TẠNG LUẬT
LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH
SỐ 1422 - NGŨ PHẦN GIỚI BỔN (CŨNG GỌI LÀ DI TẮC GIỚI BẢN)
Đại đức Tăng lắng nghe! Đang là mùa Đông, thiếu một đêm thì qua một tháng, trong ba tháng tiếp có dư thêm một đêm, sự già chết đến gần, pháp Phật sắp hủy diệt. Các Đại đức hãy vì sự đắc đạo mà nên một lòng siêng cầu tinh tấn. Tại sao phải thế? Vì chư Phật một lòng siêng cầu tinh tấn nên đã chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, huống gì là các pháp thiện khác. Tăng nay đã hòa hợp, người chưa thọ giới Cụ túc đã ra khỏi đây, trước hết xin hỏi Tăng hòa hợp để làm việc gì? (Một người thưa để Bố-tát, thuyết giới). Các Đại đức! Vì các Tỳ-kheo đời vị lai mà thuyết giới, gởi dục và thanh tịnh.
Cung kính chấp đôi tay
Cúng dường Đấng Thích Tôn
Tôi nay sắp nói giới
Tăng một lòng lắng nghe.
Dù là một tội nhỏ
Tâm phải lo sợ lớn
Luôn một lòng sám hối
Sau đừng tái phạm nữa.
Tâm ngựa chạy đường ác
Buông lung khó kìm chế
Phật giảng nói giới pháp
Cũng như cương hàm bén.
Từ miệng Phật giáo giới
Người thiện luôn tin nhận
Người này “Ngựa” điều thuận
Phá được quân phiền não.
Nếu không tuân lời dạy
Cũng không yêu thích giới
Người này “Ngựa” không thuần
Chìm trong quân phiền não.
Là người hộ trì giới
Như trâu mao thương đuôi
Buộc tâm không buông lung
Như khỉ bị xiềng giữ
Ngày đêm thường tinh tấn
Cầu trí tuệ chân thật
Người này trong pháp Phật
Được mạng sống thanh tịnh.
Đại đức Tăng lắng nghe! Nay là ngày mười lăm Bố-tát thuyết giới. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng chấp nhận nghe giới thì một lòng cùng nhau Bố-tát. Đây là lời tác bạch.
Vị nào có tội thì phải phát lồ, không tội thì im lặng. Do im lặng nên biết các Đại đức thanh tịnh. Trong chúng, nếu Tỳ-kheo biết như vậy qua Ba lần xướng hỏi, nhớ có tội mà không phát lồ thì phạm tội cố ý nói dối. Đức Phật dạy tội cố ý nói dối làm ngăn cách đạo pháp. Trong chúng, nếu Tỳ-kheo như vậy, muốn cầu pháp thanh tịnh, nhớ có tội thì phải phát lồ, phát lồ thì được an ổn. Không phát lồ tội càng thêm sâu nặng.
Các Đại đức! Tôi đã nói tựa Giới kinh xong, nay xin hỏi các Đại đức: Trong chúng này thanh tịnh không? (Ba lần hỏi như vậy). Các Đại đức trong đây thanh tịnh, do im lặng, việc này tôi ghi nhận như vậy.
Các Đại đức! Đây là bốn pháp Ba-la-di, mỗi nửa tháng đều tụng theo Giới kinh:
1. Nếu Tỳ-kheo, chúng Tăng đã hòa hợp thọ giới Cụ túc, phạm giới không hoàn giới, không ra khỏi tưởng, hành dâm kể cả hành dâm cùng với loài súc sinh, Tỳ-kheo này phạm tội Ba-la-di, không được sống chung.
2. Nếu Tỳ-kheo, vật ở trong làng xóm, hoặc nơi đất trống hoang vắng, không cho mà lấy gọi là ăn trộm vật. Nếu vật đã không cho mà cố lấy, Vua hoặc quan bắt trói hoặc giết, hoặc kết tội trộm cắp, hoặc nói “Ngươi là tiểu nhân, kẻ ngu si, là giặc”. Tỳ-kheo có các tướng trạng như vậy thì Tỳ-kheo này phạm tội Ba-la-di, không được sống chung.
3. Nếu Tỳ-kheo, đối với người hoặc giống người đích thân giết hoặc bảo người giết, tự mình cầm dao đưa, hoặc bảo người cầm dao đưa cho họ, hoặc khuyên bảo giết, hoặc ca ngợi chết, hoặc nói: “Ôi! Ngươi sống xấu ác như vậy để làm gì, chết đi còn hơn sống”. Người này do động cơ như vậy mà chết thì Tỳ-kheo này phạm tội Ba-la-di, không được sống chung.
4. Nếu Tỳ-kheo, không biết, không thấy mà nói pháp hơn người, tự xưng: Biết như vậy, thấy như vậy. Về sau, các Tỳ-kheo, hoặc hỏi, hoặc không hỏi, vì cầu thanh tịnh nên phát lồ: Không biết nói biết, không thấy nói thấy, trừ tăng thượng mạn. Tỳ-kheo này phạm tội Ba-la-di, không được sống chung.
Các Đại đức! Tôi đã nói bốn pháp Ba-la-di, nếu Tỳ-kheo phạm mỗi một giới trong bốn giới này là phạm Ba-la-di, không được sống chung. Như trước khi chưa thọ giới, sau khi phạm cũng vậy. Tỳ-kheo phạm Ba-la-di không được sống chung. Nay xin hỏi các Đại đức, trong bốn giới Ba-la-di này thanh tịnh không? (Hỏi Ba lần như vậy).
Các Đại đức trong các giới này đều thanh tịnh do im lặng, việc này tôi ghi nhận như vậy.
