TẠNG LUẬN
SỐ 1850 - ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN LIỆT VÕNG SỚ
(SỚ GIẢI XÉ LƯỚI MÊ CHẤP LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN)
Sa-môn, Ngẫu Ích Trí Húc ở Linh Phong soạn
ĐOẠN 1. NÓI VỀ Ý NGHĨA QUY KÍNH
Đạo của Phật Tổ dùng tâm truyền tâm, Bồ-tát soạn luận để thông hiểu kinh, cũng chỉ vì một việc lớn này, nên nói rằng tìm khắp mười phương cũng không có việc gì khác. Cho dù phải nói loanh quanh để dẫn dụ chúng sinh dần dần, nói các thứ đạo, từ Thật bày Quyền; ví như ba thứ cỏ, hai thứ cây, sự thấm nhuần khác nhau mà nước mưa vốn chỉ một vị, nên nói như ăn đường phèn trong ngoài đều ngọt. Lại nói lời thô lời tế đều quy về nghĩa Đệ nhất, đâu nên dính mắc văn tự mà quên mất ý chỉ. Ôi! Chấp ngang danh tướng là chia chẻ hư không ư?
Vả lại, như Đức Phật Di-lặc, "Tích" thì ở Bổ xứ, "Bổn" khó nghĩ bàn. Tổ Vô Trước, Thiên Thân đã là bậc trợ giúp cho hội Long Hoa thì đâu khác Văn-thù, Phổ Hiền. Cho đến tổ Mã Minh, Long
Thọ đều thuộc những vị được chính miệng vàng thọ ký, truyền thừa tâm tông thì chỗ soạn thuật chắc chắn không chống trái nhau. Những giảng sư đời sau vội phán đoán bừa là, Luận Duy Thức của Thiên Thân là Thỉ giáo lập tướng, còn Trung Luận của Long Thọ là Thỉ giáo phá tướng, Luận Khởi Tín của Mã Minh là Đốn giáo và Chung giáo, tất cả đều chưa phải là Viên giáo. Than ôi! Đó cũng chẳng phải là suy nghĩ kỹ.
Phàm tông Du-già của Thiên Thân mà lập Duy Thức, đầu tiên dùng Duy Thức để phá chấp Ngã và chấp Pháp, sau đó nói thức cũng như huyễn chẳng có thật, nên cũng được gọi là Luận phá sắc tâm. Nay lại cho đó là giáo lý lập tướng, có thể như thế ư?!
Tổ Long Thọ y theo Bát-nhã sâu xa dẹp sạch tình chấp bốn tánh để hiển bày pháp tánh, nên nói muốn đầy đủ tất cả Phật pháp phải học Bát-nhã. Lại nói, nếu chẳng có KHÔNG này thì tất cả đều không thể tạo thành, vì có nghĩa KHÔNG nên tất cả đều được thành tựu. Ngày nay lại cho đây là giáo lý phá tướng, có thể như thế ư?!
Tổ Mã Minh dùng môn Nhất Tâm Chân Như để hiển bày Bát-nhã sâu xa là nói theo trí, dùng môn Nhất Tâm Sinh Diệt hiển bày tám thức Dugià là nói theo tình. Chân Như tức Nhất Chân Pháp giới, thống nhất sự lý để chấm dứt sự lý. Sinh diệt tức là Sư, do toàn Lý làm thành, toàn Sự là Lý Vô Tánh. Hai môn không lìa Nhất Tâm thì không có một sinh diệt nào mà chẳng phải toàn thể chân như, không có một chân như nào mà không có đầy đủ sinh diệt, tức Sự Sự Vô Ngại pháp giới. Nay lại cho rằng khác Duy Thức, Trung Luận, vẫn chẳng phải là Viên giáo Nhất thừa, có thể như thế ư?!
Huống chi trong kinh luận đều nói chân như và tất cả pháp giống như nước và sóng, chẳng phải một, chẳng phải khác. Thật chứng đầy đủ ngay hiện tại, đâu thể chấp nhận thiên chấp. Vì nếu nói cố định là một thì chân như không có sinh diệt, lẽ ra tất cả pháp cũng không sinh diệt, hoặc tất cả pháp sinh diệt thì chân như lẽ ra cũng sinh diệt, cố nhiên là không thể được.
Nếu nói cố định là Khác thì chân như chẳng phải là thật tánh của tất cả pháp, đáng lẽ phải ở ngoài tất cả pháp, có phương hướng riêng, không thường không đổi, thật không thể được! Cho nên Luận Đại Thừa Khởi Tín gọi đó là Thọ huân Chân Như. Ví như khi xúc chạm sóng tức là xúc chạm nước, cho nên phá chấp cố định là KHÁC. Lúc đầu không hề nói Chân như tùy Sự huân tập mà chuyển biến.
Duy Thức cho rằng Chân như không bị huân tập, nghĩa là ví như sóng động, tánh ướt không động, cho nên phá chấp cố định là một. Lúc đầu không hề nói riêng có Chân như lặng lẽ.
(Luận Duy Thức nói: Không giống các tông phái khác, lìa sắc, tâm. v.v... thật có một pháp thường hằng gọi là Chân như; lại nói Chân như là thật tánh của Duy thức. Trên văn tự rõ ràng như thế, người sau mới dùng Chân như lặng lẽ để vu báng Duy thức, còn tội lỗi nào bằng?).
Cho nên Duy Thức gọi là Chân, cho nên tướng không thay đổi, tức là môn Nhất Tâm Chân Như của Khởi Tín. Duy Thức gọi là Tục cho nên có tướng khác nhau, tức là môn Nhất Tâm Sinh Diệt của Khởi Tín.
Kinh Lăng-già nói các thức có ba tướng là: Chuyển tướng, Nghiệp tướng và Chân tướng. Tông Cảnh giải thích khởi tâm là chuyển tướng vì tám thức đều sinh khởi, đều có sinh diệt nên gọi là chuyển tướng. Động là nghiệp, tám thức đều động nên gọi tất cả là Nghiệp tướng. Chân tánh của tám thức đều gọi là Chân tướng. Từ đây mà quán thì Khởi Tín, Duy Thức đều là tông chỉ của Lăng-già. Thật là rõ ràng.
Tông chỉ căn bản đã giống nhau thì các danh nghĩa tự nó chẳng chống trái nhau. Chính các nhà chú giải không thể dùng nghĩa định danh, đã sai lầm y danh định nghĩa, đến nỗi khiến cho hai bộ luận chống trái nhau như nước với lửa, có thể chẳng buồn hay sao?
Luận Đại Thừa Khởi Tín này, trong tạng có hai bản, một bản do ngài Chân Đế đời Lương dịch, một bản do Thật-xoa-nan-đà đời Đường dịch. Đối chiếu hai bản dịch thì bản đời Đường văn rõ ràng, nghĩa xuôi thuận, nhưng từ xưa nay lưu thông bản đời Lương. Lòng riêng chẳng dám tự chuyên nên kính nhờ chư Phật quyết định qua cách bốc thăm. Bốc được cái thăm bản dịch đời Đường, bèn lấy một chút ánh sáng khe vách, mổ xẻ hết mê chấp của hai tông, nên gọi là Liệt Võng Sớ, tức sớ giải để xé lưới mê chấp.
Viết xong ngày 18 tháng 10 năm Quý Tỵ.
-----------------------------------------
SỚ GIẢI
Chia làm hai:
Phần 1. GIẢI ĐỀ KINH
Phần 2. GIẢI VĂN KINH
Luận Đại thừa khởi tín. (Bồ-tát Mã Minh soạn luận
Tam Tạng Pháp sư đời Đường Thật-xoa-nanđà dịch)
Năm chữ đề mục gồm có bốn chữ riêng và một chữ chung. Nói lược thì có ba lớp năng sở.
Luận Đại Thừa Khởi Tín giống như nói Khởi Đại Thừa Tín, tức bốn chữ của đề mục riêng, chữ Luận là đề mục chung.
Nói có ba lớp năng sở. Đó là:
Luận là năng khởi, Đại thừa tín là sở khởi. Tín là năng tín, Đại thừa là sở tín.
Đại là năng phân biệt, Thừa là cái được phân biệt. Ở đây chia ba phần để giải thích:
A1. Giải thích Đại thừa.
A2. Giải thích khởi tín.
A3. Giải thích chữ Luận.
A1. Giải thích Đại Thừa: Chia làm hai:
B1. Phân tích giải thích.
B2. Tổng hợp giải thích.
B1. Phân tích giải thích: Chia làm hai:
C1. Giải thích chữ Đại.
C2. Giải thích chữ Thừa.
C1. Giải thích chữ Đại:
Không gì ngoài nó, nên gượng nói là Đại, tức chỉ thẳng tâm tánh hiện tiền của chúng sinh. Pháp này đầy đủ ba ý nghĩa Thể đại, Tướng đại, Dụng đại, nghĩa là:
Tâm hiện tiền này tùy duyên bất biến, toàn thể Chân như nên gọi là Thể đại. Tất cả vọng thức đều ở trong Thể chân, vốn đầy đủ các thứ công đức xứng tánh nhiều như số cát sông Hằng, nơi phàm không bớt ở Thánh không thêm nên gọi là Tướng đại. Thể tướng của tâm tánh này tùy duyên không đổi, sinh ra mười cõi tùy nhân quả nhiễm hay tịnh. Người thông đạt được lý duyên sinh vô tánh này, thì sẽ đổi nhiễm thành tịnh, gọi là Dụng đại.
Gọi là Thể, thì ngoài Thể không có tướng dụng riêng, như ngoài chỗ ẩm ướt không có nước và sóng riêng, cho nên Thể dứt bặt đối đãi. Gọi là
Tướng, thì ngoài Tướng không có Thể Dụng riêng, như ngoài nước không có sóng và tánh ướt riêng cho nên Tướng dứt bặt đối đãi. Gọi là Dụng, thì ngoài dụng không có Thể Tướng riêng, như ngoài sóng không có nước và tánh ướt riêng, cho nên Dụng dứt bặt đối đãi. Ba đại như thế chẳng phải Một, chẳng phải Khác, không thể nghĩ bàn, chỉ là Nhất tâm, nên nói là Đại.
C2. Giải thích chữ Thừa:
Theo dụ đặt tên, có nghĩa là vận tải, chuyên chở, tức chỉ thẳng Tâm tánh hiện tiền của chúng sinh. Vì pháp này chuyên chở đến Phật địa, tự lợi lợi tha không dừng nghỉ nên gọi là Thừa.
Tâm tánh Thể đại tức là Lý Đại thừa, vì suốt từ xưa đến nay thường không biến đổi, tâm tánh tướng Đại chính là Tùy thừa, vì không lìa không thoát nên thường tương ưng, tâm tánh Dụng Đại tức là Đắc thừa, vì như ma Chuyển Luân bảy báo được thành tựu tự tại.
Tánh đủ ba Đại gọi chung là Lý thừa. Vì không có ba thể, chiếu tánh thành tu, khi tu ba tánh gọi chung là Tùy thừa. Vì thuận theo pháp tánh, từ nhân chế phục quả, ba đại ở quả gọi chung là Đắc thừa. Vì rất tự tại, tánh tu không hai, nhân quả không hai nên gọi tâm tánh hiện tiền này là Thừa, chính là chiếc xe.
Phần đầu phân tích giải thích đã xong.
B2. Tổng hợp giải thích:
Tuy tâm tánh hiện tiền của chúng sinh tức là chiếc xe lớn (Đại thừa) không thể nghĩ bàn, nhưng do nhân duyên mê ngộ, huân tập nhiễm tịnh mà có mười pháp giới khác nhau, nghĩa là nếu mê Nhất tâm này mà khởi mười điều ác thuộc kiến hoặc, tư hoặc thì sẽ chở chúng sinh vào ba đường ác, gọi là xe gãy, lừa què. Nếu biết sợ ba đường khổ, tu mười điều lành và các thứ thiền Định Sắc và Vô Sắc thì sẽ chuyên chở chúng sinh đến ba đường lành.
Nếu lại sợ khổ ba cõi, tu học Giới Định Tuệ xuất thế gian, vĩnh viễn thoát vòng khổ, thì chở chúng sinh đến thành Niết-bàn, gọi là xe dê. Nếu biết mười hai nhân duyên vốn không có tự tánh, Thể kia vốn Không, dứt trừ hẳn Hoặc, Nghiệp, Khổ thì cũng chuyên chở chúng sinh vào thành Niết-bàn. Tuy thiếu đại bi mà vẫn làm ruộng phước tăng thượng cho chúng sinh, gọi là Xe Nai. Nếu thường nghĩ mình và người đều ở trong cõi khổ, có chí nguyện thường muốn cứu giúp họ, đầy đủ đại bi, phát khởi nguyện lớn, hay chuyên chở khắp tất cả chúng sinh, hướng dần đến Niết-bàn vô thượng, gọi là Xe Trâu. Nếu biết rõ tâm tánh hiện tiền này tức Đại thừa (là cỗ xe lớn) không thể nghĩ bàn, quán sâu tâm động tức không sinh diệt thì được vào cửa Chân như. Ban đầu từ danh tự chuyển thành quán hạnh, cho đến công đức rốt ráo chở mình đã xong, chở người không dừng nghỉ, gọi là Xe Trâu Trắng lớn.
Nay nói Đại thừa chính là chỉ xe Trâu Trắng lớn, vì muốn phân biệt chẳng phải ba xe ngoài cửa. Lại nữa, tất cả chúng sinh tuy mê tâm tánh này, toàn thể là xe lừa gãy và ba thứ xe v.v… nhưng tâm tánh tùy duyên không thay đổi này không hề chẳng tức là Đại thừa rốt ráo. Ví như vàng ròng, tuy sử dụng làm các bình đựng đồ nhơ bẩn và các món tạp nhạp, mà bản chất vàng chẳng đổi, lúc nào cũng vẫn quý giá. Nếu biết thể tánh của bình nhơ tức vàng ròng, thì ngay nơi bình nhơ liền được diệu dụng của vàng ròng. Cho nên ánh sáng chiếu đến ngục A-tỳ, mau chóng vượt qua Thập địa không khó. Buông dao giết mổ liền là một Đức Phật trong ngàn Đức Phật, chim Anh Vũ niệm Phật, thiêu được xá-lợi, hạc trắng nghe kinh chuyển thân sau thành Tổ, nên chỉ thẳng tâm tánh của tất cả chúng sinh mê vọng này chính là Đại Thừa.
Trước đã dùng Đại loại bỏ Tiểu là nói theo đối đãi, cũng chính là ý nghĩa của sinh diệt. Sau đó tức Tiểu là Đại là nói theo dứt bặt đối đãi, cũng tức là ý nghĩa của Chân Như.
Tâm hiện tiền của tất cả chúng sinh, pháp này có đủ cả hai môn vì không lìa nhau, nên gọi là Đại thừa.
Phần đầu đã giải thích xong hai chữ Đại Thừa.
A2. Giải thích hai chữ Khởi Tín:
Có hai đoạn:
B1. Phân tích giải thích.
B2. Tổng hợp giải thích.
B1. Phân tích giải thích: Chia làm hai:
C1. Giải thích chữ Khởi.
C2. Giải thích chữ Tín.
C1. Giải thích chữ Khởi:
Hỏi: Tất cả các pháp chẳng sinh chẳng khởi, sao lại nói là khởi?
Đáp: Tánh các pháp chẳng khởi, cũng không có chẳng khởi. Nếu chỉ nói khởi thì mất nghĩa môn Chân như, nếu chỉ nói chẳng khởi thì mất nghĩa môn Sinh diệt, nếu nói vừa khởi vừa không khởi thì chống trái lẫn nhau, nếu nói chẳng phải khởi chẳng phải không khởi thì thành nói suông, nên biết bốn trường hợp đều không thể nói.
Nếu không rơi vào tình chấp, thuận theo bốn Tất-đàn thì vì có nhân duyên cũng có thể nói được. Nay nói Khởi, chính là chẳng phải khởi chẳng phải không khởi mà luận khởi. Vì sao? Nhất Tâm dứt bặt đối đãi vốn không có năng tín khác sở tín, nhưng mê Nhất tâm này thì khởi vô lượng nghi ngờ, như nước thành băng, chuyển mê hoặc này bèn khởi lòng tin chân chánh thường hằng tràn đầy, như băng tan lại thành nước. Tuy phân ra mê ngộ mà một tánh bất động, cho nên chẳng khởi; Tánh không thêm bớt, mê ngộ rõ ràng, nên chẳng phải không khởi. Cho nên khởi tức không khởi, không khởi mà khởi. Theo luận khởi này, đây là chỗ mầu nhiệm!
Bởi vì tuy khởi lòng tin mạnh mẽ vẫn chỉ một tâm, vẫn không có năng tín và sở tín khác nhau; không có năng sở mà có năng có sở; năng sở đều tức pháp giới Nhất tâm, như đèn chiếu sáng trở lại chiếu sáng đèn. Cho nên nói, tự tâm khởi lòng tin trở lại tin tự tâm. Đây là pháp môn Tánh Khởi vô thượng.
C2. Giải thích chữ Tín:
Theo Luận Duy Thức, trong các tâm sở thiện, Tín đứng đầu, nghĩa là Thật đức có công năng kham nhẫn dục lạc một cách sâu sắc; Thể tánh là tâm thanh tịnh, đối trị bất tín, nghiệp là ưa thích điều thiện.
Giải thích rằng: Tin có nhiều mức độ khác nhau, tóm lược có ba loại:
- Tin có thật, nghĩa là đối với sự lý chân thật của các pháp tin nhận sâu xa.
- Tin có đức, nghĩa là đối với hai thứ Chân đức và Tịnh đức, tin và ưa thích sâu xa.
- Tin có năng lực, nghĩa là đối với tất cả pháp lành thế gian và xuất thế gian vì tin sâu rằng nó có năng lực làm cho được quả báo an vui, được thành Phật đạo, nên sinh tâm hy vọng. Do đây mà đối trị với tâm bất tín kia, ưa thích chứng đắc nên tu các điều lành thế gian và xuất thế gian.
Nay trong luận nói, Tin có bốn thứ:
Lòng tin căn bản, nghĩa là vì ưa nghĩ nhớ đến pháp Chân Như.
Tin Phật có vô biên công đức, nghĩa là thường ưa kính lễ, cúng dường, nghe pháp tu hành, vì hồi hướng Trí Nhất Thiết.
Tin Pháp có lợi ích lớn, nghĩa là vì thường ưa tu hành các pháp Ba-la-mật.
Tin Tăng đức hạnh chân chánh, nghĩa là vì thường cúng dường các chúng Bồ-tát tu hạnh tự lợi lợi tha.
Nên biết trong Luận Duy Thức, thứ nhất tin có thật, tức đồng với lòng tin căn bản thứ nhất trong luận này.
Trong Luận Duy Thức, thứ hai là tin có đức, thứ ba là tin có năng lực, tức khế hợp với niềm tin thứ hai, thứ ba và thứ tư trong luận này.
Lại nữa, Luận Duy Thức chép, tâm sở Tín này có tự tánh trong lặng, cũng làm trong sạch các tâm và tâm sở khác, như viên ngọc lóng nước có thể làm nước đục thành trong.
Lại nữa, các pháp nhiễm ô, mỗi pháp có tướng khác nhau. Chỉ có Bất tín tướng nhơ đục, sẽ làm nhơ các tâm, tâm sở khác, như vật quá nhơ bẩn tự làm nhơ chính nó và làm nhơ vật khác. Tin chuyển đổi Bất Tín, lấy thanh tịnh làm tướng.
Bởi vì tánh của Như Lai tàng bất biến tùy duyên, toàn thể trở thành tất cả tâm vương, tâm sở, mà tất cả tâm vương, tâm sở này đều tùy duyên bất biến, mỗi tâm đều là toàn thể Như Lai tạng tánh.
Cho nên chữ Tín này, tuy phân biệt về mặt Tục đế chẳng qua chỉ là một tâm sở thiện, mà thật ra chính là toàn thể tạng tánh, chứ chẳng phải là một phần nhỏ của Tạng tánh.
Lại nữa, tuy tất cả các Tâm sở nhiễm ô cũng đều là toàn thể tạng tánh, vì trái ngược với tánh nên có nhiều lầm lỗi, ví như vàng ròng làm bình đựng đồ nhơ không thể cầm chơi. Chỉ có lòng Tin này vì thuận theo Tạng tánh nên có nhiều công đức, ví như vàng ròng làm mão vua Chuyển Luân, càng tăng thêm sự tôn quý. Cho nên hễ có TÍN TÂM thì tất cả pháp lành đều tương ưng.
Phần đầu phân tích, giải thích đã xong.
B2. Tổng hợp giải thích:
Pháp môn Tánh khởi tuy không thể nghĩ bàn, mà nhân duyên sinh diệt thì chẳng phải một loại.
Hoặc tin các kiến chấp tà đảo, khởi hoặc tạo nghiệp, thì đối với chánh pháp gọi là bất tín. Hoặc khởi lòng tin nhân quả thế gian thì thành tựu mười điều lành, định Sắc và Vô Sắc của trời, người, gọi là thiện hữu lậu. Hoặc khởi lòng tin đối với bốn Đế, mười hai nhân duyên, thành tựu pháp môn Nhị thừa xuất thế gian, gọi là thiện vô lậu. Hoặc đối với sáu độ, bốn nhiếp, quả Đại Bồ-đề Vô Thượng Niếtbàn khởi tin, thì thành tựu pháp môn tự lợi lợi tha của Bồ-tát, gọi là Thiện trung đạo. Hoặc đối với tâm tánh hiện tiền là Đại thừa không thể nghĩ bàn, dứt bặt đối đãi khởi niềm tin, thì thành tựu pháp môn Viên Đốn vô thượng, gọi là Thiện Nhất thừa.
Nay chính là khởi lòng tin Nhất thừa không thể nghĩ bàn này, nên gọi là khởi lòng tin nối tiếp làm hưng thạnh hạt giống Phật.
Lại nữa, trong mỗi giáo môn đều nói Tin, Hiểu, Tu, Chứng, nay chỉ nói khởi lòng tin, chẳng nói khởi Hiểu Tu Chứng nghĩa là, Tin là pháp giới, tất cả pháp đều hướng về, vì lìa niềm Tin sẽ không có Hiểu, Tu, Chứng riêng biệt. Nghĩa là tất cả chúng sinh tuy không tin màu lý Đại Thừa của tự tâm, lại khởi nghi ngờ tạo nghiệp, nhưng tánh của Tín tâm không hề giảm bớt, như nước đóng thành băng tánh ướt vẫn không đổi. Đây gọi là Lý tức khởi tín. Nếu theo luận này thì biết tâm tánh hiện tiền tức là Đại thừa, đây gọi là Khởi Danh Tự Tín. Nếu quán sát tâm tánh này trong từng niệm, biết niệm kia tức là vô niệm.
Vô niệm, không khởi các hoặc Vô minh điên đảo, đây gọi là Khởi Quán Hạnh tín. Nếu sống hồn nhiên tiêu trừ nhiễm thô, giữ sáu căn thanh tịnh, đây gọi là Khởi Tương Tự Tín. Nếu nhập chánh vị, từ quả vị Tịnh Tâm đến quả vị Bồ-tát rốt ráo, đây gọi là Khởi Phần Chứng Tín. Nếu vượt qua quả vị Bồ-tát, dứt hẳn sự phân biệt nhỏ nhiệm một cách rốt ráo, tâm tánh căn bản thường trụ hiện tiền, đây gọi là Khởi Cứu Cánh Tín. Cho nên chỉ nói khởi tín.
Phần hai giải thích hai chữ Khởi tín đã xong.
A3. Giải thích chữ Luận:
Luận có nghĩa là cùng phân tích, nêu lên để tranh luận, chia từng đoạn để chỉ bày, giúp hiểu được nghĩa chắc chắn rõ ràng.
Nếu nhờ ngữ ngôn văn tự hiển bày nghĩa lý chân thật, đối trị tà chấp, phân biệt tướng tu hành chân chánh, khuyến khích tu tập, là Giáo quyết định, làm khởi lên văn, tư, tu v.v... Tướng Tự Tín, Quán Hạnh Tín.
Nếu quán sát tìm hiểu về sắc uẩn v.v... trong năm uẩn và tất cả pháp, đều không thành tựu. Biết tâm vọng động tức chẳng sinh diệt là Hạnh Quyết Định, hay Khởi Phần Chứng Tín như Tịnh Tâm địa v.v...
Nếu được vào cửa Chân như, dứt hẳn các tâm nhiễm ô tương ưng và không tương ưng. Do nhất niệm tương ưng Tuệ mà chóng nhổ được gốc vô minh là lý quyết định, hay khởi Cứu Cánh Tín Nhất thiết chủng trí tín, nên gọi là Luận Đại Thừa Khởi Tín.
Luận này, sau khi Phật nhập Niết-bàn sáu trăm năm, được Đại sư Bồ-tát Mã Minh là tổ thứ mười hai của Ấn độ soạn luận, tổng trì cả tánh tướng, lời gọn nghĩa rộng. Thật là Đại thừa liễu nghĩa, tâm ấn của Phật Tổ.
Nếu nói theo năm lớp Huyền Nghĩa thì Pháp Dụ là Danh, Nhất Tâm Chân Như là Thể, quán sát tất cả vọng niệm Vô tướng là Tông, trừ nghi bỏ chấp phát khởi lòng tin thanh tịnh Đại thừa là Dụng, Phương Đẳng Đại thừa là Giáo Tướng.
Phần giải thích đề kinh đã xong.
Chia làm ba:
Đoạn 1: Quy kính nói ý.
Đoạn 2: Phần chánh, có năm chương. Đoạn 3:
Hồi hướng kết thúc
Chia làm hai:
A1. Kệ tụng
A2. Văn xuôi.
A1. Kệ tụng:
Chia làm hai:
B1. Quy y Tam Bảo
B2. Nói về ý nghĩa soạn luận
B1. Quy kính Tam Bảo:
Quy mạng cả mười phương
Khắp làm lợi ích lớn
Trí vô hạn tự tại
Đấng Cứu hộ thế gian
Và biển thể tướng kia
Câu, nghĩa, pháp Vô Ngã Tăng đức tạng vô biên Siêng cầu quả chánh giác.
Soạn luận để mở mang truyền bá chánh pháp thì đầu tiên phải quy y Tam Bảo, tóm tắt có bốn ý:
- Vì thuận theo nghi thức xưa của các bậc Thánh Hiền thuở trước.
- Vì giúp cho chúng sinh thêm lớn phước đức và gốc lành.
- Vì không giống như ngoại đạo nghị luận không có tông chỉ căn bản.
- Vì nói lên người kính lễ và đấng được kính lễ thể tánh vốn vắng lặng, và đường cảm ứng giao nhau khó nghĩ bàn.
Hai chữ quy mạng trong chánh văn, là nhiếp ba nghiệp của người kính lễ quy y.
Từ "Tận mười phương v.v..." trở xuống, tức chỉ Tam Bảo là chỗ quy kính.
Quy mạng còn gọi là Thân mạng quy y. Quy nghĩa là hướng về, là trở về. Trong biển sinh tử, chỉ có công đức Tam Bảo là đáng làm chỗ cậy nhờ, cho nên hướng về.
Thể Tánh Tam Bảo tức tâm tánh hiện tiền của chúng sinh, vì từ vô thỉ đến nay bỏ giác theo trần, cam tâm tự xoay lưng trốn chạy. Nay bỏ trần theo giác về nguồn tâm xưa, nên gọi là trở về. Mạng là nương vào sắc thân và vọng tâm, giữ mãi không buông bỏ mà tạo thành thân mạng giả dối, tức là công năng của thức căn bản, còn gọi là Bất Tương Ưng Hành vì chẳng phải pháp có thật, chỉ là chỗ trân trọng giữ gìn của tất cả chúng sinh mê vọng, nên thuận ngôn ngữ thế gian nêu việc này để thu nhiếp hết ba nghiệp.
Lại đem thân mạng rất quý trọng này hướng về Trụ Trì Tam Bảo làm duyên tăng thượng. Nghiên cứu thân mạng giả tạo này, trở về Nhất Thể Tam Bảo thì hiển bày chánh thể Đại thừa, nên đầu tiên phải quy mạng.
Tận mười phương là hết mười phương, là nói chung cảnh giới Tam Bảo vô cùng vô tận. Vì tâm tánh hiện tiền của chúng sinh, chiều dọc vốn tự không có trước sau, chiều ngang dứt mọi ranh giới. Hư không mười phương đều không ra khỏi giới hạn của cảnh giới tâm. Người tu chứng rốt ráo tâm tánh này gọi là Phật, tâm tánh này gọi là Pháp, giảng nói về tâm tánh này cũng gọi là Pháp. Người tin hiểu tu chứng tâm tánh này gọi là Tăng. Đó là lý do Tam Bảo đồng một tâm tánh, rộng khắp mười phương.
Lại nữa, tâm tánh hiện tiền Thể đại tức Pháp bảo, Tướng đại tức Phật bảo, Dụng đại tức Tăng bảo.
Lại nữa, Tâm giới kia đầy đủ viên mãn lý tánh ba đại, gọi chung là Pháp bảo. Trí tuệ giác ngộ ba đại này gọi là Phật bảo. Lý, Trí không hai gọi là Tăng bảo, đây gọi là Nhất Thể Tam Bảo.
Chứng Nhất thể Tam bảo này gọi là chư Phật ở mười phương giảng nói Nhất thể Tam bảo này, nói và pháp được nói đều gọi là Pháp mười phương, tu Nhất thể Tam bảo này gọi là Tăng mười phương. Đây là Trụ trì Tam Bảo của Đại thừa. Nếu không có Nhất thể Tam bảo thì không do đâu để kiến lập Trụ trì Tam bảo. Nếu chẳng phải Trụ trì Tam bảo thì không do đâu hiển bày Nhất thể Tam bảo. Như không có Nhất tâm chân như thì không do đâu để làm chỗ nương tựa cho các pháp sinh diệt. Như không có huân tập tịnh pháp trong môn sinh diệt thì không do đâu hiển bày nhất tâm chân như. Nên biết Nhất thể Tam bảo tức là thể Đại thừa môn chân như. Trụ trì Tam bảo tức là thể tướng, dụng Đại thừa của môn sinh diệt. Vì hai môn không rời nhau nên không được nói về quy mạng nghiệp lệch.
Ba câu Khắp làm lợi ích lớn v.v... là chỉ bày riêng Phật bảo. Hai câu Và biển thể tướng kia là chỉ bày riêng Pháp bảo. Hai câu Thân đức tạng vô biên v.v... là chỉ bày riêng Tăng bảo. Đều theo Trụ trì Tam bảo để chỉ bày là, vì ngoài Nhất thể không có Trụ trì, vì không quy về tướng Trụ trì Tam bảo thì chẳng thể quy về Nhất thể. Khắp làm lợi ích lớn là chứng suốt thể tánh bình đẳng, dùng pháp lực đồng thể để huân tập chúng sinh. Trí vô hạn tự tại là bốn trí Bồ-đề viên mãn, quán chiếu về lý, tư lương về cảnh đều không còn sót.
Đấng cứu hộ thế gian, là có tâm đại từ đại bi rốt ráo, cứu ác ủng hộ thiện không ai sánh bằng.
Pháp thân âm thầm làm lợi ích chúng sinh trong mười cõi. Báo thân nói lên lợi ích cho các Bồ-tát Thập địa, Hóa thân làm lợi ích cho ba thừa và chúng sinh sáu đường, nên nói Khắp làm lợi ích lớn, mà ba thân lợi ích cho muôn loài đều nương năng lực bình đẳng của pháp tánh. Tóm lại, đó là Pháp thân Phật bảo.
Phẩm vị Viên Cảnh Trí nói lên Pháp thân, phẩm vị Bình Đẳng Trí nói lên Báo thân, phẩm vị Thành Sự Trí nói lên Hóa thân, phẩm vị Quán Sát Trí nói pháp hợp căn cơ, cho nên nói Trí vô hạn tự tại, mà phẩm vị bốn Trí của tâm đều là chỗ chứng đắc của sự tu tập chân chánh trong nhiều kiếp. Tóm lại, là thân tự thọ dụng Phật bảo.
Pháp thân bình đẳng cứu hộ tất cả thế gian, Báo thân cứu hộ Bồ-tát ở thế gian, Hóa thân cứu hộ người Ba thừa và Sáu phàm ở thế gian nên nói Đấng cứu hộ thế gian.
Nhưng từ bi cứu khổ là diệu dụng tự nhiên không thể nghĩ bàn ở trong quả. Tóm lại, là ba loại hóa thân Phật bảo tùy loại hơn kém. Ba thứ Phật bảo này là Thể, Tướng, Dụng của tâm hiện tiền của tất cả chúng sinh, vốn tự đầy đủ, chỉ vì mê tình mà trong cuộc sống hàng ngày chẳng biết, gọi Lý tức Phật. Chư Phật chứng đắc viên mãn gọi là Chúng sinh rốt ráo, chúng sinh không ai hơn được gọi Phật, nên cũng gọi là Thế Tôn, bậc tôn quý ở thế gian.
Và biển thể tướng kia. Kia, là chỉ cho Phật bảo đã nói ở trên. Thể tướng là thể chân như và tướng công đức của tâm thể. Đã nói thể tướng tức thuộc về dụng, cho nên ba pháp không lìa nhau. Thể tướng dụng này sâu rộng không thể lường nên gọi là biển, tuy thể tướng như biển, tức là tâm tánh hiện tiền của chúng sinh, không phải thuộc riêng của Phật, nhưng chỉ có Phật mới chứng đắc rốt ráo, cho nên nêu lên ở đây để nói lên Pháp bảo được nói.
Và nghĩa là muốn nói lên Phật và Pháp vốn không hai nghĩa, vì Phật là giả danh, Pháp là pháp thật; nắm pháp để thành tựu cho người, nhờ người mà phân biệt được Pháp. Cho nên Phật tánh, Pháp tánh chỉ là một tánh, cái gọi là "Ngoài trí không có Như, ngoài Như không có trí".
Tuy phân biệt rõ ràng về Trụ trì Tam bảo, cũng chẳng phải phân chia từng phần khác nhau, không giống như pháp Thanh văn ngu muội chấp quyển vàng gáy đỏ là Pháp bảo. Nhưng quyển vàng gáy đỏ cũng từ toàn thể Như Lai tàng mà thành, cũng tức là biển thể tướng.
Câu, nghĩa, pháp vô ngã: Là chỉ cho Pháp bảo năng thuyên vô ngã tức Nhân vô ngã và Pháp vô ngã. Cú là câu, tức là danh, cú, văn, thân, nêu chữ câu tức cũng gồm cả danh, vì chỗ nương của câu, nghĩa tức là bài văn (văn thân). Nghĩa là những điều chỉ bày của câu, tức chỉ cho hai thứ quán vô ngã. Pháp là sự hiển bày của nghĩa, tức nhất tâm chân như. Pháp do Phật nói, có nhiều câu và nhiều ý nghĩa, nay chỉ nêu câu và nghĩa vô ngã, nghĩa là vì chỉ có hai thứ quán không này mới có thể từ cửa sinh diệt liền vào môn chân như. Câu vô ngã tức giáo kinh, nghĩa tức hạnh kinh, Pháp tức lý kinh. Ba kinh chẳng tức chẳng lìa là năng thuyên, đều không ngoài biển thể tướng, lại làm hiển bày biển thể tướng.
Tăng đức tạng vô biên: là xứng tánh khởi tu, mà biển tánh vô biên cho nên công đức tu hành cũng lại vô biên. Mỗi công đức đều chứa nhóm vô biên công đức nên gọi là Tạng, như đoạn văn sau nói đầy đủ về tùy thuận theo pháp tánh tu bố thí v.v... mỗi độ đều thành tựu ba-la-mật.
Siêng cầu Chánh giác nghĩa là cần cầu quả vị Phật, là nói lên công đức tu hành của tăng Bồ-tát, vì không hướng về ba cõi, không hướng về Nhị thừa, chỉ hướng thẳng đến quả Bồ-đề vô thượng.
Hỏi: Vì sao không quy hướng về tăng Nhị thừa? Đáp: Đây có hai nghĩa:
Theo nghĩa đối đãi, Nhị thừa vẫn là cảnh giới được thương xót cứu giúp.
Theo nghĩa mở bày (khai hiển), vì hạnh tu của Nhị thừa cũng là đạo Bồ-tát.
B2. Nói về ý nghĩa soạn Luận: Vì muốn giúp chúng sinh,
Dứt nghi, bỏ tà chấp,
Khởi tin nối dòng Phật, Nên tôi soạn luận này.
Đối với lý thật sinh diệt của nhất tâm chân như, trong sự vẫn do dự chưa rõ gọi là "Nghi". Đối với tạng Như Lai vô ngã vọng chấp nhân ngã, pháp ngã gọi là "tà chấp". Dứt nghi bỏ chấp thì niềm tin chân chánh tự hiện khởi, khởi tin Đại thừa thì chắc chắn thành Phật độ mình độ người, đèn đèn vô tận nên là nối thạnh dòng Phật.
Phần đầu bài kệ tụng đã xong.
A2. Văn xuôi:
Chia làm hai:
B1. Nói lại ý nghĩa soạn luận B2. Lập khoa.
B1. Nói lại ý nghĩa soạn Luận:
Luận chép: Vì muốn phát khởi niềm tin Đại thừa thanh tịnh, dứt các tà chấp nghi ngờ mờ mịt của chúng sinh, giúp hạt giống Phật tiếp nối mãi không dứt nên soạn luận này.
Hỏi: Trong bài kệ, đầu tiên nói dứt nghi bỏ chấp, rồi mới nói khởi tin, nay phần văn xuôi lại nói trước phát khởi lòng tin thanh tịnh, rồi mới nói dứt các nghi chấp, vì sao?
Đáp: Nếu tự tu thì dứt nghi, bỏ chấp khởi tin như cái cân hai đầu khi cao khi thấp v.v... không có trước sau. Nếu giáo hóa người khác thì trước tự phát khởi niềm tin Đại thừa thanh tịnh, mới có thể dứt các thứ mờ mịt tà chấp, nghi ngờ của chúng sinh, khiến dòng dõi Phật tiếp nối không dứt. Cho nên tuy nói lại mà không có lỗi rườm rà.
B2. Lập Khoa:
Có pháp sinh tín căn Đại thừa cho nên phải nói.
Có pháp là chỉ cho tâm tất cả chúng sinh sẽ nói ở đoạn sau. Nói tướng tâm chân như này chỉ tâm thể Đại thừa, nói tướng nhân duyên sinh diệt, tâm này chỉ bày thể, tướng, dụng của Đại thừa, giúp cho các chúng sinh sinh khởi ba thứ văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ, cho đến rốt ráo thành Phật. Đây gọi là tín căn Đại thừa, có lợi ích cao quý như vậy, cho nên phải nói.
Luận nói có năm phần:
Một là Tác nhân, hai là Lập nghĩa, ba là Giải thích, bốn là Tin tu, năm là lợi ích.
Tác nhân: Bản đời Lương dịch là nhân duyên, nghĩa là nhân duyên bốn tất-đàn. Chư Phật, Bồ-tát nếu không có nhân duyên bốn tất-đàn thì không nói pháp được.
Lập nghĩa: Là nương cảnh nói lên bày chân lý, dựng lập chánh pháp Đại thừa.
Giải nghĩa: Nghĩa là các thứ phương tiện để mở bày, truyền bá nghĩa chân thật đã dựng lập.
Tin tu: Bản dịch đời Lương nói là tin tâm tu hành, nghĩa là sách tấn người sơ cơ, khiến họ nương theo sự hiểu biết mà tu hành.
Lợi ích: Theo bản dịch đời Lương là khuyên tu lợi ích, nghĩa là phần kết nói về công năng của luận này, khiến người tin tưởng, hy vọng kính mến mà quy hướng về.
Trong luận này, phần Tác Nhân thứ nhất nói tổng quát về nhân duyên bốn tất-đàn, phần Lập Nghĩa thứ hai vì người căn cơ bậc thượng nêu lên liền biết có, đây là nói theo Đệ nhất nghĩa. Phần giải thích thứ ba là vì người căn cơ bậc trung phân tích chia chẻ nhỏ nhiệm giúp họ dứt hẳn nghi chấp, theo văn nhập chứng, đây là nói theo nghĩa đối trị. Phần Tin Tu thứ tư vì người căn cơ bậc hạ sách tấn tu hành khiến y theo hiểu biết khởi tu, đây là nói theo nghĩa vì người. Phần Lợi Ích thứ năm vì những người chưa trồng gốc lành mà xưng tụng khen ngợi công đức, chấm dứt sự hủy báng, khiến đều vui mừng kính mến Đại thừa, đây là nói theo nghĩa thế giới.
Nói theo thứ lớp được lợi ích của một người thì phần Lập Nghĩa thứ hai giúp hiểu về nghĩa Đại thừa tức tâm tất cả chúng sinh, không trông chờ nơi người khác được lợi ích vui mừng. Phần giải thích thứ ba đối với hai môn Chân như và Sinh diệt của nhất tâm hiểu nghĩa như thật, được lợi ích sinh lên cõi trước. Phần Tin Tu thứ tư khiến hiểu biết về sự mầu nhiệm của tâm, không giống như nói ăn (mà vẫn đói), đếm của báu cho người được lợi ích diệt ác. Phần Lợi Ích thứ năm khiến cho biết đồng với chỗ tu chỗ chứng của chư Phật Bồ-tát, được lợi ích chứng nhập chân lý. Đây chỉ là một cách phân biệt, thật ra mỗi phần đều đầy đủ bốn tất-đàn.
Lại nữa, Tác Nhân là phần tựa, ba phần kế như Lập Nghĩa v.v... là phần chánh tông, riêng Lợi Ích là phần lưu thông.
Đoạn một quy kính và nói ý nghĩa đã xong.
Gồm năm chương:
1. Tác nhân... 5. Lợi ích.
Có hai đoạn:
A1. Nói tám nhân duyên
A2. Giải nghi, nói ý nghĩa.
A1. Nói tám Nhân Duyên:
Trong đây có tám nhân duyên soạn luận:
- Tướng chung: Vì khiến chúng sinh lìa khổ được vui, không vì tham cầu lợi dưỡng v.v...
Tổng tướng là tướng chung, nghĩa là chẳng phải chỉ là tướng chung của luận này mà là tướng chung của chư Phật, Bồ-tát nói pháp, vì muốn chúng sinh lìa khổ của nhân quả phần đoạn và biến dịch, được vui Bồ-đề Niết-bàn rốt ráo, là nghĩa lợi tha. Không vì tham cầu tiếng khen, lợi dưỡng và cung kính v.v... là nghĩa lìa lỗi lầm. Tự lìa các lỗi, hay lợi ích chúng sinh mới có thể soạn luận mở mang truyền bá chánh pháp, nếu không như thế thì gọi là bán đứng Như Lai.
- Vì nói lên ý nghĩa chân thật căn bản của Như Lai khiến các chúng sinh khởi hiểu chân chánh.
Nói chung thì một bộ luận đều bày trình thật nghĩa để sinh hiểu biết chân chánh, nói riêng thì đặc biệt chỉ cho hai phần Lập Nghĩa và Giải Thích.-Vì muốn chúng sinh thành tựu gốc lành, tâm không lui sụt đối với pháp Đại thừa có thể kham nhận.
Nói chung thì một bộ luận đều muốn cho chúng sinh tăng thêm khả năng tin nhận đối với Đại thừa, nói riêng thì đặc biệt chỉ cho đoạn thứ ba Phân Biệt tướng tu hành chánh đạo trong phần giải thích.
- Vì muốn chúng sinh có chút ít gốc lành pháp khởi lòng tin cho đến không lui sụt.
Nói chung thì một bộ luận đều làm phát khởi lòng tin khiến không lui sụt, nói riêng thì đặc biệt chỉ cho phần Tin Tu thứ tư.
- Vì muốn chúng sinh nghiệp chướng tiêu trừ, điều phục tâm mình để lìa ba độc.
Nói chung thì một bộ luận đều có công năng trừ chướng điều tâm, xa lìa ba độc, nói riêng thì đặc biệt chỉ cho môn Tinh Tấn thứ tư trong phần Tin Tu.
- Vì muốn chúng sinh chuyên tu chỉ quán để đối trị tâm phàm phu Nhị thừa nhiều lỗi lầm.
Nói chung thì một bộ luận đều là pháp môn Chỉ Quán, đều có công năng đối trị tâm phàm phu, Tiểu thừa, nói riêng thì đặc biệt chỉ cho pháp môn Chỉ quán thứ năm trong phần Tin Tu.
- Vì muốn chúng sinh đối với pháp Đại thừa tư duy đúng như lý, được sinh trước Phật vì rốt ráo không lui sụt lòng tin Đại thừa.
Nói chung thì một bộ luận đều là Tam-muội Niệm Phật, đều là nhân chánh vãng sinh, nói riêng thì đặc biệt chỉ cho pháp môn cầu sinh Tây phương Cực Lạc trong phần Tin Tu.
- Hiển bày lợi ích tin hiểu ưa thích Đại thừa để khuyên các loài hàm thức quy hướng về Đại thừa.
Đây chỉ riêng cho phần Lợi Ích thứ năm. Phần đầu nói về tám nhân duyên đã xong.
A2. Giải thích Nghi, nói ý nghĩa:
Chia làm hai:
B1. Giải thích điều nghi.
B2. Nói về ý nghĩa.
B1. Giải thích điều Nghi:
Chia làm hai:
C1. Giải thích nghĩa chung.
C2. Giải thích nghĩa riêng.
C1. Giải thích nghĩa chung:
Các câu văn và ý nghĩa trong luận này kinh Đại thừa tuy đã có đủ, nhưng vì căn cơ và tâm ưa muốn của chúng sinh khác nhau, nhân Duyên giác ngộ khác nhau, nên soạn luận này.
Sở hóa chỉ cho chúng sinh đời sau được giáo hóa. Căn có ba hạng cao, thấp, trung bình do hạt giống xưa mà thành. Dục là chỗ ưa thích hiện nay, có rộng, hẹp và trung bình. Duyên là tất cả kinh luận, làm duyên giúp cho chúng sinh ngộ đạo thêm lớn. Nên biết ba căn cơ cao, thấp, trung bình, mỗi căn cơ có ba mức độ ưa thích rộng, hẹp và trung bình khác nhau. Lại cùng với kinh luận của Phật, Bồ-tát mỗi thứ có hữu duyên và vô duyên khác nhau, cho nên phải vì ba căn cơ chúng sinh hữu duyên, thích hợp với ý thức sơ lược của họ mà soạn luận này.
C2. Giải thích nghĩa riêng biệt:
Vì sao? Nghĩa là khi đức Như Lai còn tại thế giáo hóa người lợi căn, Sắc và tâm Phật đều cao quý, một âm thanh giảng nói vô biên nghĩa vị nên không cần soạn luận.
Vì sao là bắt đầu trưng dẫn chung, trước giải thích thời Phật còn tại thế, sau giải thích lúc Phật đã Niết-bàn. Giáo hóa người lợi căn nghĩa là nói chung về Phật, thời điểm và chúng sinh cũng có ba căn cơ khác nhau cho mỗi loại, chỉ vì so với chúng sinh sau khi Phật Niết-bàn đều gọi là căn cơ lanh lợi. Vì gốc lành không sâu nên không được trực tiếp gặp Phật.
Sắc và tâm Phật đều cao quý nghĩa là sắc thì tướng đẹp trang nghiêm, tâm thì có sáu thần thông và mười lực, nên nói là cao quý. Một âm thanh giảng nói vô biên nghĩa vị là Phật dùng một thứ âm thanh nói pháp, chúng sinh tùy mỗi loại đều hiểu được, ví như nước mưa của một đám mây ba loại cỏ hai loại cây mỗi loại đều được lớn lên. Sắc cao quý tức dùng thân tướng không thể nghĩ bàn giáo hóa, tâm cao quý tức dùng ý không thể nghĩ bàn giáo hóa. Một âm thanh giảng nói tức dùng miệng giáo hóa không thể nghĩ bàn. Chúng sinh được giáo hóa đã là người căn cơ lanh lợi, Phật giáo hóa lại có ba thứ cao quý cho nên không cần soạn luận mà vẫn có thể khai ngộ.
Sau khi Phật Niết-bàn, hoặc có người do tự lực xem kinh chút ít nhưng hiểu nhiều nghĩa lý, lại có người do tự lực rộng xem các kinh mà hiểu nhiều nghĩa.
Xem kinh chút ít nhưng hiểu nhiều nghĩa lý gọi là Nghĩa Trì (thọ trì nghĩa) cũng là Pháp Hạnh chủng tánh, xem kinh sâu rộng cho đến hiểu nghĩa gọi là Văn Trì, cũng gọi là Tín Hạnh chủng tánh. Hai hạng người này cũng không cần soạn luận.
Nhưng y cứ bản dịch đời Lương, thì nghe rộng rồi hiểu ngay vì dường như gồm Văn Trì cho nên cao quý hơn; y cứ bản hiện nay, người xem ít hiểu ngay, dường như là Pháp Hạnh cho nên cao quý. Nói theo lý thật thì Nghĩa Trì hay Văn Trì, Tín Hạnh hay Pháp Hạnh mỗi thứ có lợi độn khác nhau, chẳng thể lý luận một chiều.
Có người tự mình không có sức trí tuệ, nhờ người luận bàn rộng mà hiểu nghĩa, cũng có người không có sức trí tuệ, nghe giảng rộng rất sợ, chỉ thích nghe luận tóm lược mà nhiếp nghĩa rộng lớn để tu hành chân chánh.
Tự mình không có sức trí tuệ nên nhờ luận của người, nhưng vì ưa nói rộng và thích tóm lược vẫn gọi là hai chủng tánh Tín Hạnh và Pháp Hạnh khác nhau, cũng là hai thứ huân tập Văn Trì và Nghĩa Trì có sai khác.
Phần đầu giải thích nghi ngờ đã xong.
B2. Nói rõ ý nghĩa:
Nay tôi vì hạng người sau cùng kia, lược nhiếp nghĩa sâu xa, vô biên, rất cao quý của Như Lai mà soạn luận này.
Vì chỉ bày thể Đại thừa nên rất cao quý, nói lên tướng Đại thừa nên rất sâu xa, hiển bày dụng Đại thừa cho nên vô biên.
Chương một nói về Tác Nhân đã xong.
Chia làm hai:
A1. Nêu vấn đề
A2. Giải thích A1. Nêu vấn đề:
Thế nào là phần Lập Nghĩa? Có nghĩa là Đại thừa. Nói lược thì có hai thứ là hữu pháp và pháp.
Ma-ha-diễn, Hán dịch là Đại thừa, nói sơ lược như trong đề mục giải thích. Lại có bảy nghĩa nên gọi là Đại thừa:
Pháp lớn, là kinh điển Phương Quảng. Tâm lớn, là bốn thệ nguyện rộng lớn.
Hiểu biết lớn, là tin hiểu thường hằng viên mãn. Thanh tịnh lớn, là đất tâm thanh tịnh, thanh tịnh hai thứ phân biệt.
Trang nghiêm lớn, là phước đức trí tuệ. Thời gian rộng lớn, là ba A-tăng-kỳ.
