TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬT
LINH SƠN PHÁP BẢO ĐẠI TẠNG KINH

SỐ 1451 - CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ TỲ NẠI DA TẠP SỰ (QUYỂN 17 – 40)

-Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Nghĩa Tịnh đời Đường - TQ

Việt dịch: Ban phiên dịch chùa Pháp Bảo, HT Thích Tịnh Hạnh giám tu-năm 2005

Hiệu đính và nhuận văn: NS Thích nữ Như Lộc tại chùa Phổ Minh

MỤC LỤC

QUYỂN 17

5. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư:

6. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư:

7. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư:

8. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư:

9. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư:

10. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư:

QUYỂN 18

V. TỔNG NHIẾP TỤNG CỦA BIỆT MÔN THỨ NĂM:

1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

2. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

QUYỂN 19

3. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

4. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

5. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

6. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

7. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

8. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

9. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

10. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

QUYỂN 20

VI. TỔNG NHIẾP TỤNG CỦA BIỆT MÔN THỨ SÁU:

1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ sáu:

2. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ sáu:

QUYỂN 21

QUYỂN 22

QUYỂN 23

QUYỂN 24

1. Nhiếp tụng nội dung thứ nhất:

2. Nhiếp tụng nội dung thứ hai:

3. Nhiếp tụng nội dung thứ ba:

4. Nhiếp tụng nội dung thứ tư:

5. Nhiếp tụng nội dung thứ năm:

6. Nhiếp tụng nội dung thứ sáu:

7. Nhiếp tụng nội dung thứ bảy:

QUYỂN 25

3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ sáu:

4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ sáu:

QUYỂN 26

4. Nhiếp tụng thứ tư (Tiếp Theo)-Phật hiện đại thần thông:

QUYỂN 27

4. Nhiếp tụng thứ tư (tt) Nói về Đại dược:

QUYỂN 28

4. Nhiếp tụng thứ tư-việc của Đại dược (tiếp theo):

QUYỂN 29

4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ sáu (tiếp theo)-Việc Phật từ cung trời xuống:

5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thứ sáu:

QUYỂN 30

6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ sáu:

QUYỂN 31

7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ sáu:

8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ sáu:

9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ sáu:

10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ sáu:

VII. TỔNG NHIẾP TỤNG BIỆT MÔN THỨ BẢY:

1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ bảy:

QUYỂN 32

2. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn thứ bảy:

3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ bảy:

4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ bảy:

5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thứ bảy:

6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ bảy:

7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ bảy:

8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ bảy:

QUYỂN 33

9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ bảy:

10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ bảy:

VIII. TỔNG NHIẾP TỤNG BIỆT MÔN THỨ TÁM:

1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tám:

2. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn thứ tám:

3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ tám:

4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ tám:

5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thú tám:

QUYỂN 34

6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ tám:

7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ tám:

8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ tám:

9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ tám:

QUYỂN 35

9. Nhiếp tụng thứ chín-Bà-la-môn Diệu hoa (tt):

10. Nhiếp tụng thứ 10 trong Biệt môn thứ tám:

QUYỂN 36

10. Nhiếp tụng thứ 10 (tiếp theo):

QUYỂN 37

10. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tám (tt)

QUYỂN 38

10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ tám (tiếp theo)-Phật bát Niết-bàn:

QUYỂN 39

10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ tám (tiếp theo)-Nói việc Phật nhập Niết-bàn và việc 500 vị kiết tập:

QUYỂN 40

10. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tám (tiếp theo) việc Ngũ bách kiết tập và Thất bách kiết tập:


QUYỂN 17

5. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư:

Chiên đồ Tô-đà-di,
Đại y tạm lấy dùng,
Sư Mô bà tu đạt,
Lấy bát tưởng của mình,
A thị đa hộ nguyệt,
Trộm tưởng lấy y mình.

(Tụng này giống như trong phần giải thích của giới Trộm nên ở đây không nêu ra nữa, giở lại xem thì có thể biết được)

6. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư:

Heo, mía, trái Đa-la,
Hắc-hỉ trả nệm lông,
Đem cất dao, kim may,
Không dùng đồ lưu ly.

Duyên xứ như trên, lúc đó thời thế mất mùa đói kém, có kẻ trộm bắt heo của người đem vào trong rừng giết để ăn thịt, vất xương và móng chân một bên rồi đi. Lục chúng Bí-sô có thói quen vào sáng sớm sau khi thức dậy leo lên lầu gác chùa để nhìn xem bốn phía, lúc đó thấy có khói bốc lên từ trong rừng và quạ bay loạn xuống, liền nói với nhau: "trong rừng chắc có cái gì ăn được, chúng ta nên đến đó xem", nói rồi cùng đi đến trong rừng thấy có xương và móng chân heo liền nói: "vật phấn tảo này cũng đủ dùng để nấu ăn", nói rồi liền nấu xương và móng chân heo. Vừa lúc đó chủ heo lần theo dấu vết tìm đến thấy việc này rồi liền nói: "Thánh giả vì sao mặc y phục của bậc đại tiên mà lại làm việc phi pháp này", Lục chúng Bí-sô nói: "Hiền thủ, nếu ta được sát sanh thì há không lấy được thịt ngon của con nai, con chương để ăn hay sao, mà lại lấy xương và móng chân heo để nấu. Kẻ trộm đã ăn hết thịt ngon rồi vất bỏ xương và móng chân heo lại, ta lượm lấy vật phấn tảo thì có lỗi gì?", chủ heo nói: "nhưng người xuất gia không nên làm việc đáng chê trách như thế này". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "không nên lượm lấy vật phấn tảo như vậy, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lại có kẻ trộm lấy mía của người, ăn khúc ngon ở giữa, quăng bỏ khúc ngọn và gốc một bên rồi đi. Lục chúng Bí-sô đi đường trông thấy liền nói với nhau: "ở đây có nhiều vật phấn tảo, hãy cùng nhau nhặt lấy", lúc họ đang thu nhặt thì chủ mía lần theo dấu vết tìm đến, thấy việc này rồi liền nói: "Thánh giả vì sao mặc y phục của bậc đại tiên mà lại làm việc phi pháp này", Lục chúng Bí-sô nói: "Hiền thủ, nếu ta được lấy trộm thì há không lấy được mía ngon để ăn hay sao mà lại nhặt lấy khúc ngọn và gốc của người vất bỏ. Kẻ trộm đã ăn hết khúc ngon ở giữa, vật bỏ lại phần ngọn và gốc, ta lượm lấy vật phấn tảo thì có lỗi gì", chủ mía nói: "nhưng người xuất gia không nên làm việc đáng chê trách như thế này". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "không nên lượm lấy vật phấn tảo như vậy, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, có kẻ trộm lấy trái Đa-la đem vào trong rừng lựa lấy trái ngon ăn, vất bỏ lại trái dở rồi đi. Lục chúng Bí-sô nhân đi đến nơi thấy… giống như trên cho đến câu Phật bảo ai lượm lấy vật phấn tảo như vậy thì phạm tội Việt pháp.

Duyên xứ như trên, trong thành có một đồng tử bán hương liệu rất yêu thích tấm Giạ quý của mình, một hôm ngã bịnh tuy đã cố hết sức trị liệu nhưng bịnh vẫn không thuyên giảm. Khi sắp qua dời, đồng tử mời thân tộc lại trối rằng: "sau khi tôi chết không được hỏa thiêu, hãy dùng tấm Giạ quý này quấn thây tôi đem bỏ vào trong rừng", thân tộc liền an ủi: "cậu đừng sợ, không phải ai bị bịnh cũng đều chết, không bao lâu nữa cậu sẽ bình phục", nhưng mạng số đã hết nên đồng tử qua đời, do quá yêu thích tấm Giạ quý này nên sau khi qua đời liền sanh làm quỷ Đại anh. Lúc đó thân tộc dùng chỉ ngũ sắc trang hoàng xe tang, lấy tấm Giạ quý quấn thây đồng tử rồi đưa vào trong rừng thây chết để bỏ. Các Bí-sô trông thấy việc này rồi liền nói với Bí-sô Hắc-hỉ là người ở trong Thi lâm rằng: "đồng tử bán hương liệu vừa chết, họ dùng tấm Giạ quý rất đẹp quấn thây đem bỏ vào trong rừng, thầy nên đến lấy vật phấn tảo này", Hắc-hỉ nghe rồi liền đến trong Thi lâm tới bên tử thi lấy tấm Giạ quý. Phi nhân kia liền ngồi dậy giữ chặt lấy tấm Giạ quý, nói rằng: "Thánh giả Hắc-hỉ, đừng lấy tấm Giạ quý của tôi", người sống trong Thi lâm rất gan dạ nên Hắc-hỉ nói với quỷ: "kẻ ngu si, ngươi do tham ái tấm Giạ quý này nên sinh làm ngạ quỷ, nay lại muốn đến trong địa ngục hay sao, hãy thả tay ra". Lúc đó Hắc-hỉ cùng quỷ tranh giành tấm Giạ quý nên dùng chân đạp quỷ ra, giật lấy tấm Giạ quý mang về trong rừng Thệ đa. Phi nhân tức giận đuổi theo đòi lại tấm Giạ quý, do trong rừng Thệ đa có thiên long bát bộ thủ hộ nên phi nhân vì ít phước nên không dám vào, chỉ đứng ở ngoài cửa khóc. Phật tuy biết nhưng vẫn hỏi A-nan vì sao phi nhân đứng khóc ở trước cửa chùa, A-nan đem việc trên bạch Phật, Phật suy nghĩ: "phi nhân quá yêu thích tấm Giạ quý, nếu không đòi lại được ắt sẽ thổ huyết mà chết", nghĩ rồi liền bảo A-nan: "thầy đến bảo Hắc-hỉ đem trả lại tấm Giạ quý cho phi nhân, nếu nó không đòi lại được ắt sẽ thổ huyết mà chết. Khi trả tấm Giạ quý nên bảo nó đi trước, đến trong rừng bảo nó nằm xuống rồi mới phủ tấm Giạ quý lên", A-nan vâng lời Phật đến nói với Hắc-hỉ, Hắc-hỉ nghe rồi nói rằng: "lời Phật dạy, tôi không dám trái", liền bảo phi nhân đi trước, đến trong Thi lâm rồi bảo nó nằm xuống, khi Hắc-hỉ phủ tấm Giạ quý lên, phi nhân liền dùng chân đá Hắc-hỉ, nhờ Hắc-hỉ có sức mạnh nên mới thoát chết. Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô không được tự ý lấy y của tử thi trong Thi lâm, cũng không nên trả lại y như vậy. Khi lấy y thì nên từ chân hướng lên đầu, khi trả y thì nên từ đầu hướng về chân. Bí-sô nên biết lấy y của tử thi có năm lỗi là màu sắc xấu, hôi thối, không chắc, nhiều rận và bị Dược xoa giữ. Nếu tử thi không có thương tổn thì không được lấy y". Sau đó Lục chúng Bí-sô vào trong Thi lâm dẫn chó theo, kẻ bất tin trông thấy liền chê trách: "Thánh giả dẫn chó vào trong rừng, chẳng lẽ muốn giết súc sanh hay sao?", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "không được dẫn chó theo". Lục chúng Bí-sô lại dùng dao làm tổn thương tử thi để lấy y, Phật bảo: "không nên làm như vậy, nếu có trùng kiến làm cho tử thi hư hoại thì mới được lấy y". Lấy được y của tử thi rồi, họ liền tùy tiện dùng để mặc, Phật nói: "không nên mặc liền, nên để lại trong rừng chứng bảy tám ngày, chờ gió nắng làm cho khô, đem giặt nhuộm rồi mới mặc"; Họ lại mặc y của tử thi này vào chùa, nhiễu tháp, làm việc kính lễ, Phật nói: "ta nay chế hành pháp cho Bí-sô ở trong Thi lâm mặc y của tử thi như sau: không được vào chùa, không được lễ tháp; nếu muốn lễ tháp phải ở bên ngoài cách xa khoảng một tầm. Không được thọ dụng Tăng phòng, giường và ngọa cụ; không được ngồi trong chúng; không được thuyết pháp nghĩa cho người thế tục; không được đến nhà thế tục, nếu có việc cần đến nên đứng ở ngoài cửa; nếu chủ nhà mời vào nên nói tôi ở trong Thi lâm, nếu chủ nhà nói: hôm nay con được phúc lớn nên Thánh giả mới đến nhà, lúc đó được vào trong nhà nhưng không nên ngồi trên giường tòa. Nếu họ mời ngồi thì nên nói tôi ở trong Thi lâm, nếu họ nói khó được gặp Thánh giả, lúc đó mới được ngồi. Nếu Bí-sô ở trong Thi lâm không tuân theo hành pháp này thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó các Bí-sô bỏ dao cạo, kim may bừa bãi làm cho mau bị rỉ sét, Phật nói: "không được bỏ bừa bãi, nên đem cất trong tấm nỉ dùng để găm kim", Bí-sô không biết làm như thế nào, Phật nói: "dùng một miếng nỉ hay vải lụa thoa sáp nóng lên rồi gói dao kim lại ở bên trong thì không bị rỉ sét".

Duyên xứ như trên, Bí-sô ni Thâu-la-nan đà có cái bát bằng lưu ly giả, một ni khác đến hỏi mượn: "tôi đang khát nước, Thánh giả cho tôi mượn cái bát lưu ly để múc lấy nước uống", Thâu-la-nan đà đưa bát cho mượn, không may cô ấy khi múc lấy nước lở tay làm rơi bát xuống đất bị bể. Sau đó Thâu-la-nan đà không thấy đem bát đến trả nên đến đòi, ni đó nói: "tôi đã lở tay làm rơi bể bát, để tôi làm cái khác đền trả lại", Thâu-la-nan đà đòi phải trả cái cũ, cố ý làm xúc não nhau nên Bí-sô ni đem việc này bạch các Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật bảo: "do Ni uống nước bằng bát lưu ly nên có lỗi này, từ nay Ni không được dùng bát lưu ly để ăn hay uống, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

7. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư:

Trong chùa nên vẽ khắp,
Đốt lửa và tắm rửa,
Nước bát, không đạp lá,
Khi ăn không mang giày.

Duyên xứ như trên, trưởng giả Cấp-cô-độc sau khi cúng vườn chùa cho Phật và Tăng liền suy nghĩ: "nêu không tô vẽ thì không có trang nghiêm, nếu Phật cho ta tô vẽ thì ta sẽ làm", nghĩ rồi liền đến bạch Phật, Phật nói tùy ý làm, trưởng giả liền sưu tập màu sắc rồi gọi thợ vẽ đến bảo tô vẽ chùa với màu sắc này, thợ vẽ hỏi: "bắt từ vẽ từ đâu và vẽ hình gì?", trưởng giả nói: "tôi cũng chưa biết", liền đến hỏi Phật, Phật nói: "hai bên cửa nên vẽ hình Dược xoa cầm trượng, mặt bên này nên vẽ sự biến hóa của đại thần thông, mặt bên kia nên vẽ bánh xe sanh tử trong năm đường. Dưới hiên vẽ các viện Bôn sanh, bên cửa của điện Phật nên vẽ hình Dược xoa cầm vòng hoa; trong giảng đường nên vẽ cảnh Bí-sô kỳ túc đang tuyên dương pháp yếu; trong nhà ăn nên vẽ hình Dược xoa cầm bánh; ben cửa nhà kho nên vẽ hình Dược xoa cầm vật báu, nơi nhà chứa nước vẽ hình rồng cầm bình nước, thân đeo chuỗi anh lạc; nơi nhà tắm, nhà bếp nên theo như cách thức trong kinh Thiên sứ mà vẽ và thêm vài cảnh biến hóa dưới địa ngục; trong nhà khán bịnh nên vẽ hình Như lai chăm sóc người bịnh; chỗ đại tiểu tiện nên vẽ hình tử thi đáng sợ; trong phòng ở nên vẽ bộ xương trắng, đầu lâu", trưởng giả trở lại bảo thợ vẽ vẽ y như lời Phật dạy. Sau đó có Bí-sô vô ý đốt lửa, khói hun lên làm các bức vẽ trên bị hư, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô nên làm nhà đốt lửa, ai cần đốt lửa thì đến trong nhà đó, không được đốt lửa ở chỗ khác, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp". Sau đó có người bịnh cần lửa nhưng không dám đốt trước hiên phòng mình, Phật nói: "có thể đốt lửa bên ngoài chùa hoặc ở sân trong của chùa, đợi cháy hết khói mới đem lửa vào ".

Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô tắm ngay dưới hiên, nước ẩm ướt làm hư bức vẽ, Phật nói: "không nên tắm như vậy, nên tắm ở gần góc chùa hay làm phòng tắm riêng để tắm". Trong phòng tắm có bùn, Phật nói: "nên xếp gạch làm đường thoát nước, nếu có bùn đất bất tịnh thì nên thường khơi thông cho sạch hoặc ở gần ngòi nước để tiện cho việc tắm rửa".

Duyên xứ như trên, trong thành có một Bà-lamôn, con của ông bịnh nên ông đến hỏi thầy thuốc cách chữa trị, thầy thuốc này có tín tâm nên nói: "ông đến gặp Thánh chúng xin nước trong bát mang về rửa thân con ông thì sẽ hết bịnh". Bà-lamôn liền đến vườn Cấp gặp Lục chúng Bí-sô đang đứng ở trước cửa, Ô-ba-nan-đà liền chào hỏi: "thiện lai, sao mà khó gặp nhân giả như trăng đầu tháng vậy?", Bà-la-môn nói: "kính lễ Thánh giả, tôi ít khi đến, nay may mắn gặp nhau, nếu đến thường ắt sẽ xem thường", lại hỏi đến có việc gì, Bà-la-môn kể lại việc trên rồi nói: "xin Thánh giả cho tôi ít nước trong bát", Ô-ba-nan-đà bảo chờ rồi vào trong chùa lấy nước rửa bát có cơm và thức ăn lợn cợn mang ra đưa cho Bà-la-môn, Bà-lamôn nhìn thấy nước bát này liền nói: "con của tôi thà chết chứ không dùng nước bất tịnh này để rửa", Ô-ba-nan-đà nói: "nếu ông tín tâm kiên cố thì chắc chắn con ông sẽ hết bịnh", Bà-la-môn nghe rồi càng tỏ ra khinh tiện, Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "do đem nước rửa bát bợn nhơ đưa cho người nên có lỗi này, từ nay không được đem nước bát bợn nhơ đưa cho người, ai làm thế thì phạm tội Việt pháp. Bí-sô muốn đưa nước bát cho người thì ta sẽ chế hành pháp như sau: trước nên rửa sạch bát ba lần rồi đựng đầy nước, tụng kinh chú nguyện vài lần mới được đưa cho họ, ai không làm theo như thế thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô khi ăn, chân đạp trên lá dùng để lót bát, người tục nhìn thấy liền chê trách: "Sa môn Thích tử không thanh tịnh, chân đạp trên lá dùng để lót bát mà ăn", bạch Phật, Phật nói: "không nên làm như vậy, ai làm thế thì phạm tội Việt pháp".

Phật tại thành Quảng nghiêm, lúc đó có Bí-sô khi ăn mang giày dép cũng bị người tục chê trách là không thanh tịnh, Phật bảo không nên, nếu làm thế thì phạm tội Việt pháp. Sau đó có người bịnh khi ăn bỏ giày dép nên bịnh càng nặng thêm, Phật nói: "người bịnh khi ăn có thể bỏ giày dép ra rồi đạp chân lên".

8. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư:

Không bát, độ kẻ trộm,
An cư, không y chỉ,
Năm năm đồng lợi dưỡng,
Không nên mang vác nặng.

Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Ôba-nan-đà độ một đệ tử mà không cho họ bát, các Bí-sô sau khi thọ thực xong rửa bát để ở chỗ sạch rồi đi kinh hành lễ tháp, người mới xuất gia không bát này thấy những bát này liền suy nghĩ: "những bát này để không, ta mượn để thọ thực rồi sẽ đem trả lại", nghĩ rồi liền đến lấy. Khi sắp lấy bát của Thượng tòa Kiều trần như, người khác thấy liền nói: "đây là bát của tôn giả Kiều trần như, thầy không nên lấy", lấy tới bát của các tôn giả Mã thắng, Hiện thiện… cũng bị nói như trên, các Bí-sô hỏi: "thầy không có bát hay sao?", đáp là không có, lại hỏi: "thầy không có bát sao lại độ cho thầy xuất gia", đáp: "Ô-ba-đà-da Ô-ba-nan-đà đã độ cho tôi xuất gia", các Bí-sô chê trách rồi bạch Phật, Phật nói: "không được độ người không có bát xuất gia, ai làm thế thì phạm tội Việt pháp. Muốn độ cho người khác xuất gia nên bảo họ sắm đầy đủ sáu vật cần dùng trước, đó là ba y, phu cụ, bát, và đãy lượt nước". Lúc đó cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: "Thế tôn, nếu biết người đó không có bát mà cho thọ Cận viên thì có thành thọ Cận viên không?", Phật nói: "thành nhưng chúng cho thọ thì phạm tội Việt pháp", lại hỏi: "nếu Bí-sô cho người đó bát quá nhỏ hay quá lớn hoặc là bát trắng để thọ Cận viên thì có thành thọ Cận viên không?", Phật nói: "thành nhưng chúng cho thọ thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó có đại tặc khi đang lấy trộm vật bị chủ bắt gặp nên bỏ vật lại chạy trốn, chạy đến rừng Thệ đa ngồi thì dừng lại, ngồi chống má dưới một gốc cây. Lúc đó Ô-ba-nan-đà vào thành khất thực trở về thấy giặc cướp này liền hỏi là ai, đáp là người nghèo, liền nói: "nếu vậy sao không xuất gia", giặc cướp nói: "xin nói chuyện của tôi trước rồi nói việc xuất gia sau, tôi là đại tặc thì ai lại chịu độ tôi xuất gia", Ô-ba-nanđà nói: "giáo pháp của Phật lấy từ niệm làm đầu, làm sao có thể không thương xót tiếp độ, chỉ cần ngươi phát tâm thì ta sẽ độ người xuất gia", giặc cướp nghe rồi liền nói: "lành thay Thánh giả, con muốn xuất tục", Ô-ba-nan-đà liền dẫn về cho xuất gia và thọ Cận viên, vài ngày sau bảo người này rằng: "nai không nuôi nai, thành Thất-la-phiệt rộng lớn thầy hãy theo thứ lớp khất thực tự nuôi sống". Sáng sớm hôm sau, Bí-sô này đắp y mang bát vào thành khất thực, nhiều người nhìn thấy nhớ biết là đại tặc liền nói với nhau: "đại tặc này nay được xuất gia, Sa môn Thích tử biết đó là đại tặc mà lại cho xuất gia, ban ngày hắn theo thứ lớp khất thực biết được nơi chốn, ban đêm sẽ đến trộm lấy tài vật của người". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "do độ kẻ trộm xuất gia nên có lỗi này, từ nay không được độ kẻ trộm xuất gia, ai độ thì phạm tội Việt pháp", sau đó có Bí-sô không biết có phải là kẻ trộm hay không nên không dám độ cho xuất gia, tạo thành nạn duyên trái đường xuất ly, Phật nói: "nếu biết họ là kẻ trộm thì không nên cho xuất gia, nếu không biết thì được tùy ý độ. Nếu có người đến cầu xuất gia, trước nên hỏi: ngươi không phải là kẻ trộm phải không; nếu không hỏi mà liền độ cho xuất gia thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, tại một trú xứ có Bí-sô được nhiều môn nhân đến y chỉ, vị này bỗng qua đời nên không còn người y chỉ, các môn nhân không biết làm sao, bạch Phật, Phật nói: "nên tìm người có đức, cung cấp phòng tốt, thị giả và ngọa cụ đầy đủ, nếu tìm được y chỉ thì tốt, nếu tìm không được thì các Bí-sô không nên ở đó đến kỳ bố tát thứ hai. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp". Tại một trú xứ khác, các Bí-sô sắp cầu y chỉ thì vị này bỗng qua đời, họ không biết làm sao… như trên cho đến câu nếu tìm được y chỉ thì tốt, nếu tìm không được thì các Bí-sô không được hạ an cư ở đó. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp. Tại một trú xứ khác, các Bí-sô tiền an cư thì thấy y chỉ bỗng qua đời, họ không biết làm sao… như trên cho đến câu nếu tìm được y chỉ thì tốt, nếu tìm không được thì các Bí-sô phải đi đến trú xứ khác cầu thầy y chỉ mà hậu an cư. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp. Lại có Bí-sô y chỉ một thầy để hậu an cư, thầy y chỉ này bỗng qua đời, Phật nói: "có thể trong hai tháng kiểm soát lẫn nhau, cẩn thận mà ở; qua hai tháng nếu tìm được thầy y chỉ nên cung cấp như trên, nếu tìm không được thì không nên để qua thêm kỳ trưởng tịnh thứ hai, nên đi đến trú xứ khác cầu y chỉ sư. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp". Lại có Bí-sô xuất gia thọ Cận viên tại một trú xứ nọ, bổn sư bỗng qua đời, Bí-sô không biết làm sao, bạch Phật, Phật nói: "tất cả việc đều giống như trường hợp của thầy y chỉ mà làm. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, tại một tụ lạc có một trưởng giả xây một trú xứ với đầy đủ tiện nghi rồi cúng cho Tứ phương tăng. Thời gian sau ông bỗng bị quan bắt giữ, các Bí-sô nghe biết việc này rồi đều bỏ chùa đi nên vật của Tam bảo đều bị trộm lấy mất hết. Sau đó nghe biết trưởng giả được thả về, các Bí-sô đến thăm rồi nói: "trưởng giả, trước đây chúng tôi bỏ chùa đi nên các vật thọ dụng trong chùa đều bị trộm lấy mất hết", trưởng giả hỏi: "vì sao các thầy bỏ chùa đi?", đáp: "chúng tôi nghe tin trưởng giả bị bắt, tâm sanh hoang mang nên mới bỏ chùa đi", trưởng giả nói: "tôi tuy bị bắt nhưng còn có thân thuộc, họ có thể cung cấp thay tôi, vì sao các thầy lại bỏ đi", các Bí-sô nghe rồi im lặng, bạch Phật, Phật nói: "không nên bỏ đi mà không hỏi thân thuộc của họ, nên hỏi họ có thể cung cấp được hay không, nếu đáp là không thể thì các Bí-sô nên tùy duyên khất thực trong năm năm để giữ chùa. Nếu chủ chùa trở về thì tốt, nếu không trở về được thì các Bí-sô nên sống ở trú xứ gần bên, trong năm năm đồng lợi dưỡng nhưng thuyết giới riêng. Cách tác pháp như sau: trải tòa, đánh kiền chùy, Tăng nhóm rồi sai một Bí-sô tác bạch yết ma:

Đại đức tăng lắng nghe, nay thí chủ xây chùa tại trú xứ____ bị vua quan hay giặc bắt giữ. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, nay Tăng tại trú xứ này cùng Tăng tại trú xứ____ trong năm năm đồng lợi dưỡng, trưởng tịnh riêng. Bạch như vậy.

Đại đức tăng lắng nghe, nay thí chủ xây chùa tại trú xứ____ bị vua quan hay giặc bắt giữ, Nay Tăng tại trú xứ này và Tăng tại trú xứ____ trong năm năm đồng lợi dưỡng, trưởng tịnh riêng. Các cụ thọ nào chấp thuận Tăng tại trú xứ này và Tăng tại trú xứ____ trong năm năm đồng lợi dưỡng, trưởng tịnh riêng thì im lặng; vị nào không chấp thuận thì nói. Tăng đã chấp thuận Tăng tại trú xứ này và trú xứ kia trong năm năm đồng lợi dưỡng, trưởng tịnh riêng xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy.

Nếu đủ năm năm mà thí chủ trở về thì tốt, nếu không trở về thì trong mười năm cũng tác pháp đồng lợi dưỡng, trưởng tịnh riêng giống như vậy. Đủ mười năm mà thí chủ trở về thì tốt, nếu không trở về thì các Bí-sô nên đem ngọa cụ và các tạp vật trong chùa này gởi cho chùa gần bên rồi đóng chặt cửa chùa, tùy ý ra đi. Khi nào thí chủ trở về thì đem những vật đã gởi đó trả lại cho thí chủ, đem trả lại thì tốt, nếu không đem trả lại thì các Bí-sô phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô khuân vác vật nặng đi, người tục thấy liền chê trách: "người đời chúng tôi vì phải lo cho cha mẹ, vợ con, phục vụ vua quan nên phải làm các việc nặng là điều tất nhiên, các thầy vì ai mà phải chịu cực khổ như vậy?", họ nghe rồi im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô không nên khuân vác vật nặng, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp". sau đó Lục chúng Bí-sô lại đội vật nặng trên đầu hoặc trên trai… và bị chê trách như trên, Phật nói: "Bí-sô không được khuân vác vật nặng như vậy, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

9. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư:

Pháp tứ y, sáu vật,
Giặc trộm y Bí-sô,
Gởi có năm loại khác,
Phải biết cách thức nhuộm.

Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bà-la-môn muốn xuất gia nên đến rừng Thệ đa, vừa vào trong chùa liền gặp các Bí-sô đang mang bát định đi khất thực, liền suy nghĩ: "ta nên hỏi họ đi đâu", nghĩ rồi liền hỏi các Bí-sô định đi đâu, đáp là định đi khất thực, lại hỏi: "chẳng lẽ các Bí-sô đều phải khất thực hay sao?", đáp: "những vị mà nhiều người biết đến thì có nhiều thí chủ mang vật thực đến cúng dường, người không có thí chủ thì đều phải khất thực". Người này nghe rồi suy nghĩ: "nếu ta xuất gia cũng phải khất thực thì đâu có khác gì, dù có đến đầu Phật xuất gia cũng không thoát khỏi lao nhọc. Ta nên hỏi lại các Bí-sô khác, xuất gia chỉ phải một việc khất thực hay còn việc gì khác nữa", nghĩ rồi liền đến hỏi Bí-sô khác: "các vị nương vào đâu mà xuất gia?", đáp: "hãy ngồi xuống, tôi sẽ nói cho nghe. Người xuất gia trong Phật pháp phải nương vào pháp Tứ y để được thọ Cận viên, thành tánh Bí-sô, đó là mặc y phấn tảo, ở dưới gốc cây, dùng loại dược cũ bỏ (trần khí dược) vì bốn pháp này thanh tịnh dễ được". Bà-lamôn nghe rồi liền nói: "ai có thể nương vào bôn pháp này mà sống nổi, tôi vốn có ý cầu xuất gia nhưng thấy việc này khó làm nên tôi xin từ giã", nói rồi liền bỏ đi vì ông ta cho xuất gia là sự chướng ngại lớn. Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nói pháp Tứ y cho người chưa xuất gia nên có lỗi này, từ nay Bí-sô thấy người muốn xuất gia thọ Cận viên, không nên nói pháp Tứ y cho họ nghe trước. Ai nói trước thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó có một trưởng giả cưới vợ chưa bao lâu thì sanh được một trai, đồng tử này vừa mới lớn khi bị cha giận trách mắng liền suy nghĩ: "thừa sự cha thật khó, vậy ta nên xuất gia", nghĩ rồi liền đi đến rừng Thệ đa. Ô-ba-nanđà thấy liền hỏi đến có việc gì, đáp là muốn xuất gia, Ô-ba-nan-đà nói: "đây là việc tốt, như Phật đã dạy người xuất gia có năm lợi ích thù thắng… như trên, nhưng muốn xuất gia cần có đủ sáu vật", liền hỏi là sáu vật gì, đáp: "đó là ba y, bát, phu cụ và đãy lượt nước", đồng tử nói: "con không có", Ôba-nan-đà nói: "ngươi hãy tạm trở về, ta sẽ tìm sáu vật đó giúp cho ngươi", đồng tử từ giã nhưng không trở về nhà cha mẹ mà đi đến nhà thân thuộc. Thân thuộc biết là con của trưởng giả muốn xuất gia nên giữ ở lại và cưới vợ cho đồng tử. Sau đó Ô-ba-nan-đà tìm đủ sáu vật, khi vào thành khất thực gặp đồng tử liền nói: "Hiền thủ, ta đã tìm đủ sáu vật, hãy đến ta cho xuất gia", đáp: "Thánh giả, con cũng đã tìm được sáu vật", hỏi là sáu vật gì, đáp là mắt tai mũi lưỡi thân và ý, lại hỏi là vật gì, đáp: "người thân đã cưới vợ cho con có đầy đủ sáu vật nên nay con không thể xuất gia được nữa". Do nhân duyên này nên trở ngại việc xuất gia thọ Cận viên, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "từ nay nếu có người nghèo đến cần xuất gia thọ Cận viên nên mượn sáu vật cho họ cần dùng, vì sao, vì được xuất gia trong thiện pháp luật thành tánh Bí-sô là khó được. Sau khi thọ Cận viên, họ tự tìm kiếm trả lại cho chủ cũ".

Duyên xứ như trên, lúc đó có nhiều Bí-sô du hành trong nhân gian, giữa đường bị giặc cướp đoạt y vật. Giặc cướp đem những vật này đến bán ở gần rừng Thệ đa, các Bí-sô bị cướp cũng đi đến rừng Thệ đa nhìn thấy những y vật này đều nhận biết là của mình nên kêu lớn lên: "bắt lấy giặc, y vật của chúng tôi đã bị chúng cướp", tiếng kêu vang xa nên giặc cướp để lại y vật bỏ chạy tán loạn. Các Bí-sô lấy lại y vật của mình rồi suy nghĩ: "những vật đã bị cướp có cho lấy lại hay không?", bạch Phật, Phật nói: "không nên làm kinh động họ, những vật họ cướp được là thuộc về của họ". Sau đó có Bí-sô du hành trong nhân gian bị giặc cướp y vật, đối với y vật đã bị cướp, Bí-sô liền khởi tâm xả nên thiếu y bát thọ dụng, Phật nói: "Bí-sô mất y vật, không nên liền khởi tâm xả, trong thời gian giặc chưa khởi tâm nghĩ là vật của mình thì Bí-sô được lấy lại". Lại có Bí-sô gặp giặc cướp như trên, giặc đem y vật này đến bán ở gần vườn Cấp, Bí-sô nhìn thấy biết là y vật của mình liền lôi giặc đến chỗ vua, giặc bị gông cùm đánh đập rất đau khổ. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "không nên đưa giặc đến chỗ vua, nên thuyết pháp để xin lại y vật, nếu giặc không cho lại thì nên đưa cho giặc nửa giá tiền, nếu giặc cũng không chịu thì nên đưa hết giá tiền để chuộc lại, vì sao, vì y bát thành tựu rốt cuộc khó thể được".

Duyên xứ như trên, lúc đó các Bí-sô khi ra đi đem phân bò, đất, cây đánh răng, nước nhuộm… vất bỏ, không có tâm yêu tiếc; các Bí-sô khác thấy vất bỏ muốn lấy lại để dùng nhưng nghi ngại, không dám lấy nên các vật này bị hư hoại. Bạch Phật, Phật nói: "nên khởi tưởng thân hữu rồi lấy dùng, luận về thân hữu là người gởi có năm loại: một là có tâm thương mến nhau, hai là thân gần được vừa ý, ba là tôn trọng nhau, bốn là quen biết nhau lâu, năm là nghe dùng tài vật của mình thì vui mừng. Vật của năm hạng người này tuy không hỏi chủ mà lấy dùng đều không có lỗi. Lại nữa, biết vật họ đã vất bỏ, khởi tưởng là vật vô chủ, lấy dùng cũng không lỗi".

Duyên xứ như trên, Phật cho nhuộm y nên các Bí-sô ở nơi đất trống hay chỗ kinh hành bên ngoài chùa nhuộm y, bị bụi đất làm dơ và mưa gió làm ướt, Phật bảo nên nhuộm y trong chùa. Khi nhuộm y trong chùa, nước nhuộm chảy ra đất giống như máu, người tục thấy liền hỏi: "Thánh giả, chỗ này có giết bò dê hay sao?", đáp: "không phải giết chúng sanh mà là nước nhuộm y chảy ra đất", họ nói: "nước nhuộm chảy ra đất vì sao không quét dọn?", Phật nói: "nên dùng phân bò hay bùn trét ở chỗ nhuộm cho sạch", khi trét làm tổn chỗ đất đá tro, Phật nói: "chỗ đất đá tro nên dùng nước giội rửa, chỗ khác nên trét tô cho láng. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

10. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tư:

Phải biết cách trồng cây,
Trộm vải, hiện thần thông,
Nếu được vải thượng hạng,
Không cắt bỏ chỗ thêu.

Duyên khởi tại vườn Trúc, thành Vương xá, lúc đó trên núi Thắng thân, Phật thuyết pháp khiến cho vua trời Đế thích thấy được chân đế; cũng ở trên núi đó, vua Ảnh Thắng mở đại pháp hội nên dân chúng nước Ma-kiệt-đà đều vân tấp đến. Trên núi không có cây cao bóng mát, dân chúng bị nóng bức nên bạch các Bí-sô: "lành thay các Thánh giả, nên trồng cây có bóng mát trên đây", đáp là Phật chưa cho, họ nói: "trồng cây là sai trái hay sao", Bí-sô bạch Phật, Phật nói nên trồng cây, các Bí-sô trồng cây xong liền bỏ đi nên cây chết. Năm sau họ trở lại dự pháp hội bị nóng như lần trước nên hỏi các Bí-sô: "Thánh giả không có trồng cây sao?", đáp là có trồng, lại hỏi vì sao không thấy, đáp: "vì chúng tôi bỏ đi, không ai coi giữ nên chết khô hết", họ nói: "các thầy khi mới sanh nếu cha mẹ không nuôi dưỡng ắt sẽ bị tổn hại; cây trồng cũng vậy, trồng xong nên bảo dưỡng đợi khi lớn mạnh mới bỏ đi". Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "không nên trồng cây rồi liền bỏ đi", lúc đó các Bí-sô không biết cách bảo hộ cây, tháng Đông sợ cây chết nên lấy lá phủ lên, lại bị lửa đồng đốt cháy, Phật nói: "nên làm bờ che bốn phía để bảo hộ", sau đó cây bị nóng nên hư hại, Phật nói nên làm lỗ thông hơi; đến mùa hạ mưa nhiều đọng nước nên cây bị úng chết, Phật nói: "mùa hạ nên bỏ bờ che và làm đường thoát nước". Lúc đó cây chưa đủ lớn, các Bí-sô liền bỏ đi nên cây bị chết như trước, Phật nói: "ta nay chế định cách trồng cây: nếu là hoa thì đợi khi trổ hoa mới được đi; nếu là cây ăn trái thì đợi khi có trái mới được đi", lúc đó có Bí-sô gặp việc gấp cần phải đi ngay, không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: "nên giao lại cho người giữ vườn hay thân hữu mới được tùy ý đi".