Các Đại đức! Đây là mười ba pháp Tăng-già-bà-thi-sa, mỗi nửa tháng tụng theo trong Giới kinh:
1. Nếu Tỳ-kheo cố làm cho ra bất tịnh, trừ trong mộng, phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
2. Nếu Tỳ-kheo tâm dục biến loạn cùng xúc chạm với người nữ, hoặc nắm tay, tóc, cánh tay, xúc chạm trên dưới đắm vướng sự trơn láng mịn màng, phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
3. Nếu Tỳ-kheo nói với người nữ những lời bất tịnh, phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
4. Nếu Tỳ-kheo nói với người nữ: Chúng tôi là người trì giới, phạm hạnh, tu các pháp thiện, đem việc dâm dục cúng dường chúng tôi đó là pháp cúng dường trên hết, phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
5. Nếu Tỳ-kheo làm việc mai mối, đem ý người nam đến nói với người nữ, đem ý người nữ đến nói với người nam, hoặc để họ lấy làm vợ, hoặc làm việc tư thông, dẫn đến chỉ một lần giao hội, phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
6. Nếu Tỳ-kheo, không có thí chủ, vì mình tự xin vật liệu làm chỗ ở lớn phải hỏi các Tỳ-kheo chỗ làm không có các nạn, chẳng phải chỗ trở ngại. Nếu không hỏi các Tỳ-kheo mà làm quá mức lượng định, phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
7. Nếu Tỳ-kheo có thí chủ, muốn làm chỗ ở lớn cho mình, phải hỏi các Tỳ-kheo chỗ làm không có nạn, chỗ không trở ngại. Nếu không hỏi mà làm, phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
8. Nếu Tỳ-kheo giận Tỳ-kheo khác, sử dụng pháp Ba-la-di không căn cứ hủy báng nhằm phá hạnh thanh tịnh của Tỳ-kheo kia. Tỳ-kheo này hoặc được hỏi hay không được hỏi, biết đây là việc làm vô cớ, liền nói: “Tôi sân hận nên nói như vậy”, phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
9. Nếu Tỳ-kheo giận người khác nên không vui, trong phần việc khác nhau, lấy ra một khía cạnh hoặc khía cạnh tương tợ, chẳng phải việc Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, sử dụng làm pháp Ba-la-di hủy báng nhằm cố phá hạnh thanh tịnh của Tỳ-kheo kia. Tỳ-kheo này biết rõ đây là sự việc trong phần việc khác nhau lấy ra một chi tiết rồi thêu dệt thành chuyện, phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
10. Nếu Tỳ-kheo, muốn phá hòa hợp Tăng, tìm mọi phương tiện để phá các việc liên hệ đến Tăng. Các Tỳ-kheo nên can gián: Đại đức phải cùng Tăng hòa hợp, đừng mượn các phương tiện phá mối liên hệ của Tăng. Phải cùng Tăng hòa hợp. Tại sao? Vì Tăng hòa hợp nên hoan hỷ, không tranh cãi, một lòng cùng học một thầy, hạnh an lạc như nước và sữa hòa hợp. Khi can gián như vậy đến lần thứ ba, bỏ việc phá hòa hợp Tăng là tốt, không bỏ, Tỳ-kheo kia phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
11. Nếu Tỳ-kheo có cùng một ý kiến nhưng khác biệt về lời nói, hoặc một, hoặc hai lần. Tỳ-kheo này nói với các Tỳ-kheo: “Đừng nên can gián Tỳ-kheo ấy. Tại sao vậy? Vì Tỳ-kheo đó biết mới nói chứ chẳng phải không biết mà nói”. Các Tỳ-kheo phải can gián như thế này: Đại đức phải hỗ trợ Tăng hòa hợp, đừng hỗ trợ phá hòa hợp Tăng. Tại sao vậy?
Vì Tăng hòa hợp nên hoan hỷ không tranh cãi, một lòng cùng học một thầy, hạnh an lạc như nước và sữa hòa hợp. Khi can gián như vậy đến lần thứ ba, bỏ thì tốt, không bỏ, Tỳ-kheo kia phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
12. Nếu Tỳ-kheo ở nơi xóm làng, thành ấp, làm những chuyện xấu ác, hoen ố tín đồ, mọi người đều thấy, nghe và biết rõ. Các Tỳ-kheo phải nói với Tỳ-kheo này: “Đại đức, thầy làm những chuyện xấu xa hoen ố tín đồ, ai cũng đều thấy, nghe, biết việc xấu ác của thầy. Thầy phải đi, không được sống nơi này nữa”. Tỳ-kheo này nói với các Tỳ-kheo khác: Lời nói của các thầy theo cảm tính thương, giận, si, sợ, có Tỳ-kheo tội cũng đồng như vậy, có người bị đuổi, có người lại không bị đuổi. Khi can gián như vậy đến lần thứ ba bỏ thì tốt, không bỏ, phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
13. Nếu Tỳ-kheo tánh tình xấu xa, khó hòa thuận với ai, cùng tụng kinh, tụng luật nhưng thường tranh cãi. Các Tỳ-kheo như pháp, như luật như giới kinh khuyên Tỳ-kheo này. Tỳ-kheo này mê mờ không chấp nhận lời khuyên can, nói với các Tỳ-kheo: “Đại đức! Thầy đừng nói với tôi điều tốt, xấu, tôi cũng không nói với các thầy điều tốt, xấu”. Các Tỳ-kheo lại khuyên: “Thầy vì các Tỳ-kheo nói, chúng tôi cũng vì các Tỳ-kheo nói như pháp, như luật khiến cho chúng Như Lai được tăng trưởng”. Khi can gián như vậy, đến lần thứ ba, bỏ thì tốt, không bỏ, Tỳ-kheo kia thì phạm Tăng-già-bà-thi-sa.
Các Đại đức! Tôi đã nói mười ba pháp Tăng-già-bà-thi-sa. Chín giới đầu phạm thành tội, bốn giới sau can gián Ba lần mới phạm. Tỳ-kheo nào phạm mỗi một giới, tùy theo thời gian che giấu tội mà cho thi hành bấy nhiêu ngày sống riêng. Thi hành (Ma-na-đỏa) xong Biệt trụ tiếp đến là thi hành sáu đêm “Lòng vui thanh thản”, sau cùng đến việc Giải tội. Thực hiện đúng như vậy rồi, trong việc Giải tội phải đủ hai mươi vị. Nếu thiếu một vị, không hội đủ hai mươi thì việc xuất tội của Tỳ-kheo này không thành. Nếu tác pháp như vậy thì phải khiển trách đúng pháp. Pháp ứng xử là phải như vậy.
Nay hỏi các Đại đức trong các giới Tăng-già-bà-thi-sa thanh tịnh không? (Hỏi Ba lần như vậy) Các Đại đức trong các giới này đều thanh tịnh, vì im lặng, việc này tôi ghi nhận như vậy.
Các Đại đức! Đây là hai pháp Bất định, mỗi nửa tháng tụng theo trong Giới kinh.