Đầy đủ lớn, là Bồ-đề vô thượng.
Sáu phần đầu là nhân Đại thừa, một phần sau là quả Đại thừa. Hữu pháp, bản dịch đời Lương nói là Pháp, giống như Luận Nhân Minh nói "Tiền trần hữu pháp", dùng làm tông y, chính là chỉ cho pháp nhân duyên sinh, dùng làm đối tượng quán chiếu. Pháp, bản dịch đời Lương dịch là Nghĩa, giống như trong Luận Nhân Minh nói "Hậu trần tông thể", chỉ cho chân lý được trình bày để nói về nghĩa Đại thừa.
A2. Giải thích:
Chia làm hai:
B1. Giải thích hữu pháp.
B2. Giải thích pháp.
B1. Giải thích Hữu Pháp:
Nói "Hữu pháp" là tất cả tâm chúng sinh, tâm này nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian, nương tâm này nói về nghĩa Đại thừa.
Nói chung về các pháp do nhân duyên sinh đều là hữu pháp, tất cả đều tức là Không, Giả, Trung đạo, đều có thể nói lên nghĩa Đại thừa, cho nên nói Tâm, Phật, chúng sinh ba pháp không khác nhau. Chỉ có người sơ cơ, nếu bảo quán pháp Phật thì nghi cao quá, nếu bảo quán pháp chúng sinh thì nghi rộng quá, cho nên chỉ bảo quán Tâm. Lại sợ người lầm ngoài tâm chúng sinh có chân tâm riêng, cho nên chỉ lập bày tất cả tâm chúng sinh dùng làm cảnh để quán.
Hễ nêu lên Phật pháp thì thu nhiếp hết Tâm pháp và pháp chúng sinh, nêu lên pháp chúng sinh thì thu nhiếp hết tất cả Phật pháp và Tâm pháp. Nay nêu lên Tâm pháp hiện tiền của chúng sinh, thì thu nhiếp hết tất cả pháp chúng sinh và pháp Phật. Cho nên nói thu nhiếp tất cả pháp thế gian và xuất thế gian. Nương Tâm pháp hiện tiền của chúng sinh này hiển bày nghĩa Đại thừa thì nói lên một pháp là nói lên hết tất cả pháp. Hễ nêu lên bất cứ pháp chúng sinh nào thì mỗi Phật pháp đều là nghĩa Đại thừa, nên Pháp Hoa ghi: Xe lớn bảy báo có nhiều vô lượng.
Vì tướng của Tâm chân như này là chỉ cho Thể Đại thừa, tức tâm hiện tiền này không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa, quá khứ vô thỉ, vị lai vô cùng, hiện tại vô biên, chẳng phải có tướng, chẳng phải không tướng, chẳng phải vừa có vừa không có tướng, chẳng phải tướng chẳng phải hữu, chẳng phải vô. Chẳng phải tướng sinh tử, chẳng phải tướng Niết-bàn, chẳng phải tướng hai bên, chẳng phải tướng trung đạo, chẳng phải tướng có thể nói, chẳng phải tướng không thể nói, chẳng phải tướng vừa có thể nói vừa không thể nói, chẳng phải tướng chẳng phải có thể nói, chẳng phải không thể nói, vì bất đắc dĩ nên gượng gọi là tướng Chân như, tức chân như này là thể Đại thừa, không còn có thể nào khác.
Nếu Lập Lượng rằng: Tâm chúng sinh là pháp có, tức là tông thể Đại thừa, do nói tướng chân như, đồng dụ như phương hướng nương tựa của mê ngộ mà phương hướng chẳng mê ngộ.
Vì nhân duyên sinh diệt của Tâm này, làm hiển bày Thể Tướng Dụng của Đại thừa.
Tức tâm thể chân như bất biến này, nêu thể tùy duyên mà có sinh diệt, có nghĩa là tùy theo duyên nhiễm hay tịnh mà tạo đủ mười pháp giới. Tuy tạo mười cõi mà đều giả danh không thật, tùy duyên bất biến đương thể tức chân, cho nên nói lên thể Đại thừa.
Do theo duyên nhiễm, vô minh vọng khởi chấp có chấp không, dường như không thanh tịnh, chẳng phải thường, chẳng phải lạc, chẳng phải ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải vắng lặng; là thay đổi không tự tại, đầy đủ tập nhiễm luống dối nhiều hơn cát sông Hằng. Nay đổi nhiễm thành tịnh, vô minh không khởi, không có chấp chẳng chấp, tâm tánh không động, không có pháp nào khác đê tìm cầu; tức đối với chân như lập nghĩa trí tuệ rộng lớn sáng suốt, nghĩa chiếu soi khắp pháp giới, nghĩa rõ biết chân thật, nghĩa bản tánh thanh tịnh, nghĩa thường lạc ngã tịnh, nghĩa tự tại lặng lẽ không thay đổi. Có nghĩa công đức thanh tịnh đầy đủ viên mãn nhiều như số cát sông Hằng nên có công năng nói lên tướng Đại thừa. Vì cùng chúng sinh đồng ở trong biển luân hồi sinh tử, mới chịu thương mình thương người phát nguyện Đại thừa, tu phước tuệ lớn, chứng nhập Pháp thân xưa, mặc tình tác nghiệp không thể nghĩ bàn, tột đời vị lai, lợi lạc cho hữu tình, cho nên có công năng nói lên dụng Đại thừa.
Nhưng tâm thể hiện tiền tức thể Đại thừa, tướng mê lầm trong tâm hiện tiền là tướng Đại thừa, nghiệp dụng trong tâm hiện tiền là dụng Đại thừa, nhưng chúng sinh vì nhân duyên mê nhiễm nên sử dụng hằng ngày mà không biết. Do có nhân duyên mê nhiễm mới dựng lập nhân Duyên giác ngộ thanh tịnh, do có nhân Duyên giác ngộ thanh tịnh mới hiển bày thể tướng dụng lớn, nên nói tướng nhân duyên sinh diệt của tâm này có công năng hiển bày thể tướng dụng Đại thừa. Ví như nước đóng thành băng thì thể tánh ướt, tướng dung chứa, dụng thấm nhuần đều không thể thấy; nếu biết băng vốn là nước, làm cho băng tan mới hiển bày được thể tánh ướt, tướng dung chứa, dụng thấm nhuần. Nếu không quán chiếu nhân duyên sinh diệt của tâm thì không thể hiển bày thể tướng dụng lớn. Như nước nếu giữ tướng băng cứng thì không thể dùng, nếu lìa tâm hiện tiền của chúng sinh để tìm Đại thừa ở một nơi nào khác cũng không thể hiển bày thể tướng dụng lớn. Như khi nước đóng cứng, nếu bỏ tướng cứng của băng thì không có nước ở chỗ khác. Người học Đại thừa may mắn được tư duy sâu sắc về điều này. Nên Lập Lượng: Tâm chúng sinh là hữu pháp có công năng nói lên tông chỉ thể, tướng, dụng của Đại thừa, nhân chép: Tướng nhân duyên sinh diệt, đồng dụ: Như lầm phương hướng, vì lầm nên có ngộ phương hướng.
Phần đầu giải thích hữu pháp đã xong.
B2. Giải thích Pháp:
Chia làm hai:
C1. Giải thích nghĩa Đại
C2. Giải thích nghĩa Thừa C1. Giải thích nghĩa Đại:
"Pháp" sơ lược có ba nghĩa:
Thể đại, có nghĩa là tất cả pháp chân như, ở nhiễm ở tịnh thể tánh vẫn thường bình đẳng, vì không thêm không bớt không có khác nhau.
Đoạn trên nói tướng chân như của tâm này, tức nói lên thể Đại thừa. Nay nói tất cả pháp chân như nghĩa là vì tâm chân như tức tất cả pháp chân như, vì chân như không có hai. Tất cả pháp là pháp nhiễm pháp tịnh, tóm lược thì có năm nhóm một trăm pháp, nói rộng thì một trăm cõi ngàn như. Tùy ý nêu lên bất cứ một pháp nào đều là toàn thể chân như, chứ chẳng phải chỉ chút phần, nên nói tánh thường bình đẳng v.v... khi ngộ không phải được khi mê không phải mất.
Lại nữa chân như của hạt cải sợi lông chẳng phải nhỏ, chân như của Tu di cõi nước chẳng phải lớn, cho nên nói không thêm không bớt. Nhất tướng vô tướng không thể phân chia cho nên nói không có khác nhau. Phàm nói tất cả pháp lại nói ở nhiễm ở tịnh, đây toàn là nhân duyên sinh diệt. Nhưng tùy duyên mà nói, tánh thường bình đẳng. Vì không thêm không bớt không có khác nhau nên biết nhân duyên sinh diệt tức là môn chân như. Cho nên đoạn sau nói xoay vần mà không lìa nhau. Nếu bỏ nhân duyên sinh diệt thì do đâu thể hội được chân như? Nếu chấp nhân duyên sinh diệt thì do đâu liễu đạt chân như?
Tướng đại, là Như Lai tàng, vì xưa nay đầy đủ vô lượng vô biên tánh công đức.
Ở đây gọi Tâm hiện tiền của chúng sinh là Như Lai tàng. Hễ là chân như thì bất biến mà tùy duyên. Nêu thể làm Tâm của chúng sinh thì tâm đó lại là toàn thể chân như, nay lại là gọi Như Lai tàng.
Đây là môn sinh diệt.
Vì khi ẩn khuất gọi là Như Lai tàng, khi hiển bày thì gọi là Pháp thân, nhưng Pháp thân và Như Lai tàng tuy có hai tên nhưng không hề có hai thể, cho nên chẳng phải khi hiển bày gọi là Pháp thân thì có đủ vô lượng vô biên tướng công đức, mà ngay khi ẩn khuất gọi là Như Lai tàng, xưa nay cũng có đủ vô lượng vô biên tánh công đức.
Dụng đại, vì sinh ra tất cả nhân quả lành của thế gian và xuất thế gian.
Chỉ tâm hiện tiền này của chúng sinh, chẳng có pháp nào không đầy đủ, chẳng có pháp nào không tạo; nghĩa là tùy theo duyên tịnh hay nhiễm mà tạo đủ mười pháp giới, hay sinh ra nhân quả khắp mười cõi. Chỉ nói riêng về chín cõi thì các nhân quả ác trong ba đường dữ tuy cũng là dụng của tâm này, như dùng vàng làm bình đựng vật nhơ, dao bén chặt bùn, dùng châu báo vô giá làm viên thuốc tròn chẳng gọi là dụng lớn.
Nhân quả hữu lậu của trời, người tuy cũng là dụng của tâm này, như đem ngọc ma-ni chỉ đổi một chiếc áo, một miếng ăn, chẳng gọi là dụng lớn.
Nhân quả vô lậu của người Nhị thừa tuy cũng là dụng của tâm này, như giữ vàng Diêm-phù-đàn không sinh lợi tức, không gọi là dụng lớn.
Nhân quả năm thần thông của Bồ-tát quyền thừa tuy có dụng lợi mình lợi người, như dùng vàng Diêm-phù-đàn làm vật trao đổi trong việc buôn bán, không được tự tại thống lãnh cũng không gọi là dụng lớn.
Tuy tâm mong cầu quả tột, như dùng vàng Diêm-phù-đàn làm mão báu của vua, chưa thể nắm nhổ phòng ốc và bay lên cao, cũng không gọi là dụng lớn.
Chỉ có chủng tánh Phật thừa, biết tâm hiện tiền này thể tức chân như có đủ vô biên công đức, liền quán sát tất cả vọng niệm vô tướng, thương mình thương người phát thệ nguyện lớn, tu tập xứng hợp với tâm tánh trừ vô minh từ vô thỉ chứng Pháp thân xưa, mặc tình khởi nghiệp không thể nghĩ bàn, các thứ tác dụng khác nhau tự tại trùm khắp pháp giới, bình đẳng với chân như. Ví như dùng vàng Diêmphù-đàn luyện làm thuốc tiên nên có thể nhổ phòng nhà bay lên, bay đi tự tại, mới gọi là dụng lớn.
Hỏi: Dụng lớn trong quả chín cõi buông thân, có khi thị hiện ba đường ác cũng ứng sinh nhân quả ác, vì sao chỉ nói nhân quả lành thôi ư?
Đáp: Vì độ chúng sinh thị hiện gây nhân ác, vốn không mê nhiễm tức thiện vô lậu; vì độ chúng sinh thị hiện chịu quả ác cũng không có thọ khổ, vui như Tam thiền nên chỉ gọi nhân quả lành.
Lại nói: "Sinh ra tất cả nhân quả lành" nghĩa là dụng lớn trong quả, làm duyên tăng thượng cho khắp chúng sinh khiến sinh các nhân quả lành thế gian và xuất thế gian, chẳng phải nói đã thành Phật rồi tự sinh nhân quả lành của thế gian và xuất thế gian. Vì chư Phật có tất cả biến hiện đều là diệu dụng sâu xa tự tại của chân như, vì đều hợp với diệu đức Niết-bàn thanh tịnh nên không thể gọi là nhân quả thật.
Hỏi: Dụng lớn đã thuộc quả Phật tại sao gọi là tướng nhân duyên sinh diệt của tâm này?
Đáp: Nếu không có tâm chúng sinh thì không có thể tướng Đại thừa, nếu không có thể tướng Đại thừa thì chỗ nào có dụng Đại thừa!
Hỏi: Đã nói dụng chân như rất sâu xa vì sao không thuộc về chân như mà thuộc về nhân duyên sinh diệt?
Đáp: Nếu chẳng phải nhân duyên sinh diệt thì tên gọi chân như còn tự không lập, làm sao phân biệt được dụng lớn.
Tâm hiện tiền sinh diệt, Thể tức chân như, Tướng tức Như Lai tàng, Dụng tức năng sinh tất cả nhân quả, sử dụng hằng ngày mà không biết, đây gọi là Lý tức Đại thừa. Nếu biết thể lớn, tướng lớn, dụng lớn của một tâm này là Danh tự tức Đại thừa. Nếu quán sát vọng niệm vô tướng thì gọi là Quán Hạnh tức Đại thừa. Nếu cấu thô rơi trước, sáu căn thanh tịnh gọi là Tương tự tức Đại thừa, luận này gọi là Giác tương tự. Nếu thân chứng thể tướng dụng này, hồn nhiên tăng tiến thì gọi là Phần Chứng tức Đại thừa, luận này gọi là Tùy Phần giác. Nếu được tâm tánh căn bản thường trụ hiện tiền, thì gọi là Cứu Cánh tức Đại thừa, luận này gọi là Cứu Cánh giác.
Có sáu loại thường tức, trước sau bình đẳng, tức môn chân như của tâm này. Tức mà thường có sáu loại, lên xuống khác nhau rất nhiều, tức sinh diệt môn của tâm này. Cho nên lập "Tất cả tâm chúng sinh là hữu pháp" nói lên nghĩa Đại thừa.
Phần đầu giải thích nghĩa chữ Đại đã xong.
C2. Giải thích nghĩa Thừa:
Vì có chỗ Thừa (cỡi) của tất cả chư Phật, vì vào quả Phật tất cả Bồ-tát đều "thừa" nơi đây.
Ở đây lại theo người năng thừa để nói lên sở thừa, nên nói Đại thừa là sở thừa của tất cả đại nhân như Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền v.v...
Tâm của tất cả chúng sinh có đầy đủ ba thứ Thể lớn, Tướng lớn và Dụng lớn, tức ba thứ lớn này được gọi là Thừa, mà chúng sinh trong chín cõi không sử dụng hết diệu dụng của tâm Đại thừa này, luống chịu cỡi các thứ xe trâu, xe dê, xe nai, xe lừa què. Chỉ có tất cả chư Phật đều đã cỡi xe Đại thừa này để đến quả vị rốt ráo, tất cả Bồ-tát đều cỡi xe lớn này mới đến quả vị Phật được, cho nên phải theo tâm chúng sinh để nói lên nghĩa Đại thừa.
Chương Lập Nghĩa thứ hai đã xong.
Chia làm hai:-Lập khoa
-Chánh giải.
1. Lập khoa:
Thế nào là phần giải thích? Ở đây có ba nghĩa:
- Vì nói lên nghĩa thật
- Vì đối trị tà chấp
- Vì phân biệt tướng tu hành chân chánh
Nói lên nghĩa thật để dứt nghi, đối trị tà chấp để dứt chấp tức khởi tin, phân biệt tướng tu hành chân chánh tức là nối tiếp làm hưng thạnh hạt giống Phật.
2. Chánh giải:
Chia làm ba:
Mục 1: Nói lên nghĩa thật. Mục 2: Đối trị tà chấp.
Mục 3: Phân biệt tướng tu hành chân chánh.
MỤC 1: NÓI LÊN NGHĨA THẬT:
Chia làm ba:
A1: Nêu chung hai môn
A2: Giải thích từng môn.
A3: Kết luận nêu lên hai môn không lìa nhau.
A1: Nêu chung hai Môn:
Trong luận này, nói lên nghĩa thật có nghĩa, là có hai môn cùng nương vào Nhất tâm, đó là môn Tâm Chân như và môn Tâm Sinh diệt. Hai môn này mỗi môn đều thu nhiếp hết tất cả pháp vì xoay vần mà không lìa nhau.
NHẤT TÂM tức chỉ cho tâm hiện tiền của chúng sinh. Nói có hai môn nghĩa là chẳng phải trước sau, bên phải bên trái nên gọi là hai. Chỉ là tùy duyên bất biến tức tâm sinh diệt này gọi là môn Chân như, bất biến tùy duyên tức tâm Chân như này gọi là môn Sinh diệt, ý muốn nói chỉ có một môn mà thôi. Cũng có nghĩa là: "chư Phật Bạt-già Phạm, một con đường vào cửa Niết-bàn. Chỉ do tâm mê thì sinh tử bắt đầu, toàn thể Chân như thành sinh diệt; tâm ngộ thì chấm dứt luân hồi, ngay thể sinh diệt bèn là Chân như, nên theo mê ngộ mà nói về hai môn. Lại nữa do đối đãi với mê gọi là ngộ, tức là môn Sinh diệt, mê ngộ bình đẳng chính là môn Chân như.
Nói hai môn này, mỗi môn đều thu nhiếp tất cả pháp nghĩa, theo môn Chân như thu nhiếp một trăm cõi, một ngàn như, năm vị, một trăm pháp, mỗi pháp đều là Chân như, tánh thường bình đẳng vì không thêm không bớt không có khác nhau. Theo môn Sinh diệt cũng thu nhiếp một trăm cõi, một ngàn như, năm vị và một trăm pháp, mỗi pháp đều là sinh diệt. Vì các pháp thuộc sáu phàm là do nhân duyên mê nhiễm tạo thành, các pháp thuộc bốn quả Thánh là do nhân Duyên giác ngộ thanh tịnh tạo thành. Không có một pháp thế gian và xuất thế gian nào không từ nhân duyên sinh diệt mà được hiển bày.
Nói hai cửa này xoay vần mà không lìa nhau nghĩa là ngoài nhất tâm Chân như thì không thể có sinh diệt, thí như ngoài phương hướng thì không có sự mê ngộ nào khác, cũng như ngoài tánh ướt là không có nước và băng nào khác. Ngoài Nhất tâm sinh diệt cũng không thể có Chân như, ví như ngoài mê ngộ không có phương hướng nào khác, ngoài nước và băng không có tánh ướt nào khác.
Hỏi: Vì sao nương vào Nhất tâm lại nói lên hai môn?
Đáp: Tất cả các pháp đều có hai môn này, vì thế chư Phật nói pháp thường nương vào hai đế. Môn tâm Chân như tức là chân đế, môn tâm Sinh diệt tức là tục đế. Tuy nói hai đế mà chỉ là một pháp, vì hai đế viên dung không thể nghĩ bàn cho nên mỗi đế thu nhiếp tất cả pháp, xoay vần không lìa nhau.
Lại nữa, toàn tánh khởi hai lối tu thuận và nghịch thì gọi là môn Sinh diệt, cả hai lối tu nghịch và thuận một tâm không đổi thì gọi là môn Chân như.
Lại nữa, toàn lý thành sự gọi là môn Sinh diệt, toàn sự tức lý tức là môn Chân như. Lại nữa, phân biệt sự lý gọi là môn Sinh diệt, dứt hẳn sự lý gọi là môn Chân như. Ngay nơi quyền mà thật gọi là môn Chân như, tức thật mà quyền gọi là môn Sinh diệt. Phân biệt quyền thật thì gọi là môn Sinh diệt, quyền thật không hai thì gọi là môn Chân như. Vì thật lập quyền, nương môn Chân như nói môn Sinh diệt. Khai quyền bày thật chỉ môn Sinh diệt tức là môn Chân như. Vì thật lập quyền, khai quyền bày thật đều là môn Sinh diệt, lý thì chẳng phải quyền chẳng phải thật, gọi là môn Chân như. Nói theo trí thì sinh diệt tức là môn Chân như, nói theo tình thì Chân như tức là môn Sinh diệt, nói theo tình trí thì nương Nhất tâm lại có hai môn.
Hỏi: Hai môn tức là hai đế thì bảy thứ hai đế làm sao thu nhiếp được?
Đáp: Nếu "thật có" là tục đế và "thật có diệt" là chân đế. Tục đế tức kiến chấp thuộc tương ưng nhiễm trong môn Sinh diệt, Chân đế thì theo cho mà nói thì thuộc tương tự giác trong môn Sinh diệt, theo đoạt mà nói thì chỉ thuộc bất đoạn tương ưng nhiễm.
Vì là cảnh giới chấp thủ của phân biệt pháp chấp, nếu huyễn có là tục đế thì huyễn có tức không phải là chân đế. Tục đế cũng thuộc chấp tương ưng nhiễm, chân đế chính là thuộc một phần của nghĩa Không trong môn Chân như. Nếu huyễn có là tục đế, huyễn có tức Không, Bất Không cũng là chân đế. Tục đế cũng nhiếp thuộc như trước, còn chân đế chính là thuộc về nghĩa Bản Giác trong môn Sinh diệt.
Cũng thuộc về một ít phần nghĩa Không trong môn Chân như. Nếu huyễn có là tục đế, huyễn có tức Không, Bất Không, tất cả pháp thú hướng Không, Bất Không là chân đế. Tục đế cũng thuộc như trước, chân đế tức thuộc về môn Chân như. Nếu huyễn có, huyễn có tức không, đều gọi là tục đế, chẳng có chẳng không là chân đế. Tục đế tức thuộc về nghĩa Bất Giác trong môn Sinh diệt, cũng thuộc về nghĩa Tương tự giác. Chân đế tức thuộc về nghĩa Bản Giác trong môn Sinh diệt.
Nếu huyễn có, huyễn có tức Không đều gọi là tục đế, chẳng phải có chẳng phải không, tất cả pháp thú hướng chẳng phải có chẳng phải không là chân. Tục đế cũng nhiếp thuộc như trên. Chân đế tức thuộc về môn Chân như, nếu huyễn có, huyễn có tức Không, chẳng phải có chẳng phải không đều gọi là Tục đế. Tất cả pháp thú hướng về có, thú hướng về không, thú hướng về chẳng phải có chẳng phải không là Chân đế. Tục đế tức tâm môn Sinh diệt, chân đế tức tâm môn Chân như, chính là yếu chỉ căn bản của luận này.
Hỏi: Năm loại ba đế nhiếp nhau thế nào?
Đáp: Huyễn có là tục đế thuộc chấp tương ưng nhiễm, giống như đoạn trên. Tức Không Bất Không là chân đế, chính Bất Không này gọi là Trung đạo.
Không tức chút phần nghĩa Không trong môn Chân như, trung đạo tức là nghĩa Bản Giác trong môn Sinh diệt.
Nếu tất cả pháp thú hướng Không, Bất Không, gọi Bất Không này là Trung đạo nghĩa là Không, tức nghĩa Không trong môn Chân như, trung đạo tức nghĩa Bất Không trong môn Chân như.
Nếu phân Huyễn có huyễn có tức không của tục đế cho là hai đế chân và tục.
Chỉ chẳng phải có chẳng phải không của chân đế gọi là Trung đạo đe, nghĩa là, tục đế thì thuộc về chấp tương ưng nhiễm, chân đế thuộc về Tương tự giác, trung đạo thuộc về Bản giác. Nếu tất cả pháp thú hướng trung đạo nghĩa là, tục đế và chân đế vẫn thuộc về nghĩa như trước, Trung đạo mới thuộc về nghĩa Bất Không trong môn Chân như. Nếu ba đế viên diệu nghĩa là, chân đế tức nghĩa Không trong môn Chân như, tục đế tức nhiếp hết nghĩa Giác, bất giác trong môn Sinh diệt. Trung đạo tức là nghĩa Bất Không trong môn Chân như.
Nhất tâm có hai môn vì xoay vần mà không lìa nhau, cho nên Nhất tâm ba đế viên dung không thể nghĩ bàn. Nên biết trong lý vốn đủ ba đế, nhưng vì lý dung sự thì không có sự nào chẳng phải lý, nên gom ba thành hai. Trong sự cũng đủ ba đế, nếu dùng sự hiển bày lý thì không có lý nào chẳng phải sự, cho nên gom ba thành một.
A2. Giải thích từng Môn:
Chia làm hai:
B1. Giải thích tâm của môn Chân như
B2. Giải thích tâm của môn Sinh diệt
B1. Giải thích tâm của môn Chân Như:
Chia làm hai:
C1. Giải thích tướng tâm Chân như.
C2. Chỉ bày thể Đại thừa.
C1. Giải thích tướng của tâm Chân Như:
Chia làm hai:
D1. Nói về pháp thể.
D2. Nói về thuận theo ngộ nhập.
D1. Nói về Pháp Thể:
Chia làm hai:
E1. Mượn lời để nói pháp.
E2. Nói lên pháp lìa lời nói.
E1. Mượn lời để nói Pháp:
Tâm Chân như tức là Nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể. Vì bản tánh của tâm có Tướng bất sinh bất diệt, tất cả các pháp đều do vọng niệm mà có khác nhau. Nếu lìa vọng niệm thì không có tướng cảnh giới khác nhau, cho nên các pháp từ xưa đến nay tánh lìa ngôn ngữ, tất cả văn tự không thể nói bày. Lìa tâm phan duyên không có các tướng, rốt ráo bình đẳng thường không thay đổi, không thể phá hoại vì là nhất tâm, nên gọi là Chân như.
Tâm tức chỉ tâm hiện tiền của chúng sinh, Chân nghĩa là tánh kia chẳng vọng vì chẳng phải bốn đại, cũng chẳng phải bóng dáng sáu trần.
Vì chẳng có các vọng tướng giới hạn về không gian trong, ngoài, khoảng giữa, hay thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai.
Như nghĩa là tánh kia không đổi khác, vì bất sinh bất diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt, không đổi khác. Bởi vì Chân như bất biến tùy duyên, toàn thể thành tâm hiện tiền của chúng sinh.
Tâm này tùy duyên bất biến vẫn là toàn thể pháp giới Chân như, nên nói là Nhất pháp giới đại tổng tướng pháp môn thể.
Xưa nay không hai gượng gọi là nhất, nguồn gốc các pháp gượng gọi là pháp giới, dứt mọi đối đãi không có gì ngoài nó, gượng gọi là Đại; chỉ có một tướng là Vô tướng, không có tướng khác gượng gọi là Tổng tướng; có thể làm phép tắc có thể gìn giữ gượng gọi là pháp; chẳng có chỗ nào không thông suốt gượng gọi là Môn. Ví như biển lớn toàn thể thành bọt nước, nghiên cứu một hòn bọt nước này không có tự thể riêng khác, chỉ nắm giữ tánh ướt của biển lớn làm thể. Chỉ tánh ướt trong một hòn bọt nước này chính là tánh ướt của toàn thể biển lớn, chẳng phải lại có hai tánh, vì chẳng có tướng khác. Lại nữa, ví như ánh sáng mặt trời toàn thể vào khe hở trên vách, nghiên cứu ánh sáng của khe vách này không có thể tánh riêng, chỉ nắm giữ ánh sáng mặt trời làm thể. Chỉ tánh sáng trong khe vách này chính là tánh sáng của toàn thể mặt trời, chẳng phải có hai tánh vì không có tướng nào khác.
Từ câu "Vì bản tánh của tâm v.v..." trở xuống là giải thích thành nghĩa này; nghĩa là vì bản tánh tâm hiện tiền của chúng sinh, trước không có chỗ bắt đầu, cho nên không sinh, sau không kết thúc cho nên không diệt. Thí như hư không chẳng phải tạm có, chẳng phải tạm không, mà cũng không đồng với tướng hư không đối với sắc hiển bày, cho nên bất đắc dĩ gượng gọi là tướng không sinh diệt. Trong đây nên hỏi rằng: Mỗi lời trong kinh đều nói: Tâm sinh pháp sinh, tâm diệt pháp diệt, hiện nay thấy tất cả các pháp có các thứ sinh diệt khác nhau, há chẳng phải là tâm có sinh diệt hay sao? Sao lại nói Tướng không sinh không diệt được ư?
Nên giải thích rằng: Tất cả các pháp đều do vọng niệm mà có khác nhau, ví như dụi mắt vọng thấy hoa đốm, nếu lìa vọng niệm thì không có tướng cảnh giới khác nhau, ví như mắt đã hết bệnh thì không có tướng sinh diệt của hoa đốm. Cho nên Chân như của tâm tức là Chân như của các pháp, Chân như của các pháp tức là Chân như của tâm. Xưa nay tâm tánh đã lìa lời nói, tất cả văn tự không thể hiển bày, lìa tâm phan duyên không có các tướng, rốt ráo bình đẳng thường không thay đổi, không thể phá hoại. Do đó, tánh các pháp xưa nay cũng lìa lời nói, cho đến không thể phá hoại.
Cho nên tất cả chư Phật, tất cả chúng sinh, tất cả cõi nước giả thật, rốt ráo chỉ có một tâm thanh tịnh làm thể, ngoài một tâm không có pháp khác nên bất đắc dĩ gọi là Chân như.
E2. Trình bày Pháp lìa lời nói:
Từ xưa đến nay không thể nói năng, không thể phân biệt, tất cả lời nói chỉ là giả dối chẳng phải thật, chỉ tùy theo vọng niệm vì không thật có. Chân như nghĩa là cũng không có tướng, chỉ là chỗ cùng tột của tất cả lời nói, dùng lời dẹp lời, chẳng phải thể tánh kia có thể đuổi dẹp dù chỉ một phần nhỏ, hoặc có thể dựng lập dù chỉ một phần nhỏ.
Ở đây nói về tánh của tâm Chân như, tức là tánh Chân như của tất cả pháp. Đường ngôn ngữ dứt nên không thể nói năng, chỗ tâm hành diệt nên không thể phân biệt. Vả lại, như các vật ở thế gian nếu gọi lửa không nóng, nước không ướt cũng không thể nói được. Nghĩ lửa không thiêu đốt, nước không thấm cũng chẳng thể phân biệt. Huống là nghĩa đế Chân như đệ nhất lìa lỗi dứt quấy chỉ là chỗ thầm chứng ngộ của tự giác thánh trí, làm sao có thể nói năng và phân biệt được?
Vì tất cả lời nói đều là giả danh chẳng có nghĩa thật, chỉ tùy theo vọng niệm mà gượng dựng lập, rốt ráo không thật có.
Hỏi: Đã nói không thể nói năng thì hai chữ Chân như chẳng phải là lời nói ư? Đã nói không thể phân biệt thì tướng Chân như không sinh diệt, chẳng phải là tướng riêng ư?
Đáp: Nói Chân như cũng là vô tướng, chỉ là chỗ tột cùng của tất cả lời nói, dùng lời dẹp lời mà thôi. Như Luận Duy Thức nói Chân như cũng là tên tạm đặt, ngăn chặn sự bác bỏ cho rằng Chân như là không có nên nói là có, ngăn sự chấp trước là có nên nói là không, không cho nói hư huyễn nên nói là thật, lý chẳng điên đảo luống dối nên gọi là Chân như, chẳng đồng với các tông khác cho rằng thật có một pháp thường hằng, lìa sắc tâm v.v... gọi là Chân như.
Tức là chỗ cùng tột trong ngôn thuyết, là ý chỉ dùng lời dẹp lời. Lại sợ kẻ mê nghe nói dẹp lời, lầm chấp thật có pháp để dẹp, nên nói rằng: chẳng phải thể tánh kia có thể dẹp trừ dù chỉ một phần thật nhỏ. Lại vẫn sợ kẻ mê nghe nói không dẹp, lầm chấp thật có pháp để dựng lập cho nên nói chẳng phải thể tánh Chân như kia có thể dựng lập dù một chút phần thật nhỏ. Chẳng phải có thể dẹp dù một phần thật nhỏ nhưng chẳng phải là không ngơ, chẳng phải có thể dựng lập dù chỉ một phần thật nhỏ nhưng chẳng phải huyễn có. Do chẳng phải huyễn có nên thành nghĩa Chân thật Không, do chẳng phải không ngơ nên thành nghĩa Chân thật Bất không.
Bản dịch đời Lương ghi: Thể Chân như này không thể dẹp vì tất cả pháp đều chân, cũng không có thể dựng lập vì tất cả pháp đều như.
Kinh Đại Phật Đảnh chép: Năm ấm, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám cõi sinh diệt qua lại, đều là diệu tánh Chân như của Như Lai tàng, tức là nghĩa không thể dẹp. Lại nói: Trong tánh chân thường tìm sinh tử, mê ngộ qua lại v.v... rốt ráo không thật có, tức là nghĩa không thể dựng lập.
Phần đầu nói về pháp thể đã xong.
D2. Nói thuận theo Ngộ Nhập:
Hỏi: Nếu như thế chúng sinh làm sao thuận theo ngộ nhập?
Đáp: Nếu biết tuy nói tất cả pháp mà không có năng thuyết sở thuyết, tuy nhớ nghĩ tất cả pháp mà không có năng niệm sở niệm, bấy giờ thuận theo, vọng niệm đều dứt gọi là ngộ nhập.
Chân như tức là thật tánh các pháp, cũng là thật tánh của tất cả lời nói, cũng là thật tánh của tất cả niệm. Cho nên vốn không ngoài tất cả pháp, tất cả lời nói tất cả niệm, chỉ vì bất biến tùy duyên toàn thể mà thành năng thuyết sở thuyết, năng niệm sở niệm. Tùy duyên bất biến toàn thể năng thuyết sở thuyết của phàm phu đều là tánh Chân như, thường bình đẳng không khác nhau.
Chúng sinh không biết, đối với pháp Chân như bình đẳng, vọng chấp cho là thật có năng thuyết sở thuyết, năng niệm sở niệm, ắt là trái với Chân như, nhưng không hề ra ngoài thể tánh Chân như, cũng có thể gọi là Lý tức tùy thuận. Nếu ngay vọng niệm này khai mở pháp Đại thừa, biết là không có thật tánh, đây là Danh tự tùy thuận. Nếu khiến sự hiểu biết này mỗi niệm nối nhau để thành tựu tư tuệ, đây là Quán Hạnh tùy thuận. Nếu khiến sự hiểu biết này thuần thục một cách hồn nhiên để thành tựu tu tuệ thì đây là Tương tự tùy thuận. Nếu do sự hiểu biết này giúp cho Trí Diệu Quan Sát phát sinh, tiếp xúc và chứng đắc Chân như, thế là vọng niệm đều hết sạch tức là Phần Chứng tùy thuận, đổi tên gọi là Ngộ Nhập.
Hỏi: Vọng niệm đều hết sạch đáng lẽ là Tướng Cứu Cánh Vị, vì sao gọi là Phần Chứng?
Đáp: Khi chân kiến đạo, vì tất cả phân biệt không hiện hành, vì chỗ chứng Chân như không có ranh giới, nên cũng được gọi là đều hết sạch.
Từ đây về sau, tu hành có tăng tiến đều là trí Vô lậu, gọi là Chân tu, không giống như ba thứ trí tuệ hữu lậu Văn Tư Tu chỉ gọi là Duyên tu, nên không còn gọi là Vọng niệm.
Hỏi: Chân tu tăng tiến chắc chắn không có tên gọi là vọng niệm, khi xuất thiền quán vẫn có vọng niệm vô minh sâu kín hiện hành thì đâu thể gọi là đều dứt sạch?
Đáp: Khi xuất thiền quán chợt khởi vọng niệm sâu kín không gọi là thuận theo, nghĩa là đã là Thánh mà không nhớ lại trở thành điên cuồng.
Trên danh tự có thể biết vọng niệm không tánh cũng gọi là thuận theo, nghĩa là đang điên cuồng khắc niệm thì là Thánh. Tóm tắt lại, Lý tức thuần nghịch, Cứu Cánh thì thuần thuận.
Từ quả vị Danh Tự trở lên, quả vị Đẳng Giác trở xuống đều có nghịch lẫn thuận, ví như ánh trăng đêm mồng một cho đến đêm mười bốn, tuy ánh sáng tăng dần tướng tối chưa hết; chỉ Phần Chứng đã đắc vô lậu, không bao giờ lui mịt, ví như mặt trăng sáng vừa mọc ánh sáng chiếu khắp mặt đất, cũng được gọi là vọng niệm đều dứt sạch.
Phần đầu giải thích tướng tâm Chân như đã xong.
C2. Chỉ bày Thể Đại Thừa:
Chia làm hai:
D1. Giải thích sơ lược tiêu đề
D2. Giải thích rộng.
D1. Giải thích sơ lược tiêu đề:
Lại nữa, Chân như y theo lời nói mà kiến lập có hai thứ khác nhau:
1. Chân thật không, vì rốt ráo xa lìa tướng không thật, hiển bày thể chân thật.
2. Chân Thật Bất không, vì bản tánh đầy đủ vô biên công đức, có tự thể riêng.
Chân như lìa tướng nói năng nhưng vẫn y theo lời nói mà kiến lập nghĩa là, vì hướng xuống môn Sinh diệt, gượng ở nơi không có tên gọi, không có hình tướng, không có thể tánh, chỉ mượn danh từ giả tạm để gọi, giúp cho người nương ngón tay, danh từ giả tạm để thấy được vầng trăng thật thể.
Nhưng Chân như còn chẳng phải là một, há là có hai thứ khác nhau, chỉ vì Biến kế sở chấp vốn không, Y tha khởi như huyễn nên gọi là Chân thật không; viên thành thật vốn đầy đủ nên còn gọi là Chân Thật Bất Không. Nhờ cái không của Biến Kế Y tha mới hiển bày được cái Bất Không của Viên thành, ví như biết rõ con rắn chẳng có, hiểu rành sợi dây không thật mới nói lên được tự thể của sợi gai Bất Không. Do thấy Viên Thành bất không mới tin biến kế, y tha chẳng có, ví như khi thấy bốn sợi gai nhỏ thì biết con rắn chắc chắn vốn không có, sợi dây cũng chẳng thật. Chỉ có tâm tánh hiện tiền của chúng sinh vốn không có Ngã thật, Pháp thật, cũng không có các tướng huyễn khác nhau của năm vị một trăm pháp, một trăm cõi, một ngàn như. Cho nên nói rốt ráo xa lìa tướng không thật, nhờ đó hiển bày tâm tánh toàn vọng tức chân, chân thường riêng hiển bày nên nói là hiển bày thể thật. Đã hiển bày thể thật thì mới biết bản tánh của tâm này vốn đầy đủ vô biên công đức, nghĩa là, lý đủ tam thiên cõi, sự tạo tam thiên cõi, vì tất cả tướng công đức tất cả nghiệp dụng đồng thể Chân như không có phân biệt. Cho nên được:
Bụi bụi Hoa tạng Niệm niệm Tỳ-lô Khắp nhau dung nhau Cũng chẳng ở đâu.
Vì Không và Bất không chỉ là thể Nhất tâm Chân như, Thể Chân như này tức là thể Đại thừa.
D2. Giải thích rộng:
Chia làm hai:
E1. Giải nghĩa không
E2. Giải nghĩa bất không.
E1. Giải nghĩa Không:
Lại nữa, Chân Thật không là từ xưa đến nay không tương ưng với tất cả pháp nhiễm, lìa tướng khác nhau của tất cả pháp, không có tâm phân biệt luống dối, nên biết Chân như chẳng có tướng, chẳng phải không có tướng, chẳng phải vừa có vừa không có tướng, chẳng phải chẳng phải có chẳng phải không có tướng; chẳng phải tướng một, chẳng phải tướng khác, chẳng phải vừa là tướng một vừa là tướng khác, chẳng phải chẳng phải tướng một chẳng phải tướng khác. Tóm lại, vì chỗ vọng tâm phân biệt của tất cả chúng sinh không thể thân chứng nên gọi là Không, y cứ theo đạo lý chân thật thì vọng niệm chẳng thật có, tánh Không cũng không vì pháp bị ngăn là không, pháp năng ngăn cũng không có.
Đoạn này lại nói về Chân thật không, chỉ biểu hiện trên thể Chân như, vốn không vọng nhiễm cho nên dùng chữ Không để ngăn cái Có luống dối kia, chẳng phải ám chỉ lấy Không này làm thể Chân như.
Tâm tánh hiện tiền xưa nay rõ ràng tìm không thật có, thì làm sao tương ưng với pháp nhiễm được? Làm sao có các pháp tướng khác nhau được? Chỗ nào có thể dung chứa các phân biệt luống dối, cho nên bốn tướng có không và bốn tướng một khác đều không, cho đến tất cả vọng tâm phân biệt đều không thể tiếp xúc và chứng đắc tâm tánh này.
Nhưng tuy nói vọng tâm phân biệt không thể tiếp xúc, nhưng vọng tâm phân biệt này tự tìm lại nó cũng không thật có, cho đến tất cả pháp nhiễm vốn không thật có, tất cả sự khác nhau vốn không thật có, há phải chờ dùng Không để dẹp trừ nó rồi mới Không ư? Nếu dẹp vọng còn Không, Không vẫn là vọng. Nay nói Không, có nghĩa là mục đích ngăn vọng niệm để rõ vốn Không, chẳng phải chỉ Không này là Chân như.
E2. Giải thích nghĩa Bất Không:
Nói Chân Thật Bất Không vì vọng niệm rỗng không chẳng có, tức nói lên Chân tâm thường hằng không đổi, pháp thanh tịnh viên mãn nên gọi là Bất Không, cũng chẳng có tướng Bất Không vì chẳng phải chỗ vận hành của tâm vọng niệm.
Vì chỉ là chỗ chứng của người lìa niệm.
Đây chính là nói Chân Thật Bất không, nghĩa là chỉ cần thông hiểu vọng niệm vốn không, tức Chân tâm thường hằng không thay đổi, pháp thanh tịnh viên mãn liền hiển bày, cho nên dùng Bất Không để tiêu biểu, không giống như vọng niệm chấp tướng Bất Không.
Nếu cho tướng Bất Không của vọng niệm là Chân như thì cũng giống các tông khác chấp lìa sắc tâm v.v... thật có pháp thường hằng gọi là Chân như, thật lầm to!
Trong chánh văn nói thường hằng là đức Thường, bất biến là đức Ngã, pháp thanh tịnh là đức Tịnh, thể tánh viên mãn là đức Lạc, tức là bốn đức không thể nghĩ bàn nên chỉ là chỗ chứng đắc của người lìa niệm.
Phần đầu giải thích môn Chân như đã xong.
B2. Giải thích Môn Tâm sinh diệt:
Chia làm hai:
Chi 1. Giải thích tướng nhân duyên của tâm sinh diệt.
Chi 2. Hiển bày Thể Tướng, Dụng của Đại thừa.
CHI 1. Giải thích Tướng nhân duyên của Tâm sinh diệt:
Chia làm hai:
Tiết 1. Sự sinh diệt của pháp nhiễm tịnh. Tiết 2. Sự huân tập của pháp nhiễm tịnh.
TIẾT 1. Sự sinh diệt của Pháp Nhiễm tịnh:
Chia làm ba:
A1. Giải thích tâm sinh diệt.
A2. Nói nhân duyên sinh diệt.
A3. Nói tướng sinh diệt.
A1. Giải thích Tâm sinh diệt:
Chia làm ba:
B1. Nêu tên nêu ý nghĩa.
B2. Y theo nghĩa giải thích từng thứ.
B3. Phân tích chung sự giống và khác.
B1. Nêu tên nêu ý nghĩa:
Tâm môn Sinh diệt là nương Như Lai tàng biến chuyển mà có tâm sinh diệt, không sinh diệt hòa hợp với sinh diệt chẳng phải một chẳng phải khác gọi là thức A-lại-da.
Thức này có hai nghĩa, là thu nhiếp tất cả pháp và sinh ra tất cả pháp. Lại có hai nghĩa, một là nghĩa giác, hai là nghĩa Bất Giác.
Như Lai tàng tức là Chân như. Chân như bất biến tùy duyên mà toàn thể thành sinh diệt. Nay không nói nương Chân như mà có tâm sinh diệt chuyển.
Là nói nương Như Lai tàng có tâm sinh diệt chuyển, vì lấy Chân như làm thể của tâm này, như tánh ướt của nước; lấy Như Lai tàng làm Tướng tâm này ví như tánh ướt của nước. Chân như đã không sinh diệt cho nên Như Lai tàng cũng không sinh diệt, Chân như toàn thể tùy duyên.
Cho nên nương thức thứ tám Như Lai tàng có bảy thức tâm sinh diệt trước chuyển. Bảy thức trước này đều nương thức thứ tám mà sinh khởi, đều nắm giữ Chân như làm thể, ví như nương nước dậy sóng, sóng cũng lấy tánh ướt làm thể.
Thức thứ tám và bảy thức trước xoay vần nương nhau, làm nhân quả lẫn nhau ví như nước và sóng, nên gọi là hòa hợp. Hay huân tập và bị huân tập khác nhau nên chẳng phải một, cùng lấy Chân như làm Thể nên chẳng phải khác. Vì có nghĩa năng tàng sở tàng và chấp tàng nên lại được gọi là A-lại-da. (A-lại-da Hán dịch là Tàng) vì Thể nó là Chân như nên thu nhiếp tất cả pháp, vì thọ nhận, huân tập và giữ gìn hạt giống nên sinh ra tất cả pháp.
Hỏi: Thể A-lại-da tức Chân như, A-lại-da hay thu nhiếp tất cả pháp nghĩa là toàn Chân như thành A-lại-da, thì Chân như cũng nên sinh tất cả pháp?
Đáp: Lý đúng như vậy! Chỉ theo nghĩa bất biến tùy duyên nên gọi là Như Lai tàng, cũng gọi là Alại-da, nên có thể nói sinh tất cả pháp. Nếu theo nghĩa tùy duyên bất biến mới gọi là Chân như, cho nên có thể nói thu nhiếp tất cả pháp, đều chẳng sinh diệt, không thể nói sinh tất cả pháp.
Hỏi: Chân như đã không được nói là sinh ra tất cả pháp, thì A-lại-da cũng không được nói là thu nhiếp tất cả pháp phải không?
Đáp: A-lại-da nắm giữ toàn bộ Chân như làm thể, chẳng phải một ít phần cho nên thu nhiếp tất cả pháp. Thu nhiếp tất cả pháp tức là Lý đủ thế giới tam thiên; sinh tất cả pháp tức là Sự tạo thế giới tam thiên. Vì có Lý đầy đủ mới có Sự tạo tác, vì có Sự tạo tác mới hiển Lý đầy đủ, nếu không thu nhiếp tất cả pháp đâu thể sinh tất cả pháp, nếu chẳng sinh tất cả pháp đâu thể nói lên thu nhiếp tất cả pháp. Lại nữa, Chân như và A-lại-da không giống nhau cũng không khác nhau, vì không khác nên nói thu nhiếp tất cả pháp, vì không phải một nên không nói Chân như sinh tất cả pháp. Lại nữa, Chân như bất biến tùy duyên.
Không phải chỉ nêu thể làm Như Lai tàng, thức A-lại-da cũng lại nêu thể thành các chuyển thức và tất cả pháp. Ví như tánh ướt chẳng những toàn thể là nước mà cũng toàn thể là sóng, cho nên mỗi mỗi chuyển thức và tất cả pháp tùy duyên bất biến đều là toàn thể Chân như, chẳng phải một ít phần Chân như. Nên biết mỗi chuyển thức và tất cả pháp, y cứ vào đạo lý chân thật, mỗi thứ đều thu nhiếp tất cả pháp, sinh ra tất cả pháp.
Hiện nay nói A-lại-da hay thu nhiếp hay sinh khởi là tạm nói theo tướng khác của môn Sinh diệt, nếu theo tướng đồng thì đều là toàn thể Chân như, đều đầy đủ đại dụng của Chân như. Lại nữa, bảy chuyển thức trước tướng tuy sinh diệt, như thể là Chân như, vốn không sinh diệt. Thể Như Lai tàng tuy không sinh diệt, nhưng tùy nhân duyên nên Tướng cũng sinh diệt. Nay tâm sinh diệt chỉ cho bảy chuyển thức, không sinh diệt chỉ cho Như Lai tàng, nghĩa là tạm theo nghĩa không phải một trong môn Sinh diệt mà nói; nếu theo nghĩa chẳng khác mà nói thì bảy thức sinh diệt tức là Tàng thức sinh diệt, Tàng thức không sinh diệt tức là bảy thức cũng không sinh diệt. Cho nên kinh Lăng già nói bảy thức không lui sụt, không chịu khổ vui, chẳng phải nhân Niết-bàn tức la nghĩa không sinh diệt của bảy thức.
Lại nói rằng Như Lai Tàng chịu khổ vui, cùng nhân câu hội, hoặc sinh hoặc diệt, tức là nghĩa Tàng thức sinh diệt. Lại có hai nghĩa, nghĩa là trong Tàng thức này từ vô thỉ đến nay dĩ nhiên đã vốn đầy đủ hạt giống trí đức vô lậu, sinh các pháp vô lậu, gọi là nghĩa Giác. Dĩ nhiên vốn đầy đủ hạt giống vô minh hữu lậu, sinh ra các pháp hữu lậu, gọi là nghĩa Bất giác.
Hỏi: Đoạn sau giải thích nghĩa chữ Giác là tâm tánh nghĩa bật nhất, tức là Pháp thân bình đẳng của tất cả Như Lai gọi là Bản giác, đâu thể đem hạt giống Vô lậu để giải nghĩa Như Lai tàng?
Đáp: Chân như bất biến tùy duyên toàn thể thành hoặc, là hạt giống hoặc là hiện hành vô lậu hữu lậu, cho nên đoạn sau nói như thế, thì các thứ dụng huyễn vô lậu vô minh đều cùng một tướng chân. Phàm hạt giống và hiện hành vô minh còn đồng một tướng chân, huống chi là hạt giống hiện hành vô lậu há không phải tánh nghĩa bậc nhất hay sao? Há không phải là Pháp thân bình đẳng của tất cả Như Lai hay sao? Vì hạt giống vô lậu vốn tự có, nên gọi là Bản Giác. Hàng Tứ trí tâm phẩm mới khởi hiện hành nên gọi là Thỉ giác, Tứ trí tâm quả vị Phật tức đồng hạt giống Vô lậu, toàn thể Chân như không thêm không bớt, bình đẳng nên nói Thỉ Giác tức Bản Giác.