Duyên xứ như trên, lúc đó vua Kiền-đà-la ở phương Bắc gửi tấm vải thượng hạng cho vua Ảnh Thắng, vua đem tấm vải này dâng cúng cho tôn giả Tất-lân-già-bà-ta. Tôn giả đem tấm vải này đến chỗ A-lan-nhã, bọn cướp nghe biết được việc này liền nói với nhau: "tấm vải đó rất quý, chúng ta nên làm sao?", một người trong bọn nói nên đến đoạt lấy. Đêm đó bọn cướp đến chỗ tôn giả gõ cửa, tôn giả hỏi là ai, đáp là giặc cướp, tôn giả hỏi muốn gì, đáp là muốn lấy tấm vải quý giá, tôn giả nói: "hãy đưa tay vào cửa sổ", giặc liền đưa tay vào, tôn giả tác ý gia trì: "chớ để cho tấm vải này bị giặc cướp đoạt hoặc bị đốt cũng không cháy, bị kéo ra cũng không kéo ra hết". Lúc đó giặc cướp kéo lấy tấm vải ra nhưng kéo mãi không hết, vải tụ thành đống lớn không cùng tận; giặc liền dùng kéo cắt cũng không cắt được, dùng lửa đốt cũng không cháy liền nói với tôn giả: "Thánh giả vì sao lại xúc não chúng tôi", tôn giả nói: "ngươi ngu si, nếu ngươi không xúc não ta thì làm sao ta lại xúc não ngươi, người có dùng hết sức cũng không thể nào kéo ra được", giặc liền nói với nhau: "Thánh giả có đại thần thông, chúng ta nên chạy đi chớ để bị vua bắt", nói rồi liền bỏ vải lại chạy đi mất dạng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "do đem vải thượng hạng đến chỗ A-lan-nhã nên có lỗi này, Tất-lân-già-bà-ta thật phi lý khi đem vải thượng hạng đến chỗ A-lan-nhã. Từ nay Bí-sô không được đem vải thượng hạng đến chỗ A-lan-nhã, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp. Nếu Bí-sô ở A-lan-nhã được vải thượng hạng nên gửi cho người coi giữ ở trong thôn". Sau đó có Bí-sô A-lan-nhã được vải tốt đem gửi trong nhà thế tục, thời gian sau vải bị trùng cắn hư, Phật nói: "nên lót lá Khổ sâm hay A quỳ ở bên trong tấm vải, nếu không có loại lá đó thì nên treo trên giá và nên thường đem phơi".

Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, trưởng giả Cấp-cô-độc thường đến lễ Phật và các tôn giả, lúc đó vào mùa lạnh, trưởng giả vào trong chùa nhìn thấy các Bí-sô nằm co ro, không tu pháp thiện liền nói: "giáo pháp của bậc Đại sư chú trọng tinh cần, vì sao các thầy lại nằm co ro, luống qua ngày tháng mà không tu thiện phẩm?", Bí-sô đáp: "tâm có hỷ lạc thì mới tu thiện phẩm, chúng tôi khổ vì lạnh thì làm sao tinh cần nổi". Trưởng giả nghe rồi liền trở về nhà lấy năm trăm xấp bạch điệp dày mang đến cúng cho Tăng, các Bí-sô thọ rồi liền cắt bỏ những chỗ thêu vẽ trên vải, dùng đá đỏ nhuộm rồi mới mặc. Sau đó trưởng giả đến không thấy các Bí-sô mặc bạch điệp nên hỏi, Bí-sô kể lại việc trên, trưởng giả nói: "đó là vải thượng hạng, vì sao các thầy lại làm cho hư hoại, nên giữ lại những chỗ thêu vẽ mà thọ dụng", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "vật của-tăng-kỳ thì không nên cắt bỏ những chỗ thêu vẽ, nên giữ lại như vậy mà thọ dụng. Ai cắt bỏ thì phạm tội Việt pháp".

QUYỂN 18

V. TỔNG NHIẾP TỤNG CỦA BIỆT MÔN THỨ NĂM:

Đốt thây, hỏi, ba lần,
Xả đọa, thân ta mất,
Giới, Bí-sô không nên,
Không dùng năm loại da.

1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

Đốt thây tụng Tam khải,
Mục liên bị đánh chết,
Không nên làm to lớn,
Được nhiều các trân bảo.

Duyên khởi tại rừng Thệ đa, thành Thất-laphiệt, lúc đó trong thành có một trưởng giả cưới vợ chưa bao lâu thì sanh được một trai. Đồng tử vừa trưởng thành liền xuất gia trong Phật pháp, không may mắc bịnh qua đời, các Bí-sô liền đem thi thể cùng y bát bỏ bên đường. Nhiều người đi qua thấy liền nói với nhau: "Sa môn Thích tử chết bị vất bỏ", có người đến xem thử liền nhận biết là con của trưởng giả liền nói cho mọi người biết, họ liền chê trách: "xuất gia trong Thích tử không được cậy nhờ, nếu người này còn tại gia thì người thân sẽ đem hỏa thiêu đúng pháp". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "nếu Bí-sô chết nên cúng dường thân của vị ấy", Bí-sô không biết cúng dường như thế nào, Phật bảo nên hỏa thiêu. Cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: "Phật đã dạy là trong thân có tám vạn hộ trùng thì làm sao được hỏa thiêu?", Phật nói: "những loại trùng này nếu người sống thì chúng sống, nếu người chết thì chúng chết nên thiêu không có lỗi. Nếu thân có lở lói nên xem kỹ, không có trùng mới được thiêu". Lúc đó muốn thiêu nhưng tìm không được củi, Phật nói: "nên thả xuống sông, nếu không có sông thì nên đào đất chôn", vào mùa hạ đất ẩm có nhiều trùng kiến, Phật nói: "ở chỗ sâu trong rừng, để thi thể day đầu về hướng Bắc, nằm nghiêng hông bên phải, dùng cây cỏ giữ đầu rồi lấy cỏ hay lá phủ lên. Khi tống táng nên bảo người có khả năng tụng kinh Tam khải (kinh Vô thường) và đọc kệ chú nguyện cho người chết". Lúc đó các Bí-sô làm việc này xong trở về chùa nhưng không tắm rửa, người tục thấy liền chê trách: "Sa môn Thích tử dơ bẩn, tiếp xúc tử thi mà không tắm rửa", Phật bảo nên tắm rửa, các Bí-sô đều tắm hết, Phật nói: "ai tiếp xúc với tử thi mới tắm, ai không tiếp xúc thì chỉ rửa tay chân", các Bí-sô trở về không lễ bái tháp, Phật bảo nên lễ bái.

Duyên khởi tại thành Vương xá, lúc đó cụ thọ Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên thường đến trong năm đường: địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh và trời người. Khi đến trong địa ngục Vô gián, Xálợi-phất bảo Đại Mục-kiền-liên: "thầy hãy vì hữu tình trong địa ngục này mà làm cho dứt khổ lửa dữ thiêu đốt", Đại Mục-kiền-liên liền bay lên hư không ở trên địa ngục làm cho mưa xuống, hạt to như bánh xe nhưng khi rơi xuống đều bị lửa dữ làm cho tiêu mất. Xá-lợi-phất nói: "thầy hãy dừng tay để tôi diệt lửa này", nói rồi liền nhập Tam-mađịa thắng giải mưa xuống một trận mưa lớn, làm cho địa ngục Vô gián đều thành bùn, trở nên mát mẻ, các khổ đều dừng lại. Họ thấy ngoại đạo Bộ thích noa do lúc sống nói pháp tà khi dối người nên nay chịu quả báo thân lớn, trên lưỡi có năm trăm cái cày sắt cày làm cho đổ máu, chịu khổ vô cùng. Ngoại đạo này nói với hai tôn giả: " khi hai vị trở về châu Thiệm bộ truyền lời của tôi đến các môn đồ của tôi rằng: do lúc sống tôi nói pháp tà khi dối người nên nay chịu quả báo thân lớn, trên lưỡi có năm trăm cái cày sắt cày làm cho đổ máu, chịu khổ vô cùng. Các môn đồ cúng dường tháp thờ tôi càng khiến thân tôi thêm đau khổ, từ nay về sau chớ có cúng dường nữa", hai tôn giả im lặng nhận lời. Từ địa ngục trở về thành Vương xá, khi đi vào thành giữa đường gặp nhóm ngoại đạo thuộc phái cầm trượng chùy và búi tóc. Các ngoại đạo này nói với nhau: "ta muốn đánh Sa môn Thích tử đó", một ngoại đạo nói: "gặp thật đúng lúc nhưng họ có lỗi mới đánh, đợi tôi hỏi trước, nếu đáp vừa ý tôi thì tốt, nếu đáp không vừa ý tôi thì đánh chẳng muộn". Lúc đó Xá-lợi-phất đi trước, ngoại đạo liền hỏi: "này Bí-sô, trong chúng Chánh mạng có Sa môn không?", tôn giả liền quán xem họ hỏi câu này với tâm gì, liền quán biết họ muốn đánh liền nói kệ:

"Trong chúng Chánh mạng không Sa môn,
Trong chúng Thích ca có Sa môn,
Nếu A-la-hán có tham ái,
Tức là kẻ phàm phu ngu si".

Ngoại đạo lõa hình tự xưng là Chánh mạng, khi nghe bài kệ này không hiểu được nghĩa nên nói: "thầy tán thán ta nên tùy ý đi". Đại Mục-kiềnliên do nghiệp đời trước đã chín nên khi đi tới nghe ngoại đạo hỏi: "này Bí-sô, trong chúng Chánh mạng có Sa môn không?", do không khởi quán nên dù là trí của bậc A-la-hán cũng không thể biết được ý đồ của ngoại đạo, liền đáp: "trong chúng các người làm gì có Sa môn, như Phật đã nói: đây là đệ nhất Sa môn, đây là đệ nhị Sa môn, đây là đệ tam Sa môn, đây là đệ tứ Sa môn, ngoài ra không có Sa môn nào khác. Bà-la-môn chỉ có danh suông, tuy gọi là Sa môn Bà-la-môn nhưng không có thật chất. Ở trong Trời người và chúng Thanh văn, ta cất tiếng rống sư tử, nói lời không hư dối. Lại nữa thầy của các người là Bộ thích noa do lúc sống nói pháp tà khi dối người nên nay chịu quả báo thân lớn, trên lưỡi có năm trăm cái cày sắt cày làm cho đổ máu, chịu khổ vô cùng. Ông ấy nhắn bảo các người khi cúng dường tháp thờ ông ấy càng khiến cho thân ông ấy thêm đau khổ, từ nay về sau chớ có cúng dường tháp nữa", các ngoại đạo nghe rồi liền phẫn nộ nói rằng: "Sa môn đầu trọc này không những nói lỗi chúng ta mà còn phỉ báng thầy chúng ta nữa, vậy chúng ta phải làm sao?", một ngoại đạo nói: "đánh cho nhừ tử chứ còn làm sao nữa, không những nói lỗi đáng đánh mà phỉ báng đại sư chúng ta lại càng đáng đánh", nói rồi cùng nhau dùng gậy đánh Đại Mục-kiềnliên nhừ tử, khiến cho thân của tôn giả bầm giập như chùy đập cỏ lau, rồi bỏ đi. Lúc đó tôn giả Xálợi-phất lấy làm lạ vì sao tôn giả Mục liên đi sau lại chậm đến nên quay trở lại xem thì thấy tôn giả nằm trên đất, thân bầm giập như chù đập cỏ lau liền hỏi: "vì sao lại ra nông nỗi như thế này?", đáp: "do nghiệp đời trước đã chín, biết làm sao", Xálợi-phất nói: "chẳng phải trong chúng Thanh văn, Đại sư đã từng khen ngợi cụ thọ là Thần thông bậc nhất hay sao, vì sao lại ra nông nỗi như thế này?", đáp: "do nghiệp lực giữ lại nên chữ Thần tôi còn không nhớ, huống chi là phát Thông". Lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất dùng y bảy điều bọc thân thể của tôn giả Mục liên, như bồng em bé đem về chùa, các Bí-sô thấy đều kinh hãi, tụ tập lại hỏi tôn giả Xá-lợi-phất nguyên do, tôn giả nói: "bị ngoại đạo cầm trượng đánh", nói rồi nhẹ nhàng đặt tôn giả Mục liên xuống đất, các Bí-sô nói: "chẳng phải trong chúng Thanh văn, Đại sư đã từng khen ngợi cụ thọ là Thần thông bậc nhất hay sao, vì sao lại ra nông nỗi như thế này?", tôn giả Xá-lợi-phất nói: "các thầy nên biết nghiệp lực rất lớn, tuy Đại Mục-kiền-liên có đại khí lực, ấn ngón chân phải liền lên tới cung Chiến thắng của vua trời Đế thích, làm cho cung trời dao động muốn nghiêng ngã; Như lai tuy đã khen ngợi tôn giả là bậc có đại oai lực, thần thông bậc nhất trong chúng Thanh văn; nhưng do nghiệp lực giữ lại nên chữ Thần còn không nhớ, huống chi là phát Thông". Lúc đó tôn giả Mục liên suy nghĩ: "ta đem thân bất tịnh này gần bên Phật để phụng sự và phụng hành theo lời Phật dạy, tùy sức mà làm không có trái phạm để đền ân Phật, nhưng đối với biển đức ai có thể báo đền cho hết được. Với thân này ta không thể gánh vác được nữa, đối với thân có vô biên khổ này nên sanh nhàm lìa, nên cầu tịch tĩnh, không nên trụ lâu", nghĩ rồi liền giữ mạng sống nhưng xả tuổi thọ. Các Bí-sô chưa đắc Thánh đạo thấy việc này rồi, trong lòng đau buồn sanh tâm xuất ly, bỏ đi đến chốn A-lan-nhã, thọ ngọa cụ bậc hạ, sống thiểu dục rời xa nhân gian, chuyên tu tịch tĩnh. Lúc đó trong thành Vương xá và các trú xứ khác đều hay tin ngoại đạo cầm trượng cùng nhau đánh tôn giả Đại Mục-kiền-liên nhừ tử, thân bầm giập như chùy đập cỏ lau, được tôn giả Xá-lợi-phất dùng y bọc mang về trong Trúc lâm như bồng em bé, chỉ còn thoi thóp, rất khổ sở không bao lâu sẽ chết nên có trăm ngàn người cùng đến trong Trúc viên. Quần thần đem việc này tâu vua, vua nghe rồi rất thương tiếc liền cùng với Thái tử, đại thần… đi đến Trúc viên, mọi người thấy vua đến nên mở đường, vua đến thấy tôn giả Đại Mục-kiền-liên như vậy liền rơi nước mắt, cầm chân tôn giả kêu khóc nói: "Thánh giả vì sao lại ra nông nỗi như thế này?", tôn giả đáp: "đại vương, do nghiệp đời trước đã chín, biết làm sao", vua tức giận bảo đại thần: "các khanh hãy cho người đi khắp nơi tìm bắt các ngoại đạo kia, nếu bắt được nhốt chúng vào trong căn phòng trống dùng lửa đốt", tôn giả nói: "đại vương không nên làm vậy, đã tạo nghiệp rồi, theo thời gian nghiệp ấy tăng trưởng thần thục, duyên biến hiện tiền như bộc lưu (thác nước) không thể chảy ngược lại, quyết định phải chiêu lấy quả báo không ai có thể thọ thay", vua bảo đại thần: "lệnh của bậc trên khó làm trái, nếu vậy thì khi bắt được chúng phải đuổi ra khỏi nước", vua nói với tôn giả: "chẳng phải trong chúng Thanh văn, Đại sư đã từng khen ngợi cụ thọ là Thần thông bậc nhất hay sao, vì sao Thánh giả không bay lên, lại để ra nông nỗi như thế này?", đáp: "đại vương, đúng là Đại sư đã khen như vậy, nhưng do nghiệp lực giữ lại nên chữ Thần tôi còn không nhớ, huống chi là phát Thông. Đại sư không nói hai lời, như đã nói kệ:

"Dù trải qua trăm kiếp,
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên hội họp,
Tự thọ lấy quả báo".

Nay tôi thọ quả báo, còn biết nói gì nữa", vua Vị sanh oán dùng y lau nước mắt rồi bảo các y sĩ: "nội trong bảy ngày nếu các khanh không làm cho các chi phần trên thân của tôn giả hồi phục như xưa thì ta sẽ tước bỏ bổng lộc hiện có của các khanh", vua lại sai đại thần ở lại đích thân chăm sóc, đảnh lễ tôn giả rồi ra về. Lúc đó Đại Mụckiền-liên nói với Xá-lợi-phất: "cụ thọ nên biết, tôi sẽ nhập Niết-bàn, hãy khoan thứ cho tôi", Xá-lợiphất nghe rồi liền nói: "hai chúng ta cùng cầu pháp thiện, đồng thời xuất gia, đồng chứng Cam lồ, đồng quy Viên tịch, nên làm như vậy". Tôn giả Mã thắng nghe biết tin này liền đến thăm hỏi an ủi Mục liên: "cụ thọ nên biết:

"Không phải trong hư không,
Không trong biển và núi,
Không bất cứ chỗ nào,
Thoát khỏi được nghiệp báo.
Như bóng đi theo người,
Không đứng lại một chỗ,
Nghiệp thiện ác không mất,
Phật đã nói như vậy".

Đại Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất đảnh lễ tôn giả Mã thắng, nhiễu phải ba vòng rồi bạch:

"A-giá-lợi-da,
Việc nên làm đã
xong, Con từ biệt
lần cuối, Sẽ vào
Vô dư y, Cảnh
Niết-bàn trong mát".

Tôn giả Mã thắng nói với Xá-lợi-phất:

"Việc mà thầy nên làm đã xong,
Thường chuyển pháp luân theo ý Phật,
Nay thầy lại muốn nhập Niết-bàn,
Tướng pháp thế gian, đèn sáng tắt".

Lúc đó các y sĩ nghe lịnh vua rồi nói với nhau: "lịnh của vua đã ban, chúng ta phải làm sao?", một người nói: "biết làm gì nữa, Thánh giả tuổi đã cao lại bị đánh bầm giập như chùy đập cỏ lau thì làm sao chữa cho lành như xưa được; nhưng Thánh giả có từ bi lực, chúng ta cầu xin sẽ được ban ân", nói rồi cùng nhau đến đảnh lễ tôn giả Đại Mục-kiềnliên bạch rằng: "đại vương có lịnh nội trong bảy ngày nếu các y sĩ không làm cho các chi phần trên thân của tôn giả hồi phục như xưa thì vua sẽ tước bỏ bổng lộc hiện có của chúng tôi; nhưng tôn giả tuổi cao lại bị khổ nạn này thì thật khó làm cho phục hồi như xưa. Cúi xin tôn giả từ bi ban phương tiện giúp chúng tôi không bị mất bổng lộc", tôn giả nói: "vậy thì các vị hãy đến tâu vua là sau bảy ngày Thánh giả Mục liên sẽ vào thành Vương xá khất thực", các y sĩ vui mừng từ giã rồi đến chỗ vua tâu: "sau bảy ngày Thánh giả Mục liên sẽ vào thành Vương xá khất thực", vua nghe rồi vui mừng nói lành thay. Sau bảy ngày Thánh giả Mục liên dùng thần thông lực trừ các đau đớn, vào thành Vương xá khất thực tới cửa cung vua, người giữ cửa liền vào báo cho vua biết, vua nghe rồi mừng rỡ ra cửa nghinh đón, đảnh lễ rồi thỉnh vào trong cung an tọa và thăm hỏi có an ổn không, tôn giả nói:

Đại vương nên biết,
Nay tôi cần gì thân máu huyết,
Gánh vác các khổ không ngừng nghỉ,
Nay đã trừ hết độc ngoan xà,
Sẽ đến thành Niết-bàn an ổn,
Trong thành Niết-bàn không có khổ,
Duyên sanh các khổ thảy đều không,
Phật và Thánh chúng sống trong đó,
Kẻ ngu luân hồi không vào được.

