TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬT
LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH

SỐ 1440 - TÁT BÀ ĐA TỲ NI TỲ BÀ SA

MỤC LỤC

QUYỂN 1

1. Phật đà:

2. Bà khư bà:

3. Tám vạn Tạng Pháp:

4. Tỳ-da-ly:

5. Tu-đề-na:

6. Phú quý:

7. Tự quy y Tam bảo là tự thọ pháp Tam quy.

QUYỂN 2

1. Bảy loại đắc Giới Pháp:

TỤNG THỨ NHẤT

2. Nhân duyên kết bốn Ba-la-di:

a. Nhân duyên kết giới Dâm:

b. Nhân duyên kết Giới Trộm:

QUYỂN 3

b. Nhân duyên kết giới Trộm (Tiếp Theo):

c. Nhân duyên kết Giới Sát:

d. Nhân duyên kết giới vọng ngữ:

3. Nhân Duyên Kết Mười Ba Việc Tăng Tàn:

1. Giới cố ý làm xuất tinh:

2. Nhân duyên kết giới sờ nắm người nữ:

3. Nhân duyên kết giới nói thô ác:

4. Giới làm phòng không có thí chủ:

5. Giới làm phòng có thí chủ:

6. Giới không căn cứ vu báng thứ tám:

7. Giới Phá Tăng thứ mười:

QUYỂN 4

3. Nhân Duyên Kết Mười Ba Tăng Tàn (Tiếp Theo):

8. Giới Ô-tha-gia thứ mười hai:

9. Giới nói lời chống trái thứ mười ba:

4. Nhân Duyên Kết Hai Pháp Bất Định:

5. Nhân Duyên Kết Ba Mươi Pháp Xả Đọa:

1. Giới cất chứa y dư thứ nhất:

2. Giới không lìa y ngủ đêm thứ hai:

3. Giới cất chúa y phi thời quá một tháng:

QUYỂN 5

5. Nhân Duyên Kết Ba Mươi Xả Đọa (Tiếp Theo):

4. Nhân duyên kết giới thứ tư:

5. Nhân duyên kết giới thứ năm:

6. Nhân duyên kết giới thứ sáu:

7. Nhân duyên kết giới thứ bảy:

8. Nhân duyên kết giới thứ tám:

9. Nhân duyên kết giới thứ chín:

10 Nhân duyên kết giới thứ mười:

TỤNG THỨ HAI

11 Nhân duyên kết giới thứ mười một:

12. Nhân duyên kết giới thứ mười hai:

13. Nhân duyên kết giới thứ mười ba:

14. Nhân duyên kết giới thứ mười bốn:

15. Nhân duyên kết giới thứ mười lăm:

16. Nhân duyên kết giới thứ mười sáu:

17. Nhân duyên kết giới thứ mười bảy:

18. Nhân duyên kết giới thứ mười tám:

19. Nhân duyên kết giới thứ mười chín:

20. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi:

21. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi mốt:

22. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi hai:

23. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi ba:

24. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi bốn:

25. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi lăm:

26. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi sáu:

27. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi bảy:

QUYỂN 6

28. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi tám:

29. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi chín:

30. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi:

6. Nhân Duyên Kết Chín Mươi Pháp Ba-dật-Đề:

1. Nhân duyên kết giới thứ nhất:

2. Nhân duyên kết giới thứ hai:

3. Nhân duyên kết giới thứ ba:

4. Nhân duyên kết giới thứ tư:

5. Nhân duyên kết giới thứ năm:

6. Nhân duyên kết giới thứ sáu:

7. Nhân duyên kết giới thứ bảy:

8. Nhân duyên kết giới thứ tám:

9. Nhân duyên kết giới thứ chín:

10. Nhân duyên kết giới thứ mười:

11. Nhân duyên kết giới thứ mười một:

12. Nhân duyên kết giới thứ mười hai:

13. Nhân duyên kết giới thứ mười ba:

14. Nhân duyên kết giới thứ mười bốn:

15. Nhân duyên kết giới thứ mười lăm:

16. Nhân duyên kết giới thứ mười sáu:

17. Nhân duyên kết giới thứ mười bảy:

18. Nhân duyên kết giới thứ mười tám:

19. Nhân duyên kết giới thứ mười chín:

QUYỂN 7

6. Nhân Duyên Kết Chín Mươi Ba-Dật-Đề (Tiếp Theo):

20 Nhân duyên kết giới thứ hai mươi:

21. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi mốt:

22. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi hai:

23. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi ba:

24. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi bốn:

25. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi lăm:

26. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi sáu:

27. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi bảy:

28. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi tám:

29. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi chín:

30. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi:

31. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi mốt:

32. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi hai:

33. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi ba:

34. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi bốn:

35. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi lăm:

36. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi sáu:

37. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi bảy:

38. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi tám:

QUYỂN 8

QUYỂN 9

6. Nhân Duyên Kết Chín Mươi Pháp Ba-dật-Đề (Tiếp Theo):

69. Nhân duyên kết giới thứ sáu mươi chín:

70. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi:

71. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi mốt:

72. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi hai:

73. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi ba:

74. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi bốn:

75. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi lăm:

76. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi sáu:

77. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi bảy:

78. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi tám:

79. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi chín:

80. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi:

81. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi mốt:

82. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi hai:

83. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi ba:

84. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi bốn:

85. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi lăm:

86. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi sáu:

87. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi bảy:

88. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi tám:

89. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi chín:

90. Nhân duyên kết giới thứ chín mươi:

7. Nhân Duyên Kết Bốn Ba-La-Đề-Đề-Xá-ni:

1. Nhân duyên kết giới thứ nhất:

2. Nhân duyên kết giới thứ hai:

3. Nhân duyên kết giới thứ ba:

4. Nhân duyên kết giới thứ tư:

8. Nhân Duyên Kết Chúng Học Pháp:

9. Nhân Duyên Kết Bảy Pháp Diệt Tránh:

a. Nhân duyên kết pháp Tự ngôn diệt tránh:

b. Nhân duyên kết pháp Hiện tiền diệt tránh:

c. Nhân duyên kết pháp Ức niệm diệt tránh:

d. Nhân duyên kết pháp Bất si Tỳ-ni:

e. Nhân duyên kết pháp Thật mích Tỳ-ni:

f. Nhân duyên kết pháp Đa mích diệt tránh:

j. Nhân duyên kết pháp Bố thảo diệt tránh:


QUYỂN 1

1. Phật đà:

Đời Tần dịch là Giác, nghĩa là hiểu rõ tất cả pháp tướng. Lại nữa, tất cả chúng sanh ngủ mê trong ba cõi, đạo nhãn của Phật đã mở, tự giác giác tha nên gọi là Giác. Phật đối với tất cả pháp có thể biết tất cả và thuyết giảng tất cả.

Hỏi: Phật thuyết giảng tất cả là như thế nào? Ứng theo thời và chúng hội thích hợp mà tùy nghi thuyết giảng hay là ứng theo bộ chúng mà thuyết giảng?

Đáp: Phật ứng theo thời và tùy theo chúng sanh mà thuyết giảng tất cả pháp. Sau này các đệ tử kết tập pháp tạng mới phân loại ra, như khi Phật chế giới cho các đệ tử là trọng hay khinh hoặc là Hữu tàn hay là Vô tàn thì phân loại thành Luật tạng; khi Phật nói về nhân quả tương sanh với Kiết sử cho đến các nghiệp tướng thì phân loại thành Luận tạng; khi Phật tùy thời thuyết pháp cho chư thiên và loài người, do người giáo hóa tập hợp lại thì gọi là Tăng nhất; khi Phật thuyết giảng nghĩa sâu xa cho các chúng sanh lợi căn, do người có học vần tập hợp lại thì gọi là Trung A-hàm; khi Phật thuyết giảng các pháp thiền, do người tu tập thiền tập hợp lại thì gọi là Tạp A-hàm; Phật thuyết pháp phá ngoại đạo thì gọi là Trường A-hàm.

Hỏi: Nếu Phật thuyết giảng tất cả pháp thì sao trong kinh nói rằng: Khi Phật ngồi dưới một gốc cây, cầm một nắm lá trong tay rồi hỏi các đệ tử: "Lá cây trong tay ta nhiều hay lá trên cây nhiều?", các đệ tử đáp là lá trên cây nhiều, Phật nói: "Cũng vậy, pháp mà ta đã biết nhiều như lá trên cây, còn pháp mà ta đã thuyết giảng như nắm lá trong tay". Trong kinh đã nói như vậy tại sao lại nói là Phật thuyết giảng tất cả pháp?

Đáp: Chữ tất cả phân biệt có hai: Tất cả theo Biệt tướng và tất cả theo Tổng tướng, trong đây nói tất cả là tất cả theo Biệt tướng. Có thuyết cho rằng Phật có thể thuyết giảng tất cả nhưng chúng sanh không thể lãnh thọ tất cả, nên Phật mới không thể thuyết giảng tất cả. Lại có thuyết cho rằng đáng lẽ nói là biết tất cả và chỉ thuyết giảng những điều đã biết, không được nói là thuyết giảng tất cả.

Hỏi: Nếu Phật biết và thuyết giảng được thì Thanh văn và Phật Bích chi cũng biết và thuyết giảng được, vì sao không gọi là Phật?

Đáp: Không gọi như thế vì Phật biết và thuyết giảng đều cùng tận; còn Thanh văn, Phật Bích chi tuy cũng biết và thuyết giảng nhưng đối với các pháp có chỗ chưa cùng tận. Lại nữa Phật thấu hiểu tất cả pháp nên được gọi là Phật, còn hàng Nhị thừa thì không thể. Lại nữa Phật được vô biên pháp và có thể thuyết giảng vô biên pháp, còn hàng Nhị thừa thì không thể. Lại nữa có cọng và bất cọng, pháp mà Thanh văn và Phật Bích chi chứng đắc, Phật cũng đồng chứng đắc (cọng); nhưng pháp mà Phật chứng đắc thì hàng Nhị thừa không đồng chứng đắc (bất cọng). Pháp mà bậc Tiểu thừa chứng đắc, hàng Tam thừa cũng đồng chứng đắc (cọng); pháp mà hàng Trung thừa chứng đắc, hàng Nhị thừa cũng đồng chứng đắc (cọng); nhưng pháp mà Phật chứng đắc thì hàng Nhị thừa không thể biết, chỉ có Phật tự chứng biết. Ví như hộp lớn thì đựng được dù lớn, cũng vậy pháp tướng vô biên nên Phật dùng trí huệ vô biên để chứng biết pháp vô biên; còn trí huệ của hàng Nhị thừa là hữu biên nên không thể biết hết pháp tướng vô biên. Lại nữa có căn, có nghĩa; căn là tuệ căn, tức là pháp mà tuệ duyên theo; căn và nghĩa nơi Phật đều đầy đủ nên pháp mà tuệ duyên theo thảy đều cùng tận; căn và nghĩa nơi hàng Nhị thừa đều không đầy đủ. Lại nữa Phật được gọi là Như thật trí, tức là trí hiểu biết như thật tất cả pháp tướng; hàng Nhị thừa tuy hiểu biết nhưng không cùng tận, chưa trọn vẹn nên không được gọi là Như thật trí. Do tất cả những nghĩa trên nên hàng Nhị thừa không được gọi là Phật.

2. Bà khư bà:

Không thể chuyển âm, chỉ có thể dùng nghĩa giải thích gọi là Thế tôn, vì Phật có thể biết hết các pháp đối trị. Lại nữa, do thế pháp ngôn ngữ bất đồng nên người đời tự không hiểu nhau, nhưng Phật có thể hiểu tất cả nên gọi là Thế tôn. Lại nữa, phàm phu tự cho mình đắc pháp, hoặc ưa thích tịch tĩnh, hoặc thích thiền định, hoặc vì nhân duyên khác nên bí mật không nói ra; nhưng pháp mà Phật đã chứng đắc là do lực từ bi nên ưa thích vì người khác giảng nói. Lại nữa do đã phá trừ ba độc nên gọi là Thế tôn.

Hỏi: Hàng Nhị thừa cũng phá trừ được ba độc, sao không gọi là Thế tôn?

Đáp: Hàng Nhị thừa không được gọi như thế là vì còn thối chuyển, Phật thì không thối chuyển. Thối chuyển có ba: Quả thối chuyển, không phải quả thối chuyển và sở dụng thối chuyển. Quả thối chuyển là ba quả trên của Tiểu thừa có thối chuyển còn quả dưới thì không thối chuyển; Trung thừa có hai hạng: Nếu do trăm kiếp tu hành chứng quả Phật Bích chi thì không thối chuyển, nếu từ ba quả trên của Tiểu thừa chứng quả Phật Bích chi thì có thối chuyển; Phật quả không thối chuyển. Không phải quả thối chuyển là người hướng đến quả Tam thừa chưa được mà thối chuyển, hoặc Tỳ-kheo tu hành ba nghiệp biếng nhác không tinh tấn nên tất cả pháp đã tu tập có thối chuyển. Sở dụng thối chuyển là tất cả pháp đã chứng đắc, dụng không hiện tiền. Như mười lực của Phật, mười trí của Tiểu thừa nếu dùng một pháp nào thì các pháp khác không hiển dụng; như đọc tụng mười vạn lời kinh, khi không đọc tụng thì không hiển dụng. Tiểu thừa và Trung thừa có không phải quả thối chuyển nhưng Phật thì không, vì trong tất cả các hành Phật thảy đều tinh tấn. Nhị thừa có sở dụng thối chuyển nhưng Phật thì không nhất định, có thuyết cho rằng trong mười lực, khi Phật dùng một lực thì không dùng chín lực kia nên gọi là có sở dụng thối chuyển; có thuyết cho rằng như tụng hai mươi vạn lời kinh, người phàm vì sức kém nên một, hai ngày mới tụng xong, nhưng Phật thì có thể tức thời tụng xong; mười lực cũng vậy, muốn dùng thì liền dùng không có chướng ngại nên Phật không có sở dụng thối chuyển. Lại nữa như khi mặc Nê-hoàn-tăng, Phật không chỉ là mặc như người đời mặc, Phật mặc vì lợi ích cho chúng sanh; tất cả pháp đã dùng nếu lợi ích cho chúng sanh thì liền dùng, không lợi ích cho chúng sanh thì không dùng, nên đối với sở dụng thối chuyển Phật không nhất định vì ý Phật không thể nghĩ bàn.

Hỏi: Vì sao ba quả trên của Tiểu thừa có quả thối chuyển còn quả dưới lại không có?

Đáp: Ba quả trên do đã từng được nên có quả thối chuyển, còn quả dưới chưa từng được nên không có quả thối chuyển. Như người đói mà được thức ăn ngon thì lâu vẫn không quên, nghĩa này cũng như vậy. Có thuyết cho rằng giai vị Kiến đế đạo không có thối chuyển; giai vị Tư duy đạo thì có thối chuyển vì có tưởng tịnh và bất tịnh để đoạn trừ kiết sử nên ở giai vị Tư duy đạo có bức bách; giai vị Kiến đế đạo do thấy được lý nên không có bức bách, khi tư duy phát sanh dù có bức bách vẫn không làm cho thối chuyển. Có thuyết cho rằng ở giai vị Kiến đế trí lực mạnh, như rường cột lớn chống đỡ các vật nên không thối chuyển; còn ở giai vị Tư duy trí lực yếu nên có thối chuyển. Lại nữa, hai tâm Nhẫn và trí ở giai vị Kiến đế của cõi Dục đoạn được chín phẩm Tư hoặc, Nhẫn và Trí của hai cõi trên thì đoạn được bảy mươi hai phẩm Tư hoặc, ở cõi Vô sắc kiết sử hết nên không có thối chuyển. Do các nghĩa trên nên Phật được gọi là Thế tôn; lại nữa, tập khí của Phật đã đoạn tận còn tập khí của hàng Nhị thừa chưa đoạn tận, như trường hợp Tỳ-kheo Ngưu ty thường nhai lại như trâu là do nhiều đời ở trong loài trâu mà sanh ra; lại có Tỳ-kheo tuy đã được lậu tận nhưng thường hay soi gương là do nhiều đời làm dâm nữ mà sanh ra; lại có Tỳ-kheo thường hay nhảy nhót là do nhiều đời từ trong loài khỉ mà sanh ra, vì thế hàng Nhị thừa không được gọi là Thế tôn.

Hỏi: Tất cả kinh mở đầu bằng câu Tôi nghe như vầy là lúc Phật còn ở đới nói là Tôi nghe hay là sau khi Phật diệt độ?

Đáp: Phật tự thuyết pháp thì do đâu nói là Tôi nghe, sau khi Phật diệt độ các vị kết tập pháp tạng mới nói là Tôi nghe.

Hỏi: Phật thuyết pháp trong hai mươi năm, tôn giả A-nan không nghe, vì sao được nói là Tôi nghe?

Đáp: Có thuyết cho là chư thiên nói lại cho tôn giả A-nan nghe, có thuyết cho là Phật nhập tâm thế tục khiến cho tôn giả A-nan biết, cũng có thuyết cho là từ bên các Tỳ-kheo nghe lại. Trong kinh nói tôn giả A-nan thỉnh Phật những điều như sau: "Xin Phật đừng cho con y cũ, xin đừng bảo thí chủ thỉnh con thọ thực, con vì cầu pháp, vì cung kính Phật nên làm thị giả chứ không phải vì cầu y thực. Các Tỳ-kheo một ngày hai thời đến gặp Phật, chớ bảo con cũng như vậy, hãy cho con khi nào muốn gặp Phật thì liền gặp. Những pháp mà Phật đã thuyết trong hai mươi năm qua xin thuyết lại cho con nghe".

Hỏi: Pháp đã thuyết giảng trong hai mươi năm rất nhiều, làm sao có thể nói lại?

Đáp: Phương tiện thiện xảo có thể ở trong một câu pháp diễn nói vô lượng pháp và có thể dùng vô lượng pháp tóm lại trong một câu pháp. Phật chỉ bày đầu mối, A-nan liền có thể lãnh thọ được tất cả, đó là nhờ trí huệ sắc bén và sức thọ trì mạnh mẽ của A-nan.

3. Tám vạn Tạng Pháp:

Như cây có nhiều rễ và cành lá gọi là một cây, Phật trước sau thuyết pháp cho chúng sanh gọi là một tạng, như vậy có đến tám vạn tạng pháp. Có thuyết cho là Phật một lần ngồi thuyết pháp thì gọi là một tạng, như vậy có đến tám vạn tạng pháp. Có thuyết cho là mười sáu chữ là nữa bài kệ, ba mươi hai chữ là một bài kệ, như vậy có đến tám vạn; kệ có ngắn dài, cứ ba mươi hai chữ là một bài kệ, như vậy có đến tám vạn. Có thuyết cho là mỗi nữa tháng thuyết giới là một tạng, như thế có đến tám vạn. Có thuyết cho là Phật tự nói sáu vạn sáu ngàn bài kệ gọi là một tạng, như thế có đến tám vạn. Có thuyết cho là Phật thuyết giảng có tám vạn trần lao nên pháp dược đối trị cũng có tám vạn nên gọi là tám vạn tạng pháp.

Hỏi: Vì sao trong kinh luận không dùng chữ Phật để ở đầu mà chỉ trong luật mới dùng chữ Phật để ở đầu?

Đáp: Vì luật là thù thắng và bí mật chỉ do Phật chế. Kinh có khi do các đệ tử thuyết giảng, có khi do chư thiên như Thích đề hoàn nhơn nói: "Pháp bố thí là bậc nhất, vì sao, vì ta nhờ bố thí mà được làm thiên vương, mọi ước nguyện đều được như ý", Phật khen là đúng thế; cũng có khi hóa làm hóa Phật để thuyết pháp, nhưng luật thì không như thế. Tất cả giới do Phật chế nên trong luật dùng chữ Phật để ở đầu. Lại nữa, kinh có thể tùy chỗ tùy quyết định, nhưng luật thì không như thế; nếu trong nội bộ có việc thì không được liền kết, phải ra ngoài mà kết; nếu từ bên cư sĩ có việc thì phải ở trong chúng mà kết; nếu từ trong tụ lạc có việc cũng ở trong chúng mà kết; nếu từ bên năm chúng xuất gia có việc thì phải ở trong hai chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni mà kết, cho nên trong luật dùng chữ Phật để ở đầu.

4. Tỳ-da-ly:

Có nước lấy tên vua làm tên gọi, có nước lấy tên địa phương làm tên gọi, có nước lấy tên thành làm tên gọi, nước này lấy tên của loài rồng làm tên gọi; như tụ lạc Ca-lan đà là lấy tên loài chim làm tên gọi, có thuyết cho là tên của chủ tụ lạc.

5. Tu-đề-na:

Là tên của người con do cha mẹ cầu khẩn thần kỳ mà được, dịch nghĩa là Cầu đắc.

6. Phú quý:

Phú có hai loại: Chúng sanh và phi chúng sanh, giàu về phi chúng sanh là có nhiều vàng bạc, kho lẫm, ruộng vườn, nhà cửa…; giàu về chúng sanh là có nhiều tôi tớ, voi, ngựa, bò, dê…. Quý là làm chủ thôn, hoặc có đạo đức được mọi người tôn trọng. Tóm lại có nhiều tiền của, đủ thứ thành tựu thì gọi là phú quý.

7. Tự quy y Tam bảo là tự thọ pháp Tam quy.

Hỏi: Pháp tam quy lấy gì làm tánh?

Đáp: Có luận sư nói pháp tam quy lấy giáo vô giáo làm tánh. Khi thọ pháp tam quy, quỳ gối chắp tay dạy nói pháp tam quy gọi là thân khẩu giáo; nếu tâm ân trọng thì tuy có thân khẩu nhưng không có dạy nói (giáo) nên gọi là giáo vô giáo. Có thuyết nói pháp tam quy lấy ba nghiệp thân khẩu ý làm tánh, có thuyết nói pháp tam quy lấy năm Ấm thiện của chúng sanh làm năng quy, lấy Tam bảo làm sở quy để cầu cứu hộ. Như có người có tội với vua nước này chạy sang cầu vua nước khác cứu hộ, vua nước kia nói: "Nếu ngươi cầu được vô úy thì đừng ra khỏi cõi nước của ta, không được trái lới ta dạy, ta sẽ cứu hộ"; chúng sanh cũng vậy, lệ thuộc vào ma nên có tội lỗi sanh tử, muốn quy hướng Tam bảo cầu cứu hộ, nếu thành tâm không quy hướng nơi khác thì Tam bảo sẽ cứu hộ, tà ma không làm hại được. Trong kinh nói có chim bồ câu bị chim ưng đuổi bắt, bay núp vào bóng của tôn giả Xá-lợiphất vẫn còn run sợ bất an, khi núp vào bóng của Phật thì không còn sợ hãi nữa. Sở dĩ như vậy là vì Phật có đủ đại từ đại bi còn tôn giả Xá-lợi-phất chưa đủ; lại nữa do tập khí phiền não ở Phật đã đoạn tận còn ở tôn giả Xá-lợi-phất thì chưa đoạn tận; lại nữa, Phật đã trải qua ba A-tăng-kỳ-kiếp tu hạnh bồ tát còn tôn giả Xá-lợi-phất chỉ mới trải qua sáu mươi kiếp.

Hỏi: Nếu quy hướng Tam bảo có thể tiêu trừ tội lỗi và dứt mọi sợ hãi, vì sao Đề-bà-đạt-đa cũng quy y Tam bảo, do lòng tin xuất gia, thọ giới cụ túc mà vẫn phạm ba tội đại nghịch bị đọa địa ngục A-tỳ?

Đáp: Tất cả sự cứu hộ là cứu người có thể cứu được, Đề-bà-đạt-đa tội ác sâu nặng lại là định nghiệp nên không thể cứu được.

Hỏi: Người có đại tội Phật không cứu được, người không có tội đâu cần Phật cứu, sao nói là Tam bảo có thể cứu hộ?

Đáp: Đề-bà-đạt-đa tuy quy y Tam bảo nhưng tâm không chân thật, pháp tam quy không đủ, thường cầu lợi dưỡng và danh tiếng, tự xưng là bậc Nhất thiết trí để cạnh tranh với Phật. Vì thế Tam bảo dù có năng lực lớn vẫn không cứu được. Vua A-xà-thế cũng tạo tội đại nghịch đáng đọa địa ngục A-tỳ, nhưng thành tâm hướng Phật nên chuyển tội nặng đáng đọa địa ngục A-tỳ thành tội nhẹ chỉ đọa địa ngục Hắc thằng, như người phạm tội nặng bị giam giữ bảy ngày thì được thả. Đây là năng lực cứu hộ của Tam bảo.

Hỏi: Nếu tội của Điều đạt không được cứu hộ thì sao trong kinh lại nói: "Nếu quy y Phật sẽ không đọa vào ba đường ác"?

Đáp: Điều đạt nhờ quy y Tam bảo nên tuy đọa trong địa ngục A-tỳ nhưng chịu tội nhẹ, có lúc được tạm ngừng; như có người ở chỗ núi rừng vắng vẻ đáng sợ, nếu niệm công đức Phật liền hết sợ hãi. Cho nên nói Tam bảo cứu hộ là không có hư dối.

Hỏi: Trong bốn đế, Tam bảo nhiếp thuộc đế nào; trong hai mươi căn nhiếp thuộc căn nào, trong mười tám giới nhiếp thuộc giới nào; trong mười hai nhập nhiếp thuộc nhập nào và trong năm ấm nhiếp thuộc ấm nào?

Đáp: Trong bốn đế, Tam bảo nhiếp thuộc hai đế là Đạo đế và Diệt đế; trong hai mươi căn nhiếp thuộc ba căn là căn vị tri, căn dĩ tri và căn vô tri; trong mười tám giới nhiếp thuộc ba giới là ý giới, ý thức giới và pháp giới; trong mười hai nhập nhiếp thuộc hai nhập là ý nhập và pháp nhập; trong năm ấm nhiếp thuộc ấm vô lậu.

Trong bốn đế, Phật bảo nhiếp thuộc một phần ít Đạo đế, Pháp bảo nhiếp thuộc Diệt đế, Tăng bảo nhiếp thuộc một phần ít Đạo đế. Trong hai mươi căn, Phật bảo nhiếp thuộc Căn vô tri, Pháp bảo là Diệt đế vô vi nên không nhiếp thuộc căn nào, Tăng bảo nhiếp thuộc ba căn vô lậu. Trong mười tám giới, Phật bảo nhiếp thuộc một phần ít Ý giới, Ý thức giới và Pháp giới; trong mười hai nhập nhiếp thuộc một phần ít Ý nhập và Pháp nhập; trong năm ấm nhiếp thuộc một phần ít năm ấm vô lậu. Trong mười tám giới, Pháp bảo nhiếp thuộc một phần ít Pháp giới; trong mười hai nhập nhiếp thuộc một phần ít Pháp nhập; Pháp bảo là pháp vô vi nên không nhiếp thuộc trong năm ấm là pháp hữu vi. Trong mười tám giới, Tăng bảo nhiếp thuộc một phần ít Ý giới, Ý thức giới và Pháp giới; trong mười hai nhập nhiếp thuộc một phần ít Ý nhập, Pháp nhập; trong năm ấm nhiếp thuộc một phần ít năm ấm vô lậu.

Hỏi: Quy y Phật là quy y Phật Thích-ca-mâuni hay quy y chư Phật trong ba đời?

Đáp: Quy y Phật là quy y chư Phật trong ba đời vì Pháp thân Phật là đồng; quy y một đức Phật tức là quy y chư Phật trong ba đời vì chư Phật không khác nhau. Có thuyết cho rằng nếu quy y chư Phật trong ba đời thì có chư thiên tự cho mình là đệ tử của Phật Ca-diếp hoặc Phật Câu lưu tôn…, trong bảy đức Phật đều nói mình là đệ tử; do nhân duyên này nên chỉ quy y một đức Phật, không nên quy y chư Phật trong ba đời. Có thuyết cho rằng không nên chỉ quy y một đức Phật, vì sao, vì như trong kinh Tỳ Sa-môn nói: "Tỳ Sa-môn thiên vương quy y Tam bảo, quy y chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai", vì vậy nên quy y chư Phật trong ba đời.

Hỏi: Nếu chư thiện tự xưng mình là đệ tử của Phật nào đó thì nghĩa này như thế nào?

Đáp: Chư thiên nói ra lời gì đâu thể cho là định thật, vì có chư thiên nói một đức Phật là thầy nhưng cũng quy y chư Phật trong ba đời, nói một đức Phật chỉ để làm bằng chứng mà thôi.

Hỏi: Nương vào đâu gọi là quy y Phật?

Đáp: Nói lời quy y là hồi chuyển về công đức vô học của Nhất thiết trí.

Hỏi: Quy y sắc thân hay là quy y Pháp thân?

Đáp: Quy y Pháp thân, không phải quy y sắc thân; không nên cho sắc thân là Phật.

Hỏi: Nếu sắc thân không phải là Phật, vì sao làm thân Phật bị thương chảy máu lại phạm tội đại nghịch?

Đáp: Sắc thân là chỗ chứa đựng Pháp thân (Pháp thân khí), là chỗ nương tựa của Pháp thân. Cho nên hại sắc thân liền phạm tội đại nghịch, không phải sắc thân là Phật mà phạm tội đại nghịch.

Hỏi: Nương vào đâu gọi là quy y Pháp?

Đáp: Nói lời quy y là hồi chuyển về đoạn dục, vô dục, là Diệt đế Niết-bàn.

Hỏi: Quy y cảnh giới Diệt đế nơi tự thân hay là quy y cảnh giới Diệt đế nơi người khác?

Đáp: Quy y cảnh giới Diệt để của cả tự thân và người khác, đó là quy y Pháp.

Hỏi: Nương vào đâu gọi là quy y Tăng?

Đáp: Nói lời quy y là hồi chuyển về ruộng phước tốt lành, công đức Học và Vô học của Thanh văn, đó là quy y Tăng.

Hỏi: Quy y Tăng tục đế hay là quy y Tăng đệ nhất nghĩa đế, nếu quy y Tăng đệ nhất nghĩa đế thì khi Phật cho Đề vị và Ba-lợi thọ pháp Tam quy, không nên nói rằng vị lai sẽ có Tăng, ông nên quy y; Tăng đệ nhất nghĩa đế thường ở thế gian?

Đáp: Tăng tục đế là sở y của Tăng đệ nhất nghĩa đế, nói vị lai sẽ có Tăng, ông nên quy y là vì tôn trọng Tăng tục đế mà nói. Như Phật nói: "Trong tất cả hội chúng thì hội chúng của Phật là hơn hết, như từ sữa sanh Lạc, từ Lạc sanh ra Tô, từ Tô sanh ra Đề hồ là vị ngon bậc nhất; cũng vậy trong tất cả hội chúng, chúng đệ tử Phật là bậc nhất. Nếu có Tăng nhóm họp thì trong đó nhất định có bốn Hướng, bốn Quả đều là phước điền vô thượng, tối thượng, tôn quý bậc nhất trong chín mươi sáu phái ngoại đạo, không phái nào sánh bằng", vì vậy nói vị lai sẽ có Tăng, ông nên quy y thì không hại đến nghĩa chánh.

Hỏi: Phật cũng là Pháp, Pháp cũng là Phật, Tăng cũng là Pháp, tất cả đều là một pháp thì có gì khác nhau?

Đáp: Tuy đều là một pháp nhưng theo nghĩa thì có nhiều khác biệt. Theo nghĩa của Tam bảo thì bậc đại trí không thầy tự ngộ, được tất cả công đức vô học gọi là Phật bảo; Diệt đế vô vi là Pháp bảo; các Thanh văn Hữu học và Vô học được công đức trí huệ là Tăng bảo. Theo nghĩa của Pháp thì Pháp vô sư vô học là Phật bảo; pháp Diệt đế vô vi không phải Hữu học cũng không phải Vô học là Pháp bảo; pháp Thanh văn Hữu học và Vô học là Tăng bảo. Theo nghĩa của Căn thì Căn vô tri là Phật bảo; Pháp bảo là pháp không phải căn; Tăng bảo là ba căn vô lậu. Theo nghĩa của Đế thì Phật bảo nhiếp thuộc một phần ít Đạo đế, Pháp bảo nhiếp thuộc Diệt đế,

Tăng bảo nhiếp thuộc một phần ít Đạo đế. Đứng trên quả Sa-môn thì Phật bảo là Sa-môn, Pháp bảo là quả Sa-môn, Tăng bảo cũng là Sa-môn. Đứng trên quả Bà-la-môn thì Phật bảo là Bà-la-môn, Pháp bảo là quả Bà-la-môn, Tăng bảo cũng là Bàla-môn. Đứng trên quả Phạm hạnh thì Phật bảo là Phạm hạnh, Pháp bảo là quả Phạm hạnh, Tăng bảo cũng là Phạm hạnh. Đứng trên Nhân quả thì Phật bảo là nhân, Pháp bảo là quả, Tăng bảo cũng là nhân. Đứng trên đạo quả thì Phật bảo là đạo, Pháp bảo là quả, Tăng bảo cũng là đạo. Phật lấy Pháp làm thầy, Phật từ pháp sanh ra, Pháp là mẹ của Phật, Phật nương vào Pháp mà sanh ra.

Hỏi: Nếu Phật lấy Pháp làm thầy, vì sao trong Tam bảo không để Pháp đứng đầu?

Đáp: Tuy Pháp là thầy của Phật, nhưng nếu Pháp không có Phật thì không thể hoằng dương, đó gọi là đạo được hoằng dương là nhờ nơi người, vì thế nên để Phật đứng đầu trong Tam bảo.

Hỏi: Nếu khi thọ pháp Tam quy, xưng Pháp bảo trước xưng Phật bảo sau thì có thành pháp Tam quy không?

Đáp: Nếu do không hiểu biết, nói không theo thứ lớp thì không tội vẫn thành pháp Tam quy; nếu đã hiểu biết mà cố ý nói ngược thứ lớp thì phạm Đột-kiết-la và không thành pháp Tam quy.

Hỏi: Nếu chỉ xưng Phật và pháp, không xưng Tăng thì có thành pháp Tam quy không; hoặc chỉ xưng Pháp và Tăng, không xưng Phật; hoặc chỉ xưng Phật và Tăng, không xưng Pháp thì có thành pháp Tam quy không?

Đáp: Đều không thành pháp Tam quy.

Hỏi: Nếu không thọ pháp Tam quy thì có đắc năm giới, tám giới cho đến mười giới hay không; nếu không bạch tứ yết ma thì có đắc giới cụ túc không?

Đáp: Tất cả đều không đắc giới. Nếu muốn thọ năm giới thì phải thọ pháp Tam quy trước, thọ pháp Tam quy rồi mới đắc năm giới. Sở dĩ gọi là năm giới là muốn cho người thọ biết rõ về năm giới; cũng vậy bạch tứ yết ma xong mới đắc giới cụ túc, sở dĩ nói pháp Tứ y, bốn pháp Đọa, mười ba Tăng tàn là muốn cho người thọ biết. Có thuyết cho là thọ pháp Tam quy xong, chỉ nói một giới Bất sát liền đắc giới; nói một giới mà đắc cả năm giới là vì nếu giữ được một giới tức là thọ trì cả năm giới, vì thế phần của năm giới dính nhau kiêm bổn ý thệ thọ năm giới. Có thuyết cho là thọ năm giới xong mới đắc giới, nhưng trong các thuyết thì thuyết thọ pháp Tam quy xong liền đắc năm giới là nghĩa nhất định; cho đến tám giới, mười giới cũng như vậy. Riêng pháp thọ giới cụ túc thì bạch tứ yết ma xong mới đắc giới, vì giới cụ túc có công đức sâu, nếu không có nhiều duyên lành và nhiều lực thì không do đâu đắc giới, tức là phải có đủ tam Sư, thập Tăng bạch tứ yết ma mới đắc giới. Năm giới, tám giới và mười giới công đức ít hơn nên chỉ cần thọ pháp Tam quy xong liền đắc giới.

Hỏi: Khi truyền thọ giới cụ túc vì sao chỉ nói bốn Ba-la-di, mười ba Tăng tàn mà không nói các thiên giới khác?

Đáp: Vì hai thiên giới này là trọng, nếu phạm giới trong thiên thứ nhất thì không khởi lại giới; nếu phạm giới trong thiên thứ hai tuy khởi lại giới nhưng khó khởi vì phải hành Ba-lợi-bà-sa, Ma-na-đỏa xong mới ở trong Tăng đủ hai mươi vị làm yết ma cho xuất tội. Nếu giới khó trì mà trì được thì những giới dễ trì không cần phải nói, vì vậy chỉ nói hai thiên giới đầu mà không nói những thiên giới khác.

Hỏi: Giới Ba-la-đề-mộc-xoa này là giới vô lậu hay là giới thiền? Đáp: Không phải giới vô lậu cũng không phải thiền giới. Giới Ba-la-đề-mộc-xoa có khi Phật xuất hiện ở đời, nếu Phật không xuất hiện ở đời thì không có; còn giới vô lậu và giới thiền dù Phật có xuất hiện hay không xuất hiện ở đời, trong tất cả thời đều có. Lại nữa giới Ba-la-đề-mộc-xoa từ Phật dạy mà đắc giới, còn giới vô lậu và giới thiền thì không từ Phật dạy vẫn đắc giới. Lại nữa giới Ba-la-đề-mộc-xoa phải từ người khác truyền thọ mới đắc giới, còn giới vô lậu và giới thiền thì không nhờ người khác vẫn đắc giới. Lại nữa, giới Ba-la-đề-mộc-xoa bất luận tâm hôn trầm hay không hôn trầm, tâm thiện ác hay vô ký, trong tất cả thời đều có; còn giới vô lậu và giới thiền phải ở trong tâm vô lậu và tâm thiền mới có giới, trong các tâm khác thì không có. Lại nữa, giới Ba-la-đề-mộc-xoa chỉ có trong loài người; còn giới vô lậu và giới thiền thì trong trời người đều có. Lại nữa giới Ba-la-đề-mộc-xoa chỉ có trong cõi Dục; còn giới vô lậu và giới thiền trong cõi Dục và cõi Sắc đều có, ở cõi Vô sắc thì thành tựu giới vô lậu. Lại nữa, giới Ba-la-đề-mộc-xoa chỉ đệ tử Phật mới có; còn giới vô lậu và giới thiền thì đệ tử Phật và ngoại đạo đều có.

Hỏi: Năm giới của Ưu-bà-tắc có mấy giới là thật tội, mấy giới là giá tội?

Đáp: Bốn giới đầu là thật tội, giới uống rượu là giá tội; giới này sở dĩ được kết cùng bốn giới trên thành năm giới là vì uống rượu là gốc của buông lung, có thể khiến phạm luôn cả bốn giới trên. Như vào thời Phật Ca-diếp, có một Ưu-bà-tắc vì uống rượu say mà tà dâm với vợ người, bắt trộm gà và giết gà của người; người khác hỏi vì sao làm như thế thì người này đáp là do rượu làm cho tâm mê loạn nên nhất thời phá cả bốn giới trên. Lại nữa uống rượu say có thể phạm bốn tội nghịch, trừ tội Phá tăng thì không thể; tuy không phải do nghiệp đời trước có quả báo cuồng loạn, nhưng do uống rượu say nên mê loạn như người cuồng loạn, có thể phá mất chánh nghiệp như ngồi thiền tụng kinh và làm việc chúng tăng. Vì vậy tuy không phải là thật tội nhưng do nhân duyên này nên cùng với thật tội đồng loại.

Hỏi: Giới Ưu-bà-tắc ở trên chúng sanh mới đắc giới, còn ở trên loài phi chúng sanh có đắc giới không; chỉ ở trên chúng sanh có thể sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ mới đắc giới hay là ở trên chúng sanh không thể sát sanh… cũng đắc giới?

Đáp: Ở trên chúng sanh mới đắc giới còn ở trên loài phi chúng sanh thì không thể; ở trên chúng sanh có thể sát sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ hay ở trên chúng sanh không thể sát sanh… đều đắc giới. Dưới cho đến địa ngục A-tỳ và trên cho đến cõi trời Phi phi tưởng xứ, ba ngàn đại thiên thế giới cho đến Phật Như lai, tất cả loài có mạng sống đều đắc bốn giới này. Khi vừa thọ giới, tất cà không sát sanh… tất cả không nói dối, cho nên trên tất cả chúng sanh thảy đều đắc giới. Luận về pháp thọ giới, trước phải nghe thuyết pháp để được khai giải, khiến cho khởi tâm từ mẫn đối với tất cả chúng sanh, được tâm tăng thượng mới đắc giới tăng thượng. Luận về pháp đắc giới, tất cả chúng sanh đều đắc bốn giới, bốn giới này sai biệt có đến mười hai giới, đối với tất cả chúng sanh không được giết hại… không được nói dối. Bởi vì nếu khởi ra bốn ác là do ba nhân duyên mà khởi, đó là tham sân si, nên thành mười hai ác; trái ngược với mười hai ác là mười hai thiện giới sắc.

Hỏi: Nếu có trăm vạn ngàn vạn A-la-hán nhập Niết-bàn thì đối với các A-la-hán này, giới đã đắc trước kia trước sau có thành tựu không?

Đáp: Không, vì A-la-hán nhập Niết-bàn thì giới này cũng mất. Như khi đắc giới uống rượu thì thân này cho đến trọn đời, trong ba ngàn đại thiên thế giới đối với tất cả loại rượu đã có, chỉ uống một ngụm liền phạm giới sắc. Vì khi thọ giới, tất cả loại rượu đều không được uống, dù rượu diệt hết nhưng giới vẫn thành tựu không mất cho đến trọn đời.

Hỏi: khi thọ giới, nơi ba sanh môn của người nữ đắc giới không tà dâm, sau đó lấy vợ, có phạm giới này không?

Đáp: Không phạm, vì sao, vì tuy đối với người nữ vốn đã đắc giới không tà dâm, nhưng người nữ này nay là vợ, không gọi là tà dâm nên không phạm giới này. Dựa theo đây mà suy ra thì tất cả giới đều như vậy, cho đến tám giới, mười giới, chúng sanh hay loài phi chúng sanh đắc giới cũng đều như vậy. Cho đến thọ hai trăm năm mươi giới đắc giới, ở trên tất cả chúng sanh đắc bảy giới (thân ba khẩu bốn), phân biệt có đến hai mươi mốt giới; bởi vì nếu trên một chúng sanh khởi ra bảy ác là do ba nhân duyên mà khởi, đó là tham sân si, nên thành hai mươi mốt ác. Trên một chúng sanh đắc hai mươi mốt giới sắc thì trên tất cả chúng sanh cũng đều như vậy. Như đối với ngũ cốc, nếu trên một loại cốc nào phá hại hay chặt cây ăn trái, làm gãy cành lá thì tùy phá tùy chặt bao nhiêu thì mắc tội bấy nhiêu; ngược lại thì đắc ngần ấy giới. Bởi vì khi thọ giới không làm hại cây cỏ, ở trên tất cả cỏ cây đều đắc giới sắc; như giới không đào đất, trên mỗi chỗ đất là đắc một giới sắc, dưới cho đến ba ngàn đại thiên thế giới tận mé Kim cang cũng đều đắc một giới sắc như vậy. Trong hai trăm năm mươi giới đã thọ, ở trên chúng sanh hay không phải chúng sanh đắc giới nhiều ít, theo đây mà suy ra thì khi đắc giới, trên mỗi giới cùng một lúc đắc vô lượng giới. Như giới không sát sanh, trên một chúng sanh sẽ đắc ba giới sắc, bởi vì nếu khởi giết hại là do ba nhân duyên mà khởi, đó là tham sân si; nếu không giết hại thì đắc ba giới sắc; nếu vì tham mà giết người thì trên người bị giết này phạm một giới sắc do tham, hai giới sắc kia không phạm. Khi phạm giới trọng Ba-la-di này thì ví như đồ đựng Đạo (đạo khí) bị thủng, không thể đựng Đạo được nữa nên không thể chứng bốn Quả Sa-môn, gọi là phi Sa-môn. Vừa phạm giới Sát này liền phá hủy đạo khí nên gọi là Ba-la-di, nếu sau đó giết người nữa, thật tội tuy nặng nhưng không còn gọi là Ba-la-di, vì không còn đạo khí để phá hủy nữa, Tỳ-kheo này gọi là Tỳ-kheo phá giới, không gọi là phi Tỳ-kheo. Theo đây mà suy ra thì tuy cùng một lúc đắc vô lượng giới nhưng không phải cùng một lúc phạm hết các giới, cùng một lúc xả hết các giới. Luận về pháp phá giới, nếu phá giới trọng thì không có thăng tiến, cho dù xả giới rồi thọ giới lại cũng không đắc giới. Nếu phá một giới trọng trong năm giới rồi thọ lại năm giới, cho đến mười giới, giới cụ túc, giới vô lậu và giới thiền đều không đắc giới. Nếu phá một giới trọng trong năm giới, muốn xả hết năm giới rồi thọ lại thì không có lý đó; dù đã xả giới để thọ lại năm giới cho đến mười giới, giới cụ túc, giới vô lậu và giới thiền đều không đắc giới. Nếu phá một giới trọng trong mười giới hoặc giới cụ túc, muốn thăng tiến hay muốn xả giới rồi thọ lại cũng giống như trường hợp phá một giới trọng trong năm giới.

Hỏi: Giới Ba-la-đề-mộc-xoa, giới vô lậu và giới thiền ở trong ba cõi, giới nào thù thắng hơn?

Đáp: Giới vô lậu và giới thiền thù thắng hơn, nhưng có thuyết cho rằng giới Ba-la-đề-mộc-xoa thù thắng hơn, vì sao, vì Phật ra đời mới có giới này còn giới vô lậu và giới thiền trong tất cả thời đều có. Tất cả chúng sanh và loài phi chúng sanh đều đắc giới Ba-la-đề-mộc-xoa, con giới vô lậu và giới thiền thì chỉ ở trên chúng sanh mới đắc giới. Lại nữa tất cả chúng sanh nhờ tâm Từ mà đắc giới Ba-la-đề-mộc-xoa, còn giới vô lậu và giới thiền thì không do tâm Từ mà đắc giới. Luận về duy trì Phật pháp thì chỉ có bảy chúng ở thế gian, đạo quả Tam thừa nối tiếp nhau không dứt đều là lấy giới Ba-la-đề-mộc-xoa làm cội gốc; giới vô lậu và giới thiền thì không như thế, cho nên ở trong ba cõi, giới Ba-la-đề-mộc-xoa là thù thắng nhất. Khi mới thọ giới, bạch tứ yết ma xong liền thành tựu một giới sắc, một niệm giới sắc đầu tiên gọi là Nghiệp, cũng gọi là Nghiệp đạo; niệm thứ hai trở về sau, giới sắc đã sanh chỉ là Nghiệp, không phải là Nghiệp đạo, vì sao, vì một niệm giới sắc ban đầu, tư duy và ước nguyện đầy đủ, do tư duy thông nên gọi là Tư nghiệp đạo. Giới sắc ban đầu là nhân, giới sắc sau nhậm vận tự sanh chỉ gọi là nghiệp, không gọi là Nghiệp đạo. một niệm giới sắc ban đầu vừa thuộc Giáo vừa thuộc Vô giáo, giới sắc sau nhậm vận tự sanh chỉ có Vô giáo, không có Giáo; một niệm giới sắc ban đầu gọi là Giới, cũng gọi là Thiện hạnh, cũng gọi là Luật nghi; giới sắc sau nhậm vận sanh khởi cũng có ba nghĩa này.

Hỏi: Trong ba đời, đời nào đắc giới?

Đáp: Một niệm trong Hiện tại là chúng sanh nên đắc giới, quá khứ vị lai là pháp, không phải chúng sanh nên không đắc giới.

Hỏi: Trong tâm Thiện đắc giới hay trong tâm Bất thiện, tâm Vô ký hay là trong Vô tâm mà đắc giới?

Đáp: Trong tất cả tâm đều đắc giới. Trước tiên với tâm Thiện đảnh lễ Tăng rồi thọ y bát, kế cầu Hòa thượng, Tăng hỏi già nạn để biết có thanh tịnh không… cho đến Tăng bạch tứ yết ma xong, tâm

Thiện nối nhau nên giới sắc thành tựu, đây gọi là trong tâm Thiện đắc giới. Nếu trong quá trình thọ đắc giới trên cho đến khi bạch tứ yết ma bỗng khởi các tâm Bất thiện như tham, sân… trong các tâm này thành tựu giới sắc thì đây gọi là trong tâm Bất thiện đắc giới. Đắc giới này là do lực của tâm Thiện ban đầu và sự dạy bảo thiện trong quá trình thọ giới, không phải do lực của tâm Bất thiện mà đắc giới. Nếu trong quá trình thọ đắc giới trên cho đến khi bạch tứ yết ma bỗng buồn ngủ hay hôn trầm, trong lúc này mà thành tựu giới sắc thì đây gọi là trong tâm Vô ký đắc giới. Nếu trong quá trình thọ đắc giới trên cho đến khi bạch tứ yết ma bỗng nhập Diệt tận định, trong lúc này mà thành tựu giới sắc thì đây gọi là trong Vô tâm đắc giới.

Hỏi: Nếu cư sĩ không thọ năm giới mà thọ thẳng lên mười giới thì có đắc giới không?

Đáp: Cùng một lúc thọ đắc hai loại giới: Giới Ưu-bà-tắc và giới Sa-di; nếu không thọ năm giới, mười giới mà thọ thẳng lên giới cụ túc thì cùng một lúc thọ đắc ba loại giới.

Hỏi: Nếu thọ thẳng lên giới cụ túc đắc cả ba loại giới thì cần gì phải theo thứ lớp thọ năm giới trước, kế thọ mười giới, sau cùng là thọ giới cụ túc? Đáp: Tuy cùng một lúc thọ đắc ba loại giới, nhưng để thấm nhuần Phật pháp thì phải theo thứ lớp trước sau. Trước thọ năm giới là để tự điều phục, lòng tin ưa tăng dần mới thọ lên mười giới, thiện tâm chuyển sâu mới thọ lên giới cụ túc. Theo thứ lớp như thế sẽ được thấm nhuần vị Phật pháp, lòng tin ưa càng kiên cố, khó thể thối chuyển; ví như bơi trong biển cả dần dần lạn sâu, trong biển Phật pháp cũng như vậy. Nếu cùng một lúc thọ đắc ba loại giới thì bỏ mất thứ lớp lại phá oai nghi; lại nữa, có chúng sanh khi thọ năm giới mà được đạo quả, hoặc có chúng sanh khi thọ mười giới mà được đạo quả… nên Như lai mới nói thọ theo thứ lớp. Nếu trước thọ năm giới, đến khi thọ mười giới liền thành tựu cả hai loại giới; đến khi thọ giới cụ túc liền thành tựu cả ba loại giới. Trong bảy loại thọ giới, chỉ có bạch tứ yết ma theo thứ lớp ba thời thọ mới đắc giới, còn sáu loại thọ giới kia chỉ trong một thời liền đắc giới. Nếu cùng một lúc đắc cả ba loại giới thì khi muốn xả giới, nếu nói tôi là Sa-di thì không phải là Tỳ-kheo, liền mất giới cụ túc; nếu nói tôi là Ưu-bà-tắc thì không phải là Sa-di, liền mất mười giới; nếu nói giới tại gia xuất gia đều xả thì cả ba loại giới đồng thời mất hết, nhưng không mất pháp Tam quy; nếu theo thứ lớp thọ đắc giới thì xả giới cũng theo thứ lớp.

Hỏi: Nếu trước đã thọ năm giới, sau đó xuất gia thọ mười giới thì có xả năm giới trước không?

Đáp: Không xả năm giới, chỉ mất tên gọi và thứ lớp chứ không mất giới, tức là mất tên Ưu-bà-tắc được tên Sa-di, mất thứ lớp cư sĩ được thứ lớp xuất gia.

Hỏi: Sa-di thọ lên giới cụ túc có mất mười giới và năm giới đã thọ trước hay không?

Đáp: Không mất, chỉ mất tên gọi và thứ lớp chứ không mất giới, tức là mất tên Sa-di được tên Tỳ-kheo, mất thứ lớp Sa-di được thứ lớp Tỳ-kheo. Trước sau vẫn là một giới nhưng tùy thời thọ lên mà có tên gọi khác nhau, ví như lá cây vào mùa xuân và mùa hạ thì có màu xanh, sang mùa thu thì có màu vàng, đến mùa đông thì có màu trắng; tùy theo mùa khác nhau mà lá cây có màu khác nhau, nhưng trước sau vẫn là lá cây. Giới cũng vậy, tùy thời thọ mà có tên khác nhau nhưng trước sau vẫn là giới; cũng như sữa, lạc, tô và đề hồ tùy thời nên có tên gọi khác nhau nhưng trước sau vẫn là một loại sữa. Giới cũng vậy, tuy ba thời có tên gọi khác nhau nhưng trước sau vẫn là giới.

Hỏi: Khi thọ giới Ưu-bà-tắc, nếu không thể thọ đủ năm giới, chỉ thọ một giới cho đến bốn giới thì có đắc giới không?

Đáp: Không đắc giới.

Lại hỏi: Nếu không đắc giới, sao trong kinh nói có thiểu phần Ưu-bà-tắc, đa phần Ưu-bà-tắc, mãn phần Ưu-bà-tắc, nghĩa này như thế nào?

Đáp: Sở dĩ trong kinh nói như thế là muốn nêu rõ công đức trì giới nhiều ít, chứ không nói có pháp thọ giới như vậy.

Hỏi: Nếu thọ năm giới hạn định một ngày, hai ngày cho đến mười ngày thì có được thọ như vậy không?

Đáp: Không được, Phật chế giới đều có hạn định, nếu thọ năm giới thì hạn định là trọn đời; nếu thọ tám trai giới thì hạn định là một ngày một đêm, không thể làm khác Phật chế.

Luận về giới phẩm có thượng trung hạ, năm giới là giới phẩm hạ, mười giới là giới phẩm trung, giới cụ túc là giới phẩm thượng. Trong năm giới thọ đắc giới cũng có ba bậc, nếu thọ giới với tâm bậc hạ thì đắc giới bậc hạ, nếu thọ giới với tâm bậc trung thì đắc giới bậc trung, nếu thọ giới với tâm bậc thượng thì đắc giới bậc thượng. Trong mười giới và giới cụ túc cũng có có ba bậc thọ đắc giới giống như thế. Nếu thọ năm giới với tâm bậc hạ, đắc năm giới bậc hạ; sau đó thọ lên mười với tâm bậc trung hay thượng, đắc mười giới bậc trung hay thượng thì năm giới bậc hạ đã đắc trước kia vẫn là bậc hạ, không có tăng thắng, năm giới đắc sau mới là bậc trung hay thượng. Cũng vậy nếu thọ lên giới cụ túc với tâm bậc thượng, do tâm tăng thượng nên đắc giới cũng tăng thượng. Ngược lại nếu thọ đắc năm giới với tâm bậc thượng thì đây là giới phẩm thượng, khi thọ lên mười giới đắc giới với tâm bậc trung thì đây là giới phẩm trung, cho đến khi thọ lên giới cụ túc đắc giới với tâm bậc hạ thì đây là giới phẩm hạ. Theo đây mà suy ra thì giới Ba-la-đề-mộc-xoa không có đắc trùng lên nhau, tùy tâm thượng trung hạ mà đắc giới có thượng trung hạ sai khác nhau.

Nếu trước đã cầu Hòa thượng, khi đăng đàn thọ mười giới nếu Hòa thượng không có mặt vẫn đắc mười giới; nếu khi thọ mười giới nghe biết Hòa thượng tịch thì không đắc giới, nếu không nghe biết thì vẫn đắc giới. Khi Tăng bạch tứ yết ma truyền thọ giới cụ túc, nếu Hòa thượng vắng mặt thì Tăng số không đủ, nếu thêm người cho đủ số thì dù không có Hòa thượng vẫn thọ đắc giới.

Hỏi: Ưu-bà-tắc thọ năm giới có được mua bán không?

Đáp: Được, nhưng không nên làm năm nghề: Một là mua bán súc vật, nếu tự có súc vật cũng cho bán nhưng không được bán cho người mổ giết; hai là mua bán cung tên khi giới, nếu tự có cũng cho bán; ba là bán rượu, nếu tự có cũng cho bán; bốn là ép dầu, vì theo pháp nước Thiên trúc thì ép dầu sẽ giết hại nhiều trùng, nhưng theo nước Kế tân thì trong mè không có trùng, nếu không có trùng thì ép lấy dầu không tội; năm là nghề nhuộm năm màu sắc chánh vì giết hại nhiều trùng, như ở ngoại quốc có nước Lạc Sa-làm nghề nhuộm giết rất nhiều trùng, nước Tần nhuộm màu xanh cũng giết rất nhiều trùng. Đó là năm nghề không nên làm.

Hỏi: Pháp thọ tám trai giới, quá ngọ không ăn đáng lẽ thành chín, vì sao nói là tám ?

Đáp: Pháp thọ tám trai giới lấy quá ngọ không ăn làm thể, tám giới kia trợ giúp cho thành tựu thể trai giới nên gọi là tám trai giới mà không nói là chín pháp. Nếu người thọ tám trai giới, ở trong bảy chúng hay bất cứ hội chúng nào, tuy không thọ giới trọn đời, chỉ thọ giới một ngày một đêm vẫn được gọi là Ưu-bà-tắc. Có thuyết cho rằng nếu gọi là Ưubà-tắc mà không thọ giới trọn đời, hoặc không phải Ưu-bà-tắc mà thọ giới một ngày một đêm thì chỉ gọi là người trung gian.

Hỏi: Ngoài bảy chúng có giới Ba-la-đề-mộcxoa không?

Đáp: Đó là tám trai giới, theo đây mà suy thì người thọ tám trai giới không thuộc trong bảy chúng. Pháp thọ tám trai giới nên nói rõ là một ngày một đêm không sát sanh, chớ để cho người thọ lầm lẫn với giới tướng trọn đời.

Hỏi: Pháp thọ tám trai giới có thể thọ một lúc hai ngày, ba ngày cho đến mười ngày hay không?

Đáp: Phật đã chế định một ngày một đêm thì không được vượt quá thời hạn. Nếu có sức thì thọ một ngày một đêm xong rồi xin thọ lại nữa, cứ như vậy tùy sức mà thọ nhiều ít không kể số ngày.

Hỏi: Pháp thọ trai giới phải thọ từ người khác, nên thọ từ người nào?

Đáp: Từ bên năm chúng. Nếu thọ tám trai giới rồi mà cầm roi đánh chúng sanh thì trai giới không thanh tịnh, dù trong một ngày một đêm ấy không cầm roi đánh chúng sanh, đợi đến sáng hôm sau liền cầm roi đánh chúng sanh thì trai giới cũng không thanh tịnh. Tóm lại, nếu thân khẩu làm điều không phải oai nghi thì dù không phá trai giới, trai giới vẫn không thanh tịnh. Nếu thân khẩu thanh tịnh mà trong tâm khởi tham giác, dục giác, sân nhuế giác, não hại giác thì trai giới vẫn không thanh tịnh. Tuy thân khẩu ý thanh tịnh nhưng nếu không tu sáu niệm cũng gọi là trai giới không thanh tịnh; ngược lại nếu thọ tám trai giới xong, tinh tấn tu sáu niệm thì gọi là trai giới thanh tịnh. Trong kinh nói nếu làm vua cõi Diêm phù đề, tất cả nhân dân, vàng bạc châu báu… đều được như ý, tuy có công đức như vậy vẫn không bằng một phần mười sáu công đức thọ tám trai giới, vì tám trai giới là thanh tịnh bậc nhất. Nếu người muốn thọ tám trai giới mà lung tình với nữ sắc, ăn chơi buông lung cho đã rồi mới thọ trai giới, dù trước giờ ngọ hay sau giờ ngọ đều không đắc trai giới. Nếu ban đầu vô tâm thọ trai giới, làm những việc buông lung, sau đó gặp thiện tri thức khai giải thọ lại trai giới thì dù trước giờ ngọ hay sau giờ ngọ đều đắc trai giới. Nếu muốn thọ trai giới, gặp phải việc khó làm chướng ngại không thọ được, sau đó giải quyết xong việc khó rồi mới thọ trai giới thì dù trước giờ ngọ hay sau giờ ngọ đều đắc giới.

Hỏi: Nếu khi thọ trai giới hạn định thọ ban ngày, không thọ ban đêm hoặc hạn định thọ ban đêm, không thọ ban ngày thì có đắc trai giới không?

Đáp: Không đắc giới, vì sao, vì Phật đã chế định thọ tám trai giới là một ngày một đêm thì không thể làm trái được.

Hỏi: Nếu không đắc thì sao trong pháp Bì cách nói rằng: "Ức nhĩ ở nơi đồng trống vắng vẻ gặp các ngạ quỷ chịu vô số tội, có ngạ quỷ ban ngày được hưởng phước nhưng ban đêm chịu tội, có ngạ quỷ ban đêm hưởng phước nhưng ban ngày chịu tội. Sở đĩ như vậy là vì ngạ quỷ này đời trước hoặc chỉ thọ trai giới vào ban ngày hoặc chỉ thọ trai giới vào ban đêm", nghĩa này như thế nào?

Đáp: Nếu là nhân duyên bổn sanh thì không phải Tu-đa-la, cũng không phải Tỳ-ni, không nên y theo cho là nghĩa nhất định. Có thuyết nói tôn giả Ca-chiên-diên muốn hóa độ Ức nhĩ nên biến hóa ra việc này để cảm hóa tâm Ức-nhĩ, không phải là việc thật.

Nếu đã thọ tám trai giới mà muốn xả thì không cần ở bên năm chúng xả, quá ngọ muốn ăn cứ đến nói với một người thì trai giới liền xả. Luận về đắc giới Ba-la-đề-mộc-xoa, đứng trên năm đường thì chỉ ở trong nhơn đạo mới đắc giới, bốn đường kia không đắc. Cõi trời do tâm đắm trước phước lạc sâu nên không thể đắc giới, như trường hợp tôn giả Đại Mục-kiền-liên vì đệ tử bịnh nên lên cõi trời Đao lợi để hỏi Kỳ-bà, lúc đó chư thiên đang đi vào vườn Hoan hỷ, tôn giả đứng bên đường nhưng chư thiên không ai quay lại nhìn tôn giả. Kỳ-bà đi sau nhìn thất tôn giả liền đưa một tay vẩy chào rồi cưỡi xa đi thẳng, Mục-liên suy nghĩ: "Vị này ở cõi người vốn là đệ tử của ta, hôm nay thọ hưởng thiên lạc, do tâm nhiễm đắm nên mất bổn tâm", nghĩ rồi liền dùng thần thông bắt xe dừng lại. Kỳ-bà xuống xe đảnh lễ, Mục liên liền quở trách là không nên như vậy. Kỳ-bà nói: "Vì ở cõi người tôi là đệ tử của tôn giả nên mới vẩy tay chào, tôn giả thấy chư thiên có ai quay lại nhìn tôn giả không, vì sanh lên cõi trời nhiễm đắm thiên lạc, tâm không tự tại nên mới như vậy", Mục-liên hỏi: "Đệ tử của tôi bịnh, nên chữa trị như thế nào?", Kỳ-bà nói: "Chỉ cần nhịn ăn, bịnh liền lành".

Có lần tôn giả Mục-liên khuyên Thích đề hoàn nhơn: "Phật ra đời khó gặp, sao không thường thân cận để nghe chánh pháp", Thích đề hoàn nhơn hiểu ý tôn giả nên cho vời một thiên tử đến, vời đến ba lần mà thiên tử này vẫn chưa đến. Thiên tử này có một người vợ với một loại kỹ nhạc, do đắm nhiễm sâu nên tuy biết lịnh vua trời là trọng, nhưng không tự chế ngự được, cuối cùng bất đắc dĩ mới đến, Đế thích hỏi vì sao, liền thật tình bạch rõ nguyên do,

Đế thích bạch với Mục-liên: "Thiên tử này chỉ có một người vợ và một loại kỹ nhạc mà còn đắm nhiễm, không tự chế ngự được; huống chi là thiên vương có vô số thiên nữ, thức ăn Tu-đà có trăm vị tự nhiên với trăm ngàn loại kỹ nhạc. Do đó tuy biết Phật ra đời khó gặp, chánh pháp khó được nghe, nhưng bị dục lạc trói buộc, nhiễm đắm không được tự tại".

Luận về pháp thọ giới, phải phát tâm dõng mãnh, tự thệ nguyện quyết đoán mới đắc giới. Chư thiên do tâm tham đắm dục lạc nhiều, lục thiện tâm yếu nên không thể đắc giới; Ngạ quỷ do bị đói khát bức bách, thân tâm bị thiêu đốt nên không thể đắc giới; Địa ngục do chịu vô lượng khổ não, tâm ý đau đớn nên không thể đắc giới; Súc sanh do nghiệp chướng, không hiểu biết gì nên không thể thọ đắc giới. Tuy nhiều nơi trong kinh nói Rồng cũng thọ tám trai giới với tâm thiện, tuy được công đức thọ giới với tâm thiện nhưng vẫn không đắc giới vì nghiệp chướng. Đứng trên bốn châu thiên hạ thì chỉ có ba châu: Cõi Diêm phù đề, cõi Câu-da-ni, cõi Phất Bà-đề và những người ở trên hải đảo giữa ba châu trên là được đắc giới. Cho nên Phật bảo tôn giả Tân-đầu-lô đến cõi Câu-da-ni làm Phật sự, cũng có bốn bộ chúng; ở phương Đông cũng có Tỳ-kheo làm Phật sự và cũng có bốn bộ chúng. Riêng cõi Uất đơn việt không có Phật pháp nên không có đắc giới, do phước báo làm chướng ngại và do ngu si không lãnh thọ Thánh pháp. Trong loài người có bốn hạng người: Nam, nữ, huỳnh môn và người hai căn; trong đây chỉ có nam và nữ là đắc giới, hai hạng người kia không thể đắc giới. Trong hai hạng nam và nữ, nếu giết cha, giết mẹ… đoạn mất căn lành, cũng không đắc giới. Nói chung, nếu thọ trì Phật pháp thì không cần phải nói, dù là trời rồng, quỷ thần, huỳnh môn, hai căn đều được thọ pháp Tam quy.

Hỏi: Chư Phật trong ba đời có đắc giới đồng nhau không?

Đáp: Không đồng nhau, luận về đắc giới thì ở trên chúng sanh hay loài phi chúng sanh đều đắc giới, nhưng một vị Phật ra đời độ vô lượng A-tăngkỳ chúng sanh vào Vô dư Niết-bàn; vị Phật sau ra đời thì các chúng sanh này lại không đắc giới. Như Phật Ca-diếp ra đời độ vô lượng A-tăng-kỳ chúng sanh vào Vô dư Niết-bàn, trong thời Phật Ca-diếp các chúng sanh này đều đắc giới; nhưng khi Phật Thích-ca ra đời thì các chúng sanh này lại không đắc giới, chứng tỏ Phật trước và Phật sau đắc giới không đồng nhau. Chư Phật trong ba đời có ba việc đồng nhau: Một là tu hành đồng nhau, hai là pháp thân đồng nhau, ba là hóa độ chúng sanh đồng nhau. Chư Phật đều tu hạnh Bố tát trải qua ba Atăng-kỳ kiếp, đều đủ năm phần pháp thân, mười lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp bất cọng và đều hóa độ vô lượng A-tăng-kỳ chúng sanh vào Vô dư Niết-bàn.

Hỏi: Trong kinh nói mỗi vị Phật ra đời hóa độ chín mươi Na-do-tha chúng sanh nhập Niết-bàn, vì sao lại nói là vô lượng A-tăng-kỳ chúng sanh?

Đáp: Trong kinh nói mỗi vị Phật ra đời hóa độ chín mươi Na-do-tha chúng sanh nghĩa là nói người được độ từ vị Phật đó có chín mươi Na-dotha chúng sanh; còn nói vô lượng A-tăng-kỳ chúng sanh là bao gồm chúng sanh được độ từ Phật hoặc từ đệ tử Phật hoặc từ trong chánh pháp của Phật. Nói tóm lại, có vô lượng A-tăng-kỳ chúng sanh vào Vô dư Niết-bàn, chư Phật trong ba đời có ba việc đồng nhau, chỉ có đắc giới là không đồng nhau.

Hỏi: Chúng sanh hay loài phi chúng sanh đắc Ác luật nghi giới, hay là cả hai đều có thể hoặc không thể đắc giới này?

Đáp: Chỉ có chúng sanh mới đắc giới này, loài phi chúng sanh thì không. Lại có thuyết nói chỉ có chúng sanh có thể giết hại mới đắc giới này, chúng sanh không thể giết hại thì không đắc. Lại có thuyết nói chúng sanh có thể giết hại và chúng sanh không thể giết hại đều đắc giới này, như kẻ đồ tể giết dê, có tâm sát hại, giết dê không có giới hạn; dù ở trong cõi trời người, nay không giết hại nữa vẫn phải lần lượt thọ sanh trong loài dê. Cho nên tất cả chúng sanh đều đắc giới này, mười hai ác luật nghi cũng vậy. mười hai ác luật nghi gồm có: Một là mổ giết trâu dê, hai là làm nem làm gỏi, ba là nuôi heo, bốn là nuôi gà, năm là bắt cá, sáu là thợ săn, bảy là bắt chim, tám là bắt trăn, chín là chú thuật bắt rồng, mười là cai ngục, mười một là kẻ giặc, mười hai là vương gia thường sai người bắt giặc; nuôi tằm cũng là Ác luật nghi. Có ba thời xả Ác luật nghi giới: Một là lúc chết, hai là khi được Ái tận, ba là khi thọ Luật nghi giới, như khi thọ pháp Tam quy vừa nói một lần liền xả Ác luật nghi giới, nói lần thứ hai, thứ ba liền đắc thiện giới.

Hỏi: Khi người có thiện giới làm người ác giới thì lúc nào xả thiện giới và được ác giới?

Đáp: Vừa nói tôi là đồ tể, liền xả thiện giới, nói lần thứ hai, thứ ba liền đắc ác giới. Có thuyết cho là bất cứ lúc nào xả thiện giới liền đắc ác giới; nếu người có thiện giới chưa ự thệ làm kẻ đồ tể, chỉ vì tham tài lợi nên cùng kẻ đồ tể làm việc này thì lúc đó gọi là phạm giới thiện chứ chưa xả giới thiện, chưa đắc ác giới. Nếu tự thệ làm kẻ đồ tể liền đắc ác giới, đắc ác giới chỉ cần tự thệ hoặc nói ra lời, không phải từ người khác mà đắc. Nếu hạn định làm người ác giới trong một ngày, hai ngày cho đến mười ngày, một năm… tùy ý, vì làm pháp ác là thuận theo dòng sanh tử, không có nghĩa thăng tiến, nên tùy tâm muốn làm liền đắc ác giới, không giống như thiện luật nghi giới.

QUYỂN 2

1. Bảy loại đắc Giới Pháp:

Hỏi: Sau khi thành đạo được mấy năm Phật mới cho pháp bạch tứ yết ma thọ giới?

Đáp: Có thuyết cho là một năm sau khi Phật thành đạo, lại có thuyết cho là bốn năm, lại có thuyết cho là tám năm. Theo nghĩa mà suy thì tám năm sau khi thành đạo là đúng nghĩa; vì Phật thành đạo vào ngày mồng tám tháng mười hai, sao Phất (sao Mai) vừa mọc; Phật đản sanh vào ngày mồng tám tháng tư, sao Mai vừa mọc; Phật chuyển pháp luân vào ngày mồng tám tháng tám, sao Mai vừa mọc; Phật nhập Niết-bàn vào ngày mồng tám tháng hai, sao Mai cũng vừa mọc. Sau khi thành đạo trong bốn mươi chín ngày Phật tự tại trong các pháp môn và quán chúng sanh, bảy ngày đầu Phật nhập pháp môn Hỷ, bảy ngày thứ hai Phật nhập pháp môn Lạc, bảy ngày thứ ba Phật nhập các môn giải thoát, bảy ngày thứ tư Phật nhập pháp môn đại xả, bảy ngày thứ năm Phật nhập pháp quán thuận nghịch mười hai nhân duyên, bảy ngày thứ sáu lại trải qua các pháp môn trên và bảy ngày sau cùng Phật quán chúng sanh, ai đáng được độ.