Xả được kiến chấp cũ đó là điều may mắn, nên phải tha thiết suy nghĩ về điều này.
B2. Y theo nghĩa giải thích mỗi thứ:
Chia làm hai:
C1. Giải thích nghĩa Giác.
C2. Giải thích nghĩa Bất giác
C1. Giải thích nghĩa Giác:
Chia làm ba:
D1. Lập nghĩa hai thứ Bản Giác, Thỉ Giác.
D2. Nói riêng về Bản Giác, Thỉ Giác.
D3. Nói chung về bốn thứ đại nghĩa.
D1. Lập nghĩa hai thứ Bản giác và Thỉ giác:
Ý nghĩa chữ Giác là tâm Tánh nghĩa bậc nhất, lìa tất cả vọng niệm. Vì lìa tất cả vọng niệm nên bằng cõi hư không, chẳng ở đâu không cùng khắp. Nhất tướng pháp giới tức là Pháp thân bình đẳng của tất cả Như Lai, nương Pháp thân này nói tất cả Như Lai là Bản giác. Vì đối với Thỉ giác lập thành Bản giác, nhưng khi vừa mới Giác (Thỉ giác) tức là Bản Giác này, không có sinh khởi giác nào khác. Lập nghĩa Thỉ giác là nương Bản giác mà có Bất giác, nương Bất giác nói có Thỉ giác.
Tâm tức chỉ cho Tâm hiện tiền của chúng sinh. Tánh Nghĩa bậc Nhất là chỉ hạt giống vô lậu thành tựu từ vô thỉ, không thay đổi danh tánh. Lìa tất cả tướng vọng niệm nghĩa là hạt giống vô lậu này tuy nương tựa thức căn bản, nhưng chẳng phải là chỗ thức căn bản duyên theo được. Bằng cõi hư không, chẳng ở đâu không cùng khắp nghĩa là hạt giống vô lậu này tánh đã thuận theo Chân như thì chẳng có nơi chốn, hình tướng đê hạn cuộc. Pháp giới nhất tướng nghĩa là hạt giống vô lậu này đã thuận theo Chân như tức cùng Chân như pháp giới đồng một tướng, không thể nghĩ bàn. Tức là Pháp thân bình đẳng của tất cả Như Lai, nghĩa là Trí và Chân như bình đẳng bình đẳng, chỉ có Như như và trí Như như này mới là chỗ đồng chứng của tất cả Như Lai, gọi chung là Pháp thân. Y theo Pháp thân này nói là Bản Giác nghĩa là tuy dường như mới thành mà thật ra là Phật xưa. Vì đối đãi Thỉ Giác lập thành Bản giác nghĩa là tuy là Phật xưa mà không trở ngại mới thành. Nhưng khi mới bắt đầu giác ngộ tức là Bản giác. Không có sinh giác nào khác nghĩa là hạt giống toàn thể thành hiện hành, hiện hành mà không thay đổi hạt giống từ vô thỉ, như nước đóng thành băng, băng tan trở lại thành nước, chẳng phải có nước mới riêng.
Hỏi: Đã nói không sinh Giác khác, vì sao gọi là Thỉ Giác được?
Đáp: Nương theo Bản giác mà có Bất giác, như nước đóng thành băng; y theo Bất giác nói có Thỉ giác, như băng mới tan thành nước. Lại nương theo đoạn sau ví dụ để làm rõ nghĩa. Như Lai tàng tức Chân như ví như phương Đông, phương Tây đã nhất định, không phải mê, không phải ngộ mà làm chỗ nương cho mê ngộ. Ở đây đã xác định phương Đông phương Tây, tức phải có cái biết biết phương Đông, phương Tây này, trong định phương này có đủ nghĩa Bản giác. Vì xưa nay chưa từng biết nên gọi là mê, trong định phương này có đầy đủ nghĩa bất giác. Vì bất giác nên gọi phương Đông là Tây, gọi phương Tây là Đông, trong định phương này là chỗ sinh khởi vọng tưởng chuyển thức. Định phương hoặc tùy duyên mê hoặc tùy duyên ngộ, chắc chắn không có lúc nào không tùy duyên nên có hai nghĩa Giác và Bất giác, gọi là môn Sinh diệt. Mê cũng phương này, ngộ cũng phương này, chắc chắn không theo duyên mà thay đổi, gọi là môn Chân như. Mê là mê Chân như này, trở thành sinh diệt, nhưng do đối đãi với mê mà nói ngộ, nên ngộ cũng phải thuộc về môn Sinh diệt. Nghĩa là nói vọng để hiển bày chân, vọng và chân đều là vọng.
Ngộ thì ngộ sinh diệt này tức là Chân như, mà Chân như thì không có mê ngộ, nên mê cũng quy về môn Chân như. Nghĩa là tất cả chúng sinh tức tướng Niết-bàn, nên không thể lại hoại diệt, là tướng Bồ-đề không còn chứng đắc nữa.
Duy Thức cũng nói rõ về hạt giống các pháp chỉ thế tục mới có, chẳng phải nghĩa cao siêu chân thật, tức giống như nương theo phương hướng nên có hai pháp mê ngộ.
Lại nói, Chân như tức là tánh thật của thức này, chẳng phải ngoài sắc tâm có Chân như riêng.
Tức giống như vì nương theo mê ngộ mà biện phương hướng, ngoài hai tâm mê ngộ, nếu bác bỏ thì chẳng lẽ lại có phương hướng riêng hay sao?
Than ôi! Tổ Mã Minh, Hộ Pháp quyết không có hai ý chỉ, rõ ràng như vậy!
D2. Phân biệt riêng Thỉ giác và Bản giác:
Chia làm hai:
E1. Nói về nghĩa Thỉ giác.
E2. Nói về nghĩa Bản giác.
E1. Nói về nghĩa Thỉ giác:
Chia làm ba:
G1. Nêu chung chỗ sâu cạn.
G2. Chỉ rõ chỗ sâu cạn.
G3. Nói về cạn sâu vô tánh.
G1. Nêu chung chỗ sâu cạn:
Lại vì giác nguồn tâm gọi là Cứu Cánh giác, nguồn tâm không giác thì chẳng phải Cứu Cánh giác.
Theo luận, nghĩa giác thuộc về Tạng thức, tức là tâm sở Tuệ trong năm món Biệt cảnh. Tâm sơ Tuệ này cũng giữ hoàn toàn Chân như làm thể, nên thu nhiếp tất cả pháp, sinh ra tất cả pháp, như chấp Nhân, chấp Ngã của ngoại đạo, phàm phu. Chấp Pháp, chấp Ngã của phàm phu, ngoại đạo Nhị thừa tức là Tuệ nhiễm ô, như tất cả thông minh khéo léo của thế gian tức tuệ vô ký, như tất cả chánh kiến thế gian có được tức là hữu lậu Thiện tuệ, như trí Nhân không của Ba thừa là Tuệ vô lậu cũng gọi là Cộng Bát-nhã, như trí Pháp Không của Đại thừa cũng tức Tuệ vô lậu, cũng gọi là Bất Cộng Bát-nhã, như Bốn trí của chư Phật tức trí tuệ không thể nghĩ bàn, cũng gọi là Vô thượng Bồ-đề. Lại nữa, trí Vô phân biệt của quả vị Gia hạnh tức là Tuệ hữu lậu Văn, Tư, Tu, trí Căn bản Vô phân biệt tức là Thật tuệ, trí Hậu đắc Vô phân biệt tức là Quyền tuệ.
Lại nữa trong nhân, quán chiếu Lý gọi là Đạo Tuệ, quán chiếu Sự gọi là Đạo Chủng Tuệ. Trên quả, quán chiếu Lý gọi là Trí Nhất Thiết, quán chiếu Sự gọi là Trí Nhất Thiết Chủng. Lại nữa, quán chiếu chân đế gọi là Trí Nhất Thiết, quán chiếu tục đế gọi là Đạo Chủng Trí, quán chiếu Trung đạo gọi là Trí Nhất Thiết Chủng. Tuy có các tên khác nhau, các thứ khai hợp đều là một tâm sở Tuệ, đều là nghĩa giác của luận này. Hoặc chỉ công nhận Vô lậu mới gọi là Giác, chỉ có bốn Trí Bồ-đề của chư Phật mới có thể giác ngộ tận cội nguồn của tâm gọi là Cứu Cánh giác. Quả vị thấp hơn đều chẳng phải Cứu Cánh giác.
G2. Chỉ rõ sâu cạn:
Như phàm phu niệm trước Bất giác sinh khởi phiền não, niệm sau chế phục không để sinh khởi nữa. Đây tuy gọi là Giác nhưng tức là Bất giác.
Bất giác tức là Vô minh, Vô minh, tức là tâm sở Si trong các phiền não căn bản. Tâm sở Si này cũng nắm giữ hoàn toàn Chân như làm thể, nên cũng nhiếp tất cả pháp, sinh ra tất cả pháp. Nếu tương ưng với Pháp Ngã Si của thức thứ bảy gọi là Vô Minh Căn Bản, tức là chỗ đoạn sau gọi là vì không biết chân pháp là một. Hiện hành này, khi
Trí Bình Đẳng Tánh hiện ra ở trước mới điều phục được, hạt giống này cho đến khi sắp thành Phật, nhờ định Kim Cương Dụ mới đoạn dứt được, đoạn dứt được hạt giống này mới gọi là Phật. Nếu với Nhân Ngã Si tương ưng của thức thứ bảy thì gọi là hằng hành Bất Cộng Vô Minh, phải đến khi chứng Vô Học của Ba thừa mới dứt được.
Nếu tương ưng với Pháp Ngã Si của thức thứ sáu thì có hai loại: Phân biệt Pháp Si, khi lên Sơ địa liền chóng trừ.
Câu sinh Pháp Si, đến Thập Địa mới dứt dần từng phần, cho đến khi thành Phật mới dứt sạch.
Nếu tương ưng với Nhân Ngã Si của thức thứ sáu cũng có hai loại:
Phân biệt ngã si, người Ba thừa khi vừa Kiến đạo liền dứt.
Câu sinh Ngã Si, địa vị tu đạo của ba thừa dứt dần từng phần đến khi chứng Vô học mới sạch hết. Nếu tương ưng với Câu sinh Si của năm thức trước thì tùy theo thức thứ sáu mà thành có và không, cho đến quả Phật mới bắt đầu dứt sạch.
Cho nên do si mê này mà có sáu cõi phàm, do chuyển si thành không còn si mà có bốn cõi Thánh. Đây há chẳng phải là năng nhiếp tất cả pháp, sinh ra tất cả pháp hay sao!
Nay nói phàm phu niệm trước Bất giác nghĩa là theo Phân biệt Si hoặc Câu sinh Si, tương ưng với thức thứ sáu mà nói. Vì thức thứ bảy si nên thường vận hành không cần nói. Khởi phiền não nghĩa là khởi các hoặc tham sân si tương ưng với sáu thức trước.
Niệm sau chế phục không để sinh khởi trở lại, nghĩa là dùng ngay chánh kiến thế gian hoặc dùng văn tuệ và tư tuệ hữu lậu để đối trị. Ở đây tuy gọi là Giác vì là Thiện tuệ nhưng tức là Bất giác vì chưa phải là Vô lậu.
Như người Nhị thừa và Bồ-tát Sơ nghiệp, Giác có niệm và vô niệm thể tướng khác nhau, vì xả phân biệt thô nên gọi là Tương tự giác.
Người Nhị thừa chỉ chung cho bậc Hữu học và Vô học. Bồ-tát Sơ nghiệp nghĩa là tám bậc từ Kiến địa trở lên trong Thập địa, Sơ phát tâm trụ địa trở lên trong bậc Tam hiền Thập thánh, vì đã dứt Phân biệt Ngã Si, đã chứng Sinh Không Chân như hiện bày, cho nên hay Giác, khi xuất Hữu niệm thiền quán nhập Vô niệm thiền quán, thể tướng kia có sự khác nhau. Xả bỏ kiến hoặc và tư hoặc gọi là xả bỏ phân biệt thô, chỉ được Sinh không Vô lậu chưa được Pháp không Vô lậu nên chỉ gọi là Tương tự Giác.
Như Bồ-tát Pháp thân, giác ngộ Niệm và Vô niệm đều không có tướng, vì xả phân biệt bậc trung nên là gọi Tùy phần giác.
Chóng trừ phân biệt pháp chấp, xả dị sinh tánh chướng, chứng Biến hành Chân như, được Phật tánh Trung đạo gọi là Bồ-tát Pháp thân.
Đã chứng Pháp thân Chân như thì biết Thể Chân như vốn chẳng phải Hữu niệm sinh tử, cũng chẳng phải Vô niệm Niết-bàn, chỉ vì bất biến tùy duyên nên Chân như toàn thể thành Niệm, Vô niệm; Tùy duyên bất biến nên Niệm Vô niệm đều tức là Chân như, nào có hai tướng. Từ đây dứt trừ dần dần Câu sinh Pháp chấp gọi là Xả Phân Biệt bậc trung. Đã được Pháp Không Vô Lậu chỉ chưa được tột cùng nguồn cội nên gọi là Tùy Phần giác, cái gọi là Phần chứng tức Phật.
Nếu vượt qua Bồ-tát địa, đạo rốt ráo viên mãn, một niệm tương ưng Giác tâm vừa khởi mới gọi là Giác. Xa lìa tướng giác, phân biệt sâu kín rốt ráo dứt hẳn. Bản tánh của Tâm thường trụ hiện tiền đây là Như Lai, gọi là Cứu Cánh giác.
Vượt qua Bồ-tát địa là Đẳng giác hậu tâm, nhập vào định Kim Cương Dụ. Trí Diệu Quan Sát, Pháp Không Vô Lậu gọi là đạo Cứu cánh. Từ Sơ chứng Pháp thân về sau, tăng tiến từng phần cho đến chỗ đầy đủ viên mãn này, khiến hạt giống hữu lậu trong thức Dị thục đều xả bỏ sạch hết, chuyển thành thức Yêm-ma-la, tức bỗng được tương ưng với trí Đại viên cảnh, nên nói Nhất niệm tương ưng giác tâm sơ khởi.
Mới gọi là Giác nghĩa là giải thích thành Thỉ giác, Cứu Cánh Giác. Xa lìa tướng giác là giải thích nghĩa tức là Bản Giác không có giác nào khác sinh khởi. Vi tế phân biệt rốt ráo dứt hẳn nghĩa là trong đạo Vô gián, xả bỏ Dị thục chủng thức. Tánh căn bản của tâm thường trụ hiện tiền nghĩa là trong đạo giải thoát chứng Pháp thân sẵn có đầy đủ.
Như nghĩa là tánh Chân như Bản giác. Lai nghĩa là tu cho Thỉ giác hợp nhất với Bản giác. Thỉ giác và Bản giác hợp nhất nên gọi là Như Lai, Thỉ Giác và Bản Giác đều quên nên gọi là Giác Cứu Cánh.
Cho nên kinh nói, nếu có chúng sinh hay quán tất cả vọng niệm vô tướng, đó là chứng đắc trí tuệ Như Lai.
Chân như Phật tánh bất biến tùy duyên, toàn thể thành tất cả vọng niệm, như nước thành băng thì tất cả vọng niệm tùy duyên bất biến, toàn thể tức là Chân như Phật tánh, như băng nắm giữ nước thành tướng, há có tự tướng riêng ư? Do các phàm phu chẳng hiểu vọng niệm vô tướng nên tuy chế ngự phiền não vẫn gọi là Bất giác. Do người Nhị thừa và Bồ-tát Sơ nghiệp cũng không hiểu vọng niệm vô tướng, vọng chấp niệm và vô niệm có thể tướng khác nhau, nên tuy chứng đắc Sinh Không Vô Lậu, chỉ có thể gọi là Tương tự giác. Nếu dùng lý thật để dẹp trừ vẫn gọi là Bất giác.
Sau khi đã chứng Pháp thân rồi mới giác ngộ được niệm và vô niệm đều không có tướng, mới được gọi là Tùy Phần giác. Cho nên kinh nói nếu có chúng sinh khi bắt đầu ở địa vị phàm phu đã quán tất cả vọng niệm vô tướng thì đã chứng đắc trí tuệ Như Lai.
Phải biết tất cả chúng sinh tuy vọng chấp vọng niệm có tướng mà vọng niệm vốn thật vô tướng, đây gọi là Lý Tức Chứng Đắc trí tuệ Như Lai, nên kinh Viên Giác nói tất cả chúng sinh đều chứng Viên giác. Nếu biết vọng niệm không tướng là Danh Tự Chứng Đắc, nếu quán vọng niệm vô tướng là Quán Hạnh Chứng Đắc, nếu quán sát cho đến sáu căn thanh tịnh là Tương tự Chứng Đắc, nếu quán đến Pháp thân tương ưng đó là Phần Chân Chứng Đắc, nếu quán đến rốt ráo đầy đủ viên mãn là Rốt ráo Chứng Đắc. Ở đây từ đâu đến cuối đều dùng Phật tri Phật kiến tu hành, không giống các tướng phương tiện quanh co của người Ba thừa.
Trong đây, bốn đoạn văn đầu là theo Quyền chỉ bày Tiệm tu, một đoạn văn sau là theo Thật chỉ bày Đốn tu. Tiệm tu thì như cách thức tuần tự thông thường mới lên đến quả Phật, Đốn tu như Thái tử vừa vào thai liền thành người nối nghiệp Đế vương.
Phần hai dạy rõ sâu cạn đã xong.
G3. Nói về cạn sâu Vô Tánh:
Lại nữa, Tâm vừa khởi nghĩ là chỉ theo tục đế mà khởi, tìm tướng tâm vừa khởi thì không bao giờ được. Tâm còn không có tướng, huống chi là có "vừa khởi".
Đoạn trước nói một niệm tương ưng giác tâm vừa khởi, theo đó dẹp rằng là xa lìa tướng giác. Vẫn còn sợ người mê chấp theo lời nói, cho là thật có tướng Thỉ giác ban đầu, không biết tâm vốn vô tướng thì làm sao có tướng ban đầu. Vì một chữ Tâm chỉ là danh ngôn, ngoài chân không có vọng, nên vọng tâm cũng vô tướng, ngoài vọng không có chân nên chân tâm vô tướng. Ví như Diễn-nhã-đạtđa hết điên đầu vẫn như cũ, đâu thể trên đầu đó lại tìm được tướng vừa mới hết cuồng ư?
Cho nên tất cả chúng sinh không gọi là Giác, vì từ vô thỉ đến nay vẫn thường có vô minh vọng niệm tiếp nối, không hề xa lìa.
Vô minh vọng niệm có tức chẳng thật có, vì Bất giác nên chẳng có mà dường như có, cho nên tiếp nối mãi chưa hề xa lìa, hễ dụi mắt thì hoa đốm rơi lăng xăng, không thấy đầu mình cuồng sợ vọng sinh, nhưng vô minh phải đối trị, tìm rốt ráo không thật có, thì Thỉ giác hay đối trị há có tướng ban đầu để được ư?
Nếu dứt vọng niệm, thì biết tướng sinh, tru, dị, diệt của tâm đều vô tướng. Vì đối với một tâm, trước sau và đồng thời đều không tương ưng, vì không có tự tánh.
Do mê nhất tâm mà có vọng niệm, do có vọng niệm nên vọng thấy tướng sinh, trụ, dị, diệt của tâm, chỉ cần suy tìm tướng hiện tiền một niệm tâm tương ưng rốt ráo không thật có, thì vọng niệm chấp thật có tướng của tâm sẽ tự dứt trừ. Vọng niệm đã hết thì biết tâm tướng còn không thật có, làm sao có được tướng sinh trụ dị diệt. Vì nếu cho rằng thật có tướng sinh trụ dị diệt, thì sinh có trước hay trụ dị diệt có trước? Sinh có sau hay trụ dị diệt có sau? Hay sinh trụ dị diệt có đồng thời?
Nếu cho là sinh có trước thì có tâm cho nên sinh hay không có tâm cho nên sinh? Nếu có tâm cho nên sinh thì có hai tâm, nếu không có tâm cho nên sinh thì tâm phải có chỗ bắt đầu. Lại nữa, chỗ tâm sinh có tướng thế nào? Nên sinh có trước là chẳng hợp lý.
Nếu trụ dị diệt có trước thì phải có sinh mới có trụ dị diệt, trước đã không có sinh làm sao có trụ dị diệt, cho nên trụ dị diệt có trước cũng chẳng hợp lý.
Nếu bảo sinh có sau, trước đã không có sinh làm sao về sau lại bỗng có sinh. Lại nữa, vì diệt mới có sinh, trước đã không có sinh thì không thể có diệt, trước đã không có diệt thì sau chẳng lẽ lại có sinh, cho nên sinh có sau thì không hợp lý.
Nếu trụ dị diệt có sau thì trước phải không có diệt, trước đã không có diệt cũng không có sinh, trước đã không có sinh vì sao về sau lại có trụ, dị, diệt. Cho nên trụ dị diệt có sau cũng không hợp lý. Nếu bảo sinh trụ dị diệt có cùng lúc thì sinh trái với diệt, trụ trái với dị càng không hợp lý.
Gạn hỏi như thế thì biết sinh, trụ, dị, diệt chỉ có tên gọi chớ thật đâu có tự tánh.
Đã biết như thế thì biết Thỉ giác không thật có, vì chẳng khác Bản giác.
Bản giác lìa tất cả tướng vọng niệm, bằng cõi hư không, chẳng ở đâu không trùm khắp.
Pháp giới Nhất tướng chẳng sinh chẳng trụ chẳng dị chẳng diệt. Nay tìm Thỉ giác cũng không có sinh, trụ, dị, diệt thì đâu có khác với Bản Giác? Cho nên, nói theo Tục đế thì có phàm phu Bất giác, Ba thừa Tương tự Giác, Pháp thân Tùy phần Giác, Như Lai Cứu cánh giác v.v... không giống nhau, mà giác tánh Chân như không hề có những sự khác nhau sâu cạn như thế?
Phần đầu phân biệt ý nghĩa Thỉ giác đã xong.
E2. Nói về nghĩa Bản giác:
Chia làm hai:
G1. Nêu hai Tướng.
G2. Giải thích hai Tướng.
G1. Nêu hai Tướng:
Lại nữa, Bản Giác tùy mức độ nhiễm ô mà phân biệt, phát minh hai tướng khác nhau: Một là tướng Tịnh trí, hai là tướng dụng không thể nghĩ bàn. Bản Giác đã tức là Pháp thân bình đẳng, lìa tất cả tướng vọng niệm, vì sao có hai tướng khác nhau? Chỉ vì tùy mức độ nhiễm ô mà phân biệt nói có Thỉ giác. Vì có Thỉ giác mới hiển bày tướng dụng của Bản Giác, cho nên vô sinh mà nói sinh.
G2. Giải thích hai Tướng:
Chia làm hai:
H1. Giải thích tướng tịnh trí.
H2. Giải thích tướng dụng không thể nghĩ bàn.
H1. Giải thích Tướng Tịnh trí:
Chia làm hai:
K1. Chỉ rõ tướng.
K2. Giải thích.
K1. Chỉ rõ Tướng:
Tướng Tịnh trí nghĩa là y theo pháp huân tập, như thật tu hành, công đức viên mãn đầy đủ, phá hòa hợp thức, diệt tướng chuyển thức vì hiển hiện trí thanh tịnh Pháp thân.
Tướng Tịnh trí tức là Bốn trí tương ưng tâm phẩm. Y theo pháp huân tập là vọng huân chân huân, thể huân dụng huân sẽ nói đầy đủ ở đoạn sau. Như thật tu hành nghĩa là thuận theo pháp tánh mà tu các pháp hạnh. Công đức tròn đủ là vượt quá các quả vị rốt ráo của Bồ-tát. Phá hòa hợp thức là xả bỏ tên gọi Dị thục, chuyển thành Trí Đại Viên Cảnh tương ưng tâm, không còn là chỗ huân tập nữa. Diệt tướng chuyển thức là chuyển thức thứ bảy thành Trí Bình Đẳng Tánh tương ưng tâm, chuyển thức thứ sáu thành Trí Diệu Quan Sát tương ưng tâm, chuyển năm thức trước thành Trí Thành Sở Tác tương ưng tâm, không thêm không bớt, còn là thức năng huân. Vì hiển hiện trí thanh tịnh Pháp thân nghĩa là Chân như sở chứng là Pháp thân, Bồ-đề năng chứng là trí thanh tịnh. Trí và Chân như bình đẳng bình đẳng, không có năng sở.
K2. Giải thích sự Thành lập:
Tất cả tướng tâm thức tức là tướng Vô minh, chẳng phải một chẳng phải khác với Bản Giác, chẳng phải có thể hoại, cũng chẳng phải không có thể hoại.
Tất cả tướng tâm thức là chỉ chung tám Tâm Vương và gồm thu nhiếp luôn các Tâm Sở tương ưng, tức là tướng Vô minh vì từ vô thỉ đến nay không hề giác ngộ, là Tục đế cho nên có tướng khác nhau. Chẳng phải một chẳng phải khác với Bản Giác nghĩa là toàn thể Chân như thành Bản giác vô minh. Bản giác là tánh vô lậu, vô minh là tánh hữu lậu, cho nên chẳng phải một, cùng nắm giữ Chân như làm thể nên chẳng phải khác. Chẳng phải là có thể hoại nghĩa là tánh Vô minh tức là Chân như, chẳng phải khác Bản giác, chẳng phải không thể hoại là tướng Vô minh trái với Chân như, chẳng phải một với Bản giác.
Như nước biển và sóng chẳng phải một, chẳng phải khác, sóng do gió động chẳng phải tánh nước động. Nếu khi gió dừng, sóng động liền ngừng, tánh nước chẳng diệt.
Đoạn này nêu ví dụ để giải thích sự thành lập. Nước biển dụ cho Như Lai tàng tâm, sóng dụ cho bảy chuyển thức trước, gió dụ cho tâm sở vô minh, tướng động của nước gọi là gió. Nguồn gốc của gió không ở ngoài nước, dụ cho tâm bất giác tức gọi là Vô minh. Tâm sở vô minh thường tương ưng với tâm vương, vì không ngoài tâm vương.
Nhưng nước có tánh động, tức dụ cho hạt giống vô minh chứa trong thức thứ tám. Sóng có tướng động chuyển dụ cho vô minh hiện hành, chỉ tương ưng với bảy thức trước. Tạng thức thường trụ, chuyển thức sinh diệt như nước và sóng chẳng phải một. Tạng thức cũng nắm giữ Chân như làm thể, chuyển thức cũng nắm giữ Chân như làm thể như nước và sóng chẳng phải khác, vì đồng một tánh ướt. Sóng nhân gió động thì toàn thể nước đều động, dụ như chẳng phải chỉ bảy thức sinh diệt mà tạng thức cũng sinh diệt.
Chẳng phải tánh nước động thì tánh ướt của sóng cũng không hề động, ví dụ chẳng phải chỉ có tánh tàng thức không sinh diệt, tức tánh chuyển thức cũng không sinh diệt.
Nếu khi gió dừng là dụ cho vô minh chuyển thành minh. Sóng động liền diệt là dụ cho hòa hợp thức và tướng chuyển thức đều diệt, không thành năng huân, sở huân. Chẳng phải tánh nước diệt là dụ cho tám thức chuyển thành bốn trí tương ưng tâm, đồng Chân như thường trụ chẳng diệt.
Chúng sinh cũng vậy, tự tánh tâm thanh tịnh vì gió vô minh động, sóng mòi thức sinh khởi, ba việc như thế đều không có hình tướng, chẳng phải một, chẳng phải khác. Nhưng tánh tâm tịnh là gốc của thức động, khi vô minh diệt thì thức động cũng diệt theo, tánh trí chẳng hoại.
Đoạn này để hợp pháp. Tự tánh thanh tịnh tâm tức chỉ cho tâm tánh hiện tiền, thể tức Chân như xưa nay thanh tịnh, chẳng phải thành Phật mới thanh tịnh.
Vì gió vô minh động nghĩa là từ vô thỉ đến nay vì chưa ngộ, dĩ nhiên có tám chủng thức, trong thức thứ tám dĩ nhiên sẵn có hạt giống vô minh như nước chứa đựng tánh động, bảy thức trước hiện hành dĩ nhiên vốn tương ưng với vô minh như sóng có tướng động. Sóng mòi thức sinh khởi là như nước biển toàn thể là sóng. Ba việc như thế đều không có hình tướng nghĩa là ví như chỗ nương của sóng gọi là nước, chỉ chỗ nước sinh khởi gọi là sóng, chỉ chuyển động của sóng gọi là gió, ngoài nước không có tướng động của sóng riêng, ngoài sóng không có tướng động của nước riêng, ngoài sự chuyển động không có hình tướng sóng và nước riêng. Nói có ba thứ cho nên chẳng phải một, đồng nương tánh ướt nên chẳng khác. Chúng sinh cũng vậy, ngoài tàng thức không có hình tướng vô minh, chuyển thức riêng ngoài chuyển thức không có hình tướng tàng thức vô minh, ngoài vô minh cũng không có hình tướng tàng tướng chuyển thức. Nói có ba thứ: thức thứ tám, bảy thức trước và tâm sở cho nên chẳng phải một, đồng một tâm Chân như thanh tịnh nên chẳng phải khác. Nhưng tâm tánh thanh tịnh là gốc của thức động nghĩa là như tánh ướt của nước là gốc của nước và sóng. Khi vô minh diệt, thức động cũng diệt theo, nghĩa là giống như khi gió diệt sóng động cũng diệt theo, không phải chỉ diệt bảy tướng năng huân ở trước, tức tướng hòa hợp thọ huân của thức thứ tám cũng diệt. Tánh trí không hoại giống như đoạn trước nói chẳng phải tánh nước diệt, chẳng những chỉ có tánh của Trí Đại Viên Cảnh không hoại mà chính tánh của Trí Bình Đẳng Tánh, Trí Diệu Quan Sát và Trí Thành Sở Tác cũng không hoại.
Phần đầu giải thích tướng Tịnh Trí đã xong.
H2. Giải thích Tướng Dụng không thể nghĩ bàn:
Tướng dụng không thể nghĩ bàn có nghĩa là nương Tịnh trí, sinh khởi tất cả cảnh giới tốt đẹp, thường không đoạn dứt, gọi là thân Như Lai đầy đủ vô lượng công đức tăng thượng, tùy căn cơ chúng sinh thị hiện thành tựu vô lượng lợi ích.
Nương Tịnh trí sinh khởi tất cả cảnh giới thắng diệu v.v... nghĩa là, Luận Duy Thức nói bốn tâm này tuy đều duyên khắp tất cả pháp mà dụng khác nhau, gọi là Trí Đại Viên Cảnh tương ưng tâm, công đức viên mãn thuần tịnh, hiện hành và hạt giống nương đây mà được giữ gìn, hay hiện hay sinh bóng dáng sắc thân, cõi nước và trí tuệ không có đứt quãng cùng tột đời vị lai.
Trí Bình Đẳng Tánh tương ưng tâm, quán tất cả pháp hữu tình ở mình và người đều bình đẳng, đại từ đại bi thường cùng tương ưng, tùy chỗ ưa thích của các hữu tình thị hiện thọ dụng sắc thân, cõi nước hình tượng khác nhau. Trí Diệu quan sát không cùng chỗ nương, là chỗ kiến lập Niết-bàn Vô Trụ, một vị nối nhau tột đời vị lai. Trí Diệu Quan Sát tương ưng tâm, khéo quán tự tướng, cộng tướng của các pháp không ngăn ngại mà chuyển, nhiếp quán vô lượng môn Tổng trì. Và đối với hội chúng là chỗ phát sinh công đức châu báo, hay hiện vô biên tác dụng khác nhau đều được tự tại, rưới mưa pháp lớn, dứt tất cả nghi khiến các loài hữu tình đều được lợi lạc.
Trí Thành Sở Tác tâm tương ưng, vì muốn lợi lạc các loài hữu tình, nên khắp mười phương đều thị hiện các thứ biến hóa của ba nghiệp, thành tựu năng lực bản nguyện tùy nghi tạo tác. Bốn chủng tánh này tuy đều có sẵn nhưng phải huân phát mới được hiện hành, do đó quả vị tăng dần viên mãn quả Phật, không thêm không bớt tột đời vị lai, chỉ từ hạt giống sinh khởi không huân thành hạt giống, vì chớ để công đức Phật trước cao siêu hơn Phật sau. Nên biết tướng Tịnh trí trước, và từ Trí Đại Viên Cảnh sinh khởi sắc thân vô cùng thanh tịnh thường trùm khắp, tức là tự thọ dụng thân công đức.
Ở đây, nương trí thanh tịnh sinh ra cảnh giới, sắc thân và cõi nước, tùy căn cơ chúng sinh mà thành tựu lợi ích, tức là tha thọ dụng báo hơn hay kém v.v... tùy theo các loại công đức. Hai công đức này đều do Bản Giác tùy nhiễm phân biệt nên trôi lăn trong sinh tử. Về sau đổi nhiễm thành tịnh, nương pháp huân tập như thật tu hành theo chỗ chứng đắc, nên đoạn trước nói sinh hai tướng khác nhau vẫn chỉ do thức mà gọi là có chỗ sinh.
Tuy có chỗ sinh nhưng cũng không gọi là tướng Thỉ giác, vẫn gọi là tướng Bản giác. Như Duy Thức nói bốn chủng tánh này đều có sẵn. Kinh Đại Phật Đảnh cũng nói Bồ-đề viên mãn, trở về không có chỗ được, bởi vì hạt giống vô lậu sẵn có, vốn là toàn thể Chân như, vốn đầy đủ tướng dụng, Chân như không hề giảm bớt chút nào. Nay quả Phật vô lậu hiện hành, cũng chỉ là toàn thể tướng dụng của Chân như, vì không hề tăng thêm chút nào vậy.
Phần hai phân biệt Bản giác và Thỉ giác đã xong.
D3. Nói chung về bốn thứ:
ĐẠI NGHĨA:
Lại nữa, tướng Giác có bốn nghĩa lớn, thanh tịnh như hư không, gương sáng.
Trước nói thức A-lại-da có nghĩa Giác kia, lại nói nương Bất giác nói Thỉ giác, đối đãi với Thỉ giác lập Bản giác mà Thỉ giác, Bản giác rốt ráo chẳng khác, nên nay nói thẳng bốn nghĩa lớn của tướng giác.
Vốn không cấu nhiễm nên gọi là Thanh tịnh, vốn không hình tướng không phương hướng không phần hạn để được nên như hư không, xưa nay vắng lặng chiếu soi nên như gương sáng. Vì chỉ nói như hư không thì không thể hiển bày được chiếu dụng, nếu nói như gương sáng thì không hiển bày được thể tướng kia, nên phải gom lại nói như hư không, gương sáng mới có thể dụ được phần nào tướng giác.
Đại nghĩa Chân thật Không.
Nghĩa lớn chân thật Không như hư không, gương sáng nghĩa là tất cả tướng cảnh giới của tâm và tướng Giác đều không thật có.
Đây tức là Chân thật Không, nương ngôn thuyết kiến lập trong môn Chân Như, nghĩa là hạt giống vô lậu vô thỉ trong A-lại-da hoàn toàn nắm giữ Chân như làm thể, Chân như chẳng phải tất cả tâm, chẳng phải tất cả cảnh giới do tâm hiện, cũng chẳng phải tướng Giác. Tất cả đều không nên hạt giống vô lậu này cũng chẳng phải tướng cảnh giới và tướng Giác của tất cả tâm. Ví như Thể hư không chẳng có các tướng đó, ví như gương sáng vốn không có mảy bụi.
Đại nghĩa Chân thật Bất không.
Nghĩa lớn Chân thật Bất không như hư không gương sáng, nghĩa là tất cả pháp thành tựu tràn đầy tánh không thể hoại, tất cả tướng cảnh giới thế gian đều hiện trong đó, không ra không vào, không hoại không diệt, thường trụ nhất tâm. Tất cả pháp nhiễm không thể nhiễm, biết Thể đầy đủ vô biên công đức vô lậu, vì là nhân huân tập tất cả tâm chúng sinh.
Đây là Chân thật Bất Không nương lời nói kiến lập trong môn Chân Như, nghĩa là trong A-lại-da hạt giống vô lậu từ vô thỉ nắm giữ toàn thể Chân như của tất cả pháp đã thành tựu viên mãn không thể phá hoại làm thể, cho nên tướng tất cả cảnh giới thế gian đều hiện trong hạt giống vô lậu. Ngoài hạt giống vô lậu không có tất cả cảnh giới riêng khác, cho nên không xuất, trong tất cả cảnh giới không có hạt giống vô lậu riêng khác nên không nhập. Do không xuất nên không diệt, cảnh tức Chân như vì không thể diệt; do không nhập nên không hoại, Chân như tức cảnh vì không thể hoại.
Lại nữa, tánh sắc chân không, tánh không chân sắc, thanh tịnh bản nhiên trùm khắp pháp giới, cho nên không xuất không nhập. Tùy tâm chúng sinh, ứng theo chỗ hiểu biết, theo nghiệp phát hiện, cho nên không diệt không hoại.
Lại nữa, tùy duyên bất biến cho nên không xuất không nhập, bất biến tùy duyên cho nên không diệt không hoại. Lại nữa, như hư không chứa đựng và nuôi dưỡng muôn vật, bóng gương sáng hiện các hình ảnh đều không xuất không nhập, không diệt không hoại. Cho nên hạt giống vô lậu đương thể tức là nhất tâm thường trụ, tuy nhất tâm này thường trụ, toàn thể liền thành tất cả pháp nhiễm, như nước thành băng, nhưng tất cả pháp nhiễm này vốn không có tự tánh, làm sao có thể làm nhiễm ô hạt giống vô lậu này, như băng không thay đổi tánh ướt sẵn có. Chỉ hạt giống vô lậu này bèn là trí thể Bồ-đề xưa nay đầy đủ vô biên công đức vô lậu, vì tại triền nên gọi là nhân, nhân là tên khác của hạt giống. Nhân vô lậu này cũng gọi là Phật tánh, Phật tánh mạnh mẽ không thể phá hoại, tuy ở trong tâm thức A-lại-da của tất cả chúng sinh, sức hay huân tập khiến tâm vọng niệm chán khổ sinh tử, cầu vui Niết-bàn.
Hai nghĩa lớn trên tức thể Đại thừa.
Đại nghĩa Chân thật Bất Không ly chướng:
Nghĩa lớn Chân thật, Bất Không lìa chướng, như hư không, gương sáng, nghĩa là hai chướng phiền não sở tri dứt hẳn, thức hòa hợp diệt, bản tánh thanh tịnh thường an trụ.
Đây là Bản giác tùy nhiễm phân biệt mà sinh tướng Tịnh trí. Tuy do Thỉ Giác hiển hiện, không khác Bản Giác tại triền, tức là tướng Đại thừa.
Lìa hai chướng phiền não sở tri là hiển bày nghĩa Chân thật Không trong môn Chân Như, bản tánh thanh tịnh an trụ tức nói lên nghĩa Chân thật Bất Không trong môn Chân Như môn. Vì hiển bày tướng Bất Không nên kiến lập Không, cho nên chỉ gọi là nghĩa lớn chân thật Bất Không lìa chướng, cũng như hư không rộng lớn không có mây, như gương xưa bằng ngọc trong suốt.
Đại nghĩa Chân thật Bất Không thị hiện:
Nghĩa lớn thị hiện chân thật Bất không như hư không gương sáng, nghĩa là nương pháp lìa chướng ứng hóa khắp nơi, hiện Như Lai với các thứ hình sắc âm thanh khác nhau, vì muốn chúng sinh tu các gốc lành.
Đây tức là Bản giác tùy theo nhiễm phân biệt mà sinh khởi tướng dụng không thể nghĩ bàn, tùy chỗ ứng hóa tức Ý luân quán căn cơ, hiện các thứ sắc tướng tức thân luân hóa hiện chỉ bày, hiện các thứ âm thanh tức Khẩu luân nói pháp. Đây cũng như hư không bao la chứa đựng muôn vật, như gương sáng mau chóng vẽ hiện ngàn tướng mạo.
Hỏi: Nghĩa giác trong thức A-lại-da là do hoàn toàn nắm giữ Chân như làm thể nên có đầy đủ bốn nghĩa lớn này, Bất giác kia cũng hoàn toàn năm giữ Chân như làm thể nên cũng có đầy đủ bốn nghĩa lớn này chăng?
Đáp: Đủ! Vì tướng Bất giác không thật có, tất cả pháp đều không thật có tức là nghĩa lớn chân thật Không, vì tướng Bất Giác đã không thể được thì tất cả pháp thành tựu viên mãn tánh không thể hoại. Tất cả tướng cảnh giới thế gian đều hiện trong Bất giác, không xuất không nhập, không diệt không hoại, thường trụ nhất tâm, là chỗ tất cả pháp nhiễm không thể làm nhiễm, tất cả pháp tịnh không thể thanh tịnh.
Bất giác đầy đủ vô biên công đức vô lậu, vì là nhân huân tập tâm tất cả chúng sinh, tức là nghĩa lớn chân thật bất không; vì thông đạt tánh Bất giác này chính là thể chân thật Bất không, dứt hẳn hai chướng bản tánh thường trụ tức là nghĩa lớn lìa chướng; vì tánh Bất giác lìa hai chướng, tùy chỗ ứng hóa, hiện tướng Như Lai... các thứ hình sắc âm thanh khác nhau, khiến tu các gốc lành, tức nghĩa lớn Thị hiện.
Hỏi: Đã nói toàn thể Chân như thành một hạt bụi nhỏ thì tùy ý nắm lên bất cứ một hạt bụi nào đều có đủ bốn nghĩa lớn phải chăng?
Đáp: Đủ! Vì tướng bụi nhỏ nếu không phân chia thì chẳng phải hạt bụi, vì không có hình tướng, nếu có phân chia thì sẽ phân tích nên nhất định chẳng phải thật có. Từ đây suy rộng ra, hạt bụi này vì đã vô tướng thì tất cả pháp cũng đều vô tướng, tức là nghĩa lớn chân thật Không. Tướng hạt bụi đã không thật có, tức tất cả pháp thành tựu viên mãn tánh không thể phá hoại. Tất cả tướng cảnh giới thế gian đều hiện trong hạt bụi, không ra không vào, không hoại không diệt, cho đến hạt bụi đầy đủ vô biên công đức vô lậu, là nhân huân tập tất cả tâm chúng sinh, tức là nghĩa lớn Chân thật Bất Không.
Vì hiểu rõ tánh của một hạt bụi tức là thể Chân thật Bất Không dứt hẳn hai chướng, bản tánh thường trụ, tức là nghĩa lớn lìa chướng. Vì tánh hạt bụi này lìa hai chướng, ứng hóa mọi nơi, hiện thân nói pháp khiến tu gốc lành, cái gọi là trên đầu sợi lông hiện cõi Bảo Vương, ngồi trong hạt bụi xoay bánh xe pháp lớn tức là nghĩa lớn Thị hiện. Kinh Hoa Nghiêm nói trong một hạt bụi có quyển kinh lớn như cõi Đại thiên, như một hạt bụi, tất cả hạt bụi khác cũng giống như vậy, là ý nghĩa này.
Hãy suy nghĩ kỹ!
Phần đầu giải thích nghĩa Giác đã xong.
C2. Giải thích nghĩa bất Giác:
Chia làm hai:
D1. Nói chung về bất giác nương vào Giác nên không có thật:
D2. Chỉ riêng tướng bất Giác luống dối:
D1. Nói chung là bất Giác nương vào Giác nên không thật:
Bất Giác nghĩa là từ vô thỉ đến nay, vì không biết như thật pháp chân là một, tâm Bất giác khởi mà có vọng niệm, nhưng vọng niệm kia tự không có tướng thật, không lìa chân như Bản giác.
Tâm này mé trước chắc chắn không thật có nên nói từ vô thỉ đến nay. chân như chỉ có năng lực tánh đức tùy duyên, chưa có trí tu đức chiếu tánh nên nói không biết như thật. Tuy có tám thức và các tâm sở, thể và bốn phần khác nhau như tướng phần, kiến phần v.v..., nhưng sự thể như huyễn tức chân như nên nói chân pháp là một.
Chỉ vì không như thật biết này nên từ vô thỉ đến nay không hề giác ngộ gọi là bất giác căn bản, cũng gọi là hạt giống vô minh trụ địa từ vô thỉ. Hạt giống này tuy ở trong thức tám mà hiện hành không tương ưng với thức thứ tám, cho nên đoạn sau gọi là Bất tương ưng vô minh. Do hạt giống vô minh này, khiến bảy thức tâm ở trước chẳng sinh khởi mà giống như sinh khởi, do vì tám thức tâm khởi hiện hành liền có các pháp tâm sở tương ưng như biến hành, biệt cảnh v.v... cùng khởi nên nói có vọng niệm. Nhưng tâm vương, tâm sở này hoặc là hạt giống hoặc hiện hành, đều thành tựu sẵn vậy từ vô thỉ, đều giữ toàn thể chân như làm thể, không có tự thể riêng nên nói tự không có tướng thật, Không lìa bản giác. Chữ Bản giác này tức chỉ cho chân như, không chỉ cho hạt giống vô lậu trong thức A-lại-da, bởi vì chân như tuy làm chỗ nương cho cả mê và ngộ, chẳng phải giác chẳng phải bất giác, mà bất giác trái với chân như nên chỉ được nói là không có thật. Giác thì thuận với chân như, chân như vốn không có bất giác nên có khi gọi bản giác là chân như, hoặc có khi gọi chân như là bản giác.
Hỏi: Tức cho là vọng niệm không lìa hạt giống vô lậu, vì sao không được lìa?
Đáp: Theo môn chân như thì lý thật vô ngại, theo môn Sinh diệt thì vì hạt giống vô lậu không sinh hiện hành hữu lậu. Huống chi là hạt giống vô lậu, cũng chẳng ngoài chân như có pháp thật riêng, nhưng lý tánh chân như này tuy từ vô thỉ đến nay chưa hề ngộ, mà lẽ ra nên có Lý liễu tri chân chánh, tức gọi là đạo lý, nên rõ biết chân chánh là hạt giống vô lậu.
Nay vô minh chỉ là không biết chân như mà khởi, chớ chẳng phải đạo lý rõ biết cần có ở đoạn trên, mà ngược lại sinh ra sự liễu tri không chân chánh.
Cũng như người mê nương theo phương hướng nên mê, mê không có tự tướng, không lìa phương hướng.
Phương Đông phương Tây có vị trí cố định để dụ cho chân như, biết đúng phương để dụ cho nghĩa giác, mê cho Đông thành Tây để dụ cho vọng niệm bất giác. Phương hướng chẳng có mê ngộ mà làm chỗ nương cho mê ngộ. Khi ngộ biết rõ phương hướng, ngoài phương hướng không có tướng ngộ riêng khác để được, để dụ cho ngoài chân như không có trí. Khi mê lầm phương hướng, ngoài phương hướng không có tướng mê riêng để được, để dụ cho ngoài chân như không có vọng niệm riêng. Cho nên vọng niệm tự không có tướng thật.
Hỏi: Nếu nói đông tây có phương hướng nhất định, vì sao luận Đại Trí Độ phá rằng: Nếu lấy chỗ mặt trời mọc làm phương Đông thì lúc đó ở Châu Câu Lô là nơi mặt trời lặn, nên lại gọi là phương Tây, mặt trời ở Châu Thắng Thần ở phía Đông là giờ Ngọ lại gọi là phương Nam, lúc đó mặt trời ở Châu Ngưu Hóa ở phía Tây nhằm lúc nửa đêm lại gọi là hướng Bắc. Nay nói phương hướng cố định làm sao hiểu được?
Đáp: Phàm lúc thí dụ đều theo chỗ con người cùng thấy biết trước mắt, lấy cái dễ để so sánh cái khó, lấy chỗ cạn để hình dung chỗ sâu mà thôi. Như trăng tròn dụ cho gương mặt, há đâu thể tìm được lông mày, lỗ mũi, núi Tuyết dụ cho voi, đâu thể gạn hỏi đuôi và nga, nhưng phải ngay chỗ dẫn dụ mà hiểu rõ thêm nghĩa mầu nhiệm.
Nếu theo châu này thì đông tây có chỗ nhất định, ngoài phương hướng cố định không có tướng biết nào khác, có thể ví dụ ngoài chân như không có trí.
Nếu theo bốn châu thì đông tây không cố định, mỗi nơi tùy chỗ hiểu biết của chúng sinh mà đặt tên. Ngoài chỗ hiểu biết không thật có phương hướng riêng, có thể dụ ngoài trí không có chân như.
Nếu đoạt nhau thì cả hai đều mất, nên nói đều không thật có, lìa hai tướng chấp trước. Nếu song chiếu thì rõ ràng, nên nói chỉ có như như và trí như như.
Hỏi: Ví như mê lầm phương hướng cần người chỉ đường, chúng sinh từ vô thỉ đến nay chưa hề giác ngộ thì vị Phật đầu tiên nhờ ai chỉ dạy?
Đáp: Theo môn Chân như còn không có vấn đề thành Phật và không thành Phật, thì đâu có trước sau. Theo môn Sinh diệt thì ví như ở chốn hoan vắng lạc đường không thể hỏi thăm, chỉ nên dựa vào bóng mặt trời qua lại để biết phương Đông phương Tây. Chúng sinh cũng như vậy, nếu hay quán sát kỹ tướng sinh già bệnh chết liền sẽ giác ngộ, nên Đại sư Tử Bá nói: "Vị Phật đầu tiên lấy khổ đế làm thầy".
Chúng sinh cũng như vậy, vì nương tánh giác chân như mà có bất giác, vọng niệm do mê lầm sinh khởi, nhưng bất giác kia tự không có tướng thật, không lìa chân như bản giác. Lại do đối đãi bất giác nên gọi là chân giác, bất giác đã không có thì chân giác cũng dẹp bỏ.
Đoạn này dùng pháp hợp dụ. Giác và bản giác ứng hợp với chữ phương hướng, tức cũng chỉ cho chân như. Lại do đối đãi bất giác nên gọi là chân giác, nghĩa là còn lầm phương hướng nên mới nói giác ngộ phương hướng. Chữ Chân giác này tức chỉ cho thỉ giác rốt ráo. Thỉ giác hợp với bản giác chẳng có khác nhau. Bản giác tức là chân, không phân chia thành lý và trí, nên nói chân giác cũng dẹp.
Phần đầu nói chung về Bất Giác nương vào Giác nên không có thật đã xong.
D2. Chỉ riêng Tướng bất Giác luống dối:
Lại nữa, vì nương buông lung mà có Bất giác, sinh ba tướng không thể xa lìa nhau:
Tướng Vô minh nghiệp, vì nương sáu tâm động thành nghiệp.
Giác thì không động, động thì có khổ vì quả không lìa nhân.
Tướng Năng kiến, vì nương tâm động, thấy được cảnh giới, không động thì không thấy.
Tướng Cảnh Giới, vì nương tướng năng kiến mà cảnh tướng luống dối hiện, lìa Năng kiến thì không có cảnh.
Đoạn này giải thích hai vấn đề:
E1. Giải thích theo vô minh từ vô thỉ.