Đại vương nên biết, đây là túc nghiệp của tôi, nay phải chịu quả báo bị đánh bầm giập như cỏ lau bị giập, không thể trị liệu được. Cho dù y vương thời xưa cũng không trị hết, xin đại vương hãy tha cho các y sĩ", vua nghe rồi liền ra lịnh tha cho các y sĩ, nước mắt đầm đìa đảnh lễ tôn giả, tôn giả khuyên vua chớ phóng dật, lược nói pháp rồi từ giã. Lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất nhập định quán sát vì sao cụ thọ Mục liên bị khổ nạn này mà còn vào thành khất thực, mới thấy tôn giả sắp nhập Niết-bàn. Từ khi thấy tôn giả Mục liên bị đánh, tôn giả Xá-lợi-phất sanh bi cảm nên phát bịnh nặng, suy nghĩ: "cụ thọ Mục liên sắp nhập Niết-bàn, ta còn trụ ở đây làm chi, ta nên vào Viên tịch trước", nghĩ rồi liền đến từ biệt cụ thọ A-nan như trong kinh có nói rõ, kế đến đảnh lễ Thế tôn rồi ngồi một bên bạch Phật:

"Phật dạy con đã trì,
Tùy sức giảng cho người,
Đã phụng sự Thánh chúng,
Tâm không luyến ái thân,
Gắng làm việc mình xong,
Đã tu hạnh Niết-bàn,
Ba nghiệp thân khẩu ý,
Theo chánh đạo không sai,
Đối với sanh con không ái,
Đối với tử con không buồn,
Thế nên con Niết bàn,
Lạc này là tối thượng".

Phật hỏi: "trong giáo pháp thù thắng này, thầy đến sau mà lại ra đi đầu tiên là có ý gì?", tôn giả chắp tay cung kính nói kệ:

"Không nở thấy Phật nhập Niết-bàn,
Mục liên thù thắng cũng như vậy,
Tướng pháp Như lai, việc đã xong,
Nên con muốn vào Viên tịch trước.
Kính bạch Đại thánh nhơn trung tôn,
Con muốn trở về lại quê cũ,
Thuyết pháp yếu cho các thân tộc,
Rồi xả thân năm ấm luân hồi".

Phật hỏi: "thầy muốn nhập Niết-bàn?", đáp là muốn nhập Niết-bàn, Phật lại hỏi: "thầy muốn nhập Niết-bàn?", đáp: "Thiện thệ, con muốn nhập Niết-bàn", Phật nói: "nếu thầy muốn nhập Niết-bàn thì các hành vô thường là pháp sinh diệt, hãy làm theo ý thầy, ta còn gì nói nữa", tôn giả Xá-lợiphất lạy Phật lần cuối, chắp tay cung kính nhiễu phải ba vòng rồi từ giã ra đi. Sau đó tôn giả đến nói với Mục liên: "cụ thọ, tôi có bịnh nặng, muốn trở về thôn Na-lan-đà thuyết pháp cho thân tộc rồi sẽ nhập Niết-bàn", tôn giả Mục liên nói: "hãy làm theo ý thầy, tôi cũng trở về thôn Lâm viên thuyết pháp yếu cho thân tộc rồi sẽ nhập Niết-bàn". Tôn giả Xá-lợi-phất kế đến từ giã các đại Thanh văn như Nan đà, A-nan, A-ni-lư-đà, Hiệt ly phạt đa, Bạt đà la, La hỗ la… nói là sắp nhập Niết-bàn rồi cùng thị giả Chuẩn đà và chúng Bí-sô trở về thôn Na-lan-đà, cụ thọ La hỗ la cùng chúng Bí-sô đi theo sau. Tôn giả Xá-lợi-phất nói với La hỗ la bằng lời từ ái:

"Nếu có chí cầu mong giải thoát,
Nên biết tất cả đều vô thường,
Thế gian chẳng gì đáng luyến ái,
Quyết định mà quán chớ phóng dật,
Thân mạng vô thường chẳng gì vui,
Như vẽ trên nước không tạm dừng,
Biết rõ tất cả đều như mộng,
Đời sống mong manh tụ cũng vậy,
Kính Phật, kính Pháp, cúng dường Tăng,
Y chỉ chánh pháp tạng của Phật.
Này La hỗ la nghe ta dạy,
Con nên thân cận bậc kỳ túc,
Trong tam tạng giáo nếu có nghi,
Trừ ta, khó có người đáp được,
Nếu có nghi hãy hỏi Thế tôn,
Phật tuyên thất nghĩa giải nghi cho".

La hỗ la nói kệ đáp:

"Con quán thứ lớp thấy,
Phật không lâu cũng diệt,
Như cây cháy bốn cành,
Thân làm sao trụ lâu".

Nói rồi đảnh lễ tôn giả Xá-lợi-phất, hữu nhiễu ba vòng, biết rõ các hành là vô thường liền quay trở về. Tôn giả Xá-lợi-phất dẫn Cầu tịch Chuẩn đà theo làm thị giả, từ nước Ma-kiệt-đà du hành trong nhân gian, dần dần đến thôn Na-lan-đà, trụ trong rừng Nhiếp ba ở hướng Bắc, thuyết pháp yếu cho thân tộc khiến họ quy y Tam bảo, thọ trì năm học xứ. Lúc đó nghe tôn giả Xá-lợi-phất sắp nhập Niết-bàn, trăm ngàn chúng sanh đều vân tập đến, tôn giả quán biết tâm mọi người liền ứng cơ thuyết pháp khiến cho họ sau khi nghe pháp, có người được Noãn pháp, hoặc được Đảnh pháp, hoặc được Nhẫn pháp, có người được Thế đệ nhất pháp, có người đắc quả Tu đà hoàn, hoặc quả Tư-đàhàm, hoặc quả A-na-hàm, có người gieo trồng nhân duyên với Thanh văn thừa, có người gieo trồng nhân duyên với Bích chi Phật thừa, có người gieo trồng nhân duyên với Phật thừa. Sau khi hóa độ thân tộc và làm cho mọi người phát khởi lòng tin thanh tịnh rồi, vào buổi sáng, tôn giả Xá-lợi-phất bay lên hư không phóng hào quang lớn và hiện các thần biến rồi nhập Niết-bàn vô dư y. Ngay khi tôn giả viên tịch, mặt đất chấn động, lửa phát ra bôn hướng rơi xuống như sao xẹt, trong hư không trống trời vang lên; các Bí-sô đang ở Bắc Câu lô châu, Đông tây hai châu, hoặc ở trên núi Diệu cao và các núi khác, cho đến trong các hang động, hoặc đang tu thiền định thọ giải thoát lạc ở các nơi, khi thấy mặt đất chấn động liền suy nghĩ vì sao mặt đất lại chấn động. Họ nhiếp niệm quán sát liền thấy Thân giáo sư đã nhập Niết-bàn, họ cùng suy nghĩ: "nay không có Thân giáo sư, ta không nên trụ ở châu Thiệm bộ nữa", nghĩ rồi tám vạn A-la-hán là đệ tử của tôn giả đồng thời cùng nhập Niết-bàn.

Lúc đó vào sáng sớm, Đại Mục-kiền-liên đắp y mang bát, dùng thần thông lực duy trì thân thể vào thành Vương xá khất thực rồi trở về trú xứ, thọ thực xong thu xếp y bát, rửa chân rồi đến đảnh lễ Phật và bạch Phật:

"Thân này đều là máu huyết tụ,
Không bền, mong manh thường thay đổi,
Cũng như bình độc, con vất bỏ,
Cúi xin Đại sư thương tha thứ.
Con không còn mắc nợ,
Ý cho là đầy đủ,
Biển sanh tử không bờ,
Lìa sợ, lên bờ kia,
Bạn con Xá-lợi-phất,
Đại trí đã viên tịch,
Nay con đi theo sau,
Xin Đại hùng biết cho".

Phật hỏi: "thầy muốn nhập Niết-bàn?", đáp là muốn nhập Niết-bàn, Phật lại hỏi: "thầy muốn nhập Niết-bàn?", đáp: "Thiện thệ, con muốn nhập Niết-bàn", Phật nói: "nếu thầy muốn nhập Niết-bàn thì các hành vô thường là pháp sinh diệt, hãy làm theo ý thầy, ta còn gì nói nữa", tôn giả Đại Mục-kiền-liên lạy Phật lần cuối, chắp tay cung kính nhiễu phải ba vòng rồi từ giã ra đi. Tôn giả trở về thôn Lâm viên thuyết pháp yếu cho thân tộc… như trường hợp của tôn giả Xá-lợi-phất, cho đến câu có vô lượng người thọ Tam quy ngũ giới, phát tâm chứng quả. Vào buổi chiều, tôn giả nhập Niết-bàn, bảy vạn bảy ngàn vị A-la-hán là đệ tử của tôn giả cũng đồng thời nhập Niết-bàn. Sau khi đệ nhị Thánh giả nhập Niết-bàn, các quyến thuộc, Bà-la-môn, cư sĩ thu lấy xá lợi xây tháp cúng dường; những người tạo nghiệp thắng diệu này đều được sanh thiên, giải thoát.

Lúc đó cụ thọ A-nan và La hỗ la nghe tôn giả Xá-lợi-phất và Đại Mục-kiền-liên đã nhập Niết-bàn đều nước mắt đoanh tròng, buồn khóc đi đến cỗ Phật, đảnh lễ rồi đứng một bên. A-nan bạch Phật:

"Thế tôn, Con nghe Thân tử, Mục liên diệt,
Khắp cả thân tâm đều rung động,
Mắt nhìn phương hướng đều mờ mịt,
Dù có nghe pháp, tâm cũng loạn".

Thế tôn nói kệ bảo cả hai:

"Các thầy chớ sầu não,
Ân ái đều biệt ly,
Trước đã dạy các thầy,
Vậy nên chớ ưu sầu,
Đã sinh không thoát tử,
Thế giới không thường định,
Trong năm nẻo luân hồi,
Rốt cuộc không tồn tại".

Lúc đó Cầu tịch Chuẩn đà sau khi hỏa thiêu nhục thân của Ô-ba-đà-da, thu lấy di cốt cùng y bát của thầy mang về thành Vương xá. Đến trú xứ cất y bát, rửa chân rồi liền đến chỗ cụ thọ A-nan, đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch rằng: "Đại đức biết không, Thân giáo sư của con đã nhập Niết-bàn, đây là di cốt và y bát", A-nan đưa Chuẩn đà đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch Phật:

Con nghe Thân tử diệt,
Hình thể như người si,
Không còn biết phương hướng,
Nghe pháp tâm không hiểu.

Cầu tịch Chuẩn đà đến nói với con: "Đại đức biết không, Thân giáo sư của con đã nhập Niết-bàn, con đã hỏa thiêu cúng dường, đây là di cốt và y bát", giờ phải làm sao?", Phật hỏi A-nan: "Bí-sô Xá-lợi-phất có đem Giới uẩn nhập Niết-bàn hay không?", đáp là không, lại hỏi: "có đem định uẩn, huệ uẩn, giải thoát uẩn và giải thoát tri kiến uẩn nhập Niết-bàn không?", đáp là không, lại hỏi: "có đem các pháp do ta tự giác ngộ nói ra như Tứ niệm trụ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát chánh đạo nhập Niết-bàn hay không?", đáp: "bạch Thế tôn không, cụ thọ Xá-lợi-phất không đem ba pháp uẩn vô lậu cùng ba mươi bảy pháp Bồ đề phần nhập Niết-bàn, nhưng cụ thọ Xá-lợi-phất có đầy đủ giới, đa văn, thiểu dục tri túc, thích hạnh tịch tĩnh, thường tinh tấn, chánh niệm hiện tiền, có đầy đủ các trí huệ như Chánh trí huệ, Tốc tật huệ, Xuất ly huệ, Thú nhập huệ, Đại tuệ huệ, Khoan quảng huệ, Thậm thâm huệ, Vô đẳng huệ, Không huệ... khai thị dẫn dắt, khen ngợi khích lệ làm cho vui mừng, nghe rồi hiểu rõ, ở trong chúng tuyên dương giáo pháp không có khiếp nhược. Con và cụ thọ Xá-lợi-phất ở trong Phật pháp đã cùng thọ dụng, nay tôn giả nhập Niết-bàn, con nhớ nghĩ nên đau buồn không vui", Phật bảo A-nan: "thầy chớ đau buồn không vui, pháp do nhân duyên sanh mà lại muốn chúng thường trú thì không có lý đó, đã biết các pháp tánh thường hoại diệt thì không nên đau buồn. Này A-nan, trước đây ở các nơi ta đã từng tuyên thuyết: tất cả việc ân ái, hoan lạc đều là vô thường, cuối cùng cũng trở về biệt ly. Như cây đại thọ rễ sâu vững chắc, cành lá rậm rạp, hoa trái đầy cành, cành nào mọc đưa ra ngoài ắt sẽ gảy trước. Như núi báu lớn, đỉnh núi cao ắt sẽ ngã trước. Nay cũng vậy, Phật là thượng thủ, Bí-sô Tăng già đang còn ở thế gian mà Xá-lợi-phất đã nhập Niết-bàn trước. Lại nữa này A-nan, những nơi mà Xá-lợi-phất đã đi qua đều tràn ngập tiếng khen nên ta không lo, vì vậy thầy chớ có đau buồn. Tướng thế gian là như vậy, rốt cuộc cũng trở về biệt ly; dù ta còn ở đời hay tịch diệt, thầy nên biết tự mình làm hòn đảo cho mình, tự mình làm chỗ nương cho mình; lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm chỗ nương, không có hòn đảo hay chỗ nương nào khác. Các đệ tử trong giáo pháp của ta, ai giữ gìn giới luật là người đứng đầu. Thế nào là Bí-sô tự mình làm hòn đảo cho mình, tự mình làm chỗ nương cho mình; lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm chỗ nương, không có hòn đảo hay chỗ nương nào khác?: Bí-sô tự quán nội thân, ngoại thân, nội ngoại thân cho đến quán thọ tâm pháp, tinh cần chánh niệm, biết rõ các thứ sân giận ưu sầu trong thế gian cọng sanh phiền não. Đây chính là tự mình làm hòn đảo cho mình… cho đến không có chỗ nương nào khác", A-nan nghe Phật dạy xong đảnh lễ Phật rồi lui ra. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: "Thế tôn, Thánh giả Mục liên đã tạo nghiệp gì mà bị ngoại đạo đánh bầm giập như thế?", Phật nói: "nghiệp mà Mục liên đã tạo không ai chịu thay được, các thầy lắng nghe:

Thuở xưa tại một thành nọ, có một Bà-la-môn cưới vợ chưa lâu liền sanh hạ một trai, đến tuổi trưởng thành người cha cưới vợ cho con. Người con này vì quá thương yêu vợ nên khi người mẹ giận con dâu, anh liền tức giận không yêu kính mẹ nữa. Người mẹ trách: "con thương yêu vợ đến nỗi trái nghịch lại ta", con dâu nghe được lời này liền sanh niệm ác: "bà lão này tuổi đã già mà vẫn ở bên chồng ta, chưa muốn rời xa lại còn nói lỗi của chồng ta nữa". Từ đó về sau, con dâu thường tìm lỗi của mẹ chồng, thời gian sau khi thấy cha mẹ chồng làm việc riêng tư liền nói với chồng để chồng giận mẹ. Người con này liền nói với mẹ:

"ngu si già cả còn chưa dứt tâm, lại còn trách mắng con trẻ", nói rồi liền khởi tâm ác nói lời độc hại: "phải chi có người nào mạnh khỏe đánh cho thân bà bầm giập như chùy đập cỏ lau".

Này các Bí-sô, người con trai thuở xưa chính là Đại Mục-kiền-liên ngày nay. Thuở xưa do khởi niệm ác nói lời bất nghĩa với mẹ nên trong năm trăm đời, thân thường bị đánh bầm giập như chùy đập cỏ lau; đến đời này tuy mang thân cuối cùng, là bậc thần thông đệ nhất trong chúng đệ tử Thanh văn của ta, nhưng vẫn còn chịu quả báo này. Các thầy nên biết, nghiệp đã tạo rồi phải chịu quả báo, không ai chịu thay…, các thầy nên học như vậy", các Bí-sô nghe Phật dạy xong đều hoan hỉ phụng hành.

Các Bí-sô vẫn còn nghi thỉnh hỏi Phật: "Thế tôn, vì sao các ngoại đạo không đánh Xá-lợi-phất mà lại hại Đại Mục-kiền-liên?", Phật nói: "không phải ngày nay họ đánh một thả một, mà thuở xưa cũng vậy, các thầy lắng nghe:

Thuở xưa bên một thôn nọ, có nhiều đồng tử tụ tập chơi đùa, khi thấy hai Ma-nạp-bà đang trên đường đi đến liền nói với nhau: "chúng ta đánh hai người này chơi", một đồng tử nói: "không nên đánh ngay, đợi tôi hỏi họ, nếu đáp làm tôi vừa ý thì không đánh, nếu tôi không vừa ý thì mới đánh", nói rồi liền đón một Ma-nạp-bà đi trước hỏi: "lúc nào trời lạnh?", Ma-nạp-bà này suy nghĩ: "hỏi câu này là có ý gì", liền thấy bộ dạng của họ như muốn đánh mình nên Ma-nạp-bà nói kệ đáp:

"Bất luận Đông hay Hạ,
Chỉ cần có gió thổi,
Có gió thì trời lạnh,
Không gió, trời không lạnh".

Các đồng tử nghe rồi liền cho đi qua, kế lại hỏi người thứ hai, người này nói kệ đáp:

"Mùa Đông thì trời lạnh,
Mùa hạ trời không lạnh,
Việc này ai cũng biết,
Kẻ vô trí sanh nghi".

Các đồng tử nghe rồi liền nổi giận đánh người này nhừ tử rồi bỏ đi.

Này các Bí-sô, người được cho đi qua thuở xưa chính là Xá-lợi-phất ngày nay, người bị đánh chính là Đại Mục-kiền-liên; ngày nay cũng vậy".

Lúc đó các Bí-sô vẫn còn nghi thỉnh hỏi Phật: "cụ thọ A-nan sanh đại khổ não lại được Thế tôn đại bi khai giải, thật hy hữu thay", Phật bảo các Bí-sô: "ngày nay ta khai giải nổi đau buồn cho Khánh hỷ chưa phải là hy hữu, quá khứ ta cũng đã giải trừ ưu sầu cho Khánh hỷ, các thầy lắng nghe: Quá khứ tại thành Bà-la-nê-tư, nước Ca thi có vua tên là Phạm thọ…, vua có con tên là Thiện sanh, Thiện sanh lại có con dung mạo rất đoan nghiêm nên khi mở hội ăn mừng để đặt tên cho cháu bé, thân tộc nói: "đây là cháu của quốc vương nước Ca thi, nên đặt tên cho cháu là Ca thi Tôn đà la". Thời gian sau, vương tử Thiện sanh bỗng qua đời, vua Phạm thọ vì quá thương yêu con nên hai tay ôm lấy thi hài con, bi thương kêu khóc. Lúc đó Ca thi Tôn đà la đã có trí hiểu biết suy nghĩ: "đại vương đau buồn như vậy, có thể chết, ta nên giải trừ nỗi đau buồn này cho vua", nghĩ rồi liền đến chỗ vua, đảnh lễ rồi tâu rằng: "đại vương, con có điều mong muốn", vua hỏi muốn điều gì, đáp: "xin hãy làm cho con chiếc xe với các bánh xe bằng nhật nguyệt, trang hoàng lộng lẫy và hãy mang tới nhanh. Nếu đại vương không cho thì đến bảy ngày sau, ngực con sẽ vỡ ra mà chết", vua nghe rồi càng lo sợ liền nói kệ bảo cháu:

"Ai làm việc vô ích,
Đây là lời kẻ ngu,
Cháu biết ta không thể,
Cố tìm cũng không được".

Cháu nói kệ:

"Đại vương, cháu không ngu,
Quốc chủ mới là ngu,
Ôm thi hài thối đó,
Kêu gào con bi thương.
Khi nhật nguyệt vừa mọc,
Chiếu sáng khắp thế gian,
Trừ hết tối bốn phương,
Làm cho sáng rực rỡ.
Nay vua cha không biết,
Con chết sanh cõi khác,
Địa ngục, bàng sanh, quỷ,
Trời người trong các đường.
Chớ vin níu phi xứ,
Đại vương suy xét kỹ,
Cố gắng định tâm lại,
Chỉ quy y theo pháp.
Vua nghe đồng tử nói,
Thân tâm đều hoan hỉ,
Nhổ tên độc buồn ra,
Bỏ thi hài con xuống".