Hỏi: Phật tu Bồ tát hạnh trong ba A-tăng-kỳ kiếp, nay thành đạo để hóa độ chúng sanh, vì sao trong bốn mươi chín ngày lại tự tại trong các pháp môn mà không liền hóa độ?

Đáp: Phật phải tự an thân trước rồi sau mới hóa độ chúng sanh, sở dĩ trong bốn mươi chín ngày tự tại trong các pháp môn là để thân tâm được điều thuận rồi mới độ sanh. Lại nữa, vì năm anh em Kiều-trần-như căn cơ chưa chín muồi và vì Phật pháp đáng tôn trọng nên từ từ nói sau; lại vì muốn cho Phạm thiên vương được mãn bổn nguyện. Bổn nguyện của Phạm thiên vương là sau khi Phật thành đạo sẽ là người đầu tiên thỉnh Phật chuyển pháp luân, nên Phật đợi Phạm thiên vương đến thỉnh rồi mới thuyết pháp. Qua bốn mươi chín ngày, Phật khởi niệm khiến cho Phạm thiên vương biết, lúc đó như trong khoảng co duỗi cánh tay, Phạm thiên vương biến mất ở cõi Sắc hiện ra trước Phật thỉnh Phật chuyển pháp luân, Phật nhận lời rồi quán chúng sanh ai đáng được hóa độ. Ví như rồng lớn từ biển cả xuất hiện, mây đen bao phủ muốn làm mưa to nên quán trong cõi Diêm phù đề sẽ mưa xuống ở đâu. Phật cũng vậy, từ trong biển vô lượng đại pháp xuất hiện, mây từ bi bao phủ muốn ban xuống mưa pháp nên quán chúng sanh ai đáng được độ trước. Lúc đó Phật nghĩ đến hai bậc thầy dị đạo là A-lan-Ca-lan và Uất-đầu-lam-phất, nhưng hai vị này đã qua đời, Phật nói: "Pháp cam lồ sắp khai nhưng vì già suy nên họ không thể nghe được, sanh tử qua lại duyên gì được dứt".

Hỏi: Nếu hai vị ấy đáng được độ vào đạo thì đáng lẽ không nên qua đời mà đợi để được nghe pháp, nếu họ không đáng được độ vào đạo, vì sao Phật lại khởi niệm muốn độ?

Đáp: Vì Phật muốn khiến chúng sanh không quên ân đức, hai vị này trước đây có chút ân, Phật còn nhớ nghĩ muốn độ huống chi là người có ân lớn mà có thể quên hay sao. Lại nữa, hai bậc thầy dị đạo này vốn được người đương thời tôn trọng cho là người đắc đạo, Phật muốn diệt tất cả ý tưởng tà để hiển rõ pháp mà chín mươi sáu phái dị đạo nói ra không phải là pháp yếu. Phật lại quán biết chỉ có năm anh em Kiều-trần-như là đáng được vị cam lồ nên trong vườn Nai để hóa độ. Phật và năm vị này an cư đồng một chỗ, năm vị này luân phiên nhau hễ ba vị đi khất thực thì hai vị kia ở tại trú xứ nghe pháp, ngược lại nếu hai vị kia đi khất thực thì ba vị này ở tại trú xứ nghe thuyết pháp.

Hỏi: Vì sao lại chia phiên như thế mà không đi và ở cùng nhau?

Đáp: Sở dĩ không đi và ở cùng nhau là vì vừa khất thực được thức ăn vừa có thể được nghe pháp.

Lúc đó năm vị này tuy chưa đắc giới nhưng cạo tóc mặc ca sa như Phật, trong thời gian an cư Phật thuyết giảng về bố thí, trì giới và các pháp Ấm giới nhập để điều phục tâm họ. Cùng an cư xong ba tháng đến ngày mồng tám tháng tám, năm vị này đều được Kiến đế chứng quả Tu-đà-hoàn là những người được Phật chuyển pháp luân truyền trao chánh pháp đầu tiên. Kế đó Phật độ Bảo xứng… năm người đều là Tỳ-kheo thiện lai, kế độ thêm năm mươi người cũng đều là Tỳ-kheo thiện lai, cứ như thế Phật độ càng ngày càng đông. Sau đó Phật bảo các Tỳ-kheo nên du hành trong nhân gian truyền bá chánh pháp, lúc đó người đời bỏ tục vào đạo càng đông, các Tỳ-kheo hoặc dạy bảo họ nói ba lần để được thọ đắc giới hoặc bảo họ thọ pháp Tam quy để được đắc giới. Tùy theo nghiệp lực đời trước của mỗi người, nếu là người đáng nói ba lần được đắc giới thì dạy bảo nói ba lần; nếu là người đáng nói pháp Tam quy được đắc giới thì dạy bảo họ thọ pháp Tam quy. Như trường hợp Tỳ-kheo Ngưu ty dẫn theo bảy vạn người đến chỗ các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo đều dạy bảo họ nói ba lần. Trường hợp Đại Ca-diếp đến chỗ Phật bạch rằng: "Phật là thầy, con là đệ tử; Thế tôn Tu-già-đà là thầy, con là đệ tử", bạch xong liền đắc giới, đây là tự thệ thọ đắc giới. Sau đó huynh đệ của Ưu-lâutần-loa Ca-diếp và môn đồ một ngàn người; Xálợi-phất và Đại Mục-kiền-liên cùng môn đồ hai trăm năm mươi người, tổng cộng một ngàn hai trăm năm mươi người đều là Tỳ-kheo thiện lai. Trong kinh thường nêu con số một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo là chỉ cho các vị này, vì các vị này đồng là thuộc dòng Bà-la-môn xuất gia, thầy trò và môn đồ rất đông lại đồng là Tỳ-kheo thiện lai và đều là A-la-hán. Sau đó Phật bảo A-nan truyền trao tám pháp kính cho Đại Ái đạo mà được thọ đắc giới; mười bốn năm sau đó Phật mới cho pháp bạch tứ yết ma thọ giới.

Có tất cả bảy loại thọ giới: Một là Kiến đế thọ đắc giới, hai là Phật gọi thiện lai được đắc giới, ba là nói ba lần được thọ đắc giới, bốn là thọ pháp Tam quy đắc giới, năm là tự thệ đắc giới, sáu là thọ tám Kỉnh pháp đắc giới và bảy là bạch tứ yết ma thọ đắc giới. Trong bảy loại này, loại Kiến đế thọ đắc giới chỉ có năm người, không có thêm ai khác; loại Thiện lai đắc giới, nói ba lần thọ đắc giới và thọ pháp Tam quy đắc giới thì khi Phật còn ở đời mới có, sau khi Phật diệt độ thì không có nữa; loại Tự thệ đắc giới chỉ có một mình tôn giả Đại Cadiếp, không có thêm ai khác; loại thọ tám Kính pháp đắc giới chỉ có một mình ni Đại Ái đạo; loại bạch tứ yết ma thọ đắc giới thì dù Phật còn ở đời hay sau khi Phật diệt độ vẫn đắc giới.

Hỏi: Phật và Phật Bích chi làm sao đắc giới? Đáp: Vô sư đắc giới.

Hỏi: Từ giáo đắc giới hay không từ giáo đắc giới?

Đáp: Không từ giáo đắc giới. Có thuyết cho là cũng từ giáo đắc giới, như khi Phật ngồi kiết già dưới gốc cây nói rằng: "Nếu không được Lậu tận sẽ không rời khỏi chỗ này", liền thành tựu thân giáo và khẩu giáo, sau đó được Lậu tận và đồng thời đắc giới, đây là từ giáo mà đắc giới. Phật Bích chi cũng vậy, nếu Phật Bích chi tu hành trăm kiếp ra đời vào thời không có Phật pháp, chỉ có được một pháp, không có được hai pháp; như con Tê giác chỉ có một sừng, không có sừng thứ hai; bỏ tục xuất gia ở một mình chỗ tịch tĩnh, tự nói kệ xa lìa ác pháp sẽ được thiện pháp, thiện ác đều dứt mà được đắc đạo, ngay lúc đó thân khẩu giáo đều thành tựu, khi được Lậu tận thì đồng thời cũng đắc giới, đây là từ giáo mà đắc giới. Nếu ba quả vị Tuđà-hoàn, Tư-đà-hàm và A-na-hàm sau khi Phật diệt độ được Lậu tận thì gọi là Phật Bích chi độn căn. Sau khi Phật diệt độ, Phật Bích chi độn căn này xuất hiện ở đời không hạn định nhiều hay ít, hoặc một hoặc hai hoặc rất nhiều. Phật cùng Phật Bích chi tu hành trăm kiếp được Lậu tận không có khác nhau về thứ bậc. Bậc Kiến đế đắc giới hoặc từ giáo mà đắc giới hoặc không từ giáo mà đắc giới, từ giáo mà đắc giới là qua một mùa an cư được nghe pháp, thân khẩu giáo đều thành tựu, khi được Kiến đế thì đồng thời cũng đắc giới. Phật,

Phật Bích chi và bậc Kiến đế đắc giới cả ba có điểm giống nhau cũng có điểm khác nhau; giống là đồng đắc giới cụ túc, đồng ngăn chận bảy điều ác nơi thân khẩu, đồng ở trong tâm vô lậu mà đắc giới; khác là Phật và Phật Bích chi là vô sư đắc giới, còn bậc Kiến đế là từ Phật mà đắc giới. Lại nữa, Phật và Phật Bích chi do Đại tận trí hiện tại tiền mà đắc giới và là bậc Vô học đắc giới, còn bậc Kiến đế do Đạo vị tri trí hiện tại tiền mà đắc giới và là bậc Hữu học đắc giới.

Hỏi: Ba bậc này trong mười trí do trí nào hiện tiền mà đắc giới? Đáp: Phật và Phật Bích chi do Đại tận trí hiện tại tiền mà đắc giới.

Hỏi: Ở trong tâm vô lậu sao lại đắc giới hữu lậu?

Đáp: Pháp ứng như vậy là do nghiệp lực, trong tâm vô lậu đắc cả hai giới vô lậu và giới hữu lậu; bậc Kiến đế do Đạo vị tri trí hiện tại tiền mà đắc giới, ở trong tâm vô lậu cũng đắc cả hai giới vô lậu và giới hữu lậu. Trong năm vị tôn giả Kiến đế đắc giới thì tôn giả Kiều-trần-như là Thượng tòa vì được kiến đế đầu tiên; trong những vị Thiện lai đắc giới thì tôn giả Bảo xứng là Thượng tòa vì là người đến trước nhất; trong nói Tam ngữ thọ đắc giới và thọ pháp Tam quy đắc giới cũng vậy, người nào thọ đầu tiên thì người đó là Thượng tòa. Ba loại Kiến đế, Thiện lai và Tự thệ đắc giới phải từ Phật mà đắc giới.

Hỏi: Có phải tôn Phật làm Hòa thượng, A-xàlê không?

Đáp: Phật không vì người làm Hòa thượng nên không được gọi.

Hỏi: Từ bên các Tỳ-kheo thọ Tam ngữ và pháp Tam quy đắc giới có phải tôn các vị này làm Hòa thượng, A-xà-lê không?.

Đáp: Không gọi là Hòa thượng nhưng được gọi là A-xà-lê, ni Đại Ái đạo từ bên tôn giả A-nan thọ tám Kính pháp cũng được tôn A-nan làm A-xà-lê mà không gọi là Hòa thượng.

Hỏi: Vì sao Phật không vì người làm Hòa thượng, A-xà-lê?

Đáp: Vì bình đẳng, tâm Phật bình đẳng đối với tất cả, không có thiên vị nên không làm Hòa thượng cho người này, cũng không làm Hòa thượng cho người kia. Lại nữa, để ngăn dứt tranh cãi; vì nếu làm Hòa thượng, A-xà-lê thì sẽ có thân sơ, hễ có thân sơ thì sẽ có tranh cãi. Lại nữa, để ngăn dứt phỉ báng vì nếu làm Hòa thượng, ngoại đạo sẽ nói: "Sa-môn Cù-đàm tự cho mình là từ bi bình đẳng đối với tất cả mà lại làm Hòa thượng cho người này, không làm Hòa thượng cho người kia, đâu có khác gì phàm phu". Lại nữa, vì thành tựu pháp Tam quy, nếu Phật làm Hòa thượng sẽ phải ở trong Tăng số; như thọ giới cụ túc có tam sư thất chứng, nếu Phật làm Hòa thượng thì phải ở trong tam sư thuộc trong Tăng số mười người thì không có Phật bảo, không có Phật bảo thì không thành pháp Tam quy. Lại nữa, vì thành tựu sáu pháp Niệm, nếu Phật làm Hòa thượng thì không có Niệm Phật. Lại nữa, nếu Phật làm Hòa thượng thì khi đệ tử có bịnh, Hòa thượng phải chăm sóc lo liệu thức ăn thức uống và thuốc thang, đây há là điều mà đấng Pháp vương nên làm hay sao. Lại nữa, nếu Phật làm Hòa thượng, khi đệ tử có bịnh và các nạn khổ, Hòa thượng phải cung cấp đầy đủ, nếu có thiếu sót điều gì thì sẽ diệt mất các công đức đã có của người trước mặt. Như xưa kia có một Tỳ-kheo đáng lẽ chứng được quả A-la-hán, vì có nghiệp của Chuyển luân thánh vương làm chướng nên không được Lậu tận, Phật liền vì vị này mà làm chánh phú la khiến cho nghiệp của Chuyển luân thánh vương được dứt hết, ngay lúc đó liền được không còn chấp thủ. Do nhân duyên này, Phật nếu làm Hòa thượng sẽ không có lợi ích, chỉ có tổn hại. Lại nữa, Phật pháp lưu truyền có gần có xa, nếu Phật làm Hòa thượng khi đệ tử muốn thọ giới, không luận gần xa Phật đều phải đến, sẽ khiến cho chúng sanh chịu nhiều khổ não; nếu Phật không làm Hòa thượng sẽ không khiến cho đệ tử có các nạn khổ như thế. Lại nữa, nếu Phật làm Hòa thượng thì khi Phật còn ở đời có thể như thế, nhưng sau khi Phật diệt độ thì ai sẽ làm Hòa thượng. Do nhiều nhân duyên như thế nên Phật không làm Hòa thượng, Axà-lê cho đệ tử.

Hỏi: Trong bảy loại thọ đắc giới có mấy loại từ Phật đắc giới, mấy loại không từ Phật?

Đáp: Nói chung thì tất cả bảy loại đều từ Phật đắc giới, vì Phật ra đời mới có giới này; nhưng theo nghĩa mà suy thì có ba loại thọ đắc giới từ Phật: Một là Kiến đế đắc giới, hai là Thiện lai đắc giới, ba là Tự thệ đắc giới; bốn loại thọ đắc giới từ đệ tử Phật: Một là Tam ngữ thọ đắc giới, hai là thọ pháp Tam quy đắc giới, ba là thọ tám pháp Kính đắc giới và bốn là bạch tứ yết ma thọ đắc giới.

Hỏi: Trong bảy loại thọ đắc giới có mấy loại đắc giới từ người khác, mấy loại tự đắc giới?

Đáp: Có sáu loại đắc giới từ người khác, trong đây nên phân biệt loại Kiến đế đắc giới trên căn bản là nhờ nghe pháp từ Phật mà được chứng Thánh đế nên gọi là đắc giới từ người khác; nhưng từ trên nghĩa mà suy, nếu tự dùng Nhẫn trí quán chiếu Chân đế mà được đắc giới thì gọi là tự đắc giới.

Hỏi: Trong bảy loại thọ đắc giới có mấy loại do bạch mà đắc giới, mấy loại không do bạch mà đắc giới?

Đáp: Có sáu loại không do bạch mà đắc giới, chỉ có loại bạch tứ yết ma là phải do bạch mới đắc giới.

Hỏi: Trong bảy loại thọ đắc giới có mấy loại là nghiệp, mấy loại không phải là nghiệp?

Đáp: Cả bảy loại đều gọi là nghiệp.

Hỏi: Trong bảy loại này có mấy loại Tỳ-kheo không đồng với Tỳ-kheo-ni?

Đáp: Có năm loại đó là Kiến đế đắc giới, Thiện lai đắc giới, Tam ngữ đắc giới, thọ pháp Tam quy đắc giới và Tự thệ đắc giới.

Hỏi: Trong bảy loại này có mấy loại Tỳ-kheo-ni không đồng với Tỳ-kheo?

Đáp: Chỉ có một là thọ tám pháp Kính đắc giới. Hỏi: Trong bảy loại này có mấy loại Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni chung?

Đáp: Chỉ có một là bạch tứ yết ma thọ đắc giới. Hỏi: Trong bảy loại này có mấy loại thông cả ba châu thiên hạ, có mấy loại không thông cả ba châu?

Đáp: Có một loại thông khắp ba châu là bạch tứ yết ma thọ đắc giới; sáu loại kia chỉ có ở cõi Diêm phù đề, không thông khắp ba châu. Hỏi: Trong bảy loại có mấy loại thọ đắc giới suy yếu, có mấy loại không suy yếu, mấy loại xả, mấy loại không xả, mấy loại căn biến đổi, mấy loại căn không biến đổi, mấy loại đoạn căn lành, mấy loại không đoạn căn lành?

Đáp: Có một loại thọ đắc giới suy yếu, sáu loại kia không suy yếu; có một loại xả, sáu loại kia không xả; có một loại căn biến đổi, sáu loại kia căn không biến đổi; có một loại đoạn căn lành, sáu loại kia không đoạn căn lành. Nói một loại đó là loại bạch tứ yết ma thọ đắc giới, vì chúng sanh phước cạn mỏng nên cảm được loại thọ đắc giới này; vì vậy không kiên cố và có nhiều tai hoạn. Sáu loại kia là từ Kiến đế đắc giới cho đến thọ tám pháp Kính đắc giới, vì chúng sanh phước đức sâu dày nên mới đắc giới loại này; vì vậy trước sau kiên cố không có các tai hoạn.

Hỏi: Trong bảy loại này có mấy loại là tăng thượng tôn trọng, mấy loại không tôn trọng?

Đáp: Nói chung thì cả bảy loại đều tôn trọng, nhưng đứng trên nghĩa mà phân biệt thì có điểm sai khác nhau: sáu loại đắc giới từ Kiến đế cho đến thọ tám pháp Kính do lực công đức của chúng sanh sâu dày nên mới đắc giới, vì vậy gọi là thù thắng nhưng vì không thể duy trì chánh pháp nên trở thành không thù thắng, Như Kiến đế đắc giới chỉ có năm người, Tự thệ đắc giới chỉ có một người, thọ tám pháp Kính đắc giới chỉ có một người, sau đó không có thêm ai khác nữa; như Thiện lai đắc giới thì từ tôn giả Tu bạt trở về sau không có ai khác nữa; Tam ngữ đắc giới và thọ pháp Tam quy đắc giới thì trong vòng tám năm từ khi Phật thành đạo thì có người đắc giới, nhưng sau tám năm thì không có ai đắc giới nữa. Riêng loại bạch tứ yết ma thọ đắc giới thì dù Phật còn ở đời hay sau khi Phật diệt độ, tất cả thời đều có người đắc giới, Phật pháp trước sau đều dùng loại bạch tứ yết ma thọ giới làm căn bản để nối thạnh Tam bảo và làm lợi ích cho vô số người. Cho nên trong bảy loại thọ đắc giới thì loại bạch tứ yết ma là thù thắng, vi diệu và đáng tôn trọng nhất.

Hỏi: Trong bảy chúng có mấy chúng từ Phật thọ đắc giới, mấy chúng không từ Phật thọ đắc giới?

Đáp: Nói chung thì cả bảy chúng đều từ Phật thọ đắc giới vì Phật hiện ra đời mới có bảy chúng này, nhưng trên Sự mà suy ra thì trong bảy chúng chỉ có ba chúng: Tỳ-kheo, Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di là từ Phật thọ đắc giới; trong chúng Sa-di thì chỉ có hai Sa-di Nan đế và Da-xá là từ Phật thọ đắc giới; ba chúng Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na và Sa-di-ni thì không từ Phật thọ đắc giới do hai nguyên nhân: Một là ngăn dứt phỉ báng, vì nếu ba chúng này từ Phật thọ đắc giới thì ngoại đạo sẽ phỉ bàng: "Samôn Cù-đàm vốn ở trong cung vua giữa các cung phi mỹ nữ, nay tuy đã xuất gia vẫn độ người nữ để tự vui", hai là Phật thành đạo mục đích hóa độ tất cả chúng sanh, trước khởi lòng tin quy hướng không nghi thì đạo pháp mới lưu truyền khắp cõi trời người, vì bỏ gần lấy xa nên ba chúng này không được từ Phật thọ đắc giới.

---------------------

TỤNG THỨ NHẤT

2. Nhân duyên kết bốn Ba-la-di:

a. Nhân duyên kết giới Dâm:

Cạo bỏ râu tóc đắp mặc ca sa

Hỏi: Không cạo bỏ râu tóc có đắc giới không?

Đáp: Đắc giới nhưng không phải là oai nghi (của người xuất gia) Hỏi: Không có y bát có đắc giới không, vì sao phải cần có y bát?

Đáp: Một là vì oai nghi, hai là làm cho người khác sanh tâm tín kính, như người thọ săn mặc ca sa khiến cho con nai nhìn thấy không sanh tâm sợ; ba là hiện tướng khác với thế tục vì đức bên trong đã khác thì tướng bên ngoài cũng phải khác để người khác sanh tín tâm.

Tin là tin Tam bảo sẽ được vào cõi trời người, tin tà đạo sẽ đọa vào ba đường ác; tin thì mới biết Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt và tu Đạo; không tin là không tin thiện ác, bốn đế. Tin nhà là không phải nhà: Nhà là chỉ cho cha me, vợ con, anh em quyến thuộc; không phải nhà là chỉ cho vô thường biến hoại không thể tồn tại lâu dài; tin nhà thì tăng trưởng tham sân đấu tranh đủ các pháp ác, tin không phải nhà thì tăng trưởng công đức thiện pháp.

Từ bỏ gia đình, quê hương xứ sở: Luận về người xuất gia nên diệt trừ hệ lụy, muốn diệt trừ hệ lụy thì phải rời bỏ gia đình vì gia đình là nhân duyên phiền não.

Bố thí thức ăn được năm công đức: Một là được sắc đẹp, hai là đoan chánh trang nghiêm, ba là được sức khỏe, bốn là được biện tài, năm là được sống lâu.

Theo thứ lớp khất thực: Mỗi ngày đi đến một nhà khất thực, nếu được thức ăn thì ăn, nếu không đủ thì theo thứ lớp đến nhà khác, như thế cho đến bảy nhà, nếu được thức ăn thì ăn, không đủ thức ăn cũng dừng lại. Có thuyết cho rằng theo thứ lớp khất thực hết nhà này đến nhà khác cho đến khi đủ thức ăn thì dừng, không giới hạn nhiều nhà hay ít nhà; hôm sau đi khất thực cũng theo thứ lớp như thế.

Hỏi: Vì sao phải thọ pháp khất thực?

Đáp: Một là vì tại gia có nhiều phiền não do nhiều nhân duyên, hai là nếu vì sân não làm điều phi pháp thì thức ăn thí không thanh tịnh, ba là quán tâm ý và sắc mặt của người cho mà tâm không an nhiên, bốn là vì thiểu dục tri túc tu hành thánh chủng. Nếu thọ thí chủ thỉnh thực cũng có lỗi lầm: Như được thỉnh thực nếu thức ăn thô dở thì bảo thí chủ làm cho ngon, nếu thức ăn ít thì bảo làm nhiều hơn, nếu món ăn này vị không ngon thì bảo dọn lên món ăn có vị ngon hơn. Lại nữa thọ thỉnh thực sẽ có tâm mong cầu, không phải là pháp thiểu dục tri túc thánh chủng; năm là trên đàn thọ giới đã thọ pháp Tứ y, nếu thọ thỉnh thực thì thường sanh tâm ta người, được mất; còn khất thực tâm được an nhiên, không bị ràng buộc cũng không có tăng giảm; sáu là thức ăn của chúng thì có lúc hết còn khất thực thì thức ăn vô cùng, chỉ cần trong thiên hạ có người thì ắt sẽ có thức ăn, cho nên khất thực thì thức ăn là vô cùng tận nên Phật bảo các đệ tử nên tu theo pháp vô cùng tận này.

Phật pháp khó thành: Như người vào biển cả tìm châu báu, đi thì nhiều nhưng trở về được thì rất ít; vào biển Phật pháp cũng vậy, hoại thì nhiều mà thành thì rất ít, như cầm dao bén tự cắt thân muốn không bị thương thì thật là rất khó. Thọ Phật giới, tu pháp thân thanh tịnh, bên trong hoại dao bén phiền não ác pháp mà không hoại pháp thân thì thật là rất khó.

Chưa kết giới này là ban đầu Phật chỉ nói tất cả điều ác không nên làm, chưa kết năm thiên giới tội tướng khinh trọng.

Làm việc dâm dục: Một là vì phiền não huân tập lâu đời, hai là cần cha mẹ giao hội để có con phước đức, ba là vì dư báo tâm dâm chưa dứt. Có người từ khi sanh ra cho đến khi trưởng thành không hành dâm liền được Lậu tận, nhưng có người phải trải qua dâm dục mới được Lậu tận là do nhân duyên đời trước đã đoạn tận hay chưa đoạn tận; bốn là làm nhân duyên kết giới, vì nếu không xảy ra việc này thì không do đâu kết giới. Làm như vậy đến ba lần là ôm lòng dâm đến ba lần đòi hỏi, khi có được con (có thai) liền thôi, không đòi hỏi nữa.

Tục chủng: Pháp đặt tên ở thế gian là có nhân duyên: Một là do tên gọi từ đời trước nên nay đặt theo tên ấy, hai là đặt tên theo các vì sao, ba là đặt tên theo nhân duyên. Như trường hợp Tu-đề-na do nhân duyên không có con nối dòng nên khi có con đặt tên là Tục chủng, nghĩa là nối dòng nối dõi; bốn là nhân nơi đức mà đặt tên, như Luật sư là người thông hiểu về Luật, Luận sư là người thông hiểu về luận nghĩa… Dục tưởng: Tuy thân khẩu không động nhưng trong tâm nghĩ nhớ người nữ; Dục giác: Tâm say mê, người đờ đẫn; Dục nhiệt: Hai thân giao hội.

Tập Tăng: Một là Phật hiện bày không tự chuyên quyết đoán, hai là Phật không phải nhóm Tăng để cùng quyết đoán tội nặng nhẹ rồi kết giới, mà Phật chỉ cùng Tăng hòa hợp khiến cho người phạm tội phải tâm phục; ba là như quốc vương giữ nước tuy được tự tại nhưng hễ có quốc sự gì đều cùng quần thần bàn luận thì nước mới được tồn tại lâu dài. Phật là Pháp vương cũng như vậy, tuy được tự tại nhưng vì duy trì Phật pháp nên hễ có pháp sự gì đều nhóm Tăng cùng Tăng hòa hợp, để cho chánh pháp được tồn tài lâu dài; bốn là Phật muốn làm tiêu biểu cho đệ tử ở hiện tại và vị lai, hễ là việc Tăng thì bất luận có năng lực hay không có năng lực đều cần phải hỏi ý kiến Tăng, cùng Tăng hòa hợp, không được độc đoán chuyên quyền; năm là pháp của chư Phật đều như vậy, không chỉ riêng Phật Thích ca.

Tăng có năm loại:

Một là Tăng bầy dê: Loại Tăng không biết bố tát, hành trù (phát thẻ đếm số người), an cư, tự tứ, tác pháp yết ma… tất cả Tăng sự thảy đều không biết giống như bầy dê.

Hai là Tăng không hổ thẹn: Loại Tăng mà cả chúng cùng làm việc phi pháp như hành dâm, uống rượu, ăn quá ngọ… tất cả những người phạm giới, phi pháp như vậy cùng ở chung với nhau không có hổ thẹn.

Ba là Tăng biệt chúng: Như khi yết ma chi y vật của tỳ-kheo chết để lại, do tâm tham uế nên dù có khách Tỳ-kheo đến cũng không cho vị này đồng yết ma. Hễ làm yết ma theo tâm biệt chúng như vậy thì gọi là Tăng biệt chúng.

Bốn là Tăng thanh tịnh: Tất cả Tăng phạm phu trì giới thanh tịnh, không làm việc phi pháp thì gọi là Tăng thanh tịnh.

Năm là Tăng đệ nhất nghĩa đế: Chỉ cho bốn Quả, bốn Hướng. Hỏi: Nếu tập Tăng thì tập họp loại Tăng nào trong năm loại Tăng trên?

Đáp: Tập họp hai loại Tăng, có thuyết cho rằng ba loại Tăng kia tuy làm việc phi pháp nhưng đều là đệ tử Phật, sao chỉ tập họp có hai loại Tăng, đúng lý nên tập họp cả năm loại Tăng.

Biết mà vẫn hỏi: Một là theo pháp thường của chư Phật, hai là Phật không việc gì mà không biết nhưng muốn khiến cho người phạm tội tâm phục nhận tội, tùy thuận tự thú rồi sau mới dùng pháp để trị; ba là muốn làm cho chúng sanh an vui. Tuy Phật không việc gì là không biết, không nghe thấy nhưng nếu không hỏi mà tự dùng cái thấy nghe hay biết của mình để kết tội định tội thì chúng sanh thường ôm lòng lo sợ, không thể tự an, như vậy Phật tập họp Tăng không phải là làm cho chúng sanh an vui; bốn là nếu xét xử nghịch với tâm người thì không phải là nghi pháp của bậc Thánh chủ đại nhân.

Đúng thời mới hỏi: Một là phải hỏi ở trong chúng Tỳ-kheo, ở trước Sa-di và cư sĩ thì không hỏi; hai là đúng lúc nên kết giới mới hỏi. Có lợi ích mới hỏi: Một là Tu-đề-na thường ôm lòng lo buồn hối hận nên Phật hỏi là muốn khiến cho Tu-đề-na biết việc mà mình đã làm trước khi Phật kết giới là không phạm thì không còn lo buồn hối hận nữa; hai là Phật nhân việc này mới kết giới để dứt trừ những việc phi pháp trong tương lai; ba là sau khi Phật kết giới biết là tội nặng hay nhẹ, là Hữu tàn hay là Vô tàn, có thể sám hối được hay không thể sám hối được, mói dứt hết lưới nghi; bốn là do có mười công đức lợi nên hỏi. Có nhân duyên mới hỏi: Tức là nhân duyên kết giới.

Nói thầy là người ngu si: Phật đại từ bi không nói lời thô ác, vì sao lại nói thầy là người ngu si? một là lời Phật nói ra là thật ngữ, không phải là ác khẩu, do Tu-đề-na là người có đủ phiền não trói buộc, hoàn toàn ngu si; hai là vì tâm từ bi nên phải quở trách để chiết phục, như vậy nói là người ngu si không phải là lời thô ác.

Mở cửa hữu lậu: Từ kiếp sơ trở lại đây chưa có nam nữ làm việc dâm dục, Tu-đề-na là người đầu tiên hành dâm là căn bản ác pháp. Phật pháp ban đầu vốn thanh tịnh chưa có việc phi pháp, Tu-đềna là người đầu tiên làm điều ác, mở đầu cho tội lỗi phi pháp trong tương lai nên nói là mở cửa hữu lậu.

Thà đem thân phần bên trong để vào miệng rắn độc: rắn có ba điều hại người: Một là có thấy mới hại người, hai là có xúc chạm mới hại người, ba là cắn mổ hại người. Có ba loại giặc làm hại thiện pháp nơi người: Một là nếu thấy người nữ khởi tâm dâm dục thì diệt mất thiện pháp nơi người; hai là nếu xúc chạm người nữ, phạm tội Tàn thì diệt mất thiện pháp nơi người; ba là nếu cùng giao hội, phạm tội Ba-la-di thì diệt mất thiện pháp nơi người. Bị rắn độc cắn chỉ hại chết thân này, còn bị người nữ hại thì hại vô số thân; lại nữa, bị rắn độc cắn chỉ hại được thân Vô ký, còn bị người nữ hại thì hại đến thiện pháp thân; lại nữa, bị rắn độc cắn chỉ hại được thân năm thức, còn bị người nữ hại thì hại cả thân sáu thức; lại nữa, bị rắn độc cắn vẫn được hành trù thuyết giới với chúng tăng, được ở trong số mười bốn vị được Tăng sai và làm tất cả yết ma, còn bị người nữ hại thì không được cùng Tăng làm các Tăng sư; lại nữa, bị rắn độc cắn vẫn được sanh lên cõi trời người, được gặp Hiền thánh còn bị người nữ hại thì đọa trong ba đường ác; lại nữa, bị rắn độc cắn vẫn được bốn Quả Sa-môn, còn bị người nữ hại thì dù tám chánh đạo truyền khắp thế gian cũng đều vô ích; lại nữa, bị rắn độc cắn cũng được người thương xót cứu giúp, còn bị người nữ hại thì chúng Tăng đều bỏ mặc, tất cả trời rồng thiện thần đều xa lìa, bị các Hiền thánh quở trách.

Do mười công đức lợi: Nếu kết giới này tức là thuận theo mười công đức lợi và sẽ được mười công đức lợi này; nếu giữ một giới, vị lai sẽ được quả báo của một giới và được quả báo của mười công đức lợi, tất cả giới khác cũng đều như vậy.

Không cùng ở chung: Một là không cùng làm tất cả các pháp yết ma, các Tăng sự; sở dĩ không cùng ở chung là để cho bốn bộ trời rồng quỷ thần sanh tâm tín kính, nếu cùng ở chung và cùng làm Tăng sự với người ác thì không do đâu tín kính. Hai là biểu hiện Phật pháp không riêng tư, không thương ghét, nếu người thanh tịnh thì cùng ở chung, nếu không thanh tịnh thì không ở chung. Ba là ngăn dứt phỉ báng, vì nếu cùng ở chung và cùng làm Tăng sự với người ác thì ngoại đạo tà kiến và người đời sẽ phỉ báng rằng: "Phật pháp không có gì đáng quý, bất luận thiện hay ác đều cùng ở chung và làm việc chung". Bốn là giúp cho người giữ giới được an lạc, tăng trưởng căn lành và khiến cho người phá giới sanh tâm hổ thẹn, chiết phục tâm ác.

Cho đến súc sanh: Do có một Tỳ-kheo một mình ở trong rừng vì cho là ở trong chúng nhiều việc, nhiều phiền não trở ngại tu tập thiện pháp; lại cho là ở trong chúng nghe nhiều, thấy nhiều, nói nhiều tuy sanh nhiều trí huệ nhưng ít thiền định, cần phải ở nơi thanh vắng để tu tâm; khi được Định nhiều rồi mới ở trong chúng cầu tri kiến. Đầu tiên khi Phật chế giới Dâm, chỉ chế không được cùng người nữ hành dâm, chưa chế súc sanh, do Tỳ-kheo ở trong rừng này làm pháp ác cùng với súc sanh nên Phật mới tùy việc chế thêm là cho đến súc sanh, vì trong sáu đường súc sanh là loài thấp nhất; nói chung là đối với tất cả loài có thể hành dâm đều kết giới. Luận về phạm tội có ba: Một là tội nghiệp đạo, hai là tội ác hạnh và ba là tội phạm giới. Tuđề-na trong ba tội này thì phạm tội ác hạnh vì dâm dục là pháp ác, không phạm tội nghiệp đạo vì người nữ đó là vợ trước kia của mình, không có tội phạm giới vì Phật chưa kết giới này. Tỳ-kheo trong rừng phạm tội ác hạnh vì dâm dục là pháp ác và phạm tội nghiệp đạo vì hành dâm với khỉ cái vốn là thuộc về khỉ đực, không có tội phạm giới vì Phật chưa kết giới. Cả Hai Tỳ-kheo này đều là người phạm trước khi Phật kết giới nên không có tội phạm giới.

Nếu Tỳ-kheo: Là chỉ cho tất cả Tỳ-kheo trong bảy loại thọ đắc giới.

Học: Có ba là học Giới tăng, học Tâm tăng và học Huệ tăng.

Hỏi: Học có rất nhiều vì sao chỉ nêu có ba?

Đáp: Vì ba môn học này nhiếp hết tất cả môn học. Học Giới tăng là học năm thiên giới để phòng hộ điều ác nơi thân khẩu, tịnh tu thân khẩu; học Tâm tăng là dứt trừ tâm cấu nhiễm đối với tất cả pháp; học Huệ tăng là thấy rõ cội gốc của pháp tướng để dứt trừ ác pháp. Lại nữa, học Giới tăng tức là học Tỳ-ni; học Tâm tăng tức là học Tu-Đa-la; học Huệ tăng tức là học A-tỳ-đàm. Lại nữa, học Giới tăng là học năm thiên giới; học Tâm tăng là đắc Sơ thiền có năm thiền chi, đắc Nhị thiền có bốn thiền chi cho đến đắc Tứ thiền; học Huệ tăng là thấy được bốn đế lý. Lại nữa, diệt trừ các ác luật nghi và các điều phi oai nghi để được năm thiên giới thanh tịnh thì gọi là học Giới tăng; do Giới thanh tịnh nên Tâm thanh tịnh thì gọi là học Tâm tăng; tư duy nghĩa lý thâm diệu được tăng trưởng thiện pháp thì gọi là học Huệ tăng. Lại nữa, trong Kinh nói tu giới tu tâm tu huệ, nên biết được ba môn học này nhiếp hết các môn học. Lại nữa, trong tám chánh đạo, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng là học Giới tăng; chánh định là học Tâm tăng; chánh kiến, chánh chí, chánh phương tiện, chánh niệm là học Huệ tăng. Lại nữa, đắc năm thiên giới là học Giới tăng; đắc Thiền giới là học Tâm tăng; đắc Vô lậu giới là học Huệ tăng. Lại có ba môn học là học Oai nghi, học Tỳ-ni và học Ba-la-đề-mộc-xoa; học Oai nghi là học tất cả giới và oai nghi; học Tỳ-ni là diệt tất cả ác pháp; học Ba-la-đề-mộc-xoa là học năm thiên giới.

Hỏi: Vì sao phải phân biệt lại học giới một lần nữa?

Đáp: Ngoại đạo cũng có học Giới tăng cho nên phân biệt lại lần nữa để hiển rõ ngoại đạo không có học Giới tăng; vì tuy ngoại đạo đoạn trừ kiết sử chứng được Tam không nhưng không thể đoạn trừ các kiết sử ở cõi Phi tưởng xứ; Phật pháp đoạn trừ cội gốc kiết sử nên gọi là học Giới tăng. Lại nữa, ngoại đạo đoạn trừ kiết sử, nhờ thượng phẩm đoạn trừ hạ phẩm; còn Phật pháp vừa dùng thượng phẩm đoạn trừ hạ phẩm, vừa dùng hạ phẩm đoạn trừ thượng phẩm. Lại nữa, ngoại đạo cũng chế bốn giới trọng: Một là không dâm dục với vợ của thầy, hai là không trộm cắp vàng, ba là không giết Bàla-môn, bốn là không uống rượu trắng; Phật pháp không chỉ như thế: Một là tất cả không được dâm dục, hai là tất cả không được trộm cắp, ba là tất cả không được giết hại, bốn là tất cả không được vọng ngữ và năm là tất cả loại rượu không được uống.

Đồng vào học pháp: Là pháp mà Tỳ-kheo mới thọ giới phải học, Tỳ-kheo một trăm tuổi hạ cũng học như thế.

Hỏi: Nếu Tỳ-kheo một trăm tuổi hạ cũng đồng học pháp với Tỳ-kheo mới thọ giới thì Tỳ-kheo mới thọ giới phải làm những việc như quét nhà, lau chùi, xách nước…; Tỳ-kheo một trăm tuổi hạ có làm những việc như thế hay không?

Đáp: Tỳ-kheo một trăm tuổi hạ cũng đã làm từ trẻ đến già nên Tỳ-kheo mới thọ giới cũng phải làm những việc đó từ trẻ cho đến già; pháp mà Tỳ-kheo mới thọ giới phải học, Tỳ-kheo một trăm tuổi hạ cũng đã học như thế. Trong đây nói học là học hai trăm năm mươi giới và tất cả pháp oai nghi.

Nói tôi bỏ Phật…: Có tất cả hai mươi mốt việc xả giới, từ bỏ Phật cho đến không làm bạn đồng học với thầy nữa, có tất cả là hai mươi mốt việc, chỉ cần làm một việc đều gọi là xả giới.

Hỏi: Nói bỏ Phật là trên căn bản đã bỏ Tam bảo thì có còn gọi là xuất gia nữa hay không?

Đáp: Có luận nói không còn gọi là xuất gia nữa vì đó là điều ác căn bản; nhưng có thuyết lại nói vẫn gọi là xuất gia vì không rơi vào một trăm lẻ một pháp Giá (ngăn), vì trên căn bản tuy đã xả giới thanh tịnh nhưng vẫn có thể quy y Phật trở lại. Kinh nói: "Không có pháp nào mau hơn Tâm", tâm của phàm phu khinh suất vội vàng hoặc thiện hoặc ác nên không thể vì trong chốc lát làm ác mà liền bỏ hẳn, nên trân căn bản tuy nói bỏ Phật nhưng sau vẫn được xuất gia trở lại. Nhưng đã nói bỏ Phật rồi thì trong đời hiện tại không có được việc thiện tốt lành, vì đã làm việc không tốt, không lợi ích sẽ chuốc họa vào thân.

Muốn xả giới không tội: Nếu muốn xả giới cụ túc thì nên nói là tôi xả giới cụ túc, tôi là Sa-di; nếu muốn xả giới xuất gia thì nên nói là tôi xả giới xuất gia, tôi là Ưu-bà-tắc; nếu muốn xả năm giới thì nên nói là tôi là Ưu-bà-tắc thọ pháp Tam quy. Nếu nói như thế thì thành xả giới mà không có tội; nếu đã mặc y phục của cư sĩ, có người hỏi cớ sao làm như thế, đáp là tôi bỏ đạo, tôi làm cư sĩ thì cũng gọi là xả giới. Khi xả giới không cần có người xuất gia, nếu có cư sĩ bất luận là đệ tử Phật hay không phải đệ tử Phật, chỉ cần người này nghe tiếng nói hiểu được nghĩa đều được xả giới; khi xả giới chỉ cần nói một lần liền xả, không cần nói đến ba lần.

Hỏi: Khi thọ giới phải có Tam sư thất chứng, vì sao khi xả giới chỉ cần nói với một người thì liền xả?

Đáp: Vì thọ giới là cầu pháp tăng thượng, muốn đắc giới phải cần nhiều duyên nhiều lực hỗ trợ; còn xả giới như từ trên cao rơi xuống thì không cần phải có nhiều duyên, nhiều người. Lại nữa, vì không muốn cho người trước mặt (người muốn xả giới) sanh tâm phiền não nói rằng: "Phật pháp thật có nhiều duyên phiền não, khi thọ giới thì có thể cần nhiều duyên nhiều lực nhiều người, còn xả giới cần nhiều duyên nhiều người làm gì". Lại nữa, thọ đắc giới như được tiền tài châu báu, còn xả giới như mất tiền của; lại như vào biển tìm châu báu cần phải có nhiều phương tiện mới tìm được, nhưng khi mất hoặc bị trộm cướp, hoặc bị nước cuốn trôi hay bị lửa cháy… thì trong chốc lát đều mất hết không còn, xả giới cũng giống như vậy. Bỏ Tam bảo sở dĩ thành xả giới là vì khi thọ giới phải quy hướng Tam bảo mới đắc giới; bỏ Hòa thượng, A-xà-lê thành xả giới là vì nhờ có Hòa thượng, Axà-lê mới đắc giới; bỏ Tỳ-kheo… cho đến nói rằng: "Tôi không làm bạn đồng học với thầy nữa”đều thành xả giới, vì vốn cùng quy hướng một Vị một Đạo mà nay nói bỏ tức là nghĩa Phật pháp đoạn dứt, cho nên bỏ Phật pháp thì giới liền mất.

Hòa thượng có bốn loại: Một là loại có pháp mà không có y thực, hai là loại có y thực mà không có pháp, ba là loại vừa có pháp vừa có y thực, bốn là không có pháp cũng không có y thực. Nay nói bỏ Hòa thượng tức là bỏ cả bốn loại trên.

A-xà-lê có năm bậc: Một là thọ giới A-xà-lê, hai là Oai nghi A-xà-lê, ba là Y chỉ A-xà-lê, bốn là học kinh A-xà-lê và năm là xuất gia A-xà-lê. Nay nói bỏ A-xà-lê tức là bỏ cả năm bậc trên.

Làm pháp dâm dục: Một là có hành dâm nhưng thân không xúc chạm nhau, như trường hợp Tỳ-kheo Nhược Yêu đưa nam căn vào miệng tự hành dâm; hoặc như Tỳ-kheo Trường căn đưa nam căn vào chỗ hành dâm tự hành dâm. hai là tuy thân xúc chạm nhau nhưng không phạm Dâm, như hành dâm với người nữ bị hoại nữ căn. Ba là thân xúc chạm nhau và phạm Dâm, như hành dâm với người nữ không bị hoại nữ căn. Bốn là không phải thân xúc chạm nhau cũng không phạm Dâm, như hành dâm với người nữ đã chết ở chỗ không phải là chỗ hành dâm. Nếu thân xúc chạm nhau mà hành dâm thì phạm Ba-la-di, Ba-la-di nghĩa là rơi vào chỗ không như ý, như hai người đánh nhau ắt có một người thắng, một người thua. Tỳ-kheo thọ giới là muốn thoát khỏi sanh tử phải củng bốn Ma đánh nhau, nếu phạm giới này liền rơi vào chỗ thua.

Hỏi: Phạm năm thiên giới đều rơi vào chỗ thua, vì sao chỉ có thiên giới này là thành tên gọi?

Đáp: Bốn thiên giới kia tuy phạm cũng rơi vào chỗ thua, nhưng chỉ cần sám hối thì tội liền tiêu diệt, không phải vĩnh viễn rơi vào chỗ thua nên không thành tên gọi. Như kẻ thù dùng dao giết người nhưng người chưa chết, tuy gọi là thắng nhưng không phải là quyết định thắng, phải giết chết mới là quyết định thắng. Phạm bốn thiên giới kia cũng như giết người mà người chưa chết, còn phạm thiên giới trọng này như người bị giết chết, nên được thành tên gọi. Như người đi chinh phạt nước khác tuy bắt được các quan cũng gọi là được thắng, nhưng chưa phải là đại thắng, phải bắt được vua mới gọi là đại thắng. Cũng vậy phạm các thiên giới khác, bốn Ma chưa gọi là đại thắng, nếu phạm thiên giới trọng này thì quyết định rơi vào chỗ thua. Lại nữa, như hạt giống gieo ở ruộng tốt nếu gặp sương và mưa đá thì sẽ không thu hoạch kết quả; phạm thiên giới trọng này cũng vậy không thể chứng được bốn Quả Sa-môn. Lại nữa, như hạt giống cháy dù gieo ở ruộng tốt và được vun phân tưới nước điều độ vẫn không thể nẩy mầm; phạm thiên giới trọng này cũng vậy, dù siêng năng tinh tấn vẫn không thể chứng bốn Quả Sa-môn. Lại như cây Đa-la bị chặt ngọn không thể sanh trưởng được nữa; phạm thiên giới trọng này cũng vậy, không thể tăng trưởng bốn Quả Sa-môn. Lại như cây bị chặt đứt rễ, cây liền khô héo và chết; phạm thiên giới trọng này thì cây Đạo liền khô héo. Lại nữa, nếu phạm thiên giới trọng này thì bị Tăng từ bỏ, trời rồng thiện thần xa lánh và bị Hiền thánh quở trách, cho nên thành tên gọi. Lại nữa, nếu phạm thiên giới trọng này thì không tiêu được tất cả sự cúng thí của đàn việt; lại giống như thây chết ở trong đại chúng, không được làm gì, không được lợi ích gì; nếu phạm thiên giới trọng này thì dù ở trong đại chúng xuất gia thanh tịnh vẫn không thể chứng được bốn Quả Sa-môn. Lại như y phục cũ rách bị người vất bỏ, nếu phạm thiên giới trọng này sẽ bị đại chúng vất bỏ, không được cùng Tăng thuyết giới bố tát, tự tứ và làm các pháp yết ma, cũng không được xếp vào mười bốn hàng người được Tăng sai, nên thành tên gọi là Ba-la-di, rơi vào chỗ thua, chỗ không như ý.

Cho đến súc sanh: Nếu cùng người nữ giao hội thì thọ ái dục đầy đủ, còn giao hội với súc sanh cái thì nhiễm tình dục ít; vì súc sanh là loài thấp nhất trong năm đường nên nói là cho đến súc sanh.

Nếu phạm bốn giới trọng, vừa phạm lần đầu thì kết tội Ba-la-di; phạm lần thứ hai cho đến nhiều lần chỉ kết tội Đột-kiết-la. Hành dâm với người nữ và nữ phi nhân ở ba chỗ hành dâm thì phạm Ba-la-di, phạm phương tiện Thâu-lan-giá có khinh trọng, phạm trọng Thâu-lan-giá nên sám trong đại chúng, quỳ gối chắp tay xin ba lần, Tăng nên đơn bạch cho sám, khi sám hối nên nói ba lần; phạm khinh Thâu-lan-giá nên sám hối trước bốn Tỳ-kheo ở ngoài giới, cách sám cũng giống như vậy. Phạm khinh Thâu-lan-giá là như trường hợp muốn hành dâm nên đứng dậy nhưng ngồi xuống lại; hoặc cất bước chân đến chỗ người nữ nhưng chưa xúc chạm đã quay trở lại. Phạm trọng Thâu-lan-giá là như trường hợp hành dâm với người nữ sống hay chết ở ba chỗ hành dâm đã bị hoại hoặc bị trùng ăn trong đó; hoặc hành dâm với người nữ sống hay chết không phải ở chỗ hành dâm, tức là từ nách trở xuống cho đến bắp vế. Trường hợp muốn hành dâm với súc sanh cái và người hai căn phạm Thâu-lan-giá khinh hay trọng cũng giống như trên đã nói. Trường hợp muốn hành dâm với người nam, phi nhân nam, súc sanh đực, huỳnh môn phạm Thâu-lan-giá khinh trọng cũng giống như trên đã nói. Nếu thân người nam xúc chạm người nữ nhưng chưa xuất tinh thì phạm khinh Thâu-lan-giá, nếu xuất tịnh thì phạm trọng Thâu-lan-giá; trừ ba chỗ hành dâm, xuất tinh ở các chỗ trên thân phần khác thì phạm Tăng tàn. Nếu phạm giới trong năm thiên, mỗi mỗi giới đều phạm ba tội, như phạm giới trong thiên Ba-la-di có ba tội: Một là tội Ba-la-di vì phạm giới thể là Ba-la-di, hai là tội Ba-dật-đề vì trái lời Phật dạy, ba là tội Đột-kiết-la vì phạm oai nghi. Như thế cho đến phạm các giới trong thiên Chúng học pháp cũng có ba tội: Một là tội Đột-kiết-la vì phạm giới thể là Đột-kiết-la, hai là tội Ba-dật-đề vì trái lời Phật dạy, ba là tội Đột-kiết-la vì phạm oai nghi. Khi sám hối, chỉ cần sám tội phạm giới thể thì hai tội kia đồng tiêu diệt vì giới thể là căn bản.

b. Nhân duyên kết Giới Trộm:

Phật tại thành Vương xá, có luận sư giải thích nước này là nước lớn mạnh nhất trong mười sáu nước lớn lúc bấy giờ, thành tên là Vương xá. Lại nữa do nước này có con rồng dữ gây nhiều tai hại, phá hoại nhà cửa của dân chúng, chỉ có cung vua là không bị phá hoại nên gọi tên là thành Vương xá. Lại nữa do thuở xưa dân chúng ở nước này lúc thời thế mất mùa đói kém đã ăn đủ loại thịt như thịt chó, thịt rắn… khiến cho quỷ La sát vào nước này làm nhiều điều quái lạ. Vua hỏi biết rõ được nguyên nhân liền ra sắc lịnh không được ăn các loại thịt bất tịnh và lập ra nhiều phép tắc lễ nghi khác, do vương pháp mạnh nên gọi tên là thành Vương xá. Lại nữa do trong nước này có năm trăm vị Phật Bích chi và năm trăm tiên nhân thường được dân chúng cung cấp mọi thứ cần dùng, do có nhiều bậc tiên thánh nên gọi tên là thành Vương xá. Trong mười sáu nước lớn có hai nước lớn mạnh: Một là nước của vua Ưu-điền, hai là nước Ma-kiệt-đà; nước của vua Ưu-điền cho áo mão của vua là thù thắng, còn nước Ma-kiệt-đà cho quốc pháp lễ nghĩa là thù thắng. Pháp thức lễ nghĩa của các nước khác trong mười sáu nước lớn, vua nước Ma-kiệt-đà hoặc dùng hoặc không dùng; nhưng các nước kia đều dùng theo pháp thức lễ nghĩa của nước Ma-kiệt-đà, vì vậy gọi tên là thành Vương xá. Lại nữa do ở nước này Phật đã ngồi trên tòa sư tử dưới cội Đạo thọ mà chứng quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, Địa thần của nước này lại có thế lực lớn thường ủng hộ vua khiến cho nước này hùng mạnh, các nước khác đều quy phục nên gọi tên là thành Vương xá.

Rất nhiều Tỳ-kheo cùng một chỗ an cư: Tất cả thời Phật đều tiền an cư, chỉ có ở nước Tỳ-la-nhiên là hậu an cư vì có nhân duyên.

Hỏi: Phật từ người khác thọ an cư hay tự an cư? Đáp: Có thuyết cho là Phật từ người khác thọ an cư, có thuyết lại cho là Phật tự an cư, vì sao, vì Phật tự đã chứng được mười lực, bốn Vô úy… nên không từ người khác thọ an cư; lại nữa, Phật tự chế pháp này nên Phật tự an cư.

Hỏi: Phật nói ba lần an cư hay là nói một lần an cư?

Đáp: Phật tâm niệm an cư, không cần nói ra vì Phật không quên điều này.

Hỏi: Phật có đồng với chúng tăng Bố tát, tự tứ… các pháp yết ma và làm tất cả Tăng sự hay không?

Đáp: Phật không đồng với chúng tăng Bố tát, tự tứ… các pháp yết ma và làm tất cả Tăng sự, cũng không cần gởi dục thanh tịnh, vì nơi Phật không gì không phải là pháp nên Phật không vào trong Tăng số. Sau khi thành đạo trong vòng mười hai năm Phật thường ở trong Tăng thuyết giới bố tát, sau mười hai năm do có pháp ác sanh nên Phật không thuyết giới nữa mà bảo các đệ tử thuyết giới. Hỏi: Phật có trí huệ vô biên, có biện luận vô biên vì sao trong mười hai năm khi thuyết giới chỉ thường nói có một bài kệ?

Đáp: Tuy Phật chỉ thường nói có một bài kệ nhưng chúng sanh nghe thọ không ai giống ai, Phật dù nói hay im lặng đều có người được hóa độ; cho nên dù có biện luận vô biên, Phật cũng không nói khác cũng không nói nhiều thêm.

Lúc đó Phật cùng tôn giả A-nan: Hễ Phật chế giới ắt là do việc từ bên ngoài, từ người nào đó có việc để làm nhân duyên kết giới nên Phật mới cùng A-nan đi xem xét phòng xá.

Phật bảo A-Nan-đập phá ngôi nhà: Nếu người khác đập phá ắt có sanh tranh cãi, nhưng A-Nanđập phá thì mọi người đều phục. Lúc bấy giờ trong giáo đoán của Phật có ba người có sức mạnh không ai sánh bằng: Một là A-nan, hai là Câu-di và ba là một người thuộc dòng họ Thích; A-nan có thể chuyển tảng đá lớn đi bốn mươi dặm nên khi đập phá ngôi nhà này, mọi người sợ nên đều phục. Lại nữa người khác nếu đập phá ngôi nhà bằng gạch kiên cố thì không thể đập phá được, do A-nan có sức mạnh nên trong chốc lát liền phá xong.

Nhân duyên lậu kết: Lậu kết có hai: Một là Căn bản phiền não như trường hợp Tu-đề-na và Tỳ-kheo trong rừng thuộc giới Dâm ở trên, hai là trường hợp Tỳ-kheo tự làm phòng xá, có sán nghiệp riêng nên nhiều việc, nhiều phiền não làm trở ngại cho việc tụng kinh ngồi thiền là chánh nghiệp của tỳ-kheo nên gọi là nhân duyên lậu kết.

Đát-ni-tra im lặng: Đát-ni-tra là Tỳ-kheo làm ngôi nhà bị đập phá này, do Phật là pháp vương bảo đập phá ắt có nguyên nhân: Một là vì nhà làm phi pháp nên Phật bảo đập phá, hai là vì Phật không đồng ý nên mới bảo đập phá, vì vậy Đát-ni-tra im lặng. Vì sao Phật bảo đập phá ngôi nhà mới xây này, vì Phật muốn đoạn trừ nhân duyên lậu kết sẽ xảy ra trong tương lai nên bảo đập phá khiến cho người thấy sanh sợ.

Hỏi: Sự sợ hãi này thuộc cõi Dục, cõi Sắc hay cõi Vô sắc, là cùng tâm tương ưng hay không cùng tâm tương ưng?

Đáp: Thuộc cõi Dục và cùng tâm tương ưng.

Hỏi: Tam tai ở cõi Sắc lên tới cõi Tam thiền, chư thiên từ cõi trời dưới lên tới cõi trời này không có sợ hãi hay sao?

Đáp: Chư thiên cõi Sắc chỉ có nhàm lìa không có sợ hãi, sợ hãi chỉ có trong cõi Dục.

Hỏi: Ai có sự sợ hãi này?

Đáp: Phàm phu cõi Dục, bốn Thánh quả cho đến Phật Bích chi đều có sự sợ hãi này, chỉ có Phật là không sợ hãi.

Liền đến chỗ Vua hỏi rằng: "Vì sao Vua lại đem cây gỗ lớn cho Tỳ-kheo?": Vì sao đã là thần hạ lại hỏi thẳng vua như vậy, một là vì dựa trên chánh nghĩa lý nên hỏi thẳng, hai là tuy hỏi thẳng nhưng lời dịu dàng khiêm hạ.

Khi vua mới lên ngôi:

Hỏi: Khi Tỳ-kheo này đến hỏi lấy cây gỗ lớn là có suy nghĩ hay là nói vội vàng không suy nghĩ?

Đáp: Nói vội vàng không suy nghĩ.

Hỏi: Tỳ-kheo này có tội với ai, với dân chúng trong nước hay là với người chủ cây gỗ hay là với Vua?

Đáp: Có tội với Vua, vì do vua khi mới lên ngôi đã nói với các Tỳ-kheo như thế.

Hỏi: Vì sao Vua không đem việc này bạch Phật?

Đáp: Vì đây là việc nhỏ nên Vua không bạch Phật, lại vì việc này đáng hổ thẹn nên không bạch Phật.

Phật bảo A-nan đi hỏi…

Hỏi: Ba giới kia vì sao Phật không bảo A-nan đi hỏi, trong giới này lại bảo đi hỏi?

Đáp: Vì giới này liên quan tới vương pháp còn ba giới kia thì không, giới này phải nương theo vương pháp trộm cắp bao nhiêu mới bị xử tội tử, sau đó mới kết giới, vì thế Phật mới bảo A-nan đi hỏi. hai giới Dâm và Sát hễ việc thành thì tội thành nên không cần hỏi; giới Vọng ngữ không liên quan gì tới vương pháp cho nên cả ba giới này Phật đều không bảo A-nan đi hỏi.

Hỏi: Phật biết rõ tất cả pháp tướng thì cần gì bảo đi hỏi?

Đáp: Vì để ngăn dứt phỉ báng, Phật tuy tự tại, tùy ý tự chế giới nhưng nếu hỏi rỏ vương pháp, nương theo vương pháp để kết giới thì chúng sanh mới tâm phục.

Hỏi: Dù người tin hay không tin, A-nan cũng đều hỏi, cớ sao lại như thế?

Đáp: Vì nếu chỉ hỏi người tin thì sợ họ vì Tỳ-kheo mà nói là trộm nhiều tiền mới phạm tội trọng; nếu chỉ hỏi người không tin thì sợ họ ganh ghét mà nói là trộm ít cũng phạm tội trọng. Vì thế A-nan phải hỏi cả người tin và người không tin, cả kẻ oán người thân mới biết rõ trộm bao nhiêu tiền thì bị xử tội tử.

Trộm đến năm tiền là phạm tội trọng: Tiền trong đây bao gồm tiền vàng, tiền bạc, tiền đồng, tiền sắt… không nhất định. Trong ba cõi hiện có Phật pháp là cõi Diêm phù đề, cõi Câu-da-ni và cõi Phất-Bà-đề, chỉ có vương pháp của thành Vương xá là lấy năm tiền phạm tội trọng. Phật dựa theo vương pháp này để kết giới trộm năm tiền trở lên thì phạm Ba-la-di.

Thầy là Tỳ-kheo trộm cắp, không cho mà lấy như vậy: Có bốn câu: Một là không cho mà lấy nhưng không phải là giặc, như vật có chủ tưởng là không có chủ nên lấy; hai là trộm giặc, không phải là không cho mà lấy, như trong Tăng dọn đưa thức ăn mỗi người ba cái bánh, Tỳ-kheo có tâm trộm nên lấy bốn cái; hoặc vật vô chủ, tưởng là có chủ mà lấy. Ba là vừa trộm giặc vừa không cho mà lấy, như Tỳ-kheo có tâm trộm lấy vật có chủ; bốn là không phải trộm giặc cũng không phải không cho mà lấy, như không có tâm trộm và lấy vật vô chủ.

Tội: Chỉ cho tội thuộc năm thiên, ngoài năm thiên giới ra cũng có đủ loại tội. Phật chế giới chỉ rõ tội trọng tội khinh nên nói: "Đây là tội Ba-la-di, đây là tội Tăng-già-bà-thi-sa, đây là tội Ba-dật-đề, đây là tội Ba-la-đề-đề-xá-ni, đây là tội Đột-kiết-la".

Thọ chức vị vua: Hỏi: Người nữ có năm điều chướng do đâu được làm vua?

Đáp: Không được làm Chuyển luân thánh vương, nhưng làm vua nước nhỏ thì không có gì chướng ngại.

Vật có chủ: Chỉ cho tất cả vật có chủ, như trong đất có phục tàng (mỏ vàng, mỏ bạc…), nếu đất thuộc vua thì phục tàng thuộc về vua, tức là có chủ; nếu vật không có chủ sanh nghi mà lấy thì phạm Thâu-lan-giá. Như lấy vật trong tháp hay bên ngoài tháp đều là vật của tháp của Phật dùng để cúng dường tháp, Phật; vật trong đất của Tăng cũng vậy; nếu vật ở trong Tăng phòng thì người trong phòng được dùng; nếu là vật của tỳ-kheo qua đời để lại thì Hiện tiền tăng nên chia. Trong núi rừng, nơi đồng trống, núi sạt lở làm cho cây bị gảy hoặc gió nóng, gió lạnh làm cho chim thú chết, Tỳ-kheo ở chỗ không có thức ăn thì được lượm lấy ăn không tội. Nếu lấy thức ăn dư của chim thú thì phạm Đột-kiết-la, lấy thức ăn dư của Sư tử thì không tội. Nếu trộm lấy tượng Phật để cúng dường thì không tội, nếu đem bán để được tiền thì phạm Thâu-lan-giá. Nếu trộm Kinh bất luận cúng dường hay không cúng dường, tính theo giá tiền mà kết tội; nếu trộm lấy Xá lợi thì phạm Thâu-lan-giá.

Lấy vật rời khỏi chỗ: Có hai trường hợp: Một là lấy rời khỏi chỗ cũ, hai là lấy rời khỏi chỗ rồi trả lại chỗ cũ. Nếu lấy rời khỏi chỗ cũ mang đi thì phạm hai loại tội: Một là tội nghiệp đạo vì trộm vật của người khác, hai là tội Ba-la-di vì Phật đã chế giới. Nếu lấy rời khỏi chỗ rồi trả lại chỗ cũ thì chỉ phạm một tội vì trước đó tuy lấy rời khỏi chỗ nhưng không phạm tội nghiệp đạo, vì không làm tổn hại vật của người khác; tuy trả lại chỗ cũ vẫn phạm Ba-la-di.

Năm loại vật báu: Gồm có vàng, bạc, trân châu, san hô và tỳ lưu ly; năm loại tợ báu là đồng, tiền, thủy ngân, bạch lạp chì thiếc và năm là họp lại làm thành các đồ trang sức trang nghiêm. Nếu cầm năm loại vật bàu thì phạm Đột-kiết-la, lầy rời khỏi chỗ phạm Ba-dật-đề; nếu lấy tiền rời khỏi chỗ hay không rời khỏi chỗ đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo có thần thông, dùng thần thông lực bay qua các nước, nếu ở chỗ xuất phát và chỗ đến có vật phải đóng thuế mà không đóng thì phạm trọng; các nước đi ngang qua ở khoảng giữa không đóng thuế không phạm, nhưng nếu có mua bán đổi chác thì tùy vua quan, nếu vua quan chấp thuận thì Tỳ-kheo không tội, nếu vua quan không chấp thuận thì tính theo giá tiền mà định tội, đủ năm tiền thì phạm trọng.

QUYỂN 3

b. Nhân duyên kết giới Trộm (Tiếp Theo):

Trong mười sáu nước lớn, thành Vương xá và nước của vua Ưu-điền là lớn mạnh nhất, thống lãnh tất cả các nước trong và ngoài biên cõi Diêm-phùđề. Nước của vua Ưu-điền tuy lớn mạnh nhưng lại dùng theo pháp luật của thành Vương xá, từ đây suy ra các nước đều dùng theo pháp tắc lễ nghĩa của thành Vương xá. Vua A-xà-thế đứng đầu trong các vua ở cõi người; Phật là Pháp vương, là bậc tôn quý trong các bậc Thánh, do Phật dựa theo quốc pháp của thành Vương xá kết kết giới Trộm, nếu trộm cắp năm tiền trở lên thì phạm Ba-la-di; cho nên tất cả nước trong cõi Diêm-phù-đề, những nơi có Phật pháp đều hạn định lấy cắp năm tiền là phạm trọng, nếu nước nào không dùng tiền thì trộm vật tương đương với giá năm tiền đều phạm trọng. Nếu tự trộm lấy vật của người khác, muốn lấy hơn năm tiền, từ lúc cất bước chân đi liền phạm khinh Thâu-lan-giá, nếu lấy được cho đến ba tiền rồi trở về cũng phạm khinh Thâu-lan-giá, nếu lấy được bốn tiền thì phạm trọng Thâu-lan-giá; nếu chỉ muốn lấy từ một đến bốn tiền, từ lúc cất bước chân đi cho đến khi lấy được ba tiền cũng phạm khinh Thâu-lan-giá, lấy được bốn tiền thì phạm trọng Thâu-lan-giá. Nếu sai bảo người khác trộm lấy vật của người, khi đang sai bảo thì phạm khinh Thâu-lan-giá; nếu lấy được năm tiền trở lên rời khỏi chỗ cũ thì Tỳ-kheo được sai bảo này phạm Ba-la-di vì nghe lời lấy trộm vật của người (vật có chủ). Nếu Tỳ-kheo được sai bảo này khi đi đến chỗ kia trộm lấy vật mà bị điên cuồng, tâm loạn, tâm bịnh hoại thì dù lấy được vật cũng không phạm, nhưng Tỳ-kheo sai bảo trộm thì phạm. Nếu sai bảo trộm lấy vàng mà Tỳ-kheo được sai lại trộm lấy bạc thì Tỳ-kheo sai bảo không phạm Ba-la-di vì Tỳ-kheo được sai trộm lấy khác với lời sai bảo, nhưng phạm Thâu-lan-giá vì làm phương tiện trước. Tỳ-kheo được sai bảo dù có làm đúng hay không làm đúng theo lời sai bảo thì khi đi từ chỗ này đến chỗ kia lấy trộm, mỗi bước chân đi đều phạm khinh Thâu-lan-giá. Tỳ-kheo sai bảo không phạm, nhưng nếu Tỳ-kheo được sai lấy trộm vật của chúng tăng trị giá năm tiền trở lên thì phạm trọng Thâu-lan-giá, bốn tiền trở xuống thì phạm khinh Thâu-lan-giá và chiêu cảm quả báo sâu nặng. Nếu lấy chưa rời khỏi đất của Tăng thì phạm khinh Thâu-lan-giá; nếu vào phòng của tỳ-kheo đã đổi thì phạm trọng Thâu-lan-giá. Nếu nhà thuộc một chủ, vật không có chủ khác, nếu trộm lấy chưa rời khỏi đất và chưa ra khỏi giới của nhà thì mỗi bước đi đều phạm khinh Thâu-lan-giá. Nếu vào ở phòng của chị, em gái, phòng của người nữ giúp việc thì phạm Ba-la-di; nếu vào ở phòng của anh em trai thì phạm khinh Thâu-lan-giá, nếu lấy vật ra khỏi tướng đất của người chủ thì phạm Ba-la-di. Vào mùa dông mùa hạ, nếu các Tỳ-kheo đổi phòng cho nhau, phòng thuộc của tỳ-kheo này tùy theo giới đất gần hay xa đều gọi là giới của phòng; nếu vào ở trong phòng không đổi thì phòng không đổi này là phòng của chủ khác. Nếu vật ở trong đất này thì vật thuộc của một chủ nhưng đất lại thuộc của chủ khác, nếu đất không có tướng khác thì tùy lấy chu vi bốn phía của vật làm tướng giới, nếu lấy vật ra khỏi tướng giới này thì gọi là lấy rời khỏi chỗ. Nếu ở trên mền nệm có màu sắc khác, vật ở chỗ màu sắc này dời đến chỗ màu sắc khác thì gọi là rời khỏi chỗ.

Nếu chim có chủ ở trong sông, ao không có chủ; nếu nhận chim xuống nước, nước phủ trên lưng thì gọi là rời khỏi chỗ; hoặc mang chim ra khỏi ao nước cũng gọi là rời khỏi chỗ. Nếu bắt chim trong dòng nước chảy, khiến cho dòng nước sau chảy qua trước đầu chim thì gọi là lấy rời khỏi chỗ. Nếu chim có chủ ở trong ao có chủ mà bắt chim ra khỏi ao nước thì gọi là lấy rời khỏi chỗ; nếu ao nước là của một chủ, đất trên bờ là của chủ khác, nếu kéo chim lên bờ thì gọi là lấy rời khỏi chỗ; nếu ao nước và đất trên bờ là của cùng một chủ, dù kéo lên bờ cũng không gọi là chỗ khác.

Nếu chưa vào giới của nước, một Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác rằng nước này thu thuế nặng, Tỳ-kheo kia nghe rồi liền quay trở về; nếu thật là thu thuế nặng thì cả hai không tội; nếu là thu thuế nhẹ thì Tỳ-kheo nói là thu thuế nặng này phạm tội trọng Thâu-lan-giá, Tỳ-kheo kia không tội. Nếu đã vào trong giới của nước, Tỳ-kheo này nói với Tỳ-kheo kia là thu thuế nặng, Tỳ-kheo kia nghe rồi liền quay trở về; nếu thật là thu thuế nặng thì cả hai không tội; nếu là thu thuế nhẹ thì Tỳ-kheo nói là thu thuế nặng này phạm Ba-la-di, Tỳ-kheo kia không phạm.