1. Nếu Tỳ-kheo cùng với một người nữ, ở chỗ vắng có che khuất, chỗ có thể hành dâm, Ưubà-di có lòng tin thấy được hành động của Tỳ-kheo này rồi trong ba pháp, nói phạm mỗi một pháp: hoặc Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc Ba-la-di, hoặc Ba-dạ-đề. Tùy theo sự thấy của Ưu-bà-di có lòng tin nói phạm mà như pháp thi hành.
2. Nếu Tỳ-kheo cùng với một người nữ, ngồi chỗ không bị che chắn vắng vẻ, chỗ không thể hành dâm. Tùy theo sự thấy của Ưu-bà-di có lòng tin về hành động của Tỳ-kheo này rồi trong hai pháp nói phạm mỗi một pháp: hoặc Tăng-già-bà-thi-sa, hoặc Ba-dật-đề. Tùy theo sự thấy của Ưu-bà-di có lòng tin nói phạm mà như pháp thi hành.
Các Đại đức! Tôi đã nói xong hai pháp Bất định. Nay xin hỏi các Đại đức trong hai pháp này thanh tịnh không? (Hỏi Ba lần). Các Đại đức đối với hai pháp này đều thanh tịnh, vì im lặng. Việc này tôi ghi nhận như vậy.
Các Đại đức! Đây là ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề, mỗi nửa tháng đều tụng theo Giới kinh.
1. Nếu Tỳ-kheo, ba y đã có đầy đủ, y Ca-hi-na đã xả, được giữ y dư đến mười ngày, nếu quá thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
2. Nếu Tỳ-kheo, ba y đã có được đầy đủ, y Cahi-na đã xả, trong ba y nếu rời mỗi một y ở chỗ khác để ngủ thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
3. Nếu Tỳ-kheo, ba y đã có được đầy đủ, y Cahi-na đã xả, nhận được y phi thời thì được cất giữ đến mười ngày, nếu quá thì phạm Ni-tátkỳ Ba-dạ-đề.
4. Nếu Tỳ-kheo, nhận y từ Tỳ-kheo-ni chẳng phải bà con, trừ việc đổi chác thì phạm Nitát-kỳ Ba-dạ-đề.
5. Nếu Tỳ-kheo sai bảo Tỳ-kheo-ni chẳng phải bà con giặt y cũ thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
6. Nếu Tỳ-kheo, xin y nơi cư sĩ không phải bà con, trừ nhân duyên, thì phạm Ni-tát-kỳ Badạ-đề.
7. Nếu Tỳ-kheo, y bị đoạt, y bị mất, y bị nước cuốn trôi, đến cư sĩ, vợ cư sĩ chẳng phải bà con để xin y, nên nhận y thượng, hạ. Nếu nhận quá thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
8. Nếu Tỳ-kheo, có cư sĩ, vợ cư sĩ chẳng phải bà con, vì muốn sắm y giá trị cho Tỳ-kheo, nên suy nghĩ: “Đem số tiền vải như vậy mua sắm y như vậy cúng cho Tỳ-kheo tên…”, Tỳ-kheo này trước đó không được mời nhận tùy ý, vì muốn y tốt nên đến nhà cư sĩ, vợ cư sĩ nói như vầy: “Hãy vì tôi sắm y giá trị như thế”. Nếu nhận được y thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
9. Nếu Tỳ-kheo, có cư sĩ, vợ cư sĩ chẳng phải bà con, vì muốn sắm y tốt cho Tỳ-kheo, nên suy nghĩ: “Lấy số tiền tương xứng vải như vậy mua sắm y như vậy cúng cho Tỳ-kheo tên…”, Tỳ-kheo này trước không được nhận mời nhận tùy ý, vì muốn y thật tốt nên đến nhà cư sĩ, vợ cư sĩ bảo: “Hãy vì tôi sắm y giá trị như vậy, các vị chung tiền lại may một y thật tốt cúng cho tôi”. Nếu nhận được y này thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
10. Nếu Tỳ-kheo, hoặc Vua hay quan, Bà-lamôn, hoặc cư sĩ, cho người đến chỗ Tỳ-kheo thưa: “Đại đức biết không? Với số tiền vải y đây, được nhà Vua, quan, Bà-la-môn, cư sĩ này cho tôi mang đến cúng thầy, xin Đại đức nhận cho”. Tỳ-kheo nói: “Theo pháp Tỳ-kheo, tôi không được phép nhận tiền vải y như vậy”. Người sứ ấy hỏi Tỳ-kheo: “Thưa, có tịnh nhân giúp thầy nhận không?”. Tỳ-kheo bảo: “Là người này”. Người sứ đến chỗ tịnh nhân giúp việc nói: “Với số tiền vải y này cúng cho Tỳ-kheo tên… ông hãy nhận cho”. Tỳ-kheo này sau đó, lúc cần y, đến tịnh nhân, người chấp việc này, nói: “Tôi cần y, tôi cần y”, được sáu lần đến đứng im lặng trước người giúp sự để hỏi. Nhận được y thì tốt. Nếu đến quá để xin thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề… bằng không nhận được tiền may y thì phải đến chỗ người đem tiền vải đến giao, hoặc đích thân, hoặc sai người nói cho họ biết. Đây là việc nên làm.
11. Nếu Tỳ-kheo may phu cụ mới bằng tơ tằm thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
12. Nếu Tỳ-kheo may phu cụ toàn bằng lông dê đen thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
13. Nếu Tỳ-kheo may phu cụ mới thì lượng lông dê phải hai phần đen, một phần ba trắng, một phần tư lông xấu, nếu không như vậy thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
14. Nếu Tỳ-kheo may phu cụ mới phải dùng đủ sáu năm, nếu dưới sáu năm, không xả phu cụ cũ lại làm phu cụ mới, trừ Tăng Yết-ma cho phép, thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
15. Nếu Tỳ-kheo may phu cụ mới thì phải lấy một miếng nơi phu cụ cũ vuông vức một gang tay Phật may lên cái mới nhằm làm hoại sắc. Không thực hiện việc này thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
16. Nếu Tỳ-kheo trên lộ trình đi nhận được lông dê, mang vác đi quá ba do-tuần thì phạm Nitát-kỳ Ba-dạ-đề.
17. Nếu Tỳ-kheo sai bảo Tỳ-kheo-ni chẳng phải bà con giặt, nhuộm, đập lông dê thì phạm Nitát-kỳ Ba-dạ-đề.
18. Nếu Tỳ-kheo tự tay nhận lấy vàng bạc hoặc sai người nhận thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
19. Nếu Tỳ-kheo sử dụng các loại bằng vàng thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
20. Nếu Tỳ-kheo mua rẻ bán đắt, mua bán các thứ thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
21. Nếu Tỳ-kheo được cất giữ bát dư đến mười ngày, nếu quá thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
22. Nếu Tỳ-kheo, bát của mình cất giữ trước đây mà chưa đủ năm đường hàn gắn, vì muốn bát tốt lại cất giữ bát mới thì phạm Ni-tát-kỳ Badạ-đề.