E2. Giải thích theo quán chiếu hiện tiền.
E1. Giải thích theo vô minh từ vô thỉ:
Có nghĩa là chúng sinh từ vô thỉ đến nay vốn sẵn có tám thức, tức là sẵn có các tâm sở tương ưng với nó. Tâm tâm sở này đều là chân như bất biến, tùy duyên mà thành, vì chân như từ vô thỉ đến tột mé vị lai chắc chắn không lúc nào chẳng tùy duyên. Nếu không theo duyên nhiễm và tịnh để tạo thành mười cõi, thì do đâu hiển bày được đức Bất biến kia. Chỉ vì từ vô thỉ đến nay không hề giác ngộ chưa có duyên Tịnh, chỉ theo duyên Nhiễm gọi là buông lung. Buông lung này tức là một trong tám thứ Đại tùy phiền não, đối với nhiễm tịnh không thể tu ngăn ngừa; Buông lung là Tánh, nương chỗ thêm ác bớt thiện làm Nghiệp, nên nói vì nương vào buông lung mà có Bất giác.
Bất giác là câu sinh pháp si của hai thức thứ sáu và bảy tương ưng. Do không thể hiểu biết như thật chân pháp là một bèn khiến Chân, vốn chẳng khác tướng Tâm vương, Tâm sở, huyễn thành tục, tướng có khác nhau, mỗi thứ có bốn phần.
Lấy hai phần Thể bên trong gọi là Nghiệp tướng, lấy hai phần Dụng bên ngoài gọi là tướng Năng kiến và tướng Cảnh giới. Tâm vương, Tâm sở, không khởi thì thôi, khởi thì dĩ nhiên có bốn phần này đồng thời cùng khởi không thể chia chẻ riêng khác nên nói không xa lìa nhau.
G1. Vô minh nghiệp tướng:
Là thể của quả báo Tâm, Tâm sở, nương vào vô minh bất giác mà động, động thì gọi là Nghiệp. Vì thể của thức thứ tám hoàn toàn là báo pháp dị thục, vô ký. Thức thứ bảy tuy gọi là hữu phú vô ký, cùng một phần báo pháp vô ký của sáu thức trước và tâm sở tương ưng với báo đắc kia đều gọi là dị thục sinh. Thể của báo pháp này đều gọi là Tâm, vì nương vô minh bất giác mà động, gọi đó là Nghiệp.
Tâm là Chứng Tự Chứng Phần, nghiệp là Tự Chứng Phần. Giác thì khế hội chân như nên bất động, Bất Giác mà động thì đương thể liền là quả báo pháp khổ. Do động làm nhân, hiển bày tâm là quả khổ nên Luận Duy Thức lấy Tự Chứng Phần thứ ba làm năng lượng, Chứng Tự Chứng Phần thứ tư làm quả lượng, như mặt và lưng gương cả hai không lìa nhau nên nói quả không lìa nhân.
G2. Tướng Năng kiến:
Tức khi Tâm vương Tâm sở khởi hiện hành phải có kiến phần thấy được cảnh, nhưng bất động thì không thấy, động thì thấy, chẳng phải động trước thấy sau.
G3. Tướng Cảnh giới:
Tức khi tâm vương, tâm sở khởi hiện hành, thì có tướng phần làm cảnh bị duyên, chỉ lìa thấy (kiến) thì không có cảnh, thấy thì có cảnh, chẳng phải trước thấy sau có cảnh. Vì chỉ do bất giác nên toàn thể chân như thành Tâm, tâm sở mỗi thứ có ba tướng. Nếu rõ biết ba tướng là vô tướng, chỉ là một chân như thì tất cả nghiệp tướng của Tâm, Tâm sở tức là thể chân như, tất cả năng kiến là tướng chân như, tất cả cảnh giới tức dụng chân như, nên đoạn trước nói nếu có chúng sinh quán sát tất cả vọng niệm vô tướng thì chứng được trí tuệ Như Lai.
E2. Giải thích theo hiện tiền quán chiếu:
Nếu quán thấy tất cả vọng niệm vô tướng thì cứ một niệm tương ưng một niệm Phật, mỗi niệm tương ưng mỗi niệm Phật, tức gọi là chẳng buông lung, tức gọi là giác. Nên nói phàm phu bị đủ thứ trói buộc mà biết được tạng bí mật của Như Lai thì tuy là mắt thịt cũng gọi là mắt Phật, đều không có ba tướng, sáu tướng để xứng hợp. Nếu một niệm buông lung mất quán chiếu liền có bất giác, khiến ba tướng và sáu tướng ở dưới lăng xăng chóng hiện. Dẹp hết chín tướng do một niệm vô minh hiện, há có chín tướng riêng do vô minh từ vô thỉ sinh ra sao?
Vì có cảnh giới luống dối duyên, lại sinh ra sáu tướng.
Cảnh giới chỉ là tướng phần của Tâm, tâm sở của chính mình nên gọi là luống dối, có nghĩa là tánh Y tha khởi, như huyễn sự, lấy đây làm duyên Sở Duyên và duyên Tăng Thượng nên sáu tướng lại sinh. Năng sinh đã luống dối thì tướng Sở sinh chẳng lẽ có thật ư? Nhưng ba tướng trước là chung cho tám thức và các Tâm sở, vì Tâm, tâm sở mỗi thứ chắc chắn có bốn phần nên sáu tướng sau đây phải có hạn cuộc và có thông.
G1. Trí tướng:
Nghĩa là duyên cảnh giới sinh tâm ái và chẳng ái.
Trí tướng tức tâm sở tuệ trong biệt cảnh. Tướng này chỉ tương ưng với bảy thức trước, thức bảy chỉ duyên Kiến phần thức thứ tám chấp là ngã thật pháp thật, sinh tâm tham ái. Ái tức là tham trong các phiền não căn bản. Thức thứ sáu duyên khắp tất cả cảnh giới trong ba cõi, khởi khắp tâm ái và chẳng ái. Ái tức là tham, chẳng ái tức sân.
Năm thức trước chỉ duyên cảnh giới nhất trần ở hiện tại, mỗi thức khởi tâm ái và chẳng ái, nhưng trí tướng này cùng lấy toàn thể chân như làm thể, không khác một mảy may với nghĩa Giác ở đoạn trước. Nếu liễu đạt Trí, Vô Trí tức nhau là chứng đắc trí tuệ Như Lai.
G2. Tướng tương tục:
Nghĩa là nương vào trí, niệm biết khổ vui tương ưng không dứt.
Tương tục có hai nghĩa:
Theo tâm sở, thì Thọ và Niệm Định.
Biết khổ vui là Thọ, do Niệm nên không quên, do Định nên chuyên chú.
Theo tâm vương, tức đẳng vô gián ý căn. Do trí và niệm giúp tâm vương kia khởi tương tục, giả lập tâm vương niệm trước đã diệt gọi là ý căn. Nhưng thức thứ tám, thức thứ bảy từ vô thỉ đến nay pháp vốn tương tục không nương vào trí, sáu thức trước nối tiếp đều nương vào trí khởi nên nói tương ưng không dứt. Nhưng sự nối nghiệp này, thật không có thể tánh, ví như một điểm lửa nhỏ quay thành vòng tròn, lửa diệt trong mỗi niệm, lửa không từ điểm này chuyển đến điểm khác. Do lửa dường như nối tiếp nên vọng thấy vòng tròn lửa. Tâm tánh cũng vậy, vắng lặng trong mỗi niệm, không có nghĩa nối tiếp. Do mê tình nên giống như thường hằng duy nhất, nên gọi là tướng tương tục. Nếu quán kỹ nối tiếp vô tướng thì chứng đắc trí tuệ Như Lai.
G3. Tướng chấp trước:
Nghĩa là nương niệm giác biết khổ vui nối tiếp mà sinh chấp trước.
Chấp trước tức tâm sở thắng giải trong biệt cảnh và các phiền não tham, sân, mạn v.v... tha hồ sinh khởi.
Tâm trong một sát-na sinh ra liền diệt, nên không có nghĩa chấp trước, do tâm trước và sau dường như nối nhau mới có công năng chấp trước. Tướng này chỉ có ở sáu thức vì thức thứ bảy, thức thứ tám và năm thức trước chỉ duyên cảnh trong sát-na hiện tại nên không chấp trước. Nhưng quán tướng như thật này thì năng chấp tức Kiến phần thức thứ sáu, sở chấp tức Tướng phần thức thứ sáu. Kiến phần không dừng trụ dù một sát-na, tướng phần cũng không trụ dù một sát-na thì làm sao chấp trước? Nếu biết rõ chấp trước không tướng thì chứng được trí tuệ Như Lai.
G4. Tướng chấp danh đẳng:
Nghĩa là nương chấp trước phân biệt danh v.v... các tướng an lập.
Ở đây là tâm sở Tầm, Tư trong bốn tâm sở bất định và năm kiến chấp trong các phiền não căn bản cũng chỉ ở thức sáu.
Nhưng năng chấp cũng tức Kiến phần sát-na sinh diệt nên không có nghĩa năng chấp. Sở chấp tức hoặc danh hoặc nghĩa tự tánh khác nhau, trong danh không có nghĩa, trong nghĩa không có danh, tự tánh danh nghĩa hoàn toàn không thật có, danh nghĩa khác nhau hoàn toàn không thật có, theo tâm mà sinh diệt, đâu thể chấp trước. Nếu biết rõ tướng chấp danh v.v... là vô tướng thì chứng đắc trí tuệ Như Lai.
G5. Tướng khởi nghiệp:
Nghĩa là nương chấp danh v.v... khởi các thứ nghiệp khác nhau.
Nghiệp năng khởi tức tâm sở Tầm, Tư tương ưng với thức thứ sáu, nghiệp sở khởi là chung cho năm thức trước. Sai biệt là hoặc khởi nghiệp ác, hoặc khởi nghiệp lành, hoặc nghiệp thiền định, tức là các nghiệp hữu lậu trong ba cõi, cho đến nghiệp vô lậu xuất thế gian, nghiệp lợi tha của Bồ-tát đều gọi là tướng khởi nghiệp.
Nhưng tánh nghiệp này tức là thân biểu, ngữ biểu, vô biểu. Vả lại thân biểu thì không phải hình lượng, cũng chẳng phải động tác, cũng chẳng phải nhân tác động, chỉ là giả danh chẳng có thật thể. Kế đó, ngữ biểu là âm thanh trong một sát-na không có nghĩa bày tỏ, nhiều niệm nối nhau dường như có sự bày tỏ nhưng không có thật thể. Biểu nghiệp đã không có tánh thật, chẳng lẽ vô biểu lại có thật. Nếu biết rõ tướng nghiệp là vô tướng thì chứng đắc trí tuệ Như Lai.
G6. Tướng nghiệp hệ khổ:
Nghĩa là nương nghiệp chịu khổ, không được tự tại.
Đã gây ra các nghiệp hữu lậu trong ba cõi thì bị nghiệp ba cõi trói buộc, nghiệp dẫn tự chuốc quả báo dị thục, nghiệp viên mãn tự chuốc quả báo tăng thượng khác nhau, gọi chung là quả báo năm uẩn.
Lạc là hoại khổ, Khổ là khổ khổ, Không Khổ Không lạc là hành khổ. Vô thường vô ngã cho nên đều không tự tại, cho đến nghiệp vô lậu và lợi tha chiêu cảm sinh tử biến dịch cũng gọi là khổ, cũng không tự tại.
Nhưng quả báo năm uẩn này, sắc không tự tánh, thọ, tưởng, hành, thức cũng không tự tánh. Đã không có tự tánh, thể tức chân như, đã tức chân như thì có vô biên đức tướng, nghiệp dụng. Cho nên chỉ tướng nghiệp hệ khổ tức là Đại thừa, không thể nghĩ bàn. Nếu quán khổ tướng này là vô tướng, thì chứng đắc trí tuệ Như Lai.
Vì sao vô minh bất giác lại nương thân tâm này mà huyễn thành nghiệp tướng, là ba tướng và sáu tướng v.v..., luân hồi trong đó, tự chịu trôi lăn ư!
Cho nên phải biết tất cả pháp nhiễm đều không có tướng vì đều do vô minh sinh khởi.
Ở đây nói tóm kết ba tướng, sáu tướng đều không thật. Vì nương vào giác mà có vô minh, vô minh đã không có tướng thật, huống chi là các pháp nhiễm nương Vô minh mà sinh chẳng lẽ lại có thật ư!
Tướng nhiễm là bốn tướng, Trí v.v... là nhiễm hoặc, khởi nghiệp tướng thứ năm là nhiễm nghiệp, cả hai đều là nhân nhiễm. Tướng Nghiệp hệ khổ và khổ quả khởi ba tướng trên chính là y báo và chánh báo trong thân và cảnh giới bên ngoài, là quả nhiễm. Hoặc nhân, hoặc quả đều do vô minh sinh khởi, ví như dụi mắt thấy hoa đốm lăng xăng, nếu mắt hết bệnh hoa đốm vốn không có. Vô minh không khởi thì Khổ tức Pháp thân, hoặc tức Bát nhã, Nghiệp tức giải thoát, đâu có một pháp nào chẳng phải Đại thừa.
Phần hai y nghĩa giải thích mỗi thứ đã xong.
B3. Phân tích chung sự giống nhau và khác nhau:
Chia làm hai:
C1. Nêu ra
C2. Giải thích.
C1. Nêu ra:
Lại nữa, Giác và Bất Giác có hai tướng là đồng tướng và dị tướng.
Đoạn trước nói thức A-lại-da có hai nghĩa là giác và bất giác nên đoạn này sẽ phân biệt sự giống nhau và khác nhau.
Chân như bất biến tùy duyên nêu thể nên thành thức A-lại-da, tức toàn thể thành giác, bất giác v.v... giác và bất giác tùy duyên bất biến đã nêu thể nương thức A-lại-da, tức toàn thể là chân như, nay theo tùy duyên bất biến, vì sinh diệt tức chân như nên gọi là tướng giống; theo bất biến tùy duyên, vì chân như tức sinh diệt nên gọi là tướng khác. Cho nên đoạn trên nói hai môn xoay vần không lìa nhau.
C2. Giải thích:
Chia làm hai:
D1. Giải thích tướng giống nhau.
D2 Giải thích tướng khác nhau.
D1. Giải thích Tướng giống nhau:
Tướng giống nhau là, ví như các thứ đồ gốm đều có tướng đất là giống nhau, cũng như thế các thứ dụng huyễn của vô lậu vô minh đều đồng có tướng chân.
Vô lậu là nghĩa Giác, vô minh là nghĩa Bất Giác. Các thứ dụng huyễn chỉ cho cả hai loại, dụng không thể nghĩ bàn nương trí vô lậu khởi và ba tướng, sáu tướng nương vô minh khởi. Đều đồng tướng chân, tức đều là chân như bất biến, tùy duyên mà thành, cho nên tùy duyên bất biến, mỗi mỗi đều là toàn thể chân như, như đất làm đồ gốm không có món nào chẳng phải toàn thể đất.
Cho nên Phật tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay thường nhập Niết-bàn. Bồ-đề chẳng phải tướng để tu, chẳng phải tướng có thể sinh, rốt ráo không thật có, không có sắc tướng để thấy.
Thấy sắc tướng nên biết đều là dụng huyễn theo nhiễm, chẳng phải tướng Trí sắc Bất Không, vì tướng Trí không thật có như đoạn trên đã nói rộng. Ở đây dẫn kinh để chứng minh tướng đồng của chân như. Vô thỉ đến nay thường nhập Niết-bàn nghĩa là Niết-bàn tự tánh thanh tịnh nói trong Luận Duy Thức, tất cả hữu tình đều bình đẳng có Niếtbàn này.
Bồ-đề chẳng phải tướng để tu, chẳng phải thức để sinh, nghĩa là như trong kinh Đại Phật Đảnh nói kiến và duyên, vốn là diệu tịnh minh thể của Bồđề thì làm sao trong đó lại có đúng và sai. Không có sắc tướng để thấy nghĩa là cũng không có tướng nào chẳng phải Bất Không, như đã nói ở đoạn trước. Vì chẳng phải chỗ thực hành của tâm vọng niệm nên chỉ là chỗ chứng của người lìa niệm. Từ câu thấy sắc tướng v.v... trở xuống là giải thích nghi ngờ vặn hỏi.
Hỏi: Nếu theo tướng đồng thì nhất định không có sắc tướng để thấy thì làm sao có sắc tướng để thấy, cũng thấy các thứ sắc tướng Như Lai?
Đáp: Nên biết đều theo môn Sinh diệt, dụng huyễn tùy nhiễm thấy có sắc tướng khác nhau, chẳng phải nói tướng Trí sắc Bất Không trong môn
Chân như cũng để thấy. Vì tướng Trí đồng chân như, tuy thật Bất Không, cũng không có tướng Bất Không để được. Giảng rộng như Phật đã dạy trong khế kinh kia.
Phần đầu giải thích tướng giống đã xong.
D2. Giải thích Tướng khác nhau:
Tướng khác nghĩa là như các thứ đồ gốm mỗi thứ không giống nhau, ở đây cũng như thế, các thứ dụng huyễn của vô lậu vô minh có tướng khác nhau.
Không phải chỉ có Giác tướng vô lậu và Vô Minh hữu lậu tướng khác nhau, mà các thứ dụng huyễn trong pháp vô lậu như bốn trí Bồ-đề, ba thân, bốn cõi cho đến mười lực, vô úy, mười tám pháp bất cộng... mỗi tướng đều khác nhau. Nếu theo pháp hữu lậu, Tâm vương Tâm sở, Tướng phần, Kiến phần, Tự chứng phần, hiện hành hạt giống và các nhân quả, phần đoạn, biến dịch là các thứ dụng huyễn, mỗi tướng đều khác nhau. Nhưng dụng huyễn khác nhau này không có tự tánh nên thường khác mà giống, vì ngay không có tánh này tức là chân như không khác nhau, nhiếp khắp tất cả pháp khác nhau đều vào một pháp. tức là ngay một pháp đã nhiếp tất cả pháp khác nhau, nắm lên bất cứ một pháp nào cũng lại thu nhiếp tất cả các pháp, cho nên có lớp lớp vô tận, vô tận lớp lớp đều do hai tướng giống và khác nhau này hiển bày.
Phần đầu giải thích Tâm sinh diệt đã xong.
A2. Nhân duyên sinh diệt:
Chia làm hai:
B1. Nhân duyên mê nhiễm.
B2. Nhân duyên ngộ tịnh.
B1. Nhân duyên mê nhiễm:
Chia làm hai:
C1. Nói chung nương tâm nên chuyển C2. Giải thích riêng Ý và Ý thức.
C1. Nói chung nương vào Tâm nên chuyển:
Lại nữa, nhân duyên sinh diệt nghĩa là các chúng sinh nương Tâm, Ý, Ý thức chuyển.
Sinh diệt tuy không có tự tánh, toàn thể là chân như, mà chân như thì bất biến tùy duyên, khi toàn thể thành sinh diệt thì trong sinh diệt phải nói về nhân duyên mới khỏi bị lỗi tà nhân và vô nhân.
Ở đây thức thứ tám và bảy thức trước làm nhân quả cho nhau, thành lý Duy Thức. Chúng sinh là giả danh của năm uẩn hòa hợp, Tâm là thức thứ tám, Ý là thức thứ bảy, Ý Thức là thức thứ sáu và năm thức trước. Thức thứ tám là Căn Bản Y, thức thứ bảy mới chuyển, thức thứ bảy là Nhiễm Tịnh Y, thức thứ sáu mới chuyển, thức thứ sáu là Phân Biệt Y năm thức trước mới chuyển, nên nói nương Tâm, Ý, Ý thức chuyển.
C2. Giải thích riêng Ý và Ý thức:
Chia làm hai:
D1. Giải thích ý.
D2. Giải thích ý thức.
D1. Giải thích Ý:
Nghĩa này thế nào? Vì nương thức A-lại-da có vô minh bất giác khởi năng thấy, năng hiện, năng chấp cảnh giới, phân biệt tương tục gọi là ý.
Nghĩa là trong thức A-lại-da vốn có hạt giống thức thứ bảy và có hạt giống căn bản vô minh, vì từ vô thỉ đến nay thức thứ bảy và thứ tám vẫn thường cùng chuyển, vì thức thứ bảy cùng Bất cộng vô minh vẫn thường đi chung nên nhất định tương ưng. Nơi một thể chân như vô tướng khiến Tâm, tâm sở chia thành Thể Dụng, chia thành tướng Kiến phần, sinh các chấp trước dường như nối tiếp, đều lấy thức thứ bảy làm Nhiễm Ô Ý, nên gọi thức bảy là Ý.
Ý là nương tựa. Nương thức thứ bảy, thức thứ tám mới có tên A-lại-da và tên Dị thục, mới khiến sáu thức trước thành nghĩa hữu lậu nên gọi thức thứ bảy là nhiễm y.
Nếu thức thứ bảy dứt hết chấp Nhân Ngã thì thức thứ tám mới xả bỏ tên gọi A-lại-da, quả Sinh Không trí (nhân không) của thức thứ sáu hằng được hiện tiền, năm thức trước không khởi các nghiệp hữu lậu.
Nếu trừ hết Pháp Ngã chấp của thức thứ bảy thì thức thứ tám xả bỏ tên Dị thục chuyển thành trí Đại viên cảnh tương ưng tâm phẩm, cũng thường cùng trí Bình đẳng tánh tương ưng, quả Pháp Không trí của thức thứ sáu hằng được hiện tiền, năm thức trước chuyển thành trí Thành sự nên còn gọi là Tịnh Y. Như luận Thích Ma-ha-diễn dẫn Hiển Liễu Khế Kinh rằng: "Các thứ tâm thức tuy có vô lượng, chỉ cần chuyển thức Mạt-na, không có pháp nào khác. Vì sao? Thức Mạt-na này có đủ mười một nghĩa, không việc gì chẳng làm" là nghĩa này.
Ý này lại có năm tên khác: Nghiệp thức.
Nghĩa là do năng lực vô minh bất giác tâm động.
Do thức thư bảy thường tương ưng với pháp si, vì không biết như thật chân pháp là một khiến tự cùng thức thứ tám hằng chuyển từ vô thỉ, khiến sáu thức trước nương đây mà chuyển. Tâm thật không động, vì bất giác nên gọi là tâm động. Động tức là hiện hành, chuyển thể hiện hành tức Tự Chứng phần gọi là nghiệp tướng. Cho nên nghiệp chướng tất cả Tâm, tâm sở đều nương thức thứ bảy vô minh mà sinh khởi, gọi là tánh Y tha khởi, nên gọi thẳng thức thứ bảy này là nghiệp thức. Nếu quán tâm động thì không sinh diệt, tức nhập vào môn chân như.
Chuyển thức.
Nghĩa là nương tâm động thấy được tướng cảnh giới.
Do thức thứ bảy vẫn đi chung với bất cộng vô minh vì không biết chân pháp như thật là một, khiến các tâm, tâm sở mỗi pháp vốn có tướng năng thấy cảnh giới gọi là Kiến phần, nên gọi thẳng thức thứ bảy này là chuyển thức. Nếu quán tất cả cảnh giới chẳng phải tướng thấy, thì thấy không có tướng thấy, tức được vào môn chân như.
Hiện thức.
Nghĩa là hiện tất cả tướng các cảnh giới, ví như gương sáng hiện các hình sắc, hiện thức như cũng vậy, ví như năm cảnh kia đối diện liền hiện không có trước sau không do công sức.
Do bất cộng vô minh thức thứ bảy không biết chân pháp là một, khiến tâm, tâm sở khi khởi hiện hành, mỗi tâm vốn có các cảnh giới hiện khởi gọi là Tướng phần. Thể của các tâm, tâm sở ví như gương sáng, kiến phần như ánh sáng, tướng phần như hình ảnh được hiện, nếu chẳng do năng lực chấp tàng của thức thứ bảy thì thức thứ tám do đâu biến hiện ba thứ tánh cảnh của ba cõi. Nếu chẳng phải thức thứ bảy làm bất cộng thân y của thức thứ sáu, thì thức thứ sáu do đâu biến hiện tất cả các pháp giả thật. Nếu thức thứ bảy không làm chỗ nương cả Nhiễm và Tịnh cho năm thức trước, thì năm thức trước do đâu mà được như năm cảnh kia, đối diện liền hiện không có trước sau, không do công sức. Nên gọi thẳng thức thứ bảy là hiện thức. Nếu quán tất cả cảnh giới chẳng có gì không thấy, thì cảnh không tướng cảnh, tức được nhập môn chân như.
Trí thức.
Nghĩa là phân biệt các pháp nhiễm tịnh khác nhau.
Do thức thứ bảy bất cộng vô minh không biết chân pháp như thật là một, khiến khi tâm, tâm sở hiện hành chuyển thành hai thứ Kiến phần Tướng phần, như huyễn. Lại do thức thứ bảy có hai lực chấp nhân ngã và chấp pháp ngã, đã vọng chấp kiến phần thức thứ tám là thật ngã thật pháp, thành nhiễm phân biệt.
Lại làm bất cộng thân y của thức thứ sáu, làm nhiễm tịnh y cho năm thức trước khiến sáu thức trước phân biệt các pháp nhiễm tịnh khác nhau, nên gọi thẳng thức thứ bảy là trí thức.
Nếu quán năng phân biệt và sở phân biệt đều không có tự tánh thì Trí không có tướng trí, liền vào được môn chân như.
Tương tục thức.
Nghĩa là vẫn thường tác ý nối tiếp không dứt, nắm giữ các nghiệp thiện ác trong quá khứ không để hoại mất, thành thục các quả báo khổ vui đời hiện tại và vị lai không để trái vượt. Việc đã trải qua bất chợt nhớ lại, việc chưa trải qua vọng sinh phân biệt.
Do bất cộng vô minh của thức thứ bảy không biết chân pháp như thật là một, đối với chân thường vọng thấy sinh diệt, lại không biết sát-na không dừng trụ, đương thể vắng lặng, đối với sinh diệt vọng thấy nối nhau cho nên trong mỗi niệm chấp thức thứ tám là Ngã Pháp của mình, khiến thọ huân trì chủng kia vời lấy quả dị thục, mỗi niệm thành sáu chuyển thức, nương theo bên ngoài khiến thức kia ghi nhớ quá khứ, phân biệt vị lai.
Nếu chẳng phải câu sinh pháp chấp của thức thứ bảy làm chỗ nương cho sáu thức trước, thì thức thứ tám liền không thọ huân bảy thức trước, giữ gìn hạt giống hữu lậu, vì không có bảy thức trước năng huân thì không có thức thứ tám sở huân, thức thứ sáu cũng không ghi nhớ quá khứ phân biệt vị lai vì không có thức thứ bảy, thức thứ tám sở y thì không có thức thứ sáu năng y. Cho nên gọi thẳng thức thứ bảy này là thức tương tục.
Như trong Thích Luận dẫn Pháp Môn Khế Kinh rằng: "Vì thức thứ bảy có sức rất mạnh, nên có khi có công dụng tạo tác chứa giữ, hoặc có khi là chỗ tạo tác phân biệt" chính là ý nghĩa này.
Nếu quán tâm tánh sát-na không dừng trụ đương thể vắng lặng thì nối nhau không có tướng nối tiếp, liền vào được môn chân như.
Cho nên tất cả ba cõi đều lấy tám thức tâm làm tự tánh, lìa tám thức tâm không có cảnh giới sáu trần. Vì sao? Vì tất cả các pháp lấy tám thức tâm làm chính. Từ thức thứ bảy vọng niệm khởi, phàm tám thức sở phân biệt đều phân biệt tám thức tướng phần sở biến của tự tâm. Tâm chẳng thấy tâm, không có tướng để được, cho nên phải biết tất cả tướng cảnh giới thế gian đều nương vô minh vọng niệm của chúng sinh mà được kiến lập. Như bóng trong gương không thật có thể tánh, chỉ từ tâm luống dối phân biệt chuyển, vì tâm sinh thì các pháp sinh, tâm diệt thì các pháp diệt.
Đoạn này tiếp theo ý trên, vì chỉ do thức thứ bảy bất cộng vô minh không biết như thật chân pháp là một, bên trong duyên thức thứ tám khởi hai thứ chấp Ngã, bên ngoài làm sáu y khiến khởi vọng niệm nên có tất cả các pháp y báo chánh báo thế gian v.v... Tất cả pháp này đều là chỗ biến của tám thức tâm, tức lấy tám thức tâm làm tự tánh, nếu lìa tám thức tâm Năng biến thì đâu có thể được cảnh giới sáu trần Sở biến. Cho nên tất cả các pháp đều không lìa thức căn bản thứ tám, nên nói lấy tâm làm chính; đều từ thức thứ bảy vô minh huyễn hiện nên nói từ vọng niệm khởi. Thức thứ tám phân biệt ba thứ tánh cảnh lại thành tướng phần sở biến của thức thứ tám, thức thứ bảy phân biệt Ngã Pháp luống dối trở lại thành Tướng phần sở biến của thức thứ bảy, thức thứ sáu phân biệt tất cả các pháp trở thành Tướng phần Sở biến của thức thứ sáu, năm thức trước phân biệt năm trần tánh cảnh trở lại thành Tướng phần Sở biến của năm thức trước.
Cho nên hễ có phân biệt đều là phân biệt tự tâm. Ví như có người mở to mắt, đi tìm mắt mình rốt cuộc không thấy, tâm cũng giống như thế nên nói tâm chẳng thấy tâm.
Nhưng mắt không tự thấy vẫn có người khác thấy được mắt kia, tâm không thấy tâm nhưng không có người khác thấy được tâm kia, nên nói không có tướng để được.
Hỏi: Nếu không có người nào khác thấy được tâm, vì sao nói có tha tâm thông?
Đáp: Do khởi vọng niệm, vọng có duyên ảnh khiến người có tha tâm thông trí giữ lấy cái này làm sắc chất, duyên theo tướng thay đổi gọi đó là biết tâm người khác. Thật ra, bóng dáng duyên theo (ảnh duyên) tức là bóng tướng phần sở biến, chẳng phải là Tâm thể cũng chẳng phải kiến phần. Tâm thể và tâm kiến phần đều không hình tướng, chắc chắn không thể thấy, cho nên Như Lai nói: Ta dùng mắt Phật cũng không thể thấy tâm chúng sinh, vì sao người ngu nói có tướng tâm để được?
Hỏi: Thức thứ bảy duyên kiến phần thức thứ tám chấp làm thật nga, thật pháp, gọi là lấy tâm duyên tâm, há chẳng phải là tâm thấy tâm hay sao? Đáp: Dù cho thức thứ bảy thấy được thức thứ tám thì đáng lẽ gọi là hiện lượng, vì sao gọi là phi lượng, nên biết tất cả kiến phần tâm, tâm sở đều không hình tướng thật có, chắc chắn không thể thấy!
Tâm năng biến còn tự không có tướng để thấy, thì cảnh giới sở biến há là có thật! Cho nên phải biết tất cả tướng cảnh giới thế gian đều nương vô minh vọng niệm của chúng sinh mà kiến lập, nghĩa là nương Bất Cộng Vô Minh của thức bảy, vì không biết như thật chân pháp là một khiến tâm, tâm sở chuyển thành bốn phần, thì tất cả cảnh giới thế gian này chỉ là Tướng phần của Tâm, tâm sở của mình.
Thể của tâm, tâm sở như gương, Tướng phần như hình tượng trong gương. Hình tượng không lìa gương, không có tự thể riêng để được, chỉ từ tâm luống dối phân biệt chuyển, dứt bỏ các tâm, tâm sở phân biệt ra, thì đâu hề có pháp tự sinh diệt!
Phần đầu giải thích chữ Ý đã xong.
D2. Giải thích Ý thức:
Ý thức nghĩa là tất cả phàm phu nương thức tương tục chấp ngã, ngã sở, các thứ vọng chấp cảnh giới sáu trần cũng gọi là thức phân ly, cũng gọi là thức phân biệt sự, vì nương kiến, ái v.v... huân mà thêm lớn.
Sáu thức trước gọi chung là thức liễu biệt cảnh, nay nêu thức thứ sáu để nhiếp năm thức trước. Chỉ cho là tất cả phàm phu là nói theo nhân duyên mê nhiễm.
Nương thức tương tục nghĩa là dùng thức thứ bảy làm nhiễm tịnh y, thức thứ bảy hằng chuyển cùng thức thứ tám từ vô thỉ không dứt nên gọi là thức tương tục. Chấp ngã, ngã sở nghĩa là thức bảy chỉ có Ngã chấp câu sinh, thức thứ sáu nương vào đó biến khởi phân biệt khắp câu sinh ngã và ngã sở chấp. Các thứ vọng chấp cảnh giới sáu trần nghĩa là thức sáu hoặc đồng khởi với năm thức trước, gọi là đồng thời ý thức, chấp lấy cảnh giới sắc thinh hương vị xúc hiện tại gọi là năm trần, hoặc chỉ tự khởi gọi là độc đầu ý thức, chấp lấy tất cả cảnh giới quá khứ, hiện tại, vị lai. Nếu ở trong mộng thì chấp lấy cảnh giới hiện trong mộng, nếu nhập thiền định thì chấp lấy cảnh giới tu chứng thuộc bốn thiền và bốn không đều gọi là pháp trần.
Cũng gọi là thức phân ly, nghĩa là nhãn thức chỉ duyên sắc đã do mình biến ra, cho đến thân thức chỉ duyên xúc đã do mình biến ra. Ý thức tuy duyên khắp nhưng không thể biết các trần vô tánh, chỉ là tâm mình, nên gọi là thức phân ly. Cũng gọi là thức phân biệt sự, nghĩa là vọng cảnh sáu trần được gọi là Sự, chẳng biết lý vô tánh nên gọi là thức phân biệt sự. Vì nương kiến Ai v.v... huân mà thêm lớn nghĩa là, ái tức sáu thức tương ưng các thứ độn sử, kiến tức thức sáu tương ưng các thứ lợi sử, hiện hành huân thành hạt giống, hạt giống lại khởi hiện hành cho nên thêm lớn.
Phần đầu nói về nhân duyên Mê Nhiễm đã xong.
B2. Nhân duyên Ngộ tịnh:
Chia làm hai:
C1. Nói chung Ngộ có cạn sâu
C2. Giải rõ sự cạn sâu khác nhau.
C1. Nói chung Ngộ có cạn sâu:
Vô thỉ vô minh huân nên thức được sinh khởi, trí tuệ phàm phu Nhị thừa chẳng thể biết, Bồ-tát địa vị Giải hạnh mới bắt đầu quán sát, Bồ-tát Pháp thân biết được chút ít, đến Cứu cánh địa vẫn chưa biết hết, chỉ có Như Lai mới biết rõ tất cả.
Vô thỉ vô minh tức câu sinh pháp si của thức thứ bảy gọi là Căn bản trụ địa vô minh. Do vô minh này, không biết chân pháp như thật là một, cho nên chúng sinh từ vô thỉ đến nay, chân như bất biến tùy duyên vốn có tám thức:
Thức thứ bảy là năng chấp, thức thứ tám là sở chấp. Thức thứ tám là sở huân, bảy thức trước là năng huân. Bảy thức trước là năng y, thức thứ tám là sở y.
Thế trí phàm phu chắc chắn không thể biết, chân trí Nhị thừa cũng không thông đạt chỗ này, nên Như Lai vì người độn căn chỉ nói pháp năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới để phá ngã chấp cho họ, mà không hề dạy rõ hai thức bảy và tám. Bồ-tát địa vị Giải hạnh tức là sau Tín thành tựu phát tâm, gọi là Giải hạnh địa, Duy Thức gọi là Tư lương vị và Gia hạnh vị, nắm giữ giáo lý Đại thừa, tu hạnh tu tâm nốt mười ngàn kiếp mới được phát tâm vào Giải hạnh địa, đối với cảnh giới tạng thức mới học quán sát gọi là Tầm tư danh, Tầm tư nghĩa, Tầm tư danh nghĩa tự tánh, Tầm tư danh nghĩa sai biệt đều là giả có, không có thật, chỉ do thức hiện nên nói là Bồ-tát Đại thừa thường quán ý ngôn làm cảnh.
Bồ-tát Pháp thân có thể biết chút ít nghĩa là vì địa vị Thông đạt mới chân thật thấy đạo, từ đây dứt chướng từng phần, chứng chân như từng phần. Đến Cứu cánh địa vẫn chưa biết hết nghĩa là Thập địa tròn đủ vẫn có sở tri ngu rất nhỏ nhiệm. Chỉ có Như Lai mới biết rõ tất cả, nghĩa là tận cùng cội nguồn tâm thức, thông đạt tánh tướng tâm thức không còn mê lầm.
Trong đây bàn về lý, chỉ có Thật, nói về quả vị thì gồm cả Quyền nghĩa là tóm thu tất cả cơ. Nếu nói thật giáo Nhất thừa thì sơ tâm liền quán tạng tánh Như Lai bất biến tùy duyên, có thể biết tám thức được kiến lập có tướng khác nhau. Lại quán tạng tánh Như Lai tùy duyên bất biến, có thể biết tánh của tám thức chỉ là một chân như thì có danh tự chứng đắc trí tuệ Như Lai, cho đến rốt ráo chứng đắc trí tuệ Như Lai, đầy đủ như đoạn trên đã nói.
C2. Giải thích cạn sâu khác nhau:
Chia làm ba:
D1. Nói chung nghĩa sâu
D2. Dạy riêng thứ lớp
D3. Kết thúc chỉ bày hai chướng.
D1. Nói chung về nghĩa sâu:
Nghĩa này thế nào? Tâm tánh kia xưa nay thanh tịnh, vì năng lực vô minh nên hiện tướng tâm nhiễm. Tuy có tâm nhiễm nhưng thường trong sáng không hề thay đổi. Lại vì bản tánh không có phân biệt, tuy là sinh khắp tất cả cảnh giới mà không thay đổi.
Tâm tánh chỉ chung cho tánh của tám thức tâm vương và các tâm sở, tức là tánh chân như bất biến. Vô minh tức chỉ cho si pháp nhỏ nhiệm của thức thứ bảy tương ưng, không biết Chân Pháp Như Thật là một. Hiện tướng tâm nhiễm chỉ chung tám thức tâm vương và các tâm sở đều có bốn phần tướng Y Tha khởi. Nhưng thường trong sáng không có thay đổi, nghĩa là bốn phần của mỗi Tâm, tâm sở đều nắm giữ toàn thể chân như làm thể, chân như tùy duyên bất biến cho nên thường trong sáng, như vàng làm các món đồ, các món đồ đều là vàng.
Lại vì bản tánh không phân biệt v.v... nghĩa là nhằm chỉ tướng phần sở biến của tâm, tâm sở, cũng lấy tâm tánh làm thể. Toàn thể tâm tánh Không hề có đổi khác, chắc chắn không có cảnh giới ngoài tâm.
Vì bất giác nhất pháp giới, bất tương ưng vô minh phân biệt khởi, sinh ra các tâm nhiễm.
Bất tương ưng vô minh nghĩa là chỉ ngay hạt giống vô minh trong thức thứ tám, không tương ưng với thức tám hiện hành. Đây là giải thích tuy do năng lực vô minh từ vô thỉ đến nay, vốn có tám thức và các tâm sở, mỗi thức có bốn phần, cho đến tất cả cảnh giới. Nhưng các pháp này, vốn không thay đổi, vốn không biến khác, vẫn là pháp giới nhất chân.
Nếu mỗi niệm quán sát tâm động thì không có sinh diệt, liền vào được môn chân như, tức chứng đắc trí tuệ Như Lai. Nhưng nếu bỗng chợt mất quán chiếu Bất Giác Nhất Pháp Giới thì hạt giống vô minh trong thức thứ tám liền tương ưng với bảy thức trước mà hiện hành phân biệt liền khởi, lại sinh ra các tâm nhiễm.
Nghĩa như thế rất sâu khó lường, chỉ có Phật mới biết, chẳng phải ai khác hiểu rõ được.
Nghĩa là hạt giống vô minh trong thức thứ tám chỉ cần một niệm bất giác liền khởi hiện hành mà sinh tâm nhiễm, ở đây tuy là Bồ-tát Đẳng giác chưa chuyển thức Dị thục thành thức Vô cấu thì còn chưa biết tận cội nguồn, chỉ quả vị Phật đã tương ưng với Trí Đại Viên Cảnh mới thông đạt tận cùng tánh tướng kia.
Nói chung nghĩa sâu đã xong.
D2. Dạy riêng thứ lớp:
Chia làm hai:
E1. Giải thích thứ lớp Ngộ Tịnh.
E2. Giải thích nghĩa tương ưng, không tương ưng.
E1. Giải thích thứ lớp Ngộ tịnh:
Chia làm hai:
G1. Nói thứ lớp lìa tâm nhiễm G2. Nói thứ lớp lìa Bất giác.
G1. Nói thứ lớp lìa Tâm nhiễm:
Do bất giác này, tâm nhiễm sinh có sáu thứ khác nhau.
- Chấp tương ưng nhiễm.
Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát Tín vị tương ưng sẽ xa lìa. Chấp tương ưng Nhiễm là Hoặc Kiến
Tư ngã chấp tương ưng, người Sơ quả Thanh văn, hữu học Duyên giác, Bồ-tát Tín Thành Tựu phát tâm đều có thể mau dứt kiến hoặc, dần dứt tư hoặc nên nói sẽ xa lìa.
- Bất đoạn tương ưng nhiễm.
Sức siêng tu của bồ-tát tín địa có thể lìa ít phần, cho đến Tịnh Tâm địa mới hết hẳn không còn.
Bất Đoạn Tương Ưng Nhiễm là phân biệt pháp chấp thức thứ sáu tương ưng, là chỗ không dứt trừ trong pháp Nhị thừa. Bồ-tát Tín Vị quán thức Duy tâm cốt điều phục chấp này, cho nên đến Hoan Hỷ địa hết hẳn không còn.
- Phân biệt Trí Tương Ưng Nhiễm.
Từ Cụ Giới địa cho đến Cụ Tuệ địa sẽ xa lìa được ít phần, đến Vô Tướng Hạnh địa mới hết hẳn. Phân biệt trí tương ưng nhiễm nghĩa là câu sinh pháp chấp của thức thứ sáu tương ưng, tuy là sinh khởi hồn nhiên, vì không biết như thật chân pháp kia là một nên vẫn gọi là trí Phân biệt. Địa vị Ly Cấu thứ hai gọi là Cụ Giới, Hiện Tiền địa thứ sáu gọi là Cụ Tuệ, dần dứt trừ từng phần nên gọi là xa lìa ít phần. Địa vị Viễn Hành thứ bảy gọi là Vô Tướng hạnh, quả vị Pháp Không Trí thường được hiện tiền cho nên Nhiễm này mới được hết hẳn.
- Hiện sắc bất tương ưng nhiễm.
Sắc này ở Tự Tại địa mới dẹp dứt trừ.
Ở đây vì từ vô thỉ đến nay vọng chấp y báo, chánh báo khác nhau, tất cả tập khí huân trong thức thứ tám tuy không tương ưng cùng khởi với hiện hành chuyển thức nhưng vì năng lực hạt giống tập khí này chưa thể mặc tình hiện thân tướng và cõi nước gọi là hiện sắc bất tương ưng nhiễm. Nếu vào địa vị Sắc Tự Tại thứ tám thì tập khí này hết hẳn, cho nên có thể trong y báo hiện chánh báo trong chánh báo hiện y báo.
- Kiến Tâm Bất Tương Ưng Nhiễm. Được dứt trừ ở địa vị Tâm tự tại.
Ở đây do từ vô thỉ đến nay vọng chấp tâm mình và tâm người khác nhau, nên có tập khí huân trong thức thứ tám. Tuy không tương ưng cùng khởi với hiện hành chuyển thức, nhưng nhờ sức tập khí hạt giống này chưa thể tự tha giúp nhau, gọi là kiến tâm bất tương ưng nhiễm.
Nếu vào địa vị Tâm Tự Tại thứ chín thì tập khí này được dứt hẳn nên có thể tự thân nhập định, tha thân xuất định, tha thân nhập định, tự thân xuất định, một thân nhập định, nhiều thân xuất định, nhiều thân nhập định, một thân xuất định, cho đến đầy đủ bốn biện tài, một âm thanh đáp khắp hết tất cả các câu hỏi khác nhau của chúng sinh.
- Căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm.
Từ Bồ-tát Cứu cánh địa lên Như Lai địa mới dứt trừ được.
Đây do pháp Kiến, pháp Ái, pháp Mạn của thức bảy từ vô thỉ vọng chấp thức thứ tám là thật pháp bên trong của mình, nên có tập khí huân trong thức thứ tám. Tuy nhờ năng lực quả Pháp Không Trí của thức thứ sáu thường hiện ở trước nên không tương ưng đồng khởi với thức thứ bảy hiện hành, nhưng năng lực tập khí hạt giống này chưa bỏ tên thức Dị thục, chưa chứng Pháp thân bình đẳng không hai rốt ráo của tất cả Như Lai, nên cần từ quả vị Bồ-tát rốt ráo vào định Kim Cương Dụ, dứt trừ hạt giống này mới vào quả vị Phật.
Phần đầu nói thứ lớp lìa tâm Nhiễm đã xong.
G2. Nói thứ lớp lìa bất Giác:
Bất giác nhất pháp giới nghĩa là bắt đầu từ Tín Tâm địa, Quán sát địa tu đến Tịnh tâm địa có thể xa lìa ít phần, lê Như Lai địa mới hết hẳn.
Bất giác nhất pháp giới nghĩa là Hoặc Căn Bản của Vô minh trụ địa từ vô thỉ, thường tương ưng với thức bảy, cũng có khi tương ưng với thức sáu, đều gọi là pháp si. Do vô minh này mà sinh tất cả tâm nhiễm. Trước đã nói tâm nhiễm đã sinh, xa lìa phải có thứ lớp, nay sẽ nói thứ lớp xa lìa bất giác này.
Nhị thừa không nghe tên gọi bất giác này huống chi biết dứt trừ, nên không nói về việc này. Đại thừa bắt đầu từ Tín địa thì quán sát và học cách dứt trừ, nên cũng gọi là Quán sát địa. Tuy học dứt trừ nhưng chỉ có thể điều phục dần, vẫn chưa có xa lìa vì ba tuệ hữu lậu Văn, tư, tu chưa thể phá hoại hạt giống này. Tu đến Sơ Hoan Hỷ địa lìa phân biệt phát si của thức thứ sáu, từ đây về sau dần lìa câu sinh pháp si, thẳng đến quả vị Như Lai mới dứt hẳn câu sinh pháp si trong thức thứ bảy. Vì thế thường được hành bất cộng vô minh rất nhỏ nhiệm, thẳng đến khi định Kim Cương Dụ hiện trước mắt, mới đồng thời cùng diệt với Căn Bản Nghiệp Bất Tương Ưng Nhiễm.
Nên biết Bồ-tát Tiệm giáo chỉ biết thứ lớp lìa nhiễm nên phải đến Tịnh tâm địa mới có thể xa lìa ít phần vô minh này. Nếu Bồ-tát Đốn giáo từ đầu đã học quán sát vô minh tánh Không, không cần dứt trừ từng loại nhiễm khác nhau, mà vô minh năng sinh đã điều phục xa lìa được từng phần, pháp nhiễm sở sinh cũng tự dứt trừ từng phần, cho nên Sơ phát tâm bèn gọi là Tịnh tâm địa. Không phải chỉ dứt hẳn bất đoạn tương ưng nhiễm thứ hai, cho đến hai thứ bất tương ưng nhiễm thứ tư và năm cũng được dứt trừ, có khả năng thị hiện tám tướng thành đạo, được Sắc tự tại, được Tâm tự tại.
Hỏi: Đoạn trước nói vì nương bất giác sinh ba tướng, sáu tướng, ở đây lại nói vì bất giác sinh sáu thứ Nhiễm thì nhiễm và tướng là giống nhau hay khác nhau? Và khi tướng sinh tức nhiễm cũng sinh phải không? Khi trừ nhiễm tức là trừ tướng phải không?
Đáp: Tướng là hình tướng sở biến kế, thể là y tha, chung cho Hoặc, Nghiệp, Khổ; nhiễm là hạt giống hiện hành của năng biến kế, từ y tha khởi, chỉ riêng cho hoặc. Nhiễm như dụi mắt, Tướng như hoa đốm lăng xăng, chỉ nên trừ Nhiễm, không cần trừ Tướng. Lại nữa, mỗi tướng đều có thể khởi ở sáu nhiễm, mỗi nhiễm đều có thể thành nơi chín tướng nên không thể chỉ chắc chắn nhiễm nào tức là tướng nào. Nếu theo nhiễm dứt trừ tướng sẽ tùy trừ.
Thô phân biệt nghĩa là: chấp tương ưng Nhiễm, tức hoặc kiến tư trong thân. Ba thừa khi lìa kiến hoặc thì dứt trừ danh đẳng tướng bên trong và khởi nghiệp tướng hữu lậu, vì bậc Thánh không tạo nghiệp đời sau. Nhị thừa khi hết tư hoặc tức trừ trí và ba tướng tương tục chấp thủ bên trong, khi Nhị thừa nhập Niết-bàn tức trừ Tướng Nghiệp Hệ Khổ bên trong và ba tướng nghiệp v.v... nương khổ uẩn mà khởi.
Bồ-tát có hai loại:
Một là Trí tăng thượng, xả sinh tử Phần Đoạn, sinh về cõi Phương Tiện là chỗ dứt trừ các tướng, giống với Nhị thừa.
Hai là Bi tăng thượng, giúp Tập nhuận sinh, không trừ Trí Tướng và Tương Tục Tướng bên trong, chỉ trừ tướng chấp trước bên trong. Vẫn dùng hạt giống nghiệp cũ để thọ sinh nên cũng không trừ tướng Nghiệp hệ khổ và ba tướng nghiệp v.v... Chỉ chắc chắn không tạo nghiệp mới cho nên không khởi Nghiệp tướng hữu lậu.
- Bất Đoạn tương ưng Nhiễm:
Tức kiến hoặc đối với cảnh bên ngoài, khi hết mê hoặc này rồi thì chứng từng phần Pháp thân, chỉ trừ chấp danh đẳng tướng thứ tư bên ngoài.
- Phân biệt Trí tương ưng nhiễm.
Tức tư hoặc hiện hành bên ngoài, hết mê hoặc này rồi thì chứng Vô Tướng địa, trừ chấp trước và khởi Tướng Nghiệp hữu công dụng vô lậu bên ngoài mà không trừ tướng nghiệp vô công dụng.
- Hiện Sắc bất tương ưng nhiễm.
Tức tướng phần tập khí hí luận, trừ tập khí này rồi, được Sắc tự tại có thể hiện các sắc, chẳng phải trừ tướng cảnh giới.
- Kiến Tâm Bất tương ưng nhiễm.
Tức kiến phần tập khí hí luận, dứt tập khí này rồi thì được Tâm tự tại, có khả năng hiện các tâm, chẳng phải trừ tướng Năng kiến.
- Căn bản Nghiệp Bất tương ưng nhiễm.