Nếu trong bình có vật báu, Tỳ-kheo muốn lấy trộm vật báu nên mang luôn cả bình dời đi chỗ khác, dù gần hay xa đều phạm khinh Thâu-lan-giá; nếu lấy vật náu ra khỏi đáy bình thì phạm Ba-la-di. Nếu lấy của phi nhân từ năm tiền trở lên thì phạm trọng Thâu-lan-giá; bốn tiền trở xuống thì phạm khinh Thâu-lan-giá.

Vật không có chủ: Nếu giữa biên giới hai nước đều tự có tướng phong tỏa, khoảng đất trống trong đó nếu có vật thì gọi là vật không chủ. Lại nữa, như vua nước này đi chinh phạt nước khác, vua nước kia bị thua hoặc chết hay bỏ chạy, khi vua thắng trận chưa thống lãnh nước này, nếu trên đất có vật thì gọi là vật vô chủ. Nếu vật không có chủ tưởng là có chủ mà lấy thì phạm khinh Thâu-lan-giá; nếu vật có chủ tưởng là không có chủ nên lấy thì phạm Đột-kiết-la. Nếu vật có người coi giữ, không có tâm ngã sở mà trộm lấy thì ở bên người chủ của vật phạm tội Ba-la-di. Nếu tướng của ruộng đất thưa kiện để được thắng thuộc về mình, thắng thì phạm Ba-la-di, không thắng thì phạm khinh Thâu-lan-giá. Như thế cho đến trâu bò, vật báu… cũng vậy, thưa kiện để được thắng, nếu thắng mà chưa đem vật rời khỏi chỗ cũ thì phạm khinh Thâu-lan-giá; vật rời khỏi chỗ cũ thì phạm Ba-la-di. Nếu thưa kiện mà thắng thua chưa quyết định, liền dắt trâu bò… đi trước, dắt đi được thì phạm khinh Thâu-lan-giá; sau đó xử được thắng thì phạm Ba-la-di vì đã dắt rời khỏi chỗ đi trước rồi.

Nếu Tỳ-kheo khi còn là bạch y có ruộng đất, trước khi xuất gia đã xả bỏ hết rồi thì ruộng đất này không thuộc của tỳ-kheo nữa; nếu trước chưa xả bỏ thì vẫn thuộc của tỳ-kheo. Nếu bị vua quan phạt tiền, vật bị mất trước đó nếu khởi tâm chưa xả bỏ thì nên lấy lại, ngoài vật của mình ra nếu lấy thêm vật của người khác thì tính theo giá tiền mà thành tội. Nếu trước đã khởi tâm xả bỏ rồi thì dù là vật của mình cũng không được lấy, nếu lấy thì tính theo giá tiền thành tội. Nếu vật thuộc quốc cấm, mang ra khỏi nước sẽ bị xử tội tử; nếu Tỳ-kheo mang ra khỏi nước, ban đầu Luật sư nói là phạm trọng nhưng sau lại nói là tợ như không phạm tội trọng, chỉ là trái phạm vương pháp nên phạm Đột-kiết-la, nhưng nếu lấy rời khỏi chỗ cũ với tâm trộm cắp thì phạm Ba-la-di. Tội trộm cắp theo quốc pháp có khi phạm tội tử, có khi chỉ phạt tiền; nếu vua cho phép người xuất gia mang vật ra khỏi nước thì không bị xử tội tử cũng không bị phạt tiền; nếu vua không cho phép mà vẫn mang ra khỏi nước, dù là không có tâm trộm cắp vẫn phạm Đột-kiết-la vì trái lịnh vua.

Ở cõi Câu-da-ni dùng bò ngựa làm tiền để mua bán, nếu lấy trộm tính đủ số tiền theo pháp luật cõi đó kết tội trọng thì phạm Ba-la-di; cõi Phất Bà-đề dùng vải làm tiền để mua bán cũng như vậy.

Nếu là vật của Tam bảo hay vật của người khác gởi, Tỳ-kheo tự lấy làm y phục, thuốc thang… hay đem cho cha mẹ đều được không phạm, trừ mua bán đổi chác thì không được.

c. Nhân duyên kết Giới Sát:

Có thiên thần của Ma: Ma vương ở cõi trời thứ sáu nên tất cả chúng sanh trong cõi Dục đều là quyến thuộc của Ma, có hai loại: Một là nội quyến thuộc thường nghe theo lời dạy của Ma vương, hai là ngoại quyến thuộc thì ngược lại. Thiên thần này là nội quyến thuộc nên nghe theo lời Ma vương, sanh ác tà kiến. Phật dạy tu pháp quán bất tịnh:

Hỏi: Phật là bậc Nhất thiết trí vì sao lại dạy các

Tỳ-kheo tu pháp quán này khiến họ suy não như vậy, nếu không biết cách dạy thì đâu được gọi là bậc Nhất thiết trí?

Đáp: Phật giáo hóa tất cả đều bình đẳng, lúc đó Phật không những dạy cho sáu mươi Tỳ-kheo tu pháp quán bất tịnh, mà còn dạy cho tất cả không có tâm thiên vị, nhưng người lãnh thọ giáo pháp được lợi ích có nhiều hay ít mà thôi, cho nên Phật không có lỗi. Phật biết rõ nguồn gốc trước sau về nghiệp căn của chúng sanh, biết phải dùng pháp nhân duyên này giáo hóa thì chúng sanh sau sẽ được lợi ích lớn. Sáu mươi Tỳ-kheo này đã thọ trì pháp quán bất tịnh từ thời Phật Ca-diếp, do không chuyên tu nên làm nhiều ác hạnh, sau khi mang chung đọa vào địa ngục. Khi Phật Thích ca ra đời, họ được sanh làm người trong nhà nghèo hèn thuộc giai cấp thấp hèn, sau đó xuất gia vào đạo; do nhân duyên xưa nên họ thọ trì pháp quán này, sau khi mạng chung sẽ được sanh lên cõi trời, từ cõi trời xuống nghe Phật thuyết pháp và được chứng đạo quả; do nhân duyên này nên Phật không có lỗi.

Được đại quả đại lợi: Một là được Lậu tận ngay trong đời này, hai là không đọa vào ác đạo, ba là được sánh vào cõi trời người, bốn là thiện pháp được tăng trưởng và năm là không sanh vào nhà nghèo hèn, giai cấp thấp hèn.

A-na-ban-na niệm: Là quán hơi thở ra vào, ban đầu tu tấp pháp quán này phải chú tâm nơi chót mũi, nếu quán 6 cõi thì chú tâm trên đỉnh đầu; nếu không quán bất tịnh thì chú tâm ở giữa hai chân mày, nếu tu pháp quán bất tịnh thì phải quán trên mặt trước vì tu pháp quán này là để trừ tham dục, tâm dục thường sanh khởi từ trên mặt nên phải quán trên mặt trước.

Ngồi kiết già: Để thân ngay thăng, thân có ngay thẳng thì tâm mới chánh niệm. Lại do chín mươi sáu phái ngoại đạo không có pháp ngồi kiết già, Phật bảo ngồi kiết già để khác với ngoại đạo. Lại nữa, ngồi kiết già có thể dứt buồn ngủ; ngồi kiết già có thể khiến người nhìn thấy sanh tâm tín kính, như trường hợp nước khác kéo đến chinh phạt nước Kế tân, vừa vào trong giới của nước nhìn thấy các Tỳ-kheo ngồi kiết già dưới gốc cây trong rừng, thân ngay thẳng, tâm chánh niệm liền sanh tín kính và rút quân trở về, không chinh phạt nữa. Lại nữa, khi Phật ngồi kiết già dưới cội Đạo thọ, các vị Phật Bích chi lợi căn cũng ngồi kiết già.

Phạm Ba-la-di:

Hỏi vì sao chỉ giết người mới kết tội Ba-la-di?

Đáp: Vì trong loài người có Tam quy ngũ giới và giới Ba-la-đề-mộc-xoa. Lại nữa, bốn Quả Samôn phần nhiều chứng được trong cõi người; Phật và Phật Bích chi đều ở trong loài người mà được Lậu tận, cho nên giết người mới kết tội Ba-la-di, giết các loài khác không phạm Ba-la-di; nếu làm dao gây cung tên… để giết người thì phạm Đột-kiết-la. Nếu cầm dao muốn giết người, khi cất bước chân đi, mỗi mỗi bước đều phạm khinh Thâu-lan-giá, cho đến chưa đâm người bị thương mà quay trở về đều phạm khinh Thâu-lan-giá. Nếu đã đâm trúng người dù cạn hay sâu mà người chưa chết thì phạm trọng Thâu-lan-giá; nếu người chết thì phạm Ba-la-di. Nếu đàm hầm hố để giết người, đang đào thì phạm Đột-kiết-la, đào xong thì phạm khinh Thâu-lan-giá; nếu người té xuống hầm này nhưng nhờ có sức mạnh phương tiện ra được khỏi hầm thì Tỳ-kheo phạm trọng Thâu-lan-giá; hoặc người té xuống hầm bị thương mà không chết, Tỳ-kheo cũng phạm trọng Thâu-lan-giá. Trường hợp làm bẫy rập, đặt cơ quan… cũng như vậy. Nếu sai bảo người giết người, khi đang sai bảo thì phạm khinh Thâu-lan-giá; nếu Tỳ-kheo được sai giết chết người thì phạm Ba-la-di, Tỳ-kheo sai bảo trong ba tâm cũng phạm Ba-la-di, như khi sai bảo mà đang tụng kinh, lễ Phật thì phạm Ba-la-di trong thiện tâm; trong tâm bất thiện và tâm vô ký suy ra có thể biết được. Nếu sai bảo người đi giết người nói rằng: "Nếu người đó đến thì giết", Tỳ-kheo được sai lại giết lúc người đó đang đi thì phạm khinh Thâu-lan-giá; nếu bảo cầm dao giết lại cầm gậy giết hoặc bảo giết người này lại giết lầm người kia… tất cả hành động không đúng theo lời sai bảo thì Tỳ-kheo được sai đều phạm khinh Thâu-lan-giá. Nếu sai một người đi giết người, người được sai lại sai người khác đi giết, cứ như thế lần lượt sai chuyền đến mười người, khi người sau cùng giết chết được người thì cả mười đều phạm Ba-ladi. Nếu Tỳ-kheo biết xem sao, lịch số, âm dương, bói quẻ, giải đoán kiết hung, vận nước hưng suy cho đến hình thế quân trận…; người đến xem bói nếu nghe theo lời Tỳ-kheo bói toán mà cất quân chinh phạt để thống trị nước khác, tùy người bị giết hại và tài bảo cướp được bao nhiêu thì Tỳ-kheo phạm cả hai tội sát và trộm bấy nhiêu. Nếu Ưu-bàtắc vì vua, đồng tâm với vua trong việc đi chinh phạt nước khác, khi đánh phá tùy người bị thương chết và tài bảo thu được bao nhiêu thì Ưu-bà-tắc phạm cả hai tội sát và trộm bấy nhiêu, vì tuy không tự tay làm nhưng đã đồng tâm làm. Nếu hai người đâm chém nhau và cùng chết thì không phạm giới tội, vì thọ giới thệ nguyện trọn một đời, nên chết rồi thì không kết tội. Nếu dùng dao gậy muốn giết người, khi đánh đập hay đâm chém mà người kia không chết liền, sau đó có người khác đến đánh khiến cho người đó chết thì người đánh sau làm cho chết phạm Ba-la-di, người đánh trước chỉ phạm trọng Thâu-lan-giá. Nếu sai bảo người đi giết người nói rằng: "Nếu người đó đến thì dùng dao giết chết", bất luận đâm cạn hay sâu mà người đó chưa chết thì cả hai người sai và người được sai đều phạm trọng Thâu-lan-giá.

Nếu giết thai nhi bằng cách làm cho sẩy thai, hư thai; thai nhi trong bụng mẹ từ lúc các căn đã thành tựu trở đi nếu làm cho chết thì gọi là Đọa thai sát (giết bằng cách làm cho hư thai, sẩy thai). Trường hợp các căn chưa đầy đủ chỉ mới tượng hình như lạc sắp thành tô, nếu đè bụng người mẹ làm cho tan hoại thì gọi là Án phúc sát (đè bụng mẹ khiến thai nhi chết), cho đến khi thai nhi có hai căn là thân căn và mạng căn mà làm cho thai nhi chết đều phạm Ba-la-di. Trên đây là nói đến mức tột cùng.

Có bốn hạng người không thể giết được, đó là người nhập Diệt tận định, người nhập Vô tưởng định, Phật và người nhập từ tâm tam muội.

d. Nhân duyên kết giới vọng ngữ:

Nếu vì lợi dưỡng và danh tiếng mà nói là tôi đã đắc pháp quán bất tịnh, A-na-ban-na niệm cho đến quả vị Thế đệ nhất của Hiền vị, bốn Hướng, bốn Quả Sa-môn của Thánh vị, cho đến đắc bốn Thiền, bốn tâm vô lượng, bốn Định cõi Vô sắc, năm Thông… đều phạm Ba-la-di. Nếu tự nói mình giữ giới thanh tịnh, không khởi tâm dâm mà không thật như vậy thì phạm Thâu-lan-giá; hoặc tự nói trời rồng quỷ thần đến chỗ tôi, tôi cùng họ hỏi đáp mà không thật như vậy thì phạm Ba-la-di. Sở dĩ phạm trọng là do tự cho mình bên trong có pháp thù thắng, có thể cảm được trời rồng quỷ thần; hoặc tự biểu hiện mình đã lìa sợ hãi vì rồng quỷ thần đến chỗ tôi mà tôi không sợ hãi, đáng được gọi là có pháp hơn người. Chỉ nói hơn người mà không nói hơn trời vì Phật chế giới trong loài người, chỉ ở cõi người mới có giới Ba-la-đề-mộc-xoa và có nhiều người tu thiện pháp, chứng nhập Thánh đạo hơn hẳn cõi trời, cho nên nói hơn người là đã hơn trời, chỉ cần nói hơn người là phạm Ba-la-di không cần nói hơn trời.

Nếu không tụng đọc bốn bộ A-hàm mà nói là đã đọc tụng; không phải là A-tỳ-đàm sư mà nói mình là A-tỳ-đàm sư, không phải là Luật sư mà nói là Luật sư… cho đến không có ngồi thiền tu tịch tĩnh mà nói là tu tịch tĩnh, đều phạm Thâu-lan-giá. Nói chung, không có tu tập đọc tụng gì mà nói là có tu tập đọc tụng, tất cả đều phạm Thâu-lan-giá.

3. Nhân Duyên Kết Mười Ba Việc Tăng Tàn:

1. Giới cố ý làm xuất tinh:

Phật chế giới cho các Tỳ-kheo:

Hỏi: Tất cả thiện pháp đều không nói kết, vì sao chỉ nói kết giới?

Đáp: Vì giới là căn bản của vạn thiện, chỉ cần kết giới là kết tất cả.

Sở dĩ Phật kết giới cố ý làm xuất tinh này là vì muốn cho chánh pháp trụ lâu và muốn ngăn dứt phỉ bàng; nếu Tỳ-kheo làm việc này, người đời và ngoại đạo sẽ nói là Sa-môn Thích tử làm hạnh bất tịnh không khác thế tục; lại muốn cho trời rồng thiện thần phát tâm tín kính, nếu Tỳ-kheo làm việc này dù là ở chỗ khuất kín nhưng tất cả trời rồng thiện thần đều nhìn thấy. Lại nữa, Phật bình đẳng không phân biệt thân sơ, hễ có việc liền chế giới, không việc (vô sự) thì không chế giới. Lại nữa, pháp của chư Phật đều như thế, dâm dục là hạnh xấu xa đáng nên chế ngăn.

Tăng-già-bà-thi-sa: Tần dịch là Tăng tàn vì tội này thuộc Tăng, trong Tăng có dư tàn, nhờ Tăng mà tội được trừ diệt. Lại nữa, phạm bốn trọng thì không có dư tàn (vô tàn), còn phạm mười ba việc này thì có dư tàn (hữu tàn), nhờ Tăng diệt tội nên gọi là Tăng tàn.

Hỏi: Bốn thiên giới sau đều có dư tàn vì sao chỉ thiên giới này gọi là Tàn?

Đáp: Bốn thiên giới sau tuy đều có dư tàn nhưng tất cả không phải nhờ Tăng mà được diệt tội, trong ba mươi pháp Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề chỉ có ba tội nhờ Tăng trừ diệt, những tội còn lại thì không; trong chín mươi pháp Ba-dật-đề chỉ có bảy tội nhờ Tăng trừ diệt, những tội khác thì không. Riêng mười ba việc trong thiên giới này đều nhờ Tăng diệt tội. Lại nữa, phạm tội trong thiên giới này nếu có che giấu phải ở trong Tăng hành Balợi-bà-sa, khi hành Ma-na-đỏa cũng phải ở trong Tăng, cho đến khi xuất tội cũng phải ở trong Tăng, cho nên gọi là Tăng tàn.

Giới cố ý làm xuất tinh này bất cọng với ni, Tỳ-kheo làm thì phạm Tăng tàn còn Tỳ-kheo-ni làm chỉ phạm Ba-dật-đề.

Hỏi: Vì sao lại chế bất cọng?

Đáp: Vì hai chúng có khác biệt, có thuyết cho là người nữ phiền não sâu nên khó câu thúc, khó chế ngự; nếu chế trị phạt nặng thì sẽ làm cho họ phiền não. Lại nữa, người nữ ở chỗ khuất kín có nhiều duyên, nhiều lực mới xuất tinh; người nam không như thế, tùy việc đều có thể xuất tinh nên chế bất cọng. Nếu Tỳ-kheo cố ý làm cho xuất tinh, tinh chưa xuất liền biến thành ni, sau đó tinh mới xuất thì không phạm vì ni không có phương tiện làm xuất tinh. Nếu Tỳ-kheo cố ý làm xuất tinh, tinh vừa xuất liền biến thành ni thì được thanh tịnh ở trong chúng. Nếu Tỳ-kheo đang hành sáu đêm Ma-na-đỏa mà biến thành ni, cũng được thanh tịnh ở trong chúng; hoặc đang hành Ba-lợi-bà-sa mà biến thành ni, cũng được thanh tịnh ở trong chúng. Trường hợp Tỳ-kheo-ni biến thành Tỳ-kheo cũng như thế, đó là chỗ không đồng nhau. Nếu Tỳ-kheo trước đã phạm Tăng tàn, việc làm chưa xong liền biến thành ni thì Tỳ-kheo trước phạm Thâu-lan-giá, còn Tỳ-kheo-ni sau lại phạm Tăng tàn vì tội đồng; Tỳ-kheo-ni biến thành Tỳ-kheo cũng vậy. Nếu Tỳ-kheo phạm Tăng tàn che giấu tội mười năm, năm năm, sau đó biến thành ni thì Tỳ-kheo-ni này chỉ hành nữa tháng Ma-na-đỏa liền được xuất tội. Nếu Tỳ-kheo-ni phạm Tăng tàn không che giấu, hành nữa tháng Ma-na-đỏa mới được một, hai ngày liền biến thành Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo này chỉ hành sáu đêm Ma-na-đỏa liền được xuất tội. Nếu trước phạm tội có che giấu, sau đó biến thành Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo này phải tùy theo số ngày che giấu mà hành Ba-lợi-bà-sa, đấy là chỗ không đồng nhau.

Xuất tinh trong mộng: có ba việc có thể sanh phiền não, đó là nhân duyên, phương tiện và cảnh giới. Nhân duyên là chúng sanh do thiện nghiệp đời trước được sanh vào nhà giàu sang hoặc sanh lên cõi trời đều lấy sự hưởng thọ dục lạc làm trước, cho nên sự giàu sang vui sướng ở cõi trời người là nhân duyên của dâm dục. Phương tiện là nếu thấy nữ sắc nghe tiếng người nữ, tư duy phương tiện rồi khởi dục. Cảnh giới là nếu thấy người nữ tuyệt đẹp liền khởi dục. Ca-lưu-đà-di trước là con nhà giàu sang, tuy xuất gia nhưng tâm dục hừng thạnh nên trong mộng xuất tinh; lại do khi đi vào trong tụ lạc thấy nữ sắc, tư duy phương tiện nên mới xuất tinh trong mộng.

Đứng một bên: Tôn giả A-nan vì kính Phật nên không ngồi.

Hỏi: Tôn giả Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên cũng kính Phật, vì sao lại ngồi?

Đáp: Hai vị ngồi vì kính pháp, tôn giả A-nan vừa là bà con của Phật, lại thọ Tăng sai làm thị giả cho Phật nên không đồng với hai tôn giả kia. Lại nữa, pháp của chư Phật đều như vậy, pháp của thị giả là không được ngồi.

Khen ngợi giới, khen ngợi người trì giới: Để điều phục người phá giới khiến cho người trì giới được tăng trưởng thiện căn; như Phật thường khen ngợi đa văn, trí huệ, chuyên cần tinh tấn. Nếu người phá giới hoặc người ngu si, người biếng nhác nhận biết lời Phật nói là không hai, ắt sẽ được lợi ích lớn. Phật khen ngợi như vậy để người không trì giới sẽ siêng năng trì giới, chúng sanh ngu si sẽ siêng cầu trí huệ, chúng sanh biếng nhác sẽ chuyên cần tinh tấn.

2. Nhân duyên kết giới sờ nắm người nữ:

Ca-lưu-đà-di cầm khóa cửa đứng ở giữa cửa, do vị này nhiều dục, tâm dâm hừng thạnh, hễ thấy có người nữ liền cùng nói cười, sờ nắm hoặc ôm để giải tỏa tâm dâm.

Hỏi: Nếu tâm nhiều dục như vậy, vì sao không làm việc dâm phá giới?

Đáp: Vì người này căn cơ thuần thục sẽ được Lậu tận, lại phải hóa độ một ngàn nhà trong thành Xá-vệ, chỉ thiếu một người, cho nên không làm việc dâm phá giới.

Hỏi: Vì sao những người nữ lại đến tham quan Tăng phường?

Đáp: Một là vì thế gian nhiều việc, nhiều lo toan còn chỗ ở của người xuất gia lại tịch tĩnh an lạc; hai là vì họ muốn gần gũi thiện tri thức để được nghe chánh pháp; ba là vì trong Tăng phường đủ thứ trang nghiêm, phòng xá cho đến giường nằm, ngọa cụ… đều được chạm trổ, tô vẽ đẹp đẽ, vừa nhìn liền thích nên mới đến tham quan. Hỏi: Vì sao lại đến sau bữa ăn ngọ?

Đáp: Không có nghĩa nhất định, vì nếu đến trước bữa ăn ngọ thì có người sẽ hỏi vì sao không đến sau bữa ăn ngọ, trước hay sau đều có nghi như thế. Lại nữa, người thế tục trước bữa ăn trưa bận nhiều việc, nhiều duyên hoặc phải làm thức ăn cho bữa ăn trưa, xử lý việc trong nhà…; sau khi lo liệu việc nhà xong, họ mới có thể tùy ý lên núi dạo chơi hoặc đến trong chùa tham quan. Lại nữa, đến trong Tăng phường tham quan là vì muốn gần gũi bậc thiện nhân và thích được nghe pháp; nếu đến trước bữa ăn ngọ thì các Tỳ-kheo đều đi khất thực hoặc có duyên sự gì đó không ở trong tăng phường, nên sau bữa ăn ngọ mới đến.

Hỏi: Vì sao những người nữ lại đi theo Tỳ-kheo vào trong phòng?

Đáp: Vì họ cho là người xuất gia đã đoạn dục thanh tịnh, lại vì tín kính nên theo vào trong phòng mà không nghi ngại.

Hỏi: Vì sao trong các người nữ, có người im lặng, có người không im lặng?

Đáp: Có thuyết cho là người có nhiều dục thì im lặng, người ít dục thì không im lặng; lại nữa, nếu người quen biết thì im lặng, người không quen biết thì không im lặng; lại nữa, tánh người không giống nhau, người thích che giấu tội lỗi thì im lặng, người không thích che giấu tội lỗi thì không im lặng; lại nữa, người không có cha mẹ, anh em, con cái không có gì lo sợ nên im lặng; người có cha mẹ… có lo sợ nên không im lặng.

Tỳ-kheo thuyết pháp cho các người nữ: Thuyết giảng Phật pháp tăng là ruộng phước tốt lành, đáng tin, đáng kính.

Không nên vì chút nhân duyên mà tự phá mất thiện căn: Tức là khen ngợi Ca-lưu-đà-di đời trước đã gieo trồng công đức trí huệ, đời này sẽ được Lậu tận, sẽ hóa độ một ngàn nhà làm lợi ích lớn, chớ vì chút nhân duyên mà tự phá mất thiện căn. Sở dĩ Phật chế giới sờ nắm người nữ, một là vì người xuất gia không nương vào đâu, Phật kết giới này cho họ làm bạn để có chỗ nương; hai là vì ngăn dứt đấu tranh, sờ nắm người nữ là căn bản của cạnh tranh đấu loạn; ba là vì dứt hiềm nghi, Tỳ-kheo nếu sờ nắm người nữ, người nhìn thấy sẽ cho là Tỳ-kheo không chỉ sờ nắm mà còn có thể làm việc dâm dục xấu xa; bốn là để đoạn trừ gốc rễ dâm dục vì dục là khởi đầu của các họa, sờ nắm người nữ tức là mở cửa các ác, ngăn cấm điều mới bắt đầu khởi để phòng ngừa đắm nhiễm; năm là giữ chánh niệm, nếu sờ nắm người nữ liền mất chánh niệm; sáu là vì pháp tăng thượng, pháp của tỳ-kheo là đoạn trừ dục uế, để tâm ngoài các việc, làm bậc mô phạm cho trời người. Nếu sờ nắm người nữ không khác gì kẻ xấu, sẽ làm cho người đời mất lóng tín kính. Giới này bất cọng với Ni, Tỳ-kheo phạm Tăng tàn, Tỳ-kheo-ni sờ nắm người nam thì phạm Ba-la-di. Nếu Tỳ-kheo sắp sờ nắm người nữ liền biến thành Ni, sau đó sờ nắm thì không phạm vì Ni không có tâm phương tiện nên được thanh tịnh cùng ở. Nếu Tỳ-kheo sờ nắm người nữ rồi mới biến thành Ni, cũng được thanh tịnh cùng ở; Tỳ-kheo-ni sờ nắm người nam phạm Ba-la-di rồi biến thành Tỳ-kheo, cũng được thanh tịnh cùng ở. Nếu Tỳ-kheo sờ nắm người nữ, chưa nắm mà người nữ liền biến thành nam, khi nắm không phải là người nữ nữa thì Tỳ-kheo không phạm Tăng tàn, chỉ phạm Thâu-lan-giá phương tiện trước; nếu nắm được rồi người nữ mới biến thành nam thì Tỳ-kheo phạm Tăng tàn. Nếu Tỳ-kheo-ni sờ nắm người nam, chưa nắm mà người nam liền biến thành nữ thì Tỳ-kheo-ni không phạm Ba-la-di, chỉ phạm Thâu-lan-giá phương tiện trước; nếu đã nắm rồi người nam mới biến thành nữ thì Tỳ-kheo-ni phạm trọng.

3. Nhân duyên kết giới nói thô ác:

Giới này cũng bất cọng với Ni, Tỳ-kheo nói lời thô ác (lời yêu đương tình tứ) với người nữ thì phạm Tăng tàn, Tỳ-kheo-ni chỉ phạm Thâu-lan-giá, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Trong năm thiên giới, mỗi thiên đều có chủng loại như năm giới đầu trong mười ba Tăng tàn; ba giới trong ba mươi Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề gồm có giới lấy ý từ Ni không phải bà con, giới giặt y cũ và giới nhuộm lông dê; mười lăm giới trong chín mươi Ba-dật-đề gồm có giới nói chuyện với người nữ quá năm, sáu lời, giới giáo giới Ni đến mặt trời lặn… theo thứ lớp đến mười giới, cùng với hai giới gượng ngồi trong nhà ăn, giới ngủ đêm cùng nhà với người nữ và giới hẹn đi chung đường; giới thứ tư trong bốn pháp Hối quá và các giới trong thiên Chúng học pháp như giới không được liếc ngó, giới không nhìn lên cao… tất cả các giới kể trên đều thuộc về chủng loại giới Dâm. hai giới về làm phòng xá trong mười ba Tăng tàn; bảy giới trong ba mươi Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề gồm có giới cất chứa vật báu, giới dùng vật báu, giới mua bán, giới tự xin chỉ sợi, giới bảo thợ dệt dệt, giới đoạt y của người khác, giới hồi Tăng vật; ba giới trong chín mươi Ba-dật-đề gồm có giới giấu y bát…, giới cho y rồi đoạt lại, giới cùng giặc đi chung đường; giới thứ ba trong bốn pháp Hối quá và các giới trong thiên Chúng học pháp như giới lấy cơm phủ lên canh, giới đại tiểu tiện trên cỏ tươi, trong nước sạch… tất cả các giới kể trên đều thuộc về chủng loại giới Trộm. Giới Ô-tha-gia trong mười ba Tăng tàn; giới làm phu cụ bằng Kiều-xa-da trong ba mươi Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề; trong chín mươi Ba-dật-đề có các giới như giới biết nước có trùng mà dùng tưới lên cỏ và uống dùng, giới đánh và dọa đánh Tỳ-kheo khác, giới cố ý giết súc sanh; giới thứ một trong bốn pháp Hối quá; trong thiên Chúng học pháp có các giới như giới đại tiểu tiện trên cỏ tươi và trong nước sạch… tất cả các giới trên đều thuộc về chủng loại giới Sát. Trong mười ba Tăng tàn có các giới như hai giới vu báng, hai giới phá Tăng và trợ giúp phá Tăng, giới nói lời chống trái; trong ba mươi Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề có các giới như giới bảo cư sĩ mua y tốt, giới bảo các cư sĩ hùn tiền mua y, giới đến đòi y quá sáu lần; mười giới đầu trong chín mươi Ba-dật-đề; giới thứ hai trong bốn pháp Hối quá và tất cả các giới về thuyết pháp trong thiên Chúng học pháp… tất cả các giới trên đều thuộc về chủng loại Vọng ngữ. hai trăm năm mươi theo chủng loại mà nói thì có bốn, theo tướng tội thì có năm thiên.

4. Giới làm phòng không có thí chủ:

Phật tại nước A-la-tỳ, nước này là chỗ ở của quỷ thần A-la-tỳ nên lấy đó làm tên nước.

Các Tỳ-kheo: Có hai hạng đó là Tỳ-kheo thuộc thế đế thì thọ giới Ba-la-đề-mộc-xoa và Tỳ-kheo thuộc Đệ nhất nghĩa đế thì trụ nơi giới Vô lậu.

Đại Ca-diếp: Có nhiều người tên Ca-diếp nhưng trong đây sở dĩ gọi là Đại Ca-diếp: Một là vì tôn giả là con của một trưởng giả giàu có, giai cấp quý tộc; hai là vì tôn giả có thể bỏ sự giàu sang và giai cấp quý tộc để xuất gia; ba là vì tôn giả có thể hành hạnh đầu đà, thiểu dục tri túc; bốn là vì tôn giả được các quốc vương cho đến trời rồng quỷ thần đều biết đến và tín kính cúng dường; năm là vì tôn giả xả bỏ lợi dưỡng lớn ở thế gian, thiểu dục tri túc tu hạnh khất thực. Như tôn giả Xá-lợi-phất có đại trí huệ, tôn giả Đại Mục-kiền-liên có đại thần thông; tôn giả Đại Ca-diếp do thành tựu đại công đức, hành hạnh đầu đà, thiểu dục tri túc nên được gọi là Đại Ca-diếp.

Đa dục không tri túc: Trái với thiểu dục tri túc, tham muốn nhiều được một lại cầu thêm một thì gọi là đa dục không tri túc. Lại nữa, bên trong được cúng dường không nhàm chán gọi là đa dục; bên ngoại được nhiều lợi dưỡng cũng không nhàm chán gọi là không tri túc. Phật kết giới này một là muốn chánh pháp được trụ lâu, hai là ngăn dứt phỉ báng, ba là không làm não hại chúng sanh khiến họ tăng trưởng lòng tín kính, bốn là muốn các Tỳ-kheo thiểu dục tri túc để tu thiện pháp. Giới này bất cọng với Ni, Tỳ-kheo thì phạm Tăng tàn còn Tỳ-kheo-ni chỉ phạm Thâu-lan-giá, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la.

Làm phòng: Trong giới này là làm phòng riêng, không có thí chủ liệu lý, tự xin tự làm; do nhiều duyên, nhiều việc làm não loạn chúng tại gia nên Phật chế ngăn phải làm đúng lượng: Chiều dài không quá mười hai gang tay của Phật, bên trong phòng rộng không quá bảy gang tay của Phật. Một gang tay của Phật bằng một khuỷu tay rưỡi của người thường.

Chỉ chỗ: Tăng nên chỉ chỗ làm phòng, nhóm Tăng rồi cùng đến chỉ chỗ nên làm phòng thì càng tốt; nếu Tăng không đến thì nên sai bốn người đến chỉ chỗ và nói kích lượng làm phòng rồi vạch dấu làm tướng; nếu Tăng không nói kích lượng làm phòng và không chỉ chỗ nên làm, tức là chỗ không có nạn, chỗ không có chướng ngại thì Tăng phạm Đột-kiết-la. Chỗ có nạn là những chỗ có hang rắn, hang chuột…, trong phạm vi chừng bao nhiêu gọi là chỗ không có nạn, tức là chung quanh bốn phía chỗ làm phòng không có nạn; hoặc đường đi ở chỗ ra vào không có nạn. Chỗ có chướng ngại: Là chỗ đất của vua, của cư sĩ, của ngoại đạo, của tỳ-kheo-ni…; chỗ đất của vua là bốn phía chung quanh trong phạm vi một tầm, nếu có đất tháp, đất của vua, vua thường vào trong Tăng phường và ở lại ngủ nghỉ. Tăng không muốn vua vào trong phòng của Tăng thì nên kết riêng chỗ đất này gọi là đất của vua; chỗ đất của cư sĩ là khi làm Tăng phường có các cư sĩ thường đến chỗ chúng tăng và ở lại ngủ nghỉ, nói cười đùa giỡn. Tăng không muốn họ vào trong phòng Tăng thì nên kết riêng chỗ đất này gọi là đất của cư sĩ; đất của ngoại đạo là do cư sĩ có bà con xuất gia theo ngoại đạo lui tới nên Tăng kết riêng chỗ đất này gọi là đất của ngoại đạo; đất của tỳ-kheo-ni là do cư sĩ có bà con xuất gia làm Ni thường lui tới nên Tăng kết riêng chỗ đất này gọi là đất của tỳ-kheo-ni. Tảng đá lớn là do ở gần chỗ làm phòng có tảng đá lớn, nhiều người tới lui qua lại bị nó làm não hại hoặc làm bể các vật dụng nên gọi là chỗ có chướng ngại. Nước chảy là do làm phòng gần chỗ nước chảy, khi nước lớn dâng sẽ làm trôi mất phòng nhà hoặc nước chảy xói vào bờ hủy hoại không nhỏ nên gọi là chỗ có chướng ngại. Nước ao là làm phòng gần ao nước, nước ao ngấm dần khiến cho phòng không kiên cố nên gọi là chỗ có chướng ngại. Cây lớn là làm phòng gần cây lớn có nhiều chim bay đến tụ tập gây ra tiếng ồn náo và phân chim bất tịnh, hoặc cành cây gãy rơi xuống có thể làm tổn thương người nên gọi là chỗ có chướng ngại. Hầm sâu là làm phòng gần chỗ sụp lở khiến cho phòng không kiên cố. Bất luận làm phòng ở đâu nếu quá kích lượng và ở chỗ có nạn, có chướng ngại, có bốn việc không như pháp thì từ lúc đất còn bằng phẳng, vạch đất làm tướng, lúc đó phạm Thâu-lan-giá; từ lúc làm phòng còn tô trét hai cục bùn nữa mới xong thì phạm khinh Thâu-lan-giá; còn tô trét một cục bùn nữa mới xong thì phạm trọng Thâu-lan-giá; làm xong thì phạm Tăng tàn. Nếu có ba việc không như pháp hoặc một việc như pháp, hai việc không như pháp hoặc hai việc như pháp, một việc không như pháp hoặc ba việc như pháp thì từ lúc đất còn bằng phẳng, vạch đất làm tướng cho đến giai đoạn còn tô trét một cục bùn nữa mới xong, tất cả đều phạm khinh Thâu-lan-giá; nếu làm phòng xong thì phạm trọng Thâu-lan-giá.

Tỳ-kheo muốn làm phòng, phải tự đi xem chỗ làm phòng trước rồi mới nhóm Tăng, vào trong Tăng nói ba lần xin cho làm phòng, Tăng nên đến chỉ chỗ và vạch đất làm tướng rồi mới tác pháp yết ma. Nếu khi vạch đất làm tướng mà bị gió thổi hay mưa lớn làm trôi mất tướng thì nên vạch tướng lại; khi đang tác pháp yết ma mà tướng mất thì cũng thành yết ma; yết ma nữa chừng mà tướng mất thì cũng thành yết ma; yết ma xong mà tướng mất thì cũng thành yết ma. Khi Tăng đã vạch đất làm tướng rồi thì Tỳ-kheo xin làm phòng không được làm phòng ở chỗ khác, Tỳ-kheo khác cũng không được làm phòng ở chỗ này, chỉ có Tỳ-kheo đã theo Tăng xin làm phòng mới được làm. Nếu làm phòng xong không được chê nhỏ quá hay lớn quá; nếu làm phòng không như pháp thì tùy từng giai đoạn làm phòng đều phạm Thâu-lan-giá. Nếu Tỳ-kheo chủ của phòng này qua đời hay đi xa không về nữa thì được tùy ý xử phân hoặc cúng Tam bảo hoặc cho bà con hoặc cho cư sĩ hoặc bán lấy tiền, chỉ được bán phòng không bán đất; nếu Tăng không thuận cho thì Tăng mắc tội. Nếu Tỳ-kheo chủ của phòng này không tự xử phân thì phòng này thuộc về Tứ phương tăng, chúng tăng theo thứ lớp thọ ở. Nếu có Tỳ-kheo khác muốn xây thêm phòng trên phòng nhà này thì không cần bạch Tăng mà theo xin Tỳ-kheo chủ của phòng này, chủ chấp thuận cho làm thì được làm, chủ không chấp thuận cho làm thì không được làm, tùy ý chủ phòng xử phân; nếu chủ phòng không xử phân thì phòng thuộc về Tứ phương Tăng như trường hợp trên.

Nếu Tỳ-kheo làm phòng không như pháp hoặc ở trên đất của Tăng bốn phương thì không được xây tháp, nếu xây thì phạm tội; cũng không được tự trồng trọt. Nếu Tăng hòa hợp cho làm thì được làm; Tăng không hòa hợp, không cho làm thì không được làm. Nếu trong đất của tăng có trồng nhiều loại hoa nên bảo tịnh nhân hái rồi theo thứ lớp cúng dường Tăng, không được lấy riêng tự cúng dường Tam bảo; nếu hoa nhiều Tăng hái không hết, Tăng hòa hợp cho hái thì được tùy ý hái. Nếu ruộng vườn của Tam bảo sau khi bỏ hoang không phân biệt được, cựu Tỳ-kheo ở trước kia cho đến bạch y không hỏi rõ mà quyết định là không có chỗ nào; nếu Tăng hòa hợp tùy ý xử phân là không phải đất của Tăng thì đất đó nên thuộc về vua, Tỳ-kheo muốn làm phòng nhà trên đất này nên bạch vua rồi mới được làm, nếu không bạch vua thì không được làm. Nếu ở bên trong Tăng phường, không được xây tháp tạo tượng vì gần người nhơ uế không thanh tịnh. Nếu nhà có lầu gác, kinh tượng để ở dưới thì mình không được ở tầng trên. Hoa trồng trong đất tháp, không được hái cúng dường Tăng, đúng pháp nên cúng dường Phật; cũng được bán hoa lấy tiền dùng để cúng dường tháp. Nếu nước ở trong đất tháp thì dùng để cúng dường tháp, nếu còn dư thì người ra công sức làm tháp có thể bán nước này lấy tiền dùng để cúng dường tháp, không được dùng vào việc khác, nếu dùng thì tính giá tiền kết tội; nếu tháp không có người trông coi thì nước dư này do Tăng nhơn trù tính.

Tỳ-kheo học vấn hay ngồi thiền đều có nghiệp nhất định; nếu Tỳ-kheo học vấn học không căn bản, muốn lấy học vấn này để luận về hạ lạp là không thanh tịnh; nếu Tỳ-kheo tu thiền không căn bản, muốn lấy tọa thiền này để luận về hạ lạp là không thanh tịnh.

5. Giới làm phòng có thí chủ:

Phật ở nước Câu-diệm-di, trưởng lão Xiển-na là em khác mẹ với Phật, là con của em gái vua Ưuđiền, xuất thân trong gia đình quý tộc, sau khi xuất gia vẫn ở trong nước này, tánh vốn ngang ngạnh tự dụng làm nhiều điều lầm lỗi.

Giới này cũng bất cọng với Ni, Tỳ-kheo phạm Tăng tàn còn Tỳ-kheo-ni chỉ phạm Thâu-lan-giá, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Có thí chủ là thí chủ xuất tiền đưa cho Tỳ-kheo làm Tăng phòng, vì là Tăng phòng nên không chế hạn kích lượng. Nếu đàn việt muốn làm phòng lớn, Tỳ-kheo nên nói làm phòng nhỏ để thích ứng với pháp thiểu dục; nếu đàn việt muốn cầu phước đức nên làm chùa lớn cho nhiều người ở hoặc làm chùa có nhiều tầng thì không nên trái ý thí chủ, nếu trái ý tức là làm tổn phước đức của họ. Nếu ý thí chủ muốn làm chùa rộng lớn trang nghiêm như tinh xá Kỳ-hoàn, Tỳ-kheo nên khéo chỉ bày để khai giải họ rồi mới làm chùa nhỏ. Luật sư nói: "Giới làm chùa lớn này do có thí chủ làm Tăng phòng, vì là Tăng phòng nên không hạn chế kích lượng lớn hay nhỏ, tác pháp cũng giống như giới làm phòng ở trên".

Nếu không bạch tăng để Tăng chỉ chỗ làm, làm ở chỗ có nạn hay chỗ có chướng ngại, ba việc không như pháp thì từ giai đoạn đất còn bằng phẳng vạch đất làm tướng cho đến giai đoạn tô trét còn hai cục bùn nữa mới xong đều phạm khinh Thâu-lan-giá; tô trét còn một cục bùn nữa mới xong thì phạm trọng Thâu-lan-giá; làm chùa xong thì phạm Tăng tàn. Nếu hai việc không như pháp hoặc một việc như pháp, một việc không như pháp hoặc hai việc như pháp thì từ giai đoạn đất còn bằng phẳng vạch đất làm tướng cho đến giai đoạn tô trét một cục bùn nữa mới xong đều phạm khinh Thâu-lan-giá; làm chùa xong thì phạm trọng Thâu-lan-giá. Nếu lấy tài vật của mình để làm Tăng phòng cũng như vậy. Nếu lấy vật của Tăng làm phòng cho một vị tăng, bất luận có được Tăng chỉ chỗ, làm phòng ở chỗ không có nạn hay không chướng ngại, làm xong thì phạm Đột-kiết-la; nếu làm ở chỗ có nạn, có chướng ngại từ giai đoạn đất còn bằng phẳng vạch đất làm tướng cho đến giai đoạn tô trét còn hai cục bùn nữa mới xong đều phạm khinh Thâu-lan-giá; tô trét còn một cục bùn nữa mới xong thì phạm trọng Thâu-lan-giá; làm chùa xong thì phạm Tăng tàn. Nếu lấy tài vật của mình và tài vật của thí chủ để làm chùa cũng như trong giới trước đã nói rõ. Dù làm phòng riêng như trong giới trước hay làm chùa lớn như trong giới sau, nếu vì tình cảm của người dành cho mình mà nhận làm nhưng làm không như pháp thì cả hai đều mắc tội. Dù làm chùa (Tăng phòng) hay làm phòng riêng cho mình đều phải bạch Tăng xin ba lần, thứ lớp tác pháp như trong giới trên đã nói rõ.

Ưu-bà-tắc: Tần dịch là bỏ ác tu thiện, cũng dịch là thân cận.

6. Giới không căn cứ vu báng thứ tám:

Phật tại thành Vương xá, nước Ca-tỳ-la vệ trưởng dưỡng sắc thân, nước Ma-kiệt-đà trưởng dưỡng pháp thân nên Phật ở thành Vương xá nhiều hơn. Do trưởng lão Đà-phiêu lực sĩ tử thành tựu năm pháp nên Tăng yết ma sai làm người trông coi ngọa cụ.

Hỏi: Người thành tựu năm pháp rất nhiều, vì sao Tăng chỉ sai trưởng lão Đà-phiêu?

Đáp: Vì trưởng lão Đà-phiêu là người ở lâu trong thành Vương xá lo việc tiếp đãi khách Tăng; lại do Phật muốn làm cho trưởng lão được mãn bổn nguyện. Quá khứ vào thời Phật Ca-diếp, trưởng lão Đà-phiêu cũng làm người trông coi ngọa cụ rất vừa ý chúng tăng; lúc đó trưởng lão có phát nguyện, nguyện vào đời vị lai cũng làm người trông coi ngọa cụ cho Tăng nên đến đời này trưởng lão lại được cử làm người trông coi ngọa cụ cho Tăng. Phật sở dĩ muốn người có đầy đủ đức hạnh trông coi ngọa cụ cho Tăng là muốn hiển bày pháp không xẻn tiếc, vì pháp của ngoại đạo là không muốn cho đệ tử có tài năng đảm nhận làm việc gì, vì sợ đức hạnh của đệ tử ngang bằng mình. Phật không như thế, tất cả không xẻn tiếc, tùy đệ tử giỏi hay kém về phương diện nào mà sai làm việc thích hợp; lại vì muốn hiển bày thứ bậc của trí huệ, phước đức, lớn nhỏ…, người trông coi ngọa cụ có phước đức như vậy huống chi là người thọ dụng. Lại nữa, Phật muốn làm trang nghiêm pháp của Phật Di-lặc ở đời vị lai, như hiện nay trưởng lão Xá-lợi-phất là Trí huệ bậc nhất, trưởng lão Đại Mục-kiền-liên là Thần thông bậc nhất, trưởng lão Ca-chiên-diên là Luận giải kinh bậc nhất, trưởng lão Phú-lâu-na là Tứ biện tài bậc nhất, trưởng lão A-nan là Tổng trì bậc nhất, trưởng lão Đà-phiêu là người trông coi ngọa cụ bậc nhất…; người đương thời thấy năm trăm đệ tử của Phật đều là những người bậc nhất như thế ắt sẽ phát nguyện thù thắng, thệ lập các hạnh và nguyện ở trong pháp của Phật vị lai cũng được bậc nhất như thế. Phật ra đời muốn trang nghiêm cho Phật vị lai nên đối với năm trăm đệ tử này tùy bậc nhất về phương diện nào mà trao việc ứng hợp. Lúc đó trưởng lão Đà-phiêu sắp xếp cho Tỳ-kheo A-lan-nhã ở cùng phòng với Trưởng lão A-lan-nhã, Tỳ-kheo trì luật ở cùng phòng với Tỳ-kheo trì luật, Pháp sư ở cùng phòng với Pháp sư, Kinh sư ở cùng phòng với Kinh sư…

Hỏi: Nếu sắp xếp đồng nghiệp ở chung như thế, há không có thiên tư gì hay sao?

Đáp: Không phải như vậy, do ở chung với đồng nghiệp nên không não loạn nhau và được an lạc trụ.

Hỏi: Bốn hạng người bốn hạnh nghiệp khác nhau, vì sao thường không rời nhau?

Đáp: Tỳ-kheo A-lan-nhã đối với pháp thiền có điều gì nghi chưa thông, muốn học hỏi thêm và muốn thường nghe pháp để tăng tiến sự tu, cho nên ở gần nhau. Luật sư đối với giới luật muốn biết giới tướng trọng khinh, sáng suốt quyết đoán tội và muốn hiểu rõ Tăng pháp, cho nên ở gần nhau. Pháp sư luận nghĩa thuyết pháp để xưng dương Tam bảo nên ở gần nhau để tăng trưởng thiện căn. Kinh sư đọc tụng đại kinh, hiểu biết sâu rộng nên ở gần nhau để tùy việc có thể giải đáp cho nhau.

Nếu trong Tăng phường ít phòng như có bốn phòng thì nên ưu tiên chia chó Tỳ-kheo A-lan-nhã, kế mới chia theo thứ lớp; nếu chùa có bốn tầng cũng theo thứ lớp chia như thế, nếu không có bốn phòng thì Tăng tùy nghi xử phân.

Không cần đèn đuốc: Tất cả ánh sáng thuộc về thần lực đều phải do tâm nhập định.

Hỏi: Nếu phân chia ngọa cụ ắt phải ra khỏi tâm định, vì sao trong tâm không định mà lại phát được ánh sáng?

Đáp: Phật không thể nghĩ bàn, Rồng cũng không thể nghĩ bàn, nghiệp báo cũng không thể nghĩ bàn. Trưởng lão Đà-phiêu căn tánh thông lợi, thiền định cũng thông lợi; khi phân chia ngọa cụ, khoảng thời gian giữa tâm nhập định và tâm xuất định rất nhanh gọi là tán tâm, vì nó nhanh quá nên gọi là một tâm. Như người đánh trống, tay đánh miệng hô lên, tâm đánh trống không duyên với tâm hô lên, hai tâm khác nhau nhưng vì nó nhanh quá nên gọi là một tâm; lại như người bơi nổi, tay cầm phao, chân đạp nước, tâm cầm phao và tâm đạp nước khác nhau nhưng vì nhanh quá nên gọi là một tâm cũng giống như thế. Lại nữa, tâm nhập định trước, tay liền phát ra ánh sáng, phát ra ánh sáng rồi mới xuất định; do thế lực của tâm nhập định nên tuy ở trong tâm không định, ánh sáng vẫn không mất. Giống như người thợ làm gốm, tay quay vòng để làm ra vật dụng, do thế lực của một lần quay vòng mà tự nó quay được đến năm, mười vòng không ngừng lại; trưởng lão Đà-phiêu cũng vậy, do thế lực của một lần nhập định mà ánh sáng trụ lâu. Quá khứ vào thời Phật Nhiên đăng, Phật ra đời thuyết pháp giáo hóa chúng sanh nhưng chúng sanh thời đó tham đắm thế lạc, biếng nhác buông lung nên không thọ Phật pháp. Phật nhập định dùng thần thông lực hóa làm một thành ấp trang nghiêm thanh tịnh, dân chúng trong thành giàu có hưởng thọ đầy đủ ngũ dục như thế trải qua mười hai năm, Phật cũng nhập định mười hai năm. Sau đó nước lớn bỗng dâng tràn cuốn trôi hết thành ấp này, dân chúng trong thành tan tác; chúng sanh tham đám thế lạc này thấy cảnh này rồi ngộ lẽ vô thường, nghĩ rằng: "Chúng ta không bao lâu sau cũng sẽ như vậy". Lúc đó Phật xuất định vọt lên hư không hiện đủ thứ thần biến rồi từ trên hư không hiện xuống thuyết pháp cho các chúng sanh này nghe, lúc đó có người được chứng quả Tu-đàhoàn… cho đến A-la-hán; có người gieo trồng nhân duyên Phật Bích-chi, có người phát tâm cầu đạo quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, như thế vô lượng chúng sánh đều được pháp lợi. Do định lực mà Phật còn dừng trụ trong định suốt mười hai năm, huống chi là ánh sáng dừng trụ trong chốc lát. Hỏi: Trong Phật pháp, có tội nên phát lồ còn có công đức thì nên che giấu, vì sao trưởng lão Đàphiêu lại thường phát ra ánh sáng nơi tay để tự hiển bày công đức?

Đáp: Tự hiển bày công đức có hai trường hợp: Một là vì lợi dưỡng và danh tiếng, hai là vì Phật pháp và chúng sanh. Nếu vì Phật pháp và chúng sanh thì tùy thời tự tại không có chướng ngại gì. Sở dĩ trưởng lão Đà-phiêu thường phát ra ánh sáng nơi tay là để ngăn dứt phỉ báng, như Phật khi bị một nữ Bà-la-môn vu báng liền cất tiếng gầm của Sư tử nói rằng: "Ta có mười lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cọng…”là để biểu bạch mình thanh tịnh; lại như trưởng lão Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên khi bị Cù-già-ly vu báng cũng cất tiếng gầm của Sư tử nói rằng: "Ta có bảy báu Giác ý như trong nhà trưởng giả có kho tàng với vô số y phục, châu báu tự tại lấy dùng; ta có bảy báu Giác ý cũng tùy ý lấy dùng”để biểu bạch mình thanh tịnh; trưởng lão Mục-liên thì nói: "Ta sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau", cũng để biểu bạch mình thanh tịnh; trưởng lão A-na-luật khi bị người phỉ báng cũng tự nói: "Ta vào lầu quán trí huệ tự tại du hí", cũng là để biểu bạch mình thanh tịnh; trưởng lão Sa-già-đà khi bị người phỉ báng là người uống rượu cũng tự nói: "Ta nhập định có thể làm cho từ dưới địa ngục A-tỳ lên đến cõi trời A-ca-nị-sắc-tra khắp nơi đều nổi lửa", để biểu bạch mình thanh tịnh; trưởng lão Thâu-tỳ-đà bị người phỉ báng cũng tự nói: "Trong một niệm, ta có thể biết được việc trong năm trăm kiếp", để biểu bạch mình thanh tịnh. Trưởng lão Đà-phiêu cũng vậy, khi bị Từ-địa vu báng, khi chia ngọa cụ, tay thường phát ra ánh sáng một là để biểu bạch mình thanh tịnh.

Hai là dứt trừ tâm khinh chê, như Tỳ-kheo học vấn khinh chê Tỳ-kheo tọa thiền và Tỳ-kheo siêng làm việc chúng Tăng, Tỳ-kheo tọa thiền cũng khinh chê hai hạng Tỳ-kheo kia, Tỳ-kheo siêng giúp việc chúng Tăng cũng khinh chê hai hạng Tỳ-kheo kia. Trưởng lão Đà-phiêu dùng định lực phát ra ánh sáng nơi tay để phân chia ngọa cụ và siêng làm việc chúng, mục đích diệt trừ tâm khinh chê hơn thua lẫn nhau.

Ba là để chiết phục tâm cống cao ngã mạn của các Tỳ-kheo A-lan-nhã tu hạnh ở dưới gốc cây trong rừng núi. Các vị này cho rằng các Tỳ-kheo ở gần thành ấp tâm thường tán loạn, nói nhiều, lo toan nhiều việc nên đạo nghiệp khó thể thành tựu; còn các Tỳ-kheo A-lan-nhã ở nơi tịch tĩnh mới không có lầm lỗi. Trưởng lão Đà-phiêu muốn chứng minh cho họ thấy tuy ở chỗ nhiều việc lo toan nhưng vẫn được đại thần lực, nên khi phân chia ngọa cụ nơi tay thường phát ra ánh sáng để chiết phục tâm các vị này.

Bốn là muốn thể hiện quả báo tinh tấn, nhờ tinh tấn lực mới được thần thông lực để khích phát những người biếng nhác buông lung.

Năm là muốn cho thí chủ đàn việt được tăng trưởng căn lành.

Sáu là muốn thể hiện pháp không thối chuyển, đức hạnh của trưởng lão Đà-phiêu trước đã thuần thục rồi, sau bị Từ địa vu báng nên nhiều người nghi là trưởng lão thối chuyển; trưởng lão khi phân chia ngọa cụ nơi tay thường phát ra ánh sáng để chứng minh mình thật không thối chuyển.

Bảy là muốn thể hiện đại oai đức của Tăng, một Tỳ-kheo trông coi ngọa cụ còn có thần đức như vậy huống chi là các vị có danh đức khác.

Tám là yêu tiếc chánh nghiệp, không muốn để cho luống mất nên khi phân chia ngọa cụ vẫn thường ở trong tâm định, khiến cho việc Tăng được xong mà pháp tu thiền định cũng không bị phế bỏ. Thật ra Tăng tác pháp yết ma cử trưởng lão Đàphiêu làm người sai đi phó hội (cắt đặt Tỳ-kheo đi thọ thí chủ thỉnh thực) trước, còn cử làm người phân chia ngọa cụ sau; vì bị Từ địa vu báng và do bảy nguyên nhân trên nên khi phân chia ngọa cụ, nơi tay trưởng lão thường phát ra ánh sáng. Người đương thời cho việc phân chia ngọa cụ là thù thắng hơn việc cắt đặt Tỳ-kheo phó hội nên đổi thứ lớp trước sau. Từ địa không biết sở dĩ mình đi thọ thỉnh thực chỉ gặp toàn thức ăn thô dỡ là do nghiệp lực đời trước, lại do Từ địa ngày đêm tâm không thanh tịnh nên trời rồng quỷ thần mới tạo ra nhân duyên khiến cho Tỳ-kheo này không được như ý. Thế tôn biết con: Là lời của trưởng lão Đà-phiêu bạch Phật, nhưng người thật sự thanh tịnh thì không nên nói như vậy, do nghiệp lực đời trước cũng không thể nói là không.

Hỏi: Vì sao Phật không nói Đà-phiêu là người thanh tịnh?

Đáp: Một là vì tâm Phật bình đẳng, không có thân sơ yêu ghét nên không thể liền quyết đoán là người này đúng người kia sai; hai là vì nghiệp quả của Đà-phiêu đã chín muồi, do quá khứ vào thời Phật Ca-diếp, Đà-phiêu làm người trông coi việc phân chia thức ăn cho Tăng. Lúc đó có một Tỳ-kheo trụ trong gò mả đã đắc quả A-la-hán, tướng mạo trang nghiêm đang đi trên đường; một người nữ vừa nhìn thấy Tỳ-kheo này liền sanh ái nhiễm nên nhìn theo mãi không thôi. Đà-phiêu nhìn thấy cảnh này cho là Tỳ-kheo này ắt đã cùng người nữ đó giao thông trước rồi, liền nói rằng: "Tỳ-kheo này ắt đã cùng người nữ kia làm pháp ác". Do nói lời vu báng bậc Hiền thánh nên Đà-phiêu sau khi mạng chung bị đọa vào địa ngục, chịu khổ hết rồi mới được sanh lên cõi người, nhờ nghiệp xưa nên được gặp Phật và đắc đạo, do nghiệp lực dư tàn nên nay chịu quả báo này.

Tỳ-kheo-ni Di-đa-la tự nói tạo tội vu báng này nên bị yết ma diệt tẫn: Nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni tự nói tạo tội vu báng này, nếu không hối cãi thì Tăng nên cho yết ma diệt tẫn, nếu không cho yết ma tẫn thì cứ đuổi thẳng; nếu hối cãi thì phạm Thâu-lan-giá, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo phạm giới, bên trong mục nát, cả chúng đều biết thì không cần vị đó tự thú tội mà nên đuổi thẳng; nếu cho yết ma tẫn thì bảo vị đó tự thú tội cho xa gần đều nghe biết để chiết phục tội ác, không dám tạo tội nữa. Hễ năm chúng tự nói phạm tội trọng dù trước một người hay trước nhiều người đều nên đuổi ra khỏi chúng; Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni hiện tiền còn ba chúng dưới không được hiện tiền. Trường hợp trưởng lão Đà-phiêu bị vu báng nên Tăng cho Ức niệm Tỳ-ni như trong bảy pháp diệt tránh đã nói rõ.

Pháp bị yết ma diệt tẫn là không được cùng chúng tăng làm tất cả Tăng sự và các pháp yết ma, khi Tăng tự tứ thọ tuổi hạ lạp cũng không được thọ tuổi; nếu chết, Tăng không được yết ma phân chia y vật, nên đem cho bà con của vị ấy hay cho cư sĩ. Người bị tẫn không được thọ người khác lễ bái cúng dường, không được nghe thuyết giới và làm các yết ma, cũng không được gởi dục thanh tịnh.

Có ba hạng người chắc chắn đọa vào địa ngục về tội vu báng, có thuyết cho là hai hạng người. Phật không muốn trực tiếp nói lỗi của mình người, vì trong chúng có việc ác này xảy ra nên nhân đây nói lỗi ra để chiết phục tâm người ác tự biết hổ thẹn. Luận về người sống trên thế gian, búa sanh ở trong miệng vì nói lời thô ác vu báng nên Phật tự nói nhân duyên xưa: Quá khứ cách đây vô số kiếp có Phật ra đời hiệu là A-lê-la, trong giáo pháp của Phật có hai anh em xuất gia làm Tỳ-kheo. Người anh tu thiền chứng quả A-la-hán có đủ ba Minh sáu Thông, người em học thông ba tạng xiển dương chánh pháp nên được người đương thời tôn sùng. Người anh nhờ chứng Thánh đạo nên được lợi dưỡng nhiều hơn, có đàn việt cúng cho người anh chiếc mền bông mà không cúng cho người em, tất cả y thực, thuốc thang khác cũng như vậy nên người em khởi tâm ganh ghét muốn vu báng hại anh. Sau đó đàn việt sai con gái mang thức ăn đến, người em bảo cô gái: "Cô hãy vu báng Tỳ-kheo ấy giúp ta", cô gái nói: "Sao lại vu báng cho bậc Thánh nhân?", người em dùng đủ lời dụ hoặc tâm cô gái và cô gái nhận lời, người em nói: "Ta lấy chiếc mền bông của vị ấy đưa cho cô làm bằng chứng, cô hãy nói với mọi người là đã cùng Tỳ-kheo ấy hành dâm và được cho chiếc mền này". Cô gái y theo lời dạy nói với mọi người như vậy khiến cho mọi người đều sanh nghi hoặc, Tỳ-kheo chứng A-la-hán này thấy hai người này đã tạo đại tội liền bỏ đi đến nơi khác.

Phật nói: "Tỳ-kheo em thuở đó chính là thân ta ngày nay, cô gái thuở đó chính là Tôn-đà-lợi ngày nay; thuở xưa vì ta vu báng bậc Lậu tận A-la-hán nên ngày nay dù ta được Lậu tận ở địa vị Vô học vẫn trở lại bị vu báng". Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo là để ngăn dứt phỉ báng, khiến cho chánh pháp được trụ lâu và các vị phạm hạnh được an lạc trụ, đạo nghiệp không bị chướng ngại.

Đây là cọng giới, Tỳ-kheo phạm Tăng tàn, Tỳ-kheo-ni cũng phạm Tăng tàn, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la.

Ba-la-di không căn cứ vu báng có bốn loại: Một là dùng pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng người khác thì phạm Tăng tàn; hai là dùng pháp Tăng tàn không căn cứ vu báng người khác thì phạm Ba-dật-đề; ba là không căn cứ vu báng người khác làm Phật bị thương chảy máu và phá hòa hợp tăng thì phạm Thâu-lan-giá; bốn là dùng pháp Ba-dật-đề không căn cứ vu báng người khác thì phạm Đột-kiết-la.

Nói tội thô của người khác có ba loại: Một là nói người khác phạm Ba-la-di và Tăng tàn thì phạm Ba-dật-đề; hai là nói người khác làm thân Phật bị thương chảy máu và phá Tăng thì phạm Thâu-lan-giá; ba là nói người khác phạm Ba-dật-đề thì phạm Đột-kiết-la.

Che giấu tội thô của người khác cũng có ba loại: Một là che giấu tội Ba-la-di và Tăng tàn của người khác thì phạm Ba-dật-đề; hai là che giấu tội làm Phật bị thương chảy máu và phá Tăng của người khác thì phạm Thâu-lan-giá; ba là che giấu tội Ba-dật-đề của người khác thì phạm Đột-kiết-la. Khinh chê giới tức là khinh chê năm thiên giới thì phạm Ba-dật-đề, cho đến khinh chê một thiên giới sau cùng cũng phạm Ba-dật-đề. Không căn cứ vu báng, nói tội thô của người khác và khinh chê giới ba việc này là pháp đấu tranh làm não loạn; che giấu tội thô của người khác tức là che giấu tội ác làm nhiễm ô Phật pháp. Lại nữa, không căn cứ vu báng và nói tội thô của người khác sẽ làm chướng ngại việc tụng kinh hành đạo của người khác; khinh chê giới tức là hoại pháp thân Phật; che giấu tội thô của người khác tức là khiến cho Phật pháp không thanh tịnh, trưởng dưỡng pháp ác. Không căn cứ có ba là thấy nghe và nghi, dựa trên ba điều này thì gọi là có căn cứ, không dựa trên ba điều này thì gọi là không căn cứ. Trong ba điều này chỉ nghi không thì không thành căn cứ, mắt thấy căn cứ là mắt phải thanh tịnh, không bịnh, thấy sự việc rõ ràng, đáng tin cậy; mắt thấy trong đây là chỉ cho nhục nhãn thấy, không phải là thiên nhãn thấy vì nếu dùng thiên nhãn thấy để nói lỗi của người khác thì ai mà không có lỗi và như vậy sẽ làm chướng ngại và não loạn rất nhiều, cho nên Phật không cho dùng thiên nhãn. Tai nghe căn cứ là tai phải thanh tịnh, không lãng tai, nặng tai, nghe biết rõ ràng, đáng tin cậy, cũng không phải dùng thiên nhĩ nghe biết giống như trường hợp dùng thiên nhãn ở trên. Nếu cử tội hay nêu ra tội của người tức là nói tướng quyết định, cho nên phải dựa trên ba căn cứ này, chỉ nghi không không thì không phải là quyết định, hoặc cho là phạm hoặc cho là không phạm nên không đáng tin cậy, không thành căn cứ.

7. Giới Phá Tăng thứ mười:

Hỏi: Phá Pháp luân tăng và phá Yết ma tăng có gì sai khác?

Đáp: Có nhiều sai khác, phá Pháp luân tăng và phá yết ma tăng đều phạm Thâu-lan-giá, nhưng phá Pháp luân tăng thì phạm tội nghịch Thâu-lan-giá không thể sám hối, còn phá yết ma tăng phạm Thâu-lan-giá không phải nghịch có thể sám hối. Lại nữa, phá Pháp luân tăng sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ chịu tội trong một kiếp, còn phá yết ma tăng thì không đọa địa ngục. Lại nữa, phá Pháp luân tăng ít nhất là chín người, trong số đó có một người tự xưng là Phật; còn phá yết ma tăng thì ít nhất là tám người, không có người tự xưng là Phật. Lại nữa phá Pháp luân tăng ở trong hay ở ngoài giới đều phá được, còn phá yết ma tăng phải ở trong giới riêng làm yết ma mới phá được. Lại nữa, phá Pháp luân tăng phải là người nam, còn phá yết ma tăng nam hay nữ đều có thể phá. Lại nữa, phá Pháp luân tăng chỉ phá Tăng thuộc Tục đế, còn phá yết ma tăng thì cả Tăng thuộc Tục đế và Tăng thuộc đệ nhất nghĩa đế đều có thể phá. Lại nữa, phá Pháp luân tăng chỉ phá ở cõi Diêm phù đề, còn phá yết ma tăng thì thông cả ba cõi đều phá được, trừ cõi Uất đơn việt.

Điều đạt dùng năm pháp để dụ các Tỳ-kheo trẻ tuổi khiến cho họ sanh kiến giải khác. Năm pháp này là căn bản cho việc phá Tăng.

Hỏi: Năm pháp này thường được Phật khen ngợi, sao lại gọi là phi pháp?

Đáp: Phật thường khen ngợi tu theo bốn Thánh chủng sẽ được tám Thánh đạo và bốn Quả Sa-môn, nhưng Điều đạt nói ngược lại rằng tám Thánh đạo tuy hướng đến Niết-bàn nhưng chậm và khó, còn năm pháp này hướng đến giải thoát Niết-bàn rất mau, cho nên gọi là phi pháp.

Phi pháp nói là pháp: Năm pháp là phi pháp mà nói là pháp; pháp nói là phi pháp: Tám Thánh đạo là pháp mà nói là phi pháp; phi luật nói là luật: Năm pháp là phi luật mà nói là luật; luật nói là phi luật: Tám Thánh đạo là luật mà nói là phi luật; không phạm nói là phạm: Phật không chế giới thuộc về tâm thì Điều đạt nói rằng tâm khởi ba độc tức là phạm giới; phạm nói là không phạm: Phật nói không cạo tóc, không cắt móng tay là phạm giới thì Điều đạt nói rằng tóc và móng tay cũng có mạng sống nên không cần phải cạo và cắt; phạm khinh nói là trọng: Như rồng ưu-bát-la hái lá cây phạm tội khinh, Điều đạt lại nói rằng người làm chết cây cỏ đều phạm trọng; phạm trọng nói là khinh: Điều đạt thấy Tu-đề-na và Đạt-ni-ca phạm trước khi Phật chế giới nên không thành phạm trọng, liền nói rằng phạm Dâm và Trộm là tội khinh; hữu tàn nói là vô tàn: Bốn thiên giới sau có phạm là hữu tàn mà nói là vô tàn; vô tàn nói là hữu tàn: Phạm bốn giới trọng là vô tàn mà nói là hữu tàn; pháp thường sở hành nói không phải là pháp thường sở hành: Tám Thánh đạo là pháp thường sở hành, Điều đạt nói là không phải pháp thường sở hành; không phải pháp thường sở hành nói là pháp thường sở hành: Năm pháp không phải pháp thường sở hành mà nói là pháp thường sở hành; phi giáo nói là giáo: Phạm bốn giới trọng mà nói là tội khinh, phạm bốn thiên giới sau lại nói là tội trọng, đây là phi giáo (không phải lời Phật dạy)mà nói là giáo (lời Phật dạy); giáo nói là phi giáo: Phạm bốn giới trọng là tội trọng, phạm bốn thiên giới sau là tội khinh, đây là giáo (lời Phật dạy) mà nói là phi giáo (không phải lời Phật dạy).

QUYỂN 4

3. Nhân Duyên Kết Mười Ba Tăng Tàn (Tiếp Theo):

8. Giới Ô-tha-gia thứ mười hai:

Mã túc và Mãn túc là tên của hai ngôi sao, lúc hai vị này sanh ra, hai ngôi sao này vừa mọc nên được đặt tên theo tên hai ngôi sao này. Xuất thân từ nhà giàu có nên đắm trước thế lạc tâm không buông bỏ nên sau khi xuất gia thường phạm giới, buông lung làm các ác hạnh, làm nhơ tâm người tại gia, tạo nhiều ác nghiệp, phá tâm thiện tín kính của người nên gọi là Ô-tha-gia.