23. Nếu Tỳ-kheo sai thợ dệt chẳng phải bà con dệt vải thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
24. Nếu Tỳ-kheo, có cư sĩ hoặc vợ cư sĩ chẳng phải bà con khiến thợ dệt dệt vải may y cho Tỳ-kheo. Tỳ-kheo này trước không được nhận mời tùy ý, vì muốn y tốt, đến nhà người thợ dệt nói: Hãy vì tôi dệt cho khéo khiến được sắc sảo, rộng, dày, đương nhiên phải thêm cho ông ít tiền. Hoặc tự ngỏ lời hoặc sai người ngỏ lời này, sau đó nhận được y này thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
25. Nếu Tỳ-kheo, trước đã cho người khác vật dụng, sau vì sân hận, chiếm đoạt lại vật, thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
26. Nếu Tỳ-kheo ba tháng hạ đã qua, có nhuần tháng tám chưa mãn, gởi y nhà cư sĩ, được đến sáu đêm thì phải đến chỗ y gởi này, sang sáng sớm ngày thứ bảy mới đến thì phạm Nitát-kỳ Ba-dạ-đề.
27. Nếu Tỳ-kheo, còn mười ngày nữa mới đến tuổi hạ, có y cúng gấp. Tỳ-kheo này nếu cần y thì được tự tay nhận rồi cất đến thời hạn của y. Nếu quá thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
28. Nếu Tỳ-kheo, còn một tháng mới hết mùa Xuân, nên tìm áo tắm mưa, được phép cất giữ nửa tháng, nếu cất giữ quá thì phạm Nitát-kỳ Ba-dạ-đề.
29. Nếu Tỳ-kheo, biết vật cúng cho Tăng lại tự xoay về cho mình thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
30. Nếu Tỳ-kheo, Phật cho phép Tỳ-kheo bệnh uống bốn loại thuốc dễ tiêu hóa. Tô, dầu, mật, đường phèn được để đến bảy ngày để dùng. Nếu để quá thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề.
Các Đại đức! Tôi đã nói xong ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dạ-đề. Nay xin hỏi các Đại đức trong ba mươi pháp này thanh tịnh không? (Hỏi Ba lần). Các Đại đức, đối với các pháp này đều thanh tịnh vì im lặng. Việc này tôi ghi nhận như vậy.
Các Đại đức! Đây là chín mươi pháp Ba-dạ-đề, mỗi nửa tháng đều tụng theo Giới kinh:
1. Nếu Tỳ-kheo cố ý nói dối thì phạm Ba-dạ-đề.
2. Nếu Tỳ-kheo mắng, hủy báng người khác thì phạm Ba-dạ-đề.
3. Nếu Tỳ-kheo làm loạn đánh Tỳ-kheo khác thì phạm Ba-dạ-đề.
4. Nếu Tỳ-kheo biết Tăng đã như pháp giải quyết xong sự việc, xong lại khơi lại thì phạm Ba-dạ-đề.
5. Nếu Tỳ-kheo vì người nữ thuyết pháp, nói quá năm, sáu lời thì phạm Ba-dạ-đề, trừ có người nam hiểu biết.
6. Nếu Tỳ-kheo dùng lối kệ Xiển-đà để dạy cho người chưa thọ Cụ giới thì phạm Ba-dạ-đề.
7. Nếu Tỳ-kheo nội lực thật có pháp hơn người lại đến người chưa thọ Cụ giới để nói thì phạm Ba-dạ-đề.
8. Nếu Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo khác phạm tội Tăng tàn, đem nói cho người chưa thọ Cụ giới biết thì phạm Ba-dạ-đề.
9. Nếu Tỳ-kheo trước cùng với Tăng hòa hợp rồi, sau nói như vầy: “Các Tỳ-kheo tùy theo chỗ bạn bè thân thuộc mà đem vật dụng của Tăng cho họ”, thì phạm Ba-dạ-đề.
10. Nếu Tỳ-kheo khi nói giới, lại nói: “Mỗi nửa tháng đều nói những giới vụn vặt, lỉnh kỉnh này làm gì! Chỉ khiến cho Tỳ-kheo khác ưu sầu không vui! Sinh tâm phản giới thôi”. Nói lên lời khinh chê giới này thì phạm Ba-dạ-đề.
11. Nếu Tỳ-kheo phá hại các loại cây cỏ thì phạm Ba-dạ-đề.
12. Nếu Tỳ-kheo mắng nhiếc hiềm hận thì phạm Ba-dạ-đề.
13. Nếu Tỳ-kheo mượn việc khác làm buồn Tỳ-kheo khác thì phạm Ba-dạ-đề.
14. Nếu Tỳ-kheo trải ngọa cụ nơi đất trống cho đến sáng, không tự thu dọn cũng không bảo ai dọn thì phạm Ba-dạ-đề.
15. Nếu Tỳ-kheo trải ngọa cụ trong phòng rồi đi ra ngoài cương giới thì phạm Ba-dạ-đề.
16. Nếu Tỳ-kheo nóng giận, cáu gắt không vui, trong phòng lôi kéo người ra ngoài thì phạm Ba-dạ-đề.
17. Nếu Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo khác trước đó đã trải ngọa cụ ở trong phòng, sau đến chiếm chỗ trải ngọa cụ thì phạm Ba-dạ-đề.
18. Nếu Tỳ-kheo, trên nhà gác đặt giường chân nhọn lại cố sức nằm, ngồi mạnh thì phạm Badạ-đề.
19. Nếu Tỳ-kheo, lợp mái nhà, phần thứ nhất phủ che kín mái, phần thứ hai lợp che giấu đầu, phần thứ Ba-là lợp đúng theo thông lệ. Lợp quá thông lệ này thì phạm Ba-dạ-đề.
