TẠNG LUẬT
LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH
SỐ 1450 - CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA PHÁ TĂNG SỰ
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh đời Đường-TQ
Việt dịch: Ban phiên dịch chùa Pháp Bảo, HT Thích Tịnh Hạnh giám tu-năm 2005
Hiệu đính và nhuận văn: NS Thích nữ Như Lộc tại chùa Phổ Minh-năm 2009
Bạc già phạm cùng chúng đại Bí-sô ở tại thành Kiếp-tỷ-la trong vườn Ni câu luật đà, lúc đó các Thích ca tử cùng nhóm họp một nơi nói với nhau: “nếu có người hỏi chúng ta chủng tộc Thích ca, ai là vị tổ đầu tiên, sanh vào thời nào và sự kế thừa như thế nào thì chúng ta sẽ đáp như thế nào. Chúng ta nên đến hỏi Thế tôn rồi vâng theo lời Phật dạy”, nói rồi các Thích tử liền đi đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi ngồi qua một bên chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, nếu có người hỏi chúng con chủng tộc Thích ca có từ lúc nào thì chúng con sẽ trả lời như thế nào, cúi xin Thế tôn thương xót nói cho chúng con biết, chúng con sẽ vâng theo lời Phật dạy”. Thế tôn nghe lời này rồi liền im lặng tư duy: “nếu ta tự nói chủng tộc Thích ca có người tôn quý thì ngoại đạo sẽ phỉ báng rằng Sa môn Kiều-đápma tự khen ngợi chủng tộc Thích ca để được tôn cao. Trong đệ tử của ta, ai là người có thể nói được việc này”, liền biết cụ thọ Đại Mục-kiền-liên có thể nói được nên bảo Mục liên: “ta nay nhập định, thầy hãy nói nhân duyên ấy cho họ nghe”, Mục liên im lặng vâng lời Phật dạy. Lúc đó Phật lấy y Tăng-già-lê xếp làm bốn để gối đầu rồi nằm nghiêng bên hông hữu, hai chân chồng lên nhau, quán tưởng quang minh và chánh niệm. Mục liên suy nghĩ: “ta nên nhập định tư duy quán sát để biết chủng tộc Thích ca”, nghĩ rồi liền ở trước đại chúng lên tòa cao ngồi kiết già rồi nói với các Thích tử rằng: “các thầy hãy lắng nghe:
Lúc thế giới mới hình thành, đại địa là một biển nước, biển nước này do gió kích động hòa hợp thành một loại như sữa nấu chín, khi lạnh thì đông lại, sắc hương mỹ vị đều đầy đủ. Khi thế giới này thành, do phước mạng hết nên loài hữu tình từ cõi trời Quang Âm chết sanh xuống thế giới này làm người, diệu sắc ý thành, các căn đầy đủ, thân có ánh sáng, bay tự tại trong hư không, lấy hỉ lạc làm thức ăn và được trường thọ. Lúc đó trong thế giới này không có mặt trời, mặt trăng và tinh tú, không có thời gian vận hành nên không phân biệt ngày đêm năm tháng và nam nữ, chỉ biết kêu nhau là “Tát đỏa” mà thôi. Lúc đó có một hữu tình tò mò dùng tay nếm thử vị đất liền sanh đắm nhiễm, từ đó đưa đến đoàn thực. Các hữu tình khác lần lượt bắt chước ăn vị đất, do ăn vị đất thân hình nặng dần, ánh sáng nơi thân cũng nhạt dần rồi mất hẳn, thế giới rơi vào cảnh tối tăm. Khi thế giới tối tăm, bổng nhiên phát sanh mặt trời, mặt trăng và tinh tú, tự nhiên thời gian vận hành và phân biệt được ngày đêm năm tháng. Các hữu tình tuy ăn vị đất nhưng vẫn được trường thọ, hữu tình nào ăn ít thì thân còn có ánh sáng, hữu tình nào ăn nhiều thì không còn nên sanh có đẹp xấu. Do có đẹp xấu nên sanh so sánh phân biệt, người đẹp coi thường người xấu nên pháp ác liền sanh, pháp ác sanh thì vị đất cũng mất. Khi vị đất mất, các hữu tinh tụ họp lại một chỗ ưu sầu kêu lên “kỳ lạ thay mỹ vị”, tiếng kêu mang đầy sự nuối tiếc. Tuy vị đất mất nhưng các hữu tình này còn phước lực nên bánh đất xuất hiện đầy đủ sắc hương vị, nhờ đó được trường thọ. Hữu tình nào ăn ít thì thân còn có ánh sáng… như trên đưa đến pháp ác sanh khiến bánh đất biến mất. Khi bánh đất mất các hữu tình tập họp lại một chỗ kêu lên “khổ thay”, tiếng kêu mang đầy sự tiếc nuối. Tuy bánh đất mất nhưng các hữu tình này còn phước lực nên có rừng cây xuất hiện đây đủ sắc hương vị, nhờ đó được trường thọ. Hữu tình nào ăn ít thì thân còn có ánh sáng … như trên đưa đến pháp ác sanh khiến rừng cây biến mất. Khi rừng cây biến mất, các hữu tình tập họp lại một chỗ kêu lên “người đã lìa bỏ tôi”, tiếng kêu mang đầy sự tiếc nuối. Tuy rừng cây mất nhưng các hữu tình này còn phước lực nên lúa diệu hương xuất hiện, không trồng mà tự mọc, sáng chiều liền thu hoạch, thu hoạch xong lúa lại tự sanh, nhờ vậy nên các hữu tình được trường thọ. Vì thức ăn lúc bấy giờ là đoàn thực nên ăn xong sau đó phải thải căn bả ra ngoài, nên hai đường đại tiểu liền liền sanh, do đây phát sanh nam nữ sai khác và đắm nhiễm nhau, do đắm nhiễm nên thân gần làm điều phi pháp. Các hữu tình khác trông thấy liền lấy đá gạch quăng ném quở mắng và đuổi ra ngoài chúng hữu tình. Xưa kia là như vậy nhưng nay thì khác, vào ngày cưới họ dùng hương hoa tung ném chúc mừng nhau. Xưa cho là phi pháp nay thành hợp pháp; xưa chê trách khinh tiện, nay cho là hỉ sự. Thuở đó những hữu tinh làm điều phi pháp bị đuổi ra ngoài liền tụ tập nhau lại xây dựng phòng xá, đây là khởi nguyên của xây dựng nhà cửa gọi là gia thất. Các thầy nên biết, xưa kia do tham dâm nên họ xây dựng nhà cửa, như pháp làm không phải là phi pháp làm, đây là phi pháp cho là pháp.
Mỗi ngày vào buổi sáng hay buổi chiều hễ thấy đói, các hữu tình liền cắt lúa về đủ ăn cho mỗi bữa, không lấy dư; nhưng có một hữu tình vì lười biếng nên vào buổi sáng cắt lúa dư cho buổi chiều ăn, đến chiều khi có bạn rủ đi cắt lúa, người này liền đáp: “hồi sáng tôi đã cắt lúa dư cho buổi chiều ăn nên giờ không đi nữa, anh hãy đi một mình”, người kia nghe rồi liền khen: “như vậy rất hay, tôi cũng sẽ cắt lúa luôn cho ngày mai để khỏi phải đi nữa”; một người khác nghe biết cũng bắt chước cắt lúa dư luôn cho ba ngày; một người khác lại bắt chước cắt lúa dư luôn cho bảy ngày; một người khác lại cũng bắt chước cắt lúa dư luôn cho nửa tháng cho đến một tháng. Cứ như thế lượng lúa họ cắt để dành càng ngày càng tăng lên, do tâm tham càng tăng nên lượng lúa sanh giảm dần với nhiều trấu và cỏ. Ban đầu, buổi sáng cắt lúa thì buổi chiều lúa sanh trở lại, buổi chiều cắt thì buổi sáng sanh trở lại và hạt lúa vẫn thơm ngon; nay do tâm tham nên sau khi cắt lúa, lúa không sanh trở lại nữa, nếu có sanh cũng chỉ là hạt nhỏ và không thơm ngon như trước nữa. Lúc đó các hữu tình nhóm họp lại một chỗ ưu sầu than thở với nhau: “trước kia thân chúng ta tươi sáng, bay đi tự tại, vui vẻ no đủ ; sau dùng vị đất làm thức ăn, do ăn nhiều vị đất thân chúng ta trở nên nặng nề, mất dần ánh sáng và mất luôn cả thần thông”, do gặp việc tổn thất, họ ưu sầu than thở như vậy nên cảm sanh ra mặt trăng, mặt trời và các ngôi sao… Do lúa sau khi cắt không sanh trở lại nữa nên các hữu tình nói với nhau: “từ nay chúng ta nên phân chia giới đất để tự gieo trồng”, nói xong họ chia đất ra làm nhiều phần để tự cầy cấy gieo trồng và lập bờ ruộng cách ngăn, nói đây là ruộng của anh, đây là ruộng của tôi… Lúc đó có một hữu tình lười biếng, không lo trồng trọt nên lấy trộm lúa của người khác, có người bắt gặp liền nói: “vì sao anh lại lấy trộm lúa của người khác, lở phạm một lần này, lần sau chớ tái phạm”; nhưng hữu tình này vẫn tiếp tục lấy trộm lúa của người khác như cũ, thấy khuyên nhiều lần không được nên các hữu tình rình bắt dẫn đến trước mọi người, mọi người quở trách: “ngươi đã có ruộng, vì sao lại nhiều lần trộm lúa của người khác như thế?”, người trộm lúa nói: “vì một ít lúa mà các người lại bắt tôi và hủy nhục trước mọi người như vậy”, mọi người nói: “từ nay người chớ tái phạm nữa”. Do việc trộm lúa này nên mọi người sanh hủy nhục nhau, lúc đó các hữu tình tập họp lại và nói với nhau: “các vị đã thấy rõ do việc trộm lúa này mà mọi người sanh hủy nhục nhau, không biết cả hai ai là người có tội. Chúng ta nên ở trong chúng chọn ra một người đoan chánh đầy đủ oai đức, trí huệ thông đạt, lập lên làm Địa chủ để trị phạt người có tội và bảo bọc người vô tội. Mỗi người chúng ta sẽ y theo pháp, trích một phần hoa lợi thu được từ ruộng mà chúng ta trồng trọt để cấp cho vị ấy”. Bàn bạc xong, họ chọn ra một người có đầy đủ oai đức như trên lập lên làm Địa chủ…, do mọi người đồng ý lập lên làm Địa chủ nên vị này được gọi là Đại đồng ý; vị này chở che người yếu kém nên còn được gọi là Sát-đế-lỵ; lại do trị nước như pháp khiến mọi người hoan hỉ, lại có giới hạnh và trí huệ nên được mọi người gọi là vua Đại đồng ý. Lúc vua lên ngôi, mọi người gọi là vua hữu tình Đại đồng ý; vua có con tên là Ý lạc, khi lên nối ngôi được mọi người gọi là vua Cận lai Ý lạc. Vua có con tên là Thiện đức, khi lên nối ngôi được gọi là vua Yểm tử Thiện đức; vua có con tên là Tối thắng thiện, khi lên nối ngôi được gọi là vua Vân yết Tối thắng thiện; vua có con tên là Trưởng tịnh, khi lên nối ngôi được gọi là vua Đa la thượng già Trưởng tịnh. Trên đảnh vua có một cục thịt mềm như hoa Tế miên điệp, ngày càng lớn dần nhưng không đau nhức; thời gian sau nó chín và nứt, lộ ra một đứa bé dung mạo đoan nghiêm có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, do đứa bé này sanh ra trên đảnh đầu của vua nên được gọi là Đảnh sanh. Vua Trưởng tịnh có sáu vạn phu nhân, khi vua dẫn Đảnh sanh vào hậu cung, sáu vạn phu nhân vừa nhìn thầy liền yêu mến, vú tự chảy ra sữa nên họ đều cùng nuôi dưỡng đứa bé này nên còn được gọi là Trì dưỡng. Trì dưỡng lên nối ngôi, cũng như năm vị vua trước, thọ vô lượng tuổi, trụ lâu ở đời; lúc đó nơi đùi phải của vua có một cục thịt mềm như hoa Tế miên điệp, ngày càng lớn dần nhưng không đau nhức; thời gian sau nó chín và nứt, lộ ra một đứa bé dung mạo đoan nghiêm có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, do dung mạo đoan nghiêm nên được gọi là Đoan nghiêm. Đoan nghiêm lên nối ngôi có oai đức lớn, cai trị bốn đại châu được đại tự tại; lúc đó nơi đùi vế của vua có một cục thịt mềm như hoa Tế miên điệp, ngày càng lớn dần nhưng không đau nhức; thời gian sau nó chín và nứt, lộ ra một đứa bé dung mạo đoan nghiêm có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, được gọi là Cận Đoan nghiêm. Cận Đoan nghiêm lên nối ngôi có oai đức lớn, cai trị ba đại châu được đại tự tại; lúc đó nơi chân phải của vua có một cục thịt mềm như hoa Tế miên điệp, ngày càng lớn dần nhưng không đau nhức; thời gian sau nó chín và nứt, lộ ra một đứa bé dung mạo đoan nghiêm có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, được gọi là Đoan nghiêm túc sanh. Đoan nghiêm túc sanh lên nối ngôi cai trị hai đại châu, oai đức tự tại; lúc đó nơi chân trái của vua có một cục thịt mềm như hoa Tế miên điệp, ngày càng lớn dần nhưng không đau nhức; thời gian sau nó chín và nứt, lộ ra một đứa bé dung mạo đoan nghiêm có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, được gọi là Cực Đoan nghiêm. Cực Đoan nghiêm lên nối ngôi cai trị một đại châu, oai đức tự tại; vua có con tên là Ái lạc, vua Ái lạc có con tên là Thiện lạc, vua Thiện lạc có con tên là Năng xả, vua Năng xả có con tên là Cực xả, vua Cực xả có con tên là Chi xa, vua Chi xa có con tên là Nghiêm xa, vua Nghiêm xa có con tên là Tiểu hải, vua Tiểu hải có con tên là Trung hải, vua Trung hải có con tên là Đại hải, vua Đại hải có con tên là Đại thụy điểu, vua Đại thụy điểu có con tên là Hương thảo, vua Hương thảo có con tên là Cận Hương thảo, vua Cận hương thảo có con tên là Đại Hương thảo, vua Đại Hương thảo có con tên là Thiện kiến, vua Thiện kiến có con tên là Đại thiện kiến, vua Đại Thiện kiến có con tên là Cực Ái, vua Cực Ái có con tên là Đại Ái, vua Đại Ái có con tên là Diệu thanh, vua Diệu thanh có con tên là Tác quang, vua Tác quang có con tên là Hữu oai, vua Hữu oai có con tên là Quảng đại, vua Quảng đại có con tên là Đại di lâu, vua Đại di lâu có con tên là Hữu di lâu, vua Hữu di lâu có con tên là Quảng tuệ, vua Quảng tuệ có con tên là Diễm quang, vua Diễm quang có con tên là Hữu diễm, vua Hữu diễm có con tên là Hữu đại diễm. Vua Hữu đại diễm cùng con cháu nối nhau làm vua ở thành Phú đa la cho đến trăm đời, vua cuối cùng tên là Điều oán, do vua này có thể điều phục các oán địch. Vua Điều oán cùng con cháu nối nhau làm vua ở thành Vô đấu cho đến vạn bốn ngàn đời, dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Vô năng thắng. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Bà-la-nê-tư cho đến sáu vạn ba ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Nan đương Nan đương. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Kim-tỳ-la cho đến tám vạn bốn ngàn đời, vua cuối cùng tên là Phạm thọ. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Tượng tạo cho đến ba vạn hai ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Tượng thọ. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Tước thạch cho đến năm ngàn đời, vua cuối cùng tên là Cập thời. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Quảng kiên ức cho đến ba vạn hai ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Đông thắng lực. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Vô thắng cho đến ba vạn hai ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Thượng thắng. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Diệu đồng nữ cho đến một vạn hai ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Thắng quân. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Thiệm bà cho đến một vạn tám ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Long thiên. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Mạt lợi cho đến hai vạn năm ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hoa, vua cuối cùng tên là Nhơn thiên. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Đa ma lật để cho đến một vạn hai ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Hải thiên. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Hoan hỉ cho đến một vạn tám ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Thiện huệ. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Vương xá cho đến hai vạn năm ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Trừ ám. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Bà-la-nê-tư cho đến trăm đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Đại đế quân. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Câu thi na cho đến tám vạn bốn ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Hải thần. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Bố đa la cho đến một ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Tu hành. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Câu thi na cho đến tám vạn bốn ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Quảng diện. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Bà-la-nê-tư cho đến mười vạn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Địa chủ. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Vô chiến cho đến một ngàn đời, vua cuối cùng tên là Trì đại địa, như pháp giáo hóa. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Di-sỉ-la cho đến tám vạn bốn ngàn đời, cũng dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Đại thiên. Con cháu của vua này cũng nối nhau làm vua tại thành này cho đến tám vạn bốn ngàn đời đều đồng một hiệu là Đại thiên, đều có thần thông và tu giới hạnh, vua cuối cùng tên là Nễ di. Con cháu của vua này thứ lớp có tên là Kiên, Khư nỗ, Cận khư nỗ, Hữu khư nỗ, Cực khư nỗ, Thiện kiến, Chánh kiến, Quân thính, Ngộ liễu, Đại ngộ, Ngộ quân, Vô ưu, Ly ưu, Tục quả, Thiện hợp, Đại thanh, Sát đại thanh, Minh đán, Phường chủ, Đấu chiến, Sanh bố, Khánh hỉ, Cảnh môn, Năng sanh, Phổ sanh, Tối thắng, Ẩm thực, Đa ẩm thực, Nan thắng, Cực nan thắng, A-nan lập, Thiện lập, Đại lực, Thiện huệ, Thắng kiên cố, Thập cung, Bách cung, Tân cung, Diệu sắc cung, Thắng cung, Kiên cung, Thập man, Bách man, Thiên man, Diệu sắc man, Lao man. Con cháu của vua này nối nhau làm vua ở thành Thiện nghị cho đến bảy vạn bảy ngàn đời, vua cuối cùng tên là Quả tiên vương. Con của vua này tên là Long hộ cùng con cháu nối nhau làm vua ở thành Bà-la-nêtư cho đến một trăm lẻ một đời, vua cuối cùng tên là Cát chỉ. Lúc đó có Phật Ca-diếp ba ra đời có đủ mười hiệu: Như lai, Bạc già phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn. Trong đạo tràng của Phật Ca-diếp ba, Bồ-tát Thích ca Mâu ni phát A-nậuđa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, tịnh tu phạm hạnh và được sanh lên cõi trời Đổ-sử-đa. Con của vua Cát chỉ tên là Thiện sanh cùng con cháu nối nhau làm vua ở thành Bổ-đa-la cho đến một trăm lẻ một đời, vua cuối cùng tên là Nhĩ sanh. Vua này có hai người con tên là Kiều-đáp-ma và Ba-la-đọa-xà, Kiều-đáp-ma muốn xuất gia còn Ba-la-đọa-xà muốn làm vua. Lúc đó Kiều-đáp-ma thấy phụ vương lấy phi pháp làm pháp, pháp làm phi pháp để trị nước, liền suy nghĩ: “nếu vua cha băng hà, ta sẽ làm vua, nếu cứ lấy phi pháp làm pháp, pháp làm phi pháp để trị nước như vậy, ta sẽ bị đọa địa ngục. Đã có nạn này ta phải làm sao, ta nên làm cách gì để được xuất gia, thoát khỏi khổ này”, nghĩ rồi liền đến gặp phu vương tâu rằng: “con nay muốn xuất gia hướng đến nếp sống không nhà”, vua nói: “nếu vì nghĩa lợi nên nhiều người bố thí tài, cầu cúng thiên thần, thờ lửa, tu khổ hạnh để cầu ngôi vị quốc vương thì nay con đều đã được. Sau khi ta mất, con sẽ nối ngôi, vì sao con lại tự bỏ ngôi vị này?”, Kiều-đáp-ma tâu: “con thấy phụ vương lấy phi pháp làm pháp, pháp làm phi pháp để trị nước, làm nghiệp ác này sẽ đọa địa ngục, con vì lo sợ nên cầu xuất gia. Xin phu vương thương xót chấp thuận”, lúc đó vua cha biết ý con đã quyết nên chấp thuận, vương tử rất vui mừng.
Cách thành không xa có một tiên nhân tên là Hắc sắc, vương tử từ biệt vua cha và các quyến thuộc đi đến chỗ tiên nhân, đảnh lễ cầu xuất gia, tiên nhân chấp thuận. Sau khi xuất gia vương tử lấy trái cây, rễ cây làm thức ăn, được gọi là tiên Kiều-đáp-ma; do thường ăn trái cây như thế nên sanh bịnh nên Kiều-đáp-ma bạch thầy xin phép vào tụ lạc khất thực, tiên Hắc sắc nói: “pháp của tiên nhân là gìn sáu căn lìa sáu cảnh, dù ở trong hang núi hay ở trong tụ lạc cũng không có gì đáng sợ. Nếu ông giữ được pháp tiên như vậy thì được đi, nên làm nhà tranh gần thành Bổ-đa-la để ở”. Lúc đó vua Nhĩ sanh băng hà, vương tử Ba-la-đọaxà lên nối ngôi, Kiều-đáp-ma từ biệt thầy đi đến thành Bổ-đa-la dựng một ngôi nhà tranh để ở, khất thực tự sống. Trong thành có một dâm nữ tên là Chiêu hiền, dung mạo đoan chánh được nhiều người yêu thích, lúc đó có một người bất thiện tên Mật-nại-la, do tham dục nên đem chuỗi anh lạc và áo đẹp cho dâm nữ muốn đón về cùng hoan lạc. Dâm nữ đeo chuỗi anh lạc, mặc áo đẹp này định đến chỗ Mật-nại-la như đã ước hẹn, vừa tới cửa liền có người đưa đến năm trăm tiền muốn cùng cô vui chơi, dâm nữ suy nghĩ: “năm trăm tiền này tự nhiên mang đến , vì sao ta lại không nhận”, nghĩ rồi liền nhận tiền để cùng đi vui chơi với người đó. Trước khi đi, dâm nữ bảo người hầu: “hãy đến chỗ Mật-nại-la nói là ta chưa trang điểm xong, lát nữa sẽ đến”, người hầu vâng lời đến nói. Không ngời người đưa tiền cho dâm nữ lại có việc gấp phải đi, dâm nữ suy nghĩ: “người này đã đi, ta nên đi đến chỗ ước hẹn trước cũng không muộn”, nghĩ rồi liền bảo người hầu: “hãy đến chỗ Mật-nại-la nói là ta đã trang điểm xong, không biết muốn cùng gặp nhau ở vườn cây nào?”, người hầu vâng lời đến nói, Mật-nại-la nói: “mới vừa rồi nói là chưa trang điểm xong, giờ lại nói là trang điểm rồi”, người hầu này trong lòng có hiềm hận nên nói: “hồi nảy không phải là cô chủ chưa trang điểm xong, mà là đeo chuỗi anh lạc và áo đẹp của ông để đi với người khác”, Mật-nại-la nghe rồi tâm tham dục liền dứt, tâm sân hận liền sanh nên bảo người hầu này rằng: “nếu cô chủ ngươi đã trang điểm xong thì hãy đến rừng cây----”, người hầu trở về báo lại. Dâm nữ đeo chuỗi anh lạc và mặc áo đẹp đi đến khu vườn đó để gặp Mật-nại-la, Mậtnại-la vừa gặp liền giận dữ nói: “dâm nữ, vì sao lại đeo chuỗi anh lạc và mặc áo đẹp của ta để đi gặp người khác?”, dâm nữ nói: “Thánh tử, người nữ thường có lỗi này, xin hãy tha thứ cho tôi”, Mật-nại-la liền rút dao bén ra giết chết dâm nữ, người hầu thấy vậy liền la to: “có giặc, giặc giết chủ tôi”. Nghe tiếng la, mọi người chạy đến, Mậtnại-la thấy mọi người chạy đến nên lo sợ ; gần khu vườn này có ngôi nhà tranh của tiên Kiều-đáp-ma, Mật-nại-la không còn đường trốn liền để dao dính máu trước cửa nhà tranh rồi ẩn vào trong đám đông. Mọi người lần theo dấu vết thấy con dao dính máu ở trước cửa ngôi nhà tranh liền bắt tiên nhơn và nói rằng: “ông mang hình dáng tiên vì sao lại làm nghiệp ác này?”, tiên nhân hỏi: “tôi có lỗi gì?”, mọi người nói: “ông cùng người nữ làm điều phi pháp rồi giết cô ta”, tiên nhân nói: “tôi không có làm nghiệp ác này”. Mọi người không tin bắt trói rồi dẫn đến chỗ vua tâu rõ sự việc, vua nghe rồi không xét hỏi gì liền ra lịnh xử tội tiên nhân ngồi trên bàn chông, sai các Chiên đà la mặc áo xanh, tay cầm dao bén đưa tiên nhân nhiễu quanh khắp thành, đánh trống tuyên nói tội của tiên nhân cho mọi người biết. Lúc đó tiên Hắc sắc tìm đến, thấy Kiều-đáp-ma ngồi trên bàn chông, tình cảnh đáng thương nên áo não rơi lệ hỏi: “do đâu mà con gặp nổi khổ này?”, Kiều-đáp-ma nghẹn ngào rơi lệ nói: “đây là nghiệp đời trước, không thể thoát được”, tiên Hắc sắc nói: “con bị đau đớn như vậy, đối với các pháp hành thân tâm con có lui sụt hay không?”, đáp: “con tuy đau đớn nhưng tâm con không tổn hại”, tiên Hắc sắc hỏi: “làm sao chứng biết được?”, Kiều-đáp-ma nói:
“trước nay con nói lời chân thật, chưa từng nói dối. Nếu tâm hạnh con thật không thay đổi thì nguyện cho màu da đen của thầy biến thành màu vàng kim”, nói vừa dứt lời, sắc da của tiên Hắc sắc biến thành màu vàng kim. Thấy việc này rồi, tiên Hắc sắc vui mừng khen là việc chưa từng có, Kiều-đáp-ma hỏi: “sau khi con chết sẽ được đạo gì?”, tiên Hắc sắc nói: “theo pháp của ngoại đạo Bà-la-môn nói rằng người không có con thì không được đạo lành, con đã có con chưa?”, đáp: “xưa kia còn là đồng tử ở trong cung, con đã thích tu đạo nên bỏ nhà xuất gia, thường tu phạm hạnh, làm sao có con được”, tiên Hắc sắc nói: “vậy con hãy nhớ lại việc quá khứ”, Kiều-đáp-ma nói: “con đang đau đớn, từng lóng đốt như dao cắt, chỉ nghĩ đến cái chết, làm sao sanh ý tưởng khác”. Tiên Hắc sắc dùng thần thông lực nổi mưa gió lớn rưới lên khắp thân của Kiều-đáp-ma khiến cho mọi đau đớn tiêu tan, Kiều-đáp-ma liền nhớ lại việc dâm dục thời quá khứ, ngay nơi thân liền có hai giọt tinh huyết rơi xuống đất, do nghiệp lực hai giọt máu này trở thành hai quả trứng. Như trong kinh nói có bốn việc không thể nghĩ bàn: 1. Là cảnh giới của chư Phật không thể nghĩ bàn. 2. Là rồng không thể nghĩ bàn. 3. Là tâm ý thế gian không thể nghĩ bàn và 4. Là nghiệp lực di thục của các hữu tình không thể nghĩ bàn. Lúc đó nhờ nắng ấm, hai quả trứng này dần dần chín, mỗi quả nứt ra một đồng tử; cách nơi này không xa có một vườn mía, hai đồng tử này liền vào trong vườn mía đó, do phước đức nên dung mạo chúng càng xinh đẹp, còn Kiều-đáp-ma bị nắng thiêu đốt nên qua đời.
Sáng hôm sau tiên Hắc sắc đến thăm thì thấy Kiều-đáp-ma đã qua đời, lại thấy hai vỏ trứng nứt liền lần theo dấu vết tìm thấy hai đồng tử trong vườn mía. Tiên liền nhập định để quán xem hai đồng tử này là con của ai, liền biết đó là dòng giống của Kiều-đáp-ma nên sanh yêu mến, dắt về trú xứ nuôi dưỡng cho đến trưởng thành và đặt tên là Noãn sanh, cũng gọi là Nhật chủng, lại là dòng giống của Kiều-đáp-ma nên cũng gọi là Kiều-đáp-ma; lại do từ thân trước kia sanh ra nên cũng gọi là Thân sanh, lại do tìm thấy được trong vườn mía nên cũng gọi là Cam giá chủng; do có bốn duyên nên có bốn tên gọi như thế.
Thời gian sau, vua Ba-la-đọa-xà băng hà, không có con nối ngôi, quần thần hội họp luận bàn không biết nên tôn ai lên nối ngôi, một đại thần nói: “vua còn một người anh là Kiều-đáp-ma, trước đây đã vào núi tu đạo, chúng ta nên đến thỉnh người lên nối ngôi”. Họ liền đến chỗ tiên Hắc sắc đảnh lễ và hỏi thăm về Kiều-đáp-ma, tiên Hắc sắc kể lại sự việc trên, quần thần nghe rồi liền nói: “chúng tôi thật có lỗi”. Lúc đó hai đồng tử, con của Kiều-đáp-ma đi đến, mọi người liền hỏi lai lịch, tiên Hắc sắc kể lại sự việc, mọi người nghe rồi liền hoan hỉ thỉnh đồng tử lớn về nước để nối ngôi vua. Vua trị nước không bao lâu sau thì băng hà, lại không có con nối ngôi, quần thần liền nghinh đón người em lên nối ngôi, cả hai vua đều hiệu là Cam giá. Vua Cam giá cùng con cháu nối nhau làm vua ở thành Bổ-đa-lặc-ca cho đến một trăm lẻ một đời, vua cuối cùng tên là Quân tướng cũng gọi là Tăng trưởng. Vua này có bốn đại phu nhân, mỗi người đều sanh một nam một nữ; bốn vương tử có tên là Hỏa cự diện, Đại nhĩ, Tượng hành và Bảo xuyến vương. Sau đó bốn phu nhân đều qua đời, vua Quân tướng ưu sầu nên ở mãi trong cung, quần thần thấy vậy liền tâu vua: “vua các nước lân cận đều có vương nữ xinh đẹp, chúng thần sẽ tìm kiếm hoàng hậu cho vua”, vua nói: “ta có bốn con đều đã trưởng thành, có thể nối ngôi thì ai có thể đem con gái gả cho ta”, quân thần tâu: “chỉ cần vua ra lịnh, chúng thần sẽ tìm khắp bốn phương”. Sau đó, quân thần biết được có một công chúa con của một quốc vương có thể làm phi hậu của vua nên đến tâu vua, vua liền sai sứ giả đến nước đó, vua nước đó hỏi sứ giả nguyên do rồi nói: “nếu vua nước ông muốn làm thân với ta thì phải lập giao ước: hễ con ta có con thì phải cho nối ngôi”, sứ giả liền trở về nước tâu lại cho vua biết, vua nói: “ta đã có con trưởng, cho dù cô ấy sanh con cũng không thể cho nối ngôi được”, quần thần tâu: “vua cứ hỏi cưới, cô ấy sau này có sanh con nam hay nữ hay là thạch nữ còn chưa biết, cần gì phải lo trước”, vua nghe lời liền sai sứ đến nước đó cầu hôn và lập giao ước rồi đón vương nữ về nước. Vua Tăng trưởng cùng phu nhân mới cưới hoan lạc, tham Ái càng tăng, không bao lâu sau phu nhân mang thai, đủ tháng sanh được một nam dung mạo đoan nghiêm, mọi người đều yêu mến; vua giao hoàng tử cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng. Trước đây khi cưới công chúa, vua có lập giao ước với vua nước kia : nếu công chúa sanh con trai thì sẽ cho nối ngôi vua và đặt tên là Ái lạc, nhưng khi Ái lạc trưởng thành như hoa sen trong nước thì vua Tăng trưởng lại muốn lập con trưởng, không muốn lập Ái lạc. Vua nước kia hay tin liền sai sứ mang thư sang cho vua tăng trưởng, trong thư nói: vì sao vua lại vi phạm lời giao ước trước đây, nếu vua vi phạm lời giao ước thì tôi sẽ đem binh sang chinh phạt, vua hãy dàn binh đợi tôi. Vua đọc thư xong liền hội quần thần nói: “trong thư bắt ta phải thực hiện lời giao ước trước đây, chúng ta phải làm sao?”, quần thần tâu: “vua nước kia có oai lực lớn, vua nên lập Ái lạc làm Thái tử”, vua nói: “ta đã có con trưởng, làm sao có thể lập con nhỏ được”, quần thần tâu: “bốn binh của nước ấy hùng mạnh, nếu vua không chấp thuận thì họ sẽ sang xâm lấn, xin vua hãy lập Ái lạc và cho bốn vương tử rời khỏi nước”, vua nói: “con ta không có tội, làm sao có thể bảo chúng rời khỏi nước”, quần thần nói: “chúng thần chỉ muốn làm lợi ích mà thôi” ; thấy vua im lặng, quần thần nhóm họp một chỗ cùng bàn với nhau: “chung ta nên lập kế gì để vua đuổi bốn vương tử ra khỏi nước”. Lúc đó vua bảo sửa sang khu vườn, quan coi vườn quét dọn sạch sẽ, rải hoa thơm và treo cờ phướn trang hoàng khắp nơi. bốn vương tử này nhân dịp ra ngoài dạo chơi, từ xa thấy trang hoàng khu vườn nên đi đến, gặp quan coi vườn vừa đi ra liền hỏi: “trang hoàng khu vườn cho ai?”, đáp là cho vua, bốn vương tử nghe rồi liền bỏ đi, các quan thấy liền hỏi vì sao không vào, đáp là không dám vào, các quan nói: “vua và các vương tử đều được vào, đâu có lỗi gì”, bốn vương tử nghe rồi liền vào vườn dạo chơi. Quần thần nhân dịp này liền đến tâu vua: “vườn đã được sửa sang xong, xin vua ngự đến dạo chơi”, khi đến nơi thấy có người trong vườn, vua liền hỏi là ai trong đó, đáp là bốn vương tử, vua nghe rồi liền nổi giận, ra lịnh giết; quần thần quỳ xuống tâu rằng: “xin vua đừng giết, chỉ nên đuổi họ ra khỏi nước”, vua liền ra lịnh đuổi bốn vương tử ra khỏi nước. Bốn vương tử đến chỗ vua quỳ xuống tâu rằng: “chúng con xin vua cha cho một nguyện là nếu có quyến thuộc nào muốn theo chúng con thì xin vua thương xót cho phép họ được cùng đi”, vua chấp thuận. bốn vương tử dẫn các công chúa cùng đi, muôn dân trong nước đều xin đi theo, chỉ trong bảy ngày dân chúng đi theo gần hết; quần thần liền tâu vua: “nếu không đóng cửa thành thì dân chúng sẽ đi theo hết”, vua liền ra lịnh đóng cửa thành không cho dân chúng đi theo nữa.
Bốn vương tử cùng các quyến thuộc từ từ đi về phía trước, khi đến chân núi Tuyết bên sông Căng già, gần trú xứ của tiên Kiếp-tỷ-la thì dừng lại, cắt cỏ tranh làm nhà để ở, cùng hái trái và săn bắt để sống. Mỗi ngày ba lần bốn vương tử đến thân cạn và cúng dường tiên Kiếp-tỷ-la; tiên nhơn thấy bốn vương tử tiều tụy liền hỏi nguyên do, đáp là vì không có vợ nên mới như thế, tiên nhân nói: “các con có thể cưới các cô em khác mẹ”, vương tử nói: “như thế có được không ?”, tiên nhân nói: “nếu không cùng một mẹ thì được”. Bốn vương tử thấy lời tiên nhân nói hợp với ý mình nên cùng gả cưới em gái cho nhau để thành vợ chồng, không bao lâu sau họ đều sanh con trai con gái. Bốn vương tử vui mừng nên thường dẫn vợ con đến chỗ tiên nhân khiến cho nơi này trở nên ồn náo và tiên nhân không thể đắc định nên nói với bốn vương tử: “các con ở an nơi đây, còn ta sẽ đi”, vương tử hỏi nguyên do, tiên nhân nói: “các con làm ồn náo, trở ngại ta đắc định, giống như ta bước đi trên gai”, vương tử nói: “tiên nhân hãy an ở nơi đây, chúng con sẽ tìm nơi thích hợp hơn để ở”. Tiên nhân đã đắc thần thông, có thể làm mọi việc theo ý muốn nên cầm bình vàng đựng đầy nước tìm đến một nơi tốt đẹp hơn, rưới nước làm ranh giới và bảo các vương tử đến ở trong ranh giới này. Các vương tử ở trong đây xây dựng tường thành, do tiên nhân rưới nước làm ranh giới nên đặt tên thành là Kiếptỷ-la. Do dân cư ngày càng đông, thành cũ trở nên chật hẹp nên thiên thần chỉ cho họ một nơi khác rộng lớn hơn, họ xây dựng thành mới trên đất mới và đặt tên thành là Thiên thị. Lúc đó các vương tử nói với nhau: “do vua cha lấy vợ sau nên khiến chúng ta phải rời khỏi nước, chúng ta nên lập thệ từ nay về sau chỉ nên lấy một vợ, không được lấy thêm vợ khác”.
Lúc đó vua Tăng trưởng hỏi quần thần về tông tích của bốn vương tử, quần thân tâu: “các vương tử hiện đang ở tại thành Thiên thị ở dưới chân núi Tuyết, tự xây dựng thành ấp”, vua nói: “các con ta có thể tự xây dựng thành ấp hay sao, quả thật là tài giỏi”. Do được vua cha khen ngợi là thật tài giỏi nên các vương tử được gọi là Thích ca. Thời gian sau vua cha băng hà, Thái tử Ái lạc lên nối ngôi, không bao lâu sau lại băng hà, không có con nối ngôi. Quần thần cùng nhau bàn luận đi đến thành Thiên thị rước vương tử trưởng là Cự diện về nước làm vua. Do con của Cự diện chết nên sau khi vua Cự diện băng hà, không có ai nối ngôi; quân thần lại đến rước vương tử thứ hai là Đại nhĩ về nước làm vua. Vua Đại nhĩ băng hà cũng không có con nối ngôi nên quần thần lại đến rước vương tử thứ ba là Tượng hành về nước làm vua; Vua Tượng hành băng hà cũng không có con nối ngôi nên quần thần lại đến rước vương tử thứ tư là Bảo xuyến về nước làm vua. Bảo xuyến có con tên là Cận bảo xuyến, Cận Bảo xuyến có con tên là Thiên môn cùng con cháu nối tiếp nhau làm vua ở thành Kiếp-tỷ-la cho đến năm vạn năm ngàn đời, dùng chánh pháp giáo hóa, vua cuối cùng tên là Thập xa. Con cháu của Thập xa theo thứ lớp lên nối ngôi vua tên là Bách xa, Nghiêm xa, Thắng xa, Kiên xa, Thập cung, Bách cung, Cửu thập cung, Tối thắng cung, Nghiêm cung, Kiên cung. Vua Kiên cung có hai người con tên là Sư tử giáp và Sư tử hống ; vua Sư tử giáp là người đứng đầu trong tất cả tay thiện xạ ở châu Thiệm bộ, vua có bốn con trai tên là Tịnh-phạn, Bạch phạn, Hộcphạn và Cam-lồ-phạn; và bốn con gái tên là Thanh tịnh, Thuần bạch, Thuần lộc và Cam lộ. Vua Tịnhphạn có hai con: con trưởng là Thái tử nay là Thế tôn và con thứ nay là cụ thọ Nan-đà; vua Bạch phạn có hai con tên là Hằng tinh và Hiền thiện; vua Hộc-phạn có hai con tên là Đại danh và A-naluật; vua Cam-lồ-phạn có hai con tên là Khánh hỷ và Thiên thọ. Công chúa Thanh tịnh có con tên là Thiện ngộ, Thuần bạch có con tên là Hữu man, Thuần lộc có con tên là Thắng lực, Cam lộ có con tên là Đại lực. Thế tôn trước đó có con tên là Lahầu-la, chủng tộc Thích ca bắt đều từ Đại vương Địa chủ đến đời La-hầu-la thì đoạn dứt kế tự, vì La-hầu-la đã chứng Vô sanh, đã đoạn hạt giống sanh tử nên không còn kế tự nữa.
Cụ thọ Đại Mục-kiền-liên nói xong nhân duyên về chủng tộc Thích ca liền xuống tòa và đứng yên lặng, lúc đó Thế tôn biết cụ thọ đã nói xong liền từ tư thế nằm ngồi dậy ngay ngắn và khen rằng: “lành thay Mục liên, thầy đã như pháp nói về nguồn gốc của chủng tộc Thích ca. Nếu người nào nói cho người khác nghe về chủng tộc Thích ca thì người ấy sẽ được lợi ích lớn và thường được an lạc”, Phật lại bào các Bí-sô và các Bí-sô ni: “hãy ghi nhớ nhân duyên nguồn gốc của chủng tộc Thích ca và như pháp nói cho người khác nghe, vì sao, vì nhân việc làm này sẽ được lợi ích lớn, đầy đủ nghĩa lợi, đầy đủ pháp nghĩa, đầy đủ phạm hạnh… Vì thế các Bí-sô, hãy nên thọ trì và rộng nói cho người khác nghe”, các Thích tử trong thành Kiếp-tỷ-la nghe rồi vui mừng từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Phật, hữu nhiễu rồi đi. Lúc đó Phật bảo các Bí-sô: “các thầy lắng nghe:
Xưa kia, vua Sư tử giáp ở thành Kiếp-tỷ-la đã dùng chánh pháp giáo hóa khiến cho nhân dân an lạc, trong nước thịnh vượng không có khủng bố.
Vua Thiện ngộ ở Thánh Thiên thị cũng dùng chánh pháp giáo hóa khiến cho đất nước an ổn, dân chúng giàu có không bị suy não; vợ vua tên là Diệu thắng dung mạo đoan chánh được mọi người yêu mến. Trong thành này có một trưởng giả tên là Kiết tường, nhà giàu có nhiều nhà cửa, ruộng vườn, châu báu, kho lẫm đầy ắp, quyến thuộc đông đúc … giống như Tỳ sa môn thiên vương không khác. Trưởng giả có một vườn hoa với nhiều loại hoa và cây trái, lại có suối và ao tắm với đủ loại chim quý hiếm, tiếng hót hòa nhã vi diệu nên vua cùng phi hậu và các vương tử thường đến dạo chơi. Phu nhân của vua khởi tâm tham Ái nên yêu cầu vua xin trưởng giả cho khu vườn này, vua nói: “vườn này của trưởng giả Kiết tường, ta không thể bảo trưởng giả đem nó cho nàng. Nếu nàng muốn, ta sẽ ở trong thành này xây dựng một khu vườn khác đẹp hơn để ban cho nàng”. Vua vì phu nhân nên ở trong thành cho xây một khu vườn tốt đẹp gấp bội, do phu nhân tên là Diệu thắng nên vườn này được gọi là Diệu thắng. Vua Sư tử giáp thường cầu xin một nguyện : “nếu trong chủng tộc của tôi xuất hiện một Kim luân vương thì mới thỏa nguyện của tôi”; vua Thiện ngộ cũng thường cầu xin một nguyện: “nếu tôi được làm quyến thuộc của vua Sư tử giáp thì mới thỏa nguyện của tôi”. Lúc đó đại phu nhân của vua Thiện ngộ thọ thai, sau mười tháng hạ sanh một công chúa, dung mạo đoan chánh hiếm có trong thế gian; vua cùng phu nhân và các quyến thuộc đều trầm trồ bàn luận: “công chúa này từ loài người sanh ra hay do chư thiên khéo biến hóa ra”. Sau hai mươi mốt ngày vua mở tiệc ăn mừng và bảo quần thần bàn xem nên đặt tên cho công chúa là gì, do họ cho công chúa đoan chánh như thế là do chư thiên khéo biến hóa ra, nên tâu vua nên đặt tên cho công chúa là Huyễn hóa, vua bèn giao công chúa cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng. Lúc đó có Tướng sư đến tâu với vua: “công chúa Thánh thiện này sau sẽ sanh một con trai đầy đủ các tướng, có đại oai đức và đạt được ngôi vị Lực luân”, vua nghe xong rất vui mừng. Thời gian sau, đại phu nhân lại mang thai, sau mười tháng lại hạ sanh công chúa, ánh sáng trên thân chiếu khắp cả thành, dung mạo đoan chánh trong đời không ai sánh bằng. Sau hai mươi mốt ngày vua mở tiệc ăn mừng và bảo quần thần bàn xem nên đặt tên cho công chúa là gì, do công chúa này đoan chánh hơn hẳn công chúa trước nên công chúa được đặt tên là Đại Huyễn hóa, vua lại giao cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng. Lúc đó có Tướng sư đến tâu với vua: “công chúa Thánh thiện này sau sẽ sanh một con trai có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, có đại oai đức và đạt được ngôi vị Chuyển luân Thánh vương”, vua nghe xong vui mừng gấp bội.
Thời gian sau, cả hai công chúa đều trưởng thành, vua Thiện ngộ sai sứ mang thư đến cho vua Sư tử giáp, trong thư viết: “đại phu nhân của tôi hạ sanh hai công chúa, dung mạo đoan chánh hiếm có trên đời. Tướng sư nói công chúa trưởng sau này sẽ sanh một trai đạt được ngôi vị Lực luân, còn công chúa nhỏ sau này sẽ sanh một trai đạt được ngôi vị Chuyển luân Thánh vương. Tôi nghe con trưởng của vua tên là Tịnh-phạn, tôi muốn đem một trong hai công chúa này gả cho Tịnhphạn”, vua xem thư xong rất vui mừng liền bảo sứ giả trở về bạch lại vua Thiện ngộ rằng: “hai công chúa của vua đều đầy đủ tướng tốt, tôi xin cưới cả hai cho Tịnh-phạn, nhưng vì Tiên vương của tôi có lời thề không lấy hai vợ nên tôi xin cưới công chúa nhỏ sẽ sanh Luân vương cho Tịnh-phạn trước; tôi hội họp quần thần và các quyến thuộc bàn việc này xong sẽ rước công chúa trưởng sau”, vua Thiện ngộ nghe rồi liền theo quốc pháp trang điểm cho công chúa nhỏ và cho năm trăm thị nữ theo hầu qua nước kia làm vợ Thái tử Tịnh-phạn. Lúc đó vua Sư tử giáp có một nước giáp ranh ở trong sơn cốc tên là Bát-trà-bà, nổi lên làm phản đánh phá các vùng lân cận; những người thuộc chủng tộc Thích ca chạy đến báo với vua Sư tử giáp, yêu cầu vua đem binh đánh dẹp, vua nói: “tôi nay đã già, không thể cầm binh chiến đấu”, họ nói: “xin thỉnh Thái tử đem binh đánh dẹp”, vua nói: “nếu các vị chấp thuận cho Thái tử một nguyện thì tôi sẽ cho phát binh”, mọi người chấp thuận, vua liền ra lịnh đánh trống chỉnh đốn bốn binh đi theo Thái tử dẹp loạn. Thái tử thống lĩnh bốn binh đánh dẹp hết giặc loạn, hoặc giết hoặc bắt trói, không một ai trốn thoát rồi dẫn quân trở về. Những người thuộc chủng tộc Thích ca rất vui mừng và hỏi vua về nguyện ước của Thái tử, vua nói: “chủng tộc Thích ca chúng ta trước kia có lời thệ là không lấy hai vợ”, họ liền hỏi vua: “vua muốn bỏ lời thề này hay sao?”, vua nói: “không phải như vậy, mà là ta muốn cho Thái tử lấy hai vợ, còn những người khác vẫn giữ lời thề xưa”. Được sự chấp thuận của những người trong chủng tộc Thích ca, vua liền sai sứ giả đến báo với vua Thiện ngộ: “những người trong chủng tộc Thích ca đều đã chấp thuận, nay tôi xin hỏi cưới công chúa trưởng cho Tịnhphạn”, vua nghe rồi rất vui mừng, liền cho năm trăm thể nữ theo hầu công chúa rồi đưa đến thành Kiếp-tỷ-la gả cho Thái tử Tịnh-phạn. Thời gian sau, vua Sư tử giáp băng hà, Thái tử lên nối ngôi cũng dùng chánh pháp giáo hóa, đất nước yên vui, nhân dân an lạc không có suy não ; một hôm vua cùng đại phu nhân lên lầu cao cùng các thể nữ vây quanh, nghe tấu kỹ nhạc vui vẻ tự tại. Lúc đó Bồtát ở cõi trời Đổ-sử-đa thường dùng năm pháp quán sát trong thế gian : 1 là quán nơi sẽ sanh ra, 2 là quán quốc độ, 3 là quán thời tiết, 4 là quán chủng tộc, 5 là quán cha mẹ thân sanh.
Vì sao Bồ-tát quán nơi sanh ? – thường pháp của Bồ-tát là tư duy các Bồ-tát trong quá khứ thọ sanh nơi nào, liền quán biết các vị ấy hoặc sanh trong nhà Bà-la-môn tịnh hạnh hoặc sanh trong nhà Sát-đế-lỵ tôn quý, hoặc làm thầy của Bà-lamôn hoặc làm thầy của Sát-đế-lỵ. Ta nên thọ sanh trong nhà Sát-đế-lỵ tôn quý, vì nếu ta thọ sanh trong nhà thấp hèn thì chúng sanh đời sau sẽ phỉ báng ta. Bồ-tát có phước lực tự tại nên có thể thọ sanh theo ý niệm, do nghĩa này nên Bồ-tát phải quán nơi sanh trước khi thọ sanh.
Vì sao Bồ-tát quán quốc độ ? – thường pháp của Bồ-tát là tư duy các Bồ-tát trong quá khứ thọ sanh ở quốc độ nào, liền quán biết nước Trung Thiên trúc sung túc, có đầy đủ lúa gạo, ngũ cốc trúng mùa, khất thực dễ được ; trong nước không có mười ác nghiệp, phần nhiều tu theo mười thiện nghiệp. Ta nên thọ sanh nơi nước Trung Thiên trúc, vì nếu ta sanh nơi biên địa thì các hữu tình sẽ phỉ báng ta. Bồ-tát có phước đức tự tại có thể thọ sanh theo ý niệm, do nghĩa này nên Bồ-tát quán quốc độ trước khi thọ sanh.
Vì sao Bồ-tát phải quán thời tiết ? – thường pháp của Bồ-tát là tư duy các Bồ-tát trong quá khứ sanh xuống nhơn gian vào lúc nào, liền quán biết chúng sanh có tuổi thọ từ tám vạn tuổi giảm dần xuống trăm tuổi thì Bồ-tát sẽ hạ sanh. Nếu người có tuổi thọ trở lên đến tám vạn tuổi thì chúng sanh sẽ không có các việc như buồn khổ, ngu si, đần độn, kiêu mạn, tham dục thì không phải là chơn pháp khí, khó thọ giáo hóa. Ngược lại nếu người có tuổi thọ ngắn từ một trăm trở xuống thì sẽ bị năm trược mê muội nặng nề ; năm trược là mạng trược, phiền não trược, hữu tình trược, kiến trược và kiếp trược ; năm trược nếu tăng trưởng thì không phải là chơn pháp khí. Nếu Bồ-tát xuất hiện ở thế gian vào đời ác trược thì ngoại đạo sẽ phỉ báng, cho nên Bồ-tát cũng như các Bồ-tát quá khứ không xuất hiện vào đời ác trược; do nghĩa này nên Bồ-tát quán thời tiết trước khi thọ sanh.
Vì sao Bồ-tát phải quán chủng tộc? Thường pháp của Bồ-tát là tư duy nên thọ sanh trong chủng tộc nào, nếu chủng tộc nào có bà con nội ngoại từ xưa đến nay không bị phỉ báng thì Bồ-tát sẽ thọ sanh trong chủng tộc đó; liền quán biết chủng tộc Thích ca là chủng tộc tôn quý, thuộc dòng Chuyển luân Thánh vương. Nếu Bồ-tát thọ sanh trong chủng tộc thấp hèn thì chúng sanh sẽ phỉ báng, do Bồ-tát từ vô lượng kiếp đến nay có năng lực tự tại nên có thể tùy ý niệm mà thọ sanh; do nghĩa này nên Bồ-tát quán chủng tộc trước khi thọ sanh.
Vì sao Bồ-tát phải quán cha mẹ thân sanh? Vì Bồ-tát thường tư duy các Bồ-tát quá khứ thọ vào thai của bà mẹ như thế nào, liền quán biết phu nhân Đại Huyễn hóa có dòng họ bảy đời thuần tịnh, không có dâm ô, hình dáng đoan nghiêm khéo tu giới phẩm; Bồ-tát ở trong thai của người nữ này đủ mười tháng vẫn không làm chướng ngại mọi sinh hoạt hằng ngày như tới lui, qua lại. Bồtát lại quán biết phu nhân từng phát nguyện vô thượng đối với chư Phật trong quá khứ là xin Phật gia hộ cho con trong đời vị lai sanh được đứa con thành quả Chánh giác. Nếu không như thế thì Bồtát sẽ bị chúng sanh phỉ báng là tại sao thọ thai vào người nữ vô tướng; do Bồ-tát đã gieo trồng căn lành thành tựu nên tự tại thọ sanh theo ý niệm, do nghĩa này Bồ-tát phải quán cha mẹ thân sanh trước khi thọ sanh.
Sau khi quán năm pháp này xong, Bồ-tát ân cần báo cho chư thiên cõi trời Lục dục biết đến ba lần: “từ cõi trời Đổ-sử-đa, ta sẽ hạ sanh trong nhơn gian, vào thai của đại phu nhân làm Thái tử của vua Tịnh-phạn. Sau khi đản sanh cõi kia, ta sẽ chứng quả thường trụ, trong chư thiên nếu có vị nào muốn được chứng quả như ta thì cùng ta thọ sanh ở cõi kia”, lúc đó chư thiên nói: “lành thay, Bồ-tát có biết chúng sanh ở châu Thiệm bộ cương cường khó giáo hóa với nhiều ác trược ; lại còn có Lục sư ngoại đạo, lục Thanh văn tùy ngoại đạo, Lục định ngoại đạo, họ chấp chặt tà kiến, khó thể cứu độ. Lục sư ngoại đạo là Ma già lê câu xa tử, San xà da tỳ la đồ tử, Ni kiền đà nhã đề tử, Ca cầu đà Ca-chiên-diên, A kỳ đà súy xá Khâm bà la và Bổ thích na. Lục thanh văn tùy ngoại đạo là Câu đạt đa Bà-la-môn, Thâu na đà, Già di, Phạm thọ, Liên thật và Xích hải tử. Lục định ngoại đạo là Uất đa già la ma tử, La la Ca-la ma, Thiện phạm chí, Tối thắng nho đồng, Hắc tiên và Ưu-lâu-tần-loaca-diếp nhã chi la. Các ngoại đạo này dùng tà pháp giáo hóa chúng sanh khiến cho sanh tham đắm chấp chặt tà kiến, khó thể cứu độ.
Vì sao Bồ-tát lại thọ sanh cõi đó, ở cõi trời Đổsử-đa này, mỗi tòa của chư thiên ngồi nghe pháp dài rộng đến mười hai Du thiện na, Bồ-tát hãy ở lại đây thuyết pháp cho chúng tôi nghe, sau khi nghe pháp, chúng tôi sẽ tín thọ để được lợi ích an lạc lâu dài”, Bồ-tát nghe rồi liền nói: “chư thiên hãy tùy ý trổi các kỹ nhạc”, chư thiên liền đồng trổi lên đủ các loại kỹ nhạc. Lúc đó Bồ-tát liền thổi loa lớn, tiếng loa lấn át tất cả các loại kỹ nhạc, Bồtát hỏi chư thiên là tiếng kỹ nhạc nào lớn nhất, đáp là tiếng loa, Bồ-tát nói: “các vị nên biết, giống như tiếng loa có thể lấn át các loại kỹ nhạc, khi ta hạ sanh ở châu Thiệm bộ , pháp mà ta nói ra có thể tồi phục được Lục sư ngoại đạo… khiến cho chúng sanh được pháp cam lồ đầy đủ. Ta thổi loa Vô thường sẽ khiến cho kiến chấp Thường của ngoại đạo bị diệt, ta thổi loa Không sẽ khiến cho kiến chấp Có của ngoại đạo bị diệt”, liền nói kệ:
“Sư tử điều phục các thú dữ,
Kim cương cắt đứt mọi vật cứng,
Đế thích chế ngự A-tu-la ,
Nhật quang hơn hẳn các ánh sáng”.
Nói kệ xong, Bồ-tát bảo chư thiên: “nếu các vị muốn được pháp cam lồ thanh tịnh đầy đủ thì hãy sanh vào sáu thành lớn của nước Trung Thiên trúc”. Lúc đó Thích-đề-hoàn-nhơn ngay nơi tòa ngồi quán biết Bồ-tát sẽ thọ sanh vào thai của phu nhân Ma-da nên suy nghĩ: “ta sẽ dùng thần thông lực làm cho thân bà được thanh tịnh, không còn cấu uế và khỏe mạnh để đợi Bồ-tát thọ sanh”, nghĩ rồi liền dùng thần thông lực làm cho thân phu nhân thanh tịnh. Lúc đó ở cõi trời Đổ-sử-đa vào ban đêm, Bồ-tát với hình dáng voi trắng sáu ngà hạ sanh ở nước Trung Thiên trúc, giáng thần vào thai của phu nhân Ma-da. Đêm đó phu nhân nằm mộng thấy bốn điềm:
Là thấy voi trắng sáu ngà đến gá vào thai.
Là thấy thân mình bay vọt lên không.
Là thấy mình đi lên núi cao.
Là thấy nhiều người vây quanh đảnh lễ.
Tỉnh dậy, phu nhân liền kể cho vua Tịnh-phạn nghe, vua liền cho mời Tướng sư đến giải mộng, Tướng sư nói: “dựa trên bốn điềm này thì phu nhân của vua sẽ sanh một trai có đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu trang nghiêm thân. Nếu nối ngôi vua sẽ đạt được ngôi vị Kim luân, chế phục cả bốn thiên hạ ; nếu xuất gia tu đạo thì sẽ chứng ngôi vị Pháp vương, danh vang khắp mười phương, là từ phụ của chúng sanh”. Tụng tóm lược:
“Khi ta đản sanh,
Bốn trời thủ hộ,
Như châu Minh nguyệt,
Được vật bao bọc,
Bằng chỉ sợi báu.
Người trí biết rồi,
Tự giữ năm giới,
Không khởi tham dục”.
Thường pháp của các Bồ-tát là khi từ cõi trời Đổ-sử-đa hạ sanh vào thai mẹ thì đại địa khắp mười phương đều chấn động, có ánh sáng lớn chiếu soi khắp mọi nơi; tất cả cảnh giới tùy nghiệp của chúng sanh trong sáu đường và những nơi mà ánh sáng mặt trời mặt trăng không chiếu đến được, cũng đều chiếu đến được khiến cho chúng sanh trong đây đều nói với nhau: “ánh sáng này trước nay chưa từng có, hay là chúng ta được thọ sanh vào cõi khác”. Lại nữa, khi Bồ-tát giáng thần vào thai mẹ, Thích-đề-hoàn-nhơn liền bảo thiên thần cõi trời Tứ thiên vương theo thủ hộ người mẹ, vì sợ người mẹ bị ác ma làm hại. Khi Bồ-tát thọ sanh, các chất nhơ uế trong thai mẹ không dính đến thân, giống như hạt châu Minh nguyệt được vật bao bọc không bị nhiễm ô. Thường pháp của Bồ-tát là khi ở trong thai, người mẹ thường thấy như người có mắt tuệ thấy vật báu được bao bọc bởi các chỉ sợi xanh vàng đỏ trắng, phân biệt rõ ràng. Thường pháp của Bồ-tát là khi ở trong thai, không làm cho người mẹ mệt mỏi mà luôn được an vui, tự nhiên người mẹ giữ năm giới: không sát sanh, trộm cắp… cho đến không còn khởi tham dục. Lúc đó phu nhân Ma-da bỗng khởi niệm muốn uống nước trong bốn biển, liền bạch vua, vua liền sai sứ giả mời một ngoại đạo giỏi về huyễn thuật tên là Xích nhãn, vị này dùng huyễn thuật hóa ra nước bốn biển rồi lầy nước đó đưa cho phu nhân uống, uống xong ý niệm của phu nhân liền dứt. Sau đó phu nhân lại khởi niệm muốn giải phóng cho các hữu tình đang bị giam giữ, liền bạch vua, vua liền ra lịnh cho quan giữ ngục giải phóng hết các tù nhân trong ngục thì ý niệm của phu nhân mới dứt. Sau đó phu nhân lại khởi niệm muốn đến trong vườn hoa dạo chơi, liền bạch vua, vua liền dẫn phu nhân đến trong vườn hoa dạo chơi thì ý niệm của phu nhân mới dứt. Sau đó phu nhân lại khởi niệm muốn đến trong vườn Lâm-tỳ-ni của vua cha mình dừng nghỉ, liền bạch vua, vua liền sai sứ đến bạch với vua Thiện ngộ, vua nghe rồi liền ra lịnh tưới quét vườn Lâm-tỳ-ni sạch sẽ cho phu nhân và các thể nữ đến dạo chơi. Khi phu nhân đi đến cây Vô ưu thấy hoa lá sum suê tươi tốt liền muốn hạ sanh nên đưa tay vịn cành cây, Thích-đề-hoàn-nhơn biết phu nhân trong lòng hổ thẹn không thể ở chỗ đông người mà hạ sanh liền được, nên làm phương tiện nổi mưa gió lớn làm cho mọi người tản xa ra rồi hóa làm một lão mẫu đứng trước phu nhân, phu nhân liền hạ sanh Thái tử, Thích-đề-hoàn-nhơn dùng tiên y đỡ lấy Thái tử, Thái tử bảo Đế thích đặt xuống đất, Đế thích vâng lời đặt Thái tử xuống đất rồi đứng cách xa một chút. Thường pháp của Bồ-tát là khi đản sanh, đại địa khắp mười phương đều chấn động, có ánh sáng lớn chiếu soi khắp mọi nơi; tất cả cảnh giới tùy nghiệp của chúng sanh trong sáu đường và những nơi mà ánh sáng mặt trời mặt trăng không chiếu đến được, cũng đều chiếu đến được khiến cho chúng sanh trong đây đều thấy lẫn nhau và nói rằng: “chẳng phải chỉ một mình ta sống ở đây, cũng có người khác cùng sống ở đây”. Thường pháp của Bồ-tát là khi đản sanh, thân không dính máu và chất nhơ uế khác; khi sắp sanh người mẹ không nằm, không ngồi mà đứng vịn cành cây, cũng không có khổ não khi sanh và sau khi sanh. Thường pháp của Bồ-tát là khi đản sanh, không cần ai dìu đỡ mà tự đi bảy bước rồi quán sát bốn phương và nói rằng: “đây là phương Đông, trong tất cả chúng sanh ta là tối thượng; đây là phương Nam, ta đáng được chúng sanh cúng dường; đây là phương Tây, ta không còn thọ thân sau; đây là phương Bắc, ta đã ra khỏi biển lớn sanh tử”. Lúc đó chư thiên cầm lọng trắng và phất trần trắng được trang sức bằng tạp báu che phía trên cho Bồ-tát; các Long vương dùng hai loại nước sạch thơm, nóng lạnh điều hòa để tắm cho Bồ-tát. Thường pháp của các Bồ-tát là ở chỗ đản sanh, ở trước người mẹ hiện ra một ao nước lớn để cho người mẹ có đủ nước tắm. Khi Bồ-tát đản sanh, chư thiên ở trên hư không rải các loại hương thơm vi diệu của cõi trời lên mình Bồ-tát như hương bột, hương chiên đàn, trầm thủy… và trổi đủ các loại nhạc trời.
Lúc đó tiên A-tư-đà đang ở trong hang đá của núi Kiết tất chỉ mê, tiên nhân này quán biết được tướng thành suy trong thế gian; tiên có một cháu ngoại tên là Na-la-đà thường đến cúng dường nên tiên tùy duyên chỉ dạy, Na-la-đà tín thọ nên cầu xin xuất gia làm đệ tử. Khi Bồ-tát đản sanh, trời đất sáng rực, Na-la-đà thấy tướng này rồi liền hỏi tiên nhân: “có phải là đời ác nên xuất hiện hai mặt trời, khiến cho trong hàng này lại có ánh sáng hay không? Tiên A-tư-đà nói kệ:
“Ánh nắng mặt trời rất nóng bức,
Ánh sáng này sáng sạch, mát dịu;
Lại chiếu sáng tận trong hang núi,
Ta đoán là ánh sáng Mâu ni.
Bồ-tát thần thông đại oai đức,
Khi vừa đản sanh, hiện ánh sáng;
Ánh sáng sáng sạch màu vàng ròng,
Chiếu soi khắp nơi trên thế gian”.
Na-la-đà bạch tiên: “xin cho con theo thầy đến gặp Bồ-tát”, tiên nhân nói: “Bồ-tát có đại oai đức, lại có thiên long bát bộ vây quanh, dù chúng ta có đến cũng không gặp được; hãy đợi khi Bồ-tát vào thành Kiếp-tỷ-la và được đặt ba tên, chúng ta đến mới được gặp”.
Khi Bồ-tát đản sanh, cùng lúc đó năm trăm cung nhơn mỗi người đều sanh một trai, trong đó Thế đạt ca là thượng thủ; lại có năm trăm cung nhơn mỗi người đều sanh một nữ, trong đó Chiên ny là thượng thủ; lại có năm trăm đại thần, vợ mỗi người đều hạ sanh một nam, trong đó Ô-đà-di là thượng thủ. Lại có năm trăm con voi, mỗi con đều sanh voi con, trong đó Báo sái đà tử là thượng thủ; lại có năm trăm con ngựa, mỗi con đều sanh ngựa con, trong đó Mã la ha mã tử là thượng thủ. Lúc đó năm trăm phục tàng báu đều tự hiển lộ ra, các quốc vương ở bốn phương đều hàng phục và đem đủ loại tạp vật đến cống hiến để phụng sự. Quần thần thấy các hiện tượng này rồi liền tâu cho vua biết, vua nghe rồi liền suy nghĩ: “con ta thành tựu tất cả sự nghiệp lành”, do đây vua liền đặt tên cho Thái tử là Thành tựu nhất thiết sự. Trước nay trong thành Kiếp-tỷ-la có một Dược xoa tên là Thích ca tăng trưởng, những người thuộc chủng tộc Thích ca trong thành này nếu có sanh trai hay gái thì phải đưa đến lễ bái Dược xoa này trước. Vì thế vua bảo đại thần đưa Thái tử đến lễ bái, đại thần vâng lịnh đặt Thái tử trên xe báu rồi đưa đến chỗ Dược xoa. Những người thuộc chủng tộc Thích ca tánh tình vốn thô tháo hung bạo, thường phân biệt ta người nhưng khi thấy Thái tử họ liền trở nên tịch tĩnh đứng yên ; do việc này nên vua Tịnh-phạn đặt thêm tên là Thích ca Mâu ni. Khi Thái tử được đưa đến miếu, Dược xoa này thấy Bồ-tát từ xa liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến đảnh lễ Bồ-tát; mọi người thấy rồi hết sức kinh ngạc liền đem việc này tâu cho vua biết, vua nghe rồi hết sức vui mừng nên đặt thêm tên cho Thái tử là Thiên trung thiên. Sau khi đưa Thái tử trở về cung, vua bảo các nhũ mẫu nuôi dưỡng tùy theo thời, các nhũ mẫu này vui mừng bồng Thái tử về trong cung nuôi dưỡng, hằng ngày sau khi dùng nước thơm tắm và thoa hương thơm cho Thái tử xong liền bồng đến chỗ vua, vua đặt Thái tử lên đầu gối ngắm nhìn tướng mạo của Thái tử, trong lòng rất vui sướng. Lệ thường người trong cung sanh con đều vời Tướng sư đến xem tướng, lúc đó vua cho vời Tướng sư đến xem tướng Thái tử. Tướng sư xem tướng Thái tử rồi nói: “Thái tử có đủ ba mươi hai tướng, nếu tại gia thì làm Kim luân Thánh vương thống trị bốn thiên hạ, dùng thiện pháp giáo hóa; lại có đủ bảy báu: bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, nữ báu, thần coi giữ phục tàng báu, thần chỉ huy quân đội báu và ngọc ma ni báu; lại có đủ ngàn con dũng kiện có thể hàng phục quân địch; những người trên thế gian sống hòa bình không xâm phạm lẫn nhau, cùng hành thiện pháp thù thắng. Nếu Thái tử xuất gia sẽ ở ngôi vị Pháp vương Như lai Ứng chánh đẳng giác, danh vang khắp nơi”, vua hỏi: “ba mươi hai tướng tốt là những tướng nào?”, Tướng sư nói: “ba mươi hai tướng tốt gồm có:
1. Là bàn chân an trụ bằng phẳng, đầy đủ tướng đại trượng phu;
2. Là dưới lòng bàn chân có tướng thiên bức luân;
3. Là ngón tay thon dài;
4. Là mu bàn chân đầy dặn.
5. Là tay chân mềm mại,
6. Là bàn tay, bàn chân có màn mỏng;
7. Là tay duỗi ra dài tới đầu gối;
8. Là bắp chân rắn chắc;
9. Là thân ngay thẳng;
10. Là thế phi tàng mật;
11. Là thân tướng đầy đặn như cây Ni-cồ-đà;
12. Là ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm;
13. Là lông trên thân thượng mĩ;
14. Là lông ở mỗi lỗ chân lông có màu xanh biếc và xoay về bên phải;
15. Là da có màu vàng ròng;
16. Là da mìn màng không dính bụi;
17. Là bảy chỗ trên thân gồm có hai tay, hai chân, hai vai và đảnh đều đầy đặn;
18. Là thân tướng oai vệ như Sư tử vương;
19. Là vai đầy đạn;
20. Là bắp tay rắn chắc;
21. Là thân tướng cao lớn;
22. Là 40 cái răng đều ngay ngắn;
23. Là răng khít;
24. Là răng trắng sạch;
25 Là hàm như Sư tử vương ;
26. Là lưỡi rộng dài, khi le ra có thể trùm cả mặt đến mé tóc;
27. Là vị trong miệng là vị tối thượng;
28. Là có âm thanh của trời Phạm, lời nói ra hòa nhã, âm vang như tiếng trống trời;
29. Là mắt xanh biếc;
30. Là lông mi như lông mi của Ngưu vương;
31. Là trên đảnh có nhục kế và
32. Là giữa hai lông mày có tướng bạch hào xoay về bên phải”.
Thường pháp của Bồ-tát là sau khi Bồ-tát đản sanh được bảy ngày thì mẹ của Bồ-tát qua đời và được sanh lên cõi trời Tam thập tam. Bồ-tát lại có thân đoan nghiêm thù thắng khiến mọi người thích ngắm nhìn không biết chán, giống như thợ khéo dùng vàng Diêm phù đàn đúc ra các hình tượng rồi dùng thiên y khoác lên khiến cho ánh sáng chiếu khắp nơi, Bồ-tát cũng vậy; như hoa sen được mọi người yêu thích, Bồ-tát cũng vậy. Lại nữa, mắt của Bồ-tát không nháy giống như cõi trời Tam thập tam, do nghiệp quả nên ngày đêm Bồ-tát thường thấy bốn phương, bốn phương góc và hai phương trên dưới trong khoảng một do tuần. Lại nữa, Bồ-tát có đại trí huệ, hiểu rõ các pháp trong thế gian và hiểu cả pháp nước.
Lúc đó Na-la-đà đến bạch với tiên A-tư-đà: “nay Bồ-tát đã vào thành Kiếp-tỷ-la, vua Tịnhphạn cũng đã đặt ba tên cho Bồ-tát, xin thầy hãy cùng con đến đó chiêm ngưỡng Bồ-tát”, vị thầy đồng ý, cả hai dùng thần thông lực nương hư không mà đi, nhưng do oai lực của Bồ-tát khiến họ thối thất thần thông, không thể nương hư không mà đi, đành phải đi bộ vào thành Kiếp-tỷ-la. Khi đã vào thành đến trước cửa cung, họ nói với người giữ cửa: “ông hãy vào tâu vua có tiên A-tư-đà đang ở ngoài cửa xin được gặp vua”, vua nghe rồi liền mang hương hoa ra nghinh đón hai tiên vào trong cung, mời ngồi rồi hỏi: “đại tiên từ xa đến có việc gì?”, đáp là muốn gặp Bồ-tát, vua nói: “Thái tử đang an giấc, xin hãy đợi một lát”, tiên đáp: “Bồ-tát đang an giấc, chúng tôi vẫn muốn chiêm ngưỡng”, vua liền dẫn hai tiên đến chỗ Bồtát, thấy Bồ-tát tuy ngủ vẫn mở hai mắt nên tiên A-tư-đà nói kệ:
“Như long mã đang bay,
Tạm ngủ rồi lại thức,
Như người thiện làm việc,
Miên cái (phiền não ngủ) không che được”.
Lúc đó Di mẫu bồng Thái tử trao cho tiên, tiên quỳ xuống đưa hai tay bồng rồi xem tướng Thái tử, kế hỏi vua: “vua đã mời các Tướng sư Bà-lamôn, họ đã xem tướng chưa?, đáp là xem rồi, lại hỏi xem như thế nào, vua đáp: “họ nói nếu nối ngôi vua sẽ là Kim luân Thánh vương, danh vang khắp mười phương”, tiên A-tư-đà nói kệ:
“Đại vương hãy nên biết,
Tướng sư không biết được,
Đời mạt không Luân vương,
Nhất định chứng Bồ-đề,
Tôi quán thấy Thái tử,
Sẽ trụ ngôi Pháp vương”.
Lúc đó tiên A-tư-đà đã biết Thái tử chắc chắn sẽ thành bậc Chánh giác, liền tự quán xem tuổi thọ của mình có được thấy Bồ-tát chứng quả Bồ-đề trong đời nay hay không. Liền quán thấy Bồ-tát mười chín tuổi xuất gia, sau sáu năm khổ hạnh được pháp Cam lồ; lại quán biết mình không bao lâu nữa sẽ qua đời, không thể thấy được Bồ-tát thuyết pháp độ sanh nên tự buồn thương rơi lệ.
Vua nhìn thấy rất kinh ngạc, liền dùng kệ hỏi:
“Trượng phu và nữ nhân,
Ai thấy đều vui mừng,
Không hiểu nay cớ sao,
Chỉ riêng Tiên buồn khóc,
Hay Thái tử của tôi,
Có tướng gì không tốt,
Lành thay, đại tiên nhơn,
Xin hãy mau vì nói”.
Tiên nói kệ đáp:
“Cho dù trên hư không,
Bỗng mưa xuống kim cương,
Đối với thân Thái tử,
Vẫn không tổn mảy lông.
Cho dù dao kiếm bén,
Khí độc, rắn độc cắn,
Cũng đều không hại được.
Tất cả người sợ hãi,
Thái tử còn bảo vệ,
Làm sao đấng Từ bi,
Lại lo có người hại.
Các tự tại Phạm thiên,
Đều đến để hộ vệ,
Như vậy bậc tối thắng,
Lo gì có người hại.
Chỉ vì tôi hận mình,
Già chết đã đến gần,
Không thấy chuyển pháp luân,
Cho nên tự buồn thương.
Về sau người thế gian,
Gặp được Bồ-tát này,
Sẽ nghe được diệu pháp,
Chứng được quả Tịch diệt”.
Lúc đó tiên A-tư-đà trong lòng tự hận suy nghĩ: “nay ta đã thối thất thần thông, nếu đi bộ ra thành mọi người nhìn thấy sẽ khinh thường ta”, nghĩ rồi liền tâu vua: “trước đây vua có nguyện tiên A-tư-đà sẽ ra vào thành này, nay tôi đi bộ đến đây để đáp lại nguyện của vua, giờ đi bộ trở về, mong vua vì tôi cho sửa sang đường sá trong thành”, vua liền ra lịnh dân chúng trang hoàng đường sá trong thành và nói: “nay tiên A-tư-đà đi bộ ra thành, dân chúng hãy tùy ý chiêm ngưỡng”, tiên cùng vua quan và các trưởng giả, cư sĩ, Bà-lamôn trước sau vây quanh ra khỏi thành rồi nói với vua: “vua hãy trở về cung, tôi xin từ giã”. Sau khi từ biệt, tiên A-tư-đà đi về phía trước rồi lên núi Tân đà chọn một nơi tốt để dừng ở, do đi đường xa nên mỏi mệt ngồi nghỉ, bỗng nhập định Tiên ; do nhập định Tiên nên được thần thông trở lại. Thời gian sau nhiễm bịnh, các đệ tử dùng đủ loại thuốc thang trị liệu nhưng bịnh không thuyên giảm, các đệ tử bạch : “thầy bị bịnh đã dùng nhiều loại thuốc thang vẫn không khỏi, thế gian vô thường không thể là nơi trú ẩn, chúng con muốn cầu tịch tĩnh. Thầy đã đạt được an lạc, vì sao không ban cho chúng con lời giáo huấn để chúng con được ngộ nhập”, tiên nói: “tuy ta xuất gia mong được pháp Cam lồ nhưng chưa chứng đắc, ta hổ thẹn không có gì truyền lại cho các con. Đồng tử thọ sanh trong chủng tộc Thích ca-sau này sẽ chứng quả vô thượng và sẽ dùng pháp cam lồ tế độ chúng sanh, lúc đó các con nên đến đó cầu xuất gia với vị ấy. Sau khi xuất gia, các con chớ ỷ mình là Ma-nạp-bạc-già mà hãy nổ lực siêng tu phạm hạnh để đắc pháp ; nếu việc tu hành thành tựu thì các con sẽ được vị Cam lồ”, tiên liền nói kệ:
“Từ đây qua phương Đông,
Con nên đến tìm cầu,
Chư Phật rất khó gặp,
Gặp rồi nên siêng tu”.
Kế nói kệ vô thường:
“Tích tụ đều tiêu tán,
Cao ngất ắt rơi rớt,
Hội họp ắt biệt ly,
Có mạng đều phải chết”.
Nói kệ xong liền qua đời, đệ tử Na-la-đà như pháp cúng dường rồi theo giờ mai táng, mai táng xong liền đi đến thành Bà-la-nê-tư trụ nơi đó và dạy chú Phệ đà của Bà-la-môn cho năm trăm Manạp-bạc-già. Na-la-đà có họ là Ca-chiên-diên nên mọi người ở đây đều gọi ông là Ca-chiên-diên. Khi Bồ-tát thành Phật, Ca-chiên-diên này đến gặp Phật nghe pháp và được liễu thoát sanh tử, được Niết-bàn tịch tĩnh tối thượng cứu cánh và được Phật gọi là Đại Ca-chiên-diên.
Lúc đó Bồ-tát đang ngồi trên đùi nhũ mẫu, ăn cơm gạo thơm đựng trên mâm vàng; thấy Bồ-tát ăn quá nhiều nên nhũ mẫu giật lấy mâm vàng, Bồtát dùng tay đè xuống không cho nhũ mẫu giật lấy, cho đến tám nhũ mẫu cũng không giật lấy được nên đến tâu vua; vua và các cung nhơn cũng không giật lấy được; vua ra lịnh quần thần cùng giật lấy cũng không giật được; quần thần dùng móc kéo mâm vàng cũng không thể giật được, cho đến dùng năm trăm con voi kéo dây giật lấy cũng không giật được. Thấy mọi người đều hết sức giật lấy mâm vàng này, Bồ-tát suy nghĩ: “những người này muốn thử sức mạnh của ta”, nghĩ rồi liền dùng ngón tay móc sợi dây kéo khiến cho sức voi không địch nổi nên phải thụt lùi. Vua thấy việc này liền suy nghĩ: “chỉ dùng một ngón tay mà khiến cho năm trăm con voi thối lui, nếu dùng cả hai tay thì chắc địch được ngàn voi”, vua liền đặt thêm tên cho Bồ-tát là Thiên tượng lực.
Bồ-tát khi nhập học có năm trăm đồng tử theo hầu, lúc đó có một học sĩ tên là Thái quang giáp thông hiểu năm trăm loại sách nên vua Tịnh-phạn dẫn Bồ-tát cùng năm trăm đồng tử đến đó cầu học. Học sĩ trao cho Bồ-tát một bộ sách, Bồ-tát liền nói là đã hiểu thông rồi, đưa bộ sách thứ hai… cho đến năm trăm bộ sách, Bồ-tát đều nói là đã thông hiểu rồi và hỏi học sĩ còn bộ sách nào khác không, học sĩ nói: “đây là năm trăm bộ sách đang lưu hành trong thế gian, những sách khác thì tôi không biết”. Bồ-tát liền tạo một bộ sách đưa cho học sĩ và hỏi: “sách này viết bằng loại chữ gì và tên sách là gì ?”, học sĩ nói: “tôi không biết loại chữ này và tên của bộ sách này” , Bồ-tát nói: “nếu trong thế gian xuất hiện Bồ-tát và Kim luân vương thì loại chữ của bộ sách này cũng sẽ xuất hiện trong thế gian”. Lúc đó trong hư không, vua trời Phạm thiên xuất hiện và nói: “hai bậc ấy cùng xuất hiện với loại chữ mà Bồ-tát vừa nói là sự thật”, vua và quần thần nghe lời này đều rất vui mừng, loại sách mà Bồ-tát đưa cho học sĩ xem là sách Phạm thiên. Học văn xong, cậu của Bồ-tát là Ma-na-lợi đưa Bồ-tát và các đồng tử đến học cách cưỡi ngựa, bắn cung. Trong thành Kiếp-tỷ-la có một bác sĩ tên là Đồng thần, thông thạo cách bắn cung và chiến đấu, khi ông đến dạy cho Bồ-tát, Ma-na-lợi liền nói: “Thái tử có tâm từ bi lớn, ông hãy dạy cho Thái tử và các đồng tử này tất cả các pháp diệu, chỉ riêng có Đềbà-đạt-đa là đừng dạy, vì Đề-bà-đạt-đa bản tánh độc ác, nếu thông thạo pháp này sẽ giết hại nhiều chúng sanh”, vị thầy nghe rồi liền dạy cho Bồ-tát tường tận các pháp diệu, Bồ-tát nhờ đó học thông năm cách bắn cung:
1. Là bắn được các vật ở xa; 2. Là nghe được tiếng động dù mắt không thấy vẫn có thể bắn trúng theo ý niệm; 3. Là muốn bắn đến chỗ nào thì bắn trúng đến chỗ đó; 4. Là có thể tùy theo ý muốn làm cho người sống hay chết mà bắn vào yếu huyệt trên thân của người đó; 5. Là không kể gần hay xa, hễ bắn là rất chính xác.
Cho nên tiếng đồn Bồ-tát văn võ song toàn lan xa, lúc đó có nhiều người ở thành Phệ-xá-ly bắt được một con voi đầy đủ tướng tốt, muốn đem voi báu này dâng cho Thái tử. Sau khi trang nghiêm đủ thứ cho voi, họ đưa voi đến thành
Kiếp-tỷ-la, lúc đang đứng trước cửa cung vua thì vương tử Đề-bà-đạt-đa đi ra, thấy voi báu này liền sanh tâm ưa thích nên hỏi voi này đem cho ai, đáp là dâng cho Thái tử, Đề-bà-đạt-đa nghe rồi liền nổi giận nói: “Thái tử chưa làm Kim luân vương, vì sao các người lại đem voi báu đến”, nói rồi liền đến gần voi đấm nó một đấm, voi liền ngã lăn ra chết, đánh voi chết xong liền bỏ đi. Lúc đó vương tử Nan-đà đi ra thấy voi chết nay liền hỏi rõ nguyên do rồi nói: “Đề-bà-đạt-đa thật không tốt”, lại suy nghĩ: “đây chăng phải là Đề-bà-đạt-đa tự thử sức mình hay sao”, nghĩ rồi liền nắm đuôi voi kéo đi hơn ba mươi bảy bước rời khỏi đường cái rồi bỏ ở đấy. Sau đó Thái tử đi ra thấy voi chết này liền hỏi rõ nguyên do rồi nói: “người đánh chết voi là không tốt, người kéo voi ra khỏi đường cái là tốt”, lại suy nghĩ: “há chẳng phải hai người tự thử sức mình hay sao, ta cũng phải thử sức”, nghĩ rồi liền nắm vòi voi quăng ra khỏi thành bay xa bảy dặm mới rơi xuống đất và được chôn luôn ở đó nên chỗ đó được gọi là chỗ táng voi. Các trưởng giả và Bàla-môn có tín tâm liền xây tháp ở đó rồi nói kệ:
“Thiên thọ đánh chết con voi lớn,
Nan-đà kéo ba mươi bảy bước,
Bồ-tát quăng voi ra khỏi thành,
Như quăng ngói gạch lên hư không”.
Lúc đó các đồng tử thuộc dòng Thích rủ nhau vào rừng chơi trò luân đao để chặt cây, Bồ-tát cũng cùng năm trăm đồng tử vào rừng; các đồng tử kia đua nhau múa luân đao khiến cho cây cối đều nghiêng ngã, Bồ-tát cũng múa luân đao nhưng cây cối dù bị đứt cũng không ngã. Thấy cây không ngã các đồng tử kia nói: “nghe nói Thái tử oai lực mạnh mẽ, thông đạt năm tài nghệ, vì sao múa luân đao lại không chặt gãy một cây nào. Chặt cây là thuật nhỏ mà còn như vậy, huống chi là các thuật khác”, lúc đó thiên thần thấy họ chê bai Thái tử liền muốn giải nghi nên tạo ra một luồng gió mạnh làm cho cây rừng ngã ào ào xuống, các đồng tử kia thấy rồi hết sức kinh ngạc và khen là kỳ diệu. Sau đó các vương tử lại cùng Bồ-tát thi bắn cung, họ dùng bảy hàng cây Thiết đa la, bảy hàng trống lớn và ở giữa là bảy con heo sắt làm mục tiêu. Đề-bàđạt-đa bắn qua một cây Đa la, một trống và một con heo thì tên mới dừng; Nan-đà bắn qua hai cây Đa la, hai trống và hai con heo thì tên mới dừng ; Bồ-tát bắn qua hết bảy cây, bảy trống và bảy heo, sức của mũi tên bay qua khỏi địa luân đến mé nước mới dừng. Long vương nhổ mũi tên này, từ lỗ hổng này vọt lên nguồn nước thơm ngon, ai uống nước này đều khen là hi hữu. Các cư sĩ và Bà-lamôn tín tâm liền xây tháp nơi dòng nước đó để cúng dường.
Sau đó Bồ-tát cùng các đồng tử cưỡi xe ngựa trở về trong thành, bên ngoài cửa thành có các tướng sư, từ xa thấy Bồ-tát có oai quang thù đặc liền tranh nhau đoán: “nếu trong mười hai năm trở lại mà Thái tử không xuất gia thì sẽ lên ngôi Chuyển luân Thánh vương”. Vua Tịnh-phạn nghe được lời này rất vui mừng liền bảo quần thần: “ta nghe các tướng sư nói nếu trong mười hai năm trở lại mà Thái tử không xuất gia thì sẽ lên ngôi Chuyển luân Thánh vương. Vậy các khanh nên tăng sự phòng hộ trong mười hai năm này đừng cho Thái tử xuất gia để Thái tử lên ngôi Kim luân vương, chúng ta sẽ cùng ở trên kim luân bay trên hư không quán sát khắp bốn thiên hạ. Các khanh hãy mau xây cung điện, tuyển chọn mỹ nữ để Thái tử vui vẻ hưởng thọ”, quần thần tâu: “Thái tử không thích thanh hương Ái dục của thế gian thì làm sao dùng mỹ nữ khiến cho Thái tử Ái luyến được”, vua nói: “Thái tử chưa thích hưởng thọ dục lạc là vì chưa gặp mỹ nữ, các khanh nên tuyển chọn mỹ nữ tuyệt thế thì nhất định Thái tử sẽ ưa thích”. Lúc đó quần thần cùng bàn luận: “tuy Thái tử không Ái nhiễm, chúng ta cũng cứ lo liệu đủ thứ đồ trang sức rồi cho từng thiếu nữ đến gặp Thái tử, Thái tử sẽ lấy đồ trang sức này tặng cho họ, nếu cô nào Thái tử ưa thích sẽ chọn để hầu hạ Thái tử”, bàn xong liền lo xây cất cung điện với tòa sư tử bằng trăm loại châu báu để Thái tử ngồi trên đó, dưới tòa để đủ loại đồ trang sức bằng châu báu chất thành đống rồi ra lịnh cho tất cả thiếu nữ con quan cho đến dân thường từng người đi đến trước Thái tử, Thái tử sẽ lấy một loại đồ trang sức này tặng cho họ.
Lúc đó Chấp trượng Thích chủng có con gái tên là Da-du-đà-la dung sắc tuyệt trần, ông bảo con gái: “hôm nay Thái tử sẽ tặng cho các thiếu nữ đồ trang sức quý giá, con cũng nên đến đó”, Da-du-đà-la nói: “trong nhà chúng ta há không có những thứ ấy hay sao, cần gì vật của người khác”, người cha nói: “khi Thái tử tặng đồ trang sức, nếu ưa thích ai thì người đó được làm vợ Thái tử”, Dadu-đà-la nói: “nếu con được chọn và nếu Thái tử có thích nhiều cô gái khác thì con chắc chắn sẽ là Đại vương phi”, người cha nói: “chắc chắn sẽ như vậy, con hãy đi nhanh lên”. Da-du-đà-la liền trang điểm thật đẹp với những đồ trang sức quý giá rồi cùng các thị nữ đi đến trong cung, bước đi của cô thung dung, thân ngay thẳng không ngó hai bên và đến đứng trước Thái tử. Lúc đó Thái tử đã ban hết đồ trang sức quý báu cho các thiếu nữ, không còn gì khác để tăng cho Da-du-đà-la ngoài chiếc nhẫn vàng, Thái tử nhìn Da-du-đà-la và đưa ngón tay có đeo nhẫn lên. Da-du-đà-la cùng Thái tử đời trước đã có nhân duyên yêu thương nhau nên cô liền bước lên tòa sư tử nhận lấy nhẫn vàng từ ngón tay của Thái tử. Quần thần thấy việc này rồi liền nói với nhau: “Da-du-đà-la thuộc dòng họ cao quý, dung sắc đoan nghiêm nhất trong các thiếu nữ, có thể tuyển vào cung hầu hạ Thái tử”, nói rồi liền tâu việc này lên vua, vua cho hai vạn thể nữ vây quanh rước Da-du-đà-la vào cung Thái tử.
Lúc đó ở thế gian có một cây mới mọc tên là Thiện kiên, chỉ trong một đêm nó cao đến một trăm khuỷu tay, khi chưa gặp ánh nắng mặt trời thì thể chất của nó mềm mại, dùng móng tay bấm liền đứt; nhưng khi gặp ánh nắng mặt trời chiếu vào thì cây liền cứng chắc, dù dùng dao búa hay lửa đề chặt phá hay đốt, nó vẫn không tổn hoại. Sau khi Bồ-tát đản sanh, ở giữa hai thành Kiếp-tỷ-la và Thiên thị có một con sông lớn tên là Lư đề ha, cây Thiện kiên này mọc bên bờ sông, nước sông dâng cao khi rút xuống đã cuốn theo lớp cát đất trên bờ, làm cho rễ cây Thiên kiên lộ ra trên mặt đất, sau đó nó bị gió thổi mạnh ngã đổ nằm chắn giữa sông, khiến cho bên kia thành Kiếp-tỷ-la bị chìm ngập còn bên nay thành Thiên thị thì khô cạn. Vua thành Thiên thị sai sứ đến báo với vua Tịnh-phạn: “cây Thiện kiên ngã đổ nằm chắn giữa sông khiến cho cả hai thành đều tai hại, trong nước của vua có các vương tử sức lực mạnh khỏe, xin vua ra lịnh cho họ dẹp bỏ cây này”, vua nói: “ta làm sao có thể xử phân việc này”, lúc đó có một đại thần tên là Xiển đà tâu vua: “xin vua để thần lo liệu việc này, thần có cách làm cho các vương tử không cần vua ra lịnh, cũng sẽ tự dẹp bỏ cây này”, vua chấp thuận. Xiển đà liền cho quét dọn trang hoàng khu rừng bên bờ sông làm nơi vui chơi rồi thỉnh các vương tử đến đó vui chơi. Khi các vương tử đến nơi, Đề-bà-đạt-đa thấy có một con chim nhạn bay ngang liền giương cung bắn, chim trúng tên rơi xuống chỗ Bồ-tát ngồi, Bồ-tát liền cầm chim nhạn lên nhổ tên ra rồi đắp thuốc cho nó. Lúc đó Đề-bàđạt-đa bảo thị tùng đến nói với Bồ-tát: “chim nhạn này do vương tử Đề-bà-đạt-đa bắn trúng, xin hãy trả lại cho vương tử”, Bồ-tát nói: “từ khi ta phát tâm Bồ-đề thì tất cả hữu tình đều thuộc về ta trước rồi, sao có thể nói chim nhạn này thuộc của vương tử đó được”. Do nhiều đời trước, Đề-bà-đạt-đa đã kết oán với Bồ-tát rồi nên nay nghe được lời này liền ôm lòng sân hận ; tuy thân sau cùng này của Bồ-tát đã dứt hết oán kết đối với chúng sanh, nhưng chỉ riêng đối với Đề-bà-đạt-đa là còn chút tập khí oán thù, nên khiến vì con chim nhạn này mà lần đầu tiên tranh chấp với Đề-bà-đạt-đa. Lúc đó vua thành Thiên thị ra lịnh cho dân chúng cùng ra sức dẹp bỏ cây nên gây náo loạn, nghe tiếng náo loạn này Bồ-tát liền hỏi nguyên do, đại thần Xiểnđà liền kể lại sự việc, Bồ-tát liền nói: “ta sẽ tới đó dẹp bỏ cây”. Khi vừa đến nơi bỗng có một con rắn độc từ trong lỗ hổng bên đường vọt ra, Ô-đà-di sợ nó làm hại Bồ-tát nên rút dao ra chặt nó làm hai khúc, rắn phun khí độc dính vào thân khiến da biến thành sắc đen nên từ đó được gọi là Hắc Ôđà-di. Lúc đó Đề-bà-đạt-đa dùng sức kéo cây nhưng chỉ làm nó động đậy mà thôi, Nan-đà dùng sức nhấc nó lên được một chút, Bồ-tát thấy vậy dùng sức ném cây lên bờ, cây gãy làm hai đoạn nằm ở hai bên bờ sông rồi nói với mọi người : “cây Thiện kiên này thuộc loại cây thuốc có thể trừ được bịnh nóng, các vị hãy chặt cây thành miếng nhỏ, mài thành bột ; nếu bị khí độc hay ung nhọt thoa thuốc này sẽ được lành”. Khi trở về thành, ngoài cửa thành có một tướng sư nói: “trong bảy ngày nữa nếu Bồ-tát không xuất gia thì sẽ lên ngôi Chuyển luân Thánh vương”. Lúc đó có một cô gái dòng họ Thích tên Kiều-tỷ-la ở trong tụ lạc Chung thanh đang đứng trên lầu gác cao, Bồ-tát khi vào thành từ xa nhìn thấy cô gái này liền ấn ngón chân khiến cho xe dừng lại, mọi người thấy việc này liền cho là cô gái đã được lòng của Bồ-tát nên tâu vua, vua liền cho hai vạn thể nữ vây quanh rước Kiều-tỷ-la vào cung Thái tử.
Lúc đó Bồ-tát muốn dạo chơi vườn hoa nên bảo người đánh xe chuẩn bị xe, trên đường đi Bồtát thấy một người già khí lực yếu ớt, thân hình gầy ốm, khòm lưng đang chống gậy bước đi, chân run rẩy, râu tóc bạc phơ. Thầy rồi liền hỏi người đánh xe đó là người gì, đáp là người già không bao lâu nữa sẽ chết, lại hỏi sau này ta có bị như vậy không, đáp là cũng sẽ bị như vậy. Thái tử nghe rồi ưu sầu không vui liền bảo quay xe trở về cung, đến trong cung liền ngồi tư duy về khổ của già suy rồi nói kệ:
“Bỗng gặp người già yếu như thế,
Chống gậy bước đi, chân run rẩy,
Thân ta cũng sẽ già suy như thế,
Làm sao thoát khỏi khổ già này”.
Lúc đó vua Tịnh-phạn hỏi người đánh xe: “Thái tử ra thành dạo chơi có vui vẻ không?”, người đánh xe liền đem sự việc trên kể lại rồi nói: “hiện giờ thái từ đang ngồi trong cung tư duy về khổ của già suy”. Vua nghe rồi liền suy nghĩ: “lúc Thái tử đản sanh, tướng sư nói là sẽ xuất gia tu đạo, chắc là ứng vào việc này. Ta nên cho tăng thêm thú vui ngũ dục cho Thái tử được vui ”, nghĩ rồi liền ra lịnh tăng thêm thú vui ngũ dục cho Thái tử được vui. Tụng rằng:
“Vua cha nghe người đánh xe nói,
Liền nhớ nghĩ đến lời Tướng sư,
Tăng gấp bội thú vui ngũ dục,
Muốn cho Bồ-tát không xuất gia”.