Làm các ác hạnh: Là làm các nghiệp không thanh tịnh, ô uế sẽ mắc quả báo ác; Ô-tha-gia: Nếu Tỳ-kheo đem phẩm vật biếu tặng cho quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ… tất cả tại gia để mong cầu việc gì cho Tam bảo hay cho riêng mình thì gọi là Ô-tha-gia. Vì sao, vì luận về người xuất gia là phải vô vi vô dục, thanh tịnh tự giữ, lấy việc tu đạo làm tâm; nếu tặng đưa phẩm vật cho người thế tục, giao tiếp qua lại sẽ phế bỏ chánh nghiệp, không phải là điều mà người xuất gia nên làm. Lại nữa, nếu tặng đưa phẩm vật cho bạch y tức là làm hoại tâm bình đẳng của họ, người nào được tặng vật thì vui thích kính yêu, người không được tặng vật thì dù là Hiền thánh cũng không kính mộ; như thế sẽ làm mất phước lợi sâu dày của họ, lại còn làm đảo loạn Phật pháp. Luận về người tại gia là phải cúng dường tứ sự cho người xuất gia, nhưng người xuất gia lại tăng đưa phẩm vật cho họ tức là đánh mất Thánh tâm làm đảo loạn Phật pháp. Người tại gia đáng lẽ phải cầu ruộng phước thanh tịnh nơi Tam bảo, cắt giảm phần thọ dụng của mình để gieo trồng thiện căn; nhưng người xuất gia lại tặng đưa phẩm vật khiến họ sanh tâm mong cầu nơi người xuất gia, không những làm hoại tâm tín kính thanh tịnh đối với Tam bảo của họ mà còn làm mất lợi dưỡng của tất cả người xuất gia. Nếu đem một ít phẩm vật biếu cho bạch y, dù xây được tháp bằng bảy báu trang nghiêm cũng không bằng tọa thiền, trì giới thanh tịnh mới là chân thật cúng dường pháp thân Như lai. Nếu đem một ít phẩm vật biếu cho bạch y, dù lập được tinh xá rộng lớn như tinh xá Kỳ-hoàn cũng không bằng tọa thiền, trì giới thanh tịnh mới là chân thật cúng dường Tam bảo. Nếu đem một ít phẩm vật biếu cho bạch y, dù tất cả Thánh chúng trong cõi Diêm phù đề đều được tứ sự cúng dường đầy đủ, cũng không bằng tọa thiền, trì giới thanh tịnh mới là chân thật cúng dường Thánh chúng.

Nếu người có thế lực muốn phá tháp hoại tượng, thay vì đem phẩm vật biếu cho họ để bảo toàn tháp và tượng thì nên bán các loại hoa quả trong đất tháp được tiền, hoặc nhờ các duyên khác được tài vật rồi tùy nghi giải quyết. Nếu người có thế lực muốn phá hoại, chiết giảm vật Tăng, nên tùy trong đất Tăng có vật gì bán được, đem bán lấy tiền rồi tùy duyên giải quyết.

Cha mẹ là ruộng phước nên Phật cho cúng dường cha mẹ; nếu người thuộc Tăng làm sai dịch cho Tăng thì nên cho; nếu thí chủ muốn làm thức ăn cho Tăng và muốn biết pháp thì nên cho; tất cả người nghèo khổ đơn chiếc ăn xin… vì tâm thương xót nên cho; tất cả ngoại đạo đối với Phật pháp có tâm ganh ghét, thường rình tìm hay dở thì nên cho; nếu vì mạng sống đáng cho y bát để được thoát nạn thì nên cho.

Ngồi chung một giường với người nữ: Tỳ-kheo không được ngồi chung giường với người nữ, nếu ngồi chung thì phạm Đột-kiết-la; ngồi chung một chiếu một nệm cũng Đột-kiết-la; nếu giường dài giáp kế nhau, ngồi phải có khoảng cách ở giữa hoặc khác chiếu, khác nệm thì được ngồi.

Người nữ: Chỉ tất cả người nữ bao gồm mẹ, chị em gái, con gái bất luận thân sơ đều không được ngồi chung, vì hoại oai nghi. Dùng hương thơm thoa thân: Nếu xông thơm y phục thì bốn chúng kia phạm Đột-kiết-la, riêng Tỳ-kheo-ni thì phạm Ba-dật-đề vì người nữ dễ đắm nhiễm. Cả năm chúng đều không được dùng nước thơm rưới đất, trừ khi để cúng dường Tam bảo. Tự xỏ hoa làm vòng hoa hay bảo người khác làm: Vì trong việc này có làm các ác hạnh, trở ngại việc hành đạo, cho dù làm để cúng dường Tam bảo cũng không được làm. Lại nữa các loại trang nghiêm như hoa thơm, chuỗi ngọc… đều không được đeo trên thân Phật, chỉ được rải trên đất để cúng dường. Nếu Tỳ-kheo dùng hoa cúng dường Tăng, không được rải trên thân chúng tăng.

Cả năm chúng đều không được làm cho voi đấu nhau cho đến gà đá nhau; nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni có tâm sát khiến chúng đấu đá nhau mà chết thì phạm Ba-dật-đề, chúng không chết thì phạm Đột-kiết-la, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Cả năm chúng cũng không được chạy trừ có nhân duyên cấp bách. Cả năm chúng đều không được khóc lớn tiếng, cho dù cha mẹ qua đời cũng không nên khóc lớn, nếu khóc lớn tiếng thì bốn chúng kia phạm Đột-kiết-la, riêng Tỳ-kheo-ni thì phạm Ba-dật-đề vì tâm luyến ái nặng. Cả năm chúng đều không được kêu to vì hoại oai nghi, trừ có nhân duyên cấp bách; cũng không được huýt sáo vì hoại oai nghi.

Lúc đó tôn giả A-nan:

Hỏi: A-nan là thị giả của Phật sao lại rời Phật đi đến nơi khác? Đáp: A-nan tùy chúng sanh hữu duyên đáng được độ thì đi.

Hỏi: Lúc nào thì A-nan được rời Phật đi nơi khác?

Đáp: Như khi Phật nhập thiền hoặc khi Phật đi nơi khác mà A-nan không được đi theo, hoặc vâng lời Phật dạy đi đến đó. Những lúc đó A-nan được rời Phật du hành.

A-nan mang bát đi rồi mang bát không trở về:

Hỏi: A-nan là thị giả của Phật có công đức lớn, nơi đó lại là nơi tôn giả ra đời, người nơi đó đều là bà con vì sao đi khất thực lại mang bát không trở về?

Đáp: Vì Mã túc và Mãn túc ở nơi đó làm những việc phi pháp và đủ các ác hạnh, làm nhơ tâm thanh tịnh của người (Ô-tha-gia); A-nan không bị não hại là may mắn lắm rồi huống chi là được thức ăn, lại do A-nan từ khi xuất gia đến nay trải qua nhiều năm tháng nên mọi người không còn nhớ A-nan.

9. Giới nói lời chống trái thứ mười ba:

Nếu như thế: Các đệ tử của Phật được tăng trưởng lợi ích là nhờ cùng nói chuyện với nhau, cùng dạy bảo lẫn nhau và cùng xuất tội (cử tội, nêu tội ra) cho nhau.

Hỏi: Trong Kinh Phật có dạy chỉ tự quán thân hành, chớ xét thiện bất thiện, trong đây lại nói dạy bảo lẫn nhau, xuất tội cho nhau há không trái ngược hay sao?

Đáp: Phật tùy thời chế giới, tuy nói trái ngược nhưng lại đưa đến hòa hợp thì không còn trái ngược nữa. Đối với chúng sanh có tâm yêu ghét nên lời nói ra ắt có tổn hại, Phật mới dạy chỉ tự quán thân hành, chớ xét thiện bất thiện; nếu vì lòng từ làm lợi ích thì nên dạy bảo lẫn nhau. Đối với người độn căn, không có trí huệ, lời nói ra không có lợi ích nên Phật mới dạy chỉ tự quán thân hành, chớ xét thiện bất thiện; nếu là người lợi căn có trí huệ, lời nói ra có lợi ích thì nên dạy bảo lẫn nhau. Nếu vì lợi dưỡng và danh tiếng thì Phật dạy chỉ tự quán thân hành, chớ xét thiện bất thiện; nếu vì làm lợi ích và an lạc cho chúng sanh để xiển dương Phật pháp thì nên dạy bảo lẫn nhau. Lại nữa, vì muốn thể hiện pháp lạc nên Phật dạy chỉ tự quán thân hành, chớ xét thiện bất thiện; nếu muốn đem giáo pháp ra giáo hóa chúng sanh để được lợi ích an lạc giống như mình thì nên dạy bảo lẫn nhau. Lại nữa, đối với người mới xuất gia còn luyến ái cha mẹ, anh chị em nên Phật mới dạy chỉ tự quán thân hành, chớ xét thiện bất thiện; nếu là người đã thấm nhuần Phật pháp có thể kiêm giáo hóa người khác thì nên dạy bảo lẫn nhau.

4. Nhân Duyên Kết Hai Pháp Bất Định:

Lúc đó Tỳ-xá-khư đến nhà của Quật-đa:

Hỏi: Tỳ-xá-khư là người thông minh lợi căn, có đức biết tôn trọng người khác, vì sao thấy Tỳ-kheo cùng người nữ ngồi ở chỗ khuất mà còn đi đến đó? Đáp: Người này đã nhập đạo, tin ưa Phật pháp sâu xa. Phật thường nói nghe pháp có năm điều lợi: Một là được nghe pháp chưa từng nghe, hai là đã từng nghe hiểu rồi thì được thanh tịnh kiên cố, ba là trừ được tà kiến, bốn là có được chánh kiến và năm là hiểu pháp sâu xa. Vì Tỳ-xá-khư đã hiểu pháp sâu xa nên không vì hiềm nghi mà tự ngại. Đối với người tại gia chưa nhập đạo, Phật nói nhiều về công đức bố thí; đối với người xuất gia đã nhập đạo thì Phật nói nhiều về công đức trì giới.

Phật kiết giới này cho các Tỳ-kheo một là để ngăn dứt phỉ báng, hai là để dứt trừ đấu tranh, ba là vì pháp tăng thượng, Tỳ-kheo xuất gia nên đoạn tuyệt tục uế để được trời người tôn trọng, đem Đạo giáo hóa chúng sanh; nếu cùng người nữ ngồi ở chỗ khuất lén lút riêng tư thì trên trái với Thánh ý, dưới mất tâm tín kính của trời người. Bốn là để đoạn trừ pháp theo thứ lớp đưa đến nghiệp ác vì ban đầu ở chỗ khuất dần đưa đến chỗ đắm nhiễm thì không việc gì là không xảy ra, cho nên phải đề phòng. Tỳ-xá-khư đã nhập đạo, được lòng tin vô lậu nên không vì mình cũng vì người khác và cũng không vì tài lợi mà vọng ngữ. Không cố ý vọng ngữ: Phàm phu nếu đã tin ưa Phật pháp cho dù gặp nhân duyên phải mất mạng cũng không cố ý vọng ngữ huống chi là Thánh nhân. Nếu có người nói rằng: "Nếu ngươi chịu nói dối thì ta sẽ không hại mạng ngươi, nếu không chịu nói dối thì ta sẽ hại mạng ngươi", nên tự suy nghĩ: "Ta không nói dối thì chỉ hại nhục thân này, mất một thân này; nếu ta chịu nói dối thì mất vô số thân và hại cả pháp thân, vì vậy ta thề không nói dối", đây là không vì mình mà vọng ngữ. Nếu có người lại nói: "Nếu ngươi chịu nói dối thì cứu được cha mẹ, anh chị em cùng tất cả thân quyến của ngươi; không chịu nói dối thì tất cả họ sẽ bị giết chết", nên tự suy nghĩ: "Ta không nói dối thì hại chết bà con thân quyến trong một đời sanh tử này, nếu ta chịu nói dối ta sẽ lưu chuyển trong ba đường ác, vĩnh viễn mất hết bà con quyến thuộc nhiều đời ở cõi trời người; lại còn mất cả quyến thuộc Hiền thánh xuất thế gian", đấy là không vì người khác mà vọng ngữ. Nếu có người lại nói: "Nếu ngươi chịu nói dối, ta sẽ cho ngươi nhiều châu báu, tiền tài và lợi lộc; nếu ngươi không chịu nói dối thì ngươi sẽ không được gì cả", nên tự suy nghĩ: "Ta không nói dối thì chỉ mất tiền tài của thế tục, nếu ta nói dối ta sẽ mất Thánh pháp tài", đây là không vì tài lợi mà vọng ngữ.

Bất định: Khi Phật ngồi nơi đạo tràng đã quyết định năm thiên giới khinh trọng và thông bít, không có pháp Bất định; trong đây sở dĩ nói Bất định là để cho Ưu-bà-di đáng tin không biết tướng tội trọng khinh, cũng không biết tên tội, nếu thấy Tỳ-kheo cùng người nữ ngồi chung một chỗ, không biết cùng làm việc gì hoặc là cùng hành dâm hay là cùng xúc chạm hay là nói lời thô (yêu đương tình tứ)… nên gọi là Bất định. Giới cùng người nữ ngồi ở chỗ khuất này dù Phật đã kết giới hay chưa kết đều nên cho Thật mích Tỳ-ni; nếu Tỳ-kheo ban đầu nói như vậy, sau lại nói không phải như vậy hoặc nói tôi không đến đó, không phạm tội đó… thì Tăng nên theo lời của Ưu-bà-di đáng tin mà cho Tỳ-kheo này Thật mích Tỳ-ni. Làm như vậy để người phạm tội chiết phục tâm ác, không che giấu tội nữa và để cho các vị phạm hạnh được an lạc trụ, đồng thời khiến cho pháp ác không khởi lên trong tương lại. Người bị Thật mích Tỳ-ni tuy cho người thọ giới cụ túc, cho người y chỉ, chứa nuôi Sa-di… đều thành nhưng phạm Đột-kiết-la vì theo Bất giáo Tỳ-ni. Nếu cho yết ma rồi mà tự nói tội trước đó thì tăng nên cho giải yết ma rồi tùy tội nặng nhẹ mà trị; nếu không tự nói tội thì trọn đời không nên cho giải yết ma. Pháp Bất định thứ hai chỉ có chỗ và hai pháp là khác, ngoài ra tất cả đều đồng, cho Thật mích Tỳ-ni cũng đồng.

5. Nhân Duyên Kết Ba Mươi Pháp Xả Đọa:

1. Giới cất chứa y dư thứ nhất:

Lục quần Tỳ-kheo: Một là Nan-đà, hai là Bạtnan-đà, ba là Ca-lưu-đà-di, bốn là Xiển-na, năm là Mã túc và sáu là Mãn túc. Có thuyết cho là có hai người được Lậu tận nhập Niết-bàn vô dư, đó là Ca-lưu-đà-di và Xiển-na. Có hai người được sanh lên trời, đó là Nan-đà và Bạt-nan-đà; nhưng có thuyết cho là cả hai đều phạm giới trọng, nếu phạm trọng thì không được sanh lên trời. Có hai người bị đọa vào đường ác, sanh trong loài rồng, đó là Mã túc và Mãn túc. Trong sáu người này, có hai người giỏi về toán số, âm dương và đoán vận, đó là Nanđà và Bạt-nan-đà; hai người giỏi về bắn cung là Ca-lưu-đà-di và Xiển-na; hai người giỏi về âm nhạc và các trò vui chơi, cũng giỏi luận nghị và thông hiểu A-tỳ-đàm, đó là Mã túc và Mãn túc; hai người giỏi về thuyết pháp và luận nghị là Nan-đà và Bạt-nanđà; hai người thông hiểu về A-tỳ-đàm là Ca-lưu-đà-di và Xiển-na. Có thuyết cho là sáu người này thông hiểu ba tạng, mười hai bộ kinh không gì là không hiểu; bên trong là rường cột của Phật pháp, bên ngoài là người đại hộ Phật pháp. Trong sáu người này, hai người nhiều tham dục là Nan-đà và Bạt-nan-đà; hai người nhiều sân là Mã túc và Mãn túc; hai người nhiều si là Ca-lưu-đà-di và Xiển-na; có thuyết nói ba người nhiều tham dục là Nan-đà, Bạt-nan-đà và Ca-lưu-đà-di; chỉ có một người nhiều si là Xiển-na. Trong sáu người này, năm người thuộc trong hoàng tộc họ Thích là Nan-đà, Bạt-nan-đà, Xiển-na, Mã túc và Mãn túc; chỉ có Ca-lưu-đà-di là thuộc dòng Bà-la-môn. Cả sáu người đều là con nhà giàu có, quý tộc, sau khi xuất gia kết thành một nhóm gọi là Lục quần Tỳ-kheo, rất thông suốt Phật giáo.

Mặc y khác: Vì cất chứa nhiều y nên tùy thời tùy chỗ mà mặc y khác nhau; có thuyết cho là y mặc trong ngày hôm nay, hôm sau không mặc lại, mỗi ngày mặc mỗi khác.

Hỏi: Do đâu có nhiều y phục như vậy?

Đáp: Vì xuất thân trong nhà giàu có, khi còn tại gia thích đeo chuỗi ngọc… đủ các loại phục sức; sau khi xuất gia do thói quen trước kia nên thích y bát đẹp, lại thêm tánh tham dục tích chứa nhiều đời nên cất chứa nhiều không biết nhàm chán.

Hỏi: Pháp tịnh thí là chân thật thí hay là giả danh thí?

Đáp: Tất cả pháp tịnh thí, chín mươi sáu phái ngoại đạo đều không có, do Phật đại từ bi khai phương tiện cho tịnh thí, chỉ là phương tiện thí không phải chân thật thí, mục đích cho các đệ tử được cất chứa tài vật dư mà không phạm giới.

Hỏi: Vì sao Phật không cho thẳng các đệ tử được cất chứa tài vật dư, lại miễn cưỡng kiết giới rồi lập bày phương tiện làm gì?

Đáp: Phật pháp lấy thiểu dục tri túc làm gốc cho nên Phật kết giới không được cất chứa tài vật dư. Vì chúng sanh căn tánh không đồng, có chúng sanh thích cất chứa nhiều sau mới tu thành đạo và chứng được Thánh quả nên sau khi kết giới rồi, Phật phải lập bày phương tiện khai cho tịnh thí để ở trong Phật pháp được vô ngại và chúng sanh cũng được lợi ích. Như có một Tỳ-kheo đến chỗ Phật cầu xin cho ở trong phòng tốt đẹp trang nghiêm với đầy đủ tiện nghi như giường nệm, mền gối… đều tốt đẹp; Phật bảo A-Nan-đáp ứng nhu cầu cho Tỳ-kheo này để vị ấy được được an tâm hành đạo, sau đó ứng cơ thuyết pháp khiến cho vị này ngay nơi tòa ngồi đoạn dứt phiền não được Lậu tận chứng quả A-la-hán, ba Minh sáu Thông… các Thánh pháp đều đầy đủ. Phật chế giới thông hay bít đều tùy căn tánh chúng sanh vi chỉ có Phật mới biết Tỳ-kheo này vốn là từ trên cõi trời thứ sáu sanh xuống cõi người, nên Phật tùy thuận thói quen xưa rồi nhân đó hóa độ và khai cho tịnh thí, được chứa tài vật dư mà không phạm giới.

Hỏi: Tỳ-kheo chủ tịnh thí không phạm cất chứa tài vật dư hay sao?

Đáp: Không phạm vì đã làm phương tiện thí nên tài vật cất chứa là thuộc của người khác. Phật chế giới này cho các Tỳ-kheo vì nếu Tỳ-kheo tham đắm thế lợi thì lợi về đạo không thành, lại còn làm mất lòng tín kính của đàn việt. Tỳ-kheo nếu không biết nhàm chán thế lợi thì không khác người thế tục, trái lời Phật dạy và bốn pháp Thánh chủng. Đây là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la.

Tài vật dư có năm: Một là vật báu, hai là tiền và vật tợ báu, ba là y hoặc y tài đúng lượng, bốn là y và y tài không đúng lượng, năm là các loại thực phẩm như lúa gạo… Tỳ-kheo không được cất chứa tất cả tiền bạc vật báu, nếu cất chứa vật báu phải xả cho tịnh nhơn đồng tâm rồi ở trong Tăng sám tội Ba-dật-đề; nếu là tiền và vật tợ báu, trừ trong số một trăm lẻ một vật, tất cả đều nên xả cho tịnh nhơn đồng tâm rối sám tội Đột-kiết-la. Tiền và vật báu thuyết tịnh có hai: Một là nếu bạch y mang tiền và vật báu đến đưa cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo nên nói: "Vật bất tịnh này tôi không được cất chứa, nếu tịnh thì sẽ thọ", nói như vậy là tịnh pháp. hai là nếu bạch y nói: "Vật báu này thầy nên đổi lấy tịnh vật để cất chứa", nói như vậy tức là tác tịnh; nếu bạch y không nói câu này, Tỳ-kheo cũng không thuyết tịnh như trên thì nên để vật trên đất mà đi; Nếu có Tỳ-kheo thì nên đến bên Tỳ-kheo này làm pháp thuyết tịnh mới được tùy ý cất chứa lâu hay mau; nếu không có Tỳ-kheo thì không được nhận lấy tài vật này, nếu nhận lấy thì phạm Xả đọa. Nếu được y đúng lượng hay không đúng lượng đều nên thuyết tịnh, thuyết tịnh liền thì càng tốt; nếu không thuyết tịnh thì được cất chứa trong vòng mười ngày không có lỗi, đến ngày thứ mười nên cho người khác hoặc tịnh thí hay thọ trì; nếu không cho người khác, không tịnh thí và không thọ trì thì qua ngày thứ mười một, trời vừa sáng liền phạm Xả đọa, y đúng lượng này nên xả rồi sám tội Ba-dật-đề; y không đúng lượng cũng nên xả rồi sám tội Đột-kiết-la. Nếu được các loại thực phẩm như lúa gạo … thì ngay trong ngày đó nên tác tịnh; nếu không có bạch y thì nên ở bên bốn chúng tác tịnh, nếu không tác tịnh thì qua hôm sau trời vừa sáng liền phạm Xả đọa, các loại thực phẩm này nên xả rồi sám tội Đột-kiết-la.

Sa-di nên cất chứa hai y thượng hạ: Một là y thường mặc sẽ làm y An-đà-hội, hai là y sẽ làm y Uất-đa-la-tăng để mặc khi vào trong Tăng hoặc khi đi đâu. Những vật thường theo bên mình như Tăng-kỳ-chi, Nê-hoàn-tăng, y phú-kiên, phú-la… thì được cất chứa mỗi thứ một cái, ngoài những thứ cần dùng trên, tất cả thứ khác đều là tài vật dư. Nếu được tiền và vật báu nên liền thuyết tịnh, nếu không thuyết tịnh thì tiền và vật báu đó nên xả và sám tội Đột-kiết-la. Nếu được y đúng lượng hay y không đúng lượng cũng được cất chứa đến mười ngày, quá mười ngày nên xả rồi sám tội Đột-kiết-la; các loại thực phẩm như lúa gạo… đều không được để qua đêm giống như pháp của tỳ-kheo.

Trong năm loại y có ba loại cất chứa quá mười ngày phạm Xả đọa: Một là y bị bò nhai, hai là y bị chuột cắn, ba là y bị cháy; hai loại y còn lại là y dơ của nam nữ mới giao hợp và y dơ của người nữ sau khi sanh, cất chứa quá mười ngày không phạm Xả đọa, chỉ phạm Đột-kiết-la.

Mười ngày: Do Phật biết pháp tướng nên chế đúng mười ngày, không chậm không gấp, không thêm không bớt. Nếu ngày đầu được y mà bị tăng cho yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn, hoặc người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại; nếu Tăng không giải tẫn hoặc không trở lại bổn tâm (hết điên cuồng) cho đến lúc mạng chung thì không phạm giới này; nếu được Tăng giải tẫn hoặc trở lại bổn tâm thì cứ tính tiếp ngày mà thành tội. Nếu ngày đầu được y mà lên cung trời hoặc đi đến cõi Uất đơn việt ở phương Bắc cho đến lúc mạng chung thì không phạm giới này, nếu trở về cõi này thì cứ tính tiếp ngày mà thành tội. Nếu ngày đầu được y cất chứa đến năm ngày thì bị Tăng cho yết ma Bất kiến tẫn… hoặc lên cõi trời… cho đến lúc mạng chung thì không phạm; nếu được giải tẫn hoặc trở lại bổn tâm hoặc trở về lại cõi này thì cứ tính tiếp ngày mà thành tội. Luật sư nói: "Lấy năm ngày trước cộng thêm năm ngày sau tính đủ mười ngày thành tội là nghĩa quyết định. Ba cõi; cõi Diêm phù đề, cõi Câu-dani, cõi Phất Bà-đề và cung Rồng đều có giới pháp Tỳ-kheo, vật đều có chủ; chỉ có hai cõi: Cõi trời và cõi Uất đơn việt là không có giới pháp Tỳ-kheo, vật đều vô chủ".

Pháp tịnh thí: Nếu là tiền và vật báu thì Tỳ-kheo nên tìm một bạch y biết pháp thanh tịnh rồi nói ý mình cho họ hiểu: "Pháp Tỳ-kheo chúng tôi không được cất chứa tiền bạc vật báu, nay tôi nhờ đàn việt làm tịnh chủ, nếu sau này được tiền bạc vật báu, tôi sẽ làm pháp tịnh thí cho đàn việt tịnh chủ", nói như vậy rồi sau đó có được tiền bạc vật báu cứ đến bên một Tỳ-kheo thuyết tịnh, không cần nói tên tịnh chủ ra, thuyết tịnh xong thì được tùy ý cất chứa lâu hay mau; nếu tịnh chủ này chết hay đi xa qua nước khác thì Tỳ-kheo phải tìm tịnh chủ khác. Trừ tiền bạc và vật báu ra, tất cả tài vật dư khác đều ở bên năm chúng tác tịnh, nên tìm người trì giới, học rộng có phước đức làm tịnh chủ; sau đó được tài vật gì cứ đối trước một Tỳ-kheo nói tên tịnh chủ ra để thuyết tịnh. Nếu tịnh chủ qua đời hay đi xa qua nước khác thì Tỳ-kheo phải tìm tịnh chủ khác, trừ sáu hạng người bị Tăng cho yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn, yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn; người phạm một trong sáu tội: Một là tội làm Phật bị thương chảy máu, hai là tội phá Pháp luân tăng và tội Ba-la-di phạm bốn giới trọng đều không được làm tịnh chủ. Sa-di đắc giới, người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, người hành Biệt trú, người hành Ma-na-đỏa… năm pháp làm pháp tịnh thí muốn được thanh tịnh thì phải có người làm chứng để không sanh tranh cải vì những người trên đều không như pháp.

Nếu thuyết tịnh tiền và vật báu xong rồi, sau đó đổi thành y tài như y bát… thuộc trong số một trăm lẻ một vật thì không cần thuyết tịnh nữa; ngoài số một trăm lẻ một vật ra, các vật khác đều phải thuyết tịnh lại. Nếu đem tiền và vật báu phạm Xả đọa đổi thành y tài thuộc trong số một trăm lẻ một vật thì ở bên tiền đã cất chứa trước đó phạm Đột-kiết-la nên đối thú sám hối; bên vật báu đã cất chứa trước đó phạm Xả đọa nên ở trong Tăng sám; bên y tài đã đổi thành thuộc trong một trăm lẻ một vật thì không cần xả vì đã được tịnh; ngoài một trăm lẻ một vật ra những y đã may hay chưa may khác đều phải thuyết tịnh.

Nếu thuyết tịnh tiền, vật báu và các y tài rồi, có người khác đến vay mượn, thời gian sau đem trả lại: Vật báu thì trả lại bằng vật báu, tiền thì trả lại bằng tiền… giống như trước thì không cần thuyết tịnh lại; nếu trả lại bằng vật khác với trước kia thì phải thuyết tịnh lại, vì vật trả sau khác với vật đã mượn trước kia; nếu trả lại y tài thuộc trong một trăm lẻ một vật giống như trước kia thì không cần thuyết tịnh lại; nếu trả lại y đúng lượng hay không đúng lượng thuộc số y dư hoặc khí vật dư khác thì nên thuyết tịnh lại.

Nếu y phạm Xả đọa trước đã đúng lượng đem may thành y đúng lượng hay không đúng lượng thì y này nên xả và sám tội Ba-dật-đề; nếu y phạm Xả đọa trước đã không đúng lượng đem may thành y đúng lượng hay không đúng lượng thì y này nên xả và sám tội Đột-kiết-la. Nếu y phạm Xả đọa trước đã đúng lượng, mua thêm y tài rồi đem may thành y đúng lượng hay không đúng lượng thì y này không phải xả, nhưng sám tội Ba-dật-đề đã phạm trước; nếu y phạm Xả đọa trước đã không đúng lượng, mua thêm y tài rồi đem may thành y đúng lượng hay không đúng lượng thì y này không phải xả nhưng sám tội Đột-kiết-la đã phạm trước.

Ba y Tăng-già-lê, Uất-đa-la-tăng, An-đà-hội: Sở dĩ có ba tên sai khác là do Phật muốn hiển bày pháp chưa từng có, lại do Phật muốn khác với ngoại đạo vì chín mươi sáu phái ngoại đạo đương thời đều không có ba loại y này. Y Tăng-già-lê có ba bậc chín phẩm như sau: Tăng-già-lê bậc hạ có ba phẩm gồm hai đàn cách dài, một đàn cách ngắn, phẩm hạ chín điều, phẩm trung mười một điều, phẩm thượng mười ba điều; Tăng-già-lê bậc trung có ba phẩm gồm ba đàn cách dài, một đàn cách ngắn, phẩm hạ mười lăm điều, phẩm trung mười bảy điều, phẩm thượng mười chín điều; Tăng-giàlê bậc thượng có ba phẩm gồm bốn đàn cách dài, một đàn cách ngắn, phẩm hạ hai mươi mốt điều, phẩm trung hai mươi ba điều, phẩm thượng hai mươi lăm lăm điều. Nếu là y Tăng-già-lê bậc hạ mà may thành ba đàn cách dài, một đàn cách ngắn tuy được thọ trì, được mặc nhưng phạm Đột-kiết-la; nếu là y Tăng-già-lê bậc trung mà may thành bốn đàn cách dài, một đàn cách ngắn tuy được thọ trì, được mặc nhưng phạm Đột-kiết-la; nếu là y Tăng-già-lê bậc thượng mà may thành hai đàn cách dài, một đàn cách ngắn hoặc ba đàn cách dài, một đàn cách ngắn thì tuy được thọ trì, được mặc nhưng phạm Đột-kiết-la.

Y đúng lượng: Là dài năm khuỷu tay của Phật, dài nhiều lắm là sáu khuỷu tay; rộng ba khuỷu tay rưỡi, rộng lắm là bốn khuỷu tay, hẹp lắm là hai khuỷu tay rưỡi. Nếu y đúng lượng như pháp là dài năm, rộng ba khuỷu tay thì khi thọ y nên nói: "Y này thành thọ trì không lỗi", nếu nói: "Y như thế thành thọ trì”thì phạm Đột-kiết-la, vì hoại oai nghi. Nếu y quá lượng dài năm, rộng ba thì khi thọ trì nên nói: "Y như vậy thành thọ trì không lỗi", nếu nói: "Y này thành thọ trì”thì phạm Đột-kiết-la, vì hoại oai nghi; lại vì y thiếu nên cất chứa quá mười ngày không phạm tội chứa y dư. Nếu y đúng lượng dài năm, rộng ba như pháp thọ thì thành thọ trì. Nếu Tỳ-kheo qua đời, ba y nên đem cho người khán bịnh; ngoài y đúng lượng dài năm, rộng ba ra, tất cả y dư khác tùy nhiều hay ít đều nên bạch cho Tăng biết, Tăng hòa hợp cho thì tốt.

Luận về pháp thọ y, nếu là y dư nên thuyết tịnh, nếu không thuyết tịnh thì xếp vào trong số tài vật dư; trong số một trăm lẻ một vật, ba y và bát ắt phải tác pháp thọ, các vật khác nếu thọ thì tốt, không thọ cũng không có lỗi. Tỳ-kheo nếu không tác pháp thọ ba y mà cất chứa quá mười ngày, tuy không phạm tội cất chứa y dư và không phạm tội lìa y ngủ đêm, nhưng phạm tội thiếu y và hoại oai nghi.

Nếu may y Tăng-già-lê mới nhiều lắm là ba lớp gồm một lớp mới hai lớp cũ, nếu toàn là vải mới thì chỉ được may hai lớp; Ni-sư-đàn cũng vậy; nếu dùng vải mới may y Uất-đa-la-tăng và y An-đà-hội thì chỉ được may một lớp; nếu dùng toàn vải cũ thì được may y Tăng-già-lê bốn lớp, y Uất-đa-la-tăng hai lớp, y An-đà-hội cũng hai lớp, Ni-sư-đàn bốn lớp. Nếu ba y bị rách, bất luận chỗ rách lớn hay nhỏ mà thành viền y không đứt thì vẫn thành thọ trì; y quá cũ bạc màu vẫn không mất pháp thọ trì; y biến thành thượng sắc cũng không mất pháp thọ trì. Nếu y tài trước đã thuyết tịnh, sau đó may thành y thọ trì thì mất tịnh pháp, y này nên xả rồi thuyết tịnh lại, nếu không thuyết tịnh lại thì phạm tội chứa y dư. Nếu Tỳ-kheo may lại ba y, nếu có nhân duyên trích ra mang đến chỗ khác thì gọi là không lìa y ngủ đêm. Nếu Tỳ-kheo qua đời, y vật để lại hiện tiền tăng trong giới nên chia; có thuyết cho là nên đem cho người khán bịnh.

Luật sư nói: "Nghĩa sau là nghĩa quyết định, nếu có nhân duyên một xấp vải may được ba y, nhuộm màu sắc như pháp, tác pháp thọ một hay hai y tùy ý được thọ trì". Nếu ngoài y đúng lượng dài năm, rộng ba mà còn có y dư thì nên thuyết tịnh; nếu không thuyết tịnh thì phạm tội chứa y dư. Pháp thọ ba y nên nói ba lần, không được nói lần thứ hai, lần thứ ba cũng như thế.

Tướng phạm trong giới này là nếu ngày đầu được y cho đến ngày thứ chín được y thì ngày thứ mười nếu không xả, không thọ trì, không tác tịnh, qua ngày thứ mười một trời vừa sáng liền phạm Xả đọa. Sở dĩ phạm Xả đọa là vì y đã được trong chín ngày trước đều xả, đều tác tịnh nhưng y đã được trong ngày thứ mười vì nối tiếp với nhân duyên trước nên phạm. Chữ xả trong đây nghĩa là tác tịnh, từ nghĩa này suy ra ba câu sau đều có thể hiểu: Nếu ngày đầu được y ngay trong ngày đầu xả, ngày thứ hai được y thì y của ngày thứ hai này vì nối tiếp nên theo thứ lớp được đến ngày thứ mười. Nếu ngày đầu được y, ngày thứ hai xả, ngày thứ hai không được y, ngày thứ ba lại được thì y của ngày thứ ba này vì không nối tiếp nên theo thứ lớp được đến ngày thứ mười. Nếu ngày đầu được y, ngày thứ hai xả, ngay trong ngày thứ hai lại được y, y này nối tiếp vì trong cùng một ngày xả một y thọ một y.

Nếu ngày đầu được y, ngay trong ngày đầu xả, ngày thứ hai được y không nối tiếp với ngày đầu vì khác ngày xả y, khác ngày thọ y, y của ngày thứ hai theo thứ lớp được đến ngày thứ mười; ba câu sau theo đó suy ra có thể hiểu: Nếu Tỳ-kheo có y nên xả đã xả, tội đã sám, kế tiếp lại được y nữa thì y được sau ở bên y được trước phạm Xả đọa. Trong đây nói kế tiếp không phải là ngày kế tiếp mà là tâm tham cầu nối tiếp không dứt. Nếu y đã xả, tội đã sám, tâm kế tiếp đã dứt; nếu ngay trong ngày đó y mong cầu trước đó lại đến hoặc y đến ngoài ý muốn thì không phạm, vì tâm kế tiếp đã dứt. Nếu ngay trong ngày được y xả y, sám tội cũng ngay trong ngày đó nhưng tâm mong cầu chưa đoạn dứt, cho đến một tháng sau y mong cầu lại đến hoặc y đến ngoài ý muốn thì phạm tội kế tiếp, y này ở bên y đã được trước đó phạm Xả đọa, ngay ngày được y liền phạm không cần trải qua ngày hôm sau. Nếu ngày nay được y liền xả và đã sám tội, ngày trong ngày đó tâm mong cầu đã đoạn dứt; ngày hôm sau lại có nhân duyên được y thì y này không phạm tội kế tiếp vì tâm mong cầu ở giữa hai ngày đã đoạn dứt. Nếu vào trời sáng được y liền xả và sám tội, tâm kế tiếp cũng đoạn dứt; đến trời tối lại mong cầu và được y thì y này nên xả và sám tội Đột-kiết-la. Nếu y đã xả, tâm kế tiếp đã đoạn nhưng chưa sám tội; cho dù nhiều ngày sau được y thì y này cũng phải xả và sám tội Đột-kiết-la.

2. Giới không lìa y ngủ đêm thứ hai:

Minh tướng: Có nhiều tên gọi, Bà-la-môn gọi là mặt trời, giới quý tộc gọi là Dịch (thay đổi), người Hồ miền núi gọi là Khước sa, người trồng trọt canh tác gọi là Chủng tác thời, người đánh cá gọi là Hiển… những tên gọi như thế đều không phải là Minh tướng, nhưng dựa trên Minh tướng mà thành tên gọi ấy.

Vì chút nhân duyên: Tôn giả Đại Ca-diếp trông coi việc xây cất năm tinh xá lớn: Một là tinh xá trên núi Kỳ-xà-quật, hai là tinh xá Trúc lâm và ba tinh xá khác nữa. Lúc đó tôn giả đi đến Trúc viên để trông coi việc xây cất cũng như tôn giả Xá-lợi-phất đến tinh xá Kỳ-hoàn để trông coi việc xây cất; tôn giả Đại Mục-kiền-liên cũng trông coi việc xây cất năm trăm tinh xá.

Hỏi: Các đại đệ tử của Phật đều đã đoạn hết lậu kết (lậu hoặc kiết sử), việc nên làm đã làm xong vì sao lại liệu lý phước nghiệp này?

Đáp: Một là để báo đáp ân Phật, hai là để trưởng dưỡng Phật pháp, ba là để diệt tâm cống cao của chúng sanh phàm phu thấp kém làm được chút ít phước nghiệp, bốn là chiết phục tâm kiêu mạn của các đệ tử trong tương lai, năm là muốn phát khởi phước nghiệp cho chúng sanh trong tương lai. Hỏi: Tôn giả Đại Ca-diếp có thần thông lực, vì sao không dùng thần lực đi, lại để cho trời mưa làm trở ngại?

Đáp: Tôn giả Đại Ca-diếp khi trông coi việc xây cất tự tay làm các việc như lấy bùn tô trét vách tường, tự tay đắp nên cho bằng phẳng. Lúc đó trời mưa lớn, tôn giả liền nhập định đợi tạnh mưa mới xuất định, nhưng mưa suốt đêm đến sáng mới tạnh, tôn giả xuất định thì trời đã sáng. Có thuyết cho là Phật thuyết kinh Cây khô, các Tỳ-kheo nghe rồi có người hoàn tục về nhà, có người ưu não không thể tự an nên tôn giả tùy nghi thuyết pháp khai giải cho họ, suốt đêm không nghỉ, thuyết pháp xong thì trời sáng. Do nhân duyên này nên không thể dùng thần lực.

Lìa y Tăng-già-lê ngủ đêm không biết làm sao:

Hỏi: Tôn giả Đại Ca-diếp là người có đại trí huệ, việc lớn còn thấu đạt huống chi là việc nhỏ này đâu cần phải hỏi người khác.

Đáp: Vì muốn cho chúng sanh trong tương lai không dựa vào chút ít trí huệ và biện tài mà tự tin tự dụng, nên thường nghĩ mình không bằng; lại nữa vì muốn làm mô phạm cho chúng sanh nên hiển bày hỏi việc này.

Khen ngợi giới, khen ngợi người trì giới: Do thiện tâm nên khen ngợi, lại vì tôn giả Đại Ca-diếp trước nay chưa bị Phật quở trách, các đệ tử khác đều bị Phật quở như tôn giả Xá-lợi-phất bị Phật quở: "Sao thầy lại ăn thức ăn bất tịnh?"; Đại Mụckiền-liên cũng bị Phật quở: "Sao thầy lại cho người chưa đủ hai mươi tuổi thọ giới cụ túc?", Nan-đà cũng bị Phật quở: "Sao thầy lại giáo giới Ni đến mặt trời lặn?", Ưu-đà-di cũng bị Phật quở: "Thầy là người ngu si mới muốn luận nghị tranh thắng với Xá-lợi-phất", A-nan cũng bị Phật quở: "Thầy là người ngu si, sao lại xúc não bậc Thượng tòa"… Tôn giả Đại Ca-diếp chưa từng bị Phật quở vì tôn giả có đức hạnh sâu dày, không có lỗi lầm; dù có chút lỗi lầm gì Phật cũng không quở tôn giả Đại Ca-diếp vì muốn tôn giả đảm đương việc duy trì chánh pháp sau khi Phật diệt độ và muốn chúng sanh đời sau hết lòng tôn trọng tôn giả.

Xá-lợi-phất: Là tên của người mẹ, Tần dịch là

Thân tử, do bà mẹ tên Xá lợi sanh ra nên gọi là Xá lợi tử. Khi bà mẹ mang thai tôn giả, nằm mộng thấy một người tướng mạo trang nghiêm, thân mặc áo giáp đội mũ trụ trên tay cầm cây gậy đánh vào bà. Tướng sư đoán mộng là bà sẽ sanh người con thông minh biện tài bậc nhất, có thể chiết phục tất cả các luận sư. Có thuyết cho là khi bà mang thai tôn giả, thần trí hơn hẳn ngày thường, tự cầu luận sư cùng tranh thắng; mọi người thấy việc kỳ lạ này đều cho là bà mất bổn tâm. Các Bà-la-môn nói: "Đây không phải là năng lực của bà mà là nhờ thai nhi là người thông minh trí huệ nên khiến bà như thế", sau khi biết rõ nguyên nhân, bà được hộ vệ cho đến ngày hạ sanh tôn giả.

Xá-lợi-phất bị bịnh: Trong số các đệ tử, tôn giả là người nhiều bịnh nhất, thường bị trúng gió, cảm lạnh cho đến bịnh máu nóng …; thầy thuốc nói: "bịnh trúng gió nên uống nước cháo", hoặc nói: "Bịnh máu nóng nên chắt lấy nước cơm uống", hoặc nói: "Đốt cục đá cho nóng rồi bỏ vào nước sữa để uống", hoặc nói: "Nấu tỏi trong nước sữa để ăn", hoặc nói: "Giả lá cây lấy nước thoa lên người"…

Hỏi: Tôn giả Xá-lợi-phất tu định có công đức, là bậc đại trí huệ vì sao có nhiều bịnh như thế?

Đáp: Do nhân duyên đời trước, đời quá khứ tôn giả đã não loạn cha mẹ cho đến Sư tăng nên đời này bị nhiều bịnh. Có thuyết cho là tôn giả là bậc đại trí huệ, lợi căn, đã thấm nhuần pháp vị, thường tu trí huệ và giỏi luận nghị, thích tu thiền định và siêng làm việc chúng, tinh tấn ba nghiệp không chút biếng trễ, do đi đứng nằm ngồi không điều độ nên có nhiều bịnh. Lại có thuyết cho là đây là thân sau cùng của tôn giả, tất cả tội nghiệp đời trước đều phải thọ hết mới có thể nhập Niết-bàn, cho nên có nhiều bịnh.

Muốn đi du hành một tháng:

Hỏi: Tôn giả Xá-lợi-phất có nhiều bịnh vì sao lại muốn du hành một tháng?

Đáp: Vì có chúng sanh hữu duyên đáng được hóa độ, như Phật một ngày sáu thời thường quán chúng sanh để tùy nghi hóa độ; tôn giả Xá-lợi-phất là bậc chuyển pháp luân lần thứ hai cũng một ngày sáu thời thường quán chúng sanh để tùy nghi hóa độ; lại do tôn giả là người nắm giữ Phật pháp nên muốn du hành các nước để tùy nghi hóa độ và truyền bá Phật pháp, người đáng hàng phục sẽ hàng phục, người đã được hàng phục sẽ khiến phát tâm tín ngộ; lại do du hành tự khổ, bịnh gió bịnh lạnh sẽ giảm bớt.

Hỏi: Vì sao chỉ du hành trong vòng một tháng? Đáp: Vì đối với chúng sanh hữu duyên chỉ cần một tháng là độ hết; có thuyết cho là người đáng thu phục chỉ cần một tháng là thu phục xong; lại cho là chỉ cần một tháng là khất thực đủ những vật cần dùng như y thực, ngọa cụ, thuốc thang trị bịnh.

Y Tăng-già-lê dày nặng:

Hỏi: Tôn giả Xá-lợi-phất có bốn Như ý túc có thể để ba ngàn đại thiên thế giới trong bàn tay xoay chuyển, sao lại nói là y Tăng-già-lê dày nặng?

Đáp: Tôn giả du hành là để độ sanh nhưng chúng sanh hữu duyên không thể dùng thần thông lực mà làm cho giác ngộ được, tôn giả phải đi bộ nên nói y Tăng-già-lê dày nặng. Lại do người mà tôn giả muốn thu phục là các luận sư, phải dùng lý chiết phục không thể dùng thần thông lực, nếu dùng thần thông lực sẽ khiến họ tăng thêm kiêu mạn, tôn giả phải đi bộ nên nói y Tăng-già-lê dày nặng. Lại do tôn giả hiện tướng đại từ bi, muốn cho các Tỳ-kheo già bịnh trong tương lai không phiền não nên muốn Như lai khai duyên cho các Tỳ-kheo già bịnh yết ma được lìa y ngủ đêm một tháng. Nói già là bảy mươi tuổi trở lên.

Hỏi: Vì sao Phật khai cho pháp không lìa y ngủ đêm một tháng?

Đáp: Vì nhân duyên độ sanh, lại vì nhân duyên hành đạo, không mang theo y nặng thì được lìa khổ não, tùy thời tu đạo nghiệp không bị trở ngại. Lại vì tìm cầu những vật dụng tùy thân và thuốc thang thích nghi cho bịnh tình hoặc để liệu lý việc xây cất tinh xá, chùa tháp; hoặc để thu phục người chưa thu phục, người đã được thu phục phất tâm tín ngộ nên Phật khai cho lìa y một tháng.

Giới lìa y cách đêm này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đồng nhưng ba chúng dưới không đồng. Ni kết đại giới rộng nhất là một Câu-lô-xá, kết giới y cũng bằng với đại giới; Tăng kết đại giới và giới y không đồng với Ni. Kết đại giới sở dĩ thông với tụ lạc vì khi Tăng kết đại giới, uy lực của giới khiến cho điều ác không đến được trong giới, trong giới có thiện thần ủng hộ; lại vì đàn việt nên kết đại giới thông với tụ lạc, nếu kết đại giới tất cả Tăng đều tụ họp, không được gởi dục, nhưng kết giới y thì phải nói trừ tụ lạc và giới tụ lạc.

Mặc y thượng hạ du hành các nước: Y thượng là y Uất-đa-la-tăng, y hạ là y An-đà-hội. một đêm: Có thuyết cho là lấy sắc ấm làm ngày đêm, trời sáng là ban ngày, trời tối là ban đêm; có thuyết lại nói lấy năm ấm làm ngày đêm. Mặt trời lặn là khi mặt trời đi qua khỏi cõi Diêm-phù-đề. Minh tướng có nhiều tên gọi như trên đã nói, nói lấy sắc ấm làm ngày đêm là dựa trên ba sắc: Khi ánh mặt trời chiếu vào công cối ở cõi Diêm phù đề thì có sắc đen, khi chiếu vào lá cây thì có sắc xanh nhưng khi chiếu qua khỏi lá cây, rọi vào cõi Diêm phù đề thì có sắc trắng. Trong ba sắc này thì sắc trắng là sắc chính, nếu lìa y ngủ đêm cho đến sáng hôm sau thì phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, trong đây có bốn trường hợp:

Một là xả y thì không phạm, như Tỳ-kheo xuất giới đến nơi khác ngủ đêm, mượn y thọ trì đến sáng hôm sau xả y trả lại cho chủ y thì không phạm.

Hai là phạm vì không xả y, giống như trên nhưng khi xả y trả lại cho chủ y không tác pháp xả y, trở về thọ lại y của mình; vì không tác pháp xả y mà thọ lại y của mình là hoại oai nghi, phạm Đột-kiết-la.

Ba là cũng xả y cũng phạm tội, như Tỳ-kheo để y trong giới, xuất giới đến chỗ khác ngủ đêm đến sáng hôm sau thì phạm Xả đọa.

Bốn là không xả y cũng không phạm tội, như Tỳ-kheo tự thọ trì y, không lìa y ngủ đêm ở chỗ khác.

Trừ Tăng yết ma cho: Tăng kết đại giới trước, kết giới y sau, đại giới rộng nhất là mười Câu-lôxá, kết giới rồi phải ở trong đại giới này thuyết giới bố tát và làm các pháp yết ma. Nếu có sông ngòi, đường đi đều được hợp kết, nhưng chỉ lấy tướng bờ; kết đại giới rồi từ tướng bờ đó trở đi tùy phạm vi xa gần, lớn hay nhỏ đều không có lỗi. Nếu kết giới y đồng với đại giới thì nên nói trừ tụ lạc và giới tụ lạc, sở dĩ nói trừ ra vì giới tụ lạc không có nhất định còn giới y thì nhất định; lại vì ngăn dứt phỉ báng, diệt trừ đấu tranh và gìn phạm hạnh, dứt hiềm nghi. Có thuyết cho là nếu có tụ lạc mới nói trừ ra, nếu không có tụ lạc thì không cần nói trừ ra; cũng có thuyết cho là dù có tụ lạc hay không có tụ lạc khi kết yết ma đều nên nói trừ ra, vì sao, vì khi kết giới y không có tụ lạc, nhưng sau đó có tụ lạc và dân cư đến trong đại giới, lúc đó không cần phải kết giới y lại vì khi kết đã nói trừ ra rồi. Nếu ban đầu đã có tụ lạc, sau khi kết giới y xong không có tụ lạc vì dân cư đã dời đi nơi khác thì chỗ trống này thuộc về giới y. Nếu giới tụ lạc ban đầu nhỏ, sau đó nới lớn dần ra thì tùy nới lớn dần ra tới đâu, nơi đó không thuộc về giới y nữa. Nếu giới tụ lạc ban đầu lớn, sau đó thu nhỏ dần lại thì tùy thu nhỏ lại tới đâu, chỗ trống đó lại nhiếp thuộc vào giới y. Nếu vua và quyến thuộc vào trong đại giới giăng màn trướng, ở gần hai bên làm chỗ ăn uống, chỗ đại tiểu tiện, chỗ đi lại… thì những chỗ ấy không còn thuộc về giới y; người làm ảo thuật, người chú thuật, người chơi nhạc cụ… vào trong đại giới cũng lại như vậy.

Nói trừ Tăng yết ma cho là như tôn giả Xá-lợiphất vì các Tỳ-kheo già bịnh xin Phật khai cho pháp không lìa y một tháng, sau khi cho xong mà bịnh lành vẫn được theo yết ma trước đi du hành một tháng; nếu yết ma cho xong mà bịnh trở nặng thêm không thể đi được, sau khi bịnh lành vẫn theo yết ma trước được du hành một tháng. Nếu hóa độ chúng sanh chưa hết mà thời gian một tháng lại hết, hoặc việc tìm cầu y phục thuốc thang các vật cần dùng hoặc liệu lý việc Tam bảo chưa xong mà thời gian một tháng đã hết, đợi đến khi xong việc mới trở về vẫn không phạm. Nếu Tỳ-kheo qua đời thì y đã xin yết ma này nên cho người khán bịnh; nếu mất y đã xin yết ma này sau đó xin lại được y khác, bất luận nặng hay nhẹ đều phải xin lại yết ma; nếu đem y đã xin yết ma này cúng dường Tam bảo, sau đó xin lại được y khác cũng phải xin lại yết ma. Trường hợp xin yết ma lìa y chín tháng cũng như vậy, vì nhân duyên nên khai cho pháp lìa y một tháng, cũng vì nhân duyên mà khai cho pháp lìa y chín tháng.

Hỏi: Vì sao không nhiều không ít mà khai cho đúng chín tháng?

Đáp: Vì trong một năm có ba tháng phải ở một chỗ an cư tiến tu đạo nghiệp nên khai cho đúng chín tháng.

Hỏi: làm một lần yết ma cho hay là làm chín lần yết ma?

Đáp: Chỉ làm một lần yết ma, giống như trường hợp lìa y Tăng-già-lê, lìa y Uất-đa-la-tăng hay y An-đà-hội cũng như vậy; vì nhân duyên nên khai cho lìa y Tăng-già-lê, vì nhân duyên cũng khai cho lìa y Uất-đa-la-tăng và y An-đà-hội.

Hỏi: Cho lìa một y hay cho lìa một lúc hai y?

Đáp: Không cho lìa một lúc hai y, Phật chế ba y là để chống lạnh, nếu chỉ còn có một y thì không thể chống lạnh; lại vì trừ hổ thẹn, nếu chỉ còn một y thì không trừ được hổ thẹn; lại nữa, Phật chế ba y để mặc vào tụ lạc, nếu chỉ còn một y thì không được vào tụ lạc; lại nữa, Phật chế mặc ba y vì muốn người nhìn thấy sanh tâm hoan hỉ, nếu chỉ còn một y thì không khiến người thấy sanh tâm thiện; lại vì muốn cho oai nghi thanh tịnh nên chế mặc ba y, nếu chỉ còn một y thì oai nghi không thanh tịnh. Tỳ-kheo-ni chế có năm y nếu muốn lìa hai y cũng không được, Phật chế nên mặc năm y vì thành oai nghi, nếu chỉ còn ba y thì không thành oai nghi. Tỳ-kheo mặc đủ ba y, Tỳ-kheo-ni mặc đủ năm y thì tất cả thời đều được vào cung vua và tụ lạc đều không có lỗi. Nếu xin yết ma được lìa y một tháng, Tỳ-kheo già có y Tăng-già-lê dày nặng nhưng thật tế là không già, không bịnh, chỉ vì y Tăng-già-lê dày nặng nên xin yết ma; nếu Tăng cho yết ma thì yết ma tuy thành nhưng Tăng phạm Đột-kiết-la, người xin yết ma nếu không biết pháp thì không phạm, nếu biết pháp thì cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu thật không phải già bịnh và y Tăng-già-lê cũng không dày nặng mà nói là già bịnh và y dày nặng thì yết ma tuy thành nhưng người xin phạm Ba-dật-đề.

Khi kết giới y nói trừ tụ lạc và giới tụ lạc, trong đây có bốn trường hợp:

Một là giới tụ lạc không phải là giới nhà, như hai tụ lạc, mỗi tụ lạc đều có nhà.

Hai là giới nhà không phải là giới tụ lạc, như một tụ lạc lớn không có tụ lạc khác, trong có có rất nhiều nhà.

Ba là giới tụ lạc cũng là giới nhà, như hai tụ lạc, mỗi tụ lạc đều có rất nhiều nhà.

Bốn là không phải giới tụ lạc cũng không phải giới nhà, như nơi A-lan-nhã.

Trong tụ lạc có một giới cũng có giới khác, nếu tụ lạc kế tiếp nhau thì gọi là một giới, nếu không kế tiếp nhau thì gọi là giới khác. Nhà cũng có một giới và giới khác, nếu trú xứ chỉ có một phòng xá thì gọi là một giới; nếu trong trú xứ có chỗ nấu ăn, chỗ lấy nước, chỗ đại tiểu tiện, cửa ngõ… thì gọi là giới khác. Nói tụ lạc không kế tiếp nhau là chỗ mà gà có thể bay đến được, chỗ mà tên có thể bắn tới được, chỗ phân biệt nam nữ, chỗ mà người có hổ thẹn đại tiểu tiện và đi lại… Nếu tụ lạc chỉ có một nhà, để y trong nhà, Tỳ-kheo nằm ở chỗ mà tên có thể bắn tới được, ngủ đến khi trời sáng cũng không mất y; hoặc y để ở chỗ mà tên có thể bắn tới được, Tỳ-kheo nằm ngủ trong nhà cho đến khi trời sáng cũng không mất y. Nếu tụ lạc có nhiều nhà, y để trong nhà, Tỳ-kheo nằm ngủ ở chỗ mà tên có thể bắn tới được, trời sáng thì mất y vì giới nhà khác; nếu y để ở ngoài giới nhà, Tỳ-kheo ngủ nơi chỗ mà tên có thể bắn tới được, đến trời sáng cũng không mất y. Trường hợp tụ lạc kế tiếp nhau tức là bốn phía đều có tụ lạc, bốn phía đều dùng cái thang mười hai bậc dựa vào tường để đi lên và ra vào thông nhau, Tỳ-kheo ngủ dưới chân cầu thang còn y để ở bốn phía của tụ lạc cũng không phạm lìa y vì thang và bốn phía tiếp giáp nhau. Nếu tụ lạc chỉ có một nhà, y để trong nhà cũng không mất y; nếu tụ lạc có nhiều nhà, y để trong nhà thì phạm lỗi lìa y, nếu để y ngoài giới nhà thì không mất y; nếu có thang tiếp giáp với tụ lạc, để y ở bốn phía của tụ lạc cũng không mất y. Trường hợp giới tụ lạc tiếp giáp nhau tức là hai bên có tụ lạc, ở giữa có đường cho người và xe qua lại, nếu hai đầu của xe tiếp giáp với hai bên tụ lạc, y để ở đầu này, người nằm ngủ ở đầu kia, cả y và người ở trên xe thì không mất y vì xe tiếp giáp với giới của hai tụ lạc. Nếu tụ lạc chỉ có một nhà, y để trong nhà, người ngủ ở trên xe cũng không mất y; nếu không có xe thì không thành nghĩa tiếp giáp, vì vậy có xe mới không mất y, không có xe thì mất y. Nếu tụ lạc có tường rào hoặc hào bao quanh bốn phía là giới tụ lạc, những chỗ như chỗ làm việc, chỗ mà đổ bỏ rác rến đến được, do tụ lạc có tường rào hay hào bao quanh nên thế lực không đến được chỗ xa thì gọi là giới tụ lạc tiếp giáp với giới tụ lạc.

Tộc họ có một giới và giới khác: Nếu cha mẹ, anh em, chị em, con cái cùng ăn một chỗ cùng làm một nghề thì gọi là một nhà; nếu ăn riêng, làm riêng, tất cả đều riêng, tuy cùng ở chung nhưng việc không đồng nhau thì gọi là một tộc. Chỗ mà mỗi người ở gọi là một giới còn những chỗ như chỗ nấu ăn, chỗ lấy nước, chỗ đại tiểu tiện… là giới khác. Nếu để y trong tộc họ này, người ở trong tộc họ khác thì mất y; nếu người ở trong phòng mà y để ở chỗ lấy nước hay chỗ nấu ăn… là giới khác thì mất y. Như thế cho đến nhà ngoại đạo, sân vườn… nếu khác chủ và thấy biết khác thì mất y; nếu đồng là một chủ đồng thấy biết thì không mất y.

Nhà có lầu gác: Nếu y để ở tầng trên, người ở tầng dưới mà nhà thuộc của một chủ thì không mất y; nếu hai tầng thuộc của hai chủ khác nhau thì mất y. Nếu y ở tầng dưới, người ở tầng giữa hoặc y ở tầng giữa, người ở tầng dưới; hoặc y ở tầng trên, người ở tầng giữa hoặc y ở tầng giữa, người ở tầng trên thì không mất y vì tầng giữa tiếp giáp và thông với hai tầng trên và dưới.

Nếu Tỳ-kheo giữ y cho thầy thì thầy trò nên cách nhau trước sau khoảng bốn mươi chín tầm, luật sư nói hoặc ngang dọc cách khoảng bốn mươi chín tầm. Nếu Tỳ-kheo nằm ngủ trên đường ranh của hai giới, thân vào trong hai giới, y cũng ở trong hai giới thì không mất y. Nếu giữa hai giới tụ lạc có một bức tường ngăn, Tỳ-kheo nằm trên tường, y ở hai bên tụ lạc cũng không mất y. Nếu Tỳ-kheo này qua đời thì tùy mặt day về hướng nào thì người ở hướng đó được lấy y hoặc người nào nhìn thấy trước thì được lấy y.

3. Giới cất chúa y phi thời quá một tháng:

Nhân duyên về Ưu-ba-tư-na Phật nói ta muốn yên tĩnh trong bốn tháng tọa thiền:

Hỏi: Phật đã trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp lập bốn thệ nguyện rộng lớn để tế độ vô biên chúng sanh, nay đã thành đạo rồi sao lại muốn tự được yên tĩnh? Đáp: Không lúc nào là Phật không độ sanh hoặc tĩnh lặng mà làm Phật sự, hoặc thuyết pháp, tất cả oai nghi đi đứng nằm ngồi đều làm Phật sự. Nếu Phật tĩnh lặng là để lìa thân tán loạn hoặc lìa tâm tán loạn hoặc cả thân tâm đều lìa tán loạn nên trong bốn tháng Phật nhập định, tự tại trong các pháp môn, hoặc đến phương khác giáo hóa chúng sanh, hoặc thể nhập mười lực, bốn Vô sở úy và mười tám pháp Bất cọng. Lại do chúng sanh thường thấy Phật nên sanh tâm dễ duôi biếng nhác, muốn cho chúng sanh khởi tâm khát ngưỡng nên Phật muốn yên tĩnh tọa thiền trong bốn tháng. Lại do không muốn ngoại đạo dị kiến tăng trưởng cơ hiềm phỉ báng vì thấy Phật thường du hành các nước liền cho là Phật chỉ ở trong chỗ rộn rịp thì không có thật pháp nên Phật muốn yên tĩnh tọa thiền trong bốn tháng, hiển bày không phải là không có thật pháp. Lại do Phật muốn làm phép tắc cho các đệ tử trong tương lai; công đức, trí huệ của Phật tất cả đều đầy đủ mà Phật vẫn không bỏ việc tọa thiền, huống chi phàm phu mà lại biếng nhác hay sao. Lại do Phật lấy pháp làm thầy, yên tĩnh nhập định tự tại trong các pháp môn chính là pháp cúng dường thầy. Khi Phật tại thế có ba lần yên tĩnh tọa thiền: Một là sau khi thành đạo Phật yên tĩnh tọa thiền trong mười lăm ngày, lần thứ hai yên tĩnh tọa thiền hai tháng và lần sau cùng là bốn tháng.

Hỏi: Vì sao lần đầu yên tĩnh tọa thiền mười lăm ngày, lần thứ hai lại đến hai tháng và lần sau cùng lại đến bốn tháng?

Đáp: Sau khi thành đạo, bắt đầu ra độ sanh thì nhân duyên độ sanh rất nhiều nên Phật chỉ yên tĩnh tọa thiền trong mười lăm ngày. Trải qua một thời gian, chúng sanh đã được hóa độ, vô lượng ngoại duyên cũng giảm bớt nên lần thứ hai Phật yên tĩnh tọa thiền hai tháng. Lúc sắp nhập Niết-bàn, việc độ sanh cũng sắp hết nên lần sau cùng Phật yên tĩnh tọa thiền bốn tháng. Lại do giai đoạn đầu sau khi Phật thành đạo, rất ít chúng sanh phạm lỗi, Phật chỉ yên tĩnh tọa thiền trong mười lăm ngày họ liền tự thấy lỗi. Thời gian sau, chúng sanh phạm lỗi tăng nhiều thêm, Phật yên tĩnh tọa thiền trong hai tháng họ mới tự thấy lỗi. Giai đoạn sau chúng sanh làm việc phi pháp càng nhiều, phạm lỗi càng tăng, Phật phải yên tĩnh tọa thiền trong bốn tháng họ mới tự thấy lỗi.

Hỏi: Vì sao các Tỳ-kheo không nói cho Ưu ba tư na biết chế định của Tăng?

Đáp: Ưu-ba-tư-na là bậc đại đức nắm giữ Phật pháp, vì sợ làm khó nên không dám nói.

Chỉ trừ Tỳ-kheo đưa thức ăn đến và vào ngày bố tát: Đưa thức ăn đến là để cúng dường sắc thân của Phật, vào ngày bố tát đến bố tát là cúng dường pháp thân.

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la.

Y phi thời: Từ mười sáu tháng bốn đến ngày rằm tháng tám được y thì gọi là y thời, nếu có thọ y công đực thì đến ngày rằm tháng chạp gọi là y thời. Từ mười sáu tháng chạp đến ngày rằm tháng tư được y thì gọi là y phi thời. Trong bốn tháng này nếu cha mẹ, vợ con, anh chị em cúng dường y hoặc gặp hội năm năm mở một lần hoặc hội nhập xá (vào ở nhà mới) được cúng dường y thì không gọi là y phi thời vì các hội này là thường định. Nếu tự xin y cho mình cũng không gọi là y phi thời vì nếu xin đủ ba y thì không xin nữa. Trường hợp trong giới này là được cúng vải không đủ may thành y, do mong cầu cho đủ nên khai cho cất chứa trong một tháng chờ cúng thêm cho đủ, nếu quá một tháng thì phạm Xả đọa. Vì vậy trong vòng một tháng này phải siêng năng cần cầu cho đủ vải để may thành y, niệm mong cầu không cho gián đoạn mới được cất chứa đến một tháng. Nếu dứt niệm mong cầu thì không được cất chứa đến một tháng, như ngày đầu được vải mà suy nghĩ rằng: "Trong mười ngày này mong cầu cho đủ vải chắc sẽ không được", nếu nghĩ như vậy thì vải này không được cất chứa quá mười ngày, dù chỉ được bốn khuỷu tay cũng phải may thành y, nếu quá mười ngày thì phạm Xả đọa; y không đúng lượng thì phạm Đột-kiết-la, y này nên xả. Như thế cho đến ngày thứ mười nếu suy nghĩ rằng: "Nội trong một ngày này mong cầu cho đủ vải chắc sẽ không được", nếu nghĩ như vậy thì y này nội trong ngày thứ mười nếu không cho người, không may thành y thọ trì, không tác tịnh, qua ngày thứ mười một trời vừa sáng liền phạm Xả đọa.

Nếu ngày đầu được vải y không được như ý muốn, kế lại được thêm vải y ngoài mong cầu thì cả hai loại vải y này trong vòng mười ngày phải may thành y; nếu không may thành y, không tác tịnh, không cho người, không thọ trì, qua đến ngày thứ mười một trời vừa sáng thì phạm Xả đọa; nếu được y không đúng lượng thì y này nên xả rồi sám tội Đột-kiết-la.

Nếu Tỳ-kheo được vải không đủ may y, vì mong cầu cho đủ nên chờ đến chín ngày, đến ngày thứ mười dù không được vải y như mong cầu hay không mong cầu mà được thì vải y nội trong một ngày này phải may thành y; nếu không may thành y, không tác tịnh, không cho người, không thọ trì, qua đến ngày thứ mười một trời vừa sáng liền phạm Xả đọa.

QUYỂN 5

5. Nhân Duyên Kết Ba Mươi Xả Đọa (Tiếp Theo):

4. Nhân duyên kết giới thứ tư:

Tỳ-kheo-ni Hoa sắc: Dung mạo đoan chánh, sắc đẹp như hoa Ưu-bát-la (hoa sen xanh), nhiều kiếp lâu xa trong đời quá khứ là một Bà-la-môn nữ. Cha mẹ và người thân của cô vào biển tìm châu báu, cô ở nhà không thể tự kiếm sống nên cùng ở chung với các dâm nữ bán sắc nuôi thân. Do cô không đẹp lắm nên không có ai lui tới với cô, cô thường tự oán trách bản thân. Lúc đó có một vị Phật Bích chi được mọi người kính ngưỡng, có người nói với cô rằng: "Cô hãy cúng dường vị Phật Bích chi này rồi phát nguyện, tùy tâm muốn gì sẽ được như ý nguyện", cô nghe lời liền sửa soạn các món ăn ngon cùng với hoa sen xanh đem dâng cúng Phật Bích chi rồi phát nguyện: "Nguyện cho con đời đời thường làm người nữ đoan chánh, sắc đẹp tuyệt trần, được mọi người yêu mến; lại nguyện cho con được công đức như vị Sa-môn này đã được". Do bổn nguyện đời xưa nên nay làm người nữ xinh đẹp, sau khi xuất gia lại được Lậu tận.

Rừng An đà: Còn gọi là rừng trú ám (ban ngày tối tăm) vì khu rừng này rộng lớn rậm rạp, dưới những tàng cây trong rừng mặt trời không chiếu xuống được; lại do chủ của khu rừng này tên là Anđà nên nhân đó đặt tên rừng An-đà.

Dùng điệp y quý giá gói xâu thịt rồi treo lên cây:

Hỏi: Nếu có người lấy gói thịt này thì ở bên ai mắc tội, bên chúa giặc hay bên Ni? đáp là bên Ni.

Y phục rách rưới:

Hỏi: Ni Hoa sắc có công đức và có tiếng tăm mọi người đều biết, vì sao y phục không đủ?

Đáp: Ở đời có hai hạng người: Một là được rồi cất chứa, hai là được rồi đem bố thí. Tỳ-kheo-ni Hoa sắc hễ có được vật gì đều đem cho hết cho người đến xin, cho đến đối với bản thân thường bị thiếu thốn.

Trong số y dư: Do Phật nhập thất yên tĩnh tọa thiền bốn tháng khiến các Tỳ-kheo tự thấy lỗi nên xả y dư do cư sĩ cúng, chỉ mặc ba y phấn tảo nên gọi là số y dư.

Giới thọ lấy y từ Ni không phải bà con là giới bất cọng, Tỳ-kheo-ni không phạm, Sa-di phạm Đột-kiết-la. Phật chế giới này cho các Tỳ-kheo là vì nam nữ không nên giao tiếp qua lại, nếu cùng qua lại sẽ sanh ái nhiễm và đưa đến các nhân duyên phi pháp, cho nên Phật chế ngăn; nếu là bà con thì không bị hiềm nghi cũng không bị phỉ báng thì được thọ lấy y. Y đúng lượng này nếu là của cư sĩ hoặc y có màu sắc phi pháp cũng không được thọ lấy; nếu y được nhuộm đúng pháp mà thọ lấy thì phạm Xả đọa. Nếu nhiều Tỳ-kheo thọ lấy một y thì tất cả đều phạm; nếu một Tỳ-kheo thọ lấy một y từ nhiều Ni thì tính số Ni mà kết phạm. Trong năm loại y có ba loại không được thọ lấy, đó là y bị cháy, y bị bò nhai và y bị chuột cắn, nếu thọ lấy thì phạm Xả đọa; hai loại y kia thọ lấy thì phạm Đột-kiết-la; nếu thọ lấy bát đúng lượng cũng phạm Xả đọa; thọ lấy y không đúng lượng và các vật dụng như kiền tư… thì phạm Đột-kiết-la. Nếu thọ lấy y từ Thức-xoa-ma-na và Sa-di-ni cũng phạm Xả đọa. Trừ trao đổi: Để cho người hành đạo được an lạc và các đệ tử không bị khổ não nên Phật khai cho trừ trao đổi. Như trường hợp Tỳ-kheo đổi y với Tỳ-kheo-ni vì mặc vừa vặn hoặc Tỳ-kheo-ni đổi y với Tỳ-kheo vì mặc vừa vặn. Nếu Phật không khai cho trao đổi thì các đệ tử sẽ vì nhân duyên tìm cầu y phục mà phiền não và bỏ phế việc hành đạo.