Này các Bí-sô, Ca thi Tôn đà la thuở xưa chính là thân ta ngày nay, Thiện sanh chính là Xá-lợiphất, vua Phạm thọ chính là A-nan", Phật nói kệ:

"Vương tử là thân ta,
Cha ta: Xá-lợi-phất,
A-nan là Phạm thọ,
Việc thuở xưa nên biết".

Lúc đó Phật ra khỏi thành Vương xá đi đến nước Kiều-tát-la, du hành trong nhân gian đến vườn Cấp-cô-độc, thành Thất-la-phiệt. Cụ thọ A-nan mang di cốt của tôn giả Xá-lợi-phất về đến trong vườn Cấp, dùng hương hoa cúng dường. Trưởng giả Cấp-cô-độc nghe biết tôn giả Xá-lợiphất đã nhập Niết-bàn, tôn giả A-nan đang cúng dường di cốt liền đến đảnh lễ tôn giả và bạch rằng: "Thánh giả biết không, tôn giả Xá-lợi-phất đã nhập Niết-bàn, vị ấy trước đây là bậc mà con rất kính trọng, nay tôn giả mang di cốt vị ấy về đây cúng dường, con cũng có tâm muốn cúng dường, xin tôn giả đưa cho con", đáp: "trưởng giả, tôi cũng vậy. Vị ấy trước đây là bậc mà tôi rất kính trọng nên không thể đưa lại cho ông". Trưởng giả liền đến bạch Phật: "Thế tôn từ bi cho con được nhận di cốt của tôn giả Xá-lợi-phất để con được cúng dường", Phật bảo A-nan: "thầy cúng dường di cốt của vị đồng phạm hạnh, nhưng đối với Như lai chưa phải là cúng dường, chưa phải là báo ân. Nếu ai có thể làm được việc này mới là chân thật cúng dường Như lai và là báo ân to lớn: đó là độ người khác xuất gia, cho thọ Cận viên hoặc cho y chỉ, dạy họ học tu, khuyên họ thiền quán, chuyên cầu xuất ly chớ để thời gian luống trôi qua. Vì sao, vì Như lai trong ba A-tăng-kỳ kiếp đã vì các hữu tình tu khổ hạnh, làm những việc khó làm mới chứng được Vô thượng Bồ đề. Này A-nan, nhờ y chỉ ta làm Thiện tri thức nên các hữu tình mới được thoát khỏi sanh lão bịnh từ ưu bi khổ não. Thế nên thầy hãy đưa lại di cốt cho trưởng giả được cúng dường", A-nan vâng lời Phật dạy đưa lại di cốt cho trưởng giả, do thuở xưa khi Phật còn hạnh Bồ-tát đạo, chưa từng chống trái lời cha mẹ, sư trưởng dạy, nên ngày nay được quả bảo không ai dám trái lời. Trưởng giả nhận di cốt rồi liền đảnh lễ Phật ra về, về đến nhà để di cốt trên chỗ cao hiển lộ, cả gia đình và quyến thuộc cùng đem hương hoa diệu vật cúng dường. Lúc đó dân chúng trong thành đều nghe biết tôn giả Xá-lợi-phất đã nhập Niết-bàn ở thôn Na-lan-đà, thành Ma già đà; Cầu tịch Chuẩn đà mang di cốt của tôn giả về đưa cho A-nan; tôn giả A-nan mang về đây và Phật đã bảo đưa lại di cốt cho trưởng giả Cấp-cô-độc; trưởng giả mang về nhà, gia đình và quyến thuộc cùng cúng dường. Vua Thắng quang cùng phu nhân Thắng man, phu nhân Hành vũ và các trưởng giả Ô-ba-sách-ca, Tỳ-xá-khư Ô-ba-tư-ca… đều mang hương hoa diệu vật đến nhà trưởng giả để cúng dường di cốt. Có người từng nhờ tôn giả Xálợi-phất được chứng đạo quả, nhớ lại ân xưa nên cũng đến cúng dường. Thời gian sau vì có duyên sự nên trưởng giả khóa cửa ra ngoài, khi mọi người mang vật cúng dường đến thấy cửa khóa liền chê trách: "vì sao trưởng giả lại chướng ngăn đường sanh phước". Trưởng giả trở về nghe gia nhân báo lại việc này liền suy nghĩ: "đây chính là duyên cớ đến bạch Phật", nghĩ rồi liền đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch Phật: "Thế tôn, có nhiều người đối với di cốt của tôn giả Xálợi-phất có tâm kính trọng nên mang hương hoa diệu vật đến nhà con để cúng dường. Hôm nay vì có việc nên con khóa cửa đi, mọi người đến thấy cửa khóa liền chê trách là con làm chướng ngăn đường sanh phước của họ. Cúi xin Phật cho con được xây tháp thờ xá lợi của tôn giả nơi chỗ cao rộng để mọi người được tùy ý cúng dường", Phật bảo tùy ý làm, trưởng giả hỏi nên làm thế nào, Phật nói: "nên xây hai lớp gạch làm móng, kế xây thân tháp, trên nóc làm tướng cái bát úp. Tùy ý xây cao, trên cùng làm nóc bằng, cao một hai thước, vuông hai ba thước, ở giữa để tướng luân theo thứ lớp nhiều tầng từ một, hai… cho đến mười ba tầng mới để bình báu", trưởng giả suy nghĩ: "chỉ riêng tôn giả Xá-lợi-phất được xây tháp như thế hay là vị khác cũng được", liền bạch Phật, Phật nói: "nếu xây tháp cho Như lai thì làm đầy đủ như trên đã nói, nếu làm tháp cho Độc giác thì không để bình báu, nếu làm tháp cho A-la-hán thì chỉ nên bốn tầng với tướng luân, Bất hoàn ba tầng, Nhất lai hai tầng, Dự lưu một tàng, thiện nhân phàm phu thì làm nóc bằng không có tướng luân". Lúc đó Bí-sô không biết an trí tháp nơi đâu, Phật nói: "như Thế tôn trụ trong pháp xứ mà an trí tháp của Đại sư, tháp của các đại Thanh văn ở hai bên, tháp của các bậc tôn túc khác an trí theo lớn nhỏ, tháp của thiện nhân phàm phu thì ở ngoài chùa". Trưởng giả sau khi xây tháp xong liền bạch Phật: "xin Phật cho con làm lễ khánh thành tháp tôn giả Xá-lợi-phất và thiết lập thí hội", Phật nói tùy ý. Lúc đó vua Thắng quang nghe được tin này liền suy nghĩ: "ta cũng nên hỗ trợ lễ khánh thành này", nghĩ rồi liền ra lịnh đại thần thông báo cho dân chúng trong thành và các thương nhân từ xa đến rằng: người nào đến tham dự pháp hội này được tùy ý mau bán, trao đổi hàng hóa mà không bị thu thuế. Có năm trăm thương nhân gặp gió bão ở ngoài biển suýt phá tan thuyền bè, do trước kia họ đã thọ quy giới với tôn giả Xá-lợi-phất nên cùng xưng niệm danh hiệu của tôn giả, được chư thiện hộ trì nên cuối cùng được bình yên đến nơi đây. Họ nghe vua Thắng quang ra thông báo này liền suy nghĩ: "nhờ nghiệp đời trước nên nay vua được thọ thắng vị mà vẫn còn muốn bố thí, vì sao chúng ta lại không tu phước", nghĩ rồi liền sanh tâm tín kính đem nhiều vàng bạc trân bảo đến cúng dường trong pháp hội rồi đi. Các Bí-sô thọ rồi không biết nên phân chia các vật cúng dường này như thế nào, bạch Phật, Phật nói: "vỏ ốc thổi vang ra tiếng được thì nên để ở chỗ hình tượng Thiệm bộ, các trân bảo khác nên giữ lại ít nhiều dùng cho việc tu sửa tháp Xá-lợi-phất. Nếu có y vật có thể treo cúng dường thì nên giữ lại ít nhiều dùng để treo cúng dường vào những ngày trai. Những vật khác như y phục, vải lụa, tiền thì Tăng hiện tiền nên chia. Đây là tài vật của vị đồng phạm hạnh, đúng lý được dùng; tức là vật thuộc của tháp Xá-lợi-phất thì được phân chia, nếu là vật thuộc của tháp Phật thì đều dùng cho tháp".

2. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

Gạn hỏi khiến nhớ nghĩ, Hỏi có cho phép không, Việc giáo thọ không làm, Trưởng tịnh và Tùy ý.

Phật tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó Lục chúng Bí-sô không xét kỹ về thấy nghe nghi liền gạn hỏi Bí-sô, khiến cho họ sanh hổ thẹn, ưu sầu nên thân ốm gầy, tiều tụy, sức lực suy yếu không thể đọc tụng tư duy như lý… Phật bảo các Bí-sô: "từ nay về sau, nếu chưa xét kỹ về thấy nghe nghi thì Bí-sô không nên gạn hỏi Bí-sô khác, ai gạn hỏi thì phạm tội Việt pháp. Cũng như việc gạn hỏi, khiến nhớ nghĩ phải hỏi người kia có cho phép hỏi không, không giáo thọ, Trưởng tịnh, Tùy ý… các việc đều căn cứ theo đây nên biết đều là phạm tội Việt pháp".

QUYỂN 19

3. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

Phật tam chuyển pháp luân,
Đầu tiên độ năm người,
Không nên kêu tên tộc,
Câu thi lược nói pháp.

Tôi nghe như vầy, một thời đức Bạc-già-phạm trụ trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Lúc đó Phật bảo năm Bí-sô: "này các Bí-sô, đây là Khổ thánh đế nếu tác ý như lý đối với pháp được nghe này thì có thể phát sanh nhãn trí minh giác. Đây là Khổ tập, Khổ diệt, Thuận khổ diệt đạo thánh đế nếu tác ý như lý đối với pháp được nghe này thì có thể phát sanh nhãn trí minh giác. Này các Bí-sô, Khổ thánh đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy nên biết, nếu tác ý như lý đối với pháp được nghe này thì có thể phát sanh nhãn trí minh giác. Khổ tập thánh đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy nên đoạn, nếu tác ý như lý đối với pháp được nghe này thì có thể phát sanh nhãn trí minh giác. Khổ diệt thánh đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy nên chứng, nếu tác ý như lý đối với pháp được nghe này thì có thể phát sanh nhãn trí minh giác. Thuận khổ diệt đạo thánh đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy nên tu, nếu tác ý như lý đối với pháp được nghe này thì có thể phát sanh nhãn trí minh giác. Này các Bí-sô, Khổ thánh đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy đã biết, nếu tác ý như lý đối với pháp được nghe này thì có thể phát sanh nhãn trí minh giác. Khổ tập thánh đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy đã đoạn, nếu tác ý như lý đối với pháp được nghe này thì có thể phát sanh nhãn trí minh giác. Khổ diệt thánh đế này là pháp đã được hiểu rõ, như vậy đã chứng, nếu tác ý như lý đối với pháp được nghe này thì có thể phát sanh nhãn trí minh giác. Thuận khổ diệt đạo thánh đế này là pháp đã hiểu rõ, như vậy đã tu, nếu tác ý như lý đối với pháp được nghe này thì có thể phát sanh nhãn trí minh giác.

Này các Bí-sô, ta đối với pháp Tứ thánh đế này nếu chưa hiểu rõ mà ba phen chuyển pháp luân, mười hai hành tướng thì nhãn trí minh giác đều không phát sanh. Đối với chư Thiên, Ma, Phạm, Sa môn, Bà-la-môn và tất cả thế gian, không có trừ hết phiền não, tâm được giải thoát và không thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Này các Bí-sô, ta đối với pháp Tứ thánh đế này vì đã hiểu rõ nên ba phen chuyển pháp luân, mười hai hành tướng với nhãn trí minh giác đã phát sanh. Đối với chư Thiên, Ma, Phạm, Sa môn, Bà-la-môn và tất cả thế gian, đã trừ hết phiền não, tâm được giải thoát và chứng được Vô thượng Bồ đề". Sau khi Phật nói pháp này xong, cụ thọ Kiều trần như ngay nơi chỗ ngồi được xa lìa trần cấu, chứng pháp nhãn thanh tịnh; tám vạn chư thiên ở trong pháp hội này cũng được pháp nhãn. Lúc đó Phật hỏi Kiều trần như: "thầy đã hiểu rõ pháp này rồi phải không?", đáp là đã hiểu rõ, Phật lại hỏi: "thầy đã hiểu rõ pháp này rồi phải không?", đáp: "Thiện thệ, con đã hiểu rõ", Phật nói: "cụ thọ Kiều trần như đã kiến chứng pháp đầy đủ, do nghĩa này từ nay gọi thầy là A nhã Kiều trần như". Sau khi nghe được pháp này, các Địa hành dược xoa đồng thanh nói: "các nhơn giả nên biết, trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư, Thế tôn đã thuyết giảng bốn đế lý này gồm có ba lần chuyển pháp luân với mười hai hành tướng; không phải là pháp mà các Sa môn, Bà-la-môn, trời người, Ma,

Phạm… có thể chuyển được. Phật nói pháp này khiến cho nhiều người được lợi ích, nhiều người được an lạc. Do nghĩa này thiên chúng tăng thêm, chúng A-tu-la giảm bớt", các Không hành dược xoa cho đến cõi trời Tứ thiên vương… Lục dục thiên, Phạm thiên đều nghe rõ lời tuyên cáo này, vì vậy kinh này được gọi là kinh Tam chuyển pháp luân. Năm Bí-sô và chư thiên nghe Phật thuyết giảng xong đều hoan hỉ phụng hành, lúc đó năm Bí-sô vẫn gọi Như lai bằng tên hoặc tộc họ hoặc là cụ thọ, Thế tôn liền nói: "các thầy đừng gọi Như lai bằng tên hay tộc họ hoặc là cụ thọ, vì sao, vì Bí-sô nào gọi Như lai bằng tên hay tộc họ hay là cụ thọ thì sẽ mất lợi lớn, sanh ra nơi nào đều chịu khổ não lâu dài, từ nay các thầy không nên gọi Như lai bằng tên…. Ai gọi như thế thì phạm tội Việt pháp". Sau đó có Bí-sô trẻ tuổi, trừ Phật ra còn đối với các Bí-sô kỳ túc khác đều gọi bằng tên…; các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô trẻ tuổi cũng không được gọi các vị kỳ túc bằng tên… hay là cụ thọ. Có hai cách gọi là Đại đức hay cụ thọ, Bí-sô trẻ gọi các Bí-sô kỳ túc là Đại đức, Bí-sô kỳ túc gọi Bí-sô trẻ là cụ thọ. Ai không gọi đúng như vậy thì phạm tội Việt pháp".

Lúc đó Phật ở giữa hai cây Sa la (Sa la song thọ) thuộc vùng đất Tráng sĩ, thành Câu-thi-na, sắp nhập Niết-bàn. Phật bảo các Bí-sô: "ta đã tuyên thuyết rộng tàng Tỳ-nại-da cho các thầy nhưng chưa nói tóm lược, các thầy nên lắng nghe và ghi nhớ kỹ. Này các Bí-sô, nếu khi có việc mà từ trước đến nay ta chưa chế ngăn, chưa khai cho làm; đối với việc này cho dù trái với không thanh tịnh, nhưng thuận theo thanh tịnh thì tức là thanh tịnh, các thầy nên làm; nếu việc này trái với thanh tịnh, thuận theo không thanh tịnh thì tức là không thanh tịnh, các thầy không nên làm. Điều này các thầy nên phụng trì, chớ sanh nghi hoặc".

4. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

Vật Xả đọa không chia,
Mùng ngăn muỗi được chứa,
Cây chụm ba, làm nồi,
Nên trương Yết-sỉ-na.

Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bí-sô chứa y dư phạm Xả đọa, đem y này đến trước Thượng tòa xả, vị tri sự thấy y này rồi liền suy nghĩ: "hôm nay Tăng già được nhiều lợi vật, nên bán ra để phân chia", nghĩ rồi liền ở trong Tăng rao bán rồi cùng phân chia khiến cho Bí-sô kia bị thiếu y, bạch Phật, Phật nói: "do đem y phạm Xả đọa xả cho Tăng nên có lỗi này, từ nay không nên đem y phạm Xả đọa xả cho Tăng, nên xả cho cá nhân. Nếu người nào không biết đem xả cho Tăng thì Tăng cũng không nên phân chia, ai đem y dư xả cho Tăng và Tăng liền phân chia thì cả hai đều phạm tội Việt pháp". Sau đó có Bí-sô đem y phạm Xả đọa xả cho người không hiểu biết pháp, người này thọ rồi im lặng cất giữ không hoàn lại cho Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nên nhờ người khác đến bảo người không hiểu biết pháp này hoàn lại y, nếu hoàn lại y thì tốt, nếu không chịu hoàn lại thì nên cưỡng đoạt lấy lại, vì y xả này chỉ là tác pháp, không phải cho luôn. Bí-sô khi muốn xả y nên tìm người hiểu biết pháp mà xả".

Duyên khởi tại thành Quảng nghiêm, lúc đó các Bí-sô bị muỗi cắn, dùng móng tay gãi chỗ bị cắn nên toàn thân bị rướm máu. Người tục thấy liền hỏi rõ nguyên do rồi nói: "Thánh giả không có mùng ngăn muỗi hay sao", Bí-sô nói Phật chưa cho, họ nói: "Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "các Bí-sô nên cất chứa mùng ngăn muỗi". Bí-sô không biết may mùng như thế nào, Phật nói: "chu vi mười hai khuỷu tay, trên làm nóc, nóc mùng dài bốn khuỷu tay, rộng hai khuỷu tay, may mùng cao thấp tùy theo thân người", lúc đó Bí-sô may hết rồi lấy giáp mí làm cửa mùng nên muỗi bay vào được, Phật nói: "không nên may hết, nên chừa lại một ít xếp lên nhau để làm cửa mùng, trời nóng dùng quạt, nếu dưới mé mùng có muỗi bay vào thì nên nhét dưới chiếu hay dùng vật khác chận lại để muỗi không bay vào được". Duyên xứ như trên, như Phật đã dạy dùng nước phải lượt, lúc đó các Bí-sô dùng tay cầm đãy lượt lâu nên mỏi mệt, Phật bảo nên cột trên đầu gậy rồi mở đãy lượt nước ra để lấy nước. Bí-sô làm như thế vẫn mỏi mệt, Phật bảo nên chụm ba cây vào nhau rồi dùng dây cột lai; Bí-sô dùng dây cột nhưng cây chụm ba không đứng vững, Phật nói: "gần đầu gậy nên khoan ba lỗ rồi xỏ dây vào cột chặt lại, hoặc ở trên ba cây dùng khoen sắt cột lại". Khi rót nước lượt, nước chảy tràn ra ngoài, Phật bảo nên chú ý rót nước lượt chớ để chảy tràn ra ngoài. Đáy của bình nước lượt không kê nên nghiêng đổ, Phật bảo nên kê; khi rót nước lượt, nước chảy quá nhanh nên trùng trong lưới lượt ngất ngư, Phật bảo nên lót vật trong lưới lượt; Bí-sô không hiểu, Phật bảo nên dùng cát lót trong lưới lượt. Lúc đó không có chậu chứa nước lượt, Phật bảo nên làm chậu, Bí-sô không biết làm chậu bằng vật gì, Phật bảo làm bằng đồng hay bằng gốm sứ. Bí-sô dùng tay giữ chậu nên mỏi mệt, Phật nói: "không nên giữ bằng tay, nên khoét ba lỗ trên thành chậu, dùng dây cột vào cây cháng ba cho chắc rồi đưa một góc lưới vào trong chậu để lượt, nếu lưới lượt quá dày nước không xuống được thì nên dùng cây trơn gõ nhẹ ngoài lưới". Bình lượt không đầy nước, Bí-sô nhìn vào không thấy được trùng, Phật bảo: "nên lượt nước đầy bình đợi nước đứng yên rồi mới xem trùng". Trên mặt nước có bụi nên xem trùng không thấy, Phật nói: "vớt bụi đi rồi xem, nếu là trùng nhỏ nên dùng đầu ngón tay chỉ cho người khác thấy", trùng nhỏ chạy nhanh nên thấy không rõ, Phật nói: "nên dùng cọng tranh hay cỏ để chỉ". Khi lượt được trùng trong lưới, Bí-sô úp lưới trên miệng giếng, tuy trùng có rơi xuống nước nhưng phần nhiều bị ngất ngư hay chết, Phật nói: "nên làm chậu phóng sanh, đổ nước vào trong chậu", Bí-sô liền đổ nước vào chậu rồi thả trùng ra nhưng trùng vẫn như cũ, Phật nói: "nên đem chậu chứa trùng này đến mặt nước đổ xuống hết để dẫn trùng ra". Lúc đó Bí-sô không hiểu nên làm nhiều chậu phóng sanh, khi không tìm được chậu, Phật nói: "nên cột dây vào đãy lượt nước, phương tiện thả xuống nước cho trùng đi ra rồi kéo đãy lượt nước lên". Các Bồ đề dùng đãy lượt nước rồi không thường giặt rửa, không để khô, không hong phơi, không lật trở nên đãy lượt mau hư; Phật nói: "dùng xong nên giặt rửa, ai không làm thế thì phạm tội Việt pháp". Lại có Bí-sô lượt nước cho đại chúng, vì chúng quá đông nên người lượt nước mỏi mệt, Phật nói: "nếu chúng đông, lượt nước chậm không cung cấp kịp thì nên làm nồi lượt nước", Bí-sô không biết làm thế nào, Phật nói: "nên làm bằng đồng, sắt hay gốm; dưới đáy có lỗ bằng cái chén nhỏ, làm theo hình gương sen cao chừng bốn ngón tay, bên trên xoi nhiều lỗ bằng đầu chiếc đũa rồi phủ vải hay lụa lên, dùng dây cột chặt rồi để vào trong nồi để lượt nước, lượt xong nên giặt sách tấm vải hay lụa đó".

