TẠNG LUẬT
LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH
SỐ 1421 - LUẬT DI SA TẮC BỘ HÒA HÊ NGŨ PHẦN
Hán Dịch: Đời Lưu Tống, Tam tạng Phật Đà Thập người nước Kế Tân, cùng Trúc Đạo Sinh.
Đoạn 1: NÓI VỀ BỐN PHÁP BA LA DI
Đoạn 1: NÓI VỀ BỐN PHÁP BA LA DI (Tiếp Theo)
Đoạn 2: NÓI VỀ 13 PHÁP TĂNG TÀN
Đoạn 2: NÓI VỀ 13 PHÁP TĂNG TÀN (Tiếp Theo)
Đoạn 3: NÓI VỀ HAI PHÁP BẤT ĐỊNH
Đoạn 4: NÓI VỀ 30 PHÁP XẢ ĐỌA (Tiếp Theo)
Đoạn 5: NÓI VỀ 91 PHÁP ĐỌA (Tiếp Theo)
Đoạn 5: NÓI VỀ 91 PHÁP ĐỌA (Tiếp Theo)
Đoạn 5: NÓI VỀ 91 PHÁP ĐỌA (Tiếp Theo)
Đoạn 6: NÓI VỀ BỐN PHÁP HỐI QUÁ
Đoạn 7: NÓI VỀ 100 PHÁP CHÚNG HỌC
Đoạn 8: NÓI VỀ 7 PHÁP DIỆT TRÁNH
Phần 2: GIỚI PHÁP CỦA TỲ KHEO NI
Đoạn 1: NÓI VỀ TÁM PHÁP BA LA DI
Đoạn 2: NÓI VỀ 17 PHÁP TĂNG TÀN
Phần 2: GIỚI PHÁP CỦA TỲ KHEO NI
Đoạn 3: NÓI VỀ BA MƯƠI PHÁP XẢ ĐỌA
Đoạn 4: NÓI VỀ HAI TRĂM LẺ BẢY PHÁP ĐỌA
Phần 2: GIỚI PHÁP CỦA TỲ KHEO NI
Đoạn 4: NÓI VỀ HAI TRĂM LẺ BẢY PHÁP ĐỌA (Tiếp Theo)
Phần 2: GIỚI PHÁP CỦA TỲ KHEO NI
Đoạn 4: NÓI VỀ HAI-TRĂM-LẺ-BẢY PHÁP ĐỌA (Tiếp Theo)
Đoạn 5: NÓI VỀ TÁM PHÁP HỐI QUÁ
Đoạn 6: NÓI VỀ MỘT TRĂM PHÁP CHÚNG HỌC
Phần 3: NÓI VỀ CÁC PHÁP: THỌ GIỚI, BỐ TÁT, AN CƯ, TỰ TỨ, Y, GIÀY DÉP DA, THỨC UỐNG V.V…
Phần 3: NÓI VỀ CÁC PHÁP: THỌ GIỚI, BỐ TÁT, AN CƯ, TỰ TỨ, Y, GIÀY DÉP DA, THỨC UỐNG V.V…
Đoạn 1: NÓI VỀ PHÁP THỌ GIỚI (Tiếp Theo)
Phần 3: NÓI VỀ CÁC PHÁP: THỌ GIỚI, BỐ TÁT, AN CƯ, TỰ TỨ, Y, GIÀY DÉP DA, THỨC UỐNG V.V…
Đoạn 1: NÓI VỀ PHÁP THỌ GIỚI (Tiếp Theo)
Phần 3: NÓI VỀ CÁC PHÁP: THỌ GIỚI, BỐ TÁT, AN CƯ, TỰ TỨ, Y, GIÀY DÉP DA, THỨC UỐNG V.V…
Phần 3: NÓI VỀ CÁC PHÁP: THỌ GIỚI, BỐ TÁT, AN CƯ, TỰ TỨ, Y, GIÀY DÉP DA, THỨC UỐNG V.V…
Phần 3: NÓI VỀ CÁC PHÁP: THỌ GIỚI, BỐ TÁT, AN CƯ, TỰ TỨ, Y, GIÀY DÉP DA, THỨC UỐNG V.V…
Phần 3: NÓI VỀ CÁC PHÁP: THỌ GIỚI, BỐ TÁT, AN CƯ, TỰ TỨ, Y, GIÀY DÉP DA, THỨC UỐNG V.V…
Đoạn 5: NÓI VỀ PHÁP Y (Tiếp Theo)
Đoạn 6: NÓI VỀ PHÁP GIÀY DÉP DA
Phần 3: NÓI VỀ CÁC PHÁP: THỌ GIỚI, BỐ TÁT, AN CƯ, TỰ TỨ, Y, GIÀY DÉP DA, THỨC UỐNG V.V…
Đoạn 9: NÓI VỀ PHÁP Y CA HI NA
Phần 4: NÓI VỀ PHÁP DIỆT TRÁNH VÀ YẾT MA
Đoạn 1: NÓI VỀ PHÁP DIỆT TRÁNH
Phần 4: NÓI VỀ PHÁP DIỆT TRÁNH VÀ YẾT MA
Đoạn 2: NÓI VỀ PHÁP YẾT MA (Tiếp Theo)
Phần 5: NÓI VỀ CÁC PHÁP: PHÁ TĂNG, NGỌA CỤ, TẠP PHÁP, OAI NGHI, NGĂN BỐ TÁT, BIỆT TRÚ V.V…
Phần 5: NÓI VỀ CÁC PHÁP: PHÁ TĂNG, NGỌA CỤ, TẠP PHÁP, OAI NGHI, NGĂN BỐ TÁT, BIỆT TRÚ V.V…
Phần 5: NÓI VỀ CÁC PHÁP: PHÁ TĂNG, NGỌA CỤ, TẠP PHÁP, OAI NGHI, NGĂN BỐ TÁT, BIỆT TRÚ v.v…
Phần 5: NÓI VỀ CÁC PHÁP: PHÁ TĂNG, NGỌA CỤ, TẠP PHÁP, OAI NGHI, NGĂN BỐ TÁT, BIỆT TRÚ V.V…
Đoạn 5: NÓI VỀ PHÁP NGĂN BỐ TÁT
Phần 5: NÓI VỀ CÁC PHÁP: PHÁ TĂNG, NGỌA CỤ, TẠP PHÁP, OAI NGHI, NGĂN BỐ TÁT, BIỆT TRÚ V.V…
Đoạn 8: NÓI VỀ PHÁP TỲ KHEO NI
Phần 5: NÓI VỀ CÁC PHÁP: PHÁ TĂNG, NGỌA CỤ, TẠP PHÁP, OAI NGHI, NGĂN BỐ TÁT, BIỆT TRÚ V.V…
Đoạn 9: NÓI VỀ PHÁP NGŨ BÁCH KẾT TẬP
Đoạn 10: NÓI VỀ PHÁP THẤT BÁCH KẾT TẬP
Từ nước Tu-lại-bà, Đức Phật cùng Đại chúng Tỳ-kheo năm trăm vị đến ấp Tỳ-lan-nhã và trú ngụ trong rừng cây. Ấp này có Bà-la-môn tên Tỳlan-nhã. Vua Ba-tư-nặc phong cho ông ta ấp này nên mang tên như thế. Ông ta nghe Đức Phật là giòng họ Thích xuất gia học đạo, thành bậc Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thấu suốt hết mọi tâm niệm của thế gian, khéo giảng nói chánh pháp đầu, giữa, cuối đều mang đầy đủ ý nghĩa thiện, mùi vị thiện và hình tướng phạm hạnh thanh bạch, cùng các đệ tử du hóa đến ấp này. Tỳ-lan-nhã rất đỗi vui mừng thốt nên lời: “Lành thay! Ta nguyện xin bái kiến Phật”. Lập tức, ông ta cùng năm trăm quyến thuộc tiền hô hậu ủng đến nơi Phật đang cư ngụ. Từ xa trông thấy Đức Thế Tôn nơi rừng cây với ánh sáng đặc thù, các căn đều tịch định, ông ta rất hớn hở, xuống xe đi bộ về phía Đức Thế Tôn, cung kính hỏi chào rồi ngồi qua một bên. Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì ông ta thuyết giảng pháp diệu khiến ông ta vui mừng vì lợi ích được chỉ bày. Từ tấm lòng hoan hỷ sau khi nghe pháp, ông ta liền bạch Phật:
Nguyện xin Phật và Tăng chúng nhận lời thỉnh của con đến an cư ba tháng để con được cúng dường.
Đức Phật dạy:
Đại chúng của Ta thì đông mà lòng tin của ông có khác, cách nhìn của ông có khác, niềm vui nơi tín ngưỡng của ông có khác, liệu được chăng?
Ông ta bạch Phật:
Tuy lòng tin của con có khác, cách nhìn và niềm vui có khác song đối với số chúng đông đảo của Thế Tôn thì không can gì!
Được ông thỉnh mời như vậy đến ba lần, Đức Phật mới nhận lời. Từ nơi chỗ ngồi đứng dậy, ông nhiễu quanh bên phải rồi cúi chào Phật ra về. Sau khi trở về nhà, ông cho chuẩn bị đầy đủ phẩm vật cúng dường an cư.
Lúc ấy, ma Ba-tuần nảy sinh ý niệm: “Nay người Bà-la-môn này thỉnh cầu Phật và Tăng chúng về an cư ba tháng, ta phải gây độc hại làm mê loạn ý nghĩ của hắn”. Ma liền thực hiện ý đồ. Bị ma làm mê hoặc, người Bà-la-môn này bèn lui vào trong nhà thọ hưởng dục lạc, ra lệnh cho người giữ cửa: “Ta nay muốn được nghỉ ngơi ba tháng trong khuôn viên nhà này, mọi sự việc bên ngoài dù xấu tốt gì cũng đều khỏi phải bẩm báo”. Ông ta hoàn toàn không nhớ đến việc thỉnh Phật và Tăng chúng.
Đã một thuở, quốc độ này tin theo tà đạo nên khắp cả ấp chưa có một Tinh xá, giảng đường. Phía Bắc thành có núi, có rừng, có nhiều dòng nước chảy trong lành, Đức Phật cùng đại chúng lấy nơi đây làm chỗ an cư. Vào thời điểm ấy gặp lúc mất mùa, khó tìm được nơi khất thực, chư Tăng chia nhau vào các xóm để khất thực cũng không nhận được thức ăn gì. Cũng vào thời điểm ấy, ở nước Ba-lợi có người lái buôn ngựa, đưa năm trăm con ngựa đi tránh nắng đầu mùa Hạ, thấy nơi ấp này có dòng nước mát và cỏ tươi nên thu gom ngựa dừng lại nơi đây để cho chúng nghỉ ngơi ăn uống.
Đến giờ khất thực, các Tỳ-kheo đến chỗ người chủ ngựa đứng im lặng (trong sự trầm mặc). Người chủ ngựa với tấm lòng thanh tịnh tin Phật, động lòng nghĩ đến các Tỳ-kheo khất thực không được, bèn từ tốn nói:
Tôi có loại lúa cho ngựa ăn, nếu quý thầy có thể dùng được thì tôi bớt nửa phần, một thăng xin biếu quý vị, chắc có thể đủ nuôi sống mà hành đạo.
Các Tỳ-kheo nói:
Đức Phật chưa cho phép chúng tôi ăn phần lúa của ngựa.
Các Tỳ-kheo đem sự việc này bạch Phật. Và nhân đó, Đức Phật cho tập hợp Tỳ-kheo Tăng rồi bằng nhiều cách, Ngài đề cao, khen ngợi hạnh thiểu dục, tri túc và nói trước các Tỳ-kheo: Từ nay về sau cho phép ăn phần lúa của ngựa.
Khi đó, Tôn giả A-nan nhận phần lúa của Phật rồi nhờ người làm bún cúng dường Đức Thế Tôn. Các chúng Tỳ-kheo trẻ thì tự giã nấu lấy để ăn.
Trong thời gian ấy, Tôn giả Mục-kiền-liên từ chỗ vắng lặng sinh ý niệm: “Hiện nay trong quốc độ này việc khất thực khó được, ta nên cùng với các vị có thần thông đến xứ Uất-đơn-việt lấy thức ăn bằng lúa gạo tự nhiên”. Với ý niệm này, Tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy, đến nơi Đức Phật đảnh lễ sát chân Ngài rồi đứng sang một bên, kính cẩn thưa:
Bạch Thế Tôn! Trong con đã phát sinh ý nghĩ: “Hiện nay, nơi quốc độ này khất thực khó được, con sẽ cùng với các vị có thần thông đến xứ Uất-đơn-việt để lấy thức ăn bằng lúa gạo tự nhiên. Đức Phật hỏi lại Tôn giả Mục-liên:
Riêng các thầy thì được rồi, còn đối với các Tỳ-kheo phàm phu thì giải quyết sao đây?
Tôn giả Mục-liên bạch Phật: Con sẽ vận dụng thần lực để tiếp giúp cho họ. Đức Phật bảo:
Đừng, đừng làm như vậy! Thầy tuy có được thần lực nhưng đối với nhân quả của nghiệp đời trước thì bỏ vào đâu? Lại nữa, đối với phàm phu đời đương lai thì sao?
Tôn giả Mục-liên ghi nhận lời dạy này của Phật, trong tư thế đứng im lặng sâu lắng.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất từ nơi chỗ vắng lặng, suy nghĩ: “Các Đức Phật trong đời quá khứ, phạm hạnh của Đức Phật nào không được lâu dài? Phạm hạnh của Đức Phật nào được trụ lâu?
Sau khi suy nghĩ, Tôn giả Xá-lợi-phất bèn từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, sụp lạy dưới chân Ngài rồi đứng lui qua một bên, kính cẩn bạch Phật:
Trong con đã gợi lên ý nghĩ: Các Đức Phật đời quá khứ, Đức Phật nào thì phạm hạnh không dài lâu? Đức Phật nào thì phạm hạnh trụ lâu?
Bấy giờ, Đức Phật hết lời khen ngợi Tôn giả Xá-lợi-phất:
Lành thay! Lành thay! Ý nghĩa của thầy rất sâu xa, câu hỏi của thầy cũng thật hay. Này Xá-lợi-phất! Đức Phật Duy Vệ, Đức Phật Thi Khí, Đức Phật Tùy Diếp thì phạm hạnh không lâu dài.
Đức Phật Câu Lâu Tôn, Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Đức Phật Ca-diếp thì phạm hạnh lâu dài. Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
Kính bạch Đức Thế Tôn! Do vì nguyên nhân nào mà phạm hạnh của ba Đức Phật ấy không được dài lâu, phạm hạnh của ba Đức Phật kia lại được bền vững?
Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
Ba Đức Phật ấy không vì đệ tử giảng nói rộng chánh pháp, không kiết giới cũng không nói Ba-la-đề-mộc-xoa nên sau khi Phật và đệ tử vào Niết-bàn, các đệ tử bao gồm nhiều chủng tộc xuất gia, nên phạm hạnh nhanh chóng chấm dứt. Ví như trên chiếc bàn trải nhiều loại hoa, đem đặt ở ngả tư đường, gió từ bốn phương thổi đến, hoa tùy theo gió mà bay tứ tản. Tại sao vậy? Vì không có dây buộc giữ nó lại. Cũng vậy, này Xá-lợi-phất! Ba Đức Phật ấy không vì đệ tử rộng giảng nói chánh pháp, không kiết giới, không nói Ba-la-đề-mộc-xoa, vì vậy phạm hạnh không được lâu dài. Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Đức Phật Tùy Diếp cùng một ngàn đệ tử du hành đến rừng Khủng Bố, sở dĩ có tên gọi ấy là vì người chưa lìa dục mà vào rừng này thì lông trong người đều dựng ngược lên. Ngài đã vì đệ tử không dùng lời nói mà dùng tâm niệm thuyết pháp: Các Tỳ-kheo nên nghĩ như thế này, không nên nghĩa như thế kia, nên suy tư như thế này, không nên suy tư như thế kia, nên đoạn điều này, nên tu điều này, nên y theo đây mà làm. Các Tỳ-kheo dùng tâm biết rõ như vậy rồi, các lậu liền dứt sạch, ý sáng tỏ đắc đạo quả A-la-hán.
Này Xá-lợi-phất! Đức Phật Câu Lâu Tôn, Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Đức Phật Ca-diếp vì đệ tử rộng giảng nói chánh pháp không biết mỏi mệt, như nói Tu Đa La, Kỳ Dạ, Thọ Ký, Già Đà, Ưu Đà Na, Ni Đà Na, Dục Đa Già Bà, Bổn Sinh, Tỳ Phú La, Vị Tằng Hữu, A Bà Đà Na, Ưu Ba Đề Xá, Kiết giới, nói Ba-la-đề-mộc-xoa. Sau khi Đức Phật và đệ tử vào Niết-bàn, các đệ tử tuy nhiều giòng họ xuất gia nhưng phạm hạnh không sớm bị tiêu diệt. Ví như các loại hoa đã dùng sợi chỉ xâu kết lại để trên bàn, đem đặt ở ngả tư đường, dù có gió bốn phương thổi đến cũng không bay tứ tản được. Vì sao thế? Chính sợi chỉ xâu đã buộc giữ nó lại. Cũng như vậy, này Xá-lợi-phất! Ba Đức Phật này vì đệ tử rộng giảng nói các pháp như đã đề cập ở trên, chính vì thế mà phạm hạnh được bền vững.
Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
Kính bạch Thế Tôn! Nếu vì lẽ không rộng giảng nói pháp, không kiết giới, không nói Ba-lađề-mộc-xoa mà phạm hạnh không được trụ lâu thì cúi xin Đức Thế Tôn vì các đệ tử rộng giảng nói pháp, kiết giới, nói Ba-la-đề-mộc-xoa, phải chăng chính nay đã đúng lúc?
Đức Phật dạy:
Thôi đi! Ta tự biết khi nào thì đúng lúc. Này Xá-lợi-phất! Trong chúng thanh tịnh của Ta chưa có và cũng chưa hề xảy ra sự việc gì, kẻ thấp nhất cũng đắc quả Tu-đà-hoàn, đủ chứng minh sự trong sạch trong chúng của Ta rồi. Các Đức Phật Như Lai chưa bao giờ kiết giới cho hàng đệ tử khi các pháp hữu lậu chưa phát sinh. Trong chúng của Ta đây chưa có ai cậy cho mình là đa văn nên không sinh các lậu hoặc, chưa hề có ai mang tiếng vì lợi dưỡng, chưa hề có người có nhiều ham muốn, chưa hề có người hiện thần túc cho trời, người quen biết nên không phát sinh các lậu hoặc.
Bấy giờ đã hết ba tháng an cư, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:
Ông và Ta cùng đến chỗ Tỳ-lan-nhã.
Tôn giả A-nan vâng lời, y phục tề chỉnh theo hầu Phật. Khi đến cửa ngõ, lúc Bà-la-môn đang thọ hưởng dục lạc, từ trên lầu cao trông thấy Đức Thế Tôn, ông ta liền sực nhớ, vội vàng xuống lầu lau chỗ ngồi, cung thỉnh Phật an tọa. Ông ta gieo năm chi thể sát đất, đảnh lễ Phật, hối hận tự trách:
Con là người ngu si, đã thỉnh Phật an cư mà không cúng dường. Không phải con có lòng tiếc rẻ cũng không phải thiếu phương tiện, chỉ vì con đã quên mất không còn nhớ. Cúi mong Đức Thế Tôn nhận cho con sự sám hối này.
Đức Phật dạy:
Ông quả là ngu si, thỉnh Phật và Tăng mà không cúng dường, sám hối là điều hợp lý. Nay Ta và chúng Tăng nhận sự sám hối của Ông.
Đức Phật lại bảo Bà-la-môn.
Trong Thánh pháp của người biết sám hối thì pháp thiện được tăng trưởng.
Người Bà-la-môn lại bạch Phật:
Nguyện xin Phật và Tăng lưu lại đây một tháng để con được cúng dường.
Đức Phật không nhận, lại có lời dạy:
-Ông là người Bà-la-môn lòng tin có khác, nhận thức có khác nhưng ông đã có thể thỉnh được Phật rồi, đó là việc lớn.
Bà-la-môn ba lần thỉnh mời như vậy, Đức Phật đều không nhận lời, Ngài nói:
Ta đã an cư nơi đây ba tháng, nay cần du hóa, không thể ở lại được.
Người Bà-la-môn lại tha thiết bạch Phật:
Cúi xin Đức Thế Tôn nhận bữa cơm cúng dường tiễn đưa của con vào ngày mai.
Đức Phật im lặng nhận lời.
Ngay trong đêm đó, Bà-la-môn cho chuẩn bị đầy đủ các thức ăn thượng vị.
Sáng ngày sau, đến gần thời thọ thực, ông ta trải phu cụ lên tòa ngồi rồi đúng thời thỉnh Phật quang lâm. Đức Thế Tôn cùng chúng đệ tử đến đông đủ rồi an tọa nơi các chỗ ngồi. Bà-la-môn Tỳ-lan-nhã sau khi thiết lễ tác bạch cúng dường, đích thân hầu hạ dâng từng món ăn, lại tận tay đem nước đến. Sau khi ăn xong, ông ta dâng cúng lên Phật bốn trương vải Kiếp bối và một đôi dép, còn chúng Tăng hai trương vải Kiếp bối và một đôi dép. Đây gọi là phẩm vật cúng dường an cư. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật chưa cho chúng tôi nhận phẩm vật cúng dường an cư.
Nhân sự việc này, các Tỳ-kheo thỉnh thị ý kiến Phật. Đức Phật đã hết lời đề cao khen ngợi hạnh tri túc, thiểu dục, đề cao giới khen ngợi người trì giới rồi bảo các Tỳ-kheo:
Nhân sự cúng dường của Tỳ-lan-nhã, từ đây về sau cho phép nhận phẩm vật an cư.
Phẩm vật cúng dường của Tỳ-lan-nhã, đã được phép, các Tỳ-kheo thọ nhận.
Về phía người Bà-la-môn, tâm ông vô cùng hoan hỷ. Ngồi trên chiếc ghế nhỏ đối diện với Đức Phật, ông ta lắng nghe Đức Phật nói kệ tùy hỷ:
Tất cả sự thờ cúng
Thờ lửa là hơn hết
Các học thuyết khác biệt
Tát Bà Đế cao nhất.
Trong tất cả hạng người
Vua Chuyển Luân hơn hết
Nước trong mọi dòng chảy
Nước biển cả nhiều nhất.
Mọi nguồn sáng chiếu rọi
Nguồn trời, trăng sáng nhất
Phước cả thế gian này
Ruộng phước Phật là nhất.
Ngay sau khi nói kệ này, Đức Thế Tôn thuyết pháp. Người Bà-la-môn vui mừng vì điều lợi ích được Đức Phật chỉ rõ ràng.
Rời ấp Tỳ-lan-nhã, Đức Phật cùng chúng Đại Tỳ-kheo đi về nước Tăng-già-thi, du hóa khắp cả nước này, sau cùng đến Tỳ-xá-ly trú tại giảng đường Trùng các bên bờ sông Di-hầu. Tại đây bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di, cùng quốc vương, Đại thần, Sa-môn, Bà-lamôn cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán Ngài.
Bấy giờ, các trưởng giả người ấp Ca-lan-đà nhân có sự việc vào thành, nghe Đức Phật-Thế Tôn ở tại giảng đường Trùng các, nên cùng rủ nhau đến chỗ Phật. Họ trông thấy Đức Phật Thế Tôn đang giảng nói pháp trước một rừng người, đủ mọi tầng lớp vây quanh. Trong rừng người ấy có con trưởng giả Ca-lan-đà tên là Tu-đề-na, Tuđề-na nghe pháp rất hoan hỷ, liền gợi lên ý nghĩ: Như lời Phật dạy đã lý giải cho ta thấy: “Phàm người tại gia thì bị ân ái ràng buộc không thể trọn đời tu phạm hạnh được. Xuất gia không bị đắm vướng, ví như hư không. Nay ta đâu có thể đặt lòng tin vào gia đình mà phải xuất gia tu đạo”.
Chúng hội ra về, Tu-đề-na đến trước Đức Phật, đảnh lễ sát chân và thưa:
Kính bạch Đức Thế Tôn! Con đã hết lòng nghe Ngài thuyết pháp, trong con gợi lên ý niệm: “Như lời Phật dạy đã lý giải cho thấy: Phàm người tại gia thì bị ân ái ràng buộc, không thể trọn đời tu phạm hạnh. Xuất gia không bị đắm vướng ví như hư không. Nay con đâu có thể đặt lòng tin vào gia đình mà phải xuất gia tu đạo”. Kính bạch Đức Thế Tôn! Con đã có ý niệm như vậy, nay muốn xuất gia, cúi xin Ngài nhận cho con được xuất gia thọ giới.
Đức Phật dạy:
Tốt lắm, nhưng cha mẹ của con đã cho phép hay chưa?
Dạ thưa chưa được phép, Tu-đề-na kính cẩn đáp lời.
Đức Phật dạy:
Theo pháp của Phật, cha mẹ không cho phép thì không được nhận vào đạo. Tu-đề-na liền bạch Phật:
Nay con xin trở về để xin phép cha mẹ.
Đức Phật dạy:
Con nên thực hiện ngay.
Tu-đề-na nhanh nhẹn từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh bên phải ba vòng rồi trở về nhà. Tu-đềna thưa với cha mẹ:
Con nghe Đức Phật dạy: Tại gia luôn bị ràng buộc chặt chẽ, nay con xin phép cha mẹ được xuất gia tu phạm hạnh.
Cha mẹ gạt ngay:
Thôi đi Tu-đề-na! Con đừng nói điều đó. Trước đây cha mẹ không có con, tế cúng cầu khẩn thần kỳ mới có được mụn con. Con là đứa con duy nhất của cha mẹ, tình thương của cha mẹ đối với con quá ư sâu nặng, dù chết cũng không muốn xa nhau, huống chi là sống biệt ly. Nhà mình nhiều của cải, vàng bạc, châu báu, con cứ tu phước theo ý muốn, với đời tận hưởng thú vui, không phiền gì phải xuất gia để lòng thương của cha mẹ bị tan nát.
Ba lần khẩn thiết cầu xin, cha mẹ vẫn không hứa nhận, Tu-đề-na liền từ chỗ ngồi đứng dậy, một mình đến ở nơi chốn vắng vẻ lập lời thề: “Nếu không được xuất gia, dứt khoát không bao giờ ăn uống, đối với nguyện này thà chết, đâu cần phải sống uổng phí”. Tu-đề-na không ăn cho đến ngày thứ sáu. Thần thích nghe tin động lòng đến khuyên bảo.
Cha mẹ anh chỉ có một mình anh là con, tình thương rất là sâu nặng, chết không còn muốn xa lìa, huống chi là sống mà biệt ly. Nhà anh quá giàu có, có thể gieo trồng phước đức, đạo do nơi tâm chứ đâu ở nơi hình thức áo quần, hà tất phải sống với khổ cực, làm ngược lại ý của cha mẹ. Khuyến dụ như vậy đến Ba lần, Tu-đề-na vẫn im lặng điềm nhiên không trả lời.
Bấy giờ tới lượt các bạn bè cùng đến, dùng hết lời can gián tha thiết như trên, cũng bị thất bại như vậy, tất cả đều rút lui.
Họ đến chỗ cha mẹ Tu-đề-na, đều nói:
Theo nhận xét của chúng tôi, không thể thuyết phục làm lay chuyển được Tu-đề-na. Tốt hơn ông bà nên cho phép Tu-đề-na xuất gia, theo thời gian sẽ thấy rõ, người không vui sống với đạo ắt sẽ quay về, ngày ấy không xa, chứ đã trên sáu ngày tuyệt thực rồi, mạng sống mong manh, trong vài ngày nữa ắt phải đem bỏ nơi hoang dã, mặc cho chim quạ, cọp beo tranh nhau xâu xé.
Làm cha, làm mẹ sao nỡ nhẫn tâm trước thảm cảnh này.
Cha mẹ Tu-đề-na ngậm ngùi nuốt lệ nói:
Đành phải chấp nhận cho con tôi xuất gia tu phạm hạnh, nhưng làm thế nào phải hứa có thời gian trở về nhà để thăm viếng.
Thần thuộc bạn bè nghe ý kiến ấy đều vui mừng nhẹ nhõm, liền đến báo cho Tu-đề-na hay: Cha mẹ anh đã cho phép anh xuất gia rồi, nhưng đừng quên là về nhà thăm viếng.
Tu-đề-na rất đỗi vui mừng đến gặp cha mẹ và thưa: Nay con đến với Đức Phật xuất gia tu đạo. Cha mẹ nước mắt chảy ròng buồn rầu nói:
Cha mẹ đồng ý cho con xuất gia tu phạm hạnh nhưng phải hứa đừng quên về nhà thăm cha mẹ.
Tu-đề-na ghi nhận, bái từ cha mẹ, nhiễu quanh ba vòng rồi ra đi. Trở lại với Đức Phật, Tu-đề-na đảnh lễ sát chân Ngài rồi thưa:
Kính bạch Thế Tôn! Cha mẹ con đã cho phép rồi, cúi xin Ngài cho con xuất gia thọ giới.
Đức Phật dạy:
Lại đây, này Tỳ-kheo để tu các phạm hạnh! Ta thuyết pháp hoàn hảo để đoạn trừ tất cả khổ ách.
Sau khi nghe Phật thuyết giáo, tóc râu Tu-đề- na tự rụng, thân khoác áo cà sa, tay bưng bình bát trở thành Sa-môn, đắc giới Cụ túc.
Xuất gia chưa được bao lâu gặp lúc mất mùa, các Tỳ-kheo vào thành khất thực đều không nhận được thức ăn. Trong chỗ thanh vắng, Tu-đề-na khởi lên ý nghĩ: “Hiện nay mất mùa, khất thực khó lòng ai cho, nơi quê nhà ta thức ăn lại dư dật, ta nên đưa các Tỳ-kheo về lại bổn ấp để được cúng dường tu phước, cơ hội tốt để độ giòng họ ta”.
Với suy nghĩ ấy, Tu-đề-na từ chỗ ngồi đứng dậy rồi cùng các Tỳ-kheo trở về quê quán, trú trong rừng cây.
Hay tin này, cha mẹ Tu-đề-na hối thúc người con dâu:
Con phải trang điểm hết sức lộng lẫy với y phục mà con ta khi còn ở nhà đắc ý nhất. Trang điểm xong cha mẹ đưa con dâu mình đến khu rừng, nơi trú ngụ của các Tỳ-kheo. Trông thấy cha mẹ đến, Tu-đề-na đứng lên tiếp đón chào hỏi. Cha mẹ Tu-đề-na nói với lời lẽ khó chịu:
Tại sao con phải tự hủy thân mình nơi rừng sâu thế này? Con hãy bỏ đạo trở về nhà tu thiện?
Tu-đề-na ôn tồn thưa với cha mẹ:
Con không thể bỏ đạo trở về nhà sống đời sống thấp kém như thế!
Có đến Ba lần cha mẹ khẩn khoản như vậy, song Tu-đề-na vẫn sắt son kiên định. Cha mẹ Tuđề-na đành ngậm ngùi ra về.
Con dâu của ông bà trưởng giả Ca-lan-đà, tính theo nguyệt thủy, biết số ngày “Không an toàn” liền thưa với mẹ chồng. Bà mẹ chồng vui mừng nói: “Đó là thời kỳ có thể thụ thai”. Bà ta khuyên con dâu trang điểm mặc y phục lộng lẫy như trước. Cha mẹ lại đưa con dâu đến khu rừng các Tỳ-kheo đang trú ngụ. Tu-đề-na chào hỏi như lần trước. Song thân lại nói:
Tại sao con lại tự hủy hoại thân hình mình nơi rừng cây này? Tại sao con phải chấp nhận gió sương, đói khát, lạnh lẽo, khốn khổ ấy? Nhà con giàu có, thiên hạ đều biết. Chỉ riêng về số châu báu của phần con đã chất cao quá đầu người, huống chi là của cải nơi cha mẹ gộp lại thì vô số, ai có thể sánh kịp. Con hãy trở về nhà tha hồ tu thiện. Hiện tại, với đời thọ hưởng thú vui, về sau lại hưởng cả phước đức.
Tu-đề-na thưa với cha mẹ:
Như chỗ con biết thì năm dục làm tổn hại đến đức, hoan lạc chỉ trong chớp nhoáng mà ưu khổ thì lại kéo dài mãi, con không vì thế mà bỏ tu phạm hạnh.
Chiêu dụ đến ba lần nhưng Tu-đề-na vẫn trả lời kiên quyết như vậy. Song thân lại nói:
Con tuy là con của ta, nay theo giòng họ Thích đó là đạo trái với ta, đâu còn lời gì để nói. Nghiệt một nỗi, tổ tiên thôi người kế thừa, nghĩa tình này nặng lắm con ơi! Theo luật nước không có người thừa kế thì toàn bộ tài sản thuộc về nhà quan. Cha mẹ đã chuẩn bị cả rồi, con đâu biết rằng tất cả kỳ vọng đều đặt nơi con là người kế tục giòng họ. Con hãy nghĩ kỹ về điều ấy! Cha mẹ đã nói hết lời rồi đó!
Khi nghe lời nói này Tu-đề-na bùi ngùi khóc, mặc nhiên chấp nhận, ông ta cùng với người vợ quay về chốn cũ. Tại bổn thất ba lần trở lại đường cũ hành dâm. Trong bối cảnh này, liền có vị thần hạ sinh ấy là vị trời Đại-oai-đức, nơi cõi Đâu Suất, mạng chung nhập vào thai. Bấy giờ, Địa thần báo với thần Hư không: “Con của Ca-lan-đà ở trong chúng Tăng chưa từng sánh, lại làm cái việc chưa từng có”. Thần Hư không báo cho Tứ Thiên vương. Tứ Thiên vương báo cho Đao lợi Thiên và lần lượt báo cho nhau đến trời Phạm thiên. Vợ Tu-đề-na đủ tháng sinh con, thông minh đặt tên là Tục-chủng, lớn lên xuất gia tu thành bậc A-la-hán.
Khi đã phạm phải điều ác rồi, Tu-đề-na liền tự hối trách: “Nay ta đánh mất điều ích lợi. Tại sao xuất gia trong chánh pháp của Đức Phật mà không tu phạm hạnh một cách rốt ráo, để rồi phải xanh xao, mất hết khí lực thế này?”. Các Tỳ-kheo thấy vậy hỏi:
Trước kia sắc diện thầy rất tốt, tại sao nay lại tiều tụy như thế? Phải chăng thầy đã không vui với phạm hạnh? Phải chăng đã phạm phải tội ác? Tu-đề-na trả lời:
Tôi đã phạm phải tội ác nên mới ra nông nỗi này! Các Tỳ-kheo liền hỏi tiếp:
Thầy phạm tội ác gì vậy? Tu-đề-na đáp:
Tôi đã cùng với bổn nhị làm hạnh bất tịnh. Các Tỳ-kheo nói:
Việc thầy làm là bất thiện, chẳng phải hạnh thanh tịnh, chẳng phải pháp của Sa-môn, không tùy thuận chánh đạo.
Hằng loạt quở trách Tu-đề-na như thế và sau khi quở trách đúng như lời Phật dạy, các Tỳ-kheo đưa Tu-đề-na đến chỗ Đức Phật, trình bày lên Phật sự việc xảy ra. Đức Phật vì sự việc này, tập hợp các Tỳ-kheo Tăng. Pháp thông lệ của chư Phật có trường hợp biết mà vẫn hỏi, có trường hợp biết mà không hỏi, biết hỏi đúng lúc, không đúng lúc không hỏi, hỏi khi có lợi ích, không lợi ích thì không hỏi. Thường pháp của chư Phật là có năm trăm vị thần Kim cang hộ vệ ở hai bên. Nếu Đức Phật hỏi ba lần mà không trả lời như thật thì đầu bị đập vỡ làm bảy phần. Đức Phật hỏi các Tỳ-kheo:
Các thầy muốn nói điều gì?
Các Tỳ-kheo trình bày lại vấn đề. Đức Phật hỏi Tu-đề-na:
Thật sự ông có làm như vậy không? Tu-đề-na thưa: Thật đúng như vậy, bạch Thế Tôn. Đức Phật dạy:
Ông là người ngu si, làm điều bất thiện, chẳng phải hạnh thanh tịnh, chẳng phải pháp của Sa-môn, không tùy thuận chánh đạo. Điều này không thể khiến cho người chưa tin, tin theo được, khiến cho người đã tin bị giảm sút lòng tin. Ông há không nghe Ta từng lập đi, lập lại sự quở trách về dục, tưởng dục, cảm giác dục, lửa dục và khen ngợi sự đoạn dục, xa lìa tưởng dục, trừ cảm giác dục, diệt lửa dục hay sao? Ta thường nói: Dục như đống xương đỏ, như hầm lửa lớn, như dao sắc bén, như mũi tên nhọn, như rắn độc, như thuốc độc, như huyễn, như mộng làm mê hoặc con người. Tại sao nay ông lại làm việc ác lớn như vậy? Ông đâu không nghe chỗ cốt yếu pháp Ta nói là cho người ta chưa lìa dục được lìa dục, người phóng dật khiến không phóng dật, có khả năng đoạn khát ái, xa lìa pháp hữu vi, là bậc vô học lìa dục hướng đến đạo vô vi, chỉ vẽ cho người con đường chính để cuối cùng đạt đến Niết-bàn hay sao? Ông đâu không sợ cái khổ của ba đường ác? Nếu ông không làm điều đại ác này, trong chánh pháp của Ta ắt sẽ được vô lượng điều công đức thiện. Ông là người đầu tiên mở cửa lậu hoặc, làm điều đại ác này. Ma Batuần thường dò xét mọi lỗi lầm của các Tỳ-kheo, nay ông lại mở ra cho ma con đường tắt, xô ngã cờ pháp, xây dựng ngọn cờ đầu cho ma. Này Tuđề-na! Thà là đem phần thân xác này để vào trong lò lửa lớn hay miệng rắn độc, chớ không nên đem nó xúc chạm đến thân người nữ. Việc ác ông đã phạm, vĩnh viễn trôi lăn trong đường sinh tử, hoàn toàn không thể nuôi lớn pháp thiện. Sau khi Đức Phật bằng lòng thương, bằng sự nghiêm khắc quở trách Tu-đề-na rồi bảo các Tỳ-kheo:
Nay Ta vì các Tỳ-kheo mà kiết giới. Việc kiết giới có mười điều lợi. Mười điều lợi ấy là những gì?
Tăng hòa hợp.
Thâu tóm chúng Tăng.
Điều phục người ác.
Người có hổ thẹn được an lạc.
Đoạn lậu hoặc đời này.
Đoạn lậu hoặc đời sau.
Khiến người chưa tin tin tưởng.
Người đã tin rồi càng được tăng trưởng mở rộng lòng tin.
Chánh pháp trụ lâu.
Phân biệt Tỳ-ni khiến phạm hạnh lâu bền.
Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo nào hành pháp dâm dục thì phạm Ba-la-di, không được sống chung”.
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Có Tỳ-kheo Alan-nhã sống một nơi thanh vắng, ở đấy có bầy khỉ sống gần bên Tỳ-kheo. Lúc này có một Tỳ-kheo khởi niệm nghĩ đến con khỉ cái, đã dùng thức ăn dụ nó để cùng hành dâm. Sau đó, có nhiều Tỳ-kheo đi tuần xét ngọa cụ đến trú xứ của Tỳ-kheo này. Trong khi Tỳ-kheo ấy vào thành khất thực, con khỉ cái kia đến chỗ các Tỳ-kheo biểu hiện tướng dâm dục. Các Tỳ-kheo cùng tuần xét ấy có chung nhận định: “Xét hiện tướng của con khỉ cái này ắt có vấn đề”. Và hiện trạng của vấn đề ấy đã xảy ra trước sự dò xét kín đáo của các Tỳ-kheo: Không bao lâu Tỳ-kheo ở nơi trú xứ này khất thực trở về, con khỉ cái liền đến hiện tướng thọ dục, ngay lúc ấy Tỳ-kheo kia cùng với con khỉ cái hành dâm…
Thấy rõ vấn đề, các Tỳ-kheo nói:
Thầy không nghe Đức Phật kiết giới: Tỳ-kheo hành dâm dục phạm Ba-la-di hay sao?
Thầy ta liền đáp:
Phật cấm hành dâm với người nữ chứ đâu cấm với súc sinh. Các Tỳ-kheo vặn lại:
Người nữ với súc sinh có khác gì đâu? Thầy đã làm việc bất thiện, chẳng phải hạnh thanh tịnh, chẳng phải pháp Sa-môn, không hợp với chánh đạo. Chính việc làm này không thể khiến người chưa tin có được lòng tin, người đã có lòng tin rồi khiến họ thoái lui. Thầy đâu lại không nghe Đức Thế Tôn từng nhiều lần quở trách về dục, tưởng dục, cảm xúc về dục, lửa dục… (như trên).
Sau khi quở trách, các Tỳ-kheo đưa Tỳ-kheo ấy đến trước Phật trình bày đầy đủ mọi sự việc đã xảy ra. Nhân sự việc này, Đức Phật cho tập hợp các Tỳ-kheo Tăng. Ngài hỏi Tỳ-kheo ấy:
Thật sự thầy có làm như vậy không? Tỳ-kheo ấy thưa:
Bạch Thế Tôn, thật đúng như vậy. Đức Phật dạy: Thầy là người ngu si, việc làm của thầy là phi pháp.
Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách như trên, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay về sau giới này được nói như sau:
“Nếu Tỳ-kheo hành pháp dâm dục, kể cả loài súc sinh, phạm Ba- la-di, không được sống chung”.
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ có số đông trong chúng Tỳ-kheo không vui thích với đời sống phạm hạnh, cùng nhau nói: “Xuất gia trong pháp của Phật thật là khổ sở. Chúng ta nên cùng nhau làm nghi pháp của bạch y, nghi pháp của ngoại đạo, làm việc của bạch y, làm việc của ngoại đạo, đúng thời cũng vào xóm, không đúng thời cũng vào xóm, làm việc sát sinh, trộm cắp, dâm dục, uống rượu, ăn thịt, ngày đêm xem hát, ca xướng tự do vui thích”. Số Tỳ-kheo này nói năng hành động như thế, không có sự xấu hổ nào cả. Trong khi ấy, các Tỳ-kheo trì giới, thiểu dục, tri túc, bằng mọi cách quở trách số Tỳ-kheo ấy rồi đưa họ đến trước Phật trình bày mọi sự việc đã xảy ra. Nhân việc này, Đức Phật cho tập hợp Tỳ-kheo Tăng. Ngài hỏi:
Các thầy thật có nói như vậy không?
Các Tỳ-kheo thưa:
Bạch Thế Tôn! Thật đúng như vậy.
Đức Phật bằng lời lẽ nghiêm khắc quở trách:
Các thầy không được nói làm theo nghi pháp của ngoại đạo, làm theo nghi pháp của bạch y. Nếu nói, làm theo nghi pháp của ngoại đạo thì mỗi lời nói phạm một Thâu-lan-giá, làm theo nghi pháp bạch y thì phạm Đột-kiết-la.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy có Tỳ-kheo sống nơi ấp Bạt-kỳ tên là Tôn-đà-la-nan-đà được nhiều người quen biết ở đây cúng dường, cung kính nhưng không vui thích tu phạm hạnh, làm theo nghi pháp của ngoại đạo, nghi pháp của bạch y, làm việc sát sinh, trộm cắp, dâm dục và mọi việc ác khác. Đối với các cư sĩ không có lòng tin ưa thích Phật pháp bèn chê bai: “Tại sao Samôn Thích tử lại làm các điều ác như vậy!”. Họ báng bổ khắp nơi. Tỳ-kheo Tôn-đà-la cũng thọ năm dục lạc. Các Tỳ-kheo này không có hạnh Samôn, không có hạnh Bà-la-môn, không thọ pháp Sa-môn, không thọ pháp Bà-la-môn. Các Tỳ-kheo này, nơi nào họ không đến, nơi đó có được điều thiện, điều lợi lạc. Tiếng xấu ác của họ như thế là lan truyền khắp thiên hạ. Khi ấy, Tôn-đà-la trở lại trong chúng tác bạch: “Cho tôi xuất gia, thọ giới”. Các Tỳ-kheo nói: “Cần phải bạch Đức Thế Tôn”, rồi các Tỳ-kheo bạch lên Phật. Nhân sự việc này Đức Phật cho tập hợp các Tỳ-kheo Tăng và bảo:
Tôn-đà-la chẳng phải là Tỳ-kheo, nếu đã thọ giới thì Bạch-tứ-yết-ma tác pháp diệt tẫn. Vị Thượng tọa hay tương đương cấp bậc Thượng tọa biết pháp luật nên tác bạch như sau:
“Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo Tônđà-la giới bị sút kém, không xả, hành pháp dâm dục. Nay Tăng tác pháp Yết-ma-diệt tẫn Tỳ-kheo Tôn-đà-la. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, đây là lời tác bạch”.
“Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo Tônđà-la giới sút kém, không xả, hành pháp dâm dục. Nay Tăng trao cho Tỳ-kheo Tôn-đà-la pháp Yết-ma-diệt tẫn. Các trưởng lão nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì xin nói”. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy.
“Tăng đã trao cho Tỳ-kheo Tôn-đà-la pháp diệt tẫn rồi, Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy”.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
-Nếu Tỳ-kheo nào nói, làm theo nghi pháp bạch y, nghi pháp ngoại đạo thì không gọi là xả giới. Nếu miệng nói: “Tôi xả giới” như vậy là xả giới. Từ nay về sau, giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo cùng các Tỳ-kheo đồng học giới pháp, giới sút kém, không xả, hành pháp dâm dục, cho đến cùng với loài súc sinh, Tỳ-kheo như vậy phạm tội Ba-la-di, không được sống chung”. Tỳ-kheo có nhiều hạng: Tỳ-kheo khất thực, Tỳ-kheo mặc y hoại sắc cắt rọc, Tỳ-kheo phá ác, Tỳ-kheo chân thật, Tỳ-kheo kiên cố, Tỳ-kheo thấy được lỗi lầm, Tỳ-kheo một lời thọ giới, Tỳ-kheo hai lời thọ giới, Tỳ-kheo ba lời thọ giới, Tỳ-kheo khéo đi đến thọ giới, Tỳ-kheo như pháp Bạch-tứ-yết-ma thọ giới. Như vậy gọi là Tỳ-kheo. Đồng học: Như lời Phật dạy trọn đời không phạm, đồng học những học xứ như vậy gọi là đồng học.
Giới pháp: Giới đã thọ không có khiếm khuyết, không phát sinh pháp giới ác, thành tựu pháp giới thiện, định cộng giới.
Giới sút kém không xả: Xả giới khi ngủ, hướng đến người ngủ xả giới. Xả giới khi say, hướng đến người say xả giới. Xả giới khi cuồng, hướng đến người cuồng xả giới, hướng đến người tâm tán loạn xả giới, xả giới với tâm bệnh hoạn, hướng đến người tâm bệnh hoạn xả giới, hướng đến không phải chúng sinh, hướng đến không phải người, hướng đến súc sinh xả giới, sai sứ viết thư xả giới, ra dấu xả giới, cử động tay xả giới, nói lời tương tợ xả giới. Một mình tưởng một mình, một mình không tưởng là một mình, không phải một mình tưởng một mình xả giới. Người nói tiếng vùng giữa nước hướng đến người biên địa, người nói tiếng biên địa hướng đến người vùng giữa nước xả giới, vui đùa xả giới, nói lời bất định xả giới, tâm giận xả giới, cưỡng bức xả giới, không nên hướng đến người để xả giới mà nói xả giới. Tất cả điều nêu trên không gọi là xả giới. Không nói lên lời xả giới thì không gọi là xả giới. Như vậy gọi là không xả giới. Ngược lại với trên là xả giới. Hoặc giới sút kém nhưng chẳng phải là xả giới, hoặc xả giới nhưng chẳng phải sút kém, hoặc giới sút kém cũng là xả giới, hoặc chẳng phải giới sút kém cũng chẳng phải xả giới.
Thế nào là giới sút kém nhưng chẳng phải là xả giới? Nếu Tỳ-kheo không ưa tu phạm hạnh, hay không thích tu phạm hạnh mà còn kính Phật, Pháp, Tăng, kính giới, kính pháp Sa-môn, kính pháp Tỳ-kheo, kính Tỳ-ni, kính Ba-la-đề-mộcxoa, kính Hòa thượng, A-xà-lê, đồng Hòa thượng, A-xà-lê, kính người đồng phạm hạnh, không hủy Tam tôn, mà nhờ xóm làng, vườn tược, ao hồ, núi rừng, cây cối, cha mẹ, anh chị em, con trai, con gái cho đến đứa ăn, đứa ở v.v… nhớ nghĩ như vậy, sầu ưu không vui, suốt đời không phạm đến phạm hạnh, như vậy gọi là giới sút kém nhưng chẳng phải là xả giới.
Thế nào là xả giới nhưng chẳng phải là giới sút kém? Nếu Tỳ-kheo không thích tu phạm hạnh, và tuy không thích tu phạm hạnh nhưng còn kính Phật cho đến kính người đồng phạm hạnh. Vị ấy với ý nghĩ muốn làm Sa-di, hoặc Ưubà-tắc, cho đến muốn làm Phạm chí ngoại đạo, chẳng phải Sa-môn Thích tử. Vị ấy lại nghĩ: “Nay ta muốn xả Phật, Tăng, xả giới, xả Tỳ-ni, xả Ba-la-đề-mộc-xoa, xả Hòa thượng, xả A-xàlê, đồng Hòa thượng, A-xà-lê, xả người đồng phạm hạnh, rồi liền nói như vầy: “Nay tôi xả Phật, Phật có ích gì? Phật có nghĩa gì? Nay tôi thoát khỏi Phật”, cho đến nói: “Nay tôi được thoát khỏi người đồng phạm hạnh”. Vị ấy lại nói: “Tôi thích hợp với nếp sống chẳng phải Sa-môn Thích tử”. Phỉ báng Phật, Pháp, Tăng như vậy cho đến phỉ báng người đồng phạm hạnh, khởi lên các ý niệm như thế, đối với trước một người lòng nghĩ, miệng nói như thế thì gọi là xả giới nhưng chẳng phải là giới sút kém. Thế nào gọi là giới sút kém cũng là xả giới?
Nếu Tỳ-kheo không ưa tu phạm hạnh, ít kính Phật, Pháp, Tăng, cho đến ít kính người đồng phạm hạnh, nhớ nghĩ làng xóm cho đến đứa ăn, đứa ở, nghĩ như sau: “Nay ta muốn xả Phật, Pháp, Tăng cho đến xả người đồng phạm hạnh”, rồi liền nói: “Nay tôi xả Phật, Phật có ích gì? Phật có nghĩa gì? Nay tôi đối với Phật được thoát khỏi, cho đến thoát khỏi người đồng phạm hạnh”. Vị ấy lại nói: “Tôi thích sống chẳng phải Sa-môn Thích tử”. Hủy báng Phật, Pháp, Tăng như vậy, cho đến hủy báng người đồng phạm hạnh, khởi các ý niệm như thế rồi hướng đến người, tâm nghĩ miệng nói như thế thì gọi là giới sút kém cũng là xả giới.
Thế nào gọi là chẳng phải giới sút kém, cũng chẳng phải xả giới? Nếu Tỳ-kheo đối với giới mình đã thọ, kiên trì không xả, không động, không chuyển. Như vậy gọi là chẳng phải giới sút kém, cũng chẳng phải xả giới.
Hành pháp dâm dục: Pháp dâm dục tức là chẳng phải là pháp phạm hạnh, là pháp biếng trễ, là pháp đáng ghét. Hai thân giao hợp, xuất bất tịnh là thực hiện pháp dâm dục.
Ba-la-di: Tức là pháp đọa, pháp ác, pháp đoạn đầu, chẳng phải pháp của Sa-môn.
Không sống chung: Như trước kia còn là bạch y, không được cùng với Tỳ-kheo học một loại, học như nhau, học không như nhau, học không cùng loại. Không cùng với Tỳ-kheo Yết-ma một loại, Yết-ma như nhau, Yết-ma không như nhau,
Yết-ma không cùng loại. Không cùng với Tỳ-kheo cùng thuyết giới, thuyết giới như nhau, thuyết giới không như nhau, thuyết giới không cùng loại. Như vậy gọi là không sống chung.
Các Đức Phật Thế Tôn khéo nói chánh pháp, cũng khéo nói thí dụ: Người phạm dâm dục như cây kim bị sứt phần, không thể dùng được, như người đã chết không thể sống lại, như hòn đá bị vỡ không thể hợp lại, như cây Đa-la chặt đứt đọt không thể sống lại. Tỳ-kheo nào cùng ba loại chúng sinh sau đây hành dâm thì phạm Ba-la-di: nhân, phi nhân, súc sinh. Tỳ-kheo cùng ba giống cái hành dâm phạm Ba-la-di: nữ nhân, nữ phi nhân, súc sinh cái. Cùng ba giống đực: nam nhân, nam phi nhân, súc sinh đực. Ba loại huỳnh môn: nhân huỳnh môn, phi nhân huỳnh môn, súc sinh huỳnh môn. Ba loại vô căn: nhân vô căn, phi nhân vô căn, súc sinh vô căn. Ba loại hai căn: người hai căn, phi nhân hai căn, súc sinh hai căn. Hành dâm với những hạng trên cũng như vậy. Tỳ-kheo cùng nữ nhân, nữ phi nhân, súc sinh cái hành dâm ba nơi: đường đại, đường tiểu, và miệng, khi họ ngủ, khi say, khi cuồng, khi tâm tán loạn, khi tâm bệnh hoạn, thây chết bị ăn phân nửa, phạm Ba-la-di. Khi quá nửa, khi còn bộ xương mà xuất bất tịnh phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không xuất bất tịnh phạm Thâu-lan-giá. Vô căn nữ, nhị căn cũng vậy. Tỳ-kheo cùng với người nam, nam phi nhân, súc sinh đực hành dâm hai chỗ: đường đại và miệng, khi ngủ cho đến khi bị ăn còn phân nửa phạm Ba-la-di. Khi quá phân nửa, còn bộ xương, xuất bất tịnh phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không xuất bất tịnh phạm Thâu-lan-giá. Vô căn nam huỳnh môn cũng vậy. Đối với các chỗ hành dâm như trên, mượn phương tiện bên ngoài, bên trong xuất bất tịnh, mượn phương tiện bên trong, bên ngoài xuất bất tịnh, khi ngủ cho đến khi bị ăn còn phân nửa phạm Ba-la-di. Khi quá phân nửa, khi còn bộ xương, xuất bất tịnh phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không xuất bất tịnh phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo vì cường lực cưỡng bức hành dâm các nơi đã nêu trên thì khi vào cảm nhận khoái lạc, lấy ra trụ lại không có cảm giác. Khi lấy ra cảm nhận khoái lạc, đưa vào, trụ lại không cảm giác. Khi trụ lại cảm nhận khoái lạc, đưa vào, lấy ra không cảm giác, vào, ra cảm nhận khoái lạc. Khi trụ lại không cảm giác, vào trụ lại cảm nhận khoái lạc. Khi lấy ra không cảm giác, lấy ra, trụ lại cảm nhận khoái lạc. Khi vào không cảm giác, khi lấy ra, đưa vào, trụ lại cảm nhận khoái lạc. Khi ngủ cho đến cả khi bị ăn còn phân nửa đều phạm Ba-la-di. Khi quá nửa, khi còn bộ xương, xuất bất tịnh phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không xuất bất tịnh phạm Thâu-lan-giá. Khi lấy ra, đưa vào trụ lại đều không cảm nhận khoái lạc thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo với tâm dâm dục, dùng nam căn để vào những chỗ nói trên, dù chỉ một phần thôi cũng phạm Ba-la-di. Nếu dùng ngón tay, với tất cả vật bên ngoài để vào trong các chỗ nói trên đều phạm Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo-ni cũng xảy ra như thế, phạm Ba-la-di. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm thì tội Đột-kiết-la, đuổi đi.
Trường hợp không phạm: Tâm cuồng, tâm loạn, tâm bệnh hoạn, phạm trước khi kiết giới, bốn trường hợp này đều không phạm. Tất cả các giới đều như vậy, khỏi phải chép lại.
Xong giới thứ nhất.
-----------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ có Tỳ-kheo tên là Đạt-ni-ca, con nhà làm đồ gốm, làm cái am bằng cây cỏ để ở tại núi Ất-la. Đến giờ, Đạt-ni-ca bưng bát vào thành khất thực, ngay sau đấy người hái củi phá am lấy củi mang đi. Sau khi khất thực xong trở về, Đạt-ni-ca tu bổ am trở lại. Tình trạng này xảy ra cho đến lần thứ ba,
Đạt-ni-ca hết kiên nhẫn, giận lắm, lại có ý nghĩ:
Chính bản thân ta có thừa khả năng khéo nhồi đất sét, tại sao ta không làm cái am toàn bằng gạch nung để tránh khỏi cái họa phá nhà này? Đạt-nica liền thực hiện ngay ý nghĩ, làm một cái am bằng đất, có nóc, có trụ cột, rui kéo, có cửa lớn, cửa nhỏ, cửa sổ v.v… rất khéo léo. Làm xong chất củi đốt thành màu đỏ, tươi đẹp vô cùng. Khi có gió lớn thổi đến tạo nên âm thanh vi vu của ống tiêu, ống sáo. Đức Phật ở trên núi Kỳ-xàquật, từ xa trông thấy cái am kia màu đỏ tươi, đẹp đẽ, bèn hỏi Tôn giả A-nan:
Nhà của ai vậy? Tôn giả A-nan thưa:
Đạt-ni-ca tự lực làm cái am bằng đất nung. Đức Phật bảo A-nan:
Đạt-ni-Ca-làm điều phi pháp, tại sao người xuất gia lại làm nghiệp ác, tổn thương đến mạng sống sinh vật, không có lòng thương xót? Trước đây Ta đã bằng nhiều cách nói pháp từ bi, tại sao Tỳ-kheo lại đánh mất tâm từ?
Đức Thế Tôn bằng mọi cách khéo léo quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Các ông nên đến phá bỏ cái nhà ấy.
Các Tỳ-kheo vâng lệnh liền đến triệt hạ nhà Đạt-ni-ca. Lúc ấy,
Đạt-ni-ca từ trong nhà bước ra, hỏi các Tỳ-kheo:
-Tôi không xúc phạm quý vị, tại sao quý vị rủ nhau đến phá nhà tôi?
Các Tỳ-kheo trả lời:
Chẳng phải chúng tôi tự ý làm mà chúng tôi làm theo lệnh Đức Thế Tôn.
Đạt-ni-ca nói:
Đức Pháp Vương ra lệnh phá thì tôi đâu dám nói gì.
Các Tỳ-kheo liền phá hủy toàn bộ rồi dẫn Đạtni-ca đến trước Phật và trình bày đầy đủ mọi sự việc lên Ngài. Đức Phật dùng nhân duyên này tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi Đạt-ni-ca:
Thật sự ông có làm cái nhà đó không?
Thật đúng vậy, bạch Đức Thế Tôn! Đạt-ni-ca thưa.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách như trên rồi bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay nếu có Tỳ-kheo nào làm nhà bằng đất nung chín, phạm Thâu-lan-giá, tự mình thi thố nghề giỏi, phạm Đột-kiết-la.
Đạt-ni-ca-lại khởi ý niệm: “Trước đây ta làm am bằng tranh bị tiều phu phá để lấy củi, sau làm nhà bằng đất nung thì trái với thể thống người xuất gia của đấng Pháp Vương. Nay ta có thể tìm gỗ tốt để làm một cái nhà lớn cho được lâu bền, khỏi phải khổ não”.
Đạt-ni-ca-lại nghĩ: “Người coi cây gỗ trong thành Vương-xá là bạn học của ta, ta sẽ đến đó để xin gỗ”. Làm theo ý nghĩ, Đạt-ni-ca đến nói với người bạn:
Tôi cần gỗ bạn có thể cho tôi? Người coi giữ cây gỗ trả lời:
Tôi chỉ có bổn phận giữ chứ không có quyền cho. Đạt-ni-ca hỏi:
Vậy thì ai có quyền?
Nhà Vua mới có quyền. Đạt-ni-ca nói:
Vua đã cho tôi rồi.
Người bạn coi giữ cây gỗ nói:
Nếu Vua đã cho thì tùy ý cứ lấy.
Đạt-ni-ca bèn đốn lấy những cây gỗ lớn dùng để phòng vệ thành mang đi. Khi ấy Đại thần Vũxá đi thanh tra các nơi, trên đường bắt gặp, đến hỏi người giữ gỗ:
Tại sao lại cho Tỳ-kheo kia đốn những cây gỗ lớn dùng để bảo vệ thành như vậy?
Người giữ cây gỗ trả lời:
Chẳng phải tôi cho.
Như vậy ai cho? Đại thần hỏi?
Vua cho. Người coi giữ cây gỗ đáp lời. Đại thần Vũ-xá không chút dè dặt đến gặp nhà Vua hỏi ngay:
Vì lý do gì Đại vương lại cho Đạt-ni-ca những cây gỗ lớn dùng để bảo vệ thành.
Nhà Vua hỏi:
Ai nói ta cho? Vũ Xá tâu:
Người giữ cây gỗ nói.
Nhà Vua liền ra lệnh quan hầu cận bắt người giữ cây gỗ. Quan hầu cận thừa lệnh bắt giải đến Vua. Thời điểm ấy Đạt-ni-ca vào thành khất thực, trên đường đi thấy vậy hỏi: Bạn phạm tội gì mà bị bắt trói như thế? Người giữ cây gỗ nói: Do Đại đức mà tôi phạm phải tội như thế này.
Xin Đại đức cứu tôi thoát khỏi chết. Đạt-ni-ca nói: Bạn đến trước, tôi sẽ đến sau.
Khi người giữ gỗ đã được giải đến, Vua hỏi:
Tại sao ngươi lại cho Đạt-ni-ca đốn những cây gỗ lớn dùng để bảo vệ thành.
Người giữ gỗ tâu:
Tâu Đại vương! Con đâu dám lạm quyền cho như vậy. Đạt-ni-ca bảo đã được phép nhà Vua nên con mới cho đốn.
Nhà Vua lệnh gọi đương sự đến. Khi ấy Đạtni-ca đã có mặt ngoài cửa. Nhà Vua bảo vào trình diện, Đạt-ni-ca liền vào trước Vua, Vua hỏi:
Trẫm cho Tỳ-kheo gỗ vào lúc nào? Đạt-ni-ca nói:
Nhà Vua há không nhớ, khi mới lên ngôi, nhà Vua có nói: “Tất cả cỏ cây cũng như nước trong quốc nội, bố thí cho Sa-môn, Bà-la-môn”.
Nhà Vua thở ra nói:
Trẫm nói bố thí là đối với những vật không có chủ, quái thay Tỳ-kheo lại lạm dụng điều này để lấy vật của người. Nhà Vua nói: Ta là vị Vua Quán-đảnh, đâu nên cầm tù hay giết hại Sa-môn. Thầy nên sớm về gặp Đức Phật, Ngài là vị Pháp Vương sẽ dùng pháp trị thầy.
Khi ấy có người nghe đều kinh ngạc nói:
Đạt-ni-ca phạm tội đáng chết, tại sao chỉ quở trách rồi cho đi.
Tội như vậy được tha thì ai không làm việc ăn trộm.
Người ta lại dị nghị: “Sa-môn Thích tử được nhà Vua cung cấp, lại ăn trộm gỗ của Vua, như thế chúng ta đâu còn gì để lo sợ. Sa-môn Thích tử thường ca ngợi người không ăn trộm, dạy người bố thí, tại sao chính mình lại làm việc của kẻ giặc? Những kẻ này không có hạnh của Sa-môn, phá pháp Sa-môn”. Tiếng xấu này theo thời gian lan khắp. Trong nước, các Trưởng giả, Cư sĩ, Bà-la-môn v.v… không tin ưa Phật pháp cứ trông thấy Sa-môn liền bằng mọi cách mắng nhiếc. Các Tỳ-kheo nghe cùng hỏi ai ăn trộm gỗ của nhà Vua mà có tiếng xấu như thế. Đạt-ni-ca nói: “Điều đó chính tôi làm”. Các Tỳ-kheo dùng mọi cách quở trách:
Thầy làm điều phi pháp, không hợp đạo. Đức Thế Tôn bằng nhiều cách chê bai việc lấy của không cho, khen ngợi người không lấy trộm. Tại sao nay thầy làm việc của kẻ giặc?
Các Tỳ-kheo quở trách như vậy rồi dẫn đến chỗ Phật, trình bày đầy đủ sự việc. Đức Phật nhân việc này tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Đạt-ni-ca:
Thật sự ông có làm như vậy không?
Bạch Thế Tôn có. Đạt-ni-ca thưa.
Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách như Tu-đề-na.
Khi ấy, có vị Đại thần nước Ma-kiệt xuất gia hành đạo đang đứng hầu Phật, Đức Phật hỏi:
Vua A-xà-thế quy định người trong nước ăn trộm bao nhiêu thì thọ tội tử hình?
Từ năm tiền trở lên thì thọ tội tử hình. Tỳ-kheo thưa. Đức Phật quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo:
Để có mười điều lợi nên Ta vì các Tỳ-kheo mà kiết giới. Từ nay giới này nên nói như vầy: “Nếu Tỳ-kheo ăn trộm năm tiền trở lên thì phạm tội Ba-la-di, không được sống chung”.
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ, khi ấy có số đông Tỳ-kheo nói:
Đức Phật chế giới cấm lấy vật nơi xóm làng chứ đâu có cấm lấy vật nơi đất trống.
Các Tỳ-kheo khác lại nói: Phạm cùng chẳng phạm, chế cấm hay không chế cấm, chẳng sao cả, cứ dụng tâm ăn trộm vật nơi đất trống, có chủ hay không chủ thì sự lấy cắp này có can gì ai đâu?
Kiểu ăn cắp này đã xảy ra và lòng sinh nghi ngờ, hối hận. Các thầy đến chỗ Tôn giả A-nan hỏi, Tôn giả liền đến bạch Phật, Đức Phật dùng nhân duyên này tập hợp Tỳ-kheo Tăng và hỏi:
Thầy có như vậy không?
Kính bạch Thế Tôn, có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách:
Xóm làng cùng đất trống khác nhau ở chỗ nào?
Quở trách rồi Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo nơi xóm làng hoặc chỗ đất trống lấy vật không cho với tâm trộm cắp, hoặc Vua hoặc Đại thần bắt, trói giết, đuổi ra khỏi nước, nói: Ngươi là giặc, ngươi là kẻ tiểu nhân, ngươi là kẻ ngu si. Tỳ-kheo này phạm Ba-la-di không được sống chung”.
Xóm làng: Là nơi có thành quách, có hàng bao quanh ba do-tuần, cho đến chỉ một cái nhà.
Ngoài xóm làng: Ngoài xóm làng, trừ nơi đường đi của xóm làng gọi là đất trống. Ngoài xóm làng trong tầm tên bắn, có lối đi vệ sinh cho người biết xấu hổ, gọi là nơi đi lại của xóm làng.
Tâm ăn trộm: Vật thuộc về người khác, hay vật đã có người bảo hộ không cho mà lấy, lại dùng tâm dối trá, quanh co, giận dữ, khủng bố để lấy vật của người cũng gọi là tâm ăn trộm.
Mình lấy, sai người lấy, vật rời khỏi chỗ cũ gọi là không cho mà lấy.
Chủ nước, chủ xóm làng, Vua Quán đảnh, Vua Chuyển luân đều gọi là chủ.
Đại thần là vị trông coi việc nước.
Nắm tay hay nắm tóc thì gọi là bắt. Dùng gông cùm, xiềng xích gọi là trói. Dùng dao gậy v.v… để chấm dứt mạng sống gọi là giết. Đuổi ra khỏi một trú xứ, cho đến ra khỏi nước gọi là đuổi.
Xa lìa pháp thiện, pháp vô ký, rơi vào chỗ bất thiện gọi là giặc. Không có sự hiểu biết gọi là tiểu nhân. Sống trong sự tối tăm gọi là si. Trường hợp phạm: Vật ở trong đất, vật ở trên đất, vật ở trong hư không, xóm làng, vật của xóm làng, tiệm, quán, vật của tiệm quán, ruộng đất, vật của ruộng đất, vườn tược, vật của vườn tược, phòng xá, vật của phòng xá, xe cộ, vật của xe cộ, gánh xách, vật của gánh xách, thuyền bè, vật của thuyền bè, ao hồ, vật của ao hồ, gởi, trả, ngăn đường, rình đường, chỉ chỗ, dẫn đường, dạy cách lấy, cùng lấy, không nộp thuế.
Vật trong đất: Nếu vật còn ở trong lòng đất, Tỳ-kheo với ý niệm: “Ta sẽ trộm lấy”, khởi tâm và tạo điều kiện đều phạm Đột-kiết-la. Đào đất phạm Ba-dật-đề. Nắm lấy vật phạm Đột-kiết-la. Động đến vật phạm Thâu-lan-giá. Vật lìa khỏi chỗ trị giá năm tiền phạm Ba-la-di, dưới năm tiền phạm Thâu-lan-giá.
Vật ở trên đất: Vật ở trên đất như giường, giá, ghế, sập, cửa, cây xà ngang, đòn tay, rui mè, cho đến vật trên nhà, trên cây. Tất cả các vật như vậy đều gọi là vật trên đất. Tỳ-kheo khởi ý niệm: “Ta sẽ lấy vật ấy”, dấy tâm tạo phương tiện cho đến nắm lấy vật đều phạm Đột-kiết-la, động đến vật phạm Thâu-lan-giá, vật rời khỏi chỗ cũ trị giá năm tiền phạm Ba-la-di, dưới năm tiền phạm Thâu-lan-giá.
Vật ở trong hư không: Nếu dùng thần lực để lấy trong hư không, hoặc có chủ, hoặc do chim tha, hoặc gió thổi đến, Tỳ-kheo với ý niệm: “Ta sẽ lấy vật ấy”, khởi tâm tạo phương tiện đều phạm Đột-kiết-la. Động đến vật phạm Thâu-lan-giá. Dời vật khỏi chỗ cũ trị giá năm tiền phạm Ba-la-di, dưới năm tiền phạm Thâu-lan-giá.
Xóm làng: Xung quanh ba do-tuần, cho đến chỗ một cái nhà, Tỳ-kheo với ý niệm: “Tôi sẽ trộm lấy nhà ấy”. Dấy tâm, tạo phương tiện đều phạm Đột-kiết-la. Đóng nọc lấy vồ nện xuống phạm Ba-dật-đề. Dùng dây đo lường tranh cho được, trị giá năm tiền phạm Ba-la-di, dưới năm tiền phạm Thâu-lan-giá.
Vật trong xóm làng: Tùy theo trong xóm làng có vật gì, Tỳ-kheo có ý niệm: Ta sẽ lấy trộm vật ấy, lấy được phạm Ba-la-di.
Tiệm quán: Tỳ-kheo với ý niệm: Ta sẽ lấy trộm quán, tiệm ấy. Khởi tâm, tạo phương tiện đều phạm Đột-kiết-la. Đóng nọc, lấy vồ đập nện phạm Ba-dật-đề. Dùng dây đo lường tranh cho được, phạm Ba-la-di.
Vật nơi quán tiệm: Tùy theo trong quán, tiệm có vật gì, Tỳ-kheo với ý niệm: Ta sẽ lấy trộm vật ấy, lấy được phạm Ba-la-di.
Ruộng: Có loại ruộng có nước hay không nước, Tỳ-kheo với ý niệm, ta sẽ lấy trộm ruộng ấy. Khởi tâm, tạo phương tiện đều phạm Đột-kiếtla. Đóng nọc, lấy vồ nện xuống phạm Ba-dật-đề. Lấy dây đo để tranh cho được, phạm Ba-la-di.
Vật trong ruộng: Trong các thứ ruộng sản xuất năm thứ lúa, Tỳ-kheo với ý niệm: Ta sẽ trộm với vật ấy, lấy được, phạm Ba-la-di.
Vườn: Các vườn trồng cây trái, Tỳ-kheo với ý niệm: Ta sẽ trộm vườn ấy. Khởi tâm, tạo phương tiện đều phạm Đột-kiết-la. Đóng nọc, lấy vồ nện xuống phạm Ba-dật-đề. Dùng dây đo để tranh cho được, phạm Ba-la-di.
Vật trong vườn: Tùy theo trong vườn ấy có sản xuất thứ gì, Tỳ-kheo với ý niệm, tôi sẽ trộm lấy vật ấy, lấy được, phạm Ba-la-di.
Nhà: Nhà trệt hoặc nhà lầu, nơi người tại gia hay xuất gia ở. Tỳ- kheo với ý niệm, tôi sẽ trộm lấy nhà ấy. Khởi tâm, tạo phương tiện đều phạm Đột-kiết-la. Đóng nọc, lấy vồ nện xuống phạm Ba-dật-đề. Dùng dây đo để tranh cho được, phạm Ba-la-di.
Vật trong nhà: Tùy theo trong nhà có vật gì,
Tỳ-kheo với tâm niệm, ta sẽ lấy vật ấy, lấy được phạm Ba-la-di.
Xe: Chỉ chung các loại xe như: xe voi, xe ngựa, xe cộ v.v… Tỳ-kheo với ý niệm ta sẽ trộm lấy xe ấy. Khởi tâm, tạo phương tiện cho đến nắm cầm đều phạm Đột-kiết-la. Động đến vật phạm Thâu-lan-giá. Vật lìa khỏi chỗ trị giá năm tiền phạm Ba-la-di, dưới năm tiền phạm Thâu-lan-giá. Vật trong xe: Tùy theo trong xe có vật gì, Tỳ-kheo với ý niệm: Ta sẽ trộm lấy vật ấy, lấy được, phạm Ba-la-di.
Gánh: Đội trên đầu, gánh nơi vai, vác nơi lưng, xách nơi tay đều gọi là gánh cả. Tỳ-kheo với ý niệm: Ta sẽ trộm vật gánh này. Khởi tâm, tạo phương tiện đều phạm Đột-kiết-la. Động đến vật phạm Thâu-lan-giá, dời vật khỏi chỗ trị giá năm tiền phạm Ba-la-di, dưới năm tiền phạm Thâu-lan-giá.
Vật của gánh: Tùy theo trong gánh có những vật gì, Tỳ-kheo với ý niệm ta sẽ trộm lấy vật ấy, lấy được, phạm Ba-la-di.
Thuyền: Thuyền bằng da, thuyền bằng đất nung, thuyền bằng cây, bằng tre v.v… đều gọi là thuyền. Tỳ-kheo với ý niệm ta sẽ lấy trộm thuyền này. Khởi tâm, tạo phương tiện đều phạm Độtkiết-la. Động đến vật phạm Thâu-lan-giá, vật rời khỏi trị giá năm tiền phạm Ba-la-di, dưới năm tiền phạm Thâu-lan-giá.
Vật trong thuyền: Tùy theo trong thuyền có những vật gì, Tỳ-kheo với ý niệm ta sẽ trộm lấy vật ấy, lấy được, phạm Ba-la-di.
Ao: Tất cả các vũng, các hồ chứa nước đều gọi là ao, Tỳ-kheo với ý niệm ta sẽ trộm ao này. Khởi tâm, tạo phương tiện đều phạm Đột-kiết-la. Đóng nọc, lấy vồ nện xuống đều phạm Ba-dật-đề. Dùng dây đo để tranh cho được trị giá năm tiền phạm Ba-la-di, dưới năm tiền phạm Thâu-lan-giá.
Vật trong ao: Tùy theo trong ao có sản xuất thứ gì, Tỳ-kheo với tâm niệm ta sẽ lấy trộm vật ấy, lấy được, phạm Ba-la-di.
Gởi: Người đem gởi vật cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo với tâm niệm trộm không trả vật, tâm người chủ coi như mất rồi, trị giá năm tiền phạm Ba-ladi, dưới năm tiền phạm Thâu-lan-giá.
Trả: Tỳ-kheo nhận vật của người khác gởi, với tâm trộm không trả lại cho người kia, trị giá năm tiền phạm Ba-la-di, dưới năm tiền phạm Thâu-lan-giá.
Ngăn đường: Tỳ-kheo vì giặc ngăn đường không cho người khác đến.
Rình đường: Rình mò thấy người báo với giặc. Chỉ chỗ: Tỳ-kheo chỉ cho giặc đường đi chỗ đến. Dẫn đường: Tỳ-kheo dẫn đường cho giặc. Dạy cách lấy: Tỳ-kheo dạy cho giặc phương pháp lấy trộm.
Cùng lấy: Tỳ-kheo cùng giặc lấy trộm đồ. Không nộp thuế: Tỳ-kheo nên nộp thuế mà không nộp.
Như các trường hợp trên, lấy vật trị giá năm tiền phạm Ba-la-di, dưới năm tiền phạm Thâu-lan-giá. Nếu vật của người không cho mà lấy từ năm tiền trở lên, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phạm Ba-la-di. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Độtkiết-la đuổi ra khỏi chùa. Vật của phi nhân không cho mà lấy, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni phạm Thâu-lan-giá. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di ni phạm Độtkiết-la. Vật của súc sinh không cho mà lấy đều phạm Đột-kiết-la.
Bốn trường hợp lấy trọng vật của người mà không phạm:
Tưởng của mình lấy.
Tạm lấy.
Đồng ý lấy.
Không có tâm trộm lấy.
Xong giới thứ hai.
Đức Phật ở tại Tỳ-xá-ly. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo tu pháp quán bất tịnh thì được quả lớn về lợi lạc. Kể từ ấy, các Tỳ-kheo đều tu tập pháp ấy càng nhàm chán, xấu hổ, gớm ghiếc thân này chẳng khác nào một thiếu niên đang hồn nhiên trong trắng, thân thể tắm rửa thơm phức, mặc áo mới tinh, bỗng đâu có ba xác chết trẻ mới sinh đem quấn vào cổ, máu mủ chảy nhớp cả thân, dòi bò nhung nhúc khắp người thiếu niên kia. Cậu ta đau khổ quá sức không thể nào tưởng tượng nổi và rồi với ý nghĩ còn lại là làm thế nào để thoát khỏi thân khổ nạn ấy. Các Tỳ-kheo nhàm chán, ghét bỏ thân này cũng giống như vậy. Trong số những Tỳ-kheo ấy, hoặc có vị tự sát, hoặc lần lượt từng mạng giết hại nhau, hoặc thắt cổ, hoặc uống thuốc độc. Có một Tỳ-kheo nhàm chán thân này rồi, bèn đến chỗ người Chiên-đà-la-di-lân nói: “Hãy vì tôi, ông đoạn mạng này đi, y bát ấy tôi cho ông”. Ngay lúc đó, Chiên-đà-la vì y bát nên đã dùng dao chặt phứt mạng sống của Tỳ-kheo ấy. Chiếc dao đẫm máu, người Di-lân đem đến sông Bà-cầu-mạt để tẩy rửa, bỗng lòng đầy hối hận, liền gợi lên ý nghĩ: “Nay ta làm điều bất thiện, tại sao chỉ vì chút lợi nhỏ mà sát hại tính mạng của vị Sa-môn trì giới, tội này trời đất không dung tha”. Lúc ấy, Thiên ma cõi Tự Tại biết được tâm niệm đó, nhanh như cái duỗi tay của một tráng sĩ, Thiên ma từ dưới nước vọt lên, đứng trên mặt nước, sừng sững trước Di-lân với lời khen ngợi: “Lành thay! Ông đã được điều lợi lớn, do đoạn mạng vị Sa-môn trì giới, độ người chưa được độ, phước đức vô lượng, thiên thần ghi nhận điều đó, nên ta đến tin cho ông biết”. Thật đúng lúc, Chiên-đà-la liền sinh tà kiến ác độc, lòng rất vui mừng nói: “Nay ta sẽ lại độ người chưa độ”. Người Chiên-đà-la ấy biết rõ được tướng trạng thân nào đã nhàm chán, thân nào chưa nhàm chán. Nếu Tỳ-kheo phàm phu chưa lìa dục, khi đưa dao đến, thân họ sợ sệt, đó là người chưa nhàm chán thân, ta giết người này được phước quá ít, nay ta nên tìm những vị đã đắc đạo quả, người không có sự sợ sệt. Với ý nghĩ như thế, tay cấm trường đao, ông ta đi từ phòng này sang phòng kia, từ chỗ kinh hành này đến chỗ kinh hành khác, cao giọng lớn tiếng rao: “Ai muốn diệt độ, tôi sẽ độ cho”. Lúc đó, các Tỳ-kheo nhàm chán, ê chề về thân xác đều sẵn sàng tìm đến để nhờ đoạn mạng. Có ngày ông ta giết mười vị, hai mươi vị, cho đến sáu mươi vị. Do nhân duyên như vậy nên số lượng Tăng càng giảm, nhất là các Đại đức Thanh văn đều tuần tự vắng bóng.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn ra khỏi Tam-muội, đứng dậy, đến ngồi trên chỗ đất trống, đại chúng vây quanh. Đức Phật quan sát Tăng chúng, rồi hỏi Tôn giả A-nan:
Hôm nay sao Tăng chúng lại giảm sút như vậy? Tôn giả A-nan bạch Phật:
Có một thuở, Đức Thế Tôn vì các Tỳ-kheo nói phép quán bất tịnh, các Tỳ-kheo tu tập, nhàm chán ghét bỏ thân xác khổ đau này nên đã lần lượt cùng nhau tìm cái chết tai hại. Thậm chí chỉ nội trong một ngày mà Di Lân nhẫn tâm sát hại đến sáu mươi vị phạm hạnh. Vì vậy, hôm nay số lượng Tăng giảm nhiều như thế. Lành thay, Đức Thế Tôn! Cúi xin Ngài chỉ cho con đường pháp thiện khác, khiến các Tỳ-kheo sống vững trong an lạc.
Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
Nay ông thông báo cho các Tỳ-kheo y chỉ nơi Tỳ-xá-ly này về hội hợp tại giảng đường.
Tôn giả làm theo lời dạy, lệnh gọi các Tỳ-kheo về hội. Sau khi tập hợp xong, Tôn giả đến bạch Phật:
Đã đông đủ, con xin cung thỉnh Thế Tôn.
Đức Thế Tôn liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến giảng đường ngồi uy nghi trên pháp tòa. Ngài hỏi các Tỳ-kheo:
Thật có sự việc như trên không? Các Tỳ-kheo thưa:
Bạch Thế Tôn, có sự thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách:
Các ông là người ngu si, làm việc phi pháp, các ông há không nghe ta nói, để hộ niệm chúng sinh thì phải có lòng từ và sự kiên nhẫn, tại sao các ông không nhớ điều này.
Sau khi bằng nhiều cách quở trách, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Nếu ai tự sát, phạm tội Thâu-lan-giá. Đức Phật lại bảo:
Từ nay về sau nên tu niệm An-ban, quán Lạc tịnh, quán Lạc hỷ. Quán như vậy rồi, nên điều ác sinh ra thì pháp bất thiện này có thể trừ diệt. Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới, từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo tự tay sát hại, giết chết mạng sống của chính mình, Tỳ-kheo này phạm tội Ba-la-di, không được sống chung”.
Lúc ấy, số đông Tỳ-kheo mắc trọng bệnh, có các Tỳ-kheo đến thăm hỏi:
Bệnh tình của Đại đức có bớt không? Có đau đớn lắm không? Tỳ-kheo bệnh nói: Bệnh chắc khó giảm, đau đớn khó chịu lắm. Tỳ-kheo bệnh lại van xin các Tỳ-kheo:
Cho tôi con dao hay sợi dây, cho tôi thuốc độc, cho tôi thức ăn làm cho bệnh tăng thêm, đem tôi đến chỗ bờ cao của sông.
Trước tình cảnh đó, các Tỳ-kheo thuận theo ý của bệnh nhân. Tỳ-kheo bệnh đã tự sử dụng một trong các phương tiện trên để đoạn mạng. Sau khi các Tỳ-kheo chứng kiến người bệnh chết, lòng đầy hối hận, thưa với Tôn giả A-nan. Tôn giả đến chỗ Đức Phật trình bày đầy đủ sự việc. Đức Phật dùng nhân duyên này tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo:
Thật sự có các việc như vậy không? Các Tỳ-kheo thưa:
Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Các thầy là người ngu si, tự đoạn mạng người và đưa dao khiến cho họ tự sát, khác nhau chỗ nào? Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo tự đoạn mạng người, cầm dao trao cho người, phạm tội Ba-la-di, không được sống chung”.
Lại có Tỳ-kheo mắc trọng bệnh, các Tỳ-kheo đến thăm hỏi (như trên)… bảo đưa dao, dây, thuốc độc cho tôi. Các Tỳ-kheo nói: “Đức Phật không cho chúng tôi đưa dụng cụ cho người tự sát, song chúng tôi có người thợ săn quen biết, sẽ vì thầy, kêu người ấy đến để đoạn mạng thầy”. Tỳ-kheo bệnh nói: “Hãy vì tôi gọi họ mau mau đi”. Tỳ-kheo kia hối hả đến nói với người thợ săn: “Này bạn! Có Tỳ-kheo bị bệnh nặng, không muốn sống, bạn đoạn mạng vị ấy sẽ được phước lớn”. Người thợ săn nói: “Nếu sát sinh được phước lớn, thì người làm lò sát sinh kia được phước lớn lắm hay sao?”. Các thầy Tỳ-kheo tự nghĩ: “Mình có lòng từ bi, nay lại bảo người giết, khác nhau chỗ nào? Khi ấy các Tỳ-kheo đều sinh tâm hối hận, đến nói với Tôn giả A-nan, Tôn giả cùng đưa đến chỗ Đức Phật và trình bày đầy đủ sự việc lên Ngài. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Các thầy thật sự có như vậy hay không? Các Tỳ-kheo thưa: Bạch Thế Tôn, có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi nói với các Tỳ-kheo: Tự mình giết và dạy người giết có gì khác nhau?! Từ nay giới này được nói như vầy: “Nếu Tỳ-kheo tự mình giết, dạy người giết, phạm Ba-la-di không được sống chung”.
Lại có Tỳ-kheo mắc bệnh nặng, các Tỳ-kheo đến thăm hỏi như trên, rồi nói với Tỳ-kheo bệnh: Giới hạnh của thầy đầy đủ nên nhận lấy phước của cõi trời. Nếu thầy tự sát chắc được sinh thiên, chuyện gì phải nhận lấy cái khổ triền miên thế này?! Tỳ-kheo bệnh nói: Sự việc sẽ như vậy, tuy dù có sự khổ đấy nhưng không thể tự sát. Tại sao? Vì nếu tự sát thì không những phạm tội Thâu-lan-giá mà còn không thể rộng tu phạm hạnh. Vị ấy lại quở trách: Tự tay mình giết người, dạy người khác tự giết đâu có cái gì khác, đã là Tỳ-kheo các thầy làm theo nghiệp ác này chăng! Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi cùng đưa các Tỳ-kheo đến chỗ Đức Phật, trình bày lên Ngài đầy đủ sự việc. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các thầy có như vậy không? Các Tỳ-kheo thưa: Bạch Thế Tôn, có đúng như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Các thầy ngu si, tự tay giết người, dạy người khác tự giết có gì khác đâu. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo tự tay giết người, dạy người khác tự giết, phạm Ba-la-di không được sống chung”.
Lại có Tỳ-kheo mắc bệnh nặng, các Tỳ-kheo đến thăm giống như trên, cũng nói với các Tỳ-kheo bệnh: Với phạm hạnh đã lập của mình, thầy chết chắc chắn nhận quả an vui của cõi trời, tại sao không tự sát để sinh thiên, lại cam chịu khổ triền miên vì bệnh như thế này? Tỳ-kheo bệnh nói: Dù cho có như vậy, tôi cũng không thể tự sát. Tại sao? Vì Đức Phật cấm tự sát, nếu tự sát phạm Thâu-lan-giá. Vả lại, khi được lành bệnh tôi sẽ tu phạm hạnh.
Vào thời gian ấy, ở nước nọ, lại có giặc giã, các cư sĩ bị nạn cốt nhục phân ly, đầy dẫy khổ não. Tỳ-kheo nói: Các người đã tu phước báo sinh thiên, tại sao không tự sát, lại cam sống trong nỗi khổ cốt nhục chia lìa, ưu não thế này? Họ trả lời: Chúng tôi tuy chịu nỗi khổ não, nhưng không thể tự sát. Tại sao? Vì ở đời có gặp khổ mới biết tu đạo nghiệp. Họ lại quở trách: Đạo của Sa-môn vì chúng sinh mà từ bi, nhẫn nhục, tại sao lại khen ngợi sự chết, thôi thúc người tự sát? Tự sát hay khen ngợi sự chết đâu có khác gì! Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi đưa các Tỳ-kheo đến chỗ Đức Phật, trình bày đầy đủ sự việc lên Ngài. Nhân sự việc này Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các thầy có như vậy không? Các Tỳ-kheo thưa: Bạch Thế Tôn, thật vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Việc của các thầy làm là phi pháp, tự sát và khen ngợi sự chết đâu có gì khác.
Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo, hoặc người, hoặc tương tợ người, hoặc tự sát, hoặc đưa dao hay thuốc độc để giết, hoặc dạy người giết, hoặc dạy người tự sát, đề cao sự chết, khích lệ sự chết, nói: Ôi! Ông sống khổ quá, sống mà làm gì, chết sướng hơn sống, tùy theo tâm sát sinh khởi tâm như vậy, như vậy dưới mọi hình thức khác nhau của vấn đề, đã làm cho người kia chết vì nguyên nhân như thế, Tỳ-kheo này phạm tội Ba-la-di, không được sống chung”.
Từ khi vào thai mẹ cho đến bốn mươi chín ngày gọi là tương tợ người, sau bốn mươi chín ngày đến ra khỏi thai gọi là người. Tự tay mình cầm dao, gậy, thuốc độc… để giết gọi là đích thân giết. Người nào đó muốn tự sát, tìm phương tiện để sát, mình đưa cho họ dao, thuốc độc gọi là sự giết do mình trao cho. Sai khiến người khác, gọi là bảo người giết. Dạy người khác tự sát: tức là bảo người tự làm cho mình chết. Nói chết còn hơn sống gọi là đề cao, khen ngợi cái chết. Nhờ cậy quỷ thần giết theo ý mình gọi là tùy tâm sát, sinh khởi tâm sát.
Trường hợp phạm: Tự giết mình, sai khiến người giết, lần lượt sai, sai lại, chỉ bày lời lẽ, nói khi ngủ, hướng đến người ngủ nói, nói khi say, hướng đến người say nói, nói khi cuồng, hướng đến người cuồng nói, nói khi tâm loạn, hướng đến người tâm loạn nói, viết thư, ra dấu, nói bằng tay, nói tương tợ, một mình tưởng là một mình, không một mình tưởng là một mình, một mình tưởng là không một mình, nói giỡn, sắc, thanh, hương, vị, xúc, ưu ba đầu, ưu ba xà, ưu ba hại.
Tự mình giết: Chính mình cầm dao gậy… giết, người kia chết, phạm Ba-la-di.
Sai người: Sai khiến giết người kia, người kia chết, phạm Ba-la-di Lần lượt sai: Khiến ông A giết, ông A không giết được, rồi sai ông B giết, người kia chết, phạm Ba-la-di Sai lại: Người đầu tiên nhận, không giết được, về báo với Tỳ-kheo. Tỳ-kheo lại sai người khác giết, người kia chết, phạm Ba-la-di.
Chỉ bày: Chỉ mặt trời, mặt trăng, tinh tú, nói với người kia: Phước của ông nên sinh đến đó, ông nên tự sát. Do thế họ chết, phạm Ba-la-di.
Lời lẽ: Nói sống là tội lỗi, xấu xa, khen ngợi, tán thán sự chết.
Do vậy người kia chết, phạm Ba-la-di.
Nói khi ngủ: Tỳ-kheo trong khi ngủ, nói việc đã nghĩ trước: Công đức của ông đã thành, ông có thể tự sát. Người kia nghe rồi, đợi Tỳ-kheo thức dậy hỏi: Tại sao thầy nói lời ấy? Trong khi ngủ tôi muốn ông có được điều lợi ích như vậy nên nói thế. Nay ông thức cũng nên làm theo lời nói ấy. Ông có thể chết theo lời nói của tôi. Người kia do thế mà chết, Tỳ-kheo phạm Ba-ladi.
Hướng đến người ngủ nói: Tức hướng đến người ngủ nói lên điều này: Công đức của ông đã thành, có thể dùng dao… tự sát. Quỷ thần khiến người ngủ nghe, liền thức dậy hỏi: Tại sao thầy nói lời ấy? Đáp: Khi ông ngủ, tôi muốn tạo lợi ích cho ông nên nói lời ấy, nay ông thức cũng nên làm theo lời nói đó. Ông có thể chết theo lời nói của tôi. Do thế người kia chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.
Nói khi say: Khi say nói những điều trước đó đã nghĩ: Công đức của ông đã thành, nên dùng dao… tự sát. Người kia nghe rồi, đợi Tỳ-kheo tỉnh dậy hỏi: Tại sao thầy nói lời ấy? Đáp: Khi tôi say muốn cho ông có được lợi ích, nên nói lời ấy, nay tỉnh cũng nói như vậy. Ông có thể chết theo lời nói của tôi. Người kia nhân thế mà chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di. Hướng tới người say nói, nói như thế này: Công đức của ông đã thành, ông có thể dùng dao… tự sát. Khi tỉnh say rồi hỏi: Tại sao thầy nói lời ấy? Đáp: Vì muốn tạo lợi ích cho ông. Khi ông say nói như vậy, nay ông tỉnh cũng nói như vậy, ông có thể theo lời nói của tôi mà chết, nhân đấy người kia chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.
Nói khi cuồng, hướng về người cuồng nói, nói khi tâm loạn, hướng về người tâm loạn nói, nói lúc tâm bệnh hoạn, hướng về người tâm bệnh hoạn nói, cũng như vậy đều phạm Ba-la-di.
Viết thư: Tỳ-kheo viết thư bảo người kia chết, khi viết thư mỗi chữ phạm một Thâu-lan-giá. Thư đến người kia, người kia do thế mà chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.
Ra dấu: Tỳ-kheo nói với người mình sai bảo: Ông xem ta ngồi, đứng, đưa tay lên, hạ tay xuống, miệng nói khi lạnh khi nóng thì giết người kia. Người ấy thấy tướng ra dấu bèn giết. Người kia chết, phạm Ba-la-di.
Nói bằng tay: Bằng ngôn ngữ tác động tay dạy người giết, người kia tùy theo đó mà giết. Người ấy chết, phạm Ba-la-di.
Nói tương tợ: Tỳ-kheo tác động với lời nói tương tợ dạy người giết. Người kia theo đó mà sát hại. Người ấy chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.
Một mình tưởng là một mình, phạm Đột-kiếtla.
Không một mình, tưởng là một mình, một mình, tưởng là không một mình, phạm Thâu-lan-giá.
Nói giỡn: Tỳ-kheo nói vui chơi: Công đức của ông đã thành, có thể nên tự sát. Người kia hỏi: Tại sao nói lời ấy? Tỳ-kheo trả lời: Tuy trước đây tôi nói giỡn, nay trong ý cũng thật như vậy, ông có thể tự sát. Do vậy người kia chết, phạm Ba-la-di.
Sắc: Tỳ-kheo làm chú thuật triệu quỷ thần sắc xấu ác khiến người sợ sệt, nhân đó mà chết, phạm Ba-la-di.
Thanh: Nếu Tỳ-kheo nói lên điều này: Cha mẹ, con cái của ngươi đã chết, tài sản bị phá tan, nói như vậy, nhằm muốn cho người kia lo rầu rồi tự sát, nhân đó mà họ chết, Tỳ-kheo phạm Ba-ladi.
Hương: Dùng chất độc trộn chung với các loại hương, khiến cho người kia ngửi để chết, do đó mà chết, phạm Ba-la-di.
Vị: Dùng chất độc trộn chung với thức ăn, khiến ăn, nhân đó mà họ chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.
Xúc: Giết bằng độc dược ca-tỳ, xoa nơi thân khiến cho họ chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.
Ưu ba đầu: Đào hầm gài bẩy để sát hại tất cả chúng sinh. Nếu người rớt xuống chết thì phạm Ba-la-di, phi nhân rớt xuống chết thì phạm Thâu-lan-giá, súc sinh rớt xuống chết phạm Ba-dật-đề.
Ưu ba xà: Làm giường yếu phủ lên trên một lớp mỏng, trên dưới đều có đặt dụng cụ giết người, khiến người ngồi lên phải chết. Do thế mà họ chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.
Ưu ba hại: Dùng nọc độc của trùng để giết người, người do thế mà chết, Tỳ-kheo phạm Ba-la-di.
Nếu Tỳ-kheo với ý niệm: Ta sẽ giết người kia, khi khởi tâm, phạm Đột-kiết-la, khi tạo phương tiện phạm Thâu-lan-giá, người kia chết phạm Ba-la-di. Nếu giết phi nhân phạm Thâu-lan-giá, giết súc sinh phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni phạm cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
Trường hợp không phạm: Với tâm từ bi, không có tâm sát.
Xong giới thứ ba.
------------------
Đức Phật ở tại Tỳ-xá-ly, gặp lúc mất mùa, khất thực khó đạt, các Tỳ-kheo vào thành khất thực, không nhận được thức ăn gì. Trước thời buổi như vậy, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: Các thầy tùy theo chỗ quen biết nên đến đó an cư, đừng ở nơi đây để chịu sự đói khát.
Các Tỳ-kheo vâng lời. Một số vị đến nơi nước Ma-kiệt, một số khác về các làng ven sông Bàcầu-mạt. Đến bên sông, các Tỳ-kheo họp lại cùng nhau bàn bạc: Nay gặp lúc khất thực khó được, trong xóm làng này có những người thành tín, chúng ta nên khen gợi nhau, như nói: Vị kia đắc sơ thiền, tôi cũng đắc sơ thiền, vị kia đắc nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, bốn xứ vô lượng, bốn định vô sắc, tôi cũng đắc như vậy. Vị kia được bốn niệm xứ, cho đến tám chánh đạo phần, ba môn giải thoát, tôi cũng được như vậy. Vị kia được tám giải thoát, chín định thứ đệ, mười nhất thế nhập, mười trực đạo, tôi cũng được như vậy. Vị kia đắc Kiên tín, Kiên pháp, bốn quả Sa-môn, ba minh, sáu thần thông, tôi cũng đắc như vậy.
Các cư sĩ nghe ắt sinh lòng cảm phục nhiều hơn, họ sẽ bảo nhau: Chúng ta được nhiều thiện lợi nên mới có những vị đắc Thánh đạo như vậy an cư nơi ấp của chúng ta. Họ tất sẽ mua các thứ ngon bổ cúng dường Sa-môn chúng ta không thiếu thốn, chúng ta sẽ sống trong sự an lạc. Nghị bàn xong các Tỳ-kheo liền vào trong thành, đến các nhà giàu cùng nhau ca tụng như trên. Trước đó, các thầy nói: Quý vị được điều lợi lớn lắm, ruộng phước của Thánh chúng đã đến với xóm làng của quý vị rồi đó. Các cư sĩ nghe, nức lòng vui, hân hoan với sự việc chưa từng được gặp. Họ đều giảm phần chi dụng của mình, bỏ qua việc tế tự, không bố thí người khác, chỉ dồn vào việc cúng dường. Thường pháp của chư Phật trong hai kỳ đại hội, cuối tháng mùa Xuân, mùa hạ, Tỳ-kheo các nơi đều về để thăm hỏi nhau. Các Tỳ-kheo nước Ma-kiệt an cư xong, ốm gầy tiều tụy, đến chỗ Đức Phật đảnh lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên. Thường pháp của Đức Phật, mỗi khi Tỳ-kheo đến đều có lời an ủi hỏi: Các thầy an cư có hòa hiệp, khất thực có dễ được, trên đường đi có vất vả lắm không? Các Tỳ-kheo thưa: Chúng con an cư hòa hợp, trên đường đi không mấy nhọc mệt, chỉ có khất thực khó được. Sau đó Đức Phật vì họ, nói từng vấn đề về các pháp diệu, chỉ bày sự lợi ích trong niềm vui và bảo họ tùy nghi cư trú. Các Tỳ-kheo ở bên sông Bà Cầu-mạt thân thể mập khỏe, sung túc, đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên. Đức Phật cũng như thường lệ, an ủi hỏi. Các Tỳ-kheo bạch: Chúng con an cư hòa hiệp, khất thực dễ dàng, trên đường đi không nhọc mệt. Đức Phật liền hỏi: Hiện nay nơi nào cũng mất mùa, khất cầu khó được, tại sao riêng các thầy lại nói là dễ. Các Tỳ-kheo bạch Phật: Chúng con ở tại đó, do khất thực khó được nên cùng nhau khen ngợi… (như trên đã nói đầy đủ). Đức Phật liền hỏi: Những điều các thầy ca tụng với nhau là sự thật hay là hư dối? Các Tỳ-kheo bạch Phật: Có sự thật và cũng có hư dối. Đức Phật bằng mọi cách quở trách sự hư dối: Các thầy làm điều phi pháp, không hợp đạo lý, người xuất gia không nên làm như vậy, thà nuốt viên đá nóng đỏ hay uống nước đồng sôi, chứ không nên dùng lời hư dối mà ăn của tín thí. Các thầy há không nghe Ta chê trách tội vọng ngữ, và bằng mọi cách khen ngợi đức không nói lời dối trá hay sao? Tại sao nay các thầy lại vì lợi dưỡng mà hư dối tự nói đắc pháp vượt khỏi người. Đức Phật lại quở trách các Tỳ-kheo: Ở đời có năm hạng giặc lớn:
Một là hạng người làm chủ một trăm người cho đến một ngàn người để phá hoại thành ấp, xóm làng, hại người lấy của.
Hai là các Tỳ-kheo dẫn các Tỳ-kheo du hành trong nhân gian nói pháp tà mạng.
Ba là các Tỳ-kheo xấu ác đối với các pháp do Phật nói tự xưng là ta tạo ra.
Bốn là có Tỳ-kheo xấu ác không tu phạm hạnh, tự nói là ta tu phạm hạnh.
Năm là có Tỳ-kheo xấu ác vì lợi dưỡng, không có pháp vượt hơn người lại tự xưng là có.
Hạng giặc thứ năm này gọi là hạng giặc lớn nhất, tột cùng nhất của cả Thiên, nhân, Ma phạm, Sa-môn, Bà-la-môn nơi thế gian. Tại sao các thầy chỉ vì một chút lợi dưỡng mà lại làm kẻ giặc lớn nhất này? Quở trách như vậy rồi Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo không biết, không thấy pháp vượt hơn người theo Thánh lợi một cách đầy đủ mà lại xưng là tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy. Thời gian sau hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi, vì muốn hết tội để được thanh tịnh nên tự mình nói: Tôi không biết mà nói biết, không thấy mà nói thấy, hư cuống vọng ngữ. Tỳ-kheo này phạm tội Ba-la-di, không được sống chung”.
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ, có số đông Tỳ-kheo ít nghe không học, không hỏi, không có pháp vượt hơn người, tự cho là tôi biết, tôi thấy, tôi chứng. Một thời gian sau, vị kia nghe các Tỳ-kheo giảng luận về trạng thái đắc đạo, chưa đắc đạo mới tỏ rõ cái sai về đắc đạo của mình, lòng đầy xấu hổ khơi dậy suy nghĩ: Trước đây, chúng ta chưa đắc đạo mà nói là đắc đạo, há không phạm tội Ba-la-di!
Lại có Tỳ-kheo ít nghe, không học, không hỏi, không có pháp hơn người, tự nói là ta biết, ta thấy, ta chứng. Về sau, vị này học rộng các kinh, lòng đầy hổ thẹn hối tiếc, khơi dậy suy nghĩ: Như chỗ hiểu biết của ta đối với Phật pháp hiện nay thì trước kia ta chưa đắc đạo mà lại nói là đắc đạo, là tăng thượng mạn, há không phạm tội Ba-la-di!
Lại có Tỳ-kheo ít nghe, không học, không hỏi, không có pháp hơn người, tự nói là tôi biết, tôi thấy, tôi chứng. Về sau vị kia rộng tu phạm hạnh, đắc được đạo quả. Từ sự xấu hổ ấy khơi dậy ý niệm: Trước đây ta chưa đắc đạo mà nói là đắc đạo, là tăng thượng mạn, há không phạm tội Ba-la-di!
Các Tỳ-kheo suy nghĩ như vậy rồi, liền đến chỗ Tôn giả A-nan để hỏi vấn đề đó. Tôn giả cùng đưa các Tỳ-kheo đến chỗ Đức Phật, trình bày đầy đủ sự việc lên Ngài. Nhân sự việc này Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, tùy theo trường hợp một, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự thầy có như vậy không? Tỳ-kheo thưa: Bạch Thế Tôn, sự thật đúng như vậy. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Có năm hạng hiện bày pháp hơn người pháp: Một là ngu si, hai là tâm loạn, ba là chạy theo xấu ác, bốn là tăng thượng mạn, năm là thật có. Nếu ngu si, tâm loạn, tăng thượng mạn thật có pháp hơn người tự nói là ta chứng đắc, phạm Ba-la-di, điều này không có.
Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào không biết, không thấy pháp vượt hơn người theo Thánh lợi một cách đầy đủ mà lại tự xưng là ta biết như vậy, thấy như vậy. Thời gian sau, Tỳ-kheo này hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi, vì muốn khỏi tội để được thanh tịnh nên nói: Tôi không biết mà nói biết, không thấy mà nói thấy, hư cuống vọng ngữ, trừ tăng thượng mạn, Tỳ-kheo này mắc tội Ba-la-di, không được sống chung”.
Không biết không thấy: Tức là không biết không thấy pháp vượt hơn người. Tất cả pháp quan trọng ra khỏi thế gian, như các thiền định, Tam-muội giải thoát, chánh thọ, các đạo quả Thánh, gọi là pháp vượt hơn người. Đối với lời Phật dạy: Khổ, tập, diệt, đạo đã làm xong một cách đầy đủ, không có chỗ mong cầu, như vậy gọi là Thánh lợi trọn vẹn. Tự nói tôi thấy biết pháp như vậy, pháp cũng thấy biết về tôi như vậy gọi là tự xưng tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy. Hoặc một tháng cho đến một năm sau, có người hỏi:
Thầy đắc đạo thế nào, đắc ở đâu, đắc từ ai, do pháp gì đắc? Hoặc không ai hỏi mà tự phát lồ tội đã phạm để cầu giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh, nghi tịnh nên nói: Tôi không biết không thấy khổ, tập, diệt, đạo mà nói có biết có thấy, là hư cuống vọng ngữ. Tuy phát lồ như vậy mà vẫn phạm tội Ba-ladi.
Trường hợp phạm: Có hai hạng phạm Ba-ladi: Một là trước có nảy sinh ý niệm: Tôi đang dối nói là đắc pháp vượt hơn người. Hai là khi đang nói có ý niệm: Tôi nay dối nói đắc pháp vượt hơn người. Lại có ba hạng phạm Ba-la-di: Hai hạng như trên, hạng thứ ba là với ý niệm: Tôi đã dối nói đắc pháp vượt hơn người. Lại có bốn hạng phạm Ba-la-di: Ba hạng như trên, hạng thứ tư là dị kiến nói pháp vượt hơn người. Lại có năm hạng phạm Ba-la-di: Bốn hạng như trên, hạng thứ năm là di tưởng nói pháp vượt hơn người. Lại có sáu hạng phạm Ba-la-di: Năm hạng như trên, hạng thứ sáu là dị nhẫn nói pháp vượt hơn người. Lại có bảy hạng phạm Ba-la-di: Sáu hạng như trên, hạng thứ bảy là di lạc nói pháp vượt hơn người. Lại có tám hạng phạm Ba-la-di: Bảy hạng như trên, hạng thứ tám là không trả lời theo câu hỏi đã nói về pháp vượt hơn người.
Có bốn loại không phải Thánh ngữ, và bốn loại Thánh ngữ. Không phải Thánh ngữ: không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không hiểu nói hiểu, không biết nói biết. Thánh ngữ: thấy nói thấy, nghe nói nghe, hiểu nói hiểu, biết nói biết. Lại có tám loại không phải Thánh ngữ và tám loại Thánh ngữ. Không phải Thánh ngữ: không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, không nghe nói nghe, nghe nói không nghe, không hiểu nói hiểu, hiểu nói không hiểu, không biết nói biết, biết nói không biết. Ngược với nghĩa trên, gọi là tám Thánh ngữ.
Lại có mười sáu loại không phải Thánh ngữ và mười sáu loại Thánh ngữ. Không phải Thánh ngữ: không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không hiểu nói hiểu, không biết nói biết, thấy nói không thấy, nghe nói không nghe, hiểu nói không hiểu, biết nói không biết, thấy nghi nói không nghi, nghe nghi nói không nghi, hiểu nghi nói không nghi, biết nghi nói không nghi, thấy không nghi nói nghi, nghe không nghi nói nghi, hiểu không nghi nói nghi, biết không nghi nói nghi. Ngược với nghĩa trên gọi là mười sáu Thánh ngữ. Tỳ-kheo hướng đến người tự xưng đắc pháp vượt hơn người, đối tượng hiểu được, phạm Ba-la-di, không hiểu được phạm Thâu-lan-giá. Hướng đến phi nhân nói phạm Thâu-lan-giá, hướng đến súc sinh nói phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni phạm cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na.
Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
Trường hợp không phạm là nói đúng sự thật.
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Trưởng lão Ưu-đà-di bị lửa dục đốt, thân thể tiều tụy, khí lực tiêu hao, dùng tay xuất bất tịnh mới có được niềm vui an ổn. Có Tỳ-kheo khác cũng bị gầy ốm, Ưu-đà-di thấy thế hỏi: Tại sao thầy mất sức nhiều vậy? Tỳ-kheo kia trả lời: Thưa trưởng lão, tôi bị lửa dục thiêu đốt cho nên như thế. Ưu-đà-di nói: Trước đây tôi cũng vậy, dùng tay xuất bất tịnh mới được trụ an lạc. Nếu thầy áp dụng phương pháp của tôi thì cũng sẽ như vậy. Tỳ-kheo kia nói: Thầy làm điều phi pháp, không phải hạnh thanh tịnh, phá pháp của Sa-môn, không hợp chánh đạo. Đức Thế Tôn bằng mọi cách quở trách về dục, tưởng về dục, cảm giác dục, lửa dục và khen người đoạn tưởng dục, trừ cảm giác về dục, diệt lửa dục. Ngài nói lửa dục như xương đỏ, như thuốc độc. Tại sao nay thầy dùng tay để xuất bất tịnh, nhận lấy của tín thí, thậm chí dạy người việc đó? Quở trách rồi, họ cùng dẫn đến trước Phật, trình bày sự việc. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Ưu-đà-di:
Thật sự thầy có như vậy không? Ưu-đà-di thưa:
Bạch Thế Tôn! Có thật như vậy.
Đức Phật cũng dùng mọi cách quở trách như trên rồi bảo các Tỳ-kheo:
Do mười điều lợi, vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Bấy giờ, Tỳ-kheo với tâm không an khi ngủ, mộng tưởng xuất bất tịnh, thức dậy, vấn đề được đặt ra: Ta ở trong mộng cũng có tâm, cũng có động thân, xuất bất tịnh, há không phạm Tăng-già-bà-thi-sa? Do đó có vị phát lồ, có vị hành Mana-đỏa, có vị xin xuất tội, có vị bạch thẳng sự việc với Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo:
Sự thật các thầy có như vậy không? Các Tỳ-kheo thưa:
Kính bạch Thế Tôn, có thật như vậy! Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Các thầy không nên ngủ với tâm tán loạn. Nếu ngủ với tâm tán loạn phạm Đột-kiết-la.
Ngủ với tâm tán loạn có năm điều lỗi lầm:
Bị mộng ác.
Thiện thần không hộ vệ. Không có được tưởng ánh sáng. Không có tâm giác pháp.
Xuất bất tịnh.
Ngủ với tâm không tán loạn có năm công đức:
Không có mộng ác. Thiện thần hộ vệ.
Có tưởng ánh sáng. Có tâm giác pháp.
Không xuất bất tịnh.
Khi ngủ có năm nhân duyên căn nổi dậy:
Đại tiện thôi thúc.
Tiểu tiện thôi thúc.
Ứ hơi.
Trùng cắn.
Tâm dục thôi thúc. Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
Nếu chưa lìa dục, ngủ với tâm sân si tán loạn thì chắc chắn bị xuất bất tịnh, tuy chưa có thể lìa dục nhưng ngủ với tâm hệ niệm, vẫn không có những lỗi lầm ấy.
Từ nay giới này được nói như vầy: “Nếu Tỳ-kheo cố ý xuất bất tịnh, trừ trong chiêm bao, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Cố ý xuất bất tịnh: Khởi tâm, động thân làm cho bất tịnh xuất.
Tăng-già-bà-thi-sa: Tôi này còn một chút cơ hội có thể cứu chữa được. Cơ hội đó là, giữa Tăng cần cầu để trừ diệt mới được.
Bất tịnh có mười loại:
1. Sắc xanh.
2. Sắc vàng.
3. Sắc hồng.
4. Sắc đen.
5. Sắc đỏ.
6. Sắc trắng.
7. Màu sữa.
8. Màu tô.
9. Màu đầu.
10. Màu mật.
Nếu khởi tâm động thân muốn xuất màu xanh, mà xuất màu vàng cho đến màu mật đều phạm Tăng-già-bà-thi- sa. Nếu khởi tâm động thân muốn xuất màu vàng cho đến màu mật mà xuất các màu khác cũng như vậy.
Có mười loại khởi tâm động thân xuất bất tịnh đều phạm Tăng-già-bà-thi-sa: Một là làm thử, hai là trừ bệnh, ba là vì nhan sắc, bốn là vì sức lực, năm là vì vui, sáu là bố thí, bảy là vì sinh thiên, tám là vì hội tế trời của ngoại đạo, chín là vì chủng tử, mười là vì thờ lửa. Có năm loại khởi tâm động thân xuất bất tịnh đều phạm Tăng-già-bà-thi-sa:
Nội sắc.
Ngoại sắc.
Hư không.
Gió. Nước.
Nội sắc: Là tự nơi thân mình.
Ngoại sắc: Là thân người khác.
Hư không: Động thân giữa hư không.
Gió: Hướng ngược gió để làm.
Nước: Hướng ngược nước để làm.
Lại có năm loại khởi tâm động thân xuất bất tịnh phạm Tăng-già-bà-thi-sa:
1. Đầy đại tiện.
2. Đầy tiểu tiện.
3. Ứ hơi.
4. Trùng cắn.
5. Đầy dục.
Nếu khởi tâm, thân không động, không xuất bất tịnh, khởi tâm thân không động, xuất bất tịnh đều phạm Đột-kiết-la. Khởi tâm, thân động, không xuất bất tịnh, phạm Thâu-lan-giá. Không khởi tâm, thân động, không xuất bất tịnh, không khởi tâm, thân không động, xuất bất tịnh đều không phạm. Khi ngủ xuất bất tịnh, khi thức dậy khởi tâm, thân động phạm Thâu-lan-giá. Khi ngủ thân động, khi thức dậy khởi tâm, xuất bất tịnh phạm Đột-kiết-la. Khi ngủ khởi tâm, khi ngủ dậy thân không động, xuất bất tịnh không phạm. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ nhất.
--------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Trưởng lão Ưu-đà-di bị lửa dục thiêu đốt, nảy ra ý nghĩ: Cố ý xuất bất tịnh, Đức Thế Tôn đã cấm, nay ta tạo điều kiện cùng người nữ xúc chạm để lấy thú vui nơi sự mềm mại. Ưu-đà-di bèn lau quét trong phòng, trang hoàng giường ghế đẹp, rồi lấy một cái ghế nhỏ ngồi nơi chỗ đất trống. Lúc ấy có các người nữ đến vãng cảnh, nói với Ưu-đà-di: Chúng tôi đến đây muốn xem các phòng xá. Ưu-đà-di đáp: Các chị em cứ xem xét theo ý muốn của mình. Ưu-đà-di liền hướng dẫn họ vào phòng rồi đóng cửa ra vào, mở cửa sổ, bằng nhiều kiểu xúc chạm họ, hoặc nắm, hoặc ôm, hoặc bóp, hoặc xoa, hoặc đưa lên, hoặc để xuống, hoặc cỡi, hoặc cõng. Trong số họ, người thích thì nói: Sao không làm cái việc chánh, làm chi những việc phụ như vậy? Ưu-đà-di nói: Đức Phật không cho phép tôi làm cái việc chánh ấy.
Những người không ưa thì giận dữ nói: Xưa nay gọi chỗ này là nơi an ổn, giờ ngược lại thành chỗ đáng ghê sợ, lửa bốc cháy trong nước chưa đủ để so sánh điều quái gỡ này, kẻ cư sĩ ở tại nhà còn xấu hổ khi làm việc này, tại sao Tỳ-kheo lại làm điều ác như thế.
Họ liền trở về nhà, từng người một nêu bày chê bai. Những người thiếu lòng tin không ưa Phật pháp tha hồ trách cứ, mạ lị: Chúng ta là cư sĩ xúc chạm với đàn bà, Sa-môn Thích tử cũng làm như vậy, thế thì uổng phí cái đầu được cạo đi, thế họ với ta khác gì nào? Họ không có hạnh của bậc Sa-môn, họ phá pháp Sa-môn, tiếng xấu như vậy đồn khắp thiên hạ. Lại có một Bà-la-môn dẫn vợ đi vãng cảnh, lần lượt họ đến phòng của Ưu-đàdi, nói: Vợ chồng chúng tôi muốn vào xem phòng xá. Ưu-đà-di nói: Không được cùng một lúc hai người vào, có thể người trước kẻ sau. Bà-la-môn nói: Nếu không được vào một lượt thì để vợ tôi vào trước. Người vợ vào phòng, Ưu-đà-di cũng lại làm bao nhiêu trò xúc chạm như trước. Kéo dài lâu lắm người phụ nữ mới ra khỏi phòng. Người chồng hỏi vợ: Chứ làm chuyện gì mà lâu thế, không muốn đi xem các phòng khác hay sao? Bà vợ nói: Thôi! Thôi! Đừng nói điều đó nữa, chỉ vào một phòng mà gần muốn chết mới ra được đây, xem các phòng khác lại phải chịu nỗi như thế sao?! Người chồng hỏi lý do, người vợ trình bày đúng sự thật. Ngay khi ấy, người Bà-la-môn liền trách mắng: Cái nghiệp ác ấy, tại sao Sa-môn Thích tử lại làm như thế? Ông ta vào thành Xávệ, nơi ngả tư đường, chỗ chợ búa xóm làng, tận hang cùng ngõ hẻm, cao giọng lớn tiếng rêu rao: “Sa-môn Thích tử đã xúc chạm bậy bạ với vợ tôi”. Những người không có lòng tin đối với Phật pháp tha hồ mắng nhiếc Sa-môn Thích tử làm hạnh ác như thế, tại sao tự xưng là tịnh tu phạm hạnh? Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe bèn quở trách đủ thứ, rồi trình bày đầy đủ mọi sự việc lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Ưu-đà-di:
Thật sự ông có làm như vậy không? Ưu-đà-di thưa:
Bạch Thế Tôn, có sự thật như vậy.
Đức Phật bằng sự nghiêm khắc quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo do lòng dục thôi thúc làm biến dạng tâm, xúc chạm thân người nữ, hoặc nắm tay, hoặc vuốt tóc, hoặc nắm bất cứ ở đâu trên phần thân họ, xoa rờ, tham đắm sự mềm mại, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Lòng dục thôi thúc làm biến dạng tâm: Tức là hướng về tâm dục, khởi tâm mạnh, sự việc mới được hình thành, biến pháp thiện, pháp vô ký, rơi vào chỗ bất thiện.
Người nữ: Là người đàn bà kể cả trẻ mới sinh.
Xúc chạm: Bất cứ chỗ nào trên thân, bằng mọi cách xoa rờ, cho đến chỉ một sợi tóc. Có năm trường hợp, Tỳ-kheo xúc chạm thân người nữ phạm Tăng-già-bà-thi-sa: người nữ, tưởng người nữ, người sống theo kiểu nữ, người tâm nhiễm nữ, do tình gần gũi xoa rờ xúc chạm có cảm giác và thọ nhận cho đến xúc chạm nơi tóc cũng như vậy. Năm việc xúc chạm người nữ phạm Thâu-lan-giá: người nữ, tưởng là người nữ, người sống theo kiểu nữ, không do tình gần gũi xoa rờ xúc chạm có cảm giác và thọ nhận, cho đến xúc chạm nơi tóc cũng như vậy. Người nữ xúc chạm Tỳ-kheo cũng như thế. Năm việc xúc chạm người nữ không phạm: người nữ, tưởng là người nữ, người sống theo kiểu nữ, người tâm nhiễm nữ, không do tình thân cận, các người nữ này nắm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo tạo phương tiện để thoát, tuy có cảm giác, có xúc chạm mà không thọ nhận, cho đến xúc chạm nơi tóc cũng như vậy. Lại, người nữ, tưởng là người nữ, nghi người nữ, người nữ không căn, người nữ tưởng, tưởng nhị căn, xúc chạm phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Người nữ tưởng là nam, nữ tưởng là huỳnh môn, xúc chạm phạm Thâu-lan-giá. Nam, tưởng là nam, nghi là nam, nam tưởng là huỳnh môn, xúc chạm, phạm Độtkiết-la. Nam, tưởng là nữ, tưởng nam vô căn, tưởng nam hai căn, xúc chạm, phạm Thâu-lan-giá. Huỳnh môn cũng như vậy. Vô căn, tưởng là vô căn, nghi vô căn. Vô căn, tưởng nhị căn, vô căn, tưởng là nữ, xúc chạm, phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Vô căn tưởng là nam, vô căn tưởng là huỳnh môn, xúc chạm, phạm Thâu-lan-giá. Hai căn cũng như vậy. Tỳ-kheo cùng với nữ không có y phục xúc chạm nhau, phạm Tăng già ba thi xa, cùng người nữ có y phục xúc chạm nhau, phạm Thâu-lan-giá. Người nữ nắm Tỳ-kheo không có y, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, nắm Tỳ-kheo có y, phạm Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo cùng người nữ, cả hai đều có y nắm nhau, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo nắm y của người nữ, người nữ bỏ y cho Tỳ-kheo, phạm Thâu-lan-giá. Người nữ nắm y Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không bỏ y cho người nữ, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo xúc chạm người chết là nữ, không phải người nữ, phạm Thâu-lan-giá, nắm súc sinh cái phạm Đột-kiết-la, Sa-di phạm Độtkiết-la.
Xong giới thứ hai.
-------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Trưởng lão Ưu-đà-di bị lửa dục thiêu đốt nảy sinh ý nghĩ, cố ý xuất bất tịnh, xúc chạm thân người nữ, Đức Thế Tôn đã ngăn cấm, nay ta nên tạo điều kiện khác, hướng đến người nữ nói lời thô tục để tìm sự vui trong dục lạc. Với ý nghĩ ấy, Ưu-đà-di liền lau quét phòng rồi ngồi nơi chỗ đất trống. Người nữ đến viếng cảnh, dẫn vào phòng đóng cửa, như trước đã nói. Ưu-đà-di bèn ở trong phòng, cùng người nữ nói những lời thô tục, bằng cách hỏi sỗ sàng: Tay chân, bắp chân, cổ tay, eo lưng, bụng, cổ, vú, đầu, mặt, móng tay, tóc, đường đại tiểu tiện của cô giống như cái gì? Lại nói: Này cô em, tay chân, cho đến đường đại tiểu tiện của cô em chỗ nào cũng xấu xí! Lại nói: Này cô em, tay chân, cho đến đường đại tiểu tiện của cô em chỗ nào cũng tốt đẹp! Lại hỏi: Khi chồng cô gần gũi cô, lại vỗ về cô ra sao? Nếu theo ý của tôi, tôi sẽ cho cô châu báu. Nếu cô cần gì, cho tôi được biết. Tất cả thiên thần đều chứng giám cho lòng tôi. Các người nữ nghe qua, người vui thích, kẻ không thích có phản ứng như trước đã nói. Tỳ-kheo Trưởng lão nghe được, bằng mọi cách quở trách, và đem vấn đề này bạch Phật. Đức Phật nhân việc này tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Ưu-đàdi:
Thật sự thầy có như vậy không? Ưu-đà-di thưa:
Bạch Thế Tôn, có như vậy.
Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo:
Do mười điều lợi nên Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo lòng dục thôi thúc làm biến dạng tâm, hướng đến người nữ nói những lời thô tục, tùy theo vấn đề dâm dục, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Trường hợp phạm: Chê khen, cầu xin, hỏi, hỏi lại, chỉ dẫn. Tỳ-kheo có năm sự việc cùng người nữ nói lời thô tục, người nữ, tưởng người nữ, người sống theo cách nữ, người tâm nhiễm nữ, do tình thân cận, từ chê khen cho đến chỉ dẫn, người kia hiểu rõ, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không hiểu rõ phạm Thâu-lan-giá.
Chê: Chê bai ba chỗ của người nữ, hoặc nhỏ, hoặc lớn, hình sắc xấu xí. Khen: Ngợi khen ba chỗ của người nữ, không nhỏ, không lớn, hình sắc tốt đẹp. Xin: Đến người nữ xin ba chỗ, nếu có thể cho tôi, tôi có thể làm theo ý của cô. Nguyện: Muốn được ba chỗ của cô, được ba chỗ của cô là người phước lạc. Hỏi: Như hỏi chồng cô trong ba chỗ, hành dục chỗ nào? Làm gì khi nào? Hỏi lại: Như hỏi chồng cô đối với ba chỗ, không làm như vậy hay sao? Chỉ dẫn: Như dạy: Cô đem ba chỗ đáp ứng theo ý người nam thì được người nam luyến ái. Người nữ, tưởng là người nữ, cho đến hai căn, tưởng là hai căn, đều như trên đã đề cập. Lại có năm thứ: Sai sử, viết thư, ra dấu, cử động tay, nói lời tương tợ. Người kia hiểu rõ, phạm Thâu-lan-giá, hiểu không rõ, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo đối diện cùng người nữ nói lời thô tục, người nữ hiểu, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không hiểu phạm Thâu-lan-giá. Hướng đến phi nhân nữ nói lời thô tục, phạm Thâu-lan-giá, hướng đến súc sinh cái nói lời thô tục phạm Đột-kiết-la. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ ba.
--
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Trưởng lão Ưu-đà-di bị lửa dục thiêu đốt, nảy sinh ý nghĩ: Cố ý làm xuất bất tịnh, xúc chạm thân người nữ, hướng đến người nữ nói lời thô tục, Đức Phật đều đã chế cấm, nay ta nên hướng đến người nữ tự khen ngợi việc hiến dâng thân xác, nhằm tìm lấy thú vui thỏa thích. Ưu-đà-di lại lau quét phòng, làm mọi việc như trên. Rồi ở trong phòng nói với người nữ: Này cô em! Cô em cúng dường Samôn, Bà-la-môn, cho đến các vị nhập thiền định, được bốn đạo quả, không bằng đem sự dâm dục cúng dường người trì giới. Các người nữ nghe qua, có người vui thích, có người không thích… cho đến câu: Đức Phật bằng mọi cách quở trách, như trên đã nói. Quở trách rồi, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Do mười điều lợi nên Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo lòng dục thôi thúc làm biến dạng tâm, hướng đến người nữ tự khen việc đem thân cúng dường, nói: Cô em đem việc dâm dục cúng dường là sự cúng dường hạng nhất, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”. Nếu bằng nhiều cách nói để khen việc đem thân cúng dường dâm dục thì mỗi lời nói đều phạm Đột-kiết-la. Nếu nói: Không bằng đem dâm dục để cúng dường thì mỗi lời nói đều phạm Thâu-lan-giá. Nếu nói: Cúng dường bằng dâm dục là sự cúng dường bậc nhất thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Dùng năm việc tự khen cúng dường thân, người nữ, tưởng là người nữ, người nữ sống theo kiểu nữ, người tâm nhiễm nữ, dùng tình gần gũi, nói: Cúng dường dâm dục là sự cúng dường bậc nhất, người kia hiểu rõ, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không hiểu rõ phạm Thâu-lan-giá. Người nữ, tưởng người nữ, cho đến hai căn, tưởng là hai căn, sai người cho đến nói tương tợ, đối diện cùng người nữ nói, hướng đến phi nhân nữ, súc sinh cái đều như trước đã nói. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ tư.
-----------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy có Trưởng giả tên là Ca-lưu, thông minh lợi căn, khéo đoạn nghi hoặc cho người. Trong thành Xá-vệ, hễ có sự việc gì, đến cả việc hôn nhân không ai là không đến hỏi ý kiến. Ca-lưu nói được, họ mới làm, nói không được thì họ không làm. Kết quả tốt thì họ nói: “Nhờ Ca-lưu nên họ mới được thế này, nên làm thế nào để Ca-lưu cũng được vui như ta”. Nếu kết quả xấu thì họ cũng nói: “Do Ca-lưu nên ta mới ra nông nỗi thế này, làm sao cho Ca-lưu cũng chịu nỗi khổ như ta”. Như vậy tiếng khen, tiếng chê đối với Ca-lưu khắp đầy cả nước. Thời gian sau, do lòng tin, Ca-lưu xuất gia học đạo, những người cần hỏi ý kiến, theo ngày tháng càng đông hơn, thậm chí Vua Ba-tư-nặc cũng đích thân đến hỏi việc nước. Điều hoan hỷ, sự phẫn nộ vang lừng gấp bội so với trước.
Khi ấy có một quả phụ, đứa con gái của bà ta sắc đẹp nhất xứ, nhiều người đến cầu hôn, bà đều không nhận lời. Bà ta nói: Nếu người nào muốn cưới con gái của bà thì phải ở rể luôn thì bà mới gả cho.
Bấy giờ, một người Bà-la-môn giàu có, tiền của không sao kể xiết được, nói với bà quả phụ: Cho con trai tôi cưới con gái của bà thì sẽ có sự sống an lạc.
Bà quả phụ vẫn trả lời như lúc trước.
Bị từ chối, người Bà-la-môn bèn dò la trong quần chúng để biết ai là người thường tới lui nhà bà quả phụ ấy.
Có người cho biết: Sa-môn Ca-lưu là người thường đến nhà ấy.
Người Bà-la-môn liền mời Ca-lưu tới nhà mình để cúng dường thường xuyên. Đã trở thành chỗ thân giao, người Bà-la-môn đem sự việc thưa: Tôi muốn cưới con gái của bà… làm vợ cho con tôi, nhờ Đại đức vì tôi nói giúp lời.
Ca-lưu liền mặc y bưng bát đến nhà quả phụ. Bà quả phụ liền ra lễ bái hỏi chào. Ca-lưu nói: Cô có thể gả con gái của cô cho con ông ? Gia đình ông ấy giàu có, chắc chắn con cô được an lạc. Bà quả phụ vẫn trả lời như trước.
Ca-lưu lại nói: Nếu không gả đứa con gái này, khi lớn lên bị lỡ thì nó không nghe lời bà nữa đâu. Tại sao lại để mất đứa con gái, lại mất một người rể tốt!
Bà quả phụ nghe nói như vậy liền đồng ý. Calưu trở lại nhà trai với lời báo tốt đẹp. Cuộc hôn nhân thành tựu. Sau khi về nhà chồng, chịu nhiều điều cực khổ, cô ta liền viết thư nhờ mẹ nói với nhà chồng cầu xin chút thong thả.
Bà mẹ bảo cô ta: Việc này phải cần Ca-lưu đến nói.
Hôm sau Ca-lưu tới nhà bà quả phụ, bà nói hết những điều khổ cực của con mình, và thưa: Do Đại đức mà có cuộc hôn nhân này, Đại đức vì tôi đến nói giúp.
Ca-lưu trả lời: Con của bà vô phúc mới gặp cảnh khổ này, nếu có phúc thì cơ sự đâu đến nỗi như vậy. Pháp của Sa-môn, không cho tôi biết đến sự việc ấy của người thế tục.
Bà quả phụ liền mắng: Trước kia biết việc của người, nay lại nói không biết, người ác như thế thì cuối cùng sẽ không ra chi. Bà ta tru tréo đủ cách, ngôn từ hết sức cay nghiệt mắng nhiếc Ca-lưu.
Người hàng xóm nghe đều đến can, nói: Con của bà bạc phước nên mới chịu lắm cái khổ như vậy, chứ can chi đến Sa-môn này mà mắng nhiếc ông ta thậm tệ như thế?
Bà quả phụ nói: Các người đâu có biết gì, do Sa-môn này xuôi tôi gả con nên con bé nhà tôi mới chịu khổ cực như vậy.
Lúc này, những người thiếu lòng tin đối với Phật pháp đều buông lời mỉa mai: Bà tin Sa-môn nên con bà chịu khổ là đáng đời! Nếu ai còn tin lời họ thì cứ coi đó mà tin!
Mọi người lại mắng nhiếc: Chúng ta là Cư sĩ, sự thường làm mai mối, Sa-môn Thích tử cũng làm như vậy. Việc làm thường tình này khiến họ và ta có khác gì đâu, khác chăng là cái đầu trọc và chiếc áo hoại sắc!
Tiếng xấu ấy đồn vang khắp cả gần xa, các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe được liền bằng mọi cách quở trách, rồi cùng nhau đến chỗ Đức Phật, trình bày lên Ngài việc đã xảy ra. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Ca-lưu:
Thật sự ông có như vậy không? Ca-lưu thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo:
Do mười điều lợi nên Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo nào làm mai mối, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Bấy giờ, các nhà hào phú nơi thành Xá-vệ muốn làm việc tư thông với các đồng nữ đã lớn tuổi trong thành, nhưng họ tự xấu hổ không dám nói lên ý muốn của mình, lại không nhờ được ai, bèn nói với nhóm Lục quần Tỳ-kheo: Thầy có thể vì tôi nói điều đó, cần chi tôi sẽ lo liệu. Một ngày một đêm cho đến một lần gặp nhau là bao nhiêu? Lục quần Tỳ-kheo liền đến chỗ các người nữ, nói rõ ràng vấn đề trên. Những người thấy biết việc làm ấy đều cùng nhau đồn đại: Sa-môn Thích tử tịnh tu phạm hạnh, tại sao nay lại làm nghiệp ác này. Chỗ nhục nhã là câu kết, hợp tác với đám tà dâm, không phải là Cư sĩ. Các Sa-môn này chẳng còn chút hổ thẹn nào cả!
Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi cùng đưa đến chỗ Phật, trình bày lên Ngài sự việc. Đức Phật nhân việc này tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo Lục quần: Sự thật các ông có như vậy không? Lục quần Tỳ-kheo thưa:
Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo làm việc mai mối, hay làm việc tư thông, đem ý người nam đến nói với người nữ, đem ý người nữ đến nói với người nam, cho đến một lần gặp gỡ, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Có mười hạng nam, mười hạng nữ. Mười hạng nữ: Cha mẹ bảo hộ, anh chị bảo hộ, bà con bảo hộ, tự bảo hộ, pháp bảo hộ, tự ý mình nhận y vật, cùng thề, có chủ và tác tín. Cha mẹ bảo hộ: Là người nữ có cha mẹ, cha mẹ có quyền cưới gả, có quyền định đoạt. Anh chị, bà con cũng như vậy. Tự bảo hộ: Tự mình được tự tại, tự mình ưng hay không ưng ai, tự mình quyết định. Pháp bảo hộ: Là chánh pháp, xuất gia tu hành phạm hạnh. Tự ý mình: Tự theo sở thích của mình. Y vật: Là nhận y vật của người khác. Cùng thề: Cùng người hứa hẹn. Có chủ: Người nữ có chồng. Tác tín: Nhận bưu thiếp của người, đưa đến sự hứa hẹn một ngày một tháng, cho đến một lần gặp gỡ. Mười hạng nam cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo nhận lời của người nam có cha mẹ bảo hộ, phạm Độtkiết-la. Nói với người nữ có cha mẹ bảo hộ, cho đến người nữ tác tín, phạm Thâu-lan-giá. Họ không chấp thuận, trở lại báo, phạm Thâu-lan-giá. Họ hứa gả trở lại báo, phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ-kheo nhận lời nói của người nam có cha mẹ bảo hộ, nói với người nữ có cha mẹ bảo hộ, người nữ nói: Có thể nói với cha mẹ tôi. Tỳ-kheo đem lời nói này trở lại trả lời, phạm Thâu-lan-giá. Người nam có cha mẹ bảo hộ lại khiến Tỳ-kheo nói với cha mẹ người nữ kia, nhận lời nói này, phạm Đột-kiết-la. Nói với cha mẹ người nữ kia, cho đến không chấp thuận, trở lại trả lời, phạm Thâu-lan-giá, hứa thuận trở lại trả lời, phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nhận lời nói của người nam có cha mẹ bảo hộ, nói với người nữ có anh chị, bà con bảo hộ cũng như vậy. Cho đến nhận lời nói của người nam tác tín, nói với người nữ có cha mẹ bảo hộ, cho đến nói với người nữ tác tín, cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo nhận lời nói của người nữ có cha mẹ bảo hộ, cho đến người nữ tác tín, nói với người nam có cha mẹ bảo hộ, cho đến nói với người nam tác tín, cũng lại như vậy.
Có sáu cách nói: Tự mình nói, sai người nói, viết thư nói, sai người này sai người khác nói, nói lời tương tự, ra dấu. Nếu Tỳ-kheo tự mình nhận lời, tự mình nói với người kia, tự mình trở lại trả lời, phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu Tỳ-kheo tự mình nhận lời, sai người đến nói người kia, sai người trở lại trả lời, đều phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Tự mình nhận lời, cho đến ra dấu nói với người kia, ra dấu trở lại trả lời, cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo nhận lời nói bằng cách ra dấu, cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo vì người bên nam hay người bên nữ, làm việc mai mối, phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Vì người nam tiến hành việc mai mối với bên phi nhân nữ, phạm Thâu-lan-giá. Vì người nam, làm việc mai mối, với bên súc sinh cái, phạm Đột-kiết-la. Vì người nữ cũng như vậy. Vì phi nhân nam làm mai mối với bên người nữ phạm Thâu-lan-giá. Vì súc sinh đực làm mai mối với bên người nữ, phạm Đột-kiết-la. Vì người nữ làm mai mối với bên huỳnh môn, phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo vì người nam mượn người nữ, vì người nữ mượn người nam, để sai khiến lâu dài, phạm Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo-ni phạm cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Độtkiết-la. Không phạm: Vì hòa hợp.
Xong giới thứ năm.
-------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, các Tỳ-kheo ở ấp A-đồ-bệ, tự xin vật liệu để làm phòng xá, đến các Cư sĩ xin xe cộ, trị giá bằng xe cộ, xin nhân công, trị giá bằng nhân công, gỗ cây tre trúc thứ gì cũng xin. Cư sĩ chán ngấy, thấy Tỳ-kheo là tránh xa. Các Tỳ-kheo xin không được thứ gì nữa cả, bèn tự mình chặt cây phát cỏ, đào đất làm vật liệu. Có một Đại đức Tỳ-kheo tự mình chặt cây của vị thần, trong khi đứa con nhỏ của vị thần đang vui chơi nơi cây, bị chặt đứt một ngón tay. Thần cây đau khổ vô cùng, ý ác nổi dậy muốn đến đánh Tỳ-kheo, song liền nghĩ lại: Vị này có oai đức lớn, nếu ta đánh lỡ tay bị chết, chắc chắn phải nhận lấy tăm tối triền miên của bao điều khổ não. Vị thần lại nghĩ: Hiện nay Đức Thế Tôn ở tại thành này, ta nên đến trình bày việc này, Đức Phật dạy sao thì ta phụng hành thế ấy. Vị thần liền đến Kỳ-hoàn trình bày đầy đủ vấn đề lên Đức Phật. Ngay lúc ấy, Đức Phật tán thán vị thọ thần:
Hay thay! Hay thay! Ông có được niệm thiện như thế! Hiện nay Tỳ-kheo này thật có oai đức, nếu đánh, ắt phải thọ khổ báo.
Đức Phật lại bảo vị Thọ thần:
Nơi vùng ấy có một cây rất lớn chưa thuộc về của ai, ông có thể đến đó nương tựa.
Nhận lời chỉ giáo vị Thọ thần ra đi. Với sự việc như vậy, trên đường du hành, Đức Phật chậm rải về ấp A-đồ-bệ.
Trưởng lão Đại Ca-diếp, sáng sớm đắp y bưng bát vào thành khất thực. Vì chuyện trên, các Cư sĩ trông thấy đều lánh mặt. Trưởng lão lấy làm lạ, hỏi người đi đường, họ nói: Các Tỳ-kheo ở đây xin vật liệu để làm phòng xá không biết thế nào là chán, người trong ấp lo nghĩ khổ tâm lắm nên thấy Tôn giả họ tránh là vậy. Tôn giả Đại Ca-diếp sau khi thọ thực trở về lại chỗ Đức Phật, trình bày sự việc lên Ngài. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo:
Sự thật các thầy có như vậy không? Các Tỳ-kheo thưa:
Bạch Thế Tôn! Sự thật có như vậy.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách và nói:
Các thầy nên tu hạnh ít ham muốn, biết vừa đủ, không nên có nhiều sự cầu xin không biết nhàm chán như vậy.
Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
Vào đời quá khứ có một Tiên nhân ở trong hang đá bên bờ sông Hằng. Bấy giờ, Long vương hằng ngày từ nước xuất hiện, nhiễu quanh vị Tiên nhân bảy vòng, đưa đầu lên xuống để nêu bày sự cung kính. Sau đó, vị Tiên nhân du hành trong nhân gian, người đệ tử trông coi cái hang, con rồng cũng như trước kia, hằng ngày đến tỏ vẻ cung kính, nhưng người đệ tử quá hoảng sợ đâm ra suy nhược gầy đi trầm trọng. Thời ấy, Ta đang hành đạo Bồ-tát, du hóa bên bờ sông Hằng chứng kiến sự việc này, liền hỏi lý do, được người học trò của Tiên nhân thổ lộ sự thật. Ta lại hỏi: Nay ông không muốn thấy con rồng ấy nữa phải không? Người đệ tử trả lời: Đúng như vậy. Ta hỏi: Ông thấy dưới cổ con rồng có những vật gì hay không? Người đệ tử nói: Có hạt ngọc Mani. Ta bảo: Khi con rồng tới, ông chấp tay hướng đến nó, nói lên ý muốn này: Nay ta cần hạt ngọc Ma-ni ở dưới cổ của ngươi, xin ngươi cho ta.
Người đệ tử của Tiên nhân ghi nhận lời chỉ vẽ của Ta nên ngay khi con rồng từ dưới nước xuất hiện, liền ngỏ lời xin hạt minh châu. Con rồng nghe xin hạt minh châu liền đứng sững cả người, lặng thinh. Người đệ tử Tiên nhân lại vì Long vương nói kệ:
Long vương nay cần ngươi
Cho hạt châu dưới cổ
Lòng ta rất ưa thích!
Cớ sao lặng cả người?
Rồng liền dùng kệ đáp:
Tất cả gì ta cần
Đều được từ ngọc châu
Nay ông theo cầu xin
Vĩnh viễn ta không đến.
Như tiếng lửa vỡ bùng
Khiến lòng người khiếp sợ
Nay ta nghe ông nói
Hoảng hốt sợ nhiều hơn.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn dẫn tích xưa, nói kệ:
Người xin không ai ưa
Xin mãi bị oán ghét
Long vương nghe tiếng xin
Một đi không trở lại.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Long vương thọ nghiệp báo tự nhiên, hãy còn không hoan hỷ nghe tiếng cầu xin. Nay các Cư sĩ làm ăn vất vả khổ nhọc mới có được của tiền, tại sao các ông không biết điều đó, lại cứ luôn luôn cầu xin.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Xưa kia, một thời Ta ở tại thành Xá-vệ, có Tỳ-kheo an cư xong, đến chỗ Ta, nhân đó Ta hỏi: Thầy an cư ở đâu? An cư có được an ổn không? Khất thực có dễ được không? Đi đường có nhọc mệt không?
Tỳ-kheo kia trả lời: Con an cư tại khu rừng nơi sườn núi Tuyết, an cư được an ổn, khất thực dễ được, trên đường đi không nhọc mệt, duy chỉ có một điều đáng lo là các con chim ban đêm ồn ào, nên không chuyên niệm được trong khi tọa thiền tư duy. Ta hỏi Tỳ-kheo ấy: Nay thầy còn muốn vui với khu rừng đó nữa không? Tỳ-kheo ấy thưa: Bạch Thế Tôn! Con rất thích. Ta nói: Thầy về lại nơi đó lúc xẩm tối, muôn chim bay về, thầy chấp tay hướng đến nó nói: Nay ta cần những cánh lông của các ngươi, các ngươi có thể cho ta. Giữa đêm, sau đêm cũng nói như vậy. Tỳ-kheo kia làm y theo lời Ta bảo. Các con chim suốt đêm bàn nói: Nay Tỳ-kheo này xin ta điều đó, chúng ta có nên cho hay không? Chúng nó đều nói: Không thể cho được, rồi bay đi luôn, không trở lại.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Loài chim còn không ưa nghe tiếng cầu xin, huống chi là người. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Thuở đời quá khứ có quốc vương tên là Cadi, ưa làm việc bố thí, cung cấp cho người nghèo khổ. Khi ấy, có vị Phạm chí, được nhà Vua rất ái trọng, nhưng chưa bao giờ đến nhà Vua cầu xin thứ gì. Bấy giờ, nhà Vua nói kệ:
Phương xa, người đều đến
Khắp nơi tới ta xin
Nay sao ông tại chỗ
Không xin, có ý gì?
Phạm chí lại dùng kệ trả lời:
Người xin không ai thích
Không cho gây oán hờn
Thế nên im, không xin
Sợ lìa mất tình thân Nhà Vua lại nói kệ:
Người trí đâu ghét xin
Lắng nghe rõ tiếng cầu
Huống ông, tình thân ái
Bao dung sẽ sẵn lòng.
Cam nghèo thẹn cầu xin
Chỗ đáng nhận không nhận
Mất người rộng lòng phước
Lại tự khổ lấy mình.
An bần cầu không thẹn
Nhận nơi chỗ đáng nhận
Vun xới thiện cho người
Cho tự thân an lạc.
Điều xin tròn đức hạnh
Cũng không lỗi miệng, thân
San sẻ giữa có không
Cớ sao lại chối từ!
Phạm chí lại dùng kệ trả lời:
Người hiền không nói xin
Nói xin chẳng phải hiền
Im lặng không cầu xin
Đại nhân ấy người hiền.
Nhà Vua nghe kệ nói về Hiền nhân, tâm rất hoan hỷ, liền đem một con bò chúa và một ngàn con bò khác để biếu tặng Hiền nhân Phạm chí. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Mối quan hệ giữa nhà Vua với Phạm chí tuy rất thân tình, song còn khó xảy ra sự cầu nhiều như thế, huống chi là các cư sĩ, đối với các thầy không có sự ái kính mà cầu xin nhiều sao?
Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
Xưa kia có một người con thuộc nhà danh giá, tên là La-tra-ba-la, cha mẹ rất yêu quý, nhưng từ khi xuất gia không hề xin cha mẹ thứ gì. Ngạc nhiên, cha mẹ bằng lời kệ hỏi con:
Xa xôi người tìm tới
Khắp nơi đến ta xin
Con là con yêu quý
Không xin có ý gì?
La-tra-ba-la cũng dùng kệ trả lời:
Người xin không ai ưa
Đã không cho lại ghét
Con đã xuất ra rồi
Không nên cầu xin nữa.
Này các Tỳ-kheo! La-tra-ba-la được cha mẹ yêu quý, còn lấy cớ xuất gia không trở về cầu xin, huống chi là các Cư sĩ, đối với các thầy đâu có thân hậu gì mà lại xin nhiều như thế?
Đức Phật bằng mọi hình thức, quở trách như vậy rồi, bảo các Tỳ-kheo:
Do mười điều lợi, nên Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau:
“Tỳ-kheo nào tự mình xin vật liệu làm nhà, không có thí chủ, phải làm đúng lượng, bề dài mười hai gang tay Phật, bề rộng bảy gang tay Phật, nên mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ. Các Tỳ-kheo phải chỉ chỗ không có trở ngại, chỗ có đường đi. Nếu không mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ, hoặc làm quá lượng, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Tự mình xin: Tỳ-kheo vì mình đến người khác xin.
Phòng: Là nơi có thể đi, đứng, ngồi, nằm, sinh hoạt theo bốn oai nghi.
Không có thí chủ: Không có người dâng cúng.
Vì mình: Vì chính mình chứ không vì người khác, cũng không vì Tăng.
Mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ: Tức là mời các Tỳ-kheo biết pháp, trì luật đến chỉ chỗ cho mình.
Các Tỳ-kheo nên chỉ chỗ không có trở ngại, chỗ có đường đi: Chỗ trở ngại là chỗ ngả tư đường, nhiều người tụ họp, vui đùa, chỗ dâm nữ, chỗ chợ búa, chỗ thả trâu, chỗ sư tử, hổ lang, thú dữ, bên bờ sông nước xói, chỗ có đại thọ được thờ cúng, chỗ có ruộng vườn tốt, chỗ có phần mộ, chỗ quá gần hay quá xa thôn xóm, chỗ có đường đi hiểm trở. Như vậy gọi là chỗ trở ngại. Không có các nạn trên đây thì gọi là chỗ không có trở ngại.
Chỗ có đường đi: Là chỗ xung quanh có đường xe đi được. Như vậy gọi là chỗ có đường đi. Nếu chỗ có các trở ngại như trên đó là chỗ không có đường đi. Các Tỳ-kheo chỉ chỗ phải nói với các Tỳ-kheo kia: Thầy đừng nên xây cất ở chỗ này. Nếu chỗ không có các trở ngại như trên, chỗ có đường đi quanh thì các Tỳ-kheo nên nói với Tỳ-kheo kia: Thầy nên chọn xây cất nơi chỗ này. Tỳ-kheo đương sự phải đến chỗ Tăng cầu xin chỉ chỗ xây cất. Tỳ-kheo để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, quỳ gối, chấp tay tác bạch trước Tăng như sau:
“Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là tự xin vật liệu làm phòng cho mình, không có thí chủ, nay đến xin Tăng chỉ chỗ, cúi xin Tăng hiện tiền chỉ chỗ cho tôi”. Xin Ba lần như vậy. Tăng nên sai một vị tác bạch:
Đại đức Tăng, xin lắng nghe, Tỳ-kheo này tên là tự xin vật liệu làm phòng cho mình, không có thí chủ, nay đến xin Tăng chỉ chỗ. Nay Tăng vì Tỳ-kheo tên là chỉ chỗ không có trở ngại, chỗ có đường đi. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là tác bạch.
Đại đức Tăng, xin lắng nghe, Tỳ-kheo này tên là tự xin vật liệu làm phòng cho mình, không có thí chủ, nay đến xin Tăng chỉ chỗ. Nay Tăng vì Tỳ-kheo tên là chỉ chỗ không có trở ngại, chỗ có đường đi. Các trưởng lão nào đồng ý thì im lặng, ai không đồng ý xin nói.
Tăng đã vì Tỳ-kheo tên là chỉ chỗ không trở ngại, chỗ có đường đi rồi, Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy phải thi hành đúng như vậy.
Nếu Tăng chỉ chỗ có trở ngại, chỗ không có đường đi, thì Tăng phạm Đột-kiết-la. Nếu cất ở chỗ trở ngại này thì cũng như vậy. Không mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ, thì từ khi nghĩ ra việc xây cất rồi hình thành chỗ đất đến xem đất sơ qua đều phạm Đột-kiết-la. Làm đất kỹ lưỡng phần nền, phạm Thâu-lan-giá. Cất xong, phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Làm bằng tạp kim, ngân, châu báu và làm thành bằng ngói gạch, cho đến làm trong đất của Tăng, đều phạm Thâu-lan-giá, Sa-di phạm Độtkiết-la.
Xong giới thứ sáu
Đức Phật ở tại nước Câu-xá-di. Bấy giờ, Tỳ-kheo Xiển-đà, thường tới lui các gia chủ để nói pháp, lo liệu xử lý công việc nhà quan cũng như chữa trị cho các con bệnh. Các quốc vương, Đại thần, trưởng giả, cư sĩ không ai là không kính trọng, thân tình. Có trường hợp các người thuộc những tầng lớp cùng đến thăm viếng, gặp lúc Xiển-đà đang đi kinh hành, họ đến tận nơi đảnh lễ sát chân. Xiển-đà vì họ nói pháp diệu, họ vui mừng vì sự lợi ích đã được chỉ dạy. Khi mọi người lui về, Xiển-đà cũng trở về phòng mình, nhưng phòng này đã có Thượng tọa đến trưng dụng rồi. Cứ như vậy phòng nào cũng có người ở, cho đến phòng nhỏ nhất cũng đã có chủ. Đã mất chỗ ở, Xiển-đà đành phải du hành trong nhân gian. Sau đó, các người thuộc các tầng lớp kia lại đến thăm viếng, thấy các Tỳ-kheo đang kinh hành nơi đất trống, họ hỏi: Thầy của chúng tôi là Xiểnđà, hiện nay ở đâu?
Các Tỳ-kheo nói: Chúng tôi không biết.
Họ tìm khắp nơi nhưng không kết quả, đành quay về. Ra đi rồi lại trở về, Xiển-đà mặc y, bưng bát đến các gia chủ cũ của mình. Họ đều ra đón chào và thưa: Bạch Đại đức! Vừa rồi chúng con có tới Tăng phòng tìm thăm mà không gặp, vậy nay Đại đức từ đâu đến?
Xiển-đà nói: Tôi là hàng hạ tọa nhỏ nhất, tất cả phòng, các Thượng tọa đều ở hết, nên tôi phải du hành, do đó các vị đến không gặp để thăm hỏi nhau.
Các gia chủ thưa: Có thể tìm nơi nào đó, chúng con sẽ cất phòng xá cho Đại đức ở, không những chúng con được phước mà Đại đức có chỗ an ổn để tu hành. Vả lại, khi chúng con đến thăm viếng khỏi bị trở ngại.
Xiển-đà trả lời: Tôi không thể tự làm vì sẽ xao lảng việc hành đạo. Khi tuổi càng lớn, theo thứ tự, sẽ có được chỗ ở là điều dĩ nhiên.
Các gia chủ lại thưa: Chúng con may mắn có vật liệu lại có tâm thiện. Của cải vật dụng thì vô thường còn tâm thiện khó lòng giữ mãi, vậy xin Đại đức tìm chỗ, chúng con muốn được cất phòng xá để cúng dường.
Xiển-đà thấy họ quá ân cần, khó lòng từ chối, bèn đi khắp vùng tìm đất để làm thất. Nhận thấy địa điểm Thọ thần là nơi rất tốt cho việc tạo dựng phòng xá, nên Xiển-đà liền triệt hạ cây cổ thụ này.
Vị thần nơi cây đại thọ ấy, người trong nước đều thờ phụng, mọi sự khấn vái được thần đáp ứng như ý nguyện. Nay bỗng nhiên chứng kiến cây bị đốn, ai nấy đều vô cùng kinh ngạc. Những người không có lòng mến tin Phật pháp đồng loạt mắng: Sa-môn Thích tử thật là vô đạo, chỉ biết lợi cho mình mà làm tổn thương đến trời, người.
Người có lòng mến tin Phật pháp thì nói: Cây này có thần ở, mọi người đều kính sợ, ngày đêm đều khấn nguyện không dám ngạo mạn xúc phạm, nay các Tỳ-kheo chặt cây không chút ngại ngùng. Nhưng rồi nơi cư ngụ ấy mọi sắc tâm vẫn an ổn như thường. Có thể nói vị thần ấy đã vô cùng kính trọng Tỳ-kheo.
Lời khen tiếng chê đồn đãi khắp nước, các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe được bằng mọi cách quở trách, rồi cùng đưa Xiển-đà đến chỗ Phật, trình bày sự việc lên Ngài. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Xiển-đà:
Thật sự ông có làm như vậy không? Xiển-đà thưa:
Bạch Đức Thế Tôn! Có thật như vậy.
Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách nghiêm khắc rồi bảo các Tỳ-kheo:
Do mười điều lợi, nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Tỳ-kheo có thí chủ, vì mình làm phòng xá, nên mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ. Các Tỳ-kheo nên chỉ chỗ không bị trở ngại, chỗ có đường đi. Nếu không mời các Tỳ-kheo đến chỉ chỗ, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Có thí chủ: Là có người dâng cúng. Ngoài ra như trong giới không có thí chủ vừa rồi đã nói.
Xong giới thứ bảy -----------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ Vua Bình-sa hằng ngày theo thứ tự thỉnh năm trăm vị Tăng vào trong thành nội để thọ trai, thần dân cũng đồng thực hiện như vậy. Khi ấy, các Tỳ-kheo đều nghĩ đến việc hành đạo, chưa có người chuyên trách phân phối theo thứ lớp mời đi thọ trai. Lục quần Tỳ-kheo luôn luôn có mặt ở chỗ tốt ấy. Mọi người hỏi: Chúng con thỉnh Tăng theo thứ tự thọ trai, tại sao các Trưởng lão thường đến đây mà không thấy các vị khác? Họ chê khéo như vậy mà vẫn không chút tự trọng. Khi ấy, có người con của lực sĩ Đà-bà, tuổi mười bốn, xuất gia hành đạo, trong chỗ yên tịnh đã có suy nghĩ: Nay Vua Bình-sa, hằng ngày theo thứ tự thỉnh năm trăm vị Tăng thọ trai tại thành nội, thần dân cũng lại làm như vậy, song trong Tăng không có người chuyên trách phân phối việc thọ trai, nên đưa đến tình trạng Lục quần cứ lựa chỗ tốt mà đến, điều này làm mất sự ngưỡng vọng chung và làm lệch ý nghĩ của người tín thí. Nếu đến tuổi hai mươi, ta thọ giới Cụ túc, đắc A-la-hán, có được sáu thần thông, sẽ vì chúng Tăng làm người chỉ định Tăng đi phó hội và phân phối ngọa cụ. Đến tuổi mười sáu, Đà-bà thành tựu quả A-la-hán, đắc sáu thần thông, hai mươi tuổi thọ giới Cụ túc. Ý nghĩ thuở ấy lại khơi dậy trong Đà-bà: Trước đây ta nguyện vì chúng Tăng làm người sai Tăng phó hội và phân phối ngọa cụ, nay đã đến lúc làm việc đó. Đà-bà đi ngay đến thành Vương-xá, trước các Tỳ-kheo nói lên lời nguyện của mình trước đây. Vì lời nguyện này, các Tỳ-kheo bạch lên Phật. Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi Đà-bà: Thật sự ông có muốn vì Tăng làm người sai Tăng phó hội, và phân phối ngọa cụ phải không?
Đà-bà thưa:
Bạch Đức Thế Tôn! Có thật như vậy.
Đức Phật bằng mọi cách khen hạnh thiểu dục, tri túc, khen ngợi giới, khen ngợi người trì giới rồi bảo các Tỳ-kheo:
Nay cho phép Đà-bà vì Tăng làm người chỉ định Tăng phó hội và phân phối ngọa cụ. Tăng nên sai một Tỳ-kheo bạch nhị Yết-ma:
Đại đức Tăng xin lắng nghe, nay Tỳ-kheo Đàbà này muốn vì Tăng làm người sai Tăng phó hội và phân phối ngọa cụ. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo Đà-bà này muốn vì Tăng làm người sai Tăng phó hội và phân phối ngọa cụ. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã chấp thuận Tỳ-kheo Đà-bà làm người sai Tăng phó hội và phân phối ngọa cụ rồi, Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thi hành như vậy.
Đà-bà với nhiệm vụ liền vì Tăng làm người sai Tăng phó hội và phân phối ngọa cụ. Người thiểu dục, tri túc thì ở cùng chúng thiểu dục, tri túc. Người lạc tịnh thì ở cùng chúng lạc tịnh. Người tụng Tu-đa-la thì ở cùng chúng tụng Tuđa-la. Người trì luật thì ở cùng chúng trì luật. Người làm pháp sư thì ở cùng chúng pháp sư. Người tán tụng thì ở cùng chúng tán tụng. Người tu nơi A-lan-nhã thì ở cùng chúng A-lan-nhã.
Người khất thực thì ở cùng chúng khất thực. Người ngồi thiền thì ở cùng chúng ngồi thiền. Như vậy, những người do tu hạnh khác nhau mà Đà-bà đã phân thành các chúng, tùy theo đặc điểm mà chỉ dẫn nơi ở và phòng xá. Tất cả các Tỳ-kheo đều được chỗ ở an ổn. Tỳ-kheo các nơi, hữu sự đến vào lúc xẩm tối cũng vội tới Đà-bà để xin chỗ tạm trú nghỉ ngơi. Đà-bà liền nhập Tammuội Hỏa quang, tay bên trái phóng ra ánh sáng, tay bên phải chỉ chỗ ngọa cụ một cách trung thực hợp tình. Lúc ấy, các nơi xa xôi đều nghe tiếng Tỳ-kheo Đà-bà đã vì chúng Tăng thành Vương-xá làm người chỉ định Tăng phó hội và phân ngọa cụ đầy đủ đức độ như vậy, đều hăm hở thổ lộ ý nghĩ: Ta sẽ đến trú xứ ấy để thăm hỏi Đức Thế Tôn, luôn tiện diện kiến Đà-bà cũng như để được trông thấy thần lực của người. Với ý nghĩ như vậy, họ ra đi và đến thành vào lúc xẩm tối. Họ tới Đà-bà xin chỗ tạm trú. Như pháp, Đà-bà sắp xếp chỗ ở thích nghi. Và cũng như vậy, Đà-bà chỉ định họ theo thứ tự đến dự hội.
Bấy giờ, tại thành Vương-xá có trưởng giả Thiện-phạn đã thấy được pháp và đắc quả. Hằng ngày ông ta đích thân mời hai Tỳ-kheo về nhà cúng dường với thức ăn thượng vị. Phước đức tự thân của anh em Từ-địa đều mỏng, nên khi chia ngọa cụ cũng như mời đi thọ trai thường nhận thứ thô xấu và cấp bậc thấp. Điều may mắn lại đến, Từ-địa được Tăng sai đến nhà thí chủ này. Thiệnphạn biết rõ nên lại nảy ra ý nghĩ: Hai vị này là người ác, không có hạnh thanh tịnh, tại sao lại được nhận thức ăn thượng vị của ta cúng dường? Thiện-phạn liền lui tìm gặp vợ và căn dặn: Hôm nay bà chỉ nên làm thức ăn đơn giản, đạm bạc. Khi anh em Từ-địa đến, bên ngoài cửa đã có đứa ở trải tòa phu cụ để đón. Người vợ làm theo lời dặn của chồng, chuẩn bị thức ăn thô kém phẩm chất. Anh em Từ-địa đã đến lúc nên bưng bát tới, gia đình Thiện-phạn ngồi yên nơi tòa của mình. Đám nô tỳ ra dâng cúng thức ăn thô kém phẩm chất. Từ-địa thấy vậy hỏi: Này chị em! Nhà này thường cúng dường bữa ăn rất ngon, tại sao nay lại cúng thức ăn thô dở thế này? Nô tỳ nói: Tôi là kẻ thấp hèn, làm sao biết được lý do ấy.
Ăn xong ra về, trên đường đi, Từ, Địa mắng thầm Đà-bà, con của Lực sĩ: Phen này cần cho Đà-bà một bài học đích đáng. Về đến trú xứ, trước các Thượng tọa, ta sẽ nói rõ việc này: Đà-bà con của Lực sĩ làm việc theo cảm tính: Yêu, ghét, giận, hờn, si mê, sợ hãi. Sợ ai thì cho đồ tốt, không sợ ai thì cho đồ xấu. Các Tỳ-kheo nói: Các thầy chớ nên nói những lời như thế, Tỳ-kheo Đàbà nào có tùy tiện vì yêu, ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi. Tạo sao vậy? Vì lẽ Tỳ-kheo Đà-bà đắc A-lahán, đầy đủ sáu thần thông mà làm việc theo yêu, ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi là điều không có cơ sở.
Từ, Địa nói: Chính vì đắc thần thông nên biết được nhà nào có thức ăn ngon, nhà nào có thức ăn dở, chỗ nào ngon thì dành cho người khác, chỗ nào dở thì sai chúng tôi đến, nên tôi kết luận là làm việc theo yêu ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi. Nói như vậy chưa thõa lòng, Từ-địa đến các nơi khác, việc hàng đầu là rêu rao nói xấu Đà-bà. Sau đó, Từ-địa đến thành Vương-xá để gặp người em gái tên là Di-đa-la là ni cô. Di-đa-la thấy hai anh đến ra nghinh đón đảnh lễ hỏi chào. Hai anh em Từ-địa đều không nói năng chi cả. Di-đa-la thưa: Em không nhớ có phạm điều chi, tại sao hai anh có thái độ thế này! Từ-địa trả lời: Em không giúp hai anh nên khiến cho Đà-bà làm khổ hai anh như vậy. Di-đa-la hỏi: Hai anh muốn em trợ giúp bằng cách nào? Từ-địa bảo: Em hãy giúp hai anh bằng cách đến chỗ Đức Phật thưa: “Kính bạch Thế Tôn, từ trong chỗ không có lo sợ, hốt hoảng, xoay ngược lại thành chỗ khủng bố, sợ hãi. Nay con không còn chỗ nào để tìm được sự an ổn! Đà-bà vốn được cho là người phạm hạnh, giờ đây đến xúc chạm làm hoen ố con, phạm Ba-la-di”.
Di-đa-la nói: Đà-bà thanh tịnh, nếu em hủy báng người thì ắt Tăng sẽ tác pháp Tự ngôn, đuổi em. Em đã xuất gia, cần phải có chỗ để nương tựa. Từ-địa nói: Hai anh sẽ làm chứng cho em để Đà-bà bị đuổi, làm gì có chuyện em bị tác pháp Tự ngôn và bị đuổi. Di-đa-la nói: Nếu Tăng đuổi Đà-bà thì ta đâu có được thêm gì khác? Hai anh Từ-địa nói: Điều cần là làm cho Thế Tôn ruồng bỏ và Đà-bà vì ta nên bị đuổi đi, tức ta không còn khổ. Hai anh sẽ được sống an lành với trú xứ. Cô em gái vì kính trọng hai anh nên không dám trái mạng. Di-đa-la đến chỗ Đức Phật và tố cáo như trên. Khi ấy, Đà-bà và La-hầu-la đang đứng hai bên Đức Phật. Đức Phật hỏi Đà-bà: Ông có nghe Di-đa-la nói điều gì không? Đáp: Bạch Thế Tôn, con có nghe, nhưng điều đó Thế Tôn đã tự biết. Đức Phật hỏi ba lần như vậy và ba lần Đà-bà cũng trả lời như vậy. Với sự việc như thế, La-hầula bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! phiền gì phải ba lần hỏi Đà-bà, chỉ cần tẫn xuất cô ni này là xong. Đức Phật hỏi lại: Nếu Di-đa-la sử dụng việc này để phỉ báng ông thì ông phải như thế nào đây?
La-hầu-la thưa: Con sẽ nói việc này Phật tự biết cho con. Đức Phật dạy: Ông có thể như thế song Đà-bà cũng lại nói như vậy được sao? Đức Phật dạy Đà-bà: Ông nên tự làm sáng tỏ vấn đề, nay không phải là lúc im lặng. Ông cần vận dụng ký ức của mình, có thì nói có, không thì nói không, không được tránh né, nói: Phật tự biết điều này. Đà-bà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục rồi quỳ gối chấp tay thưa: Kính Bạch Đức Thế Tôn! Từ khi con sinh ra đến nay dù là trong mộng con cũng chưa hề nghĩ tưởng đến việc này. Tại sao nay với sự việc như thế lại có được trong trí nhớ con? Đức Phật khen: Lành thay! Lành thay! Ông đã quả quyết tự biện minh. Người muốn tự biện minh nên nói như vậy. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nên trao cho Đà-bà Tỳ-ni Ức niệm không nên cử tội, phải Bạch-tứ-yết-ma trao cho Di-đa-la pháp Tự ngôn diệt tẫn. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo-ni Diđa-la này tự nói Đà-bà làm nhiễm ô mình, nay Tăng trao cho phép Tự ngôn diệt tẫn. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận.
Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo-ni Diđa-la này tự nói Đà-bà làm nhiễm ô mình. Nay Tăng trao cho phép Tự ngôn diệt tẫn. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng, nếu không đồng ý xin nói (Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy).
Tăng đã đồng ý trao cho Tỳ-kheo-ni Di-đa-la pháp Tự ngôn diệt tẫn rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Tỳ-kheo-ni Di-đa-la sau khi bị diệt tẫn, lê bước lang thang vào nhân gian. Anh em Từ-địa vẫn giọng điệu cũ nói với các Tỳ-kheo: Đà-bà con của Lực sĩ phá hoại phạm hạnh của em tôi cho nên đưa đến sự việc như vậy. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Đức Phật nhân việc này tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Các thầy phải phối kiểm lại và hỏi Từ-địa: Ông nói Đà-bà phá hoại phạm hạnh của em ông là thật hay là hư dối? Các Tỳ-kheo làm theo sự chỉ giáo, hỏi Từ-địa, Từ-địa trả lời: Điều tôi nói là sự thật. Tăng lại hỏi: Ông thấy khi nào, thấy chỗ nào, vì sao thấy? Từ-địa trả lời:
Tôi thấy chỗ đó, tôi thấy khi đó, tôi thấy như vậy. Tăng hỏi tiếp Đà-bà: Khi ấy thầy ở chỗ nào? Đàbà nói: Tôi ở chỗ đó. Tăng lại hỏi Từ-địa: Địa điểm không tương ứng, thời gian không tương ứng, tại sao ông nói chỗ đó, lúc đó, thấy như vậy? Tăng lại dùng lời thức tỉnh Từ-địa: Nếu đối trước một vị Tỳ-kheo kiên tín mà nói dối thì tội nặng như giết hại vô số chúng sinh. Đối trước một vị kiên pháp nói dối tội của vị này thì tội nặng gấp một trăm lần đối với vị kiên tín. Như vậy, đối trước Tăng mà cứ lần lượt nói dối thì tội của ông nặng như đối với một trăm vị A-la-hán. Tăng lại vặn hỏi Từ-địa: Nay Tăng quy tụ về hội họp không tùy thuộc yêu ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi, thì điều này ông bảo là sự thật hay là hư dối? Từđịa nói: Đà-bà làm theo yêu ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi nên tôi phải nói như vậy. Các Tỳ-kheo bằng mọi lý lẽ sắc bén, bằng sự quở trách nghiêm khắc, rồi cùng đưa Từ-địa đến chỗ Đức Phật để trình bày sự việc. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Từ-địa: Thật sự ông đã dùng Ba-la-di không căn cứ để hủy báng Đà-bà phải không? Từ-địa thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Thật vậy. Đức Phật bằng nhiều hình thức quở trách: Ông là người ngu si, tại sao lại dùng Ba-ladi không căn cứ để hủy báng Tỳ-kheo phạm hạnh thanh tịnh? Ông há không nghe về ba hạng người bị đọa vào địa ngục: Một là người phạm giới, không có pháp của Sa-môn mà tự nói mình có, không tu phạm hạnh mà tự nói mình tu. Với hạng người này là giặc trong Phật pháp. Hai là hạng người hành động như vầy, thấy như vầy, nói dâm dục không phải là điều xấu rồi làm việc phóng dật. Ba là hạng người dùng Ba-la-di không căn cứ để hủy báng vị Tỳ-kheo phạm hạnh thanh tịnh. Ba hạng người này chắc chắn bị đọa vào địa ngục. Tại sao nay ông lại làm việc ác này? Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tự mình không biết pháp, vì xấu ác giận dữ nên dùng Ba-la-di không căn cứ để hủy báng Tỳ-kheo không phạm Ba-la-di, muốn phá hoại phạm hạnh của vị kia. Sau đó Tỳ-kheo này, hoặc có người hỏi, hoặc không có người hỏi, nói: Việc này là không căn cứ vì giận dữ nên tôi hủy báng, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Tự mình không biết pháp: Tự mình làm mọi việc không như pháp.
Xấu ác giận dữ: tức là chín phiền não. Không căn cứ: Không thấy, không nghe, không nghi.
Người không phạm Ba-la-di: Tức là người đối với bốn Ba-la-di không phạm một tội nào.
Muốn phá phạm hạnh của vị kia: Là muốn khiến cho vị kia hoàn tục hay làm ngoại đạo.
Thời gian sau hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi: Nghĩa là sau đó tự kiểm nghiệm lại chỗ nào, khi nào, thấy thế nào.
Sự việc có bốn thứ: Ngôn tránh sự (Sự tranh cãi do lời nói), Giáo giới tránh sự (Sự tranh cãi do chỉ dẫn), Phạm tội tránh sự (Sự tranh cãi do phạm tội, Sự tránh sự (Sự tranh cãi do sự việc).
Nếu Tỳ-kheo không thấy, không nghe, không nghi người khác phạm Ba-la-di mà dùng pháp này hủy báng thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
Thấy mà nghi, nghe mà nghi, nghi mà nghi, thấy mà quên, nghe mà quên, nghi mà quên, rồi dùng pháp không căn cứ để hủy báng, phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
Nếu người nghe sự hủy báng mà hiểu rõ thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không hiểu rõ phạm Thâu-lan-giá.
Nếu viết thư, sai sử, ra dấu hiệu, nói lời tương tợ, dùng lời bằng tay để hủy báng mà người hiểu rõ, phạm Thâu-lan-giá, không hiểu rõ, phạm Độtkiết-la. Nếu hủy báng Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-mana, Sa-di, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni hủy báng Tỳ-kheo-ni phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Hủy báng Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề, hủy báng Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Đột-kiếtla. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni hủy báng năm chúng đều phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ tám ---------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà, do vì Tỳ-kheo Đà-bà là bậc đạt thần thông có oai đức lớn, nên thường tới lui thăm viếng, rồi cùng trong một trú xứ ngồi để nghe pháp. Từ-địa thấy vậy nên tìm cách phỉ báng. Nhân một bữa nọ, từ trên núi Kỳ-xà-quật đi xuống, Từ-địa thấy hai con khỉ ôm nhau giao hợp, lại nảy sinh ý nghĩ: Nay ta nên mượn bối cảnh hai con khỉ này đặt tên con đực là Đà-bà, con cái là Thâu-la-nan-đà. Làm theo ý nghĩ, Từ-địa nói với các Tỳ-kheo Trưởng lão: Trước đây tôi dùng pháp không căn cứ hủy báng Đà-bà, nay chính tôi thấy Đà-bà cùng Thâu-la-nan-đà làm hạnh bất tịnh. Các Tỳ-kheo đem vấn đề này bạch Phật, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo nên tập hợp Tăng để kiểm vấn Từ-địa: Ông nói trước đây ông dùng pháp không căn cứ phỉ báng Đà-bà, nay chính ông thấy Đà-bà cùng Thâu-la-nan-đà làm hạnh bất tịnh là sự thật hay là hư dối? Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, tập hợp Tăng rồi hỏi Từ-địa… cho đến câu: Ông nói đó là sự thật hay là hư dối (như trên đã nói). Để trả lời cho câu hỏi này, Từđịa nói: Thật sự tôi không thấy Đà-bà làm hạnh bất tịnh. Tôi chỉ thấy Thâu-la-nan-đà thường tới lui chỗ Đà-bà, vì muốn phỉ báng nên mượn bối cảnh hai con khỉ giao hợp tôi đã thấy khi từ trên núi Kỳ-xà-quật đi xuống. Tôi tạm gọi con khỉ đực là Đà-bà và con khỉ cái là Thâu-la-nan-đà rồi kết luận: Chính tôi thấy hai người làm hạnh bất tịnh mà thôi. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách: Tại sao với phần việc khác nhau, ông lại lấy ra một mẫu nhỏ hay một khía cạnh tương tự rồi quy kết là Ba-la-di để phỉ báng Tỳ-kheo không phạm Ba-la-di? Các Tỳ-kheo cùng đến chỗ Đức Phật để trình bày lên Ngài sự việc. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Từ-địa: Thật sự ông có như vậy không? Từ-địa thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật con có như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách nghiêm khắc rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tự thân không như pháp vì giận dữ, ác ý, từ trong phần khác lấy ra một khía cạnh nhỏ hay một khía cạnh tương tự rồi quy kết Ba-la-di để phỉ báng Tỳ-kheo không phạm Ba-la-di, nhằm phá hoại phạm hạnh của vị kia. Thời gian sau, Tỳ-kheo này, hoặc có người hỏi hoặc không có người hỏi, tự nói: Việc này vì tôi giận nên từ trong phần khác lấy ra một phần nhỏ hay một khía cạnh tương tự để phỉ báng, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Sự là Ngôn tránh sự, Giáo giới tránh sự, Phạm tội tránh sự, Sự tránh sự. Nếu Tỳ-kheo thấy người khác phạm Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc khi nhập định tưởng họ phạm Tăng-già-bà-thi-sa, vì giận dữ, trong phần sự khác lấy một mảnh hoặc tương tợ một mảnh để phỉ báng Tỳ-kheo không phạm Ba-la-di thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nghe, nghi cũng như vậy. Thấy, nghe, nghi người khác phạm Thâu-lan-giá, phạm Ba-dật-đề, phạm Ba-la-đề-đềxá-ni, phạm Đột-kiết-la. Dùng Ba-la-di phỉ báng cũng như vậy. Ngoài ra như trên đã nói.
Xong giới thứ chín.
----------------
Đức Phật ở trong rừng cây A-nậu thuộc ấp Di Na. Khi ấy, các quý tộc thuộc giòng họ Thích, nhiều người đến với Đức Phật xuất gia học đạo. Không bỏ lỡ thời gian, Thích-ma-nan nói với Ana-luật: Nay các quý tộc đều xuất gia tu phạm hạnh, tại sao riêng anh em chúng ta không xuất gia? Nếu ta xuất gia thì ngươi coi ngó việc nhà. Nếu ngươi xuất gia thì ta ở nhà lo liệu. A-na-luật nói: Anh cứ đi xuất gia, em sẽ lo liệu việc nhà. Thích-ma-nan nói: Trước đây, việc nhà có anh lo, em chỉ thọ hưởng sung sướng, đâu có biết gian nan cực nhọc là gì. Tuy nhiên, xuất gia hành đạo, điều cực khổ cũng đâu là kém. Nay em ở nhà thì anh phải chỉ vẽ em phương pháp quản lý gia nghiệp. Cách quán xuyến mọi việc nghe anh nói đây: Ban ngày phải thích ứng ra sao, ban đêm phải làm gì, phương pháp làm ruộng, mua bán, điều hành người ăn kẻ ở, tất yếu phải khôn khéo dùng lời như vậy. A-na-luật nói: Nếu quản lý gia nghiệp mà phải như vậy mới có được kết quả thì một ngày em cũng không thể quản lý nổi, thôi anh ở nhà, em sẽ đi xuất gia. Thích-ma-nan nói: Pháp của chư Phật Thế Tôn, cha mẹ không cho phép thì không được tu đạo, nay em phải đến xin phép mẹ, tự mình nói lên ý nguyện này. Trước mẹ, A-na-luật giải bày lời xin: Thưa mẹ, con muốn vì Phật pháp mà xuất gia học đạo. Bà mẹ trả lời: Mẹ chỉ có hai anh em con, tình mẹ thương yêu hai con quá sâu đậm, làm sao sống mà xa lìa nhau được! Nhà mình rất giàu có, thích hợp với việc tu công đức, con phiền gì phải xuất gia, để làm đau lòng mẹ! A-na-luật tha thiết cầu xin đến lần thứ ba, bà mẹ bèn nói: Nếu Vua Bạt-đề xuất gia thì mẹ cũng đồng ý cho con xuất gia. Đã từ lâu Vua Bạt-đề cùng A-na-luật, A-nan, Nan-đề, Điều-đạt, Bà-bà, Kim-tỳ-lô v.v… rất nặng tình thương mến, nên có làm việc gì, thề không trái ý nhau. Với ý của mẹ như thế, A-na-luật đến ngỏ lời lên Vua Bạt-đề: Nay tôi có chút ước nguyện, ước nguyện này chỉ tìm thấy từ lời thề của Vua là chúng ta đã long trọng thề không làm trái ý, nếu làm trái nhau thì đầu bị vỡ thành bảy mảnh. Vua nói: Chỉ khiến lời nguyện của khanh tất phải thuận hợp với lời thề. A-na-luật liền đem ý kiến của mẹ mình trình bày lên Vua Bạt-đề. Nhà Vua nghe xong nói: Ý nguyện của khanh tôi chưa có thể làm liền được. Tại sao vậy? Tôi nguyện làm Vua, cái quả này ngày nay tôi mới bắt đầu. Thân tộc tôi giàu sang không có việc gì để lo cả, làm sao có thể bỏ nếp sống này để xuất gia học đạo?
A-na-luật nói: Nếu Vua xuất gia thì nguyện tôi mới toại, tham đắm sự phồn vinh thì tôi phải trầm luân lâu dài, xin Vua suy nghĩ kỹ đừng để trái với lời thề trước kia. Vua Bạt-đề nói: Tôi sẽ làm theo nguyện của bạn, nhưng để cho tôi sau bảy năm, tôi sẽ cùng bạn xuất gia học đạo. A-naluật nói: Sau bảy năm chắc gì Đức Phật còn tại thế?! Hơn nữa mạng sống của tôi khó có thể bảo đảm được. Tại sao nay Vua lại nêu ra kỳ hẹn này? Vua Bạt-đề nói: Bảy năm, nếu có lâu thì sáu năm có thể được chăng? A-na-luật cũng trả lời như trên, lại hẹn năm, bốn, ba, hai đến còn một năm, rồi từ bảy tháng đến còn một tháng, từ bảy ngày đến còn một ngày đều cũng như vậy. Nhà Vua nói: Chúng ta là Trưởng giả đâu có thể đi một cách đột xuất như vậy. Chúng ta cần phải chuẩn bị đầy đủ phương tiện, xa giá hết sức trang nghiêm để du hành, nhân đó mới thực hiện chí nguyện được. Bây giờ bạn có thể nói ý định này với A-nan-đà v.v… A-na-luật liền thông tin cho năm người bạn. Năm người bạn rất hân hoan tâm đầu ý hợp. Ngay trong đêm đó, bốn binh chủng được trang bị hoàn tất. Một sự trang hoàng hết sức lộng lẫy, oai nghiêm, vào lúc trời vừa sáng, đoàn người ra khỏi thành du hành… Cuối cuộc du hành thưởng lãm, Ưu-ba-ly người thợ cạo tóc được mật báo… Bảy người rời khỏi đoàn tùy tùng đến một nơi hẻo lánh, vắng vẻ, ẩn mình rồi cởi y phục quý giá biếu cho người thợ cạo, nhờ ông ta cạo tóc, cải đổi y phục lên đường xuất gia. Bảy người đi chưa bao lâu, Ưu-ba-ly giựt mình nghĩ ngợi: Các hào tộc giòng họ Thích hùng cường, nếu biết ta cạo đầu cho bảy người này, chắc họ sẽ giết ta. Hơn nữa, các quý tộc này còn bỏ nhà đi xuất gia, nay ta tại sao không bỏ đồ nghề hớt tóc và các y phục quý giá này để xuất gia? Không do dự, Ưu-ba-ly liền cạo đầu, rồi đem các y phục quý treo nơi gốc cây, với ý nghĩ, ai cần thì lấy, rồi đi thật nhanh, không bao lâu đuổi theo kịp bảy người và nói: Nay tôi cũng muốn theo quý vị để xuất gia. Bảy người kết nạp ngay. Họ cùng nhau đi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân, rồi thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Nay chúng con muốn xuất gia tịnh tu phạm hạnh, riêng Ưu-ba-ly là người nô bộc của chúng con, xin Ngài độ cho ông ta thọ giới Cụ túc trước, sau đó mới độ chúng con, điều cần phải như thế để cho chúng con và các Thích chủng phá tâm kiêu mạn đối với Ưuba-ly. Đức Phật liền độ Ưu-ba-ly trước, độ bảy người sau.
Ngay sau thời gian này, Đức Thế Tôn có những suy nghĩ: Thành Ca-duy-la-vệ cách đây không xa, các giòng họ Thích biết được có thể gây trở ngại. Đức Phật cùng đưa tám người đến thành Bạt-đề-la. Dưới tàng cây Võng Lâm, Đức Phật đã vì họ nói pháp diệu: nhãn vô thường, sắc vô thường, nhãn thức, nhãn xúc, nhãn xúc làm nhân duyên sinh thọ vô thường. Cho đến ý vô thường, pháp vô thường, ý thức, ý xúc, ý xúc nhân duyên sinh thọ vô thường. Các người là Thánh đệ tử nên phải thực hiện quán sát như vậy, sinh tâm chán lìa, sở đắc trí tuệ giải thoát, chỗ phải làm đã làm xong, phạm hạnh đã lập, không thọ thân sau. Sau khi nghe thuyết pháp, có sáu người đoạn hết lậu hoặc, đắc A-la-hán. A-nan vì hầu Phật nên các lậu hoặc không đoạn hết, Điềuđạt, người duy nhất không thu được điều gì.
Vua Bạt-đề sau khi đắc quả A-la-hán, tâm tịnh không có sợ sệt, hoặc tọa thiền hay kinh hành dưới tàng cây hay nơi vắng vẻ, tự thân liền được sự vui sướng thanh thản đã thốt lên lời: Thích thay! Vui thay! Âm thanh này được một Tỳ-kheo khác nghe được, tác ý nghĩ: Chắc Tỳ-kheo Bạt-đề nhớ đến niềm vui thế tục, không vui với phạm hạnh nữa. Ngay sau đó, vị ấy đến bạch Phật: Con đã hướng về Bạt-đề và nghe vị này nói: Thích thay! Vui thay! Chắc ông ta nhớ lại niềm vui khi còn làm Vua, không thích sống phạm hạnh. Đức Phật bảo Tỳ-kheo ấy gọi Bạt-đề đến đây. Vị kia đến chỗ Bạt-đề nói: Đại sư gọi thầy. Bạt-đề đến gặp Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi đứng qua một bên. Đức Phật hỏi Bạt-đề: Sự thật ông có nói: “Vui thay” hay không? Bạt-đề thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Thật sự con có nói “Vui thay”. Đức Phật lại hỏi Bạt-đề: Ông nói “Vui thay” với ý nghĩa như thế nào? Bạt-đề thưa: Xưa kia ở tại gia, con sống trong bảy lớp thành vây bọc, bảy hàng voi, bảy hàng ngựa, bảy hàng xe, bảy hàng bộ binh, bốn binh chủng bao quanh, ấy vậy khi nghe một âm thanh khác lạ thì lòng kinh sợ, lông tóc dựng ngược. Nay ở dưới tàng cây, nơi đất trống mà thản nhiên không chút lo sợ nên con đã phải nói lớn “Vui thích” là vậy! Đức Phật bảo Tỳ-kheo kia: Bạt-đề đã đắc A-la-hán, mà không vui với nếp sống phạm hạnh là điều không hề có. Từ Bạtđề, bấy giờ Đức Phật nói kệ:
Vui thay! A-la-hán
Không còn ân ái buộc
Phá được dục, sân, si
Xóa bỏ lưới kiết sử.
Niết-bàn đã đến nơi
Đâu còn tâm uế trược
Nhiễm đắm nơi thế gian
Giải thoát dứt các lậu.
Năm ấm tường tận rõ
Bảy rừng pháp du hành
Chỗ đi của rồng lớn
Chế phục mọi sợ hãi.
Thành tựu mười thứ đức
Vua đức Tam-muội thiền
Mọi hữu lậu đã sạch
Là đệ nhất thế gian.
Bất động không sợ hãi
Không thọ nhận thân sau
Tịch diệt, đều dứt sạch
Báo khổ, lạc hằng không.
Vững vàng trí vô học
Thân này, thân sau cùng
Phạm hạnh kiên cố lập
Không đâu mà không tin.
Khắp cả thế gian này
Còn đâu các dục lạc
Vang lừng sư tử gầm
Nào ai hơn Đức Phật.
Sự việc Điều-đạt: Đức Thế Tôn cùng các Đại đức Thanh văn nhận lời mời của Long vương Anậu-đạt. Điều-đạt chưa đắc thần thông nên không thể đi được, xấu hổ vô cùng, do vậy nảy sinh ý nghĩ: Nay ta cần phải tìm pháp học tu thần thông.
Điều-đạt đến bạch Phật: Cúi xin Phật vì con dạy pháp tu thần thông. Đức Phật hướng dẫn, Điềuđạt thọ giáo. Trong thời gian an cư, Điều-đạt đắc thần thông. Với kết quả thu hoạch được, Điều-đạt tư duy: Ai nên giáo hóa trước. Điều-đạt nghĩ ngay đến thái tử con Vua Bình-sa tên là Chúng Lạc, cần dẫn dắt người này trước, rồi sau mới chỉ bày cho những người khác. Làm theo ý nghĩ, Điều-đạt tức thì mất dạng khỏi Võng lâm. Trên giường của thái tử, Điều-đạt hiện thành một đứa trẻ nít nằm ngửa, mút ngón tay. Thái tử thấy thế vô cùng hoảng sợ, hỏi: Người là trời hay là quỷ thần? Đứa trẻ trả lời: Tôi là Điều-đạt, đừng nên sợ sệt chi cả! Thái tử nói: Nếu là Điều-đạt thì nên hiện nguyên hình trở lại. Đứa trẻ liền biến thành Điều-đạt, đầy đủ oai nghi như cũ. Thái tử hoan hỷ, tôn Điều-đạt làm thầy, hằng ngày đích thân đến thăm hỏi, đem theo năm trăm chiếc xe. Điều-đạt lại hóa thành năm trăm đứa trẻ nằm ngửa, mút ngón tay trên mỗi xe. Thái tử lại dùng năm trăm chiếc xe chở từng loại thức ăn sang trọng, ngon lành đến cúng dường. Bấy giờ, người các nước rất thán phục cùng bảo nhau: Điều-đạt có Đại thần lực nên mới biến hóa được như vậy, khiến thái tử hằng ngày đến thăm hỏi, cúng dường quá nhiều các loại thức ăn ngon bổ. Về phía Điều-đạt đã không tự lượng sức mình, nên cứ làm theo ý muốn, chiêu dụ, bảo bọc, nuôi dưỡng đồ chúng. Lúc ấy, Đức Thế Tôn rời Võng Lâm đi vào nhân gian du hành hóa độ, đến nước Câu-xá-di, trú ngụ trong vườn Cù-sư-la. Khi ấy, Tôn giả Mục-liên an trú ở một nơi vắng vẻ. Tại nước này, trước đây có con của Kiều-trầnnhư tên là Kha-hưu, tịnh tu phạm hạnh đắc quả A-na-hàm, sinh lên cõi trời Phạm thiên. Nửa đêm lúc tĩnh lặng, từ cõi trời giáng hạ, phóng ra ánh sáng rực rỡ, đến chỗ Tôn giả Mục-liên, đầu mặt kính lễ sát chân rồi có lời thưa báo với Tôn giả Mục-liên như sau: Nay Điều-đạt giáo hóa thái tử Chúng Lạc, hiện các thần thông biến hóa. Sợ rằng Điều-đạt đã chiêu dẫn, nuôi dạy đồ chúng, với ý muốn nhằm phá hòa hiệp Tăng. Vừa dứt lời thưa, Kha-hưu nhanh như chớp biến mất. Trời vừa sáng, Tôn giả Mục-liên y phục chỉnh tề đến thẳng chỗ Đức Phật, trình bày lên Ngài các sự việc về Điều-đạt mà Kha-hưu đã thưa báo. Đức Phật hỏi Tôn giả Mục-liên ý ông thế nào? Nên cứu xét lời của Kha-hưu nói hay không? Tôn giả Mục-liên thưa: Ý con là như vậy. Đức Phật bảo Mục-liên:
Không nên nói lời ấy. Tại sao vậy? Khắp thế gian này Ta không thấy Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma phạm nào có thể thống lãnh đồ chúng của Phật. Đức Phật lại bảo Mục-liên: Ở đời có năm hạng thầy, hiện nay đều có mặt:
Giới không thanh tịnh, tự nói thanh tịnh. Các đệ tử của họ đều biết sự thật, nhưng che giấu tội lỗi của thầy để mong cầu lợi dưỡng.
Tà mạng dua nịnh dối trá, tự nói mình chánh trực. Các đệ tử cũng che giấu điều đó.
Nói điều bất thiện, tự nói là lời thiện nên các đệ tử vui mừng cho là thiện.
Hiểu biết không thanh tịnh, tự nói là thanh tịnh, nên các đệ tử hết lời ca tụng hiểu biết ấy là tịnh.
Nói lời không phải pháp luật, lại nói là pháp luật nên các đệ tử cũng nói theo là đúng pháp, vì thế không thể thuyết phục được kẻ trí chấp nhận tin theo. Này Mục-liên! Giới của Như Lai thanh tịnh, không có dối trá, đâu nói lời bất thiện, chỗ thấy, chỗ hiểu biết thanh tịnh, điều nói ra như pháp, kẻ trí chấp nhận tin tưởng, không cần đệ tử hùa theo che giấu và khen ngợi.
Bấy giờ, có Tỳ-kheo khác ở thành Vương-xá an cư xong, mặc y mang bát đến chỗ Đức Phật, bạch: Bạch Đức Thế Tôn! Điều-đạt giáo hóa Thái tử Chúng Lạc, hiện làm một đứa trẻ… cho đến cúng dường các thức ăn ngon bổ. Đức Phật bảo: Này Tỳ-kheo! Đừng ham muốn theo kiểu Điềuđạt làm các biến hóa đó… để có được lợi lộc cúng dường. Sự cung kính cúng dường ấy nếu có càng làm tăng gánh nặng nơi đêm dài sinh tử thọ các thống khổ mà thôi. Cũng như con chó dữ, dùng gậy đánh nó, nó càng thêm dữ. Điều-đạt cũng như vậy, nhận được nhiều phẩm vật cúng dường, phiền não càng nhanh chóng tăng lên. Đức Thế Tôn muốn lập lại ý nghĩa ấy nên nói kệ:
Người ngu tăng điều ác
Ác sinh từ lợi dưỡng
Người si đoạn pháp thiện
Như đầu lìa khỏi thân.
Không tu hạnh thanh tịnh
Lại muốn chiêu dạy Tăng
Muốn ngồi trên mọi người
Vọng cầu mọi kính quy.
Có người cầu lợi dưỡng
Có người cầu Niết-bàn
Lợi dưỡng hại pháp thiện
Tịch diệt trừ xan tham.
Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo: Cây chuối, cây trúc, cây lau do trái mà chết. Con Cự lư mang thai cũng bỏ mạng. Nay Điều-đạt tham cầu lợi dưỡng cũng như vậy. Đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa này, nói kệ như sau:
Do buồng, cây chuối chết
Do trái, trúc lau diệt
Cự lư ôm thai chết
Kẻ sĩ mất vì tham.
Nối tiếp sự việc: Rời nước Câu-xá-di, Đức Thế Tôn trên bước đường du hành đã đến thành Vương-xá, trú ngụ trong núi Kỳ-xà-quật. Ngài được các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di, quốc vương, Đại thần, Sa-môn, Bà-la-môn, Phạm chí, Cư sĩ cung kính tôn trọng, tán thán và cúng dường thức ăn, y phục, ngọa cụ và thuốc men. Giống như bông sen, Ngài không hề đắm trước. Lúc ấy, ở giữa một rừng người đủ mọi tầng lớp vây quanh lắng nghe Ngài thuyết pháp, Điềuđạt từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, để trống vai bên phải, đầu mặt đảnh lễ sát chân, quỳ gối chấp tay bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Cúi xin Ngài ở yên trong sự an lạc, từ nay cho con xin được lãnh đạo xử lý việc chúng Tăng. Đức Phật nói với Điều-đạt: Xá-lợi-phất, Mục-liên còn chưa thể thống lãnh đồ chúng của Ta, huống nữa ông là người ngu si, như loại đờm dãi! Bị quở trách, Điều-đạt lòng đầy phẫn hận nghĩ: Tại sao Đức Thế Tôn đối trước đại chúng lại nhục mạ ta thậm tệ như thế! Do tâm ác ấy nảy sinh nhắm đến Đức Phật nên Điều-đạt bắt đầu tổn giảm thần túc. Điều-đạt lại nghĩ: Đức Phật khen ngợi Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên mà nhục mạ ta. Điều-đạt lần nữa sinh tâm ác đối với Xá-lợi-phất và Mục-kiềnliên, nên thần túc của Điều-đạt lại bị tổn giảm lần thứ hai. Điều-đạt trở về nơi cư ngụ của mình. Vây quanh nghe Điều-đạt thuyết pháp là quốc vương và đông đảo quần chúng. Trong số người đông đảo kia có một Tỳ-kheo đến bạch Phật: Nay quốc vương và rất đông quần chúng vây quanh Điềuđạt để nghe nói pháp. Đức Phật bảo: Này Tỳ-kheo, Điều-đạt không những đời này có được đại chúng mà đời quá khứ đã từng có được số đông Tỳ-kheo vây quanh.
Về đời quá khứ xa xưa, có một Ma-nạp ở trong hang núi, tụng đọc sách sát lợi. Một con cáo đồng ở sát cạnh đó đã chuyên chú nghe tụng sách ấy nên nơi tâm có được sự tỏ rõ, rồi nghĩ ra được điều này: Như chỗ ta hiểu lời văn trong sách này, đủ để làm Vua trong các loài thú. Từ ý niệm đã có, con cáo đồng liền lên đường. Trên đường du hành, nó gặp một con cáo đồng khác ốm yếu, muốn giết quách. Con cáo kia nói: Tại sao giết tôi? Liền đáp: Ta là Vua của loài thú, ngươi không thần phục ta thì bị giết ngay. Con cáo kia vâng lời: Xin ông đừng giết tôi, tôi xin làm kẻ tùy tùng ông. Thế là hai con cáo cùng nhau lên đường. Lại gặp một con cáo khác, chúng cũng muốn giết ngay. Hai bên đối đáp như trên. Con cáo kia lại ngỏ lời xin được tùy tùng. Cứ như thế lần lữa nó hàng phục tất cả loài cáo. Lại dùng bầy cáo hàng phục tất cả voi. Lại dùng loài voi hàng phục hổ. Lại dùng loài hổ hàng phục tất cả sư tử. Con cáo đồng kia tạm thời được làm Vua trong loài thú. Đã được làm Vua rồi lại nảy sinh ý nghĩ: Nay ta đã là Vua trong loài thú, thì không nên lấy loài thú làm vợ. Nó hành động ngay trên lưng voi chúa trắng, vây quanh nó là vô số loài thú, nó ra lệnh vây hãm ngàn vòng thành Ca-di. Nhà Vua sai sứ hỏi: Các ngươi là loài thú, tại sao làm như vậy? Con cáo đồng kia trả lời: Ta là Vua các loài thú, nên cần cưới con gái của nhà Vua. Nếu ông thuận ý ta thì tốt lắm, bằng không, ta sẽ tiêu diệt nước ông. Sứ thần về báo như vậy. Nhà Vua tập hợp quần thần lại để cùng nhau nghị bàn. Chỉ trừ một vị quan, số còn lại đều có ý kiến là nên gả. Tại sao vậy? Vì lẽ quốc gia chỉ nương vào uy sắc của voi ngựa, ta có voi ngựa, đối phương lại có sư tử. Voi ngựa nghe tiếng gầm của sư tử đều khiếp vía, nằm sát đất, do vậy chiến cuộc không chắc chắn thắng được, sẽ bị các loài thú tiêu diệt, đâu chỉ vì một người con gái mà để cho quốc gia bị tiêu vong. Khi ấy, vị Đại thần thông minh đầy mưu lược kia tâu với nhà Vua: Xưa nay thần chưa hề nghe thấy có một con gái của nhà Vua nào đem gả cho loài thú thấp hèn. Thần tuy yếu đuối thật nhưng thần xin giết cho kỳ được con cáo nọ, khiến bầy thú kia đều phải chạy tán loạn. Nhà Vua hỏi: Mưu kế ra sao khanh đề xuất đi? Vị Đại thần tâu: Nhà Vua chỉ nên sai sứ hẹn ngày đánh nhau. Trước khi giao chiến, Vua yêu cầu Vua thú một điều, đó là ra lệnh sư tử đánh trước rồi mới gầm sau. Chúng nó tưởng ta sợ nên nhất định cho sư tử gầm trước rồi đánh sau. Đến ngày giao chiến, nhà Vua phải ra lệnh trong thành, mọi người đều nhét lỗ tai lại. Nhà Vua áp dụng mưu kế này, sai sứ hẹn ngày giao chiến và yêu cầu điều trên. Trước khi giao chiến, nhắc lại đề nghị trên rồi mới xuất quân. Khi trận chiến bắt đầu, quả thật chàng cáo kia ra lệnh cho sư tử gầm rống trước, nghe tiếng sư tử gầm rống, trái tim chàng cáo vỡ làm bảy mảnh, chết từ trên lưng voi và rớt ào xuống đất, ngay lúc ấy các loài thú tán loạn, tẩu thoát. Nhân việc này, Đức Phật nói kệ:
Cáo đồng lắm kiêu mạn
Muốn tìm cầu vây cánh
Kéo đến thành Ca-di
Tự xưng là Vua thú.
Người kiêu mạn cũng vậy
Muốn thống lãnh đồ chúng
Tại nước Ma-kiệt-đà
Tự xưng là pháp chủ.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Vua Ca-di thuở ấy, nay chính là Ta. Vị Đại thần thông tuệ đó, nay là Xá-lợi-phất, Vua thú cáo đồng kia là Điều-đạt hiện nay. Này các Tỳ-kheo! Xưa kia Điều-đạt dối trá để được thuộc hạ vây cánh, nay cũng như vậy. Này Xá-lợi-phất! Ông nên đến trong chúng của Điều-đạt công bố như sau: Ai chấp nhận năm pháp của Điều-đạt thì người ấy sẽ không thấy Phật, Pháp, Tăng. Tôn giả Xá-lợi-phất thưa: Xưa kia, con đã từng khen ngợi Điều-đạt, làm sao nay con lại chê bai được? Đức Phật dạy: Trước kia ông khen ngợi là đúng sự thật hay không? Xá-lợi-phất thưa: Là đúng sự thật! Đức Phật dạy: Nay, Điều-đạt là người đáng chê, ông chê, cũng là đúng sự thật. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay nên bạch nhị Yết-ma để sai Xá-lợi-phất đến trong chúng của Điều-đạt tuyên bố lời chê trách này. Một Tỳ-kheo bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay Tăng sai Tôn giả Xá-lợi-phất đến trong chúng của Điều-đạt công bố: Nếu vị nào chấp nhận năm pháp của Điều-đạt sẽ không thấy Phật, Pháp, Tăng. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay Tăng sai Tôn giả Xá-lợi-phất đến trong chúng của Điều-đạt công bố: Nếu vị nào chấp nhận năm pháp của Điều-đạt sẽ không thấy Phật, Pháp, Tăng. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng, vị nào không đồng ý thì nói.
Tăng đã đồng ý sai Tôn giả Xá-lợi-phất rồi, Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Thi hành như vậy nên Tôn giả Xá-lợi-phất đến thẳng trong chúng của Điều-đạt dõng dạc xướng lên: Nếu vị nào chấp nhận năm pháp của Điều-đạt sẽ không thấy Phật, Pháp, Tăng. Khi ấy, trong chúng hội của Điều-đạt mọi người đều la lớn: Samôn Thích tử lại ganh ghét với nhau, thấy Điềuđạt nhận được nhiều phẩm vật cúng dường nên ganh ghét nói như thế. Bấy giờ, Vua Bình-sa cũng ở trong chúng ấy tuyên lệnh: Đừng nói như vậy. Tại sao? Chúng đệ tử Phật thanh tịnh, không có vấn đề ganh ghét như thế. Ngay lúc ấy, Điều-đạt nói với chúng: Ai muốn thấy hoa Mạn-đà-la trên cõi trời? Cả chúng đều nói, muốn thấy. Điều-đạt liền biến mất dạng trước chúng hội đến bên ao hoa với sự ham thích bẻ lấy cành hoa, thần túc từ đó mất luôn. Trở về lại vị trí cũ, Điều-đạt sau khi mất thần túc, đã sinh tâm ác muốn hại Đức Phật, nên nói với thái tử: Nay phụ vương của ông cai trị bằng chánh pháp, theo chỗ tôi hiểu thì không biết khi nào mới suy tàn. Mạng người vô thường, khó bảo đảm được hơi thở sau, tại sao vương vị này phải kéo dài thời gian lâu như vậy đối với thái tử? Ông có thể mưu đồ để sớm nắm lấy bốn biển. Tôi sẽ hại Phật thay thế ngôi Pháp vương. Trong nước Ma-kiệt này sẽ có Vua mới, Phật mới cùng nhau hoằng hóa đạo, há không phải là điều tốt chăng? Thái tử trả lời: Công ơn cha mẹ lớn hơn trời đất, công ơn nuôi dưỡng trời bể ấy tôi muốn báo đền nhưng chưa đáp được, tại sao thầy lại chỉ lối cho tôi làm điều phản nghịch như vậy?! Điều-đạt nghe như thế, lòng vẫn không xấu hổ cứ dùng lời xảo quyệt để khuyên dụ thái tử, làm cho thái tử chìm đắm trong sự mê muội, nên chấp nhận làm theo lời của Điều-đạt. Sau đó thái tử bí mật mang một lưỡi kiếm bén đi vào cửa vương cung. Vì ôm lòng ác độc, phản nghịch nên bất giác bị giằng xé hoảng sợ, lảo đảo té nhào trước vương cung, rồi lại đứng dậy. Quan giữ cửa thấy vậy, liền nhạy bén trong ý nghĩ: Thái tử thường vào đây với oai nghi đĩnh đạc, tại sao hôm nay lại có hiện tượng như thế, chắc có lý do gì, vội vàng đến hỏi. Thái tử trả lời: Tôi muốn giết Vua cha nên mới thế này. Viên quan lại hỏi: Ai xúi giục thái tử làm phản? Thái tử nói: Điều-đạt. Các quan giữ cửa cùng nhau bàn định: Nên giải quyết sao đây? Vị thứ nhất đề nghị: Nên giết sạch Sa-môn và thái tử Chúng Lạc. Vị thứ hai nêu ý kiến: Trước đây Đức Phật đã sai Tôn giả Xá-lợi-phất tuyên bố sự ác nghịch của Điều-đạt, tại sao lại muốn giết hết Samôn? Chính tội này chỉ do thái tử và Điều-đạt, hai người mà thôi. Vị thứ ba kiến nghị: Chúng ta không vội phán quyết tội này, cần phải tâu lên nhà Vua. Nhà Vua sẽ có giáo sắc, ta sẽ thừa lệnh thi hành. Nghị bàn như vậy rồi, các quan liền đem vấn đề tâu lên nhà Vua. Nhà Vua hỏi: Chư thần, các ông có ý kiến gì đây? Các quan liền trình bày đầy đủ vấn đề đã bàn. Nhà Vua liền đuổi vị quan có ý kiến thứ nhất, di chuyển vị quan có ý kiến thứ hai và trao thêm quyền hạn cho vị có kiến nghị thứ ba. Nhà Vua lại cho tập hợp quần thần để nghị bàn việc này. Các quan đều nói: Vị quan có ý kiến thứ hai là hợp lý mà nhà Vua còn di chuyển địa vị, xem thế thì rõ thánh tâm của nhà Vua là không nhẫn tâm tạo sự tác hại. Với hình phạt chính đã không áp dụng thì phải dùng hạ kế. Các quan nói: Ngôi Vua, thái tử là người thừa kế. Chỉ vì thái tử muốn gấp làm Vua nên mới phản nghịch, nay nên trao ngôi vị Vua cho thái tử thì tâm ác kia sẽ chấm dứt. Ý kiến đó hợp với lòng Vua, Vua liền thoái vị, truyền ngôi cho thái tử với vương hiệu là A-xà-thế. Buổi đầu ở ngôi Vua, thọ hưởng năm dục lạc nên tâm sát nghịch tạm thời quên đi. Sau một thời gian ngắn, cho dù không có việc gì đi nữa, A-xà-thế vẫn hãm hại phụ mệnh.
Bấy giờ, Vua A-xà-thế có một con voi rất hung hãn. Điều-đạt bí mật đến chỗ người nài voi nói với người ấy: Ngày mai Sa-môn Cù-đàm sẽ đi trên con đường này, Ông vì tôi phục cho con voi thật say, rồi thả ra nơi đoạn đường đó. Đức Phật với tâm nhiều kiêu ngạo ắt sẽ đi không tránh, do đó sẽ bị nó đạp chết. Đối với ông tôi sẽ hậu tạ. Sáng hôm sau, đến giờ khất thực, Đức Phật đắp y, mang bát cùng năm trăm đệ tử vào thành. Trước đó, người nài voi đã cho voi uống rượu say mèm. Từ xa thấy Đức Phật đi tới, ông ta liền thả voi ra. Những người có lòng tin, vui thích Phật pháp, thấy voi say được thả ra, vội vàng đến bạch Phật: Cúi xin Đức Thế Tôn nên đi con đường khác, năm trăm vị đệ tử và Tôn giả A-nan cũng bạch Phật như vậy. Đức Phật Ba lần đều trả lời: Không can chi! Rồng còn không hại ta được, huống gì là voi. Các đệ tử do phản xạ tự nhiên rời Phật đi qua đường khác, chỉ có Tôn giả A-nan một mình đi theo Phật. Khi ấy, những người xem coi bao vây xung quanh đông nghẹt, ai nấy đều luận bàn: Nay hai rồng thử sức, xem con nào hơn. Ngoại đạo thì nói: Voi rồng sức đều mạnh, chắc là thắng so với người. Đệ tử của Phật thì nói: Người rồng, đạo cao đức trọng, chắc hàng phục được voi. Lời qua tiếng lại không đi đến đâu, họ cá nhau bằng tiền để phân định hơn thua. Đối với voi say, khi từ xa thấy Phật đi đến, nó đập tai, hỉnh mũi, như sức gió mạnh xông thẳng về phía Đức Phật. Tôn giả A-nan hoảng hốt, khiếp sợ, bất giác chui ngay vào nách Đức Phật. Đức Phật nói: Này A-nan! Vừa rồi chính ông đã nghe Ba lần ta nói: Không can chi. Tại sao không tin mà còn hoảng sợ đến thế? Đức Phật thấy voi tiến tới, Ngài liền nhập Tammuội Tâm từ và nói kệ:
Ngươi đừng hại Đại long
Đại long ra đời khó.
Nếu ai hại Đại long,
Đời sau đọa cõi ác.
Con voi nghe kệ rồi, đưa cái vòi ra trải lên đất, ôm chân Đức Thế
Tôn. Trong chốc lát, với động tác kính cẩn ấy được lập lại ba lần, nó chiêm ngưỡng Đức Phật từ trên xuống dưới. Voi đi quanh bên phải ba vòng, bước lui lại rồi ra đi. Từ đó về sau nó thành một con voi hiền lành. Đây chính là một điều kỳ lạ! Mọi người đồng thanh khen ngợi: Sa-môn Thích tử không dùng dao gậy mà hàng phục được con voi hung dữ này. Người dân trong nước không còn bị sợ hãi nữa. Kỳ diệu thay! Các ngoại đạo thảy đều xấu hổ. Còn đệ tử của Đức Phật thì hớn hở vui mừng. Kiểm thu số tiền đắc cuộc lên đến hơn bảy mươi vạn. Sau khi hàng phục voi, Đức Phật lại nói kệ:
Voi say đầy sân hận
Tiến về đấng Đạo sư
Trăm họ đều thấy rõ
Hơn thu tiền cược nhau.
Hình voi tựa Thái sơn
Sáu mươi voi nào hơn
Vang dội chúng lòng người
Rống lên phá quân địch.
Đại lực của Đạo sư
Thương chúng sinh, xuất thế
Muốn độ con voi dữ
Trước nó ta đứng yên.
Voi lạy mọi người biết
Đạo, tục đều vui mừng
Khen Ta hàng voi dữ
Phật là Sư tử vương.
Điều-đạt chứng kiến như vậy rồi, tâm ác khác lại nảy sinh: Nay hại Phật bằng phương thức này không được rồi, ta sẽ tìm một tên hung thủ, không biết Phật là ai, thuê nó với giá đắt để nó giết mới được. Lập tức, Điều-đạt đi khắp nơi tìm kiếm, gặp được một người đàn ông vạm vỡ, bèn nói: Ông vì tôi giết Phật, tôi sẽ hậu tạ. Người kia ham của nên đồng ý. Bấy giờ, Đức Phật đang kinh hành nơi đất trống, từ xa đã thấy hung thủ, Ngài dùng Tam-muội tâm từ bủa khắp thân người ấy, đưa tay vẫy gọi. Hung thủ bất giác buông dao, vội đến với Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân, bạch Phật: Nay con là người si cuồng, muốn hại Đức Thế Tôn. Con tự biết có tội nặng, cúi xin Ngài cho con sám hối.
Đức Phật dạy: Ông thật là người ngu si nên mới ham tiền mà hại Đức Như Lai. Trong giáo pháp của Ta, nếu người biết có tội mà sám hối thì sẽ tăng trưởng căn lành. Liền theo đó Đức Thế
Tôn nói pháp độ ông ta. Ngài phân tích vấn đề bố thí, vấn đề trì giới, vấn đề sinh thiên, vấn đề nhiễm ô của kẻ tại gia và vấn đề an vui của người xuất thế. Tâm hồn người ấy vui mừng, Đức Phật biết được điều đó nên lại vì ông ta nói pháp khổ, tập, tận, đạo. Nghe các pháp ấy, ông ta bùng vỡ sự tỏ ngộ và với các pháp được tỏ ngộ này, ông ta xa lìa trần cấu, đạt được mắt pháp trong sạch. Thấy pháp đắc quả rồi, ông ta xin quy y Tam bảo, thọ trì năm giới. Đức Thế Tôn bảo ông ta trở về bằng con đường khác, vì Điều-đạt đã thuê hai người đón đường cũ giết người này, ngõ hầu bịt kín tiếng xấu ác. Tuần tự như vậy, Điều-đạt thuê bốn người, cho đến ba mươi hai người. Họ đều đến trước Đức Phật và được Phật thứ lớp độ họ như thế, sau cùng Ngài nói pháp. Nghe pháp họ đều chứng quả Tu-đàhoàn.
Các Tỳ-kheo nghe Điều-đạt thuê người hại Phật, cùng nhau cầm đao trượng đến để hộ vệ Đức Thế Tôn. Các Tỳ-kheo phân bố đứng khắp nơi. Nếp sống của chư Phật là mỗi buổi sáng khi mặt trời mọc thì rời phòng ra ngoài. Sáng hôm nọ, Ngài đi ra khỏi phòng thì thấy các Tỳ-kheo đứng hai bên, Ngài hỏi: Vì lý do gì các thầy cầm đao gậy đứng đây? Các Tỳ-kheo thưa: Chúng con nghe Điều-đạt thuê người hại Phật, không an tâm nên đến đứng đây. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Như Lai mà bị chết không đúng lúc là điều không có thể. Năm hạng thầy ở đời mới cần sự hộ vệ, chư Như Lai thì không, các thầy cứ an tâm trở về, tự bảo hộ lấy tâm mình.
Điều-đạt biết rõ sự thất bại, lại nung nấu ý đồ khác: Âm mưu của ta hại Phật phen này cũng bị thất bại. Ta tìm một người phối hợp cùng ta thực hiện sẽ có kết quả hơn. Điều-đạt lập tức tìm được một người, cùng leo lên núi Kỳ-xà-quật. Khi ấy, Đức Thế Tôn đang đi kinh hành trên tảng đá phía dưới núi. Điều-đạt vội vã sai người kia xô đá hại Phật, vừa khởi tâm xô đá thì tay chân người kia không cử động được. Tâm niệm ông ta lại nghĩ đến công đức to lớn của Phật. Với tâm niệm ấy tay chân ông ta bình phục như cũ. Điều-đạt thấy vậy nổi giận nói: Tại sao ngươi khốn nạn thế, ngươi đi cho khuất mắt ta gấp! Điều-đạt liền tự tay đẩy một tảng đá lớn chui lăn xuống hại Phật. Có thần núi bên dưới tên là Kim-bệ-lô, đỡ lấy hòn đá quăng ra ngoài xa, chỉ có một mảnh nhỏ quăng trúng làm bị thương ngón chân cái của Đức Phật. Đức Thế Tôn chứng kiến như vậy, nói với Điềuđạt: Nay ông phạm phải tội vô gián. Nếu ai với tâm ác làm cho thân Phật chảy máu chắc chắn sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián A-tỳ.
Điều-đạt lại nghĩ ra mưu mẹo khác: Ta đã không thể hại được Phật, chỉ còn có cách là phá sự hòa hợp của Tăng. Phật có Đại thần lực, nếu ta có thể phá được Tăng của Ngài thì uy danh của ta sẽ chấn động khắp nơi. Đức Phật biết được ý nghĩ đó, liền nói với Điều-đạt: Ông chớ nên phá hòa hợp Tăng. Nếu Tăng bị phá và ai có thể hòa hợp lại, người đó sẽ được sinh lên cõi trời, nhận lấy một kiếp an vui. Nếu người nào phá hòa hợp Tăng, người đó bị đọa vào địa ngục một kiếp thọ khổ. Điều-đạt nghe rồi, tạm thời xả bỏ tâm ác đó, nhưng sau thời gian làm sống dậy lại tâm ấy. Đức Phật cũng khuyên can như trước và nói kệ:
Chúng Tăng hòa hợp vui
Hòa hợp thường an ổn
Ai phá hòa hợp Tăng
Một kiếp địa ngục khổ.
Chúng Tăng hòa hợp vui
Hòa hợp thường an ổn
Hàn gắn Tăng bị phá
Thọ vui một kiếp trời.
Nếu chia rẽ riêng biệt
Thường nói lời bất thiện
Để phá hòa hợp Tăng
Một kiếp địa ngục khổ.
Không chia rẽ riêng biệt
Thường hay nói lời lành
Để hàn gắn Tăng phá
Thọ vui một kiếp trời.
Điều-đạt nghe rồi, tạm thời xả bỏ tâm ác ấy, nhưng thời gian sau tâm ác ấy lại sống dậy mạnh hơn trước. Các Tỳ-kheo nghe Điều-đạt rắp tâm phá hòa hợp Tăng, liền đến bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bằng mọi phương tiện chuyển lời đến khiển trách Điều-đạt, rồi Ngài bảo các Tỳ-kheo: Nên sai một Tỳ-kheo thân tình nồng thắm với Điều-đạt đến khuyên can: Thầy đừng phá hòa hợp Tăng, đừng làm việc phá Tăng, nên cùng Tăng hòa hợp, Tăng hòa hợp nên hoan hỷ không tranh cãi, một lòng cùng học như nước với sữa hòa hợp, cùng nhau phát huy lời thầy dạy về hạnh an lạc. Nếu Điều-đạt thuận tùng thì tốt, bằng không thì sai số đông Tỳ-kheo đến khuyên. Nếu Điều-đạt lại cũng không nghe lời thì Tăng nên đến can gián. Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, ba lần khuyên như vậy, Điều-đạt đều không nghe theo. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách rồi, trình bày vấn đề lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, lại cũng bằng mọi phương tiện chuyển lời khiển trách đến Điều-đạt và bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tìm phương tiện để làm việc phá hòa hợp Tăng, các Tỳ-kheo nên nói với các Tỳ-kheo kia: Thầy đừng tìm phương tiện phá hòa hợp Tăng. Thầy nên cùng Tăng hòa hợp. Cùng Tăng hòa hợp thì vui vẻ không tranh cãi. Một lòng cùng học như nước với sữa hòa hợp, cùng nhau phát huy lời dạy của Bổn sư về hạnh an lạc. Can gián như vậy, đương sự kiên trì không bỏ thì nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián bỏ thì tốt, không bỏ, phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Phá Tăng: Tìm mọi phương tiện để phá Tăng.
Hòa hợp: Đồng Bố-tát, Tự tứ Yết-ma, cùng Tăng làm những việc của Tăng.
Tăng: Từ bốn vị trở lên, Tỳ-kheo kia muốn phá Tăng, các Tỳ-kheo khác thấy, nghe, biết nên sai một Tỳ-kheo thân quen với vị ấy đến can gián. Tỳ-kheo ấy bỏ thì phạm một Đột-kiết-la hối quá. Nếu không bỏ thì sai số đông Tỳ-kheo đến can gián, khi ấy chịu bỏ thì phạm hai tội Đột-kiết-la hối quá. Nếu lại không bỏ thì Tăng đến can gián, khi ấy chịu bỏ thì phạm ba tội Đột-kiết-la hối quá. Nếu không bỏ thì Tăng Bạch-tứ-yết-ma can gián.
Một Tỳ-kheo tuyên bố như sau:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này hăng hái tạo phương tiện phá hòa hợp Tăng. Tăng đã can gián: Thầy không nên hăng hái tạo phương tiện phá hòa hợp Tăng. Khi can gián như vậy mà kiên trì không bỏ, nay Tăng Yết-ma can gián. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch. Bạch rồi nên nói với Tỳ-kheo kia: Tăng đã bạch rồi, còn ba Yết-ma nữa, thầy nên bỏ việc phá hòa hợp Tăng, đừng để phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu vị kia bỏ thì trao cho ba Đột-kiết-la, một Thâu-lan-giá hối quá. Nếu không bỏ thì nên xướng tiếp: Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này hăng hái tạo phương tiện phá hòa hợp Tăng. Cho đến nay Tăng Yết-ma can gián. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì xin nói. Rồi lại phải nói với Tỳ-kheo kia: Tăng đã Yết-ma lần thứ nhất xong, còn hai Yết-ma nữa. Thầy nên bỏ phá hòa hợp Tăng, đừng để phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu vị kia chịu bỏ thì trao cho ba Đột-kiết-la, hai Thâu-lan-giá hối quá. Nếu không bỏ thì Yết-ma lần thứ hai, như trên. Yết-ma lần thứ hai xong, lại phải nói như trên. Nếu vị kia chịu bỏ thì trao cho ba Đột-kiết-la, ba Thâu-lan-giá hối quá. Nếu không chịu bỏ thì Yết-ma lần thứ ba, như trên. Yết-ma lần thứ ba chưa xong, vị ấy chịu bỏ thì trao cho ba Đột-kiết-la, ba Thâu-lan-giá hối quá. Yết-ma lần thứ ba xong, bỏ hay không bỏ đều phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Tỳ-kheo-ni phạm cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiếtla. Nếu tác bạch không thành thì ba Yết-ma đều không thành. Nếu tác Yết-ma khác, giá Yết-ma, phi pháp Yết-ma, không can gián tự tỏ đều không phạm.
Xong giới thứ mười ---------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, những Tỳ-kheo yểm trợ Điều-đạt, nói với các Tỳ-kheo: Những gì Điều-đạt nói là Điều-đạt biết, chứ chẳng phải không biết mà nói, nói đúng pháp chứ chẳng phải nói phi pháp, nói đúng luật chứ chẳng phải nói sai luật, tâm chúng tôi đều chấp nhận và vui mừng. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách: Tại sao các thầy nói: Những gì Điều-đạt nói là Điều-đạt biết, chứ chẳng phải không biết mà nói, nói đúng pháp chứ chẳng phải nói phi pháp, nói đúng luật chứ chẳng phải nói sai luật, tâm chúng tôi đều chấp nhận và vui mừng?! Quở trách rồi, đem vấn đề bạch lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, sau khi chuyển lời quở trách các Tỳ-kheo yểm trợ cho Điều-đạt, Ngài bảo các Tỳ-kheo: Nên sai một Tỳ-kheo thân quen với các Tỳ-kheo yểm trợ Điều-đạt đến can gián họ: Các thầy đừng nói: Những gì Điều-đạt nói là Điều-đạt biết, chứ không phải không biết mà nói, nói đúng pháp chứ chẳng phải nói phi pháp, nói đúng luật chứ chẳng phải nói sai luật, chúng tôi đều chấp nhận và vui mừng. Tại sao vậy? Điều-đạt chẳng phải biết mà nói, nói phi pháp, nói phi luật. Các thầy đừng yểm trợ việc làm phá hòa hợp Tăng, nên yểm trợ việc hòa hợp Tăng. Hòa hợp Tăng thì vui vẻ không tranh cãi. Một lòng đồng học như nước hòa với sữa, cùng nhau hoằng truyền lời dạy về hạnh an lạc của đức Đạo sư. Nếu họ chấp nhận thì tốt, bằng không nên sai số đông Tỳ-kheo Tăng đến can gián. Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, can gián như vậy Ba lần, các Tỳ-kheo yểm trợ Điềuđạt đều không chấp nhận. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách rồi, đem sự việc trình bày lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bằng nhiều phương tiện chuyển lời quở trách đến các Tỳ-kheo yểm trợ Điều-đạt, rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay, giới này được nói như sau:
“Tỳ-kheo nào yểm trợ việc phá hòa hợp Tăng, hoặc một, hoặc hai, hoặc số đông, nói với các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo này nói ra là biết chứ không phải không biết mà nói, nói như pháp chứ không nói phi pháp, nói đúng luật chứ không nói sai luật. Những gì Tỳ-kheo này nói chúng tôi chấp nhận và vui mừng. Các Tỳ-kheo này nói với các Tỳ-kheo kia: Các thầy đừng nói: Những gì Tỳ-kheo này nói ra là biết chứ không phải không biết mà nói, nói đúng pháp chứ chẳng phải nói phi pháp, nói đúng luật chứ chẳng phải nói sai luật. Những gì Tỳ-kheo này nói chúng tôi chấp nhận và vui mừng. Tại sao vậy? Vì Tỳ-kheo ấy chẳng phải biết mà nói, không nói pháp, không nói luật. Các thầy chớ nên vui thích với việc yểm trợ phá hòa hợp Tăng, nên vui vẻ yểm trợ với việc hòa hợp Tăng. Tăng hòa hợp thì hoan hỷ, không tranh cãi. Một lòng đồng học như nước hòa với sữa, cùng nhau hoằng truyền hạnh an lạc của Đạo sư dạy. Can gián như vậy mà kiên trì không bỏ, nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián bỏ thì tốt, không bỏ phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Yểm trợ phá Tăng: Bằng nhiều cách yểm trợ tạo thành việc phá Tăng.
Hòa hợp: Đồng Bố-tát, Tự tứ. Sai một người thân quen can gián, nếu bỏ thì phạm Đột-kiết-la hối quá. Cho đến không can gián mà tự bỏ đều như giới trước đã nói.
Xong giới thứ mười một ---------------
Đức Phật ở tại nước Câu-xá-di. Bấy giờ Tỳ-kheo Xiển-đà phạm các tội: Vào nhà bạch y bạ giường nào cũng nằm, ngồi, không đúng pháp, ăn riêng chúng, ăn phi thời là chuyện thường đối với ông. Vào xóm làng Xiển-đà cũng không thưa với Tỳ-kheo thiện. Các Tỳ-kheo thấy vậy chỉ trích thầy phạm phép tắc như thế là có lỗi. Thầy phải nhìn thấy điều này mà sám hối, đừng để mất sự thanh tịnh đối với việc tu phạm hạnh. Không lẽ thầy sống mãi với đêm dài tội lỗi này mà nhận lấy các khổ não! Sao đành để cho thí chủ mất hết mọi công đức!
Xiển-đà trả lời: Đại đức! Các thầy không nên dạy tôi, tôi dạy các thầy mới phải: Tại sao vậy? Pháp vương Thánh sư là chủ của tôi, pháp tắc tôi rút ra từ đó, không dính dự gì đến các Đại đức. Giống như trận gió lớn thổi các cỏ rác dơ uế tập trung lại một chỗ. Tất cả các Đại đức gồm nhiều dòng họ, gồm nhiều gia đình, gồm nhiều quốc gia, xuất gia cũng bao gồm như vậy. Tại sao các thầy lại muốn răn dạy tôi: Này các Đại đức, đừng nói với tôi điều gì hoặc tốt, hoặc xấu, tôi cũng không nói điều gì với các Đại đức hoặc tốt, hoặc xấu.
Các Tỳ-kheo lại nói với Xiển-đà: Thầy đừng tự cao, thầy không thể không dùng lời cộng tác với nhau. Thầy nên nói với các Tỳ-kheo những chuyện tốt xấu, các Tỳ-kheo cũng sẽ nói chuyện với thầy, những chuyện tốt xấu. Sự trao đổi chỉ giáo cho nhau, giúp nhau sám hối xuất tội như vậy, làm trưởng thành chúng Tăng của Đức Như lai. Các Tỳ-kheo can gián như vậy, Xiển-đà vẫn ngoan cố không bỏ, nên các Tỳ-kheo cùng đưa đến chỗ Đức Phật, trình bày lên Ngài sự việc. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Xiển-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn! Sự thật con có như vậy, Xiển-đà thưa. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách: Ông là người ngu si, tại sao nói không thể dùng lời hợp tác với nhau?! Các Tỳ-kheo thấy ông phạm tội, nên không muốn cùng ông Bố tát, Tự tứ, Yết-ma, làm những việc của Tăng nên rủ lòng thương mà quở trách, can gián ông. Tại sao ông lại không thuận chấp nhận?! Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nên sai một Tỳ-kheo thân thiện với Xiển-đà tới can gián như trên, kế đến sai nhiều chúng Tỳ-kheo, tiếp theo là Tăng đến can gián. Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, ba phen can gián mà Xiển-đà vẫn không chịu nghe theo, nên mới bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, rồi bằng mọi cách chuyển lời đến khiển trách Xiển-đà xong, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào có tánh ác, khó dạy, đối với các Tỳ-kheo đồng học kinh luật, thường hay phạm tội, các Tỳ-kheo như pháp, như luật can gián kẻ phạm giới ấy. Vị ấy lại nói: Này Đại đức, thầy đừng nói với tôi điều gì hoặc tốt hoặc xấu, tôi cũng không đem điều tốt điều xấu nói với thầy. Các Tỳ-kheo lại nói: Thầy đừng ngạo mạn, không thể không cùng nhau xây dựng. Thầy nên vì các Tỳ-kheo nói như pháp, các Tỳ-kheo cũng sẽ vì thầy nói như pháp. Sự trao đổi chỉ vẽ cho nhau như vậy sẽ giúp nhau loại trừ các tội lỗi, khiến chúng Tăng của Như Lai trưởng thành. Can gián như vậy mà kiên trì không bỏ, nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián bỏ thì tốt, không bỏ phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Tánh ác khó dạy: Không chấp nhận sự răn dạy sửa đổi, không có tâm cung kính, cho mình là phải, cho người là trái.