Sau đó Bồ-tát lại muốn ra thành dạo chơi nên bảo người đánh xe chuẩn bị xe, trên đường đi Bồtát thấy một người bịnh nằm bên đường, thân hình gầy ốm, vàng vọt không ai muốn nhìn, liền hỏi người đánh xe đó là người gì, đáp là người bịnh không bao lâu nữa sẽ chết, lại hỏi ta có bị như thế không, đáp là không ai thoát khỏi bịnh tật. Thái tử nghe rồi ưu sầu không vui liền bảo quay xe trở về cung, vào đến trong cung liền ngồi tư duy về khổ của bịnh tật. Lúc đó vua Tịnh-phạn hỏi người đánh xe: “Thái tử ra thành dạo chơi có vui vẻ không?”, người đánh xe đem sự việc trên kể lại, vua nghe rồi liền cho tăng thêm thú vui ngũ dục để Thái tử được vui. Tụng rằng:
“Sắc thanh hương thượng diệu,
Các vị xúc tối thắng,
Thọ hưởng ngũ dục lạc,
Chớ bỏ ta xuất gia”.
Sau đó Bồ-tát muốn ra thành dạo chơi nên bảo người đánh xe chuẩn bị xe, trên đường đi Bồ-tát thấy một người chết nằm trong một chiếc xe nhiều màu, trước xe có một người bưng lư hương đi trước, sau xe có nhiều nam nữ xõa tóc khóc than thảm thiết. Bồ-tát liền hỏi người đánh xe đó là người gì, đáp là người chết, lại hỏi sao gọi là người chết, đáp là người sanh khí đã hết, không thể gặp lại cha mẹ, anh chị em, vợ con và quyến thuộc nữa, lại hỏi ta có bị như vậy không, đáp là cũng bị như vậy; Bồ-tát nghe rồi trong lòng ưu sầu không vui, liền bảo quay xe trở về cung. Vua Tịnh-phạn cũng như trước hỏi người đánh xe Thái tử ra thành dạo chơi có vui vẻ không, người đánh xe đem sự việc trên kể lại và nói: “Thái tử hiện đang tư duy về khổ của chết chóc”, vua nghe rồi liền cho tăng thêm thú vui ngũ dục để Thái tử được vui. Tụng rằng:
“Thành tối thắng này rất tráng lệ,
Bậc Thiên trung Thiên hãy trụ lâu,
Tăng thêm ngũ dục để hoan lạc,
Giống như vườn Hoan hỉ ngàn mắt”.
Lúc đó chư thiên cõi trời Tịnh cư cùng suy nghĩ: “Bồ-tát vốn có lực nhân thật lớn, nhân lớn phải gặp duyên lớn, chúng ta nên tạo duyên lớn cho Bồ-tát”, nghĩ rồi liền hóa làm một Sa môn cầm tích trượng, ôm bát theo thứ lớp khất thực. Lúc đó Bồ-tát cũng muốn ra thành dạo chơi nên bảo người đánh xe chuẩn bị xe, trên đường đi Bồ-tát nhìn thấy Sa môn này liền hỏi người đánh xe đó là người gì, đáp là người xuất gia, lại hỏi sao gọi là người xuất gia, đáp: “người này thiện tâm tu hạnh lành, trụ nơi tốt đẹp, ba nghiệp thân khẩu ý đều thanh tịnh. Do lòng tin nên cạo bỏ râu tóc, mặc y Như lai, lìa bỏ thế tục, hướng tới Niết-bàn, nên gọi là người xuất gia”, Bồ-tát liền bảo người đánh xe cho xe tới gần Sa môn rồi hỏi Sa môn: “ông là người gì, vì sao cạo bỏ râu tóc, đắp y khác sắc, tay cầm tích trượng, ôm bát khất thực để sống như thế?”, đáp là người xuất gia, lại hỏi sao gọi là người xuất gia, đáp: “ thiện tâm tu hạnh lành, trụ nơi tốt đẹp, ba nghiệp thân khẩu ý đều thanh tịnh. Do lòng tin nên cạo bỏ râu tóc, mặc y Như lai, lìa bỏ thế tục, hướng tới Niết-bàn, nên gọi là người xuất gia”, Bồ-tát nghe rồi liền khen lành thay rồi khởi niệm cũng muốn xuất gia, nghĩ rồi liền bảo quay xe trở về cung, vào trong cung rồi lặng lẽ suy tư về việc xuất gia. Vua Tịnh-phạn cũng như trước hỏi người đánh xe Thái tử ra thành dạo chơi có vui vẻ không, người đánh xe liền đem sự việc trên kể lại rồi nói: “hiện giờ Thái tử đang suy tư về việc xuất gia”, vua nghe rồi ưu sầu không vui suy nghĩ: “khi Thái tử đản sanh, Tướng sư nói nếu Thái tử không lên ngôi thì chắc chắn sẽ xuất gia. Xét sự việc hôm nay ắt là giờ xuất gia sắp đến, ta nên tìm cách cản ngăn. Nên đưa Thái tử xem tịch điền để Thái tử quên việc xuất gia”, nghĩ rồi liền vào cung bảo Thái tử cùng đi xem tịch điền. Nghe vua cha bảo cùng đi xem tịch điền, Thái tử không thể trái lời cha nên lên xe đi, thân tuy đi đến đồng ruộng, nhưng tâm vẫn suy tư về việc xuất gia. Trên đường đi, Thái tử thấy năm trăm phục tàng báu đều hiện và phát ra tiếng : “lành thay Thái tử, các phục tàng báu này đều là quyến thuộc của Ngài trong quá khứ, Ngài hãy lấy và tùy ý thọ dụng”, Thái tử nói: “đó đều là tư tài si quyến thuộc trong quá khứ, không ngừng tích tụ, không biết xả bỏ, nay ta không cần dùng nữa, các ngươi hãy đi đi”, phục tàng báu lại phát ra tiếng: “nếu Thái tử không thọ dụng thì chúng tôi sẽ vào biển lớn”, Thái tử nói tùy ý nên các phục tàng này đều vào biển lớn. Bồtát tiếp tục đi đến chỗ cày ruộng, thấy các nông phu thân dính đầy bụi đất, mồ hôi nhễ nhãi, tay cầm roi đánh trâu cày dính máu; lại thấy con trâu bị đánh nứt da, đói khát bức bách, gầy ốm mệt nhọc, lại bị các con đĩa bám vào chỗ da nứt để hút máu… trong lòng thương xót nên hỏi nông phu: “ông lệ thuộc vào ai?”, đáp là lệ thuộc Thái tử, liền nói: “nay ta phóng thích cho các ông tự do, tự làm ăn kiếm sống không lệ thuộc vào ta nữa. Những con trâu cày này cũng thả nó được tùy ý kiếm cỏ nước nuôi thân”. Sau đó Bồ-tát đến ngồi bên gốc cây Thiệm bộ và nhập Tam muội vô lậu tương tợ thứ nhất, những người tùy tùng cũng ngồi gần đấy để hầu Bồ-tát. Lúc đó vua Tịnh-phạn không thấy Thái tử liền tìm kiếm và thấy Thái tử đang nhập định bên gốc cây Thiệm bộ, mặt trời đã ngã về Tây, tất cả các bóng cây đều nghiêng theo ánh mặt trời, chỉ có cây Thiệm bộ vẫn đứng yên để che mát cho Thái tử. Vua thấy rồi liền suy nghĩ: “oai đức của con ta thật lớn, mặt trời đã ngã về Tây, tất cả các bóng cây đều nghiêng theo ánh mặt trời, chỉ có cây Thiệm bộ vẫn đứng yên để che mát cho Thái tử”, vì quá vui mừng nên sanh tâm cung kính, vua liền nghiêng mình cúi đầu lễ bái Thái tử, yêu cầu Thái tử xuất định để cùng trở về cung. Khi đi ngang rừng thây chết, Thái tử nhìn thấy các tử thi sình thối, trong lòng càng ưu sầu nên ngồi kiết già suy tư về già bịnh chết. Vị tướng sư nói nội trong bảy ngày nếu Thái tử không xuất gia thì sẽ lên ngôi Chuyển luân Thánh vương nên nói kệ:
“Thái tử không xuất gia,
Nội trong vòng bảy ngày,
Khi mặt trời vừa mọc,
Liền lên ngôi Kim luân,
Đủ bảy báu tự tại,
Thái tử sẽ như vậy,
Trong nước không lao dịch,
Ngoài nước giặc lặng yên.
Nếu Thái tử xuất gia,
Không sợ ngồi giữa rừng,
Chứng đắc Nhất thiết trí,
Độ thoát các chúng sanh”.
Khi Bồ-tát vào thành, có một người thuộc chủng tộc Thích ca tên là Bất quá thời, ông có con gái tên là Lộc vương đang đứng bên trong cửa sỗ trên lầu cao, ông thấy Bồ-tát từ xa liền nói kệ:
“Mẹ an lạc sanh ra,
Cha an lạc nuôi dưỡng,
Nàng ấy rất an lạc,
Sẽ gả cho Thái tử”.
Thái tử nghe âm thanh này thành câu: “Ngài là bậc tối thắng, hãy tư duy về Niết-bàn tịch tĩnh”, nên sanh hoan hỉ liền cởi chuỗi ngọc trên cổ ném lên hư không, do oai lực của Bồ-tát nên chuỗi ngọc rơi ngay vào cổ của Lộc vương. Mọi người thấy việc này rồi liền tâu vua, vua liền ra lịnh cho hai vạn thể nữ vây quanh rước Lộc vương vào cung của Thái tử. Trước sau Thái tử có ba phu nhân: Da-du-đà-la, Kiều-tỷ-ca và Lộc vương; trong số đó Da-du-đà-la là đại phu nhân.
Lúc đó vua Tịnh-phạn đọc kệ của tướng sư rồi liền triệu bốn anh em Cam lộ đến để bàn việc canh chừng không cho Thái tử xuất gia trong vòng bảy ngày. Vua cho xây bảy lớp hào thành, các cửa thành đều làm bằng sắt, trên mỗi cửa đều có treo linh, khi đóng hay mở đều kêu vang xa bốn mươi dặm. Trong chỗ Thái tử ở, vua cho kỹ nữ tấu các loại kỹ nhạc và vây quanh múa hát, bên ngoài cho các đại thần, tướng quân thay phiên canh giữ. Các cửa ở nội cung thường được đóng kín, nếu có việc cần qua lại thì trên thành có đặt cái thang do năm trăm người khiêng nó di chuyển ; khi cửa mở hay đóng đều phát ra tiếng, vua cũng nghe được và nếu nghe tiếng cửa mở thì các cấm quân đều cầm giáo nhọn chạy ra. Nơi bốn cửa thành đều có người thay phiên canh giữ, lúc đó vua Tịnh-phạn trấn giữ cửa thành Đông, vua Hộc-phạn trấn giữ cửa thành Nam, vua Bạch phạn trấn giữ cửa thành Tây, vua Cam lộ phạn trấn giữ cửa thành Bắc. Tướng Đại danh Thích ca đi tuần, khi đến cửa thành Đông liền hỏi: “ai trấn giữ cửa này”, vua Tịnh-phạn đáp: “chính ta-trấn giữ”, tướng Đại danh nói: “canh phòng cẩn thận thì tốt, ngủ mê thì xấu”, kế nói kệ:
“Ngủ mê như người chết,
Người ấy thuộc ma vương.
Người trí thường tỉnh thức,
Cho nên siêng canh giữ”.
Khi đi tuần tới cửa thành nam, tướng Đại danh liền hỏi: “ai trấn giữ cửa này”, vua Hộc-phạn đáp: “chính ta-trấn giữ”, tướng Đại danh nói: “canh phòng cẩn thận thì tốt, ngủ mê thì xấu”, kế nói kệ:
“Ngủ mê như người chết,
Người ấy thuộc ma vương.
Người trí thường tỉnh thức,
Cho nên siêng canh giữ”.
Khi đi tuần tới cửa thành Tây, tướng Đại danh liền hỏi: “ai trấn giữ cửa này”, vua Bạch phạn đáp: “chính ta-trấn giữ”, tướng Đại danh nói: “canh phòng cẩn thận thì tốt, ngủ mê thì xấu”, kế nói kệ:
“Ngủ mê như người chết,
Người ấy thuộc ma vương.
Người trí thường tỉnh thức,
Cho nên siêng canh giữ”.
Khi đi tuần tới cửa thành Bắc, tướng Đại danh liền hỏi: “ai trấn giữ cửa này”, vua Cam lộ phạn đáp: “chính ta-trấn giữ”, tướng Đại danh nói: “canh phòng cẩn thận thì tốt, ngủ mê thì xấu”, kế nói kệ:
“Ngủ mê như người chết,
Người ấy thuộc ma vương.
Người trí thường tỉnh thức,
Cho nên siêng canh giữ”.
Tướng Đại danh đi tuần một vòng như vậy thì trời vừa sáng, sau đó đến bạch vua Tịnh-phạn: “một đêm đã qua còn sáu đêm nữa”, vua nói: “sáu đêm còn lại càng phải siêng canh giữ, qua sáu đêm này Thái tử sẽ lên ngôi Kim luân, chúng ta sẽ cùng Thái tử ở trên Kim luân nương hư không quan sát khắp bốn thiên hạ”. Họ canh giữ như thế suốt sáu đêm, chỉ còn một đêm cuối, lúc đó vua trời Đế thích quán thấy rõ mọi việc nơi hạ giới liền nói kệ:
“Thích ca Mâu ni con quốc vương,
Tu hạnh lục độ đều viên mãn,
Ưa thích thoát tục ở núi rừng,
Để cầu đạo chơn như vô thượng”.
Lúc đó ở chỗ vui hưởng dục lạc trong cung, Bồ-tát tự nghĩ: “ta có ba phu nhân và sáu vạn thể nữ, nếu không cùng họ vui hưởng dục lạc thì sợ người ngoài cho ta không phải là trượng phu. Ta phải cùng Da-du-đà-la vui hưởng dục lạc”, nhân đây Da-du-đà-la có thai, khi đã mang thai phu nhân suy nghĩ: “sáng mai ta sẽ báo cho Thái tử biết”. Đêm đó Bồ-tát tư duy về lý duyên sanh rồi nói kệ:
“Đã cùng người vợ ngủ qua đêm,
Đây là lần sau cùng chung ngủ,
Từ đây ta sẽ không thế nữa,
Lìa hẳn cùng người nữ ngủ đêm”.
Bồ-tát quay lại nhìn thấy các thể nữ sau khi múa hát xong mỏi mệt nằm ngủ mê man, người thì đầu tóc rối bù, người thì ngủ mớ, miệng chảy nước dãi, người thì nằm lộ bày nửa thân … ; Bồ-tát cảm thấy thâm cung giống như bãi tha ma với những người chết nằm ngổn ngang, liền tư duy và nói kệ:
“Như gió thổi ngã sen trong ao,
Tay chân rã rời nằm ngổn ngang,
Đầu tóc rối bù, thân hình lộ,
Dù có tâm Ái cũng lìa bỏ.
Ta thấy những người nữ này ngủ,
Giống như người chết, thân biến sắc.
Vì sao ta không hay biết sớm,
Nơi cảnh hữu tình vô trí này,
Lại đồng bùn, tên, độc, lửa kia.
Như mộng hoặc như uống nước muối,
Như vua rồng bỏ vật khó bỏ,
Các khổ oán thù nhân đây sanh”.
Nói kệ xong Bồ-tát đi ngủ, đêm đó phu nhân Đại thế chủ thấy bốn điềm mộng:
Là thấy nguyệt thực.
Là thấy mặt trời vừa mọc ở phương Đông liền lặn.
Là thấy có nhiều người đảnh lễ phu nhân.
Là thấy bản thân hoặc cười hoặc khóc.
-Đêm đó Da-du-đà-la cũng thấy tám điềm mộng:
Là thấy dòng họ bên mẹ đều ly tán.
Là thấy chiếc giường cùng nằm với Thái tử bị hư hủy.
Là thấy hai cánh tay đều bị gãy.
Là thấy răng mình đều rụng hết.
Là thấy tóc mình rụng hết.
Là thấy thần an lành ra khỏi nhà.
Là thấy nguyệt thực.
Là thấy mặt trời vừa mọc ở phương Đông liền lặn.
-Đêm đó Bồ-tát cũng thấy năm điềm mộng:
Là thấy thân mình nằm trên mặt đất, đầu gối tên núi Tu di, tay trái thòng xuống biển Đông, tay phải thòng xuống biển Tây, hai chân thòng xuống biển Nam.
Là thấy trên tim mình mọc cỏ Cát tường cao vút lên hư không.
Là thấy các con chim trắng, đầu đều có sắc đen bay đến đảnh lễ Bồ-tát rồi lại muốn bay lên hư không, nhưng không bay qua khỏi đầu gối của Bồtát.
Là thấy những con chim đủ màu sắc từ bốn phương bay đến chỗ Bồ-tát thì trở thành cùng một màu.
Là thấy Bồ-tát kinh hành qua lại trên núi đầy tạp uế.
Bồ-tát thức tỉnh vui mừng suy nghĩ: “điềm mộng này cho biết không bao lâu nữa ta sẽ được trí A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”, lúc đó Dadu-đà-la cũng tỉnh giấc và nói cho Bồ-tát nghe tám điềm mộng của mình. Sợ Da-du-đà-la lo buồn nên Bồ-tát phương tiện giải thích điềm mộng đó như sau:
Là thấy dòng họ bên mẹ đều ly tán thì nay họ đều còn đó, sao lại gọi là ly tán.
Là thấy chiếc giường cùng nằm với Thái tử bị hư hủy thì nay giường này vẫn còn nguyên vẹn, sao lại gọi là hư hủy.
Là thấy hai cánh tay đều bị gãy thì nay chúng vẫn còn nguyên vẹn, sao lại gọi là đều bị gãy.
Là thấy răng mình đều rụng hết thì nay răng vẫn còn nguyên tốt đẹp, sao gọi là rụng hết.
Là thấy tóc mình rụng hết thì tóc nay vẫn còn như cũ.
Là thấy thần an lành ra khỏi nhà thì thần an lành của nàng là ta vẫn còn bên cạnh nàng đây.
Là thấy nguyệt thực thì trăng vẫn tròn sáng trên không.
Là thấy mặt trời vừa mọc ở phương Đông liền lặn thì bây giờ là nửa đêm, mặt trời vẫn chưa mọc, sao gọi là lặn.
Sau khi nghe giải thích, Da-du-đà-la liền im lặng; lúc đó Bồ-tát lại nghĩ về điềm mộng của Dadu-đà-la : “nếu ứng theo điềm mộng của Da-duđà-la thì đêm nay ta đi xuất gia là thích hợp”, lại nghĩ: “ta phải nói sơ ý nguyện của ta cho Da-duđà-la biết”, nghĩ rồi liền nói: “thật ra ta vốn có ý nguyện xuất gia”, Da-du-đà-la nói: “thiếp cũng muốn đi, xin hãy dẫn thiếp đi theo”, Bồ-tát thầm nghĩ: “khi nào được Niết-bàn, ta sẽ dẫn nàng đi”, liền nói: “được, khi nào ta có chỗ đi, ta sẽ dẫn nàng đi”, Da-du-đà-la nghe rồi liền ngủ yên. Lúc đó Bồtát phát tâm muốn đi, biết được tâm niệm của Bồtát nên vua trời Đế thích và Đại phạm chắp tay nói kệ:
“Tâm như ngựa chưa điều,
Như khỉ vượn lăng xăng,
Ai lìa ngũ dục lạc,
Mau chứng đắc Niết-bàn.
Đấng Đại từ dậy đi,
Bỏ ngôi vị vua này,
Sẽ được Nhất thiết trí,
Độ thoát các chúng sanh”.
Bồ-tát nói: “vua trời Đế thích, ông không thấy sao?”, liền nói kệ:
“Như Sư tử vương trong cũi sắt,
Tướng mạnh, đao cung đứng canh giữ,
Đông người, voi, ngựa rất ồn ào,
Vây quanh thành này làm sao ra.
Vua cha như Sư tử hùng mạnh,
Bốn binh giáp sắt đều đầy đủ,
Hào thành, lầu gác và hành lang,
Đủ loại binh trượng ở khắp nơi.
Hãy nhìn các cửa trong cung cấm,
Và các cửa thành cũng như vậy,
Khắp nơi thảy đều có treo linh,
Thật là khó vượt qua cửa ải.
Nếu qua, loa trống chung quanh ta,
Sẽ khua ầm ỉ không ngừng dứt,
Bốn binh voi ngựa ở ngoài cung,
Canh giữ nghiêm nhặt không thể ra”.
Thích-đề-hoàn-nhơn nói kệ:
“Thệ nguyện xưa, nay Ngài nên nhớ,
Được Nhiên đăng Như lai thọ ký,
Cứu vớt chúng sanh trong khổ não,
Hãy mau lìa nhà tìm chánh đạo.
Tôi có thể phương tiện giúp Ngài,
Cùng các Phạm thiên và chư thiên,
Sẽ giúp Ngài không gặp chướng ngại,
Để đến rừng cây tu chánh giác”.
Bồ-tát nghe rồi vui mừng khen lành thay, lúc đó vua trời Đế thích dùng lọng hôn mê che phủ khiến cho các binh chúng, vua Tịnh-phạn, các thể nữ và tất cả những người đang phòng vệ ở các cửa thành đều ngủ thiếp, không thể tỉnh thức ; vua trời lại sai đại tướng Dạ xoa là Tán chi ca giữ thang cho Bồ-tát đi xuống chỗ của Xa-nặc. Thấy Xa-nặc đang ngủ, Bồ-tát dùng tay lay gọi hồi lâu mới tỉnh, Bồ-tát nói kệ:
“Hãy dậy đi Xa-nặc,
Dẫn ngựa Kiền-trắc tới,
Đưa đến rừng Thắng giả,
Để ta cầu tĩnh lặng”.
Xa-nặc nửa ngủ nửa thức nói kệ đáp:
“Chẳng phải giờ đi dạo,
Ngài vốn không kẻ thù,
Không có oán giặc đến,
Ban đêm sao đòi ngựa?”.
Bồ-tát nói:
“Xa-nặc trước tới nay,
Không hề trái lời ta,
Chớ vào phút sau cùng,
Lại muốn trái lời ta”.
Xa-nặc nói: “nửa đêm thần lo sợ nên không thể dẫn ngựa đến”, Bồ-tát nghe rồi liền suy nghĩ: “nếu ta cứ nói với Xa-nặc mãi thì e rằng có người nghe được, sẽ làm hỏng dự tính của ta, chi bằng ta tự đi dắt ngựa đến”, nghĩ rồi Bồ-tát liền đi đến chuồng ngựa, chỗ ngựa chúa Kiền-trắc. Thấy Bồ-tát đến, Kiền-trắc tỏ vẻ giận dữ nhảy chồm lên không cho Bồ-tát dắt đi; trong lòng bàn tay của Bồ-tát có tướng Bách báu luân, tất cả chúng sanh sợ hãi nếu được Bồ-tát đưa tay Bách báu luân này vỗ về thì sẽ cảm thấy an ổn. Lúc đó Bồ-tát đưa tay vỗ nhẹ trên đầu ngựa rồi nói kệ:
“Đây là lần cuối ta cỡi ngươi,
Mau đưa ta đi chớ chần chừ,
Không bao lâu nữa chứng Bồ-đề,
Ta dùng pháp vũ độ chúng sanh”.
Do chúng sanh có thường pháp là nếu nghe có người chỉ dạy thì liền nghe theo, ngựa Kiền-trắc sau khi nghe kệ liền đứng yên cho Bồ-tát dắt đi. Lúc đó Phạm vương Đế thích sai bốn thiên tử: một là Bỉ ngạn, hai là Cận ngạn, ba là Hương diệp, bốn là Thắng hương diệp; cả bốn vị này đều có oai lực cùng đến chỗ Bồ-tát, Bồ-tát hỏi: “ai có thể giúp ta bay lên hư không để ra khỏi thành?”, đáp: “cả bốn chúng tôi đều có thể”, lại hỏi: “các vị có thần lực gì?”, Bỉ ngạn đáp: “tôi có thể nâng cả mặt đất lên và mang đi”, Cận ngạn nói: “tôi có thể gánh nước trong bốn biển và các sông ngòi mang đi”, Hương diệp nói: “tôi có thể gánh đá trên các ngọn núi mang đi”, Thắng hương diệp nói: “tôi có thể gánh tất cả cây rừng và bụi cỏ mang đi”, Bồ-tát nghe rồi liền ấn chân xuống đất và bảo cả bốn thiên tử dùng hết sức lực nâng Bồ-tát lên. Cả bốn vị vận dụng hết oai lực vẫn không thể nâng Bồ-tát lên được nên hết sức kinh ngạc, nói rằng: “chúng tôi không biết Bồ-tát có oai lực lớn như thế, nếu biết thì chúng tôi đã không dám nâng Ngài”. Nghe Bồ-tát cùng các thiên tử nói chuyện với nhau, Xa-nặc liền rảo bước tới chỗ Bồ-tát, Bồ-tát liền leo lên lưng ngựa, Xa-nặc một tay nắm dây cương, một tay cầm dao, bốn thiên tử nâng chân ngựa lên, nhờ oai lực của Bồ-tát và chư thiên cảm ứng nhau nên tất cả cùng bay lên hư không. Lúc đó các thiện thần trong cung nhìn thấy việc này đều cùng gào khóc, nước mắt rơi xuống như mưa, Xa-nặc hỏi Bồ-tát: “đây là mưa phải không?”, Bồ-tát nói: “đây không phải là mưa, mà là nước mắt của các thiện thần trong cung rơi xuống khi nhìn thấy ta ra đi”, Xa-nặc nghe rồi liền nghẹn ngào không nói. Lúc đó Bồ-tát ngoái nhìn lại vương cung thầm nghĩ: “đêm nay là đêm cuối cùng ta cùng người vợ ngủ chung, nhất thời từ biệt không còn như thế nữa”, lại nghĩ: “nếu ta không qua cửa thành Đông từ biệt phụ vương thì sợ phụ vương sẽ tức giận quở trách các binh sĩ không nổ lực canh chừng”, nghĩ rồi liền bay qua đến cửa thành Đông, thấy vua cha ngủ rất say liền nhiễu quanh phụ vương ba vòng, đảnh lễ rồi nói:
“con ra đi không phải vì bất hiếu mà chỉ vì các khổ sanh lão bịnh tử hủy diệt các hữu tình; con muốn xuất gia chứng đạo Bồ-đề để cứu vớt khổ nạn này”, nói rồi liền bay lên hư không. Lúc đó tướng Đại danh Thích ca đi tuần vừa đến cửa thành Đông, chợt thấy Bồ-tát đang bay trên hư không liền kêu gào lên : “Thái tử làm gì vậy?”, Bồ-tát đáp là ta muốn xuất gia, tướng Đại danh nói: “việc làm này phi pháp”, Bồ-tát nói: “ta đã từng ở trong ba A-tăng-kỳ kiếp thường hành khổ hạnh cầu Vô thượng Bồ-đề để cứu vớt chúng sanh, làm sao ngày nay ta có thể ở yên trong cung, nay ta nhất tâm vì pháp mà ra đi”, tướng Đại danh nghe rồi liền gào khóc: “than ôi, hỡi vua Tịnh-phạn và những người thuộc chủng tộc Thích ca , khổ thay, khổ thay!”. Tuy biết Thái tử vì đại nguyện nhưng tướng Đại danh vẫn muốn giữ Thái tử ở lại, liền nói kệ:
“Hôm nay vua Tịnh-phạn,
Vì con sanh sầu não,
Giơ tay gọi trời xanh,
Buồn hận gào khóc lớn.
Nàng Da-du-đà-la,
Cùng với các cung nhơn,
Nay từ biệt Tất đạt,
Thường bị khổ bức não”.
Tướng Đại danh nói kệ xong vội chạy đến chỗ phu nhân Da-du-đà-la lay gọi dậy và nói kệ:
“Tất đạt đang ra đi,
Phu nhân nên lưu luyến,
Chớ để sau ưu sầu,
Nỗi khổ nhớ thương chồng.
Đi rồi khó gặp lại,
Hãy gặp lần sau cùng.
Khổ thay không ai nghe,
Thức dậy đừng trách tôi”.
Nói kệ rồi lại chạy đến chỗ vua Tịnh-phạn lay gọi và nói kệ:
“Tất đạt đang ra đi,
Vua hãy mau ngăn lại,
Chớ để về sau này,
Thường sầu não vì con”.
Tướng Đại danh lay gọi ba lần mà vua vẫn không tỉnh thức, lúc đó Phạm vương Đế thích cùng vô lượng chư thiên quyến thuộc đều đến chỗ Bồ-tát, Đại phạm thiên vương cùng chư thiên cõi sắc đứng bên phải Bồ-tát; Thích-đề-hoàn-nhơn cùng chư thiên cõi Dục đứng bên trái Bồ-tát, có vị cầm phướn lọng, có vị tấu nhạc, có vị từ trên hư không rải các loại hoa xuống cúng dường Bồ-tát như hoa Ưu bát la, hoa Ba đầu ma, hoa Phân đà lợi, hoa Mạn-đàla, hoa Ma ha Mạn-đà-la, các loại hương như Chiên đàn, Trầm thủy…; có vị dùng thiên y rải, có vị đánh trống, thổi loa, ca múa… và nói kệ:
“Chư thiên trong hư không,
Đều hết sức vui mừng,
Múa hát trước Bồ-tát,
Để ca ngợi Bồ tát.
Có vị tấu kỹ nhạc,
Có vị dẫn đi trước,
Có vị mở các cửa,
Có vị rải hương hoa,
Có vị nâng chân ngựa,
Tất cả đều đi theo,
Phạm vương và Đế thích,
Tất cả trời oai đức,
Không ai không đi theo,
Như trăng giữa các sao,
Đi đến rừng Thắng giả”.
Khi Bồ-tát đã ra khỏi thành Kiếp-tỷ-la, Phạm Thích chư thiên đều hoan hỉ nói rằng: “lành thay Bồ-tát, trước đây Ngài thường nguyện không biết lúc nào mới được ở trong rừng hoang vắng này không còn chướng ngại, thì nay đã được như nguyện. Nếu Ngài đắc đạo vô thượng, xin hãy nhiếp thọ chúng tôi”, Bồ-tát nói: “các vị sẽ được như nguyện”, như voi chúa Bồ-tát quay lại nhìn chư thiên và nói kệ:
“Không chứng đạo vô thượng,
Thấu rõ pháp chư Phật,
Tôi sẽ không trở về,
Thành Kiếp-tỷ-la này”.
Qua hai canh giờ, Bồ-tát đã đi được mười hai do tuần liền xuống ngựa, cởi chuỗi anh lạc đưa cho Xa-nặc rồi nói: “ngươi mang ngựa và chuỗi ngọc này trở về cung”, liền nói kệ:
“Ngựa và chuỗi anh lạc,
Giao cho thân thuộc ta,
Ta nay bỏ tham Ái,
Mặc pháp phục từ đây”.
Xa-nặc nghe rồi liền lớn tiếng gào khóc bi thương, nước mắt tuôn như mưa và nói kệ:
Bồ-tát nói kệ:
“Sư tử, hổ thành bầy,
Gai góc và thú dữ,
Một mình không quyến thuộc,
Thánh giả sống ra sao?”.
“Khi sanh, sanh một mình,
Chết cũng chết một mình,
Khổ cũng một mình chịu,
Sanh tử không có bạn”.
Xa-nặc lại nói kệ:
“Trước đây đi thường cỡi ngựa voi,
Tay chân mầm mại chưa chịu khổ,
Nơi đây toàn gai góc đá nhọn,
Thái tử làm sao đi lại được”.
Bồ-tát nói kệ:
“Dù cho thuở nhỏ được cưng chìu,
Bậc hiền thiện, người cô độc,
Dõng mãnh vô úy, người cung kính,
Tất cả cuối cùng cũng sẽ chết,
Sanh lão bịnh tử nối theo nhau,
Đến hại mọi người rất nhanh chóng,
Dù có nguyện khác lớn hay nhỏ,
Cũng trong chốc lát đều tiêu diệt”.
Xa-nặc nói: “vua Tịnh-phạn không thấy Thái tử ắt sẽ buồn rầu đến chết”, Bồ-tát tuy nghe lời này nhưng vì được tư lương Bồ-đề viên mãn từ lâu, nên không để tâm đến; lúc đó Bồ-tát rút lấy cao dao trong tay Xa-nặc, con dao này nhẹ và bén, có sắc xanh; Bồ-tát tự cắt tóc mình rồi ném lên không trung, Thích-đề-hoàn-nhơn liền đón lấy tóc này đem về cõi trời Tam thập tam, mỗi năm họp đại hội chư thiên cúng dường; nơi Bồ-tát đã cắt tóc, các trưởng giả và Bà-la-môn có tín tâm xây lên một bảo tháp gọi là tháp nơi cắt tóc để cúng dường. Cắt tóc xong, Bồ-tát bảo Xa-nặc: “ngươi thấy ta bây giờ hình dung đã khác, tâm ta càng kiên cố ; ngươi như vậy há có thể trở về nhân gian hay sao?”, Xa-nặc đáp là không rồi thầm nghĩ: “Thái tử thuộc dòng Sát-đế-lỵ nhiều kiêu mạn, dù ta nói thế nào cũng không làm thay đổi được”, nghĩ rồi liền đảnh lễ giã từ Bồ-tát; ngựa Kiền-trắc cũng cúi đầu liếm chân Bồ-tát, Bồ-tát giơ bàn tay Bách báu luân vỗ nhẹ trên đầu ngựa rồi nói: “Kiền-trắc hãy đi đi, ta sẽ thường nhớ ơn ngươi cho đến khi ta chứng quả Bồ-đề”, lại bảo Xa-nặc: “khi về đến nơi, ngươi không nên dắt Kiền-trắc vào trong thành”, Xa-nặc tuyệt vọng nghẹn ngào rơi lệ, lúc lên đường trở về vẫn còn ngoái đầu lại nhìn Bồ-tát. Do thần đức của Bồ-tát nên chỉ trong hai canh giờ liền tới được nơi đây, nhưng khi trở về Xa-nặc phải mất tới bảy ngày mới về đến nơi.
Tới cửa thành liền nghĩ: “nếu ta cùng ngựa vào thành sẽ bị mọi người oán ghét, thân ta cũng khó bảo toàn”, nghĩ rồi liền trốn trong vườn hoa để ngựa chạy một mình vào trong thành. Khi vào trong thành, Kiền-trắc liền hí vang buồn bã ; nghe tiếng ngựa hí tất cả mọi người trong thành đều vội vã chạy ra, không thấy Bồ-tát, họ ôm cổ Kiền-trắc khóc than áo não. Súc sanh có thường pháp là hiểu được tình cảm của thế gian, huống chi Kiền trác là ngựa chúa ; cho nên khi thấy mọi người kêu gào thương cảm như thế, Kiền-trắc liền mất hết khí lực mà chết. Từ nhiều kiếp đến nay, Kiền-trắc đều thọ thân ngựa trong các nhà Bà-la-môn, có đủ pháp siêng năng ; nay vừa mạng chung liền nhớ lại nghiệp đời trước mà được vượt qua đường sanh tử đầy sợ hãi, lên bờ kia Niết-bàn.
Lúc đó Bồ-tát cần ca-sa, trong thành Vô tỷ có một cư sĩ giàu có, tiền tài, kho lẫm đầy ắp, nhiều quyến thuộc; cư sĩ cưới một cô gái cùng dòng họ làm vợ, cùng chung sống vui vẻ và sanh được tất cả mười con. Họ đều xuất gia và chứng quả Phật Bích chi, khi bà mẹ đem y phục cho họ, họ nói: “chúng con sắp nhập Niết-bàn nên không cần nữa. Sắp tới đây, Thích ca Mâu ni con của vua Tịnhphạn sẽ chứng quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tambồ-đề, mẹ nên cúng y này cho vị ấy, mẹ sẽ được vô lượng phước báo”, nói rồi liền liền hiện mười tám pháp thần biến rồi nhập Niết-bàn vô dư.
Người mẹ vì tuổi già, bịnh sắp chết nên dặn dò lại cho con gái rồi qua đời; người con gái sau đó cũng bịnh, trước khi mất quăng y lên cây cao và dặn thần cây dâng y này cho Bồ-tát. Lúc đó vua trời Đế thích nhìn xuống hạ giới, thấy y này trên cây liền hiện xuống lấy y rồi hóa làm một người thợ săn, tay cầm cung tên đi đến chỗ Bồ-tát, Bồ-tát thấy liền nói: “đây là y phục của người xuất gia, y phục ta đang mặc rất quý giá, ông có chịu đổi hay không?”, đáp: “không đổi, vì sao, nếu tôi mặc áo quý giá của ông vào nhân gian, người nhìn thấy sẽ cho là tôi giết ông để lấy áo này”, Bồ-tát nói: “ông nên biết, người trên thế gian đều biết ta có sức mạnh và trí huệ, không ai có thể giết được ta thì ông làm sao giết được ta để lấy y phục này chứ, ông không phải lo sợ”. Lúc đó vua trời Đế thích quỳ xuống dâng y cho Bồ-tát, Bồ-tát mặc vào nhưng vì y nhỏ hơn so với thân lượng của Bồ-tát nên Bồ-tát thầm nghĩ: “y này quá nhỏ không thể mặc được, nếu có oai lực xin cho y này rộng lớn ra để che kín thân ta”, nhờ oai lực của Bồ-tát và chư thiên nên y liền rộng lớn ra cho vừa với thân lượng của Bồ-tát. Bồ-tát lại suy nghĩ: “ta đắp y này đã đủ tướng xuất gia, ta nên cứu vớt những người khổ não”, nghĩ rồi liền đưa y phục quý giá đã mặc trước đó cho vua trời Đế thích; vua trời Đế thích đem về cõi trời Tam thập tam cúng dường. Ở nơi đổi y này, các cư sĩ, trưởng giả, Bà-la-môn tín tâm xây lên một bảo tháp gọi là tháp thọ y xuất gia để cúng dường. Lúc đó Bồ-tát đắp ca-sa du hành khắp nơi trong rừng hoang dã, tới chỗ của tiên nhân Bà già bà, thấy tiên đang đứng chống tay vào má suy tư liền hỏi: “Đại tiên suy tư điều gì?”, đáp: “nơi tôi ở có nhiều cây Đa la, trước đây hay sanh hoa vàng, trái vàng ; giờ bỗng nhiên hoa quả tự rụng nên tôi suy tư về việc đó”, Bồ-tát nói: “chủ của các cây này vì sợ sanh lão bịnh tử bức bách nên đã xuất gia tu đạo, vì thế hoa quả tự rụng; nếu chủ của các cây này không xuất gia thì sẽ làm vườn ở đây”. Tiên nhơn nghe rồi liền đưa mắt nhìn kỹ Bồ-tát, thấy Bồ-tát dung mạo đoan nghiêm, tự suy nghĩ rồi nói: “người chủ xuất gia đó không lẽ chính là ông sao?”, liền đáp là tôi, tiên vừa ngạc nhiên vừa vui mừng mời Bồ-tát ngồi rồi đem trái cây ra cúng dường. Ngồi một lát, Bồ-tát hỏi: “từ đây cách thành Kiếp-tỷ-la khoảng bao nhiêu dặm?”, đáp là khoảng mười hai dặm, Bồ-tát suy nghĩ: “nơi đây rất gần thành của mình, người thuộc dòng họ Thích rất đông sợ sẽ đến gây phiền phức cho ta, ta nên vượt qua sông Căng già”, nghĩ rồi liền vượt qua sông Căng già đi đến thành Vương xá. Bồ-tát có diệu lực thiện xảo, đầy đủ Nhất thiết trí muốn vào thành khất thực nên lấy mười lá Ca-la tỳ la câu na khâu thành cái bát để khất thực. Lúc đó vua Tần-tỳ-sa-la đang ở trên lầu cao, từ xa nhìn thấy Bồ-tát bước đi trang nghiêm, mặc y Tăng-già-lê như pháp, tay ôm bát, nhìn ngó như pháp với oai nghi tịch tĩnh theo thứ lớp đi khất thực. Vua thấy rồi liền suy nghĩ: “các vị xuất gia trong thành, ta chưa thấy có ai được như vậy”, liền nói kệ:
“Ta khen ngợi xuất gia,
Bậc hiền thiện như thế,
Suy tư về sanh tử,
Nên mới liền xuất gia.
Tại gia gặp các khổ,
Trần cấu đến bức bách;
Xuất gia thọ thiền duyệt,
Người trí thích xuất gia,
Thân tâm đều xuất gia,
Lìa bỏ các việc ác,
Khẩu nghiệp cũng thanh tịnh,
Chánh mạng tự sinh sống.
Thánh giả tới Ma kiệt,
Vào trong thành Vương xá,
Nhiếp tâm nơi thiền niệm,
Theo thứ lớp khất thực.
Quốc vương trên lầu cao,
Từ xa thấy Thánh giả,
Liền sanh tâm hoan hỉ.
Bảo các cận thần rằng:
Hãy nhìn Thánh giả kia,
Đầy đủ tướng thù thắng,
Dung mạo rất đoan nghiêm,
Ngó đất đi như pháp,
Không nhìn ngó hai bên,
Không phải dòng hạ tiện.
Vua sai sứ đi theo,
Xem Thánh giả ở đâu.
Sứ liền vâng lịnh vua,
Đi theo sau Thánh giả,
Để xem Thánh giả này,
Sẽ dừng ở chỗ nào.
Thánh giả theo thứ lớp,
Khất thực qua sáu nhà,
Trong bát đầy thức ăn,
Tay ôm bát như pháp,
Thánh giả khất thực xong,
Lặng lẽ ra khỏi thành,
Đến trong rừng Bát trà,
Thanh tịnh tự dừng nghỉ.
Sứ giả biết chỗ rồi,
Liền sai một người giữ,
Một người trở về thành,
Tâu với nhà vua rằng:
Thánh giả kia đang ở,
Trong núi rừng Bát trà,
Dáng ngồi như mãnh hổ,
Như Sư tử trong núi.
Vua nghe xong lời này,
Liền lên xe báu đi,
Cùng với các cận thần,
Đến chỗ Bồ-tát ở.
Khi đến núi Bàn trà,
Vua liền bước xuống xe,
Đi bộ về phía trước,
Thấy Bồ-tát đang ngồi,
Vua cung kính thăm hỏi,
Rồi ngồi xuống đối diện,
Thấy Bồ-tát tịch tĩnh,
Vua liền cất tiếng hỏi:
Hỡi Bí-sô trẻ tuổi,
Đang trong lúc cường tráng,
Đoan nghiêm nhiều tài nghệ,
Sao lại đi khất thực?
Ông thuộc chủng tộc nào
Tôi sẽ cho ruộng vườn,
Và cấp cho thể nữ,
Tất cả đều đầy đủ.
Bồ-tát vừa nghe xong,
Liền nói kệ đáp rằng:
Đại vương, có một nước,
Ở dưới chân Tuyết sơn,
Tài thực đều sung túc,
Tên là Kiều-tát-la,
Cam giá, Kiều-đáp-ma,
Thuộc chủng tộc Thích ca.
Tôi dòng Sát đế lỵ,
Không thích dục thế gian.
Những người ở đất liền,
Núi rừng và bãi biển,
Dù có đủ châu báu,
Vẫn chưa thỏa lòng tham.
Như củi ném vào lửa,
Tham dục cũng như vậy.
Trong đường hiểm sợ hãi,
Người đi thường lo sợ.
Các dục, khổ là gốc,
Che lấp các pháp lành.
Tôi bỏ nhà xuất gia,
Nhàm lìa các tham dục,
Giống như núi Tuyết lớn,
Gió thổi không thể động.
Tâm tôi nương giải thoát,
Dục không kéo lôi được.
Chạy theo dục thế gian,
Sanh tử thường luân chuyển.
Chỉ riêng tôi có thể,
Giải thoát các sợ hãi,
Vì biết lỗi của dục,
Thấy Niết-bàn tịch tĩnh,
Nay tôi đã xả ly,
Trụ thanh tịnh an lạc”.
Vua Tần-tỳ-sa-la nghe rồi liền hỏi: “Ngài xuất gia tu khổ hạnh để cầu điều gì?”, đáp là cầu chứng quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, vua nói: “nếu Ngài đắc đạo xin hãy nhớ đến tôi”, đáp: “sẽ như nguyện của vua”.
Sau đó Bồ-tát đi đến rừng tiên nhơn bên núi Kỳ-xà-quật, đến nơi Bồ-tát cũng đi đứng nằm ngồi như các tiên ; thấy họ tu khổ hạnh thường co một chân cho đến một canh mới nghỉ, Bồ-tát cũng co một chân cho đến hai canh mới nghỉ; thấy họ dùng năm thứ lửa đốt thân cho đến một canh mới nghỉ, Bồ-tát cũng dùng năm thứ lửa đốt thân cho đến hai canh mới nghỉ… Bồ-tát hành khổ hạnh đều gấp đôi họ khiến họ cùng bàn tán: “đó là đại Sa môn trì hạnh”, nhơn đây Bồ-tát được gọi là Đại Sa môn. Lúc đó Bồ-tát hỏi các tiên: “các vị tu khổ hạnh như thế để cầu việc gì?”, một vị đáp là cầu làm vua trời Đế thích, vị khác đáp là cầu làm vua trời Đại phạm, vị khác đáp là cầu làm Ma vương cõi Dục. Bồ-tát nghe rồi liền suy nghĩ: “các tiên này mãi luân hồi trong còi trời người không ngừng dứt, đây là tà đạo, không phải đạo thanh tịnh”, nghĩ rồi liền bỏ đi đến chỗ tiên Ca-la la. Đến nơi liền chắp tay cung kính hỏi: “thầy của đại tiên là ai, tôi muốn cùng tu phạm hạnh”, tiên đáp: “này Kiều-đáp-ma, tôi không có thầy, ông muốn học thì tùy ý”, lại hỏi: “đại tiên đạt được quả gì?”, đáp là đạt được tới Vô tưởng định, Bồ-tát nghe rồi liền suy nghĩ: “ vị tiên này có lòng tin, ta cũng có lòng tin; tiên có tinh tấn, niệm, thiện, trí… thì ta cũng có. Tiên được những trí huệ ấy cho đến được Vô tưởng định, lẽ nào ta không chứng đắc được những pháp đó hay sao”, nghĩ rồi Bồ-tát lặng lẽ nhớ nghĩ các pháp ấy, muốn đắc pháp chưa đắc, muốn chứng pháp chưa chứng, muốn thấy pháp chưa thấy. Bồtát một mình ở nơi chỗ yên tĩnh tinh tấn chuyên niệm đạo ấy, không bao lâu sau liền thấy được pháp, chứng được pháp. Chứng đắc pháp ấy rồi liền đi đến chỗ tiên Ca-la la nói rằng: “đại tiên tu các pháp này cho đến được Vô tưởng định là tự được phải không?”, đáp là tự được, Bồ-tát nói: “những trí huệ ấy cho đến Vô tưởng định, tôi cũng đã tự chứng được”, tiên nghe rồi liền nói: “Kiềuđáp-ma, ông đã chứng đắc, tôi cũng chứng đắc ; tôi đã chứng đắc, ông cũng đã chứng đắc. Vậy hai chúng ta cùng dạy pháp ấy cho các đệ tử ở đây, vì hai chúng ta cùng chứng được một pháp”. Tiên Ca-la-la này là A-giá-lợi-da đầu tiên của Bồ-tát, do trí huệ của Bồ-tát nên vị tiên này hoan hỉ cúng dường và thân thiết cùng ở chung. Lúc đó Bồ-tát suy nghĩ: “đạo này không phải tri huệ, không phải chánh kiến, không thể đắc quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, vì chưa phải là đạo giải thoát”, nghĩ rồi liền từ giã tiên Ca-la la đi đến chỗ tiên Thủy thác đoan nghiêm (xưa gọi là Uất đầu lam phất là sai). Đến nơi, Bồ-tát liền chắp tay cung kính hỏi: “thầy của đại tiên là ai, tôi muốn cùng tu phạm hạnh”, tiên đáp: “này Kiều-đáp-ma, tôi không có thầy, ông muốn học thì tùy ý”, lại hỏi: “đại tiên đạt được quả gì ?”, đáp là đạt được tới
Phi phi tưởng định, Bồ-tát nghe rồi liền suy nghĩ: “ vị tiên này có lòng tin, ta cũng có lòng tin ; tiên có tinh tấn, niệm, thiện, trí … thì ta cũng có. Tiên được những trí huệ ấy cho đến được Phi phi tưởng định, lẽ nào ta không chứng đắc được những pháp đó hay sao”, nghĩ rồi Bồ-tát lặng lẽ nhớ nghĩ các pháp ấy, muốn đắc pháp chưa đắc, muốn chứng pháp chưa chứng, muốn thấy pháp chưa thấy. Bồtát một mình ở nơi chỗ yên tĩnh tinh tấn chuyên niệm đạo ấy, không bao lâu sau liền thấy được pháp, chứng được pháp. Chứng đắc pháp ấy rồi liền đi đến chỗ tiên Thủy thác đoan nghiêm nói rằng: “đại tiên tu các pháp này cho đến được Phi phi tưởng định là tự được phải không?”, đáp là tự được, Bồ-tát nói: “những trí huệ ấy cho đến Phi phi tưởng định, tôi cũng đã tự chứng được”, tiên nghe rồi liền nói: “Kiều-đáp-ma, ông đã chứng đắc, tôi cũng chứng đắc; tôi đã chứng đắc, ông cũng đã chứng đắc. Vậy hai chúng ta cùng dạy pháp ấy cho các đệ tử ở đây, vì hai chúng ta cùng chứng được một pháp”. Lúc đó Bồ-tát suy nghĩ: “đạo này không phải trí huệ, không phải chánh kiến, không thể đắc quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, vì chưa phải là đạo giải thoát”, nghĩ rồi liền từ giã tiên Thủy thác đoan nghiêm ra đi, đây là A-giá-lợi-da thứ hai của Bồ-tát.
Lúc đó vua Tịnh-phạn nhớ nghĩ đến Bồ-tát nên sai sứ đi khắp nơi tìm kiếm, khi nghe tin Bồ-tát đã từ giã tiên Thủy thác, một mình đi trong rừng núi không có người hầu; vua liền sai ba trăm đồng tử đi theo hầu hạ Bồ-tát, vua thành Thiên thị cũng sai hai trăm đồng tử, tổng cộng có năm trăm đồng tử vây quanh hầu cận Bồ-tát ở trong rừng. Bồ-tát liền suy nghĩ: “ta muốn được yên tĩnh trong núi rừng để cầu pháp Cam lồ thì không thể để nhiều người vây quanh ta như thế, ta chỉ nên giữ lại năm người”, nghĩ rồi liền giữ lại hai người thuộc họ mẹ và ba người thuộc họ cha; số còn lại đều bảo quay trở về nước. Lúc đó Bồ-tát cùng năm người này du hành về phía Nam thành Già da, đến tụ lạc Ô lưu tần loa tây na da ni. Sau khi xem xét chung quanh, họ chọn một nơi bên bờ sông Ni-liên-thiền; nơi đây có cây cối tốt tươi và nước trong mát, đáy sông toàn là cát, trên bờ đất bằng phẳng, nước sông đầy nên dễ lấy nước; trên bờ cỏ xanh mọc khắp nơi với nhiều loại hoa thù thắng. Bồ-tát suy nghĩ: “nơi đây thù thắng thích hợp cho người tu thiện huệ, ta nên dừng ở noi đây tu thiền định chặt đứt các phiền não”, nghĩ rồi liền ngồi dưới một gốc cây, điều khí nhiếp niệm nơi tâm để điều phục, đè nén và quở trách vọng tâm, khiến cho các lỗ chân lông đều toát mồ hôi; giống như tráng sĩ tóm lấy người yếu lôi kéo, đè ép làm não loạn tâm người kia, khiến cho toàn thân người ấy toát mồ hôi. Bồ-tát chế phục thân tâm cũng như vậy, lúc đó Bồ-tát càng tinh tấn không gián đoạn nên thân được khinh an không còn chướng ngại và tâm được an định không còn nghi hoặc. Bồ-tát chịu đựng cực khổ, khổ khổ và bất lạc khổ, các khổ như thế nhưng tâm vẫn không trụ được chánh định. Bồ-tát liền suy nghĩ: “ta nên đóng kín các căn không cho buông lung xao động để trụ nơi tịch tĩnh”, nghĩ rồi liền nhiếp hơi thở không thở ra thở vô, do không thở ra nên khi xông lên đảnh đầu khiến Bồ-tát đau đớn như bị lực sĩ dùng mỏ sắt gõ vào đầu. Lúc đó Bồ-tát càng tinh tấn không gián đoạn nên thân được khinh an không còn chướng ngại và tâm được an định không còn nghi hoặc. Bồ-tát chịu đựng cực khổ, khổ khổ và bất lạc khổ, các khổ như thế nhưng tâm vẫn không trụ được chánh định; vì sao, vì đã huân tập từ nhiều đời. Bồ-tát liền suy nghĩ: “ta nên đóng bít các căn nhiếp hơi thở vào bên trong để nhập thiền định”, nghĩ rồi liền nhiếp hơi thở không thở ra thở vô nên khí từ trên đảnh đầu trở xuống xông vào lỗ tai, giống như miệng túi được bơm hơi vào đầy. Bồtát chịu đủ các khổ như vậy vẫn không nhập chánh định, vì sao, vì đã huân tập từ nhiều đời. Bồ-tát lại suy nghĩ: “ta nên tinh tấn gấp bội, nhiếp khí ở bên trong làm cho nó trương đầy lên để nhập thiền định”, nghĩ rồi liền đóng các căn nhiếp khí lại, khiến khí từ lỗ tai trở xuống bụng tràn đầy trong ngũ tạng, bụng bị trương đầy lên như cái túi đầy. Bồ-tát chịu đủ các khổ như vậy nhưng vẫn không trụ chánh định, vì sao, vì đã huân tập từ nhiều đời.
Bồ-tát lại nghĩ: “ta phải nổ lực thêm làm cho trương đầy để nhập định”, Bồ-tát liền ngưng thở khiến cho khí xông trở lên đảnh, đảnh đầu đau đớn giống như bị lực sĩ dùng dây siết chặt lại. Bồ-tát chịu đủ các khổ như vậy nhưng vẫn không trụ chánh định, vì sao, vì đã huân tập từ nhiều đời. Bồ-tát lại nghĩ: “ta nên nổ lực dụng công gấp bội để nhập định”, lúc đó khí lại trở xuống trương đầy ở bụng làm cho bụng đau đớn; giống như bị người mổ trâu dùng dao bén rạch bụng. Bồ-tát chịu đủ các khổ như vậy vẫn không trụ chánh định, vì sao, vì đã huân tập từ nhiều đời. Bồ-tát lại nghĩ: “ta nên tinh tấn gấp bội làm cho trương đầy để nhập định”, lúc đó khí tràn khắp thân khiến thân nóng hừng hực như bị hai lực sĩ ép đưa vào trong lò lửa. Bồtát chịu đủ các khổ như vậy nhưng vẫn không trụ được chánh định, vì sao, vì đã huân tập từ nhiều đời. Bồ-tát lại suy nghĩ: “ta nên đoạn ăn uống”, nghĩ rồi liền ngừng ăn uống, chư thiên liền đến nói với Bồ-tát: “nếu Bồ-tát không thích thức ăn uống của loài người thì chúng tôi sẽ rót nước cam lồ vào lỗ chân lông của Bồ-tát”, Bồ-tát suy nghĩ: “mọi người đều biết ta đã ngừng ăn uống, nếu ta thọ nước cam lồ tức là ta vọng ngữ, khiến cho chúng sanh sanh tà kiến; sau khi chết ta sẽ bị đọa vào địa ngục, ta không nên thọ nước cam lồ; nhưng ta nên mỗi ngày thọ một ít thức ăn của loài người như mè, đậu”, nghĩ rồi liền không thọ chư thiên thỉnh và mỗi ngày chỉ thọ một ít mè, đậu. Dần dần thân thể tay chân của Bồ-tát ốm tong teo không còn thịt, các bộ phận trên thân đều khô gầy giống như người già tám mươi tuổi. Do ăn ít nên đỉnh đầu khô lại như trái bầu chưa chín đã cắt đứt cuống nên khi gặp nắng bị khô teo lại. Do ăn ít nên mặt thụt sâu vào trong như người bị móc mắt… cho đến hai bên hông, da xương đều khô đét lồi lõm giống như nhà lá ba trăm năm. Lúc đó Bồ-tát càng tinh tấn không gián đoạn nên thân được khinh an không còn chướng ngại và tâm được an định không còn nghi hoặc. Bồ-tát chịu đựng cực khổ, khổ khổ và bất lạc khổ, các khổ như thế nhưng tâm vẫn không trụ được chánh định; vì sao, vì đã huân tập từ nhiều đời. Lúc đó xương sống của Bồ-tát bị cong lại như cái đàn Không hầu, muốn đứng dậy thì lại nằm bẹp xuống, muốn ngồi lên thì lại ngã nhào xuống, muốn đứng thẳng lưng cũng không được như ý.
Bồ-tát liền suy nghĩ: “pháp ta đang tu không phải là chánh trí, không phải là chánh kiến, không thể chứng được quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tambồ-đề”.
Lúc đó có ba vị trời đến chỗ Bồ-tát, nhìn thấy Bồ-tát như vậy nên một vị nói: “Kiều-đáp-ma là Sa môn đen”, một vị nói: “Kiều-đáp-ma là Sa môn xám”, một vị nói: “không phải đen hay xám mà là Sa môn xanh”, bởi vì ánh sáng và màu sắc trên thân của Bồ-tát trước đó đã biến mất, nhưng Bồtát không để tâm tới lời bàn tán này vì lúc đó tâm Bồ-tát khởi lên ba ví dụ về biện tài:
Là như củi ẩm ướt thấm nước, từ trong nước lấy ra và cái dùi lửa cũng bị ướt; nếu có người đến tìm lửa dùng cái dùi lửa ướt này để dùi lấy lửa thì không lấy được lửa. Cũng vậy, Sa môn hay Bà-lamôn tuy thân lìa dục nhưng tâm vẫn đắm mê Ái dục, dính mặc Ái dục, ở trong dục, ưa thích dục và làm bạn với dục thì dù người này làm khổ thân, chịu cực khổ, khổ khổ, bất lạc khổ, chịu đủ các khổ như thế; thọ đủ các cảm thọ như thế nhưng đó đều không phải là chánh trí, không phải là chánh kiến, không thể đạt được chánh đạo vô thượng.
Là như củi ướt thấm nước nằm ở mé nước, nếu có người tìm lửa dùng dùi lửa khô dùi vào củi ướt để lấy lửa thì không lấy được lửa. Cũng vậy, Sa môn hay Bà-la-môn tuy thân lìa dục nhưng tâm vẫn đắm mê Ái dục, dính mặc Ái dục, ở trong dục, ưa thích dục và làm bạn với dục thì dù người này làm khổ thân, chịu cực khổ, khổ khổ, bất lạc khổ, chịu đủ các khổ như thế; thọ đủ các cảm thọ như thế nhưng đó đều không phải là chánh trí, không phải là chánh kiến, không thể đạt được chánh đạo vô thượng.
Là như gỗ mục không thấm nước nhưng nằm ở chỗ ẩm ướt, nếu có người tìm lửa dùng dùi lửa khô dùi vào gỗ mục ẩm ướt này để lấy lửa thì không lấy được lửa. Cũng vậy, Sa môn hay Bà-lamôn tuy thân lìa dục nhưng tâm vẫn đắm mê Ái dục, dính mặc Ái dục, ở trong dục, ưa thích dục và làm bạn với dục thì dù người này làm khổ thân, chịu cực khổ, khổ khổ, bất lạc khổ, chịu đủ các khổ như thế; thọ đủ các cảm thọ như thế nhưng đó đều không phải là chánh trí, không phải là chánh kiến, không thể đạt được chánh đạo vô thượng.
Sau khi hiểu được ví dụ này, Bồ-tát thầm nghĩ: “mỗi ngày ta nên ăn một hạt mè”, cho đến ăn một hạt gạo, một hạt bắp, một hạt đậu; Bồ-tát vẫn bị đói bức bách, thân vẫn gầy ốm khô đét. Lúc đó vua Tịnh-phạn nghe biết Bồ-tát tu khổ hạnh như thế nên ưu sầu than khóc, các cung nhơn thể nữ đều cởi bỏ đồ trang sức, trải cỏ ngồi và cũng ăn mỗi ngày một hạt mè… như thế. Da-du-đà-la do ăn ít nên thai nhi trong bụng dần dần bị tổn hại, vua Tịnh-phạn sợ ảnh hưởng đến thai nhi nên bảo các cung nhơn không cho Da-du-đà-la biết tin tức của Bồ-tát và phương tiện nói là Bồ-tát đã ăn uống trở lại. Lúc đó Bồ-tát thầm nghĩ: “pháp tu khổ hạnh này không phải là chánh trí, không phải là chánh kiến, không thể đạt đạo vô thượng”, nghĩ rồi liền chuyển qua ăn phân của trâu nghé mới sanh chưa ăn cỏ; sau đó đến trong rừng thây chết, nằm gối đầu trên xác chết và các xương khô, nghiêng hông bên phải chồng gót chân, tâm nghĩ về tướng quang minh. Đi đứng nằm ngồi đều hệ niệm như vậy chưa từng tạm bỏ; lúc Bồ-tát đang ngồi có các nam nữ thôn quê thấy Bồ-tát nhập định yên lặng, liền lấy cọng cỏ xỏ vào lỗ tai của Bồ-tát từ trái qua phải để đùa giỡn và gọi Bồ-tát là con quỷ bụi đất, thậm chí còn lấy đất đá ném vào người Bồ-tát nhưng Bồ-tát vẫn không khởi tâm sân giận, cũng không nói lời thô ác. Bồ-tát có thể chịu được những điều khó nhẫn như thế, nhờ tinh tấn không gián đoạn nên thân được khinh an, tâm được chánh niệm, ý không nghi hoặc ; do chuyên tâm nới định nên Bồ-tát trụ vào Tam-ma-địa. Bồ-tát lại suy nghĩ: “nếu có người nào muốn dứt khổ, siêng tu các hạnh thì không có ai hơn được ta ; nhưng đó không phải là chánh đạo, không phải là chánh trí, không phải là chánh kiến, không đạt được đạo vô thượng. Thế nào là chánh đạo, chánh trí, chánh kiến, có thể đạt được đạo vô thượng?”. Lúc đó Bồtát tự nhớ lại hồi còn ở vương cung lúc đi xem tịch điền, Bồ-tát đã ngồi dưới gốc cây Thiệm bộ thiền định; do Bồ-tát xả các pháp ác bất thiện trong Tầm tư nên tâm được tịch tĩnh an lạc và nhập Sơ thiền. Đây mới chính là hạnh tu hướng tới quả Dự lưu, là chánh trí, chánh kiến, chánh đẳng giác. Bồ-tát lại nghĩ: “nay ta không thể tu thành tựu hạnh này vì ta quá gầy yếu, không còn sức lực; ta phải điều hơi thở và ăn uống trở lại các loại thức ăn như cơm, cháo, tô, sữa, lạc… và tắm rửa cho sạch sẽ rồi lấy dầu thoa thân”, nghĩ rồi liền điều hơi thở và ăn uống trở lại… Lúc đó năm thị giả theo hầu hạ Bồ-tát thấy rồi liền nói với nhau: “Sa môn Kiều-đáp-ma bỏ tu khổ hạnh, ăn uống trở lại… chắc là không thể chứng được đạo quả gì”, họ cùng nhau lìa bỏ Bồ-tát để đi đến vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư và nguyện rằng: “nếu thế gian có bậc A-la-hán, chúng tôi sẽ theo vị ấy xuất gia”. Do cùng ở chung tu hành nên được gọi là chúng năm người.
Lúc đó Bồ-tát nhờ ăn uống trở lại nên sức khỏe được hồi phục, liền đi đến tụ lạc Tây na duyên. Chủ của tụ lạc này tên là Quân tướng, ông có hai cô con gái tên là Hoan hỉ và Hoan hỉ lực. Hai cô gái này nghe tin Thái tử con vua Tịnh-phạn ở thành Kiếp-tỷ-la thuộc chủng tộc Thích ca, bên sông Căng già, dưới chân núi Tuyết, khi đản sanh có Tướng sư xem tướng nói rằng nếu Thái tử nối ngôi vua sẽ là Chuyển luân Thánh vương. Hai cô liền giữ trinh tiết suốt trong mười hai năm để mong được làm vợ của Chuyển luân Thánh vương, đủ mười hai năm họ muốn nấu loại cháo sữa được chuyển qua mười sáu lần để dâng cúng cho tiên nhơn khổ hạnh cầu mong nguyện ước của mình được thành tựu.
Sữa trải qua mười sáu lần chuyển là:
Đem sữa của ngàn con bò cho ngàn con bò uống.
Đem sữa của ngàn con bò đó cho năm trăm con bò uống.
Đem sữa của năm trăm con bò đó cho năm trăm con bò uống.
Đem sữa của năm trăm con bò đó cho hai trăm năm mươi con bò uống.
Đem sữa của hai trăm năm mươi con bò đó cho hai trăm năm mươi con bò uống.
Đem sữa của hai trăm năm mươi con bò đó cho một trăm hai mươi lăm con bò uống.
Đem sữa của một trăm hai mươi lăm con bò đó cho sáu mươi bốn con bò uống.
Đem sữa của sáu mươi bốn con bò đó cho sáu mươi bốn con bò uống.
Đem sữa của sáu mươi bốn con bò đó cho ba mươi hai con bò uống
Đem sữa của ba mươi hai con bò đó cho ba mươi hai con bò uống.
Đem sữa của ba mươi hai con bò đó cho mười sáu con bò uống.
Đem sữa của mười sáu con bò đó cho mười sáu con bò uống.
Đem sữa của mười sáu con bò đó cho tám con bò uống.
Đem sữa của tám con bò đó cho tám con bò uống.
Đem sữa của tám con bò đó cho bốn con bò uống.
Đem sữa của bốn con bò đó cho bốn con bò uống.
Cuối cùng lấy sữa của bốn con bò này đem nấu thành cháo sữa; lúc cháo đang được nấu, chư thiên cõi trời Tịnh cư quán thấy sau khi ăn cháo này xong, Bồ-tát sẽ thành đạo Bồ-đề, muốn giúp Bồtát thêm sức lực nên họ bỏ vào trong nồi cháo này một loại thuốc tiên và canh chừng nồi cháo, khi cháo chín liền hiện tướng luân báu. Lúc đó có một ngoại đạo tên Cận hành thấy nồi cháo có tướng luân báu liền suy nghĩ: “người nào ăn cháo này nhất định sẽ chứng được trí huệ vô thượng”, nghĩ rồi liền đến xin cháo để ăn nhưng hai cô gái nhất định không cho, ngoại đạo đành phải bỏ đi. Hai cô gái múc cháo để vào trong bát báu, thấy vua trời Đế thích hiện ra trước mặt, hai cô gái liền dâng bát cháo sữa cho Đế thích, Đế thích nói: “hãy dâng cho bậc thù thắng hơn ta”, liền hỏi: “ai là bậc thù thắng hơn Ngài?”, đáp là vua trời Phạm thiên; hai cô gái liền dâng bát cháo sữa cho vua trời Phạm thiên, Phạm thiên nói: “hãy dâng cho bậc thù thắng hơn ta”, liền hỏi: “ai là bậc thù thắng hơn Ngài?”, đáp là vua trời Tịnh cư; hai cô gái liền dâng bát cháo sữa cho vua trời Tịnh cư , Tịnh cư nói: “hãy dâng cho bậc thù thắng hơn ta”, liền hỏi: “ai là bậc thù thắng hơn Ngài?”, đáp: “Bồ-tát đang tắm trong sông Ni-liên-thiền, vị ấy thù thắng hơn ta, hai cô nên dâng cúng cho vị ấy”. Lúc đó Bồ-tát tắm xong nhưng vì sức yếu nên không thể lên bờ được, bên bờ sông có nữ thần cây thấy vậy liền duỗi mình ra giơ tay định vớt Bồ-tát lên, Bồ-tát hỏi: “thần cây mang thân gì?”, đáp là thân nữ, Bồtát liền nói: “tôi không thể xúc chạm thân nữ, cô hãy rũ một nhánh cây xuống để tôi níu lấy mà lên bờ”, thần cây liền rũ một nhánh cây xuống, Bồ-tát níu nhánh cây lên bờ, lấy y đắp rồi ngồi dưới gốc cây trên bờ. Lúc đó hai cô gái mang bát cháo sữa đến dâng cúng cho Bồ-tát, vì lợi ích cho mình và người nên Bồ-tát thọ bát cháo sữa này. Bồ-tát ăn cháo xong rồi bỏ cái bát xuống sông Ni-liên-thiền, Long vương liền đem bát này để trong Long cung, vua trời Đế thích thấy liền hoa thành chim Diệu súy bay vào Long cung đe dọa Long vương để đoạt lại cái bát, mang về cõi trời Tam thập tam xây tháp để cúng dường. Lúc đó hai cô gái cúng cháo sữa xong liền ước nguyện: “Thánh giả, chúng con nghe tin Thái tử con vua Tịnh-phạn ở thành Kiếptỷ-la thuộc chủng tộc Thích ca, khi đản sanh có Tướng sư xem tướng nói rằng nếu Thái tử nối ngôi vua sẽ là Chuyển luân Thánh vương. Chúng con nguyện xin nhờ công đức cúng dường này để được làm vợ vị ấy”, Bồ-tát nói: “vị ấy không ưa thích dục lạc thế gian nên đã xuất gia”, hai cô gái nói:
“nếu vị ấy đã xuất gia thì chúng con xin đem công đức cúng dường này nguyện cho vị ấy được thành tựu sở nguyện”, liền nói kệ:
“Thái tử tên Tất đạt,
Bậc tối thắng trên đời,
Tùy có sở nguyện gì,
Thảy đều được thành tựu”.
Bồ-tát nghe rồi liền nói: “hai cô sẽ được như nguyện”, hai cô gái đảnh lễ rồi đi. Lúc đó Bồ-tát nhờ ăn cháo sữa này, khí lực được sung mãn, sáu căn đầy đặn liền du hành quanh bờ sông để tìm một nơi thanh tịnh dừng ở. Bồ-tát thấy núi Cô thạch có đủ loại hoa cỏ xanh tươi liền đến trên một tảng đá bằng phẳng ngồi kiết già, không ngờ tảng đá liền nứt vỡ ra. Bồ-tát liền đứng dậy suy nghĩ: “có phải là do nghiệp ác của ta chưa dứt nên tảng đá này bị nứt vỡ ra như thế”, chư thiên biết tâm niệm của Bồ-tát nên từ trong hư không cất tiếng nói: “Bồ-tát vốn không có nghiệp ác, thường pháp của Bồ-tát khi sắp thành đạo là công đức thiện căn sung mãn thân tâm, sức của đất nơi đây không chở nổi nên tự nhiên nứt vỡ ra, vì nơi đây không phải là nơi Bồ-tát thành đạo quả. Sức của đất nơi đây không thể chở nổi hai hạng người, đó là người cực thiện và người cực ác ; Bồ-tát hãy qua núi Kim cang ở phía Đông của sông Ni-liên-thiền, ba đời chư Phật đều đã, đang và sẽ được trí huệ tối thắng tại nơi đó”. Bồ-tát nghe rồi liền đi qua núi Kim cang, lúc đó dưới mỗi bước chân đi của Bồ-tát đều có hoa sen mọc lên đỡ chân, đại địa chấn động. Lúc đó chim Già sa và nai Thiện thụy đến nhiễu quanh Bồ-tát, thần gió thổi Gió trong mát đến để thổi sạch hết bụi đất trên người Bồ-tát, thần Mưa mưa xuống để ngăn lốc bụi ; Bồ-tát thấy các tướng này rồi liền thầm nghĩ: “các tướng này hiện, nhất định hôm nay ta sẽ thành Chánh giác”.
Lúc đó Long vương sống ở dưới sông Ni-liênthiền tên là Già lăng già, do nghiệp đời trước nên hai mắt đều mù ; nếu Phật ra đời thì mắt nó được sáng, khi Phật nhập diệt thì mắt nó mù trở lại. Long vương nghe đất chấn động liền nghi là Phật ra đời nên từ trong Long cung hiện lên, thấy Bồtát có đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời, khiến cho cảnh vật chung quanh trở nên rực rỡ, Long vương liền nói kệ khen ngợi:
“Từng thấy các Bồ-tát,
Thành Phật đủ oai đức,
Xưa thấy với nay thấy,
Cả hai không sai khác.
Tôi thấy tướng chân đi,
Và thấy tướng hai bên,
Đáng thọ thế gian cúng,
Sẽ thành Phật không nghi.
Lại thấy mặc pháp y,
Vào trong sông Ni liên,
Nước sông liền trong sạch,
Sẽ thành Phật không nghi.
Bước đi như Ngưu vương,
Vững chắc và dõng mãnh,
Và như vua loài người,
Sẽ thành Phật không nghi.
Trên có chim Già sa,
Dưới có nai Tường thụy,
Thân tướng rất đoan chánh,
Sẽ thành Phật không nghi.
Gió lành thổi mát rượi,
Trên không mưa nhẹ rơi,
Chim hót, cây rũ sành,
Sẽ thành Phật không nghi.
Tướng quang minh thanh tịnh,
Giống như vàng Diêm phù,
Mặt tròn như vầng trăng,
Sẽ thành Phật không nghi.
Ca ngợi Bồ-tát xong, Long vương liền trở về Long cung; Bồ-tát nghe rồi liền đến chỗ đất kim cang và khởi nghĩ cần cỏ. Vua trời Đế thích biết tâm niệm của Bồ-tát liền đến Hương sơn lấy loại cỏ Kiết tường mềm rồi hóa thành một người làm thuê, ôm cỏ này đến gần chỗ Bồ-tát, Bồ-tát thấy cỏ liền theo xin, Đế thích dâng cỏ cho Bồ-tát, Bồtát đem cỏ trải dưới gốc cây Bồ-đề, cỏ tự nhiên xoay về phía hữu; Bồ-tát thấy rồi liền suy nghĩ: “hôm nay ta sẽ được giác ngộ không nghi”. Bồ-tát ngồi kiết già trên tòa kim cang đoan nghiêm thù thắng như vua rồng, nhiếp tâm nhập định, miệng nói: “ta nay ở nơi đây, nếu không dứt hết các lậu hoặc thì ta sẽ không đứng dậy rời khỏi tòa này”. Thường pháp của Ma vương có hai loại phướn buồn và vui, lúc đó phướn buồn bỗng nhiên lay động, Ma vương suy nghĩ: “hôm nay phướn buồn bỗng lay động, ắt là có việc gì tổn hại”, nghĩ rồi liền quán thấy Bồ-tát đang ngồi trên tòa kim cang dưới cội Bồ-đề. Ma vương suy nghĩ: “dù vị ấy chưa xâm phạm cảnh giới Ma của ta, ta cũng phải gây chướng ngại cho ông ta”, nghĩ rồi Ma vương liền giương mi trợn mắt, mặc y Xá na hóa làm sứ giả chạy hớt hãi tới trước Bồ-tát nói rằng: “vì sao Ngài lại ngồi yên nơi đây, thành Kiếp-tỷ-la đã bị Đề-bà-đạt-đa chiếm lây, cung nhơn thể nữ đều bị ô nhục, dòng họ Thích bị giết hại”, Bồ-tát vừa nghe liền khởi lên ba loại Tầm tư tội lỗi bất thiện, đó là Ái dục, giết hại và hủy tổn. Đối với Da-duđà-la, Kiều tỷ ca và Di ca già thì khởi Tầm tư Ái dục; đối với Đề-bà-đạt-đa thì khởi Tầm tư giết hại; đối với những người tùy thuận Đề-bà-đạt-đa thì khởi Tầm tư làm hủy tổn. Vừa khởi ba loại Tầm tư này, Bồ-tát liền giác sát phản tỉnh, biết là Ma đến xúc não mình, muốn cho mình tán loạn; Bồtát liền khởi ba loại Tầm tư thiện, đó là xuất ly, không giết hại và không hủy tổn. Ma vương hỏi: “vì sao Ngài lại ngồi dưới cội Bồ-đề?”, đáp là để chứng chánh trí vô thượng, lại hỏi: “làm thế nào được chứng Chánh trí vô thượng?”, đáp: “này kẻ tội lỗi, ngươi nhờ cúng tế một lần mà ở trong cõi Dục này thành tựu tự tại, huống chi ta ở trong vô số kiếp đã làm vô lượng trăm ngàn muôn ức hội cúng tế. Vì làm lợi ích cho các hữu tình, ta đã xả bỏ đầu mắt tay chân máu thịt, vợ con, vàng bạc châu báu… để cầu chứng Chánh trí vô thượng. Do nghĩa này làm sao ta lại không được Chánh trí vô thượng, hôm nay ta quyết định chứng được Chánh trí vô thượng”. Ma vương nghe rồi liền nói: “tôi nhờ một lần cúng tế nên được làm vua cõi Dục tự tại thì ông đã chứng biết ; nhưng trong vô số kiếp ông đã làm vô lượng trăm ngàn muôn ức hội cúng tế. Vì làm lợi ích cho các hữu tình, ông đã xả bỏ đầu mắt tay chân máu thịt, vợ con, vàng bạc châu báu… để cầu chứng Chánh trí vô thượng thì ai chứng biết?”, Bồ-tát đưa bàn tay có tướng Thiên bức luân có vô lượng phước đức có thể an úy chúng sanh sợ hãi, chỉ xuống đất nói: “đất này sẽ làm chứng cho ta, trong vô số kiếp ta đã làm vô lượng trăm ngàn muôn ức hội cúng tế. Vì làm lợi ích cho các hữu tình, ta đã xả bỏ đầu mắt tay chân máu thịt, vợ con, vàng bạc châu báu… để cầu chứng Chánh trí vô thượng là thật không hư dối”. Lúc đó thần đất từ dưới đất vọt lên nói: “này kẻ tội lỗi, đúng như lời Bồ-tát đã nói là chân thật không hư dối”, Ma vương nghe rồi ôm lòng hổ thẹn đứng yên, nhan sắc tiều tụy mất hết oai lực, ưu sầu suy nghĩ: “ta làm phương tiện này không thể khiến cho con của vua Tịnh-phạn có chút tổn hại, ta nên làm phương tiện khác gây chướng ngại cho ông ta”, nghĩ rồi liền bỏ đi. Ma vương có ba cô con gái xinh đẹp theo thứ lớp tên là Tham, Dục và Ái; ba cô dùng các loại thiên y trang nghiêm thân rồi đi đến chỗ Bồ-tát theo lịnh của Ma vương, ở trước Bồ-tát dùng đủ lời siểm khúc muốn làm não loạn Bồ-tát, Bồ-tát thấy rồi liền hóa ba cô thành ba bà già, ba cô liền bỏ đi. Lúc đó Ma vương ưu sầu ngồi chống cằm suy nghĩ nên tìm phương tiện gì để gây não hại cho Bồ-tát; nghĩ rồi liền sai ba mươi sáu ức binh ma có đủ loại đầu như đầu voi, đầu ngựa, đầu lừa, đầu lạc đà, đầu nai, đầu heo, đầu chó… hoặc cầm cung tên, hoặc cầm đao, búa, rìu… đủ loại khí giới đi đến chỗ Bồ-tát và Ma vương tự cầm cung tên định bắn Bồ-tát. Bồ-tát thấy rồi liền suy nghĩ: “tất cả việc đấu tranh đều nên tìm bạn giúp, ta chiến đấu với vua cõi Dục há lại không tìm bạn giúp hay sao”, nghĩ rồi liền tìm phương tiện trừ bỏ các chướng ngại này. Lúc đó các binh ma đồng loạt cầm binh khí bén nhọn đâm Bồ-tát, Bồ-tát liền nhập định Đại từ bi khiến cho binh ma đều biến thành hoa sen đủ màu sắc như xanh, vàng đỏ trắng rơi rụng xuống ở phía trước sau và hai bên Bồ-tát. Ma vương ở trên không trung mưa xuống các loại bụi đất, Bồ-tát khiến cho bụi đất này biến thành hương bột Chiên đàn, Trầm thủy và hoa rơi lên mình Bồ-tát. Ma vương lại phóng ra ong độc và mưa đá kim cang, chư thiên cõi trời Tịnh cư hóa ra nhà lá che cho Bồ-tát nên ong độc và mưa đá không làm hại được. Ma vương thấy rồi liền suy nghĩ: “ta có thể bao vây làm não loạn trong bao lâu, tất cả tiếng động có thể phá Tam-ma-địa. Ta nên biến lá cây Bồ-đề thành pha lê rồi kích động cho ra tiếng, Bồ-tát nghe tiếng này sẽ không thể định tâm”, nghĩ rồi liền làm theo như ý đã nghĩ. Lúc đó lá cây Bồ-đề bị kích động liền phát ra tiếng khiến Bồ-tát không thể chuyên định, vua cõi trời Tịnh cư thấy rồi liền muốn trợ giúp Bồ-tát nên bảo chư thiên đến giữ là cây Bồ-đề không cho bị kích động ra tiếng. Vua cõi trời Tịnh cư thấy quân ma chưa chịu bỏ đi liền dùng thần lực ném chúng lên núi Thiết vi.
Lúc đó Bồ-tát ngồi dưới cội Bồ-đề, ở trong pháp Diệu giác phần tu tập hành trì không gián đoạn, vào phần đầu đêm Thần cảnh trí hiện chứng thông thành tựu, nghĩa là trong một biến thành vô lượng, trong vô lượng biến thành một; hoặc ẩn hoặc hiện, tường vách và núi không làm ngăn ngại cũng như hư không; vào trong đất như bơi trong nước, tướng đất vẫn như cũ; ngồi kiết già trong hư không như ngồi trên mặt đất; bay trên không trung như chim bay; mặt trời mặt trăng có đại oai lực mà có thể chạm đến; tự tại qua lại đến cõi Phạm thiên… Ma vương lại nghĩ: “âm thanh có thể làm chướng ngại thiền định, ta nên gây ra tiếng”, nghĩ rồi liền cùng ba vạn sáu ngàn ức ma quỷ thần đứng ở xa rống thật to. Bồ-tát liền hóa ra một khu rừng Ca đàm bà rộng mười hai do tuần để tai không còn nghe lọt những tiếng rống đó. Bồ-tát lại nghĩ: “ta nên tu Thiên nhĩ trí chứng thông để nghe được tiếng của trời người”, nhờ thiên nhĩ thanh tịnh này nên Bồ-tát nghe được tiếng của người và phi nhơn du gần hay xa. Bồ-tát lại nghĩ: “trong ba vạn sáu ngàn ức quyến thuộc của Ma vương, ai sanh tâm ác với ta thì làm sao ta biết được. Ta nên tu Tha tâm trí chứng thông”, liền trong đêm ấy, Bồ-tát chứng được Tha tâm trí. Tất cả Tầm tư, tâm và tâm sở, tâm dục và không dục, tâm sân và không sân, tâm si và không si, tâm rộng và hẹp, dứt tâm và nhiếp tâm, tâm kiêu mạn và không kiêu mạn, tâm tịch tĩnh và không tịch tĩnh, tâm định và không định, tâm tán loạn và không tán loạn… Bồ-tát đều biết rõ như thật. Bồ-tát lại nghĩ: “trong số quân ma này từ vô thỉ đến nay, ai từng là cha, là mẹ, là kẻ thù, là bạn hữu thì làm sao ta biết được. Ta nên tu Túc mạng trí chứng thông”, vào nửa đêm Bồ-tát chuyên tâm nhiếp niệm và chứng được Túc mạng trí. Tất cả việc của một đời hoặc hai đời, ba đời… trăm đời, ngàn đời cho đến vô lượng trăm ngàn đời; hoặc số đời trong một kiếp, hai kiếp… số đời trong kiếp thành hoặc số đời trong kiếp hoại cho đến số đời trong vô số kiếp, Bồ-tát đều hiểu rõ. Cho đến tên tuổi, nơi sanh, dòng họ, chủng tộc, giàu nghèo, khổ vui… các việc Bồ-tát đều hiểu rõ. Cho đến tuổi thọ ngắn hay dài, trụ thế bao lâu, chết ở nơi kia sanh đến nơi này… Bồ-tát thảy đều biết rõ. Bồ-tát lại nghĩ: “trong số quân ma này, ai sẽ đọa trong đường ác, ai được sanh vào đường lành thì làm sao ta biết được. Ta nên tu Sanh diệt trí chứng thông để được Thiên nhãn thanh tịnh”, Với thiên nhãn thanh tịnh này, Bồ-tát thấy các hữu tình hoặc sống hoặc chết, đẹp xấu, giàu nghèo, làm nghiệp thiện hay làm nghiệp ác… Bồ-tát đều thấy rõ. Những chúng sanh làm nghiệp ác nơi thân khẩu ý như phỉ báng Thánh hiền, chấp chặt tà kiến, tạo nghiệp tà kiến; do làm nghiệp này nên sau khi chết bị đọa trong ba đường ác. Những chúng sanh làm nghiệp thiện nơi ba nghiệp thân khẩu ý như cung kính Thánh hiền, thực hành chánh kiến; do làm nghiệp này nên sau khi mạng chung được sanh vào đường lành. Bồ-tát lại nghĩ: “tất cả các hữu tình luân chuyển trong biển khổ đều do Dục lậu, Hữu lậu và Vô minh lậu thì làm sao được thoát. Ta nên tu Vô lậu trí chứng thông”, vào giữa đêm do tương ưng tu tập thuần thục, chuyên tâm nơi pháp Giác phần, Bồ-tát liền chứng được Vô lậu trí thông; như thật biết rõ Khổ đế, Tập đế, Đạo đế và Diệt đế nên tâm giải thoát khỏi Dục lậu, Hữu lậu và Vô minh lậu. Do tâm giải thoát nên chứng được Lậu tận trí, hiểu rõ “ sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc nên làm đã làm đã xong, không thọ thân sau”, liền chứng Bồ-đề gọi là thấy Giác phần Bồ-đề. Sau khi làm xong việc cần nên làm, Bồ-tát nhập Hỏa giới Tam-ma-địa, dùng vũ khí từ bi để hàng phục ba vạn sáu ngàn ức quân ma, chứng Vô thượng trí. Lúc đó Ma vương, cung tên rời khỏi tay, phướn rơi xuống đất, cung ma chấn động; Ma vương cùng các quyến thuộc ưu sầu hối hận bỏ đi đến trong thành Kiếp-tỷ-la thông báo rằng: “Bồ-tát Thích ca Mâu ni nơi tòa kim cang tu khổ hạnh, nay đã xả thân mạng rồi”. Nghe lời này rồi, vua Tịnhphạn và các cung nhơn, quần thần và các quyến thuộc của Bồ-tát hết sức sầu não như bị lửa đốt thân tâm; ba phu nhân và mọi người trong thành đều ngất ngã xuống đất, phải dùng nước rưới lên mặt hồi lâu mới tỉnh, tỉnh rồi họ lại nghẹn ngào rơi lệ không thôi. Lúc đó trời tịnh tín biết Bồ-tát đã thành tựu diệu trí, tâm sanh hoan hỉ lại biết Ma vương lừa dối nên thông báo rằng: “Bồ-tát Thích ca Mâu ni không chết, hiện nay đã chứng được Vô thượng trí”, nghe lời này mọi người hết sức vui mừng. Da-du-đà-la do vui mừng nên hạ sanh một trai, phu nhân của vua Hộc-phạn cũng hạ sanh một trai, lúc đó bỗng có hiện tượng Nguyệt thực. Vua Tịnh-phạn thấy có các hỉ sự này hết sức vui mừng, ra lịnh dân trong thành quét dọn sạch sẽ trong thành, dùng nước thơm Chiên đàn rưới lên mặt đất, đốt hương thơm ở các ngã tư đường, khắp nơi trong thành đều treo cờ phướn, ở bốn cửa thành đều lập đàn bố thí. Tại hội thí ở cửa thành Đông, tất cả Sa môn, Bà-la-môn, các ngoại đạo phạm chí, người nghèo hèn, cô độc… đến xin đều được cung cấp đầy đủ ; hội thí ở cửa thành Tây, Nam và Bắc cũng đều như vậy. Lúc đó vua tập họp quần thần để đặt tên cho con trai của Da-du-đà-la, một thị nữ tâu vua: “lúc đứa bé chào đời thì mặt trăng bị La hỗ che (nguyệt thực)”, nên vua cho đặt tên là Lahầu-la. Vua Hộc-phạn cũng họp các quyến thuộc để đặt tên cho con, quyến thuộc nói: “ngày đứa bé chào đời, tất cả dân tong thành Kiếp-tỷ-la đều vui mừng”, nên vua cho đặt tên Khánh hỷ (A-nan-đà). Lúc đó vua Tịnh-phạn nhìn kỹ La-hầu-la rồi nói: “đứa bé này không phải là con thân sanh của con ta là Thích ca Mâu ni”, Da-du-đà-la nghe lời này rồi trong lòng sợ hãi, liền bồng La-hầu-la đến bên ao tắm của Bồ-tát, bên ao có một tảng đá; Da-duđà-la đặt La-hầu-la trên tảng đá rồi chắp tay thệ rằng: “nếu đứa bé này thật là con của Bồ-tát thì khi bỏ xuống ao, nó sẽ không chìm; nếu không phải là con của Bồ-tát thì nó liền chìm”, thệ rồi liền bỏ tảng đá có La-hầu-la ngồi ở trên xuống ao, tảng đá vẫn nổi không chìm, trôi qua lại trên mặt nước như cục bông. Vua nghe tin này liền cùng quần thần đến bên ao xem, thấy việc này rồi vua hết sức vui mừng vào trong ao bồng La-hầu-la về cung, lúc đó tảng đá chìm xuống ao, từ đó trở đi vua thương yêu chăm sóc cho La-hầu-la gấp bội.
Khi Bồ-tát chứng được Vô thượng trí đã dùng khí giới Từ bi để hàng phục Ma quân, đại địa liền chấn động và khắp thế giới đều được chiếu soi, cho đến nhưng nơi mà ánh sáng mặt trời mặt trăng không chiếu tới, cũng đều được chiếu soi đến khiến cho các hữu tình ở những nơi này đều được thấy nhau và nói rằng: “không phải chỉ có một mình ta mà còn có nhiều chúng sanh khác nữa”.
Nhiếp tụng:
“Bốn loại xúc trì,
Phụ tử hòa hợp,
Thích ca xuất gia,
Thần giữ ao lễ”.
Lúc đó ở cõi trời Phạm có hai thiên tử quán thấy Thế tôn ngồi dưới cội cây Bồ-đề, vừa thành chánh giác và đã nhập Hỏa giới Tam-ma-địa bảy ngày, liền nói với nhau: “Thế tôn vẫn còn đang nhập định, chúng ta nên đem hoa hương đến cúng dường và mỗi người nói kệ thỉnh Phật xuất định thuyết pháp độ sanh”, nói rồi liền như lực sĩ co duỗi cánh tay hiện ra trước Thế tôn đảnh lễ, một vị nói kệ thỉnh:
“Hãy dậy đấng Đại bi,
Oán giặc đã lui tan,
Đại thương chủ vô tội,
Nên du hành thế gian,
Nói thắng pháp độ người,
Rộng thí nghĩa chân thật,
Vô lượng các chúng sanh,
Nghe pháp sẽ thọ trì”.
Vị thứ hai cũng nói kệ thỉnh:
“Hãy dậy đấng Đại bi,
Oán giặc đã lui tan,
Các cấu uế trừ sạch,
Nên du hành thế gian,
Thân tâm đã thanh tịnh,
Như mặt trăng tròn sáng,
Vô lượng các chúng sanh,
Nghe pháp sẽ thọ trì”.
Nói kệ xong, hai thiên tử này đảnh lễ Phật rồi đi, Thế tôn xuất định rồi nói kệ:
“Sự an lạc cõi Dục,
Sự an lạc cõi Sắc,
Phiền não tham dục dứt,
An lạc này tối thắng.
Ta nay bỏ gánh nặng,
Xa lìa các gánh nặng,
Gánh nặng chịu nhiều khổ,
Buông gánh được an lạc.
Tất cả dục đã xả,
Tất cả hạnh đã thành,
Tất cả pháp đã biết,
Người này không tái sanh”.
Trong bảy ngày nhập định, Thế tôn đã đoạn hết phiền não, thọ giải thoát lạc, không có người cúng dường, không ăn không uống nhưng không có tưởng đói khát. Lúc đó có hai thương buôn tên là Hoàng cô và Thôn lạc, mỗi người đều có trăm cỗ xe hàng với nhiều người giúp việc đang trên đường đi buôn bán sắp tới gần chỗ Phật. Cả hai có một người bạn trước đó đã chết và được sanh thiên, vị thiên tử này nhớ lại thân trước của mình là thương buôn, liền suy nghĩ: “sau bảy ngày nhập định, Thế tôn đã đoạn hết phiền não, thọ giải thoát lạc, không có người cúng dường, không ăn không uống. Ta nên khiến cho hai người bạn thương buôn làm người cúng dường Phật trước tiên, để trong nhiều đời được đại phước đức, nay đã đúng lúc khuyên họ làm việc này”, nghĩ rồi vào giữa đêm thiên tử này phóng ánh sang chiếu soi cả mấy trăm cỗ xe hàng, hiện nửa thân hình trên hư không rồi bảo hai thương buôn rằng: “hai vị nên biết, Thế tôn Thích ca Mâu ni vừa thành chánh giác dưới cội Bồ-đề bên bờ sông Ni-liên-thiền. Sau bảy ngày nhập định, Thế tôn đã đoạn hết phiền não, thọ giải thoát lạc, không có người cúng dường, không ăn không uống. Hai vị nên mau đến cúng dường, làm người cúng dường trước tiên để được đại phước đức”, nói xong liền ẩn mất. Hai thương buôn này nghe rồi liền nói với nhau: “oai đức của Thế tôn quả thật kỳ diệu nên mới khiến cho thiên tử hiện đến bảo chúng ta cúng dường”, đối với Phật tâm liền sanh kính mộ nên cùng đến chỗ Thế tôn, đảnh lễ rồi dâng các thức ăn uống như sữa, lạc, nước trái cây, lương khô, mật… bạch Phật: “cúi xin Thế tôn thương xót thọ chúng con cúng dường”. Lúc đó Thế tôn suy nghĩ: “ta không thể giống như ngoại đạo dùng tay thọ thức ăn”, liền quán chư Phật quá khứ thọ thức ăn như thế nào để làm lợi ích cho chúng sanh. Trời thanh tịnh trên hư không nói: “các Phật trong quá khứ đều thọ thức ăn bằng bát để làm lợi ích cho chúng sanh”, Thế tôn cũng quán biết như vậy, vì không có bát để thọ nên Thế tôn ước nguyện: “nếu có được bát, ta sẽ thọ thức ăn”. Lúc đó trời Tứ thiên vương biết tâm niệm của Thế tôn nên mỗi người mang một cái bát bằng đá đến dâng cho Phật, bát đá này thanh tịnh, nhẹ và tròn láng với hình sắc tươi đẹp, không phải do người làm ra được. Bốn Thiên vương này đến chỗ Phật đảnh lễ rồi bạch Phật: “chúng con mang bát đá này đến, cúi xin Thế tôn thương xót nạp thọ”, Thế tôn suy nghĩ: “bốn Thiên vương cùng mang bát đến, nếu ta chỉ thọ của một người thì bốn người kia sẽ oán trách. Ta nay nên thọ cả bốn bát rồi dùng thần lực họp thành một bát, như vậy cả bốn Thiên vương đều thỏa nguyện”, nghĩ rồi liền thọ cả bốn bát rồi dùng thần lực họp thành một bát, sau đó cầm bát thọ hai thương buôn cúng dường; thọ cúng dường xong liền nói kệ chú nguyện:
“Ai làm việc bố thí,
Ắt sẽ được nghĩa lợi.
Ai ưa thích bố thí,
Sau sẽ được an lạc.
Phước chiêu lấy quả vui,
Ước nguyện đều thành tựu,
Mau đến chỗ viên tịch,
Chứng được Niết-bàn lạc.
Người siêng tu phước đức,
Thì tất cả tai họa,
Cho đến chúng Thiên ma,
Đều không não hại được.
Ai phát tâm dõng mãnh,
Bố thí với Thánh tuệ,
Sẽ qua khỏi biển khổ,
Chứng được quả Vô vi”.