5. Nhân duyên kết giới thứ năm:

Giới này bất cọng với Tỳ-kheo-ni, Sa-di nhờ ni không phải bà con giặt y cũ thì phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu tự đưa y cho Tỳ-kheo-ni không phải là bà con giặt hoặc nhuộm hoặc đập, trong ba việc này tùy làm một việc liền phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề; nếu cùng một lúc nhờ làm ba việc cũng phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề; nếu y giặt chưa sạch, nhuộm chưa thành màu, đập chưa sạch, đều phạm Đột-kiết-la. Nếu viết thư hay làm dấu đưa tin thì phạm Đột-kiết-la; nhờ giặt y phạm Xả đọa cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu hai người dùng chung y cho đến nhiều người dùng chung y, nhờ Tỳ-kheo-ni giặt, đập hay nhuộm đều phạm Đột-kiết-la; nếu nhờ giặt, nhuộm hay đập y bất tịnh tức là y được dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông tạp thì phạm Đột-kiết-la. Tỳ-kheo nhờ Sa-di học hối giặt, nhuộm, đập y cũng phạm Xả đọa; nhờ người phá giới, kẻ Tặc trụ… thì không phạm; nhờ Thứcxoa-ma-na, Sa-di-ni giặt, nhuộm hay đập y cũng phạm Xả đọa; nếu Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo giặt y cũ thì phạm Đột-kiết-la. Giới này nhờ giặt y cũ đúng lượng hay không đúng lượng đều phạm.

6. Nhân duyên kết giới thứ sáu:

Bạt-nan-đà nói các pháp: Có thuyết cho là ban đầu nói pháp bố thí, chặng giữa nói công đức trì giới, sau cùng nói phước báo được sanh lên cõi trời. Có thuyết cho là từ đầu đến cuối đều nói phước báo của bố thí. Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là để Phật pháp được tăng thượng, hai là để dứt tránh tụng, ba là để diệt trừ tâm bất thiện của chúng sanh, bốn là muốn khiến cho chúng sanh ở trong chánh pháp phát tâm tin ưa.

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là Tỳ-kheo xin y từ cư sĩ không phải là bà con, được y thì phạm Xả đọa. Nếu viết thư hay làm dấu đưa tin thì phạm

Đột-kiết-la; hai người cùng xin một y cũng phạm Đột-kiết-la; xin y giùm cho người khác cũng Đột-kiết-la. Giới này nếu xin được y đúng lượng thì phạm Xả đọa, y không đúng lượng thì phạm Đột-kiết-la. Không phạm là xin y từ bà con, nếu bà con này giàu có nhiều tiền của thì đến xin không phạm; nhưng nếu bà con này nghèo khổ mà đến xin thì phạm Đột-kiết-la. Nếu bà con cho ít, xin thêm nữa thì phạm Đột-kiết-la; xin giùm cho người khác cũng phạm Đột-kiết-la; nếu không xin mà bà con tự cho thì không phạm.

Nếu được thỉnh trước: Nếu người không phải là bà con đã thỉnh cúng y trước, sau đó đến lấy thì không phạm. Tuy người đó đã thỉnh trước nhưng sau đó trở nên nghèo khó mà đến nhắc đòi thì phạm Đột-kiết-la; nếu cúng một ít mà xin thêm cũng Đột-kiết-la; xin giùm cho người khác cũng Đột-kiết-la; nếu không xin mà tự cho thì không phạm.

7. Nhân duyên kết giới thứ bảy:

Lúc đó Tỳ-kheo Ba-la: Ba-la là tên của vùng đất, Tỳ-kheo này được đạt tên theo tên của vùng đất. Do đời quá khứ, bồ tát Nho đồng ở trước Phật Nhiên đăng trải tóc trên mặt đất để Phật bước qua, nhờ nhân duyên này mái tóc có màu xanh biếc. Lúc cạo tóc xuất gia có vô số người lấy tóc này xây tháp cúng dường, nhờ nhân duyên này nhiều chúng sanh được gặp Phật quá khứ và đều được Lậu tận nhập Niết-bàn vô dư, còn lại bốn mươi người mãi đến đời này gặp Phật hiện tại mới được độ, Tỳ-kheo Ba la là người sau cùng trong số bốn mươi người đó.

Lõa hình mà đi:

Hỏi: Đi xa gặp nhiều hiểm nạn như nạn giặc cướp, nạn thú dữ, trùng độc, nạn đói lạnh…, vì sao Phật lại bảo các Tỳ-kheo du hóa phương xa?

Đáp: Vì căn tánh và sở thích của chúng sanh không giống nhau, Phật tùy căn cớ sở thích mà chế giáo; có chúng sanh nhờ đi xa động loạn mới phát thiện căn thì Phật khen ngợi du hành, tùy thời thay đổi không bị hệ lụy; có chúng sanh nhờ yên tĩnh tọa thiền mới tăng trưởng thiện căn thì Phật khen ngợi yên tĩnh lặng lẽ tự giữ, tùy được lợi ích không có lỗi lầm. Trong giới này các Tỳ-kheo lõa hình mà đi là vì Phật đã kết giới không được xin y từ cư sĩ không phải là bà con nên không dám xin, hai là vì các Tỳ-kheo trong tương lai cũng sẽ gặp nạn khổ như vậy, muốn Phật nhân việc này mà khai thông nhân duyên.

Đoạt lấy y của tỳ-kheo: Do Lục quần Tỳ-kheo có trí huệ khéo tìm cách nói trước với Tỳ-kheo Ba la rằng: "Thầy lấy đủ ba y, những y còn dư hãy cho chúng tôi", Ba la đồng ý nên không phạm. Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo mất một y, từ y Tăng-già-lê có thể trích ra làm một y thì không nên xin, nếu xin mà được y thì phạm Xả đọa, không được y thì phạm Đột-kiết-la. Nếu trong số y tài dư có thể may được y thì không nên xin, xin được hay không được kết phạm như trên. Nếu mất hai y, từ y Tăng-già-lê có thể trích ra làm một y thì chỉ nên xin một y, nếu xin hai y mà được thì phạm Xả đọa, không được thì phạm Đột-kiết-la. Y trong giới này là y đúng lượng, nếu y không đúng lượng hoặc thiếu hoặc dư đều phạm Đột-kiết-la.

8. Nhân duyên kết giới thứ tám:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột- kiết-la. Lúc đó có cư sĩ lo liệu giá tiền y định cúng y cho Bạt-nan-đà, cư sĩ này với Bạt-nan-đà là chủ khách thường lui tới nhau; Bạt-nan-đà có trí huệ phước đức lại nhiều tiền của, thường đưa tiền bạc vật báu cho cư sĩ này vay để buôn bán sanh lợi nên cư sĩ này muốn cúng y cho Bạt-nan-đà để Bạt-nanđà không tính toán nhiều ít trong việc sanh lợi của mình. Bạt-nan-đà biết được ý này nên đến bảo cư sĩ mua y quý giá cúng. Thể của giới này là cư sĩ hay vợ cư sĩ lo liệu trước giá tiền y, Tỳ-kheo đến bảo họ thêm tiền mua y tốt, tức là thể sắc và lượng của y đều tốt; nếu được y như lời yêu cầu thì phạm Xả đọa, không được y như yêu cầu thì phạm Đột-kiết-la. Nếu viết thư hay làm dấu đưa tin thì phạm Đột-kiết-la; nếu không yêu cầu thể, sắc và lượng y đều tốt mà yêu cầu cúng y theo sở thích của mình hoặc bằng với giá tiền y của họ hoặc ít hơn thì không phạm. Y trong giới này là y đúng lượng, được y đúng lượng thì phạm Xả đọa; được y không đúng lượng thì phạm Đột-kiết-la. Không phạm là xin y từ bà con, nếu bà con này giàu có nhiều tiền của thì đến xin không phạm; nhưng nếu bà con này nghèo khổ mà đến xin thì phạm Đột-kiết-la. Nếu người không phải là bà con đã thỉnh trước, nói rằng: "Khi nào cần y thì đến lấy", sau đó đến lấy thì không phạm. Nếu đàn việt thỉnh trước này là người giàu có, bảo họ mua y tốt thì không phạm; nếu họ là người nghèo khó mà bảo họ mua y tốt cúng thì phạm Đột-kiết-la. Nếu không xin mà tự cho thì không phạm.

9. Nhân duyên kết giới thứ chín:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Y trong giới này cũng là y đúng lượng, nếu khuyên họ hùn chung mua y mà được y không đúng lượng thì phạm Đột-kiết-la. Giới này khác giới trước ở chỗ là hai cư sĩ, mỗi người lo liệu riêng giá tiền y để mua y cúng; Tỳ-kheo khuyên họ hùn chung lại để giá tiền gấp đôi lên để mua một y quý giá. Không phạm là xin từ bà con hoặc được thỉnh cúng trước hoặc không xin mà tự cho… giống như giới trên.

10 Nhân duyên kết giới thứ mười:

Khi còn tại gia, Bạt-nan-đà giỏi về bắn cung và thông binh pháp. Quan đại thần tướng soái nước Ma-kiệt-đà sai năm trăm người theo Bạt-nan-đà thọ học binh pháp và pháp bắn cung, học thông rồi liền trở về nước. Vị đại thần này sai sứ mang nhiều vật quý hiếm đến biếu tặng cho Bạt-nan-đà để đền ơn nhưng lúc đó Bạt-nan-đà đã xuất gia ở nước Xávệ. Sứ giả nước Ma-kiệt-đà đến nước Ca-tỳ-la vệ biết được tin này liền đi đến thành Xá-vệ tìm kiếm, cuối cùng gặp nhau ở phố chợ, sứ giả giao vật báu biếu tặng rồi trở về nước của mình.

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là nếu đàn việt sai sứ đưa vật báu cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo nên nói: "Pháp Tỳ-kheo chúng tôi không được nhận vật báu, khi tôi cần y nếu được y thanh tịnh sẽ thọ trì", sứ giả nếu hỏi Tỳ-kheo có chấp sự không, Tỳ-kheo nên chỉ chỗ người chấp sự. Sứ giả đưa giá tiền y này cho người chấp sự và bảo mua y thanh tịnh cho Tỳ-kheo thọ trì, sau đó trở lại nói với Tỳ-kheo: "Khi nào thầy cần y thì cứ đến chỗ người chấp sự lấy". Tỳ-kheo khi cần y nên đến chỗ người chấp sự nói rằng: "Tôi cần y", đến nói như vậy dược đến lần thứ ba; nếu được y thì tốt, nếu không được y thì lần thứ tư, thứ năm, thứ sáu nên đến trước người chấp sự này đứng im lặng để nhắc; nếu được y thì tốt, nếu không được y mà đến quá sáu lần để đòi y, được y thì phạm Xả đọa. Trong giới này có ba lần nói và ba lần đứng im lặng để hiện tướng đòi y không phạm, nếu đến đòi lần thứ bảy mà được y thì phạm Xả đọa, không được y thì phạm Đột-kiết-la.

TỤNG THỨ HAI

11 Nhân duyên kết giới thứ mười một:

Phật tại nước Câu-xá-tỳ: Câu-xá-tỳ là tên vùng đất, Kiều-xa-da là tên một loại tơ tằm. Do nước này nuôi tằm lấy tơ giống như nước Tần, từ tơ này dệt thành vải có hai loại: Một là tách bông vải ra dồn làm ngọa cụ, hai là từ tơ tằm dệt thành vải; hai loại vải này đều dùng làm phu cụ. Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là để dứt phỉ báng, hai là để tăng trưởng tín kính, ba là để hành đạo được an lạc trụ, bốn là để không làm hại chúng sanh. Giới này bất cọng với Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo phạm Xả đọa, bốn chúng kia phạm Đột-kiết-la.

Tướng phạm trong giới này là nếu xin kén tằm, tơ tằm hay bông vải để dệt thành vải, làm xong liền phạm Xả đọa; nếu xin kén tằm để bán, trong đó tằm còn sống thì phạm Đột-kiết-la, không có tằm thì không phạm; nếu được Kiều-xa-da bị rách để làm ngọa cụ thì không phạm. Nếu lấy lông dê, lông lạc đà, lông bò hợp xen để làm ngọa cụ thì phạm Đột-kiết-la; nếu lấy loại vải gai trắng, vải gai đỏ, Sô-ma, Súy-di-la, Khâm-bà-la, Kiếp bối hợp xen để làm ngọa cụ thì phạm Đột-kiết-la; nếu được Kiều-xa-da may thành y đúng lượng thì phạm Xả đọa, bảo người khác may thành y cũng phạm Xả đọa vì Kiều-xa-da rất quý ở trong nước này.

12. Nhân duyên kết giới thứ mười hai:

Ở nước này lông dê đen rất quý nên Phật chế ngăn không cho dùng làm ngọa cụ. Lông dê đen dệt thành vải cũng có hai loại: Một là lựa chọn lấy lông dê đen dồn làm ngọa cụ, hai là kéo thành sợi để dệt thành vải. Giới này bất cọng với Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo phạm Xả đọa, bốn chúng kia phạm Đột-kiết-la.

Tướng phạm trong giới này là có bốn loại lông dê đen: Một là loại đen nhuộm lam, hai là loại đen nhuộm màu bùn xám, ba là loại đen nhuộm màu vỏ cây và thuần đen, đen nhánh. Trong bốn loại này, bất cứ dùng loại nào làm ngọa cụ, làm xong thì phạm Xả đọa; nếu là lông dê đen bị khô, hư dùng làm ngọa cụ thì không phạm. Nếu lấy lông dê, lông lạc đà, lông bò hợp xen để làm ngọa cụ thì phạm Đột-kiết-la; nếu lấy loại vải gai trắng, vải gai đỏ, Sô-ma, Súy-di la, Khâm-ba-la, Kiếp-bối hợp xen để làm ngọa cụ thì phạm Đột-kiết-la; nếu được lông dê làm ngọa cụ đúng lượng thì phạm Xả đọa, bảo người khác làm cũng phạm Xả đọa vì lông dê ở nước này rất quý.

13. Nhân duyên kết giới thứ mười ba:

Giới này khác với giới trên ở chỗ là lấy lông dê xen tạp làm ngọa cụ. Giới này bất cọng với Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo phạm Xả đọa, bốn chúng kia phạm Đột-kiết-la. Xen tạp trong đây là đen trắng xen tạp với lông xấu bậc hạ, lông dê trắng là lông ở lưng, ở hai bên sườn và ở cổ; lông dê xấu bậc hạ là lông ở đầu, ở bụng và ở chân. Nếu làm phu cụ nên dùng hai mươi bát la lông dê đen, mười bát la lông dê trắng, mười bát la lông dê xấu bậc hạ; một bát la bằng bốn lạng. Trong đây, nên dùng hai mươi bát la lông dê đen mà dùng quá một lạng thì phạm Xả đọa; nên dùng mười bát la lông dê trắng mà dùng quá một lạng thì phạm Đột-kiết-la; nên dùng mười bát la lông dê xấu bậc hạ mà dùng ít hơn thì một lạng thì phạm Xả đọa. Nếu làm phu cụ sáu mươi bát-la thì nên dùng ba mươi bát la lông dê đen, mười lăm bát la lông dê trắng và mười lăm bát-la lông dê xấu bậc hạ. Nếu làm phu cụ một trăm bát-la thì nên dùng năm mươi bát la lông dê đen, hai mươi lăm bát la lông dê trắng, hai mươi lăm bát la lông dê xấu bậc hạ. Nếu tự xin dê nuôi lấy lông để làm thành vải cũng phạm Xả đọa; giới này tuy cho dùng lông dê xen tạp để làm ngọa cụ nhưng mất nhiều công sức, làm trở ngại đạo nghiệp; nếu nhờ người khác làm như pháp thì không phạm.

14. Nhân duyên kết giới thứ mười bốn:

Nếu Tỳ-kheo đã may ba y và làm ngọa cụ đúng lượng rồi, phải thọ trì trong sáu năm, không được theo đàn việt xin lông dê để làm ngọa cụ mới, làm thành thì phạm Xả đọa, trừ khi Tăng yết ma. Thể của giới này là để đoạn trừ tâm tham muốn cất chứa nhiều, giới này bất cọng với Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo phạm Xả đọa, bốn chúng kia phạm Đột-kiết-la. Nếu người khác tự cho, tự có y tài làm thành hoặc được cái đã làm thành thì không phạm.

15. Nhân duyên kết giới thứ mười lăm:

Phật im lặng nhận lời:

Hỏi: Vì sao khi Phật thọ thỉnh lại im lặng?

Đáp: Phật đã diệt tận kiết sử tham đối với thức ăn nên im lặng thọ thỉnh; Phật Bích chi và Thanh văn tuy đã diệt tận kiết sử tham nhưng tập khí vẫn còn nên hứa khả thọ thỉnh. Lại vì đoạn dứt cơ hiềm phỉ báng, nếu Phật hứa khả khi thọ thỉnh thực thì ngoại đạo sẽ nói rằng: "Sa-môn Cù-đàm tự nói đã vượt qua ba cõi mà còn tham thọ thỉnh thực", nên Phật im lặng thọ thỉnh. Có thuyết cho là Phật thị hiện tướng Đại nhân, ăn uống là việc nhỏ nên không cần phải nói; như quốc vương không vì việc nhỏ mà dao động, nếu có việc lớn tỏ rõ rồi mới dao động; Phật cũng vậy. Lại do Phật có năm thời nhập Không tam muội: Một là khi thọ thỉnh, hai là khi thọ thực, ba là khi thuyết pháp, bốn là khi có lợi lạc, năm là khi bị người cơ hiềm phỉ báng. Như khi thọ thỉnh sẽ quán người thỉnh là ai, người thọ thỉnh là ai; khi thọ thực sẽ quán người thí thực là ai, người thọ thực là ai; cứ như thế cho đến khi bị cơ hiềm phỉ báng cũng quán người phỉ báng là ai, người bị phỉ báng là ai; khi quán như vậy liền nhập Không tam muội nên Phật im lặng. Có kinh nói Phật có khi cũng hứa khả thọ thỉnh.

Hỏi: Vì sao Phật khi thì im lặng thọ thỉnh, khi thì hứa khả thọ thỉnh?

Đáp: Điều này không thể nghĩ bàn, như trong Kinh nói Phật không thể nghĩ bàn, Rồng không thể nghĩ bàn, nghiệp báo thế gian không thể nghĩ bàn.

Phật muốn cho chúng sanh biết được tâm Phật: Cho đến hàng chúng sanh thấp hèn độn căn, nếu

Phật muốn cho họ thấy thì họ liền được thấy; nếu Phật không muốn cho họ thấy thì họ không thể thấy được, dù Thanh văn hay Phật Bích chi dùng thiên nhãn cũng không thể thấy. Lại nữa, khi Phật phóng đại quang minh chiếu xuống cho đến địa ngục Atỳ, chiếu lên cho đến cõi trời Hữu đảnh, nếu người nào đáng được độ thì liền thấy ánh sáng này, người không đáng được độ thì không thấy. Cho nên Phật im lặng thọ thỉnh hay hứa khả thọ thỉnh đều không thể suy lường được.

Cúi đầu đảnh lễ hữu nhiễu rồi đi: Ngoại đạo dị kiến chỉ hữu nhiễu rồi đi, còn người tín kính Phật thì cúi đầu đảnh lễ hữu nhiễu rồi đi. Thân Phật thanh tịnh như gương, tất cả ảnh tượng thế gian đều hiện rõ, khiến người nhìn thấy sanh tâm tín kính cúi đầu đảnh lễ. Hữu nhiễu là thuận chánh pháp, trong kinh nói có lực sĩ Mật tích nếu thấy ai nhiễu bên trái liền dùng chày kim cang đập người ấy; lại do Phật trong nhiều kiếp trước thường hiếu thuận Tam bảo, sư tăng, cha mẹ không có trái nghịch nên được phước báo không gặp người trái nghịch.

Hỏi: Vì sao ngoại đạo dị kiến lại không đảnh lễ Phật ?

Đáp: Vì họ có tập khí kiêu mạn tích chứa nhiều đời lại thường ôm lòng tà ác, không có tâm thiện.

Hỏi: Mỗi người lễ mỗi cách vì sao chỉ nhiễu ba vòng?

Đáp: Một là không làm não loạn Phật cũng không tự não loạn mình, hai là muốn phát sanh nhân duyên giải thoát ở đời vị lai.

Trở về đến nhà suốt đêm lo sữa soạn đầy đủ các món ăn ngon tinh khiết:

Hỏi: Vì sao lại làm thức ăn vào ban đêm?

Đáp: Vì nấu ban ngày khí trời nóng bức sẽ làm thức ăn mau thiu; lại do làm thức ăn vào ban đêm thì sáng hôm sau mới có thức ăn, nếu làm thức ăn ban ngày thì sẽ thành thức ăn cách đêm.

Bạch Phật thời đáo (đến giờ thọ thực):

Hỏi: Vì sao trước đã thỉnh rồi lại còn thỉnh nữa? Đáp: Một là vì muốn tăng thượng công đức, hai là vì muốn thành tựu ba pháp kiên cố. Cũng có trường hợp đến giờ thì Phật tự đi, như có một cư sĩ ở chỗ yên tĩnh thắp hương thỉnh Phật từ xa, hương thơm bay đến nhiễu quanh Phật ba vòng, Phật tự biết thời. Có thuyết cho là lực sĩ Mật tích đến giờ bạch Phật, cũng có thuyết cho là A-nan đến giờ bạch Phật, có thuyết cho là Phật tự biết thời không cần các duyên bên ngoài.

Phật ở lại trong phòng: Khi Phật thấy đi không có lợi ích thì Phật không đi, lại do có năm nhân duyên nên Phật không đi thọ thỉnh thực: Một là vào thất tĩnh tọa, hai là thuyết pháp cho chư thiên, ba là thăm các Tỳ-kheo bịnh, bốn là muốn kết giới, năm là đi xem xét phòng xá ngọa cụ.

Thứ lớp đi từ phòng này đến phòng khác: Vì muốn các Tỳ-kheo sanh tâm kính sợ nên sau khi các Tỳ-kheo đi thọ thỉnh thực rồi, Phật liền đi xem xét phòng xá; sau khi trở về các Tỳ-kheo sẽ tự biết ngăn nắp, không dám để trong phòng có điều gì phi pháp. Lại do Phật muốn đoạn dứt các Tỳ-kheo đàm luận phi pháp, vì Phật vào phòng xem xét thì không ai dám nói lời phi pháp. Lại do ngăn dứt người có tâm trộm cắp vì nếu có người xấu, thấy Phật đi xem xét phòng xá như vậy sẽ không khởi tâm trộm cắp.

Thượng tòa thuyết pháp: Sau khi thọ thực xong, Thượng tòa thuyết pháp cho đàn việt một là để tiêu tín thí, hai là để báo ơn, ba là thuyết pháp khiến họ hoan hỉ, thành tựu thiện căn thanh tịnh; bốn là tại gia hành tài thí còn người xuất gia nên hành pháp thí.

Lúc đó có cư sĩ thỉnh Phật và Tăng ngày mai đến nhà thọ thực: Khi Phật còn tại thế, được cúng dường y thực và các thứ khác, Phật chỉ thọ phần của một người; sau khi Phật diệt độ, trong Tam bảo cũng chỉ thọ một phần.

Hỏi: Vì sao như vậy?

Đáp: là khi Phật còn tại thế, cúng dường là cúng dường sắc thân Phật nên Phật chỉ thọ phần của một người; sau khi Phật diệt độ, cúng dường là cúng dường pháp thân Phật, tuy công đức pháp thân Phật thù thắng hơn công đức Tăng bảo nhưng trong

Tam bảo cũng chỉ thọ một phần. Khi Phật còn tại thế, nếu thí chủ nói cúng dường Phật thì sắc thân Phật thọ dụng, nếu nói cúng dường Phật bảo thì sắc thân Phật không được thọ dụng vì là cúng dường pháp thân Phật. Luận về pháp thọ thí, tâm phải định, miệng phải định vì phước thí sâu dày rất dễ phân biệt; nếu cúng dường Phật nên nói rõ ràng là cúng Phật, nếu cúng dường pháp nên nói rõ là cúng dường Kinh hay cúng dường cho người thuyết pháp, đọc tụng kinh. Nếu cúng dường Tăng nên phân biệt rõ là cúng cho Tăng kỳ lạp hay Tự tứ lạp hay Diện môn lạp; cũng nên phân biệt rõ là cúng dường Tăng hay cúng dường Tăng bảo. Nếu cúng dường Tăng bảo thì dù Tăng phàm phu hay Tăng thánh nhân cũng đều không được lấy phần; nếu cúng dường Tăng thì Tăng phàm phu hay Tăng thánh nhân đều được lấy phần. Nếu nói cùng dường Tam bảo nên chia làm ba phần: Một phần cho Phật bảo, một phần cho Pháp bảo, một phần cho Tăng bảo. Phần cho Pháp bảo thì nên để trong tháp, không được lấy in kinh cũng không được đem cho người thuyết pháp tụng kinh. Phần cho Tăng bảo thì Tăng không được lấy phần mà nên để cúng dường cho Tăng đệ nhất nghĩa đế. Luật sư nói không chia phần cho Pháp bảo, như nước Tần gởi vật đến cúng dường pháp hay cho Tăng kỳ, Tự tứ hay Diện môn tùy lời nói mà chia. Phần của Tăng tự tứ lạp thì đợi đến khi tự tứ mới được chia; phần của Tăng diện môn lạp thì tùy ý chia. Nếu không có Tăng, chỉ có Sa-di thì Sa-di cũng nên chia làm ba phần cho Tăng kỳ, Tự tứ hay Diện môn; nếu là Tự tứ lạp thì đợi đến khi tự tứ mới chia, nếu là Diên môn lạp thì tùy ý chia; nếu khi thọ thực thì Tự tứ lạp, Diện môn lạp nên đánh kiền chùy, nếu có Tỳ-kheo thì cùng thọ dụng, nếu không có Tỳ-kheo thì như pháp thanh tịnh tự thọ thực. Nếu không có Sa-di thì nên cho Tăng ở gần, nếu không có Tăng ở gần thì nên cho Ni tăng; Ni tăng nên xét kỹ nếu là cúng cho Tăng thì trước sau có cái lý nên hoàn trả lại, lúc đó Ni tăng nên cất một chỗ để hoàn trả lại cho Tăng; nếu chắc chắn không có ngày hoàn trả lại thì nên chia làm ba phần như trên đã nói. Nếu ở nước xa gởi vật đến cùng cho Ni tăng cũng theo thứ lớp giống như cúng cho Tăng ở trên. Nếu cúng dường cho Ba diễn cũng nên chia làm ba phần: Một phần cho Ba diễn, một phần cho Diện môn, một phần cho Tự tự đợi đến khi tự tứ mới chia. Ở nước Kế tân, Phật giáo hưng thạnh đưa vật đến cúng dường thì vật này nên cúng dường Phật và Tăng; nếu cúng dường Phật và Tăng tức là cúng dường Pháp, vì Pháp không rời Phật và Tăng. Nếu đưa vật đến cúng dường ở nước Kế tân thì có hai bộ Tăng nên cúng dường: Một là Tăng thuộc bộ phái Tát-bà-đa và hai là Tăng thuộc bộ phái Đàm vô đức. Nếu đưa vật đến cúng dường cho Tăng có năm pháp (năm đức), nếu trong Tăng không có người đủ năm pháp thì nên đưa qua cho Ni tăng có năm pháp, nếu trong Ni tăng cũng không có người đủ năm pháp thì vật này nên chia làm ba phần cho Tăng kỳ, Tự tứ và Diện môn.

Nếu Tỳ-kheo làm Ni-sư-đàn mới nên lấy một miếng vải từ phu cụ cũ chừng một gang tay của Phật để may viền chung quanh làm cho hoại sắc. Ni-sư-đàn đúng lượng là dài bốn gang tay của Phật, rộng ba gang tay. Phu cụ cũ là y và ngọa cụ cũ của chúng tăng bỏ trong kho, trong số phu cụ cũ này lựa lấy một miếng vải dài một gang tay để may viền chung quanh phu cụ mới; nếu trong số phu cụ cũ không có cái nào lớn và dài thì lựa cái tương đối dài hoặc tương đối ngắn để lấy vải may viền, nếu tất cả đều không có thì không may viền không có lỗi. Nếu trong Tứ phương tăng có y ngọa cụ cũ nhưng không phải là vật bỏ thì không được lấy dùng, nếu có mà không lấy để may viền cái mới thì phạm Xả đọa.

16. Nhân duyên kết giới thứ mười sáu:

Thấy các Tỳ-kheo gánh mang lông dê từ phía sau đi tới liền sanh tâm ganh ghét: Một là vì các thương nhơn đi buôn lông dê không muốn lông dê vào trong nước khác nhiều, hai là vì thấy Sa-môn gánh lông dê đi không phải là pháp của người xuất gia nên mới quở trách. Giới này bất cọng với Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo phạm Xả đọa, bốn chúng kia phạm Đột-kiết-la. Một do tuần bằng bốn mươi dặm, Tỳ-kheo được gánh lông dê đi trong khoảng ba do tuần, nếu Hai Tỳ-kheo luân phiên gánh thì được đi đến sáu do tuần, cư như vậy không luận nhiều người hay ít người. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo gánh lông dê đi quá ba do tuần thì phạm Xả đọa.

Hỏi: Đây là tạm xả hay là căn bản xả?

Đáp: Đứng trên Tội mà nói là căn bản xả, còn đứng trên Pháp là tạm xả. Nếu sai bốn chúng mang lông dê đi quá ba do tuần thì phạm Đột-kiết-la, cũng không được dùng xe chở hay dùng lạc đà tải; nếu sai tịnh nhân mang lông dê đi quá ba do tuần thì phạm Đột-kiết-la. Không phạm là đi trong khoảng ba do tuần, nếu mang đi cho người khác trong khoảng ba do tuần cũng không phạm nhưng đó không phải là pháp của tỳ-kheo và cũng tự làm tổn thương mình.

17. Nhân duyên kết giới thứ mười bảy:

Cúi đầu đảnh lễ rồi đứng qua một bên:

Hỏi: Vì sao Cù-Đàm-di và ni chúng lại không ngồi?

Đáp: Vì người nữ thiên về lễ kính nên không ngồi. Đối với ni chúng Phật ít nói pháp, nếu có nói pháp cũng không nói nhiều; khi đến chỗ Phật, ni chúng không ngồi vì để ngăn dứt phỉ báng, nếu Ni ngồi nghe pháp ngoại đạo sẽ nói: "Khi còn ở trong vương cung, Sa-môn Cù-đàm ở cùng một chỗ với các thể nữ; nay tuy đã xuất gia cũng không khác trước, cùng các ni ngồi chung một chỗ". Lại do người nữ tánh cạn hẹp dễ sanh hiềm nghi cho nên không ngồi. Phật chế giới này cho các Tỳ-kheo một là vì tăng thượng pháp, nếu Ni chúng làm các việc như giặt nhuộm… sẽ phế bỏ chánh nghiệp, không có oai đức và phá tăng thượng pháp; hai là để ngăn dứt nhân duyên theo thứ lớp đưa đến ác pháp; ba là vì hai bộ chúng đều thanh tịnh. Giới này bất cọng với Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo phạm Xả đọa, bốn chúng kia phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo nhờ Tỳ-kheo-ni không phải là bà con giặt nhuộm đập lông dê, tùy làm một trong việc trên thì Tỳ-kheo phạm Xả đọa. Nếu Tỳ-kheo-ni không làm mà nhờ người khác làm thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; nếu Tỳ-kheo nhờ Thức-xoa-ma-na, Sa-di-ni làm cũng phạm Xả đọa. Nếu viết thư hay làm dấu đưa tin nhờ làm thì phạm Đột-kiết-la; nếu lông dê chưa tác tịnh mà nhờ giặt nhuộm đập thì phạm Đột-kiết-la; nếu đã tác tịnh mà bảo giặt nhuộm đập thì chủ tịnh thí phạm Đột-kiết-la. Không phạm là nhờ Ni là bà con.

18. Nhân duyên kết giới thứ mười tám:

Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là để ngăn dứt phỉ báng, hai là trừ diệt đấu tranh và ba là thành tựu Thánh chủng. Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới cất chứa thì phạm Đột-kiết-la, cầm thì không phạm. Thể của giới này là chế ngăn cất chứa vật báu, như trong Giới bổn nói nếu Tỳ-kheo tự tay lấy cất vật báu hay bảo người khác lấy cất đều gọi là lấy cất. Tự lấy cất có năm cách: Một là dùng tay thọ lấy từ tay người khác, hai là dùng y thọ lấy từ y của người khác, ba là dùng vật đựng lấy từ vật đựng của người khác, bốn là nói để vào trong đây, năm là nói đưa cho tịnh nhân này. Nếu lấy từ một trong năm cách trên để cất chứa thì phạm Xả đọa, chớ tự tay cầm lấy cất, nếu như pháp thuyết tịnh thì không phạm. Vật báu là chỉ cho bảy báu như vàng bạc, trân châu, san hô, xa cừ, mã não… hoặc đã làm thành hoặc chưa làm thành hoặc có tướng hoặc không tướng. Làm thành là từ bảy báu làm ra khí vật; chưa làm thành là bảy báu nguyên chất chưa làm ra khí vật; có tướng là không làm ra khí vật nhưng làm ra tướng chữ hoặc tướng ấn tín; không tướng là không làm ra khí vật cũng không làm ra tướng chữ và tướng ấn tín. Nếu thọ và cất chứa các vật báu như thế đều phạm Xả đọa. Nếu Tỳ-kheo tự tay lấy cất tiền sắt, tiền đồng, tiền bạch lạp, tiền chì, tiền kẽm… bằng năm cách kể trên thì phạm Đột-kiết-la, chớ tự tay lấy cất, nếu như pháp thuyết tịnh thì không phạm. Tỳ-kheo nếu có vật báu phạm Xả đọa, ít thì nên bỏ, nhiều thì nên tìm tịnh nhân đồng tâm và nói rằng: "Vật này bất tịnh nên tôi không thể lấy, ông nên lấy giùm", tịnh nhân lấy rồi nói với Tỳ-kheo: "Vật này cho đại đức", Tỳ-kheo nói: "Vật này bất tịnh, nếu tịnh tôi sẽ thọ", nói như vậy gọi là thuyết tịnh. Nếu cầm lấy vật báu rồi mới thuyết tịnh thì do cầm lấy trước nên phạm Ba-dật-đề; nếu cầm lấy các loại tiền như tiền sắt, tiền đồng… rồi mới thuyết tịnh thì do cầm lấy trước phạm Đột-kiết-la, đều không phải là thể của giới này mà là thể của giới cầm vật báu trong chín mươi Ba-dật-đề. Thể của giới này là cất chứa, nếu cất chứa các loại tiền và vật tợ báu như pha lê, hổ phách, thủy tinh… thì phạm Đột-kiết-la; tiền và vật tợ báu này nên xả cho tịnh nhân đồng tâm, không xả cho Tứ phương tăng, thuyết tịnh rồi vào trong Tăng sám tội Đột-kiết-la. Nếu là vật báu mà không tìm được tịnh nhân đồng tâm thì nên xả cho Tứ phương tăng; nếu là vật tợ báu đã làm ra khí vật thuộc trong số một trăm lẻ một vật thì không cần tác tịnh; nếu không thuộc trong số một trăm lẻ một vật đều phải thuyết tịnh; trong số một trăm lẻ một vật, mỗi loại được cất chứa một cái, ngoài một trăm lẻ một vật ra, tất cả đều gọi là vật dư.

19. Nhân duyên kết giới thứ mười chín:

Lúc đó Lục quần Tỳ-kheo lấy vật báu đã phạm Xả đọa trước đó như pháp thuyết tịnh rồi dùng đủ cách chuyển đổi để sinh lợi. Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là đem vật báu chuyển đổi với người khác để sinh lợi, khi đưa liền phạm Xả đọa; khi được vật báu từ người kia đưa cũng phạm Xả đọa; nếu vì lợi đưa vật báu này mua lại vật báu khác, khi được vật liền phạm Xả đọa. Đưa vật báu chuyển đổi là đem vật báu đã làm thành đổi lấy vật báu đã làm thành hoặc đổi vật chưa làm thành hoặc đổi vật báu đã làm thành và chưa làm thành; hoặc đem vật báu chưa làm thành đổi lấy vật báu đã làm thành hay chưa làm thành như trên; hoặc đem vật báu có tướng đổi lấy vật báu không tướng hoặc vật có tướng hoặc vật có tướng và không tướng; hoặc đem vật báu không tướng đổi lấy vật báu có tướng hoặc không tướng như trên. Dùng đủ cách chuyển đổi có năm: Một là lấy, hai là đem đến, ba là đem đi, bốn là bán, năm là mua. Lấy là như nói lấy vật này, lấy trong đây, lấy chừng ngần ấy và lấy từ người này; đem đến, đem đi, bán và mua cũng giống như bốn cách lấy trên. Nếu Tỳ-kheo đem các loại tiền như tiền sắt, tiền đồng… chuyển đổi với người khác để sinh lợi thì phạm Đột-kiết-la; nếu vì lợi đem tiền mua vật thì phạm Đột-kiết-la; đem vật tợ báu chuyển đổi hay mua lại vật khác để sinh lợi đều phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là đem vật báu dùng đủ cách chuyển đổi, vừa chuyển đổi được vào tay liền phạm; không giống như giới mua bán là mua đi bán lại được lợi mới phạm. Tiền và vật báu nếu ít nên bỏ, nếu nhiều nên tìm tịnh nhân đồng tâm thuyết tịnh như trên. Giới này và giới mua bán sau đều phải xả cho bạch y hay tịnh nhân đồng tâm, không được xả cho Sa-di; Sa-di cũng phải xả cho bạch y; cũng không được xả cho Tứ phương tăng và nên sám tội Đột-kiết-la. Nói lập bảng để trị tội là viết tên người phạm giới này lên bảng cho mọi người nhìn thấy.

20. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi:

Lúc đó có một Phạm chí là môn đồ của Lục sư ngoại đạo, mỗi bậc thầy trong số Lục sư đều có mười lăm loại giáo lý để truyền trao cho đệ tử, do giáo lý khác nhau nên các đệ tử tiếp thọ và tu theo cũng thành có kiến chấp khác nhau; thầy cũng có giáo lý riêng cộng với mười lăm giáo lý dạy cho đệ tử tổng cọng có mười sáu loại giáo lý, năm bậc thầy kia cũng vậy nên Lục sư tổng cộng có tất cả chín mươi sáu loại giáo lý, cũng gọi là chín mươi sáu dị kiến; pháp riêng của bậc thầy chỉ truyền trao lại cho một đệ tử kế thừa, cứ như vậy thầy thầy truyền nhau nên ngoại đạo vẫn thường có sáu bậc thầy gọi là Lục sư.

Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là vì tăng thượng Phật pháp, hai là để ngăn dứt đấu tranh, ba là vì thành tựu Thánh chủng và năm là tăng trưởng lòng tín kính. Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tội buôn bán là tội nặng nhất trong các tội Ba-dật-đề, thà làm kẻ đồ tễ chứ không buôn bán, vì sao, vì đồ tễ chỉ giết hại súc sanh, còn buôn bán thì lừa dối và làm hại tất cả, không luận là đạo hay đời, hiền hay ngu, trì giới hay phá giới… thảy đều bị lừa dối. Lại nữa buôn bán thường có tâm ác, như buôn bán gạo thì mong cho thời thế mất mùa đói kém hoặc có bịnh dịch…; như buôn bán muối và các loại thực phẩm khác thì mong cho bốn phương loạn lạc, đường sá ách tắc… Nếu làm việc buôn bán trục lợi này lấy lợi làm thức ăn cúng Tăng, Tăng cũng không nên thọ dụng; làm phòng cho Tăng bốn phương, Tăng bốn phương cũng không nên ở; làm tháp làm tượng cũng không nên lễ tháp và tượng đó, chỉ nên tác ý lễ Phật mà thôi. Tóm lại hễ là Tỳ-kheo trì giới thì không nên thọ dụng những vật dụng như thế, nhưng nếu Tỳ-kheo buôn bán này qua đời thì Tăng được yết ma chia.

Hỏi: Vì sao khi vị ấy còn sống thì không được thọ dụng, khi vị ấy qua đời lại yết ma chia?

Đáp: Vì tội của nghiệp buôn bán này sâu nặng, khi vị này còn sống nếu Tăng thọ dụng thì vị ấy sẽ tiếp tục phạm tội; nếu phước điền Tăng không thọ dụng, họ sẽ nghĩ rằng đời này không phước, đời sau thọ tội; do nghĩ như vậy nên họ không dám làm nữa. Khi Tỳ-kheo này qua đời, không còn nhân duyên buôn bán nữa nên Tăng cho yết ma chia vật để lại. Có hai trường hợp: Một là phương tiện có tội nhưng quả lại không tội, như vì lợi nên buôn bán tích trữ lúa gạo, muối… (phương tiện có tội); sau đó khởi thiện tâm cúng Tăng cầu phước (quả không tội). Hai là phương tiện không tội nhưng quả có tội, như vì làm phước nên thu mua lúa gạo (phương tiện không tội), sau đó thấy lợi nên bán ra để tự thu lợi (quả có tội, phạm Đột-kiết-la). Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo vì lợi nên cố ý mua, mua rồi không bán ra thì phạm Đột-kiết-la; nếu vì lợi nên bán ra, bán rồi không thu mua lại cũng phạm Đột-kiết-la; nếu vì lợi nên mua đi bán lại thì phạm Xả đọa. Nếu buôn bán lấy lợi làm thức ăn, mỗi miếng ăn đều phạm Ba-dật-đề; nếu may y phục mặc, vừa mặc liền phạm Ba-dật-đề; nếu làm phu cụ, khi nằm lên mỗi lần xoay trở đều phạm Ba-dật-đề. Luận về pháp mua ở chợ, không nên mặc cả hạ giá, nếu hạ giá thì phạm Đột-kiết-la; y mà Tăng chưa xướng ba lần thì được thêm giá, xướng ba lần xong thì không được thêm giá, Tăng cũng không nên cho vì y đã thuộc về người khác. Nếu yết ma xướng ba lần rồi, Tỳ-kheo được y không được hối, nếu hối đòi trả lại, Tăng cũng không nên cho trả lại. Vật buôn bán này nếu không có tịnh nhân đồng tâm thì nên lấy làm ngọa cụ cho Tứ phương tăng để ngăn dứt phỉ báng, nếu đưa vào phước điền Phật thì ngoại đạo sẽ nói rằng: "Sa-môn Cù-đàm quá tham lợi nên bảo đệ tử xả vật để tự lấy dùng". Vì vậy đưa vào phước điền Tăng thì không có lỗi, bất luận là thọ pháp hay không thọ pháp, trì giới hay phá giới, là pháp ngữ hay phi pháp ngữ thảy đều được thọ dụng; nhưng nếu là Tỳ-kheo trì giới thì không nên thọ dụng y thực của tỳ-kheo làm việc buôn bán vật này.

21. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi mốt:

Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo là để thành tựu Thánh chủng và để tăng trưởng chánh nghiệp. Đây là giới bất cọng, Tỳ-kheo cất bát dư quá mười ngày thì phạm Xả đọa; Tỳ-kheo-ni cất bát quá một đêm thì phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Nếu cất chứa bát dư bằng sắt trắng, bát gốm chưa nung và các loại bát không đúng lượng đều phạm Đột-kiết-la.

Hỏi: Nếu y có sắc trắng hay sắc không như pháp cất chứa quá mười ngày thì phạm Xả đọa vì nhuộm màu không như pháp; vì sao chứa bát dư bằng sắt trắng, bát gốm chưa nung quá mười ngày không phạm Xả đọa?

Đáp: Vì y bát không giống nhau, y nếu nhuộm như pháp thì thành sắc, không có thêm bớt nữa; còn bát khi nung hoặc xông có thể hư hay bể. Bát bằng sắt trắng hay gốm chưa đánh dầu cho bóng láng tuy được thọ dụng nhưng không thành thọ trì. Bát có ba loại: Bát thượng là bát thọ được ba bát cơm, một bát canh và nữa bát canh thức ăn khác; bát hạ là bát thọ được một bát cơm, nữa bát canh, nữa bát canh thức ăn khác; bậc giữa của hai loại bát này là bát trung, nếu lớn hơn bát thượng và nhỏ hơn bát hạ thì không gọi là bát. Bát hay bát tha, các Luận sư giải thích có nhiều cách nhưng đều có một nghĩa chánh, đó là một bát tha thọ được mười lăm lạng cơm; đời Tần cho là một bát tha thọ được ba mươi lạng cơm, ở Thiên trúc cho một bát tha bằng một chõ cơm; người đương thời đều cho là bát thượng thọ được ba bát tha cơm, một bát tha canh và nữa bát tha canh thức ăn khác; ba bát tha cơm bằng hai thăng của đời Tần, một bát tha canh và nữa bát tha canh thức ăn khác là một bát tha rưỡi; như vậy theo cân lượng Thăng của đời Tần thì một bát thượng thọ được ba thăng cơm canh và thức ăn. Có Luật sư nói không có thức ăn khác, chỉ nói một bát thượng thọ được ba bát tha cơm và một bát tha canh, bên trên là khoảng trống để cho tay không chạm đến thức ăn bên trong bát; bát hạ cũng vậy, thọ được một bát tha cơm, nữa bát tha canh và nữa bát tha cánh thức ăn khác, tính theo Thăng của đời Tần thì bát hạ thọ được từ một thăng cho đến một thăng rưỡi.

Hỏi: Y dư hay thiếu vẫn thành thọ trì, vì sao bát lớn hơn hay nhỏ hơn đều không thành thọ trì?

Đáp: Y dư hay thiếu có thể giảm bớt hay nối thêm, còn bát lớn hơn hay nhỏ hơn không thể giảm bớt hay tăng thêm, nên y và bát không giống nhau. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo vào ngày được bát dư, ngay ngày đó bị điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại; hoặc bị yết ma Bất kiến tẫn, yết ma Bất tác tẫn … cho đến khi qua đời thì không phạm. Sau đó trở lại được bổn tâm hoặc được giải tẫn thì cứ theo thứ lớp tính tiếp ngày mà kết tội. Nếu được bát dư cất chứa được năm ngày, kế bị điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại; hoặc bị yết ma Bất kiến tẫn… thì trong khoảng thời gian này không tính tội; sau đó trở lại được bổn tâm hay được giải tẫn thì cứ theo thứ lớp tính tiếp năm ngày nữa cộng với năm ngày trước thành tội. Nếu ngay ngày được bát dư đi lên cõi trời hay qua cõi Uất đơn việt, trong khoảng thời gian đó không tính tội; sau khi trở về chỗ cũ thì cứ theo thứ lớp tính tiếp ngày mà kết tội.

22. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi hai:

Nhìn thấy trong cửa hàng có cái bát sứ tròn, bóng láng rất đẹp: Luật sư nói khi Phật mới thành đạo, chúng tăng không có bát, Phật bảo Thích đề hoàn nhơn ra lịnh cho thợ cõi trời làm ra mười vạn cái bát. Cái bát trong cửa hàng chính là bát do trời làm không phải do người làm ra. Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Nếu xin bát bằng sắt trắng hay bát gốm chưa nung, hoặc xin cho người khác, hoặc hai người cùng xin một bát, hoặc mua được hoặc người khác mua cho, hoặc viết thư hay làm dấu đưa tin đều phạm Đột-kiết-la. Xin bát không đúng lượng cũng phạm Đột-kiết-la, nếu xin được bát bằng sắt trắng hay bát gốm chưa nung đem về tự nung, tự xông thì phạm Xả đọa. Bát mà Tỳ-kheo đã thọ trì bị răng nứt chưa đến năm lằn mà xin bát mới thì phạm Xả đọa; nếu bát bị răng nứt đến năm chỗ chưa trét hay ràng bít lại, xin bát mới thì không phạm. Nếu bát bị răng nứt bốn, năm chỗ đã được ràng bít lại thì sau khi thọ thực xong nên tháo dây ràng ra, rửa sạch rồi lau khô đem cất ở chỗ sạch sẽ; qua hôm sau trước giờ ăn nên lấy dây mới ràng bít lại dùng để thọ thực. Trường hợp bát chưa răng nứt đến năm chỗ mà xin bát mới thì như trong văn luật nói nên ở trong Tăng hành bát, đưa bát này theo thứ lớp từ Thượng tòa đến Hạ tòa, nếu không ai chịu lấy thì đưa trả lại cho Tỳ-kheo phạm rồi bảo gìn giữ suốt đời cho đến khi bể, nhưng vẫn phải như pháp thọ trì bát cũ, còn bát mới không được thọ trì; tuy không thọ trì bát mới nhưng vẫn phải mang theo hai bát bên mình, làm như vậy để hiển bày tham muốn nhiều là tội lỗi và đoạn dứt nhân duyên đưa đến ác pháp sau này.

23. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi ba:

Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là để ngăn dứt phỉ báng, hai là trừ diệt pháp ác và ba là thành tựu Thánh chủng. Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo tự xin tơ sợi thì phạm Đột-kiết-la; bảo thợ dệt không phải là bà con dệt thành y thì phạm Xả đọa; nếu viết thư hay làm dấu đưa tin thì phạm Đột-kiết-la. Nếu dựa vào thế lực quý trọng bắt buộc thợ dệt dệt, thợ dệt vì sợ gặp nạn nên dệt thì phạm tội, Trong giới này nếu được y vào tay thì phạm tội, nếu xin tơ sợi từ bà con thì không phạm; tự dệt hay nhờ Tỳ-kheo khác hoặc Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na dệt đều phạm Đột-kiết-la. Nếu không có y, xin tơ sợi từ người không phải bà con để dệt thành y thì phạm Đột-kiết-la; nếu thiếu y thì xin y, không được xin tơ sợi; nếu xin tơ sợi làm dây thiền thì không phạm; nếu không dựa vào thế lực quý trọng, thợ dệt tự phát tâm dệt cho thì không phạm. Trong giới này bất luận được y đúng lương hay không đúng lượng đều phạm. Không phạm là nhờ bà con dệt hoặc nhờ người không phải bà con dệt làm dây thiền thì không phạm.

24. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi bốn:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là nếu cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải là bà con bảo thợ dệt dệt y cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo tự đến chỗ thợ dệt bảo dệt cho rộng, dài, bền chắc và đẹp rồi hứa cho thức ăn hoặc giá tiền bằng một bữa ăn; được y tốt vào tay liền phạm Xả đọa, không được y tốt thì phạm Đột-kiết-la. Trong giới này được y tốt đúng lượng hay không đúng lượng đều phạm; nếu thuyết pháp cho thợ dệt nghe rồi bảo dệt cho tốt đẹp hơn, không hứa đưa cho thức ăn hay giá tiền bằng một bữa ăn, được y tốt vào tay thì phạm Đột-kiết-la. Nếu viết thư hay làm dấu đưa tin hứa sẽ đưa cho thức ăn hay giá tiền bằng một bữa ăn thì phạm Xả đọa; không phạm là tự có tơ sợi đưa cho thợ dệt dệt.

25. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi lăm:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo đoạt y của tỳ-kheo khác thì phạm Xả đọa, đoạt y của bốn chúng kia thì phạm Đột-kiết-la; nếu đoạt y của Sa-di đắc giới (tức là Sa-di học hối), của người hành Biệt trú, Ma-na-đỏa; của người mù. Điếc, câm; của người đang bị yết ma Bất kiến tẫn… đều phạm Xả đọa. Nếu đoạt y của người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại; người phạm bốn trọng, người làm Phật bị thương chảy máu, người phá Pháp luân tăng, người thọ năm tà pháp đều phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo-ni đoạt y của tỳ-kheo-ni cũng phạm Xả đọa, đoạt y của tỳ-kheo và ba chúng dưới đều phạm Đột-kiết-la; đoạt y của Sa-di đắc giới (tức là Sa-di học hối)… cũng phạm Xả đọa như trên. Thể của giới này là Tỳ-kheo trước đã cho người khác y rồi, sau đó vì phiền não nên đoạt lại thì phạm Xả đọa, y này nên xả trả lại cho người đó rồi sám tội Ba-dật-đề; nếu trước cho mượn tạm dùng, sau đoạt lấy lại thì không phạm. Nếu Hòa thượng muốn chiết phục đệ tử từ bỏ pháp ác nên tạm đoạt y thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo đoạt y mang y này ra khỏi giới hoặc Tỳ-kheo bị mất y tự ra khỏi giới ngủ đêm thì mất y phạm Xả đọa, y này nên xả trả thẳng cho người kia, không cần vào trong Tăng xả. Luật sư nói nước Hồ vốn không ở trong Tăng xả pháp vì tội Ba-dật-đề là đối thú sám.

Sa-di đắc giới (Sa-di học hối): Luật sư nói Tỳ-kheo-ni từ lúc Phật xuất thế đến nay không có Sa-di-ni đắc giới (tức là Sa-di-ni học hối), huống chi là phạm tội. Sa-di đắc giới tức là Tỳ-kheo phạm Dâm rồi một niệm không che giấu thì được cho học pháp (học lại pháp Tỳ-kheo). Khi Phật còn tại thế, có một người được cho học pháp tức là Tỳ-kheo Nan-đề; sau khi Phật diệt độ ở nước Kế tân có một người cũng được cho học pháp; cả hai người này sau đều được Lậu tận. Lại nữa Sa-di đắc giới không làm điều ác mà lại khởi kiến chấp vào pháp của ngoại đạo; cũng không ham thích pháp thế tục mà phản giới hoàn tục.

26. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi sáu:

Giới này bất cọng, ba chúng kia không có giới này. Lúc đó trưởng lão Tỳ ha, Tần dịch là đoạn, tức là đoạn trừ tất cả sanh tử lậu hoặc. Tất cả A-la-hán đều được lậu tận nhưng dựa trên căn bản để đặt tên đều có nhân duyên nên không đồng nhau. Trưởng lão Tỳ ha này có y Tăng-già-lê quý giá, trị giá mười vạn tiền nên bọn giặc cướp muốn đoạt lấy, chúng đến trước cửa phòng gõ cửa, Tỳ-kheo hỏi vọng ra: "Ai đó?", giặc cướp nói: "Chúng tôi muốn đoạt lấy y của tỳ-kheo", trưởng lão Tỳ ha nghe rồi liền mắc y lên cửa sổ rồi nhập định Tứ thiền, dùng định lực giữ y khiến giặc cướp không cướp được. Chúng nói với nhau: "Hãy đợi Tỳ-kheo đi khất thực, chúng ta sẽ vào lấy", nói rồi liền rình đợi khi trưởng lão đi khất thực liền vào phòng lấy y mang đi, do nhân duyên này trưởng lão bị mất y.

Qua ba tháng có tháng nhuần: Chưa hết tháng tám tức là qua tiền an cư. Luật sư nói không nên nói có tháng nhuần, vừa qua rằm tháng bảy, chưa hết tháng tám gọi là hậu an cư. Từ ngày mười sáu tháng bảy theo thứ lớp đến sáu đêm cho Tỳ-kheo an cư nơi A-lan-nhã được lìa y ngủ đêm vì đề phòng kẻ trộm trộm lấy y, nên đem y này gởi cho Tăng trong đại giới hoặc ở nhà cư sĩ chỗ không có nạn giặc cướp, gởi đến đêm thứ sáu thì trở lại lấy y hoặc đến chỗ y hoặc thọ y khác. Nếu không đến chỗ y hoặc thọ y khác thì đến đêm thứ bảy trời vừa sáng liền phạm Xả đọa. A-lan-nhã là nơi cách xa tụ lạc khoảng năm trăm cung, theo bước chân của người Hồ thì bốn trăm bước chân là một trăm cung, một bước chân của người Hồ bằng một gang tay, bốn trăm cung là một Câu-lô-xá, bốn Câu-lô-xá là một do tuần. Nói xa gần là như ở nước Ma-kiệt-đà, ngay trong thành đô đất đai bằng phẳng nên nói là gần; còn ở phương Bắc núi non cao thấp nên nói là xa. Lại nữa, ở trong thành đô nhiều gió, nếu ở xa thì không nghe được tiếng trống, còn ở gần thì nghe được nên nói là gần; còn ở phương Bắc ít gió, dù ở xa vẫn nghe được tiếng trống nên nói là xa. Cho nên hai phương Nam bắc nói có xa gần đều là do nghe được hay không nghe được tiếng trống; Câu-lô-xá là tên gọi âm thanh, hễ nơi nào còn nghe được tiếng trống vang đến đều gọi là một Câu-lôxá. Luật sư nói nghĩa này là nhất định.

27. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi bảy:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Nói còn mười ngày nữa mới đến Tự tứ mà được y cấp thí nghĩa là vua hay phu nhân của vua hoặc vương tử, đại thần, tướng soái… có tâm tín kính nên mang y vật đến cúng Tăng. Vì những người quyền quý khó khởi tâm thiện, lại khó thường khởi tâm thiện, vì có nhân duyên cấp bách mới cúng nên gọi là y cấp thí; nếu Tăng không thọ thì công đức của họ không thành mà Tăng cũng mất y nên Phật khai cho thọ. Những trường hợp như người nữ sắp được gả về nhà chồng sẽ không được tự do, này còn tự do nên đem y vật cúng Tăng; hoặc người bịnh khởi tâm thiện cúng Tăng để cầu cho dù sống hay qua đời đều được lợi ích… đều gọi là y cấp thí. Tăng được y cấp thí này nên theo thứ lớp mà chia. Nói được cất chứa cho đến Thời y là từ ngày mười sáu tháng bảy đến ngày rằm tháng tám, nếu không thọ y công đức thì một tháng này gọi là Thời y, sở dĩ gọi là Thời y vì an cư xong, đàn việt cúng nhiều y thực cho Tăng, các Tỳ-kheo cũng làm nhiều việc như giặt nhuộm may y mới, trong một tháng này có thể xả y cũ thọ y mới nên gọi là Thời y. Nếu có thọ y công đức thì từ ngày mười sáu tháng tám đến ngày rằm tháng chạp, trong bốn tháng này gọi là Thời y. Tướng phạm trong giới này là nếu không thọ y công đức thì đến ngày rằm tháng tám, y này nên xả hoặc tịnh thí hay thọ trì; nếu không xả, không tịnh thí, không thọ trì thì qua ngày mười sáu tháng tám trời vừa sáng liền phạm Xả đọa. Nếu có thọ y công đức thì đến ngày rằm tháng chạp, y này nên xả hoặc tịnh thí hay thọ trì; nếu không xả, không tịnh thí, không thọ trì thì qua ngày mười sáu tháng chạp trời vừa sáng liền phạm Xả đọa. Trừ còn mười ngày nữa được y cấp thí, tất cả y an cư khác đều phải đợi đến khi Tự tứ mới được chia, nếu chia trong hạ an cư thì phạm Đột-kiết-la.

QUYỂN 6

28. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi tám:

Giới này bất cọng, Tỳ-kheo được cất chứa y tắm mưa, Tỳ-kheo-ni được cất chứa áo tắm, không được cất chứa y tắm mưa vì Ni vốn yếu ớt, cất chứa mang theo không tiện. Cất chứa y tắm mưa thường làm hai việc: Một là khi trời mưa dùng để che bốn phía, ở trong đó tắm gội; khi trời nóng cũng dùng để che kín chỗ tắm. hai là vào tháng hạ thường mưa nhiều, y tắm mưa này dùng để bọc giữ ba y khi gánh mang đi. Ba chúng dưới không được cất chứa y tắm mưa. Vào tháng cuối của mùa xuân, từ ngày mười sáu tháng ba đến rằm tháng tư, trong một tháng này nên xin y tắm mưa. Nữa tháng cuối từ mồng một tháng giêng đến rằm tháng tư, nên may thành y và cất chứa dùng để tắm và mang đi theo. Nếu y chưa may thành được cất chứa đến rằm tháng tư để xin cho đủ và may thành; nếu từ ngày mười sáu tháng ba đến ngày mười tám hay mười chín tháng ba xin được y và may thành thì như Luật sư nói cũng được cất chứa dùng. Xét theo luật chế thì trong một tháng, nữa tháng đầu được xin và trong nữa tháng cuối được cất chứa dùng. Nếu tiền an cư thì đến ngày mười sáu tháng tư nên như pháp thọ trì, đến rằm tháng bảy nên cất một chỗ không dùng nữa, nếu còn chứa dùng thì phạm Đột-kiết-la. Y này không cần xả, đợi đến mùa an cư năm sau lấy ra dùng như trước, không cần thọ lại. Nếu hậu an cư thì từ rằm tháng tư được cất chứa đến rằm tháng năm thọ trì đến rằm tháng bảy nên cất một chỗ không dùng nữa… giống như tiền an cư.

Nếu tháng ba nhuần thì Tỳ-kheo không nên xin và may y tắm mưa vào tháng ba trước, nên bắt đầu xin và may y tắm mưa từ ngày mười sáu tháng ba nhuần. Nếu Tỳ-kheo không biết có tháng nhuần nên xin và may y tắm mưa từ ngày mười sáu tháng ba trước thì y này trở thành y dư, trong một tháng này không đước cất chứa nên cất một chỗ, cũng không cần tác tịnh và cho người khác, vì y này thuộc trong số một trăm lẻ một vật. Nếu tháng tư nhuần, an cư từ ngày mười sáu tháng tư sau thì ngày nay nên thọ trì y tắm mưa cho đến rằm tháng bảy.

Cất chứa quá nữa tháng thì phạm Xả đọa: Luật sư nói: "Các luận sư cho là nếu tháng ba nhuần được xin và may y tắm mưa từ ngày mười sáu tháng ba trước, đến tháng ba nhuần sau thì thọ dụng", tính từ ngày thọ dụng trở đi cho đến hết tháng ba sau là cất giữ quá nữa tháng phạm Xả đọa, y này nên xả và sám tội Ba-dật-đề; nếu tính từ ngày xin và may thành y trở đi thì phạm Đột-kiết-la. Xả và sám xong cất một chỗ, đến ngày mười sáu tháng tư lấy ra thọ trì… giống như trên đã nói. Nếu Tỳ-kheo ở chỗ không có tháng nhuần xin được y tắm mưa, đến an cư nơi chỗ có tháng nhuần thì cũng giống như trên tính từ ngày thọ dụng y trở đi thì phạm Xả đọa, tính từ ngày xin và may y thành trở đi thì phạm Đột-kiết-la. Nói có tháng nhuần tức là chỉ cho tháng ba nhuần, Tỳ-kheo ở chỗ không có tháng nhuần xin và may y tắm mưa từ ngày mười sáu tháng ba, đối với chỗ có tháng nhuần thì tháng ba này đang là tháng ba trước. Tỳ-kheo đến an cư nơi chỗ có tháng nhuần tức là vào tháng ba sau thì trở thành hậu an cư. Nếu tính từ ngày xin và may y tháng thì phạm Đột-kiết-la, còn tính từ ngày thọ dụng thì cất dùng quá nữa tháng nên phạm Xả đọa.

29. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi chín:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là nếu biết vật định cúng cho Tăng mà xoay về cho mình thì phạm Xả đọa; nếu xoay về cúng cho ba, hai, một Tỳ-kheo khác thì phạm Đột-kiết-la. Nếu biết vật định cúng cho Ni tăng mà xoay về cho mình cũng phạm Xả đọa; nếu xoay về cúng cho ba, hai, một Tỳ-kheo khác cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu biết vật định cúng cho Tăng mà xoay về cúng cho tháp, cúng cho tháp rồi thì không cần lấy lại vì phước đồng nhau, nhưng Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Nếu biết vật định cúng cho chúng tăng này lại xoay về cúng cho chúng tăng kia, cúng cho chúng tăng kia rồi thì không cần lấy lại vì Tăng là đồng nhưng Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Nếu biết vật cúng cho Tăng tự tứ lạp chỗ này lại xoay về cúng cho Tăng chỗ khác thì vật này nên trả lại cho Tăng tự tứ chỗ này, vì vật tự tứ đã thuộc về chúng tăng chỗ này và Tỳ-kheo nên sám tội Đột-kiết-la; nếu không trả lại thì tính theo giá tiền mà thành tội. Cúng cho Tăng diện môn lạp cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo biết vật định cúng cho người này mà xoay về cúng cho người khác thì nên lấy lại, vì vật đã thuộc về chủ trước và Tỳ-kheo nên sám tội Đột-kiết-la; nếu không trả lại thì tính theo giá tiền mà định tội.

30. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Lúc đó đệ tử của Tất-lân-già-bà-ta có bốn loại dược hàm tiêu là tô, dầu, mật và thạch mật cất cách đêm rồi lấy dùng, phạm ác tróc, không thọ mà ăn và nội túc. Trước đó Phật chỉ chế Thời dược gồm năm loại chánh thực và năm loại tợ thực, chưa chế Thất nhật dược nhưng những việc như ác tróc, không thọ mà ăn và nội túc thì đã chế trước rồi. Thể của giới này là nếu Tỳ-kheo bịnh cần dùng loại Thật nhật dược mà không có tịnh nhân để tác tịnh hoặc tìm khó được thì nên từ tay tịnh nhân thọ, kế đến bên Tỳ-kheo nói thọ rồi tùy cất một chỗ lầy dùng trong vòng bảy ngày. Nếu bịnh nặng không nói thọ được thì cũng được dùng, hoặc thọ từ tay Tỳ-kheo khán bịnh và miệng nói thọ cũng thành pháp thọ. Nếu thọ rồi mà tịnh nhân chạm vào thì phải thọ lại; nếu ngay ngày đó thọ rồi mà thực phẩm không thuộc loại thực phẩm mà mình cần thì nên trả lại rồi thọ lại. Nếu thọ rồi trải qua hai, ba ngày lại được thêm thực phẩm nữa thì nên trả lại rồi thọ lại. Nếu từ ngày đầu theo thứ lớp cho đến ngày thứ bảy được nhiều loại thực phẩm, không biết loại nào đã thọ rồi, loại nào chưa thọ thì nên từ tay thọ lại và nói thọ lại rồi mới được dùng. Nếu đến ngày thứ sáu, thứ bảy hết bịnh thì không được thọ lại loại Thất nhật dược này nữa, đến ngày thứ bảy nếu còn dư nên tác tịnh hoặc cho người hoặc dùng cho hết; nếu không tác tịnh, không cho người thì qua ngày thứ tám trời vừa sáng liền phạm Xả đọa. Nếu người không bịnh mà được loại Thất nhật dược thì nên ở bên tịnh nhân tác tịnh, tác tịnh rồi được cất một chỗ tùy ý lấy dùng. Nếu từ tay thọ mà không nói thọ bảy ngày lại để cách đêm lấy dùng thì phạm giới ăn thức ăn dư cách đêm (tàn túc thực) nên sám tội Ba-dật-đề. Bốn loại dược hàm tiêu này sau giờ ngọ đều được thọ dùng không lỗi. Nếu dùng loại Thời dược và loại Chung thân dược trợ giúp thành loại Thất nhật dược để dùng thì không có lỗi, vì thế lực của Thất nhật dược nhiều. Trợ giúp thành loại Thất nhật dược là như lấy Tô nấu thịt, nước Tô nấu thịt này thành Thất nhật dược để dùng. Nếu lấy Thời dược và loại Thất nhật dược trợ giúp thành loại Chung thân dược để dùng cũng không có lỗi; hoặc lấy Chung thân dược và loại Thất nhật dược trợ giúp thành loại Thời dược để dùng cũng không có lỗi, vì tùy thế lực nhiều trợ giúp nhau mà thành; nếu phân số thế lực thì tùy tên mà ấn định, như Thạch mật hoàn dựa trên tên (Thạch mật)mà thành loại Thất nhật dược; như Ngũ thạch tán dựa trên tên (Thạch tán) mà thành loại Chung thân dược. Như vậy tùy thế lực của loại dược nào nhiều thì tùy thế lực đó mà đạt thành tên, nếu thế lực của các loại dược bằng nhau thì tùy tên mà ấn định thuộc loại dược nào.

6. Nhân Duyên Kết Chín Mươi Pháp Ba-dật-Đề:

1. Nhân duyên kết giới thứ nhất:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Có tất cả năm loại vọng ngữ kết tội khác nhau:

Một là loại vọng ngữ phạm Ba-la-di: Thật không có pháp hơn người mà nói là có pháp hơn người.

Hai là loại vọng ngữ phạm Tăng tàn: Đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng Tỳ-kheo khác.

Ba là loại vọng ngữ phạm Thâu-lan-giá: Nói có pháp hơn người không rõ ràng đầy đủ hoặc đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng không rõ ràng đầy đủ.

Bốn là loại vọng ngữ phạm Ba-dật-đề: Đem pháp Tăng tàn không căn cứ vu báng Tỳ-kheo khác và loại vọng ngữ trong thiên Ba-dật-đề này.

Năm là loại vọng ngữ phạm Đột-kiết-la: Ba chúng dưới vọng ngữ kết phạm tội này.

Trường hợp vọng ngữ không phạm là trước kia là tại gia không có sư tăng hoặc Tỳ-kheo đã phá giới sau trở lại làm Tỳ-kheo. Có bảy việc thành vọng ngữ: Một là trước tác ý muốn vọng ngữ, hai là miệng vọng ngữ, ba là nói xong tự nói là vọng ngữ, bốn là thấy khác, năm là muốn khác, sáu là chấp nhận khác và bảy là biết khác. Lại có bốn việc thành vọng ngữ tức là bốn việc sau trong bảy việc trên; lại có ba việc thành vọng ngữ, tức là ba việc trước trong bảy việc trên. Nếu Tỳ-kheo không thấy sự việc mà nói là thấy, hoặc thấy mà nói là không thấy; hoặc thấy tưởng là không thấy mà nói với người khác là thấy, hoặc không thấy tưởng là thấy mà nói với người khác là không thấy; hoặc thấy mà nghi, không biết là thấy hay không thấy, lại nói với người khác là không thấy; hoặc không thấy mà nghi, không biết là thấy hay không thấy mà nói với người khác là thấy… do nói trái với tâm tưởng nên tất cả trường hợp trên đều phạm Ba-dật-đề. Nghe, hiểu và biết cũng giống như trường hợp thấy ở trên, nếu tất cả đều nói theo tâm tưởng thì không phạm. Từ mắt thấy gọi là kiến, từ tai nghe gọi là văn, từ mũi, lưỡi, thân nhận biết gọi là giác; từ ý căn nhận biết gọi là tri. Ba căn nhãn, nhĩ, ý do tánh nhạy bén và có lực dụng thiên nhiều về thấy nghe và nhận biết, lại có thể thọ lấy cảnh giới ở xa nên có tên gọi riêng là kiến, văn, tri; ba căn mũi, lưỡi và thân do tánh chậm lụt và lực dụng ít, chỉ có thể thọ lấy cảnh giới ở gần nên hợp chung thành một tên gọi là giác. Nếu bảo người khác vọng ngữ hay viết thư, trong thư vọng ngữ đều phạm Đột-kiết-la; nếu trước vốn vô tâm nói lở lời hay nói lộn mà thành vọng ngữ thì phạm Đột-kiết-la. Nếu thuyết pháp hay bàn luận gì, hoặc chuyền nói lỗi của người khác, tất cả việc thị phi chớ tự cho là đúng, thường phải suy đoán có căn cứ thì không có lỗi. Nếu điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì không phạm. Khi nói có Toàn phong, Thổ quỷ đến chỗ tôi; hoặc tự nói mình là người trì giới thanh tịnh không khởi dục; hoặc tự nói mình có pháp hơn người… nếu người nghe không chấp nhận thì phạm trọng Thâu-lan-giá. Nếu muốn đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng Tỳ-kheo khác, trước lập bày phương tiện nói với người khác rằng: "Tỳ-kheo tên ____ phạm tội ____, xin hãy trợ giúp tôi cử tội”thì phạm trọng Thâu-lan-giá.

2. Nhân duyên kết giới thứ hai:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la.

Phật nói nhân duyên bổn sanh: Một là để dẫn chứng cho tội khinh chê, hai là dứt phỉ báng, vì nếu không nói Bổn sanh thì ngoại đạo sẽ nói rằng: "Sa-môn Cù-đàm không có Túc mạng thông"; ba là để thành tựu mười hai bộ kinh, đây là kinh Bổn sanh. Phật dùng Nguyện trí biết rõ việc quá khứ để nói nhân duyên bổn sanh.

