tri" là nói vọng biết điên đảo, ngược lại là nói lên chân chiếu không điên đảo.

"Không có tự tánh" là nói rõ vọng nhiễm không tự thể. Ngược lại là nói lên tự tánh thanh tịnh tâm.

Chẳng thường, chẳng lạc, chẳng ngã, chẳng tịnh, nóng bức thay đổi thì không tự tại.

"Chẳng thường, v.v..." là nói bốn lỗi vọng. Ngược lại là hiển bày bốn đức chân như. Các mê lầm thiêu đốt tâm là rất nóng bức, nên nói chân như là mát mẻ.

"Vọng nhiễm thay đổi" là tướng suy biến, tức ngược lại nói lên chân như là bất biến. Vì nghiệp quả trói buộc không tự tại, tức nói lên chân như là tự tại, nên văn trên nói: "Nghĩa mát mẻ bất biến tự tại".

Cho đến đầy đủ nghĩa vọng nhiễm nhiều hơn số cát sông, đối lại nghĩa này nên tâm tánh không động, thì có hà sa nghĩa tướng công đức các tịnh hiển bày.

"Cho đến đầy đủ, v.v..." là nêu chung rất nhiều vọng nhiễm, trái ngược với đây nên tâm tánh chẳng động, tức có đức tướng nhiều như cát sông.

Nếu tâm có khởi lại thấy pháp trước, có thể nhớ nghĩ thì có chỗ thiếu. Như thế pháp tịnh vô lượng công đức tức là nhất tâm, lại không có chỗ nhớ nghĩ nên đầy đủ, gọi là Pháp thân Như Lai tạng.

"Nếu tâm có khởi lại thấy pháp trước, v.v..." là ngoài tâm vọng nhớ tìm cầu chẳng đủ.

"Như thế pháp tịnh, v.v..." là nói tánh tịnh đức đầy đủ không nhờ tìm cầu bên ngoài.

Kết luận tên rất dễ hiểu.

A2. Dụng đại:

Văn có hai:

B1. Nói chung. B2. Giải thích riêng. "Dụng này có hai" trở xuống, B1. Nói chung:

Có hai:

C1. Đối quả để nêu nhân. C2. Trình bày nhân để nói quả.

C1. Đối quả để nêu nhân:

Lại nữa, dụng chân như nghĩa là chư Phật, Như Lai vốn ở nhân địa, phát tâm đại từ bình đẳng, tu các Ba-la-mật nhiếp hóa chúng sinh. "chư Phật, v.v..." cho đến "giáo hóa chúng sinh" là nêu chánh hạnh xưa.

Lập lại thệ nguyện tất cả muốn độ thoát cõi chúng sinh, không hạn cuộc kiếp số tận ở vị lai.

"Lập thệ nguyện rộng lớn" cho đến "tận vị lai" là nêu đại nguyện xưa.

Trong đây, ban đầu là tâm rộng lớn, kế là tâm lâu dài.

Vì cho tất cả chúng sinh như thân mình, mà cũng không giữ tướng chúng sinh. Đây do nghĩa gì? Là như thật biết tất cả chúng sinh cùng thân mình là chân như bình đẳng không khác nhau.

"Vì cho tất cả, v.v..." cho đến "chân như bình đẳng", là nêu đại phương tiện bi trí cũng chẳng phải tâm điên đảo. Trong đây cho chúng sinh như mình, nói lên lòng từ bi sâu xa, cũng giải thích lý do lâu dài ở trước mà được. Chẳng chấp tướng chúng sinh là nói về trí sâu xa.

"Đây là do nghĩa gì" là gạn bày nguyên do bi trí sâu xa ở trước, nghĩa là "Như thật biết" trở xuống, nương môn Chân như để đáp hiển bày sâu xa.

C2. Nói về trình bày nhân để hiển quả: "Vì có như thế" v.v... trở xuống.

Trong đó cũng có ba:

Vì có trí đại phương tiện như thế.

D1. Trình bày nhân trước.

Dứt trừ vô minh thấy bổn Pháp thân.

D2. Dứt vô minh thấy Pháp thân là quả tự lợi.

D3. Chính hiển bày tướng dụng tức quả lợi tha. "Tự nhiên" trở xuống.

Trong đây có ba câu:

Tự nhiên có các thứ nghiệp dụng không thể nghĩ bàn, tức cùng chân như khắp tất cả chỗ. Lại cũng không có tướng dụng để được. Vì sao? Nghĩa là chư Phật, Như Lai chỉ là thân trí tướng Pháp thân nghĩa đế đệ nhất, không có cảnh giới thế đế, lìa nơi tạo tác chỉ tùy theo sự thấy nghe của chúng sinh mà được lợi ích, nên nói là Dụng.

E1. Nói về dụng sâu xa, chẳng đợi tác ý. Như Nhiếp Luận nói: "Như trống trời như ý không suy nghĩ mà thành việc của mình". "Tức cùng chân như khắp tất cả chỗ" là hiển bày dụng rộng lớn, vì dụng xứng với lý.

E2. Nói dụng mà thường tịch: "Lại cũng" v.v...trở xuống.

E3. "Vì sao?" là trách rằng: Phật có đủ ba thân, vì sao lại nói không có tướng dụng?

Giải thích: Nếu bỏ căn cơ chiêu cảm, Như Lai chỉ là diệu lý bổn trí, lại không có tướng ứng hoá thế đế sinh diệt, chỉ khởi dụng theo duyên, dụng tức là không dụng. Như sóng tức nước, nên dụng thường vắng lặng. Kinh Niết Bàn nói: "Thân này của ta tức là Pháp thân". Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: "chỉ riêng như như và trí như như còn, gọi là Pháp thân".

"Nên nói chư Phật Như Lai" cho đến "Lìa nơi tạo tác", tuy chân lý diệu trí xưa nay thường vắng lặng mà tùy căn cơ cảm ứng, dụng lợi ích vô biên, tức tịch mà thường dụng, nên nói "chỉ tùy theo chúng sinh" cho đến "là Dụng".

B2. Giải thích riêng về dụng:

Có hai:

C1. Nêu. C2. Giải thích.

C2. Giải thích:

Có hai:

D1. Hiển bày tướng dụng. D2. Hỏi, đáp, giải thích nghi ngờ.

D1. Nói về tướng dụng:

Có hai:

E1. Trực tiếp nói lên dụng kia. E2. Phân biệt lần nữa.

E1. Trực tiếp hiển bày:

Dụng này có hai thứ, hai thứ ấy là: Có hai:

G1. Nói về ứng thân. G2. Nói về Báo thân.

G1. Nói về Ứng thân:

Nương thức phân biệt sự tâm sở kiến của phàm phu, tiểu thừa gọi là ứng thân. Vì không biết chuyển thức hiện nên thấy từ ngoài đến, lấy một phần hạn của sắc mà không thể biết hết.

"Nương thức phân biệt sự" là phàm phu, Tiểu thừa chưa biết Duy thức, chấp có trần bên ngoài, tức nghĩa thức phân biệt sự. Nay thấy thân Phật cũng cho là ngoài tâm, thuận theo phân biệt sự thức mà tính toán, nên nói nương thức phân biệt sự mà thấy. Cũng có thể người này chỉ biết sáu thức mà không biết thức thứ bảy và thức thứ tám, nên chỉ nói nương sự thức. nương thức thô này phân biệt thân Phật, chỉ thấy tướng thô ứng hoá mà không thấy tướng tế Báo thân, nên nói là ứng thân.

"Vì không biết chuyển thức hiện" cho đến "Không thể biết tận cùng" là giải thích lý do thấy thô, mê đối với duy tâm nên nói từ ngoài. Chẳng thông đạt tức sắc là tâm không có phần hạn, nên nói lấy một phần hạn của sắc, không thể biết tận cùng.

Hỏi: Vì sao thân Phật chỉ là thức của chúng sinh?.

Đáp: Chân tâm chúng sinh và thể của chư Phật bình đẳng không hai, chỉ vì chúng sinh mê chân tâm của mình mà khởi vọng niệm, lúc ấy chân như chỉ hiện tướng nhiễm mà không hiển bày dụng kia.

Vì Bản giác kia bên trong huân vọng tâm nên có chán cầu, có chán cầu nên chân dụng liền hiện, chán cầu yếu thì tướng dụng sẽ thô, chán cầu dần dần thêm lớn thì dụng cũng dần dần tế. Như thế dần dần cho đến nguồn tâm, vô minh đã hết chán cầu cũng đều dứt, Thỉ giác đồng Bản giác, dụng trở về thể bình đẳng bình đẳng, chẳng hai chẳng khác. Chưa đến nguồn tâm, trở về trước dụng ở trong thức, theo căn hiển hiện, nên nói hiện trong thức.

Hỏi: Nếu y cứ nghĩa này dụng từ chân khởi, vì sao nói chuyển thức hiện ư?.

Đáp: Chuyển thức tức chuyển tướng trong Alại-da, nương chuyển tướng này mới khởi hiện thức hiện các cảnh giới. Thức này do chân và vọng hòa hợp, nếu theo dòng sinh tử thì vọng có công năng, vọng tuy có công năng mà lìa chân không lập. Nếu ngược dòng xuất triền thì chân có công năng, chân tuy có công năng mà lìa vọng không hiển. Cho nên theo duyên khởi hòa hợp trong thức nói dụng kia (dụng từ chân khởi).

Hỏi: Nếu y cứ nghĩa này thì là dụng và chân như trong tự tâm của chúng sinh, vì sao nói Phật báo hóa ư?.

Đáp: Chân tâm chúng sinh tức thể của chư Phật không có khác nhau, nên Kinh Hoa Nghiêm chép: "Nếu người muốn cầu biết tất cả chư Phật trong ba đời, nên phải quán sát như thế. Tâm tạo các Như Lai lại không thêm không bớt". Kinh nói: "Pháp thân tức chúng sinh, chúng sinh tức Pháp thân, Pháp thân cùng chúng sinh nghĩa một mà tên khác". Đã từ Pháp thân khởi dụng báo hóa, đâu được chẳng phải là chân tâm chúng sinh?

Hỏi: Nghĩa nếu như vậy, Phật trong tâm chúng sinh trở lại tự giáo hóa chúng sinh, vì sao nói Phật có năng lực nguyện từ bi?.

Đáp: Tức chân tâm này là năng lực nguyện từ bi của Phật, nghĩa là đại bi vô duyên cùng nguyện không chướng ngại tự thể, tức tánh khởi đại dụng.

Hỏi: Chúng sinh đã có tâm từ vô thỉ, vì sao không sớm khởi dụng giáo hóa để dứt bỏ vô minh?. Đáp: Chưa có chán cầu.

Hỏi: Đã sẵn có Bản giác, tại sao không sớm huân tập khiến khởi chán cầu?.

Đáp: Vô minh dày mỏng khác nhau, nhân duyên thiếu sót lẫn nhau chẳng đồng. Như phần trên nói.

Hỏi: Nếu chân tâm tức Phật, vì sao văn sau nói: "Từ nhân các Ba-la-mật sinh ra"?

Đáp: Đây theo nghĩa Bản giác tùy duyên mà nói. Nhưng Thỉ giác kia, giác đến nguồn tâm bình đẳng một mé thì đâu có khác nhau.

Từ trên đến đây nói mặt Chung giáo. Nếu nói về mặt Thỉ giáo tức chư Phật lấy bi trí làm duyên tăng thượng, chủng tử căn cơ cảm ứng của chúng sinh làm nhân duyên, nên gá trên bản chất Phật, tự tâm biến ảnh tượng, nên nói ở trong tự thức hiện.

Ngoài ra như luận Du-già, Duy Thức nói.

G2. Nói về Báo thân:

Có ba:

H1. Theo thức nêu người.

H2. "Thân có vô lượng", v.v... trở xuống, là nói rõ chỗ thấy báo tướng.

H3. Kết quả do nhân, giải thích hiển bày tên gọi Báo thân.

Nương vào nơi nghiệp thức, nghĩa là chỗ thấy của tâm các Bồ-tát từ Sơ phát ý, cho đến Bồ-tát địa vị rốt ráo, gọi là Báo thân.

Nói "nương nghiệp thức" là hàng Bồ-tát Thập giải trở lên hiểu được duy thức không có các trần bên ngoài, thuận nghĩa nghiệp thức, vì thấy thân Phật nên nói Báo thân.

H2. Chỗ thấy tướng Báo thân:

Có hai:-Chánh báo và Y báo.

Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp. Chỗ trụ nương quả cũng có vô lượng các thứ trang nghiêm, tùy chỗ mà thị hiện, tức không có bờ mé không thể cùng tận, lìa tướng phần hạn, theo chỗ cảm ứng kia mà thường giữ gìn chẳng hoại, chẳng mất.

Chánh báo: Thân không phần hạn nên có vô lượng sắc, nương thân có tướng, tướng cũng vô biên. Nương tướng có đẹp đẹp cũng vô tận. Nhưng tướng để tiêu biểu đức, khiến người kính đức để niệm Phật. Đẹp để trang nghiêm thân, khiến người ưa thích ham muốn gần gũi.

Y báo: "Vô lượng các thứ trang nghiêm" là hay nương vô biên, chỗ nương đất ruộng cũng lại vô biên. Của báo cao quý thường phát ra ánh sáng vô ngại trang sức, nên nói các thứ trang nghiêm.

"Tùy chỗ thị hiện" cho đến "Lìa tướng phần hạn" là khác với sắc Hóa thân phần hạn ở trước. Bồ-tát này biết phần hạn tức không phải phần hạn, mỗi sắc tướng đều khắp pháp giới, vô ngại lẫn nhau, tự tại khó nghĩ bàn.

"Theo chỗ cảm ứng kia," cho đến "Chẳng hủy chẳng mất" là theo chỗ nghiệp hạnh cảm ứng tức đều thường trụ, ba tai chẳng thể hoại được.

H3. Kết quả do nhân, giải thích hiển bày tên gọi Báo thân:

Như thế, công đức đều nhân hạnh vô lậu các ba-la-mật huân là chỗ thành tựu, và bất tư nghì huân đầy đủ vô lượng lạc tướng, nên gọi là Báo thân.

Nói trong nhân: Chánh báo và y báo không thể nghĩ bàn vô chướng ngại như thế, đều là hai nhân hạnh mười độ sâu xa huân và Bản giác không thể nghĩ bàn huân được thành tựu, lạc tướng tròn đủ nên gọi là Báo thân. Nên nói "công đức như thế" cho đến "gọi là Báo thân".

E2. Phân biệt lần nữa:

Có hai:

G1. Ứng thân. G2. Báo thân.

G1. Ứng thân: Phân biệt phàm phu khác với Tiểu thừa.

Lại vì chỗ thấy của phàm phu là sắc thô kia, theo sáu đường mỗi loại thấy khác nhau, các loại khác chẳng thọ lạc tướng nên nói là Ứng thân.

Như sự huân tập của ba đường ác, thấy thân Phật cao ba thước như chân voi đen... Lại như Đề Vị, do địa vị trời, người thấy thân Phật là thân thần cây và thần trời. Theo đây tức chúng sinh trong sáu đường đều thấy Phật khác nhau, đều chẳng phải tướng xuất thế, nên chẳng phải vui. Như người nhị thừa v.v... thấy thân Phật là xuất thế, là thân bậc Thánh A-la-hán, nên nói "Cái thấy của phàm phu" v.v... cho đến "ứng thân".

G2. Báo thân: So sánh khác chứng. Có hai:

- Nói về chỗ thấy trước Sơ địa.

- Hiển bày chỗ thấy từ Sơ địa trở lên.

Lại nữa, sự thấy biết của Bồ-tát mới phát tâm là do tin sâu pháp chân như nên thấy ít phần. Biết sắc tướng trang nghiêm, v.v... không đến không đi lìa nơi phần hạn, chỉ nương tâm hiện không lìa chân như. Nhưng Bồ-tát này vẫn tự phân biệt, vì chưa nhập địa vị Pháp thân. Nếu được tâm tịnh, sự thấy biết mầu nhiệm, dụng kia càng cao siêu, cho đến Bồ-tát địa tận thì thấy rốt ráo. Nếu lìa nghiệp thức thì không có tướng thấy, ví Pháp thân Phật không có sắc tướng kia đây, đắp đổi nhau thấy.