Đồng học kinh luật: Kinh là tất cả lời Phật dạy, luật là Ba-la-đề-mộc-xoa. Khi sai một Tỳ-kheo thân thiết đến can mà bỏ thì phạm một Độtkiết-la hối quá, cho đến không can mà tự bỏ đều giống như giới trên đã nói.
Xong giới thứ mười hai
---------------
Đức Thế Tôn ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, nơi ấp Kiết La có hai Tỳ-kheo, một người tên là Átbệ, người thứ hai tên là Phân-na-bà cùng hành hạnh ác, làm nhơ nhớp nhà người, làm những việc phi oai nghi như tự kết tràng hoa, dạy người kết tràng hoa, tự mình mang, dạy người mang tràng hoa, cùng ngồi một giường với người nữ, cùng ăn một mâm, ăn thịt, uống rượu, ca múa theo âm nhạc, giả làm âm thanh các loài chim, cũng làm các loài chim đá nhau, khi thì bài bạc, khi thì đi ngã nghiêng cười đùa, khi thì ném bắt, chỉ tay nheo mắt, hướng đến người nữ làm các trò hề để trêu ghẹo. Cả thân, khẩu, ý làm các điều ác như vậy, phá giới, phá kiến, phá oai nghi chánh mạng. Khi ấy có năm trăm Tỳ-kheo oai nghi đầy đủ, từ nước Ca-di đến ấp này, tới giờ mang bát vào thôn khất thực. Thấy các nhà sư, các Cư sĩ đều nói: Các Tỳ-kheo này từ đâu đến, sao lại cúi đầu làm thanh giống như hiếu tử, không biết mở miệng giao tiếp với mọi người. Ở nơi ấp chúng ta đã có sẵn hai Tỳ-kheo hiền đủ tài, lắm nghề, khéo làm đẹp lòng người, đâu có phiền gì để hạng người này ở lại ấp của ta, dứt khoát không cho họ thức ăn, để họ mang bát không mà ra về. Lúc đó, Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên cũng trên đường từ Ca-di đến ấp này. Nghe tin ấy, nhóm Át-bệ lo lắng suy nghĩ: Hai vị này đến đây ắt phải nghe việc làm ác nổi tiếng của chúng ta mà cắt đứt mọi sự cúng dường. Cả hai bèn đến nói với các Cư sĩ: Không bao lâu nữa sẽ có hai Tỳ-kheo đến đây, một vị tên là Mục-liên, rất tài tình về huyễn thuật, hiển hiện, biến hóa đủ mọi hình thức. Vị thứ hai tên là Xá-lợi-phất rất giỏi chú pháp, xảo ngôn, khéo mê hoặc người. Các Phật tử nên đồng tâm đừng để bị mê hoặc! Chúng tôi sẽ ở lại đây. Nếu không đạt được yêu cầu chính đáng này thì chúng tôi sẽ đi. Các Cư sĩ nói: Quý Trưởng lão cứ an tâm, chúng con sẽ không bao giờ bị họ mê hoặc.
Đến với ấp này, hai vị được các Cư sĩ già trẻ lớn nhỏ đều ra nghinh đón hỏi chào, cung kính đảnh lễ, rồi ngồi qua một bên. Nhân lúc ấy Mụcliên hiện bày thần biến, chia thân ra làm trăm ngàn rồi hiệp lại làm một, đi xuyên qua tường vách, đi trên nước như đi trên đất, ngồi nằm trên hư không như chim bay liệng, thân đến Phạm thiên, tay sờ mặt trời, mặt trăng, phần trên của thân tuôn ra lửa, phần dưới của thân tuôn ra nước, phần trên của thân tuôn ra nước, phần dưới của thân tuôn ra lửa, hoặc hiện nửa thân, hoặc hiện toàn thân, vọt ra nơi phương Đông, lặn nơi phương Tây, vọt ra nơi phương Tây, lặn nơi phương Đông, vọt ra nơi phương Nam, lặn nơi phương Bắc, vọt ra nơi phương Bắc, lặn nơi phương Nam, vọt ra nơi chính giữa, lặn mất vào một bên, vọt ra nơi một bên, lặn mất vào chính giữa. Hiện thần biến rồi trở lại ngồi vào chỗ cũ. Bấy giờ, các Cư sĩ đều nói với nhau: Mục-liên huyễn thuật tài tình, sự thật này là hiển nhiên. Đến phiên Xá-lợi-phất giảng nói pháp diệu. Suốt từ đầu đến cuối bài thuyết pháp không chỗ nào là không dễ hiểu, không mang ý nghĩa thiện, pháp vị thiện với đầy đủ hình tướng thanh bạch phạm hạnh. Nói pháp rồi, Tôn giả ngồi yên trong tư thế thiền định. Đối với các Cư sĩ họ lại cùng nhau bàn nói: Xá-lợi-phất quả có tài nói pháp. Dù cho cả hai đã được kiểm chứng, ấy vậy mà mọi người vẫn không tín thọ, không có sự cúng dường.
Vào thời điểm ấy, ấp này có hai Ưu-bà-tắc, một tên là Phú Xà, một tên là Ưu-lâu-già, với lòng tin vui theo Phật Pháp, thấy rõ chân lý đã đắc quả, nên rất hoan hỷ bố thí cúng dường Samôn. Hai ông này nghe Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên từ Ca-di đến, cả hai cùng tới nghinh đón, đầu mặt đảnh lễ sát chân. Hai Tôn giả đã vì họ nói pháp diệu và họ rất vui mừng vì điều lợi ích được chỉ bày. Sau khi nghe pháp hai ông thưa với Tôn giả Xá-lợi-phất: Trong ấp này có hai Tỳ-kheo, qua nhiều sự việc cả hai đã hành động không còn gì là oai nghi (họ trình bày đầy đủ như trên). Gần đây có năm trăm vị Tỳ-kheo, rất mực oai nghi vào trong thôn khất thực, đành phải ôm bát không ra về. Cúi xin Đại đức đem việc này bạch lên Đức Phật. Một lần nữa Tôn giả vì hai Ưu-bà-tắc giảng nói pháp vi diệu, chỉ dạy điều lợi ích, làm cho họ ra về đầy vui mừng. Trở về thành Xá-vệ, hai Tôn giả bạch lên Đức Phật vấn đề trên một cách đầy đủ. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng rồi bảo Tôn giả Anan: Ông đến ấp Kiết-la trao cho hai Tỳ-kheo ấy pháp Yết-ma khu xuất (đuổi khỏi ấp). Tôn giả Anan bạch Phật: Tỳ-kheo ác kiến kia chẳng phải Sa-môn, tự nói là Sa-môn, thường làm điều bất tịnh, tâm họ đã bại hoại đến thế, nếu một mình con đến, chắc chắn với cái ác tột cùng ấy, hai ông tha hồ quấy phá, não loạn. Đức Phật nói với Tôn giả A-nan: Đúng vậy, đúng vậy, nhận xét của ông là sự thật. Nay ông có thể cùng với một số Tỳ-kheo, nhiều ít tùy ý ông, đến ấp Kiết La, trước tập hợp chúng, sau đó mới cử tội nhóm Át-bệ, Bạchtứ-yết-ma, đuổi ra khỏi ấp. Một Tỳ-kheo tác pháp như sau:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là đã hành xử theo hạnh xấu ác làm hoen ố nhà người. Về hạnh xấu ác mọi người cũng đều nghe thấy và biết rõ. Nay Tăng đuổi ra khỏi ấp này. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là hành xử theo hạnh xấu ác, làm nhơ nhớp nhà người. Làm hạnh xấu ác mọi người đều thấy nghe và biết rõ, làm nhơ nhớp nhà người, ai nấy cũng đều nghe thấy và biết rõ. Nay Tăng đuổi ra khỏi ấp này. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng, vị nào không đồng ý thì xin nói. (Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy)
Tăng đã đồng ý đuổi Tỳ-kheo ra khỏi ấp rồi.
Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thi hành như vậy.
Tôn giả A-nan ghi nhận và làm theo lời Phật dạy, cùng đưa năm trăm Tỳ-kheo đến ấp Kiết La. Các Cư sĩ nghe Tôn giả A-nan cùng năm trăm Tỳ-kheo đến ấp đều ra nghinh đón, hỏi chào và đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên. A-nan liền tập hợp chúng, cho đến việc Yết-ma. Tác pháp Yết ma xong, hai Tỳ-kheo ấy cũng ngoan cố không đi. Các Tỳ-kheo hỏi: Tại sao hai thầy không đi? Họ trả lời: Tôn giả A-nan đã tùy tiện làm việc theo thương ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi, cho nên không đi. Tại sao vậy? Có Tỳ-kheo đồng tội như thế mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi! Các Tỳ-kheo nói: Hai thầy đừng nên nói Tôn giả A-nan tùy tiện làm việc theo thương, giận, si, sợ, có Tỳ-kheo đồng tội như thế mà có người bị đuổi có người không bị đuổi. Các thầy hành xử theo hạnh xấu ác, làm nhơ nhớp nhà người. Làm hạnh xấu ấy, mọi người đều nghe thấy, biết rõ, làm nhơ nhớp nhà người ai nấy đều quá rõ, chán ngấy. Các thầy nên ra khỏi chỗ này, không nên ở lại đây. Các Tỳ-kheo can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ. Các Tỳ-kheo đem việc ấy về bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bằng mọi hình thức chuyển lời khiển trách hai Tỳ-kheo kia rồi, Ngài lại bảo các Tỳ-kheo: Nên sai một vị thân cận thâm tình với hai Tỳ-kheo kia tới can gián như trên. Kế đến sai nhiều chúng Tỳ-kheo, tiếp theo là Tăng. Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, ba phen can gián mà đương sự vẫn không chấp nhận nên đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, một lần nữa chuyển lời khiển trách đến phạm nhân. Ngài lại bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay, giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nương tựa trong xóm làng, hành xử xấu xa làm nhơ nhớp nhà người, hạnh xấu xa ấy ai nấy đều nghe biết, và việc làm nhơ nhớp nhà người, mọi người cũng đều nghe biết. Các Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo này: Thầy hành xử hạnh xấu xa, làm nhơ nhớp nhà người. Hạnh xấu xa này ai nấy cũng đều nghe biết, và việc làm nhơ nhớp nhà người ai nấy cũng đều nghe biết. Thầy nên đi khỏi chỗ này, không nên ở nơi đây. Tỳ-kheo kia nói: Các Đại đức tùy tiện làm việc theo yêu, giận, si, sợ. Tại sao vậy? Vì có Tỳ-kheo đồng tội như thế mà có người bị đuổi có người không bị đuổi. Các Tỳ-kheo lại nói: Thầy đừng cường điệu nói: Các Đại đức làm việc theo yêu, giận, sợ, si, có người đồng tội mà người bị đuổi, người không bị đuổi. Thầy hành xử hạnh xấu xa, làm nhơ nhớp nhà người. Hạnh xấu xa này mọi người đều nghe biết và việc làm nhơ nhớp nhà người ai nấy cũng đều nghe biết. Thầy nên bỏ lời nói yêu, giận, si, sợ. Thầy nên ra khỏi chỗ này, không nên ở lại đây. Khi can gián như vậy mà vẫn kiên trì không bỏ, nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Can gián lần thứ hai, thứ ba, bỏ việc này thì tốt, không bỏ phạm Tăng-già-bà-thi-sa”.
Hành hạnh ác: Thân, khẩu, ý phát xuất hạnh ác.
Làm ô uế nhà người: Khiến cho nhà người mất đi lòng tin tưởng nơi Phật pháp.
Thấy: Là tận mắt nhìn thấy.
Nghe: Là nghe từ người đáng tin cậy. Biết: Là xa gần đều hay biết.
Sai một Tỳ-kheo thân quen can gián, mà chịu bỏ thì phạm Đột-kiết-la hối quá, cho đến không can gián mà tự bỏ, đều như trên đã nói.
Xong giới thứ mười ba
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Bạt-nanđà thường tới lui nhà một cư sĩ. Vào một buổi sáng sớm nọ, Bạt-nan-đà đắp y mang bát đến nhà cư sĩ ấy. Ở nhà chỉ có mỗi một vợ cư sĩ, Bạt-nanđà trải Ni-sư-đàn nơi chỗ vắng vẻ rồi cùng bà ta ngồi nói những lời xấu xa, thô tục về dâm dục. Khi ấy, Lộc-tử mẫu Tỳ-xá-khư nghe Bạt-nan-đà cùng người vợ cư sĩ ngồi một mình nơi chỗ vắng nói những lời thô ác về dâm dục, nghĩ: Nếu cư sĩ về bắt gặp chắc sinh tâm xấu đối với Tỳ-kheo khác, cũng như sẽ khiến Bạt-nan-đà trong đêm dài sinh tử thọ nhận nhiều khổ não. Ta nên sai người đến bạch với Đức Thế Tôn. Bà liền bảo Bà-la-môn tên là Na-lân-già, người thường được bà sai đến cúng dường Phật: Ngươi đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân Ngài, rồi trình bày rõ việc này. Người Bà-la-môn liền đến bạch Phật. Đức Phật vì Bà-la-môn Na-lân-già giảng nói pháp diệu rồi bảo trở về. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự thầy có như vậy không? Bạt-nan-đà thưa: Thật sự có như vậy, bạch Đức Thế Tôn... Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách, như trong giới dâm đã nói, rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng với một người nữ, một mình ngồi chỗ vắng, chỗ có thể hành dâm, Ưubà-di đáng tin thấy, nói một trong ba pháp, nghĩa là hoặc nói Ba-la-di, hoặc nói Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc nói Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo đó công nhận như lời người Ưu-bà-di đã nói, thì nên tùy theo đó mà trị một trong ba pháp, gọi là pháp Bất định”.
Một mình: Là một Tỳ-kheo, một người nữ chứ không có người thứ ba. Chỗ vắng: Là chỗ mắt không thấy. Đáng tin: Là người đã thấy bốn chân đế, không vì mình, không vì người, không vì lợi mà nói dối. Ưu-bà-di: Là người nữ thọ ba tự quy, tuyệt đối chấm dứt với tà đạo.
Bất định: Một trong ba pháp chưa nhất định là pháp nào. Các Tỳ-kheo Thượng tọa nên hỏi Tỳ-kheo ấy: Thầy có đến nhà đó hay không? Nếu Tỳ-kheo nói có, thì chưa đủ yếu tố để trị. Thượng tọa nên hỏi nhẹ nhàng: Thầy cùng với người nữ, một mình ngồi chỗ vắng nói lời thô ác về pháp hành dâm dục phải không? Nếu nói không thì Tỳ-kheo Thượng tọa, Hạ tọa nên nói một cách tha thiết: Thầy nên nói thật, đừng nên nói dối. Như lời Ưubà-di nói có đúng hay không? Nếu nói: Như lời Ưu-bà-di nói là đúng. Như vậy tùy theo đó mới trị tội. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Giới bất định thứ hai là cùng người nữ ngồi chỗ trống thì trừ Ba-la-di, ngoài ra như trên đã nói. Chỗ trống: Là chỗ mắt có thể thấy.
--------
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo chỉ được cất chứa ba y, vậy mà các Tỳ-kheo Lục quần trước bữa ăn, buổi xế chiều, mỗi thời gian mặc một loại y khác nhau. Các Tỳ-kheo thấy thế hỏi: Đức Thế Tôn không cho phép chứa y dư, các thầy không nghe hay sao? Lục quần trả lời: Chúng tôi có nghe chứ, nhưng những y này của chúng tôi là nhận được từ Tăng, hoặc từ Cư sĩ hay từ đồ vất bỏ. Vì nhu cầu đắp mặc nên họ cho tôi, vốn không khiến tôi vì năm nhà mà cất chứa. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách, rồi cùng đưa đến chỗ Đức Phật để trình bày vấn đề. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các thầy có như vậy không? Lục quần Tỳ-kheo thưa: Sự thật có như vậy, bạch Thế Tôn. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách: Trước đây các thầy không nghe Ta khen ngợi hạnh thiểu dục, tri túc: Áo cắt rọc đủ để che thân, cơm ăn đủ để nuôi sống hay sao?! Ví như các loài chim chỉ có đôi lông cánh, Tỳ-kheo cũng như vậy, chỉ mang theo ba y mà thôi. Tại sao nay các thầy lại tích giữ cất chứa phi pháp. Bằng mọi cách quở trách rồi, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay, giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào chứa y dư, quá một đêm phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Kể từ ấy, các Tỳ-kheo lúc cần mỗi một y nào, chúng Tăng Yết-ma, đem số vật nên phân mà phân cho. Vào một dịp nọ, y của A-na-luật cũ rách hư hoại, các Tỳ-kheo nói: Y của thầy cũ rách sao không đến Tăng xin sai người may một ngày cho xong? A-na-luật nói: Tôi không dám xin, sợ một ngày may không xong, phạm tội Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo ở ấp Ba-lợi với ý muốn đến thành Xá-vệ để hậu an cư, song không còn thời gian nữa, nên hợp ý nhau an cư tại ấp Ta-bệđà và đã hoàn tất. Ngày mười sáu cùng nhau đến chỗ Phật ở. Vì mưa nên suốt lộ trình lầy lội ướt át, ba y đã thô nặng, bị ướt càng thêm nặng, các Tỳ-kheo rất nhọc mệt với gánh nặng này. Các Tỳ-kheo đến nơi, kính lễ sát chân Phật rồi ngồi lui qua một bên. Phật thăm hỏi các Tỳ-kheo: An cư có vui hòa không? Trên đường đi có nhọc mệt lắm không? Các Tỳ-kheo thưa: Chúng con an cư được vui hòa, khất thực không bị thiếu thốn. Chúng con trước ở ấp Ba-lợi ý muốn về nơi đây an cư, nhưng trong đoàn có nhiều bạn quen nên không khởi hành sớm được. Chúng con tưởng đến kịp hậu an cư song cũng vẫn không kịp bèn tới an cư tại Ta-bệ-đà và đã hoàn tất. Ngày mười sáu lên đường về đây, trên đường đi bị mưa, đường lầy lội ướt át, ba y đã thô nặng bị ướt càng nặng nên rất vất vả suốt lộ trình. Các Tỳ-kheo nhân việc này trình bày lên Phật vấn đề không dám xin may y của A-na-luật. Đức Phật cho tập hợp Tỳ-kheo Tăng. Sau khi khen ngợi hạnh thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, Ngài bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép thọ y Ca-hi-na, để khỏi phạm năm việc:
Ăn riêng chúng.
Có thể ăn nhiều lần.
Trước bữa ăn, sau bữa ăn đi đến gia đình nào đó khỏi phải dặn Tỳ-kheo khác.
Chứa y dư.
Ngủ riêng không mất ba y.
Khi ấy, các Tỳ-kheo lại có ý nghĩ: Đức Phật cho thọ Y Ca-hi-na, cho phép chứa y dư, không biết được phép ấy vào lúc nào. Với suy nghĩ này lại bạch Phật. Phật dạy: Khi đã thọ Ca-hi-na thì được phép chứa. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ba y đã xong, y Ca-hi-na đã xả, chứa y dư quá một đêm, phạm Ni-tát-kỳ-Ba-dật-đề”.
Lúc ấy, Tôn giả A-nan vì Trưởng lão Xá-lợi-phất mà nhận hai trương vải kíp bối. Vào lúc ấy Trưởng lão Xá-lợi-phất lại đi vắng. Tôn giả Anan áy náy nghĩ ngợi: Đức Thế Tôn không cho phép chứa y dư quá một đêm, nay Trưởng lão Xá-lợi-phất lại không có mặt ở trú xứ phải giải quyết việc này thế nào đây?! Đem nghi vấn này bạch Phật, Đức Phật hỏi A-nan: Bao nhiêu ngày nữa Xá-lợi-phất trở về? A-nan thưa: Khoảng mười ngày, hoặc không đến mười ngày. Do đó Đức Phật cho tập hợp Tỳ-kheo Tăng và Ngài đã hết lời khen ngợi sự thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ba y đã xong, y Ca-hi-na đã xả, chứa y cho đến mười ngày, nếu quá, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Ba y đã xong: Tức là giặt, nhuộm, may đã xong. Y Ca-hi-na đã xả: Tức bạch nhị yết-ma xả.
Y dư: Ngoài ba y đều gọi là dư.
Y: Là y kíp bối, y Khâm-ba-la, y bằng tơ tằm, y độn, y vải thô.
Mười ngày: Nếu ngày thứ nhất được y nên xả ngay trong ngày, hoặc thọ trì, hoặc cho người, hoặc tịnh thí. Nếu không xả liền trong ngày, ngày thứ hai lại được y, nên xả cả hai trong ngày này. Nếu ngày ấy không xả, ngày thứ ba cho đến ngày thứ mười lại được y, cũng nên xả hết trong ngày ấy. Nếu ngày này không xả, đến ngày thứ mười một, khi tướng mặt trời xuất hiện, y nhận được trong mười ngày đều phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Nếu có y quá mười ngày nên xả cho Tỳ-kheo Tăng, hoặc xả cho một, hai, ba Tỳ-kheo, không được xả cho người khác và phi nhân. Xả rồi tiếp theo sau là sám hối: Nếu không xả mà sám hối thì tội kia càng sâu. Trừ trường hợp ba y dư, nếu các y khác dư, cho đến khăn lau tay quá mười ngày đều phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni phạm cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Độtkiết-la. Nếu tịnh thí thì không phạm.
Xong giới thứ nhất ----------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc này nhóm Tỳ-kheo mười bảy người an cư xong muốn du hành, lại có ý nghĩ: Chúng ta sẽ trở về lại đây, đem theo một y là đủ, phiền gì phải đem nhiều. Nghĩ sao làm vậy, các Tỳ-kheo lấy khăn gói các y còn lại đem để trên giá, gởi cho các Tỳ-kheo tại trú xứ, rồi ra đi. Cũng vào lúc đó nhóm sáu Tỳ-kheo từ nơi khác trở về, nói với Tỳ-kheo ở trú xứ: Cung cấp phòng cho tôi. Tỳ-kheo tại trú xứ chỉ ngay phòng của nhóm mười bảy người để y. Nhóm sáu Tỳ-kheo thấy y để trên giá hỏi: Tại sao các thầy cất chứa các y dư này? Tỳ-kheo trú xứ nói: Đây là y của nhóm mười bảy Tỳ-kheo, an cư xong du hành trong nhân gian không thể mang theo được nên lưu lại gởi cho tôi đó. Được cớ, nhóm sáu Tỳ-kheo tha hồ quở trách rồi đem vấn đề trình lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi nhóm mười bảy Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn đúng như vậy. Đức Phật bằng mọi cách khéo léo quở trách: Các ông ngu si, không nghe Ta dạy: Vật bất ly thân của một Tỳ-kheo là ba y và bình bát giống như con chim bay được là tự nhờ đôi cánh lông của nó đó sao? Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay, giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ba y đã xong, y Ca-hi-na đã xả, trong ba y, nếu lìa mỗi một y nào, ngủ quá một đêm phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Bấy giờ, một Tỳ-kheo nọ có một y phấn tảo muốn đến ấp Sa-kiệt-đà, nhưng y nặng không thể mang theo, muốn xả, không biết nên như thế nào, bạch các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo cùng đưa đến chỗ Phật để trình lên Ngài sự việc. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu các Tỳ-kheo thọ trì y phấn tảo nặng, muốn du hành nơi khác, không thể mang theo được, Tỳ-kheo ấy nên đến xin Tăng Yết-ma không mất y với nghi thức như sau: Đương sự cởi giày dép, đầu mặt đảnh lễ sát chân Tăng, quỳ gối, chấp tay bạch: Đại đức Tăng xin lắng nghe, tôi Tỳ-kheo tên là muốn du hành đến xứ y phấn tảo nặng không thể mang theo được, muốn để lại. Nay đến xin Tăng Yết-ma pháp không mất y. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng bạch xin như vậy. Sau đó, một Tỳ-kheo trong Tăng xướng: Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo tên là muốn du hành đến xứ y phấn tảo nặng không thể mang theo được, muốn để lại. Nay đến Tăng xin Yết-ma không mất y. Nay Tăng trao cho Yết-ma không mất y. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận, đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo tên là muốn du hành đến xứ y phấn tảo nặng không thể mang theo, muốn lưu lại, đến xin Tăng Yết-ma không mất y. Nay Tăng trao cho Yết-ma không mất y. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng, ai không đồng ý xin nói.
Tăng đã trao cho Tỳ-kheo tên là Yết-ma không mất y rồi.
Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo thấy Đức Thế Tôn cho phép Yết-ma ly y, bèn thường tác Yết-ma ly y để ngủ đêm, thậm chí Yết-ma ly hết cả ba y, chỉ mặc y cũ rách để đi. Tỳ-kheo Trưởng lão thấy hỏi: Tại sao các thầy mặc y cũ rách đi như thế? Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật cho phép Yết-ma ly y, cho nên chúng tôi thường Yết-ma ly y để ngủ đêm, cũng Yết-ma ly ba y luôn. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách, rồi cùng đưa đến Đức Phật trình bày sự việc. Đức Phật dạy: Các thầy không được phép nhiều lần Yết-ma ly y để ngủ đêm và Yết-ma ly cả ba y. Đây là hai Yết-ma phi pháp, Tỳ-kheo Tăng phạm hai tội Đột-kiết-la. Đối với Yết-ma ly y để ngủ đêm này, mỗi y, một đêm đều phạm tội mất y. Nay cho phép Tỳ-kheo Yết-ma lưu y lại, tiền an cư được chín tháng, hậu an cư được tám tháng, không được Yết-ma lưu y Tăng-già-lê, An-đà-hội, cho phép Yết-ma Ưu-đa-latăng. Chỗ có nạn giặc cướp, trong ba y, y cắt rọc nào hơn hết, cho phép tùy theo đó mà lưu (gởi). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, ba y đã xong, y Ca-hi-na đã xả, trong ba y, nếu lìa mỗi một y nào, ngủ quá một đêm, trừ Tăng yết-ma, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Ly y: Vườn, đồng giới khác giới; nhà, đồng giới khác giới; Tinh xá của Tỳ-kheo-ni, đồng giới khác giới; xóm làng, đồng giới khác giới; nhà lầu, đồng giới khác giới; xe, đồng giới khác giới; thuyền, đồng giới khác giới; khoảng đất rộng, đồng giới khác giới; nơi gốc cây, đồng giới khác giới; đất trống, đồng giới khác giới; trên đường đi, đồng giới khác giới.
Vườn đồng giới: Tăng Yết-ma quy định ranh giới không mất y, trong đó tự do tới lui. Khác giới: Tăng không Yết-ma quy định ranh giới không mất y, tuy là cùng một vườn mà không được tự do tới lui trong đó. Nhà, Tinh xá Tỳ-kheo-ni, xóm làng, nhà lầu cũng như vậy.
Xe đồng giới: Trong đó được tự ý lấy hay di chuyển. Khác giới: Trong đó không được tự ý lấy hay di chuyển.
Thuyền cũng như vậy.
Khoảng đất rộng đồng giới: Là chỗ sân phơi lúa, được tự ý lấy.
Khác giới là không được tự ý lấy. Nơi gốc cây đồng giới: Chỗ có bóng mát che. Khác giới là chỗ không có bóng mát che.
Đất trống đồng giới: Là chỗ ngồi kiết già cách trước mặt bảy thước. Khác giới là ngoài bảy thước.
Trên đường đi đồng giới: Là cách thân hình bảy cung. Khác giới là ngoài bảy cung, cho đến tướng mặt trời có mặt, khi ấy Tỳ-kheo trở về tới giới, cho đến một chân vào trong giới cũng không mất y. Hoặc là miệng tự nói: Tôi xả y đó, cũng không mất y. Nếu không nói xả, khi tướng mặt trời có mặt thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề.
Ngoài ba y của Tỳ-kheo, những thứ y thọ dụng khác, mà xa lìa để ngủ ban đêm thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoama-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ hai ---------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo y đã đủ, y Ca-hi-na đã xả, lại được y phi thời, các Tỳ-kheo tự thấy xấu hổ nói: Đức Phật chưa cho phép chúng tôi nhận y phi thời. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các thầy có nhận được y phi thời mà tự xấu hổ nói: Đức Phật chưa cho phép chúng tôi nhận y phi thời, phải vậy không? Các Tỳ-kheo trả lời: Bạch Thế Tôn thật vậy. Đức Phật bằng nhiều cách khen ngợi hạnh thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép nhận y phi thời. Khi ấy Lục quần Tỳ-kheo nảy sinh ý nghĩ: Đức Thế Tôn đã cho phép nhận y phi thời, chúng ta có thể tha hồ thọ nhận. Nhận nhiều song họ không thọ trì, không cho người, cũng không tịnh thí. Các Tỳ-kheo thấy vậy hỏi: Các thầy không nghe Đức Thế Tôn chế cấm không được chứa y dư hay sao? Họ trả lời: Tuy Đức Phật chế cấm chứa y dư, nhưng cho phép nhận y phi thời. Các Tỳ-kheo hỏi: Có phải bất cứ lúc nào các thầy cũng chứa y phi thời, lại không thọ trì, không cho người, không tịnh ví như thế hay sao? Họ trả lời: Đúng như vậy. Các Tỳ-kheo Trưởng lão bằng mọi hình thức quở trách, trình lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn có thật như vậy, Lục quần thưa. Đức Phật bằng lời lẽ nghiêm khắc quở trách: Các ông là kẻ ngu si. Không nên ham cầu xin quá nhiều như thế. Đối với pháp của ngoại đạo, người nhận, nhận mấy cũng không chán, kẻ cho lại so lường tính toán. Trong chánh pháp của Ta thì thiểu dục, tri túc, người thí tuy tích cực rộng rãi, nhưng kẻ nhận chỉ nhận ít mà thôi. Quở trách rồi, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: “Nếu Tỳ-kheo nào nhận được y phi thời, không thọ trì, không cho người, không tịnh thí, cho đến một đêm phạm Đột-kiết-la”.
Khi ấy, có một trú xứ nọ, các Tỳ-kheo nhận được nhiều y, thọ trì, cho người, tịnh thí, còn dư một khúc vải, cho các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không nhận, nói: Đức Phật không cho phép chúng tôi nhận vải không đủ may y. Tỳ-kheo cho vải lại nói: Cứ nhận đi, cần đủ vải thì sẽ đủ ngay. Có Trưởng lão Già-tỳ nhận được miếng vải vừa hẹp vừa ngắn, hằng ngày cứ kéo ra, hy vọng miếng vải dài rộng hơn trước. Thường lệ, cứ mỗi năm ngày, Đức Phật đi xem xét các phòng, thấy Già-tỳ kéo vải, hỏi: Thầy làm gì vậy? Già-tỳ thưa: Con nhận được miếng vải nhỏ này, không thọ trì được. Đức Phật hỏi: Thầy có hy vọng nhận được chỗ nào nữa không? Thưa có, Già-tỳ đáp. Đức Phật lại hỏi: Thời gian lâu mau nữa sẽ nhận được? Già-tỳ đáp: Trong vòng một tháng. Nhân việc này, Đức Phật bằng nhiều cách khen ngợi hạnh thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: “Từ nay cho phép chứa y phi thời, nếu không đủ, chờ cho đủ trong vòng một tháng”.
Đức Phật đã cho phép chứa vải phi thời mà không đủ may y, các Tỳ-kheo lại mang vải này du hành quá một tháng. Các Tỳ-kheo thấy vậy hỏi: Đức Phật không cho phép chứa vải phi thời, không đủ may y quá một tháng, tại sao các thầy lại mang nó du hành quá một tháng? Sau khi bằng mọi cách quở trách, các Tỳ-kheo cũng đưa đến chỗ Đức Phật, trình bày sự việc lên Ngài. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ba y đã đủ, y Ca-hi-na đã xả, lại được vải phi thời, cần thì nhận, nhận rồi phải sớm thọ trì, đủ thì tốt, nếu không đủ thì chờ đợi có chỗ cho thêm đủ để may, cho đến một tháng, nếu quá phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Y phi thời: Y nhận được sau khi xả y Ca-hina, đều gọi là y phi thời.
Cần: Trong ba y có cái cũ rách cần để bổ sung.
Hy vọng có chỗ nhận được: Có nơi nào đó, hy vọng họ sẽ cho. Nhận được từ một ngày cho đến một tháng:
Nếu Tỳ-kheo ngày thứ nhất nhận được vải mà không đủ may y, ngay trong ngày lại nhận được đủ vải như ước muốn phải may thành y để thọ trì, hoặc cho người hay tịnh thí, nếu không thọ trì, không cho người, không tịnh thí, đến ngày mười một khi tướng mặt trời xuất hiện, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Ngày thứ hai cho đến mười ngày cũng vậy. Ngày thứ mười một có hy vọng, nếu nhận được thì nội nhật nên may thành y, để thọ trì, hoặc cho người hay tịnh thí, đến ngày mười hai, khi tướng mặt trời xuất hiện phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Cho đến ngày ba mươi cũng như vậy. Ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ ba ----------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc này, nơi ấp Ưu-thiện-na có một thiếu niên cư sĩ trên đường du lịch vui chơi gặp một người con gái tên là Liên Hoa-sắc, sắc đẹp như hoa đào, tướng nữ trọn vẹn. Đã nặng tình kính yêu tương hợp, người thiếu niên ấy cưới cô ta làm vợ. Sau một thời gian ngắn người vợ có thai. Gần đến ngày sinh, cô ta về lại nhà cha mẹ, và sinh được một đứa con gái. Vì người vợ ở cữ nên người chồng không thể gần gũi được. Anh ta lại vụng trộm tư thông với mẹ của cô. Liên Hoa-sắc biết được muốn vất bỏ tất cả, cắt đứt đạo vợ chồng nhưng lại sợ liên lụy đến cha mẹ, hơn nữa vì thương con nên phải ôm sầu, nuốt hận chịu tủi nhục để nuôi con. Liên Hoa-sắc về lại nhà chồng nuôi đứa con gái của mình lên tám tuổi, sau đó mới bỏ nhà ra đi, đến thành Ba-la-nại, đói khát mệt lả người, cô ta ngồi nghỉ bên mé nước. Trong khi ấy, có ông Trưởng giả nọ đi du ngoạn vừa thấy cô ta đã đem lòng yêu mến sâu nặng liền ngỏ lời hỏi han: Cha mẹ, dòng họ của cô ở đâu? Hiện nay cô có bị ai ràng buộc không, hay còn độc thân? Liên Hoa-sắc trả lời: Tôi là đứa con gái thuộc dòng họ nay tôi không thuộc sở hữu của ai. Ông Trưởng giả lại ngỏ lời: Nếu không thuộc sở hữu của ai thì có thể vì tôi làm chánh thất được không? Liên Hoa-sắc nói: Người con gái lấy chồng tại sao không được! Ông Trưởng giả liền đưa cô ta lên xe trở về nhà rồi phong làm vợ cả. Liên Hoa-sắc giải quyết sắp đặt chu toàn mọi việc trong nhà. Từ lớn đến nhỏ, hòa thuận sung túc, vợ chồng tương kính nặng nghĩa lẫn nhau. Sau tám năm, bấy giờ ông Trưởng giả nói với người vợ: Tôi có đầu tư vốn tại ấp Ưu-thiệnna, kiểm tra số nợ lãi tám năm qua theo sổ sách, kế toán cho đến nay lãi sinh từ số vốn ấy, lên đến số cả ức. Hôm nay tôi muốn đến đó thu nợ lãi về, chúng ta tạm thời xa nhau. Người vợ nói: Phong tục tại ấp đó người nữ thích phóng dật, anh đến đó coi chừng sẽ bị mất tiết tháo của người trượng phu. Của cải như phấn thổ sao lại quá bận lòng tính toán làm chi! Người chồng trả lời: Tôi tuy biết rõ nhược điểm của mình nhưng không đến nỗi bị điều đó mê loạn. Người vợ lại nói: Nếu anh tự quyết định cần phải đi thì nên suy nghĩ và cho em nghe được một lời thề. Người chồng nói: Tốt lắm, anh thề: “Nếu anh có khởi tâm làm điều đó, thì khi anh trở về, lúc về cửa ngõ anh sẽ chết với tâm tà ấy”.
Với lời thề như thế, người chồng đến ấp Ưuthiện-na. Anh ta thu tiền lãi nhiều nơi nên trải qua thời gian cả năm. Xa nhà càng lâu ngày, nhớ nhà càng gấp bội, lòng sinh nọ kia, nảy ra ý nghĩ: Ta nên giải quyết thế nào để khỏi trái với lời thề trước mà vẫn thỏa tình hiện nay! Trưởng giả lại nghĩ: Nếu ta tà dâm thì trái với lời thề trước vợ, thôi thì tạo một nhà riêng là xong chuyện, khỏi trái với lời thề. Trong khi trao đổi, dò la, ông Trưởng giả gặp một người con gái dung nhan tao nhã, dịu dàng, toát lên một vẻ đoan chính. Ông yêu thương cô ta một cách say đắm, liền tìm đến cầu hôn. Cha người con gái thấy ông Trưởng giả tiền tài sung túc, giàu có vô cùng, nên hoan hỷ nhận lời gả con. Thu nợ xong, ông Trưởng giả cùng với người vợ mới cưới trở về bổn xứ, đến ở yên nơi một tổ ấm riêng, sau đấy ông mới trở về nhà cũ. Từ đó, ông Trưởng giả sáng đi chiều về, khác hẳn với ngày trước. Liên Hoa-sắc ngạc nhiên, âm thầm hỏi người tùy tùng, người ấy nói: Ngoài ấy có một thiếu phụ nên mới đi như vậy. Chiều hôm đó, người chồng về, Liên Hoa-sắc hỏi: Anh có người hầu tại sao giấu em, không cho em thấy? Ông Trưởng giả nói: Sợ em biết sẽ hận anh, nên phải giấu ngoài ấy. Người vợ nói: Em không ghen ghét, hiềm khích đâu, thần minh chứng giám cho em điều đó, anh nên gọi cô ấy về để cùng em lo liệu việc nhà. Ông Trưởng giả bèn đưa người ấy về và người đó chính là con gái của Liên Hoasắc. Mẹ con gặp nhau mà không hề hay biết. Thời gian sau, nhân lúc gội đầu, để ý nhìn kỹ tướng mạo, Liên Hoa-sắc mới nghi là con gái của mình, bà ta khéo léo hỏi rõ về làng xã, cha mẹ, tộc tánh của thiếu phụ và thiếu phụ đã trả lời cặn kẽ. Thế là vỡ lẽ! Liên Hoa-sắc kinh hoàng nói: Xưa kia mẹ và con đồng một chồng! Nay con và mẹ cùng một chàng rể! Sinh tử mê loạn cho đến nỗi này ư?! Nếu không đoạn ái dục, xuất gia học đạo thì sự điên đảo mê hoặc này làm sao chấm dứt được?! Liên Hoa-sắc liền vất bỏ tất cả ra đi và đến được cửa Kỳ-hoàn, đói khát mệt lả, ngồi tựa vào gốc cây.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngồi giữa một rừng người vây quanh để nghe Ngài thuyết pháp. Liên Hoa-sắc thấy hàng hàng lớp lớp người tấp nập ra vào tới lui, nghĩ là tiết hội chắc có thức ăn, bèn vào trong Tinh xá, thấy Đức Thế Tôn đang vì mọi hạng người giảng nói pháp. Liên Hoa-sắc nghe pháp, lãnh hội được vấn đề, sự đói khát từ đó được xua tan. Ngay lúc ấy, Đức Thế Tôn quan sát khắp chúng hội xem ai có thể độ được. Ngài thấy rõ chỉ có Liên Hoa-sắc là người sẽ đắc được đạo quả, nên liền nói pháp bốn chân đế: Khổ, tập, tận, đạo. Từ nơi chỗ ngồi Liên Hoa-sắc liền rũ sạch mọi trần cấu, đạt được mắt pháp trong sạch. Khi đắc quả rồi, Liên Hoa-sắc một lòng chấp tay hướng đến Đức Phật. Đức Phật giảng nói pháp xong, chúng hội đều ra về. Liên Hoa-sắc đến trước Đức Phật, kính lễ sát chân, quỳ gối, chấp tay bạch Phật: Con nguyện xin được xuất gia trong chánh pháp của Đức Phật. Đức Phật liền chấp thuận, rồi bảo Tỳ-kheo-ni Ba-xà-ba-đề: Này Tỳ-kheo-ni nên độ người nữ ấy thực hành đạo. Ma-ha-ba-xà-ba-đề thọ giáo, liền độ cho xuất gia thọ giới. Liên Hoa-sắc siêng năng tinh tấn hành đạo, nên dẫn đến thành bậc A-la-hán, nhờ vui thú trong các cảnh thiền giải thoát, nên dung nhan, tướng mạo càng sáng rực bội phần so với trước. Đến giờ, Liên Hoa-sắc mang bát vào thành khất thực. Một người Bà-la-môn trông thấy liền mê đắm sắc đẹp của Liên Hoa-sắc nên nảy sinh ý nghĩ: Đây là Tỳ-kheo-ni, ta không thể chiếm đoạt, chỉ có một cách là tìm đến chỗ ở rồi tạo phương tiện để hành sự. Liên Hoa-sắc khất thực xong trở về nơi vườn An-đà, rồi đi vào trú phòng. Người Bà-la-môn kia theo quan sát, biết được chỗ ở của Liên Hoa-sắc. Hôm sau, khi đến giờ khất thực, vắng người, từ phía sau ông ta đột nhập vào phòng Tỳ-kheo-ni Liên Hoa-sắc nằm dưới gầm giường. Suốt ngày ấy, các Tỳ-kheo-ni nghe xong thời thuyết pháp thì trời đã tối. Về đến phòng, vì mệt mỏi nên nằm xuống ngủ say. Ngay lúc ấy, người Bà-la-môn từ dưới gầm giường bò ra làm hạnh bất tịnh. Tỳ-kheo-ni liền thức dậy rồi vụt bay lên hư không. Lúc đó, người Bà-la-môn từ ngay trên giường đọa thẳng vào địa ngục. Liên Hoa-sắc nhân đó bay đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân rồi bạch Phật vấn đề vừa xảy ra. Đức Phật hỏi: Ngay lúc ấy tâm con thế nào? Liên Hoa-sắc thưa: Lúc ấy như lưới sắt đốt nóng đỏ rực áp vào thân con. Đức Phật dạy: Như thế là vô tội. Liên Hoa-sắc lại bạch Phật: Ngủ một mình có phạm tội hay không? Đức Phật dạy: Người đắc đạo thì không phạm.
Bấy giờ, có đám giặc tập trung lại cùng nhau bàn luận: Vật dụng chúng ta thu được nên phân chia nơi nào đó để dễ dàng có thức ăn ngon lại được gái đẹp. Chúng đều nói: Nơi vườn An-đà này là trú xứ của Tỳ-kheo-ni, chắc chắn có sắc đẹp và cũng sẽ có nhiều thức ăn ngon cung cấp, ta đến đó phân chia vật dụng đương nhiên sẽ được như ý muốn. Trong khi ấy, tên cầm đầu đám giặc lại có lòng tin kính Phật pháp, nghe nói như vậy, lấy làm lo lắng, ông ta trong ý nghĩ hình dung mọi việc: Người này chắc sẽ đến gây náo loạn các Tỳ-kheo-ni. Ta nên âm thầm cho người đến báo trước. Ông ấy liền sai người đến nói với Tỳ-kheo-ni: Tối nay sẽ có đám người ác đến đấy khủng bố ắt sẽ xảy ra não loạn, để được an lành chư ni nên đi tránh. Các Tỳ-kheo-ni nghe vậy vội vã vào trong thành Xá-vệ. Vị Đại thần coi thành này trước đây có dành riêng một ngôi nhà cho Tỳ-kheo Tăng, nhưng hôm đó không có Tăng ở, các Tỳ-kheo-ni xế chiều đến đấy, và đêm trú ngụ tại ngôi nhà ấy. Tối lại đám giặc đến vườn An-đà tuyệt nhiên không tìm thấy một ai. Vị chủ tướng của đám giặc với ý nghĩ vui mừng: Chư Tỳ-kheo-ni đã thoát được cảnh hoạn nạn sỉ nhục, không gì vui bằng! Ông ta lấy một tấm vải rất tốt, gói đầy đủ đồ ăn thức uống thơm ngon rồi treo trên nhánh cây với tâm niệm: Nếu Tỳ-kheo-ni nào đắc đạo thần thông thì đến lấy thức ăn nơi gói này. Cảm ứng được, Tỳ-kheo-ni Liên Hoa-sắc nhanh như cánh tay co duỗi của một lực sĩ, từ thành Xá-vệ đến vườn An-đà lấy thức ăn trên nhánh cây. Sáng hôm sau tới giờ ăn, thay vì đem ăn, Liên Hoa-sắc thiết dọn sẵn sàng để cúng dường Trưởng lão Ưuba-tư-na và Bạt-nan-đà. Đến giờ thọ thực, hai vị tới và thọ dụng từng món ăn ấy. Ăn xong hai vị rửa tay rồi tiếp nhận nước uống. Liên Hoa-sắc, trước chúng ngồi trên chiếc ghế nhỏ thỉnh cầu hai vị nói pháp diệu. Sau khi Ưu-ba-tư-na vì họ thuyết pháp xong liền đứng dậy cáo từ ra về. Bạtnan-đà ở lại, hỏi Liên Hoa-sắc: Sư cô được thức ăn ngon ấy từ đâu? Liên Hoa-sắc trình bày đầy đủ sự việc. Bạt-nan-đà nói: Có thể cho tôi xem tấm vải ấy được không? Cô vội đem vải cho Bạt-nanđà xem. Bạt-nan-đà thấy tấm vải đẹp lòng tham nổi dậy, muốn chiếm giữ nên nài nỉ theo xin. Liên Hoa-sắc nói: Điều này không thể được. Tại sao? Người nữ phước mỏng nên phải cất năm y. Bạtnan-đà nói: Như người đem voi ngựa bố thí mà lại không cho dây cương, sư cô cũng như vậy. Tại sao cúng dường thức ăn ngon được mà lại tiếc tấm vải không cho? Bạt-nan-đà bằng tài ăn nói tìm mọi cách nài nỉ thuyết phục xin cho kỳ được. Bất đắc dĩ Liên Hoa-sắc phải trao cho. Bạt-nan-đà được tấm vải rồi về lại trú xứ. Các Tỳ-kheo thấy tấm vải đẹp nói: Thầy là người phước đức nên mới được tấm vải tốt ấy. Bạt-nan-đà nói: Tôi đâu có phước đức gì, tôi năn nỉ Tỳ-kheo-ni muốn gãy lưỡi mới được đấy. Các Tỳ-kheo nghe thế bằng mọi cách mọi cách quở trách: Tại sao thầy lại cưỡng bức bằng lời nói để đoạt vải của Tỳ-kheo-ni!
Bấy giờ, Đức Thế Tôn lo ngại bốn chúng tới lui ồn ào nên bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta muốn vào tĩnh thất ba tháng, không cho ai đến chỗ ta đang trú, chỉ trừ Tỳ-kheo đem cơm. Các thầy nên lập quy chế. Vâng lời Phật dạy các Tỳ-kheo lập định chế: Từ nay không ai được đến chỗ Phật ở, chỉ trừ Tỳ-kheo đem cơm. Nếu người nào vi phạm, phạm Ba-dật-đề. Trong khi ấy, Trưởng lão Ưu-ba-tư-na không nghe quy chế của Tăng, sau khi đến thành Xá-vệ hỏi Tỳ-kheo khác để biết Đức Phật ở phòng nào. Theo chỉ dẫn của Tỳ-kheo này, Ưuba-tư-na đến trước cửa phòng Phật đưa tay gõ cửa. Đức Phật mở cửa. Ưu-ba-tư-na kính lễ sát chân Phật rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật hỏi Ưu-ba-tư-na: Chúng của thầy rất mực oai nghi thanh tịnh, thầy giáo hóa cách nào mà được như vậy? Trưởng lão thưa: Nếu có người nào đến con cầu xin xuất gia, con dạy họ mười hai hạnh Đầu đà. Con bảo: Phải trọn đời làm Tỳ-kheo ở A-lannhã, khất thực, nhất tọa thực, nhất chủng thực, nhất thọ thực, tuần tự khất thực, ở nơi gò mả, mặc y phấn tảo, ba y, phu tọa tùy thân, ngồi bên gốc cây, ngồi chỗ đất trống. Kính bạch Đức Thế Tôn! Nếu người nào nói trọn đời có thể phụng hành pháp này thì được nhập vào chúng của con, con làm thầy họ. Đức Phật khen: Hay lắm! Hay lắm! Như vậy thầy có thể gọi là hạng người khéo giáo dục đồ chúng. Đức Phật lại hỏi: Thầy biết chúng Tăng này có quy chế hay không? Vị ấy thưa: Con không biết. Tại sao vậy? Con từng nghe Phật dạy: Những gì Phật chưa chế không được tự ý chế, những gì Phật đã chế nên phụng hành. Đức Phật thuật lại đầy đủ quy chế trên. Vị ấy thưa: Con không tùy theo quy chế của Tăng mà sám hối tội Ba-dật-đề được. Đức Phật dạy: Hay lắm, thầy nhận xét như thế là đúng! Khi đó, Tỳ-kheo cựu trú đứng ở trước phòng, chờ Ưu-ba-tư-na đi ra để nói: Thầy phạm quy chế của Tăng, nên tác pháp sám Ba-dật-đề. Vị ấy trả lời: Tôi phạm Ba-dật-đề nào? Các Tỳ-kheo trình bày đầy đủ các quy chế trên. Vị ấy trả lời: Tôi không thể dựa theo quy chế của Tăng để sám hối được. Tại sao? Chính tôi nghe Phật dạy: Nếu Phật không chế thì Tăng không được chế. Nếu Phật chế rồi thì Tăng không được trái phạm. Lúc ấy, Đức Phật đích thân ra nói với các Tỳ-kheo: Từ nay nếu có Tỳ-kheo A-lannhã nào như Ưu-ba-tư-na thì cho phép đến chỗ ta. Các Tỳ-kheo nghe rồi lại có ý nghĩ: Chúng ta nên phụng hành hạnh Đầu đà để được đến chỗ Đức Thế Tôn.
Quý vị đều đua nhau tu khổ hạnh. Bấy giờ, các Cư sĩ lập nên các phòng xá cúng dường, không có vị nào nhận. Tỳ-kheo đem vấn đề ấy bạch Phật, Đức Phật dạy các Tỳ-kheo: Nay cho phép bốn chúng được tự do đến thăm ta. Tỳ-kheo-ni Ba-xà-ba-đề nghe Đức Phật dạy như vậy, liền cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni lên đường đến thăm Đức Phật, trên đường đi gặp Ưu-ba-tư-na. Trong chúng của Ưu-ba-tư-na có một Tỳ-kheo mặc y thô rách, Ba-xà-ba-đề hỏi: Tại sao Trưởng lão mặc chiếc y như vậy? Vị ấy trả lời: Vì không có chiếc nào khác! Tỳ-kheo-ni lại chỉ vào chiếc y của mình mà nói: Thầy có thể mặc y này không? Trưởng lão đáp: Có thể. Lại hỏi: Trưởng lão có thể cho con chiếc y đang mặc không? Có thể. Hai bên liền trao đổi y. Khi đến trước Đức Phật, Tỳ-kheo-ni đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật hỏi Cù-đàm-di: Tại sao cô mặc chiếc y rách rưới như thế? Cù-đàm-di trình bày sự việc vừa xảy ra. Đức Phật giảng nói pháp cho Cùđàm-di nghe rồi, bảo về lại trú xứ. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Thật sự ông có đổi chiếc y thô xấu rách rưới của ông để lấy chiếc y tốt của Tỳ-kheo-ni không? Bạch Đức Thế Tôn! Có thật như vậy. Đức Phật nghiêm khắc quở trách: Ông là người ngu si, nhiều ham muốn. Các Tỳ-kheo nhân việc này, đem việc của Bạt-nan-đà ra bạch Phật. Đức Phật hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận lấy y từ Tỳ-kheo-ni, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Một số Tỳ-kheo có bà con là Tỳ-kheo-ni và nhiều người quen biết, có thể từ các người này nhận được y vật. Thấy các Tỳ-kheo mặc y xấu rách, các Tỳ-kheo-ni bà con hỏi: Tại sao thầy mặc y xấu rách thế? Tỳ-kheo nói: Không có người nào để xin. Các Tỳ-kheo-ni nói: Sao không đến để nhận! Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật cấm không cho đến các Tỳ-kheo-ni nhận y. Các Tỳ-kheo-ni nói: Trong phạm vi bà con thì biết điều nên cho và nên nhận, xin thầy bạch Phật việc này. Các Tỳ-kheo liền bạch Phật, nhân việc ấy Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bằng nhiều cách khen ngợi người thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đến Tỳ-kheo-ni không phải bà con nhận y, phạm Ni-tát-kỳ-Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, tại thành Xá-vệ, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni nhận được y cúng dường, cùng nhau phân chia. Vì có Tỳ-kheo nhận lầm y của Tỳ-kheo-ni, hay ngược lại. Các Tỳ-kheo-ni thưa với các Tỳ-kheo: Cho chúng con đổi y. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật không cho chúng tôi nhận y từ Tỳ-kheo-ni không phải bà con. Các Tỳ-kheo-ni thưa: Dùng y đổi y tại sao nói là nhận y? Quý vị bèn đến bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bằng nhiều cách khen ngợi người ít ham muốn, biết vừa đủ, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận y từ Tỳ-kheo-ni không phải bà con, trừ trao đổi, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Chẳng phải bà con: Không liên hệ bên cha hay bên mẹ trong phạm vi bảy đời. Trao đổi: Hai bên đều có ích, lại tùy theo sở thích của mỗi người. Nhận y từ Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu người bà con phạm giới, có tà kiến mà nhận y nơi họ, phạm Đột-kiết-la. Sa-di nhận y của Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni, nhận y phạm Đột-kiết-la. Nếu không có tâm tìm cầu, họ tự bố thí, hay biết người kia dư mà nhận thì không phạm.
Xong giới thứ tư ------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Bạt-nanđà, trời vừa sáng đã mặc y bưng bát đến nơi chỗ ở của Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà. Cách ngồi xuống hớ hênh của cô ni đã để lộ hình. Bạt-nan-đà nhìn thấy không kìm chế nổi, xuất bất tịnh. Tỳ-kheo-ni biết, nói: Trưởng lão thay y cho tôi giặt. Bạt-nanđà trao y đã thay cho cô ni. Cô ta nhận y dính nhớp bất tịnh, cô lấy thứ bất tịnh ấy đặt vào âm hộ của mình.
Lại có các Tỳ-kheo khác cũng đưa y cho các Tỳ-kheo-ni giặt, nhuộm, đập. Một khi các Tỳ-kheo-ni phải bận rộn với công việc như thế nên việc đọc tụng, tọa thiền, hành đạo… bị xao lãng, bỏ phế. Các bạch y thấy thế, lại lắm lời chê trách, mỉa mai: Các Tỳ-kheo-ni lấy việc giặt, nhuộm, đập y làm sự nghiệp, người tu hành với kẻ tại gia đâu có khác gì?! Vào dịp ấy, Tỳ-kheo-ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni đến chỗ ở Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân Ngài, rồi ngồi qua một bên. Đức Phật hỏi Cù-đàm-di: Tại sao tay chân của các Tỳ-kheo-ni lại dính đầy sắc màu nhuộm? Chư ni bạch Phật đầy đủ vấn đề các Tỳ-kheo sai giặt, nhuộm. Đức Phật vì họ giảng nói pháp diệu xong, họ về lại trú xứ. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các thầy có sai các Tỳ-kheo-ni giặt, nhuộm, đập y hay không? Bạch Đức Thế Tôn! có thật như vậy. Nhân việc ấy, các Tỳ-kheo đem việc của Bạt-nan-đà bạch Phật. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào sai Tỳ-kheo-ni giặt y cũ hoặc nhuộm, hoặc đập, phạm Ni kỳ Ba-dật-đề”.
Nhân có các Tỳ-kheo già, bệnh, không thể tự giặt, nhuộm hay đập y của mình được, các Tỳ-kheo-ni bà con có khả năng làm được công việc này, với ý muốn giúp đỡ đến xin nhận làm thay. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật không cho phép chúng tôi sai Tỳ-kheo-ni giặt nhuộm hay đập y. Các Tỳ-kheo-ni nói: Trong phạm vi bà con mới biết được việc làm nên hay không nên, xin thầy bạch Phật cho điều đó. Các Tỳ-kheo liền bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, khen hạnh thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào sai Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt y cũ hoặc nhuộm, hoặc đập, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Y cũ: Là y đã mặc, có nhơ nhớp, bảo giặt giũ mà không nhuộm, không đập; hoặc bảo nhuộm mà không giặt, không đập; hoặc bảo đập mà không giặt, không nhuộm; hoặc bảo giặt nhuộm mà không đập; hoặc bảo giặt đập mà không nhuộm; hoặc khiến nhuộm mà không giặt; hoặc khiến giặt nhuộm, đập đều phạm Ni-tát-kỳ-Ba-dật-đề. Nếu bảo giặt, không giặt mà nhuộm; hoặc khiến giặt, không giặt mà đập; hoặc bảo giặt, không giặt mà nhuộm đập, đều phạm Đột-kiết-la. Khiến nhuộm không nhuộm mà giặt, mà đập, mà giặt đập. Khiến đập không đập mà giặt mà nhuộm. Khiến giặt nhuộm, không giặt nhuộm mà đập. Khiến giặt đập không giặt đập mà nhuộm. Khiến nhuộm đập không nhuộm đập mà giặt, cũng như vậy. Nếu khiến chẳng phải bà con giặt, nhuộm, đập, mà bà con giặt, nhuộm, đập. Nếu khiến chẳng phải bà con giặt, nhuộm, đập mà bà con, chẳng phải bà con cùng giặt, nhuộm, đập. Nếu khiến bà con, chẳng phải bà con cùng giặt, nhuộm, đập mà bà con giặt, nhuộm, đập. Nếu khiến bà con, chẳng phải bà con cùng giặt, nhuộm, đập, mà chẳng phải bà con giặt, nhuộm, đập. Nếu khiến bà con, chẳng phải bà con cùng giặt, nhuộm, đập mà bà con, chẳng phải bà con cùng giặt, nhuộm, đập, đều phạm Ni-tát-kỳ-Ba-dật-đề. Nếu y chưa có thể giặt, nhuộm, đập, mà khiến chẳng phải bà con giặt, nhuộm, đập, phạm Đột-kiết-la. Nếu khiến bà con giặt nhuộm đập mà chẳng phải bà con giặt, nhuộm, đập thì không phạm. Ngoài ra như trong giới nhận y đã nói.
Xong giới thứ năm -----------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, trong thành có ông Trưởng giả thích mặc loại áo sang trọng. Ông ta rất mực tin yêu Phật pháp, thường đến chỗ Phật nghe pháp. Hôm nọ, ông Trưởng giả mặc trong, ngoài hai sắc áo tốt cùng với các vị khách và tùy tùng ra khỏi thành, đến viếng thăm Đức Thế Tôn và các Tỳ-kheo. Đức Phật vì họ giảng nói pháp. Họ rất vui mừng vì đã nghe Phật chỉ dạy những điều lợi ích. Họ đảnh lễ ra về, ngay lúc ấy gặp Bạt-nan-đà. Bạt-nan-đà lại vì họ nói pháp. Trước khi ra về, họ nói: Mời Trưởng lão ngày mai đến thọ bữa cơm đạm bạc. Bạt-nan-đà nói: Tôi không thiếu ăn, mà lại bị khổ vì thiếu mặc. Trưởng giả có thể cho bớt tôi chiếc áo hiện ông đang mặc hay không? Ông Trưởng giả nói: Sẽ cho nhưng không thể cho liền được, về nhà tôi sẽ tính sau. Bạt-nan-đà nói: Tôi nghe Trưởng giả ưa làm việc bố thí, tại sao đối với riêng tôi lại hờ hững như thế? Bạt-nan-đà nói tiếp: Tôi nói pháp khiến ông có thể xa lìa sinh, lão, bệnh, tử, ưu bi khổ não, để làm công việc cứu độ nên xả bỏ tất cả không mưu cầu gì cho chính bản thân. Tại sao nay ông lại keo kiệt đối với chiếc áo này? Nghe phải, ông Trưởng giả liền cởi áo cho. Khi về đến cửa thành, người giữ cửa hỏi: Ra đi ông mặc hai lớp áo, khi trở về thì nhẹ nhàng, vì người đẹp mà cởi áo cho hay bị ai đó tước đoạt? Ông Trưởng giả nói: Tôi không cho người nữ, cũng không bị ai cướp, mà lại bị Sa-môn Thích tử cưỡng bức xin, nên tôi phải cho. Người giữ cửa nói: Ông đừng nói như vậy! Tôi nghe Sa-môn Thích tử ít ham muốn, biết vừa đủ, có người cho còn không nhận huống là nay lại cưỡng bức xin vật của người? Ông trưởng giả kể lại việc đã xảy ra cho người giữ cửa nghe. Đối với những người không có lòng tin ưa Phật pháp, nghe thế, lớn tiếng miệt thị: Đây chính là cướp đoạt. Những ai gần gũi họ cũng sẽ bị trấn lột như thế. Đích thị Sa-môn Thích tử thường khen việc bố thí, chê việc không cho mà lấy, nay cưỡng đoạt y vật của người thì đâu khác gì đám cướp? Ông Trưởng giả về đến nhà, người trong nhà hỏi, ông Trưởng giả cũng phân trần như trên.
Sự việc này lọt đến tai các Tỳ-kheo Trưởng lão. Bằng mọi cách, các vị quở trách xong cùng đưa đến chỗ Đức Phật và bạch lên Ngài sự việc trên. Nhân việc ấy Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật nghiêm khắc quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đến chỗ cư sĩ hay vợ cư sĩ xin y, phạm Nitát-kỳ-ba-dật-đề”.
Lúc này, có các Tỳ-kheo mặc y thô xấu rách rưới, các người bà con thấy vậy hỏi: Tại sao thầy lại mặc y vứt đi như thế? Hãy đến nơi con lấy y khác. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật không cho chúng tôi đến chỗ cư sĩ hay vợ Cư sĩ xin y. Nếu đem y cúng cho Tăng, tôi sẽ nhận từ Tăng thì được. Các người bà con nói: Con chỉ muốn cúng cho thầy, chứ không muốn cúng cho Tăng, vì sợ vị khác nhận được. Các Tỳ-kheo nói: Nếu Đức Phật cho phép chúng tôi đến chỗ cư sĩ hay vợ cư sĩ bà con xin y thì chúng tôi đâu có mặc y xấu rách thế này! Các người bà con thưa: Trong chỗ bà con với nhau thì biết lúc nào nên nhận và không nên nhận, xin thầy bạch lên Đức Phật điều ấy. Các Tỳ-kheo liền bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đến chỗ cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải bà con xin y, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Bấy giờ, có nhiều chúng Tỳ-kheo đi theo đoàn khách buôn, lạc đường, bị đám cướp cướp đoạt sạch, cứ để mình trần thân trụi đến thành Xá-vệ. Người đi đường thấy hỏi: Ông là người nào? Trả lời: Tôi là Sa-môn Thích tử. Lại hỏi: Y bát của ông đâu? Lại trả lời: Bị đám cướp cướp sạch cả rồi. Khi đến Kỳ-hoàn, các Tỳ-kheo hỏi đáp với nhau cũng như vậy. Lại hỏi: Nếu ông là Tỳ-kheo thì thọ giới, Bố-tát, Tự tứ phải như thế nào? Lại trả lời: Thọ giới như vậy! Bố-tát như vậy! Tự tứ như vậy! Các Tỳ-kheo hỏi rồi vẫn không đưa y cho mặc. Quý vị đến chỗ Phật ở. Đức Phật quở trách: Tại sao các ông lõa hình đến thăm Như Lai! Các ông đâu không thể lấy lá cây hay cỏ che thân lại được hay sao! Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Từ nay lõa hình đến trước Như Lai, phạm Độtkiết-la. Các Tỳ-kheo bạch Phật: Ngài không cho phép chúng con đến chỗ cư sĩ hay vợ cư sĩ chẳng phải bà con xin y, trong khi đó, bà con của chúng con ở cách đây rất xa thì làm sao có y được! Đức Phật hỏi: Các thầy đã đến nơi ở của Tỳ-kheo cựu trú chưa? Thưa, chúng con đã đến rồi. Tại sao họ không đưa y cho các thầy? Thưa, các thầy ấy vừa thấy chúng con, liền hỏi: Thọ giới thế nào? Bố-tát thế nào? Tự tứ thế nào? Tuy chúng con trả lời như pháp mà vẫn không thấy các thầy ấy đưa cho y để mặc. Đức Phật chuyển lời quở trách các Tỳ-kheo cựu trú: Tại sao chính mắt trông thấy Tỳ-kheo lõa hình mà không trợ cấp gấp! Đối với Tỳ-kheo mất y, Ngài khen hạnh ít ham muốn, biết vừa đủ, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đến chỗ cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải bà con xin y, trừ có nhân duyên, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Có nhân duyên là: Y bị cướp, y bị mất, y bị cháy, y bị nước cuốn trôi, y bị rách. Như vậy gọi là có nhân duyên.
Nếu y bị đoạt cho đến y bị hư hoại nhưng vốn có y khác và có y để chỗ khác thì không được xin. Tỳ-kheo-ni cũng y theo như vậy. Thức-xoa-mana, Sa-di, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ sáu ---------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, nhiều chúng Tỳ-kheo từ nơi ấp Ba-lợi đi đến chỗ Đức Phật, gặp đám cướp cướp mất y, cùng nhau nói: Có tới năm nhân duyên được Đức Phật cho phép đến chỗ cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải bà con xin y. Tuy vậy, ta cũng không biết đến ai để xin bây giờ! Được cơ hội, Lục quần Tỳ-kheo lại nảy xin ra ý nghĩ: Các Tỳ-kheo bị mất y này không biết đến ai xin y, ta nên đi xin hộ cho họ, nếu có dư thì ta sẽ lấy. Với ý nghĩ đó, Lục quần liền đến đề nghị với các Tỳ-kheo mất y. Các Tỳ-kheo mất y nói: Hay lắm! Tốt lắm! Được thỏa thuận như vậy, Lục quần Tỳ-kheo đi khắp trong thành, đến các Cư sĩ hay vợ Cư sĩ nói: Các Tỳ-kheo từ ấp Ba-lợi về hầu thăm Đức Thế Tôn, không may bị đám giặc cướp mất y, quý vị có thể giảm bớt chỗ cắt may cùng nhau đem y đến cúng. Các Cư sĩ, vợ Cư sĩ mỗi người tích thiểu thành đa, được một số y phục khá lớn đem đến cúng. Mỗi vị đều đầy đủ. Các Tỳ-kheo mất y nói: Chúng tôi đủ rồi, không phiền phải xin nữa. Lục quần Tỳ-kheo nói: Các thầy có nhân duyên xin y, còn chúng tôi thì không được phép. Chúng tôi dựa vào nhân duyên của thầy mới có lý do để xin. Các Tỳ-kheo mất y nói: Điều đó tùy ý các Trưởng lão. Như thế là Lục quần Tỳ-kheo lại đi đến các nơi xin nữa, thu được số y rất nhiều. Khi ấy, các Cư sĩ họp lại cùng nêu ra ý kiến: Tỳ-kheo mất y không có bao nhiều người, trong thành chúng ta, nam nữ, lớn nhỏ đều đem y đến cúng, như vậy là quá đủ rồi, tại sao còn đến xin nữa! Phải chăng mấy ông này muốn tích trữ để mua bán trao đổi, không tu phạm hạnh? Khi các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe được, bằng mọi cách quở trách, rồi đem việc ấy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không?-Bạch Thế Tôn, thật sự đúng như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay, giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, y bị cướp, bị mất, bị cháy, bị trôi, bị hư hoại, đến chỗ cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải bà con xin y, nếu Cư sĩ hay vợ Cư sĩ muốn đem nhiều y để cúng, Tỳ-kheo nên thọ hai y, nếu thọ quá, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Ba chúng dưới thì phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ bảy ---------------
Đức Phạt ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Bạt-nanđà thường tới lui một nhà Cư sĩ để nói pháp, trường hợp họ bệnh hoạn hay có việc gì, Bạt-nanđà cũng lo liệu luôn. Có một Tỳ-kheo vào buổi sáng sớm nọ đắp y bưng bát vào thành khất thực, khi đến gia đình này, gặp lúc hai vợ chồng đang cùng nhau bàn nói: Bạt-nan-đà đối với ta là ân nhân, nên sử dụng giá tiền may y như vậy để may y cúng cho Tôn giả. Tỳ-kheo khất thực nghe như vậy rồi khi trở về nói với Bạt-nan-đà: Thầy có phước đức. Bạt-nan-đà hỏi: Có phước đức gì? Tỳ-kheo ấy đáp: Tôi vừa khất thực, đến nhà Cư sĩ đó, nghe vợ chồng họ bàn nói: Bạt-nan-đà đối với ta là ân nhân, nên dùng giá tiền như thế may y như thế để cúng cho Tôn giả. Nay thầy đến đó, chắc chắn được y không có gì trở ngại. Sáng sớm hôm sau, tới giờ khất thực, Bạt-nan-đà mặc y, bưng bát đến nhà kia. Cư sĩ vội vàng ra đón chào. Bạt-nanđà hỏi: Phật tử dùng số tiền như thế để may y như thế cho tôi phải không? Bạch thầy đúng như vậy. Bạt-nan-đà nói: Phật tử dư biết tôi không mặc y xấu chứ? Nếu may tốt thì tôi sẽ mặc. Hãy nhớ cho, lúc Phật tử có bệnh hoạn hay có việc chi tôi đều liệu lý. Nếu y không tốt thì tôi cho đệ tử hay đem cất mà thôi, như vậy vật này coi như vất đi, việc cho không có tác dụng phước đức. Bất bình, Cư sĩ kia nói với người xung quanh: Thầy này tham lam quá, ai cung cấp nổi, làm sao thỏa mãn được. Đã gấp năm, sáu lần hơn, so với chỗ phát tâm của tôi mà vẫn không thỏa lòng. Trước đây tôi có lòng tốt như vậy, nhưng nay thì không còn nữa. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe như thế, bằng mọi cách quở trách, rồi đem việc này bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Thật đúng như vậy, bạch Đức Thế Tôn. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, Cư sĩ hay vợ Cư sĩ chẳng phải bà con bàn luận: Nên dùng số tiền như vậy may y như vậy để cúng cho Tỳ-kheo có tên như vậy. Tỳ-kheo ấy, trước không được mời như ý muốn, bèn đến nhà Cư sĩ, vợ Cư sĩ nói: Người vì tôi dùng số tiền như vậy, may y như vậy phải không? Người ấy trả lời: Đúng như vậy. Tỳ-kheo bèn nói: Lành thay Cư sĩ, vợ Cư sĩ có thể may y như vậy cho tôi, vì muốn đẹp, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Trước không được mời như ý muốn: Nghĩa là trước không hỏi Tỳ-kheo muốn thứ y nào. Vì muốn đẹp: Tức là yêu cầu khiến may rất đẹp, rất tốt so với trước. Nếu đến người bà con xin y tốt, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ tám ---------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bạt-nan-đà thường lui tới các gia đình. Có hai gia đình, vợ chồng cùng nhau bàn nói: Chúng ta mỗi người nên vì Tôn giả Bạt-nan-đà sử dụng số tiền may y như vậy để may y cho Tôn giả Bạt-nan-đà. Tỳ-kheo khất thực nghe, cũng lại về nói. Bạt-nan-đà liền đến hỏi Cư sĩ, vợ Cư sĩ: Tôi nghe quý vị mỗi người đều vì tôi dùng số tiền như vậy để may y cho tôi phải không? Họ thưa: Thật như thế. Bạtnan-đà nói: Quý vị có thể hiệp lại để may một y cho hết sức tốt. Nếu thật tốt thì tôi sẽ mặc, để luôn nhớ đến quý vị. Nếu không tốt thì tôi xếp bỏ vào một chỗ. Như vậy là coi như vứt đi, vật thí này không có tác dụng phước đức nữa. Khi ấy, Cư sĩ, vợ Cư sĩ đùng đùng nổi giận nói: Ông này tham lam quá, làm sao cung cấp nổi, làm sao thỏa mãn nổi. Tuy yêu cầu hiệp lại thành một cái, song so với chỗ phát tâm của chúng tôi đã nhiều gấp năm, sáu lần hơn, ấy thế cũng không thỏa lòng. Kẻ ác thế này, không đủ để tồn tại, từ nay không cho đến đây nữa. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe như thế, bằng mọi cách quở trách, rồi cùng đến chỗ Đức Phật trình bày sự việc lên Ngài. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạtnan-đà thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật con có như vậy. Đức Phật hết sức nghiêm khắc quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu không phải Cư sĩ, vợ Cư sĩ bà con cùng nhau nghị bàn: Ta sẽ cùng dùng số tiền may y như vậy, may y cho Tỳ-kheo có tên như vậy. Tỳ-kheo ấy trước không được mời, tùy ý đến nói với Cư sĩ hay vợ Cư sĩ: Quý vị dùng số tiền may y như vậy cho tôi phải không? Thí chủ nói: Đúng như thế. Tỳ-kheo bèn nói: Lành thay! Cư sĩ, vợ Cư sĩ có thể chung lại may thành một y cho tôi, vì muốn đẹp, phạm Ni-tát-kỳ-Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ chín -------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, Đại thần Vương-xá nói với người dưới quyền: Ngươi đến chỗ Bạt-nan-đà, nhân danh ta đảnh lễ thăm hỏi, và đem số tiền may y này cúng cho Tôn giả. Sứ giả thừa lệnh đến chỗ Bạt-nan-đà nói: Đại thần Vương-xá thăm hỏi sức khỏe và cho tôi đem số tiền may y này cúng Đại đức, xin Đại đức nhận cho.
Bạt-nan-đà nói: Tôi không được phép nhận tiền may y này, nếu được tịnh y thì sẽ thọ trì. Sứ giả hỏi: Đại đức có người chấp sự hay không? Bạt-nan-đà liền chỉ chỗ người chấp sự. Sứ giả bèn đến chỗ người chấp sự nói: Đại thần Vương-xá cho tôi đem số tiền may y cúng cho Tôn giả Bạtnan-đà, ông hãy vì Tôn giả mà nhận cất cho, khi nào Bạt-nan-đà đến lấy thì đưa. Sứ giả đưa tiền rồi trở lại chỗ Bạt-nan-đà nói: Đại đức chỉ chỗ người chấp sự, tôi đã đưa tiền rồi, khi nào Đại đức cần y thì đến đó lấy. Sứ giả thưa như vậy rồi trở về. Sau một thời gian, Đại thần lại sai người đến hỏi Bạt-nan-đà: Gần đây tôi có sai sứ đem tiền may y đến gởi nơi người chấp sự, Đại đức đã may mặc chiếc y đó chưa? Bạt-nan-đà nói: Tôi chưa lấy để mặc. Người kia trở về thưa lại như vậy, Đại thần đâm ra suy nghĩ: Ta thực hiện đúng cách cho y. Đã lâu rồi sao chưa lấy mặc, chắc y của ta không đáng giá, cho nên Tôn giả không đến lấy để mặc. Đại thần lại bảo người tin cậy đến nói với Bạt-nan-đà: Đại thần cúng y lâu rồi, vì sao không mặc, nếu không cần thì trả lại cho Đại thần. Bạt-nan-đà trả lời: Tôi rất cần. Bạt-nan-đà liền đến chỗ của người chấp sự vào lúc phi thời, nói: Nay tôi cần y, có thể cho tôi nhận. Người chấp sự thưa: Xin Đại đức chờ một chút, nay mọi người nhóm họp, tôi phải đến tham dự, nếu không đến kịp sẽ bị phạt năm trăm kim tiền. Bạt-nan-đà nói: Đối với pháp duyên ông thường vui vẻ hết lòng, tại sao nay lại coi trọng việc thế tục. Người chấp sự nghe câu nói này đâm ra suy nghĩ: Dù có bị phạt cũng vẫn giao y cho xong sau rồi mới đến họp. Người chấp sự tất bật lo liệu có y để giao. Quá mất nhiều thời gian mới xong việc nên đến trễ. Mọi người hỏi: Tại sao anh đến trễ? Đương sự trả lời: Bạt-nan-đà đòi y, phải lo liệu để giao, nên mới đến trễ. Mọi người đều nói: Coi trọng một Tỳ-kheo mà xem nhẹ quy chế của nhiều người, theo lý, không thể tha thứ, phải nộp phạt. Đương sự bị phạt rồi, nổi giận nói: Sa-môn Thích tử tự nói có đạo lý, làm lợi ích cho mọi người mà nay ngược lại khiến cho ta bị phạt. Người không có lòng ưa Phật pháp, đồng tình nói: Ông tin kính Sa-môn để rồi đền nổi bị phạt nặng như vậy, nếu lại cứ gần gũi sẽ bị nặng hơn. Tiếng xấu ác đồn khắp cả thành Xá-vệ, lọt đến tai các Tỳ-kheo Trưởng lão, bằng mọi cách các vị ấy quở trách, rồi cùng đưa đến chỗ Đức Phật trình bày lên Ngài vấn đề. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạt-nan-đà thưa: Bạch Thế Tôn, có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Vua hay Đại thần, Bà-la-môn, Cư sĩ vì Tỳ-kheo nên sai sứ giả đem tiền may y đến. Sứ giả tới chỗ Tỳ-kheo nói: Đại đức, Đại thần của Vua, Bà-la-môn, Cư sĩ đưa số tiền may y này đến đây, Đại đức nhận cho. Tỳ-kheo này nói: Tôi không được phép nhận tiền may y, nếu được y thanh tịnh thì sẽ nhận thọ trì. Sứ giả hỏi: Đại đức có người chấp sự hay không? Tỳ-kheo liền chỉ chỗ người chấp sự. Sứ giả đến chỗ người chấp sự nói: Đại thần của Vua tên đó, đưa tiền may y này đến cho Tỳ-kheo tên đó, ông vì Tỳ-kheo nên cất cho, khi Tỳ-kheo cần lấy thì đưa. Sứ giả đưa rồi trở lại chỗ Tỳ-kheo nói: Đại đức chỉ người chấp sự, tôi đã đưa tiền cho họ rồi, khi nào Đại đức cần y cứ đến đó lấy. Tỳ-kheo ấy hai lần, Ba lần đến chỗ người chấp sự nói: Tôi cần y! Tôi cần y! Nếu nhận được y thì tốt, nếu không nhận được bốn lần, năm lần, sáu lần đến trước người chấp sự đứng im lặng. Nhận được y thì tốt, nếu đến quá mức đó để cầu cho được, thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Nếu không được y, tới chỗ người sứ giả đưa tiền đến, hoặc chính mình, hoặc sai người tin cậy đến nói: Trước đây ông vì Tỳ-kheo có tên sai người đưa tiền may y tới, cuối cùng Tỳ-kheo đó không nhận được y, ông nên đến lấy lại đừng để mất. Việc như vậy nên làm như vậy. Tỳ-kheo-ni cũng như thế. Ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ mười --------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, chúng Tăng nhận được nhiều tơ sợi, cùng nhau phân chia. Các Tỳ-kheo dùng tơ để may Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội, và tất cả các loại y khác, lại làm dây lưng, dây ngồi thiền, cho đến dây cột cửa, mà vẫn không hết. Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo lại thuê thợ dệt, dệt làm một y, tơ sợi vẫn con dư. Chỗ sợi dư dệt thêm một tấm lót thì lại không đủ, bèn đi xin thêm, Trưởng giả, Cư sĩ đều cho. Được dễ dàng như vậy, Lục quần Tỳ-kheo, “Nhất dạ sinh bá kế” nói: Ta đạt được thiện lợi, từ nay ta chỉ nên làm theo nghề này. Lục quần đi xin nhiều tơ sợi rồi thuê tất cả thợ dệt đến dệt. Khi ấy có một Cư sĩ đến thuê thợ dệt, dệt y. Thợ dệt nói: Tôi đã hứa dệt cho Tỳ-kheo rồi, nên không thể nhận dệt được. Đi khắp các nơi, người Cư sĩ đó cũng chỉ nhận câu trả lời như thế của thợ dệt. Nổi giận, Cư sĩ nói: Sa-môn Thích tử ít ham muốn, biết vừa đủ, nay lại đi khắp thuê tất cả các thợ dệt, ham hố, bao nhiêu cũng không vừa, lòng tham của họ đâu có khác gì của người đời?! Họ không có hạnh của Sa-môn, phá pháp của Sa-môn! Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe thế bằng mọi cách quở trách rồi bạch sự việc lên Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Các ông có như vậy không? Lục quần thưa: Thật sự như vậy, bạch Thế Tôn. Đức Phật nghiêm khắc quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay, giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tự mình đi xin tơ sợi, rồi thuê thợ dệt, dệt thành y, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Ba chúng dưới Đột-kiết-la.
Xong giới thứ mười một --------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, Bạt-nanđà thường tới lui một nhà khách buôn nói pháp, chữa bệnh. Người khách buôn nói với vợ: Bạtnan-đà là ân nhân của ta, có thể dùng số tơ sợi này thuê thợ dệt thành y, khi ta trở về sẽ đem cúng. Sau khi người chồng đi, bà vợ đem tơ sợi đến chỗ thợ dệt thuê dệt thành y. Bà ta nói: Ông tính cho đủ, đừng để dư, đừng để thiếu. Bạt-nanđà biết được việc này, liền đến gia đình khách buôn, người vợ ra đón chào thăm hỏi và thưa: Chồng của con bảo con vì Đại đức dệt y, con đã nhờ thợ dệt đang dệt. Bạt-nan-đà hỏi: Thuê thợ nào dệt? Người vợ đáp: Con thuê thợ tên đó. Bạtnan-đà bèn đến nhà thợ dệt nói: Ông có biết chăng? Y này họ dệt để cúng cho tôi, ông dệt cho tốt, cho dài, cho rộng, riêng phần tôi ít nhiều sẽ trả ơn ông. Người thợ dệt nói: Bà ấy bảo tôi tính toán vừa đủ đâu vào đó rồi, nay làm sao tôi theo đề nghị của thầy được. Bạt-nan-đà nói: Cứ dệt cho tốt, nếu chỉ sợi không đủ, ông cứ đến bảo bà ta cho tôi xin thêm sợi, đảm bảo bà ấy sẽ đưa cho thôi. Người thợ dệt nghe theo lời, dệt hết chỉ đến xin thêm. Bà vợ của người khách buôn nói: Trước đây tôi đã bảo ông tính cho đủ kia mà, tại sao nay lại đến lấy thêm? Ông thợ dệt kể lại đầu đuôi câu chuyện để trả lời. Người vợ bèn đưa thêm chỉ. Khi người khách buôn trở về, hỏi bà vợ: Trước đây tôi bảo bà vì Bạt-nan-đà dệt y, nay đã dệt xong chưa? Xong rồi, người vợ trả lời. Đâu, bà lấy đem cho tôi xem với. Người vợ mang đến cho chồng xem. Thấy y quá tốt, quá dày, người chồng hỏi: Với số tơ mình dự trù ít sao dệt được y dày tốt thế này? Bà vợ nói: Bạt-nan-đà lại đến lấy thêm, cho nên được thế này. Người khách buôn nổi giận mắng càn: Bạt-nan-đà, túi tham không đáy, không ai cung cấp, thỏa mãn nổi cho ông ta đâu! Với y như thế này là gấp hai lần số tơ ta dự định ban đầu. Tuy trước kia là ân nhân nhưng bây giờ thì xin tuyệt giao, bèn không cúng y cho Bạtnan-đà nữa. Như vậy là tiếng xấu lan khắp gần xa, và lọt đến tai các Tỳ-kheo Trưởng lão, bằng mọi cách các vị quở trách rồi cùng đưa đến chỗ Đức Phật, trình bày lên Ngài sự việc. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạtnan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạt-nanđà thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Cư sĩ, vợ Cư sĩ vì Tỳ-kheo bảo thợ dệt, dệt y. Tỳ-kheo ấy trước không được nhận lời mời tùy ý, bèn đến chỗ thợ dệt bảo: Ông biết không? Y này họ may để cho tôi, ông dệt y cho tốt, phải cho thật dày rộng, tôi sẽ đền ơn riêng cho ông. Sau đó dù trả thêm bằng một bữa ăn hay giá trị bằng một bữa ăn, nhận được y, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Ba chúng dưới Đột-kiết-la.
Xong giới thứ mười hai
-------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Bạt-nanđà nói với người đệ tử tên là Đạt-ma: Nay tôi muốn cùng ông đi du hành đến nước Câu-tát-la. Đạt-ma thưa: Nước đó lạnh, không có y con không thể đi được. Bạt-nan-đà nói: Nếu ông có thể đi thì tôi sẽ cho ông y. Đạt-ma nói: Phải cho y con trước rồi sau mới đi. Bạt-nan-đà đem y cho ngay. Được y rồi, Đạt-ma lại không chịu đi. Bạtnan-đà nói: Ông nói có được y sẽ đi, tại sao nhận y rồi lại không chịu đi? Nếu không chấp nhận đi thì trả y lại cho tôi. Đạt-ma thưa: Thầy đã cho rồi, tại sao đòi lại! Bạt-nan-đà nói: Chẳng phải tôi cho ông, mà tôi muốn ông cùng du hành nên mới cho. Nay ông không đi, không có lý do gì mà ông không trả y lại cho tôi. Bạt-nan-đà cưỡng bức lấy lại y. Đạt-ma lớn tiếng khóc la, Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, hỏi: Tại sao khóc? Đạt-ma đáp: Thầy tôi đoạt y tôi. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách Bạt-nan-đà: Tại sao gọi là Tỳ-kheo mà lại đoạt y của người ta? Bạt-nan-đà nói: Tôi muốn Đạt-ma cùng đi với tôi đến nước Câu-tát-la nên mới dùng y để thuê ông ấy. Ông ta nhận được y rồi, không chịu đi, nên tôi lấy lại, chứ không phải cưỡng đoạt. Các Tỳ-kheo lại bằng mọi cách quở trách Đạt-ma: Tại sao ông dối trá đối với thầy, đòi cho y để đi, được y rồi lại không đi?! Các Tỳ-kheo đưa cả hai đến chỗ Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có đem y cho đệ tử rồi đoạt lại hay không? Bạch Thế Tôn, con có cho y. Đức Phật lại hỏi Đạt-ma: Thật sự ông có dối trá đối với thầy ông hay không? Bạch Thế Tôn, con có dối trá. Đức Phật bằng mọi cách quở trách hai Tỳ-kheo rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay, giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đem y cho Tỳ-kheo rồi đoạt lấy lại, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Bấy giờ, Lục quần Tỳ-kheo đem y cho các Tỳ-kheo rồi bảo Sa-di hay người giữ vườn đoạt lấy lại. Các Tỳ-kheo hỏi: Thầy không nghe Đức Phật cấm, đã đem y cho Tỳ-kheo rồi không được lấy lại hay sao? Lục quần nói: Có nghe chứ! Nhưng nay tôi bảo Sa-di hay người giữ vườn đoạt lại nên không trái với lời Phật cấm. Các Tỳ-kheo nói: Tự mình đoạt lại, dạy người đoạt đâu có khác gì?! Bằng mọi cách quở trách rồi, các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đã đem y cho Tỳ-kheo khác, rồi tự mình đoạt lại hay sai người đoạt lại, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo khác gởi y cho Tỳ-kheo cựu trú rồi đi bặt, lâu lắm mới trở về, sợ phạm giới này nên không dám đòi lại. Lại có các Tỳ-kheo trên lộ trình đi, đem y gởi cho Tỳ-kheo. Sau một hành trình dài trở về, sợ phạm giới này cũng không dám đòi y lại, hoặc là đã đòi rồi lòng lại thấy xấu hổ vì nghĩ là phạm giới ấy nên tác pháp hối Xả đọa. Các Tỳ-kheo đem các vấn đề ấy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Thật có như vậy. Đức Phật khen ngợi hạnh thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Nếu xin nhận lại y đã gởi mà phạm Xả đọa, điều này không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đã đem y cho Tỳ-kheo khác, sau vì giận, bất hòa tự mình đoạt lại hay sai người khác đoạt lại, nói như vầy: Trả y lại cho tôi, tôi không cho thầy, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Ba chúng dưới phạm Độtkiết-la.
Xong giới thứ mười ba
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ có số đông Cư sĩ đồng tình trong việc thỉnh Phật và chúng Tăng. Trong số họ, có người bửa củi, có người xách nước, có người rưới nước để quét dọn, có người trải tọa cụ, có người rải hoa, có người trải phu cụ ở tòa cao, có người lo trai soạn. Sáng sớm hôm đó, Bạt-nan-đà đắp y, bưng bát đến trước ngôi nhà có mọi người đang chuẩn bị cung thỉnh Phật và Tăng. Tùy theo công việc của mỗi người, Bạt-nan-đà nồng nhiệt tán dương. Bạtnan-đà lại nói tiếp: Việc làm của quý vị hôm nay là rất thiện, rất tốt, niềm vui này thật xứng đáng.
Mọi người nói: Chúng con thật sự vui mừng với các việc làm để cúng dường này. Ngoài việc cúng dường đồ ăn thức uống, mỗi thứ đầy hương vị thơm ngon, chúng con còn cúng dường y vật cho chúng Tăng nữa.
Bạt-nan-đà nói: Đã được nhiều người cúng dường rồi nên y vật của chúng Tăng quá thừa thãi. Nếu quý vị tiếp tục cúng nữa thì hóa ra chỉ xếp dồn lại thành vật vô dụng, làm sao có được tác dụng của phước đức. Ừ nhỉ! Sao lại không cho tôi, nếu cho tôi, tôi luôn mặc bên mình để gắn liền sự nhớ nghĩ lên nhau, các sự việc như ốm đau, bệnh tật v.v… lại được cùng nhau lo liệu, giải quyết.
Mọi người nghe rồi, cùng họp lại lấy ý kiến, có người nói: Nếu Tăng không cần thì nên cho vị này để sự cúng dường của chúng ta có tác dụng của phước đức. Hoặc có người nói: Với bản nguyện của chúng ta cúng cho Tăng, tại sao lại tập trung cúng cho một người? Ý kiến cho đông hơn, nên toàn y vật được cúng cho Bạt-nan-đà.
Bấy giờ, Bạt-nan-đà vác cả một vác nặng y vật trở về trú xứ của Tăng, các Tỳ-kheo khen: Thầy là người có phước đức, làm thế nào mới đi ra một lát mà có được số y như vậy! Bạt-nan-đà nói: Khéo miệng nên được chứ chẳng do phước đức gì cả. Bạt-nan-đà liền kể lại lý do câu chuyện được y. Thế là việc này lọt đến tai các Tỳ-kheo Trưởng lão, bằng nhiều cách các vị quở trách: Thầy là người ngu si, tại sao xoay xở vật cúng cho Tăng về riêng cho mình?
Sao khi thiết dọn thức ăn đầy đủ đâu vào đấy, các Cư sĩ ấy sai người đến thỉnh Phật. Đức Thế Tôn mặc y, mang bát đi giữa Tỳ-kheo Tăng tới gia đình được chọn làm nơi chốn cúng dường… Ngài và Tăng ngồi uy nghiêm vào tòa. Các Cư sĩ đích thân hầu hạ từng thức ăn. Ăn xong, họ dâng nước song chẳng có phẩm vật nào cúng dường. Số người trước kia không đồng ý cho Bạt-nan-đà, thầm thì với nhau: Buổi cơm cúng dường hôm nay, đâu phải chúng ta không chuẩn bị đầy đủ, tại các người ấy không xét kỹ đem y vật cúng cho Tăng, cúng riêng cho một người nên mới thiếu đầu, thiếu đuôi như thế này, làm sao không hổ thẹn được.
Các Tỳ-kheo nghe hỏi: Các vị nói nhỏ to gì đó? Các Cư sĩ trả lời bằng cách kể lại câu chuyện. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách Bạt-nanđà: Thầy là người ngu si, tại sao xoay vật cúng cho Tăng về riêng cho mình? Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì các Cư sĩ giảng nói pháp diệu rồi, Ngài rời chỗ ngồi ra về. Các Tỳ-kheo Trưởng lão đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào xoay vật cúng cho Tăng về riêng cho mình, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Biết: Hoặc tự mình biết hoặc nghe từ người khác. Vật nhằm cúng cho Tăng: Hoặc người phát tâm, nói: Tôi sẽ đem phẩm vật này cúng cho chúng Tăng kia. Nếu muốn xoay vật cúng cho Tăng về cho người khác, phạm Ba-dật-đề. Cho Tăng khác, Tỳ-kheo-ni Tăng, hai bộ Tăng, Tăng bốn phương, hay cho tháp đều phạm Đột-kiết-la. Nếu xoay phẩm vật dành cúng cho Tỳ-kheo-ni Tăng, hai bộ Tăng, Tăng bốn phương cũng như vậy. Nếu xoay phẩm vật dành cúng cho pháp về mình, cho Tỳ-kheo Tăng, Tỳ-kheo-ni Tăng, hai bộ Tăng, Tăng bốn phương, người khác, tháp khác cũng đều phạm Đột-kiết-la. Nếu xoay phẩm vật muốn cho người cũng như vậy. Cho đến xoay một miếng ăn định cho súc sinh này đem cho súc sinh khác cũng phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni phạm cũng như vậy. Ba chúng dưới phạm Độtkiết-la. Nếu bạch Tăng, Tăng cho, hoặc thí chủ tự ý xoay vật dành cúng cho Tăng đem cho mình thì không phạm.
Xong giới thứ mười bốn --------------------
Đức Thế Tôn ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, Tất-lăng-già-bà-ta trú tại núi Lăng-cầu-la, bay lên không trung để rưới nước dội sạch nơi phòng ở. Trong khi ấy Vua Bình-sa dạo đến núi này. Tấtlăng-già trông thấy Vua, lập tức trở về lại mặt đất trước Vua, ngỏ lời chào: Lành thay Đại vương mới đến! Xin mời Vua ngồi nơi này. Nhà Vua ngồi, rồi hỏi: Tại sao thầy phải tự làm lụng như vậy? Không có người giúp việc chăng? Tất-lănggià nói: Không ai cả. Nhà Vua liền ra lệnh cho một vị cận thần: Nên cung cấp người giúp việc cho Tỳ-kheo này. Tất-lăng-già-bà-ta nói: Đức Phật không cho phép chúng tôi nuôi người giúp việc. Nhà Vua nói: Nên bạch Đức Phật về điều này. Sau khi ra về, nhà Vua đến bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng khen sự thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới xong, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay ta cho phép các Tỳ-kheo nuôi người giữ vườn (giúp việc). Vì Đại thần đã nhận lệnh của Vua, nhưng vì ông không có lòng tin ưa Phật pháp nên không cung cấp người. Tất-lăng-già-bà-ta trước sau gì cũng chỉ có mỗi Tất-lăng-già-bà-ta. Bẵng đi một thời gian, Tất-lăng-già-bà-ta đắp y mang bát vào thành khất thực, nhà Vua cùng quần thần từ trên lầu cao nhìn thấy, liền sực nhớ lại tự hỏi: Trước đây ta có hứa cung cấp người giúp việc cho Tỳ-kheo, không biết đã cấp chưa? Nhà Vua liền hỏi lại vị Đại thần lúc trước nhận lệnh. Vị quan tâu: Chưa cấp. Nhà Vua lại hỏi: Lệnh của ta đến nay được bao nhiêu ngày? Vị quan ấy tâu: Đã năm trăm ngày. Nhà Vua bảo tùy theo số ngày này mà cung cấp. Vị Đại thần vâng lệnh liền lấy người giúp việc từ năm trăm nhà, mỗi nhà một người để cấp. Khi nhận lệnh ấy, năm trăm nhà mỗi ngày sai một người đến trú xứ của Tất-lăng-già-bà-ta để lau quét phòng ốc, nhà cửa, ngoài ra còn làm mọi việc khác.
Bấy giờ, người trong thôn nọ đến ngày tiết hội, nam nữ trang sức y phục sặc sỡ dạo chơi vui đùa. Có một người con gái nhà nghèo vừa đi vừa khóc lớn. Thời điểm ấy, Tất-lăng-già-bà-ta vào xóm khất thực, thấy người con gái kêu khóc, hỏi bà mẹ cô gái: Con gái của bà tại sao khóc lóc như vậy? Bà ta đáp lời: Hôm nay, mọi người đều ăn mặc đẹp đẽ để đi chơi, nhà tôi nghèo khổ không lấy chi chưng diện như người ta, cho nên nó buồn, nó khóc. Ngay lúc ấy, Tất-lăng-già-bà-ta thấy con bò đang gặm cỏ, thầy nói với bà mẹ cô gái: Lấy ít cộng cỏ đem đến đây! Bà ta liền nhặt cỏ đưa cho thầy. Tất-lăng-già-bà-ta kết cỏ lại, biến hóa thành hai tràng hoa bằng vàng, đưa cho mẹ cô gái, nói: Trong thiên hạ có hai loại vàng tốt hơn hết là vàng Diêm-phù-đàn và loại vàng do thần túc biến hóa. Bà cầm lấy hai tràng hoa này đưa cho con gái bà mang vào. Người con gái ấy nhận được hai tràng hoa, rất vui mừng, thong dong mang vào dạo chơi. Trông thấy, mọi người đều ham muốn. Một khi điều lạ này đập vào mắt người ta thì ắt phải sinh lòng ghen tỵ. Có một người đến tâu với Vua Bình-sa: Thôn đó, gia đình đó, phát hiện được một kho chứa vật báu, nên người con gái của gia đình này mang tràng hoa bằng loại vàng trong thiên hạ không ai sánh kịp, hậu cung của Đại vương cũng chưa hề có được như thế. Nhà Vua lệnh cho gọi người ấy đến hỏi: Ngươi được kho tàng chỗ nào, có thể chỉ cho ta? Người đàn bà thưa: Tâu Đại vương! Thật sự tôi không được kho tàng. Nhà Vua lại hỏi: Vật trang sức con gái ngươi mang đó, từ đâu có? Người ấy đáp: Vật ấy là do Tất-lăng-già-bà-ta kết cỏ biến hóa thành. Nhà Vua nghe nói như vậy hết sức kinh ngạc và giận dữ: Tại sao cỏ mà biến hóa thành tràng hoa bằng vàng! Nhà Vua liền ra lệnh cho các quan bắt trói và hạ ngục người mẹ đó.
Sau một thời gian, Tất-lăng-già-bà-ta lại đến nơi thôn ấy. Vừa gặp Tất-lăng-già-bà-ta, người con gái bật khóc nức nở… Tỳ-kheo hỏi: Vì lý do gì nhà ngươi lại khóc nức nở như thế? Người con gái thưa: Mẹ của con bị ngồi tù. Tất-lăng-già-bàta hỏi: Phạm phải những tội gì vậy? Dạ thưa: Do Đại đức cho hai tràng hoa bằng vàng. Lại nói: Thôi đừng khóc nữa, ta sẽ làm cho mẹ cô được thả ra. Tất-lăng-già-bà-ta lập tức đến trước quan giữ ngục, quan giữ ngục cung kính chào hỏi: Đại đức có việc gì phải hạ cố đến đây? Tất-lăng-già-bà-ta đáp: Người giúp việc của ta bị nhốt nơi ngục tù này, nên ta mới đến đây. Nay ông có thể thả nó ra được không? Quan coi ngục nói: Người này được kho tàng quý báu mà không chỉ cho nhà Vua, nếu chỉ cho nhà Vua thì mới có thể được thả. Tất-lăng-già-bà-ta nói: Ta kết cỏ làm thành chứ chẳng phải là của kho tàng đâu. Quan giữ ngục nói: Kết cỏ làm thành vàng là điều không thể có.
Tất-lăng-già-bà-ta liền biến chỗ ngồi của ông cai ngục thành cái giường bằng vàng và hỏi: Nay ông tự thấy mình ngồi trên tòa nào? Rõ ràng tận mắt nhìn thấy mình đang ngồi trên chiếc giường bằng vàng, người giữ ngục hoảng hồn, liền xuống giường cúi đầu: Lạy Đại đức giải tha cho con nhờ, nếu nhà Vua nghe con ngồi trên giường bằng vàng thì chắc chắn bị trọng tội! Tất-lăng-già-bà-ta nói: Thả người giúp việc của ta ra, rồi ta mới giải phép cho ngươi. Quan giữ ngục nói: Việc này không phải quyền của con. Lại hỏi: Vậy thì quyền của ai? Dạ thưa: Quyền của Vua. Tất-lăng-già-bàta liền làm phép xóa mất giường vàng, rồi bay đến chỗ nhà Vua, đứng trong hư không. Khi ấy, nhà Vua từ trên lầu cao thấy, liền đảnh lễ, thưa: Đại đức có việc gì đến đây? Tất-lăng-già-bà-ta nói: Người giúp việc của tôi bị ngồi tù nên tôi đến đây, xin nhà Vua thả ra cho. Nhà Vua nói: Người kia được kho tàng bảo vật, nếu chỉ cho tôi thì mới được thả. Tất-lăng-già-bà-ta nói: Tôi kết cỏ làm thành, chứ không phải của báu trong kho tàng đâu. Nhà Vua nói: Kết cỏ làm thành vàng là điều không thể có. Ngay khi ấy, Tất-lăng-già-bà-ta lấy cây gậy gõ vào trụ cột lầu, cả tòa lầu cao liền biến thành lầu vàng, và nói: Xin hỏi lầu cao của Vua đây xây cất bằng vật liệu gì? Chứng kiến việc ấy, nhà Vua rất hoan hỷ ra lệnh thả ngay người đàn bà kia. Tất-lăng-già-bà-ta cứ như vậy biến hiện bốn thần túc từ nơi này sang nơi khác. Một khi toàn dân đều nghe biết sự biến hóa nhiệm mầu này, lòng tin kính Phật pháp đối với họ lớn lắm. Họ cúng dường Tăng đầy đủ: bát na, bữa ăn trước, bữa ăn sau, các loại nước uống phi thời, dụng cụ dùng để tắm rửa, dầu thoa mình, dầu thoa chân, dầu thắp đèn… Bấy giờ, chúng Tăng nhận được nhiều sữa sống, sữa chín, dầu, đường, đường phèn, ăn không hết. Các thực phẩm dư này được dồn chứa, cất giữ trên sàn đất, từ đó bị rỉ chảy tràn lan làm dính nhớp y phục, giường chiếu, ngọa cụ. Các Cư sĩ thấy vậy, hỏi: Vật này của ai? có người nói: Đây là của Sa-môn Thích tử tích lũy chứa cất. Các Cư sĩ nói: Sa-môn Thích tử tự nói tiết chế sự ăn uống, mà dồn chứa như thế này thì tha hồ ăn uống. Những người này vì cầu giải thoát, xa lìa sinh, lão, tử mà nay lại cầu thức ăn mỹ vị thế này, là không có hạnh của Sa-môn, phá pháp của Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe vậy, bằng mọi cách quở trách rồi trình việc này lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Các ông thật sự có như vậy không? Các Tỳ-kheo thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay không cho phép ăn đồ ăn cách đêm, như sữa, dầu, đường, đường phèn. Người nào vi phạm, phạm tội Đột-kiết-la.
Khi ấy, có nhiều Tỳ-kheo bị bệnh, không thể có được tịnh nhân để thọ nhận hàng ngày, cũng không có tiền để mua, cũng không có chỗ bán, các Tỳ-kheo không biết làm thế nào, đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, khen hạnh ít ham muốn, biết đủ, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo bệnh nhận sữa, dầu, đường, đường phèn để ăn cách đêm, cho đến đêm thứ sáu. Lúc ấy, các Tỳ-kheo lại để các thực phẩm đó quá sáu đêm, Tỳ-kheo Trưởng lão bằng mọi cách quở trách rồi, đem vấn đề bạch lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Các ông thật sự có như vậy không? Các Tỳ-kheo thưa: Bạch Đức Thế Tôn có như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào bệnh được uống bốn thứ thuốc hàm tiêu, như sữa, dầu, đường và đường phèn, một lần nhận được để đến bảy ngày, nếu để quá, phạm Ni-tát-kỳ-Ba-dật-đề”.
Nếu ngày thứ nhất nhận được, ngày thứ hai lại nhận được cho đến ngày thứ bảy cũng lại nhận được, lưu lại đến ngày thứ tám, khi tướng mặt trời xuất hiện, đều phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Vật cất giữ ấy nên thưa và xả cho Tăng, Tăng cho bạch y hay Sa-di, hoặc dùng để thắp đèn, hoặc dùng thoa chân. Thuốc đã bị xả Tỳ-kheo không được dùng và tất cả Tỳ-kheo không được để vào miệng. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ mười lăm -------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy có đám giặc Tháng tám, thường rình rập bắt người giết để tế trời, tất cả dân chúng và các Tỳ-kheo, không ai là không hoảng sợ. Ngày tế sắp đến mà chưa bắt được người, lũ giặc cùng nhau họp lại bàn bạc: Nơi A-lan-nhã chắc có Tỳ-kheo, bắt họ không khó. Ngay lúc ấy, đám giặc tiến về nơi A-lan-nhã nọ. Nghe được tin này, các Tỳ-kheo, ai nấy tìm cách lẫn tránh. Đám giặc bị thất bại, lại bàn với nhau: Ta sẽ tới chỗ khác, ngày tế sắp đến rồi, không được phép biếng trễ. Trong đám giặc ấy có một người tu xuất, nói với chúng: Tôi được biết Đức Phật dạy không cho phép Tỳ-kheo lìa y một đêm, chúng ta phải phục sẵn tại đây, vào lúc mờ mờ sáng chắc chắn họ sẽ về. Chúng nói: Nếu họ không về thì sẽ giết ngươi. Nếu ngươi không ân hận hối tiếc, thì chúng ta sẽ ở lại đây. Người ấy trả lời: Tốt lắm! Đã được cam kết như vậy, đám giặc bố trí phục sẵn. Một khi đã sợ phạm tội lìa y ngủ nên lúc trời vừa gà gáy sáng, các Tỳ-kheo đều quay trở về trú xứ. Đám giặc hỏi: Các ông tưởng chúng tôi đã đi rồi phải không? Các Tỳ-kheo trả lời: Chúng tôi biết các ông còn ở lại, nhưng Đức Phật không cho phép chúng tôi lìa y ngủ, cho nên chúng tôi phải trở về. Đám giặc liền bắt giết, cần máu thì lấy máu, cần thịt thì lấy thịt. Các Tỳ-kheo tránh được cuộc tàn sát này đã có sự suy nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn cho phép chúng ta khi chưa hết các ngày tháng tám được gởi một loại y nào nơi nhà bạch y trong giới nội thì đâu gặp phải tai nạn như thế. Các Tỳ-kheo trình lên Đức Phật sự suy nghĩ ấy. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, khen ngợi hạnh thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép Tỳ-kheo ở nơi Alan-nhã an cư ba tháng, chưa hết tháng tám được gởi một loại y nào nơi nhà bạch y trong giới nội, và lìa y đó ngủ đêm không phạm tội.
Có các Tỳ-kheo ở gần xóm làng cũng gởi y nơi nhà bạch y thuộc giới nội để ngủ đêm. Các Tỳ-kheo đem vấn đề này bạch Phật, Đức Phật dạy: Không cho phép Tỳ-kheo ở gần xóm làng mà lìa y ngủ. Lại có Tỳ-kheo ở A-lan-nhã, chỗ không có sự khủng bố mà lìa y ngủ. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch lên Đức Phật, Đức Phật dạy: Cũng không cho phép Tỳ-kheo ở nơi A-lan-nhã không có sự sợ hãi lại lìa y ngủ. Nếu nơi nào có sự nghi ngờ sẽ bị khủng bố mới cho phép. Trong thời điểm khác, các Tỳ-kheo gởi y nơi nhà người khác rồi không trở lại thăm chừng, lâu ngày bị ẩm ướt, bẩn nhớp, trùng cắn, mục nát. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Đức Phật dạy: Nên đến xem chừng, hong phơi. Khi được Phật dạy như thế, các Tỳ-kheo lại thường xuyên đến thăm chừng, Cư sĩ chán ngấy việc làm ấy của Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật, Đức Phật dạy: Cho phép mười ngày đến thăm chừng một lần. Khi ấy, các Tỳ-kheo có việc Tăng, việc tháp, việc nơi các Hòa thượng, A-xà-lê và việc riêng của mình, hay việc của người cần ra đi ngoài phạm vi giới, vì sợ lìa y nên không dám đi, bạch Phật. Phật dạy: Nếu có việc cần thiết đích thân phải đi ra ngoài phạm vi giới, cho phép lìa y một đêm. Công việc chưa xong, trở lại bạch Phật. Phật dạy: Cho phép sáu đêm. Đã cho phép sáu đêm rồi, các Tỳ-kheo lại mặc y cũ rách đi quá sáu đêm, Tỳ-kheo Trưởng lão đem việc ấy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Các ông có thật sự như vậy không?
Các Tỳ-kheo thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ở chỗ A-lan-nhã, an cư ba tháng, chưa hết tháng tám, nếu chỗ có sự khủng bố, cho phép gởi một loại y nào nơi nhà bạch y trong giới nội, nếu có nhân duyên ra ngoài phạm vi giới, lìa y ngủ cho đến sáu đêm, nếu quá, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
An cư ba tháng: Là tiền an cư. Chưa hết tháng tám: Là hậu an cư. Một loại y nào: Hoặc Tăng-già-lê hoặc Ưu-đa-la-tăng, tùy theo chỗ nhận mà nhiều lần gởi một y. không được gởi y An-đà-hội vì là y đang mặc che thân. Lễ bái, nhập Tăng, khất thực không đơn thuần mặc mỗi một y, không được gởi hai y. Có nhân duyên ra ngoài phạm vi giới sáu đêm: Hoặc có việc của tháp, việc của Hòa thượng, A-xà-lê và việc riêng của mình hay việc của người, lưu lại một loại y nào nơi nhà bạch y để ra ngoài phạm vi giới tối Đa-là sáu đêm. Nếu một đêm, hai đêm cho đến năm đêm việc xong mà không trở về, phạm Đột-kiết-la. Sadi phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ mười sáu --
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, mẹ Lộctử Tỳ-xá-khư, định vào một buổi sáng ngày nọ, thiết lễ trai phạn, thỉnh Phật và Tăng để cúng dường. Chính vào ngày ấy, trời nổi giông tố, mưa xối xả, như thời gian co duỗi cánh tay của một lực sĩ, nước mưa đầy cả bát nước này rút ngay vào lòng đất như những giọt dầu rơi thấm vào đống cát nóng, bằng không thì đã trở thành biển nước mênh mông. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Xem trận mưa trong Kỳ-hoàn hôm nay, thì rõ sức mưa cả cõi Diêm-phù-đề cũng như vậy. Các ông có thể ra tắm. Đây là trận mưa cuối mùa đều khắp như nhau. Các Tỳ-kheo mình trần trùng trục ùa ra tắm mưa. Trong khi ấy, người nô tỳ được bà Tỳ-xákhư sai đến bạch Phật: “Thiết lễ cúng dường đã sửa soạn xong”. Người nô tỳ đến Kỳ-hoàn trông thấy các Tỳ-kheo, ai nấy đều lõa hình tắm mưa, lòng ái ngại, nghi: Đây là ngoại đạo chứ chẳng phải Tỳ-kheo. Cô ta quay trở về báo lại như vậy. Tỳ-xá-khư có ý nghĩ: Chắc là Tỳ-kheo tắm giữa đất trống nhưng đứa tớ gái không biết cho đó là ngoại đạo. Bà ta lại bảo: Mi tới cửa Kỳ-hoàn thưa lớn như sau: “Thức ăn đã sửa soạn xong, kính mời quý vị đến thọ trai”. Lúc nô tỳ đến trước cửa Kỳ-hoàn, các Tỳ-kheo đã tắm xong, về phòng không còn một vị nào bên ngoài, nô tỳ muốn thưa lớn lời dạy của bà chủ nhưng lại ngớ ngẩn nghĩ: Vừa rồi, trong sân thấy đầy cả ngoại đạo, bây giờ lại chẳng còn mống nào thôi thì trở về thưa lại vậy. Nghe nô tỳ báo, Tỳ-xá-khư nghĩ: Chắc các Tỳ-kheo tắm xong vào an nghỉ. Bà ta lại sai: Mi có thể vào trong cửa, đứng giữa sân thưa… Nô tỳ vâng lời, vào trong cửa ngõ Kỳ-hoàn, đứng giữa sân thưa. Đức Phật nghe thưa, bảo các Tỳ-kheo: Tỳ-xá-khư mời thọ trai. Các ông nên mặc y bưng bát đến phó trai. Các Tỳ-kheo vâng lời tập hợp nơi giảng đường. Nô tỳ đến trước giảng đường bạch Phật: Trai bàn đã thiết cúng xong, xin cung thỉnh quý Ngài đến dự. Đức Phật bảo người tớ gái: Ngươi có thể về trước, chư Tăng sẽ đến sau. Bấy giờ, Đức Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo, chớp nhoáng như lực sĩ co duỗi cánh tay, biến mất khỏi giảng đường, rồi xuất hiện tại nhà bà Tỳ-xá-khư, an tọa nơi tòa, y phục lại không ướt. Tỳ-xá-khư thấy Đức Phật và Tăng hốt nhiên ngồi nơi tòa, y phục không ướt, lòng cảm phục, thầm nghĩ: Ta được thiện lợi, cúng dường đầy đủ cho bậc Thánh sư. Các Ngài đi trong mưa lũ mà không hề ướt y phục. Bà vui mừng hớn hở tự tay san sẻ các thức ăn ngon bổ. Ăn xong, bà dâng nước, rồi kính cẩn chấp tay ngồi qua một bên, bạch Phật: Cúi xin Đức Thế Tôn cho con lời ước nguyện! Đức Phật bảo Tỳ-xá-khư: Phật đã vĩnh viễn lìa các ước nguyện của thế gian. Tỳ-xá-khư lại thưa: Cúi xin Đức Phật cho con phát những lời nguyện thanh tịnh. Đức Phật dạy: Lành thay! Tỳ-xá-khư bạch Phật: Sáng nay con sai đứa tớ gái tới thưa thỉnh Phật và Tăng đến thọ trai, lúc ấy các Tỳ-kheo đang lõa hình tắm, nhìn thấy, nó chạy về báo với con là: Trong Kỳ-hoàn đều là ngoại đạo, không có Tỳ-kheo. Bạch Đức Thế Tôn: Tại sao các Tỳ-kheo lõa hình tắm trước Hòa thượng, A-xà-lê! Cúi xin Đức Thế Tôn cho phép các Tỳ-kheo sử dụng y tắm mưa. Con nguyện trọn đời cung cấp y tắm mưa cho các Tỳ-kheo trong thành Xá-vệ này. Bà lại thưa: Thời gian gần đây, con có chút việc, đến nơi sông A-di-la, thấy các Tỳ-kheo-ni lõa hình tắm rửa trong dòng sông. Khi ấy, có người thấy hình ảnh này đều chê cười: Người nữ mặc áo che thân còn coi không được, huống là người nữ xuất gia mà lại lõa thể. Cúi xin Phật cũng cho Tỳ-kheo-ni được sử dụng y tắm. Con cũng xin nguyện trọn đời cung cấp y tắm cho các Tỳ-kheo-ni trong thành Xá-vệ này. Bà lại thưa: Đức Phật dạy có ba loại bệnh, một loại uống thuốc hay không uống thuốc cũng chết. Loại thứ hai uống thuốc hay không uống thuốc đều qua khỏi bệnh. Loại thứ ba, uống thuốc thì mạnh, không uống thuốc thì chết. Cúi xin Phật cho phép các Tỳ-kheo được uống các thứ thuốc. Con cũng xin nguyện trọn đời cung cấp thuốc cho các Tỳ-kheo trong thành Xá-vệ. Bà lại thưa: Đức Phật dạy có ba loại bệnh, một loại tùy theo bệnh được ăn thức ăn, không được ăn thức ăn, tùy theo bệnh đều chết.
Loại thứ hai: Tùy theo bệnh được ăn thức ăn, không được ăn thức ăn, tùy theo bệnh đều sống. Loại thứ ba: Tùy theo bệnh được ăn thức ăn thì lành, không được ăn thức ăn thì theo bệnh mà chết. Cúi xin Phật cho phép các Tỳ-kheo được ăn thức ăn tùy theo bệnh. Con cũng xin nguyện trọn đời cung cấp thức ăn tùy theo bệnh cho các Tỳ-kheo ở tại thành Xá-vệ này. Bà lại thưa: Người nuôi bệnh, nếu phải đi khất thực thì lại không chu toàn việc chăm sóc. Cúi xin Phật cho phép các Tỳ-kheo nuôi người bệnh được nhận thức ăn để nuôi bệnh. Con cũng xin nguyện trọn đời cung cấp thức ăn cho các vị nuôi người bệnh trong thành Xá-vệ này. Bà lại thưa: Tỳ-kheo khách từ xa mới đến quá mệt mỏi, hơn nữa không biết chỗ nào để khất thực. Cúi xin Phật cho phép các Tỳ-kheo nhận thức ăn từ nơi con để Tỳ-kheo khách dùng trong thời gian nghỉ ngơi vì mệt mỏi và chưa biết chỗ khất thực. Con cũng xin nguyện trọn đời cung cấp thức ăn cho quý Tỳ-kheo khách trong thành Xá-vệ này. Bà lại thưa: Nếu có Tỳ-kheo nào đi xa, phải vào thôn khất thực nên đi không kịp bạn đồng hành, hoặc gặp phải đám giặc tháng tám, hay bị lạc đường, cúi xin Phật cho phép các Tỳ-kheo đi xa nhận thức ăn đi xa của con. Con xin nguyện trọn đời cúng dường lương thực đi đường xa cho các Tỳ-kheo trong thành Xá-vệ này. Bà lại thưa: Con nghe Đức Thế Tôn cho phép các Tỳ-kheo ở nước A-na-tần-đầu ăn cháo. Cúi xin Ngài cho phép các Tỳ-kheo được thọ nhận cháo nơi con cúng dường. Con cũng xin nguyện trọn đời cúng dường cháo cho các Tỳ-kheo trong thành Xá-vệ này. Bà lại bạch Đức Phật: Nguyện Đức Thế Tôn, trọn đời nhận y phục, ẩm thực, thuốc thang của con. Đức Phật hỏi bà Tỳ-xá-khư: Với sự hiểu biết về ý nghĩa của sự lợi lạc như thế nào mà bà phát chín lời nguyện như trên? Tỳ-xá-khư thưa: Với đất nước này luôn luôn có các Tỳ-kheo ở khắp nơi về vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn, hoặc có trường hợp Tỳ-kheo nào đó ở địa phương nào đó qua đời, đắc quả Tuđà-hoàn, Tư-đà-hàm, A na hàm, A-la-hán, con sẽ tìm hiểu, hỏi xem Tỳ-kheo ấy đã từng về thành Xá-vệ này hay không? Nếu được trả lời vị ấy đã từng đến đây, trong lòng con sẽ có được suy nghĩ này: Vị Tỳ-kheo ấy chắc chắn đã từng nhận nơi con, ít nhất là một món cúng dường, chừng ấy thôi cũng đủ để con vui mừng với căn lành được đơm hoa kết trái. Với tâm thiện như vậy, Đức Thế Tôn nói với Tỳ-xá-khư: Cho phép bà thực hiện tám lời nguyện, còn một lời nguyện chót không thể chấp thuận được. Ngay khi ấy, bà Tỳ-xá-khư lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi trước Đức Phật, Đức Phật vì bà nói kệ tùy hỷ:
Lòng vui cúng ẩm thực
Cúng dường Phật, Thánh Tăng
Phước lập, xan tham diệt
Thọ báo luôn an lạc
Sinh cõi trời sống lâu
Sinh cõi trần lìa cấu
Pháp cúng dường, quả lớn
Ở đâu cũng mãi vui.
Tiếp theo, Đức Thế Tôn lại giảng nói các pháp vi diệu, Tỳ-xá-khư lại rất vui mừng vì các điều lợi lạc đã được chỉ bày. Đức Thế Tôn và Thánh đệ tử trở về lại Kỳ-hoàn, tập hợp các Tỳ-kheo, khen sự thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo nhận y tắm mưa, các Tỳ-kheo-ni nhận y tắm, nhận thuốc tùy theo bệnh, nhận thức ăn tùy theo bệnh, người nuôi bệnh được nhận thức ăn, Tỳ-kheo khách được nhận thức ăn, Tỳ-kheo đi xa được nhận thức ăn đi đường, và Tỳ-kheo được ăn cháo. Sau khi được Phật cho phép, các Tỳ-kheo nảy sinh ý nghĩ: Đức Phật cho phép ta chứa y tắm mưa, vậy đi tìm xin để cất giữ. Đã không thọ trì, không cho người, không tịnh thí, ôm đồm cả gánh nặng đi đường. Các Tỳ-kheo khác thấy hỏi: Thầy không nghe Đức Phật cấm chứa y dư hay sao? Tỳ-kheo trả lời: Tuy Phật có cấm nhưng lại cho phép chứa y tắm mưa. Các Tỳ-kheo lại hỏi: Các thầy thường chứa y tắm mưa, không thọ trì, không cho người, không tịnh thí phải không? Các vị trả lời: Đúng như vậy. Các Tỳ-kheo Trưởng lão bằng mọi cách quở trách, rồi bạch lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Thật sự có như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, mùa Xuân còn một tháng, nên tìm y tắm mưa, còn nửa tháng nên dùng. Nếu chưa đến một tháng mà tìm, trước nửa tháng mà dùng, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Y tắm mưa: Là y sử dụng để tắm khi trời mưa, khi tắm vào mùa hạ cũng dùng y này. Nếu mùa Xuân còn một tháng, trước đó có người hứa cho y tắm mưa, Tỳ-kheo quen biết nên đến nói: Nay là lúc may, nhuộm y tắm mưa. Nếu nhận được thì tốt, bằng không nên nói lại: Các nơi đều đã may, nhuộm y tắm mưa. Nếu nhận được thì tốt, bằng không lại nên nói: Trước đây người hứa cho Tỳ-kheo đó y tắm mưa, nay chính là lúc cần nhận. Nếu nhận được thì tốt, bằng không, Tỳ-kheo ấy nên đến chỗ khác xin để chứa dùng, cho đến nữa tháng tám, tức một trăm ba mươi lăm ngày. Nếu quá thời hạn ấy, không làm y khác, không thọ trì, không cho người khác, không tịnh thí, phạm Độtkiết-la. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ mười bảy --------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, Lục quần Tỳ-kheo đến thôn nhà buôn. Khách buôn nói: Trưởng lão an cư nơi đây đi. Sau chuyến đi, chúng tôi về sẽ cúng dường phẩm vật an cư. Lục quần Tỳ-kheo nói: Muốn chúng tôi ở lại đây an cư thì phải cúng cho chúng tôi, trong khi an cư chúng tôi may y, an cư xong chúng mặc đến thăm viếng Đức Phật. Khách buôn cùng nhau bàn bạc: Chúng ta nên cúng trước phẩm vật an cư để các Tỳ-kheo ở lại, như vậy là gia đình chúng ta kẻ lớn người nhỏ đều được nghe pháp, thọ tám phần giới, giữ gìn trong sạch thân, khẩu, ý. Họ thống nhất việc quyên góp vật phẩm cúng dường sau đó mới lên đường. Nhận được phẩm vật an cư rồi và sau khi các nhà buôn ra đi, Lục quần Tỳ-kheo cũng đi nơi khác. Một thời gian sau, các nhà buôn thu được lợi nhuận và trở về, nói với người trong nhà: Tuy trước đây ta đã cúng phẩm vật an cư cho các Tỳ-kheo rồi, nay ta buôn có lời, an ổn trở về, phải cúng dường thêm, các người cứ an tâm nghe pháp. Người nhà trả lời: Các Tỳ-kheo, sau đó, họ cũng đi. Các nhà buôn lại đến trú xứ gần đó để mời các Tỳ-kheo khác. Các Tỳ-kheo ấy nói: Các người nên cúng dường cho các Tỳ-kheo đã thỉnh trước đây, chúng tôi không được phép nhận phẩm vật cúng dường của các vị.
Khi đó, các nhà buôn nổi giận nói: Bổn ý của chúng tôi cúng dường là để ở lại thôn an cư, nhận phẩm vật rồi lại đi, cùng với kẻ trộm đâu khác gì? Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe được bằng mọi cách quở trách, rồi bạch với Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Các ông thật sự có như vậy không? Bạch Thế Tôn! Có. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay không được phép trong khi an cư nhận vật phẩm an cư, phạm điều này là tội Đột-kiết-la.
Bấy giờ, nơi biên giới có giặc, Vua Ba-tư-nặc sai Ất-sư-đạt-đa và Phú-lan-na đến dẹp giặc. Hai vị cùng nhau thảo bàn: Nay chúng ta đi hành quân có thể bị bỏ mạng, chúng ta nên đem phẩm vật cúng dường cho Tỳ-kheo. Hai người cùng mang phẩm vật đến chỗ Tỳ-kheo thưa: Nay chúng tôi đi dẹp giặc, sợ không trở về được, xin cúng dường các phẩm vật, mong quý thầy nhận cho. Các Tỳ-kheo nhớ lại điều này: Đức Thế Tôn không cho phép chúng ta trong khi an cư nhận phẩm vật an cư, biết làm thế nào đây! Trình việc ấy lên Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tôn giả A-nan: Còn bao nhiêu ngày nữa đến ngày Tự tứ? A-nan thưa: Còn mười ngày. Đức Phật bằng mọi cách khen hạnh ít ham muốn, biết đủ, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo, tiền an cư hay hậu an cư, còn mười ngày nữa đến ngày Tự tứ, được nhận y cấp thí. Các Tỳ-kheo lại thường cất chứa, không thọ trì, không cho người, không tịnh thí, ôm đồm cả gánh nặng đi du hành khắp nơi. Các Tỳ-kheo Trưởng lão thấy vậy, hỏi: Thầy không nghe Đức Phật cấm chứa y dư hay sao? Vâng, tuy Phật có cấm nhưng lại cho nhận y cấp thí. Các Tỳ-kheo lại hỏi: Các thầy thường chứa y cấp thí, không thọ trì, không cho người, không tịnh thí phải không? Vâng, đúng như thế. Các Tỳ-kheo Trưởng lão bằng mọi cách quở trách, rồi bạch với Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay không cho phép thường chứa y cấp thí, không thọ trì, không cho người, không tịnh thí, cho đến thời của Vì đã được cho phép đến thời của y, nên các Tỳ-kheo còn chứa quá thời của y. Các Tỳ-kheo Trưởng lão bạch Phật. Nhân việc ấy Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tiền an cư còn mười ngày nữa mới đến ngày Tự tứ được y cấp thí, cần thì nhận cất cho đến thời của y, nếu quá, phạm Nitát-kỳ-ba-dật-đề”.
Y cấp thí: Hoặc hành quân, hoặc sản phụ gần sinh, đó là trường hợp được thí cấp thời, qua thời gian ấy không thí được.
Thời của y: Thọ y Ca-hi-na. Xả y Ca-hi-na rồi, gọi là y phi thời. Tỳ-kheo-ni phạm cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Độtkiết-la.
Xong giới thứ mười tám
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc này, không phải thời xin bát, Bạt-nan-đà vẫn đến một nhà buôn, nói: Nay tôi cần bình bát, cho tôi đi! Nhà buôn nói: Đại đức đợi một thời gian ngắn. Nay các nhà có phiên họp, nếu ai đến không đúng giờ phải bị phạt năm trăm tiền. Bạt-nan-đà nói: Tôi được nghe người rất tinh tấn trong việc cung cấp phương tiện hành đạo, tại sao nay lại bỏ việc làm công đức này mà lại ưu tiên coi trọng việc đời. Nghe những lời như vậy, người nhà buôn thức tỉnh nghĩ ngợi: Dù có bị phạt, việc quan trọng này ta cũng phải thực hiện trước. Người nhà buôn liền đi mua bát cúng cho Bạt-nan-đà, sau đó mới đi họp. Rõ ràng phải đến trễ giờ, thấy ông ta đến mọi người đều nói: Phải phạt tội đi trễ giờ. Người nhà buôn nói: Tôi không phải vì việc riêng mà vi phạm quy chế của quý vị. Có một Sa-môn đến tôi xin bình bát, không thể không cho, phải lo cho xong, cho nên đến trễ.
Người không có lòng vui tin theo Phật pháp nói: Vì một Sa-môn mà ông vi phạm quy chế của nhiều người, phải phạt thật nặng là xứng đáng. Họ thi hành ngay. Bị phạt quá nặng, người nhà buôn bực tức, giận dữ nói: Sa-môn Thích tử chẳng biết điều chút nào, bảo chờ không chịu, để đến nỗi tôi bị phạt nặng như thế này. Mọi người nặng lời, nặng tiếng chê trách: Các Sa-môn Thích tử này thường nói biết điều, nào là ít ham muốn, biết vừa đủ, mà phi thời đến người cưỡng bức xin cho được, họ không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách rồi bạch với Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Thế Tôn bằng mọi lời lẽ quở trách nặng nề rồi hỏi các Tỳ-kheo: Ý các ông thế nào? Bát không tỳ vết hàn gắn ấy phải là bát không? Đáp: Là bát. Bát bị hàn gắn từ một đường cho đến năm đường ấy là bát phải không? Vâng là bát. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Bát lành lặn, bát có dấu hàn gắn từ một đường cho đến bốn đường là bát, bát hàn gắn năm đường không phải là bát. Do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào bát chưa đủ năm đường hàn gắn, lại xin bát mới, vì muốn đẹp, phạm Ni-tátkỳ-ba-dật-đề”.
Bát ấy nên xả giữa Tăng, Tăng nên lấy cái bát chót (bát không vị nào lấy) đưa cho và nói: Thầy nên thọ trì cái bát này cho đến vỡ. Pháp xả bát là như vậy.
Bát có ba loại: Bát sắt, Bát-tô ma, bát sành. Lại có ba cỡ: Lớn, nhỏ và vừa. Lớn là đựng được ba bát cơm của tín thí, trừ canh và rau. Nhỏ là đựng được một bát cơm của tín thí, trừ canh và rau. Vừa là chặng giữa của cỡ lớn và cỡ nhỏ. Vì muốn đẹp: Mong cầu bền chắc và tốt. Nếu đã có bát không hàn gắn bốn đường lại xin bát lành lặn cho đến hàn gắn bốn đường, nhận được, đều phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Nếu đã có bát lành lặn, cho đến bát hàn gắn bốn đường, lại xin bát ràng rịt năm đường, nhận được, đều phạm Đột-kiết-la.
Nên xả giữa Tăng: Bát mới nhận được nên xả cho chúng Tăng, không được xả cho một, hai, ba người. Pháp xả: Đương sự phải đến giữa Tăng thưa: Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là có bát chưa đủ năm đường hàn gắn, lại xin bát mới, phạm Xả đọa, nay xả cho Tăng. Đây là lời tác bạch. Tăng nên bạch nhị Yết-ma sai Tỳ-kheo biết pháp, đến giữa Tăng thực hành pháp xả, một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là có bát chưa đủ năm đường ràng, lại xin bát mới, nay xả cho Tăng. Nay Tăng sai Tỳ-kheo này tên là làm người hành bát. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch. Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là có bát chưa đủ năm đường hàn, lại xin bát mới, nay xả cho Tăng. Tăng nay sai Tỳ-kheo tên là làm người hành bát. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói. Tăng đã sai Tỳ-kheo tên là làm người hành bát rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, Tỳ-kheo này nên công bố và tất cả Tỳ-kheo đều mang bát của mình đến. Sau đó người hành bát đem bát xả đó tới trước Thượng tọa, hỏi: Thầy cần cái bát này không? Nếu vị Thượng tọa nói cần thì người hành bát lấy bát của Thượng tọa xem xét. Nếu Thượng tọa không có bát, hay bát quá lớn, hoặc quá nhỏ, hoặc lủng lỗ, méo mó thì không nên đổi. Nếu không có năm trường hợp trên thì nên trao cho (tức đổi). Đưa rồi, lấy bát của Thượng tọa đem đến vị Thượng tọa thứ hai, cho đến vị mới thọ giới Cụ túc cũng làm y như vậy. Tăng nên lấy bát tối hậu này (tức cái bát sau cùng không ai lấy) trao cho vị Tỳ-kheo xả bát. Trường hợp hành bát, không có vị nào lấy thì cho phép hoàn bát đó lại cho đương sự. Tăng nên có lời dạy: Đây là bát của thầy. Thầy phải hết lòng trân trọng hộ trì, đừng đặt bừa lên đất, đừng đựng những đồ thừa thãi, đừng đựng thức ăn cách đêm, đừng đựng nước nóng, đừng đựng hương, đừng đựng thuốc, cần trân trọng gìn giữ như thế. Nếu bát bị bể thì cho phép thầy xin cái khác. Tỳ-kheo-ni cũng thi hành như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ mười chín --------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Bạt-nanđà nhận được nhiều bát, mỗi cái dùng năm, sáu ngày lại đem để dồn xếp xó. Như vậy số bát cũ chỗ nào cũng có để. Các Trưởng giả thấy vậy hỏi: Bát của ai chất đống đây? Có ai đó nói: Của Bạtnan-đà. Các Trưởng giả nói: Sa-môn Thích tử thường nói thiểu dục, tri túc, mà nay không hề nhàm chán, thu gom chất chứa như người buôn bán bát, không có hạnh của Sa-môn, phá pháp Samôn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi cùng đưa đến chỗ Đức Phật, bạch lên Ngài sự việc ấy. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật quở trách nghiêm khắc rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào chứa bát dư cho đến một đêm, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo ở riêng một mình, nhận được hai cái bát, lại khơi dậy ý nghĩ: Đức Phật không cho phép ta chứa bát dư quá một đêm. Với ý nghĩ này, vị Tỳ-kheo liền đem một bát cho Tỳ-kheo khác. Sau khi cho, chiếc bát của Tỳ-kheo lại bị bể, không có bát để du hành. Các Tỳ-kheo hỏi: Trước đây thầy có hai cái bát, nay tại sao không còn cái nào? Tỳ-kheo trả lời bằng cách kể lại vấn đề. Các Tỳ-kheo đem sự việc ấy bạch Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Ông đem bát cho một thầy khác, sau đó được mấy ngày thì bát của ông bị bể? Bạch Thế Tôn, mười ngày. Đức Phật khen hạnh ít ham muốn, biết đủ, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này nên nói như sau: “Tỳ-kheo nào chứa bát dư cho đến mười ngày, nếu quá, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Khi nhận được hai bát thì nên hỏi Hòa thượng, A-xà-lê: Trong hai chiếc bát này cái nào tốt hơn? Nếu Hòa thượng, A-xà-lê không khéo phân biệt được thì nên dùng mỗi cái năm ngày, qua đó tự biết cái nào tốt hơn thì gìn giữ thọ trì, cái không như ý thì cho người. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ hai mươi --
---------------------
Đức Phật ở tại ấp A-đồ-tỳ. Lúc này, các Tỳ-kheo đích thân làm ngọa cụ bằng kiều-xa-da (tơ tằm), tự mình làm lại khiến người làm, tự mình gánh kén cũng khiến người gánh kén, tự mình nấu cũng khiến người nấu. Các Cư sĩ thấy, nói: Chúng ta ươm (nấu) kén Tỳ-kheo cũng ươm kén. Sa-môn Thích tử với ta đâu có khác gì? Những người này thường nói thương xót chúng sinh, nay lại chính mình ươm kén, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp của Sa-môn.
Có một Tỳ-kheo tự mình quay tơ tằm rồi nhờ các Tỳ-kheo khác may ngọa cụ, bị thiếu tơ, đến nhà người làm tơ nói: Tôi đang may ngọa cụ mà lại thiếu tơ, ít nhiều cho tôi được chứ? Người ấy nói: Có thể vì tôi mà ươm cho vậy. Người ấy liền nấu kén trước mặt Tỳ-kheo. Tiếng nhộng khua động trong kén, Tỳ-kheo bảo nhận nó xuống nước sôi. Người ươm tơ tỏ vẻ bực mình mắng ngay: Thầy thường nói không sát sinh mà nay lại bảo người sát sinh, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch với Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không?
Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào làm ngọa cụ mới bằng Kiều-xada, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Kiều-xa-da: Tức tơ làm bằng kén.
Ngọa cụ: Nệm nằm cho đến mới thành ba nấc không hư hoại gọi là ngọa cụ. Nên xả cho Tăng không nên xả cho người khác. Tăng nên dùng trải trên đất, hay trên giường dây, giường nằm. Trừ Tỳ-kheo xả ngọa cụ. Ngoài ra tất cả Tăng tùy theo thứ tự mà nằm ngồi. Khởi tâm muốn làm hay chuẩn bị làm đều phạm Đột-kiết-la. Làm thành phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Tuy không tự mình làm, người khác cho mà nhận cũng phạm Ni-tátkỳ-ba-dật-đề. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ hai mươi mốt.
--
---------------------
Đức Phật ở tại thành Câu-xá-di. Khi ấy phần đông người Bạt-kỳ dùng lông dê đen tuyền màu lấp lánh mượt mà rất quyến rũ làm đồ phục sức, ngọa cụ. Các Tỳ-kheo Bạt-kỳ cũng bắt chước làm như vậy. Bất chợt các Cư sĩ vào phòng xem chơi thấy vậy đâm hoảng, e sợ các hào tộc Bạt-kỳ tập hợp để vui chơi. Tiện lúc có người đi qua, các Cư sĩ hỏi: Đây là phục sức của quý nhân nào? Người ấy trả lời: Không phải vật dụng của quý nhân, mà là kiểu học đòi của Tỳ-kheo Bạt-kỳ! Các Cư sĩ dị nghị chê trách: Các Tỳ-kheo mà ăn mặc như nhà Vua, như Đại thần, như hào tộc lúc họ cần chưng diện để lên xe, xuống ngựa. Tôi nghe Tỳ-kheo mặc y cắt rọc, cầu đạo vô vi, nay lo cái mặc sang trọng như thế này chăng! Họ không có hạnh Samôn, phá pháp của Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe thế bằng mọi cách quở trách rồi bạch lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Thật sự ông có như vậy không? Dạ thưa: Thật có như vậy, bạch Thế Tôn. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào làm ngọa cụ mới bằng lông dê hoàn toàn màu đen, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Hoàn toàn đen: Lông dê đen hay nhuộm đen. Nên xả cho Tăng, Tăng dùng trải trên giường dây hay ghế ngồi, không được trải trên đất. Ngoài ra như trong giới ngọa cụ bằng Kiều-xa-da đã nói.
Xong giới thứ hai mươi hai.
---------------
Đức Phật ở tại thành Câu-xá-di. Bấy giờ, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ làm ngọa cụ bằng lông dê màu đen trộn thêm một ít lông trắng và lông sắc kém, và cho như thế là tịnh. Các Tỳ-kheo Trưởng lão thấy vậy hỏi: Thầy không nghe Đức Phật cấm làm ngọa cụ bằng lông dê toàn đen hay sao? Tỳ-kheo Bạt-kỳ trả lời: Có nghe, nhưng tôi đã trộn màu trắng và màu sắc kém, đâu phải là toàn đen. Các Tỳ-kheo nói: Toàn đen với đem pha một ít màu tạp thì đâu đủ để khác nhau? Bằng mọi cách quở trách rồi, các Tỳ-kheo bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia:
Thật sự ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Thật có như vậy. Phật bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo làm ngọa cụ với hai phần lông dê màu toàn đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu sắc kém. Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào làm ngọa cụ mới nên dùng hai phần lông dê màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu hạ (xám). Nếu làm quá mức lượng này, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Nếu Tỳ-kheo làm ngọa cụ bốn mươi Ba-la thì nên dùng hai mươi Ba-la lông màu đen, mười Ba-la màu trắng. mười Ba-la màu hạ. Nếu màu đen dư một Ba-la, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Ngoài ra như trong giới làm ngọa cụ bằng lông dê toàn đen đã nói.
Xong giới thứ hai mươi ba
---------------------
Đức Phật tại thành Câu-xá-di. Lúc ấy, các Tỳ-kheo Bạt-kỳ nảy ra ý nghĩ: Đức Phật đã cho phép chúng ta dùng hai phần lông dê màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu hạ để làm ngọa cụ. Vì thế, họ tìm xin được nhiều ba loại lông dê ấy rồi tự làm và khiến người làm ngọa cụ. Trong các trú xứ không chỗ nào là không có việc làm này. Các Cư sĩ đến thăm chơi, thấy thế bèn hỏi: Vật này của ai? Được trả lời: Của Tỳ-kheo Bạt-kỳ. Các Cư sĩ dị nghị chê trách, như trong giới chứa bát dư đã nói. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe được việc ấy, bằng mọi các quở trách rồi bạch lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này nên nói như sau: “Tỳ-kheo nào làm ngọa cụ mới, nên cất để dùng sáu năm, chưa đủ sáu năm, hoặc xả hay không xả lại làm ngọa cụ mới, phạm Ni-tátkỳ-ba-dật-đề”.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo nhận ra trong ngọa cụ phấn tảo có được nhiều tiện lợi nên cất giữ cẩn thận. Vì ngọa cụ này khá nặng nên không thể mang theo lúc đi xa. Vị Tỳ-kheo ấy muốn đi từ thành Xá-vệ về ấp Takiệt-đà, không biết làm thế nào để đem theo ngọa cụ ấy, nên bạch với các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo cùng đến chỗ Đức Phật bạch lên Ngài. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo này muốn đến ấp Ta-kiệt-đà, vì tấm ngọa cụ nặng, nhưng nhận thấy có điều lợi trong đó, nên không thể xả, lại không thể mang theo được. Tăng nên bạch nhị Yết-ma cho đổi cái nhẹ hơn. Tỳ-kheo nên đến giữa Tăng nói lên lời xin: Tôi Tỳ-kheo tên là đã gìn giữ ngọa cụ phấn tảo bên mình vì thấy trong ấy có điều lợi. Nay tôi muốn du hành đến chỗ đó, mà ngọa cụ nặng nên không thể mang theo được, xin Tăng cho tôi đổi cái ngọa cụ nhẹ của Tăng. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng xin như vậy. Trong Tăng nên sai một Tỳ-kheo bạch: Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là tự mình chứa ngọa cụ, thấy trong đó có điều lợi, nay muốn du hành đến chỗ kia, nhưng ngọa cụ nặng không thể mang theo được, đến trước Tăng xin đổi cái nhẹ hơn. Nay Tăng cho đổi. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo này tên là tự chứa ngọa cụ, thấy trong đó có điều lợi, muốn du hành đến chỗ đó, mà ngọa cụ nặng không thể mang theo được, nên đến xin Tăng đổi cái nhẹ. Nay Tăng cho đổi. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo tên là đổi lấy ngọa cụ nhẹ hơn của Tăng rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào làm ngọa cụ mới, phải thọ trì (chứa sáu năm), chưa đủ sáu năm, hoặc xả hoặc không xả, lại sắm ngọa cụ mới, trừ Tăng Yết-ma, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Sáu năm: Là tính đủ ngày trong sáu năm. Ngoài ra, như trong giới làm ngọa cụ bằng lông dê đen đã nói.
Xong giới thứ hai mươi bốn.
---------------------
Đức Phật ở tại thành Câu-xá-di. Bấy giờ, các người Bạt-kỳ làm Ni-sư-đàn bằng lông dê toàn màu đen, Tỳ-kheo ở Bạt-kỳ cũng xin lông dê để làm. Việc tìm tòi hỏi xin này làm cho các Cư sĩ rất phiền hà, chán nản. Sau đó họ đến trong phòng của Tăng xem, thấy các Tỳ-kheo cất chứa nhiều nệm ngồi bằng lông dê toàn màu đen, nên lắm lời chê trách, như trong giới làm ngọa cụ toàn đen đã nói. Các Tỳ-kheo Trưởng lão đem những điều đã nghe được, bạch lên Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Thật sự các ông có như vậy không? Dạ thưa, có như vậy, bạch Thế Tôn. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào làm Ni-sưđàn mới nên dùng một miếng bằng một gang tay Đức Thiện Thệ để làm nhằm hoại đi sắc tốt. Nếu không làm hoại sắc, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Một gang tay Đức Thiện Thệ vuông vức hai thước.
Làm hoại sắc: Là tùy ý phủ lên trên cái mới. Ngoài ra, như trong giới làm ngọa cụ bằng lông dê toàn đen đã nói.
Xong giới thứ hai mươi lăm -
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, các Tỳ-kheo người gánh, kẻ vác lông dê đi theo đường. Người đi đường thấy thế đều chê trách nói: Chúng ta vì gia đình, vì miếng cơm manh áo nên phải còng lưng gánh lông dê, các Tỳ-kheo cũng làm như vậy, thì hạng người mặc y hoại sắc cắt rọc, cạo đầu, khất thực cùng ta đâu có khác gì? Họ không làm theo hạnh của Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Có một Tỳ-kheo ở trên núi thường theo thói quen gánh lông dê đi đường, hôm đó quá mệt, lả người, khi về đến trước sân của Tăng phường thì té xỉu xuống đất. Các Tỳ-kheo thấy tưởng là bị ma quỷ nhập vào, liền lấy nước tiểu rưới lên mặt. Tỳ-kheo kia hỏi: Tại sao Trưởng lão lại rưới nước nơi mặt tôi? Trưởng lão đáp: Tôi sợ ma quỷ nhập nơi thầy nên mới xối chứ! Vị Tỳ-kheo tiếp lời: Đâu phải ma quỷ nhập, tại tôi gánh lông dê quá nặng đi đường mỏi mệt nên sốt nóng ngất xỉu thôi. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật chế Tỳ-kheo chỉ thọ trì ba y và bình bát, ví như chim bay được nhờ đôi lông cánh, thầy đâu không nghe mà lại còn gánh thứ ấy? Bằng mọi cách quở trách rồi, các Tỳ-kheo bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào gánh lông dê đi đường, phạm Nitát-kỳ-ba-dật-đề”. Vào một dịp khác, có Cư sĩ vì Tỳ-kheo làm một cái phòng, nghĩ:
Tỳ-kheo nào đến ở phòng này thì tôi cúng dường và cung cấp y. Sau đó, có một Tỳ-kheo đến ở, Cư sĩ bèn cúng lông dê, Tỳ-kheo không nhận, Cư sĩ nói: Con để dồn lông dê với bổn ý là vì Tỳ-kheo chứ không phải vì bản thân. Tỳ-kheo nói: Đức Phật không cho phép tôi tự gánh lông dê thì làm sao nhận được.
Lại có trường hợp Tỳ-kheo cần lông dê làm ngọa cụ, tự mình không biết làm, muốn nhờ Tỳ-kheo khác, nên không dám nhận, đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Người mà ông muốn nhờ ở cách ông xa gần? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Ở cách con ba do-tuần. Nghe thế, Đức Thế Tôn liền khen hạnh thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận được lông dê, nếu cần mang đến địa chỉ nào đó, thì tự mình mang đi và chỉ mang trong phạm vi ba dotuần, mang đi quá mức định, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Tỳ-kheo nhận được lông dê, cần mang đến địa chỉ nào đó, nên khiến tịnh nhân mang hộ, nếu không có tịnh nhân mới cho phép mình mang, nhưng không được đội trên đầu hay vác nơi lưng, nếu đội, vác phạm Đột-kiết-la. Sa-di phạm Độtkiết-la.
Không phạm: Trong phạm vi ba do-tuần, hay lần lượt thay nhau mang, hoặc có người mang thế, hoặc mang trở lại ba do-tuần lần thứ hai, hoặc chỉ mang năm, sáu Ba-la đủ để làm dây lưng hay cái mão…
Xong giới thứ hai mươi sáu --------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo sai Tỳ-kheo-ni giặt, nhuộm, đập lông dê. Các Tỳ-kheo-ni vì vấn đề cúng dường, không dám từ nan, do vậy công việc càng thêm bề bộn nên phế bỏ việc đọc tụng, tọa thiền, hành đạo. Các Cư sĩ nghe thấy điều này rất bất bình chê bai. Tỳ-kheo-ni Ba-xà-ba-đề cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni đến chỗ Đức Phật, như trong giới giặt y cũ đã nói. Nhân việc này, Đức Thế Tôn tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Thật sự có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào sai Tỳ-kheo-ni giặt, nhuộm, chải lông dê, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo có Tỳ-kheo-ni bà con, cũng như trong giới giặt y cũ đã nói. Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, khen hạnh ít ham muốn, biết đủ, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào sai Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt lông dê, hoặc nhuộm, hoặc chải, phạm Nitát-kỳ-ba-dật-đề”. Ngoài ra, như trong giới giặt y cũ đã nói.
Xong giới thứ hai mươi bảy
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Bạt-nan- đà trao đổi mọi thứ, phần lợi thuộc về mình, người khác không bao giờ được lợi từ sự trao đổi đó. Có một ngoại đạo nhận được một tấm vải chưa may thành, mang đến nhà ngoại đạo nói: May thành y cho tôi. Các người nói: Nhà tôi nhiều việc không thể may được. Sa-môn Thích tử nhàn rỗi không có việc gì, lại nhận được nhiều y bố thí, có thể đến đó nhờ may, cũng có thể trao đổi, nhưng Sa-môn kia rất dẻo mồm nổi tiếng là một nhà buôn, ông đến đó nên cẩn thận. Theo lời hướng dẫn, ngoại đạo mang tới nơi Tăng đang cư ngụ dò hỏi: Ai có thể vì tôi may chiếc y này? Quý vị đều nói không thể may được. Đương sự lại hỏi Bạt-nan-đà: Tôi nghe Đại đức có nhiều y đã may xong, có thể đổi cho tôi một cái được không?
Bạt-nan-đà nói: Các ngoại đạo của ông, tâm không dứt khoát, hay thay đổi bất thường, đổi được rồi lại nói tốt, xấu lôi thôi. Nếu sau khi đổi rồi không được nói gì thì tôi đổi cho.
Ngoại đạo nói: Người khác thì có thể đổi ý, chứ tôi thì không bao giờ nói tới, nói lui. Như đắc ý, Bạt-nan-đà lấy một cái y cũ được nhuộm lại bằng nước hồ Kiếp bối, nén ép thật láng để đổi. Ngoại đạo đổi được y rồi, đem về trong chúng của mình. Đồng bạn hỏi: Đã may thành y chưa? Đương sự nói: Đã đổi được y rồi. Đâu đưa chúng tôi xem với! Đương sự liền đem ra trình xem. Các người ngoại đạo xem qua đều lên giọng trách: Ối cha! Đem tấm vải quý giá đổi lấy cái y xấu tệ thế này, khờ thật, chênh lệch gấp năm, sáu lần, phải lấy vải lại thôi. Chúng tôi sẽ cùng nhau bỏ công may cho. Người ngoại đạo liền mang y trả lại, nói với Bạt-nan-đà: Ông là Thích tử, tại sao dối tôi, dùng y xấu tệ thế này đánh tráo cho tôi. Đổi lại cho tôi đi! Nếu không tôi rao truyền tiếng xấu của ông đó. Bạt-nan-đà nói: Tôi biết tâm ngoại đạo không dứt khoát, hay nói tới, nói lui, tôi không muốn đổi kia mà. Vì ông đã một lời dứt khoát nên tôi mới theo ý ông mà đổi, sao bây giờ lại nói như vậy? Tôi không đổi lại đâu! Ngoại đạo bèn la lớn. Các Cư sĩ hỏi: Tại sao ông la lớn thế? Ngoại đạo trả lời bằng cách kể lại chuyện đã xảy ra. Các Cư sĩ chê trách nói: Người đời mua bán sau bảy ngày còn đổi lại được, tại sao Sa-môn mới trong chốc lát lại không đổi được? Hình thức ăn mặc có khác với người đời, song mua bán thì quá hơn họ! Tiếng xấu ấy lan khắp các nơi. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe được, bằng mọi cách quở trách rồi bạch lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Dạ thưa có thật như thế, bạch Thế Tôn. Đức Phật bằng mọi cách quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào mua bán các thứ để cầu lợi, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Dùng cái đã làm đổi cái đã làm, dùng cái đã làm đổi cái chưa làm, dùng cái đã làm đổi cái làm chưa xong, dùng cái chưa làm đổi cái chưa làm, dùng cái chưa làm đổi cái đã làm, dùng cái chưa làm đổi cái làm chưa xong, dùng cái làm chưa xong đổi cái làm chưa xong, dùng cái chưa xong đổi cái đã làm, dùng cái làm chưa xong đổi cái chưa làm, đều phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo muốn trao đổi nên bảo tịnh nhân nói: Vì tôi lấy vật này đổi vật kia. Hơn nữa, phải với tâm niệm: Phải làm sao cho người kia được lợi hơn ta, ta không nên được lợi hơn người kia. Nếu tự trao đổi thì nên trao đổi với năm chúng xuất gia. Nếu cùng bạch y trao đổi phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni phạm cũng như vậy. Ba chúng dưới phạm Độtkiết-la.
Xong giới thứ hai mươi tám
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, Nan-đà, Bạt-nan-đà dùng vàng, bạc, tiền bằng vàng, tiền bằng bạc, tiền bằng tạp vật để mua vật dụng hay bán vật dụng, thu vào các loại tiền. Khi ấy có đám cướp đến thành Vương-xá, dò tìm, rình rập các nhà giàu, thấy hai Tỳ-kheo dùng nhiều vàng bạc và tiền mua vào bán ra các vật dụng để thu vàng, tiền vào. Chúng cùng nhau bàn nói:
Quan sát nơi thôn ấp này không ai giàu hơn Samôn Thích tử. Như vậy nơi A-lan-nhã cướp đoạt của cải Thích tử chắc dễ thôi. Vào ngay hôm sau, chúng đến nơi A-lan-nhã, bắt các Tỳ-kheo ở đấy tra khảo để lấy vàng bạc và các loại tiền. Các Tỳ-kheo nói: Chúng tôi đã xa lìa vàng bạc và tiền, không thọ nhận cất giữ các thứ bất tịnh ấy. Đám cướp nói: Các ông nói dối. Chính tôi thấy Tỳ-kheo dùng nó để mua bán. Họ tra khảo Tỳ-kheo gần chết, rồi lấy hết y, bát đi. Các Tỳ-kheo này chuyển lời quở trách Nan-đà, Bạt-nan-đà: Tại sao xuất gia lại cất chứa vật báu để đến nỗi gây tai họa đến chúng ta. Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Nan-đà, Bạt-nan-đà: Thật sự các ông có như vậy không?
Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật nghiêm khắc quở trách: Các ông là người ngu si, nếu các ông không làm vậy thì các Tỳ-kheo kia đâu có bị tai họa như thế. Bằng mọi cách quở trách xong rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào dùng vàng bạc và các loại tiền mua bán, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Phạm vật nên xả giữa Tăng, không nên dùng một, hai, ba người xả vật. Tỳ-kheo ấy nên bạch Tăng: Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là dùng vàng bạc và tiền mua bán phạm Xả đọa, nay xin đối trước Tăng xả. Đây là lời tác bạch. Tăng nên bạch nhị Yết-ma, sai một Tỳ-kheo làm người vất bỏ vàng bạc và tiền. Một Tỳ-kheo bạch: Đại đức Tăng xin lắng nghe: Tỳ-kheo này tên… dùng vàng bạc và tiền mua bán, phạm Xả đọa, nay xả cho Tăng. Tăng nên sai Tỳ-kheo tên là làm người vất bỏ vàng bạc và tiền. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch. Đại đức Tăng xin lắng nghe: Tỳ-kheo ấy tên… dùng vàng bạc và tiền mua bán, phạm Xả đọa, nay xả cho Tăng. Tăng sai Tỳ-kheo tên làm người vất bỏ vàng bạc và tiền. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói. Tăng đã sai Tỳ-kheo tên làm người vất bỏ vàng bạc và tiền rồi, Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy. Tỳ-kheo kia nên vất bỏ vật này trong hầm, trong lửa, trong dòng nước, trong đồng hoang, vất bỏ rồi, không nên ghi nhớ chỗ vất bỏ. Hoặc cầm đem bỏ chỗ khác thì không được lấy lại. Tỳ-kheo kia không nên hỏi Tăng: Vật này nên làm thế nào? Tăng cũng không nên bảo phải làm thế này, thế này. Nếu không đem vất bỏ, không hỏi Tăng, bảo tịnh nhân đem đổi lấy thức ăn hay y phục đem đến cho Tăng, Tăng có thể nhận. Nếu đem phân chia thì chỉ có người phạm tội không được nhận phần. Tỳ-kheo-ni phạm cũng như vậy. Ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la.
Không phạm: Tuy đã cho Tỳ-kheo mà Tỳ-kheo không hề biết, tịnh nhân nhận rồi mua tịnh vật.
Xong giới thứ hai mươi chín
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, Nan-đà, Bạt-nan-đà tự tay cầm vàng bạc và tiền, bảo người cầm, người cho cũng nhận. Các Cư sĩ thấy, chê trách, như trong giới gánh lông dê đã nói. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi các quở trách, rồi bạch lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Nan-đà và Bạt-nan-đà:
Thật sự hai ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi, Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tự mình cầm vàng bạc và tiền, hoặc khiến người cầm hay khởi tâm thọ nhận, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Ngoài ra, như trong giới sử dụng vàng bạc và tiền đã nói.
Xong giới thứ ba mươi
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo pháp sư, tên là Sa-lan, thông minh biện tài, tất cả bốn chúng, ngoại đạo, Sa-môn, Bà-la-môn không ai sánh kịp. Thậm chí, thầy sử dụng điều quấy, sai cho là đúng, đúng cho là sai, biết nói chẳng biết, chẳng biết nói biết, luôn luôn dùng tài ăn nói để hơn người. Các Tỳ-kheo thấy vậy, đều rất khâm phục, hỏi: Thầy cùng người biện luận lấy quấy làm phải, ý thầy cho đó là phải hay biết là quấy? Sa-lan nói: Thật sự tôi biết đó là quấy, nhưng vì sĩ diện sợ rơi vào chỗ bị thua nên phải nói dối thôi. Các thầy Tỳ-kheo Trưởng lão bằng cách nhắc lại lời Phật để quở trách: Đức Phật thường khen ngợi người không nói dối, dạy người không nói dối, nay thầy tại sao muốn hơn người mà lại nói dối. Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Sa-lan: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nói dối, phạm Ba-dật-đề”.
Lúc này, các Tỳ-kheo thấy Tỳ-kheo-ni nhầm nói là Tỳ-kheo, thấy Tỳ-kheo nói là Tỳ-kheo-ni, hoặc thấy nam nói nữ, thấy nữ nói nam, hay thấy ngoại đạo nhầm nói Thích tử, thấy Thích tử nói ngoại đạo. Các trường hợp thấy một cách khác nói theo một cách khác như vậy, các Tỳ-kheo kịp nhận thấy xấu hổ, tự nhủ: Chúng ta phạm Ba-dật-đề hay không?! Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo từ nơi tâm, do nhầm mà nói, phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cố ý nói dối phạm Ba-dật-đề”.
Cố ý nói dối: Như trong giới vọng ngữ được pháp hơn người đã nói. Tỳ-kheo-ni phạm cũng như vậy. Ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ nhất --------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, các Tỳ-kheo cùng Hòa thượng, A-xà-lê, đồng Hòa thượng, A-xà-lê siêng năng học hỏi, đầu đêm cuối đêm không hề ngủ nghỉ. Lục quần Tỳ-kheo khởi ý niệm: Nay các Tỳ-kheo lần lượt cùng nhau dạy bảo, đêm ngày không phế bỏ, như thế này, không bao lâu họ sẽ hơn ta, sẽ thấy lỗi của ta, sẽ tìm những tỳ vết của ta. Chúng ta cần phải cùng nhau hủy báng gây não loạn, khiến họ phế bỏ việc học. Lục quần bèn đến nói: Thầy là hạng hạ tiện, thuộc tầng lớp tiểu nhân, thợ thuyền. Thầy từng làm các việc đại ác, không nhân từ, không có hạnh lành.
Các Tỳ-kheo nghe liền sinh ưu não, thối chí phế bỏ việc học hành. Lục quần Tỳ-kheo nói với người khác: Tôi đã phá hoại việc đọc tụng, tọa thiền, hành đạo của họ. Các Tỳ-kheo Trưởng lão bằng mọi cách quở trách: Tại sao các thầy hủy báng các Tỳ-kheo, khiến họ phế bỏ việc học tập. Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Xưa kia có một cái thành tên là Đắcxoa-thi-la. Bấy giờ, trong thành ấy có một người Bà-la-môn nuôi một con bò đực, đi nhanh, nhiều sức. Lại có một Cư sĩ cũng nuôi một con bò, giống như con bò kia. Hai người đem hai con bò đấu sức nhau, con nào thua, chủ phải chung năm mươi kim tiền. Con bò của người Bà-la-môn đắc thắng. Mất năm mươi tiền vàng, người Cư sĩ bị nhục bèn tìm tậu một con bò khác, sức khỏe gấp bội con bò trước. Cư sĩ tăng tiền cược lên gấp bội.
Người Bà-la-môn liền nói với con bò mình: Người Cư sĩ kia vừa tậu một con bò khác, sức của nó phi phàm, lại đặt tiền đánh cá lên gấp bội, ngươi có thể địch nổi hay không? Con bò trả lời: Có thể. Họ liền tập hợp hai con bò lại một chỗ để đấu sức nhau. Khi ấy, người Bà-la-môn sợ con bò không thắng, bèn đốc suất, động viên bằng cách nói khích, chê con bò mình: cái sừng cong khổ sở, cái cổ yếu đuối bạc nhược, không thắng nổi, vứt đi thôi! Nay con bò mình đi đứng không ngay thẳng. Con bò nghe những lời nói ấy, sức lực liền bị suy sụp ngay và không thắng nổi con bò của Cư sĩ kia. Người Bà-la-môn nộp gấp bội tiền cược rồi, hỏi con bò: Vừa rồi ngươi nói với ta là có thể, tại sao bây giờ lại thua. Con bò trả lời: Thật sự tôi có đủ khả năng. Nhưng nghe những lời nhục mạ của ông nên bị kiệt sức.
Ông có thể cược lại gấp bội lần trước, điều cốt yếu là khi tôi dốc toàn lực kéo một trăm xe lên ngược triền núi cao, ông nên khéo lời khuyến dụ, nói cái sừng tôi đẹp, bộ đi của tôi ngoạn mục, hình thể tôi phơi phới, nhàn nhã, kéo trăm xe lên dốc núi như chơi, thì ông sẽ thắng cuộc. Quả thật ông ta đã thắng. Nhân việc này, Đức Phật liền nói kệ:
Lời thiện vừa lòng nhau Lời ác đau lòng người Súc sinh nghe lời khéo Vui kéo nặng lên đồi.
Vô địch sức này thắng Thắng cuộc rạng lòng vui Huống chi đối với người Khen chê quyết thành bại.
Này các Tỳ-kheo! Loài súc sinh nghe lời hủy báng còn mất sức kéo, huống chi là đối với người. Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào hủy báng Tỳ-kheo, phạm Ba-dật-đề”.
Hủy báng: Như nói dòng hạ tiện, dòng làm thợ v.v… Tuy nói thật mà có tâm hủy báng, nếu người kia nghe hiểu lời nói này thì phạm Ba-dật-đề, nếu không nghe, không hiểu phạm Đột-kiếtla.
Nếu nói: Thầy là dòng hạ tiện, nhưng vị ấy nói: Không phải, lại cố chứng minh là phải, mỗi lời nói đều phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo hủy báng Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni hủy báng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề, hủy báng Thức-xoama-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la. Thứcxoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni hủy báng năm chúng đều phạm Đột-kiết-la.
Không phạm: Lời nói vì muốn lợi ích, lời nói vì răn dạy, lời nói có sự thỏa thuận.
Xong giới thứ hai --------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo siêng năng học hỏi, như trong giới hủy báng đã nói. Lục quần Tỳ-kheo lại sợ hơn mình, bèn tìm cách quấy phá. Lục quần đến Tỳ-kheo này nói: Thầy với tôi là chỗ quen biết thân tình, ấy thế tôi lại nghe Tỳ-kheo kia nói thầy là hạng hạ tiện, dòng họ làm thợ, tiểu nhân, từng làm những việc đại ác, không nhân từ, không có hạnh lành. Tỳ-kheo kia nói thầy như vậy coi như nói về tôi không khác. Lục quần đến Tỳ-kheo kia cũng nói những lời như thế. Hai bên nghe như thế, tâm bị dao động, thối chí phế bỏ việc học tập, lại giận nhau không thèm đếm xỉa đến nhau. Có một Tỳ-kheo hỏi các Tỳ-kheo: Tại sao các thầy không nói chuyện với tôi? Tỳ-kheo kia trả lời: Có người nói: Thầy bảo tôi xấu. Vị kia hỏi: Ai nói? Đáp: Lục quần Tỳ-kheo nói. Vị kia nói: Lục quần Tỳ-kheo cũng nói các thầy nói tôi xấu. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách Lục quần Tỳ-kheo: Tại sao các thầy lại nói đâm thọc để gây xích mích? Quý vị bạch Phật, Đức Phật nhân việc này tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách: Các ông là người ngu si, tại sao đồng sống trong một giáo pháp mà lại đâm thọc nhau? Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Thuở đời quá khứ có con sư tử tên là Thiện nha và một con cọp tên là Thiện trảo, cùng nhau làm bạn thân tình. Có một con chồn rừng thường đi theo ăn đồ thừa. Sư tử và cọp không nói chuyện với nó. Sau đó, chồn rừng nảy ra ý nghĩ: Hai con thú này rất là yêu mến nhau, ta sẽ tìm cách gây rối để ta thừa hưởng thức ăn dư của hai bên được nhiều hơn. Chồn bèn đến cọp nói kệ:
Thiện trảo ông hùng mạnh
Sắc tướng khỏe, oai phong
Thiện nha nói ông xấu
Tôi nghe không vui lòng.
Chồn lại cũng đến bên Sư tử nói kệ:
Thiện nha ông hùng mạnh
Sắc tướng khỏe, oai phong
Thiện trảo nói ông xấu
Tôi nghe không vui lòng.
Hai con thú nghe kệ đều không vui với nhau. Thiện nha thông minh nên nhìn thầy ngay vấn đề: Thiện trảo không nói ta như vậy, mà chắc là chồn rừng muốn nội tình gây đấu loạn đây. Sau đó, Thiện nha bắt được con trâu nghé đem cho Thiện trảo, Thiện trảo không chịu ăn. Khi ấy, Thiện nha liền nói kệ hỏi:
Mồi ngon tôi đem biếu
Cớ sao bạn không dùng?!
Tình thân không hề lỗi
Sao xoay mặt buồn ngơ?!
Lời chồn, kẻ vô tín
Cốt ly gián tình ta!
Tin theo, ôm tình hận
Rồi ra thành oán cừu.
Việc này chẳng ai khác
Chính chồn rừng gièm pha
Kẻ hạ tiện rối ta
Nay phải tìm giết vậy.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Súc sinh còn cho gây rối là bậy, huống chi là đối với người. Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào dùng hai lưỡi gây tranh chấp nơi các Tỳ-kheo, phạm Ba-dật-đề”.
Ngoài ra như trong giới hủy báng đã nói.
Xong giới thứ ba
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, Bạt-nanđà thường tới lui một nhà Cư sĩ để nói pháp, lo liệu các việc quan, cứu chữa các bệnh khổ. Thời gian sau gia đình này bị suy tán kiệt quệ, chỉ con hai người, một mẹ chồng, một nàng dâu thôi. Vì tình thân hậu, Bạt-nan-đà nói pháp cho mẹ chồng nghe nhưng khi nàng dâu đến thì lại thôi. Khi vì nàng dâu nói pháp, nhưng lúc mẹ chồng đến thì cũng thôi như vậy. Điều này dẫn tới những ý nghĩ nghi kỵ lẫn nhau. Cứ ngỡ là Bạt-nan-đà muốn làm hạnh bất tịnh. Cả mẹ chồng lẫn nàng dâu đều nêu bày sự nghi ngờ ấy khắp nơi. Những người không tin ưa Phật pháp bèn chê trách nói: Sa-môn Thích tử làm hạnh phi pháp, quá hơn hạng người dâm đãng ở thế gian, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe được, bằng mọi cách quở trách rồi bạch lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạt-nan-đà thú nhận là có. Đức Phật nghiêm khắc quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào vì người nữ nói pháp, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, có Tỳ-kheo đại oai đức, đến giờ, đắp y mang bát vào thành khất thực, theo thứ tự tới một gia đình nọ. Người phụ nữ bước ra trải tòa mời Tỳ-kheo ngồi. Bà thiết cúng đồ ăn thức uống ngon bổ. Tỳ-kheo ăn xong, bà ta lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi phía trước rồi bạch: Đại đức vì con giảng nói pháp. Tỳ-kheo quán xét, biết người nữ kia chỉ không bao lâu nữa sẽ bị trúng gió chết và đọa vào địa ngục. Nếu bà ta nghe được pháp thì có thể từ nơi chỗ ngồi xa trần lìa cấu. Tuy biết rõ như vậy nhưng Tỳ-kheo lại nhớ điều cấm. Đức Phật không cho vì phụ nữ giảng nói pháp, dù bỏ mạng ta cũng không được phạm, do vậy nên Tỳ-kheo từ chối: Này Ưu-bà-di, cứ an tâm như thế, chứ tôi không thể nói pháp được. Dứt lời, Tỳ-kheo bỏ đi. Sau đó không lâu, quả thật người phụ nữ kia trúng gió chết. Tỳ-kheo thương tâm, khi trở về Tăng phòng, kể lại chuyện đó cho các thầy nghe. Các Tỳ-kheo cùng đưa đến chỗ Đức Phật để trình bày việc trên. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo ấy: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, thật sự có như trên. Đức Phật lại hỏi: Ông nếu vì người ấy giảng nói pháp thì cần bao nhiêu lời để họ hiểu? Tỳ-kheo thưa: Bạch Thế Tôn! Chừng năm, sáu lời. Rất bằng lòng, Đức Phật khen hạnh ít ham muốn, biết đủ, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo vì người nữ nói pháp đến năm, sáu lời. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào vì người nữ nói pháp, quá năm, sáu lời, phạm Ba-dật-đề”.
Khi đó, các Tỳ-kheo vào một gia đình khác được người phụ nữ mời nói pháp, Tỳ-kheo nói năm, sáu lời rồi đứng im lặng. Các phụ nữ thưa: Chúng con chưa hiểu xin thầy nói lại. Các Tỳ-kheo nói: Này Ưu-bà-di, Đức Phật không cho phép chúng tôi vì người nữ nói pháp quá năm, sáu lời. Các phụ nữ thưa: Có thể vì các Tỳ-kheo khác nói, nhân đó chúng con được hiểu. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật chưa cho phép chúng tôi nhân nói pháp cho Tỳ-kheo để người khác nghe. Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép nhân nói pháp cho Tỳ-kheo để người nữ được nghe. Lúc ấy, có một Tỳ-kheo vào nhà một vị Đại thần, không có Tỳ-kheo bạn, các phụ nữ mời nói pháp, Tỳ-kheo nói: Đức Phật không cho phép chúng tôi vì người nữ nói pháp quá năm, sáu lời. Các phụ nữ liền kêu tiểu nhi đến trước mặt rồi thưa: Bạch Đại đức, có thể vì thiếu nhi này nói pháp, nhân đó, chúng con được hiểu. Tỳ-kheo bảo: Đức Phật chưa cho phép Tỳ-kheo nhân có thiếu nhi nói pháp để cho phụ nữ nghe. Tỳ-kheo bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép vì người nữ thuyết pháp với điều kiện có người nam hiểu biết. Dù vậy, các Tỳ-kheo vẫn thắc mắc: Tuy Đức Phật cho phép vì người nữ thuyết pháp với nhân duyên là có người nam hiểu biết, song dù có người nam hiểu biết đi nữa, thì sự hiểu biết này ra sao vẫn không rõ ràng. Do đó, các Tỳ-kheo lại không nói pháp và đem vấn đề bạch phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép trước người nam biết phân biệt được lời nói thiện, ác, vì người nữ nói pháp. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào vì người nữ nói pháp quá năm, sáu lời, trừ có người nam biết phân biệt được lời nói thiện ác, phạm Ba-dật-đề”. Khi đó, có người Ưubà-tắc cưới một người vợ thuộc gia đình không cùng tín ngưỡng, ông ta thưa với các Tỳ-kheo: Xin Đại đức nói pháp để vợ con có được lòng tin kính ngôi Tam bảo. Xin thọ ba quy y, năm giới và tám phần giới, mười điều thiện, mười điều bất thiện. Các Tỳ-kheo tất nhiên không nói pháp, đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép người nữ thọ ba quy y, năm giới, tám phần giới, nói mười điều thiện, mười điều bất thiện. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sadi, Sa-di-ni thì phạm Đột-kiết-la.
Năm lời: Sắc vô thường, thọ, tưởng, hành, thức vô thường. Sáu lời: Nhãn vô ngã, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm vô ngã. Nếu Tỳ-kheo vì người nữ nói năm, sáu lời rồi, lại bảo: Này Ưu-bà-di! Chánh pháp được nêu giảng từng ấy thôi. Tỳ-kheo đứng dạy đi, song vì có nhân duyên nào đó nên quay trở lại ngồi xuống thuyết pháp, không phạm. Nếu nói năm, sáu lời rồi, lại có người nữ khác đến, vì người nữ đến sau nói, cứ như thế tương tiếp nhau cho đến bao nhiêu người nữ đi nữa vì họ nói pháp cũng không phạm. Nếu tự mình tụng kinh, người nữ đến nghe, người nữ hỏi nghĩa, nếu cần để cho họ được hiểu, nói quá năm, sáu lời đều không phạm.
Xong giới thứ tư --------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Lục quần Tỳ-kheo có uy lực, các Tỳ-kheo thiện khác không có uy lực. Lục quần Tỳ-kheo thường ngăn năm loại Yết-ma: Yết-ma quở trách, Yết-ma đuổi đi, Yết-ma y chỉ, Yết-ma cử tội, Yết-ma y hạ. Tỳ-kheo bị năm Yết-ma này, Tăng muốn giải cũng bị Lục quần ngăn không cho. Sau đó, Lục quần Tỳ-kheo không có uy lực, các Tỳ-kheo thiện có uy lực. chúng Tăng có việc cần Yết-ma, nhằm lúc Lục quần Tỳ-kheo đang may y, các Tỳ-kheo nói: Nay nên kêu Lục quần Tỳ-kheo đến cùng Tăng làm Tăng sự, nếu họ cần may y thì chúc thọ, gởi dục như thế là chúng được như pháp hành sự. Có Tỳ-kheo liền tập hợp Tăng, sai người nói với Lục quần Tỳ-kheo: Nay Tăng tập hợp, các thầy nên đến. Lục quần Tỳ-kheo nói: Chúng tôi có việc, nay sai người chúc thọ. Lục quần liền sai một người đến đại chúng chúc thọ, gởi dục. Khi ấy, Tăng cần thực hiện năm thứ Yết-ma, liền tác bạch năm thứ Yết-ma. Tăng cần giải năm thứ Yết-ma liền tác bạch giải năm thứ Yết-ma. Yết-ma xong, vị Tỳ-kheo chúc thọ gởi dục trở về lại chỗ Lục quần Tỳ-kheo, Lục quần Tỳ-kheo hỏi: Tăng làm việc gì? Vị ấy nói: Điều chúng ta muốn Yết-ma, Tăng đều không làm, điều mà chúng ta không muốn, Tăng lại làm. Lục quần Tỳ-kheo lại đến chỗ các Tỳ-kheo bị Yết-ma, nói: Các thầy đừng lo buồn, chúng tôi sẽ trợ lực cho các thầy. Vừa rồi vì chúng tôi không biết các thầy bị Yết-ma nên mới chúc thọ, gởi dục, nếu biết chúng tôi sẽ bỏ việc mà đến thì làm gì đủ duyên để cho Yết-ma này được thành tựu. Lục quần lại đến chỗ Tỳ-kheo được giải Yết-ma, nói: Tôi không cho thầy giải Yết-ma, không nhận sự sám hối của thầy. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, quở trách Lục quần Tỳ-kheo: Tại sao Tăng đã như pháp đoán sự rồi, thầy còn phát khởi lại?! Các Tỳ-kheo cùng đưa đến chỗ Đức Phật để trình sự việc. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Lục quần Tỳ-kheo thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, Tăng đã xử đoán sự rồi, còn phát khởi lại, phạm Ba-dật-đề”.
Khi ấy, các Tỳ-kheo không biết Tăng đã xử đoán sự rồi, nên phát khởi, sau mới biết, sinh tâm xấu hổ, hoặc có người xuất tội hối quá. Các Tỳ-kheo trưởng lão đem việc ấy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Trường hợp không biết Tăng xử đoán sự rồi, còn phát khởi lại, phạm Ba-dật-đề là điều không có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào biết Tăng xử đoán sự rồi, còn phát khởi lại, phạm Ba-dật-đề”.
Đã có trường hợp xử đoán sự không như pháp, điều này các Tỳ-kheo lại có ý nghĩ: Nếu Đức Phật cho chúng ta đối với trường hợp, xử đoán sự không như pháp được phép phát khởi lại là điều hay. Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép trường hợp Tăng xử đoán sự không như pháp, được phát khởi lại. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào biết Tăng xử đoán sự như pháp rồi, còn phát khởi lại, phạm Ba-dật-đề”. Nếu Tăng xử đoán sự như pháp mà phát khởi, phạm Ba-dật-đề. Nếu Tăng không bạch nhị Yết-ma xử đoán sự mà lại phát khởi, phạm Đột-kiết-la. Nếu phát khởi việc riêng, phạm Độtkiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ năm -
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ, cùng năm trăm Tỳ-kheo Tăng đến ấp A-đồ-tỳ. Khi ấy, Cư sĩ kia có ý nghĩ: Đức Phật lâu mới đến đây, chưa được gặp, Ngài lại đi. Chúng ta nên đến gần gũi các Tỳ-kheo để học tụng kinh kệ, thưa hỏi điều chưa hiểu, ngõ hầu sau khi Đức Thế Tôn đi, ta có chỗ nương dựa. Cư sĩ liền đến chỗ các Tỳ-kheo thưa: Đại đức dạy chúng con đọc tụng kinh kệ. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật chưa cho phép chúng tôi dạy người Cư sĩ tụng kinh. Do đó quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Cho phép dạy bạch y tụng kinh. Nhân khi các Tỳ-kheo từ nhiều nước xuất gia nên âm giọng đọc tụng kinh kệ khác nhau không đồng bộ, các Cư sĩ chê trách nói: Tại sao Tỳ-kheo ngày đêm gần gũi với nhau mà không biết được giọng nói nào của người nam, người nữ, của huỳnh môn, hai căn và nhiều ít ngữ pháp. Các Tỳ-kheo nghe, đều xấu hổ, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Các Tỳ-kheo công nhận là có. Đức Phật liền chuyển lời quở trách các Cư sĩ: Các ngươi là người ngu si, tại sao chê trách âm giọng của Tỳ-kheo các nước khác nhau tụng kinh không ăn nhịp. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào dạy người chưa thọ giới Cụ túc tụng kinh, phạm Ba-dật-đề”. Sau đó, lại có các Cư sĩ đến xin học tụng kinh, các Tỳ-kheo nói: Các người chê âm thanh của chúng tôi, không chịu đến học, nay ông cầu xin, chỉ uổng công thôi. Cư sĩ thưa: Thưa Đại đức! Con không hủy báng Phật pháp, không cầu mong phước điền nào khác. Đâu có thể vì cái lỗi của người kia mà không dạy con! Lại nữa, có các Sa-di cũng muốn học kinh, các Tỳ-kheo nói: Chờ thọ giới Cụ túc rồi mới dạy cho. Các Sa-di thưa: Chúng con xuất gia cần phải học đọc tụng kinh kệ. Tại sao phải đợi thọ giới Cụ túc rồi mới dạy đọc tụng? Các Tỳ-kheo đem vấn đề ấy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép dạy người chưa thọ giới Cụ túc tụng kinh, nhưng không được đồng tụng. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào dạy người chưa thọ giới Cụ túc tụng kinh, đồng tụng, phạm Ba-dật-đề”.
Đồng tụng, tụng một lượt, hoặc người tụng trước chưa dứt người kia đã tụng, hoặc người kia chưa dứt, người này đã tụng. Mỗi câu đều phạm Ba-dật-đề. Trước hết nên chỉ dẫn: Đợi tôi nói rồi, sau đó mới tụng. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ sáu ------------------
Đức Phật ở tại ấp A-đồ-tỳ. Do Phật sắp đi nên các Cư sĩ nọ đến chỗ trú ngụ của Tỳ-kheo và nơi đây các Cư sĩ cùng các Tỳ-kheo ngồi thiền, hoặc cùng đi kinh hành, đầu đêm cuối đêm đều không nằm ngủ. Vào dịp này, các Tỳ-kheo cứ năm ngày thuyết pháp suốt đêm nên quá mỏi mệt phải đi nằm. Có một Tỳ-kheo không chuyên cần giữ niệm nên ngủ quá mê, đạp tuột chiếc y rời khỏi thân để lộ rõ hình đang khởi. Cư sĩ thấy vậy lấy y phủ lại, cho đến lần thứ ba, bèn nổi giận chê trách: Những người này thường nói tâm dục là điều đáng chê trách, nay phát khởi lộ hình như thế này, phải chăng họ không vui sống với đạo, sao không hoàn tục? Tỳ-kheo kia nghe lòng cảm thấy xấu hổ. Tỳ-kheo Trưởng lão nghe cũng cảm thấy hổ thẹn, do đó bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách Tỳ-kheo kia. Ta thường khen ngợi người ngủ không có tâm tán loạn nên không có năm điều ác, nay ông tại sao ngủ mà không thâu giữ niệm. Nếu Tỳ-kheo ở chỗ kinh hành, ngồi thiền, đứng, ngồi, nằm phi oai nghi, người thấy không vui, không sinh lòng tin, người có lòng tin thì thoái lui, như vậy chẳng phải là người làm ánh sáng cho đời. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Ta vì các Tỳ-kheo nên kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng người chưa thọ đại giới ngủ đêm, phạm Ba-dật-đề”. Sau đó, các Cư sĩ lại muốn đến chỗ các Tỳ-kheo tọa thiền, hành đạo, các Tỳ-kheo đuổi ra không cho vào. Các Cư sĩ thưa: Chúng con không muốn thấy Đại đức xua đuổi như thế, chúng con không tìm cầu phước điền nào khác, chúng con chỉ nương nhờ Đại đức, không lẽ một người có lỗi mà đuổi hết bao nhiêu người! Trong số các Cư sĩ, có người khỏe mạnh đột nhập vào phòng, các Tỳ-kheo không ngăn chận được, bèn ra ngoài phòng ngủ, bị mòng muỗi, gió mưa, bụi bặm khốn đốn. Bấy giờ, Đức Phật từ ấp A-đồ-tỳ đến nước Câu-xá-di, ngụ ở vườn Cù-sư-la. Riêng mình Lahầu-la đến căn phòng nơi Bà Kỳ La, dọn dẹp lau quét rưới nước một phòng, trải tọa cụ, lấy nước xong, đóng cửa rồi đến chỗ Phật. Sau đó, phòng của La-hầu-la được vị Tỳ-kheo phân phối ngọa cụ giao lại cho vị khác. Vị Tỳ-kheo này nhận phòng vào ở. La-hầu-la đầu đêm nghe pháp xong, trở về phòng để dọn dẹp. Nghe tiếng động Tỳ-kheo ấy hỏi: Ai đó? Tôi là La-hầu-la. Vị Tỳ-kheo ấy hỏi tiếp: Ông đến đây có việc gì? La-hầu-la đáp: Đây là phòng của tôi. Đáp: Tỳ-kheo phân phối ngọa cụ đã giao cho tôi rồi. La-hầu-la nói: Trước đây tôi đã dọn quét, trải ngọa cụ rồi, tạm thời đến chỗ Phật để nghe pháp, tại sao có ý không muốn trả phòng lại cho tôi?! Vị Tỳ-kheo ấy nói: Tuy ông có dọn quét sửa soạn, nhưng tôi là Thượng tọa nên được ở phòng này. La-hầu-la hỏi: Tôi có thể cùng ở được không? Vị ấy trả lời: Không được. La-hầu-la xin ngồi, đứng trong phòng hay ở tạm ngoài hành lang đều không chấp nhận. Với thế cùng này, La-hầu-la nảy ra ý nghĩ: Ta đến phòng nào khác thì rồi cũng như vậy, chỉ còn có cách là đến ngủ nơi nhà vệ sinh là yên thân hơn cả. Lahầu-la đành đến ngủ nơi nhà vệ sinh. Khi ấy, trong nhà vệ sinh có một con rắn đen. Do thiên nhãn của Đức Phật, Ngài thấy được và nghĩ: Nếu ta không đến thì chỉ trong chốc lát là La-hầu-la bị rắn cắn chết. Đức Phật liền đến nơi nhà vệ sinh khảy móng tay, tằng hắng. La-hầu-la cũng trả lời bằng khảy móng tay, tằng hắng. Đức Phật hỏi: Ai đó? Con là La-hầu-la. Ngài lại hỏi: Tại sao con ở nơi đây? La-hầu-la trả lời bằng cách kể rõ lại câu chuyện. Biết rõ việc như vậy, Đức Thế Tôn dẫn La-hầu-la về nơi phòng mình. Sáng ngày sau, tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Thật sự ông không dung chứa La-hầu-la phải không? Bạch Thế Tôn, có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi sự nghiêm khắc quở trách: Ông là người ngu si. Làm sao con cáo rừng lại xua đuổi sư tử! Lúc này, các Tỳ-kheo nhân việc ấy bạch lên Phật vấn đề các Cư sĩ vào phòng, Tỳ-kheo ra ngủ ngoài trời. Đức Phật bằng mọi cách khen hạnh ít ham muốn, biết đủ, khen giới, khen người trì giới rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo cùng người chưa thọ đại giới ngủ hai đêm. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng người chưa thọ đại giới ngủ quá hai đêm, phạm Ba-dật-đề”.
Cùng ngủ: Cùng ngủ một phòng. Phòng, trên có lợp, bốn phía có vách, hoặc trên có lợp không có một vách hay hai vách đều phạm Ba-dật-đề. Không có ba vách thì không phạm. Nếu có bốn vách, trên lợp một nửa, hoặc chưa được một nửa, hoặc hơn một nửa đều phạm Ba-dật-đề. Nếu chỉ mới lợp chút ít thì không phạm. Đối với những chỗ này, nếu quá hai đêm, đến phần sau của đêm, hông dính xuống giường, cho đến trở mình, đều phạm Ba-dật-đề.
Không phạm: Có lợp, đều có sự ngăn cách, hoặc bệnh không thể dời đi được, hoặc có các nạn, hoặc thường ngồi không nằm, hoặc người kia nằm Tỳ-kheo ngồi, hay người kia ngồi Tỳ-kheo nằm. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy.
Xong giới thứ bảy
---------------------
Đức Phật ở tại Tỳ-xá-ly. Khi ấy, nhằm lúc mất mùa khất thực khó được. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo, mỗi vị tùy theo sự quen biết, đến đó an cư. Có một số Tỳ-kheo đến an cư ở bên sông Bà Cầu Mạt, bằng mọi nhân duyên, như trong giới tự xưng mình được pháp hơn người đã nói, cho đến câu: Phật hỏi: Các ông khen ngợi như vậy là thật hay là hư? Các Tỳ-kheo ấy trả lời: Thật cũng có, hư cũng có. Đức Phật dạy: Hư dối thì phạm Ba-la-di. Bằng mọi cách quở trách các Tỳ-kheo thật sự làm việc ấy nói: Tại sao các ông hướng đến người chưa thọ giới Cụ túc nói mình đắc pháp vượt hơn người? Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào hướng đến người chưa thọ giới Cụ túc, tự nói đắc pháp hơn người, như nói tôi biết như vầy, thấy như vầy, phạm Ba-dật-đề”.
Pháp hơn người: Như trên đã nói, nếu hướng đến người chưa thọ giới Cụ túc, tự nói đắc pháp hơn người, mỗi lời nói phạm Ba-dật-đề. Nếu người thọ đại giới không hỏi mà nói, mỗi lời phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiếtla.
Không phạm: Nói trước khi Nê Hoàn nhập diệt, người thọ giới Cụ túc hỏi, nên nói.
Xong giới thứ tám --------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc vì cố ý xuất bất tịnh, hoặc cùng người nữ thân xác xúc chạm, hoặc hướng đến người nữ nói lời thô tục, hoặc hướng đến người nữ tự khen mình để được cúng dường bằng thân. Có vị đến Tăng xin Biệt trú, Tăng cho Biệt trú, hoặc hành Ma-na-đỏa, hoặc hành Bổn nhật, hoặc có người xuất tội. Lục quần Tỳ-kheo ở trong chúng châm biếm các vị này khiến các Tỳ-kheo càng thêm xấu hổ. Một Tỳ-kheo phạm tội cố ý xuất bất tịnh, Tăng cho Biệt trú. Lúc ấy, người đàn-việt của Tỳ-kheo kia thỉnh Tăng dùng cơm, trải riêng cho Tỳ-kheo ấy một tọa cụ rất tốt. Lục quần Tỳ-kheo đến sớm hơn nơi nhà mời cơm, ngồi trên chỗ tọa cụ tốt nọ, Cư sĩ nói: Đừng ngồi chỗ ấy. Đó là chỗ tôi dành riêng cho Tỳ-kheo Lục quần Tỳ-kheo nói: Tỳ-kheo kia không nên ngồi chỗ này. Cư sĩ nói: Nên cùng không nên tôi tự biết điều đó. Lục quần Tỳ-kheo nói: Vị kia trước đây thì nên ngồi chỗ này, nhưng nay thì nên ngồi chỗ thấp nhất. Cư sĩ lại hỏi: Vì lý gì như vậy? Lục quần nói: Tỳ-kheo kia có tội. Cư sĩ lại hỏi: Phạm tội gì? Lục quần đáp: Tội cố ý xuất bất tịnh. Cư sĩ bèn chê trách nói: Các Sa-môn này thường nói: Trừ tư tưởng về dục, chấm dứt lửa dục, đoạn cảm giác đối với dục mà nay như thế này là làm ô uế đạo, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách Lục quần Tỳ-kheo: Tại sao các thầy hướng đến người chưa thọ cụ giới nói tội thô ác của người khác? Quý Tỳ-kheo bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Có thật như vậy, bạch Thế Tôn. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo nên kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào hướng đến người chưa thọ cụ giới nói tội thô ác của người khác, phạm Ba-dật-đề”. Có các Tỳ-kheo không biết là tội thô ác, hướng đến người chưa thọ cụ giới nói, sau mới biết sinh lòng nghi: Phải chăng ta đã phạm Ba-dật-đề?! Do đó, bạch Phật, Đức Phật nhân việc này tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu Tỳ-kheo không biết người khác phạm tội thô, hướng đến người chưa thọ cụ giới nói, phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào biết người khác phạm tội thô ác, hướng đến người chưa thọ cụ giới nói, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn ra lệnh cho Tăng Yết-ma sai Tôn giả Xá-lợi-phất đến trong chúng của Điều-đạt công bố: Nếu người nào thọ năm pháp của Điều-đạt thì người ấy không thấy Phật, Pháp, Tăng. Các Tỳ-kheo lại suy nghĩ về điều dạy này: Nếu hướng đến người chưa thọ cụ giới nói tội thô ác của người khác cần phải tác Yết-ma, bất tất phải như vậy sao? Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu Tăng không tác Yết-ma thì không được hướng đến người chưa thọ cụ giới nói tội thô ác của người khác. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào biết Tỳ-kheo khác phạm tội thô ác, hướng đến người chưa thọ cụ giới nói, trừ Tăng yết-ma, phạm Ba-dật-đề”.
Tội thô ác: Là Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa.
Người được Tăng Yết-ma phải tùy theo sự chỉ giáo của Tăng, nếu Tăng bảo đến nói với A mà nói với B, bảo nói tội này lại nói tội khác đều phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo nói tội thô của Tỳ-kheo-ni, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni nói tội thô của Tỳ-kheo, của Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni nói tội thô ác của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, phạm Đột-kiết-la. Nếu người chưa thọ cụ giới đã nghe Tỳ-kheo kia phạm tội thô, hỏi Tỳ-kheo, Tỳ-kheo hỏi lại: Người nghe như thế nào? Người kia nói: Tôi nghe như vậy, như vậy. Sau đó, Tỳ-kheo nói: Tôi cũng nghe như vậy, như vậy thì không phạm.
Xong giới thứ chín --------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bằng nhiều cách khen ngợi Tỳ-ni, khen ngợi người tụng Tỳ-ni, khen ngợi người thọ trì Tỳ-ni, khen ngợi Ưu-ba-ly: Tỳ-kheo trì luật có năm công đức:
Tự mình kiên cố hộ trì giới phẩm.
Có khả năng đoạn nghi cho người có hổ thẹn.
Tự mình trụ trong chánh pháp.
Khi cần nói giữa Tăng, không có sự sợ sệt.
Hàng phục oán địch.
Khi ấy, các Tỳ-kheo khơi dậy ý nghĩ: Đức Phật vì chúng ta dạy như vậy, tại sao chúng ta lại không siêng năng đọc tụng, học hỏi Tỳ-ni? Các Tỳ-kheo liền hết sức mình tụng tập suốt ngày đêm không biếng nhác. Lục quần Tỳ-kheo sinh lòng đố kỵ tự nghĩ: Nay các Tỳ-kheo siêng năng đọc tụng, học hỏi Tỳ-ni, chắc chắn sẽ thông tỏ các tội tướng, thấy lỗi của chúng ta, cuối cùng làm tổn hại ta. Nay ta nên cùng nhau chê bai Tỳ-ni, chê bai người học Tỳ-ni, khiến cho họ phế bỏ không đọc tụng học tập nữa. Lục quần Tỳ-kheo bèn đến các Tỳ-kheo hỏi: Thầy đọc tụng thứ gì đó? Các thầy trả lời: Đọc tụng Tỳ-ni. Lục quần nói: Phiền gì phải học tập đọc tụng các giới linh tinh đó? Sao không đọc tụng năm ấm, sáu nhập v.v… các nghĩa của kinh? Đọc tụng Tỳ-ni bất quá là bốn việc, mười ba sự, hai pháp bất định, đâu phiền chi phải biết nhiều, biết nhiều thấy nhiều càng tăng thêm điều nghi cho người. Các Tỳ-kheo nói: Biết nhiều, nghi nhiều, chúng tôi cũng thấy như vậy. Do đó, các Tỳ-kheo không tụng tập nữa. Lục quần Tỳ-kheo nói với nhau: Các Tỳ-kheo kia không tụng tập Tỳ-ni nữa, chúng ta thỏa mãn, để được an lạc. Các Tỳ-kheo nghe, hỏi: Các thầy nói gì đó? Lục quần nói lại sự thật. Khi biết được như thế các Tỳ-kheo Trưởng lão bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Thưa có thật, bạch Thế Tôn. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo nên kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nói như vầy: Phiền gì nói những giới linh tinh đó, khi nói các giới ấy, khiến cho người lo buồn, ai chê bai giới như vậy, phạm Ba-dật-đề”.
Giới: Tức là Ba-la-đề-mộc-xoa, giới kinh được đọc nửa tháng mỗi lần khi Bố-tát. Nếu Tỳ-kheo khởi tâm với ý nghĩ: Muốn khiến cho người xa lìa Tỳ-ni, không tụng không đọc, chê bai giới, phạm Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo khởi tâm với ý nghĩ: Ta sẽ chê bai khiến cho Ba-la-đề-mộc-xoa không được tồn tại tức chê bai giới, phạm Thâu-lan-giá. Nếu dạy người xa lìa các kinh do Phật nói, chê bai như vậy, phạm Ba-dật-đề. Chê bai bằng mọi cách muốn khiến cho chánh pháp không tồn tại, phạm Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo chê bai giới Tỳ-kheo, phạm Ba-dật-đề, chê bai giới Tỳ-kheo-ni, Thứcxoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni chê bai giới Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề, chê bai giới Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Đột-kiết-la. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sadi-ni chê bai giới năm chúng, phạm Đột-kiết-la. Năm chúng chê bai giới Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, phạm Đột-kiết-la. Nếu sợ người mới thọ giới sinh tâm nghi, phế bỏ, thối tâm, nên dạy: Chưa có thể tụng giới thì không phạm.
Xong giới thứ mười
---------------------
Đức Phật từ nước Câu-tát-la cùng năm trăm Tỳ-kheo hướng đến ấp A-đồ-tỳ. Khi nghe Phật sắp đến, các Tỳ-kheo nơi đây có những suy nghĩ: Nơi ấp này các Cư sĩ không có lòng tin kính Phật pháp, lại không có đại giảng đường, Phật cùng đại chúng đến sẽ ở đâu! Các vị liền tập hợp để lấy quyết định chung: Phải cùng chung sức chặt đốn cây cỏ để xây cất. Đây là động cơ để các Cư sĩ chỉ trích: Chúng ta là Cư sĩ chặt đốn cây cỏ, người xuất gia do duyên cớ gì cũng làm như vậy! Những người này thường nói tâm từ, nhẫn nhục, hộ niệm chúng sinh, mà nay chặt đốn cây cỏ, việc làm tổn thương vô đạo, thật không có hạnh Samôn, phá pháp Sa-môn. Sau khi đến ấp, Đức Phật vào giảng đường mới cất rồi an tọa nơi tòa. Ngài hỏi các Tỳ-kheo: Nhà này ai cất? Các Tỳ-kheo thưa: Chúng con cất. Đức Phật lại hỏi: Ai chặt đốn cây gỗ? Lại thưa: Chúng con tự đốn. Đức Phật bằng sự nghiêm khắc quở trách: Các ông là người ngu si, không nên làm việc này, sinh mạng trong cây cỏ nên tưởng là sinh mạng của con người. Các ông làm việc này chẳng khác gì đem cái ác gieo vào lòng người. Chê trách rồi, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào sát hại cỏ cây sống, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo bảo người giữ vườn hoặc Sa-di chặt đốn cây cỏ. Các Tỳ-kheo Trưởng lão hỏi: Đức Phật há không cấm việc sát hại sự sống của cây cỏ hay sao? Các Tỳ-kheo trả lời:
Chúng tôi khiến người làm thì không trái lời Phật cấm. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nói: Tự mình giết, dạy người giết đâu có khác gì! Trưởng lão bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Thưa có thật, bạch Thế Tôn. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tự mình sát hại sự sống của cỏ cây hoặc bảo người đốn chặt, phạm Ba-dật-đề”.
Vào dịp nọ, các Tỳ-kheo định làm phòng xá mới, có các Cư sĩ xem xét chỗ ở, nói với các Tỳ-kheo: Lành thay, Đại đức, vật liệu làm phòng xá này con xin cúng hết, nên hoàn thành sớm để chúng con được cái phước cúng vật dụng. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật không cho phép chúng tôi tự chặt cây cỏ hoặc sai người chặt thì làm sao hoàn thành được? Do vậy, các Tỳ-kheo không có phòng xá để ở và cũng do vậy mà ngoài sân cỏ mọc lút người, lại thiếu tăm xỉa răng cũng không biết làm sao. Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Có bốn loại mầm sống: Mầm sống do gốc, mầm sống do nhánh, mầm sống do lóng, mầm sống do hạt. Phàm các loại cây cỏ đều do bốn loại mầm sống này mà sinh trưởng. Nếu Tỳ-kheo cần dùng loại cỏ cây nào thì nói với tịnh nhân: Người biết việc này cho: Nếu tịnh nhân không hiểu, nên nói lại: Người xem việc này cho! Nếu cũng không hiểu thì nói lại: Tôi cần việc này! Nếu không hiểu nữa thì nói: Cho tôi việc này! Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tự mình chặt phá thôn xóm của quỷ thần, hoặc khiến người, nói: Chặt cái này, phạm Ba-dật-đề”.
Cỏ sống, tưởng là cỏ sống, nghi là cỏ sống mà chặt đều phạm Ba-dật-đề. Cỏ khô, tưởng là cỏ sống, nghi là cỏ khô mà chặt phạm Đột-kiết-la. Cỏ khô, tưởng là cỏ khô mà chặt thì không phạm. Nếu dùng dao búa chặt, mỗi nhát chặt phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-mana, Sa-di, Sa-di-ni vô cớ mà giết cỏ cây sống, phạm Đột-kiết-la. Nếu cỏ cây đã bị cháy không còn sự sống thì chặt đốn, không phạm.
Xong giới thứ mười một -
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo luôn luôn phạm tội, như lên giường xuống giường đều không đúng pháp, lúc nào cũng ăn, ăn biệt chúng, vào xóm làng phi thời không thưa với Tỳ-kheo thiện. Các Tỳ-kheo thấy vậy nói: Các thầy chớ nên liên tiếp phạm các tội như vậy. Các thầy nên tự thấy tội và hướng đến chúng Tăng sám hối, đừng nên phụ lòng của tín thí để rồi nhiều kiếp phải thọ khổ. Lục quần Tỳ-kheo nói: Tôi phạm tội gì? Các Tỳ-kheo nói: Thầy phạm tội như vậy, như vậy. Lục quần Tỳ-kheo không trả lời là phạm hay không phạm, lại nói sang việc khác. Các Tỳ-kheo nói: Tại sao thầy không trả lời là phạm hay không phạm, là điều chúng tôi hỏi, thầy lại nói việc khác, là điều chúng tôi không hỏi?! Lục quần Tỳ-kheo nói: Tôi biết các thầy không hỏi việc đó mà tôi tự nói. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách rồi bạch lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Lục quần Tỳ-kheo thưa: Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo. Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào không tùy thuận trả lời mà nói sang việc khác, phạm Ba-dật-đề”. Sau đó, Lục quần Tỳ-kheo cũng phạm tội như trước, các Tỳ-kheo cũng bảo sám hối. Lục quần Tỳ-kheo lại nín thinh không trả lời. Các Tỳ-kheo hỏi: Đức Phật chế giới không cho phép không tùy thuận trả lời, tại sao thầy cố tình nín thinh? Lục quần Tỳ-kheo nói: Đức Phật cấm không tùy thuận trả lời, nay tôi không nói thì có tội gì? Các Tỳ-kheo nói: Nói quanh với không nói đâu có khác gì? Bằng mọi cách quở trách, rồi các Tỳ-kheo bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Thưa có thật, bạch Thế Tôn. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Nói quanh với không nói đâu có khác gì? Quở trách xong, Phật bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cố ý không trả lời theo câu hỏi, phạm Ba-dật-đề”. Nếu không trả lời theo câu hỏi, mỗi câu hỏi đều phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-mana. Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la. Nếu trả lời nhầm câu hỏi, hay có sự giận nhau trước, không nói chuyện với nhau nên không trả lời thì không phạm.
Xong giới thứ mười hai --
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, Tỳ-kheo Từ-địa nói: Tỳ-kheo Đà-bà tùy theo sở thích, giận, si, sợ để làm việc. Các Tỳ-kheo nghe, quở trách: Tại sao thầy vu cáo người được Tăng sai là làm việc tùy theo sở thích, giận, si, sợ? Các Tỳ-kheo bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo Từ-địa: Thật sự ông có như vậy không? Từ-địa thưa: Bạch Thế Tôn, thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo. Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào trước mặt nhiều người vu cáo người được Tăng sai, phạm Ba-dật-đề”. Đã cấm như vậy nên Từ-địa lại không vu cáo trước mặt, nhưng ở chỗ một mình vu cáo nói: Tỳ-kheo Đàbà làm việc tùy theo sở thích, giận, si, sợ. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe liền quở trách: Đức Phật cấm vu cáo trước mặt, tại sao thầy còn cố ý vu cáo người được Tăng sai? Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Từ-địa: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Vu cáo trước mặt với vu cáo sau lưng có gì khác đâu!
Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào vu cáo người được Tăng sai, phạm Ba-dật-đề”. Nếu người được Tăng sai bằng bạch yết-ma, bạch nhị Yết-ma, Bạch-tứ-yết-ma mà vu cáo, nói người này làm việc theo sự ưa muốn, giận, si, sợ, mỗi lời nói đều phạm Ba-dật-đề. Nếu Tăng sai mà không Yết-ma và đối với người khác mà vu khống như vậy, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la. Nếu sự thật có làm tùy theo sở thích, giận, si, sợ, nên nói: Tôi sẽ nói cho người kia nghe, không phạm.
Xong giới thứ mười ba -
---------------------
Đức Phật ở tại Tỳ-xá-ly. Có một trứ xứ ở chỗ ẩm thấp, một Tỳ-kheo nhận được phòng ẩm thấp, đem ngọa cụ ra trải chỗ đất trống để phơi. Đến giờ, đắp y mang bát vào thành khất thực. Sau khi đi, trời mưa lớn, nước ngập, ngọa cụ phơi bị trôi mất. Khất thực xong trở về, không thấy, liền vội vã đi tìm, hoặc bắt gặp chiếc giường lớn, hoặc được cái ghế nhỏ, các vật dụng linh tinh, cái mền, các Tỳ-kheo thấy hỏi: Thầy được ngọa cụ và các vật ấy ở đâu? Tỳ-kheo kia kể lại câu chuyện như trên. Các Tỳ-kheo trưởng lão quở trách: Thầy làm điều phi pháp, Tăng có được ngọa cụ là điều khó, đã đem trải phơi, tại sao không lấy vô, đến giờ đi không dọn dẹp để đến nỗi trôi mất như thế?! Nếu mất rồi thì phòng đó trống không. Quý vị quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Thật sự ông có như vậy không?! Thưa có thật, bạch Thế Tôn. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nơi đất trống trải ngọa cụ của Tăng, khi đi không dọn dẹp, phạm Ba-dật-đề”.
Lúc ấy, Lục quần Tỳ-kheo sai người giữ vườn, Sa-di, trải ngọa cụ của Tăng nơi đất trống khi đi không dọn dẹp, bị chim cắn, bị mưa ướt, lấm bùn đất hư hoại, các Tỳ-kheo Trưởng lão thấy, hỏi: Thầy không nghe Phật cấm, nơi đất trống không được trải ngọa cụ của Tăng, khi đi không dọn dẹp hay sao? Lục quần Tỳ-kheo nói:
Tôi sai người trải nên không trái lời Phật dạy. Các Tỳ-kheo nói: Tự mình trải với sai người trải đâu có khác gì nhau? Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Bằng mọi hình thức Đức Phật quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, nơi đất trống tự mình trải ngọa cụ của Tăng, hoặc sai người trải, khi đi không dọn dẹp, không bảo người dọn dẹp, phạm Ba-dật-đề”. Có các Tỳ-kheo, nơi đất trống trải ngọa cụ của Tăng, Lục quần Tỳ-kheo đến sau, hoặc nằm hoặc ngồi trên ngọa cụ đó, khi đi không dọn, Lục quần Tỳ-kheo tưởng là Tỳ-kheo đến trước dọn. Nhưng không ai dọn, các Tỳ-kheo không biết thế nào, đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo trước nên dặn Tỳ-kheo sau, Tỳ-kheo sau nên dọn. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nơi chỗ đất trống, tự mình trải ngọa cụ của Tăng, hoặc sai người trải, hoặc người khác trải mình có ngồi hay nằm, khi đi không tự mình dọn, không bảo người dọn, không dặn người dọn, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo thấy ngọa cụ của Tăng lấm bùn nhơ nhớp bất tịnh hoặc bị tro, đất hoặc bị phân bò dính ở trên nên đem phơi. Họ ở trong cương giới không dám đi xa. Việc này được bạch lên Phật, Đức Phật dạy: Nếu thu dọn kịp khỏi bị mưa thì cho phép đi xa.
Lại có các Tỳ-kheo vì phơi ngọa cụ của Tăng nên không dám ra ngoài cương giới nên bạch Phật, Đức Phật dạy: Nếu xét thấy đi về mà không bị mưa thì cho phép ra ngoài giới.
Lại có các Tỳ-kheo phơi ngọa cụ của Tăng tại một bên tọa thiền hoặc nơi ngủ say. Các Tỳ-kheo đem bạch Phật, Đức Phật dạy: Không cho phép phơi ngọa cụ bên chỗ ngồi thiền, ngủ say, vi phạm thì phạm Đột-kiết-la.
Lại có các Tỳ-kheo phơi ngọa cụ của Tăng không thu cất, phơi mãi ngoài trời nên bị hư hoại, các Tỳ-kheo bạch Phật, Đức Phật dạy: Nếu không đem vô đúng lúc, phạm Đột-kiết-la.
Lại có các Tỳ-kheo thấy ngọa cụ của Tăng trải nơi đất trống, do không phải tự mình trải, không sai người trải, mình không nằm ngồi, nên không dọn dẹp, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Nếu thấy ngọa cụ của Tăng trải nơi đất trống mà không dọn dẹp, phạm Ba-dật-đề.
Có các Cư sĩ đến nơi Tăng phường mượn ngọa cụ của Tăng trải chỗ đất trống để nằm ngồi, các Tỳ-kheo không cho, bèn giận trách. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên cho mượn. Đã cho mượn rồi sớm đòi lại, bảo họ phải trả gấp, bạch y lại nổi giận. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên bảo họ trả gấp, nên chờ họ đi rồi mới dọn cất. Nếu không dọn cất, phạm Ba-dật-đề.
Lại có Cư sĩ thỉnh Tăng, mượn ngọa cụ của Tăng đem về nhà trải, các Tỳ-kheo ngồi rồi đi không dọn dẹp. Phật dạy: Nên dọn dẹp, nếu không dọn dẹp phạm Ba-dật-đề. Nếu các Tỳ-kheo đến nơi Tăng phường của Tỳ-kheo-ni trải ngọa cụ của Tỳ-kheo-ni nơi khoảng đất trống, nói chẳng phải là ngọa cụ của Tăng, không dọn dẹp cũng phạm Ba-dật-đề.
Lại có các Tỳ-kheo tự gánh giường chiếu đi, các cư sĩ chê trách nói: Các Sa-môn này như đám gánh hát, như đoàn ảo thuật lưu động. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch phật, Đức Phật dạy: Không cho phép tự gánh đi, vi phạm là phạm Đột-kiết-la. Trường hợp khi đại hội, trải ngọa cụ của Tăng nơi đất trống, các Tỳ-kheo một lần ngồi, khi đứng dậy liền dọn dẹp, do đó mau bị hư hoại, đem vấn đề ấy bạch Phật. Phật dạy: Nếu không bị mưa thì cho phép xong đại hội mới dọn dẹp một lần. Đức Phật cho phép dặn Tỳ-kheo nào đến ngồi, nằm sau phải dọn ngọa cụ. Nhận được phép này, họ lại dặn Hòa thượng, A-xà-lê, đồng Hòa thượng, A-xà-lê và các Đại đức cũng như các Tỳ-kheo bệnh. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên dặn Hòa thượng, A-xà-lê, đồng Hòa thượng, A-xà-lê và các Đại đức cũng như các Tỳ-kheo bệnh, vi phạm là phạm Đột-kiết-la. Các Tỳ-kheo dặn (giao) một Tỳ-kheo thu dọn. Chỉ có một mình Tỳ-kheo dọn dẹp nhiều ngọa cụ nên quá mệt nhọc, bạch Phật. Phật dạy: Tùy theo ngọa cụ nhiều hay ít, nếu ít thì giao ít Tỳ-kheo, nhiều thì giao nhiều Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo không biết nên như thế nào gọi là nhận lời dặn, không nhận lời dặn, bạch Phật. Phật dạy: Sai người nào đó biết nhận thì gọi là nhận lời dặn. Nếu không tự mình dọn, không bảo người dọn, một chân bước ra ngoài giới phạm Đột-kiếtla, hai chân bước ra ngoài giới phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng vậy. Ba chúng dưới phạm Độtkiết-la.
Xong giới thứ mười bốn --
---------------------
Đức Phật ở tại Tỳ-xá-ly. Có một trú xứ ẩm thấp, khi ấy, nhóm Tỳ-kheo mười bảy người an cư trong một phòng, khi đi không dọn dẹp ngọa cụ của Tăng, nên bị hư mục tất cả. Sau đó, Lục quần Tỳ-kheo đến, nói với Tỳ-kheo cựu trú: Cho tôi phòng, mở cửa phòng và chỉ chỗ để ngọa cụ. Tỳ-kheo cựu trú mở cửa phòng trước đây nhóm Tỳ-kheo mười bảy người an cư để giao cho Lục quần Tỳ-kheo. Lục quần vào phòng lấy ngọa cụ, thì ngọa cụ đã mục thành đất hết cả, hỏi Tỳ-kheo cựu trú: Trước đây ai ở phòng này? Tỳ-kheo cựu trú bảo: Nhóm Tỳ-kheo mười bảy người. Lục quần Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách nhóm Tỳ-kheo kia, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi nhóm Tỳ-kheo mười bảy người: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ở trong phòng Tăng, tự mình trải ngọa cụ của Tăng, hoặc khiến người trải, mình có ngồi hay nằm, khi đi không tự dọn, không bảo người dọn dẹp, không dặn người dọn, phạm Ba-dật-đề”. Ngoài ra, như trong giới trải ngọa cụ nơi đất trống đã nói.
Xong giới thứ mười lăm -
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm Tỳ-kheo mười bảy người mới đến ở trong một phòng xá, Lục quần Tỳ-kheo đến sau hỏi Tỳ-kheo cựu trú: Theo thứ tự thì chúng tôi ở phòng nào? Tỳ-kheo cựu trú hỏi lại: Thầy thích ở phòng nào? Đáp: Tôi muốn ở phòng của nhóm Tỳ-kheo mười bảy người mới vào ở đó. Tỳ-kheo cựu trú bèn phân phối theo ý muốn của Lục quần. Lục quần Tỳ-kheo đến phòng ấy nói: Các thầy đi ra! Chúng tôi sẽ ở nơi phòng này. Nhóm Tỳ-kheo mười bảy người nói: Phòng này khá lớn, có thể cùng ở với nhau. Ngay khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo, có tật giật mình, suy nghĩ: Các Tỳ-kheo này có tâm hổ thẹn, siêng học giới pháp, đầu đêm sau đêm không ngủ, không nằm, chắc họ thấy lỗi của ta, không nên để họ cùng ở với ta. Lục quần liền nói: Chúng tôi không thích ở chung, các thầy nên chuyển sang phòng khác. Nhóm Tỳ-kheo mười bảy người thưa: Nếu không thích ở chung thì Thượng tọa ở nhà trước, chúng con ở phòng sau. Lục quần Tỳ-kheo nói: Cũng không được. Nhóm Tỳ-kheo mười bảy người xin ở ngoài chái, ngoài sân, nơi đất trống, Lục quần cũng không cho. Bên kia đã không cho thì bên này cũng không đi. Lục quần cưỡng bức kéo ra. Nhóm Tỳ-kheo mười bảy người kêu cứu, các Tỳ-kheo ùa ra hỏi: Tại sao các “Cậu” la to thế? Dạ thưa: Lục quần Tỳ-kheo cưỡng bức kéo chúng con ra khỏi phòng. Các Tỳ-kheo quở trách Lục quần Tỳ-kheo: Tại sao các thầy lại cưỡng bức kéo người ra?! Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cưỡng bức kéo các Tỳ-kheo khác từ trong Tăng phòng ra, phạm Ba-dật-đề”. Bị cấm không được tự hành động như thế, Lục quần Tỳ-kheo lại sai người giữ vườn hay Sa-di kéo đi. Các Tỳ-kheo thấy vậy hỏi: Phải chăng Đức Phật không cấm kéo Tỳ-kheo ra khỏi phòng? Lục quần trả lời: Chúng tôi không tự mình kéo. Các Tỳ-kheo nói: Tự mình kéo và sai người khác kéo đâu có khác gì? Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cưỡng bức kéo người trong Tăng phòng ra, hoặc tự kéo hay sai người kéo, phạm Ba-dật-đề”.
Trường hợp có Tỳ-kheo bệnh ở trong phòng, muốn ra ngoài sân nhưng không thể rời khỏi chỗ nằm, nói với các Tỳ-kheo: Lành thay! Xin trưởng lão kéo tôi ra khỏi phòng! Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật không cho phép tôi kéo Tỳ-kheo ra khỏi phòng. Lại có Tỳ-kheo tắm trong phòng, bị té xỉu xuống đất, các Tỳ-kheo không dám kéo ra, đến nỗi phải chết. Hai trường hợp được quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Người bệnh cần kéo ra khỏi phòng. Việc kéo này mà phạm Ba-dật-đề là việc không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào vì giận không vui, tự mình kéo Tỳ-kheo ra khỏi Tăng phòng, hoặc sai người kéo, nói như vầy: Đi đi! Đi khuất ngay, đừng ở trong đây, phạm Ba-dật-đề”. Nếu ở nhà sau kéo đến nhà trước, hoặc ở nhà trước kéo ra ngoài cửa, hoặc ở ngoài cửa kéo ra sân, hoặc ở trong sân kéo ra ngoài sân, đều phạm Ba-dật-đề. Nếu vất y bát ra, phạm Đột-kiết-la. Nếu đối với người không vừa lòng đến ở chung phòng, tìm cách để họ đi ra, họ đi hay không đi, đều phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo kéo Tỳ-kheo-ni ra, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni kéo Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ra, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni xô đuổi Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiếtla. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni kéo năm chúng ra, phạm Đột-kiết-la. Nếu người không biết hổ thẹn, hoặc muốn hàng phục đệ tử mà kéo ra, đều không phạm.
Xong giới thứ mười sáu ---------------
Đức Phật ở tại nước Câu-tát-la, cùng đại Tỳ-kheo Tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị hội đủ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo phân phối ngọa cụ, hoặc trong phòng, hoặc dưới tàng cây, các Tỳ-kheo đều nhận được chỗ trú. Lục quần Tỳ-kheo đến giờ đắp y mang bát vào thôn khất thực, sau khi ăn xong, đến các trục đường ngả tư cùng các Cư sĩ, ngoại đạo, Sa-môn, Bà-la-môn luận nói chuyện Vua, việc đấu chiến, việc lợi hại, không việc nào của thế tục mà không bàn. Các hạng người trên đều chê trách nói: Chúng ta là người thế tục vì vấn đề gia nghiệp trong cuộc đời nên phải bàn nói các việc ấy, Sa-môn Thích tử cũng lại bàn luận việc của đời, vậy cùng ta có khác gì? Mãi đến chiều Lục quần mới về đến trú xứ. Lục quần lại tiếp tục nói chuyện với người giữ vườn cùng các Sa-di, cho đến trời tối mịt mới tìm đến một phòng nọ. Lục quần hỏi Tỳ-kheo đã ở sẵn trong phòng: Các ông bao nhiêu tuổi? Tỳ-kheo kia trả lời: Tôi từng ấy tuổi. Lục quần Tỳ-kheo nói: Ông nhỏ tuổi, đi ra! Thượng tọa nên ở chỗ này. Các Tỳ-kheo nói: Vì ý gì Trưởng lão đến đây tối như thế? Lục quần nói: Tôi đi sau Phật đến đây. Các Tỳ-kheo nói: Tôi cũng đi theo sau Phật đến đây. Nếu tôi tới xin phòng khác thì làm phiền các Tỳ-kheo kia cũng như bây giờ Trưởng lão đang xúc não đối với tôi. Lục quần Tỳ-kheo lại trải ngọa cụ chính giữa các Tỳ-kheo kia mà nằm. Đầu đêm, cuối đêm cao tiếng tụng kinh, vấn nạn với nhau, nửa đêm ngủ ngáy làm trở ngại các Tỳ-kheo tọa thiền, hành đạo. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe bằng mọi cách quở trách Lục quần Tỳ-kheo: Các thầy gây não loạn các Tỳ-kheo chẳng phải làm thương tổn cho Phật pháp sao?! Quở trách như vậy rồi, quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, nếu các Tỳ-kheo trước đã trải ngọa cụ rồi, mình đến sau lại trải nữa, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo trước trải ngọa cụ rồi, tạm thời ra ngoài, Lục quần Tỳ-kheo đến sau, khiến bạch y trải ngọa cụ. Các Tỳ-kheo thấy vậy hỏi: Thầy không nghe Phật cấm: Người khác trải ngọa cụ rồi, mình không được trải nữa hay sao? Lục quần nói: Tôi khiến bạch y trải nên không trái lời cấm. Các Tỳ-kheo nói: Tự mình trải, khiến người trải có gì khác đâu? Quý vị lại bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nếu các Tỳ-kheo trước trải ngọa cụ rồi, mình đến sau, hoặc tự trải hoặc khiến người khác trải, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo trước trải ngọa cụ rồi, tạm thời ra ngoài, Tỳ-kheo đến sau không biết lại trải ngọa cụ, Tỳ-kheo trải ngọa cụ trước trở về, Tỳ-kheo trải ngọa cụ sau lòng sinh nghi: Phải chăng đã phạm Ba-dật-đề?! Việc này được bạch lên Phật, vì thế, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu không biết Tỳ-kheo trước đã trải ngọa cụ, mình đến sau lại trải, phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, biết người trước đã trải ngọa cụ, mình đến sau, hoặc tự trải hay sai người trải, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, có đại hội, nhiều Tỳ-kheo tập hợp, phòng xá tuy nhiều nhưng không đủ dùng, Tỳ-kheo đến sau không có chỗ ở, Tỳ-kheo đến trước trải ngọa cụ rồi, kêu vào cùng ở. Tỳ-kheo kia sợ phạm tội Ba-dật-đề nên không dám vào. Nhân chuyện này được bạch lên Phật, do vậy, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu không gây xúc não cho nhau mà phạm tội Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào biết người khác trước đã trải ngọa cụ, đến sau cưỡng bức tự mình trải hay khiến người trải, với ý nghĩ: Nếu người kia không vui, tự tránh đi chỗ khác, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ mười bảy --
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, tại một trú xứ nọ, có một lầu gác hai tầng, một Tỳ-kheo ở trên đó. Một cái giường chân nhọn được trải phu cụ. Tỳ-kheo này luôn luôn chánh niệm khi nằm lên hay ngồi xuống, nên giường không gây hại cho ai. Dịp nọ, có một Tỳ-kheo khác đến là bậc Thượng tọa nên vị kia nhường chỗ. Tỳ-kheo này thân thể to lớn, thiếu sự cẩn thận, ngồi mạnh xuống giường, chân giường sút ra, rớt xuống trúng đầu vị Tỳ-kheo ở tầng dưới. Đầu bị thương, vị ấy kêu la, vị Tỳ-kheo ở trên gác liền xuống xin lỗi. Vị Tỳ-kheo ở tầng dưới quở trách nói: Vị Tỳ-kheo ở trước kia, tôi không hề nghe tiếng khua động khi ngồi nằm, tại sao thầy mới đến mà gây cớ sự thế này?! Thầy há không nghe Đức Thế Tôn khen ngợi sự buộc giữ niệm hay sao? Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe liền đến hỏi, vị kia kể rõ câu chuyện. Các Tỳ-kheo Trưởng lão bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Đức Phật nhân việc này tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Thật sự các ông có như vậy không? Thưa thật có, bạch Thế Tôn. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, trên nhà gác của Tăng, giường dây, giường cây có chân nhọn, ngồi nằm mạnh, phạm Ba-dật-đề”.
Nhà gác nên để giường có chân nhọn tầng dưới, giường chân không nhọn để tầng trên. Trường hợp không có giường chân không nhọn thì nên dùng vật gì chận lại, không có vật gì chận thì nên cột ngang qua, nếu không có chỗ để cột ngang thì nên để phủ trên mặt đất. Nếu không làm như vậy mà ngồi, nằm, cho đến ngồi nằm nơi giường nhọn một chân đều phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la. Nếu dùng ván lót trên gác hay có sàng gỗ bảo đảm không bị rớt xuống thì không phạm.
Xong giới thứ mười tám
---------------------
Đức Phật ở tại nước Câu-xá-di. Bấy giờ, Tỳ-kheo Xiển-đà thường tới lui các gia đình… cho đến câu: Xiển-đà thấy họ ân cần khó từ chối, như trên trong giới “Có thí chủ vì mình làm phòng xá” đã nói. Cứ như vậy, Xiển-đà tìm được chỗ đất tốt để cất thất, đắp nền cao, dùng đất đắp lên một cách gấp gáp, bốn bên xây vách rất nặng, bên trên lợp nhiều lớp, tất cả bị sụp đổ một lần, làm hư hoại ruộng lúa của người Bà-la-môn. Người Bà-la-môn nổi giận nói: Đám Sa-môn này muốn sống trọn đời trọn kiếp, muốn truyền tử lưu tôn hay sao? Lợp một, hai lớp đủ để sống một đời rồi, chuyện gì phải lợp quá nặng để đến nỗi sụp đổ thế này?! Họ lại nói: Đám này sử dụng của cải không hao tổn đến của cha me nên họ tha hồ làm ác theo ý muốn, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Xiển-đà: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, thật có vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào làm phòng xá lớn, từ đất bằng xây lên, đến chỗ đặt cửa sổ, phải cho bền chắc, lợp hai, ba lớp, nếu quá phạm Ba-dật-đề”. Nếu đến lớp thứ tư hoặc bằng tranh, hoặc bằng ngói hay bằng cây, mỗi lớp tranh, hoặc ngói hay cây đều phạm Ba-dật-đề. Khi tạo phương tiện nung ngói, chặt cây đều phạm Đột-kiết-la. Lợp xong phạm Ba-dật-đề. Sadi phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ mười chín ---------------
Đức Phật ở tại nước Câu-xá-di. Lúc ấy, Xiểnđà làm phòng xá lớn, dùng nước có trùng tưới trên bùn trên cỏ, cũng sai người tưới. Ưu-đà-di sử dụng nước có trùng để ăn uống, tắm rửa. Các Cư sĩ thấy Xiển-đà dùng nước có trùng tưới trên bùn trên cỏ nên đến Ưu-đà-di xin nước uống. Tỳ-kheo đem nước có trùng cho. Cư sĩ nói: Nước này có trùng. Trả lời: Chỉ uống nước, chớ đâu có uống trùng. Các Cư sĩ nói: Đại đức! Đã uống nước làm sao không uống trùng? Tỳ-kheo không thèm trả lời. Các sư sĩ giận trách chê nói: Các Sa-môn này thường nói từ bi hộ niệm chúng sinh, mà nay dùng nước có trùng tưới trên bùn, ăn uống, tắm rửa, không có tâm từ bi, thật không có hạnh Samôn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi đem việc ấy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Xiển-đà, Ưu-đà-di: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào biết nước có trùng, dùng tưới trên bùn hoặc ăn uống… phạm Ba-dật-đề”.
Nước có trùng: Là nước dùng đãy lọc, thấy có trùng, hay dùng nhục nhãn thấy được, nếu dùng tưới trên bùn hay ăn uống, mỗi con trùng là một Ba-dật-đề. Có trùng, tưởng có trùng, có trùng nghi, đều phạm Ba-dật-đề. Không trùng, tưởng có trùng, không trùng nghi, đều phạm Đột-kiết-la.
Dùng nước có trùng, có nội dụng và ngoại dụng. Nội dụng là dùng ăn uống, ngoại dụng là dùng tưới trên bùn (trộn hồ) tắm rửa v.v… Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Nếu xem kỹ mà không thấy, hay dùng đãy lọc mà không có thì không phạm.
Xong giới thứ hai mươi
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo không giáo thọ Tỳ-kheo-ni, không vì họ nói pháp, do đó họ không có chứng đắc, lại mắng họ: Do các người nên khiến chánh pháp của Phật giảm bớt năm trăm năm, khiến mọi người không kính Sa-môn, khinh rẻ Tỳ-kheo, không cúng dường. Lúc ấy, Tỳ-kheo-ni Ba-xà-ba-đề cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân rồi đứng lui qua một bên. Đức Phật hỏi Cù-đàm-di: Có Tỳ-kheo Thượng tọa giáo giới, thuyết pháp cho Tỳ-kheo-ni để họ có chứng đắc không? Cù-đàm-di thưa: Bạch Thế Tôn, không. Bạch Đức Thế Tôn! Do các Tỳ-kheo không giáo giới, không nói pháp cho Tỳ-kheo-ni nên Tỳ-kheo-ni không chứng đắc điều gì. Các Tỳ-kheo lại mắng: Do các người nên chánh pháp của Đức Phật giảm bớt năm trăm năm, mọi người không cung kính cúng dường Sa-môn. Đức Thế Tôn vì các Tỳ-kheo-ni nói các pháp, chỉ vẽ sự lợi ích, chư ni hoan hỷ rồi, khiến họ trở về trú xứ. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các Thượng tọa không giáo giới, không thuyết pháp cho Tỳ-kheo-ni, mà lại mắng họ phải không? Các Thượng tọa thưa: Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Không nên mắng như vậy. Nếu vi phạm thì phạm Độtkiết-la. Từ nay các Tỳ-kheo nên giáo giới các Tỳ-kheo-ni, nên vì họ thuyết pháp. Vâng lời dạy, các Tỳ-kheo bèn giáo giới, thuyết pháp cho Tỳ-kheo-ni, chư ni được chứng đắc. Sau đó, Lục quần Tỳ-kheo lại cũng đến trú xứ của Tỳ-kheo-ni nói: Các cô nên tập hợp! Tôi sẽ giáo giới, nói pháp cho. Các Tỳ-kheo-ni liền tập hợp lại một chỗ. Lục quần Tỳ-kheo được dịp nói những lời thô ác dâm dục. Trong số Tỳ-kheo-ni những vị đắc các thiền, Tam-muội giải thoát, chánh thọ đều không chấp nhận, còn Lục quần Tỳ-kheo-ni thì khen ngợi, nói: Các Tỳ-kheo này khéo giáo giới, không ai hơn được. Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Ba-xà-ba-đề lại cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni đến chỗ Đức Thế Tôn. Đức Phật hỏi Cù-đàm-di: Các Tỳ-kheo có giáo giới, nói pháp cho Tỳ-kheo-ni hay không? Cùđàm-di thưa: Có các Tỳ-kheo giáo giới, thuyết pháp cho Tỳ-kheo-ni, được nhiều lợi ích. Lại có Lục quần Tỳ-kheo đến, bảo Tỳ-kheo-ni tập hợp để giáo giới, nhưng nói những điều thô ác, dâm dục. Lục quần Tỳ-kheo-ni khen cho là hay không ai bằng. Đức Phật vì các Tỳ-kheo-ni thuyết pháp rồi khiến họ về lại trú xứ. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nếu Tăng không sai giáo giới Tỳ-kheo-ni mà giáo giới, phạm Ba-dật-đề.
Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo lại ra giới trường, tự ý sai lẫn nhau giáo giới Tỳ-kheo-ni, đến chỗ Tỳ-kheo-ni nói: Nay Tăng tôi sai đến giáo giới ni. Các Tỳ-kheo-ni cũng tập hợp một chỗ như trước. Lục quần Tỳ-kheo cũng nói những lời thô ác, dâm tục… cho đến câu: Tỳ-kheo-ni Ba-xà-ba-đề đến chỗ Đức Phật… khiến về lại trú xứ, như trên đã đề cập. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có ra ngoài giới trường, tự động sai nhau đến giáo giới Tỳ-kheo-ni hay không? Lục quần Tỳ-kheo thưa: Bạch Thế Tôn, có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo thành tựu mười pháp, Tăng mới sai giáo giới Tỳ-kheo-ni. Những gì là mười pháp?
Thành tựu giới, thành tựu oai nghi, thường sợ lỗi nhỏ.
Đa văn, khéo hay liễu đạt, biết rõ lời Phật nói, sơ, trung hậu đều thiện, thiện nghĩa, thiện vị và đầy đủ tướng thanh bạch phạm hạnh.
Khéo hay tụng và hiểu rõ hai bộ giới luật.
Có khả năng nói năng thuyết giảng, trình bày lý nghĩa phân minh.
Tộc tánh xuất gia, các căn thù đặc.
Ở trong Phật pháp chưa từng uế trược. Cử chỉ nhã nhặn, thân không tà vạy, mặc pháp phục thanh khiết tề chỉnh.
Chúng Tỳ-kheo-ni kính trọng.
Có khả năng nói pháp tùy thuận dạy bảo cho lợi ích an vui. Đủ hay hơn hai mươi tuổi hạ.
Có năm pháp không nên sai, nếu đã sai nên hủy bỏ:
Những kinh hay giới đã tụng đều bị quên.
Các căn không đầy đủ.
Đa dục.
Hiện tướng ác.
Dạy Tỳ-kheo-ni gần gũi người ác.
Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, Tăng không sai mà giáo giới Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề”.
Không sai: Tức là người không được Tăng bạch nhị Yết-ma sai mà giáo giới, nói tám kính pháp. Nếu không được sai mà giáo giới Tỳ-kheo-ni thì mỗi lời nói đều phạm Ba-dật-đề. Giáo giới Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiếtla. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ hai mươi mốt
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo, theo thứ tự, giáo giới Tỳ-kheo-ni, nói với Tỳ-kheo-ni: Sáng mai tới phiên Tỳ-kheo Ban-đà giáo giới, các cô sẽ đến đó thọ lãnh giáo pháp. Nói như vậy rồi, quý vị trở về trú xứ nói với Banđà: Sáng sớm thầy nên giáo giới Tỳ-kheo-ni. Trưởng lão Ban-đà, sáng sớm hôm sau đến giờ ăn, mặc y bưng bát vào thành khất thực. Sau khi ăn, trở về quét dọn trong ngoài, múc nước sạch, để sẵn khăn lau tay lau chân, dọn chỗ ngồi nơi đất trống, tự lấy giường dây ngồi thiền một bên. Khi các Tỳ-kheo-ni đến chỗ Ban-đà, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi tới chỗ ngồi để ngồi. Tiếp đó, Ban-đà hỏi các Tỳ-kheo-ni: Các cô đã từng nghe Tám kính pháp chưa? Các cô thưa: Đã nghe. Ban-đà nói: Các cô nên nghe lại:
Chúng Tỳ-kheo-ni mỗi nửa tháng nên đến chúng Tỳ-kheo thỉnh vị giáo giới.
Chúng Tỳ-kheo-ni khi an cư cần phải nương nơi chúng Tỳ-kheo Tăng.
Tỳ-kheo-ni khi Tự tứ nên bạch nhị Yết-ma, sai ba Tỳ-kheo-ni đến chúng Tỳ-kheo thỉnh tội thấy, nghe, nghi.
Thức-xoa-ma-na, hai năm học sáu pháp rồi, nên đối trước hai bộ chúng cầu thọ giới Cụ túc.
Tỳ-kheo-ni không được mắng Tỳ-kheo, không được nói với bạch y về tội phạm giới, phạm oai nghi, tà kiến, tà mạng của Tỳ-kheo.
Tỳ-kheo-ni không được cử tội Tỳ-kheo, nhưng Tỳ-kheo được quở trách Tỳ-kheo-ni.
Tỳ-kheo-ni phạm tội thô nên đến hai bộ Tăng cầu nửa tháng hành Ma-na-đỏa, hành Ma-na-đỏa rồi, hành A-phù-ha-na, nên đến trước hai mươi vị Tỳ-kheo và hai mươi vị Tỳ-kheo-ni xuất tội.
Tỳ-kheo-ni tuy thọ giới Cụ túc trước một trăm năm, nên lễ bái Tỳ-kheo mới thọ đại giới. Nói tám kính pháp rồi, Ban-đà liền nói kệ:
Muốn tâm được tốt đừng phóng dật
Siêng học pháp thiện của Thánh nhân
Nhất tâm ấy là người trí huệ
Họa ưu sầu đâu nữa phải lo.
Nói kệ xong, Ban-đà nhắm mắt ngồi thẳng. Khi ấy các Tỳ-kheo-ni trộm lời với nhau: Tỳ-kheo này chỉ biết có một bài kệ, làm sao có thể giáo giới chúng ta! Ban-đà nghe khởi ý niệm: Các Tỳ-kheo-ni ấy khinh dể ta. Ban-đà liền bay vụt lên hư không, hiện một thân thành vô số thân, rồi trở lại thành một thân, đi xuyên qua vách đá, đi trên nước như đi trên đất, vào trong đất như vào trong nước, hoặc hiện nửa thân, hoặc hiện toàn thân, hoặc thân trên tuôn ra khói, thân dưới tuôn ra lửa, hoặc thân trên tuôn ra lửa, thân dưới tuôn ra khói, hoặc thân trên tuôn ra nước, thân dưới tuôn ra lửa, hoặc thân trên tuôn ra lửa, thân dưới tuôn ra nước, hoặc ngồi nằm trên hư không như chim dang hai cánh, hoặc dùng tay sờ mặt trời, mặt trăng, hoặc thân đứng thẳng đến trời Phạm Tự tại. Hiện thần biến như vậy rồi, Ban-đà trở lại chỗ cũ, nói kệ như trước. Các Tỳ-kheo-ni thấy các thứ thần biến này tâm rất hoan hỷ, bạch: Đại đức! Xin lại dùng thần túc để giáo hóa.
Liền khi ấy, Ban-đà hiện ra nơi phương Đông chìm mất vào phương Tây, hiện ra nơi phương Tây chìm mất vào phương Đông. Các phương khác cũng vậy. Hiện tất cả các thần biến như vậy rồi trở về chỗ cũ, lại nói bài kệ trên, cho đến mặt trời lặn, Ban-đà mới cho ra về. Bấy giờ, đã xẩm tối rồi, Tỳ-kheo-ni đến cửa thành, cửa thành đã đóng, gõ cửa xin vào, người giữ cửa hỏi: Các ngươi là ai? Đáp lời: Chúng tôi là Tỳ-kheo-ni. Người giữ cửa hỏi: Tại sao đi tối thế? Các Tỳ-kheo-ni nói: Tôn giả Ban-đà giáo giới chúng tôi, cho nên về trễ. Người giữ cửa nói: Có thể trở về lại chỗ cũ, chứ dù Vua đến, tôi cũng không dám mở. Các Tỳ-kheo-ni không vào được, hoặc ở bên cửa, hoặc ở bên hào, hoặc nương bên gốc cây, suốt đêm bị mòng muỗi gió bụi gây não.
Sáng ngày cửa thành mở, các ni vào trước hơn mọi người. Các Cư sĩ hỏi nhau: Các Tỳ-kheo-ni này, từ đâu đến mà cửa thành vừa mở đã vào trước hết? Có người nói: Chính là họ đi tìm nam tử trở về. Những người không tin ưa Phật pháp bằng mọi cách chê bai nói: Chúng ta là bạch y, không tu phạm hạnh… chứ các Tỳ-kheo-ni này đầu không tóc, mặc đồ hoại sắc mà cũng như vậy chăng! Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe liền quở trách Ban-đà: Tại sao giáo giới Tỳ-kheo-ni đến tối? Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Ban-đà: Thật sự ông có như vậy không? Ban-đà công nhận là có. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào Tăng sai giáo giới Tỳ-kheo-ni cho đến chiều tối, phạm Ba-dật-đề”.
Tăng sai: Tức bạch nhị Yết-ma sai. Nếu Tỳ-kheo đã được Tăng sai thì nên nói với các Tỳ-kheo-ni: Này các cô! Nếu lúc không phải nạn thì nên giáo giới, còn khi có nạn thì không giáo giới. Nếu nhận tới trú xứ của Tỳ-kheo-ni giáo giới thì nên nói: Các cô trải tòa, tôi sẽ đến. Nếu không đến được, cần giáo giới tại trú xứ của mình thì lau quét sạch sẽ như trước. Nên mời theo một Tỳ-kheo khỏe làm bạn, bằng không có thì mới đi một mình. Nói tám kính pháp rồi, nếu còn sớm thì nói thêm các pháp khác cũng tốt. Nên trù tính xong sớm kịp trong ngày về đến trú xứ của mình. Nếu nói pháp rồi nên đi trước thì đi. Nếu chỗ có sự khủng bố thì Tỳ-kheo nên đưa Tỳ-kheo-ni về tới nơi. Nếu Tỳ-kheo giáo giới cho Tỳ-kheo-ni đến chiều tối, mỗi lời giáo giới đều phạm Ba-dật-đề. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ hai mươi hai --
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy các Tỳ-kheo, theo thứ tự giáo giới Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni đều đạt được các thiền giải thoát, Tam-muội chánh thọ. Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo, Tăng không sai cũng đến giáo giới, chỉ nói những lời thô ác, bất thiện, các Tỳ-kheo-ni trưởng lão im lặng không phục, còn Lục quần Tỳ-kheo-ni thì khen ngợi, nói: Lành thay! Không ai hơn. Với sự việc như vậy, Tỳ-kheo-ni Ba-xà-ba-đề cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni đến chỗ Đức Phật, báo lại việc trên. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có thật như vậy.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào vào trong trú xứ của Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề”.
Nhân khi các Tỳ-kheo có nhân duyên hoặc việc của pháp, việc của Tăng, hay việc riêng cần vào trú xứ của Tỳ-kheo-ni nhưng vì e ngại không dám vào, không biết nên thế nào, đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu không vì nhân duyên giáo giới thì không cho phép vào. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào Tăng không sai, do nhân duyên giáo giới, vào trú xứ của Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo tuy Tăng sai mà vẫn e ngại không dám vào, do đó, các Tỳ-kheo-ni không được giáo giới, nên không chứng đắc được gì, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo được Tăng sai, cho phép vào. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào Tăng không sai, vì giáo giới, cố vào trú xứ của Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Bạt-đà-lâm bệnh sai người tin cậy đến bạch Tôn giả Xá-lợi-phất, mời Tôn giả đến để thuyết pháp lần cuối cùng cho cô nghe. Tôn giả nói: Đức Phật không cho phép Tăng không sai vì vấn đề giáo giới mà cố vào trong trú xứ của Tỳ-kheo-ni. Do đó, bạch Phật.
Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Cho phép Tăng không sai nhưng do Tỳ-kheo-ni bệnh được đến thuyết pháp. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào Tăng không sai, vì giáo giới, cố vào trú xứ của Tỳ-kheo-ni, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”.
Nhân duyên: Là Tỳ-kheo-ni bệnh, gọi là nhân duyên. Nếu Tăng không sai vì giáo giới, cố vào trú xứ của Tỳ-kheo-ni, tùy theo việc vào nhiều hay ít, mỗi bước đều phạm Ba-dật-đề. Nếu một chân vào trong cửa, phạm Đột-kiết-la, Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ hai mươi ba
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo Thượng tọa, theo thứ tự giáo giới Tỳ-kheo-ni, các Tỳ-kheo-ni hoặc biệt thỉnh cúng dường, hoặc cúng dường đãy đựng bát, dây lưng, dầu đèn, y thực, thuốc thang. Lục quần Tỳ-kheo thấy vậy nói với các Tỳ-kheo: Có thể sai chúng tôi làm người giáo thọ. Các Tỳ-kheo nói: Theo lời Phật dạy, sai người thành tựu mười pháp, các thầy không có, thì làm sao sai? Lục quần Tỳ-kheo bèn nói: Các Tỳ-kheo vì lợi dưỡng nơi sự cúng dường nên giáo giới Tỳ-kheo-ni. Các Tỳ-kheo Trưởng lão bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi hình thức quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nói các Tỳ-kheo vì lợi dưỡng nên giáo giới Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Nếu nói vì lợi của sự cúng dường nên giáo giới Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-mana, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la”. Nếu nói Tỳ-kheo hành mười hai hạnh đầu đà, tọa thiền, tụng kinh, làm các công đức, đều là vì lợi của sự cúng dường, mỗi lời nói đều phạm Đột-kiết-la. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ hai mươi bốn
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, các Tỳ-kheo cùng với Tỳ-kheo-ni ngồi nơi chỗ vắng, sinh tâm nhiễm, không vui sống phạm hạnh, có người hoàn tục, có người làm ngoại đạo. Các Cư sĩ thấy, dị nghị chê trách nói: Những Sa-môn này cùng Tỳ-kheo-ni một mình ngồi chỗ vắng, giống như bạch y đối với dâm nữ, ăn của tín thí mà làm việc như thế, không có hạnh của Sa-môn, phá pháp Samôn.
Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch với Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia:
Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng Tỳ-kheo-ni ngồi chỗ vắng, phạm Ba-dật-đề”.
Cùng với Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni ngồi chỗ vắng cũng như vậy. Sa-di phạm Đột-kiết-la. Nếu số đông Tỳ-kheo cùng Tỳ-kheo-ni cùng ngồi, hoặc có nạn sự khởi, cần phải cùng ngồi nơi chỗ vắng đều không phạm.
Xong giới thứ hai mươi lăm -
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo A-lan-nhã, trú ngụ nơi A-lan-nhã, ban đầu không thân quen với bất kỳ người nào. Tỳ-kheo kia, vào một buổi sáng, mặc y bưng bát vào thôn khất thực, trên đường đi gặp hai Tỳ-kheo-ni.
Cô ni này nói với cô ni kia: Nay tôi muốn cùng Tỳ-kheo kia làm quen, cô đồng ý không? Tốt lắm! Cô ni kia trả lời. Khi Tỳ-kheo kia đến, cô ni tác lễ. Tỳ-kheo im lặng không nói năng gì cả. Hai cô ni cùng nhau bàn nói: Tỳ-kheo này không muốn chúng ta làm quen giữa đường, chúng ta nên đến trú xứ của Tỳ-kheo để bái chào. Sáng sớm hôm sau, hai Tỳ-kheo-ni đến chỗ Tỳ-kheo lễ bái thăm hỏi. Lạy một lạy, lạy hai lạy, Tỳ-kheo không nói gì, đến lạy thứ ba, Tỳ-kheo mới nói: “Lão thọ” (từ dùng để đáp lễ có nghĩa cầu chúc điều tốt lành cho nhau). Hai Tỳ-kheo-ni kính lễ xong ra về. Sau đó, Tỳ-kheo kia vào thôn khất thực, hai Tỳ-kheo-ni gặp nơi đường hẻm, liền lễ bái hỏi chào, cùng nhau nói chuyện. Hai Tỳ-kheo-ni bèn dùng một đoạn vải và chỉ may nhuộm rồi, cúng cho Tỳ-kheo. Tỳ-kheo thọ nhận. Hai cô ni lại thưa: Đại đức có mỏi mệt, mời đến trú xứ của chúng con tạm nghỉ một chút rồi đi khất thực. Tỳ-kheo bèn đến đó nghỉ. Nghỉ xong, gần đến giờ khất thực, Tỳ-kheo-ni lại thưa: Nơi đây có rau tương, nếu được thức ăn rồi mời thầy về lại đây dùng. Tỳ-kheo lại nhận lời, được thức ăn rồi đem về đó, nhiều lần như vậy. Có khi Tỳ-kheo khất thực về trước, đợi Tỳ-kheo-ni, có khi Tỳ-kheo-ni khất thực về trước, đợi Tỳ-kheo. Từ đó, thường khen ngợi lẫn nhau khi đến gia đình nào đó. Một hôm, Tỳ-kheo nhận được một tấm y tốt, bèn khởi tâm không đúng đắn, nghĩ như sau: Nay ta đem y này biếu cho Tỳ-kheo-ni kia, chắc chắn cô ta không nhận, như thế ta sẽ nhận được cái ân huệ cho nhiều hơn nữa. Với ý nghĩ như vậy, việc trước hết là đến trước các Tỳ-kheo khen ngợi Tỳ-kheo-ni kia: Tỳ-kheo-ni là con nhà giòng dõi xuất gia, lòng tin kiên định, chánh trực, ít ham muốn, biết vừa đủ. Các Tỳ-kheo nói: Người xuất gia như vậy là đáng khen. Sau đó, đem y cho Tỳ-kheo-ni kia, cô ta nhận y ngay. Mưu đồ bị vỡ, ôm lòng não hận, lại đến các Tỳ-kheo nói: Tỳ-kheo-ni tín tâm mỏng manh, nhiều ham muốn, không biết nhàm chán. Các Tỳ-kheo nói: Thầy vừa rồi nói Tỳ-kheo-ni ít ham muốn, biết vừa đủ, sao bây giờ lại nói như vậy? Tỳ-kheo tỏ bày những lắc léo của lòng mình. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách: Tại sao tâm không xả vật, đã hứa cho người mà còn tính đến việc người ta không nhận, lấy cảm tình người ta bằng sự hư dối, vọng ngữ này! Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Thật sự ông có như vậy không? Đương sự thú nhận là có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Há ông không nghe Ta khen ngợi với tâm xả vật cho người mới được công đức lớn hay sao? Tại sao nay ông với tâm không xả vật mà dối đem cho người?! Quở trách rồi, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cho y cho Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề”.
Khi ấy, các Tỳ-kheo có Tỳ-kheo-ni bà con, y phục ngọa cụ đều thô tệ, đau ốm thuốc men cũng không thể có được. Các Tỳ-kheo có suy nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn cho phép ta cho y vật cho Tỳ-kheo-ni bà con thì đâu đến nỗi như thế. Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo cho y vật cho Tỳ-kheo-ni bà con. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cho y cho Tỳ-kheo-ni không phải thân quyến, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, tại thành Xá-vệ, hai bộ Tăng nhận được y đã may thành, cùng phân chia cho nhau. Có trường hợp Tỳ-kheo nhận được cỡ y của Tỳ-kheo-ni, có trường hợp Tỳ-kheo-ni nhận được cỡ y của Tỳ-kheo, muốn trao đổi cho nhau mà không dám, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo cùng Tỳ-kheo-ni đổi y. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cho y cho Tỳ-kheo-ni chẳng phải bà con, trừ trao đổi, phạm Ba-dật-đề”. Nếu cho y cho Tỳ-kheo-ni bà con mà họ là người phá giới, phá kiến, phạm Độtkiết-la. Nếu cho y cho Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni không phải bà con, phạm Đột-kiết-la. Sa-di phạm Đột-kiết-la. Nếu vì lo liệu công việc, hoặc vì khéo nói kinh pháp, hoặc vì tụng nhiều kinh giới nên cho y thì không phạm.
Xong giới thứ hai mươi sáu
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, có một Tỳ-kheo-ni ít người quen biết, nhận được vải y chưa may thành, mà tự mình không biết may, nói với các Tỳ-kheo-ni: Tôi không biết may y, nhờ các cô may giùm. Các Tỳ-kheo-ni nói: Này cô!
Chúng tôi nhiều việc không thể may được, cô có thể đến nơi chúng Tỳ-kheo thưa, có thầy nào rủ lòng thương chắc sẽ may cho cô. Cô liền đến trong chúng Tỳ-kheo thưa: Con là kẻ ít người quen biết, nhận được vải y nhưng chưa may thành, con không tự may được, mong các thầy may giùm cho. Các Tỳ-kheo cũng đều từ chối, vì bận việc. Cô đến Trưởng lão Ưu-đà-di thưa như trên. Ưu-đà-di nói: Tôi có thể may được, nhưng đừng lúc nào cũng đến thúc hối, tùy tôi may khi nào xong thì thôi, đồng ý như vậy tôi sẽ may cho. Cô thưa: Tùy Trưởng lão, khi nào may xong cũng được. Ưu-đà-di nhận lấy vải y cắt may. Trải qua thời gian lâu không thấy giao y, Tỳ-kheo-ni đến hỏi: Thưa Đại đức y may xong chưa? Ưu-đà-di nói: Trước đây tôi đã giao hẹn như vậy, tại sao nay đến hối thúc? Cô ni thưa: Con đến hỏi để biết chứ không dám hối thúc. Cô liền rút lui. Sau đó, Ưu-đà-di dùng các loại chỉ đủ màu sắc, thêu thành hình nam nữ giao hội trên phần vải giữa tấm Thêu xong, kêu cô ni đến giao. Cô ni đến nhận, Ưu-đà-di dặn: Chưa có thể trương ra xem và cũng đừng cho ai coi: Khi nào Tỳ-kheo-ni Baxà-ba-đề đến chỗ Đức Phật, nơi đầu đường, khi đó mới mặc. Tỳ-kheo-ni nhận được y đem về, không trương ra xem cũng không đưa ai xem. Khi Tỳ-kheo-ni Ba-xà-ba-đề đến chỗ Đức Phật, tại đầu đường, cô ni đó mặc y vào, người đi đường thấy, không ai không vỗ tay cười lớn, cùng nhau nói: Tỳ-kheo-ni này thật là người khéo tay mới có thể thêu thành hình dâm dục trên y như vậy được. Tỳ-kheo-ni xấu hổ hết sức, trở về lại trú xứ. Tỳ-kheo-ni Ba-xà-ba-đề cuốn cái y đó mang đến chỗ Đức Phật trương ra, thưa: Cúi xin Đức Thế Tôn chứng tri cho việc làm này. Đức Phật vì Cù-đàm-di nói các pháp rồi bảo bà trở về trú xứ. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Ưu-đà-di: Thật sự ông có như vậy không? Ưu-đà-di thú nhận là có. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách: Ông là người ngu si, tại sao thêu hình người nhớp nhúa này lên trên y?! Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào may y cho Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề”.
Trường hợp các Tỳ-kheo có Tỳ-kheo-ni bà con, y phục bị hư rách, xin được một khổ vải mà không biết may, các Tỳ-kheo lại có suy nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn cho phép ta may y cho Tỳ-kheo-ni bà con thì không trở ngại cho điều này. Quý vị bạch Phật, nhân việc ấy, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo vì Tỳ-kheo-ni bà con may y. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào may y cho Tỳ-kheo-ni không phải bà con, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo vì Tỳ-kheo-ni không phải bà con nhận vải, phạm Đột-kiết-la, cắt, may, nhuộm phạm Ba-dật-đề. Khi may, mỗi mũi kim đều phạm Ba-dật-đề. Ngoài ra như trong giới cho y đã nói.
Xong giới thứ hai mươi bảy
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo ở nước Ma-kiệt Đề cùng các Tỳ-kheo-ni du hành trong nhân gian, hoặc một Tỳ-kheo cùng một Tỳ-kheo-ni đi, cho đến số đông, hoặc lội qua nước sâu, hoặc leo lên gành cao, thấy hình nhau, sinh tâm nhiễm đắm, không vui sống phạm hạnh, đưa đến tình trạng hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các bạch y thấy, dè bỉu nói: Đám Sa-môn này, như người đời dẫn vợ hay dâm nữ đi chơi… chê trách đủ cách như trong giới ngồi một mình nơi chỗ vắng đã nói. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng Tỳ-kheo-ni đi một đường, phạm Ba-dật-đề”.
Trường hợp các Tỳ-kheo cùng số đông bạn đồng đi một đường, thấy các Tỳ-kheo-ni cũng đi trên đường đó, bèn khởi ý nghĩ: Chúng ta có phạm Ba-dật-đề không! Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu trước không cùng hẹn mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng Tỳ-kheo-ni hẹn trước cùng đi một đường, phạm Ba-dật-đề”.
Trường hợp các Tỳ-kheo cùng Tỳ-kheo-ni trước đã hẹn đi một đường, sau không dám đi, hoặc hai bên tránh nhau, do trước có hẹn nên nghi, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu trước cùng Tỳ-kheo-ni hẹn đồng đi một đường, hoặc không đi, hoặc hai bên tránh nhau mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng Tỳ-kheo-ni, có hẹn trước cùng đi một đường, từ xóm làng này đến xóm làng kia, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo-ni, nơi đoạn đường nguy hiểm, thấy một Tỳ-kheo, liền kêu: Đại đức đến mau, để cùng đi với nhau. Tỳ-kheo kia đến nói: Này cô! Đức Phật cấm không cho phép cùng Tỳ-kheo-ni đi một đường. Tỳ-kheo-ni thưa: Đoạn đường này nguy hiểm, mà con là nữ yếu ớt, xin được nương nơi Đại đức mới có thể đi qua được. Tỳ-kheo vẫn nói như trước, rồi bỏ đi. Tỳ-kheo-ni đi sau bị giặc cướp đoạt y phục, lõa hình, kêu la lớn: Giặc lột đồ con! Giặc lột đồ con! Tỳ-kheo kia từ xa nghe. Khi về đến trú xứ nói với các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo, nếu gặp chỗ nguy hiểm, nghi ngờ có sự khủng bố, được cùng Tỳ-kheo-ni đồng đi một đường. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng Tỳ-kheo-ni, trước hẹn cùng đi một đường, từ xóm làng này đến xóm làng kia, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”.
Nhân duyên: Hoặc có nhiều bạn, chỗ có sự nghi ngờ, gọi là nhân duyên. Nếu Tỳ-kheo cùng Tỳ-kheo-ni trước hẹn đi một đường, chỗ không có xóm làng, thì nửa do-tuần phạm Ba-dật-đề. Nếu cùng Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni trước hẹn cùng đi một đường cũng như vậy. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ hai mươi tám
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo nước Ma-kiệt Đề, cùng các Tỳ-kheo-ni đồng đi trên một thuyền, hoặc một Tỳ-kheo cùng một Tỳ-kheo-ni cùng đi một thuyền, cho đến số đông. Khi lên xuống thuyền cùng nhau thấy hình thể. Bạch y chê trách nói: (như trước). Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe… cho đến câu: Đức Phật bảo các Tỳ-kheo… đều như trong giới “Cùng đi một đường” đã nói: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng Tỳ-kheo-ni hẹn trước đồng đi một thuyền, phạm Ba-dật-đề”.
Có một Tỳ-kheo-ni đứng bên bờ sông A-di-la đợi đò để qua sông. Sau đó, có một Tỳ-kheo đến, Tỳ-kheo-ni thưa: Thưa Đại đức, nơi đây có nạn nguy hiểm có thể cho con cùng qua một chuyến đò. Tỳ-kheo trả lời: Đức Phật cấm không cho chúng tôi cùng Tỳ-kheo-ni đi trên cùng một đò. Người lái đò lại nói: Cả hai vị cùng lên đò, mỗi vị ngồi một đầu. Tỳ-kheo không đồng ý. Tỳ-kheo-ni thưa: Nếu không được thì mời Đại đức qua trước. Tỳ-kheo liền qua chuyến đò trước. Chuyến đò chưa đến bên kia, Tỳ-kheo-ni đã bị giặc cướp trấn lột. Người lái đò thấy vậy rất bất bình chê trách: Các người đồng xuất gia mà không thể bảo hộ nhau, huống chi là đối với người ngoài, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Tỳ-kheo kia trở về trong Tăng phường, kể lại câu chuyện cho các Tỳ-kheo nghe. Các Tỳ-kheo đem vấn đề đến bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có xảy ra như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Ông là người ngu si, tại sao bỏ Tỳ-kheo-ni lại để giặc cướp đoạt như thế! Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng Tỳ-kheo-ni trước có hẹn đồng đi một thuyền, hoặc thuận dòng nước, hoặc nghịch dòng nước, trừ đò ngang, phạm Ba-dật-đề”. Ngoài ra, như trong giới “Đồng đi một đường” đã nói.
Xong giới thứ hai mươi chín
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, Nanđà, Bạt-nan-đà ăn thức ăn do Tỳ-kheo-ni khen ngợi mà được. Các Tỳ-kheo thấy, bằng mọi cách quở trách. Lúc đó, hai Tôn giả Xá-lợi-phất, Mụckiền-liên du hành trong nhân gian, tới thành Vương-xá. Có một Cư sĩ nghe hai vị đến, ra nghinh đón, đầu mặt đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lùi qua một bên. Hai vị vì người ấy giảng nói pháp chỉ bày điều lợi ích, khiến họ vui mừng. Cư sĩ liền mời sáng hôm sau thọ trai, được hai vị im lặng nhận lời. Cư sĩ liền về nhà sửa soạn các món ăn thức uống, trải tọa cụ tốt. Hai Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên đến giờ, mặc y bưng bát tới nhà đó. Tôn giả Xá-lợi-phất đi trước, muốn vào nhưng nghe tiếng nói của Tỳ-kheo-ni Thâu-lanan-đà đã có mặt trong nhà này rồi, nên dừng lại không vào. Tỳ-kheo-ni kia thấy gia chủ sửa soạn thức ăn, trải tọa cụ tốt, hỏi: Nay gia chủ có rước Vua hay làm đám cưới? Gia chủ trả lời: Không rước Vua cũng chẳng làm đám cưới, mà là muốn cúng dường Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Mụckiền-liên. Tỳ-kheo-ni nói: Tại sao không thỉnh bậc Đại long mà lại cúng dường Tỳ-kheo tiểu đức này? Cư sĩ hỏi: Vị nào là Đại long? Đáp lời: Tỳ-kheo Lục quần. Cô ni lại nói: Muốn thỉnh hàng Tỳ-kheo tộc tánh xuất gia, tu đầu đà, bốn niệm xứ, cho đến tám Thánh đạo phần, Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán, muốn cầu được người rể tốt, con tốt, sinh thiên, giải thoát, hiện đời này giàu sang thì nên cúng dường cho Lục quần Tỳ-kheo. Cô ni khen ngợi như vậy, rồi im lặng. Sau đó, hai Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên mới vào. Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà đến trước hai vị hỏi chào rồi nói: Lành thay Tôn giả! Mời Tôn giả an tọa nơi đây. Cô ni lại nói với Cư sĩ: Lành thay Cư sĩ! Nay người được phước lợi lớn, mới thỉnh được Tỳ-kheo hàng Đại long như thế này. Cư sĩ liền chê trách nói: Vừa rồi cô nói “Tiểu đức”, bây giờ lại nói “Đại long”? Ăn nói ngược ngạo như vậy, tại sao không xấu hổ? Từ nay đến sau cô đừng tới nhà này, tôi không cúng dường cho cô nữa đâu.
Thế là người Cư sĩ tự tay sớt thức ăn cúng dường. Ăn xong dâng nước, rồi lấy chiếc ghế nhỏ ngồi trước hai Tôn giả. Hai Tôn giả vì gia chủ giảng nói pháp diệu, xong liền rời tòa ngồi ra về, đến chỗ Đức Phật. Đức Phật từ xa thấy bèn nói: Lành thay Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên! Quý vị ăn cơm khách từ đâu về đó? Bạch Đức Thế Tôn! Vừa rồi chúng con đến một nhà Cư sĩ, có một Tỳ-kheo-ni gọi chúng con là “Tiểu đức” rồi gọi là “Đại long”. Đức Phật hỏi: Tại sao gọi như thế? Hai Tôn giả kể rõ đầu đuôi câu chuyện. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có ăn thức ăn do Tỳ-kheo-ni khen ngợi mà được hay không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ăn thức ăn do Tỳ-kheo-ni khen ngợi mà được, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo-ni khen ngợi nơi chỗ vắng, sau khi Tỳ-kheo ăn xong mới biết, bèn sinh hổ thẹn: Phải chăng ta đã phạm Ba-dật-đề?! Do đó, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu không biết do Tỳ-kheo-ni khen ngợi nên được thức ăn mà ăn, phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào biết do Tỳ-kheo-ni khen ngợi được thức ăn mà ăn, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, có một gia đình thỉnh năm trăm Tỳ-kheo thọ trai. Tỳ-kheo-ni do gia đình này trước đây đã cúng dường, có nói: Nên cúng dường cho các Tỳ-kheo đừng để mất cơ hội tốt. Các Tỳ-kheo nghe bèn sinh xấu hổ, không dám ăn, trở về bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu Tỳ-kheo-ni trước không khen ngợi, đến khi ăn mới nói: Nên cúng dường thức ăn tốt cho các Tỳ-kheo. Tỳ-kheo ăn thức ăn này mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào biết Tỳ-kheo-ni do nhân duyên khen ngợi, nên được thức ăn mà ăn, trừ người đàn-việt trước có ý phát tâm rồi, phạm Ba-dật-đề”. Khen ngợi: Khen ngợi được pháp hơn người. Nếu Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni khen ngợi Tỳ-kheo nhân đó nên được thức ăn mà ăn, phạm Đột-kiết-la. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ ba mươi
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, có một Đại thần thường cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng. Có một người nghèo thấy vậy nghĩ: Nay vị Đại thần này được phước lợi lớn mới có thể cúng dường Phật và Tăng như thế. Nếu ta có của cũng sẽ làm như vậy. Người ấy lại nghĩ: Nay ta không có tài vật thì nên sử dụng công việc đi làm thuê chính đáng để cúng dường. Người ấy liền đi làm thuê cho một người chủ nọ. Hằng ngày ăn một phần để lại một phần. Người chủ hỏi: Tại sao ngươi để lại một phần không ăn? Tôi để lại một phần sau sẽ nhận luôn. Vậy là thời gian trôi qua trên người làm thuê và người ấy biết số tiền dành dụm đủ, bèn nói với người chủ: Hãy lấy hết số tiền dồn lại từ lâu, vì tôi làm các thức ăn cho đầy đủ. Người chủ hỏi: Nay ông nghèo khổ, tại sao dùng hết số tiền đó làm các thức ăn uống để làm gì? Ông ta trả lời: Trước đây tôi thấy vị Đại thần của thành Vương-xá này thường thỉnh Phật và Tăng để cúng dường các thức ăn, nên tôi phát nguyện cũng sẽ làm như vậy. Do đó, tôi mới đi làm thuê cho ông để thực hiện ý muốn này. Nay tính đã đủ để thiết lập một lễ cúng dường, bây giờ phải nhanh chóng chuẩn bị thức ăn. Người chủ nghe như vậy, một sự xúc động hiếm thấy trong lòng ông, ông nghĩ: Người nghèo khổ đem thân làm thuê, làm mướn như thế này, được một ít tài vật còn dùng để cúng dường, huống chi là ta giàu có, nếu lòng ta muốn tức khắc có đủ mọi thức ăn uống, thế mà không thể làm được! Người chủ liền xoay sang trả tiền gấp bội cho người làm thuê để ông tha hồ sắm các thức ăn cam mỹ. Được người chủ tác động như thế, ông ta mang ngay tài vật ấy đến chỗ Đức Phật, rồi sắm sửa đầy đủ các thức ăn ngon bổ nhất. Nhờ tấm lòng thành này, nên cả quỷ thần cũng đến giúp đỡ. Chỉ trong chốc lát tự nhiên đầy đủ thức ăn. Hôm đó, gặp ngày tiết hội, nhiều người cúng dường, họ tranh nhau đến thỉnh chư Tăng về nhà thọ trai. Các Tỳ-kheo bàn nói với nhau: Hôm nay người nhà nghèo này tận lực để cúng dường, đối với các gia đình khác chúng ta nên dùng một ít thôi. Tuy dặn nhau là ăn rất ít, nhưng do nhiều nhà mời nên khá no. Khi người nhà nghèo sửa soạn xong, mời thọ trai, các Tỳ-kheo đều tập trung an tọa nơi tòa, chỉ trừ có Đức Phật là ở tại phòng. Người nhà nghèo phấn khởi tự tay sớt các thức ăn, các Tỳ-kheo thọ thực rất ít, người nhà nghèo lại có ý nghĩ: Các Tỳ-kheo vì thương ta nghèo khổ sở không dám ăn no, hay là thức ăn không ngon nên các vị nuốt không xuống?! Người nhà nghèo liền đặt vấn đề thắc mắc hỏi: Trong số Tỳ-kheo có vị lòng nghĩ sao nói vậy: Sợ ông thức ăn ít nên đã ăn trước nơi các nhà khác. Người nghèo buồn, thưa: Tại sao đã nhận lời mời của con mà lại đến ăn trước nơi các nhà khác?! Con quyết dốc hết mọi khả năng của con để cúng dường cho bằng được, nay các Đại đức không thể dùng hết thì tùy ý các thầy cứ mang hết, đừng để dư. Các Tỳ-kheo nghe, bèn cố ăn, nhưng vẫn không hết phân nửa. chúng Tăng dùng rồi, người nghèo hối tiếc nghĩ: Ta cố ép chư Tăng dùng như vậy không biết có mắc tội hay không? Người nghèo đến bạch Phật. Đức Phật dạy: Lành thay, bần sĩ! Ngươi thấy người làm phước mà đem thân đi làm thuê để được làm phước như người, tuy ngươi đang thọ thân người nhưng nhân duyên để sinh lên cõi trời đã đầy đủ. Từ khi ngươi phát tâm muốn cúng dường Phật và Tăng đến nay, tất cả việc làm của ngươi đều có vô lượng công đức. Dù cho chúng Tăng không thọ thực món cúng dường của ngươi một hạt cơm đi nữa, thì công đức của ngươi cũng đầy đủ. Nay ngươi sẽ được quả báo hiện đời này. Người nghèo nghe Phật dạy xong vui mừng hớn hở. Đức Phật lại vì người nghèo giảng nói các pháp vi diệu. Người nghèo liền ở nơi chỗ ngồi xa trần lìa cấu, đạt được mắt pháp trong sạch, thấy pháp rồi, liền thọ ba pháp quy y, phụng trì năm giới, từ chỗ ngồi đứng dậy đầu mặt kính lễ sát chân, nhiễu quanh Phật rồi cáo lui.
Bấy giờ, có năm trăm người lái buôn, từ nước Ưu-thiền-na đến, với tuyến đường xa xôi nên đã hết lương thực ba ngày. Họ sai người cỡi ngựa đi trước để tìm thức ăn đã nấu sẵn. Người ấy rao nói: Chúng tôi gồm năm trăm người lái buôn, tứ nước Ưu-thiền-na đến, hết lương thực ba ngày, nên sai tôi đến trước tìm thức ăn đã nấu sẵn, nếu ai có thì giá nào chúng tôi cũng xin mua. Người trong thành nói: Nơi đây không có ai, chỉ có một người nghèo đang cúng dường tại Tăng phường, có dư thức ăn rất nhiều, ông có thể đến đấy xem chắc có thể có. Sứ giả kia bèn thúc ngựa đến đó, trình bày tình cảnh như vậy. Người nghèo trả lời: Nay tôi thiết lễ cúng dường không vì tài lợi, cần thì đến đây gấp đi, đừng nghĩ tới chuyện giá cả. Sứ giả nghe như vậy, cho là ngoài ý mong muốn của mình, liền trở về báo lại. Trong chốc lát, đoàn khách buôn đến nơi, họ cảm động nói: Cho chúng tôi ăn mau, chúng tôi sẽ hậu tạ. Người nghèo vẫn trả lời như trước. Đoàn buôn ăn vội vàng. Đã được no đủ rồi, họ theo dò hỏi người khác để biết sự nghiệp của người cho mình ăn, mới biết người này nghèo mà thiết lễ cúng dường Phật và Tăng. Đoàn khách buôn nghe rồi càng cho là điều hiếm có. Họ góp nhau một trăm ngàn lượng vàng để trả ơn cho người kia. Đoàn lái buôn lại hỏi thăm: Tại thành này có người tên là hiện nay ở đâu? Đáp: Ông ấy qua đời rồi. Đoàn buôn lại hỏi: Ông ấy còn con cháu gì không? Được trả lời: Người vừa rồi cho các ông ăn đó là con của ông ấy. Cả đoàn lái buôn nghe như thế liền thốt lên: Đúng rồi, người nghèo ơi! Cụ thân sinh của ông chính là thầy của chúng tôi. Họ liền lấy ra một trăm ngàn lượng vàng nữa để tặng gọi là báo đáp ân tình trước kia.
Đại thần nơi thành Vương-xá và người chủ thuê mướn trước kia biết rõ việc này rất đỗi vui mừng, lại mỗi người biếu tặng một ngàn lượng vàng để kết tình bạn tốt. Cũng trong ngày ấy, Vua Bình-sa tấn phong cho người nghèo chức “Đại thần”. Chỉ trong một ngày mà người nghèo kia trở thành kẻ giàu có và quyền quý. Người trong nước ban cho tước hiệu là “Trưởng giả bất ngờ”. Các Tỳ-kheo đem vấn đề ấy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có nhận lời mời của người mà lại ăn trước nơi nhà khác không? Các Tỳ-kheo thú nhận là có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Các ông là người ngu si, tại sao đã nhận lời thỉnh của người mà lại đi ăn trước nơi nhà khác?! Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ăn nhiều lần, phạm Ba-dật-đề”.
Khi ấy, Tất-lăng-già-bà-ta cùng tám mươi Tỳ-kheo, đều mắc trọng bệnh không thể ăn một lần đủ no. Nhân việc này bạch Phật, Đức Phật hợp Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Cho phép Tỳ-kheo bệnh được ăn nhiều lần. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ăn nhiều lần, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”.
Nhân duyên là khi bệnh. Như vậy gọi là nhân duyên.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn cho phép các Tỳ-kheo thọ y Ca-hi-na được khỏi phạm năm việc. Các Tỳ-kheo lại nảy ra ý nghĩ: Khi thời của y không phạm tội ăn nhiều lần, thời của y xong rồi có phạm hay chăng? Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Thời của y không phạm, ngoài thời của y thì phạm. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ăn nhiều bữa, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”. Nhân duyên là khi bệnh, khi thời của y, như vậy gọi là nhân duyên.
Có các bạch y biết các Tỳ-kheo không được phép ăn nhiều lần, bèn nghĩ ra một cách: Ta nên tạo phương tiện vì các Tỳ-kheo may y, Tỳ-kheo đến nhận, nhân đó ta cúng dường. Họ thực hiện ngay việc may y rồi thỉnh các Tỳ-kheo đến. Các Tỳ-kheo nói: Chúng tôi không được phép ăn, chỉ nhận y thôi. Các Cư sĩ thưa: Bạch Đại đức! Nhận thức ăn của chúng con rồi mới cúng y. Các Tỳ-kheo lại suy nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn cho phép ta ăn nhiều bữa, trong trường hợp có người cúng y thì có thể khỏi bị thiếu y. Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép Tỳ-kheo vì thí y nên được ăn nhiều lần. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào được ăn nhiều lần, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”. Nhân duyên là khi bệnh, khi thời y, khi thí y. Như vậy gọi là nhân duyên.
Vào một ngày nọ, Tôn giả A-nan đến nhà Trưởng giả, ông Trưởng giả bày biện các thức ăn, Tôn giả A-nan quên trước đã nhận lời mời bèn thọ thức ăn này, khi sắp ăn mới nhớ lại, liền nói với người chủ: Xin lỗi dọn cất đi, trước đây tôi đã nhận lời mời của người khác rồi, nên không thể ăn được. Ông Trưởng giả buồn nói: Tại sao đã thọ thức ăn của tôi lại bỗng dưng hối hận, không ăn. Như thế là Tôn giả A-nan vội vàng về bạch Phật, Đức Phật dạy: Nếu có nhân duyên như vậy nên khởi tâm niệm nhường lại chỗ mời trước cho vị khác như sau: Phần thỉnh của tôi, xin nhường lại cho Tỳ-kheo tên là nghĩ như vậy, rồi có thể ăn. Nếu không nghĩ như vậy mà ăn, phạm Đột-kiếtla.
Bấy giờ, lại có trường hợp người thỉnh trước lại dọn thức ăn sau, có trường hợp người dọn thức ăn trước rồi thỉnh sau, các Tỳ-kheo không biết nên như thế nào, bạch Phật, Đức Phật dạy: Khi thỉnh nên nói: Chỗ nào dọn trước thì tôi sẽ ăn chỗ đó. Ăn nhiều lần: Trước nhận người thỉnh sau lại ăn chỗ khác, như vậy gọi là ăn nhiều lần. Tỳ-kheo-ni cũng vậy, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-dini phạm Đột-kiết-la. Nếu được Tăng sai, hoặc ăn phòng riêng, hoặc bạch y đến thọ tám giới, thiết trai cúng dường, hay thường thực thì không phạm.
Xong giới thứ ba mươi mốt -
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, Điều-đạt tìm người làm vây cánh nên giáo hóa các Cư sĩ. Theo lệnh của Điều-đạt, mỗi một nhà thỉnh bốn Tăng hoặc năm, hoặc mười vị. Các Tỳ-kheo Trưởng lão quở trách các Tỳ-kheo thọ thỉnh: Tại sao vì vấn đề vây cánh của Điều-đạt mà nhận sự thỉnh ăn riêng chúng? Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có nhận sự thỉnh ăn riêng chúng của Điều-đạt không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận sự thỉnh ăn riêng chúng, phạm Ba-dật-đề”.
Có một Tỳ-kheo dắt Tỳ-kheo bệnh đi khất thực, nên bệnh tình trầm trọng thêm. Các Cư sĩ thấy, nói: Đừng dắt Tỳ-kheo bệnh đi khất thực, cứ đến nhà con lấy thức ăn. Tỳ-kheo nói: Đức Thế Tôn kiết giới không cho phép chúng tôi nhận mời ăn riêng chúng, nếu cúng dường cho chúng Tăng, trong đó có phần chúng tôi thì được. Các Cư sĩ nói: Gia đình chúng con nghèo không thể cúng nhiều được, chỉ có thể đủ sức cúng cho người bệnh mà thôi, nếu cần thì Đại đức đến nhận. Các Tỳ-kheo không biết nên như thế nào, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo bệnh nhận sự mời ăn riêng chúng. Thời của y, khi thí y như trong giới ăn nhiều lần đã nói. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận sự thỉnh ăn riêng chúng, trừ nhân duyên, Ba-dật-đề”. Nhân duyên là khi bệnh, khi thời của y, khi thí y. Như vậy gọi là nhân duyên.
Có các Tỳ-kheo may y, phải đi khất thực nên y lâu xong, phế bỏ việc hành đạo, lại có ý nghĩ: Nếu khi may y mà Đức Phật cho phép ta nhận sự mời ăn riêng chúng thì y may xong, không phế bỏ việc hành đạo. Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo, khi may y được nhận sự thỉnh ăn riêng chúng. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận sự mời ăn riêng chúng, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”. Nhân duyên là khi bệnh, thời gian của y, khi thí y, khi may y. Như vậy gọi là nhân duyên.
Có các Tỳ-kheo cùng với bạn đồng đi đến một xóm làng, nói với các người bạn: Chúng tôi vào thôn khất thực, có thể chờ cho một chút. Các người bạn nói: Khỏi phải khất thực, chúng tôi cung cấp thức ăn cho. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật không cho phép chúng tôi nhận sự mời ăn riêng chúng. Nói xong, vào thôn khất thực. Các người bạn bỏ đi. Tỳ-kheo khất thực rồi, đi không kịp bạn, bị giặc cướp trấn lột. Các Tỳ-kheo nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn cho phép chúng ta, khi đi đường, được nhận sự mời ăn riêng chúng thì đâu bị tai nạn này!
Có các Tỳ-kheo quá giang thuyền của người ta, đến giờ khất thực chủ thuyền bỏ đi, gặp các khổ nạn như trên. Hai việc ấy được bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo, khi đi đường, khi đi thuyền, nhận sự mời ăn riêng chúng. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, nhận sự mời ăn riêng chúng, trừ nhân duyên, Ba-dật-đề”. Nhân duyên là khi bệnh, khi thời của y, khi thí y, khi may y, khi đi đường, khi đi thuyền. Như vậy gọi là nhân duyên.
Lệ thường pháp các Đức Phật, hai lần đại hội trong năm vào tháng cuối mùa Xuân và tháng cuối mùa hạ, Tỳ-kheo từ bốn phương tụ họp về để thăm hỏi nhau. Với số chúng đông như vậy, theo thứ tự thỉnh rất ít và khất thực khó được, các Tỳ-kheo khởi ý nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn cho phép chúng ta khi đại hội được nhận sự thỉnh ăn riêng chúng thì không đến nỗi bị khổ như thế. Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo, khi đại hội được nhận sự mời ăn riêng chúng. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, nhận sự mời ăn riêng chúng, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”. Nhân duyên là khi bệnh, khi thời của y, khi thí y, khi may y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại hội. Như vậy gọi là nhân duyên.
Bấy giờ, em Vua Bình-sa tên là Ca-lưu, phụng thờ một đạo, đạo này hằng năm mời rộng chín mươi sáu hạng Sa-môn tổ chức một đại hội, nghe Sa-môn Thích tử không nhận sự mời ăn riêng chúng và theo khả năng thì không thể thỉnh cả chúng Tăng. Do thiếu Sa-môn của đạo Phật nên ông ta ưu sầu không vui, lại có ý nghĩ: Ta nên làm thế nào để thỉnh được Sa-môn Thích tử, chỉ có cách là nhờ nhà Vua mới có thể được kết quả, bèn đến trình bày với Vua. Nhận lời, nhà Vua liền đến chỗ Đức Phật, nêu bày đầy đủ sở nguyện của em mình. Sau khi nhà Vua ra về, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo khi Sa-môn hội được nhận sự mời ăn riêng chúng. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận sự mời ăn riêng chúng, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”. Nhân duyên là khi bệnh, khi thời của y, khi thí y, khi may y, khi đi đường, khi đi thuyền, khi đại hội, khi Sa-môn hội. Như vậy gọi là nhân duyên. Thỉnh ăn riêng chúng: Là ở trong chúng mà thỉnh riêng bốn vị trở lên. Như vậy gọi là thỉnh ăn riêng chúng. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-mana, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la. Nếu mới bắt đầu nhận sự mời ăn riêng chúng, khi đến lại chia ra, nói thọ thỉnh khác, không thành chúng thì không phạm.
Xong giới thứ ba mươi hai -
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc này, các nơi bị đói kém, khất thực khó được, tất cả các Tỳ-kheo tập trung về thành Vương-xá. Người ở bốn phương xa xôi nói: Trước đây, chúng ta mai chiều đều thấy các Tỳ-kheo, tại sao nay tuyệt nhiên không thấy nữa? Có người bảo: Lúc này khất thực khó được, tất cả đều đến thành Vương-xá nên vắng bóng Tỳ-kheo. Các Cư sĩ nói: Chúng ta có thể kiến lập một cái nhà nhỏ, mỗi ngày lo cho một Tỳ-kheo ngủ một đêm, ăn một bữa. Nếu không vị nào đến dùng cơm thì nên gom góp lại, đợi các Tỳ-kheo đến sau. Họ liền thực hiện. Khi ấy, có một gia đình thường làm thức ăn ngon, Lục quần Tỳ-kheo du hành trong nhân gian, thường đến nhà đó. Các Tỳ-kheo khác đều không được đến, nói với các Cư sĩ: Các vị vì Tăng nên thiết lập “nhất túc thực”, tại sao tôi không được dự một lần nào? Cư sĩ thưa: Bổn nguyện của tôi là vì Tăng nên thiết lập chỗ này, nhưng Lục quần Tỳ-kheo ở mãi không đi, khiến tôi không được đón tiếp vị Tăng nào khác. Đây là lỗi tại Lục quần Tỳ-kheo, chứ chẳng phải do tôi. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách Lục quần Tỳ-kheo, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, chỗ cúng một bữa ăn, ăn quá một bữa, phạm Ba-dật-đề”.
Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất bị trúng gió, đến nơi cúng một bữa ăn, ăn một bữa rồi bèn muốn đi chỗ khác. Các Tỳ-kheo thưa: Trưởng lão bệnh hoạn không nên đi chỗ khác chúng tôi sẽ nhường phần ăn để cúng dường. Tôn giả Xá-lợi-phất nói: Đức Thế Tôn không cho phép chỗ ngủ một đêm, ăn quá một bữa. Có các Cư sĩ nghe Tôn giả Xá Lợi Phật bị bệnh cũng cùng nhau thỉnh ở lại. Tôn giả cũng trả lời như trước, rồi ôm bệnh ra đi. Các Tỳ-kheo lại có những suy nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn cho phép Tỳ-kheo bệnh, đối với chỗ cúng một bữa ăn được ăn quá một bữa thì không có sự khổ tâm này. Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta cho phép các Tỳ-kheo bệnh, đối với chỗ cúng một bữa, được ăn quá một bữa. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, không bệnh mà đối với chỗ cúng một bữa ăn, ăn quá một bữa, phạm Ba-dật-đề”. Chỗ cúng một bữa ăn, số đông Tỳ-kheo vào buổi chiều đồng thời đến, nếu đàn-việt có cúng nước phi thời, hay dầu xoa chân, cho phép theo thứ tự nhận, sáng ngày, theo thứ tự ăn. Nếu không, thì chỉ nghỉ một đêm, ăn một bữa rồi nên đi. Nếu đàn-việt mời ở lại thì được phép ở. Nếu đi rồi có duyên sự cần trở lại, nên nói với chủ nhân, chủ nhân cho phép ở thì ở, không cho phép thì nên đi. Nếu Tỳ-kheo đến sau nên nhận thức ăn đủ ăn một bữa, có dư nên cho Tỳ-kheo do chủ nhân lưu lại. Nếu Tỳ-kheo đến, có nhiều chỗ cúng một bữa ăn, các Tỳ-kheo nên chia ra các nơi. Nếu nhà bà con mà nhận quá một bữa ăn phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Độtkiết-la. Nếu có các nạn không đi được thì không phạm.
Xong giới thứ ba mươi ba --------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, có một người nữ sắp về lại nhà chồng, chuẩn bị các thứ bánh để dùng làm lương thực đi đường. Có một Tỳ-kheo theo thứ tự khất thực đến nhà ấy, người nữ hỏi: Thầy cần gì? Tỳ-kheo nói: Tôi cần thức ăn. Có thể ăn Khư xà ni được không? Đáp lời: Được. Cô gái bèn lấy bình bát đặt đầy bánh để dâng. Tỳ-kheo này nhận được bánh rồi lại nói các Tỳ-kheo khác: Nhà đó có nhiều thức ăn ngon, thầy nên tới đó xin. Các Tỳ-kheo nghe theo đều đến xin. Tất cả các bánh chín rồi đều đem cho hết. Khi ấy, phía nhà chồng cho người tới giục. Cô gái trả lời: Lương thực làm chưa xong. Cô ta lại làm các thức ăn khác, như vậy cho đến Ba lần, Tỳ-kheo cũng đến xin đều đem cho hết. Nhà chồng Ba lần hối thúc, người nữ đều trả lời như lần đầu. Ông chồng đùng đùng nổi giận, nghĩ là người nữ đã đổi ý, bèn sai người nói: Ta đã cưới người vợ khác rồi, không cần đến người nữ nhắm mắt lại như cô nữa. Như thế là cả gia đình người nữ nổi giận nói: Do Sa-môn Thích tử nên con ta bị ở góa. Họ nhục mạ đủ thứ, không chừa một lời thô bỉ nào. Người xung quanh hỏi: Người khác bạc bẽo đối với con bà, can dự gì đến Sa-môn mà bà nhục mạ họ? Gia đình kể rõ lại vấn đề. Người không tin Phật pháp đều khoái chí: Do kính Samôn nên mới như thế, nếu gần gũi lại còn gặp những điều tệ hại hơn nữa.
Bấy giờ, lại có người chủ khách buôn nói với các lái buôn: Sửa soạn lương thực, hôm đó là ngày tốt, ta sẽ khởi hành. Mọi người đều chuẩn bị lương thực đi đường. Có một Tỳ-kheo, theo thứ tự khất thực đến nhà một người lái buôn. Người lái buôn hỏi: Thầy cần gì? Tỳ-kheo nói: Tôi cần thức ăn. Lại hỏi: Bánh bún dùng được không? Tỳ-kheo nói: Được. Người lái buôn liền lấy bình bát đặt một bát đầy để cho. Tỳ-kheo nhận được rồi, nói với các Tỳ-kheo khác: Tại nhà đó có nhiều thức ăn ngon, các thầy có thể đến đó xin. Các Tỳ-kheo tới đó xin đều được. Do vậy, lương đi đường của người lái buôn hết sạch. Người chủ khách buôn nói: Ngày tốt đã đến, chúng ta nên khởi hành. Người lái buôn này nói: Lương thực chưa xong. Người chủ khách buôn nói: Trước đây tôi đã bố cáo chuẩn bị lương thực, tại sao nay lại nói chưa xong? Người lái buôn nói: Vì Sa-môn đến xin nên tôi cho hết. Người chủ khách buôn bảo: Nay là ngày tốt, không thể không khởi hành, tôi đi trước, người có thể đi sau. Người chủ khách buôn bèn khởi hành. Sau chuyến buôn trở về được an ổn, thu nhiều lợi nhuận. Người lái buôn kia đi sau, gặp đám cướp quét sạch của cải, kêu la khóc nói: Do Sa-môn Thích tử nên tôi mới bị khốn đốn thế này! Đám giặc hỏi: Tôi cướp của ngươi, tại sao lại oán người ta? Người lái buôn kể rõ đầu đuôi câu chuyện. Lũ giặc nghe rồi lại nói: Ngươi gần gũi Sa-môn nên bị đánh, bị giết, bị cướp đồ là phải. Nếu còn có sự gần gũi nữa cũng sẽ bị như vậy. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo kia: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có thật vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo:
Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đến nhà bạch y, họ cho lấy thức ăn theo ý muốn, hoặc bánh, hoặc bún, nếu cần thì nhận hai, ba bát, nhận quá, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo bệnh, vào thôn khất thực, một Cư sĩ cho nhiều thức ăn, bảo lấy theo ý muốn, lấy quá hai, ba bát nhưng không dám thọ nữa, đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta cho phép Tỳ-kheo bệnh nhận quá hai, ba bát. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đến nhà bạch y, cho nhiều thức ăn, họ yêu cầu tùy ý lấy, hoặc bánh hoặc bún, cần thì nên lấy hai, ba bát. Nếu không bệnh nhận quá, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo đến nhà mời thọ trai, ăn rồi lại xin thêm mang đi. Các Tỳ-kheo mang vấn đề này bạch Phật. Phật dạy: Đến nhà người mời ăn, không được xin thêm mang đi. Nếu không ăn thì được lấy mang về.
Có các Tỳ-kheo nhận hai, ba bát mang đi rồi, không cho Tỳ-kheo khác cùng ăn. Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nên cho các Tỳ-kheo để cùng ăn. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đến nhà bạch y, cúng nhiều thức ăn, yêu cầu tùy ý nhận, hoặc bánh hoặc bún, không ăn tại nhà đó, cần thì nên nhận hai, ba bát, ra ngoài nên cho các Tỳ-kheo cùng ăn. Nếu không bệnh, nhận quá mức đó, và không cho các Tỳ-kheo khác ăn, phạm Ba-dật-đề”.
Tùy ý cho thức ăn: Tức là đến xin cho liền. Nếu Tỳ-kheo nhận bát thứ nhất, về chùa nên nói với các Tỳ-kheo: Tôi đã nhận nơi nhà đó một bát, còn hai bát, thầy cần thì đến lấy. Nếu nhận bát thứ hai, nên nói: Tôi đã nhận nhà đó hai bát, còn một bát, cần thì thầy đến nhận. Nếu nhận bát thứ ba, nên nói: Tôi đã nhận nhà đó ba bát rồi, đừng đến nhận nữa. Nếu không nói phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa ni di, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ ba mươi bốn --
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, các nơi bị đói kém, khất thực khó được, các Tỳ-kheo đều trở về thành Vương-xá. Các Cư sĩ nơi thành Vương-xá hỏi: Tăng có bao nhiêu vị thọ trai và có bao nhiêu người hứa cúng? Các Tỳ-kheo trả lời: Tăng có vị, có đã hứa. Khi ấy, các Cư sĩ họp lại và có chung một giải pháp: Chúng ta sẽ vì các Tỳ-kheo, tùy theo khả năng từng nhà mà làm thức ăn, hoặc một người lo thức ăn từ một cho đến mười Tỳ-kheo. Hoặc hai người cho đến mười người cùng nhau lo thức ăn cho một Tỳ-kheo đến mười Tỳ-kheo. Sắp xếp việc ăn đâu đó ổn rồi, các Cư sĩ chủ trương lại có ý nghĩ: Chúng ta tuy tùy theo khả năng làm thức ăn để ăn từ một người cho đến mười người, sợ e không chu đáo, nay cần phải kiểm tra lại các vật phẩm để làm thức ăn đồng đều. Nếu có trường hợp nào không đầy đủ ta sẽ bổ túc. Họ thực hiện ngay việc kiểm tra lấy từng vật phẩm, trong số đó có người nghèo, tuy lòng họ không tiếc của nhưng họ không có gạo tốt. Đậu, mạch… thuộc các gia đình nghèo, do kiểm tra đã sung vào một loại. Các Cư sĩ chủ trương liền sai làm các loại thức ăn gấp nên các thức ăn uống đều thô cứng, xấu xí. Các Tỳ-kheo già bệnh không thể ăn được, đem cho người ăn xin hay người ngoại đạo, rồi đến nhà quen biết xin thức ăn khác. Các Cư sĩ biết, dị nghị nói: Chúng tôi giảm bớt phần ăn của vợ con để gieo giống phước điền, tại sao Tỳ-kheo lại coi rẻ thức ăn của chúng tôi?! Sử dụng của đi xin đem cho người ăn xin và ngoại đạo, rồi đi tìm thức ăn ngon khác là sao?! Hạng người này chủ đích là tìm giải thoát, để khỏi già, bệnh, chết, tại sao nay lại tìm thức ăn ngon, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn.
Khi ấy, người thí chủ của Bạt-nan-đà đến giám sát bữa ăn. Bạt-nan-đà đã ăn với chúng rồi, lại đến nhà người thí chủ đòi thức ăn ngon. Người thí chủ hỏi: Vừa rồi Đại đức không ăn với chúng sao? Bạt-nan-đà trả lời: Có ăn với chúng, nhưng sợ đàn-việt mất phước đức cúng riêng, cho nên đến đây. Người kia dè bỉu nói: Hiện nay ở đời đói khổ, mọi người kiệt quệ mà phải chung nhau làm thức ăn, tại sao lại coi nhẹ để đi tìm thức ăn ngon?! Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự các ông có như vậy không? Có như vậy, bạch Thế Tôn. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ăn rồi, lại ăn trở lại, phạm Ba-dật-đề”.
Lúc ấy, Tất-lăng-già-bà-ta cùng tám mươi Tỳ-kheo bị bệnh, các Tỳ-kheo vì họ mà xin thức ăn, họ ăn không hết, bỏ trước phòng, các Cư sĩ thấy hỏi: Những thức ăn nào đây? Được trả lời: Thức ăn dư của các Tỳ-kheo bệnh. Các Cư sĩ nói: Sao không lấy ít? Đáp: Vì các Tỳ-kheo bệnh có người ăn nhiều, có người ăn ít, nên chúng tôi không thể lấy ít được. Cư sĩ lại nói: Hiện nay bị đói kém, đem bố thí một hạt cơm, phước cũng đủ sinh thiên, tại sao lại vất bỏ, không ơn huệ để bố thí. Có người lại nói: Các Sa-môn này, thức ăn dư thà họ vất bỏ chứ không cho ai đâu. Chúng ta đã cúng cho Tăng, một hạt cơm rơi xuống đất cũng coi đó là một tội lớn, tại sao Tỳ-kheo lại không tiếc? Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch với Phật. Đức Phật hỏi Tôn giả Anan: Có người nào có thể ăn thức ăn ấy hay không? Tôn giả thưa: Tỳ-kheo nuôi bệnh đi xin thức ăn ấy, vậy mà chính họ vẫn ăn chưa đủ. Họ muốn ăn thức ăn dư ấy, nhưng không dám ăn. Đức Phật nhân việc này, tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo ăn thức ăn dư của Tỳ-kheo bệnh.
Bấy giờ, trong thành Vương-xá chúng Tăng ăn rồi, có Tỳ-kheo từ bên ngoài nhận được thức ăn đem về, các Tỳ-kheo không biết nên giải quyết thế nào, bạch Phật, Đức Phật dạy: Có thể dùng thức ăn này cho Tỳ-kheo bệnh. Quý vị đem cho, các Tỳ-kheo bệnh nói: Thức ăn này làm cho tăng thêm bệnh, chúng tôi không dùng. Quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Cho các Tỳ-kheo đến bên Tỳ-kheo bệnh làm pháp tàn thực để ăn. Lúc ấy, trong thành Vương-xá, chúng Tăng ăn rồi đứng dậy, lại có Tỳ-kheo từ bên ngoài nhận được thức ăn đem về, khiến Tỳ-kheo hết bệnh ăn. Tỳ-kheo này không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên đến bên Tỳ-kheo ăn chưa xong, làm pháp tàn thực để ăn. Nếu không có vị nào ăn chưa xong, thì đến vị chưa ăn để làm. Nếu trong chúng không có Tỳ-kheo nào chưa ăn thì nên tìm đến nơi gần nhất, nếu nơi gần nhất lại cũng không có, thì nên cho một Sa-di đủ điều kiện thọ giới Cụ túc, thọ giới, rồi đến bên vị tân Tỳ-kheo đó làm pháp tàn thực để ăn. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ăn rồi, không làm pháp tàn thực mà ăn, phạm Ba-dật-đề”.
Có Tỳ-kheo buổi sáng mời các Tỳ-kheo dùng tiểu thực bằng thức ăn Khư-đà-ni, thức ăn Xa đà ni, các Tỳ-kheo gọi đó là túc thực, không dám ăn nữa, bạch Phật. Phật dạy: Đây không gọi là túc thực. Có năm thức ăn gọi là túc thực: Cơm, cơm khô, bánh, bún, cá và thịt. Đối với năm thức ăn này, mỗi thức ăn có năm trường hợp gọi là túc thực:
Có thức ăn.
Có trao cho.
Có nhận ăn.
Không nhận thêm.
Thân lìa khỏi chỗ cũ.
Nếu lìa khỏi chỗ cũ rồi lại nhận được thức ăn cơm, bún, không làm pháp tàn thực mà ăn thì mỗi miếng ăn phạm Ba-dật-đề. Các Tỳ-kheo không biết cách làm pháp tàn thực, bạch Phật, Đức Phật dạy: Để thức ăn vào bình bát rồi bưng nơi tay, trống vai bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, bạch: Trưởng lão nhất tâm niệm: Tôi tên là ăn đã đủ, xin vì tôi làm pháp tàn thực. Tỳ-kheo kia bưng bát, hỏi: Thức ăn này cho tôi phải không? Vâng! Vị kia ăn một ít còn bao nhiêu trả lại, hoặc hoàn toàn không ăn chỉ bưng rồi đưa lại, nói: Đây là thức ăn dư của tôi, thầy dùng đi! Như vậy gọi là làm pháp tàn thực. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa ni di, phạm Đột-kiếtla.
Xong giới thứ ba mươi lăm -
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, có hai Tỳ-kheo cùng kết bạn thân với nhau, một người thông minh, một người ám độn thường phạm tội ác, người thông minh luôn luôn nêu tội kia và khuyên bạn phải sám hối. Lòng người ám độn sinh ra giận hờn, dấy lên ý nghĩ: Nay ta cũng sẽ tìm tội lỗi của bạn ta. Nhưng không tìm được bèn chờ người bạn ăn xong, không làm pháp tàn thực, bảo bạn ăn. Tỳ-kheo kia do tình bạn bè nên không nghi, bèn ăn, ăn xong ông bạn ám độn nói: Thầy ăn thêm mà không làm pháp tàn thực, phạm tội cần phải sám hối, đừng để vi phạm phạm hạnh, nhiều đời chịu khổ. Tỳ-kheo kia than phiền: Tôi muốn đem lại điều lợi cho thầy nên cùng nhau chỉ vẽ, tại sao thầy giận tôi đưa tôi đến chỗ phạm tội?! Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng nhiều cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Thật sự ông có như vậy không? Tỳ-kheo kia nhận là có. Bằng nhiều cách Đức Phật quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào không làm pháp tàn thực, nài nỉ cho Tỳ-kheo ăn rồi ăn nữa, muốn khiến cho người kia phạm tội, phạm Ba-dật-đề”.
Có Tỳ-kheo ăn đủ rồi, các Tỳ-kheo không biết lại bảo khiến cho ăn, Tỳ-kheo kia nói: Tôi ăn xong rồi. Các Tỳ-kheo bèn sinh nghi: Ta cố bảo ăn, có phạm Ba-dật-đề không? Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu không biết người kia ăn xong rồi, bảo họ ăn mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào biết Tỳ-kheo kia ăn xong rồi, không làm pháp tàn thực, chỉ nài nỉ khiến ăn, muốn cho người kia phạm tội, phạm Ba-dật-đề”. Nếu nài nỉ Tỳ-kheo ăn, mỗi miếng phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-mana, Sa-di, Sa ni di, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ ba mươi sáu -
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, Đức Thế Tôn chưa chế Tỳ-kheo được nhận thức ăn để ăn. Đối với các gia đình quen biết, các Tỳ-kheo không được mời mà ăn, các bạch y chê trách, nói: Chúng tôi không thích thấy người ác này, mặc áo hoại sắc cắt rọc, không được nhận thức ăn mà ăn. Ăn thức ăn không được người mời (trao) tức là lấy của không cho. Lúc này, Tôn giả Đại Ca-diếp mặc y phấn tảo nhặt những thức ăn đã bỏ đi khắp nơi hang cùng, ngõ hẻm mà ăn. Các Cư sĩ thấy vậy rất bất bình, chê trách: Sa-môn này giống như chó, được đồ ăn thì ăn không kể sạch dơ, làm sao để cho họ vào nhà chúng ta. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe hai việc như vậy rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, trước hết hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông không thọ thực mà ăn hay không? Các Tỳ-kheo nhận là có. Đức Phật bằng nhiều cách quở trách rồi nói với Ca-diếp: Tuy là ông thiểu dục song làm cho người ta coi thường, vậy không nên ăn thức ăn vất bỏ, nếu ăn thì phạm Đột-kiết-la. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào không nhận thức ăn mà để thức ăn vào miệng, phạm Ba-dật-đề”.
Khi ấy, các Tỳ-kheo được người làm thức ăn mời nếm, không dám nếm, nên khi bị mặn, khi bị lạt, họ buồn không chịu phục vụ nữa. Do vậy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép vì người nấu thức ăn, nếm thức ăn nhưng không được nuốt vào. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào không nhận thức ăn mà để thức ăn vào miệng, trừ nếm thức ăn, phạm Ba-dật-đề”.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo không nhận nhành dương (tăm xỉa răng) và nước, không dám xỉa răng và súc miệng, thúi miệng, mờ mắt. Khi nói chuyện với ai, họ nghe hơi thối này, hỏi: Tại sao miệng Đại đức thối? Các Tỳ-kheo rất xấu hổ, bèn xin nhận nhành dương và nước, các người nói: Thầy tự đi tìm lấy, chứ có ai lại trao cho thầy nhành dương và nước. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép nhận nhành dương và nước. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào không nhận thức ăn mà để thức ăn vào miệng, trừ nếm thức ăn, nhành dương và nước, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bị trúng gió, Tôn giả Mục-kiền-liên đến hỏi: Khi thầy còn ở nhà đã từng có chứng bệnh này chưa? Xá-lợi-phất đáp: Có bị rồi. Hỏi: Trị bằng thứ gì lành? Đáp: Bằng ngó sen. Thế là Mục-kiền-liên đến ao A-nậu-đạt lấy ngó sen đem về. Xá-lợi-phất hỏi: Lấy từ đâu? Mục-kiền-liên trả lời: Nơi ao A-nậu-đạt. Xá-lợi-phất lại hỏi Mục-kiền-liên: Từ ai cho vậy? Nhận từ rồng. Xá-lợi-phất không dám ăn, bạch Phật, Đức Phật dạy: Cho phép nhận thức ăn từ rồng.
Khi ấy, Tôn giả Đại Ca-diếp đến khất thực nơi nhà người nghèo, Thích-đề-hoàn-nhân khởi ý niệm: Nay Đại đức Ca-diếp khất thực nơi nhà nghèo, ta nên tạo phương tiện để cho Tôn giả nhận thức ăn nơi ta. Theo thứ tự khất thực của Ca-diếp, Thích-đề-hoàn-nhân hóa làm một người thợ dệt ngồi trên khung cửi, lại hóa một người con gái đưa thoi. Theo thứ tự, Ca-diếp đến chỗ thợ dệt, người con gái lấy bình bát đặt đầy thức ăn bách vị đem dâng. Sau khi nhận lại bình bát, Ca-diếp liền có ý nghĩ: “Người ấy bần cùng làm sao có được thức ăn này”, liền nhập định để xem xét biết là trời Đế Thích, bèn nói: Này Kiều Thi Ca! Sau này đừng làm như vậy. Do thế, Ca-diếp không dám ăn, bạch Phật. Phật dạy: Nay cho phép các Tỳ-kheo nhận thức ăn từ hàng trời.
Lúc này, Đức Thế Tôn du hóa trên tuyến đường xa xăm, vào buổi chiều, đến thôn của quỷ Khoáng dã. Gặp được Phật, quỷ thần rất hoan hỷ bèn thỉnh Phật và Tăng thọ trai vào ngày mai. Đức Phật nhận lời bằng cách im lặng. Suốt đêm, quỷ sửa soạn các thức ăn uống đầy đủ. Sáng sớm, trải tòa phu cụ thỉnh Phật và Tăng. Phật ra lệnh cho các Tỳ-kheo phải cùng nhận lời mời của quỷ. Phật và Tăng đến đông đủ rồi ngồi vào tòa. Quỷ thần tự tay san sớt thức ăn. Các Tỳ-kheo không dám thọ, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nay cho phép các Tỳ-kheo nhận thức ăn từ loài quỷ.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn du hóa nơi rừng cây Ta-la, có một con khỉ từ trên cây nhảy xuống, định lấy bình bát Phật đem đi, các Tỳ-kheo nắm lấy bát không cho. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Cứ để khỉ lấy bát đem đi. Khỉ lấy ngay bát rồi đến trên một cây lớn lấy đầy bát mật ong đem dâng Phật. Đức Phật thấy có ong con nên không nhận. Khỉ nhìn kỹ thấy ong con liền bắt bỏ rồi dâng Phật. Đức Phật vì khỉ nhận bát mật. Thế là khỉ vui mừng nhảy múa, hớn hở rồi cáo từ. Đức Phật đem bình bát mật ong này cho các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không dám ăn, bạch Phật. Đức Phật dạy: Cho phép nhận thức ăn từ loài khỉ trao.
Khi đó, có người buôn ngựa thỉnh Phật và Tăng đến thọ trai. Sửa soạn vừa xong, có người đến báo: Chuồng ngựa bị cháy. Do vậy người buôn ngựa không tự trao thức ăn được, nói với các Tỳ-kheo: Xin quý vị tự lấy thức ăn cho! Nói xong liền bỏ chạy… Các Tỳ-kheo nghi ngại, không dám lấy thức ăn, bạch Phật. Phật dạy: Nếu không có tịnh nhân, cho phép các Tỳ-kheo, dựa theo lời người thí chủ, tự lấy thức ăn để ăn.
Lại có các bạch y, từ xa ném thức ăn cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật. Phật dạy: Không được nhận thức ăn từ xa ném đến. Có các Tỳ-kheo già bệnh, mắt lại mờ, khi nhận được thức ăn xúc chạm tay tịnh nhân, phải rửa tay nhiều lần nên rất phiền phức, bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng lá cây trải trên mặt đất, lấy tay đè xung quanh, khiến họ để thức ăn vào đó, việc này cũng gọi là thọ thực. Các Tỳ-kheo bèn trải rộng lá cây ra, đem điều này bạch Phật. Phật dạy: Không nên trải rộng, chỉ trải ngang bằng tầm tay với tới. Có các bạch y khinh ghét Tỳ-kheo không chịu đích thân trao thức ăn, bỏ trên đất trước mặt Tỳ-kheo và nói:
Tự lấy thức ăn đi! Các Tỳ-kheo không biết nên như thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nếu thí chủ khinh ghét không chịu trao thức ăn, cũng cho phép dựa theo lời nói của họ mà lấy thức ăn.
Có bốn cách thọ: thần trao thân nhận, vật trao vật nhận, tay trao tay nhận, bảo lấy mà nhận. Có nước muối, Tỳ-kheo không thọ, không dám uống, bạch Phật. Phật dạy: Nếu không bỏ muối vào mà tự nó mặn thì cho phép không thọ được uống. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ ba mươi bảy
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, Đức Thế Tôn chưa vì Tỳ-kheo chế giới cấm ăn phi thời. Các Tỳ-kheo đi khất thực vào ban đêm, hoặc bị rơi ngã vào hào rãnh, hoặc đụng phải nữ nhân, hoặc gặp kẻ cướp đoạt, hoặc bị các loại thú, trùng làm hại, các Tỳ-kheo ăn bất kể ngày đêm, chểnh mảng việc tu phạm hạnh. Khi ấy, Ca-lưu-đà-di có khuôn mặt đen, mắt đỏ, lại mặc y tạp sắc khất thực trong đêm tối. Một người phụ nữ mang thai thấy bóng Ca-lưu trong tia chớp sáng, hoảng hồn, la lớn: Tỳ-xá-già! Tỳ-xá-già! (ma! ma!) Ca-lưuđà-di: Tôi là Sa-môn khất thực, chứ không phải là Tỳ-xá-già đâu. Người phụ nữ trong cơn sợ, tức giận mắng không tiếc lời: Tại sao ông không lấy dao mổ bụng đi mà lại khất thực trong đêm tối? Các Sa-môn, Bà-la-môn khác chỉ ăn một lần là đủ, tại sao ông ăn không kể ngày đêm? Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Ca-lưu-đà-di: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ăn phi thời, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo bị nôn thốc thuốc trong bụng ra ngoài, chưa đến bữa ăn mà bụng lại trống không nên ngất xỉu. Các Tỳ-kheo không biết làm thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Dùng tô thoa nơi thân, nếu không giảm thì dùng bột gạo thoa nơi thân, vẫn không lành thì lấy tô hòa với bột gạo thoa nơi thân, vẫn không có hiệu quả thì Đức Phật bảo, lấy nước nóng xoa rửa, nếu cũng không lành thì cho uống nước nóng, vẫn không lành, Đức Phật bảo lấy cái chậu đựng đầy nước thịt mỡ, rồi đặt ngồi trong đó. Dùng các phương thức trên để làm sao kéo dài cho đến sáng. Dứt khoát không được ăn phi thời. Phi thời: Từ giữa trưa cho đến khi tướng mặt trời chưa xuất hiện gọi là phi thời. Nếu Tỳ-kheo phi thời, tưởng là phi thời, nghi là phi thời, phi thời tưởng là thời đều phạm Ba-dật-đề. Thời, tưởng là phi thời, nghi là thời, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Độtkiết-la.
Xong giới thứ ba mươi tám --------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, Đức Thế Tôn chưa chế giới cấm Tỳ-kheo ăn thức ăn cách đêm. Có một thần miếu nọ là nơi du ngoạn. Mọi người đua nhau mang theo thức ăn ngon đến đây để chiêm bái, thưởng ngoạn, hoặc ở lại thâu đêm với nhiều thức ăn ngon bổ, ê hề. Các Tỳ-kheo nơi đây được cúng dường nhiều thức ăn, ăn không hết, cất chứa trong phòng, không chỗ nào không có. Sâu, chuột tìm đến, đục khoét, phá hoại làm hỏng cả vách tường. Các Cư sĩ thấy hỏi: Ai cất chứa thức ăn đây? Có người nói: Sa-môn Thích tử. Cư sĩ chê trách: Đám trọc đầu này chỉ biết ham hố nhận cho nhiều rồi không hề nghĩ tới việc phí phạm, tổn hao, thật không có hạnh Samôn, phá pháp của Sa-môn.
Lại có một Tỳ-kheo A-lan-nhã ở chỗ vắng vẻ, khởi ý niệm: “Ngày nào cũng đi khất thực, phế bỏ việc hành đạo”, bèn xin các thức ăn để dành hoặc phơi khô đem cất. Khi ấy, các Tỳ-kheo du hành thấy vậy bảo: Đức Thế Tôn lẽ nào không nói: Áo mặc là để che hình hài, thức ăn là để nuôi sống, tại sao thầy dồn chứa nhiều thức ăn, hong phơi bừa bãi như thế? Tỳ-kheo kia trả lời: Chỗ này cách xa làng xóm, ngày nào cũng đi khất thực phế bỏ việc hành đạo, nên tôi xin để dành cho khỏi phiền bận. Các Tỳ-kheo bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có thật vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ăn thức ăn cách đêm, phạm Ba-dật-đề”. Thức ăn cách đêm: Thức ăn thọ rồi để lại đến ngày mai, gọi là thức ăn cách đêm. Nếu Tỳ-kheo ăn thức này, mỗi miếng ăn phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ ba mươi chín --------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc ấy, trong nước bị mất mùa, khất thực khó được, hai mươi tám vị tướng quân quỷ thần đến chỗ Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn: Hiện nay, đời bị đói khát, nguyện xin Đức Phật du hành trong nhân gian, chúng con sẽ giáo hóa mọi người, khiến họ phát tâm thiện. Đức Thế Tôn chấp thuận bằng cách im lặng. Kế đến, Tứ Thiên vương, Thích-đề-hoàn-nhân, Phạm thiên vương chủ thế giới Ta Bà cũng đến đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng lui qua một bên, và cũng bạch Phật như vậy.
Đức Phật cũng im lặng chấp thuận. Lúc này, Đức Thế Tôn từ thành Vương-xá cùng một ngàn hai trăm năm mươi Đại Tỳ-kheo Tăng, lại có năm trăm Tỳ-kheo-ni, năm trăm Ưu-bà-tắc, năm trăm Ưu-bà-di, cùng du hành đến nước Ma-kiệt. Lại có một ngàn nam nữ ngoại đạo, năm trăm người xin ăn, cùng tháp tùng theo sau Đức Phật để ăn thức ăn dôi ra. Đức Thế Tôn đến chỗ nào cũng đều được sự cúng dường nồng nhiệt. Người bốn phương xa gần mang thức ăn đến cúng dường không xiết kể. Phẩm vật cúng dường không cách nào dùng hết. Các Tỳ-kheo đem thức ăn dôi ra cho nam nữ ngoại đạo và người ăn xin. Các Cư sĩ thấy thế bất mãn nói: Sa-môn Thích tử ai cho chi nhận hết nấy, ăn không hết đem cho đám tà kiến, không như người vắt sữa còn biết lưu lại sữa cho bê con. Hoặc có người lại nói: Sa-môn Thích tử hãy còn cúng dường ngoại đạo, tại sao việc này chúng ta lại không phụng sự được. Bấy giờ, Đức Thế Tôn đi đến ấp An-na-tần-đầu, nơi có đại Bà-la-môn tên là Sa-môn, dùng năm trăm cỗ xe chở đầy thức ăn đi theo Phật. Với thời gian hơn năm tháng để chờ đến phiên mình được cúng dường, cuối cùng vẫn chưa được. Người nhà đến báo tin: Nông vụ muốn quá thời hạn, cần về để lo việc nông trang. Đã đến lúc Bà-la-môn kia phải đến chỗ Tôn giả A-nan. Người Bà-la-môn thưa với Tôn giả A-nan: Năm trăm chiếc xe của tôi chở đầy thức ăn, muốn cúng dường Phật và Tăng, theo Phật đến nay đã hơn năm tháng mà chưa cúng dường được, nay người nhà đến báo tin, phải về, không thể tiếp tục chở theo được nữa. Tôi muốn đem thức ăn này trải dài trên đường rồi mời Phật và Tăng đi ngang qua, cho lòng tôi được mãn nguyện. Tôn giả A-nan nói: Chờ tôi bạch Phật đã. Tôn giả A-nan bạch Phật. Phật dạy: Ông có thể hội ý với người Bà-la-môn ấy, xem xét thức ăn mà các nhà cúng dường, thứ nào thiếu thì làm. Tôn giả A-nan vâng lời và đã trao đổi với người Bà-la-môn như vậy. Người Bà-la-môn thấy không có cháo và bánh ram có dầu và mật. Ông ta cho nấu bảy thứ cháo và làm hai thứ bánh. Sáng sớm, ông ta đến bạch Phật: Bánh và cháo đã làm xong. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Ông nên tiếp tay dọn ra. Tôn giả A-nan vâng lời Phật, dọn bày ra bánh và cháo. Khi ấy, có ngoại đạo, người mẹ bồng một đứa con gái nhỏ, Tôn giả A-nan thấy có đứa nhỏ nên cho bà ta hai cái bánh. Các ngoại đạo nói: Tỳ-kheo này đã tâm nhiễm đối với bà ta nên thiên vị cho hai cái bánh. Có người lại nói: Chính là ông ta cho đứa nhỏ một cái chứ không phải thiên vị. Họ cãi nhau gây sự náo động. Tôn giả Anan thấy vậy, tự thấy lòng mình không yên, bèn đến chỗ Phật, đem vấn đề ấy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Anan: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đem thức ăn cho nam nữ ngoại đạo, phạm Ba-dật-đề”.
Lại có các Tỳ-kheo đem thức ăn cho ngoại đạo lõa thể. Ngoại đạo kia gói một gói bánh đem vào thành Vương-xá. Các người hỏi: Từ đâu đến? Từ đám Cư sĩ trọc đầu đến. Lại hỏi: Vật gì trong gói đó? Đáp: Bánh ram có mật. Hỏi tiếp: Ai cho? Đáp: Các Cư sĩ thì lấy Sa-môn làm ruộng phước, Sa-môn Thích tử lại lấy tôi làm ruộng phước, nên gói bánh này nhận được từ họ đấy. Mọi người bèn chê trách nói: Sa-môn Thích tử không biết tiết chế, tính lường, ham hố thọ nhận mấy cũng không chán. Chúng tôi cắt giảm phần ăn của vợ con để cúng dường, lại đem cho đám người tà kiến ác này. Nếu cần cúng dường thì chúng tôi cúng dường, phiền chi phải nhờ Sa-môn. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Có y phục hay lõa hình khác nhau chỗ nào? Bằng mọi cách quở trách rồi, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cho thức ăn cho nam nữ ngoại đạo lõa thể, phạm Ba-dật-đề”.
Có các ngoại đạo khi Tỳ-kheo ăn, đến xin. Các Tỳ-kheo không dám cho, họ nổi giận mắng: Sa-môn Thích tử dạy người bố thí mà chính mình lại bỏn xẻn thì làm gì có đạo. Nghe như thế, đến các bạch y có lòng tín kính cũng chê trách nói: Tại sao Sa-môn thường đến người xin, mà lại không cho người khác.
Lại có ngoại đạo do quen thân đến Tỳ-kheo xin, Tỳ-kheo cũng không dám cho, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo cho ngoại đạo ăn, nhưng đừng tự tay mình đưa. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tự tay cho nam nữ ngoại đạo lõa thể ăn, phạm Ba-dật-đề”.
Nếu ngoại đạo đến xin nên dùng một vắt cơm riêng của mình để một chỗ nào đó, khiến họ tự lấy, không nên đem thức ăn của Tăng cho. Nếu có người đến xin, trẻ nít đến xin, chó đến xin, chim đến xin, nên lượng thức ăn của mình nhiều hay ít, giảm bớt một phần để cho, chứ không lấy ngoài phần mình để cho. Sa-di phạm Đột-kiết-la. Nếu cha mẹ mình là ngoại đạo, tự tay mình trao thì không phạm.
Xong giới thứ bốn mươi -
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy có các bạch y đến nơi Tăng phường hỏi các Tỳ-kheo: Tăng có bao nhiêu vị? Các Tỳ-kheo trả lời: Tăng có vị. Các bạch y thưa: Sáng mai, chúng con xin thỉnh chúng Tăng hạ cố đến nhà chúng con thọ bữa trai đạm bạc. Lục quần Tỳ-kheo nói: Nếu quý Phật tử cho tôi sữa, lạc, tô, dầu, cá, thịt thì tôi sẽ nhận lời mời. Bạch y thưa: Chúng con sẽ vay mượn để ra chợ mua sắm. Không chần chừ, họ cáo lui ngay. Hoặc vay mượn không kết quả hoặc có ra chợ mua thì cũng không được. Sáng hôm sau, sửa soạn thức ăn xong, họ đến mời phó trai. chúng Tăng mặc y, bưng bát đến nơi nhà thì chủ. Các vị an tọa nơi tòa. Đang dùng nước rửa tồi mới ăn, Lục quần Tỳ-kheo hỏi: Tại sao không có sữa, lạc, tô, dầu, cá, thịt? bạch y thưa: Chúng con nhờ cậy không được, mà mua ở chợ cũng không có. Lục quần Tỳ-kheo liền úp bát, bỏ về. Các cư sĩ dè bỉu chê trách: Làm như thể họ là quốc vương hay Đại thần. Phàm người xuất gia cầu giải thoát xin ăn đủ sống, tại sao nay ngược lại, đắm trước vào mỹ vị, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đến nhà bạch y, đòi hỏi sữa, lạc, tô, dầu, cá, thịt, phạm Ba-dật-đề”.
Sau đó, các Tỳ-kheo được thức ăn ngon không dám ăn, hoặc ăn rồi xuất tội sám hối. Việc này được bạch Phật. Do thế, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu không đòi hỏi thức ăn ngon mà tự nhiên nhận được để ăn, phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đến nhà các bạch y đòi hỏi thức ăn ngon như sữa, lạc, tô, dầu, thịt, cá, nếu nhận được và ăn phạm Ba-dật-đề”.
Trường hợp các Tỳ-kheo bệnh, thầy thuốc bảo ăn thức ăn ngon, các Tỳ-kheo nói: Đức Phật không cho phép chúng tôi đòi hỏi các thức ăn này, làm sao có được?! Các Tỳ-kheo bệnh lại gợi lên những suy nghĩ: Nếu Đức Phật cho chúng ta xin hỏi các thức ăn này thì bệnh mới có thể lành. Đem suy nghĩ ấy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép Tỳ-kheo bệnh được hỏi xin thức ăn ngon. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu trong các gia đình có các thức ăn ngon như sữa, lạc, tô, dầu, các, thịt, Tỳ-kheo nào không bệnh vì mình đòi để được ăn, phạm Ba-dật-đề”. Nếu vì Tỳ-kheo bệnh mà hỏi xin, hoặc từ nhà bà con mà đòi, hoặc hỏi xin nơi nhà quen biết, đều không phạm. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ bốn mươi mốt -------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc này, Bạt-nanđà thường thọ nhận sự cúng dường của một Bà-la-môn. Thời gian sau, Bạt-nan-đà mặc y bưng bát đến nhà đó, ông Bà-la-môn không có ở nhà, bèn cùng với người vợ ngồi một chỗ nói chuyện. Trên đường đi, người Bà-la-môn tâm dục phát khởi, liền trở về, thấy Bạt-nan-đà cùng vợ mình ngồi nói chuyện, đã có suy nghĩ: Hiện nay, Tỳ-kheo này nói pháp, chẳng phải lúc hành dục. Ông ta lại ra ngoài nhưng tâm dục càng tăng, trong khoảnh khắc lại trở vào. Bạt-nan-đà vẫn chưa đi. Ông ta lại nghĩ như trước, ức chế tâm dục, rồi đi ra. Trong khoảnh khắc lại trở vào, ông ta nói với vợ: Cho Tỳ-kheo ăn mau để ông ta đi, kẻo phế bỏ việc hành đạo. Người vợ biết ý chồng, không muốn để cho chồng theo tâm dục, trái với lẽ đạo, nên trả lời: Để Tỳ-kheo ăn từ từ, chứ có việc gì đâu gấp? Người chồng nói ba lần như vậy, Bạtnan-đà vẫn không chịu đi. Ông Bà-la-môn bèn nói: Chúng tôi là bạch y, bận rộn nhiều việc, nào có đủ thời gian nhàn rỗi để gần gũi nhà cửa, vợ con. Tại sao thầy ngồi hoài không đi? Ai biết các thầy tu phạm hạnh? Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, trong nhà ăn, cùng ngồi với người nữ, phạm Ba-dật-đề”.
Ăn: Nam nữ dùng tình ái giao cảm nhau. Ngồi: Biết trở ngại việc làm của họ mà vẫn ngồi. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu nhiều người cùng ngồi, hoặc có vật ngăn che, hoặc ngày vợ chồng họ thọ tám giới thì không phạm.
Xong giới thứ bốn mươi hai
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Bạt-nanđà thường nhận sự cúng dường của một người Bà-la-môn. Sau đó, Bạt-nan-đà đến nhà, ông Bà-la-môn đi khỏi, cùng với bà vợ ngồi chỗ vắng. Ông Bà-la-môn trở về, nói với bà vợ: Bà cùng với Tỳ-kheo ngồi chỗ vắng, thành thật mà nói, tôi không nghi ngờ gì, nhưng người ta thấy, chắc chắn họ sẽ nói bà làm điều ác, thương tổn đến Samôn và nhục cho gia môn mình. Ông Bà-la-môn lại nói với Bạt-nan-đà: Thành thật tôi không nghi Đại đức, Đại đức nên cẩn thận về tiếng xấu này. Người vợ tự ỷ mình có nhan sắc thu hút, nhiều con, giàu có và khéo léo nên quở trách ông chồng: Tôi cùng với Tỳ-kheo ngồi, cốt yếu là không di hại đến ông, chuyện gì ông phải nói những lời tội lỗi như thế? Ông Bà-la-môn nổi giận, trách Bạt-nan-đà: Chúng tôi là bạch y còn không cùng với vợ của người khác ngồi chỗ vắng, huống chi là các thầy Sa-môn lại làm việc như vậy, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Samôn. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi các quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng với người nữ một mình ngồi chỗ vắng, phạm Ba-dật-đề”. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ bốn mươi ba
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Bạt-nanđà thường nhận sự cúng dường của một Bà-lamôn, sau đó đến nhà. Ông Bà-la-môn không có ở nhà, Bạt-nan-đà cùng với người vợ Bà-la-môn ngồi chỗ trống… cho đến câu: Đức Phật bằng mọi cách quở trách… như trong giới ngồi chỗ vắng đã nói… bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng với người nữ một mình ngồi chỗ trống, phạm Ba-dật-đề”. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ bốn mươi bốn
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, biên cương có giặc, Vua Ba-tư-nặc nghiêm lệnh bốn binh chủng để đến đánh dẹp. Lục quần Tỳ-kheo cùng nhau bàn tán: Ta nghe nhà Vua Quán đảnh, mỗi khi chinh phạt, quân nghi hết sức trang nghiêm, oai vệ. Chúng ta chưa từng thấy, có thể cùng nhau đến xem sao. Lục quần bèn đến bên đường, quân tiên phong thấy Tỳ-kheo, giận nói: Hôm nay, tại sao chúng ta gặp người không tốt thế này! Chúng ta ở tại gia nhàm chán không muốn thấy hạng người này, hôm nay hành quân lại không tránh khỏi. Nếu nhà Vua không tin kính thì ta chặt đầu hết đám này. Khi ấy, nhà Vua từ xa trông thấy Lục quần Tỳ-kheo cũng không hài lòng, liền bảo người hỏi: Tại sao các Đại đức có mặt nơi đây? Lục quần trả lời: Chúng tôi nghe nhà Vua Quán đảnh khi xuất trận thì đoàn quân hết sức oai nghiêm hùng hậu. Chúng tôi chưa từng thấy nên cùng đến xem. Nhà Vua nghĩ ngợi: Ai có thể đem việc này bạch với Phật! Nhà Vua lại nghĩ: Bạch không bạch, Đức Phật cũng tự biết. Nhà Vua liền lấy đường phèn và gừng khô gởi cho Lục quần Tỳ-kheo và nói: Đại đức vì tôi mang vật này về dâng Đức Phật, với tất cả lòng chí kính vô lượng của tôi. Lục quần chờ tàn cuộc hành quân mới trở về, đem phẩm vật nhà Vua gởi, dâng lên Đức Phật, thưa: Đây là phẩm vật với tất cả lòng chí kính của Vua, dâng cúng dường Phật. Đức Phật hỏi Lục quần: Trong trường hợp nào các ông gặp nhà Vua? Lục quần trình bày đầy đủ sự việc. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bằng mọi cách quở trách Lục quần Tỳ-kheo và nói: Các ông ngu si, làm điều phi pháp. Khi quân xuất trận mà gặp Samôn là điềm không tốt. Điều này các binh chủng giận dữ, chê trách. Nhà Vua cũng bực mình các ông, cho nên mới gởi vật này đến Ta. Quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào xem quân ra trận, phạm Ba-dật-đề”. Nếu khởi tâm muốn xem, chuẩn bị, đã bắt đầu bước, thấy mà không nghe, hoặc nghe mà không thấy, đều phạm Đột-kiết-la. Hoặc nghe, hoặc thấy riêng từng binh chủng trang phục, tiến về phía trước hay lui phía sau, đều phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la. Nếu trên đường đi, hoặc chỗ kinh hành gặp mà không đứng lại xem thì không phạm.
Xong giới thứ bốn mươi lăm
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, kẻ dị đạo luận bàn: Nay Vua Ba-tư-nặc và các vị Đại thần có lòng tin chánh pháp đều không có ở nhà, không ai có thể ngăn chặn được việc làm của chúng ta, chúng ta sẽ cùng nhau hợp lực đào ống cống cho nước chảy thông qua Kỳ-hoàn. Các Tỳ-kheo nghe tin, nói với Ưu-bà-tắc, Ưu-bàdi: Quý vị có thể đến tâu với nhà Vua, chứ khả năng chúng tôi không thể ngăn cấm được. Ngay thời điểm ấy, nhà Vua và Đại thần Ất Sư Đạt Đa, Phú-lan-na, Tu-đạt-đa v.v… lâu ngày không thấy dung mạo các Tỳ-kheo, sai người đến thỉnh. Các Tỳ-kheo bàn nói: Nếu Đức Phật cho phép chúng ta đến nơi quân trận, chắc chắn không có trường hợp kẻ dị đạo đào ống cống cho nước chảy qua Kỳ-hoàn. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nay cho phép các Tỳ-kheo đến trong quân trận. Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, bèn nhận lời mời thỉnh của nhà Vua. Khi đến nơi đem vấn đề tâu với Vua. Vua liền ra lệnh kẻ nào đào ống cống cho nước chảy qua Kỳ-hoàn sẽ bị giết cả họ. Truyền lệnh xong, nhà Vua thiết lễ cúng dường các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo đã nhận được thức ăn ngon bổ rồi lại không chịu ra về. Các quân nhân chê trách, nói: Nơi đây không phải là trú xứ A-lan-nhã, chúng tôi là bạch y không thể trách khỏi quân trận, còn Sa-môn lý do gì lại ở nơi đây?! Hoặc có người lại nói: Các Tỳ-kheo này không tin ưa Phật pháp, chỗ nào có được thức ăn ngon bổ bèn ở, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn.
Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Các Tỳ-kheo thưa: Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào có nhân duyên tới trong quân trạm cho đến hai, ba đêm, nếu quá, phạm Ba-dật-đề”. Tuy có nhân duyên mà dùng thư tín giải quyết được thì nên dùng thư tín, trường hợp cần phải đích thân đi mới đi. Sự việc xong nên trở về liền, không được ở lại đêm. Nếu việc chưa xong nên ở lại một đêm, một đêm không xong nên ở lại đêm thứ hai, nếu lại không xong nên ở lại đêm thứ ba, việc xong hay không xong, ở quá đêm thứ ba, phạm Ba-dật-đề. Việc xong liền phải trở về không nên ở lại đêm, ở thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ bốn mươi sáu
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo tới trong quân trận ở lại ba đêm, xem binh lính cầm binh trượng dàn trận cho đến chiến đấu, chiến sĩ thấy Tỳ-kheo nổi giận nói: Hạng người xui xẻo này lại đến đây. Nếu nhà Vua không tin ưa Phật pháp, ta sẽ chặt đầu đám này trước khi giết giặc. Nhân đó binh sĩ loạn chiến, bắn nhằm các Tỳ-kheo, bị thương nhiều. Các Tỳ-kheo cùng dìu nhau về lại chỗ ở. Người đi đường thấy vậy cũng đều giận nói: Như các Sa-môn này bị bắn giết là phải, không có cớ gì đi xem trận làm chi, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Các Tỳ-kheo thưa: Bạch Thế Tôn, có sự thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào có nhân duyên vào trong quân trận hai, ba đêm, để xem quân trận chiến đấu, phạm Ba-dật-đề”. Nếu xem chim, thú đấu đá, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiếtla.
Xong giới thứ bốn mươi bảy
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, có Tỳ-kheo tên là A-lê-tra phát sinh tà kiến ác, nói: Tôi hiểu rõ lời Phật dạy: Phật nói pháp chướng đạo, thật sự không chướng đạo. Các Tỳ-kheo hỏi: Thật sự ông có nói: Ông hiểu rõ lời Phật dạy: Phật nói pháp chướng đạo, thật sự không chướng đạo hay không? A-lê-tra nói: Đúng như thế. Các Tỳ-kheo lại hỏi: Tại sao ông hiểu như vậy? A-lê-tra nói: Trường hợp này có hai Trưởng giả Chất Đa, Tuđạt-đa và các Ưu-bà-tắc đều sống với năm dục, bị dục chi phối, bị dục thiêu đốt, nay đều đắc đạo quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A na hàm. Lại có các ngoại đạo không bỏ định kiến của mình, xuất gia trong chánh pháp cũng được bốn quả Sa-môn. Do vậy, cho nên tác động tôi hiểu như vậy. Các Tỳ-kheo muốn cho đương sự bỏ tà kiến ác này nên can gián, bảo: Thầy chớ nói như vậy, chớ hủy báng Đức Thế Tôn, chớ vu không Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn không nói như thế. Thầy nên bỏ tà kiến ác đó đi. Đức Thế Tôn bằng mọi phương tiện quở trách dục, nói dục như đống xương đỏ, cho đến như chất độc. Nếu thọ hưởng năm dục, bị dục thiêu đốt, bị mê loạn vì cảm giác dục và các ngoại đạo không bỏ kiến giải cũ của mình mà đạt được bốn quả Sa-môn đều là những việc không thể có. Các Tỳ-kheo can gián như vậy, song đương sự lại tăng thêm tà kiến, kiên trì không bỏ. Các Tỳ-kheo bèn đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất, bạch: Bạch Đại đức, A-lê-tra khởi tà kiến như vậy: (trình bày đầy đủ như trên) cúi xin Tôn giả rủ lòng thương khuyến dụ can gián cho bỏ việc ấy. Tôn giả Xá-lợi-phất chấp thuận bằng cách im lặng. Tôn giả đến ngay chỗ A-lê-tra ở, hỏi chào thăm viếng rồi ngồi qua một bên, hỏi: Thật sự ông có như vậy không? A-lê-tra trả lời: Đúng như vậy (nói đầy đủ như trước). Tôn giả Xá-lợi-phất can gián: Thầy chớ nên nói như vậy. Những điều thầy nói là phi pháp, phi luật. Bằng mọi cách Tôn giả quở trách, Tỳ-kheo kia vẫn kiên trì không bỏ. Tôn giả Xá-lợi-phất từ chỗ ngồi đứng dậy, đến chỗ Đức Phật, trình bày đầy đủ rồi thưa: Cúi xin Đức Thế Tôn rủ lòng thương xót khuyến dụ Tỳ-kheo A-lê-tra xả bỏ tà kiến ác. Đức Phật liền bảo một Tỳ-kheo: Ông kêu A-lê-tra đến đây. Vị kia vâng lời đến bảo A-lê-tra: Đức Đại sư gọi thầy. A-lê-tra liền đến, đầu mặt đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng qua một bên. Đức Phật hỏi A-lê-tra: Thật sự ông có như vậy không? A-lê-tra thưa: Bạch Thế Tôn, thật sự con có như vậy. Đức Phật lại hỏi: Tại sao ông hiểu Ta nói như thế? A-lê-tra trả lời như trước. Đức Phật nói: Ông là người ngu si. Ông chớ nên hủy báng Như Lai, chớ nên vu khống Như Lai. Tại sao vậy? Ta nói pháp chướng đạo. Nếu thọ hưởng năm dục, bị lửa dục thiêu đốt, bị cảm giác dục làm mê loạn, và ngoại đạo không xả kiến giải cũ mà chứng đạt bốn quả Sa-môn là điều không thể có. Đức Thế Tôn khuyên dạy như vậy mà Alê-tra vẫn không bỏ. Đức Phật lại nói: Ta thấy ông khởi tà kiến ác, đó là hủy báng Ta, là vu khống Ta, ông trở về lại trú xứ, Ta tự hỏi lại các Tỳ-kheo khác. A-lê-tra đi rồi, Đức Phật muốn biết rõ tà kiến ác của Tỳ-kheo kia, nên hỏi các Tỳ-kheo: Các ông hiểu lời nói của Ta có như A-lê-tra hay không? Các Tỳ-kheo thưa: Chúng con không hiểu như vậy. Đức Thế Tôn hỏi: Các ông hiểu thế nào? Các Tỳ-kheo thưa: Phật nói pháp chướng đạo, thật sự là chướng đạo (nói đầy đủ như trước). Đức Phật dạy: Lành thay! Các ông đã khéo hiểu ý của Ta nói. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nên sai một Tỳ-kheo thân thiện với A-lê-tra, nơi chỗ vắng dùng lời mềm mỏng can gián: Thầy chớ nên nói như vậy, chớ nên hủy báng Phật. Đức Phật dạy pháp chướng đạo, thật sự là chướng đạo. Thầy nên bỏ tà kiến ác như vậy. Bỏ thì tốt, không bỏ thì số đông Tỳ-kheo đến can gián như trên. Bỏ thì tốt, không bỏ thì Tăng nên đến, cũng can gián như trên, bỏ thì tốt. Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy can gián ba phen như vậy. A-lê-tra vẫn kiên trì không bỏ. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, chuyển lời quở trách A-lê-tra rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nói như vậy: Như chỗ tôi hiểu, những gì Đức Phật dạy là pháp chướng đạo thì thật sự không chướng đạo. Các Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo này:
Thầy chớ nói như vậy, chớ hủy báng Phật. Đức Phật nói pháp chướng đạo, thật sự là chướng đạo. Thầy nên bỏ tà kiến ác đó. Khi can gián như vậy đương sự kiên trì không bỏ, nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thức hai, lần thứ ba can gián mà bỏ việc này thì tốt. Không bỏ, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo kia không bỏ tà kiến ác, các Tỳ-kheo hoặc thấy hoặc nghe, sai một Tỳ-kheo can gián nơi chỗ vắng, nếu đương sự bỏ thì trao cho một Đột-kiết-la hối quá. Nếu không bỏ thì số đông Tỳ-kheo đến can gián, chịu bỏ, thì trao cho hai Đột-kiết-la hối quá. Nếu không bỏ thì Tăng đến can gián, chịu bỏ, thì trao cho ba Đột-kiết-la hối quá. Nếu không bỏ nên Bạch-tứ-yết-ma để can gián. Một Tỳ-kheo xướng: Đại đức Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo tên là sinh tà kiến ác nói như vầy: Như chỗ tôi hiểu, những gì Đức Phật nói là pháp chướng đạo, sự thật không chướng đạo. Tăng đã can gián: Chớ nói như vậy, chớ hủy báng Phật, chớ vu khống Phật. Đức Phật nói pháp chướng đạo, thật sự là chướng đạo. Tăng can gián như vậy đương sự kiên trì không bỏ. Nay Tăng Yết-ma can gián. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch. Tác bạch rồi nên nói: Tăng đã bạch rồi, thầy nên bỏ tà kiến ác đó đi. Nếu đương sự chịu bỏ thì trao cho bốn Đột-kiết-la hối quá. Nếu không bỏ thì nên xướng: Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo tên là nói như vầy: Theo chỗ tôi hiểu, những gì Đức Phật nói là chướng đạo, sự thật không chướng đạo. Tăng đã can gián: Chớ nói vậy, chớ hủy báng Phật, chớ vu khống Phật. Phật nói pháp chướng đạo, sự thật là chướng đạo. Tăng can gián như thế, đương sự kiên trì không bỏ. Nay Tăng Yết-ma can gián. Các Trưởng lão nào chấp nhận thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói. Xướng rồi nên nói: Tăng đã Yết-ma lần thứ nhất rồi, thầy nên bỏ tà kiến ác ấy đi. Nếu đương sự chịu bỏ thì trao cho năm Đột-kiết-la hối quá. Nếu không chịu bỏ thì nên xướng lần thức hai như trên. Xướng xong lại nói: Tăng đã Yết-ma lần thứ hai rồi, thầy nên bỏ tà kiến ác ấy đi. Nếu bỏ thì trao cho sáu Đột-kiết-la hối quá. Nếu không bỏ nên xướng lần thứ ba. Xướng lần thứ ba chưa xong mà bỏ cũng trao cho sáu Đột-kiết-la hối quá. Yết-ma lần thứ ba rồi, bỏ hay không bỏ cũng phạm Ba-dật-đề.
Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sadi, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ bốn mươi tám
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, có Tỳ-kheo biết A-lê-tra không bỏ tà kiến ác cùng ngồi, cùng lời trao đổi, cùng ngủ, cùng làm việc. Các Tỳ-kheo quở trách, nói: A-lê-tra không bỏ tà kiến ác, Tăng đã Yết-ma rồi, tại sao các thầy cùng ngồi, cùng chuyện vãn, cùng ngủ, cùng làm việc? Các Tỳ-kheo nghe không hài lòng. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu các Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo kia không như pháp sám hối, không bỏ tà kiến ác, cùng ngồi, cùng nói, cùng ngủ, cùng làm việc, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo nói chuyện lâu hay mau, mỗi lời nói phạm một Ba-dật-đề, cùng ngồi, mỗi lần ngồi phạm một Ba-dật-đề, cùng ngủ, mỗi lần ngủ phạm một Ba-dật-đề, cùng làm việc, mỗi việc làm phạm Ba-dật-đề. Tuy xả tà kiến ác, Tăng chưa giải Yết-ma, cũng phạm Ba-dật-đề. Nếu khởi tà kiến ác, Tăng chưa Yết-ma, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Độtkiết-la. Nếu không biết, cho đến Yết-ma không như pháp thì không phạm.
Xong giới thứ bốn mươi chín
---------------------
Đức Phật ở thành Xá-vệ. Bấy giờ, Bạt-nan-đà có hai Sa-di sinh tà kiến ác, nói như vầy: Như chỗ tôi hiểu Đức Phật dạy: Thọ hưởng năm dục không có gì chướng đạo… cho đến câu: Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật, như trong giới A-lê-tra sinh tà kiến ác đã nói: Đức Phật liền ra lệnh một Tỳ-kheo: Ông kêu hai Sa-di kia đến đây. Vâng lời Phật Tỳ-kheo đến nói: Đại sư kêu hai ông. Hai Sa-di vội theo lời dạy đến đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng lui qua một bên. Đức Phật hỏi hai Sa-di: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật hỏi hai Sa-di: Các ông hiểu lời nói pháp của Ta như thế nào? Hai Sa-di trả lời như A-lê-tra đã nói. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nên gọi hai Sa-di này đến giữa Tăng dạy bảo họ xả bỏ, nếu bỏ thì tốt, không bỏ, Tăng nên Bạch-tứ-yết-mA-diệt tẫn. Một Tỳ-kheo xướng: Đại đức Tăng xin lắng nghe, Sa-di tên là không xả bỏ tà kiến. Nay Tăng trao cho pháp diệt tẫn. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch. Lại xướng: Đại đức Tăng xin lắng nghe, Sa-di tên là… không bỏ tà kiến ác. Nay Tăng trao cho pháp diệt tẫn. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng xướng như vậy. Tăng trao cho Sa-di tên… pháp diệt tẫn rồi. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy. Hai Sa-di kia đã bị Tăng diệt tẫn rồi, bèn du hành trong nhân gian. Trái lại, Bạt-nan-đà nuôi hai Sa-di kia lại cùng nói chuyện, cùng ngủ. Các Tỳ-kheo nói: Tăng đã Yết-mA-diệt tẫn hai Sa-di này rồi, thầy chớ nên nuôi, chớ nên cùng nói chuyện, cùng ngủ. Bạtnan-đà nói: Sa-di này là anh của tôi, nếu tôi không chăm sóc thì ai chăm sóc? Ai có thể bảo hộ sự cô đơn, khổ sở, để họ được an lạc?! Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu Sa-di nói như vầy: Như chỗ tôi hiểu, những gì Phật nói, thọ hưởng năm dục, không trở ngại gì đối với đạo. Các Tỳ-kheo nói với Sa-di này: Người đừng nói như vậy, đừng hủy báng Phật, đừng vu khống Phật. Đức Phật dạy: Thọ hưởng năm dục thật sự có trở ngại đối với đạo. Này Sa-di! Ngươi nên xả bỏ tà kiến ác này. Khi dạy bảo như vậy, Sa-di kiên trì không bỏ, nên dạy bảo lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba dạy bảo, Sa-di bỏ thì tốt, nếu không bỏ, các Tỳ-kheo nên nói với Sa-di ấy: Ngươi đi đi! Từ nay ngươi đừng nói Phật là thầy của tôi, đừng đi theo sau Tỳ-kheo, như các Sa-di khác. Các Sadi khác được cùng phòng Tỳ-kheo ngủ hai đêm, ngươi cũng không được phép điều đó. Ngươi là người ngu si nên đi khỏi chỗ này, đừng ở nơi đây nữa. Nếu Tỳ-kheo biết Sa-di bị diệt tẫn như vậy mà nuôi dưỡng, cùng ở, cùng nói chuyện với họ, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-ni-di, phạm Độtkiết-la.
Xong giới thứ năm mươi
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Trưởng lão Ca-lưu-đà-di không thích thấy Tỳ-kheo xấu, cũng không thích thấy các loài chim quạ. Lúc này, có bầy quạ tập trung đậu trên nóc nhà, lại có các bạch y cầm cung đến tìm bắn. Ca-lưu-đà-di nói: Các loài chim quạ này đầy đủ mười pháp của Tỳ-kheo tệ ác:
1. Bỏn xẻn.
2. Tham lam.
3. Mặt đáng ghét.
4. Chịu nhục.
5. Xấu xí.
6. Không từ bi.
7. Mong cầu.
8. Không nhàm đủ.
9. Chứa để.
10. Ưa quên.
Loài chim này có đủ mười pháp như vậy, các người muốn giết nó không? Người không tin tội phước nói: Muốn giết. Ca-lưu-đà-di liền lấy cây cung và hỏi mọi người: Muốn bắn chỗ nào? Có người nói: Bắn con mắt bên trái. Ca-lưu-đà-di bắn ngay nơi con mắt bên trái, chim chết. Lại có người nói: Bắn con mắt bên phải. Ca-lưu-đà-di liền bắn ngay nơi con mắt bên phải, chim chết. Chỉ trong chốc lát mà cả chục con chim bị chết. Các người không tin Phật pháp chê trách, nói: Đám Sa-môn này thường nói từ bi, hộ niệm chúng sinh, mà nay giết hại một cách vô đạo, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Ca-lưu-đà-di: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đoạn mạng súc sinh, phạm Ba-dật-đề”.
Trường hợp các Tỳ-kheo trên đường đi, hoặc kéo vật dụng, hoặc hong bát, ngộ sát các loài trùng, sinh lòng ân hận, có người hối quá xuất tội, đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Ngộ sát chúng sinh mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cố tâm đoạt mạng chúng sinh, phạm Ba-dật-đề”. Súc sinh: Trừ loài rồng, ngoài ra đều thuộc súc sinh. Cố tâm đoạt mạng: Cố tâm muốn giết, trước khi giết hại. Nếu đoạt mạng súc sinh, tùy theo nhiều ít, đều phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-dini, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ năm mươi mốt
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, nhóm Tỳ-kheo mười bảy người đến trú xứ của Lục quần Tỳ-kheo. Lục quần Tỳ-kheo lại nảy ra ý nghĩ: Số Tỳ-kheo này có tâm hổ thẹn, tri túc, thiểu dục, nay đến đây chắc thấy lỗi lầm của ta. Chúng ta nên tạo ra phương cách khiến họ sinh nghi hối.
Đã sinh nghi hối rồi chắc họ sẽ trở về chỗ của thầy họ. Ý nghĩ đi liền với hành động, Lục quần liền nói: Quý vị đã khéo thọ giới Cụ túc rồi chứ? Thọ giới có giới trường hay không? Yết-ma có như pháp hay không? Không phạm Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la hay không? Có khéo phòng hộ thân khẩu hay không? Hòa thượng, A-xà-lê của quý vị trước kia có khéo thọ giới Cụ túc, cho đến khéo hộ thân khẩu không? Nhóm Tỳ-kheo mười bảy người thưa: Chúng con không tự biết, cũng không biết Hòa thượng, A-xà-lê thế nào! Nay chúng con xin thưa hỏi Đại đức, xin Đại đức chỉ vẽ cho chúng con: Khi chúng con thọ giới Cụ túc, và Hòa thượng, A-xà-lê của chúng con, tất cả có như pháp không? Lục quần Tỳ-kheo nói: Nếu tôi có nói thật thì các ông cũng không tin. Các ông nên hỏi người nào các ông từng tin cậy. Khi ấy, Thập thất quần bèn đến chỗ thầy mình để hỏi sự việc trên. Thầy của họ trả lời: Mọi việc của các con đều như pháp và xưa kia ta thọ giới cũng như pháp. Nhưng ai là người gây sự nghi hối ấy. Thập thất quần thưa: Chính Lục quần Tỳ-kheo là người gây nghi hối này. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào khiến các Tỳ-kheo sinh nghi ngờ, phạm Ba-dật-đề”. Trường hợp có Tỳ-kheo phạm tội, lòng sinh nghi ngờ, hỏi các Tỳ-kheo: Tôi phạm các việc như vậy, như vậy, thuộc về những tội nào? Các Tỳ-kheo được hỏi, lại nghĩ ngay đến lời Phật dạy: Đức Phật đã kiết giới, không cho phép khiến các Tỳ-kheo sinh nghi ngờ. Do thế, các Tỳ-kheo phải trả lời: Không biết, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Không muốn khiến sinh nghi ngờ, mà nói rõ chỗ tội của họ phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cố ý khiến Tỳ-kheo khác sinh nghi ngờ khởi ý niệm: khiến Tỳ-kheo kia sinh khổ não, dù chỉ trong chốc lát, phạm Ba-dật-đề”. Nghi ngờ: Nghi về chỗ sinh, nghi về thọ giới, nghi về phạm giới, nghi về y phục. Nếu làm cho Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni nghi ngờ, phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni khiến cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni sinh nghi ngờ, phạm Ba-dật-đề. Làm cho Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni nghi ngờ, phạm Đột-kiết-la. Thức-xoa-ma-na, Sadi, Sa-di-ni tạo ra nghi ngờ cho năm chúng, đều phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ năm mươi hai ---------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, Lục quần Tỳ-kheo có thế lực ngăn Yết-ma và giải Yết-ma của Tăng, Tăng không nghe theo thì họ đứng dậy bỏ đi, đến chỗ Tỳ-kheo bị đuổi, nói: Thầy đừng ưu sầu, tôi đã yểm trợ thầy, ngăn Yết-ma của Tăng. Tăng không theo ý tôi, tôi liền đứng dậy bỏ đi, như vậy Yết ma ấy không thành. Lục quần Tỳ-kheo đến chỗ Tỳ-kheo được giải Yết-ma, nói: Thầy đừng tưởng là Tăng đã giải Yết-ma cho thầy. Khi Tăng giải Yết-ma, tôi đã ngăn, Tăng không theo ý tôi, tôi liền bỏ đi. Như vậy là Yết-ma giải không thành, nay thầy có thể tự cầu Tăng để giải. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào khi Tăng xử đoán sự, đứng dậy bỏ đi, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo có việc cần đi mà không dám đi, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo, có việc cần, trao dục, rồi đứng dậy đi. Trao dục: Nói với một người: Trưởng lão nhất tâm niệm, nay Tăng xử đoán sự, tôi Tỳ-kheo tên là như pháp Tăng sự, xin trao dục. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào khi Tăng đoán sự, không trao dục, đứng dậy bỏ đi, phạm Ba-dật-đề”. Tăng đoán sự: bạch yết-ma, bạch nhị, Bạch-tứ-yết-ma. Nếu Yết-ma trong thất, tùy theo ra khỏi thất bao nhiêu lần thì mỗi lần phạm một Ba-dật-đề. Nếu Yết-ma nơi chỗ đất trống, mỗi lần đi cách Tăng một tầm thì phạm một Ba-dật-đề. Nếu người có thần thông thì đi cách đất bốn ngón tay, phạm Ba-dật-đề. Nếu Tăng không Yết-ma đoán sự mà bỏ đi ra thì phạm Đột-kiết-la. Nếu nơi phòng riêng đoán sự, đến rồi bỏ ra đi, phạm Độtkiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Nếu Tăng không Yết-ma đoán sự và đoán sự nơi phòng riêng, Sa-di được ở trong đó, nếu đứng dậy đi phạm Đột-kiết-la. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-dini cũng như vậy. Nếu Tăng không như pháp Yết-ma, không gởi dục, đứng dậy bỏ đi, không phạm.
Xong giới thứ năm mươi ba
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Thập thất quần Tỳ-kheo (nhóm Tỳ-kheo mười bảy người) đến trú xứ của Lục quần Tỳ-kheo, cùng nhau thọc lét. Có một Tỳ-kheo bị nhiều Tỳ-kheo thọc lét, không ngăn được cơn cười, nên bị hết hơi, chết. Thập thất quần Tỳ-kheo thương khóc. Các Tỳ-kheo Trưởng lão hỏi: Tại sao khóc kể như thế? Thập thất quần Tỳ-kheo thưa: Có một Tỳ-kheo bị cười giỡn quá trớn nên chết, cho nên chúng con thương khóc. Các Trưởng lão lại hỏi: Vì sao đưa đến sự việc như thế? Thập thất quần Tỳ-kheo thưa: Chúng con cùng nhau thọc lét, vị ấy không chặn được cơn cười nên ngút hơi chết. Các Tỳ-kheo quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Thập thất quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào thọc lét Tỳ-kheo khác, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo thọc lét Sa-di, cho đến súc sinh, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-dini, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ năm mươi bốn
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Thập thất quần Tỳ-kheo đến sông A-di-la lấy nước, nhân đó xuống tắm, bơi lội, lặn hụp vui đùa, tát nước lên nhau. Vua Ba-tư-nặc cùng phu nhân Mạt-lợi, lên trên lầu cao, từ xa nhìn thấy. Vua nói với phu nhân: Ruộng phước của “mình” kia kìa. Phu nhân tâu với Vua: Đức Phật chưa chế giới, tuổi nhỏ xuất gia, chưa hiểu giáo pháp, “mình” đừng thấy vậy, sinh lòng không tin kính đối với các Tỳ-kheo khác, để rồi thọ khổ lâu đời. Thập thất quần Tỳ-kheo vui chơi đủ kiểu rồi đứng trên mặt nước mặc y. Phu nhân thấy, tâu với Vua: “Mình” thử xem kìa, ruộng phước của em thờ là đó. Mặc y xong, Thập thất quần Tỳ-kheo lấy bình nước ném lên hư không rồi bay theo để lấy. Từ trên lầu nhìn qua giống như nhạn chúa. Phu nhân lại tâu với Vua: Kìa “mình” lại xem ruộng phước của em thờ là đó. Nhà Vua rất hoan hỷ, lòng kính tin càng tăng. Ngay sau đó, phu nhân bảo Bà-la-môn Nalân Già: Ngươi đến chỗ Đức Phật để kính trình việc này. Na-lân Già vâng lệnh đến trình sự việc. Đức Phật vì ông nói pháp, chỉ bày chỗ lợi ích, vui mừng, rồi Phật bảo đi về. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Thập thất quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Kính bạch Thế Tôn có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đùa giỡn trong nước, phạm Ba-dật-đề”. Đùa giỡn trong nước cho đến dùng đồ đựng nước để tạt với nhau, đều phạm Ba-dật-đề. Nếu vắt tuyết, cho đến thổi sương trên đầu ngọn cỏ để chơi, đều phạm Độtkiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-mana, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la. Nếu không nhằm mục đích để đùa giỡn thì không phạm.
Xong giới thứ năm mươi lăm
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Đức Thế Tôn chưa cấm Tỳ-kheo cùng người nữ đồng nhà ngủ, nên hoặc có một Tỳ-kheo và một người nữ, hoặc nhiều Tỳ-kheo và số ít người nữ, hoặc số ít Tỳ-kheo và nhiều người nữ đồng nhà ngủ, do vậy sinh tâm nhiễm đắm, có người hoàn tục, có người làm ngoại đạo. Các Cư sĩ thấy chê trách, nói: Các Sa-môn này cùng người nữ đồng nhà ngủ, so với bạch y đâu khác gì, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn.
Khi ấy, có người đàn bà tuổi trẻ, chồng chết, nảy ra ý nghĩ: Nay ta nên bằng cách nào để tìm người vừa ý. Người đàn bà ấy lại nghĩ: Ta không thể đến gõ cửa từng nhà, chi bằng làm một khách xá để cho người tại gia hay xuất gia đến tạm nghỉ theo ý muốn của họ, từ đó mình sẽ chọn một người. Bà ta liền thực hiện đúng ý đồ. Bà bố cáo khách đi đường: Ai cần nghỉ đêm thì đến nghỉ. Khi ấy, A-na-luật đến thôn kia thì trời đã xẩm tối, tìm nơi nghỉ lại đêm, có người giới thiệu tới nơi nhà bà ta. A-na-luật liền đến xin tạm trú qua đêm.
Trước khi chưa xuất gia, A-na-luật vốn đã có dung mạo đẹp đẽ, sau khi đắc đạo sắc tướng còn đẹp hơn gấp bội. Người đàn bà goá chồng kia trông thấy A-na-luật liền sinh tà ý: Nay ta có cơ hội được một người chồng đẹp trai. Bà ta liền chỉ chỗ cho A-na-luật vào nghỉ. A-na-luật vào nhà ngồi kiết già. Ngồi chưa được bao lâu thì có đoàn khách buôn đến xin tá túc. Bà quả phụ nói: Tuy tôi là chủ khách xá này nhưng tôi đã cho vị Tỳ-kheo nghỉ lại đêm, quý vị nên hỏi ông ta. Đoàn khách buôn, theo lời người chủ khách xá đến hỏi A-na-luật. A-na-luật nói với người đàn bà: Nếu do tôi thì họ được phép đến ở. Đoàn buôn liền vào khách xá để nghỉ. Người đàn bà kia lại nảy ra ý nghĩ: Nên mời Tỳ-kheo vào nhà trong, vì sẽ có người đến bất ngờ nữa. Bà ta liền vào trong nhà trải giường tốt, đốt đèn rồi mời A-na-luật. A-naluật vào nhà trong rồi ngồi kiết già, buộc ý niệm trước mắt. Sau khi mọi người đã ngủ, người đàn bà đến nói với A-na-luật: Đại đức có biết chủ ý của tôi khi làm khách xá này không? A-na-luật nói: Chủ ý của bà muốn cầu phước đức nên làm phước xá này. Người đàn bà kia nói: Bổn ý không phải vậy mà là chọn người làm chồng. A-na-luật nói: Thưa bà, chúng tôi không thể làm điều ác ấy, Đức Thế Tôn chế pháp cũng cấm làm điều đó. Người nữ góa chồng nói: Tôi con nhà quý tộc, ở độ tuổi dồi dào sức lực, lễ nghi hoàn bị, của cải nhiều, muốn vì Đại đức cung cấp mọi thứ cần dùng, nguyện Đại đức thuận ý cho. A-na-luật vẫn trả lời như trước. Bà goá chồng lại có ý nghĩ táo bạo: Kẻ nam tử bị mê hoặc vì sắc, ta cần lộ hình đến đứng trước mặt. Thế là bà thoát y đến đứng trước A-na-luật, vừa cười, vừa nói khêu gợi. Ana-luật nhắm mắt ngồi thẳng, quán tưởng đống xương đỏ. Bà ta lại nghĩ: Ta vận dụng khả năng đến thế mà vẫn không thuyết phục được đối phương, bèn leo lên giường cùng ngồi. Ngay tức thời, A-na-luật vụt lên hư không. Bà ta rất đỗi thẹn thùng, tâm sinh xấu hổ, vội vàng mặc lại y, chấp tay hối quá, thưa: Bạch Đại đức, con thật là ngu si, nay con không còn nghĩ đến những ý nghĩ xấu ác đó nữa, nguyện Đại đức giũ lòng thương tha thứ cho con sám hối. A-na-luật nói: Tôi nhận sự sám hối của bà và nhân đó A-na-luật giảng nói các pháp vi diệu. Đoạn đầu, chặng giữa hay đoạn sau của bài pháp đều thiện, ý nghĩa thiện và hương vị thiện, đầy đủ tướng thanh bạch phạm hạnh. Bà goá phụ nghe pháp rồi liền xa trần, lìa cầu, đạt mắt pháp thanh tịnh. Bấy giờ, A-na-luật lại đi đến chỗ Đức Phật thuật lại sự việc, luôn cả việc của các Tỳ-kheo trước, trình bày đầy đủ lên Đức Thế Tôn. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi các quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng người nữ đồng nhà ngủ, phạm Ba-dật-đề”. Người nữ kể cả mới sinh, và người nữ hai căn đồng nhà ngủ, Ba-dật-đề. Nhà: Như trong giới cùng người chưa thọ Cụ túc đã nói. Nếu cùng phi nhân nữ, súc sinh nữ, huỳnh môn đồng nhà ngủ, đều phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiếtla. Nếu nhà có lợp, có ngăn cách, hoặc đại hội nói pháp, hoặc mẹ hay chị em thân thuộc có bệnh mà có người nam tử hiểu biết làm bạn, không nằm đều không phạm.
Xong giới thứ năm mươi sáu
---------------------
Đức Phật ở tại nước Câu-xá-di. Lúc ấy, Đức Thế Tôn chưa cấm Tỳ-kheo uống rượu. Có các Tỳ-kheo ở trong hàng quán hay trong nhà bạch y, uống nhiều rượu say túy lúy. Có khi rớt xuống hào và va đầu vào vách, có khi làm cho y bát bể, rách, thương tổn đến thân thể. Các bạch y thấy chê trách nói: Chúng ta là bạch y còn không uống rượu, huống chi là Sa-môn Thích tử bỏ đời cầu đạo mà lại uống rượu quá hơn người đời, không xứng mặc y hoại sắc cắt rọc, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ nước Câu-xá-di đến ấp Bạt-đà-việt. Khi ấy, nơi trú xứ của Phạm chí bện tóc có một con độc long, thường phun mưa đá làm hại ruộng vườn. Các cư dân ở đấy thường tâm niệm: Trong số Sa-môn, Bà-la-môn ai là người có oai đức có thể hàng phục được con rồng này! Nghe Đức Phật cùng một ngàn hai trăm năm mươi đệ tử tới ấp không ai là không vui mừng, họ kéo đến nghinh đón, đảnh lễ sát chân Phật rồi thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Nơi ấp này thường có một con độc long ác, phá hoại ruộng vườn, chúng con hằng tâm niệm: Mong sao có được một bậc đại oai đức để hàng phục nó. Lúc này, Sa-kiệt-đà đang đứng phía sau quạt hầu Phật, Đức Phật liền quay lại hỏi: Ông có nghe các Cư sĩ này trình bày sự việc không? Bạch Thế Tôn, có nghe. Lần thứ hai, lần thứ ba Phật hỏi và Sa-kiệt-đà trả lời cũng như vậy. Sa-kiệt-đà liền có ý nghĩ: Đức Thế Tôn Ba lần hỏi là ý muốn ta hàng phục con độc long này. Ngay lúc ấy, Sa-kiệt-đà đến trước Phật kính lễ sát chân Ngài rồi nhiễu quanh và lui ra. Đi về chỗ ở của rồng, với ý niệm: Nay ta nên hàng phục con rồng này, làm thế nào đừng để nó hư hoại thân thể, bằng cách thu thân nó nhỏ lại như cái que cây. Sa-kiệt-đà liền vào trong nhà Phạm chí, ngồi lui qua một bên. Thân con rồng bèn tuôn ra khói, thân của Sa-kiệt-đà cũng tuôn ra khói. Cả thân con rồng thành lửa. Lửa nơi rồng biến thành năm sắc, lửa của Sa-kiệt-đà cũng biến thành năm sắc. Thế là Sa-kiệt-đà thu hóa thân rồng nhỏ lại như cây que, bỏ vào trong bình bát đem đến chỗ Phật. Sa-kiệt-đà thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Độc long ác này đã được hàng phục, nay nên để nó vào chỗ nào? Đức Phật dạy: Nên để nó nơi trung gian thế giới. Sa-kiệt-đà vâng lời Phật dạy, trong chớp nhoáng như kẻ lực sĩ co duỗi cánh tay, đem nó để nơi trung gian thế giới, rồi trở về. Vào lúc này, Đức Thế Tôn có ý muốn rời ấp Bạt-đà-việt trở về Câu-xá-di. Khi nghe Sa-kiệt-đà hàng phục con độc long, các Cư sĩ ấp Bạt-đà-việt rất vui mừng, hỏi các Tỳ-kheo: Sa-kiệt-đà là vị nào? Khi ấy, Sakiệt-đà đang đứng phía sau Phật. Các Tỳ-kheo nói: Người đứng hầu phía sau Phật đấy. Các Cư sĩ liền đến trước mặt Sa-kiệt-đà, kính lễ sát chân và thưa: Xin Tôn giả nhận lời thỉnh mời của chúng con. Sa-kiệt-đà im lặng nhận lời. Các Cư sĩ thưa: Đại đức cần những thức ăn gì? Sa-kiệt-đà nói: Khi tôi còn là bạch y, tánh ưa rượu thịt. Cư sĩ hoan hỷ, vội vàng sắm sửa đầy đủ. Sa-kiệt-đà đến nhà Cư sĩ ấy được mời ăn. Sau khi ăn thịt uống rượu hết sức no đủ, trở về lại Câu-xá-di. Vừa lúc đến ngoài Tăng phòng vì quá say, nên té xuống đất, ói mửa, y bát vung vãi lung tung. Qua thiên nhãn, Đức Thế Tôn đã từ xa nhìn thấy, Ngài bảo Tôn giả A-nan: Ông cùng Ta ra ngoài Tăng phường mà xem. Vâng lời dạy. Tôn giả đi theo Phật ra ngoài Tăng phường chứng kiến sự thật về cảnh say sưa. Đức Phật cùng Tôn giả khiêng Sakiệt-đà đặt cạnh giếng nước. Đức Phật tự xách nước dội, còn A-nan thì lau rửa sạch sẽ, rồi mặc y vào, để nằm trên giường dây, đầu hướng về Đức Phật. Trong giây lát, Sa-kiệt-đà lại xoay chuyển mình, co chân đạp Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Sa-kiệtđà trước đây có kính trọng Đức Phật không? Các Tỳ-kheo thưa: Có kính trọng. Ngài lại hỏi: Hiện nay còn kính hay không? Bất kính! Các Tỳ-kheo thưa. Đức Phật lại hỏi: Có nên uống rượu để rồi mất bản tính tốt hay không? Đáp: Không nên, bạch Thế Tôn. Đức Phật lại hỏi: Trước đây Sakiệt-đà có thể hàng phục độc long, nay có thể hàng phục được con ễnh ương hay không? Đáp: Bạch Thế Tôn, không. Các Tỳ-kheo lại đem việc xảy ra trước kia bạch đầy đủ với Đức Phật. Do nhân duyên này, Đức Phật bằng mọi cách quở trách các Tỳ-kheo rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào uống rượu phạm Ba-dật-đề”.
Đức Phật chế giới cấm rồi, nên Sa-kiệt-đà không dám uống rượu. Song thói quen trước kia, nên cơn ghiền nổi lên là đứt hơi muốn chết, ăn uống lại không tiêu. Vì không biết phải giải quyết thế nào, do thế bạch Phật. Đức Phật bảo: Cho ngửi đồ đựng rượu. Ngửi đồ đựng rượu không qua cơn thì: Cho một ít rượu vào trong bánh, trong cháo hay trong canh cho ăn, nếu vẫn không khỏi được thì Đức Phật bảo: Cho phép dùng rượu để chữa bệnh ăn không tiêu. Sa-kiệt-đà nhờ vậy mà lành cơn nghiện. Kết quả này được bạch Phật, Đức Phật dạy: Lành rồi nên từ từ phải bỏ rượu, kể cả việc ngửi đồ đựng rượu. Muốn không lại thành người xấu thì không được ngửi rượu nữa. Có thứ rượu có sắc rượu, vị rượu, hương rượu. Có thứ rượu có hương rượu, không có vị rượu. Có thứ rượu có sắc rượu, không có hương rượu. Có thứ rượu không có sắc rượu, hương vị rượu, uống say, đều phạm Ba-dật-đề. Có loại chẳng phải rượu, sắc rượu, vị rượu, hương rượu, uống khiến cho người say, phạm Đột-kiết-la. Có loại chẳng phải rượu, sắc rượu, hương rượu, vị rượu không khiến cho người say, cần uống thì cho uống nơi chỗ vắng. Nếu Tỳ-kheo uống rượu, mỗi lần nuốt phạm một Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy, Thức-xoama-na, Sa-di, Sa ni di, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ năm mươi bảy ---------------Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo không kính Hòa thượng, A-xà-lê, không kính giới, có các Tỳ-kheo cũng bắt chước như vậy. Các Tỳ-kheo Trưởng lão thấy, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo và các Tỳ-kheo: Các ông thật sự có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào khinh thầy, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo nào khinh ba thầy và giới đều phạm Ba-dật-đề. Nếu khinh Tỳ-kheo khác phạm Đột-kiết-la. Cho đến thầy sai quét đất mà không quét, bảo quét xuôi gió mà quét ngược gió đều phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa ni di, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ năm mươi tám
---------------------
Đức Phật ở tại nước Câu-tát-la, cùng Đại Tỳ-kheo Tăng năm trăm vị hội đủ, hướng tới ấp Ađồ-tỳ. Khi ấy, các Tỳ-kheo nơi ấp này, nghe Đức Phật sẽ đến, mà không có nhà giảng đường, bèn cùng nhau phát cỏ đào đất để làm… cho đến câu: Đức Phật bằng mọi cách quở trách, như trong giới cất giảng đường đã nói. Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tự mình đào đất lấy đất, phạm Ba-dật-đề”.
Khi đã cấm thì Lục quần Tỳ-kheo sai người giữ vườn, hay sai Sa-di đào đất lấy đất, các Tỳ-kheo thấy, nói: Đức Phật cấm không được đào đất, tại sao nay các thầy lại làm nghiệp ác này? Lục quần trả lời: Tôi sai người đào. Các Tỳ-kheo nói: Sai người đào với tự mình đào có khác gì đâu. Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tự mình đào đất hoặc sai người đào, phạm Ba-dật-đề”.
Có một bạch y cúng vật liệu để làm nhà cho Tăng. Sau thời gian khá lâu đến thăm, thấy chưa cất, hỏi Tỳ-kheo phụ trách việc xây cất: Tại sao không làm cho mau rồi để tôi hoàn thành phước đức? Vị ấy trả lời: Đức Phật không cho phép chúng tôi tự đào đất hay sai người đào đất thì làm sao làm thành. Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu cần đất thì nên nói với tịnh nhân: “Biết việc này, xem việc này”. Tôi cần như vậy cho tôi như vậy. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tự tay đào đất hoặc sai người đào, nói đào như vậy, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni cũng vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa ni di, không có việc gì mà đào đất, phạm Đột-kiết-la. Nếu lấy đất khô thì không phạm.
Xong giới thứ năm mươi chín
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo cùng các Tỳ-kheo tranh cãi. Tranh chấp rồi lại ra ngoài cửa lén nghe. Nghe rồi, nói với các Tỳ-kheo: Tại sao thầy nói như vậy? Vị kia hỏi: Thầy nghe nói như vậy? Đáp: Tôi đứng ngoài cửa nghe. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe biết việc ấy, bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nơi chỗ vắng, lén nghe Tỳ khác nói, phạm Ba-dật-đề”.
Lúc này, có các Tỳ-kheo cùng Tỳ-kheo tranh luận để tỏ rõ phải quấy, có Tỳ-kheo ở cách vách nghe được, sinh nghi: Ta há không phạm Ba-dật-đề? Do đó, xuất tội hối quá, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo lén nghe tranh luận, lý sự để biết phải quấy mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng tranh chấp rồi lén nghe, với ý niệm: Những gì các Tỳ-kheo nói, ta sẽ ghi nhớ, phạm Ba-dật-đề”. Lén nghe Tỳ-kheo-ni, Thứcxoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni nói, phạm Đột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni nghe Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nói, phạm Ba-dật-đề, nghe Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni nói, phạm Đột-kiết-la. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni nghe lén năm chúng nói, phạm Đột-kiếtla.
Xong giới thứ sáu mươi
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, có một nhóm trẻ con mười bảy đứa, cha mẹ rất mực thương yêu. Mẹ chúng thường hay nghĩ ngợi: Con ta không quen chịu khó nhọc, thể tánh yếu đuối, nên cho nó học nghề nào thật tốt khéo để nó được sung sướng trọn đời. Cha chúng nói: Nên cho nó học kế toán, hội họa. Mẹ chúng nói: Cho học hội họa sợ hư mắt, cho học kế toán sợ đau ngón tay, rồi đi đến đau tim. Cha mẹ chúng cùng bàn tính: Nên cho nó xuất gia trong dòng họ Thích, đời này khỏi phải làm gì, đời sau được vui sướng. Đám đồng tử mười bảy đứa đều muốn xuất gia, cùng nhau nói: Chúng ta cần chờ Ưu-ba-ly về để nói lời từ biệt. Khi Ưu-ba-ly về đến chỗ các đồng tử, các đồng tử nói: Bạn có biết chăng? Chúng tôi muốn xuất gia trong giáo pháp của Như Lai, chờ bạn về để nói lời từ biệt. Ưu-ba-ly nghe, cũng muốn cùng đi xuất gia, liền trở về xin cha mẹ. Cha mẹ liền cho phép, với ý nghĩ: Nên cho nó làm đệ tử ai đây? Hai ông bà lại nghĩ: Tất-lăng-già-bà-ta đem nó từ tay của đám giặc trở về, nay nên cho nó làm đệ tử. Cha mẹ chúng dẫn đến Tất-lăng-già-bà-ta thưa: Bạch Đại đức! Đại đức đối với đứa nhỏ này là kẻ đại ân, nay tôi xin dâng nó cho Đại đức, xin nhận nó làm đệ tử.
Tất-lăng-già-bà-ta liền độ chúng, cho thọ giới Cụ túc. Thọ giới rồi, ban đêm, chúng không thể một mình đi đến nhà vệ sinh và nơi chỗ rửa tay, phải có người dẫn. Có khi trời tối, thấy thầy mà không biết, gọi là quỷ, thất thanh kêu lớn: Tỳ-xágià! Tỳ-xá-già! (quỷ! Quỷ!). Thầy nói đừng sợ, thầy đây chứ không phải quỷ đâu. Hoặc ban đêm đòi ăn, thầy nói: Tăng có thức ăn, sáng sớm sẽ cho con ăn. Đồng tử hỏi: Nếu Tăng không có thức ăn thì lấy ở đâu? Thầy nói: Nếu Tăng không có thức ăn thì sẽ đi xin. Đồng tử nghe như vậy bèn lớn tiếng khóc, nói: Tỳ-kheo đi xin về thì chúng con đã chết rồi. Ban đêm Đức Phật nghe tiếng khóc, hỏi Tôn giả A-nan: Tiếng trẻ nhỏ ở đâu khóc đó? Tôn giả trình bày đầy đủ vấn đề. Nhân việc này, sáng sớm Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tất-lăng-già-bà-ta: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách: Ông không nên cho người chưa đủ hai mươi tuổi thọ giới Cụ túc. Chưa đủ hai mươi tuổi phần nhiều không thể kham nhẫn, có thể đưa đến việc phá giới. Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cho người chưa đủ hai mươi tuổi thọ giới Cụ túc, phạm Ba-dật-đề”.
Lúc ấy, đồng tử Ca-diếp không đủ hai mươi tuổi thọ Giới Cụ túc, sau mới biết, sinh nghi, không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Đồng tử Ca-diếp có chứng đắc gì không? Các Tỳ-kheo thưa: Đắc Tu-đà-hoàn. Đức Phật dạy: Người này mới là người thọ giới Cụ túc bậc nhất, nhưng không gọi là Bạch-tứ-yết-ma thọ giới như pháp. Nay cho phép tính tuổi trong thai để đủ hai mươi tuổi. Nếu vẫn chưa đủ thì cho phép tính tháng nhuần để cho đủ. Nếu không đủ lại cho phép dùng đến năm của Sa-môn để cho đủ. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào biết người chưa đủ hai mươi tuổi mà trao cho giới Cụ túc, phạm Ba-dật-đề”, Người ấy không đắc giới, các Tỳ-kheo cũng bị quở trách, như vậy là đúng pháp. Chưa đủ hai mươi, tưởng là chưa đủ hai mươi, nghi là chưa đủ hai mươi, phạm Ba-dật-đề. Đủ hai mươi, tưởng là chưa đủ, đủ hai mươi mà nghi, phạm Đột-kiết-la. Nếu biết không đủ hai mươi, khởi ý niệm muốn cho thọ giới Cụ túc, cho đến tạo phương tiện, cho đến Bạch-tứ-yết-ma chưa xong, đều phạm Độtkiết-la. Yết-ma lần thứ tư xong, Hòa thượng phạm Ba-dật-đề, Sư Tăng khác phạm Đột-kiết-la
Xong giới thứ sáu mươi mốt.
------
---------------------
Đức Phật ở nước Câu-tát-la, cùng năm trăm vị Đại Tỳ-kheo đi đến thành Ca-duy-la-vệ. Các người giòng họ Thích nghe Phật từ nước Câu-tátla đến, cùng nhau lập ra định chế: Nếu ai không nghinh đón Phật sẽ bị phạt năm trăm kim tiền. Do đó, lớn bé đều ra nghinh đón Đức Thế Tôn, đầu mặt đảnh lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên. Đức Phật vì họ giảng nói pháp chỉ bày sự lợi ích, khiến họ hoan hỷ, cùng nhau thỉnh Phật và Tăng an cư bốn tháng mùa hạ, Đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Mỗi người đều tùy theo khả năng cúng dường, hoặc một gia đình cúng một ngày cho đến mười ngày, hoặc hai gia đình cúng một ngày, cho đến mười gia đình… hoặc chỉ cúng món ăn trước hay món ăn sau, hoặc chỉ làm đát bát na, hoặc chỉ cúng cháo, hoặc chỉ cúng nước tắm, hoặc chỉ cúng nước uống buổi chiều, hoặc cúng dầu thoa chân, thoa tay, dầu thắp đèn.
Lúc này, Thích-ma-nam không có ở nhà, chưa cúng dường được thứ gì, hỏi người xung quanh:
Vị nào nhận vật cúng dường của tôi? Được trả lời chưa có ai nhận. Lại hỏi: Thứ nào chưa ai cúng dường Đức Phật và Tăng? Thưa thuốc trị bệnh chưa được ai cúng. Thích-ma-nam xin cúng thuốc chữa bệnh cho Phật và Tăng trong bốn tháng mùa hạ, bằng cách hoặc tự đưa đến, hoặc sai người đưa đến. Nhà Vua lại đến chỗ Lục quần Tỳ-kheo nói: Đại đức cần thuốc gì tùy ý đến lấy. Lục quần Tỳ-kheo khởi ý nghĩ: Nay Vua cúng thuốc trị bệnh cho Phật và Tăng trong bốn tháng, hoặc sai người đem đến hay tự đem đến, lại bảo ta tự đến nhận, như thế là tâm nhà Vua có sự khinh thường chúng ta. Chúng ta chờ khi thân tộc nhóm họp, đến xin thứ thuốc khan hiếm, chắc nhà Vua không có, phải bị hổ thẹn. Lục quần lại nghĩ: Nhà Vua này phước đức, cũng có thể là không thiếu thứ thuốc nào. Trước hết ta nên tìm hiểu trong thiên hạ thứ nào không có rồi sẽ đến xin. Sau khi lục lọi, tìm hiểu nên biết được một thứ duy nhất không có. Ngày đợi chờ năm thân thuộc của Vua nhóm họp đã tới, Lục quần Tỳ-kheo liền đến xin thuốc. Nhà Vua sai người đi tìm khắp nước không có. Vua nói với Lục quần Tỳ-kheo: Tìm kiếm khắp nơi mà không có. Lục quần Tỳ-kheo nói với Vua: Nhà Vua tự thỉnh Phật và Tăng cúng thuốc chữa bệnh cho bốn tháng, mà nay không cho chúng tôi một thứ nào! Nhà Vua thưa: Thưa Đại đức! Không phải là không muốn cúng, cũng không phải là không có thuốc, chỉ vì thứ thuốc này tuyệt nhiên tìm không có, hơn nữa bốn tháng đã qua, đâu có gì làm phiền khổ cho nhau. Lục quần Tỳ-kheo lại làm nhục nhà Vua trước công chúng: Trước đây nói với chúng tôi cứ đến lấy thuốc theo nhu cầu, mà nay không nhận được một thứ nào! Các Tỳ-kheo nghe, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Các thầy nói thế nào? Lục quần Tỳ-kheo đem sự thật theo ý mình trả lời. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận sự cúng dường tùy ý trong bốn tháng, nếu nhận quá thời hạn ấy, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo, vào mùa Thu thường mắc phải bệnh, Thích-ma-nam đến tận phòng thăm hỏi: Đại đức mắc phải bệnh gì? Các Tỳ-kheo nói: Chúng tôi mắc phải bệnh mùa Thu. Maha-nam liền thưa với Tỳ-kheo: Quý thầy có thể đến tôi lấy thuốc. Các Tỳ-kheo nói: Trước đây Vua cúng bốn tháng, nay đã mãn, Đức Phật không cho phép chúng tôi nhận thuốc quá thời gian bốn tháng. Nhà Vua lại xin cúng thêm một tháng. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật chưa cho phép chúng tôi nhận thêm một tháng. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo nhận sự mời thỉnh thêm một tháng. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận sự mời thỉnh tùy ý bốn tháng, nếu nhận quá, trừ thỉnh lại, phạm Ba-dật-đề”.
Lại có các Cư sĩ đến thăm nơi các phòng Tăng, thấy các Tỳ-kheo mắc bệnh mùa Thu, hỏi: Các thầy cần thuốc gì con sẽ đem đến? Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật chưa cho chúng tôi nhận thuốc do thí chủ đem đến. Cư sĩ không biết làm sao, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo nhận sự mời thỉnh do thí chủ đem đến. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận sự mời thỉnh tùy ý bốn tháng, nếu nhận quá, trừ thỉnh lại tự đem đến, phạm Ba-dật-đề”.
Khi ấy, Thích-ma-nam lại có suy nghĩ: Lục quần Tỳ-kheo vì thuốc mà đã nhục mạ ta trước mọi người. Nay ta cần tập trung nhiều thứ thuốc. Thế là thuốc để dồn về. Đã có nhiều thuốc rồi, nhà Vua lại suy nghĩ: Theo ta thì số thuốc này dùng trọn đời cũng không hết, nay ta nên thỉnh các Tỳ-kheo để cúng thuốc trọn đời. Thực hiện ngay ý nghĩ, nhà Vua đến các Tỳ-kheo thỉnh cúng thuốc lâu dài. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật chưa cho phép chúng tôi nhận sự thỉnh cúng lâu dài như thế.
Trước sự khó xử ấy Ma-ha-nam đến bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo nhận sự mời thỉnh lâu dài. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận sự mời thỉnh tùy ý bốn tháng, nếu nhận quá, trừ thỉnh lại, tự đem đến, thỉnh lâu dài, phạm Ba-dật-đề”. Nếu người cúng thuốc cho Tăng thì Tỳ-kheo giúp việc cho chúng nên hỏi: Thuốc này để trong xóm làng hay để nơi Tăng phường? Nếu nói để trong xóm làng thì cần nên bảo: Tôi cần thứ thuốc đó hãy vì tôi mà soạn cho đừng để thiếu thốn. Nếu nói để nơi Tăng phường thì nên để ở phòng trung ương cho dễ lấy. Tăng nên tác pháp bạch nhị Yết-ma, sai một Tỳ-kheo xướng: Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay dùng phòng… để thuốc cho Tăng. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch. Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay dùng phòng… để thuốc cho Tăng. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói. Tăng đã đồng ý dùng phòng… để đựng thuốc cho Tăng rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy. Các Tỳ-kheo không biết ai là người nên giữ thuốc cho Tăng, bạch Phật. Đức Phật dạy: Tăng nên bạch nhị Yết-ma sai một Tỳ-kheo giữ thuốc. Một Tỳ-kheo xướng: Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay Tăng sai Tỳ-kheo tên là… vì Tăng làm người giữ thuốc. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là tác bạch. Đại đức Tăng xin lắng nghe, nay Tăng sai Tỳ-kheo tên là… vì Tăng làm người giữ thuốc. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói. Tăng đã sai Tỳ-kheo tên là… làm người giữ thuốc rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy. Vì các Tỳ-kheo sai Tỳ-kheo vô trí, không kham việc giữ thuốc, nên bạch Phật. Đức Phật dạy: Không nên sai Tỳ-kheo vô trí giữ thuốc. Người được sai giữ thuốc phải thành tựu năm pháp: Không làm theo ái, sân, si, sợ, phải biết rõ thuốc hay chẳng phải thuốc. Tỳ-kheo giữ thuốc cho Tỳ-kheo Tăng nên dùng vật dụng mới để đựng Ha-lê-lặc, A ma lặc, Tỳ hê lặc, Tất bạt la, gừng khô, đường mía, đường phèn. Nếu đồ đựng không rỉ chảy nên đựng tô, dầu mật, nên dùng da bịt miệng, đề tên thuốc vào. Nếu Tỳ-kheo nào bệnh cần thứ gì nên hoan hỷ đưa. Nếu người bệnh biết nên dùng thuốc gì thì tự lấy dùng. Nếu không biết thì nên hỏi thầy thuốc. Nếu không có thầy thuốc thì nên hỏi Hòa thượng, A-xà-lê: Con bệnh như vậy, như vậy, nên uống thuốc gì? Nếu Hòa thượng, A-xà-lê không biết thì nên uống thử Ba lần, không bớt thì lấy thứ khác uống. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ sáu mươi hai --
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc này, Lục quần Tỳ-kheo thường phạm giới, các Tỳ-kheo can ngăn: Các thầy thường phạm giới, nên tự mình thấy tội, như pháp sám hối, đừng nên vì việc làm ấy phụ lòng tin của tín thí, phải thọ khổ lâu dài. Lục quần Tỳ-kheo nói: Chúng tôi không học giới này, trước hết chúng tôi cần hỏi vị trì pháp, trì luật mà trí tuệ hơn thầy. Các Tỳ-kheo nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Các ông là người ngu si, không nên tạo ra các nghiệp ác như vậy. Các Tỳ-kheo muốn không cùng các ông Bố-tát, Tự tứ, làm các Yết-ma, do thương nghĩ các ông nên như pháp can gián. Tại sao các ông nói: Chúng tôi không học giới này, trước hết chúng tôi cần hỏi vị trì pháp, trì luật có trí tuệ hơn thầy đã. Quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào thường hay phạm tội, các Tỳ-kheo như pháp can ngăn, mà lại nói: Tôi không học giới này, cần hỏi Tỳ-kheo trì pháp, trì luật khác đã, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo muốn tìm hiểu thì nên hỏi vị trì pháp, trì luật là điều nên làm. Trì pháp: Là người trì tụng những pháp do Phật nói. Người trì luật có năm hạng: Một là tụng bốn việc cho đến hai Bất định. Hai là tụng bốn việc cho đến ba mươi việc. Ba-là tụng hết hai trăm năm mươi giới. Bốn là tụng hết hai bộ luật. Năm là tụng hết tất cả luật. Nếu Tỳ-kheo không tụng giới, chẳng phải mùa an cư thì nên nương vào bốn hạng trì luật trước, trong mùa an cư nên nương vào vị tụng hết tất cả luật. Nếu không nương vào thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sadi, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ sáu mươi ba ---------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Lục quần Tỳ-kheo thường phạm giới. Các Tỳ-kheo can gián, như giới trước đã nói, cho đến câu: Đừng để phải chịu khổ lâu dài. Lục quần Tỳ-kheo hỏi: Đức Phật chế giới này ở đâu? Các Tỳ-kheo nói: Thầy không biết hay sao? Vâng, không biết. Các Tỳ-kheo nói: Chúng tôi sẽ nói cho thầy biết, Đức Phật nói giới này ở đâu. Trong khi thuyết giới bèn nói: Đức Phật chế giới này ở đây. Lục quần Tỳ-kheo nói: Nay tôi mới biết, pháp này, mỗi nửa tháng Bố-tát, nói ra từ giới kinh. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào khi thuyết giới, nói như vầy: Nay tôi mới biết pháp này, mỗi nửa tháng Bố-tát, nói ra từ trong giới kinh. Các Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo này hai, Ba lần khi nói giới đã ngồi nghe. Tỳ-kheo này không thể vì nói không biết mà khởi tội. Tùy theo chỗ phạm tội như pháp trị, rồi nên quở trách điều không biết kia là không tốt. Khi thuyết giới không nhất tâm để nghe, không để ý, phạm Ba-dật-đề”. Nếu Tỳ-kheo cho người thọ giới Cụ túc để thành Tỳ-kheo thì nên dạy cho họ học đầy đủ luật. Nếu hai, Ba lần họ đã ngồi nghe giới, biết hay không biết, mà nói như thế, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy.
Xong giới thứ sáu mươi bốn
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, các Tỳ-kheo thường vào trong cung của Vua Ba-tư-nặc, thấy các mỹ nữ sinh tâm nhiễm đắm, không thích tu phạm hạnh, có vị ra đời làm ngoại đạo. Các Đại thần thấy, nói: Tại sao nhà Vua không để các cung nữ lui sâu vào chỗ kín đáo, mà cứ cho lui tới khiến ai cũng thấy được.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan thường nhận được sự cúng dường của Vua, sáng sớm, đắp y bưng bát vào trong hậu cung. Khi ấy, Vua cùng phu nhân Mạt-lợi còn đang ngủ chưa dậy. Phu nhân Mạt-lợi thấy Tôn giả vào, liền vội vã mặc y bước xuống giường. Y của Phu nhân đang mặc rất mịn và trơn, vô ý tuột rơi xuống đất, phu nhân xấu hổ liền ngồi sụp xuống. Nhà Vua bực tức nói: Việc triều đình nhọc nhằn bận rộn thường phải thức khuya mới ngủ không thể dậy sớm. Tại sao Tỳ-kheo sáng sớm lại đi thẳng vào thế này? Tôn giả xấu hổ liền trở về nơi chỗ Phật, trình bày đầy đủ việc các Tỳ-kheo và việc của chính mình vào cung Vua. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật lại tự nói lên sự việc của Tôn giả A-nan. Bằng mọi cách quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Vào trong hậu cung của nhà Vua có mười điều lỗi lầm:
Một là khi Vua say, gần gũi với cung nữ khác, lúc hết say hay quên, do quên nếu bỗng nhiên cung nữ kia có thai, Tỳ-kheo bị nghi.
Hai là cung nữ thấy Tỳ-kheo hoặc có ý vui đùa, Tỳ-kheo bị nghi là có tình tứ.
Ba là nhà Vua có mưu mật nào bị tiết lộ, Tỳ-kheo bị nghi là đưa tin.
Bốn là trong cung có mất vật quý báu nào, Tỳ-kheo bị nghi là người lấy. Năm là nếu vị quan nào bị mất chức, người ngoài nghi là do Tỳ-kheo.
Sáu là nếu có người bị tội, người ta nghi là do Tỳ-kheo sàm tấu. Bảy là nếu có người nào chưa đáng thăng quan mà được thăng, người ta nghi là do thế lực của Tỳ-kheo.
Tám là nhà Vua ưa đi du ngoạn gây nhiều phiền tốn, Tỳ-kheo cũng bị nghi là xui khiến.
Chín là trong cung nhiều các mỹ sắc, phục sức ngoạn mục, Tỳ-kheo thấy sinh tâm nhiễm đắm, phạm giới, hoàn tục.
Mười là nếu vương tử có sự phản nghịch, Tỳ-kheo bị nghi là người hướng dẫn.
Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào vào trong cung Vua, quá ngạch cửa, phạm Ba-dật-đề”.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo sau khi Phật đã chế giới cấm không dám bước qua cửa thành để khất thực, không biết làm thế nào, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép vào trong cửa thành, nhưng không được quá trong cửa của hậu cung. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào vào trong cung Vua, quá ngạch cửa của hậu cung, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc hằng năm cùng các cung nữ ra khỏi giới hạn của nước, nên các nơi đều có làm hành cung dành cho Vua nghỉ khi Vua đi ngắm cảnh. Có các Tỳ-kheo vào buổi chiều đi đến thôn xóm, tìm nơi nghỉ lại đêm, các Cư sĩ nói: Nay Vua không có nơi hành cung này, các thầy có thể vào đó nghỉ. Vua tin kính Phật pháp, nếu có biết cũng hoan hỷ thôi. Các Tỳ-kheo không dám vào nên không có chỗ nghỉ. Việc này được bạch Phật. Nhân đó, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo vào nghỉ trong hành cung bỏ trống. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, Vua chưa ra khỏi chốn đồ báu, đồ báu chưa được thu cất, mà vào quá hạn cửa hậu cung, phạm Ba-dật-đề”. Đồ báu: Vật quý trọng và các nữ sắc đều gọi là báu. Chưa ra: Nghĩa là người nữ còn ở trong cung. Chưa cất: Nghĩa là người nữ ở trong cung chưa tàng ẩn. Khi ấy, nếu vào quá hạn cửa hậu cung, cả hai chân, phạm Ba-dật-đề. Tùy theo sự vào trong xa hay gần mỗi bước phạm một Ba-dật-đề. Nếu bước qua một chân phạm Độtkiết-la. Vào các nhà Đại thần, trưởng giả, vào quá bên trong cửa, phạm Đột-kiết-la. Sa-di phạm Độtkiết-la. Nếu Vua mời nên vào thì không phạm.
Xong giới thứ sáu mươi lăm
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, hai nước Câu-tát-la và Ma-kiệt xâm chiếm lẫn nhau. Đường sá đi lại giữa hai nước bị cắt đứt. Tỳ-kheo nơi thành Vương-xá an cư xong, nghĩ đến Phật nên có ý nghĩ: Nay ta cần phải cùng với đám giặc làm bạn để đi, mới có thể đến viếng thăm Đức Thế Tôn được. Dù lính canh phòng biên giới, nói ta cùng đi với giặc mà bắt, thì Vua Ba-tư-nặc tin ưa Phật pháp cũng không kết tội ta. Thế là các Tỳ-kheo cùng với giặc đi đến biên giới, quả nhiên là bị bắt giải đến đồn lính biên phòng. Lính thú báo: Đây là giặc. Tướng biên phòng hỏi: Còn những người mặc áo cà sa này là gì? Thưa, cũng là giặc. Các Tỳ-kheo bèn tự nói: Chúng tôi không phải là giặc, mà là Sa-môn Thích tử, an cư nơi thành Vương-xá xong, cần đến viếng thăm Đức Thế Tôn, đi đường nguy hiểm nên cùng làm bạn với những người này để đi. Tướng biên phòng nói: Các ông không phải là Sa-môn Thích tử. Các ông đội lốt đến đây để làm mật vụ. Tướng biên phòng ra lệnh áp giải về triều đình. Các Tỳ-kheo cũng tự khai như trước. Vua liền phóng thích. Các quan tả hữu, có người không tin đó là Sa-môn nói: Đây là giặc, giả mặc áo Tỳ-kheo, vì Vua tin ưa Phật pháp nên phóng thích. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Các ông thật sự có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nào hẹn cùng giặc làm bạn đồng đi, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo cùng một đường đi chung với giặc mà không biết, nhưng khi đã biết được thì lấy làm ray rứt và ngỡ mình đã phạm Ba-dật-đề, nên lui tránh bên đường, hoặc đi sau. Giặc hỏi: Tại sao các ông làm như thế? Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật cấm không cho chúng tôi cùng làm bạn đi với các ông. Đám giặc nghe nói, nổi giận, đánh các Tỳ-kheo rồi lột hết y áo. Khi trở lại trú xứ, các Tỳ-kheo đem sự việc bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Không biết là giặc, cùng đi với họ, mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, biết giặc mà làm bạn đồng đi, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo, trên đường đi, tình cờ gặp giặc, bèn sinh hổ thẹn, cho rằng mình phạm Ba-dật-đề, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu không hẹn, tình cờ gặp giặc trên đường đi mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào hẹn cùng giặc đi một đường, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo hẹn cùng giặc đồng đi trên đoạn đường gần, rồi lại không đi, hoặc đi đường khác, nhưng vẫn sinh nghi: Chúng ta há không phạm Ba-dật-đề! Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Tuy cùng giặc hẹn đồng đi một đoạn đường gần, rồi không đi, hoặc đi đường khác, mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng giặc hẹn đi một đường từ xóm làng này đến xóm làng kia, phạm Ba-dật-đề”. Nếu cùng các Tỳ-kheo ác hẹn cùng đi, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la. Nếu có các nạn khởi, hẹn cùng đi thì không phạm.
Xong giới thứ sáu mươi sáu
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo cùng người nữ đồng đi một đường, hoặc một Tỳ-kheo cùng một người nữ, cho đến số đông, hoặc hai Tỳ-kheo, cho đến số đông, cùng một người nữ, cho đến số đông cùng lội qua sông, thấy hình lẫn nhau nên sinh tâm nhiễm, có vị hoàn tục, làm ngoại đạo. Các Cư sĩ thấy vậy chê trách nói: Sa-môn Thích tử cùng người nữ đi một đường, đâu có khác gì cùng đi với vợ, ai biết những người này tu phạm hạnh, thật là không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn.
Lúc ấy, có một Cư sĩ thường đánh vợ, một hôm, đánh vợ rồi bỏ đi. Người vợ suy nghĩ: Chồng ta thường đánh ta, có thể sẽ âm thầm giết ta, nay ta nên trốn đi. Thế là bà ta bỏ nhà rời xóm làng ra đi. Gặp một Tỳ-kheo, bà rất mừng đến hỏi: Đại đức đi đâu? Tỳ-kheo nói: Tôi đi đến chỗ đó. Lặng lẽ người nữ bèn đi theo sau Tỳ-kheo. Chồng bà ta, sau khi ra đi lại hồi tâm: Vừa rồi ta đánh vợ, có thể nó tự tử. Ông ta liền vội trở về nhà tìm vợ, không thấy lại hỏi người hàng xóm. Họ đều nói không thấy. Ông ta bèn đi ra ngoài xóm làng, gặp một người nữ ngoại đạo, hỏi: Có thấy người đàn bà hình dáng như vậy không? Kẻ ngoại đạo nói: Thấy Sa-môn Thích tử dẫn đi. Ông ta liền vội vã đuổi theo, khi đuổi theo kịp, ông ta hỏi Tỳ-kheo: Lý do nào ông dẫn vợ tôi tẩu thoát? Tỳ-kheo nói: Tôi không làm nghiệp ác, vợ ông cùng đi với tôi một đường mà thôi. Khi ấy bà vợ nói với ông chồng: Chớ có tâm ác đối với Tỳ-kheo này, tôi cùng đi, coi như người thân thuộc chứ không có gì khác. Ông chồng nghe vợ nói liền nghĩ: Nói như vậy là lừa dối cho nhau, chứ chắc chắn có sự ác. Ông ta liền đánh Tỳ-kheo gần chết mới thôi. Tỳ-kheo khởi ý niệm: Nay ta bị kiệt sức không thể tiếp tục đi được, cần nhập Tam-muội Hỏa quang, vận dụng hơi thở để lấy lại sức khỏe, rồi sẽ tiếp tục đi. Nghĩ xong liền thu xếp y bát, nhập Tam-muội Hỏa quang, nơi thân tuôn ra khói. Người đàn bà kia thấy vậy nói với chồng: Ông không tin lời tôi nói, ông xem nơi thân của Tỳ-kheo tuôn ra khói đó không? Trong chốc lát cả thân của vị Tỳ-kheo kia đều mất cả. Người vợ lại nói: Ông không tin lời tôi! Ông xem thân của Tỳ-kheo thế nào đó? Vị Tỳ-kheo kia liền dùng sức của Tam-muội, đến nơi chỗ Đức Phật, đem tất cả sự việc đã xảy ra bạch với Ngài. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Các Tỳ-kheo thưa: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng người nữ đi một đường, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo cùng đi, trên đường thấy các người nữ cùng đi nơi tuyến đường ấy, tâm sinh nghi hối: Chúng ta có phạm Ba-dật-đề không? Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo nào không hẹn mà cùng người nữ đồng đi một đường, phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng người nữ, hẹn đồng đi một đường, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo cùng người nữ hẹn đồng đi một đường, rồi sau không dám đi, hoặc đi đường khác, cũng sinh nghi hối, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo nào, tuy trước đã cùng người nữ hẹn đồng đi một đường, rồi không đi, hoặc đi đường khác, phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cùng người nữ hẹn đồng đi một đường, từ xóm làng này đến xóm làng khác, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ sáu mươi bảy
---------------------
Đức Phật ở tại nước Câu-tát-la, cùng chúng Đại Tỳ-kheo Tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị, du hành trong nhân gian. Các Tỳ-kheo, hoặc có vị ở trong nhà, hoặc có vị ở bên gốc cây, hoặc có vị ở nơi đất trống. Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo cùng Thập thất quần Tỳ-kheo tập trung một đống lớn củi tươi và cỏ nơi đất trống rồi đốt và ngồi xung quanh sưởi ấm. Có một con rắn từ trong bộng cây chạy ra, các Tỳ-kheo thấy, lấy vật ném nó. Con rắn quay đầu trở vô, bị nóng lại chạy ra, các Tỳ-kheo lại ném nữa, nó lại chạy vô. Trong chốc lát nó lại phóng thẳng đến chỗ Tỳ-kheo ném nó cắn vị này chết ngay. Các Tỳ-kheo vây quanh khóc kể. Các Tỳ-kheo Trưởng lão hỏi: Chuyện gì các thầy khóc kể như thế? Thưa: Có một Tỳ-kheo bị rắn cắn chết! Quý vị trình bày đầy đủ sự việc trên. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách: Tại sao các thầy thấy rắn chạy ra Ba lần mà không tránh, để đến nỗi bị nó cắn chết?
Quở trách xong bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhen đốt lửa, phạm Ba-dật-đề”.
Sau đó, Lục quần Tỳ-kheo sai người giữ vườn, Sa-di đốt lửa. Các Tỳ-kheo Trưởng lão thấy quở trách: Các thầy há không nghe Đức Phật cấm đốt lửa? Chúng tôi bảo người giữ vườn, Sa-di đốt thì đâu có phạm. Các Tỳ-kheo nói: Tự mình đốt, sai người đốt đâu có khác gì?! Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đốt lửa, hay sai người đốt lửa, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo bệnh, hỏi thầy thuốc, thầy thuốc nói: Nên uống thứ thuốc… và tắm bằng nước nóng. Tỳ-kheo bệnh nói: Đức Phật không cho phép chúng tôi đốt lửa và sai người đốt, vậy thầy nên cho dùng thứ thuốc khác. Thầy thuốc nói: Đại đức, bệnh này thì phải uống thứ thuốc ấy và tắm nước nóng. Các Tỳ-kheo lại đặt ra vấn đề: Nếu Đức Phật cho phép chúng ta đốt lửa hay sai người đốt lửa thì bệnh này được lành. Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép Tỳ-kheo bệnh được đốt lửa hoặc sai người đốt. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo không bệnh, tự mình đốt lửa hoặc sai người đốt, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo cần nấu canh nấu cháo, không dám nhen lửa, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo nấu canh, nấu cháo, chứ không được vì sưởi ấm mà nhóm lửa. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào không bệnh, vì sưởi ấm mà nhen lửa, phạm Ba-dật-đề”.
Các Tỳ-kheo muốn nhen lửa để xông bát và ngăn thú dữ, hoặc đốt đèn lửa, không biết làm thế nào, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo có nhân duyên như vậy được đốt lửa hay bảo người đốt lửa. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào không bệnh, vì sưởi ấm mà tự mình nhóm lửa hoặc sai người nhen, phạm Ba-dật-đề”. Nếu vì sưởi ấm mà nhen lửa, ngọn lửa lên cao cho đến bốn ngón tay, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-mana, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ sáu mươi tám Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo đến các nhà quen biết, thấy đồ trang sức quý báu, cầm xem rồi để lại chỗ cũ. Đồ quý này sau đó bị ai lấy mất, người chủ tìm không thấy. Có người nói: Tôi thấy Tỳ-kheo cầm. Người chủ đến hỏi Tỳ-kheo: Tôi bị mất đồ trang sức như vậy, như vậy, thầy có thấy không? Tỳ-kheo nói: Vừa rồi tôi có cầm xem, rồi để lại chỗ cũ. Người chủ nói: Thầy nhận đã cầm lấy rồi lại bảo không thấy nữa. Vậy thầy nên trả lại tôi. Tỳ-kheo nói: Thật sự tôi không lấy. Người chủ không tin, bèn gán cho Tỳ-kheo tiếng xấu.
Lại có một ngoại đạo mang một túi đầy năm trăm kim tiền, tới bên bờ sông uống nước, khi đi bỏ quên lại. Có một Tỳ-kheo đi sau đến bắt gặp, rồi tự hỏi: Vật này là của ai? Nhìn xung quanh, thấy phía trước xa có một người đi, bèn nghĩ: Chắc của người ấy bỏ quên, ta nên mang đến để đưa cho họ. Vội vã Tỳ-kheo mang đi theo. Người kia đi chưa được bao lâu, nhớ túi tiền vàng, liền vội quay trở lại. Tỳ-kheo thấy hỏi: Vì sao ông trở lại? Người kia giận, nói: Thứ người xui xẻo này, hỏi tôi làm gì? Tỳ-kheo nói: Dù tôi là vật xui xẻo, ông cũng nên cho tôi biết lý do ông trở lại. Người kia nói: Tôi quên túi kim tiền nơi bờ sông, nên trở lại tìm. Tỳ-kheo liền đưa cái túi ra hỏi: Đây có phải là túi của ông không? Người kia nhận ra túi của mình rồi, lại nổi giận, nói: Thứ người xui xẻo, tại sao lại cầm cái túi của tôi? Ông đợi một chút để tôi kiểm tra lại các vật trong túi đã! Tỳ-kheo nói: Tôi hoàn toàn không biết thứ gì đựng trong túi này, cũng không xem đến. Nếu tôi muốn lấy thì đâu có đưa ông xem? Vì sợ ông mất của nên mới đem đến trả cho ông. Người kia nói lại: Trong cái túi của tôi có một ngàn kim tiền, nay thiếu năm trăm, ông trả cho tôi. Tỳ-kheo trả lời trước sau như một. Người kia cưỡng bức đòi Tỳ-kheo, rồi đưa đến quan đoán sự. Một khi quan đoán sự là người không tin ưa Phật pháp nên xử đoán một cách phi lý, liền hạ lệnh bắt Tỳ-kheo trói cánh gà, đánh trống, áp giải đến ngả tư đường để hành quyết (giết). Lúc này, Vua Ba-tư-nặc từ trên lầu cao nhìn thấy, hỏi các quan tả hữu: Người đó là ai? Các quan tâu: Sa-môn Thích tử. Nhà Vua liền ra lệnh: Đem về chỗ đoán sự, ta sẽ đích thân đến đó. Nhà Vua vội vàng đến và hỏi người kia: Tại sao người hành hạ Tỳ-kheo này? Quan đoán sự tâu rõ sự việc cho nhà Vua nghe. Nhà Vua hỏi Tỳ-kheo. Tỳ-kheo cũng trình bày như trước. Nhà Vua hỏi người chủ của cái túi đựng kim tiền: Cái túi này là của ngươi phải không?
Người ấy trả lời: Phải. Nhà Vua liền lấy năm trăm kim tiền bỏ vào trong túi. Cái túi không chứa hết. Nhà Vua lại hỏi: Ngươi nói trong cái túi đó có một ngàn kim tiền, tại sao bây giờ nó không đựng hết? Người kia liền tự thú tội nói: Thật sự chỉ có năm trăm, tôi giận nên vu khống cho Tỳ-kheo. Nhà Vua liền hỏi vị quan đoán sự: Nếu có người khinh Vua ngay trước mặt thì tội ấy thế nào? Quan đoán sự tâu: Người ấy đáng chết và tịch thu tài sản. Nhà Vua liền cho áp dụng đúng pháp: Tịch thu tài sản, trói cánh gà người kia, đánh trống áp giải đến ngả tư đường để chặt đầu. Có người nói: Ông vu khống Sa-môn Thích tử, nên thọ tội như vậy, nếu lại vu khống hủy báng, tội sau sẽ nặng hơn nhiều. Hoặc lại có người nói: Sa-môn Thích tử, có lần đã từng lấy vật báu của tôi, vậy nay sự thật này phải sợ ư! Khi ấy, Tỳ-kheo tâu với Vua: Nên cho người này được sống, để Phật pháp khỏi bị mang tiếng xấu. Nhà Vua liền phóng thích. Nhà Vua liền quở trách quan đoán sự: Nếu sau này còn đoán sự một cách phi lý như vậy, sẽ bị trị phạt. Những người không tin Phật pháp bằng mọi cách chê trách: Chúng ta là người thế tục còn biết xấu hổ, khi cầm đến vật báu huống là Sa-môn Thích tử, sao lại làm như vậy, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi đem việc cả trước lẫn sau bạch đầy đủ lên Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Sự thật các ông có như vậy không? Quý Tỳ-kheo thưa: Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào hoặc nắm cầm các thứ báu, hoặc các vật báu, phạm Ba-dật-đề”.
Bấy giờ, Tỳ-xá-khư-mẫu mặc áo quý báu nhất, thân tướng của bà trông thật lộng lẫy trang nghiêm. Bà cùng các người thân du ngoạn nơi vườn rừng gần Kỳ-hoàn. Xem xét kỹ mọi người không hề chán ngán trong sự vui chơi thỏa thích, bà đâm ra nghĩ ngợi: Nay ta không nên đồng phóng dật với họ. Nhân việc này ta nên đến viếng thăm Đức Thế Tôn. Bà liền cùng các tỳ nữ đến Kỳ-hoàn. Khi đến cửa Kỳ-hoàn, bà lại nghĩ: Ta không nên mặc đồ sang trọng này đến yết kiến Đức Thế Tôn. Bà cởi áo quý báu để nơi hào của thành. Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất đang đi kinh hành, từ xa thấy được việc này. Tỳ-xá-khư-mẫu đến trước Phật đảnh lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên. Đức Phật vì bà giảng nói pháp, chỉ bày những lợi ích, khiến bà vui mừng. Không bao lâu bà lui về và mãi suy nghĩ những điều vừa được nghe, nên quên chiếc áo quý. Trên đường về, sau khi cửa thành đóng, mới nhớ lại chiếc áo, bà nghĩ: Nếu ta nói với ai là ta bị mất chiếc áo quý báu này, như thế có thể tổn thương đến Phật pháp, nên im lặng đến sáng hôm sau.
Lúc Tôn giả Xá-lợi-phất đem vấn đề bạch Phật. Đức Phật bảo Tôn giả: Sáng sớm ngày mai đích thân ông đem đến trả cho bà ta. Tôn giả làm đúng theo lời Phật dạy. Tỳ-xá-khư- mẫu tán thán hết lời: Lành thay! Tôi có vị Đại sư cùng bậc đồng phạm hạnh như vậy. Nếu ngoại đạo khác lượm được của báu này thì đâu có chuyện trả lại cho tôi. Đêm vừa rồi tôi đã xả vật này, nay nên thực hiện. Bà liền đem dâng cúng cho Tăng bốn phương. Bà yêu cầu Tôn giả Xá-lợi-phất dùng của này cất nhà cho chiêu đề Tăng. Tôn giả không dám nhận, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nên nhạn.
Lại có các Cư sĩ, cứ mỗi năm ngày đến Tăng phòng thăm viếng một lần. Có người cởi nhẫn, có người cởi bông tai, trước khi vào Tăng phường. Khi về bỏ quên, các Tỳ-kheo thấy không dám lấy, có người khác thấy, lấy đem đi mất. Các Cư sĩ, khi trở lại Tăng phường tìm, hỏi các Tỳ-kheo: Tôi mất vật báu như vậy, như vậy, thầy có thấy không? Tỳ-kheo nói: Tôi thấy mà không dám lấy. Các Cư sĩ nói: Đại đức thấy, tại sao không lấy? Đại đức nên trả lại cho tôi, người xuất gia đâu cần việc ấy. Các Tỳ-kheo nói: Thật sự tôi không lấy.
Cư sĩ không tin, bèn gán tiếng ác cho Tỳ-kheo.
Lại có các Tỳ-kheo cùng người làm bạn đi đường, nghỉ lại đêm một nơi nọ, có người bạn bỏ quên lại vật ra đi. Tỳ-kheo thấy không dám lấy, người khác lấy đi. Các người bạn hỏi Tỳ-kheo: Tôi mất vật như vậy, như vậy, Đại đức có thấy không? Tỳ-kheo nói: Tôi thấy mà không dám lấy. Các người bạn nói: Đại đức thấy, tại sao không lấy? Đại đức trả lại cho tôi đi! Người xuất gia đâu cần việc ấy. Các Tỳ-kheo nói: Thật sự tôi không lấy. Người kia không tin, báng bổ Tỳ-kheo khắp nơi. Từ đó các Tỳ-kheo lại có những suy nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn cho phép chúng ta tự mình cầm lấy hoặc sai người cầm lấy vật báu nơi Tăng phường hay chỗ nghỉ lại đêm thì Cư sĩ đã không mất đồ mà chúng ta khỏi bị tiếng xấu. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo tự mình cầm hay sai người cầm lấy vật báu, nơi Tăng phường hoặc chỗ nghỉ lại đêm. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, đối với của báu hoặc các vật báu, tự mình lấy hay dạy người lấy, trừ nơi Tăng phường hay chỗ nghỉ lại đêm, phạm Ba-dật-đề. Nếu trong Tăng phường và chỗ nghỉ đêm cầm lấy của báu hoặc các vật báu khác, sau có người chủ đến đòi thì trả lại họ. Vấn đề như vậy, phải giải quyết như vậy. Của báu: Chân châu, Ma-ni, Lưu ly, Ngọc kha, Kim ngân. Các vật báu: Là chỉ cho các vật quý khác.
Tăng phường: Là chỗ Tăng ở, đất thuộc về Tăng. Chỗ nghỉ lại đêm: Tức ngoài Tăng phường, nơi nhà người khác và nơi cùng làm bạn với người đi dạo chơi. Tỳ-kheo thấy vật báu nơi Tăng phường, nên khiến tịnh nhân lấy, nếu không có tịnh nhân thì tự mình lấy cất. Có người đến đòi, nên họp Tăng hỏi rõ về tướng trạng của vật bị mất, sau đấy mới trả. Nếu lấy cất rồi, muốn đi đâu, phải dặn người ở nhà. Nếu Tỳ-kheo đến nhà người, thấy có vật, nên khiến tịnh nhân cất, không có tịnh nhân thì tự mình lấy cất, có người, nên kêu người chủ ra giao cho họ, rồi sau mới đi. Tỳ-kheo cùng người làm bạn đi đường, thấy vật nên bảo tịnh nhân lấy, không có tịnh nhân nên tự mình lấy để trả lại cho họ. Khi trả, nên tập trung người hỏi: Ông mất vật phải không? Nếu người ấy có mất thì nên hỏi vật gì. Người ấy nói đúng mới trả. Nếu cùng bạn đi khác đường, không gặp nhau, đến xóm làng, thì nên gửi cho người Ưubà-tắc tin cậy để trả lại họ. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Độtkiết-la.
Xong giới thứ sáu mươi chín
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc này, các Tỳ-kheo một ngày tắm Ba lần, dùng nhiều bột tháo đậu, các Cư sĩ thấy, chê trách nói: Các Tỳ-kheo này tắm mãi tắm hoài, dùng tháo đậu như Vua, như Đại thần. Mục đích họ xuất gia là muốn cầu giải thoát, không nhớ nghĩ tụng kinh, lại chú trọng phơi bày các điều xấu, ngày đêm chỉ lo thân thể, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Samôn. Bấy giờ, có một tướng sư nói với Vua Bìnhsa: Thiên văn cho biết, sắp có một ngôi sao bất thường xuất hiện, nhà Vua nên tắm nơi suối nước đó để tránh tai ương. Nếu không tắm có thể đưa đến mất nước, hoặc mệnh hệ của Vua sẽ lắm ưu phiền. Nhà Vua liền ra lệnh các quan tả hữu xem xét định liệu con suối ấy. Các quan vâng lệnh đến nơi thì thấy các Tỳ-kheo tắm đầy cả suối. Các quan quay trở về tâu với Vua, Vua nói: Chờ Tỳ-kheo tắm xong. Suốt cả ngày đêm hôm ấy, Ba lần đến xem, đều thấy các Tỳ-kheo thay nhau tắm luôn không ngớt. Bà-la-môn tướng sư lại tâu với Vua: Hung tinh kia sắp xuất hiện, sau khi hung tinh này xuất hiện mới tắm thì không có ích gì. Nhà Vua nghe câu nói này liền bảo chuẩn bị xa giá để Vua đến suối tắm. Nhà Vua tắm dưới dòng nước. Các quan thấy vậy dị nghị: Sa-môn Thích tử không biết thời nghi, không siêng năng, không quán niệm thể ô trược của thân, chỉ lo tắm rửa, trang điểm thân thể, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ- kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào trong vòng nửa tháng tắm, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo bệnh, thầy thuốc bảo, phải tắm rửa mới lành. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật không cho phép chúng tôi lúc nào cũng tắm được, thầy nên hướng dẫn phương pháp khác. Thầy thuốc nói: Chỉ có cách tắm rửa mới hết, chứ không có cách nào khác. Các Tỳ-kheo khởi ý nghĩ: Nếu Đức Phật cho phép khi có bệnh thường được tắm thì bệnh của chúng ta mau lành.
Lại có các Tỳ-kheo làm nhiều việc, bị đất bùn nhớp áo, nhớp thân, do vậy càng thêm phiền toái, lại nảy ra ý nghĩ: Nếu Đức Phật cho phép khi làm việc được tắm giặt thì áo khỏi nhớp, thân khỏi nhớp được sạch sẽ, bớt mệt.
Lại có các Tỳ-kheo đi đường mệt nhọc, muốn tắm giặt mà không dám, lại suy nghĩ: Nếu Đức Phật cho phép khi đi đường được tắm giặt thì sự mệt nhọc sẽ bớt đi. Lại có các Tỳ-kheo bị mưa gió bị bùn bụi làm nhớp áo, lại có ý nghĩ: Nếu khi trời mưa gió, Đức Phật cho phép tắm giặt thì có thể không bị bụi bùn làm nhớp. Mùa Xuân còn một tháng rưỡi và một tháng đầu mùa Hạ, các Tỳ-kheo bị nóng bức, mồ hôi nhuễ nhại, lại nảy ra ý nghĩ: Vào lúc nóng nực, nếu Đức Phật cho phép tắm thì có thể không bị hoạn khổ ấy. Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo khi bệnh, khi làm việc, khi đi đường, khi mưa gió, khi nóng bức được tắm rửa không phạm. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào trong vòng nửa tháng mà tắm, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”. Nhân duyên là khi bệnh, khi làm việc, khi đi đường, khi mưa gió, khi nóng bức, đó là nhân duyên. Khi bệnh: Là khi có chứng bệnh cần tắm rửa. Khi làm việc: Là khi lo liệu công việc, cho đến quét phòng. Khi đi đường: Là khi đi một do-tuần, hai do-tuần, cho đến chỉ nửa do-tuần. Khi mưa gió: Là khi trời gió mưa bị đất bùn nhơ nhớp. Khi nóng bức: Là lúc nóng bức đổ mồ hôi. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-mana, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la. Nếu khi tắm rửa cho thầy, hoặc cho người bệnh, thân hình mình bị ướt, bị nhớp thì tắm rửa không phạm.
Xong giới thứ bảy mươi
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Thập thất quần Tỳ-kheo vừa cất xong phòng mới, Lục quần Tỳ-kheo muốn đến ở trong đó, đuổi Thập thất quần Tỳ-kheo ra. Thập thất quần Tỳ-kheo không chịu ra nên bị đánh. Bị đuổi bị đánh, Thập thất quần Tỳ-kheo kêu khóc inh ỏi. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, hỏi: Tại sao kêu la lớn tiếng như vậy? Lục quần Tỳ-kheo đánh đám con. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, có. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đánh Tỳ-kheo, phạm Ba-dật-đề”.
Có Tỳ-kheo ăn bị nghẹn, nhờ Tỳ-kheo khách đấm lưng, các Tỳ-kheo không dám đấm, nên nghẹt thở chết, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu Tỳ-kheo không vì lòng giận mà đánh Tỳ-kheo, phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào giận đánh Tỳ-kheo khác, phạm Ba-dật-đề”. Nếu đánh Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-dini, người khác hay súc sinh, phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni đánh Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề; đánh Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, người khác cùng súc sinh, phạm Đột-kiết-la.
Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni đánh năm chúng, người khác, hay súc sinh, phạm Đột-kiếtla.
Xong giới thứ bảy mươi mốt
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Lục quần Tỳ-kheo lại đến phòng Thập thất quần Tỳ-kheo tìm chỗ ở. Thập thất quần không chịu ra, Lục quần đưa tay lên như muốn đánh, Thập thất quần cũng lại la lớn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, ra hỏi: Tại sao các ông la lớn như thế? Lục quần Tỳ-kheo muốn đánh con. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào dọa đánh Tỳ-kheo khác, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo khi nói pháp dùng tay nhấn mạnh lời nói hoặc chỉ rõ vấn đề nào đó, nên lòng lại sinh nghi hối: Phải chăng ta đã phạm Ba-dật-đề. Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu Tỳ-kheo không do lòng giận, dọa tay đối với Tỳ-kheo khác, mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào vì giận, dùng tay dọa đánh Tỳ-kheo khác, phạm Ba-dật-đề”. Nếu dọa tay đánh, phạm Ba-dật-đề. Nếu dọa tay mà không đánh, phạm Đột-kiết-la. Ngoài ra như trong giới đánh Tỳ-kheo đã nói.
Xong giới thứ bảy mươi hai
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, Thập thất quần Tỳ-kheo hài lòng với phòng vừa nhận được. Lục quần Tỳ-kheo ỷ mình là bậc Thượng tọa nên tùy tiện vào ở. Thập thất quần phải tránh qua những phòng hai bên. Lục quần Tỳ-kheo cùng nhau bàn luận: Thập thất quần Tỳ-kheo biết hổ thẹn cẩn thận sợ tội lỗi, họ ở bên ta, chắc thấy được tội lỗi của ta. Chúng ta nên tạo phương tiện để họ tách xa ta. Lục quần bèn đến nói: Phòng này trước đây bỏ không, có nhiều sự đáng sợ sệt, các ông không nên ở đấy. Thập thất quần nói: Chúng con đóng kỹ cửa thì đâu có sợ gì. Lục quần Tỳ-kheo, trong đêm tối làm nhiều hình tướng để khủng bố Thập thất quần. Sáng hôm sau, hỏi Thập thất quần: Đêm vừa rồi các ông ngủ ngon giấc không? Thập thất quần nói: Chúng con nghe tiếng đáng sợ sệt, đóng kỹ cửa tư duy nên đâu có sợ gì. Lục quần Tỳ-kheo lại cùng nhau bàn luận: Chúng ta không thể khủng bố chúng nó bằng kiểu đó, chúng ta sẽ chờ chúng nó ra ngoài, rồi lén vào phòng giấu mình bên dưới giường của chúng. Lục quần thực hiện ngay kế hoạch, lẫn trong đêm đen, kéo áo, kéo chân, khiêng giường của Thập thất quần để chỗ khác. Thập thất quần Tỳ-kheo hoảng hồn, lớn tiến kêu la. Các Tỳ-kheo Trưởng lão đến hỏi: Chuyện gì mà la lớn tiếng thế? Thập thất quần thưa: Nơi đây không có giặc cướp mà không biết ai kéo áo, kéo chân, khiêng giường chúng con để chỗ khác, các Tỳ-kheo Trưởng lão liền bưng đèn đến soi rọi, thấy Lục quần Tỳ-kheo đang ngồi xổm dưới giường, hỏi: Các thầy ngồi đâu làm gì? Lục quần nói: Chúng tôi ngồi đây để khủng bố. Các Tỳ-kheo trưởng lão bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào khủng bố Tỳ-kheo khác, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo hỏi Tỳ-kheo cựu trú: Trong phòng này có điều gì đáng sợ sệt không? Vị kia hoặc không dám nói, hoặc nói rồi sinh nghi, sợ phạm tội Ba-dật-đề, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo Các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo nào không cố ý khủng bố Tỳ-kheo khác mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào cố tâm khủng bố Tỳ-kheo khác, phạm Ba-dật-đề”. Ngoài ra như trong giới đánh Tỳ-kheo khác đã nói.
Xong giới thứ bảy mươi ba
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Tỳ-kheo Đạt-ma khởi ý nghĩ: Trước đây Bạt-nan-đà đoạt y của ta, do đó Đức Phật quở trách ta, rồi vì các Tỳ-kheo kiết giới. Nay ta nên đến trước Tăng nói thầy ấy phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nghĩ rồi, liền đến trước Tỳ-kheo Thượng tọa báo: Bạt-nan-đà cùng người nữ, hai thân đụng chạm nhau, nói lời thô ác, khen ngợi sự cung phụng xác thân. Các Tỳ-kheo hỏi: Tại sao thầy biết? Đạt-ma nói: Tôi cùng đi, thấy thầy ấy làm việc như vậy. Các Tỳ-kheo Trưởng lão quở trách nói: Tại sao thầy, lúc không giận nhau thì che giấu, lúc giận nhau lại báo, nêu ra? Quý vị quở trách rồi, đem bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Đạt-ma: Thật sự các ông có như vậy không? Đạt-ma thưa: Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Bằng mọi cách quở trách rồi, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào che giấu tội thô ác của Tỳ-kheo khác, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo không biết vị khác phạm tội thô ác, sau mới biết, bèn sinh nghi hỏi: Ta há không phạm Ba-dật-đề? Vị ấy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu không biết Tỳ-kheo khác phạm tội thô ác, mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào biết Tỳ-kheo khác phạm tội thô ác mà che giấu, qua một đêm, phạm Ba-dật-đề”. Nếu từ lúc vừa sáng cho đến lúc mặt trời chưa xuất hiện, mỗi giờ phạm Đột-kiết-la, mặt trời xuất hiện, phạm Ba-dật-đề. Sa-di phạm Đột-kiết-la. Nếu muốn nói mà không có người để nói, hoặc sợ nạn khởi lên nên che giấu thì không phạm.
Xong giới thứ bảy mươi bốn
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, Bạt-nanđà khởi ý nghĩ: Tỳ-kheo Đạt-ma hứa với ta cùng đi, đã lấy y của ta nhưng rồi không chịu đi, ta phải lấy lại y kia, bị Đức Thế Tôn quở trách, rồi vì các Tỳ-kheo kiết giới. Sau đó, Đạt-ma lại tố cáo tội lỗi của ta, nay Ta nên dùng Tăng-già-bà-thi-sa không căn cứ để hủy báng ông ta. Nghĩ như vậy rồi, Bạtnan-đà đến nói với các Tỳ-kheo Trưởng lão: Thật sự tôi có xúc chạm thân người nữ, có nói lời thô ác, có tự khen mình để đòi hỏi sự cúng dường xác thân, Tỳ-kheo Đạt-ma cũng như vậy. Các Tỳ-kheo hỏi: Tại sao thầy biết? Bạt-nan-đà nói: Tôi cùng đi cho nên thấy rõ. Các Tỳ-kheo quở trách, nói: Tại sao thầy dùng Tăng-già-bà-thi-sa không căn cứ để hủy báng Tỳ-kheo khác? Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, dùng Tăng-già-bà-thi-sa không căn cứ để hủy báng Tỳ-kheo khác, phạm Ba-dật-đề”. Hủy báng Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni hủy báng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Hủy báng Thức-xoama-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Thứcxoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni hủy báng năm chúng, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ bảy mươi lăm --
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Bạt-nanđà khởi ý nghĩ: Tỳ-kheo Đạt-ma hứa với ta cùng đi… cho đến câu: Lại tố cáo tội của ta (như trên). Ta dùng Tăng-già-bà-thi-sa không căn cứ để hủy báng, cũng không gây tổn hại, nay Ta lại dùng cách khác để trị mới được. Bạt-nan-đà bèn đến chỗ Đạt-ma nói: Ông là đệ tử của tôi. Tôi là thầy của ông. Trước đây ông và tôi gây xích mích lẫn nhau, nay chúng ta nên huề, đừng hiềm khích nhau nữa, sống lại nếp sống như trước kia, cùng nhau đến các già đình, nhận nhiều thức ăn ngon bổ. Đạt-ma liền hòa giải, theo thầy cùng đi. Bạtnan-đà liền dẫn đến nơi không có thức ăn, nếu có ai đến mời thì nháy mắt ra hiệu bảo họ đi đi. Bạtnan-đà tính toán thế nào, Đạt-ma về lại chùa là trễ giờ ăn. Vì thế, Đạt-ma nhận lệnh của thầy như sau: Nay chỗ này không có thức ăn, ông nên về chùa. Đạt-ma vừa đi, Bạt-nan-đà đến gia đình đã mời, ăn nhiều thức ăn ngon bổ. Đạt-ma về đến chùa thì đã quá ngọ. Bạt-nan-đà ăn xong, về chùa hỏi Đạt-ma: Ông về có kịp giờ ăn không? Đạt-ma đáp: Không. Bạt-nan-đà an ủi nói: Nay ông mất một bữa ăn, ngày mai ta sẽ cho ông một bữa ăn ngon bổ gấp bội. Sáng mai, Bạt-nan-đà lại cũng đến như trước, cho đến Ba lần như vậy, rồi nói với Đạt-ma: Thời gian gần đây, tôi dẫn ông đến những chỗ đó, đều là những nơi thường nhận được thức ăn ngon bổ, nhưng không nhận được, sợ e ông bị “Kẻ bề trên” quở trách, hay thiên thần giận, hoặc là do tội nghiệp của ông nên mới đưa đến tình trạng như thế, ông đừng oán tôi. Ông có thể mau trở về chùa để kịp giờ ăn. Đạt-ma vội trở về chùa, vẫn không kịp giờ ăn. Bị đói mấy ngày liền nên Đạt-ma lả người không thể đứng dậy được, vì quá suy yếu. Bạt-nan-đà ăn xong quay về rồi lại đến hỏi: Ông có về kịp ăn không? Đạt-ma nói: Không kịp. Bạt-nan-đà bèn nói: Ông đã dối gạt thầy, nên phải bị trị phạt như vậy. Sau này nếu ông còn có thói đó sẽ bị trị nặng hơn. Khi ấy, Đạt-ma mới biết là mình bị thầy dối, tức giận la lớn: Tại sao Tỳ-kheo lại làm việc lừa dối khiến cho tôi ba ngày nhịn đói gần chết? Các Tỳ-kheo Trưởng lão hỏi: Tại sao thầy la om sòm thế? Đạtma nói: Bạt-nan-đà ba ngày gây não hại tôi, khiến tôi bị đói. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật con có như vậy. Bằng mọi cách, Đức Phật quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nói với Tỳ-kheo khác: Cùng tôi đến các gia đình kia, tôi sẽ cho thầy nhiều thức ăn ngon bổ, nhưng rồi không cho mà bảo trở về, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo dẫn các Tỳ-kheo đến nhiều gia đình mà không nhận được thức ăn nào, sinh tâm xấu hổ, lại có suy nghĩ: Phải chăng là đã phạm Ba-dật-đề? Do đó, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu Tỳ-kheo không vì gây não hại người khác, không nhận được thức ăn, phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nói với Tỳ-kheo khác: Cùng tôi đến các gia đình kia, tôi sẽ cho thầy thức ăn ngon bổ, vì cố ý gây xúc não, nên không cho, lại khiến đi về, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo dẫn Tỳ-kheo nuôi bệnh đến các gia đình, vì Tỳ-kheo bệnh để xin thức ăn, sợ người bệnh quá giờ ăn, khiến nên về mau, người kia đi rồi, bèn sinh ân hận: Ta cố ý bảo về, phải chăng là đã phạm Ba-dật-đề? Do đó, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo nào không vì để được ăn một mình nên khiến Tỳ-kheo khác về, mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nói với Tỳ-kheo kia: Cùng tôi đi đến các gia đình kia, tôi sẽ cho thầy nhiều thức ăn ngon bổ. Khi đến rồi, không cho, lại nói như vầy: Ông đi đi, ông cùng tôi hoặc ngồi hoặc nói không vui, tôi ngồi một mình, nói một mình vui hơn, vì muốn gây não hại người kia, phạm Ba-dật-đề”. Nếu Tỳ-kheo gây xúc não Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, cho đến súc sinh theo kiểu này, phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni gây xúc não Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni theo kiểu này, phạm Ba-dật-đề; gây não Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, cho đến súc sinh theo kiểu này, phạm Đột-kiết-la. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni gây xúc não năm chúng theo kiểu này, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ bảy mươi sáu
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, có số đông Tỳ-kheo cùng bạn đi đến nước Câu-tát-la, trên đường gặp giặc đoạt hết y bát. Sau đó, đi đến một trạm canh, người lính canh hỏi: Các Đại đức gặp giặc ở chỗ nào? Các Tỳ-kheo trả lời: Gặp giặc ở chỗ đó. Những người lính canh cùng nhau bàn luận: Nếu nhà Vua nghe các Tỳ-kheo bị đoạt y bát trong phạm vi trách nhiệm của ta, chắc chắn ta sẽ bị tội. Lính gác liền nói với Tỳ-kheo: Đại đức nán ở lại đây, chúng tôi sẽ truy tầm đám giặc lấy lại y bát. Lính liền truy tầm và bắt được, thu lại toàn bộ những gì chúng đã đoạt, để chung lại một đống. Những người lính bàn nói: Nên trả lại cho ai trước? Có ý kiến: Nên trả lại cho các Tỳ-kheo trước. Nhà Vua tin ưa Phật pháp nghe được chắc chắn hài lòng. Với ý kiến đó họ liền nói với Tỳ-kheo: Các thầy đến lấy y bát của mình đi! Các Tỳ-kheo phân vân trước đống y, có vị nói là y của tôi, có vị nói là không phải y của tôi, cho nên không dám lấy. Những người lính hỏi: Tại sao không lấy? Các Tỳ-kheo nói: Tôi không nhớ rõ y của tôi nên không dám lấy. Các người lính nói: Cố nhớ lại mà nhận lấy mau. Ngay khi ấy, các ngoại đạo bèn lấy y tốt của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo lấy sau nên phải lấy y xấu của ngoại đạo còn bỏ lại. Các người lính biết Sa-môn Thích tử đều mặc y tốt, mà nay lại nhận được y xấu của ngoại đạo, nên nói: Các thầy Sa-môn có gì đặc biệt đâu? Hình tướng cái y của mình còn không biết thì làm sao biết tâm của mình? Nếu các thầy biết hình tướng y của mình thì ngoại đạo đâu có lý do gì lấy được y tốt của các thầy. Các thầy Tỳ-kheo khi về đến chỗ Phật đem vấn đề này bạch lên Ngài. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo, hỏi: Thật sự các ông không biết hình tướng chiếc y của mình phải không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật là như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách xong, bảo các Tỳ-kheo. Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau:
“Tỳ-kheo nào nhận được y mới, nên dùng ba loại màu sắc để làm dấu, hoặc màu xanh, màu đen hay màu mộc lan. Nếu không dùng ba màu đó để làm dấu, phạm Ba-dật-đề”. Nếu không làm dấu mà đắp mặc thì mỗi lần mặc phạm một Ba-dật-đề. Nếu không mặc, mỗi đêm phạm một Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-mana, Sa-di, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu y mới nhận được đã làm dấu rồi, thì không làm, không phạm.
Xong giới thứ bảy mươi bảy
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Thập thất quần Tỳ-kheo bỏ y bát lung tung, không thu dọn, Lục quần Tỳ-kheo lấy giấu. Khi Thập thất quần Tỳ-kheo biết mất, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Y bát của con hình tướng như vậy, như vậy, con để chỗ này, con để chỗ kia, ai lấy đem đi đâu? Lục quần Tỳ-kheo nói: Chỗ này kẻ tới người lui, biết ai lấy mà hỏi? Thập thất quần lại hỏi: Người vừa rồi đến đây, họ đi hướng nào? Đáp: Họ đi bốn phương biết đâu mà nói… Nghe thế, Thập thất quần Tỳ-kheo tỏa ra bốn hướng đuổi kịp người mới đến rồi về, liền hỏi: Tôi mất y bát, tọa cụ, ống đựng kim, các người nên trả lại cho tôi. Những người ấy nói: Thưa Đại đức! Tôi đến vì chánh pháp chứ đâu đến để ăn trộm! Thập thất quần Tỳ-kheo bị câu nói hóc búa ấy, xấu hổ liền trở về. Lục quần Tỳ-kheo hỏi: Các ông có tìm gặp được họ không? Đáp: Có gặp. Lại hỏi: Có nhận lại được y bát không? Đáp: Không nhận được.
Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo đem y bát ra và nói: Y bát đây có phải của các ông không? Thưa phải. Các Tỳ-kheo Trưởng lão thấy, bằng mọi cách quở trách Lục quần, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tự mình giấu vật của Tỳ-kheo khác, hoặc y, hoặc bát, tọa cụ, ống đựng kim, tất cả dụng cụ trong đời sống, hoặc sai người khác giấu, phạm Ba-dật-đề”.
Trường hợp có Tỳ-kheo không thu cất y bát, đồ vật của mình, các Tỳ-kheo khác thấy mà không dám thu cất, bỏ đi nên bị mất, do đó bị nghi, mang tiếng xấu, bèn khởi ý nghĩ: Phải chi Đức Phật cho phép chúng ta vì người kia thu cất đồ vật thì vị kia không bị mất y bát, mà ta không bị mang tiếng xấu. Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu không cố ý giấu, vì các người khác cất giùm mà phạm Ba-dật-đề là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau: Tỳ-kheo nào vì có ý đùa giỡn, giấu y bát, tọa cụ, ống đựng kim của Tỳ-kheo khác, nói chung là tất cả dụng cụ sinh sống của Tỳ-kheo khác, hoặc sai người giấu, phạm Ba-dật-đề. Nếu giấu vật dụng của Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sadi-ni, cho đến của súc sinh đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni giấu vật của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề, giấu vật của người khác, phạm Đột-kiết-la. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-dini, giấu vật của năm chúng, phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ bảy mươi tám
---------------------
Đức Thế Tôn ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, Lục quần Tỳ-kheo có thế lực, các Tỳ-kheo thiện không có thế lực. Lục quần Tỳ-kheo ngăn các Tỳ-kheo thiện Yết-ma… cho đến câu: “Đức Phật bằng mọi cách quở trách” như trong giới “Như pháp đoán sự” trước kia đã nói. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào khi Tăng đoán sự như pháp gởi dục rồi, sau lại chê trách, phạm Ba-dật-đề”. Sau lại chê trách, tức là nói: Tôi vốn không gởi dục như vậy. Trường hợp Tăng không làm Yết-ma đoán sự, mà sau lại chê trách thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Độtkiết-la.
Xong giới thứ bảy mươi chín
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo cần thứ y nào thì chúng Tăng đã cung cấp, sau đó lại được nhận thêm đã đủ ba y, cùng nhau bàn nói: Y này nên cúng cho ai? Có vị nói: Trước hết nên cúng cho Đức Thế Tôn. Có vị lại nói: Nên cúng cho Tôn giả Đại Ca-diếp. Tôn giả Đại Ca-diếp thường được Đức Thế Tôn khen ngợi, lại nữa là bậc Thượng tọa của chúng ta. Lục quần Tỳ-kheo lại nói: Trước hết nên cúng cho Cù Già Lê. Các Tỳ-kheo đem vấn đề ấy bạch Phật. Đức Phật hỏi các Tỳ-kheo: Tôn giả Ca-diếp có mong cầu được nhiều y hay không? Đáp: Tôn giả Ca-diếp không cầu, có cho mới nhận. Nhân đó Đức Phật nói kệ:
Y này, y không dục
Không cho người có dục
Người không điều phục ý
Không nên mặc cà sa.
Người đã lìa tham dục
Thường nhất tâm nơi giới
Người điều tâm như vậy
Mới nên mặc y này.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo, nên đem y này cúng cho Tôn giả Ca-diếp. Quý vị liền vâng lời. Lục quần Tỳ-kheo lại nói: Các Tỳ-kheo đem vật của Tăng cho người mình quen biết. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Đức Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Họ nhận là có thật như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nói: Các Tỳ-kheo đem vật của Tăng cho người quen thân của mình, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sadi, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Xong giới thứ tám mươi
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc này, Tỳ-kheo Đạt-ma khởi ý niệm: Bạt-nan-đà trước đây đoạt y của ta, Đức Phật quở trách ta, rồi vì các Tỳ-kheo kiết giới. Ta nói ông ấy phạm Tăng-già-bà-thi-sa, ông ấy lại dùng Tăng-già-bà-thi-sa không căn cứ hủy báng ta và dứt phần ăn của ta cho đến ba ngày. Ta nên bằng cách nào để trả mối hận ấy. Đạt-ma nghĩ: Ông ấy vừa đối với ta tác tịnh thí y, ta không hoàn lại cái y ấy là đủ để trả mối nhục kia. Nghĩ như vậy, nên không hoàn chiếc y lại. Bạt-nan-đà, sau đó đến đòi lại y. Đạt-ma nói: Trước đây thầy bố thí rồi, sao nay đòi lại?! Bạtnan-đà nói: Ta tác tịnh thí, chứ ta đâu bố thí! Dù vậy Đạt-ma vẫn không hoàn lại. Bạt-nan-đà bèn cưỡng bức đoạt lại. Đạt-ma bèn la lớn. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, đều đến hỏi: Chuyện gì la to thế? Đạt-ma trả lời: Bạt-nan-đà đoạt lấy y của tôi. Các Tỳ-kheo trưởng lão quở trách Bạt-nanđà: Tại sao tịnh thí cho người không đáng tin cậy, để rồi phải đoạt lại? Các Trưởng lão quở trách Đạt-ma: Người ta tịnh thí y, tại sao ông không hoàn lại? Các Trưởng lão bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạtnan-đà: Ông là người ngu si, thật sự ông có tịnh thí y cho người không đáng tin cậy hay không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật lại hỏi Đạt-ma: Ông là người ngu si, thật sự người ta tịnh thí y cho ông rồi, ông không hoàn trả lại phải không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Không nên tịnh thí cho năm hạng người sau đây:
Một là hạng người không quen biết.
Hai là hạng người kém hiểu biết.
Ba-là hạng người không gần gũi.
Bốn là hạng người không phải thân hữu hay đồng sư.
Năm là loại người hay thay đổi.
Không phải năm hạng người này thì nên tịnh thí. Lại có hai pháp không nên tịnh thí:
Một là không thể khen ngợi người.
Hai là không thể làm cho người có tiếng tốt.
Lại có hai pháp không nên tịnh thí:
Một là hạng người không thể vì người, nhận lấy trọng vật tịnh thí rồi giữ lấy như của mình.
Hai là hạng người có trọng vật không thể tịnh thí để cho ai sử dụng và không hề ân hận.
Lại có hai pháp không nên tịnh thí:
Một là hạng người không biết họ còn sống hay không.
Hai là hạng người không biết họ còn tu hay không.
Từ ấy, các Tỳ-kheo lại có suy nghĩ: Đức Phật cho chúng ta tịnh thí, vậy nên tịnh thí cho cha mẹ, anh em, chị em. Việc này lại bạch Phật, Đức Phật dạy: Không nên tịnh thí cho bạch y, nên tịnh thí cho năm chúng. Có các Tỳ-kheo ở riêng một mình trong phòng, có y dư không biết tịnh thí bằng cách nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên hướng đến người ở cách xa mà tịnh thí. Nếu đối với ba y, cần đổi y nào thì nên để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, quỳ gối, tay cầm y, tâm nghĩ, miệng nói: Y này là của tôi, gồm có bao nhiêu điều, nay tôi xin xả. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy. Sau đó, mới nhận y dư, cũng như pháp trước, tâm nghĩ, miệng nói: Tôi có y này, gồm bao nhiêu điều, nay tôi xin thọ. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy. Chiếc y được xả, cũng nên tịnh thí, theo như pháp trước: Tâm nghĩ miệng nói: Đây là chiếc y dư của tôi, xin tịnh thí cho thầy… Rồi từ nơi thầy kia mà lấy dùng. Nếu không cần thay đổi người nhận, thì chiếc y dư kia nên tịnh ví như vậy. Pháp tịnh thí riêng, đến ngày thứ mười một, cần phải như pháp trước, tâm nghĩ, miệng nói: Đây là chiếc y dư của tôi, lấy lại từ nơi thầy… Sau đó, lại như pháp trước thọ trì tịnh thí. Nếu đối với người tịnh thí, nên như pháp trước làm pháp lần lượt tịnh thí: Tay cầm y, miệng nói: Đây là chiếc y dư của tôi, xin đối với Trưởng lão làm pháp tịnh thí. Vị Trưởng lão nên hỏi: Y này của trưởng lão, tác tịnh thí đối với tôi, tôi nên đem cho vị nào? Vị tác tịnh thí trả lời: Trong năm chúng, tùy ý cho ai cũng được. Tỳ-kheo Trưởng lão thọ tịnh thí nên nói liền: Nay tôi cho thầy… Nếu Trưởng lão cần cứ đến vị ấy lấy dùng, và nên bảo vệ nó cho tốt. Sau đó vị Tỳ-kheo thọ pháp tác tịnh thí kia đem việc này nói với vị Tỳ-kheo được xưng tên để cho trước kia. Tỳ-kheo được xưng tên kia sợ phạm tội trưởng y nên không dám thọ, không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Không nên nói với Tỳ-kheo được xưng tên. Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tịnh thí y cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-a, Sa-di, Sa-di-ni rồi đoạt lấy lại, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Nếu cho y vị kia, sau đó xin lại, vị kia cho, mình nhận thì không phạm.
Xong giới thứ tám mươi mốt
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, Bạtnan-đà thường thọ sự cúng dường của một gia đình, sau đó, gia đình kia thỉnh Tăng. Ngày nọ, Bạt-nan-đà, sáng sớm mặc y mang bát vào thành, rảo khắp các gia đình để chuyện vãn… Đến giờ, chúng Tăng được cung thỉnh, các Tỳ-kheo mặc y bưng bát đến nơi nhà kia, và cả chúng phải ngồi chờ lâu. Các vị nói với người chủ: Giờ ngọ đã gần qua, tại sao không mời Tăng thọ thực. Người chủ nói: Tôi vì Bạt-nan-đà nên thỉnh Tăng, vậy phải chờ vị ấy đến đã. Khi Bạt-nan-đà đến thì đã gần quá ngọ. Các Tỳ-kheo có vị ăn được, có vị ăn được ít, có vị không ăn. Do đó người chủ chê trách Bạt-nan-đà: Sa-môn Thích tử có chuyện gì gấp đâu, tại sao đã nhận lời mời của tôi, lại đi đến các nhà khác, gần quá ngọ mới tới, khiến các Tỳ-kheo không ăn kịp những thức ăn do tôi cúng dường. Các thức ăn chúng tôi làm nhiều nay thành ra vô dụng. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách Bạt-nan-đà: Thầy không đem lại sự lợi ích cho Phật pháp nên mới gây khổ não cho chúng Tăng như vậy. Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật con có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận lời mời của người, trước bữa ăn đến nhà khác, phạm Ba-dật-đề”.
Sau đó, người thí chủ của Bạt-nan-đà tự gánh thức ăn nấu rồi đến Tăng phường để cúng dường Tăng và Bạt-nan-đà. Bạt-nan-đà ăn xong trước, lại đến nhà khác. Do Bạt-nan-đà không có mặt nên gia chủ không dọn thức ăn, mặc dù chúng Tăng ngồi đã lâu. Các Tỳ-kheo nói: Giờ ngọ gần qua sao không dọn mời Tăng? Gia chủ nói: Tôi vốn vì Bạt-nan-đà, chờ thầy ấy đến sẽ dọn. Bạt-nan-đà cuối cùng không trở lại nên thức ăn ấy không được dọn. Gia chủ đã nhiều lời trách cứ Bạt-nan-đà, các Tỳ-kheo cũng chê trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật con có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận lời mời của người, trước bữa ăn, sau bữa ăn, đến nhà khác, phạm Ba-dật-đề”.
Các Tỳ-kheo, có việc của Tăng, việc của tháp, việc riêng cần đến nhà khác mà không dám đi, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo báo với các Tỳ-kheo khác trước khi đi. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận lời mời, trước bữa ăn, sau bữa ăn, đến nhà khác, không báo với Tỳ-kheo khác, phạm Ba-dật-đề”.
Hoặc có các Tỳ-kheo hiềm nghi không nói chuyện với nhau, hoặc ngồi thiền hay ngủ mê, không biết báo cáo với ai khi ra ngoài cửa ngõ, thấy các Tỳ-kheo bèn chạy đuổi theo, từ xa kêu lớn để báo. Các Cư sĩ thấy, chê trách nói: Các Tỳ-kheo chạy như nai, như thỏ, kêu la như chim cú trọc đầu, thật không có hạnh của Sa-môn, phá pháp của Sa-môn. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Bằng mọi cách quở trách rồi, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Không nên từ xa mà báo. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận lời mời của người, trước bữa ăn, sau bữa ăn đi đến nhà khác, không đứng gần để báo với các Tỳ-kheo khác, phạm Ba-dật-đề”.
Các Tỳ-kheo lại có suy nghĩ: Thời gian của y có nên bạch hay không? Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Trừ thời gian của y. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào nhận lời mời của người, trước bữa ăn, sau bữa ăn đi đến nhà khác, không đứng gần để báo với các Tỳ-kheo khác, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”. Nhân duyên là: Thời gian của y gọi là nhân duyên. Nếu báo đến nhà A mà đến nhà B, thì không gọi là báo. Nếu không báo mà đến các gia đình, một chân vào trong cửa, phạm Đột-kiết-la, hai chân vào trong cửa, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la. Nếu báo đến một nhà, nhân đó đến một nhà khác thì không phạm. Nếu không có Tỳ-kheo để có thể báo cũng không phạm.
Xong giới thứ tám mươi hai
---------------------
Đức Phật du hóa tại nước Câu-tát-la cùng đầy đủ chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi người. Các Tỳ-kheo, có người nhận được phòng để ngủ, có vị ngủ ở gốc cây, có vị nằm nơi đất trống. Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo vừa sáng sớm đã mặc y bưng bát, nơi đường hẻm, cùng các bạch y nói chuyện về thế sự, cho đến xẩm tối. Người đi đường thấy, dị nghị nói: Chỗ này không phải là chỗ của người xuất gia nói chuyện, tại sao không ở nơi A-lan-nhã giữ gìn các căn, hoặc có người nói: Những vị này không ưa Phật pháp, không kính giới luật, được nơi nói chuyện vui đùa là quên cả thời gian. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào vào xóm làng phi thời phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo, có duyên sự, cần vào xóm làng lúc phi thời, mà không dám vào, bạch Phật: Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép có duyên sự được vào xóm làng lúc phi thời. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, phi thời vào xóm làng, không đến gần để báo với Tỳ-kheo thiện, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”. Nhân duyên là khi có nạn. Sa-di phạm Đột-kiết-la. Nếu trên đường đi, trải qua xóm làng, hoặc chiều tối cần phải nghỉ đêm, hay là có tám nạn khởi, đều không phạm.
Xong giới thứ tám mươi ba
---------------------
Đức Phật ở thành Vương-xá. Bấy giờ, cách thành không xa có một cái miễu thờ thần cây, nhiều người phụng thờ khi tiết hội, đến bảy ngày mới xong, các loại hoa dùng để dâng tiến lễ, họ vất lại đó. Sau đấy các Tỳ-kheo lấy đem về độn vào giường dây, giường cây và làm gối làm nệm. Các bạch y thấy, chê trách nói: Những vật này hôi hám, thường sinh các loài trùng, tại sao các Tỳ-kheo lại ngồi nằm trên đó, thật không có hạnh của Sa-môn, phá pháp Sa- môn! Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách xong, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào dùng các loại hoa độn vào dụng cụ ngồi nằm, phạm Ba-dật-đề”.
Các loại hoa là chỉ cho hoa Liễu, hoa Bạch dương, hoa Bồ lê, Hỏa-diệm bà. Khi khởi tâm và chuẩn bị độn đều phạm Đột-kiết-la, làm thành phạm Ba-dật-đề. Nếu không phá bỏ đi và nếu ngồi thì mỗi một khi ngồi phạm Ba-dật-đề. Nếu nằm mỗi một khi nằm phạm Ba-dật-đề. Người khác cho mà nhận phạm Ba-dật-đề. Chủ yếu là trước hết phải xả bỏ, rồi mới sám hối. Không làm như thế mắc tội càng nặng. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Độtkiết-la.
Xong giới thứ tám mươi bốn
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, các Tỳ-kheo sử dụng loại giường cao chân, các Tỳ-kheo già bệnh, khi leo lên leo xuống, té xuống đất bị thương, hoặc bị lộ hình, các Cư sĩ thấy, chê trách nói: Các Tỳ-kheo này như nhà Vua, như các nhà quý phái, hào tộc, không biết tiết kiệm. Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc cúng chiếc giường nằm của mình cho Tỳ-kheo Bạt-nan-đà. Bạt-nan-đà nhận được chiếc giường rồi đem trưng bày trong phòng của mình. Thường pháp của Đức Thế Tôn là cứ mỗi năm ngày đến xem xét phòng của các Tỳ-kheo một lần. Bạt-nan-đà khoe với Phật: Chiếc giường của con đặt nơi đây. Đức Phật liền quở trách: Ông là kẻ ngu si, tại sao an tâm ở trong nhà hầm nguy hiểm của sinh tử, không có ý mong cầu ra khỏi?! Ông không nên sử dụng chiếc giường cao sang, trang sức bằng gấm vóc thế này. Nếu trái phạm thì phạm tội Đột-kiết-la. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào tự mình làm tọa cụ, giường dây, giường cây, chân giường chỉ nên cao bằng tám ngón tay của đức Thiện Thệ, trừ khúc vào lỗ mộng, nếu quá, phạm Ba-dật-đề”.
Nếu giường ấy, tự mình làm hay sai người khác làm, cao hơn mức quy định cũng đều phải cắt bỏ, rồi mới sám hối tội phạm. Nếu nhận được giường của người ta cho, cao quá mức, thì khi nhận phải nhớ nghĩ ngay là giường này không như pháp, ta sẽ cắt bỏ. Nếu không khởi ý niệm như vậy mà nhận, phạm Ba-dật-đề. Nên cắt bỏ, rồi sau mới sám hối. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Độtkiết-la.
Xong giới thứ tám mươi lăm
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, các Tỳ-kheo dùng xương, răng, sừng làm ống đựng kim. Các vị đi tìm kiếm khắp nơi, kể cả đi bới lượm nơi đống rác. Các Cư sĩ thấy, chê trách nói: Các Sa-môn này giống như chó, như chim, như thợ tiện sừng, nhơ nhớp đáng gớm. Các Tỳ-kheo đến nơi lò sát sinh, chờ khi họ giết bò trâu để xin. Các tên đồ tể hiềm khích nói xỉa: Xem ra các Samôn này chỉ muốn giết nhiều, thấy giết nhiều thì thích. Đám này ngày đêm thường rao giảng nói từ bi hộ niệm đối với chúng sinh, mà nay không hề có tâm trắc ẩn, nhân từ. Bấy giờ, có một người thợ tiện xương, tin ưa Phật pháp, thường cung cấp các dụng cụ ấy cho các Tỳ-kheo, hoặc tự lấy xương sừng của mình cất giữ để làm hoặc tìm kiếm xương sừng để làm. Sự việc ấy, đưa đến tình trạng người thợ không có thì giờ rảnh để làm cho người khác. Người trong nhà nói với nhau: Nếu cứ mãi làm không công cho các Sa-môn thế này thì chúng ta mỗi người tự lo lấy sự sống. Người láng giềng bàn luận: Ông tin kính Sa-môn nên mới khốn cùng như thế. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào dùng xương, răng, sừng làm ống đựng kim, phạm Ba-dật-đề”. Nếu Tỳ-kheo dấy tâm và tạo phương tiện muốn làm, phạm Đột-kiết-la, làm thành rồi phạm Ba-dật-đề. Tất cả đều nên phá hủy trước rồi sau mới sám hối tội đọa. Làm ống để nhỏ thuốc lỗ mũi thì không phạm. Ngoài ra như trong giới làm giường nằm đã nói.
Xong giới thứ tám mươi sáu
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo không trải tọa cụ mà ngồi trên giường của Tăng nên nệm bị nhớp. Lại có một Tỳ-kheo bị són mà tưởng là chỉ có gió ra. Khi biết được đem giặt, phơi trước phòng. Đức Thế Tôn thấy, hỏi Tôn giả A-nan: Cái nệm ấy của ai? Tôn giả A-nan trình bày đầy đủ vấn đề. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Không nên không trải tọa cụ mà ngồi trên giường nệm của Tăng, trái phạm thì phạm Đột-kiết-la. Nay cho phép các Tỳ-kheo, để bảo vệ thân, bảo vệ y, bảo vệ giường nệm của Tăng, được dùng tọa cụ. Các Tỳ-kheo lại có suy nghĩ: Đức Phật đã cho phép chúng ta dùng tọa cụ. Do thế quý vị lại làm rộng lớn, nên thòng xuống đất bị nhớp, các Cư sĩ hỏi các Tỳ-kheo: Đây là y gì mà lòng thòng quét đất? Đáp: Đây là tọa cụ của chúng tôi. Họ dè bỉu nói: Thưa Đại đức! Sao không làm cân xứng với thân? Tuy không phải xuất tiền của mình nhưng phải biết tiết kiệm chứ. Thích tử thường nói: Ít muốn, biết vừa đủ, mà nay lại như thế này, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp của Sa-môn, Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào làm Ni-sư-đàn, nên làm cho đúng lượng, dài hai gang tay của Đức Thiện Thệ, rộng một gang rưỡi. Nếu làm quá lượng, phạm Ba-dật-đề”. Trưởng lão Ưu-đà-di thân hình lớn, tọa cụ nhỏ, ngồi còn dư ra hai đầu gối. Khi Đức Phật đến xét các phòng, Ưu-đà-di nắm kéo tọa cụ như kéo da trâu. Đức Phật hỏi: Tại sao làm vậy? Ưu-đà-di thưa: Bạch Đức Thế Tôn, thân hình con lớn mà cái tọa cụ nhỏ, nên con kéo ra cho rộng. Đức Phật quở trách nói: Ông là người ngu si, khi nào cũng đóng kịch. Nay Ta cho phép thêm hai đầu một gang tay nữa. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào làm Ni-sư-đàn phải làm đúng lượng, dài hai gang tay, rộng một gang tay rưỡi của Đức Thiện Thệ, rồi thêm vuông vức một gang. Nếu làm quá lượng định, phạm Ba-dật-đề”. Thêm vuông vức một gang tay: Rọc lấy ba phần nối đầu chiều dài, còn một phần điểm bốn góc, không điểm thì thôi. Trừ Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni. Ngoài ra như trong giới làm giường đã nói.
Xong giới thứ tám mươi bảy
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, Tỳ-kheo Tỳ-la-đồ thân hình bị sinh ghẻ, máu mủ chảy nhớp nhúa, mặc y phục, khi cởi ra, bị dính vào ghẻ đau. Đức Phật đi tuần hành các phòng thấy, hỏi Tỳ-kheo kia: Bệnh của ông có thuyên giảm không? Có đau nhức lắm không? Tỳ-kheo bệnh thưa: Bệnh của con không thuyên giảm, đau nhức quá sức! Mặc y phục, khi thay, ghẻ dính vào, lột cả da, đau nhức không thể tưởng tượng. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo, vì hộ thân, hộ y, hộ nệm ngồi của Tăng, được dùng y che ghẻ, dùng vải mỏng mịn để làm. Các Tỳ-kheo khởi ý nghĩ: Đức Phật cho phép chúng ta làm y che ghẻ, bèn làm dài, trùm cả trên đầu cho đến chân, kéo lê dưới đất nhớp y. Các Cư sĩ thấy, bèn chê trách (như trong giới ni-sư-đàn đã nói). Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào làm y che ghẻ, nên làm đúng lượng, dài bốn gang tay, rộng hai gang tay của Tu-già-đà (Thiện Thệ). Nếu làm quá lượng định, phạm Ba-dật-đề”. Y che ghẻ, mặc khi có ghẻ, ghẻ lành nên tịnh thí. Ngoài ra như trong giới tọa cụ đã nói.