Tức tập khí quả báo Dị thục vô ký. Trừ tập khí này rồi, tất cả tướng vọng đều trừ hết, chứng Pháp thân bình đẳng của các Như Lai, không có sắc tướng sai biệt nào khác, nên nói khi một người thành Phật, pháp giới đều là chánh báo, y báo của một Đức Phật, ví như ngàn ngọn đèn trong một ngôi thất, ánh sáng trùm khắp không thể phân biệt, nhưng không chướng ngại, cũng không lẫn lộn nhau.
Lại nữa, trừ nhiễm và bất giác rồi, mới hiển bày được tướng dụng chân như, nghĩa là Pháp thân và báo thân các Như Lai thường tự thọ dụng pháp lạc rộng lớn, tức là nghiệp tướng rốt ráo. Hai trí căn bản và hậu đắc chiếu soi tất cả pháp, tức tướng năng kiến rốt ráo.
Trí Đại Viên Cảnh tương ưng thức thanh tịnh, biến thành cõi Phật thuần tịnh vô lậu, tròn khắp không giới hạn. Các báu trang nghiêm, thân tự thọ dụng thường nương đó mà an trụ, như Tịnh độ lượng, Thân lượng cũng vậy, các căn tướng tốt, mỗi căn vô biên tức tướng cảnh giới rốt ráo. Tứ trí tâm phẩm không khác mà khác tức trí tướng rốt ráo. Tột đời vị lai không đổi khác, không hoại diệt, tức tướng Tương Tục rốt ráo. Đại từ đại bi nhiếp lấy chúng sinh thường không nhàm mỏi, tức tướng chấp trước rốt ráo. Trong pháp không có danh tướng lập bày các thứ chữ câu, đoạn văn v.v... ít có, khiến các chúng sinh được bốn tất đàn lợi ích tức rốt ráo chấp danh đẳng tướng. Thường hiện ba lần xoay bánh xe pháp luân thể nghĩ bàn để giáo hóa tức cứu cánh khởi nghiệp tướng. Cùng luân hồi trong chín cõi, dạo chơi địa ngục, tức cứu cánh nghiệp hệ khổ tướng. Lại nữa, Như Lai cố nhiên có thể chứng trọn vẹn rốt ráo chín tướng, người phát tâm trở lên cũng Phần chứng chín tướng. Trong tu tuệ cũng có Chín tướng tương tự, trong Tư tuệ cũng có Chín tướng quán hạnh, trong Văn tuệ cũng có Chín tướng danh tự, tất cả chúng sinh chỉ có lý tức Chín tướng.
Chín tướng bình đẳng đều là pháp giới, tức chân như Thể đại, ba tướng trước là chân như tướng đại, sáu tướng sau là chân như Dụng đại. Vì chân như không thể chia cắt, không có phân biệt, trong các tướng này tùy ý giữ một tướng đều đầy đủ ba nghĩa thể đại, tướng đại, dụng đại. Phải dùng ý để hiểu, không thể nói hết, nhưng đều không lìa tâm hiện tiền chúng sinh nên nương tâm này để hiển bày Đại thừa.
Phần đầu giải thích thứ lớp Ngộ Tịnh đã xong.
E2. Chuyển sang giải thích nghĩa tương ưng, bất tương ưng:
Nghĩa Tương ưng nghĩa là tâm phân biệt khác nhau, Nhiễm Tịnh phân biệt khác nhau, Tri tướng Duyên tướng giống nhau.
Tâm phân biệt nghĩa là Thể của bảy Tâm vương ở trước. Nhiễm tịnh phân biệt là Thể của Tâm sở tương ưng. Tâm vương, Tâm sở đều lấy phân biệt luống dôi làm tự tánh. Nói đều khác nghĩa là đều khởi hiện hành, đều có tự thể.
Tri tướng đồng: nghĩa là Kiến Phần năng duyên, hòa hợp tương tự như một. Duyên tướng giống nghĩa là Tướng Phần Sở Duyên ảnh chất tương tự nhau.
Bất Tương ưng nghĩa là, tức tâm Bất giác thường không khác nhau, Tri tướng, Duyên tướng không giống nhau.
Tức Tâm Bất Giác thường không khác nhau nghĩa là, Tâm là Kiến phần của Tâm vương thứ tám; Bất Giác là hạt giống tâm Nhiễm, tức là Tướng phần sở duyên thứ tám; Kiến phần Tướng phần đều nương Tự Chứng phần khởi nên nói không khác nhau. Tri tướng không giống là Kiến Phần của thức thứ tám, là năng duyên nên có tri, hạt giống nhiễm tâm không khởi hiện hành, không phải là năng duyên cho nên vô tri. Duyên tướng không giống là Kiến phần thức tám dùng ba tánh cảnh làm sở duyên, hạt giống tâm Nhiễm thì không có cảnh sở duyên.
Phần hai chỉ riêng thứ lớp đã xong.
D3. Kết thúc chỉ bày hai Chướng:
Tâm nhiễm là chướng phiền não vì làm chướng trí chân như Căn Bản.
Ở đây tổng kết sáu thứ tâm nhiễm đều gọi là chướng Phiền não.
Ngã chấp tương ưng các thứ hoặc, đều gọi là phiền não Kiến tư nội giới, làm chướng Ngã Không chân như. Pháp chấp tương ưng các thứ Hoặc, chỉ trừ một loại là pháp si, đều gọi là phiền não kiến Tư ngoại giới, làm chướng pháp không chân như.
Chỉ có trí căn bản làm chướng chân như, đã chướng chân như tức chướng trí căn bản.
Vô minh nghĩa là sở tri chướng, vì làm chướng trí tự tại nghiệp thế gian.
Chỉ chấp một thứ pháp si gọi là vô minh, do pháp si này, nên đối với nghiệp thế gian không được tự tại, gọi là chướng trí kia.
Nghĩa này thế nào? Vì nương tâm Nhiễm chấp trước vô lượng cảnh giới luống dối năng thủ sở thủ, trái với tánh bình đẳng của tất cả pháp.
Ở đây giải thích lý do tâm nhiễm có thể chướng trí căn bản, tánh bình đẳng của tất cả pháp tức là chân như vốn không có năng sở.
Tất cả pháp tánh bình đẳng vắng lặng, không có tướng sinh vô minh bất giác, vọng và giác trái nhau cho nên đối với tất cả nghiệp dụng khác nhau, các thứ cảnh giới thế gian đều không thể biết như thật.
Ở đây giải thích lý do Vô Minh làm chướng trí tự tại, vì chỉ biết như thật mới được tự tại.
Phần hai nói về nhân duyên sinh diệt đã xong.
A3. Phân biệt Tướng sinh diệt:
Chia làm hai:
B1. Phân biệt.
B2. Hỏi đáp giải thích nghi ngờ.
B1. Phân biệt:
Lại nữa, tướng sinh diệt của tâm chia ra hai thứ khác nhau: Thô: là tâm tương ưng.
Tế: là tâm bất tương ưng.
Khởi với tâm tương ưng gọi là tâm tương ưng, tức hiện hành của tâm, tâm sở, kinh Lăng-già gọi là tướng sinh, trụ, diệt. Không tương ưng khởi với tâm gọi là tâm bất tương ưng, tức hạt giống tâm, tâm sở, Lăng-già gọi là lưu chú sinh trụ diệt.
Thô trong thô là trí cảnh phàm phu.
Thô trong thô tức chấp Tương ưng Nhiễm thứ nhất, vốn là pháp mà Nhị thừa và Bồ-tát Tín địa phải xa lìa. Nay nói trí cảnh phàm phu tức Tín địa gọi là nội phàm, giống với Trí đoạn của người Nhị thừa, vì chưa vào Thánh vị Đại thừa.
Tế trong thô và thô trong tế là trí cảnh Bồ-tát, tế trong tế là trí cảnh Phật.
(Trong Tạng mất tám chữ này, nên thêm vào theo bản đời Lương: "Tế trung chi tế, thị Phật trí cảnh")
Tế trong thô là bất đoạn tương ưng nhiễm, phân biệt trí tương ưng nhiễm. Thô trong tế tức hiện sắc Bất tương ưng nhiễm, kiến tâm Bất tương ưng nhiễm. Bồ-tát là Tịnh tâm địa trở lên. Tế trong tế là nghiệp căn bản, Bất tương ưng nhiễm, chỉ có trí Phật mới chiếu soi đến cội nguồn.
Hai tướng (thô tế) này đều do năng lực vô minh huân tập sinh khởi, nhưng nương nhân nương duyên. Nhân là bất giác, duyên là cảnh vọng, nhân diệt thì duyên diệt, duyên diệt thì tâm tương ưng diệt; nhân diệt nên tâm bất tương ưng diệt.
Vô minh là chỉ riêng pháp si, vì trừ pháp này ra đều thuộc về tâm Nhiễm. Bất giác là pháp si vô minh. Duyên diệt thì không khởi hiện hành nên tâm Tương ưng diệt, nhân diệt thì không có hạt giống nên tâm bất tương ưng diệt, thành Như Lai.
Hỏi: Đã nói Nhân diệt thì Duyên diệt, thì khi chưa thành Phật vô minh chưa diệt cảnh sẽ chưa diệt, cảnh đã chưa diệt thì tâm Tương Ưng lẽ ra cũng không diệt. Vì sao đến địa vị Vô Tướng đã diệt hết Tương ưng Nhiễm?
Đáp: Vô minh có hai thứ:
Cùng thức bảy, thì Phật địa mới hết. Cùng thức sáu lại chia hai loại: a/ Phân biệt, Tịnh tâm địa mới dứt. b/ Câu sinh, Vô tướng địa mới dứt.
Vô minh diệt từng phần thì cảnh cũng diệt từng phần, vì cảnh diệt từng phần tâm tương ưng cũng diệt từng phần. Đây gọi là Tâm tương ưng diệt nghĩa là chỉ diệt hiện hành của tâm Nhiễm. Nếu vô lậu hiện hành thì bốn trí của quả Phật đều có hai mươi mốt pháp Tương ưng lại không diệt. Diệt tâm bất tương ưng chỉ là dứt hạt giống hữu lậu. Nếu là hạt giống vô lậu thì thường được thức Yêm-ma-la giữ gìn, tột mé vị lai không bao giờ diệt.
Phần đầu phân biệt đã xong.
B2. Hỏi đáp giải Nghi:
Hỏi: Nếu tâm diệt làm sao nối tiếp? Nếu nối tiếp vì sao nói Diệt?
Ở đây mục đích muốn nói hạt giống và hiện hành tâm Nhiễm có thể diệt, hạt giống và hiện hành tâm thanh tịnh không diệt nên đặt câu hỏi để phát khởi.
Đáp: Thật vậy! Nay nói diệt, nghĩa là chỉ diệt tâm tướng chẳng phải diệt tâm thể.
Tâm tướng tức chỉ cho tướng Nhiễm, Tâm thể tức chỉ cho bản thể nhiễm tịnh sở y, chẳng nhiễm chẳng tịnh. Nhiễm cũng nương Thể, vì trái với Thể nên chỉ gọi là Tướng. Tịnh cũng có tướng, là chân như tướng Đại, vì thuận với Thể nên gọi thẳng là Thể.
Như nước do gió mà có tướng động, vì gió ngừng tướng động liền dứt, chẳng phải thể nước diệt. Nếu nước diệt thì tướng động phải dứt, vì không có nước sở y nên không có tướng động năng y, vì thể nước không diệt nên tướng động vẫn nối tiếp.
Nước dụ cho tâm thể, gió dụ cho vô minh, động dụ cho Tâm tướng.
Chúng sinh cũng vậy, vì sức vô minh khiến tâm động, vì vô minh diệt tướng động liền diệt, chẳng phải tâm thể diệt. Nếu tâm diệt thì chúng sinh đoạn, vì không có sở y nên không có năng y.
Vô minh khiến tâm kia động, cũng như nhân gió dậy sóng, thì tám thức và các tâm sở đều là tướng động. Vì vô minh diệt tướng Nhiễm động diệt, chẳng phải tâm Thể diệt, ví như gió dừng sóng lặng, thể nước không diệt thì bốn trí tương ưng tâm phẩm đều như nước. Nếu tâm diệt, chúng sinh đoạn, thì Như Lai gọi là chúng sinh vô thượng, nếu không có bốn trí tâm thể sở y, thì không có Như Lai giả danh năng y.
Vì tâm Thể không diệt, tâm động nối tiếp.
Bản đời Lương chép: Vì thể không diệt, nên tâm được nối tiếp, chỉ có si diệt. Tâm tướng diệt theo chẳng phải tâm trí diệt.
Nên biết chỉ diệt tướng nhiễm gọi là Bất động mà bốn trí tâm phẩm tức là tướng đại của chân như, hằng khởi dụng đại chân như vẫn có thể gọi là Tâm động nối tiếp, nhưng do hiểu rõ không có động mà động, cho nên động không có tướng động, không giống tác dụng cảnh giới thế đế.
Tâm ý thức của tất cả chúng sinh chẳng thể nghĩ lường. Phần đầu nói về sinh diệt của Nhiễm Tịnh đã xong.
TIẾT 2. Nói về sự huân tập Nhiễm Tịnh:
Chia làm bốn:
A1. Nêu chung về nghĩa huân tập
A2. Giải thích huân tập pháp Nhiễm A3. Giải thích huân tập pháp Tịnh
A4. Kết luận chia ra dứt và không dứt.
A1. Nêu chung về nghĩa huân tập:
Lại nữa, do năng lực huân tập của bốn pháp mà pháp Nhiễm pháp Tịnh sinh khởi không dứt, bốn pháp ấy là:
- Pháp Tịnh gọi là chân như
- Nhân Nhiễm gọi là vô minh
- Tâm Vọng gọi là nghiệp thức-Cảnh Vọng gọi là sáu trần.
Pháp Tịnh gọi là chân như: Nghĩa là nói chung hạt giống và hiện hành của vô lậu, và tâm, tâm sở nương lý tánh đều gọi là chân như. Vì lý tánh cố nhiên tức là chân như, mà hạt giống và hiện hành của vô lậu vì thuận chân như cũng gọi là Chân như. Nhân Nhiễm gọi là vô minh: Nghĩa là chỉ riêng
Bất cộng vô minh, nghĩa là thường hành Bất cộng tức chỉ cho pháp si thức thứ bảy tương ưng, chỉ đi riêng không đi chung; tức vô minh mê lý thức thứ sáu tương ưng, hoặc là phân biệt hoặc là câu sinh, đều làm chỗ nương chung cho tất cả pháp nhiễm, nên gọi là nhân Nhiễm.
Tâm Vọng gọi là nghiệp thức: Nghĩa là chỉ chung tâm thể của tám thức và thể tâm sở tương ưng kia. Nương đó, hay khởi tướng phần, kiến phần, vì có động chuyển nên gọi là Nghiệp.
Vọng cảnh gọi là sáu trần: Nghĩa là chỉ chung tướng phần tâm, tâm sở, tất cả không ngoài sáu trần, tức là duyên Sở duyên.
Huân tập nghĩa là như y phục thế gian chẳng có mùi hôi, chẳng có mùi thơm, tùy theo xông ướp mà có mùi.
Y phục chẳng có mùi hôi, chẳng có mùi thơm, dụ cho tánh tùy duyên bất biến, vốn tự chẳng phải nhiễm chẳng phải tịnh. Dùng vật hôi xông ướp thì có mùi hôi, dụ cho tánh bất biến, theo duyên nhiễm nên tướng nhiễm. Dùng vật thơm xông ướp thì có mùi thơm, dụ cho tánh bất biến, theo duyên tịnh nên có dụng tịnh.
Pháp tịnh chân như, tánh chẳng phải nhiễm vì vô minh huân mà có tướng nhiễm.
Tánh đức chân như tuy chẳng nhiễm, do vô nhiễm nên gọi là pháp tịnh, ví như chiếc áo chưa xông ướp, muốn nói đó là thức vô phú vô ký, vốn là toàn thể chân như nên gọi là Chân như. Vì vô minh huân có tướng nhiễm nghĩa là từ hạt giống bị nhiễm huân khởi hiện hành pháp nhiễm đầy đủ, như đoạn trước đã nói về ba tướng, sáu tướng v.v... Tướng nhiễm vô minh thật không có nghiệp tịnh, vì chân như huân nên nói có dụng tịnh.
Tướng nhiễm vô minh chỉ chung tâm, tâm sở từ vô minh khởi, cũng là toàn thể chân như mà thành, tánh chẳng nhiễm tịnh. Đặc biệt vì đã bị huân tập nhiễm ví như chiếc áo hôi nên không có nghiệp tịnh, vì chân như huân nghĩa là dùng pháp tịnh huân tập tu đức vô lậu, như dùng hương thơm xông ướp chiếc áo hôi kia.
Nói có tịnh dụng nghĩa là ví như vì trừ mùi hôi mới nói lên dụng của hương thơm.
Hễ có tướng nhiễm thì có dụng nhiễm mà dụng nhiễm lưu chuyển sinh tử, lỗi lầm rất nặng nên không nói đến. Hễ có dụng tịnh thì có tướng tịnh, mà tướng tịnh thầm hợp thể tịnh, thế gian chẳng suy lường được nên không nói đến.
Phần đầu nêu chung nghĩa huân tập đã xong.
A2. Giải thích huân tập Pháp nhiễm:
Chia làm hai:
B1. Nói về nghĩa huân tập.
B2. Giải thích nghĩa khác nhau.
B1. Nói về nghĩa huân tập:
Vì sao huân tập pháp nhiễm không dứt? Nghĩa là vì nương chân như mà khởi vô minh làm các nhân nhiễm. Nhưng vô minh này tức huân chân như, đã huân tập rồi mà sinh tâm vọng niệm, tâm vọng niệm này lại huân vô minh. Vì huân tập mà bất giác chân pháp, vì bất giác nên tướng vọng cảnh hiện, vì năng lực huân tập tâm vọng niệm nên sinh ra các thứ chấp trước khác nhau, tạo các thứ nghiệp, chịu các quả báo khổ của thân, tâm v.v...
Chúng sinh từ vô thỉ đến nay sẵn có tám thức. Tám thức và các tâm sở này vì chân nên tướng chẳng khác, thể kia tức nhất pháp giới cũng gọi là chân như.
Chân như làm chỗ nương cho mê ngộ, vì từ vô thỉ đến nay không hề từng ngộ. Thức thứ bảy khởi vô minh mê lý, không biết chân pháp như thật vốn là một nên nói nương chân như khởi vô minh gây ra các nhân nhiễm.
Nếu bảo trước có chân như mới khởi vô minh, do có vô minh mới có thức A-lại-da, do có thức Alại-da mới có bảy chuyển thức ở trước thì chúng sinh có chỗ bắt đầu, đâu khác ngoại đạo chấp Minh Sơ sinh giác.
Nhưng vô minh này tức huân chân như, nghĩa là một vô minh hiện hành thì huân trong tàng thức thành hạt giống vô minh. Thể tàng thức tức chân như, ví như khi nước động tức tánh ướt động, nên nói huân chân như.
Đây là nói theo thức và chân như, chẳng phải nói theo thứ khác.
Nhưng nước tuy động mà tánh ướt không đổi, chính là thể tùy duyên bất biến nương theo nghĩa này. Duy Thức lại nói không huân chân như, đây là nói theo Thức và chân như chẳng phải một, chính là giúp nhau hiển bày lý mầu không chống trái nhau.
Đã huân tập rồi sinh tâm vọng niệm nghĩa là nương môn sinh diệt của tục đế nên tướng có khác, sẽ có tám thức và các tâm sở, Thể Dụng bốn phần, hạt giống hiện hành sai biệt chẳng giống nhau. Nhưng sai biệt này đều không có tánh, vì vô minh nên chẳng biết vô tánh, sinh pháp chấp sai biệt, tương ưng thức thứ sáu, gọi là tâm vọng niệm. Tâm vọng niệm này lại huân vô minh nghĩa là trong thức thứ tám đã có sẵn hạt giống vô minh, khiến thức thứ bảy mỗi niệm khởi vô minh mê lý hiện hành mà pháp chấp của thức thứ sáu vọng niệm hiện hành, huân thức căn bản thứ tám, tự thành hạt giống vọng niệm. Lại trợ giúp thế lực hạt giống vô minh kia nên gọi là huân vô minh.
Vì huân tập nên không biết chân pháp, nghĩa là từ pháp si lại khởi ngã si v.v... vì bất giác vọng cảnh tướng hiện nghĩa là vì ngã si mới hiện ba cõi, sinh tử phần đoạn, sáu trần cảnh.
Vì năng lực huân tập tâm vọng niệm, sinh ra các thứ chấp trước khác nhau nghĩa là các kiến hoặc, tư hoặc nội giới và ngoại giới, gây ra các thứ nghiệp nghĩa là nghiệp hữu lậu thiện ác, bất động, nghiệp vô lậu thiên chân v.v... chịu các quả báo khổ của thân tâm, nghĩa là hai thứ sinh tử phần đoạn và biến dịch.
Nhưng tuy ba thứ hoặc, nghiệp, khổ, tuần hoàn không dứt, cứu xét cội nguồn chỉ do vô minh mê chân pháp giới. Mà vô minh không có tự thể, không lìa tánh chân như bản giác, như người ngủ mộng, trong mộng chịu vô lượng luân hồi, bỗng nhiên tỉnh ngủ liền không, chẳng có được gì. Nếu không có tâm lúc tỉnh đâu có tâm mộng, nếu chẳng nghiên cứu tâm mộng này thì biết tìm tâm tỉnh riêng ở đâu?!
B2. Giải thích nghĩa sai biệt:
Nghĩa cảnh Vọng huân, có hai thứ khác nhau:
Huân tập thêm lớn phân biệt Huân tập thêm lớn chấp thủ.
Cảnh Vọng vốn duy tâm hiện, vì không biết rõ nên huân ở tâm.
Huân tập thêm lớn phân biệt tức giúp cho Kiến hoặc cả nội giới và ngoại giới.
Huân tập thêm lớn chấp thủ chỉ giúp cho Tư hoặc nội giới.
Nếu giúp Kiến hoặc, tư hoặc nội giới khiến các phàm phu không thoát sinh tử, nếu giúp Kiến hoặc ngoại giới khiến người Nhị thừa chóng cầu Niếtbàn.
Vọng tâm huân cũng có hai nghĩa khác nhau:
Huân tập thêm lớn nghiệp thức căn bản, khiến A-la-hán, Bích chi Phật, tất cả Bồ-tát chịu khổ sinh diệt.
Huân tập thêm lớn thức phân biệt sự, khiến các phàm phu chịu khổ nghiệp ràng buộc.
Kiến tư ngoại giới, thêm lớn nghiệp thức, chịu biến dịch sinh tử gọi là khổ sinh diệt. Kiến tư nội giới thêm lớn sự thức, thọ sinh tử phần đoạn gọi là khổ nghiệp ràng buộc.
Vô minh huân cũng có hai nghĩa khác nhau: Huân tập căn bản thành tựu nghiệp thức.
Huân tập kiến ái thành tựu thức phân biệt sự.
Pháp si gọi là huân tập căn bản.
Ngã si gọi là huân tập kiến ái.
Phần hai giảng về huân tập pháp nhiễm đã xong.
A3. Giảng huân tập Pháp tịnh:
Chia làm hai:
B1. Nói về nghĩa huân tập.
B2. Nói về nghĩa sai biệt.
B1. Nói về nghĩa huân tập:
Thế nào là huân tập pháp Tịnh không dứt? Nghĩa là do chân như huân tập vô minh, nhờ năng lực nhân duyên huân tập khiến tâm vọng niệm chán khổ sinh tử, ưa cầu Niết-bàn, do nhân duyên vọng tâm chán khổ ưa cầu này, lại huân chân như. Vì huân tập sẽ tự tin thân mình có pháp chân như bản tánh thanh tịnh, biết tất cả cảnh giới chỉ do tâm vọng động, rốt ráo không thật có.
Vì có thể biết như thật như thế, nên tu pháp xa lìa, khởi các hạnh thuận theo không phân biệt, không chấp thủ, trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp. Vì năng lực huân tập thuần thục vô minh sẽ diệt, vì vô minh diệt tâm tướng chẳng khởi, vì tâm không khởi tướng cảnh giới diệt. Như thế tất cả nhân Nhiễm, duyên Nhiễm và tâm tướng quả Nhiễm đều diệt gọi là chứng Niết-bàn, thành tựu các thứ nghiệp dụng tự tại.
Chân như chỉ cho hạt giống vô lậu trong thức căn bản và diệu dụng cao siêu trong quả vị Phật, Bồ-tát. Hai thứ này đều thuận theo pháp tánh chân như nên gọi là chân như.
Hạt giống huân bên trong làm nhân, chư Phật Bồ-tát huân bên ngoài làm duyên. Nhân trong, duyên ngoài này đều không lìa tâm hiện tiền của chúng sinh. Vì tâm tánh này thật không có gì ngoài, vì hạt giống vô lậu vô thỉ không lìa tâm tánh hiện tiền, vì chư Phật Bồ-tát mười phương đều chứng tâm tánh chúng sinh, vì không ngoài tâm tánh chúng sinh.
Huân tập ở vô minh nghĩa là:
Chư Phật, Bồ-tát huân bên ngoài, huân tập thức thứ sáu và năm thức trước, khiến kia thấy sắc, nghe thanh, ngửi hương, đọc tụng, thân che trùm ánh sáng hoặc tay xoa đầu, hoặc y trùm thân, ý thức lãnh thọ, lấy hiện hành này huân làm hạt giống.
Hạt giống vô lậu huân bên trong khiến kia tin chịu, không nghi ngờ, không hủy báng.
Khiến tâm vọng niệm chán khổ sinh tử, cầu vui Niết-bàn tức là sinh ba tuệ hữu lậu Văn, Tư, Tu. Dù nhân duyên vọng tâm chán khổ cầu vui này huân lại chân như nghĩa là có ba tuệ hữu lậu Văn, Tư, Tu bên trong ắt tăng trưởng thế lực hạt giống vô lậu, bên ngoài thì cảm ứng đến tâm từ bi của chư Phật Bồ-tát. Tự tin tâm mình có pháp chân như v.v... là Tín thành tựu Phát tâm. Vì hay biết như thật như thế v.v... là Giải Hạnh Phát tâm. Không có sự phân biệt v.v... là phát tâm. Vì vô minh diệt tâm tướng không khởi... là chứng trí Căn bản của Phật. Thành tựu các thứ nghiệp dụng khác nhau là chứng trí Hậu đắc của Phật.
B2. Giảng nghĩa sai biệt:
Chia làm hai:
C1. Vọng huân nghĩa khác.
C2. Chân huân nghĩa khác.
C1. Vọng huân nghĩa khác:
Huân tập vọng tâm có hai nghĩa:
Phân biệt sự thức huân: Khiến tất cả phàm phu Nhị thừa chán khổ sinh tử, tùy khả năng mình kham nhận, thú hướng đạo vô thượng.
Ý huân: Khiến các Bồ-tát phát tâm mạnh mẽ mau chóng thú hướng nhập Niết-bàn vô trụ.
Phân biệt sự thức huân nghĩa là: Hoặc thọ học ba thừa cộng giáo, không biết hai thức thứ bảy và tám chỉ dùng ý thức thứ sáu tu quán sinh không, phá trừ kiến hoặc, tư hoặc mà nhập Niết-bàn, hoặc thọ học Đại thừa Tiệm giáo, tuy biết hai thức thứ bảy và tám chỉ vì kiến hoặc tư hoặc nặng, nên sợ sinh tử. Trước nương thức thứ sáu tu quán sinh không, sau đó mới tu quán pháp không v.v... nên nói tùy khả năng mình kham nhận. Nhưng Bồ-tát nội phàm, ngoại phàm này chắc chắn thú hướng Bồ-đề, tức người Nhị thừa kia cũng từ Quyền vào Thật nên nói chung là thú hướng đạo Vô thượng.
Ý huân: Nghĩa là hoặc Bồ-tát Tiệm giáo vào địa vị Tịnh Tâm, chuyển thức thứ bảy khiến tương ưng với trí Bình đẳng tánh, nhậm vận trôi vào biển Đại Niết-bàn, hoặc là Bồ-tát Đốn giáo từ đầu đã quán tâm động tức không sinh diệt, liền vào được môn chân như, nghĩa là quán tất cả vọng niệm vô tướng, ắt là chứng đắc trí tuệ Như Lai.
Tuy tâm năng quán này vẫn là ý thức thứ sáu, nhưng vì lấy căn bản vô minh làm cảnh sở quán nên gọi là Ý huân.
C2. Giảng Chân huân nghĩa khác:
Chia làm ba:
D1. Nêu lên
D2. Giải thích.
D3. Kết luận phán định
D1. Nêu lên:
Chân tâm huân cũng có hai nghĩa khác nhau:
- Thể huân.
- Dụng huân.
Thể tâm tánh chân như này, Phật và chúng sinh bình đẳng không hai. Tuy vốn không hai mà mỗi vị Phật, mỗi chúng sinh cho đến mỗi hạt bụi, đều hoàn toàn lấy chân như làm thể, chẳng phải là một ít phần chân như. Tuy mỗi Đức Phật, mỗi chúng sinh, cho đến mỗi hạt bụi toàn thể đều là chân như, nhưng chẳng phải có nhiều chân như. Đây chính là pháp môn nhất tâm không thể nghĩ bàn, ví như ngàn ngọn đèn cùng chiếu sáng bao trùm lẫn nhau, dung chứa lẫn nhau không lẫn lộn, không chướng ngại. Nói theo Phật, thì tất cả chúng sinh đều là chúng sinh trong tâm Phật, vì tâm Phật cao tột rộng khắp, lại không có gì ở ngoài. Nói theo chúng sinh thì tất cả chư Phật đều là Phật trong tâm chúng sinh, vì tâm chúng sinh cao tột rộng khắp lại không có gì ở ngoài. Nói theo tâm hiện tại của chúng ta thì tất cả Phật, tất cả chúng sinh đều là Phật, chúng sinh trong tâm ta, vì tâm hiện tiền cao tột rộng khắp, lại không có gì ngoài, cho nên tâm, Phật, chúng sinh cả ba không khác nhau. Vì thế trong Alại-da vốn có hạt giống vô lậu, tức thể chân như của tâm ta.
Nhân bên trong muốn phát khởi gọi là thể huân, đại dụng từ bi trên quả vị chư Phật Bồ-tát, tức là dụng chân như của tâm ta. Duyên ngoài giúp đỡ gọi là dụng huân. (Chữ trong chữ ngoài đều là nói theo tình chấp, đều không ngoài tâm).
D2. Giải thích:
Chia làm hai:
E1. Nói về thể huân
E2. Nói về dụng huân.
E1. Nói về Thể huân: Chia làm hai:
G1. Giải thích
G2. Giải nghi.
G1. Giải thích:
Thể huân nghĩa là chân như từ vô thỉ đến nay đầy đủ tất cả vô lượng vô lậu, cũng đầy đủ diệu dụng của cảnh giới cao siêu khó nghĩ lường; thường huân tâm chúng sinh không xen hở. Nhờ năng lực huân này khiến các chúng sinh chán khổ sinh tử, cầu vui Niết-bàn, tự tin thân mình có pháp chân thật nên phát tâm tu hành.
Chân như là Thể Đại.
Vô lượng vô lậu là Tướng Đại.
Diệu dụng cảnh giới cao siêu là Dụng Đại.
Tâm chúng sinh giữ toàn thể chân như Thể Đại làm thể, cho nên sẵn đủ Tướng Đại, Dụng Đại này. Như người lầm đường, phương hướng vẫn bất động, như nước đóng thành băng, tánh ướt của băng vẫn như cũ, tướng tan chảy, dụng nhuần thấm, cũng sẵn đủ, tức ở đây gọi là hạt giống vô lậu trong A-lại-da. Ví như tánh tan chảy và nhuần thấm trong băng, không lìa băng mà trái với băng. Vì thế đạo vô lậu phát khởi thì xả bỏ tên A-lại-da và Dị thục.
G2. Giải nghi:
Chia làm hai:
H1. Thắc mắc
H2. Giải đáp
H1. Thắc mắc:
Hỏi: Nếu tất cả chúng sinh đồng có chân như, đều huân tập như nhau, vì sao có người tin có người không tin? Từ lúc mới phát tâm cho đến Niết-bàn trước sau khác nhau, có vô lượng sai biệt, tất cả như thế đáng lẽ phải bằng nhau mới đúng?
Câu hỏi có hai ý:
Đồng có chân như thì không nên có người tin, có người không tin.
Đều huân tập như nhau thì nên phát tâm cùng một lúc, tu hành cùng một lúc, cho đến vào Niếtbàn đồng một lúc, không nên có trước sau, càng không nên có lui sụt và không lui sụt, Ba thừa Nhất thừa, hoặc tiệm hoặc đốn, có vô lượng khác nhau.
H2. Giải đáp:
Chia làm hai:
- Theo vô minh phiền não dày mỏng để giải thích.
- Theo nhân duyên thành biện lẫn nhau để giải thích.
Đáp: Tuy tất cả chúng sinh đồng có chân như, nhưng từ vô thỉ đến nay vô minh dày mỏng, tự tánh khác nhau nhiều hơn cát sông Hằng, Ngã kiến Ngã ái v.v... phiền não trói buộc cũng giống như thế. Chỉ có trí tuệ Như Lai mới biết được nên khiến tin, không tin v.v... trước sau khác nhau.
Vô minh dày thì lòng tin khó sinh, vô minh mỏng thì lòng tin dễ phát. Phiền não dày thì khó dứt, phiền não mỏng thì dễ trừ. Mà vô minh phiền não mỗi thứ lại có ngoại giới, nội giới khác nhau, nên chỉ Như Lai mới biết hết.
Giảng nghĩa theo nhân duyên thành tựu lẫn nhau. Lại nữa, pháp chư Phật có nhân có duyên, nhân duyên đầy đủ việc mới thành tựu. Như tánh lửa trong cây là chánh nhân của lửa, nếu không người biết hoặc tuy có biết mà không thi công, lại muốn lửa hiện để thiêu đốt cây thì không có việc đó. Chúng sinh cũng như vậy, tuy có nhân là năng lực chân như Thể huân, nếu không gặp duyên Phật, các Bồ-tát v.v... các thiện tri thức; hoặc tuy duyên gặp mà không tu hành tinh tấn, không sinh trí tuệ, không dứt phiền não mà được Niết-bàn thì không có việc đó.
Tánh lửa trong cây dụ như hạt giống vô lậu trong A-lại-da.
Nếu không có người biết dụ cho không gặp duyên thiện tri thức. Không thi công dụ như không tu hạnh tinh tấn, lửa hiện dụ như trí huệ sinh, đốt cây dụ cho dứt phiền não, diệt thức hòa hợp.
Hợp pháp rất dễ hiểu.
Lại nữa, tuy có duyên thiện tri thức ví như bên trong không có năng lực huân tập chân thật làm nhân thì cũng không thể chán khổ sinh tử, cầu vui Niết-bàn.
Ở đây cũng như cây rất ướt không thể dùi ra lửa ngay. Du-già nương theo đây quyền lập năm tánh khác nhau. Do cho vô minh phiền não kia rất dày, che hạt giống vô lậu nên tuy có mà lại giống như không có.
Phải có đủ nhân duyên mới được như thế, thế nào là đầy đủ? Nghĩa là trong tự tương tục có năng lực huân tập, chư Phật Bồ-tát từ bi che chở mới có thể chán khổ sinh tử, tin có Niết-bàn, trồng các gốc lành, tu tập thành thục. Do đó lại gặp chư Phật Bồtát chỉ dạy lợi ích vui mừng, khiến tu hạnh cao siêu cho đến thành Phật, nhập Niết-bàn.
Trong tự tương tục nghĩa là giữ toàn thể Chân như làm thức A-lại-da, thức này từ vô thỉ xoay vần truyền đến nay, nương đó kiến lập chúng sinh giả danh. Tuy niệm niệm diệt nhưng niệm niệm sinh, hằng chuyển như dòng nước nên gọi là tự tương tục.
Có năng lực huân tập nghĩa là:
Huân tập chủng tánh bản trụ từ vô thỉ.
Huân tập hạt giống do học nhiều kiếp được thành tựu. Cả hai đều gọi là nhân bên trong.
Chư Phật, Bồ-tát từ bi che chở nghĩa là: Duyên bình đẳng che chở.
Duyên sai biệt che chở.
Cả hai đều gọi là Duyên bên ngoài. Nên biết phải có Sai biệt nhiếp hộ và hạt giống được thành tựu do học huân tập mới có thể dần dần tăng trưởng Nhân và Duyên cao siêu kia, cho đến thành Phật nhập Đại Niết-bàn.
Phần đầu giải thích thể huân đã xong.
E2. Giảng Dụng huân:
Chia làm hai:
G1. Nêu tóm lược.
G2. Giảng từng phần.
G1. Nêu tóm lược:
Dụng huân là năng lực duyên bên ngoài của chúng sinh, có vô lượng nghĩa, nói lược thì có hai thứ là duyên Sai biệt và duyên Bình đẳng.
Chân như không hai cũng chẳng phải không hai. Vì không hai nên tất cả Phật, chúng sinh chỉ có một chân như. Vì chẳng phải không hai nên mỗi vị Phật, mỗi chúng sinh đều là toàn thể chân như.
Vì không hai tức không có năng huân sở huân, vì chẳng phải không hai nên được nói năng huân sở huân.
Nếu chỉ có không hai thì chắc chắn không có năng huân. sở huân, giả sử chỉ không không hai cũng không có năng huân sở huân.
Vì chúng sinh và Phật hoàn toàn là hai, nên chúng sinh không thể cảm, Phật không thể ứng. Nay do không hai mà hai mới được nói về dụng huân.
Lại do không hai tức chẳng phải không hai, vì thế có duyên sai biệt; do chẳng phải không hai tức là không hai vì thế có duyên bình đẳng. Lại do có duyên khác nhau nên Phật không thể độ người chẳng có duyên, có duyên bình đẳng nên Phật độ sinh không hề dừng nghỉ.
G2. Giảng từng phần:
Chia làm hai:
H1. Nói về duyên sai biệt
H2. Nói về duyên bình đẳng H1. Nói về duyên sai biệt:
Duyên sai biệt là các chúng sinh từ lúc mới phát tâm cho đến thành Phật, nhờ các thiện tri thức như
Phật, Bồ-tát v.v... tùy chỗ đáng hóa độ mà hiện thân, hoặc làm cha mẹ, hoặc làm vợ con, hoặc làm quyến thuộc, làm tôi tớ, làm bạn thân, làm kẻ thù, hoặc lại thị hiện thân trời v.v... Hoặc dùng bốn nhiếp pháp, hoặc dùng sáu độ, cho đến tất cả hạnh duyên Bồ-đề, đem tâm đại bi mềm mỏng, tạng phước trí rộng lớn huân tất cả chúng sinh đáng hóa độ, giúp họ thấy nghe cho đến nhớ nghĩ các hình tướng Như Lai v.v... thêm lớn gốc lành.
Duyên này có hai thứ:
Duyên gần vì mau được Bồ-đề. Duyên xa vì lâu xa mới được Bồ-đề.
Hai duyên sai biệt này mỗi thứ lại có hai phần: duyên Tăng hạnh và duyên Nhập đạo.
Từ lúc mới phát tâm cho đến thành Phật tức là thể huân hạt giống hiện hành vô lậu, nhân trong là năng cảm. Tùy chỗ đáng hóa độ mà hiện thân tức là Dụng huân chân như về mặt quả, duyên ngoài là năng ứng.
Hoặc làm cha mẹ cho đến làm Thiên Vương v.v... khiến chúng sinh thấy, hoặc dùng bốn nhiếp pháp cho đến các hạnh duyên Bồ-đề khiến chúng sinh vừa thấy vừa nghe, hoặc làm kẻ thù là như Đềbà-đạt-đa v.v...; ngoài ra đều rất dễ hiểu.
Bốn nhiếp là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Sáu độ là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Hạnh Bồ-đề là bốn thứ Tam-muội, ba mươi bảy phẩm trợ đạo v.v... vô lượng hạnh môn.
Tâm đại bi mềm mỏng là đồng thể đại bi, nhìn các chúng sinh cũng như thân mình, không có thô ác. Tạng phước trí rộng lớn là tu đức viên mãn cùng tột, bằng chân pháp tánh thường làm lợi ích không cùng tận.
Huân chỗ đáng hóa độ khiến chúng sinh thấy nghe tức là đường cảm ứng giao nhau, cho đến nhớ nghĩ hình tướng Như Lai, thêm lớn gốc lành là không chỉ thấy nghe pháp sự ứng hóa, mà có thể làm duyên cao quý tăng thượng, tức có hình tượng Như Lai và Bồ-tát, v.v... giúp người nhớ nghĩ, chiêm lễ, đều thuộc về dụng huân của chân như, bởi vì ba thân rõ ràng, bốn đức không bớt.
Chóng được Bồ-đề gọi là duyên gần. Lâu xa mới được gọi là duyên xa, có thể thấy từ lúc mới phát tâm cho đến thành Phật, đều nhờ duyên thiện tri thức. Từ lúc mới phát tâm, tức nhờ duyên này tăng hạnh nhập đạo, cho đến thành Phật cũng nhờ duyên này tăng hạnh nhập đạo. Ta có thể thấy, nếu muốn tăng hạnh nhập đạo đều nhờ duyên thiện tri thức. Duyên nhân phước đức gọi là duyên tăng hạnh, liễu nhân trí tuệ gọi là duyên nhập đạo.
H2. Giải thích Duyên bình đẳng:
Duyên bình đẳng là tất cả chư Phật và các Bồtát dùng trí tuệ bình đẳng, chí nguyện bình đẳng muốn cứu giúp khắp tất cả chúng sinh, nhậm vận nối nhau thường không đoạn dứt. Vì dùng chí nguyện này huân chúng sinh khiến họ nhớ nghĩ chư Phật, Bồ-tát, hoặc thấy hoặc nghe mà làm lợi ích, khiến họ vào tịnh Tam-muội. Tùy chỗ trừ chướng được mắt vô ngại, trong mỗi niệm có tất cả thế giới, bình đẳng hiện và thấy vô lượng chư Phật và các Bồ-tát.
Trí tuệ bình đẳng là trí tuệ hiểu rõ tất cả chúng sinh và Phật chỉ có một chân như. Có trí tuệ bình đẳng này thì sẽ có chí nguyện bình đẳng, đó là bốn thệ nguyện rộng lớn vô tác, phát tăng-na ở tâm ban đầu, cuối cùng dùng tâm đại bi để đến cứu nạn, vì thế nhậm vận nối nhau không đoạn dứt, huân tập chúng sinh.
Tịnh Tam-muội là Tam-muội chân như, chỗ nào cũng dứt chướng v.v... là như Sơ địa dứt chướng Dị sinh tánh, có thể thấy chư Phật, Bồ-tát trong trăm thế giới, Nhị địa trừ chướng tà hạnh có thể thấy chư Phật, Bồ-tát trong ngàn thế giới, cho đến tăng dần theo từng địa, trong kinh Hoa Nghiêm phẩm Thập Địa có nói đầy đủ.
D3. Kết luận phán định:
Thể dụng huân này lại có hai loại khác nhau: Một là chưa tương ưng, hai là đã tương ưng.
Chưa tương ưng là phàm phu, Nhị thừa, Bồ-tát Sơ hạnh, do nương ý, ý thức huân, chỉ nương Tín lực tu hành, chưa được tâm vô phân biệt tu hành, vì chưa tương ưng với thể chân như, tu hành chưa được nghiệp tự tại vì chưa tương ưng với dụng chân như.
Phàm phu là Ba thừa ngoại phàm, Nhị thừa là hữu học vô học.
Bồ-tát Sơ hạnh là Nội phàm.
Nhị thừa không biết có thức bảy, chỉ nương thức thứ sáu tu quán sinh Không, gọi là nương ý thức huân. Bồ-tát đã biết có thức thứ bảy tuy nương thức sáu tu quán pháp không, tức gọi là nương ý và ý thức huân. Nhưng thức thứ bảy chưa thể chuyển, tương ưng với Bình đẳng tánh trí, thức thứ sáu chưa thể chuyển tương ưng với pháp không vô lậu Diệu quan sát trí. Tuy được sinh không Diệu quan sát trí, nhưng chưa phải là trí căn bản vô phân biệt Đại thừa, vì chưa chứng Pháp không hiển thể chân như. Đã chưa chứng thể, thì đâu thể sinh trí Hậu đắc vô phân biệt mà thành nghiệp dụng chân như tự tại.
Đã tương ưng là Bồ-tát Pháp thân, được tâm vô phân biệt vì tương ưng với tự thể của tất cả Như Lai; được nghiệp tự tại vì tương ưng với trí dụng của tất cả Như Lai, chỉ nương pháp lực nhậm vận tu hành huân tập chân như, dứt trừ vô minh.
Bồ-tát Pháp thân là Sơ hoan hỷ địa của Tiệm giáo, là Sơ phát tâm trụ của Đốn giáo. Chỗ chứng chân như là tự thể của tất cả Như Lai, vì thể không hai. Đã chứng từng phần thể ấy, tức phải giống từng phần Dụng kia, nên kinh Hoa Nghiêm nói:
Lúc mới phát tâm,
Liền thành Chánh giác, Thân pháp mầu thanh tịnh Vắng lặng ứng tất cả.
Phần sau này đều là đạo vô công dụng nên nói nhậm vận tu hành...
Phần ba giải thích huân tập pháp tịnh đã xong.
A4. Kết luận phán định dứt và không dứt:
Lại nữa, huân tập Nhiễm là từ vô thỉ đến nay không xen hở, thành Phật mới dứt hết; huân tập sạch hết đời vị lai rốt ráo không dứt, vì huân tập pháp chân như thì vọng tâm ắt diệt, Pháp thân hiển hiện, khởi dụng huân tập nên không có đoạn dứt.
Nhiễm đến thành Phật mới đoạn dứt, đó là vô minh không bắt đầu mà có kết thúc. Tịnh thì rốt ráo không đoạn dứt, đó là thỉ giác có bắt đầu mà không có kết thúc. Nhiễm Tịnh đều nương Bản giác chân như, đó là Bản giác không có bắt đầu, không có kết thúc. Ví như nương theo phương hướng nên mê, mê cùng phương hướng đều không có chỗ bắt đầu. Nương mê nên có ngộ, ngộ và phương hướng đều không có chỗ kết thúc. Ngoài phương hướng không có mê ngộ, ngoài mê ngộ cũng không có phương hướng riêng, vì phương hướng bất biến phải theo hai duyên mê ngộ, cho nên chân như tức sinh diệt, vì hai duyên mê ngộ không bao giờ khiến cho phương hướng đổi khác, cho nên sinh diệt tức chân như. Nhưng mê thì trái phương hướng nên cất bước đều lầm lỗi, ngộ thì thuận theo phương hướng mà tới lui như ý; cho nên phải bỏ mê về ngộ.
Hỏi: Luận Duy Thức nói quả Phật không có năng huân sở huân, nay nói khởi dụng huân tập nên không đoạn dứt, phải hiểu thế nào?
Đáp: Ở đây nói vọng tâm diệt, Pháp thân hiển bày tức là nghĩa Phật không có năng huân, sở huân trong Duy thức.
Luận Duy thức nói vì chỗ giáo hóa hữu tình làm kỳ hạn, cùng tận mé vị lai, bốn trí tâm phẩm không dứt hết tức nghĩa dụng huân tập không đoạn dứt, hãy suy nghĩ cho kỹ!
Phần đầu Giải thích tướng nhân duyên sinh diệt đã xong.
CHI 2. Hiển bày Thể tướng dụng của Đại thừa:
Do phần lập nghĩa ở trước nói tướng nhân duyên sinh diệt của tâm này vì làm hiển bày Thể Tướng Dụng của Đại thừa.
Nay giải thích tướng nhân duyên sinh diệt của tâm này đã xong, nên phải trình bày Thể Tướng Dụng Đại thừa của tâm này.
Chia làm hai:
A1. Trình bày thể tướng.
A2. Trình bày dụng.
A1. Trình bày Thể tướng:
Chia làm hai:
B1. Chỉ bày.
B2. Giải nghi.
B1. Chỉ bày:
Lại nữa, tự thể tướng chân như nghĩa là tất cả phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, chư Phật không có thêm bớt, chẳng phải mé trước sinh, chẳng phải mé sau diệt, rốt ráo thường hằng.
Ở đây trước chỉ dạy thể Đại thừa.
Tất cả phàm phu tức pháp giới sáu phàm, cùng Thanh văn v.v... thành mười pháp giới. Mỗi phàm phu cho đến mỗi Đức Phật đều đầy đủ toàn thể chân như, mà chân như cũng không hai, ở mê không bớt, ở ngộ không thêm, mé trước không bắt đầu, mé sau không kết thúc. Cho nên nói rốt ráo thường hằng.
Từ vô thỉ đến nay bản tánh đầy đủ tất cả công đức là, nghĩa trí tuệ sáng suốt rộng lớn, nghĩa chiếu khắp pháp giới, nghĩa biết rõ như thật, nghĩa bản tánh thanh tịnh, nghĩa thường lạc ngã tịnh, nghĩa tự tại lặng lẽ bất biến, nghĩa nhiều hơn số cát sông Hằng như thế v.v... chẳng phải đồng, chẳng phải khác, pháp Phật không thể nghĩ bàn, không có đoạn dứt. Vì nương nghĩa này nên gọi là Như Lai tàng, cũng gọi là Pháp thân.
Ở đây chỉ bày tự thể tướng Đại thừa. Tâm tất cả chúng sinh vốn đã đầy đủ thể chân như tức vốn đầy đủ tướng chân như, chẳng phải đợi thành Phật rồi mới có, nên gọi là tự thể tướng chân như.
Chẳng đồng chẳng khác là theo nhiễm khác nhau nên chẳng đồng, theo chân như duy nhất nên chẳng khác.
Nương thể chân như vốn đầy đủ đức tướng chân thật như thế, nên phàm phu sử dụng hằng ngày mà không biết, chỉ gọi là Như Lai tàng. Theo chư Phật ra khỏi các chướng tròn sáng, đổi tên thành Pháp thân.
Phần đầu trình bày đã xong.
B2. Giải thích thắc mắc:
Hỏi: Ở trên nói chân như lìa tất cả tướng, vì sao nay lại nói đầy đủ tất cả các tướng công đức?
Ở trên đáp chân như lìa tất cả tướng tức chỉ nghĩa được nói trong môn chân như.
Đáp: Tuy thật có đầy đủ tất cả công đức nhưng không có sự khác nhau. Tất cả pháp kia đều đồng một vị, một chân, lìa tướng phân biệt vì tánh không hai.
Đồng một vị là đồng vị vô lậu, đồng một chân là Như như và Trí Như như, tức là pháp giới nhất chân.
Lìa tướng phân biệt là chẳng phải các phàm phu, Nhị thừa, Bồ-tát quyền vị v.v... có thể suy lường mà biết được. Vì tánh không hai là chỉ thuộc về tánh Viên thành thật.