20. Nếu Tỳ-kheo biết nước có trùng, lấy nước ấy tưới lên cỏ đất thì phạm Ba-dạ-đề.
21. Nếu Tỳ-kheo, Tăng không sai giáo giới Tỳ-kheo-ni mà vẫn giáo giới thì phạm Ba-dạ-đề.
22. Nếu Tỳ-kheo, Tăng tuy sai giáo giới Tỳ-kheo-ni mà giáo giới đến chiều tối thì phạm Ba-dạ-đề.
23. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác: “Tỳ-kheo này vì tài vật cho nên giáo giới Tỳ-kheo-ni mà thôi”, thì phạm Ba-dạ-đề.
24. Nếu Tỳ-kheo cùng với Tỳ-kheo-ni đi chung đường, đến một xóm làng, thì phạm Ba-dạ-đề.
25. Nếu Tỳ-kheo cùng với Tỳ-kheo-ni đi chung một thuyền thì phạm Ba-dạ-đề, trừ nhân duyên.
26. Nếu Tỳ-kheo cùng với Tỳ-kheo-ni, chỉ hai người ngồi chỗ vắng có che chắn thì phạm Ba-dạ-đề.
27. Nếu Tỳ-kheo cho y Tỳ-kheo-ni chẳng phải bà con thì phạm Ba-dạ-đề.
28. Nếu Tỳ-kheo may y cho Tỳ-kheo-ni chẳng phải bà con thì phạm Ba-dạ-đề.
29. Nếu Tỳ-kheo cùng với người nữ, chỉ hai người ngồi nơi chỗ trống thì phạm Ba-dạ-đề.
30. Nếu Tỳ-kheo biết thức ăn có được là do sự khen ngợi của Tỳ-kheo-ni, mà vẫn ăn thì phạm Ba-dạ-đề.
31. Nếu Tỳ-kheo thường ăn luôn miệng thì phạm Ba-dạ-đề.
32. Nếu Tỳ-kheo, nơi nào có làm phước đức ăn quá một bữa thì phạm Ba-dạ-đề.
33. Nếu Tỳ-kheo đến nhà cư sĩ, họ lấy bún, bánh, cơm… trao cho tùy ý, được phép nhận lấy một bát, nhận quá thì phạm Ba-dạ-đề.
34. Nếu Tỳ-kheo không thọ pháp ăn dư mà ăn lại thì phạm Ba-dạ-đề.
35. Nếu Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo khác ăn xong, không thọ pháp thức ăn dư, vì muốn cố làm phiền vị kia, lại khuyến ép vị ấy ăn cho được thì phạm Ba-dạ-đề.
36. Nếu Tỳ-kheo ăn riêng chúng thì phạm Ba-dạ-đề, trừ nhân duyên.
37. Nếu Tỳ-kheo ăn phi thời, thì phạm Ba-dạ-đề.
38. Nếu Tỳ-kheo trao thức ăn dư cách đêm, họ ăn thì phạm Ba-dạ-đề.
39. Nếu Tỳ-kheo không được mời nhận ăn mà bỏ đồ ăn vào trong miệng, trừ nước uống và tăm xỉa răng thì phạm Ba-dạ-đề.
40. Nếu Tỳ-kheo không bệnh, vì mình mà xin sữa, lạc, sinh tô, cá, thịt, nem thì phạm Badạ-đề.
41. Nếu Tỳ-kheo biết nước có trùng mà lấy dùng thì phạm Ba-dạ-đề.
42. Nếu Tỳ-kheo trong “Nhà ăn”, hoặc nằm, ngồi thì phạm Ba-dạ-đề.
43. Nếu Tỳ-kheo, trong “Nhà ăn” cùng với người nữ ngồi thì phạm Ba-dạ-đề.
44. Nếu Tỳ-kheo, có ngoại đạo lõa hình xin mà tự tay trao thức ăn cho họ thì phạm Ba-dạ-đề.
45. Nếu Tỳ-kheo đi xem quân đội phát binh ra trận thì phạm Ba-dạ-đề.
46. Nếu Tỳ-kheo đến ở trong quân đội quá hai đêm thì phạm Ba-dạ-đề.
47. Nếu Tỳ-kheo đến xem vũ khí trong quân đội… thì phạm Ba-dạ-đề.
48. Nếu Tỳ-kheo giận người ấy nên giơ tay lên dọa họ thì phạm Ba-dạ-đề.
49. Nếu Tỳ-kheo giận người ấy, đưa tay lên đánh thì phạm Ba-dạ-đề.
50. Nếu Tỳ-kheo biết vị ấy phạm Ba-la-di mà che giấu tội qua một đêm thì phạm Ba-dạ-đề.
51. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác: Đến chỗ tôi, tôi đưa thầy đến nhà ấy. Thầy được ăn ngon, hoặc vào cửa hoặc chưa vào cửa, quay lại bỏ đi về thì phạm Ba-dạ-đề.
52. Nếu Tỳ-kheo, khi Tăng giải quyết việc, đã gởi dục như pháp, sau lại hối tiếc việc này thì phạm Ba-dạ-đề.
53. Nếu Tỳ-kheo cùng với người chưa thọ Cụ giới ngủ một chỗ, quá hai đêm thì phạm Badạ-đề.
54. Nếu Tỳ-kheo đốt lửa nơi đất trống thì phạm Ba-dạ-đề, trừ khi có bệnh.
55. Nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác: Tôi biết nghĩa pháp Phật như vầy: “Hành dâm dục không thể ngăn che đạo”. Các Tỳ-kheo Bạchtứ-yết-ma Ba lần can gián, vẫn không xả bỏ thì phạm Ba-dạ-đề.
56. Nếu Tỳ-kheo, trong chúng đúng pháp đã dạy bảo đuổi người ấy đi, mà mình lại bảo bọc nuôi họ, rồi khiến cùng làm việc với nhau thì phạm Ba-dạ-đề.
57. Nếu Tỳ-kheo, Sa-di đã theo pháp dạy bảo đuổi đi, mình lại bảo bọc nuôi rồi khiến cùng làm việc với nhau thì phạm Ba-dạ-đề.