Nói "Tin sâu pháp chân như thấy được chút phần", là Bồ-tát Thập giải, nương vào môn tỷ quán thấy lý chân như là tương tự giác nên nói ít phần, khác với Bồ-tát Thập tín ở trước, nên lại nói là "sâu", khác với chân chứng ở sau, nên chỉ nói "Tin".

"Biết sắc tướng kia" cho đến "lìa phần hạn", vì thấy chân như khác phàm phu, Tiểu thừa, cho nên được biết những việc sắc tướng, v.v... tánh vô phân biệt.

"Chỉ nương tâm hiện chẳng lìa chân như", là giải thích lý do vô phân biệt. Trong Nhiếp Luận từ Sơ địa trở lên thấy Báo thân là nói theo chỗ thành tựu tương ưng chứng nhập. Nay Bồ-tát trước Sơ địa thấy chút phần là do biết cảnh sắc chỉ là hiện thức, chẳng lìa chân như, tức không phần hạn, nên được thấy chút phần. Đã chẳng thấy hoàn toàn nên chẳng trái nhau, chỉ vì khác với phàm phu, Tiểu thừa chấp cảnh ngoài tâm thấy ứng thân, Hóa thân. Nên đứng về mặt duy tâm thấy được chút phần.

"Bồ-tát này vẫn tự phân biệt" là phân biệt khác từ Sơ địa trở lên.

"Nếu được tâm tịnh" trở xuống, là nói lên chỗ thấy từ Sơ địa trở lên, tướng dụng vượt hơn trước Sơ địa, nên nói càng cao siêu. Dần dần sâu kín đến kim cương hậu, tướng nghiệp đều dứt, dụng trở về thể nên nói thấy rốt ráo. Vì tột cùng nguồn kia nếu lìa nghiệp thức thì không có tướng thấy, phải nương nghiệp thức mới có chuyển tướng và hiện tướng.

"Vì chư Phật" cho đến "Đắp đổi nhau thấy" là nếu lìa nghiệp thức vô minh thì chỉ là chân như, nên Phật không có phân biệt kia đây.

D2. Dứt nghi ngờ:

Có hai:-Hỏi-Đáp.

Hỏi rằng: Nếu Pháp thân chư Phật lìa sắc tướng, vì sao nay hiện sắc tướng?.

Đáp rằng: Tức Pháp thân này là sắc thể cho nên hiện sắc, nghĩa là, từ xưa đến nay sắc tâm không hai, vì sắc tánh tức trí nên sắc thể không hình, gọi là trí thân. Vì trí tánh tức sắc nên gọi là Pháp thân ở khắp tất cả chỗ.

Đáp: Cũng có hai:

E1. Giải thích Pháp thân năng hiện.

E2. Giải thích sắc sở hiện.

E1. Giải thích Pháp thân:

Có hai:-Chung và riêng. Từ "Nghĩa là" v.v... trở xuống là:

Riêng: "Từ xưa đến nay sắc tâm chẳng hai" là chỗ sắc hiện báo hóa kia, chẳng khác chân tâm Pháp thân. Như sóng và nước xưa nay không hai.

"Vì sắc tánh tức trí, v.v..." là nói sắc tức tâm, nói lên chẳng hai ở trước, vì sắc tức tâm nên khiến sắc tướng đều dứt, y theo cội gốc chỉ nói trí thân. Trí nghĩa là tâm trí Bản giác.

"Vì trí tánh tức sắc nên gọi là Pháp thân trùm khắp tất cả chỗ" là nói tâm tức sắc, nói lên ý chẳng hai ở trước. Như nước trùm khắp trong sóng ấy.

Chỗ sắc hiện ra không có phần hạn, tùy theo tâm hay thị hiện, vô lượng Bồ-tát ở các thế giới, mười phương vô lượng Báo thân, vô lượng trang nghiêm, mỗi mỗi sai biệt đều không phần hạn mà không ngại nhau. Ở đây tâm thức phân biệt chẳng thể biết được, do nghĩa dụng chân như tự tại.

Sắc hiện ra do chân tâm kia trùm khắp vô ngại, chỗ hiện sắc cũng lại viên dung tự tại vô ngại, nên nói "Chỗ sắc hiện ra", cho đến "Chẳng ngại nhau".

Trong vô lượng Bồ-tát cũng là tác dụng của Báo thân, cũng có thể tức cơ duyên cảm ứng Báo thân đại dụng, đều hay chóng đến. Vì mỗi căn đều khắp pháp giới, nhưng đắp đổi chẳng trái nhau. Dụng của chân như này vọng thức chẳng thể biết, nên nói "Chẳng phải tâm thức phân biệt" cho đến "Nghĩa dụng".

Từ trên đến đây giải thích hai thứ pháp nghĩa trong môn Sinh diệt đã xong. Ban đầu giải thích môn Chân như, kế đến giải thích môn Sinh diệt.

Chung là đoạn lớn. Thứ nhất giải thích Riêng hai môn, nói lên nghĩa chẳng phải thứ nhất đã xong.

Đoạn II. Đối tướng hội tướng nhập thật: (tức hội nhập chân như). Trình bày nghĩa chẳng khác. Từ đây trở xuống, v.v...

Có ba:

A1. Nêu. A2. Giải thích. A3. Kết luận.

Lại nữa, hiển bày từ môn Sinh diệt tức nhập môn Chân như. Nghĩa là suy tìm năm sắc ấm và tâm, cảnh giới sáu trần rốt ráo vô niệm. vì tâm không hình tướng, tìm cầu mười phương rốt ráo không thật có.

A1. Nêu: "Tìm cầu năm sắc ấm và tâm" sắc ấm là sắc, còn lại bốn thứ kia là tâm.

A2. Giải thích:

Có hai:

B1. Quán sắc pháp. B2. Quán tâm pháp B1. Quán sắc pháp:

"Sáu trần vô niệm" là cảnh từ tâm khởi, rốt ráo không tự thể, lìa tâm không có tướng niệm.

"Vì tâm không hình, tìm cầu không thật có, chẳng phải ngay ngoài tâm không có các sắc sáu trần, v.v... khác. Theo tâm bên trong tìm cầu hình chất các sắc, v.v... cũng không thật có. Ở trước là sở duyên vô tướng, đây là năng duyên bất sinh.

B2. Quán Tâm pháp: Từ đây trở xuống:

Có hai:-Dụ và Hợp.

Như người mê cho phương Đông là phương Tây mà thật chẳng chuyển đổi. Chúng sinh cũng giống như thế, vô minh mê mờ cho tâm là niệm, mà tâm thật chẳng động.

Hợp: "Tâm thật chẳng động" là tìm cầu động niệm, trong đã diệt và chưa sinh không có chỗ trụ. Không có chỗ trụ nên chẳng khởi, nên biết tâm tánh thật chẳng động.

Nếu quán sát biết tâm vô niệm liền được thuận theo nhập môn Chân như.

Kết luận: "Nếu hay", v.v... trở xuống.

"Tức được thuận theo" là phương tiện quán.

"Nhập môn chân như" là chánh quán.

Từ trên đến đây bày chánh nghĩa đã xong.

QUYỂN HẠ (Phần Cuối)

Mục II. Đối trị tà chấp. Có hai:

A1. Nói riêng chướng và trị.

A2. Theo gốc mà nêu Chung.

Đối trị tà chấp là tất cả tà chấp đều nương vào ngã kiến. Nếu lìa ngã thì không có tà chấp.

A1. Nói riêng chướng và trị.

Có hai: B1. Đối trị lìa. B2. Rốt ráo lìa.

A2. Theo gốc mà nêu Chung.

Có ba: B1. Nêu số. B2. Nêu tên. B3. Nói tướng.

B1. Nêu số:

Là ngã kiến, có hai thứ, hai thứ là:

1. Nhân ngã kiến. 2. Pháp ngã kiến. B2. Kể tên:

Nói: "Nhân ngã kiến" là chấp có tướng chung của chủ tể, đây là kẻ sơ học Đại thừa mê giáo vọng khởi trong Phật pháp, chẳng phải là chỗ khởi của ngoại đạo.

"Pháp ngã kiến" là chấp tất cả pháp mỗi pháp có thể tánh, đây là chỗ khởi của người Nhị thừa.

B3. Nói về tướng.

Có hai: C1. Nhân C2. Pháp C1. Nhân ngã.

Có hai: D1. Nêu chung. D2. Giải thích riêng.

D1. Nêu chung:

Nhân ngã kiến là theo phàm phu mà nói thì có năm thứ, năm thứ là:

D2. Giải thích riêng:

Nghe kinh nói Pháp thân Như Lai rốt ráo vắng lặng, giống như hư không. Vì không biết đó là lời phá chấp nên nói hư không là tánh Như Lai.

Năm thứ chấp này có gì khác? Một thứ đầu là quả, bốn thứ sau chung cả nhân và quả. Lại hai thứ đầu là đối với không mà lầm chấp, ba thứ sau là đối với có mà biết điên đảo. Trong hai phần trước, ban đầu là vọng chấp sự không, lấy làm pháp thể, kế là vọng chấp pháp thể chỉ là rỗng không, chấp có ba:

- Chấp tánh đức đồng với sắc tâm.

- Chấp pháp tánh sẵn có nhiễm.-Chấp nhiễm tịnh có trước sau.

Hỏi: Những thứ này đều chấp trên pháp chân như, vì sao nói nhân ngã chấp?

Đáp: Ở đây có hai cách giải thích:

Cách thứ nhất: Đây là phàm phu mới học có nhân ngã, khởi ra chấp này, nên nói chấp nhân ngã.

Cách thứ hai: Do Như Lai tạng có hai nghĩa:

- Nghĩa Bản giác, tức là ngay nơi người mà vọng chấp, nên nói chấp nhân.

- Nghĩa lý thật, đối với pháp sở quán, nay y cứ nghĩa đầu nên nói nhân chấp.

Trong năm thứ, mỗi thứ đều có ba, nghĩa là:

- Kinh nói, v.v... là khởi duyên chấp.

- Do không biết chính nói về tướng chấp.

- Làm sao đối trị là nói về tướng đối trị.

Phần đầu là tướng chấp: Nói "Do không biết phá chấp đắm, v.v..." là do chấp tướng chất ngại của sắc thân Phật.

Nói "Pháp thân như hư không" là ý lầm nói chấp đồng với hư không.

Đối trị thế nào để nói tướng hư không là vọng kia, pháp thể đều thật.

Đối trị. Có hai:

- Nói hư không này là vọng, chẳng phải chân.

- "Chỉ một chân tâm" trở xuống, là nói Pháp thân kia, là chân, chẳng phải vọng.

Vọng chẳng phải chân: Có ba:-Lập, giải thích, tổng kết.

Lập: Có hai:-Lập tình có, thể đều thật là lập lý không. Do đối với sắc nên có tướng để thấy, khiến tâm sinh diệt.

Giải thích. Có hai:

Nói về tình có: Trong tánh biến kế đối đãi mà có, là chỗ vọng niệm duyên theo, nên chẳng phải Pháp thân, cho nên nói "do đối sắc" cho đến "tâm sinh diệt".

Do tất cả sắc pháp xưa nay là tâm, thật không có sắc ngoài. Nếu không có sắc thì không có tướng hư không.

Giải thích lý không: Xưa do đối đãi sắc mà không, nay đã do tâm thì không có sắc, đâu được lại có ở không, nên nói "do tất cả sắc pháp", cho đến "tướng hư không".

Nghĩa là tất cả cảnh giới do tâm vọng khởi mà có, nếu tâm lìa vọng động thì tất cả cảnh giới mất, chỉ một chân tâm cùng khắp. Đây là nghĩa tánh trí rốt ráo rộng lớn của Như Lai, chẳng phải như tướng hư không.

Tổng kết. Có hai:

- Tổng kết tình có là "nếu tâm lìa" trở xuống.

- Tổng kết lý không là chân chẳng ở trong vọng. "Chỉ một chân tâm, v.v..." là nói về pháp đồng dụ, do trùm khắp như hư không, nên lấy hư không làm dụ.

"Đây là Như Lai, v.v..." là phân biệt pháp khác dụ. Nghĩa là tánh trí Bản giác của Như Lai đâu đồng với hư không lại là luống dối ư!

Nghe kinh nói các pháp thế gian rốt ráo thể không, cho đến pháp chân như Niết-bàn cũng rốt ráo không. Từ xưa đến nay tự không, lìa tất cả tướng. Do chẳng biết là phá chấp nên cho rằng tánh Niết-bàn chân như chỉ là hư không kia.

Nói "Cho đến pháp chân như Niết-bàn, v.v..." rốt ráo không, lìa tất cả tướng là kinh Đại Phẩm nói: "Cho đến Niết-bàn như huyễn như mộng. Nếu có pháp nào hơn Niết-bàn, ta cũng nói là như huyễn như mộng. Do không biết là phá tình chấp có, tức chấp tánh đức chỉ là hư không kia, nên nói "do không biết, v.v...

Làm sao đối trị? Là nói về Pháp thân chân như tự thể chẳng không, đầy đủ vô lượng tánh công đức.

Đối trị rất dễ biết.

Nghe kinh nói Như Lai tạng không có thêm bớt, thể đầy đủ tất cả pháp công đức. Do không hiểu nên cho rằng Như Lai tạng có sắc tâm pháp tự tướng khác nhau.

Chấp tánh đức đồng với pháp vọng.

Làm sao đối trị? Do nương nghĩa chân như mà nói. Nhân nghĩa nhiễm sinh diệt thị hiện mà nói khác nhau.

Phần Đối trị nói: "Nương nghĩa chân như mà nói" là hai mà chẳng hai. "Nhân nghĩa nhiễm sinh diệt mà thị hiện" là chẳng hai mà hai. Như văn trên nói: "Do nương nghiệp thức tướng sinh diệt mà thị hiện, v.v..."

Nghe kinh nói tất cả pháp nhiễm sinh tử ở thế gian đều nương Như Lai tạng mà có tất cả các pháp chẳng lìa chân như. Vì không hiểu nên cho rằng Như Lai tạng tự thể đầy đủ có tất cả pháp sinh tử thế gian.

Do không hiểu tùy duyên nên cho rằng tự tánh có nhiễm. Trong phần Đối trị: Trước đoạt phá, sau túng phá.

Làm sao đối trị? Do Như Lai tạng từ xưa đến nay chỉ có nghĩa chân như, các công đức thanh tịnh nhiều hơn Hằng sa, chẳng lìa, chẳng đoạn, chẳng khác. Do các pháp nhiễm phiền não nhiều hơn Hằng sa chỉ là vọng có, tánh tự vốn không. Từ đời vô thỉ đến nay không hề tương ưng với Như Lai tạng. Nếu thể Như Lai tạng có pháp vọng mà khiến chứng hội dứt hẳn vọng, thì không hề có việc đó.

"Do Như Lai tạng, v.v..." là nói về tịnh đức mầu nhiệm.

"Do nhiều các phiền não nhiều hơn hà sa, v.v..." là nói vọng nhiễm lý không.

"Từ vô thỉ" trở xuống, là nói vọng chẳng vào chân.

"Nếu thể Như Lai tạng có pháp vọng, v.v..." là nói túng phá, có thể biết.

Trong phần năm ở kế sau:

- Trong giáo nói có hai pháp.

- Trong chấp cũng có hai chấp.

- Trong đối trị cũng có hai đối trị. đó là sinh tử và niết-bàn.

Nghe kinh nói: Nương Như Lai tạng có sinh tử, nương Như Lai tạng được Niết-bàn. Do không hiểu nên cho rằng chúng sinh có cái ban đầu. Vì có cái ban đầu nên lại cho rằng Như Lai được Niết-bàn là có cái tận cùng kia, lại tạo ra chúng sinh.