Lúc đó các Bí-sô đem rận rệp và các loại trùng bỏ ngoài đất trống khiến chúng ngất ngư, bạch Phật, Phật nói: "đối với sinh vật không nên đem bỏ ngoài đất trống, cũng không nên vất bừa bãi. Rận thì bỏ trong vải cũ hoặc trong bọng cây; rệp thì bỏ trong cỏ xanh hoặc ở nơi mát mẻ, các loại trùng khác thì bỏ ở nơi thích hợp". Cụ thọ Ưu-baly bạch Phật: "nước đã lượt rồi chưa xem thì có được uống không?", đáp là không được vì không có xem, lại hỏi: "nước không lượt nhưng có xem thì có được uống hay không?", đáp là được vì có xem.

Duyên xứ như trên, như Phật đã dạy an cư xong nên trương y Yết-sỉ-na, vua Thắng quang nghe việc này liền gửi y Yết-sỉ-na cúng đại chúng; phu nhân Thắng man, phu nhân Hành vũ và trưởng giả Cấp-cô-độc cùng các cư sĩ tín tâm gửi rất nhiều y đến cúng. Các Bí-sô chỉ lấy một cái làm y Yết-sỉ-na, số còn dư đem trả lại cho chủ, vua nói: "Thánh giả, những y này chúng tôi cúng cho Tăng, vì sao đem trả lại", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "từ nay các Bí-sô được thọ y này, nếu nhiều y nên sai nhiều người, người nào làm trương y thì nên lấy một y để tác pháp thọ giữ, số còn lại nên cất giữ để làm lợi vật an cư cho Tăng".

5. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

Khi chết dặn trao riêng,
Người ký gửi đã chết,
Phương khác thông ký gửi,
Nếu chết đối người khác.

Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một trưởng giả sống trong thành với ba người con, người con út xuất gia trong Phật pháp và đang du hành trong nhân gian. Người cha mắc bịnh nặng, lúc sắp qua đời ông gọi hết thân thuộc lại và bảo hai người con gom hết tài sản trong nhà lại rồi chia làm ba phần: hai phần cho hai người con tại gia, phần kia cho người con xuất gia. Dặn trao như vậy rồi qua đời, như bài kệ tụng:

"Tích tụ đều tiêu tán,
Cao ngất ắt rơi rớt,
Hội họp ắt biệt ly,
Có mạng đều phải chết".

Hai người con làm lễ hỏa táng cha như pháp, lúc đó người con xuất gia nghe tin cha qua đời liền suy nghĩ: "ta có anh em, nên trở về thuyết pháp cho họ", nghĩ rồi liền trở về nhà, anh em gặp nhau buồn khóc, người anh nói: "em không nên buồn khóc, trước khi cha qua đời có dặn trao một phần tài sản cho em", người em suy nghĩ: "như Phật đã dạy, người cho sau khi chết thì không gọi là thiện, không được nhận vật ấy", bạch Phật, Phật nói: "người đời chết có tâm hy vọng còn Bí-sô qua đời thì không có tâm hy vọng. Đây là tâm hy vọng của người đời thì nhận không có lỗi, được tùy ý thọ dụng".

Duyên xứ như trên, có một Bí-sô bịnh nói với Bí-sô khác: "thầy hãy chăm sóc tôi tử tế, y bát của tôi sẽ để lại cho thầy", Bí-sô kia nghe rồi liền tận tình chăm sóc, không bao lâu sau thì Bí-sô bịnh qua đời, Bí-sô mang y bát của người chết về phòng mình. Sau đó các Bí-sô nhóm họp lại hỏi y bát của người chết, Bí-sô kia nói: "vị ấy đã cho tôi", liền kể lại việc trên, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "người kia ngu si, vì sao không cho khi còn sống lại chờ chết mới cho. Không có pháp nói rằng chết rồi mới cho, nên lấy lại, Tăng nên chia".

Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô đối trước Bí-sô khác tác pháp phân biệt y vật (tác pháp tịnh thí), sau đó bỗng nhiên qua đời, Bí-sô kia liền mang y vật của người chết về phòng mình. Sau khi làm lễ hỏa táng xong trở về, vị tri sự vào phòng của người chết chỉ tìm thấy bát và đãy lượt nước bèn mang tới trước chúng tăng, các Bí-sô hỏi: "chỉ đem đến vật này, còn những vật khác vì sao không mang đến?", đáp là không tìm thấy vật khác. Có một Bí-sô nói: "nên hỏi Bí-sô bạn của người chết liền biết còn có vật khác hay không?", liền kêu Bí-sô kia đến hỏi, đáp: "Bí-sô ấy đối trước tôi phân biệt nên tôi đã lấy các y vật ấy", các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "đây chỉ là tác pháp không phải thật cho, nên lấy lại, Tăng nên chia".

Duyên xứ như trên, lại có Bí-sô đối trước Bí-sô khác tác pháp phân biệt, Bí-sô kia bỗng qua đời, Bí-sô này liền đem y vật này xả cho Tăng, Tăng hỏi là vật của ai, đáp: "đây là y vật của tôi, tôi đã đối trước Bí-sô kia phân biệt, nay vị ấy qua đời nên tôi đem xả cho Tăng", bạch Phật, Phật nói: "đây chỉ là tác pháp, tuy đối trước người kia phân biệt nhưng y vật không thuộc của họ, hãy tự mang về thọ dụng".

Duyên xứ như trên, lại có Bí-sô đối trước Bí-sô khác tác pháp phân biệt, Bí-sô kia bỗng hoàn tục, sau đó suy nghĩ: "Bí-sô đã đối trước ta tác pháp phân biệt, nay ta hoàn tục nhưng y vật đó thuộc về ta, ta nên đến đòi", nghĩ rồi liền đến nói chỗ Bí-sô nói rằng: "trước kia thầy đã đối trước tôi phân biệt, y vật đó thuộc về tôi, hãy đưa lại cho tôi", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "do Bí-sô đối trước Bí-sô khác xem là người ký gởi để tác pháp phân biệt nên có lỗi này, từ nay Bí-sô không nên đối trước người ký gởi để tác pháp phân biệt, ai làm như thế thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lại có Bí-sô đối trước Bí-sô khác phân biệt y vật, Bí-sô kia vốn là người thường ưa tranh cãi, xúc não các Bí-sô. Sau vì sân hận nên muốn bỏ đi nơi khác, Bí-sô này liền yêu cầu Bí-sô kia đừng đi nhưng Bí-sô kia không chịu ở lại. Các Bí-sô nói: "thầy chớ giữ lại, vị ấy là người ưa tranh cãi xúc não các Bí-sô", Bí-sô này nói: "vì tôi đã đối trước vị ấy phân biệt y vật nên tôi phải giữ lại, nếu vị ấy đi nơi khác thì tôi không còn người đối phân biệt nữa", bạch Phật, Phật nói: "nếu Bí-sô là người ký gửi đang ở nơi khác, Bí-sô này chỉ cần ở nơi đây chỉ về nơi đó để ký gửi thì cũng không có lỗi". Sau đó lại có Bí-sô chỉ Bí-sô khác ở một nơi rất xa làm người ký gửi, người đó bỗng qua đời, khi Bí-sô này nghe được tin thì đã trải qua nhiều ngày, không biết làm sao nên bạch Phật, Phật nói: "khi vừa mới nghe tin chết thì những vật cũ hay mới đều nên ký gửi lại cho người khác".

6. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

Ngoài giới không gởi dục,
Không gởi dục cho nhau,
Thuyết giới và Tùy ý,
Ai làm trái đều phạm.

Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô ở ngoài giới cũng gởi dục cho người trong giới, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "người ở ngoài giới không được gởi dục cho người trong giới". Lúc đó có Bí-sô sắp ra khỏi giới, Tăng già có việc, Lục chúng Bí-sô bắt vị này phải gởi dục, Phật nói: "người sắp ra khỏi giới thì không cần gởi dục". Sau đó Lục chúng Bí-sô ở ngoài giới gởi dục cho nhau, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "không được ở ngoài giới gởi dục cho nhau, ai làm như thế thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, như Phật đã dạy nửa tháng nên thuyết giới, lúc đó Lục chúng Bí-sô ở ngoài giới gởi dục thanh tịnh, Phật nói không được. Sau đó lại lấy dục của người sắp ra khỏi giới. Cho đến ở ngoài giới lần lượt gởi dục thanh tịnh cho nhau như trên, Phật nói đều không được, ai làm như thế thì phạm tội Việt pháp.

Duyên xứ như trên, như Phật đã dạy sau khi an cư, các Bí-sô nên đem ba việc thấy nghe nghi để tác pháp Tùy ý. Lúc đó Lục chúng Bí-sô ở ngoài giới tác pháp tùy ý… giống như trường hợp trên, Phật nói đều không được làm.

7. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

Phải nên biết số người,
Cho đến phát thẻ đếm,
Không ngồi chung người tục,
Già trẻ theo tuổi hạ.

Duyên xứ như trên, lúc đó trong thành có một Bà-la-môn nhân có việc ra ngoài ghé vào trong rừng Thệ đa, bỗng có ý nghĩ muốn biết trong chùa có bao nhiêu vị, liền hỏi một Bí-sô, Bí-sô này nói là không biết, Bà-la-môn nói: "số binh lính của vua Thắng quang còn biết được, vì sao lại không biết Tăng số trong chùa?", Bí-sô im lặng rồi bạch Phật, Phật nói nên biết nhân số. Bí-sô đếm từng người, có lúc tính bằng đốt tay nhưng không nhớ hết, bạch Phật, Phật nói nên phát thẻ đếm, đếm được tổng số nên nói cho chúng biết. Bí-sô không biết nên đếm nhân số vào lúc nào, Phật nói nên đếm nhân số vào lúc an cư. Sau đó có một trưởng giả vào trong rừng Thệ đa thấy các Bí-sô siêng năng đọc tụng, chánh niệm tịch tĩnh nên sanh tín tâm, muốn biết Tăng số để thiết thực cúng dường nên hỏi một Bí-sô, vị này đáp số người xong, trưởng giả liền về nhà bảo gia nhân: "sáng mai ta muốn thỉnh Phật và Tăng đến nhà cúng dường với nhân số là---, các ngươi nên lo liệu thức ăn cho đầy đủ". Sau đó vào giờ đại chúng vân tập, trưởng giả đến chỗ vị tri sự thỉnh: "con là trưởng giả __________ xin thỉnh Phật và Tăng ngày mai đến nhà con thọ thực", thỉnh rồi ra về, trưởng giả về không lâu thì có nhiều Bí-sô khác đến trong vườn Cấp. Ngay trong đêm đó trưởng giả lo liệu đầy đủ các món ăn thơm ngon, trải tòa, để bình nước, tăm xỉa răng…, sáng hôm sau sai người đến bạch thời đáo (đã đến giờ thọ thực). Các Bí-sô đắp y mang bát đi đến nhà trưởng giả, lúc đó Phật ở lại trong chùa bảo người nhận phần thức ăn mang về, có năm nhân duyên Phật ở lại chùa và bảo người nhận lấy phần thức ăn mang về: một là muốn yên tĩnh, xa lìa ồn ào; hai là muốn thuyết pháp yếu cho chư thiên; ba là muốn thăm nom người bịnh; bốn là muốn xem xét ngọa cụ; năm là muốn chế học xứ cho các đệ tử. Trường hợp này Phật muốn chế học xứ. Lúc đó trưởng giả thấy số Tăng đến nhà thọ thực nhiều hơn số Tăng đã báo trước, liền nói với vị Điển tòa: "tôi chuẩn bị thức ăn theo số người đã báo trước, nay đến nhiều hơn, biết làm sao đây",

Điển tòa nói: "có khách mới đến, ông nên vui mừng", trưởng giả nói: "nếu được báo trước thì tôi mới lo liệu đủ thức ăn", Điển tòa im lặng. Do số người đến nhiều hơn nên thức ăn không đủ, có người được no, có người bị đói, bạch Phật, Phật nói: "điển tòa nên xem số khách tăng là bao nhiêu để báo cho thí chủ biết". Lại có Bí-sô đến ngay trong giờ ngọ, Phật nói: "cũng phải báo cho thí chủ biết, nay ta sẽ nói hành pháp cho Thượng tòa thủ chúng: Thượng tòa nên xem xét số người và số thức ăn, nếu người nhiều mà thức ăn ít thì nên bảo thí chủ dọn đưa cho đồng đều; nếu thức ăn nhiều, người ít thì nên bảo thí chủ tùy ý dọn đưa. Nếu Thượng tòa không khéo xem xét, không y theo hành pháp này thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô ngồi chung một tòa ngồi với người tục, người kính tin thấy liền chê trách: "Thánh giả là người xuất gia thường tu phạm hạnh, vì sao lại ngồi chung tòa với kẻ thường làm việc dâm dục bất tịnh?", Lục chúng Bí-sô im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "người có tín tâm đó nói rất đúng, từ nay các Bí-sô không nên ngồi chúng tòa với người tục, ai ngồi thì phạm tội Việt pháp". Sau đó lại có Bí-sô ngồi chung tòa với Cầu tịch, người có tín tâm nói: "Đại đức đã thọ Cận viên sao lại ngồi chung với Cầu tịch", đáp: "đây không phải là người tục, ngồi chung với người xuất gia thì có lỗi gì", người kia im lặng, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "cũng không nên ngồi chung với người chưa thọ Cận viên". Sau đó lại có Bí-sô già ngồi chung với Bí-sô trẻ hoặc vị trẻ ngồi chung với vị già, do đây không kính trọng nhau, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "già trẻ không nên ngồi lẫn lộn, người không tuổi hạ được ngồi chung với người một hạ, người một hạ được ngồi chung với người hai hạ, người hai hạ trở đi được ngồi chung với người ba hạ". Thời gian sau, do Phật chế như vậy nên các Bí-sô ở trong nhà thế tục khó tìm được chỗ ngồi, Phật nói: "nếu trong nhà thế tục khó tìm được chỗ ngồi chung thì có thể ngồi chung với Thân giáo sư hay Quỹ phạm sư, dùng vật ngăn ở giữa, chớ có nghi hoặc".

8. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

Không nên ngồi ghế nệm,
Không dụ Cầu tịch khác,
Không nói lời thề thốt,
Không ăn thịt hổ ăn.

Duyên xứ như trên, khi nghe pháp nên trải tòa ngồi, có Cầu tịch ngồi trên ghế nệm êm nên ngủ gật, lại tiểu tiện trong quần làm dơ ghế nệm. Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "Cầu tịch không được ngồi ghế nệm".

Sau đó có Cầu tịch Chuẩn đà là đệ tử của tôn giả Xá-lợi-phất đến nghe pháp, Bí-sô cho ngồi tòa thô cứng, Cầu tịch hỏi vì sao, đáp là Phật không cho Cầu tịch ngồi ghế nệm, Chuẩn đà nói: "Đại đức há xem tôi đồng với người có lỗi hay sao?", Phật nói: "nếu Cầu tịch có dụng tâm (chánh niệm) thì nên cho ngồi ghế nệm, người khác thì không được".

Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô trách mắng Cầu tịch rồi đuổi ra trước cửa rừng Thệ đa nên đứng khóc, Ô-ba-nan-đà thấy liền hỏi nguyên do rồi nói với Cầu tịch: "hãy đến chỗ ta, ta sẽ cho con y bát, dây mang bát, dây lưng… những vật cần dùng không để thiếu thốn", nói rồi dẫn Cầu tịch về phòng mình. Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "khi trách mắng đệ tử, không nên nhất quyết đuổi đi, hãy làm như thả dây cương. Nên gìn tâm niệm thân ái, khi họ hồi tâm thì nên thu nhiếp; nên nhờ Bí-sô đến khai giải Cầu tịch", khi Bí-sô đến khai giải, Cầu tịch nói: "con không cần vị Thân giáo sư ấy nữa, bây giờ con cần điều gì, Đại đức Ô-ba-nan-đà đều cung cấp cho con, con không muốn trở lại chỗ thầy cũ nữa", vị Thân giáo sư nghe lời này rồi liền chê trách: "đệ tử mà ta cho xuất gia, Ô-ba-nan-đà lại dụ dỗ dẫn đi". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô không được dụ dỗ đệ tử của người khác, ai dụ dỗ dẫn theo mình thì phạm Tốt-thổ-la để, vì là phương tiện phá Tăng".

Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô hễ gặp việc gì đều đem Phật pháp tăng ra để thề thốt, hoặc đem Thân giáo sư, Quỹ phạm sư ra thề thốt. Người kính tin nghe rồi liền chê trách: "người tục chúng tôi còn không đem Phật và thầy của mình ra để thề thốt, các thầy là người xuất gia vì sao lại đem Phật và thầy của mình ra thề thốt, điều này không nên", Lục chúng Bí-sô im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "người ấy chê trách rất đúng vì người xuất gia vốn nói lời chân thật, không nên thề thốt. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô hễ gặp việc gì liền đem y bát, dây lưng… của mình ra cá cược. Người tục thấy vậy liền chê trách: "các thầy há lại đồng như người thế tục hay sao, hễ gặp việc liền đem y bát ra cá cược là không hợp lý", đáp: "có gì là không hợp lý, có phải tôi ăn hành tỏi hay uống rượu đâu", người kia im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "người ấy chê trách rất đúng, Bí-sô không nên đem y vật ra cá cược, ai làm thế thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, thường pháp của Lục chúng Bí-sô là mỗi sáng sớm lên lầu gác nhìn ra phía đồng ruộng, hôm đó khi nhìn ra đồng ruộng liền thấy có chim bay đáp xuống liền cùng nhau đến xem thử thì thấy có thịt dư của hổ ăn để lại. Họ vui mừng mang về trong rừng Thệ đa, cọp kia nghe theo mùi đi đến trước cổng chùa, ban đêm kêu rống vang dậy. Phật nghe rồi tuy biết nhưng vẫn hỏi A-nan nguyên do, A-nan đem việc trên bạch Phật, Phật hỏi: "Bí-sô ăn thịt dư của hổ hay sao?", đáp phải, Phật nói: "này A-nan, như Sư tử vương giết nai xong, ăn thịt uống máu no rồi quyết vất bỏ mà đi; nhưng loại hổ sau khi ăn no vẫn đem giấu phần thịt dư. Vì thế các Bí-sô không nên ăn thịt dư của hổ, ai ăn thì phạm tội Việt pháp. Nay ta sẽ chế hành pháp cho Thượng tòa thủ chúng như sau: khi Thượng tòa thấy dọn thịt lên phải hỏi đây là thịt gì, không phải là thịt dư của hổ phải không, không phải là loại thịt không nên ăn phải không.