Xong giới thứ tám mươi tám
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Lúc ấy, Đức Phật cho phép Tỳ-xá-khư-mẫu dâng cúng áo tắm mưa cho Tăng. Các Tỳ-kheo làm vừa rộng vừa dài, các Cư sĩ chê bai… cho đến các Tỳ-kheo bạch Phật, như giới trước đã nói. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào làm áo tắm mưa, nên làm cho đúng lượng, dài năm gang tay, rộng hai gang rưỡi tay của Tu-già-đà, nếu làm quá lượng định phạm Ba-dật-đề”. Ngoài ra như trong giới làm y che ghẻ đã nói.
Xong giới thứ tám mươi chín
---------------------
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, các Tỳ-kheo may y của mình bằng hay dài hơn y của Tugià-đà. Cư sĩ chê trách nói… cho đến câu: Các Tỳ-kheo bạch Phật, đều như giới trước đã nói. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào may y của mình bằng hay dài hơn của Tu-già-đà, phạm Ba-dật-đề”. Lượng của y mình bằng y của Tu-già-đà tức là chiều dài bằng chín gang tay, chiều rộng bằng sáu gang tay của Tu-già-đà. Như vậy gọi là lượng y của mình bằng y của Tu-già-đà. Nan-đà thấp hơn Đức Phật bốn ngón tay, không biết nên may theo y lượng nào, bạch Phật, Đức Phật dạy: Cho phép Nan-đà may y ngắn hơn y Phật hai ngón tay. Lại có các Tỳ-kheo thấp hơn, không biết may theo lượng nào, bạch Phật, Đức Phật dạy: Cho phép tùy theo thân hình người cao hay thấp để may y.
Ngoài ra, như trong giới y tắm mưa đã nói.
Xong giới thứ chín mươi
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, Nan-đà, Bạt-nan-đà cùng nhau bàn nói: Đức Thế Tôn đã dạy xoay vật của Tăng về cho mình, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Nay chúng ta nên xoay về cho nhau. Hai vị đều nói với đàn-việt, để rồi cùng nhau thủ lợi. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Nan-đà, Bạtnan-đà: Thật sự hai ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào biết vật đàn-việt muốn cúng cho Tăng mà xoay về cho người khác, phạm Ba-dật-đề”. Ngoài ra, như trong giới xoay vật của Tăng về cho mình đã nói.
Xong giới thứ chín mươi mốt
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Ưu-bàdi tên Hòa-già-la-mẫu, tin ưa Phật pháp, thường cúng dường Sa-môn, được người ca tụng. Về sau, với lòng tin ấy bà xuất gia, sống thiểu dục, tri túc song vẫn tạo nhiều sự cúng dường. Trên đường khất thực về, gặp một Tỳ-kheo bà hỏi: Thầy đi đâu đây? Tỳ-kheo đáp: Đi khất thực. Bà lại thưa: Có thể nhận thức ăn này của con không? Tỳ-kheo nói: Có thể. Bà liền dâng cúng, rồi lại vào một gia đình khất thực. Có hai Tỳ-kheo trao đổi với nhau: Tỳ-kheo-ni Hòa-già-la-mẫu có khả năng nhận được thức ăn, nên đến đó lấy. Các Tỳ-kheo nghe thế, đến đó đều nhận được. Tỳ-kheo-ni này nhận được thức ăn gì lại đều trao cúng cả, với ý nghĩ: Ta nhận được phần sau cùng sẽ đem về ăn, lần cuối nhận được thức ăn mang về lại gặp một Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni cũng thưa hỏi như trước, rồi cũng lại trao cúng. Tỳ-kheo-ni bát rỗng không ra về. Các Tỳ-kheo, sau khi ăn xong, tập hợp lại bàn thảo với nhau: Tỳ-kheo-ni kia may mắn có thể nhận được nhiều thức ăn, chúng ta phiền gì phải đi nhiều chỗ cầu xin, hằng ngày chúng ta chỉ cần kéo nhau đi theo cô ta là được. Thế là sáng ngày hôm sau, các Tỳ-kheo kia vào tìm cô ni để đi theo. Tỳ-kheo-ni kia nhận được thức ăn đều trao cúng hết, đành bưng bát không trở về. Đến cả ba ngày đều như vậy. Sáng hôm ấy, khi đi khất thực, vì muốn tránh chiếc xe ngựa chở Trưởng giả, Tỳ-kheo-ni kia lảo đảo té nhào xuống đất. Trước đó, Vua Ba-tư-nặc có ra lệnh: Trong nước, ai khinh mạn Sa-môn Thích tử sẽ bị trị tội nặng. Do đó, Trưởng giả kia hoảng hồn, liền xuống xe đỡ Tỳ-kheo-ni lên và xin lỗi: Tôi không đụng cô sao cô lại té như vậy?! Cô ni nói: Thật sự ông không đụng, nhưng vì tôi đói nên té. Vị Trưởng giả hỏi: Cô khất thực không được sao? Cô ni đáp: Thức ăn tôi khất thực được đều đem cúng hết cho Tỳ-kheo, nên đưa đến tình trạng xấu này. Ông Trưởng giả nói: Xin sư cô nhận thức ăn của tôi đây. Cô ni im lặng thuận nhận, rồi cũng đem dâng cúng cho các Tỳ-kheo.
Khi ông Trưởng giả xuống xe, dân chúng tụ hội lại rất đông, đều chê trách nói: Tuy Tỳ-kheo-ni này dâng cúng không biết nhàm chán, nhưng người thọ nhận phải biết suy nghĩ chứ. Các người ấy thường nói thiểu dục, tri túc mà nay tham lam nhận lấy thức ăn của người đồng đạo cúng dường, khiến họ phải bị khốn khổ thế này! Lời oán trách ấy đến tai các Tỳ-kheo Trưởng lão, bằng mọi cách vạch rõ sai lầm rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni này. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào đến chỗ Tỳ-kheo-ni nhận thức ăn thì Tỳ-kheo ấy nên hướng đến các Tỳ-kheo nói lên lời ăn năn: Tôi bị rơi vào pháp đáng quở trách, nay hướng đến các Đại đức nói lên lời ăn năn, như vậy gọi là pháp Hối quá”.
Các Tỳ-kheo có Tỳ-kheo-ni thân quyến có khả năng nhận được thức ăn, thấy các Tỳ-kheo khất thực khó khăn, nói: Đừng nên tự mình nhận lấy sự khốn khổ, hãy đến chỗ con nhận lấy thức ăn. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật không cho phép chúng tôi nhận lấy thức ăn nơi Tỳ-kheo-ni. Các Tỳ-kheo-ni nói: Quý thầy nên bạch Phật: Chỉ người thân thuộc biết thì nên cúng, biết rõ nên nhận. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo nhận thức ăn nơi các Tỳ-kheo-ni thân thuộc. Từ nay pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni này nên nói như sau: “Tỳ-kheo nào đến nơi Tỳ-kheo-ni chẳng phải thân quyến nhận thức ăn, Tỳ-kheo ấy nên hướng đến các Tỳ-kheo nói lên lời ăn năn: Tôi bị rơi vào pháp đáng quở trách, nay hướng đến các Đại đức nói lên lời ăn năn. Như vậy gọi là pháp Hối quá”. Lại có các Tỳ-kheo dìu Tỳ-kheo bệnh đi khất thực, nên bệnh nguy kịch thêm. Các Tỳ-kheo-ni nói: Đừng nên tự chuốc lấy sự khốn khổ, cứ đến chỗ con nhận thức ăn. Tỳ-kheo bệnh nói: Đức Phật không cho phép tôi nhận thức ăn từ Tỳ-kheo-ni không phải bà con. Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép Tỳ-kheo bệnh được nhận thức ăn nơi Tỳ-kheo-ni không phải bà con. Từ nay pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni được nói như sau: “Tỳ-kheo nào không bệnh, nhận thức ăn nơi Tỳ-kheo-ni không phải bà con, Tỳ-kheo ấy nên hướng đến các Tỳ-kheo nói lên lời ăn năn: Tôi bị rơi vào pháp đáng quở trách, nay hướng đến các Đại đức nói lên lời hối quá. Như vậy gọi là pháp Hối quá”.
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni hoặc ở nơi Tăng phường, hoặc ở tại trú xứ của mình, hoặc tại gia đình vì các Tỳ-kheo dọn bữa ăn trước, bữa ăn sau bằng bát đát na (bún) và cháo, lại chuẩn bị cả nước tắm, các thứ dầu, tô. Các Tỳ-kheo không biết làm thế nào, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép nhận thức ăn do Tỳ-kheo-ni cúng, nhưng không được nhận nơi ngả tư, đường hẻm. Từ nay pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào không bệnh, tại nơi đường hẻm, đối với Tỳ-kheo-ni không phải thân quyến, tự tay nhận lấy thức ăn, Tỳ-kheo này nên hướng đến các Tỳ-kheo nói lời ăn năn: Tôi bị rơi vào pháp đáng quở trách, nay hướng đến các Đại đức nói lên lời hối quá. Như vậy gọi là pháp Hối quá”.
Nếu Tỳ-kheo ở ngoài xóm làng, Tỳ-kheo-ni ở trong tu lạc nhận thức ăn, Tỳ-kheo ở trong xóm làng, Tỳ-kheo-ni ở ngoài xóm làng nhận thức ăn. Tỳ-kheo ở trên không, Tỳ-kheo-ni ở dưới đất nhận thức ăn, Tỳ-kheo ở dưới đất, Tỳ-kheo-ni ở trên không nhận thức ăn đều phạm Đột-kiết-la. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong pháp thứ nhất
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc ấy, có Cư sĩ thỉnh hai bộ Tăng thọ trai Lục quần Tỳ-kheo cùng Lục quần Tỳ-kheo-ni ngồi đối diện, thay nhau bảo người dọn ăn đem thêm thức ăn cho nhau, nên các Tỳ-kheo thiện không nhận được thức ăn, nói với người chủ: Nay người thỉnh Tăng sao không đem thêm thức ăn. Gia chủ nói: Tại các Tỳ-kheo này làm tôi rối ý, không biết vị nào nên thêm, vị nào nên không thêm. Người chủ bèn chê trách Lục quần Tỳ-kheo: Mấy ông bà này cùng khuyến khích nhau ăn giống như người đời dẫn vợ đi ăn cỗ nhà người, thật không có hạnh Samôn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, nhà bạch y mời thọ trai, trong khi ấy có Tỳ-kheo-ni nói như vầy: Đem cơm cho Tỳ-kheo này, đem canh cho Tỳ-kheo kia. Các Tỳ-kheo nên nói với Tỳ-kheo-ni ấy: Sư cô không nên làm như vậy, chờ các Tỳ-kheo dùng xong đã. Nếu trong số Tỳ-kheo đó, không có một Tỳ-kheo nào nói với Tỳ-kheo-ni ấy: Sư cô không nên làm như vậy, chờ các Tỳ-kheo dùng xong đã, thì các Tỳ-kheo nên hướng đến các Tỳ-kheo nói lời ăn năn: Tôi bị rơi vào pháp đáng quở trách, nay hướng đến các Đại đức hối quá. Như vậy gọi là pháp Hối quá”.
Bấy giờ, có năm trăm Tỳ-kheo thọ trai tại nhà vị Trưởng giả. Gia đình ấy thường cúng dường cho cô Tỳ-kheo-ni nên cô ni ấy đến. Các Tỳ-kheo đồng loạt nói: Sư cô lui lại một chút! Sư cô lui lại một chút! Tỳ-kheo-ni kia rất xấu hổ, bỏ về. Người chủ thấy vậy hỏi các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo-ni này có xúc phạm đến quý vị không? Tại sao quý thầy đồng loạt đuổi cô ta? Có người lại nói: Các Samôn này sợ Tỳ-kheo-ni đoạt phần ăn của mình nên mới đuổi như vậy. Đồng xuất gia với nhau, mà đố kỵ nhau làm điều không tốt như vậy huống chi là đối với người khác. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu khi Tỳ-kheo thọ trai, Tỳ-kheo-ni không làm theo sự giận, si, sợ mà bảo thêm thức ăn, cho đến đứng im lặng mà phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni là điều không thể có. Từ nay pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào, nhà bạch y mời thọ trai, có Tỳ-kheo-ni bảo người phục vụ: Thêm cơm cho Tỳ-kheo này, thêm canh cho Tỳ-kheo kia. Các Tỳ-kheo nên nói với các Tỳ-kheo-ni ấy: Sư cô chờ một chút, đợi các Tỳ-kheo dùng xong đã. Nếu trong chúng cho đến không có một người nói như thế, thì Tỳ-kheo như vậy nên hướng đến các Tỳ-kheo nói lên lời ăn năn: Tôi bị rơi vào pháp đáng quở trách, nay hướng đến các Đại đức nói lên lời ăn năn. Như vậy gọi là pháp Hối quá”. Nếu có Tỳ-kheo-ni bảo thêm thức ăn cho Tỳ-kheo thì vị Tỳ-kheo Thượng tọa thứ nhất nên nói. Nếu lời nói của vị Thượng tọa thứ nhất không tác dụng thì vị Thượng tọa thứ hai nên nói, như vậy lần lượt cho đến vị mới thọ giới. Nếu Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni bảo thêm thức ăn cho Tỳ-kheo mà Tỳ-kheo không nói: “lùi xuống một chút” thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo bảo thêm thức ăn cho Tỳ-kheo không công bằng, mà ăn thì phạm Đột-kiết-la. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong pháp thứ hai
---------------------
Đức Phật ở tại nước Câu-xá-di. Bấy giờ, Trưởng giả Cù-sư-la tin ưa Phật pháp, thấy pháp đắc quả, thường cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng. Sau một thời gian, gia đình Cù-sư-la bị kiệt quệ, bà con quen biết đều mang thức ăn đến cho. Các Tỳ-kheo vẫn đến nhà ông ta lấy thức ăn đầy bát mang đi. Người trong gia đình Cù-sư-la không chịu nổi sự đói khổ. Kẻ láng giềng thấy vậy đều chê trách: Người bố thí tuy không nhàm chán, nhưng kẻ thọ nhận phải biết tri túc chứ! Tại sao xâm phạm làm tổn hại đến gia đình người ta? Tài sản của họ khánh tận, chúng ta mang thức ăn đến cho họ, cớ sao vẫn còn tới cắt xén phần ăn của người ta! Không có tâm từ bi, miễn thỏa mãn việc ăn uống của mình, thật không có hạnh Samôn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Sự thật các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn, sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta cho phép các Tỳ-kheo vì Trưởng giả Cù-sư-la tác pháp học gia, bằng bạch nhị Yết-ma, không cho phép một Tỳ-kheo nào vào nhà ấy. Nên sai một Tỳ-kheo xướng: Đại đức Tăng xin lắng nghe, Trưởng giả Cù-sư-la này, các Tỳ-kheo tới lui nhà ông ta lấy các thức ăn đầy bát đem về, không lưu lại cho chủ, đến nỗi khiến gia đình ấy tài vật khánh tận. Nay tác pháp Yết-ma học gia, không cho phép bất cứ Tỳ-kheo nào vào nhà ấy. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe, Trưởng giả Cùsư-la này, các Tỳ-kheo tới lui nhà ông ta, lấy các thức ăn đầy bát đem về, không lưu lại cho chủ, đến nỗi khiến gia đình ấy tài vật khánh tận. Nay tác pháp Yết-ma học gia, không cho phép bất cứ Tỳ-kheo nào vào nhà ông ấy. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã đồng ý tác pháp Yết-ma Học gia cho Trưởng giả Cù-sư-la rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Khi ấy, các Tỳ-kheo lại tác pháp Yết-ma học gia các nhà khác, rồi bạch Phật. Đức Phật dạy: Không cho phép tác pháp Yết-ma học gia các nhà khác một cách bừa bãi. Nếu vợ là Thánh nhân, chồng là phàm phu, hay vợ là phàm phu, chồng là Thánh nhân đều không nên tác pháp Yết-ma học gia. Trường hợp cả vợ lẫn chồng đều là bậc Thánh không còn tâm bỏn xẻn, mà tài vật khánh tận mới được tác pháp Yết-ma học gia. Sau đó, tất cả các Tỳ-kheo đều không dám đến nhà Cù-sư-la, nên gia đình ấy không thấy mặt thầy nào. lúc này, Cù-sư-la đến trong Tăng phường thưa với các Tỳ-kheo: Con quy ngưỡng Tam Tôn chứ không mong cầu phước điền nào khác, xin Đại đức hoan hỷ tới lui nhà con. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật. Đức Phật cho phép đến. Các Tỳ-kheo đến mà không dám nhận thức ăn. Ông Trưởng giả thưa: Con quy ngưỡng Tam bảo, chứ không mong cầu phước điền nào khác, xin quý thầy nhận thức ăn nơi con. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật, Đức Phật dạy: Cho phép nhận một phần ba của bình bát. Đức Phật cho phép nhạn một phần ba của bình bát, các Tỳ-kheo lại kéo hết đến nhận, tài sản của gia đình lại kiệt quệ hơn trước. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni ấy. Từ nay giới này được nói như sau: “Có các Học gia, Tăng tác pháp Yết-ma Học gia. Nếu Tỳ-kheo nào nhận thức ăn nơi các Học gia đó nên hướng đến các Tỳ-kheo nói lời hối quá: Tôi rơi vào pháp đáng quở trách, nay hướng đến các Đại đức nói lời ăn năn. Như vậy gọi là pháp Hối quá”.
Trước khi tài vật của gia đình Cù-sư-la chưa khánh kiệt, Cù-sư-la có lập riêng một chỗ tịnh dưỡng, mời các Tỳ-kheo bệnh trong Tăng để cúng dường, lại có một chỗ để cúng dường thuốc cũng như vậy. Các Tỳ-kheo bệnh, sau đó xấu hổ không dám thọ nhận. Ông Trưởng giả thưa: Chủ ý của con là vì quý Tỳ-kheo bệnh ở trong Tăng nên làm ra chỗ tịnh dưỡng này, cũng như lập chỗ để cúng dường thuốc, nếu quý thầy không nhận thì con cũng không đem về. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Những phẩm vật này được thí chủ thiết lập khi gia đình chưa khánh tận, nay cho phép các Tỳ-kheo tùy ý thọ. Từ nay giới này được nói như sau: “Có các học gia, Tăng đã tác pháp Yết-ma học gia, Tỳ-kheo nào không bệnh, trước không nhận được lời thỉnh, đối với học gia này nhận thức ăn, thì Tỳ-kheo ấy nên hướng đến các Tỳ-kheo nói lên lời hối quá: Tôi rơi vào pháp đáng quở trách, nay hướng đến các Đại đức nói lời ăn năn. Như vậy gọi là pháp Hối quá”.
Lại có một Tỳ-kheo không bệnh nhận thức ăn từ Yết-ma học gia, nhận rồi sinh tâm nghi: Liệu ta có khỏi phạm tội Ba-la-đề-đề-xá-ni không? Vị ấy đem về cho lại các Tỳ-kheo khác. Các Tỳ-kheo khác ăn rồi hỏi: Tại sao thầy không ăn? Tôi không bệnh mà nhận thức ăn từ Yết-ma học gia, sợ phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni! Tỳ-kheo kia nói: Như điều thầy nghi, nay e tôi bị phạm. Vị ấy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu nhận thức ăn từ Yết-ma học gia, không ăn, cho người khác ăn, đều không phạm. Từ nay giới này được nói như sau: “Có các học gia, Tăng tác Yết-ma học gia, Tỳ-kheo nào không bệnh, trước không nhận lời mời, đối với các học gia ấy, tự tay nhận thức ăn, Tỳ-kheo đó nên hướng đến các Đại đức, nói lên lời hối quá: Tôi rơi vào pháp đáng quở trách, nay hướng đến các Đại đức nói lời ăn năn. Như vậy gọi là pháp Hối quá”. Nếu học gia tài sản của họ bị khánh tận, Tăng có ruộng vườn nên cho họ quản lý, để có thặng dư họ nhờ. Nếu không có ruộng vườn, khi Tăng có món cúng dường nào khác, khiến Học gia kia làm sứ giả để họ nhờ phẩm vật thừa. Nếu phương tiện này vẫn không có thì khi đi khất thực về, nên đến nhà họ ăn, để thức ăn dôi cho họ. Nếu không thể thực hiện được thì nên đem họ về Tăng phường cung cấp phòng nhà, tọa cụ, theo thứ tự cho họ thức ăn, nước uống phi thời cũng nên cho họ. Nếu có nhận được vải cũng nên chia phần cho họ. Các phụ nữ của nhà Học gia, các Tỳ-kheo-ni cũng nên lo liệu như vậy. Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Xong pháp thứ ba
---------------------
Đức Phật ở tại thành Ca-duy-la-vệ, vườn Nicâu-loại. Bấy giờ, có các bạch y mang thức ăn đến cúng cho các Tỳ-kheo sống nơi A-lan-nhã, bị giặc cướp lấy, các bạch y trách cứ: Tại sao các thầy không báo cho chúng tôi biết. Nếu biết chúng tôi sẽ mang gậy gộc theo để tự vệ, hay là chúng tôi không mang đến. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni này. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ở chốn A-lan-nhã, nghi có sự khủng bố, không tìm hiểu trước, nhận thức ăn trong Tăng phường, Tỳ-kheo ấy nên hướng đến các Tỳ-kheo nói lên lời hối quá: Tôi rơi vào pháp đáng quở trách, nay hướng đến các Đại đức nói lời ăn năn. Như vậy gọi là pháp Hối quá”.
Bấy giờ, có năm trăm người tôi tớ của dòng họ Thích làm phản, ẩn náu nơi rừng vắng. Các phụ nữ dòng họ Thích muốn đến thăm viếng và cúng dường chúng Tăng. Các tôi tớ kia nghe, cùng nhau bàn luận: Chúng ta sẽ chận giữa đường để đoạt lấy phẩm vật này. Các Tỳ-kheo nghe, bèn đến báo với các phụ nữ của dòng họ Thích: Trong khu rừng này có đám giặc muốn cướp đoạt, các người đừng đến! Do đó các phụ nữ hủy bỏ chuyến đi. Đám tôi tớ nghĩ: Các phụ nữ dòng họ Thích sở dĩ không đến là do các Tỳ-kheo bắn tin cho họ biết trước, bèn hỏi các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo không nói dối, nên trả lời đúng sự thật. Đám tôi tớ kia đánh các Tỳ-kheo gần chết rồi bỏ đó và cướp đoạt hết y bát. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật, Đức Phật dạy: Không nên nói có giặc mà chỉ nói đừng đến.
Có trường hợp các Tỳ-kheo không biết có người bên ngoài sắp đến. Điều này được bạch lên Phật. Phật dạy: Nên thường để ý nhìn thật xa bên ngoài, nếu thấy có người đến thì mau chóng báo. Có thức ăn thì nhận rồi bảo họ về liền. Từ nay pháp Ba-la-đề-đề-xá-ni này được nói như sau: “Tỳ-kheo nào ở nơi chốn A-lan-nhã, nghi có sự khủng bố, không để ý quan sát trước, tự tay nhận thức ăn trong Tăng phường, không ra ngoài để thọ, Tỳ-kheo ấy phải hướng đến các Tỳ-kheo nói lên lời hối quá: Tôi rơi vào pháp đáng quở trách, nay hướng đến các Đại đức nói lời ăn năn. Như vậy gọi là pháp Hối quá”. Có người bất ngờ đem thức ăn đến trong Tăng phường rồi, các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, đem việc này bạch Phật, Đức Phật dạy: Cho phép một người vì họ nhận liền, rồi truất lấy phần của mình, còn bao nhiêu chuyển cho chúng. Lấy phần của mình rồi, giao một người trong chúng chuyển thức ăn, và nhanh chóng khiến thí chủ đi về. Trường hợp không đi được, nên giấu họ, cơm nước cho họ đừng cho giặc thấy. Nếu không giấu được nên cho họ mặc áo ca sa, rồi khiến họ đi. Trường hợp không thực hiện được điều trên thì quyền biến cạo đầu, cho họ mặc áo ca sa để đi. Sa-di phạm Đột-kiết-la. Nếu quân đội đi ngang qua, cho họ thức ăn, hay giặc tự mang thức ăn đến cho họ thì không phạm.
Xong pháp thứ tư ------------
---------------------
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, các Tỳ-kheo mặc y hạ, hoặc cao quá, hoặc thấp quá, hoặc so le, hoặc như lá cây Đa-la, hoặc như lỗ mũi con voi, hoặc như viên nại (túm lại cho tròn vén trước bụng), hay xếp nhỏ, Cư sĩ thấy vậy dè bỉu nói: Các Sa-môn này mặc y hạ hoặc giống như phụ nữ, hoặc giống như kỹ nữ, lại lấy đó làm điều tốt, không có tác phong. Mặc y còn không biết huống nữa là đối với chân lý. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp cần phải học. Từ nay giới này được nói như sau: “Mặc y hạ không cao, không thấp, không so le, không như lá cây Đa-la, không như mũi con voi, không được túm lại cho tròn, không xếp nhỏ, cần phải học”.
Mặc cao: Nửa ống chân trở lên. Mặc thấp: Từ nửa ống chân trở xuống. Mặc so le: Là bốn góc không bằng nhau. Mặc như lá cây Đa-la: Là mặc trước cao sau thấp. Như mũi con voi: Là thòng một góc phía trước. Như viên nạn: Túm phía trước cho tròn, để vén trước bụng. Xếp nhỏ: Quấn chỗ eo lưng thành từng lằn nhỏ. Nếu không biết, không hỏi mà mặc, phạm Đột-kiết-la. Nếu hiểu rõ mà mặc thiếu cẩn thận cũng phạm Đột-kiết-la. Hiểu rõ mà khinh giới, khinh người nên mặc như thế, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni phạm Đột-kiếtla. Nếu khi có bệnh, hoặc bị trời mưa bùn nhớp thì không phạm.
Đức Phật ở tại thành Vương xá. Lúc ấy, các Tỳ-kheo không khéo che thân vào trong nhà bạch y, hoặc mặc như vậy ngồi trong nhà bạch y; hoặc lật ngược y lên vai bên trái vào trong nhà bạch y, hoặc mặc như vậy ngồi trong nhà bạch y; hoặc lật ngược y lên vai bên phải vào trong nhà bạch y, hoặc mặc như vậy ngồi trong nhà bạch y… hoặc lật ngược y lên cả hai vai vào nhà bạch y, hoặc mặc như vậy ngồi trong nhà bạch y; hoặc lắc lư thân, lắc lư đầu, hoặc lắc tay, hoặc nắm tay nhau, hoặc trùm kín cả người, hoặc chống nạnh, hoặc chống cằm, hoặc đánh đằng xa, vào trong nhà bạch y, hoặc với dáng điệu đó, ngồi trong nhà bạch y; hoặc ngó lên, hoặc ngó hai bên vào trong nhà bạch y, hoặc ngồi trong nhà bạch y với oai nghi này; hoặc đi nhón chân vào nhà bạch y, hoặc với oai nghi này ngồi trong nhà bạch y; hoặc đi giãn chân vào trong nhà bạch y, hoặc với oai nghi này ngồi trong nhà bạch y; hoặc trùm đầu đi vào nhà bạch y, hoặc với oai nghi này ngồi trong nhà bạch y; hoặc đùa giỡn vào nhà bạch y, hoặc với oai nghi này ngồi trong nhà bạch y, hoặc nói lớn tiếng vào nhà bạch y, hoặc với oai nghi này ngồi trong nhà bạch y; hoặc không chững chàng vào nhà bạch y, hoặc với oai nghi này ngồi trong nhà bạch y. Các Cư sĩ thấy và chê trách như trước. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp cần nên học. Từ nay giới này được nói như sau: “Khéo che thân vào nhà bạch y là điều cần nên học, cho nên đến câu: Chững chàng ngồi trong nhà bạch y, cần phải học”.
Đức Phật du hóa tại nước Bà-già, cùng đầy đủ năm trăm vị Đại Tỳ-kheo Tăng, đi đến núi Thủma-la, trú tại rừng Khủng-bố. Bấy giờ, có thái tử Bồ-đề Vương, vừa mới xây cất xong một giảng đường tại núi ấy, chưa có Sa-môn, Bà-la-môn nào vào ngồi trong đó. Thái tử nghe Đức Phật đến núi này trú tại rừng Khủng Bố, bảo Ma-nạp-tát-xà-tử Ngươi nhân danh ta đến thăm hỏi Đức Thế Tôn xem Ngài có được sức khỏe, ít buồn phiền, đi đứng có được nhẹ nhàng không và thưa: Ta đã lập được một giảng đường mới tại núi này, chưa có Sa-môn, Bà-la-môn nào vào ngồi trong đó, cúi xin Đức Thế Tôn cùng chúng Tăng, trước hết ghi nhận giảng đường này và tại đây ta xin được cúng dường một bữa cơm đạm bạc, khiến ta được an ổn lâu dài. Đức Phật dạy thế nào, ta sẽ phụng hành.
Ngươi đến bạch Phật như vậy rồi trở về gấp báo với ta. Ma-nạp vâng lời, sau khi đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên, trình bày đầy đủ ý kiến của thái tử. Đức Phật nhận lời bằng cách im lặng. Tát-Xà-Tử biết đã được Đức Phật nhận lời, bèn trở về bạch với thái tử. Suốt đêm ấy, thái tử chuẩn bị nhiều thức ăn ngon bổ, sáng ngày tự tay đưa đến giảng đường. Bên trong và bên ngoài giảng đường đều trải bằng vải nhiều màu sắc. Đến giờ, Thái tử tới thỉnh Phật quang lâm đến giảng đường. Đức Phật cùng năm trăm Tỳ-kheo kẻ trước người sau vây quanh đến đứng trên các từng cấp của đường đi. Thái tử để trống vai bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, chấp tay bạch Phật: Kính thỉnh Đức Thế Tôn bước lên giảng đường sơ sài này để con được thọ nhận sự an lạc lâu dài. Đức Phật vẫn không bước lên, cho đến lần thỉnh cuối cùng là lần thứ ba, khi ấy, Đức Phật quay lại ngó Tôn giả A-nan. Tôn giả hiểu được ý của Phật, nói với Thái tử, nên cuốn thảm vải nhiều màu này, Đức Phật không bước lên trên thảm, vì lòng thương đối với đời sau. Thái tử liền ra lệnh cuốn thảm, rồi như lần trước, thỉnh Phật. Lúc này, Đức Thế Tôn cùng chúng Tăng đều bước lên, đến tòa an tọa. Thái tử tự tay dâng thức ăn. Các Tỳ-kheo dùng một ngón tay, hoặc hai ngón tay nắm bình bát đưa xuống nhận thức ăn, bát bị rơi, đồ ăn đổ xuống nhớp cả nền nhà bằng thủy tinh. Các Cư sĩ thấy, chê trách nói: Các Tỳ-kheo ấy giống như những người đóng trò, đùa giỡn. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, hết lời quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Khi nhận thức ăn phải chú tâm, cần phải học”. Chú tâm tức là tay bên trái nhất tâm bưng bình bát, tay bên phải đỡ nơi miệng bát.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc ấy, các Tỳ-kheo nhận thức ăn đầy bát làm đổ chảy hao tốn cơm canh, các bạch y chê trách: Các Tỳ-kheo này ham nhận thức ăn, không biết nhàm chán, như người đói khát. Lại có các Tỳ-kheo đến nhà bạch y, nhận được cơm liền ăn hết, không đợi canh, nhận được canh liền ăn hết không đợi cơm. Các bạch y chê trách, nói: Các Tỳ-kheo này ham ăn quá đỗi. Lại có các Tỳ-kheo moi khắp trong bát để lấy thức ăn. Lại có Tỳ-kheo khoét chính giữa bát để lấy thức ăn. Lại có Tỳ-kheo cong ngón tay vét thức ăn trong bát để ăn. Lại có Tỳ-kheo ngửi thức ăn trong bát khi ăn. Các cư sĩ thấy đều chê trách. Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo chế pháp nên học này. Từ nay giới này được nói như sau: “Không được nhận thức ăn quá đầy, ăn canh và cơm đều nhau. Không moi khắp trong bát để lấy thức ăn. Không được khoét giữa bát để ăn. Không được cong ngón tay vét thức ăn trong bát. Khi ăn không được ngửi thức ăn, cần phải học”.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, các Tỳ-kheo xoay lại ngó hai bên ngóng trông thức ăn. Các bạch y chê trách: Các Tỳ-kheo này như chó, như chim, tự mình ăn lại dòm ngó nơi người, phép ăn còn không biết, huống là các nghĩa lý sâu xa. Các Trưởng lão nghe, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp:
Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Khi ăn không nên nhìn ngó hai bên.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo không dám nhìn ngó, lại nhắm mắt mà ăn, nên không thấy khi được người thêm cơm canh. Lục quần Tỳ-kheo lấy thức ăn ấy ăn. Khi mở mắt ra, hỏi: Ai lấy thức ăn của tôi? Lục quần Tỳ-kheo trả lời: Các thầy không có con mắt để ngó hay sao mà phải hỏi người ngồi gần? Tỳ-kheo khác quở trách rồi, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp cần phải học ấy. Từ nay giới này được nói như sau: “Khi ăn nên nhìn kỹ vào bình bát, cần phải học”. Nhìn kỹ vào bình bát là tập trung nhìn vào bát, nhìn khi người ta thêm thức ăn.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, các Tỳ-kheo ăn còn thừa thức ăn, các Cư sĩ chê trách nói: Các Tỳ-kheo này ăn như con nít.
Lại có năm trăm Tỳ-kheo thọ trai tại một nhà Cư sĩ, trong số các người bạch y, có người nói, Tỳ-kheo ăn hết, không bao giờ để thừa, có người lại nói, có bỏ thừa. Hai người cãi nhau. Các Tỳ-kheo hôm nay tình cờ lại ăn không để thừa, sau đó, khi thấy ăn nơi chỗ khác lại có để thừa. Các Cư sĩ dị nghị như trên. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Các ông sự thật có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật chúng con có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp cần phải học này. Từ nay giới này được nói như sau: “Không được bỏ thừa thức ăn, cần phải học”.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc ấy, các Tỳ-kheo dùng tay đang bốc thức ăn, cầm đồ đựng cơm sạch, dầu mỡ dính nhơ nhớp, Tỳ-kheo khác thấy gớm, các Cư sĩ chê trách, nói: Tại sao lấy tay đang bốc thức ăn cầm đồ đựng cơm sạch. Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Khi ăn không nên dùng tay bên mặt cầm đồ đựng cơm sạch. Sau đó các bạch y đem cơm đến, Tỳ-kheo dùng tay bên trái nhận, bạch y không trao cho lại còn nói: Các Tỳ-kheo không nên thế. Việc này được bạch Phật. Do thế, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nên rửa tay sạch cầm đồ đựng cơm.
Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp cần phải học. Từ nay giới này được nói như sau: “Không nên dùng tay bốc thức ăn mà cầm đồ đựng cơm sạch, cần phải học”. Tay bốc thức ăn: Tay đang bốc thức ăn bị dính dầu mỡ nhớp.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc ấy, các Tỳ-kheo ăn bằng cách húp. Lại có các Tỳ-kheo nhai thức ăn có tiếng. Các Cư sĩ thấy chê trách, nói: Các Tỳ-kheo này ăn như chó uống nước. Lại có các Bà-la-môn mời các Tỳ-kheo dùng cháo, các Tỳ-kheo húp cháo có tiếng. Có một Tỳ-kheo nói: Nay các Tỳ-kheo ăn cháo như run vì lạnh. Nói như vậy rồi sinh lòng ăn năn hối hận: Nay Ta phạm tội hủy báng Tăng, không biết làm sao, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tỳ-kheo kia: Ông nói như vậy có ý nghĩa thế nào? Vị ấy thưa: Cũng có ý giận mà cũng có ý nói cho vui. Đức Phật dạy: Với tâm giận thì nên tự quở trách, chứ không phạm, với ý nói cho vui thì quở trách, phạm Đột-kiết-la. Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học. Từ nay giới này được nói như sau: “Không nên húp thức ăn khi ăn, không nên nhai thức ăn có tiếng, cần phải học”.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, các Tỳ-kheo dùng lưỡi liếm thức ăn. Các Cư sĩ thấy chê trách nói: Các Tỳ-kheo này ăn như trâu. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật chúng con có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học. Từ nay giới này được nói như sau: “Không được dùng lưỡi liếm thức ăn, cần phải học”.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc này, các Tỳ-kheo bốc cơm quá đầy tay nên thức ăn đổ xuống đất. Lại có các Tỳ-kheo hả miệng quá lớn để ăn. Lại có các Tỳ-kheo cơm chưa đến là hả miệng để chờ, ruồi bay vào miệng nên phải ói ra. Lại có các Tỳ-kheo cúi mặt xuống ăn. Các Cư sĩ thấy đều chê trách. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học. Từ nay giới này được nói như sau: “Không được bốc thức ăn quá đầy tay, cần phải học. Không được hả miệng quá lớn để ăn, cần phải học. Cơm chưa đến không được hả miệng lớn để chờ, cần phải học”. Các Tỳ-kheo cơm đến rồi mà miệng chưa dám hả nên cơm dính nhớp hai bên miệng, chảy xuống đất. Quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy:
“Không được quá xa, không được quá gần, phải hả miệng cho đúng lúc”.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, các Tỳ-kheo vừa ngạm thức ăn vừa nói chuyện, hoặc cơm bị rớt xuống đất, hoặc cơm bị rớt trên y, hoặc rớt lại trong bát. Các Cư sĩ thấy đều dị nghị chê trách. Tỳ-kheo trưởng lão thấy, bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách, rồi nói: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học. Từ nay giới này được nói như sau: “Không được ngậm thức ăn mà nói chuyện, cần phải học”. Sau đó, các Tỳ-kheo, khi bạch y đem thêm thức ăn đến, hỏi: Thầy cần nữa không? Các Tỳ-kheo không dám mở miệng để trả lời, bèn bị bạch y chê trách: Các Tỳ-kheo kiêu mạn, không cùng người nói chuyện. Quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Khi bạch y đem thêm thức ăn đến, cho phép nói: Cần hay không cần.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc ấy, các Tỳ-kheo ngậm thức ăn nhiều đến nỗi hai má búng ra. Các Cư sĩ thấy nên chê trách, nói các Tỳ-kheo này ăn như khỉ. Lại có các Tỳ-kheo cắn phân nửa cục cơm, còn để rớt lại trong bát. Các Cư sĩ thấy dị nghị, nói: Các Tỳ-kheo này ăn uống bất tịnh. Lại có các Tỳ-kheo duỗi cánh tay lấy thức ăn. Các Cư sĩ dè bỉu, nói: Các Tỳ-kheo này dùng vòi lấy thức ăn như voi. Lại có các Tỳ-kheo chống tay mà ăn. Các Cư sĩ chê trách, nói: Các Tỳ-kheo này giống như voi rảy cái vòi. Lại có các Tỳ-kheo ói ra rồi liếm ăn lại. Các Cư sĩ thấy, chê trách, nói: Các Tỳ-kheo này liếm ăn như chó. Lại có các Tỳ-kheo nuốt trông luôn cả miếng ăn, lại có các Tỳ-kheo vò lọn miếng cơm từ xa quẳng vào miệng. Các Cư sĩ thấy, đều chê trách. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, buông lời quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học. Từ nay giới này được nói như sau: “Không được búng má ăn, không được cắn phân nửa ăn, không được duỗi tay ăn, không được chống cánh tay ăn, không được ăn nuốt trộng, không được liếm thức ăn để ăn, không được vò cục cơm từ xa ném vào miệng, là những điều cần phải học”.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc này, các Tỳ-kheo đổ nước rửa bát trong nhà bạch y. Các Cư sĩ thấy, chê trách, nói: Các Tỳ-kheo này không biết nước dơ nên đổ chỗ nào, huống chi là biết việc gì xa xôi.
Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bèn quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Không nên đổ nước rửa bát vào trong nền nhà bạch y.
Có các bạch y mới cất nhà trong xong, tin rằng được nước rửa bát của các Tỳ-kheo rưới vào nền nhà sẽ gặp may mắn. Các Tỳ-kheo không dám rưới. Các Cư sĩ nói: Các Tỳ-kheo này không gắng nhận sự cung kính của người. Các Tỳ-kheo đem vấn đề này bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Cho phép các Tỳ-kheo dùng nước rửa bát, không có thức ăn, rưới trên nền nhà. Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Không được dùng nước rửa bát có thức ăn rưới trên nền nhà bạch y, cần nên học”. Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, các Tỳ-kheo dùng cơm phủ canh lại, các bạch y tưởng là chưa có canh nên đem canh đến, sau khi biết có rồi nên chê trách, nói: Các Tỳ-kheo này như con nít, dùng cơm phủ canh lại. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bèn quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Không nên dùng cơm phủ canh.
Có các Tỳ-kheo bệnh, không dám dùng cơm phủ canh, nên trùng sa vào canh không thể bỏ được, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Cho phép dùng cơm phủ canh, nhưng không nên hy vọng được thêm canh. Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới cần phải học. Từ nay giới này được nói như sau: “Không được dùng cơm phủ canh với hy vọng được thêm canh, cần phải học”.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, có các Tỳ-kheo đến nhà bạch y thọ trai, chê thức ăn. Lại có các Tỳ-kheo tự đòi thêm thức ăn cho mình. Các Cư sĩ chê trách. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, buông lời quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Không nên chê thức ăn, đòi thêm thức ăn cho mình. Các Tỳ-kheo bèn không dám vì Tỳ-kheo bệnh đòi thêm thức ăn, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Cho phép vì các Tỳ-kheo khác đòi thêm thức ăn, chứ không nên vì mình. Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học. Từ nay giới này được nói như sau:
“Không nên chê thức ăn, cần nên học. Không nên vì mình đòi thêm thức ăn, cần nên học”.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, các Tỳ-kheo nhìn trong bát của vị ngồi gần xem thức ăn nhiều hay ít. Các Cư sĩ thấy, dè bỉu nói: Các Tỳ-kheo này như con nít, xem trong bát của người khác rồi bảo: Thầy được nhiều, tôi được ít, Thầy được ít, tôi được nhiều. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bèn quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Không nên xem trong bát người ngồi gần coi thức ăn nhiều hay ít.
Bấy giờ, có năm trăm vị Tỳ-kheo thọ trai trong một gia đình, ăn rồi, cùng nhau lắm lời bàn tán: Bữa ăn này rất hy hữu! Tỳ-kheo hạ tọa nói: Thượng tọa được thức ăn ngon, chúng tôi không được. Các Tỳ-kheo lại có ý nghĩ: Nếu Phật cho phép chúng ta xem trong bát của người khác thì biết được vị nào nhận được thức ăn, vị nào không nhận được. Vị nào không nhận được thì bảo họ đem đến. Với ý nghĩ đó các vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Cho phép xem trong bát của vị ngồi gần, nhưng không được sinh tâm ganh tỵ. Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới cần nên học. Từ nay giới này được nói như sau: “Không nên với tâm ganh tỵ xem trong bát vị ngồi gần, cần nên học”.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, các Tỳ-kheo đứng đại tiểu tiện. Các Cư sĩ thấy, dè bỉu nói: Các Tỳ-kheo này giống như lừa như ngựa. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, buông lời quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học. Từ nay giới này được nói như sau: “Không được đứng đại tiểu tiện, cần nên học”. Khi ấy, các Tỳ-kheo bệnh không thể ngồi xổm được, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Cho phép khi các Tỳ-kheo bệnh được đứng để đại tiểu tiện. Từ nay giới này được nói như sau: “Không được đứng đại tiểu tiện, trừ bệnh, cần nên học”.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, các Tỳ-kheo đại tiểu tiện trong nước, các Cư sĩ chê trách. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, bèn quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học. Từ nay giới này được nói như sau: “Không nên đại tiểu tiện trong nước, cần phải học”.
Có các Tỳ-kheo bệnh, thầy thuốc bảo: Thầy cần đại tiểu tiện trong nước để tôi tìm hiểu bệnh trạng mới có thể chữa trị được. Các Tỳ-kheo không dám, bèn nói với thầy thuốc: Thầy nên cho phương thuốc khác. Thầy thuốc nói: Chỉ có cách đó mới có thể tìm hiểu bệnh trạng được. Các Tỳ-kheo bèn nghĩ: Nếu Đức Phật cho phép chúng ta đại tiểu tiện trong nước thì chúng ta sẽ được lành bệnh. Nghĩ xong bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo bệnh được đại tiểu tiện trong nước. Từ nay giới này được nói như sau: “Không được đại tiểu tiện trong nước sạch, trừ bệnh, cần phải học”. Nếu đại tiểu tiện trên cây, nhân đó trôi vào trong nước thì không phạm.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc ấy, các Tỳ-kheo đại tiểu tiện trên rau cỏ. Các Cư sĩ thấy, chê trách nói: Các Tỳ-kheo này giống như trâu như dê. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, buông lời quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học. Từ nay giới này được nói như sau: “Không được đại tiểu tiện trên rau cỏ, trừ bệnh, cần phải học”. Nếu đại tiểu tiện ở trên cây, từ đó trôi lên trên rau cỏ thì không phạm.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc đó, các Tỳ-kheo vì người mang guốc dép nói pháp. Các Cư sĩ thấy, chê trách nói: Giáo pháp tôn quý vi diệu đệ nhất mà các Tỳ-kheo vì người mang guốc dép nói, khinh mạn giáo pháp. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, buông lời quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học. Từ nay giới này được nói như sau: “Không vì người mang guốc, dép nói pháp, cần phải học”.
Có các người bệnh, cởi guốc dép ra không được mà muốn nghe pháp, các Tỳ-kheo không dám nói, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo vì người bệnh nên cho họ mang guốc dép mà nói pháp. Từ nay giới này được nói như sau: “Người mang guốc không nên vì họ nói pháp, trừ bệnh, cần phải học. Người mang dép không nên vì họ nói pháp, trừ bệnh, cần phải học”. Pháp: Những gì do Đức Phật nói, Thanh văn nói, Tiên nhân nói, chư Thiên nói và tất cả những gì nói như pháp. Nếu có nhiều người mang guốc dép, không thể bảo họ cởi ra được, thì nhân nơi người nào không mang mà nói thì không phạm.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, các Tỳ-kheo vì người để trống ngực, cho đến người cầm gậy nói pháp. Các Cư sĩ thấy, chê trách như trên. Các Tỳ-kheo trưởng lão nghe, buông lời quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học. Từ nay giới này được nói như sau: “Người để trống ngực không nên vì họ nói pháp, cần nên học”.
Có các người bệnh muốn nghe pháp, các Tỳ-kheo không dám nói, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Cho phép vì người bệnh để trống ngực nói pháp. Từ nay giới này được nói như sau: “Người để trống ngực không nên vì họ nói pháp, trừ bệnh, cần nên học”. Người ngồi, Tỳ-kheo đứng; người ngồi chỗ cao, Tỳ-kheo ngồi chỗ thấp; người nằm, Tỳ-kheo ngồi; người đứng trước, Tỳ-kheo đứng sau; người ở giữa đường, Tỳ-kheo ở bên đường; vì người che đầu, vì người lật ngược y, vì người lật ngược y cả hai bên, vì người cầm dù, vì người cỡi ngựa, vì người cầm gậy nói pháp đều như trên đã nói.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc này, các Tỳ-kheo vì người cầm đao, người cầm cung tên nói sự khổ nơi địa ngục. Người kia nghe rồi nổi giận dữ đòi chém, bắn Tỳ-kheo chết. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học. Từ nay giới này được nói như sau: “Người cầm đao không nên vì họ nói pháp, cần phải học. Không nên nói pháp cho người cầm cung tên, cần phải học”.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, Lục quần Tỳ-kheo vì Thập thất quần Tỳ-kheo nhận phần ăn nơi nhà được thỉnh. Lục quần Tỳ-kheo cố ý xúc não Thập thất quần Tỳ-kheo nên không đem về sớm, để đợi gần quá ngọ mới đem về. Thập thất quần Tỳ-kheo trèo lên cây cao để trông chừng. Các Tỳ-kheo Trưởng lão thấy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp cần phải học. Từ nay giới này được nói như sau: “Cây cao quá đầu người, không được trèo lên, cần phải học”. Khi ấy, có Tỳ-kheo trên đường đến nước Câu-tát-la, gặp phải thú dữ, không dám trèo lên cây, bị thú làm hại. Các Tỳ-kheo đem việc này bạch Phật. Đức Phật dạy: Từ nay giới này được nói như sau: “Không được leo lên cây cao quá đầu người, trừ có nhân duyên lớn, cần phải học”. Nhân duyên lớn: Là gặp thú dữ hay các nạn, gọi là nhân duyên lớn. Tỳ-kheo-ni, trừ đại tiểu tiện trên rau cỏ sống, ngoài ra đều như Tỳ-kheo. Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
Xong 100 pháp Chúng học
---------------------
Vấn đề nên áp dụng Tỳ-ni hiện tiền thì phải áp dụng Tỳ-ni hiện tiền: Xảy ra tại đâu? Tại thành Chiêm-bà. Nhân ai phát khởi? Lục quần Tỳ-kheo.
Vấn đề nên áp dụng Tỳ-ni Ức-niệm thì phải áp dụng Tỳ-ni Ức-niệm: Xảy ra tại đâu? Tại thành Vương-xá. Nhân ai phát khởi? Đà-bà Lực Sĩ Tử.
Vấn đề nên áp dụng Tỳ-ni Bất-si thì phải áp dụng Tỳ-ni Bất-si: Xảy ra tại đâu? Tại thành Vương-xá. Nhân ai phát khởi? Tỳ-kheo Già Già.
Vấn đề nên áp dụng Pháp tự ngôn thì phải áp dụng Pháp tự ngôn: Xảy ra tại đâu? Tại thành Xá-vệ. Nhân ai phát khởi? Tỳ-kheo Dị.
Vấn đề nên áp dụng đa nhân ngữ thì phải áp dụng đa nhân ngữ: Xảy ra tại đâu? Tại thành Xávệ. Nhân ai phát khởi? Số đông Tỳ-kheo.
Vấn đề nên áp dụng như thảo bố địa thì phải áp dụng như thảo bố địa: Xảy ra tại đâu? Tại thành Xá-vệ. Nhân ai phát khởi? Số đông Tỳ-kheo.
Vấn đề nên áp dụng pháp bổn ngôn trị thì phải áp dụng pháp bổn ngôn trị: Xảy ra tại đâu? Tại thành Xá-vệ. Nhân ai phát khởi? Ưu-đà-di.
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Trưởng lão Ưu-ba-ly thưa hỏi Đức Phật: Đức Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết giới: Nếu Tỳ-kheo nào cùng các Tỳ-kheo đồng học giới pháp, giới sút kém, không xả mà hành pháp dâm dục, cho đến cùng với loài súc sinh. Tỳ-kheo như vậy phạm Ba-ladi, không được sống chung. Giới này nên thọ trì thế nào? Nên thọ trì trong một bộ Tăng hay hai bộ Tăng? Đức Phật dạy: Hai bộ Tăng đều nên thọ trì. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng các Tỳ-kheo đồng học giới pháp, giới sút kém, không xả, tùy ý hành dâm, cho đến cùng với loài súc sinh. Tỳ-kheo-ni ấy phạm Ba-la-di, không được sống chung”.
Bấy giờ, Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: Đức Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết giới: Tỳ-kheo nào nơi thôn xóm hoặc nơi đất trống, lấy vật không cho với tâm trộm cắp… cho đến không sống chung. Con nên thọ trì thế nào? Đức Phật dạy: Hai bộ Tăng đều nên thọ trì. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, nơi thôn xóm hoặc nơi đất trống lấy vật không cho với tâm trộm cắp, bị Vua hoặc Đại thần, hoặc bắt hoặc trói, hoặc giết hoặc tẫn xuất nói: Cô là kẻ giặc, cô là người ngu si. Tỳ-kheo-ni ấy phạm Ba-la-di, không được sống chung”.
Trưởng lão Ưu-ba-ly lại thưa hỏi Đức Phật: Đức Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết giới: Tỳ-kheo nào đối với người hoặc tương tợ người, hoặc tự sát cho đến không sống chung. Con nên thọ trì thế nào? Đức Phật dạy: Hai bộ Tăng đều nên thọ trì. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đối với người hoặc tương tợ người, hoặc tự mình giết, hoặc đưa dao hay thuốc độc giết, dạy người giết, hoặc dạy người tự giết, đề cao cái chết, khen ngợi cái chết: Người ơi! Sống xấu xa như thế nên chết thì hơn! Nói như vậy với tâm sát như vậy, người kia do thế mà chết. Tỳ-kheo-ni ấy phạm Ba-la-di, không được sống chung”.
Trưởng lão Ưu-ba-ly lại thưa hỏi Đức Phật: Đức Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết giới: Tỳ-kheo nào không biết, không thấy pháp hơn người, cho đến không sống chung. Con nên thọ trì thế nào? Đức Phật dạy: Hai bộ Tăng đều nên thọ trì. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào không biết, không thấy pháp hơn người, đầy đủ tài lợi của Thánh, tự xưng là mình biết như vậy, thấy như vậy. Thời gian sau, Tỳ-kheo-ni ấy, hoặc được hỏi hoặc không được hỏi, muốn khỏi tội, cần sự thanh tịnh, lại nói: Tôi không biết mà nói biết, không thấy mà nói thấy, hư cuống vọng ngữ, trừ tăng thượng mạn. Tỳ-kheo ấy phạm Ba-la-di, không được sống chung”.
Lúc này, người rể của bà Tỳ-xá-khư tên là Lộc-tử. Lộc-tử kính mến bà Tỳ-xá-khư như kính mến mẹ đẻ của mình. Người bấy giờ gọi bà là Lộc-tử-mẫu Tỳ-xá-khư. Lộc-tử có người cháu tên là Thi-lợi-bạt. Thi-lợi-bạt phải lòng Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà. Sau đó, Thi-lợi-bạt thỉnh Tỳ-kheo-ni Tăng thọ trai, Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà cáo bệnh không đến dự, ở nhà coi chùa, cùng với một Sa-di-ni nhỏ. Đến giờ thọ trai, Tỳ-kheo-ni Tăng đều đến nhà Thi-lợi-bạt. Thi-lợi-bạt tự tay sớt thức ăn, rồi hỏi: Tại sao Thâu-la-nan-đà không đến? Tỳ-kheo-ni hiện diện trả lời: Cô ấy bị bệnh, Tăng sai ở nhà giữ phòng, cho nên không đến. Thi-lợi-bạt sớt cơm cho quý ni Thượng tọa xong, bèn vội đến chùa, hỏi: Cô bị bệnh thế nào? Thâu-la-nan-đà trả lời: Xương cốt đều bị đau nhức! Thi-lợi-bạt liền đấm bóp. Tỳ-kheo-ni nói: Cho phép ông đấm bóp toàn thân thể, nhưng không được hành dục. Đấm bóp xong, Thi-lợi-bạt hỏi: Cô cần thứ gì? Cô ni trả lời: Tôi cần táo khô. Ông ta liền mua táo đem đến. Cô ni cầm trái táo, hỏi: Ông thấy trái táo khô này không? Đáp: Tôi có thấy. Tỳ-kheo-ni nói: Người nào tâm bị ràng buộc nơi sự không thể hành dục được thì tinh thần bị teo lại như trái táo này. Do đó, ngay lúc ấy, Thi-lợi-bạt liền cùng Tỳ-kheo-ni này bằng mọi cách hai thân xúc chạm nhau, rồi ra về. Các Tỳ-kheo-ni thọ trai xong trở về, khi vào cửa, từ xa thấy Thi-lợi-bạt đi ra, đều sinh nghi là ông ta đã cùng với Thâu-la-nan-đà làm hạnh bất tịnh. Các Tỳ-kheo-ni hỏi Thâu-la-nan-đà: Cô đã phá phạm hạnh phải không? Thâu-la-nan-đà trả lời: Tôi không phá phạm hạnh, chỉ cùng với nam tử hai thân xúc chạm nhau thôi. Sa-di-ni nhỏ cũng nói như vậy. Các Tỳ-kheo-ni buông lời quở trách: Đức Phật bằng nhiều phương tiện chê trách việc làm cùng thân người nam xúc chạm nhau, và bằng nhiều phương tiện khen ngợi việc làm không xúc chạm thân người nam, tại sao nay cô lại làm việc xấu ác ấy? Quở trách rồi chư ni đến chỗ Đức Phật, trình bày sự việc. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi Thâu-la-nanđà: Thật sự cô có như vậy không? Đáp: Kính bạch Thế Tôn! Sự thật con có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách như trên, rồi bảo các Tỳ-kheo: Do mười điều lợi nên nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào do dục thạnh biến tâm, nhận lấy mọi sự xúc chạm của nam tử, từ mái tóc trở xuống, đầu gối trở lên, khuỷu tay trở ra sau. Tỳ-kheo ấy phạm Ba-la-di, không được sống chung”.
Tỳ-kheo-ni: Là hạng Tỳ-kheo được Bạch-tứyết-ma để thọ giới Cụ túc. Từ câu: “Do dục thạnh biến tâm” trở xuống, giải thích như trong giới “Tỳ-kheo xúc chạm thân người nữ”, đã nói.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni nhận sự nắm tay, nắm y của nam tử, hẹn với nhau, một mình cùng đi, cùng đứng, cùng nói, cùng ngồi một chỗ, hai thân gần kề với nhau, do tâm nhiễm dục này nên không thích sống với đạo, hoặc có người hoàn tục, hay làm ngoại đạo. Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Thâula-nan-đà mặc áo mới nhuộm, thoa chà thân thể, kẻ mí mắt, đến chỗ đông người, các nam tử nắm tay, nắm y, nói: Tay cô mềm mại đẹp quá, áo cô trơn láng tốt quá! Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy, quở trách đủ cách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi các Tỳ-kheo-ni: Thật sự các cô có làm tám pháp trên phải không? Đáp: Kính bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào vì dục mạnh biến cả tâm ý, nhận lấy sự nắm tay, nắm y của nam tử, hẹn nhau, một mình cùng đi, cùng đứng, cùng nói, cùng ngồi một chỗ, thân cùng thân nam tử gần kề nhau, đầy đủ tám pháp thì Tỳ-kheo-ni ấy phạm tội Ba-la-di, không được sống chung”.
Nắm tay: Nắm từ khuỷu tay trở ra.
Nắm y: Nắm y đang mặc.
Hẹn nhau: Hẹn đến chỗ nào đó để làm phép hành dục hoặc để xoa chà nơi thân.
Cùng đi: Một mình cùng nam tử đi một đường.
Cùng đứng: Một mình cùng nam tử đứng một chỗ.
Cùng nói: Cùng nam tử nói chuyện.
Cùng ngồi: Cùng nam tử ngồi một giường một ghế.
Hai thân gần kề: Ngồi một chỗ, khi nghiêng mình thì đụng thân nam tử.
Nếu phạm việc nắm tay, cho đến hai thân gần kề nhau mỗi hành động đều mắc Thâu-lan-giá. Nếu phạm bảy việc, tuy đã tùy theo đó sám hối, sau phạm một việc nữa là đủ tám, cũng thành tội Ba-la-di. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Độtkiết-la.
Bấy giờ, Tỳ-kheo Xiển-đà luôn luôn phạm tội, lên giường xuống giường đều không như pháp, thường ăn biệt chúng, vào xóm làng lúc phi thời, không bạch với Tỳ-kheo thiện, Tỳ-kheo Tăng trao cho pháp Yết-ma không thấy tội. Tỳ-kheo-ni Ưuta là chị của Xiển-đà, tới lui nói chuyện và cung cấp y thực. Các Tỳ-kheo-ni thấy nói: Này cô! Tỳ-kheo này đã được Tỳ-kheo Tăng hòa hợp trao cho pháp Yết-ma không thấy tội. Các Tỳ-kheo đã không cùng ở chung, không cùng làm việc, không cùng nói chuyện, tại sao nay cô lại tới lui nói chuyện, cung cấp y thực? Tỳ-kheo-ni Ưu-ta nói:
Xiển-đà là em của tôi, tôi không chăm sóc thì ai chăm sóc! Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, buông lời quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi Ưu-ta: Thật sự cô có như vậy không? Đáp: Kính bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nên khiến một Tỳ-kheo-ni thân thiện với Ưu-ta đến nơi chỗ vắng khuyên can: Cô không nên không tùy thuận nơi Tăng Yết-ma Tỳ-kheo không thấy tội. Nếu cô ta nghe theo thì tốt, bằng không thì nên bảo nhiều Tỳ-kheo-ni đến can. Nếu cô ta nghe theo thì tốt, bằng không thì Tỳ-kheo-ni Tăng nên đến can. Các Tỳ-kheo vâng lời dạy của Đức Phật ra lệnh cho các Tỳ-kheo-ni, khiến một Tỳ-kheo-ni đến khuyên can… cho đến câu: Tỳ-kheo-ni Tăng đến can. Cô ta đều không thuận nghe. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bằng mọi cách nhắn lời quở trách Ưu-ta rồi, bảo các Tỳ-kheo:
Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào biết Tăng như pháp trao cho Tỳ-kheo pháp Yết-ma không thấy tội, các Tỳ-kheo không sống chung, không cùng làm việc, không cùng nói chuyện, mà tùy thuận nơi Tỳ-kheo ấy. Các Tỳ-kheo-ni nói với Tỳ-kheo-ni đó: Này cô, Tỳ-kheo này, Tỳ-kheo Tăng đã trao pháp Yết-ma không thấy tội, các Tỳ-kheo không sống chung, không cùng làm việc, không cùng nói chuyện, cô đừng tùy thuận. Can gián như vậy mà kiên trì không bỏ, nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián bỏ thì tốt, không bỏ thì Tỳ-kheo-ni ấy phạm tội Ba-la-di, không được sống chung”. Ngoài ra như trong giới “Điều-đạt phá Tăng” đã nói. Trường hợp không phạm cũng như trong giới đó.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Tu-hưu-ma và Tỳ-kheo-ni Bà-phả thường đi đứng với nhau. Sau đó, Tỳ-kheo-ni Bà-phả qua đời, Tỳ-kheo-ni Tu-hưu-ma buồn khóc. Các Tỳ-kheo-ni nói: Cô đừng khóc như vậy, tất cả pháp hữu vi đều phải tiêu hoại, như Đức Phật đã nói, ân ái biệt ly, chứ đâu còn mãi. Các pháp hữu vi mà không hư hoại, không tan rã là điều không thể có. Tỳ-kheo-ni Tu-hưuma nói: Tôi không vì cô ta mà khóc, mà khóc vì lúc sinh tiền cô ta không tu phạm hạnh. Các Tỳ-kheo-ni hỏi: Tại sao cô biết? Tu-hưu-ma đáp: Vì cô ta cùng đi với tôi, chính tôi thấy cô ta làm việc dâm dục với nam tử. Các Tỳ-kheo-ni quở trách: Tại sao lúc cô ta còn sống cô lại che giấu tội của cô ta, bấy giờ cô ta chết rồi, cô lại phát lồ? Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bèn quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi Tu-hưu-ma: Thật sự cô có thấy như vậy không? Đáp: Bạch Thế Tôn! Sự thật con thấy như vậy. Bằng mọi cách quở trách rồi, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào thấy Tỳ-kheo-ni phạm tội Ba-la-di mà che giấu, Tỳ-kheo-ni kia, sau đó còn sống hay đã chết, hoặc đi xa hay bị tẫn xuất, hoặc thôi tu hay biến hình, khi ấy mới nói: Trước đây chính tôi thấy cô ni kia phạm tội Ba-la-di. Tỳ-kheo-ni nào như vậy, phạm tội Ba-la-di, không được sống chung”.
Che giấu: Từ sáng sớm cho đến phần đầu của đêm đầu, mỗi giờ đều phạm Đột-kiết-la, từ phần đầu của đêm đầu cho đến tướng mặt trời chưa xuất hiện, mỗi giờ đều phạm một Thâu-lan-giá, đến tướng mặt trời xuất hiện, phạm Ba-la-di. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu muốn nói mà không có Tỳ-kheo-ni nên chưa nói, hoặc khi nhập định đại xả hay khi tám nạn khởi đều không phạm. Tám nạn:
1. Bệnh.
2. Vua.
3. Giặc.
4. Y bát.
5. Nước.
6. Mạnh sống.
7. Lửa.
8. Phạm hạnh.
---------------------
Bấy giờ, Trưởng lão Ưu-ba-ly thưa hỏi Đức Phật: Đức Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết giới: Nếu Tỳ-kheo làm pháp mai mối, cho đến chỉ một lần giao hội, phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Con nên thọ trì thế nào? Đức Phật dạy: Nên thọ trì cả hai bộ Tăng. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào làm pháp mai mối, hoặc vì việc tư thông, đem ý người nam nói với người nữ, đem ý người nữ nói với người nam, cho đến chỉ một lần giao hội. Tỳ-kheo-ni ấy vừa làm là phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Trưởng lão Ưu-ba-ly lại thưa hỏi Đức Phật: Đức Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết giới: Tỳ-kheo nào tự mình không như pháp, do giận dữ nên dùng pháp Ba-la-di không căn cứ hủy báng Tỳ-kheo không phạm Ba-la-di, cho đến câu: phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nay con nên thọ trì thế nào? Đức Phật dạy: Nên thọ trì cả hai bộ Tăng. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tự mình không như pháp, do giận dữ nên dùng pháp Ba-la-di không căn cứ, hủy báng Tỳ-kheo-ni không phạm Ba-la-di, muốn phá hoại phạm hạnh của vị ấy. Tỳ-kheo-ni kia, một thời gian sau hoặc có người hỏi, hay không bị hỏi, tự nói: Việc ấy không căn cứ, vì tôi giận dữ nên hủy báng, Tỳ-kheo-ni kia vừa làm liền phạm Tăng-già-bà-thi-sa, nên hối quá”. Trưởng lão Ưu-ba-ly lại thưa hỏi Đức Phật: Đức Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết giới: Tỳ-kheo nào tự mình không như pháp, do giận dữ nên lấy một chi tiết của phần việc khác, hoặc một chi tiết tương tợ, cho đến câu: phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nay con nên thọ trì thế nào? Đức Phật dạy: Cả hai bộ Tăng nên thọ trì. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tự mình không như pháp, do giận dữ nên lấy một chi tiết của phần việc khác, hoặc một chi tiết tương tợ pháp Ba-la-di, hủy báng Tỳ-kheo-ni không phạm Ba-la-di, muốn phá phạm hạnh của vị ấy. Tỳ-kheo-ni kia, sau đó, hoặc có người hỏi hay không bị hỏi, tự nói: Tôi vì giận dữ nên lấy một chi tiết của phần việc khác, hoặc một chi tiết tương tợ để hủy báng. Tỳ-kheo-ni kia vừa làm phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Bấy giờ, các người trong dòng họ Thích lập quy ước: Chúng ta không cùng với hạng thứ dân làm hôn nhân. Nếu người nào vi phạm sẽ bị trọng tội. Lúc này, trong dòng họ Thích có người đàn bà tên là Hắc-ly-xa chồng chết, ông em chồng muốn lấy làm vợ, bà ta không chịu. Ông ta Ba lần ngỏ xin đều không được bà thuận hứa, nên nghĩ: Chắc cô này có ngoại tình, ta sẽ giết bỏ. Ông ta giả bộ vì anh mình tổ chức cuộc lễ và nói với bà chị dâu: Tôi vì anh tôi tổ chức cuộc lễ, chị vì chồng nên đến để hành hương. Bà ta bèn đến. Ông em chồng phục rượu cho bà say rồi làm hạnh bất tịnh, lại dùng tay đánh và cào cho bà ta bị thương tích. Sau đó, ông ta báo với nhà quan: “Hắc-ly-xa là vợ của tôi, nay nó tư thông với người ngoài”. Nhà quan liền truy tầm bắt bà ta. Sau khi tỉnh rượu, bà ta thấy thân thể chỗ nào cũng bị thương tích, bèn nghĩ: Ông này sẽ giết mình. Bà ta liền trốn thoát chạy về thành Xá-vệ, đến trú xứ của Tỳ-kheo-ni, xin xuất gia học đạo. Nhà quan truy tầm không được, nhưng biết phạm nhân đã chạy tới thành Xá-vệ, bèn gởi công hàm đến Vua Ba-tư-nặc với nội dung: Trong nước tôi có người đàn bà phạm tội đáng chết, trốn thoát vào nước nhà Vua, xin nhà Vua giao hoàn lại cho. Nếu quý quốc có kẻ phạm tội chạy qua nước tôi, tôi cũng sẽ cho dẫn độ. Nhận công hàm, Vua Batư-nặc liền hỏi các quan tả hữu: Có người đàn bà như vậy vào nước ta không? Các quan tâu là có, nhưng các Tỳ-kheo-ni đã độ và cho học đạo. Nhà Vua trước đây có ra lệnh: Trong nước ta, ai xâm phạm vào Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni sẽ bị trọng tội. Nay người đàn bà ấy đã xuất gia nên không dám hủy nhục. Nhà Vua bèn phúc đáp: “Sự thật có người đàn bà như vậy chạy vào nước tôi, nhưng nay đã xuất gia, không nên truy tội. Nếu có trường hợp khác, tôi sẽ giao hoàn”. Các Thích chủng bèn trách cứ, nói: Phàm có tội như thế mà không bắt được để trị, nước sẽ loạn thôi! Các Tỳ-kheo-ni tại sao không biết người nào có thể độ, người nào không thể độ, mà lại độ như vậy! Họ không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi các Tỳ-kheo-ni: Thật sự các cô có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách, Đức Phật quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào biết người nữ có tội mà độ cho làm Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni ấy lần đầu làm liền phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Lại có các người nữ làm giặc, làm kẻ trộm, người nữ đáng phải chết, các Cư sĩ nói: Nếu có thể xuất gia thì tôi có thể cho sống. Họ bèn cầu xin xuất gia, bạch các Tỳ-kheo-ni, xin độ cho họ để được thoát chết. Các Tỳ-kheo-ni nói: Đức Phật chưa cho phép chúng tôi độ hạng người như vậy. Họ bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu người chủ cho phép thì chư Tỳ-kheo-ni được quyền độ họ. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào biết người nữ có tội, người chủ không cho phép mà độ, Tỳ-kheo-ni ấy vừa làm liền phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Lại có người nữ phạm tội, không được xuất gia trong giáo pháp của Phật, bèn vào trong ngoại đạo, sau đó, các Cư sĩ thấy, nói: Đây là người nữ phạm tội đối với chúng ta, nên đoạt y phục ngoại đạo của họ. Hoặc có người nói: “Xuất gia trong ngoại đạo đã là hình phạt nặng, có thể bỏ qua”, bèn phóng thích. Sau đó, các người nữ này đến nơi các Tỳ-kheo-ni, thưa: Thưa các cô! Chúng con không phải là không tôn kính Đức Phật mà xuất gia nơi ngoại đạo, nhưng vì các cô không chịu độ, nên đành phải vào tu với ngoại đạo thôi. Nay người đáng sợ của chúng con đã cho phép chúng con xuất gia, xin các cô rủ lòng thương độ chúng con. Các Tỳ-kheo-ni không biết nên như thế nào, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu người nữ có tội, trước đã xuất gia, nay cho phép được độ. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào biết người nữ có tội, người chủ không cho phép mà độ, trừ trước đã xuất gia, Tỳ-kheo-ni ấy vừa làm liền phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Có tội: Hoặc phạm gian dâm, dối trá hoặc ăn trộm cắp gọi là có tội.
Chủ: Sống chết do người ấy, gọi là chủ. Nếu Tỳ-kheo-ni phát khởi ý muốn độ người nữ như vậy, từ khi chuẩn bị cho đến tập hợp Tăng, Ba lần Yết-ma chưa xong đều phạm Đột-kiết-la. Ba lần Yết-ma xong rồi, Hòa thượng phạm Tăng-già-bà-thi-sa, các Tăng, Ni khác đều phạm Thâu-lan-giá.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Ưu-ta thường phạm tội, lên giường, xuống giường đều không như pháp, ăn liên tục, ăn riêng chúng, vào nhà người phi thời. Tỳ-kheo-ni Tăng trao cho pháp “Không thấy tội tẫn xuất”. Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà, biết Ưu-ta tâm chưa điều phục, không kính thuận Tăng, không theo lệnh của chúng, cô ta tự tiện cùng với người thân cận ra ngoài giới, giải tội tẫn xuất Ưu-ta. Tỳ-kheo-ni Ưu-ta đã được giải tội tẫn xuất rồi càng thêm kiêu mạn không kính chúng Tăng. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy vậy bèn quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi Thâu-la-nan-đà: Thật sự cô có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào biết Tăng đã như pháp tẫn xuất Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni ấy tâm chưa được điều phục, không tùy thuận chúng Tăng, mà tự mình cùng với quyến thuộc ra ngoài giới giải tội cho cô ấy. Tỳ-kheo-ni như vậy vừa làm liền phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Muốn giải tội, tạo phương tiện, cho đến ba phen Yết-ma chưa xong, đều phạm Đột-kiết-la. Ba phen Yết-ma xong, vị làm Yết-ma phạm Tăng-già-bà-thi-sa, các Ni, Tăng kia đều phạm Thâu-lan-giá.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni một mình đi trên đường, các bạch y thấy chọc ghẹo nói lời thô tục về dâm dục, hoặc nắm hoặc rờ, hoặc muốn làm việc bất tịnh. Lại có số đông Tỳ-kheo-ni làm bạn với khách buôn cùng đi. Thâu-la-nan-đà thấy một nam tử, tâm sinh nhiễm đắm, bước chậm lại để đi sau. Các Tỳ-kheo-ni nói: Tại sao cô không đi mau cho kịp bạn? Đây là chỗ đáng sợ, đừng để kẻ ác tước đoạt. Thâu-la-nan-đà nói: Các cô có thấy người đi sau kia không? Các Tỳ-kheo-ni nói: Có thấy. Thâu-la-nan-đà nói: Tôi thấy người ấy, lòng rất say đắm. Các Tỳ-kheo-ni quở trách, nói: Tại sao trên đường đi cô lại luyến ái với nam tử?
Lại có số đông Tỳ-kheo-ni lội qua sông để lấy phân bò, khi lội qua rồi, nước lớn không thể lội trở lại bị giặc cướp đoạt. Lại có các Tỳ-kheo-ni ngủ một mình, bị mất y bát, phá phạm hạnh. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi các Tỳ-kheo-ni: Thật sự các cô có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật chúng con có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đi một mình, ngủ một mình, lội nước một mình, một mình đi sau có tâm nhiễm đối với nam tử, Tỳ-kheo-ni ấy vừa làm liền phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Khi ấy, có các Tỳ-kheo-ni đi trên lộ trình, có sự nghi ngờ bị khủng bố, bèn chạy vào trong xóm làng, đến nhà quen thân. Lại có các Tỳ-kheo-ni trên lộ trình có sự nhọc mệt, lại có vị già bệnh nên đi không kịp. Hoặc có chỗ chỉ có một ít nước, hoặc có cầu đò mà không dám một mình đi qua, hoặc có chỗ nghỉ đêm nhưng sợ các nam tử mà không dám một mình ngủ các chỗ khác. Các Tỳ-kheo-ni không biết nên giải quyết như thế nào, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu có nhân duyên thì cho phép tùy ý đi một mình. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đi một mình, ngủ một mình, lội nước một mình, một mình đi sau có tâm nhiễm với nam tử, trừ nhân duyên, Tỳ-kheo-ni ấy vừa làm là phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Nhân duyên là: Khi sợ sệt phải chạy, già bệnh nhọc mệt đi không kịp bạn, chỗ nước cạn có cầu đò, chỗ sợ có nam tử, như vậy gọi là có nhân duyên. Nếu đi một mình, chỗ không có xóm làng thì nửa dotuần, chỗ có xóm làng thì từ xóm làng này đến xóm làng kia đều phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu đi đằng sau, từ xa trông thấy Tỳ-kheo-ni nhưng không nghe tiếng, hoặc nghe tiếng mà không thấy hình đều phạm Đột-kiết-la. Nếu không thấy, không nghe thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu lội nước một mình, bề rộng của nước bằng mười khuỷu tay, bề sâu của nước đến nửa đùi vế thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, nếu cạn hơn thì phạm Đột-kiết-la. Nếu ngủ đêm, đưa tay ra phải đụng nhau, nếu tay không đụng nhau thì đầu đêm và nửa đêm phạm Thâu-lan-giá, tướng mặt trời xuất hiện phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, có một Trưởng giả đem một căn nhà cúng cho Tỳ-kheo Tăng, Tỳ-kheo Tăng lại đổi cho Tỳ-kheo-ni để lấy ngôi vườn An-đà-lâm. Sau đó, phu nhân Mạt-lợi lại đem ngôi vườn của nhà Vua cúng cho Tỳ-kheo-ni Tăng. Tỳ-kheo-ni Tăng giở cái nhà cũ trở thành đất trống. Khi ấy, con ông Trưởng giả cúng nhà trước kia, lại có ý nghĩ: Ngày trước cha ta cúng cho Tăng, Tăng đem đổi cho Ni, nhưng các Tỳ-kheo-ni lại không ở nơi đó, giở nhà đi, bỏ đất trống, ta nên lấy lại để canh tác. Thế là ông ta lấy đất lại. Các Tỳ-kheo-ni nói: Ông đừng có lấy đất của Tăng. Người ấy trả lời: Tuy xưa cha tôi cúng cho Tăng, Tăng lại không sử dụng, nên nay thuộc về của tôi. Các Tỳ-kheo-ni nói: Chúng tôi không bỏ miếng đất đó, ông lấy, tôi kiện, ông bị tịch thu đừng trách. Ông ta vẫn không trả lời. Chư ni đến quan kiện, ông ta lại bị tịch thu tài sản. Các cư sĩ thấy thế, chê trách nói: Các Tỳ-kheo-ni này tại sao đến quan kiện, làm cho người ta bị tịch biên tài sản! Các người này nhận của người ta cúng dường mà còn làm như thế, huống gì là đối với người khác, không có hạnh của Sa-môn, phá pháp của Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi các Tỳ-kheo-ni: Thật sự các cô có như vậy không? Đáp: Bạch Thế Tôn, sự thật chúng con có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đến quan kiện người khác, Tỳ-kheo-ni ấy vừa làm liền phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Nếu Tỳ-kheo-ni nào bị người khinh miệt thì nên nói với cha mẹ họ, nếu không nói với cha mẹ thì nói với bà con, không có bà con thì nói với Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni có uy lực mà không bảo hộ thì phạm Đột- kiết-la. Khi nói, nên nói: Người kia khinh tôi, vì tôi can gián giùm. Nếu đến cửa quan để kiện thì mỗi lần đi về là phạm một Tăng-già-bà-thi-sa. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, có một người khách buôn, vợ chết, ông ta lại có ý nghĩ: Nên đến đâu để tìm người vợ thích hợp khác. Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Chiên-trà-tuma-na có người đệ tử tên là Tu-ma, nhan sắc tuyệt vời, người khách buôn nhìn thấy Tu-ma, liềm đem lòng say đắm và nghĩ đến cách chiếm đoạt: Ta dùng thức ăn để dụ, chắc chắn có kết quả. Người khách buôn nhã nhặn nói: Nếu cô cần tô, dầu, mật, thạch mật, Bô-xà-ni, Khư-xà-ni, cứ đến nhà tôi lấy. Tỳ-kheo-ni Tu-ma bèn đến lấy. Sau khi được thân cận, ông ta hỏi Tỳ-kheo-ni: Cô có biết tôi cho cô thức ăn với ý nghĩ thế nào không? Cô ni trả lời: Ông vì cầu phúc nên cho tôi ăn. Người khách buôn nói: Tôi không phải vì việc ấy, mà là vì vợ tôi chết, tôi thấy cô tu hành thanh tịnh nên đem lòng tham ái. Cô có thể thỏa mãn ý muốn của tôi không? Cô ni dứt khoát trả lời: Không thể được. Ông ta lại nói: Cô làm vợ tôi, tôi sẽ cho cô những đồ quý báu, y phục xinh đẹp, ăn uống theo thời không bao giờ thiếu thốn. Cô ni vẫn trả lời như lần đầu. Những người khách buôn khác yểm trợ ông ta, nói: Nếu cô không muốn làm vợ người ta sao cô lại nhận thức ăn của họ. Nếu quả thật cô nói: “Không thể được”, thì đoạt hết y bát cô bây giờ. Có người lại nói: Phải giải tán mau, đừng để người ta nghe. Nếu nhà Vua biết được, chắc chúng ta phải bị trọng tội. Các cư sĩ nghe, chê trách nói: Tại sao Tỳ-kheo-ni lại nhận thức ăn của người nam có tâm nhiễm, hạng người này không có hạnh Sa-môn, phá pháp của Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi Tỳ-kheo-ni Tu-ma: Sự thật cô có như vậy không? Đáp: Bạch Thế Tôn, sự thật con có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào nhận thức ăn của nam tử có tâm nhiễm đắm, Tỳ-kheo-ni ấy vừa làm liền phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Có các nam tử mời Tỳ-kheo-ni bữa ăn trước, bữa ăn sau, vào thời gian ấy, sinh tâm nhiễm đắm, các Tỳ-kheo-ni biết, không dám ăn, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu Tỳ-kheo-ni không có tâm nhiễm đắm, nhận thức ăn của nam tử có tâm nhiễm đắm mà phạm Tăng-già-bà-thi-sa là điều không thể có. Từ nay giới này được nói như sau:
“Tỳ-kheo-ni nào có tâm nhiễm đắm, nhận thức ăn của nam tử có tâm nhiễm đắm, Tỳ-kheo-ni ấy vừa làm liền phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải sám hối”.
Lại có một Tỳ-kheo-ni có tâm nhiễm đắm nhận thức ăn từ một nam tử có tâm nhiễm đắm, nhận rồi sinh nghi: “Ta phải chăng đã phạm Tăng-già-bà-thi-sa”, liền đem thức ăn ấy cho Tỳ-kheo-ni khác. Tỳ-kheo-ni khác hỏi: Thức ăn ngon thế này tại sao cô không dám ăn? Cô ni kia trả lời bằng cách trình bày rõ ràng tâm tư của mình. Tỳ-kheo-ni khác nói: Chỗ cô sợ thì tôi cũng sợ như vậy, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo-ni nào có tâm nhiễm đắm, tự tay nhận lấy thức ăn của nam tử có tâm nhiễm đắm, rồi không ăn, đem cho người khác ăn đều không phạm. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào có tâm nhiễm đắm, tự tay nhận thức ăn của nam tử có tâm nhiễm đắm, Tỳ-kheo-ni ấy vừa làm là phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”. Thứcxoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Bấy giờ, người khách buôn lại có ý nghĩ: Trước đây ta dùng thức ăn để dụ Tỳ-kheo-ni kia, với thời gian ngắn ngủi vội vàng nên không kết quả, nay ta dùng thức ăn dụ dỗ với thời gian lâu dài có thể cô ta xiêu lòng. Ông ta bèn đến với cô ni, ôn tồn nói: Trước đây tôi nói vui đùa, đưa đến sự phật ý của cô, xin cô nhận sự sám hối của tôi. Từ nay cứ như trước đây, cô đến nhận thức ăn nơi tôi. Tỳ-kheo-ni kia nói: Thôi, thôi! Ông ơi! Trước đây ông đã gây não hại nên tôi bị Đức Phật quở trách một cách đau khổ và Ngài vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới, ngày nay cớ gì lại gặp nhau để ông làm nhục tôi nữa.
Hòa thượng của Tỳ-kheo-ni ấy lại nói: Tại sao trước đây cô nhận được nhiều thức ăn ngon bổ, nay lại không nhận được? Tỳ-kheo-ni Tu-ma thưa: Trước đây, ông ấy gây xúc não con, nhân đó Phật chế giới cấm, nên nay không dám nhận trở lại. Hòa thượng bổn sư cô ta lại nói: Miễn là cô đừng sinh tâm nhiễm thì nhận thức ăn đâu có can gì? Nếu ông ta sinh tâm nhiễm đâu có can gì đến cô? Tỳ-kheo-ni Tu-ma chê trách Hòa thượng, nói: Đức Phật bằng mọi cách quở trách việc gần gũi nam tử, khen ngợi sự xa lìa, tại sao thầy lại bảo con nhận thức ăn của nam tử có tâm nhiễm đắm?! Các Tỳ-kheo-ni nghe, quở trách vị thầy kia: Tại sao lại bảo đệ tử nhận thức ăn của nam tử có tâm nhiễm đắm! Nghiêm khắc quở trách rồi quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi Chiên-trà Tu-ma-na: Thật sự cô có như vậy không? Đáp: Bạch Thế Tôn! Sự thật con có như vậy. Bằng mọi cách quở trách rồi, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào bảo Tỳ-kheo-ni khác: Miễn là cô đừng sinh tâm nhiễm đắm thì nhận thức ăn của nam tử sinh tâm nhiễm đắm đâu có can gì? Tỳ-kheo-ni như vậy vừa làm liền phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”. Tỳ-kheo-ni bảo như thế, thì mỗi lời nói phạm một Tăng-già-bà-thi-sa. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Ưu-ba-ly lại thưa hỏi Đức Phật: Đức Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết giới: Tỳ-kheo-ni nào làm việc phá hòa hợp Tăng, siêng năng, tạo phương tiện… cho đến câu: phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
Con nên thọ trì thế nào? Đức Phật dạy: Cả hai bộ Tăng đều nên thọ trì. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào làm việc phá hòa hợp Tăng, nỗ lực tạo phương tiện, các Tỳ-kheo-ni nên nói với Tỳ-kheo-ni ấy: Cô chớ nên làm việc phá hòa hợp Tăng, tích cực tạo phương tiện. Cô nên cùng Tăng hòa hợp, cùng Tăng hòa hợp hoan hỷ không tranh chấp, một lòng cùng học như nước hòa hợp với sữa, cùng nhau nêu giảng lời dạy về hạnh an lạc của thầy. Can gián như vậy mà cô ta kiên trì không bỏ, nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián mà bỏ thì tốt, bằng không bỏ thì Tỳ-kheo-ni ấy, sau Ba lần can gián, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Ưu-ba-ly lại thưa hỏi Đức Phật: Đức Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết giới: Tỳ-kheo nào trợ giúp vào việc phá hòa hợp Tăng, cho đến câu: phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Con nên thọ trì thế nào? Đức Phật dạy: Cả hai bộ Tăng nên thọ trì. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào trợ giúp việc phá hòa hợp Tăng, hoặc một hoặc hai cho đến số đông, nói với các Tỳ-kheo-ni: Những gì Tỳ-kheo-ni này nói, là cô biết mới nói, chứ không phải không biết mà nói, nói đúng pháp chứ không phải phi pháp, nói đúng luật chứ không phải phi luật, nơi tâm chúng tôi đều chấp nhận. Các Tỳ-kheo-ni nói với Tỳ-kheo-ni kia: Cô chớ nên nói như vầy: Những gì Tỳ-kheo-ni này nói, là cô biết mới nói chứ không phải không biết mà nói, nói đúng pháp chứ không phải phi pháp, nói đúng luật chứ không phải phi luật, nơi tâm chúng tôi đều chấp nhận. Tại sao? Vì Tỳ-kheo-ni ấy chẳng phải biết mà nói, chẳng phải nói đúng pháp, chẳng phải nói đúng luật. Cô không nên vui thích giúp đỡ việc phá hòa hợp Tăng. Cô nên vui thích việc hòa hợp Tăng, Tăng hòa hợp nên hoan hỷ, không tranh cãi, một lòng cùng học, như nước hòa hợp với sữa, cùng nêu truyền lời dạy của Bổn sư, trong hạnh an lạc. Khi can gián như vậy mà cô ta kiên trì không bỏ, nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián bỏ thì tốt, không bỏ, Tỳ-kheo-ni ấy, sau Ba lần can gián, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Ưu-ba-ly lại thưa hỏi Đức Phật: Đức Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết giới: Tỳ-kheo nào có tánh xấu khó dạy, cùng các Tỳ-kheo đồng học giới kinh, thường phạm tội, cho đến câu: phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Con nên thọ trì thế nào? Đức Phật dạy: Nên thọ trì cả hai bộ Tăng. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào có tánh xấu khó dạy, cùng các Tỳ-kheo-ni đồng học giới, thường phạm tội. Các Tỳ-kheo-ni như pháp như luật can gián sự phạm tội của vị kia. Vị kia nói: Này các cô! Các cô đừng nói với tôi điều gì hoặc tốt hay xấu, tôi cũng không nói với các cô điều gì hoặc tốt hoặc xấu. Các Tỳ-kheo-ni lại nói: Cô đừng hành xử như vậy, tự cho mình không thể nói chuyện với ai. Cô nên vì các Tỳ-kheo-ni nói lời như pháp, các Tỳ-kheo-ni cũng vì cô nói lời như pháp như vậy, cùng nhau trao đổi dạy bảo nhau, xuất tội cho nhau, mới thành Thánh chúng của Như Lai. Can gián như vậy mà cô ta kiên trì không bỏ, nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián, cô ta bỏ thì tốt, không bỏ, Tỳ-kheo-ni ấy, sau Ba lần can gián, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Ưu-ba-ly lại thưa hỏi Đức Phật: Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết giới: Tỳ-kheo nào nương ở nơi xóm làng, làm hạnh ác, hoen ố nhà người, cho đến câu: phạm Tăng-già-bà-thi-sa. Con nên thọ trì thế nào? Đức Phật dạy: Cả hai bộ Tăng nên thọ trì. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào nương ở nơi xóm làng, làm hạnh ác, hoen ố nhà người. Làm hạnh ác ai nấy đều thấy, nghe, biết, hoen ố nhà người mọi người đều thấy, nghe, biết. Các Tỳ-kheo-ni nói với các Tỳ-kheo-ni ấy: Cô làm hạnh ác, hoen ố nhà người, làm hạnh ác ai nấy đều thấy, nghe, biết, hoen ố nhà người mọi người đều nghe, thấy, biết. Cô nên đi khỏi chỗ này, không nên ở nơi đây nữa. Tỳ-kheo-ni kia nói: Các cô tùy tiện làm việc theo thương, ghét, si, sợ. Tại sao vậy? Vì có Tỳ-kheo-ni đồng tội như vậy, mà người bị đuổi, người không bị đuổi. Các Tỳ-kheo-ni nói với Tỳ-kheo-ni ấy: Cô đừng nói: Các cô tùy tiện làm việc theo thương, ghét, si, sợ, các Tỳ-kheo-ni đồng tội mà người bị đuổi người không bị đuổi. Cô làm hạnh ác, hoen ố nhà người, làm hạnh ác ai nấy đều thấy, nghe, biết, hoen ố nhà người mọi người đều thấy, nghe, biết, cô nên bỏ câu nói: Các cô tùy tiện làm việc theo thương, ghét, si, sợ. Cô nên đi khỏi chỗ này, không nên ở đây nữa. Khi can gián như vậy mà cô ta kiên trì không bỏ thì nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián bỏ thì tốt, không bỏ, Tỳ-kheo-ni ấy sau Ba lần can gián, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Tu-hưu-ma và Tỳ-kheo-ni Bà-phả cùng làm hạnh ác, tiếng xấu đồn khắp, lại cùng nhau che giấu tội lỗi, xúc não chúng Tăng. Các Tỳ-kheo-ni nói: Các cô làm hạnh ác, tiếng xấu đồn vang. Các cô không nên cùng ở với nhau, không làm việc xấu, xúc não chúng Tăng, thì ở trong pháp Phật mới được tăng thêm sự an lạc. Hai Tỳ-kheo-ni ấy nói: Chúng tôi không làm hạnh ác, không có tiếng xấu đồn khắp, cũng không xúc não chúng Tăng, trong đây có hai Tỳ-kheo-ni khác cùng nhau làm hạnh ác, tiếng xấu đồn vang, xúc não chúng Tăng. Các Tỳ-kheo-ni nói: Cô đừng nói như vậy. Tại sao? Trong đây không có hai Tỳ-kheo-ni nào khác làm điều ác, xúc não chúng Tăng mà chỉ có hai cô. Hai cô nên xa nhau, bỏ làm điều ác, bỏ xúc não chúng Tăng, thì ở trong Phật pháp mới tăng thêm sự an lạc. Khi can gián như vậy, họ kiên trì không bỏ, các Tỳ-kheo-ni bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi hai Tỳ-kheo-ni kia: Thật sự các cô có như vậy không? Đáp: Bạch thế Tôn, sự thật chúng con có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nên khiến một Tỳ-kheo-ni nào thân quen với hai Tỳ-kheo-ni kia, đến chỗ vắng khuyên can, nếu họ chấp nhận thì tốt, bằng không thì nên dùng số đông Tỳ-kheo-ni đến khuyên can. Họ chấp nhận thì tốt, bằng không thì nên với danh nghĩa Tỳ-kheo-ni Tăng đến can gián. Các Tỳ-kheo vâng lời dạy, liền sai các Tỳ-kheo-ni đến can Ba lần đều không được chấp nhận. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghiêm khắc quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bằng mọi cách nhắn trách hai Tỳ-kheo-ni kia rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Nếu hai Tỳ-kheo-ni cùng làm hạnh ác, tiếng xấu lan khắp, lại che giấu tội lỗi cho nhau, xúc não chúng Tăng. Các Tỳ-kheo-ni nói: Hai cô là Tỳ-kheo-ni làm hạnh ác, tiếng xấu đồn khắp, lại che giấu tội lỗi cho nhau, xúc não chúng Tăng. Hai cô nên xa lìa nhau, đừng làm các hạnh ác, đừng xúc não chúng Tăng, thì ở trong Phật pháp mới tăng thêm hạnh an lạc. Hai Tỳ-kheo-ni kia nói: Chúng tôi không làm hạnh ác, không có tiếng xấu đồn khắp, không che giấu tội cho nhau, không xúc não chúng Tăng, nơi đây có hai Tỳ-kheo-ni khác cùng nhau làm hạnh ác, xúc não chúng Tăng. Các Tỳ-kheo-ni lại nói: Hai cô đừng nói như vậy. Tại sao? Trong đây không có hai Tỳ-kheo-ni nào khác mà chỉ có hai cô. Hai cô nên xa lìa nhau, đừng làm hạnh ác, đừng xúc não chúng Tăng, thì ở trong Phật pháp tăng thêm hạnh an lạc. Khi can gián như vậy mà hai cô kiên trì không bỏ, thì nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián, bỏ thì tốt, không bỏ thì hai Tỳ-kheo-ni kia, sau Ba lần can gián, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Tư-hưu-ma và Tỳ-kheo-ni Bà-phả cùng nhau làm hạnh ác, tiếng xấu đồn khắp, cho đến câu: Ở trong Phật pháp được tăng thêm sự an lạc trụ (cũng như giới trước đã nói). Hai Tỳ-kheo-ni nói: Chúng tôi không làm hạnh ác, không xúc não chúng Tăng. Tăng thấy chúng tôi yếu thế, khinh dể chúng tôi nên nói như vậy. Các Tỳ-kheo-ni lại nói: Các cô đừng nói như thế. Tại sao? Không phải Tăng thấy các cô yếu thế mà khinh dể các cô, tự các cô làm hạnh ác, xúc não chúng Tăng, các cô cần xa lìa nhau, bỏ làm hạnh ác, đừng xúc não chúng Tăng, thì ở trong Phật pháp mới được an lạc trụ. Khi can gián như vậy mà hai cô kiên trì không bỏ, các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (cũng như trong giới trước đã nói). Từ nay giới này được nói như sau: “Hai Tỳ-kheo-ni nào cùng nhau làm hạnh ác, tiếng xấu đồn vang, lại che giấu tội lỗi cho nhau, xúc não chúng Tăng. Các Tỳ-kheo-ni nói. Hai cô là Tỳ-kheo-ni, đừng nên cùng nhau làm hạnh ác, tiếng xấu vang dội, lại che giấu tội cho nhau, xúc não chúng Tăng. Hai cô nên xa nhau, bỏ các hạnh ác, đừng xúc não chúng Tăng, thì ở trong Phật pháp mới sinh trưởng được an lạc trụ. Hai Tỳ-kheo-ni ấy nói: Chúng tôi không làm hạnh ác, không bị tiếng xấu đồn khắp, không che tội cho nhau, không xúc não chúng Tăng, tự Tăng thấy chúng tôi yếu thế khinh dể chúng tôi nên nói như vậy. Các Tỳ-kheo-ni lại nói: Đừng nói như thế. Tại sao vậy? Không phải Tăng thấy các cô yếu thế khinh dể các cô đâu. Các cô phải xa lìa nhau, bỏ làm hạnh ác, đừng xúc não chúng Tăng, thì ở trong Phật pháp mới được tăng thêm sự an lạc trụ. Khi can gián như vậy mà họ kiên trì không bỏ thì nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián bỏ thì tốt, không bỏ, hai Tỳ-kheo-ni ấy sau Ba lần can gián, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”. Ngoài ra như giới trước đã nói. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, mẹ của Xiển-đà tên là Tu-ma-na, là người có tánh ác. Người thời ấy gọi bà là Chiênđồ Tu-ma-na, ưa cùng với người khác tranh chấp. Tăng xử đoán việc ấy, lại nói: Tăng làm việc theo sự yêu, ghét, si, sợ. Các Tỳ-kheo-ni nói: Cô đừng ưa thích tranh chấp với người khác và cô đừng nói: Tăng làm việc theo sự yêu, ghét, si, sợ. Tại sao vậy? Vì Tăng không làm việc theo sự ưa ghét, si, sợ. Cô nên bỏ câu nói ấy, thì ở trong Phật pháp mới đứng vững, sự an lạc sẽ tăng lên. Khi can gián như vậy mà họ kiên trì không bỏ, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (cũng như giới trước đã nói). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào ưa tranh chấp cùng người khác, Tăng xử đoán việc ấy, lại nói: Tăng làm việc theo sự ưa ghét, si, sợ. Các Tỳ-kheo-ni nói: Cô đừng ưa thích tranh chấp cùng với người khác. Cô đừng nói: Tăng làm việc theo sự ưa ghét, si, sợ. Tại sao vậy? Vì Tăng không làm việc theo sự ưa ghét, si, sợ. Cô bỏ lời nói ấy thì ở trong Phật pháp mới đứng vững càng có thêm sự an lạc. Khi can gián như vậy mà họ kiên trì không bỏ, nên can gián lần thứ hai, thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián bỏ thì tốt, không bỏ, Tỳ-kheo-ni ấy, sau Ba lần can gián, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”. Ngoài ra, như giới trước đã nói.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Chiên-đồ Tu-ma-na ưa thích tranh chấp cùng người khác. Tăng xử đoán việc ấy, cô ta bèn giận dữ nói: Tôi xả Phật, xả Pháp, xả Tăng, xả giới theo ngoại đạo. Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng có học giới, cũng có hổ thẹn, tôi sẽ đến với họ tịnh tu phạm hạnh. Các Tỳ-kheo-ni nói: Cô đừng nên ưa thích tranh chấp với người khác, cô đừng nên nói: Tôi xả Phật, cho đến câu: Tôi sẽ đến với họ tu phạm hạnh. Tại sao vậy? Vì Sa-môn, Bà-la-môn khác không có học giới, không có hổ thẹn, cô làm sao đến với họ mà tu phạm hạnh được?! Cô nên xả bỏ ác kiến ấy, trong Phật pháp mới được tăng nhiều an lạc trụ. Khi can gián như vậy mà họ kiên trì không bỏ, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (cũng như trong giới trước đã nói). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào ưa thích tranh chấp với kẻ khác, Tăng xử đoán việc ấy, bèn nói: Tôi xả Phật, xả Pháp, xả Tăng, xả giới làm ngoại đạo. Sa-môn, Bà-la-môn khác cũng có học giới, cũng có hổ thẹn, tôi sẽ đến với họ tịnh tu phạm hạnh. Các Tỳ-kheo-ni nói: Cô đừng nên ưa thích tranh chấp với người khác. Cô đừng nên nói: Tôi xả Phật, xả Pháp, xả Tăng. Tại sao vậy? Vì Sa-môn, Bà-la-môn khác không có học giới, không có hổ thẹn, làm sao cô đến với họ mà tu phạm hạnh được?! Cô nên bỏ ác kiến ấy thì trong Phật pháp mới có thêm sự an lạc rộng lớn. Khi can gián như vậy mà họ kiên trì không bỏ, nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba, can gián bỏ thì tốt, không bỏ, Tỳ-kheo-ni ấy, sau Ba lần can gián rồi thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cần phải hối quá”. Ngoài ra như trong giới trước đã nói. Các pháp Tăng Tàn đã nói xong.
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly thưa hỏi: Đức Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết giới: Tỳ-kheo nào ba y đã may xong, y Ca-hi-na đã xả, y dư được chứa đến mười ngày, nếu chứa quá, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, cho đến câu: Tỳ-kheo nào tự tay cầm vàng bạc và tiền, hoặc khiến người cầm, hoặc khởi tâm thọ nhận, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Chúng con nên thọ trì thế nào? Đức Phật dạy: Cả hai bộ Tăng nên thọ trì. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, ba y đã may xong, y Ca-hi-na đã xả, y dư được chứa cho đến mười ngày, nếu chứa quá, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
“Tỳ-kheo-ni nào, y đã may xong, y Ca-hi-na đã xả, trong năm y nếu lìa mỗi một y nào, ngủ quá một đêm, trừ Tăng Yết-ma, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
“Tỳ-kheo nào, y đã may xong, y Ca-hi-na đã xả, được y phi thời, nếu cần thì nhận, phải mau chóng làm thành để thọ trì. Nếu đủ thì tốt, không đủ, mong có chỗ để cho đủ, chờ một tháng, nếu chờ quá, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
“Tỳ-kheo-ni nào, đến chỗ cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải bà con xin y, trừ có nhân duyên, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Nhân duyên là: Y bị đoạt, bị mất, bị cháy, bị trôi, bị hư hoại, như vậy gọi là nhân duyên.
“Tỳ-kheo-ni nào, y bị đoạt, bị mất, bị cháy, bị trôi, bị hư hoại, đến nơi Cư sĩ hay vợ Cư sĩ không phải bà con xin y. Nếu Cư sĩ, vợ Cư sĩ muốn cúng nhiều y, Tỳ-kheo-ni ấy nên nhận hai y, nếu nhận quá, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
“Trường hợp Cư sĩ, vợ Cư sĩ không phải bà con cùng nhau bàn luận: Nên dùng số tiền may y như thế, may y cho Tỳ-kheo-ni có tên… Tỳ-kheo-ni ấy trước không được mời tùy ý nhận, bèn đến chỗ cư sĩ, vợ Cư sĩ hỏi: Người vì tôi dùng số tiền may y như thế phải không? Người kia công nhận là có. Tỳ-kheo-ni nói: Lành thay! Cư sĩ, vợ Cư sĩ có thể may y như vậy, như vậy cho tôi. Vì muốn đẹp, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
“Trường hợp Cư sĩ, vợ Cư sĩ không phải bà con cùng nhau nghị bàn: Mỗi người chúng ta nên dùng số tiền như thế để may y cho Tỳ-kheo-ni có tên… Tỳ-kheo-ni ấy trước không nhận lời mời theo ý muốn, mà đến hỏi Cư sĩ, vợ Cư sĩ: Quý vị vì tôi dùng số tiền như thế để may y cho tôi phải không? Vâng, đúng như vậy. Tỳ-kheo-ni bèn nói: Lành thay! Cư sĩ, vợ Cư sĩ có thể hợp lại may một y cho tôi. Vì muốn đẹp nên phạm Ni-tát-kỳ-Ba-dật-đề”.
“Trường hợp Vua, Đại thần, Bà-la-môn, cư sĩ vì Tỳ-kheo-ni nên sai sứ giả đem tiền may y đến. Sứ giả đến chỗ Tỳ-kheo-ni nói: Thưa sư cô! Vua, Đại thần… sai tôi mang số tiền may y này đến, sư cô nhận cho. Tỳ-kheo-ni ấy nói: Tôi không được phép nhận tiền để may y. Nếu được tịnh y thì tôi sẽ nhận thọ trì. Sứ giả nói: Sư cô có người chấp sự nào không? Tỳ-kheo-ni liền chỉ chỗ người chấp sự. Sứ giả đến chỗ người chấp sự nói: Vua, Đại thần sai tôi đem số tiền may y này đến cho Tỳ-kheo-ni tên… Người vì sư cô nhận số tiền này để may y cho sư cô! Sứ giả giao tiền rồi, trở lại chỗ Tỳ-kheo-ni nói: Thưa sư cô! Người chấp sự sư cô chỉ, tôi đã giao tiền rồi. Khi nào cần y, sư cô có thể đến lấy. Khi cần y, Tỳ-kheo-ni ấy hai lần, Ba lần đến chỗ người chấp sự nói: Tôi cần y! Tôi cần y! Nếu nhận được y thì tốt, bằng không thì đến lần thứ tư, lần thứ năm, lần thứ sáu đứng im lặng trước người chấp sự. Nhận được y thì tốt, nếu đến quá sáu lần để mong cầu được y thì phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Trường hợp cuối cùng không nhận được y thì nên tự mình đến chỗ người cúng y, hoặc sai người đến nói: Người vì Tỳ-kheo-ni… sai người đem tiền cúng y đến, cuối cùng Tỳ-kheo-ni… không nhận được y, người nên đến lấy lại chứ đừng để mất. Sự việc như vậy nên giải quyết như vậy”.
“Tỳ-kheo-ni nào tự mình đi xin tơ tằm, thuê thợ dệt, dệt y, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
“Trường hợp Cư sĩ, vợ Cư sĩ thuê thợ dệt dệt y, Tỳ-kheo-ni ấy trước không nhận được lời, mới tùy ý mà đến thợ dệt nói: Người biết chăng? Y này họ vì tôi may, người nên vì tôi dệt cho tốt, vừa rộng vừa dài, bền chắc tôi sẽ trả ơn riêng cho ông. Sau đó trả ơn bằng một bữa ăn hay trị giá bằng một bữa ăn. Khi nhận được y, phạm Ni-tátkỳ-ba-dật-đề”.
“Tỳ-kheo-ni nào cho y cho Tỳ-kheo-ni, sau vì giận không vui, tự mình đoạt lại, hay sai người đoạt lại, nói: Trả y lại cho tôi, tôi không cho cô, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
“Tỳ-kheo-ni nào biết đàn-việt muốn cúng vật cho Tăng, mà xoay về cho mình, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
“Tỳ-kheo-ni bệnh nào được uống bốn thứ thuốc hàm tiêu như tô, dầu, mật, thạch mật, một lần thọ được để đến bảy ngày, nếu để quá phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
“Tỳ-kheo-ni nào hoặc tiền hay hậu an cư, còn mười ngày nữa mới đến lễ Tự tứ, nhận được y cấp thí, nếu cần thì nhận, cho đến thời của y, nếu để quá, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
“Tỳ-kheo-ni nào bình bát bị nứt chưa đủ năm đường, lại xin bát mới, vì muốn đẹp, phạm Ni-tátkỳ-ba-dật-đề”.
“Tỳ-kheo-ni nào mua bán bằng mọi cách để cầu lợi, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
“Tỳ-kheo-ni nào dùng vàng, bạc và tiền để trao đổi, mua bán các loại, phạm Ni-tát-kỳ-Ba-dật-đề”.
“Tỳ-kheo-ni nào tự tay cầm vàng bạc và tiền, hoặc sai người cầm, hay có tâm thọ nhận, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà đến xin bát nơi người bán quán. Người bán quán mua bát cho. Khi nhận được bát, cô ta lại nói: Tôi không cần bát, có thể cho tôi tô. Người bán quán lại cho tô, rồi đem cái bát vừa mua bán lại. Người bán quán kế bên thấy vậy nói: Bán các thứ hiện có nơi quán không đủ sống hay sao nay lại vì người bán thêm bát? Người bán quán nói: Cô ni Thâu-lanan-đà đến tôi xin bát, tôi mua bát cho. Cô ta lại nói không dùng, xin tôi tô, tôi cho tô, nên bán lại cái bát này. Mọi người nghe đều nói: Phàm phép người đi xin thì lấy cái mình xin, tại sao “Được voi lại đòi tiên” là thế nào?! Đám người này thường nói ít ham muốn, biết vừa đủ, nay lại không hề biết nhàm chán, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi Thâu-la-nan-đà: Thật sự cô có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật con có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào vật gì đã xin trước được rồi, lại không dùng, đòi xin thứ khác, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Tùy theo vật xin lại nhiều hay ít, mỗi thứ đều phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Thức-xoa-ma-na Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo-ni dùng y phi thời làm y để thọ trì, nên các Tỳ-kheo-ni khách không thể nhận được y. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy, bèn quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi các Tỳ-kheo-ni:
Thật sự các cô có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật chúng con có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào dùng y phi thời làm thời y, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Y này nên xả cho Tăng, không được xả cho một, hai hoặc ba Tỳ-kheo-ni. Thức-xoa-ma-na, Sa-dini phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo-ni cấp hạ tọa, ít người quen biết, nhận được vải chưa may thành y, lại không biết may, mang đến chỗ các Tỳ-kheo-ni nói: Con là hạnh tối hạ tọa, không quen biết ai, cầu mong các cô may giùm y cho con. Các Tỳ-kheo-ni nói: Chúng tôi công việc đa đoan, không thể may cho cô được. Cô có thể đến nơi Thâu-lanan-đà hỏi xem sao! Cô ấy có nhiều y may đã thành, có thể trao đổi mua bán, hoặc là cô ta may giùm. Tỳ-kheo-ni ấy liền đem vải đến thưa hỏi Thâu-la-nan-đà. Thâu-la-nan-đà lấy y đã may sẵn đổi lấy vải. Tỳ-kheo-ni hạ tọa nhận được y rồi đem về trú xứ. Các Tỳ-kheo-ni hỏi: Cô được y chưa? Cô ta đáp lời: Được rồi. Lại hỏi: Cô nhận được y từ vị nào? Thưa: Thâu-la-nan-đà. Các Tỳ-kheo-ni nói: Đem y đến để cùng xem với! Chiếc y được mang ra và các cô xem xét. Các Tỳ-kheo-ni nói: Chiếc y này tốt hơn chỗ vải của cô gấp bội. Chưa cô nào được điều may mắn như thế. Nay bỗng dưng cô được việc ấy là điều rất hy hữu. Khi đó, Thâu-la-nan-đà ở cách vách nghe được, bèn nói với Tỳ-kheo-ni hạ tọa: Cô trả chiếc y của tôi lại, tôi không đổi cho cô. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn quở trách cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (cũng như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, đổi y cho Tỳ-kheo-ni khác, sau hối tiếc đòi trở lại, nhận được y, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu cả hai bên đều hối tiếc, nhận được y, không đúng như lời cam kết, thì lấy lại, không phạm.
Khi đó, mẹ của Tỳ-xá-khư phát tâm cúng cho Tỳ-kheo-ni Tăng đồ mặc khi có nguyệt thủy, sai người đến đo kích cỡ để may. Chư ni đều để đo, chỉ có Thâu-la-nan-đà không cho đo lại nói với người thừa lệnh: Tôi đã lìa dục, không còn nguyệt thủy, không cần đồ mặc ấy. Tỳ-xá-khư-mẫu may y xong, sai người đến thưa với các Tỳ-kheo-ni: Y may đã xong, mời các cô đến nhận. Các Tỳ-kheo-ni đều đến để nhận. Khi ấy, nhằm lúc Thâu-lanan-đà đang có nguyệt thủy, bèn nhận y trước. Theo thứ tự các Tỳ-kheo-ni nhận y, y bị thiếu không đủ, vị ni hạ tọa không nhận được y. Tỳ-xákhư-mẫu hỏi: Chư ni nhận đủ hết y chứ? Có vị đáp: Vị ni hạ tọa không nhận được. Hỏi: Tại sao vậy? Các cô nói: Vì Thâu-la-nan-đà trước đây nói không cần, nên không cho đo cỡ, nay lại lấy trước, nên thiếu y?! Tỳ-xá-khư-mẫu nói: Tại sao trước nói không cần, nay lâm sự lại lấy trước, làm cho người khác phải thiếu! Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (cũng như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, các Tỳ-kheo-ni nói: Cô lấy đồ mặc khi có nguyệt thủy, tự mình nói: “Không dùng” đến khi đó lại lấy trước, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Y này nên xả cho Tăng, không được xả cho một, hai, ba vị Tỳ-kheo-ni. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Trường hợp tuy trước nói không dùng, nhưng sau do y có dư mà nhận thì không phạm.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà thường ra vào trong vương cung của Vua Ba-tư-nặc. Nhà Vua nói: Thưa cô, cô có cần gì cứ đến chỗ tôi lấy. Cô ni nói: Tôi cần cái y nhiều lớp (áo ấm). Nhà Vua nói: Cô đến hậu cung lấy. Cô ni lại nói: Tôi muốn chiếc y Khâm-bà-la Vua đang mặc. Nhà Vua liền cúng. Các quan dị nghị, nói: Tỳ-kheo-ni này xuất gia trong pháp vô vi, mặc áo hoại sắc cắt rọc, nay tại sao lại đòi xin áo Vua đang mặc. Tuy nhà Vua không tiếc, nhưng người thọ nhận phải tự lượng sức của mình chứ. Các người này thường nói ít ham muốn, biết vừa đủ mà nay không nhàm chán, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn.
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Hắc-ly-xa được các Ly-xa ở Tỳ-xá-ly cung kính cúng dường, vì mọi người khi bị kiện thưa, nhờ cô ta giúp đỡ, họ đều hoan hỷ nói: Chúng ta nhờ cô ni được khỏi tội, nay hỏi cô cần thứ gì chúng ta cùng nhau phụng sự. Cô ni nói: Tôi cần y dày (áo ấm). Họ hỏi: Cô cần y dày trị giá bao nhiêu? Tôi cần y dày trị giá một ngàn tiền. Họ bèn dè bỉu: Chúng ta dùng phí tổn cho việc kiện thưa ấy, dù có gấp năm, sáu lần hơn cũng không bằng với ngân khoản này. Các người này thường nói ít muốn, biết đủ mà nay không nhàm chán! Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe bèn nghiêm khắc quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. (cũng như trên). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào xin y dày (áo ấm) thì nên nhận lấy loại kém giá trị nhất, ngang với bốn đại tiền mà thôi, nếu nhận cái quý giá, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Y dày là y mặc trong khi lạnh. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Lúc này, Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà lại đến Vua Ba-tư-nặc xin chiếc “Y mỏng” (áo mặc mùa nóng) nhà Vua đang mặc và Tỳ-kheo-ni Hắc-lyxa đến các người Ly-xa đòi “Y mỏng” trị giá năm trăm tiền. Các quan và mọi người dị nghị… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (cũng như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào xin “Y mỏng” chỉ nên nhận thứ kém giá trị, ngang với hai tiền rưỡi mà thôi, nếu nhận y quý giá, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Y mỏng là loại y mặc lúc nóng. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Sai-ma đến thành Xá-vệ, Bố-tát nơi đất trống, bị gió mưa đất bụi mòng muỗi gây phiền toái. Tỳ-kheo-ni cựu trú nói với một Cư sĩ: Nay Tỳ-kheo-ni Tăng Bố-tát giữa trời, gặp phải những phiền toái như vậy, như vậy, như lời Phật dạy: Nếu cúng dường phòng nhà cho Tăng là điều tốt nhất. Lành thay Cư sĩ! Có thể vì Tăng làm nhà Bố-tát. Người Cư sĩ nói: Tôi bận nhiều việc không thể tự mình làm được. Tôi có thể cung cấp vật liệu, nhờ cô coi ngó làm giùm, khi nào xong nói với tôi, tôi sẽ đến dâng cúng cho Tăng. Các Tỳ-kheo-ni sau khi nhận được phương tiện lại cùng nhau bàn: Y phục chúng ta bị rách nát, số phương tiện này có thể chia cho nhau để may y phục, chúng ta chịu khó Bố-tát ngoài trời. Bàn như vậy xong, họ chia nhau may y, rồi nói với Cư sĩ: Người nên hoan hỷ, y phục của các Tỳ-kheo-ni bị rách nát, nên phương tiện đó chư ni chia nhau để may y rồi. Cư sĩ nghe rồi, trách cứ nói: Tôi không hoan hỷ được. Tại sao vậy? Trước đây nói: Cúng dường nhà Bố-tát là điều tốt nhất, tại sao nay lại đem may y phục?! Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe nghiêm khắc quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (cũng như trên). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, vì Tăng làm việc gì đó đến chỗ cư sĩ xin phương tiện, rồi lại đem làm việc khác, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Nếu khởi tâm muốn phân chia cho đến tạo phương tiện để chia, phạm Đột-kiết-la. Vật ấy nên xả cho Tăng, không được xả cho một, hai, ba Tỳ-kheo-ni. Thức-xoa-ma-na,
Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Trường hợp tuy vì việc gì đó xin của đàn-việt, sau đó họ đồng ý làm việc khác thì không phạm.
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Sai-ma Bố-tát giữa trời… cho đến câu: Bị mồng muỗi gây phiền toái (như trước đã nói). Các Tỳ-kheo-ni cần làm nhà Bố-tát đi khắp nơi xin phương tiện… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước đã nói). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào vì Tăng làm việc gì đó, đến các nhà Cư sĩ xin phương tiện rồi đem làm việc khác, phạm Ni-tát-kỳ- ba-dật-đề”. Ngoài ra, như giới trước đã nói.
Lúc này, Tỳ-kheo-ni Sai-ma không có chỗ để nghỉ ngơi, đến một Cư sĩ nói: Tôi không có chỗ để nghỉ ngơi, làm cho tôi một Tinh xá. Cư sĩ nói: Không rảnh để làm, chỉ xin cúng vật liệu. Khi nhận được phương tiện rồi, Sai-ma lại nghĩ: Y phục ta bị rách nát nên dùng phương tiện để may y, còn nơi nghỉ thì không thiếu gì. Sau khi may y xong, Sai-ma nói với Cư sĩ… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (cũng như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tự mình đến một Cư sĩ xin phương tiện để làm việc gì đó, rồi đem dùng làm việc khác, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Ngoài ra như trước đã nói.
Bấy giờ, Tỳ-kheo Sai-ma không có nơi để nghỉ ngơi, đến nhiều nhà Cư sĩ xin phương tiện… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới (cũng như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, cần làm việc gì cho mình, đến nhiều nhà Cư sĩ xin phương tiện, rồi đem làm việc khác, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Ngoài ra như trước đã nói.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni dồn chứa nhiều vật dụng. Trước chùa, sau chùa, trong chùa chỗ nào cũng có. Chùa bị cháy, chư ni di chuyển đồ vật ra nhiều vô số, các Cư sĩ chữa cháy thấy hỏi: Đồ của ai nhiều thế? Được trả lời: Vật dụng này là của các Tỳ-kheo-ni. Họ dị nghị nói: Hạng người này chẳng làm được việc lớn, xuất gia trong pháp vô vi, mặc áo hoại sắc cắt rọc may thành, mà dồn chứa vật dụng nhiều như quốc vương, Đại thần. Họ thường nói ít muốn, biết vừa đủ mà nay lại dồn chứa không nhàm chán, không có hạnh của Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách… cho đến câu: Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (cũng như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào dồn chứa nhiều vật dụng, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Vật dụng tức đồ dùng cho cuộc sống. Luật chỉ cho phép chứa tô, dầu, mật, hương dược, mỗi thứ có một cái bình để đựng. Cho phép chứa chõ, vạc, thìa, Bình-sành, mỗi thứ một cái để đựng thức ăn, chứa quá mức định, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề. Thức-xoa-ma-na, Sadi-ni phạm Đột-kiết-la.
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni dồn chứa nhiều bình bát… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (cũng như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào dồn chứa nhiều bình bát, phạm Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề”. Cho phép chứa bảy loại bát thô:
1. Đựng cơm.
2. Đựng hương.
3. Đựng nước.
4. Đựng thuốc.
5. Đựng rác.
6. Đựng thức ăn dư.
7. Đựng nước tiểu.
Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Các pháp Xả đọa đã nói xong.
---------------------
Đức Phật ở thành Xá-vệ. Bấy giờ Tôn giả Ưuba-ly thưa hỏi: Đức Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết giới: “Tỳ-kheo nào cố ý nói dối phạm Ba-dật-đề… cho đến giới: Tỳ-kheo nào biết đàn-việt muốn cúng vật cho Tăng mà xoay về cho người khác, phạm Ba-dật-đề”. Chúng cho nên thọ trì thế nào? Đức Phật dạy: Cả hai bộ Tăng nên thọ trì. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cố ý nói dối, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào chê trách Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào nói hai lưỡi gây đấu loạn cho Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào vì người nam nói pháp quá năm, sáu lời, trừ khi có người hiểu biết phân biệt lời nói tốt xấu, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào biết Tăng như pháp phán đoán sự việc rồi, phát khởi trở lại, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào dạy người nữ chưa thọ giới Cụ túc học kinh và tụng, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào cùng người nữ chưa thọ giới Cụ túc đồng ngủ một nhà quá hai đêm, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào hướng đến người nữ chưa thọ giới Cụ túc nói mình được pháp hơn người, như nói tôi biết như vậy, tôi thấy như vậy, dù là sự thật, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào biết tội thô ác của Tỳ-kheo-ni đến nói với người nữ chưa thọ đại giới, trừ Tăng Yết-ma, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào nói như vầy: Phiền gì phải tụng những giới vụn vặt, khi tụng giới này khiến cho người phiền não, chê bai giới như vậy, phạm Ba-dật-đề”. Đã nói xong mười pháp.
“Tỳ-kheo-ni nào tự mình chặt phá thôn xóm của quỷ thần, hoặc sai người chặt hay nói: Chặt cây này, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào cố ý không trả lời câu hỏi, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào nơi đất trống tự mình trải tọa cụ của Tăng, hoặc sai người trải, hoặc người khác trải mà mình nằm ngồi, khi đi không dọn, không bảo người dọn, không dặn ai dọn, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào, trong phòng của Tăng, hoặc sai người trải, tự mình trải tọa cụ của Tăng, hoặc người khác trải mà mình nằm ngồi, khi đi không dọn, không bảo người dọn, không dặn ai dọn, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào vì giận, không vui, ở trong phòng của Tăng tự mình kéo Tỳ-kheo-ni ra, hoặc sai người kéo, nói như vầy: Cô đi khỏi chỗ này, cho khuất mắt, đừng ở nơi đây nữa, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào biết người khác đã trải tọa cụ trước, mình đến sau cưỡng bức tự trải, hay bảo người trải, với ý niệm: Nếu họ không vui sẽ tự bỏ đi chỗ khác, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào trên nhà gác của Tăng, ngồi mạnh trên giường dây, giường cây có chân nhọn, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào biết nước có trùng mà nhồi đất, tưới cây, hay dùng trong việc ăn uống, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào ăn mãi ăn hoài, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”. Nhân duyên: Khi bệnh, khi dâng y gọi là nhân duyên.
Đã nói xong hai mươi pháp.
“Tỳ-kheo-ni nào nhận ăn riêng chúng, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”. Nhân duyên là khi bệnh, khi thời của y, khi dâng y, khi may y, khi đi đường, khi đi trên thuyền, khi đại hội, như vậy gọi là nhân duyên. “Tỳ-kheo-ni nào không bệnh, nơi chỗ cúng một bữa ăn, mà nhận quá một bữa, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào đến nhà bạch y, họ cho nhiều thức ăn như bánh như bún, nếu không vào tại nhà đó ăn, nhận hai, ba bát đem về, nên chia cho các Tỳ-kheo-ni khác cùng ăn. Nếu không có bệnh mà nhận quá và không chia cho các Tỳ-kheo-ni khác cùng ăn, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào ăn rồi, không làm pháp tàn thực mà ăn, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào biết Tỳ-kheo-ni ăn xong rồi, không làm pháp tàn thực, cố sức nài nỉ bảo ăn, muốn cho cô kia phạm, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào không thọ thức ăn mà để vào miệng, trừ nếm, cành dương và nước uống, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào trong nhà ăn, cùng nam tử ngồi chỗ vắng, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào xem coi quân trận khởi hành, phạm Ba-dật-đề”.
Đã nói xong ba mươi pháp.
“Tỳ-kheo-ni nào có nhân duyên đến trong quân đội, cho tới hai, ba đêm, nếu ở quá, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào có nhân duyên tới trong quân đội hai, ba đêm mà xem quân đội hợp đồng chiến đấu, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào nói như vậy: Như chỗ tôi hiểu, những gì Phật dạy là pháp chướng đạo thì không có gì là chướng đạo cả. Các Tỳ-kheo-ni nói với Tỳ-kheo-ni ấy: Cô chớ nên nói như vậy, chớ hủy báng Đức Thế Tôn, chớ vu khống Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nói pháp chướng đạo, thật sự là chướng đạo. Cô nên bỏ tà kiến ác đó đi. Khi can gián như vậy mà kiên trì không bỏ, nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián, bỏ thì tốt, không bỏ, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào biết Tỳ-kheo-ni như vậy không như pháp sám hối, không bỏ tà kiến ác mà cùng chuyện vãn, cùng ngồi, cùng ngủ, cùng làm việc, phạm Ba-dật-đề. Sa-dini nào nói như vậy: Như chỗ tôi hiểu biết những lời đức dạy là thọ năm dục, không có gì trở ngại đối với đạo. Các Tỳ-kheo-ni nói với Sa-di-ni ấy: Cô chớ nên nói như vậy, chớ hủy báng Phật, chớ vu khống Phật. Đức Phật nói, năm dục là pháp chướng đạo thì sự thật là chướng đạo. Này Sa-dini! Cô nên bỏ tà kiến ác đó đi. Khi khuyên can như vậy mà cô ấy kiên trì không bỏ, nên khuyên can lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba, không bỏ, các Tỳ-kheo-ni nên nói với Sa-di-ni ấy: Cô nên đi khỏi chỗ này, từ nay đừng nói: “Đức Phật là thầy của tôi nữa”, cô đừng nên đi sau các Tỳ-kheo-ni như các Sa-di-ni khác, được phép cùng phòng ngủ với các Tỳ-kheo-ni hai đêm, cô cũng không được việc ấy. Cô là kẻ ngu si nên mau đi khỏi chỗ này, chớ ở nơi đây nữa, Tỳ-kheo-ni nào biết Sa-di-ni đã bị tẫn xuất như pháp như vậy mà đem về nuôi, cùng ở cùng nói chuyện, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào cố ý làm cho Tỳ-kheo-ni khác sinh nghi hối với ý niệm: Khiến Tỳ-kheo-ni kia nghi hối, cho đến, dù chỉ gây xúc não một thời gian ngắn, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào, khi Tăng xử đoán sự, không gởi dục mà đứng dậy bỏ đi, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào thọc lét Tỳ-kheo-ni khác, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào giỡn trong nước, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào cùng với đồng nam tử cùng ngủ một nhà, phạm Ba-dật-đề”. Đã nói xong bốn mươi pháp.
“Tỳ-kheo-ni nào uống rượu, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào khinh thường thầy, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào tự mình đào đất, hoặc sai người đào nói: Đào chỗ này, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào cùng cãi lộn rồi lặng lẽ lén nghe với ý niệm: Các Tỳ-kheo-ni có nói việc gì, ta sẽ ghi nhớ, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào nhận bốn tháng mời như ý muốn, nhận quá, trừ mời lại, tự đưa thức ăn đến, mời thời gian lâu, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào thường thường phạm tội, các Tỳ-kheo-ni như pháp can gián, lại nói: Tôi không học giới này, sẽ hỏi Tỳ-kheo-ni khác, trì pháp, trì luật, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào khi thuyết giới, nói như vầy: Nay tôi mới biết pháp này, rút ra từ Giới kinh, mỗi nửa tháng thuyết một lần. Các Tỳ-kheo-ni biết Tỳ-kheo-ni này có đến hai, Ba lần ngồi Bố-tát. Tỳ-kheo-ni ấy không phải do không biết mà thoát khỏi tội. Tùy theo chỗ phạm tội như pháp xử trị, lại cộng thêm cái tội không để ý nghe nói: Điều cô làm bất lợi cho cô, khi thuyết giới, không một lòng lắng nghe, không Ưu-tâm để nghe, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào hẹn cùng đi với đám giặc từ xóm làng này đến xóm làng kia, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào hẹn với nam tử cùng đi một đường, từ xóm làng này đến xóm làng kia, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào không bệnh mà vì sưởi ấm, tự mình cố ý nhóm lửa hoặc sai người nhóm, phạm Ba-dật-đề”. Đã nói xong năm mươi pháp.
“Tỳ-kheo-ni nào tự mình cầm hay sai người cầm vật báu hay các vật quý, trừ nơi Tăng phường hay trong chỗ nghỉ lại đêm, phạm Ba-dật-đề”. Trong Tăng phường hay chỗ nghỉ đêm lấy vật báu hay các vật quý giá, sau có người chủ đến đòi thì trả lại. Việc như vậy nên giải quyết như vậy. “Tỳ-kheo-ni mỗi nửa tháng tắm một lần, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề”. Nhân duyên là khi bệnh, khi làm việc, khi đi đường, khi mưa gió, khi nóng bức, như vậy gọi là nhân duyên. “Tỳ-kheo-ni nào giận dữ cố ý đánh Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào giận dữ đưa tay toan đánh Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào cố ý khủng bố Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào dùng Tăng-già-bà-thi-sa không căn cứ vu báng Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào nói Tỳ-kheo-ni kia cùng đến các nhà sẽ cho các thức ăn ngon, khi đến rồi không cho, lại nói: Cô đi chỗ khác, cùng cô ngồi nói chuyện không vui, ngồi một mình nói chuyện một vui hơn, cố ý gây phiền não cho cô kia, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào nhận được y mới, nên dùng ba loại màu hoặc xanh hoặc đen hoặc lam để làm dấu, không dùng phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào vì đùa giỡn giấu y bát, tọa cụ, ống đựng kim của Tỳ-kheo-ni khác, cho đến tất cả những tư cụ dùng trong sinh hoạt hàng ngày, hoặc sai người giấu, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào khi Tăng đoán sự đúng pháp, trao dục rồi, sau lại trách cứ, phạm Ba-dật-đề”.
Đã nói xong sáu mươi pháp.
“Tỳ-kheo-ni nào nói như vầy: Các Tỳ-kheo-ni tùy theo sự quen biết của mình mà xoay vật của Tăng về cho người ấy, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào tịnh thí y cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, rồi cưỡng đoạt lấy lại, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào nhận lời mời của người khác, trước bữa ăn sau bữa ăn đi đến các nhà khác, không tiếp cận để báo cho Tỳ-kheo-ni khác, trừ nhân duyên, phạm Ba-dật-đề. Nhân duyên là thời gian của y, gọi là nhân duyên. Tỳ-kheo-ni nào dùng bông đâu-la để dồi tọa cụ, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào tự mình làm vật dụng nằm ngồi, giường dây, giường cây thì chân của nó nên cao tám ngón tay của Đức Tu-già-đà, trừ phần vào lỗ mộng, nếu cao quá, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào dùng xương, răng sừng làm ống đựng kim, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào may y nên may đúng lượng y của Đức Tu-già-đà, nếu quá, phạm Ba-dật-đề. Lượng y của Tu-già-đà là dài chín gang tay, rộng sáu gang tay. Như vậy gọi là lượng y của đức Tu-giàđà. Tỳ-kheo-ni nào biết đàn-việt muốn cúng vật cho Tăng mà xoay về cho người khác, phạm Ba-dật-đề”.
Đã nói xong sáu mươi tám pháp.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni ăn tỏi sống, tỏi chín trước giờ ngọ, sau giờ ngọ, hoặc ăn riêng tỏi, hoặc ăn với thức ăn, mùi tỏi làm hôi hám phòng xá. Các Cư sĩ đến thăm nghe mùi tỏi chê trách nói: Giống hệt nhà bếp của bạch y. Lại có Tỳ-kheo-ni đến nhà ông Trưởng giả, ông Trưởng giả nghe mùi hôi của tỏi, nói: Các cô đi ra khỏi chỗ này vì miệng các cô hôi tỏi quá. Các Tỳ-kheo-ni xấu hổ. Lại có một người buôn tỏi, cúng tỏi cho các Tỳ-kheo-ni, do việc làm này, đưa đến sự sa sút liên tục về khẩu phần ăn uống, người ăn kẻ ở trong gia đình nói: Nếu không thể cung cấp sự sống cho chúng tôi thì để chúng tôi đi tìm sự sống nơi chỗ khác, ông bà tự dài lưng ra mà làm đầy tớ cho đám Tỳ-kheo-ni kia. Người hàng xóm nghe thế đều chê trách nói: Nhà ông bà đã không đủ ăn, tại sao phải nuôi các Tỳ-kheo-ni?! Để trả lời, nhà buôn kia trình bày sự thật. Có người không tin ưa Phật pháp nói: Do ông gần gũi Tỳ-kheo-ni nên đưa đến tình trạng khổ như thế, nếu còn tiếp tục gần gũi sẽ còn khổ hơn nữa. Những người này xuất gia chủ yếu là cầu giải thoát, mà nay tham đắm của ngon vật lạ, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Cũng như trước). Từ nay giới này được nói như sau: Tỳ-kheo-ni nào ăn tỏi phạm Ba-dật-đề. Nếu ăn tỏi sống thì một lần nuốt phạm một Ba-dật-đề. Ăn tỏi chín phạm Độtkiết-la. Nếu khi bệnh ăn, hay cường lực bắt ăn thì không phạm.
Lúc này, có các Tỳ-kheo-ni dùng tay vỗ nữ căn, để phát sinh tâm dục, khiến đã có người hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Thâu-la-nan-đà cũng dùng tay vỗ nữ căn, nữ căn sưng lớn không thể đi được. Đệ tử đến những gia đình thường cúng dường nói: Thầy bệnh cần thức ăn. Những gia đình ấy liền cung cấp cho. Giới phụ nữ trong gia đình ấy tìm đến thăm hỏi: Sư cô bệnh gì? Thâu-la-nan-đà trả lời:
Tôi bệnh. Lại hỏi: Chứng bệnh ấy như thế nào? Chúng ta đồng là nữ giới tại sao không tỏ bày? Thâu-la-nan-đà bèn nói sự thật. Thế là các Cư sĩ nữ đâm ra dị nghị mỉa mai: Những người này thường chê trách về dục, về tưởng đến dục, bị dục thiêu đốt, cảm giác về dục, mà nay lại làm việc như vậy, sao không thôi tu để thọ hưởng năm dục lạc! Họ không có hạnh Sa-môn, phá pháp Samôn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (cũng như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào dùng tay vỗ nữ căn, phạm Ba-dật-đề”. Dùng tay vỗ thì mỗi lần vỗ phạm một Ba-dật-đề, xuất bất tịnh thì phạm Thâu-lan-giá. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Đã nói xong bảy mươi pháp.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni dùng hồ giao (keo) làm nam căn để vào nữ căn nhằm sinh tâm dục, nên có vị hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Lại có Tỳ-kheo-ni cột “Hồ giao căn” vào gót chân rồi đặt vào nữ căn. Lúc ấy, một Thức-xoa-ma-na khử dầu bị phát hỏa cháy phòng, Tỳ-kheo-ni kia hoảng hồn quên mở cái “Bửu bối” đó, mang nó chạy ra ngoài. Mọi người đến chữa lửa, thấy hỏi: Sư cô mang cái gì ở gót chân vậy? Sư cô nói sự thật, liền bị người chê trách nói… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Cũng như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào làm nam căn để vào nữ căn, phạm Ba-dật-đề”. Xuất bất tịnh thì phạm Thâu-lan-giá. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni hoặc dùng một ngón tay hoặc cả năm ngón tay để rửa bên trong nữ căn, nên bị tổn thương, ra máu, đưa đến bệnh hoạn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Cũng như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào dùng nước rửa nữ căn, phạm Ba-dật-đề”. Đã bị chế cấm như thế, nên khi trời nóng, nữ căn bất tịnh hôi hám sinh trùng. Tỳ-kheo-ni Ba-xà-ba-đề cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni đến chỗ Đức Phật, bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Người nữ chúng con hình thể hôi hám, phải nhờ nước để rửa, xin Ngài chấp thuận cho. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo-ni dùng nước tác tịnh, Đức Phật cho phép rồi, chư ni lại dùng phương pháp như trước, các Tỳ-kheo-ni thấy, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Bảo các Tỳ-kheo… (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào dùng nước rửa nữ căn, chỉ nên dùng hai ngón tay, đưa vào ngang bằng một đốt để rửa, nếu quá mức, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu trong căn có ghẻ, hoặc có trùng, hoặc cỏ hay cát bụi vào thì dùng quá một lóng tay không phạm.
Lúc đó, các Tỳ-kheo-ni cạo lông trên hai chỗ: Dưới nách và chỗ kín để sinh tâm ái dục, nên có người hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Lúc ấy, Thâu-la-nan-đà cũng tự mình cạo lông chỗ kín. Nhà người thí chủ có người con gái sắp lấy chồng, muốn gặp Thâu-lan-nan-đà, sai người đến mời. Tỳ-kheo-ni liền tới. Khi ấy, gia đình kia đang vì người con gái sửa soạn nước tắm. Người con gái nói: Mời Tỳ-kheo-ni tắm trước. Họ liền mời Tỳ-kheo-ni tắm. Cô ni nói: Tôi không cần tắm. Các người nữ bèn cưỡng bức cởi y bắt cô ni tắm. Nhân đó họ biết cô ni cạo lông chỗ kín, bèn hỏi: Vì lý do gì sư cô cạo như vậy? Cô ni hỏi lại: Vậy vì lý do gì các em lại cạo? Các người nữ nói: Chúng em vì nam tử nên cạo. Cô ni nói: Tôi cũng vậy. Các người nữ bèn chê trách nói: Các cô thường chê trách dục, mà nay làm việc như vậy, không tu phạm hạnh, tại sao không hoàn tục để tha hồ thọ hưởng năm dục?! Thế là các cô không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trên). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cạo lông nách và chỗ kín, phạm Ba-dật-đề”. Nếu cạo thì mỗi lưỡi dao cạo là phạm một Ba-dật-đề. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu vì có ghẻ mà phải cạo, hay bị cường lực bắt cạo thì đều không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cùng Tỳ-kheo một mình đứng chỗ vắng cùng nói chuyện, nên sinh tâm nhiễm đắm, có vị hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các bạch y thấy nghi ngờ: Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni này một mình chỗ vắng cùng đứng cùng nói chuyện, chắc chắn là nói việc dâm dục, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng Tỳ-kheo một mình ở chỗ vắng cùng đứng, cùng nói chuyện, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu đông Tỳ-kheo-ni với một Tỳ-kheo, hoặc khi có tám nạn thì không phạm.
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni cùng bạch y và ngoại đạo một mình cùng đứng chỗ vắng cùng nói chuyện, đưa đến việc thân thể xúc chạm, nói lời thô ác về dâm dục, hoặc cưỡng bức làm việc dâm dục. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng bạch y và ngoại đạo một mình cùng đứng chỗ vắng nói chuyện, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như giới trước đã nói).
Lúc đó, các Tỳ-kheo-ni cùng Tỳ-kheo một mình cùng đứng nơi chỗ trống cùng nói chuyện, sinh tâm nhiễm đắm, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng Tỳ-kheo một mình đứng nơi chỗ trống cùng nói chuyện, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như giới trước đã nói).
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cùng bạch y và ngoại đạo một mình cùng đứng chỗ trống cùng nói chuyện, đưa đến vấn đề thân thể xúc chạm, cho tới câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trên). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng bạch y và ngoại đạo một mình đứng chỗ trống cùng nói chuyện, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như giới trước đã nói).
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni cùng Tỳ-kheo một mình cùng đứng nơi ngả tư, đường hẻm, nói vừa đủ nghe, bảo Tỳ-kheo-ni bạn đi tránh xa. Các Cư sĩ chê trách. Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng Tỳ-kheo một mình cùng đứng nơi ngả tư, đường hẻm, nói vừa đủ nghe, bảo Tỳ-kheo-ni bạn đi tránh xa, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như giới trước đã nói).
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni cùng bạch y và ngoại đạo một mình cùng đứng nơi ngả tư, đường hẻm, nói vừa đủ nghe, khiến Tỳ-kheo-ni bạn đi tránh xa. Cư sĩ thấy chê trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng bạch y, ngoại đạo một mình cùng đứng nơi ngả tư, đường hẻm, nói vừa đủ nghe, khiến Tỳ-kheo-ni bạn đi tránh xa, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như giới trước đã nói).
Khi đó, các Tỳ-kheo-ni lõa hình tắm rửa, các bạch y thấy, vây quanh trêu chọc cười giỡn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào lõa hình tắm rửa, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Độtkiết-la. Nếu ngăn không cho người đến, hoặc tắm chỗ vắng, hoặc có cây hoặc có vật gì để ngăn che đều không phạm.
Đã nói xong tám mươi pháp.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni đi không mang áo tắm theo, không biết mặc cái gì để tắm. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đi không mang theo áo tắm, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu áo tắm đang nhuộm, giặt, đập hoặc bị cháy, hay nước trôi, hoặc hư hoại thì không phạm.
Khi ấy, đệ tử của Tỳ-kheo-ni Chiên-đồ-tu-mana, một lần nhận được cả năm chiếc y mới, bạch với thầy Hòa thượng: Thỉnh thầy mặc trước để con được phước. Thầy Hòa thượng mặc rồi không trả lại. Cô đệ tử phải mặc y thô tệ mà đi. Các Tỳ-kheo-ni thấy hỏi: Cô nhận được năm chiếc y mới, tại sao không mặc? Cô ni nói: Trước khi sử dụng, tôi cúng dường để Hòa thượng tôi dùng trước. Hòa thượng tôi không trả lại. Các Tỳ-kheo-ni chê trách Chiên-đồ-tu-ma-na: Tại sao đệ tử nhận được y mới, cúng dường cho mình mặc trước, rồi không trả lại? Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão đem việc này bạch Phật, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào nhận được y mới, Hòa thượng được cúng dường để mặc trước y mới này xong, thầy Hòa thượng mặc rồi không trả lại cho đệ tử, phạm Ba-dật-đề”. Nếu Tỳ-kheo-ni nhận được y mới cúng dường cho Tỳ-kheo-ni nào đó. Tỳ-kheo-ni ấy nên mặc một ngày, nếu người cúng dường yên cầu mặc thêm thì nên mặc, mặc lâu mau theo ý người chủ, nếu mặc quá hạn, phạm Ba-dật-đề. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, có Tỳ-kheo-ni ngăn cản Tăng chia y, Tỳ-kheo-ni khác đợi chia nên trở ngại việc tọa thiền, hành đạo. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão quở trách: Tại sao Tỳ-kheo-ni lại ngăn Tăng chia y, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào ngăn Tăng chia y, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu bệnh không đến được hay không nghe thì không phạm.
Lúc này, có một Tỳ-kheo-ni bậc hạ tọa, nhận được vải chưa may thành y, tự mình không biết may mà cũng không quen biết với ai, mang vải đến chỗ Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà nhờ may.
Thâu-la-nan-đà viện lẽ bận việc không may được. Cô ta mang đến các Tỳ-kheo-ni khác, các Tỳ-kheo-ni khác may giùm thành y. Thâu-la-nan-đà hỏi: Ai may y cho cô, đem tôi xem coi có đúng pháp không! Cô ni đem y cho Thâu-la-nan-đà xem. Thâu-la-nan-đà nói: Y này may không đúng pháp, phải tháo hết ra, tôi sẽ may lại giùm cho cô. Cô ni liền tháo ra mang đến. Thâu-la-nan-đà lại không may. Cô ni kia không có y nên phải mặc y thô tệ đi. Chiếc y bị tháo kia đem phơi trên mái nhà. Bấy giờ, nhà (Chùa) bị phát hỏa, gió thổi, những mảnh vải bị cháy, bay đến rớt trên nhà bạch y nên các nhà này bị cháy lây. Các bạch y thấy lửa từ trú xứ của các Tỳ-kheo-ni bay đến cháy nhà mình, bèn nổi giận nói: Chúng ta cúng dường cho các Tỳ-kheo-ni này nay trở lại thành oan gia. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tự tháo y của Tỳ-kheo-ni khác hoặc sai người tháo, không may lại thành y, phạm Ba-dật-đề”.
Lại có một Tỳ-kheo-ni tháo y của Tỳ-kheo-ni khác, một ngày không may lại thành y, phải đến bốn, năm ngày mới xong, nên đem việc ấy bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép Tỳ-kheo-ni tháo y ra bốn, năm ngày phải may cho thành. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tháo y của Tỳ-kheo-ni khác, hoặc sai người tháo, quá bốn, năm ngày, không may thành, phạm Ba-dật-đề”.
Lại có Tỳ-kheo-ni tháo y của Tỳ-kheo-ni khác, rồi bị bệnh không thể may thành, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo-ni tháo y của người khác rồi, vì bệnh được phép may không thành. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tháo y của Tỳ-kheo-ni khác rồi, không bệnh, quá bốn, năm ngày mà may không thành, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni không mặc năm y mà mặc y thô tệ đến các tư gia. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào không mặc năm y mà đi ra đường, phạm Ba-dật-đề”. Không mặc năm y: Từ một nhà đến một nhà, cho đến ra khỏi cửa của trú xứ, phạm Ba dạt đề. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu khi giặt, nhuộm, đập hay vá thì không phạm.
Lúc đó, các Tỳ-kheo-ni lấy y của Tỳ-kheo-ni cho bạch y và ngoại đạo nữ. Họ mặc đi đường, bạch y khác thấy hướng đến làm lễ, họ nói:
Tôi là bạch y, tôi là ngoại đạo. Các bạch y bèn chê trách, nói: Tại sao Tỳ-kheo-ni lấy y của Tỳ-kheo-ni cho bạch y và ngoại đạo nữ. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào dùng y của Tỳ-kheo-ni cho bạch y và ngoại đạo nữ, phạm Ba-dật-đề”. Y của Tỳ-kheo-ni: Là có điều có viền có điểm tịnh. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Người kia có y Tỳ-kheo-ni dùng để trao đổi hay trừ trả nợ thì không phạm.
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Sai-ma muốn đi đến thành Xá-vệ, Tỳ-kheo-ni Chiên-đồ-tu-ma-na nghe tin ấy, bèn đến người thí chủ của Sai-ma nói: Tỳ-kheo-ni Sai-ma sắp đến đây, có thứ gì ít nhiều cúng dường không? Người thí chủ nói: Tôi cũng nghe tin ấy, đang chuẩn bị thức ăn mỹ vị và y để dâng cúng. Tỳ-kheo-ni Chiên-đồ nói: Sao không dùng y để cúng cho Tăng, trong Tăng có vị chính hướng và chánh hạnh, khó ai bì kịp, sao không cúng, lại cúng cho một Tỳ-kheo-ni? Người thí chủ nghe như vậy nên chuyển cúng cho Tăng. Tỳ-kheo-ni Sai-ma đến, nhiều thức ăn mỹ vị được dâng cúng, tự tay người thí chủ hiến dâng. Ăn xong người thí chủ nói khẽ: Giờ này, chính là lúc dâng y, mà Tỳ-kheo-ni Chiên-đồ-tu-ma-Na-làm trở ngại việc ấy. Các Tỳ-kheo-ni hỏi: Các vị nói gì? Các thí chủ trình bày sự việc. Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bằng mọi cách quở trách: Tại sao ngăn chặn vật cúng cho cá nhân để chuyển cho Tăng. Các vị Trưởng lão lập lại sự quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, gây trở ngại vật thí cho cá nhân chuyển về cho Tăng, phạm Ba-dật-đề”. Vật thí cho cá nhân: Cúng riêng cho người nào trong Tăng, gọi là thí cho cá nhân. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Sai-ma đến thành Xá-vệ, Tỳ-kheo-ni Chiên-đồ-tu-ma-na nói: Tôi sẽ giới thiệu thí chủ để họ chăm sóc cô. Sai-ma nói: Khỏi phiền cô làm điều đó. Chiên-đồ-tu-ma-Na-lại nói: Cô nhận sự giới thiệu của tôi, cô được lợi lại được phước độ người. Nghe thế, Sai-ma im lặng chấp thuận. Chiên-đồ-tu-ma-na bèn giới thiệu với các thí chủ. Tỳ-kheo-ni Sai-ma, do đó có nhiều quyến thuộc, hành Tam-muội tâm từ, không ai là không cung kính. Tỳ-kheo-ni Chiên-đồ-tu-ma-na không được ai cúng dường, bèn sinh tâm ganh ghét, nói: Tôi giới thiệu thí chủ khiến cho cô nhận được nhiều sự cúng dường, mà cô lại nói xấu đối với tôi, khiến tôi không nhận được thức ăn. Các Tỳ-kheo-ni bằng mọi cách quở trách: Tại sao Tỳ-kheo-ni vừa bảo hộ lại vừa tiếc lẫn về gia chủ. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào bảo hộ mà tiếc lẫn về thí chủ, phạm Ba-dật-đề”. Bảo hộ mà tiếc lẫn về thí chủ: Nghĩa là muốn cho thí chủ chỉ cúng cho mình không cúng cho người khác. Thức-xoa-mana, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni không an cư, du hành trong nhân gian, hoặc gặp đám giặc tháng tám, hoặc gặp các nạn nước, lửa. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy, bằng mọi cách quở trách: Tại sao gọi là Tỳ-kheo-ni mà không an cư kiết hạ, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào không hạ an cư, phạm Ba-dật-đề”. An cư: Có tiền an cư, hậu an cư. Nếu không có duyên sự gì mà đợi đến hậu an cư, phạm Độtkiết-la. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiếtla. Nếu có tám nạn khởi thì không phạm. Đã nói xong chín mươi pháp.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni an cư chỗ không có chúng Tỳ-kheo, có các điều nghi ngờ: Nên độ không nên độ, nên cho thọ giới không nên cho thọ giới, may y như pháp không như pháp, đối với giới luật có những điều nghi ngờ như vậy, không biết hỏi ai, lại bị ác nhân ngoại đạo khinh miệt lấn áp. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy, nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi các Tỳ-kheo-ni: Thật sự các cô có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách: Trước đây, Ta há không nói tám kính pháp, Tỳ-kheo-ni phải nương theo chúng Tỳ-kheo để an cư hay sao! Sau khi quở trách, Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào không nương theo chúng Tỳ-kheo an cư, phạm Ba-dật-đề”. Tuy nương tựa theo chúng Tỳ-kheo mà không người giáo thọ thì phạm Đột-kiết-la. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu khi an cư, chúng Tỳ-kheo dời đi, hoặc qua đời, hay thôi tu, hoặc bị cường lực cưỡng chế, hoặc bệnh đều không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni an cư song vẫn du hành nên gặp các nạn lửa, giặc… Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Cũng như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đang ở trong an cư mà du hành, phạm Ba-dật-đề”. Du hành: Từ xóm làng này đến xóm làng khác, nếu không có xóm làng thì đi nửa do-tuần, phạm Ba-dật-đề. Thức-xoama-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Tám nạn khởi thì không phạm.
Lúc đó, các Tỳ-kheo-ni an cư rồi, không đến trong Tỳ-kheo Tăng thỉnh tội thấy, nghe, nghi, không có người giáo giới, nên không thể học được giới luật, ngu tối không hiểu biết được gì. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bèn nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi các Tỳ-kheo-ni: Thật sự các cô có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách, nói: Trước đây, Ta há không nói tám kính pháp, Tỳ-kheo-ni an cư rồi nên đến trong chúng Tỳ-kheo thỉnh tội thấy, nghe, nghi hay sao? Quở trách rồi, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào an cư xong không đến trong Tỳ-kheo Tăng thỉnh tội thấy, nghe, nghi, phạm Ba-dật-đề”. Nếu Tăng không hòa hợp, không tập hợp được hoặc khi có tám nạn, không phạm.
Lúc ấy, các Trưởng giả mời Tỳ-kheo-ni Saima đến an cư nơi thành Xá-vệ, với lời mời: Nếu nhận lời mời thì chúng con sẽ tùy thời cung cấp. Sai-ma nhận lời mời rồi đến ở luôn không đi nơi khác. Các Trưởng giả trách cứ: Chúng tôi cần làm bao nhiêu việc, các Tỳ-kheo-ni không biết trù lượng lại cũng không biết cách ra đi. Những người này thường nói ít ham muốn, biết vừa đủ, mà nay không nhàm chán. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào theo lời mời đến an cư rồi ở lại một đêm không đi, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-mana, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu bị bệnh hoặc bị khủng bố, hay chưa mãn thời hạn mời, hoặc chẳng phải chỗ nhận sự mời an cư, không đi, không phạm.
Khi đó, các Tỳ-kheo-ni ở trong nước, du hành những nơi có sự khủng bố, không có kẻ cứu hộ, bị ác nhân cướp đoạt. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào ở trong nước, chỗ có sự khủng bố, không có người để nương nhờ, mà đi một mình, phạm Ba-dật-đề”. Tuy có số đông Tỳ-kheo-ni cùng đi mà không có bạch y làm bạn có sức mạnh thì gọi là đi một mình. Từ một xóm làng đến một xóm làng, nếu không có xóm làng thì đi nửa do-tuần là phạm Ba-dật-đề. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu có cấp nạn phải thoát chạy thì không phạm.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni ra khỏi quốc nội, đi nơi có sự khủng bố, cũng không có người cứu hộ, bị kẻ ác cướp đoạt, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào ra ngoài nước, nơi có sự khủng bố, không có người để nương tựa, đi một mình, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như trên đã nói). Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni an cư tại Tinh xá do Tỳ-xá-khư-mẫu làm, an cư xong, không gửi gắm cho ai, bỏ chùa không ra đi. Sau đó chùa bị cháy, có người thấy, đến báo với Tỳ-xá-khư-mẫu: Tinh xá bà cất cho Tỳ-kheo-ni bị cháy. Tỳ-xá-khư-mẫu cho người ở đến cứu chữa, nên chưa cháy hết. Sau đó, các Tỳ-kheo-ni trở về lại, Tỳ-xá-khư-mẫu hỏi: Các cô ni có bị cháy thứ gì không? Các ni đáp: Chúng tôi bị cháy những thứ như vậy, như vậy. Những vật dư dùng bị cháy rất nhiều. Tỳ-xá-khư-mẫu chê trách, nói: Tại sao an cư tại Tinh xá của tôi, lại không gửi gắm ai, bỏ đi, đến nỗi bị cháy, cháy nhiều vật dư dùng nhiều thế! Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào an cư rồi, không gửi gắm Tinh xá cho ai mà bỏ đi, phạm Ba-dật-đề”. Nếu không gửi gắm mà bước một chân ra ngoài cửa ngõ, phạm Độtkiết-la, bước hai chân ra ngoài cửa ngõ, phạm Ba-dật-đề. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiếtla. Nếu không có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đến ở, hoặc không có người có thể gửi gắm thì không phạm.
Khi đó, các Tỳ-kheo-ni an cư tại Tinh xá của Tỳ-xá-khư-mẫu rồi, không trao trả Tinh xá mà bỏ đi. Sau đó, Tinh xá bị cháy, có người thấy nói với Tỳ-xá-khư-mẫu: Tinh xá của bà cất cho Tỳ-kheo-ni bị phát hỏa. Tỳ-xá-khư-mẫu nói: Để mặc cho nó cháy hết. Trước đây các Tỳ-kheo-ni đã không gửi gắm cho ai bỏ đi, bị cháy rồi, khi trở về nói đồ dư dùng bị cháy quá nhiều, gây tiếng xấu ác cho tôi. Tỳ-kheo-ni kia sau đó trở lại, Tỳ-xá-khưmẫu hỏi: Khi các cô đi có để vật gì trong Tinh xá không? Các ni đáp: Không. Thí chủ chê trách tại sao khi đi không trả Tinh xá lại cho tôi để bị cháy hết như vậy! Nếu có nói với tôi thì tôi bảo vệ không đến nỗi cháy như thế. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào an cư xong, không trả Tinh xá lại cho thí chủ, bỏ đi, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như trên đã nói).
Lúc ấy, Tỳ-kheo-ni dạo xem cung điện của nhà Vua và xem phòng triển lãm, rồi lại du ngoạn các nơi vui đùa, đến cả vườn hoa, bên ao nước. Những nơi đây khá đông người tụ tập để xem cảnh. Tỳ-kheo-ni nói với các nam tử: Các ông có thể tránh ra một tý, đừng đến gần chúng tôi. Các nam tử nói: Hạng người xui xẻo trọc đầu này, đã mặc áo cắt rọc, không nên đến nơi đây, mà đã đến đây tức là cầu nam tử tại sao lại bảo chúng ta tránh xa? Các nam tử bèn nắm tay kéo lôi, nói lời thô ác, dâm dục. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đi dạo xem các thứ, phạm Ba-dật-đề”. Khởi tâm muốn đi và tạo phương tiện, phạm Đột-kiết-la. Nếu khởi sự đi thì mỗi bước phạm một Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu không vì sự mua vui mà đến xem thì không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cứ mỗi nửa tháng Bố-tát, không đến trong Tỳ-kheo Tăng cầu thỉnh thầy giáo giới, do không có người dạy giới nên ngu ám không biết gì, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bèn nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi các Tỳ-kheo-ni: Các cô thật sự có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật chúng con có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo-ni: Trước đây, Ta há không nói tám kính pháp, dạy các cô mỗi nửa tháng phải cầu thỉnh thầy giáo thọ hay sao? Quở trách rồi, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào nửa tháng không đến trong Tăng cầu thỉnh thầy giáo giới, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni không cầu thỉnh giáo giới, hối quá Độtkiết-la. Nếu thỉnh mà không được hay bệnh thì không phạm.
Đã nói xong một trăm pháp.
Bấy giờ, Tỳ-kheo-ni Sai-ma qua đời, các Tỳ-kheo-ni xây tháp thờ cốt trong Tăng phường của Tỳ-kheo. Mỗi ngày Ba lần, quyết thuộc của Saima đến đi quanh khóc kể: “Người cho tôi pháp, người cho tôi y thực, sàng tọa, tọa cụ, y dược, sao mà mới đây vĩnh biệt chúng tôi!!!”. Các Tỳ-kheo bực bội do việc ồn ào này làm trở ngại vấn đề tọa thiền, hành đạo. Khi ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly lại đến Tăng phường, hỏi nơi Tỳ-kheo cựu trú: Tiếng gì ồn vậy? Người được hỏi trình bày sự việc. Tôn giả Ưu-ba-ly liền sai người đập phá tháp. Các Tỳ-kheo-ni nghe, cùng nhau luận bàn: Mỗi người chúng ta cầm gậy đến đánh Tỳ-kheo kia. Nếu cô nào không đến sẽ bị khai trừ. Nghị bàn rồi, họ liền mang gậy đến Tăng phường, thấy Tỳ-kheo bèn bao quanh muốn đánh, nhưng biết không phải đối tượng nên thôi.
Họ tiến đến nơi đường hẻm, gặp Tôn giả Ưu-baly, kẻ trước người sau, chặn đường đưa gậy lên muốn đánh. Tôn giả Ưu-ba-ly liền dùng thần lực bay đến chỗ Đức Phật, bạch lên Phật đầy đủ sự việc. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi các Tỳ-kheo-ni: Thật sự các cô có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách Tỳ-kheo-ni: Việc làm của các cô là phi pháp. Tại sao Tỳ-kheo-ni lại đánh Tỳ-kheo? Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni vào trong trú xứ của Tỳ-kheo, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo-ni trên đường đi thấy Tăng phường bỏ trống, muốn vào lễ bái mà không dám, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo-ni vào trong Tăng phường bỏ trống. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào vào trong trú xứ có Tỳ-kheo, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo-ni có nhân duyên vào trong Tăng phường mà không dám, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép Tỳ-kheo-ni có nhân duyên cần vào Tăng phường thì bạch với Tỳ-kheo. Tỳ-kheo cho phép, sau mới vào. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào vào trú xứ có Tỳ-kheo mà không bạch với Tỳ-kheo, phạm Ba-dật-đề”.
Có các Tỳ-kheo-ni có nhân duyên muốn vào Tăng phường mà các Tỳ-kheo hoặc đang tọa thiền hoặc ngủ không bạch được, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo-ni vào Tăng phường thấy Tỳ-kheo liền bạch. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào vào trong trú xứ có Tỳ-kheo, thấy Tỳ-kheo mà không bạch, phạm Ba-dật-đề”.
Có Tỳ-kheo-ni khi có cấp nạn muốn chạy vào Tăng phường tránh nạn mà không dám, hoặc bị giặc cướp đoạt, hoặc bị thú dữ làm hại, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo-ni, nếu khi gặp nạn nguy cấp được tùy tiện vào Tăng phường. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào vào trú xứ có Tỳ-kheo, thấy Tỳ-kheo mà không bạch, trừ khi gặp nạn nguy cấp, phạm Ba-dật-đề”. Nếu không thấy Tỳ-kheo, không thưa được mà vào, khi thấy Tỳ-kheo liền đến thưa. Tỳ-kheo kia nên tính toán, nếu khi có thể cho vào thì cho, nếu thấy không nên cho vào thì đừng cho. Thấy mà không bạch và không cho phép mà vào, phạm Ba-dật-đề. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni, Đột-kiết-la.
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni chưa đủ mười hai tuổi (Tuổi đạo) mà nuôi đệ tử, không thể giáo giới, không thể quản lý, đệ tử ngu ám không biết gì, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bèn nghiêm khắc quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào chưa đủ mười hai tuổi (Hạ) mà nuôi đệ tử, phạm Ba-dật-đề”. Không đủ mười hai tuổi: Là thọ giới chưa đủ mười hai năm. Nuôi đệ tử là vì người làm Hòa thượng. Nếu khởi tâm muốn nuôi chúng, cho đến Bạch-tứ-yết-ma chưa xong, phạm Đột-kiết-la, Bạch-tứ-yết-ma xong, Hòa thượng phạm Ba-dật-đề, các Ni Tăng khác phạm Độtkiết-la.
Lúc đó, các Tỳ-kheo-ni tuy đủ mười hai tuổi mà câm ngọng, điếc đui có nhiều chứng bệnh, không có sự hiểu biết mà nuôi đệ tử, không thể giáo giới, không thể quản lý. Đệ tử ngu ám, vô tri, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bèn nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi các Tỳ-kheo-ni: Sự thật các cô có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Thật sự chúng con có như vậy. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách rồi, nói: Tại sao Tỳ-kheo-ni câm, ngọng, điếc, đui, đủ các thứ bệnh mà nuôi đệ tử, không đủ khả năng giáo giới, không thể quản lý, khiến đệ tử ngu si, không biết gì, không thể học giới. Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta cho phép các Tỳ-kheo bạch nhị Yết-ma cho nuôi chúng. Tỳ-kheo-ni đó nên đến trong Tỳ-kheo-ni Tăng, cởi bỏ giày dép, mặc y chừa vai bên phải, quỳ gối, chấp tay, bạch:
A-di Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo-ni tên là… đã đủ mười hai tuổi, muốn nuôi chúng, đến xin Tăng pháp Yết-ma nuôi chúng. Lành thay Ni Tăng cho tôi pháp Yết-ma nuôi chúng. Xin như vậy Ba lần. Các Tỳ-kheo-ni nên tìm hiểu, quan Sát-tỳ-kheo-ni này có thể nuôi chúng được hay không. Nếu không thể thì không nên cho pháp Yết-ma nuôi chúng. Nếu có thể thì nên cho. Ni Tăng nên sai một Tỳ-kheo-ni bậc Thượng tọa hay là ngang bằng bậc Thượng tọa biết pháp, biết luật, xướng như sau:
A-di Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo-ni này tên… đủ mười hai tuổi muốn nuôi cô… làm đệ tử, nên đến xin Tăng pháp Yết-ma nuôi chúng. Nay Tăng cho pháp Yết-ma nuôi chúng. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
A-di Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo-ni này tên… đã đủ mười hai tuổi, muốn nuôi cô… làm đệ tử, nên đến Tăng xin pháp Yết-ma nuôi chúng. Nay Tăng cho pháp Yết-ma nuôi chúng, A-di nào chấp nhận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã cho Tỳ-kheo-ni tên… pháp Yết-ma nuôi chúng rồi, Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đủ mười hai tuổi, Tăng không cho pháp Yết-ma nuôi chúng, mà nuôi, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như trên đã nói).
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cho người nữ đã có chồng chưa đủ mười hai tuổi (tuổi đời) thọ giới Cụ túc, ngu ám không biết gì, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cho người nữ đã có chồng, chưa đủ mười hai tuổi thọ Giới Cụ túc, phạm Ba-dật-đề”. Chưa đủ mười hai tuổi: Là tuy đã có chồng mà chưa đủ mười hai tuổi. Có chồng: Là đã trải qua đối với nam tử. (Ngoài ra như giới nuôi chúng đã nói).
Lúc ấy, các Tỳ-kheo-ni cho người nữ đã có chồng tuy đủ mười hai tuổi, nhưng câm ngọng, có nhiều chứng bệnh, thọ giới Cụ túc, ngu si vô trí, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, cho đến câu: Nay Ta cho phép các Tỳ-kheo-ni Bạch-tứ-yết-ma, cho người nữ có chồng, đã đủ mười hai tuổi, thọ giới Cụ túc. Người nữ muốn thọ giới Cụ túc kia nên đến trong Tỳ-kheo-ni Tăng, bạch: A-di Tăng lắng nghe! Tôi tên là… đã có chồng, đủ mười hai tuổi, cầu Hòa thượng hiệu… thọ giới Cụ túc. Nay đến Tăng xin thọ giới Cụ túc. Lành thay Tăng, cho con thọ giới Cụ túc. Cúi mong Tăng rủ lòng thương đối với con. Cầu xin như vậy Ba lần rồi. Các Tỳ-kheo-ni nên tìm hiểu nên cho hay không nên cho thọ. Nếu nên cho thì Ni Tăng nên cử một Tỳ-kheo tác Yết-ma, y như giới trước đã nói. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cho người nữ đã có chồng, đủ mười hai tuổi, thọ giới Cụ túc mà không được Tăng tác pháp Yết-ma cho phép, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như trong giới nuôi chúng đã nói). Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cho đồng nữ chưa đủ mười tám tuổi thọ học giới, ngu ám vô tri, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cho đồng nữ, chưa đủ mười tám tuổi thọ học giới, phạm Ba-dật-đề”. Đồng nữ: Chưa từng trải qua với nam tử. Phát khởi ý muốn, tạo phương tiện, cho đến bạch nhị Yết-ma chưa đầy đủ, phạm Đột-kiết-la, bạch nhị Yết-ma rồi, Hòa thượng phạm Ba-dật-đề. Các ni sư khác đều phạm Đột-kiết-la.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni cho người đồng nữ, tuy đủ mười tám tuổi mà điếc ngọng, có nhiều chứng bệnh, thọ học giới, cho đến câu: Nay Ta cho phép các Tỳ-kheo-ni bạch nhị Yết-ma cho người đồng nữ đủ mười tám tuổi thọ hai năm học giới. Người muốn thọ học giới nên đến trong Tỳ-kheo-ni Tăng, bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Con tên là… Hòa thượng của con hiệu là… Nay đến Tăng xin hai năm học giới. Lành thay, A-di Tăng cho con thọ hai năm học giới, rủ lòng thương đối với con. Xin như vậy Ba lần. Các Tỳ-kheo-ni khéo tìm hiểu, nên cho thọ hay không nên cho thọ. Nếu cho, nên sai một Tỳ-kheo-ni, y theo như giới trước Yết-ma. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, tuy đồng nữ đủ mười tám tuổi, Tăng không Yết-ma mà cho thọ học giới, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như giới trước đã nói).
Lúc ấy, vợ người thí chủ của Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà muốn cầu xuất gia. Thâu-la-nanđà nói: Trước hết bà cho tôi y, tôi mới độ bà. Vợ thí chủ chê trách nói: Tôi là người thí chủ, tại sao đòi tôi cho y trước rồi sau mới độ! Không muốn độ thoát sinh, lão, bệnh, tử nơi tôi mà ngược lại đòi độ cái lợi về y áo nơi tôi! Những cô này không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bèn nghiêm khắc quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào nói với phụ nữ bạch y:
“Cho tôi y trước, tôi mới độ bà”, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo nào nói với Thức-xoa-ma-na, Sa-dini phạm Đột-kiết-la. Nếu người kia mắc nợ, đòi trả nợ rồi sau mới độ thì không phạm.
Khi đó, Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà nói với các Tỳ-kheo-ni: Cho tôi pháp Yết-ma nuôi chúng. Các Tỳ-kheo-ni nói: Như lời Phật dạy, người đủ điều kiện mới cho pháp Yết-ma nuôi chúng. Thâu-la-nan-đà bèn nói: Các Tỳ-kheo-ni làm việc theo thương, ghét, si, sợ. Sợ ai thì cho, ai không sợ thì không cho. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, các Tỳ-kheo-ni nói: Như lời Phật dạy, điều kiện để cho người pháp Yết-ma nuôi chúng thì cô không có, bèn chê trách các Tỳ-kheo-ni, phạm Ba-dật-đề”.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo-ni, khi giáo giới không đến nghe, khi Yết-ma cũng không đến nghe, nên ngu ám vô tri, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào khi giáo giới và Yết-ma mà không đến nghe, phạm Ba-dật-đề”. Giáo giới: Là nói tám kính pháp… Yết-ma: Tức bạch yết-ma, bạch nhị Yết-ma, Bạch-tứ-yết-ma.
Đã nói xong một trăm mười pháp.
-
---------------------
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni có học giới ni đủ hai năm mà không cho thọ giới Cụ túc. Sau đó, học giới ni kia mắc phải trọng bệnh, câm ngọng điếc đui và nhiều bệnh khác, bị trở ngại nơi vấn đề thọ giới pháp. Đệ tử Tỳ-kheo-ni Sai-ma học giới đủ hai năm cũng không cho thọ giới Cụ túc. Sai-ma lại nói: Cô nên học thêm giới này. Sau đó, cô đệ tử mắc bệnh bạch lại, không biết giải quyết thế nào. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết bèn nghiêm khắc quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, Thức-xoama-na, đủ hai năm học giới không có gì trở ngại, mà không cho thọ giới Cụ túc, lại nói: Cô học thêm giới này đã, phạm Ba-dật-đề”.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni độ dâm nữ, không thọ giáo giới, ví như con trâu bị đau nơi vai không thể kéo xe được, khi mắc vào xe chỉ muốn ra khỏi gọng xe. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bèn nghiêm khắc quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào độ dâm nữ, phạm Ba-dật-đề”. Khởi tâm cho đến Bạch-tứ-yết-ma chưa xong, phạm Đột-kiết-la, Bạch-tứ-yết-ma rồi, Hòa thượng phạm Ba-dật-đề, các ni sư khác phạm Đột-kiết-la. Người nữ kia nhàm chán thân xấu ác của người nữ mà độ thì không phạm.
Khi đó, các Tỳ-kheo-ni cho cô ni chưa đủ hai năm học giới thọ giới Cụ túc. Cô ni ngu ám vô tri, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bèn nghiêm khắc quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cho cô ni chưa đủ hai năm học giới, thọ giới Cụ túc, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như trong giới nuôi đệ tử đã nói).
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cho cô ni tuy đủ hai năm học giới, mà bị câm ngọng, điếc đui và các chứng bệnh khác, thọ giới Cụ túc. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trong giới đối với người nữ có chồng đủ mười hai tuổi đã nói). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, cô ni học giới đủ hai năm,
Tăng không tác Yết-ma, cho thọ giới Cụ túc, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như trong giới nuôi đệ tử đã nói).
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni cho học giới ni chưa đủ hai năm, không học giới mà thọ giới Cụ túc, ngu ám, vô tri, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cho học giới ni đủ hai năm, không học giới mà cho thọ giới Cụ túc, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như trong giới nuôi đệ tử đã nói).
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni cho người nữ có thai thọ giới Cụ túc, khi vào thôn khất thực, các bạch y thấy chế giễu nói: Tỳ-kheo-ni này nặng mang nặng gánh nên cho thức ăn mau. Có người nói: Nên xem cái bụng của cô ta. Có người nói: Những cô này không tu phạm hạnh. Có người nói: Việc này xảy ra khi chưa xuất gia tu phạm hạnh. Họ chê trách các Tỳ-kheo-ni: Sao không đợi sinh rồi, sẽ độ họ xuất gia, đây là hủy nhục phạm hạnh. Các Tỳ-kheo-ni không biết nên độ, không nên độ, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, cho người nữ có thai thọ giới Cụ túc, phạm Ba-dật-đề”. Khởi tâm cho đến Bạch-tứ-yết-ma xong (Đều như trước đã nói). Nếu muốn cho thọ giới Cụ túc thì trước nên khám vú sữa, không có tướng có hài nhi thì không phạm. Nếu thọ giới rồi mới biết có thai cũng không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cho người đàn bà mới sinh thọ giới Cụ túc, một tay bưng bát, một tay bồng con đi khất thực. Các bạch y thấy chế giễu: Mau mau cho hai người ăn. Các bạch y dị nghị, chê trách. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cho đàn bà mới sinh thọ giới Cụ túc, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như trong giới nuôi đệ tử đã nói).
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni hằng năm đều độ đệ tử thọ giới Cụ túc. Đệ tử nhiều không thể giáo giới chu đáo, nhiều người ngu ám vô tri, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, năm nào cũng cho đệ tử thọ giới Cụ túc, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni cách một năm mới được cho đệ tử thọ giới Cụ túc. (Ngoài ra như trong giới nuôi đệ tử đã nói).
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni trao giới Cụ túc cho đệ tử trong Tỳ-kheo-ni Tăng, để cách đêm rồi mới đến trong Tỳ-kheo Tăng thọ giới. Người thọ giới ở trong một đêm mắc phải sự trở ngại về cách đêm thọ giới, nên Tỳ-kheo Tăng không cho thọ giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào để cách đêm, cho đệ tử thọ giới Cụ túc, phạm Ba-dật-đề”. Từ khi khởi tâm cho đến khi tướng mặt trời chưa xuất hiện, phạm Đột-kiết-la, tướng mặt trời xuất hiện, Hòa thượng phạm Ba-dật-đề, các Ni sư khác phạm Đột-kiết-la. Nếu Tăng không hòa hợp, không tập hợp được, và tám nạn khởi thì không phạm.
Lúc đó, các Tỳ-kheo-ni mới thọ giới Cụ túc, không phục vụ Hòa thượng, không có người giáo giới, ngu không biết gì, không thể học giới, các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào mới thọ giới Cụ túc, không phục vụ Hòa thượng sáu năm, hoặc sai người phục vụ, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sadi-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu Hòa thượng không cần người phục vụ thì không phạm.
Đã nói xong một trăm hai mươi pháp.
---
---------------------
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cho đệ tử thọ giới Cụ túc rồi, không quản lý, không giáo giới, không dạy tụng tập, ngu ám vô tri, không thể học giới.
Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào nuôi đệ tử trong sáu năm, không tự quản lý, không dạy người quản lý, phạm Ba-dật-đề”. Nếu đệ tử không chọn thọ giáo thì không phạm.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni cho đệ tử thọ giới Cụ túc rồi, không đưa họ đến chỗ cách xa bổn xứ, nam tử quen biết trước đây trông thấy sinh tâm nhiễm ô, trêu chọc, nói lời thô ác, dâm dục. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bằng mọi cách quở trách, cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào nuôi đệ tử, tự mình không đem, hay không khiến người khác đem đi cách bổn xứ năm, sáu do-tuần, phạm Ba-dật-đề”. Bổn xứ: Là chỗ sinh hay chỗ lấy chồng. Nếu đệ tử không làm theo thì không phạm.
Lúc đó, các Tỳ-kheo-ni, người đồng học bệnh mà không chăm sóc, hoặc không sai người chăm sóc đúng lúc, đưa đến người bệnh qua đời. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, người đồng học bệnh, không tự mình chăm sóc, không sai người chăm sóc, phạm Ba-dật-đề”. Đồng học: Đồng Hòa thượng, A-xà-lê và thường cùng làm bạn. Thứcxoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu không cùng ở một chỗ thì không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni độ đệ tử đang bị lệ thuộc nhà người, các bạch y dị nghị nói: Các Tỳ-kheo-ni này không biết ai có thể độ, ai không thể độ. Các Cư sĩ có người nói: Nên đoạt lấy y bát, dẫn đến nhà quan. Có người nói: Vua Ba-tư-nặc có ra lệnh: Ai khinh suất Tỳ-kheo-ni sẽ bị trọng tội, nên mau mau thả họ đi, đừng để có ai biết. Mọi người đều nói: Các cô này không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào độ phụ nữ đang thuộc về của người, phạm Ba-dật-đề”. Thuộc về của người: Là thuộc về quan hay thuộc về người khác. Khi khởi tâm cho đến Bạch-tứ-yết-ma rồi (Cũng như giới trước). Nếu người chủ cho phép thì không phạm.
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni độ người nữ có bệnh trầm kha, không thể gắng sức học giới, ngu ám vô tri. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào độ người nữ có bệnh trầm kha, phạm Ba-dật-đề”. Bệnh trầm kha: Là mùa nóng, mùa lạnh đều có bệnh. Từ khi khởi tâm độ cho đến Bạch-tứ-yết-ma xong… (Cũng như giới trước đã nói). Nếu sau khi thọ giới rồi, mắc bệnh ấy thì không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni độ người đàn bà bị ràng buộc do chồng, bạch y chê trách, hoặc muốn đoạt y, hoặc muốn phóng thích… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Đều như trong giới độ phụ nữ thuộc quyền của người khác đã nói). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào độ phụ nữ thuộc quyền chồng của họ, phạm Ba-dật-đề”. Khi khởi tâm độ cho đến Bạch-tứ-yết-ma xong (Như giới trước đã nói).
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni độ người nữ có mắc nợ… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (đều như trong giới độ phụ nữ thuộc quyền của người đã nói). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào độ người nữ có mắc nợ, phạm Ba-dật-đề”. Khi khởi tâm độ, cho đến Bạch-tứ-yết-ma xong (Cũng như giới trước). Nếu người ấy nói: Sau khi xuất gia rồi sẽ trả, thì độ họ không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cùng nam tử đứng nơi chỗ tối tăm chuyện vãn với nhau, trái tim đắm say, nhiễm dục lớn nhanh, không còn vui thú với đời tu phạm hạnh, đưa đến tình trạng có người hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng nam tử đứng, nói chuyện chỗ tối tăm, phạm Ba-dật-đề”. Nếu nói chuyện chỗ tối tăm thì mỗi lời nói phạm một Ba-dật-đề. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu nghi là chỗ có sự sợ sệt, hoặc đèn tắt bất ngờ thì không phạm.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo-ni tùy theo gia đình quen biết, khi đến, vội ngồi nơi giường của họ. Các bạch y dị nghị nói: Ta không ưa thấy những hạng người xui xẻo này, hạng người không biết chỗ nên ngồi, chỗ không nên ngồi, không có tác phong. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào không nói với người chủ mà vội ngồi trên giường của họ, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu người chủ bảo ngồi thì không phạm.
Khi đó, các Tỳ-kheo-ni tự tay cho bạch y và ngoại đạo nam tử thức ăn. Họ nghĩ: Chắc Tỳ-kheo-ni này có tâm nhiễm đắm nên cho ta thức ăn, bèn trêu chọc nói lời thô ác, dâm dục. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tự tay cho ngoại đạo nam tử thức ăn, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoama-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu không tự tay cho và tự tay cho bà con, đều không phạm.
Đã nói xong một trăm ba mươi pháp.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni đến các bạch y nói tội lỗi của các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo kia phá giới, phá kiến, phá oai nghi. Các Tỳ-kheo nghe nổi giận không giáo giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi các Tỳ-kheo-ni: Thật sự các cô có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật các con có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Trước đây Ta không vì các cô nói tám kính pháp hay sao? Bằng mọi cách quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đến nhà bạch y nói lỗi của các Tỳ-kheo, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu bạch y trước đã có nghe mà hỏi, thì nên hỏi lại: Ngươi nghe thế nào? Nếu nói: Tôi nghe như vậy, như vậy. Các Tỳ-kheo-ni nghe cũng như vậy, sau đó đem sự thật mà trả lời thì không phạm.
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Chiên-đồ-tu-ma-na cùng người tranh chấp rồi tự đấm ngực, tự đánh trong người, la lớn, khóc than. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng người tranh chấp rồi, tự đánh thân mình, kêu khóc, phạm Ba-dật-đề”. Tự mình đấm ngực, tự mình đánh thân mình, mỗi cú đánh, đấm đều phạm một Ba-dật-đề. Thức-xoama-na, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni từ xa cùng nhau chỉ về Chiên-đồ-tu-ma-na nói đến việc cô ta tranh chấp. Chiên-đồ-tu-ma-na ngỡ rằng mình bị mắng chửi, bèn la to: Các Tỳ-kheo-ni mắng tôi. Các Tỳ-kheo-ni liền đến hỏi: Chúng tôi mắng cô như thế nào? Cô ta mù mờ không trả lời được. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách: Tại sao Tỳ-kheo-ni không lắng nghe rõ lời của người khác lại vọng nói là mắng mình… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào không nghe rõ lời nói của người mà nổi giận, nói sai sự thật đối với người khác, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cùng nhau tranh cãi, mỗi người đều thốt lên lời thề: Nếu tôi như vậy sẽ bị đọa vào địa ngục, thọ tội như Điều-đạt, Cù Già Lê, tôi cũng thề như vậy. Còn nếu tôi không như vậy thì cô sẽ thọ tội như vậy. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tự mình thề thốt, sự thật nhằm nguyền rủa người kia, phạm Ba-dật-đề”. Người lập lời thề, lời nguyền này, mỗi lời phạm một Ba-dật-đề. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiếtla.
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni đổ nước tiểu, phân dơ ra ngoài tường rào làm bôi nhớp người và phi nhân. Lúc này, có Đại thần Bà-la-môn vừa bị cách chức, lại ra sức chay tịnh, thanh khiết thân tâm. Sáng sớm hôm đó, ông ta tắm rửa sạch sẽ, thoa hương, mặc y phục cũng được thoa hương thơm ngát, theo ý định đến Thiên miếu, để cầu được phục chức quan. Ông ta trùm đầu đi vì sợ phải thấy hạng người xui xẻo là đám cạo tóc, mặc y cắt rọc. Khi đến bên ngoài tường chùa, lại gặp ngay lúc các cô ni đổ phân và nước tiểu. Ông ta lãnh đủ các thứ này lên đầu và chảy ướt cả mình. Đầy sầu hận, ông ta nói: Ta sợ gặp hạng người không may mắn, nay lại bị đổ phân và nước tiểu đầy cả người, chắc chắn là số mạng của ta gặp phải chuyện không may. Dù vậy, ta cũng cần phải đến Vua Ba-tư-nặc thưa kiện để trị đám nữ trọc đầu này. Nuốt giận, ông ta đành phải quay trở về, gặp một thầy tướng Bà-la-môn. Tướng sư Bà-lamôn hỏi: Tại sao phải nông nỗi này? Vị quan vừa bị cách chức kia trả lời đúng sự thật đã xảy ra. Ông thầy tướng nói: Đây là điềm rất may mắn, hôm nay ông sẽ được một ngàn quan và lại được phục chức cũ. Nào có được nguôi giận, quan Bà-la-môn bị cách chức kia mang cả thân hình bị nhớp nhúa ấy đến thẳng chỗ nhà Vua. Vua hỏi: Vì lý do nào như vậy? Vị quan trình bày lại sự việc, nhà Vua vỗ tay cười lớn và liền ra lệnh ban cho một ngàn quan tiền và cho phục chức cũ. Các quan tả hữu của nhà Vua dị nghị nói: “Quăng phân làm nhớp người ta chứ đâu phải có ý cầu đạo giúp người”. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào quăng phân nước tiểu ra ngoài rào tường, hay khiến người quăng, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni quăng rác bụi và thức ăn còn dư ra ngoài rào tường, làm nhơ nhớp chung cho người và phi nhân. Các bạch y thấy chê trách nói: Tại sao Tỳ-kheo-ni cách vạch tường mà quăng rác bụi làm nhơ nhớp. Những người này không biết pháp lịch sự. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau:
“Tỳ-kheo-ni nào quăng rác bụi và thức ăn dư ra ngoài tường vách hoặc sai người quăng, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Khi đó, trước Tinh xá trong vườn của nhà Vua, đất rất bằng phẳng, có loại cỏ rất mềm mại, mọi người thường đến vui chơi nơi đó, làm loạn động sự tọa thiền, hành đạo của các Tỳ-kheo-ni, các Tỳ-kheo-ni bực dọc chán nản, bèn rủ nhau đại tiểu tiện trong ấy, làm cho nhơ nhớp, để mọi người khỏi tới. Sau đó mọi người đến vui chơi như thường lệ, bị dính nhớp cả tay cả chân, y phục và đồ đạc. Họ nổi giận nói: Ai lại đại tiểu tiện nơi đây thế này?! Có người nói là Tỳ-kheo-ni. Mọi người đều chê bai, nói: Những người này xuất gia tu hành đạo thanh tịnh, tại sao lại làm nhơ nhớp chỗ sạch sẽ, không để cho mọi người đến vui chơi như thế?! Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đại tiểu tiện nơi cỏ sống, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu bị bệnh nguy cấp thì không phạm.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni lại quăng rác, bụi, thức ăn dư nơi vùng đất trước Tinh xá trong vườn của nhà Vua, để đuổi khéo mọi người. Các bạch y chê trách. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào quăng rác, bụi, thức ăn dư trên cỏ sống, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu quăng trong hầm, không phải chỗ sạch sẽ thì không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni ngủ đêm nơi nhà “Có thức ăn”, nghe tiếng khi vợ chồng họ giao hợp, sinh tâm ái dục nên không thích sống với đạo, có người hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào ngủ đêm nơi nhà có “Thức ăn”, phạm Ba-dật-đề”. Có thức ăn: Nơi nam nữ có tình tứ giao hội. Thức-xoa-ma-na, Sadi-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu có bệnh cần ở lại hay các nạn khởi thì không phạm.
Lúc này, các Tỳ-kheo hỏi các Tỳ-kheo-ni: Nhà bà… ở đâu? Con đường này đi về đâu? Các Tỳ-kheo-ni khinh mạn không trả lời. Các Tỳ-kheo giận trách cứ không giáo giới, nên ngu ám, vô tri, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, Tỳ-kheo hỏi mà không trả lời, phạm Ba-dật-đề”.
Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo dùng lời thô ác hỏi Tỳ-kheo-ni. Tỳ-kheo-ni tuy trả lời mà ôm lòng xấu hổ, nên bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo-ni nếu Tỳ-kheo như pháp hỏi thì nên trả lời. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, nếu Tỳ-kheo như pháp hỏi mà không trả lời, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-mana, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu trước đó có sự xích mích với nhau, không cùng nói chuyện, không trả lời thì không phạm.
Đã nói xong một trăm bốn mươi pháp.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni cỡi xe đến nhà bạch y. Các bạch y chê trách nói: Các Tỳ-kheo-ni này như phu nhân của nhà Vua, như phụ nữ của nhà hào quý cỡi xe đi, không có nghi pháp. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cỡi xe đi, phạm Ba-dật-đề”. Cỡi xe: Cỡi các loại xe voi, ngựa, cho đến mang guốc đều gọi là đi xe. Thức-xoa-ma-na, Sadi-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu già bệnh hay bị cường lực ép buộc, hay trên đường đi chân bị đau, đều không phạm.
Đã nói xong một trăm bốn mươi mốt pháp.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni mang dép da, cầm dù đến các nhà bạch Các bạch y dè bỉu nói: Các Tỳ-kheo-ni này đi lại như dâm nữ. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào mang dép da, cầm dù đi, phạm Ba-dật-đề”. Dù: Kể cả dù bằng cỏ. Dép da: Cho đến chỉ một lớp. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la (Không phạm như trên).
Khi ấy, có hai vợ chồng xuất gia cùng một lúc. Vị Tỳ-kheo chồng kia khất thực rồi đem đến trú xứ vị Tỳ-kheo-ni vợ để ăn. Vị Tỳ-kheo-ni vợ đem bình nước đến trước, rót nước mời và đứng bên quạt hầu, vấn an sức khỏe. Vị Tỳ-kheo chồng kia cúi đầu ăn, không ngó, không nói chuyện. Vị Tỳ-kheo này khi còn là bạch y có tư thông với một người nữ. Người nữ ấy cũng đã xuất gia tại trú xứ này. Cô ta xuất hiện đến gặp Tỳ-kheo (Người tình cũ). Tỳ-kheo kia bèn cười. Tỳ-kheo-ni vợ tâm ghen liền phát khởi, lấy bình đựng nước đánh Tỳ-kheo chồng bể đầu. Các Tỳ-kheo-ni quở trách: Tại sao Tỳ-kheo-ni lại đem bình nước và quạt đứng trước Tỳ-kheo mời nước và quạt hầu rồi đánh Tỳ-kheo bể đầu?! Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đem bình nước và quạt đứng trước Tỳ-kheo, hoặc mời nước hoặc quạt hầu Tỳ-kheo, phạm Ba-dật-đề”. Nếu cần mời nước thì mời xong liền đi về chứ không đứng đối diện. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni tụng kinh về phương pháp trị bệnh, các bạch y chê trách nói: Những người này chỉ học y thuật, không có ý cầu đạo, sao không dùng thì giờ ấy đọc kinh Phật? Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đọc kinh vì phương pháp trị bệnh, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-mana, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu vì mình bệnh, hay vì lòng từ bi, hoặc bị cường lực bắt đọc thì không phạm.
Khi đó, các Tỳ-kheo-ni dạy người khác đọc tụng kinh về phương pháp trị bệnh, các bạch y chê trách. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào dạy người khác đọc tụng kinh về phương pháp trị bệnh, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như giới trên đã nói).
Lúc ấy, Tỳ-kheo-ni hòa hợp nấu, giã các loại thuốc để trị bệnh cho người, suốt đêm không nghỉ. Các bạch y thấy vậy chê trách nói: Những người này như thầy thuốc hay học trò của thầy thuốc, tại sao không cầu đạo để chữa bệnh sinh, tử, mà lại kinh doanh những việc của thế tục làm gì? Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào vì người trị bệnh, để làm kế sinh nhai, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu vì lòng thương hay bị cường lực bắt buộc, không vì lợi dưỡng thì không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni dạy người trị bệnh. Các bạch y đến yêu cầu nói pháp thì lại nói: Bệnh nóng trị như thế này, bệnh lạnh trị như thế này, bệnh phong trị như thế này, phương pháp trị các bệnh như thế này. Các bạch y nói: Tôi vì pháp đến đây chứ không vì chữa bệnh. bạch y chê trách nói: Những người này chỉ học y thuật, không biết chi đạo pháp, nếu không như vậy tại sao không dùng pháp dạy chúng tôi?! Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào vì kế sinh nhai dạy người trị bệnh, phạm Ba-dật-đề” (Ngoài ra như giới trước đã nói).
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni vì các gia đình quen biết làm các công việc. Các Cư sĩ trách cứ nói: Những người này bỏ việc của mình đi làm việc nhà của người, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào vì sự ăn uống mà làm việc cho nhà bạch y, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu vì lòng thương hay bị cường lực áp bức thì không phạm.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni cùng với phụ nữ bạch y và ngoại đạo đồng đắp chung một tấm y, thân hình xúc chạm nhau, sinh tâm ái dục, không thích sống phạm hạnh, đến nỗi hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Sau đó, các phụ nữ tùy theo chỗ quen biết của mình nói: Tỳ-kheo-ni… có thân hình đẹp như vậy, như vậy. Thời gian tiếp, các bạch y thấy Tỳ-kheo-ni nọ bèn chỉ chỏ trêu lộng nói: Người có thân hình đẹp kia kìa! Tỳ-kheo-ni này như vậy, Tỳ-kheo-ni kia như vậy. Các Tỳ-kheo-ni do đó hổ thẹn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng phụ nữ bạch y và ngoại đạo đồng đắp chung một chiếc y, phạm Ba-dật-đề”. Nếu nằm đồng một giường, chung một mền thì phải mặc nội y khiến cho cách nhau. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiếtla.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cùng với Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni đồng nằm đắp chung một chiếc y… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni, cùng nằm đắp chung một chiếc y, phạm Ba-dật-đề”.
(Ngoài ra như giới trước đã nói).
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni cùng với phụ nữ bạch y và ngoại đạo cùng che phủ với nhau để ngủ, cùng thấy hình thể nhau, sinh tâm ái dục… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng phụ nữ bạch y và ngoại đạo che phủ lại với nhau để ngủ, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như giới trên đã nói). Nếu trước đã có che riêng rồi sau che phủ thêm thì không phạm.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni cùng Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni cùng che phủ lại với nhau để ngủ nên cùng thấy hình thể nhau… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni, cùng che phủ lại với nhau để ngủ, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như giới trên đã nói).
Đã nói xong một trăm năm mươi pháp.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni dùng hương thoa vào thân, cũng khiến người thoa vào thân, nên sinh tâm ái dục, không thích tu phạm hạnh, đến nỗi hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các bạch y nghe mùi hương thơm đó dè bỉu nói: Những người này dùng hương thoa vào thân, giống như dâm nữ, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào dùng hương thoa vào thân, phạm Ba-dật-đề”. Hương: Hương bằng gốc cây, hương bằng nhánh cây, hương bằng lá cây, hương bằng hoa, hương bằng loài trùng, hương bằng nhựa cây. Thức-xoama-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu vì trị bệnh hay bị cường lực bắt buộc thoa thì không phạm.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni dùng cây khô ngâm nước mài xát vào thân khiến cho da được sáng mịn. Các bạch y chê trách nói: Những người này dùng cây khô ngâm nước mài xát vào thân khiến cho da được sáng mịn như dâm nữ, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào dùng cây khô ngâm nước mài xát vài thân, phạm Ba-dật-đề”.
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Bạt-đà-ca-tỳ-la thân thể bị khô, da bị nứt, hỏi thầy thuốc, họ nói: Dùng cây khô ngâm nước mài xát vào thân. Cô ni nói, Phật không cho phép tôi dùng cây khô ngâm nước mài xát vào thân, thầy hướng dẫn cho cách trị liệu khác. Thầy thuốc nói: Không có cách nào khác. Cô ni cảm thấy buồn nghĩ ngợi: Nếu Đức Thế Tôn cho phép khi có bệnh được dùng cây khô ngâm nước mài xát vào thân thì mình khỏi phải bệnh khổ này. Cô ni bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta cho phép Tỳ-kheo-ni khi bệnh được dùng cây khô ngâm nước mài xát vào thân. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào không bệnh mà dùng cây khô ngâm nước mài xát vào thân, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-dini phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cất giữ tràng hoa hoặc đeo tràng hoa, sinh nhiễm đắm, không thích tu phạm hạnh, đưa đến việc hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cất giữ tràng hoa hoặc đeo tràng hoa, phạm Ba-dật-đề”. Cho đến dùng cỏ lá xâu lại đội trên đầu làm đẹp cũng đều gọi là đeo tràng hoa. Thức-xoa-ma-na, Sa-dini phạm Đột-kiết-la. Nếu bị cường lực bắt buộc thì không phạm.
Lúc đó, các Tỳ-kheo-ni đeo anh lạc quý báu, sinh tâm ái nhiễm, không thích tu phạm hạnh, đến nỗi hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đeo anh lạc quý báu, phạm Ba-dật-đề”. Cho đến dùng cây làm anh lạc cũng như vậy. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni, phạm Đột-kiết-la.
(Không phạm cũng như giới trước).
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni mặc áo bó sát vào thân, khiến cho thân hình như gói lại, sinh tâm ái dục… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào mặc áo bó sát thân, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Độtkiết-la. (Không phạm như giới trước).
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni cất chứa các thứ trang điểm thân hình nên sinh tâm ái dục… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cất chứa các thứ trang điểm thân hình, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-dini phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cất chứa đầu tóc… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cất chứa đầu tóc, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni để tóc dài, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni chứa đầu tóc và để tóc dài không cạo, phạm Đột-kiết-la. Nửa tháng cạo một lần, quá thời gian ấy gọi là tóc dài. Nếu không có người cạo hay bị cường lực bắt buộc không cho cạo thì không phạm.
Khi đó, các Tỳ-kheo-ni trang sức bằng các đồ của người nữ bạch y trang sức, sinh tâm ái nhiễm. Lúc ấy, người thí chủ của Tỳ-kheo-ni Thâu-lanan-đà mới cưới vợ. Người vợ đưa đồ trang sức của mình cho cô ni trang sức chơi. Cô ni trang sức rồi trùm đầu nằm trên giường ngủ. Người thí chủ đi bên ngoài muốn đến gần với vợ, vừa mới giở đầu ra mới biết, bèn trách: Nếu tôi không giở đầu ra thì tôi đã hành dục, như vậy đâu không mắc phải tội lớn?! Tại sao Tỳ-kheo-ni lại làm như vậy? Thật là không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đeo trang sức bằng những đồ trang sức thân hình, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Độtkiết-la. Trường hợp không phạm như giới trước.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni vì người làm đồ trang sức thân hình.
Các bạch y dè bỉu nói: Những người này như dâm nữ làm đồ trang sức thân hình. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào vì người làm đồ trang sức thân hình, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-dini phạm Đột-kiết-la.
Lúc đó, các Tỳ-kheo-ni kéo tơ, các bạch y chê bai nói: Những người này y thực đã nhờ người khác, sao không nghĩ đến việc hành đạo để trả ơn tín thí, lại kéo tơ làm gì?! Thật là không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào kéo tơ, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoama-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu làm sợi dây ngồi thiền hay cái đãy đựng y thì không phạm.
Đã nói xong một trăm sáu mươi pháp.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni tùy theo các nhà bạch y quen biết trải tọa cụ nằm. Các bạch y chê trách: Tại sao bỏ nhà mình đến nhà người ta nằm? Chúng tôi không muốn thấy hạng người xui xẻo này. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào không hỏi bạch y mà tự tiện trải tọa cụ trong nhà người ta nằm, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-dini phạm Đột-kiết-la. Nếu nằm nơi nhà bà con thì không phạm.
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni ở trong nhà bạch y tự tiện trải ngọa cụ của người chủ hoặc sai người trải để nằm ngồi, khi đi không dọn dẹp, không bảo người dọn dẹp. Các bạch y chê trách: Tại sao Tỳ-kheo-ni trải ngọa cụ, tọa cụ của người ta, khi ra đi không dọn dẹp, chúng ta luôn luôn làm tôi tớ cho những người này. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đến nhà bạch y tự tiện trải tọa cụ, ngọa cụ của người, hoặc sai người trải, khi ra đi không dọn dẹp, không bảo người dọn dẹp, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Độtkiết-la. Nếu có nhờ người dọn thì không phạm.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni tự nấu sinh vật làm thức ăn. Các bạch y chê trách nói: Tại sao Tỳ-kheo-ni được tự nấu sinh vật! Mà đã đích thân nấu để làm ra thức ăn thì cớ sao còn phải đến người để xin? Thật là không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tự nấu sinh vật làm thức ăn, phạm Ba-dật-đề”. Nếu vì bệnh thì không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni Sai-ma đến thành Xá-vệ, Tỳ-kheo-ni Chiên-đồ-tu-ma-na cho mượn Tinh xá để ở. Sai-ma đắc Tam-muội tâm từ, có đại oai đức, thành tựu quyến thuộc, đệ tử của Chiên Đồ đều cùng nhau tôn trọng, đều muốn đi theo Sai-ma. Chiên Đồ biết điều đó bèn giận mắng: Tôi cho cô mượn Tinh xá để ở, tại sao lại dụ dẫn đệ tử của tôi? Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách: Tại sao cho người ta mượn Tinh xá rồi sau lại giận hờn hủy báng… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào trước cho người ở, rồi sau lại nổi giận hủy báng, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoama-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu sự thật đúng như vậy mà sân hận thì không phạm.
Lúc này, Tỳ-kheo-ni Bạt-đà-già-tỳ-la trong bắp vế có mụt nhọt, không bạch với Tăng mà vội khiến nam y sĩ mổ ra nặn mủ rồi đặt thuốc vào. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy, quở trách: Cô đã lìa dục cho nên làm như vậy không sao, chứ nếu người chưa lìa dục không tránh khỏi phạm đại sự… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào không bạch Tăng mà vội nhờ nam tử trị bệnh, phạm Ba-dật-đề”. Nếu muốn nhờ nam tử trị bệnh thì phải đánh kiền chùy tập Tăng đến chỗ người bệnh. Sau đó dùng y trùm hết thân thể, chỉ chừa chỗ cần trị. Thức-xoa-mana, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu nhờ người nữ trị thì không phạm.
Khi đó, các Tỳ-kheo-ni ban đêm mở cửa ra ngoài không dặn người nào đóng. Đêm đó có kẻ trộm đến cướp đoạt y bát các Tỳ-kheo-ni. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào ban đêm mở cửa ra ngoài không dặn Tỳ-kheo-ni khác đóng lại, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nơi không có sự sợ sệt thì không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni đến nhà bạch y phi thời. Có một gia đình rất giàu, đám trộm cướp thường rình mò mà chưa có cơ hội. Chúng hỏi thăm, ai thường tới lui nhà này. Có người cho biết, Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà cùng nhà này thân thiện thường tới lui. Đám cướp bèn tới nói với Thâu-la-nan-đà: Thưa sư cô, gia đình… Mời sư cô… Theo lời mời, chiều đó Thâu-la-nan-đà đến, người chủ mở cửa, lũ cướp đột nhập, đoạt hết tài sản. Người chủ nổi giận chê trách nói: Nếu Tỳ-kheo-ni này không đến phi thời, ta không mở cửa, thì đâu có bị nạn này! Cúng dường mong cầu được phước trái lại gặp họa, giống như nuôi oan gia đâu có khác gì? Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào vào nhà bạch y phi thời, phạm Ba-dật-đề”.
Lại có các Tỳ-kheo-ni được bạch y mời, không dám đến, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo-ni, nếu bạch y mời thì được đến. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào, bạch y không mời, phi thời đến nhà họ, phạm Ba-dật-đề”. Phi thời: Từ giữa ngày cho đến tướng mặt trời chưa xuất hiện. Nếu bạch y mời nên xét kỹ vấn đề, người đưa tin kia có đáng tin cậy không? Lại nên xét hỏi để biết việc hư thật. Nếu còn có sự nghi thì khi đến cửa phải hỏi trước, gia đình đó có mời hay không, vậy sau mới vào. Lại còn phải tính toán, có phải lúc đáng sợ hay không? Nếu đến nhà bạch y phi thời thì bước ra cửa một chân phạm Đột-kiết-la, bước ra cửa hai chân phạm Ba-dật-đề. Thức-xoa-mana, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Lúc này, có các Cư sĩ mời Tỳ-kheo-ni Tăng thọ trai. Trước bữa ăn Tỳ-kheo-ni mặc y bưng bát đến nhà kia. Chư ni đến chỗ người làm thức ăn, đòi thức uống, đòi xôi, đòi cơm. Người làm thức ăn nghĩ: Nay sửa soạn thức ăn đây là vì những người này, cho trước cho sau cũng vậy thôi. Nghĩ như vậy nên họ cho hết cả thức ăn. Đến giờ, người chủ đánh kiền chùy hợp Tăng, ra lệnh người làm thức ăn dọn ra. Người làm thức ăn trình bày đầy đủ sự việc, Cư sĩ bèn chê trách nói: Các Tỳ-kheo-ni này giống như con nít, không thể chờ một chút, ham ăn như thế, làm gì có đạo?! Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào nhận lời mời, người chủ chưa xướng “tùy ý thực” mà ăn, phạm Ba-dật-đề”. Nếu chưa xướng “tùy ý thực” mà ăn, mỗi miếng ăn là phạm một Ba-dật-đề. Thức-xoa-mana, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Đã nói xong một trăm bảy mươi pháp.
Bấy giờ, bị các Tỳ-kheo-ni như pháp tác Yết-ma khu xuất (đuổi đi) rồi, Tỳ-kheo-ni bị khu xuất không chịu đi. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách nói: Người bị Yết-ma khu xuất với người không bị Yết-ma khu xuất có cái gì khác đâu!... cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào bị Yết-ma khu xuất mà không đi, phạm Ba-dật-đề”. Yết-ma khu xuất: Là Bạch-tứ-yết-ma. Thức-xoa-ma-na, Sa-dini phạm Đột-kiết-la. Nếu bị bệnh hoặc tám nạn khởi hay Yết-ma phi pháp, đều không phạm.
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni tập Tăng như pháp, có các Tỳ-kheo-ni không đến liền, các Tỳ-kheo-ni phải đợi, nên trở ngại việc hành đạo. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào Tăng như pháp tập hợp mà không đến liền, phạm Ba-dật-đề”. Thứcxoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu bệnh, hoặc không nghe hay tám nạn khởi thì không phạm.
Lúc đó, các Tỳ-kheo-ni đến xem ca vũ kỹ nhạc, sinh tâm nhiễm đắm, không vui sống với đạo, có vị hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các bạch y thấy chê bai nói: Những người này xem múa hát kỹ nhạc như dâm nữ, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào xem ca múa kỹ nhạc, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoama-na, Sa-di-ni, Đột-kiết-la. (Không phạm như trong giới xem cung Vua và xem triển lãm đã nói).
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni đến chỗ biên địa, bị người biên địa bắt làm nô tỳ, hoặc đoạt lấy y bát, hoặc phá phạm hạnh. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đến chỗ biên địa, phạm Ba-dật-đề”. Biên địa: Là chỗ không có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. Thứcxoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu đi bằng cách bay thì không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni độ người hai căn, các bạch y chê trách nói: Tại sao Tỳ-kheo-ni lại độ người hai căn, độ người không đáng độ, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào độ người hai căn, phạm Ba-dật-đề”. Nếu nghi thì nên khám trước. Khi khởi tâm muốn độ cho đến Yết-ma Ba lần chưa xong phạm Đột-kiết-la, Yết-ma xong, Hòa thượng phạm Ba-dật-đề, các Ni Tăng khác phạm Đột-kiết-la.
Khi đó, các Tỳ-kheo-ni độ người nữ hai đường hiệp một, các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào độ người nữ hai đường hiệp một, phạm Ba-dật-đề”.
Nếu độ rồi mới có bệnh này thì không phạm. (Ngoài ra như giới trên đã nói).
Lúc ấy, các Tỳ-kheo-ni độ người nữ thường có nguyệt thủy, đi khất thực máu chảy nhớp chân. Các bạch y thấy gớm, dè bỉu nói: Các Tỳ-kheo-ni độ người nữ không đáng độ, hạng người như vậy làm nhớp cả chiếu giường người ta, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào độ người nữ có mãi nguyệt thủy, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như trên đã nói).
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni không kính lễ, không nghinh đón, không tiễn đưa, cũng không mời Tỳ-kheo ngồi. Các Tỳ-kheo giận không giáo giới. Các Tỳ-kheo-ni ngu ám vô tri, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, nghiêm khắc quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi các Tỳ-kheo-ni: Sự thật các cô có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Trước đây Ta há không nói tám kính pháp, phải nên kính lễ Tỳ-kheo hay chăng?! Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào thấy Tỳ-kheo, không đứng dậy, không kính lễ, không mời ngồi, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Độtkiết-la. Nếu bệnh hay trước có sự hiềm khích không cùng nói năng với nhau thì không phạm.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni khởi ý nghĩ: Đức Phật không cho phép chúng ta cạo lông chỗ kín, nay nên dùng lửa đốt, liền ngay các ni mượn lửa đốt lông chỗ kín. Khi ấy có người Bà-la-môn mất dê đi tìm, đến nơi đường hẻm gần chỗ Tỳ-kheo-ni ở, nghe mùi lông khét, nghĩ là Tỳ-kheo-ni ăn trộm dê đem thui, bèn đến kiện nơi nhà Vua. Nhà Vua liền kêu Tỳ-kheo-ni đến hỏi: Các cô ni có giết con dê của Bà-la-môn không? Các cô ni trả lời:
Không giết. Nhà Vua nói: Không giết sao có mùi khét của lông? Các cô ni dùng sự thật để trả lời. Nhà Vua cả cười rồi bảo các cô ni về. Các quan nghe, chê trách nói: Tại sao Tỳ-kheo-ni không nghĩ đến chuyện hành đạo, lại đốt lông chỗ kín?! Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đốt lông chỗ kín, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như trong giới cạo lông chỗ kín đã nói).
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni không mặc Tăng-kỳchi mà đến nhà bạch y, gió thổi y trên bị bay, thân hình bị lộ. Các bạch y thấy bèn cùng nhau trêu đùa nói lời thô tục, do đó chư ni xấu hổ. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào không mặc Tăng-kỳchi mà vào nhà bạch y, phạm Ba-dật-đề”. Thứcxoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu đang giặt, nhuộm, đập, vá hay không có thì không phạm.
Đã nói xong một trăm tám mươi pháp.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni cùng bạch y ngồi đối nhau, thân kề nhau nói pháp, giống như nói việc riêng tư, trong số đó, có người sinh tâm nhiễm đắm, đưa đến tình trạng hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các bạch y chê trách. Quý vị Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào cùng bạch y ngồi đối nhau nói pháp, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-dini phạm Đột-kiết-la.
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni tự mình ca múa. Các Cư sĩ chê bai nói: Tỳ-kheo-ni này tự mình ca múa như dâm nữ. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tự mình ca múa, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-mana, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Lúc đó, các Tỳ-kheo-ni ngăn thọ y Ca-hi-na. Các Tỳ-kheo-ni đợi lâu không đến, trở ngại việc hành đạo. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào ngăn thọ y Ca-hi-na, phạm Ba-dật-đề”. Nếu vì bệnh hay không nghe thì không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni ngăn xả y Ca-hi-na… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào ngăn xả y Ca-hi-na, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như giới trước đã nói).
Lúc này, Tỳ-kheo-ni Sai-ma thông minh, giỏi biện luận, vấn nạn các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không thể trả lời được, rất xấu hổ, cho nên thấy các Tỳ-kheo-ni liền tránh đi đường khác, đưa đến tình trạng không ai giáo giới Tỳ-kheo-ni, trở thành ngu ám, vô tri, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào vấn nạn Tỳ-kheo, phạm Ba-dật-đề”. Trường hợp các Tỳ-kheo-ni có chỗ nghi, không dám hỏi, do đó lại ngu ám, vô tri, không thể học giới, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo-ni trước phải bạch Tỳ-kheo, Tỳ-kheo cho phép hỏi mới hỏi. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào không bạch Tỳ-kheo mà vội hỏi nghĩa kinh, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Độtkiết-la.
Bấy giờ, Bạt-nan-đà thường tới lui nơi chỗ ở của Tỳ-kheo-ni Thâu-la-nan-đà. Một hôm, Bạtnan-đà đắp y bưng bát đến, do đứng ngồi sơ ý nên cùng thấy “Hình” nhau. Bạt-nan-đà bèn xuất bất tịnh. Thâu-la-nan-đà lấy nội y đem giặt, tự đem bất tịnh bỏ vào trong “Hình” của mình, nên dẫn đến có thai. Các Tỳ-kheo-ni thấy vậy hỏi: Sư cô không tu phạm hạnh hay sao? Thâu-la-nan-đà trả lời: Không phải tôi không tu phạm hạnh, mà do tôi tự lấy bất tịnh của nam tử để vào trong “Hình” của tôi, nên đưa đến tình trạng có thai như vậy. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào lấy bất tịnh của nam tử tự để vào nữ căn của mình, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo-ni làm theo pháp thờ lửa của ngoại đạo, đốt lửa và tụng chú ngữ của họ. Các Cư sĩ trách cứ nói: Những người này không còn nhận thấy cái trong sạch của chính mình thì làm gì có đạo được? Thật là không có hạnh Samôn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào làm pháp thờ lửa của ngoại đạo, đốt lửa, phạm Ba-dật-đề”. Nếu làm với tà kiến thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu làm các pháp phụng thờ của các ngoại đạo đều phạm Ba-dật-đề. Thức-xoa-mana, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Khi đó, các Tỳ-kheo-ni tắm chỗ có người, mọi người thấy dòm ngó đùa bỡn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão thấy, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tắm chỗ có người, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni tụng chú thuật của ngoại đạo, các bạch y chê bai: Những người này tụng chú thuật của ngoại đạo, không có tâm cầu đạo… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (Như trong giới phương pháp tụng kinh trị bệnh đã nói). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tụng chú thuật của ngoại đạo, hoặc dạy người tụng, phạm Ba-dật-đề”. Thứcxoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Lúc này, các chúng Tỳ-kheo-ni tự mình trao giới Cụ túc. Đương sự ngu ám, vô tri, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào chỉ một chúng trao giới Cụ túc, phạm Ba-dật-đề”. Từ khi khởi tâm cho đến khi Bạch-tứ-yết-ma chưa xong, phạm Đột-kiết-la, Bạch-tứ-yết-ma xong, Hòa thượng phạm Ba-dật-đề, các sư Tăng khác phạm Đột-kiết-la.
Đã nói xong một trăm chín mươi pháp.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni tự tác pháp Yết-ma nuôi chúng, tự tác pháp Yết-ma hai năm học giới, tự trao hai năm học giới, mà không thể giáo giới đệ tử, đệ tử ngu ám vô tri, không thể học giới. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tự tác pháp Yết-ma nuôi chúng, phạm Ba-dật-đề”. Tỳ-kheo-ni nào tự tác pháp Yết-ma hai năm học giới, phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo-ni nào tự trao hai năm học giới, phạm Ba-dật-đề. (Ngoài ra như giới trước đã nói).
Lúc đó, các Tỳ-kheo-ni tác pháp Yết-ma hai năm học giới rồi, để cách đêm mới cho thọ giới Cụ túc, giữa thời gian đó có nạn xảy ra không được thọ giới Cụ túc. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tác pháp Yết-ma hai năm học giới rồi, để cách đêm mới cho thọ giới Cụ túc, phạm Ba-dật-đề”. Khi khởi tâm cho đến tướng ánh sáng chưa xuất hiện, phạm Đột-kiết-la, tướng ánh sáng xuất hiện rồi, Hòa thượng phạm Ba-dật-đề, sư chúng khác phạm Đột-kiết-la. Nếu bệnh hoặc nạn khởi hay Tăng không tập hợp thì không phạm.
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni tác pháp Yết-ma hai năm học giới rồi, để cách đêm mới trao học giới cho đương sự, trong thời gian đó nạn khởi nên không thọ được. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào nào tác pháp Yết-ma hai năm học giới rồi, để cách đêm mới trao học giới cho đương sự, phạm Ba-dật-đề”. Khi khởi tâm cho đến khi tướng ánh sáng chưa xuất hiện phạm Đột-kiết-la, tướng ánh sáng xuất hiện rồi, Hòa thượng phạm Ba-dật-đề, sư chúng khác phạm Đột-kiết-la. (Trường hợp không phạm như giới trên).
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni tự dệt lấy y của mình, các bạch y dị nghị nói: Tại sao Tỳ-kheo-ni không nghĩ đến chuyện hành đạo mà lại tự dệt y cho mình như những người thợ dệt khác. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tự dệt y cho mình, phạm Ba-dật-đề”. Nếu dệt bằng khung cửi thì một lần đưa cái thoi qua là phạm Ba-dật-đề. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu dệt dây lưng hay dây ngồi thiền thì không phạm. Lúc này, người hầu cận của Vua Ba-tư-nặc và các Tỳ-kheo-ni đi du ngoạn nơi có sự khủng bố, bị đám giặc cướp đoạt, có vị bị phá phạm hạnh, hoặc bị bắt dẫn đi. Các Tỳ-kheo-ni khác báo với nhà Vua. Nhà Vua nói: Nay tôi không được quyền lực thì đâu giúp được gì cho Tỳ-kheo-ni! Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách: Tại sao lại đi du ngoạn nơi có các sự khủng bố… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào đi du hành trong nước, nơi có sự khủng bố, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu trước đi nơi đường lộ, sau đó có sự nạn khởi thì không phạm.
Khi đó, các Tỳ-kheo-ni tự tạo tượng cho mình, cũng sai người khác tạo. Khi ấy, Thâu-lanan-đà sai người tạo tượng, khi thấy tượng mình, Thâu-la-nan-đà tự tâm sinh nhiễm đắm, lại có ý nghĩ: Nhan sắc của ta như vậy, tại sao hủy hoại để tu phạm hạnh! Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão biết, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tự tạo tượng cho mình, hoặc sai người làm, phạm Ba-dật-đề”. Tạo tượng cho mình: Hoặc vẽ, hoặc dùng cây, hoặc dùng chất dẻo để làm. Thức-xoama-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu người khác tự ý làm cho mình thì không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni trang điểm cho người nữ, bèn sinh tâm không vui với đạo, đến nỗi hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các bạch y chê trách nói: Tại sao Tỳ-kheo-ni lại trang điểm cho người nữ, như thể trang điểm một kiểu mẫu, để tự trang điểm cho chính mình, nào có khác xa gì mấy? Không nghĩ đến việc hành đạo, chỉ làm việc trang sức bất chánh, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào trang điểm cho người nữ, phạm Ba-dật-đề”. Trang điểm: Chải đầu cho đến gắn một đóa hoa, đeo chiếc xuyến, mỗi việc làm phạm một Ba-dật-đề. Thứcxoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni tắm rửa trong nước, lội ngược dòng nước tạo ra cảm xúc dục, sinh tâm ái dục, đến nỗi hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào lội ngược dòng nước, phạm Ba-dật-đề”. Nếu lội ngược dòng nước mỗi bước lội phạm một Ba-dật-đề. Mất bất tịnh thì phạm Thâu-lan-giá. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu không có tâm dục thì không phạm.
Khi đó, các Tỳ-kheo-ni nằm giữa ngay chỗ nhà bị dột, giọt nước nhỏ xuống, vào trong “Hình”, sinh tâm ái dục, đưa đến tình trạng hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào nằm giữa ngay chỗ nhà bị dột, nước nhỏ xuống chỗ kín, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như giới trước đã nói).
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni để eo được thon, nhỏ, đẹp, dùng dây buộc ngang eo lưng khiến sinh tâm ái dục, các bạch y chê trách nói: Các người này chăm sóc cho eo lưng nhỏ, yểu điệu như dâm nữ, không có tâm đạo chỉ làm việc tà. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào làm cho eo lưng nhỏ, yểu điệu, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Đã nói xong hai trăm pháp.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni bằng nhiều cách sửa soạn thân hình khiến cho đẹp, sinh tâm ái dục… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào bằng nhiều cách sửa thân cho đẹp, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như giới trước đã nói).
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni ăn mặc theo cách của kỹ nữ, sinh tâm không vui sống với đạo, đến nỗi hoàn tục… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào mặc y như pháp của kỹ nữ, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sadi-ni phạm Đột-kiết-la.
Khi đó, các Tỳ-kheo-ni mặc y như pháp của bạch y phụ nữ, sinh tâm không vui sống với đạo… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào mặc y theo pháp của bạch y phụ nữ, phạm Ba-dật-đề”. (Ngoài ra như trên đã nói).
Lúc ấy các Tỳ-kheo-ni với tâm dục, tự trau chuốc thể hình của mình, sinh tâm ái dục… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào dùng tâm dục tự trau chuốc thân thể của mình, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-mana, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni soi gương, sinh tâm không vui sống với đạo… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào soi gương, phạm Ba-dật-đề”. Nếu soi gương trong nước phạm Đột-kiết-la. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la. Nếu mặt có mụt nhọt soi để thấy không phạm.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni tự mình bói toán bằng nhiều cách, cũng đến người khác bói toán. Các bạch y chê trách nói: Đám này không bỏ tà kiến, làm sao đắc đạo? Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào tự mình bói toán, hoặc đến người bói toán, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni cùng nhau bàn luận việc riêng tư, như nói chúng ta xuất gia sẽ đạt được cứu cánh để làm gì? Không đạt được cứu cánh thì sao? Nên bỏ đạo hay không nên bỏ đạo? Nếu bỏ đạo được một người chồng tốt chăng? Sinh được nhiều ít con, phước lộc, tướng mạo thế nào? Do luận bàn những chuyện thế tục như vậy, nên không vui sống với đạo, đến nỗi hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách: Tại sao Tỳ-kheo-ni luận bàn việc thế tục, quên việc đạo… cho đến câu: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới (như trước). Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào luận bàn theo thế tục, phạm Ba-dật-đề”. Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Đã nói xong hai trăm lẽ bảy pháp.
--
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni ưa ăn tô, thường đến nhà người xin, các bạch y chê trách nói: Tô là chất làm cho người láng da mát thịt, thức ăn của người đời, tại sao Tỳ-kheo-ni không cầu pháp vị, mà lại ham hố thức ăn ngon, mong cầu nhan sắc cho đẹp, so với dâm nữ đâu có khác gì? Thật là không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo-ni Trưởng lão nghe, nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, hỏi các Tỳ-kheo-ni: Thật sự các cô có như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Sự thật chúng con có như vậy. Đức Phật bằng nhiều cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay Ta vì các Tỳ-kheo-ni kiết giới Ba-la-đề-đề-xá-ni. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào ăn tô, nên đến bên các Tỳ-kheo-ni ăn năn: Tôi rơi vào pháp đáng quở trách nay hướng đến các sư cô để ăn năn. Như vậy gọi là pháp hối quá”. Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni ăn trong Tăng, được người mời ăn, hay khất thực nhận được tô không dám ăn, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép Tỳ-kheo-ni không xin mà nhận được tô thì nên ăn. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào xin tô để ăn, Tỳ-kheo-ni ấy nên đến bên các Tỳ-kheo-ni ăn năn: Tôi rơi vào pháp đáng quở trách, nay hướng đến các sư cô để ăn năn. Như vậy gọi là pháp hối quá”.
Có các Tỳ-kheo-ni bệnh cần tô mà không dám xin, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép Tỳ-kheo-ni bệnh được xin tô để ăn. Từ nay giới này được nói như sau: “Tỳ-kheo-ni nào không bệnh mà vì mình xin tô để ăn, Tỳ-kheo-ni ấy nên đến bên các Tỳ-kheo-ni ăn năn: Tôi rơi vào pháp đáng quở trách, nay hướng đến các sư cô để ăn năn. Như vậy gọi là pháp hối quá”. Thức-xoama-na, Sa-di-ni phạm Đột-kiết-la.
Tỳ-kheo-ni xin dầu, xin mật, xin đường phèn, xin sữa, xin lạc (váng sữa), xin cá thịt đều như trên đã nói.
--------------------
Bấy giờ, Tôn giả Ưu-ba-ly thưa hỏi Đức Phật:
Thế Tôn đã vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học, như không mặc y hạ cao, cần phải học… cho đến câu: Cây cao quá đầu người không được leo lên, trừ có nhân duyên lớn, cần phải học. Chúng con nên thọ trì thế nào?
Đức Phật dạy:
Nên thọ trì hai bộ Tăng.
Từ nay giới này được nói như sau: “Không mặc y hạ cao, cần phải học. Không mặc y hạ thấp. Không mặc y hạ so le. Không mặc y hạ như lá cây Đa-la. Không mặc y hạ như vòi con voi. Không mặc y hạ như quả nại tròn. Không mặc y hạ xếp thành lằn nhỏ”.
“Không mặc y cao. Không mặc y thấp. Không mặc y so le”. “Khéo che thân khi vào nhà bạch y.
Khéo che thân khi vào trong nhà bạch y. Không lật ngược y lên vai bên phải khi vào nhà bạch y. Không lật ngược y lên vai bên phải khi ngồi trong nhà bạch y. Không lật ngược y lên vai bên trái khi vào nhà bạch y. Không lật ngược y lên vai bên trái khi ngồi trong nhà bạch y. Không lật ngược y lên cả hai vai khi vào nhà bạch y. Không lật ngược y lên cả hai vai khi ngồi trong nhà bạch y. Không lắc thân khi vào nhà bạch y. Không lắc thân khi ngồi trong nhà bạch y. Không lắc đầu khi vào nhà bạch y. Không lắc đầu khi ngồi trong nhà bạch y. Không nắm tay nhau khi vào nhà bạch y. Không nắm tay nhau khi ngồi trong nhà bạch y. Không ẩn người khi vào nhà bạch y. Không ẩn người khi ngồi trong nhà bạch y. Không được chống nạnh khi vào nhà bạch y. Không được chống nạnh khi ngồi trong nhà bạch y. Không được chống má khi vào nhà bạch y. Không được chống má khi ngồi trong nhà bạch y. Không được đưa tay khi vào nhà bạch y. Không được đưa tay khi ngồi trong nhà bạch y. Không được nhìn lên cao khi vào nhà bạch y. Không được nhìn lên cao khi ngồi trong nhà bạch y. Không được ngó hai bên khi vào nhà bạch y. Không được ngó hai bên khi ngồi trong nhà bạch y. Không được đi xoạc chân khi vào nhà bạch y. Không được ngồi xoạc chân trong nhà bạch y.
Không được đi ngóng mặt khi vào nhà bạch y. Không được ngồi ngóng mặt trong nhà bạch y. Không được trùm đầu khi vào nhà bạch y. Không được trùm đầu khi ngồi trong nhà bạch y. Không được giỡn cười khi vào nhà bạch y. Không được giỡn cười khi ngồi trong nhà bạch y. Không được cao tiếng khi vào nhà bạch y. Không được cao tiếng khi ngồi trong nhà bạch y. Đường hoàng khi vào nhà bạch y. Đường hoàng khi ngồi trong nhà bạch y”.
“Để ý khi có thức ăn. Không nhận thức ăn đầy tràn bát. Canh cơm cùng ăn. Không nên moi khắp trong bát để lấy thức ăn. Không nên khoét giữa bát để ăn. Không cong ngón tay để vét bát ăn. Không ngửi thức ăn khi ăn. Nhìn kỹ bát khi ăn. Không vất bỏ thức ăn. Không dùng tay đang bốc thức ăn cầm đồ sạch. Không húp thức ăn. Không nhai thức ăn có tiếng. Không liếm thức ăn. Không bốc thức ăn đầy tay để ăn. Không hả miệng lớn để ăn. Cơm chưa đến không nên mở miệng lớn để chờ. Không nhéo mũi khi ăn. Không ngậm thức ăn mà nói. Không búng má để ăn. Không nhai phân nửa rồi nuốt. Không duỗi cánh tay lấy thức ăn. Không chống tay để ăn. Không le lưỡi ra để ăn. Không nuốt trọng thức ăn. Không vò cơm từ xa ném vào miệng. Không dùng nước trong bát có thức ăn rưới trong nhà bạch y. Không dùng cơm phủ canh mong được thêm canh. Không chê khen thức ăn. Không vì mình đòi thêm thức ăn. Không nhìn vào bát người ngồi gần với tâm nghi kỵ”.
“Không dùng đại tiểu tiện, trừ bệnh. Không đại tiểu tiện trong nước sạch, trừ bệnh. Không đại tiểu tiện trong rau cỏ tươi, trừ bệnh. Người mang guốc không nên vì họ nói pháp, trừ bệnh. Người mang dép không nên nói pháp, trừ bệnh. Người để trống ngực không nên vì họ nói pháp, trừ bệnh. Người ngồi, Tỳ-kheo-ni đứng không nên vì họ nói pháp, trừ bệnh. Người ngồi chỗ cao, Tỳ-kheo-ni ngồi chỗ thấp không nên vì họ nói pháp, trừ bệnh. Người nằm, Tỳ-kheo-ni ngồi không nên vì họ nói pháp, trừ bệnh. Người ở trước, Tỳ-kheo-ni ở sau không nên vì họ nói pháp, trừ bệnh. Người ở giữa đường, Tỳ-kheo-ni ở bên đường không nên vì họ nói pháp, trừ bệnh. Không vì người trùm đầu nói pháp, trừ bệnh. Không nên vì người lật ngược y nói pháp, trừ bệnh. Không vì người lật ngược y lên hai vai nói pháp, trừ bệnh. Không vì người cầm dù che thân nói pháp, trừ bệnh. Không vì người cưỡi ngựa nói pháp, trừ bệnh. Không vì người cầm gậy nói pháp, trừ bệnh. Không vì người cầm dao mà nói pháp. Không vì người cầm cung tên mà nói pháp. Cây cao quá đầu người không được leo lên, trừ có trường hợp đặc biệt, cần nên học. Trường hợp đặc biệt: Bị thú dữ hay các nạn, gọi là trường hợp đặc biệt”.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá, bảo các Tỳ-kheo: Thuở đời quá khứ, có nhà Vua tên là Uất Ma. Vợ lẻ có bốn người con, người thứ nhất tên Chiếu Mục, người thứ hai tên là Thông Mục, người thứ ba tên Điều Phục Tượng, người thứ tên Ni Lâu đều thông minh hiểu rộng, có oai đức. Đệ nhất phu nhân có một người con tên là Trườngsinh, ngu đần xấu xí, mọi người đều khinh miệt. Phu nhân nghĩ: Con ta tuy là lớn nhưng tài đức không bằng ai, còn bốn đứa kia lại có oai đức, ngôi vị của nước chắc về tay chúng. Ta nên lập mưu kế thế nào để củng cố cơ nghiệp cho con ta. Bà ta lại nghĩ: Hiện nay nhà Vua coi trọng và tin yêu mình hơn các phu nhân khác. Trước hết ta nên dùng tình cảm, sau sẽ dùng lý để giải quyết. Như mưu kế đã nghĩ, bà ta bèn trang điểm hết sức đẹp đẽ để khi Vua đến là chiếm được sự yêu thương và Vua muốn gần gũi với bà ta ngay. Khi ấy, bà ta khóc sướt mướt, nhà Vua hỏi lý do, bà ta trả lời: Em có lời nguyện nhỏ, e không toại, đành phải chết cho xong đời. Nhà Vua nói: Em có lời nguyện thế nào, nếu hợp lý thì anh đâu trái được. Bà ta bèn tâu với nhà Vua: Bốn đứa con của Vua đều có oai đức, còn đứa con của em tuy lớn, nhưng tài đức không bằng ai, vấn đề kế thừa đại nghiệp e chúng nó sẽ đoạt đi thôi. Nếu nhà Vua tẫn xuất bốn đứa kia thì em mới yên tâm. Nhà Vua nói: Bốn đứa đó đều có hiếu để, đối với nước không có lỗi gì, nay ta làm thế nào tẫn xuất được. Bà ta lại nói: Thật ra việc nhà cả việc nước lòng em quá đỗi lo toan đền đáp, vì bốn đứa con của Vua đều có oai đức, dân chúng đều quý mến, một ngày nào đó chúng nó tranh giành nhau ngôi vị ắt hẳn sẽ sát hại nhau và lộc nước lớn lao kia sẽ bị tiêu diệt, mai sau làm gì có Vua?! Nhà Vua nói:
Thôi! Thôi đừng nói thêm nữa. Nhà Vua liền kêu bốn người con, ra lệnh phải đi khỏi nước. Bốn người con vâng lệnh, liền chuẩn bị hành trang. Khi ấy, bà mẹ của bốn người con và các chị em ruột đều xin được cùng đi. Không những thế, các lực sĩ, bách quan, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ, tất cả dân chúng hầu hết đều vui lòng xin được đi theo. Nhà Vua chấp thuận cho theo tất cả. Là thế đấy, bốn người con bái từ ra đi. Qua được bên kia sông Kỳ-la, họ đến phía bắc Tuyết sơn, nơi đó đất bằng phẳng rộng rãi, bốn bề ngút ngàn sự trong lành, tĩnh mịch, lại nhiều trái ngọt, cây lành, kỳ hoa dị thảo, và muông thú đủ loại. Nhận ra đất lành, bốn người con cho dừng lại rồi gọi Bà-lamôn, Trưởng giả, Cư sĩ đến để cùng nhau bàn bạc: “Các nơi đã đi qua, không nơi nào hơn chỗ này, có thể định cư được rồi”. Tất cả đều đồng ý, nơi đây là quê hương mới. Họ xây dựng thành ấp và chỉ trong thời gian vài năm số người quy tụ đông đúc, dần dần phồn thịnh trở thành đại quốc. Cách sau vài năm, Vua cha nhớ đến con, hỏi quần thần: Bốn đứa con của ta nay ở đâu? Quần thần tâu: Ở tại phía bắc Tuyết sơn, gần rừng Xá-di, xây dựng thành quách doanh ấp, muôn dân phát đạt, đất đai màu mỡ, áo cơm sung túc không hề thiếu thốn. Nhà Vua nghe rồi Ba lần khen ngợi con ta có đủ khả năng! Nhà Vua Ba lần lập lại lời khen như thế. Từ đó, mang danh hiệu là chủng tộc Thích Ca.