Trong phần chấp: Nghe nương chân có vọng, lại cho rằng chân trước vọng sau, nên khởi có cái thấy ban đầu. Như ngoại đạo lập từ minh sơ sinh giác, v.v... Chúng sinh đã có cái ban đầu mà sau nương chân.

"Chứng được Niết-bàn lại tạo ra chúng sinh", thành nghĩa có cái ban đầu, như ngoại đạo lập chúng sinh, có cái cùng tận, trở về nơi minh sơ gọi là Niết-bàn. Từ minh sơ khởi giác lại tạo ra chúng sinh. Ở đây cũng như thế.

Đối trị, có hai:

- Nói về pháp thể lìa cái ban đầu là hiển bày sinh tử không có cái ban đầu. Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: "Sinh tử không có ban đầu".

- Nói về pháp thể lìa cái sau cùng, là nói lên Niết-bàn không cùng tận.

Làm sao đối trị? Do Như Lai tạng không có mé trước, nên tướng vô minh cũng không có cái ban đầu. Nếu nói ngoài ba cõi lại có chúng sinh khởi cái ban đầu, tức là kinh ngoại đạo nói. Lại Như Lai tạng không có mé sau, chư Phật được Niết-bàn cùng tương ưng thì không có mé sau.

Trong phần Pháp thể lìa cái ban đầu, kinh ngoại đạo là như kinh Nhân Vương nói: "Ta nói ngoài ba cõi có riêng một cõi chúng sinh, là ngoại đạo", là trong kinh Đại Hữu của ngoại đạo nói, chẳng phải bảy Đức Phật nói.

C2. Pháp ngã kiến:

Có ba:

- Nguyên do khởi chấp.

Hiển bày tướng chấp. "Do nói chẳng rốt ráo" v.v... trở xuống

- Hiển bày đối trị kia. "Vì sao?", v.v... trở xuống. Xem văn sẽ hiểu.

Pháp ngã kiến là nương vào Nhị thừa độn căn, nên Như Lai chỉ vì họ mà nói nhân vô ngã. Do nói chẳng rốt ráo, thấy có pháp năm ấm sinh diệt, sợ hãi sinh tử, vọng chấp Niết-bàn. Đối trị thế nào? Vì pháp năm ấm tự tánh chẳng sinh, thì không có diệt, xưa nay là Niết-bàn.

Rốt ráo lìa, có hai:

- Đứng về mặt pháp nói về đối trị.

- Hợp giải thích để phá nghi. Pháp cũng có hai:-Đứng về pháp hiển bày chung.

- Nêu rộng để so sánh tìm cầu. "Cho nên", v.v... trở xuống.

Lại nữa, rốt ráo lìa vọng chấp, nên biết pháp nhiễm, pháp tịnh đều đối đãi nhau, không có tự tướng để nói. Cho nên tất cả pháp từ xưa đến nay chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải có, chẳng phải không, rốt ráo không thể nói tướng. Nếu có nói thì nên biết Như Lai khéo dùng phương tiện, giả dùng lời nói đẫn dắt chúng sinh. Chỉ thú kia vì lìa niệm trở về chân như. Vì niệm tất cả pháp khiến tâm sinh diệt, chẳng vào được trí chân thật.

Phần đầu nói pháp nhiễm tịnh đối đãi không có tự tướng. Trung Luận chép: "Nếu pháp nhân đối đãi mà thành, là pháp trở lại thành đối đãi". Nay thì không đối đãi cũng không có chỗ pháp hành, y theo giải thích sẽ hiểu. Đối đãi hay không đối đãi, pháp thể vốn như vậy, chẳng phải do ngộ rồi mới khiến như vậy. Nên nói: "Từ xưa đến nay, v.v...". Trí và thức hiển bày chẳng phải tâm ở trên, có và không hiển bày chẳng phải sắc ở trên.

Giải thích nghi:

Nghi: Bậc thánh rõ biết các pháp lìa tánh, chẳng có nói tướng, vì sao có các thứ nói năng?

Giải thích: Mượn lời khéo dẫn dắt, chỉ ở lời nói.

Trong đây có ba:

Chánh hợp để phá nghi.

Giải thích đúng thánh ý. "Chỉ thú ấy, v.v..." trở xuống, là

Ngược lại để giải thích thành tựu. "Vì niệm tất cả pháp", v.v... trở xuống,

Mục III. Phát thú đạo tướng:

Có hai:

A1. Nêu chung đại ý để nói về tên kia.

A2. Phân biệt riêng.

A1. Nêu chung đại ý để hiển bày tên kia:

Phân biệt phát thú đạo tướng là nghĩa thú hướng về đạo của chư Phật, Chư Bồ-tát đã chứng, phát tâm tu hành thú hướng.

Nói: "Tất cả chư Phật..." là nêu giáo đạo được hướng về.

"Tất cả Bồ-tát, v.v..." trở xuống, là hiển bày nhân hành hay thú hướng. Muốn nói Bồ-tát phát tâm thú hướng đến đạo chứng ngộ của Phật, các thứ bậc khác nhau, nên nói phân biệt phát thú đạo tướng.

A2. Phân biệt riêng:

Có ba:

B1. Nêu số B2. Kể tên B3. Nói tướng.

B1. Nêu số:

Lược nói phát tâm có ba thứ, ba thứ là:

1. Tín thành tựu phát tâm. 2. Giải hạnh phát tâm. 3. Chứng phát tâm.

B2. Kể tên:

Có hai:

C1. Tín thành tựu phát tâm:

C2. Giải hạnh phát tâm:

C3. Chứng phát tâm:

C1. Tín thành tựu phát tâm:

Địa vị Thập trụ, gồm cả Thập Tín. Trong địa vị Thập tín, tu tập tín tâm thành tựu, phát tâm quyết định, tức vào Thập trụ. Sơ tâm Thập Trụ gọi là Phát tâm trụ, tức Thập tín tu hành viên mãn, gọi là Tín thành tựu tiến vào sơ Thập Trụ, nên nói Phát tâm.

C2. Giải hạnh phát tâm:

Địa vị Thập Hồi hướng, gồm cả Thập Hạnh. Trong địa vị Thập Hạnh hiểu được pháp không, thuận hành mười độ, hạnh thành thuần thục, phát tâm hồi hướng vào địa vị Thập Hồi Hướng, nên nói Giải hạnh phát tâm.

C3. Chứng phát tâm:

Từ địa vị Sơ địa trở lên cho đến Thập địa.

Hai phần trước là tương tự phát tâm, một phần sau là phát tâm chân thật.

B3. Nói về tướng:

Nói ba tên ở trên tức là ba đoạn: C1. Tín thành tựu phát tâm C2. Giải hạnh phát tâm:

C3. Chứng phát tâm:

C1. Tín thành tựu phát tâm:

Cũng có ba:

D1. Nói về hạnh tín tâm thành tựu.

D2. Nói tướng phát tâm.

D3. Nói lợi ích phát tâm.

D1. Hạnh tín tâm thành tựu:

Có hai: E1. Hỏi. E2. Đáp.

Tín thành tựu phát tâm là nương vào những người nào? Tu theo những hạnh gì? Được tín thành tựu có khả năng phát tâm.

E1. Hỏi: Có ba:

G1. Hỏi người năng tu hành.

G2. Hỏi hành để tu.

G3. Được tín thành tựu, là hỏi hạnh thành rồi, có khả năng phát tâm.

E2. Đáp:

Có hai:

G1. Chính đáp câu hỏi trước. G2. Nêu kém để bày hơn.

Nghĩa là trước tín viên mãn nên thắng, sau tín chưa thành nên lui sụt.

G1. Chánh Đáp:

Có hai:

H1. Đáp ba câu hỏi. H2. Kết luận thành tựu địa vị.

H1. Đáp ba câu hỏi:

Nghĩa là nương chúng sinh nhóm Bất định. "Nương chúng sinh nhóm bất định" là đáp câu hỏi đầu. Phân biệt ba nhóm chính là nhiều môn. Nay trong văn này nói thẳng Bồ-tát Thập trụ trở lên quyết định chẳng lui sụt, gọi là nhóm Chánh định. Chưa vào Thập tín không tin nhân quả, gọi là nhóm Tà định. Giữa hai hạng này là địa vị Thập Tín, muốn cầu quả lớn mà tâm chưa quyết định, hoặc tiến hoặc lui. Trong kinh Bổn Nghiệp chép: "Bồ-tát Thập tín như sợi lông trong hư không, gọi là nhóm Bất định" Nay nương hạng người này nói về hạnh tu hành kia.

Có năng lực huân tập gốc lành nên tin nghiệp quả báo. Nay khởi tu mười điều lành, chán khổ sinh tử, muốn cầu vô thượng Bồ-đề, được gặp chư Phật, đích thân cúng dường, tu hành tín tâm.

"Có huân tập", v.v... trở xuống, là đáp câu hỏi thứ hai, trong đây, trước nói về nhân tu hành, nghĩa là có văn huân và năng lực bản giác nội huân, nương năng lực tu gốc lành đời trước, hay tin nghiệp quả, nên bỏ ác theo thiện, tu phần phước đức.

"Chán khổ sinh tử cầu Bồ-đề" là thành tựu phần Bồ-đề và phần giải thoát.

"Được gặp chư Phật tu tín tâm" là nói về duyên tu hành, nghĩa là theo duyên này tu hành mười thứ tín tâm.

Trải qua một muôn kiếp tín tâm thành tựu, nên chư Phật, Bồ-tát dạy bảo phát tâm, hoặc do tâm đại bi nên tự phát tâm, hoặc nhân chánh pháp sắp diệt, vì nhân duyên hộ pháp nên tự phát tâm.

"Trải qua một muôn kiếp", v.v... trở xuống, là đáp câu hỏi thứ ba, trong đây có hai:

- Nói về thời gian viên mãn, thành tựu tu hành.-Y theo thắng duyên nói về phát tâm kia.

Ban đầu nói "Một muôn kiếp" nghĩa là mười ngàn kiếp tu tín tâm thành tựu.

"Phật và Bồ-tát dạy bảo phát tâm": nghĩa là phát Thập Trụ sơ tâm. Như kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp chép: "Bồ-tát có lòng tin trong mười ngàn kiếp tu hành mười giới pháp sẽ nhập vào Thập Tín tâm, vào địa vị Sơ Trụ".

Giải thích: Trong đây nói: "Vào địa vị Sơ trụ" nghĩa là địa vị Sơ phát tâm trụ trong Thập Trụ, vì đến địa vị này mới được Tín tâm không lui sụt, cho nên cũng gọi là Thập Tín tâm, chẳng cho là Thập Tín của Thập giải trở xuống. Làm sao biết? Vì kinh Nhân Vương nói: "Tập Chủng tánh có mười tâm, đã vượt khỏi tất cả địa vị thiện của người Nhị thừa. Từ Bồ-tát Tập nhẫn thực hành mười điều thiện trở xuống này có tiến có lùi. Giống như sợi lông nhẹ theo gió bay đông tây". Tuy do mười ngàn kiếp thực hành chánh đạo phát tâm Bồ-đề, cũng là địa vị Tập Nhẫn. Dùng văn này dẫn chứng nên được biết mười thứ tướng tâm và các thứ ủy khúc, như trong Hoa Nghiêm sớ nói, duyên tốt tuy nhiều nhưng lược nêu có ba thứ:

- Tha lực.

- Tự lực.

"Cũng có thể đồng ba tâm", v.v... trở xuống: nghĩa là giáo nên được trực tâm, hộ pháp nên được thâm tâm, ngoài ra đều đồng.

Tín tâm như thế thành tựu được phát tâm là vào nhóm chánh định, rốt ráo chẳng lui sụt, gọi là trụ trong chánh nhân, tương ưng hạt giống Như Lai.

H2. Kết luận thành tựu địa vị: "Tín tâm như thế", v.v... trở xuống là.

"Nhập nhóm chánh định chẳng lui sụt" là nói lên không mất ở phần sau. Nghĩa là vào địa vị Sơ phát tâm trụ của Thập trụ, chẳng rơi vào địa vị phàm phu, Tiểu thừa.

"Gọi là trụ chánh nhân tương ưng hạt giống Như Lai" là nói về chỗ có được ở trên. Nghĩa là trụ địa vị Tập Chủng tánh, thực hành thuận nhân huân tập bên trong, nên nói chánh nhân. Lại địa vị này trở lên quyết định sẽ được quả, nên nói chánh nhân, vì không lui sụt.

Nếu có chúng sinh gốc lành nhẹ mỏng, từ lâu xa đến nay phiền não sâu dày, tuy gặp Phật, được cúng dường, nhưng khởi hạt giống trời người, hoặc khởi hạt giống nhị thừa, dù có cầu căn cơ Đại thừa cũng bất định, hoặc tiến hoặc lui.

G2. Nói về nêu kém để bày hơn:

"Nếu có", v.v... trở xuống: là cao siêu như tiến ở trước, kém như lùi ở đây. Nhiếp luận chép: "Các Bồ-tát trong địa vị Thập Tín tu Đại thừa chưa vững chắc, phần nhiều chán sợ sinh tử, tâm từ bi đối với chúng sinh vẫn còn kém mỏng, muốn xả bỏ bổn nguyện Đại thừa, tu đạo Tiểu thừa" Cho nên nói muốn tu hành không có ý Đại thừa.

Trong đây có hai:

H1. Nói về tướng kém.

H2. Kết luận lui sụt, "Như thế, v.v..." trở xuống,

H1. Nói về tướng kém:

Có hai:

K1. Năng lực nội nhân kém.

K2. Nói về năng lực duyên ngoại kém, "Hoặc có cúng dường", v.v...trở xuống, K1. Năng lực nội nhân kém:

Có bốn câu: Một câu đầu là mê lầm nặng. Ba câu sau là đức mỏng.

Đức mỏng có:

- Điên đảo cầu trời, người.

- Cầu tiểu quả khác.

- Do dự về Đại thừa.

Hoặc có cúng dường chư Phật, chưa trải qua một muôn kiếp, trong thời gian đó gặp duyên cũng sẽ phát tâm. Nghĩa là, thấy sắc tướng Phật mà phát tâm, hoặc do cúng dường chúng tăng mà phát tâm, hoặc do người Nhị thừa dạy bảo khiến phát tâm, hoặc bắt chước người khác mà phát tâm.

K2. Năng lực duyên ngoại kém:

Có hai:

- Nói về các hạnh chưa viên mãn.

- Gặp duyên chẳng tốt. Trong đây có bốn câu:

Quán sắc Phật.

Cúng dường đại chúng.

Bạn kém yếu được khuyến khích. Học với người khác mà phát tâm.

H2. Kết luận lui sụt:

Những thứ này đều chẳng phải tâm bi trí của Bồ-tát, cho nên lui sụt.

Phát tâm như thế đều chẳng nhất định gặp nhân duyên xấu, hoặc lại lui sụt rơi vào giai vị Nhị thừa.

Văn kết luận rất dễ hiểu.

D2. Tướng phát tâm:

Có hai:

E1. Chính nói về ba tâm. E2. Hỏi, đáp, dứt nghi.

E1. Nói về ba tâm:

Có hai:-Hỏi.-Đáp.

Đáp có: Nêu số và giải thích riêng.

Nêu số: Lại nữa, Tín thành tựu phát tâm là phát những tâm nào?

Lược nói có ba thứ, ba thứ là:

Trực tâm chánh niệm pháp chân như. Thâm tâm ưa tu tập tất cả các hạnh lành.

Tâm đại bi muốn cứu vớt tất cả khổ cho chúng sinh.

Giải thích: "Trực tâm" nghĩa là tâm hướng lý không có lối tẻ khác, nên nói chánh niệm chân như, tức cội gốc của hai hạnh.

"Thâm tâm" là đầy đủ muôn đức, quy hướng nguồn tâm, nên nói ưa tu tập, v.v....

Hai thứ trên đây là gốc hạnh tự lợi.