Nếu không hỏi mà thọ ăn thì phạm tội Việt pháp".

9. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

Không cho tự ẩn nấp,
Vì không nói bạch chúng…
Nếu được giạ thượng hạng,
Đem bán rồi cùng chia.

Duyên xứ như trên, có một chùa Tăng trong thành kia, Nan đà và Ô-ba-nan-đà nhân du hành trong nhân gian ghé vào chùa này. Lúc đó chúng tăng được nhiều lợi vật muốn chia, tuy thấy hai người đến nhưng vì biết họ có hạnh xấu nên không ai mời giải lao. Ô-ba-nan-đà nói với Nan đà:

"nhóm Hắc bát này thương sanh ngạo mạn, chúng ta nên xúc não họ; hãy nấp vào một nơi xem họ phân chia lợi vật như thế nào", Nan đà đồng ý liền cùng ẩn nấp để xem họ phân chia, sau khi thấy chia xong, họ bước ra nói: "chia như vậy là bất thiện, các vị nên bạch chúng nói là muốn chia y", các Bí-sô nói: "khi chia không thấy, bây giờ ở đâu lại hiện ra", bạch Phật, Phật nói: "muốn chia lợi vật, trước phải bạch chúng nói là tăng nay có lợi vật muốn cùng chia, Bí-sô có mặt không nên bỏ đi". Các Bí-sô thu hồi lại vật đã chia rồi bạch chúng là sau giờ ăn sẽ chia lợi vật, hai người cũng ẩn nấp đợi chia xong mới bước ra nói là không thành chia, các Bí-sô nói: "trước nói là phải bạch chúng, bây giờ lại nói là không thành chia", họ nói: "tuy có bạch chúng nhưng phải đánh kiền chùy", bạch Phật, Phật nói: "bạch chúng rồi đánh kiền chùy mới chia vật". Các Bí-sô lại thu hồi vật đã chia, bạch chúng rồi đánh kiền chùy mới chia vật, hai người lại ẩn nấp như trước đợi chia xong mới bước ra chê trách, các Bí-sô nói: "hai vị há không nghe bạch chúng và đánh kiền chùy hay sao?", đáp: "tuy có bạch chúng và ánh kiền chùy nhưng không có phát thẻ đếm", bạch Phật, Phật nói: "bạch chúng, đánh kiền chùy rồi nên phát thẻ mới chia vật". Các Bí-sô lại thu hồi vật đã chia và làm ba việc như trên, hai người cũng ẩn nấp đợi chia xong mới bước ra chê trách như trước, các Bí-sô nói: "các vị cớ sao lại xúc não chúng tăng, đã bạch chúng, đánh kiền chùy và phát thẻ, các vị vẫn không hiện diện, đợi chia xong mới bước ra", đáp: "vì sao lại nói là chúng tôi xúc não Tăng, các vị có đối trước Tăng làm làm không, chúng tôi nay không cần nữa", bạch Phật, Phật nói: "tuy đã làm ba việc trên nhưng vẫn phải làm trước chúng, ai không hiện diện thì không nên chia cho họ, đây gọi là thiện phân chia, không nên nghi hoặc. Bí-sô cũng không nên xúc não Tăng, ai cố ý xúc não thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, trưởng giả Cấp-cô-độc sau khi xây tinh xa cúng cho Phật và Tăng xong liền dùng đủ loại màu sắc thượng diệu tô vẽ bên trong và bên ngoài chùa. Dân chúng trong thành nghe trưởng giả đã tô vẽ xong liền kéo nhau đến chiêm ngưỡng, có đến vô lượng trăm ngàn người tập họp trong chùa. Lúc đó trong thành có một Bà-la-môn cho là thắng nhân được mọi người tôn kính, ông được một tấm giạ thượng hạng từ vị đại vương gia liền khoác mặc với tâm vui thích. Khi vào trong rừng Thệ đa, ông phát tâm hy hữu đem tấm giạ này cúng cho Tứ phương tăng (ý chỉ cho Hiện tiền tăng), như Phật đã dạy, nếu được y vật nên cắt nhỏ đồng chia đều; lúc đó Tăng đem cắt nhỏ ra để chia đồng đều. Đêm đến, Bà-la-môn suy nghĩ: "đó là tấm giạ thượng hạng, ta nên tính theo giá chuộc lại mang về", sáng hôm sau liền vào chùa, thấy các Bí-sô liền hỏi: "tấm giạ tôi cúng hôm qua, các thầy dùng làm gì?", đáp: "nhân giả nên tùy hỉ, chúng tôi đã cắt ra chia đồng đều cho Tăng", một Bí-sô nói: "tôi dùng làm mão đội đầu", một người nói tôi dùng làm dép, một người nói tôi dùng làm dây lưng, một người nói tôi dùng làm khăn lau bát. Bà-la-môn nghe rồi liền nói: "các Thánh giả, đó là tấm giạ thượng hạng, vì sao lại cắt phá ra như thế, nên đem bán lấy tiền rồi cùng chia cho Tăng", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "Bà-la-môn ấy nói rất đúng, nếu là giạ thượng hạng nên bán lấy tiền rồi cùng chia".

10. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ năm:

Không dùng năm loại da,
Các loại khác cũng vậy.
Nếu như bị bịnh trĩ,
Được dùng loại da gấu.

Duyên xứ như trên, lúc đó Lục chúng Bí-sô nói với nhau: "những người đã sống trong thành này, chúng ta đến xin đều được cho tiền bánh trái, chỉ riêng có người điều phục voi của vua là chưa cho bao giờ. Nay hãy đến xin thử", một người nói: "nên đến như trước phải tính kế, hãy lấy da sư tử làm giày rồi ở chỗ cột voi đứng trên hướng gió, voi nghe mùi này sẽ rất kinh sợ", một người nói: "kế hay, chúng ta hãy đến xin thử, nếu cho thì tốt, nếu không cho thì khủng bố voi cũng chưa muộn". Sáng hôm sau họ đến nhà người điều phục voi nói rằng: "Hiền thủ, vì sao ông không có tâm cầu phước báo, từ trước đến nay ông chưa hề cho chúng tôi tiền bánh trái", đáp: "tôi há lệ thuộc các Thánh giả hay sao mà phải cung cấp tiền bánh trái", Lục chúng Bí-sô nghe rồi gật đầu bỏ đi. Vào một ngày khác họ mang giày da sư tử đứng trên hướng gió ở chỗ cột voi, bầy voi nghe mùi sư tử đều kinh sợ nhốn nháo cả lên, vãi cả đại tiểu; người điều phục voi dùng móc sắt kéo lại vẫn không làm cho chúng đứng yên. Lúc đó Lục chúng Bí-sô từ xa bảo người điều phục voi: "hãy mau kéo chúng lại", đáp: "tôi dùng móc sắt vẫn không kéo giữ lại được", Lục chúng Bí-sô nói: "chúng tôi có thể làm cho chúng đứng yên lại", người điều phục voi nói: "nếu các Thánh giả làm cho chúng đứng yên thì thật là ân lớn", Lục chúng Bí-sô nói: "hãy cam kết với chúng tôi là nếu chúng tôi làm cho chúng đứng yên thì phải cho chúng tôi tiền bánh trái", đáp là sẽ cho, Lục chúng Bí-sô liền đi xuống phía dưới gió, voi không nghe mùi sư tử nữa nên đều đứng yên. Người điều voi thấy rồi liền hỏi: "các Thánh giả biết chú thuật phải không?", đáp là không có, lại hỏi: "vì sao có thể làm cho voi không kinh sợ nữa?", Lục chúng Bí-sô nói cho người điều phục voi biết sự thật, người điều phục voi nói: "vì sao các Thánh giả lại làm việc phi pháp không lợi ích như thế, nếu voi lớn uy dũng của voi vì kinh sợ mà bỏ chạy vào rừng thì các vị chắc chắn sẽ bị phạt tội nặng", Lục chúng Bí-sô nghe rồi liền mỉm cười không đáp. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "do Bí-sô mang giày bằng da sư tử nên có lỗi này, từ nay Bí-sô không được mang giày bằng da sư tử, ai mang thì phạm tội Việt pháp", sau đó Lục chúng Bí-sô lại mang giày bằng da hổ, Phật nói: "cũng không được, da của năm loại thú có nanh vuốt đều không được dùng, đó là voi có trí, ngựa có trí, sư tử, cọp và beo". Lúc đó cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: "nếu da của các loại thú có nanh vuốt khác thì có được dùng hay không?", Phật nói: "đều không nên dùng, ai dùng thì phạm Ác tác".

Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô bịnh trĩ đến thầy thuốc yêu cầu điều trị, thầy thuốc nói: "nên mang giày bằng da gấu thì bịnh được lành", Bí-sô nói Phật chưa cho, thầy thuốc nói: "Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu bịnh thì được mang", Bí-sô làm giày nhiều lớp khó tìm được da gấu, Phật nói: "nếu tìm không được thì nên làm một lớp rồi dùng lông lót bên trong đế giày".

QUYỂN 20

VI. TỔNG NHIẾP TỤNG CỦA BIỆT MÔN THỨ SÁU:

Gân thú dữ không dùng,
Đăng quang và Dũng kiện,
Đà sa, pháp độ ni,
Nhân cho Kiều đáp di,
Ni không trước, trưởng giả,
Nên cho ngọa cụ khác,
Không cho vẩy nước dơ,
Tổng thứ sáu nên biết.

1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ sáu:

Gân thú dữ không dùng,
Có che trước, che sau,
Hai bên và mũi giày,
Các giày đều không cho.

Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, Phật đã chế Bí-sô không nên dùng da của năm loại thú có nanh vuốt đều không được dùng, đó là voi có trí, ngựa có trí, sư tử, cọp và beo. Lúc đó Lục chúng Bí-sô dùng gân của các loại thú trên làm giày có lỗi như trên, Phật nói không nên; họ lại dùng da để vá giày, Phật nói: "đều không nên, như vậy nên biết các loại giày dép có che trước, che sau, hai bên và mũi giày nhọn, giày gai, giày ủng đều không nên mang. Ai mang thì phạm tội Việt pháp, trừ giày da hai ba lớp".

Nhiếp tụng nội dung:

Bốn vương tử mới sanh,
Ánh sáng đều chiếu khắp,
Cha mẹ nhân việc này,
Đặt tên cho con mình.

Lúc đó Bồ-tát đang ở trên cõi trời Đổ-sử-đa, dưới thế gian có bốn đại vương: một là vua Đại liên hoa ở thành Vương xá dùng chánh pháp cai trị, đất nước phồn thịnh, dân chúng an vui không có trộm cắp... ; hai là vua Phạm thọ ở thành Thấtla-phiệt ; ba là vua Đại luân ở thành Xướng thệ ni; bốn là vua Bách quân ở thành Kiều-thiểm-tỳ. Cả bốn vị đều là pháp vương dùng chánh pháp cai trị... như trên. Lúc đó Bồ-tát ở trên thiên cung quán năm việc ở thế gian: một là quán về tổ tiên, hai là quán về thời tiết, ba là quán về quốc độ, bốn là quán về dòng họ gần, năm là quán người mẹ thân sanh. Sau khi chư thiên ở cõi trời Lục dục ba lần làm cho bụng bà mẹ thanh tịnh, phu nhân Ma da mộng thấy voi trắng sáu ngà giáng hạ vào bụng. Lúc đó đại địa liền chấn động đủ sáu cách và khắp thế giới đều được chiếu soi, cho đến nhưng nơi mà ánh sáng mặt trời mặt trăng không chiếu tới, cũng đều được chiếu soi đến khiến cho các hữu tình ở những nơi này đều được thấy nhau...

Lúc đó vua của bốn đại quốc đều sanh Thái tử, thấy ánh sáng màu vàng ròng chiếu soi, họ đều cho là do con trai của ta có oai thần, làm cho trời đất đều sáng rực lạ kỳ nên họ đặt tên cho họ dựa theo điềm lành này. Vua Đại liên hoa nói với mọi người: "khi con ta sanh ra có ánh sáng như bóng sáng của mặt trời, đất trời rực sáng lạ kỳ nên đặt tên cho con ta là Ảnh Thắng"; vua Phạm thọ nói với mọi người: "khi con ta sanh ra có ánh sáng thù thắng chiếu khắp thế gian, nên đặt tên cho con ta là Thắng quang"; vua Đại luân nói với mọi người: "khi con ta sanh ra có ánh sáng như ánh đèn lớn chiếu sáng khắp nơi, nên đặt tên cho con ta là Đăng quang"; vua Bách luân nói với mọi người: "khi con ta sanh ra có ánh sáng như mặt trời mọc chiếu sáng khắp nơi, nên đặt tên cho con ta là Xuất quang". Họ đều cho là do oai thần của con mình mà không biết đó là do oai lực của Bồ-tát.

Nhiếp tụng nội dung:

Trong bụng trời thủ hộ,
Sanh ra bước trên Sen,
Giơ tay xưng độc tôn,
Tắm rửa, hoa trời rơi.

Khi Bồ-tát giáng thần vào thai mẹ, Thích đề hoàn nhơn liền bảo thiên thần cõi trời Tứ thiên vương theo thủ hộ người mẹ, vì sợ người mẹ bị ác ma làm hại. Khi Bồ-tát thọ sanh, các chất nhơ uế trong thai mẹ không dính đến thân, giống như hạt châu Minh nguyệt được vật bao bọc không bị nhiễm ô. Thường pháp của Bồ-tát là khi ở trong thai, người mẹ thường thấy như người có mắt tuệ thấy vật báu được bao bọc bởi các chỉ sợi xanh vàng đỏ trắng, phân biệt rõ ràng. Thường pháp của Bồ-tát là khi ở trong thai, không làm cho người mẹ mệt mỏi mà luôn được an vui, tự nhiên người mẹ giữ năm học xứ: không sát sanh, trộm cắp… cho đến không còn khởi tham dục. Đủ mười tháng, người mẹ đi đến trong vườn Lâm tỳ ni, tay vịn cành cây Vô ưu, trong chốc lát liền đản sanh Bồtát từ hông bên phải. Lúc đó đại địa chấn động sáu cách… như lúc mới nhập thai; khi Bồ-tát đản sanh, vua trời Đế thích đưa tay đỡ lấy rồi đặt Bồ-tát lên hoa sen, Bồ-tát đứng không cần vịn đỡ rồi bước đi bảy bước trên hoa sen, nhìn khắp bốn phương, một tay chỉ lên, một tay chỉ xuống nói rằng: "đây là thân sau cùng của ta, trên trời dưới trời chỉ có ta là độc tôn". Lúc đó Phạm thiên vương cầm lọng, vua trời Đế thích cầm phất, Long vương trong hư không phun nước ấm và lạnh để tắm cho Bồ-tát. Khi vừa đản sanh, trước mặt người mẹ liền xuất hiện một dòng suối để người mẹ tùy ý thọ dụng; trên không trung chư thiên rải các loại hoa như hoa Ưu bát la, hoa Ba đầu ma, hoa Phân đà lợi… với các loại hương bột vi diệu; nhạc trời tự nhiên trỗi lên và thiên y từ không trung rơi xuống, lại có rất nhiều điềm lành kỳ diệu… Nhiếp tụng nội dung:

A-tư-đà xem tướng,
Na-thích-đà khuyên thầy,
Năm trăm điềm lành hiện,
Phu vương đặt ba tên.

Lúc đó trong núi lớn ở phương Nam có tiên nhân già tên là A-tư-đà biết rõ thời tiết thành hoại của thế gian, lại có một người tên là Na-thích-đà thông minh mẫn tuệ, thường đến gặp tiên nhân bàn luận về sự thành hoại của thế gian, nhân đó theo tiên nhân xuất gia. Một hôm đang ở cùng tiên nhân trong hang đá, Na-thích-đà bỗng thấy ánh sáng chiếu soi rực rỡ lạ kỳ, liền nói kệ hỏi thầy:

"Vì sao ánh sáng này,
Chiếu khắp như mặt trời,
Vì sao khắp núi rừng,
Bỗng hiện điềm lánh này?",

Tiên nhân đáp:

"Nếu ánh mặt trời thì nóng bức,
Còn ánh sáng này mát lạ kỳ.
Chắc là Vô thượng Mâu ni tôn,
Vừa xuất thai liền hiện điềm lành.
Đây là tướng Bồ-tát đản sanh,
Ánh sáng thanh tịnh thất kỳ diệu,
Khắp mười phương như ánh sắc vàng,
Chiếu sáng rực khắp cả ba cõi".

Na-thích-đà bạch thầy: "Ô-ba-đà-da, nếu vậy chúng ta cùng đến gặp Bồ-tát", tiên nhân nói: "Bồtát có đại oai đức, lại có thiên long bát bộ vây quanh, dù chúng ta có đến cũng không gặp được; hãy đợi khi Bồ-tát vào thành Kiếp-tỷ-la và được đặt ba tên, chúng ta đến mới được gặp".

Khi Bồ-tát đản sanh có năm trăm thị nam như Xiển đạc ca… cũng đồng thời sanh; năm trăm thị nữ như Xiển trĩ ca… cũng đồng thời sanh; voi, ngựa hay trong chuồng cũng đều sanh năm trăm con, năm trăm phục tàng báu đều tự hiển lộ ra, các quốc vương ở bốn phương đều hàng phục và đem đủ loại tạp vật đến cống hiến để phụng sự. Quần thần thấy các hiện tượng này rồi liền tâu cho vua biết, vua nghe rồi liền suy nghĩ: "con ta sanh ra, các việc đều thành tựu", do đây vua liền đặt tên cho Thái tử là Nhất thiết sự thành. Đây là tên đầu tiên của Bồ-tát. Khi Bồ-tát được chở trên xe báu với trăm ngàn tùy tùng đi vào thành Kiếp-tỷ-la, những người thuộc chủng tộc Thích ca tánh tình vốn thô tháo hung bạo, thường phân biệt ta người nhưng khi thấy Thái tử họ liền trở nên tịch tĩnh đứng yên; do việc này nên vua Tịnh-phạn đặt thêm tên là Thích ca Mâu ni. Đây là tên thứ hai của Bồtát. Trước nay trong thành Kiếp-tỷ-la có một Dược xoa tên là Thích ca tăng trưởng được người trong thành kính trọng lập miếu thờ. Những người thuộc chủng tộc Thích ca trong thành này nếu có sanh trai hay gái sau khi tắm rửa sạch, phải đưa đến miếu lễ bái Dược xoa này trước. Vì thế vua bảo đại thần đưa Thái tử đến lễ bái, đại thần vâng lịnh đặt Thái tử trên xe báu rồi đưa đến chỗ Dược xoa. Khi Thái tử được đưa đến miếu, Dược xoa này thấy Bồ-tát từ xa liền hiện thân, từ chỗ ngồi đứng dậy đến đảnh lễ Bồ-tát; mọi người thấy rồi hết sức kinh ngạc liền đem việc này tâu cho vua biết, vua nghe rồi hết sức vui mừng nói: "Thái tử của ta là bậc tôn thắng trong các thiên thần" nên đặt thêm tên cho Thái tử là Thiên trung thiên. Đây là tên thứ ba của Bồ-tát.