58. Nếu Tỳ-kheo hoặc vật báu hoặc giống vật báu, nếu tự lấy, dạy người lấy thì phạm Badạ-đề.
59. Nếu Tỳ-kheo mặc y mới mà không làm hoại sắc thì phạm Ba-dạ-đề.
60. Nếu Tỳ-kheo, nội trong vòng nửa tháng mà tắm rửa, trừ nhân duyên thì phạm Ba-dạ-đề.
61. Nếu Tỳ-kheo cố ý giết hại súc sinh thì phạm Ba-dạ-đề.
62. Nếu Tỳ-kheo gây phiền muộn cho Tỳ-kheo khác thì phạm Ba-dạ-đề.
63. Nếu Tỳ-kheo lấy ngón tay thọc lét nhau thì phạm Ba-dạ-đề.
64. Nếu Tỳ-kheo lấy tay đùa giỡn trong nước thì phạm Ba-dạ-đề.
65. Nếu Tỳ-kheo cùng với người nữ ngủ chung phòng thì phạm Ba-dạ-đề.
66. Nếu Tỳ-kheo gây hoảng hốt sợ hãi cho Tỳ-kheo khác thì phạm Ba-dạ-đề.
67. Nếu Tỳ-kheo giấu y, bát của người khác khiến họ lo sợ, hốt hoảng thì phạm Ba-dạ-đề.
68. Nếu Tỳ-kheo, trước đã cho y năm chúng rồi tự ý lấy lại dùng thì phạm Ba-dạ-đề.
69. Nếu Tỳ-kheo đem tội Tăng tàn để hủy báng Tỳ-kheo khác thì phạm Ba-dạ-đề.
70. Nếu Tỳ-kheo cùng người nữ đi chung một đường đến một xóm làng thì phạm Ba-dạ-đề.
71. Nếu Tỳ-kheo cùng với kẻ ăn trộm đi chung đến một xóm làng thì phạm Ba-dạ-đề.
72. Nếu Tỳ-kheo, người chưa đủ hai mươi tuổi mà cho thọ giới Cụ túc thì phạm Ba-dạ-đề.
73. Nếu Tỳ-kheo tự đào đất hoặc sai khiến người đào thì phạm Ba-dạ-đề.
74. Nếu Tỳ-kheo, chỗ có nhiều “phước đức” thỉnh Tăng cúng bốn tháng tất cả các dược phẩm, nếu nhận quá thời gian ấy thì phạm Ba-dạ-đề.
75. Nếu Tỳ-kheo, đối với bốn pháp Ba-la-di, nói: Tôi không thọ pháp này, phải hỏi vị trì luật, trì luận khác, thì phạm Ba-dạ-đề.
76. Nếu Tỳ-kheo cùng với người khác tranh cãi đã kết thúc mà mình lại đến trộm lắng nghe thì phạm Ba-dạ-đề.
77. Nếu Tỳ-kheo, Tăng đang giải quyết việc, lặng lẽ đứng dậy bỏ đi, không thưa với Tỳ-kheo thanh tịnh thì phạm Ba-dạ-đề.
78. Nếu Tỳ-kheo không cung kính Thượng tọa thì phạm Ba-dạ-đề.
79. Nếu Tỳ-kheo uống rượu thì phạm Ba-dạ-đề.
80. Nếu Tỳ-kheo quá giữa ngày vào xóm làng thì phạm Ba-dạ-đề, trừ nhân duyên.
81. Nếu Tỳ-kheo vì người khác trông coi việc của Tăng, nếu trước ngọ, sau ngọ đến nhà khác thì phạm Ba-dạ-đề.
82. Nếu Tỳ-kheo, chỗ Vua Sát-đế-lợi, đêm chưa sáng, bảo vật chưa cất, nếu bước qua cửa cung Vua hoặc bước qua khỏi cửa hậu cung thì phạm Ba-dạ-đề, trừ nhân duyên.
83. Nếu Tỳ-kheo đối với bốn pháp Ba-la-di, nói: Tôi mới biết pháp này, mỗi nửa tháng đều thuyết, rút ra từ trong Giới kinh. Các Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo này có đến hai, Ba lần trong chúng nghe nói giới. Ngồi không tôn trọng, không tập trung lắng tai nghe giới thì phạm Ba-dạ-đề.
84. Nếu Tỳ-kheo làm ống đựng kim bằng xương, răng, sừng thì phạm Ba-dạ-đề.
85. Nếu Tỳ-kheo làm giường cây mà cao quá tám ngón tay Phật thì phạm Ba-dạ-đề. 86. Nếu Tỳ-kheo làm phu cụ bằng cỏ, hoa cây thì phạm Ba-dạ-đề.
87. Nếu Tỳ-kheo sắm áo tắm mưa quá kích cỡ quy định thì phạm Ba-dạ-đề.
88. Nếu Tỳ-kheo may y che thân quá kích cỡ quy định thì phạm Ba-dạ-đề.
89. Nếu Tỳ-kheo may Ni sư đàn thì dài hai gang tay Phật, rộng một gang rưỡi lại thêm mỗi bề một gang tay Phật nữa. Quá lượng này phạm Ba-dạ-đề.
90. Nếu Tỳ-kheo may y bằng kích cỡ y của Phật thì phạm Ba-dạ-đề.
Các Đại đức! Tôi đã nói xong chín mươi pháp pháp Ba-dạ-đề.
Nay xin hỏi các Đại đức trong các giới Ba-dạ-đề này thanh tịnh không? (Hỏi Ba lần). Các Đại đức trong đây đều thanh tịnh vì im lặng. Việc này tôi ghi nhận như vậy.
Các Đại đức! Đây là bốn pháp Ba-la-đề-đềxá-ni, mỗi nửa tháng tụng theo Giới kinh:
1. Nếu Tỳ-kheo không bệnh vào xóm làng, đến Tỳ-kheo-ni không phải bà con, tự tay nhận thức ăn của họ thì phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni.
2. Nếu Tỳ-kheo thọ nhận thức ăn, theo sự hướng dẫn của Tỳ-kheo-ni mà ăn thì phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni.
3. Nếu Tỳ-kheo có Học gia nào đó, trước không nhận lời mời của họ, sau lại đến tự tay nhận thức ăn thì phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni.
4. Nếu Tỳ-kheo, Tăng chưa tác pháp Yết-ma, tự tay nhận thức ăn của người này ngoài phòng Tăng thì phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni.
Các Đại đức! Tôi đã nói xong bốn pháp Ba-lađề-đề-xá-ni. Nay xin hỏi các Đại đức trong bốn pháp này thanh tịnh không? (Hỏi Ba lần). Các Đại đức đối với bốn pháp này đều thanh tịnh, vì im lặng. Việc này tôi ghi nhận như vậy.