"Tâm đại bi" là rộng cứu khổ chúng sinh giúp cho được Bồ-đề, nên nói "muốn cứu, v.v..." tức gốc hạnh lợi tha. Diệu hạnh tuy rộng nhưng ba hạnh đều nhiếp hết, cho nên ở trên nói lược có ba. Đây tức ba nhóm giới, ba đức, ba thân đều do đây, cũng tức là ba hồi hướng kia.

- Hồi hướng mé thật.

- Hướng về Bồ-đề.

- Hướng về chúng sinh.

Đều nên phối hợp nhau để giải thích.

E2. Hỏi, đáp, dứt nghi:

Có hai:

G1. Hỏi. G2. Đáp.

G1. Hỏi: Hỏi rằng: Trên nói Nhất tướng pháp giới, thể của Phật không hai. Vì sao chẳng phải chỉ niệm chân như, mà còn nhờ cầu học các hạnh lành.

G2. Đáp: Có hai:

H1. Đáp câu hỏi trước.

H2. Trình bày lại phương tiện.

H1. Đáp câu hỏi trước:

Có hai:-Dụ và Hợp.

Đáp rằng: thí như báu đại ma ni tánh trong sáng mà có vết nhơ, như người nhớ có tánh báu chẳng dùng các thứ phương tiện lau chùi, thì không bao giờ được sạch.

Trong hợp có ba:

Pháp chân như thể tánh thanh tịnh rỗng rang của chúng sinh, như thế mà có vô lượng phiền não cấu nhiễm. Như người tuy niệm chân như mà chẳng dùng các thứ phương tiện huân tu cũng không được thanh tịnh.

Giải thích lý do tu các hạnh. Vì cấu vô lượng vô biên khắp tất cả pháp, cho nên tu tất cả hạnh lành để đối trị, v.v.... Trở xuống.

Nói rõ hạnh lành thuận chân, vì các hạnh lành bên ngoài trái vọng nhiễm, bên trong thuận chân như. Như người tu hành tất cả pháp lành, tự nhiên quy thuận pháp chân như, v.v... Trở xuống.

H2. Trình bày lại phương tiện:

Có hai:

I 1. Nêu số.

I 2. Giải thích riêng.

I 1. Nêu số:

Nói lược phương tiện có bốn thứ, bốn thứ ấy là:

Trong đây giải thích bốn môn: Một môn đầu là Bất trụ đạo, hai môn kế là hạnh tự lợi, một môn sau là hạnh lợi tha. Trong phần Tự lợi có Đoạn đức và Trí đức, trong bốn môn này mỗi môn có ba nghĩa.

I 2. Giải thích riêng:

K1. Kể tên.

K2. Giải thích tướng.

K3. Nói về ý tu hành, "Vì thuận theo pháp tánh", v.v... trở xuống,

K1. Kể tên. Và K2. Giải thích tướng:

Thực hành phương tiện căn bản: Nghĩa là quán tất cả pháp tự tánh bất sinh, xa lìa vọng kiến chẳng trụ sinh tử. Quán tất cả pháp nhân duyên hòa hợp nghiệp quả chẳng mất, khởi tâm đại bi, tu các phước đức, nhiếp hóa chúng sinh, chẳng trụ Niếtbàn, vì thuận theo pháp tánh cho nên không trụ.

Môn thứ nhất, Giải thích tướng có hai: Trí và Bi, là hạnh vô trụ. Phương tiện hay dừng: nghĩa là hổ thẹn hối lỗi, dứt tất cả việc ác, chẳng để cho tăng trưởng. Vì thuận theo pháp tánh nên lìa các lỗi.

- Môn thứ hai, Siêng dứt hai ác, là môn chỉ trì.

Phát khởi gốc lành phương tiện tăng trưởng:

Nghĩa là siêng năng cúng dường lễ bái Tam bảo, khen ngợi tùy hỷ, khuyến thỉnh chư Phật. Vì tâm thuần hậu quý kính Tam bảo nên lòng tin được thêm lớn, mới có thể chí cầu đạo vô thượng. Lại do năng lực Phật pháp thêm che chở nên tiêu trừ nghiệp chướng, gốc lành chẳng lui sụt, vì thuận theo pháp tánh nên lìa si chướng.

- Môn thứ ba siêng tu hai điều lành, tức môn tác trì, Ở Đây giải thích tướng có hai:

Theo duyên mà tu hành.

Nói rõ tu hành thành tựu lợi ích, "Vì ưa thích Tam bảo", v.v... trở xuống,

Nói về tu hành thành tựu lợi ích, có hai: Sinh trí được lợi ích.

Nói rõ diệt chướng được lợi ích. "Lại nhờ năng lực Phật, pháp, tăng", v.v... trở xuống, Lại cung kính cùng quy kính, có bốn câu:

- Quý mà chẳng kính như mẹ đối với con.

- Kính mà chẳng quý như người ở đối với chủ.

- Vừa kính vừa quý như người tu hành đối với Tam bảo.

- Chẳng kính chẳng quý như kẻ thù.

Phương tiện đại nguyện bình đẳng: Nghĩa là phát nguyện tận cùng ở đời vị lai hóa độ tất cả chúng sinh, không để dư sót, đều khiến rốt ráo Niết-bàn vô dư. Vì thuận theo pháp tánh không dứt mất, nên pháp tánh rộng lớn khắp tất cả chúng sinh bình đẳng không hai, chẳng nghĩ kia đây rốt ráo vắng lặng.

- Môn thứ tư, giải thích trong tướng: "Tận vị lai, v.v..." là tâm lâu dài.

"Độ tất cả chúng sinh không để dư sót, v.v..." là tâm rộng lớn. "Khiến được Niết-bàn vô dư" là tâm bậc nhất.

K1. Ý tu hành:

Có hai:

- Hiển bày tánh thuận.

- Nói về ý khởi nguyện lớn:

"Pháp tánh rộng lớn", v.v... trở xuống: Cũng tức tâm thường hằng.

D3. Lợi ích phát tâm:

Có bốn:

E1. Hiển bày đức cao quý.

E2. Nói về lỗi nhỏ nhiệm.

E3. Chung cả quyền giáo.

E4. Khen ngợi thực hành.

Bồ-tát phát tâm này thì được thấy chút phần Pháp thân. Vì thấy Pháp thân nên theo nguyện lực mà hiện tám thứ lợi ích chúng sinh. Nghĩa là từ trời Đâu-suất xuống vào thai, trụ thai, xuất thai, xuất gia, thành đạo, xoay bánh xe pháp, nhập Niết-bàn. Nhưng Bồ-tát chưa gọi là Pháp thân, vì từ vô lượng quá khứ đến nay, nghiệp hữu lậu chưa thể quyết đoạn, theo chỗ sinh kia tương ưng với khổ vi tế, cũng chẳng phải nghiệp trói buộc, vì có năng lực đại nguyện tự tại.

E1. Hiển bày đức cao quý, có hai:

- Công đức tự lợi. Nghĩa là thực hành Bồ-tát Thập giải, nương vào môn tỷ quán thấy pháp giới, nên nói thấy chút phần. Cũng có thể nương vào môn nhân, không thấy Pháp thân.

- Nói về tám tướng lợi ích chúng sinh. "Vì thấy Pháp thân, v.v..." trở xuống, tức công đức lợi tha, trong hàng mới phát tâm trụ của Thập giải, hay làm việc này.

E2. Nói về lỗi sâu kín: "Nhưng, Bồ-tát", v.v... trở xuống Có hai:-Khác địa thượng và Khác phàm phu.

- Khác địa thượng: Nói "Chưa gọi là Pháp thân" là vì chưa chứng chân, chỉ nương vào đức tin thấy một phần. (từ Sơ địa trở lên).

Giải thích lý do khác nhau "Vì kia từ quá khứ", v.v... trở xuống. Nghiệp cũ chưa quên.-Khổ sâu kín vẫn tiếp tục.

- Nói lên khác phàm phu: đã nghe nghiệp khổ chưa mất thì cho rằng không khác với phàm phu. Nay nói Bồ-tát ở nơi quả dài ngắn mà được tự tại, chẳng do hoặc nghiệp, nên nói chẳng phải nghiệp trói buộc. Vì lưu hoặc dùng năng lực bi nguyện làm lợi ích chúng sinh, nên nói dùng năng lực đại nguyện.

E3. Chung cho cả quyền giáo:

Có hai:-Nêu giáo và Giải thích chung.

Như trong kinh hoặc nói có lui sụt rơi vào đường ác, là chẳng phải kia thật lui sụt, chỉ vì Bồtát mới học chưa vào chánh vị mà biếng nhác, nên làm cho sợ hãi khiến kia mạnh mẻ lên.

Theo văn sẽ hiểu. Như kinh Anh Lạc Bổn Nghiệp chép: "Hành Thất trụ trở xuống, gọi là Thoái phần. Nếu không gặp thiện tri thức hoặc một kiếp cho đến mười kiếp lui sụt tâm Bồ-đề. Như trời Tịnh Mục, vương tử Pháp Tài, Xá-lợi-phất, v.v... muốn lên đệ Thất Trụ trong khoảng kia nhân duyên gặp ác tri thức, nên trở lại phàm phu trong đường bất thiện". Cho đến nói rộng. Nay giải thích ý kinh này là lời phương tiện chẳng phải thật lui sụt, chỉ làm cho những người ấy sợ hãi, khiến không biếng nhác ngã mạn.

E4. Khen ngợi thực hành, Có hai:

Lại, Bồ-tát này một phen phát tâm, sau xa lìa yếu hèn, rốt ráo chẳng sợ rơi vào hàng Nhị thừa. Nếu nghe vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp siêng năng khổ nhọc làm điều khó làm, mới được Niếtbàn, cũng không yếu hèn, vì tin biết tất cả pháp từ xưa đến nay tự là Niết-bàn.

Trong phần đầu: là đối với bất biến ở dưới,

"Nếu nghe" trở xuống, là chẳng yếu hèn ở trên. "Vì tin biết, v.v..." trở xuống, là giải thích lý do chẳng yếu hèn. Đây là hiển bày văn kinh kia là quyền, chẳng phải thật.

C2. Giải hạnh phát tâm:

Có hai:

D1. Nêu chung khen ngợi sự cao quý:

Giải hạnh phát tâm nên biết càng cao quý.

Nghĩa là địa vị Tin viên mãn nhập giải ở trước, nay đây là hạnh viên mãn nhập Hồi hướng, lại phát tâm sâu xa, nên biết càng cao siêu.

D2. Nói về tướng cao siêu kia:

Có hai:

E1. Nêu thời nói lên sự cao siêu:

Vì Bồ-tát từ Sơ chánh tín đến nay ở a-tăng-kỳ thứ nhất kiếp sắp viên mãn.

Nghĩa là trong địa vị Thập Hướng so với Sơ địa kề mà gần, nên nói sắp được viên mãn.

E2. Nói về hạnh cao siêu kia:

Có hai:-Chung.-Riêng.

Chung: Đối với pháp chân như hiểu sâu hiện tiền chỗ tu lìa tướng.

"Đối với pháp chân như hiểu sâu hiện tiền" là nói về giải cao siêu, khác địa vị trước, nên nói là sâu. Khác địa vị sau nên nói là Giải. "Chỗ tu lìa tướng" là nói về hạnh cao quý.

Riêng: Rộng về sáu độ nói hai phần này.

Vì biết thể pháp tánh không san tham, nên thuận theo tu hành đàn-ba-la-mật. Vì biết pháp tánh không nhiễm lìa lỗi năm dục, nên thuận theo tu hành thi-ba-la-mật. Vì biết pháp tánh không khổ lìa sân não, nên thuận theo tu hành Sằn-đề-ba-lamật. Vì biết pháp tánh không có tướng thân tâm lìa biếng nhác, nên thuận theo tu hành Tỳ-lơi-da-Ba-la-mật. Vì biết pháp tánh thể thường định không loạn động, nên thuận theo tu hành thiền Ba-la-mật, vì biết pháp tánh thể sáng suốt lìa vô minh, nên thuận theo tu hành bát-nhã-ba-la-mật.

Nghĩa là: "Biết pháp tánh không san tham, v.v..." là nói lên hiểu sâu ở trên.

"Thuận theo tu hành, v.v..." là nói lên chỗ tu hành lìa tướng ở trên.

Nghĩa là tướng ba luân, vì từ giai vị Thập Hạnh trở lên, Bồ-tát được pháp không, thuận theo pháp giới tu hạnh sáu độ tức nương giải hạnh phát tâm. Vì cấu chướng trái chân, tu hành lìa chướng để thuận với Như. Ngoài ra văn khác rất dễ hiểu.

C3. Chứng phát tâm:

Có ba:

D1. Nói chung thể phát tâm.

D2. Nói về tướng phát tâm.

D3. Nói về đức thành tựu viên mãn.

D1. Nói chung Thể phát tâm:

Có ba:

E1. Nêu giai vị.

E2. Nói về hạnh thể, tức trí Căn bản.

E3. Nói về dụng cao siêu, tức trí Hậu đắc.

E1. Nêu địa vị:

Chứng phát tâm là từ tâm thanh tịnh địa, cho đến Bồ-tát ở giai vị rốt ráo, chứng được cảnh giới gì? Nghĩa là chân như, vì nương chuyển thức nói là cảnh giới, mà người chứng ngộ này không có cảnh giới, chỉ có trí chân như gọi là Pháp thân.

E2. Hạnh thể:

"Vì nương chuyển thức, v.v..." cảnh giới tức hiện thức, phải nương chuyển tướng mà khởi. Nhưng bổn trí chính lúc ngộ thật không có năng sở. Đâu thể được nói là làm cảnh giới. Nay chỉ đứng về mặt nghiệp thức chưa dứt trí Hậu đắc, nên chuyển thức, hiện thức vẫn còn. Tạm theo thức này nói chính trong lúc chứng ngộ quyết định có chân như làm cảnh sở chứng. Dùng trí Hậu đắc duyên ngược chính chứng ngộ cũng có hiện tương tự như cảnh, nên nói chuyển thức hiện, mà thật chân chứng năng sở bình đẳng, nên nói chỉ trí chân như gọi là Pháp thân.

E3. Dụng cao siêu của trí Hậu đắc, có bốn:

Thỉnh pháp là trên hết:

Có hai:

- Nói về thỉnh pháp và nói lên ý thỉnh kia. "Chỉ là", v.v... trở xuống.

- Nói về tùy căn cơ, đức nhiều ít "Hoặc chỉ bày" trở xuống.

Có hai:-Ít và Nhiều. Trong mỗi thứ lại có hai:

+ Nêu dụng và Nói về ý.

- Tổng kết. "Năng chỉ bày như thế"

Nghĩa là Bồ-tát trong khoảng một niệm có thể đến các thế giới ở mười phương không sót một phương nào để cúng dường chư Phật, thỉnh Phật xoay xe pháp. Chỉ vì khai mở dẫn dắt chúng sinh được lợi ích, chẳng nương văn tự, hoặc thị hiện chóng thành Chánh giác vượt khỏi địa vị, để vì chúng sinh yếu hèn, hoặc nói: Ta trong vô lượng atăng-kỳ kiếp sẽ thành Phật đạo. Vì chúng sinh biếng nhác cho nên hay thị hiện vô số phương tiện không thể nghĩ bàn như thế.

- Nói về hạnh thật chẳng khác đức. "Mà thật" trở xuống.

Mà thật Bồ-tát chủng tánh căn phát tâm thì đồng, chỗ chứng cũng đồng, không có pháp vượt hơn. Vì tất cả Bồ-tát đều trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp.

Trong đó chủng tánh đồng tức nhân đồng, phát tâm đồng tức hạnh đồng, chỗ chứng đồng tức chứng chân đồng. "Không có" trở xuống, là nói về thời gian đồng. "Chỉ tùy" trở xuống, là nói ứng cơ dụng đức khác.

Chỉ tùy theo chúng sinh ở các thế giới khác nhau, chỗ thấy chỗ nghe căn dục tánh khác nhau, cho nên thị hiện chỗ thực hành cũng khác nhau:

D2. Nói về Tướng phát tâm:

Có hai:

E1. Khen ngợi nêu số nhỏ nhiệm.

E2. Kể tên giải thích tướng.