Bốn Thiên vương và hai thương buôn nghe kệ này rồi đều rất vui mừng, đảnh lễ Phật rồi đi. Phật như pháp thọ thực xong, mang bát đến trong sông Ni-liên-thiền rửa sạch, cất bát rồi rửa chân. Do ăn các loại thức ăn có tánh chất lạnh nên không bao lâu sau Thế tôn nhiễm lạnh, Ma vương liền đến chỗ Phật nói: “Thế tôn, giờ nhập Niết-bàn đã đến, Ngài cần gì trụ lâu nơi đời, hãy sớm nhập Niết-bàn”, Phật biết Ma vương muốn não loạn nên nói: “này Ma vương tội lỗi, ta chưa thể nhập Niết-bàn, vì sao, vì ta chưa có đệ tử Thanh văn thông minh trí huệ có thể như pháp đáp lời người hỏi, có thể phá các luận thuyết của ngoại đạo và kiến lập chánh pháp. Ta cũng chưa có đủ bốn chúng Bí-sô, Bí-sô ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca ở trên trời và dưới nhân gian khắp mười phương thọ pháp của ta để tu phạm hạnh. Nếu chưa được như vậy thì ta chưa thể nhập Niết-bàn”, Ma vương nghe rồi liền ưu sầu biến mất. Lúc đó Thích-đề-hoàn-nhơn quán thấy Thế tôn bị nhiễm lạnh nên di đến cây Thiệm bộ, cách đó không xa có rừng Ha lê lặc, Đế thích vào trong rừng này hái quả Ha lê lặc mang về cho Thế tôn, bạch rằng: “Thế tôn, quả Ha lê lặc này có thể trừ được bịnh lạnh, cúi xin Thế tôn thọ loại thuốc này”, Thế tôn thọ dụng và được khỏi bịnh. Sau khi khỏi bịnh,
Thế tôn đi đến bờ ao của Long vương Mân chi lân đà, ngồi dưới một gốc cây để nhập định. Lúc đó long vương biết trời sẽ mưa suốt trong bảy ngày không dứt nên từ dưới ao hiện lên, dùng thân quấn quanh Phật bảy vòng rồi duỗi đầu ra che trên đầu Phật. Qua sau bảy ngày mưa dứt mới giải tỏa, hiện trước Phật đảnh lễ rồi bạch Phật: “Thế tôn, trong bảy ngày qua có được an không, thân thô to của con có làm Thế tôn khó chịu không, cúi xin Thế tôn hoan hỉ”, Thế tôn liền nói kệ:
“Biết đủ thì an lạc,
Đa văn thì biết pháp,
Không não hại chúng sanh.
Thế gian đại từ bi,
Xả bỏ các dục lạc,
Viễn ly các việc ác,
Trừ sạch hết ngã mạn,
Người ấy rất an vui”.
Long vương nghe kệ xong đảnh lễ Phật rồi trở về bổn xứ, Thế tôn trở về dưới gốc cây Bồ-đề, ngồi kiết già như pháp, quán chiếu sự hoàn diệt của mười hai nhân duyên, đó là:
Hễ cái này có thì cái kia sanh nên Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục xứ, Lục xứ duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão tử, ưu bi khổ não.
Hễ cái này diệt thì cái kia diệt nên Vô minh diệt thì Hành diệt, Hành diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh sắc diệt, Danh sắc diệt thì Lục xứ diệt, Lục xứ diệt thì Xúc diệt, Xúc diệt thì Thọ diệt, Thọ diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thủ diệt, Thủ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thỉ Sanh diệt, Sanh diệt thì Lão tử, ưu bi khổ não đều diệt.
Sau bảy ngày nhập định, Thế tôn xuất định rồi nói kệ:
“Nếu pháp này sanh ra,
Phật thường ở trong định,
Quán biết pháp nhân duyên,
Nghĩa ấy diệt tất cả.
Nếu pháp này sanh ra,
Phật thường ở trong định,
Quán biết được nhân khổ,
Nghĩa ấy diệt tất cả.
Nếu pháp này sanh ra,
Phật thường ở trong định,
Quán diệt hết cảm thọ,
Nghĩa ấy diệt tất cả.
Nếu pháp này sanh ra,
Phật thường ở trong định,
Quán diệt hết các duyên,
Nghĩa ấy diệt tất cả.
Nếu pháp này sanh ra,
Phật thường ở trong định,
Quán diệt hết các lậu,
Nghĩa ấy diệt tất cả.
Nếu pháp này sanh ra,
Phật thường ở trong định,
Chiếu soi khắp thế gian,
Như mặt trời trên không.
Nếu pháp này sanh ra,
Phật thường ở trong định,
Hàng phục các ma quân,
Chặt đứt các xiềng xích”.
Lúc đó Thế tôn bỗng suy nghĩ: “ta chứng pháp sâu xa, thấy được việc khó thấy, biết được việc khó biết. Pháp này không thể tư duy, khó thể tư duy, nghĩa lý vi diệu, chỉ người trí huệ mới có thể biết được. Nếu nói cho người khác nghe pháp này sợ họ không hiểu nổi thì việc truyền trao thật uổng công, tự mệt nhọc và thêm phiền não. Ta nên một mình ở nơi tịch tĩnh tư duy cảnh giới an lạc và pháp mà đã chứng”, nghĩ rồi liền trụ tâm nơi tịch tĩnh, không nghĩ đến việc ra thuyết pháp độ sanh. Vua trời Phạm thiên, chủ thế giới Ta bà biết tâm niệm của Phật liền suy nghĩ: “thế gian sắp hư hoại, chúng sanh không thể thoát khỏi cảnh khổ. Như lai ứng chánh biến tri xuất hiện nơi đời, khó được gặp như hoa Ưu-đàm-bát-la. Nay Phật đã xuất thế lại thích tịch tĩnh, không nghĩ đến việc thuyết pháp độ sanh, ta nên đến thỉnh Phật”, nghĩ rồi liền như lực sĩ co duỗi cánh tay, vua trời Phạm thiên hiện ở trước Thế tôn đảnh lễ rồi nói kệ thỉnh:
Phật nói kệ:
“Vui thay ở nước Ma-kiệt-đà,
Xuất hiện diệu pháp chưa từng có.
Hỡi bậc giác ngộ tất cả pháp,
Hãy từ bi mở cửa Cam lồ”.
“Pháp ta chứng đắc rất khó hiểu,
Khiến cho biển Hữu không còn nữa,
Người ngu trí cạn thường ngược dòng,
Bị dục lôi cuốn và nhận chìm”.
Lúc đó vua trời Phạm thiên bạch Phật: “Thế tôn, tuy các chúng sanh ở thế gian có sanh, già như nhau, nhưng căn tánh có thượng trung hạ, lợi độn sai khác nhau. Có chúng sanh hình tướng đoan chánh, tánh hạnh điều thuận, ít phiền não lậu hoặc và các loại phiền não lậu hoặc cũng ít, chỉ vì không nghe pháp nên hiểu biết cạn hẹp. Giống như các loại hoa sen: hoa Ba đầu ma, hoa Ưu bát la, hoa Phân đà lợi… tuy ở trong nước có sanh, già nhưng căn tánh có thương trung hạ sai khác. Có loại vượt lên khỏi mặt nước, có loại nằm ngang mặt nước, có loại nằm dưới nước. Chúng sanh cũng vậy, xin Thế tôn hãy vì những người này thuyết pháp, nếu họ nghe được Pháp bảo thì có thể giải ngộ”, Thế tôn nghe rồi liền suy nghĩ: “ta nên dùng Phật nhãn quán sát căn tánh chúng sanh”, nghĩ rồi liền dùng Phật nhãn quán sát, quán thấy tuy các chúng sanh ở thế gian có sanh, già như nhau, nhưng căn tánh có thượng trung hạ, lợi độn sai khác nhau. Có chúng sanh hình tướng đoan chánh, tánh hạnh điều thuận, ít phiền não lậu hoặc và các loại phiền não lậu hoặc cũng ít, chỉ vì không nghe pháp nên hiểu biết cạn hẹp. Thế tôn liền khởi tâm đại bi đối với các hữu tình và nói kệ:
“Nếu có ai ưa thích nghe pháp,
Ta liền khai mở cửa Cam lồ,
Còn như ngã mạn tự khinh người,
Ta nhất quyết sẽ không vì nói”.
Vua trời Phạm thiên nghe rồi liền biết Phật sẽ nói chánh pháp, tâm sanh vui mừng đảnh lễ Phật, hữu nhiễu ba vòng rồi đi. Lúc đó Phật suy nghĩ nên nói pháp cho ai nghe trước tiên, liền nghĩ đến Ca-la ca là vị A-giá-lợi-da đầu tiên, nhưng chư thiên trên không trung cho biết là Ca-la ca đã chết cách đây bảy ngày rồi. Thế tôn liền dùng Phật nhãn quán thấy vị ấy quả đã chết cách đây bảy ngày, liền nghĩ: “Ca-la ca không được nghe pháp nên mất lợi ích lớn, nếu được nghe pháp sẽ được lợi ích vô biên”. Phật lại suy nghĩ nên nói pháp cho ai nghe trước tiên, liền nghĩ đến Ốt-đạt-la-ma-tử là vị A-giá-lợi-da thứ hai, nhưng chư thiên trên không trung cho biết vị ấy vừa chết hôm qua. Thế tôn liền dùng Phật nhãn quán thấy vị ấy quả đã chết hôm qua, liền nghĩ: “Ốt-đạt-la-ma-tử không được nghe pháp nên mất lợi ích lớn, nếu được nghe pháp sẽ được lợi ích vô biên”. Phật lại nghĩ đến năm người cùng theo Phật tu khổ hạnh trước kia và đã từng thừa sự cúng dường, Phật liền dùng Phật nhãn quán sát, quán thấy năm người hiện đang ở trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Biết chỗ ở của họ rồi, Phật liền đi đến thành Bàla-nê-tư nước ca thi na. Trên đường đi, Phật gặp một ngoại đạo tên là Thân cận ; thấy Phật có hình dung đoan nghiêm thanh tịnh liền hỏi: “cụ thọ Kiều-đáp-ma có các căn thanh tịnh, sắc tướng đoan chánh ; thầy xuất gia với vị thầy nào và học pháp gì?”, Thế tôn nói kệ:
“Ta không theo học với thầy nào,
Cũng không ai sánh được với ta.
Thế gian ai đáng được khai ngộ,
Chỉ riêng ta có thể biết rõ,
Thông đạt tất cả vượt thế gian,
Không còn dính mắc vào các pháp,
Xả bỏ tất cả chứng giải thoát.
Tự nhiên giác ngộ, không nhờ thầy.
Xưa nay không ai giống như ta,
Vì ta tự giác ngộ tất cả.
Như lai, đạo sư của trời người,
Đã chứng đầy đủ Nhất thiết trí”.
Nói kệ xong, Thế tôn đi đến vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư; năm người tu trong rừng từ xa thấy Thế tôn liền cùng lập chế: “Sa môn Kiều-đáp-ma này tánh buông lung ngạo mạn, làm tà mạng để đoạn hoặc, đã thối chuyển nên bỏ tu khổ hạnh, ăn những thức ăn ngon như sữa, lạc… dùng dầu thoa thân và tắm bằng nước thơm. Khi Kiều-đáp-ma đến chỗ chúng ta, chúng ta sẽ không đứng dậy nghinh đón, đảnh lễ cũng không mời ngồi; ông ta có ngồi thì cũng mặc kệ ông ấy, chúng ta không đến gần”, nhưng khi Thế tôn đến gần thì do oai đức của Phật khiến họ không ngăn được lòng tôn trọng, họ liền rời khỏi chỗ ngồi, người mời ngồi, người rót nước mời uống, người lấy nước cho rửa chân, người đỡ lấy y và chào hỏi: “thiện lai Kiều-đáp-ma”. Thế tôn thấy việc này rồi liền tự nghĩ họ mới lập chế mà đã vi phạm, thấy Thế tôn ngồi xong họ liền cúng dường. Lúc đó họ chưa biết Thế tôn đã thành chánh giác nên tâm còn khinh mạn đối với Phật, hễ mở lời đều gọi là Kiều-đáp-ma hoặc là cụ thọ, Thế tôn liền nói: “các ông đừng gọi Như lai là Kiều-đáp-ma hoặc là cụ thọ, nếu người nào khinh mạn Như lai thì sẽ mất lợi lớn, sanh ra nơi nào đều chịu khổ não lâu dài, từ nay các ông nên gọi là Như lai Thế tôn”, năm người liền nói: “cụ thọ Kiều-đáp-ma, trước đây ông tu khổ hạnh còn không được trí chánh giác, cũng không thấy được thiện an lạc trụ. Nay ông đã bỏ tu khổ hạnh, tâm không an định, thọ các thức ăn ngon như sữa lạc… dùng dầu thoa thân và tắm bằng nước nóng thì làm sao có thể thành chánh giác?”, Phật nói: “các ông không thấy các căn và sắc tướng của Như lai hiện nay và trước kia khác nhau hay sao?”, đáp là thấy có khác, Phật nói: “người xuất gia không nên thân cận hai loại tà sư:
Là hạng người đam mê thế pháp thấp kém của phạm phu và ưa thích dâm dục.
Là hạng người tự làm khổ mình, hay làm điều lầm lỗi.
Pháp của họ tu đều không phải là pháp mà bậc Thánh đã hành trì, vì vậy người xuất gia nên lánh xa hai loại tà sư này. Ta có một pháp trung đạo, nếu ai tu tập theo nhất định sẽ được pháp nhãn thanh tịnh và đại trí huệ, rốt ráo thành tựu Niết-bàn tịch tĩnh của bậc Đẳng chánh giác. Pháp trung đạo đó là bát chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.”. Lúc đó Thế tôn dùng tâm quyết định nói pháp như thế cho năm người nghe, năm người này chia phiên với nhau: buổi sáng ba người đi khất thực xin đủ thức ăn cho sáu người, hai người ở lại nghe pháp ; xế chiều hai người đi khất thực xin đủ thức ăn cho năm người vì Phật quá ngọ không ăn, ba người ở lại nghe pháp. Phật bảo năm người: “pháp Khổ Thánh đế này là pháp ta chưa từng nghe, do sức tinh tấn như lý tác ý nên ta được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh. Pháp Khổ tập Thánh đế này là pháp ta chưa từng nghe, do sức tinh tấn như lý tác ý nên ta được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh. Pháp Khổ diệt Thánh đế này là pháp ta chưa từng nghe, do sức tinh tấn như lý tác ý nên ta được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh. Pháp Khổ diệt đạo Thánh đế này là pháp ta chưa từng nghe, do sức tinh tấn như lý tác ý nên ta được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh. Pháp Khổ Thánh đế này là pháp ta chưa từng biết, nay nên biết; do sức tinh tấn như lý tác ý nên ta được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh. Pháp Khổ tập Thánh đế này là pháp ta chưa từng đoạn trừ, nay nên đoạn trừ; do sức tinh tấn như lý tác ý nên ta được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh. Pháp Khổ diệt Thánh đế này là pháp ta chưa từng chứng, nay nên chứng; do sức tinh tấn như lý tác ý nên ta được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh. Pháp Khổ diệt đạo Thánh đế này là pháp ta chưa từng tu tập, nay nên tu tập; do sức tinh tấn như lý tác ý nên ta được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh.
Pháp Khổ Thánh đế này là pháp ta đã biết cùng khắp, nay không cần biết nữa; do sức tinh tấn như lý tác ý nên ta được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh. Pháp Khổ tập Thánh đế này là pháp ta đã đoạn trừ vĩnh viễn, không cần đoạn trừ nữa; do sức tinh tấn như lý tác ý nên ta được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh. Pháp Khổ diệt Thánh đế này là pháp ta đã tác chứng, nay không cần chứng thêm nữa; do sức tinh tấn như lý tác ý nên ta được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh. Pháp Khổ diệt đạo Thánh đế này là pháp ta đã tu tập, nay không cần tu tập thêm nữa; do sức tinh tấn như lý tác ý nên ta được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh.
Các ông nên biết, trước đây ta chưa tu tập, chưa chứng bốn đế lý này gồm có ba lần chuyển với mười hai hành tướng nên ta chưa được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh. Ta chưa vượt qua Trời người, Ma, Phạm, các Sa môn, Bà-la-môn…; chưa được giải thoát xuất ly, chưa lìa điên đảo, chưa chứng Chánh trí vô thượng. Nhưng sau khi ta tu tập chứng được bốn đế lý này gồm có ba lần chuyển với mười hai hành tướng, ta liền được tịnh huệ nhãn, trí minh giác sanh. Ta vượt qua Trời người, Ma, Phạm, các Sa môn, Bà-la-môn…; được giải thoát xuất ly, lìa điên đảo và chứng được Chánh trí vô thượng”. Sau khi Phật nói pháp này xong, cụ thọ Kiều-trần-như ngay nơi chỗ ngồi được xa lìa trần cấu, chứng pháp nhãn thanh tịnh; tám vạn chư thiên ở trong pháp hội này cũng được pháp nhãn. Lúc đó Phật hỏi Kiều-trần-như: “thầy đã thấy pháp và chứng pháp rồi phải không?”, đáp là đã kiến chứng, Phật nói: “cụ thọ Kiều-trần-như đã kiến chứng pháp đầy đủ, do nghĩa này từ nay gọi thầy là A nhã Kiều-trần-như”. Sau khi nghe được pháp này, các Địa hành dược xoa đồng thanh nói: “các nhơn giả nên biết, trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư, Thế tôn đã thuyết giảng bốn đế lý này gồm có ba lần chuyển với mười hai hành tướng; không phải là pháp mà các Sa môn, Bà-la-môn, trời người, Ma, Phạm
… có thể chuyển được. Phật nói pháp này khiến cho nhiều người được lợi ích, nhiều người được an lạc. Do nghĩa này thiên chúng tăng thêm, chúng A-tu-la giảm bớt”, các Không hành dược xoa cho đến cõi trời Tứ thiên vương, cõi trời Tam thập tam, trời Diệm ma, cõi trời Đổ-sử-đa, trời Hóa lạc, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm thiên, trời A ca ni tra đều cùng một lúc, cùng một sát na, cùng một lạp bà, cùng một mâu hô túc đa đồng thanh nói giống như trên. Cho nên bốn đế lý mà Thế tôn thuyết giảng gồm có ba lần chuyển với mười hai hành tướng này được gọi là kinh Chuyển pháp luân; vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư được gọi là nơi Chuyển pháp luân. Lúc đó Phật lại nói: “có bốn Thánh đế, đó là Khổ Thánh đế, Tập Thánh đế, Diệt Thánh đế, Đạo Thánh đế.
Sao gọi là Khổ Thánh đế? Đó là sanh khổ, lão khổ, bịnh khổ, tử khổ, Ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ cho đến ngũ thủ uẩn khổ. Các khổ này các thầy nên biết và nên tu tập bát chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Sao gọi là Tập Thánh đế? Đó là Ái dục khiến phải thọ thân hậu hữu. Để xa lìa Ái, hỉ, tham câu hành với Ái và đủ thứ ưa thích Ái nhiễm, các thầy nên tu tập bát Thánh đạo.
Sao gọi là Diệt Thánh đế? Đó là diệt trừ, hoại diệt, thôi dứt, vĩnh viễn xa lìa Ái dục, hỉ, Ái tương ưng phan duyên với đắm nhiễm để được thấy đạo chứng đạo thì các thầy nên tu tập bát Thánh đạo. Sao gọi là Đạo Thánh đế? Chính là bát Thánh đạo”. Thế tôn nói pháp này xong, A-nhã Kiềutrần-như liền chứng được Lậu tận, tâm được giải thoát; bốn người còn lại được xa lìa trần cấu, chứng pháp nhãn thanh tịnh. Lúc đó trên thế gian có hai bậc ứng cúng là Thế tôn và Kiều-trần-như, Phật lại bảo bốn người: “các thầy nên biết, sắc là vô ngã. Nếu sắc có ngã thì không nên sanh các bịnh khổ, có thể ở trong sắc tác sắc và không tác sắc như thế. Vì sắc vô ngã nên sanh các bịnh khổ và ngã không thể tác sắc và không tác sắc như thế. Thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy nên biết. Ý các thầy nghĩ sao, sắc là thường hay vô thường?”, đáp là vô thường, Phật lại hỏi: “nếu sắc là vô thường thì đó là khổ hay không khổ?”, đáp là khổ, Phật lại hỏi: “nếu sắc là vô thường, khổ tức là biến hoại thì người đệ tử đa văn có chấp sắc là ngã, ngã có các sắc, sắc thuộc ngã và ngã ở trong sắc hay không?”, đáp là không. Phật lại hỏi: “Ý các thầy nghĩ sao, thọ tưởng hành thức là thường hay vô thường?”, đáp là vô thường, Phật lại hỏi: “nếu thọ tưởng hành thức là vô thường thì đó là khổ hay không khổ ?”, đáp là khổ, Phật lại hỏi: “nếu thọ tưởng hành thức là vô thường, khổ tức là biến hoại thì người đệ tử đa văn có chấp thọ… thức là ngã, ngã có thọ… thức, thọ… thức thuộc ngã và ngã ở trong thọ… thức hay không?”, đáp là không, Phật nói: “vì thế nên biết, các loại sắc quá khứ hay vị lai hay hiện tại hoặc ở trong, ở ngoài, hoặc thô hay tế, hoặc thù thắng hay hạ liệt, hoặc gần hay xa… đều không phải là ngã, ngã sở hữu, sắc không thuộc ngã và ngã không ở trong sắc. Nhờ biết rõ như thật nên ta thấy sắc như vậy, cho đến thọ tưởng hành thức cũng thấy như vậy. Các thầy nghe biết đầy đủ rồi nên quán năm thủ uẩn để lìa ngã và ngã sở, sau khi quán thấy như vậy sẽ biết rõ thế gian thật sự không nắm bắt được. Do không nắm bắt được nên không lo sợ, do không lo sợ nên bên trong được viên tịch, hiểu rõ sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau”. Bốn người nghe xong pháp này, tâm liền được giải thoát, chứng quả A-la-hán; lúc đó trên thế gian có sáu vị A-la-hán, Phật đứng đầu.
Lúc đó Phật đang ở bên bờ sông Ba-la-nại, thành Bà-la-nê-tư; trong thành này có con của một trưởng giả tên là Da-xá, hằng ngày thường cùng các kỹ nữ thọ ngũ dục lạc cho đến khi thân tâm mỏi mệt mới nằm ngủ, các kỹ nữ này cũng nằm ngủ chung quanh. Nửa đêm Da-xá chợt thức giấc, nhìn thấy các kỹ nữ đầu tóc rối tung, áo quần xốc xếch, miệng chảy nước dãi, nói mớ… liền khởi tưởng là mình đang ở trong rừng chứa tử thi. Tâm sanh kinh sợ liền bước tới mang đôi giày báu trị giá trăm ngàn lượng vàng, khi ra đến cửa liền lớn tiếng kêu to, vừa kêu vừa rơi nước mắt như mưa: “bớ người ta, khổ đến bức bách tôi”. Lúc đó có một phi nhơn làm cho mọi người không nghe thấy tiếng kêu la này của Da-xá rồi mở cửa cổng cho Da-xá đi; ra đến cổng, Da-xá cũng lớn tiếng than khóc như trên, phi nhơn cũng làm cho mọi người không nghe thấy tiếng than khóc này và mở cửa thành cho Da-xá đi. Ra khỏi thành đi dần đến bên bờ sông Ba-la-nại, Da-xá cũng cất tiếng kêu than khóc như trên. Lúc đó Phật đang kinh hành bên bờ kia sông, nghe thấy tiếng kêu than này liền nói vọng sang: “đồng tử không phải sợ, hãy lội qua đây”, Da-xá nghe rồi liền cởi giày báu để lại bên bờ này rồi lội qua bờ kia đến chỗ Phật đảnh lễ; Phật liền dẫn Da-xá về trú xứ rồi tới ngồi chỗ ngồi của mình, Da-xá lại đảnh lễ rồi ngồi xuống đối diện, Phật liền nói diệu pháp, chỉ dạy cho Da-xá được lợi hỉ. Thường pháp của chư Phật là trước tiên nói về pháp bố thí, trì giới là nhân sanh lên cõi trời; kế nói về tội lỗi của năm dục và ca ngợi hạnh xuất gia, sống một mình trong rừng núi để tư duy đoạn trừ phiền não khiến cho người nghe diệu pháp này đều hoan hỉ, tâm thanh tịnh không còn nghi hoặc. Phật biết tâm Da-xá đã được khai mở liền nói về pháp xuất thế, đó là bốn Thánh đế: khổ tập diệt đạo. Giống như giặt áo, trước phải tẩy sạch hết chất dơ, khi áo đã sạch mới dễ nhuộm màu; tâm Da-xá cũng vậy, nghe xong bốn Thánh đế này liền chứng được quả dự lưu. Sau khi thấy pháp, biết pháp, được tịnh pháp, vượt khỏi nghi hối, bất tín, không từ nơi người khác mà ở trong đạo quả được vô sở úy. Chứng quả rồi Da-xá rất hoan hỉ liền đứng dậy đảnh lễ, quỳ gối chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, hôm nay con được thâm nhập diệu pháp được đại lợi ích, con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng làm Ô-ba-sách-ca. Từ nay cho đến trọn đời con thọ trì năm học xứ là không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối và không uống rượu”.
Lúc đó vợ của Da-xá thức dậy không thấy Daxá đâu liền đi tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy, liền đến chỗ trưởng giả bạch rằng: “con không biết hiện giờ Da-xá ở đâu”, trưởng giả nghe rồi liền suy nghĩ: “không lẽ con ta bị giặc hay kẻ thù bắt ra ngoài thành làm việc bất lợi hay sao”, nghĩ rồi liền cùng người nhà cầm đuốc đi tìm khắp nơi, cuối cùng đi tới bờ sông liền thấy đôi giày báu của Da-xá, ông trưởng giả suy nghĩ: “con ta không phải bị giặc bắt đi, nó cởi giày báu để ở đây thì chắc là đã lội qua bên kia sông”, nghĩ rồi liền lội qua sông và đi dần đến chỗ Phật. Phật từ xa thấy trưởng giả đi tới liền dùng thần lực làm cho trưởng giả tuy vào tới chỗ Phật vẫn không thấy Da-xá ngồi bên Phật. Trưởng giả đảnh lễ Phật rồi hỏi: “Thế tôn có thấy Da-xá con tôi đến đây không?”, Phật nói: “ông hãy ngồi xuống, lát nữa sẽ được gặp con”, trưởng giả nghe rồi tâm sanh hoan hỉ liền đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho trưởng giả được lợi hỉ. Trước nói về pháp bố thí trì giới là nhân được sanh lên cõi trời… khiến cho trưởng giả chứng được quả Dự lưu, còn Da-xá liền chứng quả A-la-hán, lúc đó trên người vẫn còn mặc y phục thế tục với đồ trang sức bằng các loại trân bảo. Lúc đó ở thế gian có bảy vị A-la-hán, Phật đứng đầu ; Phật thu nhiếp thần lực và nói kệ:
“Điều phục tịch tĩnh, trì tịnh giới,
Thường dùng diệu pháp tự trang nghiêm,
Không khởi tâm giết hại hữu tình,
Là hạnh của Bí-sô, Sa môn”.
Lúc đó trưởng giả liền thấy Da-xá đang ngồi trước Phật, ông nói với Da-xá: “con hãy cùng ta về nhà, vì nhớ con mà mẹ con khóc than thảm thiết”, Phật bảo trưởng giả: “ý ông nghĩ sao, có người nào được trí Vô học, kiến chứng lý Tứ đế mà còn trở về nhà thế tục nữa hay không?”, đáp là không, Phật lại hỏi: “hiện nay ông đã được trí Hữu học và kiến chứng lý Tứ đế chưa?”, đáp là đã được, Phật nói: “đồng tử Da-xá này đã được trí Vô học và kiến chứng lý Tứ đế”, trưởng giả nói: “con của con đã được đại quả lợi. Thế tôn, con xin thỉnh Thế tôn và Da-xá ngày mai đến nhà con thọ thỉnh thực”, Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời, trưởng giả đảnh lễ Phật rồi trở về nhà. Sáng hôm sau đến giờ, Phật đắp y mang bát cùng Da-xá đến nhà trưởng giả, mẹ và vợ của Da-xá trải tòa ngồi rồi ra đứng ở cửa nghinh đón, thấy Phật và Da-xá đến liền thỉnh Phật ngồi, cả hai đến đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, Phật liền nói diệu pháp chỉ dạy khiến cho cả hai được lợi hỉ. Trước tiên Phật nói về pháp bố thí trì giới… cho đến cả hai đều chứng quả Dự lưu. Chứng quả rồi mẹ và vợ của Da-xá rất hoan hỉ liền đứng dậy đảnh lễ, quỳ gối chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, hôm nay con được thâm nhập diệu pháp được đại lợi ích, con xin trọn đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng và thọ trì năm học xứ làm Ô-ba-tư-ca. Cúi xin Phật thọ con thỉnh thực hôm nay”, Thế tôn im lặng nhận lời. Mẹ và vợ của Da-xá liền tự tay dọn lên các thức ăn uống thượng diệu trên một bàn ăn bằng gỗ Đàn hương để cúng dường Phật và Da-xá. Sau khi Phật thọ thực xong, họ ngồi một bên nghe Phật thuyết pháp, Phật lại vì họ thuyết pháp rồi ra về.
Lúc đó các Trưởng giả ở thành Bà-la-nê-tư đều nghe tin Da-xá, con của trưởng giả thứ nhất đã cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục xuất gia làm đệ tử của Phật. Con của trưởng giả thứ hai là Phú lâu na, con của trưởng giả thứ ba là Vô cấu, con của trưởng giả thứ tư là Kiều phạm ba đề, con của trưởng giả thứ năm là Diệu kiên; sau khi nghe tin Da-xá xuất gia, họ đều suy nghĩ: “đồng tử Da xa sanh trong nhà phú quý, giàu có nhiều trân bảo, thân tướng đoan nghiêm, ưa thích thọ ngũ dục lạc mà còn bỏ sở thích của mình để làm đệ tử Phật, chứng tỏ Như lai có oai lực lớn và pháp của Phật vi diệu. Ta cũng nên cạo bỏ râu tóc xuất gia cầu thắng pháp”, nghĩ rồi cùng nhau đi đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi bạch Phật: “Thế tôn, xin ban cho chúng con diệu pháp, chúng con xin được xuất gia làm đệ tử và sẽ phụng trì phạm hạnh theo lời dạy của Như lai”, Phật bảo: “các con đến thật đúng lúc, thiện lai các Bí-sô, hãy xuất gia tu phạm hạnh”, Phật vừa nói xong, râu tóc của các trưởng giả tử này đều tự rụng, ca-sa hiện trên thân trở thành Bí-sô, giống như người đã được xuất gia bảy ngày, sự hiểu biết về pháp cũng giống như Bí-sô trăm tuổi. Lúc đó Phật bảo bốn Bí-sô này: “các thầy phải một mình ở nơi tịch tĩnh, xa lìa ồn náo, thường giữ tự tâm siêng tu khổ hạnh. Nay đã xuất gia nên siêng tu phạm hạnh để cầu qua đến bờ kia, chứng được Chánh trí, đạt được thần thông, hiểu rõ sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau. Người nào tu tập như vậy sẽ chứng quả Vô sanh”, bốn Bí-sô nghe Phật dạy xong liền ngộ giải và chứng quả A-la-hán; lúc đó trong thế gian có tất cả mười một A-la-hán, Phật đứng đầu.
Trong thành Bà-la-nê-tư có năm mươi gia đình hào phú, sau khi nghe tin con của năm đại trưởng giả đều đã xuất gia và đều đã chứng quả A-la-hán; họ liền suy nghĩ: “pháp Phật vi diệu mới khiến cho con của năm đại trưởng giả đều từ bỏ gia đình giàu sang mà đi xuất gia, ta cũng nên xuất gia làm đệ tử Phật”, nghĩ rồi liền cùng đi đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi bạch Phật: “Thế tôn, cúi xin cho chúng con được ở trong thiện pháp luật xuất gia tu phạm hạnh”, Phật nói: “thiện lai các Bí-sô, hãy xuất gia tu phạm hạnh”, Phật vừa nói xong, râu tóc của các trưởng giả tử này đều tự rụng, ca-sa hiện trên thân trở thành Bí-sô, giống như người đã được xuất gia bảy ngày, sự hiểu biết cũng giống như Bí-sô trăm tuổi. Lúc đó Phật bảo các Bí-sô này: “các thầy phải một mình ở nơi tịch tĩnh, xa lìa ồn náo, thường giữ tự tâm siêng tu khổ hạnh. Nay đã xuất gia nên siêng tu phạm hạnh để cầu qua đến bờ kia, chứng được Chánh trí, đạt được thần thông, hiểu rõ sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau. Người nào tu tập như vậy sẽ chứng quả Vô sanh”, năm mươi Bí-sô này nghe Phật dạy xong liền ngộ giải và chứng quả A-la-hán; lúc đó trong thế gian có tất cả sáu mươi mốt A-la-hán, Phật đứng đầu. Lúc đó Phật ở trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư, đang cùng sáu mươi Bí-sô ngồi vây quanh, Phật bảo các Bí-sô: “ta và các thầy đều đã được giải thoát khỏi sự trói buộc trong cõi Trời người. Từ nay các thầy nên mỗi người tùy đi đến một phương để làm lợi ích cho các chúng sanh ; các thầy nên đi riêng, chớ đi chung, ta cũng sẽ đến tụ lạc Ưu lâu tần loa”, ma vương nghe được lời này của Phật liền suy nghĩ: “Sa môn Kiều-đáp-ma sẽ đi đến tụ lạc Ưu lâu tần loa, ta nên gây chướng ngại cho ông ta”, nghĩ rồi liền hóa thành một thanh niên đến trước Phật nói kệ:
“Ông chưa được giải thoát,
Mà tưởng là giải thoát,
Ông còn trong trói buộc,
Không thể thoát khỏi ta”.
Phật nghe rồi liền biết là Ma vương đang muốn não loạn nên nói kệ:
“Ta đã giải thoát khỏi,
Trói buộc trong Trời người,
Kẻ tội lỗi nên biết,
Ta đã chế phục ngươi”.
Ma vương nghe rồi liền biết Phật đã biết được tâm mình nên ưu sầu hối hận bỏ đi. Phật lại bảo các Bí-sô: “ta và các thầy đều đã được giải thoát khỏi sự trói buộc trong cõi Trời người. Từ nay các thầy nên mỗi người tùy đi đến một phương để làm lợi ích cho các chúng sanh; các thầy nên đi riêng, chớ đi chung, ta cũng sẽ đến tụ lạc Ưu lâu tần loa”, các Bí-sô vâng lời Phật dạy đều lặng lẽ ra đi. Phật một mình đi đến tụ lạc Ưu lâu tần loa, thành Bàla-nê-tư, vào trong rừng Bạch điệp ngồi tĩnh lặng dưới một gốc cây. Lúc đó có sáu mươi Hiền bộ ở ngoài tụ lạc thường hẹn với các kỹ nữ để cùng vui chơi hoan lạc, trong số đó có một kỹ nữ bỏ đi nên họ bủa ra đi tìm. Khi đi tới rừng Bạch điệp, họ thấy Thế tôn đang ngồi dưới một gốc cây, dung mạo đoan nghiêm, các căn tịch tĩnh, thân sắc vàng với ánh sáng thù diệu khiến người vừa nhìn liền phát tâm thanh tịnh. Họ đến hỏi Phật có thấy một người nữ không, Phật hỏi: “người nữ đó với các vị thân thuộc như thế nào?”, họ đem việc trên kể lại, Phật nói: “ý các vị nghĩ sao, đi tìm người nữ là thiết yếu hay tìm lại chính mình mới là thiết yếu ?”, liền đáp tìm lại chính mình mới là thiết yếu, Phật nói: “vậy thì hãy ngồi xuống và lắng nghe diệu pháp”. Sáu mươi Hiền bộ đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho họ được lợi hỉ. Thường pháp của chư Phật là trước tiên nói về pháp bố thí, trì giới là nhân sanh lên cõi trời; kế nói về tội lỗi của năm dục và ca ngợi hạnh xuất gia, sống một mình trong rừng núi để tư duy đoạn trừ phiền não khiến cho người nghe diệu pháp này đều hoan hỉ, tâm thanh tịnh không còn nghi hoặc. Phật biết tâm họ đã được khai mở liền nói về pháp xuất thế, đó là bốn Thánh đế : khổ tập diệt đạo. Giống như giặt áo, trước phải tẩy sạch hết chất dơ, khi áo đã sạch mới dễ nhuộm màu; tâm của sáu mươi Hiền bộ này cũng vậy, vừa nghe xong bốn Thánh đế này liền chứng được quả dự lưu. Sau khi thấy pháp, biết pháp, được tịnh pháp, vượt khỏi nghi hối, bất tín, không từ nơi người khác mà ở trong đạo quả được vô sở úy. Chứng quả rồi, sáu mươi Hiền bộ này rất hoan hỉ liền đứng dậy đảnh lễ, quỳ gối chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, hôm nay chúng con được thâm nhập diệu pháp được đại lợi ích, chúng con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng làm Ô-basách-ca. Từ nay cho đến trọn đời con thọ trì năm học xứ là không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối và không uống rượu”, nói xong liền đảnh lễ Phật rồi ra về.
Đêm đã qua, trời vừa sáng Phật đắp y vào thôn Đa quân, Phật suy nghĩ nên nói pháp cho ai nghe trước tiên, liền nghĩ đến hai cô con gái của chủ thôn tên là Hoan hỉ và Hoan hỉ lực, trước kia khi Phật sắp từ bỏ lối tu khổ hạnh, hai cô gái này đã cúng dường cháo sữa, tô và mật, giúp Phật hồi phục lại sức khỏe. Nghĩ rồi liền đi đến nhà của chủ thôn, hai cô gái từ xa thấy Phật liền trải tòa ngồi rồi ra nghinh đón Phật mời ngồi, Phật đến tòa ngồi, hai cô gái đảnh lễ rồi đứng một bên, Phật vì nói diệu pháp khiến họ được lợi hỉ… cho đến được vô sở úy. Hai cô gái đảnh lễ Phật, quỳ gối chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, chúng con đã thâm nhập diệu pháp, được đại lợi ích, từ nay chúng con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng làm Ưu ba tư ca. Hôm nay xin Thế tôn thương xót thọ chúng con cúng dường”. Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời, hai cô gái liền trải bàn ăn, dọn lên các thức ăn uống thơm ngon để cúng dường Phật, Phật rửa tay chân rồi như pháp ngồi thọ thực, thọ thực xong rửa tay thu bát, hai cô gái đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, Phật lại vì nói pháp chú nguyện khiến họ được lợi hỉ rồi đi. Khi sắp ra khỏi thôn, Phật suy nghĩ: “ở nước Ma-yết-đà này có Bà-lamôn ngoại đạo nào được tôn trọng, sau khi nghe pháp của ta sanh tín kính sẽ khiến cho nhiều người vào trong giáo pháp của ta”, lúc đó có ngoại đạo tên Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp đã được một trăm hai mươi tuổi, ông có năm trăm đệ tử cùng tu khổ hạnh trong rừng bên cạnh sông Ni-liên-thiền. Phật suy nghĩ: “ngoại đạo này được người trong nước Ma-yết-đà cung kính tôn trọng, xem như là thắng phước điền A-la-hán, ta nên đến chỗ đó nói diệu pháp khiến cho nhiều người được lợi ích thù thắng”, nghĩ rồi liền đi đến chỗ Ca-diếp. Từ xa thấy Phật đi đến, Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp liền trải tòa mời ngồi và chào hỏi thiện lai, sau khi chào hỏi xong, Phật nói với Ca-diếp :
“nhân giả là bậc tôn trọng, có thể cho tôi ở một chỗ trong thạch thất thờ lửa này ngủ qua đêm được không?”, Ca-diếp nói: “tôi không phải là bậc tôn trọng, chỉ vì bên trong thạch thất thờ lửa này có con độc long, sợ nó làm hại Sa môn”, Phật nói: “cứ cho tôi ở lại, độc long sẽ không làm hại tôi đâu”, Ca-diếp nói: “nếu vậy thì Sa môn cứ tùy ý ở lại”. Đầu đêm Phật rửa tay chân rồi vào trong thạch thất thờ lửa, trải cỏ ngồi kiết già, chánh niệm không loạn động; độc long nhìn thấy Phật liền nổi giận phun khói độc, Phật dùng thần thông lực phun khói ngăn khói độc kia; độc long càng tức giận, toàn thân phát ra lửa, Phật nhập Hỏa quang tam muội, toàn thân cũng phát ra lửa để điều phục độc long, khiến cho trong thạch thật rực lửa. Nửa đêm, Ca-diếp ra ngoài quan sát tinh tú, thấy thạch thất thờ lửa rực lửa liền nghĩ: “Sa môn Kiều-đápma dung mạo đoan chánh, nhưng khổ thay vì không nghe lời ta nên bị độc long thiêu cháy thành tro rồi”, nghĩ rồi liền bảo các đệ tử đem nước đến dập tắt lửa để cứu Sa môn. Lúc đó Phật biết tâm niệm của Ca-diếp liền suy nghĩ: “để điều phục độc long, ta nên nhập tam muội phát ra đủ loại lửa để diệt trừ lửa của độc long mà không làm cho thân nó bị tổn hại”, nghĩ rồi liền nhập định, độc long thấy các loại lửa này liền sợ hãi, chạy đến chỗ Phật rôi chui vào trong bát, cuộn thân nằm yên. Biết rồng đã được điều phục, Phật xuất định rồi ôm bát đến gặp Ca-diếp, Ca-diếp vừa nhìn thấy liền hỏi: “Sa môn vẫn còn sống sao?”, đáp là vẫn bình an, lại hỏi: “vật gì ở trong bát của Sa môn?”, Phật nói: “đây là độc long mà ông sợ, nó đã được điều phục và đang nằm trong bát”, Ca-diếp thấy rồi liền suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đáp-ma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-la-hán”.
Lúc đó Phật ở trong rừng cây gần chỗ của Ưulâu-tần-loa-ca-diếp tu đạo, năm trăm Ma-nạp-bà là đệ tử của ca-diếp, mỗi người trông coi ba đàn thờ lửa, tổng cộng có một ngàn năm trăm đàn thờ lửa. Vào đầu đêm họ muốn đốt lửa cúng tế nhưng lửa không cháy, liền đến bạch thầy: “chúng con muốn đốt lửa cúng tế nhưng lửa không cháy”, Ca-diếp nghe rồi liền suy nghĩ: “há chẳng phải do oai lực của Sa môn ở gần trú xứ của ta nên khiến cho lửa không cháy”, nghĩ rồi liền đến nói với Phật: “Sa môn nên biết, năm trăm đệ tử của tôi muốn đốt lửa cúng tế nhưng lửa không cháy, tôi nghĩ là do oai lực của Sa môn nên khiến lửa không cháy”, Phật hỏi: “ông muốn lửa cháy phải không?”, đáp là muốn lửa cháy. Vừa nói xong, nhờ thần lực của Phật nên lửa ở các đàn thờ lửa đều bừng cháy, Cadiếp thấy rồi liền suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đápma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-lahán”. Sau khi cúng tế xong, các đệ tử của Ca-diếp muốn dập tắt lửa cúng tế nhưng không thể dập tắt được, liền đến bạch thầy : “chúng con muốn dập tắt lửa cúng tế nhưng không thể dập tắt được”, Cadiếp nghe rồi liền suy nghĩ: “há chẳng phải do oai lực của Sa môn ở gần trú xứ của ta nên khiến cho không dập tắt được lửa”, nghĩ rồi liền đến nói với Phật: “Sa môn nên biết, năm trăm đệ tử của tôi muốn dập tắt lửa cúng tế nhưng không thể dập tắt được, tôi nghĩ là do oai lực của Sa môn nên khiến không dập tắt được lửa”, Phật hỏi: “ông muốn dập tắt lửa phải không ?”, đáp là muốn dập tắt lửa. Vừa nói xong, nhờ thần lực của Phật nên lửa ở các đàn thờ lửa đều tắt hết; Ca-diếp thấy rồi liền suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đáp-ma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-la-hán”.
Vào một thời khác, Ca-diếp đích thân muốn đốt lửa cúng tế nhưng lửa không cháy, liền suy nghĩ: “há chẳng phải do oai lực của Sa môn ở gần trú xứ của ta nên khiến cho lửa không cháy”, nghĩ rồi liền đến nói với Phật: “Sa môn nên biết, tôi đích thân muốn đốt lửa cúng tế nhưng lửa không cháy, tôi nghĩ là do oai lực của Sa môn nên khiến lửa không cháy”, Phật hỏi: “ông muốn lửa cháy phải không?”, đáp là muốn lửa cháy. Vừa nói xong, nhờ thần lực của Phật nên lửa ở đàn thờ lửa đột nhiên bừng cháy ; Ca-diếp thấy rồi liền suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đáp-ma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-la-hán” .
Lúc đó Phật đang ở trong rừng cây gần chỗ Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp tu đạo, Ưu-lâu-tần-loa-cadiếp sau khi cúng tế xong muốn dập tắt lửa cúng tế nhưng không thể dập tắt được, liền suy nghĩ: “há chẳng phải do oai lực của Sa môn ở gần trú xứ của ta nên khiến cho dập tắt lửa không được”, nghĩ rồi liền đến nói với Phật: “Sa môn nên biết, tôi muốn dập tắt lửa cúng tế nhưng không thể dập tắt được, tôi nghĩ là do oai lực của Sa môn nên khiến không dập tắt được lửa”, Phật hỏi: “ông muốn dập tắt lửa phải không?”, đáp là muốn dập tắt lửa. Vừa nói xong, nhờ thần lực của Phật nên lửa ở đàn thờ lửa đều tắt hết; Ca-diếp thấy rồi liền suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đáp-ma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-la-hán”. Vào thời khác, các phòng xá trong tinh xá của Ca-diếp bỗng nhất thời bốc cháy khắp bốn phía, Ca-diếp cùng các đệ tử đồng tâm muốn dập tắt lửa nhưng không thể dập tắt được, liền suy nghĩ: “há chẳng phải do oai lực của Sa môn ở gần trú xứ của ta nên khiến lửa này phát sanh”, nghĩ rồi liền đến nói với Phật: “Sa môn nên biết, các phòng xá trong tinh xá của tôi bỗng bốc cháy khắp bôn phía, tôi cùng các đệ tử muốn dập tắt nhưng không thể dập tắt được, tôi nghĩ là do oai lực của Sa môn nên khiến lửa này phát sanh”, Phật hỏi: “ông muốn lửa tắt phải không?”, đáp là muốn lửa tắt. Vừa nói xong, nhờ thần lực của Phật, lửa đang bốc cháy liền tắt hết; Ca-diếp thấy rồi liền suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đáp-ma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-lahán”.
Đêm đó, vua trời Tứ thiên vương với thân quang chiếu sáng đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, giống như bốn đống lửa ; đến nửa đêm, Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp ra ngoài quan sát tinh tú, từ xa thấy ở trước Phật có bốn đống lửa chiếu sáng rất xa, liền cho là Sa môn này cũng thờ lửa nên mới có bốn đống lửa như thế. Sáng hôm sau liền đến hỏi Phật: “đại Sa môn, không biết sự việc có đúng như tôi đã thấy hay không, đêm qua khi ra ngoài xem tinh tú, tôi thấy ở trước Sa môn có bốn đống lửa nên tôi cho là Sa môn cũng thờ lửa như tôi”, Phật nói: “này Ca-diếp, không phải ta thờ lửa, đêm qua vua trời Tứ thiên vương đến chỗ ta nghe pháp nên có ánh sáng này, không phải là đống lửa”, Ca-diếp nghe rồi liền suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đáp-ma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-la-hán”. Đêm hôm sau, Phạm thiên Đế thích với thân quang chiếu sáng đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi ngồi một bên giống như hai đống lửa ; đến nửa đêm, Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp ra ngoài quan sát tinh tú, từ xa thấy ở trước Phật có hai đống lửa chiếu sáng rất xa, liền cho là Sa môn này cũng thờ lửa nên mới có hai đống lửa như thế. Sáng hôm sau liền đến hỏi Phật: “đại Sa môn, không biết sự việc có đúng như tôi đã thấy hay không, đêm qua khi ra ngoài xem tinh tú, tôi thấy ở trước Sa môn có hai đống lửa nên tôi cho là Sa môn cũng thờ lửa như tôi”, Phật nói: “này Cadiếp, không phải ta thờ lửa, đêm qua vua trời Phạm thiên và Đế thích đến chỗ ta nghe pháp nên có ánh sáng này, không phải là đống lửa”, Ca-diếp nghe rồi liền suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đáp-ma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-lahán”.
Lúc đó trong nước Ma-kiệt-đà có tiết hội bảy ngày, trong bảy ngày này dân chúng nước Makiệt-đà mang nhiều phẩm vật đến cúng dường cho Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp. Thấy tiết hội đã đến, Cadiếp suy nghĩ: “nếu dân chúng nước Ma-kiệt-đà đến đây cúng dường mà thấy Sa môn này có thần lực như thế, ắt sẽ bỏ ta để theo vị ấy. Nếu trong bảy ngày này Sa môn ấy không có ở đây thì tốt quá”, Phật biết tâm niệm của Ca-diếp nên tự ẩn thân không hiện. Sau bảy ngày, Ca-diếp được cúng dường rất nhiều lợi dưỡng, liền suy nghĩ: “trong bảy ngày này ta được rất nhiều lợi dưỡng, nếu hôm nay Sa môn đến, ta sẽ cúng dường vị ấy”, Phật biết tâm niệm của Ca-diếp nên hiện thân đến. Từ xa trông thấy Phật, Ca-diếp liền nói: “Sa môn đã trở lại”, Phật nói: “ta đã trở lại”, lại hỏi: “vì sao trong bảy ngày qua Sa môn lại bỏ đi?”, Phật nói: “Ca-diếp, trước đây há không phải ông suy nghĩ: “nếu dân chúng nước Ma-kiệt-đà đến đây cúng dường mà thấy Sa môn này có thần lực như thế, ắt sẽ bỏ ta để theo vị ấy. Nếu trong bảy ngày này Sa môn ấy không có ở đây thì tốt quá”, ta biết tâm niệm của ông nên trong bảy ngày qua ta không ở đây”, Ca-diếp lại hỏi: “Sa môn biết tâm niệm của tôi nên bỏ đi vì sao hôm nay trở lại?”, Phật nói: “chẳng phải hôm nay ông suy nghĩ: “trong bảy ngày này ta được rất nhiều lợi dưỡng, nếu hôm nay Sa môn đến, ta sẽ cúng dường vị ấy”, tôi biết tâm niệm này của ông nên trở lại”, Ca-diếp nói: “quả tôi có suy nghĩ như vậy. Sa môn, thức ăn uống này ông tùy ý thọ dụng”, Ca-diếp lại suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đáp-ma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-la-hán”.
Lúc đó Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp đến thỉnh Phật:
“Sa môn lại ở lại đây, tôi sẽ như pháp cung cấp các thứ cần dùng”, Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời, Ca-diếp tự tay làm thức ăn, làm xong liền đến thỉnh Phật: “thức ăn uống đã làm xong, Sa môn tự biết giờ”, Phật nói: “ông đi trước, tôi sẽ đến sau”. Sau khi Ca-diếp đi, Phật dùng thần thông lực đến chỗ cây Thiệm bộ hái nhiều quả tươi ngon, đựng đầy bát rồi đến chỗ Ca-diếp, ngồi vào chỗ ngồi. Ca-diếp đến sau, thấy Phật liền hỏi: “Sa môn đến đây sao mau như vậy?”, lại hỏi: “vật gì đựng trong bát?”, Phật nói: “sau khi ông đi, tôi dùng thần thông lực đến chỗ cây Thiệm bộ hái nhiều quả tươi ngon mang đến đây, ông hãy thọ dụng”, Ca-diếp thỉnh Phật thọ thực : “Sa môn hãy tùy ý thọ thực”, Ca-diếp lại suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đáp-ma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-la-hán”. Như thế cho đến hái các loại quả Am-ma-la, Ca-tất-tha và lúa thơm tự nhiên ở xứ Câu lư cũng giống như trên. Lần khác, Ca-diếp lại đến thỉnh Phật thọ thực, Phật đắp y mang bát đến rồi ngồi vào chỗ ngồi, Ca-diếp tự tay sớt thức ăn ngon vào trong bát của Phật, Phật thọ rồi mang đến chỗ khác để ăn. Đến khi cần nước, vua trời Đế thích biết Phật cần nước liền hiện tới chỗ Phật, dùng ngón tay dùi xuống đất, ngay nơi đó vọt lên một dòng suối. Sau đó, Ca-diếp đi kinh hành đến thấy có dòng suối này liền suy nghĩ: “ta ở đây đã lâu, không thấy có suối này, sao hôm nay lại có”, nghĩ rồi liền đến hỏi Phật: “Sa môn, tôi ở đây đã lâu không thấy có suối này, sao hôm nay lại có, không biết là ai đã tạo ra?”, Phật nói: “hôm qua, sau khi thọ thức ăn của ông, tôi đã đến đây ngồi ăn, khi cần nước thì vua trời Đế thích hiện ra, dùng ngón tay dùi xuống đất làm vọt lên dòng suối này, nó được gọi là suối Thủ kích”, Ca-diếp nghe rồi liền suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đáp-ma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-la-hán”. Vào một buổi chiều, Phật ra suối tắm rửa, tắm xong muốn lên bờ ; bên bờ suối cách Phật rất xa có một đại thọ tên là Át thụ na, Phật muốn đưa tay níu cây, cây liền cong xuống cho Phật níu cành để lên bờ. Sau đó Ca-diếp đi đến thấy cây cong liền suy nghĩ: “đại thọ này trước đây không cong, sao nay lại cong”, nghĩ rồi liền hỏi Phật nguyên do, Phật kể lại sự việc trên, Ca-diếp nghe rồi liền suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đáp-ma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-la-hán”.
Vào một thời khác, Phật nhặt được y phấn tảo muốn đem giặt liền nghĩ: “dùng vật gì để giặt”, Đế thích biết tâm niệm của Phật liền mang một tảng đá lớn để bên bờ suối cho Phật giặt y. Giặt y xong, Phật lại nghĩ: “nên dùng vật gì để phơi”, Đế thích liền mang thêm một tảng đá đến cho Phật phơi y. Lúc đó Ca-diếp đi đến thấy hai tảng đá này liền nghĩ: “ta chưa từng thấy hai tảng đá này, sao hôm nay lại có”, nghĩ rồi liền hỏi Phật, Phật đem sự việc trên kể lại, Ca-diếp nghe rồi liền suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đáp-ma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-la-hán”.
Vào một thời khác, Phật đến bên bờ sông Niliên-thiền kinh hành, nước sông bỗng dâng tràn ngập quá đầu người; Phật ở trong nước, chung quanh bốn phía đóng dừng và Phật vẫn an nhiên kinh hành trong đó. Lúc đó Ca-diếp thấy nước sông tràn ngập liền cho là Sa môn đã bị nước cuốn trôi, ông cùng các đệ tử chèo thuyền nhỏ xuống sông mói thấy Phật vẫn an nhiên kinh hành trong nước, liền hỏi: “Sa môn vẫn còn sống ư?”, đáp là an ổn, Ca-diếp bảo Phật lên thuyền, Phật dùng thần lực bỗng nhiên biến mất rồi hiện thân trên thuyền, Ca-diếp thấy rồi liền suy nghĩ: “tuy Sa môn Kiều-đáp-ma có đại oai đức như vậy, nhưng ta cũng là A-la-hán”. Phật biết tâm niệm của cadiếp nên nói: “Ca-diếp, ông không phải là A-lahán quả, cũng không phải là A-la-hán hướng, cũng không biết đạo A-la-hán”, Ca-diếp suy nghĩ: “Sa môn biết được tâm niệm của ta”, nghĩ rồi liền chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, xin cho con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh”, Phật hỏi: “ông muốn xuất gia, các đệ tử của ông có biết không?”, đáp là không biết, Phật nói: “ông có tiếng tăm, xa gần đều biết ông là người có thiện trí huệ đầy đủ ; ông nên nói với các đệ tử là ông cho họ được tùy theo sở thích”. Ca-diếp vâng lời Phật dạy, trở về nói với các đệ tử: “các đệ tử nên biết, nay ta muốn ở trong pháp của Sa môn Kiều-đáp-ma xuất gia thọ giới cụ túc, còn các đệ tử như thế nào thì tùy ý”, các đệ tử nói: “trước nay chúng con nương theo thầy tu học, nếu thầy đi thì chúng con cũng đi theo để tu phạm hạnh”, Ca-diếp nói: “nếu các con theo ta thì hãy đem các thứ như áo da nai, tích trượng, đồ tế lễ… quăng hết xuống sông Ni-liên-thiền rồi hãy tùy ý đi”, các đệ tử vâng lời thầy dạy, đem các thứ đó quăng hết xuống sông rồi đến bạch thầy: “chúng con đã đem các thứ đó quăng hết xuống sông rồi, giờ phải làm gì nữa xin thầy chỉ dạy”, Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp dẫn năm trăm quyến thuộc đến chỗ Phật bạch : “Thế tôn, con đã nói với các đệ tử, tất cả đều chấp thuận theo con, xin cho chúng con ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh”.
Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp có hai người em tên là Na-đề-ca-diếp và Già-da-ca-diếp đều ở vùng hạ lưu của sông Ni-liên-thiền, mỗi vị đều có hai trăm năm mươi đệ tử, đều siêng tu phạm hạnh, thích tịch tĩnh. Hôm đó Na-đề-ca-diếp bỗng thấy các thứ như áo da nai, tích trượng, đồ cúng tế… trôi theo dòng nước, liền suy nghĩ: “các vị đồng phạm hạnh của ta đã gặp tai nạn gì mà các thứ này lại trôi xuống đây, là do vua quan làm hại hay do giặc cướp, lửa cháy, nước cuốn trôi; chúng ta nên đến đó xem thử”, nghĩ rồi cả hai anh em cùng đi đến chỗ Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp tu đạo. Đến nơi liền thấy Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp mặc Tăng-già-lê, đã cạo bỏ râu tóc và đang ngồi trước Đại Sa môn nghe thuyết diệu pháp. Thấy rồi liền đến hỏi Ưulâu-tần-loa-ca-diếp : “cụ thọ, pháp xuất gia này thù thắng hơn pháp tu trước hay sao?”, đáp là thù thắng hơn, Na đế Ca-diếp và Già-da-ca-diếp nghe rồi liền suy nghĩ: “Sa môn này có đại oai đức, chắc là có giáo pháp thù thắng vi diệu mới khiến cho anh ta tuổi cao đức trọng, nay đã hơn một trăm hai mươi tuổi được dân chúng nước Ma-kiệt-đà tôn kính, cho anh ta là A-la-hán, mà anh ta lại từ bỏ tất cả để xuất gia tu đạo với Sa môn này. Chúng ta cũng nên theo vị ấy xuất gia tu đạo”, nghĩ rồi liến đến đảnh lễ Phật, chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, xin cho chúng con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh”, Phật hỏi: “ông muốn xuất gia, các đệ tử của ông có biết không?”, đáp là không biết, Phật nói: “ ông có tiếng tăm, xa gần đều biết ông là người có thiện trí huệ đầy đủ; ông nên nói với các đệ tử là ông cho họ được tùy theo sở thích”. Nađề-ca-diếp và Già-da-ca-diếp vâng lời Phật dạy, trở về nói với các đệ tử: “các đệ tử nên biết, nay ta muốn ở trong pháp của Sa môn Kiều-đáp-ma xuất gia thọ giới cụ túc, còn các đệ tử như thế nào thì tùy ý”, các đệ tử nói: “trước nay chúng con nương theo thầy tu học, nếu thầy đi thì chúng con cũng đi theo để tu phạm hạnh”, Ca-diếp nói: “nếu các con theo ta thì hãy đem các thứ như áo da nai, tích trượng, đồ tế lễ… quăng hết xuống sông Ni-liênthiền rồi hãy tùy ý đi”, các đệ tử vâng lời thầy dạy, đem các thứ đó quăng hết xuống sông rồi đến bạch thầy : “chúng con đã đem các thứ đó quăng hết xuống sông rồi, giờ phải làm gì nữa xin thầy chỉ dạy”, Na-đề-ca-diếp và Già-da-ca-diếp dẫn năm trăm quyến thuộc đến chỗ Phật bạch : “Thế tôn, con đã nói với các đệ tử, tất cả đều chấp thuận theo con, xin cho chúng con ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh”. Phật nói: “thiện lai Na-đề-ca-diếp và Già-da-ca-diếp, đến tu phạm hạnh”, Phật vừa nói xong, tất cả đều trở thành Bí-sô, lúc đó Phật đã độ được tất cả một ngàn ngoại đạo búi tóc, cho thọ giới cụ túc. Sau một thời gian ở tại trú xứ của Ưulâu-tần-loa-ca-diếp, Phật cùng chúng Bí-sô gồm một ngàn vị vốn là ngoại đạo búi tóc, đi du hành dần đến núi Già da rồi trụ ở trong tháp ở trên đỉnh núi. Lúc đó Phật dùng ba loại thông để giáo hóa một ngàn Bí số này, đó là Thần túc thông, Ký thuyết thông và giáo thọ thông. Thần túc thông là Phật nhập định, từ chỗ ngồi ẩn thân và hiện ra ở phương Đông, ở trên hư không đi đứng nằm ngồi, kế nhập định Hỏa quang, trước tiên từ phương Đông hiện các ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng; hoặc hiện biến thần thông như trên thân tuôn ra nước, dưới thân tuôn ra lửa, hoặc trên thân tuôn ra lửa, dưới thân tuôn ra nước. Phương Đông đã như vậy, các phương Nam, Tây, Bắc cũng hiện như vậy. Sau khi hiện các tướng như vậy, Phật liền ẩn thân và hiện trở lại chỗ ngồi. Ký thuyết thông là Bí-sô nên quán tâm ý thức, nên khởi Tầm tư thiện, không nên khởi Tầm tư bất thiện, đây là ý niệm cũng là thức thân chứng. Giáo thọ thông là Phật bảo các Bí-sô: “các pháp đều hừng thạnh (bị đốt cháy), sao gọi là hừng thạnh? Đó là nhãn hừng thạnh, sắc hừng thạnh, nhãn thức hừng thạnh; nhãn xúc hừng thạnh, nhân nơi nhãn xúc bên trong sanh cảm thọ như khổ, vui, không khổ không vui, tất cả đều bị đốt cháy. Do lửa gì đốt cháy? Do lửa tham, lửa sân, lửa si đốt cháy nên sanh già bịnh chết, ưu bi khổ não cũng đều bị đốt cháy. Cho nên các pháp đều là khổ, nhãn đã như thế thì nhĩ tỷ thiệt thân ý cũng đều như thế”. Khi Phật thuyết giảng pháp này, một ngàn Bí-sô này nơi các pháp hữu lậu được tâm giải thoát, không còn thọ thân sau nữa và chứng quả A-la-hán.
Lúc đó Phật đang ở trong ngôi tháp trên đỉnh núi Già da, nước Ma-kiệt-đà cùng một ngàn Bí-sô vốn là ngoại đạo búi tóc, nay đều đã chứng quả A-la-hán, đều đã trừ hết lậu hoặc, việc nên làm đã làm xong, đã xả gánh nặng, thành tựu hạnh tự lợi, đoạn hết các kiết sử, tâm hoàn toàn giải thoát. Lúc đó dân chúng nước Ma-kiệt-đà nghe tin Thái tử con vua Tịnh-phạn ở thành Kiếp-tỷ-la thuộc chủng tộc Thích ca, bên sông Căng già, dưới chân núi Tuyết, khi đản sanh có Tướng sư xem tướng nói rằng nếu Thái tử nối ngôi vua sẽ là Chuyển luân Thánh vương thống trị bốn châu, dùng chánh pháp giáo hóa, có đủ bảy báu: bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, nữ báu, thần coi giữ phục tàng báu, thần chỉ huy quân đội báu và ngọc ma ni báu; lại có đủ ngàn con đoan nghiêm dõng mãnh có thể chế phục oán địch, khiến cho trong thiên hạ không còn oán địch, chấm dứt đao binh, dân chúng được an cư lạc nghiệp. Nếu vị ấy chánh tín xuất gia, từ bỏ gia đình sống nếp sống không gia đình, cạo bỏ râu tóc đắp ca-sa, chứng Vô thượng giác thì tiếng tăm vang xa, thế gian đều ca ngợi. Sau khi nghe được tin này, dân chúng liền đến chỗ vua Tần-tỳ-sa-la tâu rằng: “Đại vương nên biết, chúng thần nghe tin Thái tử con vua Tịnh-phạn ở thành Kiếp-tỷ-la thuộc chủng tộc Thích ca, bên sông Căng già, dưới chân núi Tuyết, khi đản sanh có Tướng sư xem tướng nói rằng nếu Thái tử nối ngôi vua sẽ là Chuyển luân Thánh vương… thế gian đều ca ngợi. Xin Đại vương hãy ra lịnh giết người này, nếu trừ được thì vận nước của Đại vương mới lâu dài”, vua nói: “các khanh chớ nói lời này, vì sao, vì nếu vị ấy lên ngôi Kim luân vương thì ta sẽ thuận tùng theo; nếu vị ấy thành chánh giác thì ta sẽ thừa sự cúng dường”. Lúc đó vua Tần-tỳ-sa-la lên lầu cao phát năm lời nguyện:
Là nguyện trong nước Ma-kiệt-đà xuất hiện vị đạo sư của giáo pháp lớn, tức là Như lai, Bạc già phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn.
Là nguyện được thân cận thừa sự Thế tôn.
Là nguyện được nghe pháp yếu để được khai ngộ.
Là nguyện sau khi nghe pháp yếu sẽ thọ trì tịnh giới.
5. Là nguyện sau khi thọ trì tịnh giới rồi sẽ như pháp an trụ. Lúc đó Phật ở trên núi Già da nghe thấy năm lời nguyện này liền bảo các Bí-sô: “ta nghe thấy vua Tần-tỳ-sa-la đang ở trên lầu cao phát năm lời nguyện”.
Sau đó dân chúng nước Ma-kiệt-đà lại nghe tin Thái tử con vua Tịnh-phạn ở thành Kiếp-tỷ-la thuộc chủng tộc Thích ca, bên sông Căng già, dưới chân núi Tuyết, khi đản sanh có Tướng sư xem tướng nói rằng nếu Thái tử nối ngôi vua sẽ là Chuyển luân Thánh vương… nay đã bỏ ngôi vị luân vương xuất gia và đã chứng quả Vô thượng chánh giác, hiện nay Phật đang ở trong ngôi tháp trên đỉnh núi Già da, nước Ma-kiệt-đà cùng một ngàn Bí-sô vốn là ngoại đạo búi tóc, nay đều đã chứng quả A-la-hán, đều đã trừ hết lậu hoặc, việc nên làm đã làm xong, đã xả gánh nặng, thành tựu hạnh tự lợi, đoạn hết các kiết sử, tâm hoàn toàn giải thoát. Sau khi nghe tin này, dân chúng liền đến chỗ vua Tần-tỳ-sa-la tâu rằng: “chúng thân hay tin Thái tử thích ca nay đã thành đạo quả Vô thượng giác, hiện đang ở trên đỉnh núi Già da cùng với một ngàn Bí-sô… tâm hoàn toàn giải thoát. Nếu Đại vương đến thừa sự cúng dường thì vận nước của vua sẽ được an ổn, sung túc”, vua nghe rồi rất vui mừng liền sai sứ giả đến chỗ Phật, thay vua đảnh lễ Phật rồi thăm hỏi Thế tôn có được khinh an, ít bịnh, ít não phiền và được an lạc trụ không ; sau đó thỉnh Phật cùng các Bí-sô đến thành Vương xá thọ tứ sự cúng dường trọn đời của vua. Sứ giả vâng lịnh vua đến chỗ Phật ở trên núi Già da, đảnh lễ rồi chắp tay bạch Phật: “vua Tầntỳ-sa-la nước Ma-kiệt-đà sai con đến thăm hỏi Thế tôn có được khinh an, ít bịnh, ít não phiền và được an lạc trụ không ; sau đó thỉnh Phật cùng các Bísô đến thành Vương xá thọ tứ sự cúng dường trọn đời của vua”, Phật im lặng nhận lời, sứ giả biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật rồi trở về bổn xứ.
Lúc đó Phật từ trên đỉnh núi Già da, nước Makiệt-đà cùng một ngàn Bí-sô vốn là ngoại đạo búi tóc, nay đều đã chứng quả A-la-hán, đều đã trừ hết lậu hoặc, việc nên làm đã làm xong, đã xả gánh nặng, thành tựu hạnh tự lợi, đoạn hết các kiết sử, tâm hoàn toàn giải thoát; cùng xuống núi vào trong nước Ma-kiệt-đà rồi dừng nghỉ tại một ngôi tháp trong rừng trúc. Vua nghe được tin này liền cho trang hoàng cỗ xe tốt, xa giá cùng với trăm ngàn quyến thuộc đi đến chỗ Phật nhưng cỗ xe của vua lại lún sâu dưới đất, trục bánh xe không thể xoay chuyển để tiến tới trước. Vua suy nghĩ: “ta đã làm lỗi gì mà trục bánh xe không xoay chuyển để tiến tới được”, vua chợt nghe trên hư không có tiếng nói: “vua không có phạm lỗi, chỉ vì trong ngục của vua có vô lượng người cùng tu nghiệp lành với vua. Nếu vua phóng thích họ thì xe mới tiến tới trước được”, vua nghe rồi liền cho phóng thích các tù nhân. Sau khi các tù nhân được thả, vua xa giá ngang qua cung điện thì mão trên đầu vua bỗng bị nghiêng, vua suy nghĩ: “ta đã tạo nghiệp gì mà lại hiện tướng này”, vua liền nghe trên hư không có tiếng nói: “vua không có lỗi gì, chỉ vì có vô lượng chúng sanh trước đây cùng tu nghiệp lành thù thắng với vua, nay đã phân tán ở những nơi xa xôi, vua nên gọi họ đến để cùng đi gặp Phật”. Vua nghe rồi liền cho gọi họ đến, sau khi họ đến rồi, vua cho trang hoàng một vạn hai ngàn cỗ xe, tập họp mười tám vạn binh mã, một vạn năm ngàn binh voi, vô lượng trăm ngàn Bàla-môn, cư sĩ trong nước Ma-kiệt-đà để cùng đi đến gặp Phật. Đến nơi, vua xuống xe cởi bỏ năm vật thù thắng, đó là lọng, mão, bảo kiếm, quạt báu và giày báu; cởi bỏ xong vua mới đến chỗ Phật, đảnh lễ bạch Phật ba lần: “Thế tôn, con là vua Tầntỳ-sa-la nước Ma-kiệt-đà”, Phật cũng đáp lại ba lần: “phải, Đại vương chính là vua Tần-tỳ-sa-la nước Ma-kiệt-đà, xin mời Đại vương ngồi”. Vua đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên ; các quyến thuộc gồm các Bà-la-môn và các cư sĩ trong nước Makiệt-đà, có nhóm đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, có nhóm chắp tay thăm hỏi Thế tôn có được khinh an, ít bịnh, ít não phiền và được an lạc trụ không, thăm hỏi rồi ngồi một bên ; có nhóm chắp tay nhưng không thăm hỏi rồi ngồi một bên, có nhóm đứng ở xa rồi lặng lẽ ngồi xuống. Lúc đó họ nhìn thấy Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp đang ngồi trong chúng, liền khởi nghi không biết Sa môn Kiềuđáp-ma đến tu tập nơi Ca-diếp hay là Ca-diếp đến tu tập nơi Sa môn Kiều-đáp-ma. Phật biết tâm niệm của họ liền nói kệ hỏi Ca-diếp:
“Ca-diếp, xưa thầy thấy lợi gì,
Bỏ tục xuất gia theo thờ lửa,
Hành trì pháp ấy được lợi gì,
Thầy nói nghĩa này cho ta nghe”.
Ca-diếp nói kệ:
“Nghe nói tu pháp này được lợi,
Mỹ nữ, thức ăn vị vi diệu,
Do thấy pháp ấy có lợi này,
Tôi bỏ thế tục theo thờ lửa”.
Thế tôn nói kệ:
“Mỹ nữ, thức ăn vị vi diệu,
Nếu do thờ lửa được lợi này,
Có đủ dục lạc cõi người trời,
Sao thầy từ bỏ không màng đến”.
Ca-diếp nói kệ:
“Vì thấy pháp thắng định vô dư,
Vô sở hữu xứ không muốn trụ,
Vì diệu pháp này không gì hơn,
Nên bỏ lợi này không màng đến.
Do tôi trước đây tâm ngu si,
Tu pháp thờ lửa mong giải thoát,
Trái ngược với thắng pháp vi diệu,
Nên thường lưu chuyển trong sanh tử.
Nay quán pháp vô vi tối thắng,
Bậc Điều ngự trượng phu đã dạy,
Là thật pháp có ích cho đời,
Kiều-đáp-ma giáo hóa không mỏi”.
Thế tôn nói kệ khen ngợi Ca-diếp:
“Thiện lai, Ca-diếp ba!
Không có tư tưởng ác,
Pháp rộng lớn thù thắng,
Nay thầy đã thâm nhập”.
Thế tôn nói kệ rồi bảo Ca-diếp: “thầy hãy hiện thần biến cho đại chúng xem”, Ca-diếp vâng lời Phật dạy, nhập định rồi ẩn thân nơi chỗ ngồi và hiện ra ở phương Đông, trên hư không đi đứng nằm ngồi, kế nhập định Hỏa quang trước tiên từ phương Đông hiện các ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng ; hoặc hiện biến thần thông như trên thân tuôn ra nước, dưới thân tuôn ra lửa, hoặc trên thân tuôn ra lửa, dưới thân tuôn ra nước. Phương Đông đã như vậy, các phương Nam, Tây, Bắc cũng hiện như vậy rồi từ trên hư không hiện trở xuống, ở trước Phật đảnh lễ bạch rằng: “Thế tôn là thầy của con, con là đệ tử Thanh văn của Thế tôn”, Phật nói: “phải, Như lai là thầy của Ca-diếp, Ca-diếp là đệ tử Thanh văn của Như lai. Ca-diếp, thầy hãy trở về chỗ ngồi”, Ca-diếp đảnh lễ rồi trở về chỗ ngồi. Lúc đó các Bà-la-môn, các cư sĩ thấy việc này rồi liền suy nghĩ: “không phải Sa môn Kiều-đáp-ma tu tập nơi Ca-diếp, mà là Ca-diếp tu tập nơi Sa môn Kiều-đáp-ma”.
Lúc đó Phật bảo vua Tần-tỳ-sa-la: “Đại vương nên biết rõ nhân duyên sanh diệt của Sắc pháp, thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Nếu biết rõ sự sanh diệt dị của Sắc pháp thì có thể biết rõ tự tánh của Sắc pháp, thọ tưởng hành thức cũng như vậy. Đại vương, nếu thiện nam nào biết rõ tánh của Sắc rồi mà không tham đắm, không lãnh thọ cũng không nắm giữ thì quyết định biết người ấy thấy Sắc là không có ngã và ngã sở ; thọ tưởng hành thức cũng vậy. Lúc đó ta nói người này chứng Niết-bàn giải thoát”. Khi Thế tôn nói pháp này rồi, các Bà-lamôn, các cư sĩ nước Ma-kiệt-đà đều suy nghĩ: “nếu Sắc vô ngã, thọ tưởng hành thức cũng vô ngã thì pháp gì là ngã; ai là hữu tình, ai sanh ra, ai nuôi dưỡng, người và chúng sanh thường chấp ý thú cùng với năng sở tác của Ma nạp, cho đến tạo xúc thọ, đi đứng… Tất cả các pháp đều là vô ngã thì vật gì là không sanh không diệt, không phải ba đời có mà có thể làm và thọ. Đối với điều nên làm và điều không nên làm thì ai sẽ thọ quả báo của nghiệp thiện ác, để bỏ uẩn này thọ uẩn khác”, Phật biết tâm niệm của họ nên bảo các Bí-sô: “người không có trí huệ, không đa văn liền khởi niệm chấp ngã và ngã sở, không biết là không có ngã và ngã sở, vì sao, vì từ Tập sanh Khổ, chứng Diệt thì hết khổ ; từ Tập sanh Hành, chứng diệt thì Hành diệt; nhân duyên của pháp ấy diệt thì pháp ấy diệt, do nhân duyên sanh nên các hữu tình theo thứ lớp luân chuyển; nhân duyên diệt thì hữu tình diệt nên Như lai biết rõ là rốt ráo vô ngã. Này các Bí-sô, Với thiên nhãn thanh tịnh, ta quán thấy các hữu tình lưu chuyển sanh diệt, hoặc đẹp xấu, giàu nghèo, làm nghiệp thiện hay làm nghiệp ác, hướng tới đường lành hay đường ác… ta đều thấy biết như thật. Những chúng sanh làm nghiệp ác nơi thân khẩu ý như phỉ báng Thánh hiền, chấp chặt tà kiến, tạo nghiệp tà kiến; do làm nghiệp này nên sau khi chết bị đọa trong ba đường ác. Những chúng sanh làm nghiệp thiện nơi ba nghiệp thân khẩu ý như cung kính Thánh hiền, thực hành chánh kiến; do làm nghiệp này nên sau khi mạng chung được sanh vào đường lành. Các việc như vậy ta đều thấy biết như thật, nhưng ta chưa từng nói hữu tình là ngã ; ai là hữu tình, ai sanh ra, ai nuôi dưỡng, người và chúng sanh thường chấp ý thú cùng với năng sở tác của Ma nạp, cho đến tạo xúc thọ, đi đứng… Tất cả các pháp đều là vô ngã thì vật gì là không sanh không diệt, không phải ba đời có mà có thể làm và thọ. Đối với điều nên làm và điều không nên làm thì ai sẽ thọ quả báo của nghiệp thiện ác, để bỏ uẩn này thọ uẩn khác. Tất cả pháp đó không gọi là ngã mà gọi là nhân duyên, đó là:
Hễ cái này có thì cái kia sanh nên Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục xứ, Lục xứ duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão tử, ưu bi khổ não. Đây là sự tích tụ của năm uẩn.
Hễ cái này diệt thì cái kia diệt nên Vô minh diệt thì Hành diệt, Hành diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh sắc diệt, Danh sắc diệt thì Lục xứ diệt, Lục xứ diệt thì Xúc diệt, Xúc diệt thì Thọ diệt, Thọ diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thủ diệt, Thủ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thỉ Sanh diệt, Sanh diệt thì Lão tử, ưu bi khổ não đều diệt. Đây là sự tam rã của năm uẩn.
Này các Bí-sô, các hành như vậy đều là khổ,
Niết-bàn là vui; do Tập nên Khổ sanh, do Diệt nên Khổ diệt. Nếu sự lưu chuyển tương tục này dứt thì Khổ diệt. Sao gọi là Niết-bàn, khổ tức là Niết-bàn, giống như lửa tắt thì được mát mẻ; cho nên ta nói pháp này có thể xả các uẩn, do khổ tham Ái diệt nên được viên tịch”. Lúc đó Phật hỏi vua Tần-tỳsa-la: “Ý vua nghĩ sao, sắc là thường hay vô thường?”, đáp là vô thường, Phật lại hỏi: “nếu sắc là vô thường thì đó là khổ hay không khổ?”, đáp là khổ, Phật lại hỏi: “nếu sắc là vô thường, khổ tức là biến hoại thì người đệ tử đa văn có chấp sắc là ngã, ngã có các sắc, sắc thuộc ngã và ngã ở trong sắc hay không?”, đáp là không. Phật lại hỏi: “Ý vua nghĩ sao, thọ tưởng hành thức là thường hay vô thường?”, đáp là vô thường, Phật lại hỏi: “nếu thọ tưởng hành thức là vô thường thì đó là khổ hay không khổ?”, đáp là khổ, Phật lại hỏi: “nếu thọ tưởng hành thức là vô thường, khổ tức là biến hoại thì người đệ tử đa văn có chấp thọ… thức là ngã, ngã có thọ… thức, thọ… thức thuộc ngã và ngã ở trong thọ… thức hay không?”, đáp là không, Phật nói: “vì thế nên biết, các loại sắc quá khứ hay vị lai hay hiện tại hoặc ở trong, ở ngoài, hoặc thô hay tế, hoặc thù thắng hay hạ liệt, hoặc gần hay xa… đều không phải là ngã, ngã sở hữu, sắc không thuộc ngã và ngã không ở trong sắc. Nhờ biết rõ như thật nên ta thấy sắc như vậy, cho đến thọ tưởng hành thức cũng thấy như vậy. Đại vương, có đệ tử Thanh văn nghe biết đầy đủ rồi liền quán năm thủ uẩn để lìa ngã và ngã sở, sau khi quán thấy như vậy sẽ biết rõ thế gian thật sự không nắm bắt được. Do không nắm bắt được nên vị ấy không lo sợ, do không lo sợ nên bên trong được viên tịch, hiểu rõ sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau”. Khi Thế tôn nói pháp này xong, vua Tần-tỳ-sa-la cùng tám vạn thiên tử, vô lượng trăm ngàn Bà-la-môn, cư sĩ liền xa lìa trần cấu, chứng được pháp nhãn thanh tịnh, thấy được pháp rồi tâm không còn nghi hoặc, không còn sợ hãi, chỉ nương theo giáo pháp của Đại sư, không theo giáo pháp khác. Chứng quả rồi, Đại vương và các quyến thuộc rất hoan hỉ liền đứng dậy đảnh lễ, quỳ gối chắp tay bạch Phật: “Thế tôn, hôm nay chúng con được thâm nhập diệu pháp được đại lợi ích, chúng con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng làm Ô-ba-sách-ca. Từ nay cho đến trọn đời con thọ trì năm học xứ là không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối và không uống rượu. Cúi xin Thế tôn và các Bí-sô đến trụ trong thành Vương xá để chúng con trọn đời cúng dường tứ sự”. Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời, vua cùng các quyến thuộc đảnh lễ Phật rồi trở về bổn xứ.
Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, bậc Nhất thiết trí xin hãy dứt nghi cho chúng con. Đại vương cùng các quyến thuộc đã tạo nghiệp nhơn gì mà được pháp nhãn thanh tịnh?”, Phật bảo các Bí-sô: “các thầy lắng nghe, nghiệp nhơn mà vua Tần-tỳ-sa-la đã tạo, theo thời gian nghiệp ấy tăng trưởng thuần thục, duyên biến hiện tiền như bộc lưu (thác nước) không thể chảy ngược lại, quyết định phải chiêu lấy quả báo không ai có thể thọ thay. Này các Bí-sô, nếu một người đã tạo nghiệp thiện ác không phải địa thủy hỏa phong ở ngoài giới mới khiến người kia thọ báo, mà đều ở trong uẩn xứ giới của tự thân chiêu cảm quả dị thục”. Phật nói kệ:
“Dù trải qua trăm kiếp,
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên hội họp,
Tự thọ lấy quả báo”.
Này các Bí-sô, trong quá khứ có Phật hiệu là A-la-na-bệ có đủ 10 hiệu Như lai, Bạc già phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu,
Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện nơi đời. Sau khi Phật sự viên mãn, Phật nhập Niết-bàn vô dư như củi hết lửa tắt ; trà tỳ xong, dân chúng nơi đó thu lấy xá lợi rồi xây tháp ở nơi thanh tịnh để cúng dường. Lúc đó có Kim luân vương tên là Kiết lợi chỉ cùng mười tám ức quan tướng ngồi trên kim luân báu, bay trên hư không để đến nhân gian. Khi tới chỗ có ngôi tháp đó thì các thiên thần tin Phật dùng oai lực giữ kim luân báu lại, không cho đi tới trước. Vua thấy kim luân báu không chuyển động liền suy nghĩ: “có lẽ phước đức của ta đã hết nên kim luân báu không chuyện động nữa”, các thiên thần nói với vua: “không phải phước của vua hết, chỉ vì phía dưới có tháp thờ xá lợi Phật nên khiến kim luân báu của vua không chuyển động nữa”, vua nghe rồi liền hạ kim luân báu xuống. Thấy tháp chưa hoàn tất, họ cùng khích lệ nhau đem châu báu của mình và dùng hương hoa âm nhạc để cúng dường tháp. Cúng dường xong, họ cùng chắp tay đồng thanh phát nguyện: “nguyện nhờ căn lành này, ở đời vị lai chúng con sẽ được gặp Phật nghe pháp và chứng được pháp nhãn thanh tịnh”, nguyện xong rồi họ cùng cung kính đảnh lễ tháp.
Này các Bí-sô, Kim luân vương Kiết lợi chỉ và các quan tướng thuở xưa chính là vua Tần-tỳ-Sa-la và các quyến thuộc ngày nay. Thuở xưa vua và các quan tướng cúng dường tháp thờ xá lợi Phật A-la-na-bệ nên nhờ căn lành này, trong vô lượng trăm ngàn vạn kiếp được sanh trong cõi trời người, thọ diệu lạc thù thắng; lại do nguyện lực nên vua và các quyến thuộc ở chỗ ta nghe pháp và chưng được pháp nhãn thanh tịnh.
Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập nghiệp trắng, chớ có buông lung”.
Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, bậc Nhất thiết trí xin hãy dứt nghi cho chúng con. Ưu-lâu-tần-loa-ca-diếp đã tạo nghiệp gì mà Phật phải dùng năm trăm thần biến mới điều phục được ; con Na-đề-ca-diếp và Già-da-ca-diếp lại được nhậm vận điều phục?”, Phật bảo các Bísô: “các thầy hãy lắng nghe nghiệp tư lương mà Ca-diếp đã tích tụ”, kế nói kệ như trên.
Quá khứ Hiền kiếp, khi con người thọ hai vạn tuổi, có Phật Ca-diếp ba đầy đủ mười hiệu xuất hiện nơi đời. Phật Ca-nhiếp-ba nhân duyên hóa độ đã mãn nên nhập Niết-bàn tại vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Vua Kiết lợi chỉ dùng gỗ thơm làm lễ trà tỳ, rưới sữa bò dập tắt lửa, thu xa lợi đựng trong bốn bình báu rồi cho xây tháp cao nửa do tuần, rộng một do tuần tại một khu đất rộng và bằng phẳng để cúng dường. Lúc đó trong thành Bà-la-nê-tư có một trưởng giả giàu có, nhiều của báu… như Tỳ sa môn thiên vương. Trưởng giả cưới một cô gái trong dòng quý tộc, sống hạnh phúc và có được ba người con. Thời gian sau, bỗng đột nhiên nhiễm bịnh, dùng đủ loại thuốc mà bịnh không thuyên giảm nên qua đời. Ba người con dùng các vải lụa màu trang hoàng xe tang rồi đưa đến trong Hàn lâm để hỏa thiêu. Lo việc tang xong, người anh muốn phân chia tài sản, hai người em không chịu; thấy người anh cứ mãi đòi phân chia tài sản, hai người em nói: “nếu anh muốn chia tài sản thì trước phải tu phước nghiệp”, người anh hỏi làm phước nghiệp gì, người em nói: “cúng dường tháp Phật Ca-diếp ba”. Do người anh không tin chánh pháp nên làm khó một thời gian, cuối cùng mới chấp thuận làm phước nghiệp; hai người em dùng đủ loại châu báu cúng dường tháp của Phật Ca-diếp ba rồi phát nguyện: “nguyện nhờ căn lành này ở đời vị lai lúc con người thọ 100 tuổi, ở chỗ vị Phật đương lai mà Phật Ca-diếp ba thọ ký là Phật Thích ca mâu ni ra đời, chúng con sẽ được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy và được chứng quả thù thắng”. Người anh nghe hai người em phát nguyện, sanh tâm hoan hỉ liền đảnh lễ và phát nguyện: “con có tánh ác không tin chánh pháp, nguyện nhờ căn lành tùy hỉ này ở đời vị lai được thấy Phật Thích ca Mâu ni hiện năm trăm thần biến để điều phục con, khiến cho con xuất gia ; sau khi xuất gia, con sẽ chứng được quả thù thắng”.
Này các Bí-sô, người anh có tánh ác không tin chánh pháp thuở xưa chính là Ưu-lâu-tần-loa-cadiếp ngày nay; hai người em thuở xưa chính là Nađề-ca-diếp và Già-da-ca-diếp ngày nay. Do nguyện lực xưa nên nay Phật phải dùng năm trăm thần biến mới điều phục được người anh, còn hai người em điều phục dễ hơn”.
Khi vua Tần-tỳ-sa-la còn là Thái tử, trong thành Vương xá có một trưởng giả là chủ của một vườn hoa trái sum suê và rất yêu thích nó. Khi Thái tử đến dạo chơi trong vườn hoa này liền sanh tâm yêu thích, nên Thái tử yêu cầu trưởng giả: “ta cho khanh nhiều trân bảo để đổi lấy vườn hoa này, khanh có bằng lòng không?”, trưởng giả đáp: “thà rời khỏi nước chứ nhất định không đổi”, Thái tử nói: “khanh hãy nhớ lời ta, khi nào ta lên ngôi ta sẽ lấy vườn hoa này”, trưởng giả nói: “khi nào Thái tử lên ngôi thì tôi sẽ rời khỏi nước”, Thái tử nói: “khanh hãy ghi nhớ lời của Thái tử Tần-tỳ-Sa-la”, nói xong liền quay xe trở về. Thời gian sau, vua Đại liên hoa già yếu nên qua đời, Thái tử lên nối ngôi; sau khi lên ngôi, vua liền dùng quyền lực chiếm lấy vườn hoa, trưởng giả phiền muộn nên mắc bịnh và chết trong oán hận. Sau khi chết thọ sanh làm một con rắn độc ở trong vườn hoa này, rình tìm cơ hội giết chết Vua trả thù. Đến mùa xuân, vua cùng các cung nhơn thể nữ đến trong vườn hoa ; đến nơi, vua bảo các quan đi chỗ khác để vua cùng các thể nữ vui chơi hoan lạc, sau đó vua ngủ thiếp đi. Các thể nữ bỏ vua nằm đó để đi thưởng ngoạn, một thể nữ ở lại bên vua cầm dao hộ vệ; rắn độc thừa dịp này liền bò đến định cắn chết vua. Nhờ phước đức của vua khiến bầy chim Yết lan đạc ca vây quanh con rắn kêu vang lên, nghe tiếng chim kêu và nhìn thấy rắn bò về phía vua, thể nữ này cầm dao chặt đứt thân con rắn. Vì sợ hãi nên cô la to khiến vua tỉnh giấc, sau khi hỏi rõ nguyên do vua ra lịnh tập họp quần thân và dân chúng trong thành Vương xá đến vườn hoa ; vì vua giỏi trị nước nên khi mọi người nghe biết tin này đều rơi lệ. Vua hỏi mọi người: “nếu người nào cứu sống vua quán đảnh dòng Sát-đế-lỵ thì đáng được báo đáp như thế nào?”, đáp là đáng thưởng cho nửa nước, vua nói: “bầy chim Yết lan đạc ca vừa cứu sống ta, vậy chúng đáng được thưởng cho nửa nước”, đại thần tâu vua: “chim Yết lan đạc ca không phải là người, thưởng như thế là không hợp lý ; vua nên thưởng cho chúng khu vườn này và trọn đời cung cấp thức ăn uống cho chúng”, vua nói: “sẽ làm theo lời khanh vừa nói”, quần thần cho trồng trúc quanh vườn nên vườn này được gọi là vườn trúc Yết lan đạc ca.
Lúc đó Thế tôn du hành đến nước Ma-kiệt-đà rồi dừng nghỉ dưới một gốc cây bên ngoài thành Vương xá, nghe tin này vua Ảnh thắng cùng các quyến thuộc ra khỏi thành đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho vua được lợi hỉ rồi liền im lặng. vua Ảnh thắng cung kính thỉnh Phật và Tăng vào ngày mai thọ thực, Phật im lặng nhận lời, vua biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Về đến trong cung liền ra lịnh các quyến thuộc ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa và để trước tòa ngồi một bình báu đựng nước rồi sai sứ đến bạch Phật: “đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Phật đắp y mang bát cùng các Bí-sô đến trong cung vua, rửa tay chân rồi rồi đến tòa ngồi; thấy Phật và Tăng đã ngồi xong, vua tự tay dâng các thức ăn ngon lên cúng dường khiến cho tất cả đều được no đủ. Sau khi Phật và Tăng thọ thực xong, vua lấy bình báu đựng nước rưới nước cho Phật rửa tay rồi bạch Phật: “cúi xin Thế tôn thọ con cúng khu vườn Yết lan đạc ca này”, Phật nói kệ:
“Người đã làm bố thí,
Chắc chắn được nghĩa lợi.
Nếu vì vui nên thí,
Sau sẽ được an lạc”.
Nói kệ chú nguyện rồi, Phật cùng các Bí-sô đến ở trong vườn Yết lan đạc ca; do nhân duyên này khi kiết tập kinh nói rằng: Phật ở trong vườn Yết lan đạc ca… cho đến tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên xuất gia đắc đạo A-la-hán. Lúc đó trong thành Vương xá có một trưởng giả thỉnh
Phật và các Bí-sô đến nhà thọ thực, lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc vì có chút duyên nên đến thành Vương xá, ngủ đêm ở nhà trưởng giả này. Đêm đó trưởng giả chủ nhà thức dậy, đánh thức mọi người trong nhà, trừ trẻ con, hoặc chẻ củi hoặc lấy nước đổ vào trong nồi để nấu cơm, canh, thức ăn; cư sĩ còn tự mình trang hoàng nhà cửa, trải tọa cụ… các việc. Cấp-cô-độc thấy rồi liền suy nghĩ: “trưởng giả này sắp cưới vợ hay gả con gái, hoặc là thỉnh vua quan đến hay làm hội thí lớn”, nghĩ rồi liền hỏi nguyên do, trưởng giả chủ nhà đáp: “tôi không có cưới vợ, cũng không gả con gái hay thỉnh vua quan, mà là sáng ngày mai thỉnh Phật và Tăng đến nhà thọ thực làm hội thí lớn”, Cấp-cô-độc vừa nghe đến tên Phật, toàn thân lông đều dựng đứng, tâm sanh hoan hỉ liền hỏi Phật là ai, chủ nhà nói: “có Thái tử con vua dòng họ Thích, tín tâm xuất gia chứng được Vô thượng đạo, hiệu là Phật”, lại hỏi Tăng là ai, cư sĩ nói: “có nhiều hạng người thuộc bốn giai cấp: Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ xá, Thủ đà la, đủ các dòng họ tín tâm xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, theo Phật xuất gia đều gọi là Tăng”, lại hỏi: “Phật nay đang ở đâu?”, đáp: “Phật đang ở gần Hàn lâm, nếu ông muốn gặp thì hãy đợi đến sáng mai sẽ được gặp Thế tôn”. Lúc đó trưởng giả Cấp-cô-độc chuyên tâm nghĩ về Phật nên ngủ thiếp được một lát thị chợt tỉnh giấc, trời chưa sáng lại tưởng là trời sáng nên vội ra đến cửa thành Thiện tự tại. Thường pháp của nước này là đầu đêm không đóng cửa thành để sứ giả bên ngoài đến không bị chướng ngại, cuối đêm cũng mở cửa thành để sứ giả bên trong đi ra không bị chướng ngại. Khi trưởng giả ra đến cửa thành thấy cửa mở liền nương theo ánh sáng ra ngoài, ra khỏi thành thì ánh sáng liền mất ; thấy trời tối đen trưởng giả sợ hãi, toàn thân lông dựng đứng, liền suy nghĩ: “nếu ta còn ở đây e sẽ bị người hoặc phi nhơn làm hại”, nghĩ rồi liền muốn quay trở lại. Thiên thần coi giữ cửa thành này liền phóng ánh sáng chiếu sáng từ bên ngoài cửa thành cho đến Hàn lâm rồi nói kệ:
“Tuấn mã đủ trăm con,
Vàng tử ma-trăm cân,
Xe song mã thật đẹp,
Đủ số một trăm chiếc,
Chở đầy đủ các vật,
Để đem đi bố thí,
Cũng không bằng công đức,
Một bước đến gặp Phật,
Nếu so sánh như vậy,
Là một phần mười sáu.
Cho dù trăm thớt voi,
Đều dùng vàng trang sức,
Chở lụa là châu báu,
Để đem đi bố thí,
Cũng không bằng công đức,
Một bước đến gặp Phật,
Nếu so sánh như vậy,
Là một phần mười sáu.
Cho dù trăm mỹ nữ,
Xinh đẹp vào bậc nhất,
Cổ đeo chuỗi ngọc báu,
Tay đeo vòng xuyến báu,
Để đem đi bố thí,
Cũng không bằng công đức,
Một bước đến gặp Phật,
Nếu so sánh như vậy,
Là một phần mười sáu.
Ông hãy đi tới trước, sẽ được lợi ích lớn, chớ có quay trở lại”, trưởng giả hỏi: “hiền thủ là ai?”, đáp: “đời trước ta là bạn của ông tên Ma đầu kiên, do ta khi đến thành Vương xá gặp được hai tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên, được nghe thuyết pháp và được lợi hỉ nên ta đã thọ Tam quy ngũ giới. Do nhân duyên này, mạng chung được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương làm thần giữ cửa ở đây. Ông hãy đi đi, sẽ được lợi ích lớn, đi thẳng về phía trước, chớ có nghi hối”. Lúc đó trưởng giả suy nghĩ: “Phật vượt khỏi hàng phàm phu, các bậc Thánh khác không sánh bằng, Phật thuyết pháp đáng tôn trọng nên khi ta muốn gặp Phật, chư thiên rất hoan hỉ”, nghĩ rồi liền nương theo ánh sáng này đi đến Hàn lâm. Phật biết trưởng giả Cấp-cô-độc sắp đến nên ở bên ngoài tinh xá kinh hành, trưởng giả thấy Phật liền theo pháp của cư sĩ thăm hỏi Phật ngủ có được an không, Phật nói kệ:
“Lìa tất cả phiền não,
Tâm không nhiễm dục lạc,
Được Vô lậu giải thoát,
Ngủ thường được an lạc.