Các Đại đức! Đây là pháp Chúng học, mỗi nửa tháng tụng theo trong Giới kinh:
1. Không mặc nội y cao, cần phải học.
2. Không mặc nội y thấp, cần phải học.
3. Không mặc nội y so le, cần phải học.
4. Không mặc nội y như lá Đa-la, cần phải học.
5. Không mặc nội y giống như mũi voi, cần phải học.
6. Không mặc nội y túm tròn lại, cần phải học.
7. Không mặc nội y xếp nhiều nếp nhỏ, cần phải học.
8. Không mặc y cao, cần phải học.
9. Không mặc y thấp, cần phải học.
10. Không mặc y so le, cần phải học.
11. Khéo che kín thân khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
12. Khéo che kín thân khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
13. Không liếc nhìn khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
14. Không liếc nhìn khi ngồi ở nhà cư sĩ, cần phải học.
15. Không lôi thôi khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
16. Không lôi thôi khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
17. Không hít mũi khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
18. Không hít mũi khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
19. Không quá tự cao khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
20. Không quá tự cao khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
21. Khẽ tiếng khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
22. Khẽ tiếng khi ngồi ở nhà cư sĩ, cần phải học.
23. Không quỳ gối khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
24. Không quỳ gối khi ngồi ở nhà cư sĩ, cần phải học.
25. Không trùm đầu khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
26. Không trùm đầu khi ngồi ở nhà cư sĩ, cần phải học.
27. Không bịt khăn đầu khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
28. Không bịt khăn đầu khi ngồi ở nhà cư sĩ, cần phải học.
29. Không chống nạnh khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
30. Không chống nạnh khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
31. Không để hở ngực khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
32. Không để hở ngực khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
33. Không để hở nách khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
34. Không để hở nách khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
35. Không vắt ngược y khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
36. Không vắt ngược y khi ngồi ở nhà cư sĩ, cần phải học.
37. Không vắt ngược y hai bên khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
38. Không vắt ngược y hai bên khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
39. Không bỏ y nhảy khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
40. Không bỏ y nhảy khi ngồi ở nhà cư sĩ, cần phải học.
41. Không lắc tay khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
42. Không lắc tay khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
43. Không lắc vai khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
44. Không lắc vai khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
45. Không lắc đầu khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
46. Không lắc đầu khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
47. Không lắc thân khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
48. Không lắc thân khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
49. Không nắm tay nhau khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
50. Không nắm tay nhau khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
51. Không đi khoèo hai chân khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
52. Không đi khoèo hai chân khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
53. Không nhón chân khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
54. Không nhón chân khi ngồi nơi nhà cư sĩ, cần phải học.
55. Không chống má khi vào nhà cư sĩ, cần phải học.
56. Không chống má khi ngồi trong nhà cư sĩ, cần phải học.
57. Chú tâm nhận canh, cần phải học.
58. Chú tâm nhận cơm, cần phải học.
59. Cơm, canh ăn đều nhau, cần phải học.
60. Không nhận thức ăn đầy bát, cần phải học.
61. Không lừa thức ăn một bên, cần phải học.
62. Không chọn thức ăn ngon giữa bát, cần phải học.
63. Không vo lớn cơm thức ăn, cần phải học.
64. Vắt cơm vừa miếng ăn, cần phải học.
65. Không há miệng đợi thức ăn, cần phải học.
66. Không ngậm đồ ăn mà nói, cần phải học.
67. Không cắn phân nửa cơm, cần phải học.
68. Không nhai thức ăn thành tiếng, cần phải học.
69. Không nuốt trộng thức ăn, cần phải học.
70. Không ăn tiếp khi thức ăn chưa xuống cổ họng, cần phải học.
71. Không le lưỡi ăn, cần phải học.
72. Không ngửi thức ăn lúc ăn, cần phải học.
73. Không liếm thức ăn nơi tay, cần phải học.
74. Không lấy ngón tay vét bát ăn, cần phải học.
75. Không vứt bỏ cơm, thức ăn, cần phải học.
76. Không rảy tay để ăn, cần phải học.
77. Không lấy tay nhơ nhận bình, tách nước uống, cần phải học.
78. Tỳ-kheo không bệnh không được xin cơm canh cho mình, cần phải học.
79. Không lấy cơm phủ lấp canh mong lại được thêm, cần phải học.
80. Không được có tâm ganh tỵ xem thức ăn trong bát người ngồi cạnh, cần phải học.
81. Chú tâm ăn nhìn vào bát, cần phải học.
82. Ăn theo thứ tự, cần phải học.
83. Nước rửa bát không được đổ trong nhà cư sĩ, trừ đã nói với người chủ, cần phải học.
84. Không thuyết pháp cho người đang đi xe, trừ bệnh, cần phải học.
85. Không thuyết pháp cho người đứng trước, mình đứng sau, trừ bệnh, cần phải học.
86. Không thuyết pháp cho người đứng ở trong đường, mình đứng ở ngoài đường, cần phải học, trừ bệnh.
87. Không thuyết pháp cho người đứng ở trên cao, mình đứng dưới thấp, trừ bệnh, cần phải học.
88. Không thuyết pháp cho người ngồi, Tỳ-kheo đứng, trừ bệnh, cần phải học.
89. Không thuyết pháp cho người nằm, Tỳ-kheo ngồi, trừ bệnh, cần phải học.
90. Không thuyết pháp cho người trùm đầu, trừ bệnh, cần phải học.
91. Không thuyết pháp cho người quấn khăn trên đầu, trừ bệnh, cần phải học.
92. Không thuyết pháp cho người đứng chống nạnh, trừ bệnh, cần phải học.
93. Không thuyết pháp cho người để hở ngực, trừ bệnh, cần phải học.
94. Không thuyết pháp cho người để hở nách, trừ bệnh, cần phải học.
95. Không thuyết pháp cho người vắt ngược y, trừ bệnh, cần phải học.
96. Không thuyết pháp cho người vắt ngược y hai bên, trừ bệnh, cần phải học.
97. Không thuyết pháp cho người bỏ y nhún nhảy, trừ bệnh, cần phải học.
98. Không thuyết pháp cho người mang guốc, trừ bệnh, cần phải học.
99. Không thuyết pháp cho người cầm dù, trừ bệnh, cần phải học.
100. Không thuyết pháp cho người cầm gậy, trừ bệnh, cần phải học Không thuyết pháp cho người nắm đao năm thước, trừ bệnh, cần phải học.