Hỏi: Nguyện trí và Túc mạng trí khác biệt như thế nào?

Đáp: Túc mạng trí biết việc quá khứ, còn Nguyên trí biết rõ việc trong ba đời; Túc mạng trí biết việc thuộc Hữu lậu, Nguyện trí biết rõ việc thuộc cả Hữu lậu và Vô lậu; Túc mạng trí biết việc quá khứ của tự thân, Nguyện trí biết rõ việc quá khứ của mình và cả người khác; Túc mạng trí biết việc theo thứ lớp từ một đời đến hai đời, ba đời…, Nguyện trí trong một niệm biết sự việc vượt cả một trăm kiếp. Thuở xưa sở dĩ loài súc sanh nói được tiếng người mà ngày nay không thể nói được là vì vào kiếp sơ chỉ có cõi trời người chưa có ba đường ác, sau đó từ hai cõi này sanh ra có ba đường ác, do tập khí đời trước gần nên nói được tiếng người. Ngày nay súc sanh phần nhiều từ trong ba đường ác sanh ra nên không thể nói được tiếng người.

Tướng phạm trong giới này là khinh chê có tám việc: Dòng họ, nghề nghiệp, việc làm, phạm tội, bịnh, hình tướng, phiền não và mắng. Nếu đem ba việc dòng họ, nghề nghiệp và việc làm để khinh chê Tỳ-kheo thuộc ba giai cấp Sát-đế-lỵ, Bà-lamôn và thương nhân thì phạm Đột-kiết-la; nếu đem ba việc trên để khinh chê Tỳ-kheo thuộc giai cấp khác thì phạm Ba-dật-đề. Nếu đem năm việc sau trong tám việc trên để khinh chê Tỳ-kheo thuộc cả bốn giai cấp thì phạm Ba-dật-đề; nếu đem tám việc trên để khinh chê Tỳ-kheo ở trước mặt thì phạm Ba-dật-đề, khinh chê ở sau lưng thì phạm Đột-kiết-la. Nếu đem tám việc trên để khinh chê Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la, khinh chê ba chúng dưới cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu đem tám việc trên để khinh chê người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, tại gia không có sư tăng, người việt tế (phá nội ngoại đạo), người điếc… đều phạm Đột-kiết-la; khinh chê sáu hạng người phạm tội đang bị trị tội cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu đem tám việc trên để khinh chê Tỳ-kheo khác thì phạm Ba-dật-đề; nếu không đem tám việc trên, chỉ muốn xúc não nên nói lời khinh chê thì phạm Đột-kiết-la. Nếu sai bảo người khác hay viết thư để khinh chê cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu đem tám việc trên để khinh chê, nói rằng: "Thầy có tám việc này không hợp với pháp xuất gia”thì phạm Ba-dật-đề; nếu không dùng tám việc trên mà dùng việc khác để khinh chê, như nói: "Thầy ăn nhiều, ngủ nhiều, nói chuyện nhiều, ham ăn ham ngủ như vậy xuất gia thọ giới làm chi", thì phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là nếu người bị khinh chê nghe được thì phạm Ba-dật-đề, không nghe được thì phạm Đột-kiết-la. Nếu có người sau khi xuất gia rồi mới bị bịnh hủi thì được cùng làm việc chúng nhưng khi ăn thì không nên ngồi ăn chung trong chúng.

3. Nhân duyên kết giới thứ ba:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nói ly gián có tám việc: Dòng họ, nghề nghiệp, việc làm, phạm tội, bịnh, hình tướng, phiền não và mắng. Nếu đem ba việc dòng họ, nghề nghiệp và việc làm để nói ly gián Tỳ-kheo thuộc ba giai cấp Sát-đế-lỵ, Bà-lamôn và thương nhân thì phạm Đột-kiết-la; nếu đem ba việc trên để nói ly gián Tỳ-kheo thuộc giai cấp khác thì phạm Ba-dật-đề. Nếu đem năm việc sau trong tám việc trên để nói ly gián Tỳ-kheo thuộc cả bốn giai cấp thì phạm Ba-dật-đề. Nếu đem tám việc trên để nói ly gián Tỳ-kheo-ni thì phạm Đột-kiết-la, nói ly gián ba chúng dưới cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu đem tám việc trên để nói ly gián người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại, tại gia không có sư tăng, người việt tế (phá nội ngoại đạo), người điếc… đều phạm Đột-kiết-la; nói ly gián sáu hạng người phạm tội đang bị trị tội cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo đem năm việc sau trong tám việc trên đến nói với Tỳ-kheo này rằng: "Tỳ-kheo kia nói thầy là người ác thích mắng, xuất gia thọ giới làm chi", Tỳ-kheo này hỏi: "Tỳ-kheo đó là ai?", đáp: "Tỳ-kheo đó tên là ____ ", lại hỏi là họ gì, đáp: "Tỳ-kheo đó họ là ____ ", lại hỏi là làm việc gì, đáp: "Đang làm việc ____ ", lại hỏi hình tướng ra sao, đáp: "Tỳ-kheo ấy có hình tướng ____ ". Nếu người kia nghe hiểu thì phạm Ba-dật-đề, nghe không hiểu thì phạm Đột-kiết-la; sở dĩ hỏi theo thứ lớp như thế vì người cùng tên cùng họ rất nhiều. Nói ly gián có bốn trường hợp:

Một là nói ly gián không phải là vọng ngữ và ác khẩu, như Tỳ-kheo đem lời của tỳ-kheo này đến nói với Tỳ-kheo kia, nếu là thật thì không phải là vọng ngữ; nói lời hòa dịu thì không phải là ác khẩu; nhưng nói với tâm muốn ly gián Hai Tỳ-kheo này thì gọi là ly gián ngữ.

Hai là nói ly gián là vọng ngữ nhưng không phải là ác khẩu, như Tỳ-kheo đem lời của Tỳ-kheo này đến nói với Tỳ-kheo kia, nếu không phải là thật thì gọi là vọng ngữ; nói lời hòa dịu thì không phải là ác khẩu; nhưng nói với tâm muốn ly gián Hai Tỳ-kheo này thì gọi là ly gián ngữ.

Ba là nói ly gián là ác khẩu nhưng không phải là vọng ngữ, như Tỳ-kheo đem lời của tỳ-kheo này đến nói với Tỳ-kheo kia, nếu là thật thì không phải là vọng ngữ; nói lời thô ác thì gọi là ác khẩu và nói với tâm muốn ly gián Hai Tỳ-kheo thì gọi là ly gián ngữ.

Bốn là nói ly gián vừa là vọng ngữ vừa là ác khẩu, như Tỳ-kheo đem lời của tỳ-kheo này đến nói với Tỳ-kheo kia, nếu không phải là thật thì gọi là vọng ngữ; nói lời thô ác thì gọi là ác khẩu và nói với tâm muốn ly gián Hai Tỳ-kheo này thì gọi là ly gián ngữ. Vọng ngữ và ác khẩu cũng có bốn trường hợp giống như trên. Nếu mắng người tại gia, nói rằng: "ở thế tục có nhiều điều không thanh tịnh”thì phạm Đột-kiết-la; nếu mắng người xuất gia, nói rằng: "Người xuất gia có nhiều việc không như pháp”cũng phạm Đột-kiết-la; nếu không dùng tám việc trên mà dùng việc khác để mắng, như nói: "Thầy ăn nhiều, ngủ nhiều, nói chuyện nhiều, ham ăn ham ngủ như vậy xuất gia thọ giới làm chi", thì phạm Đột-kiết-la. Nếu không chuyện nói kia đây, chỉ đến hai bên nói ly gián khiến họ ly tán đều phạm Đột-kiết-la.

4. Nhân duyên kết giới thứ tư:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Có năm hạng Tỳ-kheo: Một là cựu Tỳ-kheo, hai là khách Tỳ-kheo, ba là Tỳ-kheo thọ dục, bốn là Tỳ-kheo tác yết ma và năm là Tỳ-kheo bị yết ma. Tướng phạm trong giới này là nếu cựu Tỳ-kheo ở trong tướng ngôn tránh khởi tưởng là tướng ngôn tránh, đã như pháp diệt tránh khởi tưởng là như pháp diệt tránh rồi mà phát khởi trở lại thì phạm Ba-dật-đề; ở trong tướng ngôn tránh khởi tưởng là tương trợ tránh, đã như pháp diệt tránh khởi tưởng là như pháp diệt tránh rồi mà phát khởi trở lại thì phạm Ba-dật-đề; ở trong tướng ngôn tránh khởi tưởng là phạm tội tránh hay thường sở hành tránh cũng giống như trên. Giống như trong tướng ngôn tránh có bốn câu như trên thì trong tương trợ tránh, phạm tội tránh và thường sở hành tránh cũng có bốn câu như thế, tổng cộng là mười sáu câu, trong mỗi câu này đều phạm Ba-dật-đề. Giống như cựu Tỳ-kheo ở trong bốn pháp diệt tránh làm mười sáu như trên thì bốn hạng Tỳ-kheo còn lại, mỗi hạng Tỳ-kheo cũng ở trong bốn pháp diệt tránh làm mười sáu giống như thế, tổng cộng là tám mươi câu, trong mỗi câu này đều phạm Ba-dật-đề.

Nếu cựu Tỳ-kheo ở trong tướng ngôn tránh đã như pháp diệt tránh, khởi tưởng là như pháp diệt tránh rồi mà phát khởi trở lại thì phạm Ba-dật-đề; ở trong tướng ngôn tránh, đã như pháp diệt tránh mà khởi tưởng là không như pháp diệt tránh, liền phát khởi trở lại cũng phạm Ba-dật-đề; ở trong tướng ngôn tránh đã như pháp diệt tránh rồi nhưng sanh nghi, liền phát khởi trở lại cũng phạm Ba-dật-đề. Giống như trong tướng ngôn tránh có ba câu như trên thì trong tương trợ tránh, phạm tội tránh và thường sở hành tránh cũng có ba câu như thế, tổng cọng là là mười hai câu, trong mỗi câu đều phạm Ba-dật-đề. Giống như cựu Tỳ-kheo, bốn hạng Tỳ-kheo còn lại mỗi hạng Tỳ-kheo cũng có là mười hai câu như trên, tổng cọng là sáu mươi câu, trong mỗi câu đều phạm Ba-dật-đề.

Nếu cựu Tỳ-kheo ở trong tướng ngôn tránh không như pháp diệt tránh, khởi tưởng là không như pháp diệt tránh mà phát khởi trở lại thì phạm Đột-kiết-la; ở tướng ngôn tránh, không như pháp diệt tránh mà sanh nghi liền phát khởi trở lại cũng phạm Đột-kiết-la. Giống như trong tướng ngôn tránh có hai câu như trên thì trong ba pháp diệt tránh còn lại, mỗi pháp cũng có hai câu như vậy, tổng cọng là tám câu; giống như cựu Tỳ-kheo, bốn hạng Tỳ-kheo còn lại mỗi hạng Tỳ-kheo cũng có tám câu, tổng cộng là bốn mươi câu, trong mỗi câu đều phạm Đột-kiết-la.

Nếu cựu Tỳ-kheo ở trong tướng ngôn tránh không như pháp diệt tránh, khởi tưởng là không như pháp diệt tránh mà phát khởi trở lại thì không phạm; ở trong tướng ngôn tránh không như pháp diệt tránh mà sanh nghi liền phát khởi trở lại thì không phạm. Giống như trong tướng ngôn tránh có hai câu như trên thì trong ba pháp diệt tránh còn lại, trong mỗi pháp cũng có hai câu như vậy, tổng cộng là tám câu; giống như cựu Tỳ-kheo trong bốn pháp diệt tránh có tám câu thì bốn hạng Tỳ-kheo còn lại, mỗi hạng Tỳ-kheo ở trong bốn pháp diệt tránh cũng có tám câu như vậy, tổng cộng là bốn mươi câu đều không phạm.

Thể của giới này bất luận là yết ma hay không phải yết ma, chỉ cần tăng như pháp hòa hợp diệt tránh rồi mà phát khởi trở lại, dù ở trong Tăng hay ở chỗ khuất-đều phạm Ba-dật-đề. Nếu là Tăng chế, không vào Phật pháp mà phát khởi lại thì phạm Đột-kiết-la; nếu không phải Phật pháp cũng không phải Tăng pháp, nhưng mọi người đã hòa hợp diệt tránh rồi mà phát khởi trở lại với tâm phi pháp thì không phạm. Trừ năm hạng Tỳ-kheo trên, các Tỳ-kheo khác và Tỳ-kheo gởi dục đều đồng.

5. Nhân duyên kết giới thứ năm:

Giới này bất cọng, Tỳ-kheo-ni nói pháp cho người nam quá năm, sáu lời thì phạm Đột-kiết-la; nếu có hai người nam thì không phạm; Sa-di nói pháp cho người nữ quá năm, sáu lời thì phạm Đột-kiết-la; hai chúng kia cũng phạm Đột-kiết-la. Người nữ là chỉ cho người có thể hành dâm được, nếu là thạch nữ hay bé gái thì phạm Đột-kiết-la. Năm, sáu lời là chỉ cho năm pháp như nói Sắc ấm vô thường, thọ tưởng hành thức cũng đều vô thường; hoặc sáu pháp như nói Nhãn vô thường, nhĩ tỷ thiệt thân ý cũng đều vô thường. Nói quá năm, sáu lời này thì phạm Ba-dật-đề. Người nam có trí là người hiểu rõ tình người và ý thú của lời nói, có thể làm người chứng minh; phải là người cùng ngôn ngữ hiểu nhau, nếu là người phương khác ngôn ngữ bất đồng thì không được. Người nam này phải là cư sĩ, người xuất gia không được vì việc đồng nhau. Nếu Tăng nhóm họp có người nữ nhiều hay ít mà không có người nam có trí thì không được thuyết pháp cho họ, được thuyết pháp cho Ni và ni chúng vì có pháp giáo giới nên không phạm.

Nếu Tỳ-kheo nói pháp cho người nữ quá năm, sáu lời mà không có người nam có trí bên cạnh thì phạm Ba-dật-đề; sau đó có người nữ khác đến lại vì nói pháp, người nữ đến trước cũng cùng ngồi nghe. Tỳ-kheo nói pháp xong đứng dậy đi, trên đường gặp người nữ lại vì nói pháp, người nữ trước cũng cùng nghe, Tỳ-kheo nói quá năm, sáu lời rồi đi đến nơi khác, lại vì người nữ khác nói pháp, người nữ trước cũng cùng nghe; như thế nói pháp ở ba chỗ đều phạm. Nếu lần nói pháp sau không biết có người nữ trước cũng cùng nghe pháp thì không phạm; nếu giảng kinh thì mỗi mỗi việc đều phạm Ba-dật-đề; nếu nói kệ thì mỗi mỗi kệ đều phạm Ba-dật-đề, kệ có ba mươi hai chữ hoặc ba mươi chữ hoặc hai mươi chữ; nếu từ kệ chuyển sang nói kinh thì mỗi mỗi việc cũng phạm Ba-dật-đề. Không phạm là nếu nói về phước báo bố thí, chú nguyện hoặc tùy hỏi tùy đáp hoặc nói pháp cho người thọ năm giới hoặc tám trai giới; nếu nói việc thường của thế gian thì phạm Đột-kiết-la.

6. Nhân duyên kết giới thứ sáu:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là để khác với ngoại đạo, hai là vì giữa thầy và đệ tử có khác biệt, ba là để phân biệt ngôn ngữ để người khác hiểu rõ, bốn là để nương theo thật nghĩa không chấp vào âm thanh. Người chưa thọ giới cụ túc là chỉ tất cả mọi người trừ Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni.

Thể của giới này là nếu dùng một câu pháp dạy cho người chưa thọ giới cụ túc thì phạm. Câu pháp có hai là câu đầy đủ và câu không đầy đủ; câu đầy đủ là như Luật sư nói nếu thầy tụng câu dài, đệ tử cũng tụng câu dài thì gọi là đồng câu. Tướng phạm trong giới này là nếu thầy tùy giọng cao thấp tụng câu dài để dạy cho đệ tử, đệ tử cũng hợp theo giọng của thầy để tụng câu dài thì phạm Ba-dật-đề; cùng giọng tụng câu ngắn cũng vậy. Nếu thầy tụng câu dài, đệ tử tụng câu ngắn cùng giọng thì phạm Đột-kiết-la; thầy tụng câu ngắn, đệ tử tụng câu dài cùng giọng cũng vậy. Không phạm là thầy tụng xong đệ tử mới tụng, không hợp giọng với nhau dù là đồng câu hay không đồng câu đều không phạm. Nghĩa chính trong giới này là đồng câu và cùng giọng mới phạm Ba-dật-đề; nếu không đồng câu mà cùng giọng thì phạm Đột-kiết-la, tụng có tiếng trước tiếng sau thì không phạm. Nếu hai người tụng kinh đều thông lợi đồng tụng thì không phạm nhưng không được hợp tán. Nếu Tỳ-kheo không có chỗ thọ học đọc tụng cũng được thọ học từ Sa-di, Sa-di-ni, chỉ cần cầu bậc trì giới đức trọng làm bạn chứng minh; cũng được thọ học từ cư sĩ nhưng không được gọi là A-xà-lê. Lần lượt theo thứ lớp như vậy đều cho thọ học nhưng chớ để cho mất oai nghi; ý vị đầy đủ hay không đầy đủ, chữ đầy đủ hay không đầy đủ cũng như vậy. Nếu dùng đồng câu dạy cho người đã thọ giới cụ túc thì phạm Đột-kiết-la; thầy dạy tụng câu dài, đệ tử thọ tụng thành câu ngắn thì phạm Đột-kiết-la.

7. Nhân duyên kết giới thứ bảy:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Nếu vì lợi dưỡng mà nói có pháp hơn người cho người chưa thọ giới cụ túc biết cũng phạm Ba-dật-đề. Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là vì pháp của bậc đại nhân, nếu tự khen ngợi đức hạnh mà che giấu lỗi lầm thì đó là pháp của tiểu nhân; hai là vì pháp bình đẳng, nếu tự xưng là thánh đức tức là hiền ngu có khác biệt, sẽ khiến cho người nghe biết không có tâm bình đẳng đối với Tăng.

Hỏi: Có trường hợp nói mình có pháp hơn người cho người chưa thọ giới cụ túc biết mà không phạm tội hay không?

Đáp: Có, nếu nói cho bậc tri thức đồng tâm nghe thì không phạm; nếu không vì danh lợi mà nói cũng không phạm. Nếu gặp nạn giặc nguy đến tánh mạng liền nói rằng: "Nếu ngươi giết ta sẽ phạm tội rất nặng", hoặc khi bịnh không có người chăm sóc liền nói rằng: "Nếu ngươi chăm sóc cho ta sẽ được đại phước đức"… thì không phạm, vì thân người khó được nên nói không phạm. Người chưa thọ giới cụ túc là chỉ tất cả mọi người trừ Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Đây là thật có tức là thật có pháp hơn người, nếu Tỳ-kheo thật đắc bốn Hướng bốn Quả mà nói cho người chưa thọ giới cụ túc biết thì phạm Ba-dật-đề; nếu thật đắc bốn Thiền, bốn Vô lượng tâm, bốn Định Vô sắc, năm Thông, pháp quán bất tịnh, A-na-ban-na niệm… mà nói cũng phạm Ba-dật-đề.

Hỏi: Pháp quán bất tịnh và A-na-ban-na niệm là pháp gần, pháp nhỏ sao gọi là pháp hơn người?

Đáp: Đây là pháp môn ban đầu để được cam lồ, tất cả Hiền thánh đều bắt đầu từ pháp môn này nên gọi là pháp hơn người. Nếu vì danh lợi mà nói là tôi trì giới thanh tịnh thì phạm Đột-kiết-la; nếu vì danh lợi mà nói trời rồng đến chỗ tôi thì phạm Ba-dật-đề; nếu vì danh lợi mà nói Toàn phong Thổ quỷ đến chỗ tôi thì phạm Đột-kiết-la; nếu thật sự tụng thông ba tạng, vì danh lợi mà nói với người cũng phạm Đột-kiết-la; nếu vì danh lợi mà nói rằng: "Kinh mà tôi đã tụng, tôi đều hiểu được nghĩa, tôi có thể tùy hỏi đáp”thì phạm Đột-kiết-la.

8. Nhân duyên kết giới thứ tám:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là vì đại hộ Phật pháp, nếu nói tội ác của tỳ-kheo cho cư sĩ biết thì ở trong Phật pháp, họ sẽ không còn tín kính nữa. Thà phá tháp hoại tượng chứ không nên nói tội lỗi của tỳ-kheo cho người chưa thọ giới cụ túc biết, vì nói tội lỗi của tỳ-kheo tức là phá pháp thân. Trừ Tăng yết ma là như trong Luật nói tội thô của tỳ-kheo tức là tội trong hai thiên đầu, nếu nói cho người chưa thọ giới cụ túc biết tên tội trong hai thiên của tỳ-kheo đã phạm thì phạm Ba-dật-đề; nếu nói việc của tội thì phạm Đột-kiết-la; nếu nói tên tội trong ba thiên sau cũng phạm Đột-kiết-la; nếu nói việc của tội cũng phạm Đột-kiết-la. Bất luận Tỳ-kheo trước đó có phạm tội hay không mà nói tội thô của Tỳ-kheo cho người chưa thọ giới cụ túc biết đều phạm Ba-dật-đề; nếu nói tội của bốn chúng kia thì phạm Đột-kiết-la; nếu viết thư hay làm dấu đưa tin thì phạm Đột-kiết-la; nếu nói Tỳ-kheo đó làm Phật bị thương chảy máu hay phá Pháp luân tăng thì phạm Thâu-lan-giá đối thú sám hối; nếu nói Tỳ-kheo đó phạm bốn trọng, mười ba Tăng tàn đều phạm Thâu-lan-giá và Đột-kiết-la; nếu nói tội thô của bốn chúng kia thì phạm Đột-kiết-la.

Nếu Tỳ-kheo thấy Tỳ-kheo khác phạm Ba-ladi, như nghe thấy Tỳ-kheo nói với người nữ là mình có pháp hơn người. Như thế nào là Ba-la-di mà cho là Tăng tàn?: Như nghe thấy Tỳ-kheo nói với người nữ là mình có pháp hơn người mà cho là nói lời thô (lời tình tự) với người nữ. Như thế nào là Ba-la-di mà cho là Ba-dật-đề?: Như nghe thấy Tỳ-kheo nói với người nữ là mình có pháp hơn người mà cho là nói với người nữ quá năm, sáu lời. Như thế nào là Ba-la-di mà cho là Ba-la-đề-đề-xá-ni? Như nghe thấy Tỳ-kheo nói với người nữ là mình có pháp hơn người mà cho là Tỳ-kheo thọ thức ăn uống từ người nữ ở bên trong tinh xá.

Nếu Tỳ-kheo thấy Tỳ-kheo phạm Tăng tàn, như nghe thấy Tỳ-kheo nói lời thô (lời tình tự) với người nữ. Như thế nào là Tăng tàn mà cho là Ba-dật-đề? Như nghe thấy Tỳ-kheo nói lời thô (lời tình tự) với người nữ mà cho là nói với người nữ quá năm, sáu lời. Như thế nào là Tăng tàn mà cho là Ba-la-đề-đề-xá-ni?: Như nghe thấy Tỳ-kheo nói lời thô (lời tình tự) với người nữ mà cho là Tỳ-kheo thọ thức ăn uống từ người nữ ở bên trong tinh xá. Như thế nào là Tăng tàn mà cho là Đột-kiết-la?: Như nghe thấy Tỳ-kheo nói lời thô (lời tình tự) với người nữ mà cho là Tỳ-kheo nói với người nữ là cô này mù lòa. Như thế nào là Tăng tàn mà cho là Ba-la-di? Như nghe thấy Tỳ-kheo nói lời thô (lời tình tự) với người nữ mà cho là Tỳ-kheo nói với người nữ mình có pháp hơn người.

Nếu Tỳ-kheo thấy Tỳ-kheo khác phạm Ba-dật-đề, như nghe thấy Tỳ-kheo nói pháp cho người nữ quá năm, sáu lời. Như thế nào là Ba-dật-đề mà cho là Ba-la-đề-đề-xá-ni? Như nghe thấy Tỳ-kheo nói với người nữ quá năm, sáu lời mà cho là Tỳ-kheo thọ thức ăn uống từ người nữ ở bên trong tinh xá. Như thế nào là Ba-dật-đề mà cho là Đột-kiết-la?: Như nghe thấy Tỳ-kheo nói với người nữ quá năm, sáu lời mà cho là Tỳ-kheo nói với người nữ là cô này đen, cô này trắng. Như thế nào là Ba-dật-đề mà cho là Ba-la-di? Như nghe thấy Tỳ-kheo nói với người nữ quá năm, sáu lời mà cho là Tỳ-kheo nói có pháp hơn người. Như thế nào là Ba-dật-đề mà cho là Tăng tàn? Như nghe thấy Tỳ-kheo nói với người nữ quá năm, sáu lời mà cho là Tỳ-kheo nói lời tình tự (lời thô).

Nếu Tỳ-kheo thấy Tỳ-kheo khác phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni, như thấy Tỳ-kheo thọ thức ăn uống từ người nữ ở bên trong tinh xá. Như thế nào là Ba-la-đề-đề-xá-ni mà cho là Đột-kiết-la? Như thấy Tỳ-kheo thọ thức ăn uống từ người nữ ở bên trong tinh xá mà cho là Tỳ-kheo nói với người nữ là cô này mù lòa. Như thế nào là Ba-la-đề-đề-xá-ni mà cho là Ba-la-di? Như thấy Tỳ-kheo thọ thức ăn uống từ người nữ ở bên trong tinh xá mà cho là Tỳ-kheo nói với người nữ mình có pháp hơn người. Như thế nào là Ba-la-đề-đề-xá-ni mà cho là Tăng tàn? Như thấy Tỳ-kheo thọ thức ăn uống từ người nữ ở bên trong tinh xá mà cho là Tỳ-kheo nói lời thô (lời tình tự) với người nữ. Như thế nào là Ba-la-đề-đề-xá-ni mà cho là Ba-dật-đề? Như thấy Tỳ-kheo thọ thức ăn uống từ người nữ ở bên trong tinh xá mà cho là Tỳ-kheo nói với người nữ quá năm, sáu lời.

Nếu Tỳ-kheo nghe thấy Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la như nghe Tỳ-kheo nói với người nữ là cô này trắng, cô này đen. Như thế nào là Đột-kiết-la mà cho là Ba-la-di? Như nghe thấy Tỳ-kheo nói với người nữ là cô này mù lòa, cho là nghe thấy Tỳ-kheo nói với người nữ mình có pháp hơn người. Như thế nào là Đột-kiết-la mà cho là Tăng tàn? Như nghe Tỳ-kheo nói với người nữ là cô này mù lòa, cho là Tỳ-kheo nói lời thô (lời tình tự) với người nữ. Như thế nào là Đột-kiết-la mà cho là Ba-dật-đề? Như nghe Tỳ-kheo nói với người nữ là cô này mù lòa, cho là Tỳ-kheo nói với người nữ quá năm, sáu lời. Như thế nào là Đột-kiết-la mà cho là Ba-la-đề-đề-xá-ni? Như nghe Tỳ-kheo nói với người nữ là cô này mù lòa, cho là Tỳ-kheo thọ thức ăn uống từ người nữ ở bên trong tinh xá.

Nếu Tỳ-kheo thấy Tỳ-kheo khác phạm Ba-ladi, sanh nghi không biết có phải phạm Ba-la-di hay không, như thấy Tỳ-kheo cùng người nữ hành dâm lại cho là Tỳ-kheo cố ý xuất tinh hay người nữ đó là thạch nữ; sau đó dứt nghi, ở trong pháp Ba-la-di quyết định là Ba-la-di.

Hỏi: Do đâu được dứt nghi?

Đáp: Nhờ gặp thiện tri thức nên dứt nghi và có thể đoạn trừ pháp bất thiện, tà pháp và pháp bất định.

Nếu thấy Tỳ-kheo khác phạm Tăng tàn, sanh nghi không biết có phải phạm Tăng tàn hay không, như thấy Tỳ-kheo cùng người nữ lõa hình ôm nhau, nghi không biết là lõa hình hay có mặc y và người nữ đó có phải là thạch nữ hay không. Nếu nghe thấy Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề mà nghi, như nghe Tỳ-kheo nói với người nữ quá năm, sáu lời mà nghi không biết có phải là quá năm, sáu lời hay không. Nếu thấy Tỳ-kheo phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni mà sanh nghi như thấy Tỳ-kheo thọ lấy thức ăn từ nhà của Học gia, sanh nghi không biết Tăng đã làm yết ma Học gia hay chưa. Nếu Tỳ-kheo nghe thấy Tỳ-kheo khác phạm Đột-kiết-la mà sanh nghi, như nghe Tỳ-kheo nói với người nữ là cô này mù lòa mà nghi không biết có phải nói là mù lòa hay không.

9. Nhân duyên kết giới thứ chín:

Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là để diệt trừ đấu tranh, hai là diệt khổ não và ba là để được an lạc hành đạo. Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là nếu Tăng đã hòa hợp làm yết ma hay không làm yết ma, chấp thuận đem y vật cho vị tri sự làm việc Tăng cực khổ, vật đó hoặc là của-tăng-kỳ hay là vật tự tứ; Tỳ-kheo đã cùng hòa hợp cho rồi, sau lại quở trách rằng: "Tăng tùy thuận đem vật cho người thân thiết”thì phạm Ba-dật-đề. Ở trong Tăng, nếu vị tri sự làm việc Tăng cực khổ hay là bậc có phước đức nhưng nghèo túng; nếu Tăng đã hòa hợp chấp thuận đem y vật cho, Tỳ-kheo đã gởi dục như pháp rồi sau đó lại quở trách thì phạm Ba-dật-đề; nếu là người từ ngoài giới đến quở trách thì phạm Đột-kiết-la. Giới này không cần nói tùy thuận đem vật cho người thân thiết, chỉ cần nói không nên đem cho cũng phạm Ba-dật-đề.

10. Nhân duyên kết giới thứ mười:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới không phạm. Xiển-na là em cùng cha khác mẹ với Phật, là con trai của em gái vua Ưu-điền, được sanh ra tại nước Câu-xá-tỳ, nơi đây có cung điện của vua Bạch tịnh. Ở nước Câu-xá-di cũng có cung điện là nơi mẹ của Xiển-na thường ở, Xiển-na cũng có người chị theo chồng về nước này, do nhân duyên này nên Xiểnna thường ở nhiều trong nước này. Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo là vì tôn trọng Ba-la-đề-mộcxoa, để trưởng dưỡng giới và diệt trừ ác pháp. Xiển-na cho rằng sau khi Phật thành đạo trong mười hai năm đầu thường nói có một bài kệ, nay lại nói tên của năm thiên giới rất là phức tạp nên chê trách. Tướng phạm trong giới này là nếu chê trách một giới Ba-la-di như nói rằng: "Nói giới dâm này làm chi”thì phạm một Ba-dật-đề; nếu chê trách cả bốn việc thì phạm bốn Ba-dật-đề; nếu chê trách chung bốn Ba-la-di thì phạm một Ba-dật-đề. Khi nói tựa giới mà chê trách cũng phạm Ba-dật-đề.

Hỏi: Tựa giới không phải là giới vì sao cũng phạm?

Đáp: Vì trong Tựa giới nói nghĩa của hai trăm năm mươi giới nên chê trách Tựa giới tức là chê trách tất cả giới. Như vậy theo thứ lớp nói các thiên giới sau tổng cộng Có mười tám việc, nếu chê trách mỗi việc thì phạm một trăm lẻ tám Ba-dật-đề, nếu chê trách chung năm thiên thì phạm một Ba-dật-đề; chê trách bảy pháp diệt tránh cũng vậy. Nếu nói kinh tùy luật mà chê trách cũng phạm Ba-dật-đề; ngoài kinh tùy luật ra, khi nói kinh khác tùy chê trách nhiều ít đều phạm Đột-kiết-la.

Hỏi: Vì sao chê trách kinh tùy luật lại phạm tội nặng, còn chê trách các kinh khác thì phạm tội nhẹ? Đáp: Vì giới là đất bằng của Phật pháp, vạn điều thiện từ đây phát sanh; lại vì các đệ tử của Phật đều nương nơi giới tu hành, nếu không có giới thì không có chỗ nương, tất cả chúng sanh cũng nương nơi giới mà trụ; lại do giới là cửa đầu vào

Phật pháp để đến thành Niết-bàn; giới cũng là chuỗi ngọc dùng để trang nghiêm Phật pháp. Vì thế chê trách liền phạm tội nặng.

11. Nhân duyên kết giới thứ mười một:

Có hai duyên hợp kết thành một giới này, đó là nhổ cỏ trong chùa và chặt cây Đại ty bạt la là chỗ ở của quỷ thần. Thần cây này vào cuối đêm đến chỗ Phật đảnh lễ rồi đứng một bên.

Hỏi: Quỷ thần đến chỗ Phật vào ban đêm làm gì?

Đáp: Khi Phật còn tại thế, ban đêm thuyết pháp cho trời rồng quỷ thần còn ban ngày thuyết pháp cho người, vì nếu quỷ thần đến nghe pháp ban ngày, người thấy sẽ sanh sợ hãi. Nói đứng qua một bên là do quỷ thần ái kính Phật hoặc có điều muốn thỉnh cầu hoặc do họ thích sạch sẽ mà đất cõi này là bất tịnh, vì vậy họ chỉ đứng một bên mà không ngồi.

Vào tám đêm cuối Đông, gió lạnh buốt phá tre: Ở Thiên trúc tám đêm cuối mùa Đông và tám đêm đầu mùa Xuân là lúc thạnh đông nên trời rất lạnh. Có thuyết nói do mặt trời vận hành ở chỗ thấp, ánh sáng chiếu xuống mặt đất ít nên trời lạnh; sở dĩ nói trời buốt lạnh phá tre vì tre là loại cây cứng nhất, đông hạ thường xanh mà còn bị giá lạnh phá hư huống chi là các loại cây khác.

Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là để không xúc não chúng sanh, hai là ngăn dứt phỉ báng, ba là để đại hộ Phật pháp. Có tất cả ba giới làm lợi ích lớn cho Phật pháp: Một là giới không gánh vác, hai là giới không chặt phá cỏ cây, ba là giới không đào đất. Nếu Phật không chế ba giới này thì các quốc vương sẽ ra lịnh các Tỳ-kheo làm sưu dịch, nhờ có ba giới này nên các quốc vương dứt tâm. Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Xả đọa, ba chúng dưới là tịnh nhân nên không phạm. Có năm loại giống: Giống ở rễ, giống ở cọng (thân), giống ở lóng đốt, giống tự rụng và giống ở quả (hạt). Giống ở rễ như La bặc, Vu thanh… đều mọc từ rễ; giống ở thân, cọng như Thạch lựu, Bồ đào, Dương liễu… đều mọc lên từ thân cành; giống ở lóng đốt như mía, tre, trúc… đều mọc từ lóng đốt; giống tự rụng như La-lặc, Hồ tuy, Quýt, Lê… đều do trái tự rụng mà mọc lên; giống ở quả, hạt như lúa, mè, lúa mạch, đại mạch… đều từ hạt mà mọc lên. Tỳ-kheo đối với năm loại giống này tự chặt hay bảo người chặt, tự phá hay bảo người phá, tự đốt hay bảo người đốt đều phạm Ba-dật-đề. Bảo người tức là bảo Tỳ-kheo hoặc Tỳ-kheo-ni khác làm thì phạm Ba-dật-đề; bảo ba chúng dưới làm thì phạm Đột-kiết-la. Nếu chặt phá hay đốt một lần cả năm loại giống thì phạm một Ba-dật-đề; nếu chặt phá hay đốt nhiều lần, mỗi lần phạm một Ba-dật-đề. Muốn tác tịnh trái cây rau cải tươi hoặc thức ăn gồm cả hột thuộc năm loại giống này thì nên dùng hỏa tịnh, hỏa tịnh rồi mới được ăn; nếu là thức ăn không gồm cả hột, không thuộc trong năm loại giống này thì nên dùng đao tịnh hay trảo tịnh (cắt bằng dao hay bấm bằng móng tay).

Luật sư nói: "Tất cả loại quả hoặc thức ăn gồm cả hột thì nên dùng hỏa tịnh mới được ăn, nếu không phải thức ăn gồm cả hột thì tất cả thời đều được ăn, không cần dùng đao tịnh hay trảo tịnh". Phật nói trái cây hay rau cải tươi không luận là thuộc loại giống hay không thuộc loại giống cần phải tác tịnh rồi mới được ăn; nếu ăn quả bất tịnh hay gồm cả hột, nếu nuốt thì phạm Đột-kiết-la; nếu cắn bể thì phạm Ba-dật-đề.

12. Nhân duyên kết giới thứ mười hai:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là Tăng đã sai mười bốn hạng người trước rồi sau mới giận trách thì phạm Ba-dật-đề. Tất cả mười bốn hạng người được Tăng sai này nếu chưa xả yết ma mà giận trách thì phạm Ba-dật-đề; nếu đã xả yết ma mà giận trách thì phạm Đột-kiết-la, cho đến người khác phòng nhưng đồng công việc được sai làm người trông coi thức ăn mà giận trách thì phạm Đột-kiết-la. Ở chỗ xa giận trách mười bốn hạng người này, nếu họ nghe được thì phạm Ba-dật-đề, nếu họ không nghe được thì phạm Đột-kiết-la. Nếu ở chỗ xa giận trách, tuy không ở trước mặt nhưng tiếng nói nghe được rõ ràng hoặc viết thư trách thì phạm Đột-kiết-la.

13. Nhân duyên kết giới thứ mười ba:

Đây là cọng giới, trong giới này có hai lần cho yết ma Ức thức: Một là nếu không trả lời theo câu hỏi để xúc não người khác thì Tăng cho yết ma Ức thức, cho yết ma xong, vẫn không trả lời theo câu hỏi thì phạm Ba-dật-đề; nếu Tăng chưa cho yết ma, không trả lời theo câu hỏi thì phạm Đột-kiết-la. hai là im lặng để xúc não người khác thì Tăng cho yết ma Ức thức, cho yết ma xong, vẫn im lặng xúc não thì phạm Ba-dật-đề; nếu Tăng chưa cho yết ma, im lặng xúc não thì phạm Đột-kiết-la. Trong năm thiên giới có ba giới do hai lần kết họp thành một giới, như giới Dâm trong thiên Ba-la-di: Lần thứ nhất do Tỳ-kheo hành dâm với người nữ nên kết giới, lần thứ hai do hành dâm cùng súc sanh nên kết giới. Trong thiên Ba-dật-đề có hai giới là giới mười hai ở trên và giới này, trong giới trên lần thứ nhất do ở trước mặt giận trách Đà-phiêu là người được Tăng cử làm người sai phó hội, lần thứ hai do ở xa giận trách, kết giới trước sau hai lần họp thành một giới giận trách Tri sự. Trong giới này, lần thứ nhất do không trả lời theo câu hỏi để xúc não, lần thứ hai do im lặng để xúc não, kết giới trước sau hai lần họp thành một giới. Đối tượng cho yết ma Ức thức là năm chúng.

Hỏi: Khi Tăng cho yết ma Ức thức, năm chúng hiện tiền hay không hiện tiền?

Đáp: Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni hiện tiền, ba chúng dưới không hiện tiền, khi yết ma nên ở trong giới. Thể của giới này là khi được hỏi về Ba-la-đềmộc-xoa, vì muốn xúc não nên không trả lời theo câu hỏi thì phạm Ba-dật-đề. Nếu ba chúng Ni hỏi về việc của giới mà không trả lời theo câu hỏi thì phạm Đột-kiết-la; hỏi việc trong các kinh khác mà không trả lời theo câu hỏi cũng phạm Đột-kiết-la.

14. Nhân duyên kết giới thứ mười bốn:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là để được an lạc hành đạo, hai là để trưởng dưỡng lòng tín kính, ba là để đàn việt được thành tựu căn lành. Ngọa cụ của Tăng gồm có giường dây thô hay tế, giường cây và mền gối…; nơi đất trống là chỗ không có ngăn che. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo vào đầu đêm trải ngọa cụ của Tăng để ngồi hay nằm, khi đi không dọn cất cũng không nhờ người dọn cất, qua hôm sau trời vừa sáng liền phạm Ba-dật-đề. Nếu vào sáng sớm trải ngọa cụ của Tăng ở nơi đất trống để ngồi hay nằm, sau đó bỏ vào trong thất ngủ nghỉ cho đến mặt trời lặn thì phạm Ba-dật-đề. Nếu vào buổi chiều trải ngọa cụ của Tăng ở chỗ đất trống để ngồi nằm, sau đó vào trong thất ngủ nghỉ cho đến tối, sau khi mặt trời đã lặn thì phạm Ba-dật-đề. Nếu trải ngọa cụ của Tăng rồi mà rời khỏi chùa quá bốn mươi chín bước cho đến sáng hôm sau thì phạm Ba-dật-đề; nếu trải ngọa cụ của Tăng xong, không dặn dò lại cho người khác mà bỏ đi đến các phòng khác thì phạm Đột-kiết-la; nếu là ngọa cụ của mình mà không tùy thời dọn cất thì phạm Đột-kiết-la. Sở dĩ nên dọn cất là vì sợ bị mưa gió hay nắng làm cho hư hoại; nếu trải ngọa cụ của Tăng ở ngoài đất trống, bất luận có ra khỏi chùa hay không, cho đến sáng hôm sau thì phạm Ba-dật-đề, nếu trời chưa sáng thì phạm Đột-kiết-la.

15. Nhân duyên kết giới thứ mười lăm:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu khách Tỳ-kheo ở trong phòng Tăng trải ngọa cụ rồi đi ra khỏi đại giới thì phạm Ba-dật-đề; nếu khi đi nghĩ rằng sẽ trở về ngay nhưng vì có nhân duyên cấp bách không thể trở về ngay được, đến sáng hôm sau mới trở về thì phạm Đột-kiết-la; nếu không nghĩ là sẽ trở về ngay mà đi đến sáng hôm sau mới trở về thì phạm Ba-dật-đề. Trong giới này nói trải ngọa cụ là trải ở trong Tăng phòng, như trong Luật nói nếu rời khỏi chùa dù xa hay gần đều nên dặn trao lại cho người khác, nếu không dặn trao thì phải thu xếp lại để một chỗ; cũng được dặn trao cho Sa-di lớn khéo trì giới.

16. Nhân duyên kết giới thứ mười sáu:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo là để không làm cho chúng sanh khổ não và dứt đấu tranh. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo tức giận không vui, tự tay lôi kéo Tỳ-kheo khác từ trên giường xuống đất hay từ trong phòng ra ngoài thì phạm Ba-dật-đề; dùng sức lực lôi kéo được thì phạm Ba-dật-đề, không lôi kéo được thì phạm Đột-kiết-la. Nếu sai bảo năm chúng cho đến cư sĩ lôi kéo Tỳ-kheo thì phạm Ba-dật-đề; nếu sai bảo Tỳ-kheo mà lôi kéo được thì cả hai đều phạm Ba-dật-đề, nếu lôi kéo không được thì cả hai đều phạm Đột-kiết-la; sai bảo người khác lôi kéo cũng vậy. Nếu lôi kéo Tỳ-kheo-ni và ba chúng dưới thì phạm Đột-kiết-la; nếu lôi kéo người đui, điếc, câm hoặc Sa-di học hối, người hành Biệt trú, Ma-na-đỏa… cho đến sáu hạng người phạm tội đều phạm Đột-kiết-la; lôi kéo cư sĩ thì không phạm. Trừ nhân duyên là nếu trong phòng hư hoại hoặc có các nạn xảy ra nên lôi kéo người ở trong phòng ra gấp thì không phạm. Nếu trước có tâm sát hại nên ra sức lôi kéo làm cho người chết thì phạm Ba-la-di, không chết thì phạm Thâu-lan-giá; nếu có tâm dâm nên lôi kéo Tỳ-kheo-ni để sờ nắm thì phạm Tăng tàn. Nếu vì tức giận lôi kéo Tỳ-kheo-ni, lôi kéo được thì phạm Ba-dật-đề, không được thì phạm Đột-kiết-la; nếu Ni lôi kéo Tỳ-kheo thì phạm Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo ở trong phòng Tăng hay ở trong phòng Ni mà lôi kéo Ni thì phạm Đột-kiết-la; nếu Ni ở trong phòng Tăng mà lôi kéo Tỳ-kheo thì phạm Ba-dật-đề, nếu ở trong phòng Ni mà lôi kéo thì phạm Đột-kiết-la.

17. Nhân duyên kết giới thứ mười bảy:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo biết trong phòng có Tỳ-kheo đã trải ngọa cụ trước rồi, mình đến sau mà ở trước chỗ nằm hay chỗ ngồi hoặc ở trong phòng hay ngoài phòng hoặc ở chỗ đi… tự trải hay bảo người trải, trải được thì pha-m Ba-dật-đề, không trải được thì phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là chế ngăn không được gắng gượng làm trái ý người đến trước, nếu vì muốn xúc não nên đóng cửa hay mở cửa, đốt đèn hay tắt đèn, hoặc đọc kinh, tán tụng, vấn nạn… tùy làm việc gì khiến cho người khác không vui đều phạm Ba-dật-đề, vì có tâm cố ý xúc não nên thành tội.

18. Nhân duyên kết giới thứ mười tám:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu giường nằm hay giường ngồi thiền có một chân nhọn, ba chân không nhọn hoặc hai chân nhọn, hai chân không nhọn hoặc ba chân nhọn, một chân không nhọn hoặc cả bốn chân đều nhọn ở trên lầu gác, tùy dùng sức lực để ngồi nằm trên giường này thì phạm Ba-dật-đề; nếu dùng các vật mềm lót đỡ ở chân giường thì không phạm; nếu dùng các vật cứng như gạch ngói, đá lót đỡ ở chân giường có thể làm người bị thương thì phạm Ba-dật-đề. Nếu ở trên lầu gác, chỗ để giường chắc chắn không rơi xuống dưới gác thì không phạm; nếu chân giường không nhọn cũng không phạm; nếu chân giường nhọn mà không dùng sức lực để ngồi nằm lên thì không phạm. Thể của giới này là phải ở trên lầu gác, chân giường nhọn, chỗ để giường không chắc chắn lại còn dùng sức lực ngồi nằm lên mới phạm Ba-dật-đề. Pháp của tỳ-kheo ngồi hay nằm đều phải nhẹ nhàng và thận trọng, nếu không sẽ làm người khác bị thương và tự hoại oai nghi phạm Đột-kiết-la.

19. Nhân duyên kết giới thứ mười chín:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Luận về sát sanh có ba loại:

Một là vì tham lông, sừng và da thịt mà sát sanh; hai là vì oan ghét hay hận thù mà sát sanh; ba là không vì tham lợi cũng không vì oán thù mà vì ngu si nên sát sanh. Trong giới này Xiển-na dùng nước có trùng là vì ngu si mà sát sanh. Có tất cả bốn giới sát sanh, trong bốn giới, giới này được kết đầu tiên; sau khi Phật chế giới không được dùng nước có trùng tưới lên cỏ, bùn đất; Xiển-na dùng nước có trùng uống dùng. Sau khi Phật chế giới không được dùng nước có trùng uống dùng, Xiển-na cố ý giết súc sanh; sau khi Phật chế giới không được cố ý giết súc sanh lại giết người. Do sự việc khác nhau nên phân làm bốn giới kết tội trọng khinh khác nhau. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo dùng nước có trùng tưới lên cỏ, bùn đất; tùy dùng nước nhiều hay ít đều phạm Ba-dật-đề. Nếu muốn làm chỗ ở, Tỳ-kheo nên xem xét kỹ nước ở nơi đó có trùng hay không; nên dùng vải dày khoảng một khuỷu tay để làm đãy lượt nước, lượt nước xong nên đưa nước đã lượt ra chỗ có ánh sáng mặt trời xem còn trùng hay không, nếu thấy vẫn còn trùng thì nên lượt nước lại lần thứ hai; nếu lượt nước đến lần thứ ba mà vẫn còn trùng thì không nên ở chỗ này.

QUYỂN 7

6. Nhân Duyên Kết Chín Mươi Ba-Dật-Đề (Tiếp Theo):

20 Nhân duyên kết giới thứ hai mươi:

Giới này bất cọng với Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề, bốn chúng kia phạm Đột-kiết-la. Xiển-na làm chùa, ngay ngày làm vừa xong, chùa liền sụp đổ; làm chùa lớn này đã tốn hết ba mươi vạn tiền và ra công sức rất nhiều. Lúc đó các Tỳ-kheo phải thuyết pháp an ủi đàn việt rằng: "Chùa tuy sụp đổ nhưng công đức được thành tựu vì khi chùa chưa sụp đổ, Phật đã vào trong chùa trước và như vậy tức là đã thọ dụng. Phật là phước điền vô thượng, Phật đã thọ dụng thì công đức sâu rộng không thể suy lường". Có thuyết cho là khi chùa mới hoàn thành, có một Tỳ-kheo kheo trẻ tuổi có giới đức thanh tịnh đã vào trong chùa, Tỳ-kheo trẻ tuổi có giới đức thanh tịnh này chính là Phật. Nếu xây cất hàng ức lầu gác với vô số phòng đủ thứ trang nghiêm, chỉ cần có một Tỳ-kheo giới đức thanh tịnh tạm thời thọ dụng cũng hoàn tất ơn của thí chủ. Vì sao, vì Phật đã tu hạnh bồ tát từ vô lượng kiếp, đến nay được thành Phật đạo mới đem Ba-la-đề-mộc-xoa truyền dạy cho chúng sanh. Ba-la-đề-mộc-xoa không phải là pháp thế gian mà là ly thế gian hướng đến Niết-bàn. Tất cả phòng xá, ngọa cụ, thức ăn uống… đều là pháp thế gian, không phải là pháp thế gian khó được; cho nên một Tỳ-kheo giới đức thanh tịnh tạm thời thọ dụng cũng hoàn tất được ơn của thí chủ. Nếu làm phòng xá mới cho Tăng cho đến xây tháp đúc tượng, đào giếng, làm cầu… thì công đức của người này thường sanh trong tất cả thời, trừ ba nhân duyên: Một là việc đã bị hủy hoại từ đời trước, hai là khi người này qua đời, ba là nếu khởi tâm tà ác; nếu không có ba nhân duyên này thì phước đức thường sanh. Phật trước đã vào trong chùa mới xây này và đã kinh hành lên xuống qua lại nên khiến cho công đức của thí chủ không trống không; Phật lại dùng thần lực cảm các đệ tử theo thứ lớp thuyết pháp để an ủi đàn việt.

Luận về pháp làm phòng xá có ba bậc thượng trung hạ và pháp lợp phòng xá của mỗi bậc cũng tự có giới hạn của nó. Nếu làm phòng xá bậc hạ mà dùng pháp lợp của phòng bậc thượng, bậc trung thì sẽ bị đè nặng và vì muốn mau xong nên mới sụp đổ thì phạm Ba-dật-đề. Nếu làm phòng xá bậc trung mà dùng pháp lợp của phòng bậc thượng, cũng giống như trên phạm Ba-dật-đề; nếu dùng pháp lợp của phòng bậc trung, bậc hạ mà muốn mau xong thì khi vừa làm xong liền phạm Ba-dật-đề; nếu không vội xây tường vách cho mau xong thì không phạm.

21. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi mốt:

Lúc đó Phật bảo các Tỳ-kheo: "Ta giáo hóa bốn chúng rất mệt nhọc". Hỏi: Phật đã được thân Na la diên nên thân không mệt nhọc; lại được mười lực, bốn Vô sở úy, đại từ đại bi nên tâm không mệt nhọc, vì sao Phật lại nói mệt nhọc?

Đáp: Phật không có mệt nhọc nhưng thuận theo pháp thế tục mà nói là mệt nhọc. Như người cha biết con có thể đảm đương gánh vác việc nhà, tuy còn sức lực vẫn muốn giao phó sự nghiệp lại cho con nên nói với con rằng: "Nay cha đã già nua, tất cả việc trong nhà con nên biết hết". Phật cũng vậy, vì muốn các đệ tử đảm đương việc truyền trao giáo pháp nên thuận theo pháp thế gian mà nói là mệt nhọc. Trong giới này Phật bảo các đệ tử theo thứ lớp giáo giới Ni chúng, một là hiển bày không có bỏn xẻn pháp, hai là hiển bày Phật và các đệ tử có tri kiến đồng nhau, ba là muốn hiển bày công đức trí huệ của tỳ-kheo Bàn-đặc, bốn là vì các Tỳ-kheo có nhân duyên với Ni chúng nên thọ việc giáo giới này.

22. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi hai:

Nan-đà: Vị này không phải là Nan-đà em của Phật. Thuở xưa ở thành Duy vệ có Phật ra đời giáo hóa chúng sanh, sau khi Phật diệt độ có một vị vua xây tháp bằng Ngưu đầu chiên đàn với đủ thứ trang nghiêm; năm trăm phu nhân của vua khi cúng dường tháp đã cùng phát nguyện rằng: "Nguyện cho chúng con đời sau được giải thoát từ bên vị vua này". Vị vua thuở đó chính là Nan-đà ngày nay, năm trăm phu nhân thuở đó chính là năm trăm Tỳ-kheo-ni ngày nay, do bổn nguyện xưa nên năm trăm Tỳ-kheo-ni này được giải thoát từ tôn giả Nan-đà. Trong giới này, nếu thuyết pháp cho Ni đến khi mặt trời lặn thì phạm Ba-dật-đề, vì hoại oai nghi nên phạm Đột-kiết-la. Nếu quở trách người thuyết pháp cho Ni thì phạm Ba-dật-đề, vì hoại oai nghi nên cũng phạm Đột-kiết-la.

Nói kệ Câu-ma-la: Có ngôi nhà tên là Câu-mA-la vì người chủ nhà tên là Câu-ma-la; lại do Phật ở trong ngôi nhà này nói kệ Câu-ma-la khiến cho chư thiên được Kiến đế.

23. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi ba:

Trong bản sao chép thiếu mất nhân duyên kết giới này.

24. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi bốn:

Nếu không hẹn mà ngẫu nhiên cùng đi trên đường thì nên bảo đi cách xa nhau ở chỗ mà không nghe được tiếng nói của nhau, nếu nghe được thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Ni (ba chúng ni) hẹn với Tỳ-kheo, Tỳ-kheo không nhận lời hoặc Tỳ-kheo hẹn với Ni, Ni không nhận lời, nếu nghe được tiếng nói của nhau thì phạm Đột-kiết-la. Đi đường thủy cũng giống như vậy. Giới này bất cọng, Ni (ba chúng ni) hẹn cùng đi chung đường với Tỳ-kheo thì phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo hẹn đi chung đường với Ni, từ một tụ lạc đến một tụ lạc thì phạm Ba-dật-đề; nếu giữa đường quay trở về thì phạm Đột-kiết-la. Nếu hẹn cùng đi đến chỗ đồng trống không có tụ lạc cho đến một Câu-lô-xá (năm trăm cung) thì phạm Ba-dật-đề, giữa đường quay trở về thì phạm Đột-kiết-la. Đi đường thủy cũng giống như vậy.

Đại chúng đã đi trước: Phật chứng A-nậu-Đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề với thân Tỳ-kheo, ở trong bốn chúng Tỳ-kheo là thượng thủ nên gọi là đại chúng. Trừ nhân duyên: Là nếu trên đường đi có nhiều chỗ nghi sợ nên cần có nhiều bạn cùng đi, nhiều bạn là có hai, ba cư sĩ cùng đi, nhưng nếu hẹn cùng đi thì phạm Đột-kiết-la, như thế cho đến có trăm ngàn bạn cùng đi cũng vậy; nếu không hẹn mà cùng đi thì không phạm. Đi đường thủy cũng vậy. Nếu hẹn cùng đi với nhiều Ni thì phạm một Ba-dật-đề, không hẹn cùng đi thì không phạm; nếu có phu nhân của vua cùng đi thì không phạm, dù có phu nhân mà cùng hẹn nhau thì phạm Đột-kiết-la.

25. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi lăm:

Giới này bất cọng, Ni (ba chúng ni) hẹn cùng đi chung thuyền với Tỳ-kheo thì phạm Đột-kiết-la.

Tướng phạm trong giới này là nếu một Tỳ-kheo hẹn đi chung thuyền với một Ni (trong ba chúng ni) thì phạm một Ba-dật-đề; nếu hẹn với bốn Ni thì phạm bốn Ba-dật-đề, tùy hẹn với bao nhiêu Ni thì phạm Bấy nhiêu Ba-dật-đề; nếu bốn Tỳ-kheo hẹn đi chung thuyền với một Ni thì mỗi Tỳ-kheo phạm một Ba-dật-đề, tùy có bao nhiêu Ni thì phạm bấy nhiêu Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo hẹn đi chung thuyền trên sông với Ni, từ một tụ lạc đến một tụ lạc thì phạm Ba-dật-đề; nếu giữa đường quay trở về thì phạm Đột-kiết-la. Nếu hẹn cùng đi đến chỗ đồng trống không có tụ lạc cho đến một Câu-lô-xá (năm trăm cung) thì phạm Ba-dật-đề, giữa đường quay trở về thì phạm Đột-kiết-la.

Nếu không hẹn nhau thì không phạm, lại nữa, nếu qua đò ngang hoặc qua đó ngang sợ nước cuốn trôi, hoặc qua đó ngang mà bờ phía trước bị sụp lở… thì không phạm. Lại nữa, nếu đi đường bộ có nghi sợ nên hẹn cùng đi đường thủy hoặc trên thuyền có nhiều cư sĩ thì không phạm.

26. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi sáu:

Giới này bất cọng, Tỳ-kheo cho Ni không phải bà con (ba chúng ni) y và bát đúng lượng thì phạm Ba-dật-đề, Sa-di phạm Đột-kiết-la; ba chúng ni cho Tỳ-kheo không phải bà con y thì phạm Đột-kiết-la.

Trong năm loại y phấn tảo nếu đem cho ba loại y (y bị bò nhai, chuột gặm, y bị cháy) thì phạm Ba-dật-đề; cho hai loại y (y dơ do nam nữ giao hội và y dơ của phụ nữ khi sanh) thì phạm Đột-kiết-la. Nếu cho cư sĩ y đúng lượng thì phạm Ba-dật-đề, vì đã nhuộm màu như pháp; nếu cho y có màu sắc như pháp cũng phạm Ba-dật-đề, vì đã nhuộm như pháp. Nếu Hai Tỳ-kheo cùng cho Ni một y hoặc đem một y cho hai Ni đều phạm Đột-kiết-la; nếu cho y bát không đúng lượng, hoặc cho các khí vật như kiền tư, muỗng… cho đến một thước một tấc vải, một cái bánh, một trái cây đều phạm Đột-kiết-la. Trừ khi đánh kiền chùy, Tăng theo thứ lớp cho thức ăn thì không phạm.

Tướng phạm trong giới này là nếu đem y cho Ni không phải bà con mà cho là bà con thì phạm Ba-dật-đề, tức là trường hợp chị em xa cách lâu ngày, thời gian sau gặp người khác lại cho là bà con; hoặc mẹ kế tư thông với người khác sanh ra trai hay gái, hoặc trước đó đã mang thai nay sanh ra trai hay gái… do nhân duyên này mà tưởng là bà con. Nếu đem y cho Ni không phải bà con mà sanh nghi không biết có phải là bà con hay không, cũng phạm Ba-dật-đề. Nếu đem y cho Ni là bà con mà cho là không phải bà con thì phạm Đột-kiết-la, tức là trường hợp chị em xa cách lâu ngày, thời gian sau gặp lại tưởng không phải là bà con, hoặc cha mẹ có con riêng bên ngoài, hoặc mẹ kế mang thai sau đó đến nhà khác sanh ra trai hay gái, hoặc cha tư thông với người giúp việc trong nhà sau sanh ra trai hay gái… Nếu đem y cho ni là bà con mà sanh nghi không biết có phải là bà con hay không thì phạm Đột-kiết-la; nếu cho y bất tịnh tức là dệt bằng lông lạc đà, lông bò, lông tạp… thì phạm Đột-kiết-la.

27. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi bảy:

Giới nay bất cọng, Ni (ba chúng ni) may y cho Tỳ-kheo không phải bà con thì phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là Tỳ-kheo may y cho Ni không phải bà con, tùy trong mỗi mỗi việc đều phạm Ba-dật-đề; khi cắt rọc thì phạm Đột-kiết-la; khi may, mỗi mũi kim đều phạm Ba-dật-đề; may mũi thẳng hoặc may dây móc y hoặc may đường viền thì phạm Đột-kiết-la. Nếu may y cho Ni là bà con thì không phạm. May y trong giới này là y đúng lượng; nếu may y cho cư sĩ hoặc may y có màu sắc phi pháp cũng phạm Ba-dật-đề. Trong năm loại y phấn tảo nếu may ba loại y (y bị bò nhai, chuột gặm, y bị cháy) thì phạm Ba-dật-đề; may hai loại y (y dơ do nam nữ giao hội và y dơ của phụ nữ khi sanh) thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Ni sai sứ đem y tài đến đưa cho Tỳ-kheo may, Tỳ-kheo may thì phạm Đột-kiết-la; nếu bảo người khác may cũng phạm Đột-kiết-la; nếu Hai Tỳ-kheo cùng may một y cho Ni thì phạm Đột-kiết-la; may y không đúng lượng thì phạm Đột-kiết-la; may y bất tịnh tức là y dệt bằng lông lạc đà… cũng phạm Đột-kiết-la.

28. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi tám:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Nói cùng ngồi ở chỗ khuất là chỗ không có xâu hổ, có thể cùng làm việc dâm; một mình ngồi cùng với Ni là không có người thứ ba. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo một mình cùng ngồi với Ni (ba chúng ni) ở chỗ khuất thì phạm Ba-dật-đề; đứng lên rồi ngồi trở xuống cũng phạm Ba-dật-đề, tùy đứng lên rồi ngồi xuống bao nhiêu lần thì phạm bấy nhiêu Ba-dật-đề.

29. Nhân duyên kết giới thứ hai mươi chín:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la; Tỳ-kheo nếu ngồi cùng thạch nữ hay bé gái thì phạm Đột-kiết-la. Giới trên và giới này cùng hai giới ở trong nhà ăn, giới ngủ cùng phòng với người chưa thọ giới quá hai đêm, giới ngủ đêm cùng nhà với người nữ, tổng cọng là sáu giới đều là chế ngăn cơ hiềm nhưng nghĩa có khác. Bốn giới trước khi chỉ có hai người, không có người thứ ba mới thành tội và phạm vào ban ngày; hai giới sau dù trong phòng có nhiều người vẫn thành tội và phạm vào ban đêm. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo một mình cùng ngồi với Ni (ba chúng ni) ở chỗ trống trải thì phạm Ba-dật-đề; đứng lên rồi ngồi trở xuống cũng phạm Ba-dật-đề, tùy đứng lên rồi ngồi xuống bao nhiêu lần thì phạm bấy nhiêu Ba-dật-đề. Nếu ngồi cách nhau một tầm thì phạm Ba-dật-đề, cách nhau một tầm rưỡi thì phạm Đột-kiết-la; cách nhau hai tầm hoặc hơn thì không phạm.

30. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi:

Giới này bất cọng với Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề, Sa-di phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là nếu Tỳ-kheo-ni thiên tư khen ngợi công đức trí huệ của tỳ-kheo với đàn việt để Tỳ-kheo được cúng thức ăn ngon thì Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề; nhờ hai chúng ni kia mà được thức ăn ngon cũng phạm Ba-dật-đề.

Thỉnh các tôn giả như Đại Ca-diếp, Xá-lợiphất, Đại Mục-kiền-liên, A-na-luật: Có năm hạng người có thể làm phước điền hiện đời cho chúng sanh: Một là người được Kiến đế, hai là người được Đại tận trí, ba là người được Diệt tận định, bốn là người được bốn tâm vô lượng và năm là người được Vô tránh tam muội. Người được Kiến đế sở dĩ có thể làm phước điền hiện đời cho chúng sanh, vì từ vô thỉ đã bị tà kiến não loạn nay được Kiến đế liền diệt hết năm tà không còn sót, lòng tin bất hoại đến nay mới được thành tựu. Người được Đại tận trí sở dĩ có thể làm phước điền hiện đời cho chúng sanh, vì từ vô thỉ đã bị ngu si ái dục và kiêu mạn não loạn, nay được Đại tận trí liền diệt hết ba cấu. Người được Diệt tận định khi nhập định phải theo thứ lớp từ Sơ thiền cho đến Phi tưởng xứ, khi xuất định phải theo thứ lớp ngược lại từ Phi tưởng xứ cho đến Sơ thiền, do tâm tự tại qua các thiền nên công đức lực rất sâu và khi xuất định giống như từ Niết-bàn đến, nên có thể làm phước điền hiện đời cho chúng sanh. Người được bốn tâm vô lượng đưa tâm duyên với vô biên chúng sanh để ban vui cứu khổ và làm lợi ích cho tất ca, nên có thể làm phước điền hiện đời cho chúng sanh. Tam muội vô tránh là tam muội của thế tục, không thuộc loại tam muội vô lậu tránh. Có ba loại tránh là phiền não tranh, ngũ ấm tránh va đấu tránh; tất cả A-la-hán đã đoạn hết phiền não tránh và đấu tránh nhưng chưa diệt hết ngũ ấm tránh, nên chỉ có thể tự mình không tranh cãi nhưng không thể khiến người khác không sanh tranh cãi. Người nhập tam muội vô tránh có thể diệt được loại tránh này, có thể khiến cho kia đây không tranh cãi nên có thể làm phước điền hiện đời cho chúng sanh.

Lúc đó Tỳ-kheo-ni hỏi vợ cư sĩ là thỉnh những ai, liền đáp tên các Tỳ-kheo được thỉnh, nếu ni bảo vợ cư sĩ nấu cơm gạo thơm. Tô, canh đậu, làm thịt gà, thịt chim cút… cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ăn thức ăn này thì phạm Ba-dật-đề; cho đến ni bảo thêm ít gừng vào trong thức ăn cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ăn thì phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là do Ni tán thán công đức của một Tỳ-kheo với tâm thiên vị, bất luận Tỳ-kheo đó là là phàm hay thánh, nếu ăn thức ăn này thì phạm Ba-dật-đề. Nếu ni không khen ngợi công đức của tỳ-kheo với tâm thiên vị mà chỉ nói rằng: "Cúng dường Sa-môn sẽ được phước", vì chỉ nói được phước của bố thí nên Tỳ-kheo ăn thức ăn này không phạm.

31. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi mốt:

Giới này bất cọng với Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề, bốn chúng kia phạm Đột-kiết-la. Lúc đó có một Tỳ-kheo vào tháng mùa thu mắc bịnh nóng lạnh không ăn uống được, do ở Thiên trúc tám đêm cuối mùa Đông và tám đêm đầu mùa Xuân là lúc thạnh đông nên trời rất lạnh. Có thuyết nói do mặt trời vận hành ở chỗ thấp, ánh sáng chiếu xuống mặt đất ít nên trời rất lạnh, do khí tiết Đông và Xuân giao tranh nên nhiều người mắc bịnh lạnh. Ngược lại vào tám ngày cuối Xuân và tám ngày đầu Hạ, do mặt trời ở ngay trên cao nên ánh sánh chiếu xuống tỏa rộng nên khí trời rất nóng và rất nhiều người mắc bịnh nóng. Vào tám ngày cuối Hạ và tám ngày đầu của mùa Đông, khí trời lại không nóng không lạnh, do mặt trời vận hành ở chỗ không cao không thấp nên khi trời lúc nóng lúc lạnh khiến nhiều người mắc bịnh nóng lạnh. Ví làm lợi ích cho các Tỳ-kheo nên Phật cho ăn ba loại thức ăn đầy đủ sắc hương vị thơm ngon. Tỳ-kheo bị bịnh được thọ một chỗ thỉnh, không nên thọ hai chỗ thỉnh; nếu thọ một chỗ thỉnh ăn chưa no thì được thọ hai chỗ thỉnh, không nên thọ ba chỗ thỉnh; nếu thọ hai chỗ thỉnh mà ăn chưa no thì được thọ ba chỗ thỉnh, không nên thọ bốn chỗ thỉnh; nếu thọ ba chỗ thỉnh vẫn ăn chưa no thì được thọ rồi ăn dần dần đến giờ ngọ. Tỳ-kheo nếu ăn nhiều lần thì phạm Ba-dật-đề, trừ thời nhân duyên tức là khi bịnh, vì bịnh nhờ ăn mới bớt nên cho ăn nhiều lần và khi có người cúng y. Tướng phạm trong giới này là nếu ở chỗ này thỉnh có y và thức ăn, ở chỗ kia cũng có y và thức ăn, đến đó thọ thỉnh và ăn đều không phạm. Nếu ở chỗ này thỉnh có y và thức ăn, ở chỗ kia không có y và thức ăn mà đến đó thọ thỉnh thì không phạm, nhưng ăn thì phạm Ba-dật-đề. Nếu ở chỗ này thỉnh có y và thức ăn, ở chỗ kia có y nhưng không có thức ăn, đến đó thọ thỉnh thì không phạm nhưng ăn thì phạm Ba-dật-đề. Nếu ở chỗ này thỉnh không có y và thức ăn, ở chỗ kia cũng không có y và thức ăn, đến đó thọ thỉnh thì phạm Đột-kiết-la, ăn thì phạm Ba-dật-đề. Nếu ở chỗ này thỉnh không có y và thức ăn, ở chỗ kia có y và thức ăn, đến đó thọ thỉnh thì phạm Đột-kiết-la nhưng ăn thì không phạm. Nếu ở chỗ này thỉnh không có y và thức ăn, ở chỗ kia có y nhưng không có thúc ăn, đến đó thọ thỉnh thì phạm Đột-kiết-la, ăn thì phạm Ba-dật-đề. Nếu ở chỗ này thỉnh có y hoặc không có y và thức ăn, ở chỗ kia cũng có y hoặc không có y và thức ăn, đến đó thọ thỉnh thì phạm Đột-kiết-la, ăn thì phạm Ba-dật-đề. Nếu ở chỗ này có y hoặc không có y và thức ăn, ở chỗ kia có y và thức ăn, đến đó thọ thỉnh thì phạm Đột-kiết-la, ăn thì phạm Ba-dật-đề. Nếu ở chỗ này có y hoặc không có y và thức ăn, ở chỗ kia không có y và thức ăn, đến đó thọ thỉnh thì phạm Đột-kiết-la, ăn thì phạm Ba-dật-đề. Không phạm là nếu ở chỗ này thỉnh được nhiều y và có thức ăn, những chỗ khác cũng có y và thức ăn thì đến đó không phạm. Vào những ngày có lễ hội các Tỳ-kheo được ăn nhiều lần, nếu được hai chỗ thỉnh thực thì nên cho người khác một chỗ thỉnh, còn một chỗ thỉnh tự mình thọ. Vào những ngày trai như ngày mồng một và ngày mười sáu hằng tháng, đàn việt thỉnh Tăng hay thỉnh Tăng ở phòng riêng hay thỉnh một người thì được cho người khác; nếu đàn việt thỉnh năm chúng thì không được cho người khác. Nếu ở chỗ này thỉnh có y và thức ăn, ở chỗ kia thỉnh có y nhưng không có thức ăn, đến đó thọ thỉnh thì không phạm. Nếu ra đến bên ngoài có đàn việt thỉnh đến nhà thọ thực sẽ cúng dường y, đến đó thọ thỉnh thì không phạm, ăn cũng không phạm. Hễ có hai chỗ thỉnh thì chỉ được thọ một chỗ, mất một chỗ; nếu muốn thọ cả hai chỗ thì phạm và không phạm giống như trên đã nói.

32. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi hai:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo thọ quá một bữa ăn ở nhà phước đức thì phạm Ba-dật-đề, ngủ lại quá một đêm thì phạm Đột-kiết-la; nếu ngủ đêm ở chỗ khác nhưng ăn ở chỗ này thì phạm Ba-dật-đề. Nếu không bịnh mà ăn ở chỗ này quá một bữa ăn thì phạm Ba-dật-đề; bịnh là cho đến đi từ một tụ lạc đến mà bị thương đều gọi là bịnh. Không phạm là ngủ lại một đêm và ăn một bữa, nếu bịnh hoặc chủ của nhà phước đức là bà con hoặc đã được thỉnh trước, hoặc vì đợi bạn đến để cùng đi vào đường hiểm, hoặc nhà phước đức đó có nhiều người ở theo thứ lớp trông coi thỉnh ở lại thì đều không phạm. Nhà phước đức cúng một bữa ăn và cho ngủ lại đêm vốn là vì tất cả người xuất gia đệ tử của Phật để cầu được phước sâu dày.

Việc ngủ lại đêm thì tất cả người xuất gia, tại gia, Sa-môn, Bà-la-môn đều không ngăn, nhưng thọ một bữa ăn thì chỉ dành cho người xuất gia; tại gia thì không nhất định, có thể cho có thể không cho.

33. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi ba:

Hễ chúng sanh khởi phiền não và phát điên đều là do bị mất cái mà họ yêu thích sâu nặng trước đó, muốn giáo hóa họ Phật phải dùng thần thông lực và tâm từ làm cho họ hết phiền não rồi mới thuyết pháp khiến họ được lợi ích. Có tất cả mười ba trường hợp như thế:

Một là trường hợp cha của cô gái mắt lé đến chỗ Phật với tâm giận dữ, Phật khởi tâm từ và dùng thần thông lực khiến cho tâm sân được trừ diệt rồi mới thuyết pháp cho nghe.

Hai là trường hợp một trưởng giả ở nước Xá- vệ, ông có một đứa con trai rất mực yêu thương nhưng đứa con này lại chết hồi con bé, sau đó lại bị mưa đá và sương móc làm hư hại hết mùa màng nên ông điên loạn. Phật khởi tâm từ và dùng thần thông lực khiến ông hết điên rồi thuyết pháp khiến ông được Kiến đế.

Ba là trường hợp một Bà-la-môn có sáu người con khôi ngô tuấn tú nhưng cùng một lúc cả sáu người con này đều chết, ông trở nên điên cuồng và đi lang thang khắp nơi. Phật khởi tâm từ và dùng thần thông lực hóa làm sáu người con đứng ở trước Phật, trưởng giả này thấy rồi sanh tâm hoan hỉ liền hết điên cuồng, Phật liền thuyết pháp khiến ông được Kiến đế.

Bốn là trường hợp vua A-xà-thế cho voi uống rượu say để đến giẫm chết Phật, Phật khởi tâm từ và dùng thần thông lực hóa làm hầm lửa, năm ngón tay hóa làm năm sư tử chúa khiến cho voi say kinh sợ quỳ xuống đảnh lễ Phật, Phật đưa tay sờ đầu voi, sau khi voi chết được sanh lên lên cõi trời.

Năm là trường hợp Ưu-ba-tư-na đến chỗ Phật với tâm sân giận, Phật khởi tâm từ và dùng thần thông lực khiến trở thành rắn độc ở hai bên đường để người này ngộ được do tâm sân độc sẽ bị đọa trong loài rắn. Vì sợ hãi nên tâm sân độc liền trừ diệt.

Sáu là trường hợp vua Lưu-ly chinh phạt nước Xá-di, bắt những người họ Thích đem chôn sống. Phật khởi tâm từ và dùng thần thông lực hóa ra vườn rừng ao tắm để họ được hoan hỷ. Đối với các cô gái họ Thích thì vua Lưu ly đưa vào trong cung để cùng vui hưởng hoan lạc mừng chiến thắng. Các cô gái họ Thích nói: "Những người họ Thích đều là bậc Hiền thánh không đấu tranh với chung sanh nên nhà vua mới được thắng. Nếu không như thế thì chỉ một người trong dòng họ Thích chiến đấu với vua, vua cũng không thể nào thắng được", vua Lưu ly nghe rồi liền nổi giận ra lịnh chặt hết tay chân rồi ném xuống hào. Phật khởi tâm từ và dùng thần thông lực khiến họ được tay chân lại như cũ rồi thuyết pháp khiến họ được Kiến đế.

Bảy là khi Phật ngồi dưới cội bồ đề, Ma vương cùng vô số binh chúng đến muốn hại Phật, Phật dùng thần thông lực để thu phục các ma, tùy hình dạng của chúng mà biến hóa như hóa làm sư tử để thu phục hổ, hóa làm chim cánh vàng để thu phục rồng, hóa làm Tỳ Sa-môn thiên vương để thu phục Dạ-xoa.

Tám là trường hợp Xá-lợi-phất và Đại Mụckiền-liên vì không chịu đựng được khi thấy Phật sắp nhập Niết-bàn nên nhập Niết-bàn trước Phật, bảy vạn A-la-hán cũng đồng thời nhập Niết-bàn khiến cho bốn bộ chúng thảy đều hoang mang tán loạn. Phật dùng thần thông lực hóa làm hai vị đại đệ tử đứng hai bên Phật, khiến cho mọi người sanh hoan hỉ dứt hết ưu phiền rồi mới thuyết pháp khiến họ được lợi ích.

Chín là trường hợp một cư sĩ mà Phật thọ ký là bảy ngày nữa sẽ qua đời và bị đọa địa ngục. A-nan đến nói lại lời Phật đã thọ ký nhưng vì người này đắm nhiễm thế lạc sâu nặng nên không để vào tai, chỉ lo hưởng dục lạc. A-nan thấy ngày chết gần đến liền dùng thần lực đưa đến chỗ Phật bắt ép xuất gia, Phật tùy nghi thuyết pháp khiến người này được chứng quả.

Mười là trường hợp một trưởng giả hết sức thương yêu đứa con một, không may nó bị voi giẫm chết khiến trưởng giả trở nên điên loạn đi lang thang khắp nơi. Phật khởi tâm từ và dùng thần thông lực hóa làm đứa con khiến trưởng giả nhìn thấy liền hết điên cuồng, Phật vì thuyết pháp khiến trưởng giả phát khởi nhân duyên Phật Bích chi.

Mười một là trường hợp một ròng nữ đến chỗ Phật với tâm sân, Phật dùng tâm từ cảm hóa khiến dứt tâm sân rồi thuyết pháp khiến rồng thọ pháp Tam quy.

Mười hai là trường hợp chim bồ câu núp vào bóng của Phật liền thấy yên ổn, không dao động nữa.

Mười ba là trường hợp một Tỳ-kheo bịnh, Phật tự tay tắm rửa cho rồi thuyết pháp khiến vị này được chứng quả A-la-hán.

Pháp của cư sĩ ở Thiên trúc là sáng sớm làm thức ăn xong, chia một phần thức ăn để riêng một chỗ để cúng dường cho Tỳ-kheo khất thực. Pháp của Tăng ở Thiên trúc là khi đi khất thực đều phân chia Tỳ-kheo này thì chỗ này, Tỳ-kheo kia đến chỗ kia, Tỳ-kheo nọ đến chỗ nọ… để tất cả đều được lợi. Nếu thí chủ trước đã dành sẵn một thăng cơm và thức ăn để cúng cho Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo nên thọ một thăng, không được xin thêm; nếu xin thêm mà được một bát nhỏ nữa thì phạm Ba-dật-đề, xin thêm mà không được thì phạm Đột-kiết-la. Nếu thí chủ đã dành sẵn một bát lớn cơm và thức ăn và đã cúng hết cho Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo không được xin thêm, nếu xin thêm mà được thì phạm Ba-dật-đề. Tỳ-kheo khất thực được thức ăn rồi thì không nên ra ngoài cho Tỳ-kheo khác; thức ăn này, nếu có thể ăn hết thì thôi, nếu không thể ăn hết thì tùy ý phân xử. Nếu thí chủ đã dành sẵn ba bát cơm và thức ăn và đem cúng hết cho Tỳ-kheo thì Tỳ-kheo nên lượng theo bụng mình mà thọ, phần còn lại không thọ thì khi ra bên ngoài thấy có Tỳ-kheo nào khất thực liền chỉ chỗ cho vị ấy đến khất thực, nếu không chỉ chỗ thì phạm Đột-kiết-la. Nếu lượng bát là bát lớn thì chỉ được thọ một bát, nếu là bát trung thì được thọ hai bát, nếu là bát hạ thì được thọ ba bát. Nếu đàn việt đã dành sẵn một bát lớn và đã cúng hết cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo xin thêm thì phạm

Đột-kiết-la, xin thêm được một bát nhỏ nữa thì phạm Ba-dật-đề. Nếu thí chủ đã dành sẵn một bát nhỏ và đã cúng hết cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo xin thêm thì phạm Đột-kiết-la, nếu xin thêm được cho đến hai bát nhỏ thức ăn nữa cũng phạm Đột-kiết-la, nếu xin thêm được ba bát nhỏ nữa thì phạm Ba-dật-đề. Nếu thí chủ đã dành sẵn hai bát trung và đã cúng hết cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo xin thêm thì phạm Đột-kiết-la, nếu xin thêm mà được một bát nhỏ nữa thì phạm Ba-dật-đề. Nếu thí chủ trước đó không có dành sẵn phần thức ăn thì tùy họ cúng dường nhiều ít mà thọ, không được xin thêm, nếu xin thêm thì phạm Đột-kiết-la; nếu họ cúng một bát nhỏ cơm và thức ăn, Tỳ-kheo xin thêm nếu được hai bát nhỏ nữa thì phạm Đột-kiết-la, nếu được ba bát nhỏ thì phạm Ba-dật-đề. Nếu thí chủ cúng ba bát nhỏ mà xin thêm được một bát nhỏ nữa thì phạm Ba-dật-đề. Nếu đàn việt cúng dường tùy ý, tức là cần bao nhiêu thì cúng bấy nhiêu thì không phạm. Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Trong năm đường thì chỉ thọ thức ăn từ loài người quá lượng Phật đã chế mới phạm Ba-dật-đề, từ bốn loài kia thì phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo dùng bát lớn để thọ thức ăn thì chỉ được thọ một bát, không được thọ hơn, nếu thọ hai bát thì phạm Ba-dật-đề. Nếu dùng bát trung để thọ thức ăn thì được thọ đến hai bát, nếu thọ đến ba bát thì phạm Ba-dật-đề. Nếu dùng bát nhỏ để thọ thức ăn thì được thọ đến ba bát, nếu thọ bốn bát thì phạm Ba-dật-đề.

34. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi bốn:

Giới này bất cọng, ba chúng ni không phạm. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo ăn xong đã rời khỏi chỗ ngồi, không thọ pháp dư thực mà ăn nữa thì phạm Ba-dật-đề; trong mười lăm loại thức ăn tùy ăn loại thức ăn nào thì mỗi loại phạm một Ba-dật-đề; nếu cùng một lúc ăn mười lăm loại thức ăn thì chỉ phạm một Ba-dật-đề. Tỳ-kheo muốn thọ pháp dư thực thì tùy món ăn nào muốn ăn nữa nên lấy để vào trong bát rồi đến trước vị Tỳ-kheo nào chưa ăn xong, chưa rời khỏi chỗ ngồi, quỳ gối cầm bát lên bạch rằng: "Trưởng lão nhớ nghĩ, tôi xin thọ pháp dư thực"; nếu vị này không lấy một ít thức ăn trong bát thì không gọi là thọ pháp dư thực. Nếu Tỳ-kheo không cầm bát lên bạch như trên mà để bát ở dưới đất hay để trên đầu gối hoặc quỳ cách xa ở chỗ mà Tỳ-kheo kia không vói tay tới bát được thì không gọi là thọ pháp dư thực. Nếu Tỳ-kheo để thức ăn bất tịnh hay thịt bất tịnh vào trong bát để thọ pháp dư thực thì không gọi là thọ. Thức ăn bất tịnh là thức ăn để cách đêm phạm ác tróc và nội túc; thịt bất tịnh là thịt chó, thịt các loài chim dữ như kên kên… Nếu muốn ăn loại thức ăn trong năm Khư-đà-ni mà lấy thức ăn trong năm Bồ-xàni để vào bát làm pháp thọ dư thực thì không gọi là thọ. Tóm lại muốn ăn loại thức ăn này mà tác pháp thọ loại kia thì không thành thọ, thức ăn không thành thọ mà ăn đều phạm Ba-dật-đề. Tác pháp thọ dư thực chỉ được thọ bên Tỳ-kheo, bên bốn chúng kia thì không được; nếu tác pháp thọ bên Thượng tòa thì nên quỳ gối bạch như trên, nếu thọ bên Hạ tòa thì không phải quỳ.

Ưu-ba-ly hỏi Phật: "Tỳ-kheo có mấy chỗ khi đi được tùy ý, cho đến đứng nằm ngồi có mấy chỗ được tùy ý?", sở dĩ hỏi Phật là vì chưa rõ nghĩa, hỏi để mọi người hiểu rồi thì đi đứng nằm ngồi không ngại nữa. Cho nên sau khi Phật giải thích rõ nghĩa rồi thì các đệ tử đều cung kính làm theo, như sau khi được vua phong, tùy ý đi đến bốn cửa ải không ai dám ngăn cản. Lại nữa, Phật đối với pháp tự tại, trong ba ngàn đại thiên thế giới không ai sánh bằng; Ưu-ba-ly đối với luật tự tại, trong cõi Diêm phù đề không ai sánh kịp, tôn giả hỏi Phật đáp thì nghĩa lý đều cùng tận. Lúc đó Phật bảo Ưu-ba-ly: "Tỳ-kheo có năm chỗ khi đi được tùy ý, đó là biết đi, biết cúng dường, biết nên thọ, biết loại thức ăn và biết hoại oai nghi hay không hoại; đứng nằm ngồi cũng giống như thế". Như Tỳ-kheo khi đi súc miệng, nếu có thí chủ cúng dường năm loại thức ăn muốn thọ pháp dư thực thì gọi là khi đi nên thọ pháp dư thực, không phải khi đứng, nằm hay ngồi; nếu thọ trái thời thì không gọi là thọ, ăn thì phạm Ba-dật-đề. Không phạm là nếu Tỳ-kheo nói đợi một chút hoặc nói trời còn sớm hoặc dặn trao các món muốn ăn, được dặn trao cho năm chúng và bạch y hiểu pháp. Nếu người này tác pháp thọ dư thực mà người khác ăn thì không thành thọ. Biết đi là biết khi đi; biết cúng dường là biết người trước mặt cúng thức ăn cho mình; biết nên thọ là biết nên hay không nên thọ thức ăn này; biết các loại thức ăn là biết phân biệt thuộc loại thức ăn nào; biết hoại oai nghi là biết khi đi nên thọ pháp dư thực như thế là hoại hay không hoại oai nghi.

35. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi lăm:

Giới này bất cọng với Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề, bốn chúng kia không phạm. Thể của giới này là nếu Tỳ-kheo không dặn trao thức ăn, không thọ pháp dư thực, vì tâm sân giận muốn xúc não người khác nên cưỡng ép ăn, người kia ăn thì Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề, người kia không ăn thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo thấy Tỳ-kheo khác ăn xong, không dặn trao thức ăn mà tự ý mời ăn, trong mười lăm loại thức ăn tùy ăn loại thức ăn nào thì Tỳ-kheo này phạm Ba-dật-đề. Tất cả loại thực phẩm như lúa gạo, nếp… chưa nấu thành món ăn thì gọi là tợ thực, nếu nấu thành món ăn mới gọi là chánh thực.

36. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi sáu:

Giới này là cọng giới với Tỳ-kheo-ni, ba chúng dưới không phạm. Khi Tăng thọ thực nên làm một trong bốn hiệu lịnh: Một là đánh kiền chùy, hai là thổi tù và, ba là đánh trống, bốn là xướng lịnh để người trong đại giới nghe biết. Bốn loại hiệu lịnh này nên có hạn định thường, không được khi thì đánh kiền chùy, khi thì thổi tù và… nếu không có thường định sẽ khiến cho việc trở nên lộn xộn, không thành tăng pháp. Nếu Tăng không làm một trong bốn hiệu lịnh trên mà thọ thực thì thức ăn đó trở thành không thanh tịnh, gọi là ăn trộm của tăngkỳ. Bất luận trong giới có Tỳ-kheo hay không có Tỳ-kheo, nhiều hay ít, ngăn hay không ngăn, biết có Tỳ-kheo hay không biết có Tỳ-kheo đều gọi là ăn không như pháp, gọi là ăn trộm của tăng-kỳ nhưng không gọi là ăn biệt chúng. Khi Tăng thọ thực nếu làm một trong bốn hiệu lịnh trên thì trong giới bất luận có Tỳ-kheo hay không có Tỳ-kheo, nhiều hay ít, biết có Tỳ-kheo hay không biết có Tỳ-kheo, đến hay không đến, chỉ cần không ngăn thì tất cả đều không có lỗi; nếu có ngăn thì dù có đánh kiền chùy, thức ăn cũng trở thành không thanh tịnh, gọi là ăn trộm của Tăng-kỳ. Nếu trong giới có hai, ba chỗ, tất cả Tăng đều cùng bố tát mà khi ăn chỉ có một nơi đánh kiền chùy, nếu không ngăn thì tất cả thanh tịnh không có lỗi.

Nếu có thí chủ cúng thức ăn suốt trong một tháng hoặc trong chín mươi ngày, nếu tất cả không ngăn thì tốt, nên vào ngày đầu làm thức ăn đánh kiền chùy xà xướng rằng: "Tỳ-kheo sáu mươi hạ lạp vào trước", Tỳ-kheo sáu mươi hạ lạp dù nhiều hay ít, chỉ cần một người vào trước tức là thanh tịnh. Nếu không có Tỳ-kheo sáu mươi hạ lạp thì nên xướng người năm mươi chín hạ lạp vào trước, nếu cũng không có thì cứ như thế lần lượt xướng cho đến Sa-di, dù là Sa-di vào cũng là thanh tịnh; nếu cuối cùng cũng không có ai vào vẫn gọi là thanh tịnh. Nếu ngày đầu không xướng như vậy thì mỗi ngày sau đó đều phải xướng cho đến khi có một người vào rồi thì những ngày còn lại có ngăn hay không ngăn cũng không có lỗi. Nếu không làm hai pháp trên, khi ăn bị ngăn thì trong giới dù chỉ có một Tỳ-kheo vì bị ngăn không được ăn, tất cả Tỳ-kheo trong đây đều mắc tội ăn biệt chúng. Nếu thí chủ làm thức ăn suốt chín mươi ngày, ngày đầu xướng như pháp rồi, hết hạn chín mươi ngày lại cúng thêm một tháng hay nữa tháng thức ăn nữa thì do lần trước đã xướng như pháp rồi nên lần này không cần phải xướng lại nữa; chỉ có ngọa cụ trong Tăng phòng thì nên xướng mỗi ngày, nếu không xướng mỗi ngày thì không thanh tịnh.

Nếu thí chủ thỉnh bốn người trở lên thọ thực trong giới mà Tăng bố tát thì nên ở chỗ bố tát theo thứ lớp trong Tăng thỉnh một người hoặc đưa một phần thức ăn, nếu không thỉnh một người hoặc không đưa một phần thức ăn thì phạm Ba-dật-đề. Dù hai hay ba chỗ cũng như vậy, chỗ nào đến chỗ bố tát theo thứ lớp trong Tăng thỉnh một người hoặc đưa một phần thức ăn thì thanh tịnh tự xử; chỗ nào không thỉnh một người hoặc không đưa một phần thức ăn thì phạm Ba-dật-đề. Nếu thỉnh một người và đưa một phần thức ăn rồi mà từ bên ngoài lại có Tỳ-kheo đến, nếu ngăn không cho ăn thì phạm Ba-dật-đề.

Nếu trong giới tụ lạc không có giới của Tăng mà có hai thí chủ thỉnh bốn người trở lên thọ thực ở hai nơi thì nên đánh kiền chùy ở hai chỗ, lẫn nhau thỉnh một người hoặc đưa một phần thức ăn; nếu có Tỳ-kheo khác đến dù là một người cũng được vào ăn không lỗi, nếu không lẫn nhau thỉnh một người hoặc đưa một phần thức ăn mà ăn thì phạm Ba-dật-đề; nếu ngăn không cho ăn dù chỉ là một người cũng phạm Ba-dật-đề. Nếu trong giới tụ lạc trước đó không có tăng mà có thí chủ thỉnh bốn người trở lên thọ thực thì nên đánh kiền chùy; nếu không đánh kiền chùy và biết trong đây có một Tỳ-kheo không đến thọ thực mà ăn, liền phạm tội ăn biệt chúng; nghi có Tỳ-kheo mà ăn thì phạm Đột-kiết-la, nếu hoàn toàn không nghi dù có đánh kiền chùy hay không, dù có Tỳ-kheo hay không có Tỳ-kheo mà ăn đều không có lỗi.

Luận về pháp thọ thực của A-tăng-kỳ, dù tăng nhiều hay ít đều nên phân chia thức ăn cho có thường định, nên tính thức ăn mà Tăng ăn điều độ mỗi ngày là bao nhiêu, trọn một năn là bao nhiêu. Nếu mỗi ngày Tăng ăn một hộc gạo thì trong một năm nên lấy hạn lượng một hộc làm thường định, nếu xuất phần gạo chưa tới một hộc hay hơn một hộc đều là ăn trộm của Tăng. Nếu xuất phần gạo không đủ một hộc thì phần ăn mà Tăng nên được lại không được ăn, nếu xuất phần gạo hơn một hộc thì trong kho của tăng sẽ cạn; vì vậy nên xuất phần gạo và thức ăn có thường định thì dù Tăng nhiều hay ít, tất cả đều không được ngăn. Tăng dù nhiều hơn cũng theo hạn lượng đã định đó mà cùng ăn, Tăng dù có ít hơn cũng theo hạn lượng đó mà cùng ăn, nếu theo pháp thọ thực có hạn định thường như vậy thì tất cả không có lỗi.

Nếu khi đi đường có thí chủ cúng thức ăn cho bốn Tỳ-kheo trở lên, nếu trong số người cùng đi có một Tỳ-kheo ăn riêng thì các Tỳ-kheo này phạm tội ăn biệt chúng. Vì trên đường đi tùy dừng chỗ nào đều có giới tự nhiên là một Câu-lô-xá tuy không phải là giới y, nhưng trong giới tự nhiên này không được ăn biệt chúng và không được bố tát riêng. Nếu mỗi người đều đem riêng thức ăn, tuy bốn người cùng ngồi chung một chỗ ăn cũng không có lỗi; nếu thí chủ cúng thức ăn cho ba người trở xuống, mỗi người ngồi một chỗ ăn riêng cũng không có lỗi, nhưng nếu cùng ngồi chung một chỗ ăn thì tốt hơn.

Khi ăn thức ăn của Tăng hay của thí chủ cúng, nếu có một thí chủ khác thỉnh cúng riêng cho bốn

Tỳ-kheo, nếu bốn Tỳ-kheo này ngồi theo thứ lớp ở trong Tăng mà thọ thức ăn này để ăn thì phạm tội ăn biệt chúng. Nếu thọ thực theo thứ lớp trong Tăng rồi sau đó được cúng thêm thì tuy bốn người này ngồi ở trong Tăng thọ thức ăn này vẫn không phạm tội ăn biệt chúng nhưng thức ăn này trở thành không thanh tịnh. Nếu Tỳ-kheo ăn thức ăn của Tăng hay của thí chủ cúng, mỗi người tự lấy phần của mình dù bốn người trở lên cùng ngồi một chỗ ăn riêng cũng không phạm tội ăn biệt chúng; bốn người trở lên, mỗi người tự có vật thực cùng làm thức ăn tuy ở trong giới vẫn không phạm tội ăn biệt chúng; bốn người trở lên, mỗi người tự đi khất thực được thức ăn trở về cùng ngồi một chỗ ăn cũng không phạm. Nếu ở trong phòng riêng, thí chủ cúng tiểu thực cho bốn người trở lên vì không phải ăn no nên không phạm; sau đó thí chủ lại cúng dường bữa ăn trưa thì nên thỉnh một vị trong Tăng hoặc đưa một phần thức ăn cho chúng và mỗi người tự ăn riêng không thành chúng thì không phạm, nếu không như thế thì phạm Ba-dật-đề. Nếu Tăng thọ thực xong có khách Tỳ-kheo đến, thí chủ cúng dường cho bốn người trở lên cùng ăn cũng không phạm; nếu Tỳ-kheo khách du hành vào trong giới của Tăng, thọ thức ăn của thí chủ cùng ngồi một chỗ ăn từ bốn người trở lên thì phạm Ba-dật-đề; nếu mỗi người trước có mang theo lương thực dù là của thí chủ cúng, cùng ngồi chung một chỗ ăn cũng không phạm; nếu bốn người cùng đi, trong đó có một người mang theo lương thực, vào trong giới của Tăng cùng ngồi chung một chỗ ăn với ba người kia thì phạm Ba-dật-đề. Nếu ở chỗ đồng trống không có giới của Tăng, nhưng thuộc trong giới tự nhiên một Câu-lô-xá nếu có nhiều Tỳ-kheo làm bạn mà một Tỳ-kheo chỉ mời riêng ba người cùng ăn một chỗ thì phạm Ba-dật-đề; nếu mỗi người có lương thực cùng ngồi chung một chỗ ăn thì không phạm. Nếu nhiều khách Tỳ-kheo làm bạn vào trong giới tụ lạc, tuy không có giới của Tăng, có Tỳ-kheo hay cư sĩ làm thí chủ thỉnh riêng bốn người cùng ăn chung một chỗ thì phạm Ba-dật-đề. Nếu bốn người trở lên làm bạn ở trong giới tụ lạc thọ thức ăn của thí chủ, tuy không có giới của Tăng nhưng nếu biết có Tỳ-kheo mà không mời vị này cùng ăn thì phạm Ba-dật-đề; nếu nghi không biết có Tỳ-kheo hay không có mà ăn thì phạm Đột-kiết-la; nếu muốn như pháp thì nên tìm xem trong tụ lạc này có Tỳ-kheo hay không. Nếu hoàn toàn không nghi mà ăn thì không phạm, nếu không như thế thì nên đánh kiền chùy, do quá xa không nghe hay nghe mà không đến thì các Tỳ-kheo này được thanh tịnh như pháp ăn không lỗi. Lại nữa, dù ở trong giới của Tăng hay giới tự nhiên hay giới tụ lạc, nếu có thí chủ cúng thức ăn, Tăng đã ăn xong mà có khách Tỳ-kheo đến, thí chủ cúng cho bốn người trở lên cùng ăn cũng không phạm. Tỳ-kheo tăng đối với Tỳ-kheo-ni tăng thì không có lỗi ăn biệt chúng.

Luận về ăn biệt chúng là do thức ăn của thí chủ cúng, nếu là thức ăn của Tăng thì không phạm ăn biệt chúng, mà phạm ăn thức ăn không thanh tịnh như pháp, phần nhiều khép vào tội ăn trộm của Tăng. Nếu ở trong giới của Tăng được thí chủ cúng riêng thức ăn thì nên theo thứ lớp trong Tăng thỉnh một người hoặc đưa một phần thức ăn cho chúng, nếu không thỉnh một người hoặc không đưa một phần thức ăn thì phạm Ba-dật-đề; nếu ba người trở xuống, mỗi người tự ăn riêng thì không phạm. Nếu ở trong giới của Tăng được đàn việt cúng riêng thức ăn, trước đã có ý thỉnh một vị trong Tăng nhưng sau đó lại quên thì nên để một phần thức ăn ở chỗ Thượng tòa hay đưa đến trong Tăng. Pháp của đàn việt cúng thức ăn là phải thỉnh Tỳ-kheo trước, nếu vào trong giới của Tăng thỉnh nên nói: "Xin thỉnh một vị trong Tăng thuộc đại giới này"; nếu Tăng kết giới phạm vi là mười Câu-lô-xá, đường xa mà đàn việt không thỉnh trước, ngay ngày đó đến thỉnh thì nên để một phần thức ăn ở chỗ Thượng tòa hoặc đưa đến trong Tăng, nếu làm được như vậy thì tốt. Trong số bốn người có ba Tỳ-kheo và một Tỳ-kheo-ni hoặc ba Tỳ-kheo-ni và một Tỳ-kheo, cho đến có ba Tỳ-kheo và một Sa-di-ni đều không phạm ăn biệt chúng. Nếu trong số bốn người có ba Tỳ-kheo ở ngoài giới và một Tỳ-kheo ở trong giới, hoặc ba Tỳ-kheo ở trong giới và một Tỳ-kheo ở ngoài giới, hoặc ba Tỳ-kheo ở trên mặt đất và một Tỳ-kheo ở trên hư không, hoặc một Tỳ-kheo ở trên mặt đất và ba Tỳ-kheo ở trên hư không đều không phạm ăn biệt chúng.

Trừ khi bịnh, khi may y: May y dù đúng lượng hay không đúng lượng đều khai cho ăn biệt chúng, nhưng nếu khi may y mà thức ăn khó được mới khai cho ăn biệt chúng, nếu thức ăn dễ được thì không khai cho.

Trừ khi đi đường: Dù đi hay đến cho đến nữa do tuần đều khai cho ăn biệt chúng. Nếu Tỳ-kheo đến từ hôm qua mà ngày nay ăn biệt chúng thì phạm Ba-dật-đề, ngày mai mới đi mà ngày nay ăn biệt chúng cũng phạm Ba-dật-đề; phải ngay ngày nào đi hoặc đến, ngay ngày đó ăn biệt chúng mới không phạm. Đi thuyền cũng vậy.

Trừ khi đại chúng nhóm họp: Nếu vì pháp sự hay vì nhân duyên gì khác mà Tăng nhóm họp, phải có ít nhất bốn cựu Tỳ-kheo và bốn khách Tỳ-kheo mới gọi là đại chúng nhóm. Tuy đại chúng nhóm họp nhưng nếu thức ăn dễ được thì không khai cho ăn biệt chúng, nếu ăn thì phạm Ba-dật-đề.

Trừ khi Sa-môn thí thực: Trừ năm chúng đệ tử Phật ra, tất cả người xuất gia ngoại đạo khác đều gọi là Sa-môn. Nếu Sa-môn thỉnh thực xong, sau đó mặc áo cư sĩ mang thức ăn đến cúng, nếu Tỳ-kheo ăn thức ăn này thì phạm Ba-dật-đề, còn thọ thỉnh thì không phạm. Nếu cư sĩ thỉnh thực xong, sau đó vào trong ngoại đạo xuất gia làm Sa-môn mang thức ăn đến cúng, nếu Tỳ-kheo ăn thức ăn này thì phạm Ba-dật-đề. Nếu Sa-môn thỉnh thực, Sa-môn mang thức ăn đến cúng, Tỳ-kheo ăn thức ăn này không phạm.

Nếu có thí chủ cúng thức ăn suốt trong một tháng hoặc trong chín mươi ngày, nếu tất cả không ngăn thì tốt, nên vào ngày đầu làm thức ăn đánh kiền chùy xà xướng rằng: "Tỳ-kheo sáu mươi hạ lạp vào trước", Tỳ-kheo sáu mươi hạ lạp dù nhiều hay ít, chỉ cần một người vào trước tức là thanh tịnh. Nếu không có Tỳ-kheo sáu mươi hạ lạp thì nên xướng người năm mươi chín hạ lạp vào trước, nếu cũng không có thì cứ như thế lần lượt xướng cho đến Sa-di, dù là Sa-di vào cũng là thanh tịnh. Nếu thí chủ làm thức ăn cúng dường trong giới của Tăng, do nhà ăn không đủ chỗ nên dọn thức ăn ra ngoài ở chỗ khác ăn thì không phạm. Nếu khi Tăng thọ thực, dù là thức ăn của Tăng hay của thí chủ cúng, mỗi người tự lấy phần ăn của mình ra ngoài, bốn người cùng ăn ở một chỗ khác cũng không phạm.

Nếu đàn việt thỉnh bốn Tỳ-kheo trở lên đến nhà thọ thực, tuy có đánh kiền chùy mà thí chủ ngăn vì biết có một Tỳ-kheo không được thức ăn thì tất cả Tỳ-kheo này đều phạm Ba-dật-đề. Nếu trong đại giới có hai chúng tăng ở hai chỗ, trong một ngày cả hai nơi đều có thí chủ cúng thức ăn thì Tăng ở chỗ bố tát không phạm; Tăng ở chỗ không có bố tát nếu không thỉnh một vị trong Tăng bên chỗ bố tát hoặc không đưa một phần thức ăn đến chỗ đó mà ăn thì phạm Ba-dật-đề.

Nếu người điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại và người bị tẫn; hoặc ba Tỳ-kheo và một người điên cuồng, hoặc một Tỳ-kheo và ba người điên cuồng, hoặc cả bốn người điên cuồng vào trong giới của Tăng và được thí chủ cúng cho ăn riêng chúng đều không phạm. Đối với người bị tẫn cũng vậy. Luận về phạm tội ăn biệt chúng là phải ở trong giới hoặc là giới của Tăng, hoặc là giới tự nhiên một Câu-lô-xá, hoặc là giới tụ lạc. Tuy các loại giới này không phải là giới y nhưng Tỳ-kheo ở trong đó không được bố tát riêng và ăn riêng chúng; thức ăn phải là do thí chủ cúng và có bốn Tỳ-kheo trở lên cùng ăn chung một chỗ mới phạm. Nếu ở trong giới của Tăng mà ăn không như pháp thì phạm Ba-dật-đề, nếu biết có một người không được thức ăn mà ăn là ăn không như pháp, phạm Ba-dật-đề.

37. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi bảy:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo ăn phi thời thì phạm Ba-dật-đề. Nếu ăn năm loại thức ăn Khư-đà-ni, năm loại Bồ-xà-ni và năm loại tợ thức ăn, hoặc cùng một lúc ăn mười lăm loại thức ăn này thì phạm một Ba-dật-đề; nếu ăn riêng từng loại thì mỗi mỗi phạm Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo trong phi thời tưởng là phi thời mà ăn thì phạm Ba-dật-đề; trong phi thời tưởng là thời mà ăn thì phạm Ba-dật-đề; trong phi thời sanh nghi mà ăn thì phạm Ba-dật-đề. Trong thời tưởng là phi thời mà ăn thì phạm Đột-kiết-la, trong thời sanh nghi mà ăn thì phạm Đột-kiết-la. Trong thời tưởng là thời mà ăn thì không phạm.

Phi thời là qua giờ ngọ cho đến cuối đêm do ánh sáng mặt trời giảm mất dần nên gọi là phi thời. Thời là từ sáng sớm cho đến giữa trưa do ánh sáng mặt trời tăng dần lên nên gọi là thời. Lại nữa, do từ sáng đến trưa người đời làm việc và nấu thức ăn, Tỳ-kheo khất thực sẽ được thức ăn nên gọi là thời; còn từ trưa đến cuối đêm, người đời tiệc tùng vui chơi và ngủ nghỉ, nếu Tỳ-kheo đến sẽ bị xúc não nên gọi là phi thời. Lại nữa, từ sáng đến trưa người đời làm việc cực nhọc nên tâm dâm dục không khởi nên gọi là thời; còn từ trưa đến cuối đêm sau khi làm việc xong nghỉ ngơi thì tâm dâm dục liền khởi, Tỳ-kheo nếu lui tới sẽ bị phỉ báng và bị não hại nên gọi là phi thời. Lại nữa, từ sáng đến trưa là thời Tỳ-kheo nên đi vào tụ lạc khất thực nên gọi là thời; còn từ trưa đến cuối đêm là thời Tỳ-kheo nên ở chỗ yên tĩnh tọa thiền tu tập đạo nghiệp, không phải là thời nên đi vào tụ lạc nên gọi là phi thời.

38. Nhân duyên kết giới thứ ba mươi tám:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới không phạm. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo ăn thức ăn cách đêm thì phạm Ba-dật-đề; nếu ăn cùng một lúc mười lăm loại thức ăn để cách đêm thì phạm một Ba-dật-đề, nếu ăn tường loại riêng thì phạm mỗi mỗi Ba-dật-đề. Nội túc: Là để thức ăn trong phòng cùng ngủ đêm, có ba trường hợp: Nếu thọ thực rồi khởi tưởng là thọ thực rồi, dù có cùng thức ăn ở trong phòng ngủ hay không mà để qua một đêm (nội túc) thì phạm Đột-kiết-la, ăn thức ăn này thì phạm Ba-dật-đề. Nếu tự lấy thức ăn cách đêm này thì gọi là ác tróc, khi lấy thì phạm Đột-kiết-la, khởi tưởng là mình lấy thức ăn để cách đêm cũng phạm Đột-kiết-la. Thức ăn này nếu không thọ mà ăn thì phạm Ba-dật-đề, Tỳ-kheo khác ăn thì không phạm. Nếu cư sĩ cầm thức ăn trao cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo thọ thức ăn này ăn thì không phạm. Nếu ở nơi đồng trống được nhiều thức ăn, ăn xong bỏ đi, sau đó quay trở lại nếu thức ăn ở chỗ đó không bị chim thú ăn thì được lấy ăn; nếu là thức ăn của nhiều người thì tay chạm vào phần thức ăn của mỗi người tức là thanh tịnh; nếu là thức ăn của Phật lạp, Diện môn lạp hay Tự tứ lạp tuy trước đã thọ rồi, sau đó mua được thức ăn do không khởi tưởng là thức ăn của mình nên ăn không phạm.

QUYỂN 8

6. Nhân Duyên Kết Chín Mươi Pháp Ba-dật-Đề:

Nhân duyên kết giới thứ ba mươi chín:

Giới này Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni chung, ba chúng dưới không chung. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo không thọ thức ăn mà để vào miệng ăn thì phạm Ba-dật-đề, tùy để vào miệng bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Thọ thức ăn từ bốn hạng người: Nam, nữ, huỳnh môn và người hai căn đều thành thọ thực; từ phi nhân và súc sanh cũng thành thọ thực. Sở dĩ phải thọ thức ăn rồi mới ăn một là để đoạn trừ nhân duyên trộm cắp, hai là để làm chứng minh; thọ thức ăn từ phi nhân tuy thành thọ thực nhưng không thành chứng minh, sở dĩ được thọ thức ăn từ phi nhân là nếu Tỳ-kheo ở chỗ đồng trống không người thì được thọ, nếu ở chỗ có người thì không được thọ thức ăn từ phi nhân cho đến súc sanh và trẻ con không hiểu biết. Ba là để ngăn dứt phỉ báng, bốn là vì thiểu dục tri túc khiến người khác sanh tâm tín kính. Như thuở xưa có một Tỳ-kheo đi cùng với ngoại đạo đến một gốc cây ăn trái, ngoại đạo nói với Tỳ-kheo: "Thầy hãy leo lên cây hái trái", Tỳ-kheo nói: "Pháp Tỳ-kheo của chúng tôi là không được leo lên cây cao quá đầu người", ngoại đạo nói: "Nếu vậy hãy rung cây cho trái rụng xuống", Tỳ-kheo nói: "Pháp Tỳ-kheo của chúng tôi là không được rung cây làm cho rụng trái xuống". Ngoại đạo này liền leo lên cây hái trái rồi quăng xuống bảo Tỳ-kheo lượm lấy ăn, Tỳ-kheo nói: "Pháp Tỳ-kheo của chúng tôi là không được không thọ mà ăn". Ngoại đạo nghe rồi sanh tâm tín kính, biết Phật pháp là thanh tịnh liền theo Tỳ-kheo xuất gia trong Phật pháp và không bao lâu sau được lậu tận.

Nếu thọ trái cây chỉ cần lấy là cây phẩy qua liền thành thọ, nếu không có mâm lớn, mâm nhỏ, ghế bàn, chỉ có người thọ cũng không lỗi; tay không sạch mà thọ thức ăn thì phạm Đột-kiết-la.

Nhân duyên kết giới thứ bốn mươi:

Giới này bất cọng với Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề, Tỳ-kheo-ni phạm Hối quá, ba chúng kia phạm Đột-kiết-la. Sở dĩ gọi là thức ăn ngon vì giá cao, khó được và có thể trị lành bịnh; phân biệt có bốn loại: Có loại là thức ăn ngon nhưng không phải là thuốc hay như sữa, lạc, tô…; có loại là thuốc hay nhưng không phải là thức ăn ngon như sanh tô, dầu…; có loại vừa là thức ăn ngon vừa là thuốc hay như tô, cá, thịt, chả…; có loại không phải là thức ăn ngon cũng không phải là thuốc hay như Ha-lê-lặc… Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo không bịnh, vì bản thân mà đòi hỏi sữa, lạc, tô, sanh tô, thục tô, dầu, thịt, cá, chả…; được thì phạm Ba-dật-đề, không được thì phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo không bịnh, vì bản thân mà đòi hỏi cơm, canh, thức ăn… được hay không được đều phạm Đột-kiết-la. Nếu bịnh hoặc xin từ bà con hoặc đã được thỉnh trước hoặc không hỏi xin mà người kia tự cho thì không phạm. Nếu khi Tỳ-kheo khất thực đến trước cửa nhà đàn việt, nếu thì chủ hỏi thì tùy cần gì cứ nói ra cho họ biết; nếu được như ý muốn thì tốt, nếu không được mà cố gượng hỏi xin cho được thì phạm Đột-kiết-la. Giới này chế nếu không bịnh mà xin thức ăn ngon như sữa, lạc, tô… thì phạm Ba-dật-đề. Nếu thí chủ thỉnh cúng bốn loại dược trong bốn tháng, qua bốn tháng mà đến hỏi xin sữa, lạc, tô… thì phạm Ba-dật-đề.

Nhân duyên kết giới thứ bốn mươi mốt:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Giới trước chế không được dùng nước có trùng tưới lên cỏ hay trộn đất với bùn, giới này chế tất cả đều không được dùng nước có trùng. Nước có trùng là dùng mắt thường nhìn thấy được hoặc dùng dãy lượt nước lượt thấy có trùng. Lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất dùng thiên nhãn nhìn thấy trong nước có trùng nhiều vô lượng như cát ở bên bờ nước, như gạo trong lu. Nhìn thấy rồi liền đoạn thực không ăn trải qua hai, ba ngày; Phật bảo ăn mới ăn vì nhìn thấy nước có trùng là với mắt thường, không phải bằng thiên nhãn. Luận về pháp lượt nước để dùng, nên dùng vải dày rộng khoảng một khuỷu tay để làm đãy lượt nước; nên bảo một Tỳ-kheo trì giới đa văn, tin sâu về tội phước xem kỹ nước với mắt thường thanh tịnh rồi như pháp lượt nước đựng trong lu sạch đủ dùng trong một ngày. Sáng hôm sau nên xem lại, nếu thấy có trùng thì nên lượt nước lại rồi đưa ra chỗ ánh sáng mặt trời xem kỹ, nếu vẫn có trùng thì nên lượt lại lần thứ hai, đến lần thứ ba mà vẫn thấy có trùng thì chỗ này không nên ở. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo biết nước có trùng mà vẫn lấy dùng, tùy trùng chết bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Nếu Tỳ-kheo dùng nước có trùng để nấu ăn, nấu nước uống hoặc dùng để giặt giũ, tắm rửa… tùy trùng chết bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Nếu nước có trùng mà tưởng không có trùng nên lấy dùng thì phạm Ba-dật-đề; nước có trùng mà nghi không biết có trùng hay không, lấy dùng thì phạm Ba-dật-đề. Nước không có trùng tưởng là có trùng hay sanh nghi không biết có trùng hay không, nếu lấy dùng thì phạm Đột-kiết-la. Nước không trùng biết là nước không trùng, dùng thì không phạm.

Nhân duyên kết giới thứ bốn mươi hai:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Giới này ở trong năm đường chỉ có trong nhơn đạo mới phạm Ba-dật-đề, bốn loài kia thì phạm Đột-kiết-la vì là cõi khác. Sở dĩ gọi là nhà ăn vì người nữ đối với người nam-là thức ăn, nhà là phòng nhà của bạch y. Thể của giới này là nếu nhà bạch y là chỗ có thể hành dâm, ngoài hai vợ chồng ra không có ai khác mà Tỳ-kheo cố gượng ngồi trong đó, khiến cho họ không được toại ý dục thì phạm Ba-dật-đề. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo cố gượng ngồi trong nhà ăn thì phạm Ba-dật-đề, tùy đứng lên rồi ngồi xuống bao nhiêu lần thì phạm bấy nhiêu Ba-dật-đề. Không phạm là nếu đó là nhà đoạn dâm hoặc là nhà thọ trai giới hoặc có người được tôn trọng ngồi trong đó như Hòa thượng, A-xà-lê, cha mẹ; hoặc nhà này có nhiều người ra vào… thì không phạm. Giới này là ở trong nhà ăn có hai vợ chồng, giới sau ở trong nhà ăn chỉ có một người nữ là khác.

Nhân duyên kết giới thứ bốn mươi ba:

Giới này giống như giới trên chỉ khác ở chỗ là Tỳ-kheo một mình ngồi với người nữ trong nhà ăn nơi chỗ khuất, không có người thứ ba. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo một mình ngồi với người nữ trong nhà ăn khởi lên ba việc thì phạm một Ba-dật-đề: Một là trong nhà ăn, hai là chỉ có một người nữ, không có người thứ ba; ba là ngồi nơi chỗ khuất, tùy đứng lên ngồi xuống bao nhiêu lần thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Nếu đóng cửa và cửa sổ, bên ngoài không có tịnh nhơn thì phạm Ba-dật-đề; nếu mở cửa và cửa sổ, bên trong có tịnh nhơn thì không phạm. Nếu người nữ trong nhà ăn này là thạch nữ hay là bé gái hoặc người nữ có nữ căn hư hoại thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la.

Nhân duyên kết giới thứ bốn mươi bốn:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Nước Tỳ-la-nhiên do ở gần núi Tuyết nên có tên này, là nơi mà các Sa-môn ngoại đạo ưa thích. Vua A-kỳ-đạt là người cúng dường lửa nên có tên gọi này, vua hỏi có Sa-môn nào là bậc thầy của đại chúng được mọi người tôn kính hay không. Phật vì biết đã đến lúc thọ quả báo đời trước nên thọ vua thỉnh thực trong bốn tháng ở nước Tỳ-lanhiên. Đoan chánh nghĩa là thân, y phục, oai nghi và pháp Phật đều trang nghiêm. Các căn tịch tĩnh là sáu căn không loạn động, thân Phật có hào quang màu vàng ròng, nếu đem vàng cõi Diêm phù đề để trước mặt Phật, Phật đưa cánh tay ra thì vàng này sẽ không còn sắc vàng ánh nữa, giống như đất đá không khác. Trở về nước mình ra lịnh lo liệu đầy đủ các thức ăn ngon để cúng dường Phật và Tăng trong bốn tháng an cư: Nói bốn tháng là vì mùa hạ có bốn tháng và ở nước này thường an cư trong bốn tháng. Vua liền bặt tiếp người ngoài để tự thọ an lạc, mọi việc tốt xấu bên ngoài đều không được tâu vua: Phật thuộc dòng tộc cao quý lại là đấng pháp vương được thế gian tôn kính, xa gần đều ngưỡng vọng, sao lại gặp việc như vậy?

Đáp: Vua Bà-la-môn này từ vô thỉ đã bị si ám che mờ, không phân biệt tốt xấu nên mới có việc như vậy; lại do nhiều đời làm ác, là giặc thù của Phật pháp, tuy thỉnh Phật nhưng không có tâm tín kính nên mới không nhớ đến; cũng do Phật muốn hiển bày việc thọ quả báo đời trước nên khiến gặp việc như vậy. Lại do vua tuy không có tâm ác nhưng bị ngoại đạo làm cho lầm lạc, vua nằm mộng thấy mình té ngã được Phật đỡ dậy, tỉnh giấc vua mời các tướng sư Bà-la-môn đến đoán mộng, các Bà-la-môn do tâm tật đố nên nói gạt vua rằng: "Giấc mộng này thật không tốt lành", vua hỏi làm sao tránh khỏi, liền đáp: "Vua nên bặt tiếp người ngoài trong bốn tháng để tự thọ an lạc thì diệt được việc xấu này", vua nghe lời như pháp làm theo nên sự việc mới như vậy.

Đạo vô thượng: Đạo có ba bậc là đạo rốt ráo của Thanh văn, của Phật Bích chi và của Phật; cả ba đạo này đều vào cửa Niết-bàn nhưng chỉ có đạo rốt ráo của Phật mới là đạo vô thượng. Cạo bỏ râu tóc mặc ca sa:

Hỏi: Phật có cạo bỏ râu tóc không?

Đáp: Không, vì tóc của Phật lúc nào cũng giống như được cạo sau bảy ngày.

Hỏi: Phật khi mới thành đạo có mặc ca sa không?

Đáp: Bạch y muốn được thành Phật phải có ba mươi hai tướng tốt, xuất gia mặc pháp y. Oai nghi đầy đủ, đoạn dứt phiền não, có Nhất thiết chủng trí nơi thân, vì phàm phu cho đến Thanh văn Duyên giác đều không có Nhất thiết chủng trí. Phật tu khổ hạnh trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp, Duyên giác chỉ tu có một trăm kiếp, Thanh văn chỉ tu có hai hay ba kiếp.

Phật cùng đại chúng dừng lại trong khu rừng này: Một là để ca ngợi bốn pháp Thánh chủng là căn bản thiết yếu, hai là để điều phục tâm kiêu mạn của các đệ tử trong tương lai; vì nếu có đệ tử nào chứng đắc thiền định hoặc học thông ba tạng sẽ cho là chỗ Tăng thường nên ở là Tăng phường có lầu gác trang nghiêm chứ không phải trong rừng núi. Phật là đấng pháp vương của ba cõi mà còn ở trong rừng núi huống chi người khác. Ba là muốn làm khuôn phép cho các đệ tử trong tương lai, bốn là Phật muốn thuyết pháp cho trời rồng quỷ thần, vì các loài này thích nơi thanh vắng. Do những nguyên nhân trên nên Phật dừng ở dưới một gốc cây trong rừng.

Lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất một mình lên núi trụ trong đạo bất không, thọ phu nhân của vua trời Đế thích là con gái của A-tu-la thỉnh thực trong bốn tháng an cư:

Hỏi: Người làm sao tiêu hóa được thức ăn của trời?

Đáp: Người được thiền định thì không thể nghĩ bàn, không nên khởi nghi, như pháp ăn thức ăn của Trời thì chỉ ăn một ít cũng tiêu hóa được. Quá khứ vào thời Phật Duy vệ có phạm chí Cao hạnh, nhân duyên ứng với điều đã nói trong giới này. Hễ ngựa ăn hai đấu thì một đấu cho ngựa, một đấu dành cho Tỳ-kheo; trong số đó có con lương mã ăn tới bốn đấu thì hai đấu cho ngựa, hai đấu dành để cúng Phật:

Hỏi: Phật pháp bình đẳng vì sao cho Phật nhiều, cho Tỳ-kheo ít? Đáp: Vật của A-tăng-kỳ đúng pháp nên bình đẳng, vì đây là lúa mạch của đàn việt nên tùy ý muốn của đàn việt; lại do Phật thân cao lớn còn các Tỳ-kheo thân tướng nhỏ hơn nên tùy theo lượng ăn ít hay nhiều mà cúng, vẫn không mất nghĩa bình đẳng.

A-nan đem phần lúa mạch của Phật và của mình đi vào tụ lạc, ở trước một người nữ ca ngợi công đức của Phật, ca ngợi sắc thân và pháp thân của Phật… Phật cất tiếng Phạm âm: Khi tu hạnh Bồ tát, trong bốn khẩu nghiệp phần nhiều tu hai nghiệp: Một là không nói lời thô ác nên được âm thanh Phạm, hai là không nói phi thời nên nói ra lời gì, mọi người đều tin nhận.

Nếu nấu cơm thì… Đương lai vào thời Phật Dilặc sẽ được làm ngọc nữ báu của Chuyển luân thánh vương. Người phát tâm nấu cơm cho Phật sẽ được phước vô lượng, đương lai sẽ được quả Vô thượng Bồ đề. Luận về phát tâm bồ đề có hai trường hợp: Một là thấy Phật nên phát tâm, hai là nghe pháp nên phát tâm. Người nữ này được thấy Phật và cũng được nghe pháp, trước nghe A-nan ca ngợi công đức của Phật, khi đem lúa mạch nấu thành cơm, nhờ phước này nên mọi si chướng từ vô thỉ bỗng nhiên khai phát, từ xa thấy được Phật tâm sanh hoan hỉ liền phát tâm bồ đề.

Ngoại đạo: Trừ năm chúng đệ tử của Phật ra, những người xuất gia khác đều gọi là ngoại đạo. Thức ăn: Bao gồm mười lăm loại thức ăn. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo cùng một lúc cho ngoại đạo mười lăm loại thức ăn thì phạm một Ba-dật-đề; nếu cho mỗi mỗi loại thì phạm mỗi mỗi Ba-dật-đề. Nếu ngoại đạo bịnh hoặc là bà con hoặc ngoại đạo xin xuất gia cho thì không phạm. Khi ngoại đạo xin xuất gia thì cho thử bốn tháng, đối với thức ăn khuyến hóa nếu hóa chủ muốn cho mình ăn no thì được no, không muốn thì không được no; nếu trộm lấy vật khuyến hóa thì phạm đối thú Thâu-lan-giá. Ăn thức ăn khuyến hóa không phạm ăn thức ăn cách đêm, ăn thức ăn do năm chúng khuyên đàn việt làm thì không phạm. Tỳ-kheo ăn thức ăn do ba chúng ni khuyên đàn việt làm thì phạm Ba-dật-đề, ăn thức ăn do Tỳ-kheo và Sa-di khuyên đàn việt làm thì không phạm. Tỳ-kheo nếu tự tay cho chín mươi sáu loại ngoại đạo thức ăn dị kiến, dù là tại gia hay xuất gia, thuộc phái lõa hình hay có y phục đều phạm Ba-dật-đề; nếu bảo người khác cho thì phạm Đột-kiết-la. Nếu cho tất cả người không nhìn thấy được thì không phạm; Tăng cho ngoại đạo thức ăn cũng không phạm, nhưng không được tự tay cho.

Nhân duyên kết giới thứ bốn mươi lăm:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là vì Phật pháp tôn trọng, hai là diệt phỉ báng, ba là dứt trừ ác pháp và bốn là tăng trưởng thiện pháp. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo cố ý đi xem quân trận xuất binh, được thấy thì phạm Ba-dật-đề, không được thấy thì phạm Đột-kiết-la. Quân trận có bốn binh là tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh; có khi bốn binh là một quân trận, có khi hai hoặc ba binh là một quân trận. Nếu cố ý đến xem dù là quân trận của một binh, từ trên cao nhìn xuống hay từ dưới thấp nhìn lên, nếu thấy thì phạm Ba-dật-đề; không thấy thì phạm Đột-kiết-la. Nếu không cố ý đến xem mà do nhân duyên đi ngang qua thì không phạm; nếu dừng lại xem vì hoại oai nghi nên phạm Đột-kiết-la, nếu quay sang trái hay phải hoặc ngoái lại sau để xem thì phạm Đột-kiết-la. Trừ nhân duyên là nếu được vua hay phu nhân của vua hay vương tử, đại thần… cho gọi đến thì không phạm; nếu gọi mà không đến thì họ sẽ nói rằng: "Tỳ-kheo khi có cầu việc gì thì không kêu cũng đến, khi không cầu thì dù có gọi cũng không đến", vì dứt phỉ báng nên nói là trừ nhân duyên. Nếu đến để thuyết pháp khiến họ sanh hoan hỉ, sẽ có người đắc quả Tu-đà-hoàn cho đến A-nahàm; hoặc thuyết pháp khiến họ tăng trưởng căn lành, vì đạo đời cần nhau để trưởng dưỡng Phật pháp nên khai cho đến.

Nhân duyên kết giới thứ bốn mươi sáu:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo đến trong quân trận ở lại quá hai đêm, qua ngày thứ ba trời vừa sáng liền phạm Ba-dật-đề; nếu ở trong quân trận bị điên cuồng tâm loạn, tâm bịnh hoại thì không phạm.

Nhân duyên kết giới thứ bốn mươi bảy:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo đến trong quân trân xem các loại binh khí, được thấy thì phạm Ba-dật-đề, không thấy thì phạm Đột-kiết-la; từ trên cao nhìn xuống hay từ dưới thấp nhìn lên, nếu thấy thì phạm Ba-dật-đề; không thấy thì phạm Đột-kiết-la. Bốn binh cho đến một quân trận cũng vậy, nếu xem cờ xí của hai quân dàn trận đánh nhau thì phạm Ba-dật-đề. Nếu không cố ý đến xem mà do nhân duyên đi ngang qua thì không phạm. Thể của giới này là khi Tỳ-kheo ở trong quân trận quá hai đêm, cố ý đến xem quân trận, các loại binh khí và cờ xí của hai quân dàn trận đánh nhau nên phạm Ba-dật-đề. Nếu không ở quá hai đêm, nhưng khi ở cố ý đến xem cũng phạm Ba-dật-đề; nếu ngồi không thấy, đứng dậy để xem thì phạm Đột-kiết-la, dù chỉ nhìn thấy cờ xí thôi cũng phạm Ba-dật-đề.

Nhân duyên kết giới thứ bốn mươi tám:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo vì sân giận dùng tay đánh hoặc khuỷu tay hoặc đầu gối, chân cho đến dùng cây, gậy… đánh Tỳ-kheo khác đều phạm Ba-dật-đề; nếu dùng thân phần khác để đánh thì phạm Đột-kiết-la; nếu vì làm chú nguyện hay ăn bị nghẹn nên đập vỗ cho thông thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo đánh ba chúng ni thì phạm Đột-kiết-la, đánh Sa-di đắc giới (học hối Sa-di), người mù, điếc, câm, người hành Biệt trú, Ma-na-đỏa đều phạm Ba-dật-đề. Nếu đùa giỡn mà đánh người khác thì phạm Đột-kiết-la, nếu đánh sáu hạng người phạm tội, người thọ năm pháp, người việt tế (phá nội ngoại đạo), tặc trụ, người vốn đã phá giới, người xả giới hoàn tục sau trở lại làm Tỳ-kheo… cho đến người bị yết ma Bất kiến tẫn… đều phạm Đột-kiết-la. Nếu đánh người có thể phạm hoặc Ba-la-di hoặc Tăng tàn hoặc Thâu-lan-giá, Ba-dật-đề hoặc Đột-kiết-la: Nếu với tâm sát hại mà đánh chết người thì phạm Ba-la-di, nếu người không chết thì phạm Thâu-lan-giá; nếu với tâm dâm mà đánh Tỳ-kheo-ni… cho đến Ưu-bà-di thì phạm Tăng tàn; nếu không có tâm sát hại, chỉ vì sân giận nên đánh Tỳ-kheo thì phạm Ba-dật-đề; đánh giữa chừng ngừng lại thì phạm Đột-kiết-la.

Nhân duyên kết giới thứ bốn mươi chín:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Giới này khác giới trên ở chỗ là định đánh, dọa đánh chứ chưa đánh; các nghĩa khác đều đồng. Dọa đánh nghĩa là không có ý đánh, chỉ là muốn làm cho người kia sợ. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo dùng bàn tay, cánh tay… cho đến dùng cây dọa đánh Tỳ-kheo khác thì phạm Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo dọa đánh ba chúng ni thì phạm Đột-kiết-la, dọa đánh Sa-di đắc giới (học hối Sa-di), người mù, điếc, câm, người hành Biệt trú, Ma-na-đỏa đều phạm Ba-dật-đề; nếu dọa đánh sáu hạng người phạm tội, người thọ năm pháp, người việt tế (phá nội ngoại đạo), tặc trụ, người vốn đã phá giới, người xả giới hoàn tục sau trở lại làm Tỳ-kheo… cho đến người bị yết ma Bất kiến tẫn… đều phạm Đột-kiết-la. Nếu dọa đánh người có thể phạm hoặc Ba-la-di hoặc Tăng tàn hoặc Thâu-lan-giá, Ba-dật-đề hoặc Đột-kiết-la: Nếu với tâm sát hại mà dọa đánh làm chết người thì phạm Ba-la-di, nếu người không chết thì phạm Thâu-lan-giá; nếu không có tâm sát hại chỉ vì sân giận nên dọa đánh Tỳ-kheo khác thì phạm Ba-dật-đề; nếu dùng thân phần khác để đánh thì phạm Đột-kiết-la. Không phạm là nếu Tỳ-kheo giơ tay dọa ngăn thú dữ, người ác… để cứu hộ khỏi nạn sợ hãi thì không phạm.

Nhân duyên kết giới thứ năm mươi:

Giới này có một phần không chung với Tỳ-kheo-ni là nếu ni che giấu tội hành dâm của Tỳ-kheo-ni khác thì phạm Ba-la-di, che giấu bảy tội Ba-la-di kia thì phạm Ba-dật-đề. Không căn cứ vu báng người khác phân biệt có bốn: Một là đem tội Ba-la-di không căn cứ vu báng người khác thì phạm Tăng tàn; không căn cứ vu báng người khác làm Phật bị thương chảy máu và phá Pháp luân tăng thì phạm Thâu-lan-giá; ba là đem tội Tăng tàn không căn cứ vu báng người khác thì phạm Ba-dật-đề; bốn là đem tội Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni và Đột-kiết-la vu báng người khác thì phạm Đột-kiết-la.

Nếu nói tội thô của tỳ-kheo khác cho người chưa thọ giới cụ túc phân biệt có ba: Một là nói tội Ba-la-di và Tăng tàn thì phạm Ba-dật-đề, hai là nói tội làm Phật bị thương và phá Pháp luân tăng thì phạm đối thú Thâu-lan-giá, ba là nói tội Ba-dật-đề… của ba thiên sau thì phạm Đột-kiết-la.

Che giấu tội thô của tỳ-kheo khác phân biệt có ba: Một là che giấu tội Ba-la-di và Tăng tàn thì phạm Ba-dật-đề; hai là che giấu tội làm Phật bị thương và phá Pháp luân tăng thì phạm đối thú Thâu-lan-giá; ba là che giấu tội trong ba thiên giới sau thì phạm Đột-kiết-la.

Nhân duyên kết giới thứ năm mươi mốt:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là Tỳ-kheo vì muốn xúc não Tỳ-kheo khác, khiến cho không được ăn nên dẫn đến nhà thí chủ rồi lại bảo trở về. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác rằng: "Thầy hãy cùng tôi đi đến nhà của thí chủ ", nếu chưa vào cửa thành mà bảo trở về thì phạm Đột-kiết-la; đã vào cửa thành mà bảo trở về cũng phạm Đột-kiết-la; tới cửa cổng nhà thí chủ mà bảo trở về cũng phạm Đột-kiết-la; tới cửa trong của nhà thí chủ, ở chỗ thí chủ không nghe được mà bảo trở về cũng phạm Đột-kiết-la; nếu thí chủ nghe được thì phạm Ba-dật-đề. Nếu thí chủ đi ra thấy Tỳ-kheo kia trở về liền kêu trở lại, Tỳ-kheo kia nghe mà không trở lại thì Tỳ-kheo này phạm Đột-kiết-la; nếu Tỳ-kheo kia không nghe thì Tỳ-kheo này phạm Ba-dật-đề.

Nhân duyên kết giới thứ năm mươi hai:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là Tỳ-kheo không bịnh, không có nhân duyên khác mà đốt lửa ở chỗ đất trống nên phạm. Bịnh bao gồm bịnh lạnh, bịnh nóng, bịnh gió tùy bịnh gì cần lửa mới bớt thì được đốt lửa. Vật đốt có năm là cỏ, cây gỗ, phân bò, vỏ cây và rác (phấn tảo), nếu Tỳ-kheo dùng năm loại vật đốt này tự đốt hay bảo người đốt ở chỗ đất trống đều phạm Ba-dật-đề; đốt cùng một lúc cả năm loại vật đốt trên thì phạm một Ba-dật-đề; nếu đốt mỗi mỗi loại thì phạm mỗi mỗi Ba-dật-đề. Nếu có Tỳ-kheo khác đã đốt trước, Tỳ-kheo này tùy dùng loại vật đốt nào để vào trong lửa đều phạm Ba-dật-đề; nếu cùng người khác đốt lửa để sưởi ấm thì phạm Đột-kiết-la. Nếu bịnh hoặc nấu cơm canh, thức ăn, nấu nước nhuộm, xông bát… đốt lửa thì không phạm; đi giữa đường gặp trời quá lạnh đốt lửa sưởi ấm thì không phạm.

Nhân duyên kết giới thứ năm mươi ba:

Tỳ-kheo cọng giới với Tỳ-kheo-ni, ba chúng dưới không phạm.

Yết ma cho Bạt-nan-đà là yết ma Khu xuất hoặc yết ma Y chỉ, yết ma Bất kiến tẫn. Trợ giúp Lục quần Tỳ-kheo là nói một người trong nhóm lục quần, hoặc là môn đồ của nhóm lục quần, hoặc là một người trong các môn đồ của họ. Tăng sự: Bao gồm các việc như Đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma, bố tát, tự tứ, yết ma cử mười bốn hạng người… Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo như pháp Tăng sự gởi dục xong, sau đó hối nói rằng: "Tôi không nên gởi dục”thì phạm Ba-dật-đề; tùy hối nói như thế bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu. Hễ Tăng xử đoán việc gì, đã hòa hợp làm xong sau đó lại hối và trách thì phạm Đột-kiết-la; nếu Tăng đã như pháp tác pháp yết ma xong, sau đó hối nói là không nên thì phạm Ba-dật-đề; nếu Tăng tác pháp yết ma không như pháp, nếu lúc đó chỉ có một mình, sức không thay đổi gì được nên im lặng không quở trách, sau đó mới trách là không nên thì không phạm. Dù việc không phải do Tăng yết ma nhưng nếu Tăng đã hòa hợp cùng quyết đoán và việc này thuận với pháp với Tỳ-ni mà Tỳ-kheo sau đó hối trách thì phạm Ba-dật-đề; nếu việc này không thuận với pháp với Tỳ-ni, sau đó Tỳ-kheo quở trách thì phạm Đột-kiết-la.

Nhân duyên kết giới thứ năm mươi bốn:

Tỳ-kheo cọng giới với Tỳ-kheo-ni, ba chúng dưới không phạm. Phòng bên là phòng ngoài cùng của các phòng, hoặc là phòng nhỏ hẹp có ít ngọa cụ và các vật dụng, thuộc loại phòng bậc hạ nên gọi là phòng bên. Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là vì Phật pháp tôn trọng, hai là để dứt phỉ báng. Thể của giới này là Tỳ-kheo ngủ chung phòng với người chưa thọ giới cụ túc quá hai đêm. Sở dĩ cho cùng ngủ chung phòng hai đêm, một là vì nếu không cho ngủ chung phòng thì sẽ có nhân duyên mất mạng; hai là nếu cho ngủ chung phòng quá hai đêm thì sẽ có nhân duyên xúc não; ba là vì thương xót nên khai cho ngủ chung phòng hai đêm; bốn là vì hộ trì Phật pháp nên không cho ngủ chung phòng quá hai đêm. Người chưa thọ giới cụ túc là chỉ tất cả mọi người trừ Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni. Nhà phân biệt có bốn loại: Một là tất cả đều ngăn, tất cả đều lợp; hai là tất cả đều ngăn nhưng không lợp tất cả; ba là tất cả đều lợp nhưng chỉ ngăn phân nữa; bốn là tất cả đều lợp nhưng chỉ ngăn một ít.

Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo ngủ chung với người chưa thọ giới cụ túc trong bốn loại nhà trên quá hai đêm thì phạm Ba-dật-đề; tùy đứng lên nằm xuống bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu; nếu ngồi suốt đêm thì không phạm. Nếu ngủ chung quá hai đêm với Tỳ-kheo trong phòng này, qua đêm thứ ba sang phòng khác ngủ, đêm khác trở lại ngủ chung thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo cùng người chưa thọ giới cụ túc này ngủ chung phòng hai đêm, qua đêm thứ ba lại cùng ngủ chung phòng với người chưa thọ giới cụ túc khác thì phạm Ba-dật-đề vì liên tục. Nếu ngủ chung trong phòng có lợp mà không có ngăn che thì phạm Đột-kiết-la, phòng có ngăn che nhưng không có lợp cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo ngủ chung phòng một đêm với huỳnh môn hay người có hai căn thì phạm Đột-kiết-la, quá hai đêm thì phạm Ba-dật-đề.

Nhân duyên kết giới thứ năm mươi lăm:

Tỳ-kheo A-lợi-tra trước kia là đệ tử của ngoại đạo tà sư, được sai vào trong Phật pháp tu để làm đảo lộn Phật pháp. Vị này thông minh lợi căn nên không bao lâu sau thông đạt ba tạng, liền nói lời đảo ngược rằng: "Hành pháp chướng đạo không thể chướng đạo". Tướng phạm trong giới này là trước nên dùng lời dịu dàng can ngăn mà không chịu bỏ thì tăng mới tác pháp bạch tứ yết ma để can ngăn, nếu là yết ma như pháp như luật, như lời Phật dạy ba lần can ngăn mà không chịu bỏ thì Tỳ-kheo này phạm Ba-dật-đề; ba chúng dưới nếu ác tà không trừ cũng nên ba lần can ngăn, không chịu bỏ thì nên diệt tẫn.

Nhân duyên kết giới thứ năm mươi sáu:

Tỳ-kheo cọng giới với Tỳ-kheo-ni, ba chúng dưới không phạm. Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là để diệt trừ ác pháp, hai là để thanh tịnh Phật pháp. Thể của giới này là Tỳ-kheo biết Tỳ-kheo kia bị yết ma Bất xả ác tà kiến tẫn mà cùng ở chung, cùng cọng sự thì phạm. Cọng sự có hai việc là pháp và tài vật; cọng trụ là cùng ở chung cùng tác pháp yết ma như Đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma, bố tát, tự tứ, yết ma cử mười bốn hạng người…

Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo cùng làm pháp sự với người bị tẫn, hoặc dạy kinh; nếu nói mỗi mỗi việc thì mỗi mỗi phạm Ba-dật-đề, nếu nói biệt cú thì mỗi mỗi câu phạm Ba-dật-đề; Tỳ-kheo theo người bị tẫn hỏi nghĩa kinh cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo cho người bị tẫn y bát… cho đến thuốc uống trọn đời hoặc thọ y bát… cho đến thuốc trọn đời từ người bị tẫn đều phạm Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo cùng người bị tẫn ngủ chung trong bốn loại nhà kể trên thì phạm Ba-dật-đề; tùy đứng lên nằm xuống bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu; nếu ngồi suốt đêm thì phạm Đột-kiết-la.

Nhân duyên kết giới thứ năm mươi bảy:

Tỳ-kheo cọng giới với Tỳ-kheo-ni, ba chúng dưới không phạm. Thể của giới này là Tỳ-kheo biết Sa-di đã bị diệt tẫn mà chứa nuôi cùng cọng sự, cùng ở chung thì phạm. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo dạy kinh pháp hay nói kệ cho Sa-di bị tẫn, nói mỗi mỗi kệ thì mỗi mỗi phạm Ba-dật-đề, nếu nói biệt cú thì mỗi mỗi câu phạm Ba-dật-đề; Tỳ-kheo theo người bị tẫn hỏi nghĩa kinh cũng như vậy. Nếu Tỳ-kheo cho người bị tẫn y bát… cho đến thuốc uống trọn đời hoặc thọ y bát… cho đến thuốc trọn đời từ người bị tẫn đều phạm Ba-dật-đề. Nếu cùng ngủ chung với Sa-di bị tẫn trong bốn loại nhà kể trên thì phạm Ba-dật-đề; tùy đứng lên nằm xuống bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu; nếu ngồi suốt đêm cũng phạm Ba-dật-đề. Nếu Sa-di ác tà kiến sau khi được can ngăn ba lần mà không chịu bỏ thì Tăng nên diệt tẫn, nếu hoàn tục làm cư sĩ sau đó làm Sa-di trở lại thì vẫn như yết ma trước; nếu thọ giới cụ túc thì vẫn như yết ma trước; nếu chuyển căn thành Sa-di-ni thì vẫn như yết ma trước.