Đoạn tất cả triền phược,
Tâm dứt hết phiền não,
Trong tâm thường tịch tĩnh,
Nên ngủ được an lạc”.
Nói kệ xong, Phật cùng trưởng giả Cấp-cô-độc trở vào trong tinh xá trải tòa ngồi, trưởng giả đến trước Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho trưởng giả được lợi hỉ. Thường pháp của Phật là trước tiên Phật nói về bố thí trì giới là quả báo sanh Thiên, kế phân biệt cấu tịnh giữa lỗi của năm dục là khổ não của thế gian và xuất gia là an lạc. Lúc đó Phật biết tâm trưởng giả đã thuần thục điều nhu, có thể thọ được pháp tối thượng liền nói bốn đế: Khổ tập diệt đạo. Như miếng vải trắng sạch dễ nhuộm màu sắc, trưởng giả cũng vậy, vừa nghe pháp tâm liền khai ngộ, ngay nơi chỗ ngồi được pháp nhãn thanh tịnh vô cấu. Sau khi thấy pháp, biết pháp, được tịnh pháp, vượt khỏi nghi hối, bất tín, không từ nơi người khác mà ở trong đạo quả được vô sở úy. Trưởng giả liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ bạch Phật: “Thế tôn, tâm con mến mộ
Phật pháp, con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng làm Ô-ba-sách-ca. Từ nay cho đến trọn đời, con vĩnh viễn không sát sanh, tín tâm thanh tịnh”. Phật hỏi trưởng giả: “ông tên gì?”, đáp: “con tên là Tô đạt đa, do con hay cung cấp cho những người nghèo khổ cô độc nên mọi người gọi con là Cấpcô-độc”, lại hỏi: “ông ở đâu?”, đáp: “con hiện ở tại một ấp phía Bắc bên ngoài thành Thất-la-phiệt thuộc nước Kiều-tát-la. Cúi xin Thế tôn thọ con thỉnh đến thành Thất-la-phiệt, con sẻ trọn đời cúng dường tứ sự cho Thế tôn và Bí-sô tăng già”, Phật hỏi: “tại thành Thất-la-phiệt có tinh xá không?”, đáp là không có, Phật nói: “nếu nơi đó có tinh xá thì chúng tăng mới có thể qua lại, nếu không có tinh xá thì chúng tăng sẽ an trụ ở đâu”, trưởng giả nói: “cúi xin Thế tôn thọ con thỉnh đến thành Thấtla-phiệt trước, con sẽ trở về xây dựng tinh xá cho các Bí-sô có chỗ dừng trụ tư duy”. Phật im lặng nhận lời, trưởng giả biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ rồi trở về. Sau khi lo liệu xong công việc ở thành Vương xá, trưởng giả trở lại chỗ Phật đảnh lễ rồi bạch Phật: “Thế tôn, xin cử một Bí-sô đi cùng con đến thành Thất-la-phiệt để lo việc xây dựng tinh xá cho Thế tôn và các Bí-sô có chỗ dừng nghỉ”, Phật suy nghĩ: “trong chúng ai có thể điều phục được dân chúng thành Thất-la-phiệt và quyến thuộc của trưởng giả”, liền quán biết tôn giả Xálợi-phất có thể đảm nhận việc này. Phật bảo tôn giả Xá-lợi-phất: “thầy hãy quán quyến thuộc của trưởng giả Cấp-cô-độc và dân chúng thành Thấtla-phiệt rồi đến đó giáo hóa và lo việc xây cất tinh xá”, Xá-lợi-phất im lặng vâng lời Phật dạy, đảnh lễ Phật rồi trở về phòng. Sáng hôm sau Xá-lợi-phất đắp y mang bát vào thành Vương xá khất thực, thọ thực xong thu cất y bát, giao ngọa cụ cho Bí-sô khác rồi cùng đi với trưởng giả Cấp-cô-độc đến thành Thất-la-phiệt ; trưởng giả cũng đã chuẩn bị đầy đủ lương thực đi đường, tuần tự đi đến bên ngoài thành Thất-la-phiệt. Đến nơi, ông lại không vào thành cũng không về nhà mà đi khắp nơi quanh thành để tìm nơi chốn thích hợp có thể xây cất tinh xá. Vừa đi ông vừa nghĩ: “ở đâu có vườn đẹp, qua lại thuận tiện, cây cối sum suê, có nước chảy trong sạch, không có các loài trùng độc như rắn rít, muỗi mòng, cũng không có gió nóng, ngày đêm đều yên tĩnh. Ta sẽ ở nơi đó xây cất tinh xá cúng cho Phật và Tăng”, bỗng nhiên lúc đó ông nhìn thấy khu vườn của Thái tử Kỳ đà có đầy đủ các điều kiện trên, thấy rồi ông liền trở vào thành, không về nhà mà đến chỗ Thái tử bạch rằng: “tôi muốn mua vườn của Thái tử, xin hãy bán cho tôi”, Thái tử nói: “đây không phải là vườn mà là uyển lâm”, trưởng giả nói: “dù là vườn hay uyển lâm tôi cũng muốn mua, xin Thái tử hãy bán cho tội”, Thái tử nói: “tôi không muốn bán, cho dù ông có đem tiền vàng lót đầy trong vườn, tôi cũng không bán”, Cấp-cô-độc nói: “giá vườn đã quyết đoán rồi”, Thái tử nói: “tôi không có quyết đoán”. Do nhân duyên này cả hai cùng tranh cải và cùng đến chỗ quan đoán sự để xử đoán, Cấp-cô-độc kể lại đầy đủ việc trên, quan đoán sự nghe rồi liền nói: “Thái tử đã bán rồi, hãy nên đúng thời nhận vàng, vì sao Thái tử lại nói là dù ông có đem tiền vàng lót đầy trong vườn tôi cũng không bán”. Cấp-côđộc liền trở về nhà cho xe voi xe ngựa chở tiền vàng đến trong vườn của Thái tử để lót, nhưng còn thiếu một ít chưa lót đầy vườn, ông đang suy nghĩ không biết nên lấy thêm vàng trong kho nào để lót đầy chỗ này mà không thiếu không dư. Thái tử thấy vậy liên nói: “nếu ông hối tiếc thì tùy ý, ông mang vàng về, trả vườn lại cho tôi”, Cấp-cô-độc nói: “tôi không hối tiếc, chỉ là tôi đang suy nghĩ nên lấy thêm vàng trong kho nào để lót cho đầy chỗ này mà không thiếu không dư”, Thái tử nghe rồi liền suy nghĩ: “Phật pháp Tăng chắc là vĩ đại nên khiến ông ta xả vật báu mà không hối tiếc như thế”, nghĩ rồi liền nói với Cấp-cô-độc : “ông khỏi phải lót thêm tiền vàng nữa, chỗ đất trống đó hãy để cho tôi xây cửa cổng cúng cho Phật và Tăng”, trưởng giả nói: “vậy thì tùy ý Thái tử”. Lúc đó các ngoại đạo nghe biết trưởng giả sắp xây dựng tinh xá cho Phật và Tăng, trong lòng ưu não và oán hận nên cùng kéo nhau tới nhà trưởng giả, nói với trưởng giả: “ông không nên xây dựng tinh xá cho Sa môn Kiều-đáp-ma, vì sao, vì chúng tôi trước đã phân chia ranh giới, Kiều-đáp-ma trụ ở thành Vương xá, chúng tôi trụ ở thành Thất-la-phiệt”, trưởng giả nói: “các vị chỉ có thể phân chia ranh giới của mình, không nên phân chia cả vườn của tôi, tôi làm công đức này đều là do tự tâm”. Các ngoại đạo thấy không thể lay chuyển ý quyết của trưởng giả liền đến gặp vua tâu rõ việc trên, vua triệu Cấp-cô-độc đến, Cấp-cô-độc đối đáp và được thắng. Các ngoại đạo nói với tâm giận tức : “nếu vậy thì đệ tử thượng thủ của Sa môn Kiều-đáp-ma phải cùng chúng tôi tranh luận, nếu thắng được chúng tôi thì ông tùy ý xây dựng tinh xá”, trưởng giả nói: “được, xin hãy đợi tôi bạch tôn giả Xálợi-phất, nếu tôn giả nhận lời thì tôi sẽ báo cho các vị”. Trưởng giả đến chỗ tôn giả đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch rằng:
“đại đức, các ngoại đạo nói nếu xây tinh xá họ sẽ cản trở, lại nói đệ tử thượng thủ của Sa môn Kiều-đáp-ma phải cùng chúng tôi tranh luận, nếu thắng được chúng tôi thì ông tùy ý xây dựng tinh xá. Không biết ý của tôn giả như thế nào?”, Xálợi-phất nghe rồi liền quán xem các ngoại đạo và dân chúng thành Thất-la-phiệt có thiện căn hay không, liền quán biết là họ có thiện căn; lại quán ai có thể điều phục được họ, liền quán biết mình có thể điều phục họ; lại quán xem thời cơ là vào lúc nào, liền quán biết là bảy ngày sau. Sau khi quán biết rồi, Xá-lợi-phất bảo Cấp-cô-độc: “cứ làm theo ý ông, nhưng bảy ngày sau tôi mới cùng họ luận nghị”, Cấp-cô-độc nghe rồi rất vui mừng đảnh lễ tôn giả rồi đến chỗ ngoại đạo nói là bảy ngày sau sẽ cùng luận nghị. Các ngoại đạo nghe rồi liền nói với nhau: “có hai nhân duyên khiến ông ta kéo dài kỳ hạn đến bảy ngày sau: một là định bỏ trốn, hai là đi tìm bạn trợ giúp. Chúng ta cũng nên tìm bạn trợ giúp”, nói rồi cùng nhau đi tìm người trợ giúp. Họ tìm đến một Phạm chí tên là Xích nhãn là người đã được bổn tông lại giỏi huyễn thuật, nói rằng: “ông và chúng tôi cùng tu đạo hạnh, hiện nay chúng tôi hẹn với đệ tử thượng thủ của Sa môn Kiều-đáp-ma cùng luận nghị, ông ta đã đi tìm bạn trợ giúp, xin nhân giả đến trợ giúp chúng tôi”, Phạm chí hỏi lúc nào cùng luận nghị, đáp là bảy ngày sau, Phạm chí nói: “được, khi nào tụ họp cùng luận nghị thì báo cho tôi biết”. Vì lo lắng nên các ngoại đạo hằng ngày đều đi tìm thêm bạn trợ giúp, cuối cùng đến ngày thứ bảy, trưởng giả sắp đặt một tòa sư tử thắng diệu trên một khu đất thù thắng dành cho tôn giả Xá-lợi-phất và một tòa dành cho ngoại đạo. Các ngoại đạo trong nước đều đều dự, trăm ngàn vạn ức dân chúng trong thành Thất-la-phiệt cũng đều đến dự, trong số đó có người đến để xem tranh luận, có người vì căn lành đã thuần thục nên đến. Lúc đó tôn giả Xá-lợiphất cùng trưởng giả Cấp-cô-độc và các quyến thuộc trước sau vây quanh đến dự, sau khi quán xem trong đại chúng ai có thể được điều phục, tôn giả mỉm cười rồi bước lên tòa ngồi với oai nghi tề chỉnh, tất cả đại chúng đều chắp tay chuyên chú lắng nghe. Xá-lợi-phất hỏi ngoại đạo: “ta lập tông, các vị phá hay là các vị lập tông, ta phá?”, ngoại đạo đáp: “ta lập tông trước”, Xá-lợi-phất thầm nghĩ: “nếu ta lập tông trước thì trừ Thế tôn ra, trời người đều không thể phá được huống chi là ngoại đạo Xích nhãn”, nghĩ rồi liền nói: “ông tùy ý lập tông, ta sẽ tùy phá”. Do Xích nhãn giỏi huyễn thuật nên ông hóa ra một cây Am một la to lớn nở hoa kết trái sum suê, Xá-lợi-phất liền hóa ra trận mưa gió lớn đánh bậc cả gốc cây khiến cây ngã đổ và biến mất. Xích nhãn lại hóa ra một ao sen lớn, Xá-lợi-phất liền hóa ra con voi to lớn giẫm đạp ao và bẻ gãy hết hoa sen, khiến ao trở thành bình địa. Xích nhãn lại hóa ra rồng chúa bảy đầu, Xá-lợiphất liền hóa ra chim chúa cánh vàng to lớn từ trên không trung bay xuống cắp lấy rồng chúa bay đi. Xích nhãn lại hóa ra quỷ khởi thi đến để làm hại Xá-lợi-phất, Xá-lợi-phất liền niệm chú khiến cho quỷ khởi thi quay trở lại làm hại Xích nhãn ; Xích nhãn sợ hãi xuống tòa, năm vóc sát đất đảnh lễ Xálợi-phất và cầu xin cứu mạng. Xá-lợi-phất liền thu hồi năng lực của chú và thuyết pháp cho Xích nhãn nghe, sau khi nghe pháp Xích nhãn sanh tín tâm đảnh lễ tôn giả và bạch rằng: “xin cho con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô làm đệ tử của tôn giả để tu tập phạm hạnh”. Xá-lợi-phất cho Xích nhãn xuất gia thọ giới cụ túc, Bí-sô này chuyên tâm tu tập đoạn trừ các phiền não, không bao lâu sau chứng quả A-la-hán , đủ ba Minh, sáu Thông và tám Giải thoát, được như thật tri : sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc nên làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Tâm không chướng ngại như tay nắm hư không, như dao cắt mùi thơm, yêu ghét không khởi, xem vàng và đất như nhau không khác, tất cả danh lợi đều xả bỏ, Thích Phạm chư thiên thảy đều cung kính. Đại chúng thấy việc kỳ lạ này rồi liền sanh tâm tín kính tôn giả Xá-lợi-phất và chuyền nói với nhau: “tôn giả Xá-lợi-phất đánh bại được vị luận sư giỏi nhất và điều phục được các ngoại đạo”. Xá-lợi-phất quán biết ý nhạo phiền não và tánh giới sai biệt của đại chúng, liền nói pháp Tứ đế khiến cho trăm ngàn hữu tình được lợi ích thù thắng. Có người đắc quả Tu-đà-hoàn, hoặc quả Tư-đà-hàm, hoặc quả A-na-hàm, có người gieo trồng nhân duyên với Thanh văn thừa, có người gieo trồng nhân duyên với Bích chi Phật thừa, có người gieo trồng nhân duyên với Phật thừa, có người thọ Tam quy ngũ giới tín kính Phật pháp tăng. Sau khi nghe pháp xong, trưởng giả Cấp-cô-độc cùng các quyến thuộc và tất cả dân chúng vui mừng đảnh lễ tôn giả Xá-lợi-phất rồi trở về nhà. Lúc đó các ngoại đạo trong lòng tức giận nói với nhau: “chúng ta không phá được Xá-lợiphất thì phải tìm cách giết ông ta. Chúng ta nên xin vào trong tinh xá đó làm thuê mướn rồi tìm cơ hội giết Xá-lợi-phất”, nói xong liền cùng đi đến gặp Cấp-cô-độc, nói rằng: “ông đã đoạt hết lợi dưỡng của chúng tôi, chúng tôi ở đây đã lâu không thể rời bỏ được, ông vui lòng cho chúng tôi làm thuê trong tinh xá này”, trưởng giả nói: “để tôi bạch tôn giả Xá-lợi-phất”, nói rồi liền đến bạch tôn giả sự việc trên, tôn giả nghe rồi liền quán xem các ngoại đạo đó có căn lành không, liền quán biết họ có căn lành; lại quán ai có thể điều phục được họ, liền quán biết mình có thể, nên tôn giả bảo Cấp-cô-độc là được và các ngoại đạo này trở thành người làm thuê đầu tiên trong tinh xá. Lúc đó Xálợi-phất hóa ra hai người cầm trượng coi ngó những người làm thuê, hai người này rất hung dữ thường hăm he những người làm thuê. Biết giờ điều phục đã đến, Xá-lợi-phất liền kinh hành dưới một gốc cây cách chỗ họ làm việc không xa. Các ngoại đạo này thấy rồi liền suy nghĩ: “mấy lúc gần đây tìm cơ hội, nay cơ hội đã đến”, nghĩ rồi liền đồng loạt đến bao vây Xá-lợi-phất. Tôn giả liền quán tâm của các ngoại đạo này và biết họ muốn đến hại mình, tôn giả liền hóa ra người cầm trượng đến dùng trượng đánh đuổi bọn họ và quát bảo họ đi làm việc. Các ngoại đạo này đồng thanh kêu cứu, Xá-lợi-phất bảo người cầm trượng: “ông hãy đi đi, cứ để cho họ được nghỉ ngơi”, các ngoại đạo nghe rồi liền suy nghĩ: “Xá-lợi-phất có oai đức lớn, chúng ta muốn làm hại mà ông ta vẫn từ bi thương xót”, nghĩ rồi liền sanh tín tâm. Tôn giả quán biết ý nhạo tùy miên và tánh giới sai biệt của họ, tùy cơ thuyết pháp Tứ đế ; sau khi nghe pháp xong, họ dùng chày trí huệ kim cương phá tan hai mươi thân kiến và chứng quả Dự lưu. Chứng quả rồi liền bạch tôn giả: chắp tay bạch Phật: “tôn giả, xin cho con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh”, tôn giả liền cho họ xuất gia thọ giới cụ túc và dạy họ việc cần nên làm. Các Bí-sô này chuyên tâm tu tập thấy được năm loại dao động lưu chuyển trong sanh tử và tánh phá hoại ly tán, tất cả hành và cõi đều tiêu diệt. Họ đoạn trừ các phiền não, chứng quả A-la-hán, đủ ba Minh, sáu Thông và tám Giải thoát, được như thật tri: sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc nên làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Tâm không chướng ngại như tay nắm hư không, như dao cắt mùi thơm, yêu ghét không khởi, xem vàng và đất như nhau không khác, tất cả danh lợi đều xả bỏ, Thích Phạm chư thiên thảy đều cung kính.
Lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất cùng trưởng giả Cấp-cô-độc cầm dây đo đất để xác định chỗ xây tinh xá, tôn giả bỗng mỉm cười, trưởng giả liền hỏi: “Thế tôn và các đệ tử nếu không có nhân duyên thì không mỉm cười, nay tôn giả có nhân duyên gì mà mỉm cười?”, tôn giả nói: “phải, Thế tôn và các đệ tử nếu không có nhân duyên thì không mỉm cười, nay tôi mỉm cười là vì thấy khi trưởng giả cầm dây đo đất thì trên cõi trời Tịnh cư đã xây xong cung điện toàn bằng vàng cho ông”, trưởng giả nghe rồi rất vui mừng liền nói: “nếu vậy, chúng ta phải nới thêm dây để xây tinh xá cho rộng lớn hơn”, tôn giả liền nới thêm dây theo ý của Cấp-cô-độc. Lúc đó cõi trời Tịnh cư lại xây cung điện bằng bốn loại châu báu và lớn hơn cung điện trước cho trưởng giả, tôn giả lại nói cho Cấpcô-độc biết, Cấp-cô-độc nghe rồi lại nới thêm dây để xây rộng lớn thêm, tổng cộng là mười sáu nơi với sáu mươi bốn viện đều có lầu gác trang nghiêm. Xây xong, trưởng giả cung cấp đầy đủ các vật cần dùng bên trong tinh xá rồi đến hỏi Xá-lợiphất : “khi du hành, mỗi ngày Thế tôn đi được bao xa?”, đáp là bằng pháp của Chuyển luân Thánh vương đi, lại hỏi: “Chuyển luân Thánh vương mỗi ngày đi được bao xa?”, đáp là hai do tuần rưỡi. Trưởng giả nghe rồi liền từ thành Thất-la-phiệt đến thành Vương xá, cách khoảng hai do tuần rưỡi cho sắp đặt tứ sự cúng dường, đầy đủ thức ăn đúng thời và phi thời; lại cho dựng cổng kiết tường, cử người trông coi các việc trang hoàng phan phướn, rưới nước thơm, rãi chiên đàn trên mặt đất và các loại hoa thơm trên các ngã tư đường. Sắp đặt xong xúi liền sai sứ giả đến chỗ Thế tôn thay ông thăm hỏi Thế tôn có được khinh an, ít bịnh, ít não phiền và được an lạc trụ không ; sau đó thỉnh Phật cùng các Bí-sô đến thành Thất-la-phiệt thọ tứ sự cúng dường trọn đời của ông, không để thiếu thốn. Sứ giả vâng lời trưởng giả đến thành Vương xá gặp Phật, đảnh lễ bạch Phật: “trưởng giả Cấp-cô-độc đảnh lễ Thế tôn và thăm hỏi Thế tôn có được khinh an, ít bịnh, ít não phiền và được an lạc trụ không ; sau đó thỉnh Phật cùng các Bí-sô đến thành Thấtla-phiệt thọ tứ sự cúng dường trọn đời, không để thiếu thốn”, Phật nói: “nguyện cho trưởng giả Cấp-cô-độc và bản thân ông thường được an lạc” và nhận lời thỉnh, sứ giả đảnh lễ Phật rồi đi. Lúc đó do Phật đã tự điều phục nên điều phục vây quanh, do đã tự tịch tĩnh nên tịch tĩnh vây quanh, do đã tự giải thoát nên giải thoát vây quanh, do đã tự an ổn nên an ổn vây quanh, do đã tự thiện thuận nên thiện thuận vây quanh, do tự đã là A-la-hán nên A-la-hán vây quanh, do đã tự lìa dục nên lìa dục vây quanh, do đã tự đoan nghiêm nên đoan nghiêm vây quanh. Giống như Bò chúa được đàn bò vây quanh, như Voi chúa được đàn voi vây quanh, như Sư tử chúa được đàn sư tử vây quanh, như Ngỗng chúa được đàn ngỗng vây quanh, như chim chúa Diệu súy được đàn chim vây quanh, như Bà-la-môn được học trò vây quanh, như Lương y được các bịnh nhân vây quanh, như Đại tướng được các binh sĩ vây quanh, như bậc đạo sư được các khách lữ hành vây quanh, như vị thương chủ được các thương nhơn vây quanh, như đại trưởng giả được các trưởng giả vây quanh, như vị quốc vương được quần thần vây quanh, như Chuyển luân Thánh vương được các thiên tử vây quanh, như vầng trăng được các ngôi sao vây quanh, như mặt trời được ngàn ánh sáng vây quanh, như Trì quốc thiên vương được Cán thát bà vây quanh, như Tăng trương thiên vương được Cưu-bàn-trà vây quanh, như Xú mục thiên vương được các rồng vây quanh, như Đa văn thiên vương được các Dược xoa vây quanh, như Tịnh diệu thiên vương được A-tu-la vây quanh, như vua trời Đế thích được chư thiên cõi trời Tam thập tam vây quanh, như vua trời Phạm thiên được chư thiên cõi trời Phạm vây quanh. Giống như biển cả sâu lắng yên tĩnh, giống như đám mây lớn, Thế tôn cũng vậy do đã điều phục các căn nên oai nghi tịch tĩnh, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời, có đủ mười Lực, bốn Vô úy, tâm đại bi và ba niệm kiên cố, vô lượng công đức. Thế tôn thong thả tiến bước với các đại Thanh văn và vô lượng trăm ngàn vạn ức dân chúng vây quanh dần dần đi đến bên ngoài thành Thất-la-phiệt. Khi Phật sắp bước vào thành Thất-la-phiệt, chân vừa bước lên ngạch cửa, đất liền chấn động sáu cách: phương Đông vọt lên, phương Tây chìm xuống; phương Tây vọt lên, phương Đông chìm xuống; phương Nam vọt lên, phương Bắc chìm xuống ; phương Bắc vọt lên, phương Nam chìm xuống; ở giữa vọt lên, hai bên chìm xuống; hai bên vọt lên, ở giữa chìm xuống. Khắp thế giới đều được chiếu sáng cho đến chỗ tối tăm dưới núi Thiết vi ; trống trời tự đánh, thiên hoa, thiên y tự nhiên rơi xuống như mưa. Các đường nhỏ hẹp bỗng rộng lớn ra, các cây nhỏ bỗng nhiên cao lớn, voi ngựa… các loài chim đều cất tiếng kêu vui mừng, các loại khí vật tự phát tiếng kêu, người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm nói được, người không đủ các căn liền được đầy đủ, người đang say mê đều được tỉnh, người trúng độc đều được khỏe mạnh lại, người oán thù nhau đều sanh tâm từ bi, người mang thai sanh con không thấy đau đớn, người bị giam cầm đều được giải thoát, người nghèo thiếu được của cải… ; khi Phật và đại chúng vào thành, mọi người đều thấy đủ các việc kỳ lạ trên.
Lúc đó Phật và các Bí-sô vào trong tinh xá đến tòa ngồi, trưởng giả Cấp-cô-độc và các quyến thuộc vây quanh chỗ Phật, trưởng giả dùng bình vàng rót nước cho Thế tôn rửa tay nhưng nước không chảy. Trưởng giả suy nghĩ: “chắc là đời trước ta có tội chướng nên mới khiến nước không chảy”, Phật biết tâm niệm của trưởng giả nên nói: “ông không có tội chướng. Nơi nay cũng chính là nơi xưa kia ông đã xây tinh xá cúng cho Phật và Tăng, vì ông đứng không đúng chỗ mà xưa kia ông đã đứng rót nước nên nước không chảy, ông nên dời chỗ đến đứng nơi chỗ mà xưa kia ông đã hành bố thí”. Trưởng giả vâng lời Phật dạy dời đến đứng ở chỗ mà xưa kia ông đã từng hành bố thí thì nước liền chảy, Thế tôn phát năm loại thanh âm ca ngợi công đức bố thí của trưởng giả. Khi Phật sắp chú nguyện, Thái tử Thệ đa suy nghĩ: “cúi xin Thế tôn nói tên con trước”, Phật biết tâm niệm của Thái tử nên bảo các Bí-sô: “rừng Thệ đa vườn Cấp-cô-độc này được cúng dường cho Phật và Bísô tăng bốn phương”. Thái tử nghe Thế tôn nói tên mình trước, tâm vui mừng tín kính liền cho xây cổng tam quan bằng bốn loại châu báu. Do nhân duyên này nên khi kiết tập kinh nói là Phật tại rừng Thệ đa vườn Cấp-cô-độc.
Lúc đó vua Thắng quân nước Kiều-tát-la nghe tin Sa môn Kiều-đáp-ma đã đến nước mình, hiện đang ở trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ đa thành Thất-la-phiệt và nghe Thế tôn nói: “ta đã chứng quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”. Vua liền đến chỗ Thế tôn, sau khi thăm hỏi rồi ngồi một bên hỏi Phật: “tôi nghe Thế tôn chứng quả A-nậuđa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề; lại có người nói Kiềuđáp-ma chứng quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tambồ-đề, như thế há chẳng phải người ấy hủy báng Thế tôn hay sao? Ngài chứng quả này là vọng nói năng chứng hay thật được, vì chánh pháp mà nói hay là tùy thuận pháp mà nói ? Nếu có người nói Thế tôn chứng quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tambồ-đề mà có người kích nạn, đả phá thì há không phải là sự sĩ nhục hay sao?”, Thế tôn nói: “nếu có người nói là ta đã chứng quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, thì lời đó không có chứng cứ; còn ta thì thật đã chứng quả đó. Nếu có ai luận nạn phỉ báng thì không thành, vì sao, vì ta đã thật chứng quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề”, vua nói: “Kiều-đáp-ma nói là ta đã thật chứng quả A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, tôi không thể tin được, vì sao, vì các ngoại đạo kỳ lão mà Kiềuđáp-ma biết đến, đó là Lục sư : Bổ thích noa, Ma già lê câu xa tử, San xà da tỳ la đồ tử, Ni kiền đà nhã đề tử, Ca cầu đà Ca-chiên-diên, A kỳ đà súy xá Khâm bà la. Lục sư này còn chưa chứng được đạo quả vô thượng, huống chi Sa môn Kiều-đápma là người tuổi trẻ mới xuất gia, làm sao chứng được đạo quả đó được”, Phật nói: “có bốn thứ tuy nhỏ nhưng không nên coi thường : một là tuổi nhỏ dòng Sát-đế-lỵ, hai là rắn độc nhỏ, ba là đốm lửa nhỏ, bốn là người xuất gia tuổi trẻ. Vì sao, vì người xuất gia tuổi trẻ nếu chứng quả A-la-hán thì có oai đức lớn”, Phật liền nói kệ:
“Sát-đế-lỵ đủ tướng trượng phu,
Danh xưng, cha mẹ đều thanh tịnh,
Thấy trẻ nên kính trọng chớ khinh,
Người trí không nên khinh người này.
Đại vương phải nên biết,
Không nên khinh tuổi trẻ,
Người này sau nối ngôi,
Có thể gây tai hại,
E sau sẽ oán ghét,
Vậy nay nên tôn kính.
Muốn bảo toàn thân mạng,
Được lợi ích về sau,
Nên thuận ý người này,
Nên kính không nên khinh.
Trong thôn hay đồng ruộng,
Nếu Thấy rắn độc nhỏ,
Không nên cho là nhỏ,
Người trí nên lo sợ,
Vì rắn tìm thức ăn,
Nên bò đi khắp nơi,
Nếu gặp được cơ hội,
Ắt làm tổn hại người,
Muốn bảo toàn thân mạng,
Được lợi ích về sau,
Cần phải tránh xa nó,
Vì thế không nên khinh.
Đốm lửa có thể đốt,
Tất cả đều cháy đen,
Vì thế không nên khinh.
Người trí chớ nên khinh,
Đốm lửa tuy chưa to,
Củi nhiều, lửa lan rộng,
Thiêu đốt tổn tất cả,
Thành ấp và thôn xóm.
Muốn bảo toàn thân mạng,
Được lợi ích về sau,
Cần phải sớm xa lìa,
Vì vậy không nên khinh.
Cho dù lửa hừng thạnh,
Đốt cháy thành, thôn xóm,
Tuy đốt cỏ cháy rụi,
Qua đêm cỏ mọc lại.
Nếu khinh người đủ giới,
Tự đốt cháy nghiệp lành.
Con cái và tài sản,
Nhất thời tiêu tán hết,
Cũng như cây Đa la,
Chặt mầm không mọc lại.
Ai khinh thường Bí-sô,
Sẽ không tồn tại lâu.
Muốn bảo toàn thân mạng,
Được lợi ích về sau,
Thì không nên khinh thường.
Sát-đế-lỵ đủ tướng,
Rắn độc và đốm lửa,
Bí-sô đầy đủ giới,
Người trí không nên khinh.
Muốn bảo toàn thân mạng,
Được lợi ích về sau,
Thì không nên khinh thường”.
Vua Thắng quân vui mừng đứng dậy đảnh lễ Phật rồi ra về. Sau đó vua Thắng quân sai sứ mang thư đến cho vua Tịnh-phạn ở thành Kiếp-tỷ-la, trong thư viết: “vua nên vui mừng, Thái tử của vua đã thành chánh giác, được pháp cam lồ, đem nghĩa lý vi diệu thí khắp cho chúng sanh, khiến họ rất hoan hỉ”, vua đọc thư rồi rất vui mừng nhưng lại chống tay vào cằm với dáng vẽ ưu sầu. Đại thần của vua là Ô-đà-di thấy vậy liền hỏi nguyên do, vua nói: “làm sao ta không buồn, khi Thái tử Nhất thiết nghĩa thành tu khổ hạnh, ta sai sứ đến thăm thì họ còn trở về báo tin; nay ta sai sứ đi thì không có ai trở về báo lại”, Ô-đà-di tâu: “thần xin qua đó gặp Thái tử rồi sẽ trở về báo tin”, vua nói: “những sứ giả mà ta sai đi, khi đến chỗ Thái tử đều xuất gia thọ giới cụ túc, không ai trở về nữa. Nay sai khanh đi e khanh cũng sẽ không trở về”, Ô-đà-di tâu: “thần nhất định sẽ trở về”. Vua liền viết thư, trong thư nói kệ:
“Kể từ khi thọ thai,
Mong sao Phật trưởng thành,
Ta tự tay nuôi dưỡng,
Nhưng trong lòng ưu sầu,
Vì con nay trưởng thành,
Có rất nhiều đệ tử,
Làm người khác được vui,
Còn ta riêng ưu sầu.
Xưa con còn manh nha,
Ta nuôi lớn từ nhỏ,
Con nay được thật quả,
Không trở lại báo ân.
Khi con mới đản sanh,
Phát thệ nguyện rộng lớn,
Thành Vô thượng chánh giác,
Độ vô số chúng sanh,
Nguyện ấy nay thành tựu.
Con khởi tâm từ bi,
Hãy đến thành của ta,
Độ ta và quyến thuộc”.
Viết xong vua giao cho Ô-đà-di, Ô-đà-di nhận thư liền đi đến thành Thất-la-phiệt, trải qua ba ngày đường mới đến rừng Thệ đa vườn Cấp-côđộc. Ô-đà-di đến chỗ Phật đảnh lễ rồi dâng thư cho Phật, Phật mở thư ra đọc rồi xếp lại để một bên, Ô-đà-di hỏi Phật: “Thế tôn có đi đến thành Kiếptỷ-la không?”, Phật đáp là sẽ đến. Do trước kia Ôđà-di là bạn thân thiết với Thế tôn nên nói: “nếu Thế tôn không đi thì tôi sẽ cưỡng ép Thế tôn đi”, Thế tôn nghe rồi liền nói kệ như trong luật có nói. Lúc đó Ô-đà-di nói: “Thế tôn, tôi phải trở về báo tin cho vua biết Thế tôn sẽ đến thành Kiếp-tỷ-la”, Phật nói: “Ô-đà-di, sứ giả của Như lai không phải như thế”, Ô-đà-di hỏi: “sứ giả của Như lai thì như thế nào?”, Phật nói: “người xuất gia là sứ giả của Như lai”, Ô-đà-di nói: “tôi trước đã hứa với vua là đến đây rồi nhất định sẽ trở về báo lại”, Phật nói: “ông cứ làm như lời đã hứa, không nên làm trái, nhưng ông hãy xuất gia rồi mới trở về. Trong vô lượng đời ở quá khứ, khi tu Bồ-tát hạnh ; đối với cha mẹ, Thân giáo sư, Ô-ba-đà-da và các tôn giả, Như lai không dám trái lời dạy”, Ô-đà-di nghe lời này rồi liền tín thọ vâng theo, nói rằng: “con nay xuất gia”, Phật nói: “thiện lai Bí-sô”, Ô-đà-di liền thành người xuất gia đầy đủ phạm hạnh. Phật bảo Ô-đà-di: “thầy hãy trở về nhưng không nên như trước kia đi thẳng vào trong cung vua, mà hãy đứng ngoài cửa bảo sứ giả vào báo với vua là có Bí-sô dòng Thích ca muốn gặp; nếu vua cho vào, thầy mới được vào. Sau khi vào rồi, nếu vua hỏi còn có Bí-sô dòng Thích ca nào khác không thì thầy nên đáp là có ; nếu vua hỏi Thái tử Tất đạt có hình dung và phục sức giống như thầy không thì thầy nên đáp là giống như tôi không khác. Nếu vua bảo thầy ở lại trong cung ngủ đêm thì thầy nhất định không được ở lại ngủ đêm; nếu vua hỏi Thái tử Tất đạt cũng không ở trong cung phải không thì thầy nên đáp là không ; nếu vua hỏi dừng nghỉ ở đâu thì thầy nên đáp là ở A-lan-nhã. Nếu vua hỏi Thái tử Tất đạt sẽ đến phải không thì thầy nên đáp là sẽ đến ; nếu vua hỏi khi nào đến thì thầy nên đáp là bảy ngày sau”, Ô-đà-di nghe xong liền đảnh lễ Phật để đi, Phật bảo hãy đi. Nhờ thần lực của Phật, chỉ trong một ngày Ô-đà-di liền đến bên ngoài cửa cung của thành Kiếp-tỷ-la. Lúc đó Ôđà-di đứng ngoài cửa bảo sứ giả vào báo với vua là có Bí-sô dòng Thích ca muốn gặp, vua cho vào. Khi Ô-đà-di vào rồi, vua Tịnh-phạn thấy liền hỏi:
“ông đã xuất gia rồi sao?”, đáp là đã xuất gia, vua hỏi: “còn có Bí-sô dòng Thích ca nào khác không?”, đáp là có, vua hỏi: “Thái tử Tất đạt có hình dung và phục sức giống như thầy không?”, đáp là giống như tôi không khác. Vua nghe rồi liền ngất xỉu, ngã xuống đất, quần thần rưới nước hồi lâu mới tỉnh. Vua nói: “thầy ở lại trong cung ngủ đêm”, Ô-đà-di nói: Bí-sô không được ở lại trong cung ngủ đêm”, vua hỏi: “Thái tử Tất đạt cũng không ở trong cung phải không”, đáp là không, vua hỏi: “vậy thì dừng nghỉ ở đâu?”, đáp là ở A-lan-nhã, vua hỏi: “Thái tử Tất đạt sẽ đến phải không?”, đáp là sẽ đến, vua hỏi:” khi nào đến?”, đáp là bảy ngày sau. Vua liền ra lịnh cho đại thần sửa sang vườn uyển giống như rừng Thệ đa để nghinh đón Thái tử, đại thần hỏi Ô-đà-di: “trong tinh xá ở rừng Thệ đa có tất cả nao nhiêu phòng viện?”, đáp: “đại viện có mười sáu nơi, tiểu viện có tất cả sáu mươi bốn dãy với lầu gác trang nghiêm”, đại thần nghe rồi liền ra lịnh các thợ khéo xây dựng các phòng viện giống như phòng viện trong vườn Cấp-cô-độc rừng Thệ đa.
Lúc đó Phật bảo Đại Mục-kiền-liên: “thầy hãy thông báo các Bí-sô là Thế tôn muốn đến thành Kiếp-tỷ-la để cha con được gặp nhau, nếu vị nào muốn nhìn thấy cảnh hội ngộ này thì hãy đắp y mang bát cùng đi”, Đại Mục-kiền-liên vâng lời Phật dạy đi thông báo cho các Bí-sô. Phật cùng đại chúng vây quanh tuần tự du hành đến bồ sông Lư ê đa, vua Tịnh-phạn hay tin này liền ra lịnh trang hoàng thành quách, rưới nước thơm và rải hoa thơm trên đất từ vườn Ni câu đà cho đến bờ sông Lư ê đa. Trong vườn Ni câu đà, vua cho đặt tòa sư tử cho Phật và trải tòa cho đại chúng, dân trong thành đều tụ họp đến, có người do nhân duyên đời trước nên đến, có người đến muốn xem Thái tử lạy vua cha trước hay vua cha lạy Phật trước. Sáng sớm ngày thứ tám, Phật và đại chúng chuẩn bị vào thành, lúc đó Phật suy nghĩ: “nếu ta đi bộ vào thành Kiếp-tỷ-la thì những người dòng họ Thích, tâm vốn cao ngạo sẽ chê cười nói rằng: “Thái tử khi đi xuất gia thì nương hư không mà đi cùng với vô lượng chư thiên vây quanh; nay được pháp cam lồ, thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác mà lại đi bộ vào thành” nghĩ rồi liền nhập định, hiện thân ở phương Đông trên hư không cao bảy cây Đa la, các Bí-sô đều ở trên hư không cao sáu cây Đa la, nương hư không để vào thành Kiếp-tỷ-la. Khi đến gần, Phật hạ dần xuống, cao sáu cây Đa la; các Bísô cũng hạ dần xuống, cao năm cây Đa la; Phật hạ xuống còn năm cây Đa la thì các Bí-sô hạ dần xuống bốn cây Đa la; Phật hạ dần xuống bốn cây Đa la thì các Bí-sô hạ dần xuống ba cây Đa la; Phật hạ dần xuống ba cây Đa la thì các Bí-sô hạ dần xuống hai cây Đa la; Phật hạ dần xuống hai cây Đa la thì các Bí-sô hạ dần xuống một cây Đa la; Phật hạ xuống còn một cây Đa la thì các Bí-sô đi bộ. Vua Tịnh-phạn tuy trông thấy thần biến này nhưng các Bí-sô quá đông, không phân biệt được ai là Phật. Vua bảo Ô-đà-di đánh trống tuyên bố lịnh của vua: “tất cả dòng họ Thích trong thành Kiếp-tỷ-la, mỗi nhà nên cho một người xuất gia theo Phật”.
Hộc-phạn vương có hai người con tên là Vô diệt và Đại danh, Đại danh thường được giao trông coi việc nhà, còn Vô diệt thì rảnh rang ngồi vui chơi trên lầu với các thể nữ. Người mẹ bảo Đại danh: “con có biết vua vừa ra lịnh mỗi nhà trong dòng họ Thích đều phải cho một người xuất gia theo Phật”, Đại danh nói là không muốn xuất gia, người mẹ hỏi vì sao, Đại danh nói: “Vô diệt vui chơi trên lầu sao mẹ không bảo nó xuất gia mà lại bảo con”, người mẹ nói: “Vô diệt vốn có phước đức lớn nên mẹ muốn nó ở nhà, con không nên ganh tỵ”, Đại danh nói: “Mẹ yêu quý Vô diệt nên thiên vị, chứ anh ấy không có phước đức gì cả. Mẹ thử không cho anh ấy thức ăn uống để xem anh ấy có phước đức hay không”, người mẹ nói: “mẹ sẽ làm như lời con nói”, nói rồi người mẹ lấy lồng đậy lên cái mâm không có thức ăn và dùng lụa phủ kín lại, sau đó bảo thị nữ mang đến cho Vô diệt và dặn rằng: “nếu nó hỏi trong đó có vật gì thì con nên nói là không có một vật”, thị nữ vâng lời mang đến. Lúc đó vua trời Đế thích đang quán xem hạ giới, thấy việc này liền suy nghĩ: “xưa kia Vô diệt từng cúng dường thức ăn uống cho Phật Bích chi Ô ba lợi sắc tra, không nên để Vô diệt bị bỏ đói, ta nên đem thức ăn uống đến”, nghĩ rồi liền đem đủ các thức ăn uống để trong mâm bị phủ kín đó.
Khi thị nữ mang mâm phủ kín này lại, Vô diệt hỏi trong đó có vật gì, thị nữ đáp là không có một vật, Vô diệt suy nghĩ: “mẹ rất thương ta, làm sao có thể bảo mang đến cho ta mà không có một vật gì”, nghĩ rồi liền mở ra xem, thấy trong mâm đủ các loại thức ăn thơm ngon hiếm có. Vô diệt hiếu dưỡng nên bảo thị nữ đem thức ăn ngon này đến cho mẹ và nói: “hãy nói với mẹ là hằng ngày đem cho tôi loại thức ăn không một vật này”, người mẹ thấy thức ăn này lấy làm lạ liền đưa cho Đại danh xem và nói: “mẹ đã nói với con là Vô diệt có phước đức lớn”, Đại danh nói: “dù Vô diệt có phước đức lớn hay không thì con cũng không thể xuất gia”. Người mẹ khuyên giải Đại danh không được nên đành phải đến nói với Vô diệt: “con có biết vua vừa ra lịnh mỗi nhà trong dòng họ Thích đều phải cho một người xuất gia theo Phật, con muốn ở tại gia hay xuất gia?”, Vô diệt hỏi: “nếu ở tại gia thì có lỗi gì và có lợi ích gì, còn xuất gia thì có lợi ích gì?”, người mẹ nói: “ở tại gia nếu sống như pháp thì không có lỗi gì và được sanh vào cõi trời người, nhưng nếu sống phi pháp thì sẽ đọa trong ba đường ác. Xuất gia nếu sống như pháp, y theo Thánh giáo tu trì thì sẽ được Niết-bàn thù thắng; nếu tu hành không trọn vẹn thì cũng được sanh cõi trời người”, Vô diệt nghe rồi liền nói: “công đức xuất gia hơn hẳn công đức tinh tấn của tại gia, vậy con muốn xuất gia”, người mẹ nói: “mẹ cho con xuất gia”. Vô diệt vốn thân thiết với Hiền vương Thích chủng nên đi đến cung của Hiền vương và đứng ở ngoài cửa, lúc đó Hiền vương đang khảy đàn trên lầu, dây đàn bỗng đứt và âm thanh lạc điệu; Vô diệt cũng giỏi chơi đàn, tuy đứng ở ngoài cửa vẫn biết là đàn bị đứt dây. Người giữ cửa vào báo là Vô diệt muốn gặp, Hiền vương bảo cho vào, Vô diệt vào, Hiền vương hỏi: “anh đến bao lâu rồi?”, đáp là lúc dây đàn bị đứt. Lúc đó Vô diệt đưa tay vỗ lên tấm lụa-trải trên nệm giường của Hiền vương và nói: “lúc dệt tấm lụa này, người thợ dệt bị bịnh nóng, vì sao Hiền vương lại nằm trên tấm lụa này?”, Hiền vương lấy làm lạ liền giở tấm lụa lên xem thì thấy phía dưới có nhiều vết bẩn, Hiền vương liền cho gọi người thợ dệt đến hỏi và người thợ dệt thừa nhận, Hiền vương hỏi Vô diệt: “vì sao anh biết được?”, đáp: “khi rờ vào thấy nóng nên tôi biết được”. Hiền vương lại hỏi: “anh đến có việc gì không?”, đáp: “vua vừa ra lịnh mỗi nhà trong dòng họ Thích đều phải cho một người xuất gia theo Phật, tôi muốn xuất gia nên đến từ biệt Hiền vương”, Hiền vương nói: “anh hãy ở lại đây ngủ đêm để chúng ta bàn bạc việc này”. Vô diệt liền ở lại ngủ đêm, Hiền vương nói: “tôi cũng muốn xuất gia, nhưng nếu tôi xuất gia thì Thiên thọ sẽ lên nối ngôi và sẽ gây họa lớn cho những người dòng họ Thích. Chúng ta nên tìm cách làm cho Thiên thọ cùng xuất gia”. Sáng hôm sau Hiền vương mời Thiên thọ đến và nói rằng: “Thiên thọ, chúng tôi đều muốn xuất gia, còn anh định thế nào ?”, Thiên thọ nghe rồi liền suy nghĩ: “nếu ta nói không xuất gia thì Hiền vương cũng sẽ không xuất gia, ta nên nói dối để cho Hiền vương xuất gia”, nghĩ rồi liền nói: “Hiền vương, nếu anh xuất gia thì tôi cũng xuất gia”. Tuy là lời nói dối nhưng mọi người đều nghe thấy nên vua Tịnh-phạn tuyên bố cho tất cả mọi người trong thành rằng: “Hiền vương cùng Vô diệt, Thiên thọ… tổng cộng năm trăm người dòng họ Thích đều xuất gia theo Phật, mọi người nên vui mừng về việc này”, Thiên thọ nghe rồi trong lòng ưu não suy nghĩ: “nếu ta biết Hiền vương xuất gia thì ta đã không nói là tôi cũng xuất gia. Nay ta nếu không xuất gia thì ta là người nói dối và sẽ không được nối ngôi, ta tạm xuất gia sau sẽ lên nối ngôi”. Lúc đó vua Tịnh-phạn muốn cúng dường nhiều phẩm vật cho những người dòng họ Thích xuất gia theo Phật nên ra lịnh quét dọn sạch sẽ các ngã đường, rưới hương thơm rải hoa trên đất, treo phan phướn… rồi cùng các quyến thuộc vây quanh đi đến chỗ Phật. Từ trong các cửa sổ, các cô gái dòng họ Thích đều nhìn ra chiêm ngưỡng những người dòng họ Thích sắp xuất gia này, những người ở phương xa cũng đến để chiêm ngưỡng họ. Những người dòng họ Thích sắp xuất gia này sau khi từ biệt cha mẹ, họ lên xe đi đến chỗ Phật với các đồ trang sức trang nghiêm trên thân, Hiền vương dẫn đầu. Lúc đó vua Tịnh-phạn cho mời tướng sư đến xem tướng của họ, khi nhìn thấy Hiền vương, tướng sư khen là vui thích thừa sự ; khi thấy Vô diệt và Giả hòa hợp, tướng sư cũng khen như vậy. Khi Thiên thọ đi đến bỗng có chim Diều hâu bay đến cắp lấy hạt châu trên búi tóc mang đi, tướng sư nói: “điềm chẳng lành này cho biết Thiên thọ sẽ làm hại Thế tôn và sẽ đọa địa ngục”. Khi Cù ca ly, Khiên na đạp bà, Yết tra mâu la, Để sa hải thọ, bốn người này đi đến thì có tiếng lừa hí vang, tướng sư nói: “bốn người này sẽ dùng lời ác não loạn chúng tăng và sẽ đọa địa ngục” . Khi Ô banan-đà cỡi voi đi đến, do quay nhìn bốn hướng làm chuỗi ngọc châu bị đứt, tướng sư nói: “người này nhiều tham dục sẽ đọa địa ngục”… cứ như thế năm trăm người dòng họ Thích tuần tự đi đến chỗ Phật trong vườn uyển, Phật thấy họ liền suy nghĩ: “ta không thể cho năm trăm người nay xuất gia bằng cách nói thiện lai, vì sao, vì trong số người này có người đắc quả A-la-hán, có người không chứng đắc. Ta nên cho họ xuất gia bạch tứ yết ma thọ giới”, nghĩ rồi liền bảo các Bí-sô: “các thầy nên bạch tứ yết ma cho năm trăm người này xuất gia thọ giới cụ túc”, các Bí-sô vâng lời Phật dạy. Lúc đó vua Tịnh-phạn bảo Ưu-ba-ly: “ngươi hãy đến trong vườn Ni câu đà cạo tóc cho năm trăm Thích tử xuất gia”. Hiền vương cạo tóc trước nên gội đầu rồi ngồi chờ, khi sắp cạo tóc cho Hiền vương, Ưuba-ly rơi lệ, Hiền vương hỏi nguyên do, Ưu-ba-ly quỳ xuống rơi lệ nói: “xưa nay tôi thường theo hầu Hiền vương, nay Hiền vương xuất gia, tôi không biết nương ai, nếu phải hầu hạ Ác vương thì thà tôi chết còn hơn”, Hiền vương nói: “ta biết ngươi thành tâm, ta cho phép ngươi không phải hầu hạ Ác vương, ngươi không nên lo buồn”, Ưu-ba-ly nghe rồi rất vui mừng liền đứng dậy cạo tóc cho Hiền vương. Cạo tóc xong, Hiền vương sai người hầu trải ra một tấm lụa-trắng rồi đứng dậy nói với năm trăm Thích tử xuất gia: “các vị lắng nghe, trước đây Ưu-ba-ly hầu hạ ta, nay chúng ta xuất gia không cần dùng y phục thế tục và những món đồ trang sức nữa, vậy các vị hãy cởi chúng ra để trên tấm lụa-trắng này để cho Ưu-ba-ly”, Hiền vương nói rồi, các Thích tử đều cởi y phục và đồ trang sức trên người để trên tấm lụa-trắng cho Ưuba-ly, Ưu-ba-ly lần lượt cạo tóc cho họ, họ tắm rửa rồi như pháp đắp y Tăng mà đi. Lúc đó Ưu-ba-ly chống cằm suy nghĩ: “năm trăm Thích tử cao quý như vậy mà còn xả bỏ tất cả để xuất gia, ta là người thấp hèn xưa nay theo hầu hạ người khác vì sao lại tham đắm những y phục và đồ trang sức này. Nếu ta không thuộc dòng họ thấp hèn thì ta cũng được xuất gia và chứng quả A-la-hán ” . Thường pháp của Phật là ngày đêm sáu thời quán các hữu tình, các A-la-hán cũng vậy nên tôn giả Xá-lợi-phất biết Ưu-ba-ly đang ưu sầu liền đến chỗ Ưu-ba-ly và hỏi nguyên do, Ưu-ba-ly nói: “đại đức, con thấy Hiền vương và các Thích tử xả tất cả để xuất gia tu đạo, còn con lại tham đắm các vật đã xả bỏ đó, chắc con sẽ đọa trong ba đường ác. Đại đức, nếu con không sanh trong dòng họ thấp hèn thì con cũng sẽ được xuất gia ở trong Tỳ nại da mà Phật đã thuyết giảng, tinh tấn tu tập để chứng quả A-lahán”, tôn giả nói: “trong chánh pháp của Phật không có phân biệt dòng họ thấp hèn và người ít học, chỉ cần y theo lời Phật dạy, trì tịnh giới và oai nghi không thiếu sót thì đều được xuất gia thọ giới. Nếu con muốn xuất gia thì hãy theo ta đến gặp Phật, con sẽ được xuất gia”. Ưu-ba-ly nghe rồi rất vui mừng liền xả tất cả y phục và đồ trang sức mà mình vừa có được như bỏ đàm dãi để theo tôn giả Xá-lợi-phất đến gặp Phật. Đến nơi, đảnh lễ Phật xong, tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật: “Thế tôn, Ưu-ba-ly này có thể ở trong Tỳ nại da xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô. Cúi xin Thế tôn cho Ưu-ba-ly xuất gia”, Phật nói thiện lai Bísô, hãy xuất gia tu phạm hạnh”, Phật vừa nói xong, râu tóc của Ưu-ba-ly tự rụng, ca-sa hiện trên thân trở thành Bí-sô, giống như người đã được xuất gia bảy ngày, oai nghi tề chỉnh cũng giống như Bí-sô trăm tuổi. Được xuất gia rồi, Ưu-ba-ly đứng một bên, tôn giả Xá-lợi-phất nói kệ:
“Thế tôn nói thiện lai Bí-sô,
Áo biến ca-sa, râu tóc rụng,
Các căn tịch tĩnh, giới thanh tịnh,
Nhờ Phật lực nên đủ oai nghi”.
Lúc đó năm trăm Thích tử sau khi được bạch tứ yết ma xuất gia thọ giới xong liền đến chỗ Phật đảnh lễ và theo thứ lớp đảnh lễ tất cả Bí-sô, cuối cùng tới trước Ưu-ba-ly. Hiền vương nhận ra Ưuba-ly liền đứng thẳng người chiêm ngưỡng và bạch Phật: “Thế tôn, Ưu-ba-ly là người hầu của con, con có nên đảnh lễ không?”, Phật nói: “trong pháp xuất gia cần phải trừ bỏ tâm ngã mạn, vì vậy ta cho Ưu-ba-ly xuất gia trước, người xuất gia sau phải đảnh lễ người xuất gia trước”, Hiền vương vâng lời Phật dạy, dẹp bỏ tâm ngã mạn cúi mình đảnh lễ Ưu-ba-ly, lúc đó đại địa chấn động sáu cách. Thấy Hiền vương đảnh lễ, bốn trăm chín mươi tám Thích tử khác cũng cúi mình đảnh lễ, chỉ riêng có Thiên thọ không chịu đảnh lễ. Phật bảo Thiên thọ nên đảnh lễ, Thiên thọ đáp: “Thế tôn bảo con đảnh lễ thì có ích lợi gì, con không thể”. Khi nói xong lời này Thiên thọ đã khởi nghĩ chống đối Phật.
Các Bí-sô thấy khi Hiền vương đảnh lễ Ưu-baly đại địa chấn động sáu cách liền khởi nghi thỉnh hỏi Phật nguyên do, Phật nói: “không phải chỉ trong ngày nay khi Hiền vương đảnh lễ, đại địa chấn động sáu cách mà quá khứ cũng vậy. Các thầy lắng nghe:
Quá khứ tại thành Bà-la-nê-tư có vua tên là Phạm thọ, dùng pháp giáo hóa, trong nước không có đói khổ, dân chúng an cư lạc nghiệp. Trong thành có một dâm nữ tên là Hiền thọ rất xinh đẹp, thường cùng các nam tử vui chơi hoan lạc mỗi đếm với giá năm trăm tiền vàng. Trong thành lại có một Ma-nạp-bà tên là Đoan chánh đến chỗ dâm nữ này muốn cùng cô hoan lạc một đêm, dâm nữ nói: “anh có năm trăm tiền vàng hay không?”, đáp là không có, dâm nữ nói: “vậy anh hãy đem năm trăm đồng bạc Ca lợi sa ba noa đến đây”. Đoan chánh không có tiền, vì yêu thích dâm nữ này nên thường hái đủ loại hoa biếu cho cô, nhiều lần như vậy nên dâm nữ sanh tình cảm. Lúc đó trong thành có tiết hội, tất cả phụ nữ đều trang điểm và phục sức đẹp đẽ để cùng chồng mình vui chơi hoan lạc, nên không có người nam nào tìm đến dâm nữ. Dâm nữ chợt nghĩ đến Đoan chánh: “nếu hôm nay anh ta đến đây thì tốt quá”, vừa nghĩ xong thì Đoan chánh đến, dâm nữ vui vẻ nói: “anh đi hái hoa rồi sáng mai đến đây cùng tôi hoan lạc”. Đoan chánh nghe rồi rất vui mừng trở về nhà, trong tâm luôn nghĩ về dung mạo và tướng đứng đi của dâm nữ nên mãi đến gần sáng mới ngủ thiếp cho đến trời sáng bạch mới tỉnh dậy thì hoa thơm không còn nữa, anh đi tìm khắp nơi cũng không chỗ nào còn hoa, chỉ hái được ít hoa Dạ hợp mang đến cho dâm nữ. Dâm nữ thấy hoa này liền nói kệ:
“Người si mang lốt da Ái dục,
Đoan chánh thông minh, nửa đồng tiền,
Lúc này hoa đẹp nở khắp nơi,
Sao chỉ hái được ít hoa Dạ
hợp”.
Nói kệ rồi liền bảo đi hái hoa đẹp khác mang đến. Vì tham dục nên Đoan chánh không nài khổ nhọc, từ thành ra đến vùng ngoại ô xa xôi dưới trời nắng gắt để tìm hái hoa đẹp, vừa đi vừa ca hát vui vẻ. Lúc đó vua Phạm thọ đi săn trở về, cảm thấy mệt mỏi vì trời nắng gắt nên vào trong rừng cây dừng nghỉ và nghe được tiếng hát này. Vua đến gần nói kệ hỏi:
“Trên đầu trời nắng đốt,
Dưới đất cát nóng thiêu,
Lại ca hát vui vẻ,
Vì sao không sợ nóng?”.
Đoan chánh nói kệ:
“Không sợ trời nắng thiêu,
Vì bị tham dục đốt,
Tham dục mới nóng khổ,
Trời nắng không nóng bằng”.
Vua nghe kệ rồi suy nghĩ: “Ma-nạp-bà này khéo nói những lời mát mẻ nên đi hái hoa dưới trời nắng thiêu đốt mà không biết nóng”, nghĩ rồi liền xuống xe ngồi dưới một gốc cây bảo Đoan chánh: “ngươi hãy nói những lời mát mẻ cho ta nghe”,
Đoan chánh nghe rồi liền suy nghĩ: “chắc là vua đang say nắng nên muốn nghe những lòi mát mẻ”, nghĩ rồi liền kể các việc mát mẻ, vua nghe xong cảm thấy mát mẻ liền hỏi quấn thần: “nếu ai cứu mạng vua quán đảnh thì nên thưởng cho gì?”, quần thần đáp là nên thưởng cho nửa nước, vua liền bảo Đoan chánh: “ngươi hãy ở lại trong cung một đêm, sáng mai ta sẽ thưởng cho ngươi nửa nước”. Đoan chánh ở lại trong cung, vua bảo sửa soạn y phục và ngọa cụ thượng diệu cho anh, nhưng ở trong cung anh không có bạn. Lúc đó anh suy nghĩ: “nếu ta làm vua nửa nước thì ta sẽ có thể nữ hầu hạ, ta tùy ý hưởng thọ khoái lạc ; nhưng nếu việc thưởng ban này chỉ là lời nói suông thì sao, hay là ta giết vua để chiếm luôn ngôi vị. Nhưng ngôi vị tối cao thì ai cũng đều tham muốn, ta vì tham muốn ngôi vị này nên mới muốn hại vua”, nghĩ rồi liền nói kệ:
“Chưa được tài lợi thì tham muốn,
Nếu cầu không được thì khổ não,
Cầu được rồi vẫn không hết tham,
Nên biết tài lợi chiêu họa hại”.
Sau đó anh ngủ thiếp cho đến nửa đêm chợt tỉnh dậy, trong lòng hối hận nên xuống giường, trải tấm da nai ở dưới đất để nằm. Sáng hôm sau, vua sai sứ mời Ma-nạp-bà đến, sứ trở về tâu vua rằng: “Đại vương, thần thấy oai nghi và hành động ra làm của người này không thể làm vua nửa nước”, vua hỏi nguyên do, sứ đáp: “thần đến thấy anh ta bỏ giường nệm thượng diệu, trải tấm da nai ở dưới đất để nằm, người thấp hèn như vậy không thể làm vua nửa nước”, vua nói: “đó là người trí, anh ta làm như vậy ắt là có nguyên do, hãy mời anh ta đến”, sứ gọi Đoan chánh đến, vua hỏi rõ nguyên do, Đoan chánh kể lại mọi việc và xin vua cho xuất gia, vua nói: “chúng ta giao ước trước, nếu sau khi xuất gia khanh có chứng ngộ gì thì hãy đến báo cho ta biết”, đáp: “không dám trái lời vua”. Đoan chánh từ biệt vua đến trong rừng vắng yên tĩnh, không có A-giá-lợi-da và Ô-ba-đà-da, tự tinh tấn nổ lực, không bao lâu sau chứng quả vị Độc giác. Chứng ngộ rồi, vị Độc giác suy nghĩ: “trước kia ta đã cùng vua giao ước, nay ta nên đến làm cho vua được mãn nguyện”, nghĩ rồi liền đến chỗ vua, ở trên hư không phóng ánh sáng lớn và hiện các thần biến; vua thấy thần biến liền đảnh lễ rồi nói kệ:
“Thấy người trẻ tuổi chứng quả lớn,
Ngôi vị thù thắng khác nhau xa,
Ma-nạp-bà này được thiện lợi,
Xuất gia được vậy, cầu gì nữa”.
Sau khi làm cho vua sanh tín kính, vị Độc giác ra đi. Vua có người thợ hớt tóc tên là Thiên hà hộ, vua bảo anh ta đọc thuộc bài kệ này và thường đọc cho vua ghi nhớ. Thiên hà hộ hớt tóc rất giỏi nên khi hớt tóc cho vua thì vua ngủ say, hớt tóc xong mới khảy móng tay đánh thức vua, vua tỉnh dậy vui vẻ nói: “người có mong cầu điều gì cứ nói, ta sẽ đáp ứng cho”, Thiên hà hộ nói: “xin cho thần suy nghĩ, sau sẽ nói”. Do Thiên hà hộ thường đọc bài kệ này cho vua ghi nhớ nên vua sanh tâm nhàm lìa ngũ dục lạc, không để ý đến các thể nữ xinh đẹp trước mặt, tai không muốn nghe tiếng ca hát du dương. Các thể nữ ưu sầu nói với nhau: “chúng ta tìm phương tiện đuổi anh ta đi”, bàn xong một thể nữ liền đến nói với Thiên hà hộ: “khi vua hoan hỉ hỏi anh mong cầu gì thì anh nên yêu cầu vua giải thích ý nghĩa của bài kệ đó”. Thời gian sau, sau khi Thiên hà hộ đọc xong bài kệ, vua hoan hỉ hỏi có mong cầu gì thì Thiên hà hộ liền yêu cầu vua giải thích ý nghĩa của bài kệ. Sau khi nghe vua giải thích xong, Thiên hà hộ sanh tâm nhàm lìa thế gian, xin vua cho xuất gia, vua nói: “chúng ta giao ước trước, nếu sau khi xuất gia khanh có chứng ngộ gì thì hãy đến báo cho ta biết”, đáp: “không dám trái lời vua”. Thiên hà hộ từ giả vua, tìm đến chỗ tiên nhơn ở trong núi rừng, nổ lực tu tập, không bao lâu sau chứng được ngũ thông. Vị tiên này suy nghĩ: “trước kia ta cùng vua giao ước, nay ta nên đến làm cho vua được mãn nguyện”, nghĩ rồi liền đến chỗ vua, ở trên hư không phóng ánh sáng lớn và hiện các thần biến. Vua thấy thần biến liền đảnh lễ và hỏi: “hiền giả đã được công năng như vậy rồi sao?”, đáp là đã được rồi nói kệ:
Vua nói kệ:
“Ở trong vườn Yêm la,
Theo hầu vua Phạm thọ,
Bỏ cây dao cạo tóc,
Xuất gia được ngũ thông”.
“Xuất gia im lặng trụ,
Khổ hạnh ấy khó làm,
Nếu làm, được đại trí,
Khổ hạnh chế phục các ác pháp,
Khổ hạnh vượt qua khỏi thế gian,
Khổ hạnh trừ sạch các cấu uế,
Hiền giả chớ chê bai khổ hạnh”.
Thiên hà hộ nghe kệ rồi, tâm sanh hoan hỉ ra đi.
Phật bảo các Bí-sô: “vua Phạm thọ thuở xưa chính là Hiền vương ngày nay, tiên nhơn Thiên hà hộ thuở xưa chính là Ưu-ba-ly ngày nay. Thuở xưa vua Phạm thọ đảnh lễ Thiên hà hộ, đại địa chấn động sáu cách ; nay Hiền vương đảnh lễ Ưu-ba-ly, đại địa cũng chấn động sáu cách như thế”.
Sau khi nghe Thế tôn nói pháp yếu, vua Vị sanh oán phát khởi Vô căn tín: nếu vua cỡi voi ra thành mà thấy Thế tôn ở trên lầu cao, vua liền nhảy từ trên mình voi xuống đất; nếu vua cỡi voi đi đâu mà gặp Thế tôn, vua cũng nhảy từ trên mình voi xuống đất vì rất kính tín Thế tôn. Vua bảo người giữ cửa: “các khanh nên biết, từ nay trở đi ta hoàn toàn quy y Phật và Tăng. Từ nay nếu thấy Phật và các Thanh văn Bí-sô, Bí-sô ni, Ô-ba-sáchca và Ô-ba-tư-ca cần vào thì không nên ngăn cản, nên mở cửa cho họ vào; nếu thấy Đề-bà-đạt-đa và đồ chúng của vị ấy thì ngăn lại không cho vào”. Thời gian sau, Đề-bà-đạt-đa có việc muốn gặp vua, người giữ cửa không cho vào, Đề-bà-đạt-đa hỏi nguyên do, người giữ cửa nói: “Đại vương có ra lịnh: từ nay trở đi ta hoàn toàn quy y Phật và Tăng. Từ nay nếu thấy Phật và các Thanh văn Bísô, Bí-sô ni, Ô-ba-sách-ca và Ô-ba-tư-ca cần vào thì không nên ngăn cản, nên mở cửa cho họ vào; nếu thấy Đề-bà-đạt-đa và đồ chúng của vị ấy thì ngăn lại không cho vào”, Đề-bà-đạt-đa bị ngăn cản không cho vào nên trong lòng không vui. Lúc đó Bí-sô ni Liên-hoa-sắc sau khi khất thực xong, từ trong cung vua ôm bát đi ra ; Đề-bà-đạt-đa thấy Liên-hoa-sắc liền suy nghĩ: “có phải do ni này ly gián mới khiến vua Vị sanh oán ngăn không cho ta vào hay không”, nghĩ rồi liền tới gần Liên-hoasắc nói: “ta có lỗi gì mà cô làm chướng ngại nơi nhà mà ta khất thực”, nói xong liền đánh. Liênhoa-sắc bị đánh liền nói với giọng bi ai: “xin cho tôi thanh bạch, tôi đã làm gì mà đại đức đánh tôi. Đại đức là anh em của Thế tôn, từ dòng họ Thích ca cao quý xuất gia, tôi thật không có tâm đàm luận. Xin hãy nghe lời chân thành của tôi”, Đề-bàđạt-đa không thèm nghe lời Liên-hoa-sắc nói, liền dùng sức đánh vào đầu của Liên-hoa-sắc. Tuy đau đớn nhưng Liên-hoa-sắc gắng gượng về đến trong chùa, ni chúng nhìn thấy đều hỏi: “vì sao Thánh giả lại bị khổ nhục này?”, Liên-hoa-sắc nói:
“tất cả vật có thọ mạng đều là vô thường, tất cả pháp đều là vô ngã, chỉ có Niết-bàn là tịch tĩnh. Các cô nên nổ lực tu pháp lành, chớ có phóng dật. Đề-bà-đạt-đa đã tạo thêm nghiệp Vô gián thứ ba, nay đã đến lúc ta nhập Niết-bàn”, nói rồi cô hiện đủ loại thần biến ở trước ni chúng rồi nhập Niết-bàn vô dư. Các Bí-sô ni đều khởi tâm nghi nên đến thỉnh hỏi Thế tôn: “vì sao Bí-sô ni Liên-hoa-sắc nói lời bi ai khổ thiết, Đề-bà-đạt-đa không những không nghe mà còn đánh vào đầu khiến cho cô ấy phải nhập diệt?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay mà trong quá khứ dù cô ấy nói lời bi ai khổ thiết, thầy ấy vẫn không thèm nghe mà còn giết chết để ăn thịt. Các cô hãy lắng nghe:
Thuở xưa tại một thôn có một trưởng giả nuôi nhiều dê và cho người chăn dê dẫn dê đi ăn ngoài đồng cỏ, đến chiều thì lùa đàn dê trở về. Trong đàn dê có một con dê cái vì già yếu nên không theo kịp đàn dê, một mình lọt lại ở đằng sau và gặp một con sói đói ở bên đường. Dê nói kệ hỏi sói:
“Cậu thường đi một mình,
Có được an vui không
? Thường ở trong rừng
hoang, Làm thế nào dưỡng
thần?”.
Sói đáp:
“Ngươi thường giẫm đuôi ta,
Thường nhổ lông của ta,
Lại kêu ta là cậu,
Muốn tìm đường thoát thân”.
Dê nói:
“Đuôi cậu ở sau lưng,
Tôi từ phía trước đến, Sao lại đổ oan tôi,
Thường giẫm đuôi của cậu”.
Sói nói:
“Bốn châu, biển và núi,
Đều là đuôi của ta,
Nếu người không giẫm nó,
Thì ngươi từ đâu tới”.
Dê nói:
“Những chỗ tôi nhận biết,
Cậu nói là đuôi cậu,
Thì tôi không dám giẫm,
Tôi từ hư không đến”.
Sói nói:
“Do ngươi từ hư không rơi xuống,
Làm nai trong rừng đều kinh sợ,
Làm mất thức ăn sáng của ta,
Lỗi của ngươi không rõ ràng sao?”
Tuy Dê cái dùng nhiều lời bi ai khổ thiết nhưng Sói độc ác không thèm nghe, nó cắn đứt đầu dê và ăn thịt.
Phật bảo các Bí-sô: “con Sói đói thuở xưa nay chính là Đề-bà-đạt-đa, Dê cái thuở xưa nay chính là Liên-hoa-sắc. Thuở xưa Liên-hoa-sắc dùng nhiều lời bi ai khổ thiết vẫn không thoát chết, nay nói lời thành khẩn vẫn bị đánh chết”.
Lúc đó Đề-bà-đạt-đa suy nghĩ: “ta đã nhiều lần làm hại Thế tôn và đã tạo đủ ba nghiệp Vô gián : một là ta xô tảng đá lớn từ trên núi xuống hại Thế tôn, làm cho Thế tôn bị thương chảy máu; hai là phá hòa hợp Tăng, ba là giết chết ni Liên-hoa-sắc. Ta chưa được Nhất thiết trí, cũng chưa thành tựu các pháp khác, do tạo ba nghiệp này chắc chắn ta sẽ bị đọa địa ngục”, nghĩ rồi ngồi chống cằm sầu tư. Bộ thích noa có việc đi ngang qua, nhìn thấy Đề-bà-đạt-đa như vậy liền hỏi nguyên do, Đề-bàđạt-đa nói: “tôi lo nghĩ về việc đã nhiều lần làm hại Thế tôn và đã tạo đủ ba nghiệp Vô gián, chắc chắn sẽ bị đọa địa ngục chịu khổ lâu dài”, Bộ thích noa nói: “tôi thường cho trong dòng họ Thích ca chỉ có Thánh giả là người thông minh hiểu biết, lẽ nào hôm nay Thánh giả cũng trở thành ngu si hay sao. Lẽ nào lại có đời sau mà Thánh giả lo buồn, nếu thật có đời sau thì khi Thánh giả tạo nghiệp này, tôi cũng sẽ sầu tư”. Để cởi mở nỗi lòng của Đề-bà-đạt-đa, Bộ thích noa đập bể cái bát ở trước mặt Đề-bà-đạt-đa rồi nói: “dù là trời người cũng không ai có thể làm cho bát này dính lại; đã không có đời sau thì ai sẽ thọ quả báo, người làm và người thọ đều hư dối. Hãy đến thành Kiếp-tỷ-la làm vua tự xưng là thiên tử, tôi sẽ làm Thanh văn đứng đầu của thầy”. Ngay khi Đề-bà-đạt-đa sanh tà kiến thì tất cả căn lành đều mất, lúc đó Phật bảo các Bí-sô: “các thầy nên biết, căn lành của Đề-bàđạt-đa từ đây bị mất hết. Này các Bí-sô, nếu ta thấy Đề-bà-đạt-đa có chút ít pháp lành thì ta sẽ không thọ ký Đề-bà-đạt-đa sẽ đọa địa ngục Vô gián, chịu khổ một kiếp không thể cứu vãn. Này các Bí-sô, do ta không thấy Đề-bà-đạt-đa có chút ít pháp lành nào như mảy lông nên ta mới thọ ký Đề-bà-đạt-đa sẽ đọa địa ngục Vô gián, chịu khổ một kiếp không thể cứu vãn. Ví như cách thành ấp, thôn xóm không xa có một hố phân sâu hơn một trượng, hôi thúi khó thể tới gần. Chẳng may có một người té xuống hố đó, đầu và tay chân đều bị chìm; một người khác trông thấy vì muốn làm cho người đó được lợi lạc nên đến tìm cách cứu vớt, nghĩ rằng: “nếu ta thấy người bị té xuống hố phân này có một thân phần nào không bị dính phân dơ thì ta sẽ kéo người ấy lên khỏi hố”. Sau khi quan sát cùng khắp, không thấy người bị té kia có một thân phần nào không bị dính phân dơ để có thể dùng tay nắm kéo lên cả. Này các Bí-sô, ta cũng như vậy, nếu ta thấy Đề-bà-đạt-đa có chút ít pháp lành thì ta sẽ không thọ ký Đề-bà-đạt-đa sẽ đọa địa ngục Vô gián, chịu khổ một kiếp không thể cứu vãn. Này các Bí-sô, do ta không thấy Đề-bà-đạt-đa có chút ít pháp lành nào như mảy lông nên ta mới thọ ký Đề-bà-đạt-đa sẽ đọa địa ngục Vô gián, chịu khổ một kiếp không thể cứu vãn. Các Bí-sô nên biết, Thiên thọ đã tạo đủ ba pháp ác dục phải đọa trong địa ngục Vô gián, chịu khổ một kiếp không thể cứu vãn: một là Đề-bà-đạt-đa sanh tâm ưa thích tạo tội và bị ác dục kia dẫn dắt; khi đã sanh ác dục và bị ác dục dẫn dắt tức là thành tựu pháp ác dục thứ nhất. Hai là gần bạn ác, giao du với bạn ác; khi đã gần bạn ác, giao du với bạn ác tức là thành tựu pháp ác dục thứ hai. Ba là Đề-bà-đạt-đa mới chứng đắc chút ít, chứng được phẩm hạ liền vui mừng cho là đủ, không chịu tiến tu để chứng pháp thắng thượng ; khi mới chứng đắc chút ít, chứng được phẩm hạ liền vui mừng cho là đủ, không chịu tiến tu để chứng pháp thắng thượng tức là thành tựu pháp ác dục thứ ba”, Phật nói kệ:
“Chớ làm người thế gian,
Ưa thích tạo tội lỗi,
Thành tựu pháp ác dục,
Sẽ chiêu lấy họa hại.
Người đời biết Thiên thọ,
Thông minh không tâm phục,
Cũng không tu thiểu dục,
Sống theo hạnh phóng dật,
Uổng có hình dáng đẹp.
Muốn xâm hại Thế tôn,
Nên ta mới thọ ky,
Đọa Vô gián một kiếp,
Xan tham sanh niệm ác,
Tà kiến không cung kính,
Chắc chắn đọa Vô gián.
Cửa ngục đóng bốn phía,
Người kia vốn không lỗi,
Do ác báng mới sanh,
Đời này hoặc đời sau,
Thọ làm người ngu si.
Ai đổ bình thuốc độc,
Muốn làm hoại nước biển,
Biển cả không bờ bến,
Thì thật là uổng công.
Cũng như có người ác,
Phỉ báng đức Thế tôn,
Bậc lợi mình, lợi người,
Làm sao phỉ báng được.
Tâm chánh kiến thường tịch,
Duyên ác làm sao sanh,
Ai gần gũi bạn lành,
Đó là người thông minh,
Vì sẽ không làm ác,
Cung kính vâng làm theo”.
Sau khi Đề-bà-đạt-đa hủy báng lời Phật dạy, sanh khởi tà kiến đoạn mất căn lành, cho là chỉ có đời này không có đời sau, Đề-bà-đạt-đa liền lập ra năm pháp và nói với đồ chúng của mình: “các thầy nên biết, Sa môn Kiều-đáp-ma cho đồ chúng thọ dụng sữa lạc. Từ nay về sau chúng ta không được ăn, vì sao, vì nếu ăn sữa lạc, chúng ta sẽ làm cho bò nghé bị đói khổ. Sa môn Kiều-đáp-ma cho đồ chúng ăn cá thịt, từ nay về sau chúng ta không được ăn, vì sao, vì nếu ăn cá thịt tức là đoạn mạng sống chúng sanh. Sa môn Kiều-đáp-ma cho đồ chúng ăn muối, từ nay về sau chúng ta không được ăn, vì sao, vì trong muối có nhiều bụi đất. Lại nữa khi thọ dụng y, Sa môn Kiều-đáp-ma cho cắt bỏ phần biên vải; từ nay về sau, chúng ta giữ lại phần biên vải, vì sao, vì tiếc công lao của người thợ dệt.
Lại nữa, Sa môn Kiều-đáp-ma ở nơi A-lan-nhã; từ nay về sau chúng ta ở trong tụ lạc, vì sao, vì sợ bỏ phí vật của thí chủ cúng dường. Năm pháp này nhiếp tụng:
Không được ăn sữa lạc,
Cá thịt và dùng muối,
Biên vải, ở tụ lạc,
Năm pháp của Thiên thọ”.
Lúc đó đức Bạc già phạm du hành trong nhân gian dần dần đến thành Thất-la-phiệt, Đề-bà-đạtđa liền suy nghĩ: “ta đã nhiều lần làm hại Sa môn Kiều-đáp-ma nhưng không thành, nay ta nên lăng nhục vợ ông ta”, nghĩ rồi liền đến thành Kiếp-tỷ-la, sai sứ đến nói với Da-du-đà-la:
“Sa môn Kiều-đáp-ma bỏ nghiệp làm vua mà xuất gia, nay ta đến thay ông ta làm vua, nàng hãy làm vợ ta”, Da-du-đà-la nói cho Cù di ca biết việc này, Cù di ca nói: “đại phu nhân hãy sai sứ đến nói với Thiên thọ: “trước đây khi tôi nắm tay Bồ-tát, Bồtát có thể chịu đựng nổi sức mạnh này; nếu ông có thể chịu đựng được thì cứ đến gặp tôi” ”. Thiên thọ nghe rồi không biết tự lượng sức mình liền đến trong cung, đứng chắp tay ; Cù di ca có sức mạnh của Đại nặc cận na chỉ dùng tay trái nắm hai tay đang chắp của Thiên thọ, khiến cho mười ngón tay đều chảy máu rồi ném Thiên thọ vào trong ao nước mà trước kia Bồ-tát thường bơi lội. Khi rớt xuống ao Thiên thọ la to, những người trong dòng họ Thích đều chạy đến, thấy việc này rồi liền nói với nhau: “Đề-bà-đạt-đa không tự lượng sức mình, định vào trong cung làm việc lăng nhục, nên giết chết ông ta”, có người nói: “không nên gia hại một người đã chết, vì Thế tôn đã thọ ký Đề-bà-đạt-đa sẽ đọa địa ngục Vô gián, chịu khổ một kiếp không thể cứu vãn”, nói rồi mọi người đều bỏ đi. Đề-bàđạt-đa ra khỏi ao bị cọc gỗ xé rách y thành hai mảnh, liền nghĩ: “lành thay, y này khéo xứng hợp tịnh nghi, ta sẽ chế kiểu y này cho các Thanh văn”. Thời gian sau, Thiên thọ lại bảo những người trong họ Thích tôn mình lên làm vua, họ nói: “Bồtát đã có vợ, nếu ông dùng quyền lực làm cho bà ấy phục tùng thì ông sẽ được tôn làm vua”, Thiên thọ liền vào trong cung, đến chỗ Da-du-đà-la chắp tay nói: “nàng là đại phu nhân của nước này, chỉ có ta mới xứng làm vua”, Da-du-đà-la có sức mạnh của Đại bát tắc kiên tha, liền rời khỏi giường báu đến nắm hai bàn tay đang chắp của Thiên thọ, khiến mười ngón tay chảy máu và làm cho quỵ xuống đất. Thiên thọ đau đớn lăn lộn trên đất, Dadu-đà-la nói: “ông thật vô lại và cũng hết sức ngu xuẩn, ta chỉ mới nắm tay mà ông đã không chịu đựng nổi, huống chi là muốn cùng giao hợp. Chuyển luân Thánh vương hay là thân sau cùng của Bồ-tát mới xứng là chồng ta, người khác đều không thể”. Thiên thọ hổ thẹn rời khỏi cung, những người dòng họ Thích thấy vậy liền nói: “ông nên đến chỗ Thế tôn cầu xin tha thứ, nếu Thế tôn tha thứ thì ông mới có thể làm vua”. Lúc đó Thiên thọ dùng chất độc nhét dưới mười móng tay trước khi đi đến gặp Thế tôn, nghĩ rằng: “nếu Sa môn Kiều-đáp-ma tha thứ cho ta thì tốt, nếu không tha thứ thì ta sẽ dùng chất độc dưới móng tay này làm cho chân tay của ông ta trúng độc”, nghĩ rồi đến chỗ Phật đảnh lễ rồi bạch: “cúi xin Thế tôn tha thứ”, Phật quán biết Thiên thọ đến với tâm sát hại nên dùng thần lực biến từ đầu gối trở xuống thành đá thủy tinh và im lặng. Thiên thọ thấy Phật im lặng liền nổi giận khởi ý làm hại, dùng móng tay có nhét độc cào chân Thế tôn, chạm vào đá thủy tinh khiến móng tay bị gãy, chất độc trở ngược làm hại thân khiến Thiên thọ hết sức khổ não. Tôn giả A-nan nói: “Thiên thọ, thầy hãy quy y Thế tôn”, Thiên thọ nói: “đại đức, nếu tôi quy y Phật thì như Phật nói quy y Phật không đọa địa ngục; như vậy sau khi bỏ thân mạng này tôi sẽ sanh thiên. Nhưng Phật đã thọ ký tôi sẽ đọa địa ngục, chịu khổ một kiếp không thể cứu vãn; nếu tôi sanh thiên thì Phật thọ ký sai, nếu tôi quy y Phật mà còn đọa địa ngục thì Phật vọng ngữ”. Khi Thiên thọ tức giận cùng cực thì nghiệp ác chín muồi nên lửa Vô gián đốt khắp thân, Thiên thọ la lớn: “đại đức A-nan, tôi đang bị đốt”. Thấy Thiên thọ đau đớn như vậy, vì tình thân nên A-nan càng thương xót liền nói: “Thiên thọ, thầy hãy chí tâm quy y Như lai Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đừng nghĩ gì khác”. Khi bị lửa Vô gián đốt, nghiệp báo hiện tiền, chịu khổ não cùng cực ; Thiên thọ lo sợ bất giác nói: “hôm nay từ thân cho đến cốt tủy, tôi chí tâm quy y đức Bạc già phạm”, nói xong hiện thân liền đọa vào địa ngục Vô gián. Lúc đó Phật bảo các Bí-sô: “các thầy nên biết, thiện căn của Đề-bàđạt-đa đã được khôi phục, thầy ấy ở trong địa ngục thọ tội một kiếp, thọ hết tội rồi sẽ được làm người, theo thứ lớp tu tập cuối cùng chứng được quả vị Phật Bích chi tên là Cụ cốt. Sau khi chứng quả, vị ấy mang bát theo thứ lớp từng nhà khất thực, được thức ăn rồi trở về bổn xứ, rửa tay chân rồi mới thọ thực. Trước khi thọ thực, vị ấy quán đời trước vì lý do gì mình ở mãi trong sanh tử luân hồi, đến nay mới được giác ngộ; liền quán biết đời trước mình đã tạo đủ các nghiệp ác đối với Như lai, lại quán thấy thuở xưa khi Phật còn hành Bồ-tát đạo, đời đời mình thường kết oán thù với Phật chỉ vì chút ít lợi dưỡng và cung kính. Thấy biết rồi vị ấy không thọ thực nữa mà bay lên hư không, phóng ánh sáng lớn và hiện các thần biến rồi nhập Niết-bàn vô dư đại viên tịch”.
Tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên thường xuống địa ngục xem xét, lúc đó tôn giả Xálợi-phất nói với Đại Mục-kiền-liên: “chúng ta xuống địa ngục Vô gián thăm và an ủi Thiên thọ”, nói rồi cùng đi. Đến nơi, tôn giả Xá-lợi-phất nói với Đại Mục-kiền-liên: “địa ngục Vô gián này trên dưới và bốn phía đều thông nhau, trong đó lửa dữ trùm khắp. Thầy được Thế tôn thọ ký là Thần thông đệ nhất, vậy thầy hãy vận tâm quán các hữu tình đang chịu khổ trong địa ngục để diệt trừ hỏa tai”, Đại Mục-kiền-liên liền nhập định đại thủy hóa mưa, mỗi giọt mưa lớn như cái chày rơi xuống địa ngục Vô gián, nhưng các giọt mưa này đều tiêu tan trên hư không. Đại Mục-kiền-liên lại hóa-trận mưa khác, mỗi giọt mưa lớn như bánh xe nhưng cũng như trước đều tiêu tan hết. Tôn giả Xá-lợiphất thấy vậy liền nhiếp niệm nhập định Thắng giải hạnh, khiến cho nước tràn khắp trong địa ngục, tiếng thọ khổ liền dứt và chúng sanh thọ khổ được hồi phục bổn niệm. Lúc đó Đại Mục-kiềnliên cất tiếng hỏi: “ai là Đề-bà-đạt-đa thì hãy bước tới”, nói vừa dứt thì có hàng ngàn Đề-bà-đạt-đa đua nhau chạy tới, Đại Mục-kiền-liên nói: “ai là Đề-bà-đạt-đa anh em của Thế tôn thì hãy đến đây”, Đề-bà-đạt-đa liền bước tới đảnh lễ hai tôn giả, hai tôn giả hỏi: “Thiên thọ, nỗi khổ mà ông chịu trong địa ngục này có gì khác nhau không?”, đáp: “nỗi khổ chung thì khỏi phải nói, còn nỗi khổ riêng thì như thấy có núi sắt nóng, lửa cháy cùng khắp tạo thành một ngọn lửa lớn đến đè bẹp thân con, như dùng đá đè ép mè để lấy dầu không khác. Lại thấy có cái cưa sắt với lưỡi cưa thật bén, phát ra lửa rất nóng cưa xẻ thân con, từng khúc xương rơi rớt. Lại thấy có chày sắt nóng đỏ thường đánh nát đầu con ; lại thấy có voi lớn từ bốn phía xông đến giẫm đạp thân con nát như bột gạo”, hai tôn giả nói: “Thiên thọ, ông nói thấy có núi sắt nóng, lửa cháy cùng khắp tạo thành một ngọn lửa lớn đến đè bẹp thân con, như dùng đá đè ép mè để lấy dầu không khác; đó là do ông xô tảng đá lớn từ trên núi xuống để hại Như lai, do nghiệp ác đó nên chiêu lấy quả khổ này. Ông nói thấy có chày sắt nóng đỏ thường đánh nát đầu con; đó là do ông đánh vào đầu của A-la-hán ni Liên-hoa-sắc khiến vị ấy phải nhập Niết-bàn, do nghiệp ác đó nên chiêu lấy quả khổ này. Ông lại thấy có voi lớn từ bốn phía xông đến giẫm đạp thân con nát như bột gạo ; đó là do ông ác tâm thả voi say để giẫm đạp Thế tôn, do nghiệp ác đó nên chiêu lấy quả khổ này. Này Thiên thọ, tuy ông chịu khổ cùng cực như vậy, nhưng Thế tôn đã thọ ký cho ông là sau khi thọ khổ hết tội rồi, cuối cùng cũng sẽ chứng quả vị Phật Bích chi hiệu là Cu cốt”, Đề-bà-đạt-đa nghe rồi bạch rằng: “nếu được như vậy thì con dõng mãnh cam chịu khổ này trong địa ngục Vô gián”, nói rồi liền biến mất. Hai tôn giả đi tiếp đến chỗ Lục sư ngoại đạo đang chịu khổ, thấy Cao ca ly ca đang bị trăm cái cày cày xới lưỡi. Lúc đó vua trời Phạm thiên đi theo hai tôn giả thấy vậy liền nói: “này Cao ca ly ca, ông hãy khởi tâm cung kinh hai tôn giả, đây là bậc có tịnh hạnh, trí huệ và thần thông bậc nhất”, Cao ca ly ca nói: “hai người tội lỗi nhiều ham muốn này đến đây làm gì?”, vừa mở miệng nói ra lời này liền bị ngàn lưỡi cày cày xới lưỡi. Hai tôn giả thấy rồi liền suy nghĩ: “hữu tình này nghiệp nặng khó cứu độ”, không biết phải làm sao liền bỏ đi đến chỗ Bộ thích noa. Thấy hai tôn giả, Bộ thích noa liền đảnh lễ bạch rằng: “xin hai đại đức xét tội nhơn của con, do trước kia con nói tà pháp lừa dối người đời, che lấp chánh tín của họ nên nay phải chịu khổ thường bị năm trăm cái cày cày xới lưỡi. Khi các đệ tử của con đem phẩm vật cúng dường tháp của con thì con chịu khổ hành hạ ; xin hai tôn giả nói cho họ biết nỗi khổ mà con đang chịu, để họ đừng cúng dường tháp của con nữa”, hai tôn giả im lặng nhận lời. Ở địa ngục xem xét xong, hai tôn giả trở về châu Thiệm bộ kể lại nỗi khổ của Đề-bà-đạt-đa, Cao ca ly ca và Bộ thích noa cho Phật và đại chúng nghe. Các Bí-sô nghe rồi đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, vì sao Đề-bà-đạt-đa không chịu nghe lời Thế tôn để đến nỗi chịu khổ cùng cực trong địa ngục Vô gián như thế?”, Phật nói: “này các Bí-sô, không phải chỉ ngày nay Thiên thọ không nghe lời ta để đến nỗi chịu hình phạt khốc liệt như thế, mà trong quá khứ cũng đã không nghe lời ta để đến nỗi chịu khổ não. Các thầy lắng nghe: Thuở xưa ta ở trong một tụ lạc Bất định, lúc đó ta đang hành hạnh Bồ-tát làm một con bò đực chúa. Mỗi đêm bò chúa thường đến trong ruộng lúa của vương gia ăn no nê, đến trời gần sáng mới trở vào trong thành nằm ngủ. Lúc đó có một con lừa đến hỏi bò chúa: “vì sao da thịt của bác hồng hào mập mạp, trong khi cháu chưa từng thấy bác tạm rời khỏi nơi đây?”, bò chúa nói: “mỗi đêm ta thường đến trong ruộng lúa của vua ăn, đến trời gần sáng mới trở về”, lừa nói: “bác cho cháu cùng đi theo được không?”, bò chúa nói: “cháu thích hí vang, tiếng hí vang đó sẽ khiến chúng ta bị bắt”, lừa nói: “bác cho cháu đi theo, cháu sẽ không cất tiếng hí”. Bò dẫn lừa đến trong ruộng vua ăn lúa, lúc chưa no thì lừa còn im lặng, khi no nê rồi nó lại muốn hí vang, bò chúa nói: “khoan hãy hí, đợi ta ra ngoài rồi, mặc sức cháu hí”, nói rồi bò chúa vội chạy ra ngoài. Nghe tiếng lừa hí, những người giữ ruộng liền bao vây bắt lừa và nói: “ruộng lúa trước nay đều là do con lừa này ăn, phải đánh đập nó khổ sở rồi mới thả ra”, nói rồi liền cắt hai tai của nó, cột cái cối vào cổ nó, dùng roi đánh nó nhừ tử rồi mới thả ra. Bò chúa thấy lừa bị khổ nhục này liền nói kệ:
“Hí vang lại rất lớn,
Do hí mới như vậy,
Thấy kẻ giỏi hí vang,
Bị cắt hai lỗ tai,
Vì không giữ cái miệng,
Không nghe lời bạn lành,
Không những bị cắt tai,
Cổ phải mang cái cối”.
Lừa nói kệ:
“Răng rụng nên ít nói,
Bò già chớ nói nhiều,
Ông còn đi ăn đêm,
Rồi cũng sẽ bị bắt”.
Phật bảo các Bí-sô: “bò đực thuở xưa chính là thân ta ngày nay, con lừa thuở xưa chính là Đề-bàđạt-đa ngày nay. Thuở xưa không chịu nghe lời ta nên chịu khổ não đó, nay Đề-bà-đạt-đa không nghe lời ta nên chịu đại khổ ở địa ngục. Lại nữa, giống như ngày nay không nghe lời ta nên Đề-bàđạt-đa chịu đại khổ não, ngày xưa cũng vậy. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa ở trong một thôn có một trưởng giả nuôi một con bò lớn tướng mạo đẹp đẽ, lúc đó trưởng giả thiết lễ cúng dường cho các Sa môn, Bà-la-môn và những người nghèo khổ không nơi nương tựa. Làm việc bố thí này xong, trưởng giả phóng thích con bò cho nó được tự do, không còn ràng buộc. Bò liền đi tìm cỏ nước, chẳng may rơi từ trên sườn dốc xuống bùn sâu, không thể lên được. Trưởng giả nghe người báo tin liền tìm đến chỗ con bò, nhưng vì trời đã gần tối nên một mình trưởng giả không thể kéo bò lên được, ông nói với bò là sáng mai sẽ đến cứu, bò nói: “ông hãy lấy dây quấn vào sừng của con rồi để trước mặt, nếu có sói, dã can đến làm hại thì con sẽ dùng sừng quơ dây đe dọa chúng”. Trưởng giả lấy dây cột vào sừng bò và để cuộn dây trước mặt rồi đi, đến trời tối có dã can đến, thấy bò liền hỏi: “ai đến trộm ngó sen vậy?”, bò đáp: “tôi bị sa xuống bùn không thể lên được, không phải là ăn trộm ngó sen”, dã can nghe rồi liền nói: “bữa ăn ngon của ta bỗng nhiên mà có”, nói rồi tìm cách đến gần bò, bò nói: “ngươi hãy tránh xa ta, nếu định làm hại nhau thì thân người sẽ phải chịu khổ độc”. Dã can không để ý lời bò nói cứ tiến đến gần, bò thấy dã can không nghe lời mình nói liền nói kệ:
“Ta chẳng trộm ngó sen,
Cũng không lấy hoa sen,
Ngươi muốn ăn thịt ta,
Lên lưng ta mà ăn dần”.
Dã can nói: “đúng vậy, ta nên lên lưng của người mà ăn dần”, nói rồi liền phóng lên lưng bò, bò liền quơ sừng làm cho sợi dây quấn vào cổ dã can và treo ngược thân nó lên hư không, rồi nói kệ:
“Ngươi còn trẻ và đẹp,
Múa giỡn trên hư không,
Khoe tài ở trong thôn,
Đồng hoang không thí chủ”.
Dã can nói kệ:
“Ta không còn trẻ đẹp,
Không phải kẻ múa giỡn,
Là Đế thích bị đọa,
Ta sẽ đến Phạm thiên”.
Bò nói kệ:
“Không phải trời Đế thích,
Bị đọa, đến Phạm thiên,
Mà bị dây quấn cổ,
Mạng ngươi nay đã tận”.