Vì nương tướng sinh diệt của nghiệp thức v.v... mà lập tất cả tướng khác nhau kia, ở đây làm sao lập? Vì tất cả pháp xưa nay chỉ là tâm, thật không có phân biệt. Vì bất giác nên khởi tâm phân biệt thấy có cảnh giới gọi là vô minh, nhưng tâm tánh vốn thanh tịnh. Vô minh không khởi cho nên tức là Chân như, lập nghĩa trí tuệ rộng lớn sáng suốt.
Nếu tâm sinh thấy cảnh, thì có tướng không thấy, nhưng tâm tánh không có thấy thì không có chẳng thấy, cho nên ngay nơi chân như lập nghĩa chiếu khắp pháp giới.
Nếu tâm có động thì chẳng phải hiểu biết chân thật, chẳng phải bản tánh thanh tịnh, chẳng phải thường lạc ngã tịnh, chẳng phải tịch tĩnh, là thay đổi, không tự tại. Do đó khởi đủ tạp nhiễm luống dối nhiều hơn cát sông Hằng, nhưng vì tâm tánh bất động, cho nên tức lập nghĩa hiểu biết chân thật, cho đến nghĩa tướng công đức thanh tịnh nhiều hơn cát sông Hằng. Nếu tâm có khởi, thấy còn có cảnh khác để phân biệt tìm cầu, thì đối với nội pháp có chỗ không đầy đủ.
Nhưng vì công đức vô biên tức tự tánh Nhất tâm, không thấy có pháp nào khác để tìm cầu, cho nên pháp không thể nghĩ bàn đầy đủ nhiều hơn cát sông Hằng, chẳng phải khác, chẳng phải một, không có đoạn dứt (do kia vốn đầy đủ đức tướng như thế) nên nói chân như gọi là Như Lai tàng. (Do chứng đức tướng sẵn đủ này) cũng gọi là Như Lai Pháp thân, nhân gồm biển quả gọi là Như Lai tàng, cũng có thể gọi là Lý tức Pháp thân. Quả suốt nguồn nhân gọi là Pháp thân, cũng có thể gọi là Như Lai tàng rốt ráo.
Phần đầu chỉ bày thể tướng đã xong.
A2. Hiển bày Dụng:
Chia làm ba:
B1. Nói dụng tức chân như.
B2. Nói rộng tùy căn cơ thấy khác.
B3. Kết thúc chỉ cho diệu dụng chân như.
B1. Nói Dụng tức Chân như:
Lại nữa, Dụng chân như là tất cả chư Phật thời kỳ tu nhân phát tâm từ bi lớn, tu hành các hạnh sáu độ, bốn nhiếp pháp v.v... quán chúng sinh đồng như mình, đều cứu thoát rộng khắp, tột đời vị lai không giới hạn kiếp số, biết rõ như thật mình người bình đẳng mà cũng không chấp tướng chúng sinh. Nhờ trí Đại phương tiện như thế, diệt vô minh từ vô thỉ, chứng Pháp thân xưa, tùy ý khởi nghiệp không thể nghĩ bàn, các thứ tác dụng tự tại khác nhau trùm khắp pháp giới, đồng với chân như mà cũng không có tướng dụng để được. Vì sao? Vì tất cả Như Lai chỉ là Pháp thân nghĩa đế đệ nhất, không có tác dụng của cảnh giới thế đế.
Tất cả chư Phật thời kỳ tu nhân là lúc làm phàm phu giống như chúng ta, do tin tâm mình có pháp chân như nên có thể phát thệ nguyện rộng lớn đại từ bi, tu hành các hạnh sáu độ, bốn nhiếp pháp v.v... cứu khắp chúng sinh, suốt tất cả kiếp, tức là tu hành quán môn, biết rõ như thật, mình người bình đẳng. Mà cũng không chấp tướng chúng sinh tức là tu hành chỉ môn. Hai pháp Chỉ Quán khi tu đều phải vận dụng, trong phần tin tu ở sau là theo công năng hạnh tự lợi nên trước nói chỉ, đoạn này nói lên diệu dụng giáo hóa chúng sinh, nên trước nói quán.
Lại nữa, trong đoạn này quán chúng sinh đồng như mình tức quán tâm rộng lớn trong Bát-nhã, đều cứu thoát khắp tức phát tâm đệ nhất trong Bát-nhã. Biết rõ mình người bình đẳng tức phát tâm thương xót nhiếp độ trong Bát-nhã, cũng gọi là tâm thường hằng.
Mà cũng không chấp tướng chúng sinh tức tâm không điên đảo trong Bát-nhã. Chỉ bốn tâm này niệm niệm tương ưng gọi là Trí Đại phương tiện nên chứng Thể mà khởi Dụng.
Nhưng tác dụng khác nhau tự tại này, ở chỗ thấy của phàm phu thì gọi là thế đế, vì có phân biệt. Ở chỗ thấy trong tâm bậc Thánh tức chỉ là nghĩa đế Đệ nhất, vì không phân biệt cho nên nói là hai đế; thật ra là một, ví như người say vọng thấy nhà ngôi nhà quay cuồng, nghĩa là có nhà quay và nhà không quay. Thật ra nhà người say thấy quay tức là nhà người tỉnh thấy không quay, không có hai.
B2. Nói rộng tùy căn cơ thấy khác:
Chia làm hai:
C1. Theo thức sở y để chia ra hai thân
C2. Theo căn cơ được thấy để chia ra thô tế.
C1. Theo thức Sở y để chia ra hai thân:
Vì chỉ tùy thấy nghe của chúng sinh v.v... mà có các thứ tác dụng khác nhau, dụng này có hai:
Nương phân biệt sự thức, nghĩa là tâm sở kiến của phàm phu Nhị thừa gọi là Hóa thân. Người này không biết thức chuyển nên ảnh hiện, thấy từ ngoài đến, chấp giữ phần hạn sắc. Nhưng Hóa thân Phật không có hạn lượng nên có câu hỏi rằng:
Như Lai đã không có tác dụng của cảnh giới Thế đế, vì sao chúng sinh thấy Phật đều khác nhau, cho đến tới lui ngồi nằm, thị hiện các việc giáng sinh, Niết-bàn v.v... chẳng phải Thế đế hay sao?
Nên nay giải thích rằng:
Chỉ theo sự thấy nghe v.v... của chúng sinh.
Thức chuyển ảnh hiện là khi thức chuyển hiện hành trên kiến phần hiện bóng dáng thân Phật là tướng phần. Tức là chỗ thấy của tâm Nhị thừa, phàm phu kia đều do cộng tướng thức chuyển, vì thế hiện hình tướng này, vốn không phải từ ngoài tâm đến, chỉ vì phàm phu, Nhị thừa kia không biết có tàng thức, không biết có chư Phật hiện thân trong tâm chúng sinh, có thể lấy chúng sinh trong tâm chư Phật làm bản chất; không biết thân Phật được chúng sinh trong tâm chư Phật thấy, tức nương thân chư Phật trong tâm chúng sinh hiện ra mà biến thành hình tượng, nên nói thấy từ ngoài đến, chấp phần hạn của sắc.
Nhưng kia tuy vọng chấp từ ngoài đến, thật ra vốn không ở ngoài, kia tuy vọng chấp phần hạn, kỳ thật Hóa thân vốn không có hạn lượng. Vì Hóa thân này là dụng của chân như, tức Báo thân, tức Pháp thân. Chẳng lìa thể tướng chân như được dụng chân như, vì thế ứng trì không thấy đảnh Phật, Mục Liên không thấy được chỗ tột cùng âm thanh Phật, cho đến nặn đất, đúc vàng, khắc gỗ, vẽ trên giấy, hình tượng Phật đều chứa ba thân rõ ràng, bốn đức không bớt, không thể lầm theo kẻ phàm mắt mù, Nhị thừa mắt chột, nghĩa là chẳng phải chân Phật, tự rơi vào kiến chấp cong vay.
Nương nghiệp thức là các Bồ-tát từ lúc ban đầu phát tâm cho đến Bồ-tát rốt ráo địa. Tâm sở kiến gọi là thân Thọ dụng. Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp, chỗ trụ nương vào quả, cũng đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm. Tùy chỗ đáng thấy vô lượng vô biên, không có bờ mé, không đoạn dứt, chẳng phải ngoài tâm mà thấy như thế. Tức chỗ thấy thân Phật của Bồ-tát kia, cũng do nhãn thức thấy, ý thức quán sát. Chỉ do biết có tàng thức, giữ toàn thể chân như làm thể, vốn chẳng phải một chẳng phải khác với Như Lai, nên tùy chỗ thấy liền biết là thân Phật trong tự tâm nương làm bản chất, lại duyên ảnh biến hóa ở tự tâm. Bản chất không ngoài tâm tánh mình, ảnh tượng không ngoài tâm năng duyên, nên gọi là nương vào nghiệp thức.
Sơ phát tâm tức quả vị Sơ phát tâm trụ của Đốn giáo, vì phần chứng chân như, hay thấy thân thọ dụng của Phật. Thân thọ dụng này, vì xứng với pháp tánh do đó có vô lượng sắc, tùy theo mỗi sắc, cũng lại xứng với pháp tánh, vì thế có vô lượng tướng, tùy mỗi một tướng cũng xứng pháp tánh vì thế có vô lượng vẻ đẹp.
Sở trụ y quả tức là cõi Thật Báo không chướng ngại, vì cũng lại xứng pháp tánh, vì thế đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm. Nhưng đây cũng là nương thân và cõi tự thọ dụng của Phật dùng làm bản chất, tự biến tướng phần làm thân sở duyên, nên gọi là thân và cõi Tha thọ dụng. Cho nên mỗi Bồ-tát tùy phần lượng của tâm, Sơ địa thấy một trăm thế giới, Nhị địa thấy ngàn thế giới v.v... các thứ khác nhau, cho đến Bồ-tát địa rốt ráo thấy mới cùng tận, đều gọi là thân và cõi Tha thọ dụng. Ví như ánh sáng đèn, tuy ánh sáng lồng nhau mà làm năng chiếu lẫn nhau, làm sở chiếu lẫn nhau lớp lớp vô tận nhưng ánh sáng vẫn không lẫn lộn nhau.
Hãy nghĩ cho kỹ, nghĩ cho kỹ!
Chớ bảo có căn, có ảnh, nên chẳng đầy đủ phần Duy Thức, chẳng phải tức pháp giới sự sự vô ngại. Hỏi: Chỗ thấy của Bồ-tát phát tâm trụ thế nào? Đáp: Nếu ở Tiệm giáo tức đồng chỗ thấy của phàm phu, Nhị thừa, nếu ở Đốn giáo sự thấy biết có thể đồng với Sơ trụ, chỉ chưa thể nhậm vận thường thấy.
Các công đức này được thành tựu đều nhờ huân tập hành vô lậu như Ba-la-mật v.v... và huân tập không thể nghĩ bàn. Vì đầy đủ vô biên tướng công đức hỷ lạc cũng gọi là Báo thân.
Mỗi công đức tuy tánh đều đầy đủ, vẫn phải xứng tánh khởi tu, tu đức tròn đủ mới được thành tựu. Tuy nói thành tựu mà tánh đức cũng không thêm, chỉ vì đối với nhân tu mới gọi là quả báo.
Trong phần Phật tức Báo thân tự thọ dụng, hòa hợp không hai không khác với Pháp thân. Bồ-tát nương đó làm bản chất cảnh, biến ảnh mà thấy tức gọi là Báo thân tha thọ dụng.
Phần đầu theo thức sở y để chia ra hai thân đã xong.
C2. Theo chỗ thấy của căn cơ để chia ra thô tế:
Lại nữa, chỗ thấy của phàm phu v.v... là dụng thô. Tùy sáu đường khác nhau có các thứ khác nhau, không có vô biên tướng lạc công đức, gọi là Hóa thân.
Cái thấy của Bồ-tát sơ hạnh là dụng hạng trung, vì tin sâu chân như nên được thấy chút phần. Biết thân Như Lai không đến không đi, không có đoạn dứt, ảnh hiện duy tâm, không lìa chân như. Nhưng Bồ-tát này vẫn chưa thể lìa phân biệt nhỏ nhiệm vì chưa nhập địa vị Pháp thân.
Cái thấy của Bồ-tát Tịnh tâm là Dụng nhỏ nhiệm, như thế càng cao siêu hơn, cho đến Bồ-tát địa rốt ráo, cái thấy mới cùng tận.
Dụng nhỏ nhiệm này là thân thọ dụng, vì có nghiệp thức thấy thân thọ dụng, nếu lìa nghiệp thức thì không thể thấy, tất cả Như Lai đều là Pháp thân vì không có sắc tướng kia đây khác nhau.
Phàm phu v.v... là chỉ cho Nhị thừa và Tiệm giáo ngoại phàm. Bồ-tát Sơ hạnh là Tiệm giáo nội phàm và Đốn giáo nội ngoại phàm. Bồ-tát Tịnh tâm là Đốn giáo Sơ phát tâm trụ, Tiệm giáo Sơ hoan hỷ địa. Thô dụng gọi là Hóa thân, nghĩa là Ứng thân bậc kém. Dụng hạng trung là Ứng thân vừa kém vừa cao siêu, cũng gọi là Thân gồm Báo thân và Hóa thân hòa hợp. Dụng nhỏ nhiệm là Báo thân tha thọ dụng, đều là ảnh hiện Pháp thân và Báo thân. Không lìa Pháp thân và Báo thân, Phật há lại có thô tế ư?! Thô tế đều do căn cơ.
Lại nữa, thô dụng, Đại Thừa Chỉ Quán gọi là tánh phân biệt thanh tịnh. Trung dụng, tế dụng đều gọi là tánh y tha thanh tịnh, vì nếu lìa nghiệp thức thì chứng tánh chân thật thanh tịnh, mỗi tánh đều trùm khắp pháp giới, không lẫn lộn không chướng ngại, lại không có sắc tướng kia đây khác nhau.
Phần hai nói rộng Tùy căn cơ thấy khác nhau đã xong.
B3. Kết thúc chỉ bày Diệu dụng Chân như:
Hỏi: Nếu Pháp thân Phật không có các thứ sắc tướng khác nhau thì làm sao hiện các thứ sắc?
Đáp: Vì Pháp thân là thật thể sắc, nên hiện được các thứ sắc, nghĩa là từ xưa đến nay sắc tâm không hai, vì bản tánh sắc tức tự tánh tâm gọi là Trí thân. Vì bản tánh tâm tức tự tánh sắc, nên gọi là Pháp thân. Nương Pháp thân, tất cả sắc thân Như Lai hiện, trùm khắp tất cả chỗ không xen hở. Bồ-tát mười phương tùy sự kham nhận, tùy chỗ phát nguyện, thấy vô lượng thân thọ dụng, vô lượng cõi trang nghiêm mỗi mỗi khác nhau, không chướng ngại nhau, không có đoạn dứt. Sắc thân hiện ra này, tâm ý thức tất cả chúng sinh không thể nghĩ lường, vì là dụng tự tại sâu xa của Như Lai.
Pháp thân tức là chân như, chân như tức là thể thật của tất cả pháp, nên tức là thật thể sắc. Đã tức là thật thể sắc tại sao lại gạn hỏi hiện các thứ sắc? Huống chi từ xưa đến nay sắc tâm không hai, chẳng phải đợi thành Phật mới không hai. Nghĩa là sắc tức chân như, nên tức chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, cũng tức có thể sắc, có thể tâm. Tâm tức chân như nên cũng chẳng phải tâm, chẳng phải sắc, cũng tức có thể là tâm có thể là sắc, cho nên sắc tức là Tâm, tức có thể gọi là trí thân thì tất cả chỉ là Tâm. Tâm tức là sắc, tức có thể gọi là Pháp thân, thì tất cả chỉ là sắc. Nương Pháp thân chẳng phải sắc chẳng phải tâm, mà là sắc mà là tâm này, Như Lai hiện các sắc thân rộng khắp cao tột gọi là Báo thân Tự thọ dụng. Bồ-tát nương theo đây làm bản chất cảnh, mỗi người thấy khác nhau gọi là Báo thân Tha thọ dụng. Tuy là trùm khắp cũng không có chỗ nơi, cho nên không chướng ngại nhau, không có đoạn dứt.
Tùy sự kham nhận là Sơ địa thấy một trăm cõi, Nhị địa thấy một ngàn cõi v.v... Tùy sở nguyện ưa thích là hoặc do năng lực nguyện tự tại, lại nhiều hơn đây gấp trăm lần, ngàn lần cho đến gấp trăm ngàn ức na-do-tha lần, không thể đếm biết hết sắc thân biến hiện này, đều là diệu dụng sâu xa tự tại của chân như. Tuy vốn không lìa tâm, ý, thức tánh của chúng sinh, do vô minh bất giác vọng tưởng tự trói buộc, vì thế nên không thể suy lường.
Phần hai giải thích từng môn đã xong.
A3. Kết luận hai môn không lìa nhau:
Chia làm hai:
B1. Dạy tu quán.
B2. Dụ hiển bày nghĩa không hai.
B1. Dạy tu Quán:
Chia làm hai:
C1. Nêu ý.
C2. Nói về pháp quán.
C1. Nêu Ý:
Lại nữa, vì muốn chúng sinh từ tâm môn sinh diệt vào môn chân như.
Chúng sinh từ vô thỉ đến nay vì chưa giác ngộ chân như, cứ thế mà thành sinh diệt, bỏ tâm sinh diệt thì có chân như ở đâu để quán? Nên phải ngay từ tâm môn sinh diệt quán sinh diệt vốn không sinh diệt, mới vào được môn chân như.
C2. Nói về Pháp quán:
Khiến quán sắc, v.v... đều không thành tựu. Vì sao chẳng thành tựu?
Ở đây nêu chung sắc v.v... để làm cảnh sở quán, vân vân là pháp vô vi và bốn uẩn còn lại.
Nghĩa là phân tích sắc thô dẫn đến vi trần lại dùng phương pháp phân tích chia chẻ vi trần này. Cho tất cả các sắc hoặc thô hoặc tế chỉ là bóng dáng vọng tâm phân biệt, không thật có.
Ở đây, trước quán sắc uẩn không thành tựu. Dù cho hạt bụi có cách chia chẻ, có thể phân tích ngay thì chắc chắn chẳng phải thật có. Nếu không có phương pháp chia chẻ thì đó là chẳng phải sắc, nên biết tướng thô tướng tế của các sắc đều là tướng phần vọng tâm hiện, ngoài tâm Phật không có sắc. Hỏi: Phân tích sắc là cách quán Tiểu thừa, vì sao Đại thừa cũng dùng cách quán này.
Đáp: Tiểu thừa phân tích sắc chỉ hiển bày nhân không, Đại thừa phân tích sắc là làm rõ sắc pháp vốn không, nên nói pháp không có Đại thừa có Tiểu thừa, đại hay tiểu là do người. Dụ thuốc giúp tay bị lạnh mà không nứt có thể suy nghĩ sâu thêm. Tìm cầu các uẩn khác dần đến sát-na, tìm tướng sát-na này khác nhau chẳng phải một.
Lại quán bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức chẳng thành tựu, bốn lần tìm kiếm tâm pháp trong một sát-na, nghĩa là chưa sinh, muốn sinh, sinh, đã sinh, không có trụ dù chỉ tạm thời, không có chút pháp thật, chỉ có tên gọi mà thôi.
Pháp vô vi cũng giống như thế, lìa pháp giới thì không thể được.
Tiếp đến lại quán pháp vô vi không thành tựu. Sắc, tâm niệm niệm sinh trụ dị diệt gọi là pháp hữu vi. Đối đãi với pháp hữu vi này, giả đặt danh từ vô vi kia. Hữu vi còn không thật có thì vô vi chỉ thuộc về pháp giới trong mười tám giới, chính là bóng dáng sở duyên của thức thứ sáu, há lìa sắc tâm mà thật có thường pháp tên là vô vi?
Như thế thì tất cả các pháp trong mười phương nên biết đều như thế.
Hữu vi vô vi tức không thành tựu thì thế giới mười phương có pháp nào để thành tựu ư? Đây là sinh diệt vô tánh, đương thể tức là chân như, rõ ràng như thế.
Phần đầu Chỉ bày cách quán đã xong.
B2. Ví dụ nói lên nghĩa không hai:
Cũng như người mê cho phương Đông là Tây, phương thật không thay đổi; chúng sinh cũng như thế, vì không biết đang mê lầm cho tâm là động, mà tâm thật không động. Nếu biết tâm động thì tâm không sinh diệt liền được vào môn chân như.
Chỉ tâm hiện tiền này tánh tức chân như. Chúng sinh ở trong chân như vọng thấy sinh diệt, cũng như người mê cho phương Đông là Tây thì không có sinh diệt ngoài chân như. Người mê tuy cho phương Đông là Tây, mà phương Đông vẫn là Đông, thì chỗ người mê cho là phương Tây vốn là phương Đông của người giác ngộ, có thể ví dụ không có chân như ngoài sinh diệt.
Nghĩa là tâm là động, hợp với đoạn trước cho phương Đông là Tây, là ngay chân như mà thành sinh diệt. Tâm thật không động, hợp với đoạn trước nói phương Đông vẫn ở phương Đông, là lìa sinh diệt không còn có chân như, nên nếu biết tâm động tức chẳng sinh diệt, ví như có thể biết chỗ gọi là Tây vốn tức là Đông, liền vào môn chân như.
Một tâm niệm mà chia thành hai môn mê ngộ, hai môn rốt ráo chỉ một tâm này. Chỉ quý nhất là biết chuyển đổi mê chấp mà thôi. Mê là vô minh, chấp là vọng tưởng, biết là Thỉ giác, nên biết rõ như thế, không còn có hiểu biết nào khác, nên nói Thỉ giác tức Bản giác.
Phần đầu chỉ bày thật nghĩa đã xong.
MỤC 2. Đối trị tà chấp:
Chia làm hai:
A1. Nêu chung hai chấp
A2. Giải thích riêng từng kiến chấp.
A1. Nêu chung hai chấp:
Đối trị tà chấp nghĩa là tất cả tà chấp đâu chẳng đều nương ngã kiến mà khởi, nếu lìa ngã kiến thì không có tà chấp. Ngã kiến có hai thứ: Nhân ngã kiến và pháp ngã kiến.
Nếu thông đạt thật nghĩa đã trình bày ở đoạn trước là hai môn một tâm, chắc chắn không khởi hai thứ chấp ngã, vì toàn thể chân như mà thành sinh diệt thì chân như chắc chắn chẳng phải nhân thật, Pháp thật. Vì đương thể sinh diệt tức là chân như thì sinh diệt chắc chắn chẳng phải Nhân thật, Pháp thật, nên kinh Lăng-già nói: Nên nương Như Lai Vô tạng ngã.
Nhưng Phật nói pháp hoặc vì đối trị phàm phu thì chuyên phá chấp Nhân Ngã, hoặc vì đối trị Nhị thừa thì chuyên phá chấp Pháp Ngã. Do đối trị chấp nhân ngã phương tiện lập bày là pháp năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới đều chẳng phải pháp thật. Nhị thừa nương theo đây mà khởi pháp chấp. Do đối trị chấp Pháp Ngã, nên nói như thật chỉ do thức biến hiện, nương tám thức gọi tạm là người, chẳng phải người thật. Phàm phu nương theo đây mà khởi Nhân chấp, nên nói tất cả kiến chấp ngoại đạo đều từ Phật pháp có ra, tất cả tà chấp là biên kiến, tà kiến và hai thủ v.v... của phàm phu, đều nương chấp Nhân Ngã sinh ra.
Nhị thừa chấp sắc, Bất tương ưng và vô vi v.v... đều nương chấp Pháp Ngã sinh ra.
A2. Giải thích riêng từng Kiến chấp:
Chia làm hai:
B1. Chấp Nhân Ngã.
B2. Chấp Pháp ngã.
B1. Chấp Nhân Ngã:
Chia làm hai:
C1. Dứt Trừ Ngã kiến
C2. Kể những kiến chấp khác được phá trừ
C1. Dứt Trừ Ngã kiến:
Chấp Nhân Ngã là nương các phàm phu nói có năm thứ.
Chấp Nhân Ngã cũng gọi là Ngã chấp, vì nương Ngã si khởi Ngã kiến, vì nương Ngã kiến mà khởi Ngã ái, Ngã mạn; Vì nương Ngã ái nên chấp Ngã sở, vì nương chấp Ngã, Ngã sở nên khi thuận thì tham, khi nghịch thì sân, khởi đủ vô lượng các pháp phiền não, nên chấp Nhân Ngã chỉ nương phàm phu mà nói là có. Nếu chứng quả Tuđà-hoàn của Tiểu thừa thì sẽ dứt hẳn tà chấp này, huống chi là Đại thừa!
Như trong kinh nói Pháp thân Như Lai rốt ráo vắng lặng cũng như hư không, phàm phu nghe vậy không hiểu nghĩa ấy nên chấp tánh Như Lai giống như hư không, là thường, là thật có khắp nơi.
Đây tức là ngoại đạo chấp có thần ngã trùm khắp các cõi ở mười phương, thể thường trùm khắp lượng bằng hư không, vốn là do hiểu lầm nghĩa Pháp thân, thành ra ngoại đạo chấp có Thần ngã chứ chẳng phải Pháp thân vắng lặng.
Vì trừ chấp kia, nói tướng hư không, chỉ là phân biệt, không thật có. Có kiến chấp, có đối đãi với các sắc, dùng tâm phân biệt nói là hư không. Sắc chỉ là vọng tâm phân biệt, nên biết hư không cũng không có tự Thể.
Ngoại đạo kia chấp Ngã đồng với hư không, là thường, là có thật, nay trước nói hư không sở đồng chẳng thường, chẳng có thật, thì Ngã năng đồng ắt cũng chẳng thường, chẳng có thật.
Có kiến chấp là dùng tâm phân biệt gọi là hư không, ở đây là tướng sở duyên nên chẳng thường. Có đối đãi là đối đãi với các sắc; chỗ không có sắc gọi là không, là pháp đối đãi nên chẳng thật có. Lại nữa, Sắc chỉ là vọng tâm phân biệt, không có thật thể, hư không chẳng có sắc, há có thật thể ư? Hư không đã không có thật thể thì Ngã được chấp là đồng hư không, cũng không có thật thể.
Tất cả cảnh tướng chỉ là chỗ phân biệt của vọng tâm, nếu lìa vọng tâm thì tướng cảnh giới mất diệt. Chỉ có tâm chân như chẳng ở đâu không cùng khắp. Đây là nghĩa tự tánh Như Lai như hư không, chẳng phải nói như hư không là thường là có.
Tất cả cảnh tướng tức là hoặc sắc hoặc không. Tướng cảnh giới diệt tức không và sắc đều chẳng có. Không và sắc đều không có, há có thể vọng cho là Như Lai đồng như hư không là thường là có, gọi đó là Nhân Ngã hay sao?
Như trong kinh nói tất cả pháp thế gian đều rốt ráo Không, cho đến pháp Niết-bàn chân như cũng rốt ráo Không. Bản tánh như thế, lìa tất cả tướng, phàm phu nghe nói không hiểu ý nghĩa liền chấp pháp Niết-bàn chân như chỉ rỗng không, chẳng có vật gì.
Đây là kiến chấp đoạn diệt không của ngoại đạo, chấp cảnh giới rỗng không, chẳng có vật gì là Niết-bàn chân như, nên diệt sắc quy về không, nên được định Tứ không rồi cho là mình đã chứng Niết-bàn chân như. Vì người này còn chấp ngã nên chẳng quy về cùng tột không, bèn vào dòng luân hồi sinh tử.
Vì trừ chấp kia, nói chân như Pháp thân tự thể chẳng không, vì đầy đủ vô lượng tánh công đức.
Nếu biết chân không chẳng phải không, chẳng phải chỉ Không, thì còn không chấp nhận Tiểu thừa chứng không, huống chi là chấp bốn không để làm chỗ chứng đắc của mình ư!
Như kinh nói tạng Như Lai đầy đủ tất cả các tánh công đức không thêm không bớt, phàm phu nghe nói không hiểu ý nghĩa liền chấp Như Lai tạng có pháp sắc tâm tự tướng khác nhau.
Đây là thường kiến của ngoại đạo chấp Ngã là năng hữu, chấp năm uẩn sắc không là sở hữu của Ngã, không thể dứt trừ. Vì trừ chấp này nên nói chân như vốn không có pháp nhiễm khác nhau (tuy nương nghiệp thức... các tướng khác nhau), dựng lập có vô biên tướng công đức (mà đều đồng một vị, nhất chân, lìa tướng phân biệt) chẳng phải là tướng nhiễm.
Nếu biết chân như chẳng phải tướng nhiễm chẳng lẽ lại nắm giữ sắc tâm này cho là sở hữu của Ngã ư?
Như trong kinh nói tất cả các pháp tạp nhiễm của thế gian đều nương Như Lai tàng mà khởi, tất cả pháp chẳng khác chân như. Phàm phu nghe rồi không hiểu nghĩa nên cho là Như Lai tàng có đầy đủ tất cả pháp nhiễm thế gian.
Ở đây cũng là chấp thường của ngoại đạo, chấp tất cả pháp nhiễm tức Ngã, lại không thể diệt, cho đến Ma Vương lại muốn giữ trần lao sợ kia tiêu hết, cũng thuộc về kiến chấp này.
Vì trừ chấp này nên nói Như Lai tàng từ xưa đã có công đức thanh tịnh nhiều hơn số cát sông Hằng, chẳng khác chân như. Nếu có pháp nhiễm phiền não nhiều hơn số cát sông Hằng, chỉ là vọng có, vốn không tự tánh. Từ vô thỉ đến nay không hề tạm tương ưng với Như Lai tàng. Nếu Như Lai tàng tương ưng với pháp nhiễm mà khiến chứng hội, dứt vọng nhiễm, thì không có việc đó.
Pháp nhiễm nương vô minh mà có, ví như người lầm đường cho phương Đông là tây, đây là lời mê lầm, xưa nay không tương ưng với đúng hướng.
Như Lai tàng vốn không nhiễm thì chấp Nhân Ngã là pháp nhiễm không thể chứng hội Như Lai tàng, rõ ràng như thế.
Như trong kinh nói nương tạng Như Lai có sinh tử được Niết-bàn, phàm phu nghe nói không hiểu nghĩa nên cho rằng nương Như Lai tạng sinh tử có chỗ bắt đầu, vì chấp có bắt đầu. Lại cho rằng Niếtbàn có kết thúc.
Đoạn này riêng chấp Như Lai tàng là pháp thật ngoài tâm, như Minh Đế, Thắng Tánh, Hư Không, trời Đại Tự Tại v.v... nhưng vì có sinh tử nên được Niết-bàn, gọi đó là Nhân Ngã.
Vì trừ chấp này, nói Như Lai tàng không có mé ban đầu, vô minh nương đó nên sinh tử không có chỗ bắt đầu. Nếu nói ngoài ba cõi lại có chúng sinh bắt đầu sinh khởi là lời trong kinh ngoại đạo, chẳng phải lời Phật dạy. Vì Như Lai tàng không có mé sau, chứng được điều này thì dứt hẳn hạt giống sinh tử. Như Lai tàng không trước không sau, sinh tử nương theo đó không có bắt đầu mà có kết thúc, Niết-bàn nương đó có bắt đầu mà không có kết thúc. Tàng tánh như phương hướng, sinh tử như mê, Niết-bàn như giác. Ngoài phương hướng không có mê giác thì biết Nhân Không; ngoài mê giác cũng không có phương hướng riêng nên biết Pháp không.
Lại nữa, Như Lai tàng tánh như là tánh ướt, sinh tử như băng, Niết-bàn như nước. Ngoài tánh ướt không có nước có băng, thì chỗ nào có người thọ sinh tử, chứng Niết-bàn? Ngoài nước và băng cũng không có tánh ướt, thì ở đâu khởi pháp sinh tử và thành Niết-bàn.
Phần đầu trừ chấp ngã đã xong.
C2. Nêu những Kiến chấp khác được phá trừ: Nương chấp Nhân Ngã sinh ra bốn kiến chấp cho nên ở đây an lập bốn kiến chấp kia.
Bốn kiến chấp kia là biên kiến, tà kiến, giới thủ, kiến thủ. Vì không rõ nghĩa Như Lai tàng Vô ngã, chấp luống dối là có nhân ngã, về sau nương theo đó để chấp đoạn, chấp thường, gọi là biên kiến.
Nương theo đó bác bỏ không có nhân quả thiện ác gọi là tà kiến. Nương khổ hạnh để cầu giải thoát gọi là giới thủ. Nương theo đó cầu sinh lên Phạm thiên, Không xứ gọi là Kiến thủ, cho nên trừ chấp Nhân Ngã này rồi, bốn kiến chấp kia đều không thể tự an lập.
Phần đầu giảng chấp Nhân Ngã đã xong.
B2. Chấp Pháp ngã:
Chia làm hai:
C1. Lý do khởi chấp.
C2. Cách đối trị.
C1. Lý do khởi chấp:
Chấp Pháp Ngã nghĩa là vì người Nhị thừa độn căn, Thế tôn chỉ nói Nhân Vô Ngã, người kia lại đối với năm uẩn sinh diệt rốt ráo chấp trước, sợ hãi sinh tử, vọng cầu Niết-bàn.
Phàm phu vọng chấp năm uẩn là Ngã, Ngã sở nên trôi lăn trong sinh tử, do thuở xưa họ đã từng gieo trồng gốc lành Nhị thừa, Phật tùy theo căn cơ vì họ nói năm uẩn sinh diệt, vốn không có Nhân Ngã, vốn chẳng hề nói năm uẩn là pháp thật.
Kia tự rốt ráo chấp trước, không hiểu năm uẩn vốn không, vì thế sợ sinh tử vọng cầu Niết-bàn, trái với pháp môn Đại thừa bình đẳng, há là bản ý nói pháp của Như Lai ư!
C2. Cách đối trị: Chia làm hai:
D1. Nói rõ.
D2. Giải thích thắc mắc.
D1. Nói rõ:
Vì giúp trừ chấp này, nói pháp năm uẩn bản tánh không sinh, vì không sinh cũng không diệt, vì không diệt nên xưa nay Niết-bàn. Nếu rốt ráo lìa phân biệt chấp trước thì biết tất cả pháp nhiễm, pháp tịnh đều đối đãi lập bày. Cho nên phải biết tất cả các pháp từ xưa đến nay chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí chẳng phải thức, chẳng phải có chẳng phải không, rốt ráo đều là tướng không thể nói.
Năm uẩn bản tánh chẳng sinh, là ví như mắt có màng đỏ, vọng thấy ánh đèn năm mầu chập chờn, mà thật không có sinh năm mầu.
Vật có sinh thì về sau sẽ có diệt, vốn đã không sinh thì làm sao có thể diệt. Nên nói tất cả chúng sinh tức tướng Niết-bàn, không thể còn hoại diệt, nghĩa là tự tánh xưa nay thanh tịnh Niết-bàn, tức sinh diệt là thể chân như.
Nếu rốt ráo lìa phân biệt chấp trước là hay quán tất cả vọng niệm không tướng, thì chứng đắc trí tuệ Như Lai, từ danh tự chứng đắc cho đến rốt ráo chứng đắc.
Nên biết tất cả pháp nhiễm pháp tịnh đều đối đãi mà lập bày, Nhiễm là vọng niệm vô minh, Tịnh là chân như vô lậu, nương chân có vọng, nương vọng hiển chân, vì thế giác và bất giác đều thuộc môn sinh diệt. Đã đối đãi lập bày nên chẳng thật có, nên biết sinh diệt tức chẳng sinh diệt, vào môn chân như, từ danh tự giác cho đến cứu cánh giác.
Tất cả các pháp tức là pháp nhiễm pháp tịnh, pháp sắc pháp tâm, pháp trí pháp thức, pháp có pháp không. Tóm lại là một trăm pháp năm loại, một trăm cõi, một ngàn như, các thứ pháp. Từ xưa đến nay chẳng phải sắc chẳng phải tâm v.v... nghĩa là mỗi pháp xưa nay đều tức là chân như, chẳng phải đợi thành Phật mới đổi thành chân như.
Vả lại, vì sắc tức chân như, vốn tức chẳng phải sắc chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải không, chẳng phải có, rốt ráo không tướng để nói. Vì tâm tức chân như vốn tức chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí chẳng phải thức, chẳng phải không chẳng phải có, rốt ráo không có tướng để nói. Cho đến vì có tức chân như vốn tức chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải không, chẳng phải có, rốt ráo không có tướng để nói.
Tóm lại trong các pháp tịnh, pháp nhiễm hể nắm lấy một hạt bụi đều tức chẳng phải sắc, chẳng phải tâm, chẳng phải trí, chẳng phải thức, chẳng phải không, chẳng phải có, rốt ráo không có tướng để nói. Chỉ là tất cả đều không phải, liền có thể tất cả đều tức, liền hiển bày chân như hà tức hà phi, là tức là phi.
D2. Giải thắc mắc:
Nhưng có lời nói chỉ dạy thì đều là phương tiện khéo léo của Như Lai, mượn lời nói hướng dẫn chúng sinh khiến bỏ văn tự về nơi chân thật. Nếu theo lời chấp nghĩa thì thêm vọng phân biệt, chẳng sinh thật trí, chẳng được Niết-bàn.
Nghi rằng, đã nói đều là tướng chẳng thể nói, vì sao lại nói các lời dạy về môn chân như và môn sinh diệt v.v... giải thích ý thì sẽ biết.
Than ôi! Đời sau theo lời chấp nghĩa, nghe nói chân như thọ huân liền chấp chân như chắc chắn thọ huân, nghe nói chân như chẳng thọ huân liền chấp chân như nhất định chẳng thọ huân; thậm chí còn chia sông để uống nước, có thể gọi đó là tăng thêm vọng phân biệt, không sinh thật trí. Thật là quá lắm! Nhưng há đó là tông chỉ của ngài Mã Minh và Hộ Pháp ư?
Mục hai đối trị tà chấp đã xong.
Mục 3. Phân biệt Tướng tu hành Chánh đạo:
Nếu biết sinh diệt tức là chân như, thì chúng sinh và Phật bình đẳng, không có tu và chẳng tu, nếu biết toàn thể chân như sinh diệt thì mê ngộ cách xa một trời một vực, chính phải trong chỗ không tu, chẳng tu mà mạnh mẽ huân tu, huân tu này tức là không tu, chẳng phải lấy chẳng tu làm không tu.
Vì chẳng tu tức là trái với tu, chẳng giống thuận với tu là tu tức không tu. Người lợi căn nghe nghĩa mầu một tâm hai môn này tự sẽ không sinh lui sụt, không có tâm tăng thượng mạn, như người uống nước nóng lạnh tự biết, đâu cần diễn tả cho họ làm gì.
Nay vì người căn cơ bậc trung, bậc hạ chưa thể theo văn chứng nhập, thôi nghĩ tức Bồ-đề, cho nên vì họ lo lắng, dạy dỗ con đường tu hành chánh đạo từ nhân đến quả.
Chia làm hai:
A1. Nêu chung.
A2. Giải thích từng loại.
A1. Nêu chung:
Phân biệt tướng tu hành chánh đạo nghĩa là tất cả chánh nhân đắc đạo của Như Lai, tất cả Bồ-tát phát tâm tu tập vì muốn hiện tiền. Nên nói tóm lược phát tâm có ba tướng:
- Tín thành tựu phát tâm.
- Giải hạnh phát tâm.
- Chứng phát tâm.
- Chánh nhân khiến tất cả Như Lai đắc đạo tức là con đường mấu nhiệm trang nghiêm, các Đức Như Lai trong mười phương đều từ một môn này siêu xuất ra. Nhân chánh thì quả chánh, nên phát tâm tu học, khiến kia hiện tiền. Chỉ nói tóm lược ba nhân tướng phát tâm, không cần biện rõ quả tướng, vì quả tướng Như Lai đã nói lược trong đoạn nói về thể, tướng, dụng của Đại thừa ở trước.
A2. Giải thích từng loại:
Chia làm ba:
B1. Giải thích Tín thành tựu phát tâm.
B2. Giải thích Giải hạnh phát tâm.
B3. Giải thích Chứng phát tâm.
B1. Giải thích Tín thành tựu phát tâm:
Chia làm hai:
C1. Nêu dẫn
C2. Giải thích C1. Nêu dẫn:
Tín thành tựu phát tâm là nương vị nào? Tu hạnh gì mà được Tín thành tựu có khả năng phát tâm.
C2. Giải thích:
Chia làm hai:
D1. Giải thích Tín thành tựu.
D2. Giải thích phát tâm.
D1. Giải thích Tín thành tựu:
Chia làm hai:
E1. Giải thích thành tựu
E2. Giải thích cả chưa thành E1. Giải thích thành tựu:
Nên biết người này nương vào nhóm Bất định, do năng lực pháp huân tập gốc lành, tin sâu nghiệp quả, tu mười nghiệp lành, chán khổ sinh tử cầu Vô thượng giác, gặp chư Phật và các Bồ-tát để kính thờ cúng dường, tu các hạnh trải qua mười ngàn kiếp lòng tin mới thành tựu. Từ đây về sau, hoặc nhờ năng lực dạy dỗ của chư Phật, Bồ-tát, hoặc do đại bi, hoặc vì chánh pháp sắp hoại diệt, vì hộ pháp mà có thể phát tâm. Đã phát tâm rồi, nhập vào nhóm chánh định rốt ráo không lui sụt, trụ chủng tánh Phật tương ưng với nhân cao quý.
Nương nhóm Bất định là nói về chỗ nương thuộc địa vị nào. Tin sâu nghiệp quả cho đến tu hành các hạnh là nói chỗ tu hành kia. Trải mười ngàn kiếp v.v... trở xuống đoạn sau, nói kia được Tín thành tựu có khả năng phát tâm. Đã phát tâm rồi v.v... trở xuống, đoạn sau là nói lợi ích phát tâm. Nhóm Bất định nghĩa là nói chung về chúng sinh có ba chủng loại:
Nhóm Tà định nghĩa là chưa trồng gốc lành xuất thế gian, không tin chánh pháp xuất thế gian.
Nhóm Chánh định nghĩa là từ Phát tâm trở lên, không bao giờ lui sụt.
Nhóm Bất định là đã trồng gốc lành xuất thế gian, tin pháp xuất thế gian, nhưng đối với pháp ba thừa chưa quyết định hướng.
Nếu đối với giáo lý Tiểu thừa, chứng Tu-đàhoàn gọi là Nhập vào nhóm Chánh Định, nay trong giáo lý Đại thừa thì không dùng nghĩa này.
Do năng lực huân tập gốc lành nghĩa là:
Thể huân, gồm hai thứ nội nhân là Bản hữu và tân huân.
Dụng huân, gồm hai thứ duyên bên ngoài là sai biệt và bình đẳng.
Tin sâu nghiệp quả là nói chung về chỗ nương của gốc lành. Tu mười nghiệp lành là năng lực gốc lành thế gian. Chán khổ sinh tử là năng lực gốc lành xuất thế gian. Cầu Vô thượng giác là năng lực gốc lành xuất thế gian tối thượng. Ba gốc lành này, gốc lành trước không đầy đủ gốc lành sau, nhưng gốc lành sau thì đầy đủ gốc lành trước; phải có đủ ba gốc lành mới được Tín thành tựu. Nhờ ba gốc lành làm nhân cao siêu, lại gặp chư Phật Bồ-tát làm duyên cao quý, kính thờ cúng dường, tu hành các hạnh, nhân duyên đầy đủ mới là chỗ tu hành tâm ban đầu của Đại thừa. Trải qua mười ngàn kiếp là ý muốn nói tu thành tựu đầy đủ mười tâm là: 1. Tín tâm. 2. Niệm tâm. 3. Tinh Tấn tâm, 4. Tuệ tâm. 5. Định tâm. 6. Tâm Bất Thoái. 7. Tâm Hộ pháp. 8. Tâm Hồi Hướng. 9. Tâm Giới. 10. Tâm Nguyện, nên nói là mười ngàn kiếp. Gom tất cả các hạnh tu từ trước dùng làm nhân, lại nhờ năng lực giáo hóa của chư Phật, Bồ-tát làm duyên, lại nhờ lòng đại bi thương xót chúng sinh đau khổ làm duyên, hoặc vì giữ gìn chánh pháp trụ thế lâu dài làm duyên, ba tâm mới phát triển viên mãn.
Nhập nhóm Chánh Định là tương ưng lý Pháp thân, rốt ráo không lui sụt là không rơi vào địa vị phàm phu Nhị thừa. Trụ chủng tánh Phật là khi mới phát tâm liền thành Chánh giác, tương ưng với nhân cao quý nghĩa là không sinh không diệt là nhân tu căn bản. Tức là chánh nhân đắc đạo của tất cả Như Lai.
E2. Giải thích cả chưa thành:
Hoặc có chúng sinh từ lâu xa đến nay vì gốc lành cạn mỏng, phiền não sâu dày che đậy tâm kia, nên tuy gặp chư Phật và các Bồ-tát, kính thờ cúng dường, chỉ gieo trồng hạt giống thọ sinh cõi người, cõi trời, hoặc gieo trồng hạt giống Bồ-đề của Nhị thừa. Hoặc có mong cầu đại đạo Bồ-đề, nhưng căn cơ bất định hoặc tiến hoặc lùi.
Ở đây nói về người gốc lành cạn mỏng, phiền não sâu dày, tuy gặp duyên tốt nhưng chẳng thể phát tâm Đại thừa. Gốc lành tự có Ba thừa, Nhất thừa không giống nhau, phiền não lại có nội giới, ngoại giới khác nhau, mỗi gốc lành đối với mỗi phiền não kia, tạo thành phân biệt bốn trường hợp. Hoặc gốc lành nhiều, phiền não mỏng. Hoặc gốc lành nhiều, phiền não dày. Hoặc gốc lành ít, phiền não mỏng. Hoặc gốc lành ít, phiền não dày, ngàn sai muôn khác, không đồng dạng như nhau, đều thuộc về nhóm Bất định.
Hoặc có gặp Phật và các Bồ-tát cúng dường kính thờ, tu hành các hạnh chưa đủ mười ngàn đại kiếp, trong thời gian đó gặp duyên nên phát tâm kia. Gặp những duyên gì? Đó là hoặc thấy hình tướng Phật, hoặc cúng dường chúng tăng, hoặc giáo lý Nhị thừa, hoặc thấy người khác phát tâm, những cách phát tâm như thế đều chưa nhất định vì nếu gặp duyên ác có thể lui sụt xuống địa vị Nhị thừa.
Gặp Phật, Bồ-tát tu hành các hạnh có thể gọi là có nhân có duyên, đặc biệt vì chưa đủ mười ngàn đại kiếp, mười tâm chưa tròn nên tuy gặp duyên phát tâm mà chưa thể liền nhập nhóm chánh định. Dù cho đủ mười ngàn kiếp thì các duyên thấy Phật cúng tăng v.v... đều có thể phát tâm nhập nhóm chánh định. Chớ nói duyên này chẳng phải duyên tốt, chỉ do nhân nhóm họp sức còn yếu, nên không đồng với hai thứ phát tâm đại bi và phát tâm hộ pháp, nên gặp duyên tốt thì sẽ phát tâm, gặp duyên xấu thì sẽ lui sụt xuống địa vị Nhị thừa.
Phần giải thích Tín thành tựu đã xong.
D2. Giải thích phát Tâm:
Chia làm ba:
E1. Giải thích chỗ phát tâm.
E2. Giải thích hạnh phát tâm.
E3. Giải thích lợi ích phát tâm.
E1. Giải thích chỗ phát Tâm:
Chia làm hai:
G1. Giải thích.
G2. Giải nghi.
G1. Giải thích:
Lại nữa, Tín Thành Tựu Phát Tâm, nói gọn có ba loại:
- Phát tâm Chánh Trực, vì như lý chánh niệm pháp chân như.
- Phát tâm Thâm Trọng, vì ưa nhóm họp tất cả các hạnh lành.
- Phát tâm Đại bi, vì nguyện cứu khổ cho tất cả chúng sinh.
Chân như là gốc của tất cả hạnh, chẳng niệm chân như mà nhóm các hạnh lành, hạnh lành thì không do đâu mà nhóm họp được. Dù có các thứ hạnh lành, đều thành hữu lậu, hữu vi. Không niệm chân như mà cứu các khổ, khổ không do đâu mà cứu được. Dù khiến duyên niệm chúng sinh, chỉ đủ khởi ái khởi kiến, nên đầu tiên phải phát tâm Chánh trực.
Chân như vốn có vô biên công đức, lý phải hiển phát nên thuận theo chân như phát tâm Thâm Trọng. Chân như tức là tâm tánh của chúng sinh, thương xót đã mê điều này, nên thuận theo chân như mà phát tâm Đại Bi.
Tâm Chánh Trực tức là phát tâm lý chánh nhân, thành tựu đức Pháp thân, tâm Thâm Trọng nghĩa là phát tâm tuệ liễu nhân thành tựu đức Bát-nhã, tâm Đại Bi tức là phát tâm lành duyên nhân, thành tựu đức giải thoát. Phát ba tâm viên mãn, chẳng ngang dọc, chẳng riêng khắp, không thể nghĩa bàn, nên nói khi mới phát tâm liền thành Chánh giác, có tuệ thân không từ người khác ngộ, Pháp thân thanh tịnh nhiệm mầu lặng lẽ cảm ứng tất cả.
G2. Giải nghi:
Hỏi: Tất cả chúng sinh, tất cả các pháp đều đồng một pháp giới, không có hai tướng. Y cứ theo lý chỉ cần chánh niệm chân như đâu cần nhờ tu tất cả hạnh lành, cứu tất cả chúng sinh?
Đáp: Không đúng. Như châu Ma-ni bản tánh trong sáng, ở trong quặng dơ, giả sử có người siêng năng nhớ nghĩ mà không làm phương tiện, không ra sức, lại muốn cầu hạt châu trong sáng thì chắc chắn không thể được.
Pháp chân như cũng giống như thế. Thể tuy trong sáng, đầy đủ công đức mà bị vô biên khách trần làm ô nhiễm. Dù cho có người siêng năng nhớ nghĩ mà không tạo phương tiện, không tu các hạnh mà muốn cầu thanh tịnh thì thật không hợp lý. Cho nên phải chứa nhóm tất cả hạnh lành, cứu tất cả chúng sinh, lìa vô biên khách trần cấu nhiễm kia, hiển hiện chân pháp. Trước nêu dẫn ví dụ, sau hợp pháp. Văn đều rất dễ hiểu!
Phần đầu giải thích chỗ phát tâm đã xong.
E2. Giải thích Hạnh phát tâm:
Hạnh phương tiện kia nói gọn có bốn thứ:
Hạnh căn bản phương tiện: Là quán tất cả pháp bản tánh vô sinh, lìa ra lìa vọng kiến, không trụ sinh tử. Lại quán tất cả pháp nhân duyên hòa hợp, nghiệp quả không mất, khởi tâm đại bi, tu các hạnh lành, nhiếp hóa chúng sinh, không trụ Niết-bàn, vì chân như lìa tướng sinh tử, Niết-bàn.
Hạnh này thuận theo chân như là căn bản, nên gọi là hạnh phương tiện căn bản.
Đây là lấy sự phát tâm chánh trực làm hạnh phương tiện. Không trụ sinh tử là quán Xa-ma-tha, không trụ Niết-bàn là quán Tỳ-bát-xá-na. Tu chỉ quán trong tâm mới thuận theo pháp tánh chân như nên gọi là hạnh phương tiện căn bản.