E1. Khen ngợi nêu số nhỏ nhiệm:

Lại tướng phát tâm của Bồ-tát có ba tướng tâm nhỏ nhiệm, ba tướng ấy là:

Chân tâm không phân biệt.

Phương tiện tâm tự nhiên biến hành lợi ích chúng sinh. Nghiệp thức tâm nhỏ nhiệm khởi diệt. E2. Giải thích tướng:

"Chân tâm" là trí Căn bản vô phân biệt. "Phương tiện tâm" là trí Hậu đắc.

"Nghiệp thức" là hai trí, thức A-lại-da nương lý thật cũng có chuyển hiện, nay chỉ lược nêu tướng căn bản nhỏ nhiệm, đây chẳng phải đức phát tâm, chỉ nói lên Bồ-tát này lúc hai trí khởi, có lỗi sinh diệt nhỏ nhiệm, chẳng đồng với đức thuần tịnh của địa vị Phật, cho nên hợp thành tướng phát tâm.

Có hai:

E1. Chính hiển bày đức cao quý.

E2. Hỏi đáp dứt nghi.

E1. Nói về đức cao quý:

Có ba:

G1. Nói chung đức viên mãn để hiển bày vị. G2. Nói riêng đức viên mãn, "Nghĩa là do một niệm", v.v... trở xuống G3. Dứt nghi ngờ.

G1. Nói chung đức viên mãn:

Lại công đức thành tựu viên mãn này của Bồtát, ở chỗ sắc rốt ráo thị hiện thân rất cao lớn ở tất cả thế gian.

Nói "Lại công đức thành tựu viên mãn này của Bồ-tát", là tột cùng nhân vị, nên Địa Luận nói:

"1. Hiện báo lợi ích, là thọ địa vị Phật". Nói ở sắc rốt ráo, là quả vị hiển rõ. "2. Hậu báo lợi ích, là chỗ sinh trí của Ma-hê-thủ-la". Vì sao? Vì tha thọ dụng báo thân ở cõi trời này.

Nghĩa thứ nhất cho rằng: Do nương Thập Vương hiển bày riêng Thập địa. Nhưng Bồ-tát hàng Thập địa nương ở Thiên vương này, ngay thân kia thị hiện thành Bồ-đề, nên ở cõi trời kia. Ngoài ra các nghĩa như trong phần nói riêng.

Nghĩa là do một niệm tương ưng tuệ, vô minh chóng dứt gọi là trí Nhất thiết chủng, tự nhiên mà có nghiệp không thể nghĩ bàn, hiện khắp mười phương làm lợi ích chúng sinh.

G2. Nói riêng đức viên mãn:

Nói: "Một niệm, v.v..." là nói hạnh tự lợi viên mãn, tức nói lên chân tâm ở trên thành tựu. Nghĩa là một niệm Thỉ giác khi đến nguồn tâm khế hợp Bản giác, nên nói là tương ưng. Do vô minh dứt, nên chiếu soi rõ các pháp, gọi là trí Nhất thiết chủng. Cũng có thể "Một niệm tương ưng tuệ" ở trước Vô gián đạo, "trí Nhất thiết chủng trí" là đạo giải thoát.

"Tự nhiên" trở xuống, là đức lợi tha, nói lên tâm phương tiện ở trên, chẳng đợi công dụng. Lại cũng có thể ban đầu là tướng trí tịnh, sau là nghiệp tướng không thể nghĩ bàn, nên nói biển giác theo nhiễm thành tựu.

G3. Dứt nghi ngờ:

Có hai: Hỏi và Đáp. Hỏi có hai:

H1. Hỏi chủng trí ở trên.

H2. Hỏi nghiệp dụng tự nhiên ở trên.

H1. Hỏi chủng trí: Có hai: I 1. Hỏi I 2. Đáp.

Hỏi: Hư không vô biên nên thế giới vô biên. Thế giới vô biên nên chúng sinh vô biên. Chúng sinh vô biên nên tâm hành khác nhau cũng vô biên. Cảnh giới như thế không có giới hạn, khó biết khó hiểu. Nếu vô minh dứt không có tâm tưởng, làm sao rõ được danh từ trí nhất thiết chủng trí.

I 1. Hỏi có hai: Trình bày nghi: Nghĩa là tất cả hư không đều có thế giới, tất cả thế giới đều có chúng sinh, tất cả chúng sinh đều có tâm hành. Như thế giới hạn cảnh giới khó biết.

Đặt ra câu hỏi: "Nếu vô minh", v.v... trở xuống, hỏi rằng: Chẳng phải ngay giới hạn vô biên cảnh ngoại khó biết, cũng ở bên trong dứt tâm tưởng làm sao được rõ?

I 2. Đáp: Tất cả thế giới xưa nay nhất tâm lìa tưởng niệm.

Ý đáp rằng: Chỉ do bên trong dứt tâm vọng tưởng, bên ngoài sẽ biết rộng. Trong đây có ba:

K1. Lập chánh ý K2. Nêu phi để nói mất.

K3. Nêu thị để nói được.

K1. Lập chánh ý:

Nói: "Cảnh tuy vô biên" nhưng chẳng ngoài nhất tâm, đã chứng nguồn tâm sao không rõ được tức cảnh của tâm lìa vọng niệm, dứt tưởng niệm mới hay biết, nên nói tất cả cảnh giới.

Do chúng sinh vọng thấy cảnh giới, nên tâm có giới hạn. Do vọng khởi tưởng niệm, chẳng xứng pháp tánh, nên chẳng thể quyết rõ.

K2. Nêu phi để mất:

Có hai:-Cảnh vọng thấy có giới hạn.

Do vọng khởi tưởng. Giải thích thành nguyên do không thấy, tức nói có vọng thấy, nên có chỗ chẳng thấy.

Chư Phật Như Lai lìa tướng thấy, không chỗ nào chẳng trùm khắp.

Tâm chân thật tức là tánh tự thể của các pháp, hiển chiếu tất cả pháp vọng, có dụng đại trí vô lượng phương tiện, tùy theo chỗ ứng của chúng sinh mà được hiểu, đều mở bày các thứ pháp nghĩa, nên được gọi là trí nhất thiết chủng.

K3. Nêu thị để rõ được:

Nói "Lìa tướng thấy, không chỗ nào mà chẳng trùm khắp" là nói không có vọng kiến nên đều thấy.

Nói "Tâm chân thật tức là tánh của các pháp", là tâm Phật lìa vọng, thể một nguồn tâm, chẳng khác với vô thỉ, nên nói là "chân thật". Nhưng, bản giác này ở trong môn Sinh diệt là thể của pháp vọng, nên nói "các pháp tánh". Tất cả pháp vọng đều là tướng bản giác Phật tâm. Tướng đã hiện ở trên tự thể, do thể chiếu dụng kia, có gì khó rõ mà chẳng rõ biết, nên nói "tự thể hiển bày chiếu soi". Trong văn trên nói: Nói dụng báo hóa của Phật là ở trong tâm chúng sinh". Nay nói pháp vọng của chúng sinh thì ở trong tâm Phật. Bởi nguồn tâm không hai nên được như vậy. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Như tâm, Phật cũng thế, như Phật, chúng sinh cũng vậy" là nghĩa này.

Do đồng thể tri lực khởi phương tiện cao siêu, nhiếp hóa hữu tình, nên nói: "Có dụng đại trí, cho đến gọi là trí nhất thiết chủng".

E3. Hỏi, đáp dứt nghi:

Có hai: G1. Hỏi G2. Đáp.

G1. Hỏi có:-Trình bày nghi và đặt câu hỏi. "Thế nào", v.v... trở xuống.

Lại hỏi: Nếu chư Phật có nghiệp tự nhiên thì hiện tất cả sự lợi ích chúng sinh, tất cả chúng sinh hoặc thấy thân kia, hoặc biến, hoặc nghe kia nói đều được lợi ích. Vì sao thế gian phần nhiều không thấy được?

Đáp: chư Phật, Như Lai Pháp thân bình đẳng khắp tất cả chỗ, không có tác ý, mà nói tự nhiên. Chỉ nương chúng sinh hiện tâm chúng sinh. Giống như gương, nếu gương dính bụi thì sắc tượng không hiện. Cũng giống như thế, tâm chúng sinh có nhơ cấu thì Pháp thân không hiện.

G2. Đáp có: Pháp-Dụ-Hợp.

Do Pháp thân trùm khắp trong tâm chúng sinh, chỉ có căn cơ cảm ứng chán cầu, tức hiển bày dụng thô tế, chẳng phải do dụng công. Trong văn trên đã nói lên nghĩa này.

"Gương dính bụi" là nói căn cơ không cảm ứng với Phật, chẳng cho rằng phiền não hiện hành. Như Thiện Tinh trong tâm phiền não được thấy Phật.

Nói "Pháp thân chẳng hiện" là Pháp thân hay hiện dụng báo hóa. Nay y cứ cội gốc mà nói, nên nói Pháp thân chẳng hiện. Như mười hai thứ sâu xa trong Nhiếp Luận đều là đức của Pháp thân hiển bày sâu xa. Trong ấy nói: "Do mất nên Đức Thế tôn chẳng hiện, như trăng trong chậu bể".

Giải thích: Chư Phật ở thế gian chẳng hiển hiện mà thân chư Phật ở thế gian thường trụ. Vì sao không hiển hiện? Thí như trong chậu bể, không giữ nước được. Vì không giữ nước được nên trong chậu bể thật có mặt trăng mà chẳng hiển hiện được. Như thế, chúng sinh không tu Xa-ma-tha (Chỉ) trôi chảy nối nhau, chỉ có lỗi lầm nối nhau. Ở kia thật có chư Phật cũng không hiển hiện. Nước ví như Xa-ma-tha, tánh mềm mại trôi chảy. Trong đây nương theo định được thấy Phật. Thấy Phật là thời quá khứ phải tu tập Tam-muội niệm Phật, đời này mới được thấy thân Phật. Chẳng cho rằng đời này phải nương vào định tâm mới được thấy Phật. Vì trong tâm tán loạn cũng thấy Phật.

Trong Nhiếp Luận kia, đứng về tụ định làm nhân thời quá khứ, so với hiện tại. Trong luận này đứng về căn cơ thuần thục làm nhân, chẳng phải đứng về không có hoặc mà có những việc này.

Phần giải thích đã xong.

Chương IV. TU HÀNH TÍN TÂM

Từ trên đến đây nói Đại thừa, nay là nói về khởi tín. Có ba:

A1. Đứng về người mà nêu ý.

A2. Đứng về pháp mà nói rộng.

A3. Nói lên phương tiện phòng sự lui sụt.

Đã nói xong phần giải thích, kế là nói phần tu hành tín tâm, là do chúng sinh chưa nhập chánh định, nên nói tu hành tín tâm.

A1. Đứng về người mà nêu ý:

Nói "Theo người chưa nhập chánh định tu hành tín tâm là người thuộc nhóm Bất định, có hai:

Tu tín viên mãn: Vì họ nói phát thú đạo tướng khiến nhập chánh định, là người cao quý ở trước.

Tu tín chưa viên mãn: người thấp kém ở trước, tức mục đích của văn này. Dùng bốn tín, năm hạnh khiến kia tu hành, khiến lòng tin thành tựu viên mãn. Tin thành tựu viên mãn rồi, trở lại nương vào phát thú nhập chánh định.

A2. Đứng về pháp mà nói rộng:

Có hai:

B1. Hỏi hai câu. B2. Lại đáp hai câu.

B1. Hỏi hai câu:

Thế nào là tín tâm? Làm sao tu hành?

B2. Lại đáp hai câu:

C1. Nói về tín tâm, nghĩa là nêu số và giải thích

C2. Đáp trong phần tu hành

C1. Nói về tín tâm, nghĩa là nêu số và giải thích:

Giải thích: Có bốn thứ chẳng hoại tín tâm.

Lược nói tín tâm có bốn thứ, bốn thứ tín tâm là: Tin căn bản: Có chỗ cho rằng, Ưa niệm pháp chân như.

Trong phần đầu: Nói "Tín căn bản" là pháp chân như, là thầy của chư Phật, là nguồn cội sinh ra các hạnh, nên nói "căn bản"; chẳng phải ngay đây mới khởi tín tâm, cũng là ưa niệm quán sát, nên nói "ưa niệm".

Trong phần kế là: Đứng về cảnh cao quý của Tam bảo để khởi tín tâm. Trong Tam bảo, mỗi bảo có hai là: Nêu đức cao quý của tín, và Khởi nhân cao quý để nguyện cầu, y theo văn sẽ thấy.

Tin Phật có vô lượng công đức, thường nhớ nghĩ gần gũi, cúng dường cung kính, phát khởi gốc lành mong cầu trí Nhất thiết.

Tin Pháp có lợi ích, lớn thường nhớ nghĩ tu hành các ba-la-mật.

Tin Tăng hay chân chánh tu hành tự lợi lợi tha, thường ưa gần gũi chúng Bồ-tát, cầu học hạnh như thật.

C2. Đáp trong phần tu hành:

Có ba:

D1. Nêu số, nêu ý.

D2. Hỏi số nêu tên.

D3. Nương câu hỏi giải thích riêng.

D1. Nêu số:

Tu hành có năm môn giúp thành tựu tín tâm này.

Nói "Thành tựu tín tâm này" là có lòng tin mà không thực hành thì lòng tin không vững chắc, lòng tin không vững chắc thì gặp duyên liền lui sụt, nên tu năm hạnh để thành tựu bốn tín tâm, không để lui sụt. Năm môn là:

1. Thí môn. 2. Giới môn. 3. Nhẫn môn. 4. Tinh tấn môn. 5. Chỉ quán môn.

D2. Nêu tên:

Dùng chỉ quán hợp tu cùng vận hành mà chẳng hai, chỉ có năm môn.

D3. Giải thích riêng:

Có hai:

E1. Bốn hạnh là nói lược. E2. Một hạnh là nói rộng.

E1. Bốn hạnh:

Có hai:

G1. Trình bày tướng bốn hạnh.

G2. Riêng đứng về môn tinh tấn nói phương tiện dứt chướng.

G1. Trình bày tướng bốn hạnh, bốn môn là bốn phần:

Thế nào là tu hành Thí môn? Nếu thấy tất cả chúng sinh đến mong cầu, hễ có tài vật gì thì tùy khả năng mà bố thí, để tự xả bỏ tâm tham, khiến họ vui mừng. Nếu thấy ách nạn sợ hãi ép ngặt, theo sức mình kham nhận mà bố thí vô úy. Nếu có chúng sinh đến cầu pháp, theo sức mình đã hiểu, phương tiện vì họ nói, chẳng nên tham cầu danh lợi cung kính, chỉ nghĩ tự lợi lợi tha hồi hướng Bồđề.

Thí môn. Có ba thứ là: thí tài, thí Vô úy và thí Pháp, y theo văn sẽ thấy.

Thế nào là tu hành giới môn? Có chỗ cho là: Không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói hai lưỡi, không nói lời ác, không nói thêu dệt; lìa bỏ tham lam, ganh ghét, dối trá, cong vạy, sân nhuế, tà kiến. Như người xuất gia chiết phục các phiền não, cũng nên xa lìa chỗ ồn náo, thường ở nơi vắng vẻ, tu tập ít muốn biết đủ và hạnh đầu-đà, v.v... Cho đến tội nhỏ tâm cũng sinh sợ hãi hổ thẹn, cầu sám hối không được coi thường. Đối với giới cấm của Như Lai phải giữ gìn sự chê bai, không để cho chúng sinh vọng khởi tội lỗi. Giới môn. Có ba là:

- Giới nhiếp luật nghi

- Giới nhiếp thiện pháp. "Nếu xuất gia" trở xuống. Trong đây cho đến "tội nhỏ" trở xuống, là nói rõ tâm hộ trì giới.

- Giới nhiếp chúng sinh. "Phải giữ gìn sự chê bai" trở xuống.

Thế nào là tu hành Nhẫn môn? Có chỗ cho là nên nhẫn nhục tâm não hại của người, không có tâm trả thù, cũng nên nhẫn các pháp: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.