Phật bảo các Bí-sô: “con bò thuở xưa chính là thân ta ngày nay, con dã can thuở xưa chính là Đềbà-đạt-đa ngày nay. Xưa không nghe lời ta nên chịu họa, nay cũng vậy”, các Bí-sô lại khởi nghi thỉnh hỏi Phật: “vì sao Đề-bà-đạt-đa đồi với Thế tôn khởi tâm sân hận, không nghe lời chánh đến nỗi bị đọa vào địa ngục Vô gián chịu khổ đốt thân?”, Phật nói: “không phải chỉ có ngày nay không chịu nghe lời ta nên bị lửa địa ngục đốt thân. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại một vương quốc có vua tên là Chế-để-ca, do phước lực của vua nên đất nước an bình thịnh vượng, dân chúng sống sung túc không có nghèo thiếu. Lại do vua có thắng phước lớn nên mỗi khi ngồi trên ngai thì có chư thiên đỡ chân ghế ở trong hư không. Vua có một đại thần giúp vua cai trị nước, ông có hai người con tên là Xuất hỉ và Chúng Ái; Xuất hỉ thấy cha dùng pháp và phi pháp giúp vua trị nước liền suy nghĩ: “ta là con trưởng, nếu sau khi cha ta mất, ta sẽ kế thừa chức quan này, ta cũng sẽ dùng pháp và phi pháp giúp vua trị nước. Do nghiệp ác này, ta sẽ bị đọa vào địa ngục, tốt hơn hết ta nay nên xuất gia”, nghĩ rồi liền đến xin cha cho xuất gia, người cha bằng lòng và Xuất hỉ xuất gia theo Phật. Thời gian sau người cha qua đời, người con thứ hai là Chúng Ái kế tục cha làm đại thần, cũng dùng pháp và phi pháp giúp vua trị nước khiến dân chúng oán ghét. Lúc đó có người bỏ đi lang thang và tình cờ gặp người anh hiện nay là Bí-sô, Bí-sô hỏi từ đâu đến, đáp là từ thành---đến, Bí-sô liền hỏi thăm về người em của mình, người kia kể lại mọi việc, Bí-sô nghe rồi liền nói: “ông hãy trở về nói mọi người đừng có lo buồn, ta sẽ đến thành ấy dùng lý khuyên nhắc em ta nên dùng chánh pháp, hy vọng dân chúng sẽ hết khổ được vui”.
Người kia nghe rồi liền trở về bổn xứ báo cho mọi người biết tin này, tin này lan truyền không bao lâu đến tai người em, người em đến tâu với vua: “Đại vương, anh của thần sắp trở về”, vua nói: “nếu anh của khanh trở về thì sẽ phong làm đại thần”, người em nói: “lâu nay thần đã lao nhọc và thành tâm giúp vua trị nước, xin vua xét lại”, vua nói: “theo quốc pháp thì người con trưởng được kế tục làm chứa quan của cha, việc này không thay đổi được; nhưng để làm cho khanh mãn nguyện thì khi anh của khanh trở về, khanh cứ nói tôi là trưởng”, người em nghe rồi vui mừng cáo lui. Không bao lâu sau người anh là Bí-sô trở về, các quan đều ra nghinh đón còn người em thì đứng yên, Bí-sô nói: “em là em vì sao lại đứng yên đó”, người em nói: “tôi là anh còn thầy là em, nếu không tin thì tìm người làm chứng. Chúng ta lớn lên trong cung, vua biết rõ ai lớn ai nhỏ, chúng ta hãy đến đó hỏi sẽ rõ thực hư”. Khi đến chỗ vua, Bí-sô hỏi vua: “trong hai chúng tôi, ai là con trưởng”, vua cố ý nói dối: “kia là con trưởng còn thầy là con thứ”. Vua vừa nói xong, chư thiên đang đỡ chân ghế liền buông tay khiến vua ngã xuống đất, trong miệng vua phát ra hơi hôi. Bí-sô thấy rồi liền nói kệ:
“Nếu người nào nói dối,
Chư thiên liền lìa bỏ,
Trong miệng bay hơi hôi,
Đánh mất đường sanh thiên.
Vua hãy nên nói thật,
Sẽ bình phục như cũ,
Nếu vua còn nói dối,
Sẽ phải đọa đường dưới.
Mắc quả báo không lưỡi,
Giống như cá trong nước.
Nếu ai nói trái pháp,
Tức là người phi pháp.
Vua hãy nên nói thật,
Sẽ bình phục như cũ,
Nếu vua còn nói dối,
Sẽ phải đọa đường dưới.
Làm người phi nam nữ,
Phải mang thân hoàng môn.
Nếu ai nói trái pháp,
Tức là người phi pháp.
Vua hãy nên nói thật,
Sẽ bình phục như cũ,
Nếu vua còn nói dối,
Sẽ phải đọa đường dưới.
Đúng thời trời không mưa,
Phi thời mưa tầm tả,
Nếu ai nói trái pháp,
Tức là người phi pháp.
Vua hãy nên nói thật,
Sẽ bình phục như cũ,
Nếu vua còn nói dối,
Sẽ phải đọa đường dưới.
Sẽ phải mang thân rắn,
Trong miệng sanh hai lưỡi.
Nếu ai nói trái pháp,
Tức là người phi pháp.
Vua hãy nên nói thật,
Sẽ bình phục như cũ,
Nếu vua còn nói dối,
Sẽ phải đọa đường dưới.
Giống như vua Chế để,
Đã tạo nghiệp cực ác,
Sẽ đến ngục A tỳ,
Chịu quả báo Vô gián”.
Phật bảo các Bí-sô: “người con trưởng của đại thần thuở xưa chính là thân ta ngày nay, vua Chế để thuở xưa chính là Thiên thọ ngày nay. Nay đối với ta khởi sân hận, không nghe lời ta nên chịu khổ bị lửa đốt thân trong địa ngục Vô gián”, các Bí-sô vẫn còn nghi nên thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, vì sao Thế tôn nói lời lợi ích mà Đề-bà-đạt-đa lại không nghe đến nỗi phải bị đọa địa ngục Vô gián chịu khổ báo cùng cực?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay Đề-bà-đạt-đa không nghe lời để đến nỗi chịu khổ trong địa ngục, mà ở quá khứ cũng đã không nghe lời để đến nỗi chịu khổ đau. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa, tại một thôn có người thợ khéo rất rành về máy móc, ông cưới một người vợ có dòng tộc tương tợ ở trong thôn làm vợ và sống với nhau rất hạnh phúc. Không bao lâu sau người vợ mang thai, đủ chín tháng mười ngày sanh hạ một đứa con, sau hai mươi mốt ngày họ mở tiệc ăn mừng và đặt tên cho đứa bé là Xảo dung. Họ như pháp nuôi dưỡng ho đến trưởng thành thì người cha qua đời, Xảo dung liền qua thôn khác đến chỗ một người thợ giỏi để học về máy móc. Sau đó, Xảo dung qua thôn khác hỏi vợ, có một trưởng giả hứa gả con gái và nói rằng: “hãy đúng vào ngày đó đến rước con gái ta, nếu đến không đúng ngày thì đó không phải là lỗi của ta”. Xảo dung trở về kể lại việc trên với thầy, người thầy nói: “chắc chắn ta và con sẽ đến nơi đó đúng hẹn, vì ngày giờ tốt đã qua thì khó mà được lại”, nói rồi người thầy lấy chim Khổng tước máy bằng gỗ ra, khởi động máy để đưa cả hai bay đến chỗ đã hẹn. Mọi người ở trong thôn kia nhìn thấy việc này rồi đều khen ngợi hết lời, Xảo dung dâng lễ vật rồi rước vợ về. Cả ba cùng ngồi trên chim máy, chưa đầy một ngày đêm đã trở về chỗ cũ, đến nơi người thầy đưa con chim máy cho mẹ của Xảo dung và dặn rằng: “bà hãy cất giữ con chim máy này, nếu con bà đòi thì bà đừng nên đưa, vì sao, vì nó mới học cách bay đi nhưng chưa học cách bay trở về. Bà đừng để con bà gặp khổ ách”. Thời gian sau, Xảo dung thường theo mẹ đòi con chim máy và nói rằng: “con muốn cỡi con chim máy ấy đi chơi một vòng cho mọi người quy phục con”, người mẹ nói: “thầy con khi ra đi có dặn mẹ rằng: bà hãy cất giữ con chim máy này, nếu con bà đòi thì bà đừng nên đưa, vì sao, vì nó mới học cách bay đi nhưng chưa học cách bay trở về. Bà đừng để con bà gặp khổ ách”, Xảo dung nói: “điều khiển cách bay trở về con cũng đã học biết rồi, vì thầy có tâm xẻn nên bảo mẹ không đưa nó cho con”. Tâm người nữ thường mềm yếu, thấy con đòi mãi nên bà đành phải lấy đưa cho con. Xảo dung được con chim máy liền khởi động cho bay lên không trung, mọi người thấy đều khen ngợi; lúc đó người thầy thấy chim bay trên hư không liền than rằng: “Xảo dung lần này bay đi sẽ không trở về nữa”. Đúng như lời người thầy nói, khi Xảo dung điều khiển cho may bay trở về thì nó không bay trở về mà cứ bay thẳng tới biển lớn. Nơi đó mưa nhiều nắng ít khiến cho cỗ máy bị hư hỏng nặng và rơi xuống biển, Xảo dung chết. Chư thiên thấy việc này rồi liền nói kệ:
“Có người thương xót nên khuyên bảo,
Không chịu nghe, cứ theo ý mình,
Chim máy không thầy vẫn cỡi đi,
Cuối cùng vùi thân trong biển cả”.
Phật bảo các Bí-sô: “người thầy là thợ máy thuở xưa chính là thân ta ngày nay, người học trò là Xảo dung thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa ngày nay. Thuở xưa do làm trái lời khuyên nhắc của ta nên bị nạn chìm đắm trong biển cả, nay không nghe lời dạy ích lợi của ta nên chịu khổ bị lửa đốt thân trong địa ngục”.
Lúc đó tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật: “Thế tôn, như thế nào là Tăng già bị phá hoại, như thế nào là Tăng già hòa hợp?”, Phật nói: “nếu có Bí-sô đối với phi pháp khởi tưởng là phi pháp, hiện đang ở riêng chúng khởi nghĩ là đang ở riêng chúng mà tác pháp yết ma, đó là phá hoại yết ma Tăng già. Nếu Bí-sô đối với pháp khởi tưởng là pháp, đối với chúng hòa hợp khởi tưởng là hòa hợp mà tác pháp yết ma, đó là Tăng già hòa hợp.
Như thế nào là phá Tăng? Nếu chỉ có một Bísô thì không thể phá Tăng, hai, ba cho đến tám Bísô cũng không thể phá được chúng hòa hợp. Nếu có chín Bí-sô trở lên, phân thành hai bộ Tăng cùng làm yết ma và phát thẻ, đó là phá hòa hợp chúng.
Yết ma như thế nào? Là như Đề-bà-đạt-đa dạy bảo các Bí-sô và chế học xứ như sau:
Này các Bí-sô, các thầy nên biết có năm giới cấm: không trụ nơi A-lan-nhã là pháp thanh tịnh, giải thoát, thoát khỏi khổ và vui, có thể được thắng xứ. Như vậy cho đến chỉ ngồi dưới gốc cây, thường hành khất thực, chỉ chứa ba y và mặc y phấn tảo là pháp thanh tịnh, giải thoát, thoát khỏi khổ và vui, có thể được thắng xứ. Các Bí-sô thọ hành năm pháp này cho là thanh tịnh, giải thoát và xuất ly thì phải xa lìa Sa môn Kiều-đáp-ma, không được cùng ở chung và thân cận. Bạch như vậy. Văn yết ma chuẩn theo văn tác bạch mà làm.
Như thế nào là hành trù (phát thẻ)? Là như Đềbà-đạt-đa dạy bảo các Bí-sô và chế học xứ như sau:
Này các Bí-sô, các thầy nên biết có năm giới cấm: không trụ nơi A-lan-nhã là pháp thanh tịnh, giải thoát, thoát khỏi khổ và vui, có thể được thắng xứ. Như vậy cho đến chỉ ngồi dưới gốc cây, thường hành khất thực, chỉ chứa ba y và mặc y phấn tảo là pháp thanh tịnh, giải thoát, thoát khỏi khổ và vui, có thể được thắng xứ. Các Bí-sô nào thọ hành năm pháp này cho là thanh tịnh, giải thoát và xuất ly; xa lìa Sa môn Kiều-đáp-ma, không được cùng ở chung và thân cận thì nên thọ lấy thẻ”.
Nhiếp tụng:
Một không thể phá Tăng,
Đến chín mới phá được,
Và tác pháp yết ma,
Lấy thẻ nói phi pháp.
Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật: “Thế tôn, người bị xả trí có thể làm việc phá Tăng không, cho đến tùy thuận người bị xả trí, tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là không phải người có thể xả trí, cho đến không phải tùy thuận người có thể xả trí, không phải tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là người có thể xả trí, cho đến tùy thuận người có thể xả trí, tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là không phải người bị xả trí, cho đến không phải tùy thuận người bị xả trí, không phải tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là người sẽ bị xả trí, cho đến tùy thuận người sẽ bị xả trí, tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là không phải người sẽ bị xả trí, cho đến không phải tùy thuận người sẽ bị xả trí, không phải tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là người sẽ có thể xả trí, cho đến tùy thuận người sẽ có thể xả trí, tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là không phải người sẽ có thể xả trí, cho đến không phải tùy thuận người sẽ có thể xả trí, không phải tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là người tùy thuận người bị xả trí, tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là người tùy thuận người có thể xả trí, tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là không phải người tùy thuận người bị xả trí, không phải tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không ?. Hay là không phải người tùy thuận người có thể xả trí, không phải tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là người sẽ tùy thuận người bị xả trí, sẽ tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là không phải người sẽ tùy thuận người bị xả trí, không phải người sẽ tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là người sẽ tùy thuận người có thể xả trí, người sẽ tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là không phải người sẽ tùy thuận người có thể xả trí, không phải người sẽ tùy thuận người tùy thuận kia có thể làm việc phá Tăng không?. Hay là người bị xả trí và người có thể xả trí làm việc phá Tăng, không phải bốn hạng người kia; hay là người sẽ bị xả trí và người có thể xả trí làm việc phá tăng, không phải bốn hạng người kia ; hay là người sẽ bị xả trí làm việc phá tăng, không phải năm hạng người kia; hay là người sẽ tùy thuận người bị xả trí làm việc phá tăng, không phải năm hạng người kia; hay là người sẽ tùy thuận người tùy thuận kia làm việc phá tăng không phải năm hạng người kia. Hay là người có thể xả trí làm việc phá tăng, không phải năm hạng người kia ; hay là người sẽ tùy thuận người có thể xả trí làm việc phá tăng, không phải năm hạng người kia; hay là người sẽ tùy thuận người tùy thuận kia làm việc phá tăng, không phải năm hạng người kia?”, Phật nói: “này Ưu-ba-ly, những người này đều có thể phá hòa hợp Tăng, chỉ trừ người bị xả trí là không thể phá Tăng”.
Nhiếp tụng:
Ba, hai, một phá được,
Những người kia không thể,
Mười tám loại phá Tăng,
Trừ người bị xả trí.
Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật: “như Thế tôn nói nếu có người nào phá hòa hợp Tăng, người ấy nhất định sanh tội Vô gián và thành nghiệp Vô gián. Bí-sô như thế nào gọi là phá hòa hợp Tăng, sanh tội Vô gián và thành nghiệp Vô gián?” (Tội Vô gián là nếu đọa trong địa ngục, khi chịu tội không có gián đoạn; nghiệp Vô gián là từ cõi người bị đọa ngay vào địa ngục Vô gián. Chữ Vô gián tuy đồng nghĩa nhưng có sai khác chút ít, chịu khổ không gián đoạn, tiếng Phạm gọi là A-nan-đát-lợida, chánh dịch là Vô khích tức là không hở trống. Vô khích và Vô gián không khác nhau, nhưng sau này mọi người đều dùng từ Vô gián, không dùng từ Vô khích. Có thể nói Vô gián là đọa ngay vào địa ngục; vô khích là thân khác mới thọ khổ địa ngục). Phật nói: “này Ưu-ba-ly, Bí-sô nào đối với phi pháp khởi tưởng là phi pháp, ngay khi đang phá khởi tưởng là phi pháp và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián và thành nghiệp Vô gián. Bí-sô nào đối với phi pháp khởi tưởng là phi pháp, ngay khi đang phá khởi tưởng là pháp và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián nhưng không thành nghiệp Vô gián. Bí-sô nào đối với phi pháp khởi tưởng là phi pháp, ngay khi đang phá sanh do dự và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián nhưng không thành nghiệp Vô gián.
Lại nữa, Bí-sô nào đối với phi pháp khởi tưởng là pháp, ngay khi đang phá khởi tưởng là phi pháp và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián và cũng thành nghiệp Vô gián. Bí-sô nào đối với phi pháp khởi tưởng là pháp, ngay khi đang phá khởi tưởng là pháp và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián nhưng không thành nghiệp Vô gián. Bí-sô nào đối với phi pháp khởi tưởng là pháp, ngay khi đang phá sanh do dự và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián nhưng không thành nghiệp Vô gián.
Lại nữa, Bí-sô nào đối với pháp khởi tưởng là phi pháp, ngay khi đang phá khởi tưởng là phi pháp và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián và cũng thành nghiệp Vô gián. Bí-sô nào đối với pháp khởi tưởng là phi pháp, ngay khi đang phá khởi tưởng là pháp và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián nhưng không thành nghiệp Vô gián. Bí-sô nào đối với pháp khởi tưởng là phi pháp, ngay khi đang phá sanh do dự và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián nhưng không thành nghiệp Vô gián.
Lại nữa, Bí-sô nào đối với pháp khởi tưởng là pháp, ngay khi đang phá khởi tưởng là phi pháp và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián và cũng thành nghiệp Vô gián. Bí-sô nào đối với pháp khởi tưởng là pháp, ngay khi đang phá khởi tưởng là pháp và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián nhưng không thành nghiệp Vô gián. Bí-sô nào đối với pháp khởi tưởng là pháp, ngay khi đang phá sanh do dự và dạy cho các Bísô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián nhưng không thành nghiệp Vô gián.
Lại nữa, Bí-sô nào đối với phi pháp sanh do dự, ngay khi đang phá khởi tưởng là phi pháp và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián và thành nghiệp Vô gián. Bí-sô nào đối với phi pháp sanh do dự, ngay khi đang phá khởi tưởng là pháp và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián nhưng không thành nghiệp Vô gián. Bí-sô nào đối với phi pháp sanh do dự, ngay khi đang phá cũng sanh do dự và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp
Tăng, tạo tội Vô gián nhưng không thành nghiệp Vô gián.
Lại nữa, Bí-sô nào đối với pháp sanh do dự, ngay khi đang phá khởi tưởng là phi pháp và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián nhưng không thành nghiệp Vô gián. Bí-sô nào đối với pháp sanh do dự, ngay khi đang phá khởi tưởng là pháp và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián nhưng không thành nghiệp Vô gián. Bí-sô nào đối với pháp sanh do dự, ngay khi đang phá cũng sanh do dự và dạy cho các Bí-sô với mục đích phá Tăng thì người này gọi là phá hòa hợp Tăng, tạo tội Vô gián nhưng không thành nghiệp Vô gián.
Này Ưu-ba-ly, trên đây tổng cộng có mười tám câu, trong đó sáu câu do ngay khi đang phá khởi tưởng là phi pháp nên vọng ngữ, do tâm ân trọng tạo tội Vô gián nên thành nghiệp Vô gián; mười hai câu còn lại do tâm khinh tạo tội nên không thành nghiệp Vô gián”.
Nhiếp tụng:
Sáu câu đầu mở đầu phi pháp,
Sáu câu giữa mở đầu là pháp,
Ba câu kế sau tưởng phi pháp,
Ba câu cuối sau tưởng là pháp.
Ba câu đầu phần giữa phi pháp,
Ba câu kế phần giữa tưởng pháp,
Sáu câu giữa phần giữa giống vậy.
Sau câu cuối phần giữa do dự,
Ba câu cuối của phần sau cùng,
Tưởng phi pháp, pháp và do dự.
Năm phần còn lại đều giống vậy,
Liền thành mười tám loại khác nhau.
(Luận về Luật giáo truyền qua phương Đông trải qua đã nhiều đời, các bậc dịch sư của bốn bộ đều với tâm ân cần dịch và truyền văn, nhưng khi dịch đến phần phá Tăng thì phần nhiều chưa rõ, khiến cho người đời sau hoài nghi, nghi là văn dịch đứt đoạn, nghĩa phân giới hạn. Các nhà tạo sớ cũng hoài nghi nên coi nhẹ thân mạng, chống tích tới Hạc lâm; quên mình giúp người vén y lên đỉnh núi Linh thứu để thấu suốt mối nghi và quyết đoán những điều trệ ngại, bổ sung những chỗ thiếu và trừ hẳn mối nghi; hy vọng ở trong hội Long hoa sẽ được pháp nhẫn ngay nơi tâm ban đầu).
Tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật: “Thế tôn, nếu là phá Tăng thì Tăng già bị nhiễu loạn, như vậy có phải hễ Tăng già bị nhiễu loạn tức là phá Tăng hay không?”, Phật nói: có bốn câu:
Có phá Tăng mà không phải nhiễu loạn, tức là tự có phá Tăng nhưng không thọ hành mười bốn việc phá hoại.
Tăng già bị nhiễu loạn mà không phải phá Tăng, tức là thọ hành mười bốn việc phá hoại nhưng không phá Tăng.
Vừa nhiễu loạn vừa phá Tăng, tức là thọ hành mười bốn việc và phá Tăng.
Cả hai đều không có, tức là không nhiễu loạn cũng không phá Tăng”.
Lại hỏi: “có phải hễ có phá Tăng đều là ở riêng hay chỉ có ở riêng mới là phá Tăng ?”, Phật nói có bốn câu như trên. Khi Phật thuyết pháp cho A nhã Kiều-trần-như và tám vạn thiên tử đều được đầy đủ pháp vị rồi, các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Kiều-trần-như và các thiên tử đời trước đã tạo nghiệp gì mà nay lại được đầy đủ pháp vị?”, Phật nói: “các thầy lắng nghe:
Thuở xưa ở giai vị Bất định tụ, trong biển cả ta mang thân rùa chúa. Lúc đó có năm trăm thương nhân đi thuyền ra biển, đến đảo châu báu lấy đủ các loại châu báu rồi trở về nước. Trên đường trở về gặp phải cá Ma kiệt phá hủy thuyền, các thương nhân kêu gào than khóc; rùa chúa nghe tiếng kêu khóc này nên từ dưới nước vọt lên đến chỗ các thương nhân nói rằng: “các ông chớ sợ, hãy leo lên lưng tôi, tôi sẽ đưa các ông vào bờ, thân mạng sẽ được bảo toàn”. Các thương nhân nghe rồi liền leo lên lưng rùa, vì số người đông phải chở nặng nhưng rùa chúa vẫn trụ nơi tâm tinh tấn, không thối chuyển, chịu khổ lớn để đưa họ vào bờ an toàn. Khi lên tới bờ, rùa thò đầu ra và nằm mê man; cách chỗ rùa nằm không xa, có một đàn kiến, một con trong đàn đi ra kiếm ăn, nghe mùi rùa nên nó đến gần và thấy rùa thò đầu ra nằm mê man. Nó vội trở về tổ và gọi tám vạn con kiến khác cùng đến chỗ rùa, đàn kiến ăn hết phần da mà rùa vẫn chưa tỉnh lại, đến khi ăn tới phần thịt, rùa mới tỉnh và nhìn thấy đàn kiến bu đầy khắp thân mình để ăn thịt. Rùa suy nghĩ: “nếu ta chuyển động thân mình thì sẽ hại chết đàn kiến này, ta nên xả thân này, không nên làm hại chúng”, nghĩ rồi liền nằm yên cho đàn kiến ăn dần hết thịt và phát nguyện: “như ngày nay tôi đem thân máu thịt này thí cho đàn kiến được no đủ, nguyện vào đời vị lai khi chứng quả Bồ-đề, tôi cũng sẽ thí pháp khiến cho đàn kiến này được pháp vị no đủ”.
Này các Bí-sô, rùa chúa thuở xưa chính là thân ta ngày nay, con kiến dẫn đường thuở xưa chính là Kiều-trần-như ngày nay, tám vạn con kiến cùng đến ăn thịt rùa thuở xưa chính là tám vạn thiên tử ngày nay. Trong quá khứ ta thí máu thịt khiến cho họ được no đủ, nay thành Phật quả ta cũng thí pháp khiến cho họ được đầy đủ pháp vị. Này các Bí-sô, như ta thường dạy, các thầy nên bỏ hai nghiệp đen và xen tạp, nên tu nghiệp trắng”. Khi Phật thuyết pháp khiến cho năm Bí-sô đều được pháp vị đầy đủ, ra khỏi biển sanh tử, được thắng nhân cứu cánh Niết-bàn. Các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật:
“Thế tôn, năm Bí-sô này đời trước đã tạo nghiệp gì mà được pháp vị đầy đủ, được Đại sư từ bi cứu vớt ra khỏi biển sanh tử, phương tiện trụ cứu cánh Niết-bàn?”, Phật nói: “đây không phải là việc hi hữu, vì nay ta đã lìa hẳn tham sân si, già bịnh chết, ưu bi khổ não; được hoàn toàn giải thoát, thành tựu Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí và Nhất thiết trí trí, được tự tại, thuyết pháp khiến cho năm Bísô này được pháp vị đầy đủ, ra khỏi biển sanh trụ, trụ cứu cánh Niết-bàn là việc đương nhiên. Thuở xưa, khi ta chưa lìa tham sân si, già bịnh chết, ưu bi khổ não, chưa được giải thoát; không những thí máu thịt cho họ được no đủ, ta còn khiến họ thọ trì năm giới thì đây mới là việc hi hữu. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa, trong thành Bà-la-nê-tư có vua tên là Kim cang tý dùng chánh pháp cai trị khiến cho đất nước thái bình thịnh vượng, nhân dân no ấm, ngũ cốc được mùa. Vua bẩm tánh thuần tín, hiền thiện, tự lợi lợi tha, tâm từ bi và có đủ oai đức, thương xót chúng sanh. Vua thường bố thí tài vật và tự trụ nơi pháp xả, vua lại thường tu tập từ bi, ngày đêm sáu thời nhập định từ bi. Khi vua đang nhập định, nhiều người đến xin đều không được bố thí nên vua bảo quần thần sắp xếp nhà cất chứa tài vật để bố thí ở nơi bốn cửa thành; nếu có Sa môn, Bà-la-môn và những người nghèo khổ cô độc từ xa đến xin thảy đều cấp cho họ. Quân thần vâng lịnh vua sắp xếp nhà bố thí… để cung cấp cho những người đến xin được đầy đủ. Vào một thời khác, có năm Dược xoa đa văn từ thành A lạc ca phiệt để đi ra hút tinh khí của người, chúng du hành đến bên ngoài thành Bà-la-nê-tư và gặp những người chăn bò, chăn dê, gánh củi và các thương nhân ở các cửa hàng. Thấy họ không sợ mình nên năm Dược xoa hỏi: “các ngươi không sợ ta sao?”, đáp: “vì sao phải sợ”, lại hỏi: “vì sao không sợ?”, đáp: “vua của chúng tôi tu từ bi, thường làm cho các hữu tình được lợi lạc, ngày đêm sáu thời vua thường nhập định từ bi”. Năm dược xoa liền hóa làm Bà-la-môn đi đến chỗ bố thí để thấy rõ việc này; lúc đó vua Kim cang tý xuất định, chỉnh đốn y phục, đầy đủ oai nghi; năm Dược xoa liền đến chỗ vua giơ tay khen ngợi rằng: “chúc cho vua được phước thọ lâu dài. Đại vương, chúng tôi đang đói khát, xin vua bố thí thức ăn cho chúng tôi”, vua bảo quần thần bố thí cho họ thức ăn, năm Dược xoa nói: “chúng tôi khát chỉ uống máu, đói chỉ ăn thịt, không ăn được thức ăn nào khác”. Vua nghe rồi liền bảo quần thần: “đừng làm hại chúng sanh, hãy tìm những con vật tự chết lấy máu thịt cho họ ăn”, năm Dược xoa nói: “chúng tôi chỉ ăn máu nóng, không ăn máu thịt của con vật tự chết”. Vua nghe rồi liền suy nghĩ: “không thể làm hại chúng sanh để lấy máu thịt cho chúng ăn, ta nên lấy máu thịt trên thân mình bố thí”, nghĩ rồi liền cho gọi thầy thuốc đến nói rằng: “hãy chích năm chỗ trên thân ta lấy máu cho chúng uống”, thầy thuốc nói: “chúng là hàng hạ phẩm, thần không nở chích lấy máu của vua đem cho chúng uống”. Vua vốn giỏi y thuật nên tự dùng kim chích vào năm chỗ lấy máu cho chúng uống, sau đó thuyết pháp và khiến năm Dược xoa này thọ trì năm giới cấm.
Phật bảo các Bí-sô: “vua Kim cang tý thuở xưa chính là thân ta ngày nay, năm Dược xoa thuở xưa chính là năm Bí-sô ngày nay. Thuở xưa ta bố thí máu thịt khiến cho họ được no đủ, lại còn thuyết pháp khiến họ thọ trì năm giới; ngày nay ta thuyết pháp khiến họ trụ Kiến đế, được cứu cánh Niết-bàn. Lại nữa này các Bí-sô, các thầy lắng nghe tiếp:
Thuở xưa, trong thành Bà-la-nê-tư có vua tên là Từ lực, dùng chánh pháp cai trị khiến cho đất nước thái bình thịnh vượng, nhân dân no ấm, ngũ cốc được mùa. Vua bẩm tánh thuần tín, hiền thiện, tự lợi lợi tha, tâm từ bi và có đủ oai đức, thương xót chúng sanh. Vào một thời khác, có năm Dược xoa đa văn từ thành A lạc ca phiệt để đi ra hút tinh khí của người, chúng du hành đến bên ngoài thành Bà-la-nê-tư, không thấy có ai cúng tế nên nổi giận làm cho trong thành này có bịnh dịch, rất nhiều người chết. Quần thần đem việc này tâu lên vua, vua nói: “các khanh thông báo khắp trong thành rằng: vua bảo mọi người nên khởi tâm ý làm lợi lạc cho các hữu tình, chuyên tâm cần cầu ngày đêm không gián đoạn thì tật bịnh tiêu trừ, các tai nạn được lắng yên”, dân chúng nghe rồi liền khởi tâm từ bi đối với các hữu tình khiến cho năm Dược xoa này không thể làm hại họ được nữa. Vào một thời khác, có năm Dược xoa này đến bên ngoài thành Bà-la-nê-tư và gặp những người chăn bò, chăn dê, gánh củi và các thương nhân ở các cửa hàng. Thấy họ không sợ mình nên năm Dược xoa hỏi: “các ngươi không sợ ta sao?”, đáp: “vì sao phải sợ”, lại hỏi: “vì sao không sợ?”, đáp: “hằng ngày vua chúng tôi là từ lực thường tư duy, chúng tôi cũng thường tư duy”, lại hỏi tư duy việc gì, đáp: “tư duy về tâm từ bi đối với các hữu tình”. Dược xoa nghe rồi liền suy nghĩ: “họ đều tu tâm từ bi thì ta không thể hại được”, nghĩ rồi liền qua lại ở ngoài bốn cửa thành để chờ gặp vua. Vào một thời khác, vua ra ngoài thành, năm Dược xoa này hóa làm Bà-la-môn đến chỗ vua giơ tay khen ngợi rằng: “chúc cho vua được phước thọ lâu dài. Đại vương, chúng tôi đang đói khát, xin vua bố thí thức ăn cho chúng tôi”, vua bảo quần thần bố thí cho họ thức ăn, năm Dược xoa nói: “chúng tôi khát chỉ uống máu, đói chỉ ăn thịt, không ăn được thức ăn nào khác”. Vua nghe rồi liền bảo quần thần: “đừng làm hại chúng sanh, hãy tìm những con vật tự chết lấy máu thịt cho họ ăn”, năm Dược xoa nói: “chúng tôi chỉ ăn máu nóng, không ăn máu thịt của con vật tự chết”. Vua nghe rồi liền suy nghĩ: “không thể làm hại chúng sanh để lấy máu thịt cho chúng ăn, ta nên lấy máu thịt trên thân mình bố thí”, nghĩ rồi liền cho gọi thầy thuốc đến nói rằng: “hãy chích năm chỗ trên thân ta lấy máu cho chúng uống”, thầy thuốc nói: “chúng là hàng hạ phẩm, thần không nở chích lấy máu của vua đem cho chúng uống”. Vua vốn giỏi y thuật nên tự dùng kim chích vào năm chỗ lấy máu cho chúng uống, sau đó thuyết pháp và khiến năm Dược xoa này thọ trì năm giới cấm.
Phật bảo các Bí-sô: “vua Từ lực thuở xưa chính là thân ta ngày nay, năm Dược xoa thuở xưa chính là năm Bí-sô ngày nay. Thuở xưa ta bố thí máu thịt khiến cho họ được no đủ, lại còn thuyết pháp khiến họ thọ trì năm giới; ngày nay ta thuyết pháp khiến họ trụ Kiến đế, được cứu cánh Niết-bàn”.
Phật sau khi trải qua sáu năm khổ hạnh mới thành Vô thượng giác, sau đó mới đến thành Bàla-nê-tư độ năm Bí-sô Kiều-trần-như…, kế độ năm trưởng giả tử Da-xá…, kế độ thêm nhóm sáu mươi hiền giả, cho nên số lượng Bí-sô ngày càng đông. Lúc đó các Bí-sô có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn đã tạo nghiệp gì mà nay phải chịu quả dị thục sáu năm khổ hạnh?”, Phật nói: “ta tự tạo nghiệp nên nay phải thọ báo, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa khi loài người thọ hai vạn tuổi, có một tụ lạc tên là Phân tích, dân chúng đông đúc, sống an ổn, giàu có, ngũ cốc được mùa. Trong tụ lạc có một Bà-la-môn tên là Ni câu đà giàu có, nhiều quyến thuộc và là chủ tụ lạc; vua Ngật lật chỉ đã ban tụ lạc này cho Ni câu đà. Ni câu đà có năm trăm đệ tử, trong đó có một đệ tử tên là Tối thắng thuộc dòng họ cao quý, cha mẹ thanh tịnh, tổ tiên bảy đời đều thù thắng. Tối thắng thông minh, học thông các luận và luận Tứ minh, lại có dung mạo đoan chánh, được mọi người yêu mến. Trong tụ lạc này có một thợ gốm tên là Hỷ hộ đã quy y Tam bảo, tin chắc lý Tứ đế và được Kiến đế chứng quả Dự lưu. Hỷ hộ vất bỏ các dụng cụ sát sanh, dùng đất sét do chuột moi ra, dùng nước không trùng và dùng củi không mối mọt để làm đồ gốm, sau đó bày các loại đồ gốm này ở ngoài cửa, nói với mọi người rằng: “hãy bố thí cho tôi gạo đậu rồi tùy ý đổi lấy đồ gốm này”. Hỷ hộ đem gạo đậu… này để nuôi cha mẹ già mù lòa và cúng dường Phật Ca-diếp-ba. Tối thắng và Hỷ hộ là bạn thân từ nhỏ, lúc đó Hỷ hộ đến chỗ Phật Ca-diếp ba đảnh lễ ngồi một bên, Phật nói pháp chỉ dạy cho Hỷ hộ được lợi hỉ rồi liền im lặng. Hỷ hộ đảnh lễ Phật rồi ra về, trên đường gặp Tối thắng cỡi xe bạch mã cùng với năm trăm bạn đồng học, Tối thẳng hỏi: “Hỷ hộ, anh từ đâu trở về?”, đáp: “tôi từ chỗ Phật Ca-diếp ba lễ bái cúng dường trở về, anh nên cùng tôi đi đến chỗ Phật”, Tối thắng nói: “vì sao phải gặp Phật lễ bái cúng dường, xuất gia như thế rất khó thành Chánh giác”, Hỷ hộ nói: “anh đừng nói như vậy, Phật Ca-diếp ba xuất gia không bao lâu đã được Chánh giác, đầy đủ Nhất thiết trí, chánh pháp hiện tiền”, Hỷ hộ nói ba lần như vậy và Tôi thắng cũng nói ba lần rằng: “xuất gia như thế rất khó thành Chánh giác”. Hỷ hộ nghe rồi liền leo lên xe túm lấy Tối thắng kéo đi đến chỗ Phật, Tối thắng liền suy nghĩ: “Phật Ca-diếp ba nhất định là bậc đại sư tối thắng vô thượng, pháp nói ra là thù thắng mới khiến cho Hỷ hộ trước nay vốn hiền thiện, nay bỗng nhiên trở nên hung bạo, vì Như lai mà túm lấy ta như thế”, nghĩ rồi liền nói: “anh hãy buông tay ra”, đáp: “tôi không buông, nếu anh chịu cùng tôi đến chỗ Phật thì tôi sẽ buông”, Hỷ hộ nói ba lần như vậy, Tối thắng nói: “hãy lên xe, chúng ta cùng đi đến chỗ Phật, nếu đường thông suốt thì chúng ta đi xe, nếu gặp đường không thông thì chúng ta sẽ xuống xe đi bộ”. Khi đến chỗ Phật, họ đảnh lễ ngồi một bên; Hỷ hộ chắp tay bạch Phật: “Tối thắng là bạn con vốn không tin Tam bảo, cúi xin Thế tôn nói diệu pháp khiến cho anh ta sanh tín kính”, Phật liền tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho Tối thắng được lợi hỉ rồi im lặng. Lúc đó Tối thắng hỏi Hỷ hộ: “anh đã nghe pháp này, vì sao lại không xuất gia?”, đáp: “tôi còn đang nuôi cha mẹ già mùa lòa nên chỉ tùy thời cúng dường Phật mà thôi”, Tối thắng nói: “nếu anh không xuất gia thì tôi quyết định xuất gia”, Hỷ hộ từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật: “Thế tôn, xin cho Tối thắng được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc”, Phật liền cho Tối thắng được như pháp xuất gia. Sau đó Phật du hành dần đến vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư và ngụ tại đây. Vua Ngật lật chỉ nghe được tin này liền đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho vua được lợi hỉ rồi liền im lặng. Lúc đó vua đứng dậy thỉnh Phật và Tăng vào ngày mai thọ thực ở trong cung, Phật im lặng nhận lời, vua biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Về đến trong cung, ngay trong đêm đó vua cho sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa rồi sai sứ đến bạch Phật: “đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời”. Phật cùng các Bísô đắp y mang bát đi đến trong cung thọ thỉnh thực, Phật ngồi trên, các Bí-sô theo thứ lớp ngồi xong, vua tự tay dâng cúng các món ăn ngon cho Phật và Tăng. Thấy Phật và Tăng thọ thực xong, vua quỳ xuống bạch Phật: “Thế tôn, con muốn xây cất một tinh xá lớn gồm năm trăm viện, mỗi viện đều có đủ giường nằm lớn nhỏ và lúa gạo thơm để cúng dường Phật và Tăng”, Phật nói: “Đại vương phát tâm thù thắng như vậy, ắt sẽ thọ đầy đủ phước báo tương ứng”, vua Ngật lật chỉ lại thỉnh ba lần : “cúi xin Thế tôn thọ con thỉnh cúng dường tứ sự trong ba tháng hạ. Con sẽ xây cất một tinh xá lớn gồm năm trăm viện, mỗi viện đều có đủ giường nằm lớn nhỏ và lúa gạo thơm để cúng dường Phật và Tăng”, Phật nói: “Đại vương phát tâm thù thắng như vậy, ắt sẽ thọ đầy đủ phước báo tương ứng”, vua Ngật lật chỉ bạch Phật: “Thế tôn, nếu con không cúng dường thì có người nào có thể phát tâm cúng dường như con hôm nay không?”, Phật nói: “Đại vương, trong nước vua đã có người thành tâm cúng dường như vậy”, vua hỏi là ai, Phật nói: “trong nước vua có một tụ lạc tên là Vi tần trì, có một thợ gốm tên là Hỷ hộ đã quy y Tam bảo, tin chắc lý Tứ đế và được Kiến đế chứng quả Dự lưu. Hỷ hộ vất bỏ các dụng cụ sát sanh, dùng đất sét do chuột moi ra, dùng nước không trùng và dùng củi không mối mọt để làm đồ gốm, sau đó bày các loại đồ gốm này ở ngoài cửa, nói với mọi người rằng: hãy bố thí cho tôi gạo đậu rồi tùy ý đổi lấy đồ gốm này. Hỷ hộ đem gạo đậu… này để nuôi cha mẹ già mù lòa và cúng dường cho ta. Lại nữa, Đại vương, khi ta đắp y mang bát vào trong tụ lạc này theo thứ lớp khất thực, đến trước cửa nhà của Hỷ hộ. Lúc đó Hỷ hộ có chút việc đã đi khỏi, chỉ còn chạ mẹ mùa lòa ở nhà, họ nghe tiếng ta gõ cửa liền hỏi là ai, ta đáp: tôi là Phật Ca-diếp ba, vì thời thực nên đến đây khất thực. Họ mở cửa mời ta vào trong nhà và nói rằng: chúng con có đậu chín và rau luộc, Thế tôn tùy ý lấy; thí chủ cúng dường cho Thế tôn có chút việc đã tạm ra ngoài. Đại vương, lúc đó ta theo pháp của Bắc Câu lô châu, tự tay lấy thức ăn rồi đi. Sau đó Hỷ hộ trở về, nhìn thấy rau đậu như có ai lấy bớt, liền hỏi cha mẹ, cha mẹ đem việc trên kể lại, Hỷ hộ nghe rồi vui mừng suy nghĩ: ta đã được lợi ích lớn, hôm nay Phật Ca-diếp ba đã vào nhà ta tự tay thọ thức ăn. Do vui mừng nên Hỷ hộ ngồi kiết già nhập định bảy ngày mới xuất định, nhờ lần nhập định này nên Hỷ hộ đã giữ được chánh niệm, không tán loạn suốt trong mười lăm ngày không gián đoạn. Cũng nhờ định này mà trong suốt bảy ngày thức ăn uống trong nhà được đầy đủ, cha mẹ của Hỷ hộ không có thiếu thốn. Lại nữa, Đại vương, vào một thời khác, trong ba tháng an cư tại đây, đầu hạ ta đã bị khổ vì trời mưa, trú xứ của ta bị dột. Chỗ làm đồ gốm của Hỷ hộ vừa mới lợp bằng cỏ tranh nên ta bảo thị giả đến đó dỡ lấy cỏ tranh này về lợp lại chỗ bị mưa dột. Các Bí-sô vâng lời ta làm theo, lúc đó Hỷ hộ cũng không có ở nhà, cha mẹ của Hỷ hộ nghe tiếng dỡ cỏ tranh liền hỏi là ai đang dỡ cỏ tranh, các Bí-sô nói rõ nguyên do, họ nghe rồi liền nói: Hỷ hộ không có ở nhà, các Thánh giả cứ tùy ý lấy. Các Bí-sô dỡ lấy cỏ tranh xong đem về lợp lại chỗ bị mưa dột, sau đó Hỷ hộ trở về thấy cỏ tranh bị dỡ liền hỏi cha mẹ, cha mẹ đem việc trên kể lại, Hỷ hộ nghe rồi vui mừng nghĩ rằng: ta đã được lợi ích lớn, Phật Ca-diếp ba sẽ không bị khổ vì mưa đột sau khi thọ vật dụng của nhà ta. Do vui mừng Hỷ hộ ngồi kiết già nhập định bảy ngày, chuyên tâm không gián đoạn. Cũng nhờ định này mà được chư thiên che chở, trong suốt bảy ngày tuy có mưa to nhưng chỗ bị dỡ mái không bị mưa làm ướt. Đại vương, trong ba tháng an cư ta không thể thọ tứ sự cúng dường của Đại vương, vì sự cúng dường của Đại vương không bằng sự cúng dường cỏ tranh mới lợp của Hỷ hộ”, vua bạch Phật: “hôm nay Hỷ hộ được lợi ích lớn, Phật Cadiếp ba thọ sự cúng dường của Hỷ hộ, không còn gặp khó khăn nữa”, vua liền tùy hỉ nói kệ:
“Trong các tế tự, lửa hơn hết,
Trong các Vi đà, thần hơn hết,
Ở trong thế gian, vua đứng đầu,
Trong các dòng nước, biển lớn nhất,
Trong các ngôi sao, trăng sáng nhất,
Ánh mặt trời sáng hơn tất cả.
Bốn phương trên dưới và cõi trời,
Cúng dường Thế tôn là tối thượng”.
Lúc đó Phật nói diệu pháp khiến cho vua được lợi hỉ rồi đi, vua Ngật lật chỉ mang các món cúng dường đi theo tiễn đưa Thế tôn. Ra khỏi tụ lạc, vua đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi trở về cung, sau đó vua cho sứ giả chở năm trăm xe lúa gạo đến nói với Hỷ hộ rằng: “lúa gạo chở trong năm trăm xe này dùng để cúng dường cha mẹ mù lòa của anh và Phật Ca-diếp ba”. Sứ giả vâng lịnh vua chở gạo đến và nói y như lời vua dạy, Hỷ hộ nói với sứ giả: “vua còn nhiều việc phải làm, tôi thật không dám nhận”.
Phật bảo các Bí-sô: “Thanh niên tên Tối thắng thuở xưa chính là thân ta ngày nay, thuở xưa ta hủy báng Phật Ca-diếp ba là muốn chứng được Chánh giác phải tu khổ hạnh, vị ấy không tu khổ hạnh làm sao chứng được Chánh giác. Do lời hủy báng này nên nay ta phải thọ báo khổ hạnh sáu năm. Các Bí-sô nên biết, nghiệp báo ắt phải tự thọ lấy… các thầy nên tu học như vậy”.
Lúc đó Phật tại thành Thất-la-phiệt, khi Bồ-tát vượt thành xuất gia thì phu nhân Da-du-đà-la vừa mới có thai; khi Bồ-tát tu khổ hạnh sáu năm thì ở trong cung, Da-du-đà-la cũng tu khổ hạnh nên khiến cho thai ẩn mất. Khi Bồ-tát thấy việc tu khổ hạnh không có lợi ích liền từ bỏ, trở lại ăn uống các thức ăn ngon để bồi dưỡng thân, dùng dầu thoa thân và tắm rửa sạch sẽ. Da-du-đà-la nghe biết việc này cũng từ bỏ khổ hạnh, buông thả thân tâm giống như Bồ-tát; do đó thai nhi phát triển trở lại và ngày lớn dần lên. Những người trong dòng họ Thích nghe biết việc này đều chê cười phỉ báng rằng: “Bồ-tát xuất gia tu khổ hạnh, cô ở trong cung tư thông với người khác mang thai như thế”, Dadu-đà-la nghe rồi liền nói là tôi không có. Thời gian sau sanh con gặp lúc La-hầu-la lấy tay che mặt trăng (nguyệt thực), vua tập họp quyến thuộc làm lễ ăn mừng và đặt tên cho đứa bé, mọi người nói khi đứa bé sanh gặp La-hầu-la lấy tay che mặt trăng nên đặt tên là La-hầu-la; những người trong dòng họ Thích đều bàn tán với nhau là đứa bé không phải con của Bồ-tát. Da-du-đà-la nghe rồi liền khóc nức nở, bồng La-hầu-la đặt trên phiến đá mà Bồ-tát thường ngồi nghỉ ngơi rồi bỏ xuống ao, nơi mà Bồ-tát thường tắm, cất tiếng thề rằng: “nếu đứa bé này là con của Bồ-tát thì khi bỏ xuống nước, nó liền nổi; nếu không phải là con của Bồtát thì nó chìm xuống”, thề xong, La-hầu-la ở trên phiến đá đều nổi trên mặt nước không chìm. Dadu-đà-la lại nói: “hãy trôi từ bờ này tới bờ kia rồi trở lại”, nói rồi liền thấy La-hầu-la ở trên phiến đá trôi từ bờ này đến bờ kia rồi trở lại, mọi người thấy việc này rồi đều cho là hi hữu. Da-du-đà-la bồng con lên và suy nghĩ: “Bồ-tát tu khổ hạnh sáu năm, sau khi thành chánh giác giáo hóa sau năm sẽ trở lại đây, lúc đó ta sẽ làm cho mọi người thấy rõ thực hư”.
Thời gian sau, Phật trở lại thành Kiếp-tỷ-la, một ngày thọ thực ở vương gia, một ngày thọ thực ở trong cung, Da-du-đà-la liền suy nghĩ: “ta làm phương tiện gì khiến Thế tôn hiểu ý muốn của ta”. Lúc đó ở trong thành có một nữ ngoại đạo giỏi pháp thuật, Da-du-đà-la sai sứ đem năm trăm đồng tiền vàng đến nhờ bà ta làm pháp thuật, bà ta chế ra một viên thuốc đưa cho sử giả. Da-du-đà-la nhận thuốc liền ở trước các cung nhân đặt viên thuốc vào tay của La-hầu-la rồi nói: “con hãy đem viên thuốc này cho cha của con”. Phật có đủ Nhất thiết trí biết rõ khi Da-du-đà-la sanh La-hầu-la đã bị chê cười phỉ báng nên hôm nay muốn giải trừ lời phỉ báng này. Phật quán biết rồi liền hóa ra năm trăm hóa Phật giống như nhau, La-hầu-la cầm viên thuốc đi qua từng vị hóa Phật nhưng đều không đưa viên thuốc, khi đến chỗ Thế tôn liền đưa viên thuốc, Phật thọ viên thuốc rồi đưa lại cho La-hầula, La-hầu-la liền lấy uống, Phật chú nguyện cho La-hầu-la rồi đứng dậy đi, La-hầu-la đi theo; các thể nữ không cho La-hầu-la ra khỏi cung, La-hầula khóc la đòi đi theo. Phật quán biết La-hầu-la không thích đời sống thế tục, sẽ không thọ thân sau và sẽ được chứng Thánh quả nên dẫn La-hầula đi. Do túc duyên cảm ứng nên La-hầu-la có thể nhận biết Thế tôn trong năm trăm vị hóa Phật và không chịu xa lìa. Vua Tịnh-phạn cùng các quyến thuộc và những người thuộc dòng họ Thích thấy việc này rồi đều kính trọng Da-du-đà-la vì biết trước đây cô bị phỉ báng là oan uổng. Lúc đó Dadu-đà-la biết tiếng xấu đã được giải trừ nên rất vui mừng.
Trở về trú xứ, Phật muốn độ La-hầu-la; vua Tịnh-phạn nghe tin này liền đến chỗ Phật đảnh lễ rồi nói: “nếu Thế tôn muốn độ La-hầu-la thì xin cho tôi được cúng dường một ngày”, Phật nhận lời. Vua Tịnh-phạn liền vì La-hầu-la mở hội cúng dường, qua hôm sau mới dẫn La-hầu-la đến chỗ
Phật bạch rằng: “Thế tôn tùy ý cho La-hầu-la xuất gia”, Phật bảo tôn giả Xá-lợi-phất cho La-hầu-la được xuất gia như pháp, Xá-lợi-phất vâng lời Phật dạy liền cho La-hầu-la xuất gia như pháp. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, do nhân duyên gì đồng tử La-hầu-la có thể nhận biết Thế tôn trong số năm trăm vị hóa Phật để đưa viên thuốc?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay Lahầu-la có thể nhận biết ta mà vô lượng kiếp trong quá khứ, cũng đã nhận biết được ta trong số đông người để đưa cho ta vòng hoa. Các thầy lắng nghe: Thuở xưa trong một ngôi làng có một trưởng giả cưới con gái của một trưởng giả gần nhà làm vợ, không bao lâu sau người vợ mang thai và sanh một con trai. Người chồng nói: “chúng ta nay đã có con, không thể ngồi không mà tiêu hết tài sản đã có. Nay tôi đem một ít đi ra biển mua bán, nàng ở nhà nuôi con cho đến trưởng thành”, người vợ nói sẽ làm theo như lời người chồng dặn. Không ngờ người chồng ra biển gặp phải gió bão làm đắm thuyền, người và của đều chìm xuống biển. Ngươi vợ thủ tiết, đi làm mướn và nhờ quyến thuộc giúp đỡ để nuôi con khôn lớn. Gần nhà có người thợ dệt giỏi, tự mưu sinh bằng nghề của mình; người vợ thấy rồi liền suy nghĩ: “ra biển mua bán không bằng làm thợ dệt có tay nghề giỏi; người đi biển phần nhiều đều bị chết không thể trở về, còn làm nghề dệt thường được ở nhà. Ta nên cho con ta theo học nghề dệt”, nghĩ rồi liền dẫn con đến nhà người thợ dệt yêu cầu dạy nghề cho con mình, người thợ dệt nhận lời. Nhờ thông minh tháo vát nên không bao lâu sau người con học nghề dệt thành tài, tiền kiếm được khi dệt cùng người thợ dệt đem về nhà nhưng trước sau vẫn không đủ tiêu dùng. Thấy người thợ dệt tiêu dùng dư dã liền hỏi nguyên do, người thợ dệt nói: “cậu làm hai nghề nên dư dã, cháu chỉ làm một nghề nên không đủ tiêu dùng”, người cháu lại hỏi: “nghề thứ hai của cậu là gì?”, đáp: “ban đêm ta đi ăn trộm”, người cháu đòi đi theo, người cậu nói: “cháu không ăn trộm được”, người cháu nói là có thể, người cậu suy nghĩ: “ta nên thử trước”, nghĩ rồi liền dẫn người cháu vào chợ mua một con thỏ rồi bảo: “cháu hãy làm thịt, cậu đi tắm rồi sẽ đến cùng ăn”. Người cháu làm thịt thỏ rồi ngồi chờ, trong lúc chờ liền ăn trước một chân thỏ, khi người cậu tắm xong trở ra thấy con thỏ thiếu một chân liền hỏi: “còn cái chân thứ tư đâu?”, đáp: “con thỏ này chỉ có ba chân”, người cậu nghe rồi liền suy nghĩ: “trước nay ta là kẻ trộm, đứa cháu này còn trộm giỏi hơn ta”, nghĩ rồi liền mang thịt thỏ cùng vào một quán rượu kêu rượu uống; uống xong, người cậu bảo người cháu trả tiền, người cháu nói: “người nào uống thì người đó trả tiền, cháu không có uống, cậu uống thì cậu tự trả tiền”, người cậu suy nghĩ: “đứa cháu này nếu cho đi chung thì có thể ăn trộm được”. Đêm đó hai cậu cháu khoét vách định vào nhà người ăn trộm, người cậu định chui đầu vào nhà, người cháu nói: “cậu không rành cách ăn trộm, vì sao cậu lại chui đầu vào trước, điều này không tốt, cậu nên đưa chân vào trước”, người cậu nghe rồi liền đưa chân vào trước. Không ngờ chủ nhà phát hiện la lên và mọi người cùng nắm lấy chân kẻ trộm, người cháu ở ngoài cố kéo người cậu ra nhưng không kéo nổi; sợ bị liên lụy nên người cháu cắt lấy đầu người cậu và ôm đầu bỏ chạy. Sự việc này tâu lên vua, vua nghe rồi nói với quần thần: “người cắt đầu mang đi mới thật là đại tặc. Các khanh đem xác của tên trộm này để ở ngã tư đường rồi bí mật theo dõi, nếu có đến bên xác than khóc muốn mang xác đi thì bắt giữ ngay tên trộm đó”. Quần thần vâng lịnh vua làm y như vậy, người cháu suy nghĩ: “ta không nên đến ôm xác của cậu liền, ta nên giả điên đứng ở ngã tư đường hoặc ôm người nam, người nữ, hoặc ôm cây đá, hoặc ôm bò ngựa, hoặc ôm heo chó…”, nghĩ rồi liền làm y như vậy, mọi người đều cho là điên không để ý tới, lúc đó người cháu mới tới ôm xác người cậu than khóc rồi đi. Quần thần tâu vua: “chỉ có một người điên tới ôm xác than khóc chớ không có ai khác”, vua nói: “đó chính là tên cẩu tặc, vì sao không bắt giữ nó”. Lúc đó người cháu suy nghĩ: “ta nên hỏa táng người cậu”, nghĩ rồi liền giả làm người đánh xe chở trên xe đầy củi, cho xe chạy đến bên xác chết, đến nơi liền mở dây cột bò rồi phóng lửa đốt xe củi, xác chết cũng được thiêu hóa luôn. Người canh giữ xác chết đem việc này đến tâu vua, vua nói: “đó chính là tên cẩu tặc, vì sao không bắt giữ nó”. Lúc đó người cháu lại suy nghĩ: “ta nên cúng tế ở chỗ hỏa táng”, nghĩ rồi liền giả làm một Bà-la-môn tịnh hạnh đi khất thực trong thành, cuối cùng đến chỗ hỏa táng để thức ăn ở năm chỗ để cúng tế người cậu rồi bỏ đi. Người canh giữ lại đem việc này tâu vua, vua nói: “đó chính là tên cẩu tặc, vì sao không bắt giữ nó, thật tệ”. Lúc đó người cháu lại nghĩ: “ta nên đem xương cốt của cậu rải xuống sông Căng già”, nghĩ rồi liền giả làm một ngoại đạo thờ đầu lâu đi đến chỗ tro xương, nhặt lấy xương cốt bỏ vào đầu lâu rồi đem bỏ xuống sông Căng già. Người canh giữ lại đem việc này tâu vua, vua nói: “đó chính là tên cẩu tặc, vì sao không bắt giữ nó, thật tệ. Các ngươi hãy thôi, chính ta sẽ bắt giữ tên cẩu tặc đó”, lúc đó vua đi thuyền dọc theo bờ sông Căng già với nhiều thị vệ, trên bờ sông lại cho người canh bắt. Vua có một công chúa xinh đẹp cũng đi thuyền du ngoạn trên sông, thuyền của cô cách thuyền của vua không xa, vua nói: “nếu có chuyện gì thì con phải la to lên”, vua lại dặn lính canh: “nếu nghe công chúa la lên thì nên chạy đến ngay, nếu thấy có người lạ thì phải bắt ngay”. Lúc đó tên cẩu tặc suy nghĩ: “vua và công chúa du ngoạn trên sông, ta nên đùa cợt cô ấy”, nghĩ rồi liền ở trên thượng lưu của sông thả xuống cái nồi đất cho trôi theo dòng nước, lính canh thấy cái nồi đất cho là cẩu tặc liền tranh nhau đập vỡ nồi, mới biết là không phải; cứ như thế đến hơn mười lần khiến lính canh thấy nồi đất trôi xuống không thèm đập nữa. Lúc đó tên cẩu tặc mới đội cái nồi trên đầu bơi theo dòng đến thuyền của công chúa, cầm dao bén đến bên công chúa nói: “không được la, nếu la ta sẽ giết”, công chúa sợ hãi không dám la. Sau đó tên cẩu tặc cùng công chúa giao hoan rồi bỏ đi, công chúa thấy cẩu tặc bỏ đi rồi mới khóc la lên nói là bị cẩu tặc cưỡng hiếp. Lính canh nói: “lúc cùng tên cẩu tặc thọ lạc thì cô im lặng, giờ hắn đi rồi cô mới kêu la, chúng tôi biết hắn ở đâu mà bắt giữ”, nói rồi liền đem việc này tâu vua, vua nói: “sao các ngươi không canh giữ cẩn thận để đến nổi như thế”. Sau đó công chúa có mang, đủ mười tháng sanh một bé trai; nghe công chúa sanh con, tên cẩu tặc suy nghĩ: “ta nên làm lễ hội ăn mừng con ta”, nghĩ rồi liền giả làm người phục dịch từ trong cung vua bước ra bảo mọi người: “vua ra lịnh công chúa sanh con, mọi người trong nước nên vui vẻ ăn mừng, tối nay được mặc tình lấy trộm y phục, các vật dụng… của nhau”, mọi người nghe rồi liền vui vẻ ăn mừng, tiếng ồn ào thấu đến trong cung vua, vua hỏi rõ nguyên do liền biết là việc làm của tên cẩu tặc. Lúc đó vua suy nghĩ: “nếu ta không bắt được tên cẩu tặc này ta sẽ bỏ ngôi”, nghĩ rồi vua cho xây một ngôi nhà lớn, xây vừa xong thì đứa bé được sáu tuổi. Vua bảo quần thần đánh trống ra lịnh tất cả người nam trong nước phải đến tụ tập trong ngôi nhà lớn đó, người nào không đến thì bắt giết. Lúc đó tất cả người nam trong nước đều đến tụ tập trong ngôi nhà lớn đó, trong đó có cả tên cẩu tặc. Vua đưa vòng hoa cho đứa bé nói rằng: “con hãy cầm vòng hoa này đi vào trong đám người đó, nếu nhận biết người nào là cha con thì hãy đưa vòng hoa này cho người đó”, vua lại bảo thị vệ: “các ngươi đi theo đứa bé, nếu thấy nó đưa vòng hoa cho ai thì liền bắt giữ người ấy”. Đứa bé vâng lời cầm vòng hoa đi vào trong đám đông, do nghiệp lực nó nhận biết người cha và đưa vòng hoa cho, các thị vệ liền bắt giữ và đưa đến chỗ vua. Vua suy nghĩ có nên giết tên cẩu tặc này hay không, lại nghĩ hắn là người có trí huệ không nên giết; nghĩ rồi liền tha tội chết, gả công chúa và cấp cho cả hai nửa nước.
Phật bảo các Bí-sô: “tên cẩu tặc thuở xưa chính là thân ta ngày nay, đứa bé thuở xưa chính là Lahầu-la ngày nay. Thuở xưa đã có thể nhận ra ta và đưa vòng hoa, nay cũng có thể nhận ra ta và đưa viên thuốc. Các thầy nên biết nghiệp lực khó thể nghĩ bàn”.
Lúc đó phu nhân Da-du-đà-la suy nghĩ: “khi cha của La-hầu-la vào trong cung, ta sẽ phương tiện cúng dường hầu hạ không để cho ông ấy ra khỏi cung”, nghĩ rồi liền cùng với hai phu nhân và sáu vạn thể nữ đều trang điểm thật đẹp với đủ loại đồ trang sức và xông đủ loại hương thơm. Sáng sớm hôm đó Phật cùng các Bí-sô đắp y mang bát vào trong cung vua, phu nhân Da-du-đà-la … cùng sáu vạn thể nữ trỗi các loại âm nhạc ca múa ở trước Thế tôn muốn làm cho Phật say đắm. Phật thấy việc này rồi liền suy nghĩ: “giờ thọ thực sắp đến, nếu ta thọ thực trước, không nói pháp cho các nữ nhơn này nghe thì e giờ điều phục họ sẽ trôi qua, tâm dục của họ sẽ tăng thêm, không được lợi ích từ lý Tứ đế. Ta nên dùng thần thông lực để điều phục họ”, nghĩ rồi liền ẩn mất ngay nơi chỗ ngồi, hiện ra ở phương Đông trên hư không đi đứng nằm ngồi tự tại, kế nhập định Hỏa quang trước tiên từ phương Đông hiện các ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng; hoặc hiện biến thần thông như trên thân tuôn ra nước, dưới thân tuôn ra lửa, hoặc trên thân tuôn ra lửa, dưới thân tuôn ra nước. Phương Đông đã như vậy, các phương Nam, Tây, Bắc cũng hiện như vậy; sáu đó ẩn mất trong hư không và hiện ra trên tòa sư tử ngồi trước các Bí-sô. Các người nữ thấy việc này rồi đều gieo mình xuống đất như cây bị đốn ngã ở trước Phật, Phật quán biết ý nhạo tùy miên và tánh giới của họ mà nói lý Tứ đế, nghe xong tất cả đều chứng quả Dự lưu; chỉ riêng có Da-du-đà-la vì tâm đắm nhiễm sâu nên chưa được chứng quả. Sau đó Dadu-đà-la suy nghĩ: “ta sẽ làm các món ăn ngon, người ăn thức ăn này sẽ sanh tâm tham đắm”, nghĩ rồi liền làm các món ăn ngon muốn tự tay dâng cho Thế tôn ăn. Các Bí-sô nghe biết tin này liền bạch Phật, Phật nói: “các thầy nên biết, thuở xưa khi chưa lìa ba độc, các món ăn thơm ngon còn không làm cho ta tham đắm, huống chi ngày nay ta đã lìa ba độc, các món ăn ngon đó há có thể làm ta tham đắm được hay sao”, lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, vì sao Da-du-đàla nhân lúc họp mặt vui vẻ lại sanh tâm muốn làm cho Thế tôn tham đắm?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay Da-du-đà-la nhân lúc họp mặt vui vẻ muốn làm cho ta tham đắm, mà thuở xưa cũng vậy. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa trong một ngôi làng, cách làng không xa có một khu rừng với nhiều hoa quả và nước suối trong mát. Trong rừng có một tiên nhân tu khổ hạnh, ăn hoa quả, mặc vỏ cây và chứng được năm thông; cầm thú trong rừng không sợ nên thường đến gần tiên nhân này. Hôm đó, khi tiên nhân đi tiểu tiện bị xuất tinh, có một con nai cái đi theo thấy liền lè lưỡi liếm rồi sau đó liếm nơi sanh môn của mình. Do nghiệp lực không thể nghĩ bàn nên con nai cái này có thai, sau đó sanh con ra là người, nai cái này liền bỏ đứa bé mà đi. Tiên nhân thấy đứa bé không biết là con ai, liền quán biết là con mình nên mang về nuôi dưỡng cho đến năm nó được mười hai tuổi thì trên đầu nó bỗng mọc ra cái sừng, nhân đó nó có tên là Độc giác. Thời gian sau tiên nhân ngã bịnh, Độc giác lo đủ loại thuốc thang nhưng không khỏi, bịnh càng nặng nên trước khi chết tiên nhân nói: “nơi đây thường có các tiên nhân qua lại, con nên đón tiếp thăm hỏi hoặc cúng dường hoa quả”, kế nói kệ:
“Tích tụ đều tiêu tán,
Cao ngất ắt rơi rớt,
Hội họp ắt biệt ly,
Có mạng đều phải chết”.
Tiên nhơn qua đời, Độc giác theo pháp tiên mai táng rồi tư duy và chứng được năm thông. Thời gian sau, Độc giác đi lấy nước rồi trên đường trở về bỗng gặp mưa lớn, đường bùn lầy trơn trợt nên Độc giác té ngã xuống đất làm bình nước vỡ, Độc giác nổi sân chắp tay hướng lên trời chú nguyện : “do trời mưa làm tôi té vỡ bình, từ nay trong mười hai năm trời không được mưa nữa”. Do sức chú nguyện này nên trời không mưa trong một thời gian dài, thành Bà-la-nê-tư bị hạn hán, dân chúng khốn khổ nên rũ nhau bỏ đi sang xứ khác. Lúc đó vua mời các tướng sư đoán xem vì sao trời không mưa, tướng sư nói: “do tiên nhân nổi sân chú nguyện nên trời không mưa”, vua nói: “làm cách nào để trời mưa xuống khiến dân được an vui”, tướng sư nói: “nếu phá được giới hạnh mà tiên nhân đang tu tập thì trời sẽ mưa, nếu không trời sẽ không mưa trong suốt mười hai năm”. Vua nghe rồi ngồi chống cằm suy tư, các hậu phi hỏi nguyên do, vua đem việc trên kể lại rồi nói: “do việc này nên ta ưu tư lo lắng”, vua có công chúa lớn tên là Tịch tĩnh liền nói: “vua cha không phải lo buồn nữa, con có cách làm cho tiên nhân ấy phạm giới hạnh”, vua hỏi cách gì, công chúa đáp: “con đang học chú pháp Bà-la-môn cùng với hai mươi thể nữ khác, vua cha hãy cho cột thuyền trên mặt nước, lót ván trên thuyền rồi cho đổ đất trồng cây với các loại hoa trên đó giống như chỗ ở của tiên nhân. Chúng con sẽ đi thuyền đến chỗ tiên nhân ấy ở, nếu có thể làm cho tiên nhân phạm giới hạnh thì con sẽ dẫn vị ấy về đây”. Vua nghe rồi liền cho làm y như lời công chúa nói, ở trong các loại trái cây và thức ăn uống, công chúa đều bỏ thuốc vào. Sau đó công chúa cùng các thể nữ giả làm tiên nhân, mặc áo vỏ cây và búi tóc ra phía sau rồi xuống thuyền thung dung đi tới chỗ ở của tiên nhân, vừa đi vừa tụng chú pháp Bà-la-môn. Đến nơi, các đệ tử của tiên nhân nhìn thấy liền báo cho thầy biết, Độc giác bảo mời vào nhà; khi các tiên nhân vào nhà, Độc giác vừa nhìn qua dung mạo liền cảm thấy có gì khác lạ nên nói kệ:
“Chưa từng chịu khổ hạnh,
Dáng đi đứng thung dung,
Dưới cằm không mọc râu,
Trước ngực thấy cao thấp,
Tiên này hình dạng khác,
Cảm thấy thật lạ kỳ”.
Tuy nghi nhưng Độc giác vẫn mời ngồi và bảo dọn trái cây tiếp đãi, tiên giả nói: “chỗ của đại tiên chỉ có loại trái cây nhám và đắng, ở chỗ tôi lại có đủ các loại trái cây lạ, mùi vị như cam lồ. Xin mời đại tiên quá bước đến, tôi muốn tiếp đãi”, Độc giác nghe rồi liền đi theo lên thuyền, tiên giả liền mang các loại trái cây đã bỏ thuốc kích thích trong đó để tiếp đãi tiên Độc giác. Độc giác sau khi uống xong liền cùng tiên giả làm việc phi pháp nên bị mất thần thông, sức chú nguyện cũng mất theo. Lúc đó mây mù giăng tứ phía, Độc giác nhìn lên trời oán trách, công chúa liền nói: “anh làm việc phi pháp sao không tự trách lại oán trách trời”, Độc giác nghe rồi liền im lặng. Công chúa dẫn Độc giác trở về cung gặp vua cha nói rằng: “đây là vị tiên đã chú nguyện khiến trời không mưa”. Lúc đó trời mưa xuống nước ngọt khiến dân chúng vui vẻ, lúa mạ được mùa; vua gả công chúa cho Độc giác và cho các thể nữ theo hầu hạ. Thời gian sau Độc giác lơ là với công chúa và yêu thương người nữ khác khiến công chúa tức giận đánh mắng, Độc giác suy nghĩ: “ngày xưa khi trời nổi mây sấm lớn, ta chú nguyện liền ngưng, chỉ vì bị nữ sắc làm liên lụy nên đến nông nỗi này”, nghĩ rồi liền nhàm lìa dục nhiễm, rời bỏ nữ sắc ở chỗ vắng siêng tu thiền định, không bao lâu sau chứng được năm thông, liền nương hư không trở về chỗ cũ.
Phật bảo các Bí-sô: “tiên Độc giác thuở xưa chính là thân ta ngày nay, công chúa Tịch tĩnh chính là Da-du-đà-la ngày nay. Do ngày xưa đã dùng thức ăn uống làm cho ta tham đắm nên ngày nay, nhân họp mặt vui vẻ lại muốn làm cho ta tham đắm”, nói xong Phật liền ra khỏi cung. Lúc đó Dadu-đà-la thấy Phật biết được tâm niệm của mình, biết không thể mong cầu được nữa liền không tiếc thân mạng, lên lầu cao bảy tầng gieo mình xuống; Phật dùng thần lực đỡ lấy khiến cô không bị tổn hại. Mọi người thấy việc này rồi đều hết sức kinh ngạc, các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “có phải vì quá thương mến Thế tôn nên Da-du-đà-la đã không tiếc thân mạng, từ trên lầu cao gieo mình xuống hay không?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay mà trong quá khứ cũng vì quá thương mến ta mà Da-du-đà-la đã không tiếc thân mạng. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có vua tên là Phạm thọ, một hôm vua đi săn giết chết rất nhiều chúng sanh. Khi đi đến một hang núi thấy một Khẩn-na-la đang nằm ngủ, vợ Khẩn-na-la ở một bên; vua liền giương cung bắn Khẩn-na-la trúng vào yếu huyệt mà chết, vua muốn bắt vợ của Khẩn-na-la về làm vợ. Vợ Khẩn-na-la tâu vua:
“Đại vương cho phép tôi hỏa táng chồng xong, tôi sẽ đi theo vua”, vua suy nghĩ: “nàng ấy làm sao có thể chạy thoát được”, nghĩ rồi liền cho phép cô làm lễ hỏa táng chồng; vợ Khẩn-na-la chất củi hỏa thiêu rồi không tiếc thân mạng nhảy vào lửa chết theo chồng. Lúc đó chư thiên trên hư không nói kệ:
“Muốn cầu mong việc này,
Lại gặp phải việc khác,
Vốn mong âm nhạc trời,
Hai vợ chồng đều chết”.
Phật bảo các Bí-sô: “Khẩn-na-la thuở xưa chính là thân ta ngày nay, vợ Khẩn-na-la chính là Da-du-đà-la. Thuở xưa vì thương mến ta nên lao mình vào lửa cùng chết, nay vì tham Ái nên từ trên lầu cao gieo mình xuống”, Phật lại nghĩ: “muốn giáo hóa Da-du-đà-la phải đúng vào lúc này, mới có thể giúp nàng thoát khỏi biển sanh tử”, nghĩ rồi Phật liền nói lý Tứ đế cho Da-du-đà-la nghe, nghe pháp xong ngay nơi chỗ ngồi liền chứng quả Dự lưu, khởi tâm chánh tín, từ nhà hướng đến chỗ không nhà, siêng năng tu tập không bao lâu sau chứng được quả A-la-hán. Chứng quả rồi ở trong chúng Bí-sô ni, Da-du-đà-la ôm lòng hổ thẹn, Phật bảo các Bí-sô: “trong tất cả Bí-sô ni, Bí-sô ni Dadu-đà-la là người đầy đủ hổ thẹn nhất”. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Da-du-đà-la đã tạo nghiệp gì mà mang thai La-hầu-la đến sáu năm?”, Phật nói: “các thầy lắng nghe:
Thuở xưa, trong một ngôi làng có một bà mẹ già với người con gái nuôi rất nhiều bò sữa, hằng ngày vắt lấy sữa làm lạc tương đem bán. Một hôm lúc đang gánh nước sữa, cô gái bỗng lười biếng nên nói dối với mẹ: “con có chút việc, mẹ gánh nước sữa đi trước”, do lười biếng nên bà mẹ đã đi trước sáu dặm, cô vẫn không đuổi theo.
Này các Bí-sô, cô con gái thuở xưa chính lá Da-du-đà-la ngày nay, thuở xưa Do tạo nghiệp này nên nay phải thọ báo mang thai sáu năm”. Các Bísô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “La-hầu-la đời trước đã tạo nghiệp gì mà phải ở trong thai sáu năm?”, Phật nói: “là do La-hầu-la tự tạo nghiệp ác, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa, cách thành Bà-la-nê-tư không xa có một khu rừng nhiều hoa quả, nơi đó có hai anh em tên là Thương khư và Lý xí đa nhưng Thương khư là thầy, Lý xí đa là đệ tử cùng tu đạo trong rừng, mặc áo vỏ cây, ăn trái cây và các loại dược thảo; vua và dân chúng trong thành đều nghe biết việc này. Một hôm, trời vừa sáng, Thương khư liền đi vào núi hái trái cây với bình đầy nước; Lý xí đa từ canh năm đã đi vào núi trước nhưng lại quên mang theo bình nước, khi hái trái cây xong thấy khát muốn uống nước nhưng không có, liền lấy bình nước của Thương khư uống hết. Thương khư hái trái cây xong thấy khát muốn uống nước thì nước không còn, liền quát lên: “ai đã trộm nước uống của ta”, Lý xí đa nói: “chính em đã uống hết nước, anh cứ phạt em thật nặng”, Thương khư nói: “em vừa là em vừa là đệ tử, cần nước thì cứ lấy uống, không có tội gì cả”, Lý xí đa nói: “em là kẻ trộm, anh cứ phạt em thật nặng, nếu không em không an tâm”, Thương khư nổi giận nói: “ta không thể bắt tội em, nếu em muốn nhận tội thì hãy đi gặp nhà vua mà xin tội”. Lý xí đa nghe rồi liền đi đến chỗ vua, giữa đường gặp vua đang đi săn liền đưa tay chúc nguyện: “chúc nhà vua trường thọ, không bịnh, chiến đấu thường thắng”, rồi nói kệ:
“Bạch vua tôi là giặc,
Uống trộm nước của người,
Xin vua hãy y pháp,
Phạt tôi tội trộm nước”.
Vua nói: “dù có lấy nước uống cũng không gọi là kẻ trộm, nhưng ông lấy nước của ai?”, Lý xí đa đem việc trên kể lại, vua nói: “ông ấy vừa là anh vừa là thầy, ông lấy nước uống cũng không gọi là kẻ trộm. Ông hãy đi đi, việc đó không đáng trị tội”, Lý xí đa nói: “tôi là kẻ trộm, xin vua hãy phạt tôi thật nặng, nếu không tôi không an tâm”, vua liền nổi giận nói: “nếu vậy ông cứ đứng ở đây, đừng đi đâu cả, đợi ta vào núi trở về sẽ xét xử”. Sau khi đi săn xong, vua đi đường khác trở về, quên mất việc bảo Lý xí đa đợi ; như thế trải qua sáu ngày, quần thần mới tâu vua: “vị tiên ấy trải qua sáu ngày nay không dám đi đâu, xin vua hãy xét xử”, vua nói: “trải qua sáu ngày ngư vậy là đã trị phạt rồi, không còn tội nữa, hãy bảo ông ấy đi đi”, quần thần sai sứ đến nói lại lời của vua, Lý xí đa nghe rồi vui vẻ trở về nhà.
Phật bảo các Bí-sô: “vua Phạm thọ thuở xưa chính là La-hầu-la ngày nay, do ngày xưa nổi giận bảo tiên ấy đứng chỗ đó trải qua sáu ngày nên ngày nay thọ báo ở trong thai sáu năm. Này các Bí-sô, nghiệp đen, trắng hay tạp đều có quả báo ; các thầy nên bỏ nghiệp đen và nghiệp tạp nên tu nghiệp trắng”. Lúc đó các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “cụ thọ Hiền vương đã tạo nghiệp gì mà nay đứng đầu trong các vương tử họ Thích?”, Phật nói: “cụ thọ Hiền vương đã tự gieo trồng phước nghiệp. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa có người nghèo du hành trong nhân gian đến thành Bà-la-nê-tư, những người nghèo khác trong thành thấy có người lạ liền đuổi xua đánh đập, bị xua đuổi người nghèo này chạy trốn vào trong vườn của vua. Lúc đó vào mùa xuân, trong vườn hoa nở cây trái sum suê, chim chóc đua nhau bay đến nên vua cùng các thể nữ vào trong vườn thưởng ngoạn. Đi thưởng ngoạn khắp nơi một hồi, vua mệt nên ngủ thiếp; các thể nữ thấy vua ngủ nên tản ra đi hái hoa. Vua chợt tỉnh đậy liền trở về cung, thấy vua trở về, các thể nữ vội vã chạy theo, do vội vã nên một cung nhân đánh rơi chuỗi ngọc anh lạc mà không hay biết. Sau đó người nghèo nhìn thấy chuỗi ngọc liền suy nghĩ: “nếu ta lượm vật này, nếu có người đến tìm, biết ta lấy ta sẽ bị khổ não”, nghĩ rồi liền đem chuỗi ngọc treo trên cây rồi suy nghĩ: “nếu chủ của nó đến lấy thì tùy ý đem đi, nếu không phải thì ta sẽ không cho lấy”. Sau khi trở về cung, người cung nữ đó mới biết là mình mất chuỗi ngọc, nghĩ là rớt trong vườn nên tâu vua, vua bảo người hầu cận: “khanh hãy trở lại trong vườn tìm kiếm chuỗi ngọc anh lạc, đừng để cho mất”, người hầu cận dẫn thêm nhiều người đến trong vườn tìm kiếm thì thấy chuỗi ngọc treo ở trên cây, chợt thấy người nghèo gần đó nên hỏi: “ông có thấy ai đã treo chuỗi ngọc này trên cây không?”, người nghèo đem việc trên kể lại. Người hầu cận mang chuỗi ngọc về và đem việc trên kể lại cho vua nghe, vua sai sứ gọi người nghèo đến hỏi: “vì sao trước đây lượm được chuỗi ngọc, ngươi không mang đi lại treo lên cây?”, đáp: “đây là vật quý của vua, tôi vốn nghèo hèn không dám thọ dụng”, vua nghe rồi rất vui lòng liền nói: “người cầu xin điều gì cứ nói, ta sẽ cho ngươi”, đáp: “xin vua bố thí thức ăn uống và y phục cho những người nghèo trong thành này và cho tôi được cầm đầu họ”, vua nghe rồi liền bảo quần thần làm như lời người nghèo cầu xin, quần thần vâng lịnh vua, sau khi bố thí thức ăn và y phục cho những người nghèo trong thành xong liền bảo họ rằng: “theo lịnh vua, người này từ nay là thủ lĩnh của các ngươi, người ấy xử đoán công việc như thế nào đều phải nghe theo”, những người này được cơm áo đều vui mừng và tôn người nghèo kia làm thủ lĩnh. Trước kia ở nơi ngã tư đường, khi những người nghèo này cướp giật thức ăn của người thường bị người đánh mắng; nay thấy vua ban ân nên họ càng lộng hành, người bị cướp giật không dám đánh mắng họ như trước kia. Dân chúng liền đem việc này tâu vua, vua nói: “các vị hãy tự giữ, chớ nên đánh đập họ”. Một hôm trong thành có người đựng bánh và thức ăn trong cái sọt, người nghèo thủ lĩnh liền cướp lấy rồi bỏ chạy, những người khác chạy theo. Chạy đến bên sông, người nghèo thủ lĩnh liền đội sọt bánh lên đầu để bơi qua sông, qua đến bờ kia liền ngồi nghỉ dưới một gốc cây. Thuở đó chưa có Phật ra đời, chỉ có Phật Bích chi xuất hiện làm lợi ích cho hữu tình ; người nghèo thủ lĩnh này nhìn thấy oai nghi cử chỉ của vị Phật Bích chi này liền suy nghĩ: “đời trước ta không biết bố thí nên đời này nghèo hèn cô độc, nếu vị đức hạnh này thọ ta cúng dường thì ta sẽ cúng”. Lúc đó vị Phật Bích chi quán biết được tâm niệm của người nghèo thủ lĩnh kia, vì muốn làm lợi ích nên ôm bát đến trước anh ta xin bánh, người nghèo này vui mừng dâng cúng hết số bánh. Thường pháp của Phật Bích chi là không nói pháp chỉ hiện thần biến, lúc đó vị Phật Bích chi này thân vọt lên không trung hiện các thần biến. Phàm phu khi thấy thần biến thì mau phát nguyện lành, sụp xuống đảnh lễ như cây bị đốn ngã và phát nguyện: “nguyện đem công đức cúng dường Phật Bích chi hôm nay, đời vị lai con được làm vương đứng đầu các vương tử và được gặp Như lai, vượt qua biển sanh tử”. Phát nguyện vừa xong thì những người nghèo kia kéo đến đòi chia bánh, người nghèo thủ lĩnh nói: “tôi đã cúng dường hết cho Phật Bích chi rồi”, lại hỏi: “lúc nãy ông đã phát nguyện gì?”, đáp: “tôi nguyện đời vị lai làm vương đứng đầu các vương tử”, những người nghèo nói: “nếu ông làm vương thì chúng tôi nguyện làm tả hữu”.
Phật bảo các Bí-sô: “người nghèo thủ lĩnh thuở xưa chính là Hiền vương Thích tử ngày nay, những người nghèo thuở xưa chính là năm trăm Thích tử ngày nay. Do Hiền vương thuở xưa phát nguyện nên nay được làm vương đứng đầu các vương tử, lại được gặp ta theo xuất gia và chứng quả A-la-hán. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng ; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập chớ có buông lung”.
Phật ở trong rừng Quần xà thôn Na-địa-ca, lúc đó có nhiều bát của Phật và các Bí-sô để trên chỗ đất trống, bỗng có một con vượn từ trên cây Sa la xuống lấy bát. Các Bí-sô liền đánh đuổi, Phật nói: “chớ đánh đuổi, cứ để nó tùy ý lấy, đừng lo nó làm bể”, con vượn lấy bát của Phật rồi leo lại lên cây, trong chốc lát ôm bát đựng đầy mật trở xuống dâng cúng Phật. Trong mật có ong nên Phật không thọ, vượn hiểu ý liền mang bát mật đến chỗ khuất, bắt hết ong ra rồi đem trở lại dâng cúng Phật. Vì mật chưa được tác tịnh nên Phật không thọ, vượn hiểu ý liền mang bát mật đến bên dòng suối trong , lấy nước rưới vào bát mật rồi đem trở lại dâng cúng Phật, Phật thọ bát mật, vượn vui mừng chắp tay nhảy nhót, do không ngó trước sau nên té xuống giếng và qua đời. Thần thức của nó thác sanh vào trong thai của phu nhân một Bà-la-môn thanh tịnh trong thôn. Sau khi nhập thai, nhờ phước nghiệp của nó nên trời mưa mật xuống trong thôn, mọi người hỏi tướng sư là điềm gì, tướng sư nói: “do phước nghiệp của đứa bé trong thai người vợ của Bà-la-môn cảm ứng ra”. Mười tháng sau khi đứa bé chào đời, trời lại mưa mật xuống; sau hai mươi mốt ngày người cha mở tiệc ăn mừng và đặt tên cho đứa bé. Quyến thuộc nói: “khi đứa bé nhập thai cũng như khi chào đời, trời đều mưa mật xuống. Cha nó họ là Bà tất sắc tra, vì vậy nên đặt tên cho nó là Vị độ bà tất sắc tra. (Trung hoa dịch là Tối thắng mật)”. Đứa bé trưởng thành, do nghiệp đời trước nên nó sanh tín tâm đến chỗ Phật nghe pháp và phát tâm xuất gia. Sau khi xuất gia, hằng ngày tự nhiên có ba bát mật, Tối thắng mật đem một bát cúng dường Phật, một bát cúng dường Tăng và một bát cho bà con và bạn hữu. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, do nhân duyên gì mà hằng ngày Bí-sô Tối thắng mật đều có ba bát mật như thế ?”, Phật nói: “đó là do Bí-sô Tối thắng mật tự làm phước nghiệp. Này các Bí-sô, trước đây các thầy có thầy một con vượn từ trên cây Sa la xuống lấy bát đựng mật cúng dường cho ta phải không?”, đáp là có thấy, Phật nói: “con vượn đó chính là tiền thân của Bí-sô Tối thắng mật, do trước đây cúng dường mật với lòng tin nên nay được quả báo này. Một ngày nào đó, Bí-sô này không chỉ hằng ngày có thể hóa ra ba bát mật mà nếu muốn làm cho nước trong bốn biển đều thành mật, cũng không có khó khăn gì. Vì sao, vì do cúng dường mật cho Phật nên được phước tăng thượng… cho đến câu các thầy nên xả nghiệp đen và tạp, nên tu nghiệp trắng”.
Khi Phật ở trong vườn Ni câu đà thành Kiếptỷ-la, độ năm trăm Thích tử và Ưu-ba-ly xuất gia ; các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Ưu-ba-ly đời trước đã tạo nghiệp gì mà nay làm người cạo tóc cho vua?”, Phật nói: “các thầy lắng nghe: Thuở xưa có một người thợ hớt tóc của vua, lúc đó có một vị Phật Bích chi đến trước nhà ông ta nói rằng: “này thiện nam, hãy cạo tóc cho ta, ông sẽ được quả báo thiện”, người thợ này có một người cháu kêu bằng cậu nên ông bảo người cháu: “cậu là thọ hớt tóc cho vua, vậy cháu hãy cạo tóc cho vị này như là cạo cho vua vậy”, người cháu nghe rồi suy nghĩ: “cạo tóc cho vị này sẽ được công đức thiện”, nghĩ rồi liền chú tâm cạo tóc như pháp cho Phật Bích chi này. Lúc đó Phật Bích chi suy nghĩ: “người này cạo tóc cho ta như pháp, ta nên làm lợi ích”, nghĩ rồi liền bay lên không hiện các thần biến. Người cháu thấy rồi liền sanh tâm hi hữu, đảnh lễ rồi phát nguyện: “hôm nay con cạo tóc cho vị này như cạo cho vua, nguyện trong đời vị lai con thường được cạo tóc cho vua giống như cậu con”.
Phật bảo các Bí-sô: “người cháu thuở xưa chính là Ưu-ba-ly ngày nay, do lời nguyện xưa nên nay làm người cạo tóc cho các vua. Đời trước Ưuba-ly còn có nguyện khác, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa trong một ngôi làng có một trưởng giả cưới vợ sanh được hai trai, người thợ hớt tóc cho vua là bạn thân của trưởng giả tuy có nhiều tiền của nhưng không có con. Người thợ hớt tóc này suy nghĩ: “ta có nhiều tiền của nhưng không có con, nếu ta chết đi, của cải sẽ sung vào quan khố”, nghĩ rồi nên buồn rầu không vui. Trưởng giả hỏi rõ nguyên do rồi nói: “tôi có hai đứa con, tôi sẽ cho đứa nhỏ làm con của bạn”, sau đó trưởng giả dẫn đứa con nhỏ đến cho người thợ hớt tóc này nhận làm con. Thời gian sau trưởng giả mắc bịnh qua đời, con lớn của trưởng giả khi chơi cùng các bạn, nhân lúc tranh cãi chúng nói: “anh không thuộc dòng quý tộc, vì sao, vì em của anh làm con của người thợ hớt tóc”. Người con lớn nghe rồi suy nghĩ: “nếu em ta không làm con của người thợ hớt tóc thì hôm nay ta không bị hủy nhục như thế, ta phải đoạt lại người em”, nghĩ rồi liền đến đoạt lại. Người thợ hớt tóc buồn bã, tập họp những người thợ hớt tóc trong gia tộc nói rằng: “tôi nuôi đứa bé đã nhiều năm, nay người anh đến đoạt lại. Từ nay dòng họ chúng ta không hớt tóc cho họ nữa”. Hai anh em do không được cạo tóc nên tóc, móng tay, móng chân đều ra dài và bẩn thỉu ; bất chợt vua trông thấy liền hỏi nguyên do, vua nghe rồi liền nói: “cha đã cho thì con không được đoạt lại”. Nghe vua phán như vậy, người anh đem người em đến giao lại cho người thợ hớt tóc, sau đó nói với các bạn: “do em ta làm con của người thợ hớt tóc nên ta thường bị hủy nhục. Ta sẽ giết người em để khỏi bị hủy nhục nữa”. Có người nghe được lời này liền đến nói với người em, người em nói với người thợ hớt tóc: “anh con muốn giết con, xin cha cho con xuất gia học đạo tiên”, người cha suy nghĩ: “nếu ta cố giữ thì sẽ bị người anh giết, chi bằng cho nó xuất gia”, nghĩ rồi bằng lòng cho con xuất gia và nói: “nếu con đắc pháp tiên thì hãy trở về dạy cha”, người con nói: “lành thay, xin vâng lời cha dạy”. Người con tìm đến chỗ tiên nhân trong núi rừng nhưng không gặp, anh liền ngồi tư duy, không bao lâu sau chứng được quả Phật Bích chi. Sau khi chứng quả, nghĩ đến lời người cha nuôi nên đi đến chỗ người cha, bay lên không trung hiện các thần biến. Người cha thấy rồi rất vui mừng chắp tay phát nguyện: “xin cho con đời đời được làm thợ hớt tóc cho vua”, sau đó gặp năm vị Phật Bích chi khác, người cha cũng phát nguyện như vậy.
Phật bảo các Bí-sô: “người thợ hớt tóc thuở xưa chính là Ưu-ba-ly ngày nay, do lời nguyện xưa nên nay làm người thợ hớt tóc cho vua”, các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “Ưu-ba-ly đời trước tạo nghiệp lành gì mà nay được chứng quả A-la-hán và là bậc trì luật thứ nhất?”, Phật nói: “các thầy lắng nghe nhân duyên của Ưu-ba-ly:
Quá khứ Hiền kiếp khi loài người thọ hai vạn tuổi, có Phật Ca-diếp ba ra đời đầy đủ 10 hiệu Như lai, Bạc già phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn. Phật có một đệ tử là là A-la-hán trì luật bậc nhất, Ưu-ba-ly là đệ tử của vị ấy tuy trọn đời tu phạm hạnh nhưng không đắc quả nên khi lâm chung liền phát nguyện: “nguyện nhờ căn lành trì giới này, ở đời vị lai lúc con người thọ 100 tuổi, có Phật Thích ca mâu ni ra đời đầy đủ 10 hiệu, con sẽ được xuất gia làm vị đệ tử trì luật bậc nhất trong giáo pháp của vị Phật ấy, giống như thầy của con không khác”.
Phật bảo các Bí-sô: “người đệ tử đó chính là Ưu-ba-ly ngày nay, do lời nguyện xưa nên nay được như nguyện ấy … Các thầy nên bỏ nghiệp đen và tạp, nên tu tập nghiệp trắng”.
Khi Phật ở dưới cội cây Bồ-đề hàng phục ma quân chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác, Ma vương liền đến trong thành Kiếp-tỷ-la nói với mọi người trong thành là đêm nay Sa môn Kiềuđáp-ma sẽ chết, khiến cho mọi người đều buồn rầu than khóc. Vua trời Tịnh cư quán thấy việc này liền ở trong hư không nói cho mọi người biết Sa môn Kiều-đáp-ma không có chết mà ở dưới cội Bồ-đề đã thành đạo quả. Mọi người nghe lời này đều rất vui mừng, lúc đó phu nhân của Cam lộ vương hạ sanh một trai, do sanh vào ngày mọi người đều hoan hỉ nên đặt tên cho bé là A-nan-đà. Cam lộ vương giao con cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng và mời tướng sư đến xem tướng, tướng sư nói: “đứa bé sau này sẽ là thị giả của Phật Thích ca Mâu ni “, Cam lộ vương nghe rồi liền suy nghĩ: “ta phải không cho Phật nhìn thấy đứa bé này”, vì nguyên nhân này nên khi Phật trở về thành Kiếptỷ-la, Cam lộ vương liền đem A-nan-đà giấu ở thành Quảng nghiêm, đợi Phật đi mới đem trở về. Phật quán biết tâm chúng sanh nên suy nghĩ: “đồng tử A-nan-đà thọ thân này là thân sau cùng nên ở trong pháp của ta xuất gia và thích hợp làm thị giả, vì pháp ta nói ra A-nan đều có thể lãnh thọ không sót; sau khi ta nhập Niết-bàn, A-nan mới được chứng A-la-hán. Để độ A-nan, ta nên bất ngờ vào trong cung của Cam lộ vương”, nghĩ rồi Phật liền dùng thần thông lực vào trong cung của Cam lộ vương, đến chỗ ngồi ngồi như pháp. Cam lộ vương vội đem A-nan giấu trong một căn phòng, Phật dùng thần lực làm cho cửa phòng mở, A-nan đến đảnh lễ Phật rồi đứng sau lưng Phật quạt hầu ; Cam lộ vương và phu nhân cũng đến đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật giảng nói diệu pháp rồi đứng dậy đi. Do nhân duyên đời trước, A-nan liền đi theo Phật; Cam lộ vương, phu nhân và các thể nữ đều không giữ lại được, Phật nói: “đồng tử A-nan thọ thân này là thân sau cùng, các vị không thể giữ được hãy để cho A-nan đi”, Cam lộ vương nói: “nếu Thế tôn muốn độ thì xin cho tôi mở hội cúng dường, sau đó sẽ như pháp dẫn đến”, Phật nhận lời. Lúc đó Cam lộ vương mời tất cả quyến thuộc nội ngoại, thỉnh các Sa môn, Bà-la-môn đến cúng dường và bố thí y thực cho những người nghèo khổ. A-nan từ biệt cha mẹ bà con, thân đeo chuỗi anh lạc, cỡi voi được trang nghiêm bằng bảy báu cùng nhiều thị vệ đi đến chỗ Thế tôn trong rừng Ni-câu-đà. Khi đến cửa thành, thấy trong hào có hoa sen tươi đẹp, voi của A-nan đang cỡi liền đến dùng vòi cuốn lấy hoa sen. Tướng sư thấy việc này rồi liền nói với Cam lộ vương: “lần đi du học này, vương tử chỉ nghe qua một lần thì không bao giờ quên”. Đến nơi, A-nan từ trên lưng voi bước xuống đi bộ đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật bảo Thập lực Ca-diếp : “thầy hãy như pháp độ A-nan-đà”, Thập lực Ca-diếp vâng lời Phật dạy như pháp độ A-nan xuất gia thọ giới cụ túc.
Phật từ thành Kiếp-tỷ-la đi đến Trúc lâm ở thành Vương xá, lúc đó trên lưng của A-nan bỗng mọc một ung nhọt, Phật bảo Thị-phược-ca chữa trị cho A-nan. Lúc Thị-phược-ca đang chữa trị, Phật đang ngồi trên tòa sư tử nói pháp yếu cho đại chúng, cụ thọ A-nan cũng có mặt, Thị-phược-ca suy nghĩ: “chữa trị lúc này thật là đúng lúc, vì sao, vì thầy ấy đang chuyên tâm nghe pháp, ta mổ ung nhọt sẽ không thấy đau”, nghĩ rồi liền dùng thuốc hay thoa lên ung nhọt làm cho ung nhọt muồi, kế dùng dao mổ ung nhọt nặn máu mủ rồi dùng loại cao đặc biệt thoa lên, nhờ vậy bịnh được lành. Khi Thị-phược-ca làm việc này, A-nan chuyên tâm nghe pháp nên không biết đau; sau khi Phật thuyết pháp xong, Thị-phược-ca đem việc mổ ung nhọt bạch Phật và nói: “do A-nan chuyên tâm nghe pháp nên không hay biết”, A-nan nói: “khi đang nghe pháp, dù thân con bị cắt nát như dầu mè, con cũng không biết đau”, Thị-phược-ca thấy việc này rồi sanh tâm hi hữu. Lúc đó các Bí-sô có nghi thỉnh hỏi Phật: “cụ thọ A-nan đời trước đã tạo nghiệp gì mà nay trên lưng sanh ung nhọt như vậy?”, Phật nói: “các thầy hãy lắng nghe nghiệp đời trước của A-nan”, kế nói kệ:
“Dù trải qua trăm kiếp,
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên hội họp,
Tự thọ lấy quả báo”.