Năng chỉ tức phương tiện: Nghĩa là hổ thẹn và hối lỗi, có thể chấm dứt tất cả pháp ác không để tăng trưởng. Vì chân như vốn lìa tất cả lỗi lầm, thuận theo chân như chấm dứt các điều ác. Đây gọi là phương tiện để chấm dứt.
Tăng trưởng gốc lành phương tiện, nghĩa là đối với Tam Bảo khởi tâm kính mến, tôn trọng, cúng dường, đảnh lễ khen ngợi, tùy hỉ khuyến thỉnh; chánh tín tăng trưởng cho đến chí cầu Bồ-đề vô thượng là chỗ hộ niệm của oai lực Tam bảo. Nghiệp chướng thanh tịnh, gốc lành không lui sụt vì chân như vốn lìa tất cả chướng, đủ tất cả công đức. Thuận theo chân như tu hành nghiệp lành, đây gọi là phương tiện làm cho gốc lành thêm lớn.
Hai phương tiện này là do phát tâm Thâm trọng làm hạnh phương tiện. Muốn lớn gốc lành trước phải dứt ác, cho nên đối với một tâm Thâm Trọng chia thành hai phương tiện này, vì đều là thuận theo tánh chân như, xem văn đều sẽ biết.
Đại nguyện bình đẳng phương tiện nghĩa là phát thệ nguyện tột đời vị lai bình đẳng cứu hộ tất cả chúng sinh khiến họ an trụ trong Niết-bàn vô dư. Vì biết tất cả pháp bản tánh không hai, kia đây bình đẳng, rốt ráo vắng lặng. Thuận theo ba tướng chân như này phát thệ nguyện rộng lớn. Đây gọi là phương tiện đại nguyện bình đẳng.
Đây là dùng phát tâm Đại Bi làm hạnh phương tiện.
Niết-bàn vô dư nghĩa là, theo Tiểu thừa là thân tan trí hết, ở đây là dứt hẳn hai thứ tử phần đoạn và tử biến dịch.
Biết tất cả pháp bản tánh không hai, thì đối với chúng sinh không khởi tưởng là bậc thượng, bậc trung hay bậc hạ. Biết tất cả pháp kia đây bình đẳng thì đối với chúng sinh không khởi các tưởng oán hoặc thân v.v... Biết tất cả pháp rốt ráo vắng lặng thì đối với chúng sinh không khởi tưởng dùng Tiểu thừa để giáo hóa, vì cũng đều thuận theo tánh chân như.
Bốn phương tiện này đều là xứng tánh khởi tu, toàn tu hiển tánh. Khi chưa phát tâm thì do phương tiện này mà được phát tâm, khi phát tâm rồi do phương tiện này mà dẫn đến quả vị cùng tột, nên gọi là chánh nhân đắc đạo của tất cả Như Lai.
Phần E2 giải thích hạnh phát tâm đã xong.
E3. Giải thích lợi ích phát tâm:
Chia làm ba:
G1. Nói công năng theo chân Thật
G2. phân biệt lỗi lầm theo Quyền
G3. Dùng Thật phá Quyền
G1. Nói công năng theo chân thật:
Khi Bồ-tát phát tâm như thế thì thấy được một phần Pháp thân Phật, có thể tùy khả năng phát nguyện mà hiện tám việc, đó là:
Từ cõi trời Đâu-suất giáng sinh.
Nhập thai. Trụ thai. Xuất thai. Xuất gia. Thành Phật.
Xoay bánh xe pháp luân. Nhập Niết-bàn.
Đây tức là nghĩa khi mới phát tâm liền thành Chánh giác trong kinh Hoa Nghiêm. Phá từng phần vô minh, chứng từng phần chân như nên nói thấy một phần Pháp thân Phật. Đã thấy Pháp thân thì có khả năng hiện tám tướng thành đạo, nghĩa là Pháp thân thanh tịnh nhiệm mầu, lặng lẽ ứng hợp tất cả. Tám tướng khai hợp ẩn hiện khác nhau, đều là chỗ thấy tùy căn cơ, chẳng nên theo đây mà chia ra Quyền Thật của Phật vì chỗ chứng Pháp thân chẳng có quyền thật, có số lượng để nghĩ bàn.
G2. Phân biệt lỗi lầm theo Quyền:
Nhưng vẫn chưa được gọi là Pháp thân vì từ vô lượng đời quá khứ đến nay, có nghiệp hữu lậu chưa dứt trừ hoặc do nghiệp ác mà chịu các khổ nhỏ, vì nguyện lực giữ gìn nên không bị trói buộc lâu.
Đây là y theo Tiệm giáo để nói Sơ Phát Tâm Trụ chỉ dứt kiến hoặc nội giới, ngang với Sơ Quả Tiểu Thừa, vì thế vẫn còn khổ nhỏ. Nhưng Sơ quả lại vì biển sinh tử mà lập giới hạn, chậm nhất không quá bảy lần sinh tử sẽ thoát hẳn biển khổ, Huống chi là Bồ-tát Phát tâm có nguyện lực Bồ-đề giữ gìn, chẳng lẽ bị nghiệp trói buộc lâu hơn hay sao?!
Hỏi: Hai chữ "nhưng vẫn" trong nguyên văn tức chỉ người có tám tướng thành đạo, tại sao chỉ dùng Tiệm giáo giải thích?
Đáp: Phát tâm, tên gọi giống nhau mà quyền thật lại khác nhau xa.
Trước nói tám tướng thành đạo là chỉ cho người nhập nhóm chánh định, nay nói khổ nhỏ ý nói hoặc có khi lui sụt vào quả vị Nhị thừa, lý do là như thế. Trong kinh có nói Bồ-tát Tín Thành Tựu Phát tâm hoặc có vị đọa vào đường ác, nghĩa là vì tâm sơ học thường biếng nhác, không vào chánh vị, do đó mới nói như thế khiến tăng thêm mạnh mẽ, chứ chẳng phải nói như thật.
Ở đây nói tuy Sơ Phát Tâm Trụ trong Tiệm giáo, đã dứt Kiến, hoặc ngang với Sơ quả, cũng không có việc lui sụt, rơi vào đường ác, bất quá chỉ là tạm nói để sách tấn người mới học; hoặc lại lui sụt về quả vị Nhị thừa, ắt cũng có lý do như thế.
Hỏi: Có kinh nói thuở trước Xá-lợi-phất đã chứng Lục trụ tâm, do nhân duyên bà-la-môn xin mắt, mà lui sụt đại tâm, nên vẫn phải trôi lăng trong năm đường, việc này phải hiểu thế nào?
Đáp: Lại có kinh nói, các đại đệ tử như Xá-lợiphất v.v... đều là Pháp thân Đại Sĩ quả vị rất cao, thị hiện làm Thanh Văn để dẫn dắt giáo hóa, thì việc thị hiện thoái đọa chính là để sách tấn người mới học, đâu nên nghi ngờ!
Phần G2 Phân biệt lỗi lầm theo quyền đã xong. G3. Dùng thật phá Quyền:
Lại nữa, Bồ-tát này sau một lần phát tâm lợi mình lợi người, tu các khổ hạnh, tâm không yếu hèn, còn không sợ rơi vào quả vị Nhị thừa, huống chi là đọa đường ác. Nếu nghe vô lượng a-tăng-kỳ kiếp siêng tu các thứ hạnh khổ khó làm mới được thành Phật, mà không kinh không sợ, huống chi lại khởi tâm Nhị thừa và rơi vào đường ác, vì tin chắc chắn tất cả các pháp từ xưa đến nay bản tánh là Niết-bàn.
Ở đây nói người mới Phát tâm của Đốn giáo, thì đã trụ vào nhóm chánh định, rốt ráo không lui sụt. Vì không phải chỉ mới phát tâm có năng lực cao siêu này mà chỉ cần có lòng tin chân thật chắc chắn, biết tất cả pháp bản tánh Niết-bàn, cũng không giống người mới phát tâm của quyền giáo, hoặc lui sụt vào Nhị thừa.
Phần B1 giải thích Tín Thành Tựu Phát Tâm đã xong.
B2. Giải thích Hạnh phát tâm:
Nghĩa là nếu nói về xứng tánh viên tu thì Tức Tín, Tức Giải, Tức Hạnh, Tức Chứng, nên nói: Trong chữ A đầu tiên đầy đủ công đức của tất cả các chữ. Dù chia bốn mươi hai quả vị, ví như xuống biển mà nói cạn sâu, cạn sâu đều là biển, chẳng lẽ không có Giải, Hạnh, Chứng mà có thể gọi là Tín ư! Há lại có thể cho là Giải, Hạnh và Chứng phải ở sau Tín ư?
Đặc biệt vì quả vị thật khó lường, nương Quyền để hiểu nên giải thích Giải, Hạnh sau Tín (phát tâm).
Chia làm hai
C1. Nói về quả vị.
C2. Nói về hành trì.
C1. Nói về quả vị:
Giải Hạnh Phát Tâm nghĩa là, nên biết là biến chuyển cao siêu hơn. Vì vô số kiếp đầu tiên đã viên mãn, vì hiểu chân như sâu sắc, vì tu tất cả hạnh đều không dính mắc.
Nói theo Viên dung, thì chỉ lấy bốn hạnh phương tiện trong Tín Thành Tựu làm sáu độ. Nghĩa là trong đây thuận theo pháp tánh, tức Hạnh Phương Tiện Căn Bản, lìa tướng san tham, lìa cảnh năm dục, v.v... tức Phương Tiện Năng Chỉ, tức tu hành bố thí, trì giới, v.v... tức Phương Tiện Sinh Trưởng gốc lành sáu độ ba-la-mật vì độ thoát chúng sinh tức Phương Tiện Đại Nguyện Bình Đẳng. Nay một phen về thứ lớp nên nói biến chuyển cao siêu hơn.
Vô số kiếp đầu tiên sắp viên mãn nghĩa là vị Tư Lương đã thành tựu, sắp vào quả vị Gia hạnh.
Hiểu chân như được sâu sắc nghĩa là tu hai quán làm phương tiện đạo để vào quán Trung đạo đệ nhất nghĩa.
Tu tất cả hạnh đều không dính mắc, nghĩa là hồi sự hướng lý, cho đến hồi nhân hướng quả, không dính mắc ba cõi, không dính mắc Nhị thừa. C2. Nói về hành trì:
Bồ-tát này biết pháp tánh lìa tướng san tham là bố thí độ thanh tịnh, thuận theo tu hành Đàn-ba-lamật. Biết pháp tánh lìa cảnh năm dục, không có tướng phá giới, đó là Giới độ thanh tịnh, tùy thuận tu hành Thi-ba-la-mật. Biết pháp tánh không có khổ não, lìa tướng sân hại là Nhẫn độ thanh tịnh; thuận theo tu hành Sàn-đề-ba-la-mật. Biết pháp tánh lìa tướng thân tâm, không có biếng nhác là Tinh tấn độ thanh tịnh, thuận theo tu hành Tỳ-lêda-ba-la-mật, biết pháp tánh không động không loạn là Thiền độ thanh tịnh, thuận theo tu hành Thiền-na ba-la-mật. Biết pháp tánh lìa các si ám là Tuệ độ thanh tịnh, thuận theo tu hành Bát-nhã Ba-la-mật.
Biết pháp tánh lìa san tham v.v... là Hiểu (Giải).
Thuận theo tu hành đàn-na v.v... là Hành (Hạnh)
Đàn-na là tiếng Ấn-độ, Hán dịch là Bố thí, Thila dịch là giới, Sằn-đề dịch là Nhẫn nhục, Tỳ-lê-da dịch là Tinh tấn, Thiền-na dịch là Tịnh lự cũng dịch là Tu tư duy, Bát-nhã dịch là Tuệ, cũng dịch là Trí. Tu tướng sáu độ, phẩm Thập Hồi Hướng trong kinh Hoa Nghiêm có nói đầy đủ, hoặc là phần chân giải hạnh, hoặc là tương tự giải hạnh. Phần chân thì chỉ theo thật, tương tự thì gồm cả hai Thật và Quyền, nên lấy hai nghĩa viên dung và hành bố để suy tư.
Phần B2 giải thích Giải Hạnh Phát Tâm đã xong.
B3. Giải thích chứng phát tâm:
Chia làm hai:
C1. Nói về chứng từng phần.
C2. Nói về chứng trọn vẹn.
C1. Nói về chứng từng phần:
Chia làm hai:
D1. Nói về sở chứng.
D2. Nói về tâm tướng.
D1. Nói về Sở chứng:
Chia làm hai:
E1. Nói về chứng thể.
E2. Nói về khởi dụng.
E1. Nói về chứng Thể:
Chứng Phát tâm nghĩa là từ địa vị Tịnh Tâm cho đến Bồ-tát địa vị Cứu Cánh, chứng cảnh giới nào? Chính là Chân như. Vì y cứ Chuyển thức nói là cảnh giới, mà trong thật chứng không có tướng cảnh giới. Bồ-tát này vì trí không có phân biệt, chứng Pháp thân Chân như lìa nói năng.
Địa vị Tịnh tâm nghĩa là theo Quyền, là Sơ Hoan Hỷ địa, còn theo Thật là Sơ Phát Tâm Trụ.
Địa vị rốt ráo tức Thập địa hậu tâm, cũng gọi là địa vị Đẳng giác.
Vì y cứ chuyển thức nói là cảnh giới nghĩa là chuyển thức thứ sáu thành trí Diệu quan sát, chuyển thức thứ bảy thành trí Bình đẳng tánh. Chúng sinh có thức thứ sáu thức thứ bảy ắt có cảnh giới sở duyên, vì thế y cứ chuyển thức tạm nói sở thuyết là cảnh giới. Mà trong thật chứng không có tướng cảnh giới, nghĩa là vì Chân như không có tướng để nắm giữ. Vì chánh trí không chấp tướng, mang một chút thể tướng chân như làm duyên sở duyên, chẳng phải mang hết tướng trạng chân như làm duyên sở duyên.
Bồ-tát này vì trí không có phân biệt nghĩa là muốn nói kia có kiến phần.
Chứng Pháp thân chân như lìa nói năng nghĩa là muốn nói kia không có tướng phần. Chính là không khác với Duy Thức của Hộ Pháp. Hãy suy nghĩ kỹ điều này.
Hỏi: Nếu nói theo Thật thì Sơ Phát Tâm Trụ tức là Tịnh Tâm địa, nghĩa là trong phần phát tâm ở trước chỉ nói là thấy một phần Pháp thân Phật, nay nói chứng Pháp thân chân như lìa nói năng, ý chỉ câu văn khác nhau rất nhiều, làm sao hiểu được?
Đáp: Trước là nói chung cả Quyền và Thật, nên chỉ nói thấy một phần Pháp thân, nay thì vì Quyền chứng đồng như Thật. Lại nữa, nếu theo chỗ chứng chân như thì không có phần hạn, nếu theo trí năng chứng mới có từng phần và viên mãn khác nhau. Tuy có từng phần và viên mãn nhưng đều thuộc về trí vô phân biệt, như trăng đêm mồng một và đêm rằm ánh sáng chẳng khác.
E2. Khởi dụng:
Có thể trong một niệm đi khắp tất cả thế giới trong mười phương, cúng dường chư Phật, thỉnh xoay chuyển bánh xe pháp, chỉ vì chúng sinh mà làm lợi ích, không cầu nghe những lời hay đẹp. Hoặc vì chúng sinh yếu hèn thị hiện đại tinh tấn, vượt qua vô lượng kiếp mau thành chánh giác. Hoặc vì chúng sinh biến nhác trải qua vô lượng Atăng-kỳ kiếp tu khổ hạnh đã lâu mới thành Phật. Thị hiện vô số phương tiện như thế đều vì lợi ích tất cả chúng sinh, mà thật ra các căn phát tâm và tu chứng của các Bồ-tát chủng tánh đều giống nhau, không có pháp nào vượt hơn, vì chắc chắn đều phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật, chỉ tùy theo thế giới và chúng sinh khác nhau mà chỗ thấy, chỗ nghe căn cơ, ước muốn đều có tánh khác nhau.
Chỉ bày chỗ tu hành có các thứ khác nhau. Chưa chứng Pháp thân trở xuống dù muốn dưới giáo hóa chúng sinh cũng đều là trên cầu thành Phật, vì các thứ phương tiện tự lợi lợi tha đều vì chứng hội thể chân như. Đã chứng Pháp thân về sau, dù muốn trên cầu thành Phật cũng đều là dưới giáo hóa chúng sinh, như đoạn văn này đã có nói.
Chủng tánh giống nhau vì sẵn có đủ hai hạt giống văn huân. Các căn giống nhau nghĩa là sáu cơ quan tốt đẹp không khác nhau. Phát tâm giống nhau là đồng phát ba tâm. Chứng ngộ giống nhau nghĩa là đồng chứng chân như.
Lúc trước khi chưa phát tâm thì gốc lành có sâu cạn, phiền não có dày mỏng, các căn có mau chậm, phương tiện có siêng lười khác nhau. Đã phát tâm rồi thì đồng nhập sinh tánh, Vô công dụng đạo, chắc chắn không có khác nhau, chỉ do chúng sinh có căn cơ, ước muốn khác nhau, nên thị hiện có sai biệt.
Ba vô số kiếp là pháp thời gian không có thật, chỉ nương vọng tưởng kiến lập, như câu chuyện Giấc Mộng Hoàng Lương của thế gian lại hơn bốn mươi năm. Ngàn năm cõi thế gian không bằng bảy ngày trong núi, lại như trong kinh nói vị tiên cầm tay Thiện Tài trải qua thời gian lâu với số kiếp như cát bụi, khen Phật năm mươi tiểu kiếp đại chúng cho là như nửa ngày, thì biết chẳng giống như thời gian ngày tháng năm mà người đời quy định để nói về kiếp số.
Vì từ vô thỉ, vô minh tuy không có thật thể mà bỏ mê về ngộ dường như có thứ bậc khác nhau. Dù khiến Diễn-nhã hết cuồng điên, đầu vẫn như xưa, mà hơi thở hổn hển phải lâu mới bình thường. Gió mạnh chóng dừng biển lớn lặng sóng to, mà sóng nhỏ lăng tăng phải lâu mới yên. Mặt trời xuất hiện sương mù chóng tan, mà sự ẩm ướt phải dần dần mới hết. Một phen uống thuốc A-già thì muôn bệnh chóng tiêu trừ mà tinh lực cũng phải dần dần hồi phục. Khách lâu về nhà, hành trình liền chấm dứt mà công việc trong nhà cũng phải lần lượt sắp đặt. Vua Thánh lên ngôi nghiệp lớn chóng ổn định mà chánh trị lễ nhạc cũng phải thứ lớp hiển bày. Cho nên đối với chân như không có thời gian và kiếp số, nương môn sinh diệt mà lập ba số kiếp, đó là:
- Từ Sơ Phát tâm trụ cho đến Thập Hồi Hướng, gọi là vô số kiếp đầu.
- Từ Sơ Hoan Hỷ Địa cho đến Viễn Hành địa thứ bảy gọi là vô số kiếp thứ hai.
- Từ Bất Động địa thứ tám cho đến địa vị Đẳng Giác gọi là vô số kiếp thứ ba.
Cho đến so sánh kiếp số thì phải theo sự kính thờ Phật để xác định phần hạn, hoặc theo ví dụ phất y trời mỏng nhẹ vào tảng đá để nói về thời gian lâu xa, chẳng phải một thứ.
Lại nữa, theo ba vô số kiếp để nói về hành tướng, nghĩa là hoặc nói là điều phục mê lầm chưa đoạn dứt, hoặc nói là đoạn chánh giúp tập, hoặc nói là thứ lớp dứt hoặc, hoặc nói là Nhân gồm biển quả đều là Tất-đàn, tùy căn cơ mà được lợi ích, đâu nên cố chấp. Nay nói đều giống nhau là theo nhân gồm biển quả để nói về ba kỳ kiếp, đó là ba A-tăng-kỳ kiếp trong một niệm sẽ vượt qua tà kiến đại mạn. Gần biết mười đời xưa nay, trước sau không lìa niệm hiện tại, nên đoạn trước nói, nếu nghe vô lượng A-tăng-kỳ kiếp siêng tu các hạnh khổ khó làm mới bắt đầu thành Phật mà không kinh không sợ vì tin chắc chắn tất cả các pháp từ xưa đến nay tánh thường Niết-bàn, đâu chấp ba A-tăng-kỳ là chậm, một niệm là mau ư?!
Căn dục tánh khác nhau, nghĩa là căn cơ nhạy bén hoặc chậm lụt là do nhân quá khứ mà thành tựu, chỗ ưa thích hiện tại gọi là Dục, hoặc thích nhanh, hoặc thích chậm. Hạt giống vị lai gọi là Tánh, hoặc đã thành thục, hoặc chưa thành thục.
Phần đầu nói về Sở Chứng đã xong.
D2. Nói về Tâm tướng:
Trong phần chứng Phát tâm này, có ba thứ tâm:-Chân tâm, vì không có phân biệt
- Tâm phương tiện, vì nhậm vận làm lợi ích cho người.
- Tâm nghiệp thức vì sinh diệt nhỏ nhiệm.
Tâm chân là trí căn bản thức thứ sáu và thứ bảy tương ưng không có phân biệt là niệm niệm chứng chân. Tâm phương tiện là trí Hậu đắc thức thứ sáu và thứ bảy tương ưng. Nhậm vận lợi ích cho người là niệm niệm khởi dụng, khiến năm thức trước đều thành dụng giáo hóa. Tâm nghiệp thức là thức Dị thục thứ tám. Canh diệt nhỏ nhiệm là vì hạt giống vô minh vẫn chưa hết, dùng trí nội huân làm cho kia diệt dần dần. Hạt giống trí tuệ khởi từng phần, hạt giống mê lầm diệt từng phần, chính là tướng sinh tử biến dịch không thể nghĩ bàn.
Trong đây, Tâm chân tức là tâm Chánh trực ở đoạn trước, tâm Phương Tiện tức hai tâm Thâm Trọng và tâm Đại Bi ở đoạn trước, tâm Nghiệp Thức là chỗ nương căn bản của ba tâm trước.
Ở trước nói Tín Thành Tựu Phát Tâm chỉ theo Năng phát, nên ba tâm đều là công năng của trí Diệu quan sát. Nay nói tâm tướng có trong Chứng Phát tâm, ý nghĩa gồm cả năng và sở, nên có khai có hợp với đoạn trước, có nói rõ nói lược khác nhau.
Phần C1 nói về Chứng Từng Phần đã xong.
C2. Chứng trọn vẹn:
Chia làm hai:
D1. Nương quyền chỉ tướng
D2. Nương thật giải nghi
D1. Nương Quyền chỉ tướng:
Lại nữa, Bồ-tát này hai thứ phước đức và trí tuệ đã trang nghiêm viên mãn rồi, đối với sắc rốt ráo được thân rất tốt đẹp được tất cả thế gian tôn trọng bậc nhất, dùng một niệm tương ưng tuệ chóng nhổ sạch gốc vô minh, đầy đủ trí Nhất thiết chủng, tùy ý tạo nghiệp không thể nghĩ bàn, giáo hóa khắp chúng sinh trong vô lượng thế giới ở mười phương. Chỗ nương của phước đức, trí tuệ là thể chân như, hai thứ trang nghiêm viên mãn tức Tướng chân như. Thể tướng hiển bày viên mãn, đại dụng hiện tiền nên có khả năng thị hiện thành chánh giác.
Lại nữa, trí tuệ chứng được là Thể chân như, thể khắp pháp giới; trí tuệ viên mãn là Tướng chân như, Tướng khắp pháp giới; phước đức viên mãn là Dụng chân như, Dụng khắp pháp giới. Thể khắp pháp giới thì Pháp thân trùm khắp pháp giới, Tướng khắp pháp giới thì báo thân trùm khắp pháp giới, Dụng khắp pháp giới thì Hóa thân trùm khắp pháp giới. Nên nói khi một người thành Phật thì pháp giới đều là chánh báo và y báo của một Đức Phật. Tuy không chướng ngại cũng vẫn không lẫn lộn, vì tánh chân như thường giống thường khác không thể nghĩa bàn, cho nên khi vô minh hết hẳn, thành hạt giống trí tuệ chẳng ở đâu không có, cũng không ở đâu cả.
Nay nói đối với sắc rốt ráo được thân rất tốt đẹp là thế nào? Vì thân Tự thọ dụng của chư Phật thầm đồng với pháp tánh, bậc Đẳng Giác trở xuống chẳng thể thấy, Bồ-tát địa vị Tịnh Tâm trở lên nương bản chất thân Tự thọ dụng này biến thành ảnh tướng thân Tha thọ dụng, thì thấy ngồi đài hoa sen, chư Phật vây quanh, bất cứ việc gì cũng gánh vác được, tùy chỗ ưa thích mà thấy mỗi mỗi khác nhau, đều không đoạn dứt. Cho đến Đẳng Giác mới thấy hết phần lượng kia, nên đoạn trước nói mới thấy hết.
Nếu chưa lên địa vị Tịnh Tâm thì đài hoa Báo thân chẳng phải cảnh giới kia, nên ở cõi trời Sắc Cứu Cánh thị hiện thành Bồ-đề. Đây chính là Phật trên hoa sen ngàn cánh trong kinh Phạm Võng đã nói, vì giúp cho lợi căn nội giới thấy được Phật ngoại giới. Cho đến phàm phu ám độn tuy có đủ vô lượng chủng tánh hoặc mau hoặc chậm, hoặc Nhất thừa hoặc Ba thừa mà chưa được Tứ thiền, chưa xa lìa sự trói buộc của dục, thì thân Sắc Cứu
Cánh cũng chưa phải cảnh giới của họ, nên lại thị hiện từ trời Đâu-suất xuống cõi Diêm-phù-đề, ngồi dưới gốc cây Bồ-đề thành Đẳng Chánh Giác. Đây chính là "Trăm ngàn ức Thích Ca" nói trong kinh Phạm Võng, vì giáo hóa người độn căn giới nội, và người căn cơ tuy nhạy bén mà chưa xa lìa được sự trói buộc của năm dục.
Nhưng dù cõi trời Sắc Cứu Cánh là đại hóa, và Diêm-phù là tiểu hóa cũng đều là dụng lớn của chân như, đều tức là Thể Tướng chân như, vì thế trong kinh Hoa Nghiêm nói tức ngay lúc phu nhân Ma-da sinh ra thái tử thì Ngài đã đầy đủ mười thân tướng hải, chẳng phải bắt đầu bỏ Hóa thân để riêng tìm Pháp và Báo thân. Nên biết Sơ Phát Tâm Trụ đã khả năng có thể thị hiện tám tướng cõi Diêmphù, cũng chắc chắn có thể thị hiện thân cõi trời Sắc Cứu Cánh. Nay địa vị cứu cánh thì có khả năng thị hiện thân ở cõi trời Sắc Cứu Cánh, cũng có thể thị hiện tám tướng cõi Diêm-phù. Trước nói địa vị Phát Tâm là cạn nên nương cõi Diêm-phù, nay nói địa vị Cứu cánh là sâu nên nương vào bốn thiền.
Một niệm tương ưng tuệ nghĩa là, đã chỉ bất giác vô thỉ làm hạt giống vô minh trong tàng thức, do hạt giống vô minh trong tàng thức chưa sạch hết cho nên không tương ưng với Tuệ trong Biệt cảnh. Nay do nhiều kiếp huân tu vô lậu, diệt hạt giống vô minh từ vô thỉ kia đều hết sạch, thì thức tám thanh tịnh bỗng tương ưng với Tuệ, gọi là trí Đại viên cảnh. Từ một phen tương ưng này về sau sẽ được tương ưng mãi, nên nói chóng nhổ gốc vô minh, vì có trí Nhất thiết chủng. Chỉ có trí Đại viên cảnh này và trí Bình đẳng tánh, trí Diệu quan sát ở trước, cùng quả trí Bình đẳng tánh ở sau, vì tục đế nên tướng có khác, vì tướng chẳng hoại nên nói bốn trí và tám thức; vì chân đế nên tướng không khác, chỉ là trí Như như. Trí Như như này không có pháp nào chẳng biết, không có pháp nào chẳng thấy nên gọi là Trí Nhất Thiết chủng, cũng gọi là Tri Kiến Phật, cũng gọi là Phật Nhãn.
Hỏi: Đã nói không đâu chẳng ở thì Sơ thiền, Nhị thiền, và Tam thiền cũng có thể thành Phật, đâu bắt buộc phải ở cõi trời Sắc Cứu Cánh?
Đáp: Ở đây có hai nghĩa:
Kinh Hoa Nghiêm chép: Bồ-tát Thập địa ở cõi Tứ thiền thì thị hiện thành Phật ở cõi Tứ thiền.
Khi sắp thành Phật, vì nhập định Kim Cương Dụ thì nương và xả đều là thiền.
D2. Y theo thật giải nghi:
Chia làm hai:
E1. Giải thích về trí Nhất thiết chủng.
E2. Giải thích nhậm vận lợi sinh.
E1. Giải thích về trí Nhất thiết chủng:
Hỏi: Vì hư không vô biên nên thế giới vô biên, vì thế giới vô biên nên chúng sinh vô biên, vì chúng sinh vô biên nên tâm hành khác nhau cũng vô biên; cảnh giới như thế không có giới hạn, khó biết khó hiểu. nếu vô minh hết, mãi mãi không có tâm tướng làm sao hiểu rõ nhất thiết chủng để thành trí Nhất thiết chủng?
Đáp: Tất cả cảnh vọng từ xưa đến nay, đúng lý chỉ lấy nhất tâm làm thể tánh. tất cả chúng sinh chấp trước cảnh vọng, không thể biết tánh tất cả các pháp đệ nhất nghĩa, chư Phật, Như Lai không chấp trước thì có thể thấy thật tánh các pháp hiện tiền nên có trí tuệ lớn, hiển hiện chiếu soi tất cả nhiễm tịnh khác nhau, dùng vô lượng vô biên phương tiện khéo léo, tùy chỗ thích hợp mà làm lợi ích chúng sinh. Cho nên chỉ khi nào hết tâm vọng niệm mới hiểu rõ trí Nhất thiết chủng, trí thành Nhất thiết chủng.
Hiện thấy thật tánh các pháp nghĩa là trí Căn bản chứng chân đế. Hiển hiện chiếu soi nhiễm tịnh khác nhau nghĩa là trí Hậu đắc chiếu soi Tục đế. Rõ Tục đế do chứng chân đế nên gọi là Hậu đắc, như mắt không còn màng che sẽ thấy không thấy sắc, chẳng phải quả có trước sau. phần còn lại đều rất dễ hiểu.
E2. Giải thích nghi nhậm vân lợi sinh:
Hỏi: Nếu chư Phật có vô biên phương tiện để nhậm vận lợi ích chúng sinh trong mười phương, vì sao chúng sinh không thường thấy Phật, hoặc thấy thần thông biến hóa hoặc nghe nói pháp?
Đáp: Như Lai thật có phương tiện như thế, chỉ cốt yếu đợi tâm chúng sinh thanh tịnh thân Phật mới hiện, như gương có bụi thì hình ảnh không hiện, lau bụi thì liền hiện. Chúng sinh cũng như vậy, tâm chưa lìa cấu uế thì Pháp thân không hiện, lìa cấu uế thì Pháp thân hiện.
Chánh văn cũng rất dễ hiểu.
Hỏi: Chỉ lìa tâm cấu uế liền thấy Pháp thân, đâu cần niệm Phật, quán tưởng Phật, xưng danh, lễ bái, v.v... phải không?
Đáp: Phật là người chứng tâm tánh trước, niệm Phật, quán tưởng, xưng danh, lễ bái...đều là phương tiện nhiệm mầu để dứt trừ tâm cấu uế.
Phần Giải nghi đã xong.
Chia làm hai:
Mục 1. Nói về tu tập Tín tâm.
Mục 2. Chỉ dạy phương tiện kỳ diệu.
MỤC 1. Nói về tu tập Tín tâm:
Chia làm hai:
A1. Nêu dẫn.
A2. Giải thích.
A1. Nêu dẫn:
Thế nào là tu tập tín phần? Đây là nói theo chúng sinh chưa nhập chánh định, thế nào là Tin Tâm? Làm sao tu tập?
Đoạn chánh văn trước, trong phần phân biệt tướng tu hành chánh đạo nói phát tâm rồi nhập vào nhóm chánh định. Tuy cũng đã chỉ dạy sơ lược hạnh tu trong địa vị Bất định, nhưng chưa nói rõ.
Nên bây giờ đặc biệt vì người sơ cơ mà chỉ bày.
A2. Giải thích:
Chia làm hai:
B1. Giải thích Tín tâm
B2. Giải thích tu tập
B1. Giải thích Tín tâm:
Tin có bốn loại:
Tin căn bản, nghĩa là vì ưa nhớ pháp chân như. Tin Phật đầy đủ vô biên công đức nghĩa là thường hay đảnh lễ, cung kính, cúng dường, lắng nghe chánh pháp, đúng như pháp tu hành, hồi hướng trí nhất thiết.
Tin pháp có lợi ích lớn nghĩa là thường thích tu hành các ba-la-mật.
Tin Tăng tu hành chân chánh nghĩa là thường cúng dường các chúng Bồ-tát, mục đích là tu hạnh lợi mình lợi người.
Tin Căn Bản nghĩa là, chân như tức là căn bản của tất cả Tam Bảo, nghĩa là tâm tánh hiện tiền của chính mình, lìa tướng luống dối, bình đẳng, tức chân như thể đại gọi là Pháp Bảo. Truy tìm rõ ràng không thật có được mà tánh tự thần giải, sáng suốt chẳng mê muội, tức chân như tướng đại gọi là Phật bảo. Tất cả sắc tâm, y báo chánh báo, mười phương hư không, trăm Pháp ngàn Như đều là bóng dáng hiện trong tâm này, không có phải chẳng phải với tâm năng hiện, không thể phân tích chia chẻ, tức chân như dụng đại gọi là Tăng bảo. Nói rốt ráo thì Nhất tâm Tam Bảo này gọi là Phật, cho nên đầy đủ vô biên công đức, nên đảnh lễ cung kính cúng dường, lắng nghe chánh pháp dạy bảo, đúng như pháp tu hành, hồi hướng trí Nhất thiết.
Nói về Nhất tâm Tam Bảo này gọi là giáo pháp, tu Tam Bảo Nhất tâm này gọi là Hành Pháp, chứng Tam Bảo Nhất tâm này gọi là quả pháp, vì thế có lợi ích lớn, phải nương giáo khởi tu, nương sở tu được chứng, thường ưa tu hành các pháp ba-lamật.
Tùy chứng từng phần Nhất tâm Tam Bảo này gọi là tăng chánh hạnh, nên đối với chúng Bồ-tát kia phải thường cung kính, tự mình cũng tu hai hạnh lợi mình, lợi người, để nhập vào số tăng chúng.
Cúng dường chúng Bồ-tát, ở đây có hai nghĩa:
Theo người Sơ cơ Quyền Tiệm, dạy răn xa lìa chúng Nhị thừa vì sợ nhiễm pháp chấp, đọa vào địa vị đó.
Theo người Sơ cơ viên đốn đã biết Nhị thừa chắc chắn sẽ thành Phật, nên gọi chung là Bồ-tát.
B2. Giải thích Tu tập:
Chia làm hai:
C1. Nêu chung.
C2. Giải thích riêng.
C1. Nêu chung:
Tu năm pháp môn sẽ thành tựu tín tâm này, đó là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, chỉ quán.
Đây là sáu ba-la-mật, từ ban đầu tức hạnh là thuận theo chân như. Nhưng nói năm hạnh nghĩa là nêu đến Tín Thành Tựu về sau thì mỗi hạnh đều đến bờ kia, không có thiền nào không có trí tuệ, không có trí mà không thiền định, nên chẳng ngại nói sáu. Nay vì người chưa nhập nhóm chánh định, nếu chia chỉ quán thành hai môn thì không do đâu khế hội tánh chân như, vì khế hợp thành một.
Nên biết bốn pháp môn trước là trợ hạnh, pháp môn Chỉ Quán là chánh hạnh. Hợp chánh hạnh và trợ hạnh để thành tựu hai thứ phước đức và trí tuệ trang nghiêm, hiển bày chân như.
C2. Giải thích riêng:
Chia làm năm:
D1. Giải thích pháp môn bố thí.
D2. Giải thích pháp môn trì giới.
D3. Giải thích pháp môn nhẫn nhục.
D4. Giải thích pháp môn tinh tấn.
D5. Giải thích pháp môn chỉ quán.
D1. Giải thích môn Bố thí:
Thế nào là tu pháp môn bố thí? Nghĩa là nếu thấy chúng sinh từ xa đến cầu xin thì nên lấy tài sản của mình tùy khả năng mà thí cho, để xả tâm san tham của mình, khiến họ vui mừng. Nếu thấy chúng sinh bị nguy nan, ép ngặt, nên dùng phương tiện cứu giúp giúp cho họ không sợ hãi. Nếu thấy chúng sinh đến cầu pháp, nên đem chỗ mình hiểu tùy nghi nói pháp cho họ nghe. Khi tu ba thứ bố thí như thế không vì tiếng khen, không cầu lợi dưỡng cũng không tham đến quả báo thế gian, chỉ nghĩ đến lợi ích an cư của mình và người, hồi hướng quả Bồ-đề vô thượng.
Tùy khả năng thí cho nghĩa là người chưa nhập nhóm chánh định, chưa thể bắt buộc đem tài sản bố thí hết sạch v.v... chỉ xả tâm san tham để phá ác, khiến người vui mừng để sinh thiện, tức gọi là bố thí tài sản.
Phương tiện cứu giúp là bố thí vô úy.
Đem chỗ mình hiểu tùy nghi nói pháp cho họ nghe tức là bố thí. Nói chỗ mình hiểu thì chắc chắn chẳng phải gượng ép điều không biết cho là biết. Tùy nghi nói pháp thì chắc chắn sẽ thuận theo ý nghĩa bốn tất-đàn. Nếu nói pháp không hợp căn cơ thì pháp được nói là phi lượng. Không vì tiếng khen lợi dưỡng thì dứt trừ phiền não hiện tại. Không chấp quả báo thế gian thì dứt trừ phiền não vị lai. Hai điều này tức là Hồi Sự Hướng Lý. Chỉ nghĩ nhớ mình và người đều lợi ích an vui tức là Hồi tự Hướng tha. Hồi hướng vô thượng Bồ-đề tức là Hồi Nhân Hướng Quả. Khi tùy ý tu mỗi hạnh đều có đủ ba thứ hồi hướng này, mới được thành tựu nghĩa "đến bờ kia" nên đầu tiên đặc biệt mở bày về pháp môn bố thí. Nên biết năm pháp môn đều như thế.
D2. Giải thích môn Trì giới:
Làm sao tu pháp môn trì giới? Nghĩa là Bồ-tát tại gia nên lìa sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói độc ác, nói thêu dệt, san tham, sân hận, ganh ghét, nịnh bợ, tà kiến. Nếu người xuất gia vì muốn dứt trừ các phiền não nên lìa chỗ ồn ào, thường ở chốn vắng lặng, tu hạnh đầu đà biết dừng biết đủ v.v... cho đến tội nhỏ tâm cũng rất sợ hãi, hổ thẹn, hối hận, tự trách, giữ gìn giới cấm Như Lai đã chế, không để người thấy phải chê bai, giúp cho chúng sinh bỏ ác tu thiện.
Giới phẩm người tại gia đều thu gọn trong mười điều lành. Lìa sát sinh là từ bi che chở hữu tình, không tổn hại loài bò bay máy cựa. Lìa trộm cắp là một cây kim, một cọng cỏ, không cho không lấy. Lìa tà dâm là đối với thê thiếp của mình nên biết đủ. Lìa nói dối thì nói lời thành thật, tất cả chẳng lừa dối; lìa nói hai chiều thì giấu xấu khoe tốt, chẳng nói phải quấy; lìa ác khẩu thì không bao giờ nói thô lỗ, khiến người vui mừng; lìa nói thêu dệt thì lời nói đều có nghĩa, không buông lung. Lìa san tham thì thường nghĩ đến việc bố thí, không còn mong cầu. Lìa tức giận ganh ghét thì không bị tổn hại phiền não, tùy hỉ với sự vinh quang của người. Lìa dua nịnh, dối trá, tà kiến thì trung lương chánh trực, tin sâu nhân quả. Cho nên không điều ác nào không dứt, không điều lành nào không làm, không chúng sinh nào không nhiếp độ, tức là ba nhóm tịnh giới.
Giới phẩm của người xuất gia tức mười giới sa-di, hai trăm năm mươi giới Tỳ-kheo v.v... đều thuộc về giới Bồ-tát của Đại thừa. Nếu không giữ gìn giới luật Phật chế thì chẳng phải tại gia cư sĩ, cũng chẳng phải sa-môn, không biết thuộc loại gì. Đã chẳng phải Tiểu thừa, cũng chẳng phải Đại thừa, không có chỗ quy về.
Thường nương ở chỗ vắng lặng nghĩa là ở chỗ a-lan-nhã.
Tu hạnh đầu đà biết dừng biết đủ, nghĩa là, Đầu-đà cũng gọi là đổ-đa, Hán dịch là đẩu tẩu, có mười hai hạnh biết đủ cao quý:
1. Ở chốn già lam thanh tịnh
2. Thường hành khất thực
3. Khất thực theo thứ lớp
4. Ăn ngày một lần
5. Ăn có điều độ, chừng mực.
6. Sau giờ ngọ không uống nước trái cây, mật ong...
7. Mặc y phấn tảo
8. Chỉ có bay
9. Ở gò mả
10. Nghỉ dưới gốc cây
11. Ngồi ngoài trời
12. Chỉ ngồi không nằm
Mười hai hạnh này gọi là hạnh đoan nghiêm mầu nhiệm. Tổ đầu tiên của người Ấn-độ là ngài Đại Ca-diếp trọn đời tu hạnh cao quý này, được Phật khen ngợi trước đại chúng, trời, và người rằng: "Chánh pháp tồn tại lâu dài hoàn toàn trông cậy nơi vị này", cho nên Phật đã chia nửa tòa bảo Ca-diếp lên ngồi, trao pháp nhãn tạng để truyền tâm ấn.
Cho đến một tội nhỏ tâm cũng rất sợ hãi, nghĩa là dụ như chiếc phao nổi để vượt biển, dù bị thủng một lỗ rất nhỏ như hạt bụi cũng bị tai họa chết chìm, nên phải hổ thẹn tự trách, vượt qua mọi lỗi lầm để hướng về điều lành.
Tự xấu hổ là tôn trọng tánh linh của mình vốn không hai không khác với Như Lai, vì sao lại chấp nhận buông lung để thành tội lỗi. Thẹn vì nhớ lại tỳ vết của mình, chư Phật, Bồ-tát đều thấy biết, vì sao lại cố che giấu không chịu sửa đổi, cho nên tự trách tự hối hận, dứt ác làm lành, khiến chúng sinh không sinh tâm chê bai, liền bỏ ác tu thiện.
Nên biết mười giới và giới Cụ túc v.v... mỗi giới đều là ba nhóm tịnh giới, mỗi giới đều là pháp Đại thừa.
D3. Giải thích môn Nhẫn nhục:
Thế nào là tu pháp môn nhẫn nhục? Nghĩa là thấy xấu ác không ghét, gặp khổ chẳng động, thường ưa quán sát nghĩa lý sâu xa.
Thấy ác không ghét, đó là Sinh nhẫn, cũng gọi là chịu đựng oán hại. Gặp khổ chẳng động, đó là Pháp nhẫn, cũng gọi là chịu đựng khổ thọ. Thường ưa quán sát lý sâu xa là nhẫn đệ nhất nghĩa, cũng gọi là đế sát pháp nhẫn.
D4. Giải thích môn Tinh tấn:
Chia làm hai:
G1. Nói chung về ý nghĩa tinh tấn.
G2. Dạy riêng về pháp tu tinh tấn.
G1. Nói chung về ý nghĩa Tinh tấn:
Thế nào là tu pháp Tinh tấn? Nghĩa là tu các hạnh lành tâm không lui sụt, nên nhớ từ vô số kiếp quá khứ đến nay vì tìm cầu cảnh giới tham dục thế gian, luống chịu tất cả khổ não lớn của thân tâm, rốt ráo chẳng có chút gì thú vị. Vì muốn tương lai xa lìa khổ này, nên siêng năng tinh tấn không sinh tâm biếng nhác, đại bi muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Tu các hạnh lành nói chung là sáu độ, bốn nhiếp pháp; nói riêng là bốn thứ Tam-muội, đó là:
- Tam-muội thường hành như Ban chu, v.v...
- Tam-muội thường tọa như Nhất hạnh, v.v...
- Tam-muội bán hành bán tọa như Pháp Hoa, v.v...
- Tam-muội phi hành phi tọa như Giác ý, v.v... Tâm không lui sụt nghĩa là nói chung ba thứ đều tinh tấn. Nên nhớ quá khứ v.v... nghĩa là mặc áo tinh tấn.
Vì muốn tương lai v.v... nghĩa là tinh tấn nhiếp tâm tu thiện. Đại bi muốn làm lợi ích... là tinh tấn làm lợi lạc.
G2. Dạy riêng pháp tu Tinh tấn:
Bồ-tát mới học tuy hành tín tâm, vì nhiều đời trước đến nay có nhiều nghiệp chướng tội ác nặng nề, hoặc bị tà ma não hại, hoặc bị việc đời trói buộc, hoặc bị các thứ bệnh ép ngặt. Những việc như thế là chướng nạn chẳng phải chỉ một thứ, khiến người tu hành kia phế bỏ tu điều lành. Cho nên phải tinh tấn dũng mạnh mẽ ngày đêm sáu thời lễ bái chư Phật, cúng dường khen ngợi, sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỉ, hồi hướng Bồ-đề vô thượng. Phát thệ nguyện rộng lớn không ngừng, khiến cho ác chướng tiêu trừ, gốc lành thêm lớn.
Đây chính là mười đại nguyện của Phổ Hiền, cũng là pháp sám hối được Bồ-tát Địa Tạng dạy trong kinh, cũng tức là Thập Khoa Hành Đạo Pháp trong Pháp Hoa Phương Đẳng Chư Tam-muội.
Mười nguyện lớn là: Lễ kính chư Phật Khen ngợi Như Lai
Tu cúng dường rộng lớn Sám hối nghiệp chướng Tùy hỉ công đức
Thứ lớp có khác nhau chút ít, nên biết. Thỉnh xoay bánh xe pháp
Thỉnh Phật trụ thế gian Tức thuộc về khuyến thỉnh Thường học theo Phật
Thường thuận theo chúng sinh Tức thuộc về hạnh phát nguyện. Thảy đều hồi hướng
Tức hiện tại hồi hướng Bồ-đề Vô thượng. Mười khoa gồm:
- Trang nghiêm đạo tràng.
- Trang nghiêm ba nghiệp... cho đến-Ngồi thiền.
Các nghi thức chánh định mở đầu kết thúc khác nhau, nói lược nói rộng chẳng giống nhau, ở đây không rảnh nói rõ. Chỉ có cúng dường, khen ngợi, lễ bái phải có đầy đủ, còn năm việc từ sám hối trở xuống hợp lại thành một khoa, gọi chung là năm Hối, đó là:
Sám hối có công năng dứt trừ nghiệp chướng Khuyến thỉnh có công năng dứt trừ ma chướng. Tùy hỉ có công năng dứt trừ chướng ganh ghét. Hồi hướng có công năng dứt trừ chấp hai bên.
Phát nguyện có công năng dứt trừ chướng hay quên và tâm lui sụt, nên gọi là năm việc sám hối.
Đã nói hành đạo sáu thời, lý sự phải giúp nhau mới xong, dè dặt chớ quá sơ sài qua loa, lại chớ theo danh tìm lợi, giúp cho nghiệp chướng xấu ác tiêu trừ, gốc lành thêm lớn.
Hỏi: Nếu người đã bị tà ma não loạn, việc đời trói buộc, bệnh khổ ép ngặt, làm sao tu được hạnh cao quý này?
Đáp: Ý nghĩa đoạn này, khuyên phải kịp thời tinh tấn, chớ để tà ma, việc đời, bệnh khổ được dịp làm hại. Nhưng dù bị tà ma làm hại, mà vẫn tinh tấn đúng theo pháp thì việc ma sẽ tiêu trừ, dù bị việc đời trói buộc liền phải dẹp bỏ việc đời, tu pháp này tinh tấn. Dù bị bệnh khổ ép ngặt cũng không được tiếc thân mạng, tu pháp này tinh tấn. Như đại sư Từ Vân chịu khổ đau tu sám hối thỉnh Quan Âm, không những dứt được bệnh mà còn được biện tài thông suốt, cách tu hay còn truyền, nên bắt chước mà dụng công. Lại nữa, dù bệnh nặng liệt giường không thể ngồi lên cũng có Tam-muội Giác Ý để tiến tu; hoặc ngay lúc nằm, đem tâm tưởng tu các pháp cúng dường v.v... ngày đêm sáu thời giữ tâm không biếng nhác, đúng như pháp trực chỉ niệm Phật, dạy tu ngay trong khi làm việc. Lúc bệnh cũng y theo đó thực hành sẽ trừ được chướng, thêm lớn gốc lành. Hoặc nương theo văn sau, chuyên niệm Phật A-di-đà cũng được giải thoát.
Phần D4 nói về pháp môn tinh tấn đã xong.
D5. Giải thích môn Chỉ quán:
Chia làm ba:
Chi 1. Nêu chung.
Chi 2. Nói từng pháp
Chi 3. Kết thúc nói lợi ích
CHI 1. Nêu chung:
Thế nào là pháp tu chỉ quán? Nghĩa là dứt hết tất cả cảnh giới nói suông, đó là Chỉ, thấy rõ tướng nhân quả sinh diệt, đó là Quán. Lúc đầu hai pháp tu riêng, dần dần thêm lớn cho đến thành tựu thì tùy ý tu cả hai pháp.
Dứt hết tất cả cảnh giới hí luận nghĩa là dứt hết việc nói suôn thuộc về kiến hoặc, tư hoặc, nói suông thuộc về trần sa hoặc, hí luận do vô minh.
Dứt hí luận do kiến hoặc, tư hoặc thì dứt trừ tất cả cảnh giới có, dứt nói suông do hoặc trần sa thì dứt trừ tất cả cảnh giới không, dứt nói suông do vô minh thì dứt trừ tất cả cảnh giới vừa có vừa không, chẳng phải có, chẳng phải không. Là thuận theo môn nhất tâm chân như.
Thấy rõ tướng nhân quả sinh diệt, nghĩa là thấy rõ nhân vô minh sinh thì quả mười cõi sinh, nhân vô minh diệt thì quả mười cõi diệt; nhân trần sa sinh thì quả Nhị thừa sinh, nhân trần sa diệt thì quả Nhị thừa diệt; nhân kiến tư sinh thì quả sáu phàm sinh, nhân kiến tư diệt thì quả sáu phàm diệt. Là thuận theo môn nhất tâm sinh diệt.