Nhẫn môn. Có hai:

- Nhẫn vì người khác không mong cầu có sự lợi ích.

- Nói về cảnh trái thuận tâm kia hỷ nộ bất động, an vui chịu đựng. "Cũng nên nhẫn", v.v... trở xuống.

+ Lợi là tài vật đem đến cho mình.

+ Suy là tổn hao lấn bức.

+ Hủy là vượt hơn lỗi để hủy nhục.

+ Dự là trội hơn đức mà khen ngợi.

+ Xưng là y nơi thật đức mà khen.

+ Cơ là y lỗi thật mà che bai.

+ Khổ là ép ngặt thân mình.

+ Lạc là tinh thần vui tươi.

Thế nào là tu hành Tinh tấn môn? Có chỗ cho là đối với các việc lành tâm không biếng nhác lui sụt, lập chí vững chắc, xa lìa yếu hèn, nên nhớ từ quá khứ lâu xa đến nay, luống thọ tất cả khổ lớn ở thân không có lợi ích, nên phải siêng năng tu các công đức, tự lợi lợi tha để chóng lìa các khổ.

Môn tinh tấn. Có ba:

- Siêng năng tinh tấn mạnh mẽ.

- Nói về khó hoại được tinh tấn. "Lập chí" trở xuống,

- Nói về không có tinh tấn. "Phải nhớ", v.v... trở xuống, Do nhớ mình lâu dài, luống chịu khổ lớn để tự mình siêng năng khích lệ tu điều lành không nhàm chán.

"Vì thế" trở xuống, là tổng kết Khuyến khích lợi ích tu hành.

G2. Trình bày phương tiện ngăn ngừa sự lui sụt:

Có hai:

H1. Chướng. H2. Đối trị.

H1. Chướng:

Lại nữa, nếu người tuy tu hành tín tâm, do từ đời trước đến nay, thường có tội nặng, có nghiệp gây ra chướng ngại nên bị tà ma ác quỉ làm cho phiền não, hoặc bị các việc thế gian trói buộc, hoặc bị bệnh khổ, nên có nhiều chướng ngại như thế.

- Nói bên trong có nghiệp chướng làm nhân.

- Nói bên ngoài chiêu cảm tà ma não loạn, là báo chướng.

H2. Đối trị:

Vì thế nên phải tinh tấn mạnh mẽ, ngày đêm siêng năng sáu thời lễ bái chư Phật, thành tâm quán tưởng sám hối, khuyến thỉnh tùy hỷ hồi hướng Bồđề, nên chẳng dừng bỏ mới khỏi các chướng, gốc lành thêm lớn.

"Sáu thời lễ bái..." là nói chung phương tiện dứt chướng, như người mắc nợ, cậy vào sức vua thì người chủ nợ không làm sao đòi được. Cũng thế, người tu hành lễ bái chư Phật, chư Phật che chở sẽ thoát khỏi các chướng. "Sám hối", v.v... trở xuống, là trừ riêng bốn chướng:

Các nghiệp ác làm chướng nên sám hối trừ diệt. Hủy báng chánh pháp làm chướng nên phải khuyến thỉnh trừ diệt.

Ganh tỵ vì người hơn mình làm chướng nên lấy tùy hỷ để đối trị. Ưa ba cõi làm chướng nên dùng hồi hướng để đối trị.

Do bốn chướng này làm cho người tu hành không phát khởi các hạnh, không hướng về Bồ-đề, cho nên tu bốn hạnh để đối trị.

Một câu đầu là đối trị nghiệp chướng dùng môn chỉ trì, ba câu sau là gốc lành lâu bền dùng môn tác trì.

E2. Môn Chỉ Quán: (Một hạnh là nói rộng) Có hai:

G1. Nương câu hỏi. G2. Giải thích tướng.

G2. Giải thích tướng:

Có hai:

H1. Lược nói. H2. Nói rộng.

H1. Lược:

Có ba: Chỉ.-Quán và thuận cả hai.

Thế nào là tu hành môn Chỉ Quán? Cái gọi chỉ là dừng tất cả tướng cảnh giới, thuận theo nghĩa Xa-ma-tha quán.

"Dừng tất cả tướng cảnh giới" là trước do phân biệt tạo các trần bên ngoài, nay dùng giác tuệ đạo lý duy thức phá tướng các trần bên ngoài, tướng trần đã dừng thì không còn phân biệt, nên nói là Chỉ. Đây là phương tiện.

"Thuận Xa-ma-tha, v.v..." chính trình bày về Chỉ. Xa-ma-tha, Hán dịch là Chỉ. Đứng về phương tiện nên còn ngôn ngữ của xứ này, đứng về chánh chỉ còn là tiếng Phạn. Tỳ-bà-xá-na cũng giống như thế. Lúc dùng cả hai đều hiện tiền mới gọi là Chỉ quán. Nay chỉ nói thuận theo. Cái gọi là Quán, nghĩa là phân biệt tướng nhân duyên sinh diệt, thuận theo nghĩa Tỳ-bà-xá-na quán.

"Phân biệt tướng sinh diệt" là nương vào môn Sinh diệt quán sát pháp tướng, nên nói là phân biệt. Như phẩm Bồ-tát Địa trong luận Du-già nói: "Bồtát ở đây tức đối với các pháp không hề phân biệt", nên biết gọi là Chỉ.

Nếu đối với các pháp thắng nghĩa lý thú và an lập vô lượng lý thú, trí tuệ mầu nhiệm của thế tục gọi là Quán. Biết nương môn Chân như dừng các cảnh tướng không phân biệt, tức thành trí căn bản vô phân biệt. Nương môn Sinh diệt phân biệt các tướng, quán các lý thú tức thành trí hậu đắc. Nhưng hai môn này chỉ nhất tâm, cho nên vận dụng cả hai mới được gọi là chánh Chỉ quán.

"Thế nào?", v.v... trở xuống, là giải thích nghĩa Thuận cả hai.

Thế nào là thuận theo? Vì hai nghĩa này dần dần tu tập không xa lìa nhau, cả hai hiện tiền. "Dần dần tu tập" là nói lên phương tiện hay tùy thuận.

"Cả hai hiện tiền" là nói Chỉ quán thuận theo, tướng thuận theo mà luận.

Chỉ gọi là Định, Quán gọi là Tuệ. Thật ra mà nói thì định chung cho cả Chỉ quán, tuệ cũng như thế. Như Nhiếp Luận dịch vào đời Lương chép: "Thập ba-la-mật chung cho cả hai thể là: Chẳng tán loạn làm thể, nghĩa là chỉ định; và Chẳng điên đảo làm thể, nghĩa là quán tuệ".

H2 Rộng:

Có ba: I 1. Chỉ.-I 2. Quán-I 3. Song vận.

I 1. Chỉ:

Có năm:

K1. Phương pháp tu Chỉ.

K2. Nói về công năng cao siêu của Chỉ.

K3. Nói về việc ma.

K4. Phân biệt ngụy khác chân.

K5. Chỉ bày khuyến tu lợi ích.

K1. Phương pháp tu Chỉ:

Có hai:

L1. Người cao siêu sẽ có thể vào được L2. Vì có chướng nên không được.

L1. Người cao siêu sẽ vào được:

Có hai:

M1. Nhờ phương tiện vắng lặng dứt tâm tu

Chỉ.

M2. Nói về Chỉ thành tựu được định, trừ chướng không lui sụt.

"Tu tập lâu được thuần thục" trở xuống.

M1. Nhờ phương tiện vắng lặng dứt tâm tu Chỉ:

Có hai:

N1. Theo duyên bên ngoài.

N2. Nội tâm an tịnh.

N1. Theo duyên bên ngoài:

Nếu người tu Chỉ ở chỗ an tĩnh, nhiếp niệm ngồi thẳng.

"Ở chỗ an tĩnh" là duyên tu Chỉ, nói đầy đủ có năm duyên:

+ Ở chỗ an tĩnh vắng vẻ, nghĩa là ở núi rừng và các nơi an tịnh.

Nếu ở trong xóm làng sẽ bị ồn náo.

+ Giữ giới thanh tịnh, nghĩa là lìa nghiệp chướng. Nếu không thanh tịnh thì phải sám hối.

+ Y phục, ăn uống đầy đủ.

+ Gặp được thiện tri thức.

+ Dứt các duyên.

Nay lược nêu phần đầu nói là chỗ an tĩnh. "Ngồi thẳng" là điều phục thân kia. "Nhiếp niệm" là điều phục tâm kia. Điều phục thân là trước ở chỗ vắng ngồi yên, để được an ổn lâu không ngăn ngại.

Kế là ngồi ngay ngắn hoặc ngồi kiết già, hoặc ngồi bán già. Nếu ngồi kiết già trước đặt chân trái lên đùi phải, kéo sát gần thân, khiến ngón chân ngang với đùa. Kế đến đặt chân phải lên đùi trái, kê khăn cho thẳng đều, không để khi ngồi bị lệch lạc. Kế là đặt tay trái lên tay phải, chồng tay lên nhau đặt trên lòng bàn chân, kéo sát gần thân, tâm được an. Kế là nhiếp niệm, trước lay động thân kia, khai các chi tiết làm bảy hoặc tám lần, như tự xoa bóp, cũng chớ để tay chân lệch chỗ khác, vững mình ngồi thẳng cho xương sống cân đối, chớ cong chớ quá thẳng. Kế đến đầu cổ khiến mũi và rốn cân đối, không nghiêng không lệch, không cúi không ngửa, mặt mũi chánh trụ. Kế là đặt lưỡi lên ổ gà, mắt vừa khép, không nhắm hoàn toàn. Rộng như Thiền sư Trí Khải nói trong Chỉ Quán hai quyển, thuộc tông Thiên Thai. Nay lược nói chung, nên nói là ngồi thẳng.

"Điều tâm" là người tu hành đời mạt pháp, người chánh nguyện thì ít, người cầu tà thì nhiều, dối hiện nghi thức vắng lặng. Nếu cầu danh lợi, tâm đã không chánh, thì không do đâu được định. Lìa cầu tà này nên nói nhiếp niệm. Ý muốn cho tâm quán kia tương ưng với lý, tự độ độ tha đến đạo Vô thượng, gọi là Nhiếp niệm.

Từ trên đến đây là nói chung nghi thức tu Chỉ.

N2. Nội tâm tự an Từ đây trở xuống là nói về tu Chỉ:

Có hai:

O1. Theo ngồi tu Chỉ.

O2. Theo oai nghi tu Chỉ.

O1. Ngồi tu chỉ:

Có hai:

- Lìa cảnh điên đảo.

- Dứt tâm vọng tưởng. Lìa cảnh điên đảo:

Chẳng nương hơi thở, chẳng nương hình sắc, chẳng nương hư không, chẳng nương đất nước gió lửa, cho đến không nương sự thấy nghe hiểu biết. Tất cả tưởng theo niệm đều dứt, cũng dẹp ý tưởng dứt. Do tất cả pháp xưa nay không tướng, niệm niệm chẳng sinh, niệm niệm chẳng diệt.

Nói "Chẳng nương hơi thở" là cảnh quán sổ tức.

"Hình sắc" là nương bốn tướng xương xanh, vàng, đỏ, trắng. "Năm tướng hư không, đất, nước..." đều là cảnh giới của định duyên.

"Thấy nghe hiểu biết" là thức nhất thiết xứ, chung ở trước thành mười nhất thiết xứ. Cũng có thể là thấy nghe, v.v... là nêu lúc tán tâm chấp sáu trần, đối với các trần này tìm cầu được thấu đạt. Biết chỉ tự tâm, không nhờ duyên nên nói chẳng nương.

Dứt tâm vọng tưởng nương cảnh điên đảo ở trước:

Sinh tâm cũng dẹp nên nói tất cả các tưởng theo niệm đều dứt. Bị trừ đã xong thì cái năng trừ cũng không lập, rõ ràng được vắng lặng mới gọi là Chỉ. Nên nói cũng dẹp luôn tưởng trừ. Vì sao? Vì tất cả tâm tưởng năng trừ sở trừ đều chẳng còn.

Giải thích: Vì tất cả pháp xưa nay không tưởng, nay muốn thuận theo pháp tánh nên phải như vậy.

"Niệm niệm chẳng sinh diệt, v.v..." là chuyển qua giải thích lý do pháp tánh vô tướng, bởi tưởng không có tự tánh, xét đến cùng là không, nên tự thể không sinh diệt để được. Đây tức sinh mà không sinh, tức diệt mà không diệt, như nước sóng nắng vốn tự khô.

Cũng thường chẳng được theo ngoài tâm nhớ nghĩ cảnh giới, sau dùng tâm trừ tâm, nếu tâm rong ruổi tán loạn, thì phải nhiếp trụ ở chánh niệm, chánh niệm này nên biết chỉ duy tâm không có cảnh giới bên ngoài. Ngay tâm này cũng không có tự tướng, niệm niệm không thật có.

"Cũng không được theo tâm" cho đến "dùng tâm trừ tâm", nếu ngoài tâm có cảnh thật, lúc tâm duyên cảnh này đè nén không để duyên cũng không được, nên sau dùng tâm trừ tâm. Nay ngoài tâm đã không có trần, thì chỗ chấp không tướng, chỗ chấp không tướng, cái hay chấp tự nhiên chẳng sinh, đâu nhọc sau lấy tâm mới được trừ.

"Nếu tâm rong ruổi tán loạn, thì nhiếp trụ chánh niệm", lúc mới tập có nhiều rong ruổi, cho nên khiến nhiếp chánh trụ. Cái gì chánh niệm mà nói khiến trụ? Nghĩa là duy tâm không có cảnh ngoài, vọng cảnh đã không duy tâm cũng vắng lặng, nên nói "ngay cả tâm này cũng không tự tướng, niệm niệm không thật có".

O2. Theo oai nghi tu Chỉ:

Từ chỗ ngồi đứng dậy, qua lại, tiến dừng, tất cả động tác ở bất cứ lúc nào, thường nhớ phương tiện thuận theo quán sát.

"Từ chỗ ngồi đứng dậy" cho đến "thuận theo quán sát", chẳng phải ngay lúc ngồi thường tu chỉ này, mà trong tất cả oai nghi khác, trong bất cứ lúc nào cũng thường suy tư phương tiện, thuận theo nơi đạo lý pháp tánh bất động.

M1. Chỉ thành tựu được định:

Có ba câu:

Tu tập từ lâu thuần thục tâm kia được trụ, do tâm trụ nên dần dần nhạy bén thuận theo, được vào Tam-muội chân như, hàng phục sâu phiền não tín tâm thêm lớn, mau được chẳng lui sụt.

- Chỉ thành tựu

- Nói về sắc chỉ giúp tâm, tâm nhạy bén được tịnh. "Do tâm trụ, v.v..." trở xuống,

- Nói phá mê lầm được vào địa vị, tức tín viên mãn được nhập trụ, lược biện lợi ích của định. "Hàng phục sâu phiền não", v.v... trở xuống,

Từ trên đến đây là nói có thể vào, sau đây nói chẳng thể vào.

L2. Vì chướng nên không được:

Chỉ trừ những người nghi ngờ chẳng tin, phỉ báng, tội nặng, nghiệp chướng, ngã mạn, biếng nhác. Những người như thế không thể vào được.

Có sáu chướng nên không vào được: Nghi ngờ là đối với lý còn do dự.

Người chẳng tin là xiển-đề. Người phỉ báng là ngoại đạo.

Tội nặng nghiệp chướng là người phạm năm tội nghịch, bốn tội trọng.

Ngã mạn là cậy mình tự cao.

Biếng nhác là buông lung, không siêng năng.

Trong sáu thứ này, người nào vướng một thứ cũng không được vào.

K2. Nói về Công năng cao quý của Chỉ:

Có hai:

- Sinh ra Tam-muội và nhất hạnh.

- Sinh vô lượng Tam-muội. "Nên biết", v.v... trở xuống.

Lại nữa, nương Tam-muội này thì biết được nhất tướng pháp giới.