Thuở xưa tại một nước tên Kê la-tra có một vị vua cai trị, lúc đó không có Phật, chỉ có vị Độc giác xuất hiện ở đời. Vị này vào thành tới cung vua khất thực, vua nổi giận liền cầm viên bi đánh vào xương sống của vị Độc giác. Vốn đã hàng phục được tâm cao ngạo, lại biết vua không phải là pháp khí nên vị Độc giác bỏ đi.
Phật bảo các Bí-sô: “nhà vua thuở xưa chính là A-nan ngày nay, do thuở xưa cầm viên bi đánh vào xương sống của vị Độc giác với tâm sân nên trải qua năm trăm đời thường bị ung nhọt trên lưng. Nay thọ thân sau cùng vẫn còn bị ung nhọt. Này các Bí-sô, nếu tạo nghiệp đen, trắng hay xen tạp đều sẽ chịu quả báo tương ưng”.
Cụ thọ A-nan có thường pháp là khi đi cùng với chân thân Phật thì tâm thường cung kính, khi đi cùng với hóa thân Phật thì tâm ít cung kính hơn. Lúc đó có một trưởng giả thỉnh Phật và các Bí-sô đến nhà cúng dường, đến giờ Phật đắp y mang bát cùng các Bísô đi đến nhà trưởng giả, thọ thực xong liền cùng đại chúng trở về. Các Bí-sô hỏi A-nan: “hôm nay thầy theo Phật thọ thỉnh thực là theo Phật chân thân hay là hóa thân?”, đáp là chân thân không phải hóa thân, lại hỏi làm sao biết được, đáp: “khi tôi đi với chân thân Phật thì tự nhiên tâm tôi cung kính, trong lòng có hổ thẹn ; còn đi với hóa thân Phật thì không như vậy”, các Bí-sô nói với nhau: “A-nan thật là hi hữu, có thể phân biệt các tướng sang hèn khác nhau giữa chân thân và hóa thân Phật”, do nhân duyên này mọi người đều biết Anan có thể phân biệt các tướng. Lúc đó Phật từ thành Vương xá đi đến thành Thất-la-phiệt trụ trong rừng Thệ đa, cụ thọ A-nan đắp y vào thành khất thực. Có một Bà-la-môn giữa đường gặp Anan liền suy nghĩ: “ta nghe nói đệ tử này của Sa môn Kiều-đáp-ma có thể phân biệt các tướng, ta nên thử thầy ấy”, nghĩ rồi liền đến hỏi A-nan : “trong rừng Thắng diệp ba có chừng bao nhiêu chiếc lá ?”, đáp: “có khoảng trăm, ngàn, vạn, ức ngần ấy chiếc lá”, nói rồi liền bỏ đi. Bà-la-môn này liền hốt một đống lá trong rừng đem đếm có khoảng bảy trăm bảy mươi chiếc lá, đếm rồi đem đống lá này bỏ bên ngoài rừng rồi đứng đợi A-nan. Sau khi khất thực xong, A-nan trở về lại trên con đường cũ, Bà-la-môn liền hỏi: “Thánh giả, bây giờ trong rừng có khoảng bao nhiêu chiếc lá?”, đáp: “trong rừng này có khoảng trăm, ngàn, vạn, ức ngần ấy chiếc lá nhưng bây giờ lại thiếu mất khoảng bảy trăm bảy mươi chiếc lá”, Bà-la-môn nghe rồi liền khen là hi hữu, rất thông đạt toán số. Các Bí-sô nghe biết việc này liền khởi nghi thỉnh hỏi Phật: “cụ thọ A-nan đời trước đã tạo nghiệp gì mà có thể thông đạt các tướng và toán số?”, Phật nói: “thầy ấy đã tạo nghiệp lành…”, kế nói kệ:
“Dù trải qua trăm kiếp,
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên hội họp,
Tự thọ lấy quả báo”.
Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có một Bà-lamôn lấy một người vợ và sanh được một con, đến hai mươi mốt ngày ông mở tiệc ăn mừng và đặt tên cho con là Đại bạch. Đến khi trưởng thành, Đại bạch du hành trong nhân gian học thông sáu vạn bài tụng về toán số và dạy lại cho người khác, như thế trải qua năm trăm đời, đến nay là thân sau cùng mới có sự thông đạt như vậy. Đại bạch là tiền thân của A-nan.
Lúc đó cụ thọ A-nan đến trong cung của vua
Ba tư nặc (vua Thắng quân), thấy A-nan đến vua vui mừng đảnh lễ rồi bạch rằng: “từ lúc tôi ra đời đến nay, do nghiệp chiêu cảm nên mỗi khi tôi ăn cơm, tự nhiên có cơm nấu bằng gạo thơm với hai con chim trĩ nướng và một khúc mía từ trên không trung rơi vào mâm, nhưng có một con chim trĩ lại rơi ra đất”, A-nan nghe rồi khen là hi hữu, trở về tinh xá kể lại cho mọi người nghe, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “thuở xưa ở thành Bà-la-nêtư có một trưởng giả hào phú, nhiều châu báu và ruộng vườn, trong vườn ông bán lúa gạo thơm, chim trĩ và mía. Lúc đó không có Phật, chỉ có Phật Bích chi ra đời giáo hóa chúng sanh, vị này đến nhà trưởng giả khất thực. Thấy vị này tướng mạo đoan nghiêm, giọng nói dịu dàng nên trưởng giả sanh hoan hỉ, nấu gạo lúa thơm, nướng hai con chim trĩ và lấy một khúc mía cúng dường cho Phật Bích chi. Khi vị này đưa bát ra thọ thì có một con chim trĩ rơi xuống đất. Trưởng giả thuở xưa chính là vua Thắng quân ngày nay, do thuở xưa cúng dường Phật Bích chi như thế nên trải qua vô lượng đời thường sanh ở cõi trời thọ hưởng diệu lạc; sau đó sanh trong cõi người làm vua chiêu cảm quả báo này. Vì thế khi cúng dường thức ăn, các thầy nên cẩn thận chớ để rơi xuống đất”. Lúc đó vua Thắng quân nghe Phật nói nhân duyên xưa của mình liền sanh hoan hỉ, phát lòng tín kính Phật pháp tăng và suy nghĩ: “do đời trước ta cúng dường Phật Bích chi nên được quả báo như thế, nay ta nên cúng dường Phật pháp tăng để đời sau được lợi ích lớn”, có một tướng sư đến tâu vua: “đúng ra ngày mai là ngày A-nan được lên ngôi quán đảnh, được quấn khăn báu lên đầu”, vua nghe rồi im lặng không nói. Đêm đó, trên trán của A-nan bỗng sanh một ung nhọt độc, sáng hôm sau vua nghe tin này liền suy nghĩ: “cúng dường người có đức sẽ được nhiều phước, ta nên đích thân cúng dường”, nghĩ rồi liền ra lịnh các danh y trong nước đến tụ họp trong cung rồi bảo họ đến chữa trị cho A-nan. Các thầy thuốc vâng lịnh vua đến chỗ Anan, họ tuyển ra một vị giỏi nhất dùng kim châm lấy máu độc ra. Vua đích thân cầm lọng có tướng thiên bức luân che phía trên cho A-nan, sau khi chích hết máu độc ra, dùng thuốc hay đắp vào vết thương thì vua lại đích thân dùng lụa quấn quanh trên đầu cho A-nan, đảnh lễ rồi ra về. Các Bí-sô thấy việc này rồi đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, A-nan đời trước đã tạo nghiệp lành gì mà nay vua đích thân hầu hạ?”, Phật nói: “thuở xưa ở thành Bà-la-nê-tư có một thầy thuốc, có một Phật Bích chi đến cầu trị bịnh, thầy thuốc cung kính bạch rằng: “Thánh giả, con xin cúng dường tất cả y thực và thuốc men mà Thánh giả cần dùng cho đến khi lành bịnh”, nói rồi thầy thuốc cung cấp cho Phật Bích chi đến khi lành bịnh. Này các Bísô, thầy thuốc thuở xưa chính là A-nan ngày nay, do phước cúng dường Phật Bích chi thuở xưa nên trong vô lượng đời thường sanh ở cõi trời thọ hưởng phước báo và trong năm trăm đời sanh ở cõi người thọ quả báo thù thắng, được các quốc vương, Bà-la-môn… đích thân cúng dường. Nay thọ thân sau cùng vẫn được vua Thắng quân đích thân cầm lọng che và hầu hạ”.
Lúc đó Phật từ thành Thất-la-phiệt du hành đến thành Ba la dừng ở trong một thôn ở ngoài thành, thôn tên là Bà-la-môn. Chúng Thanh văn vây quanh ngồi không xa Thế tôn gồm có Thượng tòa A nhã Kiều-trần-như, Mã thắng, Hiền tử, Trường khí, Đại danh xưng, Da-xá, Viên mãn… Sau giờ ngọ, Bí-sô Diệu chẩm, A-nan cùng chúng Thanh văn đến đảnh lễ Phật rồi ngồi theo thứ lớp, Phật bảo các Bí-sô: “ta nay đã già, sức khỏe ngày càng yếu, không còn đủ sức thuyết pháp cho bốn chúng”. Lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mụckiền-liên khuyến thỉnh A-nan làm thị giả cho Phật, A-nan vâng theo lời hai tôn giả, Phật khen ngợi Anan thông minh trí huệ đa văn bậc nhất. Các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, A-nan đời trước đã tu phước nghiệp gì mà nay làm em chú bác với Phật, lại làm thị giả và được Phật khen là thông minh trí huệ, chỉ nghe qua lời Phật dạy liền không quên mất?”, Phật nói: “các thầy lắng nghe: Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có vua tên là Nhật diệu, vua chế lễ khiến cho dân chúng được an vui, trong nước không có suy nạn. Thời gian sau, hoàng hậu sanh được một trai, đến hai mươi mốt ngày vua mở tiệc ăn mừng và đặt tên cho bé, quần thần tâu vua: “vua tên là Nhật diệu, vậy nên đặt tên cho đứa bé là Đại nhật diệu”, Đại nhật diệu lớn lên được phong làm Thái tử ; sau đó hoàng hậu lại sanh thêm một trai và được đặt tên là Nhật trí. Thái tử vốn thích xuất gia, thấy vua cha hành phi pháp liền suy nghĩ: “sau này khi ta lên ngôi cũng sẽ theo quốc pháp hành phi pháp, ắt sẽ bị đọa địa ngục, ta nay nên xin cha cho xuất gia”, nghĩ rồi liền đến xin vua cha cho xuất gia, vua nói: “các tiên nhân ngoại đạo thờ lửa tu khổ hạnh trì giới đều là cầu được sanh làm vua hay vương tử để hưởng thọ khoái lạc. Con nay đã được tất cả, sao lại muốn bỏ mà đi xuất gia?”, Thái tử vẫn ai cầu xin vua cha cho xuất gia, vua biết Thái tử không thích thú vui thế tục nên bằng lòng cho xuất gia. Thái tử liền đến chỗ các tiên nhân ở trong núi để tu đạo, vua phong cho Nhật trí làm Thái tử. Đại nhật diệu chuyên tâm tu đạo, không bao lâu sau chứng quả Độc giác, sau đó mắc bịnh nặng nên trở về thành Bà-la-nê-tư. Quần thần tâu vua: “Thái tử Đại nhật diệu vào núi tu đạo đã chứng quả Độc giác, nay đã vào thành”, vua liền ra nghinh đón đảnh lễ và bạch rằng:
“Thánh giả cần y thực còn tôi cầu phước đức, xin hãy ở lại trong vườn để tôi tùy thời cung cấp các vật cần dùng”, Độc giác im lặng nhận lời. Vua biết Độc giác nhận lời liền bảo Thái tử Nhật trí thừa sự cúng dường. Một hôm, Độc giác nhập định quán biết Nhật trí sau bảy ngày nữa sẽ mạng chung liền bảo Nhật trí : “vì sao em không cầu xuất gia”, Nhật trí liền muốn xuất gia, Độc giác bảo đến tâu vua cha, Nhật trí đến xin vua cha cho xuất gia, vua nổi giận nói: “Đại nhật diệu anh con đã xuất gia, ta còn con là người kế vị, con không thể xuất gia”. Độc giác nghe biết vua cha không cho em xuất gia liền đến chỗ vua nói kệ:
“Nhật diệu thả Nhật trí,
Cho theo tôi xuất gia,
Xuất gia là hơn hết,
Được chư Phật ngợi khen”.
Vua nói: “Thánh giả đã xuất gia, theo quốc pháp phải có người kế vị, nay tôi chỉ còn có Nhật trí. Xin hãy để nó nối ngôi vua, tại gia tu phước cũng đủ, không cần xuất gia”, Độc giác nói kệ:
“Vua nghĩ một đàng,
Việc ra một nẻo,
Chỉ bảy ngày sau,
Nhật trí mạng chung”.
Vua hỏi: “bảy ngày sau Nhật trí sẽ mang chung sao?”, đáp là phải, vua liền nói: “nếu vậy thì ta cho xuất gia”. Sau khi xuất gia, Nhật trí phát tâm thiện cúng dường Độc giác, do Độc giác mắc bịnh phong nên tay cầm bát run rẩy không yên, Nhật trí dùng chiếc vòng bằng vàng để đỡ bát cho bát đứng yên và phát nguyện: “nguyện cho đời sau khi nghe pháp, pháp vào tâm con cũng không lay động giống như vậy”. Vị Độc giác này tuy chứng quả nhưng không thuyết diệu pháp, Nhật trí yêu cầu nói diệu pháp, Độc giác nói: “ta không thể nói diệu pháp”, lại hỏi ai có thể nói, đáp: “khi bậc Ứng chánh đẳng giác ra đời, vị ấy sẽ tuyên thuyết diệu pháp”, Nhật trí liền phát nguyện : “nguyện nhờ căn lành này ở đời vị lai con sẽ được làm em Phật, lại được xuất gia, được đích thân cúng dường, nghe pháp liền ghi nhớ được Đại tổng trì”, Độc giác nghe rồi liền nói: “sau bảy ngày nữa em sẽ mang chung, vậy hãy thường giữ tâm này đừng cho quên mất”. Trải qua bảy ngày Nhật trí vẫn chưa thể đắc quả liền đến từ tạ anh và phát lại lời nguyện trước.
Phật bảo các Bí-sô: “Nhật trí thuở xưa chính là A-nan ngày nay, do nguyện xưa nên nay A-nan làm em thúc bá, được xuất gia và làm thị giả cho ta lại được ta khen ngợi là thông minh trí huệ đa văn bậc nhất, nghe pháp liền nhớ như rót nước vào bình”, các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “A-nan đời trước đã tạo nghiệp lành gì mà nay ở trong đại chúng được Phật ngợi khen là đa văn bậc nhất, có sức tổng trì ghi nhớ không bỏ sót?”, Phật nói: “các thầy lắng nghe:
Quá khư Hiền kiếp lúc hữu tình thọ hai vạn tuổi có Phật Ca-diếp ba ra đời tại vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Phật có một đệ tử thông minh bậc nhất, nghe pháp liền ghi nhớ không quên; vị này lại có một đệ tử tuy thường tu phạm hạnh nhưng vẫn chưa được chứng quả. Khi lâm chung vị này phát nguyện: “nguyện nhờ căn lành này ở đời vị lai lúc con người thọ 100 tuổi, có Phật Thích ca mâu ni ra đời đầy đủ 10 hiệu, con sẽ được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy và được Phật thọ ký là bậc đa văn đệ nhất giống như thầy con ngày nay”.
Này các Bí-sô, người đệ tử ấy chính là A-nan ngày nay, do dời trước phát nguyện với tâm thiện nên ngày nay được ta khen ngợi là bậc đa văn đệ nhất trong số đệ tử của ta.
Này các Bí-sô, tạo nghiệp đen, trắng hay xen tạp đều có quả báo tưng ứng; các thầy hãy bỏ nghiệp đen và nghiệp xen tạp, hãy tu trắng. Phật trụ trong Trúc Lâm Yết lan Đạc Ca ở thành Vương Xá cùng năm trăm Bí-sô đều là A-la-hán, chỉ riêng có Đề-bà-đạt-đa chưa chứng Thánh quả. Lúc đó thời thế mất mùa đói kém khất thực khó được, cho nên các Bí-sô đắc thần thông có người đến rừng
Thiệm Bộ ở Nam Thiệm Bộ châu để hái quả Thiệm Bộ với đủ sắc hương vị mang về trú xứ, tự được no đủ và chia đều cho các Bí-sô; có người đến Bắc cu lô châu lấy lúa thơm tự nhiên mang về cùng chia nhau ăn…; có người lên cõi trời Tứ Đại vương chúng, hoặc trời Tam Thập Tam lấy diệu thực của cõi trời mang về cùng chia nhau ăn; có người đến các phương khác những nơi trù phú sung túc để lấy thức ăn ngon mang về cùng chia nhau ăn. Đề-bà-đạt-đa thấy các Bí-sô có thần thông tự tại như vậy liền suy nghĩ: “Hiện nay gặp lúc mất mùa đói kém khất thực khó được, các Bísô đắc thần thông đều đến rừng thiệm Bộ… giống như đoạn văn trên. Nếu ta đắc thần thông ta cũng có thể đi được như thế. Nhưng ai có thể dạy ta pháp thần thông, ta nên đến chỗ Thế Tôn hỏi về điều này, Phật dạy thế nào ta phụng trì thế nấy”. Nghĩ rồi v Đề-bà-đạt-đa rời khỏi chỗ ngồi đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên bạch Phật: “Thế Tôn, xin hãy dạy cho con pháp thần thông”. Lúc đó Thế Tôn quán biết Đề-bà-đạt-đa sanh niệm tà sẽ tạo tội nghịch nên nói rằng: “thầy nên thọ trì giới tăng thượng trước, kế siêng tu Định Huệ tăng thượng thì sẽ được thần thông”. Nghe Phật nói rồi Đề-bà-đạt-đa liền nghĩ là Thế Tôn không muốn dạy cho mình pháp thần thông nên lui về, sau đó đến chỗ A Nhã Kiều-trần-như bạch rằng: “cúi xin Thượng Tọa dạy cho tôi pháp thần thông”. Cụ thọ A Nhã Kiều-trần-như liền quán tâm Phật biết được do Phật quán biết Đề-bà-đạtđa sanh niệm tà sẽ tạo tội nghịch nên không dạy thần thông cho Đề-bà-đạt-đa , quán biết rồi liền nói rằng: “thầy nên siêng tu tập tâm tăng thượng, quán nơi sắc… thì sẽ được thần thông”. Đề-bàđạt-đa nghe rồi nghĩ là A Nhã Kiều-trần-như không muốn dạy cho mình nên bỏ đi. Sau đó lần lượt đến chỗ các vị thượng tọa như Mã Thắng, Hiền tử, Đại danh Xưng, Viên Mãn, Vô Cấu, Ngưu Vương, Diệu Tý… tất cả là 500 vị thượng tọa để xin học pháp thần thông, nhưng tất cả vị thượng tọa này đều quán tâm Phật biết được do Phật quán biết Đề-bà-đạt-đa sanh niệm tà sẽ tạo tội nghịch nên đã không dạy pháp thần thông cho Đề-bà-đạt-đa, quán biết rồi nói rằng: “thầy nên tu tập tâm tăng thượng, quán nơi sắc… cho đến quán Thọ, tưởng, hành thức cũng như vậy, thì sẽ được thần thông và các pháp khác”. Đề-bà-đạt-đa nghe thấy 500 vị thượng tọa đều nói giống như nhau liền biết là không muốn dạy pháp thần thông cho mình liền suy nghĩ: “không lẽ không còn ai dạy pháp thần thông cho ta sao?”. Lúc đó Đề-bà-đạtđa liền nghĩ đến cụ thọ Thập Lực Ca-diếp đang ở trong hang Tiên tiên nhân ca thành Vương Xá: “Thập Lực Ca-diếp tánh không dối nịnh, nói lời chơn thật, là Ô-ba-đà-da của A-nan-đà em ta, có thể dạy ta pháp thần thông”. Nghĩ rồi liền đi đến chỗ Thập Lực Ca-diếp đảnh lễ rồi bạch rằng: “cúi xin thượng tọa dạy cho tôi pháp thần thông”. Cụ thọ Thập Lực Ca-diếp do không quán tâm Phật và tâm của năm trăm Thượng tòa, cũng không biết Đề-bà-đạt-đa sanh niệm tà sẽ tạo tội nghịch, nên dạy pháp thần thông cho Đề-bà-đạt-đa. Đề-bà-đạtđa nghe rồi liền siêng năng tu tập đến sau đêm nương theo đạo thế tục mà chứng được Sơ tĩnh lự, phát ra thần thông, chuyển một thân thành nhiều thân, chuyển nhiều thân thành một thân, hoặc hiện hoặc ẩn, có thể đi xuyên qua núi, đá, vách như đi trong hư không không có ngăn ngại; vào trong đất như đi trong nước, đi trên mặt nước như đi trên mặt đất, ngồi kiết già trong hư không như chim bay, hoặc dùng tay sờ mặt trời, mặt trăng … Có được thần thông rồi Đề-bà-đạt-đa suy nghĩ: “nay các Bí-sô khất thực khó được, ta trước đến trong rừng Thiệm Bộ hái quả thơm ngon để ăn rồi chia cho các vị khác, kế đến các châu Đông, Tây, Bắc, cõi trời Tứ Đại vương chúng, Tam thập tam và các nơi trù phú khác lấy lấy thức ăn cho mình và chia cho các vị khác”. Đề-bà-đạt-đa lại nghĩ: “ta nên nghĩ cách giáo hóa vua nước Ma-kiệt-đà, nếu người này được giáo hóa rồi ta có thể thu phục nhiều người không khó. Thái tử A-xà-thế sau khi vua cha qua đời sẽ làm quốc vương, có đại tự tại, ta nên giáo hóa người này trước, sau mới thu phục nhiều người không khó”. Nghĩ rồi Đề-bà-đạt-đa liền hóa làm thân voi trắng từ cửa lớn vào rồi đi ra cửa nhỏ, lại từ cửa nhỏ đi vào rồi đi ra cửa lớn; hoặc hóa làm người đang cởi ngựa ra vào các cửa giống như trên; hoặc làm Bí-sô cạo bỏ râu tóc, đắp y như pháp mang bát ra vào các cửa như trên. Lúc đó Đề-bà-đạt-đa hóa làm đồng tử trang sức bằng các chuỗi anh lạc rực rỡ ngồi trên đầu gối của Thái tử, hoặc đứng đi… Thái tử biết là do Đề-bà-đạt-đa hiện thần thông biến hóa nên ôm hôn đồng tử, nước miếng của Thái tử chảy vào miệng của đồng tử. Do Đề-bà-đạt-đa có tâm tham cầu lợi dưỡng nên nuốt nước miếng này, Thái tử khởi tâm tà cho là đức của Đề-bà-đạt-đa thù thắng hơn đức Phật. Đề-bà-đạt-đa hiện trở lại thân chân thật, Thái tử sanh tâm tín kính đảnh lễ và cho chở các món cúng dường trên năm trăm xe báu để tiễn Đề-bà-đạt-đa ra về. Kể từ ngày hôm đó mỗi ngày hai lần sáng chiều, Thái tử đều dùng xe báu đến chỗ Đề-bà-đạtđa kính lễ, mỗi bửa ăn dâng cúng năm trăm chõ thức ăn thượng diệu cho Đề-bà-đạt-đa và năm trăm Bí-sô tùy thuận Đề-bà-đạt-đa. Lúc đó các Bísô sáng sớm vào thành khất thực nghe biết sự việc như trên nên sau khi khất thực xong trở về bổn xứ, ăn xong rửa bát, rửa tay chân rồi liền đến chỗ Phật, đảnh lễ Phật rồi đem sự việc nghe biết được về Đề-bà-đạt-đa bạch Phật, Phật nghe rồi liền bảo các Bí-sô: “các thầy đừng nên hâm mộ việc Đề-bàđạt-đa thọ nhận sự cúng dường thượng diệu đó, vì sao? Vì Đề-bà-đạt-đa sẽ bị sự cúng dường thượng diệu này giết hại, như cây chuối trổ buồng, như cây trúc Vĩ có trái, như con La mang thai đều tự hại thân. Đề-bà-đạt-đa cũng như thế, thọ nhận sự cúng dường thượng diệu của người ắt tự hại mình. Này các Bí-sô, nếu khi Đề-bà-đạt-đa được lợi dưỡng thì người ngu này có thể đêm dài thọ lãnh việc không lợi ích, khổ não”. Lúc đó Đề-bà-đạt-đa sau khi được sự cung kính cúng dường như vậy rồi liền khởi niệm tà ác: “Thế Tôn nay đã già yếu, nếu giáo thọ cho bốn chúng rất nhọc mệt. Nay đến lúc nên giao phó đại chúng cho ta, ta sẽ giáo thọ cho họ, Thế Tôn nên ít lo nghĩ, thọ hiện pháp lạc trụ trong tịch tĩnh”. Đề-bà-đạt-đa vừa sanh niệm tà ác này liền thối mất thần thông mà không tự biết. Lúc đó có một Bí-sô đệ tử của Phật tên là Cacâu-la từng ở bên Phật siêng tu tịnh hạnh, đối dục trừ dục nên sau khi mạng chung được sanh lên cõi trời Phạm. Ca-câu-la dùng Thiên nhãn quán thấy Đề-bà-đạt-đa do khởi niệm tà ác mà thối mất thần thông liền ẩn thân ở Phạm cung, như tráng sĩ co duỗi cánh tay hiện đến chỗ cụ thọ Mục Kiền Liên ở trong rừng Khủng bố lộc núi Giao ngư, đảnh lễ rồi bạch rằng: “Đại đức biết chăng, Đề-bà-đạt-đa do tham lợi dưỡng đã khởi lên niệm tà ác… giống như đoạn văn trên. Vừa khởi niệm tà ác này liền thối mất thần thông. Lành thay, đại đức Mục Kiền Liên nên đến chỗ Phật bạch rõ việc này”. Cụ thọ Mục Kiền Liên im lặng nhận lời, Ca câu la biết cụ thọ Mục Kiền Liên đã nhận lời rồi liền ẩn thân trở về Phạm cung. Sau khi Phạm thiên Ca câu la đi rồi, cụ thọ Mục Kiền Liên liền nhập Thắng định, như tráng sĩ co duỗi cánh tay ẩn thân ở núi Giao ngư hiện đến Trúc Lâm, chỗ Thế Tôn đang ở, đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên rồi đem lời của Phạm thiên Ca câu la vừa nói bạch Phật, Phật nghe rồi nói rằng: “Thầy đợi Phạm thiên Ca câu la đến nói mới biết Đề-bà-đạt-đa có niệm tà ác hay sao?”. Mục Liên bạch Phật: “Thế Tôn con đã biết trước”. Lúc đó Đề-bà-đạt-đa cùng bốn Bí-sô bè đảng đi đến chỗ Phật: 1. Là Cô ca Lợi Ca. 2. Là Khiên Đồ Đạt Phiêu. 3. Là Yết Tra Mô Lạc Ca Để Sái. 4. Là Tam Một Đạt La Đạt Đa. Phật từ xa trông thấy liền bảo Mục Liên: “Thiên Thọ sắp đến, người ngu si này đích thân đến trước ta khoác lác, thầy nên khéo hộ lời nói”. Cụ thọ Mục Kiền Liên liền đảnh lễ Phật rồi nhập định, như tráng sĩ co duỗi cánh tay, ẩn thân ở Trúc lâm trở về núi Giao ngư. Lúc đó Đề-bà-đạt-đa đến đảnh lễ Phật rồi bạch rằng: “Thế Tôn nay đã già yếu, giáo thọ cho 4 chúng rất nhọc mệt. Thế Tôn nên giao phó đại chúng cho con, con sẽ giáo thọ họ. Thế Tôn nên ít lo nghĩ, thọ hiện pháp lạc trụ trong tịch tĩnh”. Thế Tôn nói: “Đại trí bậc nhất như Xá-lợi-tử, thần thông bậc nhất như Mục Kiền Liên trong số các đệ tử đã chứng quả A-la-hán, ta còn không phó chúc Bí-sô tăng già cho họ, huống chi thầy là người ngu si nuốt đàm dãi của người khác”. Đề-bà-đạt-đa nghe rồi liền suy nghĩ: “hôm nay Thế Tôn khen ngợi Xá-lợi-tử, Mục Kiền Liên mà gọi ta là người ngu si nuốt đàm dãi của người khác”, nghĩ rồi liền phát sanh bảy loại tâm nghịch đối với Thế tôn.
Lúc đó Đề-bà-đạt-đa thở dài buồn bã, gật đầu ba cái rồi đứng dậy đi. Lúc đó A-nan đang đứng quạt hầu cho Phật, Phật bảo A-nan: “thầy hãy đi thông báo cho các Bí-sô trong thành Vương xá đến tụ họp ở giảng đường, tụ họp xong thì báo cho Như lai biết”, A-nan vâng lời Phật dạy đi thông báo, các Tỳ kheo tụ họp xong liền đến bạch Phật tự biết thời. Phật đến giảng đường trải tòa ngồi giữa đại chúng bảo các Tỳ kheo: “này các Tỳ kheo, ở đời có năm loại bậc thầy:
Là bậc thầy không thanh tịnh trì giới mà tự nói là thanh tịnh trì giới, các đệ tử cùng ở chung biết thầy mình không thanh tịnh trì giới mà tự nói là thanh tịnh trì giới, nhưng họ lại nghĩ là nếu chúng ta nói sự thật này thì thầy sẽ không vui, chúng ta cũng không vui; huống chi chúng ta nhờ thầy mà được y thực, ngọa cụ, thuốc thang… thầy chăm lo cho chúng ta thì chúng ta không nên nói gì. Như vậy các đệ tử che giấu, che chở về việc trì giới giúp cho thầy; thầy cũng theo đệ tử cầu được che giấu, che chở về việc trì giới.
Là bậc thầy mạng bất tịnh (nghề nghiệp sinh sống không thanh tịnh mà tự nói là tịnh mạng, các đệ tử cùng ở chung biết thầy mình mạng không thanh tịnh trì mà tự nói là mạng thanh tịnh, nhưng họ lại nghĩ là nếu chúng ta nói sự thật này thì thầy sẽ không vui, chúng ta cũng không vui; huống chi chúng ta nhờ thầy mà được y thực, ngọa cụ, thuốc thang… thầy chăm lo cho chúng ta thì chúng ta không nên nói gì. Như vậy các đệ tử che giấu, che chở về việc tịnh mạng giúp cho thầy; thầy cũng theo đệ tử cầu che chở che giấu về việc tịnh mạng.
Là bậc thầy tri kiến không thanh tịnh mà tự nói là tri kiến thanh tịnh, các đệ tử cùng ở chung biết thầy mình tri kiến không thanh tịnh mà tự nói là tri kiến thanh tịnh, nhưng họ lại nghĩ là nếu chúng ta nói sự thật này thì thầy sẽ không vui, chúng ta cũng không vui; huống chi chúng ta nhờ thầy mà được y thực, ngọa cụ, thuốc thang… thầy chăm lo cho chúng ta thì chúng ta không nên nói gì. Như vậy các đệ tử che giấu, che chở về việc tri kiến thanh tịnh giúp cho thầy; thầy cũng theo đệ tử cầu che giấu, che chở về việc tri kiến thanh tịnh.
Là bậc thầy không khéo ghi nhớ sự việc mà tự nói là khéo ghi nhớ, các đệ tử cùng ở chung biết thầy mình không khéo ghi nhớ sự việc mà tự nói là khéo ghi nhớ, nhưng họ lại nghĩ là nếu chúng ta nói sự thật này thì thầy sẽ không vui, chúng ta cũng không vui; huống chi chúng ta nhờ thầy mà được y thực, ngọa cụ, thuốc thang… thầy chăm lo cho chúng ta thì chúng ta không nên nói gì. Như vậy các đệ tử che giấu, che chở về việc khéo ghi nhớ sự việc giúp cho thầy; thầy cũng theo đệ tử cầu che giấu, che chở về việc khéo ghi nhớ sự việc.
Là bậc thầy không thuyết pháp thanh tịnh mà tự nói là thuyết pháp thanh tịnh, các đệ tử cùng ở chung biết thầy mình không thuyết pháp thanh tịnh mà tự nói là thuyết pháp thanh tịnh, nhưng họ lại nghĩ là nếu chúng ta nói sự thật này thì thầy sẽ không vui, chúng ta cũng không vui; huống chi chúng ta nhờ thầy mà được y thực, ngọa cụ, thuốc thang… thầy chăm lo cho chúng ta thì chúng ta không nên nói gì. Như vậy các đệ tử che giấu, che chở về việc thuyết pháp thanh tịnh giúp cho thầy; thầy cũng theo đệ tử cầu che giấu, che chở về việc thuyết pháp thanh tịnh.
Này các Tỳ kheo, Như lai thanh tịnh trì giới, cũng tự nói là thanh tịnh trì giới. Như lai không cầu đệ tử che giấu hay che chở về việc thanh tịnh trì giới. Như lại là tịnh mạng, cũng tự nói là tịnh mạng; Như lai cũng không cầu đệ tử che giấu hay che chở về tịnh mạng. Như lai có tri kiến thanh tịnh, cũng tự nói ta có tri kiến thanh tịnh ; Như lai không cầu đệ tử che giấu hay che chở về tri kiến thanh tịnh. Như lai khéo ghi nhớ sự việc, cũng tự nói là khéo ghi nhớ sự việc ; Như lai không cầu đệ tử che giấu hay che chở về việc khéo ghi nhớ sự việc. Như lai thuyết pháp thanh tịnh, cũng tự nói là thuyết pháp thanh tịnh ; Như lai không cầu đệ tử che giấu hay che chở về thuyết pháp thanh tịnh. Như lai thật có pháp này và nói như thật; Như lai không cần nhờ đệ tử che chở cho mình. Còn năm hạng bậc thầy trên vì nói dối thế gian, vì tự có tội lỗi nên cần các đệ tử che chở cho mình; nhưng ta thì thường hay quở trách các thầy. Nếu Bí-sô nào chấp nhận sự quở trách của ta thì có thể ở gần ta, thọ pháp của ta; nếu không chấp nhận thì sẽ tự thối lui tan hoại. Ví như thọ gốm đem vật chưa nung bỏ vào lò nung, vật tốt sẽ tự hiện sự chắc thật của mình, vật xấu sẽ bị vỡ, thọ gốm cũng không tiếc rẽ hay lo sợ vì tốt xấu tự hiện. Cũng vậy khi truyền trao giới pháp, ta thường quở trách, người tốt sẽ tự rèn luyện thành chơn chánh, người xấu tự sẽ thối li tan hoại. Do pháp ta nói ra là thanh tịnh nên ta không lo sợ, các thầy nên hiểu rõ”. Phật nói xong rời khỏi chỗ ngồi trở về phòng mình, lúc đó Đềbà-đạt-đa nói với bốn Bí-sô bè đảng trợ giúp: “bốn vị nên cùng giúp tôi phá Tăng già hòa hợp và phá pháp luân tăng của sa môn Kiều-đáp-ma. Nếu thành công thì sau khi chúng ta qua đời tiếng tăm vang khắp mười phương là sa môn Kiều-đáp-ma còn ở đời mà Đề-bà-đạt-đa có đại oai đức, có thế lực đã cùng với bốn bạn đảng đã phá Tăng già hòa hợp và phá pháp luân tăng”. Cô ca lợi ca nói: “nay chúng ta không thể làm được việc này, vì sao?, vì hàng đệ tử Thanh văn của đức Bạc già phạm có đại oai lực, thiên nhãn sáng tỏ, thấu biết tâm của người khác. Sự vật tuy ở xa nhưng họ có thể trông thấy, họ ở gần người khác mà người khác không hay. Việc làm của chúng ta họ đều dự biết trước”. Thiên Thọ nghe rồi nói: “Các vị nên cùng tôi lập bày phương tiện”. Hỏi: “phương tiện như thế nào?”, đáp: “chúng ta trước nên đến chỗ các bậc thượng tọa kỳ niên túc đức cúng dường các tư cụ thượng diệu và cung cấp các vật cần dùng đừng để thiếu thốn. Đối với các Bí-sô niên thiếu chúng ta cũng cung cấp như vậy khiến cho họ hoan hỉ, hoặc cho họ y bát, đãy đựng y bát, dây lưng…, hoặc chỉ dạy họ đọc tụng tác ý tương ưng…”. Nhóm bạn trợ giúp phá tăng này đều khen là phương tiện hay khiến cho Thiên Thọ càng thêm kiêu mạn muốn phá Tăng già. Các Bí-sô biết rõ hành vi tiến thú muốn phá Tăng luân của Thiên Thọ liền đem nhân duyên này bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô: “Các thầy nên can riêng Thiên Thọ, nếu có người nào khác giống như vậy cũng nên can như sau: “Thiên Thọ chớ nên phá hòa hợp Tăng, gây ra việc đấu tranh chấp chặt không bỏ. Thiên Thọ nên cùng Tăng hòa hợp, hoan hỉ không tranh chấp, đồng lòng một lời như nước với sữa, khiến cho giáo pháp của Đại sư được ngời sáng, trụ trong an lạc. Thiên Thọ nên bỏ việc phá tăng”. Các Bí-sô vâng lời Phật dạy đến can riêng Thiên Thọ, văn khuyên can giống như đoạn văn trên. Khi các Bí-sô can riêng như vậy, Đề-bà-đạt-đa chấp chặt việc mình làm không chịu bỏ, nói rằng: “việc này chơn thật, các việc khác đều là hư vọng”. Các Bí-sô liền đem nhơn duyên việc này bạch Phật, Phật bảo các Bísô: “Các thầy nên bạch tứ yết ma đối trong chúng can ngăn, nếu có người nào khác giống như vậy cũng nên can ngăn. Nên trải tọa cụ, đánh kiền chùy trước tác bạch rồi sau tập họp Tăng. Khi Tăng già nhóm họp rồi một Bí-sô tác pháp yết ma, trước tác bạch như sau:
“Đại đức Tăng lắng nghe, Đề-bà-đạt-đa này muốn phá hòa hợp tăng, gây ra việc đấu tranh trụ trong phi pháp. Các Bí-sô đã can riêng nhưng Đềbà-đạt-đa chấp chặt việc mình làm không chịu bỏ, nói rằng: “việc này chơn thật, các việc khác đều là hư vọng”. Nếu Tăng đúng thời đến, Tăng nay chấp thuận bạch tứ yết ma can ngăn việc Đề-bà-đạt-đa làm rằng: “này Đề-bà-đạt-đa , thầy chớ muốn phá hòa hợp tăng, gây ra việc đấu tranh trụ trong phi pháp. Thầy nên cùng Tăng hòa hợp, hoan hỉ không tranh chấp, đồng lòng một lời như nước với sữa, khiến cho giáo pháp của Đại sư được ngời sáng, trụ trong an lạc. Đề-bà-đạt-đa hãy nên bỏ việc phá Tăng”. Bạch như vậy”. Kế tác yết ma như sau:
“Đại đức Tăng lắng nghe, Đề-bà-đạt-đa này muốn phá hòa hợp Tăng, gây ra việc đấu tranh trụ trong phi pháp. Các Bí-sô đã can riêng nhưng Đềbà-đạt-đa chấp chặt việc mình làm không chịu bỏ, nói rằng: “việc này chơn thật, các việc khác đều là hư vọng”. Tăng nay bạch tứ yết ma can ngăn Đềbà-đạt-đa rằng: “này Đề-bà-đạt-đa, thầy chớ muốn phá hòa hợp Tăng, gây ra việc đấu tranh trụ trong phi pháp. Thầy nên cùng tăng già hòa hợp, hoan hỉ không tranh chấp, đồng lòng một lời như nước với sữa, khiến cho giáo pháp của Đại sư được ngời sáng, trụ trong an lạc. Đề-bà-đạt-đa hãy nên bỏ việc phá Tăng”. Nếu các cụ thọ chấp thuận bạch tứ yết ma can ngăn Đề-bà-đạt-đa rằng: “này Đềbà-đạt-đa , thầy chớ nên phá hòa hợp tăng, gây ra việc đấu tranh trụ trong phi pháp. Thầy nên cùng tăng già hòa hợp, hoan hỉ không tranh chấp, đồng lòng một lời như nước với sữa, khiến cho giáo pháp của Đại sư được ngời sáng, trụ trong an lạc. Đề-bà-đạt-đa hãy nên bỏ việc phá tăng” thì im lặng, vị nào không chấp thuận thì nói. Đây là yết ma lần thứ nhất; yết ma lần thứ hai, thứ ba cũng nói như vậy.
Tăng nay đã bạch tứ yết ma can ngăn Đề-bàđạt-đa xong rồi, Tăng chấp thuận vì im lặng. Tôi nay nhớ giữ như vậy.
Các Bí-sô vâng lời Phật dạy bạch tứ yết ma can ngăn Đề-bà-đạt-đa xong rồi, nhưng Đề-bà-đạt-đa vẫn chấp chặt việc mình làm không chịu bỏ nói rằng: “việc này chơn thật, các việc khác đều là hư vọng”. Bốn người bạn trợ giúp Đề-bà-đạt-đa trong việc phá tăng nói với các Bí-sô: “các Đại đức chớ nói Bí-sô kia (Đề bà) là thiện hay ác, vì sao?, vì Bí-sô kia là người nói đúng pháp, là người nói đúng luật, y nơi pháp luật mà nói, biết mới nói, không phải không biết mà nói; điều mà Bí-sô kia ưa thích, tôi cũng ưa thích”, các Bí-sô đem nhân duyên này bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô: “các thấy nên can riêng bốn người bạn trợ giúp Đề-bàđạt-đa phá tăng này, nếu có người nào giống như vậy cũng nên can như sau:
Này các vị Cô ca lý ca, Khiên đồ đạt phiêu, Yết tra mô lạc ca để sái, Tam một đạt la đạt đa nên biết, Bí-sô Thiên thọ muốn phá hòa hợp tăng, gây ra việc đấu tranh trụ trong phi pháp. Các vị chớ tùy thuận trợ giúp phá tăng theo tà bỏ chánh, các vị chớ nói với các Bí-sô rằng: “các Đại đức chớ nói Bí-sô Đề bà thiện hay ác, vì sao?, vì Bí-sô kia là người nói đúng pháp, là người nói đúng luật, y theo pháp luật mà nói, biết mới nói, không phải không biết mà nói; điều mà Bí-sô kia ưa thích, tôi cũng ưa thích”. Này các cụ thọ, Bí-sô kia nói lời phi pháp, phi luật, không nương theo pháp luật mà nói, không biết mà nói, không phải biết mới nói . Các vị chớ nên ưa thích phá hòa hợp tăng, nên ưa thích Tăng hòa hợp. Các vị nên cùng Tăng hòa hợp, hoan hỉ không tranh chấp, đồng lòng một lời như nước với sữa, khiến cho giáo pháp của Đại sư được ngời sáng, trụ trong an lạc. Các vị hãy nên bỏ việc tùy thuận phá hòa hợp tăng.
Các Bí-sô vâng lời Phật dạy can riêng bốn người bạn tùy thuận trợ giúp phá tăng, nhưng bốn người này không chịu nghe lời can ngăn vẫn chấp chặt không bỏ nói rằng: “việc này là chơn thật, các việc khác đều là hư vọng”, các Bí-sô liền đem nhân duyên này bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô: “Các thầy nên bạch tứ yết ma đối trong chúng can ngăn bốn người bạn tùy thuận trợ giúp phá tăng này, nếu có người nào khác giống như vậy cũng nên can. Trước tác bạch như sau:
“Đại đức Tăng lắng nghe, Cô ca lý ca, Khiên đồ đạt Phiêu, Yết tra mô lạc ca để sái , Tam một đạt la đạt đa bốn vị này biết Bí-sô Đề bà muốn phá hòa hợp Tăng, gây ra việc đấu tranh trụ trong phi pháp, mà vẫn tùy thuận trợ giúp làm việc không hòa hợp. Khi các Bí-sô can ngăn, các vị này nói rằng: “các Đại đức chớ nói Bí-sô Đề bà là thiện hay ác, vì sao? Vì Bí-sô kia là người nói đúng pháp, là người nói đúng luật, nương nơi pháp luật mà nói, biết mới nói, không phải không biết mà nói; điều mà Bí-sô kia ưa thích, tôi cũng ưa thích”. Khi các Bí-sô can riêng như vậy, họ vẫn chấp chặt không bỏ nói rằng: “việc này là chơn thật, các việc khác đều là hư vọng”. Nếu tăng đúng thời đến, Tăng nay bạch tứ yết ma can ngăn bốn người Cô ca lý ca… “này Cô ca lý ca… các vị biết Bí-sô kia muốn phá hòa hợp tăng, gây ra việc đấu tranh, trụ trong phi pháp mà vẫn thuận theo Bí-sô kia làm việc không hòa hợp. Khi các Bí-sô can ngăn lại nói với các Bí-sô rằng: các Đại đức đừng nói Bísô kia là thiện hay ác, vì sao? Vì Bí-sô kia là người nói như pháp, như luật, nương nơi pháp luật mà nói, biết mới nói, không phải không biết mà nói; điều mà Bí-sô kia ưa thích, tôi cũng ưa thích”. Nhưng Bí-sô kia là người nói phi pháp, phi luật, nương theo phi pháp phi luật chấp chặt không bỏ, không biết mà nói, không phải biết mới nói. Các cụ thọ chớ ưa thích phá Tăng, nên ưa thích Tăng hòa hợp. Các cụ thọ nên cùng Tăng hòa hợp, hoan hỉ không tranh chấp, đồng lòng một lời như nước với sữa, khiến cho giáo pháp của Đại sư được ngời sáng, trụ trong an lạc. Các cụ thọ hãy bỏ việc tùy thuận phá tăng không hòa hợp. Bạch như vậy. Kế tác yết ma chuẩn theo văn tác bạch mà làm”.
Các Bí-sô vâng lời Phật dạy liền bạch tứ yết ma can ngăn bốn người Cô ca lý ca… nhưng bốn người này vẫn chấp chặt không bỏ nói rằng: “việc này là chơn thật, các việc khác là hư vọng”, các Bí-sô đem nhân duyên này bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô: “Đề-bà-đạt-đa cùng bốn người bạn này thuận theo tà trái bỏ chánh, từ nay về sau phá Tăng già đệ tử hòa hợp của ta và phá pháp luân có uy lực lớn”. Đề-bà-đạt-đa nghe được lời này liền nói: “Sa môn Kiều-đáp-ma đã thọ ký cho ta với các Bísô rằng: Đề-bà-đạt-đa cùng bốn người bạn kia thuận theo tà trái bỏ chánh, từ nay về sau phá tăng già đệ tử hòa hợp của ta và phá pháp luân có uy lực lớn”. Kế nói với bốn người bạn trợ giúp việc phá tăng rằng: “các vị nên biết, sa môn Kiều-đápma đã thọ ký cho ta với các Bí-sô… như trên”. Từ đó Đề bà đối với việc phá tăng càng thêm mạnh mẽ, các Bí-sô nghe rõ sự việc liền bạch Phật, Phật do nhơn duyên này nhóm họp Bí-sô Tăng già hỏi Đề-bà-đạt-đa: “Thầy thật muốn phá Tăng già hòa hợp, gây ra việc đấu tranh, trụ trong phi pháp phải không ?”. Đề-bà-đạt-đa đáp: “Thật vậy, Thế Tôn”. Thế Tôn liền quở trách Đề-bà-đạt-đa: “Việc thầy đã làm không phải là sa môn, không phải hạnh tùy thuận, không phải tịnh hạnh, là việc không nên làm, không phải là việc nên làm của người xuất gia. Bí-sô nào phương tiện phá tăng đều mắc tội Ác tác, khi can ngăn riêng không chịu bỏ cũng phạm Ác tác, khi tác bạch yết ma như pháp, như luật, như lời Phật dạy can, nếu chịu bỏ thì tốt, nếu không chịu bỏ thì khi tác bạch xong phạm tội thô, yết ma lần thứ nhất, lần thứ hai không chịu bỏ cũng phạm tội Thô, lần thứ ba xong không chịu bỏ thì phạm Tăng già bà thi sa”.
Lúc đó Thế Tôn ở nơi tòa ngồi của mình muốn chế học xứ bạn tùy thuận phá tăng cho các đệ tử Thanh văn nên bảo các Bí-sô: “Này các Bí-sô, khoan hãy đứng dậy đi, Tăng già còn một việc”. Thế Tôn liền hỏi bốn người bạn tùy thuận trợ giúp việc phá tăng là Cô ca lý ca…:
“Các thầy thật biết Đề-bà-đạt-đa muốn phá hòa hợp tăng, khởi phương tiện phá tăng lại khuyên gây ra việc đấu tranh, chấp chặt không bỏ. Các thầy cùng làm bạn trợ giúp thuận theo tà trái bỏ chánh và nói với các Bí-sô rằng: “các Đại đức đừng nói Bí-sô Đề Bà là thiện hay ác…”, kế chế học xứ nói đầy đủ như trong Tỳ ni.
Lúc đó cụ thọ Thập lực Ca-diếp dạy đạo pháp thần thông cho Đề-bà-đạt-đa nên các Bí-sô trách, Thập lực Ca-diếp nói: “tôi thật không biết người này ác hạnh, nếu biết thì chữ thần tôi cũng không dạy huống chi là đạo thần thông”. Lại có nhiều Bísô nói với Đề-bà-đạt-đa: “thầy được lợi dưỡng và cúng dường của vua đều là nhờ ân đức của cụ thọ Thập lực Ca-diếp, thầy hãy đến cúng dường vị ấy”, nói như thế là muốn tạo phương tiện cho Thập lực Ca-diếp khuyên can Đề-bà-đạt-đa bỏ tâm ác hành thiện; nhưng Đề-bà-đạt-đa lại nói: “Thập lực Ca-diếp cho ta năng lực gì, đều là do ta ngày đêm thường tinh tấn khổ hạnh nên được Sơ thiền tĩnh lự. Đó là do ta tự cầu, không liên can đến Thập lực Ca-diếp”, vừa nói xong lời vô ân này, Đề-bà-đạtđa liền mất hết thần thông đã có. Các Bí-sô liền đem việc này bạch Phật, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay mà thuở xưa cũng vì nói lời vô ân nên Đề-bà-đạt-đa mất hết thần thông, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa ở thành Bà-la-nê-tư có vua tên là Phạm thọ, trong thành có một người dòng Chiên đà la rất giỏi chú thuật Kiền đà la. Nương vào chú thuật này có thể bay lên không trung, đến núi Hương hái hoa quả kỳ diệu đem về dâng cho vua, khiến vua cung kính hoan hỉ đem một tụ lạc ban cho Chiên đà la này. Lúc đó ở Nam Thiên trúc có một Ma-nạp-bà muốn học chú thuật này nên đến thành Bà-la-nê-tư hỏi thăm ai giỏi chú pháp, có người nói là Chiên đà la, Ma-nạp-bà nghe rồi liền đến chỗ Chiên đà la chắp tay bạch rằng: “con đến đây thừa sự cúng dường thầy để cầu học chú pháp”, Chiên đà la nói kệ:
“Minh chú không cho người,
Phải trao đổi mới cho,
Hoặc là phải thừa sự,
Hoặc là dâng trân bảo,
Nếu không làm như vậy,
Chết cũng không truyền trao”.
Ma-nạp-bà nói: “con không có trân bảo, chỉ có thừa sự thì trong bao lâu mới được học chú thuật”, đáp là trong mười hai năm, Ma-nạp-bà vì muốn học chú thuật nên ở lại hết lòng thừa sự như thế trải qua một năm. Lúc đó Chiên đà la đến nhà bà con dự tiệc uống rượu say đến tối mới về nhà, Manạp-bà suy nghĩ: “thầy đã uống say, đêm nay ta nên hầu hạ chu đáo hơn”, nghĩ rồi liền trải giường tòa cho thầy nằm ngủ. Đêm đó thầy trở mình khiến thanh ngang của giường bị gãy, Ma-nạp-bà suy nghĩ: “thanh ngang của giường bị gãy, thầy sẽ nằm ngủ không yên, ta nên chui xuống giường dùng sống lưng đỡ không cho thanh ngang của giường rơi xuống đất”, nghĩ rồi liền chui xuống giường nằm để đỡ thanh ngang của giường không cho rơi xuống đất. Thường pháp của người say là nếu khỏe mạnh thì sẽ tỉnh vào canh hai, nhưng vì uống quá nhiều nên người thầy vẫn chưa tỉnh và mửa đầy trên người của Ma-nạp-bà. Lúc đó Ma-nạp-bà suy nghĩ: “nếu vì việc này mà ta lên tiếng thì thầy sẽ không ngủ được”, nghĩ rồi liền nằm im chịu trận, đến nữa đêm người thầy tỉnh dậy thấy có người nằm dưới giường liền hỏi là ai, đáp là con, người thầy hỏi rõ nguyên do rồi hoan hỉ nói rằng: “ta rất hài lòng về con, con hãy chui ra và đi tắm rửa sạch sẽ, sáng mai đến đây ta sẽ dạy cho cho chú pháp”. Ma-nạp-bà liền đi tắm rửa, giặt sạch quần áo, sáng hôm sau liền đến chỗ người thầy để học chú pháp. Sau khi học xong, Ma-nạp-bà nôn nóng suy nghĩ: “ta học xong chú pháp này, nay nên thực hành thử”, nghĩ rồi liền hành chú pháp để bay lên không trung, đến núi Hương hái hoa quả đem về dâng cho các đại thần, các đại thần hiến dâng cho vua, vua hỏi có được từ đâu, liền đáp: “có một Ma-nạp-bà người Nam Thiên trúc dâng cho thần, thần dâng cho vua. Ma-nạp-bà này giỏi chú pháp lại thuộc quý tộc, vua nên dùng Manạp-bà này, đừng dùng Chiên đà la nữa, vì Chiên đà la thuộc giai cấp hạ tiện. Vua nên đuổi đi và lấy lại tụ lạc đem cho Ma-nạp-bà”. Vua nghe lời đuổi Chiên đà la và lấy lại tụ lạc đem cho Ma-nạp-bà, Chiên đà la nói: “Ma-nạp-bà này là đệ tử của tôi, chú pháp làm sao hơn tôi được”, vua nghe rồi liền hỏi Ma-nạp-bà: “chú pháp của người là do Chiên đà la truyền dạy phải không?”, Ma-nạp-bà nói:
“Đại vương, do tôi tự khổ hạnh suốt trong một năm mới cầu được chú pháp này, không phải do Chiên đà la cho không”, vừa nói xong lời vô ân này, những pháp đã học đều mất hết hiệu nghiệm. Phật bảo các Bí-sô: “Ma-nạp-bà thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa ngày nay, xưa vì vô ân nên mất hết những pháp đã học, nay vì vô ân nên mất hết thần thông. Các Bí-sô nên biết không được vô ân đối với vị thầy dạy pháp cho mình. Từ nay về sau người vô ân sẽ phạm tội Việt pháp”.
Lúc đó Phật từ thành Vương xá du hành đến núi Già da, Đề-bà-đạt-đa cũng cùng năm trăm Bísô du hành trong nhân gian. Vua A-xà-thế vì yêu mến Đề-bà-đạt-đa nên cho năm trăm cỗ xe chở lương thực đi theo, các Bí-sô gặp giữa đường liền hỏi chở lương thực cho ai, đáp là vua A-xà-thế dâng cúng Đề-bà-đạt-đa. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật và nói: “vua A-xà-thế vô trí cho năm trăm cỗ xe chở lương thực cúng dường cho Đề-bàđạt-đa mà không cúng dường cho Thế tôn”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay vua A-xà-thế vô trí cúng dường cho người vô trí, mà ngày xưa cũng vậy. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa, ở phía Đông nước Thiên trúc có một thôn, cách thôn không xa có một khu rừng với hoa quả tốt tươi và suối trong mát… Trong rừng có năm trăm tiên nhân ở, thường lượm trái cây rụng để ăn và lấy vỏ cây làm y phục; họ thấy trên cây A-ma-lặc đầy quả trĩu nặng với nhiều quả sắp chín nên đến xin thần cây, thần cây xẻn tiếc nên không cho trái rụng xuống. Các tiên nhân thấy vậy liền để một vị ở lại trông chừng, các vị khác đến các cây khác xin; lúc đó có năm trăm giặc cướp vào trong rừng, thấy cây đầy trái liền nói với nhau: “chúng ta làm cách nào để ăn được trái cây này”, chúa giặc nói: “các ông lấy rìu đốn ngã cây này làm cho trái rụng xuống để lấy ăn”. Thần cây nghe chúa giặc nói như thế liền lo sợ nên lay động thân mình khiến cho trái cây rơi xuống, bọn cướp xúm lại lượm trái cây ăn xong rồi bỏ đi. Các tiên nhân trở lại thấy trái cây đã rụng hết liền hỏi vị tiên ở lại trông chừng: “ai đã ăn hết trái trên cây?”, vị tiên này kể lại sự việc trên, các tiên nhân trách thần cây: “ngươi thật vô trí, không cho người thiện trái cây lại cho người ác ăn hết”.
Phật bảo các Bí-sô: “thần cây vô trí thuở xưa chính là vua A-xà-thế ngày nay, chúa giặc thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa ngày nay. Thuở xưa vô trí cho người ác ăn hết trái cây, không cho người thiện; nay vô trí cúng dường nhiều ẩm thực cho Đề-bà-đạt-đa mà không cúng dường cho Bí-sô thanh tịnh”.
Lúc đó Phật cùng đại chúng Bí-sô từ nước Makiệt-đà du hành đến thành Vương xá trụ ở vườn trúc Yết lan đạc ca. Do Đề-bà-đạt-đa ở tại thành này làm nhiều việc phi pháp nên dân trong thành đến bạch Phật, Phật bảo A-nan: “thầy hãy dẫn theo một Bí-sô vào trong thành Vương xá nơi ngã tư đường ; gặp bất cứ Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ đều nên nói rằng: “nếu Đề-bà-đạt-đa và các bạn đảng làm việc phi pháp, tạo tội lỗi gì thì các vị không nên phỉ báng Phật pháp tăng, vì sao, vì thầy ấy không còn hành theo Pháp Phật nữa. Nếu có ai nói Đề-bà-đạt-đa có thần thông oai đức thì các vị nên nói với họ rằng: trước đây Đề-bà-đạt-đa có thần thông nhưng nay đã mất hết”, A-nan vâng lời Phật dạy vào trong thành Vương xá thông báo cho mọi người biết như trên rồi nói: “từ nay về sau, Đề-bà-đạt-đa có làm việc phi pháp gì, các vị đừng nên đến nói với Phật nữa”. Lúc đó Phật hiện thân có bịnh, Y vương Thị-phược-ca điều chế thuốc cho Phật uống có tên là Na la nhã, Phật nói: “thuốc này không thể nghĩ bàn”, Thị-phược-ca cũng nói là không thể nghĩ bàn, Phật nói: “rất không thể nghĩ bàn”, Thị-phược-ca cũng nói là rất không thể nghĩ bàn, Phật lại hỏi: “ông có thể biết hay không?”, Thị-phược-ca đáp là biết, Phật lại hỏi: “ông thật biết phải không?”, Thị-phược-ca đáp là thật không biết, Phật lại hỏi: “cái gì không thể nghĩ bàn?”, đáp: “bò ăn cỏ nước có thể sanh ra chất cam lồ, chất Tô này điều chế thành thuốc Na la nhã rất vi diệu”, Phật lại hỏi: “cái gì rất không thể nghĩ bàn ?”, đáp: “Phật ra đời thuyết giảng diệu pháp, có thể làm cho Tăng chúng hành theo giáo pháp, việc này rất không thể nghĩ bàn”, Phật lại hỏi: “ông có thể biết việc gì?”, đáp: “tất cả đều sẽ chết, trừ Phật ra, không ai thoát khỏi”, Phật lại hỏi: “ông thật không biết việc gì?”, đáp: “con biết người sẽ chết nhưng thật không biết họ sẽ về đâu”. Lúc đó các Bí-sô có nghi thỉnh hỏi Phật: “vì sao Thịphược-ca lại hiểu rõ ý Phật?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay mà thuở xa xưa Thị-phược-ca cũng hiểu rõ ý Phật. Các thầy lắng nghe: Thuở xưa, trong một thôn có trưởng giả tên là Thiện hữu rất giàu có, sau đó cưới vợ và không bao lâu sau người vợ sanh một bé gái. Đến hai mươi mốt ngày, ông mở tiệc ăn mừng và đặt tên cho bé gái là Thiện hạnh ; thời gian sau lại sanh một bé trai nữa và đặt tên là Thiện đức. Lúc đó trưởng giả suy nghĩ: “nay ta đã có con, ta nên đi buôn bán ; nếu ta đi buôn bán mà để lại nhiều tiền của thì sợ vợ ta sẽ tiêu xài hết”, nghĩ rồi liền để lại cho vợ một ít tiền của, một ít mang đi buôn bán, còn lại những châu ngọc quý giá ông đều đựng trong một bình vàng rồi đem chôn dưới gốc cây Mã nhĩ trong rừng. Đến nơi khác buôn bán một thời gian thu lợi được gấp đôi, ông liền cưới thêm vợ và có thêm nhiều con. Lúc đó con của người vợ trước đã trưởng thành liền hỏi mẹ về người cha, người mẹ nói: “nghe nói cha con ở tại thành----giàu có và sống rất an ổn. Con hãy đến đó, nếu cha con gặp và nhận ra nhau thì cha con sẽ giúp đỡ cho con”, người con nghe rồi liền đi tìm cha. Khi cha con gặp nhau, người cha liền nhận ra ngay và hỏi: “con từ đâu đến và định đi đâu”, người con đem việc trên kể lại, người cha nghe rồi liền dẫn con về nhà và dặn đừng nói là con. Người con về nhà ở bên người cha, người cha càng thương yêu hơn nên con của người vợ sau hỏi là ai, người cha nói dối là con của người bạn. Vì thấy người cha thương yêu người con kia nên con của người vợ sau sợ người con kia đến chiếm đoạt tài sản của họ. Lúc đó người cha suy nghĩ: “ta hãy cho đứa con này tiền của rồi bảo nó trở về, nếu không những đứa con của người vợ sau sẽ ganh ghét và làm hại nó. Nếu ta cho nó tiền của lại sợ vì tiền của này nó cũng sẽ bị giết hại”, nghĩ rồi ông liền viết một lá thư trao cho con và bảo nó trở về. Những người con kia chạn đường hỏi người cha đã đưa cho cái gì, đáp là một lá thư, thấy chỉ là một lá thư nên họ để cho người con này tùy ý được trở về. Về đến nhà người mẹ hỏi người cha đã cho cái gì, đáp là một bức thư, người mẹ nói: “cha con là người lứa dối không tốt, ông ta sẽ bị khổ đau”, người con nói: “cha là người có trí huệ, mẹ không nên nói thế”, người con liền đọc thư và ngẩm nghĩ ý nghĩa của nó, sau khi hiểu được liền đến chỗ người cha đã chôn cái bình vàng trước kia, đào lên rồi mang về nhà và trở thành người giàu có từ đó.
Phật bảo các Bí-sô: “người cha thuở xưa chính là thân ta ngày nay, người con thuở xưa chính là Thị-phược-ca ngày nay. Thuở xưa ta dùng phương tiện chỉ chỗ chôn giấu của cải, ông ấy hiểu được ý ta và ngày nay cũng vậy”, lúc đó Thị-phược-ca suy nghĩ: “thân Phật là kim cang, nếu dùng chút ít Tô thì không đủ, phải dùng hai cân mới đủ”, nghĩ rồi liền lấy hai cân Thục tô cho Phật ăn. Đề-bà-đạt-đa thấy rồi cũng muốn ăn Tô như Phật liền hỏi Thịphược-ca: “Sa môn Kiều-đáp-ma ăn bao nhiêu Thục tô?”, đáp là hai cân Tô, Đề-bà-đạt-đa liền nói: “ta cũng muốn ăn hai cân Tô”, Thị-phược-ca nói: “thân Phật là kim cang nên có thể dùng hai cân, thầy làm sao có thể tiêu hóa được?”, Đề-bàđạt-đa nói: “thân ta cũng là kim cang, làm sao không thể tiêu hóa được”, nói rồi liền ăn hai cân Tô. Sáng hôm sau Phật tiêu hóa hết chất tô nên Thị-phược-ca mang cháo đến cho Phật ăn, Đề-bàđạt-đa chưa tiêu hóa hết chất tô lại ăn thêm cháo nữa nên bị đau bụng dữ dội, chịu không nổi nên kêu la. A-nan khởi lòng thương đem việc này bạch Phật, Phật nghe rồi liền duỗi cánh tay có tướng thiên bức luân, trăm phước trang nghiêm xuyên qua vách núi xoa lên đảnh đầu của Đề-bà-đạt-đa rồi bảo các Bí-sô: “đối với Đề-bà-đạt-đa và Lahầu-la nếu ta có tâm bình đẳng không sai khác thì khiến cho tất cả nổi đau đớn của Đề-bà-đạt-đa đều được tiêu trừ”, Phật vừa nói xong, Đề-bà-đạt-đa liền hết đau. Lúc đó Đề-bà-đạt-đa mới biết là Phật đang xoa đầu mình, do từ vô lượng kiếp đến nay, Đề-bà-đạt-đa thường ôm lòng oán thù đối với Phật, nên tuy biết nhờ oai lực của Phật mà mình được hết đau đớn, nhưng vẫn cố chấp nói rằng: “Tất-đạt-đa khéo học được pháp chữa bịnh như thế, nhờ pháp ấy mà ta được cứu”. Lúc đó từ bốn phía đều phát ra âm thanh: “Thế tôn đã dùng lời thành thật để cứu Đề-bà-đạt-đa thoát khỏi đau đớn”, mọi người và ngay cả các bạn đảng của Đềbà-đạt-đa nghe lời nói này đều vui mừng ca ngợi: “thần lực của Thế tôn thật kỳ diệu không thể nghĩ bàn”. Các Bí-sô đến nói với Đề-bà-đạt-đa: “nếu Phật không cứu thì chắc ông sẽ chết”, Đề-bà-đạtđa nói: “Phật biết thuật hay, muốn mọi người theo về mình nên mới làm việc này”, các Bí-sô nói: “chớ nói lời này, hãy nên im lặng quán sát tự tâm xem có phải là Phật đã cứu thầy hay không?”, Đềbà-đạt-đa nói: “không can hệ gì đến việc cứu hay không cứu, hễ chất tô tiêu hóa thì đau đớn liền tiêu trừ”, các Bí-sô biết Đề-bà-đạt-đa là người vô ân nên đến bạch Phật: “Thế tôn đã đại từ bi cứu thầy ấy mà thầy ấy lại vô ân, không báo ân”.
Phật bảo các Bí-sô: “không phải chỉ ngày nay mà ngày xưa, Đề-bà-đạt-đa cũng đã không biết ân, không báo ân. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có một thôn, cách thôn không xa có một khu rừng lớn, hoa quả sum suê, có suối trong… tiên Kiều thi ca ở trong rừng này, hằng ngày ăn trái cây rụng, mặc áo vỏ cây, do tâm từ bi nên các loài cầm thú đều đến nương tựa. Lúc đó có con voi mẹ đang sanh con, bỗng nghe tiếng sư tử gầm, sợ đến nổi vãi phân và nước tiểu nên bỏ voi con ở đó bỏ chạy mất. Tiên nhân đi lượm trái cây rụng nhìn thấy voi con này, biết nó lạc mẹ nên khởi tâm từ bi cố tìm voi mẹ cho nó nhưng tìm không ra. Tiên nhân liền dẫn voi con về nuôi dưỡng, voi lớn dần và phá hoại hoa trái nơi tiên ở, tiên giận quở trách nên voi ngừng phá. Voi cáng lớn càng hung dữ, phá hoại cây rừng, dù tiên quở trách voi cũng không chịu nghe lời, lại còn sanh tâm làm hại tiên; tiên chạy vào trong thất, voi dùng vòi quật tiên và làm sập nửa căn nhà rồi bỏ đi.
Phật bảo các Bí-sô: “tiên nhân thuở xưa chính là thân ta ngày nay, con voi dữ chính là Đề-bà-đạtđa. Thuở xưa không biết ân, không báo ân và nay cũng vậy. Đề-bà-đạt-đa lại có hành động vô ân, không báo ân, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có vua tên là Đại đế thích quân, đất nước phồn thịnh, dân chúng sống an vui. Vua có phu nhân tên là Nguyệt quang, hễ nằm mộng thấy việc gì đều có thật. Lúc đó Bồtát hiện thân làm Nai chúa có thân màu hoàng kim tuyệt đẹp, nhìn không thấy chán; do biết mình tuyệt đẹp nên Nai rất sợ thợ săn săn đuổi, thường tự giấu mình. Thuở đó cầm thú có thể hiểu tiếng nói của nhau, có một con chim vừa gặp Nai chúa liền yêu mến, nó hỏi: “vì sao Nai ăn cỏ với dáng vẻ lo sợ như vậy?”, Nai đáp: “vì tôi có sắc hoàng kim tuyệt đẹp nên rất sợ thợ săn giết hại, dù khi đang ăn cỏ cũng sanh tâm lo sợ”, chim nói: “ban đêm tôi cũng sợ chim cú, từ nay về sau chúng ta bảo vệ lẫn nhau. Ban ngày tôi đậu ở trên cây nếu thấy có việc gì sẽ báo cho Nai biết, ban đêm Nai nếu thấy có việc gì thì báo cho tôi biết”. Cạnh khu rừng có một con sông, lúc đó có hai kẻ thù gặp nhau, một người khỏe mạnh hơn bắt trói người kia ném xuống con sông này, người kia bị nước cuốn trôi liền kêu lớn : “ai cứu được tôi, tôi sẽ làm nô lệ cho người đó”. Nai chúa cùng năm trăm quyến thuộc đang uống nước bên bờ sông, nghe tiếng kêu này liền khởi từ bi định xuống sông cứu. Chim nói: “người đầu đen này không biết ân nghĩa, không nên cứu; nếu cứu e người đó sẽ hại Nai chúa”, do từ bi nên Nai không nghe lời chim, xuống sông bơi đến chỗ người bị chìm cứu vớt lên bờ, dùng miệng cởi trói cho rồi đợi đến khi tỉnh, Nai chỉ cho người đó đường về. Người bị chìm này quỳ xuống chắp tay nói: “tôi được ân nhân cứu sống, xin được ở lại làm nô lệ để báo ân sâu”, Nai chúa nói kệ:
“Không cần làm nô lệ,
Cũng không cần hầu hạ,
Chỉ đừng nói gặp ta,
Vì sợ họ lột da”
Chỉ cần ông đừng nói có gặp tôi là đã báo ân tôi rồi, vì sao, vì thân tôi có sắc hoàng kim tuyệt đẹp, nếu thợ săn biết sẽ tìm cách giết tôi để lấy da”. Người bị chìm nói: “xin nghe theo lời của ân nhân, tôi nhất định không nói”, nói rồi đứng dậy hữu nhiễu Nai chúa ba vòng rồi đi. Lúc đó phu nhân Nguyệt quang sau khi thọ dục lạc xong mệt mỏi nằm ngủ, trong mộng thấy Nai chúa thân sắc hoàng kim tuyệt đẹp đang ngồi trên tòa sư tử thuyết pháp sâu xa cho vua và dân chúng nghe. Tỉnh dậy liền kể việc trong mộng cho vua nghe, vua nghe rồi suy nghĩ: “làm gì có việc Nai ngồi trên tòa sư tử thuyết pháp cho mọi người nghe”, phu nhân dịu dàng nói những lời làm vui lòng vua, khi thấy vua hoan hỉ, bà liền ân cần cầu xin vua tìm kiếm Nai có thân sắc hoàng kim cho bà. Vua liền ra lịnh thợ săn trong nước tập họp đến trong cung và hỏi họ: “ta nghe trong nước có con Nai thân sắc hoàng kim, các ông có nhìn thấy không; nếu thấy thì hãy bắt lấy nó, dùng dây mềm trói lại, đừng làm nó bị thương rồi dẫn đến chỗ ta”, các thợ săn nói: “chúng thần săn bắn đã nhiều năm nhưng chưa từng thấy có Nai như vậy, vua nghe nói nó ở nơi nào, chúng thần sẽ đến đó bắt cho vua”. Vua liền ra lịnh đánh trống thông báo trong dân chúng, ai thấy biết Nai có thân sắc hoàng kim ở nơi nào, đến báo cho vua sẽ được thưởng năm trăm tụ lạc. Lúc đó người bị chìm trước kia nghe tin này rồi suy nghĩ: “ta nay nghèo khổ rất muốn được trọng thưởng, nhưng vì báo ân nên không thể nói”.
Phật bảo các Bí-sô: “thường tình hễ hữu tình bị năm dục trói buộc thì không có việc ác gì mà không làm”.
Do lòng tham thúc đẩy, người bị chìm trước kia lại nghĩ: “nay ta phải bội ân báo oán thì mới không còn nghèo khổ nữa”, nghĩ rồi liền đến cung vua, nói với người giữ cửa là muốn báo cho vua biết chỗ ở của Nai có thân sắc hoàng kim. Vua nghe rồi liền tập họp quần thần và dẫn theo binh lính, dân trong nước thấy vua xa giá đến chỗ Nai cũng đều đi theo. Lúc đó con chim bạn của Nai chúa ở trên cây từ xa thấy đám đông người đi đến chỗ Nai liền bay xuống báo cho Nai biết: “người bị chìm trước đây là kẻ bội ân, vậy mà Nai không chịu nghe lời tôi”, nai chúa hỏi nguyên do, chim nói: “người ấy đã dẫn vua và binh lính đến vây bắt Nai đấy”. Nghe tiếng của đám đông người, ngàn con nai quyến thuộc của Nai chúa đều bỏ chạy tán loạn, Nai chúa suy nghĩ: “nếu ta bỏ chạy, binh lính sẽ tìm kiếm và sẽ giết quyến thuộc của ta, ta thà chết để chúng được sống”, nghĩ rồi liền đi đến trước vua. Trông thấy Nai chúa, người bị chìm trước kia liền giơ tay chỉ và nói với vua: “Nai chúa có thân sắc hoàng kim đang đi đến”.
Phật bảo các Bí-sô: “Nếu chúng sanh tạo nghiệp ác thì không cần đợi đến kiếp sau mới chịu quả báo mà thọ báo hiện tiền”.
Do vô ân lại tạo nghiệp ác nên người bị chìm trước kia vừa dùng tay chỉ, tay liền rụng xuống đất. Vua thấy rồi liền hỏi rõ nguyên do, người bị chìm trước kia đau đớn nói kệ:
“Người khoét vách ăn trộm,
Chưa thật gọi là trộm,
Có ân mà không báo,
Mới thật gọi là trộm”.
Vua nghe kệ rồi hỏi: “bài kệ này có ý nghĩa gì, ta không hiểu?”, người bị chìm đem sự việc trước kia kể lại cho vua nghe, vua nghe rồi liền nói kệ:
“Bị chìm vô ân,
Vì sao thân ngươi,
Không vào địa ngục.
Vì sao lưỡi ngươi,
Không nát trăm mảnh.
Sao thần Kim cang,
Tay cầm dao gậy,
Không giết hại ngươi.
Tất cả quỷ thần,
Sao không đánh ngươi.
Ngươi đã bội ân,
Sao chịu báo nhỏ?”
Biết Nai chúa là đại Bồ-tát có đại oai đức nên vua bảo quần thần: “hãy mở hội cúng dường Nai chúa, các khanh hãy trở về cho người quét dọn sạch sẽ đường đi, treo phan phướn năm sắc và rãi các hương thơm để nghinh đón ta và Nai chúa vào thành”, quần thần làm theo lời vua bảo. Lúc đó vua để Nai chúa đi trước, mình và các đại thần đi sau, khi vào thành, vua cho đặt một tòa sư tử ngay trước cửa cung rồi thỉnh Nai chúa ngồi lên; vua, phu nhân, thể nữ, vương tử, quần thân và dân chúng ngồi vây quanh, Nai chúa liền nói diệu pháp. Sau khi nghe pháp xong, vua và đại chúng thỉnh Nai chúa truyền trao năm giới; thấy tất cả hữu tình đều hướng về giác ngộ, vua hoan hỉ nói với Nai chúa: “xin cúng dường Nai chúa vùng núi rừng và đồng cỏ nơi Nai chúa ở. Từ nay về sau tôi sẽ dứt hẳn việc sát sanh và ra lịnh cho dân chúng trong nước không được đi săn nữa. Nguyện cho các hữu tình khắp mọi nơi đều không còn lo sợ”. Phật bảo các Bí-sô: “Nai chúa thuở xưa chính là thân ta ngày nay, kẻ bị chìm vô ân thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa; thuở xưa vô ân và nay cũng vậy. Đề-bà-đạt-đa lại có hành động vô ân, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa trong một tụ lạc thuộc vùng biên của thành Bà-la-nê-tư, có một người làm nghề kết vòng hoa ; bên tụ lạc có một con sông, hằng ngày người này phải qua bên kia sông hái hoa mang về để kết vòng hoa. Hôm đó, khi sắp qua sông, ông lượm được một trái xoài trái mùa trôi trên sông và đem cho người giữ cửa thành, người này lại đem cho trong cung, người trong cung này lại đem dâng cho vua, vua lại đem cho vương phi. Vương phi ăn rồi khen ngon lại theo vua xin nữa, vua hỏi người trong cung kia đã được trái ấy từ đâu, đáp là từ người giữ cửa thành, vua lại hỏi người giữ cửa thành đã được trái đó từ đâu, đáp là từ người kết vòng hoa, vua lại cho gọi người kết vòng hoa đến hỏi đã được trái đó từ đâu, đáp: “thần lượm được trong sông”, vua nói: “khanh hãy đến đó tìm kiếm thêm trái đó mang về đây”. Người kết vòng hoa vâng lịnh vua mang theo lương thực đến đó, đi theo dòng nước chảy tìm kiếm đến một ngọn núi cao và thấy cây trái đó mọc trên vách núi.
Vách núi cheo leo, khỉ vượn còn không leo lên tới huống chi con người; sau nhiều ngày tìm kiếm đường đi lên, lương thực cũng hết, người kết vòng hoa suy nghĩ: “ta vâng lịnh vua tìm trái cây đó, nếu không lấy được thì làm sao trở về”. Vì muốn lấy cho được trái cây ấy mang về nên không tiếc thân mạng, dùng tay bám vào vách núi cheo leo để leo lên, chưa leo tới chỗ cây đó thì đã rớt xuống một vực sâu ở bên dưới. Lúc đó Bồ-tát mang thân vượn chúa đang đi ở dưới khe núi, thấy người này rớt xuống liền khởi tâm cứu vớt, liền tự lấy một tảng đá lớn có trọng lượng bằng con người vác trên lưng rồi tập vận chuyển lên xuống. Khi biết sức mình có thể, vượn chúa xuống vực sâu cõng người đó lên; sau khi lên khỏi vực sâu thì vượn chúa mệt nhoài. Thuở đó loài cầm thú nói được tiếng người, vượn chúa hỏi người kết vòng hoa vì sao bị rớt xuống vực, người này đem sự việc trên kể lại, vượn chúa nghe rồi suy nghĩ: “nếu người này không hái được trái ấy sẽ bị vua bắt tội, ta nên hài giùm cho anh ta”. Vượn chúa tuy đã mệt nhoài nhưng vẫn cố gắng leo lên cây ở trên vách núi cheo leo đó hái trái quăng xuống cho người kết vòng hoa; người này sau khi ăn no rồi dùng vạt áo đựng những trái còn lại để mang về cho vua. Lúc đó vượn chúa trở xuống nói với người này rằng: “tôi rất mỏi mệt cần phải ngủ một lát, anh hãy canh chừng cho tôi ngủ”, liền đáp là sẽ canh chừng nhưng khi vượn chúa ngủ thì người này suy nghĩ: “lương thực mang theo đã hết, những trái còn lại này ta không thể ăn; ta nên giết con vượn này lấy thịt phơi khô để làm lương thực đi đường thì mới có thể trở về được”, nghĩ rồi liền rinh một tảng đá lớn đập vào đầu vượn làm cho xương tủy đều nát tan và vượn chết. Lúc đó thiên thần trên không trung thấy việc này rồi liền nói kệ:
“Thừa sự cung kính,
Giống như bạn lành,
Có người như vậy,
Lại không báo ân”.
Phật bảo các Bí-sô: “vượn chúa thuở xưa chính là thân ta, người kết vòng hoa chính là Đề-bà-đạtđa; thuở xưa đã không báo ân, ngày nay cũng vậy. Đề-bà-đạt-đa còn có hành động vô ân, không báo ân; các thầy lắng nghe:
Thuở xưa trong một rừng núi với đủ loại hoa quả, có chim tên là Gõ cây, lại có một sư tử chúa thường bắt nai ăn thịt. Một hôm, sư tử chúa bắt giết nai ăn thịt và bị mắc xương ở cổ họng, không làm sao lấy ra được, cũng không thể ăn gì được trong một thời gian dài nên sư tử chúa trở nên gầy yếu và đói khát. Chim Gõ cây thấy vậy liền hỏi nguyên do, sư tử kể lại sự việc, chim nói: “tôi sẽ chữa khỏi cho Ngài, Ngài là vua của loài thú, Ngài có thể báo ân tôi bằng cách hằng ngày cung cấp thức ăn cho tôi được không?”, sư tử chúa nhận lời, chim suy nghĩ: “ta đợi lúc ông ta ngủ mới lấy xương ra trước rồi sẽ cho ông ta biết sau”, nghĩ rồi chim liền bay đi tìm thức ăn. Lúc đó gặp gió mát thổi, sư tử liền ngủ ngon lành, chim liền ngậm khúc cây vạch miệng sư tử ra xem rồi chui vào gắp khúc xương ra. Một lát sau, sư tử tỉnh dậy liền phát hiện khúc xương trong cổ họng đã được lấy ra rồi, không còn đau đớn nữa. Nó liền ngồi dậy uốn thân mình, chìm liền từ trên cây bay xuống đưa khúc xương cho sư tử xem và nói: “mọi đau đớn của Ngài đều do khúc xương này”, sư tử nói: “ta bị đau đớn đã lâu, nay mới được khỏi ; từ nay ta sẽ cung cấp cho chim , vì vậy hằng ngày chim hãy đến đây”, chim nghe rồi vui mừng bay đi. Thời gian sau, khi sư tử đang ăn, chim Gõ cây bị chim cắt rượt đuổi liền bay đến chỗ sư tử xin thức ăn, sư tử nói kệ:
“Ta làm việc giết hại,
Tánh ác, hạnh cũng ác,
Răng ta rất bén nhọn,
Vào miệng ta ra được,
Nên phải tự vui mừng,
Sao còn đòi gì nữa?”.
Chim nghe rồi liền nói kệ:
“Vật rơi xuống biển mất,
Mộng tỉnh dậy liền mất,
Hầu người ác cũng mất.
Giúp đỡ kẻ vô ân,
Đó mới là mất nhiều,
Tôi theo Ngài đòi gì”.
Nói xong, chim liền bay đi.
Phật bảo các Bí-sô: “chim Gõ cây thuở xưa chính là thân ta ngày nay, sư tử chúa chính là Đềbà-đạt-đa; thuở xưa vô ân, ngày nay cũng vậy. Đềbà-đạt-đa lại có hành động vô ân, không báo ân. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có một người nghèo thường đi kiếm củi bán để sinh sống. Một hôm, người này mang dây và búa đến bìa rừng định chặt cây lấy củi, bỗng gặp mưa bão trái mùa, bảy ngày chưa dứt. Để tránh mưa bão, người này đi đến bên vách núi và thấy một cái hang, vừa chui vào hang liền thấy một con gấu ở trong đó, anh hoảng sợ bỏ chạy ra. Gấu thấy vậy liền bảo đừng sợ, tuy nghe gấu nói như vậy, anh ta vẫn sợ, đứng yên không dám nhúc nhích; gầu liền nhấc lấy anh đưa vào trong hang, đưa trái cây cho anh ta ăn như vậy suốt bảy ngày mưa bão. Đến ngày thứ tám, gấu ra ngoài hang xem thấy mưa bão đã dứt liền đưa thêm trái cây cho anh ta mang về nhà. Anh quỳ xuống chắp tay nói: “nhờ ân nhân cứu giúp nên tôi mới sống sót, tôi biết lấy gì đền ân”, gấu nói: “chỉ cần anh đừng nói cho ai biết đã gặp tôi ở đây, tức là đã đền ân tôi rồi”, anh hữu nhiễu một vòng rồi nói: “trọn đời tôi sẽ không nói cho ai biết”, nói rồi liền đi. Về đến trong thành, anh gặp một thợ săn quen biết, thợ săn nói: “mấy ngày nay không thấy anh trở về, gia đình anh đều cho là anh bị mưa bão cuốn đi hoặc bị hổ ăn thịt đã chết rồi, anh do đâu được sống sót?”, người này liền kể lại sự việc đã qua. Thợ săn nghe rồi liền hỏi: “gấu hiện đang ở trong hang núi nào, anh hãy chỉ cho tôi”, người này nói: “tôi nhờ gấu mới sống sót, tôi không thể chỉ cho anh”, thợ săn liền dùng lời khuyến dụ: “nếu tôi giết được gấu, tôi chỉ lấy một phần, còn tất cả đều cho anh”. Người này nghe rồi liền sanh tâm tham, dẫn thợ săn đến chỗ gấu ở, thợ săn biết chỗ rồi liền chất củi ở cửa hang đốt, gấu ở trong hang bị lửa thiêu, khi sắp chết liền nói kệ:
“Ta sống trong núi này,
Không hại một người nào,
Chỉ ăn toàn trái cây,
Thường sanh tâm từ bi.
Nay ta sắp chết thiêu,
Biết phải làm sao đây,
Tự nhớ nghiệp quá khứ,
Thiện ác nay thọ báo”.
Nói kệ xong liền qua đời, thợ săn biết gấu đã chết liền lột lấy da rồi chia làm ba phần, mình lấy một phần, đưa hai phần cho người kiếm củi. Người này vừa đưa tay nhận lấy thì hai tay liền rụng xuống, thợ săn thấy việc này rồi không dám lấy phần kia liền trở về trong thành kể lại cho mọi người nghe. Vua nghe biết việc này liền đích thân đến xem rồi mang tấm da gấu vào trong chùa, đánh kiểng tập họp Tăng rồi để tấm da gấu trước Tăng và kể lại việc trên. Thượng tòa trụ trì đã chứng quả A-la-hán liền nói kệ:
“Đại vương nay nên biết,
Đây không phải thân gấu,
Mà là thân Bồ-tát,
Sẽ được quả vô thượng,
Ba đời nên cúng dường,
Đại vương hãy xây tháp”
Vua nghe rồi liền bảo quần thần xây tháp ở chỗ gấu bị thiêu chết, dùng hoa hương, phan lọng năm sắc để cúng dường, mỗi năm một lần. Tất cả dân chúng, ai đến đảnh lễ cúng dường tháp đều được sanh thiên.
Phật bảo các Bí-sô: “con gấu thuở xưa chính là thân ta ngày nay, người kiếm củi chính là Đề-bàđạt-đa; thuở xưa không biết ân, không báo ân, ngày nay cũng vậy. Đề-bà-đạt-đa lại có hành động vô ân, không báo ân. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có một người nghèo thường đi kiếm củi bán để sinh sống. Một hôm, người này mang dây và búa đến bìa rừng định chặt cây lấy củi bỗng gặp con cọp; anh kinh sợ leo lên cây cao, không ngờ trên cây lại có một con gấu. Gấu thấy anh kinh sợ liền bảo đừng sợ rồi nhấc lấy anh để ở chỗ an ổn, lúc đó cọp ở dưới gốc cây bảo gấu: “đó là chúng sanh vô ân, sau sẽ hại ngươi; ngươi không nên bảo vệ nó, hãy xô nó xuống đây cho ta ăn thịt. Ta không được thức ăn sẽ không đi đâu”.
Phật bảo các Bí-sô: “thường tình của thế gian là nếu ai nương tựa mình thì mình liền bảo vệ, huống chi Bồ-tát có người nương tựa mà mình lại không bảo vệ hay sao”
Lúc đó gấu nói: “người này nương cậy ta, ta không thể thất tín”, cọp vì đói nên không được thức ăn thì không chịu đi, gấu ôm giữ người nay một hồi cảm thấy mệt nên nói: “tôi cảm thấy mệt muốn ngủ một lát, anh nên tự cảnh giác và canh chừng cho tôi”, nói rồi liền dựa vào người này ngủ và nghĩ rằng: “một lát tỉnh dậy, ta sẽ nói mười bài kệ pháp cho người này nghe”. Lúc đó, cọp bảo người kiếm củi : “anh có thể ở mãi trên cây được bao lâu, anh nên xô con gấu xuống đây, ta ăn no rồi sẽ đi và sẽ không hại anh, để anh được về nhà”, người này nghe rồi liền khởi niệm ác: “như lời cọp nói ta không thể ở mãi trên cây”, nghĩ rồi liền xô gấu xuống. Rơi sắp tới đất, gấu liền tỉnh dậy buột miệng nói ra mười chữ, nói vừa xong thì chạm đất và bị cọp ăn thịt. Người trên cây nghe xong mười chữ này biết là pháp bí mật của gấu muốn nói cho mình biết; vì mất pháp tham cầu không được, sanh phiền não nên tâm ý cuồng loạn, vừa chạy vừa nói ra mười chữ này. Thân thuộc thấy vậy liền mời thầy thuốc chạy chữa đều không khỏi bịnh. Ở cách thành Bà-la-nê-tư không xa có một khu rừng với nhiều hoa quả nên chim chóc các nơi đều tụ họp về đây. Trong rừng có một tiên nhân đã chứng ngũ thông, thân thuộc của người kiếm củi liền dẫn anh ta đến chỗ tiên nhân, đảnh lễ rồi bạch rằng: “anh này điên cuồng tâm loạn, miệng chỉ nói ra mười chữ, không nói gì khác, chúng con không biết phải chữa trị như thế nào”, tiên nhân nói: “người này tạo ác, vô ân đã xô Bồ-tát xuống cho cọp ăn thịt ; khi sắp rơi tới đất bị cọp ăn thịt, Bồ-tát đã nói ra mười chữ này, người này nghe xong liền trở nên điên cuồng như thế”, thân thuộc của người này hỏi: “ý nghĩa của mười chữ này như thế nào?”, tiên nhân liền giải thích cho họ hiểu.
Phật bảo các Bí-sô: “con gấu thuở xưa chính là thân ta ngày nay, người kiếm củi chính là Đề-bàđạt-đa; thuở xưa không biết ân, không báo ân, ngày nay cũng vậy. Đề-bà-đạt-đa lại có hành động vô ân, không báo ân. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại một thành tên Tịch tĩnh, vua cai trị thành này cũng tên là Tịch tĩnh, trong nước phồn thịnh, dân chúng sống an vui, không có trộm cắp chiến tranh. Vua lại từ bi thương dân như con, thường bố thí và thích nghe pháp, cung cấp cho các Sa môn, Bà-la-môn và những người nghèo khổ cô độc đầy đủ. Thường pháp của vua là sáng sớm đến thăm hỏi cha mẹ, kế thăm hỏi người bịnh rồi mới lo việc nước. Lúc đó, có người nghèo mắc bịnh nặng rất khốn khổ, thầy thuốc xem bịnh đều nói là sẽ chết nên không ra toa thuốc, người này liền đi đến thành Tịch tĩnh; vừa lúc đó gặp vua cùng hậu phi đến vườn hoa du ngoạn, người này liền quỳ trước vua than khóc yếu cầu cứu giúp. Vua nghe rồi sanh tâm từ bi liền cho quay xe trở về cung, ra lịnh quần thần triệu tập các thầy thuốc trong nước đến để chữa bịnh cho người này. Thầy thuốc khám bịnh xong liền tâu vua: “thuốc chữa bịnh này rất khó kiếm”, vua hỏi vì sao khó kiếm, liền đáp: “cần phải lấy máu của người suốt đời không sân hận, đem nấu cháo cho người này ăn thì bịnh mới khỏi”, vua nghe rồi suy nghĩ: “ta không thể cứu được một mạng người thì ngôi vua và thân mạng này có ý nghĩa gì, trước nay ta chưa hề sân hận”, nghĩ rồi vua hỏi nhũ mẫu: “hồi nhỏ Trẫm có hay nổi sân không?”, đáp: “lúc chăm sóc vua, tôi còn không nổi sân, huống chi là bản thân vua”, vua lại hỏi mẫu thân: “từ khi con sanh ra đến nay, mẹ thấy con có hay nổi sân hay không?”, đáp: “khi mang thai con, mẹ còn không nổi sân huống chi là bản thân con”, vua nghe rồi rất vui mừng nghĩ là mình đã kiếm được thuốc, liền bảo thầy thuốc: “hãy chích năm chỗ trên thân ta để lấy máu”, thầy thuốc nói: “bịnh nhân là người hạ tiện, vua là người cao quý, thần không thể chích vào thân vua để lấy máu”.
Phật bảo các Bí-sô: “tất cả Bồ-tát đều giỏi các pháp thế gian”.
Lúc đó vua khởi từ bi, tự chích vào năm chỗ trên thân để lấy máu đưa cho thầy thuốc nấu cháo; từ vương tử cho đến thứ dân thấy việc này rồi đều rơi nước mắt, nói với nhau: “vua thương một người mà không tiếc thân mạng bỏ chúng ta, khiến chúng ta không còn nơi nương tựa”, vua nghe rồi liền nói: “các khanh chớ lo buồn, đây không phải là việc xấu”. Như vậy trải qua sáu tháng, mỗi ngày vua đều chích máu để nấu cháo cho người bịnh ăn nên thân thể gầy ốm yếu ớt. Chư thiên thanh tịnh thấy rồi suy nghĩ: “vua chính là Bồ-tát ở Hiền kiếp, nếu vị ấy vì việc này mà chết thì không phải là việc tốt. Chúng ta nên dùng oai lực của chư thiên, rót cam lồ vào lỗ chân lông của vua”, nghĩ rồi liền rót cam lồ vào lỗ chân lông của vua, khiến vua được khỏe mạnh và người bịnh cũng được bình phục. Sau đó vua cấp cho người bịnh năm thôn, nhờ vậy người bịnh được ngang hàng với các đại thần trong thành Tịch tĩnh. Việc này lan truyền khắp tám phương trong dân gian, người ở trong tám phương nghe được tin đồn này đều ngạc nhiên, đi đến thành Tịch tĩnh gặp người bịnh kia để hỏi biết thật hư: “có phải suốt trong sáu tháng vua đã chích máu trị bịnh cho ông không?”, người bịnh vô ân không báo ân này liền nói với mọi người rằng: “vua ấy có giúp gì cho tôi đâu, chẳng qua là trong thân ông ta có máu độc cần xả bỏ nên mới cho tôi, có gì lạ đâu”, vừa nói xong lời này, lửa từ dưới đất vọt lên thiêu sạch nhà của người này và khiến kẻ vô ân bị bịnh gầy ốm trở lại.
Phật bảo các Bí-sô: “vị vua thuở xưa chính là thân ta ngày nay, người bịnh vô ân chính là Đềbà-đạt-đa; Đề-bà-đạt-đa lại có hành động vô ân, không báo ân. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa ở thành Bà-la-nê-tư có vị vua cai trị… như trên cho đến câu hoàng hậu sanh vương tử dung mạo đoan nghiêm, da-trắng hồng, khuôn mặt đầy đặn, cánh tay thòng xuống giống như vòi voi, trán rộng mũi thẳng… Khi vương tử ra đời, các điềm lành đều xuất hiện nên sau hai mươi mốt ngày, vua mở tiệc ăn mừng đặt tên là Thiện hạnh. Thiện hạnh bản tánh từ bi, thương xót hữu tình, thích cúng dường cho Sa môn, Bà-la-môn và chu cấp cho những người nghèo khổ, đi xa ; vì thế vua khuyên Thiện hạnh: “từ nay con đừng nên bố thí như vậy nữa, vì quốc khố không thể cung cấp đủ”. Thời gian sau, hoàng hậu lại sanh thêm một vương tử, khi mới ra đời các điềm bất tường đều xuất hiện nên được đặt tên là Ác hạnh.
Phật bảo các Bí-sô: “thường tình của thế gian là hễ người nào hành bố thí thì được mọi người yêu mến, danh vang khắp nơi”.
Lúc đó vua nước khác nghe danh Thiện hạnh, muốn gả con gái cho Thiện hạnh làm vợ nên viết thư sai sứ mang đến cho vua thành Bà-la-nê-tư, vua đọc thư xong rất vui mừng bằng lòng cuộc hôn nhân này.