Hai môn nhất tâm vốn không lìa nhau, Nhất tâm Chỉ Quán cũng không trước sau, chỉ vì người sơ cơ trôi theo sinh diệt đã lâu, chưa thông đạt chân như, nên trước phải tu chỉ ngay nơi quán, gọi là Xa-ma-tha quán, khiến quán sinh diệt tức là chân như, đối trị chấp trước sinh tử, Niết-bàn. Kế đó tu quán ngay nơi chỉ, gọi là Tỳ-bát-xá-na, dạy quán toàn chân như thành sinh diệt, thêm lớn gốc lành và đại bi. Tu lần lượt như thế khiến dần dần thêm lớn, nếu đến địa vị Phát Tâm Trụ thì Chỉ Quán chân thật thành tựu, tự nhiên nhậm vận tu cả hai pháp.
CHI 2. Giải thích từng Pháp:
Chia làm ba:
Tiết 1. Giải thích tu chỉ.
Tiết 2. Giải thích tu quán.
Tiết 3. Giải thích chỉ quán đồng tu.
TIẾT 1. Giải thích tu Chỉ:
Chia làm ba:
A1. Nói về tướng tu.
A2. Nói về tướng chứng.
A3. Khuyên tu.
A1. Nói về Tướng tu:
Chia làm ba:
B1. Phương tiện.
B2. Chánh tu.
B3. Phân biệt thành, không thành.
B1. Phương tiện:
Tu chỉ nghĩa là ở chỗ vắng lặng, ngồi kiết già vững mình chánh ý.
Đoạn này tuy nói sơ lược những đã bao gồm hai mươi lăm phương tiện đầu tiên, ở chỗ vắng lặng tức là ở chỗ a-lan-nhã, nhiếp đủ năm duyên. Ngồi kiết già sẽ điều phục được năm việc. Vững mình chánh ý là quở trách năm dục, bỏ năm triền cái, tu năm pháp.
Nói đủ thì thêm chỉ quán Đại thừa, Tiểu thừa, ai cần thì tự sưu tầm.
B2. Chánh tu:
Không nương theo hơi thở, không nương theo hình sắc, không nương theo hư không, không nương theo đất, nước, gió, lửa, cho đến không nương theo thấy, nghe, hiểu, biết.
Đầu tiên đoạn này phân biệt cảnh giới sở quán. Không nương theo hơi thở, nghĩa là tất cả hơi thở không từ đâu đến, không đi về đâu, vì đương thể không thật có, cho nên không nương hơi thở để tu Tam-muội A-na-bát-na. Vì A-na-bát-na không thật có, tức là Đại thừa.
Không nương theo hình sắc nghĩa là tất cả hình sắc chia chẻ cho đến thành vi trần đều không có, cho nên không nương hình sắc để tu các định chín tưởng, mười tưởng, tám bối xả v.v... Vì chín tưởng cho đến tám bối xả đều không thật có, đều tức là Đại thừa.
Không nương theo hư không nghĩa là đối đãi với sắc gọi là không, sắc còn chẳng có làm sao có không. Cho nên không nương theo đây để tu Tammuội Không Nhất Thiết Xứ. Vì Tam-muội Không là không thật có, tức là Đại thừa.
Không nương theo đất, nước, gió, lửa nghĩa là chia chẻ, đất thì không có tánh cứng, nước không có tánh ướt, lửa không có tánh nóng, gió không có tánh động. Vì đương thể không thật có, cho nên không nương theo để tu các Tam-muội Thắng Xứ, Nhất Thiết Xứ v.v... vì Thắng Xứ, Nhất Thiết Xứ không thật có, tức là Đại thừa.
Cho đến không nương thấy nghe hiểu biết nghĩa là do cảnh giới sắc thanh hương vị xúc pháp, nên có thấy nghe hiểu biết. Nay nếu suy tìm chỗ thấy nghe hiểu biết v.v... đều chẳng thật có, thì hay thấy, hay nghe... đâu có thật được. Cho nên không nương theo đây để tu Tam-muội Thức Nhất Thiết Xứ, vì Thức Tam-muội không thật có, tức là Đại thừa.
Tất cả niệm tưởng phân biệt đều dứt, cũng dẹp cả ý tưởng trừ bỏ.
Đoạn kế tiếp này phân biệt tâm năng quán.
Trước nói không nương hơi thở cho đến không nương thấy nghe hiểu biết, tức là tất cả niệm tưởng phân biệt đều dứt. Nhưng nói không nương hơi thở v.v... chính là hiểu rõ hơi thở cho đến thấy nghe hiểu biết vốn không thật có, là trừ được niệm tưởng phân biệt hơi thở cho đến hiểu biết. Chẳng thật có hơi thở, cho đến hiểu biết để tác ý trừ bỏ, nếu có ý tưởng trừ bỏ tức là không hiểu các pháp vốn không, hoặc lạc vào định Vô tưởng của ngoại đạo, hoặc lạc vào định Diệt tận của Nhị thừa, chẳng phải là quán Xa-ma-tha của Đại thừa, nên nói cũng dẹp bỏ cả ý tưởng dứt trừ.
Vì tất cả các pháp bất sinh bất diệt, vì đều là vô tướng.
Phần kết này nói về chẳng nương các pháp, cũng nói lý do không có ý tưởng dứt trừ.
Tất cả pháp là chỉ hơi thở cho đến thấy nghe hiểu biết. Hơi thở xưa nay vô sinh vô diệt, xưa nay vô tướng, cho nên không đáng nương, cũng không cần dứt trừ. Cho đến thấy nghe hiểu biết xưa nay không sinh diệt, xưa nay không có tướng, cho nên không đáng nương, cũng không cần dứt trừ.
Tâm trước nương theo cảnh, kế đó xả bỏ cảnh.
Phần kết này nói về ý nghĩa đoạn văn không nương theo hơi thở. Niệm sau nương theo tâm, lại xả bỏ tâm.
Phần kết này nói về ý nghĩa đoạn văn tất cả phân biệt. Vì tâm chạy theo cảnh bên ngoại nên nhiếp trụ nội tâm. Ở đây lại nói về ý nghĩa của đoạn văn trước.
Sau lại khởi tâm không chấp tướng của tâm. Ở đây lại nói ý nghĩa đoạn văn sau.
Vì lìa chân như không thật có.
Theo đoạn kết này, người muốn tu thành tựu pháp chỉ nên quán tất cả vọng niệm vô tướng, thể tức chân như. Nếu lìa chân như thì không có hơi thở, cho đến không có thấy nghe, hiểu biết để được. Cho nên không nương hơi thở, cho đến thấy nghe hiểu biết. Nếu lìa chân như cũng không có ý tưởng trừ diệt để được, cho nên cũng dẹp bỏ cả ý tưởng trừ diệt.
Quán Xa-ma-tha này vốn là; đoạn đầu tiên là nhiếp cảnh quy tâm, nói về hơi thở, hình sắc v.v... chỉ là chỗ thấy phân biệt của niệm tưởng, vốn chẳng có thật, cho nên không đáng nương theo; đoạn sau là quán tâm vô tướng, nói về chỗ dứt trừ niệm tưởng phân biệt vốn cũng chẳng thật có, nên gọi là dứt trừ. Cho nên năng quán sở quán cả hai đều không có tự tánh, cho nên đoạn văn trước nói: "Nếu biết tâm động thì không sinh diệt, liền vào được môn chân như".
Ở đây vì người căn cơ bậc thượng, chỉ thẳng pháp quán là cảnh giới không thể nghĩ bàn, nếu ngay đây ngộ nhập thì trong một pháp tự đầy đủ mười thừa. Vì giác ngộ, tức tâm Bồ-đề, vì lìa hôn trầm trạo cử tức chỉ quán mầu nhiệm, vì không có pháp đương tình tức phá tất cả pháp; vì biết rõ năng quán sở quán đều tức là chân như, tức biết chỗ thông và bít; vì thuận với ba môn giải thoát tức thành tựu đạo phẩm.
Đoạn sau nói đi đứng nằm ngồi, tu trong mọi lúc sẽ thành đối trị. Dần dần được vào Tam-muội chân như, liền biết thứ lớp quả vị, bẻ dẹp rốt ráo tất cả phiền não sẽ được an nhẫn, lòng tin thêm lớn mau thành tựu không có lui sụt, xa lìa pháp ái nhiễm.
Phần B2 chánh tu đã xong.
B3. Phân biệt thành, không thành:
Đi đứng ngồi nằm, bất cứ lúc nào cũng đều tu hành như thế, không để đoạn dứt, dần dần được vào Tam-muội Chân như, dẹp trừ rốt ráo tất cả phiền não, lòng tin thêm lớn mau thành tựu không lui sụt.
Đoạn này nói rõ, nếu nương theo lời đoạn trước mà siêng tu, sẽ được thành tựu.
Nếu có tâm nghi ngờ, bài báng không tin, nghiệp chướng trói buộc, ngã mạn biếng nhác, những người như thế không thể chứng nhập.
Một là nghi ngờ, hai là bài báng không tin, ba là nghiệp chướng trói buộc, bốn là ngã mạn, năm là biếng nhác. Có một trong những việc này thì không thể chứng nhập, há chẳng ngăn ngừa ư!
Phần đầu nói về tướng tu đã xong.
A2. Tướng chứng:
Chia làm hai:
B1. Nói về tướng chứng.
B2. Phân tích việc ma.
B1. Nói về Tướng chứng:
Lại nữa, nương Tam-muội này chứng tướng pháp giới, biết tất cả Pháp thân Như Lai cùng tất cả thân chúng sinh bình đẳng không hai, đều là Nhất tướng cho nên gọi là Tam-muội Nhất Tướng, nếu tu tập Tam-muội này, thì sinh ra vô lượng Tam-muội, vì chân như là cội gốc của tất cả Tammuội.
Tướng Pháp giới tức là thể chân như, là thật tướng của tất cả tướng. Ba pháp Tâm, Phật, chúng sinh không khác nhau, nên gọi là Tam-muội Nhất Tướng, bản dịch đời Lương gọi là Tam-muội Nhất Hạnh. Theo chỗ chứng thì gọi Nhất Tướng, theo năng chứng gọi là Nhất Hạnh, nên biết Nhất Hạnh tức Nhất Tướng. Văn-thù Bát Nhã chỉ bày Tammuội Nhất Hạnh chính thật tương đồng với đoạn này, cũng tức là Tam-muội Đại Phật Đảnh Thủlăng-nghiêm Vương, cũng tức là Tam-muội Thật Tướng trong kinh Pháp Hoa. Đây là vua trong các tam-muội, nên sinh ra vô lượng Tam-muội.
B2. Phân tích việc ma:
Chia làm hai:
C1. Chỉ tướng việc ma.
C2. Chỉ pháp đối trị.
C1. Chỉ tướng việc ma:
Chia làm ba:
D1. Lý do có ma.
D2. Tướng việc ma.
D3. Tổn thất do ma não loạn.
D1. Lý do có ma:
Hoặc có chúng sinh gốc lành mỏng ít, bị các tà ma ngoại đạo quỷ thần làm hoặc loạn.
Không trồng gốc lành thì Tam-muội này dù danh tự cũng không được nghe, huống chi là có thể tu tập. Có thể tu tập Tam-muội này, nên biết phải là người có gốc lành. Chỉ cần có gốc lành sâu dày thì việc ma kia không có lý do phát khởi được, như mặt trời đang chiếu rọi sẽ không có yêu quái. Do gốc lành mỏng ít đến nỗi ma não hại, cho nên đoạn trước khuyên gắng tu hành năm pháp sám hối.
D2. Tướng của việc ma:
Chia làm hai:
E1. Phân biệt hình tướng âm thanh.
E2. Phân biệt tội lỗi phát sinh.
E1. Phân biệt hình tướng âm thanh:
Hoặc hiện hình tướng xấu ác để làm cho tâm người kia sợ hãi, hoặc bày sắc đẹp để mê hoặc ý người, hoặc hiện thân trời, hoặc thân Bồ-tát, cho đến thân Phật tướng tốt trang nghiêm.
Đoạn này trước phân biệt hiện tướng ma. Nếu người tu hành tập khí sợ hãi sâu nặng thì thường hiện hình tướng xấu ác để làm cho sợ hãi. Nếu người tu tập khí tham ái nặng, thì thường hiện tướng tốt đẹp để mê hoặc, nếu người tu năng lực trí tuệ yếu thì thường hiện thân các vị trời, Bồ-tát, Phật để dối gạt, đều có nghĩa là nếu chủ nhân mê thì khách được dịp làm hại.
Hỏi: Người tu Tam-muội được thấy Phật, Bồ-tát biết đâu do gốc lành khai mở, đường cảm ứng giao nhau, sao lại gọi chung là việc ma?
Đáp: Kinh Viên Giác nói, chẳng phải tất cả cảnh giới đã được nghe, thì không bao giờ được chấp thủ, vì khi người tu-Tam-muội thấy các cảnh giới, nếu tương ưng với Tam-muội mới gọi là tướng tốt, đây chỉ là tướng tốt, không thể cho là mình chứng Thánh, nếu không tương ưng với Tam-muội thì chắc chắn thuộc về việc ma.
Nay tu Tam-muội Chân Như căn bản, đã chẳng phải lúc niệm Phật, lễ sám cầu cảm ứng, thì không thể có kiến giải luống dối cho đó là đường cảm ứng giao nhau, ngồi thiền chấp nhận sự mê hoặc kia.
Hoặc nói thần chú, hoặc nói sáu độ, hoặc lại giảng nói các môn giải thoát, không oán không thân, không nhân không quả, tất cả các pháp rốt ráo vắng lặng, bản tánh Niết-bàn.
Đoạn này phân biệt âm thanh việc ma, giả làm Phật Bồ-tát v.v... nói pháp.
Người tu pháp Tam-muội chân chánh, không nương hơi thở, không nương hình sắc cho đến cũng xả bỏ ý tưởng trừ diệt. Nên biết, cũng đều chẳng nương thần chú, không nương sáu độ, không nương các môn giải thoát, cho đến không nương bản tánh Niết-bàn. Vừa nương bản tánh Niết-bàn sẽ bác bỏ nhân quả, vọng chấp có cảnh giới mờ mịt trước khi sinh không kiếp về trước, bên mé Phật Oai Âm gọi lầm là Tam-muội Chân như. Há cho rằng, nếu biết tâm động thì chẳng sinh diệt, tức được thể nhập chân như hay sao?
Phần đầu Phân biệt về hình tướng và âm thanh đã xong.
E2. Phân biệt tội lỗi phát sinh:
Hoặc lại khiến biết quá khứ, vị lai, và việc trong tâm người, có biện tài giảng nói không đuối lý, không lắp bắp, khiến họ tham đắm tiếng khen lợi dưỡng.
Từ đoạn này trở xuống là nói về tất cả lỗi lầm sinh khởi khi thấy hình tướng và nghe âm thanh ma. Nay trước sẽ nói về tướng tương tự gốc lành, nhưng người tu Chỉ này chỉ vì dứt vô minh từ vô thỉ, chứng trí vô lậu, không nên mong cầu năm thần thông, bốn biện tài vô ngại. Nay chưa được vô lậu, lại được túc mạng thông, tha tâm thông và biện tài ở trước v.v... thì chắc chắn sẽ rơi vào hố sâu danh lợi, như Đề-bà-đạt-đa tu được năm thần thông mà gây ra ba tội nghịch, có thể làm gương cho người sau.
Hoặc lúc giận lúc vui, hoặc bi nhiều ái nhiều, hoặc thường ưa ngủ vùi, hoặc đã lâu chẳng ngủ, hoặc bị bệnh sởi, hoặc tánh chẳng siêng năng, hoặc chợt khởi tinh tấn lại liền phế bỏ. Tâm thường nghi ngờ, không sinh tâm tin hiểu thọ trì, hoặc bỏ hạnh lành tốt đẹp sẵn có mà tu các nghiệp lặt vặt, ái nhiễm việc đời, đắm đuối theo cái đẹp.
Đoạn này nói về các tướng ma tạp nhiễm không nhất định, hoặc thay đổi chỗ huân tập kia khiến trở thành kỳ lạ, thuận theo chỗ huân tập kia khiến không thể lìa bỏ, như trong kinh Lăng-nghiêm có nói về hai loại ma thọ ấm và tưởng ấm.
Hoặc khiến chứng đắc các định ngoại đạo, một ngày hai ngày cho đến bảy ngày trụ trong thiền định, được thức ăn uống ngon, thân tâm khoan khoái, không đói không khát.
Ở đây cũng tương tự tướng gốc lành, chính thật là tà định, chẳng phải định xuất thế gian.
Hoặc lại khuyên thọ nữ sắc, v.v... khiến cho người kia ăn uống chợt ít chợt nhiều, hoặc khiến hình dung người kia lúc đẹp lúc xấu.
Đây cũng là các tướng tạp nhiễm bất định của ma. Phần hai nói về việc ma đã xong.
D3. Tổn thất do ma não loạn:
Nếu bị các kiến chấp phiền não nhiễu loạn, tức bị lui sụt căn lành đời trước.
Hai tướng tương tợ căn lành thì bị các kiến chấp nhiễu loạn, ắt khởi phiền não; còn hai loại tạp nhiễm không nhất định ắt bị phiền não nhiễu loạn, cũng khởi các kiến chấp; căn lành cạn mỏng từ đời trước của người kia cũng bị lui sụt. Có thể chẳng buồn ư!
Phần đầu chỉ dạy tướng ma sự đã xong.
C2. Chỉ pháp đối trị:
Chia làm hai:
D1. Trị tà.
D2. Quy chánh.
D1. Trị tà:
Cho nên phải quán sát thật kỹ, nên nghĩa thế này: Đây đều là do mình gốc lành cạn mỏng, nghiệp chướng sâu nặng nên bị ma quỷ v.v... mê hoặc. Biết như thế rồi phải thường nhớ nghĩ tất cả việc kia đều chỉ là tâm, suy nghĩ như thế trong khoảng nháy mắt liền hết ma.
Đối trị, có ba loại: Hai loại là phương tiện, một loại là tu chân chính.
Hai phương tiện là:
Quán sát kỹ càng, biết rõ đều là việc ma, tâm không sinh một niệm mê loạn.
Tự nhớ gốc lành cạn mỏng, nghiệp chướng sâu nặng, chỉ tự trách mình, sám hối tội lỗi, biến ác thành thiện.
Một loại là chân chính tu nghĩa là, nhớ tất cả việc kia chỉ là tâm, ngoài tâm không có pháp, không lìa Tam-muội Nhất Tướng.
D2. Quy chánh:
Xa lìa các tướng, nhập Tam-muội chân thật. Tâm tướng đã lìa, chân tướng cũng hết.
Xa lìa các tướng nghĩa là dùng ba pháp đối trị để trừ việc ma. Nhập Tam-muội chân thật nghĩa là nương vào tầm tư, danh nghĩa tự tánh khác nhau, phát sinh trí tuệ như thật. Tâm tướng đã lìa nghĩa là được trí vô phân biệt. Chân tướng cũng hết nghĩa là xúc chạm không thật có. Đầy đủ như trong Duy Thức có nói rộng cho hai quả vị Gia Hạnh và Thông Đạt. Ai cần thì tự tìm hiểu.
Xuất định, thấy các phiền não đều không hiện hành, vì năng lực Tam-muội hủy hoại hạt giống kia, thiện phẩm thù thắng thuận theo nối nhau, tất cả chướng nạn đều xa lìa, khởi tâm tinh tấn mạnh mẽ, thường không đoạn dứt.
Đoạn này nói người khéo tu Chỉ chẳng những xa lìa việc ma, mà liền lên quả vị Phát Tâm Trụ, nhập vào Tịnh Tâm địa, tròn đủ Xa-ma-tha và Tỳbát-xá-na.
Phần hai nói về tướng chứng đã xong.
A3. Khuyên tu:
Chia làm hai:
B1. Chánh yếu khuyên tu.
B2. Nói lợi ích.
B1. Chánh yếu khuyên tu:
Nếu người không tu Tam-muội này, không vào được chủng tánh Như Lai, vì các Tam-muội khác đều là hữu tướng giống như ngoại đạo, không được gặp Phật, Bồ-tát. Cho nên Bồ-tát đối với Tammuội này, phải siêng tu tập khiến thành tựu rốt ráo.
Các Tam-muội khác là chỉ cho các Tam-muội nương hơi thở, hình sắc. Tuy sáu Diệu Pháp Môn, mười sáu Đặc Thắng, chín Tưởng, mười Tưởng, Bối Xả, Thắng Xứ, Nhất Thiết Xứ v.v... các loại Tam-muội đó đều có công năng phát sinh trí tuệ vô lậu, chứng quả ba thừa, nhưng phải chứng vô lậu rồi mới không giống như ngoại đạo. Nếu chưa phát sinh trí vô lậu, hoặc cũng tùy loại thiền mà thọ sinh, thì cách ngoại đạo không xa.
Cho đến chín định Thứ Đệ, tám thứ định đầu tiên cũng đều giống như ngoại đạo; định Diệt Thọ Tưởng tuy nói không giống nhưng nương Hữu Đảnh Du Quán Vô Lậu mà thể nhập, chưa phải hoàn toàn khác với ngoại đạo.
Lại nữa, tuy được định Diệt Tận nhưng nếu chưa dứt hết tư hoặc ở quả vị trên, thì vẫn sinh lên cõi Ngũ Bất Hoàn Thiên, vẫn cùng ngoại đạo đồng ở Tứ thiền xả niệm thanh tịnh địa, không được gặp chư Phật, Bồ-tát. Cho nên chỉ có Tam-muội Chân Như này mới được vào chủng tánh Như Lai. Nếu được Tam-muội này thì chính là chỗ sinh ra tất cả Tam-muội căn bản là Bốn thiền, Bốn tâm vô lượng, Bốn định vô sắc có giác có quán, cho đến quán sát tinh ròng để huân tu tất cả Tam-muội, mỗi Tam-muội đều gọi là Tam-muội Bất Cộng. Vì hiểu rõ các Tam-muội kia đều không thật có, nên đều là Đại thừa.
Như Tỳ-kheo khách ở tạm trong phòng của Phật, Phật nhập Sơ thiền cho đến Tứ thiền, Tỳ-kheo khách đều nhập theo được. Phật bèn dùng tướng khác để vào Sơ thiền, khách mờ mịt không biết Phật nhập định gì. Nên biết chỗ nhập định lần trước, Phật sử dụng thiền giống như ngoại đạo nên khách có thể nhập theo, chỗ Phật nhập định lần sau là loại bất cộng thiền, khác với ngoại đạo cho nên Tỳ-kheo khách chẳng biết.
Lại nữa, trong kinh Pháp Hoa ba lần biến thành tịnh độ Phật cũng dùng ba thứ Tam-muội là Bội Xả, Thắng Xứ và Nhất Thiết Xứ, thần dụng đó cao xa, Nhị thừa chẳng thể lường biết, đều do Tammuội bất cộng, Tiêu dung Cộng tướng (giống ngoại đạo) khiến cộng tướng tam-muội đều thành bất cộng (không giống). Cho nên gọi là Tam-muội Chân như sinh ra vô lượng Tam-muội.
B2. Lợi ích:
Tu Tam-muội này thân hiện tại được mười lợi ích: Thường được chư Phật Bồ-tát mười phương che chở. Không bị tất cả các ma, ác quỷ não loạn.
Không bị tất cả tà đạo mê hoặc.
Khiến nghiệp chướng, tội nặng bài báng Phật pháp sâu mầu đều được nhẹ bớt.
Dứt tất cả nghi ngờ, các giác quán xấu ác.
Đối với cảnh giới Như Lai lòng tin được thêm lớn.
Xa lìa lo sợ hối hận, đối với sinh tử mạnh mẽ không khiếp sợ.
Lìa bỏ kiêu mạn, nhu hòa nhẫn nhục, thường được tất cả thế gian tôn kính.
Dù không trụ định, trong tất cả thời tất cả hoàn cảnh, hạt giống phiền não mỏng nhẹ, không hề hiện khởi.
Nếu trụ trong định thì không bị tất cả các duyên như âm thanh v.v... làm loạn động.
1. Chân như chính là Pháp thân bình đẳng của chư Phật Bồ-tát, nên tu Tam-muội Chân Như tức được lợi ích dụng huân bình đẳng, thường được chư Phật Bồ-tát mười phương che chở. Đây chính là tướng chung của lợi ích.
Quán sát vọng niệm vô tướng, tự điều phục hạt giống ái dục nên ma không thể não loạn.
Quán sát vọng niệm vô tướng, tự điều phục hạt giống tà kiến, nên tà ma ngoại đạo không thể mê hoặc.
Chuyển hủy báng thành lòng tin, hay quán pháp sâu mầu nên tội chướng mỏng dần, như nước nóng làm tan băng.
Dùng tin dứt nghi, như sáng phá tối nên giác quán xấu, ác bị trừ diệt.
Biết rõ cảnh giới Như Lai không lìa tâm chân như nên lòng tin thêm lớn.
Tin bản tánh Niết-bàn của tất cả pháp, nên xa lìa lo sợ hối hận, mạnh mẽ không khiếp sợ.
Biết tất cả chúng sinh đều có Phật tánh chắc chắn sẽ thành Phật nên xa lìa kiêu mạn, nhu hòa nhẫn nhục như Bồ-tát Thường Bất Khinh, lúc đầu dù bị người đánh mắng nhưng cuối cùng sẽ được người kính tin quy ngưỡng.
Do năng lực tin hiểu, điều phục hạt giống phiền não, nên tuy không trụ trong định mà chẳng khởi hiện hành.
Biết tất cả các duyên như âm thanh v.v... đều chỉ do tâm hiện, không lấy không bỏ, nên không thể làm loạn động chánh định kia.
Phần đầu giải thích pháp Chỉ đã xong.
TIẾT 2. Giải thích tu Quán:
Chia làm hai:
A1. Nên tu A2. Tướng tu
A1. Nên tu Quán:
Lại nữa, nếu chỉ tu pháp Chỉ thì tâm sẽ bị đắm chìm, hoặc sinh biếng nhác, không ưa làm lành, xa lìa tâm đại bi, cho nên phải tu cả pháp Quán, Tu bằng cách nào ư?
Người khéo tu Chỉ, ngay Chỉ là Quán, không hôn trầm, không trạo cử, liền nhập Tam-muội chân như căn bản, được mười lợi ích, cho đến nhập các nhóm chánh định không lui sụt, đâu nhọc phải nói cách tu pháp Quán!
Nay vì người chẳng được như ý, tâm sẽ đắm chìm hoặc biếng nhác không thích làm điều lành, mà bị rơi vào phàm phu ngoại đạo, hoặc xa lìa đại bi mà rơi vào Nhị thừa, nên lại chỉ dạy phải tu cả pháp Quán.
A2. Tướng tu:
Chia làm ba:
B1. Quán Bốn đế.
B2. Bốn thệ nguyện rộng lớn.
B3. Khởi quán hạnh.
B1. Quán Tứ đế:
Nghĩa là nên quán tất cả các pháp thế gian sinh diệt không dừng, vô thường nên khổ, khổ nên vô ngã. Nên quán pháp quá khứ như mộng, pháp hiện tại như điện, pháp vị lai như mây, chợt khởi như thế. Nên quán có thân đều là bất tịnh, các trùng nhơ uế, phiền não lẫn lộn.
Trước tiên, đoạn này nói về quán khổ đế. Sinh diệt không dừng là hành vô thường. Vô thường nên khổ tức là hành khổ.
Khổ nên vô ngã, quá khứ như mộng biết rõ không thật có, hiện tại như điện sát-na chẳng dừng, vị lai như mây chợt khởi không từ đâu đến, tức hành Vô Ngã.
Các trùng nhơ uế v.v... tức bất tịnh quán.
Bốn quán hạnh này đối trị tất cả kiến chấp ái nhiễm của phàm phu ngoại đạo, đều được dứt sạch. Quán chỗ chấp trước các pháp của phàm ngu, trong chỗ không có một vật lại vọng chấp là có.
Đây là quán Tập đế.
Vọng chấp tức là mê lầm (hoặc), mê lầm tức là tập đế. Pháp quán này chính là pháp đối trị sự tham đắm ba cõi của phàm phu ngoại đạo, và cũng đối trị bệnh ngu pháp của Thanh văn, vọng sinh sợ hãi. Quán sát tất cả pháp từ duyên sinh, đều như huyễn v.v... rốt ráo không thật, quán nghĩa đế đệ nhất chẳng phải chỗ tâm hành, không thể thí dụ, không thể nói năng.
Đây là quán Diệt đế.
Duyên sinh như huyễn thì ngay nơi sự là chân, chân chẳng ngoài sự, nên chẳng phải chỗ tâm hành. Không thể thí dụ nói năng chính là để đối trị chẳng phải diệt đế mà chấp là diệt đế của phàm phu ngoại đạo, cũng đối trị cả người Nhị thừa bỏ Có tìm Không, và Bồ-tát Quyền vị bỏ biên kiến chấp Trung đạo.
Quán tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, vì năng lực huân tập của vô minh nên thân tâm phải chịu vô lượng khổ lớn, hiện tại vị lai cũng giống như thế, không có giới hạn, không có bờ mé, khó ra khó thoát, thường ở trong đó không thể xét biết, rất là đáng thương.
Đây là quán về Đạo đế.
Nếu xét biết nhân quả vô minh, chính là con đường căn bản để xuất ly độ thoát, thương xót cho người mê lầm điều này, tức là căn bản của đoạn sau nói về quán bốn thệ nguyện rộng lớn. Chính là để đối trị phàm phu ngoại đạo không biết chỗ xuất ly căn bản, và cũng đối trị cả Nhị thừa chẳng khởi đại bi.
Phần đầu nói về quán Bốn đế đã xong.
B2. Quán bốn Thệ nguyện rộng lớn:
Quán như thế rồi, sinh ra trí tuệ quyết định, khởi tâm từ bi rộng lớn, phát tâm mạnh mẽ rộng lớn, lập thệ nguyện rộng lớn.
Đoạn này nói chung, do nương cảnh Bốn đế, phát bốn thệ nguyện rộng lớn. Trên cầu quả Phật gọi là trí tuệ quyết định, dưới hóa độ chúng sinh gọi là từ bi rộng lớn. Phát tâm rộng lớn có thể gánh vác trách nhiệm nặng nề, gọi là mạnh mẽ, quả quyết sẽ đến chỗ cao xa của đạo gọi là thệ nguyện lớn.
Nguyện cho tâm mình lìa các điên đảo, dứt các phân biệt. Đây là phiền não vô tận thệ nguyện dứt. Mình chưa độ thoát lại muốn độ thoát người thì không thể có việc ấy, nên trước phải nguyện như thế.
Thật ra bốn nguyện lớn chỉ ở trong một tâm, chẳng có trước sau.
Gần gũi tất cả chư Phật Bồ-tát, đảnh lễ cúng dường, cung kính khen ngợi, được nghe chánh pháp, đúng như lời dạy tu hành tột đời vị lai không có dừng nghỉ.
Đây là pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Không lìa phân biệt điên đảo thì không thể gần gũi chư Phật Bồ-tát, không siêng năng cúng dường nghe pháp thì không thể tu vô lượng pháp môn độ sinh.
Cho nên bốn nguyện lớn xoay vần thành tựu cho nhau.
Dùng vô lượng phương tiện cứu giúp tất cả chúng sinh trong biển khổ.
Đây là chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
Khiến trụ Niết-bàn vui bậc nhất.
Đây là Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Cùng tất cả chúng sinh đều thành Phật đạo vì chẳng phải nguyện riêng thành Phật.
Phần hai quán Bốn thệ nguyện rộng lớn đã xong.
B3. Khởi quán Hạnh:
Lập thệ nguyện như thế rồi, bất cứ lúc nào cũng tùy khả năng mình, tu hạnh lợi mình lợi người. Đi đứng nằm ngồi thường siêng năng quán sát là nên làm hay không nên làm. Đó là tu quán.
Đây tức là dùng hạnh tu thể hiện lời phát nguyện.
Mình và người vốn tự không hai, do phân biệt điên đảo, vọng thấy có khác. Nay đã thuận theo pháp tánh chân như, nương pháp quán Bốn đế mà phát Bốn thệ nguyện rộng lớn cho nên trong tất cả thời, tùy khả năng mình, hoặc tu hạnh lợi mình, có thể làm duyên thêm lớn cho chúng sinh tức là lợi người. Hoặc tu hạnh lợi người, phá trừ được phiền não điên đảo trong tâm mình, tức là lợi mình. Cho đến một cái đi, một cái đứng, một cái ngồi, một cái nằm, nếu có thể lợi mình lợi người thì cũng nên làm; nếu không thể đem đến lợi mình lợi người thì không nên làm.
Giả sử tuy mình có lợi ích lại khiến người tổn hại, hoặc tuy người có lợi ích, mình lại rơi vào danh lợi thì cũng không nên làm.
Người phát tâm Bồ-đề phải siêng năng quán sát thêm. Phần hai giải thích pháp quán đã xong.
TIẾT 3. Giải thích Chỉ quán đồng tu:
Lại nữa, nếu chỉ tu quán thì tâm chẳng được dừng nghỉ, sinh ra nhiều nghi ngờ, không thuận theo đệ nhất nghĩa đế, không phát sinh trí vô phân biệt, cho nên phải đồng tu Chỉ Quán.
Người khéo tu Quán, ngay nơi quán là chỉ, mỗi niệm dùng tâm Bồ-đề tương ưng, khế hợp cảnh giới nghĩa đế đệ nhất không thể nghĩa bàn, quán này là trí vô phân biệt.
Nay vì người không được như ý, tâm tán loạn duyên theo cảnh giới, Bốn Đế tuy phát nguyện rộng lớn mà không biết Bốn đế chỉ là nhất tâm lại sinh nhiều nghi ngờ, nên trong pháp xưa nay không hai, khéo léo chỉ dạy pháp phương tiện Chỉ Quán đồng tu.
Nghĩa là tuy nhớ nghĩ tất cả pháp đều không có tự tánh, chẳng sinh chẳng diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn, mà cũng tức ngay đó thấy nhân duyên hòa hợp, nghiệp báo thiện ác không mất không hoại.
Ở đây dạy tức ngay nơi Chỉ mà tu Quán.
Nhớ tất cả pháp tự tánh Niết-bàn là môn Nhất tâm chân như, thuộc về Chỉ. Tức (ngay đó) thấy nhân duyên nghiệp báo không mất không hoại, là môn Nhất tâm sinh diệt, thuộc về Quán.
Chỉ vì trong tánh chẳng sinh chẳng diệt vọng có nhân duyên sinh diệt, thì Bốn đế chỉ là Nhất tâm, rõ ràng như vậy. Vì nhân quả thế gian tức Khổ đế, Tập đế; nhân quả xuất thế gian tức Đạo đế, Diệt đế. Mười cõi khác nhau đều là môn tâm sinh diệt, đều nương vào môn chân như.
Tuy nhớ nhân duyên nghiệp báo thiện ác, mà cũng ngay nơi đó thấy tất cả pháp vô sinh, chẳng có tự tánh, cho đến Niết-bàn.
Đây chỉ cho ngay nơi Quán mà tu Chỉ.
Đã nương chân như mà có sinh diệt thì biết các pháp sinh diệt đồng một chân như, không có tự tánh riêng.
Phần hai giải thích từng pháp đã xong.
CHI 3. Phần kết thúc nói lợi ích:
Tu Chỉ để đối trị phàm phu đắm nhiễm sinh tử, cũng đối trị Nhị thừa chấp trước sinh tử mà sinh ra sợ hãi. Tu quán để đối trị phàm phu chẳng tu gốc lành, cũng đối trị lỗi Nhị thừa tâm nhỏ hẹp không khởi Đại bi. Cho nên Chỉ Quán giúp nhau thành tựu, không xa lìa nhau. Nếu Chỉ Quán không đầy đủ thì không thể được Bồ-đề vô thượng.
Quán sinh diệt tức chân như gọi là Chỉ. Sinh tử vốn không, làm sao có thể đắm nhiễm, sinh tử không có tự tánh đâu nên sợ hãi?
Quán chân như tức sinh diệt gọi là Quán, nhân quả rõ ràng đâu thể không siêng năng tu thiện, đối với mê vẫn còn đồng thể, đâu được không khéo cứu độ.
Vì một tâm hai môn vốn chẳng lìa nhau, cho nên một tâm Chỉ Quán nhất định không thể tu riêng một pháp. Vì thành tựu Bồ-đề vô thượng cho nên dùng hai hạnh làm một pháp môn.
Phần đầu chỉ dạy tu tập tin tâm đã xong.
MỤC 2. Chỉ dạy phương tiện hay lạ:
Chia làm hai:
A1. Nói về niệm Phật dứt trừ chướng A2. Chỉ thẳng cầu sinh Cực Lạc A1. Nói về Niệm Phật trừ chướng:
Lại nữa, Bồ-tát Sơ học ở thế giới Ta-bà, hoặc gặp các khổ đói khát, lạnh nóng, mưa gió không đúng thời, hoặc thấy chúng sinh xấu ác đáng sợ, ba độc trói buộc, tà kiến điên đảo, xả bỏ đường lành, làm theo việc ác; Bồ-tát đối với việc đó tâm sinh sợ hãi, e họ chẳng thể gặp chư Phật Bồ-tát, sợ không thể thành tựu lòng tin thanh tịnh, tâm sinh nghi ngờ muốn lui sụt nên nghĩ rằng: chư Phật, Bồtát trong mười phương đều được thần thông rộng lớn không chướng ngại, dùng các thứ phương tiện khéo léo, cứu giúp tất cả hiểm nạn cho chúng sinh. Nghĩ như thế rồi liền phát thệ nguyện rộng lớn, nhất tâm chuyên niệm Phật và Bồ-tát. Vì sinh tâm quyết định như thế, nên sau khi chết, chắc chắn được sinh về cõi Phật, thấy Phật Bồ-tát, thành tựu tín tâm, xa lìa hẳn đường ác.
Bồ-tát Sơ học đã hiểu hai môn chân như và sinh diệt của một tâm mà tu tín hạnh, nhưng chỉ vì năng lực Chỉ Quán yếu, cảnh duyên thô ác, chưa vào nhóm chánh định, chẳng thể bảo đảm không lui sụt, nên lại chỉ dạy phương tiện khác cao siêu hơn, nhờ Phật khác trong tự tâm độ thoát tự thân trong tâm Phật.
Phải biết môn Chỉ Quán ở trước gọi là Tammuội niệm Tự Phật, nay dạy niệm Phật Bồ-tát là Tam-muội niệm Tha Phật. Do niệm Phật và Bồ-tát không sinh vọng tưởng phân biệt tức là hạnh Chỉ, biết rõ chư Phật, Bồ-tát có thần thông phương tiện khéo léo rộng lớn, hay cứu giúp ta và chúng sinh tức là hạnh Quán. Cho nên khi tu Chỉ Quán nếu thấy hình Phật Bồ-tát, biết là việc ma, không sinh chấp trước. Nay khi niệm Phật Bồ-tát, nếu lại phân biệt Chỉ Quán khác nhau thì rất giống cỡi trâu đi tìm trâu.
Nhưng ngay lúc niệm Phật Bồ-tát, hoặc được thấy Phật Bồ-tát, thì nên biết rõ chỉ là do tâm hiển hiện, chớ chấp thủ, chớ sinh vui mừng loạn động, chớ nói cho người nghe. Như ngài Tuệ Viễn trong đời ba lần thấy Phật, mà không nói với ai. Đây là bí quyết quan trọng.
Chỉ đến lúc sắp qua đời thấy Phật Bồ-tát mới là đường cảm ứng giao nhau, chắc chắn chẳng phải việc ma, chẳng được nghi ngờ; vì chư Phật Bồ-tát được thần thông rộng lớn, chắc chắn sẽ dắt dẫn kịp thời chúng sinh có duyên tu niệm Phật, phát thệ nguyện rộng lớn là vì độ thoát chúng sinh cầu sinh Tịnh Độ, tự thân chẳng thể tự thoát sinh tử. Nguyện Bồ-đề rộng lớn này, mới là chánh nhân vãng sinh, nếu không như vậy thì dù niệm Phật Bồ-tát cũng không khế hợp với Phật Bồ-tát, chẳng thể sinh Tịnh Độ!
A2. Chỉ thẳng cầu sinh Cực lạc:
Như trong kinh nói, nếu người thiện nam thiện nữ chuyên niệm Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc Tây phương, hồi hướng các gốc lành nguyện sinh về đó chắc chắn sẽ được sinh, thường thấy Phật kia, tín tâm thêm vững chắc không bao giờ lui sụt, nghe pháp kia, quán Pháp thân Phật, tu hành dần dần được vào chánh vị.
Chư Phật ở mười phương có vô lượng Tịnh độ, kinh luận phần nhiều chỉ quy về cực lạc, tóm lược có bốn ý:
Vì Phật A-di-đà rất có duyên với người cõi này, dù ở thôn xa rừng vắng, dù nam hoặc nữ, dù già hoặc trẻ, dù trí hoặc ngu ai cũng biết xưng danh Phật A-di-đà.
Vì nguyện lực cao quý của Tỳ-kheo Pháp Tạng, quả đức chư Phật tuy thực sự bình đẳng mà nguyện lực trong nhân tùy ý độ sinh có khác nhau trong không khác nhau.
Vì khiến người buộc niệm mà được chuyên tâm, nếu không khen ngợi chuyên niệm thì chúng sinh muốn sinh Tây phương lại muốn sinh về Đông phương, tâm không nhất định, tịnh nghiệp khó thành tựu. Cho nên chư Phật mười phương, đồng dùng tướng lưỡi rộng dài khen ngợi một pháp môn này khiến người người chuyên nhớ nghĩ.
Phật A-di-đà tức Pháp giới tạng thân, thế giới Cực Lạc tức biển Liên Hoa Tạng, cho nên thấy một Đức Phật tức thấy vô lượng Phật, sinh về một cõi tức sinh về vô lượng cõi, niệm một Phật tức niệm tất cả Phật, được tất cả Phật che chở vì Pháp thân không hai, vì chúng sinh và Phật không hai, vì năng niệm và sở niệm không hai. Một niệm tương ưng một niệm Phật, mỗi niệm tương ưng mỗi niệm Phật, nhân gồm quả suốt thì cũng lại không hai. Còn những việc khác thì như các kinh luận Tịnh Độ có nói rộng, chẳng thể nói đủ.
Chương bốn tu tập tín tâm đã xong.
Chia làm bốn:
A1. Khuyên chung về Văn, Tư, Tu.
A2. Chỉ dạy riêng công đức Văn, Tư, Tu.
A3. Răn dạy bác bỏ bị lỗi lớn.
A4. Kết luận chỉ dạy công năng Đại thừa
A1. Khuyên chung về Văn Tư Tu:
Thế nào là phần lợi ích? Câu nghĩa bí mật của Đại thừa như thế, nay đã nói sơ lược. Nếu có chúng sinh muốn đối với pháp rộng lớn tức cảnh giới sâu mầu của Như Lai sinh lòng tin thanh tịnh và tâm hiểu biết, đi theo đường Đại thừa không chướng ngại, thì đối với lời sớ luận tóm lược này, phải siêng năng nghe, hiểu, thọ trì, tư duy tu tập. Nên biết người này chắc chắn mau thành tựu Trí Nhất Thiết Chủng.
Tâm tịnh tín và hiểu biết nghĩa là nếu nói theo viên diệu dứt bặt đối đãi, thì tin tức là hiểu, hiểu tức là tin.
Như Lai còn gọi là Thế Gian giải cũng có thể gọi là Cứu cánh tín.
Nay tôi nói theo người sơ cơ, thì nếu có tin mà không hiểu thì chỉ nuôi lớn phiền não, hiểu mà không tin thì lại hay nuôi lớn tà kiến, cho nên nếu cả hai tâm tin và hiểu biết thanh tịnh để làm vết xe chính đi vào đường Đại thừa.
Nghe nhận là Văn tuệ, tư duy là Tư tuệ, tu tập là Tu tuệ. Ba tuệ giúp cho hạt giống vô lậu khởi hiện hành, nên có thể mau thành tựu Trí Nhất thiết Chủng.
A2. Chỉ riêng công đức Văn Tư Tu:
Nếu nghe pháp này không sinh tâm kinh sợ, nên biết người này chắc chắn sẽ nối tiếp làm hưng thạnh dòng Thánh, mau được thọ ký.
Ở đây chỉ dạy riêng về công đức của Văn tuệ.
Nếu có người giáo hóa chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới khiến an trụ trong mười điều lành thì, không bằng trong khoảng chốc lát chuyên suy tư pháp này, công đức nhiều hơn trước vô lượng vô biên.
Ở đây dạy riêng về công đức Tư tuệ.
Vì một đàng là pháp lành thế gian, một đàng là pháp lành tối thượng của thế gian và xuất thế gian. Nếu một ngày một đêm tu hành đúng như pháp, sẽ có công đức vô lượng vô biên không thể nói hết. Dù cho tất cả chư Phật trong mười phương, mỗi vị đều giảng nói trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp cũng không thể hết, vì công đức chân như không có bờ mé nên công đức tu hành cũng lại vô biên.
Ở đây dạy riêng về công đức Tu tuệ.
Tu hành công năng bày tâm tánh, cho nên công đức bình đẳng với pháp tánh, không thể nói hết.
Phần hai dạy riêng về công đức Văn Tư Tu đã xong.
A3. Răn dạy bài báng bị lỗi lớn:
Nếu người đối với pháp này sinh tâm hủy báng thì mắc vô lượng tội, chịu khổ não lớn trong atăng-kỳ kiếp cho nên phải có lòng tin chắc chắn đối với pháp này, chớ sinh tâm hủy báng tự hại, hại người, làm dứt mất hạt giống Tam Bảo.
Vì có Nhất thế Tam Bảo tự tâm, mới có tất cả Tam bảo thế gian. Nếu hủy báng pháp này thì đó làm dứt mất hạt giống Tam Bảo, tội báo rất lớn, nặng hơn năm tội nghịch, mười điều ác.
A4. Kết thúc dạy công đức Đại thừa:
Tất cả chư Phật y theo đây tu hành thành tựu trí tuệ vô thượng. Tất cả Bồ-tát do đây chứng được Pháp thân Như Lai. Bồ-tát quá khứ y theo đây được thành tựu lòng tin thanh tịnh Đại thừa, hiện tại đang thành tựu, vị lai sẽ thành tựu. Cho nên muốn thành tựu hạnh cao quý lợi mình lợi người thì phải siêng năng gia công tu học luận này.
Đây chính là con đường đi đến Niết-bàn của mười phương chư Phật.
Bồ-tát ba đời chẳng tu pháp này thì chẳng thành tựu lòng tin thanh tịnh Đại thừa, nên khuyên người muốn thành tựu hạnh lợi mình, lợi người thì phải siêng năng tu học.
Bốn đoạn văn này là nói theo Bốn Tất-đàn, hãy tư duy theo đó. Đoạn hai Phần Chánh, gồm năm chương đã nói xong.
ĐOẠN 3. KẾT THÍ HỒI HƯỚNG:
Nay tôi đã giải thích ý nghĩa sâu xa rộng lớn của công đức hồi hướng cho tất cả chúng sinh, giúp cho thấy được pháp chân như.
Hai câu đầu kết thúc phần văn kinh đã nói. Câu thứ ba là thí khắp cho chúng sinh công đức này. Câu thứ tư hồi hướng mé thật chân như, đồng thành tựu rốt ráo Bồ-đề.
-----------------------------------
LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN là pháp ấn chính của Phật Tổ truyền tâm, tổng trì pháp tánh pháp tướng.
Thuở trước Như Lai đã đem A-tỳ-đàm của Đại thừa phó chúc cho Di-lặc, Ma-ha Bát-nhã phó chúc cho Văn-thù. Bát-nhã phá chấp hữu mà bày diệu hữu, Tỳ-đàm phá ác KHÔNG mà hiển bày chân không. Nhất âm đã tuyên bày không hề có ý chỉ khác.
Sau khi Phật diệt độ năm trăm dị kiến bắt đầu sinh. Đại sĩ Mã Minh ứng với lời Phật huyền ký trùng hưng chánh pháp. Ban đầu thì dạy ngoại đạo chấp Ngã, sau mới hiển bày diệu tông HAI KHÔNG, làm sư tử rống lên pháp VÔ NGÃ, phá thiên chấp phàm ngoại Nhị thừa. Gom trăm mối trong kinh điển Đại thừa soạn lược luận này. Thông suốt một tâm hai môn, ngay nơi sinh diệt mà hiển bày chân như. Tóm thâu diệu chỉ của Bátnhã chân không bất không, ngay chân như mà nói về sinh diệt. Mở rộng Tỳ-đàm, nói chân lý nhiệm mầu HUYỄN CÓ, chẳng thật CÓ.
Sau đó, Long Thọ nương Bát-nhã mà soạn Trung luận, lại dùng nghĩa KHÔNG mà thành tựu tất cả pháp. Ngài Hộ Pháp nương Tỳ-đàm mà giải thích Duy Thức, lại dùng HUYỄN CÓ mà nêu hai thứ KHÔNG. Cho nên biết Mã Minh, Long Thọ, Hộ Pháp là ba vị đại Bồ-tát đồng khế hội tâm Phật, không hề có chút khác nhau. Đâu dè, dùng văn bày nghĩa, câu nệ danh tướng mà không biết ý chỉ trở về. Thấy khác thì đánh dẹp, thấy giống thì kết đảng, dựng lập môn đình, cứ mãi đấu tranh, bèn lầm Thánh chỉ, hiểu sai chân thừa. Ngàn trăm năm sau, cuối cùng trở lại như đêm dài tăm tối. Than ôi! Đời mạt, thật đáng đau lòng.
Trí Húc tôi, do nghiệp chướng sâu dày trói buộc chưa lên chánh vị, nhờ chút gốc lành đời trước dạo chơi mũi nhọn Viên tông, cuối năm giải tán các người học trọ học dốc lòng tu chứng. Mùa xuân năm nay, tình cờ gặp gỡ giới tử thỉnh đến Tân An, trong khoảnh khắc từ Thang Tuyền, Bạch Nhạc trở về ngụ Hấp Phố, Hồi Long. Thầm vì hai, ba người đệ tử luận nói Lăng-già, vì còn thừa sức nên lại giải thích luận này. Rất vui vì đất này vắng lắng không khác cảnh đào nguyên, lại cũng mến chủ nhân rộng rãi, chân thật chẳng có phong cách thế gian. Ăn cơm độn hạt giẻ, ăn xác đậu hủ, chỉ trong mười một ngày bản sớ giải viết thảo đã xong.
Thật là mau chóng!
Trên nhờ năng lực che chở của chư Phật, Bồtát và đại sư Mã Minh giúp sức, cho nên sớ lược không bị ngưng trệ, lại nhờ sự chấp thuận ngoại hộ của Pháp chủ Tuần công nên không bị duyên khác xâm nhập. Cho đến các câu hỏi tranh luận về ải đầu tánh tướng thì Giới tử, Kiên Mật, Thời Công rất đáng khen ngợi.
Gác bút ngày 28 tháng này, nên soạn lời bạt.