Nghĩa là tất cả Pháp thân chư Phật, cùng thân chúng sinh bình đẳng không hai, tức gọi là Tammuội Nhất hạnh. Nên biết chân như là căn bản Tam-muội, nếu người tu hành thì dần dần sẽ sinh vô lượng Tam-muội.

Hay sinh ra Tam-muội nhất hạnh: Có ba:

- Lập:

- Giải thích, nêu bày tướng kia. "Nghĩa là tất cả", v.v... trở xuống.

- Nêu bày tên kia. "Tức gọi", v.v... trở xuống.

"Tam-muội nhất hạnh, như phẩm Văn-thù kinh Bát-nhã nói: "Thế nào gọi là Tam-muội Nhất hạnh? Phật dạy nhất tướng pháp giới duyên với pháp giới, gọi là Tam-muội Nhất hạnh". Vào Tammuội Nhất hạnh là biết tất cả Hằng xa pháp giới chư Phật không có tướng khác nhau, cho đến nói rộng, vì Tam-muội chân như này sinh ra vô lượng Tam-muội như thế, gọi là Tam-muội căn bản.

K3. Nói về việc ma:

Có hai: L1. Lược. L2. Rộng.

L1. Lược:

Có hai: M1. Chướng. M2. Đối trị.

M1. Chướng:

Hoặc có chúng sinh không có năng lực gốc lành, bị các ma ngoại đạo, quỷ thần làm hoặc loạn. Nếu trong lúc ngồi hiện hình làm cho sợ hãi, hoặc hiện các tướng nam nữ đẹp đẽ.

Ma là ma trời, Hán dịch là chướng ngại. Quỷ là quỷ đôi dịch, thần là thần tinh mị. Các quỷ thần như thế nhiễu loạn Phật pháp, khiến vào đường tà, nên gọi là ngoại đạo. Ba loài như thế biến tạo ra ba thứ, năm trần phá hoại tâm lành của người.

"Ở nơi chỗ ngồi hiện hình làm cho sợ hãi" là thị hiện thân đáng sợ làm cho sợ hãi để thất chí.

"Hoặc nam nữ đẹp đẽ" là hiện hình dáng đáng yêu làm mê hoặc để sinh nhiễm.

"Các tướng" là hiện năm trần chẳng trái chẳng thuận bình đẳng, động loạn tâm người.

M2. Đối trị:

"Nên nhớ" trở xuống là thứ lớp nói về Đối trị:

Nên nhớ cảnh giới duy tâm thì diệt, không hề bị não loạn.

Tất cả các cảnh còn chỉ ở nơi tâm, huống chi trong lúc ngồi mà hiện các cảnh này ư! Nên quán sát duy tâm, cảnh ma diệt theo, không thể não loạn, vì duy tâm này chẳng phải chỗ biết của ma. Đây là pháp dẹp chung, môn dẹp riêng để đối trị các ma, nên tụng Bát-nhã Đại thừa và thầm tụng chú trị ma. "Quỷ Đôi dịch" hoặc như trùng kiến bám vào đầu mặt người, châm chích, hoặc đánh đập hai bên hông người trở xuống, ôm giữ nơi người. Hoặc nói những âm thanh ồn náo và tạo các hình thú, tướng lạ chẳng phải một, đến khuấy rối hành giả, thì nên nhắm mắt nhất tâm thầm quở mắng, nói rằng: "Nay ta biết ngươi, ngươi la loại ăn mùi hôi thối trộm thịt cá trong cõi Diêm-phù-đề, tà kiến ưa phá các giới, nay ta trì giới không hề sợ ngươi". Nếu người xuất gia nên tụng giới luật, nếu người tại gia nên tụng giới bổn Bồ-tát, hoặc tụng ba quy y, năm giới cấm, quỷ liền bỏ đi.

"Thần tinh mị" nghĩa là đi tuần mười hai thời, hay biến các thứ hình sắc, hoặc hiện tướng nam nữ trẻ, hoặc hiện hình người già và thân tướng đáng sợ. Chẳng phải một mà rất nhiều, đến khuấy rối hành giả, kia muốn não loạn người, đúng giờ sẽ đến. Nếu phần nhiều đến vào giờ dần thì đó là loài hổ dữ, nếu thường đến vào giờ mão thì đó là thỏ nai, cho đến thường đến vào giờ sửu thì đó là loài trâu. Hành giả thường dụng công phu giờ này thì biết tinh mị kia đi tuần, gọi tên chúng quở trách, thì chúng liền biến mất. Những thứ này đều như trong thiền kinh và Chỉ Quán của Thiền sư Trí Khải có nói rộng.

Từ trên đến đây lược nói đã xong.

L2. Nói rộng về việc ma:

Có hai:

M1. Hiển bày việc ma.

M2. Nói về đối trị: "Vì nghĩa này", v.v... trở xuống,

M1. Hiển bày việc ma:

Có: Mười việc và Năm đối.

Hiện hình nói pháp:

"Hoặc khiến người", v.v... trở xuống, được khởi biện chung. "Lại khiến người", v.v... trở xuống, là khởi hoặc tạo nghiệp. "Cũng khiến cho người", v.v... trở xuống, lãnh thọ định được thiền. "Hoặc khiến người ăn không phần hạn", v.v... trở xuống, thọ thực nhan sắc thay đổi.

Hoặc hiện hình trời, hình Bồ-tát, cũng tạo hình Như Lai, tướng tốt đầy đủ. Hoặc nói đà-la-ni, hoặc nói bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Hoặc nói bình đẳng không, vô tướng, vô nguyện, vô oán, vô thân, vô nhân, vô quả, rốt ráo vắng lặng là chân Niết-bàn. Hoặc khiến người biết việc túc mạng thời quá khứ, cũng biết việc vị lai được tha tâm trí, biện tài vô ngại, làm cho chúng sinh tham đắm việc danh lợi thế gian. Lại khiến người lúc sân, lúc hỷ tánh bất thường, hoặc nặng về từ ái, ngủ nhiều, bệnh nhiều, tâm biếng nhác. Hoặc mới khởi tinh tấn, sau liền dừng bỏ sinh tâm bất tín, thường nghi thường lo. Hoặc xả bỏ hạnh cao quý ở trước, lại tu tạp nghiệp. Nếu đắm trước việc thế gian, các thứ lôi kéo trói buộc, cũng khiến người được các Tam-muội, chút phần tương tự, đều là chỗ được của ngoại đạo, chẳng phải Tammuội chân thật, hoặc lại khiến người một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, trụ trong định, được ăn uống thức thơm ngon tự nhiên, thân tâm khoan khoái, không đói không khát, khiến người ưa đắm. Hoặc cũng làm cho ăn không phần hạn, chợt nhiều chợt ít, nhan sắc thay đổi.

Y theo văn sẽ thấy.

Hỏi: Như hiện hình Phật, Bồ-tát nói pháp sâu xa, hoặc là gốc lành đời trước phát khởi. Làm sao phân biệt được tà hay chánh?

Đáp: Việc này thật khó. Vì sao? Nếu là việc làm của ma cho là tướng lành mà tâm chấp trước thì rơi vào lưới tà, nếu là cảnh giới gốc lành phát khởi cho là việc ma, nên tâm nghi xa lìa thì lui sụt gốc lành, không bao giờ tiến thú được. Thế nên, tà chánh thật khó phân biệt. Nay lại y theo người xưa tương truyền lược dùng ba pháp để nghiệm.

1. Dùng định nghiền ngẫm. 2. Nương tu xưa mà đối trị.

3. Dùng trí tuệ quán sát.

Như kinh nói: "Muốn biết vàng ròng nên dùng ba pháp để thử. Nghĩa là đốt, đập, mài". Người tu hành cũng như thế, khó có thể phân biệt biết được. Nếu muốn phân biệt cũng phải dùng ba pháp để nghiệm.

Nên cùng cộng sự, cộng sự chẳng biết thì nên ở chung, ở chung cũng chẳng biết thì nên dùng trí huệ quán sát. Nay mượn ý này để nghiệm tà chánh, như cảnh tướng trong định khi phát khởi thì tà chánh khó biết, nên vào sâu tâm định, ở trong cảnh kia chẳng lấy chẳng bỏ, chỉ trụ định bình đẳng. Nếu là chỗ phát khởi của gốc lành thì sức định càng sâu, gốc lành càng phát khởi. Nếu do ma làm ra thì chẳng bao lâu sẽ tự hoại.

Nương vào tu xưa để đối trị, như tu xưa là thiền quán bất tịnh, nay nương theo xưa tu quán bất tịnh, nếu tu như thế mà cảnh giới càng sáng thì chẳng luống dối, nếu dùng tu xưa đối trị mà dần dần hoại diệt, thì nên biết là tà.

Dùng trí tuệ quán sát, quán chỗ tướng phát khởi suy nghiệm cội nguồn chẳng thấy chỗ sinh, biết sâu vắng lặng tâm không mê đắm, tà sẽ tự diệt, chánh sẽ tự hiện. Như đốt vàng ròng sắc kia càng sáng, nếu là vàng giả thì sẽ tan hoại. Trong đây thật giả nên biết cũng giống như thế. Định ví như mài, tu xưa đối trị cũng như đập, trí tuệ quán sát cũng như đốt. Dùng ba pháp này để nghiệm thì sẽ biết được tà, chánh.

Vì nghĩa này nên hành giả thường phải dùng trí tuệ quán sát, chớ để cho tâm này rơi vào lưới tà, phải siêng năng chánh niệm chẳng chấp, chẳng mê đắm, thì sẽ xa lìa các nghiệp chướng này.

M2. Đối trị:

"Trí tuệ quán sát", là nương giác tuệ tùy phần của mình, quán các việc ma xét mà đối trị. Nếu không quán sát thì rơi vào đường tà, nên nói chớ để rơi vào lưới tà. Đây là nghiệm phần thứ ba trí tuệ quán sát trong ba thứ.

"Phải siêng năng chánh niệm chẳng chấp chẳng mê đắm là nói chung hai pháp trước trong ba pháp. Dùng môn Chỉ của Đại thừa này tu lý mà định lại không có hướng khác. Phần đầu là nghiền ngẫm định đều nương tu xưa, lại không có pháp khác, do đó hợp pháp để nói, vì nương môn Chỉ xưa.

"Không chấp, không mê đắm": là tà chẳng liên can với chánh, tự nhiên tan biến. Nếu chấp trước thì trái chánh mà vào tà, nếu không chấp trước thì do tà mà hiển chánh. Cho nên phân chia tà chánh quan trọng ở chỗ mê đắm hay không mê đắm. Không mê đắm thì không chướng không lìa, nên nói xa lìa các nghiệp chướng. Như luận Trí Độ chép: "Trừ thật tướng các pháp kia ra, các loại khác đều là việc ma. Kệ rằng:

Nếu phân biệt nhớ tưởng

Tức là lưới của ma

Chẳng động chẳng phân biệt Đây tức là pháp ấn.

Chính là nghĩa này vậy.

K4. Phân biệt ngụy khác chân:

Có hai:

L1. Nêu hai thứ định trong và ngoài để phân biệt tà chánh.

L2. Đối với hai định lý và sự để nói chân ngụy.

"Nếu các phàm phu", v.v... trở xuống,

L1. Nêu hai thứ định trong và ngoài để phân biệt tà chánh:

Nói về Tà định:

Nên biết Tam-muội của ngoại đạo, đều chẳng lìa tâm ái kiến, ngã mạn, tham đắm danh lợi cung kính ở thế gian.

Nghĩa là sử ngã kiến, ngã ái, ngã mạn khiến thường tương ưng. Nói: "Tham, v.v..." là bên trong mê đắm tà định, bên ngoài tham danh lợi. Lại tất cả thiền định không thể giảm bớt phiền não, đều không thể y cứ.

Nói về Chánh định.

Chân như Tam-muội chẳng trụ tướng thấy, chẳng trụ tướng được, cho đến xuất định cũng không biếng nhác, tất cả phiền não dần đần cạn mỏng.

Nghĩa là khi ở định mà không mê đắm vị, do quên tâm nên không trụ chỗ thấy, do quên cảnh nên không trụ chỗ được. Xuất định cũng không kiêu mạn, nhờ vào định nên tham sân si dần mỏng, tức là tướng chánh định, nên nói "chân như" cho đến "dần mỏng".

L2. Đối với hai định lý và sự để chân ngụy:

Nói về Lý định:

Nếu các phàm phu không tu tập pháp Tammuội này, mà được vào chủng tánh của Như Lai thì không có việc đó.

Nghĩa là hành giả Bồ-tát tu Đại thừa, phải nương Tam-muội chân như này mới vào chủng tánh trong địa vị bất thoái. Trừ đây không còn con đường nào để vào, nên nói: "Nếu các phàm phu" cho đến "không có việc đó".

Trong đây chủng tánh là đứng về địa vị không lui sụt của hàng Thập Trụ trở lên mà biện.

Nói về Sự định. "Do tu thế gian, v.v..." trở xuống.

Do tu các thiền Tam-muội thế gian, phần nhiều sinh đắm trước vị, nương vào ngã kiến, lệ thuộc hai cõi, cùng chung với ngoại đạo. Nếu lìa chỗ hộ trì của thiện tri thức thì khởi kiến chấp ngoại đạo.

Nghĩa là các định bốn thiền, bốn không, v.v... của thế gian và bất tịnh an ban. Nêu định chấp cảnh tướng đều gọi là định thế gian. Càng định đắm trước vị nên chẳng lìa ngã, nên nói: "cùng chung với ngoại đạo. Cùng là đồng được sự định này. Do kia cùng nên nếu được năng lực giúp đỡ của bạn lành hoặc có thể được vào Phật pháp. Nếu lìa bạn lành thì vào đường tà.

K2. Chỉ bày khuyến tu lợi ích:

Đời sau lợi ích vô lượng vô biên, hiện đời cũng được lợi ích. Lược trình bày mười thứ.

Có hai:-Giải thích riêng:

Nêu chung: Lại nữa, tinh tấn siêng năng tu học Tam-muội này, hiện đời sẽ được mười thứ lợi ích, mười thứ là:

Giải thích riêng:

1. Thường được chư Phật, Bồ-tát hộ niệm.

Bạn lành được lợi ích nhiếp hộ: Do tu Tammuội Chân như này, mà được pháp chư Phật, Bồtát hộ niệm, được tinh tấn mạnh mẽ, không lui sụt. Có bốn câu được lợi ích lìa chướng:

Hai câu đầu là lìa chướng duyên ác bên ngoài. Chẳng bị các ma quỷ ác làm cho sợ hãi.

Không bị chín mươi lăm thứ ngoại đạo, quỷ thần làm hoặc loạn. Nghĩa là ban đầu lìa ma trời hiện hình, sau lìa ngoại đạo tà hoặc. Hai câu kế là lìa nghiệp chướng mê lầm bên trong.

Xa lìa phỉ báng pháp sâu xa, tội nặng nghiệp chướng dần dần cạn mỏng.

Dứt tất cả nghi và các ác giác quán.

Nghĩa là trước lìa nghiệp ác, sau diệt hoặc chướng.

Trong phần Nghiệp: "Lìa phỉ báng, v.v..." là không khởi nghiệp mới. "Tội nặng dần dần cạn mỏng" là nghiệp nặng được nhẹ. Kế là Năm hạnh thành tựu vững chắc:

Đối với cảnh giới của các Như Lai lòng tin được thêm lớn.

Xa lìa lo buồn hối hận, đối với sinh tử mạnh mẽ không yếu đuối. Tâm kia nhu hòa, xả bỏ kiêu mạn, không làm người khác phiền não.

Tuy chưa được định, nhưng bất cứ lúc nào, đối với tất cả cảnh giới làm tổn giảm phiền não, không ưa thích thế gian.

Nếu được Tam-muội, không bị tất cả âm thanh duyên bên ngoài làm kinh động.

Đối với lý lòng tin thêm vững chắc.

Đối với nhiễm không yếu hèn.

Không bị duyên làm hoại.

Không thấm nhuần vị thế gian.

Được vào sâu thiền định.