Thiện hạnh tâu với vua cha: “con không muốn làm tổn hao quốc khố nên muốn ra biển tìm châu báu, được châu báu rồi trở về con mới cưới vợ”, vua chấp thuận, Thiện hạnh vui mừng sửa soạn hành lý và lương thực để đi. Ác hạnh thấy rồi suy nghĩ: “anh ta được mọi người trong và ngoài nước đều yêu mến, nếu anh ra biển tìm được châu báu trở về, anh càng được mọi người kính trọng. Chắc chắn cha sẽ cho anh ấy nối ngôi vua, ta sẽ không có phần, nay ta nên đi theo tìm dịp thuận tiện giết chết anh ấy rồi trở về; lúc đó dù muốn hay không muốn cha cũng phải cho ta nối ngôi vua”, nghĩ rồi liền xin vua cha cho đi theo anh, vua chấp thuận, Ác hạnh vui mừng sửa soạn hành lý đi theo anh. Lúc đó Thiện hạnh đánh trống thông báo: “tôi sắp ra biển tìm châu báu, ai muốn đi theo thì hãy chuẩn bị lương thực hành lý. Tôi là thương chủ sẽ bảo vệ các vị thoát khỏi tai nạn trên bờ dưới nước, các vị khỏi phải lo sợ cũng không phải đóng thuế”, sau khi nghe thông báo này có năm trăm người đến xin cùng đi theo, Thiện hạnh chọn ngày tốt rồi lên đường… Khi sắp ra biển, Thiện hạnh bảo em: “nếu thuyền có gặp nạn gì, em cứ bám theo anh, không nên lo sợ”, Ác hạnh nói: “sẽ nghe theo lời anh”. Thuyền gặp thuận gió nên mau đến được đảo châu báu, thuyền sư bảo mọi người lên đảo tùy ý lấy, mọi người vui mừng lên đảo hốt lấy châu báu chất đầy thuyền, Thiện hạnh chỉ lấy hạt châu Như ý cột vào trong thắt lưng rồi lên thuyền trở về. Khi thuyền sắp tới bờ kia thì bỗng bị cá Ma kiệt phá vỡ thuyền, người và châu báu đều chìm, chỉ trừ có Thiện hạnh và Ác hạnh nhờ bám theo anh mà được vào bờ. Tới bờ, Thiện hạnh cảm thấy mệt nên nằm ngủ; khi bám theo anh, Ác hạnh đã thấy hạt châu Như ý cột ở thắt lưng của Thiện hạnh, lúc đó liền suy nghĩ: “anh ta còn bảo châu, ta lại mất hết tất cả, ta nhân dịp này đâm mù mắt anh rồi lấy hạt châu này mang về”, nghĩ rồi liền dùng cây nhọn đâm mù mắt Thiện hạnh rồi bỏ đi. Lúc đó do bị mù mắt nên Thiện hạnh không biết đường trở về, sau đó có một người chăn bò gặp liền hỏi Thiện hạnh từ đâu đến, Thiện hạnh kể lại sự việc trên, người chăn bò nghe xong khởi tâm từ bi dẫn về nhà. Lúc ở trong nhà người chăn bò, Thiện hạnh thường chơi đàn, vợ người chăn bò nghe tiếng đàn sanh tâm yêu thích và khởi dục nhiễm nên yêu cầu Thiện hạnh cùng tư thông; Thiện hạnh nghe rồi liền bịt tai nói rằng: “đừng nói lời này tôi không muốn nghe, nàng như là em ta sao lại thốt ra lời này”.
Phật bảo các Bí-sô: “thường tình của thế gian là hữu tình đối với người vợ mà mình thương yêu, khi nghe nói bị người làm nhục đều sanh tâm tức giận, trong tất cả oán thù thì oán thù này nặng nhất”.
Sau khi nghe vợ nói xong, người chăn bò rất tức giận suy nghĩ: “người này phạm tội nặng nhưng bị mù mắt tức là chịu quả báo rồi, ta không cần phải giết hại, chỉ nên đuổi đi mà thôi”, nghĩ rồi liền đuổi Thiện hạnh ra khỏi nhà, Thiện hạnh ôm đàn đi qua các thành ấp xin ăn để sống. Thời gian sau, vua cha băng hà, Ác hạnh lên nối ngôi, Thiện hạnh lúc đó đi dần đến nước của người vợ đã đính hôn trước kia. Lúc đó công chúa được nhiều người đến cầu hôn, vua bảo công chúa: “trước đây ta hứa gả con cho Thiện hạnh, nhưng Thiện hạnh ra biển không may đã chết. Nay các vương tử đua nhau đến cầu hôn, nếu ta không thuận gả thì các vương tử này sẽ tức giận, ý của con như thế nào?”, công chúa tâu: “xin phụ vương hãy ra lịnh cho dân chúng quét dọn sạch sẽ đường phố rồi triệu tập tất cả người nam trong ngoài nước đến, con sẽ tuyển chọn”, vua liền y theo lời công chúa ra lịnh quét dọn sạch sẽ đường phố và cho đánh trống thông báo: “ta có công chúa muốn xuất gia nên tập họp tất cả người nam ở trong và ngoài nước đến để kén chọn phò mã”. Sáng hôm sau, công chúa-trang điểm lộng lẫy rồi cùng các thể nữ bước ra giống như thiên nữ Kiết tường ở trong rừng hoa tươi đẹp của vườn Hoan hỉ. Công chúa lần lượt đi qua trăm vạn người để kén chọn, lúc đó Thiện hạnh đang đứng đánh đàn ở một góc đường. Do nghiệp lực của hữu tình, khi nhân duyên hội họp thì gặp nhau nên khi nghe tiếng đàn này, công chúa liền mến mộ nên ném vòng hoa lên người Thiện hạnh và nói: “người này là chồng tôi”. Mọi người thấy việc này rồi đều buồn rầu chê trách: “trong đại chúng này rất nhiều người là hào tộc, là đại thần, vương tử cao sang, trẻ tuổi đáng yêu; sao công chúa lại bỏ những người này mà chọn người mù làm chồng”, cận thần của vua cũng buồn rầu đem việc này tâu lên vua, vua nghe rồi cũng buồn rầu nói với công chúa: “con có ý gì mà không chọn người hào tộc, hoặc vương tử đại thần trẻ tuổi đáng yêu, lại đi chọn người mù?”, công chúa đáp là vì yêu mến, vua nói: “nếu vậy thì con hãy đi theo người mù đó, không nên ở đây nữa”. Công chúa liền đi đến chỗ người mù nói: “từ nay anh là chồng tôi”, Thiện hạnh nói: “tôi là người mù, vì sao cô lại làm việc phi lý này”, công chúa nói: “tôi sẽ không thay đổi chủ ý”, Thiện hạnh nói: “làm sao biết được?”, công chúa nói: “anh hãy làm chứng cho lời chân thật của tôi, nếu tôi đối với anh cũng như đối với vương tử Thiện hạnh sẽ không thay lòng thì xin cho một mắt của anh được sáng lại như xưa”, do nói lời chân thật nên một con mắt của Thiện hạnh liền sáng lại, Thiện hạnh nói: “ta chính là Thiện hạnh đã bị em ta là Ác hạnh làm hại”, công chúa nói: “làm sao biết được?”, Thiện hạnh nói: “khi ta bị
Ác hạnh đâm mù mắt, ta không một chút sân hận, nếu lời này là chân thật thì xin cho con mắt còn lại được bình phục như xưa”, do nói lời chân thật nên cả hai mắt đều được sáng trở lại. Công chúa dẫn Thiện hạnh đến chỗ vua cha kể lại sự việc trên, vua nghe rồi hết sức ngạc nhiên liền cho tổ chức hôn lễ, sau đó dẫn binh mã đưa Thiện hạnh trở về nước, đánh đuổi Ác hạnh và lập Thiện hạnh lên làm vua.
Phật bảo các Bí-sô: “Thiện hạnh thuở xưa chính là thân ta ngày nay, Ác hạnh chính là Đềbà-đạt-đa; không phải chỉ ngày nay vô ân, không báo ân mà ngày xưa cũng vậy”.
Phật bảo các Bí-sô: “các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại một vương đô, dân chúng sống an vui sung túc ; vua có bốn người con là Đại chi, Phó chi, Tùy chi và Tiểu chi. Cả bốn vương tử đến tuổi trưởng thành đều cưới công chúa nước lân cận làm vợ và đều có tâm nghịch muốn làm hại vua cha. Vua cha biết được liền đuổi tất cả ra khỏi nước, khi đi đến chỗ hoang vắng thì lương thực đều cạn nên bàn với nhau là giết một người vợ trong số bốn người vợ đi theo để lấy thịt làm lương thực. Tiểu chi suy nghĩ: “ta thà chết chứ không giết người, chỉ còn cách lén dẫn vợ mình chạy sang nước khác”, nghĩ rồi dắt vợ chạy trốn. Bị đói khát hành hạ nên người vợ không thể đi tiếp được nữa, Tiểu chi suy nghĩ: “ta đã cứu cô ấy thoát khỏi bọn La sát hung ác, không lẽ lại để cô ấy chết ở nơi đây”, nghĩ rồi liền cắt thịt ở đùi và chích máu ở tay cho vợ uống rồi mới đi tiếp, cuối cùng tới một hang núi, họ đào củ hái trái ăn để nuôi thân. Bên núi có một con sông chảy qua, trong sông có một người bị kẻ thù chặt hết tay chân đang trôi theo dòng nước và đang gào kêu cứu. Tiểu chi nhân lúc ra ngoài nghe tiếng gào kêu cứu này, khởi tâm thương xót tìm đến chỗ phát ra tiếng kêu và thấy người ấy đang bị nước cuốn trôi. Tiểu chi bơi xuống vớt lên bờ, thấy tay chân đều không còn liền hỏi nguyên do, người ấy kể lại sư việc, Tiểu chi nói: “tuy đang khổ nhưng anh chớ lo, tôi sẽ đem trái cây đến cho anh ăn”, nói rồi trở về bảo vợ: “hãy khởi tâm từ chăm sóc người này”. Nhờ được chăm sóc nên vết thương dần dần bình phục, người vợ cũng vì vậy sanh dục nhiễm. Bồ-tát bản tánh ít dục nhiễm, dù có xúc chạm cũng không sanh dục nhiễm nhưng phàm phu thì khác; người vợ do dục nhiễm nên muốn cùng người kia làm việc phi pháp, người kia nói: “tôi sắp chết may mắn được cứu sống, nếu cùng cô làm việc phi pháp này tức là bội ân, chồng cô biết sẽ chặt đầu tôi”. Do người vợ nhiều lần yêu cầu nên cuối cùng cả hai cùng tư thông và không muốn rời xa nhau; người kia suy nghĩ: “người nữ này say mê ta, ta tư thông với vợ người khác chính là đại tặc, ta nhất định sẽ gặp khổ đau”, nghĩ rồi liền nói với người vợ kia: “nếu chồng nàng biết ta cùng nàng tư thông thì nhất định sẽ giết chết ta không nghi”. Người nữ có trí tà vạy không học mà biết, nghe lời này rồi cho là phải và nghĩ ra một kế, cô liền lấy y quấn đầu rồi nằm gối đầu trên tảng đá. Tiểu chi đi hái trái về thấy vậy liền hỏi nguyên do, người vợ đáp: “đầu em rất đau nhức, trước đây hễ mỗi lần đau đầu, thầy thuốc bảo lấy cây Thạch bách giã thoa lên đầu liền khỏi”, Tiểu chi hỏi: “nơi nào có loại cây đó, ta sẽ hái cho nàng”, người vợ nói: “ở dưới khe núi sâu có loại cây ấy, muốn hái được cây phải thòng dây bám theo dây mà xuống dưới, em sẽ ở trên nắm dây cho chàng xuống”. Tiểu chi vốn là đại nhân tánh chất trực nên nghe theo lời vợ cột dây vào thắt lưng của mình, đầu dây kia cột vào một cái cây rồi từ từ xuống dưới khe núi, không ngờ người vợ ở trên tháo dây ra cho người chồng rớt xuống khe núi. Do hữu tình có quả báo sống lâu lại được lên ngôi vua nên khiến bị rơi xuống khe núi sâu mà không chết, thân trôi theo dòng nước đến một nước khác. Vua nước này vừa băng hà lại không có con kế vị, các đại thần bàn với nhau: “chúng ta nên lập ai lên kế vị”, họ liền mời tướng sư tìm người, tướng sư đi khắp nơi tìm người. Như tụng nói rằng:
“Dù trải qua trăm kiếp,
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên hội họp,
Tự thọ lấy quả báo”.
Do nghiệp làm vua đã chín nên khi Tiểu chi lên bờ ngồi, do oai đức của Bồ-tát nên nơi chỗ ngồi phát ánh sáng; tướng sư đi tới thấy ánh sáng này cho là tướng tốt của vua nên báo cho các đại thần biết. Các đại thần chọn ngày tốt và ra lịnh dân chúng trong nước quét dọn trang hoàng đường sá và ở trong cung để lập Tiểu chi lên ngôi vua. Vì chưa có hoàng hậu nên các đại thần thông báo cho các cô nương của nhà quý tộc trang điểm đẹp đẽ đến trong cung cho vua tuyển chọn làm hoàng hậu. Vì người nữ mà vua bị khốn khổ nên trong lòng chán ghét không muốn nhìn người nữ, huống chi là chọn làm hoàng hậu. Các đại thần tâu vua: “Đại vương nên biết, nếu không có hoàng hậu thì vua sẽ không có con nối dõi. Mỹ nữ các nơi đều đã tụ họp về đây, xin vua hãy chọn lấy một người làm hoàng hậu”, vua không chịu và nói tội lỗi của người nữ. Nơi nào hữu tình có phước đức thì hoa quả và thức uống đều ngon ngọt, ăn vào có nhiều khí lực; từ khi Bồ-tát bị rơi xuống khe núi trở đi, hoa quả nơi đây không sanh trưởng nữa, dù có cũng cho ra trái đắng chát không mùi vị. Vì thế người vợ hại chồng và người cùng tư thông kia dần dần gầy ốm, người vợ này đành phải cõng người cụt tay chân kia ra khỏi núi, đi vào xóm làng xin ăn và dần dần tới kinh đô. Có người hỏi người cụt tay chân là ai thì cô đáp: “là chồng tôi, tuy anh ấy có hình dạng như vậy nhưng tôi không thay lòng”. Theo thông tục của nước này, nếu người nữ hết lòng với chồng thì được mọi người kính trọng và cung cấp cho mọi thứ. Có người sanh tâm yếu mến ra nhìn xem, dân chúng trong thành thấy việc này rồi đều nói với nhau: “vua nói người nữ có nhiều tội lỗi, há không thấy người nữ trinh thục này cõng chồng cụt tay chân đi xin ăn để sống hay sao?”, các đại thần nghe biết việc này liền tâu vua, vua liền cho gọi người nữ trinh thục đó vào. Khi nhìn thấy người nữ trinh thục này, vua liền mỉm cười nói kệ:
“Ăn thịt đùi hết đói,
Uống máu ta hết khát,
Vai cõng đống thịt đi,
Có trinh thục chỗ nào?
Bày kế tìm Thạch bách,
Cho ta rơi xuống núi,
Vai cõng đống thịt đi,
Có trinh thục chỗ nào?”
Vua nói kệ xong, người nữ này hổ thẹn cúi đầu. Các đại thần nghe kệ xong không hiểu liền hỏi vua ý nghĩa của bài kệ này, vua đem việc trước kia kể lại. Mọi người nghe rồi đều khinh ghét và đuổi ra khỏi nước.
Phật bảo các Bí-sô: “Tiểu chi thuở xưa chính là thân ta ngày nay, người nữ kia chính là Đề-bàđạt-đa; thuở xưa không báo ân, ngày nay cũng vậy. Đề-bà-đạt-đa lại có hành động vô ân, không báo ân. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại một vương quốc có vua tên là Tự tại hữu, vua dùng chánh pháp cai trị, tin dùng người hiền, làm lợi mình lợi người, thương dân và thường cầu diệu pháp nên dân giàu nước mạnh. Thời gian sau, hoàng hậu sanh được một trai dung mạo đoan nghiêm, sắc da sáng như vàng ròng, cánh tay thon dài, trán rông, mũi cao và thẳng… được đặt tên là Tự tại. Thái tử dần dần trưởng thành, học thông các môn học như lịch số, toán pháp… và các môn kỹ nghệ như cỡi ngựa, bắn cung… Thái tử tánh hiền lành, chân thật thường hay bố thí, do biết Thái tử thường hay bố thí nên những người nghèo khổ ở xa gần đều kéo đến cầu xin và đều được cho đầy đủ. Thời gian sau Thái tử muốn cởi xe đến dạo trong vườn uyển, xe được trang nghiêm bằng vàng bạc lưu ly…, càng xe được làm bằng gỗ Chiên đàn, xe do bốn con ngựa kéo đang chay nhanh về phía vườn hoa. Lúc đó có một Bà-la-môn khen Thái tử có oai lực lớn và nói kệ:
“Nên biết người thế gian,
Nghe tiếng Ngài bố thí,
Xe báu quý trọng này,
Thí cho Bà-la-môn”.
Thái tử nghe rồi hoan hỉ xuống xe, chỉ xe tứ mã và nói kệ:
“Ta buông xả xe này,
Hoan hỉ mà bố thí,
Nguyện thoát ly ba cõi,
Chứng Vô thượng Bồ-đề”.
Được xe, Bà-la-môn liền cỡi đi; thời gian sau Thái tử lại cỡi voi trắng tên là Vương tăng trưởng, đến dạo chơi vườn uyển. Voi có màu trắng như ngọc Kha tuyết, có đầy đủ các tướng tốt như voi của vua trời Đế thích, đứng đầu trong các voi. Voi bước đi thung dung nên ai cũng thích nhìn; Thái tử ngồi trên mình voi giữa các quyến thuộc và người hầu vây quanh, giống như trăng sáng giữa chòm sao. Lúc đó là vào mùa xuân, trăm hoa đua nở, chim hót líu lo, vua nước địch nghe biết thái nữ đang dạo chơi vườn uyển liền bảo một Bà-lamôn đến chỗ Thái tử xin voi. Bà-la-môn này dùng lời hay khéo nói kệ để xin voi:
“Các hữu tình trời, người
Biết Ngài thích bố thí,
Voi trắng lớn đang cỡi,
Xin hãy thí cho tôi”.
Thái tử nghe rồi liền xuống voi, hoan hỉ chỉ voi và nói kệ:
“Nguyện xả voi trắng này,
Thí cho Bà-la-môn,
Nguyện thoát ly ba cõi,
Mau chứng quả Bồ-đề”.
Các đại thần thấy việc này rồi liền tâu vua, vua nghe rồi rất tức giận cho gọi Thái tử đến và nói: “con từ nay không được ở trong nước ta nữa”, Thái tử nghe rồi suy nghĩ: “cha đã từ bỏ ta, ta vì cầu Vô thượng Bồ-đề, làm lợi ích cho tất cả nên mới thí voi trắng ấy. Nếu ta ở nhà thì ta không thể tùy tình bố thí, ta nên đến trong núi rừng tu giới hạnh, từ bỏ gia duyên, sống một mình nơi núi rừng, nếu có ai đến xin gì, ta nguyện không trái ý”, nghĩ rồi liền đến nói với vợ: “Hiền thủ, ta muốn vào trong rừng tu khổ hạnh”, người vợ nghe rồi không muốn xa chồng nên nói: “thiếp và các con sẽ theo chàng vào trong rừng tu đạo”, liền nói kệ:
“Hư không không trăng, không ánh sáng,
Đất không có mầm, quả không sanh
Như ao hoa sen khô cạn nước,
Vợ mà không chồng cũng như vậy”.
Thái tử nói: “thường pháp của thế gian hễ có hợp đều phải biệt ly, huống chi nàng sanh trưởng trong cung vua, thân nữ yếu đuối phải ăn ngon, mặc đẹp, chỗ ngủ ấm êm; ở trong rừng chỉ ăn trái cây, khi đi hái trái phải đi bộ, giẫm trên gai góc và tu giới hạnh, nàng không thể”, người vợ nói: “dù chịu khổ này thiếp cũng sẽ không thối tâm”, Thái tử nói: “nếu nàng đã nói lời này thì xin chớ có quên”. Sau đó Thái tử đến chỗ vua cha chắp tay nói kệ:
“Xin cha tha thứ lỗi cho con,
Đã đem voi cho Bà-la-môn,
Do lỗi này, con nay vào rừng,
Nguyện quốc khố ngày càng tăng thêm”.
Vua cha nghe rồi nghẹn ngào nói không ra tiếng, không chịu được nổi khổ biệt ly nên nói: “con nên ở lại và đừng vào rừng và cứ tùy ý bố thí”, Thái tử nói kệ:
“Đại địa và núi rừng,
Còn có thể chuyển dời
Con đối với người xin,
Tâm thí không thay đổi”.
Nói kệ rồi Thái tử lạy tạ từ biệt phụ vương, dân chúng trong thành buồn bã tiễn đưa Thái tử ra khỏi thành, trăm ngàn quyến thuộc cũng cưỡi xe đi theo tiễn đưa Thái tử. Lúc đó có người nghe dân chúng trong thành đồng loạt khóc lớn liền hỏi nguyên do, mọi người nói kệ:
“Trong thành có Thái tử,
Đem voi báu bố thí,
Vua trách đuổi đi xa,
Nên chúng tôi buồn khóc”.
Lúc đó Thái tử nói kệ từ biệt mọi người:
“Tất cả ân Ái từ lâu nay,
Đến khi qua đời cũng biệt ly,
Như chim ngủ đêm tạm ở cây,
Vợ con quyến thuộc cũng như vậy.
Tất cả người thế gian,
Hội họp ắt chia ly”.
Nói kệ xong liền ra đi, đi cách xa thành khoảng chừng ba mươi dặm thì có một Bà-la-môn đến nói với Thái tử: “tôi nghe danh tiếng nên đã đi theo Thái tử suốt ba mươi dặm đường để xin xe tứ mã, xin Thái tử hãy thí cho tôi”, Thái tử phi thấy vậy sanh tâm khinh mạn, dùng lời thô mắng Bà-lamôn rồi nói kệ:
“Ngươi thật là lạ kỳ,
Nói là Bà-la-môn,
Mà theo đến rừng cây,
Xin cho xe tứ mã”.
Thái tử nói với vợ: “nàng chớ nên nói lời thô với Bà-la-môn”, rồi nói kệ:
“Nếu không có người xin,
Ta thí ai sẽ nhận,
Vì muốn chứng Bồ-đề,
Bố thí bỏ tâm tham,
Thù thắng trong Lục độ,
Đó là hạnh Bồ-tát.
Vì muốn chứng Bồ-đề,
Viên tu Nhất thiết trí”.
Nói kệ xong, tâm sanh hoan hỉ lại nói kệ:
“Ta đang từ bỏ cấu xan tham,
Thí xe báu cho Bà-la-môn,
Cùng hạnh với Đại tiên thuở xưa,
Để chứng được Bồ đề vô lậu”.
Bồ-tát thí xe tứ mã cho Bà-la-môn rồi cõng con trai trên vai, vợ bế con gái đi dần dần tới núi rừng và ở trong đó tu giới hạnh. Một hôm có Bà-la-môn đến chỗ Bồ-tát xin hai đứa con của Bồ-tát, lúc đó Mạn đê ly đi hái trái không có ở nhà, Bà-la-môn khen ngợi và chúc Bồ-tát được tôn thắng rồi nói kệ:
“Tôi không người hầu hạ,
Cùng vợ tìm khắp nơi,
Nay hai con của Ngài,
Xin thí cho chúng tôi”.
Bồ-tát nghe rồi, vì phải xa lìa hai con nên suy nghĩ trong chốc lát, Bà-la-môn nói: “tôi nghe Ngài nguyện bố thí tất cả nên mới đến xin, vì sao còn suy nghĩ”, rồi nói kệ:
“Danh tiếng của Ngài vang khắp nơi,
Có thể từ bi thí tất cả,
Như trước đây đã từng bố thí,
Nay xin Ngài hãy thí cho tôi”.
Bồ-tát nói kệ:
“Dù cho tôi phải xả thân mạng,
Bổn nguyện tôi cũng không thay đổi,
Cho dù thí hai con cho người,
Tôi rốt cuộc cũng không thối chuyển.
Tôi nay xả hai con,
Chỉ còn hai vợ chồng,
Tánh người nữ Ái nặng,
Sợ nàng không sống được.
Người đời sẽ nói tôi,
Không thương nên bỏ con,
Sao không xả thân mình,
Lại đem thí hai con”.
Bà-la-môn nói: “Ngài sanh trong dòng họ vua chúa, cả đại địa đều nghe biết Ngài thương xót chúng sanh, thường hành bố thí, đã đem con hương tượng bố thí cho Bà-la-môn; lại thường cứu giúp người nghèo thiếu, ai xin gì cũng đều được thỏa mãn, không để về tay không. Tôi từ xa đến xin, đừng để tôi uổng công, xin điều phục ngựa tâm ý, đừng thối chuyển tâm ban đầu mà không bố thí, để sự mong cầu của tôi luống uổng”, kế nói kệ:
“Danh vang khắp mươi phương,
Bố thí hết tất cả,
Xin hãy rũ lòng thương,
Toại lòng tôi mong cầu”.
Bồ-tát vì phải xa lìa hai con yêu quý nên lo buồn suy nghĩ: “nếu ta xả thí hai con thì ta và Mạn đê ly vì thương nhớ con mà buồn khổ; nếu không xả thí thì thiếu và trái với nguyện hạnh của ta, Bàla-môn kia sẽ thất vọng vì đến xin không được phải trở về không. Ta thà chịu đựng nỗi khổ lớn chứ không làm thiếu và trái với nguyện hạnh ban đầu”, nghĩ rồi Bồ-tát quyết định xả thí hai con cho Bà-la-môn và nói kệ:
“Ta nay xả thí con,
Nguyện được lợi ích lớn,
Đem phước thù thắng này,
Độ chúng sanh thoát khổ”.
Khi Bồ-tát vừa xả thí hai con thì đại địa chấn động sáu cách, các tiên nhân ở bên núi thấy hiện tượng này đều kinh ngạc nói với nhau: “do phước lực của ai hay lý do gì mà đại đại chấn động như thế, hãy quán xem là do thế lực của ai mà có điềm này”, trong số đó có tiên nhân cao tuổi nhất giỏi về thiên văn quán xem rồi nói kệ:
“Đó là Bồ-tát thích núi rừng,
Ăn quả, uống nước suối nuôi thân,
Đang xả thí hai con thân yêu,
Nên đại địa mới có điềm này”.
Lúc đó hai đứa con biết cha đã quyết định xả thí mình, liền kêu khóc rồi đảnh lễ cha bạch rằng: “xin cha thương xót đừng xả thí chúng con, không có cha mẹ chúng con biết nương vào ai”, Bồ-tát nghe rồi đau buồn rơi lệ nói kệ:
“Các con hãy nên biết,
Không phải cha không yêu,
Vì độ chúng sanh khổ,
Nên xả thí hai con,
Đem phước thù thắng này,
Độ chúng sanh thoát khổ,
Khiến ra khỏi bến mê,
Cùng chứng quả Bồ-đề”.
Hai đứa con nghe rồi đau buồn rơi lệ, nghẹn ngào nói kệ:
“Cha đã quyết định xả thí con,
Con xin gởi lời nhắn lại mẹ,
Trước đây con có lỗi lầm gì,
Xin mẹ thương xót tha thứ con,
Vì con còn quá nhỏ dại khờ,
Không biết tôn kính vâng lời mẹ,
Nay không thể báo đáp từ ân,
Những tội như thế xin tha thứ”.
Nói kệ rồi, hai đứa con đảnh lễ hữu nhiễu cha ba vòng, hai mắt đẫm lệ từ biệt cha mà đi; Bồ-tát nghe lời bi thương của con, trong lòng đau buồn càng phát tâm Bồ-đề rồi trở vào am. Khi hai đứa con vừa rời khỏi am thì ba ngàn đại thiên thế giới liền chấn động sáu cách, vô lượng chư thiên ở trên hư không đều khen lạ thay và nói kệ:
“Oai đức xả thí thật lạ kỳ,
Tâm Bồ-đề chắc chắn như vậy,
Cả hai đứa con thân sanh, Cũng
xả thí, tâm không hối tiếc”.
Lúc đó người mẹ hái trái cây xong, đang trên đường trở về, thấy đại địa chấn động nên bước đi vội vã. Một vị thiên thấy vậy liền hóa ra một con sư tử cái chận đường trở về, vì sợ người mẹ này trở về kịp sẽ ngăn cản hạnh thí của Bồ-tát. Người mẹ nói kệ:
“Sư tử ngươi là vợ vua thú,
Vì sao lại chận đường ta đi,
Ta cùng người đều đang thờ chồng,
Xin ngươi hãy mau tránh đường ta.
Ngươi là vợ sư tử, vua thú,
Ta là vợ của vua loài người,
Theo pháp nhân nghĩa kết chị em,
Hãy mau tránh đường cho ta đi”.
Lúc đó sư tử cái hiện lại bổn hình và tránh đường, người mẹ trên đường về thấy đủ những việc quái lạ như trên hư không có tiếng khóc bi ai, trong núi rừng có tiếng khóc của hữu tình… nên trong lòng lo lắng suy nghĩ: “chắc là hai con ta gặp việc chẳng lành rồi”, nghĩ rồi liền nói kệ:
“Mắt tôi đang máy động,
Nghe quạ kêu quái gỡ,
Ắt có khổ biệt ly,
Con ta còn hay mất,
Mà thấy đất chấn động.
Tâm ta càng bất an,
Chắc là mất hai con,
Tâm ta như lửa đốt”.
Về đến trú xứ vội nhìn ngó khắp nơi tìm kiếm hai con nhưng không thấy, tâm người mẹ sanh mê loạn suy nghĩ: “chắc là chúng đang chơi với nai con hoặc đắp đất làm thành để vui chơi, hoặc là đang ngủ ở bên trong”. Vào bên trong thấy Thái tử liền hỏi con tôi đâu, Thái tử nói: “có một Bà-lamôn đến xin nên tôi đã đem hai con bố thí, xin nàng hãy tùy hỉ”. Người mẹ nghe rồi liền như nai mẹ bị trúng tên độc, như chim cút mẹ mất con, như bò mẹ mất con, trong lòng đau buồn ngất xỉu xuống đất hồi lâu mới tỉnh rồi nói kệ:
“Hai con của ta mặt như hoa,
Tay chân mềm mại như cánh sen,
Đồng thời phải chịu nỗi khổ này,
Xa lìa ta ra đi một mình”.
Lúc đó vua trời Đế thích thấy Bồ-tát và phu nhân đã làm việc khó làm nên cùng chư thiên trên cõi trời Tam thập tam từ hư không xuống, ánh sáng chiếu rực rỡ chỗ Bồ-tát ở rồi nói kệ để khích phát tâm Bồ-tát cho thêm kiên cố. Vua trời Đế thích suy nghĩ: “nay Bồ-tát chỉ con có phu nhân Mạn đê ly hầu hạ, nếu có ai đến xin chắc cũng đem xả thí thì không còn ai hầu hạ Bồ-tát nữa. Ta nên quyền biến theo xin rồi gởi lại cho Bồ-tát”, nghĩ rồi vua trời Đế thích liền hóa làm một Bà-la-môn đến chỗ Bồ-tát nói kệ:
“Người nữ này dung nhan rất đẹp,
Chỉ chuyên tâm thờ một người chồng,
Phu nhân đẹp, tôn quý như vậy,
Hãy xả thí để hầu hạ tôi”.
Phu nhân nghe rồi trong lòng vừa buồn vừa giận nói kệ:
“Ngươi là người tham Ái, vô sỉ,
Là người cực ác trên thế gian,
Nếu như biết pháp, biết tôn nghi,
Sao lại theo chồng cưỡng xin ta”.
Lúc đó phu nhân thấy Bồ-tát quay lại nhìn mình, liền nói kệ:
“Nay tâm thiếp không buồn,
Cũng không lo thân khổ,
Chỉ lo chàng một mình,
Làm sao mà sống được”.
Bồ-tát nói kệ:
“Ta ở nơi đây không phải lo,
Ta cầu kiên cố không hoại đạo,
Nàng hãy cung kính theo ông ấy,
Ta như thú hoang chết trong rừng.
Nay ta bố thí lần cuối cùng,
Sau khi nàng đi, ta không lo”.
Bồ-tát hoan hỉ nói thêm nửa bài kệ này rồi một tay cầm tay phu nhân, một tay cầm bình nước tắm nói với Bà-la-môn rằng:
“Người này trong sạch không bợn nhơ,
Nói năng làm việc khéo thừa sự,
Tôi đem người vợ quý trọng này,
Nay thí cho anh, hãy gìn giữ”.
Bồ-tát xả thí vợ rồi liền phát nguyện: “nguyện đem phước xả thí này để sớm được thành Phật quả”, Bồ-tát phát nguyện vừa xong, đại địa liền chấn động sáu cách. Khi Bà-la-môn dẫn phu nhân đi được một khoảng đường thì phu nhân nhân đau xót than thở: “nay tôi đã xa người chồng đáng kính và hai con thân yêu, không biết đời trước tôi đã gây nghiệp gì mà phải chịu quả báo này”, vua trời Đế thích nghe rồi liền hiện lại bổn hình nói kệ:
“Ta chẳng phải Bà-la-môn,
Cũng chẳng phải người, là Đế thích,
Đại thiên vương phá được A-tu-la ,
Thâm tâm ta rất thương xót cô,
Có ước nguyện gì, ta giúp cho”.
Phu nhân nghe rồi vui mừng lễ bái rồi nói kệ:
“Vua trời ngàn mắt cứu con tôi,
Lìa bỏ thân hèn được giải thoát,
Gặp lại vua cha được vui vẻ,
Vua trời Đế thích, con nguyện vậy”.
Vua trời Đế thích nghe rồi liền dẫn phu nhân trở lại chỗ Bồ-tát, tay phải nắm tay phu nhân đưa cho Bồ-tát nói rằng: “tôi đem người nữ này gởi cho Thánh giả để cô ấy hầu hạ người, nếu có ai đến xin thì không được đem cho, vì đây là của người khác gởi; nếu của người khác gởi mà đem cho thì bị người đời chê trách”. Sau đó vua trời Đế thích đến chỗ Bà-la-môn đã dẫn hai đứa con của Bồ-tát đi, khiến cho ông ta mê muội không tự chủ mà dẫn chúng trở về lại thành cũ, rao bán chúng ở trong chợ để các đại thần nghe thấy. Các đại thần nghe thấy rồi liền đến tâu vua: “có người đem hai cháu của vua là Duyệt ý và Hắc nhĩ rao bán ở trong chợ, không chút xót thương”, vua nghe rồi rất kinh ngạc và đau lòng liền sai sứ đến chỗ người đó dẫn chúng về; các cung nhân và dân chúng trong thành nghe biết việc này thảy đều xót thương than thở. Khi sứ dẫn hai cháu đến chỗ vua, vua thấy hai cháu mặc quần áo rách rưới, đói khát ốm gầy và dơ bẩn; vua đau lòng ngất xỉu ngã từ trên tòa sư tử xuống đất hồi lâu mới tỉnh, bá quan và các cung nhân đều xót thương rơi nước mắt. Vua tỉnh rồi bảo các đại thần: “tuy ở trong rừng mà con ta vẫn không ngừng bố thí, hãy sai sứ đến đón về”, không bao lâu sau vua băng hà, các đại thần đến nghinh đón Thái tử trở về nối ngôi vua. Sau khi lên ngôi, vua liền mở hội đại thí để cúng dường tất cả Sa môn, Bà-la-môn và bố thí cho tất cả những người nghèo khổ cô độc không xẻn tiếc, cho đến tất cả bà con thân hữu thảy đều được nhờ ân. Vua đem công đức bố thí nguyện rằng:
“Vì cầu quả Bồ-đề,
Tâm hoan hỉ bố thí,
Sát lỵ, Bà-la-môn,
Phệ xá, Thủ đà la,
Và Chiên đà la ác.
Người trì giới thanh tịnh,
Đem vàng bạc ngọc báu,
Sứ giả và nô bộc,
Nam nữ và vợ con,
Đều dùng tâm xả thí,
Để được thân thanh tịnh.
Đời này và đời sau,
Như vua cứu con cháu,
Bà-la-môn được của,
Quyến thuộc đều vui mừng,
Được an ổn như vậy,
Đều do con cháu vua,
Cho ta là tối thượng,
Người này là phước điền,
Đáng được thọ cúng dường,
Cho nên được của báu”.
Phật bảo các Bí-sô: “Thái tử thuở xưa chính là thân ta ngày nay, Bà-la-môn chính là Đề-bà-đạtđa. Này các Bí-sô, được cúng dường chút ít còn phải nhớ ân, huống chi là được cúng dường nhiều”.
Lúc đó Phật ở tại Trúc viên thành Vương xá, tại thành Chiêm ba có một trưởng giả tên là Bảo đức, nhà giàu có nhiều của báu, thọ dụng đầy đủ. Trưởng giả cưới vợ không bao lâu thì người vợ có thai… thời gian sau, lúc trưởng giả đến thành Vương xá thì ở nhà vào ngày có sao Nữ, người vợ hạ sanh một trai dung mạo đoan chánh ai cũng thích nhìn, dưới chân đứa bé có lông dài bốn ngón tay màu hoàng kim. Người vợ sai sứ đến thành Vương xá báo cho trưởng giả biết tin này, trưởng giả hỏi sứ giả là vừa nói gì, đáp là phu nhân sanh con trai, trưởng giả lại hỏi vừa nói gì, lại đáp là sanh con trai, cứ như thế rất nhiều lần nên sứ giả không đáp nữa mà hỏi trưởng giả vì sao hỏi hoài như vậy, trưởng giả nói: “nếu anh đáp một trăm lần thì tôi sẽ cho anh một trăm thỏi vàng, nhưng anh chỉ đáp có ba lần nên tôi chỉ cho anh ba thỏi vàng”, nói rồi bảo sứ giả trở về bảo người giữ kho lấy trong kho ra hai mươi ức của báu dùng vào việc lo ăn uống hằng ngày cho đứa con trai ; sau đó đến gặp vua tâu rằng: “vợ thần vừa hạ sanh một trai”, vua nói: “ta ban cho con ông thành Chiêm ba và voi báu xinh đẹp”, tâu với vua xong, trưởng giả liền trở về nhà. Sau hai mươi mốt ngày trưởng giả mở hội ăn mừng và đạt tên cho đứa bé, quyến thuộc nói: “đứa bé sanh vào ngày có sao Nữ, nên đặt tên là Nữ tinh”. Trưởng giả giáo Nữ tinh cho tám bà nhũ mẫu chăm sóc: hai bà cho bú, hai bà lo ẵm bồng, hai bà lo tắm giặt, hai bà lo việc chơi đùa với bé, đứa bé dần dần lớn khôn như hoa sen trong nước. Đến tuổi trưởng thành học thông các môn học và các môn kỹ thuật thảy đều thông đạt, mọi người đua nhau đem con gái đến gả. Trưởng giả xây cho con ba loại phòng ốc và vườn cây ứng hợp với ba mùa xuân hạ đông, lại tuyển chọn ba loại cung nhân thượng trung hạ và môi ngày dùng năm trăm lượng vàng cho việc ăn uống của con trai.
Lúc đó Đề-bà-đạt-đa khuyên Thái tử A-xà-thế làm ác: “phụ vương của Ngài tóc đã bạc mà còn không chán việc cùng người nữ thọ lạc, nay Thái tử đã trưởng thành mà vua không chịu truyền ngôi”, Thái tử hỏi nên làm gì, Đề-bà-đạt-đa nói: “phải làm việc hơn người, hễ có mong cầu thì không có việc gì mà không dám làm”. Lúc đó vua muốn đem cháo sữa đến trong Trúc viên cho Như lai dùng thì A-xà-thế đứng ở giữa đường, phóng giáo nhọn để giết vua nhưng lại làm bể bát cháo sữa, vua liền quay về. Phật nhờ Tha tâm trí nên biết trước mọi việc, liền bảo Mục liên: “Đề-bàđạt-đa khuyên Thái tử tạo cái nhân địa ngục, vua Tần-tỳ-sa-la muốn mang cháo đến cho ta thì bị Axà-thế làm bể bát cháo. Thầy hãy đến chỗ con trai của trưởng giả Bảo đực ở thành Chiêm ba xin cháo mang về đây”, tôn giả Mục liên vâng lời Phật nhập định, ẩn thân tại thành Vương xá rồi hiện ra ở thành Chiêm ba. Lúc đó trưởng giả tử này đang thờ thần mặt trời liền thấy Mục liên từ trong ánh mặt trời hiện ra, hết sức kinh ngạc nói kệ:
“Nay thấy thần mặt trời,
Từ mặt trời hiện ra,
Xin hỏi ai hiện thân,
Có phải thần mặt trời,
Hay là trời Đa văn,
Hay là trời Đế thích?”
Tôn giả Mục liên quán biết ý của trưởng giả tử liền nói kệ:
“Không phải thần mặt trời,
Không phải trời Đa văn,
Cũng không phải Đế thích,
Là đệ tử Mâu ni,
Với đầy đủ oai quang,
Đến nơi đây xin cháo,
Cúng dường cho Thế tôn”.
Trưởng giả tử hỏi Phật như thế nào, Mục liên nói kệ:
“Hạt cải không thể sánh Tu di,
Lửa đom đóm không sánh mặt trời,
Nước dấu chân bò không sánh biển,
Các ngoại đạo không sánh bằng Phật”.
Trưởng giả tử lại hỏi Như lai thuộc dòng họ nào, tôn giả Mục liên nói: “có sa môn Kiều-đápma thuộc dòng họ Thích ca từ bỏ vương vị, cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp phục, chánh tín xuất gia, tu chứng đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vị đó chính là Phật”, do trước nay chưa từng nghe nói về Phật, nay bỗng được nghe nên trưởng giả tử hoan hỉ, đem các món ăn trị giá năm trăm tiền vàng sớt vào bát để dâng cúng Phật. Tôn giả Mục liên nhập định rồi ẩn thân tại thành Chiêm ba, hiện trở lại trong Trúc viên thành Vương xá rồi dâng bát thức ăn cho Thế tôn. Lúc đó vua Tần-tỳ-sa-la lại mang cháo đến, nghe được mùi thơm của thức ăn này liền cho là của vua trời Đế thích cúng dường Phật và Phật không thể dùng món cháo của mình nữa. Vua hỏi Phật: “có phải thức ăn này là của vua trời Đế thích cúng dường Thế tôn không?”, Phật nói: “trong nước của vua có thành tên Chiêm ba, con trai của trưởng giả ở đó hằng ngày dùng năm trăm tiền vàng cho việc ăn uống. Bí-sô Mục liên đã đến đó khất thực mang về, trưởng giả tử đó có phước lực như thế”, vua nghe rồi sanh tâm hoan hỉ, muốn sai sứ mời đến. Phật biết ý vua nên nói: “Đại vương chớ xem thường mà sai sứ mời đến, Đại vương có thể ăn thử thức ăn còn lại ở trong bát của ta không?”, vua nói: “con thuộc dòng vua tôn quý được quán đảnh thì không thể ăn thức ăn dư của người khác, nhưng Phật là Pháp vương bảo con ăn thì con sẽ ăn”, nói rồi vua ăn, Phật hỏi: “từ trước đến nay, Đại vương đã được tùy ý ăn thức ăn như vậy chưa?”, vua nói: “từ trước đến sống trong cung và hiện được làm vua, nhưng chưa từng được tùy ý ăn thức ăn như vậy”, Phật nói: “Đại vương nên biết, trưởng giả tử kia là người có phước đức lớn, thường ăn thức ăn thượng vị như thế”. Vua đảnh lễ Phật rồi trở về cung ra bịnh chuẩn bị bốn binh để đến thành Chiêm ba, quần thần hỏi nguyên do, vua nói: “ta muốn gặp con trai của trưởng giả Bảo đức”, quần thần nói: “người ấy ở trong nước của vua, vua chỉ cần sai sứ gọi đến, cần gì vua phải đến”, vua nói: “người ấy có phước đức lớn, không thể sai sứ gọi đến”, quần thần nói: “chúng thần có cách, không cần vua sai sứ gọi, người ấy cũng tự đến”, vua nói tùy ý khanh. Đại thần liền viết thư sai sứ mang tới cho trưởng giả, trong thư bảo phải quét dọn thành ấp nghinh đón Đại vương và Thái tử. Trưởng giả tử nghe vua đến thì vui mừng, nhưng nghe Thái tử bản tánh hung ác thì sợ có rắc rối xảy ra. Sau đó đại thần lại viết thư nói vua và Thái tử đều không đến, lại bảo xây đập ngăn nước của sông Căng già ; trưởng giả lo buồn suy nghĩ: “chắc là muốn trừng phạt ta nên mới bảo làm việc này”. Dân chúng thành Chiêm ba tụ tập lại cùng viết thư gởi cho đại thần, trong thư viết: “vì sao Ngài viết thư nói là vua và Thái tử đến, sau đó nói là không đến rồi lại bảo xây đập ngăn nước của sông Căng già?”, Đại thần đọc thư rồi viết thư nói: “vua và Thái tử không đến, chỉ là vua muốn được gặp con trai của trưởng giả Bảo đức mà thôi, vị ấy hãy mau đến gặp vua”, dân chúng thành Chiêm ba đọc thư rồi lén cho người đến thành Vương xá do xét thật hư, biết rồi liền đến nói với trưởng giả Bảo đức là vua thật sự muốn gặp con trai của trưởng giả, trưởng giả nói: “nếu mỗi nhà trong thành này cho một người con đi theo con tôi thì tôi sẽ cho nó đi”, dân chúng trong thành đều làm theo lời của trưởng giả.
Trưởng giả liền nói với con: “vua Ảnh thắng muốn được gặp con, chắc là vua nghe nói dưới chân con có lông màu hoàng kim nên muốn xem. Con chớ đưa chân cho vua xem, con hãy mang theo một hạt châu báu đến đảnh lễ vua rồi đặt lên chân vua rồi lui qua một bên ngồi kiết già thì lông màu hoàng kim dưới lòng bàn chân sẽ hiện ra”, người con đáp: “con sẽ làm như lời cha dạy”. Lúc đó trưởng giả suy nghĩ: “ta nên cho con ta đi bằng voi, ngựa, xe hay đi thuyền”, lại nghĩ: “đi thuyền là an ổn nhất”, nghĩ rồi liền cho đóng thuyền, trong thuyền sắp đặt đủ loại cây cảnh, lại có các loại chim đẹp và cho nhiều thể nữ theo hầu hạ để đi đến thành Vương xá.
Vua Tần-tỳ-sa-la nghe tin con trai của trưởng giả Bảo đức đi thuyền đến liền cho đào kênh từ sông Căng già để đến thẳng vào thành Vương xá, lại ra lịnh quét dọn sạch sẽ đường sá, rưới nước thơm rãi hoa thơm và cho chuẩn bị các thức ăn ngon để đón tiếp. Khi trưởng giả tử đến chỗ vua, đảnh lễ rồi đặt hạt châu báu trên chân vua, lui qua một bên ngồi kiết già để cho vua nhìn thấy những sợi lông màu hoàng kim dưới lòng bàn chân. Vua nhìn thấy rồi kinh ngạc nói: “khanh là người có phước đức lớn, khanh đã từng gặp Phật chưa?”, đáp là chưa từng gặp, vua nói: “vậy khanh hãy theo ta gặp Phật”, trưởng giả tử hỏi vua: “Phật đi bằng gì?”, vua nói: “người xuất gia không đi bằng gì cả”, trưởng giả tử nói: “vậy thần cũng đi bộ”. Dân chúng liền trải vải trên đường để cho trưởng giả tử bước lên đi, trưởng giả tử hỏi vua: “Phật có đi trên vải không?”, vua nói không có, trưởng giả tử liền bảo dẹp cất vải, dẹp cất vải xong, chư thiên lại trải thiên y, trưởng giả tử hỏi: “tôi bảo dẹp cất vải vì sao trên đất lại có vải”, dân chúng bên đường nói: “đó là thiên y không phải vải của chúng tôi”, trưởng giả tử lại bảo thu cất. Sau khi chư thiên thu cất thiên y, trưởng giả tử bước chân đi trên đất, đất liền chấn động sáu cách. Lúc đó Phật bảo các Bí-sô: “suốt chín mươi mốt kiếp, trưởng giả tử này đều bước đi trên vải trải đất, chưa từng bước chân đi trên đất. Nay vì trọng pháp mà bước chân đi trên đất, nên đất liền chấn động”. Khi trưởng giả tử đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi ngồi qua một bên, Phật tùy theo căn tánh thuyết pháp, trưởng giả tử nghe pháp rồi liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Phật cầu xin xuất gia. Phật nói: “này trưởng giả tử, nếu cha mẹ chưa cho phép thì không được xuất gia thọ giới”, vua Tần-tỳ-sa-la bạch Phật: “con là quốc chủ, tất cả kho tàng tài sàn ở nơi trưởng giả ấy đều thuộc của vua, vua đã cho phép, cúi xin Như lai cho trưởng giả tử xuất gia”. thiện lai các Bí-sô, hãy xuất gia tu phạm hạnh”, Phật nói: “thiện lai Bí-sô”, vừa nói xong, râu tóc của trưởng giả tử này tự rụng, ca-sa hiện trên thân trở thành Bí-sô oai nghi đĩnh đạc giống như Bí-sô trăm tuổi. Lúc đó Lục quần Tỳ kheo cùng cười nhạo: “trưởng giả tử này giống như sanh tô, có thể làm được gì ; dù có siêng năng tu tập cũng chẳng thành tựu được gì”, trưởng giả tử nghe lời cười nhạo này rồi liền đến hỏi tôn giả A-nan: “Bí-sô quyết định tu hành phải như thế nào mới sớm được thành tựu được chánh định?”, A-nan đáp: “như lời Phật dạy nên thọ trì Tam-ma-địa, siêng năng kinh hành sẽ sớm được chánh định”. Trưởng giả tử nghe rồi liền vào trong rừng thây chết để hành Tam-ma-địa, kinh hành và chuyên niệm thiện pháp về các giác chi, nhưng không thể được chánh định ; trưởng giả tử suy nghĩ: “ta siêng năng tinh tấn hơn các Thanh văn mà không thể chứng được, ta vẫn còn nhà cửa, quyến thuộc và của cải; ta nên trở về tục tu hạnh bố thí, làm các công đức”. Phật biết tâm niệm của trưởng giả tử nên bảo một Bísô vào trong rừng thây chết gọi trưởng giả tử đến gặp Phật, Bí-sô vâng lời Phật dạy đi gọi, trưởng giả tử đến chỗ Phật đảnh lễ rồi đứng một bên, Phật nói: “thầy không nên một mình không rừng vắng ngồi yên lặng suy nghĩ điều phi lý như vậy. Có phải vừa rồi thầy nghĩ rằng: “ta siêng năng tinh tấn hơn các Thanh văn mà không thể chứng được, ta vẫn còn nhà cửa, quyến thuộc và của cải; ta nên trở về tục tu hạnh bố thí, làm các công đức?”, trưởng giả tử nghe rồi liền suy nghĩ: “Thế tôn đã biết tâm niệm của ta”, trong lòng kinh ngạc sợ hãi, lông dựng đứng, đáp là phải. Phật nói: “nay ta hỏi, thầy hãy tùy ý đáp, trước đây khi còn ở nhà thầy giỏi về cái gì?”, đáp là giỏi đàn, Phật hỏi: “khi điều chỉnh dây đàn, dây quá căng thì âm thanh có hòa nhã vui tai hay không?”, đáp là không, Phật lại hỏi: “nếu dây đàn chùng thì có thể phát ra âm thanh hay được không?”, đáp là không, Phật lại hỏi: “nếu dây đàn không quá căng cũng không chùng, ở mực độ vừa chừng thì mới phát ra âm thanh hay phải không?”, đáp là phải, Phật nói: “cũng giống như vậy này trưởng giả tử, nếu có người nào hết sức tinh tấn thì tâm sanh trạo cử, người nào quá phóng túng thì tâm sanh lười biếng; vì thế thầy hãy tu tập ở mức độ trung dung. Nếu tu tập như thế thì không bao lâu sẽ đoạn hết tâm hữu lậu, được giải thoát và tuệ giải thoát, thấy pháp và chứng quả; hiểu rõ sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau”. Trưởng giả tử nghe Phật dãy rồi hoan hỉ tín thọ, đảnh lễ Phật rồi trở lại trong rừng thây chết để tu tập, tâm không buông lung, giữ chánh niệm để đạt được mục đích mà một thiện nam tử chánh tín xuất gia là thấy pháp và chứng quả, hiểu rõ sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau. Không bao lâu sau cụ thọ này chứng được quả A-la-hán, được giải thoát thù thắng, nhất tâm hỷ lạc liền suy nghĩ: “nay chính là lúc ta nên đến cung kính cúng dường Phật”, nghĩ rồi vào xế chiều, cụ thọ này đến chỗ Phật đảnh lễ rối ngồi qua một bên bạch Phật: “Thế tôn, hễ có Bí-sô nào chứng được quả A-la-hán, tận trừ các lậu hoặc, việc cần làm đã làm xong, không còn thọ thân sau, xả bỏ gánh nặng, được tự lợi là chặt đứt các kiết sử trói buộc, được tuệ giải thoát thù thắng, tâm giải thoát thù thắng nơi sáu pháp:
Lìa khỏi phạm tục được giải thoát thù thắng.
Làm lợi ích hữu tình được giải thoát thù thắng.
Tâm tịch tĩnh được giải thoát thù thắng.
Tận trừ tham dục được giải thoát thù thắng.
Tận trừ các lậu hoặc được giải thoát thù thắng. 6. Không mất chánh niệm được giải thoát thù thắng.
Thế tôn, nếu có người chỉ phát chút lòng tin mà cầu giải thoát thì chớ có nghĩ sẽ tận trừ tham sân si mà được giải thoát. Nếu có người phát tâm thọ trì chút giới mà cầu giải thoát, không còn ưu bi khổ não thì chớ có nghĩ sẽ tận trừ tham sân si mà được giải thoát. Nếu có người vì cầu danh văn lợi dưỡng nên hành tịch tĩnh mà cầu giải thoát, thì chớ có nghĩ sẽ tận trừ tham sân si, lìa bỏ tham Ái chấp thủ, không mất chánh niệm mà được giải thoát. Nếu Bí-sô nào chứng được quả A-la-hán, tận trừ các lậu hoặc, việc cần làm đã làm xong, không còn thọ thân sau, xả bỏ gánh nặng, được tự lợi là vĩnh viễn đoạn tận các hữu, được tuệ giải thoát thù thắng, tâm giải thoát thù thắng, thì vị ấy được sáu pháp này.
Thế tôn, nếu Bí-sô nào thọ trì học xứ để cầu Vô thượng Niết-bàn thiện đạo, không dính mắc nơi sắc thì học xứ đó gọi là Thi la thanh tịnh. Vị ấy thành tựu học xứ, điều phục các căn rồi mới được Lậu tận, nơi tâm vô lậu được giải thoát, tuệ giải thoát, tự hiểu rõ sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau. Giống như đứa bé còn nhỏ lười biếng ưa ngủ, nếu chứa đựng chút ít giới thì các căn được điều phục, đến tuổi già, các căn đã điều phục thì giới thành tựu. Bí-sô cũng vậy, nếu Bí-sô nào an trụ nơi học xứ được tâm tự tại mà cầu Vô thượng Niết-bàn thiện đạo, không dính mắc nơi sắc mà trụ nơi giới thì các căn được điều phục, sau đó đoạn tận lậu hoặc, nơi tâm vô lậu được giải thoát, tuệ giải thoát, tự hiểu rõ sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau, thành tựu giới vô học. Đã chứng quả rồi, khi thấy các sắc tâm không duyên theo cũng không bị hoặc loạn, tâm chánh định, tình không điên đảo, khéo tư duy tu tập, tâm không tăng giảm; dù có việc làm hoặc loạn cũng không thể làm mất chánh niệm. Tai tuy nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, tâm phân biệt các pháp; nhưng không bị các pháp như sắc… làm hoặc loạn, không mất chánh niệm, tâm an định không tán loạn, tình không điên đảo, khéo giải thoát, khéo tu tập, liền thấy pháp sanh diệt. Ví như cách thành ấp tụ lạc không xa, có núi đá lớn không bị khuyết nứt, không có lỗ hổng, là một khối đá nguyên vẹn. Nếu có gió mạnh từ Dông thổi qua, núi đá ấy không lay chuyển, không nghiêng ngã về Tây; nếu có gió Tây nam, Tây bắc thổi đến cũng vậy, núi đá ấy không lay chuyển, không nghiêng ngã. Sắc quá khứ… ví như trận cuồng phong thổi ở trước mắt ta, nhưng nhãn thức… ý thức đều không bị điên đảo cũng như vậy, không lay chuyển, không nghiêng ngã, tâm an định không tán loạn, khéo tu tập, khéo giải thoát liền thấy pháp sanh diệt. Lại nữa, nhĩ tỉ thiệt thân ý có thể nhận biết thanh hương vị xúc pháp, làm hoặc loạn thân tâm; nhưng người có thể chứng quả thì không mất chánh niệm, không tán loạn, tâm an định, khéo tu tập, khéo giải thoát liền thấy pháp sanh diệt”, liền nói kệ:
“Người xuất gia giải thoát,
Tâm không có ưu bi,
An trụ nơi tịch tĩnh.
Tận trừ Ái tham dục,
Thú hướng giải thoát thì
Tâm không có thất niệm,
Biết rõ ý sanh pháp,
Mà tâm được giải thoát.
Nếu tâm được giải thoát,
Tịch tĩnh trụ Kiến đế,
Việc nên làm, làm xong,
Không còn gì làm nữa.
Như núi đá lớn kia,
Gió bão không lay động.
Sắc thanh cũng như vậy,
Không thể làm tổn hại.
Người tâm ý an định,
Liền thấy pháp sanh diệt”.
Các Bí-sô nghe kệ rồi đều có nghi thỉnh hỏi
Phật: “Thế tôn, cụ thọ này đã gieo trồng nghiệp nhân gì mà được sanh trong nhà giàu sang, dưới lòng bàn chân lại có lông màu hoàng kim, hằng ngày dùng năm trăm tiền vàng cho việc ăn uống, suốt chín mươi mốt kiếp chân không bước đi trên đất, vừa mới sanh ra đã được hai mươi ức tiền vàng, cuối cùng được xuất gia trong giáo pháp của Phật, đoạn tận phiền não chứng quả A-la-hán?”, Phật bảo các Bí-sô: “cụ thọ ấy tịch tập nghiệp lành, theo thời gian nghiệp ấy tăng trưởng thần thục, duyên biến hiện tiền như bộc lưu (thác nước) không thể chảy ngược lại, quyết định tự thọ quả báo không ai có thể thọ thay. Như kệ nói:
“Dù trải qua trăm kiếp,
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên hội họp,
Tự thọ lấy quả báo”.
Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa cách đây chín mươi ức kiếp, có Phật Tỳ-bà-thi Ứng chánh đẳng giác xuất hiện nơi đời, đầy đủ mười hiệu, có sáu mươi hai ngàn Bí-sô vây quanh cùng du hành trong nhân gian, dần dần đi đến vương đô tên là Thân ý. Trong thành có các cư sĩ tử nghe biết tin này liền đi đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho các cư sĩ tử được lợi hỉ rồi liền im lặng. Các đồng tử này rời khỏi chỗ ngồi cung kính chắp tay bạch Phật: “cúi xin Thế tôn thọ chúng con cúng dường tứ sự trong ba tháng an cư”, Phật im lặng nhận lời, các đồng tử biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật rồi ra về. Về đến trong thành, các đồng tử bàn với nhau: “chúng ta sẽ cúng dường cho Thế tôn như thế nào, chúng ta cùng làm thức ăn hay là mỗi người làm thức ăn một ngày?”, trong số đó có người nói: “nếu mọi người cùng làm thức ăn thì sẽ bỏ phế việc cày ruộng trồng trọt của chúng ta. Chúng ta nên mỗi người theo thứ lớp làm thức ăn một ngày, tùy sức mình mà làm”. Trong số đó có một đồng tử nhà nghèo liền về bàn với mẹ: “nếu theo thứ lớp mỗi người làm thức ăn một ngày, nhà ta nghèo làm sao có thể lo liệu được?”, người mẹ nói: “con hãy nhận làm thức ăn vào ngày cuối cùng, thời gian còn xa đủ cho con tùy sức làm việc kiếm tiền để lo liệu được”, đồng tử nghe theo lời mẹ. Theo thứ lớp đến ngày của mình làm thức ăn, đồng tử trải da gấu để Như lai bước đi lên, dùng năm trăm tiền để làm các món ăn ngon cúng dường Như lai rồi gieo năm vóc xuống đất phát nguyện: “nguyện cho con đời vị lai được sanh trong nhà phú quý, chân không bước xuống đất, lại nguyện cho dưới lòng bàn chân của con có lông dài bốn ngón tay màu hoàng kim giống như chân của Như lai. Nếu có Phật ra đời con sẽ cúng dường thừa sự”.
Phật bảo các Bí-sô: “đồng tử nghèo thuở xưa chính là trưởng giả tử ngày nay, do ở trước Phật Tỳ-bà-thi phát nguyện, nghiệp quả chín muồi nên được sanh trong nhà phú quý, suốt chín mươi mốt kiếp chân không bước xuống đất và dưới lòng bàn chân có lông màu hoàng kim. Từ khi sanh ra, mỗi ngày có hai mươi ức tiền vàng từ dưới đất vọt lên và được ở trong pháp của ta xuất gia, chứng quả A-la-hán. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen ; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập nghiệp trắng”.
Lúc đó Thái tử Vị sanh oán nghe theo lời của Đề-bà-đạt-đa tạo tội nghịch với vua cha nên bị dân chúng trong nước chê trách: “vì sao lại kết bạn với người ác như vậy, lúc Vị sanh oán còn ở trong thai sao không giết chết”, lại có người nói: “đó không phải là lỗi của A-xà-thế mà là lỗi của Đề-bà-đạtđa”, lại có người nói: “vì Phật cho Đề-bà-đạt-đa xuất gia, biết là tánh ác mà không đuổi đi”, lại có người nói: “Phật không có lỗi mà là lỗi của Bí-sô tăng không y theo Tăng giáo mà trụ trì”. Vua cha nghe được những lời này liền nói: “đó là nghiệp đời trước mà ta đã tạo, vậy mà có người nói là lỗi của Phật và Tăng làm cho ta rất áy náy trong lòng”. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “vì sao người kia tạo tội mà người này lại mang họa?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay mà thuở xưa cũng xảy ra việc như vậy, các thầy lắng nghe: Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có vua Phạm thọ trị vì, dân chúng được an cư lạc nghiệp. Lúc đó trong thành có hai con chó đen và trắng cùng ăn da của cái yên cương, đến khi vua muốn xuất binh ra thành bảo thắng yên cương, người coi giữ ngựa mới phát hiện yên cương đã bị chó cắn nát, liền tâu lên vua, vua nổi giận ra lịnh giết hết các con chó trong thành, khiến chúng sợ hãi muốn trốn qua nước khác. Lúc đó có một con chó từ nước khác đến thấy vậy liền hỏi rõ nguyên do rồi nói: “vì sao không tâu rõ sự việc với vua?”, đáp là không ai dám tâu, con chó này nói: “các anh yên tâm, trong đêm nay tôi sẽ đến tâu với vua”, nói rồi ngay trong đêm đó đến chỗ vua nói kệ:
“Trong cung vua có hai con chó,
Một trắng, một đen đầy sức lực,
Nên giết chúng, chớ giết chúng tôi,
Đáng giết mà không giết thật phi lý”.
Vua nghe kệ rồi liền bảo quần thần tìm bắt người đã nói kệ, quần thần tìm hiểu rồi tâu vua: “đó là do con chó từ nước khác đến”, vua nói: “các khanh truy xét xem có phải là do hai con chó trong cung cắn phá yên cương hay không?”, quần thần nói với nhau: “vua ra lịnh truy xét, chúng ta làm cách nào?”, có người nói: “chỉ cần lấy tóc trên đầu bỏ vào trong miệng chó, nếu con nào ăn da thì sẽ tự mửa ra”. Sau khi bỏ tóc vào trong miệng, hai con chó trong cung liền mửa ra da đã cắn. Quần thần liền tâu vua: “chính là do hai con chó trong cung, các con chó khác không có lỗi”.
Phật bảo các Bí-sô: “hai con chó thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa và A-xà-thế, thuở xưa chúng làm lỗi mà người khác lại chịu khổ; ngày nay cũng vậy, họ tạo tội mà Phật và Tăng mang họa. Các thầy hãy lắng nghe thêm:
Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có vua Phạm thọ trị vì, lúc đó có một người vào trong núi chặt cây bỗng gặp sư tử, hoảng sợ chạy trốn nên rơi xuống giếng ; sư tử đuổi theo không để ý nên cũng bị rơi xuống giếng. Sau đó có rắn độc đuổi chuột và diều hâu vồ chuột cũng đều bị rơi xuống giếng, chúng muốn hại lẫn nhau, Sư tử nói: “trong giếng này ta mạnh nhất có thể ăn thịt các ngươi, nhưng chúng ta đang gặp nguy nan, hãy bỏ tâm ác chớ hại lẫn nhau”. Sau đó có một thợ săn đuổi theo nai nên đến chỗ giếng, các con vật trong giếng liền kêu cứu, thợ săn kéo được sư tử lên trước, sư tử lạy tạ rồi nói: “ân sâu của ông tôi sẽ báo đáp, nhưng có con vật đầu đen dưới giếng ông chớ nên cứu lên”, nói rồi bỏ đi, thợ săn lần lượt kéo tất cả lên khỏi giếng. Thời gian sau, sư tử bắt được một con nai, thấy thợ săn đi đến liền đứa con nai cho thợ săn để báo ân. Một hôm, vua Phạm thọ cùng các cung nhân đến trong vườn hoa thưởng ngoạn, sau đó vua mệt nên nằm ngủ; các cung nhân thấy vua ngủ nên không còn lo sợ nữa, có người đứng, có người ngồi, có người ngủ… lại có người cởi chuỗi anh lác để một bên nằm ngủ. Lúc đó, con chim rơi xuống giếng trước kia thấy chuỗi anh lạc này liền ngậm lấy mang đến chỗ thợ săn để báo ân. Sau đó vua tỉnh dậy ra lịnh trở về cung, cung nhân bị mất chuỗi anh lạc tìm khắp nơi không thấy nên tâu vua, vua bảo người hầu cận: “khanh đến trong vườn hoa tìm chuỗi anh lạc, xem ai đã lấy trộm nó”. Người chặt cây bị rơi xuống giếng trước kia tức là con vật đầu đen tình cờ đến chỗ thợ săn, vừa nhìn thấy chuỗi anh lác này liền biết là của vua, do vô ân nên đến tâu vua: “thần biết chuỗi anh lạc bị mất đang ở chỗ người thợ săn”, vua nghe rồi nổi giận ra lịnh bắt thợ săn, thợ săn nói: “tôi không có ăn trộm của vua”, nói rồi kể rõ sự việc và trả lại chuỗi anh lạc cho vua, nhưng người thợ săn vẫn bị bắt giam. Con chuột bị rơi xuống giếng trước kia liền đến nói cho rắn biết: “con vật đầu đen kia thật độc ác đã vô ân làm cho thiện tri thức của chúng ta bị bắt giam”, rắn nói: “anh vào trong ngục nói với thợ săn rằng: đêm nay tôi vào trong cung cắn vua, ân nhân sẽ chữa trị cho vua, lúc đó tôi thu hồi nọc độc, vua sẽ vui mừng thưởng ban và thả ân nhân ra”, chuột liền vào ngục nói với người thợ săn như thế. Đêm đó vua bị rắn cắn, nọc độc lan khắp thân, không thầy thuốc nào chữa trị được, vua liền ra thông cáo tìm người chữa trị. Lúc đó, thợ săn ở trong ngục nói với người cai ngục: “anh tâu với vua là tôi có thể chữa trị được”, người cai ngục tâu vua, vua nói: “hãy thả anh ta ra và dẫn đến đây”. Thợ săn đến chỗ vua, vừa ra tay chữa trị, bịnh liền khỏi, vua vui mừng thưởng ban và cho thả ra.
Phật bảo các Bí-sô: “người thợ săn thuở xưa chính là thân ta ngày nay, người chắt cây tức là con vật đầu đen chính là Đề-bà-đạt-đa; thuở xưa vô ân, không báo ân, ngày nay cũng vậy. Các thầy lắng nghe thêm:
Thuở xưa, có một trận mưa trái mùa kéo dài suốt bảy ngày không dứt, lúc đó có con sói đầu chuột chui vào hang ẩn nấp, kế đến là con chuột và con rắn. Ở trong hang con sói đầu chuột định hại con chuột, con rắn nói: “chúng ta đang gặp nguy nan, đừng có hại lẫn nhau” . Sau đó rắn bảo chuột : “anh siêng năng, hãy đến chỗ khác tìm thức ăn mang về”, chuột vốn hiền lành chất phát liền đi tìm thức ăn. Trong khi chuột chưa trở về, con sói đầu chuột nói với rắn: “nếu chuột tìm không được thức ăn thì ta sẽ ăn thịt nó”, rắn nghe rồi suy nghĩ: “đang lúc gắp nguy nan mà con sói đầu chuột này vẫn muốn hại chuột. Ta sợ chuột tìm không được thức ăn, tay không trở về chắc sẽ bị nó ăn thịt; ta nên báo cho chuột biết”, nghĩ rồi liền tìm cách nhắn tin cho chuột biết, chuột biết tin rồi liền nói kệ:
“Ai thiếu ít, không có từ bi,
Bị lửa đói bức bách thúc gấp.
Cám ơn anh đã báo tin này,
Tôi nay không trở lại đó nữa”.
Phật bảo các Bí-sô: “con chuột thuở xưa chính là thân ta ngày nay, con cói đầu chuột chính là Đềbà-đạt-đa; thuở xưa vô ân nay cũng vậy”.
Lúc đó Thái tử Vị sanh oán quăng kiếm trước mặt vua cha, vua cha hỏi vì sao, liền đáp: “con tức giận vì cha có thọ dụng còn con thì không”, vua nói: “nếu vậy ta giao thành Chiêm ba cho con thọ dụng”. Được thành rồi, Thái tử liền đến nói với Đề-bà-đạt-đa: “Thánh giả, tôi nay đã được thành Chiêm ba tùy ý thọ dụng”, Đề-bà-đạt-đa nói: “Thái tử dụng công đã được quả báo thọ dụng, nếu dụng công nhiều hơn sẽ được quả báo nhiều hơn”. Thái tử sau đó thu thuế nặng bức bách bá tánh tại thành Chiêm ba khiến họ chịu không nổi bỏ đi nơi khác hoặc đến thành Vương xá, hoặc qua nước kế bên… Lúc đó có người lén đến tâu vua việc trên rồi nói: “cúi xin vua can ngăn Thái tử làm việc phi pháp”, vua nghe rồi liền cho gọi Thái tử đến hỏi: “vì sao con lại bức bách bá tánh?”, Thái tử nói: “vì binh sĩ không được chu cấp đủ”, vua nói: “nếu vậy, trừ thành Vương xá ra, nhưng nơi khác và bá tánh trong nước Ma-kiệt-đà ta đều cho con thọ dụng”. Thái tử lại đến nói với Đề-bà-đạt-đa: “Thánh giả, trừ thành Vương xá ra, các nơi khác đều thuộc về tôi”, Đề-bà-đạt-đa nói: “Thái tử dụng công đã được quả báo, hãy dụng công nhiều hơn nữa”. Sau đó Thái tử lại thu thuế nặng bức bách bá tánh trong nước Ma-kiệt-đà, dân chúng khổ sở liền đến tâu vua, vua liền cho gọi Thái tử đến nói: “vì sao con vẫn bức bách dân chúng trong nước Ma-kiệt-đà?”, Thái tử đáp: “vì binh sĩ nhiều không đủ chu cấp”, vua nói: “nếu vậy, ta chỉ chừa lại một kho, các kho tàng khác và cả thành Vương xá ta đều cho con thọ dụng”. Thái tử lại đến nói với Đềbà-đạt-đa: “nay tôi có thêm thành Vương xá, chỉ trừ một kho, các kho tàng khác đều thuộc về tôi”, Đề-bà-đạt-đa nói: “Thái tử dụng công đã được quả báo, nhưng hễ là quốc vương thì nên lấy kho tàng làm sức mạnh, ai có kho tàng thì người đó là quốc vương; vì vậy Thái tử phải dụng công thêm”. Sau đó Thái tử lại bức bách dân chúng trong thành Vương xá khiến cho tất cả dân chúng trong nước thảy đều lo sợ, bí mật cho người đến tâu vua: “từ trước đến nay vua thương dân như con đỏ, nay Thái tử bức bách làm tổn hai khiến phần lớn dân chúng chạy sang nước khác”, vua vốn thương dân, hành chánh pháp, nghe như vậy rồi liền cho gọi Thái tử đến nói rằng: “tất cả thành ấp nhân dân ta đều đã cho con thọ dụng, vì sao con còn não hại họ, con nên chăm lo đời sống của muôn dân”, Thái tử nói: “vì không có kho tàng nên con mới làm như vậy”, vua nói: “nếu vậy thì trừ cung nhân của ta, các kho tàng ta đều cho con thọ dụng”. Thái tử bản tánh hung ác, có kho tàng rồi vẫn không ngừng não hại dân chúng, họ lại đến tâu vua, vua lại cho gọi Thái tử đến hỏi: “ta đã cho con thọ dụng tất cả rồi, sao con vẫn còn não hại nhân dân?”, Thái tử nghe rồi nổi giận hỏi quần thần: “nếu có người nào quở trách vua dòng Sát-đế-lỵ quán đảnh thì đáng bị xử tội gì?”, đáp là đáng bị cực hình, lại nói: “người quở trách chính là cha ta thì làm sao giết hại được, hãy đem nhốt vào hậu cung”, quần thần liền dẫn vua đem nhốt. Các cung nhân và dân chúng nghe được tin này đều đau buồn và nghĩ đến ân đức của vua. Sau khi nhốt vua cha rồi, Thái tử lên ngôi và rất hung bạo nên không ai dám can ngăn; vua Ảnh thắng bị con cầm tù liền nghĩ đây là quả báo của nghiệp đời trước. Lúc đó phu nhân Vy-đề-hi mỗi ngày đều đem cơm nước cho vua, Vị sanh oán đến hỏi người canh giữ: “mấy hôm nay lão vương như thế nào rồi?”, đáp: “mỗi ngày mẹ của vua đều mang cơm nước đến cho lão vương”, Vị sanh oán nghe rồi liền nói: “từ nay không cho đem cơm nước vào nữa, nếu ai đem sẽ bị cực hình”. Mọi người nghe rồi, không ai dám đem cơm nước cho vua, như thế trải qua nhiều ngày, phu nhân Vy-đề-hi nghĩ đến ân tình của vua nên bí mật lấy bơ mật hòa với bột thoa lên người và đựng nước trong vòng đeo chân rồi vào thăm lén đưa cho vua ăn; người canh giữ tuy biết nhưng vẫn làm lơ cho đến khi vua Vị sanh oán đến hỏi: “lão vương còn sống hay không?”, lúc đó người canh giữ mới đem việc trên tâu vua, vua nghe rồi liền nói: “từ nay ngay cả phu nhân cũng không cho vào thăm”. Lúc đó Phật kinh hành trên núi Kỳ-xàquật, vua Ảnh thắng từ cửa sổ nhà giam nhìn thấy bóng của Phật, sanh tâm hoan hỉ nên mạng sống được kéo dài thêm. Khi vua Vị sanh oán đến hỏi, người canh giữ lại đem việc trên tâu lại, vua nghe rồi liền ra lịnh đóng bít cửa sổ và cho dùng vật nhọn đâm vào lòng bàn chân của vua cha, để ông không thể đứng nhìn qua cửa sổ được nữa. Vua Ảnh thắng đau đớn nghẹn ngào rơi lệ thầm nghĩ: “ta đang khổ não, vì sao Thế tôn không thương xót đến ta”. Không có việc gì mà Phật không biết, thường pháp của chư Phật là khởi tâm đại từ bi cứu giúp chúng sanh, trụ trong chánh quán, không nói hai lời, dựa trên định huệ hiển phát ba minh, thành tựu ba học, điểu phục hoàn toàn ba nghiệp, vượt qua bốn Bộc lưu, an trụ nơi bốn Thần túc, thường tu bốn nhiếp hạnh, xả trừ năm triền cái, đầy đủ năm chi, năm lực, viên mãn sáu độ, bố thí khắp tất cả bằng bảy Thánh tài, nở hoa bảy giác ngộ, chỉ bày tám chi Thánh đạo, xa lìa tám nạn, đoạn dứt hẳn chín kết, phương tiện thiện xảo tùy ý nhập Cửu định, đủ mười Lực, danh vang khắp mười phương, tự tại vô úy, hàng phục ma oán, cất tiếng sấm lớn, rống lên tiếng rống của sư tử, ngày đêm ba thời thường dùng Phật nhãn quán sát chúng sanh: trí huệ tùy chuyển của ai tăng, của ai giảm; ai gặp khổ nạn, ai bức bách, ai bị bức bách; ai xuống nẻo ác, ai lên đường lành, ai một bề thú hướng, ai còn mang gánh nặng. Nên dùng phương tiện gì để cứu độ chúng sanh ra khỏi đường ác, vào cõi trời người và được giải thoát; người chưa tu thiện căn khiến tu tập thiện căn, người đã tu thiện căn chưa thành thục khiến cho được thành thục, đã thành thục rồi khiến được giải thoát. Quán rồi liền bảo tôn giả Đại Mục-kiền-liên: “thầy hãy đến chỗ vua Ảnh thắng truyền lời của ta chúc cho vua không bịnh và nói rằng: Phật bảo Đại vương, như bậc thiện tri thức đã làm xong việc cần nên làm, Phật cứu độ Đại vương lìa khỏi ba đường ác, thường sanh vào cõi trời người, ra khỏi sanh tử”, Đại Mục-kiền-liên vâng lời Phật dạy nhập định, ẩn thân nơi núi Kỳxà-quật rồi hiện thân ở trước mặt vua Ảnh thắng trong nhà giam của thành Vương xá, nói lại lời Phật bảo Đại vương. Lúc đó vua do nghiệp đời trước nên bị giam cầm, lòng bàn chân bị đâm lại không được ăn uống, thân bị đói khát hành hạ khổ sở nên hỏi tôn giả Mục liên: “cõi nào có thức ăn uống ngon?”, đáp là cõi trời Tứ thiên vương, nói rồi liền ẩn thân trở về núi Kỳ-xà-quật.
Lúc đó phu nhân Vy-đề-hi nhớ lại ân tình của vua nên đau lòng thở dài, vua Vị sanh oán hỏi nguyên do, phu nhân nói: “nhớ lại lúc con còn nhỏ, nơi ngón tay bỗng sanh mụt nhọt rất đau nhức nên khóc mãi, phụ vương con ôm con vào lòng vuốt ve rồi ngậm ngón tay có mụt nhọt của con vào miệng của mình để cho con bớt đau nhức và ngưng khóc. Lúc đó mụt nhọt bỗng bị vỡ chảy mủ, phụ vương con liền nuốt luôn mủ đó vì sợ bỏ tay con ra con sẽ đau và khóc”, vua Vị sanh oán nghe rồi liền hỏi: “có thật phụ vương thương yêu con như vậy không?”, phu nhân nói: “thật sự phụ vương đã thương yêu con như vậy đó”, vua Vị sanh oán nghe rồi liền dứt tâm sân hận, tâm thương xót phát sanh liền nói với quần thần: “nếu ai nói với ta là vua cha còn sống thì ta sẽ cho người ấy nửa nước”, quần thần nghe lời nói này liền tranh nhau chạy tới chỗ giam giữ vua cha. Lúc đó vua Ảnh thắng ở trong chỗ giam nghe tiếng động này liền kinh sợ nghĩ là sẽ bị hình phạt gì khổ sở nữa nên ngã lăn ra đất và mạng chung, thần thức hóa sanh nơi đùi của một thiên vương ở Bắc phương. Vị thiên vương này hỏi là ai, đáp: “tôi là thắng tiên, sao gọi là thắng tiên, tức là vị trời hễ nghĩ tới ăn thì có thức ăn uống hiện ở trước mặt tùy ý ăn”.
Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “vua Ảnh thắng đã tạo nghiệp gì mà được sanh trong cung vua thọ hưởng giàu sang, của cải dồi dào, lại được gặp Phật, nghe pháp được Kiến đế nhưng sau đó lại bị giam cầm, bị đâm lòng bàn chân và bị bỏ đói cho đến lúc chết?”, Phật bảo các Bí-sô: “này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, tự tạo nghiệp thì tự thọ lấy quả báo như bài kệ:
“Dù trải qua trăm kiếp,
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên hội họp,
Tự thọ lấy quả báo”.
Các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập như vậy”.
Phật bảo các Bí-sô: “các thầy lắng nghe:
Thuở xưa, vào thời không có Phật, chỉ có Phật Bích chi ra đời thường thương xót người nghèo khổ, lúc đó vị này du hành đến thành Bà-la-nê-tư và nghỉ đêm trong nhà của người thợ gốm. Trong nhà này cũng có các thương nhân đến ngủ đêm, trong số đó có người ban đêm tiêu chảy trong phòng, chất bất tịnh làm dơ, đến nửa đêm thì họ bỏ đi hết. Các Thanh văn, Duyên giác nếu không quán sát thì không biết trước được sự việc; sáng sớm chủ nhà vào phòng thấy chất bất tịnh làm dơ, vì là kẻ phàm phu ngu si không biết thiện ác liền cho là do Phật Bích chi này làm nên nói rằng: “ông là người xuất gia, chân không đạp gai vì sao không ra ngoài đại tiểu tiện, lại phóng uế ngay ở trong phòng”, nói rồi liền ra đóng chặt cửa phòng lại và mắng rằng: “ông hãy chết đói trong phòng này đi”. Phật Bích chi này suy nghĩ: “ta sợ chủ nhà này đời sau sẽ chịu quả báo khổ sở, nếu ta tự mở cửa đi ra thì ông ta sẽ càng tức giận hơn”, nghĩ rồi liền im lặng ở trong phòng cho đến chiều. Lúc đó chủ nhà hết giận mở cửa bảo Phật Bích chi đến ăn cơm, đáp: “giờ ăn đã qua, tôi không thể ăn”, chủ nhà nói: “nếu vậy thì hãy ngủ lại đêm nay, sáng mai sẽ thọ thực”, vì thương xót chủ nhà nên Phật Bích chi ở lại. Sáng hôm sau, chủ nhà nấu các món ăn ngon để cúng dường vị Phật Bích chi, lúc đó vị Phật Bích chi này muốn làm lợi ích cho chủ nhà này nên vọt thân lên không trung hiện các thần biến như trên thân ra lửa, dưới thân ra nước… Phàm phu khi thấy thần biến thì mau phát nguyện lành, sụp xuống đảnh lễ như cây bị đốn nga, tự vả miệng mình và nói: “xin đại Thánh hạ thân xuống, con vì nhiễm dục cấu nên tạo tội, xin từ bi cứu vớt con”, Phật Bích chi hạ thân xuống, chủ nhà này đảnh lễ sám hối và phát nguyện: “con đã sanh ý ác và tạo tội đối với Thánh giả, xin cho con không bị nghiệp báo; lại nguyện nhờ thiện căn công đức cúng dường này, trong đời vị lai con được giàu sang quyền thế, được gặp Phật thừa sự cúng dường không chán”.
Phật bảo các Bí-sô: “chủ nhà thợ gốm thuở xưa chính là vua Ảnh thắng ngày nay; do thuở xưa đối với vị Phật Bích chi khởi ý ác, nói lời ác, ngày nay nghiệp chín muồi nên chịu quả báo bị dao cắt chân, bị nhốt trong phòng và bị bỏ đói cho đến lúc chết. Do tâm hối hận và do lực phát nguyện nên được sanh trong cung vua giàu sang quyền thế, được gặp ta nghe pháp và được chứng quả Dự lưu. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập nghiệp trắng”.
Lúc đó quần thần đến tâu vua là phụ vương đã băng hà, vua nghe rồi liền ngất xỉu ngã xuống đất hồi lâu mới tỉnh; sau khi tỉnh lại vua đau buồn và hối hận, vào trong phòng để tang cha. Quần thần thấy rồi cùng nói với nhau: “phải làm cách nào cho vua hết đau buồn”, lúc đó có các nhạc công từ Nam Thiên trúc đến, quần thần dẫn họ đến tấu nhạc muốn làm cho vua hết buồn, nhưng vua vẫn không vui, im lặng không nói gì cũng không khen ngợi. Sau đó các nhạc công này đến chỗ Phật, Phật nói: “lành thay trượng phu!”, họ vui mừng nên đánh trống tấu nhạc cúng dường Phật. Phật mỉm cười, từ trong miệng phóng ra hào quang đủ sắc chiếu xuống hay chiếu lên, nếu chiếu xuống thì chiếu đến ngục Vô gián và các ngục khác khiến cho chúng sanh trong đây đang bị đốt nóng liền được mát mẻ, đang bị lạnh cóng liền được ấm áp. Họ cảm thấy an lạc liền suy nghĩ: “ta và mọi người từ cảnh khổ địa ngục chết đi, được sanh vào cõi khác chăng?”. Thế Tôn sau khi làm cho các hữu tình kia sanh tín tâm liền hiện nhiều tướng khác nữa, thấy những tướng này họ liền suy nghĩ: “chúng ta không phải chết ở đây sanh về cõi kia, mà là do sức oai thần của Đại Thánh đã khiến thân tâm chúng ta hiện được an lạc”. Đã sanh tín kính thì có thể diệt các khổ, ở cõi nhơn thiên được thọ thân thắng diệu, thành chơn pháp khí thấy được lý chơn đế. Nếu hào quang chiếu lên thì đến cõi trời Sắc cứu cánh, trong hào quang diễn nói các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã…
Hào quang này sau khi chiếu khắp ba ngàn Đại thiên thế giới liền trở về chỗ Phật, nếu Thế Tôn nói việc quá khứ thì hào quang trở vào phía sau lưng, nếu nói việc vị lai thì hào quang trở vào phía trước ngực, nếu nói việc địa ngục thì hào quang trở vào phía dưới chân, nếu nói việc bàng sanh thì hào quang trở vào phía gót chân, nếu nói việc ngạ quỷ thì hào quang trở vào phía ngón chân, nếu nói việc loài người thì hào quang trở vào đầu gối, nếu việc của Lực luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay trái, nếu nói việc của Chuyển luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay phải, nếu nói việc cõi trời thì hào quang trở vào rốn, nếu nói việc của Thanh văn thì hào quang trở vào miệng, nếu nói việc của Độc giác thì hào quang trở vào phía giữa hai chân mày, nếu nói việc của đạo quả Chánh đẳng chánh giác thì hào quang trở vào phía trên đảnh đầu. Lúc đó ánh sáng này hữu nhiễu ba vòng rồi trở vào giữa hai chân mày, tôn giả A-nan chắp tay ngợi khen Phật:
“Ngàn màu sắc vi diệu,
Từ trong miệng phát ra,
Chiếu khắp cả mười phương,
Như mặt trời mới mọc,
Nói kệ về vô ngã,
Người nghe hết kiêu mạn,
Kết nhân duyên với Phật,
Vô duyên không phóng quang,
Hàng phục các kẻ oán”.
Phật bảo A-nan: “thầy có thấy nhạc công ở trước ta đánh trống tấu nhạc không?”, đáp là có thấy, Phật nói: “nhạc công này đời vị lai sẽ đắc quả Phật Bích chi tên là Nhã hòa âm”.
Lúc đó Đề-bà-đạt-đa nói với vua Vị sanh oán:
“nhờ tôi chỉ vẻ nên Thái tử mới lên ngôi vua, nay Đại vương nên lập tôi làm Phật”, vua nói: “thân Phật là thân kim sắc, Ngài không có thì làm sao lập làm Phật được”, Đề-bà-đạt-đa nói: “muốn có thân kim sắc thì cũng có thể được”, nói rồi liền cho gọi thợ vàng đến bảo rằng: “hãy làm cho thân ta thành thân kim sắc”, thợ vàng nói: “nếu Thánh giả chịu đau được thì tôi sẽ làm”, đáp là chịu đau được, thợ vàng liền lấy dầu nóng phết lên thân, sau đó dùng vàng dát mỏng dán lên thân khiến cho Đềbà-đạt-đa đau đớn kêu la. Có Bí-sô hỏi Cô ca lý ca: “Đề-bà-đạt-đa đang ở đâu?”, đáp là đang nhuộm thân sắc vàng, Bí-sô này đến thấy việc này rồi liền trở về bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô: “không phải chỉ ngày nay vì muốn nhuộm thân sắc vàng mà phải chịu đau đớn, ngày xưa cũng vậy, vì muốn có vương miện vàng mà chịu khổ. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có một người nữ, hôm đó chồng cô đi xa vắng nhà, cô thấy một con quạ bay đến cất tiếng hót nên nói với nó: “nếu nhờ tiếng hót hay của ngươi mà chồng ta bình an trở về thì ta sẽ cho ngươi cái vương miện bằng vàng”. Không bao lâu sau, người chồng bình an trở về, con quạ trở lại và ở trước mặt người nữ này cất tiếng hót để nhắc, người nữ liền quăng đưa cho nó cái vương miện vàng. Quạ liền bay khắp nơi để khoe, lúc đó có con chim cắt muốn cướp lấy chiếc vương miện này nên bay tới mổ mạnh vào đầu quạ, khiến nó rơi xuống đất chết.
Phật bảo các Bí-sô: “con quạ thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa ngày nay, do tập tánh ngày xưa vẫn còn nên nay lại muốn dát vàng lên thân mà chịu khổ”.
Lúc đó Đề-bà-đạt-đa lại tâu với vua Vị sanh oán: “tôi đã giúp Thái tử lên ngôi, nay đã được vương vị, Đại vương nên lập tôi làm vua”, vua nói: “dưới lòng bàn chân của Như lai có diệu luân tướng, nếu Ngài có tướng đó thì mới lập làm Phật”, Đề-bà-đạt-đa nói: “tôi có thể làm luân tướng dưới lòng bàn chân”, nói rồi liền cho gọi thợ khéo đến hỏi: “ông có thể làm cho dưới lòng bàn chân của ta có luân tướng hay không?”, đáp: “nếu Thánh giả chịu đau được thì tôi có thể làm”, đáp là chịu đau được. Người thợ này nghe rồi liền suy nghĩ: “vị này có sức mạnh, nếu khi ta ấn dấu luân tướng vào chân, ông ta đau đớn có thể đá chết ta”, nghĩ rồi liền nói: “Thánh giả hãy đưa chân vào trong phòng, tôi sẽ ấn dấu luân tướng vào lòng bàn chân cho Thánh giả”, đáp là được. Khi người thợ ấn dấu luân tướng đã được nung đỏ vào lòng bàn chân, Đề-bà-đạt-đa đau đớn kêu la. Lúc đó có Bísô hỏi Cô ca lý ca : “Đề-bà-đạt-đa đang ở đâu?”, đáp là đang ấn dấu luân tướng vào lòng bàn chân, Bí-sô này đến thấy việc này rồi liền trở về bạch Phật, Phật nói: “thuở xưa cũng vì cái chân mà chịu khổ, tập tánh xưa vẫn còn. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa trong núi Tuyết có con voi lớn xuống núi uống nước, một con dã can đi theo sau thấy dấu chân voi liền nghĩ: “nếu ta nhảy vào dấu chân voi này ta sẽ được sanh thiên”, nghĩ rồi liền nhảy vào, không ngờ bị cây gỗ khô đâm vào thân mà chết.
Phật bảo các Bí-sô: “dã can thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa ngày nay, thuở xưa vì chỉ đo lường dấu chân voi mà quên tác ý, nay lại vì muốn có luân tướng mà phải chịu khổ như thế”.
Lúc đó Phật ở trong cung của dược xoa Kimtỳ-la trong núi Kỳ-xà-quật, thành Vương xá. Đềbà-đạt-đa tâu với vua Vị sanh oán: “tôi đã lập Thái tử làm vua, Đại vương hãy lập tôi làm Phật. Nay tôi muốn giết Sa môn Kiều-đáp-ma, vua hãy cùng tôi lập kế, tôi không biết nên dùng vật gì để có thể đánh ông ta chết”, sau đó Đề-bà-đạt-đa nghe biết có một người thợ khéo từ Nam Thiên trúc đến, có thể chế tạo xe ném đá; liền cho gọi đến hỏi: “ông có thể chế tạo một chiếc xe ném đá do năm trăm người kéo được không?”, đáp: “tôi rất thông thạo việc chế tạo xe ném đá”, Đề-bà-đạt-đa liền đưa một hạt châu trị giá ngàn vàng cho người thợ kia để chế tạo xe ném đá và cung cấp cho một ngàn người để ông ta sai khiến, nói rằng: “Phật đang ở trong một cái hang đông trên núi Thứu, ông hãy lên đỉnh núi đặt chiếc xe ném đá do năm trăm người kéo ở gần chỗ Phật, lại đặt hai chiếc xe ném đá do hai trăm năm mươi người kéo ở hai chỗ khác gần đó. Khi nào Sa môn Kiều-đáp-ma đi ra kinh hành thì hãy khởi động cho xe ném đá giết chết ông ta”. Mọi người vâng theo lời của Đề-bà-đạtđa lên đỉnh núi Thứu đặt xe ném đá, lúc đó năm trăm người nói với nhau: “ông ta cho chế tạo xe ném đá này để hai Thế tôn. Chúng ta thà xả thân mạng chớ không nên làm hại Thế tôn là bậc được trời người cung kính”, nói rồi liền bỏ xe ném đá ở đó, tìm đường khác chạy trốn. Lúc đó Thế tôn quán biết tâm niệm của họ nên hóa ra thềm thang đi xuống, họ thấy thềm thang liền biết là do oai lực của Thế tôn biến hóa ra, đối với Thế tôn khởi lòng tin trong sạch liền noi theo thềm thang này đi xuống. Phật vì muốn điều phục họ nên ra khỏi hang kinh hành, họ đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật quán biết căn tánh tùy miên của họ nói pháp Tứ đế khiến cho họ được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả, họ bạch Phật: “Thế tôn, nhờ Phật khai ngộ khiến chúng con ở trong các nạn mà được giải thoát, điều này không phải do cha mẹ… cho đến sa môn, Bà-lamôn có thể làm được. Thế tôn là bậc đại thiện tri thức đã cứu vớt chúng con ra khỏi ba cõi, đặt để chúng con vào cõi trời người, hết khổ sanh tử, được đạo Niết-bàn, làm cạn biển máu, vượt khỏi núi xương, núi thân kiến từ vô thỉ đến nay đều bị phá tan bằng chày trí Kim cang, chứng được Sơ quả. Nay chúng con xin quy y Tam bảo, từ hôm nay cho đến trọn đời thọ trì năm học xứ, cúi xin Thế tôn chứng biết chúng con là Ô-ba-sách-ca”. Lúc đó người thợ chế tạo xe cũng không muốn làm hại Phật nên mang theo hạt châu trị giá ngàn vàng bỏ trốn. Đề-bà-đạt-đa lên đỉnh núi xem Thế tôn đã bị hại chưa thì thấy Phật vẫn an ổn, lại thấy năm trăm người kia đang ở trước Phật nghe pháp, lại thấy người thợ chế tạo xe bỏ trốn liền nổi giận ra lịnh cho khởi động hai chiếc xe ném đá còn lại. Lúc đó Phật suy nghĩ: “nghiệp mà ta tích tập từ thuở xa xưa nay đã chín, duyên biến hiện tiền như bộc lưu (thác nước) không thể chảy ngược lại, quyết định phải chiêu lấy quả báo không ai có thể thọ thay”, quán biết nghiệp quả rồi liền bảo năm trăm người: “các người hãy đi đi, đây là định nghiệp mà ta phải tự thọ”. Lúc đó thần kim cang thấy việc này rồi liền nói với dược xoa Kim-tỳ-la: “Đề-bà-đạt-đa ở trên đỉnh núi Thứu cho khởi động xe ném đá hại Phật, tôi ở trên không trung dùng chày kim cang đập nát đá, nếu có đá vụn văng ra trúng Phật thì anh hãy trợ giúp bảo hộ Phật”, Dược xoa Kim-tỳ-la nói lành thay. Khi Đề-bà-đạt-đa ở trên đỉnh núi Thứu cho khởi động xe ném đá hại Phật, thần kim cang ở trên không trung dùng chày kim cang đập nát đá, có một mảnh vun văng ra sắp trúng thân Phật, Dược xoa Kim-tỳ-la bắt lấy không được nên bị nó đập vào người, mảnh đá vụn đó rơi xuống trúng chân Phật bị thương chảy máu, Phật nói kệ:
“Không phải trong hư không,
Không trong biển và núi,
Không bất cứ chỗ nào,
Thoát khỏi được nghiệp báo”.