Nhân duyên kết giới thứ năm mươi tám:

Tỳ-kheo cọng giới với Tỳ-kheo-ni, ba chúng dưới không phạm. Vật báu là vàng bạc, xa cừ, mã não, lưu ly, trân châu… hoặc đồ trang sức bằng vàng, hoặc tượng vàng… tất cả các loại vật báu nếu Tỳ-kheo cầm đều phạm Ba-dật-đề. Nếu tự cầm tượng bằng vàng lên thì phạm Ba-dật-đề, cùng tịnh nhân cầm lên thì không phạm; cầm vật tợ báu cũng không phạm. Nếu vật tợ báu làm thành đồ trang sức của người nữ, Tỳ-kheo cầm thì phạm Đột-kiết-la; nếu làm thành đồ trang sức của người nam, Tỳ-kheo cầm không phạm, trừ cầm các loại binh khí như giáo mác cung tên…; nếu cầm nhạc cụ thì phạm Đột-kiết-la, cầm tiền cũng phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo cầm vật báu quý trọng thì phạm Ba-dật-đề, nếu sai bảo ba chúng dưới hay cư sĩ cầm thì không phạm, trừ ở trong Tăng phường và ở trú xứ nếu có người để quên vật báu, Tỳ-kheo lấy cất nên khởi tâm đợi chủ đến hỏi thì sẽ đưa lại. Trong Tăng phường là trong phạm vi tường chùa hay hàng rào; trong trú xứ là trong nhà cư sĩ hay trú xứ mà Tỳ-kheo đang ở. Trong hai chỗ này nếu có người để quên vật báu, nếu có tịnh nhân thì nên bảo họ lấy cất, nếu không có tịnh nhân thì tự lấy cất đợi chủ của vật báu đến tìm, nếu nói đúng hình dạng của vật thì nên đưa lại cho chủ, nếu nói không đúng hình dạng của vật thì không nên đưa lại. Nếu vật báu rơi rớt bên ngoài tường chùa hay không phải trong nhà cư sĩ, trú xứ mà mình đang ở thì không nên lấy cất.

Nhân duyên kết giới thứ năm mươi chín:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Y mới là y mà mình mới có được, bất luận mới hay cũ đều gọi là y mới; sắc có năm màu chính là vàng đỏ xanh đen và trắng. Nếu tự nhuộm thành năm màu sắc chính này thì phạm Đột-kiết-la; may y thì không thành thọ trì, dù y đúng lượng hay không đúng lượng đều không được mặc. Nếu vải trước đã có năm màu sắc chính, sau đó đem nhuộm thành màu sắc như pháp để may y thì thành thọ trì; nếu vải trước đã có màu sắc như pháp, sau đó đem nhuộm thành năm màu sắc chính để may y thì không thành thọ trì; trừ ba pháp y không thành thọ trì, các loại y khác nếu làm ba điểm tịnh thì được mặc. Nếu vải có màu xanh biếc thì không được thọ trì, trừ ba pháp y, tất cả các loại y khác nếu làm ba điểm tịnh thì được mặc. Nếu vải có màu xanh, đen, mộc lan hoại sắc may các loại y đều thành thọ trì; nếu vải không có màu thuần xanh, mà là xanh nhạt, xanh biếc… làm ba điểm tịnh rồi có thể may nội y, nếu không ảnh hiện màu xanh ra ngoài thì được mặc; vải không có màu thuần đỏ, vàng, đen của năm màu sắc chính cũng giống như vậy. Trừ giày phú la và giày da, tất cả ngọa cụ cho đến dây lưng… đều phải làm ba điểm tịnh rồi mới mặc, nếu không điểm tịnh mà mặc thì phạm Ba-dật-đề. Ba pháp y nếu màu sắc không như pháp thì không thành thọ trì, các loại y khác có màu sắc như pháp hay không như pháp nếu không điểm tịnh mà mặc đều phạm Ba-dật-đề; dù điểm tịnh cũ bị mất, vẫn là y thanh tịnh không cần điểm tịnh lại. Nếu y đã điểm tịnh rồi, sau đó dùng vải mới vá hoặc năm hay mười chỗ thì chỉ cần điểm tịnh một chỗ.

Luận về pháp tác tịnh phân biệt có ba: Một là y như pháp nên làm ba điểm tịnh và tất cả loại nước uống phi thời cần tác tịnh thì Tỳ-kheo được tự làm. hai là rau quả thuộc trong năm loại giống (chủng tử) thì nên ở bên Sa-di hay cư sĩ tác tịnh. Ba là loại giày da hai lớp trở lên hay giày phú la mới nên bảo cư sĩ mang đi năm hoặc sáu, bảy bước tức là tác tịnh. Nếu là vật báu… phải tác tịnh từ bên cư sĩ. Có hai loại tác tịnh: Một là cố ý tác tịnh như rau quả thuộc trong năm loại giống hoặc nước uống phi thời thì phải dùng hỏa tịnh hoặc đao tịnh, trảo tịnh, hoặc dùng nước để tác tịnh. hai là không cố ý tác tịnh như trái cây tự rụng hoặc bị chim mổ làm rụng, hoặc bị mưa gió làm rụng thì gọi là tác tịnh. Tất cả y hoại sắc làm điểm tịnh phân biệt có ba màu là xanh, đen và mộc lan; nếu y có màu sắc như pháp mà lấy năm màu sắc chính làm điểm tịnh để mặc thì phạm Đột-kiết-la; nếu y có năm màu thuần sắc thì không thành thọ trì, nếu làm điểm tịnh để mặc thì phạm Đột-kiết-la. Nếu y có màu thuần sắc, sau đó nhuộm thành màu như pháp thì thành thọ trì; nếu y có màu sắc như pháp, sau đó nhuộm thành màu không như pháp, làm điểm tịnh để mặc thì không thành thọ trì.

Nhân duyên kết giới thứ sáu mươi:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo chưa tới nữa tháng mà tắm thì phạm Ba-dật-đề, nếu đủ nữa tháng hoặc hơn thì tắm không phạm. Trừ trời nóng là một tháng rưỡi cuối mùa xuân và một tháng đầu mùa hạ, hai tháng rưỡi này gọi là mùa nóng. Luật sư nói ở Thiên trúc trời nóng sớm, tùy mỗi nơi có nóng sớm hay muộn mà tính lấy hai tháng rưỡi, tắm thì không phạm. Trừ khi bịnh bao gồm bịnh nóng, lạnh cần phải tắm thì không phạm; trừ khi gió là bị gió thổi bụi bám vào người, tắm thì không phạm; trừ khi mưa là bị mưa làm ướt, tắm thì không phạm; trừ khi làm việc là cho đến quét dọn trong Tăng phường; trừ khi đi đường là đi hoặc đến trong khoảng nữa do tuần. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo đến hôm qua, hôm nay mới tắm thì phạm Ba-dật-đề; hoặc ngày mai đi mà hôm nay tắm thì phạm Ba-dật-đề; ngay ngày nào đi hoặc đến thì ngay ngày đó tắm không phạm. Nếu không có các nhân duyên kể trên, chưa tới nữa tháng mà tắm thì phạm Ba-dật-đề; nếu có nhân duyên mà không nói cho Tỳ-kheo khác biết, tắm thì phạm Đột-kiết-la.

Nhân duyên kết giới thứ sáu mươi mốt:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là vì tâm thương xót, hai là để dứt ác pháp, ba là để tăng trưởng lòng tín kính. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo giết súc sanh thì phạm Ba-dật-đề; tự giết hoặc bảo người giết hay sai khiến giết đều phạm Ba-dật-đề; đủ ba việc: Một là tưởng súc sanh, hai là có tâm giết, ba là bị giết chết thì thành tội Ba-dật-đề. Tự giết là muốn cho súc sanh chết nên dùng tay chân hoặc dùng cây gậy, ngói đá, dao, cung tên… đánh, ném hoặc đâm giết; nếu súc sanh chết thì Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề, tuy không chết liền lúc đó nhưng sau vì duyên do này mà chết thì Tỳ-kheo cũng phạm Ba-dật-đề; nếu sau đó chết vì nguyên do khác thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Nếu bỏ thuốc độc vào mắt hay trên thân phần, hoặc vào trong thức ăn…; súc sanh chết hay không chết đều giống như trên. Nếu làm bẩy rập hoặc đè bụng làm cho súc sanh hư thai, cho đến thai trong bụng súc sanh đã được hai căn mà làm cho nó chết hay không chết đều giống như trên. Nếu bảo người khác giết hay sai khiến giết súc sanh này mà lại giết súc sanh khác thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Hoặc bảo người khác rằng khi nào nó đến thì giết mà người đó lại giết lúc nó đang đi thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Ngoài ra đều giống như trong giới sát của thiên Ba-la-di đã nói, chỉ khác là giới này giết súc sanh.

Nhân duyên kết giới thứ sáu mươi hai:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này có sáu việc:

Một là sanh, như Tỳ-kheo hỏi Tỳ-kheo khác sanh ra vào thời nào, hoặc hỏi râu mọc vào lúc nào…;

Hai là thọ giới cụ túc, như Tỳ-kheo hỏi Tỳ-kheo khác thọ giới cụ túc vào lúc nào, hoặc hỏi Hòa thượng A-xà-lê là ai, hoặc hỏi giáo thọ sư là ai, hoặc hỏi thọ giới cụ túc trong chúng năm người hay chúng mười người…;

Ba là phạm bao gồm tội trong bốn thiên giới sau.

Bốn là hỏi, như Tỳ-kheo hỏi Tỳ-kheo khác rằng: "Thầy đi đường đến tụ lạc ngồi trong nhà, nói chuyện với người nữ phải không?", hoặc hỏi: "Thầy đến chùa Ni nói chuyện với Ni tên phải không?".

Năm là vật dụng, như Tỳ-kheo hỏi Tỳ-kheo khác rằng: "Thầy tác pháp thọ bát cho đến thuốc trọn đời với ai đồng tâm?".

Sáu là pháp, như Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác chớ cất chứa nhiều y, chớ ăn nhiều lần, chớ ăn biệt chúng…

Trong sáu việc trên thì hỏi về sanh có thể phạm Ba-dật-đề hoặc Đột-kiết-la hoặc không phạm nếu là xét hỏi về năm sanh. Về thọ giới cụ túc, nếu chưa đủ tuổi mà thọ thì người đó thật không đắc giới, nếu nói với tâm thương xót thì không phạm, nếu nói cố ý làm cho người đó nghi hối thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; nếu người đó thật đã đắc giới, Tỳ-kheo hỏi với mục đích xúc não làm cho người đó nghi hối thì phạm Ba-dật-đề. Năm việc còn lại tùy người kia nghe rồi có nghi hối hay không, Tỳ-kheo đều phạm Ba-dật-đề; ngoài sáu việc trên, nếu dùng việc khác để xúc não làm cho người sanh nghi hối thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la, như nói thầy ăn nhiều, ngủ nhiều… Nếu đem sáu việc trên hỏi để xúc não ba chúng ni khiến sanh nghi hối thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; xúc não Sa-di đắc giới (học hối Sa-di), người mù, điếc, câm, người hành

Biệt trú, Ma-na-đỏa… cho đến người bị yết ma Bất kiến tẫn… khiến sanh nghi hối thì Tỳ-kheo đều phạm Ba-dật-đề. Nếu xúc não người khác như sáu hạng người phạm tội, người thọ năm pháp, người việt tế (phá nội ngoại đạo), tặc trụ, người vốn đã phá giới, người xả giới hoàn tục sau trở lại làm Tỳ-kheo… khiến sanh nghi hối thì Tỳ-kheo đều phạm Đột-kiết-la.

Nhân duyên kết giới thứ sáu mươi ba:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo dùng một ngón tay chọc lét người khác thì phạm một Ba-dật-đề, tùy dùng mấy ngón tay thì phạm bấy nhiêu Ba-dật-đề. Nếu chọc lét ba chúng ni, sáu hạng người phạm tội, người thọ năm pháp… thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; chọc lét Sa-di đắc giới (học hối Sa-di), người điếc…, người hành Biệt trú… cho đến người bị yết ma Bất kiến tẫn… thì Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề. Nếu dùng cây chọc lét thì phạm Đột-kiết-la, bảo người khác chọc lét cũng phạm Đột-kiết-la. Thập thất quần Tỳ-kheo chọc lét làm cho một người chết đều là Tỳ-kheo nhỏ tuổi.

Nhân duyên kết giới thứ sáu mươi bốn:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Phật kết giới này cho các Tỳ-kheo một là vì Phật pháp tôn trọng để tăng trưởng lòng tín kính, hai là không bỏ chánh nghiệp để tu chánh niệm. Tướng phạm trong giới này có tám trường hợp: Một là làm trò vui, hai là làm trò ưa thích, ba là làm trò cười, bốn là đùa giỡn, năm là nghịch nước, sáu là làm cho người khác vui, bảy là làm cho người khác thích, tám là làm cho người khác cười. Nếu Tỳ-kheo làm một trong tám trường hợp trên như đập vỗ nước hoặc lặn hụp, hoặc bơi như cá bơi, hoặc bơi sảy, bơi ếch, bơi ngửa… đều không phải oai nghi nên phạm Ba-dật-đề. Nếu vẽ nước đọng trên bàn cũng phạm Đột-kiết-la, nếu học bơi hoặc lội thẳng qua thì không phạm.

Nhân duyên kết giới thứ sáu mươi lăm:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Nhà phân biệt có bốn loại: Một là tất cả đều ngăn, tất cả đều lợp; hai là tất cả đều ngăn nhưng không lợp tất cả; ba là tất cả đều lợp nhưng chỉ ngăn phân nữa; bốn là tất cả đều lợp nhưng chỉ ngăn một ít. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo ngủ chung một nhà với người nữ cho đến súc sanh cái thì phạm Ba-dật-đề; tùy đứng lên nằm xuống bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu; nếu ngồi suốt đêm thì không phạm. Nếu nhà kế bên có người nữ ngủ, Tỳ-kheo ngủ trong nhà này có lỗ thông với nhà kế bên mà con mèo chui qua lọt thì phạm Ba-dật-đề. Giới này từ thân giới kết tội nên Tỳ-kheo ngủ chung một nhà với người nữ thì phạm Ba-dật-đề; tùy đứng lên nằm xuống bao nhiêu thì phạm Ba-dật-đề bấy nhiêu; lại từ trên số người mà kết tội nên trong nhà có một người nữ thì phạm một Ba-dật-đề, có mười người nữ thì phạm mười Ba-dật-đề. Nếu nhà lợp tất cả mà không ngăn, hoặc chỉ ngăn ba phía cho đến chỉ ngăn một phía thì phạm Đột-kiết-la; nếu ngủ chung với người nữ trong nhà tất cả đều có che lợp, dù lớn hay nhỏ đều phạm Ba-dật-đề. Nếu là nhà chiêu đề, trong nhà có nhiều phòng, tuy mỗi phòng đều có vách ngăn, Tỳ-kheo ở trong phòng này, người nữ ở trong phòng kia, vì là cùng một nhà nên dù đóng cửa cũng phạm Ba-dật-đề; nếu chỗ ra vào khác nhau, Tỳ-kheo đóng cửa thì không phạm. Nếu ở nhà cư sĩ có nhiều phòng, Tỳ-kheo ở phòng này, người nữ ở phòng kia, nếu Tỳ-kheo không đóng cửa phòng thì phạm Đột-kiết-la, đóng cửa phòng thì không phạm. Nếu Tỳ-kheo ngủ chung với người nữ dưới gốc cây thì phạm Đột-kiết-la. Người nữ hay súc sanh cái trong giới này chỉ cho loài có thể hành dâm được, nếu là thạch nữ hay người nữ có căn hư hoại hay quỷ thần nữ và súc sanh không thể cùng hành dâm được thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la.

Nhân duyên kết giới thứ sáu mươi sáu:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này có sáu trường hợp:

Một là dùng sắc như Tỳ-kheo giả ma làm các hình sắc đáng sợ hoặc hình sắc voi, ngựa, trâu… khiến cho người khác sợ thì phạm Ba-dật-đề.

Hỏi: Làm những hình sắc thường thấy thì có gì đáng sợ?

Đáp: Vì phi thời hù dọa nên khiến người khác sợ, thanh và hương cũng giống như vậy.

Bốn là dùng vị như Tỳ-kheo hỏi Tỳ-kheo khác hôm nay ăn món gì, đáp là ăn món cá nấu với lạc, liền nói rằng: "Người nào ăn món cá nấu với lạc sẽ bị bịnh hủi hay ghẻ lở", dù người nghe sợ hay không sợ, Tỳ-kheo đều phạm Ba-dật-đề.

Năm là dùng xúc như thấy người khác trải vật cứng lót ngồi, Tỳ-kheo bỏ vật cứng thay bằng vật mềm khiến người kia khi xúc chạm thấy khác sẽ sanh sợ, dù người đó có sợ hay không, Tỳ-kheo đều phạm Ba-dật-đề.

Sáu là dùng pháp như Tỳ-kheo nói với Tỳ-kheo khác rằng: "Thầy đại tiểu tiện trên rau cỏ tươi sẽ bị đọa trong ba đường ác", dù người nghe có sợ hay không, Tỳ-kheo đều phạm Ba-dật-đề.

Trừ dùng năm việc trên, nếu dùng việc khác hù dọa làm cho người khác sợ thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la, như nói thầy ăn nhiều ngủ nhiều sẽ đọa trong ba đường ác. Nếu hù dọa ba chúng Ni cho đến sáu hạng người phạm tội, người thọ năm pháp… thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la; nếu hù dọa Sa-di đắc giới (học hối Sa-di), người điếc…, người hành Biệt trú… cho đến người bị yết ma Bất kiến tẫn… thì Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề.

Nhân duyên kết giới thứ sáu mươi bảy:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo giấu y bát, khóa cửa, giày dép… của tỳ-kheo khác khiến tìm không được thì Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề; nếu tìm ra được thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Nếu giấu các loại bất báu như bát bằng vàng, bạc… dù tìm được hay không được, Tỳ-kheo đều phạm Đột-kiết-la; nếu giấu y có năm màu sắc chính hoặc y dệt bằng lông lạc đà, lông tạp… thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la. Nếu Tỳ-kheo giấu y bát của Sa-di đắc giới, người điếc…, người hành Biệt trú… cho đến người bị yết ma Bất kiến tẫn… đều phạm Ba-dật-đề. Nếu Tỳ-kheo giấu y bát của sáu hạng người phạm tội, người thọ năm pháp… cho đến giấu y bát của ba chúng ni, đều phạm Đột-kiết-la. Nếu giấu các vật dụng thuộc trong một trăm lẻ một vật thì Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề; giấu khóa cửa, kiền tư cho đến y bát dư đã tác tịnh, ống kim… đều phạm Ba-dật-đề; nếu giấu ống kim không có kim thì Tỳ-kheo phạm Đột-kiết-la.

Nhân duyên kết giới thứ sáu mươi tám:

Giới này là cọng giới, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni đều kết phạm Ba-dật-đề, ba chúng dưới phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này là ban đầu đem y cho người khác với tâm dối gạt để sai bảo làm việc gì đó, đợi sau khi làm xong việc liền đoạt y lại thì Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề, sở dĩ không phạm trọng vì đây không phải là căn bản cho. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo đem y cho Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni và ba chúng dưới; sau đó đòi mà họ không trả lại liền đoạt lấy thì phạm Ba-dật-đề.

TÁT BÀ ĐA TỲ NI TỲ BÀ SA

QUYỂN 9

6. Nhân Duyên Kết Chín Mươi Pháp Ba-dật-Đề (Tiếp Theo):

69. Nhân duyên kết giới thứ sáu mươi chín:

Tỳ-kheo vu báng Tỳ-kheo khác phạm tội trong Thâu-lan-giá thì phạm Đột-kiết-la, vu báng người khác cũng phạm.

70. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi:

Giới trước chế đi chung đường với Ni, giới này chế đi chung đường với nữ bạch y, nghĩa đồng, đi với bao nhiêu người nữ thì phạm bấy nhiêu Ba-dật-đề.

71. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi mốt:

Cùng đi với giặc: Bản dịch đời Tần dịch Ca Salà y nhuộm, nếu Tỳ-kheo mặc ca-sa này đến chỗ cầm thú sẽ khiến chúng không sợ hãi. Do có thợ săn mặc ca sa giả làm Tỳ-kheo giết chết thú rừng nên từ đó về sau, cầm thú thấy Tỳ-kheo từ xa đều sợ hãi tránh đi. Tỳ-kheo đi với giặc cũng vậy, người nhìn thấy sẽ không khởi tâm tín kính nên Phật chế giới này.

72. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi hai:

Nếu chưa đủ hai mươi tuổi, tưởng mình chưa đủ thì không đắc giới; thật không đủ cho đến dưới mười chín tuổi đều không đắc giới. Bản dịch đời Hồ nói là mười chín tuổi vẫn đắc giới, bản dịch đời Tần nói phải đủ năm mới đắc giới, nếu không đủ có thể tính cả thời gian ở trong thai mẹ cho đủ. Nói cọng sự là cùng Tăng thuyết giới, tác pháp yết ma…; nói cùng ở chung thì phạm là nếu cùng ở chung ngủ quá hai đêm. Nếu người đã đủ hai mươi tuổi, tưởng là đủ hai mươi, khi ở trong Tăng hỏi lại đáp là không đủ thì có hai trường hợp: Một là vì quên lộn thì người này đắc giới, hai là vì không muốn thọ giới, do thầy cưỡng ép cho thọ nên đáp là không đủ thì người này không đắc giới. Người đã sáu mươi tuổi thì không được thọ giới cụ túc, thầy ép thọ cũng không đắc giới vì người tuổi này già suy, tâm ý chậm lụt, không thể chịu nổi khổ hành đạo, chỉ được làm Sa-di; người chưa tới bảy tuổi cũng không nên độ, nếu độ và cho thọ giới thì phạm Đột-kiết-la. Khi cho thọ giới, Tăng nên quán sát tướng mạo và hỏi tuổi, nếu chưa đủ hai mươi thì không nên cho thọ giới, vì tuổi này còn nôn nảy khinh tháo, không chịu nổi khổ lạnh nóng đói khát; nếu cho thọ đại giới sẽ bị mọi người chê trách, làm Sa-di thì không ai trách. Ni đủ mười hai tuổi là người nữ đã gả thì được thọ đại giới vì ở trong nhà chồng đã chịu đựng khổ sở nên sanh nhàm lìa.

73. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi ba:

Sanh địa: Bản dịch đời Hồ dịch là thật địa, từ tháng tư cho đến tháng tám là mùa mưa, đất đai thấm nhuần khiến cây cỏ nẩy mầm sanh trưởng nên đất này gọi là sanh địa; ngược lại vào những tháng khác không phải mùa mưa, trời nóng khô khiến cây cỏ không thể nẩy mầm sanh trưởng nên đất này không phải là sanh địa. Nếu đào lớp đất khô ở trên thì phạm Đột-kiết-la, đào đến lớp đất ẩm ướt ở dưới thì phạm Ba-dật-đề. Đào đất làm móng để xây tường làm nhà thì không phạm vì đất làm nhà khác với đất trồng, nếu có người muốn lấy đất để trồng nên chỉ từ xa và nói: "Nơi đó đất tốt có thể trồng", nếu đến gần chỉ thì phạm. Trời mưa trong đất có ổ kiến, nếu đào đất này thì phạm Đột-kiết-la vì đất này không phải là căn bản thật địa; nhưng nếu đất này có cỏ mọc mà đào thì phạm Ba-dật-đề, đào đất bùn cũng phạm Ba-dật-đề.

74. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi bốn:

Trong giới này Phật chế không cho xin phi thời và xin người không phải là bà con, do Lục quần Tỳ-kheo cho Thích Ma-ha-nam-là bà con nên tuy đã hết hạn bốn tháng thỉnh cúng thuốc mà vẫn đến đòi hỏi. Thỉnh lại là do thí chủ có việc gấp, không thực hiện đúng như lời đã thỉnh nên sau đó thỉnh lại, hoặc đã thỉnh cúng xong hai tháng, nay thỉnh thêm hai tháng nữa, hoặc thỉnh nhiều lần, việc không đồng đều được tùy thỉnh trong ba thời xuân hạ đông. Nếu thỉnh vào đầu hạ thì giữa hạ thọ, nếu đến nữa hạ mới thỉnh, không hết bốn tháng thì nhập vào phần mùa đông, thọ vào mùa khác cũng giống như vậy. Biệt thỉnh là thỉnh riêng một vị nào đó cũng không phạm.

75. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi lăm:

Kết đồng giới là cả hai bộ tăng đều đồng giới thì Phật sẽ kết giới ở trong đại tăng trước, sau đó sai một đại Tỳ-kheo qua bên Ni tăng báo lại; nếu kết giới riêng cho Ni thì ở trong hai bộ tăng mà kết, hoặc do bên Ni nhân khởi đồng, hoặc do bên Tăng nhân khởi đồng, hoặc do cả hai bên nhân khởi đồng. Tu-đa-la là bốn bộ A-hàm và hai trăm năm mươi giới; Tỳ-ni là chiết phục, vì có thể chiết phục tham sân si, chính là Luật. Ma-đa-lặc-già là khéo chọn nghĩa của các pháp tướng, tương tự như Atỳ-đàm; Tỳ bà Sa-là A-tỳ-đàm và giới tăng nhất, vì nói rõ nghĩa và tướng, luận về sắc hay không phải sắc, là giáo hay không phải giáo. Kinh nhiếp vào Tỳ-ni là các kinh khác, hoặc ở chỗ thuyết giới, nếu đem giới trong kinh này nói cho người chưa thọ giới cụ túc biết thì phạm Đột-kiết-la; nếu họ sanh tâm và khẩu khinh thường không đến nghe giới thì Tỳ-kheo phạm Ba-dật-đề, nếu vì việc khác không đến nghe thì Tỳ-kheo không phạm.

76. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi sáu:

Đến rình nghe sở dĩ phạm là vì từ việc nghe biết này có thể phá phật pháp và khiến Tăng phân thành hai bộ. Nếu đến rình nghe rồi đi nói lại cho người khác biết hay không nói lại đều phạm Ba-dật-đề.

77. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi bảy:

Khi Tăng xử đoán việc, Tỳ-kheo im lặng đứng dậy bỏ đi: Một trăm lẻ một pháp yết ma đều thuộc trong ba loại yết ma là đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma. Nếu việc đơn giản thường làm thì đơn bạch, việc hơi quan trọng thì bạch nhị, việc tối quan trọng thì bạch tứ. Khi Tăng đang làm một trong loại yết ma này mà Tỳ-kheo im lặng đứng dậy bỏ đi thì phạm Ba-dật-đề; nếu không phải Tăng tác pháp yết ma, đứng dậy bỏ đi thì phạm Đột-kiết-la.

78. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi tám:

Không cung kính: Bản dịch đời Hồ gọi là xúc não người khác. Nếu được bảo cho biết rồi thì có bốn việc làm xúc não người khác: Như thầy và bậc Thượng tòa đã bảo cho biết là đừng làm việc đó, ban đầu nghe lời không làm, không lâu sau lại làm và sau cùng cãi lời và làm khác thì phạm Ba-dật-đề. Xúc não hạ tòa thì phạm Đột-kiết-la; nếu chưa được bảo cho biết thì có hai việc làm xúc não người khác đều phạm Đột-kiết-la.

79. Nhân duyên kết giới thứ bảy mươi chín:

Uống rượu: Nếu có đủ hương rượu, vị rượu và uống say thì phạm Ba-dật-đề; ăn men rượu cũng phạm Ba-dật-đề. Uống rượu có thể phạm tội năng hơn tội này nghĩa là khi uống say có thể tạo bốn tội nghịch, trừ tội Phá tăng, cũng có thể phạm các khác khác và làm các điều ác.

80. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi:

Phi thời vào tụ lạc: ở A-lan-nhã có đàn việt làm chỗ ở và chỗ học vấn ở bên ngoài gần tụ lạc; lại có người ở A-lan-nhã sợ có giặc cướp nên làm một trú xứ cho Tăng hay chùa ở bên ngoài gần tụ lạc. Nếu Tỳ-kheo ra khỏi chùa không nói với ai, tới cửa thành thì phạm Đột-kiết-la; nếu muốn vào tụ lạc, bạch chung chung là vào tụ lạc thì được tùy ý đi, nếu bạch rõ chỗ đi đến hoặc không bạch trước thì khi đến nơi đó tùy thấy Tỳ-kheo nào, bạch thì không phạm.

81. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi mốt:

Phật chế giới này duyên khởi từ Bạt-nan-đà, thí chủ vì Bạt-nan-đà nên xuất một trăm lượng mua các vật cần dùng và một trăm lượng lo liệu các thức ăn uống để cúng dường Phật và Tăng. Đến ngày đó Bạt-nan-đà đến nhà thí chủ này trước, dặn dò thí chủ rồi đi đến nhà khác và trở lại trễ giờ thọ thực của Phật và Tăng nên Phật chế giới. Nếu đàn việt thỉnh Tăng thọ thực, vào sáng sớm Tỳ-kheo bạch Tăng rồi đi đến thì không phạm, nếu không bạch thì phạm Ba-dật-đề; nếu bạch rồi đi đến giữa đường lại ghé qua nhà khác thọ thực, thọ chánh thực thì phạm Ba-dật-đề, không phải chánh thực thì phạm Đột-kiết-la. Nếu đi cùng Tăng thì không cần bạch, nếu đi đến trước thì phạm Ba-dật-đề. Nếu thí chủ thỉnh thực vào ngày mai, ngày nay Tỳ-kheo đi đến thì phạm Ba-dật-đề, trừ thí chủ thỉnh; ngày sau nếu thí chủ không để phần thức ăn mà Tỳ-kheo tự đến thì phạm Ba-dật-đề, vì làm cho thí chủ mệt nhọc làm thức ăn. Nếu chúng tăng đến nhà thí chủ trước, mình lễ mễ đến sau thì phạm Ba-dật-đề; thọ thực xong chưa thọ thẩn mà bỏ đi thì phạm Ba-dật-đề; muốn đi riêng đến chỗ khác phải báo cho bạn đồng học biết, phạm và không phạm giống như trên. Dù nhà đàn việt gần chùa, Tỳ-kheo nếu đến mà không bạch Tăng cũng phạm Ba-dật-đề; vào thành thì phạm Đột-kiết-la; nếu có bạch nhưng lại về trễ làm xúc não Tăng thì phạm Đột-kiết-la.

82. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi hai:

Cửa là cửa ngoài của cung vua, ngạch cửa là ngay trước cửa cung có một cây gỗ gọi là ngạch cửa, nếu Tỳ-kheo bước qua cây gỗ này vào bên trong thì phạm. Vua chưa cất của báu là vua tuy ra ngoài nhưng phu nhân của vua chưa ra, phu nhân là của báu của vua, còn mặc áo ngủ mỏng manh trên người nên thân phần ảnh hiện ra ngoài, nhìn thấy dễ khởi ý dục, vì chưa cất áo ngủ này, chưa mặc lại áo khác nên gọi là chưa cất của báu. Ban đêm trời chưa sáng: Theo bản dịch đời Hồ thì có hai nghĩa là trời chưa sáng hoặc là phu nhân chưa dậy. Nếu phu nhân của vua chưa cất của báu, Tỳ-kheo bước qua ngạch cửa vào bên trong thì phạm Ba-dật-đề; nếu vua đã ra và phu nhân đã cất của báu, Tỳ-kheo vào không phạm; nếu vua, phu nhân hoặc đại thần… dùng thế lực bắt dẫn vào thì không phạm; nếu vào cửa cung của vua trời, vua rồng, quỷ thần thì phạm Đột-kiết-la; vào cửa cung trống không thì không phạm. Vua là chỉ cho người đứng đấu một tụ lạc trở lên.

83. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi ba:

Hôm nay tôi mới biết pháp này là do nghe giới với tâm tán loạn nên kết phạm, nghe từ đầu đến Chúng học pháp mới nói câu này thì phạm Đột-kiết-la; nghe thuyết giới xong mới nói câu này thì phạm Ba-dật-đề; nếu thật đã biết rồi mà nói là nay mới biết thì phạm vọng ngữ Ba-dật-đề; giới này chỉ kết tội không chú tâm lắng nghe giới.

84. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi bốn:

Ống kim: Vì là vật khinh (không quý giá) nên không xếp vào trong thiên Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Nên phá bỏ là nếu trả lại cho thí chủ mà thí chủ không nhận, nếu cho người khác thì thí chủ không vui, đem cho Tăng thì không như pháp, vì vậy nên phá bỏ. Xương là như xương voi, xương ngựa…; nha chỉ cho ngà voi hay răng nanh heo rừng; sừng là như sừng trâu, sừng dê, sừng nai. Do tham đẹp và không thanh tịnh nên kết phạm.

85. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi lăm:

Giường cao rộng là giường cao quá tám ngón tay của Phật, nằm dễ sanh kiêu mạn, vì tùy ngồi nằm mà kết tội nên không xếp vào trong thiên Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề; nên cưa bớt cho đúng lượng rồi vào trong Tăng sám hối; nếu ở chỗ ẩm thấp thì được kê cao đến tám ngón tay, cao quá tám ngón tay thì phạm.

86. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi sáu:

Đâu-la-miên là tên chung của loại cỏ, cây bông vải thường do người giàu sang cất chứa; nếu Tỳ-kheo lấy dồn làm ngọa cụ hay sanh trùng nên bị người đời chê hiềm; lại do ngồi nằm trên nệm bông cảm thấy êm ấm, sau gặp trời lạnh ngồi nằm trên ngọa cụ thô cứng sẽ không chịu nổi nên Phật chế ngăn. Tỳ-kheo khi xin bông Đâu la miên thì phạm Đột-kiết-la, dồn thành ngọa cụ thì phạm Ba-dật-đề.

87. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi bảy:

Y phú kiên là do có một Tỳ-kheo bịnh ung nhọt, máu mủ chảy ra làm dơ y An-đà-hội nên Phật cho cất chứa y này dùng đến khi lành bịnh; y này mặc bên trong phủ trên chỗ bị ung nhọt, kế mặc Nê-hoàn-tăng; kích lượng của y này cũng bằng Nêhoàn-tăng.

88. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi tám:

Ni-sư-đàn: Khi Phật tại thế, y này chỉ dùng để ngồi nên kích lượng nhỏ; sau do Nan-đà nên khai cho may thêm đường viền một gang tay nữa, tổng cộng là dài sáu thước, rộng ba thước.

89. Nhân duyên kết giới thứ tám mươi chín:

Trong giới này Phật không cho Ưu-bà-di được nguyện quá tức là không được nguyện không như pháp, chỉ được nguyện như pháp. Tỳ-kheo tắm nơi chỗ đất trống hay chỗ có che lợp đều không được tắm chung với bạch y, nên mặc Tăng kỳ chi để che thân: Một là vì có hổ thẹn, hai là để người khác nhìn thấy không khởi dục. Xưa có một Tỳ-kheo A-la-hán đang tắm, một Tỳ-kheo khác nhìn thấy thân vị này thanh tịnh liền khởi ý dục. Do nhân duyên này nên rụng mất nam căn, sanh nữ căn và hoàn tục; thời gian sau gặp lại Tỳ-kheo A-la-hán liền nhớ lại nhân duyên trước nên thỉnh cầu A-la-hán cho sám hối, do dụng tâm thuần thành nên có lại nam căn như trước. Vì nhân duyên này nên khi tắm không được để lộ thân, trong kinh nói tôi dâm dục với Tỳ-kheo hay Sa-di trì giới ngang với tội phá tháp bảy báu.

90. Nhân duyên kết giới thứ chín mươi:

May y bằng lượng y của Phật: Do thân Phật cao lớn gấp đôi người thường nên lượng y cũng rộng dài gấp đôi. Nan-đà là em của Phật, thấp hơn Phật bốn ngón tay nên y của Nan-đà phải giảm bớt chiều dài một thước và chiều rộng bốn tấc, không thể mặc bằng kích lượng y của Phật. Y của Phật có màu sắc như vàng ròng, y-của Nan-đà nên hoại sắc như y của các Tỳ-kheo.

7. Nhân Duyên Kết Bốn Ba-La-Đề-Đề-Xá-ni:

1. Nhân duyên kết giới thứ nhất:

Giới này bất cọng, ba chúng ni không phạm, Sa-di phạm Đột-kiết-la. Thể của giới này không có tên tội, do phải đến bên một Tỳ-kheo khác nói lỗi sám hối nên gọi là Hối quá. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo không bịnh, vào tụ lạc tự tay thọ lấy thức ăn từ Tỳ-kheo-ni không phải là bà con thì phạm Ba-la-đề-đề-xá-ni; cùng một lúc thọ lấy mười lăm loại thức ăn thì phạm một Hối quá, nếu thọ riêng mỗi loại thì mỗi mỗi phạm Hối quá. Không phạm là Tỳ-kheo bịnh hoặc Tỳ-kheo-ni cho thức ăn là bà con, hoặc thọ thức ăn ở trong miếu thờ trời hoặc nơi chỗ đông người tụ họp, hoặc ở chỗ Sa-môn, hoặc ở ngoài tụ lạc hoặc ở trong chùa Ni.

2. Nhân duyên kết giới thứ hai:

Giới này bất cọng, ba chúng ni không phạm, Sa-di phạm Đột-kiết-la. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo được thức ăn do Tỳ-kheo-ni chỉ vẻ cho đàn việt cúng thì phạm, tùy được bao nhiêu thức ăn thì phạm bấy nhiêu Ba-la-đề-đề-xá-ni. Nếu hai bộ tăng cùng ngồi, trong một bộ Tăng nếu có người nói với Tỳ-kheo-ni thì bộ Tăng thứ hai cũng gọi là đã nói với Tỳ-kheo-ni. Nếu vào riêng, ngồi riêng, ăn riêng và đi ra riêng thì Tỳ-kheo khi đi vào nhà đàn việt nên hỏi Tỳ-kheo đi ra: "Trong đây có Tỳ-kheo-ni nào chỉ vẻ đàn việt cúng thức ăn cho Tỳ-kheo không?", nếu đáp là có thì nên hỏi: "Có vị nào đã nhắc nhở Tỳ-kheo-ni đó chưa?", nếu đáp là đã nhắc nhở thì Tỳ-kheo mới vào này cũng gọi là đã nhắc nhở Tỳ-kheo-ni đó.

3. Nhân duyên kết giới thứ ba:

Giới này Tỳ-kheo cọng giới với Tỳ-kheo-ni, ba chúng dưới bất cọng. Tướng phạm trong giới này là nếu Tỳ-kheo ở trong nhà của Học gia, biết Tăng đã yết ma Học gia rồi, trước không được Học gia thỉnh thực mà tự đến nhà thọ lấy thức ăn thì phạm Hối quá. Nếu cùng một lúc thọ mười lăm loại thức ăn thì phạm một Hối quá, nếu thọ riêng mỗi loại thì mỗi mỗi phạm Hối quá.

4. Nhân duyên kết giới thứ tư:

Giới này bất cọng, bốn chúng kia không phạm. Tướng phạm trong giới này là Nếu Tăng chưa sai, Tỳ-kheo không ở ngoài Tăng phường mà ở trong Tăng phường tự tay thọ lấy thức ăn thì phạm Hối quá. Nếu Tỳ-kheo được Tăng yết ma sai, biết nơi đó sẽ có giặc vào thì nên cùng tịnh nhân đứng ở đó canh chừng; nếu thấy có ai giống như giặc thì nên đón lấy thức ăn và nói với người đưa thức ăn đến rằng: "Ông đừng đi vào trong đó, vì trong đó có người giống như kẻ giặc", nếu người đưa thức ăn gắng gượng đến trong đó thì Tỳ-kheo không phạm. Luật sư nói người được Tăng sai phải là người khỏe mạnh, có sức lực có thể đuổi được giặc; nếu không thể đuổi được thì Tăng nên đến chỗ của giặc, nếu cũng không thể đuổi được thì nên nói với đàn việt trong tụ lạc để nhiều người cùng phòng hộ.

8. Nhân Duyên Kết Chúng Học Pháp:

Tỳ-kheo cọng giới với Tỳ-kheo-ni. Nói các Tỳ-kheo mặc Nê-hoàn-tăng quá cao, không phải là năm Tỳ-kheo cũng không phải ba anh em Tần loa Ca-diếp; cũng không phải là Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên; cũng không phải là các Tỳ-kheo thiện lai mà phần nhiều là các Tỳ-kheo dòng họ Thích xuất gia, do bạch tứ yết ma thọ giới cụ túc. Các vị này xuất thân từ Hoàng tộc do thói quen trước nên thường hoại oai nghi, mặc Nê-hoàn-tăng quá dài; các Bà-la-môn xuất gia trong Phật pháp thì lại mặc Nê-hoàn-tăng quá cao; Lục quần Tỳ-kheo thì lại mặc so le…

Hỏi: Trong năm thiên giới vì sao chỉ có giới mặc ca-sa và Nê-hoàn-tăng này Phật phải quán chư Phật quá khứ, vị lai và chư thiên cõi trời Tịnh cư rồi mới kết giới?

Đáp: Phật kết năm thiên giới đều có quán chư Phật ba đời, chỉ vì Phật kết thiên giới này là đầu tiên và kết tội nhẹ nhất trong năm thiên, sợ các đệ tử trong tương lai không có tâm xem trọng nên Phật phải quán chư Phật ba đời và chư thiên cõi trời Tịnh cư rồi mới kết giới, cũng để cho chúng sanh đời sau không sanh tội khinh mạn. Chư Phật trong ba đời kết giới có chỗ giống nhau cũng có chỗ không giống nhau, trong năm thiên giới chắc chắn là không giống nhau hết, nhưng kết giới về việc mặc ca sa và Nê-hoàn-tăng thì chư Phật ba đời đều chế đồng nhau, vì vậy Phật phải quán chư Phật ba đời rồi mới kết giới.

Hỏi: Các học giới này Phật chế đầu tiên hay sau cùng?

Đáp: Thiên giới này Phật chế đầu tiên, sau khi Phật nhập diệt, các vị kết tập Pháp tạng sắp xếp theo thứ tự trong khinh nên để ở sau cùng; vì tội tuy có một nhưng trọng khinh phân biệt có năm, để giới trọng ở trước, giới khinh ở sau; thiên giới này nhẹ nhất trong năm thiên nên để ở sau cùng. Lại đo tội có tánh tội và giá tội, tánh tội để ở trước, giá tội để ở sau; lại do tội phân biệt có hữu tàn và vô tàn, tội Vô tàn để ở trước, tội Hữu tàn để ở sau.

Hỏi: Các thiên giới khác vì sao không nói là cần nên học, chỉ riêng thiên giới này lại nói là cần nên học?

Đáp: Các thiên giới khác do tội nặng nên dễ thọ trì, vì vừa phạm liền thành tội phải sám hối trong Tăng hoặc là đối thú sám hối; thiên giới này do tội nhẹ nên khó thọ trì, nếu lở phạm thì nên sanh tâm hối và nhớ học để hành thì tội liền diệt. Do khó thọ trì và dễ phạm nên tâm phải thường nhớ học để hành chứ không kết tên tội, chỉ nói là cần nên học.-Một và hai chế không được mặc nội y quá cao hay quá thấp, trên dưới mắt cá chân một gang tay gọi là quá cao hay quá thấp. Nếu Tỳ-kheo và Sa-di khi đi xa cho mặc nội y trên mắt cá chân hai gang tay, cho đến dưới đầu gối; ba chúng Ni trong tất cả thời đều phải mặc nội y trên mắt cá chân một gang tay, dù có đi xa cũng không được mặc cao hơn.

Ba là không được mặc nội y so le.

Bốn là không được mặc như đầu chiếc búa.

Năm là không được mặc như lá cây Đa la.

Sáu là không được mặc như vòi voi.

Bảy là không được mặc quấn thành cục.

Tám là không được xếp nếp nhỏ.

Chín là không được mặc y xốc xếch.

Mười là không được mặc y vắt qua hai bên.

Mười một là không được mặc nội y bằng vải mỏng.

Mười hai là phải mặc nội y ngay ngắn.

Về ba y có bốn giới là cao, thấp, so le và nên mặc ngay ngắn (tề chỉnh); vào nhà bạch y có bốn mươi mốt giới; thọ thực có hai mươi bảy giới:

Một là nhất tâm thọ cơm.

Hai là nhất tâm thọ canh.

Ba là không được thọ cơm canh đầy tràn bát.

Bốn là thọ cơm canh nên đồng ăn.

Năm là không được moi cơm ở giữa mà ăn.

Sáu là không được lựa món ngon ăn trước.

Bảy là không được vắt miếng cơm lớn mà ăn.

Tám là không được tay bốc cơm ăn.

Chín là không được há miệng trước chờ cơm đưa đến.

Mười là không được miệng ngậm cơm nói chuyện.

Mười một là không được ăn cơm chừa phân nữa.

Mười hai là không được húp thức ăn ra tiếng.

Mười ba là không được nhai cơm ra tiếng.

Mười bốn là không được ăn nuốt trọng.

Mười lăm là không được le lưỡi liếm mà ăn.

Mười sáu là không được nhăn mũi ngửi thức ăn.

Mười bảy là không được liếm tay dính thức ăn.

Mười tám là không được dùng ngón tay vét bát mà ăn.

Mười chín là không được rảy tay dính thức ăn.

Hai mươi là không được lượm cơm rơi rớt mà ăn.

Hai mươi mốt là không được dùng tay không sạch cầm đồ đựng thức ăn. hai mươi hai là không bịnh thì không được đòi hỏi thức ăn.

Hai mươi ba là không được lấy cơm phủ lên thức ăn để mong được thêm.

Hai mươi bốn là không được nhìn vào bát của người bên cạnh.

Hai mươi lăm lăm là phải nhìn vào bát của mình mà ăn.

Hai mươi sáu là phải ăn theo thứ lớp cho hết cơm và thức ăn trong bát.

Hai mươi bảy là nước rửa bát có cơm, không hỏi chủ thì không được đổ trong nhà.

Về thuyết giới có mười chín giới, đại tiểu tiện khạc nhổ có ba giới, leo lên cây có một giới.

9. Nhân Duyên Kết Bảy Pháp Diệt Tránh:

a. Nhân duyên kết pháp Tự ngôn diệt tránh:

Nếu trong năm chúng có việc và việc có phạm hay không phạm trong năm thiên giới đều nên dùng pháp Tự ngôn để diệt tránh. Tự ngôn diệt tránh có mười loại phi pháp và mười loại như pháp. mười loại phi pháp là:

1. Nếu Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, tự nói không phạm, chúng tăng hỏi: "Thầy tự nói là không phạm phải không?", đáp: "Không phạm". Đây gọi là phi pháp.

2 đến 5: Nếu Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la mà tự nói là không phạm; chúng tăng hỏi: "Thầy tự nói là không phạm phải không?", đáp: "Không phạm". Đây gọi là phi pháp.

6. Lại có Tỳ-kheo không phạm Ba-la-di mà tự nói là tôi phạm, chúng tăng hỏi: "Thầy tự nói là phạm Ba-la-di phải không?", đáp là tôi phạm. Đây gọi là phi pháp.

7 đến 10: Lại có Tỳ-kheo không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la mà tự nói là tôi phạm, chúng tăng hỏi: "Thầy tự nói là phạm phải không?", đáp là tôi phạm. Đây gọi là phi pháp.

Mười loại như pháp là:

1. Nếu có Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, tự nói là tôi phạm Ba-la-di, chúng tăng hỏi: "Thầy tự nói là phạm phải không?", đáp là tôi phạm. Đây gọi là như pháp.

2 đến 5: Lại có Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la; tự nói là tôi phạm, chúng tăng hỏi: "Thầy tự nói là phạm phải không?", đáp là tôi phạm. Đây gọi là như pháp.

6. Lại có Tỳ-kheo không phạm Ba-la-di, tự nói là không phạm, chúng tăng hỏi: "Thầy tự nói là không phạm phải không?", đáp là không phạm.

Đây gọi là như pháp.

7 đến 10: Lại có Tỳ-kheo không phạm Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la; tự nói là không phạm, chúng tăng hỏi: "Thầy tự nói là không phạm phải không?", đáp là không phạm. Đây gọi là như pháp.

b. Nhân duyên kết pháp Hiện tiền diệt tránh:

Hiện tiền Tỳ-ni có hai loại phi pháp và hai loại như pháp. hai loại phi pháp là:

Có Tăng phi pháp dạy bảo Tăng phi pháp, muốn kiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có Tăng phi pháp dạy bảo ba người phi pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có Tăng không như pháp dạy bảo hai, một người không như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có ba người không như pháp dạy bảo ba người không như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có ba người không như pháp dạy bảo hai, một người và Tăng không như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có hai người không như pháp dạy bảo hai, một, ba người và Tăng không như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có một người không như pháp dạy bảo một, ba, hai người và Tăng không như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Đây là loại phi pháp thứ nhất.

Lại có Tăng không như pháp dạy bảo Tăng như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có Tăng không như pháp dạy bảo ba, hai, một người như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có ba người không như pháp dạy bảo ba, hai, một người và Tăng như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có hai người không như pháp dạy bảo hai, một, ba người và Tăng như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có một người không như pháp dạy bảo một, hai, ba người và Tăng như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Đây là loại phi pháp thứ hai.

Hai loại Hiện tiền diệt tránh như pháp là:

Có Tăng như pháp dạy bảo Tăng như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có Tăng như pháp dạy bảo ba, hai, một người như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có ba người như pháp dạy bảo ba, hai, một người và Tăng như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có hai người như pháp dạy bảo hai, một, ba người và Tăng như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có một người như pháp dạy bảo một, ba, hai và Tăng như pháp, muốn khiến cho chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Đây là loại như pháp thứ nhất.

Có Tăng như pháp dạy bảo Tăng không như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có Tăng như pháp dạy bảo ba, hai, một người không như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có ba người như pháp dạy bảo ba, hai, một và Tăng không như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có hai người như pháp dạy bảo hai, một, ba người và Tăng không như pháp, muốn khiến chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Lại có một người như pháp dạy bảo một, ba, hai và Tăng không như pháp, muốn khiến cho chiết phục mà cho Hiện tiền Tỳ-ni. Đây là loại như pháp thứ hai.

c. Nhân duyên kết pháp Ức niệm diệt tránh:

Đây là loại Tỳ-ni thủ hộ, năm chúng đều nên cho Ức niệm Tỳ-ni, năm thiên giới cũng nên cho Ức niệm Tỳ-ni. Khi cho Ức niệm Tỳ-ni phải bạch tứ yết ma, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni nên hiện tiền, ba chúng dưới không hiện tiền. Nếu Tỳ-kheo được Ức niệm Tỳ-ni rồi trở xuống làm Sa-di thì vẫn theo Ức niệm Tỳ-ni đã cho trước; nếu hoàn tục, sau đó xuất gia lại hoặc làm Sa-di cho đến làm Tỳ-kheo, vẫn theo Ức niệm Tỳ-ni đã cho trước; nếu chuyển căn thành Ni, vẫn theo Ức niệm Tỳ-ni đã cho trước. Nếu Sa-di được Ức niệm Tỳ-ni rồi thọ giới cụ túc thì vẫn theo Ức niệm Tỳ-ni đã cho trước; nếu hoàn tục, sau đó xuất gia lại hoặc làm Sa-di hoặc làm Tỳ-kheo, vẫn theo Ức niệm Tỳ-ni đã cho trước; nếu chuyển căn thành Ni, vẫn theo Ức niệm Tỳ-ni đã cho trước. Ba chúng Ni được Ức niệm Tỳ-ni rồi lần lượt theo thứ lớp cũng giống như Tỳ-kheo và Sa-di ở trên. Ức niệm diệt tránh có ba loại phi pháp và ba loại như pháp. Ba loại phi pháp là:

Có Tỳ-kheo phạm tội Vô tàn, tự nói là phạm tội Hữu tàn. Tỳ-kheo này theo Tăng xin Ức niệm Tỳ-ni, nếu Tăng cho Ức niệm Tỳ-ni thì gọi là phi pháp, vì sao, vì người này nên diệt tẫn.

Lại như Tỳ-kheo Thi-việt do tâm cuồng si điên đảo mà làm nhiều việc không thanh tịnh, phi pháp, không phải đạo tùy thuận, không phải pháp Sa-môn. Người này sau khi trở lại bổn tâm, những tội đã làm trước kia nếu Tăng hoặc ba, hai, một người thường bàn nói việc này; người này theo Tăng xin Ức niệm Tỳ-ni, nếu Tăng cho người này Ức niệm Tỳ-ni thì gọi là phi pháp, vì sao, vì người này nên cho Bất si Tỳ-ni.

Lại như Tỳ-kheo Ha-đa không có tàm quý phá giới, có tội thấy nghe nghi; người này tự nói là tôi có tội này, nhưng sau lại nói là tôi không có tội này. Người này theo Tăng xin Ức niệm Tỳ-ni, nếu Tăng cho người này Ức niệm Tỳ-ni thì gọi là phi pháp, vì sao, vì người này nên cho Thật mích Tỳ-ni. Đây là ba loại phi pháp Ức niệm Tỳ-ni.

Ba loại như pháp Ức niệm Tỳ-ni là:

Như Tỳ-kheo Đà-phiêu bị Tỳ-kheo-ni Di-Đa-la đem pháp Ba-la-di không căn cứ vu báng, do

Tăng hoặc ba, hai, một người thường bàn nói việc này nên Tỳ-kheo này theo Tăng xin Ức niệm Tỳ-ni, nếu Tăng cho người này Ức niệm Tỳ-ni thì gọi là như pháp, vì sao, vì người này nên cho Ức niệm Tỳ-ni.

Lại như có một Tỳ-kheo phạm tội nhưng đã phát lồ như pháp sám hối trừ diệt, nếu Tăng hoặc ba, hai, một người vẫn còn bàn nói việc này. Tỳ-kheo này theo Tăng xin Ức niệm Tỳ-ni, nếu Tăng cho người này Ức niệm Tỳ-ni thì gọi la như pháp, vì sao, vì người này nên cho Ức niệm Tỳ-ni.

Lại như có Tỳ-kheo tuy chưa phạm tội này nhưng ắt sẽ phạm, nếu Tăng hoặc ba, hai, một người vì việc này mà nói là phạm tội nên Tỳ-kheo này theo tăng xin Ức niệm Tỳ-ni; nếu Tăng cho người này Ức niệm Tỳ-ni thì gọi là như pháp, vì sao, vì người này nên cho Ức niệm Tỳ-ni. Đây là ba loại như pháp Ức niệm Tỳ-ni.

Hành pháp của tỳ-kheo được Ức niệm Tỳ-ni là các Tỳ-kheo không được bàn nói về tội của tỳ-kheo kia nữa, không được bảo nhớ nghĩ, không được theo hỏi về việc ấy, cũng không nghe Tỳ-kheo khác nói về việc ấy nữa. Nếu Tỳ-kheo nào theo hỏi về việc ấy thì phạm Đột-kiết-la, nghe người khác nói về việc ấy cũng phạm Đột-kiết-la; nếu còn bàn nói về việc ấy hoặc bảo nhớ nghĩ thì phạm Ba-dật-đề.

d. Nhân duyên kết pháp Bất si Tỳ-ni:

Đây là loại Tỳ-ni thủ hộ, năm chúng đều nên cho Bất si Tỳ-ni, năm thiên giới cũng nên cho Bất si Tỳ-ni. Khi cho Bất si Tỳ-ni phải bạch tứ yết ma, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni nên hiện tiền, ba chúng dưới không hiện tiền. Nếu Tỳ-kheo được Bất si Tỳ-ni rồi trở xuống làm Sa-di thì vẫn theo Bất si Tỳ-ni đã cho trước; nếu hoàn tục, sau đó xuất gia lại hoặc làm Sa-di cho đến làm Tỳ-kheo, vẫn theo Bất si Tỳ-ni đã cho trước; nếu chuyển căn thành Ni, vẫn theo Bất si Tỳ-ni đã cho trước. Nếu Sa-di được Bất si Tỳ-ni rồi thọ giới cụ túc thì vẫn theo Bất si Tỳ-ni đã cho trước; nếu hoàn tục, sau đó xuất gia lại hoặc làm Sa-di hoặc làm Tỳ-kheo, vẫn theo Bất si Tỳ-ni đã cho trước; nếu chuyển căn thành Ni, vẫn theo Bất si Tỳ-ni đã cho trước. Ba chúng Ni được Bất si Tỳ-ni rồi lần lượt theo thứ lớp cũng giống như Tỳ-kheo và Sa-di ở trên. Bất si Tỳ-ni có bốn loại phi pháp và bốn loại như pháp. Bốn loại phi pháp là: Có Tỳ-kheo không cuồng si điên đảo mà hiện tướng cuồng si, các Tỳ-kheo trong Tăng hỏi: "Lúc cuồng si thầy đã làm những gì, nay thầy còn nhớ không?", đáp: "Trưởng lão, tôi nhớ vì cuồng si nên tôi làm, người khác sai khiến tôi làm, tôi nhớ việc đã làm trong mộng, nhớ mình khoả thân chạy khắp đông tây và đứng đại tiểu tiện". Người này theo Tăng xin Bất si Tỳ-ni, nếu Tăng cho người này Bất si Tỳ-ni thì gọi là bốn loại phi pháp. Bốn loại như pháp là: Nếu Tỳ-kheo thật sự cuồng si tâm trí điên đảo nên hiện tướng cuồng si, các Tỳ-kheo hỏi: "Thầy có nhớ được những việc mà mình đã làm trong lúc cuồng si hay không?", đáp: "Không nhớ, người khác không sai khiến tôi làm, tôi không nhớ việc đã làm trong mộng, không nhớ mình đã khoả thân chạy khắp đông tây và đứng đại tiểu tiện". Người này theo Tăng xin Bất si Tỳ-ni, nếu Tăng cho người này Bất si Tỳ-ni thì gọi là bốn loại như pháp.

Hành pháp của tỳ-kheo được Bất si Tỳ-ni là các Tỳ-kheo khác không được bàn nói tội lỗi của Tỳ-kheo ấy nữa, không được bảo nhớ nghĩ, không được theo hỏi, cũng không được Tỳ-kheo khác nói tội lỗi trước kia của tỳ-kheo ấy. Nếu theo hỏi thì phạm Đột-kiết-la, nghe Tỳ-kheo khác nói cũng phạm Đột-kiết-la; nếu còn bàn nói những việc trước kia hoặc bảo nhớ nghĩ đều phạm Ba-dật-đề.

e. Nhân duyên kết pháp Thật mích Tỳ-ni:

Đây là loại Tỳ-ni chiết phục, năm chúng đều nên cho Thật mích Tỳ-ni, năm thiên giới đều nên cho Thật mích Tỳ-ni, Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni nên hiện tiền, ba chúng dưới không hiện tiền; khi cho Thật mích Tỳ-ni nên bạch tứ yết ma. Thật mích Tỳ-ni có năm loại phi pháp và năm loại như pháp. Năm loại phi pháp là nếu có Tỳ-kheo phạm tội Ba-la-di, trước tự nói không phạm, sau lại nói là phạm. Nếu Tăng cho người này Thật mích Tỳ-ni thì gọi là phi pháp, vì sao, vì người này nên cho pháp diệt tẫn.

Lại có Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la trước tự nói không phạm, sau lại nói là phạm. Nếu Tăng cho người này Thật mích Tỳ-ni thì gọi là phi pháp, vì sao, vì người này nên tùy tội đã phạm mà cho pháp trị tội. Năm loại như pháp là nếu có Tỳ-kheo phạm Ba-la-di, trước tự nói tôi phạm, sau lại nói là không phạm. Nếu Tăng cho người này Thật mích Tỳ-ni thì gọi là như pháp, vì sao, vì người nay nên cho Thật mích Tỳ-ni. Lại có Tỳ-kheo phạm Tăng-già-bà-thi-sa, Ba-dật-đề, Ba-la-đề-đề-xá-ni, Đột-kiết-la trước tự nói tôi phạm, sau lại nói là không phạm. Nếu Tăng cho người này Thật mích Tỳ-ni thì gọi là như pháp, vì sao, vì người này nên cho Thật mích Tỳ-ni.

Hành pháp của tỳ-kheo được pháp Thật mích Tỳ-ni là Tỳ-kheo nay không được cho người khác thọ đại giới, không được thọ người khác y chỉ, không được chưa nuôi Sa-di, không được thọ giáo giới Tỳ-kheo-ni, nếu được Tăng sai cũng không được thọ giáo giới Tỳ-kheo-ni. Tăng đã cho pháp Thật mích Tỳ-ni thì không được tái phạm tội này hoặc tội tương tợ với tội này hoặc tội nặng hơn tội này. Tỳ-kheo này không được quở Tăng yết ma, không được quở người làm yết ma, không được cử tội Tỳ-kheo thanh tịnh, không được bảo người khác nhớ nghĩ, không được gạn hỏi cũng không được nghe người khác nói tội của tỳ-kheo khác, không được ngăn thuyết giới, không được ngăn thọ giới, không được ngăn tự tứ, không được bàn nói lỗi lầm của tỳ-kheo thanh tịnh. Tỳ-kheo này thường phải tự khiêm tốn, điều phục tâm hạnh, tùy thuận chúng tăng. Nếu không tuân theo những hành pháp này thì trọn đời không được giải yết ma này.

f. Nhân duyên kết pháp Đa mích diệt tránh:

Đa mích Tỳ-ni là phải cầu nhiều nhân duyên và từ nhiều người để diệt tránh, vì sự việc có nhiều chỗ chưa được dứt diệt. Khi phát thẻ để xử đoán việc, tất cả Tăng đều phải tập họp, không được lấy dục, vì sao, vì có nhiều người nói phi pháp thì tất cả đều phải đến lấy thẻ, không được lấy dục giống như pháp hành bát (đưa bát phạm Xả đọa khắp trong Tăng). Nếu vẫn không thể xử đoán được sự việc thì nên tìm cầu hai, ba hay một Tỳ-kheo trì ba tạng ở trong Tăng phường khác và kể lại đầy đủ sự việc chưa được xử đoán trên; vị Tỳ-kheo được bốn chúng tôn trọng này nên đáp: "Không thể hai bên cùng nói mà đều được thắng, phải có một bên thắng, một bên thua". Nếu nói như thế thì gọi là nói như pháp, nếu không nói như thế thì gọi là nói phi pháp, các Tỳ-kheo nên nói với nhau rằng: "Nếu như pháp xử đoán được việc này mà còn phát khởi trở lại thì phạm Ba-dật-đề, nếu quở trách việc này xử đoán không như pháp thì phạm Đột-kiết-la".

Thác lại tra lợi: Thác lại nghĩa là địa, tra lợi nghĩa là trụ, do vị này có trí huệ thù thắng tự tại, đối với chánh pháp bất động như người trụ trên đất không có nghiêng ngả.

Nên diệt ước hẹn: Vì sợ sự việc dây dưa khó xử đoán, cũng sợ có người cho là nghe lời người đến cầu sẽ xử đoán thiên vị và cũng sợ người đến cầu lo cho bản thân họ, nên không cùng ước hẹn xử đoán sự việc.

Nên bỏ và giao phó lại cho Tăng: Vì sự việc từ trong Tăng đến đã không thể diệt tránh thì nên giao lại cho Tăng ở chỗ ban đầu.

Tăng hiện tiền: Tăng vân tập, trong đây người có thể ngăn lại không ngăn, tức là tăng hòa hợp.

Ô-hồi-cưu-la: Ô hồi nghĩa là hai, cưu la nghĩa là bình đẳng, vị này tâm bình đẳng không hai như cán cân thăng bằng, vì cả hai (Thác lại tra và Ô-hồi-cưu-la) đều có năm pháp: Một là không vì thương mà bỏ qua cho người phạm tội, hai là không vì ghét mà trị phạt người có lỗi, ba là không vì sợ mà xử đoán trái pháp, bốn là không vì si mà khinh suất khi xử đoán việc, năm là biết xử đoán hay không xử đoán.

Người lấy dục lìa ra xa một chút: Vì sợ trong Tăng có người trợ giúp sẽ không xử đoán được việc, sở dĩ lấy dục là muốn cho người trợ giúp sau sẽ không nói nữa. Nếu lập thêm vị Ô-hồi-cưu-la thì việc tranh cãi càng tăng, e có nguyên do phá Tăng, làm trở ngại việc hành đạo nên phải cần cầu nhiều người, nhiều duyên mới xử đoán tốt được việc, không cần người có đủ năm pháp.

Sai sứ đến Tăng ở trú xứ gần: Nếu đến chỗ xa, sự việc ắt tăng thêm, khó thể xứ đoán được nên sai sứ đến Tăng ở trú xứ gần, nếu có thể xứ đoán được thì chỉ trong bảy ngày.

Đã phá an cư: Lúc đó Phật chưa khai cho xuất giới ba mươi chín đêm.

Nghe ở chỗ kia có bậc trì Ma đắc lặc già: Vì trong Phật pháp có hai trụ cột có thể trì Phật pháp là bậc tọa thiền và bậc có học vấn, cho nên phải tìm cầu hai vị này. Người truyền sự xử đoán: Là trông mong người truyền sự có thể khiến cho Tăng có hổ thẹn nghe theo lời can ngăn để việc ác được trừ diệt thì tốt.

Làm kỳ hạn: Vì sự khởi ra từ trong hạ an cư nên trừ ba tháng hạ ra, lấy chín tháng còn lại làm kỳ hạn để diệt tránh.

Sở dĩ ở ngoài giới phải đủ số chúng: Là Tăng sai bốn Tỳ-kheo ra ngoài giới diệt tránh, nếu xử đoán được việc không cho phát khởi lại nữa thì nên trở lại trong giới làm Tăng pháp yết ma. Người có năm pháp nên lập người hành trù (phát thẻ) để sự việc mau được diệt tránh.

Mạnh có ba trường hợp: Một là thân có sức mạnh, hai là ỷ vào người có thế lực, ba là giàu tiền của.

Từ trú xứ này đến trú xứ khác: Là nói sự việc xảy ra đã lâu và đã trải qua nhiều nơi dây dưa không thể xử đoán được, cho nên phải hành trù ở trước nhiều người, khiến cho bên phi pháp tâm phục vì đúng lý không có thiên vị bên nào. Nếu người phát thẻ là phi pháp thì mong người lấy thẻ phi pháp nhiều, người phát thẻ là như pháp thì mong người lấy thẻ như pháp nhiều; cho nên tất cả Tăng tập họp lấy thẻ là việc làm quan trọng, người như pháp nên ước hẹn với nhau để cùng lấy thẻ như pháp, không để cho nhiều người lấy thẻ phi pháp.

Người được bốn chúng tôn trọng: Nếu số thẻ của hai bên bằng nhau, không thể xử đoán được việc thì người truyền sự nên tìm đến người có phước đức được mọi người tín phục kể lại đầy đủ sự việc, Tỳ-kheo được bốn chúng tôn trọng này nên đáp: "Không thể hai bên cùng nói mà đều được thắng, phải có một bên thắng, một bên thua". Nếu nói như thế thì gọi là nói như pháp, nếu không nói như thế thì gọi là nói phi pháp, các Tỳ-kheo nên nói với nhau rằng: "Nếu như pháp xử đoán được việc này mà còn phát khởi trở lại thì phạm Ba-dật-đề, nếu quở trách việc này xử đoán không như pháp thì phạm Đột-kiết-la".

j. Nhân duyên kết pháp Bố thảo diệt tránh:

Sao gọi là Bố thảo Tỳ-ni: Như có một trú xứ, các Tỳ-kheo trong đây ưa gây gổ nhau, các Tỳ-kheo này nên hòa hợp lại một chỗ nói với nhau: "Các trưởng lão, chúng ta mất mát lớn, không được gì cả, suy hao lớn không có lợi ích, là đại ác bất thiện. Chúng ta do lòng tin cầu đạo nên xuất gia trong Phật pháp, nay lại ưa gây gổ nhau; nếu chúng ta truy tìm nguồn gốc của sự việc thì trong Tăng những việc chưa khởi sẽ khởi, những việc đã khởi sẽ không thể dứt diệt", nói rồi cùng tác bạch:

Nếu tăng đúng thời đến nghe, Tăng nên chấp thuận, Tăng nay dùng pháp Bố thảo Tỳ-ni để dứt diệt việc này. Bạch như vậy.

Ngay lúc đó các Tỳ-kheo phân làm hai bộ, mỗi bộ nhóm lại một chỗ, trong hai bộ chúng này, nếu có vị trưởng lão đại thượng tòa, vị này nên nói với bộ chúng thứ nhất rằng: "Chúng ta mất mát lớn, không được gì cả, suy hao lớn không có lợi ích, là đại ác bất thiện… giống như đoạn văn trên cho đến câu việc đã khởi không thể dứt diệt được. Chúng ta nay phải tự khuất ý, những tội mà chúng ta đã làm trừ tội Thâu-lan-giá và tội tương ưng Bạch y, những tội khác chúng ta nên hiện tiền phát lồ sám hối không có che dấu". Nếu trong bộ chúng này không có Tỳ-kheo nào ngăn việc này thì vị trưởng lão thượng tòa này nên đến nói với bộ chúng thứ hai rằng: "Chúng ta mất mát lớn, không được gì cả… giống như đoạn văn trên cho đến câu trừ tội tương ưng Bạch y, những tội khác chúng ta nên tự vì mình vì người hiện tiền phát lồ sám hối không có che dấu". Các Tỳ-kheo trong bộ chúng thứ nhất nói: "Các thầy tự thấy tội không?", đáp: "Thấy tội, như pháp sám hối không khởi lại nữa", bộ chúng thứ hai cũng nói như thế. Đây gọi là pháp Bố thảo Tỳ-ni.

Tất cả việc tranh cãi, vu báng, phạm tội và hòa hợp đều nhiếp thuộc Hiện tiền Tỳ-ni; nhưng chỉ có việc hòa hợp phải dùng pháp diệt tránh thứ bảy này mới dứt diệt được. Tất cả việc thiện, bất thiện, vô ký, mười bốn việc phá tăng, sáu việc tranh cãi về bổn sanh gọi chung là tránh sự (nơi người thì gọi là tránh, nơi Tăng thì gọi là sự) thì nên dùng ba pháp Tỳ-ni là hiện tiền, đa mích và bố thảo để dứt diệt. Nếu do nơi thấy nghe nghi, làm hay không làm mà nói là phạm, gọi chung là xuất sự (nêu ra sự việc, nơi người thì gọi là xuất, nơi Tăng thì gọi là sự) thì nên dùng bốn pháp Tỳ-ni là hiện tiền, ức niệm, bất si và thật mích để dứt diệt. Nếu việc phát sanh từ thân khẩu ý gọi chung là phạm sự thì nên dùng hai pháp Tỳ-ni là hiện tiện và tự ngôn để dứt diệt. Nếu là việc thuộc Đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma, bố tát, tự tứ, yết ma cử mười bốn hạng người… tự Tăng này đến Tăng kia là gốc của sự việc, gọi chung là tác sự thì chỉ cần dùng một pháp Hiện tiền Tỳ-ni để dứt diệt.


[Đầu trang][Mục lục luật tạng][Mục lục tổng quát]