Ni-lâu có con tên là Tượng-đầu-la. Tượngđầu-la có con tên là Cù-đầu-la. Cù-đầu-la có con tên là Ni-hưu-la. Ni-hưu-la có bốn người con: Một tên là Tịnh Phạn, hai tên là Bạch Phạn, ba tên là Hộc Phạn, bốn tên là Cam Lồ Phạn. Vua Tịnh Phạn có hai người con: Một tên là Bồ-tát, hai tên là Nan-đà. Bạch Phạn có hai người con: Một tên là A-nan, hai tên là Điều-đạt. Hộc Phạn có hai người con: Một tên là Ma-ha-nam, hai tên là A-na-luật. Cam Lồ Phạn có hai người con: Một tên là Bà-bà, hai tên là Bạt-đề. Bồ-tát có con tên là La-hầu-la. Khi còn nhỏ Bồ-tát đã có chí xuất gia. Vua cha sợ con học đạo, thường dùng năm dục để cho con vui chơi. Đến mười bốn tuổi, Bồtát oai nghiêm lên xa giá du ngoạn cửa thành phía Đông, thấy một người già đầu bạc lưng khòm, chống gậy, bước đi yết ớt, Bồ-tát hỏi người đánh xe: Đó là người gì? Tên đánh xe thưa: Đó là người già. Bồ-tát lại hỏi: Già là thế nào? Thưa Bồ-tát, già là tuổi đã lớn, căn cốt chín muồi, hình dạng biến đổi, sắc tướng suy tàn, đứng ngồi khổ sở, mạng sống không còn bao lâu, cho nên gọi là già. Bồ-tát hỏi: Ta có tránh khỏi tình trạng đó không? Thưa Ngài làm sao tránh khỏi. Bồ-tát bảo quay xe về lại cung, tự nghĩ: Chưa lìa khỏi sự già nên sầu ưu không vui. Vua cha hỏi tên hầu đánh xe: Thái tử đi chơi có vui hay không? Tên đánh xe tâu: Không vui. Tại sao vậy? Vì gặp một người già nên Thái tử không vui. Nhà Vua sợ, theo lời ông thầy tướng, e Thái tử không lâu nữa sẽ xuất gia, lại tăng thêm năm dục để mua vui cho Thái tử. Sau thời gian lâu, Thái tử lại ra lệnh người đánh xe nghiêm xa giá du quán cửa thành phía Nam. Gặp một người bệnh hình thể yếu ốm, dựa cửa thở hỗn hển. Thái tử hỏi người đánh xe: Đó là người gì? Thưa Bồ-tát: Đó là người bệnh. Bồ-tát lại hỏi: Thế nào là người bệnh? Thưa Ngài bốn đại tăng thêm sự tổn giảm, ăn uống không được, sức lực yếu dần, mạng sống ở trong khoảnh khắc, nên gọi là bệnh. Bồ-tát hỏi: Ta có tránh khỏi tình trạng đó không? Thưa Ngài, làm sao tránh khỏi. Thái tử bảo quay xe về cung, tự nghĩ: Chưa lìa khỏi sự già bệnh, lại tăng thêm sầu ưu. Nhà Vua hỏi tên đánh xe: Thái tử đi chơi có vui không? Tên đánh xe tâu: Lại càng không vui! Vua lại hỏi: Vì sao? Bẩm Đại vương vì gặp một người bệnh cho nên không vui. Nhà Vua sợ Thái tử xuất gia, nên tăng thêm năm dục ngày đêm để cho Thái tử vui. Sau thời gian lâu, Bồ-tát lại bảo người đánh xe nghiêm xa giá, du quán cửa thành phía Tây. Gặp một người chết, tử thi khiêng đi trước, gia đình cả nam lẫn nữ đi sau khóc kể. Thái tử hỏi người hầu xe: Đó là người gì? Thưa Thái tử, đó là người chết. Lại hỏi: Thế nào gọi là người chết? Thưa Ngài, hơi thở chấm dứt, tinh thần không biết gì nữa, vất bỏ nơi đồng trống, vĩnh viễn xa lìa bà con, nên gọi là chết. Bồ-tát hỏi: Ta có tránh khỏi trạng huống đó không? Người hầu xe thưa: Làm sao tránh khỏi. Bồ-tát tự nghĩ: Chưa tránh khỏi già bệnh chết, nên càng tăng thêm sầu ưu, liền quay xe trở về. Trên đường thấy người cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, bưng bát, nhìn đất mà đi, Thái tử hỏi người đánh xe: Đó là người gì mà y phục khác với người đời? Thưa Thái tử, đó là người xuất gia. Lại hỏi: Thế nào gọi là người xuất gia? Thưa Ngài, người khéo tự điều phục, đủ các oai nghi, thường hành nhẫn nhục, thương xót chúng sinh, nên gọi là xuất gia. Bồ-tát nghe rồi, ba lần thốt lên: Lành thay! Đây là sự sống an lạc duy nhất! Thái tử liền xuống xe đến gần cung kính hỏi: Tại sao hình thức y phục của Ngài không giống người đời? (Cách trả lời cũng giống như trên). Bồ-tát lại ba lần khen: Lành thay! Nếp sống này là an vui nhất. Bồ-tát lên xe về cung. Từ xa có một người nữ trông thấy Bồ-tát, trái tim cô ta bị rung động vì ái dục, liền nói kệ:
Mẹ vui vì có con
Cha con vui cũng thế
Người nữ được chồng này
Vui hơn vào Nê hoàn.
Bồ-tát nghe nói tiếng Nê hoàn, hoan hỷ vô cùng, tự nghĩ: Ta làm thế nào để sẽ chứng được Nê hoàn vô thượng này? Trở về cung, Bồ-tát miên man suy nghĩ đến các pháp sinh, lão, bệnh, tử chưa được xa lìa này… Nhà Vua hỏi người đánh xe: Nay Thái tử đi chơi có vui hay không? Người hầu xe thưa: Khi đi thì không vui, nhưng lúc về thì rất vui. Vua lại hỏi: Tại sao vậy? Thưa Ngài khi đi gặp một người chết nên không vui, lúc về thấy một Tỳ-kheo cho nên rất vui. Nhà Vua lại nghĩ: Tướng sư nói Thái tử sẽ xuất gia chắc là đúng. Nhà Vua tăng thêm năm dục cả ngày lẫn đêm để Thái tử vui chơi. Bồ-tát thưởng thức trò vui của các kỹ nữ, tạm thời ngủ được. Sau đó, đám kỹ nữ đều vùi mình trong giấc ngủ. Bồ-tát tỉnh dậy thấy các kỹ nữ cùng gối nhau mà ngủ, hoặc lộ hình thể chẳng khác nào con người bằng cây gỗ, nước mũi, nước mắt, nước dãi từ trong miệng chảy ra, đàn cầm, đàn sắt, đàn tiêu… ngổn ngang dưới đất, lại thấy cung điện cũng như gò hoang. Chứng kiến cảnh tượng này, Bồ-tát phải Ba lần thốt lên lời than: Họa thay! Họa thay! Bồ-tát liền chạy đến cung điện của phụ vương ở, biến trạng của cung điện cũng lại như vậy. Bồ-tát lại cũng than: Họa thay! Họa thay! Chán ngán quá rồi! Phải xa lìa gấp! Lúc ấy, Bồ-tát ra lệnh cho tên hầu Xiển-đà: Ngươi hãy thắng con ngựa, đừng cho ai hay! Xiển-đà thưa: Ban đêm không phải là lúc đi, không nên du quán. Hơn nữa, đâu có oán địch bức bách nơi hoàng cung, không biết vì lý do gì mà ban đêm bảo thắng ngựa? Thái tử trả lời: Có đại oán địch, ngươi không biết đâu. Cái oán địch là già, bệnh, chết, oán địch đó mới là lớn. Ngươi phải thắng ngựa gấp, không nên trì hoãn. Con bạch mã được thắng xong, Xiển-đà đem ra trước sân rồi thưa: Ngựa đã thắng xong, đem đến đây rồi. Bồ-tát liền đến nơi con ngựa, muốn cỡi lên, con ngựa liền hý lên một tiếng với giọng buồn thảm. Thiên thần sợ có sự trở ngại, liền dùng cách làm loãng âm thanh của ngựa, khiến cho người không nghe. Bồ-tát cỡi ngựa hướng về phía Đông các, cửa Đông các liền mở, lại hướng về cửa thành, cửa thành cũng tự mở. Ra khỏi cửa thành rồi, Bồ-tát hướng về rừng A-nậuda, cách thành không xa. Bồ-tát xuống ngựa, cởi áo quý báu, trao cho Xiển-đà và nói: Ngươi đem con ngựa và chiếc áo này về hoàng cung, tâu lên: Hôm nay ta bái tạ cha mẹ để đi học đạo, không lâu lắm đâu, ta sẽ trở về, xin song thân đừng quá buồn rầu. Xiển-đà khóc lóc, quỳ gối thưa: Tướng sư trước kia có nói, Thái tử sẽ làn Chuyển luân Thánh vương có bảy thứ báu, một ngàn người con, làm Vua bốn cõi thiên hạ, dùng chánh pháp trị đời, không dùng binh trượng, tự nhiên thái bình, tại sao nay lại từ bỏ ngôi Vua, cởi áo quý báu, nhận sự khổ nơi rừng núi hoang vu?! Bồ-tát hỏi lại: Tướng sư lúc bấy giờ còn nói gì nữa không? Xiển-đà thưa, tướng sư còn nói: Nếu không vui sống với thiên hạ, xuất gia học đạo sẽ thành Chánh đẳng giác vô thượng. Bồ-tát nói: Ngươi nghe rõ như vậy tại sao nay lại buồn? Ngươi phải mau trở về tâu với song thân ta: Dù cho xương cốt mục nát mà ta không chấm dứt được nguồn gốc của sinh, lão, bệnh, tử thì ta không trở về. Lúc ấy Xiển-đà buồn khóc, đến trước kính lễ, đi nhiễu ba vòng, rồi dắt ngựa, đem y báu về cung.
Bồ-tát tiến về phía trước, thấy một người thợ săn mặc chiếc áo cà sa, liền đến chỗ ông ta, dùng chiếc áo giá đáng trăm ngàn lần đổi lấy chiếc áo kia rồi mặc đi. Bồ-tát hướng đến cây Tu-ma-na, bên gốc cây có người thợ cạo tóc, nhờ cạo đầu. Họ liền cạo tóc cho Bồ-tát. Trời Thích-đề-hoànnhân, trong chớp nhoáng, như co duỗi cánh tay, đến trước Bồ-tát, lấy y, hứng tóc đem về Thiên cung. Cạo tóc rồi, Bồ-tát nghĩ: Nay ta đã làm người xuất gia tự nhiên đủ giới. Từ đó, Ngài tuần tự du hành đến thành Vương-xá. Vua Bình-sa lúc thiếu thời có năm lời nguyện:
Phụ vương băng hà ta sẽ nối ngôi.
Khi làm Vua gặp Phật ra đời.
Chính mình được thấy Phật, gần gũi cúng dường.
Phát tâm hoan hỷ đặng nghe chánh pháp.
Nghe pháp rồi liền được tin hiểu.
Bồ-tát vào thành khất thực, oai nghi rạng rỡ, nhìn đất mà đi. Khi ấy, chưa có bình bát, Ngài trì lá sen thay bát đi khắp mọi nẻo đường, bát lá sen còn cộng. Lúc đó, nhà Vua cùng quần thần ở trên vọng lầu, từ xa thấy Bồ-tát lấy làm kỳ lạ, quay lại nói với quần thần: Chưa từng nghe thấy ai như người này, chắc là thần thánh. Quần thần đều tâu: Trước đây có nghe, phía bắc Tuyết sơn, Vua thành Ca-duy-la-vệ tên là Tịnh Phạn, sinh người con tên là Bồ-tát. Thầy tướng xem tướng nói: Nếu ở nhà thì sẽ làm Chuyển luân Thánh vương, làm chủ bốn cõi thiên hạ, bảy thứ báu tự đến, tức là luân báu, tượng báu, mã báu, châu báu, nữ báu, thần báu và chủ binh báu. Vua có một ngàn người con dũng kiện, sức mạnh phi thường, dùng pháp chế ngự đời, binh trượng không dùng đến mà tự nhiên thái bình. Nếu không vui sống với thế gian, xuất gia học đạo, chứng thành Phật đạo, độ sinh tử cho người. Nghe Thái tử đã xuất gia chắc là người này. Vua nghe nói như thế, bèn rất vui mừng, nói: Năm lời nguyền của ta trước đây, một lời đã thực hiện, còn bốn lời nữa, chắc nay sẽ toại nguyện. Nhà Vua liền sắc hai người tới xem Bồtát trú nghỉ tại đâu để nhà Vua đến. Nhận lệnh, hai người theo sát đến tận nơi, thấy Bồ-tát khất thực xong trở về núi Ba-la-nại, ngồi kiết già hướng về nước Ba-tuần. Một người luôn theo để quan sát, một người về tâu với Vua. Nhà Vua liền trang nghiêm xa giá thẳng đến nơi. Bồ-tát hốt nhiên đình chỉ kiết già xuống núi, nhà Vua đang leo lên núi, đến chỗ Bồ-tát. Bồ-tát nói: Lại đây, lành thay Đại vương! Vua sẽ nhận được điều an lành. Nhà Vua liền cúi đầu kính lễ sát chân rồi ngồi lui qua một bên, bạch Bồ-tát: Ngài sinh từ nước nào, xuất gia từ họ nào? Bồ-tát trả lời: Sinh từ phía bắc Tuyết sơn, nước Xá-di, thành Ca-duyla-vệ, cha tên là Tịnh Phạn, họ là Cù-đàm. Nhà Vua muốn thử Bồ-tát cho nên nói: Tộc tánh của Tỳ-kheo tôn quý, ngôi Vua lớn ở đời, Thánh đức tự nhiên, bao trùm bốn biển, bốn biển không một ai không trông chờ. Nếu Ngài nhiếp chánh thì tôi cũng hướng về phương Bắc mà phụng thờ. Bồ-tát trả lời: Địa vị nào bằng địa vị Chuyển luân Thánh vương mà tôi đã bỏ huống là bốn biển. Sở dĩ tôi xuất gia cầu đạo là muốn vượt khỏi tất cả cái khổ lớn của sinh tử. Sao không thỉnh tôi thành đạo rồi độ Đại vương trước mà lại bo bo cho việc đó là trọng yếu?! Nhà Vua nói: Hay thay! Lời nói đó rất là vừa ý! Xin Ngài thành đạo rồi độ tôi và người trong nước này trước. Bồ-tát chấp thuận. Nhà Vua rất hoan hỷ kính lễ sát chân rồi cáo lui. Sau khi nhà Vua đi, Bồ-tát bèn hướng về cây Bồđề. Cách cây Bồ-đề không xa có một người cắt cỏ, tên là Kiết-an, Ngài tới xin một ít cỏ, đem đến trải bên một gốc cây rồi ngồi kiết già, thẳng người, chánh ý, chánh niệm trước mắt, liền trừ được năm cái, lìa dục, lìa pháp ác bất thiện… Cuối cùng đắc đệ tứ thiền và an trú trong đó, thông hạnh ba mươi bảy đạo phẩm. Do tâm tịnh này mà ba minh rạng chiếu, tức là Túc mạng minh, Tha tâm minh và Lậu tận minh, như trong kinh Thụy Ứng Bổn Khởi đã nói. Khi ấy, Ngài đứng dậy đến nơi làng Uất-tỳ-la, ngồi dưới rừng cây, khởi đầu cho việc đắc thành Phật đạo. Đầu đêm, Ngài quán mười hai nhân duyên nghịch và thuận. Do duyên cái này nên cái này hiện hữu, duyên diệt thì cái này diệt theo. Nghĩa là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử, ưu bi, khổ não. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử, ưu bi, khổ não đều diệt. Thấy rõ nghĩa duyên khởi này rồi, Ngài bèn nói kệ:
Các pháp đều duyên sinh
Phạm chí bắt đầu thiền
Đã rõ pháp duyên sinh
Các nghi, có thể trừ.
Các pháp đều duyên sinh
Phạm chí bắt đầu thiền
Đã rõ pháp duyên sinh
Các khổ, có thể trừ.
Các pháp đều duyên sinh
Phạm chí bắt đầu thiền
Ma tối tăm phá được
Như mặt trời trên không.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn mắc bệnh cảm gió, thần núi Ma-tu-la liền lấy trái Ha-lê-lặc dâng Phật, thưa: Cúi xin Phật dùng trái cây này để trừ bệnh cảm gió. Đức Phật thọ nhận và dùng, bệnh cảm gió liền hết, ngồi kiết già bảy ngày thọ sự an vui giải thoát. Sau bảy ngày, từ Tam-muội đứng dậy du hành trong nhân gian. Khi ấy có năm trăm khách buôn chở hàng trên năm trăm cỗ xe, trong đó có hai đại nhân, một tên là Ly Vị, người thứ hai tên là Ba-lợi. Xưa kia hai người có một thiện trí thức qua đời, xin làm thiện thần, thường đi theo họ, nghĩ: Nay Đức Phật mới thành đạo cao cả, chưa có người dâng cúng thức ăn, ta nên khiến hai ông bạn cúng dường Đức Phật để được an lành nhiều kiếp. Vị thiện thần liền dùng thần lực làm cho đoàn xe đều bị trở ngại, mọi người sợ sệt, khấn vái bốn phương. Vị thiện thần từ không trung nói: Các người đừng sợ! Các người đừng sợ. Nay Đức Phật Thế Tôn vừa mới thành đạo cả, ngồi yên lặng bảy ngày, từ thiền định đứng dậy du hành và hiện ngồi nơi gốc cây kia, chưa có người dâng cúng, hai ông bạn nên đem lương khô, mật, dâng cúng để được an lạc nhiều đời. Mọi người đều hoan hỷ, trộn mật với lương khô đem đến để cúng. Từ xa, thấy Đức Thế Tôn ngồi dưới tàng cây, dung mãi đĩnh đạc, các căn tịch định, có ba mươi hai tướng của đại nhân, ánh sánh tỏa vòng quanh một tầm, giống như núi vàng. Họ đến trước mặt, kính lễ sát chân Phật rồi dâng cúng lương khô trộn với mật. Đức Thế Tôn khởi ý nghĩ: Các Đức Phật quá khứ đều dùng bình bát để thọ, các Đức Phật đương lai cũng lại như vậy. Nay Ta cũng nên dùng bát để thọ nhận thức ăn cúng dường. Tứ Thiên vương biết ý Phật, mỗi người tự lấy một cái bát bằng đá sạch có mùi thơm tự nhiên đem đến dâng Đức Thế Tôn, bạch: Cúi xin Ngài nhận lấy đồ đựng này của chúng con để thọ vật dâng cúng của người lái buôn. Đức Phật lại suy nghĩ: Nếu lấy một cái bát của một Thiên vương thì mấy vị kia không bằng lòng. Ngài bèn lấy cả bốn cái để vào trong bàn tay bên trái, dùng tay bên phải ép lại thành một cái, nhận lấy vật dâng cúng. Thọ rồi Ngài nói: Các người nên quy y Phật, quy y Pháp. Họ liền thọ hai tự quy. Trong loài người, hai nhà buôn là người thọ hai tự quy đầu tiên. Ngài nói pháp tùy hỷ, chú nguyện bằng kệ:
Hai chân, ngươi an ổn
Bốn chân cũng an ổn
Đi cũng được an ổn
Về cũng được an ổn.
Như người cày cầu mong
Gieo giống với hy vọng
Ngươi đi biển hy vọng
Thu hoạch như người cày.
Đức Thế Tôn nói kệ này rồi lại vì khách buôn nói các pháp diệu, chỉ vẽ lợi ích để họ vui mừng. Sau đó, Ngài đến ngồi dưới một tàng cây thọ thực thức ăn đã thọ nhận. Dùng lương khô trộn mật xong, Ngài lại ngồi kiết già nhập định bảy ngày thọ sự vui trong giải thoát. Sau bảy ngày, đến chỗ trú ngụ của rồng Văn Lân, ngồi dưới tàng cây. Con rồng ra khỏi nước dùng thức ăn không phải của loài người dâng lên Đức Thế Tôn. Đức Phật nhận và thọ thực rồi lại ngồi nhập định bảy ngày, thọ sự vui giải thoát. Khi ấy bầu trời dày đặc mây đen, mưa suốt bảy ngày, khiến người hoảng sợ. Con rồng khởi ý niệm: Nay, trời mưa đáng sợ, ta nên biến hóa làm thành thân lớn vây quanh Đức Phật bảy vòng, lấy đầu che trên Đức Phật để khỏi mưa gió mòng muỗi quấy rầy Ngài. Nghĩ xong, rồng liền thực hiện. Bảy ngày qua rồi, Đức Thế Tôn từ Tam-muội đứng dậy. Rồng thấy tạnh mưa, vòm trời trong sáng, xả bỏ thân hình lớn kia, biến làm thiếu niên, cúi đầu bạch Phật: Con hóa thân lớn, vây quanh bảy vòng, đầu che trên Đức Phật, muốn cho gió mưa mòng muỗi đừng xúc não đến Như Lai. Vì lý do đó Đức Phật nói kệ:
Xa lìa, vui chốn tĩnh
Nghe pháp, thấy pháp, vui
Không não hại đời, vui
Thương chúng sinh nên, vui.
Lìa dục thế gian, vui
Vượt hết ân ái, vui
Người dẹp được ngã mạn
Đó là vui tối thượng.
Đức Phật nói kệ rồi, đứng dậy đến Uất-tỳ-la, thôn Tư-na, vào thôn khất thực, sau đó đến nhà của Bà-la-môn Tư-na, đứng im lặng bên ngoài cửa, người nữ ấy tên là Tu-xà-đà, thấy oai tướng thần diệu của Đức Phật, liền đến trước mặt, lấy bình bát của Đức Phật đựng đầy thức ăn ngon bổ, dâng cúng Đức Thế Tôn. Đức Phật thọ thực rồi nói: Người có thể quy y Phật, quy y Pháp. Tu-xàđà liền thọ hai quy y. Trong số người nữ, Tu-xàđà là người đầu tiên thọ hai tự quy, làm người Ưu-bà-di. Đức Phật thọ thực rồi, trở lại dưới tàng cây Bồ-đề, ngồi kiết già, nhập định bảy ngày, thọ cái vui giải thoát. Sau bảy ngày, từ Tam-muội đứng dậy, mặc y bưng bát trở lại nhà ấy. Tư-na dâng thức ăn rồi thọ hai quy y (như trên đã nói). Sau đó, Đức Phật lại đến nhà ấy, người đàn bà thấy Đức Phật, dâng thức ăn, rồi thọ hai quy y như trước. Sau đó, Đức Phật đến lần nữa, bốn chị em của nhà kia thấy Phật, dâng thức ăn, thọ hai quy y (cũng như trước). Đức Phật thọ thực xong, lại trở về dưới tàng cây Bồ-đề, ngồi nhập định bảy ngày. Khi xuất định, Ngài hướng đến A-dựba-la, cây Ni-câu-loại, giữa đường thấy một người nữ đang khuấy lạc để làm tô, bèn đến khất thực, người nữ kia lấy bát đựng đầy lạc cúng Phật, rồi thọ hai quy y như trước. Đức Phật thọ thực rồi đến gốc cây phía trước ngồi nhập định Tam-muội bảy ngày. Qua bảy ngày rồi, xuất định, khởi ý niệm: Pháp Ta chứng được rất là vi diệu, khó rõ, khó thấy, tịch mịch vô vi, người trí mới biết chỗ vi diệu ấy, chẳng phải kẻ ngu hiểu được. Chúng sinh lại ưa ở trong nhà tối tăm ba cõi, kết dệt thành nghiệp chướng làm sao có thể ngộ đạo mười hai nhân duyên sâu xa vi diệu khó thấy này. Hơn nữa, phải dứt tất cả hành, cắt dứt ngay sự lưu chuyển của nó, tận diệt ân ái thì rõ cội nguồn Nê hoàn vô dư. Quả thật là điều rất khó. Nếu Ta đem nói ra thì tự chuốc lấy cái vất vả, cái nhọc nhằn, cuối cùng tự lấy cái khổ vô ích! Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn nói rõ lý do vì sao không thể giảng nói bằng kệ:
Đạo Ta thành rất khó
Nếu nói cho nhà tối
Nghịch dòng xoáy sinh tử
Pháp mầu rất khó hiểu.
Bị nhiễm dục phủ che
Ngu ám không thấy được
Người tham sân ngu si
Không thể hiểu pháp này.
Do vậy, Đức Thế Tôn im lặng không nói pháp. Lúc ấy, trời Phạm thiên ở trên cõi Phạm thiên, từ xa biết được ý của Đức Phật, khởi niệm: Nay Đức Phật chánh giác xuất hiện ở đời, mà không vì chúng sinh nói pháp tự thân đã chứng ngộ thì thế gian mãi ở trong tăm tối, sau khi chết phải đọa vào ba đường dữ. Nghĩ như vậy rồi, như lực sĩ co duỗi cánh tay, trong chớp nhoáng biến dạng nơi cõi Phạm thiên, xuất hiện trước Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, bạch Phật: Cúi xin Đức Thế Tôn thương xót chúng sinh, vì họ giảng nói pháp. Vẫn có chúng sinh đủ khả năng lãnh thọ lời Phật dạy. Nếu họ không được nghe pháp sẽ bị thối đọa. Ba lần thưa thỉnh như vậy, trời Phạm thiên lại dùng nghĩa này nói kệ thỉnh Phật:
Trước đây Ma-kiệt này
Thường nói pháp tạp uế
Nguyện mở cửa cam lồ
Diễn nói nghĩa thuần tịnh.
Chính tôi ở Phạm cung
Đều thấy Phật xưa nói
Cúi xin Đấng mắt Tuệ
Cũng mở Pháp đường dạy.
Cúng sinh đầy ưu não
Không lìa sinh lão tử
Vì nhiều người ưa thiện
Xin nói pháp chiến thắng.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn im lặng nhận lời, rồi dùng Phật nhãn xem khắp thế gian, thấy chúng sinh căn có lợi, độn, có người sợ đời sau đọa trong ba đường dữ, có người có khả năng thọ pháp như biển cả, có người như gốc hoa sen ở trong bùn, nhưng hoa ra khỏi nước hay chưa ra khỏi nước đều không bị nhiễm bùn. Đức Phật nói kệ:
Trước ngại việc vô ích
Không nói nghĩa thâm diệu.
Lối cam lồ sẽ mở
Tất cả đều nên nghe.
Bấy giờ, trời Phạm thiên nghe bài kệ rồi vui mừng vô hạn, đến trước Phật kính lễ sát chân, đi quanh bên phải ba vòng, bổng nhiên biến mất trở về Thiên cung. Đức Phật khởi ý niệm: Lối cam lồ sẽ mở, ai là người được nghe trước? Uất-đầu-lamphất thông minh dễ lãnh hội. Người này nên được nghe trước. Đã xác định được đối tượng nên Đức Phật lên đường. Ngay lúc ấy, trên không trung chư Thiên thưa: Uất-đầu-lam-phất qua đời trước đây bảy ngày. Đức Phật nói: Khổ thay cho ông ta đã mất hẳn cơ hội. Tại sao không được nghe tiếng pháp cam lồ?! Đức Phật lại nghĩ: Lối cam lồ sẽ mở, tiếp theo ai là người được nghe? A-lan-ca-lan thông minh dễ lãnh hội, đây là người kế tiếp nên được nghe. Đức Phật vừa muốn đi, chư Thiên lại nói: A-lan-ca-lan vừa mới qua đời đêm rồi. Đức Phật nói: Khổ thật! Trong pháp cam lồ mà không được nghe, sinh tử luân hồi do đâu được chấm dứt?! Đức Phật lại suy nghĩ: Lối cam lồ sẽ mở, ai là người tiếp theo sẽ được nghe trước? Xưa kia phụ vương sai năm người theo hầu Ta khổ cực, công đức ấy Ta nên đền trả. Năm người đó hiện nay đang ở nước Ba-la-nại, trong vườn Lộc Uyển Tiên nhân. Đức Phật nghĩ như vậy rồi liền đi.
Trên lộ trình, Ngài gặp Phạm chí tên là Ưu-bà-kỳbà. Từ xa trông thấy Đức Thế Tôn dung mạo đĩnh đạc, các căn tịch định, ánh sánh tỏa ra một tầm, giống như núi vàng, Phạm chí bèn hỏi: Ngài thờ thầy nào? Ngài hành theo pháp nào mà được tôn quý như thế? Khi ấy Đức Thế Tôn dùng kệ trả lời:
Nhất thiết trí là hơn hết
Không lụy, không bị nhiễm
Không thầy, Ta tự tu
Tự nhiên thông Thánh đạo.
Chỉ một và duy nhất
Khiến đời được an ổn
Sẽ ở Ba-la-nại
Đánh trống pháp cam lồ.
Phạm chí lại hỏi: Ngài tự nói là tối thắng, xin được nghe nghĩa ấy.
Đức Phật lại dùng kệ trả lời:
Đã trừ hết ràng buộc
Diệt lậu hoặc ba cõi
Phá tan các pháp ác
Thế nên Ta tối thắng.
Phạm chí không chấp nhận, giũ áo bỏ đi. Vị thiên thần bạn đời trước của Phạm chí từ trên không liền nói kệ:
Phật vừa mới ra đời
Bậc tôn kính thế gian
Tại sao bạn được gặp
Lại bỏ mà ra đi?!
Vị Phạm chí tuy nghe bài kệ vẫn bỏ đi không ngó lại. Lúc ấy, Đức Thế Tôn hướng đến Ba-lanại, nơi chỗ ở của năm người. Năm người từ xa thấy Đức Phật đến, cùng dặn nhau: Sa-môn Cùđàm trước kia ăn một ngày một hạt mè, một hạt thóc còn không đắc đạo, nên nhiều ham muốn cách đạo càng xa, chúng ta chỉ đặt một chiếc ghế nhỏ và đừng nên đứng dậy nghinh đón, lễ bái hỏi chào. Nhưng khi Đức Thế Tôn tới, năm người đã tự động đứng dậy kính lễ, rước y bát trải chỗ ngồi tốt, lấy nước rửa chân, song vẫn còn coi thường Như Lai nên chỉ gọi tánh danh… của Ngài để mời ngồi. Đức Phật bảo năm người: Các ngươi là kẻ ngu si, dặn nhau thế nào mà tự hủy bỏ. Các ngươi chớ nên đối với Phật mà khinh, gọi bằng tánh danh, để rồi phải thọ khổ báo nhiều kiếp. Ta nay đã thành Chánh giác vô thượng, nên phải cùng nhau nhất tâm lãnh thọ lời dạy. Nếu các ngươi tùy thuận không chống trái thì không bao lâu sẽ được xuất gia trong tộc tánh, tịnh tu phạm hạnh, hiện chứng đạo quả, sinh tử đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm xong, hiểu rõ năm ấm, an hưởng Nê hoàn. Năm người lại nói: Trước đây ông tu khổ hạnh, làm những việc làm khó như vậy mà còn không đắc pháp vượt hơn người, đầy đủ lợi ích của bậc Thánh, huống chi nay bỏ khổ hạnh sống phóng túng nhiều ham muốn, thì pháp vượt hơn người làm sao có được? Đức Phật lại bảo: Các ngươi đừng khinh Đức Như Lai bậc Chánh giác vô thượng. Phật không mất đạo cũng không đa dục. Năm người nghe rồi mới bỏ ý nghĩ cũ. Đức Phật lại bảo: Đời có hai cực đoan không nên thân cận, một là tham đắm ái dục, nói dục là không có tội lỗi, hai là tà kiến khổ hạnh, không hề có dấu vết của đạo. Xả bỏ hai cực đoan đó thì được Trung đạo, phát sinh mắt trí sáng suốt giác ngộ hướng đến Niết-bàn. Thế nào gọi là Trung đạo? Trung đạo là tám con đường chính: Chánh kiến, Chánh tư, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh phương tiện, Chánh niệm và Chánh định. Như vậy gọi là Trung đạo. Lại có bốn Thánh đế: Khổ Thánh đế, Khổ tập Thánh đế, Khổ diệt Thánh đế và Khổ diệt đạo Thánh đế. Khổ Thánh đế là thế nào? Nghĩa là sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ưu bi não khổ, oán ghét gặp nhau khổ, ái biệt ly khổ, mong cầu mà bị mất khổ. Nói một cách gọn: Năm ấm xí thạnh là khổ. Như vậy là khổ Thánh đế. Khổ tập Thánh đế là thế nào? Nghĩa là hữu ái và phiền não câu sinh, ưa thích đắm vướng khắp nơi. Như vậy gọi là Khổ tập Thánh đế. Khổ diệt Thánh đế là thế nào? Nghĩa là trạng thái vắng lặng sau khi đoạn hết ái. Như vậy gọi là Khổ diệt Thánh đế. Khổ diệt đạo Thánh đế là thế nào? Nghĩa là tám con đường chánh. Như vậy gọi là Khổ diệt đạo Thánh đế. Đó là pháp trước đây Ta chưa từng nghe. Nhãn sinh, trí sinh, minh sinh, giác sinh, thông sinh, tuệ sinh, pháp như vậy nên biết. Trước đây Ta chưa từng nghe nhãn sinh cho đến tuệ sinh, pháp như vậy Ta đã biết. Trước đây Ta chưa từng nghe nhãn sinh cho đến tuệ sinh là Khổ Thánh đế. Khổ Thánh đế như vậy nên biết, Khổ Thánh đế như vậy Ta đã biết. Trước đây Ta chưa từng nghe nhãn sinh cho đến tuệ sinh là Khổ tập Thánh đế. Khổ tập Thánh đế như vậy nên đoạn, Khổ tập Thánh đế như vậy Ta đã đoạn. Trước đây Ta chưa từng nghe nhãn sinh cho đến tuệ sinh là Khổ diệt Thánh đế. Khổ diệt Thánh đế như vậy nên chứng, Khổ diệt Thánh đế như vậy ta đã chứng. Trước đây Ta chưa từng nghe nhãn sinh cho đến tuệ sinh là Khổ diệt đạo Thánh đế. Khổ diệt đạo Thánh đế như vậy nên tu, Khổ diệt đạo Thánh đế như vậy Ta đã tu. Trước đây Ta chưa từng nghe nhãn sinh cho đến tuệ sinh, Ta đã biết như thật, đó là Ba lần chuyển thành mười hai hành pháp luân đặng thành Chánh giác vô thượng. Khi Phật giảng nói pháp này, quả đất rung chuyển sáu cách. Kiềutrần-như xa trần lìa cấu, ở trong các pháp đạt được mắt pháp trong sạch. Đức Phật hỏi ông Kiều-trần-như: Ông hiểu chưa? Ông hiểu chưa? Ông Kiều-trần-như trả lời: Bạch Đức Thế Tôn! Tôi đã hiểu. Vị địa thần nghe rồi báo lên thần Hư không, thần Hư không báo lên Tứ Thiên vương, Tứ Thiên vương báo lên Đao-lợi thiên, như vậy lần lượt báo đến trời Phạm thiên: Nay Đức Phật ở nơi Ba-la-nại chuyển bánh xe pháp vô thượng, trước đây chưa từng được chuyển. Sa-môn, Bà-lamôn, Thiên, Ma, Phạm, tất cả thế gian chưa hề ai chuyển. Chư Thiên hoan hỷ mưa xuống bằng các loại hoa, đều có ánh sáng như các ngôi sao rơi xuống đất. Trong hư không nhạc trời trổi lên. Lúc ấy, Kiều-trần-như từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ sát chân Phật, bạch: Bạch Đức Thế Tôn! Xin cho con xuất gia thọ giới Cụ túc. Đức Phật nói:
Lành thay Tỳ-kheo, lại đây thọ giới Cụ túc, ở trong pháp luật khéo nói của Ta có thể dứt hết tất cả khổ, tịnh tu phạm hạnh.
Kiều-trần-như râu tóc tự rơi xuống, cà sa mặc vào thân, bình bát bưng nơi tay. Như vậy là Kiềutrần-như đã được xuất gia thọ giới Cụ túc. Từ đây về sau gọi là A-nhã-kiều-trần-như.
Đức Phật lại vì bốn người kia nói pháp giáo giới. Bạt-đề, Bà-phả hai người đạt được mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc quả. Thấy pháp đắc quả rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ sát chân Phật, bạch:
Bạch Đức Thế Tôn! Nguyện cho con được xuất gia thọ giới Cụ túc.
Đức Phật nói:
Lành thay Tỳ-kheo! Cho đến câu: Bình bát bưng nơi tay (như trên đã nói).
Đức Phật lại vì hai người nữa nói pháp giáo hóa, Át-bệ, Ma-ha-nạp đạt được mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc quả. Thấy pháp đắc quả rồi, từ chỗ ngồi đứng dậy kính lễ sát chân Phật, bạch: Bạch Đức Thế Tôn! Cho chúng con được xuất gia thọ giới Cụ túc.
Phật nói:
Lành thay Tỳ-kheo! Cho đến câu: Bình bát bưng nơi tay (như trên đã nói).
Đức Phật bảo năm Tỳ-kheo:
Các ông một lòng cầu chánh đoạn phiền não, trước đây Ta cũng một lòng cầu chánh đoạn phiền não nên được thành Chánh giác vô thượng. Các ông nghĩ thế nào? Sắc là thường hay là vô thường?
Thưa Ngài:
Sắc là vô thường. Lại hỏi:
Nếu là vô thường thì khổ hay vui? Thưa:
Là khổ. Lại hỏi: Nếu là khổ thì ngã hay phi ngã? Thưa: Là phi ngã.
Thọ, tưởng, hành, thức cũng hỏi như vậy, đáp cũng như trên. Do đó, này các Tỳ-kheo! Sắc dù trong, dù ngoài, dù quá khứ, vị lai, hiện tại đều nên thấy đúng như thật là phi ngã. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Là Thánh đệ tử nên quán như vậy, nhàm chán, xa lìa không nhiễm đắm thì được giải thoát, được trí giải thoát, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm. Khi giảng nói pháp như vậy, năm Tỳ-kheo đều dứt hết lậu hoặc, đắc A-la-hán. Bấy giờ trong thế gian có sáu vị Ala-hán.
Lại có con ông Trưởng giả tên là Da-xá, bản tánh hiền thiện, nhàm chán muốn xa lìa thế gian, ưa thích nghe pháp. Đức Thế Tôn khởi ý niệm: Da-xá, con ông Trưởng giả kia sẽ dùng lòng tin xuất gia. Đức Thế Tôn bèn đến bên dòng sông Bà-la, trải cỏ nghỉ lại đêm. Khi ấy, con ông Trưởng giả thọ hưởng năm dục rồi, tạm thời ngủ, tất cả kỹ nữ cũng đều nằm ngủ. Trong giây lát con ông Trưởng giả thức dậy thấy quang cảnh nơi nhà mình như bãi tha ma, xem các kỹ nữ như người gỗ. Họ gối lên nhau mà ngủ, nước mũi, nước dãi từ trong miệng chảy ra. Đàn cầm, đàn sắt, ống tiếu, ống sáo, đồ đạc ngổn ngang, rất là đáng sợ, sinh lòng nhàm chán muốn xa lìa, bèn chạy đến chỗ cha ở, cũng thấy như vậy, càng sinh nhàm chán muốn xa lìa, liền hướng đến cửa hông, cửa tự nhiên mở, hướng đến cửa cái và cửa của đại thành cũng đều tự nhiên mở. Ông đi quanh đến bên dòng sông Bà La, cao giọng kêu lớn: Tôi đang sầu khổ, không có chỗ nương nhờ!
Bấy giờ, Đức Thế Tôn duỗi cánh tay sắc vàng vẫy gọi: Này đồng tử, đến đây! Đây là chỗ yên lặng không có sầu khổ! Da-xá nghe tiếng nói của Phật, tất cả sầu khổ bỗng nhiên tiêu mất, bèn cởi đôi giày lưu ly đang mang để nơi bờ sông, lội qua, đến chỗ Đức Phật. Từ xa, thấy Đức Thế Tôn sắc diện đặc biệt, như núi vàng ròng, Da-xá sinh tâm hoan hỷ, đến nơi, đầu mặt đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật vì Da-xá giảng nói các pháp vi diệu, chỉ vẽ sự lợi ích khiến cho vui mừng. Kế đó, Phật nói Tứ đế: khổ, tập, diệt, đạo. Da-xá liền từ chỗ ngồi xa trần lìa cấu, đạt mắt pháp trong sạch.
Sau đấy, đám kỹ nữ thức dậy, cùng nhau tìm kiếm Da-xá, không biết ở đâu, đến báo với cha mẹ của Da-xá. Cha mẹ ông bủa ra tìm kiếm khắp nơi, và rao truyền cho mọi người: Ai biết con tôi ở đâu, tôi sẽ dùng chiếc áo quý giá đang mặc trong mình biếu cho. Trong đêm, cha của Da xá đến nơi cửa thành đợi cửa thành mở mới ra được, thấy dấu giầy bèn truy tầm theo. Khi tới bên bờ sông thấy đôi giầy lưu ly để nơi bờ, vừa mừng, vừa lo, liền bỏ đôi giầy, lội qua sông. Đức Phật từ xa trông thấy, sợ trở ngại tâm thiện của người con, nên phương tiện hóa vật cách che khiến con thấy cha mà cha không thấy con. Người cha hỏi Đức Phật: Sa-môn có thấy con của tôi hay không? Đức Phật nói: Nên ngồi nghỉ đã, nếu có nơi đây thì lo gì không thấy. Nghe câu nói ấy, người cha nghĩ: Chắc Sa-môn không nói dối. Người cha liền đến kính lễ sát chân Phật rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật vì người cha giảng nói các phép mầu chỉ vẻ sự lợi ích, khiến vui mừng. Các pháp Đức Phật đã giảng nói đó là luận về bố thì, luận về trì giới, luận về sinh thiên, và nói năm dục là tội lỗi, xuất xinh các lậu hoặc, tại gia là nhiễm ô, xuất gia là không vướng mắc. Đức Phật nói các pháp trợ đạo Bồ-đề rồi, giảng nói các pháp mà chư Phật thường nói là khổ, tập, tận, đạo. Ông ta liền từ chỗ ngồi xa trần lìa cấu, đạt được mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc quả. Thấy pháp đắc quả rồi, thọ ba tự quy, kế tiếp thọ năm giới. Trong chúng Ưu-bà-tắc, cha con ông Da-xá là người đầu tiên thọ ba quy, năm giới.
Da-xá nghe Đức Phật vì cha mình giảng nói pháp bốn chân đế, lậu hoặc hết, tâm ý thông giải. Sau đó, Đức Phật khiến cho cha con hai bên thấy nhau. Người cha nói với con: Con nên về lại nhà, mẹ của con mất con, ưu sầu muốn chết!
Đức Phật nói với người cha:
Nếu người nào đã giải thoát khỏi lậu hoặc thì có thể trở về để thọ dục hay không?
Người cha trả lời:
Không thể. Đức Phật dạy:
Khi tôi vì ông giảng nói pháp, Da-xá quán các pháp lậu hoặc hết, tâm được giải thoát.
Người cha bạch Phật:
Đức Phật vì tôi nói pháp, khiến cho Da-xá thu được thiện lợi. Khi ấy, Da-xá từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Cho con xuất gia thọ giới Cụ túc. Đức Phật dạy: Lành thay, đến đây Tỳ-kheo! Cho đến câu:
Bình bát bưng nơi tay (như trên).
Bấy giờ trong thế gian có bảy vị A-la-hán. Khi ấy, cha ông Da-xá từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật, bạch Phật:
Cúi xin Đức Thế Tôn cùng Da-xá nhận bữa cúng dường vào ngày mai tại nhà con.
Đức Phật nhận lời bằng sự im lặng. Ông ta đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu ba vòng rồi cáo lui. Sau khi trở lại nhà, ông cho sửa soạn đầy đủ thức ăn thức uống mỹ vị. Đến giờ, Đức Phật cùng ông Da-xá đắp y bưng bát đến nhà, an tọa nơi tòa. Vợ chồng Trưởng giả tự tay sớt thức ăn, ăn rồi Phật dùng nước uống và nước rửa rất chu đáo. Bà lấy chiếc ghế nhỏ ngồi trước Phật.
Đức Phật nói:
-Này cô! Cô nên quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tỳ-kheo Tăng.
Vợ chồng ông Trưởng giả liền thọ ba quy y và kế đó thọ năm giới. Như vậy, vợ ông Trưởng giả, mẹ của Da-xá là người đàn bà đầu tiên thọ ba quy y và năm giới.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì mẹ ông Da-xá và cả nhà lớn nhỏ, giảng nói các pháp diệu, chỉ vẽ sự lợi ích, khiến họ vui mừng. Tất cả đều xa trần lìa cấu, đạt được mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc quả. Thấy pháp đắc quả rồi, đều thọ ba quy y và năm giới.
Da-xá có bốn người bạn, một tên là Mãn-túc, hai tên là Thiện-bác, ba tên là Ly-cấu, bốn tên là Ngưu-chủ, nghe Da-xá xuất gia tu phạm hạnh chỗ của Sa-môn Cù-đàm, đều cùng bàn nói: Đạo này chắc là hơn hết nên khiến cho kẻ hào tộc không đoái hoài đến địa vị vinh hoa của đời. Chúng ta có thể cùng đến chỗ Đại Sa- môn để tu phạm hạnh. Bốn người bèn đến chỗ Da-xá, với tâm hồn mộ đạo, hỏi:
Nơi bạn tu phạm hạnh, có khả năng đầy đủ cho sự tối thắng hay không? Da-xá đáp:
Đạo này là vô lượng tối thắng.
Da-xá bèn dẫn bốn người đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi qua một bên. Đức Phật vì họ giảng nói các pháp nhiệm mầu, chỉ vẽ sự lợi ích, khiến được vui vẻ.
Cả bốn người từ nơi chỗ ngồi, đều xa trần lìa cấu, đạt được mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc quả rồi, đảnh lễ sát chân Phật, bạch:
Cúi xin Đức Thế Tôn cho chúng con xuất gia thọ Giới Cụ túc. Đức Phật nói:
Lành thay, đến đây các Tỳ-kheo! Cho đến câu: Bình bát bưng nơi tay (như trên).
Thọ giới chưa bao lâu, siêng tu không biếng nhác, họ đắc quả A-la-hán. Lúc ấy trong thế gian có mười một vị A-la-hán.
Ông Da-xá trước kia giao du lại có năm mươi người quen, nghe ông ta xuất gia tu phạm hạnh với Sa-môn Cù-đàm, cùng nhau bàn tính rồi đi xuất gia… cho đến câu đắc quả A-la-hán (như trên). Bấy giờ trên thế gian có sáu mươi mốt vị Ala-hán.
Ông thầy tướng A-di biết Bồ-tát thành Phật, sẽ chuyển bánh xe pháp trong vườn Lộc Uyển nơi ở của Tiên nhân, nước Ba-la-nại. Ông ta lại nghĩ: Sau khi ta qua đời, trong các đệ tử của ta, Ma-nạp Na-la sẽ kế thừa ta, các vật phẩm cúng dường ta sẽ thuộc về hắn. Chắc hắn tham đắm không lưu ý mà nhớ đến việc Đức Phật ra đời. Nay ta nên đến bên vườn Lộc Uyển cất nhà ở, giáo dục hắn mỗi ngày Ba lần nhớ đến việc Đức Phật sẽ ra đời và dặn: Nếu khi Phật xuất thế con nên đến tu phạm hạnh nơi Ngài. Nghĩ xong liền thực hiện và giáo dục đệ tử như ý niệm. Không bao lâu A-di qua đời, quả thực Na-la nhận được vật cúng dường, tâm tham đắm sâu đậm, không hề nghĩ đến việc Đức Phật sẽ ra đời.
Khi ấy, Long vương Y-la-bát có những suy nghĩ: Xưa kia Đức Phật Ca-diếp có huyền ký với Ta: “Đời đương lai sau trăm ngàn vạn ức năm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện ở đời, Ngài sẽ huyền ký cho ngươi về thời gian thoát khỏi thân rồng”. Nay chính là lúc ta nên đến để gặp Đức Phật. Rồng kia vì cần gặp Phật nên trong sáu ngày chay, thường ở trong sông Hằng dùng bát bằng vàng đựng đầy thóc bằng bạc, dùng bát bằng bạc đựng đầy thóc bằng vàng, lại trang sức lộng lẫy cho hai người con gái mà nói kệ:
Vua nào trên các Vua?
Bậc nào nhiễm cùng không?
Làm sao được vô cấu?
Người nào gọi là ngu?
Người nào bị dòng cuốn?
Được gì gọi là trí?
Làm sao dòng không cuốn?
Để gọi là giải thoát?
Long vương nói bài kệ này rồi nghĩ: Nếu ai có thể giải được bài kệ này thì tức là Phật, nếu ai nghe từ Đức Phật thì họ sẽ chỉ cho ta ở chỗ Phật ở. Nay ta không thấy có Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma, Phạm tất cả trong thế gian giải được bài kệ này. Nghĩ như vậy rồi liền rao truyền: Nếu ai có thể giải được bài kệ ấy tôi sẽ biếu cho bát bằng vàng, bạc đựng lúa bằng bạc, vàng và hai người con gái này. Lúc ấy, có quá nhiều Sa-môn, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ tranh nhau muốn vì Long vương giải bài kệ này. Long vương nói kệ không ai giải được. Bấy giờ Ma-nạp Na-la là người được nước Ma-kiệt tôn kính. Mọi người nói: Ma-nạp này có tri kiến lớn, chắc có thể giải được, bèn cùng đến yêu cầu. Ma-nạp suy nghĩ: Ta được cả nước tôn kính, nếu nói không giải được thì bị mọi người bỏ rơi. Tuy ta chưa giải được nhưng tạo phương tiện để bảo tồn danh dự, nên trả lời: Mọi người cùng tôi đến chỗ Long vương, tôi sẽ giải cho. Thế là mọi người cung kính vây quanh Ma-nạp cùng đến chỗ Long vương nói: Long vương nói kệ, tôi sẽ giải đáp cho. Long vương liền nói kệ. Ma-nạp nói: Bài kệ này rất dễ hiểu, sau bảy ngày tôi sẽ giải đáp. Ma-nạp bèn đọc thuộc bài kệ, rồi trước hết đem đến hỏi Samôn, Bà-la-môn, Lục sư Bất-la Ca-diếp v.v… Tất cả đều không ai giải được, họ đều cáu gắt mắng là dối trá, quỷ quyệt, hoặc nói là vô nghĩa, muốn dùng thủ đoạn dấu bớt chữ để không giải được. Ma-nạp lại nghĩ: Xưa kia thầy ta bảo ta: Phật sẽ xuất thế nên đến đó để tu phạm hạnh. Nay Samôn Cù-đàm ở nơi vườn Nai chắc có thể giải được, ta nên đến hỏi. Nhưng, Ma-nạp lại nghĩ: Lục sư là hạng thâm niên, bác học còn chưa giải được huống là Sa-môn Cù-đàm tuổi nhỏ, mới xuất hiện làm sao giải được. Tuy vậy, Ma-nạp lại có suy luận: Thông minh hay ngu tối là điều tự nhiên, không thể dựa vào tuổi tác, Cù-đàm tuy nhỏ nhưng không thể khinh được. Nghĩ rồi, bèn đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân rồi đứng qua một bên, nói bài kệ của Long vương để hỏi Đức Phật. Đức Phật liền dùng kệ trả lời:
Vua thứ sáu trên hết
Người bị nhiễm cùng không
Không nhiễm là không cấu
Người nhiễm gọi là ngu.
Người ngu bị dòng cuốn
Người dứt được là trí
Bỏ dòng không trở lại
Như thế là giải thoát.
Ma-nạp nghe nói bài kệ rồi khẳng định đây là trí thâm diệu của Phật, liền tụng tập thọ trì. Ngày thứ bảy đến chỗ Long vương, khi ấy tám mươi bốn ngàn người tụ tập hai bên bờ sông Hằng để nghe Ma-nạp giảng nói nghĩa bài kệ. Ma-nạp nói với Long vương: Ngươi nói bài kệ của ngươi trước. Long vương đọc bài kệ. Ma-nạp liền nói bài kệ đã được nghe nơi Đức Phật để giảng giải. Long vương nghe bài kệ hoan hỷ vô cùng, nghĩ: Phật đã ra đời, nay ta nhờ vấn đề này mà được thấy Phật. Vì sao? Ta không thấy có Sa-môn, Bà-la-môn, Ma, Phạm, tất cả trong thế gian ai có thể giải được nghĩa ấy. Nghĩ như vậy rồi, hỏi Manạp: Ông nên nói thật với tôi. Bài kệ ông vừa nói là ông nghe từ ai? Vì hiện nay tôi chưa thấy Samôn, Bà-la-môn, tất cả thế gian người nào có thể nói bài kệ này, chỉ trừ Đức Phật. Ông nghe từ Đức Phật phải không? Ma-nạp nói: Tôi xin nói thật với ông, Đức Phật đã xuất thế, tôi nghe từ Ngài. Long vương vui mừng hỏi: Nay Đức Phật ở đâu, tôi muốn yết kiến Ngài. Ma-nạp quỳ gối đưa tay mặt chỉ về hướng Đức Phật ở, nói: Hiện nay Đức Phật đang ở đó. Long vương càng thêm vui mừng, Ba lần xưng tán: Nam mô Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Long vương nói với Manạp: Ông có thể đưa tôi đến chỗ Phật để thăm hỏi Đức Thế Tôn được không? Được, Ma-nạp trả lời. Long vương liền hiện lại thân hình, thân thể dài lớn, con mắt như cái bình bát to, hơi thở như sấm, miệng tuôn ra hỏa quang, ngược dòng nước mà đi. Tám mươi bốn ngàn người cùng đều tùy tùng. Khi đến nơi bãi nhỏ, Long vương lại hóa làm Chuyển luân Thánh vương, lên bờ đến chỗ Đức Phật. Từ xa thấy Đức Phật dung mạo đặc thù giống như núi vàng, Long vương hoan hỷ càng tăng thêm lòng kính trong vô lượng. Đức Phật thấy Long vương liền gọi tên:
Lành thay! Long vương Y-la-bát đến đây!
Long vương nghe rồi lại thêm vui mừng kính trọng, nghĩ: Đức Thế Tôn biết tên ta! Thiện Thệ biết tên ta! Long vương đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng lui qua một bên, nói bài kệ đó để thưa hỏi Đức Phật. Đức Phật nói lại bài kệ đã nói với Ma-nạp. Long vương nghe rồi, trước hết rất hoan hỷ, sau lại buồn khóc.
Đức Phật hỏi Long vương:
Tại sao chỉ trong chốc lát vui đó rồi lại buồn đó? Long vương thưa:
Bạch Đức Thế Tôn! Con nhớ đời quá khứ, con tịnh tu phạm hạnh chỗ Đức Phật Ca-diếp. Thời gian sau, con cầm một cành hoa màu tím đến chỗ Phật Ca-diếp, hỏi: Bạch Thế Tôn! Nếu Tỳ-kheo làm chết loại cây cỏ này thì mắc những tội gì? Phật Ca-diếp nói: Do nhân duyên ấy có thể bị đọa vào địa ngục rất khổ. Con nghe câu nói ấy không tin, không kính. Con lại đâm vào lá cây Y La với ý nghĩ: Thử xem có quả báo thế nào. Cuối cùng, con không bỏ ác kiến ấy, cũng không sám hối và sau khi chết sinh vào trong loài rồng sống lâu. Do nghiệp ấy, nên con mang tên là rồng Y-la-bát.
Sau khi thọ thân rồng rồi, con trở lại hỏi Đức Phật Ca-diếp: Khi nào con sẽ thoát khỏi thân rồng này? Đức Phật Ca-diếp nói: Đời đương lai, sau trăm ngàn vạn ức năm, có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện ở đời, Ngài sẽ cho ngươi biết khi nào thoát khỏi thân rồng. Nay con đã thấy được Đức Thế Tôn sinh tâm hy hữu, mới biết lời nói của chư Phật không dư hối, nên con hân hoan. Con lại nghĩ xưa kia do trái lời Phật dạy nay lại không thể thọ minh giới của Phật, cho nên con buồn khóc.
Rồng lại bạch Phật:
Nguyện xin Thế Tôn cho con biết khi nào tôi thoát khỏi thân rồng này?
Đức Phật dạy:
Đời vị lai sau trăm ngàn ức vạn năm có Đức Phật Di Lặc xuất hiện ở đời, khi ấy ngươi được thoát khỏi thân rồng, xuất gia thọ giới, rộng tu phạm hạnh, dứt hết khổ.
Đức Phật cho rồng thọ ba quy y, làm Ưu-bà-tắc. Phật lại vì tám mươi bốn ngàn người giảng nói các pháp vi diệu, chỉ vẽ sự lợi ích, khiến cho họ vui mừng, như nói về pháp bố thí… cho đến xuất ly là niềm vui. Họ hoan hỷ rồi, Phật lại vì họ giảng nói các pháp chư Phật thường nói là khổ, tập, tận, đạo. Tám vạn bốn mươi ngàn người đều từ chỗ ngồi xa trần lìa cấu, đạt mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc quả, thấy pháp đắc quả rồi thọ ba quy y, tiếp theo thọ năm giới.
Khi ấy, Long vương nói với Ma-nạp:
Nay ông đâu cần gì đến Long nữ nữa? Long nữ nhiều sân hận, hoặc dùng lửa độc, làm hại cho nhau, tuy ông cần vàng bạc vật báu, tôi sẽ biếu hết cho ông.
Ma-nạp nói:
Thôi đi, Long vương! Tôi không cần Long nữ, cũng không cần vàng bạc. Tôi nghe Đức Phật nói bài kệ sau cùng nên lìa ham muốn của cõi dục rồi. Đức Phật thuyết pháp rồi, nói với Long vương:
Ông có thể trở về chỗ ở.
Long vương vâng lời đảnh lễ và cáo lui.
Sau khi Long vương đi, Ma-nạp đến trước Đức Phật, đảnh lễ sát chân, rồi bạch:
Bạch Đức Thế Tôn! Nguyện cho con xuất gia thọ giới Cụ túc. Đức Phật dạy:
Lành thay đến đây Tỳ-kheo! Cho tới câu: Bình bát bưng nơi tay (như trước).
Xuất gia chưa bao lâu, Ma-nạp siêng năng tu hành không biếng nhác, đạt quả A-la-hán. Bấy giờ trong thế gian có sáu mươi hai vị A-la-hán.
Khi ấy, Đức Thế Tôn từ vườn Nai tuần tự du hóa đến rừng Ta La, ngồi dưới tàng cây. Cách rừng không xa, có một khu vườn để dạo chơi. Lúc này, có ba mươi người đồng bạn đưa vợ đến nơi vườn để vui chơi, trong số đó có một người chưa vợ, thuê một dâm nữ, cho mượn y phục tốt mặc, cùng nhau dạo chơi nơi vườn này, cuộc tình vừa đến đỉnh cao, người dâm nữ được mặc đồ tốt đẹp kia thình lình chạy trốn thoát thân. Đám thanh niên cùng nhau truy tầm, đến rừng Ta La, từ xa trông thấy Đức Thế Tôn dung mạo đĩnh đạc giống như núi vàng, lòng họ bị chế ngự cho là hiếm thấy, họ cùng đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân, rồi ngồi qua một bên và hỏi Phật:
Đại Sa-môn có thấy một người nữ đến đây không? Đức Phật hỏi lại:
Tự tìm mình và tìm một người khác, điều nào nên làm? Đám thanh niên thưa:
Tự tìm lấy mình hơn là tìm người nữ. Đức Phật dạy:
Các người ngồi lại đây ta giảng nói pháp cho nghe.
Họ vâng lời kính lễ rồi ngồi. Đức Phật vì họ giảng nói các pháp vi diệu, chỉ vẽ sự lợi ích để họ vui mừng… cho đến câu: Khổ, tập, tận, đạo. Ba mươi người đều xa trần lìa cấu, đạt mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc quả. Thấy pháp đắc quả rồi, bạch Phật:
Xin cho chúng con xuất gia thọ giới Cụ túc. Đức Phật dạy:
Lành thay, đến đây các Tỳ-kheo!... cho đến câu: Đắc quả A-la-hán, cũng như trên.
Khi ấy, trong thế gian có chín mươi hai vị Ala-hán.
Bấy giờ, lại có sáu mươi người làm việc hôn nhân đi qua rừng Ta La, từ xa thấy Đức Thế Tôn dung mạo đĩnh đạc giống như núi vàng, bèn đến trước Đức Phật đảnh lễ sát chân. Đức Phật vì họ giảng nói pháp… cho đến câu: Đắc quả A-la-hán, đều như trước.
Lúc này, thế gian có một trăm năm mươi hai vị A-la-hán.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Các ông mỗi mỗi người đều ở nơi phần bộ du hành trong thế gian, có nhiều người hiền thiện có thể thọ sự giáo giới. Nay ta riêng một mình sẽ đến cõi Ưu-vi, chỗ của Uất-tỳ-la Ca-diếp để khai hóa.
Các Tỳ-kheo vâng lời dạy chia nhau đi. Đức Thế Tôn bèn đến chỗ Ca-diếp. Ca-diếp thờ một con độc long để riêng trong một ngôi nhà vắng, không ai dám vào, chỉ trừ Ca-diếp. Đức Phật cố ý đến vào buổi chiều để xin ở lại đêm nơi ngôi nhà có con rồng.
Ca-diếp nói:
Đó là điều không thể chấp nhận, vì trong nhà có con độc long sợ nó làm hại.
Đức Phật nói: Không can chi, con rồng không hại tôi đâu. Ca-diếp nói: Nếu không sợ thì tùy ý cứ vào nghỉ.
Đức Phật liền đem cỏ vào nhà trải ra để ngồi, với ý nghĩ: Ta sẽ làm cho thân con rồng nhỏ lại như que đũa để trong bình bát, điều phục nó. Đức Phật mới ngồi trong giây lát, con rồng nổi giận cả thân đều tuôn khói ra, Phật cũng cho khói tuôn ra. Cả thân rồng thành một đống lửa cháy, cả thân Phật cũng tuôn ra lửa. Cả hai ngọn lửa hừng hực cháy, làm cho cả nhà của rồng tung tóe ra ánh sáng chói lọi.
Khi ấy, Ca-diếp và các đệ tử đến đi quanh nhà con rồng, buồn than nói:
Đáng tiếc là Đại Sa-môn không chịu nghe lời ta, để rồi bây giờ bị rồng hại! Sáng ngày, Đức Phật dùng bình bát đựng rồng đem ra và nói với Ca-diếp:
Độc long ở trong bát này, mọi người đều sợ, nay đã bị hàng phục.
Ca-diếp tâm niệm: Đại Sa-môn này tuy có thần lực nhưng không bằng chân đạo của ta.
Đức Phật liền dùng thần lực, như người lực sĩ co duỗi cánh tay, chỉ trong chớp nhoáng đem con rồng đến để ngoài thế giới rồi trở về chỗ Ca-diếp.
Ca-diếp hỏi Phật:
Để con rồng chỗ nào? Phật đáp:
Để nơi ngoài thế giới.
Ca-diếp lại nghĩ: Đại Sa-môn này rất có thần lực, chỉ trong chốc lát đã đem con rồng đến để nơi ngoài thế giới. Tuy vậy không bằng ta đã đạt được đạo A-la-hán.
Ca-diếp bạch Phật:
Mời Đại Sa-môn ở lại đây tôi sẽ cúng dường.
Đức Phật nói:
Nếu hằng ngày ông có thể đến mời thì tôi có thể nhận lời.
Ca-diếp nói: Tốt lắm!
Cách chỗ Ca-diếp không xa có một khu rừng rậm, Đức Phật tạm ở nơi đó. Ban đêm, Tứ Thiên vương giáng hạ đến hầu Phật và đến nghe pháp. Ánh sáng của Tứ Thiên vương như bốn đống lửa, Ca-diếp ban đêm thức dậy thấy bên Đức Phật như có bốn đống lửa lớn, không biết cái gì, sáng ngày đến thỉnh Phật:
Thức ăn đã xong, xin mời Ngài đến thọ. Ca-diếp lại hỏi:
Đêm vừa rồi nơi đây có bốn ánh sáng lớn, giống như lửa mà không phải. Vậy đó là cái gì?
Đức Phật nói:
Đêm vừa rồi Tứ Thiên vương xuống cúng dường và nghe pháp, đó là ánh sáng của họ.
Ca-diếp lại nghĩ: Đại Sa-môn này có đại oai thần nên mới khiến Tứ Thiên vương tự đến cúng dường, tuy nhiên vẫn không bằng ta đã đạt được đạo A-la-hán.
Đức Phật nói với Ca-diếp:
Ông về trước, ta sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa đi, Đức Phật như kẻ lực sĩ co duỗi cánh tay, chỉ trong chớp nhoáng tới cây Diêm-phù để lấy trái đem đến. Ca-diếp chưa về tới nơi, Phật đã đến ngồi rồi. Ca-diếp về sau, thấy Phật hỏi:
Tôi không đi đường khác trở về, cũng không ghé nơi nào, không thấy Đại Sa-môn, vậy Đại Sa-môn đi đường nào đến đây?
Đức Phật nói:
Sau khi ông vừa ra về, tôi đến nơi cây Diêmphù hái trái đem tới đây. Trái này thơm ngon có thể ăn được, nay tôi biếu ông ăn thử.
Ca-diếp lại nghĩ: Đại Sa-môn có Đại thần lực nhưng không bằng ta, đã đạt được đạo A-la-hán. Đức Phật thọ trai xong, trở về lại khu rừng. Ban đêm, Thích-đề-hoàn-nhân đích thân xuống hầu hạ và muốn nghe pháp. Ánh sáng của trời Đế Thích chiếu khắp khu rừng hơn gấp bội của Tứ Thiên vương. Ca-diếp ban đêm thấy cũng không biết là ánh sáng gì, sáng ngày tới thỉnh Phật đến thọ trai và hỏi ý nghĩa của ánh sáng.
Đức Phật nói:
Đêm vừa qua Thích-đề-hoàn-nhân cúng dường và nghe pháp, đó là ánh sáng của họ.
Ca-diếp lại nghĩ: Đại Sa-môn này là hạng thần lực khuôn mẫu của thần lực nên mới khiến trời Đế Thích tự đến cúng dường, song không bằng ta, đã đạt được đạo A-la-hán.
Đức Phật bảo ông Ca-diếp:
Ông về trước, tôi sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa đi, Phật đến bên cạnh Diêm-phùđề nơi rừng Ha-lê-lặc hái trái đem tới. Ca-diếp chưa về đến nơi mà Đức Phật đã ngồi nơi tòa. Ca-diếp về tới sau, cũng hỏi như trên.
Đức Phật nói:
Sau khi ông vừa đi, tôi đến bên cạnh Diêmphù-đề, nơi rừng Ha-lê-lặc hái trái đem tới đây. Trái này thơm ngon, có thể ăn được, nay tôi biếu ông ăn thử.
Ca-diếp lại nghĩ như trước.
Đức Phật thọ trai xong lại về khu rừng. Trong đêm, Phạm Thiên vương, chủ thế giới Ta Bà xuống hầu hạ và muốn nghe pháp. Ánh sáng của trời Phạm thiên gấp bội so với ánh sáng của Đế Thích. Ca-diếp ban đêm thấy cũng không biết là ánh sáng gì, sáng ngày đến thỉnh Phật thọ trai rồi cũng hỏi ý nghĩa của ánh sáng.
Đức Phật nói:
Đêm vừa rồi Phạm Thiên vương đến cúng dường và nghe pháp, đó là ánh sáng của họ.
Ca-diếp lại nghĩ: Đây là Đại Sa-môn thuộc hạng thần lực khuôn mẫu của thần lực nên mới khiến trời Phạm thiên đến cúng dường, song không bằng ta, đã đạt được đạo A-la-hán.
Đức Phật bảo Ca-diếp:
Ông về trước, tôi sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa đi, Đức Phật đến bên cạnh Diêmphù-đề nơi rừng A-ma-lặc hái trái đem đến… như trước đã nói.
Đức Phật thọ trai xong trở lại khu rừng. Bấy giờ, Đức Thế Tôn cần nước để rửa, sông Ni-liênthiền chảy quanh lại, đi qua bên Đức Phật, khiến Phật sử dụng được. Sáng ngày, Ca-diếp lại đến thỉnh Phật thọ trai thấy khúc sông chảy quanh liền hỏi:
Ai đào khúc sông này? Đức Phật nói: Vừa rồi Ta cần nước, nước tự chảy quanh đến.
Ca-diếp lại nghĩ: Đây là Đại Sa-môn thuộc hạng thần lực khuôn mẫu của thần lực nên mới khởi ý niệm cần nước, nước liền chảy đến, song không bằng ta, đã đạt được đạo A-la-hán.
Đức Phật nói với Ca-diếp:
Ông về trước, tôi sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa đi, Đức Phật đến nơi Câu-da-ni lấy sữa bò nơi đó… (ngoài ra như trước đã nói). Đức Phật thọ trai xong trở về lại khu rừng. Bấy giờ, có tớ gái của Bà-la-môn Tư-na chết, bỏ chiếc áo nơi gò mả, Đức Phật lấy đem về, với ý nghĩ nên giặt như thế nào? Khi vừa nghĩ như vậy Thích-đề-hoàn-nhân liền đến dùng tay chỉ xuống đất nước liền tuôn ra thành cái ao, rồi bạch Phật:
Ngài có thể giặt nơi đây. Sơn thần A-tỳ Thích-ca đưa đến một cái bồn bằng đá lớn, cũng bạch Phật:
Ngài có thể dùng cái bồn này để giặt.
Phật lại nghĩ: Ta đứng nơi cái gì để giặt y này?
Cách ao không xa có cây Kha-hầu, vị thần cây bẻ cong một nhánh cây xuống để Phật vịn nơi đó. Đức Phật giặc y rồi, phơi nơi hư không. Ca-diếp sáng ngày đến thỉnh Phật thọ trai, thấy vấn đề giặt y đều thưa hỏi Đức Phật. Đức Phật kể lại rõ ràng câu chuyện. Ca-diếp cũng với tâm niệm như trước. Đức Phật nói với Ca-diếp:
Ông về trước, tôi sẽ đến sau.
Ca-diếp vừa đi, Đức Phật đến nơi châu Uấtđơn-việt lấy loại lúa tám cánh… (ngoài ra như trên đã nói). Đức Phật thọ trai xong, trở về lại khu rừng. Sáng hôm ấy, nhân lúc có tiết hội, Ca-diếp nghĩ: Nay ta không thỉnh Phật thọ trai, vì mọi người thấy Ngài chắc họ sẽ bỏ ta mà tranh nhau phụng sự Ngài, do vậy không thỉnh. Đức Phật biết việc ấy nên đến châu Uất-đơn-việt lấy thức ăn để ăn. Ngày ấy qua rồi. Ca-diếp lại đến thỉnh Phật thọ trai và hỏi:
Hôm vừa qua tôi không đến thỉnh, Ngài ăn thứ gì? Đức Phật nói:
Ngày tiết hội vừa qua ông nghĩ: Nếu Phật đến mọi người thấy, chắc sẽ bỏ ta, tranh nhau phụng sự Ngài. Cho nên ta đến châu Uất-đơn-việt lấy thức ăn mà ăn.
Ca-diếp lại nghĩ: Đây là đại Sa-môn thần lực thuộc hạng thần lực khuôn mẫu, nên mới biết ý niệm của người khác, song không bằng ta, đã đạt được đạo A-la-hán. Hôm ấy, Đức Phật cùng Ca-diếp đến nhà thọ trai, rồi trở lại khu rừng.
Bấy giờ, năm trăm đệ tử của Ca-diếp cùng nhau bửa củi, nhưng cái búa giở không lên. Đệ tử thưa với thầy việc này. Thầy nói: Sợ Đại Sa-môn làm như vậy, các ông nên đến hỏi Ngài. Họ liền đến hỏi Phật.
Đức Phật hỏi:
Các ông muốn giở lên hay không? Họ thưa:
Muốn.
Đức Phật nói:
Các ông cứ đi đi, cái búa tự giở lên.
Khi giở lên rồi, để xuống lại không được. Họ lại thưa với thầy, thầy họ bảo thưa hỏi Phật.
Đức Phật hỏi:
Muốn để xuống hay không? Họ nói:
Muốn.
Đức Phật bảo:
Có thể cứ đi, búa sẽ tự để xuống.
Khi để xuống rồi, búa tự dính luôn nơi củi không thể bửa được. Đệ tử lại thưa thầy, thầy họ bảo hỏi Phật.
Đức Phật hỏi:
Muốn bửa được phải không? Họ thưa: Vâng!
Đức Phật nói:
Cứ đi đi, cái búa tự sử dụng được.
Cái búa liền đắc dụng. Họ muốn nhen lửa, lửa không chịu cháy, họ lại thưa với thầy, thầy họ bảo hỏi Phật.
Đức Phật nói:
Có thể cứ đi, lửa nó sẽ tự cháy. Lửa liền tự cháy.
Khi đã cháy rồi lại không tắt được, họ lại hỏi thầy, thầy họ bảo hỏi Phật.
Đức Phật hỏi:
Muốn cho lửa tắt phải không? Họ thưa: Vâng.
Đức Phật nói:
Cứ đi, lửa tự sẽ tắt. Lửa liền tự tắt.
Họ muốn dội nước để tắt than, nước lại ở trong bình không chịu chảy ra, họ thưa thầy, thầy họ bảo hỏi Phật.
Đức Phật hỏi:
Muốn cho nước chảy ra phải không? Họ thưa: Vâng. Đức Phật nói:
Cứ đi, nước sẽ tự chảy ra. Nước liền tự chảy ra.
Khi đã chảy ra rồi lại không dừng lại, họ thưa thầy, thầy họ bảo hỏi Phật.
Đức Phật hỏi:
Muốn cho nước ngừng chảy phải không? Họ thưa:
Vâng. Đức Phật nói:
Cứ đi, nước sẽ tự ngưng. Nước liền tự ngưng chảy.
Bấy giờ, mây u ám mưa lớn bảy ngày, nhà Ca-diếp thành một biển nước mênh mông, Đức Phật ở trong rừng, Ca-diếp sợ Phật bị cuốn trôi, đi thuyền đến xem, thấy Đức Thế Tôn đi kinh hành trên dòng sông Ni-liên-thiền. Ca-diếp lại nghĩ: Đây là Đại Sa-môn có thần lực thuộc loại thần lần khuôn mẫu, nên nước lớn như vậy mà không bị cuốn trôi, mới đi kinh hành trên nước, song không bằng ta, đã đạt được đạo A-la-hán.
Khi ấy, Đức Thế Tôn bay trên hư không bảo Ca-diếp:
Ông không phải là A-la-hán, tại sao hư dối tự xưng là đắc đạo? Ca-diếp bạch: Bạch Thế Tôn! Thật vậy! Bạch Thế Tôn! Thật vậy! Ca-diếp lại bạch Phật:
Xin được xuất gia chỗ Đại Sa-môn, thọ giới Cụ túc. Đức Phật nói:
Ông đã báo cho đệ tử chưa? Ca-diếp thưa:
Chưa.
Đức Phật nói:
Nên báo cho họ trước.
Ca-diếp vâng lời, liền trở về nói với hàng đệ tử:
Các ông biết chăng, ta muốn tịnh tu phạm hạnh chỗ của Đại Sa-môn, các ông người nào theo ta thì tốt, bằng không vui theo tùy ý.
Năm trăm người đệ tử đồng thanh nói:
Khi chúng con thấy Phật hàng phục rồng, đã sinh lòng, chỉ đợi ý kiến của thầy mà thôi. Chúng con xin được tùy tùng.
Thế là thầy trò cùng nhau đến chỗ Phật, bạch Phật:
Thầy trò chúng con đều muốn xuất gia thọ giới Cụ túc.
Đức Phật dạy:
Lành thay, các Tỳ-kheo đến đây, thọ giới Cụ túc, trong pháp luật khéo nói của Ta, có thể chấm dứt tất cả khổ, tịnh tu phạm hạnh.
Ca-diếp cùng với năm trăm đệ tử râu tóc tự rụng, áo cà sa mặc vào thân, bình bát bưng nơi tay. Khi đã thọ giới rồi, những dụng cụ, y phục thờ lửa trước kia đều đem bỏ nơi dòng sông Niliên-thiền. Như vậy Ca-diếp và năm trăm đệ tử thọ giới Cụ túc xong.
Ca-diếp có hai người em, người lớn tên là Nađề Ca-diếp, người nhỏ tên là Già-da Ca-diếp. Người em lớn có ba trăm đệ tử, người em nhỏ có hai trăm đệ tử. Ở cách anh một do-tuần về phía hạ lưu sông Ni-liên, hai người em thấy dụng cụ thờ lửa của anh mình trôi theo dòng sông, hoảng kinh, sợ anh mình bị người ác hại bỏ trôi theo dòng nước. Hai người em liền dẫn năm trăm đệ tử ngược dòng nước lên đến chỗ anh, thấy thầy trò của anh mình đều làm Sa-môn, lấy làm lạ, hỏi:
Tại sao thế này? Người anh trả lời: Pháp của đạo này nói lên được yếu tố thù thắng tối thượng, không ai hơn được.
Hai người em cùng năm trăm đệ tử nghị bàn: Trí tuệ đệ nhất như anh mình mà nay vui sống với đạo này thì chắc đạo ấy là tối thắng. Do đó, họ cùng với đệ tử đồng như người anh xuất gia. Họ liền đến chỗ Đức Phật đảnh lễ sát chân, rồi bạch:
Xin cho chúng con xuất gia, thọ giới Cụ túc. Đức Phật nói:
Lành thay, các Tỳ-kheo đến đây!... cho đến câu: Bình bát bưng nơi tay như trước đã nói.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn có suy nghĩ: Phải giáo giới cho một ngàn Tỳ-kheo Tăng Phạm chí mới xuất gia. Nơi nào có đủ ẩm thực, ngọa cụ cho Tỳ-kheo để giáo giới?
Nơi núi Già-da có đủ ẩm thực, ngọa cụ. Nghĩ như vậy rồi, Đức Phật dẫn một ngàn Tỳ-kheo đến đó, dùng ba việc để mà giáo hóa:
Một là, thần túc. Hai là, thuyết pháp. Ba-là, giáo sắc.
Thần túc giáo giới là thế nào? Như trong mục thần thông đã nói.
Thuyết pháp giáo giới là thế nào? Như nói Tỳ-kheo nên suy nghĩ thế này, không nên suy nghĩ thế này, nên nhớ nghĩ thế này, không nên suy nghĩ thế này, nên tu thế này, nên đoạn thế này, nên y theo như vậy mà tu hành.
Giáo sắc giáo giới là thế nào? Như nói Tỳ-kheo đốt cháy tất cả. Thế nào là đốt cháy tất cả? Đốt cháy nhãn, đốt cháy sắc. Nhãn thức, nhãn xúc, nhãn xúc làm nhân duyên sinh thọ cũng đốt cháy. Đốt cháy cái gì? Đốt cháy lửa dục, đốt cháy sân dục, si dục… cho đến ý pháp cũng như thế.
Đệ tử của bậc Thánh nghe pháp như vậy, sinh tâm nhàm chán xuất ly, không có nhiễm vướng, bèn được giải thoát, trí giải thoát sinh, việc làm đã xong, phạm hạnh đã lập, không còn tái sinh. Khi giảng nói pháp như vậy một ngàn Tỳ-kheo dứt hết lậu hoặc, tâm được giải thoát. Bấy giờ, Đức Thế
Tôn khởi ý niệm: Trước đây ta cùng Vua Bình-sa có lời kết là khi đắc đạo thì độ ông ta, nay nên đến đó. Đức Phật bèn cùng một ngàn Tỳ-kheo kẻ trước người sau vây quanh, tuần tự du hành đến thành Vương-xá. Vua Bình-sa nghe Phật thành đạo, độ ba anh em ông Ưu-vi-ca-diếp và một ngàn đệ tử, nay đến ấp này, liền ra lệnh trong nước có bốn mươi hai ngàn thôn, mỗi thôn chọn hai vị hào kiệt để đến cung nghinh Đức Phật. Tám vạn bốn ngàn người cỡi voi ngựa, xe trước sau nối đuôi nhau. Lúc này, vào tháng cuối mùa Xuân khí hậu rất nóng, mọi người đều nghĩ: Làm sao có được chút bóng mát. Khi ấy, trời Thích-đề-hoàn-nhân biết được ý niệm đó liền hóa làm lọng báu bằng mây, gió mát phảng phất, tự hóa làm Phạm thiên mặc áo sắc vàng cầm cây trượng bằng bảy báu, cái phất trần khảm bằng bảy báu, cách đất một khuỷu tay đi trước hướng dẫn. Lúc đó, người nước Ma-kiệt muốn lấn Phật đi trước, bị trời Đế Thích đuổi chạy. Họ chê trách, nói kệ:
Hình như tượng Phạm thiên
Cầm trượng đi cách đất
Miệng nói lời nhu hòa
Vì ai làm phục vụ?
Thích-đề-hoàn-nhân dùng kệ trả lời:
Giải thoát tất cả trói
Điều ngự sĩ tối thượng
Ứng Cúng bậc Thiện Thệ
Ta phục vụ vì Ngài.
Bấy giờ, Vua Bình-sa khởi ý niệm: Nơi Đức Phật nghỉ ngơi, ta sẽ đem chỗ này cúng Phật, để lập Tinh xá. Đức Phật biết ý đó, chiều tối đến nghỉ ngơi vườn trúc Ca-lan-đà. Khi ấy, quần chúng đều sinh nghi niệm: Không biết Đức Phật cùng Ưu-vi-ca-diếp ai là đệ tử? Đức Phật biết ý niệm của quần chúng bèn hướng đến Ưu-vi-ca-diếp nói kệ:
Ưu Vi ông thấy gì
Mà bỏ pháp thờ lửa?
Nay chính ta hỏi ông
Ông cần như thật đáp.
Ưu-vi-ca-diếp dùng kệ trả lời:
Thường tham những mỹ vị
Tâm chạy theo thanh sắc
Tôi thấy cấu uế này,
Nên bỏ nghiệp thờ lửa.
Lúc này, đại chúng tuy nghe Đức Phật cùng Ca-diếp đều nói một bài kệ, chưa rõ được ý chỉ nên còn hồ nghi. Đức Phật biết tâm của đại chúng, lại dùng kệ hỏi:
Ngũ vị ngọt miệng người
Sắc thanh vui lòng người
Ông thấy cấu uế này
Do đâu mà được không?
Ưu-vi-ca-diếp dùng kệ trả lời:
Tôi thấy đạo tịch diệt
Tất cả không đắm chấp
Không khác, không thể khác
Do vậy bỏ thờ lửa.
Bấy giờ, đại chúng tuy hai lần nghe kệ, vẫn còn hoài nghi do dự.
Phật biết tâm họ, bèn bảo Ca-diếp:
Ông lấy quạt, quạt tôi.
Ca-diếp liền vâng lời, lấy quạt quạt Phật. Đức Phật lại bảo Ca-diếp:
Hiện thần thông biến hóa của ông xem nào!
Ca-diếp liền thị hiện các loại thần biến, phân thân thành trăm ức, lại hiệp thành một, vách đá đều đi xuyên qua được, vào trong đất như vào trong nước, đi trên nước như đi trên đất, ngồi nằm trong không trung, như chim bay lượn, cả thân bừng cháy chói sáng, tuôn khói vụt lên mây, lấy tay rờ mặt trời, mặt trăng, đứng thẳng đến trời Phạm Tự Tại vô ngại. Hoặc trên thân tuôn ra nước, dưới thân tuôn ra lửa, hoặc trên thân bừng cháy, thân dưới tuôn ra nước, sau đó giáng hạ cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, đi quanh bên phải ba vòng, quỳ gối, chấp tay, bạch Phật:
Thế Tôn là thầy của con, con là đệ tử của Thế Tôn. Thưa như vậy Ba lần rồi, nói với đại chúng:
Những sự hiểu biết cho đến các thần biến của tôi đều do ân của Đại sư.
Khi ấy, đại chúng mới biết Ca-diếp là đệ tử của Phật, nên đối với Đức Phật hết sức hoan hỷ, lòng cung kính vô lượng. Thường pháp của chư Phật là nhân tâm chưa rung chuyển thì không vì họ giảng nói pháp. Đức Phật biết đại chúng đã vui vẻ cung kính, nên giảng nói các pháp diệu, chỉ vẽ sự lợi ích, khiến họ vui mừng và giảng nói thường pháp của chư Phật là khổ, tập, tận, đạo. Vua Bình-sa và tám vạn bốn ngàn người liền từ chỗ ngồi xa trần lìa cấu, đạt được mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc quả, rồi thọ ba quy y, năm giới. Lúc này, Vua Bình-sa cúi đầu thỉnh Phật và Tăng sáng ngày thọ trai. Đức Phật nhận lời bằng sự im lặng. Nhà Vua vui vẻ trở về cung, ra lệnh chuẩn bị các thức ăn ngon bổ. Sáng ngày trải tọa cụ nơi vườn trúc, đích thân đến thỉnh Phật thọ trai. Đức Phật cùng đại chúng theo thứ tự mà ngồi. Nhà Vua tự tay sớt thức ăn vui vẻ không mỏi mệt. Phật và Tăng ăn rồi, dâng nước rửa xong, nhà Vua đứng qua một bên, bạch Phật:
Con xin cúng dường vườn trúc này lên Đấng Thế Tôn.
Đức Phật dạy: Nên cúng cho Tăng phước đức nhiều hơn.
Nhà Vua lại bạch Phật:
Cúi xin Ngài thọ nhận. Đức Phật dạy:
Nên cúng cho Tăng, trong đó có tôi.
Nhà Vua vâng theo lời dạy dâng cúng cho Tăng bốn phương. Sau đó, Vua lấy chiếc ghế nhỏ ngồi trước Đức Phật. Đức Phật giảng nói pháp tùy hỷ, chú nguyện bằng bài kệ, như vì Tỳ-lan-nhã giảng nói. Nói kệ rồi giảng nói các pháp vi diệu rồi bảo Vua về lại chỗ ở. Nhà Vua từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ sát chân Phật, đi quanh bên phải ba vòng rồi cáo lui.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở Tinh xá Trúc Viên thuộc thành La-duyệt-kỳ, nơi đó có một ấp tên là Na-la-đà, có Phạm chí tên là Sa-nhiên, đệ tử thọ học hai trăm năm mươi người. Trong môn đồ có hai vị cao túc, một tên là Ưu-ba-đề-xá, người thứ hai tên là Câu-luật-đà. Bấy giờ, Át-tỳ mặc y bưng bát vào thành khất thực, sắc diện hòa dịu, các căn tịch định, y phục tề chỉnh, nhìn đất mà đi. Khi ấy, Ưu-ba-đề-xá dạo chơi, từ xa thấy Át-tỳ oai nghi rõ nét, khen chưa từng có, đợi đến bèn hỏi:
Thầy theo bậc pháp nào mà y phục khác thường? Có thể cho tôi biết quý danh của bậc Tôn sư?
Át-tỳ nhìn thẳng trả lời:
Sa-môn Cù-đàm là Đại sư của tôi. Chúng tôi tôn thờ Ngài, theo học với Ngài.
Ưu-ba-đề-xá nói: Đại sư của quý vị giảng nói những pháp gì? Át-tỳ nói:
Tôi còn non trẻ, mới học đạo chưa bao lâu, đâu có thể nói được nghĩa lý rộng lớn của thầy tôi. Nay tôi chỉ có thể vì ông nói các nghĩa yếu lược. Thầy tôi dạy: Các pháp từ duyên sinh, cũng từ duyên diệt. Tất cả các pháp là không, không có chủ thể.
Ưu-ba-đề-xá nghe rồi, tâm ngộ ý giải, được mắt pháp trong sạch, bèn trở về chỗ ở, rồi vì Câuluật-đà nói lại các pháp đã nghe. Câu-luật-đà nghe xong cũng xa trần lìa cấu, đạt được mắt pháp trong sạch, liền hỏi:
Đức Như Lai du hóa, hiện nay ở đâu?
Hiện ở vườn trúc Ca-lan-đà. Câu-luật-đà nói: Đức Như Lai là thầy của chúng ta, chúng ta nên cùng đến để kính lễ thăm hỏi.
Ưu-ba-đề-xá nói:
Còn hai trăm năm mươi đệ tử? Khi thầy gần qua đời có di chúc, chúng ta cần thành tựu cho nhau, có thể nào không thông báo cho họ mà xé lẻ ra đi?
Hai người liền đến chỗ đệ tử nói:
Chúng tôi muốn theo Sa-môn Cù-đàm để tịnh tu phạm hạnh, các ông mỗi người tùy ý thích lựa chọn.
Khi ấy, hai trăm năm mươi người đệ tử đều muốn đi theo. Hai người bèn dẫn đệ tử cùng đến vườn trúc.
Đức Thế Tôn từ xa trông thấy, bảo các Tỳ-kheo:
Hai người sắp đến kia, một tên là Ưu-ba-đềxá, người thứ hai tên là Câu-luật-đà. Hai người này sẽ là bậc tối thượng thủ trong hàng đệ tử của ta, trí huệ vô lượng, thần túc bậc nhất. Trong chốc lát hai người đến, Đức Phật vì họ tuần tự giảng nói pháp, luận về việc bố thí, trì giới và sinh thiên, chê trách dục bất tịnh, khen ngợi hạnh xuất ly. Từ nơi chỗ ngồi, họ liền dứt hết các lậu hoặc, tâm ý hiểu rõ đều đến trước Đức Phật xin được xuất gia tịnh tu phạm hạnh.
Đức Phật dạy:
Lành thay các Tỳ-kheo đến đây, ở trong pháp của Ta tịnh tu phạm hạnh, đặng dứt hết nguồn gốc khổ, liền được gọi là xuất gia thọ giới Cụ túc.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn du hóa nơi thành Laduyệt-kỳ, anh em Uất-tỳ-la Ca-diếp và một ngàn người đệ tử, Xá-lợi-phất. Mục-kiền-liên và hai trăm năm mươi đệ tử đều xuất gia học đạo. Các hào quý tộc tánh, Trưởng giả, Cư sĩ nơi thành Laduyệt-kỳ cũng đều xuất gia. Đại chúng vây quanh tụ hội nơi nước này, Đức Phật vì họ giảng nói pháp.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, Đức Thế Tôn chưa dạy các Tỳ-kheo cần có Hòa thượng, A-xà-lê. Do không có Hòa thượng, A-xàlê nên oai nghi bị thất thoát, mặc y thượng, hạ đều không như pháp, không biết việc tịnh hay bất tịnh, không buộc niệm trước mặt, không khéo hộ trì các căn. Vào xóm làng khất thực thọ thực bất tịnh, tự tay nhận lấy thức ăn không nhận từ người dâng. Khi người trao thức ăn, chính nơi tay người kia moi bới lên mà lấy, xòe tay cầm nơi miệng bát, không đưa cao bát lên mà thọ. Khi lớn tiếng nói ồn, người không tin ưa Phật pháp chê trách, nói: Các Sa-môn này quá hơn ngoại đạo, không có oai nghi… cho đến câu: Cao tiếng nói ồn, không có pháp của Sa-môn, phá hạnh Sa-môn. Chỗ nào họ không đi qua đều được thiện lợi. Lại có một Tỳ-kheo bệnh không ai chăm sóc, do đó phải qua đời. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, liền nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo:
Thật sự các thầy có như vậy không?
Bạch Thế Tôn có như vậy.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Tại sao các ông lại tâm tán loạn của mình, đi, đứng, nằm, ngồi đều không như pháp.
Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo:
Nếu mặc y thượng, y hạ không như pháp… cho đến câu: Khi ăn cao tiếng nói ồn đều phạm Đột-kiết-la. Từ nay do mười điều lợi, cho phép các Tỳ-kheo phải có Hòa thượng. Hòa thượng tự nhiên sinh tâm ái niệm đối với đệ tử như đối với con. Đệ tử tự nhiên sinh tâm kính trọng đối với Hòa thượng như cha mẹ, siêng giáo giới cho nhau, tương kính, chia bùi xẻ ngọt cho nhau, thì có thể mở rộng Phật pháp, khiến được lâu dài.
Pháp thỉnh Hòa thượng: Người thỉnh để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, quỳ gối, hai tay ôm chân Hòa thượng, thưa: Con tên là… nay cầu thầy làm Hòa thượng. Thầy vì con làm Hòa thượng. Con tha thiết mong thầy làm Hòa thượng cho con nương dựa. Nhờ thầy làm Hòa thượng nên con được thọ giới cụ túc. Cần cầu như vậy Ba lần. Hòa thượng nên trả lời: Được tốt! Tôi sẽ giáo giới ông. Ông chớ buông lung!
Đệ tử nên phụng thờ Hòa thượng: Nếu không thưa với Hòa thượng mà vào xóm làng, phạm Đột-kiết-la. Nếu cùng đi với Tỳ-kheo khác, cũng phải bạch với Hòa thượng, nếu không bạch hay không cho mà đi đều phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo khác kêu cùng đi cũng như vậy. Nếu muốn đến chỗ Tỳ-kheo khác lấy y bát, giày dép của mình cũng phải thưa. Nếu không thưa, hay không cho phép mà lấy đều phạm Đột-kiết-la. Nếu muốn cho Tỳ-kheo khác y bát cũng như thế. Nếu Tỳ-kheo khác muốn vì mình gánh y bát và vì mình lấy y bát, cũng phải bạch. Nếu không bạch hay bạch mà không cho phép vẫn lấy đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo khác nhờ gánh y bát hay khiến lấy cũng như vậy. Phàm làm việc gì cho đến cạo tóc, hoặc vì người cạo đều phải thưa, chỉ trừ đại tiểu tiện và lấy tăm xỉa răng. Nếu Hòa thượng phạm tội thô ác đệ tử nên cố gắng tạo phương tiện, khiến sớm trừ diệt, nếu không tạo phương tiện thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tăng trao cho Hòa thượng pháp Biệt trú hoặc hành Ma-na-đỏa, hay hành Bản nhật, hành A-phù-ha-na, đệ tử phải cố gắng tạo phương tiện cầu Tăng mau cho phép Biệt trú… cho đến hành A-phù-ha-na, nếu không cố gắng làm thì phạm Đột-kiết-la. Nếu ngày Hòa thượng được xuất tội, đệ tử nên lau quét rưới nước trải chỗ ngồi, chuẩn bị thẻ Xá La, tập Tăng cầu Tỳ-kheo Yết-ma, nếu không làm như vậy, phạm Đột-kiết-la. Nếu Tăng trao Hòa thượng pháp Yết-ma quở trách, Yết-ma khu xuất, Yết-ma y chỉ, Yết-ma cử tội, Yết-ma hạ ý, đệ tử nên cố gắng cầu Tăng khiến Tăng đừng làm, nếu không cầu Tăng, phạm Đột-kiết-la. Nếu Tăng chắc chắn phải làm các Yết-ma đó, đệ tử mong cầu đừng trái pháp, nếu không mong cầu, phạm Đột-kiết-la. Nếu Hòa thượng bệnh, đệ tử phải túc trực giúp đỡ. Nếu Hòa thượng có vật gì nên thưa để lấy đổi, tùy theo bệnh lo thức ăn, tùy theo bệnh lo thuốc thang. Nếu Hòa thượng không có gì mà mình có thì nên trao đổi. Nếu mình cũng không có vật gì thì nên tìm xin. Lại nên mai chiều vì bệnh tật của Hòa thượng nói pháp. Hòa thượng chưa lành bệnh không nên du hành. Nếu không vậy, phạm Độtkiết-la. Đệ tử phạm tội thô ác… cho đến câu: Bệnh chưa lành, Hòa thượng chăm sóc cũng như vậy.
Bấy giờ, có các Tỳ-kheo nói một lời: “Người quy y Phật”, trao cho giới. Lại có Tỳ-kheo nói hai lời: “Người quy y Phật, quy y Pháp” trao cho giới. Lại có Tỳ-kheo nói ba lời: “Người quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng” trao cho giới. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên bảo nói một lời, hai lời, ba lời rồi trao cho giới. Lại có Tỳ-kheo nói: “Lành thay, đến đây Tỳ-kheo” trao cho giới. Các Tỳ-kheo Trưởng lão chê trách: Tại sao thầy lại bắt chước Phật nói: “Lành thay, lại đây Tỳ-kheo”, rồi trao cho giới? Quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Không nên nói: “Lành thay, đến đây Tỳ-kheo!” mà trao cho giới.
Lúc này, các Tỳ-kheo khởi ý nghĩ: Đức Phật cho Tỳ-kheo trao giới, chúng ta cũng được phép.
Nếu được thì nên trao bằng cách nào? Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nay cho phép các thầy trao giới cho Tỳ-kheo bằng pháp Bạch-tứ-yết-ma để trao. Người muốn thọ giới, để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, kính lễ Tăng, đầu gối bên phải chấm đất, bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Con tên… theo Hòa thượng hiệu… thọ giới Cụ túc. Nay đến Tăng xin thọ giới cụ túc. Cúi xin Tăng tế độ con, rủ lòng thương, thương con. Thưa xin như vậy Ba lần. Trong chúng nên sai Tỳ-kheo biết pháp, bậc Thượng tọa hay ngang bằng với Thượng tọa bạch giữa Tăng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Người này tên là… muốn thọ giới cụ túc, Đại đức… làm Hòa thượng. Nay Tăng cho… thọ giới cụ túc, Hòa thượng hiệu… Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Người này tên là… muốn thọ giới cụ túc, Đại đức… làm Hòa thượng. Nay Tăng cho… thọ giới cụ túc, Hòa thượng hiệu… các Trưởng lão vị nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy.
Tăng đã chấp thuận cho… thọ giới cụ túc, Hòa thượng hiệu… rồi.
Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Khi ấy, các Tỳ-kheo gồm bốn người cho đến chín người cho một người, cho đến nhiều người thọ giới cụ túc. Các Tỳ-kheo Trưởng lão quở trách, rồi bạch Phật. Đức Phật dạy: Cho phép chúng mười người trao giới cụ túc. Các Tỳ-kheo dùng phi nhân, bạch y, người bị diệt tẫn, người bị cử tội, người tự ngôn, người bất đồng chánh kiến, người cuồng, người tâm tán loạn, người tâm bệnh hoại, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni vào trong số chúng mười người, trao giới cụ túc. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng mười vị Tỳ-kheo như pháp để trao giới cụ túc. Các Tỳ-kheo trao giới cụ túc cho người ngủ, người say, người cuồng, người tâm tán loạn, người tâm bệnh hoại, người dị kiến. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên trao giới cụ túc cho người ngủ… cho đến người dị kiến. Nên dùng mười Tỳ-kheo như pháp, trao giới cụ túc cho người như pháp. Các Tỳ-kheo dùng người ngủ, người say, người cuồng, người tâm tán loạn, người tâm bệnh hoại làm Hòa thượng. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên dùng những người này làm Hòa thượng. Các Tỳ-kheo lại dùng hai người cho đến mười người làm Hòa thượng. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng một người làm Hòa thượng, không nên dùng hai cho đến mười người. Có các người muốn thọ giới cụ túc mà không thể có đủ mười Tỳ-kheo như pháp, nên khởi ý niệm: Nếu Đức Phật cho phép ta khi Bố-tát, khi Tự tứ, khi Tăng tụ tập trao giới cho người thì đâu có khổ thế này. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Cho phép khi Bố-tát, khi Tự tứ, khi Tăng tụ tập cho người thọ giới cụ túc. Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo cùng với Hòa thượng, A-xà-lê không hòa hợp bèn gây trở ngại cho người thọ giới. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Người thọ giới nếu không có nạn sự thì không nên gây trở ngại, nếu gây trở ngại thì phạm Độtkiết-la.
Lại có các Tỳ-kheo do việc nhỏ nhặt mà cưỡng bức gây trở ngại cho người thọ giới, hoặc nói hình như bị mù lòa, hoặc nói chân bị khiễng, hoặc thấy thấp nhỏ bèn nói chưa đủ hai mươi tuổi, hoặc nói cha mẹ hình như chưa cho xuất gia.
Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên dựa vào việc nhỏ nhặt làm trở ngại cho người thọ giới, nếu làm trở ngại, phạm Đột-kiết-la. Các Tỳ-kheo vẫn gây trở ngại. Quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Nếu Hòa thượng, A-xà-lê hợp lý thì nên cho thọ giới.
Lại có các Tỳ-kheo ở trong một cương giới mà trao giới biệt chúng. Quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Nên ra ngoài giới bạch nhị Yết-ma kiết tiểu giới để trao giới. Trước hết sai một Tỳ-kheo xướng tướng bốn phương của giới, một Tỳ-kheo bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Như tướng bốn phương của giới, do Tỳ-kheo… đã xướng, nay Tăng kiết làm giới đàn, cùng sống chung, cùng Bố-tát, cùng nhận của thí. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Như tướng bốn phương của giới mà Tỳ-kheo… đã xướng, nay Tăng kiết làm giới đàn, cùng sống chung, cùng Bố-tát, cùng nhận của thí. Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Tăng đã kiết theo tướng giới của Tỳ-kheo… xướng làm giới đàn, cùng sống chung, cùng Bốtát, cùng nhận của thí rồi. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy. Các Tỳ-kheo kiết giới đàn rồi không xả mà đi. Quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Nên bạch nhị Yết-ma xả giới rồi sẽ đi. Một Tỳ-kheo bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Chỗ kiết giới này, nay Tăng xả giới ấy. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch Đại đức Tăng xin lắng nghe! chỗ kiết giới này nay Tăng xả giới ấy. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã xả giới này rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Khi ấy, các Tỳ-kheo dẫn người muốn thọ giới đến chỗ thọ giới, thưa với Thượng tọa: Xin thầy vì người này tác Yết-ma. Thượng tọa nói: Tôi không tụng Yết-ma. Cho đến hạ tọa cũng nói như vậy, nên người ấy không được thọ giới. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Vị nào cũng phải tụng Yết-ma. Nếu mười tuổi về sau mà không tụng được thì phạm Đột-kiết-la. Các Tỳ-kheo dẫn hai người muốn thọ giới đến chỗ thọ giới, hai người muốn thọ giới tranh nhau thọ trước, nên không thọ được. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Người nào đến chỗ thọ giới trước thì nên cho thọ trước. Nếu hai người cùng đến một lần thì người nào lớn tuổi nên cho thọ trước. Nếu đồng một tuổi thì Hòa thượng của vị nào lớn hơn thì cho thọ trước. Nếu Hòa thượng cùng đồng nhau thì Yết-ma một lần, nhưng người nào được xướng tên trước thì thọ trước. Ba người cũng như vậy.
Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật:
Những việc khác cũng được Yết-ma ba người hay không? Đức Phật dạy:
Được.
Ưu-ba-ly lại hỏi:
Được cho bốn người tác Yết-ma hay không?
Đức Phật dạy:
Tất cả không được tác Yết-ma bốn người.
Các Tỳ-kheo dẫn người muốn thọ giới đến chỗ thọ giới để thọ, gặp giặc cướp đoạt, hành hung gần chết, phải trở lại. Các Tỳ-kheo khởi ý nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn cho phép chúng ta ở trong Tăng phường lập giới tràng để thọ thì khỏi bị nạn này. Quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Nay cho phép ở trong Tăng phường bạch nhị Yết-ma kiết làm giới tràng để thọ. Trước hết nên bạch nhị Yết-ma để xả giới của Tăng phường. Một Tỳ-kheo biết pháp xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Một trú xứ này, Tăng sống chung, chung Bố-tát, chung nhận vật bố thí, trước kiết giới này nay xả. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Một trú xứ này, Tăng sống chung, chung Bố-tát, chung nhận vật bố thí, trước kiết giới này nay xả. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã giải giới trước đây kiết rồi. Tăng chấp thuận nên im lặng.
Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Giải giới của Tăng phường rồi, vậy sau mới kiết giới tràng. Một Tỳ-kheo xướng tướng bốn phương của giới tràng. Một Tỳ-kheo bạch nhị
Yết-ma như trên đã nói. Kiết giới trường rồi lại kiết giới Tăng phường. Một Tỳ-kheo xướng tướng bốn phương của giới, lại xướng trừ nội địa. Một Tỳ-kheo tác bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… này xướng tướng bốn phương của giới, trừ nội địa. Nay Tăng kiết làm đại giới sống chung, chung Bố-tát, chung nhận vật bố thí. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… này xướng tướng bốn phương của giới, trừ nội địa. Nay Tăng kiết làm đại giới sống chung, chung Bố-tát, chung nhận vật bố thí. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói:
Tăng đã theo tướng giới bốn phương, trừ nội địa do Tỳ-kheo… xướng làm đại giới của Tăng sống chung, chung Bố-tát, chung nhận vật bố thí rồi. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy. Bấy giờ, có một Ma-nạp ngoại đạo muốn xuất gia thọ giới Cụ túc trong chánh pháp, đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất thưa: Cho con xuất gia thọ cụ túc. Xá-lợi-phất không cho thọ. Như vậy, Ma-nạp tuần tự đi đến khắp chỗ năm trăm Tỳ-kheo, đều không vị nào cho thọ nên khóc lóc trở về. Đức Phật dùng thiên nhãn xem thấy hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất: Ma-nạp này, tại sao khóc lóc ra về?
Xá-lợi-phất trình bày đầy đủ sự việc. Đức Phật lại hỏi:
Người này đã từng có một lần nói một lời nói lành đối với các Tỳ-kheo hay không?
Xá-lợi-phất thưa: Có. Đức Phật lại hỏi:
Lời nói lành ấy là thế nào? Xá-lợi-phất thưa:
Trước đây con đi khất thực người này khen con: “Sa-môn Thích tử này thiện hảo, có đức nên cho thức ăn”.
Đức Phật dạy:
Ân ấy nên trả. Ông có thể độ họ.
Tôn giả Xá-lợi-phất vâng lời Phật cho thọ giới cụ túc.
Lại có một Ma-nạp ngoại đạo bạc phước khất thực không được, khởi ý niệm: Sa-môn Thích tử khất thực dễ được, đau ốm thuốc men có người giúp đỡ. Nay ta nên đến đó xuất gia thọ giới Cụ túc. Nghĩ rồi, Ma-nạp bèn đến Tăng phường bạch các Tỳ-kheo: Cho con xuất gia thọ giới cụ túc. Các Tỳ-kheo liền cho thọ giới cụ túc. Do bạc phước nên theo thứ tự mời đi thọ thực bị Tăng gác lại. Các Tỳ-kheo nói: Thầy có thể mặc y bưng bát đi khất thực. Ma-nạp nói: Thưa Đại đức, tôi sợ đi khất thực lắm nên mới đi xuất gia trong giáo pháp của Phật, nay tại sao lại bảo tôi đi khất thực? Quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Không nên độ hạng người này, nếu độ phạm Đột-kiết-la. Khi độ nên phải hỏi trước: Ngươi vì cái gì mà đi xuất gia? Nếu nói vì ẩm thực, thì không nên độ. Nếu nói vì cầu pháp thiện, nhàm chán sinh, lão, bệnh, tử ưu bi khổ não thì nên độ. Trước khi trao giới cụ túc nên nói việc phải nương tựa, đó là mặc y phấn tảo, đi khất thực, nương ngồi dưới tàng cây, thọ dùng tàn khí dược. Ngươi có thể trọn đời nương theo bốn việc này hay không? Nếu nói có thể thì nên cho thọ. Nếu nói không thể, thì không nên cho thọ.
Có đại Trưởng giả Bà-la-môn nhàm chán thế gian phiền bận, đã có những suy nghĩ: Sa-môn Thích tử phụng hành chấp pháp, rộng tu phạm hạnh, xuất gia nơi đó được dứt hết nguồn gốc khổ. Nghĩ như vậy rồi đến trong Tăng phường cầu xuất gia thọ giới Cụ túc. Các Tỳ-kheo nói: Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác nói bốn điều nương dựa, nếu ông có thể trọn đời nương theo mới cho xuất gia, thọ giới cụ túc. Bà-la-môn nói: Bốn điều nương dựa là những gì? Các Tỳ-kheo liền nói rõ. Bà-la-môn nói: Bốn điều này đối với thế gian là tệ mạt, tôi không thể nương được. Nếu Đại đức cho tôi thọ giới Cụ túc trước, vậy sau mới nói là việc đã rồi, tôi có thể làm theo. Thế là người Bà-la-môn trở về. Các Tỳ-kheo nghĩ: Nếu Đức Phật cho phép chúng ta trao giới cụ túc rồi, vậy sau mới nói bốn điều nương dựa, thì người này đã không thối tâm. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Cho phép thọ giới Cụ túc rồi, vậy sau mới nói bốn điều nương dựa.
Lúc này, có các Tỳ-kheo truyền giới cụ túc rồi, đi về trước, người mới thọ giới đi sau, gặp người dâm nữ, tình nhân cũ. Dâm nữ nói: Anh không thể sinh sống được nên vào đạo phải không? Người mới thọ giới nói: Tôi nhàm chán sinh, lão, bệnh, tử, ưu bi khổ não, muốn dứt hết gốc khổ nên vào đạo phụng hành chánh pháp, rộng tu phạm hạnh. Dâm nữ nói: Như lời anh nói thì vấn đề giao hội không còn có nữa, nay có thể cùng em hành dục một lần cuối! Người mới thọ giới thuận tình, hành dục, chiều tối mới về. Các Tỳ-kheo hỏi: Tại sao thầy ở lại sau? Tỳ-kheo mới trả lời đúng sự thật. Các Tỳ-kheo bèn đuổi đi và nói: Thầy đi đi! Thầy đi ngay đi! Trong pháp của Tỳ-kheo, nếu làm việc này chẳng phải là Sa-môn, chẳng phải là Thích chủng tử. Tỳ-kheo mới nghe vậy buồn rầu, ngất xỉu, nói: Nếu khi thọ giới nói với tôi, thì dù có mất mạng tôi đâu phạm điều này. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy: Thọ giới cụ túc rồi phải nói mười hai pháp: bốn pháp đọa, bốn pháp dụ, bốn pháp y.
Khi ấy, Đức Phật chưa cho phép các Tỳ-kheo có A-xà-lê. Lúc Hòa thượng của Tỳ-kheo qua đời, do không có Hòa thượng, A-xà-lê nên họ mặc y trên dưới không như pháp, cho đến ăn nói ồn ào như trước. Các Tỳ-kheo Trưởng lão bạch Phật, Đức Phật dạy: Từ nay vì mười điều lợi, cho phép các Tỳ-kheo có A-xà-lê. A-xà-lê tự nhiên sinh tâm xem đệ tử như con, đệ tử tự nhiên xem A-xàlê như cha. Mọi việc thờ kính như trong pháp thờ Hòa thượng đã nói. Đức Phật cho phép có A-xàlê, quý thầy không biết có mấy hạng A-xà-lê, bạch Phật. Phật dạy: Có năm hạng A-xà-lê: A-xàlê xuất gia, A-xà-lê giáo thọ, A-xà-lê Yết-ma, Axà-lê thọ kinh, và A-xà-lê y chỉ. Các Tỳ-kheo không biết thế nào là năm hạng A-xà-lê ấy, bạch Phật. Phật dạy: Mới bắt đầu độ cho thọ giới Sa-di gọi là A-xà-lê xuất gia. Khi thọ giới Cụ túc, người dạy oai nghi gọi là A-xà-lê giáo thọ. Khi thọ giới cụ túc, người tác pháp Yết-ma gọi là A-xà-lê Yết-ma. Người dạy kinh cho đến chỉ một ngày gọi là A-xà-lê thọ kinh. Người mình y chỉ dù chỉ một đêm, gọi là A-xà-lê y chỉ. Đức Phật đã cho phép có A-xà-lê y chỉ, bèn y chỉ Tỳ-kheo-ni, Thức-xoama-na, Sa-di, Sa-di-ni, người tâm cuồng, tâm bệnh hoại, người bị cử tội, người bị tẫn xuất, người ở khác chỗ, người biệt trú, người hành Mana-đỏa, người hành bổn nhật, người nên xuất tội, người tự ngôn, người đa nhân ngữ, người làm các Yết-ma. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên y chỉ những người như trên, chỉ có phép y chỉ Tỳ-kheo như pháp.
Trong vấn đề này, có trường hợp thành tựu việc xin y chỉ, có trường hợp không thành tựu việc xin y chỉ, có trường hợp thành tựu cho y chỉ, có trường hợp không thành tựu cho y chỉ, có trường hợp thành tựu thọ y chỉ, có trường hợp không thành tựu thọ y chỉ.
Trường hợp không thành tựu xin y chỉ: Nếu Tỳ-kheo xin y chỉ với Tỳ-kheo-ni, hay Thức-xoama-na, Sa-di, Sa-di-ni, cho đến xin y chỉ với các vị Yết-ma. Như vậy gọi là không thành tựu vấn đề xin y chỉ. Nếu xin y chỉ với Tỳ-kheo như pháp mà không nói: Con tên… nay cầu Đại đức làm y chỉ. Đại đức vì con làm y chỉ. Con y chỉ nơi Đại đức để ở. Đại đức sẽ giáo giới con. Con sẽ vâng lời dạy bảo của Đại đức. Không nói như vậy cũng không thành tựu vấn đề xin y chỉ. Thành tựu vấn đề xin y chỉ: Đến trước Tỳ-kheo như pháp thưa xin như trên thì gọi là thành tựu vấn đề xin y chỉ.
Không thành tựu vấn đề cho y chỉ: Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, cho đến các vị Yết-ma cho Tỳ-kheo y chỉ. Như vậy gọi là không thành tựu cho y chỉ. Nếu đối trước Tỳ-kheo như pháp, cầu xin như pháp rồi, mà vị được cầu xin không nói: Ngươi chớ buông lung, như vậy cũng không thành tựu cho y chỉ. Đó gọi là không thành tựu cho y chỉ. Thành tựu vấn đề cho y chỉ: Đối với Tỳ-kheo như pháp, cầu xin như pháp rồi, vị được cầu xin nói: Ngươi chớ phóng dật. Như vậy gọi là thành tựu vấn đề cho y chỉ.
Không thành tựu vấn đề thọ y chỉ: Tỳ-kheo tới nơi Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, cho đến các vị tác Yết-ma thọ y chỉ, đều không gọi là thọ y chỉ. Nếu đối với Tỳ-kheo như pháp không thưa lời như vầy: Con tên là… nay cầu Đại đức y chỉ… cho đến câu: Con sẽ vâng lời Đại đức dạy bảo, cũng không thành thọ y chỉ. Như vậy gọi là không thành tựu thọ y chỉ. Thành tựu thọ y chỉ: Đối với Tỳ-kheo như pháp thưa như vầy: Con tên là… nay cầu Đại đức y chỉ… cho đến câu: Con sẽ vâng lời dạy bảo của Đại đức. Như vậy gọi là thành tựu thọ y chỉ.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo cách vách thọ y chỉ, hoặc không cung kính, trùm đầu, trùm vai, mang giày dép, ngồi, nằm thọ y chỉ. Các Tỳ-kheo Trưởng lão bạch Phật. Phật dạy: Nên để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, quỳ gối, chấp tay, quay mặt lại thưa: Con tên là… nay cầu Đại đức làm y chỉ… cho đến câu: Con sẽ vâng lời Đại đức dạy bảo.
Lúc này, Lục quần Tỳ-kheo không kính Hòa thượng, A-xà-lê, không kính giới, các Tỳ-kheo khác cũng có vị bắt chước theo. Các Tỳ-kheo Trưởng lão bạch Phật, Đức Phật hỏi Lục quần Tỳ-kheo và các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Sự thật chúng con có như vậy, bạch Thế tôn.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách:
Các ông ngu si, tại sao không kính thầy, không kính giới? Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay các Tỳ-kheo nếu không kính Hòa thượng, A-xà-lê, không kính giới thì phạm Độtkiết-la.
Các Tỳ-kheo vẫn còn có người không kính, quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Nên tác pháp không cùng nói năng. Các Tỳ-kheo lại tác pháp không cùng nói năng suốt đời, cũng không gặp nhau, hoặc đuổi ra khỏi chỗ ở. Cũng cùng với Tỳ-kheo ngu si, Tỳ-kheo vô tội, tác pháp không cùng nói năng. Lại không nói tội của người kia mà tác pháp không cùng nói năng. Quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Không nên vì không kính Hòa thượng, A-xà-lê mà tác pháp không cùng nói năng suốt đời. Người si, người vô tội không nên tác pháp không cùng nói năng, cũng không nên không nói tội của người kia mà tác pháp không cùng nói năng.
Không cùng nói năng có năm trường hợp:
Một là nói: Ông đừng nói gì với tôi.
Hai là nói: Ông làm gì đừng thưa với tôi.
Ba-là nói: Ông đừng vào phòng tôi.
Bốn là nói: Ông đừng cầm y bát và giúp tôi làm mọi việc.
Năm là nói: Ông đừng thấy mặt tôi.
Các Tỳ-kheo lại do việc nhỏ mà tác pháp không cùng nói năng. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên vì một việc nhỏ mà tác pháp không cùng nói năng. Nếu đệ tử tạo năm việc thì thầy nên tác pháp không cùng nói năng: Đối với thầy không hổ, không thẹn, không cung kính, không mến, không cúng dường. Đó là năm việc. Không có năm việc này thì không nên tác pháp không cùng nói năng.
Có các Tỳ-kheo đã tác pháp không cùng nói năng với đệ tử rồi lại cùng nói, cùng ở nên đệ tử càng thêm kiêu mạn. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên đã tác pháp không cùng nói năng rồi lại cùng nói, cùng ở. Ta không vì khiến cho người kia mất sự y chỉ mà tác pháp không cùng nói năng, chỉ vì nhằm điều phục để chấm dứt, hướng đến Niết-bàn nên tác pháp không cùng nói năng. Nếu trở lại cùng nói thì phạm Đột-kiết-la.
Lại có các Tỳ-kheo vì đệ tử tác pháp không cùng nói năng, các Tỳ-kheo khác vội vàng cùng nói năng, do đó đệ tử càng kiêu mạn đối với thầy. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên cùng nói năng với đệ tử của người khác mà họ đã tác pháp không cùng nói năng. Đức Phật không cho phép người khác cùng nói năng, do vậy đương sự hoàn tục hoặc làm ngoại đạo. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nếu muốn dạy người kia ăn năn đối với thầy thì cho phép được cùng nói năng.
Khi ấy, có thầy tác pháp không cùng nói năng đối với các đệ tử, đệ tử không chịu ăn năn. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên không ăn năn, nên sám hối như vầy: Để trống vai bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, lấy hai tay ôm chân thầy. Với tất cả sự khép nép, bạch: Con còn nhỏ dại ngu si, sau không dám tái phạm.
Bấy giờ, có thầy không nhận lấy sự sám hối của đệ tử. Quý vị bạch Phật. Đức Phật dạy: Nếu đệ tử hồi tâm biết xấu hổ, cung kính, quý mến, cúng dường thì không nên không nhận sự sám hối, người chịu sám hối thì tội tiêu trừ.
Lúc này, có các thầy không biết đệ tử phạm giới hay không phạm giới, ăn năn hay không ăn năn, thấy đệ tử phạm giới không dạy bảo la rầy. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Thầy nên biết đệ tử phạm giới hay không phạm giới, ăn năn hay không ăn năn, thấy đệ tử phạm giới nên dạy bảo la rầy, nếu không biết hay không la rầy dạy bảo, phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, Tỳ-kheo thường trú không kính lễ Tỳ-kheo vãng lai, Tỳ-kheo vãng lai cũng không kính lễ Tỳ-kheo thường trú. Tỳ-kheo thường trú cũng không kính lễ nhau. Có một Tỳ-kheo đến một trú xứ không kính lễ các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo hỏi: Thầy ở đâu đến? Tỳ-kheo ấy đáp: Tôi ở… đến. Các Tỳ-kheo nói: Xem thế thì biết các Tỳ-kheo nơi trú xứ của thầy đều kiêu mạn như thầy. Chúng tôi không thể ở chung. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Tất cả phải kính lễ nhau, nếu không kính lễ phạm Đột-kiết-la.
Lại có các Tỳ-kheo hoặc cách vách mà kính lễ, hoặc từ xa mà kính lễ, hoặc nằm rồi miệng nói: Hòa nam (kính lễ), hoặc đưa thẳng tay lên, hoặc cúi đầu một chút. Các Tỳ-kheo Trưởng lão bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Phật dạy: Không nên kính lễ như vậy, nên một lần cung kính, cởi bỏ giày dép, để trống vai bên phải, hai đầu gối sát đất, tiếp giáp với chân mà kính lễ. Có các Tỳ-kheo đảnh lễ khắp tất cả các Tỳ-kheo nên bị lạc bạn, bạch Phật. Phật dạy: Chỉ nên kính lễ bậc thầy và lễ chung hết các vị khác rồi đi.
Khi ấy, Tỳ-kheo Ưu-ba-tư-na hai tuổi hạ, dẫn đệ tử một tuổi hạ đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân rồi ngồi lui qua một bên. Sau đó, người đệ tử lễ Phật, cái đãy đựng bát rơi trên đầu gối Đức Phật. Đức Phật hỏi Ưu-ba-tư-na:
Thầy này là đệ tử ai?
Bạch Thế Tôn! Đệ tử của con.
Thầy bao nhiêu tuổi hạ?
Con hai tuổi hạ, bạch Thế tôn. Đức Phật bằng mọi cách quở trách:
Thầy làm điều phi pháp. Tại sao chính mình chưa rời khỏi bầu sữa mà lại làm bầu sữa cho người!
Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo:
Không nên mới một tuổi hạ cho đến chín tuổi hạ mà trao giới cụ túc cho người. Mười tuổi hạ như pháp, vậy sau mới được trao giới. Nếu chưa đủ mười tuổi hạ và không như pháp mà trao giới cụ túc cho người thì phạm Đột-kiết-la. Chín tuổi hạ còn phải nương dựa người khác.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, có một ngoại đạo lõa hình rất thông minh, người trong nước Ma-kiệt gọi là kẻ biết nhiều thấy rộng, ông ta đến trong Tăng phường hỏi: Sa-môn Thích tử có ai dám cùng ta luận nghị? Thời điểm ấy các Tỳ-kheo đang an trú trong thiền định, không ai chịu luận nghị, cũng không ai chịu nói chuyện. Tôn giả Xá-lợi-phất khởi ý niệm: Người này nói như vậy, nếu không có vị nào luận nghị, chắc sẽ hủy nhục Phật pháp. Nay ta có thể cùng người này luận nghị. Hơn nữa, Ni-kiền này được người trong nước Ma-kiệt tôn kính, nếu ta dùng một cú nghĩa để hỏi, không thể thông suốt, chắc mất tiếng đồn có thể trở về với đại pháp. Nay ta nên dùng thời gian bảy ngày để luận nghị. Nghĩ như vậy rồi, tuyên bố: Tôi sẽ cùng ông luận nghị trong bảy ngày.
Bấy giờ, thành Vương-xá, Trưởng giả, Cư sĩ, Sa-môn, Bà-la-môn đều cùng nghĩ: Sa-môn Thích tử Xá-lợi-phất là đệ nhị sư hẹn cùng Ni-kiền đệ nhất sư bảy ngày luận nghị, chúng ta sẽ cùng nhau đến nghe. Thời hạn từ ngày thứ nhất đến ngày thứ sáu luận nói bao nhiêu việc đều khiến cho Ni-kiền thắt lưỡi lại, đến ngày thứ bảy, Xá-lợi-phất nói: Dục từ tư tưởng sinh. Ni-kiền-tử nói: Dục từ đối cảnh sinh. Khi ấy, Tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ:
Thế gian dục là gốc
Đều từ tư tưởng sinh
Trụ thế gian do dục
Nên có tâm nhiễm đắm.
Ni-kiền liền dùng kệ nạn vấn lại:
Nếu dục do tưởng sinh
Do đó sinh nhiễm đắm
Tỳ-kheo giác quán ác
Bèn mất ngay phạm hạnh?
Xá-lợi-phất lại dùng kệ trả lời:
Nếu tưởng không sinh dục
Mà từ đối tượng sinh
Thầy ông thấy các sắc
Tại sao không thọ dục?
Ni-kiền nghe kệ này rồi không thể trả lời thêm được gì bèn sinh tâm thiện, muốn xuất gia học đạo trong giáo pháp của Đức Phật. Ngay lúc ấy, Bạt-nan-đà là người có tướng mạo cao đẹp nhất trong chúng, còn Xá-lợi-phất lại hình dung thấp nhỏ, Ni-kiền khởi ý nghĩ: Tỳ-kheo thấp nhỏ này mà tài trí còn như vậy, huống chi là người với tướng mạo đường đường kia. Ni-kiền liền đến chỗ Bạt-nan-đà thưa: Cho con xuất gia thọ giới cụ túc. Bạt-nan-đà liền độ. Xá-lợi-phất luận nghị xong, đến chỗ Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân rồi ngồi lui ra một bên. Đức Phật hỏi:
Thầy cùng Ni-kiền luận nghị bảy ngày như thế nào? Xá-lợi-phất trình bày đầy đủ.
Đức Phật khen:
Lành thay! Lành thay Xá-lợi-phất! Thầy có nhiều sự thương xót, có nhiều sự lợi ích.
Tỳ-kheo-Ni-kiền kia hỏi Bạt-nan-đà về kinh luật, đều không thể trả lời được, bèn khinh khi Phật pháp, cho là các Tỳ-kheo đều không biết gì, trở về lại ngoại đạo. Các Tỳ-kheo Trưởng lão hỏi, quở trách: Tại sao Tỳ-kheo mười tuổi hạ mà không biết pháp, không thể vì đệ tử giải quyết sự nghi hoặc khiến họ trở về lại với ngoại đạo? Quý vị bạch Phật. Đức Phật hỏi Bạt-nan-đà:
Sự thật thầy có như vậy không?
Bạch Thế Tôn! Sự thật con có như vậy.
Đức Phật quở trách như trên rồi, bảo các Tỳ-kheo:
Nếu chính mình không biết pháp mà cho người xuất gia thọ giới Cụ túc, phạm Đột-kiết-la.
Tỳ-kheo nào thành tựu mười pháp được trao giới cụ túc cho người: Thành tựu giới, thành tựu oai nghi, cẩn thận sợ tội nhỏ. Đa văn, có khả năng thọ trì pháp Phật nói. Tụng rành hai bộ luật, phân biệt nghĩa lý. Đủ khả năng dạy đệ tử tăng giới học, tăng tâm học, tăng tuệ học. Có khả năng trừ nghi cho đệ tử, cũng khiến cho người trừ nghi của họ. Có khả năng trị bệnh cho đệ tử, cũng có khả năng khiến cho người trị bệnh của họ, đệ tử sinh tà kiến ác có thể dạy cho họ bỏ, cũng có thể khiến cho người dạy bỏ. Nếu quốc độ nào, đệ tử hiểu biết còn sai lầm thì có khả năng xoay ý hướng cho họ, cũng có khả năng khiến cho người xoay chuyển việc đó. Đủ mười tuổi hay hơn mười tuổi. Lại thành tựu mười pháp nên trao giới cụ túc cho người: Biết tội nặng, biết tội nhẹ. Biết tội thô, biết phi tội thô. Biết tội hữu dư, biết tội vô dư. Biết tội có Yết-ma, biết tội không Yết-ma. Biết nhân duyên của tội. Đủ mười tuổi hay hơn mười tuổi. Lại phải thành tựu năm pháp nên trao giới cụ túc cho người: Có khả năng dạy đệ tử tăng giới học, tăng tâm học, tăng tuệ học, xét kỹ việc làm của mình, buộc niệm trước mắt. Lại thành tựu năm pháp: (ba pháp trước như trên) Thông minh, Biện tài. Lại thành tựu năm pháp: Giới thành tựu, Định thành tựu, Tuệ thành tựu, Giải thoát thành tựu, Giải thoát tri kiến thành tựu. Lại thành tựu năm pháp: Chính mình trụ nơi giới, dạy người trụ nơi giới. Tự mình trụ nơi định, dạy người trụ nơi định. Tự mình trụ nơi tuệ, dạy người trụ nơi tuệ. Tự mình trụ nơi giải thoát, dạy người trụ nơi giải thoát. Tự mình trụ nơi giải thoát tri kiến, dạy người trụ nơi giải thoát tri kiến. Lại thành tựu năm pháp: Thành tựu giới chúng vô học, định chúng vô học, tuệ chúng vô học, giải thoát chúng vô học, giải thoát tri kiến chúng vô học. Lại thành tựu năm pháp: Có khả năng dạy đệ tử tăng thượng giới, tăng thượng phạm hạnh. Biết phạm, biết không phạm. Biết sám hối, chưa sám hối. Đủ mười tuổi hoặc hơn mười tuổi. Nên trao giới cụ túc cho người. Độ Sa-di hay vì người làm y chỉ cũng như vậy.
Có một ngoại đạo muốn xuất gia, đến trong Tăng phường thưa với các Tỳ-kheo: Bạch Đại đức cho tôi xuất gia thọ giới Cụ túc. Các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Trước hết nên bạch nhị Yết-ma cho họ biệt trú bốn tháng để thử thách họ. Nếu hợp ý với các Tỳ-kheo, vậy sau mới cho họ xuất gia thọ giới Cụ túc. Khi tác pháp Yết-ma nên bảo ngoại đạo cởi bỏ giày dép, để trống vai bên phải, kính lễ sát chân tất cả Tăng, quỳ gối chấp tay, thưa:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Con tên là… trước đây là ngoại đạo, nay cầu xin xuất gia trong pháp luật này, đến xin Tăng bốn tháng Biệt trú, xin Tăng rủ lòng thương cho con làm pháp Biệt trú. Nếu hợp ý với các Tỳ-kheo thì sau đó cho con xuất gia thọ giới cụ túc. Xin như vậy Ba lần. Tăng nên sai một Tỳ-kheo như pháp bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Người này tên là… trước đây là ngoại đạo, nay muốn xuất gia thọ giới Cụ túc trong pháp luật này, nay đến xin Tăng pháp bốn tháng Biệt trú. Nay Tăng cho pháp bốn tháng Biệt trú. Nếu sau đó hợp ý với Tăng sẽ cho xuất gia thọ giới Cụ túc. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Người này tên là… trước đây là ngoại đạo, nay muốn xuất gia thọ giới Cụ túc trong pháp luật này, đến Tăng xin bốn tháng Biệt trú. Nay Tăng cho bốn tháng Biệt trú. Nếu sau đó hợp ý với Tăng sẽ cho xuất gia thọ giới Cụ túc. Các Trưởng lão nào chấp thuận xin im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Tăng đã cho ngoại đạo tên là… pháp bốn tháng Biệt trú rồi. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Không hợp ý với Tăng: Nghĩa là sáng sớm vào xóm làng chiều tối mới về, hoặc thường tới lui nhà đàn bà, dâm nữ, đồng nữ lớn tuổi, thường cùng với chúng nói năng, tìm cầu sắc dục bằng mọi phương tiện, hoặc nghe chê bai ngoại đạo trước đây đã theo thì ôm lòng giận dữ, nghe khen ngợi Tam bảo không vui, không thích, không ưa thích oai nghi Tỳ-kheo, không ưa tụng tập kinh Phật, không ưa thọ giáo giới. Như vậy gọi là không hợp ý với Tăng. Nếu ngược lại là hợp ý thì nên cho xuất gia thọ giới cụ túc.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo độ người mắc nợ cho thọ giới cụ túc. Thọ giới cụ túc rồi vào trong thành khất thực, chủ nợ thấy, nói: Người trả nợ cho tôi, ai cho người xuất gia? Có người nói: Nên đoạt lấy y bát, bắt đem đến cửa quan. Có người nói: Họ đã vào trong thành vô úy, nên thả đi cho rồi. Tại sao vậy? Vua Bình-sa có ra lệnh: Trong nước, nếu ai hủy nhục Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni sẽ bị trọng tội. Người chủ nợ bèn chê trách nói: Các Sa-môn này, không biết người nào nên độ, người nào không nên độ, tại sao lại độ kẻ mắc nợ, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Tỳ-kheo Trưởng lão nghe bèn nghiêm khắc quở trách rồi bạch Phật. Đức Phật hỏi các Tỳ-kheo:
Thật sự các thầy có như vậy không?
Bạch Thế Tôn! Sự thật chúng con có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo:
Không nên độ người mắc nợ, cho thọ giới cụ túc. Khi độ và trao giới cụ túc, trước hết nên hỏi: Ngươi có mắc nợ ai không? Nếu nói không mắc nợ thì nên độ, nên cho thọ giới. Nếu nói có mắc nợ thì không độ, không nên cho thọ giới, nếu độ, cho thọ giới đều phạm Đột-kiết-la. Nếu không hỏi cũng như thế. Độ đầy tớ cũng như vậy.
Khi ấy, có một thiếu nhi cha mẹ bảo đến thầy học chữ và các kỹ thuật. Ông thầy dạy học sai làm các việc và thường đánh đòn. Thiếu nhi bỏ thầy về lại nhà. Cha mẹ liền bảo trở lại nhà thầy. Thiếu nhi nghĩ: Ông thầy hành hạ ta, cha mẹ lại không bênh ta. Nay ta nên bằng cách nào để cho thoát khỏi nạn này? Chỉ có một cách xuất gia thọ giới cụ túc. Nghĩ xong, liền đến Tăng phường thưa với Tỳ-kheo: Cho con xuất gia thọ giới Cụ túc. Các Tỳ-kheo bèn độ. Ông thầy giáo mất học trò, đến hỏi cha mẹ nó, cha mẹ nó nói: Tôi bảo nó trở lại nơi thầy, tại sao không có! Thế là cha mẹ nó và ông thầy đi tìm khắp nơi, đến Tăng phường hỏi các Tỳ-kheo… Các Tỳ-kheo đều nói không thấy, trong đó chỉ vị ấy đứng im lặng. Thầy giáo và cha mẹ nó tìm không được nên ra về. Sau đấy, thiếu nhi này vào thành khất thực, thầy giáo thấy chê trách nói: Sa-môn Thích tử thường nói không nói dối, tại sao độ người của tôi lại nói không thấy? Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Đức Phật dạy: Không nên độ người của kẻ khác, cũng như trên đã nói. Từ nay nếu độ người nên dẫn đến từng phòng để lễ Tăng, tự xưng danh tự khiến cho Tăng đều biết.
Lúc này, nơi thành Xá-vệ có nhóm đồng tử mười bảy người, chưa đủ hai mươi tuổi, Tất-lănggià-bà-ta cho thọ giới cụ túc, không thể kham nhẫn được sự đói rét nên kêu khóc đòi ăn (như trong giới kinh đã nói). Khi cho thọ giới cụ túc nên hỏi đã đủ hai mươi tuổi chưa?
Bấy giờ, các Tỳ-kheo độ đám giặc ở chỗ Aluyện-nhã cho thọ giới cụ túc, sau đó vào thành Vương-xá khất thực, các Cư sĩ nói: Người này trước đây giết tôi như vậy, như vậy, họ đã cướp lấy của cải của tôi. Có người nói nên bắt đem đến nộp cho quan… cho đến câu: Phật bảo Tỳ-kheo không nên độ (như trên đã nói). Lại có các đám giặc nhàm chán việc ác, cầu xuất gia thọ giới cụ túc. Các Tỳ-kheo không biết nên giải quyết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Cho phép đem đến chỗ không ai biết họ, cho xuất gia thọ giới Cụ túc.
Khi đó, có một người gây tai họa cho thôn ấp, nhà chức trách tâu với Vua: Xin Vua ra lệnh cho nó đừng làm ác. Vua bảo: Các ngươi dẫn nó đến đây ta sẽ cho người giết nó. Thủ phạm nghe được liền trốn thoát. Truy tìm không ra, nhà chức trách lại tâu với Vua. Vua liền ra lệnh: Nếu bắt được cho phép giết liền. Thủ phạm nghe, khởi ý niệm: Nay ta trốn chỗ nào cho được an toàn tánh mạng?
Chỉ nơi đạo Sa-môn Thích tử mới cứu được ta. Thủ phạm bèn đến trong Tăng phường cầu xuất gia. Các Tỳ-kheo liền độ. Sau đó vào thành Vương-xá khất thực, mọi người thấy, muốn bắt giết. Có người nói: Xuất gia rồi coi như đã chết, khỏi phải giết làm chi. Có người nói: Người này đã vào trong thành vô úy… cho đến câu: Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Không nên độ (như trước đã nói).
Lúc ấy, Bạt-nan-đà có hai Sa-di, một tên là Kiển-trà, một tên là Ma-kiệt-đà, hành dâm lẫn nhau. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bạch Phật. Đức Phật hỏi Bạt-nan-đà:
Sự thật ông có nuôi hai Sa-di không? Bạch Thế Tôn! Có.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo:
Không nên nuôi hai Sa-di, nếu nuôi thì phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, có một gia đình bị phi nhân làm hại chỉ còn hai cha con. Ông cha khởi ý: Nhà ta bị tai ương, tang khó chưa mãn lại bị đói khổ cùng cực, nên đến nơi nào để tránh khởi họa này! Ông ta lại nghĩ: Sa-môn Thích tử được nhiều sự cúng dường, đau ốm có thuốc thang. Nay ta có thể dẫn hài nhi vào đó xin xuất gia thọ giới Cụ túc. Nghĩ rồi liền đến Tăng phường thưa các Tỳ-kheo: Cho con xuất gia thọ giới Cụ túc. Các Tỳ-kheo bèn cho xuất gia thọ giới Cụ túc. Khi vào thành khất thực, Tỳ-kheo kia, một tay bồng con một tay bưng bình bát, các bạch y thấy chê bai nói: Samôn Thích tử này không tu phạm hạnh. Hoặc có người nói, khi chưa xuất gia, hài nhi này đã có rồi. Nhưng các Tỳ-kheo sao không đợi hài nhi lớn rồi mới độ họ, để người này phải bồng con khất thực. Ai mà không lầm tưởng người này phá phạm hạnh?! Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bạch Phật. Đức Phật dạy: Không nên độ người có tiểu nhi.
Khi đó, người nước Ma-kiệt mắc phải bảy thứ trọng bệnh: Cả người mọc mụt ghê tởm, ung nhọt, hủi trắng, nửa người khô da quái gỡ, loang lỗ từng chấm đỏ, mỡ chảy ra. Chữa trị các chứng này chỉ có Kỳ-vức, ngoài ra không ai chữa được. Vua Bình-sa có ra lệnh cho Kỳ-vức: Ngươi nên trị bệnh cho nội cung của ta và Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, không được trị cho người khác. Do đó, các bệnh nhân đều tìm cách xuất gia thọ giới Cụ túc, các Tỳ-kheo đều cho xuất gia thọ giới Cụ túc. Vì phải tìm dược thảo và bào chế thuốc nên bận rộn nhiều việc, nên Tỳ-kheo bê trễ việc hành đạo. Các bạch y thấy chê trách, nói: Các Sa-môn như thầy thuốc, như đệ tử của thầy thuốc thường bào chế thang dược độ người trọng bệnh, không cân nhắc người đáng độ hay không đáng độ, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn.
Trường hợp có một Trưởng giả, bỗng nhiên mắc phải bảy thứ trọng bệnh, đến nói với Kỳ-vức: Chữa giùm bệnh cho tôi: Kỳ-vức trả lời: Ông không nghe nhà Vua ra lệnh hay chăng? Ông Trưởng giả nói: Ông bí mật vì tôi chữa bệnh, tôi sẽ tạ ông trăm ngàn kim tiền. Kỳ-vức trả lời như ban đầu. Ông Trưởng giả lại hứa tặng thêm hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm ngàn kim tiền, cho đến giao hết gia tài sự nghiệp và cả vợ con đều làm nô tỳ. Kỳ-vức vẫn trả lời như lúc đầu. Ông Trưởng giả khởi ý niệm: Đến thế này vẫn không kết quả, chỉ còn có cách xuất gia thọ giới Cụ túc. Ông bèn đến Tăng phường bạch với các Tỳ-kheo xin xuất gia thọ giới Cụ túc. Các Tỳ-kheo liền cho xuất gia thọ giới Cụ túc. Kỳ-vức chữa suốt bảy ngày là lành hết các trọng bệnh nên không còn thì giờ để trị bệnh cho người trong cung Vua. Bệnh nhân trong cung có người phải chết. Ông Trưởng giả kia lành bệnh rồi liền hoàn tục. Kỳ-vức thấy, hỏi: Ông đã xuất gia tại sao lại bỏ đạo. Ông Trưởng giả nói: Sự thật tôi không có ý xuất gia, do ông không chịu chữa bệnh cho tôi, nên tôi quyền biến xuất gia, nay bệnh lành rồi thì hoàn tục. Khi ấy, Kỳ-vức đến chỗ Đức Phật, trình bày đầy đủ sự việc và thưa: Nếu nhà Vua biết việc này thì tội tôi không phải nhỏ, nguyện xin Đức Phật dạy các Tỳ-kheo không nên độ người có trọng bệnh. Đức Phật vì Kỳ-vức nói các pháp diệu rồi khiến ông về lại chỗ ở. Đức Phật hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các thầy có độ người trọng bệnh hay không? Bạch Đức Thế Tôn! Có.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo:
Không nên độ người có trọng bệnh (như trên).
Bấy giờ, các Tỳ-kheo độ người thuộc về của nhà quan. Khi vào thành Vương-xá khất thực, các Cư sĩ thấy, biết, chê trách, nói: Tại sao Sa-môn Thích tử độ người thuộc của nhà quan, các người này không biết ai là người nên độ, ai không nên độ, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Hơn nữa, Vua A-xà-thế có một kiện tướng, sức mạnh bằng một ngàn người, người đời bấy giờ gọi là lực sĩ thiên nhân. Ông nhàm chán đời khổ, nên có suy nghĩ: Các Sa-môn Thích tử đều phụng hành chánh pháp, ta nên đến đó xuất gia để dứt trừ gốc khổ. Ông đến trong Tăng phường cầu độ, các Tỳ-kheo liền độ. Sau đó, nhà Vua muốn xuất quân, không thấy có người này, liền hỏi phần hành thuộc ông ta quyền. Họ tâu với Vua: Không biết lực sĩ thiên nhân ở đâu. Nhà Vua liền ra lệnh: Nếu quân đội tập hợp quân sĩ nào không đến, sẽ dùng quân pháp trị tội. Ngày quân đội tập hợp, nhà Vua lại hỏi: Kiện tướng đến chưa? Tâu chưa đến. Nhà Vua nói: Bộ binh mà không có người này cũng nhu tượng quân không có đệ nhất tượng. Khi quân giáp đã giải tán, mới nghe Samôn Thích tử độ cho xuất gia, nhà Vua nổi giận: Như thế này thì không lâu lắm Sa-môn Thích tử sẽ độ hết binh chủng của ta. Nhà Vua liền nghiêm cấm: Nếu độ quan nhân sẽ chẻ gân cốt vị Hòa thượng, cắt lưỡi A-xà-lê, còn các Tăng khác sẽ trị thật nặng, lấy cát lột da đánh tám roi, đuổi ra khỏi nước. Các Tỳ- kheo Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Đức Phật hỏi các Tỳ-kheo:
Sự thật các thầy có như vậy không?
Bạch Đức Thế Tôn! Có thật như thế.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo:
Không nên độ người thuộc của nhà quan (cũng như trước).
Khi ấy, các Tỳ-kheo ở mãi nơi thành Vươngxá, các Cư sĩ dè bỉu, nói: Ngoại đạo còn có biết tùy thời đi ở. Sa-môn Thích tử cột chặt niềm vui một chỗ, bốn mùa không thay đổi cùng người đời đâu có khác? Các Tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Ông phổ biến đến các Tỳ-kheo: Nay Như Lai sẽ du hành về phương Nam, vị nào muốn tháp tùng thì tùy ý.
Tôn giả A-nan vâng lời Phật đi phổ biến chỉ thị này. Trong số các Tỳ-kheo từ một tuổi hạ cho đến chín tuổi hạ, thông minh biết hổ thẹn, muốn học giới, khởi ý niệm: Nếu Hòa thượng A-xà-lê của ta đi thì đi theo các thầy còn không đi thì cũng được. Tại sao vậy? Nếu ở đây ta thỉnh y chỉ, đến đó lại cùng thỉnh y chỉ thì lắm chuyện, lắm việc, phế bỏ việc hành đạo. Lúc Đức Phật khởi hành, các vị tùy tùng rất ít. Đức Phật cùng số ít Tỳ-kheo du hành về phương Nam. Chậm rãi thời gian đi qua, Đức Phật lại trở về thành Vương-xá. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tôn giả A-nan: Tại sao các Tỳ-kheo cùng ta du hành về phương nam quá ít? Tôn giả A-nan trình bày đầy đủ vấn đề. Đức Phật bằng mọi cách khen ngợi người thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới rồi, bảo các Tỳ-kheo: Người nào thành tựu năm pháp được lìa y chỉ: Giới thành tựu, định thành tựu, tuệ thành tựu, giải thoát thành tựu, giải thoát tri kiến thành tựu. (đều như trong giới “Được trao giới cho người” đã nói.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở tại nước Thích Ca, các Tỳ-kheo độ người chưa được cha mẹ họ cho phép. Các Cư sĩ dị nghị, nói (như trên). Sau đó, Đức Thế Tôn sáng sớm đắp y bưng bát đến cung Vua Tịnh Phạn. Khi ấy, mẹ của La-hầu-la dẫn Lahầu-la lên trên lầu cao, từ xa thấy Phật đi đến, nói:
Con thấy Sa-môn kia không La-hầu-la thưa:
Con có thấy. Gia Du lại nói:
Đó là cha của con, con có thể đến đòi của cải. Đức Phật vào trong cung, ngồi nơi chỗ đất trống trước sân. La-hầu-la chạy xuống lầu tới chỗ Phật, đầu mặt kính lễ sát chân rồi đứng trong bóng của Đức Phật, thưa:
Bóng mát này thích quá. Nguyện Phật cho của cải của cha con. Đức Phật nói:
Con nghĩ kỹ, có muốn được hay không? Lahầu-la thưa:
Con muốn được.
Đức Phật bèn dẫn về chỗ ở, bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
Ông có thể độ đứa nhỏ này. Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật:
Trước đây Đức Thế Tôn cấm không được nuôi hai Sa-di, con đã có Châu-na rồi, không thể độ nữa.
Đức Phật dạy:
Nay cho phép những người như ông, có khả năng giáo giới được nuôi hai Sa-di.
Thể thức độ như sau: Trước hết trao cho ba pháp quy y của Ưu-bà-tắc, dạy họ nói: Con tên là… quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tỳ-kheo Tăng. Nói như vậy Ba lần. Lại dạy nói: Con tên là… quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tỳ-kheo Tăng rồi. Cũng nói ba lần: Con là Ưu-bà-tắc của Phật Bà-già-bà. Lại nên dạy nói: Con tên là… trọn đời không sát sinh, trọn đời không trộm cắp, trọn đời không tà dâm, trọn đời không nói dối, trọn đời không uống rượu. Lại nên dạy nói: Con tên là… quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tỳ-kheo Tăng. Nói như vậy Ba lần. Nay con ở trong chánh pháp của Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, xuất gia làm Sa-di, Hòa thượng pháp hiệu… Kế tiếp dạy nói: Trọn đời không sát sinh là giới của Sa-di. Trọn đời không ăn trộm là giới của Sa-di. Trọn đời không dâm dục là giới của Sa-di. Trọn đời không nói dối là giới của Sa-di. Trọn đời không uống rượu là giới của Sa-di. Trọn đời không ca múa xướng hát, không xem nghe là giới của Sa-di. Trọn đời không đeo tràng hoa, thoa đồ thơm vào mình là giới của Sa-di. Trọn đời không ngồi nằm trên giường cao rộng là giới của Sa-di. Trọn đời không nhận và chứa cất vàng bạc, tiền của là giới của Sa-di. Trọn đời không ăn quá giờ ngọ là giới của Sa-di. Đây là mười giới của Sa-di. Khi ấy, Vua Tịnh Phạn nghe Phật đã độ La-hầu-la, nên rất áo não, đến chỗ Phật bạch: Xưa kia Phật xuất gia còn có Nan-đà không làm cho tôi áo não như vậy. Nan-đà đã lại xuất gia, còn chút hy vọng ký thác nơi đứa cháu này, nay lại xuất gia! Vấn đề thừa kế việc nước, việc nhà thế là đoạn tuyệt! Kẻ chưa dứt được vọng tình làm sao nhẫn chịu?! Nhà Vua lại nhân trường hợp của mình, bạch Phật: Sự luyến ái đối với con cháu còn hơn cốt tủy, tại sao các Tỳ-kheo lại lén dụ dẫn con người ta độ cho làm đạo, cúi xin Phật từ nay ra lệnh các Tỳ-kheo: Cha mẹ không cho phép thì không được độ. Đức Phật vì nhà Vua nói các pháp mầu, chỉ vẽ sự lợi ích khiến được hoan hỷ rồi, nhà Vua cáo từ trở về cung. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo:
Cha mẹ của họ không cho phép, thật sự các ông có độ họ cho thọ giới cụ túc hay không?
Đáp: Bạch Thế Tôn! Có.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay cha mẹ không cho không được độ (cũng như trước).
Lúc đó, tại thành Vương-xá có một Trưởng giả đại phú tin ưa Phật pháp, thường đãi cơm cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Sau đó bị phi nhân làm hại, chỉ còn hai đứa nhỏ, nghèo khổ bần cùng, thường lượm thức ăn dư để sống. Hai đứa nhỏ trước kia thường thấy các Tỳ-kheo, cho nên từ xa thấy các Tỳ-kheo bèn chạy đến, cầm y bát, ngồi trên bắp vế của Tỳ-kheo.
Các Tỳ-kheo sợ nhớp y bát nên tránh xa nó. Các Cư sĩ thấy, chê trách, nói: Nhà này, trước đây giàu có, tất cả Sa-môn không ngày nào là không đến, nay thấy kẻ mồ côi, bần cùng lại tránh đi xa, không biết ơn nuôi dưỡng, chỉ có thức ăn mới gần, không phạm hạnh Sa-môn, phá pháp Samôn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Đức Phật hỏi các Tỳ-kheo:
Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Có.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi hỏi Tôn giả A-nan:
Hai đứa nhỏ kia bao nhiêu tuổi? Có thể đuổi quạ nơi nhà ăn được hay chưa?
Tôn giả A-nan thưa:
Có thể đuổi được. Đứa lớn tám tuổi, đứa nhỏ bảy tuổi. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Nay ta cho phép độ hai đứa nhỏ… cho đến câu: Có thể đuổi quạ. Các Tỳ-kheo độ hai đứa nhỏ rồi, sai nó đuổi quạ nơi nhà ăn mà không cho thức ăn chánh. Các Cư sĩ thấy, nói: Các Sa-môn này thường khen ngợi sự bố thí, ăn bình đẳng, nay độ hai đứa nhỏ này chỉ sai đuổi quạ mà không cho thức ăn chánh. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe bạch Phật. Đức Phật dạy: Như phần ăn của Thượng tọa nhận được, phần của Sa-di cũng như vậy, đứa nhỏ đuổi quạ cũng cho bình đẳng như trên.
Bấy giờ, có một thanh niên hại mẹ, suy nghĩ về tội nặng, thường có sự hối hận sợ sệt, không biết làm thế nào để tiêu diệt tội này, nghĩ: Sa-môn Thích tử đều phụng hành chánh pháp, tịnh tu phạm hạnh, nếu ta vào đó xuất gia tội sẽ nhẹ bớt. Nghĩ xong, người thanh niên bèn đến Tăng phường thưa các Tỳ-kheo: Cho tôi xuất gia thọ giới Cụ túc. Các Tỳ-kheo hỏi thanh niên: Ngươi là ngoại đạo, không kính tin Phật pháp, tại sao nay lại muốn xuất gia ở nơi đây? Thanh niên đem sự thật để trả lời. Các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Người hại cha mẹ đối với giáo pháp của Ta không sinh lại, không nên cho xuất gia thọ giới Cụ túc, nếu đã thọ giới Cụ túc thì nên diệt tẫn (đuổi đi). Lúc ấy, có giặc ở A-luyện-nhã giết một Tỳ-kheo ở A-luyện-nhã, từ đó về sau, ông ta, tâm thường bị đốt cháy, não loạn, giống như tro nóng bị nướng cháy thân hình, ngày đêm thống khổ, không một chút bình yên, bèn nghĩ: Sa-môn Thích tử đều phụng hành chánh pháp, tịnh tu phạm hạnh, nếu ta xuất gia nơi đó có thể tránh khỏi nỗi nhiệt não này. Nghĩ rồi liền đến Tăng phường cầu xin xuất gia. Các Tỳ-kheo nói: Ông là giặc ở A-luyện-nhã thường ưa giết người cướp đoạt của cải của người, không có tâm thương xót, nay tại sao lại muốn xuất gia trong pháp luật của Phật? Đương sự bày tỏ sự thật để trả lời. Các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Tỳ-kheo bị giết kia là vị A-la-hán, nên kẻ sát này đối với giáo pháp của Ta không sinh lại, không nên cho xuất gia thọ giới Cụ túc, nếu đã thọ giới Cụ túc thì nên diệt tẫn.
Khi đó, Điều-đạt với tâm ác làm thân Phật chảy máu, các Tỳ-kheo không biết phải nên đãi ngộ thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Với tâm ác làm thân Phật chảy máu, đối với giáo pháp của Ta không sinh lại, không nên cho xuất gia thọ giới Cụ túc, nếu đã thọ giới Cụ túc thì nên diệt tẫn. Điều-đạt phá Tăng cũng như vậy, không nên cho xuất gia.
Bấy giờ, Đức Phật du hóa ở nước Câu-tát-la, cùng với Đại Tỳ-kheo Tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị đầy đủ, tuần tự du hành đến bên sông Hắc-ám, dừng chân dưới rừng Ta la. Có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, để trống vai bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, chấp tay, bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Rừng Ta la này là nơi phá phạm hạnh số đông Tỳ-kheo-ni.
Đức Phật hỏi:
Tại sao ngươi biết?
Bạch Thế Tôn! Khi ấy con ở đây.
Đức Phật lại hỏi:
Ngươi có phá phạm hạnh của Tỳ-kheo-ni không?
Tỳ-kheo ấy thưa: Có.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Người phạm dâm Tỳ-kheo-ni đối với giáo pháp của Ta không sinh lại, không nên cho xuất gia thọ giới Cụ túc, nếu đã thọ giới Cụ túc thì nên diệt tẫn.
Lúc này, có một A-tu-la tử nhàm chán sinh lão bệnh tử, khởi ý niệm: Sa-môn Thích tử đều phụng hành chánh pháp, tịnh tu phạm hạnh, ta nên đến đó xuất gia, sẽ dứt hết các gốc khổ. Nghĩ rồi, hóa thành hình người đến Tăng phường cầu xin xuất gia, các Tỳ-kheo liền cho thọ giới Cụ túc. Tỳ-kheo mới này ăn phần ăn của một người cho đến bảy người mà vẫn không no, ăn cả thức ăn dư của Tăng mà vẫn không đủ. Khi ấy, thành Vương-xá có hai Cư sĩ, cùng một ngày, mỗi nơi mời năm trăm vị Tăng thọ trai. Các Tỳ-kheo đồng đến một nhà, chỉ riêng một Tỳ-kheo hóa thân này đến một nhà, trong chốc lát ăn hết năm trăm phần ăn, các Cư sĩ chê trách, nói: Tại sao các Tỳ-kheo lại độ phi nhân. Tỳ-kheo kia biết người ta biết rõ mình rồi, vội vã trở về vị trí cũ. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bạch Phật. Đức Phật dạy: Ở trong giáo pháp của Ta phi nhân không sinh lại, không nên cho xuất gia thọ giới Cụ túc, nếu đã thọ giới Cụ túc thì nên diệt tẫn. Khi thọ giới cụ túc nên hỏi: Ngươi có phải là phi nhân không?
Bấy giờ, Thiện Tử tại Long vương nhàm chán sinh, lão, bệnh, tử, khởi ý nghĩ muốn xuất gia, hóa thành thanh niên… cho đến câu: Các Tỳ-kheo độ cho thọ giới cụ túc, cũng như trên. Theo phép của loài rồng có hai thời gian không thể biến hình, một là khi hành dục, hai là khi ngủ. Sau đó, Tỳ-kheo mới này ngủ, thân đầy cả một phòng, hơi thở nghe như tiếng sấm, trở ngại các Tỳ-kheo tọa thiền, quý vị đến xem. Tỳ-kheo kia nghe tiếng người đến bèn thức dậy, trở lại làm thân hình của Tỳ-kheo, ngồi kiết già. Các Tỳ-kheo kêu: Mở cửa! Tỳ-kheo kia mở cửa. Các Tỳ-kheo hỏi: Thầy là ai? Tôi là Sa-môn Thích tử. Các Tỳ-kheo nói:
Thầy đừng nói dối. Tỳ-kheo kia bèn trả lời đúng sự thật. Các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Súc sinh ở trong giáo pháp của Ta không sinh lại, không nên cho xuất gia thọ giới Cụ túc, nếu thọ giới Cụ túc rồi thì nên diệt tẫn. Từ nay khi thọ giới không biết thì nên để bảy ngày xem thử.
Lúc đó, các Tỳ-kheo độ người huỳnh môn cho thọ giới cụ túc. Người ấy kêu các Sa-di và người giữ vườn cùng làm hạnh bất tịnh, đi ra ngoài thấy người khác cũng làm như vậy. Các bạch y thấy chê bai, nói: Sa-môn Thích tử độ các Huỳnh môn, chắc sẽ cùng làm hạnh bất tịnh, đám người này không biết người nào nên độ, người nào không nên độ… cho đến câu: Nếu đã thọ giới Cụ túc thì nên diệt tẫn, cũng như trên. Khi thọ giới cụ túc nên hỏi trước: Ngươi có phải là trượng phu hay chăng? Hai căn cũng như vậy.
Khi ấy, có một gia đình bị phi nhân làm hại, chỉ còn sống sót ông chủ nhà, ông ta nghĩ: Nay ta cùng cực đói khổ, nên tìm phương cách nào để cứu toàn tánh mạng! Ông ta nghĩ: Sa-môn Thích tử được nhiều y thực, đau ốm có thuốc thang. Ta nay nên tự cạo đầu, mặc áo cà sa ở nhà rồi hằng ngày đến nơi Tăng phường theo thứ tự nhận thức ăn. Nghĩ như vậy rồi liền cạo đầu làm Tỳ-kheo, đến trú xứ của Tỳ-kheo tìm thức ăn. Các Tỳ-kheo kính lễ vị ấy đều nhận, vị ấy cũng kính lễ Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo hỏi: Tại sao thầy kính lễ người khác, lại nhận người khác kính lễ? Thầy bao nhiêu tuổi? Thọ giới khi nào? Hòa thượng, Axà-lê của thầy là ai? Tỳ-kheo ấy đáp: Tôi tự cạo đầu mặc pháp phục, không có Hòa thượng, không có năm tháng thọ giới. Các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nếu tự cạo đầu, tự xưng Tỳ-kheo, ở trong giáo pháp của Ta không sinh, không nên cho xuất gia thọ giới Cụ túc, nếu đã thọ giới Cụ túc thì phải diệt tẫn.
Bấy giờ, đệ tử của Bạt-nan-đà là Tỳ-kheo-Nikiền, trước kia bỏ đạo sau lại đến xin xuất gia. Các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Người ngoại đạo đã từng bỏ chánh pháp, ở trong pháp của ta không sinh, không nên cho thọ giới cụ túc, nếu đã thọ giới Cụ túc thì phải diệt tẫn.
Lúc này, Bạt-kỳ Tử Tôn Đà La Nan-đà không xả giới, hành dâm dục. Về sau vị này tự nói ra chỗ sai phạm ấy. Các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, đem vấn đề bạch Phật. Đức Phật dạy: Nếu tự nói phạm biên tội, ở trong chánh pháp Ta không thể sinh trưởng, không nên cho thọ giới Cụ túc. Nếu đã thọ giới Cụ túc rồi thì phải diệt tẫn. Khi thọ giới phải hỏi: Ông trước đây xuất gia có tịnh tu phạm hạnh không?
Khi đó, các Tỳ-kheo không thọ y chỉ mà trụ, không có người giáo giới nên ngu ám, không biết gì, không thể học giới. Các Tỳ-kheo Trưởng lão bạch Phật. Đức Phật dạy: Phải thọ y chỉ, nếu một đêm không thọ y chỉ, không được phép ở, kể cả uống nước trong Tăng phường, nếu uống thì phạm Đột-kiết-la. Đức Phật không cho phép không thọ y chỉ nên không dám ở trong Tăng phường. Khi ấy, có một Tỳ-kheo tránh nơi nghỉ ngơi, đến chỗ Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân rồi đứng qua một bên, Đức Phật hỏi: Thầy từ đâu đến? Tỳ-kheo thưa: Con từ… đến. Đức Phật hỏi: Trú xứ đó, đệ nhất Thượng tọa, đệ nhị, đệ tam Thượng tọa là ai? Bạch Đức Thế Tôn! Con không biết. Đức Phật lại hỏi: Trú xứ gần đó, ai là Thượng tọa? Lại đáp: Con cũng không biết. Đức Phật lại hỏi: Tại sao thầy không biết? Lại đáp: Con tránh trú xứ, không vào trong chúng kia, cho nên không biết. Đức Phật hỏi: Tại sao thầy tránh trú xứ? Đáp: Vì Đức Phật không cho phép không thọ y chỉ, cho đến không cho phép uống nước trong Tăng phường, cho nên con tránh. Đức Phật bằng mọi cách quở trách Tỳ-kheo kia: Thầy làm điều phi pháp, không nên vì vấn đề thọ y chỉ mà tránh trú xứ. Quở trách rồi Phật bảo các Tỳ-kheo: Nếu vì vấn đề thọ y chỉ mà tránh trú xứ, phạm Đột-kiết-la.
Lại có Tỳ-kheo trên đường đi thấy Tăng phường bèn vào thọ y chỉ, gặp lúc các Tỳ-kheo ngồi thiền hoặc lúc bực bội không thọ y chỉ được, do đó không đi kịp đoàn, hoặc thọ y chỉ rồi liền đi, các Tỳ-kheo khác hỏi: Tại sao thầy thọ y chỉ rồi liền đi. Đáp: Đức Thế Tôn không cho phép vấn đề thọ y chỉ mà tránh trú xứ đi, nay tôi thấy chỗ nghỉ ngơi của Tăng không dám không đến thọ y chỉ, lại cần đi cho kịp đoàn, do vậy nên đi liền. Có vị vì đi không kịp bạn nên giữa đường gặp giặc. Các Tỳ-kheo Trưởng lão bạch Phật. Đức Phật dạy: Nay cho phép được một đêm thọ y chỉ. Tuy được phép một đêm song vẫn còn gặp nạn, quý vị lại bạch Phật. Đức Phật dạy: Nay cho phép không thọ y chỉ cho đến đêm thứ 6. Lại có các Tỳ-kheo qua sáu đêm rồi mà không thọ y chỉ, bạch Phật. Đức Phật dạy: Không cho phép quá sáu đêm, nếu quá, phạm Đột-kiết-la.
Khi ấy, các Tỳ-kheo vội vã làm y chỉ cho người cũng vội vã y chỉ với người, bạch Phật. Đức Phật dạy: Tất cả không nên như vậy, nên y chỉ với Trưởng lão, các Tỳ-kheo thiện như pháp, có khả năng chuyển về giáo giới. Nếu người thọ y chỉ muốn dời chỗ khác, trước hết nên thưa Hòa thượng, A-xà-lê biết nơi đó có người có thể y chỉ, vậy sau mới đi.
Có các đệ tử khi gần đi mới cáo từ Hòa thượng, A-xà-lê, Đức Phật dạy: Không cho phép khi gần đi mới cáo từ, cần phải thưa trước với thầy hai, ba ngày. Vị thầy nên tìm hiểu chỗ đến có thể có người y chỉ mới cho đệ tử đi. Khi tới nơi, trước hết phải lễ tháp, kế đến lễ Hòa thượng, rồi xin phòng xá, vậy sau mới cầu y chỉ. Tỳ-kheo cho pháp y chỉ nên hỏi: Hòa thượng, A-xà-lê của thầy là ai? Trước đây thầy ở đâu và tụng kinh gì? Nếu trả lời như pháp thì nên tác pháp cho y chỉ. Nếu trả lời không như pháp thì nên nói: Thầy không biết tôi, tôi không biết thầy, thầy nên đến vị nào biết thầy để cầu y chỉ. Nếu trường hợp nghi thì nói: Thầy chờ thời gian. Người thọ y chỉ nên chờ, cho đến thời gian sáu đêm để xem xét, hợp ý thì nên cho y chỉ, nếu không hợp ý thì nói như trên.
Lại có Tỳ-kheo bệnh cầu y chỉ, Tỳ-kheo kia khởi ý niệm: Đức Phật dạy Tỳ-kheo nên xem đệ tử như vậy, như vậy, nay người này bệnh ta không thể chăm sóc được, bèn không cho Tỳ-kheo bệnh y chỉ. Quý vị không biết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nay cho phép khi bệnh không thọ y chỉ, lành bệnh rồi sau đấy mới thọ.
Lại có Tỳ-kheo đang nuôi bệnh cầu y chỉ, Tỳ-kheo kia nói: Đức Phật dạy Tỳ-kheo nên chăm sóc Hòa thượng, A-xà-lê như vậy, như vậy, nay thầy đang nuôi bệnh không thể cho thầy y chỉ. Tỳ-kheo nuôi bệnh không được y chỉ, xấu hổ bèn bỏ bệnh nhân đi cầu y chỉ, người bệnh không có ai chăm sóc, bệnh tình nguy kịch thêm, hoặc đưa đến mạng chung. Quý vị bạch Phật. Đức Phật dạy: Nay cho phép Tỳ-kheo đang nuôi bệnh không thọ y chỉ, đợi bệnh nhân lành, sau đấy mới thọ.
Lại có Tỳ-kheo đối với chỗ xứng ý, hành đạo đắc đạo quả cầu y chỉ, các Tỳ-kheo không cho bèn mất đạo quả, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nếu là chỗ xứng ý hành đạo đắc đạo quả mà không có người cho tác y chỉ thì cho phép ở trong chúng kia đối với bậc Thượng tọa hay là ngang bằng với bậc Thượng tọa, tâm sinh y chỉ, kính như pháp kính thầy để ở. Khi ấy, các Tỳ-kheo, A-xà-lê hoặc qua đời, hoặc thôi tu, hoặc đi xa, hoặc làm ngoại đạo, hoặc ra ngoài giới, không biết mất y chỉ hay không, bạch Phật. Đức Phật dạy: Mất y chỉ có tám trường hợp” Hoặc y chỉ sư đi xa, hoặc thôi tu, hoặc chết, hoặc làm ngoại đạo, hoặc gặp lại Hòa thượng trước (của mình), hoặc y chỉ sư nói: Ông trở lại thầy… thọ y chỉ, hoặc y chỉ sư ra ngoài giới cách đêm, hoặc đủ năm tuổi, thông minh, biện tài, đến khi tướng mặt trời xuất hiện. Đó là tám trường hợp đều mất y chỉ.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo phân phẩm vật an cư cho Sa-di bằng với mình, Sa-di bèn không kính Tăng, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nên dùng phần của một Tỳ-kheo, cho ba Sa-di, Sa-di vẫn không cung kính, lại bạch Phật. Đức Phật dạy: Nên phạt Sa-di. Các Tỳ-kheo không hỏi thầy của Sa-di mà phạt họ, nên họ không vui, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nên nói với thầy của họ. Thầy của họ làm phi pháp để yểm trợ họ. Quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Thầy không nên làm phi pháp để yểm trợ trò.
Lại có một Sa-di, Tăng phạt đoạn phần ăn. Người thí chủ nọ, sau đó thỉnh Tăng thọ trai. Các Tỳ-kheo đến theo thứ tự ngồi xong, người thí chủ không dọn thức ăn, các Tỳ-kheo nói: Giờ thọ trai đã đến, sao không dọn thức ăn? Người thí chủ đáp: Đợi Tăng tập. Các Tỳ-kheo nói: Tăng đã tập rồi. Thí chủ nói: Vị Sa-di tôi cúng dường chưa đến. Các Tỳ-kheo nói: Vị ấy không được đến. Thí chủ hỏi: Tại sao? Tăng đáp: Bị phạt không cho ăn. Người thí chủ nói: Có bao nhiêu cách để phạt, tại sao nhẫn tâm đoạn khẩu phần! Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên đoạn khẩu phần, nên phạt bằng cách bắt quét đất, dọn dẹp cỏ rác, sửa chỗ đi kinh hành, làm các cấp nơi đường đi. Áp dụng những cách như vậy để phạt.
Lúc này, có một Tỳ-kheo nam căn biến mất, nữ căn hiện ra. Các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nên dùng vấn đề thọ giới, vần đề thỉnh sư, vấn đề tuổi tác của đương sự chuyển qua trú xứ của Tỳ-kheo-ni, y theo pháp Tỳ-kheo-ni mà sống. Nếu trước kia phạm cộng giới của Tỳ-kheo-ni nên hối quá trong Tỳ-kheo-ni. Nếu trước kia phạm giới bất cộng thì khỏi phải hối quá. Tỳ-kheo-ni căn biến cũng như vậy. Có một Thức-xoa-ma-na căn biến, không biết làm thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng vấn đề xuất gia của đương sự, nếu tuổi đủ hai mươi thì trong chúng Tỳ-kheo đủ mười vị cho thọ giới cụ túc, nếu tuổi chưa đủ hai mươi tức là Sadi, Sa-di-ni cũng như vậy. Có một Sa-di căn biến, không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nên dùng vấn đề xuất gia của đương sự, nếu tuổi đủ thì cho hai năm học giới, liền đối trước chúng Tỳ-kheo-ni thọ hai năm học giới, nếu tuổi chưa đủ thì không cho hai năm học giới, chỉ làm Sa-di-ni.
Khi đó, có một Tỳ-kheo bị lửa dục thiêu đốt không thể kham nhẫn tự chặt đứt “hình nam căn” của mình. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Đức Phật quở trách: Ngươi là người ngu si, cái không nên chặt lại chặt, cái nên chặt lại không chặt. Phật bảo các Tỳ-kheo: Nếu chặt cái đầu âm cho đến phân nửa thì phạm Đột-kiết-la. Nếu chặt hết thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu khử đi một tinh hoàn, thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu khử cả hai tinh hoàn thì nên diệt tẫn. Nếu bị thú dữ cắn hoặc bị oan gia làm hại và tự thối nát hư hoại, không phục hồi khả năng người nam nữa đều nên diệt tẫn.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo độ người tay chân bị chặt, cho thọ giới cụ túc, các Cư sĩ thấy, chê trách, nói: Sa-môn Thích tử không biết người nào nên độ, người nào không nên độ, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Trưởng lão nghe, bạch Phật. Đức Phật dạy: Không độ những người như vậy, nếu độ cho họ giới cụ túc, sư tăng phạm Đột-kiết-la. Từ nay người bị chặt tay, chặt chân, tay chân bị chặt, sứt tai, sứt mũi, tai mũi bị sứt, chặt ngón tay, chặt nam căn, mất đầu âm, mắt lộ, bị trị phạt bằng roi làm cho hư hoại tướng tốt, phạm tội nhà quan. (Tội bị xâm đốt để lại vết tích trên người), tay chân co quắp, khập khểnh, mất âm thanh, trong thân, ngoài thân bị bướu, thân bên trong cong, thân bên ngoài cong, cả trong lẫn ngoài thân bị cong, mắt lé, một tay dài, một tay ngắn, tay bên tả nhắc lên, câm, điếc, đui, bệnh càn tiêu, bệnh hủi, cuồng, quá già, không có oai nghi, xấu xí, hủy nhục chúng Tăng. Những hạng người như vậy đều không nên độ. Nếu độ cho thọ giới cụ túc… (như trên đã đề cập). Các Tỳ-kheo độ người nói cà lăm, Đức Phật dạy: Không nên độ người nói cà lăm, cho thọ giới cụ túc.
Lại có các Tỳ-kheo trước không cho thọ giới Sa-di lại cho thọ giới cụ túc. Lại có các Tỳ-kheo không thỉnh Hòa thượng lại cho thọ giới cụ túc. Lại có các Tỳ-kheo đương sự không xin thọ giới cụ túc lại cho thọ giới cụ túc. Lại có các Tỳ-kheo cho người lõa hình thọ giới cụ túc. Lại có các Tỳ-kheo cho người không đủ y, bát thọ giới cụ túc. Quý vị bạch Phật. Đức Phật dạy: Không nên cho thọ như vậy.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo mượn y bát của người khác thọ giới Cụ túc, thọ giới Cụ túc rồi các Tỳ-kheo nói: Thầy mặc y bưng bát cùng đi khất thực. Tỳ-kheo kia nói: Tôi không có y, bát.
Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật há không cấm người không có y, bát không được thọ giới cụ túc đó sao? Tỳ-kheo kia nói: Đức Phật có cấm, nhưng tôi mượn y, bát của người để thọ. Các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Cho phép dẫn người muốn thọ giới, đến bên ngoài giới đàn, để đứng ở chỗ mắt thấy, tai không nghe, thỉnh chúng mười vị lên giới đàn. Hòa thượng nên nói sư Yết-ma: Trưởng lão, nay làm Yết-ma. Lại nên nói với sư giáo thọ: Trưởng lão, nay thọ Yết-ma. Sư Yết-ma nên bạch Tăng như vầy:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Người tên là… cầu Đại đức hiệu… thọ giới Cụ túc, Đại đức hiệu… làm giáo sư. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là tác bạch.
Sư giáo thọ nên từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Hòa thượng thưa hỏi: Đại đức đã độ người này hay chưa? Nếu nói chưa độ thì nên nói phải độ họ trước. Nếu nói đã độ, nên hỏi: Đã vì họ làm Hòa thượng chưa? Nếu nói chưa làm, nên nói phải vì họ làm Hòa thượng, nên hỏi người đệ tử: Y bát đủ chưa? Nếu nói chưa đủ, nên nói trước hết phải đủ y bát. Nếu nói đã đủ, nên hỏi tự mình có hay mượn của người? Nếu nói mượn của người, nên nói, cần khiến người chủ xả nó. Nếu nói tự mình có, nên đến an ủi, nói với người muốn thọ giới: Ngươi chớ nên sợ sệt, trong giây lát nữa ta sẽ đưa ngươi đến chỗ cao cả thù thắng. Trước hết nên tìm hiểu nhau, không nên khi thọ giới Cụ túc mà mờ mịt. Khi sư giáo thọ dạy đắp y, nên kín đáo tìm xem có như pháp không, có trọng bệnh không? Lại nên hỏi: Ba y của ngươi, cái nào là Tăng-già-lê, cái nào là Ưu-đa-la-tăng, cái nào là An-đà-hội? Nếu đương sự không biết, nên nói: Cái này là Tăng-già-lê, cái này là Ưu-đala-tăng, cái này là An-đà-hội. Nên cho thọ ba y và bát. Lại nên nói: Ngươi tên… lắng nghe! Nay là lúc cần nói sự thật! Nay ta hỏi ngươi, nếu thật nói là thật, không thật nói là không thật: Ngươi có các chứng bệnh hủi trắng, hủi ung thư, càn tiêu, điên cuồng, trĩ, lậu nhiệt, phù thũng hay không? Nếu nói không, lại hỏi: Ngươi có mắc nợ ai không? Ngươi chẳng phải quan nhân chứ? Chẳng phải tôi tớ chứ? Là trượng phu phải không? Là người phải không? Đủ hai mươi tuổi không? Có đủ y bát không? Thọ Hòa thượng chưa? Tên ngươi là gì? Hòa thượng tên gì? Ngươi đã từng xuất gia chưa? Nếu nói đã từng xuất gia, nên hỏi: Trước kia ngươi xuất gia có trì giới đầy đủ không? Cha mẹ có cho phép không? Ngươi muốn thọ giới cụ túc không? Trong chúng cũng sẽ hỏi ngươi như vậy, ngươi cũng trả lời đúng sự thật như vậy.
Nếu những câu hỏi đều được trả lời như pháp, sư giáo thọ trở lại lên giới đàn nói với vị Yết-ma: Tôi đã giáo thọ… như pháp rồi. Sư Yết-ma lại nên bạch Tăng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Người tên… cầu Đại đức hiệu… thọ giới cụ túc, Đại đức… như pháp giáo thọ rồi, nên khiến cho họ vào. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Sư giáo thọ nên dẫn họ vào, theo thứ tự đảnh lễ Tăng. Đảnh lễ Tăng rồi, đến trước sư Yết-ma, đầu gối bên phải chấm đất, chấp tay, dạy họ xin thọ giới cụ túc. Lời dạy: Con tên là… cầu Đại đức… làm Hòa thượng thọ giới cụ túc, nay đến Tăng xin thọ giới cụ túc, nguyện Tăng cứu vớt con, rủ lòng thương đối với con. Xin như vậy Ba lần. Vị sư giáo thọ dạy rồi trở về lại chỗ ngồi cũ. Sư Yết-ma nên bạch Tăng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Người này tên là… cầu Đại đức… thọ giới cụ túc, đến Tăng xin thọ giới cụ túc. Nay tôi sẽ hỏi nan sự của đương sự, để rồi các Yết-ma thọ giới cụ túc. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Kế đó nên nói với người thọ giới: Bây giờ là lúc cần nói thật. Nay tôi hỏi ông, thật nói là thật, không thật nói là không thật. Ông có các chứng bệnh như hủi bạch, hủi… cho đến câu: Ông muốn thọ giới cụ túc hay không? (Cũng như trước đã nói). Các câu trả lời như pháp rồi, sư Yết-ma nói:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Người này tên… cầu Đại đức… thọ giới cụ túc. Người này tên… tự nói thanh tịnh, không có các nạn sự, ba y và bát đủ, đã thọ Hòa thượng, cha mẹ đã cho phép, nay đến trước Tăng xin thọ giới cụ túc. Nay Tăng cho tên… thọ giới cụ túc, Hòa thượng pháp hiệu… Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Người này tên… cầu Đại đức… thọ giới cụ túc. Người này tên… tự nói thanh tịnh, không có các nạn sự, ba y và bát đủ, đã thọ Hòa thượng, cha mẹ đã cho phép, nay đến trước Tăng xin thọ giới cụ túc. Nay Tăng cho tên… thọ giới cụ túc, Hòa thượng pháp hiệu… các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng, nếu không đồng ý thì nói. (Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy).
Tăng đã cho… thọ giới cụ túc, Hòa thượng pháp hiệu… rồi. Tăng đồng ý nên im lặng, việc như vậy, thọ trì như vậy.
Nên nói với người thọ giới: Này ông… lắng nghe! Đức Thế Tôn Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác nói bốn pháp đọa, nếu Tỳ-kheo phạm một pháp nào thì chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích chủng tử: Ông hoàn toàn không được, cho đến dùng tâm dục nhiễm xem ngó nữ nhân. Tỳ-kheo nào hành pháp dâm, cho đến súc sinh, thì chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích chủng tử. Trọn đời ông không nên phạm. Nếu có thể giữ được thì nên nói: Giữ được.
Ông hoàn toàn không được, cho đến lá cây ngọn cỏ, không cho mà lấy. Tỳ-kheo nào hoặc trong xóm làng hoặc nơi đất trống, vật thuộc người khác bảo vệ, trộm lấy năm tiền, hay vật đáng giá năm tiền, thì chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích chủng tử. Trọn đời ông không nên phạm. Nếu có thể giữ được thì nên nói: Giữ được.
Ông hoàn toàn không được, cho đến giết loài kiến. Tỳ-kheo nào hoặc người hoặc loài người, tự tay giết hoặc dạy người giết, hoặc tìm dao đưa cho họ, hoặc dạy cho họ chết, hoặc khen sự chết, nói: Này trượng phu với nếp sống đó, chết hơn là sống, thì chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích chủng tử. Trọn đời ông không nên phạm. Nếu có thể giữ được thì nên nói: Giữ được.
Ông hoàn toàn không được, cho đến nói dối để vui chơi. Tỳ-kheo nào thật sự không có pháp hơn người, tự xưng là được pháp hơn người, đạt các thiền giải thoát, Tam-muội chánh thọ và các đạo quả, thì chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích chủng tử. Trọn đời ông không nên phạm. Nếu có thể giữ được thì nên nói: Giữ được. Chư Phật Thế Tôn vì thị hiện sự việc nên khéo nói thí dụ. Cũng như người chết thì trọn không thể dùng thân này sinh trở lại. Như cây kim thiếu lỗ xâu chỉ thì hoàn toàn không được dùng làm cây kim. Như cây Đa la đã bị chặt từ lõi thì không thể mọc trở lại. Như hòn đá bị vỡ thì không thể hợp lại được. Nếu Tỳ-kheo phạm một pháp đọa nào, lại đạt được pháp Tỳ-kheo, là điều không thể xảy ra.
Lại nói: Này… lắng nghe! Đức Thế Tôn Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác nói pháp tứ y: Đã là người xuất gia thọ giới cụ túc, Tỳ-kheo suốt đời phải nương tựa vào y phấn tảo để sống. Nếu ông có thể giữ được thì nên nói: Giữ được. Về sau, nếu được y Kíp bối, y Khâm-bà-la, y Câu-xá-da, y Tha da đều được cất dùng.
Đã là người xuất gia thọ giới cụ túc, Tỳ-kheo trọn đời nương nơi sự khất thực để sống. Nếu ông có thể giữ được thì nên nói: Giữ được. Về sau, Tăng nhận được bữa ăn trước, bữa ăn sau, thức ăn được mời, đều được sử dụng.
Đã là người xuất gia thọ giới cụ túc, Tỳ-kheo trọn đời nương nơi gốc cây để sống. Nếu ông có thể giữ được thì nên nói: Giữ được. Về sau, nếu nhận được nhà lớn, nhà nhỏ, nhà gác thì được sử dụng.
Đã là người xuất gia thọ giới cụ túc, Tỳ-kheo trọn đời nương nơi thuốc dư bỏ để sống. Nếu ông có thể giữ được thì nên nói: Giữ được. Về sau, nếu nhận được tô, dầu, mật, thạch mật thì được sử dụng.
Tiếp theo lại nói: Này ông… lắng nghe! Ông đã được Bạch-tứ-yết-ma như pháp thọ giới cụ túc rồi. Điều này đã được chư Thiên, long, quỷ, thần từng phát lời nguyện: “Đến khi nào ta được thân người thì xuất gia thọ giới cụ túc trong chánh pháp luật”. Ông, hiện tại đã đạt được lời nguyện của chư Thiên… như thế, ông là người nhận được quả vị cao quý. Vương vị này chính là ông đã thọ pháp Tỳ-kheo. Đương nhiên phải cùng nhau nói lên lời cung kính, sẵn sàng tiếp nhận sự giáo giới về các giới còn lại. Hòa thượng, A-xà-lê đang rộng lòng vì ông sớm giảng giải để cho ông học đầy đủ các giới Tỳ-kheo ông đã thọ. Học để được giới, định, tuệ, để diệt ba lửa: tham, sân, si, xa lìa ba cõi, không còn các uế trược, thành tựu quả Ala-hán.
Bấy giờ, người thọ giới cụ túc không biết năm tháng, không biết thời gian thọ giới, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nên dạy khiến cho họ biết, nói như sau: Ông nay thọ giới năm nào, tháng nào, ngày nào, giờ nào, trọn đời ông phải nhớ rõ việc ấy.
Lại có các Tỳ-kheo phạm tội thô Biệt trú, nhàm chán Biệt trú, bèn xả giới thôi tu. Lại có vị hành Ma-na-đỏa, Bản nhật trị, và A-phù-ha-na, bị Yết-ma quở trách, Yết-ma khu xuất, Yết-ma y chỉ, Yết-ma cử tội, Yết-ma hạ ý. Các Tỳ-kheo như vậy đều nhàm chán bỏ đạo, thời gian sau lại muốn xuất gia thọ giới cụ túc trong chánh pháp luật, các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nên hỏi họ trước: Ông có thể trở lại hành các việc trước kia, có thể tùy thuận Tăng, cầu Tăng trừ diệt việc trước kia hay không? Nếu nói không thể thì không nên cho xuất gia thọ giới cụ túc. Nếu nói có thể thì nên cho xuất gia thọ giới Cụ túc. Khi đã thọ giới rồi, nếu trước kia đang biệt trú thì khiến trở lại biệt trú… cho đến trước kia đang tác pháp Yết-ma hạ ý thì trở lại trao cho tác pháp Yết-ma hạ ý.
Lại có các Tỳ-kheo, Hòa thượng, A-xà-lê thôi tu, sau lại đến đệ tử cầu xuất gia thọ giới cụ túc, các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Cho phép họ xuất gia thọ giới cụ túc, đệ tử trước kia nên cho y bát, giúp đỡ khiến cho thành tựu được việc xuất gia thọ giới Cụ túc. Vị kia lại cầu người đệ tử mình trước kia làm thầy, các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Đức Phật dạy: Cho phép người đệ tử trước kia được làm thầy. Lại không biết ai cung kính ai, các Tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy: Người thọ giới sau, lại nên như pháp cung kính thầy.
Bấy giờ, Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật:
Các Tỳ-kheo trước đã thọ giới bằng một lời nói, thọ giới bằng hai lời, bằng ba lời nói, cho đến cả thọ giới bằng nói câu “Thiện lai Tỳ-kheo”, thọ giới khi ngủ, khi say, tâm cuồng, tâm tán loạn, tâm bệnh hoại mà thọ giới, Hòa thượng khi ngủ, cho đến tâm bệnh hoại, hai vị cho đến mười vị đều làm Hòa thượng thọ giới, những trường hợp như vậy được gọi là thọ giới cụ túc hay không?
Đức Phật dạy:
Trước khi chưa chế giới thì được gọi là thọ giới cụ túc. Sau khi chế giới rồi thì những trường hợp ấy không được gọi là thọ giới cụ túc.
Lúc này, các Tôn giả Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Đại Ca-diếp, Ma-ha Câu-ly-la, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-na-luật, Phú-lâu-na-diđa-la-ni-tử, La-hầu-la, A-nan, Nan-đà, những vị Đại A-la-hán này đến chỗ Đức Thế Tôn, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, đồng thanh như Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật, Đức Phật trả lời cũng như trên.
Khi đó, các Tỳ-kheo ngồi không có trên dưới, không cung kính nhau, các Cư sĩ thấy, chê trách, nói: các Sa-môn này ngồi không biết thượng, trung, hạ, không có lớn nhỏ, không có hạnh Samôn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo:
Thật sự các ông có như vậy không?
Bạch Thế Tôn! Có như vậy.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, hỏi các Tỳ-kheo:
Ai nên nhận chỗ ngồi thứ nhất, nhận của thí thứ nhất và nhận cung kính lễ bái thứ nhất?
Các Tỳ-kheo, hoặc có người nói:
Sát lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ xuất gia nên thọ. Hoặc có người nói: Người tụng Tỳ-ni, Pháp sư, A-luyện-nhã, hành mười hai hạnh Đầuđà, cho đến đắc quả A-la-hán nên thọ.
Đức Phật dạy:
Không nên như vậy. Các Tỳ-kheo bạch Phật: Nếu không nên như vậy thì ai là người nên thọ? Đức Phật dạy:
Đời quá khứ xa xưa, bên bờ biển có cây Nicâu-luật, bóng cây che phủ cả năm trăm cỗ xe. Khi ấy, có ba con thú ở bên gốc cây này, một là chim trĩ, hai là con khỉ lớn, Ba-là con voi, tuy là thân hữu mà không có sự suy kính nhau. Sau thời gian chúng bàn luận: Chúng ta đã là thân hữu, tại sao không suy kính nhau? Nên dựa theo năm, người nào lớn hơn là tôn, người nào nhỏ hơn là ty. Luận bàn rồi, hỏi voi: Bạn nhớ việc lâu xa như thế nào? Voi nói: Tôi nhớ cây này khi nó ngang bụng tôi. Lại hỏi khỉ lớn, khỉ lớn nói: Tôi nhớ khi tôi đứng thẳng cắn tới đọt cây này. Lại hỏi chim trĩ, chim trĩ nói: Tôi nhớ xưa kia ở nơi chỗ đó, tôi ăn hạt cây này, đến đây nhả ra, hạt đó bèn mọc lên cây ấy. Thế là suy tôn con chim trĩ là lớn, con khỉ lớn bậc trung, con voi nhỏ nhất. Khi cần đi, khỉ lớn cõng chim trĩ, voi cõng khỉ lớn. Chim trĩ dạy hai con kia làm mười nghiệp thiện, chúng đều vâng làm. Người đời nghe đều ghi nhận sự giáo hóa đó, bèn gọi hành thiện là phạm hạnh trĩ. Người phụng hành pháp đó khi mạng chung được sinh lên cõi trời. Này các Tỳ-kheo! Súc sinh còn biết có tôn ty huống chi là trong chánh pháp của Ta lại không có tương kính hay sao?! Từ nay các ông, người nào thọ giới cụ túc trước nên thọ chỗ ngồi thứ nhất, vật cúng thứ nhất, cung kính lễ bái thứ nhất, nên phụng hành như vậy.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, Samôn ngoại đạo, Bà-la-môn, các ngày mồng tám, mười bốn, rằm trong tháng, cùng nhau tập hợp một chỗ hòa hợp Bố-tát thuyết pháp, nhiều người tới lui cúng dường. Vua Bình-sa thấy vậy khởi ý nghĩ: Đệ tử trong chánh pháp cũng làm như vậy, âu cũng là điều tốt đẹp? Ta sẽ hướng dẫn các quan, quyến thuộc đến đó nghe pháp, cung kính cúng dường, khiến cho mọi người được an ổn lâu dài.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn cũng khởi ý niệm như vầy: Ta vì các Tỳ-kheo kiết giới, mà các Tỳ-kheo có người không nghe, không thể tụng học, không thể nhớ thọ trì. Nay Ta nên cho phép các Tỳ-kheo Bố-tát, thuyết giới. Vua Bình-sa nghĩ rồi, đến chỗ
Phật, đầu mặt lễ nơi chân rồi ngồi lui qua một bên, đem ý nghĩ đó bạch Phật. Đức Phật vì Vua nói các pháp diệu, chỉ vẽ sự lợi ích, khiến được hoan hỷ rồi, nhà Vua liền về lại cung. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng đem lời bạch của Vua Bình-sa và ý niệm của mình, nói với các Tỳ-kheo: Nay do mười điều lợi cho phép các Tỳ-kheo Bố-tát thuyết giới.
Đức Phật đã cho phép Bố-tát thuyết giới, các Tỳ-kheo lại Bố-tát hằng ngày. Quý vị bạch Phật. Đức Phật dạy: Không nên như vậy. Các Tỳ-kheo lại hai ngày, ba ngày đến năm ngày một lần Bốtát. Quý vị bạch Phật. Đức Phật dạy: Cũng không nên như vậy, cho phép mồng tám, mười bốn nói pháp, ngày rằm Bố-tát. Các Tỳ-kheo không biết nói pháp gì, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nên khen ngợi Tam bảo, nói niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn, lực, giác đạo, vì các thí chủ khen ngợi chư Thiên. Các Tỳ-kheo bèn hợp thanh khen ngợi Tam bảo. Quý vị bạch Phật. Đức Phật dạy: Không nên như vậy, nên mời một vị. Các Tỳ-kheo thỉnh người phá giới, phá kiến, Tỳ-kheo nhân đây mà được thế lực. Quý vị bạch Phật. Đức Phật dạy: Không nên như vậy, nên thỉnh người học giới. Các Tỳ-kheo lại thỉnh Tỳ-kheo mù lòa có các bệnh, hủy nhục chúng Tăng. Quý vị bạch Phật. Đức Phật dạy: Không nên như vậy, nên thỉnh vị có các căn đầy đủ, thành tựu ký luận, thọ trì Ahàm. Khi ấy, trong chúng có nhiều hạng người này, các Tỳ-kheo không biết thỉnh ai, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nên thỉnh theo thứ tự. Tỳ-kheo được thỉnh thuyết pháp mỏi mệt, bạch Phật. Đức Phật dạy: Nên thỉnh người thay phiên. Các Tỳ-kheo nói pháp bằng giọng ca vịnh, bạch Phật. Đức Phật dạy: Không nên như vậy. Khi nói pháp chúng hội đông, nghe không được hết, bạch Phật. Phật dạy: Nên trải nơi tòa cao, ngồi trên đó để nói, nhưng vẫn không nghe hết, bạch Phật. Phật dạy: Nên đứng để nghe. Đứng lâu chân bị thũng, bạch Phật. Phật dạy: Nên vừa đi vừa nghe.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo Bố-tát nơi đất trống, bị mòng muỗi, gió mưa, bụi đất làm khốn khổ, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép làm nhà Bố-tát. Nơi nhà Bố-tát kia không có thứ gì trải trên đất, nhớp chân các Tỳ-kheo, thường rửa nên sinh bệnh, bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng bùn trét trên đất làm cho đất được sạch, cũng cho phép trải mười loại y, kể cả Bà bà… các loại cỏ mềm mại. Đức Phật cho phép dùng y để trải, lại đem trải nơi đất, các Cư sĩ thấy chê trách, nói: Các Sa-môn này như Đại thần của nhà Vua. Quý vị bạch Phật. Đức Phật dạy: Không nên đi kinh hành trên gấm. Lúc đó, các Tỳ-kheo dùng hoa rải trên tòa của Tỳ-kheo Thượng tọa, các Cư sĩ thấy, chê trách, nói: Như Đại thần của Vua. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên vậy. Lại có các bạch y, vì cúng dường pháp nên muốn dùng hoa rải trên tòa của Tỳ-kheo Thượng tọa, các Tỳ-kheo không cho, họ nổi giận trách nói: Các Tỳ-kheo không thọ nhận sự cúng dường. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Bạch y muốn rải hoa thì tùy ý họ. Nếu hoa rớt trên đầu Tỳ-kheo và trên y thì nên phủi xuống, nếu rớt trên tòa thì không can gì. Khi ấy, các bạch y nghe pháp hoan hỷ muốn cúng dường, các Tỳ-kheo sợ rơi vào tình trạng xem như làm thuê, nên không dám nhận, bạch Phật. Phật dạy: Vì pháp cúng dường thì cho phép nhận.
Bấy giờ, Tỳ-kheo nói pháp một thời gian ngắn rồi nghỉ, chư Thiên, quỷ thần tưởng hết bèn đi. Trong chốc lát, Tỳ-kheo tiếp tục nói pháp, các vị kia quay trở lại nghe, chẳng phải một mà nhiều lần như vậy. Họ nổi giận nói: Các Tỳ-kheo này không quy định thời gian để nói pháp, giống như con nít giỡn chơi. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Nên quy định thời gian để thuyết pháp, nói pháp rồi nên chú nguyện.
Khi ấy, Tôn giả Kiếp-tân-na ở nơi núi Ất-sưla, khởi ý nghĩ: Nay ta cần đến chỗ Tăng tập hợp để Bố-tát hay chăng? Rồi lại nghĩ: Ta thường thanh tịnh phiền gì phải đến. Bấy giờ, Đức Thế Tôn biết ý nghĩ của Kiếp-tân-na, bỗng nhiên vắng mặt nơi thành Vương-xá, và hiện ra trước mắt Kiếp-tân-na, an tọa nơi tòa, nói: Thầy chớ nên nghĩ “Ta thường thanh tịnh phiền gì phải đến Bốtát”. Nếu thầy không đến, không cung kính Bố-tát thì ai cung kính?! Đức Thế Tôn dạy như vậy rồi bèn cùng Kiếp-tân-na vắng mặt tại đó, rồi hiện về thành Vương-xá. Nhân việc này Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, nói lên điều Kiếp-tân-na nghĩ và lời dạy của mình, rồi bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo hòa hợp Bố-tát, nếu ai không đến, phạm Đột-kiết-la. Một Tỳ-kheo biết pháp hoặc Thượng tọa hoặc ngang bằng Thượng tọa nói:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay là ngày thứ mười lăm Bố-tát thuyết giới, Tăng nhất tâm tác pháp Bố-tát thuyết giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Các Đại đức! Nay Bố-tát nói về Ba-la-đề-mộc-xoa, tất cả cùng nghe khéo suy niệm. Nếu có tội nên phát lồ, không có tội thì im lặng. Do sự im lặng nên biết tôi và các Đại đức thanh tịnh. Như bậc Thánh im lặng, tôi và Đại đức cũng như vậy, Tỳ-kheo nào, trong chúng xướng lên như thế cho đến Ba lần, nhớ có tội mà không phát lồ, mắc tội cố ý vọng ngữ. Tội cố ý vọng ngữ, Đức Phật nói là pháp ngăn đạo. Người phát lồ được an lạc.
Trong đây, Ba-la-đề-mộc-xoa nghĩa là giới này phòng hộ các căn, tăng trưởng pháp thiện, đối với các pháp thiện nó là cửa ngõ ban đầu, nên gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa. Lại nữa, thường phân biệt danh cú của giới pháp này, nên gọi chung là Ba-la-đề-mộc-xoa.
Các Tỳ-kheo không biết nên có mấy cách Bốtát, bạch Phật. Phật dạy: Có năm cách Bố-tát:
1. Một là tâm niệm miệng nói.
2. Hai là hướng người khác nói tịnh.
3. Ba là rộng hay lược thuyết giới.
4. Bốn là Bố-tát Tự tứ.
5. Năm là Bố-tát hòa hợp.
Các Tỳ-kheo không biết nên có mấy cách thuyết giới, bạch Phật.
Phật dạy: Có năm cách thuyết giới:
1. Một là nói bài tựa của giới rồi, nói các điều khác chư Tăng thường nghe.
2. Hai là nói bài tựa của giới và bốn pháp đọa rồi, nói các điều khác chư Tăng thường nghe.
3. Ba là nói bài tựa của giới… cho đến mười ba việc rồi, nói các điều khác chư Tăng thường nghe.
4. Bốn là nói bài tựa của giới… cho đến hai pháp bất định, rồi nói các điều còn lại chư Tăng thường nghe.
5. Năm là nói đầy đủ.
Các Tỳ-kheo không biết có mấy hạng trì luật, bạch Phật. Phật dạy: Có năm hạng trì luật, như trước đã nói. Tỳ-kheo trì luật có năm thứ công đức, cũng như trước đã nói. Tỳ-kheo trì luật có được bảy khả năng:
1. Đa văn các pháp.
2. Có thể suy tính là pháp hay phi pháp.
3. Khéo tính toán Tỳ-ni.
4. Khéo tiếp thu lời dạy của thầy.
5. Đến chỗ khác nói năng không sợ.
6. Chính mình trụ nơi Tỳ-ni.
7. Biết giới cộng bất cộng.
Lại có bảy nghị lực:
1. Chính mình trụ nơi giới, thành tựu oai nghi, cẩn thận sợ tội nhỏ.
2. Đa văn có khả năng thọ trì pháp Phật giảng nói.
3. Tụng hai bộ giới.
4. Biết phạm.
5. Biết không phạm.
6. Biết sám hối.
7. Biết không sám hối.
Lại có bảy sự thích nghi:
1. Như trên.
2. Như trên.
3. Như trên.
4. Không tùy theo ái.
5. Không tùy theo sân.
6. Không tùy theo si.
7. Không tùy theo sợ.
Khi ấy, các Tỳ-kheo ở trong cương giới, tác pháp Bố-tát biệt chúng không như pháp. Lại có Bố-tát hòa hợp mà không như pháp. Lại có Bố-tát như pháp mà biệt chúng. Lại có Bố-tát như pháp mà hòa hợp, bạch Phật. Phật dạy: Ba cách Bố-tát trước có lỗi, Yết-ma không thành, phạm Đột-kiếtla. Cách Bố-tát sau không có lỗi, Yết-ma thành tựu, không phạm.
Bấy giờ, Vua Bình-sa quy định năm năm có một tháng nhuần, Sa-môn ngoại đạo, Bà-la-môn đều y theo mà tính công việc, riêng các Tỳ-kheo không chịu áp dụng, các quan và dân đều dị nghị nói: Sa-môn Thích tử ở trong lãnh thổ của Vua mà không áp dụng tháng nhuần của Vua. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Nên tùy theo vương pháp. Các Tỳ-kheo không biết tùy theo vương pháp bằng cách nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép Bố-tát thiếu một đêm. Các Tỳ-kheo liền thường Bố-tát thiếu một đêm, bạch Phật. Phật dạy: Không nên thường Bố-tát thiếu một đêm, nên Ba lần đủ, một lần thiếu, như vậy năm năm tính dồn lại đủ một tháng, thuận theo tháng nhuần của Vua.
Lúc đó, các Tỳ-kheo vào ngày thuyết giới đến các chỗ Bố-tát, hoặc gặp lửa nơi đồng trống, hoặc gặp nước lớn, hoặc gặp giặc tháng tám, hoặc bị nạn về phạm hạnh, nạn về y bát, nạn về mạng sống, bạch Phật. Phật dạy: Không nên vào ngày thuyết giới vì thuyết giới mà đến chỗ khác, nếu đi thì phạm Đột-kiết-la, cho phép tại trú xứ, nơi chỗ đất bằng, hoặc chỗ có cỏ mềm mại, hoặc có cây lớn, hoặc có tảng đá lớn, nên bạch nhị Yết-ma kết làm chỗ Bố-tát. Một Tỳ-kheo bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay kiết nơi đây làm chỗ Bố-tát. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay kiết nơi đây làm chỗ Bố-tát. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Tăng đã kiết làm chỗ Bố-tát rồi. Tăng chấp thuận nên im lặng.
Việc như vậy thọ trì như vậy.
Các Tỳ-kheo Bố-tát nơi chỗ đất trống, bị gió mưa, mòng muỗi gây khốn khổ, bạch Phật, Đức Phật dạy: Cho phép lấy phòng chính giữa, nơi dễ lui tới, bạch nhị Yết-ma kiết làm nhà Bố-tát, như trên đã nói. Các Tỳ-kheo lại muốn Yết-ma nơi phòng có đông chúng làm chỗ Bố-tát, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép kiết. Các Tỳ-kheo lại tranh ngồi trước, bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép Yết-ma phòng đông chúng làm chỗ Bố-tát. Có các Cư sĩ đến, vào Tăng phường, nói với các Tỳ-kheo: Nếu Bố-tát trong phòng do chúng tôi làm, chúng tôi sẽ cúng bữa ăn trước, bữa ăn sau, Đátbát-na, dầu thoa chân, thoa thân, dầu thắp đèn. Các Tỳ-kheo nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn lại cho phép Yết-ma làm chỗ Bố-tát nơi phòng đông chúng, thì không làm cho chúng ta mất phẩm vật cúng dường này. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Cho phép trở lại Yết-ma nơi phòng đông chúng làm chỗ Bố-tát, theo thứ tự mà Bố-tát. Phòng nhỏ không dung hết, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép ngồi dưới mái tranh trước và sau, cũng như trong sân. Các Tỳ-kheo nghe tiếng không rõ, sợ không thành Bố-tát, bạch Phật. Phật dạy: Nếu vì Bố-tát mà ở nơi đó, được gọi là Bố-tát.
Các Tỳ-kheo khi Bố-tát không xác định thời gian nên phế bỏ việc tọa thiền hành đạo. Quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Nên xướng: “Đến giờ…”, hoặc đánh kiền chùy, hoặc đánh trống, hoặc thổi ốc. Các Tỳ-kheo làm trống bằng vàng, bằng bạc. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng đồng thiếc, sành hay cây, lấy da bịt nơi đầu. Không biết giao ai đánh, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên sai Sa-di, hay người giữ vườn đánh. Họ đánh nhiều, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên đánh ba hồi. Đánh rồi treo giữa sân, người ngoài đến đánh mãi, các Tỳ-kheo tưởng hành Tăng sự, đều tập hợp, phế bỏ việc hành đạo, hoặc trời mưa ướt, đánh không kêu, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên treo trong nhà, chỗ vắng. Có Sa-di khách đến, phân công đánh, không biết rõ giờ giấc, đánh lung tung, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Người cựu trú nên đánh. Cho phép sắm trống Tăng, trống riêng, trống Tăng bốn phương, một cái dự bị. Các Tỳ-kheo lại làm cái ốc bằng vàng, bằng bạc, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên thổi bằng ốc biển, hoặc dùng sừng để làm. Sa-di hay người giữ vườn thổi… cho phép được có sẵn một cái ốc dự phòng, cũng như trên đã nói. Các Tỳ-kheo không biết dùng gỗ gì làm kiền chùy, bạch Phật. Phật dạy: Trừ cây sơn, cây độc, ngoài ra loại cây nào có tiếng kêu đều cho phép làm. Nếu không có Sadi thì Tỳ-kheo cũng đánh được (ngoài ra như trên). Các Tỳ-kheo không biết nên giao ai xướng Ba lần: Đến giờ… bèn bạch Phật. Phật dạy: Cho phép Sa-di hay người giữ vườn xướng. Tăng trong trú xứ nhiều, nghe không khắp, bạch Phật. Phật dạy: Nên ở chỗ cao mà xướng. Các Tỳ-kheo không biết tập hợp hay chưa, bạch Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo ngồi gần nên nói cho biết. Sau có Tỳ-kheo khách đến không biết, bạch Phật. Phật dạy: Nên đếm số. Các Tỳ-kheo đếm rồi lại quên, bạch Phật. Phật dạy: Nên hành trù để lấy số mục. Một người hành trù, rồi tự mình thu lấy, lộn xộn, bạch Phật. Phật dạy: Nên sai một người thu riêng. Các Tỳ-kheo làm thẻ bằng vàng, bằng bạc, bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng đồng, thiếc, răng, sừng, xương, tre, cây, để làm, trừ cây sơn, cây độc. Các Tỳ-kheo làm có loại ngắn, loại dài, bạch Phật. Phật dạy: Ngắn không nên ngắn hơn năm ngón tay, dài không được dài quá một khuỷu tay. Các Tỳ-kheo làm hoặc lớn hoặc nhỏ, bạch Phật. Phật dạy: Lớn không nên lớn hơn ngón tay út, nhỏ không nên nhỏ hơn chiếc đũa, nên sơn rồi đựng trong ống, treo trên nhà Bố-tát. Các Tỳ-kheo không biết ai nên hành trù, bạch Phật. Phật dạy: Nên sai Tỳ-kheo hạ tọa hành trù. Tỳ-kheo hạ tọa không biết hành trù bạch Phật. Phật dạy: Nên chọn người biết. Có Tỳ-kheo ném thẻ trù cho Tăng, bạch Phật. Phật dạy: Nên trao tận tay. Thâu rồi không đếm, đếm rồi không xướng, bạch Phật. Phật dạy: Thâu rồi phải đếm, đếm rồi phải xướng. Xướng: Thành phần Tỳ-kheo xuất gia có bao nhiêu vị, Sa-di có bao nhiêu vị, tổng cộng là bao nhiêu vị. Khi ấy, có bạch y nghe Bố-tát, sau các Tỳ-kheo phạm tội, bạch y nêu tội lên, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên cho bạch y nghe, Sa-di cũng như vậy. Các Tỳ-kheo, tuy khiến Sa-di đến chỗ không thấy mà vẫn còn nghe được, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên để ở chỗ không thấy, không nghe. Lại có các Sa-di biết sẽ Bố-tát, vào nằm dưới giường, vẫn nghe được giới, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên coi dưới giường, lấy lửa soi cho khắp. Lửa soi khói đen cả nhà, hoặc bị cháy đồ chảy dưới đất, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên làm cái lồng đèn, cái chân đèn, Tăng và cá nhân đều có thể cất để dùng. Các Tỳ-kheo dùng vàng, bạc để làm, bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng đồng, thiếc, sành và gỗ để làm.
Có các bạch y cất nhà mới xong, thỉnh các Tỳ-kheo đến Bố-tát thuyết pháp trước để cúng dường khi về nhà mới, các Tỳ-kheo không biết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép thọ. Lại có bạch y gia đình bị phi nhân gây não, thỉnh các Tỳ-kheo trong chúng đến Bố-tát thuyết pháp để được an lạc, cúng dường, các Tỳ-kheo không biết làm thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép thọ. Có Cư sĩ dâng nước mía, các Tỳ-kheo không dám thọ, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép thọ. Có các Cư sĩ hỏi các Tỳ-kheo: Hôm nay là ngày bao nhiêu? Các Tỳ-kheo nói không biết, họ bèn dị nghi nói: Samôn Thích tử ngày tháng còn không biết, huống hồ là thâm lý. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nếu muốn đến nhà bạch y nên hỏi trước thầy: Nay là ngày bao nhiêu? Nếu thầy không biết thì nên hỏi người khác.
Bấy giờ, các Cư sĩ, ngày Bố-tát, đem thức ăn đúng thời, đồ uống đúng thời, thuốc bảy ngày, thuốc trọn đời đến Tăng phường cúng dường, muốn nghe pháp thọ tám phần giới, các Tỳ-kheo không để ý đến họ, họ nổi giận mang về. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Thượng tọa nên khiến hạ tọa quét đất, lấy nước, khiến tịnh nhân đem đồ để đựng các trai vật. Các Tỳ-kheo ăn hết không cho khách, khách dị nghị chê trách nói: Sa-môn Thích tử thường khen ngợi bố thí, chỉ có nhận sự bố thí của người mà không chịu bố thí cho ai. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên cho khách ăn. Khi cho ăn, các Tỳ-kheo lại để trong tay họ, chứ không có đồ đựng, họ chê trách nói: Các Tỳ-kheo coi họ như con nít. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng đồ để đựng thức ăn, khi cho họ ăn xong, Thượng tọa hay vị ngang bằng với Thượng tọa vì họ nói pháp và chú nguyện. Sau người khách đi, có bốn vị hay trên bốn vị nên Bố-tát đầy đủ. Nếu hai vị hay ba vị thì nên hướng với nhau nói lên sự thanh tịnh, Trưởng lão ghi nhận cho… nói như vậy Ba lần. Nếu chỉ có một vị thì nên đợi, có vị nào đến thì cùng Bố-tát. Nếu không có ai đến thì để trống vai bên phải, quỳ gối chấp tay, tâm niệm miệng nói: Nay ngày mười bốn, mười lăm chúng Tăng Bố-tát, tôi tâm thọ Bố-tát. Nói như vậy Ba lần. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Đây là pháp Bốtát, từ nay nên trọn đời phụng hành như vậy, không làm, phạm Đột-kiết-la.
Khi ấy, các Cư sĩ vào trong Tăng phường hỏi các Tỳ-kheo: Tăng có bao nhiêu vị? Đáp: Tăng có… vị. Cư sĩ thưa: Chúng tôi mời Tăng ngày mai thọ trai. Các Tỳ-kheo ở trú xứ gần đó nghe, sáng ngày mai kéo hết đến, nên thức ăn không đủ. Các Tỳ-kheo nói: Các người thỉnh Tăng tại sao không cho tôi ăn? Đáp: Ngày hôm qua, tôi hỏi Tăng, tùy theo số đó mà sửa soạn, trước không mời mà đến đòi hỏi, không thỉnh mà ăn, quá hơn ngoại đạo, những vị này không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Phật dạy: Không thỉnh không nên đến, nếu đến, phạm Đột-kiết-la.
Lại có các Tỳ-kheo, có duyên sự cần gặp, gặp ngày gia chủ mời ăn, xấu hổ không dám đến, bạch Phật. Phật dạy: Không vì ăn thì được phép đến.
Lúc này, có Cư sĩ mời Tăng thọ trai, có Tỳ-kheo khách đến, các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên nói với người chủ: Có Tỳ-kheo khách đến, được phép mời vào không? Nếu được phép mời vào càng hay, bằng không nên nói: Cho chúng tôi phần ăn, chúng tôi tự chia nhau bình đẳng để ăn. Nếu được thì hay, bằng không được mỗi người tự lấy bát nhận phần ăn của mình rồi ra ngoài chia nhau cùng ăn. Nếu được thì hay bằng không được thì trong Tăng phường có thức ăn gì nên đem ra cúng dường khách Tăng đó.
Năm đó mất mùa khất thực khó được, Tỳ-kheo khắp nơi đều tập trung về thành Vương-xá, Tăng phòng đều bỏ trống, không có người coi ngó, phòng xá, ngọa cụ hoặc bị lửa cháy, hoặc bị thấm nước, hoặc bị trùng cắn, bạch Phật. Phật dạy: Các trú xứ xung quanh gần thành Vương-xá, đều nên bạch nhị Yết-ma như trên để xả giới, sau đó, bạch nhị Yết-ma, như trên, thông kết làm thành một đại giới, khiến cho các Tỳ-kheo không bỏ chỗ ở cũ mà được nhận phần cúng dường… Thời gian sau, các nơi trở lại sung túc an lạc, tín đồ muốn gặp các Tỳ-kheo, sai người tin cậy bạch: Xin quý vị du hành nhân gian để chúng con cung cấp y thực. Khi ấy, Vua Bình-sa cũng muốn các Tỳ-kheo du hành giáo hóa nên nói: Xin quý vị du hành, nếu có thiếu thốn, tôi sẽ ra lệnh cho các sở tại cung cấp những gì quý vị cần dùng. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Trước hết, bạch nhị Yết-ma, như trên, để xả giới nơi thành Vương-xá, vậy sau mỗi nơi tùy ý kiết, xướng giới tướng, kiết tiểu giới.
Có các Tỳ-kheo A-lan-nhã không biết cương giới của mình ngang bằng bao nhiêu, bạch Phật. Phật dạy: Tự nhiên giới cách thân diện hai câu-lôxá, kiết cương giới tùy xa gần. Khi ấy, các Tỳ-kheo kiết không có biên giới, bạch Phật. Phật dạy: Nếu kiết không biên giới, không thành kiết giới, người phạm mắc tội Đột-kiết-la. Các Tỳ-kheo lại kiết cương giới mười hai do-tuần, mười do-tuần, khi thuyết giới phải đi bốn, năm ngày mới đến, hoặc gặp phải lửa nơi đồng hoang, hoặc bị nước lớn, hoặc gặp giặc cướp đoạt, có nạn phạm hạnh, nạn y bát, cho đến nạn mạng, bạch Phật. Phật dạy: Nếu kiết cương giới mười hai do-tuần, mười do-tuần, không thành kiết giới, phạm Đột-kiết-la. Nay Ta cho phép, xa nhất là ba do-tuần. Lúc này, các Tỳ-kheo không xướng bốn phương của giới tướng mà kiết giới, bạch Phật. Phật dạy: Không xướng giới tướng không thành kiết giới, phạm Đột-kiết-la. Khi ấy, các Tỳ-kheo dùng chúng sinh và khói lửa làm giới tướng, hoặc luôn cả giới, hoặc hai giới nhập vào nhau, bạch Phật. Phật dạy: Đều không thành kiết giới, phạm Đột-kiết-la.
Có hai trú xứ, các Tỳ-kheo muốn kiết giới và Bố-tát cùng nhận của cúng, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép mỗi bên bạch nhị Yết-ma giải giới cũ, vậy sau tập hợp lại bạch nhị Yết-ma kết cùng một giới.
Lại có các Tỳ-kheo muốn kiết giới sống chung, chung Bố-tát, cùng nhận của cúng, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép giải giới cũ rồi sau tập hợp lại kiết giới.
Lại có các Tỳ-kheo muốn kiết giới sống chung, cùng nhận của cúng mà Bố-tát riêng, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, phạm Thâu-lan-giá.
Lại có một trú xứ, các Tỳ-kheo muốn kiết giới sống riêng, Bố-tát riêng, nhận vật cúng riêng, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép giải giới cũ rồi mỗi bên kiết trở lại.
Lại có các Tỳ-kheo muốn kiết giới sống riêng, Bố-tát riêng, nhận vật cúng chung, bạch Phật.
Phật dạy: Cho phép kiết.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Tất cả sông, tất cả hồ ao, tất cả biển đều không được kiết làm giới. Nếu đi đường thủy, trong chúng người nào có sức khỏe nhất tạt nước ra đến đâu thì lấy đó làm giới tự nhiên.
Đức Phật ở tại vườn trúc, Tôn giả A-nhã-kiềutrần-như ở núi Lăng-cầu-la, ngày Bố-tát hóa làm cái cầu vồng màu xanh, ngồi kiết già trong đó, đến chỗ Đức Phật, có rất đông người đứng coi, nên từ đó về sau A-nhã-kiều-trần-như đi bộ đến, do y phấn tảo nặng, nên khá nhọc mệt trên đường đi. Các Tỳ-kheo khởi ý niệm: Nếu Đức Thế Tôn cho phép các Tỳ-kheo ở trong xóm làng hay biên giới của xóm làng kiết làm giới không mất y, khiến các vị Trưởng lão khỏi phải bị nhọc mệt như vậy. Quý vị bạch Phật, Đức Phật dạy: Bằng mọi cách khen ngợi giới, khen người trì giới rồi, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép các Tỳ-kheo trong xóm làng hay là biên giới của xóm làng bạch nhị Yết-ma kiết làm giới không mất y. Sai một Tỳ-kheo bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay kiết giới trong xóm làng hay biên giới của xóm làng này sống chung, chung Bố-tát, chung nhận phẩm vật cúng dường, nay kiết giới làm không mất y. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay kiết giới trong xóm làng hay biên giới của xóm làng này sống chung, chung Bố-tát, chung nhận phẩm vật cúng dường, nay kiết làm giới không mất y. Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói. Tăng đã kiết làm giới không mất y rồi, Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Khi ấy, các Tỳ-kheo kiết giới không mất y trước, sau mới kiết đại giới, bạch Phật. Phật dạy: Nếu kiết đại giới trước, sau y nơi đó mới kiết giới không mất y. Các Tỳ-kheo lại dùng tất cả thời kiết giới không mất y, để y thô tệ rồi đi, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, nên bạch nhị Yết-ma giải, một Tỳ-kheo bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Kiết giới trong xóm làng hay biên giới của xóm làng này, trước kiết làm giới không mất y, nay Tăng giải kiết việc này. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Kiết giới nơi chỗ này… cho đến câu: Nay Tăng giải kiết giới việc này, các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã giải giới không mất y trước đây rồi. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Lúc này, các Tỳ-kheo trước giải đại giới, sau giải y giới, bạch Phật. Phật dạy: Nên trước giải y giới, sau giải đại giới. Khi ấy, Tỳ-kheo vì phòng hộ thân nên mất y giới và vì bảo vệ y giới cho nên thân mất đi sự phòng hộ, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép kiết y giới trở lại.
Bấy giờ, có một trú xứ, ngày Bố-tát, đệ tử xin cáo từ Hòa thượng muốn đi đến chỗ khác, Hòa thượng không biết nên như thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Hòa thượng nên trù liệu, nếu trên đường đi có sự nghi ngờ, sợ sệt mà Hòa thượng cho phép đi, phạm Đột-kiết-la. Nếu không cho mà đệ tử cưỡng đi, mắc tội khinh thầy, phạm Ba-dật-đề. Nếu trên đường đi không có sự nghi ngờ sợ sệt, mà nơi đến, khất thực khó được, hoặc bạn đồng đi không hiểu biết, không tụng giới, không biết Bố-tát, không biết Yết-ma Bố-tát, hoặc nơi đó không có người trì pháp, trì luật, hiểu rõ luật nghi, hoặc nơi đó ưa thích tranh chấp, hoặc nơi đó có người phá Tăng, hoặc nơi đó mắc bệnh không có thức ăn tùy theo bệnh, thuốc thang, ngọa cụ, người nuôi bệnh, hoặc nơi đó y thực khó được, mà cho đi, đều phạm Đột-kiết-la. Nếu không có các việc như trên thì cho đi, không phạm.
Có một trú xứ, ngày thứ mười lăm các Tỳ-kheo tập hợp để Bố-tát thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa, mời đệ nhất Thượng tọa thuyết giới, Thượng tọa nói: Quên không tụng được. Đệ nhị Thượng tọa cho đến hạ tọa đều nói không tụng, nên không Bố-tát được. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Đức Phật dạy: Nên bạch nhị Yết-ma sai một Tỳ-kheo chúng khác tụng giới, hoặc tóm lược hoặc tụng đủ, trong ngày trở về, nếu không được thì không nên ở trú xứ như vậy. Nếu ở, phạm Đột-kiết-la.
Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo phạm tội không hối quá mà Bố-tát. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, nếu phạm, mắc Đột-kiết-la.
Lại có các Tỳ-kheo hướng đến người phạm tội để hối quá. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy.
Có một trú xứ, ngày Bố-tát, tất cả Tăng đều phạm tội, các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép bạch nhị Yết-ma, sai một Tỳ-kheo đến chúng khác hối quá thanh tịnh rồi trở về, các Tỳ-kheo khác đến bên Tỳ-kheo ấy hối quá, nếu được thì tốt, bằng không nên tập trung hết nơi nhà Bố-tát, một Tỳ-kheo bạch nhị Yết-ma: Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay Tăng đều phạm tội này không thể hối quá được, nay cùng nhau gác lại đó, sau sẽ hối quá. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe, nay Tăng đều có tội này… cho đến câu: sau sẽ hối quá. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói:
Tăng đã đồng ý gác tội này lại rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Đã đúng pháp thì phải Bố-tát, không nên không Bố-tát. Có một Tỳ-kheo bệnh, phạm tội, nói với một Tỳ-kheo: Đại đức! Tôi phạm tội. Vị kia trả lời: Tôi cũng phạm tội. Không hối quá được mà mạng chung. Các Tỳ-kheo khởi ý niệm: Nếu Đức Thế Tôn cho phép hướng đến Tỳ-kheo có tội để hối quá thì Tỳ-kheo này khỏi phải gặp trường hợp không hối quá mà mạng chung. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Cho phép hướng đến Tỳ-kheo có tôi hối quá, chỉ không được hướng đến người đồng tội hối quá.
Có một trú xứ đều đồng phạm một tội, không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cũng nên như trên gác tội lại.
Có một Tỳ-kheo bệnh phạm tội, nói với một Tỳ-kheo: Đại đức! Tôi phạm tội này. Vị kia nói: Tôi cũng phạm tội này. Do vậy không được hối quá mà qua đời. Các Tỳ-kheo khởi ý niệm: Nếu Đức Thế Tôn cho phép hướng đến Tỳ-kheo đồng phạm một tội mà hối quá thì Tỳ-kheo này khỏi gặp phải trường hợp không được hối quá mà mạng chung. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nay cho phép hướng đến người đồng tội hay không đồng tội để hối quá.
Có một trú xứ, các Tỳ-kheo tập hợp Bố-tát nói giới, một Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo nói giới: Xin ngưng lại! Tôi nhớ có tội, tôi muốn hối quá. Các Tỳ-kheo chê trách nói: Tại sao khi nói giới lại làm trở ngại?! Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Khi nói giới, nếu nhớ có tội, cho phép hướng đến Tỳ-kheo ngồi gần nói, hoặc miệng nói tâm nghĩ: Tôi có tội như vậy, nói giới rồi sẽ hối quá, không nên gây trở ngại. nghi có tội cũng như vậy.
Có một trú xứ, các Tỳ-kheo không biết Bố-tát, không biết Yết-ma Bố-tát. Có Tỳ-kheo biết pháp trì luật hiểu rõ luật nghi đến, các Tỳ-kheo không để ý tiếp đón, không cung cấp ngọa cụ, Tỳ-kheo kia bèn đi. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Phải tiếp đón tốt, cung cấp ngọa cụ, nếu không vậy, phạm Đột-kiết-la.
Có một trú xứ, Tăng đều phạm tội, không biết tội phạm thuộc về thiên nào, có một Tỳ-kheo biết pháp trì luật hiểu rõ luật nghi đến, trong các Tỳ-kheo có một vị tới hỏi: Phạm như vậy, như vậy là thuộc về chương nào của tội? Tỳ-kheo kia nói: Là thuộc về thiên tội… ấy. Vị đó nói: Tất cả Tăng trong trú xứ này đều phạm tội như vậy. Tỳ-kheo đó liền đến bên Tỳ-kheo kia hối quá. Hối quá rồi trở về nói với các Tỳ-kheo: Chúng ta trước đây phạm tội như vậy, thuộc về thiên tội…, nên cùng sám hối, đừng để ô nhiễm việc tu phạm hạnh phải thọ khổ nhiều đời. Các Tỳ-kheo khác nổi giận nói: Tại sao thầy hướng đến tôi nói như vậy? Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Các Tỳ-kheo nên đến nơi vị Tỳ-kheo biết pháp kia để hối quá, chẳng phải không nên nói, chỉ không nên vội nói với người, nếu vội nói thì phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất đến trú xứ của Lục quần Tỳ-kheo, thấy họ phạm giới nói: Các thầy chớ nên làm điều ấy. Lục quần Tỳ-kheo bèn xúc não, hỏi: Những gì nên làm, những gì không nên làm? Họ gây xúc não suốt đêm. Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật, bằng mọi cách Đức Phật quở trách Lục quần Tỳ-kheo: Các ông là người ngu si, Tỳ-kheo Thượng tọa thương xót dạy các ông, tại sao lại gây xúc não suốt đêm. Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Chẳng phải không nên dạy, chỉ không nên vội dạy người, nếu phạm tội, tự biết có lỗi, sau đó mới dạy.
Lúc này, Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-liên du hành trong nhân gian là bậc thầy đáng kính của bốn chúng, quốc vương, Đại thần, Sa-môn, Bà-lamôn, đến trú xứ của một Tỳ-kheo nọ. Các đànviệt vì hai vị cúng dường chúng Tăng, bố thí y vật giá trị. Kể cả người giữ vườn cũng được phần Khâm-bà-la trị giá mười hai ngàn kim tiền. Ba lần được xướng lên: Ai cần đến lấy. Cuối cùng không ai nhận, nên hoàn lại cho thí chủ. Khi ấy, số Tỳ-kheo tụ hội tuần tự du hành trở về chỗ Phật.
Thường pháp của chư Phật là an ủi các Tỳ-kheo rồi hỏi: Hai Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-liên du hành có được thuận lợi không? Bạch Thế Tôn! Rất là thuận lợi. Đức Thế Tôn lại thấy một điều hy hữu là chúng Tăng đều được một Khâm-bà-la trị giá mười hai ngàn kim tiền, Ba lần xướng cho các Tỳ-kheo mà không vị nào lấy, nên hoàn lại cho thí chủ. Lúc đó, có hai Tỳ-kheo Ma-ha-lô ở cách Phật không xa nghe rồi, một người nói như vầy: Các Thượng tọa kia là người ngu si, chính mình mất lợi dưỡng mà khiến cho thí chủ không được đại phước, nếu tôi có mặt tại đó sẽ nhận. Một người lại nói: Tôi là Thượng tọa thì tôi sẽ nhận, đưa đến sự tranh cãi, Đức Phật thấy vậy liền nói kệ:
Hai ngươi, Ma-ha-lô
Không ở trong chúng kia
Do đó, không tranh tụng
Y quý trả lại chủ.
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly cùng các vị trì luật du hành đến trú xứ của Tỳ-kheo, vì họ nên tác pháp Yết-ma quở trách, Yết-ma khu xuất, Yết-ma y chỉ, Yết-ma cử tội, Yết-ma hạ ý, thì đều tác pháp. Vì họ nên tác pháp biệt trú, Ma-na-đỏa, Bản nhật, A-phù-ha-na, thì đều tác pháp. Nếu cương giới cần giải thì giải, nên kiết thì kiết. Vì họ phải tác Yết-ma giáo giới Tỳ-kheo-ni thì tác Yết-ma giáo giới với người không gắng nhận giáo giới. Vì họ phải giải Yết-ma giáo giới thì vì họ giải Yết-ma giáo giới. Các Tỳ-kheo khác nghe, nghĩ: Các Tỳ-kheo trì luật này đến chắc chắn khiến chúng ta có nhiều nghi hối, nên bèn dọn ngọa cụ, đóng cửa bỏ trú xứ đi.