Dược xoa Kim-tỳ-la bị đá văng trúng người, biết mình sẽ chết liền khởi niệm lành nên sau khi chết được sanh lên cõi trời Tam thập tam. Thường pháp của chư thiên là khi sanh lên cõi trời đều khởi ba niệm: một là ta từ đâu sanh đến đây, hai là nay ta đang ở đâu, ba là ta do nghiệp duyên gì. Quán xong liền biết đây là cõi trời Tam thập tam, đời trước mình là dược xoa nhờ phát sanh niệm lành đối với Thế tôn nên mới được sanh lên đây. Thiên tử này suy nghĩ: “ta nay không nên thọ hưởng diệu lạc mà nên đến đảnh lễ Thế tôn trước”, nghĩ rồi liền trang nghiêm thân bằng chuỗi anh lạc, tay cầm bốn loại hoa sen vi diệu như Mạn-đà-la…; tóc trên đầu có màu xanh biếc mềm mại, sạch thơm xoay về bên phải; thân tướng đoan nghiêm không thể sánh ví, thiên tử này hiện thân xuống núi Thứu đến chỗ Phật, do oai lực của thiên tử nên ánh sáng chiếu sáng khắp núi rừng. Khi đến chỗ Phật, Thiên tử đảnh lễ Phật, rải hoa cúng dường rồi ngồi một bên, Phật quán biết căn tánh tùy miên của Thiên tử liền nói pháp Tứ đế khiến cho được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả, Thiên tử bạch Phật: “Thế tôn, nhờ Phật khai ngộ khiến con ở trong các nạn mà được giải thoát, điều này không phải do cha mẹ… cho đến sa môn, Bà-lamôn có thể làm được. Thế tôn là bậc đại thiện tri thức đã cứu vớt con ra khỏi ba cõi, đặt để con vào cõi trời người, hết khổ sanh tử, được đạo Niết-bàn, làm cạn biển máu, vượt khỏi núi xương, núi thân kiến từ vô thỉ đến nay đều bị phá tan bằng chày trí Kim cang, chứng được Sơ quả. Nay con xin quy y Tam bảo, từ hôm nay cho đến trọn đời thọ trì năm học xứ, cúi xin Thế tôn chứng biết con là Ô-basách-ca”, liền nói kệ:
“Oai lực Thế tôn thật rộng lớn,
Đóng bít cửa đường ác dày chắc,
Chỉ bày đường sanh Thiên vi diệu,
Nay con chứng được quả Vô vi,
Do nhờ chư Phật đại từ bi,
Diệt trừ điều ác, được Thiên nhãn”.
Lúc đó Thiên tử này vui mừng như người đi buôn được lời, như người cày ruộng được thu hoạch, như người ra trận được thắng, như người bịnh được lành, vị này đầy đủ oai nghi đảnh lễ Phật rồi trở về thiên cung. Từ đầu đêm cho đến cuối đêm, lúc các Bí-sô thiền quán nhìn thấy ánh sáng chiếu khắp núi rừng này đều có nghi, nên sáng sớm liền đến thỉnh hỏi Phật: “vì nhân duyên gì mà Phạm thiên Đế thích… đến chỗ Phật thừa sự cúng dường?”, Phật nói: “đó không phải là Phạm thiên Đế thích…, khi Đề-bà-đạt-đa ở trên đỉnh núi Thứu cho khởi động xe ném đá hại ta, thần kim cang ở trên không trung dùng chày kim cang đập nát đá, có mảnh đá vụn văng ra. Dược xoa Kimtỳ-la bắt lấy không được nên bị nó đập vào người mà chết, do phát tâm lành nên sau khi chết được sanh lên cõi trời Tam thập tam thù thắng. Do nhân duyên này nên đến đảnh lễ ta, sau khi nghe pháp đã được kiến đế. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng ; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập như vậy”. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “do đâu Dược xoa Kim-tỳ-la hy sinh thân mình để bảo vệ Phật?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay mà trong quá khứ cũng đã hy sinh thân mình để bảo vệ ta. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có vua Phạm thọ trị vì bằng chánh pháp nên thời thế an tịnh, nhân dân no ấm, ngũ cốc được mùa không có nạn tai. Cách thành không xa có một tụ lạc với nhiều rừng cây, hoa quả tươi tốt nên đủ loại chim tụ về ríu rít líu lo. Có một tiên nhân ở trong rừng này tu khổ hạnh, không ăn cơm gạo, chỉ ăn trái cây, mặc áo vỏ cây để ngăn lạnh nóng. Lại có một thợ săn hằng ngày mang cung tên vào rừng săn bắn để sinh sống, thường lui tới chỗ tiên nhân. Lúc đó là mùa lạnh, tiên nhân thương xót đem trái cây cho anh ăn, nhân đó kết nghĩa cha con; thợ săn cung kính thừa sự và gọi tiên nhân là cha, tiên nhân cũng thương anh như con. Vào một buổi sáng nọ, vua Phạm thọ vào rừng săn bắn thấy một con nai, con nai này hoảng sợ chạy đến bên tiên nhân, vua liền bắn tên giết chết nai; tiên nhân thấy nai chết liền nổi giận nói: “Đại vương thật ác độc, không có chút đạo lý, nai đã chạy đến bên tôi mà vua vẫn bắn tên giết chết nó”, vua nghe rồi liền nổi giận hỏi quần thần: “nếu có người quở mắng vua dòng Sát-đế-lỵ quán đảnh thì đáng bị tội gì?”, đáp là đáng tội chết, vua nói: “vậy mà tiên nhân này đã khinh hủy ta”. Người thợ săn đứng gần đó thấy binh lính của vua muốn giết tiên nhân liền suy nghĩ: “ta còn sống thì sao để cho họ giết hại đại tiên”, nghĩ rồi liền cùng họ chiến đấu để tiên nhân chạy thoát, binh lính của vua đông nên cuối cùng thợ săn bị giết chết.
Phật bảo các Bí-sô: “tiên nhân nhân thuở xưa chính là thân ta ngày nay, thợ săn chính là Dược xoa Kim-tỳ-la; thuở xưa hy sinh thân mạng vì ta, ngày nay cũng vậy”.
Lúc đó chân của Thế tôn bị mảnh đá văng trúng bị thương chảy máu không ngừng làm Thế tôn đau đớn, y vương Thị-phược-ca và dân chúng trong thành Vương xá mỗi ngày đều đến thăm bịnh Thế tôn ba lần. Mọi người hỏi y vương cách chữa trị, y vương nói: “bịnh này rất khó kiếm thuốc”, tôn giả A-nan hỏi là thuốc gì, đáp: “đó là loại hương của Ngưu đầu chiên đàn, tôi đã tìm kiếm khắp nơi nhưng không tìm được, vì các thương nhân dù có cũng sợ vua Vị sanh oán nên không bán, nếu bán vua biết được sẽ giết chết họ”. Lúc đó có một thương nhân nghe rồi liền suy nghĩ: “vua Vị sanh oán kết thân với Đề-bà-đạt-đa nên ghét Thế tôn, nếu ta đem hương Ngưu đầu chiên đàn dâng cho Phật, vua biết nhất định sẽ giết ta ; nhưng Thế tôn là bậc ứng cúng của trời người, dù thân ta bị hại, ta cũng nên dâng hương này cho Phật”, nghĩ rồi liền trở về lấy hương Ngưu đầu chiên đàn đem đến và bạch Phật: “Thế tôn, xin thương xót thọ hương Ngưu đầu chiên đàn này”, Phật bảo A-nan thọ nhận, A-nan vâng lời Phật thọ nhận, thương nhân này vui mừng đảnh lễ Phật rồi ra về. Lúc đó Thế tôn mỉm cười, có hào quang năm sắc từ trong miệng phóng ra… như trên cho đến câu ánh sáng đó trở vào giữa hai chân mày, Phật hỏi A-nan: “thầy có thấy thương nhân hoan hỉ đem hương Ngưu đầu chiên đàn đến cúng dường cho ta không?”, đáp là thấy, Phật nói: “do thiện căn cúng dường hương này với tâm hoan hỉ, ở đời vị lai thương nhân này sẽ đắc quả Phật Bích chi tên là Chiên đàn”.
Lúc đó Thế tôn thoa hương chiên đàn vào vết thương nhưng vẫn không cầm được máu, Thịphược-ca nói: “phải dùng loại sữa của đồng nữ hòa với hương này thoa mới lành”, các Bí-sô đều không biết thế nào là sữa của đồng nữ, A-nan hỏi, Thị-phược-ca đáp: “đó là sữa của người nữ mang thai lần đầu tiên”, bốn chúng nghe rồi đều đi khắp nơi tìm sữa này. Đề-bà-đạt-đa và đồng bạn đều nói với các người nữ trong thành:
“các cô đừng cho sữa, vì họ định dùng sữa này làm pháp huyễn hóa ma muội làm hại các cô”.
Trong thành Vương xá lúc đó chỉ có một người nữ mang thai đầu tiên vừa mới sanh con, thân thể vốn gầy yếu, sữa còn không đủ nuôi con làm sao có thể cho người khác. Cô nghe tin này liền suy nghĩ: “ta vốn gầy yếu, nếu đem sữa cho Thế tôn: một là con ta sẽ chết, hai là người thân cận của vua và Đề-bà-đạt-đa biết sẽ giết ta; nhưng Thế tôn là bậc ứng cúng của trời người, dù ta và con ta sẽ chết, ta cũng nên đem sữa cho Thế tôn”, nghĩ rồi liền nặn sữa vào trong một bát đồng mang đến bạch Phật: “Thế tôn, xin thương xót thọ sữa đồng nữ này của con”, Phật bảo A-nan thọ nhận, A-nan vâng lời Phật thọ nhận, người nữ vui mừng đảnh lễ Phật rồi ra về. Lúc đó Thế tôn mỉm cười, từ trong miệng phóng ra hào quang năm sắc… như trên cho đến câu Phật bảo A-nan: “do thiện căn cúng dường sữa này với tâm hoan hỉ, ở đời vị lai người nữ này sẽ đắc quả Phật Bích chi”.
Lúc đó Phật dùng sữa hòa với hương chiên đàn thoa lên vết thương vẫn không cầm được máu, tôn giả Thập lực Ca-diếp thấy vậy liền dùng lời chân thật phát nguyện: “nếu đối với tất cả chúng sanh, Thế tôn đều khởi tưởng như con là thật không hư dối, thì xin cho vết thương được cầm máu”, vừa nói xong thì vết thương liền được cầm máu. Bốn chúng trong thành Vương xá thấy việc này rồi đều rất vui mừng, chỉ có vua, Đề-bà-đạt-đa và các đồng bạn là không vui. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “do nhân duyên gì mà tôn giả Thập lực Ca-diếp vừa phát nguyện xong thì vết thương liền được cầm máu?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay mà thuở xa xưa cũng vậy, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại một vùng núi có một thôn lớn, cách thôn không xa có một rừng cây, hoa quả tươi tốt nên đủ loại chim tụ về ríu rít líu lo. Có một tiên nhân ở trong rừng này tu khổ hạnh, chỉ ăn trái cây và uống nước suối, mặc áo vỏ cây; vị này chuyên trì niệm chú. Trong thôn có một trưởng giả cưới một người vợ cùng dòng tộc ở trong thôn làm vợ, họ sống với nhau rất hạnh phúc và không bao lâu sau người vợ mang thai, đủ chín tháng mười ngày sanh hạ một đứa con, sau hai mươi mốt ngày họ mở tiệc ăn mừng và đặt tên cho đứa bé là Hỷ lạc. Hỷ lạc dần dần trưởng thành, dù đi đứng hay nằm ngồi đều nghĩ đến việc lành và thượng làm nghiệp lành nên người trong thôn gọi cậu là Pháp Ái. Cậu thường đến chỗ tiên nhân này thừa sự cúng dường và siêng năng tu luyện nên mọi người lại gọi cậu là Luyện hạnh. Thời gian sau trên thân của cậu bỗng sanh một ung nhọt độc rất đau nhức, tuy đã dùng rất nhiều loại thuốc thang và chú pháp vẫn không lành bịnh. Cha mẹ dẫn cậu đến chỗ tiên nhân yêu cầu trị bịnh cho con, tiên nhân thấy rồi liền dùng lời chân thật phát nguyện: “nếu đối với kẻ oán người thân, trưởng giả tử này đều có tâm bình đẳng không sai khác là chân thật không hư dối thì nguyện cho ung nhọt này được lành”, nguyện vừa xong thì ung nhọt được lành. Phật bảo các Bí-sô: “trưởng giả tử thuở xưa chính là thân ta ngày nay, tiên nhân chính là Thập lực Ca-diếp; thuở xưa nhờ tiên nhân phát nguyện mà bịnh của ta được lành, ngày nay cũng vậy”.
Lúc đó Đề-bà-đạt-đa ngồi kiết già dưới gốc cây truy hối: “ta đã dùng đá ném trúng Sa môn Kiều-đáp-ma nhưng không giết hại được, việc này mọi người đều biết và ta mang tiếng xấu vô ích”, các Bí-sô thấy rồi đều nói với nhau: “Đề-bà-đạtđa vì tức giận nên ném đá trúng Thế tôn”, Bí-sô Cô ca lý ca nghe rồi liền nói: “này các cụ thọ, các thầy không suy nghĩ thấu đáo nên mới nói lời phi pháp này, các thầy không thấy Đề-bà-đạt-đa đang nhập Tứ thiền dưới gốc cây hay sao, bậc đại nhân không làm việc ác”, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay mà thuở xưa Cô ca lý ca cũng đã nói những lời không biết hổ thẹn, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại thành Vương xá có một vị vua trị vì, vua ra lịnh xây hai khu nghĩa địa : một khu dành cho nam, một bên dành cho nữ. Thời gian sau, có một huỳnh môn chết được đem đến trong nghĩa địa táng thì người giữ cửa khu dành cho nam không cho táng, người giữ cửa khu dành cho nữ cũng không cho táng. Cách thành không xa có một tụ lạc với nhiều rừng cây, hoa quả tươi tốt nên đủ loại chim tụ về ríu rít líu lo. Có một tiên nhân ở trong rừng này tu khổ hạnh, chỉ ăn trái cây và uống nước suối, mặc áo vỏ cây ; gần chỗ đó có một bụi gai nên người nhà của huỳnh môn đem xác chết này bỏ ở đó, không bao lâu sau xác chết thối rữa. Có một con dã can nghe mùi thối rữa này liền đến ăn, lúc đó có một con quạ già ẩn náu trên cây gai suy nghĩ: “ta nên nói lời khen ngợi để dã can này cho ta ít nhiều thức ăn”, liền nói kệ:
“Ngực anh như sư tử,
Lưng anh như bò chúa,
Xin chào vua loài thú,
Cho tôi chút thức ăn”.
Dã can nhìn khắp nơi rồi nói kệ:
“Ai ở trên lùm cây,
Là đàn em tốt nhất,
Sắc thân chiếu khắp nơi,
Như một khối châu báu”.
Quạ nói kệ:
“Tôi có nhiều vật dụng,
Rất mong anh sẽ đến,
Lễ vật đem hiến vua,
Cho tôi thức ăn dư”.
Dã can nói kệ:
“Cổ quạ như Khổng tước,
Chim quạ thật đáng yêu,
Tiếng hót nghe rất hay,
Mặc tình đến lấy ăn”.
Quạ nghe rồi liền bay xuống gốc cây cùng dã can ăn xác chết, tiên nhân thấy việc này rồi liền nói kệ:
“Nhiều lần thấy các ngươi,
Cùng họp không hổ thẹn,
Hết lời ca ngợi nhau,
Ăn xác người hạ tiện”.
Quạ nói kệ:
“Sư tử và khổng tước,
Cùng ăn thức ăn ngon,
Đâu có liên quan gì,
Đến việc của tiên nhân”.
Tiên nhân nói kệ:
“Quạ là chim thấp hèn,
Dã can cũng thấp hèn,
Gai là cây vô dụng,
Huỳnh môn người hạ tiện,
Đều hết sức mê muội,
Nói mà không biết thẹn”.
Quạ nghe rồi nổi giận liền bay đến chỗ thờ lửa của tiên nhân, nhìn khắp bốn phía thấy không có gì phá hoại được nên rải phân làm cho nhơ uế và hất bể bình nước rồi bỏ đi. Tiên nhân trở về thấy việc này rồi liền biết là do quạ làm nên nói kệ:
“Con vật xấu ác kia,
Sân hận không hổ thẹn,
Phá hoại bàn thờ lửa,
Và đập vỡ bình nước.
Nó chẳng thuộc loài gì,
Không nên nói với nó,
Cần nói, nói chút ít,
Không nói, an lạc nhất”.
Phật bảo các Bí-sô: “tiên nhân thuở xưa chính là thân ta ngày nay, con quạ chính là Đề-bà-đạtđa, bạn của nó chính là Cô-ca-lý-ca; thuở xưa nó nói sai mà không biết hổ thẹn, nay cũng vậy”, các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn và Đềbà-đạt-đa đời trước đã tạo nghiệp gì mà oán thù như vậy?”, Phật bảo các Bí-sô: “các thầy lắng nghe:
Thuở xưa gần bờ biển này có con chim Cọng mạng hai đầu, một đầu tên Phi pháp, một đầu tên là Pháp. Lúc đó Phi pháp đang ngủ, Pháp thức nên nhìn thấy có một quả ngọt trôi theo dòng nước, Pháp liền bay đến mổ lấy rồi suy nghĩ: “anh ấy đang ngủ, ta nên gọi dậy cùng ăn hay ta ăn một mình. Ta và anh ấy cùng một thân, nếu ta ăn no thì anh ấy cũng no”, nghĩ rồi liền ăn hết. Lát sau Phi pháp tỉnh dậy thấy Pháp có vẻ khác và ngủi thấy mùi thơm liền hỏi là mùi thơm gì, đáp là mùi của trái ngọt, lại hỏi đâu rồi, đáp là đã ăn hết, Phi pháp nói: “anh thật không tốt”. Thời gian sau, Pháp đang ngủ, Phi pháp thức nên nhìn thấy có một quả độc trôi theo dòng nước, liền bay đến mổ lấy ăn, ăn xong cả hai cùng mê man cuồng loạn. Lúc đó Phi pháp phát thệ: “trong đời vị lai dù sanh ra nơi nào, đời đời kiếp kiếp ta sẽ thường làm hại ngươi, thường kết oán thù với ngươi”, Pháp cũng phát thệ: “nguyện cho tôi đời đời kiếp kiếp thượng là bạn lành của anh”.
Phật bảo các Bí-sô: “đầu chim Pháp thuở xưa chính là thân ta ngày nay, đầu chim Phi pháp chính là Đề-bà-đạt-đa; kể từ lúc đó bắt đầu sanh oán kết. Ta thường làm việc lợi ích, Thiên thọ luôn có ý hãm hại. Các thầy lắng nghe thêm:
Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có vua tên là Bạch giao hương trị vì, đất nước phồn thịnh, nhân dân no ấm. Vua cưới một công chúa nước lân cận làm hoàng hậu và sống rất hạnh phúc. Thời gian sau hoàng hậu có mang và sanh được một bé gái, bé gái này trưởng thành kết hôn và có thai, sau sanh được một trai, dung mạo đoan nghiêm ai cũng thích nhìn. Do đứa bé sanh ra lúc mặt trời mới mọc nên dược đặt tên là Sơ và được giao cho tám à nhũ mâu chăm sóc… đến tuổi trưởng thành học thông các môn học như lịch số, toán pháp… và các môn kỹ nghệ như cỡi ngựa, bắn cung… nên được vua phong làm Thái tử. Trước kia vua có một vương phi tên là Đạt ma, trong triều có một đại thần tên là Tễ ngưu, vua yêu quý Thái tử nên giao phó Thái tử cho Tễ ngưu. Thời gian sau vương phi Đạt ma mang thai, tướng sư đoán thai nhi sau này sẽ giết vua đoạt ngôi. Đến khi vua ngã bịnh, biết không qua khỏi được vua liền suy nghĩ: “sau khi ta chết, Thái tử lên ngôi ắt sẽ giết vương phi, ta phải làm sao”, nghĩ rồi liền cho gọi Tễ ngưu vào và ban cho Tễ ngưu rất nhiều châu báu, nói với Tễ ngưu rằng: “khanh là đại thần tín cẩn của ta, vương phi Đạt ma là người ta thương yêu nhất. Nay ta biết mình không qua khỏi, sau khi ta chết Thái tử sẽ lên nối ngôi, khanh nên thương xót tìm cách bảo vệ đừng để Thái tử giết Đạt ma”, Tễ ngưu bạch vua: “thần sẽ không để cho Thái tử giết vương phi”, vua nói kệ:
“Tích tụ đều tiêu tán,
Cao ngất ắt rơi rớt,
Hội họp ắt biệt ly,
Có mạng đều phải chết”.
Nói xong vua băng hà, sau khi tống táng vua xong, quần thần lập Thái tử lên ngôi vua.
Sau khi lên ngôi, vua bảo quần thần đem vương phi Đạt ma giết chết, đại thần tễ ngưu liền tâu: “xin vua hãy xét lại, không nên vô cớ giết vương phi, vương phi đang mang thai chưa rõ là sanh trai hay gái, nếu sanh trai thì hãy giết”, vua nói: “như vậy cũng được, khanh hãy thi hành việc này”. Đủ ngày tháng vương phi sanh được một trai, cùng ngày hôm đó vợ của người đánh cá cũng sanh một bé gái. Đại thần Tễ ngưu liền đưa cho người đánh cá một số tiền để đổi lấy bé gái này rồi đến tâu vua: “vương phi sanh một bé gái”, vua nghe rồi nói: “rất tốt, vậy là ta không còn lo nữa”. Thời gian sau, người đánh cá nuôi bé trai này trưởng thành, cho đi học cho đến khi biết làm thơ phú văn chương. Tễ ngưu bí mật đến báo cho Đạt ma biết, Đạt ma nói: “ta muốn được nhìn thấy nó, khanh hãy tìm cách dẫn đến”, Tễ ngưu nói: “không nên gặp làm chi”. Lúc đó Tễ ngưu thấy đạt ma thương nhớ con nên lập kế cho đồng tử này giả làm người bán cá mang cá đến để cho người mẹ được nhìn thấy con mình. Tướng sư nhìn thấy đồng tử bán cá này liền đoán: “người này sẽ giết vua đoạt ngôi”, lời tiên đoán này được truyền đến tai vua, vua liền ra lịnh đuổi bắt đồng tử bán cá. Đồng tử bán cá nghe được tin này liền bỏ chạy về phương Đông, trốn trong nhà của một bà lão. Bà lão này cho ẩn nấp ở một nơi kín đáo, lấy màu vàng thoa lên người làm cho giống như người đã chết rồi khiêng đem bỏ trong rừng thây chết. Khi đồng tử bán cá này đứng dậy bỏ chạy thì có người hái hoa quả trong rừng nhìn thấy, liền chạy đuổi theo một đoạn rồi dừng lại. Lúc đó sử của vua chạy đến hỏi người hái hoa quả này có thấy một người có hình dạng như vậy không, liền đáp: “tôi mới thấy cậu ta đi theo con đường này”, sứ liền chạy đuổi theo bắt. Đồng tử bán cá hoảng sợ chạy vào nhà người thợ giặt, người này giấu đồng tử trong đống áo quần rồi chở đem bỏ ở bên bờ sông không có người. Khi đồng tử bán cá này đứng dậy bỏ chạy thì có một người nhìn thấy, báo cho sứ của vua biết, sứ liền chạy đuổi theo bắt. Đồng tử này vội chạy vào nhà của người đóng giày… năn nỉ người đóng giày: “xin hãy thương xót làm cho tôi một đôi giày mà gót giày hướng về phía trước, mũi giày hướng về phía sau để những người đuổi theo bắt tôi sẽ không biết tôi đi ngã nào”, người đóng giày nói: “trước nay tôi chưa từng đóng đôi giày nào như vậy”, liền nói kệ:
“Trước nay từng thấy đủ kiểu giày,
Được đo theo kích thước bàn chân,
Chưa từng đóng loại giày như vậy,
Gót hướng phía trước, mũi phía sau”.
Người đóng giày vẫn làm theo yêu cầu của đồng tử, cậu mang giày và men theo đường ống cống mà trốn đi, nhưng sứ của vua vẫn đuổi theo kịp. Đồng tử này sợ hãi nhảy xuống sông, Long vương liền đưa cậu vào trong cung ẩn trốn. Vua nghe được tin này liền ra lịnh tập họp tất cả thầy trì chú bắt rồng đến để đi bắt rồng. Bị các thầy trì chú này trấn áp, Long vương biết không cứu được đồng tử liền dùng thần lực đưa đến chỗ đồng hoang là nơi ở của Dược xoa Tần-già-la, rồi trở về nói với các thầy trì chú rằng: “việc các ông làm là không tốt, đồng tử bán cá kia sẽ bị Dược xoa hại và chúng tôi cũng bị tổn hại”, hỏi vì sao, liền đáp: “các ông đã não loạn tôi, tôi bị bức bách nên đem bỏ đồng tử đến trong đồng hoang là nơi ở của
Dược xoa Tần-già-la, ắt sẽ bị dược xoa làm hại”, các thầy trì chú nghe rồi liền trở về tâu vua biết tin này, vua nói: “các vị hãy dò la xem cậu ta chết thật chưa”. Lúc đó ở trong đồng hoang, đồng tử này chạy sang Đông rồi lại sang Tây rồi leo lên cây, để tránh bị Dược xoa Tần-già-la và bầy chó dữ bắt giết ăn thịt, trong lòng nghĩ là mình chắc chết. Dược xoa kêu xuống, đồng tử nói: “tôi ở trên cây này cho đến khi chết”, dược xoa liền lấy y phục quấn quanh người rồi đứng ở dưới cây chờ. Đồng tử lén leo xuống rồi bỏ chạy, bầy chó chạy đuổi theo, cậu cởi áo đang mặc ném lên người Dược xoa khiến bầy chó tưởng là đồng tử nên cùng chồm tới cắn ăn thịt. Đồng tử chạy thoát rồi suy nghĩ: “ta có người cậu đang xuất gia ở chỗ tiên nhân, ta nên đến chỗ đó”, nghĩ rồi hỏi thăm đường để đi đến chỗ đó. Nơi tiên nhân ở cây cối sum suê, đủ loại chim ríu rít líu lo, khi đồng tử tìm đến được nơi đây thì sứ của vua cũng đuổi theo đến, đồng tử liền nhảy xuống hang, sứ của vua nắm được đầu tóc, tóc ở trong tay nhưng thân đồng tử thì rơi xuống hang, sứ cho là đồng tử đã chết nên trở về tâu cho vua biết, vua vui mừng ban thưởng. Lúc đó thiên thần hộ trì chỗ tiên ở liền nói với tiên: “cháu ngoại của đại tiên lâm nguy, nếu không cứu giúp cậu ấy sẽ chết”, tiên nhân cứu đồng tử rồi dùng chú pháp biến cậu thành người nữ tuyệt đẹp. Người nữ này đi đến trong vườn thượng uyển của vua ở thành Bà-la-nê-tư, người giữ vườn thấy người nữ này lấy làm lạ vội đến tâu vua, vua bảo dẫn đến, thấy nàng tuyệt đẹp nên vua dùng nghi lễ long trọng đón vào cung và hết sức say mê nàng. Thời gian sau, nhân lúc vua rời cung, nàng liền biến trở lại thành thân nam, đội mão vua và bảo triều thần lập làm vua. Khi triều thần lập người này lên làm vua thì trên hư không chư thiên nói kệ:
“Đầu không bị đứt, không bị hại,
Có thể tạo ra nghiệp như vậy,
Tùy nghi hại kia, không hại được,
Như người hại con vua Bạch giao”.
Phật bảo các Bí-sô: “vua Sơ thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa ngày nay, đồng tử bán cá chính là thân ta; từ thời vua đó bắt đầu phát sanh oán thù này. Các thầy lắng nghe thêm:
Thuở xưa tại một đồng hoang có một thôn lớn, trong thôn có hai người thợ khéo phân biệt của báu, mỗi người trông coi một cửa hàng riêng ở chợ, không ai xâm phạm ai. Lúc đó có một người nghèo cũng biết phân biệt của báu, mang một vật báu đến cửa hàng của một người trong số hai người thợ kia, người này tuy muốn mua vật báu này nhưng lại trả giá rất thấp nên người nghèo này không chịu bán. Sau đó mang đến cửa hàng của người thợ thứ hai, người này trả giá vừa phải nên người nghèo này chịu bán, người chủ tiệm thứ hai nói: “tôi muốn mua nhưng lại không đủ tiền”, người nghèo này nói: “vậy mỗi ngày ông có thể tùy ý đưa nhiều ít”, người chủ tiệm thứ hai nghe rồi liền nhận mua. Người chủ tiệm thứ nhất nghe biết liền đến nói: “tôi thấy vật báu này trước, vì sao anh lại tranh mối hàng của tôi; từ đây về sau chúng ta trở thành kẻ thù”.
Phật bảo các Bí-sô: “chủ tiệm thứ nhất trả giá thấp thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa ngày nay, chủ tiệm thứ hai trả giá cao hơn chính là thân ta; do nhân duyên này nên kết oán thù cho đến nay. Các thầy lắng nghe thêm:
Thuở xưa tại một đồng hoang có một thôn, trong thôn có một trưởng giả cưới một cô gái trong tộc họ làm vợ, sống với nhau rất hạnh phúc. Không bao lâu sau người vợ có mang, vừa hạ sanh con thì qua đời; trưởng giả cưới một người vợ khác, không lâu sau người vợ này lại sanh con và cũng qua đời. Trưởng giả suy nghĩ: “nếu ta cưới vợ khác thì sợ cũng sẽ chết như hai người vợ trước. Nay ta nên cưới vợ cho đứa con trai đầu”, nghĩ rồi liền cưới vợ cho con trai đầu, người con dâu này sanh được rất nhiều con. Một hôm, người vợ này hỏi chống: “đồng tử kia là ai?”, đáp là em tôi, người vợ nói: “sau này có phải phân chia tài sản hay không?”, đáp: “đúng theo luật nước thì anh em đều có phần”, người vợ nói: “con của chúng ta đông thì không nên chia đều, phải tìm cách giết người em”. Phàm phu vì tham lợi thì không gì là không dám làm, người chồng nghe theo lời vợ lập kế nói với em: “hôm nay chúng ta vào trong núi hái trái cây”, khi vào tới trong núi, người em bị người anh lấy tảng đá đập vào đầu mà chết.
Phật bảo các Bí-sô: “người anh thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa, người em chính là ta; do nhân duyên này nên kết oán thù đến nay. Các thầy lắng nghe thêm:
Thuở xưa tại một đồng hoang có một thôn lớn, trong thôn có một cư sĩ cưới một cô gái trong tộc họ làm vợ, cùng sông rất hạnh phúc. Không bao lâu sau người vợ sanh được một bé gái rất xinh đẹp, ai cũng yêu mến; cư sĩ nói: “nếu ai đến đây gặp ta trước thì ta sẽ cho đứa bé gái này”. Lúc đó có một Bà-la-môn đến nhà và chúc cho cư sĩ không bịnh, cư sĩ nói: “tôi có một bé gái muốn đem cho nhân giả”, Bà-la-môn nói: “hôm nay không phải là ngày có sao tốt nên tôi không nhận, đợi đến ngày có sao tốt tôi sẽ đến nhận”, nói rồi liền bỏ đi. Lát sau lại có một Bà-la-môn khác đến, cư sĩ cũng nói như trước, Bà-la-môn hỏi: “vì sao không đem cho Bà-la-môn đến trước?”, cư sĩ thuật lại việc trên, Bà-la-môn này nghe rồi liền nhận và dẫn bé gái về nhà. Bà-la-môn trước nghe biết liền đến gặp Bà-la-môn này nói rằng: “bé gái này là của tôi nhận trước vì sao ông lại dẫn đi”, Bà-lamôn này nói: “ông nói hôm nay có sao không tốt nên không nhận, tôi thì không cần biết có sao tốt hay không tốt nên nhận”, Bà-la-môn kia nghe rồi nổi giận và kết oán thù.
Phật bảo các Bí-sô: “Bà-la-môn đến sau và được bé gái chính là thân ta ngày nay, Bà-la-môn đến trước chính là Đề-bà-đạt-đa; do nhân duyên này nên kết oán thù từ đó”.
Phật đang ở trong Trúc lâm, thành Vương xá, lúc đó vua Vị sanh oán có nuôi một con voi lớn tên là Hộ tài, rất hung dữ, hằng ngày thường ra khỏi chuồng não loạn làm hại dân chúng trong thành nên họ kinh sợ không dám ra khỏi cửa. Nhiều người đến tâu vua: “voi Hộ tài rất hung dữ, hằng ngày thường ra khỏi chuồng não loạn làm hại dân chúng trong thành. Xin vua cử người trông coi voi đừng cho nó hằng ngày ra khỏi chuồng, nên cách ngày cho ra một lần; khi nào cho nó ra thì lắc linh báo trước cho dân biết”, vua nói được rồi cho gọi người quản tượng đến bảo làm theo lời yêu cầu của dân chúng, người quản tượng vâng lời vua, xá chào rồi lui ra.
Trong thành Vương xá có một trưởng giả giàu có, thọ dụng đầy đủ, phát tâm thỉnh Phật và Tăng ngày mai đến nhà thọ thực; Đề-bà-đạt-đa nghe biết tin này liền đưa vật báu trị giá trăm ngàn cho người quản tượng và nói: “ngày mai có trưởng giả thỉnh Sa môn Kiều-đáp-ma và chúng Thanh văn đến nhà thọ thực, ông hãy thả voi Hộ tài ra để nó giẫm chết Sa môn Kiều-đáp-ma”, đáp: “tuân lịnh, xin Thánh giả hãy nói cho vua biết việc này, chúng tôi mới yên tâm làm theo”, Đề-bà-đạt-đa đến nói với vua Vị sanh oán : “Đại vương không thể lập tôi làm Phật, do Đại vương giết cha mới được làm vua; tôi nay cũng giết Phật để tự lên ngôi Nhất thiết trí. Xin vua cho thả voi Hộ tài ra”, vua nói: “Thánh giả không nghe nói Thế tôn có thể điều phục người chưa điều phục hay sao?”. Đề-bà-đạtđa nói cho vua biết rồi trở lại nói với người quản tượng: “tôi đã tâu vua rồi, ngày mai ông hãy thả voi ra”, người quản tượng liền lắc linh báo cho người trong thành biết ngày mai sẽ thả voi Hộ tài ra. Trưởng giả nghe rồi ưu sầu tự than: “ta là người ít phước, ngày mai thỉnh Phật và Tăng đến nhà thọ thực thì gặp lúc thả voi Hộ tài ra. Hay là ta nấu xong các món ăn rồi mang đến chỗ Thế tôn”, nghĩ rồi ngay trong đêm đó lo liệu các thức ăn uống cúng dường. Sáng hôm sau đến bạch Phật: “người quản tượng lắc linh thông báo hôm nay sẽ thả voi Hộ tài ra, mỗi người phải tự phòng vệ. Vì vậy Thế tôn đừng vào thành, con sẽ cho người mang thức ăn cúng dường đến”, Phật nói: “ông cứ sửa soạn sẵn, ta không sợ voi Hộ tài, đúng giờ ta cùng chúng Thanh văn sẽ vào thành”, trưởng giả nghe rồi vui mừng trở về sửa soạn sẵn và trải tòa ngồi chờ đợi Thế tôn đến. Khi thấy Như lai cùng chúng Bí-sô đắp y mang bát vào thành, người quản tượng liền thả voi Hộ tài ra, voi chạy ào tới chỗ Phật. Lúc đó vua và Đề-bà-đạt-đa đứng trên lầu cao từ xa nhìn xuống, Đề-bà-đạt-đa thấy voi sắp giẫm chết Thế tôn liền vui mừng nói kệ:
“Tôi thấy đấng Thập lực,
Sắp bị voi giẫm chết,
Chúng Thích tử Thanh văn,
Hôm nay đều tiêu hết”.
Lúc đó, Phật xòe tay phải, năm ngón tay hóa ra năm sư tử, voi thấy sư tử hoảng sợ đến vải phân ra và bỏ chạy; Phật lại hóa lửa đốt cháy khắp nơi, chỉ có chỗ Phật là mát mẻ, voi hung hăng chạy khắp nơi toàn gặp lửa nên đành phải chạy tới chỗ
Thế tôn. Phật dùng bàn tay có tướng bách báu luân trang nghiêm vô úy xoa đầu voi, hành thí vô úy rồi nói kệ:
“Chớ ưa thích thân voi,
Loài voi thuộc cõi ác,
Cũng chớ tổn hại người,
Sẽ được đạo Hiền Thánh.
Ngươi do nghiệp đời trước,
Nên sanh vào cõi ác,
Tổn hại các hữu tình,
Lấy đó làm vui thú.
Sau khi chết ở đây,
Sẽ sanh về cõi nào,
Và trụ ở chỗ nào?
Hiền thủ, hãy nghe kỹ:
Các hành là vô thường,
Các pháp là vô ngã,
Tịch tĩnh là Niết bàn,
Sanh lòng tin nơi ta”.
Khi thấy voi dữ chạy áo tới chỗ Phật, chúng Thanh văn đều chạy tránh xa, chỉ riêng có A-nan là không lìa xa Phật. Sau khi hàng phục voi dữ xong, Phật cùng chúng Thanh văn đến nhà trưởng giả, voi Hộ tài theo sau Phật; khi Phật vào trong nhà, voi đứng ở ngoài vì không thấy Phật nên nó định xô cửa làm sụp nhà, Phật liền dùng thần lực hóa nhà thành thủy tinh, trong ngoài đều thấy được nhau để voi được thấy Phật. Thọ thực xong, Phật nói kệ chúc nguyện rồi cùng chúng Thanh văn đứng dậy ra về, voi lại đi theo sau Phật. Quần thần đem việc này tâu vua, vua liền nói với Đề-bàđạt-đa: “Ngài đã làm cho tôi bị tổn thất lớn, nếu voi ấy bỏ đi, nước lân cận sẽ gây chiến tranh, Ngài thật không biết thời”, Đề-bà-đạt-đa nghe Vua trách liền im lặng. Vua bảo quần thần : “sau khi Phật ra khỏi thành thì hãy đóng cửa thành lại, chớ để voi theo Phật ra ngoài”, đại thần tuân lịnh vua, bảo người giữ cửa thành và người quản tượng : “hãy bắt giữ voi lại, chớ để nó theo Phật ra ngoài”. Khi voi Hộ tài bị bắt giữ lại, nó không nhìn thấy Phật được nữa nên dùng chân đạp vòi cho không thở được, mê man ngã xuống đất mà chết, thần thức thác sanh lên cõi trời Tứ thiên vương. Thường pháp của chư thiên khi sanh lên cõi trời đều khởi ba niệm: một là ta từ đâu sanh đến đây, hai là nay ta đang ở đâu, ba là ta do nghiệp duyên gì. Lúc đó thiên tử này quán biết mình từ thân voi chết đi, được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương là do sanh tâm hoan hỉ đối với Phật. Thiên tử liền suy nghĩ: “nếu ta ở đây thọ diệu lạc mà không đến chỗ Thế tôn trước là không phải đạo lý ; ta nên cùng chư thiên vây quanh đi đến chỗ Phật”, nghĩ rồi ngay trong đêm đó, Thiên tử dùng trăm báu trang nghiêm thân, thân thanh tịnh sáng suốt từ trong ra ngoài, lại dùng cái y kích đựng đủ loại hoa vi diệu đi đến chỗ Phật trong Trúc lâm, ánh sáng chiếu soi cùng khắp, sáng hơn cả ban ngày. Thiên tử đến chỗ Phật rải hoa cúng dường, đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, Phật quán biết căn tánh tùy miên của thiên tử nói pháp Tứ đế khiến cho được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả, thiên tử bạch Phật: “Thế tôn, nhờ Phật khai ngộ khiến con ở trong các nạn mà được giải thoát, điều này không phải do cha mẹ… cho đến sa môn, Bà-lamôn có thể làm được. Thế tôn là bậc đại thiện tri thức đã cứu vớt con ra khỏi ba cõi, đặt để con vào cõi trời người, hết khổ sanh tử, được đạo Niết-bàn, làm cạn biển máu, vượt khỏi núi xương, núi thân kiến từ vô thỉ đến nay đều bị phá tan bằng chày trí Kim cang, chứng được Sơ quả. Nay con xin quy y Tam bảo, từ hôm nay cho đến trọn đời thọ trì năm học xứ, cúi xin Thế tôn chứng biết con là Ô-basách-ca”, liền nói kệ:
“Nhờ Phật đóng bít cửa đường ác,
Ở trong ba đường nhiều tổn hại,
Nhờ Phật khai mở đường Nhân thiên,
Lại được chứng Niết-bàn vi diệu,
Nhờ Phật dứt trừ các nghiệp ác,
Lột hết màng che, mắt được sáng,
Chứng được đạo Thánh hiền tịch diệt,
Vượt qua cảnh khổ trong ba cõi,
Được tất cả trời người cúng dường,
Trừ hết khổ sanh già bịnh chết.
Trong trăm ngàn đời không được gặp,
Hôm nay quả báo được gặp Phật,
Rũ anh lạc kính lễ đại sư,
Đảnh lễ chân Phật, tâm vui mừng,
Nhiễu phải ba vòng rồi trở về,
Vọt thân bay lên trên thiên cung”.
Lúc đó thiên tử vui mừng như người đi buôn được lời, như người cày ruộng được thu hoạch, như người ra trận được thắng, như người bịnh được lành, cùng chư thiên bay trở về thiên cung. Đêm đó vào đầu đêm, các Bí-sô kinh hành trong rừng nhìn thấy ánh sáng này rồi, sáng hôm sau liền đến hỏi Phật: “Thế tôn, đêm qua có phải Thích Phạm chư thiên đã đến chỗ Phật?”, Phật nói: “đó không phải là Thích Phạm chư thiên đã đến chỗ ta. Các thầy có nhớ voi Hộ tài hung dữ đã chạy ào tới muốn giẫm chết ta không?”, đáp là có nhớ, Phật nói: “lúc đó ta đã chỉ dạy khiến nó sanh tâm chánh tín và khởi tâm hoan hỉ đối với ta; nhờ đó sau khi chết, nó được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương. Đêm qua chính thiên tử ấy đã đến chỗ ta, nghe ta thuyết pháp và đã được Kiến đế”, các Bísô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, voi Hộ tài đã tạo nghiệp gì mà đọa vào bàng sanh, lại nhờ nghiệp gì mà được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương và được Kiến đế?”, Phật nói: “voi Hộ tài đã tạo nghiệp rồi, theo thời gian nghiệp ấy tăng trưởng thần thục, duyên biến hiện tiền như bộc lưu (thác nước) không thể chảy ngược lại, quyết định phải chiêu lấy quả báo không ai có thể thọ thay. Này các Bí-sô, nếu một người đã tạo nghiệp thiện ác không phải địa thủy hỏa phong ở ngoài giới mới khiến người kia thọ báo, mà đều ở trong uẩn xứ giới của tự thân chiêu cảm quả dị thục”. Phật nói kệ:
“Dù trải qua trăm kiếp,
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên hội họp,
Tự thọ lấy quả báo”.
Phật bảo các Bí-sô: “Quá khứ Hiền kiếp, lúc loài người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca-diếp ba ra đời đầy đủ mười hiệu, trụ ở trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Lúc đó voi này xuất gia trong giáo pháp của Phật đó, nhưng không quý trọng giới, giới hạnh thiếu sót nên bị đọa trong loài voi. Vị này thường đem tứ sự cúng dường chúng tăng, nhờ căn lành này nên dù sanh ra nơi nào cũng được đầy đủ thức ăn uống, lại được gặp ta, do sanh tâm hoan hỉ nên sau khi qua đời được sanh lên cõi trời Tứ thiên vương. Vị này thường đọc tụng các pháp như Tứ đế, duyên khởi, uẩn, xứ…; nhờ căn lành này nên sau khi sanh thiên trở lại gặp ta, nghe pháp và được Kiến đế, chứng quả Dự lưu. Này các Bí-sô, nếu tu nghiệp trắng thì được quả báo trắng…”, các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “lúc voi Hộ tài chạy đến hại Phật, do nhân duyên gì chúng Thanh văn đều chạy tránh xa, chỉ có một mình A-nan là không lìa xa Phật?”, Phật nói: “không phải chỉ có ngày nay mà ngày xưa cũng vậy, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa, ở bên sông A na bà đạt đa có con ngỗng chúa tên là Đề đầu lại tra, nó có hai con: con ngỗng lớn tên là Mãn, con ngỗng nhỏ tên là Mãn diện. Mãn có tánh hung ác, thích gây sự đánh nhau và xúc não các con ngỗng khác; mỗi lần nghe các con ngỗng đến báo cáo: “con lớn của Đại vương đánh tôi, xúc não tôi”, ngỗng chúa liền suy nghĩ: “bản tánh nó hung bạo, nếu lập nó làm Thái tử thì sau khi ta chết, nó sẽ giết hại các con ngỗng; ta phải lập kế”, nghĩ rồi liền gọi hai con đến nói rằng: “hai con hãy đi tuần tra tới các ao có ngỗng sinh sống, đứa nào tuần tra xong trở về trước thì ta sẽ truyền vương vị”. Hai vương tử ngỗng nghe rồi, mỗi con liền cùng năm trăm ngỗng chúng bay đi tuần tra các ao nước ở khắp nơi có ngỗng sinh sống, dần dần đến thành Bà-la-nê-tư. Nơi đây có vua Phạm đức đang trị vì, đất nước phồn thịnh, nhân dân no ấm ; cách thành không xa có một ao sen với đủ các loại hoa tạp sắc phủ đầy trên mặt ao, bốn bên bờ ao có ngàn loại cây hoa quả với đủ các loại chim tụ tập. Vương tử Mãn cùng năm trăm ngỗng chúng bay xuống ao dạo chơi vui vẻ, không có sợ sệt; vương tử Mãn diện cùng năm trăm ngỗng chúng đang bay trên không trung, một con ngỗng hỏi: “chúng ta có nên bay xuống ao này không?”, Mãn diện nói: “ta nên trở về ao Vô nhiệt nhận vương vị rồi sẽ trở lại đây vui chơi”, nói rồi liền bay trở về ao Vô nhiệt nhận vương vị rồi trở lại trong ao này vui chơi. Những người đứng bên bờ ao nhìn thấy ngỗng chúa này xinh đẹp khác lạ, không chim nào ở đây sánh được nên đều nhìn ngắm nó, không biết nó từ đâu tới. Tiếng đồn lan ra nên dân chúng trong thành Bà-la-nê-tư đều đến bên ao ngắm nhìn ngỗng chúa, quần thần đem việc này tâu vua. Vua cho gọi các thợ săn đến và nói: “ta nghe nói trong ao của ta có một ngỗng chúa không biết từ đâu bay tới rất xinh đẹp, các ông tìm cách vây bắt nhưng không được làm tổn hại nó rồi mang đến đây cho ta xem”, các thợ săn tuân lịnh vua vây bắt, từ từ cột trói ngỗng chúa lại. Ngỗng chúa biết không thoát được nên bảo bầy ngỗng mau bay trở về ao Vô nhiệt, năm trăm con ngỗng nghe rồi đều bay hết, chỉ có một con ở lại nhìn ngỗng chúa rơi nước mắt. Thợ săn thấy rồi ngạc nhiên nói với ngỗng kia: “ta vì theo lịnh vua nên vây bắt ngỗng chúa, ta không bắt giết ngươi, ngươi chớ khóc”, nói rồi mang ngỗng chúa đến chỗ vua, ngỗng kia vì thương mến ngỗng chúa nên cũng bay theo sau. Đến chỗ vua, vua thấy rồi liền hỏi thợ săn: “con ngỗng kia vì sao lại bay theo đến đây?”, thợ săn nói là nó tự bay theo, vua ngạc nhiên nói với thợ săn: “ngỗng kia chắc là chông hay vợ của ngỗng chúa này nên không muốn lìa xa nhau, vậy khanh hãy thả cho chúng cùng bay đi, chớ có giết hại”, thợ săn nói: “thần sợ người khác sẽ bắt giết chúng, xin vua ra lịnh cho nhân dân chớ giết hại chúng”, vua liền bảo đại thần: “khanh hãy cho người đánh trống thông báo cho dân chúng trong thành từ nay trở đi không được giết hại loài chim”, đại thần tuân lịnh vua đi thông báo cho dân chúng biết.
Phật bảo các Bí-sô: “ngỗng chúa Mãn diện thuở xưa chính là thân ta ngày nay, ngỗng bay theo sau chính là A-nan, năm trăm ngỗng chúng chính là năm trăm Bí-sô ngày nay. Thuở xưa năm trăm ngỗng chúng đều bay đi, chỉ có ngỗng kia ở lại không xa lìa ; nay cũng vậy. Các thầy lắng nghe thêm:
Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có vua tên là A-tra trị vì, đất nước phồn thịnh, nhân dân no ấm, triều thần có năm trăm vị, do oai đức của vua nên các nước lân cận đều đến triều bái. Lúc đó có một người từ Nam Thiên trúc đến tên là Trượng bình, có sức mạnh địch ngàn người; đại thần dẫn đến gặp vua tâu rằng: “người này có sức mạnh địch được ngàn người, vì nghe oai đức của vua nên đến xin theo phò tá, xin vua thu nạp”, vua nghe rồi liền thu nạp và ban cho nhiều của cải vật dụng. Thời gian sau, một vua của nước lân cận có quân mã nhiều và mạnh nên tập họp bốn binh là tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh rồi thân chinh đến gây chiến; vua A-tra cũng dẫn bốn binh ra nghinh chiến, vua kia thua trận bỏ chạy về nước. Trở về nước rồi lập kế cho người đến đút lót và mua chuộc năm trăm vị đại thần trong triều của vua Atra, nói rằng: “lần sau vua nước tôi sang gây chiến, các ông chớ cùng chúng tôi chiến đấu; nếu vua tôi thắng trận sẽ ban thưởng cho các ông gấp vạn lần”, năm trăm triều thần này nhận lời. Không bao lâu sau, vua nước kia lại sang gây chiến, vua A-tra cũng dẫn binh ra nghinh chiến nhưng năm trăm đại thần vì đồng tình với vua nước kia nên không cùng họ chiến đấu. Do duyên này nên vua A-tra và Trượng bình bị nguy khốn, vua nói kệ:
“Từ lâu thân cận ta,
Nay đều lìa bỏ ta,
Chỉ còn có Trượng bình,
Không lìa bỏ Đại vương”.
Lúc đó Trượng bình giết chết năm trăm đại thần kia.
Phật bảo các Bí-sô: “vua A-tra thuở xưa chính là thân ta ngày nay, Trượng bình chính là A-nan, năm trăm đại thần chính là năm trăm Bí-sô; thuở xưa năm trăm đại thần đều lìa bỏ ta, chỉ có Trượng bình là không lìa bỏ, nay cũng vậy. Các thầy hãy lắng nghe thêm:
Thuở xưa, có một Bồ-tát trụ nơi Bất định tụ, thọ thân sư tử vua của loài thú sống trong núi rừng nọ. Lúc đó có năm trăm dã can hằng ngày thường theo sau sư tử để ăn thức ăn dư; vì khi sư tử bắt được con thú nào, nó chỉ ăn phần thịt ngon rồi bỏ đi, phần còn lại để cho các dã can ăn. Thời gian sau, khi đi săn mồi vào ban đêm, vì trời tối nên sư tử rơi xuống một cái giếng khô; thấy sư tử bị rơi xuống giếng, một con trong số năm trăm dã can ở lại bên miệng giếng nghĩ cách cứu sư tử, những con khác thấy bầy nai liền chạy theo nai. Con dã can này đi quanh nhìn ngó và thấy một ụ đất, nó dụng sức đẩy đất này bỏ xuống giếng cho đến khi đất dần dần đầy ; nhờ đó sư tử nhảy ra khỏi giếng.
Chư thiên trên hư không thấy rồi liền nói kệ:
“Nên giao kết bạn thân,
Dù yếu hay mạnh mẽ,
Ta thấy một dã can,
Cứu sư tử khỏi giếng”.
Phật bảo các Bí-sô: “sư tử thuở xưa chính là thân ta ngày nay, dã can ở lại chính là A-nan, những con dã can bỏ đi chính là các Bí-sô ngày nay; thuở xưa đã lìa bỏ ta và nay cũng vậy. Các thầy lắng nghe thêm:
Thuở xưa, có một Bồ-tát trụ nơi Bất định tụ, thọ thân Nai vua của năm trăm con sống trong một khu rừng nọ. Có một thợ săn giăng bẫy để giết hại bầy nai, khi nai chúa dẫn bầy nai đi đến nơi đó, nai chúa đi đầu liền sa bẫy, bầy nai đều bỏ chạy tán loạn, chỉ còn lại một con nai cái ở bên cạnh nai chúa không đi. Thấy nai chúa gở bẫy không được, nai cái này nói kệ:
“Nai chúa đại oai đức,
Hãy mau mau gở bẫy,
Người cài đặt bẫy này,
Là thợ săn sắp đến”.
Nai chúa nói kệ:
“Ta dù làm cách nào,
Cũng không thể gở bẫy,
Bẫy này quá chắc chắn,
Cột chân đau thấu xương”.
Lúc đó người thợ săn cầm cung tên đi đến, thấy thợ săn sắp đến nai cái nói kệ:
“Nai chúa đại oai đức,
Hãy mau mau gở bẫy,
Người cài đặt bẫy này,
Là thợ săn sắp đến”.
Nai chúa nói kệ:
“Ta dù làm cách nào,
Cũng không thể gở bẫy,
Bẫy này quá chắc chắn,
Cột chân đau thấu xương”.
Nai cái thấy thợ săn đến, vì quá sợ hãi nên nói với thợ săn:
“Ông là thợ săn giỏi,
Hãy bỏ cung tên đi,
Lấy dao giết tôi trước,
Rồi giết nai chúa sau”.
Thợ săn nghe rồi ngạc nhiên hỏi: “nai này là gì của ngươi?”, đáp là chồng tôi, thợ săn nghe rồi nói kệ:
“Nay ta không hại ngươi,
Cũng không giết nai chúa,
Chồng vợ đều được tha,
Cho hai ngươi đoàn tụ”.
Nai cái nói kệ:
“Như vợ chồng tôi cùng vui vẻ,
Tôi đoàn tụ với chồng thân yêu,
Nguyện cho ông cùng với quyến thuộc,
Thường được vui vẻ thương yêu nhau”.
Thợ săn nghe rồi kinh ngạc khen là hiếm có, liền gở bẫy cho nai chúa được cùng đi với nai cái. Phật bảo các Bí-sô: “nai chúa thuở xưa chính là thân ta ngày nay, nai cái ở lại chính là A-nan, bầy nai bỏ đi chính là các Bí-sô; thuở xưa lìa bỏ ta, nay cũng vậy”, lúc đó các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, vì sao Đề-bà-đạt-đa lại tham lợi dưỡng cấu uế mà tự hại bản thân mình?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay, ngày xưa cũng vì tham lợi cấu uế mà tự hại thân. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa, trong một vùng núi có cái ao hoa lớn, lúc đó có một con voi lớn đến bên ao uống nước xong rồi đi, lại có một con dã can rất dơ bẩn hôi hám cũng muốn đến bên ao uống nước. Nó gặp voi ngược đường đi tới liền nói: “anh hãy tránh đường, nếu không tránh thì chúng ta sẽ đánh nhau”, voi nghe rồi liền suy nghĩ: “con vật này hôi hám dơ bẩn đáng thương, nếu ta dùng chân đạp hoặc dùng ngà, vòi hại nó thì ta cũng bị dơ lây; ta nên dùng vật bẩn hại nó”, nghĩ rồi liền nói kệ:
“Không dùng chân đạp ngươi,
Cũng không dùng vòi, ngà,
Mà dùng vật bẩn giết,
Dùng vật bẩn giết bẩn”.
Voi suy nghĩ: “nếu ta né tránh bỏ đi, chắc chắn nó sẽ theo sau ta”, nghĩ rồi liền né một bên rồi bỏ đi thật mau; dã can suy nghĩ: “ta chỉ nói một câu mà voi đã sợ hãi bỏ chạy”, nghĩ rồi liền đuổi theo sau. Voi thấy dã can đã chạy tới gần liền dụng sức phóng phân vào mình dã can, dã can trúng phải phân liền qua đời.
Phật bảo các Bí-sô: “con dã can thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa ngày nay, xưa bị vật bẩn làm hại, nay cũng bị lợi dưỡng cấu uế làm hại”, các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “do nhân duyên gì người nghe theo lời Phật dạy thì được thoát khỏi sanh tử khổ nạn, còn nghe theo lời của Đề-bà-đạtđa thì bị khổ não?”
Phật bảo các Bí-sô: “thuở xưa cũng vậy, ai nghe theo lời ta dạy đều thoát khỏi khổ nạn; ai nghe theo lời dạy của Đề-bà-đạt-đa đều bị khổ nạn. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại một đồng hoang có một thôn với nhiều cây trái sum suê, nơi đó có hai bầy khỉ sống gần nhau, mỗi bầy có năm trăm con với một khỉ chúa. Một trong hai con khỉ chúa nằm mộng thấy năm trăm con khỉ với hai khỉ chúa đều bị ném vào cái vạc nóng, nó sợ hãi đến nỗi lông trên người dựng đứng và lập tức tỉnh dậy. Khỉ chúa này cho gọi bầy khỉ đến kể lại giấc mộng trên rồi nói: “giấc mộng này không phải là điềm lành, chúng ta phải bỏ nơi này dời đến nơi khác”, bầy khỉ nói: “cần gì phải rời bỏ nơi đây, Đại vương có đại oai đức, mộng thấy thì không phải là sự thật”. Sáng hôm sau khỉ chúa này đến nói với khỉ chúa kia : “tôi mộng thấy như vậy như vậy, chúng ta nên dời đến nơi khác”, khỉ chúa kia nói: “làm sao có thể tin vào giấc mộng, nếu anh muốn đi thì cứ đi, tôi ở đây thấy thoải mái nên không muốn đi đâu cả”. Khỉ chúa này biết khỉ chúa kia không tin nên dẫn bầy khỉ của mình đi đến nơi khác. Thời gian sau, trong thôn có một nô tỳ đang rang lúa mạch, một con dê đến gần muốn ăn lúa, cô bèn lấy cây củi đang cháy đánh dê, lửa cháy lông dê nên con dê chạy vào trong chuồng voi của vua. Trong chuồng này có nhiều cỏ khô, con dê bị lửa đốt nóng nên lắc mình làm cho lửa văng lên cỏ khô, cỏ cháy khiến các con voi trong chuồng đều bị phỏng. Người quản tượng đem việc này tâu vua, vua bảo gọi thầy thuốc đến chữa trị, thầy thuốc suy nghĩ: “trước đây ta bị bầy khỉ làm tổn hại mùa mang, nay ta nhân dịp này báo thù”, nghĩ rồi liền tâu vua: “voi bị phỏng, cần phải dùng mở khỉ thoa lên chỗ phỏng thì mới được lành”. Vua nghe rồi liền ra lịnh tìm mở khỉ, đại thần tuân lịnh vua cho gọi thợ săn đến vào bảo tìm bắt khỉ. Thợ săn tuân lịnh đi tìm bắt khỉ, kết quả khỉ chúa và bầy khỉ năm trăm con của nó đều bị bắt và bị thầy thuốc kia bỏ vào vạc nung để lấy mở. Chư thiên trên hư không thấy việc này rồi liền nói kệ:
“Không nên gần oan gia,
Thành ấp và làng xóm,
Người giận dê ăn lúa,
Khiến khỉ bị nấu chảy”.
Phật bảo các Bí-sô: “khỉ chúa nằm mộng thuở xưa chính là thân ta ngày nay, khỉ chúa không tin chính là Đề-bà-đạt-đa; thuở xưa bầy khỉ nghe theo lời ta nên tránh khỏi nỗi khổ bị lửa đốt, bầy khỉ nghe theo lời của Đề-bà-đạt-đa thì chịu khổ cùng cực, ngày nay cũng vậy. Các thầy lắng nghe thêm: Thuở xưa tại một nơi khác có hai con khỉ chúa, mỗi con có năm trăm quyến thuộc; một trong hai con khỉ chúa dẫn quyến thuộc của mình đi kiếm ăn, đến một làng kia thấy có một cây Kim ba già ra trái sum suê. Bầy khỉ thấy rồi liền nói với khỉ chúa: “cây này ra trái rất sum suê, chúng ta từ xa đến đây mệt nhọc nên lên cây hái trái này ăn”, khỉ chúa quan sát rồi nói kệ:
“Cây này gần xóm làng,
Trẻ em không hái ăn,
Thì các ngươi nên biết,
Trái này không ăn được”.
Nói rồi dẫn bầy khỉ bỏ đi; sau đó con khỉ chúa thứ hai cũng dẫn quyến thuộc của mình đi kiếm ăn, đến làng kia thấy cây Kim ba già ra trái sum suê. Bầy khỉ thấy rồi liền nói với khỉ chúa: “cây này ra trái rất sum suê, chúng ta từ xa đến đây mệt nhọc nên lên cây hái trái này ăn rồi đi tiếp”, khỉ chúa nói được, kết quả là khỉ chúa và bầy khỉ ăn trái này xong liền chết.
Phật bảo các Bí-sô: “khỉ chúa thứ nhất chính là thân ta ngày nay, khỉ chúa thứ hai chính là Đềbà-đạt-đa; thuở xưa bầy khỉ nghe theo lời ta đều được bình an, bầy khỉ nghe theo lời của Đề-bàđạt-đa đều bị chết. Ngày nay cũng vậy, ai nghe theo lời ta dạy đều thoát khỏi khổ nạn; ai nghe theo lời dạy của Đề-bà-đạt-đa đều bị khổ nạn”.
Lúc đó các cư sĩ, Bà-la-môn nghe biết Đề-bàđạt-đa ném đá hại Phật đều tức giận muốn giết Đềbà-đạt-đa, đồng bạn của Đề-bà-đạt-đa hay tin này liền đến báo, Đề-bà-đạt-đa nghe rồi liền đến bên gốc cây ngồi thiền. Khi các cư sĩ, Bà-la-môn đến, thấy Đề-bà-đạt-đa đang ngồi thiền bên gốc cây liền nói với nhau: “Đề-bà-đạt-đa có đại oai đức, chúng ta không thể giết; tại sao chúng ta lại có niệm ác này, chúng ta hãy giải tán”. Các Bí-sô nghe biết việc này, đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, vì sao Đề-bà-đạt-đa làm điều phi pháp, tạo tội nhưng ở trước mọi người lại hiện tướng tu pháp lành?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay mà ngày xưa cũng vậy, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa tại một nơi có con chuột chúa với năm trăm quyến thuộc; lại có con mèo tên là Hỏa diễm, lúc còn trẻ nó chuyên môn bắt giết chuột, khi đã già nó suy nghĩ: “hồi còn trẻ có sức lực, ta có thể bắt chuột dễ dàng; nay ta đã già khí lực suy yếu không thể bắt chuột được, ta nên làm phương tiện”, nghĩ rồi nó quan sát biết có con chuột chúa cùng năm trăm quyến thuộc ở trong hang đó. Mèo già này liền đến trước hang ngồi thiền, khi bầy chuột ra ngoài kiếm ăn thấy mèo ngồi thiền liền hỏi: “cậu đang làm gì vậy?”, mèo đáp: “hồi xưa khi còn trẻ khỏe mạnh, ta đã gây vô lượng tội; nay tuổi già, ta muốn tu phước để trừ bỏ tội xưa”, bầy chuột nghe rồi liền sanh tâm thiện, cho là mèo đang tu pháp lành nên hữu nhiễu ba vòng rồi chui vào hang; mèo già liền chộp bắt con chuột đi cuối để ăn thịt. Không bao lâu sau bầy chuột càng ít dần, chuột chúa suy nghĩ: “bầy chuột ít dần, mèo già mập lên ắt là có nguyên do”, nghĩ rồi chuột chúa liền xem xét phân mèo, thấy trong phân có xương và lông chuột, nó liền theo dõi mèo già và biết được mèo già đã bắt con chuột đi cuối để ăn thịt. Chuột chúa liền đứng tránh xa rồi nói kệ:
“Mèo già ngày càng mập,
Bầy chuột ngày càng ít,
Nếu ăn trái cây củ lá,
Sao phân có lông xương,
Ông tuy tu thiền nhưng bất thiện,
Vì lợi nên giả người tu thiện,
Nguyện ông không bịnh, sống an ổn,
Bầy chuột chúng tôi, ông ăn hết”.
Phật bảo các Bí-sô: “mèo già thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa ngày nay; thuở xưa làm điều phi pháp tạo tội nhưng lại hiện tướng tu thiện, ngày nay cũng vậy”, các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn hãy nói nhân duyên của việc ai nghe theo lời Thế tôn dạy đều thoát khỏi khổ nạn; ai nghe theo lời dạy của Đề-bà-đạt-đa đều bị khổ nạn”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay mà ngày xưa cũng vậy, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa có hai người dẫn đường, mỗi người có năm trăm cỗ xe đang vượt qua bãi sa mạc, lúc gặp được chỗ có cỏ nước, lúc không gặp, trải qua nhiều ngày như vậy nên các con bò rất khổ sở. Sau đó đoàn xe đi đến một nơi có suối nước và cỏ tươi tốt, các thương nhân dắt bò tới cho ăn cỏ uống nước và nghỉ ngơi trong lúc họ xuống nước tắm rửa. Trong năm trăm con bò của đoàn xe thứ nhất có một con bò chúa, nó bảo các con bò: “nơi đây có cỏ xanh tốt và nước suối, chúng ta hãy ở lại đây đừng đi nữa; nếu các thương nhân bắt chúng ta kéo xe thì chúng ta hãy nằm xuống đất, không để họ điều khiển chúng ta nữa”, con bò chúa của đoàn xe có năm trăm con bò thứ hai nói với các con bò: “các thương nhân này có sức mạnh, có thể điều khiển những vật khó điều khiển; chúng ta hãy tùy thuận họ, kéo xe như trước, nếu không sẽ bị tổn hại”, con bò chúa thứ nhất tức giận nói: “anh khuyên bầy bò chịu cho họ sai khiến như trước là phi pháp, ai có thể thấy được lưng của mình”, nói rồi bảo bầy bò của mình: “hãy tin lời ta ở lại đây đừng đi theo họ nữa”. Lúc đó các thương nhân của đoàn xe thứ nhất lên xe đi tiếp thì các con bò này chụm chân cào đất không chịu đi, thương nhân dùng roi đánh đến rách da chảy máu bắt phải đi; các con bò của đoàn xe thứ hai chịu kéo xe nên được an ổn. Lúc đó chư thiên trên hư không thấy việc này rồi nói kệ:
“Hãy xem bò chúa ác,
Nói bảo làm việc sai,
Khiến bầy bò chịu khổ,
Thân bị đánh chảy máu.
Hãy xem bò chúa tốt,
Thuần thiện chỉ bảo đúng,
Nhờ đó mà bầy bò,
Được an ổn thoát hiểm”.
Phật bảo các Bí-sô: “bò chúa chỉ bảo đúng thuở xưa chính là thân ta ngày nay, bò chúa chỉ bảo sai chính là Đề-bà-đạt-đa; thuở xưa ai nghe theo lời ta dạy đều thoát khỏi khổ nạn, ai nghe theo lời dạy của Đề-bà-đạt-đa đều bị khổ nạn; nay cũng vậy”, các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, vì sao bản thân Đề-bà-đạt-đa ngu si mà quyến thuộc cũng ngu si?”, Phật nói: “không phải chỉ đời này mà đời xưa cũng vậy, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa trong một khu rừng vắng có bầy khỉ sinh sống, chúng đi dạo chơi đến một cái giếng, nhìn thấy dưới đáy giếng có bóng mặt trăng, chúng nói với khỉ chúa: “Đại vương, mặt trăng bị rơi xuống giếng, chúng ta xuống dưới vớt lên”. Chúng bàn với nhau làm cách nào để vớt mặt trăng lên, khỉ chúa nói: “chúng ta nối nhau làm dây xuống dưới vớt trăng lên”, nói rồi một con khỉ ở trên miệng giếng ôm chặt một cành cây, những con khỉ kia lần lượt nắm tay nôi nhau xuống dưới giếng; do số khỉ nối nhau càng nhiều nên cành cây ở trên chịu không nổi, rạp xuống và gãy. Lúc đó con khỉ dưới cùng ở gần sát mặt nước đưa tay quậy nước để tìm trăng, nước bị quậy vẫn đục nên trăng không hiện nữa; ở trên cành cây gãy khiến cho cả bầy khỉ đều rơi tòm xuống giếng, chết chìm một lượt. Chư thiên trên hư không thấy việc này rồi nói kệ:
“Những con khỉ ngu si,
Nghe lời khỉ chúa ngu,
Bảo bầy khỉ xuống giếng,
Vớt trăng mà chết chìm”.
Phật bảo các Bí-sô: “khỉ chúa thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa, thuở xưa bản thân ngu si, quyến thuộc cũng ngu si; ngày nay cũng vậy”.
Phật tại Trúc viên thành Vương xá, lúc đó thời thế mất mùa đói kém, khất thực khó được, Phật bảo các Bí-sô: “ta muốn trụ tịch tĩnh trong ba tháng, không được ai đến gặp, trừ người mang thức ăn đến và vào ngày trưởng tịnh; các đại đức cũng nên lập chế”. Lúc đó hai tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên an cư ba tháng tại Nam sơn, ở nơi đây Đề-bà-đạt-đa cung cấp thức ăn uống và các vật dụng cho đại chúng trong ba tháng an cư. Sau ba tháng, Đề-bà-đạt-đa ở trong đại chúng xướng rằng: “các Bí-sô nên biết, Sa môn Kiềuđáp-ma khi thuyết pháp thường ca ngợi hạnh ở trong núi tịch tĩnh, xa lìa các phiền não, mau được giải thoát; lại ca ngợi bốn pháp là khất thực, dùng y phấn tảo, chỉ chứa ba y và ngồi nơi đất trống. Nếu ai không thích tu theo bốn pháp này mà tu theo năm pháp của ta, đó là trọn đời thọ mặc nạp y, trọn đời thọ pháp khất thực, trọn đời thọ pháp ăn một bữa, trọn đời thọ pháp ngồi nơi đất trống, trọn đời thọ pháp đoạn nhục, sẽ mau được giải thoát thì hãy lấy thẻ và rời khỏi chúng”, vừa xướng xong liền có năm trăm Bí-sô trong đại chúng đứng dậy lấy thẻ và rời khỏi chúng, đi theo Đề-bà-đạtđa. La-hầu-la thấy việc này rồi liền nói với các Bísô đó: “vì sao các thầy lại bỏ Như lai mà đi theo bạn ác”, các Bí-sô này nói: “trong ba tháng an cư chúng ta khất thực khó được, đều nhờ Đề-bà-đạtđa cung cấp thức ăn uống và các vật dụng; vì thế chúng tôi đi theo Đề-bà-đạt-đa”. Khi Đề-bà-đạtđa làm việc phá Tăng này, đại địa chấn động, sao xẹt sáng rực, chư thiên trên hư không đều xướng rằng: “từ nay không có người đắc đạo quả, không có người được Lậu tận, không có người đọc tụng kinh luật luận và ưa thích ở nơi A-lan-nhã; cũng không có người tu đạo Thanh văn, Duyên giác và Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Trời người náo loạn, pháp luân không chuyển trong ba ngàn đại thiên thế giới nữa, vì chúng sanh tùy thuận người, không tùy thuận pháp”. Lúc đó hai tôn giả Xá-lợiphất và Đại Mục-kiền-liên nhìn thấy hiện tượng lạ này nên nhập định và quán biết Đề-bà-đạt-đa đã phá hòa hợp Tăng, liền nói với nhau: “chúng ta hãy đến đó để diệt tránh luận và làm cho Tăng hòa hợp trở lại”. Mãn hạ, ba y đã đủ, hai tôn giả du hành dần dần tới Trúc viên thành Vương xá, xếp ba y, rửa chân rồi đến chỗ Thế tôn. La-hầu-la vừa nhìn thấy hai tôn giả liền bạch với tôn giả Xá-lợiphất: “A-giá-lợi-da có biết không, Đề-bà-đạt-đa đã phá hòa hợp Tăng”, Xá-lợi-phất nói: “ta đã quán biết rồi nên mới đến đây, con chớ lo buồn, ta sẽ làm cho Tăng hòa hợp trở lại”, nói rồi liền đến chỗ Thế tôn, đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch Phật: “Thế tôn, con nghe biết Đề-bà-đạt-đa đã phá hòa hợp Tăng, con nay muốn làm cho Tăng hòa hợp trở lại, xin Thế tôn cho phép”, Phật liền khen ngợi: “lành thay, ai có thể làm cho Tăng hòa hợp, người ấy được vô lượng phước đức”. Được Phật hứa khả rồi, hai tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên cùng đi đến chỗ Đề-bà-đạt-đa. Lúc đó, Đề-bà-đạtđa bắt chước oai nghi của Phật ngồi thuyết pháp cho đại chúng, Cô ca lý ca ngồi bên phải, Khiên đề đạt phiêu ngồi bên trái. Đề-bà-đạt-đa từ xa nhìn thấy hai tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên đi đến liền suy nghĩ: “ta đã thành bậc Nhất thiết trí nên cả hai đại đức này cũng đến chỗ ta”, nghĩ rồi liền bảo hai người đang ngôi bên trái và bên phải đứng dậy, nhường chỗ cho hai tôn giả ngồi. Bị cưỡng ép rời khỏi chỗ ngồi, Cô ca lý ca… tức giận suy nghĩ: “chúng ta đã sai khi trợ giúp cho Đề-bàđạt-đa phá Tăng, nếu ta không đứng dậy nhường chỗ, thầy ấy sẽ đánh chúng ta”, nghĩ rồi liền đứng dậy nhường chỗ cho hai tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên ngồi. Lúc đó Đề-bà-đạt-đa nói với Xá-lợi-phất: “ta đau lưng, thầy hãy thuyết diệu pháp cho đại chúng”, nói rồi liền xếp y Tăng-giàlê gối đầu, nằm nghiêng bên phải nhưng Xá-lợiphất dùng thần lực làm cho Đề-bà-đạt-đa nằm ngửa, ngủ say không hay biết rồi nói với đại chúng: “đại sư của các vị ngủ say như đứa bé”, nói rồi liền bảo Mục liên: “thầy hãy hiện thần thông lực làm cho đại chúng hồi tâm hướng Phật”. Lúc đó tôn giả Đại Mục-kiền-liên bay lên hư không hiện các oai nghi đi đứng nằm ngồi, kế nhập định Hỏa quang trước tiên từ phương Đông hiện các ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng; hoặc hiện biến thần thông như trên thân tuôn ra nước, dưới thân tuôn ra lửa, hoặc trên thân tuôn ra lửa, dưới thân tuôn ra nước. Phương Đông đã như vậy, các phương Nam, Tây, Bắc cũng hiện như vậy rồi hiện trở lại chỗ ngồi. Đại chúng nhìn thấy việc này rồi, trong lòng ưu sầu suy nghĩ: “nếu ta theo Phật tu tập thì cũng sẽ được thần thông lực như vậy”, tôn giả Xá-lợi-phất quán biết tâm đại chúng rồi liền nói: “các Bí-sô nào còn nghĩ đến Thế tôn thì hãy theo ta”, các Bí-sô này nghe rồi liền đứng dậy đi theo hai tôn giả. Lúc đó Cô ca lý ca… lay gọi Đềbà-đạt-đa tỉnh dậy để chạy đuổi theo, Xá-lợi-phất sợ Đề-bà-đạt-đa không thấy được đồ chúng của mình sẽ ưu sầu thổ huyết mà chết nên đi chậm rãi cho Đề-bà-đạt-đa được thấy; kế dùng thần thông lực hóa ra cái hố ở giữa đường, khiến cho Đề-bàđạt-đa… năm người đều rơi xuống hố, mê muội không biết đường ra, cho là đã mất đồ chúng, phải quay trở về. Hai tôn giả dẫn các Bí-sô này đến chỗ Phật trong Trúc viên, các Bí-sô trong lòng hổ thẹn không dám ngẩng lên nhìn Phật, Phật thương xót dùng lời dịu dàng an ủi: “này các Bí-sô, thân người khó được nhưng các thầy đã được, Phật pháp khó nghe nhưng các thầy đã được nghe, sáu căn khó đủ nhưng các thầy đã có đủ ; các việc tốt xấu như thế nào, các thầy cũng đã biết. Ta đã thành tựu Như lai, Bạc già phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn. Ta thường thuyết giảng Niết-bàn tịch tĩnh, Bồ-đề cứu cánh, nói rõ lý nhân duyên:
Hễ cái này có thì cái kia sanh nên Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục xứ, Lục xứ duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão tử, ưu bi khổ não.
Hễ cái này diệt thì cái kia diệt nên Vô minh diệt thì Hành diệt, Hành diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh sắc diệt, Danh sắc diệt thì Lục xứ diệt, Lục xứ diệt thì Xúc diệt, Xúc diệt thì Thọ diệt, Thọ diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thủ diệt, Thủ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thỉ Sanh diệt, Sanh diệt thì Lão tử, ưu bi khổ não đều diệt.
Này các Bí-sô, các thầy thường nên tư duy tu tập việc lợi mình lợi người. Nếu là pháp khổ, bất thiện, không lợi ích, không an lạc thì dù được thức ăn uống, y phục, ngọa cụ… từ bốn chúng hay từ người nào khác, cũng đều là bất thiện, là việc không nên làm, chớ có làm”.
Các Bí-sô này nghe Phật chỉ dạy rồi, tâm sanh hoan hỉ, trừ hết lưới nghi, trong ngoài đều thanh tịnh. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, do nhân duyên gì Tăng đã bị phái lại được hòa hợp trở lại ?”, Phật nói: “ta tự tạo nghiệp, nay tự thọ báo, hễ hữu tình nào tạo nghiệp thì hữu tình đó tự thọ báo, không phải vô tình hay một ai khác chịu thay”, Phật nói kệ:
“Dù trải qua trăm kiếp,
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên hội họp,
Tự thọ lấy quả báo”.
Thuở xưa trong núi rừng thanh tịnh nọ có một đại tiên kết giao với năm trăm tiểu tiên cùng làm quyến thuộc, sau đó có một khách tiên ghé qua nơi này, vị đại tiên không chu cấp đủ các vật cần dùng và phục vụ như pháp nên khách tiên này tức giận, muốn phá tiên chúng hòa hợp. Khách tiên dụ dỗ các tiểu tiên, nói rằng: “ta thông đạt các loại đạo thuật và được ngũ thông, các tiên theo ta, ta sẽ dạy cho”, vị đại tiên biết được liền khuyên khách tiên: “chớ phá tiên chúng hòa hợp của tôi, đây không phải là pháp mà tiên nên làm”. Tuy vị đại tiên dùng lời dịu hòa để khách tiên hoan hỉ, nhưng khách tiên này vẫn không ngừng làm phương tiện phá tiên chúng hòa hợp. Lúc đó ở thế gian có Phật Bích chi đại từ bi, thiểu dục tri túc, là phước điền thù thắng du hành dần đến chỗ đại tiên này. Vị đại tiên thấy Phật Bích chi này đoan nghiêm thanh tịnh nên sanh tâm hoan hỉ cúng kính cúng dường và phát nguyện: “nguyện nhờ công đức cúng dường này, ở đời vị lai con được trí huệ thần thông, dù cho khách tiên kia có thành tựu được Nhất thiết trí, con cũng phá hòa hợp Tăng của ông ta”.
Phật bảo các Bí-sô: “vị khách tiên thuở xưa chính là thân ta ngày nay, vị đại tiên cúng dường Phật Bích chi chính là Đề-bà-đạt-đa. Này các Bísô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng ; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập nghiệp trắng”, các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, vì sao Đề-bà-đạt-đa lại lấy trong làm ngoài, lấy ngoài làm trong?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay mà ngày xưa cũng vậy, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa có một con dã can tánh vốn tham ăn, nó du hành đến một tụ lạc và đi kiếm ăn khắp nơi. Một hôm, nó đi tới nhà một người thợ nhuộm và vô ý té vào cái bồn đựng màu nhuộm lam, lông trên thân của nó nhuộm thành màu lam. Người thợ nhuộm vớt nó ra rồi quăng ra đất, nó thấy thân dơ bẩn nên xuống sông tắm rửa nhưng vẫn không làm bay mất màu lam đã bị nhuộm. Các con dã can khác thấy nó có màu lông khác nên hỏi: “anh là người gì?”, nó đáp: “ta là sứ giả của vua trời Đế thích, hãy lập ta lên làm vua loài thú”, các con dã can nghe rồi suy nghĩ: “thân đúng là dã can, nhưng màu lông thì không phải”, nghĩ rồi liền đến báo cho sư tử biết, các sư tử báo cho sư tử chúa biết. Sư tử chúa liền cho sứ đi kiểm tra sư thật như thế nào, sứ đến nơi thấy con dã can màu lam đang cỡi voi trắng lớn, các loài cầm thú đều vây quanh. Sứ liền trở về báo lại cho sư tử chúa, sư tử chúa đích thân đến xem, thấy rồi liền lập kế sai một con dã can đến gặp mẹ của con dã can màu lam. Dã can mẹ hỏi: “ở chỗ con ta có ai là bè bạn?”, đáp: “bên trong có sư tử, hổ, voi; chúng tôi ở bên ngoài”, dã can mẹ nói: “như vậy thì chắc chắn con ta sẽ bị giết chết”, liền nói kệ:
“Ta ở trong núi sống vui vẻ,
Tùy thời được uống nước suối trong,
Nếu con không hú tiếng dã can,
Thì được yên ổn trên lưng voi”.
Sứ giả trở về nói với đồng loại : “nó chính là dã can, không phải dòng vua của loài thú; tôi đã đến gặp mẹ của nó”, các dã can nói: “chúng ta cùng thử”, nói rồi cùng kéo đến chỗ dã can màu lam. Thường pháp của dã can là nếu một con trong bầy hú lên mà những con khác không hú theo thì lông trên thân đều rụng. Lúc đó dã can màu lam nghe tiếng dã can hú liền suy nghĩ: “nếu ta không hú theo thì lông sẽ rụng xuống hết, nếu ta hú thì chắc chắn sẽ bị các con thú khác giết chết; chi bằng ta ở trên lưng voi cất tiếng hú theo”, nghĩ rồi liền ở trên lưng voi cất tiếng hú theo. Voi nghe dã can hú liền biết là dã can, nổi giận dùng vòi kéo xuống đất và dùng hai chân đạp chết. Chư thiên trên hư không thấy việc này rồi nói kệ:
“Trong lật ngược ra ngoài,
Ngoài đảo ngược vào trong,
Việc này không nên làm,
Như dã can cỡi voi”.
Phật bảo các Bí-sô: “con dã can màu lam thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa ngày nay, thuở xưa lấy trong lật ngược ra ngoài, lấy ngoài đảo ngược vào trong nên tự diệt thân; ngày nay cũng như thế, phá hòa hợp Tăng, lấy trong lật ngược ra ngoài, lấy ngoài đảo ngược vào trong”.
Lúc đó Đề-bà-đạt-đa đuổi theo Xá-lợi-phất tìm lại đồ chúng không được nên trở về trú xứ, trút giận lên bốn người bạn đảng là Cô ca lý ca…, nói rằng: “do các thầy mà ta bị mất đồ chúng”. Các Bí-sô nghe biết việc này rồi đều có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn, vì sao Đề-bà-đạt-đa không tức giận người đã dẫn đồ chúng của mình đi là tôn giả Xá-lợi-phất, lại trút giận lên các bạn đảng của mình?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay mà ngày xưa cũng vậy, người tư thông với vợ mình không giết, lại giết oan người khác. Các thầy lắng nghe:
Thuở xưa có hai con voi là chồng vợ sống gần một đầm lầy trong núi, con voi cái dâm dật tư thông với con voi đực khác. Nó muốn đi theo con voi đực này nhưng lại sợ chồng biết sẽ phát sanh đấu tranh, bèn lập kế rủ voi chồng xuống sông tắm rồi nói: “chúng ta cùng lặn, xem ai lặn lâu hơn”, voi chồng nói: “ta sẽ lặn lâu hơn”, nói rồi cùng lặn. Con voi cái đợi voi chồng lặn xuống nước rồi, trong thời gian chưa nổi lên, nó cùng con voi đực kia bỏ trốn. Voi chồng lặn một hồi lâu, khi nổi lên không thấy voi cái nên nó lặn xuống lại, cứ như thế đến ba lần. Nó thấy mệt nhừ nên lên bờ tìm vợ vẫn không thấy đâu, nó liền đi khắp nơi tìm kiếm và đạp chết oan vô số chúng sanh. Chư thiên trên hư không thấy việc này rồi nói kệ:
“Thân voi tuy to lớn,
Trí huệ lại cạn hẹp,
Voi vợ theo voi khác,
Lại giết oan chúng sanh”.
Phật bảo các Bí-sô: “voi chồng thuở xưa chính là Đề-bà-đạt-đa, ngày nay cũng như ngày xưa, người này làm lại trút giận lên người kia”, các Bísô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: “Thế tôn là bậc Nhất thiết trí mà lại để Tăng chúng bi phá, do nhân duyên gì hai tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiềnliên lại có thể dùng phương tiện khéo léo, khuyến hóa dẫn dụ năm trăm Bí-sô bỏ tà về chánh, làm cho Tăng chúng hòa hợp trở lại?”, Phật nói: “không phải chỉ ngày nay mà ngày xưa hai vị ấy cũng đã làm việc như vậy, các thầy lắng nghe:
Thuở xưa có một người giỏi về bắn cung và các kỹ nghệ, sống trong núi với một cô con gái, ông nghĩ: “ta không nên vội gả con gái, nếu có người nam nào giỏi cung kiếm, các kỹ nghệ như ta thì ta mới gả con gái cho”. Không bao lâu sau, có hai thanh niên đến học nghề, một người học thành tựu cả năm môn kỹ nghệ, người kia chỉ học được một môn. Người cha liền gả con gái cho thanh niên học thông năm môn kỹ nghệ, thanh niên kia tức giận bỏ đi và kết bọn với đám giặc cướp. Thời gian sau, tên giặc cướp này hay tin hai vợ chồng của người bạn đồng học cùng quyến thuộc sẽ đi qua đường này, liền cầm đao đứng chờ nơi đường hiểm để giết chết. Hai vợ chồng người này trên đường đi gặp nhiều thương nhân đang tụ tập liền hỏi vì sao không đi tiếp, đáp là có giặc cướp ở phía trước, người chồng trên xe nói: “chúng ta cứ đi qua, đừng sợ gì cả”, các thương nhân nói: “nếu anh không sợ thì cứ đi trước, chúng tôi sẽ theo sau anh”. Người chồng liền cho xe đi tới trước, bọn cướp thấy xe đi tới liền báo cho tên đầu đảng là người bạn đồng học trước kia của người chồng trên xe. Đầu đảng cho sứ đến nói: “anh hãy quay xe trở lại, không nên đi tới trước, chúng tôi có rất nhiều người rất khỏe mạnh”, người chồng trên xe nói: “các anh tuy khỏe nhưng tôi cũng khỏe không kém”. Đầu đảng nghe rồi liền cho năm người đến vây đánh trước nhưng đều bị người chồng trên xe giết chết. Đầu đảng lại cho hai mươi mốt người khác đến vây đánh, cũng đều bị người chồng trên xe giết chết ; cứ như thế tất cả bọn cướp dần dần đều bị giết chết hết, chỉ còn lại tên đầu đảng. Người chồng trên xe bắn tất cả bốn trăm chín chín mũi tên đều bị tên đầu đảng dùng dao gạt rớt xuống hết, chỉ còn lại một mũi tên cuối cùng. Người vợ hỏi vì sao không bắn, người chồng nói: “tánh mạng của ta và nàng đều đặt nơi mũi tên cuối cùng này, nếu bắn mà không trúng thì cả hai chúng ta đều chết”, người vợ nghe rồi liền đứng dậy ca múa xoay chuyển, tên đầu đảng nhìn say sưa quên cả phòng thủ, người chồng thừa dịp này liền bắn mũi tên cuối cùng, tên đầu đảng trúng tên, lúc sắp chết liền nói kệ:
“Không phải người chồng kia,
Có thể giết chết ta,
Mà do ta nhiễm đắm,
Nhìn nàng nên mất mạng”.
Phật bảo các Bí-sô: “người chồng trên xe thuở xưa chính là Xá-lợi-phất ngày nay, người vợ chính là Đại Mục-kiền-liên, tên cướp đầu đảng chính là Đề-bà-đạt-đa; cũng như ngày xưa, ngày nay Xálợi-phất và Đại Mục-kiền-liên thấy được chỗ sơ hở của Đề-bà-đạt-đa nên mới làm được việc này”.
Phật ở trong vườn Yêm một la của vương tử Thị-phược-ca, thành Vương xá; lúc đó là vào đêm rằm tháng năm, chư Tăng sắp an cư. Thấy đêm trăng sáng, quang cảnh rất đẹp nên vua Vị sanh oán cùng tả hữu và cung phi thể nữ lên trên lầu cao ngắm cảnh. Vua hỏi mọi người: “đêm nay trăng sáng đáng yêu, ta và các khanh nên làm gì, mỗi người tùy ý nói ra ý nghĩ của mình”, một thể nữ nói: “đời người đối với việc thọ hưởng dục lạc không nên luống qua, đêm nay đẹp trời chúng ta nên mặc tình thọ hưởng dục lạc”, một thể nữ khác nói: “thiếp muốn tất cả đạo tục trong thành Vương xá đều cùng vui hưởng dục lạc”, vương tử Ô-đà-di nói: “đêm nay trăng sáng, Đại vương nên thống lĩnh bốn binh chinh phạt những nước không thần phục và toàn thắng trở về”, một đại thần là đồ chúng của ngoại đạo nói: “đêm nay trăng sáng là ngày rằm tháng năm, sáu vị minh sư như Bộ thích noa… đều được mọi người tôn kính ca ngợi, mỗi vị đều có năm trăm đồ chúng sắp an cư tại thành Vương xá, rất cần được cúng dường những vật cần dùng, chúng ta nên đến cúng dường họ”. Vua thấy vương tử Thị-phược-ca ngồi im lặng trong chúng nên hỏi: “này Thị-phược-ca, vì sao khanh lại im lặng không nói?”, đáp: “hôm nay trăng sáng là ngày tốt nên ai cũng ưa thích, Phật Thế tôn có đại oai đức với các Thánh đệ tử, từ bi che chở hết thảy hữu tình; Thế tôn là phước điền tối thắng, hiện sắp an cư trong vườn của thần, chúng ta nên đến đó cúng dường”, vua nghe rồi liền chỉnh đốn oai nghi cỡi voi Đại hương, cùng năm trăm cung nhân đều cầm đuốc sáng cùng đi đến vườn Yêm một la. Gần đến nơi vua bỗng kinh sợ, lông trên người dựng đứng liền suy nghĩ: “có phải là Thị-phược-ca thông đồng với giặc dụ ta đi đến đây để giết ta chăng”, nghĩ rồi liền hỏi Thị-phược-ca: “Thế tôn cùng bao nhiêu người ở trong vườn này?”, đáp: “khoảng một ngàn hai trăm năm mươi Bí-sô”, vua nói: “nếu không phải khanh có ý gì khác thì tại sao trong đây có nhiều người như vậy mà ta không nghe có một tiếng động nào”, Thị-phược-ca nói: “Thế tôn ba nghiệp đều tịch tĩnh, tâm thương trong định; các đệ tử cũng vậy, cho nên trong đây không nghe có tiếng động nào”. Vua nghe rồi liền dứt nghi liền quyết định đến chỗ Phật, sau khi vua xuống voi tới trước Phật, thấy Phật cùng đại chúng các căn tịch tĩnh, yên lặng như biển; vua gieo năm vóc sát đất đảnh lễ Phật rồi chắp tay bạch rằng: “Thế tôn đại từ bi, ba nghiệp tịch tĩnh, cúi xin dẫn dắt con được thường không náo loạn giống như Phật”, Phật dịu dàng an ủi vua: “lành thay Đại vương, hãy ngồi xuống, nếu có vướng mắc điều gì thì cứ tùy ý hỏi”, vua ngồi xuống rồi hỏi Phật: “Thế tôn, trong thế gian có đủ hạng người với nhiều nghề nghiệp như người kết vòng hoa, người làm vườn, kẻ đồ tễ, người buôn bán, người điều phục voi ngựa…; họ hành nghề để kiếm sống và tu phước, nhưng đều dính mặc trong ngũ dục lạc. Những chúng sanh này có thể ngay trong hiện đời này chứng được quả Sa môn hay không?”, Phật hỏi vua: “Đại vương đã từng hỏi ai khác về việc này chưa?”, vua nói: “Thế tôn, con đã từng đến hỏi các ngoại đạo như Bộ thích noa, vị này nói: “trong kinh của ta có nói pháp như sau: không thiện, không ác, không có quả báo của thiện ác; không có bố thí và cúng tế, cũng không có nghiệp bố thí và cúng tế; không có cha mẹ, không có ân cha mẹ ; không có đời này, đời khác; không có người tu đạo đắc Thánh quả, không có Thánh nhân, không có A-la-hán; bốn đại tan rã rồi thì không còn gì cả”. Nếu ai nói có đời này, đời sau; nghiệp nhân nghiệp quả là thật có thì đó là nói dối ; lời nói của người trí và lời bình luận của kẻ ngu đều là rỗng không. Thế tôn, con hỏi Lục sư về nghĩa chân thật nhưng các vị ấy lại trả lời hư dối, ví như hỏi trái xoài lại đáp là trái lê, hoặc hỏi trái lê lại đáp là trái xoài. Con hỏi Lục sư về chánh pháp lại nói về tà pháp, dù cho các ngoại đạo này dùng đủ các tà thuyết để đáp lời con hỏi, vì không vừa ý con nên con không tùy hỉ, từ giã mà đi. Con lại đến hỏi ngoại đạo Mạt yết lợi : “đời này, đời sau, tất cả chúng sanh tạo đủ các nghiệp, làm đủ các nghề để nuôi dưỡng cha mẹ, cúng dường Sa môn, vun bồi ruộng phước… thì hiện đời này có chứng được Thánh quả hay không?”, vị này đáp: “trong kinh của tôi có nói rằng: không nhân, không quả, không thiện, không ác, không có phiền não cũng không có người đoạn trừ phiền não ; không có Niết-bàn, cũng không có người chứng đắc Niết-bàn. Nhân quả trong ba đời thảy đều không có, tất cả đều là tự nhiên, người trí tự nhiên có trí, người ngu tự nhiên ngu; không có người tu cũng không có người đắc; không có tự lợi cũng không có lợi tha. Tất cả chúng sanh đều không có nhân duyên sanh, cũng không có nhân duyên diệt”. Con hỏi Đông, vị ấy đáp Tây; dù cho các ngoại đạo này dùng đủ các tà thuyết để đáp lời con hỏi, vì không vừa ý con nên con không tùy hỉ, từ giã mà đi. Con lại đến chỗ ngoại đạo San thệ di hỏi: “chúng sanh làm đủ các nghề… hiện đời này có thể đoạn trừ phiền não chứng được Thánh quả hay không”, thì vị này đáp: “tôi thường dạy chúng sanh tự sát sanh, bảo người khác sát sinh; tự chặt, bảo người chặt; tự đốt, bảo người đốt; tự trộm cắp, bảo người trộm cắp; tự làm việc dâm dục, bảo người làm việc dâm dục; tự nói dối, bảo người khác nói dối; tự uống rượu, bảo người khác uống rượu… giết hại tất cả chúng sanh trên bờ hay ở dưới nước hoặc ở trên hư không. Ở bên bờ này của sông Hằng giết vô biên vô số chúng sanh, tạo vô biên tội ác ; nhưng ở bên lờ kia của sông Hằng lại cúng dường vô lượng vô biên chúng sanh, tạo vô lượng vô biên công đức… tất cả đều là không nhân, không quả, không được, không mất, không tăng, không giảm. Thế tôn, con hỏi nghĩa chánh, họ lại trả lời hư dối; con hỏi Đông, họ lại đáp Tây, do không vừa ý con nên con không hoan hỉ, không tùy hỉ và bỏ đi. Con lại đến chỗ A thị đa xúy xá cam bạt la hỏi giống như trên, vị này đáp rằng: “tổng cộng có bảy pháp, bản thể của bảy pháp này là tự nhiên, không phải do người khác tạo ra, cũng không phải hóa sanh, không do biến hóa mà có, không phải tích tụ, cũng không phải chia ly mà thường là tự nhiên. Đó là đất, nước, gió, lửa, khổ, vui và mạng; bảy pháp này không ai có thể tạo ra, cũng không ngăn ngai nhau. Đối với thiện ác, khổ vui và không khổ không vui thì bảy pháp này dù làm hay không làm đều là vô ký, không đưa đến quả báo ; không có người giết và người bị giết.
Một vạn bốn ngàn thú vui hoặc thêm sáu vạn nữa, cả ba nghiệp hoặc hai nghiệp, một nghiệp, nửa nghiệp đều làm ác; nếu ai tạo đủ các nghiệp ác như vậy liền được thoát khỏi sanh tử khổ nạn”.