101. Không thuyết pháp cho người nắm đao nhỏ, trừ bệnh, cần phải học.
102. Không thuyết pháp cho người nắm cung tên và các loại binh khí, trừ bệnh, cần phải học.
103. Không nên đại tiểu tiện và nhổ nước miếng lên cỏ tươi, trừ bệnh, cần phải học.
104. Không nên đại tiểu tiện và nhổ nước miếng vào nước sạch để dùng, trừ bệnh, cần phải học.
105. Không nên đứng đại tiểu tiện, trừ bệnh, cần phải học.
Không nên leo lên cây cao quá đầu người, trừ bệnh, cần phải học. Các Đại đức! Tôi đã nói xong pháp Chúng học. Nay xin hỏi các Đại đức trong pháp Chúng học này thanh tịnh không? (Hỏi Ba lần). Các Đại đức đối với các giới này đều thanh tịnh, vì im lặng. Việc này tôi ghi nhận như vậy.
Các Đại đức! Đây là bảy pháp Diệt tránh, mỗi nửa tháng đều tụng theo trong Giới kinh:
1. Người nên thi hành Tỳ ni hiện tiền thì phải thi hành Tỳ ni hiện tiền.
2. Người nên thi hành Tỳ ni ức niệm thì phải thi hành Tỳ ni ức niệm.
3. Người nên thi hành Tỳ ni bất si thì phải thi hành Tỳ ni bất si.
4. Người nên thi hành Tự ngôn trì thì phải thi hành Tự ngôn trì.
5. Người nên thi hành Mích tội tướng thì phải thi hành Mích tội tướng.
6. Người nên thi hành nhiều người mích tội tướng thì phải thi hành nhiều người mích tội tướng.
7. Trong Tăng sinh ra tranh cãi, cần trừ diệt như cỏ phủ lấp đất, nên phải học.
Các Đại đức! Tôi đã nói xong bảy pháp Diệt tránh. Nay xin hỏi các Đại đức trong bảy pháp này thanh tịnh không? (Hỏi Ba lần). Các Đại đức đối với các giới này thanh tịnh, vì im lặng. Việc này tôi ghi nhận như vậy.
Các Đại đức! Tôi đã nói xong tựa Giới kinh, đã nói bốn pháp Ba-la-di, đã nói mười ba pháp Tăng tàn, đã nói hai pháp Bất định, đã nói ba mươi pháp Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, đã nói chín mươi pháp Ba-dạ-đề, đã nói bốn pháp Ba-la-đề-đề-xáni, đã nói pháp Chúng học và bảy pháp Diệt tránh. Các giới điều này là Phật dạy đúc kết thành Giới kinh nên mỗi nửa tháng theo trong Giới kinh nói giới. Nếu còn có điều học khác thì phải một lòng học. Như sữa nước hòa hợp mới được hạnh an lạc. Cần phải học tập.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Phật Tỳ-bà-thi, Đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì sự tịch tĩnh của Tăng, ban đầu lược nói Ba-la-đề-mộc-xoa:
Nhẫn nhục, đạo thứ nhất
Niết-bàn, Phật khen ngợi
Xuất gia làm người buồn
Không gọi là Sa-môn.
Thứ hai, Đức Phật Thi Khí, Đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì sự tịch tĩnh của Tăng, ban đầu lược nói Ba-la-đề-mộc-xoa:
Như người đôi mắt sáng
Tránh được đường nguy hiểm
Người thông minh trong đời
Thường xa lìa các ác.
Thứ ba, Đức Phật Tỳ Bát Thi, Đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh
Biến Tri, vì sự tịch tĩnh của Tăng, ban đầu lược nói Ba-la-đề-mộc-xoa: Không hủy
cũng không phạm Như giới để thực hành
Uống ăn biết vừa đủ
Thường vui nơi chỗ vắng
Tâm thường vui tinh tấn
Đây lời chư Phật dạy.
Thứ tư, Đức Phật Câu Lâu Tôn, Đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì sự tịch tĩnh của Tăng, ban đầu lược nói Ba-la-đề-mộc-xoa:
Như ong hút mật hoa
Không làm hoại hương sắc
Lấy vị ngọt rồi đi
Tỳ-kheo vào xóm làng
Không làm hỏng việc người
Không nghĩ làm, không làm
Chỉ tự quán thân mình
Quán xét thiện, không thiện.
Thứ năm, Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì sự tịch tĩnh của Tăng, ban đầu lược nói Ba-la-đề-mộc-xoa:
Muốn tâm được tốt đừng buông lung
Pháp thiện Thánh nhân phải siêng học
Nếu có trí, người lắng nhất tâm
Không còn lo buồn và tai họa.
Thứ sáu, Đức Phật Ca-diếp, Đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì sự tịch tĩnh của Tăng, ban đầu lược nói Ba-la-đề-mộc-xoa:
Mọi điều ác chớ làm
Điều thiện luôn hoàn bị
Tự lặng ý chí mình
Là lời chư Phật dạy.
Thứ bảy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, vì sự tịch tĩnh của Tăng, ban đầu lược nói Ba-la-đề-mộcxoa:
Lành thay! Hộ trì thân
Hộ trì miệng cũng thiện
Hộ trì ý lành thay!
Hết thảy hộ trì thiện.
Tỳ-kheo hộ trì thảy
Liền được xa các khổ
Tỳ-kheo giữ miệng, ý
Các ác, thân không phạm
Là ba nghiệp thanh tịnh
Đắc đạo của bậc Thánh.
Nếu ai đánh mắng, không báo trả
Với người sân hận, tâm không hận
Với người sân, trong lòng bình thản
Thấy người làm ác, mình không làm.
Bảy Phật là Thế Tôn
Thường cứu giúp thế gian
Phật đã nói Giới kinh
Tôi đã nói rõ xong
Chư Phật và đệ tử
Cung kính Giới kinh này
Đã cung kính Giới kinh
Hết thảy cung kính nhau
Hổ thẹn được đầy đủ
Chúng đắc đạo vô vi.
Tăng một lòng bố-tát.
Tôi đã nói Giới kinh xong.