Lại có các Tỳ-kheo-ni thấy Tôn giả Ưu-ba-ly, nổi giận mắng nói: Tỳ-kheo này thường thưa hỏi Đức Thế Tôn: Giới này nên thọ trì cả hai bộ Tăng hay chỉ thọ trì một bộ Tăng? Đức Phật bèn khiến hai bộ Tăng thọ trì, do đó khiến ta có nhiều khốn khổ. Những Tỳ-kheo do Tôn giả Ưu-ba-ly hướng dẫn, về đến chỗ Phật. Thường pháp của chư Phật là thăm hỏi rồi, lại hỏi:
Nơi Ưu-ba-ly du hành sự cúng dường có dồi dào hay không?
Bạch Thế Tôn! Không đầy đủ. Phật lại hỏi:
Tại sao?
Thưa Thế Tôn! Vì các Tỳ-kheo bỏ trú xứ đi và Tỳ-kheo-ni giận mắng.
Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo kia: Sự thật các ông có như vậy không?
Bạch Thế Tôn! Thật sự có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách:
Các ông ngu si, không cung kính Tỳ-kheo trì luật thì cung kính ai?
Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo:
Nay ta vì các Tỳ-kheo kiết pháp nên học ban đầu: Tỳ-kheo nào nghe Tỳ-kheo trì luật đến, không nên đi tránh, nên lau quét rưới nước, sửa soạn phòng xá, ngọa cụ. Nghe vị ấy gần đến nên ra ngoài nửa do-tuần nghinh đón, nếu nghi có nạn sự thì cũng phải ra khỏi cửa. Nếu Tỳ-kheo trì luật có y vật thì nên thay thế xách vào, sửa soạn nước rửa, khăn lau tay chân, chuẩn bị đồ để tắm, thức uống quá giữa ngày, thỉnh thuyết pháp. Nếu thật sự cần giải thích, thì Tỳ-kheo trì luật nên như pháp để trả lời, nếu hỏi với tâm xúc não thì không nên đáp. Sáng sớm làm bữa ăn trước, Đát bát ma, kế đó làm bữa ăn sau. Nên hướng dẫn thí chủ thỉnh ở lại an cư. Lại nên tìm đàn-việt dâng y. Nên làm các việc cúng dường như vậy, bằng không thì phạm Độtkiết-la.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Lúc ấy, Đức Thế Tôn, ngày Bố-tát cùng các Tỳ-kheo kẻ trước người sau vây quanh ngồi nơi đất trống. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Các ông im lặng, nay sẽ Bố-tát, nói Ba-la-đề-mộc-xoa. Có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật: Tỳ-kheo Già già gần như mắc bệnh cuồng, có khi tới có khi không tới, cũng lại không nhớ tới cùng không tới, do vậy bê trễ việc hành Tăng sự, nay lại không tới. Đức Phật dạy: Sai một Tỳ-kheo kêu đến. Một vị vâng lời Phật dạy đến kêu, tìm khắp không thấy, trở về, bạch Phật. Phật dạy: Nay cho phép các Tỳ-kheo, từ xa cùng tác pháp bạch nhị Yết-ma cuồng si. Một Tỳ-kheo bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… mắc bệnh cuồng si, hoặc tới hoặc không tới, cũng lại không nhớ tới hay không tới, do vậy bỏ phế hành Tăng sự. Nay Tăng từ xa, trao cho Tỳ-kheo… pháp Yết-ma cuồng si. Hoặc có mặt hoặc không có mặt khi hành Tăng sự. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo… này mắc bệnh cuồng si… cho đến câu: Hoặc không có mặt khi hành Tăng sự. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã trao cho Tỳ-kheo… pháp Yết-ma cuồng si rồi, Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Sau đó, vị kia được lành bệnh, cầu xin giải Yết-ma, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Cho phép bạch nhị Yết-ma để giải. Tỳ-kheo bệnh lành nên đến giữa Tăng, để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, quỳ gối chấp tay, bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Con là Tỳ-kheo… trước đây mắc bệnh cuồng si, hoặc đến hoặc không đến, cũng lại không nhớ đến cùng không đến. Tăng đã trao cho con pháp Yết-ma cuồng si. Nay con đã lành bệnh, đến Tăng xin giải Yết-ma cuồng si. Xin như vậy Ba lần. Tăng sai một Tỳ-kheo bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo… này trước đây cuồng si, hoặc đến hoặc không đến, cũng lại không nhớ đến hay không đến, Tăng trao cho pháp Yết-ma cuồng si. Nay bệnh đã lành, đến Tăng xin giải Yết-ma cuồng si. Nay Tăng cho giải Yết-ma cuồng si. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo… này trước đây mắc bệnh cuồng si… cho đến câu: Nay Tăng cho giải pháp Yết-ma cuồng si. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã cho Tỳ-kheo… giải pháp Yết-ma cuồng si rồi, Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn vào ngày Bố-tát, cùng các Tỳ-kheo, kẻ trước người sau vây quanh, ngồi nơi đất trống. Phật bảo các Tỳ-kheo: Các thầy im lặng, nay Bố-tát thuyết giới. Có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật: Tỳ-kheo… mắc bệnh, không đến được. Đức Phật dạy: Nên khiến một Tỳ-kheo dẫn tới. Các Tỳ-kheo không biết bằng cách nào dẫn tới. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Một người làm cây trụ cho họ vịn, một người đỡ họ, nếu không thể được thì lấy y khiêng họ đến. Vâng lời Phật dạy, quý thầy khiêng tới. Do khua động nên nhọc mệt, bệnh trạng thêm khốn khổ, có trường hợp tử vong. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên lấy dục thanh tịnh đem đến. Trong đó, có trường hợp được gọi là trao dục thanh tịnh, có trường hợp không được, có trường hợp được gọi là thọ dục thanh tịnh, có trường hợp không được, có trường hợp gọi là trì dục thanh tịnh đến, có trường hợp không được. Không được gọi là gởi dục thanh tịnh: Nếu gởi dục thanh tịnh cho Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, hoặc gởi dục thanh tịnh cho người tâm cuồng, tâm loạn, tâm bệnh hoại, người bị tẫn xuất, người bị cử tội, người tự nói tội, người ở khác cương giới. Nếu không như pháp nói ba lần: Nay tôi gởi dục thanh tịnh cho thầy, thầy nhận dục thanh tịnh của tôi… cho đến câu: Trong Tăng sự như pháp, vì tôi xưng danh nói và nắm giữ thẻ, đều không gọi là gởi dục thanh tịnh. Nếu ngược lại như trên, gọi là gởi dục thanh tịnh. Không gọi là thọ dục thanh tịnh: Tự mình không như pháp, không biết danh tánh người kia, ngoài ra như trên, đều không gọi là thọ dục thanh tịnh. Ngược lại, đây gọi là thọ dục thanh tịnh. Được gọi là trì dục thanh tịnh đến: Nếu Tỳ-kheo trì dục thanh tịnh đến trong chỗ Bố-tát rồi ngủ, hoặc tâm cuồng, tâm tán loạn, tâm bệnh hoại, hoặc người bị Tăng trao tác pháp Yết-ma không thấy tội, Yết-ma không bỏ ác kiến, Yết-ma không hối quá, hoặc biến thành hai căn, huỳnh môn, không căn, hoặc quên nói, như vậy cũng được gọi là trì dục thanh tịnh đến. Nếu ngủ hoặc quên không nói đều phạm Đột-kiết-la. Nếu giữa đường ngủ… cho đến quên nói đều không được gọi là trì dục thanh tịnh đến. Lại có các Tỳ-kheo bệnh không thể nói dục thanh tịnh, do đó bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng thân gởi dục thanh tịnh. Các Tỳ-kheo không biết dùng thân để gởi dục thanh tịnh như thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Hoặc đưa tay lên, hoặc chỉ tay, hoặc lay động thân, lay động đầu, cho đến nháy mắt được gọi là dùng thân gởi dục thanh tịnh.
Lại có các Tỳ-kheo bệnh không thể dùng thân gởi dục thanh tịnh, bạch Phật. Phật dạy: Nên cả chúng đến chỗ người bệnh, rồi mời Tỳ-kheo nói giới ngồi chính giữa để nói, khiến các Tỳ-kheo bệnh hướng đến vị nói giới. Lại có các Tỳ-kheo bệnh không thể hướng đến vị nói giới, xoay lưng hay ngồi nằm, bạch Phật. Phật dạy: Nên ra ngoài giới Bố-tát, không nên ở trong giới mà biệt chúng tác pháp Bố-tát.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn vào ngày thuyết giới, cùng các Tỳ-kheo kẻ trước người sau vây quanh, ngồi nơi đất trống. Phật bảo các Tỳ-kheo: Các thầy im lặng, nay sẽ Bố-tát, thuyết giới. Có một Tỳ-kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, bạch Phật: Tỳ-kheo… bị nhà quan bắt, không đến được. Đức Phật dạy: Nên sai một Tỳ-kheo nói lý do để xin về Bố-tát, nếu được thì tốt, bằng không thì nói bạch y lui ra một chút để lấy dục thanh tịnh, nếu được thì tốt, bằng không thì nên nói: Tất cả Tăng nên đến nơi chỗ Tỳ-kheo đó Bố-tát, nếu được thì tốt, bằng không thì nên ra ngoài giới Bố-tát, chứ không nên ở trong giới mà Bố-tát biệt chúng.
Có một trú xứ ở A-lan-nhã, các Tỳ-kheo vào ngày mười lăm tập hợp Bố-tát thuyết giới, khi ấy có giặc đến, các Tỳ-kheo thấy bèn thôi không tụng giới, các tên giặc hỏi: Tại sao ngồi nín thinh? Các Tỳ-kheo nói: Điều chúng tôi nói không nên cho bạch y nghe. Đám giặc lại hỏi: Những điều nói đó không phải là Phật nói hay sao? Các Tỳ-kheo nói: Chính là điều Phật nói. Đám giặc hỏi: Là điều Phật nói thì ai lại không được nghe? Nay các ông tập hợp chắc muốn luận bàn những việc không lợi cho chúng tôi. Đám giặc nói xong liền đánh các Tỳ-kheo và cướp đoạt y bát. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Từ nay, các Tỳ-kheo, nếu thấy giặc đến nên tụng qua các kinh khác, đừng để đứt đoạn.
Lúc ấy, có một nhà Vua tên là Ưu-đà-diên rành về khoa tướng số. Một phu nhân tên là Nguyệt Quang, dung nhan xinh đẹp, âm thanh và điệu múa hơn người. Một hôm, phu nhân ở nơi lầu cao múa cho nhà Vua xem. Vua thấy tướng tử xuất hiện, không thể sống hơn một năm. Nhà Vua không vui khi thấy rõ tâm niệm và nhan sắc ấy. Phu nhân thấy vậy liền tâu: Em múa không được hay lắm phải không? Tại sao nhà Vua không vui? Nhà Vua nói: Không nên hỏi ta điều đó. Phu nhân khổ tâm hỏi đến Ba lần. Nhà Vua không từ chối được nên phải nói rõ sự việc. Phu nhân tâu với Vua: Nếu thật vậy thì xin cho em xuất gia. Nhà Vua nói: Ta và em thương yêu kính trọng nhau, dù chết cũng không lìa nhau, hãy trọn vui với cái ít ỏi còn lại, sao phải sống chia lìa? Phu nhân lại tâu với Vua: Chỉ nhiễm một chút vinh hoa của đời mà mê muội đạo nghiệp. Đây là việc bức xúc, trì huỡn chỉ đem lại sự khổ cho nhau, xin Vua rủ lòng thương cho em xuất gia. Nhà Vua nói: Phu nhân còn nhỏ tu đạo với sự quyết tâm sáng suốt chắc được sinh thiên, nếu trở lại làm người chúng ta gặp lại, việc này tùy theo ý của em. Phu nhân thưa: Nguyện này được thành, thề không trái lời hứa. Nhà Vua bèn cho xuất gia. Thế là phu nhân tạ từ ra đi. Hành đạo không lâu chứng được quả A-na-hàm, mạng sống cũng liền chấm dứt, sinh lên cõi Phạm thiên, lại khởi lên ý niệm: Ta được xuất gia là ân của nhà Vua, trọng ân ấy nên trả, lời hứa mới không trái. Liền hiện xuống tại vương cung, đứng trong hư không, nói với nhà Vua: Phu nhân Nguyệt Quang tức là thân của tôi đây, trước kia có hứa với nhà Vua cho nên đến đây để tỏ lòng thành tín. Nhà Vua nói: Tôi không biết được loài trời, có thể hiện lại thân cũ. Phu nhân liền biến thành thân hình ngày xưa, đứng trước nhà Vua. Nhìn thấy thân hình ấy, lòng lại nặng tình, nhà Vua liền đến sát gần muốn ôm lấy. Phu nhân liền bay lên hư không nói với nhà Vua: Tại sao Vua còn quen theo nếp sống ái dục? Dục là vô thường, khổ, không, bất tịnh, suy tư được nghĩa này có thể giải thoát không vậy, chắc chắn đọa trong ba đường, tự mình cải thiện là điều khó. Nhà Vua nghe câu nói này, tâm liền được điều phục, bèn đem ngôi Vua giao cho thái tử, xuất gia học đạo. Nhà Vua ngồi tu trong một khu núi rừng không xa vương thành. Thái tử thấy cha xuất gia mà không rời ở xa hẳn, lòng nơm nớp sợ cha hối tiếc trở lại đoạt ngôi, nên thái tử nguyện xin phụ vương đi đến nước khác. Khi ấy, nhà Vua nay là Tỳ-kheo suy nghĩ: Ta phụng hành lời Phật dạy mà chưa thấy được Đức Phật, nay nên đến đó để kính lễ Đức Thế Tôn. Nghĩ rồi bèn đi. Khi ấy, thái tử cùng các Bà-la-môn ở trên lầu cao thấy Vua cha rời rừng ra đi, các Bà-la-môn nói với tân vương: Tỳ-kheo Vua nay đã đi rồi, Thái tử rất hài lòng. Nhưng chợt nhớ ra để quên cái tọa cụ, Tỳ-kheo Vua liền trở lại lấy. Các Bà-la-môn lại nói với tân vương: Tỳ-kheo Vua đã trở lại, phải chăng việc ấy làm cho thái tử hoảng sợ, nên thái tử ra lệnh cho các quan: Ngươi đến giết liền. Tất cả Sa-môn Thích tử cũng đều giết hết. Tân vương lại ra lệnh: Nếu người đó sợ chết, tạo nhiều phương tiện, xin muốn gặp ta, cũng đừng tha chết.
Kẻ thi hành lệnh vội vã đến nơi nói: Tân vương ra lệnh tôi giết Tỳ-kheo. Tỳ-kheo hỏi: Tại sao giết tôi? Phần hành đáp: Do Tỳ-kheo ra khỏi rừng rồi trở lại, tân vương hoảng sợ bị cướp ngôi Vua nên ra lệnh giết. Tỳ-kheo Vua nói: Tôi không tham vương vị, vừa rồi vì quên tọa cụ nên tạm trở lại lấy, như vậy chuyện gì phải giết tôi?! Sứ giả nói: Nhà Vua lại ra lệnh dứt khoát, nếu người đó sợ chết, bằng nhiều cách nài nỉ van xin thì cũng đừng vì thế mà không giết, để rồi trở lại gặp ta. Nay tôi làm sao mà dám làm ngược lại? Tỳ-kheo Vua lại nói: Tôi xuất gia, sở cầu chưa đạt được, ngươi hoãn lại cho tôi một chút, đợi bóng cây kia ngã đến đây. Sứ giả thuận cho. Tỳ-kheo Vua liền tinh tấn tư duy, liền đắc Tu-đà-hoàn. Bóng cây vừa ngã đến. Sứ giả nói: Bóng cây đã ngã đến đó rồi. Tỳ-kheo Vua lại nói: Sở cầu trong việc xuất gia của tôi chưa đạt hết, có thể hoãn cho tôi một con bóng. Sứ giả thuận cho. Hoãn bốn lần như vậy, Tỳ-kheo chứng được bốn quả Sa-môn, bèn nói với sứ giả: Ngươi có thể thi hành mạng lệnh, rồi trở về báo với Vua của ngươi: Ta không tham vương vị, đã ra đi nhưng vì quên tọa cụ nên tạm trở lại lấy mà thôi. Vua của ngươi vì việc này mà giết ta, tức giết cha, giết A-la-hán. Ta nghĩ: Người ấy sẽ thọ đại khổ lâu dài. Nói rồi trút hơi thở cuối cùng! Sứ giả giết rồi, trở về chỗ Vua. Nhà Vua từ xa trông thấy vậy liền sinh tâm hối hận. Sứ giả đến trước Vua, Vua hỏi: Ngươi đã giết chưa? Tâu Vua giết rồi. Vua lại hỏi: Phụ vương khi lâm chung có nói lời gì không? Sứ giả thở ra nghẹn ngào tâu lại đầy đủ sự việc như trên. Nghe những lời nhắn gửi của cha, huyết từ trong miệng nhà Vua phụt ra, đang sống mà thân đọa vào địa ngục. Trong thời gian này, Vua Bình-sa cùng các lân quốc nhanh chóng được nghe báo lệnh giết hết Sa-môn Thích tử của Vua ấy vào trong biên giới của mình, nên hạ lệnh cho các trượng sĩ bảo vệ Tỳ-kheo. Thi hành sắc lệnh, trượng sĩ cẩn mật không rời Tỳ-kheo. Bấy giờ, một trú xứ nơi thành Vương-xá có năm trăm Tỳ-kheo, ngày thứ mười lăm tập hợp, bảo trượng sĩ lui ra một chút, chúng tôi sắp Bố-tát. Trượng sĩ trả lời: Chúng tôi vâng lệnh của Đại vương không được tạm rời quý vị, đâu dám trái lệnh của Đại vương! Các Tỳ-kheo không biết cách giải quyết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nếu họ không chịu đi thì chỉ nói tựa của giới, rồi nói tiếp các điều khác Tăng thường nghe, nên Bố-tát như vậy, chứ không nên không Bố-tát.
Khi ấy, các Tỳ-kheo vào ngày Bố-tát, tập hợp muốn thuyết giới, Lục quần Tỳ-kheo tranh tụng không thôi, không Bố-tát được. Vua Bình-sa đến, họ bèn tạm đình chỉ, sau đó tranh chấp trở lại, không thuyết giới được. Quý vị không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nếu trường hợp như Vua Bình-sa, Tỳ-kheo có sự kiêng nể, khi tạm thời đình chỉ việc tranh chấp, bèn nói bài tựa của giới rồi nói các việc khác như Tăng thường nghe. Nên Bố-tát như vậy, chứ không nên không Bố-tát. lúc Tăng Bố-tát, muốn tác Yết-ma, Lục quần Tỳ-kheo thọ dục thanh tịnh của vị khác, rồi không đến trong Tăng, bèn ra ngoài giới khiến cho Tăng Yết-ma không thành. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Phật dạy: Tăng được thành Yết-ma, người thọ dục thanh tịnh ấy phạm Đột-kiết-la. Bấy giờ, các Tỳ-kheo thường thuyết giới tóm lược, các Tỳ-kheo niên thiếu nói: Đại đức nên thuyết giới đầy đủ vì chúng con chưa từng nghe. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên thường thuyết giới tóm lược. Có mười nhân duyên cho phép thuyết giới tóm lược:
Có hang của rắn Như vậy gọi là nhân duyên. Nếu còn thuyết giới được trong năm cách thì hay, bằng không thì nên nói: Nay là ngày thứ mười bốn, mười lăm Bố-tát, mỗi chúng ta đều cùng chánh thân, khẩu, ý, chớ phóng dật. Đây cũng được gọi là Bố-tát. Nên Bố-tát như vậy chứ không nên không Bố-tát.
Có một trú xứ, khi thuyết giới lại có Tỳ-kheo đến, hoặc nhiều, hoặc bằng, hoặc ít hơn. Lại có một trú xứ, thuyết giới rồi, tất cả chưa đứng dậy, lại có Tỳ-kheo đến hoặc nhiều, hoặc bằng, hoặc ít hơn. Lại có một trú xứ, thuyết giới rồi, các Tỳ-kheo, các vị đã đứng dậy đi, có vị chưa đứng dậy đi, lại có Tỳ-kheo đến hoặc nhiều, hoặc bằng, hoặc ít hơn. Lại có một trú xứ, thuyết giới rồi, các Tỳ-kheo, các vị đã đứng dậy đi, lại có Tỳ-kheo đến hoặc nhiều, hoặc bằng, hoặc ít hơn. Các Tỳ-kheo không biết cách giải quyết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nếu khi thuyết giới, lại có Tỳ-kheo đến hoặc nhiều, hay bằng nên vì họ Bố-tát thuyết giới lại, nếu ít hơn thì nên cho phép số giới còn lại. Nếu thuyết giới rồi, tất cả Tỳ-kheo chưa đứng dậy, lại có Tỳ-kheo đến, hoặc nhiều hoặc bằng nên vì họ Bố-tát thuyết giới lại, nếu ít hơn, họ nên đứng giữa Tăng, quỳ gối nói: Thanh tịnh. Nếu thuyết giới rồi, các Tỳ-kheo có vị đứng dậy đi, có vị chưa đứng dậy đi, lại có Tỳ-kheo đến, hoặc nhiều, hay bằng, nên vì họ Bố-tát thuyết giới lại. Nếu ít hơn thì nên dốc cầu Tỳ-kheo trước hòa hợp Bố-tát thuyết giới lại, nếu được thì hay bằng không nên ra ngoài giới Bố-tát, không nên trong giới Bố-tát riêng. Nếu thuyết giới rồi, tất cả Tỳ-kheo đã đứng dậy đi, lại có Tỳ-kheo đến cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo cựu trú tập hợp, nếu Tỳ-kheo cựu trú đến, nếu Tỳ-kheo khách đến, nếu Tỳ-kheo cựu và khách đến, nếu Tỳ-kheo khách tập hợp, nếu Tỳ-kheo khách đến, nếu Tỳ-kheo cựu trú đến, nếu Tỳ-kheo cựu và khách đến, nếu Tỳ-kheo cựu trú đến, nếu Tỳ-kheo khách đến, hoặc nhiều, hoặc bằng, hay ít hơn… cho đến tất cả Tỳ-kheo đã đứng dậy đi, đều như trên đã nói.
Có một trú xứ khi Bố-tát, các Tỳ-kheo tập hợp muốn thuyết giới, thấy có giường dây, y bát khác mà không thấy Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo không nghĩ trong trú xứ này có Tỳ-kheo hay không Tỳ-kheo, bèn cùng nhau thuyết giới. Có một trú xứ, khi Bốtát các Tỳ-kheo tập hợp, muốn thuyết giới, thấy giường dây, y bát khác mà không thấy Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo khởi ý niệm: Trong đây không có Tỳ-kheo, bèn thuyết giới. Có một trú xứ, khi Bốtát, các Tỳ-kheo tập hợp muốn thuyết giới, thấy giường dây, y bát khác mà không thấy có Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo khởi ý niệm: Trong đây có Tỳ-kheo hay không có Tỳ-kheo, cần thuyết giới bèn thuyết giới. Có một trú xứ, khi Bố-tát, các Tỳ-kheo tập hợp muốn thuyết giới, thấy giường dây, y bát khác mà không thấy Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo khởi ý niệm: Trong đây có Tỳ-kheo mà đi đâu mất rồi, thuyết giới với tâm phá hòa hợp Tăng. Có một trú xứ, khi Bố-tát, các Tỳ-kheo tập hợp muốn thuyết giới, thấy giường dây, y bát khác mà không thấy Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo khởi ý niệm: Trong đây có Tỳ-kheo, mà không tìm không kiếm, bèn thuyết giới. Có một trú xứ, khi Bố-tát, các Tỳ-kheo tập hợp muốn thuyết giới, thấy giường dây, y bát khác mà không thấy Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo khởi ý niệm: Trong đây có Tỳ-kheo, tìm kiếm mà không thấy, bèn thuyết giới. Có một trú xứ, khi Bố-tát, các Tỳ-kheo tập hợp muốn thuyết giới, thấy giường dây, y bát khác mà không thấy Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo khởi ý niệm: Trong đây có Tỳ-kheo, tìm kiếm thấy, cùng thuyết giới. Các Tỳ-kheo không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Trường hợp một, hai, ba và năm thuyết giới đều có lỗi, Yết-ma không thành, phạm Đột-kiết-la. Trường hợp bốn cũng có lỗi, Yết-ma không thành, phạm Thâu-lan-giá. Trường hợp sáu không lỗi, Yết-ma không thành, không phạm. Trường hợp bảy không lỗi, Yết-ma thành, không phạm.
Nếu Tỳ-kheo cựu trú tập hợp, không thấy Tỳ-kheo cựu trú, không thấy Tỳ-kheo khách, không thấy Tỳ-kheo cựu và khách. Nếu Tỳ-kheo khách tập hợp, không thấy Tỳ-kheo khách, không thấy Tỳ-kheo cựu trú, không thấy Tỳ-kheo khách và cựu. Nếu Tỳ-kheo cựu và khách tập hợp, không thấy Tỳ-kheo cựu và khách, không thấy Tỳ cựu trú, không thấy Tỳ-kheo khách, có lỗi, không lỗi đều như trên.
Có một trú xứ, khi Bố-tát, các Tỳ-kheo tập hợp, nghe Tỳ-kheo tằng hắng ho, nhảy mũi hoặc tiếng giũ y, không khởi ý niệm: Trong đây có Tỳ-kheo, không có Tỳ-kheo, bèn thuyết giới… Cho đến có một trú xứ, khi Bố-tát, các Tỳ-kheo tập hợp, nghe Tỳ-kheo tằng hắng, ho, nhảy mũi hoặc tiếng giũ y, khởi ý niệm như vầy: Trong đây có Tỳ-kheo rồi tìm được cùng thuyết giới. Các Tỳ-kheo không biết làm thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Có lỗi không lỗi đều như trên. Có một Tỳ-kheo, thọ dục thanh tịnh của một Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo Bố-tát. Có hai Tỳ-kheo thọ dục thanh tịnh của hai Tỳ-kheo, hai Tỳ-kheo Bố-tát. Có ba Tỳ-kheo thọ dục thanh tịnh của ba Tỳ-kheo, ba Tỳ-kheo Bốtát. Có số đông Tỳ-kheo thọ dục thanh tịnh của số đông Tỳ-kheo, số đông Tỳ-kheo Bố-tát. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Đều không nên như vậy, nay cho phép nhiều Tỳ-kheo tập hợp, ít Tỳ-kheo trì dục thanh tịnh đến.
Có một trú xứ, các Tỳ-kheo tập hợp muốn Bốtát thuyết giới, thấy Tỳ-kheo ở khác chỗ, khởi tưởng đồng trú, thấy rồi không nhớ, không hỏi, bèn thuyết giới. Có một trú xứ, các Tỳ-kheo tập hợp muốn Bố-tát thuyết giới, thấy Tỳ-kheo ở chỗ khác, khởi tưởng đồng trú, thấy rồi nhớ mà không hỏi bèn thuyết giới. Có một trú xứ, các Tỳ tập hợp muốn Bố-tát thuyết giới, thấy Tỳ-kheo ở chỗ khác, khởi tưởng đồng trú, thấy rồi nhớ hỏi cùng thuyết giới. Có một trú xứ, các Tỳ-kheo tập hợp muốn Bố-tát thuyết giới, thấy Tỳ-kheo ở chỗ khác, đối với giới nghi, đối với Tỳ-kheo không nghi, không nhớ không hỏi bèn thuyết giới. Có một trú xứ, các Tỳ-kheo tập hợp muốn Bố-tát thuyết giới, thấy Tỳ-kheo ở chỗ khác, đối với giới nghi, đối với Tỳ-kheo không nghi, nhớ hỏi cùng thuyết giới. Có một trú xứ, các Tỳ-kheo tập hợp muốn Bố-tát thuyết giới, thấy Tỳ-kheo ở chỗ khác, đối với Tỳ-kheo nghi, đối với giới không nghi, không nhớ, không hỏi bèn thuyết giới. Có một trú xứ, các Tỳ-kheo tập hợp muốn Bố-tát thuyết giới, thấy Tỳ-kheo ở chỗ khác, đối với Tỳ-kheo nghi, đối với giới không nghi, nhớ không hỏi bèn thuyết giới. Có một trú xứ, các Tỳ-kheo tập hợp muốn Bố-tát thuyết giới, thấy Tỳ-kheo ở chỗ khác, đối với Tỳ-kheo nghi, đối với giới không nghi, nhớ hỏi cùng thuyết giới. Các Tỳ-kheo không biết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Sáu trường hợp trước có lỗi, Yết-ma không thành, phạm Đột-kiết-la. Ba trường hợp sau không lỗi, Yết-ma thành, không phạm. Đồng trú cũng như vậy.
Các Tỳ-kheo khách nói ngày mười bốn, Tỳ-kheo cựu trú nói ngày mười lăm, các Tỳ-kheo không biết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Tỳ khách nên theo Tỳ-kheo cựu trú. Không có Tỳ-kheo cựu trú mà Tỳ-kheo khách tự cộng tác, khác với trên, không biết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Kẻ đến sau nên theo người đến trước. Có Tỳ-kheo khách đến cùng lúc, bạch Phật. Phật dạy: Nên hỏi Tỳ-kheo ở trú xứ gần, nếu trú xứ gần không có Tỳ-kheo thì nên hỏi ngày mà quan quy định để áp dụng theo.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo, từ trú xứ có Tỳ-kheo đến trú xứ có Tỳ-kheo Bố-tát, đến trú xứ không có Tỳ-kheo Bố-tát, đến trú xứ có Tỳ-kheo mà hiện không có Tỳ-kheo Bố-tát, đến trú xứ của Tỳ-kheo tranh chấp Bố-tát, đến trú xứ của Tỳ-kheo phá Tăng Bố-tát. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Ngày Bố-tát đến bốn chỗ trước, phạm Đột-kiết-la, đến một chỗ sau phạm Thâu-lan-giá.
Có một trú xứ, ngày Bố-tát, Bạt-nan-đà là Thượng tọa, chúng Tăng mời thuyết giới, Bạtnan-đà trả lời: Tụng bị quên. Các Tỳ-kheo nói: Nếu quên, sao lại ngồi nơi chỗ Thượng tọa? Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Thượng tọa nên thuyết giới, nếu không thuyết, phạm Đột-kiết-la. Các Tỳ-kheo không biết ngang mức tuổi nào là Thượng tọa, bạch Phật. Phật dạy: Không có người nào trên nữa gọi là Thượng tọa.
Các Tỳ-kheo khi thuyết giới, nửa chừng bị quên, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Người ngồi gần nên nhắc, nếu còn quên nhắc lần nữa, quên lần thứ ba, nên sai người khác tụng tiếp theo, chứ không nên tụng lại.
Bấy giờ, Lục quần Tỳ-kheo, đêm Bố-tát tranh chấp, trở ngại việc Tăng tụng giới, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nếu tổng số người được thuyết giới đứng dậy ít, thì nên trở lại tập hợp thuyết giới. Nếu người đứng dậy nhiều hơn hay phân nửa, nên để sáng ngày Bố-tát. Nếu nói luật, nói pháp, luận nghị, nhận được nhiều phẩm vật cúng dường, không đủ thì giờ thuyết giới, đều cho phép để sáng ngày thuyết giới. Các Tỳ-kheo trước không mời người tụng giới, do đó trở ngại việc thuyết giới, bạch Phật. Phật dạy: Nên mời vị thuyết giới trước. Khi ấy, các Tỳ-kheo thuyết giới trước, sau mới tác các pháp Yết-ma, Lục quần Tỳ-kheo thuyết giới rồi liền đi, không cùng Tăng hòa hợp làm các pháp Yết-ma, làm cho các pháp Yết-ma không như pháp. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên làm các Yết-ma trước, vậy sau mới thuyết giới, để giữ chân Tăng lại, khiến họ không đi được.
Khi ấy, các Tỳ-kheo cùng tụng giới, quý vị bạch Phật. Phật dạy:
Không nên cùng tụng giới, nên mời một vị tụng. Có Tỳ-kheo thuyết giới với giọng ngâm nga, bạch Phật. Phật dạy: Nên tụng ngay thẳng.
Lúc đó, một trú xứ Bố-tát, Bạt-nan-đà là Thượng tọa, xướng: Nay là ngày thứ mười lăm, Tăng Bố-tát thuyết giới, các Tỳ-kheo không đến có thuyết dục và thanh tịnh, nay Tăng làm gì? Vì hỏi các Tỳ-kheo làm việc gì? Nên các Tỳ-kheo trả lời: Tỳ-kheo… nên trao cho pháp Yết-ma quở trách, Yết-ma khu xuất, Yết-ma y chỉ, Yết-ma cử tội, Yết-ma hạ ý. Tỳ-kheo nên trao cho Biệt trú, Ma-na-đỏa, Bản nhật, A-phù-ha-na. Bạt-nan-đà nói: Tôi không biết Yết-ma. Các Tỳ-kheo hỏi: Nếu không biết tại sao hỏi Tăng và các Tỳ-kheo làm việc gì? Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Thượng tọa nên thuyết giới, vị trì luật nên Yết-ma.
Khi ấy, các Tỳ-kheo hoặc lật ngược y, hoặc chống nạnh, hoặc mang giày dép, hoặc trùm đầu, hoặc nằm hoặc dựa, làm các oai nghi không cung kính như vậy khi nghe thuyết giới. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên gia tâm cung kính, không nên lật ngược y… cho đến nằm, dựa mà nghe thuyết giới. Nếu vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Ngày Bố-tát có một Tỳ-kheo ngủ, nên thuyết giới rồi thức dậy hớt hãi nói: Tăng tập cùng nhau thuyết giới. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Từ nay không được ngủ ngày.
Lại có các Tỳ-kheo chấp sự bị Yết-ma, không ngủ được nên mệt mỏi thân bất an, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép ngủ nơi kín vắng, nên nói với Tỳ-kheo quen biết: Tôi ngủ chỗ đó, nếu có Tăng sự kêu tôi.
Lại có một Tỳ-kheo khi thuyết giới ngủ, thức dậy, nói với các Tỳ-kheo: Sao không thuyết giới? Các Tỳ-kheo hỏi: Thầy nhớ chuyện gì? Tôi ngủ. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên ngủ khi thuyết giới, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có một trú xứ Bố-tát, các Tỳ-kheo thuyết giới chỗ kín vắng, Tỳ-kheo khách đến không biết chỗ nào, bạch Phật. Phật dạy: Nếu không có nạn sự không nên thuyết giới chỗ kín vắng. Có Tỳ-kheo không biết ngày thuyết giới đến, bảo Tỳ-kheo hạ tọa dọn quét trải tòa, chuẩn bị thẻ hành trù, và đèn lửa. Các Tỳ-kheo nhân việc nhỏ bèn nhờ người khác. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép nhân việc nhỏ mà nhờ các Tỳ-kheo khác. Muốn trang nghiêm nhà Bố-tát nên treo cờ phướn, lọng báu, rải hoa, cúng dường Tăng ngọ trai, cũng nhân việc này dâng y vật, lại muốn dùng kệ tán thán Phật, Pháp, Tăng. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Những việc ấy đều cho phép. Nếu có các việc phước cũng nên kịp thời thực hành.
Đức Phật ở thành Vương-xá. Khi ấy, các Tỳ-kheo, Xuân, Hạ, Đông tất cả thời du hành, đạp chết trùng cỏ, mang y vật nặng mệt nhọc trên lộ trình, các cư sĩ thấy chê trách nói: Các Sa-môn ngoại đạo, Bà-la-môn còn biết mùa Hạ trong ba mùa thì An cư. Các loài chim lại làm tổ, làm hang để ở yên trong mùa này. Ngược lại, các Tỳ-kheo không biết ba mùa, mùa nào nên đi mùa nào không nên đi. Các Tỳ-kheo thường nói thiểu dục, từ bi, hộ niệm chúng sinh, mà nay giậm đạp, không có tâm nhân từ, trắc ẩn, là không hạnh Samôn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bèn nghiêm khắc quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo:
Sự thật các ông có như vậy không?
Bạch Thế Tôn! Có.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo:
Không nên tất cả thời đều du hành, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Từ nay cho phép mùa Hạ phải An cư. Kiết pháp An cư: Để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, quỳ gối, chấp tay, hướng đến một Tỳ-kheo thưa: Trưởng lão nhất tâm niệm: Tôi Tỳ-kheo… an cư mùa Hạ nơi trú xứ này, ba tháng trước, nương nơi xóm làng… phòng xá… nếu phòng xá có hư hoại nên tu bổ. Nói như vậy Ba lần. Vị kia nói tôi ghi nhận.
Các Tỳ-kheo ngày nào cũng kiết An cư, hoặc hai ngày cho đến năm ngày, một lần kiết, bạch Phật. Phật dạy: Không nên kiết như vậy, nên ngày Bố-tát cuối mùa Xuân, chia phòng xá ngọa cụ, rồi ngày mồng một mùa Hạ kiết An cư.
Có Tỳ-kheo muốn nương nơi dưới con voi, hoặc nương nơi xe cộ kiết An cư. Lại có Tỳ-kheo muốn nương nơi nhà bị phú bát An cư. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Đều không nên kiết như vậy, vi phạm, phạm Độtkiết-la. Cho phép kiết nơi chỗ đủ ngồi kiết già và y bát không bị mưa ướt mà An cư.
Có các Tỳ-kheo An cư nơi chỗ không có sự cứu hộ, bị giặc cướp đoạt. Lại có các Tỳ-kheo An cư nơi gò mả, bị phi nhân gây não. Lại có các Tỳ-kheo An cư trên cây, bị rắn độc làm khốn khổ. Lại có các Tỳ-kheo An cư trong nhà lợp bằng da, bên trong lỗ mũi bị sinh thịt. Lại có các Tỳ-kheo An cư nơi chỗ đất trống da bị lột, bạch Phật. Phật dạy: Những chỗ trên đều không kiết kiết.
Bấy giờ, các bạch y thỉnh Tỳ-kheo An cư ở chỗ không có sự cứu hộ, bạch: Đại đức có thể An cư nơi chỗ đó, tôi có thể từ xa làm việc cứu hộ. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Cho thọ. Lại có Tỳ-kheo nơi gò mả, lo ngại nơi nhân gian không có phòng xá ngọa cụ, muốn ở lại gò mả An cư, bạch Phật. Phật dạy: Nếu có thể hệ niệm tại tiền, không có sự sợ sệt thì cho phép. Lại có các Tỳ-kheo, muốn bố trí một chỗ trên lùm cây trong không trung để An cư, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép, nhưng trước hết nên dùng đá ném trên cây, hoặc lấy cây sào đập, lắng nghe có âm thanh nào phát ra hay để có vật gì chạy ra. Nếu không có tiếng gì khác, không có vật gì chạy ra, sau đó mới vào. Lấy bùn kết dính các chỗ hiểm yếu để có sự bằng phẳng, chung quanh làm vách đất, đặt cửa để đóng mở.
Lúc ấy, Long vương A-nậu-đạt thỉnh các Tỳ-kheo An cư nơi hang ở trong cung, dùng năm trăm kim ngân và các châu báu làm thành, các Tỳ-kheo không dám đến, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép đến. Các Tỳ-kheo muốn làm cấp để đi, lót đá để ngồi, và đá để rửa chân, đều dùng bằng vàng, bạc, xấu hổ không dám, bạch Phật. Phật dạy: Vàng bạc nơi đó cũng như đất đá ở đây, tùy ý sử dụng.
Lại có các Tỳ-kheo An cư nơi có các nạn về giặc, quan lại, người thân bèn bạch Phật. Phật dạy: Nên tránh đi chỗ khác An cư. Có hai thứ An cư: tiền An cư và hậu An cư. Nếu không có việc gì thì nên tiền An cư, có việc gì thì cho phép hậu An cư. Tỳ-kheo hậu An cư đến chỗ khác, Tỳ-kheo kia không cung cấp phòng xá ngọa cụ, bạch Phật. Phật dạy: Nên cung cấp. Đã cấp rồi không ở, lại đoạt phòng của người khác, bạch Phật. Phật dạy: Nhận được phòng nào ở phòng nấy. Tỳ-kheo khi muốn An cư, nên trù liệu trước, chỗ này có nạn, không nạn, không nạn nên ở, có nạn nên đi.
Bấy giờ, tại thành Xá-vệ, có Trưởng giả tên là Ưu-đà-diên tin ưa Phật pháp, thường cung cấp cho các Tỳ-kheo. Khi An cư, vì Tăng làm phòng xá, thiết trai nhập xá, muốn nhân việc ấy đem phòng dâng cúng, mời các Tỳ-kheo ở các trú xứ chung quanh, các Tỳ-kheo e ngại không dám thọ. Trưởng giả dị nghị chê trách nói: Tôi hao tốn tài vật để làm thức ăn, mà các Tỳ-kheo không chịu thọ thỉnh. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Phật dạy: Cho phép thọ. Nếu làm nhà cho Tỳ-kheo-ni và phòng cho ngoại đạo, cho đến làm thềm cấp đường đi, thiết trai mời cúng dường, đều cho phép thọ. Nếu có người thỉnh hay không được thỉnh, phải ra ngoài cương giới, tất cả trường hợp đều cho phép bảy ngày phải trở lại.
Có một Tỳ-kheo tự mình không biết luật, nhưng không nương nơi người trì luật, trong khi An cư sinh nghi, khởi ý niệm: Đức Thế Tôn không cho phép ta khi An cư du hành, không có chỗ để hỏi, không biết làm thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép An cư chỗ có Tỳ-kheo trì luật. Nếu chỗ Tỳ-kheo trì luật phòng xá chật hẹp, cho phép ở chỗ gần Tỳ-kheo trì luật, mỗi bảy ngày tới một lần, trong khi đó, tâm niệm, từ xa nương vị trì luật mà An cư. Có một Tỳ-kheo, chia phòng xá ngọa cụ rồi, không khởi ý niệm: Nay tôi An cư, miệng cũng không nói, sau sinh nghi hối: Ta không kiết An cư, có thành An cư không? Bạch Phật. Phật dạy: Vì An cư, thọ phòng xá, trải ngọa cụ, tuy không phát tâm, miệng nói để kiết, cũng được gọi là An cư.
Lúc này, nơi thành Xá-vệ, người ta muốn đào con kênh thông nước nơi Kỳ-hoàn, Vua Ba-tưnặc nghe ra lệnh: Ai đào kênh thông nước nơi Kỳ-hoàn phải bị đại tội. Sau đó, nơi biên giới có việc, Vua tự xuất chinh. Các ngoại đạo muốn cùng tập trung lực lượng đào kênh thông nước. Các Tỳ-kheo đem việc ấy nói với các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-tắc nói: Việc này không phải thuộc quyền ngăn cấm của chúng tôi, cần phải đến tâu với Vua. Các Tỳ-kheo nói: Đức Thế Tôn không cho phép trong khi An cư đi quá bảy ngày. Nhà Vua hiện ở cách xa đây làm sao đến kịp. Quý vị bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay có việc Phật, Pháp, Tăng hay các việc tư, cần đi ngoài bảy ngày, cho phép bạch nhị Yết-ma thọ mười lăm ngày hoặc một tháng để ra ngoài giới. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên… vì công việc… muốn đi ra ngoài cương giới, ngoài bảy ngày thọ ba mươi đêm, sẽ trở lại đây An cư. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên… vì công việc…muốn đi ra ngoài cương giới, ngoài bảy ngày lại thọ ba mươi đêm, rồi trở lại đây An cư. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì xin nói.
Tăng đã thuận cho Tỳ-kheo… lại thọ ba mươi đêm ra ngoài cương giới rồi. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Có một Tỳ-kheo An cư, thức ăn cũng không đủ, khởi ý niệm: Ta ở đây, trong khi An cư, thức ăn cũng không đủ, song Đức Thế Tôn không cho phép phá An cư, ta nên như thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Vì nhân duyên ấy, cho phép phá An cư, không có tội.
Lại có một Tỳ-kheo An cư, có một Tỳ-kheo-ni quyến rũ cùng tác hạnh bất tịnh. Tỳ-kheo ấy nghĩ: Lòng người dễ thay đổi, sau có thể ta đổi ý, nhưng Đức Thế Tôn không cho phép phá An cư, ta nên như thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Vì lý do ấy cho phép phá An cư, không có tội. Thức-xoama-na, cho đến huỳnh môn cũng được như vậy. Nếu quốc vương muốn phá hoại phạm hạnh, cho đến cha mẹ thân thích cũng được như vậy.
Có một Tỳ-kheo An cư, bắt gặp một kho tàng quý giá, khởi ý nghĩ: Của kho tàng này đủ nuôi sống một đời ta, nếu ở lâu, ý niệm này có thể bị lung lạc, nhưng Đức Thế Tôn không cho phép phá An cư, ta nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Vì nhân duyên này cho phép pháp An cư, không tội. Nếu chứng kiến sự vui sướng, khổ đau của quốc vương, của người tôn quý, kể cả của cha mẹ, vì sợ mất đạo ý, đều cũng giải quyết như vậy. Có một Tỳ-kheo An cư, nghe có Tỳ-kheo muốn phá Tăng, khởi ý niệm: Nếu có phá Tăng sự, Tăng không được hòa hợp, không được an lạc, do Đức Thế Tôn không cho phép phá An cư, ta nên như thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép vì nhân duyên ấy phá An cư, không có tội.
Lại có một Tỳ-kheo An cư, nghe trú xứ khác có Tỳ-kheo muốn phá Tăng, mà là chỗ thân hậu, khởi ý nghĩ: Nếu ta đến can gián chắc nghe lời ta, song Đức Thế Tôn không cho phép ta phá An cư, ta nên như thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép, vì nhân duyên ấy phá An cư, không có tội. Nếu có thể sai người can gián vì việc này mà đi, nơi đó Tăng đã phá hết, tự mình hòa hợp, hoặc khiến người hòa hợp, vì việc này mà đi, cũng như vậy. Tỳ-kheo-ni có thể hòa hợp Tăng, cũng như vậy.
Bấy giờ, có đoàn khách buôn dừng nghỉ, các Tỳ-kheo muốn nương theo họ An cư, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép nương đoàn khách buôn An cư. Trong khi An cư, bỗng nhiên họ lại đi, các Tỳ-kheo không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép đi theo họ. Các khách buôn chia làm hai đoàn, các Tỳ-kheo không biết làm thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Đoàn nào có lòng tin ưa, phong phú, vui vẻ, thì đi theo. Tỳ-kheo có trì luật, nơi đó có nhiều vị trì luật, cho phép theo bộ này mà đi. Nếu nương nơi người chăn trâu, chăn dê, người làm bè, người đi thuyền An cư, đều cũng như vậy. Có các Tỳ-kheo trong khi An cư, phòng xá, ngọa cụ bị cháy không có chỗ ở, không biết nên như thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nếu bị lửa cháy, nước trôi, nạn Vua, nạn giặc, nạn phi nhân, nạn sư tử, hổ lang, các trùng độc cho đến loài kiến, nước, gió đều cho phép phá An cư, không có tội.
Khi ấy, Bạt-nan-đà thọ An cư Bố-tát rồi, đi giữa đường thấy hai trú xứ, nhiều y thực được dâng cúng, Bạt-nan-đà bèn vào hai nơi đó, mỗi chỗ đều nhận phân nửa phẩm vật. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Nhân việc này Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn! Có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Ông là người ngu si, tại sao đã thọ thỉnh của người khác, vì lợi dưỡng đến An cư hai trú xứ? Phật bảo các Tỳ-kheo: Từ nay, Tỳ-kheo nào nhận sự mời của người khác nơi tiền An cư, Bố-tát rồi đến giữa đường, thấy hai trú xứ, nhiều y thực được dâng cúng bèn ở lại, thì không thành tiền hay hậu An cư, mắc tội trái với lời nói, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo nào nhận sự mời của người khác thuộc tiền An cư, Bố-tát rồi mà đi chưa tới nơi, đến ngày mười bảy, tướng ánh sáng xuất hiện, Tỳ-kheo ấy không thành tiền An cư mà thành hậu An cư, không phá An cư, mắc tội trái với lời nói. Nếu nhận sự mời của người khác thuộc tiền An cư, Bố-tát rồi, đến kiết An cư, không thọ bảy ngày ra ngoài giới, trong vòng bảy ngày, trở lại hay không trở lại, Tỳ-kheo ấy không thành tiền An cư, nếu có hậu An cư, thì không phá An cư, không mắc tội trái với lời nói. Nếu nhận lời mời của người khác thuộc tiền An cư, Bố-tát rồi, đến kiết An cư, thọ bảy ngày ra ngoài giới, không trở lại, không thành tiền An cư, nếu có hậu An cư, thì không phá An cư, nhưng mắc tội trái với lời nói. Nếu trong vòng bảy ngày mà trở lại, không phá An cư, không phạm tội trái với lời nói. Nếu nhận lời mời của người khác thuộc tiền An cư, Bố-tát rồi, đến kiết An cư, trước Tự tứ bảy ngày, không có tác pháp bảy ngày mà ra ngoài giới, cũng không thành tiền An cư, mà thành hậu An cư, không phá An cư, mắc tội trái với lời nói. Nếu có tác pháp bảy ngày mà ra ngoài giới, không phá pháp An cư, không phạm tội trái với lời nói. Tỳ-kheo nào, nhận lời của người khác thuộc tiền An cư, đến nơi kia Bố-tát, cũng như vậy.
Tỳ-kheo nào, nhận lời của người khác, hậu An cư, Bố-tát rồi, đến giữa đường, thấy hai trú xứ có nhiều y thực dâng cúng, bèn ở lại không đi, phá pháp An cư, trái với lời nói, phạm tội Đột-kiết-la. Nếu nhận lời của người khác, hậu An cư, Bố-tát rồi đi không đến, đến ngày mười bảy, tướng ánh sáng xuất hiện, Tỳ-kheo ấy phá An cư, trái với lời nói, phạm hai tội. Nếu nhận lời mời của người khác, hậu An cư, Bố-tát rồi đến kiết An cư, không thọ bảy ngày ra ngoài giới, trong bảy ngày trở lại hay không trở lại, và thọ bảy ngày, trong bảy ngày không trở lại, đều phá An cư, trái với lời nói, mắc hai tội. Nếu trong bảy ngày trở lại, không phá An cư, không phạm tội trái với lời nói. Nếu nhận lời mời của người khác, hậu An cư, Bốtát rồi đến kiết An cư, trước Tự tứ bảy ngày, không có pháp mà ra ngoài giới bảy ngày, phá An cư, trái với lời nói, mắc hai tội. Nếu có bảy ngày ra ngoài giới, không phá An cư, không phạm tội trái với lời nói. Nếu nhận lời mời của người khác, hậu An cư, đến chỗ kia Bố-tát, cũng như vậy.
Có một Tỳ-kheo tìm chỗ An cư, thấy có cái hang không, khởi ý niệm: Ta sẽ An cư nơi đây. Lại có số đông Tỳ-kheo thấy, cũng lại có ý niệm như vậy mà không biết nhau. Trước khi An cư đến ngày Bố-tát, hai bên cùng tập hợp nơi đó, đều nói: Trước đây tôi đã tìm ra cái hang này. Không biết ai được ở, bạch Phật. Phật dạy: Nếu ai đến trước nên làm dấu, hoặc đề tên mình nơi vách, hoặc nói với người ở chung quanh hang, sau lấy đó làm chứng, thì người này được ở.
Lại có Tỳ-kheo trước chiếm trú xứ, sau rồi không đến, Tỳ-kheo khác không dám ở, bèn bỏ trống trú xứ đó, bạch Phật. Phật dạy: Nên xóa cái dấu, hoặc nói để cho mọi người đều biết, khiến Tỳ-kheo khác được ở.
--
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, số đông Tỳ-kheo ở một chỗ An cư, cùng nhau bàn nói: Chúng ta nếu cùng nhau nói năng, hoặc đưa đến sự nhiều chuyện, nên cùng nhau lập quy chế, chớ có những lời lẽ gì với nhau. Nếu ai khất thực về trước thì lau quét, rưới nước chỗ dọn ăn, lấy nước đầy bình, đem khăn lau tay, lau chân ra, trải các tọa cụ, để đồ đựng thức ăn dư, lường thức ăn, có dư thì sớt bớt để vào đó, người nào ăn thiếu lấy đó mà ăn, ăn rồi theo thứ tự dọn dẹp, nếu một mình không thể làm được thì ra dấu nhờ bạn cùng làm. An cư như vậy được sống an lạc, không có cái họa phải quấy, thêm bớt. Luận bàn như vậy rồi liền thực hiện. An cư xong, thường pháp của chư Phật, một năm có hai lần hội họp, khi đến chỗ Phật, các Tỳ-kheo đầu mặt lễ nơi chân, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật an ủi hỏi:
Các thầy an cư hòa hợp, khất thực không thiếu, trên đường đi không nhọc mệt chứ?
Bạch Thế Tôn! Chúng con An cư hòa hợp, khất thực không thiếu, trên đường đi không nhọc mệt.
Đức Phật lại hỏi: Các thầy An cư bằng cách nào được hòa hợp?
Các Tỳ-kheo liền trả lời đầy đủ như trên.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách:
Các thầy ngu si, như oan gia ở với nhau, làm sao mà được hòa hợp an lạc. Ta đã dùng vô số phương tiện dạy các thầy sống chung, cần phải nhắc nhở nhau, xây dựng, giác ngộ cho nhau, để làm tròn đạo nghiệp. Tại sao nay các thầy lại thực hành pháp cấm?! Từ nay nếu lại lập cái pháp không cùng nói năng với nhau thì phạm tội Đột-kiết-la.
Bấy giờ, Lục quần Tỳ-kheo thường thường phạm tội. Các Tỳ-kheo dùng lời Phật dạy, cùng nhau khuyên răn nói: Các thầy thường thường phạm tội, nên tự thấy lỗi mà tu cải hối, chớ để ô nhiễm phạm hạnh, tự để lại cái khổ lớn cho mình, phụ lòng tin của tín thí, rốt cuộc không được gì! Lục quần Tỳ-kheo không tự cải hối, trở lại vu khống nói với các Tỳ-kheo Trưởng lão phạm các tội. Các Trưởng lão nghe rồi, xấu hổ, đến chỗ Phật, bạch Phật. Nhân việc này Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo:
Thật sự các ông có như vậy không?
Bạch Thế Tôn! Có.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo:
Nếu có Tỳ-kheo phạm tội, trước nên hỏi: tôi muốn khuyên thầy, thầy có cho phép tôi hay không? Vị ấy nói cho phép, thì khuyên, không cho phép thì thôi. Nếu không cho phép thì phạm Đột-kiết-la.
Lục quần Tỳ-kheo, thời gian sau phạm tội, bèn hỏi ngược lại Tỳ-kheo Trưởng lão: Tôi muốn khuyên thầy, thầy có cho phép tôi hay không? Vị kia khởi ý niệm: Phật chế không được cho phép, bèn nói: Tùy ý thầy cứ nói! Lục quần Tỳ-kheo lại nói: Nếu tùy ý tôi nói thì nghe tôi nói: Tội gì, nói khi nào, nói chỗ nào? Vị kia nghe nói những lời này bèn đi theo sau, không dám rời xa. Quý vị bạch Phật, Phật lại hỏi Lục quần Tỳ-kheo:
Sự thật các ông có như vậy không?
Có thật như vậy, bạch Thế Tôn.
Đức Phật bằng mọi cách quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo:
Nếu thành tựu năm pháp, không nên hỏi, xin phép nói tội. Không xấu hổ, ngu si, ít nghe, tự mình không biết pháp, cẩu thả, trình bày việc ác của người. Nếu có xấu hổ, nghe nhiều, trí tuệ, tự mình biết pháp, thực sự muốn khiến cho người xa lìa tội ác, mới nên hỏi, cho phép nói tội. Lại có năm pháp không nên hỏi, cho phép nói tội: làm theo ái, sân, sợ, si, không biết đúng lúc hay không đúng lúc. Ngược lại trên thì nên hỏi, cho phép nói tội: Nếu thành tựu năm pháp ác mà hỏi, không nên kính cẩn cho phép nói tội, nếu thành tựu năm pháp thiện mà hỏi nên kính cẩn cho phép nói tội.
Khi ấy, các Tỳ-kheo nghị bàn như sau: Như Đức Thế Tôn dạy: Nên cho phép hỏi, không nên cho phép hỏi, nên kính cẩn cho phép, không nên kính cẩn cho phép, chỉ có La hán vậy sau mới nên hỏi, chúng ta làm sao được phép điều này. Quý vị bạch Phật. Nhân việc này Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo:
Thật sự các thầy có nghị bàn như vậy không?
Bạch Thế Tôn! Có.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay do mười điều lợi, vì các Tỳ-kheo làm pháp Tự tứ. Nên yêu cầu Tăng Tự tứ nói tội: Xin các Đại đức, nếu thấy tội của tôi, hoặc nghe tội của tôi, hoặc nghị tội của tôi, rủ lòng thương tùy ý nói, tôi sẽ thấy tội, sám hối. Nói như vậy Ba lần.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo khởi ý niệm: Đức Thế Tôn dạy chúng ta Tự tứ nên cùng nhau phụng hành, bèn ngày nào cũng Tự tứ, hoặc hai ngày, ba ngày cho đến năm ngày một lần Tự tứ. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, nên ngày cuối cùng của ba tháng hạ Tự tứ. Các Tỳ-kheo bèn đối trước Tỳ-kheo-ni, Thức-xoama-na, Sa-di, Sa-di-ni Tự tứ, hoặc đối trước bạch y, ngoại đạo, tâm cuồng, tâm loạn, tâm bệnh hoại, người bị cử, diệt tẫn, dị kiến để Tự tứ. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên Tự tứ như vậy, nên Tự tứ trong chúng Tỳ-kheo như pháp. Có các Tỳ-kheo ngồi trên giường Tự tứ. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy. Các Tỳ-kheo Tự tứ ở dưới đất nhớp y phục, bạch Phật. Phật dạy: Nên sửa soạn nơi đất cho sạch sẽ, trải cỏ lên trên, Tự tứ. Lục quần Tỳ-kheo nói: Đến phiên tôi, tôi sẽ xuống đất. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy. Trước hết một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay đến giờ Tự tứ của chư Tăng, Tăng nên hòa hợp để Tự tứ. Đây là lời tác bạch. Sau đó, tất cả đều xuống đất quỳ gối Tự tứ. Các Tỳ-kheo Tự tứ chưa xong, Thượng tọa già bệnh, không thể quỳ lâu, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép Tự tứ rồi trở lại chỗ ngồi. Các Tỳ-kheo Tự tứ xong bèn đi ra, bạch Phật. Phật dạy: Không nên ra trước, phải đợi xong rồi ra một lượt. Các Tỳ-kheo nhất thời hướng đến Thượng tọa Tự tứ, không biết ai đã Tự tứ ai chưa Tự tứ, bạch Phật. Phật dạy: Không nên nhất thời Tự tứ. Các Tỳ-kheo lại mỗi vị đến Thượng tọa Tự tứ. Có các bạch y muốn cúng dường nghe pháp, lâu không thể đợi, bèn chê trách nói: Chúng tôi bận nhiều việc, phải phế bỏ đến đây, mà các Tỳ-kheo không có thì giờ thọ thí, vì tôi nói pháp. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên mỗi vị, mỗi vị Tự tứ. Cho phép tám vị Thượng tọa Tự tứ riêng, ngoài ra đồng tuổi với đồng tuổi một thời Tự tứ. Các Tỳ-kheo không biết Tự tứ rồi đến chỗ nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên bạch nhị Yết-ma sai người Tự tứ, hoặc hai hay nhiều vị. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo… và Tỳ-kheo… này có thể vì Tăng làm người Tự tứ. Nay Tăng sai Tỳ-kheo… Tỳ-kheo… làm người Tự tứ. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo… Tỳ-kheo… có thể vì Tăng làm người Tự tứ. Nay Tăng sai Tỳ-kheo… Tỳ-kheo… làm người Tự tứ. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã sai Tỳ-kheo… Tỳ-kheo… làm người Tự tứ rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Các Tỳ-kheo sai Tỳ-kheo vô trí làm người Tự tứ, bạch Phật. Phật dạy: Người bị chi phối do năm pháp sau không nên sai: làm theo ý muốn, thương, giận, si, sợ, không biết thời, phi thời, ngược lại với trên thì nên sai. Tỳ-kheo sai nên đứng dậy nói với các Tỳ-kheo: Những vị đồng tuổi ngồi lại một chỗ. Người Tự tứ không biết mình nên Tự tứ vào lúc nào, bạch Phật. Phật dạy: Theo thứ tự, đến mình thì nên Tự tứ. Các Tỳ-kheo Tự tứ theo thể thức như vậy vẫn còn lâu, các bạch y chê trách nói như trên. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Người được sai nên xướng: Mỗi vị hướng vào nhau Tự tứ. Các Tỳ-kheo Tự tứ rồi lại bố tát, bạch Phật.
Phật dạy: Yết-ma Tự tứ cũng gọi là bố tát.
Lúc này, Đức Thế Tôn vào ngày Tự tứ, cùng các Tỳ-kheo, kẻ trước người sau xoay quanh, ngồi nơi đất trống. Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay đã đến giờ Tăng hòa hợp Tự tứ, nên cùng nhau Tự tứ. Có một Tỳ-kheo đứng dậy bạch Phật: Có Tỳ-kheo bệnh không đến được. Đức Phật dạy: Nên sai một Tỳ-kheo dìu tới… cho đến câu: Ra ngoài giới Tự tứ, như trong mục thuyết giới đã nói. Lục quần Tỳ-kheo có tội mà Tự tứ, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, mắc tội Độtkiết-la. Họ vẫn cố có tội mà Tự tứ, bạch Phật. Phật dạy: Nên ngưng Tự tứ. Các Tỳ-kheo khi chưa Yết-ma bèn ngưng, chỗ Tự tứ khác lại có Tự tứ rồi, mới ngưng, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, Yết-ma rồi khi chưa Tự tứ nên ngưng.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Có bốn pháp không như pháp ngưng Tự tứ, bốn pháp như pháp ngưng Tự tứ. Những gì là bốn pháp không như pháp ngưng Tự tứ? Nghĩa là ngưng vì vô căn phá giới, vô căn phá kiến, vô căn phá oai nghi, vô căn phá chánh mạng. Nếu ngược lại với trên là bốn pháp như pháp ngưng Tự tứ.
Lại có bảy pháp không như pháp ngưng Tự tứ, bảy pháp như pháp ngưng Tự tứ. Những gì là bảy pháp không như pháp ngưng Tự tứ? Nghĩa là ngưng vì vô căn Ba-la-di, vô căn Tăng-già-bà-thi-sa, vô căn Thâu-lan-giá, vô căn Ba-dật-đề, vô căn Ba-la-đề-đề-xá-ni, vô căn Đột-kiết-la, vô căn thuyết ác. Ngược lại với trên là bảy pháp như pháp ngưng Tự tứ.
Lại có tám pháp không như pháp ngưng Tự tứ, tám pháp như pháp ngưng Tự tứ. Những gì là tám pháp không như pháp ngưng Tự tứ? Nghĩa là ngưng vô căn phá giới vô tác, vô căn phá kiến vô tác, vô căn phá oai nghi vô tác, vô căn phá chánh mạng vô tác. Ngược lại với trên là tám pháp như pháp ngưng Tự tứ.
Lại có chín pháp không như pháp ngưng Tự tứ, chín pháp như pháp ngưng Tự tứ. Thế nào là chín pháp không như pháp ngưng Tự tứ? Nghĩa là vô căn phá giới tác bất tác, vô căn phá kiến, vô căn phá oai nghi cũng như vậy. Ngược lại với trên là chín pháp như pháp ngưng Tự tứ.
Lại có mười pháp như pháp ngưng Tự tứ, mười pháp không như pháp ngưng Tự tứ. Những gì là mười pháp như pháp ngưng Tự tứ? Có một Tỳ-kheo dùng tướng này, dùng sự này thọ Yết-ma như pháp trị tội. Tỳ-kheo nào thấy vị kia dùng tướng này, dùng việc này, thọ Yết-ma như pháp trị tội, Tỳ-kheo như vậy sau đó đối trước Tăng khác nói vị kia đã thọ Yết-ma như pháp trị tội, ngưng Tự tứ vị ấy. Như vậy gọi là như pháp ngưng Tự tứ. Nếu khi ngưng vị kia Tự tứ, có nạn sự xảy ra Tăng đều phân tán đi, sau thấy vậy, lại như trước kia ngưng Tự tứ. Như thế là như pháp ngưng Tự tứ. Nếu xả giới, hoặc phạm Ba-la-di, hoặc phạm Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc phạm Thâu-lan-giá, hoặc phạm Ba-dật-đề, hoặc phạm Ba-lađề-đề-xá-ni, hay phạm Đột-kiết-la, hay phạm thuyết ác. Tỳ-kheo nào dùng tướng này, dùng việc này, đối giữa Tăng nói vị kia phạm, ngưng Tự tứ vị kia. Như vậy gọi là như pháp ngưng Tự tứ. Ngược lại với trên thì gọi là không như pháp ngưng Tự tứ.
Khi ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật:
Bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo dùng bao nhiêu pháp ngưng Tự tứ người khác?
Đức Phật dạy:
Dùng năm pháp ngưng Tự tứ người khác: Dùng thật không dùng hư. Dùng thời không dùng phi thời. Dùng có lợi ích không dùng không lợi ích. Dùng tâm từ không dùng ý ác. Dùng lời nhu hòa không dùng lời thô bạo.
Lại hỏi Đức Thế Tôn:
Muốn ngưng Tự tứ của người khác, nên dùng bao nhiêu pháp để tự trù lượng?
Đức Phật dạy:
Nên dùng năm pháp để tự trù lượng: Nên trù lượng: Mình ngưng Tự tứ kia là thật hay là hư. Nếu hư thì không nên ngưng, nếu thật thì nên xét định lại là đúng thời hay phi thời, nếu phi thời thì không nên ngưng, nếu đúng thời thì nên xét định lại là có lợi ích hay không lợi ích, nếu không lợi ích thì không nên ngưng, nếu có lợi ích thì nên xét định lại là nhân việc này khởi lên tranh cãi phá hòa hợp Tăng hay không phá, nếu phá thì không nên ngưng, nếu không phá thì nên xét định lại. Lại nên trù lượng: Ta ngưng Tự tứ kia thì Tỳ-kheo như pháp trì pháp, trì luật, hiểu rõ luật nghi, thông minh biện tài, học giới có trợ giúp ta hay không. Nếu các vị kia chắc chắn trợ giúp cũng nên xét lại. Xét rồi dùng đúng lúc ngưng Tự tứ.
Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi Đức Thế Tôn: Muốn ngưng Tự tứ người khác nên chính mình tự quán bao nhiêu pháp?
Đức Phật dạy:
Nên tự quán năm pháp: Tự quán thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, tụng nhiều Tu-đa-la, khéo giải A-tỳ-đàm hay không? Nếu thân, khẩu, ý hành không thanh tịnh, các Tỳ-kheo sẽ nói: Thân khẩu ý của thầy hành không thanh tịnh làm sao ngưng người khác? Nếu không tụng nhiều Tu-đa-la, các Tỳ-kheo sẽ nói: Thầy nghe từ ai? Trong kinh nào nói như vậy? Chưa có thể làm thầy cho mình làm sao làm thầy cho người khác? Nếu không khéo giải A-tỳ-đàm, các Tỳ-kheo sẽ nói: Lời thầy nói có nghĩa gì? Tự thầy không biết nghĩa làm sao ngưng người khác?!
Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi Phật:
-Có bao nhiêu pháp ngưng người khác Tự tứ, sau không hối hận?
Đức Phật dạy:
Có năm pháp ngưng người khác Tự tứ, sau không hối hận: vì từ bi, vì lợi ích, muốn cứu vớt, khiến ra khỏi giới ác, trụ trong giới hoàn toàn.
Đức Phật lại bảo Tôn giả Ưu-ba-ly:
Có năm pháp ngưng người khác Tự tứ, sau sinh hối hận. Các Tỳ-kheo nói:
Thầy nói tội của người khác không thật, thầy nên thôi. Thầy nói không đúng lúc, thầy nên thôi. Thầy nói không có lợi ích, thầy nên thôi. Thầy dùng ý ác nói tội của người khác, chẳng phải là tâm từ, thầy nên thôi. Lời thầy nói thô bạo chẳng phải nhu hòa, thầy nên thôi. Nếu ngược lại với trên, sau không sinh tâm hối hận.
Tỳ-kheo hai bên ngưng Tự tứ, có năm việc không nên lo. Các Tỳ-kheo nói: Vị kia không như thật ngưng thầy Tự tứ, thầy không nên lo. Vị kia ngưng thầy Tự tứ không đúng lúc, thầy không nên lo. Vị kia ngưng thầy Tự tứ không lợi ích, thầy không nên lo. Vị kia với ý ác ngưng thầy Tự tứ, thầy không nên lo. Vị kia không dùng lời nhu hòa ngưng thầy Tự tứ, thầy không nên lo.
Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật:
Tỳ-kheo vào trong Tăng nên dùng bao nhiêu pháp? Đức Phật dạy:
Nên dùng năm pháp:
1. Khiêm tốn.
2. Tâm từ.
3. Cung kính.
4. Biết ngồi theo thứ tự.
5. Không luận nói việc khác.
Lại có năm pháp:
1. Không nên lật ngược y.
2. Không nên lật ngược y lên hai vai.
3. Không chống nạnh.
4. Không nên trùm đầu.
5. Nên cung kính Tăng.
Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật:
Tỳ-kheo có bao nhiêu pháp được cùng Tăng hòa hợp Yết-ma. Đức Phật dạy:
Có năm pháp được cùng Tăng hòa hợp Yết-ma. Nên đồng kiến, nên tùy Tăng, nên tin có việc, nên tự mình đến, hay nói gởi dục. Này Tôn giả Ưu-ba-ly! Nếu có Tăng sự không nên không đến, nếu không đến thì khác với Tăng. Có năm thứ kiến đối với Tăng sự là không như pháp: Nên tâm niệm mà tác pháp miệng nói, nên tác pháp miệng nói mà tâm niệm, phi pháp trợ Tăng, trợ người phi pháp, phạm nói không phạm. Ngược lại với trên là như pháp.
Có một Tỳ-kheo, ngày Tự tứ, phạm tội Độtkiết-la hướng đến Tỳ-kheo khác nói: Một bên nói là Đột-kiết-la, một bên nói là thuyết ác. Trong hai đều có người trì luật, thông minh trí tuệ, có tâm hổ thẹn, ưa học giới pháp, cùng nhau tranh luận không quyết định được, do đó ngưng Tự tứ. Các Tỳ-kheo không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên sai một Tỳ-kheo dẫn đến chỗ mắt thấy tai không nghe, dạy tác pháp hối quá thuyết ác, rồi trở lại bạch Tăng: Tỳ-kheo kia đã tác pháp rồi, Tăng nên Tự tứ. Các Tỳ-kheo không được hỏi tác pháp gì. Người nào hỏi, phạm Đột-kiết-la. Lại có một Tỳ-kheo, ngày Tự tứ, phạm Độtkiết-la, hướng đến các Tỳ-kheo nói: Một bên là Ba-la-đề-đề-xá-ni, một bên là Đột-kiết-la… cho đến một bên nói là Ba-la-di, một bên nói là Độtkiết-la. Trong hai bên đều có người trì luật, thông minh, trí tuệ, có tâm hổ thẹn, ưa học giới pháp, cùng nhau tranh cãi không quyết đoán được, do vậy ngưng Tự tứ. Các Tỳ-kheo không biết nên giải quyết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên sai một Tỳ-kheo dẫn đến chỗ mắt thấy tai không nghe, dạy tác pháp hối quá Đột-kiết-la, rồi trở lại bạch Tăng: Tỳ-kheo kia đã tác pháp rồi, Tăng nên Tự tứ. Các Tỳ-kheo không được hỏi tác pháp gì.
Người nào hỏi, phạm Đột-kiết-la. Phạm Ba-lađề-đề-xá-ni… cho đến Thâu-lan-giá, cũng như vậy. Nếu phạm Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc phạm Ba-la-di, nên bạch yết-ma đình chỉ việc này: Đại đức Tăng xin lắng nghe, nay đình chỉ việc này, sau khi Tự tứ rồi sẽ như pháp quyết đoán. Đây là lời tác bạch. Tác bạch này rồi nên Tự tứ, không nên không Tự tứ.
Có một Tỳ-kheo, ngày Tự tứ, nói với các Tỳ-kheo: Có vật không người, nhân đó cùng luận về cái “Không”. Một bên nói có vật không người, một bên nói có người không vật, cùng nhau tranh luận phân vân. Các Tỳ-kheo không biết nên giải quyết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên tác bạch đình việc này, rồi Tự tứ. Không nên không Tự tứ. Nếu tác bạch đình rồi, có người nào phát khởi việc luận bàn này lại, phạm Ba-dật-đề.
Có Tỳ-kheo bệnh ngưng Tỳ-kheo bệnh Tự tứ. Tỳ-kheo bệnh ngưng Tỳ-kheo không bệnh Tự tứ. Tỳ-kheo không bệnh ngưng Tỳ-kheo bệnh Tự tứ, không thuận tùng nhau. Các Tỳ-kheo không biết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy. Người vi phạm đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo bệnh ngưng Tỳ-kheo bệnh Tự tứ, các Tỳ-kheo nên nói: Hiện nay thầy bệnh làm sao ngưng người khác? Nếu Tỳ-kheo bệnh ngưng Tỳ-kheo không bệnh Tự tứ, cũng nên nói như vậy. Nếu Tỳ-kheo không bệnh ngưng Tỳ-kheo bệnh Tự tứ, các Tỳ-kheo nên nói: Thầy nên thôi! Tỳ-kheo này bệnh, có thể đợi lành rồi sẽ ngưng.
Có các Tỳ-kheo sai sứ ngưng người khác Tự tứ, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên sai sứ ngưng người khác Tự tứ, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Khi ấy, Bạt-nan-đà vẫn sai sứ ngưng người khác Tự tứ, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Người thọ sai mắc Đột-kiết-la, Bạt-nan-đà phạm Ba-dật-đề.
Hoặc Tỳ-kheo ngu si ngưng Tỳ-kheo ngu si Tự tứ, hoặc Tỳ-kheo ngu si ngưng Tỳ-kheo trí tuệ Tự tứ, hoặc Tỳ-kheo trí tuệ ngưng Tỳ-kheo ngu si Tự tứ, không thuận tùng nhau, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm như vậy, ai phạm, phạm Đột-kiết-la.
Tỳ-kheo nào ngưng Tỳ-kheo khác Tự tứ, chúng Tăng biết rõ người kia thân, khẩu, ý nghiệp không thanh tịnh, ít nghe, ngu si thì không nên nghe theo vị ấy, nên cứ Tự tứ. Nếu Tăng biết người kia thân, khẩu, ý nghiệp có thanh tịnh, không thanh tịnh và ít nghe, ngu si, cũng như vậy. Nếu Tăng biết người kia thân, khẩu, ý thanh tịnh, đa văn, trí tuệ thì nghe lời vị ấy, nhưng phải hỏi:
Thầy thấy vị kia có tội như thế nào, phá giới, phá kiến, phá oai nghi, phá chánh mạng? Nếu nói phá giới, thì hỏi: Thầy biết tướng phá giới chăng? Nếu nói: Không biết. Các Tỳ-kheo nên chê trách, khiến cho xấu hổ nói: Thầy không biết tướng phá giới mà ở giữa Tăng nói vị kia phá giới. Nếu Tăng không làm việc quở trách này thì đều phạm Đột-kiết-la. Nếu nói: Biết. Các Tỳ-kheo hỏi: Phá những giới gì? Nếu nói: phạm Ba-la-di, Tăng-già-bà-thi-sa. Nếu nói phá kiến, nên hỏi: Thầy biết tướng phá kiến hay chăng? Nếu nói không biết, các Tỳ-kheo nên quở trách như trên, nếu không quở trách thì phạm Đột-kiết-la. Nếu nói biết thì phải hỏi: Những gì là phá kiến? Đáp: Không đời này, không đời sau, không có quả báo do tội phước, không cha, không mẹ, không A-lahán. Nếu nói phá oai nghi, nên hỏi: Thầy biết tướng phá oai nghi hay không? Nếu nói không biết, các Tỳ-kheo nên quở trách như trên, nếu không quở trách đều phạm Đột-kiết-la. Nếu nói biết, nên hỏi: Phá những oai nghi nào? Đáp: Phạm Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la, thuyết ác. Nếu nói phá chánh mạng, các Tỳ-kheo phải hỏi: Thầy biết tướng phá chánh mạng hay không? Nếu nói không biết, các Tỳ-kheo nên quở trách như trên, nếu không quở trách đều phạm Đột-kiết-la. Nếu nói biết, nên hỏi: Phá những chánh mạng nào? Nếu nói: Tâm dối trá, do cầu lợi dưỡng. Tăng lại nên hỏi lại: Thầy do thấy, do nghe, do nghi? Nếu nói do thấy, nên hỏi: Thấy thế nào? Thấy khi nào? Thấy chỗ nào? Thấy ở chỗ nào? Người kia ở chỗ nào? Nếu hỏi như vậy mà không trả lời được thì nên như pháp trị rồi Tự tứ, không nên không Tự tứ. Nghe, nghi cũng như vậy.
Có một trú xứ chúng Tăng An cư nơi đó, ba tháng đều được chứng đạo, khởi ý niệm: Nếu đủ ba tháng mà Tự tứ sẽ di chuyển đi, mất sự vui này. Các Tỳ-kheo không biết nên như thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nay cho phép các Tỳ-kheo, ba tháng, ngày Tự tứ, đều tập hợp lại một chỗ, sai một Tỳ-kheo xướng: Đại đức Tăng xin lắng nghe, chúng ta An cư nơi đây được một lòng thích hợp an vui, nếu Tự tứ phải đi, thì mất sự vui này, nay cùng nhau đình chỉ việc ấy đến tháng tám, đủ bốn tháng sẽ Tự tứ. Đây là lời tác bạch. Đã bạch như vậy rồi, nếu có Tỳ-kheo muốn đi xa, cho phép Tự tứ để đi. Nếu có người muốn ngưng sự Tự tứ kia, Tăng nên như pháp kiểm xét khiến được Tự tứ để đi. Nếu Tỳ-kheo đi, muốn ngưng sự Tự tứ của Tỳ-kheo sau, các Tỳ-kheo nên nói: Chúng tôi chưa Tự tứ, làm sao thầy ngưng được. Nếu vị kia đi rồi, đến khi ngày Tự tứ sau, trở lại ngưng các Tỳ-kheo Tự tứ, các Tỳ-kheo nên như pháp kiểm xét rồi nên Tự tứ.
Có các Tỳ-kheo An cư một chỗ, nghe các Tỳ-kheo ở trú xứ nào đó, ưa tranh chấp sẽ đến, nên luận bàn như vầy: Họ đến chắc họ ngăn sự Tự tứ của chúng ta. Các Tỳ-kheo không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Còn hai, ba ngày nữa Tự tứ, nên Tự tứ để đi. Nếu nghe ngày hôm nay họ đến, nên Tự tứ liền để đi. Nếu nghe họ đã vào trong giới, nên mau mau ra ngoài giới Tự tứ rồi trở về. Nếu không được, nên ra đón rước, lễ bái, hỏi chào, rước y bát, sửa soạn dụng cụ tắm rửa, mời vào phòng tắm để tắm, đưa dầu, mật thoa thân cho họ, rồi ra ngoài giới Tự tứ. Nếu cũng không được, nên sửa soạn thức ăn, tùy theo trong hay ngoài giới, nếu dọn ăn trong giới, khi họ ăn nên ra ngoài giới Tự tứ, nếu dọn ăn ngoài giới, khi ăn nên ở trong giới Tự tứ. nếu cũng không được, nên cùng tập hợp Tự tứ, sai một Tỳ-kheo cựu trú bạch với các Tỳ-kheo cựu trú: Đại đức Tăng xin lắng nghe, nay cùng Bố-tát thuyết giới, sau đây ngày thứ mười lăm không trăng thuộc tháng thứ tư (30/7) sẽ Tự tứ. Đây là lời tác bạch. Tỳ-kheo khách nếu nói: Tại sao vào ngày thứ mười lăm không trăng tháng thứ tư Tự tứ? Tỳ-kheo cựu trú nên đáp: Thầy không cùng An cư, không nên hỏi tôi. Nếu Tỳ-kheo khách, ngày thứ mười lăm không trăng lại đến, Tỳ-kheo cựu trú nên bạch như trước. Sau ngày mười lăm có trăng sẽ Tự tứ… cho đến câu… không nên hỏi tôi, cũng như trước. Tỳ-kheo khách ngày thứ mười lăm có trăng lại đến, lại nên làm thức ăn như trước. Nếu được thì tốt, bằng không, nên cưỡng bức cùng hòa hợp Tự tứ, không được không Tự tứ.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, nhũ mẫu của Kỳ-vức tắm cho Kỳ-vức, xem kỹ thấy tướng của Kỳ-vức, nhũ mẫu lộ ngay sắc giận của mình. Kỳ-vức biết ngay vấn đề hỏi mẹ: Tại sao mẹ nhìn con với dáng vẻ giận như vậy? Nhũ mẫu nói: Mẹ giận vì thân con có tướng thù đặc mà tâm ý của con chưa gần được Phật, Pháp, Tăng. Kỳvức nghe rồi, khen: Lành thay! Lành thay! Mẹ đã dạy con điều đó. Kỳ-vức liền mặc áo mới, đi đến chỗ Đức Phật. Từ xa thấy Đức Thế Tôn dung mạo đĩnh đạc, có ba mươi hai tướng của bậc đại nhân, vầng ánh sáng tỏa ra một tầm giống như núi vàng, liền sinh lòng tín kính. Kỳ-vức đến trước Phật, kính lễ sát chân Ngài, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật vì Kỳ-vức nói các phép nhiệm mầu, chỉ vẽ sự lợi ít để được hoan hỷ, như luận về việc bố thí, trì giới và sinh thiên, tại gia là nhiễm lụy, xuất gia không đắm vướng, những pháp trợ đạo như vậy làm sáng tỏ vấn đề. Đức Phật lại nói tiếp những pháp chư Phật thường nói là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Kỳ-vức liền từ chỗ ngồi xa trần, lìa cấu, đặng mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc quả rồi quy y Phật, Pháp, Tăng và thọ năm giới. Kỳvức khéo phân biệt được ngọn, ngành, tướng của âm thanh, Đức Phật dẫn Kỳ-vức đến nơi gò xương cốt, Ngài chỉ đầu lâu của năm người. Kỳvức gõ từng cái, bạch Phật: Đầu lâu thứ nhất này, sinh vào địa ngục. Đầu lâu thứ hai sinh nơi súc sinh. Cái thứ ba sinh nơi ngạ quỷ. Cái thứ tư sinh vào cõi người. Cái thứ năm sinh vào cõi trời. Đức Phật dạy: Lành thay! Ông nói đúng cả! Đức Phật lại chỉ một cái đầu lâu, Kỳ-vức gõ Ba lần, không biết sinh ở đâu, bạch Phật: Con không biết người này sinh vào cõi nào. Đức Phật dạy: Ông không biết là phải. Tại sao vậy? Đây là đầu lâu của vị Ala-hán, không còn có chỗ sinh.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn, thân bị bệnh nhẹ, bảo Tôn giả A-nan: Bệnh của Ta nên uống thuốc thổ hạ. Tôn giả A-nan bạch Phật:
Nên nói với Kỳ-vức.
Được.
A-nan đến thông báo, Kỳ-vức nói:
Tôi không thể dùng thuốc thường để chữa bệnh của Ngài. Tôi sẽ bào chế thứ thuốc của Chuyển luân Thánh vương dùng để dâng lên Đức Thế Tôn.
Kỳ-vức dùng dược huân, ba loại hoa Ưu-bátla, đem đến chỗ Đức Phật bạch:
Xin Ngài ngửi hoa này. Ngửi một hoa sẽ có mười lần hạ (phong), ba hoa sẽ có ba mươi lần, bệnh sẽ khỏi hoàn toàn.
Đức Thế Tôn liền ngửi hai hoa, được hạ (phong) hai mươi lần, một hoa còn lại được chín lần. Không bao lâu sau, Kỳ-vức lại đến chỗ Phật, bạch: Ngửi hoa có hạ được không? Hạ nhiều hay ít? Đức Phật dạy:
Ngửi thuốc tuy hạ được, nhưng còn thiếu một cái. Kỳ-vức bạch Phật: Nên uống nước nóng, bèn hạ thêm được một cái, bệnh được lành hẳn.
Kỳ-vức lại thưa:
Cần phải bổ dưỡng, con sẽ tùy thời cúng dường những thứ cần dùng. Đức Phật thọ nhận bằng cách im lặng. Kỳ-vức nấu canh bằng gạo chiên-đà dâng cúng Đức Thế Tôn.
Đức Thế Tôn dùng rồi, Kỳ-vức lại bạch:
Con trị bệnh cho quốc vương, quan, dân, nhận được hằng trăm ngàn lượng vàng, bảy thứ báu nhiều vô số, hoặc nhận được thôn xóm, hoặc nhận được một ấp, cúi xin Đức Thế Tôn nhận cho con một lời nguyện nhỏ.
Đức Phật dạy:
Các Đức Phật Như Lai đã vượt qua các nguyện. Kỳ-vức lại bạch Phật:
Xin Phật cho con được nguyện một lời. Đức Phật dạy:
Nếu hợp lý thì không trái với ý của ngươi. Khi ấy, Kỳ-vức liền dùng một chiếc y quý, trị giá bằng nửa nước, dâng lên Đức Phật, bạch: Đây là chiếc y, trong các chiếc y, nó là tối thắng, xin Ngài rủ lòng thương thọ nhận cho.
Kỳ-vức lại xin Phật cho phép các Tỳ-kheo được nhận y của gia chủ. Đức Phật thọ nhận và cho phép các Tỳ-kheo được nhận y của gia chủ. Đức Phật vì Kỳ-vức nói các pháp diệu rồi khiến về chỗ cũ.
Nhân việc này, Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo:
Kỳ-vức trị bệnh của Ta lành, lại đem một thượng y dâng cho Ta, xin cho các Tỳ-kheo được phép thọ sự dâng cúng y của gia chủ. Ta thọ nhận và cũng cho phép các Tỳ-kheo thọ sự dâng cúng y của gia chủ. Từ nay các Tỳ-kheo muốn mặc y của gia chủ, cho phép thọ, song kẻ thiểu dục, tri túc mặc y phấn tảo là điều Ta khen ngợi.
Bấy giờ, nơi thành Vương-xá, các Cư sĩ nghe Phật cho phép các Tỳ-kheo thọ sự dâng cúng y của gia chủ, cùng nhau đem ba ngàn trương Kíp bối thuần màu xanh, vàng, đỏ, đến dâng cúng cho các Tỳ-kheo. Do có các màu sắc nên các Tỳ-kheo sinh nghi, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép thọ nhưng nên giặt cho phai màu sắc rồi nhuộm lại để mặc.
Có các Tỳ-kheo đến nơi gò mả quán tử thi, từ chân đến đầu, khởi quán bất tịnh, dựng tử thi dậy, quỷ nhập vào trong tử thi, trương mắt, le lưỡi, đạp các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo hoảng sợ, phi nhân được cơ hội, đoạt lấy tinh khí, có vị phải chết.
Lại có một Tỳ-kheo, đến nơi gò mả, quán từ chân đến đầu, thây của người nữ mới chết, sinh tâm dục, hành bất tịnh, do đó, bạch Phật. Phật dạy: Không quán từ chân trước.
Lại có Tỳ-kheo quán một bên người chết, dựng tử thi dậy, quỷ lại nhập vào trong tử thi, trương mắt, le lưỡi, lấy tay đánh, do vậy, bạch Phật. Phật dạy: Đừng nên quán một bên mà nên quán phía trước đầu.
Lại có Tỳ-kheo vì y nên đào thây người mới chết lên, các Cư sĩ thấy chê trách, nói: Sa-môn Thích tử này hôi thối, bất tịnh, tại sao hạng người này lại đến trong nhà ta? Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bạch Phật. Phật dạy: Không được đào thây người chết, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Lại có Tỳ-kheo đem xương người chết để trong Tăng phường, có người đem đầu lâu của người chết để chỗ kinh hành, hoặc dưới giường. Các Cư sĩ thấy chê trách, nói: Các Tỳ-kheo bất tịnh, khả ố, tại sao đem xương người chết để trong Tăng phường, giống như gò mả, chứa đầu lâu người chết như chứa bình bát?! Các Tỳ-kheo đem vấn đề này bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm như vậy, cũng như không nên lấy tay cầm lấy xương người chết, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có Tỳ-kheo đau mắt, thầy thuốc bảo: Lấy xương trán của người mài để nhỏ vào mắt. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật không cho phép chúng tôi cầm xương người chết, nên cho phương thuốc khác. Thầy thuốc nói: Không có phương thuốc nào khác có thể trị được. Các Tỳ-kheo khởi ý niệm: Nếu Đức Thế Tôn cho phép khi có bệnh được nắm xương người chết thì bệnh này có thể lành được, do đó, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép ở chỗ vắng lấy xương, lớn như hai ngón tay mài để nhỏ mắt.
Có các Tỳ-kheo ăn mè, mật, cá, thịt, đến nơi gò mả tìm y phấn tảo, quỷ thần không vui. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên ăn các vật này mà đến nơi gò mả.
Có các Tỳ-kheo ở trong Tăng và nhà bạch y, ăn mè, mật, cá, thịt, trên lộ trình phải xuyên qua gò mả, sợ đi tránh đường khác, do đó, bị lạc đoàn, bạch Phật. Phật dạy: Nếu không sợ thì cho phép đi qua một bên. Có các Tỳ-kheo thường đến nơi gò mả, khi xin được cá, thịt ăn, không dám trở lại nơi ấy, bạch Phật. Phật dạy: Nếu không sợ thì cho phép trở lại.
Có các Tỳ-kheo, ngày mồng tám, mười bốn, mười lăm trong tháng, tới lui nơi gò mả tìm y phấn tảo, các quỷ thần vào những ngày ấy cũng tập hợp, nói với các Tỳ-kheo: Nay là ngày chúng tôi tập hợp, lý do gì các thầy lại đến? Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Những ngày ấy không nên đến nơi gò mả. Tỳ-kheo thường ở nơi gò mả và trên lộ trình, ngày ấy đều không dám tới nơi gò mả, bạch Phật. Phật dạy: Nếu không sợ thì được phép.
Có các Tỳ-kheo đại tiểu tiện nơi gò mả, các quỷ thần chê trách nói: Tại sao lại đại tiểu tiện nơi trú xứ của chúng tôi? Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Có gò mả rộng xa, các Tỳ-kheo đi ngang qua không dám hành sự, do đó bị bệnh, bạch Phật. Phật dạy: Nên khảy móng tay trước vậy sau mới đại tiểu tiện. Nếu quỷ thần muốn nghe kinh điển nên tụng kinh nói pháp, đó là điều nên làm.
Khi ấy, Vua Ca-di đem y báu Khâm-bà-la tặng cho Kỳ-vức. Kỳ-vức liền đem đến Tăng phường cúng cho Tăng, các Tỳ-kheo không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên thọ dụng để trang nghiêm bảo tháp.
Có các Tỳ-kheo nhận được thảm, lụa tạp sắc lông dài hay ngắn và không có lông, không dám thọ, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép thọ, nếu tạp sắc thì cho phép giặt cho hoại sắc rồi mặc. Nếu không thể khiến cho sắc thuần kia hoại đi thì cho phép mặc trong Tăng phường.
Có các Tỳ-kheo nhận được dạ đã thành và chưa thành, không dám thọ để may, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép thọ nhận để may.
Có các Tỳ-kheo muốn lượm y phấn tảo nơi ngả tư đường hẻm, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép lượm.
Khi ấy, có bạch y nơi đường hẻm cởi y để đại tiểu tiện, các Tỳ-kheo tưởng là y phấn tảo, lấy. Người kia nói: Đại đức, đừng lấy y của tôi. Tỳ-kheo nói: Tôi tưởng là y phấn tảo cho nên lấy. Bạch y lại nói: Thầy không ngó kỹ để lấy, lấy như vậy thành lấy trộm. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Nên xem xét kỹ có bụi bặm, có nám nắng, có vẻ lâu cũ, nhận xét kỹ rồi hỏi người, vậy sau mới lấy. Các Tỳ-kheo lượm y phấn tảo, chưa giặt mà đem vào trong phòng, hôi thối, bất tịnh, bạch Phật. Phật dạy: Không nên chưa giặt mà đem vào trong phòng. Có các Tỳ-kheo lượm y phấn tảo không giặt liền, để sinh trùng, bạch Phật. Phật dạy: Nên giặt sạch liền.
Có các Tỳ-kheo nơi ao sạch và trong dòng nước sạch mà giặt y phấn tảo, bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Có các Tỳ-kheo lấy chậu sạch giặt y phấn tảo, bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm vậy.
Đức Phật từ thành Vương-xá, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo Tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị du hành trong nhân gian. Các Tỳ-kheo vác y phấn tảo, trông thấy việc này, Đức Phật khởi ý niệm: Ta nên vì các Tỳ-kheo quy định thời hạn y của gia chủ dâng cúng.
Bấy giờ, Vua Bình-sa nghe Đức Phật cùng một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo du hành trong nhân gian khởi ý niệm: Nay ta có thể dùng bốn loại binh, nhằm thị vệ Đức Thế Tôn du hành trong lĩnh vực của nước ta. Nghĩ rồi liền ra lệnh trang nghiêm bốn loại binh theo hầu sau Đức Phật. Tuần tự qua các nơi, Đức Phật đi đến sông Hằng, muốn tới nước Bạt-kỳ phải lội qua sông. Tôn giả Mục-liên nghĩ: Nếu dùng thuyền để qua sợ nhà Vua chờ lâu, phế bỏ công việc, nay ta nên dùng thần lực khiến cho nước cạn. Nghĩ rồi liền khiến cho nước cạn, Đức Phật cùng các Tỳ-kheo đồng loạt lội qua. Đức Phật đến bờ bên kia, nói kệ:
Tinh tấn là thuyền bè
Vượt qua sông rộng sâu
Ai người thấy việc này
Không phát tâm tín kính?
Khi ấy, Vua Bình-sa khởi ý niệm: Đức Phật đã ra khỏi biên cương của nước ta, ta nên lui về. Vua liền chấp tay từ xa kính lễ rồi trở lui. Đến nơi thôn Quật Trà, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Có bốn pháp, Ta và các ông, khi chưa đạt được thì ở trong sinh tử luân hồi không bờ bến. Bốn pháp đó là gì? Đó là: Thánh giới, Thánh định, Thánh huệ và Thánh giải thoát. Nay đã đạt rồi, sinh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã làm xong. Đức Phật vì các Tỳ-kheo nói kệ:
Giới định tuệ giải thoát
Nay Ta giác ngộ rồi
Đoạn hết các nguồn khổ
Nên vì các ông nói.
Lúc này, Đức Phật hướng dẫn năm trăm Tỳ-kheo du hành nơi nước Bạt-kỳ, muốn đến thành Tỳ-xá-ly. Nơi đó có dâm nữ tên là A-phạm-hòalợi, nghe Đức Phật Thế Tôn có đại danh đức, hiệu Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, những lời Ngài dạy đầu, đuôi, chặng giữa đều thiện, đầy đủ tướng phạm hạnh thanh tịnh, đang du hành nơi các nước, sắp đến thành này, vui mừng nói: Lành thay, ta nguyện muốn yết kiến. Bà liền cho trang hoàn xe bốn ngựa, với năm trăm kỹ nữ tùy tùng, ra nghinh đón Đức Thế Tôn. Đức Phật từ xa trông thấy, bảo các Tỳ-kheo: Các thầy, mỗi người đều nên hệ niệm tại tiền, tự phòng hộ tâm mình, đó là lời dạy của chư Phật. Thế nào gọi là hệ niệm? Nghĩa là thực hành bốn niệm xứ, quán nội thân, tuần tự quán nơi thân để trừ vô minh, khổ của thế gian. Quán ngoại thân, nội, ngoại thân và thọ, tâm pháp cũng như vậy. Tại tiền là thế nào? Nghĩa là đi, đứng, ngồi, nằm, ngủ, thức, tới, lui, dòm ngó trước sau, co giãn, cúi ngửa, mặc y, bưng bát, ăn uống, đại tiểu tiện, nói, nín, thường trụ tâm nơi đó. Ấy là lời dạy của Ta. A-phạm-hòa-lợi từ xa trông thấy Đức Thế Tôn dung mạo thù thắng, các căn tịch định, có ba mươi hai tướng của bậc đại nhân, tỏa sáng quanh một tầm, giống như núi vàng, điều hoan hỷ, niềm tín kính càng tăng lên, bà đến trước Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên. Đức Phật vì bà nói các pháp nhiệm mầu, chỉ vẽ sự lợi ích, bà vui mừng rồi bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Phật và chư Tăng nghỉ đêm nơi vườn của con và ngày mai con xin mời thọ trai. Đức Phật nhận lời bằng sự im lặng. A-phạm-hòa-lợi biết Đức Phật nhận lời mời rồi bèn kính lễ, nhiễu quanh và cáo lui.
Khi ấy, năm trăm Ly xa nghe Đức Phật cùng Tỳ-kheo Tăng du hành trong nước hướng đến thành này, cùng nhau lập quy ước nghinh đón Đức Phật, nếu ai không đi đón sẽ vị phạt năm trăm kim tiền. Tuân hành quy ước mọi người đều đi, hoặc cỡi ngựa xanh, xe xanh thì y phục của tất cả quyến thuộc cũng đều xanh. Vàng, đen, đỏ, trắng đều cũng như vậy. A-phạm-hòa-lợi giữa đường gặp họ, không chịu tránh đường. Các Ly xa nói: Lý do gì không tránh đường khiến cho xe ngựa đụng nhau? A-phạm-hòa-lợi nói: Tôi thỉnh Phật và Tăng nghỉ lại nơi vườn của tôi và sáng mai cúng dường nên không có đủ thì giờ để tránh. Các Ly xa nói: Chúng tôi cũng muốn thỉnh Phật, bà để chúng tôi thỉnh trước. Bà ta đáp: Đức Phật đã nhận lời thỉnh của tôi rồi, tôi không thể nhường được. Các Ly xa nói: Tôi biếu bà năm trăm ngàn lượng vàng, bà để tôi thỉnh trước. Bà ta vẫn trả lời như trên. Các Ly xa lại nói: Biếu cho bà tài vật phân nửa nước có được không? Bà ta nói: Giá như cả nước cũng không thể được. Nếu các ông có thể bảo đảm ba việc này cho tôi khỏi mất thì tôi mới chấp thuận. Các Ly xa hỏi: Ba việc ấy là gì? Một là bảo đảm thân mạng tôi không bị chết yểu. Hai là bảo đảm của cải tôi không bị tổn thất. Ba-là bảo đảm Phật thường ở đây chứ không đi chỗ khác. Các Ly xa nói: Tài sản tổn thất chúng tôi có thể cho được, nếu Đức Phật đi chỗ khác chúng tôi có thể mời ở lại, nhưng sự nguy khốn của mạng sống nơi bà ai dám bảo đảm? Ly xa nói xong, nổi giận bỏ đi. Đức Phật từ xa thấy các Ly xa đến, bảo các Tỳ-kheo muốn biết chư Thiên ở cõi Đao-lợi xuất nhập như thế nào thì hình ảnh các Ly xa đây không khác. Các Ly xa thấy Phật dung mạo thù thắng… giống như núi vàng, liền xuống xe đi bộ, tiến đến trước Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên. Lúc đó trong chúng kia có một thanh niên tên Tân-kỳ-da, từ chỗ ngồi đứng dậy, để trống vai bên phải, quỳ gối, chấp tay, bạch Phật: Con muốn dùng kệ khen ngợi Thế Tôn. Đức Phật dạy: Tùy ý ông. Người thanh niên liền nói:
Bình-sa được thiện lợi
Ương già mang giáp báu
Phật xưa sinh nơi đây
Tiếng vang như sấm sét.
Cũng như hoa mới nở
Ngạt ngào, ngát mùi thơm
Xem Phật thân sáng tỏa
Như mặt trời rực rỡ.
Như trăng tròn vằng vặc
Trên vòm trời không mây
Thế Tôn thân sáng chói
Lồng lộng không gì hơn.
Phật huệ soi cùng khắp
Tiêu diệt lòng tối tăm
Cho thế gian con mắt
Quyết đoán các nghi hoặc.
Các Ly xa nghe kệ đều hoan hỷ, liền tặng cho năm trăm chiếc áo, người thanh niên nói: Tôi không cần áo, nguyện được thỉnh Phật trước. Đức Phật dạy Ly xa: Có thể cho phép thỉnh trước. Manạp liền thỉnh Phật và Tăng. Y vẫn được tặng. Ma-nạp nhận được y liền dâng cúng Phật. Đức Phật thọ nhận, bảo các Ly xa: Ở đời có năm điều quý báu rất khó được gặp.
Chư Phật Thế Tôn.
Những lời do Đức Phật dạy.
Hiểu rõ lời Phật dạy.
Làm theo điều đã nghe.
Người không quên ân nhỏ.
Các Ly xa nghe pháp hoan hỷ, cùng nhau nghị bàn: Đức Phật không ở đây lâu, mỗi người cúng riêng rẻ không thể nào giáp khắp được. Nay ta nên tập trung tất cả phẩm vật rồi tùy theo đó mà cúng dường hằng ngày. Chẳng phải chủng tộc ta thì không cho phép dựa vào.
A-phạm-hòa-lợi suốt đêm làm các thức ăn ngon bổ rồi, sáng ngày đem đến nơi vườn, trải tọa cụ xong, thỉnh Phật và Tăng thọ trai. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Các thầy hệ niệm, cùng thọ bữa trai này. Tất cả đều an tọa nơi tòa. Nại nữ tự tay pha chế thức ăn một cách hoan hỷ, không lẫn lộn. Thọ trai xong, dùng nước rồi, Nại nữ đứng lui qua một bên, bạch Phật: Các vườn nơi Tỳ-xá-ly, vườn này là đệ nhất, con sửa soạn nơi vườn này là muốn làm việc phước, nay xin dâng cúng Đức Thế Tôn, xin Ngài nhận lấy. Đức Phật dạy: Nên cúng cho Tăng để được quả báo lớn. Nại nữ lại một lần nữa xin cúng cho Phật. Đức Phật dạy: Nên cúng cho Tăng, trong Tăng có Ta. Nại nữ vâng lời Phật dạy, liền dâng cúng cho Tăng, rồi lấy cái ghế nhỏ, ngồi trước Đức Phật, Đức Phật vì Nại nữ nói kệ tùy hỷ, như kệ Đức Phật đã nói cho Tỳ-lan-nhã… Đức Phật lại nói các pháp vi diệu, chỉ bày sự lợi ích, bà hoan hỷ, liền từ nơi chỗ ngồi được mắt pháp trong sạch. Kế đó, thọ ba quy và năm giới, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy kính lễ Đức Phật và cáo lui. Sau đó, các Ly xa cúng dường theo kế hoạch đã nghĩ bàn.
Đức Phật từ Tỳ-xá-ly tuần tự du hành đến pháp Bát-già-la. Khi ấy vào mùa Đông, Phật mặc một chiếc áo, ngủ nơi đất trống. Phần đầu của đêm vừa qua, cảm thấy lạnh, lại mặc thêm một chiếc áo. Quá giữa đêm, cảm thấy lạnh, lại mặc thêm một chiếc áo nữa. Không thấy khốn khổ do lạnh, Phật khởi ý nghĩ: Vị lai các Tỳ-kheo nếu không phải hứng chịu sự lạnh lẽo thì nên chứa đủ ba y để chế ngự. Nay Ta có thể vì các Tỳ-kheo quy định chứa ba y. Do việc này, sáng ngày Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Trước đây, khi du hành nơi thành Vương-xá, thấy các Tỳ-kheo phải mang nặng vì y, bấy giờ muốn quy định mức lượng y của gia chủ cúng thí. Đêm vừa qua, thời tiết rất lạnh, trước hết Ta mặc một y, giữa đêm cảm thấy lạnh, lại mặc thêm một y, cuối đêm còn cảm thấy lạnh, lại mặc thêm một y nữa. Ta thấy an ổn vì có đủ sự ấm áp, liền khởi ý nghĩ: Vị lai các Tỳ-kheo, muốn khỏi chịu rét vì lạnh nên mặc ba y, để chế ngự nó. Ta nay có thể vì các Tỳ-kheo quy định cho chứa cất ba y. Nay do mười điều lợi nên vì các Tỳ-kheo quy định chứa ba y, không cho phép chứa dư. Nếu y bị hư hoại cho phép tu bổ, dùng kim chỉ vá lại, bị lủng lỗ cũng cho phép vá lại cho thẳng.
Khi ấy, các Tỳ-kheo chứa y Câu-tu-la, các Cư sĩ thấy, dị nghị nói: Tỳ-kheo mặc Câu-tu-la, đâu có khác gì chúng ta mặc y trùm đầu? Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép mặc y Câu-tu-la, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có một Tỳ-kheo, y An-đà-hội bị hư hoại, quyền biến hiệp lại may thành Câu-tu-la để mặc, sau đó sinh nghi hối, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép tạm thời may để mặc.
Có các Tỳ-kheo cất chứa y trùm đầu và có tụ y Câu nhiếp mặc lên trên. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép chứa y trùm đầu và y có tay, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Nếu nhận được cho phép thọ nhận rồi phá ra làm y khác.
Có một ngoại đạo dùng chỉ tạp sắc may vá trên y, làm điều bức, sau đó, xuất gia trong Phật pháp cũng mặc y ấy, các Cư sĩ thấy chê trách nói: Sa-môn Thích tử mặc y ngoại đạo, không thể phân biệt được, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép mặc y ngoại đạo, vi phạm, phạm Thâu-lan-giá. Nếu không biết đó là y ngoại đạo, nhưng chẳng phải được Phật cho phép, đều nên phá ra. Nếu biết là y của ngoại đạo thì nên quăng xuống lót đất, khiến cho người đạp lên trên cho mau hư hoại.
Có các Tỳ-kheo ngồi thiền bên gốc cây, bị chim làm ồn và làm nhớp thân thể, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép đuổi chim đi hay làm nhà ngồi thiền.
Có các Tỳ-kheo muốn đến nơi gò mả để lấy y của người chết, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép lấy. Quý vị bèn lấy, sau đó Tỳ-kheo khác cũng đến lấy y, thấy Tỳ-kheo đến lấy trước nói: chia cho tôi với. Tỳ-kheo kia không chia, bạch Phật. Phật dạy: Nên cùng chia. Có các Tỳ-kheo có mặt trước nơi gò mả, nhận được y, chia cho Tỳ-kheo đến sau, khi chia lại có Tỳ-kheo đến đòi chia cho mình, các Tỳ-kheo không chia, bạch Phật. Phật dạy: Nên cùng chia. Chia phần rồi, mỗi người đều muốn ra về, lại có Tỳ-kheo đến đòi chia, các Tỳ-kheo không chia, bạch Phật. Phật dạy: Cũng nên chia cho nhau. Chia rồi, mỗi người đều sắp ra khỏi gò mả, lại có Tỳ-kheo đến đòi chia phần, các Tỳ-kheo không chia, bạch Phật. Phật dạy: Nên chia cho nhau. Chia rồi mỗi vị đều ra khỏi gò mả, lại có Tỳ-kheo đến đòi chia phần, các Tỳ-kheo không chia, bạch Phật. Phật dạy: Không nên chia.
Có một Tỳ-kheo mặc y, bưng bát vào thôn khất thực, khởi ý niệm: Giờ này vào thôn khất thực, còn sớm, bèn vào gò mả, nhận được nhiều y, nhận được rồi lại khởi ý nghĩ: Nếu đem vào thôn thì nặng và xấu hổ, muốn đem về, nhưng khi ấy lại sợ quá giờ, bèn đem thu giấu, rồi đi khất thực. Lại có một Tỳ-kheo, sau khi ăn xong về trước, đến nơi gò mả để tìm y, thấy y của Tỳ-kheo trước thu giấu, bèn lấy đem đi. Tỳ-kheo trước, ăn xong đến lấy y, chỗ y không còn nữa. Quay về Tăng phường thấy một Tỳ-kheo đang giặt y đó, nói: Thầy đừng giặt y của tôi. Tỳ-kheo kia nói: Không phải của thầy. Tỳ-kheo trước trình bày đầy đủ sự việc. Tỳ-kheo kia nói: Vật nơi gò mả không có chủ lấy gì làm chứng? Bạch Phật. Phật dạy: Nên thuộc về Tỳ-kheo trước, từ nay nếu nhận được y nơi gò mả nên làm dấu.
Có Tỳ-kheo lấy xương của người chết làm dấu, các Tỳ-kheo đến sau tưởng là chim tha rơi lên trên y, nên lấy y đi. Bạch Phật. Phật dạy: Không nên lấy xương người chết làm dấu.
Lại có Tỳ-kheo dùng nước màu đỏ làm dấu, các Tỳ-kheo tưởng là máu nhớp, bèn lấy y đi, bạch Phật. Phật dạy: Không nên dùng nước màu đỏ làm dấu, nên dùng màu xanh, màu đen, màu lam, hoặc lấy miếng y cà sa dán lên trên.
Có các Tỳ-kheo cùng nhau phân công, phân nửa vào thôn khất thực, phân nửa đến gò mả tìm y, khi trở về cùng chia nhau. Giao ước như vậy rồi đi. Người đến bãi tha ma tìm được nhiều y, hối hận nghĩ: Ta được y thuộc về của ta, quý vị kia nhận được nhiều thức ăn thuộc về quý vị, không thể chia cho nhau. Tỳ-kheo khất thực, khi trở về, đem thức ăn chia, Tỳ-kheo tìm được y không nhận, nói như trên. Tỳ-kheo khất thực nói: Trước cùng nhau giao ước rõ ràng, tại sao lại thay đổi? Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên cùng chia cho nhau. Tỳ-kheo lấy y, khi được y rồi giao ước, nếu có thể mang y này về chỗ ở, sẽ chia ra hai phần. Khi mang về đến nơi, lại đổi ý kiến không cho, bạch Phật. Phật dạy: Nên chia cho nhau. Giặt y cũng vậy.
Có một Tỳ-kheo đến nơi gò mả, thấy một người mới chết, muốn lấy chiếc y của họ, dựng đứng xác chết lên, quỷ nhập vào người chết, nói thành tiếng: Đại đức đừng lấy y của tôi. Tỳ-kheo nói: Ngươi đã chết chẳng phải là y của ngươi. Nói xong, cưỡng đoạt y. Người chết kêu lớn, theo đến Tăng phường. Các quỷ thần thiện không cho vào, bèn đứng ngoài cửa. Thấy Tỳ-kheo ra vào, nói:
Có một Tỳ-kheo đoạt y của tôi đi vào đây, nhờ nói vị ấy hoàn lại cho tôi. Các Tỳ-kheo vào hỏi: Có một người đứng ngoài cửa nói: Có Tỳ-kheo đoạt y của họ đi vào đây, ai là người đoạt y ấy? Tỳ-kheo lấy y nói: Y này là của người đã chết, chứ không phải của người sống. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Phật dạy: Nếu thân người mới chết chưa hư hoại, dựng đứng thây chết dậy, quỷ vẫn có thể nhập vào, không nên lấy y ấy, cần phải trả lại. Nếu lấy y của người mới chết, thân chưa hư hoại, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo kia liền đem y trả lại. Thây chết nhận được y liền ngã xuống đất. Tỳ-kheo kia bạch Phật. Phật dạy: Có thể mang đến nơi gò mả. Tỳ-kheo liền đem y đi, thây chết kia đứng dậy đi theo sau. Khi đến gò mả, đem y trải xuống đất thây chết lại ngã xuống. Có một Tỳ-kheo đến nơi gò mả thấy một người mặc chiếc y Khâm-bà-la mới, nằm trong bóng cây, tưởng là người chết, khởi ý niệm: Đức Phật không cho phép ta lấy y người chết, thân chưa hư hoại, bèn muốn đánh bể đầu người kia. Người kia hoảng hồn đứng dậy nói: Đại đức, nào có phạm điều gì mà đánh bể đầu tôi? Tỳ-kheo nói: Tôi tưởng ông là người chết. Người kia nói: Thầy há không thấy tôi còn thở sao? Tại sao vì chiếc y mà muốn đoạt mạng sống của tôi! Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên tự mình đánh hoặc sai người đánh xác người chết để khiến cho y hư hoại. Nếu vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nhận được y Kíp bối, không cắt phần tua vải ở đầu mà mặc, các Cư sĩ dị nghị, nói: Sa-môn Thích tử cũng mặc loại y này, cùng chúng ta đâu có khác gì? Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên mặc, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Lúc này, Đức Thế Tôn cùng đầy đủ một ngàn hai trăm năm mươi Đại Tỳ-kheo du hành nhân gian về nơi phương Nam. Từ trên núi nhìn xuống thấy các thửa ruộng nước, xung quanh đắp bờ rất khéo, Đức Phật nghĩ: Các Tỳ-kheo của ta nên may y như vậy. Ngài liền hỏi Tôn giả A-nan:
Ông có thấy các thửa ruộng này không? Bạch Thế Tôn! Có thấy. Phật bảo Tôn giả Anan:
Các Tỳ-kheo nên mặc y như vậy, ông có thể thực hiện được không?
Bạch Thế Tôn! Con có thể làm theo.
Vâng lời dạy, A-nan tự may, cũng dạy cho các Tỳ-kheo may, hoặc một đoạn dài, một đoạn ngắn, hoặc hai đoạn dài, một đoạn ngắn, hoặc ba đoạn dài một đoạn ngắn, lá điều bên trái thì gấp xếp về phía bên trái, lá điều bên phải thì gấp xếp về phía bên phải, lá điều chính giữa thì phủ đều qua hai bên. May xong, mặc thật thích nghi. Đức Phật thấy rồi bảo các Tỳ-kheo:
Tôn giả A-nan có đại trí tuệ, nghe Ta lược nói mà may đúng như pháp. Đây gọi là y cắt rọc, không giống bất cứ y nào, so cùng y các ngoại đạo thì khác hẳn. Oan gia, đạo tặc lại không lấy để làm gì. Từ nay cho phép các Tỳ-kheo cắt rọc may thành ba y, nếu bị rách nên vá lại.
Đức Phật ở thành Tỳ-xá-ly, có một trú xứ, đất thấp rất ẩm ướt, nhiều loại mòng muỗi, các Tỳ-kheo không thể ở được. Các vị về các thành: Xávệ, Chiêm-bà, Ca-duy-la-vệ, Vương-xá để An cư. Trú xứ ấy bị bỏ trống. Các Cư sĩ nói: Đại đức có thể ở đây An cư, chúng con sẽ cung cấp thức ăn uống. Các Tỳ-kheo nói: Nơi đây có nhiều mòng muỗi không thể ở được. Các Cư sĩ lại thưa: Miễn Đại đức ở lại chúng con sẽ đưa màn đến. Các Tỳ-kheo không biết có được phép nhận hay không, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép nhận. Các Tỳ-kheo không biết may lớn nhỏ thế nào. Bạch Phật. Phật dạy: Nên tùy theo giường lớn nhỏ mà may.
Các Tỳ-kheo thường mặc một y vào trong xóm làng rồi về lại Tăng phường, không thay đổi y, y bị mồ hôi làm nhớp nhúa bất tịnh. Các Cư sĩ thấy chê bai nói: Sa-môn Thích tử bất tịnh, gớm ghiếc, thường mặc một y ra vào trong xóm làng. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Ở nơi Tăng phường nên mặc y lót, không nên mặc y bẩn nhớp vào trong làng xóm. Các Tỳ-kheo không có phòng xá để ở, muốn làm phòng mới, bạch Phật.
Phật dạy: Cho phép ở trong Tăng phường, vì Tăng mà làm. Các Tỳ-kheo khác không yểm trợ, bạch Phật. Phật dạy: Nên yểm trợ. Các Tỳ-kheo bèn yểm trợ lâu dài, trở ngại việc tọa thiền hành đạo, bạch Phật. Phật dạy: Không nên yểm trợ lâu dài, nếu đương sự không đủ sức thì mới yểm trợ. Các Tỳ-kheo khi làm việc y bị nhơ nhớp hư hoại, thường phải giặt và vá nên trở ngại việc ngồi thiền, hành đạo, bạch Phật. Phật dạy: Tăng nên may loại y để mặc khi làm việc. Các Tỳ-kheo xấu hổ không dám mặc y lót mình, bạch Phật. Phật dạy: Vì Tăng, khi làm việc, cho phép tùy ý mặc. Các Tỳ-kheo mặc y của Tăng hơi nhớp một chút, bèn đem giặt, do đó mau rách, bạch Phật. Phật dạy: Không nên giặt thường xuyên, làm xong việc sau đó mới giặt.
Các Tỳ-kheo muốn làm chỗ kinh hành mới, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép làm. Các Tỳ-kheo lại làm không thẳng, bạch Phật. Phật dạy: Nên làm thẳng. Các Tỳ-kheo muốn làm đường kinh hành cao, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép làm cao. Hai bên đường đi kinh hành lại bị hư, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng đất thổ trắng, cũng cho phép dùng vải, hay cỏ Bà bà đắp lên trên.
Khi đại hội, người nhiều phòng ít, các Tỳ-kheo không có chỗ ở, bạch Phật. Phật dạy: Trong phòng có nhiều chỗ để ngồi, cho phép trải vải ngồi để trống chính giữa. Các Tỳ-kheo ở cùng một phòng lại cùng nhau làm ồn. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng vải ngăn lại, cũng cho phép làm cái lỗ hổng. Các Tỳ-kheo ngồi dựa nơi vách, các Cư sĩ thấy chê trách nói: Sa-môn Thích tử này già rồi mới xuất gia nên không có oai nghi, tại sao lại dựa nơi vách mà ngồi? Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên ngồi dựa nơi vách. Có các Tỳ-kheo già bệnh không thể tự mình nắm lấy cỏ kết chỗ ngồi để dựa, làm nhơ nhớp trong phòng, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên buộc cỏ để dựa, cho phép làm các dây ngồi thiền, kín đáo nơi ghế. Các Tỳ-kheo làm dây ngồi thiền rộng, bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm quá tám ngón tay. Các Tỳ-kheo lại làm dây ngồi thiền hẹp, bạch Phật. Phật dạy: Không nên hẹp hơn năm ngón tay. Các Tỳ-kheo lại làm dây ngồi thiền bằng tạp sắc, bạch Phật. Phật dạy: Nên làm một màu, nếu các loại tạp sắc thì nên giặt nhuộm cho hoại sắc, vậy sau mới cho phép dùng.
Lúc ấy, Trưởng lão Kha-hưu nhận được một chiếc y, muốn làm An-đà-hội thì dài quá, muốn làm Tăng-già-lê, Ưu-đa-la-tăng thì lại thiếu, nên thường phải kéo cho nó rộng ra. Đức Phật đi đến các phòng, thấy hỏi: Thầy làm gì vậy? Đương sự trình bày đầy đủ sự việc. Phật dạy: Nếu không đủ thì nên làm ba dài, một ngắn, nếu lại không đủ thì nên làm hai dài, một ngắn, nếu cũng không đủ thì làm một dài, một ngắn. Nếu lại cũng không đủ nữa thì cho phép may ép làm thành lá. Trưởng lão Kha-hưu lại nhận được một tấm vải, thiếu không đủ cắt rọc may ba y, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép cắt rọc may Tăng-già-lê, Ưu-đa-la-tăng và Man-an-đà-hội.
Khi có đại chúng hội hợp, các bạch y đem y cúng dường, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép nhận. Các bạch y muốn chú nguyện, bạch Phật. Phật dạy: Nên vì họ chú nguyện. Các Tỳ-kheo không biết chú nguyện, bạch Phật. Phật dạy: Nên khiến vị Duy na chú nguyện. Quý vị không biết đem để chỗ nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên như trước, bạch nhị Yết-ma, để ngay chính giữa phòng. Quý vị không biết giao ai giữ lấy, bạch Phật. Phật dạy: Nên như trước, bạch nhị Yết-ma, sai một Tỳ-kheo giữ lấy. Các Tỳ-kheo bèn Yết-ma, sai Tỳ-kheo vô trí, không phân biệt được y tốt xấu, bạch Phật. Phật dạy: Người có năm pháp sau đây không nên sai giữ lấy y: ái, sân, sợ, si, không biết y tốt xấu. Các Tỳ-kheo chia y nơi chỗ ồn ào, y bị mất, Tỳ-kheo giữ y bị mang tiếng xấu, bạch Phật. Phật dạy: Nên chia nơi chỗ vắng.
Lúc chia y có Tỳ-kheo khách đến, Tỳ-kheo cựu trú hỏi: Hôm đó, thầy ở đâu? Tôi ở chỗ ấy, các Tỳ-kheo nói: Chúng tôi nhận được y ngày ấy, Tỳ-kheo này ở trong giới, vấn đề chia y này không thành, bạch Phật. Phật dạy: Ngày nhận được y, có Tỳ-kheo, tưởng có Tỳ-kheo, chia y không thành, phạm Đột-kiết-la. Có Tỳ-kheo, nghi cũng như vậy. Không Tỳ-kheo, tưởng có Tỳ-kheo, thành chia y, mắc tội Đột-kiết-la. Không Tỳ-kheo, nghi cũng như vậy. Không Tỳ-kheo, tưởng không Tỳ-kheo, thành chia y, không phạm.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo không có đồ lót thân, nằm trên ngọa cụ của Tăng ô uế bất tịnh. Lại có một Tỳ-kheo không có đồ lót thân, nằm trên ngọa cụ của Tăng, chân đạp ngọa cụ bị hỏng, bạch Phật. Phật dạy: Vì hộ thân, hộ y, hộ ngọa cụ của Tăng cho phép sắm Đơn phu, trải trên ngọa cụ của Tăng.
Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo, do Phật không cho phép dùng đồ lót thân, nằm trên ngọa cụ của Tăng dùng vật rộng vài tấc làm phu cụ trải trên ngọa cụ của Tăng, bạch Phật. Phật dạy: Bề dài, bề rộng nên như ngọa cụ. Các Tỳ-kheo không hệ niệm, ngủ bị xuất bất tịnh, nhớp Đơn phu, bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng tọa cụ trải trên Đơn phu. Có các Tỳ-kheo bị mọt cắn, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép làm riêng một cái rộng dài hơn cái Đơn phu, trải xuống dưới, thòng xuống xung quanh giường mỗi bên một thước.
Bấy giờ, Tôn giả Ưu-ba-ly hỏi Phật: Bạch Thế Tôn! Có bao nhiêu loại y nên thọ trì? Đức Phật dạy: Có ba loại y nên thọ trì: (y Phấn tảo, y Tăng-già-lê, y An-đà-hội). Ngoài ra y lót thân, y đắp, y tắm mưa, y che ghẻ, y ngăn mòng muỗi, y trải chỗ đi kinh hành, y ngăn mọt, y đơn phu, y tọa cụ, y bảo vệ đầu gối, y bảo vệ gót chân, y bảo vệ đầu, các loại khăn lau thân, lau tay, lau mặt, đãy đựng kim chỉ, đựng bát, đựng giày dép, lọc nước, nếu tương tự như y đều nên thọ trì.
Có một Tỳ-kheo bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Ngài thường khen ngợi kẻ thiểu dục, tri túc, con rất vui mừng, con nguyện xin được sống lõa hình. Đức Phật dạy: Ngươi là người ngu si, muốn làm theo nghi pháp của ngoại đạo, vi phạm, phạm Thâu-lan-giá.
Có các Tỳ-kheo bạch Phật: Hoặc có người muốn làm y bằng tóc, y bằng da nai, y bằng da dê, y bằng lông chim, y bằng lông ngựa, y bằng đuôi trâu, y bằng cỏ, bằng vỏ cây, bằng lá. Đức Phật dạy: Ngươi là kẻ ngu si, muốn làm các pháp nghi của ngoại đạo. Tất cả pháp nghi của ngoại đạo đều không làm, nếu làm thì phạm Thâu-lan-giá.
Có một Tỳ-kheo bạch Phật, chúng con xin được phép bên trong mặc y Quán đầu, phủ lên trên bằng y Bạt na. Đức Phật dạy: Ngươi là kẻ ngu si, muốn làm theo pháp nghi của bạch y, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có các Tỳ-kheo muốn làm y Quán đầu bên trong, y Kíp bối bên ngoài, hoặc muốn may y Tô ma, y Ban kíp bối, hoặc muốn mang nhẫn nơi ngón tay, kẽ lông mày, mang giày dép tạp sắc, bạch Phật. Phật dạy: Ngươi là kẻ ngu si, đó là nghi pháp của bạch y, tất cả nghi pháp của bạch y đều không nên làm, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có một Tỳ-kheo bạch Phật, cho phép chúng con mặc y thuần màu xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Đức Phật dạy: Y màu thuần đen là y của đàn bà mặc khi sinh đẻ, vi phạm, phạm Ba-dật-đề, còn bốn sắc kia thì phạm Đột-kiết-la.
Khi ấy các Tỳ-kheo đầu bị lạnh, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng y trùm lên, cũng cho phép làm cái mão đội cho ấm. Có các Tỳ-kheo không mặc Tăng-kỳ-chi, vào trong xóm làng, hông và ngực bị bày ra, các người thấy bỡn cợt, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vào xóm làng phải mặc Tăng-kỳ-chi, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có các Tỳ-kheo mặc Tăng-kỳ-chi, bị gió thổi, bay xuống đất, bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng dây cột lại.
Có các Tỳ-kheo đứng trên chỗ cao cột dây, các người nữ ở chỗ thấp thấy hình thể cười cợt, các Tỳ-kheo xấu hổ, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép khi làm việc, lấy y từ phía sau choàng đến cột về phía trước. Lúc đó, Bạt-nan-đà biết trú xứ chưa chia phẩm vật cúng An cư, liền đến nói: Tại sao không chia gấp đi, nếu không chia, hoặc bị trùng cắn, hoặc bị nạn nước lửa v.v… nếu chia có thể được tự dụng, hoặc cho đệ tử hay làm các việc phước. Các Tỳ-kheo liền chia. Bạt-nan-đà nói: Các thầy không rành cái nào quý cái nào kém. Các Tỳ-kheo nói: Nếu thầy khá rành, hãy vì chúng tôi chia giùm và thầy tự lấy phần mình. Được cơ hội, Bạt-nan-đà liền chia, rồi lấy phần của mình mang đi ngay. Lại đến trú xứ khác cũng làm như vậy chứ không phải một chỗ: Được một gánh nặng, Bạt-nan-đà về lại trú xứ. Các Tỳ-kheo trông thấy khen: Thầy là người đại phước đức nên mới được số y như vậy. Bạt-nan-đà nói: Đâu phải do có phước mà được, do đến các trú xứ An cư dùng xảo ngôn mà được. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách chê trách: Tại sao An cư một chỗ mà lại nhận phẩm vật nhiều chỗ? Quý vị bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn! Sự thật con có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Ta thường nói thiểu dục, tri túc, tại sao ông lại thọ nhận nhiều mà không nhàm chán? Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Không nên An cư một chỗ mà nhận phẩm vật An cư nhiều chỗ, nếu vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Khi ấy, các Tỳ-kheo chỉ mặc y thượng và hạ vào trong xóm làng, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có các Tỳ-kheo mặc y lộn ngược vào xóm làng, các Tỳ-kheo thấy nói: Mặc y lộn ngược cùng với mặc y không cắt rọc có gì khác đâu, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có các Tỳ-kheo khi chưa vào thôn và khi ra khỏi thôn, bị cỏ cây móc y rách, bụi đất vào trong các phần lá, muốn lộn ngược y lại mà không dám, bạch Phật. Phật dạy: Vì bảo vệ y, nên khi chưa vào thôn và lúc ra khỏi thôn, cho phép lộn y lại.
Có các Tỳ-kheo nhuộm, làm điều lên Man y, lại có may cái lá dính vào y, hoặc may áp lá y hoặc làm áp lá y phân nửa hướng lên trên, phân nửa hướng xuống dưới, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có các Tỳ-kheo mặc y tạp sắc, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có các Tỳ-kheo, khi mưa, mặc y lộn ngược, nước vào trong lá y, hư mục, bạch Phật. Phật dạy: Khi mưa không nên mặc y lộn ngược, nếu lúc không mưa thì tùy ý mặc.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo có y, bát các vật, muốn dùng để cúng cho Tăng, bạch Phật. Phật dạy: Có chín cách nhận được của thí đều cho phép cúng cho Tăng:
1. Giới vức được thí.
2. Cần thiết được thí.
3. Hạn được thí.
4. Tăng được thí.
5. Tăng hiện tiền được thí.
6. Tăng An cư được thí.
7. Hai bộ Tăng được thí.
8. Giáo được thí.
9. Người được thí.
Giới vức được thí: Thí chủ nói: Cúng cho Tăng trong cương giới này. Như vậy gọi là giới vức được thí.
Cần thiết được thí: Khi Tăng An cư ở các cương giới cùng quy định, một trú xứ nhận được của thí đều chia cho nhau. Như vậy gọi là cần thiết được thí.
Hạn được thí: Thí chủ nói: Dâng cúng cho vị Tăng như vậy, như vậy. Như thế gọi là hạn được thí.
Tăng được thí: Thí chủ cúng cho Tăng, Tăng nên biết vật thí như thế tùy nghi phân chia. Như vậy gọi là Tăng được thí.
Tăng hiện tiền được thí: Thí chủ đối diện cúng cho Tăng. Như vậy gọi là Tăng hiện tiền được thí.
Tăng An cư được thí: Thí chủ nói: Cúng cho Tăng An cư nơi đây.
Như vậy gọi là Tăng An cư được thí.
Hai bộ Tăng được thí: Thí chủ cúng cho hai bộ Tăng, nếu Tỳ-kheo nhiều, Tỳ-kheo-ni ít, hay Tỳ-kheo-ni nhiều, Tỳ-kheo ít đều nên chia đôi. Nếu có Tỳ-kheo mà không có Tỳ-kheo-ni thì Tỳ-kheo nên chia hết. Nếu có Tỳ-kheo-ni mà không có Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo-ni nên chia hết. Như vậy gọi là hai bộ Tăng được thí.
Giáo được thí: Thí chủ yếu cầu Tăng, sử dụng như vậy, như vậy, thì cũng chia. Như thế gọi là giáo được thí.
Người được thí: Thí chủ nói: Con cúng cho thầy… như vậy gọi là người được thí.
Lại có năm cách được thí: Cúng cho Phật và Tăng, cúng cho Phật và Tỳ-kheo-ni, cúng cho Phật và hai bộ Tăng, vì người cúng cho Tăng với thời gian dài.
Có một Sa-di qua đời, các Tỳ-kheo không biết xử sự thế nào các vật cúng của ông ta, bạch Phật. Phật dạy: Nếu khi còn sống đã cho ai thì nên cho họ, nếu khi còn sống không cho ai thì nên chia cho Tăng hiện tiền. Có một Tỳ-kheo ít người quen qua đời, có y thượng, hạ và phi y, các Tỳ-kheo không biết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nếu khi sinh tiền không hứa cho ai thì Tăng hiện tiền nên chia. Nếu lúc sinh tiền đã hứa cho vị nào mà chưa đưa, Tăng nên bạch nhị Yết-ma đưa cho họ. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo tên… qua đời ở nơi đây, lúc sinh tiền có sở hữu hoặc y hoặc phi y, Tăng hiện tiền nên chia, trước đã cho Tỳ-kheo… nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo tên… qua đời ở nơi đây, lúc sinh tiền có sở hữu hoặc y hoặc phi y, Tăng hiện tiền nên chia, nay cho Tỳ-kheo… các Trưởng lão nào đồng y thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo… y rồi. Tăng đồng ý nên im lặng.
Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Có một Tỳ-kheo có nhiều người quen, được quốc vương, Đại thần nhiều người cúng dường, qua đời, rất nhiều của cải, các Tỳ-kheo không biết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nếu lúc sinh tiền đã hứa cho ai thì nên bạch nhị Yết-ma để cho. Nếu lúc sinh tiền không hứa cho ai, thì có thứ nên chia, có thứ không nên chia. Như y Bà-na, y Tôma, y Kíp bối, lông câu nhiếp dài năm ngón tay, hoặc Tăng-già-lê, Ưu-đa-la-tăng, An-đà-hội, hoặc y hạ, hoặc Xá-lặc, hoặc Đơn-phu, hoặc y lót thân, hoặc mền, hoặc tọa cụ, hoặc đãy đựng kim chỉ, đãy lọc nước, đãy đựng bát, đãy đựng giày dép, hoặc bát lớn, bát nhỏ, móc cửa, những vật như vậy thì có thể chia, Tăng hiện tại đều nên chia. Nếu là gấm, lụa là, lông bàng dạ, lông câu nhiếp quá năm ngón tay, hoặc áo tắm mưa, áo che ghẻ, mùng màn, kinh hành phu, hoặc đơn phu ngăn mọt, tọa cụ, giường nằm, giường ngồi, trừ loại bát bằng sành lớn hay nhỏ, đồ tưới nước, ngoài ra tất cả các đồ bằng sinh, trừ bát bằng sắt lớn hay nhỏ, móc cửa, kim, vật cắt móng tay, ngoài ra tất cả đồ bằng sắt, trừ các loại làm bằng đồng, như Đa-la thạnh nhãn vật làm thuốc, ngoài ra tất cả loại làm bằng đồng như tán cái, tích trượng, tất cả những vật như vậy đều không nên chia, mà thuộc đồ dùng của Tăng.
Có các Tỳ-kheo nhận được phẩm vật cúng An cư mà chưa chia, hoặc có người qua đời, có người hoàn tục, có người làm ngoại đạo, có người đi xa, có người làm Sa-di, có người thọ đại giới lại, có người biến thành hai căn, có người căn bị tiêu diệt, các Tỳ-kheo không biết nên giải quyết như thế nào, bạch Phật. Phật dạy: An cư nhận được phẩm vật cúng mà chưa chia, nếu qua đời, lúc sinh tiền vị ấy đã hứa cho ai, thì nên bạch nhị Yết-ma để cho. Nếu sinh tiền vị ấy không hứa cho ai, Tăng hiện tiền nên chia. Người hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo, đi xa, biến thành hai căn, căn tiêu diệt cũng như vậy. Làm Sa-di thì nên chia theo phần Sa-di, thọ đại giới lại thì nên chia theo phần của đại Tỳ-kheo.
Có các Tỳ-kheo khi An cư chưa nhận được phẩm vật cúng An cư, hoặc qua đời, cho đến căn biến, sau đó nhận được vật cúng, cũng như vậy. Tỳ-kheo-ni cũng như thế.
Bấy giờ, Điều-đạt nhận được phẩm vật cúng An cư chưa chia, Tăng bị phá, các Tỳ-kheo không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nếu Tăng chưa phá mà nhận được vật phẩm thì nên chia đều, nếu Tăng phá rồi, sau đó mới nhận được vật thì nên tùy theo chỗ dâng cúng mà chia.
Có Tỳ-kheo không đồng cương giới Tăng bị phá, sau đó, muốn làm các Yết-ma, cho người thọ giới Cụ túc, không biết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nếu Tăng đã bị phá, tuy đồng cương giới, cho phép tác Yết-ma, hành Tăng sự, không phạm biệt chúng.
Có một trú xứ, chỉ một Tỳ-kheo ở, chẳng phải thời gian An cư nhận được y dâng cúng cho Tăng, vị ấy khởi ý niệm: Phật dạy: Bốn người trở lên gọi là Tăng, nay ta chỉ có một người không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên thọ trì, hoặc tịnh thí, hay cho người, nếu không vậy, Tỳ-kheo khác đến nên cùng chia.
Nếu có trú xứ của Tỳ-kheo, chẳng phải thời gian An cư nhận được vật cúng cho Tăng, nếu không có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nên chia.
Nếu trú xứ của Tỳ-kheo-ni, chẳng phải thời gian An cư nhận được vật cúng cho Tỳ-kheo-ni Tăng, nếu không có Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo nên chia.
Nếu có trú xứ của Tỳ-kheo, chẳng phải thời gian An cư, Tỳ-kheo qua đời, không có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni nên chia. Nếu trú xứ của Tỳ-kheo-ni, chẳng phải thời gian An cư, Tỳ-kheo-ni qua đời, không có Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo nên chia. Thời gian An cư nhận được vật cúng, đều cũng như vậy.
Có một đệ tử của ngoại đạo, xuất gia trong pháp luật của Phật, các thân tộc người ấy đều nói: Tại sao bỏ đạo A-la-hán của ta, lại xuất gia trong Sa-môn Thích tử, nên bắt trở lại. Họ lại nói: Nếu đương sự nghe, hoặc có thể trốn thoát, Sa-môn Thích tử không phá An cư. Khi ấy đến bắt, chắc được không có nghi ngờ gì. Tỳ-kheo kia nghe không biết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép phá An cư đi. Tỳ-kheo kia bèn từ một trú xứ đến một trú xứ, không biết nên nhận phần phẩm vật An cư nơi trú xứ nào, bạch Phật. Phật dạy: Nếu ở trú xứ nào nhiều ngày hơn thì nhận phẩm vật An cư nơi trú xứ đó.
Có hai Tỳ-kheo cùng đi trên một lộ trình, một Tỳ-kheo bệnh, một Tỳ-kheo nuôi bệnh. Tỳ-kheo kia qua đời, Tỳ-kheo nuôi bệnh đem y bát đến chỗ Đức Thế Tôn, bạch Phật việc ấy. Nhân việc này Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nuôi bệnh rất khó khổ nay cho phép đem ba y và bát bạch nhị Yết-ma cho người nuôi bệnh. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo… qua đời, ba y và bát Tăng hiện tiền nên chia, nay đem cho người nuôi bệnh. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tỳ-kheo tên… qua đời, ba y và bát Tăng hiện tiền nên chia, nay đem cho người nuôi bệnh. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã cho Tỳ-kheo… y bát rồi, Tăng chấp thuận nên im lặng.
Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Có một Tỳ-kheo nhác nhớm không tiếp tay công việc của chúng, cũng không hầu hạ Hòa thượng, A-xà-lê, khi mắc bệnh, không có ai chăm sóc, phân nước tiểu nhớp cả thân, bất tịnh hôi hám. Đức Phật đi xem xét các phòng thấy, tự tay Ngài tắm rửa, giặt giũ y của bệnh nhân, trừ khử bất tịnh, đỡ nằm trên giường và ngồi một bên an ủi: Thầy đừng lo sợ, thầy sẽ được lành, không sao đâu. Tỳ-kheo kia nghe rồi hoan hỷ. Đức Phật lại nói các pháp diệu, Tỳ-kheo bệnh xa trần lìa cấu, ở trong các pháp đặng mắt pháp trong sạch. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tôn giả A-nan: Tỳ-kheo… bệnh, tại sao không có người chăm nom? A-nan trình bày đúng sự thật. Đức Phật bảo A-nan: Các ông làm điều phi pháp, Tỳ-kheo không có cha mẹ, chính mình không tự chăm sóc thì ai chăm sóc. Này các ông! Nay cho phép các Tỳ-kheo phải cử người nuôi bệnh. Các Tỳ-kheo không biết cử ai nuôi bệnh, bạch Phật. Phật dạy: Đệ tử phải chăm sóc Hòa thượng, Hòa thượng phải chăm sóc đệ tử. A-xà-lê đồng Hòa thượng, A-xà-lê cũng như vậy. Có Tỳ-kheo khách đến bệnh, không có Hòa thượng, Axà-lê, cũng không có đồng sư, không có ai chăm sóc, các Tỳ-kheo không biết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Trước hết nên khuyên một người nuôi bệnh, nếu không có người này, nên mỗi ngày theo thứ tự sai một người, nếu người nào không nhận chịu thì như pháp trị. Khi ấy, các Tỳ-kheo tranh nhau chăm sóc, gây não loạn cho người bệnh, bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm như vậy, nên hai, ba người đến lo liệu các việc mà người bệnh cần.
Khi ấy, người nuôi bệnh tìm xin thuốc khó khăn, mà người bệnh không chịu uống, trở ngại cho việc hành đạo, bạch Phật. Phật dạy: Người bệnh có năm việc khó nuôi: Không thể tự tiết lượng thức ăn. Không chịu uống thứ thuốc mà theo chứng bệnh cần. Không chịu nói bệnh tình cho người nuôi bệnh. Không theo lời khuyên của người nuôi bệnh. Không thể luôn quán vô thường. Có năm việc không thể làm người nuôi bệnh: Người không biết thứ thuốc nào người bệnh cần uống. Không thể cho ăn thức ăn theo chứng bệnh. Không thể vì người bệnh nói pháp, chỉ vẽ sự lợi ích để họ vui mừng. Gớm ghét những phân tiểu, đàm dãi của người bệnh. Vì lợi nên chăm sóc chứ không vì lòng từ.
Có các người nuôi bệnh, hoặc vì người bệnh, hoặc vì chuyện riêng tư, bỏ đi, sau đấy người bệnh qua đời, người khác nhận được y bát của người đó, bạch Phật. Phật dạy: Không nên cho người như vậy mà nên cho người nuôi bệnh có thủy chung.
Có một Tỳ-kheo bệnh, người nuôi bệnh nhiều, các Tỳ-kheo không biết bao nhiêu người nên được y, bạch Phật. Phật dạy: Nếu Tỳ-kheo qua đời, y nên cho hai người: Tỳ-kheo và Sa-di, tuy cha mẹ, anh em cũng không được cho. Nếu Tỳ-kheo-ni qua đời nên cho y ba người: Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na và Sa-di-ni.
Có các Tỳ-kheo chia phần nuôi bệnh cho Sadi bằng một phần ba, bạch Phật. Phật dạy: Nên chia đồng nhau.
Có Tỳ-kheo qua đời, trước đem y tịnh thí cho các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không chịu trả lại, bạch Phật. Phật dạy: Nếu vị kia vốn không phải là thân lý, không có thiện ý cho, đều nên trả lại.
Bấy giờ, các Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-liên Tự tứ xong, du hành các nơi. Đồng An cư và trú xứ gần, số đông có các Tỳ-kheo tùy tùng theo, các bạch y thấy, mọi người đều nghĩ: Nên vì Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-liên cúng y An cư cho Tăng. Nghĩ xong, họ liền dâng cúng. Nhận được một số lượng lớn, các Tỳ-kheo nơi chỗ nhận được vật cúng, nói với hai Tôn giả Xá-lợi-phất và Mụcliên: Cùng chia số y này. Chúng tôi không đồng An cư, chỉ có thể nhận thức ăn, chứ không chia phần y này, bạch Phật. Phật dạy: Nên cùng chia hết.
Lúc này, Ất-sư-đạt-đa, Bạt-đà-la Tự tứ xong, cũng cùng số đông Tỳ-kheo du hành các nơi. Các bạch y thấy nói: Nếu Tỳ-kheo An cư nơi trú xứ ta, ta dâng y này, cũng với số lượng nhiều. Các Tỳ-kheo khách kia đòi chia phần, được trả lời: Đây là của cúng cho Tỳ-kheo An cư trong cương giới của chúng tôi, không được phép chia cho các thầy. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên cùng chia.
Bấy giờ, có khách buôn mang Khâm-bà-la từ nước Ba-lợi đến Câu-xá-la, nghe Đức Phật ra đời, có đại oai thần, các đệ tử cũng như vậy, bèn dùng một số lớn y Khâm-bà-la cúng cho Tăng. Các Tỳ-kheo nói: Đức Phật chưa cho phép chúng tôi thọ y Khâm-bà-la, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép thọ.
Khách buôn lại cúng riêng cho Thượng tọa, cũng không dám thọ, nói: Đức Phật chưa cho phép chúng tôi nhận riêng y Khâm-bà-la, bạch Phật. Phật dạy: Cũng cho phép nhận riêng.
Khi ấy, Tỳ-xá-khư-mẫu nói: Nếu ở nơi phòng do tôi làm, thì nên sử dụng ba y của tôi và y mặc lót, y đắp, y tắm mưa, y che ghẻ, y đơn phu, y ngăn mọt, mùng màn, không được sử dụng y của người khác. Các Tỳ-kheo tưởng đây là thuộc Tăng bốn phương không dám mặc y lót, bạch Phật. Phật dạy: Nếu thí chủ hiện tại cho phép thì mặc y lót thân.
Có các Tỳ-kheo-ni đem y bát và các vật khác cúng cho các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không dám thọ. Các Tỳ-kheo-ni nói: Chúng con lại phải cầu phước điền nơi nào?! Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Cho phép tùy ý nhận. Lúc này, các Tỳ-kheo nhận được y Kíp bối kinh Khâm-bà-la vĩ không dám nhận, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép nhận. Bấy giờ, nơi thành Xá-vệ, người sữa chữa Khâm-bà-la thấy các Tỳ-kheo mặc y Khâm-bà-la, nói: Đại đức mặc loại y đó nên giặt đạp, khiến cho lông nó hiện ra mới thật là tốt đẹp, các Tỳ-kheo không dám, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép giặt đạp, nếu không biết thì cho phép nhờ người làm. Có các Tỳ-kheo giặt đạp Khâm-bà-la nơi chỗ đất trống, các bạch y thấy dè bỉu nói: Tỳ-kheo này giống như thợ đạp Khâm-bà-la. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nên đạp nơi chỗ vắng. Quý vị muốn cắt phần đầu Khâm-bà-la, không biết dùng cái gì để cắt, bạch Phật. Phật dạy: Nên sắm dao để xén.
Các Tỳ-kheo mặc y Ban sắc diên chức, các bạch y thấy, chê trách nói: Sa-môn Thích tử cùng với người đời đâu có khác. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên mặc y Ban sắc diên chức, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có một người nữ sinh hài nhi, bị chết yểu, sau đó sinh một đứa trai, đem đến chỗ các Tỳ-kheo, xin y cà sa cho nó đeo, các Tỳ-kheo không dám cho, bạch Phật. Phật dạy: Nên cho.
Có một Tỳ-kheo ít người quen không có y, các người nữ xin y, không lấy gì cho. Họ nói: Tôi xuất của và cho tôi nhuộm y. Các Tỳ-kheo không dám cho nhuộm, bạch Phật. Phật dạy: Nên cho họ nhuộm. Khi ấy, Tất-lăng-già-bà-ta, cha mẹ nghèo khổ, muốn đem y cúng dường mà không dám, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu có người trong một trăm năm, vai bên phải cõng cha, vai bên trái cõng mẹ, cha mẹ đại tiểu tiện luôn trên đó, và dùng y thực rất quý hiếm ở trên đời cúng dường, cũng chưa thể tạ ơn trong muôn một. Từ nay cho phép các Tỳ-kheo suốt đời hết lòng cúng dường cha mẹ, nếu không cúng dường, mắc tội rất nặng.
Bấy giờ, nước Xá-di còn tuân theo cựu điển, không cho những người khác họ được cưới nhau. Vua Ba-tư-nặc ham mê người nữ của họ ấy, ỷ mình quân sự mạnh, sai sứ khuyến cáo: Nếu không cho ta cưới, sẽ tiêu diệt nước của ngươi. Các người dòng họ Thích cùng nhau nghị bàn: Nên tương kế tựu kế thế nào để tránh khỏi điều bạo ngược mà lại không trái với cựu điển của nước ta. Mọi người đều nhất trí, chọn một đứa tớ gái đẹp, có dáng dấp thùy mị, trang điểm với đồ trang sức đẹp nhất đời, gọi là dòng họ Thích, để đáp ứng cho nhà Vua. Nghị bàn xong, liền thông báo cho Vua Ba-tư-nặc sắm đủ lễ cưới rước về.
Sau sinh được một con trai, diện mạo tuấn tú. Nhà Vua ra lệnh cho các thầy tướng dựa theo tướng mà đặt tên. Các thầy tướng nói: Nhà Vua vốn dùng oai mà cưới mẹ đứa nhỏ này, y theo nghĩa đó nên đặt tên đứa nhỏ là Lưu Ly. Đến năm tám tuổi, nhà Vua muốn mời thầy dạy Lưu Ly học, Vua nghĩ: Trong các nghề, nghề bắn cung là hơn hết. Trong cõi Diêm-phù-đề chỉ có dòng họ Thích. Khi Phật còn là Bồ-tát bắn xa một do-tuần với một Câu-lô-xá. Thích-ma-nam bắn xa một dotuần, tay bắn thấp nhất bắn xa không dưới một Câu-lô-xá. Ta nên cho nó về bên ngoại để học. Vua liền ra lệnh cho Đại thần, tử đệ thị tùng thái tử đến Thích-ma-nam để thọ giáo nghề bắn.
Lúc này, các người dòng họ Thích mới xây một tòa nhà lớn, cùng nhau giao ước, trước hết phải cúng dường Phật và các đệ tử của Ngài, vậy sau chúng ta mới ở. Thái tử Lưu Ly cùng với quyến thuộc vội vào trong tòa nhà ấy vui chơi. Các người dòng họ Thích thấy, nổi giận mắng: “Con của đứa tớ hạ tiện, ta không coi ngươi là nơi phước điền tốt, tại sao Đức Thế Tôn chưa vào ngồi mà ngươi dám vào trước”. Thái tử Lưu Ly liền phẫn hận, ra lệnh cho một người tùy tùng: Ngươi nhớ kỹ điều này, khi ta làm Vua, tâu lại với ta. Thái tử nói rồi bỏ ra đi. Sau đó các người dòng họ Thích đào bỏ tòa nhà lớn đó, làm lại chỗ đất mới. Công việc hoàn tất mới thỉnh Phật và Tăng vào trong, cúng dường và diễn nói pháp diệu. Thái tử Lưu Ly học xong nghề bắn, trở về thành Xá-vệ.
Tuổi còn thiếu niên, Lưu Ly đã nối ngôi Vua và những người cùng học ngày trước đều giao cho chức quan trọng. Vị Đại thần trước kia nhận lệnh phải ghi nhớ, tâu với Vua: Nhà Vua có nhớ khi ấy các người dòng họ Thích mắng hay không? Nhà Vua nói: Ta nhớ. Đại thần lại tâu: Nay không trả thù còn đợi lúc nào nữa? Nghe lời ấy, nhà Vua liền ra lệnh: Chỉnh đốn bốn binh chủng để đến chinh phạt dòng họ Thích.
Khi hay tin, Đức Thế Tôn vội đến bên lộ ngồi cạnh cây Xá-di, một loại cây không có bóng mát. Nhà Vua từ xa thấy Đức Phật, xuống xe đi bộ đến, đầu mặt kính lễ sát chân Phật và bạch: Kính bạch Đức Thế Tôn! Cây tốt rất nhiều, vì lý do gì Ngài lại ngồi nơi cây không có bóng mát? Đức Thế Tôn trả lời: Thân tộc là bóng mát vui thích nhất. Nhà Vua biết ý Phật: Ngài đã rủ lòng thương đến các người dòng họ Thích, liền lui binh trở về. Lần thứ hai, vị Đại thần kia cũng lại tâu với Vua như trước, nhà Vua lại ra lệnh nghiêm giá binh chủng để đến chinh phạt các người dòng họ Thích.
Đức Phật biết rõ các người dòng họ Thích không thể tránh khỏi túc nghiệp phải đối đầu này, nên Ngài không xuất hiện. Các người dòng họ Thích nghe Vua Lưu Ly đến chinh phạt đất nước mình, cũng chỉnh đốn bốn binh chủng ra chống trả. Cách một do-tuần, dùng tên bắn vào quân địch: Tên xuyên qua sát lỗ tai, tên làm đứt tóc, tên gọt sạch tóc râu, khiến cho râu, lông mày không còn sót một sợi nào và các chiến cụ của đối phương nhất loạt bị phá hoại nhưng không thương tổn đến da thịt. Vua Lưu Ly hỏi các quan tả hữu: Các người dòng họ Thích ở cách đây xa gần? Các quan tâu: Cách đây một do-tuần. Nhà Vua rất sợ hãi nói: Trận chiến chưa xáp chiến mà đã như thế này, huống là khi chạm trán nhau, quân ta thua là điều chắc chắn, nên rút quân về là điều hay nhất.
Khi ấy, một Đại thần tâu: Dòng họ Thích đều giữ năm giới, thà chết chứ không hại ai, Vua nên tiến quân, đừng lo chuyện bại trận. Nhà Vua nghe theo, ra lệnh tiến quân. Dòng họ Thích rút vào trong thành đóng cửa tự thủ. Vua Lưu Ly sai sứ rao: Mở cửa thành liền, sẽ có sự tha thứ, nếu để ta phá thành thì không một người nào thoát chết. Lúc này, Tôn giả Mục-liên nghe Vua Lưu Ly muốn công phá thành Xá-di, bạch Phật: Xin Phật cho phép con hóa làm một cái lồng bằng sắt để trùm lấy cả đại thành. Đức Phật bảo Mục-liên: Tuy ông có thần lực, làm sao có thể cải được nhân duyên định báo này. Do ý nghĩa ấy, Đức Phật nói kệ:
Luận nghiệp có trắng đen
Không có chuyện hư thối
Tuy lâu cũng sẽ đến
Trở lại mình phải chịu.
Vào trong không, biển cả
Hay vào trong núi đá
Không thể đến chỗ nào
Mà tránh khỏi quả kia.
Báo ứng sẽ đưa đến
Không gần xa, thâm u
Tự nhiên hướng đến nó
Không nhất định nơi nào.
Bấy giờ, các Thích chủng thấy quân của đối phương đông đúc, có người nói, mở cửa thành để được toàn thân, có người nói, dù chết cũng cố thủ, phân vân không nhất trí, nên phải bỏ phiếu, phía ít phục tùng phía đông. Khi ấy, ma Ba-tuần yểm trợ cho phe mở cửa thành, nên bảy lần bỏ phiếu, phe mở cửa thành đều nhiều phiếu hơn, nên cửa thành được mở. Vua Lưu Ly chiếm được thành rồi, ra lệnh cho ba quân: Tất cả dòng họ Thích đều giết hết, nếu chẳng phải người dòng họ Thích thì cẩn thận đừng làm hại. Ba ức người dòng họ Thích nghe, đều cầm cỏ lau chạy ra, nói: Tôi là người cắt cỏ cho dòng họ Thích, quân giữ cửa thành tin theo lời, để cho chạy. Thích-ma-nam tức tốc đến chỗ Vua Lưu Ly. Vì là ông ngoại nên được Vua Lưu Ly thưa hỏi: Ông ngoại cầu điều gì? Thích-ma-nam nói: Xin đừng giết các người thân tộc của tôi nữa. Nhà Vua nói: Điều đó không thể được, có thể nguyện cầu điều khác. Thích-manam lại nói: Xin cho tôi từ khi lặn xuống nước cho đến lúc nổi lên, trong thời gian ấy, cho phép các người dòng họ Thích được phép chạy ra, đừng giết họ. Vua Lưu Ly nghĩ: Thời gian một hơi thở ở dưới đáy nước ngắn ngủi, chuyện gì không chấp thuận. Vua bèn đồng ý. Thích-manam bèn xổ đầu tóc lặn xuống, lấy tóc cột vào gốc cây dưới nước, nên không trồi lên. Thấy đã khá lâu, Vua lấy làm lạ, sai người lặn xuống nước xem, thì ra Thích-ma-nam đã chết vì lấy tóc cột vào gốc cây. Sứ giả tâu với Vua, Vua liền khen: Mới hay vì thân quyến, không tiếc thân mạng! Vua liền ra lệnh cho ba quân: Nếu người nào còn giết dòng họ Thích sẽ bị quân pháp nghiêm trị. Khi ấy, các Tỳ-kheo nghe Vua Lưu Ly tàn sát người nước Xá-di, bạch Phật, Phật bảo các Tỳ-kheo: Vua Lưu Ly ngu si, bảy ngày sau sẽ thọ tội, hại ông thầy đã dạy mình, cả quyến thuộc của nhà Vua kẻ lớn người nhỏ cũng đều chung một số phận. Vua Lưu Ly nghe Phật nói như thế, tâm niệm: Lời nói của Phật không bao giờ sai. Vua thầm nghĩ: Trong các nỗi khổ khác hãy còn có thể tránh, chỉ sợ bị lửa đốt, liền cùng quyến thuộc dùng thuyền vào trong sông A-di. Thời hạn bảy ngày đến, nước sông bỗng nhiên lớn kinh khủng, thế là thuyền bị chìm, nhất loạt chết hết. Các người dòng họ Thích còn sống sót, bị lột hết y phục, đến chỗ các Tỳ-kheo nói: Tôi là dòng họ Thích, thân tộc với Đức Thế Tôn, cho tôi xin một ít y. Các Tỳ-kheo không dám cho với ý nghĩ: Đức Phật chưa cho phép chúng ta cho y cho dòng họ Thích. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Được phép cho. Lại có Ưu-bà-tắc năm giới cũng bị cảnh như trên, đến chỗ các Tỳ-kheo mượn y, các Tỳ-kheo không dám cho mượn, nói: Đức Phật chưa cho phép chúng tôi cho Ưu-bà-tắc mượn y. Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Được phép cho mượn, nếu trả lại thì lấy, không trả thì cho luôn.
Lúc này, Bạt-nan-đà vì vật cúng An cư nên kiết An cư hai chỗ, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Mỗi chỗ nên lấy phân nửa phần.
Khi ấy, các Tỳ-kheo trên đường đi không dám vén y lên, bị vướng đất nhớp, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Độtkiết-la, nên làm đãy để đựng. Các Tỳ-kheo làm đãy quá dài, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, dài nhất là phía trước tới rún, phía sau tới eo lưng. Các Tỳ-kheo dùng vật quý giá làm đãy đựng y, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như thế, nên dùng vật thô để may. Có các Tỳ-kheo trên đường đi, nhờ người gánh y hoặc gánh y cho người, hoặc tự mất y, hoặc mất y người, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như thế, nếu nhờ người gánh y, trước phải mở ra đếm cho họ thấy, nếu gánh y cho người cũng phải xem trước. Các Tỳ-kheo đựng y đầy đãy rồi may miệng lại, khi muốn lấy bị khó khăn, bạch Phật. Phật dạy:
Không nên như vậy, nên làm dây buột lại, nếu không lấy dùng thường, thì cho phép may. Các Tỳ-kheo để y Khâm-bà-la và Kíp bối chung lại một chỗ nên sinh trùng cắn hư nát, bạch Phật. Phật dạy: Nên để Kíp bối cách Khâm-bà-la rồi dùng hương Khuất-thi-la, hương Na-tỳ-la, hương Thanh mộc bỏ vào, những loại hương này làm cho các loại trùng tránh xa. Sau đó, các Tỳ-kheo lấy y nhầm, bạch Phật. Phật dạy: Nên đề tên hay làm dấu. Nếu Tỳ-kheo gởi y, trải qua mười hai năm mà không trở lại lấy, nên tập hợp Tăng bình giá, để cho Tăng bốn phương dùng. Nếu sau đó Tỳ-kheo kia trở lại, dùng vật của Tăng bốn phương trả lại, vị ấy không nhận càng hay. Lúc đó, Tôn giả A-nan nhận được y mà không dùng, vì Tôn giả Xá-lợi-phất nên thọ, sai một Tỳ-kheo mang đến chỗ Tôn giả Xá-lợi-phất. Tỳ-kheo kia sinh ý nghĩ: Trưởng lão Xá-lợi-phất là người may mắn nhận được nhiều sự cúng dường, mà ta thì không có y, nay ta nên sinh ý tưởng vị ấy đồng ý để lấy. Lấy rồi bèn mặc, sau đó vị ấy sinh nghi, bạch Phật. Phật dạy: Vị kia tuy là thọ mà chưa xả, nên đối với Tỳ-kheo được cho, khởi ý tưởng đồng ý để lấy thọ trì thì chẳng phải là lấy thọ trì đúng. Nếu đối với Tỳ-kheo sẽ được cho, tác ý tưởng đồng ý để lấy thọ trì thì mới là lấy thọ trì đúng. Tôn giả A-nan lại nhận được sợi dây lưng mà không dùng, vì A-na-luật nên thọ, cũng sai một Tỳ-kheo đem đến nói: Đây là sợi dây đã thuộc về A-na-luật. Tỳ-kheo kia cũng khởi ý niệm như trước để lấy, rồi sau sinh nghi, bạch Phật. Phật dạy: Vị kia đã nói là thuộc về A-na-luật, như vậy là đã xả rồi. Nếu đối với Tỳ-kheo được cho, tác tưởng đồng ý để lấy thọ trì, thì gọi là lấy đúng để thọ trì, nếu đối với Tỳ-kheo sai đi, tác tưởng đồng ý để lấy thọ trì, thì chẳng phải là lấy đúng để thọ trì.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo không mặc y lót thân, bị nhơ nhớp bất tịnh, chuột cắn hư hoại, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo may y lót thân, lớn nhỏ như Tăng-kỳ-chi, hoặc như Nê hoàn tăng, bạch Phật. Phật dạy: Không nên may như vậy, nên may ba loại: loại thượng từ trùm đầu cho đến mắt cá, duỗi ra phủ cả tay bên tả, úp lại khiến cho bằng nhau. Loại trung, từ phủ đầu cho đến nửa ống chân, phủ cánh tay bên tả, úp lại bằng với cổ tay. Loại hạ, từ phủ đầu cho đến đầu gối, duỗi ra phủ cánh tay bên tả, úp lại bằng với nửa khuỷu tay. Các Tỳ-kheo không dùng y lót thân, phủ chung cả cánh tay bên phải, thông cả y nên nhơ nhớp bất tịnh, bị chuột nhấm, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy.
Có các Tỳ-kheo khi thọ kinh, khi thăm hỏi Hòa thượng, A-xà-lê, mặc y bị lệch qua một bên, thòng xuống đất, hoặc ban đêm đứng dậy đi không thể vén lên, vứt bỏ dưới đất nhơ nhớp, bạch Phật. Phật dạy: Khi thọ kinh, thăm hỏi mặc lệch bên trái, phải cách đất, ban đêm khi thức dậy nên vén lên thông rẽ ra, đừng để bị đất nhớp. Các Tỳ-kheo mặc y bị rách không vá, bạch Phật. Phật dạy: Nên vá lại. Không biết ai vá. Phật dạy: Bốn tháng mùa Đông, ba tháng mùa hạ, người sử dụng nên vá.
Có các Tỳ-kheo ở nơi A-lan-nhã, khi đi không dọn ngọa cụ của Tăng, để bị hư mục, bạch Phật. Phật dạy: Nên gởi nơi xóm làng, nếu không có chỗ gởi, nên trả lại người chủ của phòng, nếu có nghi sợ dân chúng trong xóm làng thì nên di chuyển đi hết, hay nên dời đến chỗ an ổn. Các Tỳ-kheo không lui về để tìm xem ngọa cụ có còn sót lại hay rơi rớt, bạch Phật. Phật dạy: Nên lui về trông chừng. Đã đưa đến chỗ an ổn rồi, các Tỳ-kheo mới tới không cho phòng ở, cũng không cho phòng để cất đặt các y vật, bạch Phật. Phật dạy: Phải cho phòng đầy đủ. Nếu chỗ ở trước không lập trở lại nên sử dụng chỗ hiện ở. Nếu sau đó lập trở lại, nên đem những cái khác hoàn lại. Nếu đã hết không có thứ gì, Tỳ-kheo ở chỗ kia nên ít nhiều chia cho. Có các Tỳ-kheo lấy ngọa cụ phòng này đến phòng kia dùng, các vị chủ phòng chê trách nói: Tại sao lấy vật phòng của tôi, đem đến phòng khác dùng, nơi đây không cho lấy, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy. Có các Tỳ-kheo khách muốn thăm viếng thầy và thọ kinh, mang ngọa cụ nơi phòng ở đến nơi phòng kia, Tỳ-kheo chủ phòng không cho phép, bạch Phật. Phật dạy: Nên nói trước với Tỳ-kheo của bản phòng, nếu cho phép thì tốt, bằng không cho phép cũng cứ mang đi. Nếu từ đó đi xa, nên đem trả lại cho phòng cũ.
Có các Tỳ-kheo mặc y của Tăng vào trong nhà sưởi ấm và chỗ làm thức ăn, vào ăn trong Tăng và xung quanh nơi tiện lợi, khói xông nhơ nhớp, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy.
Có các Tỳ-kheo bệnh cần mặc đến các nơi, mà không dám, bạch Phật. Phật dạy: Có bệnh thì cho phép mặc đến các chỗ khác, nhưng phải hết sức bảo hộ nó, tuyệt đối, không được mặc đi đại tiểu tiện lợi.
Bấy giờ, Lục quần Tỳ-kheo mặc y thượng, hạ và cầm một tấm vải rộng bằng năm ngón tay, tương đương với ba y mà vào trong xóm làng, các Tỳ-kheo thấy, vặn hỏi: Đức Thế Tôn há không chế cấm, không mặc ba y không được vào xóm làng hay chăng? Lục quần Tỳ-kheo liền chỉ vào vải mà nói: Đây là đủ ba y của tôi. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe bèn quở trách, rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Lục quần Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn! Có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Từ nay cho phép làm ba y: thượng, trung, hạ, như lượng y lót thân.
Có một trú xứ, Tăng nhận được y có thể chia, một Tỳ-kheo mang đến trên giới tràng, riêng một mình lấy thọ trì, quý vị bạch Phật. Phật dạy: Không nên vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la, Tăng hiện có mặt nên chia.
Có một Tỳ-kheo Thượng tọa, cùng các Tỳ-kheo du hành trong nhân gian, trong đó có khách, có cựu, nhận được y nên chia, vì ít không đủ để chia, bạch Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo cựu trú nên nói với Tỳ-kheo khách: Trưởng lão, y này ít không thể chia. Nếu Tỳ-kheo khách nói: Cùng nhau thọ trì, đưa cho các vị thì nên giữ lấy. Nếu nói: Cho đến một sợi chỉ cũng không tương nhượng, thì nên cùng chia. Tỳ-kheo khách nói với Tỳ-kheo cựu trú cũng vậy.
Có Tỳ-kheo lấy y phủ trên mồ, người chủ mồ thấy mất y, nhờ người tìm hỏi: Ai lấy y trên mồ của tôi. Có người nói: Các Tỳ-kheo lấy. Họ bèn nổi giận chê trách: Các Tỳ-kheo ăn trộm y của Tiên nhân tôi. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bạch Phật. Phật dạy: Không nên vậy. Nếu xóm làng dời đi mà sau đó còn y, cho phép khởi ý tưởng là y phấn tảo để lấy.
Có các Tỳ-kheo lấy phướn lọng trong miếu thần cũng vậy.
Có các Tỳ-kheo đến chỗ chiến đấu, lấy y của người chết, quân nhân dị nghị nói: Các Tỳ-kheo này muốn khiến cho chúng tôi giết nhiều người. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy.
Có các Tỳ-kheo ít người quen biết, muốn tới chỗ chiến đấu để lấy y người chết mà không dám đến, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép sau khi quân nhân đi rồi đến lấy.
Có các bạch y, sau khi quân nhân đi, thu lượm xương cốt để mai táng, thấy các thây chết đều bị lột trần, không thể nhận diện, bèn trách cứ nói: Tại sao Tỳ-kheo lại lột y của bà con tôi, nếu còn y phục thì có thể nhớ lại được. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Cho phép lấy khi không có người thấy. Đến chỗ giết người lấy y cũng như vậy. Có các Tỳ-kheo lấy y người chết, không làm cho hoại sắc mà làm y Tỳ-kheo để mặc, các bạch y thấy, nói: Đây là y của bà con tôi, bèn đến kêu khóc, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Nên làm cho hoại sắc liền, mới làm y Tỳ-kheo để mặc. Nếu những đồ bằng sắt nên mau làm thành bát lớn, bát nhỏ hay cái móc cửa hoặc các đồ dùng.
Có một gia đình rất giàu có, giặc cướp đến lấy, không thể mang đi hết, chúng đem giấu trong đống rác, ngày sau trở lại lấy, vì ban ngày không dám đến, từ xa rình đợi thăm chừng. Có một Tỳ-kheo lượm y phấn tảo, đến chỗ đống rác giấu đồ đó thấy cái chéo y bày ra bèn kéo lấy y. Đám giặc từ xa nói: Đại đức đừng lấy vật của chúng tôi. Lính đi tuần tra kẻ cướp nghe, biết đó là đám giặc cướp, liền bắt trói áp giải đến cửa quan, quan ra lệnh giết hết. Khi đám giặc bị trói, đau khổ nói: Nếu Tỳ-kheo không lấy y của tôi, lính tuần tra làm sao biết tôi, như vậy là Tỳ-kheo giết tôi chứ chẳng phải ai khác. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Nếu khi kéo lên thấy nặng thì không nên lấy.
Có các Tỳ-kheo nơi ngả tư đường hẻm, ngó đất mà đi, các bạch y thấy, hoặc có người nói tìm tiền, hoặc có người nói tìm y phấn tảo. Có một đệ tử ngoại đạo, dùng y gói tiền, để giữa đường, Tỳ-kheo thấy lượm đi. Người ấy bèn nói với mọi người: Các Tỳ-kheo quả thật là tìm tiền. Các Tỳ-kheo đem vấn đề ấy bạch Phật. Phật dạy: Không nên lấy vật gì có gói lại nơi ngả tư đường hẻm.
Có một Tỳ-kheo vì cần y nên đến nơi gò mả, thấy một người nữ mới chết, trước đầu có một cái hộp, Tỳ-kheo tưởng là cái hộp không, bèn lấy đem về nơi trú xứ, mở ra xem, thấy có các đồ nữ trang, không biết làm thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Khi lấy nên mở ra coi trước, nếu không coi trước mà lấy, phạm Đột-kiết-la.
Có các Tỳ-kheo cùng với một ngoại đạo đi trên một lộ trình. Ngoại đạo bị giặc giết, Tỳ-kheo lấy y của họ mà không làm hoại sắc, đem làm y Tỳ-kheo, ngoại đạo khác thấy nói: Đây là y của dòng họ ta, chắc các Tỳ-kheo giết rồi lấy. Các Tỳ-kheo đem vấn đề ấy bạch Phật. Phật dạy: Không nên lấy, nếu đã lấy, liền nên làm cho hoại sắc, rồi mới làm y của Tỳ-kheo.
Có các Tỳ-kheo thiểu dục, tri túc không nhận y của gia chủ dâng cúng, các Cư sĩ luận bàn: Chúng ta bằng phương tiện nào, khiến Tỳ-kheo kia nhận y của chúng ta dâng cúng. Chúng ta nên xé rách hay đốt cháy sơ sơ, để khắp nơi ngả tư đường hẻm, chờ khi vị ấy vào xóm làng nói: Thầy xem xung quanh nếu có thấy thứ chi thì lấy. Họ liền làm theo sự luận bàn. Tỳ-kheo kia thấy khởi ý nghĩ: Chúng ta không nhận y do gia chủ dâng cúng, chắc là các Cư sĩ vì chúng ta mà làm thế này, đem vấn đề bạch Phật. Phật dạy: Nên khởi tưởng phấn tảo mà lấy.
Có một Tỳ-kheo qua đời, các Tỳ-kheo để nằm ngửa giữa sân, không lấy y phủ lại, lộ hình nam căn trướng lên, các Cư sĩ thấy chê bai nói: Samôn Thích tử không tu phạm hạnh nên nam căn mới lớn như thế. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Phật dạy: Không nên để nằm ngửa lộ hình, phải lấy y che lại, nếu vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có một Tỳ-kheo mập phì qua đời, các Tỳ-kheo đem để trên cỏ tươi sống, mỡ chảy ra chết các cỏ tươi sống, các ngoại đạo thấy, chê bai nói: Sa-môn Thích tử tự nói từ niệm, nay tại sao làm tổn hại đến cỏ tươi sống. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên để trên vật còn sống, nên chôn hay đốt, hoặc để trên đá.
Có một Tỳ-kheo bị chết trôi, y bát treo trên nhánh cây trong nội giới, các Tỳ-kheo thấy, tưởng y bát trong nội giới của Tăng, thì thuộc về Tăng, không dám lấy, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép xem như y phấn tảo để lấy. Các Tỳ-kheo không biết có bao nhiêu y phấn tảo, bạch Phật. Phật dạy: Có mười loại y phấn tảo: khi Vua thọ vị, bỏ y cũ, y nơi gò mả, y phủ nấm mồ, y nơi đường hẻm, người nữ mới lấy chồng bỏ y cũ, khi người nữ lấy chồng, y nói lên sự tiết tháo, y của sản phụ, y trâu nhơi, y chuột gặm, y lửa cháy.
Khi ấy, các Tỳ-kheo mặc y, màu sắc sáng rực, bạch y chê trách, bạch Phật. Phật dạy: Không nên mặc y màu sắc sáng rực, vi phạm, phạm Đột-kiếtla.
Có Tỳ-kheo chứa y tắm mưa, không đủ năm khuỷu tay, bạch Phật. Phật dạy: Y tắm mưa, không được giảm năm khuỷu tay, vi phạm, phạm Ba-dật-đề.
Lúc đó, các Cư sĩ, trong thời gian An cư, vì nữ nhi cạo đầu, nên đem y cúng cho Tăng, các Tỳ-kheo thọ rồi, muốn xoay về thành phẩm vật cúng An cư, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, đây gọi là dâng cúng tùy theo sự việc, Tăng hiện tại nên chia, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có các Tỳ-kheo, trước đã thọ ba y, không xả, lại thọ y khác. Do trước kia cái y đã thọ tịnh thí và thí cho người, sau nhớ lại bạch Phật. Phật dạy: Được gọi là thọ lại, cũng gọi là tịnh thí, thí cho người, chỉ không xả mới phạm Đột-kiết-la.
Khi ấy, các Tỳ-kheo có y Ni-tát-kỳ chưa xả, chưa hối quá, mà bị lửa cháy, nước cuốn trôi, giặc cướp, hư hoại, không biết nên thế nào, bạch Phật.
Phật dạy: Đây tức là xả, chỉ nên tác pháp hối quá Ba-dật-đề.
Lúc này, các Tỳ-kheo chứa y không tịnh thí, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có một trú xứ, chúng Tăng nhận được gấm, cúng cho các Tỳ-kheo, không biết thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên thọ rồi dùng để trang nghiêm tháp, hoặc làm đồ dùng cho tháp, hoặc làm đồ dùng cho Tăng.
Có một trú xứ, Tăng muốn chia y, có Tỳ-kheo thiểu dục không nhận phần mà chỉ cần cái dây lưng, dây ngồi thiền, cái mão, đãy lọc nước, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Nên cho. Cho rồi lại đòi phần, bạch Phật. Phật dạy: Khi chia vật nên hỏi trước: Thầy có nhận phần hay không?
Nếu nói: nhận, thì nên chia đều. Nếu nói: cần dây lưng… nên cho một phần ba, nếu lại đòi nữa thì không nên cho.
Có một Tỳ-kheo có cái câu nhiếp, Tăng bốn phương có Tăng-già-lê muốn trao đổi, các Tỳ-kheo không dám cho đổi, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép đổi, nếu cái câu nhiếp giá trị cao hơn thì Tăng nên bồi cho Tỳ-kheo, nếu Tăng-già-lê cao giá hơn, Tỳ-kheo nên bồi cho Tăng, nếu nghèo không có vật gì để hồi cho Tăng hay là thiểu dục, tri túc cũng được phép cho. Các loại y khác cũng như vậy.
Bấy giờ, Tỳ-kheo Ly-bà-đa bị lạnh chân, đến người Bà-la-môn xin y Khâm-bà-la để trùm chân, xin rồi sinh nghi: Đức Thế Tôn chế giới không cho phép chúng ta xin y nơi người không phải là bà con, không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Do nhân duyên như vậy cho phép được xin các loại y cần thọ trì, như y che gót, y che bắp, bả vai, y che đầu, khăn lau tay, lau mặt, lau thân hình… Khi ấy, các Tỳ-kheo đối với Tăng, Tăng bốn phương và tháp, với người không đồng ý đều khởi tưởng đồng ý để lấy y, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, đối với Hòa thượng, A-xà-lê, đồng Hòa thượng, A-xà-lê hoặc đệ tử và các người đồng ý mới được khởi tưởng đồng ý để lấy.
Có các Tỳ-kheo chưa qua đời, đối với vấn đề phân chia y vật nói: Sau khi tôi chết, dùng y vật này cho… dùng y vật này vào việc như vậy, như vậy, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như thế, vi phạm, phạm Đột-kiết-la, cho không thành cho, sử dụng không thành sử dụng.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan thường tới lui gia đình Lực sĩ Lô-di, sau đó đến không có Lô-di ở nhà, khởi tưởng đồng ý lấy Kíp bối quý giá, vẫn sinh nghi hối, khởi ý niệm: Phật chưa cho phép chúng ta đối với bạch y khởi tưởng đồng ý để lấy y, bạch Phật. Phật dạy: Cũng cho phép đối với bạch y khởi tưởng đồng ý để lấy. Khi ấy, các Tỳ-kheo lìa y tắm mưa, không biết lúc tắm nên mặc y nào, bạch Phật. Phật dạy: Có năm nhân duyên được lìa y tắm mưa: không mưa, không nghi là có mưa, không lội qua sông, ăn khi bệnh, may chưa xong. Có năm nhân duyên được gởi Tăng-già-lê: Khi mưa, khi nghi là có mưa, lội qua sông, ăn khi bệnh, may chưa xong.
Có một trú xứ, Tăng muốn chia y, có Tỳ-kheo khách đến, các Tỳ-kheo vì nhận được ít y nên muốn chia, bạch Phật. Phật dạy: Cho đến chỉ nhận được trị giá bằng một sợi dây lưng cũng nên chia, nếu ít không đủ chia, nên bạch nhị Yết-ma, cho một Tỳ-kheo không có y. Một Tỳ-kheo xướng: Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tăng này nhận được y, hoặc phi y, nay đều đem cho Tỳ-kheo… nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe, Tăng này nhận được y, hoặc phi y… cho đến câu: Nếu vị nào không đồng ý xin nói. Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo… y rồi. Tăng đồng ý nên im lặng.
Việc như vậy, thọ trì như vậy.
---
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, Tôn giả Ma ha Ca-chiên-diên ở nơi nước A-thấp-ba-a vân đầu, trụ trong núi ba-lâu-đa. Nơi nước đó có ông Trưởng giả tên là Sa-môn Ức-nhĩ, tin ưa Phật pháp, thường cúng dường cho các Tỳ-kheo, thấy pháp đắc quả, thọ ba quy, năm giới, thường vào Tăng phường để nghe pháp. Lúc này, Sa-môn Ứcnhĩ ở chỗ vắng tự nghĩ: Như Đức Phật dạy: Tại gia nhiễm vướng, không thể rộng tu phạm hạnh, xuất gia không vướng mắc cũng như hư không! Nay ta sao không ở trong pháp vô vi, cạo bỏ râu tóc, xuất gia học đạo. Nghĩ rồi, sáng sớm đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên, đầu mặt kính lễ sát chân, trình bày đầy đủ ý nghĩ, muốn cầu xuất gia, thọ giới Cụ túc. Tôn giả Ca-chiên-diên nói: Tại gia nhiễm vướng, đúng như lời ông vừa nói, chỉ có xuất gia mới đủ điều kiện tịnh tu phạm hạnh, một mình ngồi bên gốc cây, ngày ăn một bữa. Nhưng, ông vốn giàu sang thì đây là một điều rất khó. Ức-nhĩ nghe rồi, bèn trở về nhà mình. Ba lần như vậy, thấy rõ ý muốn của đương sự, bèn cho xuất gia. Tại nước ấy, không đủ chúng mười người, nên phải làm Sa-di đến sáu năm. Tôn giả Cachiên-diên bèn dùng thần lực tập hợp chúng mười người ở nước khác, để trao giới cụ túc. Ức-nhĩ thọ giới rồi bèn nghĩ: Ta nghe Đức Như Lai là bậc Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác mà chưa được phụng kiến, nay ta nên đến để thăm hỏi Đức Thế Tôn. Nghĩ rồi, đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên, đầu mặt kính lễ sát chân, xin phép tới hầu Phật. Tôn giả Ca-chiên-diên nói: Tốt lắm! Tôi tùy theo sự hoan hỷ của ông, ông nên đi liền. Ông có thể nhân danh tôi thăm hỏi Đức Thế Tôn và thưa xin Đức Phật năm điều:
Nước A-thấp-ba-a-vân-đầu không có đủ chúng mười vị, nên Ức-nhĩ phải làm Sa-di đến sáu năm, không được thọ giới cụ túc, Tôn giả Cachiên-diên dùng sức thần thông tập trung Tăng các nước khác, vậy sau mới được thọ. Cúi xin Đức Thế Tôn cho phép nước này, không đủ chúng mười vị, được thọ giới cụ túc.
Nước này có nhiều sỏi đá chông gai, xin Thế Tôn cho phép Tỳ-kheo nước này được mang giày guốc hai lớp gót.
Nước này đều dùng da lót trên đất làm tọa, ngọa cụ, xin Thế Tôn cho phép Tỳ-kheo nước này dùng da lót trên đất.
Người nước này ngày nào cũng tắm rửa, xin Thế Tôn cho phép Tỳ-kheo ở nước này hằng ngày tắm rửa.
Có Tỳ-kheo gởi y cho Tỳ-kheo ở phương khác, y chưa đến, có Tỳ-kheo nói cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo sinh nghi sợ phạm chứa y dư, xin Thế Tôn vì Tỳ-kheo này trừ nghi.
Ức-nhĩ vâng lời thầy dạy ra đi. Khi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, tuyên lời thăm hỏi của Hòa thượng bổn sư lên Đức Thế Tôn. Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Trải ngọa cụ cho Tỳ-kheo khách nghỉ. Tôn giả A-nan nghĩ: Đức Phật muốn cho Tỳ-kheo này cùng nghỉ, nên khiến ta trải ngọa cụ, do đó liền trải ngay nơi phòng của Phật. Đức Phật và Ức-nhĩ cùng nghỉ một phòng. Đầu đêm, giữa đêm im lặng không nói chuyện, cho đến cuối đêm, Đức Phật khởi ý nghĩ: Đây là con nhà tộc tánh, oai nghi điều phục, nên khiến nói pháp, Đức Phật bèn bảo: Thầy có thể nói pháp! Ức-nhĩ vâng lời, liền nói mười sáu nghĩa phẩm kinh, nói rồi đứng im lặng. Đức Phật dạy: Lành thay! Người trong nước thầy đều nói được như vậy chăng? Ức-nhĩ thưa: Có người hơn con! Đức Phật lại hỏi: Tại sao thầy ở lâu nơi nước đó mà không đến gặp Ta? Ức-nhĩ thưa: Con biết điều lỗi đó, vì có nhân duyên nên không đến sớm được. Nhân đó Đức Thế Tôn nói kệ:
Thấy lỗi lầm của đời
Tự thân nương pháp hành
Kẻ hiền không ưa ác
Vì ác không thích thiện.
Khi ấy, Ức-nhĩ khởi ý nghĩ: Hòa thượng bảo ta xin Phật năm việc, nay chính là lúc, bèn bạch Phật. Sáng ngày, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng bảo Ức-nhĩ: Ông có thể nói lại năm điều mà Tôn giả Ca-chiên-diên xin. Ức-nhĩ liền nói lại. Đức Phật bằng mọi cách khen ngợi người thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép nơi nước A-thấp-ba-avân-đầu và tất cả biên địa, chỗ thiếu Tỳ-kheo, năm người trì luật, trao giới cụ túc, cũng cho phép những nơi có sỏi đá chông gai được mang guốc dép, hai lớp gót, cũng cho phép chỗ có các loại da, làm ngọa cụ bằng da, cũng cho phép chỗ cần tắm rửa, nếu Tỳ-kheo gởi y cho Tỳ-kheo chỗ khác, tuy Tỳ-kheo trước có nghe biết, y chưa vào tay, không phạm tội chứa y dư.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo làm các loại guốc dép bằng nhiều kiểu, cách, lắm màu sắc, việc này được bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép làm guốc dép khác hình, khác màu sắc, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có Tỳ-kheo làm guốc dép bằng da ngựa, da voi, da người, bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép. Nếu dùng da người thì phạm Thâu-lan-giá, nếu da ngựa, da voi phạm Đột-kiết-la.
Lúc này, Bạt-nan-đà thường tới lui một gia đình chăn bò, mặc y bưng bát đến nhà ấy. Nhà này có một con bò nghé sắc lông lang lỗ, Bạtnan-đà nhìn kỹ, sinh lòng ham thích, ước gì được da con nghé này làm phu cụ. Người chủ hỏi: Tại sao sư đăm đăm nhìn con nghé như thế? Bạt-nanđà nói: Con nghé này có sắc lông lang lỗ khả ái có thể làm phu cụ. Người chủ liền thưa: Đại đức thường lo liệu công việc cho nhà con, con đâu có tiếc gì con nghé mà không dâng cúng. Người chủ liền giết con nghé trước mặt mẹ nó để lấy da cúng. Bạt-nan-đà nhận được tấm da rồi đem về Tăng phường. Con bò mẹ theo sau rống kêu buồn não, các Tỳ-kheo buồn hỏi: Con bò này tại sao rống kêu buồn não đi theo thầy? Bạt-nan-đà nói: Không biết. Các Tỳ-kheo lại hỏi: Con bò này theo thầy chớ không theo người khác, tại sao thầy không biết?! Khi ấy, Bạt-nan-đà mới đem sự thật nói ra. Các Tỳ-kheo liền quở trách rồi bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Bạt-nan-đà: Thật sự ông có như vậy không? Bạch Thế Tôn! Có thật như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay không cho phép chứa tất cả các loại da. Sau đó, các Tỳ-kheo cần một miếng da nhỏ mà không dám dùng, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng một miếng da nhỏ.
Có các Tỳ-kheo từ ngoài trở về đạp trên ngọa cụ của Tăng, bùn nhơ bất tịnh, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép mang guốc ra vào.
Có các Tỳ-kheo già bệnh, ở nơi chỗ có sự sợ sệt, cùng bạn đồng đi, đi chậm không kịp, các bạn nói: Đại đức đi mau, đừng để bị cướp đoạt. Vị ấy nói: Chúng tôi già bệnh không thể đi kịp. Các bạn nói: Đây có voi, ngựa, lừa, lạc đà, xe bò thầy có thể cưỡi để đi. Các Tỳ-kheo không dám, bạch Phật. Phật dạy: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo già bệnh được cưỡi ngựa, chỉ không được cưỡi súc sinh cái. Có các bạch y dùng kiệu bằng da cúng cho chư Tăng, các Tỳ-kheo không dám thọ, bạch Phật. Phật dạy: Cũng cho phép thọ, nhưng thay da bằng thứ vải khác.
Có các bạch y dùng cái kiệu bằng da cúng riêng cho Thượng tọa, Thượng tọa không dám thọ, bạch Phật. Phật dạy: Cũng cho phép nhận riêng nhưng cũng thay da như trên. Các Tỳ-kheo Thượng tọa già bệnh, muốn đi kiệu vào xóm làng mà không dám, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép. Quý vị không biết khiến ai khiêng, bạch Phật. Phật dạy: Nhờ tịnh nhân khiêng.
Có các Tỳ-kheo ở chỗ có sự sợ sệt, muốn qua sông mà không có đò, có người chăn bò, lùa bò qua sông nói có thể nắm đuôi bò để qua sông, các Tỳ-kheo không dám, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép nắm.
Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo nắm đuôi của con bò cái để qua sông, lấy tay thọc vào mụt ghẻ của nó, bạch Phật. Phật dạy: Không được phép nắm đuôi súc sinh cái để qua sông. Có các Tỳ-kheo muốn qua sông, cũng không có súc sinh để có thể nắm, không biết làm thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép buộc cỏ cây làm bè để qua. Từ nay cho phép các Tỳ-kheo sắm phao nổi, hoặc làm bằng da dê hay da bò. Tăng và Tăng bốn phương đều nên sắm.
Đức Phật ở thành Vương-xá. Bấy giờ, là Vua Bình-sa, hai nước Ma-kiệt và Ương Già có bốn mươi hai ngàn thôn làng. Các hào kiệt nơi đó, không người nào không tin Phật, Pháp, Tăng, chỉ trừ trong thành Chiêm-bà, có con ông Trưởng giả tên là Thủ-lâu-na, ông ta rất giàu, có Hai-mươi-ức tiền, người đương thời gọi ông là Thủ-lâu-na Haimươi-ức. Ông ta hưởng sự vui sướng ngay lúc chào đời, tay chân mềm mại, dưới chân mọc lông. Vua Bình-sa khởi ý nghĩ: Trong cương giới của ta chỉ có Hai-mươi-ức chưa tin Phật pháp. Ta nên làm thế nào khiến cho ông ta tin. Nếu ta đến nhà ông ấy, ông sẽ hoảng sợ, nếu kêu ông ta tới, chắc sẽ có sự nghi sợ. Ta nên thông tri cho sau mươi gia đình hào kiệt trong thành Chiêm-bà đến dự lễ hôn nhân của Vương tử. Nhân cuộc gặp gỡ này ta sẽ hướng dẫn ông đến với đạo pháp. Nhà Vua nghĩ xong liền cho thông tri. Khi ấy, thân tộc đều tâu với Vua: Hai-mươi-ức chưa từng bước xuống đất, dưới chân lông mọc như tóc trên đầu không thể tuân lệnh đến được, xin nhà Vua đặc biệt miễn trừ cho một người này. Nhà Vua nói: Có thể cỡi voi, ngựa, xe, kiệu. Thân tộc tâu: Thân thể ông ta rất mềm cũng không thể đi bằng các phương tiện đó được. Nay Vương tử làm lễ thành hôn cần sự hiện diện, cho phép thân tộc của ông tận dụng mọi phương tiện đưa ông ấy đến. Thân tộc cùng nhau nghị bàn: Chỉ còn có cách là đào con kênh thông thuyền đưa ông ta đi ngày vài dặm mới khỏi nhọc mệt, để cung kính phụng mệnh nhà Vua. Họ bèn dùng kế hoạch này đưa Hai-mươi-ức đến thành Vương-xá. Thân tộc tâu: Hai-mươi-ức vừa đến nơi, nguyện xin được như nếp sống ở nhà. Nhà Vua nói: Nếp sống ở nhà như thế nào? Tâu đức Vua: Dùng vải trải trên đất rồi đi lên đó. Nhà Vua nói: Được. Nhà Vua liền ra lệnh. Lại trải vải mịn trên tòa, khiến ông ta ngồi trên đó. Nhà Vua hỏi: Dưới chân ông thật có mọc lông hay không? Tâu Đại vương, thật có. Vua nói: Ta muốn xem. Hai-mươi-ức tâu: Xin sai người tin cậy để xem. Nhà Vua nói: Ta muốn thấy tận mắt. Hai-mươi-ức tâu: Xin phép Vua cho được duỗi chân ra. Nhà Vua nói: Được. Haimươi-ức liền duỗi chân ra, chỉ cho nhà Vua. Đúng như lời đồn, ánh sáng của lông tỏa ra, làm cho mắt nhà Vua không thể nhìn kỹ được. Vua sinh lòng hy hữu, nghĩ: Nước ta đại phước đức mới sinh được con người phước đức này. Vua nhìn hai bên, trước Vua có ba đại Cư sĩ, bây giờ có cả Hai-mươi-ức là bốn. Nhà Vua hỏi: Mỗi người có bao nhiêu của được gọi là Cư sĩ? Người thứ nhất nói: Số tiền của tôi có là mười ba ức. Người thứ hai nói: Tôi có mười bốn ức. Người thứ ba nói: Tôi có mười bốn ức và lại một ngọc Ma-ni vô giá. Hai-mươi-ức nói: Tôi có Hai-mươiức, lại có năm trăm ngọc Ma-ni, một ma-ni bảo sàng. Nhà Vua hỏi Hai-mươi-ức: Do đâu ông có của ấy? Hai-mươi-ức tâu: Của ấy không phải cha mẹ để lại, cũng không phải do kinh doanh mà có, tôi ngủ trên lầu cao, khi thức dậy bèn thấy của ấy trước mặt tôi. Nhà Vua nghe câu nói này rất đỗi ngạc nhiên, khó hiểu, nghĩ: Phước đức của người này chỉ có Đức Phật mới biết, ngoài ra không ai hiểu nổi. Nhà Vua liền nghiêm giá đến chỗ Phật, rồi đầu mặt kính lễ sát chân, bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Hai-mươi-ức có năm trăm ngọc Ma-ni, một Ma-ni bảo sàng, từ đâu mà có? Đức Phật dạy: Người này trước kia ở nơi cung trời Đâu suất, có năm trăm thiên nữ, cùng nhau rất ái kính. Sau đó, người ấy sinh tới đây, thiên nữ đều nghĩ: Thiên tử của chúng ta nay sinh nơi nào? Họ dùng thiên nhãn xem, thấy sinh nơi đây, mỗi người mang một ngọc ma-ni và cái bảo sàng trước kia nằm biến hóa khiến cho tương xứng với thân hiện nay, đem để trước mặt rồi đi. Vua nghe Phật dạy rồi kính lễ cáo lui. Trở về thành Chiêm-bà, tập hợp sáu mươi hào kiệt tuyên bố: Nay ta phong cho Hai-mươi-ức là bậc Cư sĩ tối đại ở trong thành kia, các ngươi phải tôn kính. Nhà Vua lại nói với Hai-mươi-ức và sáu mươi người: Ta là Vua của các người, dùng pháp trị hóa, đã cùng các người làm việc lợi ích cho hiện thế, nay có Đức Phật Thế tôn ở tại núi Kỳ-xà-quật, chúng ta đều có thể đến đó để cầu điều lợi cho hậu thế. Mọi người đều vâng lệnh đến đó. Khi ấy, Trưởng lão Takiệt-đà ở trong núi, kinh hành trên bàn thạch, các Cư sĩ đến chỗ ấy thưa: Đại đức vì chúng con, bạch Phật: Hai-mươi-ức và sáu mươi Cư sĩ ở thành Chiêm-bà muốn đến thăm hỏi Đức Thế Tôn. Ta-kiệt-đà ở trên bàn thạch, trước mặt các Cư sĩ mất tăm dạng rồi xuất hiện trước Đức Phật, trình bày đầy đủ vấn đề lên Đức Phật. Phật dạy: Thầy có thể về trước trên bàn thạch, trải tòa ngồi, Ta sẽ đến sau. Vâng lời dạy, trước Đức Phật, Takiệt-đà chìm khuất dạng rồi xuất hiện nơi bàn thạch, trước mặt chúng Cư sĩ, vì Đức Phật trải tòa ngồi. Đức Phật với oai nghi thường có đi bộ đến sau. Các Cư sĩ nghĩ: Tỳ-kheo này có Đại thần lực, vắng mặt và xuất hiện nơi bàn thạch cũng như vào trong nước. Khi Đức Thế Tôn ung dung xuất hiện họ vô cùng cung kính. Đức Thế Tôn đến rồi, an tọa nơi tòa. Thường pháp của chư Phật, trước hết khiến cho người khởi tâm hoan hỷ rồi sau mới nói pháp, Đức Phật nói với Ta-kiệt-đà: Ông đứng dậy quạt Phật. Vâng lời dạy, Ta-kiệt-đà đứng dậy quạt trong giây lát, hiện các thứ thần biến như Ưu-vi-ca-diếp, rồi trở lại trước Phật, cúi đầu đảnh lễ sát chân, bạch Phật: Đức Phật là Đại sư của con, con là đệ tử của Phật. Thưa như vậy Ba lần, rồi ngồi lại chỗ cũ. Khi ấy các Cư sĩ khởi ý nghĩ: Đệ tử mà thần lực như thế huống gì là bậc Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Họ bèn hướng về chăm chú chiêm ngưỡng Phật. Đức Phật vì họ nói các pháp diệu chỉ bày sự lợi ích để họ hoan hỷ… cho đến câu: Khổ, tập, tận, đạo. Họ đều từ nơi chỗ ngồi được mắt pháp trong sạch, thọ ba quy y, năm giới. Hai-mươi-ức từ chỗ ngồi đứng dậy, đi chân không đến chỗ Đức Phật, cúi đầu tác lễ, Đức Phật bèn mỉm cười. Ta-kiệt-đà khởi ý niệm: Do nhân duyên gì mà Đức Phật cười. Nghĩ rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, để trống vai bên phải, quỳ gối bạch Phật: Do nhân duyên gì mà nay Đức Phật mỉm cười? Đức Phật nói với Takiệt-đà: Hai-mươi-ức này, chín mươi mốt kiếp vừa qua, nay mới bước chân xuống đất. Ta-kiệtđà liền hỏi: Hai-mươi-ức, do nhân duyên gì mà chín mươi mốt kiếp chân không bước xuống đất? Đức Phật dạy: Thuở đời quá khứ, khi ấy có Đức Phật Thế tôn xuất hiện nơi đời, tên là Tỳ-bà-thi, phụ vương cai trị nơi thành dài mười hai do-tuần, rộng bảy do-tuần, dân chúng đông đúc an ổn phong phú, vui vẻ. Đức Phật Tỳ-bà-thi cùng Đại Tỳ-kheo Tăng 68.000 người đầy đủ, đều là bậc Ala-hán, trụ ở nơi đó. Nhà Vua ấy hằng ngày thỉnh Phật và Tăng thọ trai trong cung. Lúc này, trong đại chúng có một người tên là Tu-tỳ-xa cùng mọi người đến chỗ nhà Vua, tâu: Nay Vua làm các công đức, nguyện xin cho phép chúng tôi cùng được dự vào. Nhà Vua nói: Nay Phật và chúng Tăng gồm có 68.000 người, sợ các người không chuẩn bị được, có khi lại làm phiền cho Tăng. Họ lại tâu với Vua: Chúng tôi tự kham nổi, xin nhà Vua cho phép. Nhà Vua nói: Tốt lắm! Nhà Vua còn sợ họ không chuẩn bị kịp nên ra lệnh cứ làm thức ăn như thường lệ, nếu họ không chu toàn sẽ dùng vào thức ăn đó. Do chỗ họ thiết cúng hơn thức ăn của nhà Vua nhiều ngày như vậy, cho nên thức ăn do nhà Vua cho làm cuối cùng không thiết trai được. Tu-tỳ-xa tuần tự thiết cúng, sai người đào đường, dùng đất mềm mại trải lên trên, lấy bùn thơm trét, hai bên dựng tám mươi cây trụ quý báu, dùng châu Ma-ni tạp sắc gắn trên đầu trụ, treo phướn đủ màu, trương màn tạp sắc, phủ khắp trên lộ trình, trên đường đi để các loại nước uống, trong nhà trang bị 68.000 chỗ ngồi, mỗi Tỳ-kheo ngồi một chỗ, dùng năm trăm cái chảo nấu canh để cúng dường. Dâng cúng cho mỗi Tỳ-kheo hai trương vải kíp bối, một đôi giày da. Lại vì Tăng bốn phương làm một cái phòng, dưới đất trải ngọa cụ đều bằng thứ diệu hảo. Tu-tỳ-xa thời ấy, nay là Hai-mươi-ức. Từ đó về sau thọ phước ngang bằng với loài người trên cõi trời không có sai khác. Nếu nay không thấy Ta, thì Hai-mươiức chân vẫn chưa đạp đất.
Bấy giờ, Hai-mươi-ức quỳ gối bạch Phật: Cho phép con xuất gia thọ giới Cụ túc. Đức Phật hỏi: Cha mẹ người đã cho phép chưa? Bạch, chưa. Cha mẹ không cho phép không được xuất gia. Hai-mươi-ức thưa: Con sẽ trở về nhà xin phép cha mẹ. Phật dạy: Tốt lắm, nay chính là đúng lúc. Khi ấy, Hai-mươi-ức kính lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải, rồi trở về thành Chiêm-bà, thưa với cha mẹ: Nay con muốn xuất gia học đạo. Bà mẹ nói: Thôi! Thôi! Chuyện gì phải xuất gia! Cha mẹ chỉ có một mình con, dù chết, cha mẹ còn không muốn cách xa nhau, làm sao còn sống mà xa lìa? Nay nhà ta của cải, châu báu, tôi tớ, ruộng nhà nhiều vô số, con tùy ý làm việc phước, thọ vui năm dục, Hai-mươi-ức thành khẩn cầu xin Ba lần, mới được cha mẹ đồng ý, liền đến trước mẹ, kính lễ sát chân, đi quanh bên phải ba vòng, rồi trở lại chỗ Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, quỳ gối bạch: Mẹ của con đã cho phép, xin Phật cho con được xuất gia thọ giới cụ túc. Đức Phật dạy: Tỳ-kheo đến đây! Xuất gia thọ giới Cụ túc, rộng tu phạm hạnh, Ta sẽ nói pháp để dứt hết gốc khổ. Khi Phật nói lời như vậy, Hai-mươi-ức râu tóc tự rụng, Tăng-già-lê mặc vào người, bình bát bưng nơi tay. Xuất gia không bao lâu, ở nơi rừng Thi-đà tinh tấn kinh hành, chân bị thương tổn, máu chảy, chim chóc đi theo để ăn, Hai-mươi-ức khởi ý niệm: Trong hàng đệ tử của Phật, về tinh tấn không ai hơn ta, mà nay chưa hết được các gốc khổ, gia đình của ta may mắn có nhiều của cải, ta có thể hoàn tục, vui thích làm các công đức. Đức Phật biết ý niệm đó, từ núi Kỳ-xà-quật đi xuống, thấy chim chóc đang mổ máu ăn, hỏi Tôn giả A-nan: Vì sao có máu nơi đây, chim chóc tranh nhau ăn thế này? Tôn giả A-nan thưa: Haimươi-ức kinh hành nơi đây, chân bị thương máu chảy nên chim tranh nhau ăn. Đức Thế Tôn liền đến chỗ đó, hỏi Hai-mươi-ức: Thật sự ông có nghĩ như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn, sự thật con có nghĩ như vậy. Đức Phật lại hỏi: Nay Ta hỏi ông, tùy ý ông trả lời: Khi ông còn ở tại gia, khéo sử dụng cây đờn cầm phải không? Đáp: Bạch Thế tôn, phải. Hỏi: Khi dây của đờn quá thẳng tiếng đờn có hay không?
Đáp: Bạch Thế tôn, không. Hỏi: Khi dây đờn không thẳng tiếng có tốt không? Đáp: Không tốt. Hỏi: Vậy dây đờn phải như thế nào tiếng đờn mới tốt? Đáp: Bạch Thế Tôn! Không căng quá, không dùn quá tiếng đàn mới tốt. Đức Phật dạy: Ở trong giáo pháp của Ta cũng như vậy, gấp quá hoãn quá đâu đắc đạo được, tinh tấn với mức trung bình, không bao lâu sẽ hết gốc khổ. Hai-mươi-ức nghe Phật nói rồi, liền nơi chỗ kinh hành dứt hết các lậu hoặc. Do dưới bàn chân của Hai-mươi-ức bị thương tích, Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép Hai-mươi-ức mang dép da dày một lớp. Haimươi-ức bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Con bỏ Hai-mươi-ức tiền, năm trăm bảo châu ma-ni, một cái giường ma-ni bảo, hai mươi phu nhân, vô lượng thể nữ, bấy giờ mang dép da một lớp, người ta sẽ chê bai con: bỏ của cải như vậy, mà còn ham thọ nhận mang dép da một lớp. Nếu Đức Thế Tôn cho phép tất cả Tỳ-kheo đều mang thì con sẽ mang. Đức Phật bèn khen ngợi người thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo mang dép da một lớp.
Có các Tỳ-kheo mang dép da hai lớp, bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép, ai vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Lúc ấy, Lục quần Tỳ-kheo mang dép da đi kinh hành trước hay sau Hòa thượng, A-xà-lê, có các Tỳ-kheo khác cũng bắt chước làm như vậy. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên mang dép da trước Hòa thượng, A-xà-lê, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Nếu có nhân duyên thì ở trước Hòa thượng, A-xà-lê mang dép da, không phạm. Nếu đất có chông gai, hoặc đất có cỏ nhọn, hoặc đất có đá sỏi, hoặc khi bệnh hay lúc trời tối thì mang cũng không phạm. Khi đó, các Tỳ-kheo mang guốc bằng vàng, bạc, ngà voi, đá, các Cư sĩ thấy, chê trách nói: Các Tỳ-kheo này như Đại thần của nhà Vua, thường nói ít ham muốn, biết vừa đủ, mà nay phung phí vô độ, thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách, rồi bạch Phật. Đức Phật nhân việc này tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay không cho phép mang guốc dép như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Đức Phật ở tại Tỳ-xá-ly. Có một trú xứ ẩm thấp, mang dép da bị ẩm ướt sinh trùng hư mục, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Cho phép các Tỳ-kheo mang dép bằng cỏ Bà-bà, cỏ Thi-la, cỏ Văn-nhu, cỏ Lưu-thi… Các Tỳ-kheo mang lội qua nước sau đó chân bị thấm nước, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng da sống lót dưới đáy. Có các Tỳ-kheo mang guốc gỗ, giày gỗ đi trong Tăng phường có tiếng khua làm ồn các Tỳ-kheo tọa thiền. Lại có một Tỳ-kheo mang guốc gỗ đi tiểu ban đêm đạp rắn chết, bạch Phật, Đức Phật nhân việc này tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay không cho phép mang guốc gỗ, giày gỗ, vi phạm, phạm Đột-kiết-la, cho phép ba chỗ được mang guốc vì không phải thường đi lại: chỗ đại tiện, chỗ tiểu tiện, chỗ rửa chân.
Có các Tỳ-kheo mang dép da độn Đâu-la, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có các Tỳ-kheo bị lở ngón chân do mũi nhọn của dép da, bạch Phật, Phật cho phép dùng vật mềm độn nơi mũi nhọn. Có các Tỳ-kheo gót chân bị nứt ra, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng mỡ gấu thoa, lấy da gấu bao lại.
Khi ấy, Tất-lăng-già-bà-ta thường chánh niệm vào việc đi, không hay biết đến ngón chân bị thương, Đức Phật thấy vậy, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo mang Phú-la. Các Tỳ-kheo làm Phú la sâu quá, các Cư sĩ chê trách nói: Tỳ-kheo này mang giày Phú-la như giày ủng của chúng ta, bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm giày ủng sâu quá, cho phép làm đến trên mắt cá. Có các Tỳ-kheo làm như giày ủng, các Cư sĩ chê trách như trên, bạch Phật. Phật dạy: Nên hở phía trước. Có các Tỳ-kheo mang giày có vẽ hình, bạch Phật. Phật dạy: Không nên mang như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la, nếu nhận được, cho phép làm cho hoại sắc để mang.
Bấy giờ, Tôn giả Ly-bà-đa ở nước Đà-bà du hành trong nhân gian, gặp lúc tuyết lạnh thành băng, chân bị thương tích. Khi đến Kỳ-hoàn, đầu mặt kính lễ sát chân Phật, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật hỏi: Tại sao chân như vậy? Ly-bàđa trình bày sự việc rõ ràng. Đức Phật hỏi: Người nơi nước đó họ có mang thứ gì không? Ly-bà-đa thưa: Người nơi đó mang Phú-la, mang dép da. Đức Phật bằng mọi cách khen ngợi hạnh ít muốn, biết đủ, khen giới, khen người trì giới rồi, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép nơi quốc độ có tuyết lạnh được mang Phú-la, mang dép da, hoặc giả nơi nước họ có mang thứ gì cũng cho phép mang.
Có các Tỳ-kheo đi trong tuyết lạnh chân bị hư hoại vì tuyết đóng, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng muối sữa, mỡ gấu thoa, dùng da gấu làm ủng. Có các Tỳ-kheo đi trên lộ trình không biết dùng cái gì để đựng lương thực, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng da cừu, da bò, da nai và Kíp bối để làm cái đãy. Có các Tỳ-kheo dùng da đựng thức ăn bị dơ nhớp, bạch Phật. Phật dạy: Nên rửa cho sạch. Các Tỳ-kheo bèn giặt cái đãy da, hong phơi bị hư hoại, trùng sinh, bạch Phật. Phật dạy: Không nên giặt cái đãy da, nên lật ngược nó và lau, nếu sạch thì tốt, bằng không thì không nên dùng. Có các Tỳ-kheo trú xứ ở A-lan-nhã chứa phu cụ bằng da, các thú dữ nghe mùi, đến sát hại các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Ở chỗ A-lan-nhã không nên dùng phu cụ bằng da, nên đem cho các trú xứ ở xóm làng, dùng lót nơi cấp đi. Có các Tỳ-kheo đi sau Phật, chân bị gai chích không thể đi được, các Cư sĩ thấy nói: Thưa Đại đức! Đức Phật đi đã xa rồi, sao không đi nhanh cho kịp? Đáp: Tôi bị đạp gai không thể đi được. Các Cư sĩ thấy nói: Có thể mang giày được không? Tỳ-kheo không dám mang, đi đến trước bạch Phật. Phật dạy: Cho phép mang.
Có Tỳ-kheo ở nơi gò mả được dép da, không dám lấy, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép lấy. Có Tỳ-kheo được loại dép da đủ loại, đủ màu sắc, không dám lấy, bạch Phật. Phật dạy: Trừ da người, da ngựa, da voi, ngoài ra cho phép lấy, làm cho nó hư hoại màu sắc cũ, nếu màu sắc cũ không thể làm hư hoại thì nên mang trong Tăng phường, đừng nên mang ra ngoài. Có các Tỳ-kheo nhận được dép da mới không dám thọ, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép thọ, bảo tịnh nhân mang đi bảy bước rồi mang. Có các Tỳ-kheo đối với dép da, giày Phú la bị rách không biết bảo ai vá, bạch Phật. Phật dạy: Nên nhờ người vá, nếu không nhờ được thì Tỳ-kheo có thể tự vá, cũng cho phép sắm cái dùi lớn, dùi nhỏ, dao lớn, dao nhỏ dây cước để vá da. Có các Tỳ-kheo vì Tỳ-kheo phá kiến vá dép da và các vật khác cho họ, bạch Phật. Phật dạy: Không nên vì hạng người như vậy mà làm, nên vì người biết xấu hổ muốn học giới mà làm. Các Tỳ-kheo không biết dùng cái gì để đựng dụng cụ bằng da, bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng cái đãy bằng da để đựng.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, các Tỳ-kheo mắc phải chứng bệnh mùa Thu. Đức Phật đến các phòng thấy, khởi ý nghĩ: Người đời dùng tô, dầu, mật, thạch mật để làm thuốc, nay Ta nên cho phép các Tỳ-kheo uống. Do đó, Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng và bảo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo bệnh uống bốn thứ thuốc: Tô, dầu, mật, thạch mật. Các Tỳ-kheo uống tô, mùi khó chịu, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép nấu chín, hoặc tự mình nấu, hay nhờ người nấu. Nếu không có tịnh địa thì cho phép nấu nơi phi tịnh địa. Các Tỳ-kheo uống tô bị nôn muốn mửa, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng trái Ha-lê-lặc, A-ma-lặc, hoặc mật hoặc tỏi, hoặc lương khô, các vật thích nghi để thoa vào miệng cho mất mùi.
Có một Tỳ-kheo mắc bệnh nhiệt cần uống tô, các Tỳ-kheo đi xin tô không được mà lại được sữa, bạch Phật. Phật dạy: Nên nhờ tịnh nhân nấu thành tô, nấu chín khiến cho không có mùi thức ăn để thọ thức uống bảy ngày.
Có một Tỳ-kheo mắc bệnh phong cần uống dầu, các Tỳ-kheo đi xin không được mà lại được mè, bạch Phật. Phật dạy: Nên nhờ tịnh nhân nấu thành dầu, làm cho không còn mùi thức ăn để thọ thức uống bảy ngày.
Có một Tỳ-kheo mắc bệnh nhiệt cần uống thạch mật, các Tỳ-kheo đi xin không được mà lại được mía, bạch Phật. Phật dạy: Nên nhờ tịnh nhân làm thành thạch mật, làm cho mất mùi của thức ăn để thọ thức uống bảy ngày. Các Tỳ-kheo không biết nấu bao lâu thì được, bạch Phật. Phật dạy: Lấy cái muỗng múc đổ xuống, nước chảy liên tục không đứt đoạn là được.
Có các Tỳ-kheo mắc bệnh phong cần uống mỡ bò, mỡ lừa, mỡ lạc đà, mỡ cá, các Tỳ-kheo đi xin không được mà được thịt mỡ của bốn loại mỡ đó, bạch Phật. Phật dạy: Nên nhờ tịnh nhân rán để lấy mỡ rồi cô cho kẹo lại. Nếu nấu đúng thời, cô đúng thời, lọc đúng thời và phi thời thọ, không được để cách đêm uống. Nếu nấu đúng thời, cô đúng thời, lọc đúng thời và thời thọ thì được uống bảy ngày.
Có các Tỳ-kheo mắc bệnh mùa Thu nên uống rễ thuốc, bạch Phật. Phật dạy: Tất cả rễ thuốc được phép uống, trái của thuốc cũng như vậy.
Có các Tỳ-kheo mắc bệnh mùa Thu nên uống thảo dược, bạch Phật. Phật dạy: Tất cả các thảo dược cho phép được uống.
Có các Tỳ-kheo mắc bệnh phong cần làm thoát mồ hôi, bạch Phật.
Phật dạy: Cho phép làm thoát mồ hôi.
Có các Tỳ-kheo mắc bệnh phong nên uống các loại muối trắng đỏ, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép uống.
Có các Tỳ-kheo bị bệnh phong cần hòa hợp nước tiểu với dầu, tro, rượu đắng, dùng thoa nơi thân thể, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép hòa hợp để thoa.
Có các Tỳ-kheo bị bệnh ghẻ lở mụt nhọt, muốn chữa, bạch Phật.
Phật dạy: Nên chữa.
Có Tỳ-kheo bị bệnh ung thư cần dùng dao mổ để thoa thuốc, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép.
Có các Tỳ-kheo chân bị đau cần mang giày ủng bằng da gấu, thoa mỡ gấu, lại cần dùng bột gạo, da rắn, mỡ gấu, tô để trong trái khổ qua ngâm nước, bạch Phật. Phật dạy: Đều cho phép. Có Tỳ-kheo mụt nhọt mọc chỗ kín, thầy thuốc dùng dao mổ, Đức Phật đi qua gần phía trước, người thầy thuốc bạch Phật: Cái dao đã đến đại tiện môn, xin Đức Thế Tôn nhìn kỹ. Phật nói: Đó là chỗ khó bảo vệ, nếu khiến cho phàm phu bỏ mạng thì mất lợi lớn. Từ nay không cho phép dùng dao mổ chỗ kín, vi phạm, phạm Thâu-lan-giá.
Có Tỳ-kheo mắc bệnh thời hành nhiệt. Phật dạy: Nên uống thổ hạ dược, hạng chế thức ăn, tùy theo bệnh mà ăn. Có Tỳ-kheo nhặm mắt. Phật dạy: Cho phép làm thuốc nhỏ mắt.
Khi ấy, Ly-bà-đa ăn thạch mật phi thời, A-naluật nói: Đừng nên ăn phi thời, tôi thấy khi làm thạch mật có tán nhỏ gạo bỏ vào. Ly-bà-đa liền sinh nghi, bạch Phật, nhân việc này Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi A-na-luật: Ông thấy làm thạch mật thì tán bột bỏ vào, tại sao người kia làm như vậy? A-na-luật thưa: Phương pháp làm phải như vậy. Đức Phật bằng mọi cách khen ngợi người ít ham muốn, biết vừa đủ, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay, nếu bào chế thuốc phải như vậy thì cho phép uống phi thời.
Lúc ấy, Trưởng lão Ưu-ba-ly hỏi Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Thời dược hòa với phi thời dược, nên dùng bao lâu?
Đức Phật dạy: Nên theo thời dược mà dùng không nên theo phi thời dược. Thuốc bảy ngày với thuốc trọn đời cũng như vậy.
Ưu-ba-ly lại hỏi: Phi thời dược hợp với thất nhựt dược, nên dùng bao lâu?
Đáp: Nên dùng theo phi thời dược, không nên để cách đêm mà dùng. Thuốc trọn đời cũng như vậy.
Lại hỏi: Thuốc bảy ngày hiệp với thuốc trọn đời nên dùng bao lâu?
Phật dạy: Nên dùng theo thuốc bảy ngày không nên dùng theo thuốc trọn đời.
------
Đức Phật ở nước Ba-la-nại. Bấy giờ, năm Tỳ-kheo đến chỗ Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con nên ăn thức ăn nào? Đức Phật dạy: Cho phép các ông ăn bằng thức ăn khất thực. Lại bạch Phật: Nên dùng cái gì để đựng? Phật dạy: Cho phép dùng bình bát.
Khi ấy, các Tỳ-kheo xin được cơm lúa tám thơm, không dám ăn, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép tùy ý thọ thực. Vào lúc này, các Tỳ-kheo hoặc xin được các loại cơm, hoặc xin được các loại bánh, hoặc xin được các loại lương khô, hoặc xin được các loại đậu mạch chín, hoặc xin được các loại lúa mạch rau, và gạo nếp, hoặc xin được các loại canh, hoặc xin được các loại rượu đắng và nước trái cây, hoặc xin được các loại muối, hoặc xin được các loại thịt, hoặc xin được các loại cá, hoặc xin được các loại sữa lạc, hoặc xin được các loại rau, hoặc xin được các loại rễ cây, ngó sen…, hoặc xin được các loại nhánh mía ngọt… hoặc xin được các loại dừa trái… đều không dám thọ, bạch Phật. Phật dạy: Đều cho phép tùy ý thọ thực.
Đức Phật ở tại Tỳ-xá-ly. Khi đó, gặp lúc mất mùa đói khát, khất thực khó được, các Tỳ-kheo đem thức ăn để chỗ khác bị mất, khởi ý niệm: Nếu Đức Thế Tôn cho phép chúng ta cùng ngủ một chỗ với thức ăn thì đâu đến nỗi khổ thế này, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép cùng ngủ một chỗ với thức ăn. Các Tỳ-kheo làm thức ăn ở chỗ khác bị mất, khởi ý niệm: Nếu được Đức Thế Tôn cho phép chúng ta làm thức ăn tại trú xứ thì đâu đến nỗi có cái khổ thế này, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép làm thức ăn tại trú xứ. Các Tỳ-kheo nhờ người làm thức ăn phải trả tiền, phải cho thức ăn mà họ còn ăn cắp, khởi ý niệm: Nếu được Đức Phật cho phép chúng ta tự làm thức ăn thì có thể khỏi phí tổn này, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép tự làm thức ăn. Các Tỳ-kheo đã tự làm thức ăn, cần người để trao, họ lại đòi trả tiền, khởi ý niệm: Nếu được Đức Phật cho phép chúng ta tự đem thức ăn đến không phải nhờ người trao thì có thể khỏi cái phí tổn này, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép tự đem thức ăn đến không cần khiến người trao. Các Tỳ-kheo đặng trái cây, không có người trao, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép tưởng như cây mà lấy ăn. Các Tỳ-kheo nhận được trái trong ao, không có người trao, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép đến nơi ao nước mà thọ. Các Tỳ-kheo muốn ăn trái, không có tịnh nhân để khiến tác tịnh, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép trước hết loại bỏ các hạt rồi sau ăn.
Đức Phật ở tại Tỳ-xá-ly. Lúc này, Đức Thế Tôn bị bệnh gió, Tôn giả A-nan tự nấu thuốc, cháo dâng lên Đức Phật. Đức Phật hỏi: Ai nấu thuốc đây? Đáp: Bạch Thế Tôn, con nấu. Đức Phật bảo A-nan: Trước đây ta cho phép Tỳ-kheo cùng ngủ với thức ăn trong trú xứ, làm thức ăn, tự làm thức ăn, tự đem đến người thọ, nay các ông còn áp dụng các pháp như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Còn dùng. Đức Phật dạy: Việc làm của các ông là phi pháp. Trước đây vì thiếu thức ăn ta cho phép, tại sao nay vẫn còn dùng pháp ấy? Từ nay nếu ai vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Đức Phật ở tại thành Xá-vệ, hỏi Tôn giả Anan: Trước đây Ta cho phép các Tỳ-kheo tưởng như cây để lấy trái cây, đến ao nước lấy trái của ao, không có tịnh nhân làm tịnh quả, bỏ hạt rồi ăn, nay các ông còn áp dụng pháp đó hay không? Đáp: Bạch Thế tôn, còn dùng. Đức Phật dạy: Các ông làm điều phi pháp, trước đây vì lúc thiếu thức ăn Ta cho phép, tại sao nay vẫn còn dùng pháp này?! Từ nay, ai phạm thì phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, trong thành Xá-vệ có người Ưu-bà-di tự là Tu-tỳ, kính tin Phật pháp, thấy pháp đắc quả, quy y Tam bảo, thường thỉnh tất cả Tăng, cung cấp thuốc thang. Sau thời gian, người ấy đến Tăng phường thấy một Tỳ-kheo uống thuốc thổ hạ, hỏi: Nay Đại đức cần gì? Vị ấy nói: Tôi uống thuốc thổ hạ bị kiệt sức, nghĩ muốn ăn thịt. Người Ưu-bà-di nói: Thưa Đại đức, sáng mai sẽ đưa đến, xin Đại đức nhận cho con. Người ấy về nhà, sáng ngày mai người cầm tiền đi mua thịt. Ngày ấy, Vua Ba-tư-nặc ra lệnh: Nếu ai giết thú vật sẽ bị trọng tội. Chẳng tìm đâu ra thịt để mua, người ấy trở về báo lại. Bà lại sai người cầm tiền đi tìm khắp nơi để mua, bà nói: “Đừng kể chi giá cả, đắt mấy cũng mua”. Cũng vẫn mua không được. Ưubà-di khởi ý niệm: Hôm qua ta đã hứa, nếu không có, vị Đại đức có thể bị bỏ mạng! Bà liền cầm dao vào trong nhà tự xẻo thịt nơi bắp vế, đưa cho đứa ở nấu đem đến cho Tỳ-kheo. Tỳ-kheo nhận được, bèn ăn bệnh được lành. Khi người chồng về, không thấy vợ liền hỏi: Tu-tỳ đâu? Người trong nhà nói: Bệnh, ở trong nhà. Người chồng liền vào hỏi: Mình bệnh gì? Người vợ trình bày sự việc. Người chồng nói: Sợ bệnh tình này mình không qua khỏi, không lâu nữa sẽ chết, nên thỉnh Phật và Tăng mai thọ trai. Người vợ nói: Tốt lắm! Vợ bảo chồng tới thỉnh Phật và Tăng. Đến chỗ Phật, ông ta đầu mặt kính lễ sát chân, bạch Phật: Nguyện Phật và Tăng hạ cố, trưa mai con xin được cúng dường, Đức Phật nhận lời bằng sự im lặng, ông ta về, suốt đêm lo chuẩn bị nhiều thức ăn ngon bổ, sáng ngày trải tòa, bảo người đến bạch Phật: Thỉnh Phật và Tăng phó trai. Phật cùng chúng Tăng kẻ trước, người sau vây quanh đến gia chủ, tựu tòa an tọa. Ông chồng tự mình dâng nước rửa, Đức Phật không thọ, nói: Bảo Ưubà-di Tu-tỳ ra đây. Ông chồng liền sai người vào nói: Đức Thế Tôn gọi bà. Bà trả lời: Có thể nhân danh ta thăm hỏi Đức Thế Tôn, vì bệnh ta không thể ra hầu Ngài được. Được người đại diện thưa như thế, nhưng Đức Phật vẫn cho gọi lại đến lần thứ ba, người nhà phải khiêng bà đến chỗ Đức Phật. Khi thấy Đức Thế Tôn thì chỗ thương tích của bà bỗng nhiên tiêu mất, da thịt kéo liền như trước. Bà sinh tâm hy hữu: Ta có được bậc Đại sư và các đồng phạm hạnh như vậy! Bà sung sướng vô cùng, tự tay dâng thức ăn. Phật và Tăng thọ trai xong, bà dâng nước, rồi lấy chiếc ghế nhỏ ngồi trước Đức Phật. Đức Phật vì bà giảng nói kệ tùy hỷ, như đã nói cho Tỳ-lan-nhã. Đức Phật lại nói các pháp diệu, chỉ bày sự lợi ích vui vẻ, rồi trở về chỗ ở. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi vị Tỳ-kheo kia: Vừa rồi ông ăn thứ gì? Vị ấy thưa: Con ăn thịt. Đức Phật lại hỏi: Thịt có ngon không? Thưa: Ngon. Đức Phật dạy: Ông là người ngu si, tại sao không hỏi mà ăn thịt người! Từ nay ăn thịt mà không hỏi, phạm Đột-kiết-la. Nếu ăn thịt người, phạm Thâu-lan-giá.
Có các Tỳ-kheo ăn thịt voi. Khi voi của Ba-tưnặc chết liền đưa đến các quỷ thần, nhưng do các Tỳ-kheo ăn thịt voi nên khi giết các con voi, Tỳ-kheo khiến các tịnh nhân lấy thịt đem về. Các Cư sĩ thấy, chê trách nói: Sa-môn Thích tử này không thịt gì mà họ không ăn, còn hơn là diều hâu, tại sao ăn nuốt đồ bất tịnh này, hôi thối mà lại đến nhà ta? Thật không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Thật sự các ông có như vậy không? Đáp: Bạch Thế Tôn: Sự thật có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay ăn thịt voi phạm Đột-kiết-la, ăn thịt ngựa cũng như vậy. Các Tỳ-kheo ăn thịt sư tử, thịt cọp, thịt beo, thịt gấu, các loài thú nghe hơi bèn đến giết Tỳ-kheo. Các Cư sĩ thấy, hỏi tại sao như vậy? Có người nói: Do ăn thịt đồng loại của chúng nó. Cư sĩ chê trách… cho đến câu… bảo các Tỳ-kheo. Từ nay ăn thịt bốn loài này, phạm Đột-kiết-la. Các Tỳ-kheo ăn thịt chó, các con chó nghe mùi, chạy theo sau sủa. Các Cư sĩ thấy vậy hỏi: Tại sao chó lại chỉ chạy theo Tỳ-kheo sủa? Có người nói: Do ăn thịt chó. Họ bèn quở trách… cho đến câu, bảo các Tỳ-kheo (cũng như trên). Từ nay ăn thịt chó phạm Đột-kiết-la. Các Tỳ-kheo ăn thịt rắn, các Cư sĩ chê trách. Long vương Thiện Tự Tại hóa làm thân người đến chỗ Đức Phật, cúi đầu bạch: Các Long vương của con có Đại thần lực, hiện nhiều hình sắc du hành trong nhân gian, nay các Tỳ-kheo ăn thịt rắn, hoặc có thể là rồng làm tổn thương Tỳ-kheo, cúi xin Đức Phật cấm đừng cho các Tỳ-kheo ăn thịt rắn. Đức Phật vì Long vương nói các pháp diệu chỉ vẽ sự lợi ích vui vẻ rồi bảo về chỗ ở. Nhân việc này, Phật tập hợp các Tỳ-kheo, đem lời của Long vương Thiện Tự Tại, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay ăn thịt rắn, phạm Đột-kiết-la.
Đức Phật ở tại Vương-xá. Lúc ấy, có Trưởng giả thỉnh Phật và Tăng. Các Tỳ-kheo Trưởng lão hỏi Đức Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có người thỉnh Tăng thì nên thỉnh ai? Đức Phật dạy: Nếu người nào là bậc chánh thú, chánh hướng đều được thỉnh. Các Tỳ-kheo khởi ý niệm: Như những vị trong bốn phương này và trên cõi trời không chỗ nào là không có, chúng ta bị phạm tội ăn biệt chúng ư? Do đó, không dám phó trai, bạch Phật. Phật dạy: Nếu ở trong một cương giới mà thỉnh riêng bốn vị trở lên gọi là ăn biệt chúng, nếu theo thứ tự thỉnh thì không phạm. Có các Tỳ-kheo khởi ý niệm: Các Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cũng ở trong cương giới thì có phạm tội ăn biệt chúng không? Quý vị bạch Phật. Phật dạy: Nếu thỉnh Tăng thì hai chúng thọ thực, tức Tỳ-kheo và Sa-di, nếu thỉnh hai bộ Tăng thì năm chúng thọ thực, tức Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, và Sadi-ni. Có các Tỳ-kheo phàm phu tọa thiền sinh ý nghĩ: Như Đức Thế Tôn dạy: Nếu thỉnh Tăng thì người chánh thú, chánh hướng đều được thỉnh, nay ta phàm phu chưa phải là chánh thú, chánh hướng, không có thức ăn, không cho lấy thức ăn sao? Bạch Phật, Phật hỏi các Tỳ-kheo kia: Các ông không vì giải thoát mà xuất gia hay sao? Các Tỳ-kheo phàm phu thưa: Chúng con vì giải thoát. Đức Phật dạy: Nếu khi thỉnh Tăng Thánh nhân, người tọa thiền đều nên thọ thực.
Có các Tỳ-kheo phàm phu tụng kinh sinh ý niệm: Chúng ta không phải là người tọa thiền, cũng như trên, sinh nghi, bạch Phật. Phật dạy: Người tụng kinh cũng được thọ trai. Có các Tỳ-kheo giúp việc cho chúng khởi ý niệm: Chúng ta chẳng phải người ngồi thiền, tụng kinh, cũng như trên sinh nghi, bạch Phật. Phật dạy: Người giúp việc cho chúng Tăng cũng được thọ trai. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Nếu khi thỉnh Tăng, trừ người giới ác, ngoài ra tất cả Tăng đều được thọ trai.