Tu riêng môn Chỉ đã xong.

L 2. Quán:

Có ba:

K1. Nói rõ ý tu quán.

K2. Nói về tướng Quán.

K3. Tổng kết phần hạn Quán. "Chỉ trừ", v.v... trở xuống.

K1. Nói về ý tu Quán:

Lại nữa, nếu người chỉ tu môn Chỉ thì tâm chìm lặng, hoặc khởi biếng nhác không ưa các điều lành, xa lìa đại bi, cho nên phải tu quán. "Chẳng tu các điều lành" là mất phần tự lợi, "Xa lìa đại bi" là mất phần lợi tha.

K2. Nói về tướng quán:

Có bốn:

L1. Quán pháp tướng, tức đối trị lỗi mất phần tự lợi ở trước.

L2. Quán đại bi, tức đối trị lỗi mất phần lợi tha ở trước, "như thế phải niệm", v.v... trở xuống,

L3. Quán nguyện lớn, tức thành tựu hạnh đại bi ở trước. "Suy nghĩ như thế", v.v... trở xuống

L4. Quán tinh tấn, tức thành hạnh tự lợi ở trước. "Do khởi như thế", v.v... trở xuống, là nói rõ

L1. Quán pháp tướng là nói bốn thứ chẳng phải thường quán:

Người tu tập quán là nên quán tất cả pháp hữu vi ở thế gian không được bền lâu, phút chốc biến hoại, tất cả tâm hành niệm niệm sinh diệt. Do khổ nên quán các pháp nhớ nghĩ quá khứ, chợt thấy như mộng. Nên quán các pháp nhớ nghĩ hiện tại giống như điện chớp. Nên quán các pháp nhớ nghĩ vị lai như mây bất chợt khởi.

Quán vô thường:

Quán khổ. "Tất cả tâm hành", v.v... trở xuống.

Quán vô ngã. "Nên quán", v.v... trở xuống. Trong đây quá khứ không có tự thể nên khó truy tìm, hiện tại sát-na không trụ, vị lai vốn không chứa nhóm, chỉ duyên hợp mà chợt có, không từ mười phương đến.

Nên quán tất cả có thân ở thế gian đều là các thứ nhơ uế bất tịnh, không một vật gì đúng ưa thích.

Quán bất tịnh. "Nên quán thế gian", v.v... trở xuống, là nói Trừ bốn thứ điên đảo thường, lạc, ngã, tịnh, phối hợp giải thích rất dễ hiểu.

L2. Quán đại bi:

Như thế nên niệm tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay đều do vô minh huân tập, khiến tâm sinh diệt, vì thọ tất cả khổ lớn nơi thân tâm, hiện tại có vô lượng ép ngặt, chỗ khổ ở đời vị lai cũng không phần hạn, khó bỏ khó lìa mà chẳng hay biết, chúng sinh như thế thật đáng thương xót.

Trước quán khổ lớn trong ba đời của chúng sinh.

Kế là "Khó bỏ", v.v... trở xuống, không có tâm nhàm chán chống trái nên khiến cho khổ vô hạn.

Sau cùng "Chúng sinh như thế", v.v... trở xuống, là phát sâu tâm đại bi.

L3. Quán đại nguyện là nhân bi lập nguyện:

Suy nghĩ như thế liền nên mạnh mẽ lập thệ nguyện rộng lớn, nguyện khiến tâm ta lìa phân biệt, nên trùm khắp mười phương tu hành tất cả các công đức lành, tận đời vị lai dùng vô lượng phương tiện nhổ tất cả gốc khổ cho chúng sinh, khiến được vui Niết-bàn đệ nhất nghĩa.

- Thệ nguyện.

- Tâm lâu dài. "Trùm khắp", v.v... trở xuống

- Tâm rộng lớn. "Dùng vô lượng", v.v... trở xuống

- Tâm đệ nhất. "Khiến được", v.v... trở xuống L4. Quán tinh tấn có thể thấy:

Do khởi nguyện như thế nên bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu các việc tu hành tùy khả năng gánh vác không bỏ, tâm tu học không biếng nhác, chỉ trừ lúc ngồi chuyên niệm tu Chỉ.

K3. Tổng kết ở trên:

Ngoài ra, tất cả phải quán sát nên làm hay không nên làm. Thuận lý thì nên làm, trái lý thì không nên làm.

Từ trên đến đây tu riêng Chỉ Quán đã xong.

I 3. Song vận (Chỉ quán đồng hành):

Từ trên đến đây mới tu chưa thuần thục nên tu riêng động tĩnh.

Nay định tuệ tu thành tựu nên có thể song vận.

Có ba:

K1. Nêu chung.

K2. Nói riêng.

K3. Tổng kết.

K1. Nêu chung:

Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc thức đều nên tu Chỉ quán đồng hành.

K2. Nói riêng:

Có hai:

L1. Theo pháp nói về đồng hành.

L2. Đối trị chướng nói về đồng hành.

L1. Theo pháp nói về đồng hành:

Có hai:-Ngay nơi Chỉ mà Quán, ngay nơi Quán mà Chỉ.

Nghĩa là tuy nhớ nghĩ các pháp tự tánh chẳng sinh, mà lại nhớ nghĩ nhân duyên hòa hợp nghiệp thiện ác, quả báo khổ vui không mất, không hoại. Tuy nhớ nghĩ nhân duyên quả báo thiện ác, mà ngay cả tánh niệm cũng không thật có.

Ban đầu nói "Tự tánh không sinh" là theo nghĩa chẳng thật có để nói về Chỉ.

"Nghiệp quả chẳng mất" là theo nghĩa chẳng phải không để nói về Quán.

Ở đây hai mà chẳng hai nên nói là tức, đây thuận chẳng động mé chân mà kiến lập các pháp. Bởi chẳng có tức là chẳng không, có thể không xả Chỉ mà tu Quán.

Kế là nói "Tuy nhớ nghĩ nhân duyên tức tánh không thật có" là nói ngay nơi Quán mà Chỉ. Đây thuận chẳng hoại giả danh mà nói thật tướng các pháp, vì chẳng phải không tức chẳng phải có, có thể chẳng xả Quán mà tu Chỉ. Đây lúc nói có trước sau, nhưng tại tâm hành dung chứa không hai, tánh chẳng hai tức là thật tánh. Lý vị ở đây nên phải suy nghĩ.

L2. Đối trị chướng nói về đồng hành:

Nếu tu Chỉ để đối trị chấp trước thế gian của phàm phu, hay xả kiến chấp yếu kém của Nhị thừa. Tu Chỉ để đối trị hai lỗi, nghĩa là chính đối trị hai chấp tham ưa thế gian về nhân và pháp của phàm phu, gồm đối trị chấp của Nhị thừa về pháp năm ấm và thấy khổ sinh sợ, dùng môn Chỉ vô sinh nên trừ chấp này.

Nếu người tu quán để đối trị lỗi tâm hạn hẹp, chẳng khởi đại bi của người Nhị thừa, xa lìa phàm phu chẳng tu gốc lành.

Tu Quán cũng đối trị hai lỗi, nghĩa là chính đối trị tâm hạn hẹp của người Nhị thừa, khiến quán khắp chúng sinh mà khởi đại bi, gồm đối trị tâm biếng nhác của phàm phu khiến quán vô thường, sách tấn tu hạnh lành.

Vì nghĩa này cho nên hai môn Chỉ Quán cùng giúp đỡ lẫn nhau, thành tựu không hề xa lìa. Nếu Chỉ Quán không đầy đủ thì không thể vào con đường Bồ-đề.

K3. Tổng kết:

"Giúp nhau thành tựu, v.v..." như người phàm phu chẳng phải không ưa thế gian mà không siêng tu hạnh lành. Người Nhị thừa chẳng phải không sợ sinh tử mà không khởi tâm đại bi, cho nên hai hạnh không lìa nhau.

"Chỉ Quán chẳng đủ thì không thể vào hạnh Bồ-đề" là Chỉ Quán cần nhau như hai cánh của con chim, hoặc như hai bánh của chiếc xe, nếu không đầy đủ thì không có công năng chuyên chở, thiếu một cánh thì chim không thể bay lượn giữa hư không được. Nên nói không đủ thì không thể vào (con đường bồ đề).

A3. Nói về phương tiện ngăn ngừa sự lui sụt:

Từ đây v.v... trở xuống.

Có hai:

B1. Nói người có thể lui sụt.

B2. Nói rõ phương pháp ngăn ngừa lui sụt:

"Nên biết Như Lai", v.v... trở xuống.

B1. Nói người có thể lui sụt:

Có hai:

- Nêu hạnh thấp kém.

Nêu chỗ giải thích thành tựu. "Do trụ ở đây v.v... trở xuống,

Lại nữa, chúng sinh mới học pháp này muốn cầu chánh tín mà tâm kia yếu hèn, do trụ ở thế giới Ta-bà này, tự sợ không thể thường gặp chư Phật đích thân kính thờ cúng dường, lo sợ là ý tín tâm không thể thành tựu.

Muốn lui sụt là tâm kia yếu hèn, bên ngoài thiếu duyên cao quý, tin hạnh khó thành nên muốn lui sụt.

B2. Nói về phương pháp ngăn ngừa sự lui sụt:

Có hai:

- Nêu chung Thánh ý:

- Riêng dẫn chứng kinh.

Trong phần nêu thánh ý có hai là: Nêu phương tiện khéo léo của Thánh, và "Nghĩa là do chuyển ý", v.v... trở xuống, là giải thích tướng khéo léo.

Nên biết Như Lai có phương tiện cao siêu nhiếp giữ tín tâm. Nghĩa là do chuyên ý nhân duyên niệm Phật, tùy nguyện được sinh về cõi Phật ở phương khác, thường thấy Phật, lìa hẳn đường ác.

Dẫn chứng kinh: Có hai là:

- Trước dẫn chứng kinh.

Giải thích văn kinh: "Thường thấy Phật", v.v... trở xuống.

Như kinh nói: "Nếu người chuyên niệm Phật A-Di-đà ở thế giới Cực Lạc phương Tây, tu các gốc lành hồi hướng nguyện cầu sinh về thế giới kia, liền được vãng sinh thường thấy Phật, nên không bao giờ lui sụt. Nếu quán Pháp thân chân như của Phật kia, thường siêng tu tập, rốt ráo được sinh trụ chánh định.

"Nếu quán Pháp thân được rốt ráo vãng sinh, v.v..." là nếu người vãng sinh, về địa vị có ba:

Như hoa sen lúc chưa nở, là tín hạnh chưa viên mãn, chưa được không lui sụt. Nhưng vì gặp duyên không lui sụt, nên nói là không lui sụt.

Địa vị tín viên mãn trở đi, như hoa sen nở được thấy Phật, vào địa vị Thập trụ, được thấy chút phần Pháp thân, trụ địa vị Chánh định.

Địa vị Tam hiền viên mãn nhập Sơ địa trở đi, chứng Pháp thân cùng khắp, sinh về cõi Phật vô biên. Như Phật thọ ký cho Bồ-tát Long Thọ trụ Sơ địa, sinh về cõi Tịnh độ.

Trong đây, chỗ rốt ráo là hai địa vị sau.

Chương V. KHUYẾN TU LỢI ÍCH:

Đã nói phần tu hành tín tâm, kế đến nói phần khuyến tu lợi ích.

Như thế Đại thừa bí tạng của chư Phật, ta đã nói xong.

Có ba:

A1. Tổng kết: Như trước nói.

A2. Nêu lên kính tin và phỉ báng có tổn giảm, lợi ích. "Nếu có chúng sinh" trở xuống,

A3. Tổng kết khuyến tu. "Nên biết quá khứ", v.v... trở xuống.

A2. Kính tin và phỉ báng:

Có hai:

B1. Tin thọ phước cao siêu.

B2. Nói phỉ báng tội nặng, "Có chúng sinh", v.v... trở xuống.

B1. Tín nhiệm phước cao quý:

Đứng về mặt ba tuệ nêu chung lợi ích kia.

Nếu có chúng sinh muốn ở cảnh giới sâu xa của Như Lai được sinh chánh tín, xa lìa phỉ báng, vào đạo Đại thừa, nên trì luận này, nhớ nghĩ tu tập, rốt ráo đến được đạo vô thượng.

"Nếu người nghe", v.v... trở xuống, là hiển bày riêng tướng ba tuệ được lợi ích.

Khi nghe được lợi ích:

Nếu người nghe pháp này rồi không sinh tâm yếu đuối, nên biết người này chắc chắn nối tiếp hạt giống Phật, được chư Phật thọ ký.

"Nếu có người", v.v... trở xuống, là nói tư duy được lợi ích.

Nếu có người giáo hóa chúng sinh khắp trong Tam Thiên đại thiên thế giới khiến thực hành mười điều lành, chẳng bằng có người trong một bữa ăn tư duy đứng về pháp này, đây vượt hơn công đức ở trước, không thể ví dụ được.

"Lại nữa, nếu người", v.v... trở xuống, là nói khi tu hành được lợi ích ở trong ba câu:

+ Thời gian ít mà công đức nhiều

+ So sánh tướng nhiều, "dù khiến, v.v..." trở xuống.

+ Giải thích lý do của tướng nhiều. "Vì sao", v.v... trở xuống.

Lại nữa, nếu người thọ trì luận này quán sát tu hành, trong khoảng một ngày một đêm, có công đức vô lượng vô biên không thể nói được. Dù cho tất cả chư Phật trong mười phương, mỗi vị ở một phương khen ngợi công đức kia trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp cũng không thể cùng tận. Vì sao? Vì công đức pháp tánh không cùng tận, nên công đức của người này cũng giống như thế, không có bờ mé.

B2. Phỉ báng thành tội nặng.

Có bốn:

Nếu chúng sinh đối với luận này phỉ báng chẳng tin, bị tội báo trải qua vô lương kiếp chịu khổ não dữ dội.

Câu 1: Phỉ báng thành tội nặng.

Cho nên chúng sinh chỉ nên kính tín, không nên phỉ báng.

Câu 2: Khuyên nhắc dừng phỉ báng. "Cho nên", v.v... trở xuống.

Bởi tự hại rất sâu, cũng hại người khác, người này mất tất cả hạt giống Tam bảo.

Câu 3: Ý giải thích về tội nặng. "Bởi tự hại rất sâu", v.v... trở xuống.

Vì tất cả Như Lai đều nương pháp này mà được Niết-bàn, tất cả Bồ-tát do đây tu hành mà nhập trí Phật.

Câu 4: Chuyển giải thích nghĩa đoạn Tam bảo. "Vì tất cả Như Lai", v.v... trở xuống.

Trong hai câu sau, câu đầu là quả của người được Niết-bàn, câu sau là nhân của người được Bồđề. Bồ-đề, Niết-bàn tức là Pháp bảo. Phật và tăng thì phải biết. Vì phỉ báng trái với đây nên gọi là đoạn Tam bảo.

Nên biết Bồ-tát thời quá khứ đã nương pháp này mà được thành tịnh tín, Bồ-tát ở hiện tại đang nương pháp này được thành tịnh tín, Bồ-tát thời vị lai sẽ nương pháp này mà được thành tịnh tín. Cho nên chúng sinh phải siêng tu học.

A3. Tổng kết:

Khuyến là khuyến khích tu hành, Bồ-tát trong ba đời đồng thực hành pháp này, không còn có con đường nào khác. Cho nên phải siêng tu học.

Xong phần chánh tông.

PHẦN LƯU THÔNG

Chư Phật sâu xa nghĩa rộng lớn,

Nay ta thuận theo nói tổng trì,

Hồi hướng công đức như pháp tánh, Lợi ích khắp cả cõi chúng sinh.

Bài kệ trong phần lưu thông, hai câu đầu là tổng kết những điều nói trên. Trong hai câu đầu này, câu trên là tổng kết nghĩa, câu dưới là tổng kết văn. Hai câu sau là lợi ích hồi hướng, trong hai câu sau này, câu đầu nói về đức rộng lớn, câu sau là nhuần thấm khắp cả.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Luận Sớ][Mục lục tổng quát]