Đức Phật du hóa nơi ấp A-na-tân-đầu. Tại ấp ấy, có một vị Đại thần, tên là Hảo-thiểu, thỉnh Phật và Tăng thọ trai, chuẩn bị các thức ăn ngon bổ, sáng ngày đến giờ thọ trai, trải tòa ngồi bạch: Thức ăn đã sửa soạn xong, xin quý Thánh tri thời. Lúc này, các Tỳ-kheo lại thọ thức ăn của người khác trước và ăn đã no. Đức Phật cùng đại Tăng, kẻ trước người sau, đến nơi gia chủ, an tọa nơi tòa. Đại thần Hảo-thiểu tự tay sớt thức ăn, song các Tỳ-kheo đều không thể ăn. Đại thần thưa: Tại sao quý thầy không dùng một cách thoải mái mà chứng ít như vậy, hay là thức ăn không hợp khẩu vị? Các Tỳ-kheo trả lời: Chẳng phải thức ăn không hợp khẩu vị, mà cũng không phải ăn ít. Sáng nay đã ăn no rồi, nên không thể ăn được. Vị Đại thần ấy liền tức giận nói: Tại sao đã nhận lời mời nơi tôi lại đến chỗ khác ăn cho no. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Nếu đã nhận sự mời thỉnh của người nào thì buổi sáng chỉ cho phép dùng cháo lỏng (cháo lỏng là cháo lấy cộng cỏ vẽ ngang không còn nguyên nét). Nếu nhận được cháo đặc và thức ăn thì nên nói với người chủ: Tôi đã thọ thỉnh rồi, nên mời vị khác.
Bấy giờ, Đức Phật cùng Đại Tỳ-kheo Tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị đầy đủ du hành từ Vương-xá đến Tỳ-xá-ly, khoảng giữa hai nước có thành Vương-xá. Trưởng giả tên là Tượnghành, hướng dẫn năm trăm cỗ xe từ Tỳ-xá-ly đi đến, từ xa thấy Đức Thế Tôn, dung mạo đặc biệt, giống như núi vàng, phát tâm hoan hỷ, tiến đến trước Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân, bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Con có một ít đường cục muốn dâng cúng Đức Thế Tôn và các Tỳ-kheo Tăng. Đức Phật nhận lời bằng cách im lặng. Trưởng giả liền dâng cúng, các Tỳ-kheo không dám thọ, bạch Phật, Phật khen ngợi sự thiểu dục, tri túc, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo dùng để ăn khi đói, khi khát, hòa với nước mà uống. Trưởng giả kia dùng một bình thạch mật đem dâng cúng khắp cả Phật và đại chúng, nhưng vẫn không hết, bạch Phật: Con dùng một bình thạch mật dâng cúng khắp trong đại chúng, mà vẫn còn dư, nên cho ai? Đức Phật dạy: Ông có thể đem bỏ chỗ đất không có cỏ tươi, hoặc trong nước không có trùng. Ông Trưởng giả liền vâng lời dạy đem đổ trong nước không có trùng, nước liền sôi lên tạo thành tiếng động, như sắt nóng bỏ vào nước. Trưởng giả hoảng hồn, trở lại bạch Phật. Đức Phật vì ông nói các pháp diệu, chỉ vẽ những điều lợi ích, hoan hỷ như: Việc bố thí, việc trì giới, việc sinh thiên và nói dục là tai họa, tại gia là bận buộc, xuất gia là không đắm nhiễm, kế đến nói thường pháp của chư Phật là khổ, tập, tận, đạo. Từ nơi chỗ ngồi, ông Trưởng giả liền xa trần, lìa cấu, đối với các pháp đạt mắt pháp trong sạch. Đức Phật lại tiếp tục hành trình, gặp một người thợ nổi tiếng, có một người con gái rành nghề nấu canh, mời Phật và Tăng thuần dùng thứ canh này sau khi ăn. Các Tỳ-kheo không dám nhận, nói: Đức Phật chưa cho phép chúng tôi dùng thứ canh này, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng làm thức ăn sau theo ý muốn.
Đức Phật tuần tự du hóa đến Tỳ-xá-ly, trú tại giảng đường Trùng các bên bờ sông Di hầu. Có một tướng quân tên là Sư Tử, đệ tử của Ni-kiền, nghe Đức Thế Tôn du hóa đến nơi thành này, có danh xưng lớn khen ngợi Ngài, là hiệu Như Lai, Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Ông ta hoan hỷ nói: Lành thay và nguyện được yết kiến cùng thỉnh mời một vị Phật như vậy. Tướng quân liền sửa soạn xa giá để xuất hành. Từ xa, thấy được Đức Thế Tôn, nhan mạo đặc biệt, giống như núi vàng, liền đến trước mặt, đầu mặt đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật vì ông nói các phép mầu… cho đến nói khổ, tập, tận, đạo. Từ chỗ ngồi, ông được mắt pháp trong sạch, liền đứng dậy, chấp tay, quỳ gối bạch: Nguyện Phật và Tăng sáng mai hạ cố đến nhà con thọ bữa cơm đạm bạc. Đức Phật nhận lời bằng cách im lặng. Tướng quân biết Đức Phật nhận lời rồi, bèn trở về nhà, sai người ra chợ mua, với lời dặn: Tất cả số thịt đã làm rồi, đắt mấy cũng mua hết. Vâng , bao nhiêu thịt ở chợ đều mua sạch. Suốt đêm làm các thức ăn ngon bổ, sáng sớm, trải tòa, tướng quân đích thân đến bạch Phật: Thức ăn đã sửa soạn xong, xin Ngài tri thời. Đức Phật cùng Tỳ-kheo Tăng, kẻ trước người sau vây quanh đến gia chủ, an tọa nơi tòa. Tướng quân tự tay sớt thức ăn một cách hoan hỷ, chăm chú. Khi ấy, các Ni-kiền nghe tướng quân Sư Tử thỉnh Phật và Tăng, cúng dường rất thịnh soạn, sinh lòng ganh ghét, liền đến nơi ngả tư đường hẻm đem hết sức mình công bố: Tướng quân Sư Tử phản thầy không còn tình nghĩa gì cả, nay trở lại phụng sự Sa-môn Cù-đàm, tự tay giết trâu, dê để cúng dường. Các Tỳ-kheo nghe, không dám ăn. Tướng quân Sư Tử quỳ gối bạch Phật: Các Ni-kiền này lúc nào cũng hủy báng Phật. Nay con cho đến trọn đời không bao giờ cố ý sát hại, cúi xin Tỳ-kheo chớ sinh hiềm nghi, cứ thọ thực đầy đủ. Đức Phật liền bảo các Tỳ-kheo: Tùy ý ăn cho no đủ. Thọ trai và uống nước xong, tướng quân lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi phía trước, Đức Phật vì ông nói kệ tùy hỷ như trước, rồi từ tòa ra về. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Có ba loại thịt không ăn được: hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nghi. Thấy là tự mình thấy, họ vì mình mà giết. Nghe là nghe từ người đáng tin cậy nói, họ vì mình mà giết. Nghi là nghi họ vì mình mà giết. Nếu không thấy, không nghe, không nghi tức là tịnh nhục cho phép tùy ý thọ thực. Nếu vì Tỳ-kheo giết, Tỳ-kheo, Sa-di không nên ăn, nhưng cho phép Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ăn. Nếu vì Tỳ-kheo-ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di giết cũng như vậy.
Khi ấy, dân chúng các nước Ma-kiệt, Ươnggià, Ca-di, Câu Tát La, Bạt-kỳ, Mãn-la, Tô-ma nghe Đức Phật ra đời, có đại oai đức, đệ tử cũng vậy, đều tụ hợp tại thành Tỳ-xá-ly. Trong thành nhà nhà, người người đều dùng xe ngựa bảy báu để nghinh đón khách, đầy nghẹt cả thành phố. Ngoài ra còn có một vạn hai ngàn chiếc xe, trong thành không thể chứa hết, phải để ngoài thành. Mọi người tranh nhau mang thức ăn thời thực, phi thời thực, thất nhật thực, chung thân thực đến dâng cúng Phật và Tăng, tập trung chất thành đống lớn ngoài sân, dọc ngang bừa bãi, đất bụi nhơ nhớp, chim chóc tập trung lại để ăn. Đức Thế Tôn tuần tra các phòng thấy, xoay lại hỏi Tôn giả A-nan: Tại sao có những thức ăn bỏ trong sân? Tôn giả A-nan trình bày đầy đủ sự việc: Vì không có chỗ để nên mới đưa đến tình trạng như vậy. Đức Phật khen ngợi hạnh thiểu dục, tri túc, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép dùng một nơi trong phòng, bạch nhị Yết-ma làm tịnh xứ để để thức ăn. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay dùng cái phòng… làm chỗ tịnh để thức ăn cho Tăng. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay dùng cái phòng… làm chỗ tịnh để để thức ăn cho Tăng. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã chấp thuận dùng căn phòng… làm chỗ tịnh để để thức ăn cho Tăng rồi, Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Sau khi Tăng dùng hết, các Tỳ-kheo sử dụng phòng ấy nấu canh, nấu cháo, sắc thuốc, trước bữa ăn, sau bữa ăn, đầu đêm, giữa đêm, sau đêm, có cả tiếng chó sủa, nam nữ, dao, ghế. Đức Phật hỏi Tôn giả A-nan: Tại sao trong phòng lại có các tiếng như thế? Tôn giả A-nan trình bày đầy đủ. Bằng mọi cách Đức Phật quở trách: Tại sao trong phòng Tăng, chỗ tịnh để thức ăn lại sắc thuốc, từ nay vị nào phạm thì phạm Đột-kiết-la.
Đức Phật nơi thành Vương-xá. Các Tỳ-kheo mắc chứng bệnh mùa Thu, cần hòa hợp thuốc thang tùy theo chứng bệnh nên thời hay phi thời đều vào trong xóm làng, gặp phải nước, lửa, giặc cướp, xảy ra nạn y bát, nạn phạm hạnh, nạn thân mạng. Có một người thợ dệt, giữa lộ trình cất nhà để dệt, thấy các Tỳ-kheo vào xóm làng đúng thời và phi thời, bèn nói: Nếu có cần làm thì có thể làm nơi đây, muốn có chỗ lưu lại thì có thể lưu lại nơi đây. Các Tỳ-kheo không dám, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép làm tịnh thất nơi nhà bạch y. Các vị làm ồn ào, gây phiền cho người chủ, trở ngại việc dệt của người thợ kia. Người thợ dệt nghĩ: Ta vốn vì vấn đề dệt nên làm cái nhà này, nay đã không dệt được, lại thành chỗ cúng cho Tăng làm tịnh thất, nên liền cúng cho Tăng. Các Tỳ-kheo coi đó là nhà của Tăng, không dám làm thức ăn hay đun thuốc, hòa thuốc ở đấy, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép làm thức ăn ở trong tịnh thất của Tăng. Có các Tỳ-kheo mới làm trú xứ, chưa có tịnh thất của Tăng, không biết nên như thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nếu làm trú xứ mới, trước hết nên chỉ chỗ nào đó, làm tịnh địa, thì có thể để thức ăn nơi ấy. Nếu chưa Yết-ma, Tỳ-kheo không được vào trong đó, cho đến khi tướng mặt trời xuất hiện.
Có một trú xứ các Tỳ-kheo bỏ đi lâu rồi, Tỳ-kheo đến sau, không biết nơi nào là tịnh thất, bạch Phật. Phật dạy: Nếu bỏ không mười hai năm, cho phép các Tỳ-kheo tùy ý làm tịnh thất lại.
Có một trú xứ không có tịnh thất của Tăng, lại chưa đủ mười hai năm, Tỳ-kheo đến sau không biết làm tịnh địa chỗ nào, bạch Phật. Phật dạy: Nếu chỗ nào không ai đi đến và chỗ không cần dùng việc gì thì nên tạm dùng làm tịnh xứ. Có các Tỳ-kheo làm thức ăn trong tịnh thất bị người lấy trộm, bạch Phật. Phật dạy: Nên tác Yết-ma lấy phòng giữa làm tịnh xứ.
Có các Tỳ-kheo muốn tác Yết-ma bên trong tường ngăn một phòng làm tịnh địa, bạch Phật, Phật cho phép. Có các Tỳ-kheo muốn tác Yết-ma một phòng ngang bằng với cái thất, lưu lại một chỗ làm tịnh địa, bạch Phật, Phật cho phép. Có các Tỳ-kheo muốn tác Yết-ma trong sân làm tịnh địa, bạch Phật, Phật cho phép. Có các Tỳ-kheo muốn tác Yết-ma một góc phòng hoặc nửa phòng làm tịnh địa, bạch Phật, Phật cho phép. Có các Tỳ-kheo muốn tác Yết-ma nơi cái giá, cái ghế làm tịnh xứ để thức ăn, bạch Phật, Phật không cho phép. Chủ yếu là phải nương nơi đấy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo muốn tác Yết-ma tầng trên của thất làm tịnh xứ, bạch Phật, Phật không cho phép, vi phạm, phạm Độtkiết-la. Có các Tỳ-kheo muốn tác Yết-ma từ tầng gác của thất trở xuống kiết làm tịnh xứ, bạch Phật, Phật cho phép. Có các Tỳ-kheo muốn tác Yết-ma trên chiếc xe làm tịnh xứ, bạch Phật, Phật không cho phép, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo muốn tác Yết-ma trong Tăng phường làm chung tịnh địa, bạch Phật, Phật cho phép. Nên bạch nhị Yết-ma, một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Một trú xứ này, cùng ở, cùng Bố-tát, cùng nhận phẩm vật cúng dường. Nay Tăng kiết làm tịnh địa, trừ chỗ (nào đó) nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Một trú xứ này… cho đến, trừ chỗ (nào đó). Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói. Tăng đã kiết làm tịnh địa rồi, Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, nơi thành Bạt-đề có Trưởng giả tên là Văn Trà, có phước đức lớn, tất cả vợ con, con dâu và đầy tớ đều có phước đức. Khi Trưởng giả vào nơi kho (bồ), trong không trung mưa lúa rơi xuống, Trưởng giả ra mới hết rơi. Người vợ lấy bồn cơm để phân bố trong ngoài, lấy bao nhiêu đầy bấy nhiêu không có cùng tận. Người con cầm đãy vàng trút ra thì tiền vàng chảy ra không ngớt. Vợ của con lấy một hộc gạo để bên nội, bên ngoại ăn một tháng mà cũng không hết. Người trai cày khi cày đất thì liền thành bảy khoảnh. Đứa tớ gái xay bảy lượng hương xoa để thoa bên nội, bên ngoại của gia đình cũng không giảm hết. Người bốn phương nghe, không ai là không tò mò tới xem. Vua Bình-sa nghe cũng muốn đến xem. Không thông báo, đột xuất cùng quyến thuộc đến nhà Trưởng giả ấy! Ông Trưởng giả nghe Vua tới, vội nghinh đón, thấy Vua liền vấn an: Lành thay Đại vương! May mắn thay được Đại vương hạ cố! Nhà Vua hỏi: Ngươi có nghe tin trước ta đến không? Đáp: Tâu Đại vương, không nghe. Nhà Vua nói: Binh mã của ta đông như thế này nhà ngươi khó có thể phục vụ hết được. Ông Trưởng giả tâu: Con có thể phục vụ được, chính con sẽ phục vụ nhà Vua và các Đại thần, con của con sẽ phục vụ thái tử, vợ của con phục vụ hậu cung, nô tỳ của con phục vụ cho tất cả binh sĩ, lúa và cỏ cũng đủ để cho voi, ngựa ăn, xin Đại vương cứ giáng lâm. Nhà Vua vào nhà ngồi rồi, nói: Ta nghe ông Trưởng giả cùng tất cả vợ con và vợ của con cũng như tôi tớ đều có phước đức, nay ta muốn thấy những đều đó. Ông Trưởng giả tâu: Con không dám che giấu. Trưởng giả ra lệnh, trừ trong kho gạo, rưới nước quét xung quanh rồi trải tòa mời Vua vào nhà ngự tọa. Sau đó Trưởng giả vào kho, tự nhiên năm loại thóc từ không trung rơi xuống. Nhà Vua lấy làm lạ khen. Nhà Vua lại muốn thấy sức mạnh phước đức của vợ ông Trưởng giả. Ông Trưởng giả liền lấy một cái đồ đựng cơm để trước người vợ, người vợ liền lấy để phân bố tất cả binh lính, đều được no đủ, cũng không giảm hết. Nhà Vua lại muốn thấy sức mạnh về phước đức của con ông Trưởng giả. Ông Trưởng giả liền bảo con cầm cái đãy bằng vàng trút vàng ra để dâng cho Vua và đại chúng, mọi người đều tùy ý lấy cũng vẫn không hết. Nhà Vua lại muốn thấy phước đức của người dâu. Ông Trưởng giả liền ra lệnh lấy một hộc gạo để cung cấp cho nhà Vua và đại chúng một tháng mà không hết. Nhà Vua lại muốn thấy phước đức của đứa ở. Ông Trưởng giả ra lệnh, cày liền thành bảy khoảnh. Nhà Vua lại muốn thấy phước đức của đứa tớ gái. Ông Trưởng giả liền ra lệnh xay nửa lượng hương xoa để thoa cho số người trong nửa do-tuần, cũng vẫn không hết. Nhà Vua cùng đại chúng thấy phước đức như vậy đều khen ngợi hết lời, rồi trở về cung.
Khi ấy, Đức Thế Tôn cùng Đại Tỳ-kheo Tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị đầy đủ, du hành nơi nhân gian, đến thành Bạt-đề. Trưởng giả Văn Trà nghe Đức Phật Thế Tôn nay đến nơi đây, ở nơi cội cây Võng lâm, muốn đến cung nghinh lễ bái, thăm hỏi. Các ngoại đạo nghe liền đến nói: Ông không nên tới cung nghinh Sa-môn Cù-đàm, Sa-môn Cù-đàm nên đến yết kiến ông. Tại sao vậy? Ông phước đức hơn người, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn, Quốc vương, Trưởng giả có ai lại không đến cửa ngõ nhà ông. Trưởng giả nghe như vậy rồi, bèn thay đổi ý kiến, sau đó lại nghĩ: Samôn Cù-đàm đến đây đã lâu, không yết kiến ta, đạo của Ngài chắc hơn ta, đâu có lý do gì mà ta ngồi yên, không đến kính lễ người? Trưởng giả liền sửa soạn xe cộ để đến. Từ xa trông thấy dung mạo của Đức Thế Tôn thù đặc, giống như núi vàng, liền đến trước Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi đứng qua một bên. Đức Phật vì ông nói các pháp nhiệm mầu… cho đến khổ, tập, tận, đạo. Từ chỗ ngồi, ông liền đắc mắt pháp trong sạch, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật: Con xin thỉnh Phật và Tăng thọ trai vào ngày mai. Đức Phật nhận lời bằng sự im lặng. Trưởng giả về nhà sửa soạn nhiều thức ăn ngon bổ, sáng ngày, khi làm thức ăn xong, đích thân đến bạch Phật: Cúi xin Ngài tri thời. Đức Phật cùng Tỳ-kheo Tăng kẻ trước người sau vây quanh đến nhà thí chủ, an tọa nơi tòa. Ông Trưởng giả tự tay sớt thức ăn, ăn xong dâng nước, rồi cùng với kẻ lớn người nhỏ trong gia đình đến ngồi trước Phật, Phật vì họ nói các pháp diệu… cho đến câu khổ, tập, tận, đạo. Họ đều đạt mắt pháp trong sạch, thọ ba quy y, năm giới.
Ông Trưởng giả bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Vợ và con của con, con dâu, cũng như tôi tớ, đều có phước đức, vậy phước đức này đến là do sức phước của ai? Xin Đức Phật dạy cho.
Đức Phật dạy: Các ngươi cùng có phước đức này. Ông Trưởng giả lại hỏi: Tại sao lại cùng có?
Đức Phật dạy: Xưa kia tại thành Vương-xá có một người thợ dệt, có vợ, vợ có một người con trai, đứa con trai lại cũng có vợ, gia đình có một đứa ở và một đứa tớ gái. Trong một bữa cơm cùng ăn, có một vị Phật-bích-chi đến khất thực. Người thợ dệt nói: Các ngươi cứ ăn, lấy phần ăn của ta cúng cho sư. Người vợ nói: Lấy phần của tôi để cho. Người con cho đến đứa tớ gái cũng đều nói như vậy. Đức Phật Bích Chi nói: Quý vị đều nhịn phần của mình để cho tôi, tâm thiện đầy đủ, vậy mỗi người có thể sớt một ít cho tôi, khiến quý vị không thiếu mà tôi cũng được no. Mỗi người đều lấy một muỗng thức ăn của mình để vào bát của Phật-bích-chi, đầy bát, Phật-bích-chi nhận được thức ăn, ăn rồi, ở trong hư không hiện các thứ thần biến, sau đó Đức Phật ra đi. Gia đình ấy sau khi mạng chung sinh lên cõi trời Tứ Thiên vương, đời sống hết, sinh nơi trời Đao Lợi lần lượt sinh đến cõi trời Tha Hóa Tự Tại, bảy phen như vậy, dư phước mới sinh lại cõi này, quyến thuộc của người thợ dệt bấy giờ, nay là các ngươi.
Lúc ấy, ông Trưởng giả, trước mặt Đức Phật, thỉnh Tăng: Nay con xin được thỉnh tất cả Tăng để cúng theo nhu cầu vô hạn, nếu cần dùng thứ gì, tùy thời, nhiều hay ít cứ đến nơi nhà con nhận. Các Tỳ-kheo không dám thọ, nghĩ là Đức Phật chưa cho phép chúng ta nhận vật cúng dường không có mức lượng, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép tùy ý nhận.
Có các Tỳ-kheo muốn đi xa đến xin lương thực đi đường, Trưởng giả liền sai người đem biếu vàng, bạc, tiền, phẩm vật tiễn đưa. Chuyến đi đã hoàn tất mà lương thực còn dư nhiều, sai người đem trả lại, nói: Lương thực đi đường nay còn dư nhiều xin hoàn trả lại. Ông Trưởng giả nói: Con đã cúng dường, không nên trả lại, thầy cứ đem về Tăng phường để cúng cho Tăng. Sứ giả đem cúng cho Tăng, các Tỳ-kheo không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép tịnh nhân của Tăng vì Tăng nhận, đổi lấy vật Tăng cần dùng, các Tỳ-kheo không nên biết đến việc này.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn từ Võng lâm du hành trong nhân gian, Trưởng giả Văn-trà chở đầy thức ăn theo sau, dự tính đến chỗ hoang vắng, chỗ không người, sẽ dâng cúng một ngàn hai trăm năm mươi thớt voi, một ngàn hai trăm năm mươi con bò cái, một ngàn hai trăm năm mươi con bò đực, người áp tải năm trăm cỗ xe, với các thức ăn ngon bổ. Khi đến nơi hoang vắng, thuần khiết, dừng lại để nghỉ, suốt đêm sửa soạn thức ăn, sáng sớm, dưới mỗi bóng mát của một thớt voi, trải tòa cho một Tỳ-kheo ngồi. Bóng mát của con voi chúa lớn nhất, trải tòa thỉnh Đức Thế Tôn ngồi. Đến giờ mời Phật và Tăng thọ trai, các Tỳ-kheo không dám ngồi, nghĩ: Đức Phật chưa cho phép chúng ta ngồi dưới bóng mát của chúng sinh, bạch Phật, Phật cho phép ngồi. Đại chúng ổn định chỗ ngồi xong, trước hết ông Trưởng giả cho người vắt sữa một con bò, cúng cho một Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không dám thọ, nghĩ: Đức Phật chưa cho phép chúng ta uống sữa còn nóng của bò, bạch Phật, Phật cho phép uống. Uống rồi, ông Trưởng giả tự tay dâng thức ăn, ăn rồi dâng nước rửa, dâng nước rửa xong, ngồi trước Đức Phật, Phật vì Trưởng giả nói kệ tùy hỷ, như đã nói cho Tỳ-lan-nhã, lại vì ông nói các pháp diệu, chỉ vẽ sự lợi ích, vui vẻ. Sau đó, Trưởng giả trở về lại nhà.
Đức Phật cùng đại chúng từ tòa đứng dậy, tuần tự về phía Bắc, hướng đến trú xứ của ngoại đạo bện tóc Kế-na, Kế-na nghe Đức Phật từ dòng họ Thích xuất gia thành bậc Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, chiều này sẽ đến, tác ý niệm như vầy: Đời quá khứ các vị Tiên tu phạm hạnh, sau giữa ngày không ăn, mà uống các thứ nước phi thời, như nước trái Am-bà, nước trái Diêm-bà, nước trái Châu-đà, nước trái Ba-lâu, nước trái Bồđào, nước trái Câu-la, nước Cam-giá, nước mật, Sa-môn Cù-đàm cũng nên dùng thứ này, ta phải chuẩn bị thết đãi. Sửa soạn xong, cùng năm trăm đệ tử ra nghinh đón Đức Thế Tôn. Từ xa trông thấy dung mạo của Đức Thế Tôn thù đặc giống như núi vàng, càng sinh hoan hỷ đến trước Đức Phật đứng yên, kính cẩn chào: Lành thay, Đức Cù-đàm đến đây! Mời Ngài hạ cố vào nhà tôi ngồi. Đức Phật cùng các Tỳ-kheo vào nhà theo thứ tự an tọa. Phạm chí đem nước phi thời dâng cúng, các Tỳ-kheo không dám thọ, nghĩ: Đức Phật chưa cho phép chúng ta uống nước phi thời, bạch Phật, Phật cho phép uống. Các Tỳ-kheo lại bạch Phật: Do nhân duyên gì mà được uống? Phật dạy: Khát nên được uống. Phạm chí lại khởi ý nghĩ: Nay ta nên vì các Sa-môn Cù-đàm chuẩn bị thức ăn của người Tiên để cúng dường vào ngày mai, như cơm gạo không có nhựa, gạo tẻ, gạo có chất đắng, gạo Tú, gạo Câu lưu. Sáng ngày sửa soạn xong, thỉnh Phật và đại chúng đến phó trai, tất cả an tọa nơi tòa, Phạm chí tự tay sớt thức ăn. Các Tỳ-kheo không dám thọ thực, nghĩ: Đức Phật chưa cho phép ăn thức ăn của tiên nhân. Bạch Phật, Phật cho phép dùng. Ăn xong rửa tay rồi, Phạm chí lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi trước Đức Phật. Đức Phật nói kệ tùy hỷ, như đã nói ở Tỳlan-nhã. Phật lại vì Phạm chí nói các pháp nhiệm mầu, chỉ vẽ sự lợi ích, vui vẻ rồi, bèn từ chỗ ngồi đứng dậy hướng về thôn xóm A-mâu. Khi ấy, nơi xóm này có cha con người thợ hớt tóc xuất gia, nghe Đức Thế Tôn sắp đến, liền bàn tính: Nơi đây các Cư sĩ không kính Tam bảo, nếu Đức Phật tới đây, chắc không ai cúng cháo, cha con mình nên cùng nhau đi hớt tóc để lấy tiền làm việc đó. Bàn tính xong liền thực hiện và có đủ tài vật để bày biện cúng cháo. Sáng sớm thỉnh Phật và Tăng… sau khi Tăng ăn rồi, Đức Phật hỏi hai Tỳ-kheo: Tại sao hai vị có phương tiện để cúng cháo này? Hai Tỳ-kheo (cha con người thợ hớt tóc) đem sự thật bạch Phật. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Hai ông làm việc phi pháp, tại sao làm việc cúp tóc thuê cho bạch y. Từ nay, nếu thợ hớt tóc xuất gia, không cho phép chứa cất dụng cụ hớt tóc, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Trên lộ trình đến ấp Ba tuần, các lực sĩ nơi ấp này nghe Đức Phật sắp tới, liền cùng nhau nghị bàn: Nếu ai không ra nghinh đón Đức Phật sẽ bị phạt năm trăm kim tiền, nên tất cả lớn nhỏ đều ra nghinh đón Đức Thế Tôn, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật vì họ nói các pháp diệu, chỉ vẽ sự lợi ích, họ vui mừng rồi, liền thỉnh Phật và Tăng hạ An cư bốn tháng. Đức Phật nhận lời bằng sự im lặng. Các lực sĩ biết Đức Phật nhận lời rồi, hoặc một người sắm sửa thức ăn một ngày, hay hai ngày, cho đến mười ngày, hoặc hai người cùng sắm sửa thức ăn một ngày, cho đến mười người cùng sắm sửa thức ăn một ngày, hoặc chỉ cúng dường bữa ăn trước, hoặc chỉ nấu cháo, hoặc chỉ làm Đát bát na. Lúc này, có một người tự là Lô-di, là bạn thân của Tôn giả A-nan, khi còn bạch y, hỏi các Tỳ-kheo: Tôn giả A-nan nay làm gì ở đâu? Được trả lời: Tôn giả A-nan kính Phật, Pháp, Tăng, nay đứng phía sau Đức Phật. Lô-di liền đến chỗ Tôn giả Anan, kính lễ sát chân rồi đứng lui qua một bên. Tôn giả A-nan nói: Thấy bạn nghinh đón Đức Phật tôi rất vui mừng! Lô-di trả lời: Tôi đến không phải vì kính Đức Phật, chỉ vì sự quy định của thân tộc, nếu không đón Đức Phật sẽ bị phạt năm trăm kim tiền, cho nên tôi đến. Tôn giả Anan nghe rồi, xem đó là điều đáng buồn: Tại sao bạn thân của ta mà không kính Đức Phật, Pháp và chúng Tăng! Tôn giả liền đến bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Con mong muốn bạn con kính tin Phật pháp. Đức Phật nói với Tôn giả: Bạn ông tin Phật, không phải là điều khó ông chớ buồn lo. Đức Phật liền dùng lòng từ rải khắp nơi thân của Lô-di rồi vào phòng đóng cửa an tọa. Sau đó, Lôdi suy nghĩ: Đức Thế Tôn như trâu mẹ quyến luyến trâu con. Lô-di thấy số đông Tỳ-kheo đi kinh hành nơi đất trống, hỏi: Đức Phật ở đâu? Các Tỳ-kheo chỉ nơi phòng và nói: Ngài ở nơi phòng lớn, cửa đóng ấy, ông có thể đi nhẹ nhẹ đến đó tằng hắng hay gõ cửa, Đức Thế Tôn giũ lòng thương đối với ông sẽ mở. Lô-di làm theo lời hướng dẫn, cửa phòng được mở. Sau khi vào phòng, Lô-di tay ôm chân Đức Phật, tự xưng tên họ, cúi đầu kính lễ. Đức Phật vì Lô-di nói các pháp nhiệm mầu, chỉ vẽ điều lợi ích để được vui mừng, như nói việc bố thí, cho đến nói khổ, tập, tận, đạo. Lô-di liền xa trần lìa cấu, đạt mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc quả rồi thọ ba quy y, năm giới, bạch Phật: Bạch Thế Tôn, con xin được thỉnh Phật và Tỳ-kheo Tăng luôn luôn nhận thức ăn từ nơi con, đừng nhận nơi khác. Đức Phật dạy: Các học nhân đều có lời nguyện này, ta đã nhận các người này mời bốn tháng hạ, không thể thất hứa. Lô-di khởi ý niệm: Có thức ăn nào chưa có người cúng, ta sẽ cúng để khỏi mất phước điền này? Khư-đà-ni (món ăn phụ) là món duy nhất chưa thấy ai cúng dường. Món ăn này liền được sắm sửa và Lô-di vội đem đến cúng dường. Các Tỳ-kheo không dám nhận và nghĩ: Đức Phật chưa cho phép chúng ta ăn Khư-đà-ni, (món ăn phụ), bạch Phật. Phật dạy: Cho phép được dùng.
Bấy giờ, mẹ của Tỳ-xá-khư dâng cúng trai phạn cho Tăng có hạn lượng, lại định rõ thời gian và địa điểm đến nhận. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật cho nhận. Có các Cư sĩ thỉnh các Tỳ-kheo cúng dường theo ý của mình. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên nhận theo ý của người cúng. Người cúng không nên dùng vàng, bạc, vật báu, nữ sắc cúng cho Tăng. Nếu Tỳ-kheo nào thọ vật cúng dường như vậy phạm Đột-kiết-la. Vị nào thọ, như pháp trị. Có các bạch y theo thứ tự thỉnh Tăng, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Nên theo thứ tự sai thọ. Các Tỳ-kheo không biết sai ai, bạch Phật. Phật dạy: Nên bạch nhị Yết-ma, sai một Tỳ-kheo làm người sai thọ thỉnh. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay Tăng sai Tỳ-kheo… làm người sai thọ thỉnh. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay Tăng sai Tỳ-kheo… làm người sai thọ thỉnh, các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã sai Tỳ-kheo… làm người sai thọ thỉnh rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Các Tỳ-kheo lại sai Tỳ-kheo vô trí không biết thứ tự, bạch Phật. Phật dạy: Không nên sai Tỳ-kheo vô trí. Người có năm pháp không nên sai: làm theo ý muốn, làm theo sự giận hờn, làm theo sự si mê, làm theo sự sợ sệt, không biết sai hay chưa sai. Có các bạch y hay thường làm thức ăn tặng cho các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không biết nên như thế nào, bạch Phật, Phật cho phép thọ. Có các bạch y vì Tăng làm các phòng xá nhà sưởi ấm (nhà ấm), phòng tắm rồi, làm thức ăn dâng cúng nơi phòng mới đó, khiến các Tỳ-kheo đến nhận, các vị không biết ai nên đến nhận, bạch Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo nào ở nơi phòng đó thì nên đến nhận.
Đức Phật ở Tỳ-xá-ly. Bấy giờ, gặp lúc mất mùa, đói kém, khất thực khó được, các Tỳ-kheo Phạm chí khởi ý nghĩ: Nếu Đức Thế Tôn cho phép chúng ta trồng cây ăn trái thì có thể tránh khỏi nạn đói, bạch Phật, Phật cho phép trồng. Khi cây có trái, vì các Tỳ-kheo tự tay trồng nên nghi không dám ăn, bạch Phật, Phật cho phép: Tùy ý ăn. Có các Tỳ-kheo trèo lên cây lấy tay bóp thử xem trái đã chín chưa, bạch Phật. Phật dạy: Không nên leo lên cây đụng chạm đến trái. Có các Tỳ-kheo thấy trái rụng nơi phi tịnh địa, bảo người lượm dồn lại một đống để cách đêm, không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nếu không biết nơi đất đó là tịnh hay phi tịnh thì cho phép ăn. Nếu biết chỗ đất đó chẳng phải tịnh thì không nên ăn.
Khi ấy, Lục quần Tỳ-kheo lấy trái tốt ăn trước, các Tỳ-kheo thiện khác không được ăn, bạch Phật. Phật dạy: Nên bạch nhị Yết-ma sai một Tỳ-kheo làm người chia trái. Nếu trái nhiều thì tùy ý ăn. Lục quần Tỳ-kheo lấy trái của Tăng đem tặng bạch y, bạch y lại đến các Tỳ-kheo khác xin, bạch Phật. Phật dạy: Không nên lấy trái của Tăng tặng cho bạch y, nếu vi phạm, phạm Độtkiết-la. Có các bạch y đến trong Tăng phường thấy trái cây, xin các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không dám cho, họ trách cứ, bạch Phật. Phật dạy: Nên cho.
Đức Phật ở Tỳ-xá-ly. Khi ấy, gặp lúc đói kém, khất thực khó được, nên Tỳ-kheo phạm chí khởi ý niệm: Nếu Đức Thế Tôn cho phép chúng ta trồng rau thì có thể đủ ăn, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép trồng (như trường hợp trồng cây ăn trái đã nói). bạch y trồng rau trên đất của Tăng, nếu Tăng cần thì được xin Ba lần. Các Tỳ-kheo bảo tịnh nhân rửa rau chỗ chẳng phải tịnh, rửa chưa xong, tướng ánh sáng xuất hiện, sinh nghi, bạch Phật. Phật dạy: Không phạm. Không có tịnh nhân, các Tỳ-kheo không biết bảo ai dâng thức ăn cho Tăng, bạch Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo nên thọ rồi tự tiện dùng. Có các đồ bằng gỗ hành thực bị nhơ nhớp không sạch, vì chất béo, dùng gạch đá chùi rửa, đồ hành thực bị bể, bạch Phật. Phật dạy: Không nên dùng gạch, đá chùi rửa, nên dùng tro và nước nóng để chùi rửa. Có bình đựng tô, dầu, mật cần đậy lại mà không có Tịnh nhân, bạch Phật. Phật dạy: Nên dùng vật mới để đậy, đừng cho đụng tay vào. Có bình bị nghiêng đổ bất ngờ, không có Tịnh nhân để đỡ lên, bạch Phật. Phật dạy: Nên tự mình dựng lên nhưng đừng để cho vật kia rời đất. Có một Tỳ-kheo hiềm giận vị khác, đem bình đựng tô của vị ấy để chỗ phi tịnh địa, cách đêm, muốn cho vị kia không ăn trở lại được, bạch Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo đem để đó thì tô ấy bị bất tịnh, Tỳ-kheo chủ của bình tô được ăn, vị đem đến chỗ bất tịnh, phạm Đột-kiết-la. Các Tỳ-kheo dùng thuyền xe chở thức ăn, không có tịnh nhân lái, bạch Phật. Phật dạy: Nếu không có tịnh nhân thì cho phép Tỳ-kheo được lái. Bấy giờ, chúng Tăng muốn dùng xe chở gạo, có một Bà-la-môn dùng một nắm gạo bất tịnh của Tăng ném vào trong xe, bạch Phật. Phật dạy: Nếu có thể để riêng càng hay, bằng không thì để ra một nắm. Có con cáo đồng lấy trộm bình tô của Tỳ-kheo, đem để chỗ bất tịnh, cách đêm, không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép ăn, không phạm. Có thân cây ăn trái mọc nơi bất tịnh địa, nhánh phủ qua nơi tịnh địa, Tỳ-kheo cũng ở nơi bất tịnh địa, đem thức ăn treo trên nhánh cây, cách đêm, không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nhánh cây của thân cây từ bất tịnh địa, không được ăn. Có thân cây ăn trái mọc nơi đất tịnh, nhánh cây phủ qua đất bất tịnh, Tỳ-kheo cũng ở nơi đất tịnh, đem thức ăn treo trên nhánh cây, cách đêm, không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép ăn, không phạm. Có cây ăn trái mọc chỗ tịnh, bất tịnh, nhánh cây phủ qua chỗ tịnh, bất tịnh, Tỳ-kheo cũng tùy theo ở chỗ tịnh, bất tịnh, trái cây rụng nơi tịnh, bất tịnh, cách đêm, không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Không do Tỳ-kheo làm ra đều được ăn, không phạm. Có Tỳ-kheo lấy đất nơi tịnh địa, cất thất nơi bất tịnh địa, Tỳ-kheo đem thức ăn để trong đó, gọi là tịnh, bạch Phật. Phật dạy: Căn cứ nơi đất là tịnh, nếu bất tịnh thì không được ăn. Có Tỳ-kheo lấy đất nơi bất tịnh, cất thất nơi tịnh địa, không dám đem thức ăn để trong đó, bạch Phật. Phật dạy: Để thức ăn, không phạm. Có con hươu, con nai… chết trôi, không có tịnh nhân lấy, Tỳ-kheo tự lội xuống nước vớt lấy, không biết nên thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Đến nơi bờ, khiến tịnh nhân cắt bỏ chỗ mà tay Tỳ-kheo cầm, ngoài chỗ đó ra ăn không phạm. Có trú xứ, Tỳ-kheo có nhiều xoài, ăn còn dư cho Tịnh nhân, sáng hôm sau Tịnh nhân đem nấu canh, dâng cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không dám ăn, bạch Phật. Phật dạy: Không có ý ăn trở lại, đều cho phép ăn, không phạm. Có các Tỳ-kheo, khi ăn không chia cho người không nhận được thức ăn, có bạch y chê trách nói: Sa-môn Thích tử giống như mèo, chồn ăn không chia cho nhau, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Nên chia cho nhau, cho đến không chia cho một người, phạm Đột-kiết-la. Có một Bà-la-môn đem lương khô gởi cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo đem để ở chỗ bất tịnh, cách đêm, sáng ngày đến lấy phân chia cúng cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo nghĩ, mình đã đem về để chỗ phi tịnh địa nên không nhận để ăn, bạch Phật. Phật dạy: Vốn là lương khô của bạch y, cho phép nhận để ăn, không phạm. Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo: Tuy là điều chính ta chế cấm, mà nơi khác không cho đó là thanh tịnh, đều không nên dùng, tuy chẳng phải là điều chính ta chế cấm, mà nơi khác thấy cần nên làm, đều không được không làm.
----
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, các Tỳ-kheo, trong ba y, nếu cần cái nào thì đến trong Tăng lấy. Bấy giờ, y của Tôn giả A-na-luật bị hư rách, các Tỳ-kheo nói: Đại đức có thể đến trong Tăng để lấy vải may. Tôn giả trả lời: Đức Thế Tôn không cho phép chứa y (vải) dư, tôi không thể may một ngày xong, sợ phạm tội chứa y (vải) dư. Lại có Tỳ-kheo có nhiều người quen biết ở ấp Ba-lợi, đến thành Xá-vệ hậu an cư, nhưng chỉ còn một đêm không thể đi kịp, nên phải an cư nơi Takiệt-đà. An cư xong, ngày mười sáu, mang chiếc y nặng vì bị mưa ướt đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên. Thường pháp của Đức Thế Tôn là an ủi hỏi Tỳ-kheo khách: Các thầy An cư có hòa hợp không? Khất thực có dễ không? Trên đường đi có nhọc mệt không? Các vị thưa: An cư hòa hợp, khất thực không thiếu, trên đường đi gặp mưa, y bị ướt, mang đi vất vả. Các Tỳ-kheo cũng đem vấn đề của Tôn giả A-na-luật bạch với Phật luôn. Do hai việc trên, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bằng mọi cách khen ngợi hạnh thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo thọ y Ca-hina, thọ y Ca-hi-na được khỏi phạm năm việc: ăn riêng chúng, ăn nhiều lần, vào xóm làng khỏi báo với các Tỳ-kheo khác, chứa y dư, lìa y ngủ. Nếu đàn-việt đem y vật Ca-hi-na đến cúng cho Tăng, trong các Tỳ-kheo, người nào thiếu y nên bạch nhị Yết-ma, cho họ. Một Tỳ-kheo tuyên cáo: Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tăng được nhận y vậy Ca-hi-na này, nay đem cho Tỳ-kheo… nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tăng được nhận y vậy Ca-hi-na này, nay đem cho Tỳ-kheo… các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo… y vật Ca-hi-na này rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Tỳ-kheo kia nhận được y rồi, nội nhật phải giặt nhuộm và may cho xong. Một mình có thể làm xong thì tốt, nếu không thể xong, Tăng nên bạch nhị Yết-ma sai một Tỳ-kheo, hoặc hai hay ba, cho đến số đông Tỳ-kheo tiếp tay vào. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay sai Tỳ-kheo… Tỳ-kheo… v.v… giúp Tỳ-kheo… may y. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay sai Tỳ-kheo… Tỳ-kheo… v.v… giúp Tỳ-kheo… may y. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói. Tăng đã sai Tỳ-kheo… Tỳ-kheo… v.v… giúp Tỳ-kheo… may y rồi.
Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Nếu y đã may xong, Tỳ-kheo được Tăng dự định cho, nên đem y đến giữa Tăng, để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, quỳ gối bạch: Tăng nhận được y vật Ca-hi-na này, đã giặt nhuộm, đập, may như pháp xong, xin Tăng thọ làm y Cahi-na. Bạch như vậy rồi, lại đứng dậy đem đến khắp trong chúng Tăng để trình bày, các Tỳ-kheo nên trả lời: Thưa Trưởng lão! Chúng tôi tùy hỷ trao y cho thầy. Vậy sau, Tăng bạch nhị Yết-ma để thọ. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tăng nhận được y vật Ca-hi-na này, giặt nhuộm, đập, may như pháp rồi, nay thọ làm y Ca-hi-na. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tăng nhận được y vật Ca-hi-na này, giặt nhuộm, đập, may như pháp xong, nay thọ làm y Ca-hi-na. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng, vị nào không đồng ý thì xin nói.
Tăng đã đồng ý thọ làm y Ca-hi-na rồi, Tăng đồng ý nên im lặng.
Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Tỳ-kheo được Tăng trao y vật ấy lại phải đi khắp, nói: y này Tăng đã thọ làm y Ca-hi-na. Các Tỳ-kheo đều nên nói: Y này Tăng đã thọ làm y Ca-hi-na, đó là thiện thọ, công đức trong vấn đề này cuối cùng thuộc về tôi. Có trường hợp thành thọ y Ca-hi-na, có trường hợp không thành thọ y Ca-hi-na. Trường hợp không thành thọ y Ca-hiNa-là: giặt, đập, nhuộm, may không như pháp, hoặc nhỏ hoặc lớn hoặc y bằng gấm, the, hoặc thọ khi chưa Tự tứ xong, hoặc tham lợi dưỡng, hoặc muốn cố ý xả năm việc, đều không thành thọ. Ngược lại những điều trên là thành thọ. Có tám trường hợp mất y Ca-hi-na.
1. Mãn hạn.
2. Y bị mất.
3. Nghe y bị mất.
4. Đi xa.
5. Sự hy vọng bị mất.
6. Y ra ngoài giới.
7. Người ra ngoài giới.
8. Bạch nhị Yết-ma xả.
Có hai nhân duyên không được thọ y Ca-hina:
1. May y chưa xong.
2. Bỏ trú xứ đi.
Thọ y Ca-hi-na có ba mươi ngày, xả y Ca-hina cũng có ba mươi ngày. Nếu tiền an cư thì mười sáu tháng bảy thọ, đến mười lăm tháng mười một xả. Nếu mười bảy tháng bảy cho đến mười lăm tháng tám thọ thì cho đến mười sáu tháng mười một, tới mười bốn tháng mười hai xả. Nếu hậu an cư thì mười sáu tháng tám thọ, đến mười lăm tháng mười hai xả. Nếu thời gian của y xong, nên bạch nhị Yết-ma để xả. Một Tỳ-kheo xướng: Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay Tăng xả y Ca-hi-na. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay Tăng xả y Ca-hi-na, các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã đồng ý xả Ca-hi-na rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, các Tỳ-kheo cùng nhau tranh chấp lại cùng nhau tranh tụng. Tỳ-kheo với Tỳ-kheo tranh nhau, Tỳ-kheo với Tỳ-kheo-ni tranh nhau, Tỳ-kheo-ni với Tỳ-kheo-ni tranh nhau, Tỳ-kheo-ni với Tỳ-kheo tranh nhau. Khi ấy, Xiển-đà bỏ Tỳ-kheo yểm trợ Tỳ-kheo-ni, việc chưa xảy ra tranh tụng lại khơi rộng làm cho sinh chuyện, việc đã xảy ra tranh tụng lại khơi rộng thêm ra, chưa chấm dứt thì không thể chấm dứt, đã chấm dứt thì làm cho phát khởi lại. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc ấy, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo:
Thật sự các thầy có như vậy không? Các Tỳ-kheo thưa:
Bạch Đức Thế Tôn! Thật sự có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách:
Việc làm của các thầy là phi pháp, không phải đạo tùy thuận. Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay Tỳ-kheo với Tỳ-kheo tranh nhau… cho đến câu: bỏ Tỳ-kheo yểm trợ Tỳ-kheo-ni đều phạm Đột-kiết-la.
Có bốn thứ tranh chấp:
1. Do lời nói.
2. Do giáo giới.
3. Do phạm tội.
4. Do sự việc.
Do các sự việc này nên Phật vì các Tỳ-kheo kiết bảy pháp Diệt tránh.
Nếu có các sự tranh chấp khởi lên được dùng để diệt trừ:
Nên trao cho pháp Tỳ-ni Hiện tiền thì trao pháp Tỳ-ni Hiện tiền. Nên trao cho pháp Tỳ-ni Ức niệm thì trao cho pháp Tỳ-ni Ức niệm.
Nên trao cho pháp Tỳ-ni Bất si thì trao cho pháp Tỳ-ni Bất si.
Nên trao cho pháp Tự ngôn thì trao cho pháp Tự ngôn.
Nên trao cho pháp Đa nhân ngữ thì trao cho pháp Đa nhân ngữ. Nên trao cho pháp Thảo phú địa thì trao cho pháp Thảo phú địa.
Nên trao cho pháp Bổn ngôn trị thì trao cho pháp Bổn ngôn trị. Thế nào gọi là do lời nói?
Nếu Tỳ-kheo cùng nhau tranh cãi, có người nói là pháp, có người nói là phi pháp, là luật phi pháp, là phạm phi pháp, là trọng phi trọng, là hữu dư phi hữu dư, là tội thô phi tội thô, là cần dùng Yết-ma xuất tội, không cần dùng Yết-ma xuất tội, là Phật thuyết giảng, phi Phật thuyết giảng, là do Phật chế, phi do Phật chế, do đó đưa đến giận dữ mắng nhiếc nhau. Như vậy gọi là sự tranh chấp do lời nói.
Thế nào gọi là do giáo giới? Tỳ-kheo giáo giới Tỳ-kheo nói: Thầy nhớ có phạm Ba-la-di không? Nhớ có phạm Tăng-già-bà-thi-sa, Thâu-lan-giá, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la, ác thuyết không? Tỳ-kheo kia không vui không chấp nhận, do đó đưa đến sự tranh cãi. Như vậy gọi là tranh chấp do giáo giới.
Thế nào gọi là do phạm tội? Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, cho đến ác thuyết, hơn nữa do sự tranh chấp cùng nhau trách mắng khiến thân, khẩu, ý tuôn ra điều xấu ác, như vậy gọi là sự tranh chấp do phạm tội. Thế nào gọi là do sự việc? Tất cả các việc làm của Tăng đều Yết-ma và các việc cần làm, đưa đến sự tranh cãi. Như vậy gọi là tranh chấp do sự việc.
Tôn giả Ưu-ba-ly thưa hỏi Đức Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Tranh cãi do lời nói thì dùng bao nhiêu việc để chấm dứt?
Đức Phật dạy:
Dùng Tỳ-ni Hiện tiền, đa nhân ngữ để chấm dứt. Lại hỏi:
Làm thế nào được chấm dứt? Đức Phật dạy:
Nếu Tỳ-kheo cùng với Tỳ-kheo tranh cãi: Là pháp phi pháp, cho đến do Phật chế, phi do Phật chế. Tăng như pháp, như Tỳ-ni, như lời Phật dạy để chấm dứt. Nếu vị kia nói: Là pháp, là lời Phật dạy, chấp nhận đây là điều phải nhẫn nhịn thì gọi là Tỳ-ni Hiện tiền chấm dứt. Thế nào gọi là Hiện tiền? Hiện tiền có ba thứ: Tăng hiện tiền, Nhân hiện tiền và Tỳ-ni hiện tiền. Thế nào gọi là Tăng hiện tiền? Tăng tập trung hòa hợp, như thế gọi là Tăng hiện tiền. Thế nào gọi là Nhân hiện tiền? Người cùng tranh cãi nhau có mặt, như vậy gọi là Nhân hiện tiền. Thế nào gọi là Tỳ-ni Hiện tiền? Nên dùng pháp nào, dùng luật nào, dùng lời dạy nào của Phật để chấm dứt được thì dùng để chấm dứt, như vậy gọi là Tỳ-ni Hiện tiền. Nếu đã chấm dứt như vậy rồi, vị nào khơi trở lại thì phạm tội Ba-dật-đề.
Lại nữa, nếu chấm dứt tranh chấp do lời nói như vậy, song sự chấm dứt này không làm cho Tỳ-kheo vui lòng nghe theo thì Tỳ-kheo ở trú xứ khác hoặc một, hoặc hai, hoặc ba Tỳ-kheo cho đến một chúng thông minh, trí tuệ, hiểu rõ Ba-lađề-mộc-xoa, phải suy nghĩ có trách nhiệm đến để chấm dứt việc này. Đây là việc làm tốt đẹp phải đến để chấm dứt. Trước hết xin đến với trong chúng ấy, vị Tỳ-kheo biết pháp, phải ngỏ lời đề cập đến ngọn ngành của vấn đề, sau đó mới yêu cầu hợp Tăng. Tăng hợp rồi nên nói: Thầy nên tránh xa, chúng tôi cùng nhau bàn luận việc của thầy, Tỳ-kheo ấy đi tránh rồi, Tăng nên cùng nhau nghị bàn. Nếu Tỳ-kheo kia thật lòng bày tỏ lời yêu cầu chúng ta như pháp, như luật mà chấm dứt việc này, chúng ta nên cùng nhau như pháp, như luật mà chấm dứt. Nếu Tỳ-kheo kia không nói như sự thật, chúng ta không được như pháp, như luật chấm dứt việc đó. Tỳ-kheo tranh cãi nhau kia cũng nên nghị bàn: Nếu Tăng như pháp, như luật đúng mức với sự việc, ngày nay, ngày mai hay ngày mốt chấm dứt sự việc của chúng ta, chúng ta nên đối với Tăng trình bày đầy đủ gốc, ngọn của sự việc để nhờ Tăng chấm dứt. Đương sự đã đến trong Tăng trình bày đầy đủ sự việc. Có hai cách để Tăng đưa ra: Hoặc nói nên như thế này, hoặc nói không nên như thế này, không thể quyết định, Tăng nên nói: Tùy thầy chọn trong hai cách nói, mỗi bên mời bốn vị làm đoán sự. Tăng nói Tỳ-kheo cãi nhau mỗi bên mời bốn vị rồi, Tăng phải bạch nhị Yết-ma để sai. Trước hết nên Yết-ma hai lần ba vị, sau Yết-ma hai vị. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay Tăng sai Tỳ-kheo… và Tỳ-kheo… làm người đoán sự, như pháp, như luật để chấm dứt vấn đề cãi nhau kia. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay Tăng sai Tỳ-kheo… và Tỳ-kheo… làm người đoán sự, như pháp, như luật để chấm dứt việc tranh cãi kia. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã sai Tỳ-kheo… và Tỳ-kheo… v.v… làm người đoán sự. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy. Như vậy gọi là dùng Tỳ-ni Hiện tiền để chấm dứt việc tranh cãi do lời nói.
Khi ấy, các Tỳ-kheo sai Tỳ-kheo vô trí làm người đoán sự, bạch Phật. Phật dạy: Thành tựu năm pháp nên sai: Điềm tĩnh ghi nhận lời lẽ người khác, không giận, khéo ghi nhớ lời nói của người khác, khéo tìm hiểu ý của lời nói, hỏi thì nói, không hỏi không nói, khi nói không cười. Ngược lại năm pháp này không nên sai. Lại có năm pháp nên sai: Không làm theo ý muốn, sự giận hờn, sự si mê, sự sợ sệt, không nói lén. Ngược lại năm pháp đây không nên sai. Nếu Tỳ-kheo không được Tăng sai, hoặc một, hoặc hai, hoặc ba tuy thông minh trí tuệ, ngồi ở chỗ ngồi cao song muốn gây loạn cho đoán sự, Tăng nên mời ra ngoài. Lại có Tỳ-kheo tuy đọc tụng nhiều mà không hiểu rõ ý nghĩa, muốn gây rối cho đoán sự, người đoán sự nên nói: Nghĩa của kinh không phải như vậy. Áp dụng như vậy để chấm dứt sự tranh cãi, gọi là dùng Tỳ-ni Hiện tiền để chấm dứt. Nếu khi dùng cách thức như vậy để chấm dứt sự tranh cãi, có Tỳ-kheo nói: Nên dùng đa nhân ngữ để chấm dứt việc này, Tăng nên nói: Thầy nói hay đấy, nhưng thầy có hiểu rõ đa nhân ngữ hay không? Nếu nói, không hiểu rõ. Tăng nên từng vị một quở trách: Thầy không hiểu rõ đa nhân ngữ, tại sao nói, nên dùng đa nhân ngữ để chấm dứt việc này? Nếu Tăng không quở trách thì đều phạm tội Đột-kiết-la. Nếu nói, hiểu rõ. Tăng nên hỏi: Dùng như thế nào gọi là đa nhân ngữ? Vị ấy đáp: Dùng Yết-ma đa nhân ngữ để chấm dứt. Lại hỏi: Do đâu biết là nhiều? Đáp: Nên hành trù. Tăng lại hỏi: Thầy nói hay đấy, nhưng thầy hiểu rõ bao nhiêu pháp hành trù đúng pháp, bao nhiêu pháp hành trù không đúng pháp không? Nếu nói không biết, Tăng cũng nên quở trách như trên. Nếu nói biết thì Tăng nên bảo nói mười cách hành trù không như pháp và mười cách như pháp. Thế nào là mười cách không như pháp? Nếu do việc nhỏ mà rút thẻ để hành trù. Do không biết rõ vấn đề mà rút thẻ để hành trù. Do không tìm hiểu rõ căn bản của vấn đề mà rút thẻ hành trù. Phi pháp mà rút thẻ hành trù. Muốn số bất như pháp nhiều mà rút thẻ hành trù. Biết số bất như pháp nhiều mà rút thẻ hành trù. Rút thẻ hành trù để phá Tăng. Biết hành trù thì Tăng sẽ bị phá mà rút thẻ.
Không tùy theo thiện tri thức hành trù mà rút thẻ. Tăng không hòa hợp hành trù mà rút thẻ. Ngược lại mười điều trên là như pháp. Nếu thành tựu mười bốn pháp thì Tăng nên sai làm người hành trù: Biết mười điều như pháp lại không làm theo ý muốn, sự giận hờn, sự si mê, sự sợ sệt. Như vậy là mười bốn pháp. Tăng nên làm hai loại thẻ, một thứ như pháp, một thứ không như pháp. Xướng: Nếu nói như pháp thì rút thẻ như pháp, nếu nói không như pháp thì rút thẻ không như pháp. Xướng xong bắt đầu thi hành. Chính mình thâu thẻ rồi đến chỗ vắng để kiểm. Nếu thẻ không như pháp nhiều nên khiến đứng dậy: cách xa trước chỗ người ngồi, nói riêng: Đây là lời Phật dạy pháp ngữ, luật ngữ. Đại đức nên bỏ phi pháp, phi luật, phi lời Phật dạy. Nói như vậy rồi, hành trù lại. Nếu người không như pháp còn nhiều, nên xướng: Nay Tăng chưa giải quyết được việc này, quý vị có thể tùy ý giải tán, sau sẽ giải quyết, chứ không nên dùng phi pháp giải quyết. Nếu người như pháp nhiều nên bạch nhị Yết-ma để chấm dứt sự việc. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay Tăng dùng đa nhân ngữ chấm dứt sự tranh chấp này. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tăng nay dùng đa nhân ngữ để chấm dứt sự tranh chấp này. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng dùng đa nhân ngữ chấm dứt sự tranh chấp này rồi. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy. Như vậy gọi là dùng đa nhân ngữ để chấm dứt việc tranh cãi do lời nói.
Tôn giả Ưu-ba-ly lại thưa hỏi Đức Phật:
Sự tranh cãi do giáo giới dùng bao nhiêu việc để chấm dứt? Đức Phật dạy:
Dùng Tỳ-ni Hiện tiền, Tỳ-ni Ức niệm, Tỳ-ni Bất si, Bổn ngôn trị để chấm dứt.
Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi:
Làm thế nào để chấm dứt? Phật dạy:
Nếu Tỳ-kheo hỏi một Tỳ-kheo: Thầy nhớ có phạm trọng tội Ba-la-di và biên tội Ba-la-di hay không? Tỳ-kheo ấy trả lời: Không nhớ. Hỏi đến lần thứ ba vẫn đáp như lần đầu. Tỳ-kheo như vậy Tăng nên Bạch-tứ-yết-ma trao cho pháp Tỳ-ni Ức niệm, không nên trị tội Tỳ-kheo kia. Tỳ-kheo bị hỏi nên đến giữa Tăng, để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, kính lễ sát chân Tăng, quỳ gối bạch:
Tôi Tỳ-kheo tên là… bị Tỳ-kheo tên là… Ba lần đến tôi hỏi: Thầy có nhớ phạm trọng tội Ba-la-di hay là biên tội Ba-la-di hay không? Tôi cũng trả lời là không nhớ, nên đến Tăng xin pháp Tỳ-ni Ức niệm, nguyện Tăng cho tôi pháp Tỳ-ni Ức niệm để cho vị kia khỏi phải hỏi tôi mãi. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng xin như vậy. Tăng nên cân nhắc Tỳ-kheo này, trước đây không khuyết giới, oai nghi như pháp hay không? Thân, khẩu, ý thanh tịnh hay chăng? Ưa học giới hay không? Đến một Tỳ-kheo hỏi, đến hai, ba vị và Tăng hỏi xem nói có chỗ mâu thuẫn không? Tăng cân nhắc như vậy, nếu biết Tỳ-kheo này trước khuyết giới, đủ các điều bất thiện, thì không nên trao. Nếu biết không phạm Ba-la-di và biên tội Ba-la-di, nên Bạch-tứ-yết-ma trao cho pháp Tỳ-ni Ức niệm. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… đến trước Tăng trình bày: Tỳ-kheo kia tên là… Ba lần đến chỗ tôi hỏi: Thầy nhớ có phạm trọng tội Ba-la-di hay biên tội Ba-la-di không?
Tôi cũng Ba lần trả lời là không nhớ, nay đến Tăng xin pháp Tỳ-ni Ức niệm, nguyện Tăng cho tôi pháp Tỳ-ni Ức niệm, khiến Tỳ-kheo kia khỏi phải đến hỏi tôi mãi. Nay Tăng trao cho Tỳ-kheo… pháp Tỳ-ni Ức niệm, để Tỳ-kheo kia khỏi phải đến hỏi tôi mãi. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… đến trước Tăng trình bày: Tỳ-kheo kia tên là… Ba lần đến chỗ tôi hỏi: Thầy nhớ có phạm trọng tội Ba-la-di hay biên tội Ba-la-di không?
Tôi cũng Ba lần trả lời là không nhớ, nay đến Tăng xin pháp Tỳ-ni Ức niệm, nguyện Tăng cho tôi pháp Tỳ-ni Ức niệm, để Tỳ-kheo kia khỏi phải đến tôi hỏi mãi. Nay Tăng cho Tỳ-kheo… pháp Tỳ-ni Ức niệm, khiến Tỳ-kheo kia khỏi đến hỏi tội này mãi. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy.
Tăng cho Tỳ-kheo… pháp Tỳ-ni Ức niệm rồi. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Như vậy gọi là dùng Tỳ-ni Hiện tiền, Tỳ-ni Ức niệm chấm dứt sự tranh cãi do giáo giới. Nếu Tỳ-kheo đến chỗ một Tỳ-kheo hỏi: Thầy nhớ có phạm trọng tội Ba-la-di hay biên tội Ba-ladi không? Tỳ-kheo kia trả lời không nhớ. Trước đây tôi bị tâm cuồng, tâm tán loạn, tâm bệnh hoại nên làm nhiều pháp phi Sa-môn. Vị kia Ba lần hỏi, tôi cũng trả lời như lần đầu. Tỳ-kheo như vậy Tăng nên trao cho pháp Tỳ-ni Bất si, không nên trị tội Tỳ-kheo đó. Tỳ-kheo đó nên đến giữa Tăng, để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, kính lễ sát chân Tăng, quỳ gối bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… Tỳ-kheo kia tên là… Ba lần đến chỗ tôi hỏi: Thầy nhớ có phạm trọng tội Ba-la-di hay biên tội Ba-la-di không? Tôi cũng Ba lần trả lời là không nhớ. Trước đây tôi bị tâm cuồng, tâm tán loạn, tâm bệnh hoại nên làm nhiều pháp phi Sa-môn. Nay đến Tăng xin pháp Tỳ-ni Bất si, nguyện Tăng cho tôi pháp Tỳ-ni Bất si, để Tỳ-kheo kia khỏi đến hỏi tôi mãi. Xin như vậy Ba lần. Tăng nên cân nhắc Tỳ-kheo này, trước đây không khuyết giới, oai nghi như pháp không? Thân, khẩu, ý, nghiệp thanh tịnh không? Ưa học giới không? Đến một Tỳ-kheo hỏi, cho đến hai, ba vị và Tăng hỏi xem nói có chỗ khác nhau không? Nếu Tăng biết Tỳ-kheo đó, trước kia có các việc ác thì không nên cho. Nếu không như vậy thì Bạch-tứ-yết-ma trao cho pháp Tỳ-ni Bất si. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… đến Tăng trình bày: Tỳ-kheo kia tên là… Ba lần đến chỗ tôi hỏi: Thầy nhớ phạm trọng tội Ba-la-di hay biên tội Ba-la-di không? Tôi cũng Ba lần trả lời: Không nhớ. Trước đây tôi bị tâm cuồng, tâm tán loạn, tâm bệnh hoại nên làm nhiều pháp phi Sa-môn. Nay đến Tăng xin Tỳ-ni Bất si, nguyện Tăng cho tôi pháp Tỳ-ni Bất si, để Tỳ-kheo kia khỏi đến hỏi tôi mãi. Nay Tăng cho pháp Tỳ-ni Bất si, để Tỳ-kheo kia không đến hỏi tội này nữa. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… đến Tăng trình bày: Tỳ-kheo kia tên là… Ba lần đến chỗ tôi… cho đến câu: Nay Tăng cho pháp Tỳ-ni Bất si để Tỳ-kheo kia khỏi đến hỏi tội này nữa. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy.
Tăng đã cho Tỳ-kheo tên là… pháp Tỳ-ni Bất si rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Như vậy gọi là dùng Tỳ-ni Hiện tiền, Tỳ-ni Bất si chấm dứt sự tranh cãi do giáo giới.
Nếu Tỳ-kheo đến chỗ một Tỳ-kheo hỏi: Thầy nhớ có phạm trọng tội Ba-la-di hoặc biên tội Ba-la-di không? Vị kia trả lời: Không nhớ. Ba lần hỏi, mới trả lời: Tôi nhớ có phạm tội nhẹ. Lại hỏi trở lại: Thầy phạm tội nhẹ còn không nói với ai, huống hồ là phạm trọng tội, thầy nên khéo suy nghĩ điều đó! Đương sự trả lời: Tôi hoàn toàn không nhớ. Hỏi lần nữa mới trả lời: Tôi nhớ có phạm Ba-la-di hoặc biên tội Ba-la-di. Trả lời như vậy rồi, lại tìm cách nói: Tôi không nhớ phạm trọng tội, nói cho vui vậy thôi. Tỳ-kheo như vậy, Tăng nên trao cho Bổn ngôn trị. Bổn ngôn trị có hai thứ: Một là có thể sám hối. Hai là không thể sám hối. Tỳ-kheo kia đã nói phạm trọng tội, nên trao cho pháp trọn đời không thể sám hối, Bạch-tứ-yết-ma. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo đây tên là… Tỳ-kheo kia tên là… đến Tỳ-kheo đó hỏi: Thầy nhớ có phạm trọng tội Ba-la-di hoặc biên tội Ba-la-di không? Trả lời: Không nhớ. Hỏi lần thứ hai cũng nói không nhớ, sau Ba lần hỏi mới nói: Không nhớ phạm trọng tội, nhớ có phạm tội nhẹ. Lại hỏi: Tội nhẹ thầy còn không phát lồ huống hồ là tội nặng. Nay, thầy chắc chắn nhớ phạm tội nặng hay không? Vẫn trả lời: Không nhớ. Hỏi lại, cũng nói không nhớ… Hỏi đến lần thứ sáu, vậy sau mới nói: Tôi nhớ phạm trọng tội Ba-la-di hoặc biên tội Ba-la-di. Trả lời như vậy rồi lại tìm cách nói lại: Tôi không nhớ có phạm trọng tội, nhưng nói cho vui vậy thôi. Nay Tăng trao pháp Yết-ma Bổn ngôn trị, suốt đời không thể sám hối. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp Thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… Tỳ-kheo kia tên là… đến chỗ đó hỏi: Thầy nhớ có phạm trọng tội… cho đến câu: Nay Tăng trao pháp Yết-ma Bổn ngôn trị, suốt đời không thể sám hối. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy.
Tăng đã thuận cho Tỳ-kheo tên là… pháp Yết-ma Bổn ngôn trị, suốt đời không thể sám hối rồi. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Như vậy gọi là dùng Tỳ-ni Hiện tiền Bổn ngôn trị chấm dứt việc tranh cãi do giáo giới.
Tôn giả Ưu-ba-ly thưa hỏi Đức Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Tranh cãi do phạm tội dùng bao nhiêu việc để chấm dứt?
Đức Phật dạy:
Dùng Tỳ-ni Hiện tiền, Thảo phủ địa, Tự ngôn để chấm dứt. Lại hỏi:
Bằng cách nào được chấm dứt? Phật dạy:
Như một Tỳ-kheo đến chỗ một Tỳ-kheo, để trống vai bên phải, quỳ gối, chấp tay: Đại đức! Tôi tên là… phạm tội như vậy, nay đến Đại đức sám hối. Tỳ-kheo kia nên hỏi: Thầy tự thấy tội hay không? Vị ấy nói: Tôi tự thấy tội. Lại nên hỏi: Thầy muốn sám hối phải không? Đáp: Vâng, tôi muốn sám hối! Tỳ-kheo kia nói: Sau này thầy đừng nên tái phạm.
Như vậy gọi là dùng Tỳ-ni Hiện tiền Tự ngôn để chấm dứt sự tranh cãi do phạm tội.
Nếu một Tỳ-kheo đến chỗ hai Tỳ-kheo, ba Tỳ-kheo, chúng đông Tỳ-kheo, hoặc hai Tỳ-kheo cho đến chúng đông Tỳ-kheo đến chỗ một Tỳ-kheo cho đến chúng đông Tỳ-kheo cũng như vậy. Nếu có Tỳ-kheo tranh cãi, cùng mắng nhiếc nhau, làm nghiệp ác cho thân, khẩu, ý. Sau lại nghĩ: Chúng ta tranh cãi cùng nhau mắng nhiếc làm nghiệp ác cho thân, khẩu, ý, nay có thể đến giữa Tăng trừ tội tác pháp Thảo phú địa sám hối hay không? Các Tỳ-kheo này, cho phép giữa Tăng trừ tội. Tăng nên trao cho pháp bạch nhị Yết-ma sám hối như Thảo phú địa. Tỳ-kheo tranh cãi kia nên tập trung hết đến giữa Tăng, để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, quỳ gối bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Chúng tôi cùng nhau tranh cãi, cùng nhau mạ lị, gây nghiệp ác cho thân, khẩu, ý, sau rồi khởi ý niệm như vầy: Chúng ta cùng nhau tranh cãi, cùng nhau mạ lị, gây nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý. Nay có thể đối trước Tăng trừ tội bằng pháp ăn năn lấy cỏ che đất hay chăng? Nay đến trước Tăng xin pháp ăn năn như cỏ che đất. Thưa Ba lần như vậy rồi, duỗi hai tay xuống gối mọp sát đất, hướng đến thầy Yết-ma một lòng thích thọ Yết-ma. Thầy Yết-ma xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này cùng nhau tranh cãi, cùng nhau mạ lị, gây nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý, sau đó khởi ý niệm như vầy: Chúng ta cùng nhau tranh cãi, cùng nhau mạ lị, gây nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý. Nay có thể đối trước Tăng trừ tội bằng pháp ăn năn lấy cỏ che đất hay chăng? Nay đến trước Tăng xin pháp ăn năn như cỏ che đất. Bấy giờ, Tăng trao cho pháp ăn năn như lấy cỏ che đất. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp Thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Các Tỳ-kheo này cùng nhau tranh cãi, cùng nhau mạ lị… cho đến câu: Nay Tăng trao cho pháp ăn năn như cỏ che đất. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã cho các Tỳ-kheo này pháp ăn năn như lấy cỏ che đất.
Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Đây gọi là Tỳ-ni Hiện tiền như cỏ che đất, chấm dứt sự tranh cãi do phạm tội.
Thế nào gọi là như cỏ che đất? Các Tỳ-kheo kia không nói lại căn nguyên của sự tranh cãi, Tăng cũng không hỏi lại nguồn gốc của vấn đề.
Tôn giả Ưu-ba-ly thưa hỏi Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Tranh cãi do sự việc, dùng bao nhiêu việc để chấm dứt?
Đức Phật dạy:
Tùy theo sự tranh cãi, dùng bảy việc để chấm dứt. Nếu một Tỳ-kheo đến chỗ một Tỳ-kheo đem phi pháp, phi luật, phi lời Phật dạy, để chấm dứt sự tranh cãi, mà nói: Là pháp, là luật, là lời Phật dạy. Nếu áp dụng như vậy để chấm dứt sự tranh cãi này, gọi là chấm dứt phi pháp. Nếu một Tỳ-kheo đến hai Tỳ-kheo, cho đến chỗ Tăng, hoặc hai Tỳ-kheo cho đến chỗ Tăng, đến chỗ một Tỳ-kheo cho đến chỗ Tăng cũng như vậy. Nếu một Tỳ-kheo đến chỗ một (hai) Tỳ-kheo đem như pháp, như luật, như lời Phật dạy để chấm dứt sự tranh cãi, nói: Là pháp, là luật, là lời Phật dạy. Áp dụng như vậy để chấm dứt sự tranh cãi, gọi là chấm dứt như pháp. Nếu một Tỳ-kheo đến hai, ba Tỳ-kheo, cho đến chỗ Tăng, hoặc hai Tỳ-kheo cho đến chỗ Tăng, đến một Tỳ-kheo cho đến chỗ Tăng cũng như vậy.
-----
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không che giấu, không biết nên thế nào, hỏi các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo cũng không biết, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa không che giấu như vậy, nay cho phép Tăng trao cho Tỳ-kheo kia pháp Bạchtứ-yết-ma, sáu đêm hành Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo phạm tội phải để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, kính lễ sát chân Tăng rồi quỳ gối bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không che giấu, nay đến Tăng xin sáu đêm thi hành Ma-na-đỏa, nguyện Tăng cho tôi sáu đêm thi hành Ma-na-đỏa. Xin như vậy Ba lần. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không che giấu, nay đến Tăng xin sáu đêm thi hành Ma-na-đỏa. Nay Tăng cho Tỳ- kheo sáu đêm hành Ma-na-đỏa. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… cố ý xuất bất tịnh… cho đến câu: Nay Tăng trao cho Tỳ-kheo sáu đêm hành Ma-na-đỏa. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng xướng như vậy.
Tăng cho Tỳ-kheo này tên là… sáu đêm hành Ma-na-đỏa. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy thọ trì như vậy.
Tỳ-kheo kia nên hằng ngày đến giữa Tăng để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, kính lễ sát chân Tăng, quỳ gối bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không che giấu, đến Tăng xin sáu đêm hành Mana-đỏa, Tăng đã cho tôi sáu đêm Ma-na-đỏa. Nay tôi hành Ma-na-đỏa đã được (bao nhiêu ngày) còn (bao nhiêu ngày) xin Đại đức ghi nhận chứng tri cho. Hành sáu đêm Ma-na-đỏa rồi, nên đến Tăng xin pháp A-phù-ha-na, bạch như sau:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không che giấu, đến Tăng xin sáu đêm hành Mana-đỏa, Tăng đã cho tôi sáu đêm Ma-na-đỏa. Tôi đã sáu đêm hành Ma-na-đỏa rồi, nay đến Tăng xin pháp A-phù-ha-na, nguyện Tăng cho tôi pháp A-phù-ha-na. Xin như vậy Ba lần. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không che giấu, đến Tăng xin sáu đêm hành Mana-đỏa, Tăng đã cho tôi sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo kia hành Ma-na-đỏa rồi, nay đến Tăng xin pháp A-phù-ha-na. Nay Tăng cho Tỳ-kheo… Aphù-ha-na. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… cố ý xuất bất tịnh… cho đến câu: Nay Tăng trao cho Tỳ-kheo pháp A-phù-ha-na. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng xướng như vậy.
Tăng cho Tỳ-kheo… pháp A-phù-ha-na rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Có một Tỳ-kheo cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, che giấu một đêm, không biết nên thế nào, hỏi các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo cũng không biết, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép Tăng Bạch-tứ-yết-ma, trao cho Tỳ-kheo này một đêm hành pháp Biệt trú. Tỳ-kheo phạm tội nên đến giữa Tăng bạch như vầy:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, che giấu một đêm. Nay đến Tăng xin Biệt trú một đêm. Xin Tăng cho pháp Biệt trú một đêm. Xin như vậy Ba lần. Một Tỳ-kheo xướng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, che giấu một đêm. Nay đến Tăng xin Biệt trú một đêm. Nay Tăng trao cho Tỳ-kheo pháp Biệt trú một đêm. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… cố ý xuất bất tịnh… cho đến câu: Nay Tăng cho Tỳ-kheo… pháp một đêm Biệt trú. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng xướng như vậy.
Tăng đã trao cho Tỳ-kheo… một đêm Biệt trú rồi. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Tỳ-kheo kia hành một đêm Biệt trú rồi, nên đến Tăng xin hành Ma-na-đỏa… cho đến câu: Aphù-ha-na. Tăng cũng như trên mà trao cho. Có một Tỳ-kheo cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không che giấu, đến Tăng xin hành Ma-na-đỏa, trong sáu đêm lại phạm cũng không che giấu, không biết nên thế nào hỏi các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo cũng không biết, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho phép Tỳ-kheo kia lại đến Tăng xin hành Ma-na-đỏa. Tăng cũng nên Bạch-tứ-yết-ma lại cho Tỳ-kheo kia hành Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo kia hành sáu đêm Mana-đỏa rồi, nên lại đến Tăng xin hành Bổn Ma-nađỏa. Tăng cũng nên Bạch-tứ-yết-ma cho thi hành. Tỳ-kheo kia lại đến Tăng xin: Tôi Tỳ-kheo kia tên là… trước đây cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không che giấu, đến Tăng xin hành Ma-na-đỏa, Tăng cho tôi hành Ma-na-đỏa. Trong sáu đêm đó, tôi lại phạm, không che giấu, nay đến Tăng xin hành Ma-na-đỏa, nguyện cho hành Mana-đỏa lại. Xin như vậy Ba lần. Một Tỳ-kheo như lời xin kia, Bạch-tứ-yết-ma cho thi hành. Vị kia hành sáu đêm rồi lại đến Tăng xin hành Bổn sáu đêm Ma-na-đỏa, thưa: Tôi Tỳ-kheo tên là… trước cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không che giấu, đến Tăng xin hành Ma-na-đỏa. Trong sáu đêm đó tôi lại phạm, không che giấu, lại đến Tăng xin sáu đêm Ma-na-đỏa. Tôi đã hành sáu đêm Ma-na-đỏa rồi, nay đến Tăng xin hành Bổn sáu đêm Ma-na-đỏa, nguyện Tăng cho tôi hành sáu đêm Bổn Ma-na-đỏa. Xin như vậy Ba lần. Một Tỳ-kheo theo như lời xin của vị ấy Bạch-tứ-yết-ma trao cho. Tỳ-kheo kia hành Bổn sáu đêm Ma-na-đỏa rồi, nên như trên mà xin pháp A-phù-ha-na. Tăng cũng như trên mà trao cho. Có một Tỳ-kheo cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, che giấu một đêm, Tăng trao cho một đêm Biệt trú. Trong thời gian đó lại phạm cũng che giấu một đêm, không biết nên như thế nào, hỏi các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo cũng không biết, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nay cho Tỳ-kheo kia lại đến giữa Tăng xin một đêm Biệt trú. Tăng cũng nên Bạch-tứ-yết-ma cho một đêm Biệt trú. Vị kia hành một đêm Biệt trú rồi, lại phải đến Tăng xin Bổn một đêm Biệt trú, Tăng cũng nên Bạch-tứ-yết-ma cho thi hành. Tỳ-kheo kia đến Tăng xin một đêm Biệt trú, nói: Tôi Tỳ-kheo tên là… trước đây cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, che giấu một đêm đến Tăng xin một đêm Biệt trú, Tăng cho tôi một đêm Biệt trú, trong khi đó tôi lại phạm cũng che giấu một đêm, nay lại đến Tăng xin một đêm Biệt trú. Nguyện Tăng lại cho tôi một đêm Biệt trú. Xin như vậy Ba lần. Một Tỳ-kheo y theo lời xin Bạchtứ-yết-ma cho. Vị kia hành một đêm Biệt trú rồi, lại đến Tăng xin Bổn một đêm Biệt trú, nói: Tôi Tỳ-kheo tên là… trước đây cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, che giấu một đêm, đến Tăng xin một đêm Biệt trú, trong thời gian đó tôi lại phạm, lại che giấu một đêm, cũng đến xin Tăng một đêm Biệt trú, Tăng cho tôi một đêm Biệt trú, tôi đã hành một đêm Biệt trú rồi, nay đến Tăng xin Bổn một đêm Biệt trú, nguyện Tăng cho tôi Bổn một đêm Biệt trú. Xin như vậy Ba lần. Một Tỳ-kheo y theo lời xin Bạch-tứ-yết-ma cho thi hành. Tỳ-kheo kia hành Bổn một đêm Biệt trú rồi, nên như trên xin hành sáu đêm Ma-na-đỏa. Hành Ma-na-đỏa rồi, lại như trên xin A-phù-hana. Tăng đều nên như trên cho Bạch-tứ-yết-ma để thi hành.
Có một Tỳ-kheo cố ý xuất bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, che giấu một đêm, như trên, Tăng cho một đêm Biệt trú, trong thời gian ấy lại phạm cũng che giấu một đêm, Tăng lại như trên cho một đêm Biệt trú, hành xong, Tăng cũng lại như trên cho Bổn nhất dạ Biệt trú, hành xong, Tăng lại như trên cho sáu đêm Ma-na-đỏa, trong ấy lại phạm, không che giấu Tăng cũng lại như trên cho sáu đêm Ma-na-đỏa. Vị kia hành sáu đêm rồi, Tăng lại như trên cho hành Bổn Ma-nađỏa. Thi hành xong, tiếp theo như trên cho Aphù-ha-na. Nếu Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, cho đến số nhiều, che giấu hai đêm cho đến nhiều đêm, nếu Tăng cho Biệt trú, chỉ kể thời gian cho che giấu lâu nhất, tùy theo số ngày đó mà cho Biệt trú. Nếu sau khi Tăng cho Biệt trú lại tái phạm, mà che giấu, Tăng nên tùy theo số ngày lại cho Biệt trú. Nếu không che giấu Tăng nên như trên mà cho sáu đêm Ma-na-đỏa, lại Biệt trú rồi, Ma-na-đỏa rồi, Tăng lại như trên cho Bổn Biệt trú, Bổn Biệt trú rồi, cho sáu đêm Ma-nađỏa. Nếu khi đó lại phạm, Tăng lại trao cho sáu đêm Ma-na-đỏa. Thi hành xong, Tăng lại nên như trước trao cho Bổn Ma-na-đỏa, tiếp theo như trên trao cho A-phù-ha-na.
Có một Tỳ-kheo phạm hai Tăng-già-bà-thi-sa, đồng che giấu một đêm mà đến Tăng nói phạm một và che giấu một đêm. Tăng trao cho một đêm Biệt trú, Biệt trú một đêm rồi, tâm sinh hối hận: Ta thật sự phạm hai Tăng-già-bà-thi-sa, tại sao chỉ nói phạm một và che giấu một đêm, đến Tăng bạch: Tôi thật sự phạm hai Tăng-già-bà-thi-sa, đồng che giấu một đêm. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Đức Phật dạy: Lại cho phép một đêm Biệt trú. Tỳ-kheo kia nên trình bày đầy đủ Ba lần để xin. Một Tỳ-kheo y theo lời xin kia Bạch-tứ-yết-ma trao cho thi hành.
Có một Tỳ-kheo phạm một Tăng-già-bà-thi-sa, che giấu hai đêm, đến Tăng nói che giấu một đêm. Tăng trao cho Biệt trú một đêm, Biệt trú một đêm xong, tâm sinh hối hận: Thật sự ta che giấu hai đêm, tại sao nói một đêm, lại đến Tăng trình bày sự thật ấy, các Tỳ-kheo bạch Phật, Đức Phật dạy: Cho phép Tăng lại cho một đêm Biệt trú. Tỳ-kheo kia nên nói rõ ràng đầy đủ như trên để xin. Tăng cũng y theo lời xin, Bạch-tứ-yết-ma cho thi hành.
Có một Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, che giấu rồi thôi tu. Về sau lại xuất gia thọ giới Cụ túc, ngay ngày hôm ấy, nói tội phạm trước đây, các Tỳ-kheo bạch Phật, Đức Phật dạy: Nên căn cứ vào số ngày che giấu của Tỳ-kheo ấy, khi chưa thôi tu mà trao cho Biệt trú.
Có Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không che giấu, chưa hành Ma-na-đỏa rồi thôi tu. Sau đó trở lại thọ giới Cụ túc rồi che giấu. Vấn đề được bạch Phật. Phật dạy: Nên y theo (sự vi phạm của) Tỳ-kheo kia và sau khi thọ giới lại, theo số ngày (chưa thi hành) đó mà cho Biệt trú. Nếu Tỳ-kheo phạm hai Tăng-già-bà-thi-sa, che giấu một, không che giấu một, rồi thôi tu. Sau đó trở lại thọ giới Cụ túc, tội trước kia không che giấu lần phạm này lại che giấu, tội trước kia lại che giấu lần phạm này lại không che giấu. Nên lần theo số ngày che giấu trước đó của Tỳ-kheo ấy cho đến khi thôi tu và số ngày che giấu về sau, kể từ khi thọ giới lại mà trao số ngày Biệt trú. Nếu Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa che giấu rồi thôi tu, sau trở lại thọ giới Cụ túc rồi lại che giấu, nên tùy theo số ngày trước và sau mà Tỳ-kheo kia đã che giấu trao cho Biệt trú. Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không che giấu, rồi thôi tu, sau lại thọ giới Cụ túc rồi cũng không che giấu, nên cho sáu đêm Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, làm Sa-di, tâm cuồng, tâm tán loạn, tâm bệnh hoại, Tăng trao cho tác Yết-ma không thấy tội, Yết-ma không ăn năn, Yết-ma không bỏ tà kiến ác, đều như mục thôi tu đã nói. Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, biết số lượng nhiều ít, hoặc cùng một tội, hoặc khác tội, che giấu rồi thôi tu, sau thọ giới rồi không che giấu, hoặc trước không che giấu rồi thôi tu, sau thọ giới rồi che giấu, hoặc trước che giấu phân nửa, phân nửa không che giấu, sau thọ giới rồi, điều trước che giấu hay lại không che giấu, điều trước không che giấu hay lại che giấu, hoặc trước, sau đều che giấu, hành pháp Biệt trú đều như trước đã nói. Nếu trước sau đều không che giấu, trao cho sáu đêm Ma-na-đỏa cũng như vậy. Nếu làm Sa-di… cho đến Yết-ma không xả tà kiến ác cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo trong khi Biệt trú thôi tu, sau trở lại thọ giới cụ túc, nên tính số ngày Biệt trú trước, chỉ ở thêm cho đủ. Khiến hành cho đủ, Bổn Biệt trú cũng như vậy. Nếu làm Sa-di… cho đến Yết-ma không xả tà kiến ác cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo trong khi hành Ma-na-đỏa thôi tu, sau khi thọ giới cụ túc, tính đủ ngày cũng như vậy, hành Bổn Ma-nađỏa cũng như vậy. Nếu làm Sa-di… cho đến Yết-ma không xả tà kiến ác cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo hành Biệt trú rồi, hành Bổn Biệt trú rồi, chưa trao cho Ma-na-đỏa, thôi tu, sau lại thọ giới cụ túc, nên khiến mà hành Ma-na-đỏa. Nếu hành Ma-na-đỏa rồi và hành Bổn Ma-na-đỏa rồi, chưa trao cho pháp A-phù-ha-na, sau trở lại thọ giới cụ túc, nên trao cho pháp A-phù-ha-na. Nếu làm Sadi… cho đến Yết-ma không xả tà kiến ác cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, biết số mục phạm, biết ngày che giấu, như pháp đến Tăng xin Biệt trú, như pháp đến Tăng xin Ma-na-đỏa, như pháp đến Tăng xin Bổn nhật, như pháp đến Tăng xin pháp A-phù-ha-na, Tăng đều như pháp cho, người như vậy gọi là thanh tịnh. Nếu Tăng không như pháp cho một việc nào, người như vậy gọi là không thanh tịnh. Có hai Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, một Tỳ-kheo biết phạm, một Tỳ-kheo không biết phạm, đều che giấu, bạch Phật. Phật dạy: Người biết phạm nên cho Biệt trú, người không biết phạm nên cho Ma-na-đỏa. Nhớ, không nhớ cũng như vậy. Có hai Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, che giấu, một Tỳ-kheo cho là một tội, một Tỳ-kheo không xác định tội hoặc nói là Ba-la-di, hoặc nói là Thâu-lan-giá… cho đến Ác thuyết, bạch Phật. Phật dạy: Người xác định tội nên cho Biệt trú, người không xác định tội nào nên cho Ma-na-đỏa. Có các Tỳ-kheo, hoặc khi hành Biệt trú, hoặc khi hành Ma-na-đỏa, hoặc khi hành pháp A-phù-hana, mạng chung, các Tỳ-kheo bạch Phật: Các vị kia mạng chung cụ giới, hay là mạng chung phá giới? Đức Phật dạy: Đều là cụ giới. Có Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa không biết số lượng của tội, cũng không nhớ che giấu lâu hay mau, bạch Phật. Phật dạy: Kể từ khi nhớ phạm về sau trao cho Biệt trú. Nghi cũng như vậy. Có Tỳ-kheo đối với mọi người đều che giấu, có Tỳ-kheo đối với người kia che giấu, đối với người này không che giấu. Có Tỳ-kheo đối với chỗ này che giấu, ở chỗ kia lại không che giấu, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Tất cả che giấu gọi là che giấu. Nếu đối với Hòa thượng, A-xà-lê bậc đáng kính sợ nghe, che giấu không gọi là che giấu, đối với người khác nghe che giấu gọi là che giấu. Nếu đối với quốc độ này do nhiều người biết kính trọng, không muốn cho họ biết, che giấu không gọi là che giấu, đối với chỗ kia che giấu gọi là che giấu.
Đức Phật ở thành Câu-xá-di. Bấy giờ có một Tỳ-kheo phạm giới mà không biết phạm, nói với các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo có vị nói phạm, có vị nói không phạm. Người nói không phạm thì nói: Thầy không phạm giới. Vị kia nghe rồi bèn sinh ý tưởng không phạm giới. Người nói có phạm thì nói: Thầy phạm giới, nên tự thấy tội, sám hối, đừng để ô nhiễm phạm hạnh, phụ lòng người tín thí, thọ khổ nhiều đời. Tỳ-kheo kia nói: Tôi không phạm tội, tại sao lại phải tự thấy tội sám hối?! Các Tỳ-kheo cho là có phạm bèn trao cho vị kia pháp Yết-ma không thấy tội. Vị kia bị cử tội rồi, bèn vào trong thành Câu-xá-di tìm bạn bè để yểm trợ, nói: Tôi không phạm tội, các Tỳ-kheo kia cưỡng bức nói: Tôi có tội, trao cho tôi pháp Yết-ma không thấy tội. Yết-ma như vậy không thành. Các Đại đức nên như pháp, như luật, cứu trợ cho tôi. Đương sự lại đến ngoài thành chỗ các Tỳ-kheo ở cũng yêu cầu cứu trợ như trên. Các Tỳ-kheo nghe đều cùng nhau cứu trợ. Lúc này, Đức Thế Tôn biết Tăng đã bị phá, từ chỗ ngồi đứng dậy đến chỗ chúng Tỳ-kheo yểm trợ cho Tỳ-kheo bị cử, nói: Các Tỳ-kheo đừng nên nói như vầy: Tỳ-kheo kia không phạm tội. Nếu Tỳ-kheo kia thật không phạm tội mà bị cử, các thầy cũng nên nói: Nên tự thấy tội sám hối. Vị kia bèn khởi ý nghĩ như vầy: Nếu ta nói không thấy tội, Tăng sẽ trao cho ta Yết-ma không thấy tội, không cùng ta ở, không cùng ta Bố-tát, Tự tứ làm các Tăng sự. Các thầy lại nói như thế để đưa đến sự tranh cãi, khiến cho Tăng không hòa hợp, chia rẽ, sinh các trần cấu. Bằng mọi cách tránh điều này, nên khiến cho đương sự tự thấy tội sám hối. Đức Thế Tôn nói như vậy rồi. Lại đến nơi chúng Tỳ-kheo cử tội kia, nói: Các thầy đừng cưỡng bức cử tội người khác. Nếu thật người kia phạm tội, Tăng nên nói: Thầy tự thấy tội. Nếu vị kia nói: Tôi không có tội làm sao thấy? Tăng nên cân nhắc: Nếu chúng ta trao cho pháp Yết-ma không thấy tội, không cùng ở, không cùng Bố-tát, Tự tứ làm các Tăng sự, do đó đưa đến sự tranh cãi, mạ lị lẫn nhau, khiến cho Tăng không hòa hợp, chia rẽ, sinh các trần cấu. Các thầy nên sợ điều này, đừng nên cử tội xả trí. Các Tỳ-kheo tuy nghe Phật nói mà vẫn tranh cãi không thôi, trong bữa ăn cao giọng mắng nhau, đả kích nhau. Đức Phật lại nói: Không nên mắng nhau, không nên trên bữa ăn cao giọng, vi phạm, đều phạm Đột-kiết-la. Nếu ai đánh nhau, phạm Thâu-lan-giá. Các Tỳ-kheo tuy nghe lời Phật nói, vẫn tranh cãi nhau không thôi, trong cùng một cương giới làm Tăng sự riêng. Đức Phật lại bảo: Nếu Tăng đã bị phá, trong một cương giới tác Yết-ma riêng, như pháp như luật cũng gọi là Yết-ma thành tựu. Tại sao vậy? Hai bộ, kiến giải khác nhau không đồng ở với nhau. Không đồng ở có hai loại: Có trường hợp tự mình tạo ra việc không đồng trụ, có trường hợp Tăng tác pháp Yết-ma không đồng trụ. Các Tỳ-kheo tuy nghe lời của Phật nói vẫn tiếp tục tranh cãi.
Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
Các thầy chớ nên cùng nhau tranh chấp, cùng nhau phỉ báng, cùng nhau mạ lị, nên cùng nhau hòa đồng, tập hợp một chỗ, như nước hòa với sữa, cùng nêu truyền lời dạy của thầy.
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài sống an ổn, tuy Phật là Pháp chủ, như chúng con cũng tự biết. Đức Phật Ba lần ngăn, các Tỳ-kheo cũng vẫn trả lời như vậy. Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
Từ đời quá khứ, nước Câu-tát-la có nhà Vua tên là Trường-thọ, cai trị một nước nhỏ, binh chủng ít ỏi yếu kém. Lân quốc là Ca-di, Vua tên Phạm-đạt, thống trị một nước rộng lớn, binh chủng cường thịnh, lần lần xâm lăng cướp đoạt nước Câu-tát-la. Vua Phạm-đạt tiếp thu được vị Đại thần của Vua Trường-thọ, đãi ngộ rất hậu, được Vua tin dùng vào việc quốc sự. Khi ấy, Vua Trường-thọ mình trần, thân trụi cùng phu nhân làm người Bà-la-môn chạy thoát về nước Ba-lanại, trú ngụ trong nhà người thợ lò gốm. Phu nhân bất thần nảy ra ý nghĩ: Ước nguyện sao lúc mặt trời vừa ló dạng, có nước mài dao chiến đấu của bốn binh chủng nơi ngả tư đường để lấy uống. Nghĩ rồi tâu với Vua: Nếu ý muốn ấy không thực hiện được thì em sẽ chết ở nơi này. Nhà Vua nói: Điều ấy không thể được. Chứng bệnh thiếu thực tế của em ắt phải chết, không còn nghi ngờ gì. Nhà Vua lại nói: Nếu Phạm-đạt nghe, biết mình ở đây, ắt bắt trói, đánh trống rao, hành hình, phanh thây ta làm năm phần. Thôi em hãy ráng chờ xem, ta sẽ bí mật đến gặp vị Đại thần nước kia, vấn ý điều này. Liền ngay sau lời nói, nhà Vua tìm cách đến gặp vị cựu thần để vấn kế. Vị cựu thần nói: Hạ thần cần gặp phu nhân, trước khi có ý kiến. Vị Đại thần liền đến chỗ phu nhân. Từ xa trông thấy phu nhân, bèn để trống vai bên phải, đầu mặt tác lễ, Ba lần xưng tụng: Nay phu nhân đang mang thai người con đại phước đức, quốc gia Câu-tát-la có người thừa kế. Vị Đại thần tâu với Vua: Sáng mai, nguyện vọng của phu nhân sẽ có kết quả. Vị Đại thần nói xong, liền trở về chỗ Phạm-đạt, tâu: Đại vương biết chăng? Có một vị tinh tú như vậy xuất hiện, cần phải tập hợp bốn binh chủng vào sáng sớm ngày mai, tại bốn ngả tư đường hai bên diễn tập xáp chiến, rồi tất cả đều mài dao lấy nước này để trừ tai ương kia. Nếu không như vậy ắt phải chịu nguy khốn lớn. Vua Phạm-đạt liền nói: Cần thực hiện ngay. Thế là vị Đại thần liền ra lệnh bốn binh chủng nghiêm túc chuẩn bị ứng chiến. Sáng sớm ngày mai, nơi ngả tư đường, hai bên xáp chiến rồi, tất cả đều mài dao. Được lệnh mật, phu nhân đứng vào một địa điểm và nhận được nước mài dao của vị Đại thần. Được nước, phu nhân uống ngay và bào thai được nuôi dưỡng. Mãn nguyệt khai hoa, người con ra đời, với dung mạo thù diệu, tự là Trường-sinh. Khi lên mười tuổi, người cha nói với con: Phạmđạt xâm đoạt nước ta, cha cùng mẹ của con trốn thoát đến đây. Con đã lớn nhanh lên trong những tháng ngày dài lao khổ của cha mẹ. Phạm-đạt có thể biết được chỗ ở của cha con mình, sẽ giết hết cả hai, con có thể đi xa, đừng quyến luyến cha mẹ. Trường-sinh buồn khóc, kính lễ sát chân cha mẹ, nhiễu ba vòng rồi đi. Trường-sinh học tập kỹ nghệ, toán số, văn tự, bắn cung, cỡi ngựa, điều phục voi ngựa, âm nhạc, không một môn học nào không hơn người. Trường-sinh dốc lòng phụng thờ thầy dạy voi để biết hết nghệ thuật điều khiển voi. Người thợ hớt tóc xưa kia của Vua Trườngthọ, sau này lại làm người hớt tóc cho Phạm-đạt. Nhận được lệnh hớt tóc, ông ta tìm đến chỗ Vua. Do vì biết rõ chỗ ở của Vua Trường-thọ, ông ta không dám che giấu, khi Phạm-đạt xét hỏi đã khai báo rõ nơi ẩn trốn của Vua Trường-thọ. Phạm-đạt nghe rồi liền ra lệnh bắt trói cả vợ lẫn chồng, đánh trống rao khắp hang cùng ngõ hẻm rồi đem tại ngả tư để phân thây làm năm phần. Bị bắt và thụ án theo lệnh Vua, Trường-sinh nghe tin này, vội vã đến hiện trường, đứng bên lề đường thấy vậy, nát ruột nát gan, căm hờn suy nghĩ: Nỗi oán hận của cha mẹ không cho phép ta đội trời chung, nay ta làm sao mà nhẫn chịu cho được! Với lòng thành của kẻ thất phu còn đủ để có được sự cảm hóa. Trường-sinh muốn thí mạng để trả mối nhục thù này. Cha mẹ từ xa thấy con, biết được lòng con khởi niệm báo thù, bèn như người cuồng cao cất tiếng nói một mình: Con đừng thấy lâu dài, cũng không thấy ngắn ngủi, dùng oán trả oán, oán không do đâu mà dứt, dùng đức trả oán, oán kia mới hết. Thuận theo lòng cha mẹ mới gọi là con có hiếu, làm theo ý chí riêng của mình, không phải là cái đạo của cha. Khi ấy, người đi xem đều nói: Vua Trường-thọ vì sợ sệt nên nói cuồng, chỉ có Trường-sinh nghe mới hiểu được thâm ý của cha nên đè nén được lòng mình để tạm yên, tuy lòng dạ nát tan nhưng không để lộ rõ bên ngoài. Đã chế ngự được lòng và lấy lại được sự bình tĩnh, Trường-sinh trở về lại chỗ thầy dạy voi, tuy nhiên anh ta vẫn không quên được hận, tìm cách báo thù. Sau đó, nơi chuồng voi, nửa đêm, tiếng đờn cầm lại vang lên, âm thanh này lan tỏa trong thanh tịnh đã lọt vào tai Phạm-đạt. Nhà Vua liền hỏi: Nơi chuồng voi, ai có khả năng chơi đàn cầm, âm thanh lại tuyệt như thế? Cận thần thưa: Tượng sư tên là… có người học trò, chính người này có khả năng đó. Được lệnh Vua gọi, Trườngsinh vội đến dạo khúc đờn cầm cho Vua nghe. Nghe xong, Vua có suy nghĩ: Từ khi ta làm Vua chưa từng nghe được âm thanh tuyệt vời này. Phạm-đạt liền tín nhiệm cho phép Trường-sinh được ở lại bên mình. Sau một thời gian, nhà Vua liền ra lệnh nghiêm giá bốn binh chủng, dẫn các cung nhân, quần thần, thái tử du ngoạn để săn bắn. Trong khi binh chủng tứ tán rượt theo các con nai, thì Trường-sinh lại bảo vệ nhà Vua, tiền quân cách xa xe Vua đến ba do-tuần, không còn ai biết đến Vua. Bấy giờ, nhà Vua mệt mỏi, nói với Trường-sinh: Ta muốn nằm nghỉ một chút, ngươi có thể bảo vệ cho ta không? Trường-sinh tâu: Nhà Vua cứ yên nghỉ, con có thể bảo vệ được. Vua liền nằm bên gốc cây, gối nơi đầu gối của Trường-sinh mà ngủ. Cây kiếm hộ thân của Vua, tự nhiên tuột ra trước mặt Trường-sinh. Trường-sinh bèn khởi ý nghĩ: Nhà Vua này đối với ta có mối thù lớn như vậy, hôm nay gặp cơ hội này, đâu có thể bỏ qua. Liền đứng dậy cầm lấy thanh gươm, định chặt cổ Vua. Thoạt nhiên, ý niệm này xảy đến: Trọng ân của cha mẹ lớn hơn trời đất, trước khi rút hơi thở cuối cùng, người có dạy ta: Con đừng thấy lâu dài cũng đừng thấy ngắn ngủi. Lấy oán báo oán, oán không do đâu chấm dứt… Tại sao ta lại trái lời dạy ấy! Nghĩ xong liền để cây kiếm lại và bảo vệ cho Vua ngủ. Khi đó, nhà Vua thức dậy với vẻ hoảng hốt. Trường-sinh hỏi: Vì lý do gì nhà Vua có vẻ kinh hãi vậy? Nhà Vua trả lời: Ta nằm mộng thấy con của Vua Trường-thọ cầm kiếm muốn đoạt mạng ta. Trường-sinh tâu: Đây là nơi đồng không mông quạnh, duyên cớ nào bỗng nhiên có con của Vua Trường-thọ, ắt là sơn thần khủng bố Vua hay chăng! Vua cứ yên nghỉ chớ nên lo ngại. Sự việc như vậy xảy ra Ba lần. Đến giấc ngủ sau cùng của Vua, Trường-sinh lại khởi ý niệm: Cha mẹ ta trước khi từ trần, dạy ta một cách thống thiết: Dùng đức báo oán, oán kia mới hết, tại sao nãy giờ Ba lần ta muốn trái phạm?! Từ nay ta đã khắc phục, với ý niệm: Thờ Vua như thờ người thân, dứt khoát không sinh khởi một mảy may ý niệm sát hại. Trường-sinh nghĩ như vậy rồi, nhà Vua thức dậy với vẻ mặt rất hoan hỷ. Trường-sinh hỏi vì lý do nào mà nhà Vua rất hoan hỷ? Vua nói: Ta nằm mộng thấy con của Vua Trường-thọ muốn thờ ta như người thân, không ôm lòng oán hại, cho nên ta vui. Lúc ấy, Trường-sinh liền tâu với Vua: Con của Vua Trường-thọ chính là con đây. Vua hại cha mẹ của con, con nuôi chí giết Vua, Ba lần nhớ lại lời di chúc của cha con nên Vua mới khỏi chết. Tuy vậy, tâm ấy khó bảo đảm, sau này có thể phát sinh, xin nhà Vua giúp cho con đường lối giải quyết, đừng để lại mối lo âu về sau. Nhà Vua nói: Ta đã làm việc vô đạo, còn cha con của ông thì lại nặng lòng nhân từ, nay cớ sao ta phải sống với lo âu vây bủa?! Ông đã cho ta mạng sống này lại thề không phụ nhau. Vua Phạm-đạt liền ra lệnh quân quay trở về rồi tập hợp quần thần, cùng thảo luận vấn đề Vua đặt ra: Nếu bắt được con của Vua Trường-thọ thì sẽ xử trị thế nào? Có người nói phải chặt tay chặt chân, có người nói phải xẻo mũi xẻo tai, có người nói phải dùng búa bửa nó ra, có người nói phải lấy cây xâu nó để nướng. Nhà Vua liền chỉ tay nói: Người này chính là con của Vua Trường-thọ. Chính người này đã cho ta mạng sống, nay ta sẽ dùng mạng sống để đền trả lại. Tất cả không được ai có ý ác đối với người này. Giải quyết xong, về lại cung, nhà Vua đem người con gái gả cho Trường-sinh. Tay bên trái bưng mâm vàng, tay bên phải nhà Vua bưng bình vàng đựng nước rót lên tay của Trường-sinh lúc Trường-sinh được đưa trở về bổn quốc để phục nhậm Vua nước Câu-tát-la. Các nước lân cận cùng có mối giao hảo hòa hợp nhiều lời như vậy. Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Người đời, Vua một nước còn tạo điều kiện hòa giải được mối thù lớn này, đều do vận dụng không một niệm ác để biến thành thân hậu. Các thầy xuất gia cầu đạo vô vi, tại sao việc nhỏ cùng nhau tranh chấp để mất cái lợi lớn! Nên bỏ tâm ấy cùng nhau hòa đồng, như sữa hòa với nước, cùng truyền bá lời dạy của bậc thầy, để cùng nhau sống trong sự an lạc.
Các Tỳ-kheo lại bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Xin Ngài sống an ẩn. Đức Phật tuy là ngôi vị Pháp vương nhưng chúng con tự biết. Do vậy cố ý không xả.
Đức Phật bèn bay lên hư không, nói kệ:
Tuôn các ác lên nhau
Chẳng còn đâu thắng pháp
Tăng phá chia thành hai
Hại này do lời ác.
Mạng người, cốt nhục lìa
Cướp trâu, ngựa, tài sản
Oán phá nước, diệt giòng
Hòa hợp vẫn còn được.
Ví hai cây cọ nhau
Phát hỏa tự đốt cháy
Đâu không phải lẽ thường
Ngu oán hận cũng vậy.
Các thầy nhục mạ nhau
Sao cứ chấp không bỏ
Họa oán nào dứt được
Ngày đêm càng chôn sâu.
Thêm nhiều tiếng ác mắng
Nếu được, đừng báo thù
Nhẫn này, không gây oán
Oán có tự nhiên trừ.
Nếu lấy oán trừ oán
Oán trọn đời không tiêu
Oán trừ từ xả bỏ
Đấy sức mạnh vô song.
Đức Thế Tôn nói kệ này rồi, liền dùng thần lực bay đến làng Ba-la, trụ dưới tàng cây Bạt-đàbà-la, không có thị giả. Khi ấy, tại đó có một con voi lớn, bị các con voi con gây não. Lúc muốn uống nước, các con voi con đi trước làm cho nước bị đục. Lúc muốn ăn cỏ, các con voi con đi trước ăn rồi đạp lên trên làm cho dơ nhớp. Con voi kia nghĩ: Nay ta bị đám voi nhỏ gây khốn khó, thà là tránh đi, nghĩ rồi liền đi. Voi lớn hằng ngày đã được nước trong cỏ tốt rồi tuần tự đi đến rừng Bạt-đà-bà-la, thấy Đức Phật voi rất hoan hỷ. Voi vì Phật lấy nước và dọn cỏ hai bên chỗ Phật ở. Đức Phật cũng như con voi này, xa lìa được đồng loại quấy phá nên an lạc trong sự yên tịnh, Phật nói kệ:
Hai rồng lòng đều bị
Kẻ hậu côn gây não
Bỏ lại đi một mình
Nay vui nơi rừng vắng.
Đức Phật nói kệ rồi, Ngài từ rừng Bạt-đà-bà-la qua thành Xá-vệ, trú trong Tinh xá Kỳ-hoàn. Khi ấy, các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, quốc vương, Đại thần, Trưởng giả, Cư sĩ, ngoại đạo Bà-la-môn, cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, nên nhận được nhiều thức ăn, thức uống, y phục. Đức Thế Tôn không hề đắm vướng giống như hoa sen. Trong lúc này, nơi thành Câu-xá-di các Ưu-bà-tắc đều có chung một ý nghĩ: “Chúng ta nay mất đại lợi, do các Tỳ-kheo ưa tranh chấp nên Đức Thế Tôn không ở đây, cần phải tạo phương tiện khiến họ lìa xa nơi này”. Bèn dặn nhau, không tiếp xúc và cúng dường vật thực cho các Tỳ-kheo ấy. Các Tỳ-kheo ấy cũng nghĩ: “Do tội lỗi của chúng ta gây nên, khiến Đức Thế Tôn bỏ nơi này mà đi, nay ta nên cùng nhau đến chỗ Đức Phật tha thiết sám hối”.
Các Tỳ-kheo ấy bèn mặc y bưng bát đến chỗ Đức Thế Tôn. Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất nghe các Tỳ-kheo tranh chấp kia đến, bèn cùng năm trăm Tỳ-kheo tới chỗ Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, bạch Phật:
Các Tỳ-kheo tranh chấp nơi Câu-xá-di sắp đến đây, chúng con sẽ nên đối xử với họ như thế nào? Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:
Thầy nên cho phép hai bên tự nói lên ý nghĩ của mình, nếu như pháp, như luật, như lời Phật dạy thì khéo đối xử họ bình thường như người bạn.
Tôn giả lại hỏi:
Bạch Thế tôn! Có bao nhiêu việc để biết các vị kia nói như pháp, như luật, như lời Phật dạy? Có bao nhiêu việc để biết các vị lại nói phi pháp, phi luật, phi lời Phật dạy?
Đức Phật dạy:
Nếu tạo nên mười bốn pháp: Pháp nói là phi pháp… cho đến câu: Là lời Phật chế nói chẳng phải là lời Phật chế, như vậy gọi là phi pháp, phi luật, phi lời Phật dạy. Nếu ngược lại những điều trên tức là pháp, là luật, là lời Phật dạy.
Khi ấy, Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề nghe các Tỳ-kheo tranh chấp kia đến, liền cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân, bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Các Tỳ-kheo tranh chấp nơi Câu-xá-di sắp tới đây, chúng con sẽ nên đối xử với họ như thế nào?
Đức Phật dạy:
Quý vị nên để họ nói lên ý kiến của hai bên. Nếu như pháp, như luật, như lời Phật dạy thì khéo đối xử với họ, nên đến Tỳ-kheo như pháp, như luật, như lời Phật dạy siêng cầu năm việc. Tỳ-kheo-ni mỗi nửa tháng phải đến Tỳ-kheo như pháp cầu người giáo thọ. Tỳ-kheo-ni cần phải nương nơi chỗ có Tỳ-kheo như pháp mà an cư mùa hạ, an cư rồi phải đến Tỳ-kheo như pháp cầu thỉnh tội kiến, văn, nghi. Thức-xoa-ma-na học giới hai năm rồi nên đối trước hai Tăng thọ giới cụ túc, Tỳ-kheo-ni phạm tội thô ác phải đối giữa hai bộ Tăng hành pháp Ma-na-đỏa nửa tháng, hành pháp Ma-na-đỏa rồi nên đối trước hai bộ Tăng, mỗi bên hai mươi vị cầu pháp xuất toại. Nếu Tỳ-kheo-ni Tăng lại có những việc gì khác nên dốc cầu Tỳ-kheo như pháp chỉ giáo.
Bấy giờ, Trưởng giả Cấp Cô Độc nghe các Tỳ-kheo tranh chấp kia sắp đến, liền cùng năm trăm Ưu-bà-tắc tới chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân, bạch:
Bạch Đức Thế Tôn! Các Tỳ-kheo tranh chấp ở Câu-xá-di sắp tới đây, chúng con nên cung kính đối xử như thế nào?
Đức Phật dạy:
Ông nên để họ nói lên ý kiến của mỗi bên, nếu như pháp, như luật, như lời Phật dạy thì tiếp nhận sự răn dạy của họ, cho đến việc cung kính cúng dường cần phải bình đẳng. Tại sao vậy? Ví như thật là thỏi vàng dù có chặt làm hai đoạn thì đoạn nào cũng vẫn là vàng.
Mẹ của Tỳ-xá-khư cùng năm trăm Ưu-bà-di đến chỗ Đức Phật, bạch như trên, Đức Phật cũng trả lời như trên.
Khi ấy, Tôn giả A-nan thấy các Tỳ-kheo kia vào thành Xá-vệ, bèn đến bạch Phật:
Tỳ-kheo tranh chấp ấy đã vào đây, con phải trải ngọa cụ như thế nào?
Đức Phật dạy:
Nên trao cho họ phòng bên cạnh, nếu không đủ chỗ thì trao cho họ phòng giữa, không được để cho Thượng tọa ấy không có chỗ nương trú.
Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy, liền sắp xếp chỗ ở.
Lúc này, Tỳ-kheo bị cử tội kia, nơi chỗ vắng khởi ý niệm: Ta là người có tội, đâu phải là người không có tội, đã trở thành kẻ bị cử tội hay không trở thành kẻ bị cử tội, Yết-ma như pháp hay là không như pháp, ta nay có thể cẩn trọng y theo kinh, luật mà tư duy? Tư duy rồi biết mình có tội, biết thành như pháp Yết-ma bị cử tội, bèn đến chỗ các Tỳ-kheo bè bạn nói: Tôi đã tự thấy tội, các Đại đức vì tôi yêu cầu hòa hợp giải Yết-ma trước đây. Các Tỳ-kheo bèn dẫn đến chỗ Tỳ-kheo đã trao cho pháp Yết-ma không thấy tội, thưa: Tỳ-kheo này đã tự thấy tội, nguyện vì đương sự giải Yết-ma trước đây. Thế là, hai bộ Tăng đưa Tỳ-kheo bị cử tội đến chỗ Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo:
Tỳ-kheo này phạm tội chứ không phải không phạm tội, thành kẻ bị cử tội chứ không phải không thành kẻ bị cử tội, Yết-ma thành tựu, chứ không phải không thành tựu. Nay Tăng nên trao cho pháp giải Yết-ma trước đây. Lại nên bạch nhị Yết-ma để tác pháp hòa hợp. Tỳ-kheo kia nên đến trước Tăng, kính lễ sát chân thưa: Tôi Tỳ-kheo tên là… Tăng đã vì tôi tác pháp Yết-ma không thấy tội, nay tôi đã thuận theo Tăng sám hối, cúi xin Tăng giải Yết-ma không thấy tội. Nguyện Tăng rủ lòng thương vì tôi giải. Thưa xin như vậy Ba lần. Một Tỳ-kheo xướng đọc:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Các Tỳ-kheo này trước đây cùng nhau tranh chấp, cùng nhau mạ lị, có người nói phạm, có người nói không phạm, có người nói thành bị cử, có người nói không thành bị cử, có người nói Yết-ma thành tựu, có người nói Yết-ma không thành tựu. Các Tỳ-kheo này, nay tự thấy có phạm tội, chứ chẳng phải không phạm tội, thành bị cử chứ không phải không thành bị cử, Yết-ma thành tựu chẳng phải không thành tựu. Nay Tăng vì họ giải Yết-ma không thấy tội, trở lại tác pháp hòa hợp. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Những Tỳ-kheo này trước đây cùng nhau tranh chấp… cho đến câu: Trở lại tác pháp hòa hợp. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã vì các Tỳ-kheo… giải Yết-ma, trở lại tác pháp hòa hợp rồi. Tăng đồng ý nên im lặng.
Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Đức Phật dạy:
Đã Yết-ma xong thì phải cùng nhau hòa hợp để Bố-tát. Khi ấy, Tôn giả Ưu-ba-ly thưa hỏi Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Tỳ-kheo thành tựu bao nhiêu pháp được cử sự?
Đức Phật dạy:
Như trong pháp Tự tứ đã nói.
Đức Phật ở tại nước Chiêm-bà, trụ bên sông Hằng, cách thành Vương-xá không xa. Một trú xứ có một Tỳ-kheo họ là Ca-diếp, làm tri sự, với lời nguyện: Nguyện Tỳ-kheo bốn phương, số đông tập hợp về đây, khiến cho các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di nhân cơ hội này làm được nhiều công đức. Trú xứ kia rộng rãi, do lời nguyện ấy sau được kết quả. Khi ấy, số đông Tỳ-kheo có quen biết đến trú xứ kia, Tỳ-kheo Ca-diếp ra nghinh đón, lễ bái chào hỏi, rước y bát, lấy nước rửa chân, dâng các thức uống sau giờ ngọ, sáng ngày cúng dường bữa ăn trước, bữa ăn sau, cũng dâng cúng y phục, nhiều ngày như vậy. Tỳ-kheo khách cùng nhau bàn nghị: Tỳ-kheo này có hổ thẹn, tu phạm hạnh, muốn chúng ta ở lại đây lâu, chúng ta có thể an cư nơi đây. Nghị bàn như vậy rồi, cùng nhau ở lại. Tỳ-kheo Ca-diếp sau đó nghĩ: Tỳ-kheo khách này đã hết mệt mỏi, đã quen biết xóm làng, ta không thể hằng ngày khuyến hóa bữa ăn trước, bữa ăn sau. Nghĩ như vậy rồi bèn chấm dứt sự cúng dường. Tỳ-kheo khách nổi giận cùng nhau nghị bàn: Tỳ-kheo ấy muốn cho chúng ta sớm đi khỏi chỗ này, chắc chắn là Tỳ-kheo ác, không có hổ thẹn, không tu phạm hạnh, chúng ta nên cùng nhau tác Yết-ma không thấy tội. Nghị bàn rồi, bèn cùng nhau cử tội. Tỳ-kheo Ca-diếp khởi ý niệm: Mình có tội hay là không có tội, thành kẻ bị cử hay không thành kẻ bị cử, Yết-ma thành tựu hay không thành tựu? Đức Thế Tôn hiện nay ở bên sông Hằng, ta nên đến thưa hỏi Ngài, nếu Ngài dạy bảo thế nào ta sẽ phụng hành. Nghĩ rồi liền mặc y, bưng bát đến chỗ Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên.
Đức Phật an ủi hỏi:
Thầy từ đâu đến, khất thực có thiếu thốn không, trên đường đi có nhọc mệt không?
Tôn giả Ca-diếp thưa:
Khất thực không thiếu thốn, trên đường đi không nhọc mệt, nhưng cách thành Vương-xá không xa có một trú xứ, con làm tri sự, con từ đó đến đây… tức trình bày các nhân duyên trên một cách đầy đủ với Đức Phật.
Đức Phật dạy:
Thầy không có phạm tội, không có tội gì cả, thầy cứ trở về an tâm lưu trú nơi đó.
Tôn giả Ca-diếp thọ giáo, kính lễ sát chân, đi nhiễu bên phải rồi cáo lui.
Các Tỳ-kheo khách không thấy Ca-diếp trở về cùng nhau nghị bàn: Chúng ta bất thiện, tại sao lại cử tội vị Tỳ-kheo thanh tịnh vô tội, nên cùng nhau đến chỗ Phật sám hối để trừ tội. An cư Tự tứ xong, họ đến chỗ Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên.
Đức Phật an ủi, hỏi:
Khất thực có bị thiếu thốn không? Trên đường đi có nhọc mệt lắm không? An cư nơi trú xứ nào?
Các Tỳ-kheo khách thưa:
Khất thực không bị thiếu thốn, trên đường đi không nhọc mệt, nhưng cách thành Vương-xá không xa, có một trú xứ chúng con an cư nơi đó.
Đức Phật hỏi:
Các thầy ở nơi trú xứ đó, trao cho Tỳ-kheo kia Yết-ma không thấy tội phải không?
Bạch Thế Tôn! Có. Đức Phật hỏi:
Vì sao cử tội như vậy? Bạch Thế Tôn, không có việc gì cả. Đức Phật bằng mọi cách quở trách:
Các thầy làm điều phi pháp, không nên tạo nghiệp ác như vậy, tại sao lại trao Yết-ma không thấy tội cho Tỳ-kheo thanh tịnh, không có tội!
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con ngu si đã làm việc như vậy, chúng con đều sinh tâm hối hận, nay đến xin sám hối, cúi xin Ngài thương xót nhận sự sám hối của chúng con.
Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu do không có việc gì mà tác pháp Yết-ma thì Yết-ma đều không thành tựu.
Có các Tỳ-kheo tác pháp Yết-ma quở trách, Yết-ma khu xuất, Yết-ma y chỉ, Yết-ma cử tội, Yết-ma hạ ý, nhưng vắng mặt đương sự, lại vắng mặt khi làm tác pháp Biệt trú, Bổn nhật trị, Mana-đỏa, A-phù-ha-na, lại vắng mặt mà kiết giới, giải giới, lại vắng mặt mà giải người được Tăng sai, lại vắng mặt mà sai người chưa được Tăng sai, lại vắng mặt mà sai người chưa được Tăng sai. Các Tỳ-kheo bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Nếu vắng mặt đương sự mà làm pháp Yết-ma quở trách… cho đến câu: Vắng mặt mà tác Yết-ma sai người chưa được Tăng sai. Những Yết-ma này đều không như pháp, Yết-ma không thành.
Lúc này, Lục quần Tỳ-kheo ở ngoài giới mà làm Yết-ma quở trách không như pháp… cho đến Yết-ma hạ ý, thực hiện rồi lại vào trong giới nói với các Tỳ-kheo: Chúng tôi ở ngoài cương giới cùng trao cho Tỳ-kheo… v.v… và v.v… Yết-ma quở trách… cho đến Yết-ma hạ ý, các Đại đức nên cho phép khiến thành Yết-ma như pháp. Các Tỳ-kheo đem vấn đề ấy bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo bảo: Nếu Tỳ-kheo ở ngoài cương giới làm năm loại Yết-ma không như pháp… cho đến Yết-ma sai người chưa được Tăng sai, tuy trở lại nói với các Tỳ-kheo ở trong giới, khiến cho phép thành Yết-ma, tất cả đều không thành. Khi ấy, các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo cùng một Tỳ-kheo cho đến cùng số đông Tỳ-kheo cùng Yết-ma, hai Tỳ-kheo cho đến số đông Tỳ-kheo cũng như vậy. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Đức Phật dạy: Những Yết-ma như vậy đều không thành, lại mắc tội Đột-kiết-la. Đức Phật lại dạy: Nếu tác Yết-ma, đối diện Yết-ma mà không tác bạch, không thành Yết-ma. Nếu tác Yết-ma mà điều nên nói trước lại nói sau, điều nên nói sau lại nói trước, cũng đều không thành. Nếu khi Yết-ma có người đủ quyền quở trách, không đồng ý cũng không thành, lại phạm Đột-kiết-la.
Lúc đó, các Tỳ-kheo dùng pháp khác luật khác tác Yết-ma, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Yết-ma không thành. Các Tỳ-kheo lại tác Yết-ma phi pháp biệt chúng, Yết-ma phi pháp hòa hợp, Yết-ma như pháp biệt chúng, Yết-ma như pháp hòa hợp, các Tỳ-kheo bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo, bảo: Ta không cho phép ba Yết-ma trước, chỉ cho phép Yết-ma như pháp hòa hợp. Có năm loại Yết-ma: Yết-ma phi pháp, Yết-ma biệt chúng, Yết-ma tợ pháp biệt chúng, Yết-ma tợ pháp hòa hợp, Yết-ma như pháp.
Thế nào gọi là Yết-ma phi pháp? Người nên đến không đến, nên gửi dục mà không gửi dục, có người được quyền quở trách, không đồng ý, mà cưỡng làm Yết-ma, nên bạch nhị Yết-ma, song chỉ bạch mà không Yết-ma, chỉ Yết-ma mà không bạch, hoặc lập lại lời bạch mà không Yết-ma, lập lại Yết-ma mà không bạch, nên Bạch-tứ-yết-ma, song chỉ bạch chứ không Ba lần Yết-ma, chỉ Ba lần Yết-ma mà không bạch, như vậy gọi là Yết-ma phi pháp.
Thế nào gọi là Yết-ma biệt chúng? Người nên đến không đến, người nên gửi dục không gửi dục, khi Yết-ma người được quyền quở trách không đồng mà cưỡng làm Yết-ma, như vậy gọi là Yết-ma biệt chúng.
Thế nào gọi là Yết-ma tợ pháp biệt chúng? Người nên đến không đến, người nên gửi dục không gửi dục, nếu Yết-ma bạch nhị, bạch tứ, Yết-ma trước bạch sau. Khi Yết-ma người có quyền quở trách không đồng ý mà cưỡng làm Yết-ma, như vậy gọi là Yết-ma tợ pháp biệt chúng.
Thế nào gọi là Yết-ma tợ pháp hòa hợp? Người nên đến có đến, người nên gửi dục có gửi dục thọ, nếu bạch nhị, Bạch-tứ-yết-ma, Yết-ma trước bạch sau. Khi Yết-ma người có quyền quở trách không quở trách, như vậy gọi là Yết-ma tợ pháp hòa hợp.
Thế nào gọi là Yết-ma như pháp? Người nên đến có đến, người nên gửi dục có gửi dục thọ. Khi Yết-ma người được quyền quở trách không quở trách, bạch nhị, Bạch-tứ-yết-ma đều bạch trước sau mới Yết-ma, như vậy gọi là Yết-ma như pháp.
Nếu khi vì Tỳ-kheo tác Yết-ma quở trách phi pháp, trong Tăng có bảy người cùng tranh cãi: Một người nói đây là Yết-ma phi pháp, một người nói đây là Yết-ma biệt chúng, một người nói đây là Yết-ma tợ pháp biệt chúng, một người nói đây là Yết-ma tợ pháp hòa hợp, một người nói đây là Yết-ma như pháp hòa hợp, một người nói thành tác Yết-ma, một người nói không thành tác Yết-ma. Trong bảy người này, có hai người nói như pháp, gọi là Yết-ma phi pháp không thành tác Yết-ma. Nếu vì Tỳ-kheo làm Yết-ma quở trách biệt chúng, Yết-ma quở trách tợ pháp biệt chúng, Yết-ma quở trách tợ pháp hòa hợp, cũng như vậy. Nếu khi vì Tỳ-kheo tác Yết-ma quở trách như pháp, có bảy người nói: Hai người nói như pháp, gọi là Yết-ma như pháp hòa hợp, thành tác Yết-ma. Yết-ma khu xuất, Yết-ma y chỉ, Yết-ma cử tội, Yết-ma hạ ý cũng như vậy. Có Tỳ-kheo tranh chấp, các Tỳ-kheo nghị bàn: Tỳ-kheo này ưa tranh chấp, luôn luôn sinh sự, chúng ta có thể hòa hợp tác pháp Yết-ma quở trách như pháp, liền cùng nhau hòa hợp, muốn cùng nhau tác Yết-ma quở trách như pháp, mà ngược lại tác Yết-ma quở trách không như pháp, Yết-ma không thành… cho đến ngược lại tác Yết-ma quở trách tợ pháp hòa hợp cũng như vậy. Tỳ-kheo kia lại thay đổi chỗ ở, các Tỳ-kheo ở chỗ khác nghị bàn: Tỳ-kheo này ưa tranh chấp, các Tỳ-kheo kia vì tác pháp Yết-ma quở trách tợ pháp hòa hợp, Yết-ma không thành. Chúng ta có thể cùng tác pháp Yết-ma quở trách như pháp hòa hợp. Muốn cùng nhau làm Yết-ma quở trách như pháp hòa hợp, mà ngược lại làm không như pháp. Yết-ma khu xuất… cho đến làm ngược lại Yết-ma khu xuất như pháp, Yết-ma đều không thành… cho đến làm ngược lại, Yết-ma hạ ý cũng như vậy. Có Tỳ-kheo làm hạnh ác nhơ nhớp nhà người, các Tỳ-kheo nghị bàn: Tỳ-kheo này làm hạnh ác nhơ nhớp nhà người, chúng ta có thể hòa hợp cùng làm Yết-ma khu xuất như pháp, muốn cùng nhau làm Yết-ma khu xuất như pháp, mà làm ngược lại Yết-ma khu xuất không như pháp, Yết-ma không thành… cho đến làm ngược lại Yết-ma khu xuất tợ pháp hòa hợp cũng như vậy. Tỳ-kheo kia bèn di chuyển ở chỗ khác, các Tỳ-kheo ở chỗ khác cũng nghị bàn: Tỳ-kheo này làm hạnh ác nhơ nhớp nhà người, bị các Tỳ-kheo làm pháp Yết-ma tợ pháp hòa hợp, Yết-ma không thành, chúng ta có thể trao cho pháp Yết-ma khu xuất như pháp, bèn cùng nhau muốn làm Yết-ma khu xuất như pháp, mà ngược lại làm Yết-ma y chỉ không như pháp, Yết-ma không thành…. cho đến ngược lại, làm Yết-ma y chỉ như pháp đều không thành Yết-ma… cho đến làm Yết-ma quở trách cũng như vậy. Có Tỳ-kheo ngu si, vô trí luôn luôn phạm tội, các Tỳ-kheo nghị bàn: Tỳ-kheo này ngu si, vô trí luôn luôn phạm tội, chúng ta có thể hòa hợp trao cho pháp Yết-ma, bèn cùng nhau muốn làm Yết-ma y chỉ như pháp, mà ngược lại làm Yết-ma y chỉ không như pháp, Yết-ma không thành… cho đến ngược lại làm Yết-ma y chỉ tợ pháp hòa hợp, cũng như vậy. Tỳ-kheo kia-di chuyển đến ở chỗ khác, các Tỳ-kheo ở chỗ khác nghị bàn: Tỳ-kheo này ngu si, vô trí luôn luôn phạm tội, các Tỳ-kheo kia làm pháp Yết-ma y chỉ tợ pháp hòa hợp, Yết-ma không thành. Chúng ta có thể làm pháp Yết-ma y chỉ như pháp, bèn trao cho pháp Yết-ma y chỉ như pháp, song ngược lại làm pháp Yết-ma cử tội không như pháp, Yết-ma không thành… cho đến ngược lại, làm Yết-ma cử tội như pháp, Yết-ma cũng đều không thành… cho đến, ngược lại, làm Yết-ma khu xuất cũng như vậy. Có Tỳ-kheo phạm tội song không thấy tội, không sám hối, không xả tà kiến ác, các Tỳ-kheo nghị bàn: Tỳ-kheo này phạm tội mà không thấy tội, không sám hối, không bỏ tà kiến ác, chúng ta có thể hòa hợp trao cho pháp Yết-ma cử tội như pháp, bèn muốn cùng nhau làm pháp Yết-ma cử tội như pháp, song ngược lại làm pháp Yết-ma cử tội không như pháp, Yết-ma không thành… cho đến ngược lại làm Yết-ma cử tội tợ pháp hòa hợp, cũng như vậy. Tỳ-kheo kia-di chuyển chỗ ở khác, Tỳ-kheo ở chỗ khác nghị bàn: Tỳ-kheo này phạm tội, không thấy tội, không sám hối, không xả tà kiến ác, các Tỳ-kheo kia làm pháp Yết-ma cử tội, tợ pháp hòa hợp, Yết-ma không thành. Chúng ta có thể làm pháp Yết-ma cử tội như pháp, bèn muốn cùng nhau làm pháp Yết-ma cử tội như pháp, song ngược lại làm pháp Yết-ma hạ ý không như pháp, Yết-ma không thành… cho đến ngược lại làm Yết-ma hạ ý như pháp, Yết-ma cũng đều không thành… cho đến ngược lại làm Yết-ma y chỉ cũng như vậy.
Có Tỳ-kheo nói lời thô ác, mắng các bạch y, các Tỳ-kheo nghị bàn: Tỳ-kheo này nói lời thô ác, mắng các bạch y, chúng ta có thể hòa hợp trao cho pháp Yết-ma hạ ý như pháp bèn muốn cùng làm pháp Yết-ma hạ ý như pháp, mà ngược lại làm pháp Yết-ma hạ ý không như pháp, Yết-ma không thành… cho đến ngược lại làm pháp Yết-ma hạ ý tợ pháp hòa hợp, cũng như vậy. Tỳ-kheo kia-di chuyển chỗ ở khác, các Tỳ-kheo ở chỗ khác nghị bàn: Tỳ-kheo này nói lời thô ác, mắng các bạch y, Tỳ-kheo kia làm pháp Yết-ma hạ ý tợ pháp hòa hợp, Yết-ma không thành. Chúng ta có thể vì đương sự làm pháp Yết-ma hạ ý như pháp, bèn muốn cùng nhau làm pháp Yết-ma hạ ý như pháp, song ngược lại làm pháp Yết-ma quở trách không như pháp, Yết-ma không thành… cho đến ngược lại làm pháp Yết-ma quở trách như pháp, Yết-ma cũng đều bất thành… cho đến ngược lại làm pháp Yết-ma cử tội cũng như vậy.
Có năm hạng Tăng: Tăng bốn Tỳ-kheo, Tăng năm Tỳ-kheo, Tăng mười Tỳ-kheo, Tăng hai mươi Tỳ-kheo, và Tăng vô lượng Tỳ-kheo. Tăng bốn Tỳ-kheo: Trừ Yết-ma thọ giới, Yết-ma xuất tội, ngoài ra các Yết-ma khác đều được làm. Tăng năm Tỳ-kheo: Nơi trung quốc (nơi có nhiều Tăng) trừ Yết-ma thọ giới và xuất tội, chốn biên quốc (nơi có ít Tăng) trừ Yết-ma xuất tội, ngoài ra các Yết-ma khác đều được thực hiện. Tăng mười vị: Trừ Yết-ma xuất tội, ngoài ra các Yết-ma khác đều được làm. Tăng hai mươi vị: Tất cả Yết-ma đều được làm. Nếu Yết-ma mà Tăng là bốn Tỳ-kheo, người thứ tư không đúng pháp không đúng Tỳ-ni (không đủ pháp Tỳ-kheo) Yết-ma không thành, Tăng có lỗi.
Tôn giả Ưu-ba-ly thưa hỏi Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Nếu khi Tăng Yết-ma, có người quở trách (ngăn), ai là người thành quở trách, ai là người không thành quở trách?
Đức Phật dạy:
Người bị Yết-ma quở trách, vì vậy mà không thành quở trách, Tỳ-kheo cách vách quở trách không thành quở trách. Tỳ-kheo-ni, Thức-xoama-na, Sa-di, Sa-di-ni quở trách, đều không thành quở trách. Tỳ-kheo đồng cương giới quở trách… cho đến khiến vị ngồi nghe là thành quở trách. Có ba hạng người không nên cho giải pháp Yết-ma, nếu cho giải thì không thành giải. Ba hạng ấy là: Tỳ-kheo phạm tội mà không thấy tội, Tỳ-kheo nên sám hối mà không chịu sám hối, Tỳ-kheo nên bỏ tà kiến ác mà không chịu bỏ tà kiến ác. Ba hạng là như vậy, nếu chưa tác pháp Yết-ma trao cho thì nên tác pháp Yết-ma trao cho, nếu đã tác pháp Yết-ma trao cho thì đó là thiện tác Yết-ma. Nếu ngược lại trên, chưa trao cho Yết-ma giải thì nên trao cho Yết-ma giải, nếu đã trao cho Yết-ma giải thì gọi là thiện giải.
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ có hai Tỳ-kheo, một tên là Bàn Nha, một tên là Lô hê ưa cùng nhau tranh cãi, cũng tranh chấp làm não loạn người khác, chưa sinh tranh chấp bèn sinh, đã sinh tranh chấp thì khuấy rộng ra, các Tỳ-kheo bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi hai Tỳ-kheo kia: Sự thật có phải như vậy không? Đáp: Bạch Đức Thế Tôn! Thật sự có. Đức Phật bằng mọi cách quở trách: Các ngươi là người ngu si, làm việc phi pháp, không nên làm nghiệp ác như vậy. Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Từ nay nếu có Tỳ-kheo nào như vậy, Tăng nên trao cho pháp Yết-ma quở trách. Nếu họ không bỏ thì nên tùy theo sự việc Bạchtứ-yết-ma Tăng thêm tội kia. Có ba pháp nên trao cho pháp Yết-ma quở trách: Đã tự mình tranh chấp, lại tranh chấp với người khác, trước sau chẳng phải một. Lại có ba pháp: Thân cận bạn ác, cùng người ác làm bạn, chính mình ưa làm điều ác, cũng nên trao cho pháp Yết-ma quở trách. Lại có ba pháp: Phá Tăng thượng giới, phá Tăng thượng kiến, thân cận tùy thuận bạch y, cũng nên trao cho pháp Yết-ma quở trách. Có ba loại Yết-ma quở trách không thành: Người bị quở trách nên có mặt mà lại quở trách vắng mặt. Cần hỏi Tăng, nên trao cho pháp Yết-ma quở trách không, nhưng không hỏi. Nên khiến người bị quở trách tự nói tội lỗi của mình mà không khiến họ tự nói. Lại có ba thứ Yết-ma không thành: Nên tác Yết-ma hiện tiền mà không hiện tiền, phi pháp biệt chúng, nên khiến họ tự nói tội lỗi của mình mà không khiến. Tỳ-kheo thọ Yết-ma quở trách nên nghiêm chỉnh thuận Tăng, nghĩa là tuân hành: Không nên độ người, không nên trao giới cụ túc cho người, không nên cho người y chỉ, không nên nuôi Sa-di, không nên làm người hành trù, nếu Tăng sai cũng không nên nhận, không nên giáo giới Tỳ-kheo-ni, nếu Tăng sai cũng không nên nhận, Tăng sai bất cứ điều gì không nên nhận, nếu khi hành Tăng sự không được có ý kiến, không được mắng các Tỳ-kheo khác, không được dựa thế nhà Vua, không được ỷ thế của mình, không được ỷ thế của thân tộc, chỉ nên nương vào uy lực của Phật, Pháp, Tăng, nên ăn năn tự trách, không chống trái ý của Tăng, cần cầu giải Yết-ma. Sau đó, hai Tỳ-kheo kia thuận tùng đối với Tăng, cải hối tự trách, cần cầu giải Yết-ma quở trách. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Đức Phật dạy: Tăng nên Bạch-tứ-yết-ma giải. Tỳ-kheo kia nên đến giữa Tăng, kính lễ sát chân Tăng, cầu xin giải Yết-ma quở trách Ba lần. Tăng nên sai một Tỳ-kheo xướng đọc:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… ưa cùng nhau tranh chấp lại tranh chấp làm não loạn người này, người nọ, nên chưa sinh tranh chấp lại sinh, đã sinh thì lan rộng, trước đây Tăng đã trao Yết-ma quở trách mà không từ bỏ, nên gia tăng thêm tội kia. Nay đương sự đã thuận tùng Tăng, ăn năn tự trách, siêng cầu giải Yết-ma. Nay Tăng tác pháp giải Yết-ma, nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp Thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo tên là… ưa cùng nhau tranh chấp… cho đến câu: Nay Tăng giải Yết-ma. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy.
Tăng đã trao cho Tỳ-kheo… pháp giải Yết-ma quở trách rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Bấy giờ, ở cách thành Xá-vệ không xa có khu rừng Am-ma-lặc. Bên cạnh khu rừng ấy có ông Trưởng giả tên là Chất-đa-la, có lòng tin kính Phật pháp, thường cung cấp cho các Tỳ-kheo. Nơi rừng Am-ma-lặc có một Tỳ-kheo tên là Thiện Pháp, bậc cựu trú nơi đây, làm tri sự. Trưởng giả Chất-đa-la khi muốn thỉnh Tăng cúng y thực hay bố thí vật gì cho ai đều tin cho Tỳ-kheo Thiện Pháp biết trước. Bấy giờ, hai Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên cùng năm trăm Tỳ-kheo du hành nơi khu rừng ấy. Trưởng giả nghe, liền đích thân ra nghinh đón, khi đến nơi đầu mặt kính lễ sát chân, rồi đứng lui qua một bên. Sau khi nghe pháp diệu, điều lợi ích được chỉ bày rồi, Trưởng giả hoan hỷ bạch: Mời quý vị sáng mai thọ trai nơi nhà tôi, quý vị nhận lời bằng sự im lặng. Biết được sự nhận lời rồi, Trưởng giả trở về nhà, đến nơi chỗ Tỳ-kheo Thiện Pháp nói: Tôi mời hai Tôn giả Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên… sáng mai thọ trai, Đại đức đến dùng cơm với các vị ấy. Tỳ-kheo Thiện Pháp khởi ý nghĩ: Trưởng giả ác này tâm hồn đã bị bại hoại, từ lâu nay, khi cần thỉnh Tăng đều cho ta biết trước, tại sao nay thỉnh hai Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên cùng năm trăm Tỳ-kheo mà không cho ta biết. Nghĩ rồi lại nói: Sáng mai tôi sẽ đến. Ông Trưởng giả trở về nhà, suốt đêm lo sửa soạn các thức ăn ngon bổ, những thức ăn quý giá nhất trong thế gian không thiếu thứ gì. Sáng ngày mai trải tòa ngồi, Tỳ-kheo Thiện Pháp đến, thấy sửa soạn như vậy, không thiếu một thứ mỹ thuật nào. Do gia đình ông Trưởng giả có ép dầu nên Thiện Pháp nói: Các thứ ăn đầy đủ cả, chỉ thiếu món bánh dầu “Hồ ma”. Ông Trưởng giả nghe rồi, bèn nổi giận nói: Đại đức uyên thâm giáo lý mà tuôn ra những lời ác như vậy! Ông Trưởng giả liền nói ví dụ: Xưa kia có người khách buôn từ phương Bắc đem một con gà mái đến nước Ba-tuần, nước Ba-tuần không có gà trống, cho con quạ rập với nó, đẻ ra trứng, ấp nở ra thành con quạ con, khi lớn lên nó phát ra tiếng gà không được, nó kêu tiếng con quạ cũng không xong. Nay Đại đức cũng như vậy, uyên thâm giáo lý mà tuôn ra lời nói ác. Tỳ-kheo Thiện Pháp nghe rồi nổi giận nói: Trưởng giả nhục mạ tôi một cách quá đáng, làm sao tôi ở đây được, tôi sẽ đi phương xa. Ông Trưởng giả lại nói: Đại đức đừng nổi giận, nên lưu lại đây, tôi sẽ như thường cung cấp y thực. Nói như vậy Ba lần, Tỳ-kheo Thiện Pháp vẫn không chịu ở lại. Ông Trưởng giả nói: Đại đức muốn đi đến đâu? Tỳ-kheo đáp: Tôi muốn đến chỗ Đức Phật. Ông Trưởng giả nói: Nếu đến chỗ Đức Phật, tôi xin kính lời vấn an Đức Thế Tôn và xin Đại đức trình bày đúng sự thật, chớ nên thêm bớt. Tỳ-kheo Thiện Pháp nói: Được rồi! Bây giờ ông Trưởng giả trải tọa cụ xong, đến bạch: Trai soạn xong, giờ thọ trai đã đến, xin kính mời. Hai Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, đại chúng vây quanh, đến nhà ông Trưởng giả. Ông Trưởng giả tự tay dâng thức ăn, ăn xong dâng nước rửa, rồi lấy chiếc ghế nhỏ, ngồi phía trước, hai Tôn giả vì gia chủ nói các pháp mầu, chỉ vẽ sự lợi ích, để được vui vẻ rồi từ tòa ra về. Sau khi ăn xong, Tỳ-kheo Thiện Pháp trở về rừng, mặc y bưng bát đến chỗ Đức Thế Tôn, đầu mặt đảnh lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên, đem chuyện của Trưởng giả Chấtđa-la trình bày đầy đủ lên Đức Thế Tôn. Đức Phật liền quở trách: Thầy là người ngu si, tại sao lại dùng lời hạ tiện gán cho ông Trưởng giả kia? Nhân việc này, Đức Phật liền tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay nên trao cho những Tỳ-kheo như thế pháp hạ ý, bằng Bạch-tứyết-ma, xin lỗi bạch y kia. Một Tỳ-kheo đọc lớn:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo đây tên… dùng lời hạ tiện gán cho bạch y tên là… nay Tăng trao cho pháp Yết-ma hạ ý, xin lỗi bạch y kia. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo đây tên… dùng lời hạ tiện gán cho bạch y tên là… nay Tăng trao cho pháp Yết-ma hạ ý, xin lỗi bạch y kia. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy.
Tăng đã trao cho Tỳ-kheo… pháp hạ ý Yết-ma rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Lại nên bạch nhị Yết-ma sai một Tỳ-kheo bạn của một Tỳ-kheo kia cùng đi xin lỗi bạch y kia. Một Tỳ-kheo đọc lớn:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay Tăng sai Tỳ-kheo… bạn của Tỳ-kheo… đến dùng lời xin lỗi bạch y. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay Tăng sai Tỳ-kheo… bạn của Tỳ-kheo… đến dùng lời xin lỗi bạch y. Các Trưởng lão chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã sai Tỳ-kheo… bạn của Tỳ-kheo… đến dùng lời xin lỗi bạch y. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Tỳ-kheo nên dẫn Tỳ-kheo được Tăng sai đến, nắm tay bạch y nói lời xin lỗi: Trước đây tôi đã dùng lời hạ tiện gán cho ông, nay tôi ăn năn, xin ông nhận sự ăn năn của tôi. Nếu bạch y chấp nhuận thì tốt, bằng không, Tỳ-kheo được Tăng sai đến nên dẫn Tỳ-kheo kia tới chỗ mắt thấy tai không nghe, bảo làm pháp Đột-kiết-la hối quá. Nên nói: Tôi, Tỳ-kheo tên là… đã dùng lời thô ác gán cho bạch y tên… phạm tội Đột-kiết-la, nay hướng đến Trưởng lão ăn năn. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như vậy. Tất nhiên sau đó, Tỳ-kheo được Tăng sai, một mình trở lại chỗ bạch y nói: Tăng đã trị Tỳ-kheo kia, vừa rồi tôi cũng nghiêm trị, ông cần nhận sự ăn năn của vị ấy. Tiếp theo cũng vậy, Tỳ-kheo kia lại nên đến nói lời nhận lỗi như trên. Nên thuận tùng Tăng, như trong pháp Yết-ma quở trách đã nói. Vị kia thuận tùng Tăng rồi, ăn năn, tự trách, yêu cầu giải Yết-ma. Tăng nên trao cho pháp giải Yết-ma. Pháp giải Yết-ma cũng như trước đã nói.
Bấy giờ, lần thứ ba Điều-đạt suy nghĩ: Nay ta phá Tăng của Sa-môn Cù-đàm, thì tên của ta được vang lừng, mọi người sẽ nói: Sa-môn Cù-đàm có Đại thần lực mà Điều-đạt có thể phá được Tăng của ông ta. Nghĩ như vậy rồi, Điều-đạt bèn nói với quyến thuộc: Ất-tỳ-phân-na, Bà-tẩu-ban-na, Lô-hê-già, Lô-đế-xá-cù-gia, Ly-khiên-trà-đà-bà, Tam-văn-đạt-đa… Trong số người đó, Tam-vănđạt-đa-là bậc đại thông minh, nói với Điều-đạt: Sa-môn Cù-đàm có đại oai đức, Tăng của ông ta làm sao có thể bị phá được? Điều-đạt nói: Ta sẽ thuyết minh năm pháp giữa Tăng, cần nên suốt đời thọ trì:
Không ăn muối.
Không ăn tô và sữa.
Không ăn cá thịt, nếu ăn thì pháp thiện không sinh.
Khất thực, nếu nhận sự mời ăn của người thì pháp thiện không sinh.
Tám tháng của mùa Xuân và mùa hạ nên ngồi nơi đất trống, bốn tháng mùa Đông thì ở trong am tranh, nếu nhận phòng xá của người thì pháp thiện không sinh.
Dân chúng trong hai nước Ma-kiệt và Ươnggià đều tin ưa khổ hạnh. Chúng ta thực hành năm pháp này, số người theo ta chắc chắn sẽ nhiều, đủ để phá Tăng. Tam-văn-đạt-đa nghe rồi cùng tán đồng với Điều-đạt: Có thể chia rẽ được khối chúng Tăng của Đức Phật, tiếng tăm sẽ được vang dội. Tam-văn-đạt-đa cũng theo luôn. Khi ấy, Điều-đạt có người đệ tử Ưu-bà-tắc, tên là Hòa-tuđạt, thường cúng dường Điều-đạt, Điều-đạt nhiều lần thuyết phục nên ông ta cũng tán đồng. Hôm ấy vào ngày mười lăm Bố-tát, giữa chúng Tăng, Điều-đạt nêu ra năm việc trên, chính mình hành trù, xướng: Vị nào đồng ý năm điều ấy thì rút thẻ này. Lúc này, năm trăm Tỳ-kheo đều rút thẻ, chỉ trừ Tôn giả A-nan và một Tỳ-kheo Tu-đà-hoàn không rút trù. Hôm đó, Tôn giả Xá-lợi-phất, Mụcliên, các đại La hán đều không có mặt trong kỳ Bố-tát ấy. Điều-đạt hành trù xong, liền cùng năm trăm Tỳ-kheo hòa hợp Bố-tát. Tôn giả A-nan và một Tỳ-kheo Tu-đà-hoàn không rút thẻ, liền bỏ đi ra, đến chỗ Đức Thế Tôn, đầu mặt kính lễ sát chân, đem vấn đề ấy bạch Phật. Đức Phật nhân việc đó nói kệ:
Người thiện, dễ hội nhau
Người ác, thiện khó hội
Người ác, dễ hội nhau
Người thiện, ác khó hội.
Bấy giờ, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên nghe sự việc ấy, bèn đến chỗ Đức Phật. Từ xa, Đức Phật thấy, Ngài bỗng vui khen ngợi:
-Thiện lai! Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên! Hai thầy có thể đến trong chúng của Điều-đạt dẫn năm trăm Tỳ-kheo trở về.
Hai vị thọ giáo, kính lễ sát chân Phật rồi đi.
Khi ấy, Tỳ-kheo Tu-đà-hoàn đi theo Tôn giả A-nan, thấy Xá-lợi-phất, Mục-liên ra đi, bèn bùi ngùi khóc lớn.
Đức Phật hỏi Tỳ-kheo ấy:
Tại sao khóc như vậy? Tỳ-kheo thưa:
Xá-lợi-phất, Mục-liên là đệ tử bậc nhất của Đức Phật, nay cũng đến với chúng Điều-đạt, con sợ hai Tôn giả học theo pháp của Điều-đạt, chính vì thế mà con khóc.
Đức Phật nói với Tỳ-kheo ấy:
Thôi đi, ông đừng khóc nữa! Xá-lợi-phất, Mục-liên, không bao lâu họ sẽ dẫn năm trăm Tỳ-kheo trở về.
Khi Xá-lợi-phất, Mục-liên đi thẳng vào chỗ chúng của Điều-đạt, thì Tam-văn-đạt-đa từ xa trông thấy liền chạy vào nói với Điều-đạt: Xá-lợi-phất, Mục-liên là hàng đệ tử bậc nhất của Sa-môn Cù-đàm, nay đến đây, nhằm phá ý định của các Tỳ-kheo, không nên nói chuyện, cũng đừng nên mời ngồi. Điều-đạt chủ quan với năm pháp làm đường hướng, không chấp nhuận lời của Tam Văn cũng không bận tâm đến vấn đề. Khi Xá-lợi-phất và Mục-liên đến nơi, Điều-đạt bèn nói: Thiện lai Xá-lợi-phất, Mục-liên có thể đến ngồi nơi chỗ này, rồi nói tiếp: Là người có trí, điều gì trước chưa nghe, nay nghe để nhận lấy mà hành trì. Hai vị, trước là hàng đệ tử bậc nhất của Samôn Cù-đàm, nay lại đến đây làm đệ tử bậc nhất của tôi, âu cũng là điều tốt! Xá-lợi-phất và Mụcliên im lặng không trả lời, Điều-đạt tưởng đó là chấp thuận lời nói của mình. Điều-đạt liền phỏng theo nếp sống của Phật bảo Xá-lợi-phất và Mụcliên: Quý thầy có thể vì chúng hội nói pháp, tôi bị đau lưng, nằm nghỉ một chút. Điều-đạt xếp Tăng-già-lê thành bốn lớp để gối, nằm nghiêng phía bên phải, hai chân chồng lên nhau, nhưng không hệ niệm tiền nên chỉ trong giây lát ngủ muồi, lăn qua phía bên trái, xoải người lên đất, ngáy khò khò… Khi ấy, Tôn giả Mục-liên hiện các thần lực theo chuyên môn của mình còn Tôn giả Xá-lợi-phất nói các pháp mầu, đoạn trước, đoạn sau cùng, chặng giữa đều thiện, nghĩa thiện, vị thiện, với tướng phạm. Năm trăm Tỳ-kheo nghe rồi, liền nơi tòa ngồi xa trần, lìa cấu, đối với các pháp, đặng mắt trong sạch, thấy pháp đắc quả rồi, bèn nói với nhau: Chúng ta có thể đứng dậy trở về chỗ Đức Phật. Hai Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cùng năm trăm Tỳ-kheo trở về chỗ Đức Phật.
Lúc đó, Tam-văn-đạt-đa dùng ngón chân đụng nhẹ vào Điều-đạt và mắng: Tôi tớ dòng họ Thích hãy thức dậy! Xá-lợi-phất và Mục-liên dùng những phương tiện dẫn các Tỳ-kheo đi rồi! Điềuđạt thức dậy kinh hãi mắng: Đích thị là Tỳ-kheo ác dục, mới đó có thiện ý, tại sao bỗng lại sinh tâm ác dùng phương tiện dẫn hết Tỳ-kheo của ta đi! Vì quá giận dữ và sợ sệt nên máu nóng từ lỗ mũi trào ra, ngay nơi thân còn sống mà đọa vào địa ngục.
Xá-lợi-phất và Mục-liên về đến chỗ Đức Phật rồi, đầu mặt đảnh lễ sát chân, ngồi lui qua một bên.
Tôn giả Mục-liên bạch Phật:
Con muốn khiến năm trăm Tỳ-kheo này thọ lại giới Cụ túc. Đức Phật dạy:
Khỏi phải thọ lại. Tại sao? Năm trăm Tỳ-kheo này ngu si nên dùng pháp tưởng rút thăm, nay chỉ cho phép Tăng khiến họ tác pháp hối quá Thâu-lan-giá. Tôn giả Mục-liên bạch Phật:
Kỳ lạ thay! Bạch Đức Thế Tôn! Điều-đạt bắt chước Phật đọa vào xứ khổ như thế.
Đức Phật dạy:
Không phải chỉ bây giờ, Điều-đạt bắt chước Ta mà đọa vào địa ngục, xưa kia cũng đã từng bắt chước Ta, phải đọa vào xứ khổ.
Tôn giả Mục-liên lại thưa hỏi Phật:
Chuyện ấy như thế nào? Đức Phật dạy:
Thuở đời quá khứ, nơi chỗ rộng vắng có một ao nước, một con voi lớn vào trong ao lấy ngó sen rửa sạch rồi ăn, sức khỏe được dồi dào. Lại có một con voi cũng bắt chước vào ao lấy ngó sen, không rửa mà ăn, đưa đến trọng bệnh rồi chết. Nhân sự việc này Đức Phật liền nói kệ: Đừng bắt chước voi chúa Bắt chước không thể được Bắt chước sai voi chúa Nên ăn bùn rồi chết.
Đức Phật bảo Mục-liên:
Con voi lớn chính là thân Ta, còn con kia là Điều-đạt. Xưa bắt chước Ta nên mới bỏ mạng, nay bắt chước Ta nên phải nhận lấy cái khổ như vậy.
Tôn giả Mục-liên bạch Phật:
Kỳ lạ thay! Bạch Đức Thế Tôn: Điều-đạt theo Phật nghe pháp, tụng tám mươi bốn ngàn pháp tạng, đặng năm thần thông, tại sao lại phản, kiêu mạn đối với Đức Thế Tôn?
Đức Phật dạy:
Không những đời này mà xưa kia Điều-đạt cũng từng theo Ta nghe pháp nhưng khinh mạn đối với Ta.
Tôn giả Mục-liên bạch Phật:
Chuyện ấy như thế nào? Đức Phật nói:
Thuở đời quá khứ, có một Tượng sư (người nài dạy voi) rất cao tay nghề điều phục voi, được nhà Vua đối xử rất trọng hậu. Khi ấy, có một người đến chỗ vị Tượng sư, thưa: Dạy cho con nghề điều phục voi, con xin làm đệ tử. Tượng sư liền dạy, không giấu một thuật nào. Người kia biết được rồi, bèn sinh tâm đố kỵ, đến chỗ nhà Vua tâu: Sự hiểu biết của người kia đâu hơn gì tôi, tại sao cung cấp như thế mà không nghĩ gì đến tôi? Nhà Vua kêu vị Tượng sư hỏi: Ông cùng đệ tử ông, ai hơn ai? Tượng sư đáp: Xin nhà Vua cho phép lui về, sau bảy ngày sẽ thực hiện pháp điều tượng. Nhà Vua chấp thuận. Tượng sư trong bảy ngày lại điều khiển các con voi: Bảo tới thì đi thụt lùi, bảo lùi thì đi tới, bảo ngồi thì bắt nó lại đứng, bảo đứng thì bắt nó lại ngồi, điều khiển các con voi với những động tác ngược lại như vậy. Đúng bảy ngày, đối trước nhà Vua, Tượng sư cùng đệ tử biểu diễn các thuật điều khiển voi. Ban đầu cả hai người chưa ai có cái gì khác lạ, nhà Vua hỏi người đệ tử: Nhà ngươi có thuật nào khác lạ hay không? Người đệ tử đáp: Tâu bệ hạ, không. Nhà Vua lại hỏi người thầy của ông ta: Ngươi có phương pháp nào khác lạ nữa hay không? Tượng sư đáp: Tâu bệ hạ, có. Nhà Vua bảo biểu diễn. Tượng sư điều voi làm ngược lại những điều sai bảo, voi răm rắp làm theo. Khi ấy, nhà Vua mới biết người đệ tử của Tượng sư trước đây đã nói hư dối. Nhà Vua nổi giận, nói: Tại sao ngươi dám khi dối đối với ta? Vị Tượng sư tâu với Vua: Người này là học trò của tôi, trước đây tôi dạy cho nó hết lòng, nó chưa biết hết, thoáng chốc lại đã khinh dối, nay xin được nói ví dụ, nguyện nhà Vua cho phép dẫn chuyện: Xưa kia có một người, tháng cuối mùa Xuân mang đôi giày một lớp, đất nóng nên giày bị co lại, giày siết chặt nên chân bị thương… Bổn ý là muốn bảo hộ đôi chân thì phản lại làm cho đôi chân bị tổn thương. Tôi cũng như vậy, trước kia dạy đệ tử, hy vọng là có ích, nhưng lại bị hại. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:
Như người mang giày da
Dụng ý bảo vệ chân
Khi nắng nóng bất ngờ
Giày rút chân bị thương.
Thế gian kẻ ngu ác
Không nghĩ mình mang ơn
Ơn thầy dạy kỹ thuật
Lại phản, vu khống thầy.
Đức Phật dạy:
Tượng sư chính là tiền thân của Ta, người đệ tử là Điều-đạt, đời nào cùng theo Ta thọ học mà trở lại khinh mạn đối với Ta.
Tôn giả Mục-liên bạch Phật:
Bạch Thế tôn, thật hy hữu! Tôn giả Xá-lợi-phất một lần thuyết pháp mà phá cả chúng của Điều-đạt.
Đức Phật dạy:
Không những đời này, mà xưa kia Xá-lợi-phất cũng đã từng nói pháp để phá chúng của Điều-đạt.
Mục-liên thưa hỏi:
Chuyện ấy như thế nào? Đức Phật nói:
Thuở đời quá khứ, có một Xạ sư tên là Câuhòa-ly. Có người theo học pháp bắn, sáu năm dạy nên cầm cây cung như thế này, vót cái tên như thế này, mà chưa dạy cách bắn. Sau đó, người đệ tử nghĩ: Trong sáu năm ta học cầm cây cung, vót cái tên mà chưa bắn lần nào, nay ta thử bắn xem sao. Người đệ tử nhắm bắn vào một cây đại thọ tên xuyên thủng qua khỏi cây rồi rơi vào lòng đất. Người thầy nghe được hỏi: Ông đã bắn một mũi tên phải không? Đệ tử đáp: Vâng, con đã bắn. Người thầy lại hỏi: Ông bắn vào chỗ nào? Người học trò chỉ vào cây đại thọ mà mình đã bắn. Người thầy nói: Ông đã thành xạ thủ, tôi là hạng nhất ông là hạng hai. Người thầy lại nói: Nơi địa điểm đó có năm trăm tên giặc cướp chặn đường, không ai dám đi qua nơi ấy. Ông có thể đến tảo thanh đám cướp nơi trục lộ đó, sẽ có công rất lớn. Ông thầy liền giao cho một chiếc xe ngựa, một mỹ nữ, cùng với cái bát bằng vàng và năm trăm mũi tên. Bấy giờ, người đệ tử cưỡi xe, chở người nữ, cầm cung như ý, mang năm trăm mũi tên vâng lệnh ra đi. Chính lúc ấy, đám giặc đường đang cùng phân chia các vật, sai người canh phòng nơi hiểm yếu. Người canh phòng từ xa thấy, vội vã chạy đến tâu với tướng soái của giặc. Tướng soái của giặc nói với đồng bọn: Chúng ta làm giặc, chưa từng thấy có một người, một mình dẫn một người đàn bà đi trên trục lộ này. Người này chắc là kẻ dũng kiện không sợ bất cứ ai, nên để họ đi qua, đừng gây nên phiền toái. Xạ thủ kia bèn dừng chân một nơi, khiến người đàn bà bưng bát bằng vàng đến chỗ đám giặc, xưng tên mình để khất thực. Người đàn bà ấy làm cho đám giặc rất thích, chúng lại ham cái bát bằng vàng, liền cùng nhau nghị bàn: Nữ sắc như thế đó, bát bằng vàng như thế đó, tại sao chúng ta lại cho phép họ đi. Tướng soái của giặc lại nói: Người kia chắc tự lượng sức của mình không sợ nên mới làm việc như vậy, cần phải nhẫn nại, chận sự nóng giận, đừng nên chiêu lấy tai họa. Đồng bọn nghe rồi bèn cho đầy bát với thức ăn ngon. Người đàn bà mang thức ăn trở lại, xạ thủ kia lại bảo đến nói: Các ông chia vật, cho tôi một phần với. Đám giặc cả giận: Con mẹ này là người gì lại dựa vào người chồng kia dám khinh cả bọn mình. Chúng ta phải giết ngay, đừng ôm lấy cái nhục này. Tướng soái của giặc vẫn nói như trước. Đám giặc chia cho một phần rồi quay trở lại. Xạ thủ kia lại bảo đến nói với đám giặc: Có thể cùng tôi chiến đấu chứ không thể để yên như thế này được. Lũ giặc lại nói: Người này thừa thắng xông lên, khinh miệt ta quá đáng, không thể nhẫn chịu được. Tướng soái của giặc khuyên dụ nhưng không được. Cơn giận của đám giặc nổi lên quên lường được sự nguy hại cùng nhau dùng sức tiến đánh hai con người kia. Người xạ thủ liền bắn một phát, giết ngay một người, bốn trăm chín mươi chín phát, giết chết bốn trăm chín mươi chín tên, còn một phát để hầu tên tướng soái, song tên giặc lẫn tránh theo người phụ nữ nên không bắn được. Tay xạ thủ bèn khiến người đàn bà lõa hình đứng trước tên giặc, tên tướng soái tâm loạn, nhân đó bị một phát, chết luôn. Cám cảnh này, người đàn bà kia liền nói kệ:
Tuy có cung tên bén
Chưa từng bắn một phát
Tử thương đã đầy dẫy
Tại sao không hối hận?
Người xạ thủ cũng dùng kệ trả lời:
Ta có cung kỳ diệu
Tâm hợp nên tay cung
Giết một sinh vui liền
Tại sao phải ăn năn.
Ta vốn đi đường này
Vì người trừ oán hại
Không hề tiếc thân mạng
Để thành người dũng kiện.
Đức Phật dạy:
Người thợ bắn kia là tiền thân của Ta, người đệ tử của người thợ bắn là Xá-lợi-phất, năm trăm tên giặc là năm trăm Tỳ-kheo hiện nay, tướng soái của giặc chính là Điều-đạt. Xưa kia Xá-lợi-phất dùng những mũi tên phá lũ giặc, nay một thời thuyết pháp phá chúng của Điều-đạt.
Tôn giả Mục-liên lại bạch Phật:
Bạch Thế tôn, lạ lùng thay! Điều-đạt mắng: Tỳ-kheo ác dục, liền khi ấy thân còn sống mà đọa vào địa ngục. Đức Phật dạy:
Không những bây giờ mà xưa kia Điều-đạt cũng đã từng dùng ác khẩu, hiện còn sống mà thọ đại khổ.
Mục-liên lại hỏi:
Chuyện ấy như thế nào? Đức Phật dạy:
Thuở đời quá khứ, bên bờ ao của nước A-lannhã, có hai con nhạn cùng một con rùa kết làm bạn thân, sau một thời gian, nước trong ao bị khô cạn, hai con nhạn bàn bạc với nhau: Nay ao nước này bị khô cạn, bạn thân của ta chắc bị đại khổ. Nghĩ rồi nói với rùa: Nước trong ao bị cạn, bạn không có cách nào sống được, bạn có thể ngậm giữa cái cây, chúng tôi mỗi đứa ngậm một đầu, đem bạn đến chỗ nhiều nước, nhưng với điều là khi ngậm cái cây, bạn thận trọng đừng nên nói. Đồng ý, chúng liền thực hiện, nhưng khi bay ngang qua một xóm nọ, đám trẻ nít thấy vậy đều la ầm lên: Nhạn ngậm rùa bay đi! Nhạn ngậm rùa bay đi!! Con rùa liền nổi giận buông miệng nói: Việc này dính dự gì đến chúng bây? Miệng rùa tuột ra khỏi cây, rùa rớt xuống đất chết ngay. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhân việc này nói kệ:
Đời sống kẻ sĩ
Búa ở trong miệng
Sở dĩ chém mình
Do nơi lời ác.
Nên chê lại khen
Nên khen lại chê
Tự nhận lấy họa
Trọn không có vui.
Nếu giành nhau tài lợi
Ác ấy chưa phải lớn
Tâm ác hướng về Phật
Ác đây mới là to.
A-phù có trăm ngàn
Ni-la, ba mươi sáu
Ác ý với người hiền
Phải đọa địa ngục ngay.
Đức Phật dạy:
Con rùa kia chính là Điều-đạt, xưa kia do nói lời giận mà chết đau khổ, nay lại giận mắng, đọa vào đại địa ngục.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Nếu Ta thấy nơi Điều-đạt có một pháp thiện bằng sợi lông thì hoàn toàn không ghi nhận sự đọa vào đại địa ngục thọ một kiếp khổ của Điềuđạt. Ví như một người bị chìm dưới hầm phân, nếu có người muốn cứu họ, mà không thấy nơi thân họ có một chỗ nào sạch, bằng một sợi lông để có thể cầm được. Ta quán sát nơi Điều-đạt cũng lại như vậy.
Đức Phật lại bảo các Tỳ-kheo:
Ta không thấy pháp nào phá hoại tâm đạo vô thượng của con người bằng tiếng khen và lợi dưỡng. Điều-đạt sở dĩ phá Tăng là do lợi dưỡng. Điều-đạt gây tạo tám phi pháp cho nên phá Tăng: lợi, không lợi, khen, không khen, kính, không kính, ưa ác và nhận thức làm theo điều ác.
Tôn giả Ưu-ba-ly thưa hỏi Phật:
Thế nào được gọi là phá Tăng? Đức Phật dạy:
Có bốn việc gọi là phá Tăng: Nói năm pháp, tự hành trù, rút thăm, trong nội giới làm Tăng sự riêng. Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi:
Thế nào gọi là Tăng không hòa hợp mà chẳng phải phá? Đức Phật dạy:
Nếu Vua trợ lực phá Tăng, khiến cho Tăng không hòa hợp, thì chẳng phải phá. Nếu Đại thần, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Tỳ-kheo-ni, Thứcxoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, một Tỳ-kheo cho đến bảy Tỳ-kheo trợ lực phá Tăng cũng như vậy. Nếu không hỏi Thượng tọa mà hành Tăng sự, tức là không hòa hợp mà cũng chẳng phải phá Tăng, nếu không cùng đồng thọ thực, trong khi ăn, khác chỗ ngồi, tranh cãi mạ lị cũng như vậy. Chủ yếu phải là ở trong một giới, tám Tỳ-kheo, chia làm hai bộ, làm Tăng sự riêng thì mới gọi là Tăng bị phá.
Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi:
Trong số đó, ai là người phá Tăng? Đức Phật dạy:
Người nào chủ động. Tôn giả Ưu-ba-ly lại hỏi:
Ai là người phải đọa vào đại địa ngục một kiếp mà không thể cứu?
Đức Phật dạy:
Người nào đóng vai chủ động. Tôn giả Ưuba-ly lại hỏi:
Hễ người phá Tăng đều bị đọa vào đại địa ngục thọ khổ một kiếp phải không?
Đức Phật dạy:
Không nhất thiết đều bị đọa vào đại địa ngục một kiếp để thọ khổ. Có tám người phá Tăng thọ một kiếp khổ nơi đại địa ngục: Hoặc pháp, pháp tưởng mà nói là phi pháp; hoặc phi pháp, phi pháp tưởng mà nói là pháp; hoặc pháp, phi pháp tưởng mà nói là pháp; hoặc phi pháp, pháp tưởng mà nói là phi pháp; hoặc pháp, phi pháp, pháp tưởng mà nói là pháp; hoặc pháp, phi pháp nghi mà nói là pháp; hoặc pháp phi pháp nghi mà nói là phi pháp. Có sáu người phá Tăng không bị đọa vào đại địa ngục một kiếp để thọ khổ: Hoặc pháp, pháp tưởng mà nói là pháp; hoặc phi pháp, phi pháp tưởng mà nói là phi pháp; hoặc pháp, phi pháp tưởng mà nói là phi pháp; hoặc phi pháp, pháp tưởng mà nói là pháp; hoặc pháp, phi pháp, phi pháp tưởng mà nói là phi pháp; hoặc pháp, phi pháp, pháp tưởng mà nói là pháp.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, Tỳ-kheo Át-bệ hầu Phật, sau đó đắp y bưng bát vào thành khất thực, oai nghi rõ nét, ngó xuống đất mà đi. Có một Trưởng giả thấy, khởi ý nghĩ: Ta chưa từng gặp một người nào như thế này, bèn đến hỏi: Thầy là ai? Thầy là đệ tử ai? Xuất gia với ai? Phụng hành đạo pháp của vị nào?
Khi ấy, Đức Phật mới thành đạo, người đời đều gọi Ngài là Đại Sa-môn. Vị Tỳ-kheo trả lời:
Tôi tên Át-bệ, Đại Sa-môn là thầy của tôi, tôi xuất gia với Ngài, phụng hành đạo pháp của Ngài. Ông Trưởng giả nghe rồi, khen:
Chưa từng có người nào như vầy, tự có oai nghi như vầy, mà theo Đại Sa-môn xuất gia, phụng hành đạo pháp của Người.
Ông Trưởng giả lại hỏi:
Hiện nay thầy ở đâu? Tỳ-kheo đáp:
Tôi ở nơi A-lan-nhã, bên cây Sơn Nham, chỗ đất trống gò mả là chỗ của tôi.
Ông Trưởng giả nghe rồi lại càng thêm hoan hỷ, khen:
Oai nghi rõ nét hòa nhã, vị này chắc chắn là hơn hết, mà lại ở chỗ vắng vẻ như vậy!
Ông Trưởng giả lại hỏi:
Lấy thứ gì trải ngồi?
Tôi dùng cỏ Thi, cỏ Câu-thi, cỏ Bà-bà, cỏ Văn-nhu, cho đến lá cây… kể cả cát đất, tôi đều có thể trải ngồi. Ông Trưởng giả nghe rồi lại thêm vui mừng cung kính, khen:
Lại có thể sống với nếp sống thiểu dục như vậy! Ông Trưởng giả lại hỏi:
Nếu tôi vì Đại đức làm cái phòng thì có thể thọ dụng hay không?
Vị Tỳ-kheo trả lời:
Đức Thế Tôn chưa cho phép chúng tôi thọ dụng phòng xá. Ông Trưởng giả thưa:
Đại đức có thể đem vấn đề này bạch Phật, tôi cũng sẽ đích thân đến bạch.
Át-bệ im lặng nhận lời đề nghị. Sau khi thọ trai xong, trở lại chỗ
Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, khen người thiểu dục, tri túc, khen giới, khen người trì giới rồi bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay cho các Tỳ-kheo nhận các phòng xá của người cúng.
Ông Trưởng giả kia, sau đó đến chỗ Đức Phật, từ xa thấy dung mạo của Đức Thế Tôn thù thắng đặc biệt, giống như núi vàng, trong lòng đầy ắp sự vui mừng, cung kính, đến trước Đức Phật kính lễ sát chân, rồi lui qua một bên. Đức Phật vì ông nói các pháp diệu… cho đến khổ, tập, tận, đạo. Ngay từ chỗ ngồi, ông đặng mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc quả, thọ Tam quy và Ngũ giới, rồi bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Con muốn cất phòng xá cúng dường cho các Tỳ-kheo, xin Ngài chấp thuận.
Đức Phật đồng ý bằng sự im lặng.
Ông Trưởng giả biết Đức Phật chấp thuận rồi, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước kính lễ sát chân Phật, đi quanh bên phải ba vòng rồi cáo lui.
Liền trong ngày ấy, ông cho cất sáu mươi phòng xá, lại cúng dường ẩm thực cho Phật và Tăng. Toàn gia quyến của ông đều cùng nhau lo liệu cúng dường những mỹ vị quý giá nhất trong đời không thiếu một thứ gì. Người bửa củi, người lấy nước, người làm thức ăn, người quét dọn, người rưới nước hoa trên đất, kẻ trải chỗ ngồi, người rải hoa, kẻ trải tòa cao.
Bấy giờ, trong thành Xá-vệ có Trưởng giả tên là Tu-đạt-đa, xuất ba mươi vạn kim tiền cho người nơi thành Vương-xá vay, hằng năm đến thu về. Ông Trưởng giả thành Vương-xá thường ra một do-tuần nghinh đón, đãi đại tiệc. Đến lần này không có Trưởng giả ra tiếp, Tu-đạt-đa lại có suy nghĩ: Ông ta, hoặc bị nạn của nhà Vua hay nạn nước, lửa, giặc cướp, nhân, phi nhân nên không ra nghinh đón? Khi đến nơi, Tu-đạt-đa tới nhà ông Trưởng giả trước, thấy bày biện trân trọng các thức ăn mỹ vị, hỏi:
Ông làm đám cưới, mở hội hay rước nhà Vua? Ông Trưởng giả trả lời:
Chẳng phải làm đám cưới, mở hội, cũng chẳng phải rước nhà Vua.
Lại hỏi:
Không vậy, tại sao sửa soạn thức ăn uống mỹ diệu thế này? Ông Trưởng giả nói:
Đức Phật ra đời có đại oai đức, các đệ tử của Ngài cũng đều như vậy. Nay tôi thỉnh quý Ngài để cúng dường, cho nên không ra để cùng nghinh đón ông được.
Tu-đạt-đa nói:
Tôi cũng thường nghe nói Phật ra đời, hiệu là Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngư Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Người mà nay ông thỉnh là Phật sao? Hay không phải là Phật?
Trưởng giả đáp:
Chính là Phật. Lại hỏi:
Hiện nay Ngài ở đâu?
Ông Trưởng giả kia liền để trống vai bên phải, đầu gối bên phải chấm đất, tay bên phải chỉ về chỗ Đức Phật ở, nói:
Phật ở nơi đó.
Tu-đạt-đa nghe rồi, vui mừng phấn khởi, để trống vai bên phải vọng hướng về chỗ Đức Phật ở kính lễ Ba lần. Đêm đến, ông ta niệm danh hiệu: Nam mô Phật. Dù nhọc mệt ông vẫn ngủ được. Người thiện tri thức đời trước của ông ta là vị thần ủng hộ. Vị thần nghĩ: Ta sẽ khiến ông Trưởng giả này không phải đợi qua một đêm, mới được thấy Đức Phật. Vị thần liền khiến cho trong đêm sáng rực lên, Tu-đạt-đa tưởng là trời đã sáng, liền thức dậy đến cửa thành, cửa thành tự mở, ra khỏi cửa tự đóng, bỗng nhiên trời tối lại. Tu-đạtđa hoảng sợ nghĩ và nói: Vừa rồi ta đâu phải là cuồng! Vị thần biết ý niệm đó, liền nói kệ:
Nay là lúc đến Phật
Mỗi một bước chân đi
Lợi hơn thí ngàn vàng
Voi ngựa không sánh kịp.
Vị thần lại nói: Đừng hốt hoảng. Đừng sợ hãi, cứ tiến bước, tiến bước trong giây lát sẽ thấy Phật. Tu-đạt-đa nghe rồi sự sợ hãi biến mất, hăng hái bước tới, từ xa thấy Đức Thế Tôn dung mạo thù đặc, giống như núi vàng.
Đức Thế Tôn thấy ông Trưởng giả, khen:
Lành thay! Đến đây Tu-đạt-đa!
Tu-đạt-đa nghe, rất vui mừng: Đức Phật lại biết luôn cả tên do cha mẹ ta đặt! Tu-đạt-đa đầu mặt kính lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật vì Trưởng giả nói các pháp diệu… cho đến khổ, tập, tận, đạo. Ngay nơi chỗ ngồi, ông ấy đặng mắt pháp trong sạch. Thấy pháp đắc quả rồi, Tu-đạt-đa liền thọ Tam quy, Ngũ giới và bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Nguyện Phật và Tăng nhận lời mời của con, an cư mùa hạ nơi thành Xá-vệ.
Thỉnh Ba lần như vậy, Đức Phật đều im lặng, đến lần thứ tư Ngài mới bảo:
Nếu chỗ nào không có sự ồn ào, yên tịnh, không có tiếng động, chư Phật mới an cư nơi đó.
Ông Trưởng giả bạch Phật:
Con đã hiểu lời dạy của Đức Thế Tôn, xin Ngài sai một Tỳ-kheo, người có kinh nghiệm cho việc thiết lập này.
Đức Phật hỏi:
Nay ông muốn vị nào?
Bạch Thế tôn! Con muốn nhờ Tôn giả Xá-lợi-phất. Đức Phật liền nói với Tôn giả:
Thầy có thể đến đó làm người trông coi công việc. Tôn giả vâng lời ra đi.
Bấy giờ, vị Trưởng giả thành Vương-xá, vào buổi sáng đích thân đến bạch Phật:
Thức ăn đã sửa soạn xong, xin Thánh tri thời.
Đức Phật cùng Tỳ-kheo Tăng mặc y bưng bát, kẻ trước người sau vây quanh đến nơi nhà thọ trai, an tọa theo thứ tự. Ông Trưởng giả tự tay sớt thức ăn, ăn xong dâng nước rửa rồi bạch Phật:
-Bạch Đức Thế Tôn! Con xin dâng cúng ngôi vườn và phòng xá này cho Tăng bốn phương Đức Phật nhận lời bằng sự im lặng. Biết Đức Phật nhận lời rồi, Trưởng giả lấy chiếc ghế nhỏ ngồi phía trước, Đức Phật bèn vì ông, tùy hỷ nói kệ chú nguyện:
Vì ngăn gió lạnh nóng
Và ngăn các thú dữ
Che mưa sương và bụi
Cùng trừ nạn mòng muỗi.
Cúng dường người trì giới
Tọa thiền, thuyết, tụng pháp
Ai nghe hiểu nghĩa này
Trừ hết các gốc khổ.
Đức Phật nói kệ rồi, lại nói các pháp diệu, chỉ vẽ điều lợi ích để được hoan hỷ rồi trở về trú xứ.
Ngày về, Trưởng giả Tu-đạt đưa Tôn giả Xá-lợi-phất trở lại thành Xá-vệ. Qua các xóm làng, nơi nào Trưởng giả cũng đều rao truyền: Đức Phật ra đời, có đại oai đức, các đệ tử của Ngài cũng như vậy, tôi đã thỉnh Ngài an cư nơi thành Xá-vệ, các người ai nấy đều sửa soạn nhà cửa, tu bổ đường sá và các cầu đò, chuẩn bị mọi thứ để đón Đức Thế Tôn. Dân chúng nơi các xóm làng ấy nghe rao truyền như vậy, biết Đức Phật Thế tôn sẽ đi qua nơi mình ở nên rất vui mừng ghi nhận làm theo lời rao kia một cách cung kính. Trưởng giả Tu-đạt, khi đến Xá-vệ nghĩ: Chỗ nào tốt nhất để cất Tinh xá? Chỗ duy nhất nơi thành này là Kỳ lâm của Đồng Tử, nơi có vườn cây ăn trái quý giá, cảnh sắc tốt tươi, nước trong thanh khiết, suối róc rách, ao tắm, hoa thơm thật hoàn chỉnh, ta nên mua nơi đó để xây cất. Nghĩ rồi liền đến chỗ chủ nhân ngôi vườn, ngỏ lời:
Tôi muốn mua sở vườn, ông có thể bán không? Đáp:
Ông hãy dùng kim tiền trải khắp hết mặt đất, không bỏ trống một chỗ nào, được như vậy tôi sẽ cùng ông trao đổi.
Tu-đạt liền dùng kim tiền trải khắp mặt đất. Kỳ-đồng-tử bảo:
Nói đùa như thế thôi, chứ tôi không muốn trao đổi. Tu-đạt nói lại:
Điều kiện này là từ lời của ông nói làm thành một giá trị, đâu được hối tiếc để làm khác đi.
Hai bên giằng co tranh cãi nên phải đưa đến cửa quan. Quan y theo pháp luật xử, Tu-đạt thắng cuộc.
Kỳ-đồng-tử hỏi Tu-đạt:
Vì lý do gì mà ông không tiếc vàng bạc để mua khu vườn này với giá như vậy?
Tu-đạt trả lời:
Đức Phật ra đời, có đại oai đức, các đệ tử của Ngài cũng như vậy. Tôi đã mời Ngài đến an cư nơi đây, do đó, tôi trút hết gia tài cũng không hề tiếc nuối.
Kỳ-đồng-tử lại nói:
Nếu để tôi được đặt tên vườn là Tinh xá Kỳ viên, thì tôi sẽ để cho.
Tu-đạt nói:
Tốt!
Tu-đạt liền ra lệnh đem kim tiền trải lên mặt đất, tính luôn cả những gốc cây cũng đều trải cho đầy đủ. Sau đó, Tôn giả Xá-lợi-phất lấy dây đo đạc, tính toán làm chỗ đi kinh hành, giảng đường, nhà giữ ấm, nhà ăn, nhà tắm, và các phòng xá, tất cả đều đầy đủ tiện nghi. Khi ấy, các phòng xá dùng bùn trét không được kín, gió bụi, rắn, chuột vào phá ngọa cụ của Tăng, gây xúc não cho các Tỳ-kheo. Vấn đề này được bạch Phật. Phật dạy: Cho phép dùng bùn bọc trong ngoài và các ngưỡng cửa. Tăng nên sắm búa, rìu, dao, cưa…, ghế thang các dụng cụ để làm nhà, cũng cho phép những chỗ bị nước tạt làm cửa sổ có vòng móc phên che, làm khóa cửa. Không cho phép làm như cán dao đeo nơi lưng, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo chấp tác bị đất bùn làm nhớp thân cần phải tắm, Phật cho phép tắm. Chỗ tắm có bùn… Phật dạy: Cho phép dùng gạch đá hay tấm ván để trên mặt đất. Có các Tỳ-kheo ở nơi gò mả lượm được phu cụ, giường dây không dám lấy. Phật dạy: Cho phép lấy, nếu lớn nên cắt ra.
Bấy giờ, giữa hai thành Vương-xá và Xá-vệ có một trú xứ, các cư sĩ đem cúng cho các Tỳ-kheo mà không có ai ở. Phật dạy: Cho phép các bạch y mời tri sự ở và cung cấp cho họ mọi thứ cần dùng. Khi ấy, các trú xứ không có hàng rào, bò ngựa vào ra làm hư hoại chỗ kinh hành, Đức Phật dạy: Cho phép đào hào và rào chung quanh. Bò ngựa vẫn tìm cách vào được. Phật dạy: Cho phép dùng các loại cây gai kéo chung quanh. Bò ngựa vẫn tuông phá vào được. Phật dạy: Cho phép đắp đất làm tường hoặc xây tường gạch, bên trên có mái che, cho phép làm nhà canh giữ. Hư cũng cho phép làm lại, cho phép làm hai phên cửa. Có các Tỳ-kheo dùng nhánh dương chà răng, rửa tay, rửa mặt, rửa chân trong phòng, làm cho đất bị ẩm thấp, hư ngọa cụ của Tăng. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Có các Tỳ-kheo già bệnh khi trời lạnh không thể ra ngoài rửa được.
Phật dạy: Cho phép dùng các chậu đựng nước rửa và viên gạch dùng kê chậu. Có phòng xá bị đất bủn nổi lên. Phật dạy: Nên dùng đất bùn để trét và dùng một trong mười loại y trải lên trên. Có các Tỳ-kheo hạ tọa rửa chân trước, sau đó Thượng tọa đến rửa chân, vị hạ tọa rửa chưa xong, bị đuổi đi. Phật dạy: Nếu hạ tọa rửa trước nên cho phép rửa cho xong. Có các Tỳ-kheo kinh hành nơi đất trống, khi trời mưa y bị ướt, nên phế bỏ việc kinh hành. Phật dạy: Cho phép làm cái hành lang. Có các Tỳ-kheo đi trong sân, khi trời mưa đất nhão nhớp chân. Phật dạy: Cho phép làm đá gạch lót làm đường đi. Có các Tỳ-kheo ở chỗ không có nước. Phật dạy: Cho phép đào giếng, hoặc nước ao tác tịnh. Các Tỳ-kheo muốn làm nệm trải trên giường. Phật dạy: Cho phép dùng một trong mười thứ y rồi độn lông dê, lông lạc đà, hoa Kiếp bối… cho đến loại cỏ mềm vào bên trong để làm nệm. Các Tỳ-kheo làm nệm quá dày. Phật dạy: Dày nhất là tám ngón tay, cho phép Tăng làm một loại dành cho Tăng bốn phương và làm một loại riêng. Phu cụ của Tăng hư hoại, không biết làm thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Nên nhờ người giặt vá tu bổ lại.
Lúc này, các Tỳ-kheo phân ngọa cụ cho Tăng hàng ngày. Phật dạy: Không nên làm như vậy, cho phép ngày cuối mùa Xuân, ngày đầu mùa hạ khi kiết giới An cư thì phân ngọa cụ. Lục quần Tỳ-kheo chọn lựa phòng tốt, ngọa cụ tốt để lấy phần. Phật dạy: Không nên làm như vậy, nên bạch nhị Yết-ma sai một Tỳ-kheo làm người phân ngọa cụ. Tỳ-kheo được sai nên ghi rõ để biết ngọa cụ nào thuộc phòng nào, tùy theo thứ cấp Thượng tọa mà chia, nếu có dư mà còn tốt, Thượng tọa cần thì nên đưa, nếu Thượng tọa không cần thì tiếp theo, tùy theo hạ tọa, theo chỗ ngồi mà phân. Nếu có Tỳ-kheo đến sau, tùy theo lớn nhỏ, theo thứ tự phân bố, từ phòng kế lần lượt cho đến phòng chót, nếu hạ tọa không có phòng thì thôi. Các Tỳ-kheo muốn làm giường dây, giường cây mới. Phật dạy: Cho phép làm. Nếu không có thợ khéo thì Tỳ-kheo có thể tự làm cũng được. Cho phép dùng mười loại tơ sợi, làm giường dây cũng được. Có các Tỳ-kheo muốn độn nệm trong giường dây, Phật cho phép độn. Có các Tỳ-kheo đi đứng trên giường dây, dây bị đứt. Phật dạy: Không nên đi đứng trên giường dây. Có các Tỳ-kheo nhỏ người thấp, muốn móc cái y hay lấy cái y trên giá, vói không tới. Phật dạy: Cho phép chánh niệm, quỳ gối trên giường dây để lấy. Có các Tỳ-kheo-ni ngồi trên giường dây có độn, nguyệt thủy nhớp, bất tịnh, thối nát, hư hoại. Phật dạy: Tỳ-kheo-ni không nên ngồi trên giường dây có độn. Có Sa-di nhỏ nằm trên giường dây có độn, đái dầm, bất tịnh, hư mục. Phật dạy: Sa-di nhỏ cũng không được nằm trên giường dây có độn. Có các Tỳ-kheo ở trên giường cao mà nghe kinh, hỏi nghĩa. Phật dạy: Nghe kinh, hỏi nghĩa đều nên ngồi nơi chỗ thấp. Trong sân của trú xứ các Tỳ-kheo cỏ mọc, Phật cho phép khiến tịnh nhân dọn theo luật. Nơi phòng bị bụi bặm làm nhớp giường, ngọa cụ, Phật cho phép tùy ý lau quét. Khi đại hội, các Tỳ-kheo đến đông, phòng xá lớn mà thiếu chỗ ở. Phật dạy: Trong phòng theo thứ tự trải ngọa cụ vừa đủ nằm mà nằm, nếu muốn dùng y ngăn phía trước thì cho phép, vị nào cũng được ngăn. Nếu đủ thì tốt, bằng không đủ thì bên ngoài có chỗ đất trống nào cho phép làm am thất, Tỳ-kheo cựu trú nên đứng ra làm. Cất am thất, đại hội xong, không giở bỏ, bị lửa cháy, cháy luôn cả trú xứ, Đức Phật dạy: Đại hội xong, phải giở bỏ rồi mới đi. Nếu Tỳ-kheo cựu trú tiếc không cho giở, Tỳ-kheo khách phải dặn dò Tỳ-kheo cựu trú rồi mới đi. Lúc trời mưa lớn, các Tỳ-kheo không có chỗ tụ hội. Phật dạy: Cho phép làm nhà lớn. Mùa lạnh, các Tỳ-kheo tụ tập bị rét, Đức Phật dạy: Cho phép làm nhà sưởi ấm.
Bấy giờ, do Tỳ-xá-khư-mẫu muốn xây dựng nên Tôn giả Xá-lợi-phất cho xây cất nhà lớn mới, bà đem lúa gạo đến cúng cho Tăng bốn phương, các Tỳ-kheo không dám thọ. Phật dạy: Nếu vì Tăng bốn phương, khi làm cho phép tùy ý thọ thực. Có các Tỳ-kheo khất thực, trở lại cúng cho Tăng bốn phương, không biết ai nên thọ. Phật dạy: Vì Tăng bốn phương mà làm thì được thọ thực. Có phòng xá bị hư hoại, các Tỳ-kheo không sửa chữa. Phật dạy: Nên khuyến hóa, bạch nhị Yết-ma giao cho kẻ đạo tục muốn sửa chữa, cho họ sửa chữa. Một Tỳ-kheo nên xướng đọc:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Cái phòng… hư hoại không có người sửa chữa, kẻ đạo tục… muốn sửa chữa, nay Tăng giao cho người ấy sửa chữa. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Cái phòng… hư hoại… cho đến câu: Nay Tăng trao cho người ấy sửa chữa. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã đồng ý giao cho… sửa chữa phòng cũ, số… rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Nếu muốn đề tên người đàn-việt đã sửa chữa vào phòng ấy thì cho phép đề. Ngọa cụ cũng như vậy.
Có một trú xứ nước lớn bị ngập. Các Tỳ-kheo ai nấy lo dọn dẹp ngọa cụ phòng của mình, phòng không có Tỳ-kheo ở, không ai thu dọn, bị nước trôi và hư mục, sau đó những người đàn-việt của những phòng ấy thấy vậy, nổi sân, chê trách các Tỳ-kheo: Tại sao chỉ có ngọa cụ phòng của tôi cúng bị ướt, hư hoại mà thôi?! Đức Phật dạy: Nếu khi bị thủy hỏa nên la lớn, đánh kiền chùy khiến cho tất cả Tăng đều cùng nhau hỗ trợ dọn dẹp. Nếu vị nào không hỗ trợ dọn dẹp thì phạm Độtkiết-la.
Bấy giờ, La-hầu-la đến thôn Na-la, một người Ưu-bà-tắc thân tín vì La-hầu-la cất một cái phòng, khi cất xong, La-hầu-la có một duyên sự nhỏ nên du hành trong nhân gian.
Lúc đó, Tôn giả A-nan đến nơi thôn kia, vị Ưu-bà-tắc ấy lại đem phòng cúng cho Tôn giả Anan. Khi La-hầu-la trở về, bảo Tôn giả A-nan đi chỗ khác. A-nan nói: Trước kia tuy người ta cúng cho thầy, nhưng thầy đi, sau đó người ta cúng cho tôi thì phòng này là của tôi. Thế là cả hai vị đều đến người Ưu-bà-tắc hỏi để họ quyết định là phòng của ai. Người Ưu-bà-tắc trả lời: Tuy trước kia tôi cúng cho Tôn giả La-hầu-la, nhưng La-hầu-la bỏ đi, sau đó tôi mới cúng cho Tôn giả A-nan. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo:
Ưu-bà-tắc không những đời này mà xưa kia cũng đã từng làm như vậy.
Các Tỳ-kheo thưa hỏi:
Chuyện ấy xảy ra như thế nào? Đức Phật dạy:
Thuở đời quá khứ, có nhà Vua tên là Bà-lâu, trong cương giới nước của Vua có hai vị Tiên, một tên là La-hầu-la ưa tọa thiền, một tên là Anan đa văn vô úy. Nhà Vua kia, trước thấy Lahầu-la, rất kính trọng nên cất một cái phòng để cúng. Phòng làm xong thì La-hầu-la xuất hành trong nhân gian. Sau đó, A-nan lại đến, nhà Vua cũng kính trọng nên đem cái phòng đó cúng cho A-nan. Khi La-hầu-la về, bảo A-nan đi và nói: Phòng này là của tôi. A-nan cũng nói phòng này là của mình. Cả hai đều đến nhà Vua hỏi, để quyết định là phòng của ai. Nhà Vua nói: Tuy trước đây tôi cúng cho La-hầu-la, nhưng La-hầula bỏ đi, sau đó tôi mới cúng cho A-nan, vậy nay là phòng của A-nan. Bấy giờ, các thiên, long, quỷ, thần đều nói: Nhà Vua này làm phi pháp, tại sao trước đã cúng cho La-hầu-la, sau lại tự ý đoạt lại cúng cho A-nan, chúng ta sẽ phá hoại quyến thuộc của nhà Vua. Họ liền cùng nhau đến cung Vua, dùng đá ném, đánh giết hại quyến thuộc của nhà Vua. Nhân việc này, Đức Phật nói kệ:
Vua cúng không trước sau
Tiên nhân cùng tranh cãi
Làm cho quỷ thần giận
Chuốc hại quyến thuộc mình.
Nếu xử sự theo ái
Không được người trí khen
Do vậy nên xả ái
Hoan hỷ nói đúng nghĩa.
Đức Phật dạy:
Tiên nhân tên La-hầu-la trước kia, nay là Lahầu-la. Tiên nhân tên A-nan trước kia, nay là Anan. Quốc vương trước kia, nay là Ưu-bà-tắc.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Từ nay không cho phép nhận phòng trước đó thí chủ đã cúng cho người khác, vị nào phạm, phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, Đức Phật cùng đại Tỳ-kheo Tăng một ngàn hai trăm năm mươi vị đầy đủ du hành trong nhân gian, ở nước Câu-tát-la hướng đến ấp Ngật-la Ngật-liệt. Tại đó có năm Tỳ-kheo cựu trú, nghe Phật cùng đại chúng sẽ đến, cùng nhau nghị bàn: Trong chúng của Phật có các Tôn giả Xá-lợi-phất, Mục-liên, chắc chắn sẽ gây xúc não cho chúng ta. Chúng ta có thể phân chia phòng xá, ngọa cụ, vườn cây trái trong trú xứ này làm năm phần thành tư hữu của mỗi người. Bàn bạc xong liền phân chia. Đức Phật và chúng Tăng đến nơi, các Tỳ-kheo bảo: Các thầy mở phòng trải ngọa cụ, chúng tôi cần có chỗ ở. Năm Tỳ-kheo nói: Đức Phật là vị pháp chủ, mở cửa phòng hạng nhất mời Ngài ở, ngoài ra chúng tôi đã phân chia hết, là vật riêng không phải thuộc của Tăng, quý vị có thể vào trong xóm làng, tùy theo sự quen biết mà tìm chỗ ở. Khi ấy, hai Tôn giả Xá-lợi-phất, Mụckiền-liên không có chỗ ở, đêm ấy phải ngủ nhờ nơi hiên phòng Đức Phật nghỉ. Sáng ngày, Đức Phật nhân việc này tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Có năm thứ thuộc Tăng bốn phương không được giữ lấy, không được bán, không được chia. Năm thứ ấy là gì?
Đất của trú xứ. Phòng xá.
Vật cần dùng.
Cây ăn trái.
Hoa quả.
Tất cả Tỳ-kheo Sa-môn Thích tử đều có phần trong đó. Ai giữ lấy, bán hay phân chia đều phạm tội Thâu-lan-giá.
Chỗ năm Tỳ-kheo kia phân chia, sau đó Tăng bốn phương đến tập hợp lại cùng nhau phân chia, tiếp đến Tỳ-kheo khách tới, nói: Mở phòng để tôi vào ở. Các Tỳ-kheo tới trước nói: Chúng tôi là Tăng bốn phương đến thì đây là phần của chúng tôi, đã cùng nhau chia rồi, không thuộc về của thầy, thầy có thể đến trong xóm làng tìm nơi để ở. Tỳ-kheo tới sau, bèn đến trong xóm làng tìm chỗ ở. Các bạch y nói: Thưa Đại đức! Ở nơi đó có Tăng phòng tại sao không ở mà đến đây? Các Tỳ-kheo trở lại chỗ Tăng phòng, lúc ấy trời đã tối nên trên đường đi bị cọp làm hại. Các Tỳ-kheo bạch Phật, nhân việc này, Đức Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Trước nay Ta há đã không nói, Tăng bốn phương có năm thứ không được chiếm giữ, không được bán, không được chia hay sao? Tại sao người bảo vệ trú xứ của Tăng lại không cho Tỳ-kheo tới sau ở, để đến nỗi bị cọp làm hại?
Bằng mọi cách quở trách rồi, Đức Phật lại nói: Vị nào chiếm đoạt, bán hay chia của Tăng bốn phương đều phạm tội Thâu-lan-giá.
Có các Tỳ-kheo ở bên bờ biển, cây gỗ khó được, không thể cất thất để ở. Nơi đó lại có nhiều loại xương của loài cá lớn, muốn dùng để cất, bạch Phật. Phật dạy: Được phép sử dụng. Các Tỳ-kheo sợ hôi mùi xương cá. Phật dạy: Cho phép dùng bùn có mùi thơm để trát. Có các Tỳ-kheo xây dựng làm trú xứ cho Tăng, làm rồi, Tỳ-kheo khách đến là bậc Thượng tọa, đuổi người ở trong phòng ra. Vị kia giận dữ nói: Tôi xây dựng khổ cực mà không được ở yên, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép người chủ xây dựng tùy ý ở phòng nào mình thích. Các Tỳ-kheo lại ở với thời gian dài, bạch Phật. Phật dạy: Nên tính theo công phu của người kia nhiều hay ít, nhiều nhất là cho phép ở mười hai năm. Nên bạch nhị Yết-ma trao cho. Một Tỳ-kheo đọc lớn:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… làm chủ xây dựng, nay Tăng cho tùy ý ở phòng theo sở thích, thời gian là (bao nhiêu) năm. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… làm chủ xây dựng, nay Tăng cho tùy ý ở phòng theo sở thích, với thời gian là (bao nhiêu) năm. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã đồng ý cho Tỳ-kheo tên là… tùy ý ở phòng theo sở thích rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Có các Tỳ-kheo làm giường cây, giường dây để trong phòng, hoặc trét đất, hay khi tu bổ nho nhỏ, bèn xin chỗ tùy ý ở. Phật dạy: Không nên xin. Nếu tu bổ phòng công phu ít nhất là một phần ba thì cho phép đến xin Tăng chỗ ở tùy ý.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Bấy giờ, các Tỳ-kheo cùng bạch y ăn thức ăn đặt chung trong cùng một đồ đựng, tay va chạm nhau, nên phải rửa mãi. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên cùng bạch y ăn chung trong cùng một đồ đựng.
Có Tỳ-kheo đến nơi nhà bà con, bà con nói: Chúng ta chẳng phải ai xa lạ, cũng chẳng phải là bất tịnh, sao không cùng ăn chung với nhau? Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Cho phép chánh niệm, để cùng ăn với nhau, chỉ đừng nên khiến cho tay va chạm nhau.
Có Tỳ-kheo cùng bạch y ăn chung thức ăn trong một đồ đựng nhỏ nên tay va chạm nhau, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép tay bên trái cầm đồ đựng mà ăn.
Các Tỳ-kheo khi ăn kính lễ nhau. Khi Tăng ăn, khi ăn cháo, khi ăn trái cây, khi đi kinh hành, khi không mặc ba y, khi trời tối, khi không cùng nói chuyện, kính lễ, giận nhau nơi chỗ vắng, kính lễ, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Những lúc ấy đều không nên kính lễ, vị nào phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có năm hạng người không nên kính lễ: Người bị Yết-ma quở trách, Yết-ma khu xuất, Yết-ma y chỉ, Yết-ma cử tội và Yết-ma hạ ý. Lại có năm hạng người không nên kính lễ: Người bị cử, bất cộng ngữ, dữ Bổn ngôn trị, Tỳ-kheo-ni, Sa-di. Lại có năm hạng người không nên kính lễ: Người tâm cuồng, tâm tán loạn, tâm bệnh hoại, bạch y và ngoại đạo. Lại có năm hạng người không nên kính lễ: Người Biệt trú, nên hành Ma-na-đỏa, hành Ma-na-đỏa, Bổn nhật, A-phù-ha-na. Có năm hạng người nên kính lễ: Phật, Phật-bích-chi, Thượng tọa như pháp, Hòa thượng, A-xà-lê.
Khi ấy, các Tỳ-kheo để tóc dài, tâm không vui sống với đạo, có người hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các bạch y chê trách nói: Chúng ta là kẻ bạch y để tóc dài, Sa-môn Thích tử cũng lại như vậy, có khác gì đâu? Chỉ mặc áo hoại sắc cắt rọc mà thôi sao? Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên để tóc dài, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Các Tỳ-kheo cạo tóc nơi chỗ làm thức ăn, cho đến giảng đường, trong nhà sưởi ấm, bạch Phật.
Phật dạy: Không nên làm như vậy. Nếu vị nào già bệnh không thể chịu lạnh thì cho phép cạo tóc trong nhà sưởi ấm.
Khi ấy, các Tỳ-kheo cạo tóc theo thứ tự, bạch Phật. Phật dạy: Khỏi phải theo thứ tự, nếu có vị gấp thì cho phép cạo trước, không việc gấp thì người nào gọi trước cạo trước.
Có các Tỳ-kheo cạo tóc khắp nơi trong sân rồi không quét dọn, bạch Phật. Phật dạy: Nên cạo một chỗ, cạo rồi phải quét dọn, bỏ trong nước, bỏ trong lửa hay là chôn. Nếu không có thợ cạo thì Tỳ-kheo có thể cạo, cũng cho phép sắm dao cạo. Có các Tỳ-kheo lông mũi dài, bạch Phật. Phật dạy: Sắm nhíp để nhổ. Các Tỳ-kheo dùng vàng bạc làm nhíp. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Cho phép dùng đồng, thiếc, răng, sừng, trúc, cây, trừ cây Sơn để làm. Có các Tỳ-kheo trong lỗ tai có cứt ráy. Phật dạy: Cho phép sắm cái ngoái tai, ngoài ra cũng như trên. Có các Tỳ-kheo ăn cơm dính vào kẽ răng làm miệng bị thối. Phật dạy: Cho phép dùng tăm xỉa răng, ngoài ra cũng như trên.
Bấy giờ, Vua Bình-sa suy nghĩ: Ta nên dùng vật gì để cúng cho Tăng, thấy thứ gì cũng đã có người cúng, chỉ có tăm xỉa răng là chưa có người cúng, bèn làm đầy một xe để cúng cho các Tỳ-kheo nhân một bữa cúng thức ăn, các Tỳ-kheo không dám nhận, bạch Phật, Phật cho phép nhận.
Đức Phật ở tại nước Tô-ma, tự làm bát để làm mẫu cho đời sau, khiến người thợ đồ gốm nung. Người thợ đồ gốm làm số nhiều họp lại nung một lần luôn, khi mở cửa lò thấy đều thành bát bằng vàng, hoảng sợ nói: Đây là thần lực của Đại Samôn, nếu nhà Vua nghe, chắc sẽ nói mình nhiều kim bảo, nên đem chôn hết. Đức Phật làm cái khác, khiến nung, đều thành bát bằng bạc, màu xanh đẹp như cây Diêm-phù, trao cho các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không dám nhận. Phật dạy: Cho phép chứa dùng.
Có Tỳ-kheo bát bị vỡ, không có bát đi du hành. Phật dạy: Nên tìm xin cái bát khác, nếu có thể tự làm được thì cho phép làm. Các Tỳ-kheo nung bát thành màu đỏ, Đức Phật bảo nên xông khói. Có các Tỳ-kheo chứa bát bằng vàng, bạc, bảy báu, răng, đồng, đá, cây, các Cư sĩ chê trách nói: Các Tỳ-kheo này như Vua, như Đại thần, thường nói ít ham muốn, biết vừa đủ mà nay lại chứa các loại bát tốt. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Từ nay không cho phép chứa các loại bát như trên. Nếu chứa bát bằng vàng, bạc… cho đến bát bằng đá đều phạm Đột-kiết-la, nếu chứa bát bằng gỗ phạm Thâu-lan-giá.
Khi ấy, có người Bà-la-môn tên là Ưu-kha-la, có một người con gái, thường dùng cái bát bằng đồng trắng để ăn. Người con gái ấy sau khi xuất gia cũng dùng cái bát trước kia để khất thực. Các Cư sĩ chê trách, nói: Sa-môn Thích tử cũng dùng cái bát bằng đồng, cùng với ngoại đạo đâu có khác gì? Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép dùng bát bằng đồng của ngoại đạo, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Phật cho phép dùng ba loại bát: bát thiếc, bát sành, bát tô ma.
Lúc này, nơi thành Tỳ-xá-ly các Ly-xa đặng bát bằng chiên-đàn, cùng nhau nghị bàn: Bát này nên cúng cho ai? Có người nói nên cúng cho Đức Thế Tôn, có người nói nên cúng cho Tát-giá Nikiền-tử. Số đông muốn cúng cho Thế Tôn, do ít phải theo nhiều, bèn đựng nhiều bát bằng đường phèn trắng viên thành hoàn rất xinh xắn dâng cúng lên Đức Thế Tôn, bạch: Chúng con cùng nhau nhận được chiếc bát này, xin được dâng cúng lên Đức Thế Tôn, cúi xin Ngài thương xót nạp thọ. Đức Phật nhận đường viên hoan hỷ, còn chiếc bát trả lại và nói: Bát này là của ngoại đạo, Phật không nên chứa dùng. Họ cùng nhau nghị bàn: Chúng ta dâng chiếc bát lên Đức Thế Tôn, Ngài không nhận, nay chúng ta có thể dùng để cúng cho Tăng. Bàn xong, họ liền đem chiếc bát đến Tăng phường cúng cho các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo không dám nhận, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép nhận rồi chẻ làm hương để xông.
Sau đó, các Ly-xa lại nhận được chiếc bát bằng ngưu đầu chiên-đàn, treo lên đầu cây nêu cao, xướng: Ai có thần lực lấy được thì cho. Khi ấy, Tân-đầu-lô nói với Mục-liên: Đức Thế Tôn nói thầy là bậc thần thông đệ nhất, sao không lấy chiếc bát này? Mục-liên nói: Thầy cũng có thần túc có thể đến lấy. Tân-đầu-lô liền lấy đem cúng cho Tăng. Các Tỳ-kheo không biết nên như thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép nhận rồi chẻ ra làm hương để xông.
Khi ấy, bốn vị đại Thanh văn: Ca-diếp, Mụcliên, A-na-luật, Tân-đầu-lô cùng nghị bàn: Hiện nay nơi thành Vương-xá có một số người không tin ưa Phật, Pháp, Tăng, chúng ta nên cùng nhau khiến cho họ tin ưa. Nghị bàn xong quan sát khắp gần xa chỉ thấy có Trưởng giả Bạt-đề và người chị của ông ta không tin ưa Phật, Pháp, Tăng. Ba vị Thanh văn nói: Không lẽ giáo hóa Bạt-đề thôi chăng? Tân-đầu-lô nói: Có thể giáo hóa người chị của Bạt-đề nữa. Nhà ông Trưởng giả ấy làm bảy lớp cửa, có ba bộ kỷ, khi muốn ăn bảy cửa đều đóng, một thức ăn đặt trên một bộ kỷ. Lúc ông Trưởng giả ăn, A-na-luật đứng ngay trước mặt xin. Ông Trưởng giả hỏi: Ông từ đâu vào? A-naluật đáp: Tôi vào từ cửa. Ông Trưởng giả hỏi người giữ cửa: Tại sao ngươi cho người ăn xin vào? Người giữ cửa nói: Cửa đóng như thường lệ, không thấy người nào vào. Ông Trưởng giả bèn lấy một miếng bánh mè để vào trong bát và nói:
Đi đi! Ông có vật này để làm thức ăn đấy. A-naluật nhận được rồi liền đi. Vào lúc bữa ăn sau, Ca-diếp lại đứng trước xin. Cách hỏi và trả lời cũng như trước. Ông Trưởng giả lại nói người giữ cửa: Tại sao ngươi lại cố ý cho người ăn xin đột nhập vào cửa nhà ta? Người giữ cửa nói: Cửa đóng như thường lệ, không thấy ai vào. Ông Trưởng giả lại lấy một miếng cá bỏ vào trong bát và nói: Đi đi! Ông có vật này để làm thức ăn đấy. Sau khi Ca-diếp đi, vợ ông Trưởng giả hỏi: Ý ông thế nào? Cứ ngỡ Tỳ-kheo này không thể có thức ăn nên đến đây xin phải không? Ông Trưởng giả nói: Chính như vậy. Người vợ nói: Ông có biết vị Tỳ-kheo trước là ai không? Ông Trưởng giả nói: Không biết. Người vợ nói: Ông ấy tên là A-naluật, con dòng Thích chủng, bỏ cung điện ba mùa, bỏ cái vui năm dục, xuất gia học đạo. Người vợ lại hỏi: Ông có biết Tỳ-kheo đến sau là ai không? Người chồng nói: Không biết. Bà vợ nói: Vị ấy là con của dòng họ lớn Ma-nộp-tất-ba-la-diên, bỏ chín trăm chín mươi ruộng, nhà, trâu, bò, xuất gia học đạo, rủ lòng thương đối với ông cho nên đến xin thức ăn đấy. Ông Trưởng giả nghe vợ nói rồi trong tâm khởi sự kính phục. Ngay khi ấy, Mụcliên bay lên hư không vì ông Trưởng giả nói pháp chỉ vẽ sự lợi ích, để vui mừng… cho đến câu: Liền từ nơi chỗ ngồi xa trần, lìa cấu, đặng mắt pháp trong sạch, thấy pháp đắc quả rồi, thọ Tam quy, Ngũ giới. Từ đó về sau, ông Trưởng giả thường cúng dường cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di và các ngoại đạo. Bấy giờ, ba vị Thanh văn nói với Tân-đầu-lô: Chúng tôi đã giáo hóa Bạt-đề tin ưa pháp Phật rồi, nay đến phiên thầy giáo hóa bà chị gái của ông ta. Thế là Tân-đầu-lô vào buổi sáng mặc y, bưng bát vào thành khất thực, theo thứ tự đến nhà bà ta. Lúc ấy, chị ông Trưởng giả tự tay đang làm bánh, bỗng nhiên thấy Tân-đầu-lô bèn cúi đầu nhắm mắt. Tân-đầu-lô cũng nhất tâm nhìn vào cái bình bát. Bà ta bèn nói: Quyết định không cho ông, nhất tâm nhìn vào bát làm gì cho uổng công? Tân-đầulô bèn trong thân tuôn ra khói. Bà ta nói: Cả thân có tuôn ra khói, quyết cũng không cho ông. Tânđầu-lô cả thân tuôn ra lửa. Bà ta lại nói: Cả thân tuôn ra lửa, cũng quyết định không cho ông. Tânđầu-lô liền bay lên hư không, cũng quyết định không cho ông. Tân-đầu-lô bèn lộn nhào lên không trung, cũng quyết định không cho ông. Tân-đầu-lô khởi ý niệm: Đức Thế Tôn không cho phép chúng ta cưỡng bức để xin cho được, bèn ra đi. Cách thành Vương-xá không xa có một tảng đá lớn, Tân-đầu-lô ngồi trên đó rồi kẹp tảng đá bay vào trong thành Vương-xá. Người trong thành thấy đều hết hồn hết vía, sợ tảng đá rớt xuống, mọi người vội vã chạy trốn. Bay đến nhà chị ông Trưởng giả, Tân-đầu-lô đến đó không đi.
Bà ta thấy rồi liền hoảng vía kinh hồn, lông tóc dựng ngược, vòng tay thưa: Xin Tôn giả tha mạng cho con, đem tảng đá để lại chỗ cũ, con sẽ cúng cho Tôn giả. Tân-đầu-lô bèn đem tảng đá để lại chỗ cũ, rồi trở lại đứng trước nhà. Chị ông Trưởng giả khởi ý niệm: Ta không thể cho cái bánh lớn, nên làm cái bành nhỏ để cho. Bà ta viên tròn cái bánh còn chút xíu, bánh nhỏ liền biến thành cái bánh rất lớn. Ba lần như vậy, nó cũng biến thành cái bánh lớn, bà ta lúng túng nghĩ: Ta muốn làm cái bánh nhỏ, nó lại thành cái bánh lớn, nay ta cứ lấy đại một cái để cho quách. Bà ta liền lấy một cái để cho thì các bánh còn lại đều dính theo luôn, đến nỗi cái thẩu đựng bánh cũng liền dính vào bánh. Bà ta lấy tay cầm cái thẩu, tay của bà cũng bị dính vào thẩu, với vẻ khó chịu bà mới nói với Tân-đầu-lô: Ông cần bánh, tôi cho hết bánh kể cả cái thẩu đựng tôi cũng không tiếc, tại sao ông bắt tôi phải làm gì mà khiến tay tôi dính chặt vào cái thẩu? Tân-đầu-lô nói: Tôi không cần bánh và cái thẩu, cũng không cần bà. Chúng tôi bốn người đã cùng bàn định, giáo hóa bà và giáo hóa em của bà. Ba vị kia đã giáo hóa em của bà, nay tôi giáo hóa bà, nên tôi mới làm như vậy. Chị ông Trưởng giả hỏi: Vậy bây giờ ông muốn tôi làm việc gì? Tân-đầu-lô bảo: Tôi muốn chị em bà, có thể chở số bánh này đi theo tôi, đến cúng dường Phật và Tăng. Bà ta liền chở bánh đi theo Tân-đầu-lô. Tân-đầu-lô liền biến hóa con đường đi ngang qua cửa ngõ người khác, khiến cho mọi người đều thấy. Khi đến chỗ Đức Phật, tự tay bà cúng dường Đức Phật và một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo. Tất cả các vị thọ dùng đầy đủ song cũng không hết bánh. Bánh dôi ra mang đến bạch Phật: Con có một ít bánh cúng dường Phật và một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo đều no đủ mà cũng không hết, nay nên để nơi nào? Đức Phật bảo: Có thể để nơi chỗ đất không có cỏ sống, hay chỗ nước không có trùng. Người nữ kia bèn đem đổ vào chỗ nước không có trùng, nước sôi thành tiếng như sắt nóng bỏ vào chỗ ít nước. Bà hoảng sợ, lông trong người bà dựng ngược lên. Quay trở lại chỗ Phật, bà ta, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi ngồi lui qua một bên. Đức Phật vì bà ta nói các phép mầu… cho đến câu đặng mắt pháp trong sạch, thọ Tam quy, Ngũ giới, cúng dường cho bốn chúng, cầu đạo như người em không khác. Các Tỳ-kheo Trưởng lão đem vấn đề này bạch Phật, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi Tân-đầu-lô: Thật sự ông có như vậy không? Tân-đầu-lô thưa: Bạch Thế tôn, sự thật con có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay không cho phép hiện thần túc, nếu hiện thì phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, Vua Bình-sa có khu vườn cây quả Am-la, ba mùa đều sum suê tươi tốt, thường lấy hoa quả cúng dường các Tỳ-kheo theo nhu cầu. Các Tỳ-kheo ăn trái đó vào bữa ăn trước và bữa ăn sau, không lúc nào không ăn, hoặc đựng đầy cả bát mang đi, hoặc ăn phân nửa rồi quăng xuống đất. Thời gian sau, lân quốc sai sứ đến tâu lên Vua Bình-sa: Tôi nghe nhà Vua có cái vườn cây quả Am-la, ba mùa đều sum suê tươi tốt, mong sao được thấy trái Am-la này. Nhà Vua ra lệnh hái. Khi ấy quả đã hết sạch vì các Tỳ-kheo đã hái ăn. Việc này được tâu lên nhà Vua, các quan cận thần của Vua đều chê trách nói: Sa-môn Thích tử đủ rồi vẫn không biết nhàm chán, tuy nhà Vua không tiếc mà người thọ dụng cần phải tế nhị lượng tính, tại sao cả một vườn trái cây cùng nhau ăn hết. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, hỏi các Tỳ-kheo: Sự thật các ông có như vậy không? Bạch Đức Thế Tôn! Thật sự có như vậy. Đức Phật bằng mọi cách quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay không cho phép ăn trái chưa tác tịnh, nếu ăn phạm Đột-kiết-la.
Có một cư sĩ mời Tăng ăn trái cây, Tỳ-kheo sai người tác tịnh từng trái một nên quá nửa ngày không ăn được. Cư sĩ dị nghị nói: Các Sa-môn này giống như trẻ nít, sai người tác tịnh từng trái một nên không kịp giờ ngọ, nay ta giải quyết thế nào số trái cây này đây! Sự việc được bạch Phật. Phật dạy: Có năm loại chủng tử: căn chủng tử, tiếp chủng tử, tiết chủng tử, quả chủng tử và tử chủng tử. Nếu ăn trái cây nên làm năm chủng tịnh, là pháp của Sa-môn: hỏa tịnh, đao tịnh, điểu tịnh, thương tịnh và chưa thành chủng tịnh. Nếu ăn cái gốc cũng nên làm năm chủng tịnh, là pháp của Sa-môn: tịnh bằng bóc vỏ, tịnh bằng cắt, tịnh bằng bóp cho bể, tịnh bằng rửa, tịnh bằng hơ lửa. Nếu ăn cành lá cũng làm ba chủng tịnh, là pháp của Sa-môn: tịnh bằng dao, tịnh bằng lửa, tịnh bằng rửa. Khi tác tịnh nên tác tịnh chung. Chung một đống, trong một đồ đựng, nếu tác tịnh một cái tức là tác tịnh hết.
Có một Tỳ-kheo nấu nước trong nhà tắm, củi cháy, rắn từ trong bọng cây chạy ra, cắn nơi chân, chết liền. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo kia không biết tám loại rắn, không hướng lòng từ đến gọi rắn, lại không đọc chú, nên bị rắn làm hại. Tám loại rắn ấy là: rắn Đề-lâu-lại-trá, rắn Đát-xa, rắn Y-la-man, rắn Xá-bà-tử, rắn Cam-mala-a-thấp-ba-la-ha, rắn Tỳ-lâu-la-a-xoa, rắn Cùđàm, rắn Nan-đà Bạt-nan-đà. Chú rắn:
Ta thương các Long vương
Trên trời và thế gian
Do tâm từ ta đây
Diệt được các sân độc.
Ta dùng sức trí tuệ
Dùng để giết độc này
Vị độc không vị độc
Bị diệt vào lòng đất.
Đức Phật dạy: Nếu Tỳ-kheo kia dùng chú này để tự vệ, không bị rắn độc giết chết. Lại có Tỳ-kheo bị nọc rắn cắn, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Thầy dùng chú này, chú nguyện, khiến vị kia được an ổn. Tỳ-kheo này vâng lời dạy đến chú nguyện, vị kia được lành bệnh. Lại có các Tỳ-kheo ở chỗ nào cũng bị rắn cắn, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép làm chú thuật, tùy nghi trị liệu.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo ăn nhiều thức ăn mỹ vị, do đó tăng thêm các bệnh. Sáng sớm, Kỳ-vức đến chỗ Đức Thế Tôn, đầu mặt đảnh lễ sát chân, bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn! Nay các Tỳ-kheo ăn nhiều thức ăn mỹ vị, do đó tăng thêm các bệnh, xin Ngài cho phép vào trong nhà tắm tẩy trừ các bệnh ấy. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp Tỳ-kheo Tăng, đem lời của Kỳ-vức bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo làm nhà tắm để trị bệnh, nên tắm trong đó.
Lại có các Tỳ-kheo lõa hình tắm, xoa chà cho nhau, lại lõa hình đi ra ngoài nhà tắm, các bạch y chê trách nói: Các Sa-môn này đều như Ni-kiền không có đạo phong. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, quở trách, rồi bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép mặc y tắm, không cho phép lõa hình tắm, lõa hình xoa chà cho nhau, vi phạm, đều phạm Đột-kiết-la.
Có các Tỳ-kheo khi tắm đi ra ngoài cọ lưng nơi vách hay nơi gốc cây, rồi trở vô dội nước, thân hình bị xây xát, thương tích, Đức Phật dạy: Không nên làm như vậy, cho phép làm da Bồ đào, da Ma lâu, Tháo đậu v.v… làm vật tẩy bẩn. Các Tỳ-kheo tùy theo sự quen biết mà cho Tháo đậu, Đức Phật dạy: Nên cho bình đẳng.
Đức Phật ở thành Xá-vệ. Bấy giờ Bạt-nan-đà mặc cái Câu nhiếp lật ngược nơi chỗ tối, làm thành bốn chân để đi, khủng bố các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Nếu mặc lật ngược cái Câu nhiếp làm bốn chân để đi, đều phạm Đột-kiết-la.
Các Tỳ-kheo ở trong phòng bị nóng muốn mặc lật ngược cái Câu nhiếp. Phật dạy: Trong phòng thì cho phép.
Có các Tỳ-kheo khi ngủ không có gối, Đức Phật cho phép làm gối. Có các Tỳ-kheo sợ rận, Đức Phật cho phép bắt nó bỏ đi. Các Tỳ-kheo bắt bỏ nó trong phòng, nó bò trở lại vào trong y. Phật dạy: Cho phép bắt bỏ nó ngoài phòng. Khi mưa, các Tỳ-kheo bắt bỏ nó trong nước, Đức Phật dạy: Nên bắt bỏ nó trong cái vật xấu, khởi lòng từ. Có các Tỳ-kheo bị nạn bò chét, Đức Phật dạy: Trải vật xuống đất rồi quét đi, nếu nó ở trong chiếu lát thì phơi cho nó đi. Có các Tỳ-kheo bị cái nạn mọt, Đức Phật dạy: Cho phép trừ nó bằng cách bỏ nó chỗ bùn kín đáo. Có các Tỳ-kheo già bệnh bị lạnh, muốn nhóm lửa trong phòng. Phật dạy: Khi lạnh cho phép nhóm. Các Tỳ-kheo nhóm lửa làm cháy hư đồ trải dưới đất và xông khói lên nhà. Phật dạy: Cho phép làm cái lò ở bên ngoài nhà để nhóm lửa, khói bay vào, các Tỳ-kheo không biết lấy vật gì để làm. Phật dạy: Cho phép dùng đồng, thiếc, bùn, đá để làm, cho phép Tăng, Tăng bốn phương dùng riêng, lại cho phép làm lò nơi mặt đất. Các Tỳ-kheo dùng bình bát để uống nước sau giờ ngọ. Phật dạy: Sau giờ ngọ không nên dùng bình bát để uống, cho phép dùng đồng, thiếc, sành làm vật dụng riêng để uống nước.
Có một Tỳ-kheo ở nước Đức-xoa-thi-la, an cư mùa hạ xong đến Xá-vệ-Kỳ-hoàn, chỗ Đức Phật ở, đầu mặt kính lễ sát chân, bạch Phật: Quốc độ này ăn cháo lỏng, quốc độ kia uống nước lương khô, xin cho phép các Tỳ-kheo buổi sáng được uống nước bột lương khô, Đức Phật dạy: Cho phép uống. Các Tỳ-kheo khi uống cần muối, bạch Phật cho phép dùng muối, cho phép Tăng, Tăng bốn phương chứa dùng riêng, cho phép làm đồ rang muối. Các Tỳ-kheo liền làm hình chúng sinh hoặc làm cái bàn tay người cầm đồ rang muối. Phật dạy: Không cho phép làm các hình đó. Bấy giờ, các bạch y dùng cái mâm đựng thức ăn cúng cho các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không dám nhận, bèn chê trách nói: Sa-môn Thích tử không nhận vật cúng dường, bạch Phật. Phật dạy:
Cho phép nhận. Có các Tỳ-kheo đựng cháo trong bát, nóng bưng không được. Phật dạy: Cho phép làm đồ đựng cháo riêng. Các Tỳ-kheo bưng thức ăn đưa lên nặng, Đức Phật dạy: Cho phép để trong cái ghế nhỏ. Các Tỳ-kheo bèn làm ghế hình cái chân, Phật không cho phép làm. Các Tỳ-kheo đến nhà bạch y, họ làm ghế hình cái chân để thức ăn, các Tỳ-kheo không dám ăn. Phật dạy: Nơi nhà bạch y cho phép thọ, chỉ không cho phép mình tự chứa mà thôi. Các Tỳ-kheo cần cái Kiền tứ, Phật cho phép chứa dùng, dùng đồng, thiếc, sành, đá để làm.
Có các bạch y đem cháo cúng cho các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo không biết để chỗ nào chia, Đức Phật cho phép làm cái bồn có quai để đựng. Khi chia cháo nên hỏi: Có cháo riêng cho người bệnh hay không? Nếu không thì nên cho người bệnh trước.
Lúc ấy, Tỳ-xá-khư-mẫu muốn chúng Tăng nấu cháo tại trong trú xứ, Đức Phật cho phép. Các Tỳ-kheo không biết để gạo ở chỗ nào. Phật dạy: Nên để ở trên chiếc chiếu tre dày. Trong gạo có thóc, không biết làm thế nào, Đức Phật dạy: Cho phép sắm cái nồi, cái chày, khiến tịnh nhân giã. Không biết làm bằng cách nào để bỏ thóc. Phật dạy: Cho phép sắm cái nia, cái sàng để sàng. Các Tỳ-kheo cần cái chõ, Phật cho phép chứa dùng, dùng đồng, thiếc, sành, đá để làm. Các Tỳ-kheo cần cái thìa, Phật cũng cho phép dùng, trừ loại cây sơn, các loại cây khác đều cho phép dùng. Có các Tỳ-kheo bệnh cần cháo ngon. Phật dạy: Cho phép tịnh nhân nấu, nếu không có tịnh nhân, cho phép Tỳ-kheo rửa sạch, đổ nước vào dụng cụ nấu, nhờ tịnh nhân vo đậu, gạo bỏ vào trong, sau đó Tỳ-kheo nhen lửa nấu. Cháo chín lại nhờ tịnh nhân nhận đem cho người bệnh. Các Tỳ-kheo nhận được nhiều gạo, không có chỗ để, Đức Phật cho phép dùng bùn nhuyễn trét một cái phòng cho sạch đất để chứa gạo. Gạo hết, các Tỳ-kheo đến phòng chứa nghe mùi gạo. Phật dạy: Cho phép dùng loại bùn có chất thơm trét trên đất.
Đức Phật ở tại nước Câu-tát-la, du hành trong nhân gian, cùng đầy đủ chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, đến xóm làng Đô-di của Bà-la-môn, trải tòa ngồi nghỉ dưới tàng cây Ta-la bên lề đường. Đức Phật mỉm cười. Tôn giả A-nan khởi ý nghĩ: Chư Phật không bỗng dưng không vì nhân duyên nào đó mà cười, nay Phật mỉm cười chắc có nhân duyên. Tôn giả liền để trống vai bên phải, quỳ gối, thưa hỏi Phật.
Đức Phật dạy:
Này A-nan! Thuở đời quá khứ, có Vua tên là Cấm-mị, có một người con gái khi sinh tự nhiên mang một tràng hoa bằng vàng, liền tập hợp các quan nghị bàn việc đặt tên, tất cả đều nói: Nên hỏi thầy tướng Bà-la-môn. Vua liền ra lệnh tập hợp thầy tướng, bảo họ đặt tên. Thầy tướng nói: Người nữ này khi sinh đeo cái tràng hoa tự nhiên màu vàng, nên đặt tên là Ma-lê-ni. Tên ấy được chọn, nhà Vua rất yêu mến, tìm hỏi trong nước, người nữ nào cùng sinh trong một ngày với con mình để dùng làm hầu hạ. Khi ấy, trong nước có năm trăm người nữ cùng sinh ngày đó, được đưa vào danh bộ của nhà Vua, sung vào làm người sai khiến. Khi Ma-lê-ni tuổi đã khôn lớn, nhà Vua ra lệnh bảo con cúng dường năm trăm Bà-la-môn mà nhà Vua thường cúng dường. Nhà Vua nói: Con nên như cha hằng ngày nấu năm trăm nồi canh, theo sở thích của quý vị ấy mà cúng dường. Người con gái liền như lời dạy, cúng dường các Bà-la-môn. Quý vị dùng xong, Ma-lê-ni liền cùng năm trăm người nữ dùng xe bốn ngựa dạo chơi các khu vườn, từ vườn này sang vườn kia, từ cảnh quan này đến cảnh quan kia, ngày nào cũng như vậy.
Bấy giờ, Đức Phật Ca-diếp ở trong một ngôi vườn, người đánh xe đến ngôi vườn, chỗ Phật ở, liền quay xe không vào. Ma-lê-ni hỏi: Trong quốc giới của ta, không vườn nào không vào, tại sao ngươi thường tránh vườn này? Người đánh xe trả lời: Trong vườn ấy có một Sa-môn cạo đầu, tên là Ca-diếp, không nên thấy ông ta cho nên không vào. Ma-lê-ni nói: Sa-môn Ca-diếp đâu có dính dự gì đến việc ngươi, ngươi có thể quay xe vào trong vườn này để xem. Người đánh xe liền quay lại, vào đến chỗ xe hết đi được, Ma-lê-ni bèn đi bộ vào trong vườn. Từ xa thấy Phật Ca-diếp dung mạo thù đặc, giống như núi vàng. Thấy rồi, Malê-ni phát tâm hoan hỷ, đến trước Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân rồi đứng lùi qua một bên. Đức Phật vì Ma-lê-ni nói các pháp diệu, chỉ bày sự lợi ích, để được hoan hỷ… cho đến câu: Thấy pháp đắc quả rồi thọ Tam quy, Ngũ giới, từ chỗ ngồi đứng dậy, kính lễ sát chân Phật, đi vòng quanh bên phải rồi cáo lui. Đi không lâu, Ma-lêni khởi ý niệm: Ta thường dùng năm trăm nồi canh, hằng ngày cúng dường Bà-la-môn, đây không phải là phước điền, không nên nhận của thí, thà làm thức ăn rất mỹ vị để cúng dường Đức Thế Tôn Ca-diếp. Ma-lê-ni nghĩ rồi liền ra lệnh hằng ngày làm thức ăn đến cúng dường. Lúc này, các Bà-la-môn nghe Ma-lê-ni đã làm đệ tử Phật Ca-diếp, lại dùng thức ăn ngon bổ để cúng dường Phật, nên sinh tâm ganh ghét, cùng nhau nghị bàn: Chúng ta phải tạo phương tiện để cùng giết người nữ này. Thời điểm ấy, Vua Cấm-mị nằm thấy mười một điều mộng: Mộng thấy cây dài bốn ngón tay mà lại có hoa. Mộng thấy cái hoa liền thành trái. Mộng thấy con bò con thì cày, con bò lớn lại đứng xem. Mộng thấy ba cái chõ đều nấu cơm, hai cái hai bên cơm sôi nhảy vào nhau nhưng không rơi vào cái chính giữa. Mộng thấy con lạc đà có hai cái đầu ăn cỏ. Mộng thấy con ngựa mẹ lại bú con ngựa con. Mộng thấy cái bát vàng vận hành giữa hư không. Mộng thấy nước tiểu của con cáo hoang ở trong cái bát bằng vàng. Mộng thấy con khỉ đột ngồi trên cái giường bằng vàng. Mộng thấy con bò bị giết, cái đầu bằng chiên-đàn, giống như cỏ mục. Mộng thấy trong vũng nước, chính giữa thì đục, xung quanh lại trong. Sáng ngày nhà Vua tập hợp quần thần nói rõ các điềm chiêm bao, rồi hỏi ý kiến: Những điềm mộng ấy là thế nào? Quần thần đều nói: Nên hỏi thầy tướng Bà-la-môn. Nhà Vua liền triệu đến hỏi. Các Bà-la-môn khởi ý nghĩ: Chúng ta định giết người nữ này, đây là cơ hội tốt. Họ bèn tâu với nhà Vua những điều chiêm bao này không tốt, hoặc sẽ bị mất nước hay là mất mạng. Nhà Vua hỏi: Có phương tiện nào tránh khỏi tai ương hay không? Thầy tướng tâu: Có. Nhưng chỉ có điều là chỗ niệm tình thương mến của nhà Vua, chắc không thể thực hiện được. Nhà Vua bảo: Cứ nói. Thầy tướng tâu: Voi… của nhà Vua, ngựa… của nhà Vua, Đại thần… của nhà Vua, đại Bà-lamôn… của nhà Vua, dẫn năm trăm con bò đực, năm trăm con trâu, năm trăm con nghé cái, năm trăm con nghé đực, năm trăm con dê đen, năm trăm con dê khỏe mạnh, vương nữ Ma-lê-ni và năm trăm người phục vụ, sau bảy ngày, nơi giữa ngả tư đường, sẽ giết để tế thiên thần thì tai ương này có thể tiêu diệt, nếu không làm thì họa không cách nào tránh khỏi. Nhà Vua nghe rồi, cả tin, liền ra lệnh chuẩn bị. Nhà Vua cho kêu người con gái của mình nói rõ sự việc, và cho phép trong vòng sáu ngày tùy ý sở nguyện. Ma-lê-ni tâu với Vua cha: Con không sợ chết nhưng xin nguyện: Ngày thứ nhất cùng dân chúng nam nữ lớn nhỏ trong thành đến chỗ Phật Ca-diếp. Nhà Vua thuận cho, tức khắc triệu tập dân chúng trong thành kẻ trước người sau vây quanh đến chỗ Phật Ca-diếp. Đức Phật vì họ nói pháp nhiệm mầu, chỉ vẽ sự lợi ích để họ hoan hỷ… cho đến câu: Thấy pháp đắc quả, thọ Tam quy, Ngũ giới. Nguyện ngày thứ hai cùng các Đại thần của Vua, đến chỗ Phật Ca-diếp. Nguyện ngày thứ ba cùng các vương tử đến chỗ Phật Ca-diếp. Nguyện ngày thứ tư cùng các vương nữ đến chỗ Phật Ca-diếp. Nguyện ngày thứ năm cùng các phu nhân và thể nữ đến chỗ Phật Ca-diếp. Nguyện ngày thứ sáu cùng Vua cha đến chỗ Phật Ca-diếp. Nhà Vua đều thuận cho. Tất cả đều thấy pháp đắc quả, thọ Tam quy, Ngũ giới, như trước đã nói. Nhà Vua đắc quả rồi, đem mười một điềm mộng thưa hỏi Phật Ca-diếp: Những điềm mộng này có báo ứng thế nào? Đức Phật dạy: Mười một điềm chiêm bao này thuộc về đời sau chứ không phải đời này: Mộng thấy cái cây nhỏ mà sinh hoa là đời sau có Đức Phật ra đời trong loài người chỉ sống một trăm tuổi, gọi là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Khi ấy, người ba mươi tuổi, đầu đã bạc. Mộng thấy cái hoa liền thành trái, là bấy giờ người mới hai mươi mà đã sinh con. Mộng thấy con bò con cày mà con bò lớn lại đứng xem, là lúc ấy người trẻ lại thống lãnh việc nhà, cha mẹ không được tự tại. Mộng thấy ba cái nồi đều nấu cơm, hai cái nồi hai bên sôi nhảy vào nhau, mà không rớt vào nồi chính giữa, là khi ấy người giàu cùng cho nhau mà người nghèo không nhận được. Mộng thấy con lạc đà hai cái đầu ăn cỏ, là khi ấy nhà Vua có quần thần đã hưởng bổng lộc của Vua lại lấy vật của dân. Mộng thấy con ngựa mẹ lại bú con ngựa con, là khi ấy bà mẹ, con gái đã lấy chồng rồi, lại đến nó cầu thực. Mộng thấy cái bát vàng vận hành giữa hư không, là khi ấy mưa không đúng thời tiết, cũng không mưa khắp. Mộng thấy nước tiểu con cáo hoang ở trong bát vàng, là khi ấy dân chúng chỉ chọn người giàu mà kết hôn chứ không lựa bổn tánh. Mộng thấy con khỉ đột ngồi trên cái giường bằng vàng, là lúc ấy quốc vương dùng phi pháp cai trị, bạo ngược vô đạo. Mộng thấy con bò cái đầu bằng chiên-đàn bị giết đồng giá trị với cỏ mục, là khi ấy Sa-môn dòng họ Thích tham lợi dưỡng nên cùng bạch y nói pháp. Mộng thấy trong vũng nước mà chính giữa đục, chung quanh lại trong, là khi ấy Phật pháp là trung tâm của nước diệt trước, nơi ven biên cương lại thạnh. Đức Phật dạy: Mười một điềm mộng nhà Vua nằm thấy là như vậy, đối với bản thân của Đại vương không có việc bất tường. Nhà Vua liền từ chỗ ngồi ra lệnh quần thần: Những phẩm vật định dùng để tế thần trời nay đều đem bố thí, không có việc gì phải lo sợ. Từ nay ta thà tự mất mạng chứ không cố ý sát sinh, huống là bảo giết người, không cố ý làm tổn thương đến loài trùng kiến, huống là con gái ta và mọi người.
Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
Đức Phật Ca-diếp sau khi Nê-hoàn, nhà Vua kia vì Ngài xây tháp bằng vàng, bạc, dọc ngang nửa do-tuần, cao một do-tuần, thêm vào những viên ngói bằng vàng, bằng bạc, xen vào nhau, hiện nay vẫn còn trong lòng đất. Đức Phật liền ra chỗ tháp chỉ rõ cho bốn chúng. Toàn thân xá lợi của Phật Ca-diếp, nghiễm nhiên như cũ. Nhân việc này, Đức Phật lấy một nắm bùn, nói kệ:
Tuy được vàng Diêm-phù
Lợi trăm ngàn kim bảo
Không bằng một nắm bùn
Vì Phật xây bảo tháp.
Mách bảo rồi, trở về chỗ cũ, Đức Phật lấy bốn nắm bùn trát nơi chỗ ngôi tháp ngầm dưới mặt đất, một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo mỗi vị cũng dùng bốn nắm bùn trét lên chỗ đó.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo muốn vì Phật Ca-diếp xây ngôi tháp nơi đất bùn ấy. Đức Phật cho phép xây. Chúng Tỳ-kheo cùng nhau xây. Đây là bảo tháp đầu tiên được xây trên cõi Diêm-phù-đề. Sau đó, các Tỳ-kheo muốn vì A-la-hán, các Thanh văn, Phật-bích-chi xây tháp, Đức Phật dạy: Có bốn hạng người nên xây tháp: Như Lai, Thánh đệ tử của Như Lai, Phật-bích-chi và Chuyển luân Thánh vương. Các Tỳ-kheo muốn làm tháp lộ thiên, tháp như cái nhà, tháp không có vách, muốn bên trong làm hình tượng khám, bên ngoài làm lan thuẫn: Muốn làm một tảng đá lớn đỡ cái tháp lộ thiên, muốn ở trước tháp làm cây trụ bằng đồng, bằng sắt, bằng đá, bằng cây, trên đầu cây trụ có hình đầu sư tử, các loại hình cầm thú, muốn trồng cây xung quanh tháp, Đức Phật đều cho phép. Khi ấy, các ngoại đạo cũng tự xây tháp, cúng dường mọi thứ, dân chúng thấy khởi lòng tin ưa. Các Tỳ-kheo khởi ý nghĩ: Nếu Đức Phật cho phép chúng ta cúng dường tháp bằng mọi thứ, dân chúng cũng sẽ khởi lòng tin vui theo, Đức Phật cho phép. Các Tỳ-kheo tự mình ca múa để cúng dường tháp, các bạch y chê trách, nói: Bạch y ca múa, Sa-môn Thích tử cũng như vậy, cùng chúng ta đâu khác gì?! Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo không nên tự mình ca múa để cúng dường tháp, cho phép nhờ người làm việc đó, cho phép Tỳ-kheo tự mình khen ngợi Phật, dùng hương hoa, phướn lọng cúng dường tháp. Các Tỳ-kheo khi khất thực có người cúng hoa không dám nhận, các bạch y chê trách, nói: Samôn Thích tử không dám nhận sự cúng dường, lại không muốn cúng dường tháp. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Cho phép thọ. Các vị không biết để chỗ nào, Đức Phật dạy: Cho phép làm ba loại đãy: đãy đựng hoa, đãy đựng thức ăn, đãy lọc nước. Có các Tỳ-kheo tự mình đi hái hoa, từ xóm làng này đến xóm làng khác, ra ngoài xóm làng bị giặt cướp đoạt, các bạch y chê trách nói: Các Samôn này giống như thợ kết tràng hoa hay đệ tử của thợ kết vòng hoa, Đức Phật dạy: Không cho phép ra ngoài xóm làng để hái hoa. Các Tỳ-kheo dùng chỉ xâu hoa cúng dường, bạch y chê trách như trên. Đức Phật dạy: Không nên dùng chỉ xâu, chỉ nên rải ra để cúng dường. Nếu có hoa héo mà ngoại hình còn xanh tốt, cho phép nhặt ra, lấy tay nắn nhẹ cánh hoa Ba lần, hoa tự hé nở được. Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Khi ấy, các Tỳ-kheo để móng tay dài, sinh tâm nhiễm đắm, không muốn tu phạm hạnh, có người hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo, các bạch y chê trách: Các Samôn này như người thọ dục lạc, trang sức móng tay không có tâm từ bỏ. Có một Tỳ-kheo móng tay dài vào xóm làng khất thực, một người nữ thấy, bảo cùng nhau hành dục, Tỳ-kheo nói: Tôi là người xuất gia không làm việc ấy. Người nữ nói: Nếu không làm theo ý tôi, tôi sẽ làm cho ông bị tiếng xấu. Cô ta dùng móng tay tự xé áo và làm thương tích trong thân thể, rồi la lớn: Tỳ-kheo cưỡng bức nắm kéo tôi, tôi không chịu, nên gây tổn thương nơi người tôi, xé áo rồi còn gây thương tích thân tôi. Mọi người đến xem, có người tin có người không tin. Người tin thì nói: Tỳ-kheo này có móng tay dài, chắc làm việc ấy. Người không tin thì nói người nữ này là hạng bất lương nên vu báng Tỳ-kheo. Cả hai hạng người đều chê trách: Tại sao Tỳ-kheo lại để móng tay dài?! Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép để móng tay dài, vi phạm, phạm Độtkiết-la. Phật cho phép dùng dao hớt móng tay, một đầu làm cái móc ráy lỗ tai. Có các Tỳ-kheo nhuộm móng tay đỏ, các bạch y chê trách, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không được làm như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Lúc đó, các Tỳ-kheo vì làm đẹp cho nên may y. Phật dạy: Không nên làm như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có một Tỳ-kheo giữ phòng của Tăng, người đưa thức ăn cho Tỳ-kheo đến trễ, Tỳ-kheo leo lên cây để trông bị rớt xuống gãy hông. Phật dạy: Không cho phép leo lên cây, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo có chút duyên cớ cần leo lên cây, Đức Phật cho phép leo, nhưng không được leo cao quá đầu người. Có các Tỳ-kheo muốn trèo lên đầu cây cao lấy nhánh khô làm củi, Phật cho phép leo lên cái thang để lấy, chứ không được leo lên cây. Lại có các Tỳ-kheo gặp nước, lửa, thú dữ, giặc cướp muốn trèo lên cây mà không dám, nên bị nạn khốn đốn. Phật dạy: Gặp các tai nạn như vậy, cho phép tùy ý leo. Có hai Tỳ-kheo cùng đi, không có đãy lọc nước, khát nước uống, thấy trong nước có trùng, một Tỳ-kheo uống, một Tỳ-kheo không uống nên bị chết. Tỳ-kheo uống nước đến chỗ Phật, đem vấn đề ấy bạch Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo kia có tâm hổ thẹn, mới có thể giữ giới mà chết, từ nay không cho phép không có đãy lọc nước mà đi, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo đi đường gần, không có đãy lọc nước không dám đi, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép trong vòng nửa do-tuần không có đãy lọc nước được đi.
Lại có hai Tỳ-kheo cùng đi trên một lộ trình, một Tỳ-kheo có đãy lọc nước, một Tỳ-kheo không, không chịu mượn nhau, nên bị khát nước quá sức, bạch Phật. Phật dạy: Trước đây Ta há đã không chế, không có đãy lọc nước thì không được đi quá nửa do-tuần? Nếu không có đãy lọc nước, có thể dùng cái chéo y để lọc. Khi muốn đi phải nghĩ đến đãy lọc nước, cũng cho phép dùng cái ống tre để lọc nước. Các Tỳ-kheo lại dùng vàng, bạc, vật quý để làm. Phật dạy: Không nên làm như vậy, cho phép dùng đồng, thiếc, tre, cây, sành, đá để làm cái ống, rồi dùng một trong mười loại y mỏng, mịn do gia chủ cúng để bít cái miệng ống, không cho phép dùng y phấn tảo, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất bị cảm gió, có một trái Ha-lê-lặc để bên chân giường, Cù-già-ly đến, là bậc Thượng tọa, nên bảo Xá-lợi-phất tránh chỗ, Xá-lợi-phất liền đi, quên trái Ha-lê-lặc. Cù-già-ly thấy nói với các Tỳ-kheo: Đức Thế Tôn khen ngợi Xá-lợi-phất là thiểu dục, tri túc, mà nay cất chứa, còn chúng ta lại không. Tôn giả Xá-lợi-phất nghe, khởi ý nghĩ: Tại sao nay ta do cái việc nhỏ mà bị chê trách, bèn lấy trái Ha-lê-lặc quăng. Các Tỳ-kheo nói: Đại đức bị cảm gió cần dùng trái Ha-lê-lặc đó là vị thuốc, chớ nên bỏ đi, nên lượm lại để dùng. Xá-lợi-phất nói: Do một vật nhỏ mà khiến cho người đồng phạm hạnh dị nghị đến như thế, ta đã quăng rồi, dứt khoát không lượm lại. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Xá-lợi-phất không những đời này bỏ thứ thuốc đó không chịu lấy lại, mà thuở quá khứ cũng từng như vậy. Đời quá khứ có một con Hắc xà cắn một con bò nghé, rồi chạy vào trong hang. Có một Chú thuật sư dùng thần chú dê đen làm phép cho con rắn ra khỏi hang, mà nó không ra. Chú thuật sư bèn đốt lửa trước con bò nghé để làm phép, hóa thành ong lửa bay vào trong bọng cây, đốt chích con Hắc xà. Con Hắc xà chịu không nổi phải bò ra bọng cây. Con dê đen dùng cái sừng hất con rắn để trước Chú thuật sư. Chú thuật sư nói: Ngươi liếm lại nọc độc, bằng không ta quăng vào trong lửa. Hắc xà liền nói kệ:
Ta đã nhả độc này
Nhất định không thu lại
Nếu có phải bị chết
Thà chết không chịu lùi.
Thế là Hắc xà không chịu thu lại nọc độc, tự gieo mình vào lửa. Đức Phật dạy: Hắc xà khi đó chính là Xá-lợi-phất, xưa kia chấp nhận cái chết đau khổ, chứ không thu lại nọc độc, huống là nay lại lượm thứ thuốc đã bỏ. Từ nay cho phép các Tỳ-kheo chứa thuốc để dùng. Lục quần Tỳ-kheo lại tích tụ nhiều thuốc, các bạch y chê trách: Các Sa-môn này muốn làm thầy thuốc, muốn mua bán thuốc, tự nói thiểu dục, tri túc mà không nhàm chán biết đủ. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên chứa nhiều thuốc, cho phép chứa các thứ tạp dược, mỗi loại một A-đà-la, nếu bị bệnh lâu dài cho phép tùy nghi chứa trở lại.
Có các Tỳ-kheo không có dao dùng miếng tre lau cắt y, y bị hư, Phật cho phép dùng dao để rọc vật dụng. Các Tỳ-kheo lại sắm cái dao lớn, đám cướp đến lấy được dùng hại Tỳ-kheo. Phật dạy: Không cho phép chứa dao lớn, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Cho phép chứa loại dao dài một ngón tay, một bên làm bén nhọn, dùng cây làm cái cán, trừ cây sơn. Các Tỳ-kheo nhận được kim, không dám thọ, bạch Phật, Phật cho phép thọ cất để dùng. Các Tỳ-kheo lại chứa nhiều. Phật dạy: Không nên chứa nhiều, cho phép chứa ba cây mà thôi, có dư nên tịnh thí.
Khi ấy, trú xứ A-nậu-da ở Tỳ-xá-ly bị thấp, ẩm ướt sinh mòng muỗi rồi hơi nóng xông lên, các Tỳ-kheo bị nóng bức, Phật cho phép dùng cây quạt để quạt. Các Tỳ-kheo dùng đuôi ngựa để phất, trùng bị chết. Phật dạy: Không nên dùng đuôi ngựa để làm cái phất, vi phạm, phạm Độtkiết-la. Có các Tỳ-kheo dùng cái bát chứa thức ăn để trên đất bị lật đổ, Phật cho phép dùng cái đế, dùng đồng, thiếc, răng, sừng, gạch, đá, tre, cây (trừ cây sơn), để làm, cho đến bện cỏ để để, cũng cho phép. Có các Tỳ-kheo xông bát bị tróc. Phật dạy: Nên xông lại. Có các Tỳ-kheo cho thức ăn cho người làm, không lường nhiều ít, tuy nhiều họ cũng giận. Phật dạy: Cho phép chứa cái hộc, cái đấu, cái thăng để lường, Tăng hay Tăng bốn phương cho đến cá nhân cũng cho phép chứa, cũng nên có một cái để phòng ngừa. Các Tỳ-kheo thuê người làm tô, dầu, mật, thạch mật không cân lượng để cho, tuy cho nhiều họ vẫn nổi giận. Phật dạy: Nên chứa cái cân cũng như trên.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo học chữ, các bạch y chê trách: Sa-môn Thích tử sao không siêng năng đọc tụng, lại học chữ làm gì! Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên học chữ. Sau đó các Tỳ-kheo sắp xếp công việc không ghi chép nên quên. Phật dạy: Cho phép học chữ, chỉ không cho phép vì ưa đẹp mà phế bỏ đạo nghiệp. Các Tỳ-kheo muốn học chú thuật để trừ các nọc độc của ong, rắn v.v… Phật dạy: Cho phép học. Các Tỳ-kheo sắm ruộng vườn, quán xá, các bạch y chê trách: Chúng ta có vợ con gia đình cho nên sắm ruộng vườn, quán xá, các Tỳ-kheo cũng lại như vậy, cùng chúng ta đâu khác gì?! Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép làm việc như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các bạch y đem ruộng, nhà, quán xá cúng cho Tăng, các Tỳ-kheo không dám nhận, cũng lại chê trách nói: Các Tỳ-kheo này không chấp nhận sự cúng dường, bạch Phật, Phật cho phép Tăng thọ nhận, rồi khiến tịnh nhân giữ theo luật. Có các Tỳ-kheo đến hỏi thăm Phú-lan-na Ca-diếp, Mạc-già-ly v.v… là các sư ngoại đạo. Phật dạy: Không nên thăm hỏi, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Các Tỳ-kheo học bói toán, các bạch y chê trách: Sa-môn Thích tử không thể tự tịnh tri kiến của mình, làm sao biết được việc chưa xảy đến. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép học, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Các Tỳ-kheo học chú thuật mê hoặc người, bạch Phật, Phật không cho phép, vi phạm, phạm Thâu-lan-giá. Các Tỳ-kheo học chú thuật làm cho người chết đứng dậy. Phật dạy: Không cho phép, vi phạm, phạm Thâu-lan-giá. Các Tỳ-kheo hỏi các thầy bói toán muốn biết mình tốt hay xấu. Phật dạy: Không cho phép, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Các Tỳ-kheo đọc tụng sách bên ngoài, các bạch y thấy chê trách: Sa-môn Thích tử này không tin ưa phạm hạnh, bỏ giới kinh của Phật, đọc tụng sách ngoài. Các Tỳ-kheo bạch Phật, Phật không cho phép. Có các Tỳ-kheo cùng ngoại đạo luận đàm, không biết nên xấu hổ, nghĩ: Nếu Đức Phật cho phép chúng ta đọc sách ngoài thì không đến nỗi bị xấu hổ thế này. Phật dạy: Vì hàng phục ngoại đạo, cho phép đọc sách ngoài, nhưng không được theo sách đó mà sinh tri kiến. Có các Tỳ-kheo chứa nhiều loại âu bằng đồng nho nhỏ, các bạch y chê trách: Sa-môn Thích tử này chứa nhiều loại đồ dùng này, cùng với ta đâu có khác! Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên chứa nhiều loại âu bằng đồng nho nhỏ, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có hai anh em người Bà-la-môn tụng sách Xiển-đà-Phệ đà, sau xuất gia trong chánh pháp, nghe các Tỳ-kheo đọc kinh không nghiêm chỉnh, chê trách nói: Các Đại đức xuất gia đã lâu mà không biết lời nói nam nữ, một lời nói, nhiều lời nói, lời nói hiện tại, quá khứ và vị lai, âm dài ngắn, âm nặng nhẹ mới đọc tụng kinh Phật như vậy. Tỳ-kheo nghe xấu hổ. Hai Tỳ-kheo đến chỗ Đức Phật, trình bày rõ ràng. Phật dạy: Cho phép tùy theo âm ngữ của nước mà đọc tụng, nhưng không được sai lệch ý của Phật, không cho phép dùng lời nói của Phật làm lời nói của ngoại đạo, vi phạm, phạm Thâu-lan-giá. Có các Tỳ-kheo không buộc y hạ, vào xóm bị sút rơi xuống lộ hình, các người nữ cười, mắc cỡ. Phật dạy: Không cho phép không buộc y hạ mà vào xóm làng, vi phạm, phạm Đột-kiết-la, cho phép sắm dây lưng. Các Tỳ-kheo làm dây lưng quá dài, cột đến bốn, năm vòng. Phật dạy: Không cho phép làm dài, dài nhất cột hai, ba vòng, các Tỳ-kheo may dây lưng quá rộng. Phật dạy: Cho phép rộng nhất bằng bốn ngón tay, hẹp nhất không dưới một ngón tay. Các Tỳ-kheo dùng tạp sắc may dài, Đức Phật không cho phép, cho phép dùng một màu mà thôi. Có các Tỳ-kheo mặc y mỏng vào xóm làng, gió thổi, lộ hình, các người nữ cười, mắc cỡ. Phật dạy: Cho phép làm cái nút, cái vòng cột lại, dùng đồng, thiếc, răng, sừng, tre, cây để làm cái nút, trừ loại cây sơn, cho đến làm dây để buộc. Các Tỳ-kheo cứ mặc cái y theo một chiều, phần dưới y dễ bị hư. Phật dạy: Cho phép mặc lộn ngược y lại, bề trên, bề dưới đều tra cái nút, cái vòng và sợi dây cột. Có các Tỳ-kheo tụng chú thuật không ăn muối. không ngủ trên giường, xưng độc lời: “Nam mô Bà-già-bà”, nên sinh nghi hay là ta theo tà kiến của thầy khác? Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Thần chú pháp ấy là như vậy, chỉ đừng nên theo tri kiến đó. Bấy giờ, Tỳ-kheo Từ-địa nói với Lô-di, con của Lực sĩ: Tỳ-kheo Đà-bà cùng vợ ông tư thông. Lô-di nghe rồi liền hỏi Đà-bà: Thật sự thầy có như vậy không? Đà-bà không trả lời. Lô-di bèn nói: Đà-bà phạm dâm xấu hổ nên không còn lời để đối đáp với ta. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Cho phép trao cho Lô-di, con của Lực sĩ pháp phú bát, bằng pháp bạch nhị Yết-ma, tất cả không được đến nhà Lô-di. Sai một Tỳ-kheo đọc lớn như sau:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Lô-di, con của Lực sĩ hư dối, vu khống Đà-bà phạm dâm cùng vợ của mình. Nay Tăng trao cho pháp Yết-ma phú bát, tất cả không được đến nhà Lô-di. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp Thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Lô-di, con của Lực sĩ hư dối, vu khống Đà-bà phạm dâm cùng vợ của mình. Nay Tăng trao cho pháp Yết-ma phú bát, tất cả không được đến nhà Lô-di. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã trao cho Lô-di, con của Lực sĩ pháp Yết-ma phú bát rồi.
Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Nếu Tăng đã trao cho pháp Yết-ma phú bát, tất cả bốn chúng đều không được lai vãng nói chuyện. Có các Tỳ-kheo cùng các Ưu-bà-tắc tranh tụng việc vụn vặt, bèn trao cho pháp Yết-ma phú bát. Đức Phật dạy: Không nên vì những việc vụn vặt mà trao cho bạch y pháp Yết-ma phú bát. Phải tạo nên tám pháp mới nên trao cho: Ưu-bà-tắc đối trước các Tỳ-kheo hủy báng Tam bảo và giới, muốn cho các Tỳ-kheo bất lợi, gây cho các Tỳ-kheo bị tiếng xấu ác, muốn đoạt trú xứ của các Tỳ-kheo, phạm Tỳ-kheo-ni, đó là tám pháp. Tôn giả A-nan khi còn bạch y là bạn thân hậu với Lôdi, Đức Phật bảo Tôn giả A-nan: Thầy đến chỗ Lô-di nói: Tăng đã trao cho bạn pháp Yết-ma phú bát. A-nan vâng lời đến nhà Lô-di. Người giữ cửa vào báo: A-nan đứng ngoài cửa. Lô-di bảo: Mời vào. A-nan nói: Hiện nay, tôi không được phép vào cửa nhà bạn. Lô-di nghe, liền ra hỏi: Tại sao bỗng nhiên thầy lại không vào nhà tôi? A-nan đáp: Tăng đã trao cho bạn pháp Yết-ma phú bát, tất cả bốn chúng không được cùng bạn nói chuyện. Lô-di nói: Nếu như lời thầy nói tức là giết tôi rồi. Lô-di liền té xỉu xuống đất. A-nan nói: Ông bạn đứng dậy, đến tạ tội với Đà-bà, Tăng sẽ vì ông bạn giải pháp Yết-ma phú bát. Lôdi liền đứng dậy đến chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân, bạch Phật: Con thật không thấy Đà-bà cùng vợ con tư thông, mà tin theo lời của Từ-địa. Đức Phật dạy: Ông có thể dùng lời tạ tội với Đàbà, Tăng sẽ giải pháp Yết-ma phú bát cho ông.
Lô-di vâng lời liền đến chỗ Đà-bà, đầu mặt đảnh lễ sát chân, tay ôm chân Đà-bà bạch: Con ngu si nên tin theo lời của người, phỉ báng Đại đức, xin Đại đức nhận sự sám hối của con. Tỳ-kheo Đà-bà nhận sự sám hối ấy. Lô-di tạ tội rồi đến chỗ Đức Phật, bạch: Con đã tạ tội với Tỳ-kheo Đà-bà rồi. Đức Phật bảo Tỳ-kheo: Cho phép Tăng bạch nhị Yết-ma để giải. Lô-di, con của Lực sĩ nên đến giữa Tăng, để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, kính lễ sát chân tất cả Tăng, quỳ gối, chấp tay, bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Con tên là Lô-di, con của Lực sĩ, vu khống Đà-bà cùng vợ của con tư thông. Tăng đã trao cho con pháp Yết-ma phú bát, không cho phép tất cả bốn chúng tới lui nhà con. Con đã có lời tạ tội với Đà-bà rồi, nay chính thức nhận theo Tăng, đến Tăng xin giải Yết-ma phú bát. Ngưỡng cầu Tăng rủ lòng thương xót con mà giải Yết-ma phú bát. Xin như vậy Ba lần. Tăng sai Tỳ-kheo đọc lớn:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Con tên là Lô-di, con của Lực sĩ, vu khống Đà-bà thông dâm với vợ của mình. Tăng đã trao cho con pháp Yết-ma phú bát, không cho phép tất cả bốn chúng tới lui cùng nói chuyện. Lô-di có lời tạ tội với Đà-bà, nay đến Tăng xin giải pháp Yết-ma phú bát. Nay Tăng giải: Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Lô-di, con của Lực sĩ vu khống Đà-bà… cho đến câu: Nay Tăng giải. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói: Tăng đã đồng ý giải Yết-ma phú bát cho Lô-di, con của Lực sĩ rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Có các Ưu-bà-tắc vì việc nhỏ mà giận hờn Tỳ-kheo bèn không kính tín. Đức Phật dạy: Ưu-bà-tắc không nên vì việc nhỏ mà không kính tín Tỳ-kheo. Nếu Tỳ-kheo gây tạo tám pháp thì sau đó không nên kính tín: Hủy báng Tam bảo và giới, muốn các Ưu-bà-tắc bất lợi, gây tiếng xấu ác cho Ưu-bà-tắc. Muốn đoạt trú xứ của Ưu-bà-tắc dùng phi pháp cho là chân chánh, khi dối Ưu ba tắc. Đó là tám pháp. Nếu Ưu-bà-tắc giận Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không nên đến nhà đó, nếu cả xóm làng đều giận Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không nên đến xóm làng ấy.
Bấy giờ, Bạt-nan-đà cầm dù mang dép da, xỏ cái đãy đựng bình bát vào đầu cây gậy, vác trên vai đi. Có một Ưu-bà-tắc cùng một đệ tử của ngoại đạo đi sau, từ xa thấy tưởng là ngoại đạo, nói với người của đệ tử ngoại đạo: Xem thầy của ông đi đằng trước kia có oai nghi hay không? Đệ tử của ngoại đạo nói: Các ngươi có thấy ai không có oai nghi đều gọi đó là ngoại đạo, rõ thật kia mà, người này là Thích tử. Hai người cùng cãi nhau, rồi đánh cá, họ đuổi theo kịp, hỏi rõ thì ra quả thật là Thích tử. Người Ưu-bà-tắc đã bị mất tiền lại rất xấu hổ. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép làm theo nghi pháp đó mà đi ngoài đường, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo trên đường đi, vì bảo tháp, Tỳ-kheo được cúng vải làm dù, không dám thọ, các Cư sĩ chê trách nói: Sa-môn Thích tử này không muốn cúng dường tháp, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép thọ, chỉ không được làm oai nghi của ngoại đạo mà đi. Có các Tỳ-kheo già bệnh cần chống gậy, mang cái đãy đựng bình bát đi khất thực. Phật dạy: Cho phép đến Tăng xin. Tỳ-kheo kia phải đến giữa Tăng thưa:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo tên là… vì già bệnh, nay đến Tăng xin phép dùng cây gậy để chống, mang đãy bình bát đi khất thực, cúi xin Tăng cho phép. Thưa xin như vậy Ba lần. Tăng nên cân nhắc nên cho hay không nên cho. Nếu thật không già bệnh thì không nên cho. Nếu thật già bệnh thì nên bạch nhị Yết-ma cho. Một Tỳ-kheo đọc lớn:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo già bệnh này tên là… nay đến Tăng xin phép dùng cây gậy để chống, mang đãy bình bát đi khất thực. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo già bệnh này tên là… cho đến câu… Nay Tăng cho phép. Các Trưởng lão nào đồng ý thì im lặng. Vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã cho phép Tỳ-kheo già bệnh… này dùng gậy để chống, mang đãy đựng bình bát đi khất thực. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy. Có các Tỳ-kheo muốn sắm cái đãy và cây gậy. Phật dạy: Nên làm. Người được Tăng Yết-ma mới được phép chứa cái đãy đựng và cây gậy. Nếu có Tỳ-kheo-ni thân quen cũng cho phép làm, để vị kia có dùng. Có các Tỳ-kheo đi khất thực gặp trời mưa, y bị phai màu. Phật dạy: Cho phép cầm dù, đến cửa bỏ dù xuống đất, khất thực được rồi trở lại cầm để đi. Có các Tỳ-kheo cầm dù đi khất thực, khi trở về để dù nơi nhà ôn đường, nhà giảng, chỗ ăn và các chỗ khác nên nước từ dù thấm ướt đất, nhão thành bùn. Phật dạy: Cho phép làm cái nhà để dù, đừng làm trở ngại cho nhau. Có các Tỳ-kheo muốn làm cái dù riêng, Phật cho phép làm, vuông tròn tùy ý, dùng cây làm cái đầu, trừ cây sơn, lấy lá hay cỏ che lên trên, cũng cho phép dùng trong mười loại y phủ lên trên. Tăng hay Tăng bốn phương, hoặc cá nhân đều cho phép cất giữ, cũng cho phép chứa thêm một cái để dự bị. Có một Tỳ-kheo bị bệnh con mắt, Đức Phật dạy: Cho phép dùng thuốc nhỏ mắt để nhỏ vào mũi, dùng dầu, tô, thoa trên đảnh, dùng tô mặn thoa dưới chân. Các Tỳ-kheo không biết dùng vật gì để làm cái ống nhỏ vào lỗ mũi, Đức Phật dạy: Trừ cây sơn, còn các loại ống của cây gỗ, tre khác, đồng, thiếc, răng, sừng đều làm được. Có Tỳ-kheo tên là Cù di sau bữa ăn liền nhai lại, các Tỳ-kheo thấy nghi là phạm thức ăn phi thời, bạch Phật. Phật dạy: Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo này năm trăm kiếp về trước thường sinh trong loài bò, dư báo sinh vào loài người, phàm ăn thứ gì không nhai lại thì không tiêu, từ nay các Tỳ-kheo như vậy, nhai phi thời không phạm. Có các Tỳ-kheo, hoặc y chỉ Tăng để ở, hoặc y chỉ Tăng bốn phương để ở, hoặc y chỉ tháp để ở, không có người giáo giới, ngu si không biết, không thể học giới, bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép y chỉ Tăng, Tăng bốn phương và tháp để ở, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Cho phép y chỉ nơi Thượng tọa và Tỳ-kheo như pháp có khả năng giáo giới. Khi ấy, các Tỳ-kheo cùng nhau trùm mền lại ngủ chung, thân xúc chạm nhau, sinh tâm nhiễm đắm, không muốn tu phạm hạnh, Đức Phật dạy: Không cho phép trùm mền cùng nhau ngủ, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Nếu vị nào không có y để trùm thì có cái áo lót khác, được quyền trùm. Nếu trú xứ vừa làm xong, chưa quen biết nhau, cho phép đồng ngồi một giường, nhưng không được ngủ, nếu ngủ cùng một giường phạm Đột-kiết-la. Có một chỗ trống vắng, lửa nơi đồng hoang muốn cháy đến, Tỳ-kheo không biết làm cách nào, bạch Phật. Phật dạy: Thầy đến đó dập tắt đi. Vâng lời dạy đến dập mà lửa không tắt, trở lại bạch Phật. Phật dạy: Có thể nhân danh Ta đến nói với thần lửa: Đức Thế Tôn muốn khiến người tắt, vâng lời dạy đến nói, thần lửa liền tắt, trở lại bạch Phật. Phật dạy: Thần lửa này không những đời này nghe tên Ta mà liền tắt, thuở đời quá khứ trong biển có một hòn đảo, bảy năm thường bị lửa đốt. Trên hòn đảo có một rừng cỏ, trong đó có một con trĩ sinh một con phượng, cha mẹ thấy lửa muốn cháy lan đến liền bỏ đi, con phượng kia trương cánh và đưa chân ra, dùng bài kệ nói với thần lửa:
Có chân chưa đi được
Có cánh chưa bay được
Cha mẹ thấy bỏ đi
Chỉ xin mạng được sống
Thần lửa dùng liền kệ trả lời:
Trứng sống ngoài ý muốn
Mà nay đến xin ta
Nay ta sẽ cho ngươi
Bốn mặt đều một tầm.
Đức Phật dạy: Con phượng trĩ khi ấy chính là thân Ta, thần lửa lúc đó nay vẫn là thần lửa, xưa đã vì Ta dập tắt lửa, nay lại vì Ta mà làm lửa tắt. Nếu khi nào lửa đồng hoang cháy đến, nên đánh kiền chùy, hoặc xướng lịnh, Tăng đồng tập hợp khiến tịnh nhân cắt cỏ xung quanh, để chận ngọn lửa lại, dùng hai thứ nước, đất cát dập tắt lửa, hoặc lấy vải, y tẩm nước tiêu diệt ngọn lửa. Có các trú xứ, cờ phướn lọng báu trong tháp thừa thải bỏ trong sân lung tung dập đạp trên đó, các bạch y chê trách nói: Các Sa-môn này không tiếc vật của người ta cúng dường để hư mục, chẳng phải pháp Sa-môn. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Trừ tháp Phật và Phật-bích-chi, ngoài ra, các tháp khác, vật dư, cho phép Tăng bốn phương sử dụng, nếu sau, tháp này cần thì lấy lại vật của Tăng bốn phương. Khi ấy các Tỳ-kheo ăn tỏi sống, bữa ăn trước, bữa ăn sau, không lúc nào không ăn, cũng có lúc ăn không, cho nên trong phòng xá bị hôi hám, các bạch y vào trong phòng nghe mùi hôi chê trách nói: Trú xứ các Sa-môn này hôi mùi tỏi giống như nơi nhà bếp. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không cho phép, không có nhân duyên mà ăn tỏi. Nếu khi có nhân duyên ăn tỏi thì không được đi hay đứng trên đầu gió nơi có các Tỳ-kheo. Có một Tỳ-kheo vì cái nhân duyên nhỏ mà ăn tỏi, Đức Như Lai nói pháp không dám nghe. Đức Phật hỏi: Tại sao không đến nghe pháp? Bạch Đức Thế Tôn! Ngài không cho người được phép ăn tỏi mà đi hay đứng trên đầu gió nơi có Tỳ-kheo, cho nên con không dám đến. Đức Phật bằng mọi cách quở trách Tỳ-kheo kia: Thầy là người ngu si làm việc phi pháp, ham ăm đồ hôi hám mà mất cái lợi vô lượng của mùi vị pháp. Quở rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Từ nay không cho phép vì nhân duyên nhỏ mà ăn tỏi, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo ăn tỏi nên chánh thuận các Tỳ-kheo. Chánh thuận là bảy ngày không được vào trong ôn đường, giảng đường, nhà ăn, nhà tắm, nhà xí, phòng người khác, đi ngang qua bên tháp hay xóm làng. Sau bảy ngày cần phải đập giũ ngọa cụ thì đập giũ, cần giặt thì giặt, nên hong phơi thì hong phơi, nên xông mùi thơm thì xông, xông phơi quét trong nhà, trét bùn khắp bên trong, tự giặt y phục, tắm gội thân thể, vậy sau mới vào. Bấy giờ, các Tỳ-kheo có cái âu đồng cỡ lớn, các bạch y thấy hỏi: Cái này của ai? Có người nói: Của các Tỳ-kheo. Họ bèn chê trách nói: Sa-môn này như Đại thần của nhà Vua, chứa cất cái âu đồng lớn này để làm gì? Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Từ nay không cho phép chứa cái âu lớn, nếu cất âu loại một thăng trở lên thì phạm Đột-kiết-la. Lúc đó, các Tỳ-kheo tiểu tiện lung tung, hôi thối bất tịnh, các bạch y chê trách, nói: Sa-môn Thích tử này không có oai nghi, tiểu tiện lung tung, hôi thối bất tịnh. Có các Tỳ-kheo tiểu tiện chỗ không nên tiểu tiện, Quỷ thần nắm nam căn kéo đến chỗ vắng, nói: Đại đức nên tiểu tiện chỗ này. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không được tiểu tiện lung tung, nên làm chỗ tiểu tiện nơi vắng vẻ, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo khách không biết chỗ tiểu tiện. Phật dạy: Cho phép hỏi Tỳ-kheo cựu trú. Có các Tỳ-kheo già bệnh không đến chỗ tiểu tiện được. Phật dạy: Cho phép sắm đồ để tiểu tiện. Các Tỳ-kheo để đồ tiểu tiện ở trong phòng, hôi hám. Phật dạy: Không nên để trong phòng. Các Tỳ-kheo để ngoài phòng, trùng ác vào trong đó. Phật dạy: Nếu cần để trong phòng thì nên đậy cái miệng đựng tiểu lại cho kín. Nếu để ngoài phòng cho đổ nước vào trong. Có các Tỳ-kheo đại tiện lung tung, các bạch y chê trách như trên. Phật dạy: Không nên làm như vậy, cho phép nơi chỗ vắng đào đất làm cái hố xí, trên có lợp, làm đường lên xuống và lan can, khi đầy phải đổ, nếu sinh trùng thì phải đào hầm đổ xuống, nếu chưa sinh trùng thì đem cặn men rượu đổ xuống hầm xí để khỏi sinh trùng. Có các Tỳ-kheo không xỉa răng, miệng hôi, ăn không tiêu. Có các Tỳ-kheo cùng Thượng tọa nói chuyện, ghê tởm mùi hôi nơi miệng. Các Tỳ-kheo đem vấn đề ấy bạch Phật. Phật dạy: Nên xỉa răng. Xỉa răng có năm công đức: ăn tiêu, trừ lạnh nóng, thèm ăn, khéo phân biệt mùi vị, miệng không hôi, mắt sáng. Có các Tỳ-kheo lấy cây xỉa răng. Phật dạy: Có năm loại cây không nên xỉa: cây Sơn, cây Độc, cây Xá-di, cây Ma đầu, cây Bồ-đề, ngoài ra các cây khác điều xỉa được.
Bấy giờ, Tỳ-kheo muốn trang nghiêm chỗ Tự tứ, Phật cho phép được trang nghiêm. Đến ngày Tự tứ xong, ban đêm nên thuyết pháp, không biết giao ai phụ trách. Phật dạy: Nên giao cho vị có khả năng. Các Tỳ-kheo viện lý do bệnh nên không chịu thuyết pháp. Phật dạy: Không nên vì lý do bệnh sơ sơ mà từ chối không thuyết pháp. Có trú xứ bị các thú dữ xâm nhập. Phật dạy: Cho phép đánh trống, đánh mõ, la lớn, kể cả đốt lửa. Có trú xứ bị trùng độc xâm nhập. Phật dạy: Nên bắt nó đem bỏ chỗ xa. Các Tỳ-kheo lấy tay bắt nên bị nó cắn. Phật dạy: Cho phép tìm cách cho nó vào trong cái bình rồi đem đi. Có trú xứ không đóng cửa, bị mất y. Phật dạy: Nên làm cái khóa cho kẻ gian không mở được.
Tôn giả Xá-lợi-phất bị cảm gió, Vua Ba-tưnặc nói: Nên dùng con ễnh ương khôn xông mũi, không dám dùng, Phật cho phép dùng. Có các Tỳ-kheo muốn nhuộm y. Phật dạy: Cho phép dùng cây, nhánh, bông, lá, vỏ mà nhuộm. Có các Tỳ-kheo muốn nhuộm Khâm-bà-la, Đức Phật dạy: Cho phép dùng cây Thi thi bà, cây Khư tha, cây Bồ đào để nhuộm. Các Tỳ-kheo lại nhuộm màu thuần đen. Đức Phật dạy: Không nên tạo y thuần màu đen. Nan-đà có ba mươi hai tướng, tuy không bằng Phật, các Tỳ-kheo từ xa thấy, tưởng là Đức Thế Tôn, thường đứng dậy chào, Nan-đà hổ thẹn không biết làm thế nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép Nan-đà may y khác hình tướng đối với y của Phật. Có các Tỳ-kheo thọ mười hai pháp Đầu-đà nơi A-lan-nhã không xả, lại thọ thịnh trụ tại nhân gian, cho đến phòng xá v.v… bạch Phật. Phật dạy: Tất cả đều phạm Đột-kiết-la, cho phép gần xóm làng cho đến một Câu-lô-xá, nếu không thể nên xả. Có các Tỳ-kheo thờ cúng quỷ thần. Phật dạy: Không nên làm như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiếtla. Không được vì quỷ thần, cho đến ngoại đạo sư, xây tháp, cũng như vậy. Có các Tỳ-kheo xây tháp cho quỷ thần, quỷ thần nương ở nơi đó, sau phá, quỷ thần giận. Phật dạy: Đã xây thì không nên phá, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo đại tiểu tiện trong tháp quỷ thần hoặc đi quanh phía bên trái, quỷ thần giận. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Nếu trên lộ trình đi bên trái thì cho phép đi theo lộ trình. Có các Tỳ-kheo khắc cây làm hình nam nữ, cầm thú, lại làm các đồ chơi cho trẻ nhỏ của các bạch y. Phật dạy: Không nên cho như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo tự mình ca múa, dạy người ca múa, tự mình đánh nhạc. Phật dạy: Không nên làm như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Đức Phật ở tại thành Xá-vệ. Bấy giờ có một Bà-la-môn xuất gia, sạch sẽ quá mức thường lệ, từ nhờm gớm đại tiểu tiện của mình, làm sạch bằng cỏ lợi xí, cắt đứt da thịt làm thương tổn, chảy máu dính nhớp y và ngọa cụ của Tăng, các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách, nói: Thầy tự gớm nhờn phần đại, tiểu tiện của thầy, làm sao thầy có thể săn sóc bệnh của các Tỳ-kheo, bạch Phật. Phật dạy: Không nên dùng cỏ xí. Khi ấy, Tỳ-kheo lõa hình lên nhà xí, các bạch y chê trách, nói: Tỳ-kheo này chính là Ni-kiền-tử. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên lõa hình lên nhà xí. Lõa hình lên nhà xí phạm Đột-kiết-la. Có Tỳ-kheo ở chỗ A-lan-nhã cách xa nhà xí, bị đại tiện cấp bách không thể đến nơi nhà xí, bạch Phật. Phật dạy: Trường hợp không thể đi kịp, cho phép ngó bốn hướng không có người thì có thể giải quyết. Có Tỳ-kheo trước đã vào nhà xí, sau đó có Tỳ-kheo không hệ niệm lên nhà xí, không khảy móng tay cũng không tằng hắng, mở cửa đột nhập, Tỳ-kheo ở trong xấu hổ, giận trách, Tỳ-kheo đến sau phải xin lỗi.
Lại có Tỳ-kheo lên nhà xí tuy có khảy móng tay, mà Tỳ-kheo ở trong không trả lời, cũng vào, đưa đến tình trạng giận trách, bạch Phật. Phật dạy: Không nên để rối loạn tâm khi lên nhà xí. Rối loạn tâm lên nhà xí phạm Đột-kiết-la. Nay Ta vì các Tỳ-kheo quy định pháp tắc lên nhà xí đầu tiên cần phải học. Đây là vấn đề Tỳ-kheo trọn đời phải học, nếu không học phạm Đột-kiết-la.
Khi Tỳ-kheo lên nhà xí cần xem trước sau và hai bên, đến trước nhà xí thì phải tằng hắng, khảy móng tay khiến người bên trong và phi nhân biết. Người trong nhà xí cũng phải khảy móng tay, tằng hắng. Vào trong nhà xí rồi cần phải xem trước sau và hai bên, ngó khắp trong nhà xí, xem có rắn, bò cạp, trùng độc hay không. Không nên máng y hai bên cánh cửa, phải thu vén y sao cho gọn, định tâm an ổn rồi ngồi. Không được làm vấy nhớp trên nhà xí. Hoặc người đi trước hay tự mình làm nhớp đều phải lau chùi sạch sẽ, cần rửa thì rửa, cần lau thì lau, cần dọn cỏ nhớp thì phải dọn sau đó mới ra đi. Cẩn thận khéo vén y đừng để nhớp. Đến chỗ tiểu tiện và chỗ rửa đại tiểu tiện cũng nên như vậy. Nếu khi dùng nước, trước hết nên xem có trùng hay không. Không được dùng nhiều nước, cốt yếu là dùng vừa đủ. Súc đồ đựng nước phải cẩn thận nhẹ tay, đừng cho nó va chạm, đưa đến sự hư bể. Dùng nước, nếu hết, phải lấy cho đầy, nếu có việc gấp cần phải đi, cũng phải lấy lại cho đủ một người dùng rồi đậy lại mới đi.
Có các Tỳ-kheo ngồi thiền bên nhà xí, nằm ngủ, nhuộm vá y phục, thọ kinh, kinh hành, trở ngại các Tỳ-kheo lên nhà xí, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm như vậy.
Có các Tỳ-kheo, trú xứ quá hẹp, không thể làm nhà xí cách ra xa, bạch Phật. Phật dạy: Nếu trú xứ quá hẹp cho phép dùng vải che, cho khỏi trở ngại nhau. Có các Tỳ-kheo lên nhà xí xỉa răng, các Tỳ-kheo nhờm gớm lại trở ngại các Tỳ-kheo lên nhà xí, bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Có Tỳ-kheo xỉa răng bên nhà xí. Phật dạy: Cũng không nên làm như vậy. Có các Tỳ-kheo xỉa răng rồi cắm cây tăm nơi móc của vách nhà xí làm cho y của các Tỳ-kheo bị hư, hoặc bị tổn thương nơi da thịt. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Các Tỳ-kheo xỉa răng rồi bỏ tăm nơi cành cây hay bên gốc cây, thọ thần sân hận. Phật dạy: Không nên như vậy.
Có các Tỳ-kheo đại tiểu tiện rồi không có vật gì rửa chùi, nhớp thân hình và y phục. Phật dạy: Nên dùng cỏ chùi, Tỳ-kheo lại dùng miếng tre, miếng lau để chùi bị thương tổn nơi đó. Phật dạy: Không nên dùng vật bén làm đồ chùi, nên róc bỏ các cạnh, trừ cây sơn, các cây khác đều được dùng. Các Tỳ-kheo làm đồ chùi quá dài hay quá ngắn, quá thô hay quá tế. Phật dạy: Nên làm cỡ vừa phải. Các Tỳ-kheo dùng cỏ chùi rồi, nhét vào trong lỗ cầu tiêu. Phật dạy: Không nên như vậy. Các Tỳ-kheo quăng cỏ chùi lung tung nơi đất. Phật dạy: Nên làm cái đồ để đựng, nếu đầy, người nào đó thấy đầy nên đem đổ vào hầm, hoặc bảo người đốt.
Các Tỳ-kheo rửa đại tiểu tiện nhớp tay. Phật dạy: Nên dùng tro, đất, phân bò rửa cho sạch. Các Tỳ-kheo rửa đại tiểu tiện rồi, lấy tay chà nơi vách cho sạch, vách bị hư. Phật dạy: Không nên chà như vậy, nên dùng gạch, đá mà chùi rửa. Các Tỳ-kheo dùng tro, đất, phân bò bỏ nơi đất nhơ nhớp. Phật dạy: Nên dùng đồ đựng.
Có các Tỳ-kheo dùng cây xỉa răng quá dài. Phật dạy: Không nên làm như vậy, cho phép, dài nhất là một gang tay. Có các Tỳ-kheo làm cây xỉa răng quá ngắn, thấy Phật, vì sự cung kính, bèn nuốt vào trong họng, nhờ oai thần của Phật khiến cho nó không bị nguy hiểm. Phật dạy: Không nên làm như vậy, ngắn nhất cho phép dài năm lóng tay, cũng không nên quá thô, hay quá nhỏ.
Các Tỳ-kheo không đứng một chỗ xỉa răng mà xỉa bỏ lung tung. Phật dạy: Không nên như vậy. Có các Tỳ-kheo nơi A-lan-nhã đứng một chỗ xỉa răng, đường xa, trở ngại việc khất thực, lại không nhận được phần cúng dường. Phật dạy: Tỳ-kheo nơi A-lan-nhã cho phép nhất tâm, vừa đi vừa xỉa răng. Có các Tỳ-kheo đến nơi giếng xỉa răng. Phật dạy: Không nên như vậy. Có các Tỳ-kheo dùng tăm xỉa răng rồi, không rửa, trùng ăn bị chết. Phật dạy: Không nên như vậy, dùng rồi nên rửa sạch mới bỏ. Có các Tỳ-kheo thiếu cây xỉa răng. Phật dạy: Cho phép cắt bỏ khúc xỉa rồi, khúc chưa dùng cất để dùng.
Có một Tỳ-kheo dùng cái đãy để đựng giày dép, đựng tăm xỉa răng, tăm xỉa răng bị nhớp. Phật dạy: Nên dùng vật khác để đựng. Có các Tỳ-kheo lại xỉa răng nơi nhà sưởi ấm, giảng đường, nhà ăn, chỗ làm thức ăn, trước Thượng tọa, Hòa thượng, A-xà-lê. Phật dạy: Không nên làm như vậy.
Có các Tỳ-kheo bệnh, Thượng tọa, Hòa thượng, A-xà-lê chăm sóc, không dám xỉa răng trước các vị ấy. Phật dạy: Khi bệnh thì cho phép. Các Tỳ-kheo xỉa răng trước bạch y, bạch y chê trách, nói: Sa-môn Thích tử chỉ siêng năng sửa sang hàm răng. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Các Tỳ-kheo lại không dám đối trước tất cả các bạch y xỉa răng. Phật dạy: Không nên làm như vậy, nếu hạng bạch y hào quý thì không nên xỉa răng trước họ. Có các Tỳ-kheo xỉa răng trước ngoại đạo, cũng bị chê trách như trên. Phật dạy: Cũng không nên làm như vậy. Các Tỳ-kheo lại không dám xỉa răng trước tất cả ngoại đạo, họ lại nói: Sa-môn Thích tử cung kính chúng ta, không dám xỉa răng trước chúng ta. Đức Phật dạy: Không nên làm như vậy. Nếu hạng người gây tổn hại đối với Phật pháp thì không nên xỉa răng trước họ. Đức Phật dạy: Ta vì các Tỳ-kheo quy định pháp học sơ đẳng về việc lên nhà xí v.v… nên thọ trì suốt đời.
Bấy giờ, có một Tỳ-kheo khất thực không hệ niệm tại tiền (không để ý), vào trong nhà người, không nhớ lối ra, nên đi theo một chỗ khác để ra, thấy một người nữ ở trong nhà, nằm ngửa lộ hình. Tỳ-kheo hốt hoảng vội vã chạy nhanh ra khỏi nhà. Người chủ nhà đi về thấy Tỳ-kheo chạy ra một cách hốt hoảng, nên nghĩ: Tỳ-kheo này vào nhà ta, chắc có làm việc gì bất chính, liền vào trong nhà xem thấy người vợ nằm ngửa lộ hình, bèn nghĩ Tỳ-kheo đã tư thông với vợ mình, vội vàng chạy theo Tỳ-kheo kêu: Đứng lại! Ông làm việc như vậy, như vậy trong nhà tôi. Tỳ-kheo nói: Ông đừng nói câu đó, pháp của Tỳ-kheo chúng tôi không làm việc ác như vậy. Người kia không tin, đánh Tỳ-kheo gần chết, đoạt y bát rồi thả đi. Tỳ-kheo kia khi trở về trong Tăng phường kể lại sự việc với các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo bằng mọi cách quở trách: Tại sao thầy không hệ niệm tại tiền, vào nhà người ta mà không nhớ đường đi ra. Vấn đề được bạch Phật. Phật dạy: Nay Ta vì các Tỳ-kheo khất thực, quy định pháp đầu tiên cần phải học, nên thọ trì trọn đời, nếu không học phạm Đột-kiết-la.
Tỳ-kheo khất thực phải nhất tâm dậy sớm, xuống giường mang dép, lấy nội y để mặc, đập giữ sạch bụi bặm, dây thắt lưng cũng vậy, mặc y hạ cho ngay ngắn, từ gót chân trở lên một cách gang tay, bên trái, phía trên ém hai bên, xếp hai bên, ngay phía sau xếp hai lần, rồi buộc dây, chậm rãi lấy dép mang đi đường, không nên mang nhầm lẫn, nhất tâm lấy Tăng-già-lê và bình bát. Khi rửa bát nên ngồi xổm không nên đứng, nếu rửa bát bằng thiếc thì cho phép cách đất một thước, bát tô ma thì cách đất bốn lóng tay, bát sành thì khoảng cách giữa bằng mức hai loại bát kia. Rửa rồi không nên để chỗ dễ lăn ngã, cũng không nên để chỗ bên trên có vật, có thể rớt xuống, không được lau và phơi lúc giữa ngày, có thể dùng để uống nước dưới bóng mát, nước rửa bát nên đổ giữa trưa. Khi ra ngoài nên nhất tâm, cần đóng cửa thì để bình bát đặt giữa hai chân, sau đó mới đóng cửa. Chìa khóa nên cất chỗ nào đừng cho ai thấy. Cách xóm làng không xa, chỗ đất nào bằng phẳng, có cỏ mềm mại, để bình bát xuống, đập giũ y Tăng-già-lê và y Trung hạ, mặc vào ngay thẳng, tay bên trái nắm y, tay bên phải bưng bát, cúi đầu nhìn trước chân mà đi, nên nhớ kỹ các ngõ hẻm, phân biệt cửa nhà người, tướng mạo của nó. Khi đến cửa nên khảy móng tay hay tằng hắng khiến cho có tiếng, để người hay phi nhân bên trong biết. Vào cửa rồi nên tính toán, nên đứng chỗ nào, nếu có người nói: Đại đức vào, thì thâu giữ tâm vào, nếu có người cho thức ăn, không nên đến nơi thức ăn mà thọ. Nếu người nữ trao thức ăn, không nên cùng nói chuyện, không nên ngó chăm chăm, không nên lưu ý tướng tốt, xấu của họ. Nếu một nhà đủ thì tốt, bằng không thì đến nhà khác. Đủ rồi thì thôi. Nhận đủ thức ăn, ra khỏi xóm làng, cách xa rồi, để bình bát xuống đất, cởi y Tăng-già-lê, đập giũ bụi, nếu có bùn nhớp nên lau cho sạch, xếp lại, vắt lên vai đi. Về đến trú xứ mở cửa ngõ vào, để y bát vào chỗ cũ, đập giũ giày dép lau cho sạch, sau đó thâu giữ tâm, rửa chân, lau cho khô, trở lại mang dép vào phòng, mở cửa vào phòng, máng y bát vào chỗ thường lệ. Nếu muốn dùng dầu thoa chân thì cho phép thoa bàn chân. Quét sạch chỗ ngồi ăn, trải tọa cụ, lấy nước sạch, chuẩn bị khăn lau tay lau chân. Nếu tại trú xứ có canh rau, dấm, tương muối nên dự tính để vào một chỗ, rửa đồ đựng thức ăn dư, nhắm thức ăn mình ăn không hết thì sớt trước để trong đó. Nếu thấy Thượng tọa mang thức ăn về sau, nên đứng dậy đón rước, cầm y bát để vào chỗ cũ của Thượng tọa và thưa: Y bát để chỗ này. Rồi vì người cởi giày dép, nếu có dính đất thì để ngoài cửa. Đến giờ đánh kiền chùy, hoặc xướng lệnh để tập hợp. Tập hợp rồi, trước hết đi xem đồ đựng thức ăn dư, có dư sớt bớt vào trong đó, nếu thiếu thì đến lấy thêm cho đủ, vậy sau mới sớt tương rau. Khi đang ăn, nếu Tỳ-kheo đến sau, nên đưa nước cho vị ấy. Vị ấy nhận nước thì trao thức ăn đựng trong đồ đó, nếu không nhận nước, tức là vị kia đã ăn rồi. Chúng ăn rồi, nên thu xếp tọa cụ, dọn những thứ nhớp rồi quét đất cho sạch, rửa đồ đựng thức ăn dư, úp lại để chỗ cũ, cất bình nước, đến trong phòng Hòa thượng, A-xà-lê, có việc gì nên thì làm, sau đó mới về lại phòng, hoặc đọc tụng, hoặc tọa thiền, hoặc kinh hành, để cho tâm thanh tịnh, trừ các triền cái. Hòa thượng, A-xà-lê cũng không nên vì việc nhỏ mà bảo đệ tử ở lại. Nếu Hòa thượng, A-xà-lê sẽ vì bốn chúng nói pháp, đệ tử nên quét dọn chỗ nói pháp, trải tọa cụ, lấy nước vào bình, lấy khăn lau tay, lau chân, nếu có nước uống phi thời nên lọc cho sạch, để một chỗ, nói pháp rồi nên thu dọn tọa cụ và các vật. Nếu Hòa thượng, A-xà-lê cần tắm rửa nên sửa soạn những thứ cần trong phòng tắm, cần nước lạnh thì lấy nước lạnh, cần nước nóng thì lấy nước nóng. Thầy vào nhà tắm rồi nên thưa: Con cần vào hay không? Nếu cần thì vào, vào rồi nên ở sau lưng. Thầy tắm xong, hầu thầy về lại phòng, thầy không thể đi thì nên dìu, hoặc đưa y cho thầy. Thầy cần nước phi thời nên dâng cho thầy. Thầy cần kêu Tỳ-kheo nào thì nên kêu, cần đèn thì đốt đèn. Nếu không có đèn khi trao nước nên thưa cho rõ: Nước con dâng đây đã lọc rồi, thầy dùng. Ban đêm nên thưa hỏi thầy: Con nên ngủ tại đây không? Thầy nói: Cần, thì nên ở lại, nếu thầy nói không, thì trở về lại phòng, hành đạo như trên. Sáng ngày nên đến thưa hỏi thầy: Ngủ ngon giấc không, nên tìm bữa ăn trước, bữa ăn sau, cháo, Đát-bát-na cho thầy, trong Tăng có, nên nhận phần cho thầy, có chỗ nào mời theo thứ tự, cũng nên nhận phần cho thầy. Nếu muốn vào xóm làng, nên thưa: Thầy cần mặc y dày hay y mỏng? Thầy cần thứ nào, dâng thứ ấy. Nếu thầy bảo: Ông cần đi với tôi, thì đi. Đến nhà người, nếu không được vào thì không nên giận. Nếu vào cửa ngõ rồi mà không được mời ngồi cũng không nên giận, nên đứng sau lưng thầy. Nếu đàn-việt cho thức ăn, nên nhận, không cho cũng không nên giận. Nói pháp nơi nhà bạch y, không nên loạn ngữ. Nếu thầy nói lời vụng về, phải khéo biết kỉnh giác. Thầy về, theo về, hành đạo như trên. Đây là pháp học ban đầu của Tỳ-kheo khất thực nơi A-lan-nhã, nên thọ trì trọn đời.
Bấy giờ, số đông Tỳ-kheo ở một trú xứ, hạ an cư, đã kiết giới rồi, không có người lo liệu bữa ăn trước, bữa ăn sau và cháo Đát-bát-na, nên trong thời gian an cư các Tỳ-kheo rất bị thiếu thốn, Tự tứ xong bèn đi. Sau khi đi, Tỳ-kheo cựu trú đến các Cư sĩ, nói: Các người nên sinh tâm vui mừng, có Tỳ-kheo như vậy, như vậy tu hành tốt, an cư nơi đây. Các Cư sĩ nói: Như thế tại sao chúng con không hay biết chi cả? Các vị đó là tri thức của các thầy, tại sao có quý Tỳ-kheo tu hành tốt như vậy, như vậy đến đây mà các thầy không nói với chúng con! Chúng con thường tìm thỉnh mà không có được, nay các vị đến đây mà chúng con lại không được cúng dường!
Lúc này, Lục quần Tỳ-kheo đến trú xứ của người, nói với Tỳ-kheo cựu trú: Mở cửa phòng trải ngọa cụ cho tôi nghỉ. Một Tỳ-kheo trong số Lục quần Tỳ-kheo vào trước, không hệ niệm tại tiền, con rắn từ trên rớt xuống, cắn chết, các Tỳ-kheo kia khóc áo não. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, vội chạy đến hỏi, Lục quần trình bày sự việc, các Tỳ-kheo Trưởng lão quở trách: Tại sao không hệ niệm tại tiền trong khi vào phòng trống không! Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật đầy đủ. Phật dạy: Nay Ta vì các Tỳ-kheo cựu và khách chế pháp học ban đầu, nên thọ trì trọn đời, nếu không học phạm Đột-kiết-la.
Nếu Tỳ-kheo cựu trú nghe Thượng tọa Tỳ-kheo khách du hành trong nhân gian, sắp đến trú xứ, nên sửa soạn phòng xá, đập giũ giường chiếu, phơi ngọa cụ, quét dọn trong phòng, sửa sang phòng ốc, lấy nước sạch đậy lại để sẵn một nơi, chuẩn bị khăn lau tay, lau chân. Nghe tới nơi phải ra cửa đón, bảo Tỳ-kheo hạ tọa cầm y bát. Khi vào rồi, trải tòa ngồi, cung cấp nước rửa chân, rửa chân cho thầy, đưa khăn lau tay, lau chân và lau giày dép. Nếu vị Thượng tọa khách, đồ hành lý và quyến thuộc đông thì nên cung cấp hai phòng, nên thưa hỏi: Áo lót theo cỡ nào, tùy theo pháp y bậc thượng, trung, hạ, trao ngọa cụ thích nghi. Nếu Tỳ-kheo khách bệnh, nên giao phòng gần hố xí, nếu cần tắm thì sửa soạn đồ cần dùng trong nhà tắm, cần uống nước phi thời thì cung cấp, đêm đến nên tập hợp nói pháp, sáng ngày sửa soạn bữa ăn trước, bữa ăn sau và cháo Đát-bát-na, mời thầy ở lại an cư, khuyến hóa mọi người cúng dường. Tỳ-kheo khách kia muốn đến Tăng phường, nếu trước đó lật ngược y thì nên lật xuống, nếu trước đó chống nạnh thì không nên chống, nếu trước đội y thì nên lấy xuống máng trên vai, cởi giày dép đập giũ lau cho sạch, dùng cỏ hay lá gói đem vào để có chỗ, ngồi nghỉ một chút, nên hỏi Tỳ-kheo cựu trú: Thượng tọa ở phòng nào? Biết chỗ rồi, nên đến lễ bái thăm hỏi chuyện. Nếu còn sớm nên lễ tháp, lễ tháp rồi theo thứ tự lễ các Thượng tọa. Sau đó mới rửa tay, rửa chân rồi nên hỏi: Trú xứ này, ai là người phân phối ngọa cụ cho Tăng? Biết rồi nên hỏi: Tôi được… hạ, có chia phòng hay không? Nếu nói có, thì hỏi phòng nào? Nhận phòng rồi hỏi: Phòng này có người ở hay không? Nếu nói không, nên trước cửa phòng, trước hết lấy gạch đá quăng vào trong phòng lắng nghe có tiếng động hay không, nếu có, không nên vào, nếu không, mới mở cửa, rồi đứng tránh bên cửa, không có vật gì chạy ra, mới vào, đợi một chút để quen với ánh sáng trong phòng rồi quan sát kỹ khắp phòng, lấy cây gậy quơ trên giường, dưới giường, coi chừng có trùng độc hay không, rồi từ từ mới mở cửa sổ. Nếu còn sớm thì nên đem ngọa cụ dập giũ rồi phơi. Nếu phòng không có ngọa cụ thì nên đến Tỳ-kheo phân phối ngọa cụ hỏi. Nhận được ngọa cụ rồi hỏi: Phòng này đầu đêm nên đề phòng thứ gì? Nửa đêm và cuối đêm nên đề phòng thứ gì? Nếu nói: Đầu đêm nên đề phòng giặc A-lan-nhã. Nên hỏi: Tôi phải làm sao? Nếu được trả lời: Nên tự vệ như vậy, như vậy thì nên áp dụng. Nửa đêm và cuối đêm cũng như thế. Lại nên hỏi: Phòng này có thức ăn không? Xóm làng này nấu thức ăn sớm hay trễ? Nơi nào Tăng tác Yết-ma học gia? Nơi nào Tăng tác Yết-ma phú bát? Nơi nào có chó dữ? Nơi nào có dâm nữ, đồng nữ lớn tuổi và đàn bà góa chồng? Trong đây Bố-tát chỗ nào? Nơi đây nếu có Tăng sự đều nên có mặt sớm, không nên bê trễ. Đó là pháp học đầu tiên của Tỳ-kheo cựu trú và Tỳ-kheo khách, trọn đời nên thọ trì.
Đức Phật ở tại thành Vương-xá. Khi ấy, có số đông Cư sĩ mời Tăng thọ trai, hoặc có các Tỳ-kheo mới mặc y, hoặc có người đã ăn, hoặc có người trở về giải y, hoặc có người mang bát đến, hoặc có người đã trở về rửa bát, hoặc có người ra khỏi Tăng phường, hoặc có người mới vừa về, hoặc có người mới ăn xong, hoặc có người mới bắt đầu ăn, các Cư sĩ chê trách, nói: Ngoại đạo khác còn biết cùng đến ăn đúng giờ, Sa-môn Thích tử không có phép tắc, chúng ta không biết vị nào đã ăn vị nào chưa ăn. Các Tỳ-kheo Trưởng lão nghe, bằng mọi cách quở trách rồi bạch Phật. Phật dạy: Nay Ta vì các Tỳ-kheo Thượng tọa quy định pháp học đầu tiên về vấn đề thọ trai, trọn đời phải nên thọ trì, nếu không học, phạm Đột-kiết-la.
Nếu có bạch y mời Tăng mà bạch y ấy thường tới lui với các Tỳ-kheo, nên bạch với Thượng tọa, Thượng tọa nên bảo đi mời các Tỳ-kheo: Hôm nay đàn-việt mời thọ trai, tất cả đều tập hợp chỉnh tề oai nghi và khiến chủ nhân thường tới lui với Tỳ-kheo, nói trước thời giờ biết để đến. Sáng sớm, khi chưa sửa soạn thức ăn, Thượng tọa cần thì đến nơi khác, cho phép dẫn Tỳ-kheo đi, chủ yếu là phải về liền không được lưu lại. Khi tập hợp tới nhà thí chủ, đều phải hệ niệm tại tiền, biết chỗ ngồi kế tiếp dành cho người chưa đến. Có cái giường dây chưa có dây, dùng vải trải lên giường, Tỳ-kheo không biết, ngồi lên, bị té, lộ hình xấu hổ. Phật dạy: Khi muốn ngồi, phải lấy tay kiểm soát trước, vậy sau mới ngồi. Có các Tỳ-kheo ngồi trên giường dây, ngồi mạnh nên giường hư. Phật dạy: Trước nên ngồi nhẹ nhẹ, sau mới ngồi. Khi đàn-việt hành thủy nên hỏi: Có đồ hứng nước không? Nếu có không nên để nước rơi xuống đất, nếu không, không nên để nước tụ lại một chỗ thành bùn. Nếu nhận được cộng, nhánh, lá, trái không biết cách ăn, nên chờ người hai bên ăn, vậy sau mới ăn. Có các Tỳ-kheo sớt cơm chưa xong đã ăn, bạch y chê trách, nói: Các Tỳ-kheo này không đợi tất cả nhận được cơm rồi ăn một lượt, giống như trẻ nít. Phật dạy: Không nên ăn như vậy, cần phải đợi nhận đủ hết, vậy sau mới ăn. Có chỗ, Tăng nhiều Thượng tọa, không biết đã nhận đủ hết chưa. Phật dạy: Nên lớn tiếng xướng “Tăng bạt”. Các Tỳ-kheo ăn rồi nín thinh ra về, các bạch y chê trách, nói: Các ngoại đạo kia, ăn của người khác, ăn rồi chú nguyện rồi mới đi, Samôn Thích tử ăn rồi nín thinh không một lời cám ơn, thí chủ không biết có hài lòng không. Phật dạy: Thượng tọa nên chú nguyện rồi mới đi. Các Tỳ-kheo đi, không đợi Thượng tọa. Phật dạy: Cho phép tám vị Thượng tọa nên đợi nhau, các vị khác thì tùy ý. Có một trú xứ, Xá-lợi-phất là bậc tối thượng, La-hầu-la là bậc tối hạ, thọ trai nơi nhà thí chủ, người thí chủ dùng canh bằng tô dâng cho Thượng tọa, canh bằng dầu đưa cho thứ tọa, canh bằng vật thừa thãi đưa cho hạ tọa. La-hầu-la sau khi ăn, đến chỗ Đức Phật, đầu mặt kính lễ sát chân, rồi ngồi qua một bên, Đức Phật hỏi La-hầula: Hôm nay ông ăn thức ăn thế nào? La-hầu-la liền nói kệ:
Người ăn dầu có sức
Người ăn tô có sắc
Ăn canh loãng héo khô
Không sức huống là sắc!
Nói kệ xong, bạch Phật: Hôm nay con ăn thứ canh loãng nấu với đồ thừa. Tôn giả Xá-lợi-phất sau khi ăn xong về đến chỗ Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân rồi ngồi qua một bên, Đức Phật hỏi Tôn giả Xá-lợi-phất: Hôm nay thầy ăn thức ăn thế nào? Thưa: Thức ăn bằng tô nấu canh. Đức Phật quở: Hôm nay thầy ăn thức ăn bất thiện. Tại sao Tỳ-kheo Thượng tọa ăn thức ăn bằng tô, Trung tọa ăn thức ăn bằng dầu, hạ tọa ăn thức ăn bằng đồ thừa? Xá-lợi-phất nín thinh không trả lời, bèn vào trong chỗ vắng làm cho ói hết thức ăn ra. Đức Phật dạy: Từ nay, khi có người mời cơm, Thượng tọa nên nói với người chủ: Tất cả thức ăn đều bình đẳng. Khi đàn-việt đem thức ăn đến, Thượng tọa nên nói với Tỳ-kheo hạ tọa quét chỗ dọn ăn, trải tòa ngồi lấy nước, đem đồ đựng thức ăn dư ra, nói chung những gì cần dùng cho việc cúng dường đều phải sửa soạn. Đến giờ nên xướng hoặc đánh kiền chùy, khiến tề tựu để thọ trai. Nếu người chủ sửa soạn chậm nên nhắc họ cho mau, đừng để quá ngọ. Đó là một pháp ban đầu nói về vấn đề khi Thượng tọa thọ trai, phải thọ trì suốt đời.
Khi ấy, có Tỳ-kheo ở chỗ A-lan-nhã vì lười biếng không lấy nước uống, không lấy nước rửa tay, chân, không lấy nước bên hố xí. Lúc này, có đám giặc A-lan-nhã đến tìm nước để uống, Tỳ-kheo nói: Không có. Họ tìm nước rửa tay, chân cũng nói: Không có. Họ nói với Tỳ-kheo: Sa-môn Thích tử các ông thường đầy đủ ba loại nước, tại sao nay không có? Tỳ-kheo trả lời: Tôi không lấy nên không có. Đám giặc nói: Chỉ cho tôi nước uống hôm nay, sau tôi không đến nữa. Tỳ-kheo cũng trả lời như ban đầu. Họ lại hỏi: Tại sao không có nước? Tỳ-kheo đáp: Tôi là người lười biếng nên không lấy nước để chứa sẵn. Đám giặc bèn cướp đoạt y bát và đánh Tỳ-kheo gần chết rồi bỏ đi. Lại có Tỳ-kheo ở nơi A-lan-nhã không phân biệt các vì sao về ban đêm. Có đám giặc ngủ nhờ, dặn Tỳ-kheo: Chúng tôi ngủ một chút, trời gần sáng nói cho chúng tôi biết. Đám giặc ngủ một chút rồi, hỏi Tỳ-kheo gần sáng chưa? Tỳ-kheo nói: Còn sớm. Ba lần như vậy, đêm đã về sáng, vẫn nói là còn sớm. Người lùng tìm đám giặc đến bắt chúng dẫn đi. Đám giặc nổi sân nói: Nếu Tỳ-kheo nói với ta là gần sáng thì chúng ta đã không ngủ thêm, nay ta đã bị bắt là do Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch đủ lên Đức Phật. Phật dạy: Nay Ta vì các Tỳ-kheo ở nơi Alan-nhã quy định pháp học ban đầu, nên thọ trì trọn đời, nếu không học, phạm Đột-kiết-la.
Tỳ-kheo ở A-lan-nhã nên khéo biết tướng bốn phương, khéo biết cơ nghi, khéo phân biệt tinh tú về ban đêm, biết thời tiết sớm muộn, biết nhớ ngày trong tháng, nửa tháng, cũng nên nhớ ngày tháng trong năm. Biết tướng bốn phương có những lợi ích gì? Nếu biết phương hướng, khi có giặc đến mới biết đường tránh. Khéo biết cơ nghi có những lợi ích gì? Khi giặc đến nơi, tư duy: Nên chạy trốn, nên ra rước, nên nói pháp, nên cung cấp, nên cơ nghi để tùy theo đó mà ứng dụng. Khéo phân biệt tinh tú về ban đêm có những lợi ích gì? Biết đầu đêm hình tướng tinh tú thế nào, giữa đêm và cuối đêm hình tướng tinh tú như thế nào, biết được mới biết giờ nào là giờ ngủ, giờ nào là giờ hành đạo, nếu có giặc đến hỏi mới biết sớm muộn để trả lời, nếu giặc bắt dẫn đi rồi thả, xem tinh tú biết đường về. Khéo biết số ngày trong tháng, nửa tháng có những lợi ích gì? Do đấy mới biết ngày Bố-tát, đến trong làng xóm cầu sám hối Bố-tát thanh tịnh. Khéo biết ngày tháng trong năm có những lợi ích gì? Nếu đến mùa Xuân, biết bao nhiêu ngày nữa đến thời gian an cư, trong khi an cư biết còn bao nhiêu ngày nữa đến ngày Tự tứ, nên đến trong xóm làng để cầu sám hối Tự tứ thanh tịnh. Tỳ-kheo ở A-lannhã nên ở chỗ đất bằng phẳng, nếu ở bên gốc cây, làm chỗ để rửa chân, để vật dụng rửa chân, để nước rửa chân, ngồi chỗ thường ngồi, nếu có người đến nên hoan hỷ chào hỏi, nếu có đám giặc đòi nước, nên cởi bỏ giày dép, rửa tay cho sạch, bưng nước cho họ, họ hỏi nước lạnh, nước nóng tùy theo đó mà trả lời. Nếu Ưu-bà-tắc hỏi nước, cũng nên như vậy. Nếu ngoại đạo đến hỏi nước, kẻ đó có khả năng làm tổn thương cho Phật pháp cũng áp dụng như trên, không phải hạng trên thì mang guốc dép, hai tay bưng nước đưa cho họ, đừng khiến cho họ nghĩ: Tỳ-kheo cung kính ta. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo khất thực nơi xóm làng về, không đậy nắp bát, bị nước tiểu con diều hâu rớt trong bát, Tỳ-kheo không biết, ăn, bị bệnh càn tiêu.
Lại có một Tỳ-kheo cũng từ trong xóm khất thực về, không đậy nắp bình bát, con chim Câu Lâu Đồ ngậm con rắn bay ngang qua, con rắn rớt vào trong bình bát, Tỳ-kheo tuy bỏ lớp cơm trên, ăn lớp cơm dưới vẫn bị chết, các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Phật dạy: Nếu muốn ăn tại trong xóm làng, thì cho phép đứng lại ăn. Nếu muốn mang về thì nên đậy nắp bình bát. Có các Tỳ-kheo già bệnh khất thực bưng bình bát trên tay trở về. Phật dạy: Cho phép làm cái đãy đựng bát rồi mang dưới nách. Có Tỳ-kheo mang bình bát dưới nách mồ hôi chảy ra nhớp. Phật dạy: Cho phép dùng khăn lau tay xách đem về.
Khi ấy, có Tỳ-kheo khất thực trở về nơi Alan-nhã, giặc theo sau, chúng có ý nghĩ: Nếu Tỳ-kheo này không cho ta dù chỉ một vắt cơm để ăn, ta sẽ giết. Về đến nơi, thấy giặc từ xa đến, Tỳ-kheo liền mời ăn. Giặc ăn xong, nói: Thật hy hữu! Nay ông được công đức lớn tự bố thí mạng mình, để cho tôi mạng sống, rồi tự nói lên ý niệm trước. Tỳ-kheo đem vấn đề ấy bạch Phật. Phật dạy: Nếu Tỳ-kheo kia mang thức ăn đến A-lan-nhã, có người tới nên cho họ ăn, không có người tới nên đợi một chút, đợi lâu chưa có người đến, Tỳ-kheo đói, nên ăn trước một nửa, lại vẫn chưa có người đến nên ăn một nửa còn lại, nhưng để lại một vắt. Có các Tỳ-kheo ở A-lan-nhã ăn hết thức ăn, giặc đến xin thức ăn, Tỳ-kheo không có để cho, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép Tỳ-kheo A-lan-nhã được chứa thức ăn. Nếu thức ăn khó kiếm được, Tỳ-kheo ở xóm làng nên cho, nếu không có tịnh nhân, cho phép tự mang về, tùy ý để chỗ đất tịnh hay bất tịnh. Có Tỳ-kheo tự mang thức ăn về nơi A-lan-nhã để nơi đất bất tịnh, giặc không đến xin, không biết làm thế nào. Phật dạy: Nên cho người làm hoặc người giữ vườn hay Sa-di. Nếu có các Tỳ-kheo ở A-lan-nhã cần bình, chậu, đồ đựng, Tỳ-kheo ở xóm làng nên cho, cần ngọa cụ cũng nên cho. Trên đường hành đạo, có cây hay cỏ trở ngại lối đi của Tỳ-kheo hoặc bị cây gai móc hư y. Phật dạy: Vẹt cỏ qua hai bên lề đường, hoặc dùng vật gì ngăn cản nó, cho phép buộc nhánh cây vào thân cây. Khi vẹt cỏ hay buộc nhánh cây mà nhánh lá bị gãy. Phật dạy: Không cố ý thì không phạm. Có Tỳ-kheo ở A-lan-nhã sáng sớm ra vào bị sương, thấm ướt y, y bị hoại sắc. Phật dạy: Cho phép mặc cao lên trên, cũng cho phép dùng cây gậy đập cho sương rớt hết rồi đi. Gần đến xóm làng phải mặc y đúng pháp trở lại, cây gậy đập cho sương rớt để một chỗ nào đó, khi trở về lấy về. Có Tỳ-kheo ở A-lan-nhã cần đất để nhồi bùn. Phật dạy: Nếu không có tịnh nhân thì cho phép lấy đất nơi bờ bị lở, không có bờ bị lở cho phép lấy nước tưới lên đất, trải cỏ lên rồi giậm cho thành bùn để dùng. Có Tỳ-kheo ở A-lan-nhã khi đi không dọn dẹp giường dây, giường dây, ngọa cụ của Tăng, bị hư hại, bị lửa cháy. Phật dạy: Nên dọn dẹp để một chỗ khóa cửa, giấu chìa khóa, để chỗ không có mưa, ghi nhớ, rồi đi, nếu có Tỳ-kheo khác đến, nên nói chỗ để chìa khóa.
Khi ấy, các Tỳ-kheo may y, không đo cỡ mà cắt, hoặc dài hoặc ngắn hoặc bị lệch không thành y, ráp lại cũng không được. Lại có các Tỳ-kheo thường mặc một y, trong trú xứ hay vào xóm làng cũng chỉ có y ấy. Lại có các Tỳ-kheo dùng ba y gói trái cây hay rau cải, phân bò.
Có các Tỳ-kheo dùng bát đựng thức ăn chứa rác rưới, chứa thức ăn dư, chứa thức uống sau giữa ngày, chứa hương và thuốc, hoặc không rửa cất, hoặc để giữa trời, hoặc để dưới đất, hoặc để chỗ nguy hiểm, các Tỳ-kheo đem vấn đề ấy bạch Phật. Phật dạy: Nay Ta vì các Tỳ-kheo quy định pháp học ban đầu về y bát, nên thọ trì trọn đời, nếu không học, phạm Đột-kiết-la.
Tỳ-kheo nhận được y mới (vải mới), trước hết nên giặt, đo cỡ, vậy sau mới cắt, cắt rồi nên may, may rồi nên nhuộm, lật ngược để phơi, nhuộm rồi trải xuống đất, nếu muốn treo thì phía trên, phía dưới phải làm khuy, nếu là Tăng-già-lê thì nên như pháp Tăng-già-lê mà chứa cất, không được dùng gói các vật. Ưu-đa-la-tăng, An-đà-hội các y thọ trì cũng đều như vậy, nên bảo vệ cẩn thận như bảo vệ da bọc thân. Thọ trì bát đúng pháp của bát, không được dùng bừa bãi như trên, phải bảo vệ cẩn thận như bảo vệ con mắt của mình.
Đức Phật ở nước Chiêm-bà, bên sông Hằng. Hôm ấy nhằm ngày mười lăm Bố-tát, Đức Thế Tôn cùng chúng Tỳ-kheo kẻ trước người sau vây quanh ngồi nơi đất trống, Ngài nhìn khắp trong chúng Tăng rồi im lặng đình chỉ Bố-tát. Đầu đêm đã qua, Tôn giả A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật kính lễ sát chân, quỳ gối, chấp tay bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Đầu đêm đã qua, chúng Tăng ngồi đã lâu, cúi xin Ngài vì các Tỳ-kheo thuyết giới.
Đức Thế Tôn im lặng, A-nan trở về chỗ ngồi. Giữa đêm lại qua, Tôn giả A-nan lại bạch như vậy, Phật cũng im lặng.
Cuối đêm, Tôn giả A-nan lại bạch:
Tướng ánh sáng đã sắp xuất hiện, chúng Tăng ngồi đã lâu cúi xin Ngài vì các Tỳ-kheo thuyết giới.
Đức Phật nói với Tôn giả A-nan:
Chúng không thanh tịnh, Như Lai không thể nói giới.
Khi ấy, Tôn giả Mục-liên khởi ý nghĩ: “Nay trong chúng này ai là người không thanh tịnh, nên Đức Thế Tôn mới nói lời như vậy”, bèn quan sát khắp chúng thấy một Tỳ-kheo ngồi gần bên Đức Phật là phi Tỳ-kheo mà tự nói là Tỳ-kheo, phi Samôn tự nói là Sa-môn, không tu phạm hạnh tự nói là tu phạm hạnh, thành tựu pháp ác, che giấu lỗi ấy, không bỏ tà kiến. Mục-liên từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Tỳ-kheo kia, nói: “Đức Như Lai đã thấy thầy, thầy phải đi ra khỏi chỗ này liền, đừng ngồi nơi đây nữa”, bèn nắm tay kéo bỏ ra ngoài cửa, rồi Mục-liên trở về ngồi lại chỗ cũ.
Đức Phật nói với Mục-liên:
Này Mục-liên! Lạ thật! Quái thật! Chưa từng có người ngu si như thế, không tự biết tội lỗi của mình, để đến nỗi khiến người ta kéo tay mình bỏ ra ngoài.
Ngay khi ấy, Tôn giả A-nan lại từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Trong chúng đã thanh tịnh, xin Ngài vì các Tỳ-kheo nói giới.
Đức Phật bảo:
Từ nay các ông tự cùng nhau thuyết giới. Ta không thể vì Tỳ-kheo mà giảng nói. Tại sao vậy? Nếu trong chúng không thanh tịnh mà Như Lai nói giới thì người phạm tội kia, đầu họ bị bể làm bảy phần.
Đức Phật lại bảo Tôn giả A-nan:
Biển cả có tám thứ chưa từng có: A-tu-la thích ở trong đó. Tám thứ ấy là gì? Biển cả sâu từ từ, nước thủy triều không quá hạn, không dung nạp tử thi, trăm sông chảy về, không có tên riêng, vạn dòng nước chảy về mà không tăng giảm, xuất sinh các châu báu như chân châu, ma-ni, san hô, lưu ly, ngọc kha, vàng, bạc, pha lê, chúng sinh có thân hình lớn đều ở trong đó, đồng một vị mặn. Đó là tám thứ. Chánh pháp của Ta đây là như vậy, có tám thứ chưa từng có, các Tỳ-kheo đều cùng vui sống trong ấy. Tám thứ đó là gì? Chế cấm từ từ, giáo giới từ từ, học hỏi từ từ, các đệ tử của Ta đối với những giới đã chế cấm trọn đời không dám vượt qua, có tội bị loại ra ngoài, tất cả chủng tộc xuất gia đều bỏ tộc tánh riêng mà xưng là Sa-môn Thích tử, các thiện nam, thiện nữ xuất gia nhiều vị đắc Niết-bàn Vô dư mà pháp không thêm bớt, có các pháp bảo như là bốn niệm xứ, cho đến tám Thánh đạo phần, các pháp trợ đạo, có các Đại nhân, A-la-hán hướng A-la-hán, cho đến Tu-đà-hoàn hướng Tu-đàhoàn, ở trong chánh pháp, người nào vào trong đó được hưởng vị giải thoát. Đó là tám thứ.
Bấy giờ, Lục quần Tỳ-kheo phạm tội không sám hối mà Bố-tát, có Tỳ-kheo cũng bắt chước như vậy, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm như thế, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Các Tỳ-kheo vẫn cố ý phạm tội không sám hối mà Bố-tát. Phật dạy: Nên ngăn việc Bố-tát. Có các Tỳ-kheo hoặc chưa Bố-tát bèn ngăn, hoặc Bố-tát rồi mới ngăn… những cách ngăn Bố-tát như vậy đều như pháp ngăn trong vấn đề Tự tứ đã nói.
---
Bấy giờ, các Tỳ-kheo biệt trú độ Sa-di cho thọ giới Cụ túc, làm y chỉ sư, nuôi Sa-di, các Tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy: Không nên làm như vậy.
Lại có Tỳ-kheo biệt trú nhận sự cung kính của Tỳ-kheo thiện khác, sai khiến xách y bát, giày dép. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Lại có Tỳ-kheo biệt trú thấy Tỳ-kheo như pháp đến tránh đi chỗ khác sợ biết mình là biệt trú. Phật dạy: Không nên làm như vậy.
Lại có Tỳ-kheo biệt trú mời Tăng thọ trai rồi trở về phòng riêng để ăn. Phật dạy: Không nên như vậy, nên ở dưới Đại Tỳ-kheo dọn thức ăn.
Lại có Tỳ-kheo biệt trú đi trước Tỳ-kheo như pháp. Phật dạy: không nên đi như vậy.
Lại có Tỳ-kheo biệt trú muốn đến nhà bạch y, cùng Tỳ-kheo như pháp đi. Phật dạy: Không nên đi như vậy. Lại có Tỳ-kheo biệt trú hoặc phạm lại tội cũ, hoặc lại phạm tội ác khác. Phật dạy: Không nên làm như vậy.
Lại có Tỳ-kheo biệt trú ở trước Tỳ-kheo như pháp mà không mặc y. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Lại có Tỳ-kheo biệt trú thường mặc ba y làm dính bùn nhơ nhớp. Phật dạy: Không nên làm như vậy.
Lại có Tỳ-kheo biệt trú cùng Tỳ-kheo như pháp ngồi một giường, hoặc tự mình ngồi cái giường tốt. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Lại có Tỳ-kheo biệt trú cùng Tỳ-kheo như pháp kinh hành, hoặc chính mình đi kinh hành chỗ tốt hơn. Phật dạy: Không nên đi như vậy.
Lại có Tỳ-kheo biệt trú nhận Tăng sai thuyết giới kinh. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Lại có Tỳ-kheo biệt trú làm các Yết-ma, như Yết-ma quở trách, Yết-ma khu xuất, Yết-ma y chỉ, Yết-ma cử tội, Yết-ma hạ ý. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Lại có Tỳ-kheo biệt trú cùng Tỳ-kheo như pháp nói chuyện. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Lại có Tỳ-kheo biệt trú muốn vì bốn chúng nói pháp. Phật dạy: Không nên làm như vậy.
Lại có Tỳ-kheo biệt trú không nhớ số ngày trong tháng, nửa tháng, một năm. Phật dạy: Nên biết. Lại có Tỳ-kheo biệt trú ở trước Tỳ-kheo như pháp lật ngược y, chống nạnh, mang giày dép, trùm đầu thông cả hai vai, hoặc ngồi hoặc nằm. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Lại có Tỳ-kheo biệt trú không thuận tùng theo pháp Tỳ-kheo biệt trú. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Lại có Tỳ-kheo biệt trú, Tỳ-kheo khách đến không bạch, không bạch Tỳ-kheo đi. Phật dạy: Nên bạch. Lại có Tỳ-kheo biệt trú ngày nào cũng bạch Tăng. Phật dạy: Nên bạch khi Bố-tát, nếu hành Ma-nađỏa thì nên bạch hằng ngày. Lại có Tỳ-kheo biệt trú muốn đi xa, bạch Phật. Phật dạy: Nên xả rồi đi. Nên tác pháp như thế này rồi xả. Đến một Tỳ-kheo như pháp thưa:
Đại đức xin lắng nghe! Nay tôi xả pháp biệt trú, sau sẽ phụng hành lại. Thưa như vậy Ba lần. Nếu không xả mà đi, trên đường đi thấy Tỳ-kheo phải tự nói mình là biệt trú. Các Tỳ-kheo biệt trú trên đường đi nói rộng vấn đề biệt trú, các bạch y nghe nói: Tỳ-kheo này có tội gì mà sám hối? Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Phật dạy: Trên đường đi không nên nói rộng như vậy, chỉ nên nói: Thưa Đại đức, tôi là Tỳ-kheo… phụng hành pháp biệt trú đã được (bao nhiêu) ngày, còn (bao nhiêu) xin Đại đức nhớ cho. Tỳ-kheo xả biệt trú kia đến chỗ khác, nên cầu Tăng nơi đó để hành biệt trú lại. Tăng nơi đó nên cho phép hành pháp biệt trú lại, nếu không cho thì phạm Đột-kiết-la. Lại có Tỳ-kheo biệt trú thọ pháp biệt trú rồi đến chỗ không có Tỳ-kheo ở, trong thời gian biệt trú lại phạm tội ác. Phật dạy: Tỳ-kheo biệt trú không được ở riêng một mình, không nên phạm lại tội ác, nếu phạm thì phạm Đột-kiết-la.
Lại có các Tỳ-kheo biệt trú, thọ biệt trú rồi đến chỗ Tỳ-kheo không như pháp ở. Phật dạy: Không nên làm như vậy, nếu nơi đó có một Tỳ-kheo như pháp thì cho phép ở, nếu vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Lại có Tỳ-kheo biệt trú cùng Tỳ-kheo như pháp đồng ở một nhà. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Lại có Tỳ-kheo biệt trú cùng Tỳ-kheo như pháp đồng tắm một nhà tắm. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Cho phép ôm củi vào trong nhà tắm, dọn dẹp trong nhà tắm cho sạch sẽ, đem tro, đất, tháo đậu vào, sửa chỗ ngồi cho các Tỳ-kheo, cởi áo, giày dép rồi lấy dầu thoa chà nơi chân, các vị cần nhờ gì thì làm. Lại có Tỳ-kheo không đồng biệt trú cùng tắm một nhà tắm. Phật dạy: Cho phép, nhưng theo thứ tự cung cấp những thứ cần dùng. Tỳ-kheo biệt trú có ba việc: ở đâu, ở chỗ nào cũng thấp nhất, đi sau các Đại Tỳ-kheo, dùng ngọa cụ tối hạ, ở phòng xá tối hạ. Tỳ-kheo biệt trú có ba việc theo nếp sống cũ: khi Tăng nhận được cúng dường, khi Tăng Tự tứ, khi Tăng hành bát. Tỳ-kheo Biệt trú có tám trường hợp mất pháp biệt trú: Ở nơi địa xứ không bạch, Tỳ-kheo từ ngoài đến không bạch, tự mình đi ra không bạch, vị khách đi không bạch, một mình ở một chỗ, trong khi biệt trú lại phạm tội ác, cùng với Tỳ-kheo như pháp ở chung một nhà, đi xa mà không xả biệt trú, trên đường đi thấy Tỳ-kheo mà không bạch, (bạch đang biệt trú). Hành Ma-nađỏa cũng do tám việc này bị mất. Trừ ở riêng một chỗ, nơi không đủ Tăng hai mươi vị mà phụng hành, còn bảy việc kia như trên.
Bấy giờ, Trưởng lão Ưu-ba-ly thưa hỏi Đức Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Tu-đề-na Ca-lan-đà-tử có phải phạm Ba-la-di hay không?
Đức Phật dạy: Lần đầu đều không phạm.
Lại hỏi: Tỳ-kheo ở A-lan-nhã ấy có phạm hay không? Đức Phật dạy: Phạm.
Có một Tỳ-kheo bị bệnh cuồng loạn, hành dục lúc bệnh cuồng loạn, sinh nghi hỏi Phật: Phật dạy: Người cuồng loạn đều không phạm. Tâm tán loạn, tâm bệnh hoại cũng như vậy. Tôn-đà-la-nanđà-bạt-kỳ-tử không xả giới, hành pháp dục, sau nghi hỏi Phật. Phật dạy: Phạm.
Có một Tỳ-kheo cùng người nữ hai căn hành dục, có một Tỳ-kheo cùng người nữ hai đường hiệp lại hành dục, có một Tỳ-kheo cùng huỳnh môn hành dục, có một Tỳ-kheo cùng nam tử hành dục, có một Tỳ-kheo cùng tiểu nhi hành dục, sau đều sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Đều phạm. Có một Tỳ-kheo cùng tiểu nữ hành dục, tiểu nữ chết, nghi phạm hai tội Ba-la-di, hỏi Phật. Phật dạy: Dâm phạm Ba-la-di, tiểu nữ chết, phạm Thâu-lan-giá. Có một Tỳ-kheo làm một tượng người nữ bằng cây, hành dục, sau nghi hỏi Phật. Phật dạy: Xuất bất tịnh phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không xuất phạm Thâu-lan-giá, tượng người nữ bằng bùn hay vẽ cũng vậy. Có một Tỳ-kheo cùng với voi hành dục, sau khi nghi hỏi Phật. Phật dạy: Phạm. Tất cả súc sinh cũng như vậy.
Lúc này, tại thành Vương-xá có một Ưu-bà-di tin ngu khởi lên ý kiến: “Dùng dâm dục để bố thí là bậc nhất”, bèn mời Tỳ-kheo đến để bố thí. Các Tỳ-kheo nói: Chị em không nên làm như vậy, đó là điều Đức Phật cấm. Người nữ lại nói: Nằm mà làm thì phạm chứ đứng mà làm không gọi là phạm. Tỳ-kheo liền làm theo lời nói, sau đó nghi hỏi Phật. Phật dạy: Phạm. Ngồi làm, sau lưng dâm nữ, người nữ động, Tỳ-kheo không động cũng như vậy.
Lúc ấy, nơi thành Xá-vệ có Ưu-bà-di tin ngu, tên là Thiện Khinh, khởi lên ý kiến: “Dùng pháp dâm dục là cách bố thí bậc nhất”, bèn mời các Tỳ-kheo đến bố thí. Các Tỳ-kheo nói: Chị em không nên làm như vậy, đó là điều Phật cấm. Người nữ lại nói: Ba chỗ thì phạm chứ nơi bắp vế, nơi rún, tất cả các chỗ như thế không gọi là phạm. Tỳ-kheo liền làm theo lời nói, sau đó nghi hỏi Phật. Phật dạy: Xuất bất tịnh đều phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không xuất đều phạm Thâu-lan-giá. Khi đó, có Tỳ-kheo ở A-lan-nhã nằm ngủ mê nơi chỗ đất trống, có người nữ thấy, ở bên trên hành dâm. Tỳ-kheo thức dậy thấy đồ bất tịnh nhớp thân, lại thấy người nữ từ chỗ mình đi ra, sinh nghi, thưa hỏi Phật. Phật hỏi: Ông có thọ lạc hay không? Tỳ-kheo thưa: Không thọ lạc. Phật dạy: Không phạm, nhưng ngủ mê nơi đất trống, phạm Đột-kiết-la, mở cửa phòng ngủ cũng như vậy.
Lại có một Tỳ-kheo nằm ngủ mê nơi đất trống, có người nữ thấy, ở bên trên hành dâm, Tỳ-kheo khi thức dậy thọ lạc, sinh nghi hỏi Phật, Phật nói: Phạm.
Nơi Tỳ-xá-ly có một Tỳ-kheo chứng A-la-hán bị bệnh phong, cả cơ thể đều cứng thẳng, người nuôi bệnh để nằm nơi đất trống, vào xóm khất thực. Có người nữ đi đến, ở bên trên hành dâm. Hành dâm rồi nam căn của Tỳ-kheo vẫn cương thẳng như cũ, các người nữ nói: “Đây là hùng sĩ”, liền dùng hương thoa, tràng hoa đeo nơi “Đầu” đảnh lễ rồi đi. Người nuôi bệnh trở về thấy đồ bất tịnh nhớp cả thân thể vị ấy, khởi ý nghĩ: “Tỳ-kheo này không tu phạm hạnh, phá giới tịnh, ta sẽ trưởng tịnh cho Tỳ-kheo ấy”, nhưng lại nghĩ: “Đức Thế Tôn không cho phép trưởng tịnh cho Tỳ-kheo bệnh”, nên đợi vị kia lành đã. Vị Tỳ-kheo bệnh kia lành rồi bèn trưởng tịnh cho vị ấy, nói: Trước đây, khi thầy bệnh, thầy phá giới. Tỳ-kheo kia trả lời: Khi tôi bị bệnh như vậy, thân thể cường trực, không thể tự hoạt động, chẳng phải là phá giới. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Đức Phật dạy: Tỳ-kheo này đã chứng A-la-hán, bị bệnh phong nên cường trực, không thể tự hoạt động, không thọ lạc nên không phạm. Tỳ-kheo nuôi bệnh để bệnh nhân nằm nơi đất trống mà đi, phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, có Tỳ-kheo lấy nam căn châm vào miệng của Tỳ-kheo khác, sau đều sinh nghi thưa hỏi Phật. Đức Phật dạy: Nếu người châm mà vì vui chơi thì phạm Thâu-lan-giá, người thọ chẳng phải vì vui chơi thì phạm Ba-la-di, nếu người thọ mà vui chơi thì phạm Thâu-lan-giá, người châm chẳng phải vì vui chơi thì phạm Ba-la-di, nếu cả hai đều vì vui chơi thì phạm Thâu-lan-giá, nếu cả hai đều chẳng phải vì vui chơi thì đều phạm Ba-la-di.
Lúc ấy, các Tỳ-kheo cùng bạch y tắm chung trong một nhà tắm, bạch y lưu ý hình tướng của quý vị đem nói với các người nữ, hơn nửa thân va chạm nhau sinh tâm nhiễm đắm, đưa đến tình trạng hoàn tục, hoặc làm ngoại đạo. Các Tỳ-kheo đem vấn đề ấy bạch Phật. Phật dạy: Không nên tắm như vậy. Nếu cùng bạch y tắm trong một nhà tắm, phạm Thâu-lan-giá. Có một Tỳ-kheo Ma-hala trong mộng cùng với bổn nhị hành dâm, thức dậy chạy ra ngoài phòng cao giọng la lớn: Tôi chẳng phải Sa-môn, chẳng phải Thích chủng tử. Các Tỳ-kheo hỏi: Vì sao? Ma-ha-la trả lời: Tôi cùng với bổn nhị hành dâm. Các Tỳ-kheo hỏi: Bổn nhị của thầy nay ở đâu? Tỳ-kheo nói: Ở tại ấp…, sinh quán của tôi. Các Tỳ-kheo hỏi: Người ấy đến đây hay là thầy đến đó? Người ấy không đến đây mà tôi cũng không đến đó. Các Tỳ-kheo lại hỏi: Như vậy làm như thế nào cùng nhau hành dâm? Đáp: Hành dâm trong mộng. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Phật dạy: Không phạm, nhưng không hệ niệm tại tiền mà ngủ, phạm Độtkiết-la.
Có một Tỳ-kheo đứng tiểu tiện, con chó đến ngậm nam căn, sinh nghi, thưa hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm, nhưng đứng mà tiểu tiện, phạm Đột-kiết-la. Trú xứ của Tỳ-kheo không nên nuôi súc sinh như vậy, nếu nuôi, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo nam căn dài, do tâm dục tự mình châm vào đường đại tiện, sinh nghi, thưa hỏi Phật. Phật dạy: Phạm. Có một Tỳ-kheo thân thể mềm, lấy nam căn tự để vào trong miệng cũng như vậy. Có một Tỳ-kheo tọa thiền, ma nữ đến đứng trước mặt, Tỳ-kheo thấy sinh tâm nhiễm đắm, bỗng đứng dậy nắm người nữ kia, người nữ bèn chạy, Tỳ-kheo cũng chạy theo. Người nữ đến nơi xác của một con ngựa chết, rồi biến mất, Tỳ-kheo bèn hành dâm nơi con ngựa, liền sinh tâm hối hận nói với các Tỳ-kheo. Các Tỳ-kheo đem vấn đề bạch Phật. Phật dạy: Cho phép Tăng trao cho Tỳ-kheo kia pháp Ba-la-di, bằng Bạch-tứ-Yết-ma. Tỳ-kheo kia nên đến giữa Tăng, cởi bỏ giày dép, để trống vai bên phải, kính lễ sát chân Tăng, quỳ gối, chấp tay, bạch: Tôi Tỳ-kheo tên là… phạm dâm, liền sinh tâm ăn năn, không che giấu, nay đến trước Tăng xin pháp Yết-ma Ba-la-di, cúi xin Tăng cho tôi pháp Yết-ma Ba-la-di. Xin như vậy Ba lần. Tăng sai một Tỳ-kheo biết pháp đọc:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… phạm dâm, liền sinh tâm ăn năn, không che giấu, đến Tăng xin Yết-ma Ba-la-di. Nay Tăng trao cho pháp Yết-ma Ba-la-di. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tỳ-kheo này tên là… phạm dâm… cho đến câu: Nay Tăng trao cho pháp Yết-ma Ba-la-di. Các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng như vậy.
Tăng đã trao cho Tỳ-kheo… pháp Yết-ma Ba-la-di rồi. Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Tỳ-kheo kia trọn đời không được thọ thức ăn nơi Đại Tỳ-kheo mà tự mình thọ nơi tịnh nhân. Khi Bố-tát, Tự tứ, làm các pháp Yết-ma, vị ấy đến thì tốt, không đến hai bên (Tăng và đương sự) không phạm.
Có Tỳ-kheo cùng với Thiên nữ, Long nữ, Atu-la nữ hành dâm, sinh nghi bạch Phật. Phật dạy: Đều phạm.
Có một Tỳ-kheo đến nhà người, nơi làm thức ăn, lấy một bát canh, sinh nghi, hỏi Phật, Phật nói: Thầy lấy với tâm gì? Tỳ-kheo thưa: Con lấy với tâm trộm cắp. Đức Phật dạy: Nếu trị giá năm tiền thì phạm Ba-la-di, nếu dưới năm tiền thì phạm Thâu-lan-giá, vào trong vườn của người hái cây, rau trái cũng tính như vậy. Có Tỳ-kheo bị cướp, cướp đoạt giành lại được y vật, sinh nghi, thưa hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm.
Lại có Tỳ-kheo bị giặc cướp đoạt, vật đã vào trong tay giặc, hoặc giặc đã mang đi, sau đó chạy theo lấy lại được, sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Tâm của thầy đã xả chưa? Tỳ-kheo thưa: Chưa xả. Đức Phật dạy: Chưa xả không phạm, đã xả thì phạm. Có Tỳ-kheo ở nơi A-lan-nhã thấy con heo rừng bị bắn chạy đến, cùng nhau bàn nói: Đừng chỉ cho thợ săn. Thợ săn tìm đến hỏi Tỳ-kheo: Thấy con heo rừng bị bắn chạy đến đây không? Tỳ-kheo nói: Chỗ nào có heo? Heo của ai? Không có heo. Sau đó, Tỳ-kheo lại nghĩ: Ta nói không có heo, đâu không mắc tội giấu heo, sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm. Nếu có nhân duyên như vậy, những cách nói để đánh lạc hướng của người kia đều không phạm tội. Có Tỳ-kheo ở Alan-nhã thấy người thợ săn bắt được con nai sống cột lại, rồi bỏ đi, Tỳ-kheo do lòng từ bi nên mở thả, sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm, song không nên đối với vật của người mà tự tiện thả như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Vì lòng từ bi mà thả tất cả súc vật của người cũng đều như vậy. Có Tỳ-kheo thấy Câu-lâu-đồ ngậm miếng thịt dồi lên để chơi, bảo nó nhả ra, sinh nghi, thưa hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm, song không nên đối với việc vô ích mà tìm cách làm mất phần của nó, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có một Tỳ-kheo thấy con bò của người đi trên đường, với tâm trộm cắp rượt đuổi, liền sinh hối hận, xả bỏ, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm, nhưng mắc tội Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo thấy vật trôi trên nước vớt được, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Nếu trị giá năm tiền thì phạm Ba-la-di. Có Tỳ-kheo đi cách Kỳ-hoàn không xa, thấy một người cày ruộng, nói: Đây là ruộng của Tăng, ông đừng cày. Người cày nghĩ: Các Tỳ-kheo có thế lực, nếu kiện tụng thì ta sẽ bị thua, bèn không cày. Tỳ-kheo liền trở về Kỳ-hoàn, hỏi các Tỳ-kheo: Ruộng ấy của ai? Các Tỳ-kheo nói:
Ruộng ấy của Cư sĩ tên là…, bèn sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm, nhưng trong trường hợp vô ích mà nói khiến cho họ mất, đều phạm Đột-kiết-la. Khi ấy đám mười bảy Đồng tử bị giặc bắt, cha mẹ chúng khóc kể áo não, Tất-lăng-già-bà-ta đi khất thực qua đó, thấy thế hỏi họ: Việc gì vậy? Họ trình bày đầy đủ sự việc. Tất-lăng-già-bà-ta liền nhập định để quan sát thì thấy đám giặc đem để nơi A-di-la-hà-châu, bèn dùng thần túc bắt trở lại, mỗi đứa được đưa về nhà chúng trên tầng lầu. Tất-lăng-già-bà-ta nói với cha mẹ chúng: Đừng nên khóc nữa, con của các người nay đã trở về giỡn chơi trên từng lầu. Sau đó nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm, nhưng mắc tội Đột-kiết-la. Có Tỳ-kheo vì lợi dưỡng tự nói mình lớn tuổi đối với người khác, sau nghi hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm, nhưng cố ý vọng ngữ mắc tội Ba-dật-đề.
Có một trú xứ, Tỳ-kheo cùng bạch y dùng chung một cái giếng, bạch y với tâm trộm cắp lấy nhiều nước hơn, Tỳ-kheo cũng với tâm trộm cắp, khởi ý niệm: Nay ta chuyện gì phải chỉ một mình không lấy nhiều, nhưng chưa lấy, sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Nếu lấy nước của người mà lấy dư, trị giá năm tiền thì phạm Ba-la-di.
Có Tỳ-kheo ở nơi chỗ kia, lấy trộm y của người, trị giá năm tiền, đến chỗ này bán không được năm tiền, nghĩ là không phạm Ba-la-di, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Nơi lấy cắp trị giá năm tiền phạm Ba-la-di. Nếu ở chỗ kia không trị giá năm tiền, đến đây bán trị giá năm tiền thì phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo trộm kinh Phật của người, cho là lời Phật dạy không phạm, sau nghi hỏi Phật. Phật dạy: Tính theo giấy bút và công phu của sách, trị giá năm tiền thì phạm.
Bấy giờ, tại Câu-xá-di có một ông Trưởng giả, thấy pháp đắc quả, thường cung cấp cho các Tỳ-kheo. Ông Trưởng giả và người chị mỗi người có một người con. Hai người thường cùng nhau cúng dường Tỳ-kheo Trưởng lão A-thù. Ông Trưởng giả khi gần lâm chung, chỉ chỗ chôn cất của báu cho Tỳ-kheo A-thù và nói: Sau khi con qua đời, trong hai đứa nhỏ này, đứa nào tin ưa Phật pháp, đối với các Tỳ-kheo thường không tiếc của thì thầy chỉ chỗ chôn cất của báu này cho nó. Nói rồi liền trút hơi thở cuối cùng. Sau đó, Tỳ-kheo Athù xét thấy trong hai đứa nhỏ, thằng con của ông Trưởng giả lại quay lưng với chánh pháp, người con của bà chị lại tin ưa Phật pháp, bèn nói với đứa con của bà chị biết chỗ chôn của báu. Con của ông Trưởng giả nghe liền đến chỗ Tôn giả Anan hỏi: Tài sản của cha để lại nên thuộc về của ai? Tôn giả A-nan nói: Nên thuộc về người con.
Con ông Trưởng giả liền nói với Tôn giả A-nan: Của báu của cha tôi cất giấu, Tỳ-kheo A-thù lại giao cho con của cô tôi. A-nan liền đến nói với Athù: Thầy chẳng phải là Sa-môn, chẳng phải là Thích chủng tử. A-thù trả lời: Tôi là Sa-môn, là Thích chủng tử, chính tôi đủ tư cách y theo các kinh, luật để phán quyết việc này. A-nan nói: Việc này nó như vậy, cần gì đến Kinh, Luật. Khi ấy, các Tỳ-kheo Trưởng lão đều yểm trợ cho chủ trương của A-thù. Hai chúng của A-nan và A-thù chia rẽ nhau, trong thời gian sáu năm không hòa hợp, cùng an cư một trú xứ mà không Bố-tát, Tự tứ. Tiếng đồn khắp hết, đến tận trời Phạm thiên. Bấy giờ, La-hầu-la du hóa nơi thành Ca-duy-lavệ, các Thích chủng nữ đều cùng nhau ra nghinh đón, trình bày đầy đủ việc trên và than phiền: Tại sao Đức Thế Tôn Nê hoàn chưa bao lâu, chúng Tăng lại kéo dài không hòa hợp sáu năm?! Chúng con muốn chúng Tăng hòa hợp mà không còn biết làm cách nào! La-hầu-la nói: Tôi sẽ chỉ cho các người khiến cho quý vị đó hòa hợp như sau: Thế nào Tôn giả A-nan cũng đến đây, các người có con nhỏ đều nên bồng ra để đón tiếp Tôn giả. Khi ấy, các người để các hài nhi xuống đất, thế nào các hài nhi cũng sẽ khóc, Tôn giả sẽ hỏi: Tại sao các bà không bồng nó lên? Các bà sẽ trả lời: Nếu Trưởng lão cùng A-thù hòa hợp, sau đó chúng con mới bồng các cháu lên. Các bà dùng phương tiện này có thể khiến cho các vị ấy hòa hợp. Thời gian không lâu sau, A-nan đến, năm trăm Thích nữ bồng các hài nhi ra đón, và để các cháu xuống dưới đất, trước mặt A-nan, các hài nhi liền khóc lớn, quả thật Tôn giả A-nan nói: Tại sao không bồng các cháu lên? Các bà đồng thanh trả lời: Nếu Trưởng lão cùng với A-thù hòa hợp, khi ấy chúng con mới bồng các cháu lên. Tôn giả A-nan cảm thông được nỗi lòng của các bà, lại thương các hài nhi nên nói: Chị em bồng các cháu lên, tôi sẽ cùng với A-thù hòa hợp. Tôn giả A-nan liền trở về họp chúng Tăng. Ưu-ba-ly hỏi A-nan: Tỳ-kheo không cho mà lấy có mấy hạng phi Sa-môn, phi Thích chủng tử? A-nan trả lời: Có ba hạng: Tự mình lấy, dạy người lấy, khiến cho người lấy. Ưu-ba-ly hỏi A-thù: Thầy có tự lấy, có dạy người lấy, có khiến người lấy hay không? A-thù trả lời: Không. Ưu-ba-ly lại hỏi A-nan: Tỳ-kheo A-thù có lỗi gì? A-nan nói: A-thù không có lỗi, chính tôi là người có lỗi. Thế là A-nan giữa Tăng dõng dạc nói lớn: Chính tôi, A-nan có lỗi, A-thù không có lỗi. A-nan bèn hướng đến A-thù sám hối để hòa hợp.
Có một Tỳ-kheo vốn là một đứa trẻ ăn trộm, nói với các Tỳ-kheo: Có thể cùng tôi đến xóm làng kia lấy vật dụng. Các Tỳ-kheo bèn làm theo lời nói của vị ấy đến trước để lấy. Tỳ-kheo kia sau đó sinh nghi, hỏi Phật: Con dạy người lấy trộm vật như vậy, phạm Ba-la-di hay không? Phật dạy: Không phạm, nhưng mắc tội Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo lấy y phủ trên gò mả của người ta, lấy cờ phướn trên gò mả, y trong gò mả, vật trong miễu thần có người giữ gìn, sinh tâm che giấu, hỏi Phật. Phật dạy: Tâm người khác chưa xả mà lấy, trị giá năm tiền đều phạm Ba-la-di, vật ở trong miếu tuy không có chủ, mà là nhà quan bảo hộ, cũng như vậy. Có Tỳ-kheo giận người khác, hoặc đốt nhà của họ, hoặc đốt ruộng lúa của họ, tài sản của họ, sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm, nhưng mắc tội Thâu-lan-giá, vì giận mà phá hoại vật của người khác cũng như vậy. Có Tỳ-kheo lượm cái đãy đựng một ngàn lượng vàng trong hang chuột, lấy với tâm tham, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Thuộc về vật của chuột, không phạm, nhưng mắc tội Thâu-lan-giá, nếu với tâm trộm cắp đoạt của cầm thú, cũng như vậy. Có các Tỳ-kheo nơi bữa ăn, vội ăn phần của người khác, người khác hỏi: Ai ăn phần của tôi? Tỳ-kheo kia nói: Tôi ăn. Người kia nổi sân, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Chẳng phải tâm trộm cắp thì không phạm, nhưng không nên vội nghĩ được sự đồng ý mà ăn phần của người, vi phạm, phạm Đột-kiếtla. Có Tỳ-kheo đánh bạc lấy tiền của người, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm, nhưng mắc tội Đột-kiết-la. Có hai Tỳ-kheo đồng ý mặc y của nhau, sau giận nhau hủy báng cho là ăn trộm, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm, nhưng không vội đồng ý mặc y của người khác, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Bấy giờ, Bạt-nan-đà cùng với người khách buôn đồng đi trên một lộ trình, khi đến chỗ thuế quan, người khách buôn đến Bạt-nan-đà mượn cái đãy, âm thầm bỏ viên ngọc đại quý giá vào trong, rồi trả cái đãy lại, Bạt-nan-đà không biết qua khỏi chỗ quan thế rồi, người khách buôn đòi lại viên ngọc trong đãy, Bạt-nan-đà nói: Tôi không lấy ngọc của người. Người khách buôn nói: Thật sự thầy không lấy ngọc của tôi, nhưng vừa rồi tôi mượn cái đãy của thầy, tôi bỏ viên ngọc vào trong đãy, Bạt-nan-đà liền trả lại viên ngọc, rồi sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm, nhưng muốn qua khỏi chỗ quan thuế, có người mượn vật gì, khi trả lại cần đập giũ và xem kỹ, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Lúc đó, có đệ tử của Tỳ-kheo-ni Chiên-đồ-tuma-na, đến nơi nhà đàn-việt của thầy, nói dối: Thầy bệnh, cầu ba thứ cháo thuốc, nhận được rồi, ra ngoài ăn. Vợ người chủ nhà sau đó đến thăm, hỏi: Sư cô bệnh lành chưa? Tỳ-kheo-ni nói: Tôi đâu có bệnh, tại sao lại hỏi? Người đàn-việt trình bày sự việc đầy đủ. Sư cô nói với đệ tử: Cô ăn trộm cháo của tôi. Cô đệ tử nói: Thật sự con không ăn trộm, đối với Hòa thượng con có khởi ý nghĩ là đồng ý con mới lấy, rồi sinh nghi hỏi Phật.
Phật dạy: Không khởi tâm ăn trộm thì không phạm, nhưng cố ý vọng ngữ nên mắc tội Ba-dật-đề.
Có Tỳ-kheo thấy ruộng của người chủ không có nước, tháo nước của người khác để tưới, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Nếu trị giá năm tiền thì phạm. Có Tỳ-kheo ở chỗ cao quăng y của người khác cho Tỳ-kheo ở dưới thấp, cả hai đều sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Nếu với tâm ăn trộm mà quăng thì phạm Ba-la-di, không có tâm trộm mà lấy phạm Thâu-lan-giá, nếu không có tâm trộm mà quăng thì phạm Thâu-lan-giá, với tâm trộm mà lấy, phạm Ba-la-di, cả hai đều với tâm trộm thì đều phạm Ba-la-di, cả hai đều không có tâm trộm đều phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo với tâm trộm đổi lấy vật tốt của Tăng, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Vật đổi trị giá năm tiền thì phạm. Khi ấy, có Tỳ-kheo lấy đá quăng con rắn lại nhắm trúng người chết, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Thầy quăng với tâm gì? Tỳ-kheo thưa: Muốn quăng cho con rắn chết. Đức Phật dạy: Người chết, không phạm, quăng con rắn, phạm Đột-kiếtla.
Có Tỳ-kheo giết con khỉ cái giống con người, sinh nghi hỏi Phật. Đức Phật dạy: Đoạt mạng sống của súc sinh, phạm Ba-dật-đề. Có một người đàn bà, chồng đi vắng không có ở nhà, tư thông với người hàng xóm, có thai, đến vị Tỳ-kheo thường cúng dường xin thuốc để phá thai, vị Tỳ-kheo cho thuốc, thai bị hư mà bà mẹ không chết, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Phạm. Nếu muốn phá thai mẹ chết mà thai không chết phạm Thâu-lan-giá, nếu đều chết phạm Ba-la-di, nếu đều không chết phạm Thâu-lan-giá. Đè bụng cho đọa thai cũng như vậy.
Có các Tỳ-kheo không ưa tu phạm hạnh, mà không bỏ đạo, trở thành người hạ tiện, tìm sự chết bằng cách từ trên cao lao mình xuống, trúng nhằm trên mình người dưới, người ở dưới chết mà mình không chết, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Thầy làm như vậy với tâm gì? Đương sự thưa: Muốn tự hủy mình. Phật dạy: Người kia chết không phạm, nhưng tạo phương tiện để tự hủy mình đều phạm Thâu-lan-giá. Có hai Tỳ-kheo trước giận nhau, cùng nhau đi trên một đường, trên đường đi đánh nhau, một người bị chết, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Thầy làm như vậy với tâm niệm gì? Đương sự thưa: Với tâm giận. Phật dạy: Không có tâm sát, không phạm, nhưng giận Tỳ-kheo khác, mắc tội Ba-dật-đề. Từ nay không cho phép người cùng giận nhau, chưa sám hối tạ tội mà cùng nhau đi một đường, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có Tỳ-kheo đánh quỷ chết, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo muốn giết người này mà nhầm người kia, sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy:
Không phạm, nhưng mắc tội Thâu-lan-giá.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo vì lợi dưỡng, bằng mọi cách khen ngợi người khác thành tựu giới, thành tựu định, tuệ giải thoát, giải thoát tri kiến, âm thầm tự cho mình là tốt, rồi sinh nghi hỏi Phật. Phật dạy: Nếu tất cả đều như vậy, không phân minh tự thuyết, thì đều phạm Thâu-lan-giá.
Tại Tỳ-xá-ly có một đại thọ, bóng mát che được năm trăm cỗ xe, Tỳ-kheo-ni Hoa-sắc thấy, nói với các Tỳ-kheo-ni: Khi tôi ở trên cõi trời, chiếc hoa “Chúy nhĩ biên” lớn… như cây này. Các Tỳ-kheo-ni gọi đó là điều vô lý, bằng mọi cách quở trách: Tại sao Tỳ-kheo-ni lại tự nói được pháp hơn người, bạch Phật. Phật dạy: Trên cõi trời thật có chiếc hoa như vậy, Tỳ-kheo-ni Hoa-sắc nói thật, không phạm.
Tỳ-kheo-tỳ-la-trà-tư-ha bị bệnh ghẻ gồm năm trăm mụt, lở lói hôi hám không thể nhìn được. Tỳ-kheo-ni Hoa-sắc cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni đến thăm. Hoa-sắc thấy rồi bèn cười. Các Tỳ-kheo-ni quở trách: Tại sao không có tâm từ bi thấy Tỳ-kheo như vậy lại cười. Hoa-sắc trả lời: Tỳ-kheo này đời quá khứ là một vị quốc vương, tên là Tỳ Kiệt Bà, lúc ấy tôi là đệ nhất phu nhân. Nhà Vua đã cưỡng bức lấy năm trăm đồng nữ, phá hỏng cuộc đời của họ, do nhân duyên ấy, vô số trăm ngàn vạn năm bị đọa vào địa ngục, bị khổ độc thiêu đốt, và dư báo nhận lấy năm trăm mụt ghẻ ấy. Các Tỳ-kheo-ni nói: Không có lý này, bằng mọi cách quở trách: Tại sao Tỳ-kheo-ni lại xưng đắc pháp hơn người, bạch Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo kia thật sự có như vậy, Hoa-sắc nói đúng sự thật, không phạm.
Khi ấy, Trưởng lão Mục-liên nói với các Tỳ-kheo: Tôi thấy ao A-nâu-đạt có bông sen lớn như bánh xe, các Tỳ-kheo không tin, cho là hư dối nói để được pháp hơn người, bạch Phật. Phật dạy: Thật có bông sen này, Mục-liên nói đúng sự thật, không phạm. Có các Tỳ-kheo nói dối được pháp hơn người, nói như thế này: Tôi có nhân duyên nghiệp báo về Thiên nhãn, Thiên nhĩ, Tha tâm trí, sau nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Không phạm, nhưng mắc tội Thâu-lan-giá. Có các Tỳ-kheo nói dối được pháp hơn người, nói như thế này: Tôi được Thiên nhãn, Thiên nhĩ, Tha tâm trí, đã hết các lậu, sau nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Phạm. Có một Bà-la-môn mời Tăng thọ trai, thưa: Đại đức, chư La hán phó trai, thọ trai xong nói: Các La hán quy bản sở. Các Tỳ-kheo sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Người ta tự nói lời khen ngợi ấy nên không phạm. Có các Tỳ-kheo vì lợi dưỡng ngồi dậy, đi đứng, nói năng an tường, do đó hiện được tướng đạo, muốn cho người biết, sau nghi, hỏi Phật. Phật dạy:
Hiện những tướng khác lạ như vậy đều phạm Thâu-lan-giá. Có các Tỳ-kheo khi gần mạng chung theo nghiệp phải đọa địa ngục, đều thấy các tướng địa ngục A bàn tại tiền. Lại có Tỳ-kheo theo nghiệp được sinh thiên, đều thấy chư Thiên, cung điện, nghe thấy âm nhạc, thiên tử, thiên nữ tại tiền, nói năng đều dùng tiếng nói của loài người, sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Đó là đoan tướng sẽ được sinh, chẳng phải vọng ngữ, không phạm. Có các Tỳ-kheo vốn muốn nói việc khác, sau chẳng phải dụng ý nói pháp hơn người, sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Chẳng phải là bổn ý, không phạm, nhưng mắc tội Thâu-lan-giá.
Có các Tỳ-kheo nói với bạch y: Nếu có người ở trong phòng của người đều thành tựu đạo quả như vậy, như vậy, sau tự đến ở, sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Sử dụng những phương tiện như vậy đều phạm Thâu-lan-giá. Có các Tỳ-kheo tự nói được pháp hơn người, muốn khiến cho người nghe mà phi nhân nghe, lại muốn cho phi nhân nghe mà người nghe, lại muốn người cùng phi nhân nghe mà không ai nghe, đều sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Đều phạm Thâu-lan-giá.
Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên nói với các Tỳ-kheo: Vợ Cư sĩ… sẽ sinh con trai, khi người vợ Cư sĩ đang sinh ra, thai chuyển thành nữ. Vua Batư-nặc cùng Vua A-xà-thế, hai bên chiến đấu, Mục-liên nói: Vua Ba-tư-nặc sẽ thắng, nhưng ngược lại, không như vậy, sau lại tập hợp binh sĩ để chiến đấu, Mục-liên lại nói: Vua A-xà-thế sẽ thắng, cũng ngược lại, không như vậy, các Tỳ-kheo chê trách nói: Tại sao dối nói được pháp hơn người, bạch Phật. Phật dạy: Như lời Mục-liên nói, chỉ quan sát giai đoạn trước, không quan sát giai đoạn sau, nên như vậy. Có các Tỳ-kheo gãi chỗ kín, xuất bất tịnh, sinh nghi hỏi Phật, Phật nói: Ông làm với tâm niệm thế nào? Tỳ-kheo thưa: Trước sau đều không có ý cho xuất. Phật dạy: Không phạm, nếu có ý muốn cho nó xuất thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, muốn xuất mà không xuất, phạm Thâu-lan-giá. Dùng nước nóng tắm, hay là hơ lửa mà bất tịnh xuất đều như vậy. Có Tỳ-kheo nhớ việc hành dục mà xuất bất tịnh, sinh nghi, hỏi Phật. Phật nói: Ông nhớ với ý gì? Tỳ-kheo thưa: Con nhớ việc hành dục, bất tịnh tự xuất. Phật dạy: Không phạm, nhưng nhớ việc hành dục, phạm Đột-kiết-la. Có Tỳ-kheo cố dùng “Hình” chống đỡ cái y, xuất bất tịnh, nghĩ là không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, hỏi Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo như vậy mà xuất bất tịnh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không xuất thì phạm Thâu-lan-giá. Có Tỳ-kheo ở bên tượng người nữ, xuất bất tịnh, sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Nếu xuất bất tịnh thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không xuất thì phạm Thâu-lan-giá.
Lúc này, có Tỳ-kheo dùng khuỷu tay nâng thân người nữ, lại có Tỳ-kheo dùng cái móc bình bát kéo người nữ, sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy:
Đều phạm Thâu-lan-giá. Nếu nắm y của họ, kéo đẩy dây, gậy của họ cũng như vậy. Có Tỳ-kheo, người nữ ở trên giường, trên thuyền, trên xe, trên cây, với tâm dục làm lay động, sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo như vậy đều phạm Thâu-lan-giá.
Bấy giờ, có người nữ mặc thanh y, Tỳ-kheo thấy nói chị em hứa cho tuổi thanh xuân, sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Phạm Thâu-lan-giá, nếu nhân hình dáng như vậy mà nói ác ngữ đều như vậy. Bấy giờ có vợ chồng cãi nhau không hòa hợp, Tỳ-kheo đi đến muốn tạo hòa hợp, sinh nghi, hỏi Phật. Phật dạy: Nếu nghĩa vợ chồng đã xa lìa mà tạo hòa hợp thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa, nếu chưa lìa thì không phạm.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn trở về Xá-di, chưa đến thành Ca-duy-la-vệ, dừng chân bên gốc cây Nicâu-loại. Vua Tịnh Phạn ra nghinh đón, từ xa thấy dung mạo Đức Thế Tôn đặc thù, giống như núi vàng, đến trước Đức Phật kính lễ sát chân, nói kệ:
Khi sinh thầy tướng đoán
Tôi nghe kính lễ đầu
Lần hai cúi lễ cây
Lần Ba-lại thành đạo.
Nhà Vua nói kệ rồi liền ngồi qua một bên, Đức Phật vì Vua giảng nói các pháp diệu… cho đến câu: Thấy pháp đắc quả, từ chỗ ngồi đứng dậy để trống vai bên phải, quỳ gối chấp tay, bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Cho tôi được xuất gia thọ giới Cụ túc.
Đức Phật liền quan sát vấn đề, thấy nhà Vua xuất gia không thuận tiện, liền tâu:
Đừng phóng dật, tuần tự sẽ được pháp diệu này.
Khi ấy, nhà Vua cầu thọ Tam quy, Ngũ giới. Thọ năm giới rồi, Đức Phật lại nói các pháp diệu, chỉ vẽ sự lợi ích khiến Vua vui mừng rồi trở về chỗ cũ. Nhà Vua về đến trước sân hoàng cung, Ba lần thứ ban lệnh: Ai muốn xuất gia trong chánh pháp luật của Như Lai thì tùy nguyện. Khi ấy, Cù-đàm-di Ma-ha-ba-xà-ba-đề nghe nhà Vua ra lệnh như vậy, liền cùng năm trăm Thích nữ kẻ trước, người sau vây quanh, mang hai chiếc y mới để chỗ Đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân, rồi bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Tự tay con dệt hai chiếc y này, nay xin dâng cúng, mong Thế Tôn rủ lòng thương thọ nhận.
Đức Phật dạy:
Nên cúng cho Tăng để được quả báo lớn. Bà lại bạch như trên.
Đức Phật dạy: Nên cúng cho Tăng, trong Tăng có Như Lai.
Bà lại bạch như rên.
Đức Phật dạy:
Như Lai nhận một, còn lại một cúng cho Tăng.
Khi ấy, bà mới vâng theo lời dạy, dâng cúng cho Phật và Tăng.
Cù-đàm-di lại bạch Phật:
Xin cho phép nữ giới xuất gia thọ giới Cụ túc trong chánh pháp của Như Lai.
Đức Phật dạy:
Thôi, thôi đừng nói điều đó. Tại sao? Xưa kia các Đức Phật đều không có người nữ xuất gia. Các người nữ, tự mình nương nơi Phật, ở tại gia, cạo đầu, mặc áo cà sa, siêng năng tinh tấn tu hành, được đắc đạo quả. Các Đức Phật vị lai, cũng như vậy. Nay Ta cho phép người nữ dùng điều này làm phương pháp.
Cù-đàm-di thưa xin như trên đến lần thứ ba, Đức Phật cũng ba lần không chấp thuận. Khi ấy, bà Cù-đàm-di lớn tiếng than khóc, đảnh lễ sát chân và lui ra.
Đức Phật từ Ca-duy-la-vệ cùng chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi đầy đủ, du hành nơi nhân gian. Bà Cù-đàm-di cùng năm trăm Thích nữ tự động cùng nhau cạo đầu, mặc y cà sa, khóc kể, đi theo sau, luôn luôn tá túc những nơi Đức Thế Tôn tá túc. Đức Phật tuần tự du hành đến thành Xá-vệ trụ nơi Kỳ-hoàn. Bà Cù-đàm-di cùng năm trăm Thích nữ đứng khóc bên ngoài cửa ngõ.
Sáng sớm, Tôn giả A-nan thấy vậy liền hỏi:
Tại sao quý vị khóc? Bà Cù-đàm-di thưa:
Bạch Đại đức! Đức Thế Tôn không cho người nữ xuất gia thọ giới Cụ túc, nên chúng tôi buồn tủi mà khóc, xin Tôn giả vì chúng tôi bạch Đức Thế Tôn cho chúng tôi được toại nguyện.
Tôn giả A-nan liền trở vào, đầu mặt kính lễ sát chân, bạch Phật đầy đủ. Đức Phật ngăn Tôn giả A-nan như đã ngăn bà Cù-đàm-di trước kia.
Tôn giả A-nan lại bạch Phật:
Đức Thế Tôn sinh mới mấy ngày, mẹ Ngài mạng chung, Cù-đàm-di nuôi nấng Thế Tôn cho đến khôn lớn, có cái ân như thế tại sao không báo đền?
Đức Phật nói:
Ta đối với Cù-đàm-di cũng có cái ân lớn, bà nhờ Ta mà biết được Phật, Pháp, Tăng để sinh chánh tín. Người nào nhờ thiện tri thức biết được Phật, Pháp, Tăng sinh lòng tín kính, dù cho người ấy dùng y thực, thuốc thang cúng dường trọn đời thiện tri thức, cũng không thể báo được ân ấy.
Tôn giả A-nan lại bạch Phật:
Người nữ xuất gia thọ giới Cụ túc có thể đắc bốn quả Sa-môn hay không?
Đức Phật dạy:
Có thể đắc.
Tôn giả A-nan thưa:
Nếu đắc bốn đạo quả, vì lý do gì Thế Tôn không cho họ xuất gia thọ giới Cụ túc?
Đức Phật dạy:
Nay Ta cho phép Cù-đàm-di thọ tám pháp không được vượt qua, được vậy thì xuất gia được thọ giới Cụ túc. Những gì là tám? Tỳ-kheo-ni nửa tháng phải đến chúng Tỳ-kheo cầu người giáo thọ. Tỳ-kheo-ni không nên an cư nơi vùng không có Tỳ-kheo. Tỳ-kheo-ni khi Tự tứ phải đến chúng Tỳ-kheo thỉnh ba việc tội kiến, văn, nghi. Thức-xoa-ma-na học giới hai năm rồi, phải ở trước hai bộ Tăng thọ giới cụ túc. Tỳ-kheo-ni không được mắng Tỳ-kheo, không được đối với nhà bạch y nói Tỳ-kheo phá giới, phá oai nghi, phá kiến. Tỳ-kheo-ni không được cử tội Tỳ-kheo, mà Tỳ-kheo được chê trách Tỳ-kheo-ni. Tỳ-kheo-ni phạm tội thô ác phải đến trước hai bộ Tăng hành Ma-na-đỏa nửa tháng, hành Ma-nađỏa nửa tháng rồi nên đối trước mỗi bộ Tăng gồm hai mươi vị để cầu xuất tội. Tỳ-kheo-ni tuy thọ giới một trăm năm, vẫn phải lễ bái, đứng dậy nghinh đón Tỳ-kheo mới thọ giới.
Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy liền ra nói với bà Cù-đàm-di:
Bà nên lắng nghe, tôi nói lại lời Đức Phật dạy. Bà Cù-đàm-di sửa lại y phục, từ xa kính lễ Phật túc, quỳ gối chấp tay một lòng lắng nghe.
Tôn giả A-nan nói đầy đủ như trên, bà Cùđàm-di nói:
Cũng như thiếu niên nam nữ trong trắng, tự mình vui thích với sự tắm rửa thân thể, mặc áo mới, có người ân huệ đem tràng hoa Chiêm-bà, tràng hoa Bà-sư, tràng hoa Ưu-bát-la, tràng hoa A-đề-mục-đa-già, người kia vui mừng hai tay đón nhận rồi đội lên trên đầu, nay tôi đảnh lễ thọ giáo pháp của Đức Thế Tôn, cũng như vậy. Cù-đàm-di lại bạch với Tôn giả A-nan:
Xin Tôn giả vì tôi bạch với Đức Thế Tôn: Tôi đã đảnh thọ tám pháp, trong tám pháp muốn xin một điều, cho phép Tỳ-kheo-ni tùy theo lớn nhỏ mà kính lễ Tỳ-kheo, chứ tại sao Tỳ-kheo-ni một trăm tuổi lại kính lễ Tỳ-kheo mới thọ giới? Tôn giả A-nan lại vì bà Cù-đàm-di vào bạch Phật. Đức Phật bảo A-nan:
Nếu Ta cho phép Tỳ-kheo-ni tùy theo lớn nhỏ mà kính lễ Tỳ-kheo là điều không thể có. Người nữ có năm điều trở ngại: Không được làm Thiên Đế Thích, Ma Thiên Vương, Phạm Thiên Vương, Chuyển lu-ân Thánh vương, Pháp Vương Tam Giới. Nếu không cho người nữ xuất gia thọ giới Cụ túc thì chánh pháp của Phật trụ thế một ngàn năm, nay cho họ xuất gia thì giảm năm trăm năm, cũng như nhà người nào đó, con gái nhiều, con trai ít, nên biết nhà đó sẽ không lâu bị suy tàn. Đức Phật lại bảo A-nan:
Nếu người nữ không xuất gia thọ giới Cụ túc trong giáo pháp của Ta, thì sau khi Ta Nê hoàn, các Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di sẽ đem bốn thứ cúng dường đi theo sau Tỳ-kheo và thưa: Đại đức thương xót xin nhận sự cúng dường của con. Nếu họ ra ngoài cửa ngõ thấy thì kéo tay vào nói: Đại đức đối với con có ân, mời Đại đức vào nhà con ngồi tạm để con được an lành. Nếu họ gặp trên lộ trình, họ đều xổ đầu tóc lau chân Tỳ-kheo, trải tóc ra mời Tỳ-kheo giậm lên trên mà đi, nay cho người nữ xuất gia, điều đó hầu như bị mất hết.
Tôn giả nghe qua rồi, buồn hận rơi nước mắt, bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Trước đây con không nghe, không biết điều đó nên mới dốc cầu cho người nữ xuất gia thọ giới Cụ túc, nếu trước đây con biết thì đâu có ba phen cầu xin.
Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:
Chớ nên khóc kể. Ma che đậy lòng ông nên mới như thế. Nay Ta đã cho người nữ xuất gia thọ giới Cụ túc rồi, cần phải tùy thuận theo sự chế cấm của Ta, không nên trái nghịch, những gì Ta không chế cấm thì không được tùy tiện chế.
Tôn giả A-nan liền trở ra, nói lại những gì đầy đủ Đức Phật đã dạy cho bà Cù-đàm-di nghe. Bà Cù-đàm-di nghe rồi hoan hỷ phụng hành, ngay khi ấy, bà trở thành người xuất gia thọ giới Cụ túc. Cù-đàm-di lại thưa với Tôn giả A-nan: Năm trăm Thích nữ này nay phải như thế nào để thọ giới Cụ túc?
Nhờ Tôn giả thưa với Đức Phật giùm. A-nan lại bạch Phật. Phật dạy:
Cho phép Tỳ-kheo-ni Ba-xà-ba-đề làm Hòa thượng, đối trước chúng Tỳ-kheo làm mười vị, Bạch-tứ-yết-ma cho họ thọ giới cụ túc. Cho phép mỗi lần Yết-ma chỉ ba người, không được quá. Thọ rồi, Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề cùng năm trăm Tỳ-kheo-ni đến chỗ Đức Phật, đầu mặt lễ sát chân, bạch Phật:
Bạch Đức Thế Tôn! Chúng con mặc y thế nào? Phật dạy:
Như pháp của Tỳ-kheo. Lại hỏi:
Ăn như thế nào? Phật dạy:
Cho phép khất thực… Lại hỏi:
Bố-tát thế nào? Phật dạy:
Cho phép Bố-tát riêng. Nửa tháng đến Tỳ-kheo Tăng cầu giáo thọ.
Lại hỏi:
Kiết hạ an cư như thế nào? Phật dạy:
Cho phép kiết hạ ba tháng an cư trong nhà (chùa). Lại hỏi:
Tự tứ thế nào? Phật dạy:
Cho phép Tự tứ riêng, đến Tỳ-kheo Tăng thỉnh tội về kiến, văn, nghi.
Lại hỏi:
Thọ y Ca-hi-na như thế nào? Phật dạy: Cho phép bạch nhị Yết-ma, thọ trong bốn tháng. Lại hỏi:
Chứa dép da thế nào? Phật dạy:
Cho phép làm guốc dép để đi lại.
Lại hỏi:
Diệt tránh bằng cách nào? Phật dạy:
Cho phép bảy cách diệt tránh để chấm dứt bốn sự tranh chấp.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni, trước không trao cho đệ tử hai năm học giới, bèn trao đại giới, ngu si không biết gì, không thể học giới, bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Độtkiết-la. Trước nên trao cho hai năm: không được sát sinh, không được lấy của không cho, không được dâm dục, không được nói dối, không được uống rượu, không được ăn phi thời. Khi ấy có một Tỳ-kheo-ni làm mai mối, phạm Tăng-già-bà-thi-sa, không biết giải quyết thế nào, bạch Phật. Nhân việc này, Đức Phật tập hợp hai bộ Tăng, bảo các Tỳ-kheo: Cho phép hai bộ Tăng Bạch-tứyết-ma trao cho Tỳ-kheo-ni nửa tháng Ma-na-đỏa. Tỳ-kheo-ni kia nên đến trong Tăng, để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, kính lễ sát chân hai bộ Tăng, bạch:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Con Tỳ-kheo-ni tên là… làm mai mối, phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa, nay đến Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa, xin Tăng cho con nửa tháng Ma-na-đỏa. Xin như vậy Ba lần. Một Tỳ-kheo đọc rõ:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Con Tỳ-kheo-ni tên là… làm mai mối, phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa, nay đến Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa, xin Tăng cho con nửa tháng Ma-na-đỏa. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Con Tỳ-kheo-ni tên là… làm mai mối, phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa, nay đến Tăng xin nửa tháng Ma-na-đỏa, xin Tăng cho con nửa tháng Ma-na-đỏa, các Trưởng lão nào chấp thuận thì xin im lặng. Ai không đồng ý xin nói. Nói như vậy Ba lần.
Tăng đã trao cho Tỳ-kheo-ni tên là… nửa tháng Ma-na-đỏa rồi.
Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Tăng đã trao pháp Ma-na-đỏa rồi, đương sự lo thức dậy sớm lau quét trú xứ của Tỳ-kheo-ni, lấy bùn sửa chữa nền và tường nơi các phòng, chỗ cần có nước thì phải lấy cho đầy, các việc làm đều phải nên làm. Nếu có Tỳ-kheo-ni khách đến, hay Tỳ-kheo-ni đi cũng đều phải bạch. Lại nên cùng một Tỳ-kheo-ni làm bạn đến trú xứ của Tỳ-kheo, có việc gì nên làm phải cần làm như trên. Nếu có Tỳ-kheo khách đến, hay Tỳ-kheo đi cũng đều phải bạch. Ngày ngã về chiều, trở về trú xứ của Tỳ-kheo-ni. Nửa tháng phụng hành như vậy rồi, đối trước hai bộ Tăng, mỗi bên hai mươi vị, cầu xin Yết-ma xuất tội như pháp của Tỳ-kheo.
Khi ấy, các Tỳ-kheo-ni không kính lễ Tỳ-kheo, không người giáo giới, ngu si không biết gì, không thể học giới, bạch Phật, Phật quở trách: Trước đây Ta đã nói tám pháp không được vượt quá, Tỳ-kheo-ni một trăm tuổi kính lễ Tỳ-kheo mới thọ giới, tại sao không kính lễ? Quở trách rồi, Phật bảo các Tỳ-kheo: Từ nay cho phép các Tỳ-kheo tùy theo thứ tự kính lễ bậc Thượng tọa. Các Tỳ-kheo-ni kính lễ tất cả các Tỳ-kheo, cũng tùy theo thứ tự kính lễ lẫn nhau. Thức-xoa-ma-na kính lễ tất cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, cũng tuỳ theo thứ tự kính lễ lẫn nhau. Sa-di cũng như vậy. Sadi-ni kính lễ tất cả các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na và Sa-di, cũng tùy theo thứ tự kính lễ lẫn nhau.
Có Tỳ-kheo-ni ở chỗ cao kính lễ Tỳ-kheo ở chỗ thấp, hoặc ở phía sau Tỳ-kheo, hoặc ở bên Tỳ-kheo mà kính lễ, hoặc lấy tay cầm chân, hoặc đầu gối sát đất kính lễ, bạch Phật. Phật dạy:
Không nên làm như vậy, cho phép Tỳ-kheo-ni cách Tỳ-kheo không gần không xa, chấp tay cúi đầu nói: Cung kính!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo-ni tóc dài, Phật bảo: Nên cầu người nữ cạo cho, nếu không có người nữ, cho phép cầu người nam, nhưng không được xúc chạm, không được khiến họ cầm nắm, có Tỳ-kheo-ni bạn khác, nhờ họ cầm, vậy sau nhờ họ cạo.
Lúc này, các Tỳ-kheo-ni đến Tỳ-kheo-ni thọ kinh, tụng không thể được. Lại có một Tỳ-kheo-ni đến Tỳ-kheo-ni thọ một Ba-la-đề-mộc-xoa, nhiều ngày không thể được, sau đó, đến Tỳ-kheo thọ, liền được, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép Tỳ-kheo-ni đến nơi Tỳ-kheo thọ kinh. Nếu trong kinh có nói lời thô ác, cho phép viết chữ trao, nếu không biết chữ, cho phép dùng sự ngăn cách để trao, nếu không có cái gì để ngăn cách, cho phép xoay lưng lại để trao. Có các Tỳ-kheo-ni cùng Tỳ-kheo đồng Bố-tát, thấy các Tỳ-kheo phạm tội bèn muốn cử tội, bạch Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo-ni không được cùng Tỳ-kheo Bố-tát, nên nửa tháng mời một Tỳ-kheo, khiến đến một Tỳ-kheo Tăng xin một vị giáo giới. Các Tỳ-kheo không chịu cung ứng. Phật dạy: Cho phép Tỳ-kheo-ni làm các thứ cúng dường như đãy đựng bát, đãy lọc nước, dây lưng, hương dầu, bữa ăn trước, bữa ăn sau, hoặc chưa Bố-tát mà bạch, hoặc Bố-tát rồi mới bạch. Phật dạy: Không nên như vậy, nên trong khi xướng: Các Tỳ-kheo không đến, muốn thanh thịnh, từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Tăng bạch: Đại đức Tăng xin lắng nghe! Tinh xá… Tỳ-kheo-ni Tăng hòa hợp, đảnh lễ Tăng túc Tỳ-kheo hòa hợp cầu xin vị giáo thọ. Nếu trước đó, Tăng đã sai vị giáo thọ, Thượng tọa nên trả lời: Đến Tỳ-kheo… để thọ. Nếu Tăng không có người để sai, không có khả năng thuyết pháp, nên trả lời: Trong đây không có người để sai giáo thọ, lại không có người có khả năng nói pháp, quý vị chớ buông lung. Các Tỳ-kheo-ni, sáng sớm đến thưa hỏi: Vấn đề xin Tỳ-kheo giáo thọ, đã bạch Tăng chưa? Tỳ-kheo này nên trao truyền lời như Thượng tọa đã dạy.
Có các Tỳ-kheo-ni cùng Tỳ-kheo thứ tự, Tỳ-kheo-ni muốn đến tập hợp nơi Tỳ-kheo ở A-lannhã để Tự tứ, dọc đường gặp giặc, nước, lửa, nạn mạng, nạn phạm hạnh, nạn y bát, lại phải đợi chờ, lưu lại để Tự tứ, bạch Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo-ni không được cùng Tỳ-kheo Tự tứ riêng, đến Tỳ-kheo Tăng thỉnh tội kiến, văn, nghi. Khi ấy, trong làng không có Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo-ni đến nơi A-lan-nhã thỉnh tội kiến, văn, nghi, hoặc đường xa đi không đến, hoặc Tỳ-kheo kia không hòa hợp, không thỉnh được, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép các Tỳ-kheo ở A-lan-nhã vì Tỳ-kheo-ni đến xóm làng Tự tứ, vì họ hòa hợp. Các Tỳ-kheo-ni nên trước tập hợp chúng Tự tứ, vậy sau mới sai Tỳ-kheo-ni đến Tỳ-kheo Tăng thỉnh tội kiến, văn, nghi. Đến nơi để trống vai bên phải, cởi bỏ giày dép, từ xa kính lễ sát chân Tăng, sau đấy vào trong Tăng, chấp tay cúi đầu, bạch: Tinh xá… Tỳ-kheo-ni Tăng hòa hợp, đảnh lễ sát chân. Tỳ-kheo Tăng hòa hợp, bạch: Tỳ-kheo-ni Tăng chúng con hòa hợp thỉnh Đại đức Tăng Tự tứ, nói tội kiến, văn, nghi. Thỉnh như vậy Ba lần.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo-ni Baxà-ba-đề: Cô không có Hòa thượng, không thành xuất gia thọ giới Cụ túc. Bà Tỳ-kheo-ni Ba-xà-bađề sinh nghi, bạch Phật. Phật dạy: Khi bà thọ tám pháp không được vượt qua, đã là xuất gia thọ giới Cụ túc rồi. Có Tỳ-kheo-ni khuyến dụ đùa bỡn Tỳ-kheo nói: Tôi là tộc tánh lễ nghi hoàn bị, một người nữ đầy đủ công hạnh, ý muốn giúp đỡ thầy. Tỳ-kheo kia bèn sinh tâm nhiễm đắm, không thích nếp sống đạo, đưa đến việc hoàn tục. Các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Tỳ-kheo-ni không nên khuyến dụ đùa bỡn với Tỳ-kheo, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Có các Tỳ-kheo-ni đến trú xứ của Tỳ-kheo, hoặc để lộ nách ngực, hoặc để lộ bắp chân, ống chân, Tỳ-kheo thấy sinh tâm nhiễm đắm, không vui sống với đạo, hoàn tục, các Tỳ-kheo bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm như vậy. Từ nay không cho phép Tỳ-kheo-ni vào trú xứ của Tỳ-kheo. Không được phép vào nên không có sự giáo giới, các Tỳ-kheo-ni bị ngu ám, không biết gì, không thể học giới, bạch Phật. Phật dạy: Nếu Tỳ-kheo-ni sống đúng pháp thì cho vào, Tăng cũng nên kêu đến, kêu mà không đến. Phật dạy: Kêu mà không đến phạm Đột-kiết-la. Lúc ấy, các Tỳ-kheo-ni không cùng Tỳ-kheo nói năng, không có sự giáo giới, ngu si không biết gì, không thể học giới, các Tỳ-kheo-ni bạch Phật. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la.
Khi Tỳ-kheo-ni Ưu-ta thường phạm giới, Tỳ-kheo-ni Tăng tác pháp trao cho Yết-ma không thấy tội, lại kêu khóc: Tôi ngu si, Tăng tác pháp trao cho tôi Yết-ma không thấy tội, trong lúc ấy, có thể tôi lại phạm tội thô, nguyện xin Tăng vì tôi giải Yết-ma này. Các Tỳ-kheo-ni bạch Phật. Phật dạy: Không nên vì thế mà giải Yết-ma, nên bạch nhị Yết-ma sai một Tỳ-kheo-ni bạn với cô ta cùng nói năng, cùng sống để ngăn chận. Một Tỳ-kheo-ni đọc rõ: A-di Tăng lắng nghe! Nay sai Tỳ-kheo-ni tên là… bạn của Tỳ-kheo-ni Ưu-ta, cùng nói năng, cùng sống để ngăn chận. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
A-di Tăng lắng nghe! Nay sai Tỳ-kheo-ni tên là… bạn của Tỳ-kheo-ni Ưu-ta, cùng nói năng, cùng sống để ngăn chận. Các A-di nào chấp thuận thì xin im lặng. Ai không đồng ý xin nói.
Tăng đã sai Tỳ-kheo-ni tên là… bạn của Tỳ-kheo-ni Ưu-ta rồi.
Tăng chấp thuận nên im lặng. Việc như thế, thọ trì như thế.
Có Tỳ-kheo-ni nguyệt thủy ra nhớp chân và y, vào xóm làng khất thực, các bạch y thấy chê bai. Phật dạy: Nếu khi Tỳ-kheo-ni nguyệt thủy ra, không cho phép vào xóm làng khất thực, cho phép chuẩn bị lương khô, cũng cho phép đệ tử khất thực thế, nếu không có đệ tử, cho phép mặc y nguyệt thủy khất thực. Có các quý tộc nữ xuất gia không mặc y phú kiên, các bạch y thấy vai, cánh tay, cùng nhau trêu chọc, các vị ni này lấy làm xấu hổ. Các Tỳ-kheo-ni bạch Phật. Phật dạy: Cho phép mặc y phú kiên.
Khi ấy đệ tử Tỳ-kheo-ni, học giới hai năm, không thuận ý mà vẫn trao cho giới cụ túc. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Độtkiết-la. Từ nay khiến cho phép hợp ý Hòa thượng, A-xà-lê, mới triệu tập chúng mười vị đến chỗ thọ giới, dẫn người muốn thọ giới đến chỗ mắt thấy, tai không nghe. Hòa thượng nên họ vì cầu thầy Yết-ma và thầy giáo giới. Cầu được rồi, thầy Yết-ma nên Yết-ma, thầy giáo giới bảo họ ra ngoài để chỉ dạy. Vị ấy đọc rõ:
A-di Tăng lắng nghe! Người này tên là… cầu vị sư tên là… thọ giới Cụ túc, vị sư tên là… thầy giáo giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch. Thầy giáo giới kia nên hành sơ pháp, trước hỏi Hòa thượng: Người muốn thọ giới Cụ túc đã học giới đủ hai năm chưa? Y bát có đủ không? Nếu nói: Không đủ. Nên bảo: Phải đủ. Nếu nói: Đủ. Lại nên hỏi: Của mình hay là mượn? Nếu nói: Mượn.
Người chủ cho mượn phải xả cho. Xong như vậy rồi mới đến chỗ người muốn thọ giới nói: Cô chớ nên sợ sệt, trong giây lát nữa tôi sẽ đưa cô đến chỗ cao thắng. Nếu không biết rõ thì tối thiểu phải trương y ra xem xét, để không trở ngại pháp thọ giới, nên hỏi: y Tăng-già-lê, Ưu-đa-la-tăng, An-đà-hội, Phú kiên, y tắm rửa cho cô là như thế nào? Nếu đương sự không biết thì nên hỏi cho biết, tiếp theo trao cho pháp y bát, như trong pháp thọ Tỳ-kheo đã nói. Lại nên nói: Này cô lắng nghe! Bây giờ là lúc cần nói thật. Nay tôi hỏi cô, nếu có thì nên nói có, nếu không thì nên nói không. Người nữ có những bệnh hủi, bệnh hủi trắng, bệnh càn tiêu, bệnh lát, bệnh cuồng, bệnh ung thư, lậu, bệnh chảy mỡ, các trọng bệnh như vậy, cô có hay không? Cô có mắc nợ không? Chẳng phải vợ của người khác chứ? Phu chủ cho phép cô tu không? Cô không thuộc hạng quan chức chứ? Cô không phải là tớ gái chứ? Cô là người chứ? Cô là người nữ chứ? Nữ căn của cô đầy đủ chứ? Cô không phải là huỳnh môn chứ?
Cô không phải là thạch nữ chứ? Cô không bị hai đường hiệp chứ? Nguyệt thủy cô có ra không? Nó không thường bị ra phải không? Hai năm học giới đã đầy đủ chưa? Đã cầu thỉnh Hòa thượng chưa? Cha mẹ cho phép cô tu không? Cô có muốn thọ giới cụ túc không? Như những gì tôi đã hỏi bây giờ thì sau đây Tăng cũng hỏi cô như vậy. Cô nên trả lời như đã trả lời với tôi. Thầy giáo giới nêu trở lại trong Tăng, đứng thẳng bạch: Tôi đã hỏi rồi. Thầy Yết-ma nên bạch Tăng.
A-di Tăng lắng nghe! Người nữ tên là… cầu ni sư tên là… thọ giới cụ túc, vị giáo giới tên là… đã hỏi rồi, nay cho phép dẫn đến. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch. Thầy giáo giới nên dẫn vào, dạy kính lễ sát chân Tăng. Kính lễ rồi, dẫn đến trước thầy Yết-ma, bảo quỳ gối, chấp tay hướng về thầy Yết-ma, tùng Tăng xin thọ giới cụ túc. Dạy thưa: Con tên là… cầu Hòa thượng tên là… thọ giới cụ túc. Nay đến Tăng xin thọ giới cụ túc, Hòa thượng hiệu… Tăng cứu giúp con, rủ lòng thương đối với con. Thưa xin như vậy Ba lần. Xong phần này, thầy giáo giới quay lại chỗ ngồi. Thầy Yết-ma nên bạch Tăng.
A-di Tăng xin lắng nghe! Người nữ này tên là… cầu ni sư hiệu… thọ giới cụ túc. Đương sự đến Tăng xin thọ giới cụ túc. Hòa thượng hiệu… nay tôi đối giữa Tăng hỏi các nạn sự. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Nên nói: Này cô, nên lắng nghe: bây giờ là lúc cần nói sự thật, nay tôi hỏi cô, có thì nói có, không thì nói không…. Cho đến câu: Cô muốn thọ giới không? Điều như trên đã hỏi. Hỏi như trên rồi, thầy Yết-ma nên đọc:
A-di Tăng lắng nghe! Người nữ này tên là… cầu ni sư hiệu… thọ giới cụ túc. Đương sự đến Tăng xin thọ giới cụ túc, tự nói không có các chướng nạn, học giới hai năm, năm y, bình bát đầy đủ, đã cầu thỉnh Hòa thượng, cha mẹ cho phép, muốn thọ giới cụ túc. Nay Tăng trao người tên là… giới cụ túc, Hòa thượng hiệu… Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
A-di Tăng lắng nghe! Người nữ này tên là… cầu ni sư hiệu… thọ giới cụ túc… cho đến câu: Hòa thượng hiệu… các A-di nào đồng ý thì xin im lặng, vị nào không đồng ý xin nói. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng như vậy.
Tăng đã đồng ý cho người nữ tên là… thọ giới cụ túc… Hòa thượng hiệu… rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy.
Hòa thượng, A-xà-lê kia lại nên triệu tập mười Tỳ-kheo-ni Tăng, dẫn người thọ giới đến trong Tỳ-kheo Tăng, tại nơi cách thầy Tỳ-kheo Yết-ma một chút, hai đầu gối sát đất, xin thọ giới cụ túc. Thầy Yết-ma nên dạy nói: Con tên là… cầu Hòa thượng hiệu… thọ giới cụ túc, đã ở trong một chúng thọ giới cụ túc rồi, thanh tịnh, không có nạn sự, đã học giới đủ hai năm, y bát đầy đủ, đã cầu thỉnh Hòa thượng, cha mẹ cho phép, không phạm tội thô ác, muốn thọ giới cụ túc. Nay theo Tăng thọ giới cụ túc, Hòa thượng hiệu… Tăng giúp đỡ cho con, rủ lòng thương cho con nhờ. Xin như vậy Ba lần. Xin Ba lần rồi thầy Yết-ma nên bạch:
Đại đức Tăng lắng nghe! Người nữ này tên là… cầu ni sư hiệu… thọ giới cụ túc, đã ở trong một chúng thọ giới cụ túc rồi, thanh tịnh, không có các nạn sự, đã học giới đủ hai năm, những việc cần làm đã làm, y bát đầy đủ, đã cầu thỉnh Hòa thượng, cha mẹ đã cho phép, không phạm các tội thô ác, muốn cầu thọ giới cụ túc. Nay đến Tăng xin thọ giới cụ túc, Hòa thượng hiệu… nay Tăng trao người nữ tên là… thọ giới cụ túc, Hòa thượng hiệu là… Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Đại đức Tăng lắng nghe! Người nữ này tên là… cầu ni sư hiệu… thọ giới cụ túc, cho đến câu: Nay Tăng trao cho người nữ tên là… thọ giới cụ túc, Hòa thượng hiệu… các Trưởng lão nào chấp thuận thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói.
Lần thứ hai, lần thứ ba cũng như vậy.
Tăng đã đồng ý trao cho người nữ tên là… thọ giới cụ túc, Hòa thượng hiệu… rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy, thọ trì như vậy. Lại nên nói: Này người nữ… lắng nghe: Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác nói tám pháp Ba-la-di, nếu Tỳ-kheo-ni phạm mỗi một pháp nào, thì chẳng phải là Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ: tất cả không được dâm… cho đến câu: Dùng tâm nhiễm vướng ngắm xem nam tử. Nếu Tỳ-kheo-ni hành pháp dâm dục, cho đến loài súc sinh, thì chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Đây là điều trọn đời không được phạm, nếu có thể giữ được nên nói là có thể.
Tất cả không được trộm cắp, cho đến lá cây ngọn cỏ, nếu Tỳ-kheo-ni hoặc nơi xóm làng hoặc nơi đất trống, vật có người coi giữ, trộm cắp năm tiền trở lên, thì chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Đây là điều trọn đời không được phạm, nếu có thể giữ được thì nên có thể.
Tất cả không được sát sinh, cho đến con kiến, nếu Tỳ-kheo-đối với người hay tương tợ người, tự tay mình đoạn mạng, cầm dao trao cho, dạy người giết, dạy cách giết, khen sự chết, thì chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Đây là điều trọn đời không được phạm, nếu có thể giữ được, nên nói là có thể.
Tất cả không nói dối, cho đến nói đùa, nếu Tỳ-kheo-ni tự mình không được phép vượt hơn người, hoặc nói các thiền giải thoát, Tam-muội, chánh thọ, hoặc đạo, hoặc quả thì chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Đây là điều trọn đời không được phạm. Nếu có thể giữ được thì nói có thể.
Tất cả không được thân cận nam tử, nếu Tỳ-kheo-ni dục bùng cháy, tâm xao động, xúc chạm thân nam tử, từ mái tóc trở xuống, đầu gối trở lên, hoặc nam tử làm những hành động như vậy cũng không được chấp thuận, hoặc đè, hoặc bóp, hoặc bồng lên, hoặc để xuống, hoặc nắm, hoặc kéo thì chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Đây là điều trọn đời không được phạm, nếu có thể giữ được thì nói có thể.
Tất cả không được cùng với nam tử đứng, cùng nói chuyện, nếu Tỳ-kheo-ni dục bùng cháy, tâm xao động chấp nhận nam tử hoặc nắm tay, nắm y, hẹn cùng đi, hoặc một mình cùng đi, một mình cùng đứng, một mình cùng nói, một mình cùng ngồi, dùng thân gần nhau, đủ tám việc này, thì chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Đây là điều trọn đời không được phạm, nếu có thể giữ được thì nói có thể.
Tất cả không được tùy thuận nói chuyện với Tỳ-kheo phi pháp, nếu Tỳ-kheo-ni biết Tỳ-kheo Tăng hòa hợp như pháp cử tội Tỳ-kheo, mà tùy thuận Tỳ-kheo này. Các Tỳ-kheo-ni nói: Này cô, Tỳ-kheo này bị Tỳ-kheo Tăng hòa hợp như pháp cử tội cô chớ nên tùy thuận. Can gián như vậy mà Tỳ-kheo-ni kia không bỏ, nên can gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can gián bỏ thì tốt, không bỏ thì không phải Tỳ-kheo-ni, không phải Thích chủng nữ. Đây là điều trọn đời không được phạm, nếu có thể giữ được thì nói có thể.
Tất cả không được che giấu tội thô ác của người khác, nếu Tỳ-kheo-ni biết Tỳ-kheo-ni khác phạm tội Ba-la-di, sau khi cô kia thôi tu, hoặc chết, hoặc đi xa, hoặc bị cử, hoặc căn biến, bèn nói với các Tỳ-kheo-ni như vầy: Trước đây tôi biết Tỳ-kheo-ni kia phạm tội Ba-la-di. Biết mà không bạch với Tăng, không hướng đến người khác nói thì chẳng phải Tỳ-kheo-ni, chẳng phải Thích chủng nữ. Đây là điều trọn đời không được phạm, nếu có thể giữ được thì nói có thể.
Các Đức Phật Thế Tôn khéo hay nói ví dụ để chỉ rõ sự việc: ví như cây kim bị sứt phần có lỗ xâu chỉ không thể may vá được. Ví như người chết không thể sống lại. Ví như ruột cây Đa-la bị chặt không thể sinh trưởng nữa. Ví như hòn đá bị vỡ không thể hiệp lại được. Nếu Tỳ-kheo-ni đối với tám pháp này mà phạm bất cứ pháp nào, trở lại đặng tánh Tỳ-kheo-ni là điều không thể có.
Lại nên nói: Này cô… lắng nghe: Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác nói tám pháp không thể vượt qua, suốt đời, cô không nên vượt qua: Tỳ-kheo-ni mỗi nửa tháng nên đến chúng Tỳ-kheo cầu người giáo giới, Tỳ-kheo-ni không nên ở chỗ không có Tỳ-kheo mà hạ An cư, Tỳ-kheo-ni khi Tự tứ nên đến trong chúng Tỳ-kheo thỉnh ba việc tội kiến, văn, nghi, Thức-xoa-ma-na hai năm học giới rồi nên đến trước hai bộ Tăng cầu thọ giới cụ túc, Tỳ-kheo-ni không được mắng Tỳ-kheo, không được đối với bạch y nói Tỳ-kheo phá oai nghi, phá giới, phá kiến, Tỳ-kheo-ni không nên cử tội Tỳ-kheo, Tỳ-kheo được chê trách Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo-ni phạm tội thô ác nên đối trước hai bộ Tăng hành Ma-na-đỏa nửa tháng, hành Ma-na-đỏa nửa tháng xong, đối trước hai bộ Tăng, mỗi bên hai mươi vị cầu xin xuất tội, Tỳ-kheo-ni tuy thọ giới trước một trăm năm vẫn nên lễ bái, đứng dậy đón tiếp Tỳ-kheo mới thọ giới.
Lại nên nói: Này cô… lắng nghe: Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác nói bốn pháp nương theo để sống (tứ y), trọn đời nương theo xuất gia thọ giới cụ túc: nương theo y phấn tảo xuất gia thọ giới cụ túc, nếu có thể giữ được nên nói: có thể. Nếu được y dư, y Kíp-bối, y Khâmbà-la, y Câu-xá-da, y vải thô, y Sô-di, y Bà-xá-da, y A-ha-na, y Cù-trà-già, y bằng bố nên nhận. Nương theo pháp khất thực xuất gia thọ giới cụ túc, nếu có thể giữ được thì nói giữ được. Nếu được thức ăn dư, thức ăn của Tăng, bữa ăn trước, bữa ăn sau, người mời ăn thì nên thọ. Nương nơi ngọa cụ thô tệ xuất gia thọ giới cụ túc, nếu có thể giữ được thì nói có thể. Nếu nhận được am thất dư, nhà gác, phòng lớn nhỏ, nhà vuông tròn thì nên nhận. Nương nơi thuốc rẻ tiền xuất gia thọ giới cụ túc, nếu có thể giữ được, nên nói có thể. Nếu nhận được tô, dầu, mật, thạch mật dư thì nên thọ.
Lại nên nói: Này cô… lắng nghe: Cô đã được Bạch-tứ-yết-ma thọ giới cụ túc rồi, Yết-ma như pháp, chư Thiên, long, quỷ thần, Càn-thát-bà thường nguyện như vầy: Chúng tôi đến khi nào mới được thân người, được xuất gia thọ giới cụ túc, nay cô đã được, như người được thọ vương vị, cô thọ được pháp Tỳ-kheo cũng như vậy. Cô nên thọ nhận trao đổi, cùng nhau nói năng, giáo giới cho nhau, nên học ba giới, diệt ba độc, ra khỏi ba cõi, thành tựu quả A-la-hán. Ngoài ra những gì chưa biết, Hòa thượng, A-xà-lê sẽ vì cô nói.
Bấy giờ, có một dâm nữ tên là Bán-ca-thi, xuất gia trong chánh pháp luật, muốn đến trú xứ A-lan-nhã, thọ giới cụ túc. Đám giặc nghe, muốn đón đường rình bắt, người dâm nữ cũng nghe nên không dám đi. Các Tỳ-kheo-ni đem vấn đề ấy bạch Phật. Đức Phật dạy: Cho phép Bạch-tứ-Yết-ma, từ xa hướng đến thọ giới cụ túc. Hòa thượng, A-xà-lê của vị kia, trước hết triệu tập mười vị Tỳ-kheo-ni Tăng trao cho giới cụ túc, đem người xin thọ giới để một chỗ, mời mười Tỳ-kheo-ni Tăng đến nơi A-lan-nhã. Tất cả kính lễ dưới chân Tỳ-kheo Tăng, thầy Yết-ma vì họ xin tùng Tăng, xin giới: Đại đức Tăng xin lắng nghe! Người nữ tên… cầu ni sư… thọ giới Cụ túc, ở trong một chúng thọ giới cụ túc xong, thanh tịnh không có các nạn sự, đã học giới hai năm đầy đủ, trước hết những việc cần làm đã làm xong, y bát đầy đủ, đã cầu thỉnh Hòa thượng, cha mẹ đã cho phép, không phạm tội thô ác, muốn thọ giới cụ túc. Nay đến tùng Tăng xin thọ giới Cụ túc, Hòa thượng hiệu… xin Tăng rủ lòng thương tế độ cho đương sự! Xin như vậy Ba lần. Thầy Yết-ma Tỳ-kheo nên dựa theo lời cầu xin trên Bạch-tứ-yết-ma. Yết-ma rồi Hòa thượng, A-xà-lê đưa mười vị Tỳ-kheo-ni Tăng trở về chỗ thọ giới trước đó, kêu người thọ giới đến bảo kính lễ Tăng túc, quỳ gối chấp tay trước thầy Yết-ma. Thầy Yết-ma nên vì họ nói việc làm Bạch-tứ-yết-ma của Tăng, khiến cho họ nghe rồi, sau đó theo như trên nói tám pháp đọa, bốn thí dụ, tám pháp không thể vượt qua, bốn phương tiện nương để sống (tứ y)… cho đến câu: Ngoài ra những điều không biết, Hòa thượng, A-xà-lê sẽ vì ngươi nói.
Các Tỳ-kheo-ni mặc y sáng rực để làm đẹp, các bạch y chê trách nói: Tỳ-kheo-ni tợ như dâm nữ, muốn tìm nam tử. Các Tỳ-kheo-ni bạch Phật. Đức Phật dạy: Không nên làm như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo-ni kẽ chân mày. Phật dạy: Không nên làm như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo-ni bị bệnh đau mắt, cần vạch ra, Đức Phật dạy: Người bị đau mắt cho phép vạch. Có các Tỳ-kheo-ni đi trước Tỳ-kheo. Phật dạy: Không nên đi như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo-ni, thấy Tỳ-kheo từ xa đến, bèn đứng lại không dám đi trước nên trở ngại việc khất thực, Đức Phật dạy: Nếu cách xa thì cho phép đi trước. Có các Tỳ-kheo-ni đi trước Tỳ-kheo nhổ nước miếng xuống đất nên hôi hám. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo-ni ngồi chồng lên gót chân, nguyệt thủy chảy ra nhớp chân, người thấy chê bai. Lại có một Tỳ-kheo-ni ngồi chồng lên gót chân, con bọ hung bò vào trong nữ căn làm cho sinh bệnh, bạch Phật. Phật dạy: Tất cả Tỳ-kheo-ni nên ngồi xếp chân lại, nếu ngồi chồng lên gót chân thì thay đổi duỗi ra một chân, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có Cư sĩ muốn cùng Tỳ-kheo-ni trao đổi chỗ ở, các Tỳ-kheo-ni không dám. Phật dạy: Cho phép trao đổi. Có các Tỳ-kheo-ni như pháp thêu hoa, trương y ra thêu. Phật dạy: Không nên làm như vậy, nếu y bị cuốn lại cho phép may y viền. Có các Tỳ-kheo-ni đại tiểu tiện lung tung nơi trú xứ nên bị hôi thối. Phật dạy:
Không nên như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la, nên làm nhà vệ sinh. Các Tỳ-kheo-ni làm cái hố xí quá sâu, trong hố này có cái thai bị sảo. Người dọn hố xí thấy, chê trách: Đám người này thường khen ngợi lìa dục, tưởng lìa dục, nói dục là lửa đốt mà làm việc này, sợ người biết nên trục thai bỏ vào hố xí, sao không thôi tu để thọ hưởng năm dục lạc. Các Tỳ-kheo-ni bạch Phật. Phật dạy: Không nên làm hố xí quá sâu, sâu nhất là một khuỷu tay, làm cái miệng nhỏ. Có các Tỳ-kheo-ni làm cái bát, cho đến cái đãy đựng cái thai, sáng sớm đem bỏ. Khi ấy, Vua Ba-tư-nặc, nơi biên cương có việc, cần đem quân chinh phạt. Có người tin ưa Phật pháp khởi ý nghĩ: “Nay ta nên trước hết cúng dường trai phạn cho người xuất gia, vậy sau mới đi”. Liền sai người tín cẩn đi tìm, gặp Tỳ-kheo-ni kia mời về để cúng thức ăn. Tỳ-kheo-ni kia nói: Ngươi nên đi trước đi, tôi theo sau đến cũng được. Sứ giả tha thiết mời, dẫn cô ni cùng về. Để đặt thức ăn vào bát, ông ta giở bình bát ra, thấy bào thai bên trong bát. Bằng mọi cách chê trách, nói: Đám người này thường nói từ bi hộ niệm chúng sinh, mà nay chính mình giết thai nhi, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Samôn. Các Tỳ-kheo-ni bạch với các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật dạy: Khi Tỳ-kheo-ni đi khất thực, thấy Tỳ-kheo nên giở bát ra cho Tỳ-kheo xem. Các Tỳ-kheo-ni đều xuất trình bát, phải nghiêng nhìn. Việc này mất thời giờ làm trở ngại việc khất thực. Phật dạy: Chỉ nên giở để chứng tỏ bát không là được. Có một Tỳ-kheo-ni sinh một nam nhi, không biết giải quyết cách nào, bạch Phật. Phật dạy: Cho phép bạch nhị Yết-ma sai một Tỳ-kheo-ni làm bạn. Một Tỳ-kheo-ni đọc rõ giữa Tăng:
A-di Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo-ni này tên là… sinh nam nhi, nay sai Tỳ-kheo-ni tên… làm bạn. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
A-di Tăng lắng nghe! Tỳ-kheo-ni tên… sinh nam nhi, nay sai Tỳ-kheo-ni… làm bạn. Các A-di nào đồng ý thì im lặng, vị nào không đồng ý xin nói.
Tăng đã sai Tỳ-kheo-ni… làm bạn với Tỳ-kheo-ni… rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Việc như vậy phải thọ trì như vậy.
Hai Tỳ-kheo-ni dắt hài nhi, sinh nghi. Phật dạy: Không phạm. Hai Tỳ-kheo-ni cùng ngủ với hài nhi, sinh nghi. Phật dạy: Cũng không phạm. Sửa soạn cho hài nhi rồi hun nó. Phật dạy: Không nên làm như vậy, cho phép tắm rửa, cho bú. Nếu rời bỏ được sự chăm sóc ẵm bồng thì nên cho Tỳ-kheo, khiến nó xuất gia. Nếu không muốn cho xuất gia thì giao cho bà con nuôi dưỡng cho nó khôn lớn.
Có các Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo Tăng gọi, không theo thứ tự đến. Phật dạy: Không nên làm như vậy, nên theo thứ tự sai đến. Có các Tỳ-kheo-ni vào trong xóm làng, không buộc y hạ, bị sút, lộ hình. Phật dạy: Nên dùng dây lưng buộc lại. Họ làm dây lưng dài quá. Phật dạy: Cho phép quấn một vòng. Làm dây lưng rộng quá. Phật dạy: Rộng lắm là bằng một ngón tay. Làm dây lưng bằng tạp sắc. Phật dạy: Không nên làm như vậy, cho phép làm một màu. Có các Tỳ-kheo-ni mặc y nhẹ vào xóm làng, gió thổi, lộ hình. Phật dạy: Cho phép trên và dưới dùng cái khâu hườm buộc dính lại.
Có các người nữ quý tộc xuất gia bưng bát đi khất thực. Phật dạy: Cho phép may cái đãy đựng bình bát đi khất thực. Mang bát dưới nách mồ hôi chảy ra nhớp. Phật dạy: Cho phép làm cái khăn tủ lên bát.
Có các Tỳ-kheo-ni lập kế độc hại muốn giết chúng sinh. Phật dạy: Nếu lập kế hoặc độc hại muốn giết chúng sinh, phạm Thâu-lan-giá. Làm chú thuật khiến cho người chết đứng dậy, muốn giết chúng sinh cũng như vậy. Có các Tỳ-kheo-ni chứa đủ các loại y tạp sắc, các bạch y dè bỉu, nói: Các Tỳ-kheo-ni này giống hệt dâm nữ. Phật dạy: Không nên làm như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiếtla. Các Tỳ-kheo có thức ăn cách đêm, các Tỳ-kheo-ni không có thức ăn, không dám cho. Phật dạy: Cho phép cho không phạm. Tỳ-kheo-ni có thức ăn cách đêm, cho Tỳ-kheo cũng như vậy. Có các Tỳ-kheo đến trú xứ của Tỳ-kheo-ni, không có tịnh nhân trao thức ăn. Phật dạy: Khi không có tịnh nhân, cho phép Tỳ-kheo-ni trao thức ăn cho Tỳ-kheo, không phạm. Tỳ-kheo trao thức ăn cho Tỳ-kheo-ni cũng vậy. Có các Tỳ-kheo-ni nấu rượu, nhiều người chê trách. Phật dạy: Không nên làm như vậy, vi phạm, phạm Thâu-lan-giá. Có các Tỳ-kheo-ni nuôi bò cày ruộng, nuôi người ở, đích thân coi việc cày cấy, các bạch y dị nghị: Các Tỳ-kheo-ni cũng đích thân coi việc cày cấy, cùng ta đâu khác gì. Phật dạy: Không nên tự mình coi, nên sai tịnh nhân, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Có các Tỳ-kheo-ni có được tiền trong sản nghiệp hay lợi tức. Nhiều người chê trách. Phật dạy: Không nên như vậy, vi phạm, phạm Thâu-lan-giá. Có các Tỳ-kheo-ni nuôi dâm nữ rồi cho thuê mướn, nhiều người chê trách. Phật dạy: Không nên làm như vậy, vi phạm, phạm Thâu-lan-giá. Có các Tỳ-kheo-ni ép dầu bán, nhiều người chê trách. Phật dạy: Không nên làm như vậy, vi phạm, phạm Thâu-lan-giá. Có các Tỳ-kheo-ni đạp trên chân để chơi, nhiều người chê trách, Phật dạy, không nên làm như vậy, vi phạm, phạm Đột-kiết-la. Treo sợi dây, đeo chơi cũng như vậy. Có các Tỳ-kheo-ni trú xứ bị phát hỏa. Phật dạy: Nên đánh kiền chùy kêu la để tập trung chữa cháy, dùng đất phủ lên, dùng nước tưới vào, dùng quả nhúng nước để dập tắt.
Khi ấy, có số đông Cư sĩ mời Tỳ-kheo-ni Tăng thọ trai, các Tỳ-kheo-ni sáng sớm đắp y bưng bát đến nhà thí chủ, mới hỏi thăm nhau để biết lớn nhỏ, nên trễ giờ ăn, Cư sĩ chê trách: Các Tỳ-kheo-ni này giống như phái nữ của Bà-lamôn, hỏi nhau để biết lớn nhỏ một cách quá tỉ mỉ, nay ta mời ăn mà bị trễ giờ, biết làm sao đây, bạch Phật. Phật dạy: Nếu khi đại chúng nhóm họp, cho phép tám vị Thượng tọa hỏi nhau biết lớn nhỏ, theo thứ tự để ngồi, ngoài ra các vị khác thì tùy tiện cứ ngồi.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn Nê hoàn chưa bao lâu, Tôn giả Đại Ca-diếp ở tại giảng đường Trùng Các, bên bờ sông Di hầu nơi Tỳ-xá-ly, cùng đầy đủ chúng Đại Tỳ-kheo Tăng năm trăm vị, đều là bậc A-la-hán chỉ trừ Tôn giả A-nan, bảo các Tỳ-kheo: Trước đây, tôi từ nước Ba-tuần đi đến thành Câu-di, giữa hai nước, nghe Phật Thế tôn đã Bátniết-bàn, lúc ấy lòng tôi mê loạn không thể tự chủ. Nơi các xóm làng, các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, người thì quýnh cả hai chân, người thì nhảy khóc té nhào xuống đất, không ai là không bi ai khóc than: Mau quá! Thế gian còn gì nữa! Con mắt của thế gian bị mất rồi! Khi đó, Bạt-nan-đà đã có mặt trước ở đây, nói với mọi người: Lão già (tức là Phật) kia thường nói: Nên làm thế này, không nên làm thế kia, nên học thế này, không nên học thế kia. Kể từ nay, chúng ta mới thoát khỏi cái khổ đó, được làm theo ý muốn, không bị bắt buộc, tại sao các người lại cùng nhau khóc kể? Tôi nghe câu nói ấy càng thêm ưu não cho sự độc hại này. Đức Phật tuy Nê hoàn, Tỳ-ni hiện còn đó, chúng ta nên cùng nhau cố gắng kiết tập, đừng để cho đám Bạt-nan-đà biệt lập bè nhóm, phá hoại chánh pháp. Các Tỳ-kheo đều cho đó là điều hay, bạch với Tôn giả Ca-diếp: Tôn giả A-nan thường hầu cận Đức Thế Tôn, thông tuệ đa văn, thọ trì đầy đủ pháp tạng, nay nên cho phép ở trong số Tỳ-kheo kiết tập này. Ca-diếp nói: A-nan còn trong quả vị hữu học, hoặc theo ái, sân, si, sợ không nên dung nạp được. Thời điểm ấy, Tôn giả A-nan ở tại Tỳ-xá-ly, thường vì bốn chúng ngày đêm nói pháp, mọi người tới lui gần như Phật còn tại thế. Tỳ-kheo Bạt-kỳ tọa thiền trên gác thượng, bị náo loạn không thể an trú trong các Tam-muội giải thoát, khởi ý niệm: A-nan nay ở nơi học địa, có việc cần làm, không làm, lại nói nhiều, sống trong nếp sống ồn ào. Bạt-kỳ nhập định quán xét thấy có việc cần làm, bèn khởi ý niệm: Nay ta nên nói pháp nhàm chán, khiến cho A-nan nhân đấy mà ngộ. Bạt-kỳ bèn đến chỗ Tôn giả A-nan nói kệ:
Ngồi chỗ vắng bên cây
Tâm hướng nơi Nê hoàn
Nên thiền, đừng buông lung
Nói nhiều để làm gì!?
Các Tỳ-kheo cũng nói với A-nan: Ông nên tu gấp đi, Đại Ca-diếp nay muốn kiết tập pháp Tỳ-ni, không cho ông ở trong số đó. A-nan đã nghe Tỳ-kheo Bạt-kỳ nói kệ, lại nghe Ca-diếp không cho ở trong túc số kiết tập Tỳ-ni, nên đầu, giữa, và sau đêm siêng năng kinh hành, tư duy mong cầu giải thoát, song vẫn chưa đạt được. Đêm gần tàn, qua nhiều cố gắng, thân thể mỏi mệt, muốn nằm nghỉ một chút, đầu vừa chạm gối, hoát nhiên dứt sạch các lậu hoặc. Các Tỳ-kheo biết, liền bạch với Ca-diếp, A-nan đêm vừa rồi đã được giải thoát, nay cho phép ở trong túc số kiết tập Tỳ-ni. Ca-diếp thuận cho. Đối với Ca-diếp có những suy nghĩ bao quát: Nơi nào có đủ đồ ăn thức uống, giường nằm, ngọa cụ để cung cấp cho việc kiết tập Tỳ-ni này? Thành Vương-xá, chỉ có nơi ấy mới đủ cung cấp mọi thứ mà thôi. Ca-diếp liền đọc lớn giữa Tăng: Trong đây, năm trăm A-lahán, nên đến thành Vương-xá an cư, ngoài ra không một người nào được đi.
Lập quy chế như thế rồi, năm trăm vị A-la-hán đến thành Vương-xá, tháng đầu mùa hạ, sửa chữa phòng xá, ngọa cụ, tháng thứ hai hiện bày diệu dụng về các thiền giải thoát, tháng thứ ba mới tập trung một chỗ. Đi sát với kế hoạch chỉ đạo, Ca-diếp bạch Tăng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay tôi đối với giữa Tăng hỏi Tôn giả Ưu-ba-ly về nghĩa Tỳ-ni. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Tôn giả Ưu-ba-ly cũng bạch Tăng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay tôi sẽ đáp lời Tôn giả Ca-diếp về nghĩa Tỳ-ni. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Ca-diếp liền hỏi Ưu-ba-ly:
Đức Phật chế giới đầu tiên ở tại chỗ nào? Ưuba-ly nói:
Tại Tỳ-xá-ly.
Lại hỏi: Vì ai mà chế?
Đáp: Vì Tu-đề-na, con của Ca-lan-đà.
Lại hỏi: Vì sao mà chế?
Đáp: Cùng người vợ cũ hành dâm.
Lại hỏi: Có chế lần thứ hai hay không? Đáp: Có. Vì có Tỳ-kheo cùng với khỉ cái hành dâm. Ca-diếp lại hỏi:
Chế giới thứ hai ở chỗ nào?
Đáp: Tại thành Vương-xá.
Lại hỏi: Vì ai mà chế? Đáp: Vì Đạt-ni-tra.
Lại hỏi: Vì sao mà chế?
Đáp: Vì ăn trộm gỗ của Vua Bình-sa. Ca-diếp lại hỏi: Chế giới thứ ba tại chỗ nào? Đáp: Tại Tỳ-xá-ly.
Lại hỏi: Vì ai mà chế?
Đáp: Vì một số đông Tỳ-kheo.
Lại hỏi: Vì việc gì mà chế?
Đáp: Tự cùng nhau hại mạng.
Ca-diếp lại hỏi: Giới thứ tư chế tại chỗ nào? Đáp: Tại Tỳ-xá-ly.
Lại hỏi: Vì ai mà chế?
Đáp: Vì các Tỳ-kheo ở sông Bà-cầu-ma.
Lại hỏi: Vì việc gì mà chế?
Đáp: Dối xưng được pháp hơn người.
Ca-diếp lại hỏi về tất cả vấn đề Tỳ-ni như vậy rồi, ở giữa Tăng xướng: Đây là Tỳ-ni của Tỳ-kheo, đây là Tỳ-ni của Tỳ-kheo-ni, hợp lại gọi là Tạng Tỳ-ni.
Ca-diếp lại bạch Tăng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay tôi muốn đối trước Tăng hỏi Tôn giả A-nan về Tu-đa-la. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
A-nan cũng bạch Tăng:
Đại đức Tăng xin lắng nghe! Nay tôi sẽ đáp lời Tôn giả Ca-diếp về nghĩa của Tu-đa-la. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp thuận. Đây là lời tác bạch.
Ca-diếp liền hỏi A-nan:
Đức Phật nói kinh Tăng nhất ở chỗ nào? Nói kinh Tăng thập ở chỗ nào? Kinh đại nhân duyên, kinh Tăng kỳ đà, kinh quả Sa-môn, kinh Phạm Động, những kinh nào vì Tỳ-kheo nói? Những kinh nào vì Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, các Thiên tử, Thiên nữ nói?
A-nan đều tùy theo chỗ Phật nói mà trả lời.
Ca-diếp hỏi như vậy đối với tất cả Tu-đa-la rồi, giữa Tăng công bố: Đây là kinh dài, nay tập hợp lại làm một bộ, gọi là Trường A Hàm. Đây là kinh không dài, không ngắn, nay tập hợp lại làm thành một bộ, gọi là Trung A Hàm. Đây là những việc tạp toái vì Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Thiên tử, Thiên nữ nói, nay tập hợp lại làm thành một bộ, gọi là Tạp A Hàm. Đây là từ một pháp tăng lên đến mười một pháp, tập hợp lại làm thành một bộ, gọi Tăng Nhất A Hàm. Ngoài ra từ nhiều vấn đề được đề cập đến, nay tập hợp lại làm thành một bộ gọi là Tạp Tạng Tu-đa-la.
Chúng ta đã kiết tập pháp xong, từ nay về sau, những gì Phật không chế cấm, không nên tùy tiện chế, những gì Phật đã chế cấm không được trái phạm. Như lời Đức Phật đã dạy nên kính cẩn tu học.
A-nan lại bạch Ca-diếp: Tôi thân cận, nghe từ Đức Phật: Sau khi Ta nê hoàn, nếu muốn bỏ bớt những giới nho nhỏ thì cho phép bỏ. Ca-diếp liền hỏi: Ông muốn giới nào là giới nho nhỏ? Đáp: Không biết. Lại hỏi: Tại sao không biết? Đáp: Vì không hỏi Đức Thế Tôn. Lại hỏi: Tại sao không hỏi? Đáp: Khi ấy, Đức Phật mệt nên sợ phiền Ngài. Ca-diếp liền kết tội: Ông không hỏi nghĩa này, phạm tội Đột-kiết-la, nên thấy tội tự sám hối. A-nan thưa: Thưa Đại đức! Chẳng phải tôi không kính giới mà không hỏi nghĩa này, vì sợ não động Đức Thế Tôn nên không dám hỏi. Trong vấn đề này tôi không thấy tướng tội, nhưng vì kính tín Đại đức nên nay xin sám hối.
Ca-diếp lại gạn hỏi A-nan: ông vá Tăng-già-lê cho Đức Thế Tôn dùng ngón chân đạp lên phạm Đột-kiết-la, nên thấy tội sám hối. A-nan thưa: Không phải tôi không kính Phật mà vì không có ai cầm nên tôi phải dùng chân kẹp lại. Trong vấn đề này tôi không thấy tướng tội, nhưng vì kính tín Đại đức nên nay xin sám hối.
Ca-diếp lại gạn hỏi A-nan: Ông ba phen cầu thỉnh Đức Thế Tôn cho người nữ xuất gia trong chánh pháp, phạm Đột-kiết-la, nên thấy tội sám hối. A-nan thưa: Chẳng phải tôi không kính pháp, chỉ vì Ma-ha-ba-xà-ba-đề Cù-đàm-di là người nuôi dưỡng Đức Thế Tôn cho đến lớn xuất gia, đến thành đại đạo, công đức này cần phải báo đáp, nên tôi mới xin thỉnh Ba lần như vậy. Trong vấn đề này tôi không thấy tướng tội, nhưng vì kính tín Đại đức nên nay xin sám hối.
Ca-diếp lại gạn hỏi A-nan: Đức Phật khi gần Nê hoàn hiện tướng nói với ông: Người có được bốn thần túc, muốn ở đời một kiếp hay hơn một kiếp đều có thể được. Như Lai thành tựu vô lượng pháp định, Ngài hiện tướng nói với ông như vậy Ba lần, ông không thỉnh Phật trụ thế một kiếp hay hơn một kiếp, phạm Đột-kiết-la, nên thấy tội sám hối. A-nan thưa: Chẳng phải tôi không muốn thỉnh Phật trụ lâu nơi thế gian mà vì ma ác Batuần che lấp lòng tôi, cho nên mới như vậy. Trong vấn đề này tôi cũng không thấy tướng tội, nhưng vì kính tín Đại đức nên nay xin sám hối.
Ca-diếp lại gạn hỏi A-nan: Trước đây, Đức Phật Ba lần thứ bảo ông đưa nước, ông không dâng nước cho Ngài, phạm Đột-kiết-la, cũng nên thấy tội sám hối. A-nan thưa: Chẳng phải tôi không muốn dâng nước mà khi ấy có năm trăm cỗ xe đi qua bên trên dòng nước, nước bị đục, chưa trong, sợ Ngài uống bị bệnh nên không dâng. Đối với tôi trong vấn đề này cũng không thấy tướng tội, nhưng vì kính tín Đại đức nên nay xin sám hối.
Ca-diếp lại gạn hỏi: Ông cho phép người nữ kính lễ Xá-lợi trước, phạm Đột-kiết-la, cũng nên thấy tội sám hối. A-nan thưa: Chẳng phải tôi muốn khiến người nữ kính lễ Xá-lợi trước, mà sợ chiều tối họ vào thành không kịp, do vậy nên cho phép họ kính lễ trước. Trong vấn đề này tôi cũng không thấy tướng tội, nhưng vì kính tín Đại đức nên nay xin sám hối. A-nan kính tín Đại Ca-diếp cho nên liền đối trước chúng Tăng tác pháp sám hối sáu tội Đột-kiết-la.
Ca-diếp lại nói với A-nan: Nếu chúng ta cho Chúng Học pháp là giới nho nhỏ, Tỳ-kheo khác lại nói đến Ba-la-đề-đề-xá-ni cũng là giới nho nhỏ. Nếu chúng ta nói cho đến bốn Ba-la-đề-đềxá-ni cũng là giới nho nhỏ, Tỳ-kheo khác bèn nói cho đến Ba-dật-đề cũng là giới nho nhỏ. Nếu chúng ta nói cho đến Ba-dật-đề cũng là giới nho nhỏ, Tỳ-kheo khác bèn nói đến Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề cũng là giới nho nhỏ. Như vậy thành bốn ý kiến làm sao quyết định? Ca-diếp lại hỏi: Nếu chúng ta không biết giới tướng nào là nho nhỏ mà tùy tiện loại bỏ, các ngoại đạo sẽ nói: Sa-môn Thích tử, pháp của họ giống như khói. Khi thầy còn tại thế những điều chế cấm đều phụng hành, sau khi thầy Nê hoàn lại không chịu học tập. Ca-diếp lại đối giữa Tăng đọc lớn:
Chúng ta đã kiết tập pháp xong, nếu những điều gì không được Phật chế cấm, không nên tùy tiện chế, những điều đã chế cấm không được trái phạm, như lời Phật dạy nên kính cẩn tu học.
Khi ấy, Trưởng lão Phú-lan-na ở phương Nam, nghe Đức Phật Bát Nê-hoàn tại thành Câudi, các Tỳ-kheo Trưởng lão cùng nhau tập hợp nơi thành Vương-xá, luận pháp Tỳ-ni, nên chính mình cùng quyến thuộc, chỉ trong khoảnh khắc như co duỗi cánh tay đã đến trong chúng, hỏi Tôn giả Đại Ca-diếp: Tôi nghe Đức Phật nê hoàn, Tỳ-kheo Thượng tọa đều cùng vân tập nơi đây bàn pháp Tỳ-ni, có thật như vậy không? Ca-diếp trả lời: Có thật như vậy, thưa Đại đức! Phú-lan-na nói: Có thể luận bàn lại được không? Ca-diếp liền luận bàn lại, như đã luận bàn. Luận bàn rồi, Phúlan-na nói với Ca-diếp: Chính tôi nghe từ Đức Phật: Được ngủ với thức ăn, nấu trong phòng, tự nấu, tự mang thức ăn đến người thọ, tự lấy trái cây để ăn, đến nơi ao nước lấy thức ăn, không có tịnh nhân tác tịnh trái cây trừ bỏ hạt để ăn. Ca-diếp trả lời: Thưa Đại đức! Bảy điều đó là khi Đức Phật ở tại Tỳ-xá-ly, gặp lúc mất mùa đói kém, khất thực khó được nên Phật quyền biến cho phép như vậy. Sau đấy cũng tại nơi đó, lại chế cấm bốn điều, rồi đến thành Xá-vệ chế cấm ba điều. Phú-lan-na nói: Đức Thế Tôn không làm cái việc chế cấm rồi lại cho phép, cho phép rồi lại chế cấm! Ca-diếp nói: Đức Phật là đấng Pháp vương, đối với pháp tự tại, chế cấm rồi lại cho phép, cho phép rồi lại chế cấm, đâu có lỗi gì? Phú-lan-na nói: Những điều khác tôi chấp nhận còn đối với bảy điều này không thể thi hành. Ca-diếp lại ở giữa Tăng đọc lớn:
Những gì Phật đã chế cấm không nên vọng chế, những gì Phật đã chế cấm không nên trái phạm, như lời Phật dạy nên kính cẩn tu học.
Bấy giờ, nơi Câu-xá-di, Tỳ-kheo Xiển-đà xúc não chúng Tăng không cùng hòa hợp. Có một Tỳ-kheo an cư rồi đến chỗ Tôn giả Đại Ca-diếp, trình bày đầy đủ vấn đề. Ca-diếp nói với A-nan: Thầy đến Câu-xá-di dùng lời của Phật, dùng lời của Tăng tác pháp Phạm đàn trị phạt Xiển-đà. A-nan làm theo lời sai, cùng năm trăm Tỳ-kheo đến đó, Xiển-đà nghe A-nan cùng năm trăm Tỳ-kheo đến liền ra nghinh đón, hỏi A-nan: Đến đây có việc gì? Đâu không muốn gây sự vô ích cho tôi chăng? A-nan nói: Vì muốn đem sự hữu ích cho thầy. Xiển-đà hỏi: Có ích cho tôi như thế nào? A-nan nói: Nay tôi sẽ dùng lời Phật, dùng lời Tăng tác pháp Phạm đàn trị phạt thầy. Xiển-đà liền hỏi: Thế nào gọi là pháp Phạm đàn? A-nan nói: Pháp Phạm đàn là tất cả các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di không cùng thầy qua lại nói năng. Xiển-đà nghe rồi, liền ngất xỉu té xuống đất, nói với A-nan: Đấy, há không phải là giết tôi! A-nan nói: Chính tôi nghe từ Đức Phật: Thầy sẽ từ nơi tôi mà đắc đạo. Thầy đứng dậy, tôi sẽ vì thầy nói pháp. Xiển-đà lắng lòng đứng dậy, Anan nói pháp diệu, chỉ vẽ sự lợi ích để được vui mừng. Xiển-đà liền xa trần lìa cấu, đối với các pháp đặng mắt pháp trong sạch.
Khi vân tập để kiết pháp Tỳ-ni, Trưởng lão Anhã-kiều-trần-như trong ngôi vị đệ nhất Thượng tọa, Phú-lan-Na-là đệ nhị Thượng tọa, Đàm-di là đệ tam Thượng tọa, Đà-bà Ca-diếp là đệ tứ Thượng tọa, Bạt-đà Ca-diếp đệ ngũ Thượng tọa, Đại Ca-diếp là đệ lục Thượng tọa, Ưu-ba-ly là đệ thất Thượng tọa, A-na-luật là đệ bát Thượng tọa. Do con số tròn năm trăm vị A-la-hán không nhiều, không ít, tham dự kiết tập cho nên gọi là Ngũ bách kiết tập Pháp tạng.
-
Sau khi Phật Nê hoàn một trăm năm, tại Tỳxá-ly các Tỳ-kheo Bạt-kỳ đề khởi lên mười phi pháp:
Muối gừng hợp lại để cách đêm, được phép ăn.
Dùng hai ngón tay xúc thức ăn, được phép ăn.
(Ăn rồi) ngồi trở lại, được phép ăn.
Qua xóm làng khác, được phép ăn.
Tô, dầu, mật, thạch mật hòa với lạc được phép ăn.
Rượu Các lâu già được phép uống.
Làm tọa cụ lớn nhỏ theo ý mình, được phép ngồi.
Quen theo nếp sống trước là tịnh.
Cầu thính là tịnh.
Nhận chứa vàng, bạc, tiền là tịnh.
Các Tỳ-kheo Bạt-kỳ thường dùng bình bát đựng nước, trong tháng vào những ngày mùng tám, mười bốn, rằm, tập hợp ngồi chỗ đông người, để bình bát trước mặt gọi là điềm lành, mục đích là để cầu người bố thí.
Khi ấy, các bạch y nam nữ, lớn nhỏ đi qua phía trước, bèn chỉ trong bát nước, nói: Trong đấy là điềm lành, có thể đặt vào trong đó: y, bát, giày dép, thuốc thang. Người muốn cho thì họ cho, người không muốn cho bèn chê trách nói: Sa-môn Thích tử không nhận chứa vàng bạc và tiền, dù có người cho cũng không dùng mắt đến để nhìn, tại sao nay lại làm việc này để cầu xin bố thí? Lúc đó, Trưởng lão Da-xá, con của Ca-lan-đà, ở trên giảng đường Trùng các, bên sông Di-hầu, nói với các Tỳ-kheo: Các thầy chớ cầu xin sự bố thí thế này, chính tôi nghe Đức Phật dạy: Nếu có người cầu thí phi pháp, và người thí cho kẻ cầu phi pháp, cả hai đều mắc tội. Nói với các Tỳ-kheo rồi lại nói với các bạch y nam nữ lớn nhỏ: Các người đừng nên bố thí thế này, chính tôi nghe từ Đức Phật dạy: Nếu cầu thí phi pháp, hoặc thí cho người cầu phi pháp, cả hai đều mắc tội.
Các Tỳ-kheo Bạt-kỳ nhận được vàng, bạc, tiền rồi, nói với Da-xá:
Đại đức có thể nhận lấy phần này. Da-xá nói: Tôi không nhận phần do sự cầu phi pháp mà được. Các Tỳ-kheo lại nói:
Nếu không nhận cho mình thì nhận rồi cúng cho Tăng.
Da-xá nói:
Tôi đã không nhận, tại sao lại cúng cho Tăng?!
Thế là các Tỳ-kheo bèn đem việc Da-xá đã nêu dạy trước bạch y như vậy là sự nhục mạ bạch y, nên trao cho Da-xá pháp Yết-ma hạ ý. Tác Yết-ma rồi, Da-xá nói:
Chính tôi nghe Đức Phật dạy: Nếu Tăng trao cho pháp Yết-ma hạ ý thì nên sai một Tỳ-kheo làm bạn để đến xin lỗi bạch y. Các Tỳ-kheo bèn bạch nhị Yết-ma sai một Tỳ-kheo làm bạn để cùng với Da-xá đến nhà bạch y. Da-xá và bạn đến nơi thì nhằm lúc năm trăm Ưu-bà-tắc tập trung lại một chỗ.
Da-xá nói:
Quý vị nên biết: Đúng pháp tôi nói là đúng pháp, phi pháp tôi nói là phi pháp. Tỳ-ni tôi nói là Tỳ-ni, phi Tỳ-ni tôi nói là phi Tỳ-ni. Lời Phật dạy tôi nói là lời Phật dạy, chẳng phải là lời Phật dạy tôi nói chẳng phải là lời Phật dạy. Trước đây những gì tôi nói khiến các Ưu-bà-tắc giận, nay tôi xin lỗi.
Các Ưu-bà-tắc rất ngạc nhiên nói:
Thưa Đại đức! Lúc nào Đại đức vì chúng con nói là pháp, là Tỳ-ni, là lời Phật dạy, làm sao chúng con lại giận mà nay Đại đức đến xin lỗi?!
Da-xá lại nói với mọi người:
Thuở ấy, Đức Thế Tôn ở tại thành Vương-xá, nơi vườn Kỳ-vức Yêm La, bấy giờ Vua Bình-sa và các Đại thần cùng tập hợp nơi vương môn, luận bàn thế này: Sa-môn Thích tử nên nhận chứa vàng bạc, châu báu và sử dụng để mua bán? Khi ấy, trong số đông đó có một vị Đại thần tên là Châu Kế nói với mọi người: “Đừng nên đề cập đến vấn đề này. Sa-môn Thích tử không nên thọ và chứa vàng bạc, châu báu hay sử dụng để mua bán”. Sự việc ấy, Châu Kế bèn vội đến bạch lên Đức Thế Tôn: Ý kiến của con nêu ra như thế có đưa đến sai lầm nào không? Đức Phật dạy: Điều ông nói lên như vậy là đúng với chánh pháp. Tại sao vậy? Như Lai thường nói rõ điều này: Samôn Thích tử không nhận chứa vàng bạc, châu báu và sử dụng để mua bán. Vị Đại thần Châu Kế bạch Phật: Cúi xin Đức Thế Tôn nên phổ biến cho mọi người biết, ý kiến của con là không nhầm lẫn. Đức Phật nói: Hay lắm! Đức Phật lại bảo Châu Kế: Ví như mặt trời, mặt trăng bị khói, mây bụi, A-tu-la, bốn thứ đó che khuất nên không trong suốt sáng ngời. Sa-môn, Bà-la-môn cũng bị bốn thứ đó như vậy: Hoặc không đoạn ái dục hành pháp dâm, hoặc đam mê ăn uống không thể đoạn trừ, hoặc chuyên làm tà mạng để nuôi sống, hoặc nhận chứa vàng bạc, châu báu sử dụng để mua bán. Nếu người nào cho năm dục là tịnh thì người ấy cho nhận chứa vàng bạc châu báu và sử dụng vào mua bán là tịnh. Nếu người nào cho việc thọ nhận cất chứa vàng bạc châu báu và sử dụng mua bán là tịnh thì người ấy cho năm dục là tịnh. Nếu người nào nương theo Ta xuất gia thọ giới cụ túc mà cho việc nhận chứa vàng bạc châu báu và sử dụng vào mua bán là tịnh thì cả quyết rằng, người ấy không tin vào pháp luật của Ta. Tuy Ta thường nói cần xe thì dùng xe, cần người thì dùng người, tùy theo nhu cầu đều cho phép dùng, mà hoàn toàn không được cho nhận và cất chứa vàng bạc, châu báu và sử dụng để mua bán.
Da-xá nói như vậy rồi nói tiếp:
Trước đây tôi nói là pháp, phi pháp, là luật, phi luật, là lời Phật dạy, chẳng phải là lời Phật dạy, là lời Phật nói, chẳng phải là lời Phật nói. Các Ưu-bà-tắc nói:
Chúng con đối với những lời nói ấy đâu không tin ưa. Hiện nay nơi Tỳ-xá-ly này chỉ có Đại đức là Sa-môn Thích tử, cúi xin Đại đức nhận lời mời của chúng con ở lại đây để trọn đời chúng con được cúng dường tứ sự.
Da-xá xin lỗi các Ưu-bà-tắc rồi cùng với Tỳ-kheo sứ giả của Tăng trở về Tăng phường.
Tỳ-kheo Bạt-kỳ hỏi Tỳ-kheo sứ giả:
Tỳ-kheo Da-xá đã xin lỗi các Ưu-bà-tắc chưa? Đáp:
Đã xin lỗi rồi, nhưng chỉ có điều là các bạch y đều tin theo lời nói của Tỳ-kheo Da-xá, họ cảm động nói: Hiện nay nơi Tỳ-xá-ly này chỉ có Đại đức. Họ mời ở lại để trọn đời cúng dường tứ sự.
Đối với chúng ta lại không được lợi ích gì.
Tỳ-kheo Bạt-kỳ lại đem vấn đề trước đây Daxá, khuyên dạy các Tỳ-kheo là việc làm nhục mạ Tăng, phạm Ba-dật-đề, và nói:
Thầy phải thấy tội để sám hối. Tỳ-kheo Da-xá trả lời: Tôi không có tội làm sao có thể thấy tội để sám hối.
Tỳ-kheo Bạt-kỳ bèn tập hợp Tăng để trao cho pháp Yết-ma không thấy tội. Thế là, Da-xá liền dùng thần túc bay đến nước Ba-tuần.
Lúc này, ở nơi ấp Ba-lợi có sáu mươi Tỳ-kheo đều ở A-lan-nhã, đời sống với ba y và khất thực, thường với y phấn tảo, ngồi nơi đất trống, đầy đủ ba minh, sáu thông, tất cả là đệ tử của Tôn giả Anan, đồng loạt bay đến Tỳ-xá-ly. Da-xá thấy các vị, bèn để y bát nơi hư không như để trên đất, hỏi chào các Tỳ-kheo kia, trình bày rõ ràng mười điều phi pháp của Tỳ-kheo Bạt-kỳ và đề nghị: Thưa các Đại đức, chúng ta nên cùng nhau bàn luận pháp Tỳ-ni để chấm dứt việc phi pháp kia, đừng nên để Tỳ-kheo Bạt-kỳ phá hoại chánh pháp. Số Tỳ-kheo kia đồng ý muốn cùng nhau chấm dứt.
Lại có ba mươi Tỳ-kheo Tăng nơi ấp Ba-lợi cũng đồng ý như vậy và các vị cũng là đệ tử của Tôn giả A-nan. Ở tại nước Ma-thâu-la, Da-xá cùng với sáu mươi Tỳ-kheo cũng đã bàn luận đến vấn đề ấy và nói: Được ba mươi Tỳ-kheo này đồng tình với chúng ta chắc được như pháp diệt sự ác kia. Nghị bàn rồi bèn cùng nhau bay đến chỗ các Tỳ-kheo kia trình bày đầy đủ như trên. Các vị ở đây đều thống nhất muốn cùng nhau chấm dứt việc phi pháp đã xảy ra.
Lại có ba mươi Tỳ-kheo ở nơi ấp Ba-lợi, nghe sự việc và cũng đồng tình như trên. Các vị cũng là đệ tử của Tôn giả A-nan. Tại ấp A-lạp-bệ, Daxá lại cùng với chín mươi người cũng nghị bàn việc ấy rồi đến tận các nơi trình bày rõ sự việc như trên. Nơi nào cũng đồng tình, mong muốn chấm dứt điều phi pháp ấy.
Bấy giờ, Trưởng lão Tam-phù-đà ở trên núi A Hô, Da-xá lại cùng một trăm hai mươi người cũng luận bàn việc trên, rồi đến tận các nơi ở đấy nói rõ việc phi pháp như trên. Nơi nào cũng đồng tình, muốn chấm dứt việc đó.
Khi đó, Trưởng lão Ly-bà-đa ở thành Câu-xádi được Tam-muội tâm từ, có đại quyến thuộc, Da-xá cùng với một trăm hai mươi mốt vị cùng bàn thảo việc trên, rồi đến tận các nơi ở đây nói rõ việc phi pháp như đã nói. Ở đâu cũng đồng tình, muốn chấm dứt việc ấy.
Bấy giờ, Tỳ-kheo Bạt-kỳ nghe Da-xá đến chỗ Ly-bà-đa nơi Câu-xá-di, bèn chở đầy cả thuyền y, bát và vật dụng cần thiết của Sa-môn cũng đến nơi đó, muốn tìm cách mua chuộc cầu yểm trợ. Trong thuyền có Tỳ-kheo trì luật tên là Sa-lan, tự thân thầm nghĩ: Tỳ-kheo Bạt-kỳ là như pháp hay không? Dựa vào các kinh luật để xét thì việc làm đó không như pháp. Lúc này, trong không trung có vị thần ba phen xướng: “Việc làm của Tỳ-kheo Bạt-kỳ là phi pháp, phi pháp như vậy, như vậy, đúng như chỗ thấy của thầy”.
Các Tỳ-kheo Bạt-kỳ đến Câu-xá-di cùng nhau lên bờ, đến chỗ Trưởng lão Ly-bà-đa thưa:
Chúng tôi có chở nhiều những vật cần dùng của Sa-môn đến để dâng cúng cho Trưởng lão, xin Trưởng lão hoan hỷ nạp thọ. Ly-bà-đa trả lời:
Y bát của tôi đầy đủ, khỏi cần thêm nữa. Bạtkỳ lại thưa:
Nếu Trưởng lão không nhận nhiều thì xin nhận chút ít. Ly-bà-đa nói:
Y bát của tôi đã đầy đủ, không nên vì thầy thọ để rồi trái với chánh pháp.
Ly-bà-đa có một người đệ tử tên là Đạt-ma, thường ngày hầu hạ bên cạnh. Các Tỳ-kheo Bạtkỳ bèn đến chỗ người đệ tử nói:
Tôi có các vật cần dùng của Sa-môn, nếu ông có thiếu thì cứ lấy dùng.
Người đệ tử của Ly-bà-đa nói:
Tôi đều có đủ, không có thiếu thốn. Các Tỳ-kheo Bạt-kỳ lại nói:
Khi Phật còn tại thế, người ta đến cúng cho Ngài, Phật không nhận thì cúng cho A-nan, Anan đều thọ. A-nan đã thọ tức là Phật thọ. Đạt-ma nghe vậy, nên thọ một vật.
Thọ rồi hỏi:
Với ý đồ nào, quý vị lại buộc tôi nhận vật cúng của quý vị? Đám Bạt-kỳ nói:
Chúng tôi muốn ông vì chúng tôi thưa với Hòa thượng dùng uy tín yểm trợ chúng tôi, đừng để Da-xá phá hoại pháp luật của chúng tôi.
Đạt-ma bèn vì họ đến chỗ Hòa thượng thưa:
Hòa thượng có thể yểm trợ cho Tỳ-kheo Bạtkỳ. Hòa thượng dạy: Người làm phi pháp ta không thể yểm trợ được. Đạt-ma lại thưa:
Xin cân nhắc kỹ điều đó. Ly-bà-đa nói:
Nay ông khuyên ta yểm trợ người phi pháp, tức chẳng phải là đệ tử của ta, từ nay đừng nên hầu hạ ta nữa, ta cũng không nói gì với ông nữa.
Đạt-ma xấu hổ sợ sệt, đến chỗ các Tỳ-kheo Bạt-kỳ. Họ lại hỏi:
Hòa thượng của ông có yểm trợ ý kiến của chúng tôi không? Đạt-ma đáp:
Không. Nào ngờ, vì các ông mà tôi bị thầy tôi quở trách, không nói đến tôi và đuổi tôi.
Các Tỳ-kheo Bạt-kỳ hỏi:
Nay ông bao nhiêu tuổi? Đáp:
Hai mươi tuổi.
Với tuổi của ông và với đức độ như vậy đâu cần phải sợ không được nói năng và bị đuổi.
Sự việc như vậy, Trưởng lão Ly-bà-đa khởi ý niệm: Nếu ta ở đây chấm dứt việc phi pháp kia, thì người gây nên sự việc ắt sẽ phát khởi lại. Nay ta cùng đến Tỳ-xá-ly để chấm dứt việc đó. Nghĩ rồi bèn ra đi cùng với đại chúng, bao gồm chúng của thành Tỳ-xá-ly.
Nơi thành ấy, trước đó đã có Tỳ-kheo tên là Nhất-thế-khứ, đối với Sa-môn Thích tử nơi Diêmphù-đề là bậc Thượng tọa tối thắng, chứng A-lahán, đạt ba minh, sáu thông, cũng là đệ tử lớn nhất của Tôn giả A-nan. Lúc còn ở ngoài Tăng phường, Da-xá nói với Ly-bà-đa: Đại đức có thể đến nơi phòng Thượng tọa trải ngọa cụ nghỉ đêm, nhân đó trình bày đầy đủ sự việc. Sáng sớm tôi cũng sẽ đến thăm hỏi Thượng tọa. Mọi người đã đến Tăng phường, vị Thượng tọa kia sửa soạn nước tắm và nước uống sau giờ ngọ. Ly-bà-đa một mình đến trong phòng Thượng tọa, trải ngọa cụ nghỉ đêm. Ly-bà-đa trong đêm suy nghĩ: Vị Thượng tọa Nhất-thế-khứ này già yếu mà vẫn còn siêng năng ngồi thiền thâu đêm, nay ta đâu được phép nghỉ ngơi. Thượng tọa Nhất-thế-khứ cũng lại nghĩ như vầy: Tỳ-kheo khách này đi đường mệt nhọc, lại bận cả việc tắm giặt mà còn tọa thiền hành đạo suốt đêm. Giờ đây sao ta lại an tâm nằm nghỉ. Hai vị tự sách tấn nhau mà suốt đêm tọa thiền. Đến cuối đêm, Nhất-thế-khứ hỏi Ly-bà-đa:
Đêm nay phần nhiều thầy an trú nơi định nào? Ly-bà-đa nói:
Bản tánh của tôi nhiều lòng từ, đêm nay phần nhiều an trú nơi định ấy.
Nhất-thế-khứ nói: Đây là định thô.
Lại hỏi: Thầy là A-la-hán phải không?
Đáp: Phải.
Ly-bà-đa, kế đó hỏi Nhất-thế-khứ:
Đêm nay Thượng tọa phần nhiều an trú nơi định nào?
Nhất-thế-khứ nói:
Tánh tôi ưa quán không, đêm nay phần nhiều an trú nơi định đó.
Ly-bà-đa hỏi: Đây là việc làm của bậc Đại nhân. Tại sao vậy? Tam-muội không là pháp của Đại nhân.
Lại hỏi: Thượng tọa là A-la-hán phải không?
Đáp: Phải.
Đêm đã qua rồi, Tỳ-kheo Da-xá đến trước phòng búng móng tay, Thượng tọa mở cửa liền vào thăm hỏi. Thăm hỏi rồi, Ly-bà-đa hỏi Nhấtthế-khứ:
Muối với gừng hợp lại để cách đêm có tịnh hay không? Nhất-thế-khứ nói:
Việc này nên hỏi giữa Tăng, nếu hỏi riêng tôi sợ người phi pháp cho tôi là tư vị, không chấp nhận tôi ở trong túc số những người luận pháp Tỳ-ni.
Thế là Ly-bà-đa muốn bàn luận Tỳ-ni mà vì lắm lời ồn ào, nên bạch Tăng:
Hôm nay muốn cùng luận bàn pháp Tỳ-ni, mà vì lắm lời ồn ào không thể quyết đoán được. Chúng hai phía nên mỗi bên thỉnh cầu Tăng bốn vị để bạch nhị Yết-ma, sai người chủ đoán sự.
Trước hết Tỳ-kheo Bạt-kỳ thỉnh cầu bốn vị:
Nhất-thế-khứ.
Ly-bà-đa.
Bất-xà-tông. Tu-ma-na. Tỳ-kheo ấp Ba-lợi cũng thỉnh cầu bốn vị: Tam-phù-đà. Sa-lan. Trường Phát. Bà-sa-lam.
Các Thượng tọa được Tăng sai rồi cùng nhau nghị bàn: Địa điểm nào rộng rãi khoáng đạt yên tịnh có thể cùng nhau luận bàn pháp Tỳ-ni? Xem xét khắp nơi thì chỉ thấy nơi ngôi vườn do người nữ Tỳ-la-da cúng là tốt nhất. Ly-bà-đa liền bảo Đạt-ma đến đó sửa soạn trải tòa, khi Thượng tọa đến thì ông tránh đi. Đạt-ma vâng lệnh đến trải tòa. Các Thượng tọa đến theo thứ tự an tọa. Hội nghị bắt đầu: Ly-bà-đa hỏi Thượng tọa Nhất-thếkhứ:
Muối hòa với gừng để cách đêm có tịnh hay không? Trả lời:
Không tịnh. Lại hỏi:
Điều đó chế cấm ở đâu? Trả lời:
Chế cấm tại thành Vương-xá. Lại hỏi:
Vì ai mà chế cấm? Trả lời:
Nhân vì một Tỳ-kheo A-lan-nhã. Lại hỏi:
Phạm việc gì? Trả lời:
Phạm túc thực Ba-dật-đề. Ly-bà-đa nói:
Đây là Pháp, là Luật, là lời Phật dạy, việc làm của Tỳ-kheo Bạt-kỳ là phi pháp, phi luật, chẳng phải là lời Phật dạy. Ra lệnh rút một thẻ.
Ly-bà-đa lại hỏi:
Hai ngón tay xúc thức ăn để ăn có tịnh hay không? Thượng tọa hỏi: Hai ngón tay xúc thức ăn để ăn là thế nào? Tịnh không? Ly-bà-đa nói:
Tỳ-kheo ăn xong rồi lại được ăn trở lại thì dùng hai ngón tay xúc thức ăn để ăn. Trả lời: Không tịnh. Lại hỏi:
Điều này chế cấm ở đâu? Trả lời:
Tại thành Vương-xá. Lại hỏi:
Vì ai mà chế cấm? Trả lời: Vì Bạt-nan-đà. Lại hỏi:
Phạm việc gì?
Trả lời:
Phạm không làm pháp tàn thực mà ăn, phạm Ba-dật-đề. Ly-bà-đa nói:
Đây là pháp… cho đến câu: Chẳng phải là lời Phật dạy. Ra lệnh rút thẻ thứ hai.
Ngồi trở lại được phép ăn, qua xóm làng khác được phép ăn, cũng như vậy. Ra lệnh rút thẻ thứ ba và thẻ thứ tư.
Ly-bà-đa lại hỏi:
Tô, dầu, mật, thạch mật hòa với lạc được uống là thế nào? Ly-bà-đa nói:
Uống phi thời. Trả lời không tịnh. Lại hỏi:
Chế cấm điều này ở đâu? Trả lời:
Tại thành Xá-vệ. Lại hỏi: Vì ai mà chế? Trả lời:
Vì Ca-lưu-đà-di. Lại hỏi:
Phạm việc gì? Trả lời:
Phạm phi thời thực, phạm Ba-dật-đề. Ly-bàđa nói:
Đây là pháp… cho đến câu: Chẳng phải là lời Phật dạy. Ra lệnh rút thẻ thứ năm.
Ly-bà-đa lại hỏi:
Rượu xà lâu già tịnh hay không? Thượng tọa hỏi:
Rượu xà lâu già là như thế nào? Ly-bà-đa nói: Gây men rượu mà chưa chín. Trả lời: Không tịnh. Lại hỏi:
Chế cấm điều này ở đâu? Trả lời:
Tại Câu-xá-di. Lại hỏi:
Vì ai mà chế?
Trả lời:
Vì Sa-kiệt-đà. Lại hỏi:
Phạm việc gì? Trả lời:
Uống rượu, phạm Ba-dật-đề. Ly-bà-đa nói: Đây là pháp… cho đến câu: Chẳng phải là lời Phật dạy:
Ra lệnh rút thẻ thứ sáu. Ly-bà-đa lại hỏi:
Làm tọa cụ lớn, nhỏ theo ý mình tịnh hay không? Trả lời:
Không tịnh. Lại hỏi:
Chế cấm điều này ở đâu? Trả lời:
Tại thành Xá-vệ. Lại hỏi:
Vì ai mà chế? Trả lời:
Vì Ca-lưu-đà-di. Lại hỏi:
Phạm việc gì? Trả lời:
Phạm Ba-dật-đề. Ly-bà-đa nói:
Đây là pháp… cho đến câu: Chẳng phải là lời Phật dạy.
Ra lệnh rút thẻ thứ bảy. Ly-bà-đa lại hỏi: Quen theo nếp sống trước tịnh hay không?
Thượng tọa hỏi:
Quen theo nếp sống trước là thế nào? Ly-bàđa nói: Quen theo việc làm khi còn là bạch y. Thượng tọa nói:
Hoặc có thói quen có thể chấp nhận, hoặc có thói quen không thể chấp nhận.
Ly-bà-đa nói:
Đây là pháp… cho đến câu: Chẳng phải là lời Phật dạy.
Ra lệnh rút thẻ thứ tám. Ly-bà-đa-lại hỏi:
Cầu thính tịnh hay không? Thượng tọa hỏi:
Cầu thính là thế nào? Ly-bà-đa nói:
Tác pháp Yết-ma riêng, sự việc đã rồi sau mới đến cầu người khác cho phép.
Trả lời:
Không tịnh. Lại hỏi:
Điều nay cấm ở đâu? Trả lời:
Tại nước Thiểm Bà. Lại hỏi:
Vì ai mà cấm? Trả lời:
Vì Lục quần Tỳ-kheo. Lại hỏi:
Phạm việc gì? Trả lời:
Tùy theo việc Yết-ma. Ly-bà-đa nói:
Đây là pháp… cho đến câu: Chẳng phải là lời Phật dạy.
Ra lệnh rút thẻ thứ chín. Ly-bà-đa lại hỏi: Nhận chứa vàng, bạc, tiền, tịnh hay không? Trả lời:
Không tịnh. Lại hỏi:
Chế cấm điều này ở chỗ nào? Trả lời:
Tại thành Vương-xá. Lại hỏi:
Nhân ai mà chế? Trả lời: Vì Nan-đà, Bạt-nan-đà.
Lại hỏi:
Phạm việc gì? Trả lời:
Phạm nhận chứa vàng bạc và tiền, phạm Nitát-kỳ-ba-dật-đề. Ly-bà-đa nói:
Đây là pháp… cho đến câu: Chẳng phải là lời Phật dạy. Ra lệnh rút thẻ thứ mười.
Hỏi xong, cùng nhau trở lại tập hợp Tăng, Lybà-đa đối trước đại chúng hỏi lại từng vấn đề một như đã hỏi Nhất-thế-khứ, rút thẻ thứ nhất cho đến thẻ thứ mười. Để đúc kết vấn đề, Ly-bà-đa đọc lớn:
Chúng ta đã luận bàn Tỳ-ni xong, những gì Đức Phật không chế cấm, không được tùy tiện chế, những gì Đức Phật đã chế cấm không được trái phạm, như lời Đức Phật dạy phải kính cẩn học tập.
Bấy giờ, chúng luận pháp Tỳ-ni này, bao gồm: Đệ nhất Thượng tọa là Nhất-thế-khứ, một trăm ba mươi sáu hạ lạp, đệ nhị Thượng tọa là Ly-bà-đa, một trăm hai mươi hạ lạp, đệ tam Thượng tọa là Tam Phù Đà, đệ tứ Thượng tọa là Da-xá đều một trăm mười hạ lạp. Con số hợp chung tròn bảy trăm vị A-la-hán không nhiều không ít, cho nên gọi là Thất bách kết tập pháp.