Nhiếp tụng nội dung:

Nhũ mẫu nuôi Thái tử,
Khiến xem tướng đại nhân,
A-tư-đà xa đến,
Xem hình tướng Mâu ni.

Phụ vương giao Thái tử cho các nhũ mẫu tùy thời tắm rửa, cho bú mớm, thường làm cho thân tâm Thái tử an ổn vui vẻ. Nhũ mẫu dùng hương thơm thượng diệu thoa thân, trang sức bằng các chuỗi anh lạc rồi bồng Thái tử trao cho vua, vua đặt Thái tử lên đầu gối ngắm nhìn tướng mạo của Thái tử, trong lòng rất vui sướng. Sau đó vua ra lịnh triệu tập các Bà-la-môn và các tướng sư trong nước đến xem tướng Thái tử, vua nói: "các vị nên xem tướng Thái tử, ta nghe các bậc tiên xưa nói rằng: người có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, nếu tại gia thì làm Kim luân thánh vương thống trị bốn thiên hạ, dùng thiện pháp giáo hóa; lại có đủ bảy báu: bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, nữ báu, thần coi giữ phục tàng báu, thần chỉ huy quân đội báu và ngọc ma ni báu; lại có đủ ngàn con dũng kiện có thể hàng phục quân địch; những người trên thế gian sống hòa bình không xâm phạm lẫn nhau, cùng hành thiện pháp thù thắng. Nếu Thái tử xuất gia sẽ ở ngôi vị Pháp vương Như lai Ứng chánh đẳng giác, danh vang khắp nơi", các tướng sư nghe vua nói rồi liền cùng xem tướng Thái tử, họ nói: "đúng như đại vương đã nói, ai thành tựu ba mươi hai tướng… như trên cho đến câu danh vang khắp nơi", vua hỏi: "ba mươi hai tướng tốt là những tướng nào?", Tướng sư nói rõ ba hai tướng cho vua nghe. Lúc đó tiên A-tư-đà bảo Na-thích-đà: "nay Bồ-tát đã vào thành Kiếptỷ-la, vua Tịnh-phạn cũng đã đặt ba tên cho Bồtát, chúng ta cùng đến đó chiêm ngưỡng Bồ-tát", cả hai dùng thần thông lực nương hư không mà đi, nhưng do oai lực của Bồ-tát khi họ còn cách thành Kiếp-tỷ-la chừng một trạm ngựa thì thối thất thần thông, không thể nương hư không mà đi, đành phải đi bộ vào thành Kiếp-tỷ-la. Khi đã vào thành đến trước cửa cung, tiên A-tư-đà nói với người giữ cửa: "ông hãy vào tâu vua có tiên A-tư-đà đang ở ngoài cửa xin được gặp vua", vua nghe rồi liền bảo cho vào tùy ý, tiên nhân vào trong cung, vua từ xa thấy tiên nhân đến liền chào hỏi thiện lai rồi mời tiên ngồi trên tòa sư tử, đảnh lễ rồi nói: "đại tiên từ xa đến có việc gì?", tiên nhân nói kệ:

"Đại vương, tôi nay đến, Muốn được gặp Thái tử, Chiêm ngưỡng đấng Mâu ni, Bậc đạo sư đệ nhất".

Vua nói Thái tử đang ngủ, tiên nói: "dù đang ngủ, tôi cũng muốn được gặp", vua bồng ra, tiên nhân thấy hai mí mắt của Thái tử không khép kín liền nói kệ:

"Ngựa giỏi không ngủ nhiều,
Nửa đêm tạm thời ngủ,
Việc muốn làm chưa thành,
Làm sao an nghỉ lâu".

Tiên nhân lại hỏi: "các tướng sư đoán như thế nào?", vua nói: "họ nói sẽ làm Luân vương cai trị bốn châu", tiên nhân nói kệ:

"Tướng sư nói đều sai,
Kiếp cuối không Luân vương,
Bậc có thắng phước này,
Sẽ đoạn hoặc thành Phật.
Nếu giáo hóa bốn châu,
Tướng Luân vương không hiển,
Tướng Đại sư phân minh,
Quyết thành Phật không nghi".

Tiên nhân thấy tướng thành Phật rồi liền quán bao lâu nữa mới chứng Vô thượng cam lồ, chuyển pháp luân vi diệu; liền quán thấy Bồ-tát mười chín tuổi xuất gia, sau sáu năm khổ hạnh được pháp Cam lồ; lại quán biết mình không bao lâu nữa sẽ qua đời, không thể thấy được Bồ-tát thuyết pháp độ sanh nên tự buồn thương rơi lệ. Vua nhìn thấy rất kinh ngạc, liền dùng kệ hỏi:

"Dù nam hay nữ đến nhìn thấy,
Cũng đều hoan hỉ khắp thân tâm.
Nay tiên nhìn thấy tướng phi thường,
Vì sao hai mắt lại rơi lệ,
Nếu như tướng Thái tử không tốt,
Đoản mệnh, nhiều bịnh, không an lành,
Rất mong đại tiên nói thật ra,
Chớ để tâm tôi thêm lo lắng".

Tiên nói kệ:

"Cho dù sấm sét trên không xuống,
Đáng sợ đến bên thân Thái tử,
Đối với đấng Vô thượng Mâu ni,
Chỉ như lông tóc không thể hại.
Cho dù lửa dữ bùng theo gió,
Kiếm bén như sương ngay trước mặt,
Độc dược, độc xà đến cùng lúc,
Đến chỗ Thái tử đều tan hoại.
Tôi buồn chết sớm không gặp Phật,
Nước mắt đong đầy không ngăn được,
Vì không được nghe pháp vô thượng,
Nay chưa thành tựu sự nghiệp gì.
Bậc thắng phước này trừ khổ não,
Sẽ chứng cam lồ làm Đạo sư,
Ai nghe pháp, như thuyết tu hành,
Đều chứng được Tịch diệt vô vi".

Vua nghe tiên nhân nói Thái tử sẽ chứng cam lồ nên im lặng không nói. Tất cả người đời do bị tâm tà quấy nhiễu nên nói ra lời hư dối không thật, lúc đó tiên nhân nói với vua: "những ngày gần đây vua thường suy nghĩ: bao giờ được tiên A-tư-đà đi bộ vào thành gặp ta để mọi người ân cần kính trọng. Vì thương xót vua nên tôi đến đây, nay việc đã xong tôi muốn ra khỏi thành, xin vua ra lịnh quét dọn sạch sẽ đường phố", vua Tịnh-phạn liền ra lịnh dân chúng trong thành cùng quét dọn sạch sẽ đường phố, rưới nước thơm chiên đàn, rải hoa Chiêm bát ca, treo phan lọng… như trong vườn Hoan hỉ và thông báo cho dân chúng trong thành cùng những người từ xa đến sáng mai đều cùng ra tiễn đưa Đại tiên. Sáng hôm sau, mọi người ra đường tiễn đưa tiên nhân ra thành, buồn bã nhìn theo rồi mới quay về. Tiên A-tư-đà về đến núi bèn trụ tâm thiền định, dùng trí phương tiện phát khởi lại thần thông, báo mạng sắp qua đời nên sanh bịnh, dù có uống thuốc vẫn không thuyên giảm. Lúc đó Na-thích-đà đến đảnh lễ thầy bạch rằng: "đại sư, con xuất gia vì cầu vị cam lồ, điều mà thầy đã chứng được xin ban cho con", tiên nhân nói: "ta cũng như con, khi xuất gia vì cầu vị cam lồ nhưng cuối cùng lại chẳng được gì, chỉ lao nhọc uổng công. Thành Kiếp-tỷ-la bên núi Tuyết có Thái tử ra đời, các tướng sư đều đoán là sẽ thành bậc Chánh giác hiệu Thiên nhân sư, xưng là Nhấtthiết-trí. Con nên cầu xuất gia nơi vị ấy, phải tự khiêm hạ, bỏ tâm kiêu mạn, siêng tu phạm hạnh, chớ có phóng dật thì con sẽ được vị cam lồ", liền nói kệ:

"Như lai xuất thế khó được gặp, Mà nay được gặp, thật hi hữu. Con chớ phóng dật, chí tâm cầu, Sẽ được vị cam lồ vô sanh".

Tiên nhân nói xong liền qua đời, như kệ tụng:

"Tích tụ đều tiêu tán,
Cao ngất ắt rơi rớt,
Hội họp ắt biệt ly,
Có mạng đều phải chết".

Lúc đó Na-thích-đà như pháp hỏa thiêu tiên nhân rồi xả lo buồn, đi đến thành Bà-la-nê-tư, trong chỗ chư tiên cùng ở tu. Na-thích-đà vốn thuộc chủng tộc Ca-đa-diễn-na nên người đương thời kính trong gọi là tiên Ca-đa-diễn-na.

Lúc đó vua nước Ôn thệ ni sanh Thái tử đặt tên là Đăng quang, giao cho các nhũ mẫu nuôi dưỡng… cho đến khi trưởng thành, học thông các môn kỹ nghệ, tinh thông cả văn lẫn võ. Lúc Bồ-tát còn là đồng tử vui chơi thì Thái tử Đăng quang cũng là đồng tử vui chơi, khi Bồ-tát thọ lễ Thái tử quán đảnh thì Đăng quang cũng thọ lễ Thái tử quán đảnh. Sau đó Bồ-tát ra ngoài thành dạo chơi nhìn thấy cảnh khổ của già bịnh chết, liền sanh tâm nhàm lìa ba phu nhân đứng đầu sáu ngàn thể nữ, đó là phu nhân Ngưu hộ, phu nhân Lộc dưỡng và phu nhân Danh xưng. Bồ-tát vào nửa đêm vượt thành đi đến trong rừng vắng tu nghiệp xuất gia, y chỉ tiên nhân tu thắng định ly dục của dục giới; kế theo Yết la ma tử tu định Vô sở hữu xứ, đoạn dục của Vô sở hữu xứ nhưng không có người dẫn dắt, sau đó chuyên tu khổ hạnh trong sáu năm, thấy không được chứng ngộ nên cho là vô ích, bèn sống thuận tự nhiên không gò bó, ăn uống thức ăn ngon, dùng dầu thoa thân, tắm bằng nước nóng và đi vào tụ lạc. Nơi chỗ hai mục nữ Nan đà và Nan đà lực, Bồ-tát thọ món cháo sữa thượng diệu được nấu qua mười sáu lần chuyển, được Long vương Ca lợi ca tôn trọng tán thán. Bồ-tát ở bên Thiện cát thọ cỏ Cát tường rồi đến bên cội Bồ đề trải tòa cỏ, đoan thân chánh niệm tâm nghĩ miệng nói: "nếu không đoạn trừ hết các lậu hoặc, ta quyết không xả kiết già". Bồ-tát dùng khí trượng Từ tâm để hàng phục ba mươi sáu ức ngàn chúng ma, chứng được Vô thượng trí; sau đó nhận lời thỉnh của Phạm thiên đi đến thành Bà-la-nê-tư ba lần chuyển pháp luân mười hai hành tướng.

Cũng trong thời gian này Thái tử Đăng quang lên ngôi vị vua quán đảnh, dùng pháp trị nước, đất nước phồn thịnh, nhân dân no ấm… Nhờ oai lực của vua nên trăm họ hoan ca, tùy chỗ cúng dường thiên thần thắng thượng, vua cho đào năm trăm ao, năm trăm ngòi nước để dân chúng thọ dụng không bị thiếu thốn.

2. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ sáu:

Đăng quang được làm vua,
Có năm vật thù thắng,
Nhân nói việc kỳ lạ,
Kiện-đà-la nói rõ.

Vua Đăng quang có năm vật thù thắng, đó là voi đực thù thắng tên Vĩ sơn, voi mẹ thù thắng tên Hiền thiện, lạc đà thù thắng tên Hải túc, ngựa thù thắng tên Y cảnh và sứ giả thù thắng tên Phi ô. Trong một ngày đêm voi đực đi được một trăm trạm dịch, voi mẹ đi được tám mươi trạm dịch, lạc đà đi được bảy mươi trạm dịch, ngựa đi được năm mươi trạm dịch, Phi ô đi được hai mươi lăm trạm dịch. Tuy có những vật thù thắng như vậy nhưng tứ đại của vua không điều hòa, mắc chứng bịnh mất ngủ; do mắc bịnh này nên vua ghét Tô thích rượu. Các thầy thuốc điều chế thuốc với Tô dâng vua, vua đều không chịu uống, Thái tử và các cung nhân đều biết loại thuốc điều chế với Tô có thể trị bịnh mất ngủ nên dâng cho vua uống, vua càng giận thêm nên ra lịnh: "ai ở trước mặt ta nói đến Tô sẽ bị chém đầu". Do không ngủ được nên vào đầu đêm vua cung các cung nhân hoan lạc, giữa đêm vua đi xem xét chuồng voi ngựa, cuối đêm đi xem xét kho tàng rồi cầm gươm đến hỏi người giữ canh: "ai là người báo thức?". Nếu vua hỏi lần thứ nhất, lần thứ hai mà không trả lời thì còn dung thứ; nếu đến lần thứ ba mà không trả lời thì bị vua chém đầu. Do vua tàn bạo như vậy nên không còn gọi là Đăng quang, mà gọi là Mãnh quang (vua Đăng quang hung bạo). Vào một thời khác, vua hỏi phu nhân và nội cung: "ta tự thân báo thức, vì sao các người lại ngủ say?", đáp: "đại vương, thần cũng báo thức"; sau nhiều đêm không được ngủ, họ tâu vua: "nếu khiến chúng thần nhiều đêm không được ngủ như vậy thì chúng thần không làm sao thuận theo ý vua, vì như vậy chúng thần sẽ bỏ bê công việc của thần", vua hỏi: "nếu vậy thì ai nên làm việc này?", đáp là Thái tử nên làm. Thái tử làm người báo thức, sau đó cũng không kham nổi nên tâu vua: "nếu con mãi làm người báo thức thì sẽ bỏ bê vương nghiệp", vua hỏi: "nếu vậy thì ai nên làm?", đáp là đại thần nên làm. Đại thần làm người báo thức, sau đó cũng không kham nổi nên tâu vua: "nếu thần cứ làm người báo thức thì ai sẽ giúp vua trị nước như pháp", vua hỏi: "nếu vậy thì ai nên làm?", đáp là binh lính nên làm. Các binh lính làm người báo thức, sau đó cũng không kham nổi nên tâu vua: "nếu chúng thần cứ làm người báo thức thì ai sẽ vì vua giao chiến với kẻ địch", vua hỏi: "nếu vậy thì ai nên làm?", đáp là dân chúng nên làm. Lúc đó dân chúng trong nước luân phiên làm người giữ canh báo thức, đêm đó đến phiên đồng tử bán hương báo thức, đồng tử lo sợ sẽ bị vua giết chết nên ngồi chống cằm buồn bã. Một người thân quen thấy vậy liền hỏi rõ nguyên do rồi nói: "cách nhà anh không xa có một người tên là Kiện-đà-la, sao không nhờ người ấy làm việc giữ canh báo thức?", đáp: "cũng như tôi tiếc mạng sống thì có ai chịu làm", người kia nói: "nếu cho tài vật thì chắc chắn chịu làm". Đồng tử liền đến nhờ làm, Kiện-đà-la nói: "nếu đưa cho tôi năm trăm tiền vàng thì tôi sẽ làm", đồng tử bằng lòng, Kiện-đà-la nói: "hãy đưa trước cho tôi phân nửa, nếu tôi còn sống đưa thêm không muộn; nếu tôi bị giết thì phần còn lại đó thuộc của anh tùy ý thọ dụng". Kiện-đà-la nhận phân nửa số tiền liền đi mua rượu thịt bánh trái đến mời những người cận vệ của vua ăn uống no nê rồi nói: "nay tới phiên tôi làm người báo thức", nói rồi liền hỏi họ nguyên do vì sao vua bắt làm việc báo thức và nhờ họ giúp đỡ, họ nói: "chúng tôi được anh cho ăn no, thức ăn trong bụng còn chưa tiêu thì làm sao lại không giúp đỡ", Kiện-đà-la nói: "nếu vua đến hỏi ai là người báo thức thì xin hãy gọi tôi dậy", họ nhận lời. Đêm đó Kiện-đà-la dùng tấm mền lông phủ chân ngồi ngủ, đến cuối đêm những người kia gọi Kiện-đà-la thức dậy: "hãy thức dậy, vua sắp đến", Kiện-đà-la liền thức dậy. Vua đến hỏi ai là người báo thức, Kiện-đà-la suy nghĩ: "nếu vua hỏi lần đầu mà ta đáp ngay thì lần thứ hai nếu không đáp kịp sẽ bị vua chém đầu", vì suy nghĩ như thế nên không đáp, đến khi vua hỏi lần thứ ba, Kiện-đà-la mới đáp: "đại vương, thần là Kiện-đà-la", vua hỏi: "ngươi đang suy nghĩ việc gì?", Kiện-đà-la là người có trí huệ, khéo ăn nói nên đáp: "Thần nghĩ về việc thế gian".

Nhiếp tụng nội dung:

Tu hú, hạc uống sữa,
Cỏ lau, đuôi thân bằng,
Loang lỗ và lông đồng,
Bồn cát, nước không tràn,
Muối, miến, nước sai khác,
Vải, ngói hóa thành bụi.
Kiện-đà-la suy nghĩ,
Mười việc thế gian này.

Vua hỏi: "đối với việc thế gian, ngươi nghĩ về việc gì?", đáp: "ở thế gian có việc kỳ lạ như chim Tu hú có lông và không lông, nếu đem cân thì nặng nhẹ như nhau", vua hỏi: "việc này có thật không?", đáp là vua sẽ tự nghiệm biết, vua nói: "vậy thì tốt". Đến trời sáng, Kiện-đà-la bắt chim Tu hú khi còn lông và khi nhổ hết lông đem cân cho vua xem thì thấy nặng như nhau, vua hỏi vì sao lại như vậy, đáp là vì gió làm cho lông nhẹ lên, vua khen: "ngươi có diệu trí", đáp là nhờ vua nên được như vậy, vua im lặng. Sau một đêm lo âu, Kiện-đà-la đưa tay sờ đầu rồi trở về nhà, đồng tử bán hương đem nửa số tiền còn lại đến đưa cho Kiện-đà-la. Từ đó trở đi ai đến phiên làm việc báo thức đều đem năm trăm tiền vàng đến nhờ Kiệnđà-la làm thay, đến cuối đêm vua lại đến hỏi ai là người báo thức, đáp thần là Kiện-đà-la, vua lại hỏi: "ngươi suy nghĩ gì?", đáp là nghĩ về việc thế gian, vua lại hỏi là nghĩ về việc gì, đáp: "con bạch hạc cổ dài nếu cho nó uống nước sữa thì nó chỉ uống sữa, chừa lại nước", vua hỏi: "việc này có thật không?", đáp là vua sẽ tự nghiệm biết, vua nói: "vậy thì tốt". Đến trời sáng, Kiện-đà-la ở trước vua cho Hạc uống nước sữa thì đúng như lời đã nói, vua hỏi nguyên do, đáp: "vì miệng Hạc vốn có chất giầm chua, khi uống sữa sẽ làm sữa hóa thành lạc, vì thế nên chừa lại nước", vua khen: "ngươi có diệu trí", đáp là nhờ vua nên được như vậy, vua im lặng. Đêm khác, đến cuối đêm vua lại đến hỏi ai là người báo thức, đáp thần là Kiện-đàla, vua lại hỏi: "ngươi suy nghĩ gì?", đáp là nghĩ về việc thế gian, vua lại hỏi là nghĩ về việc gì, đáp: "thế gian có loại cỏ lau đã bị đập giập và loại chưa bị đập giập, nếu đem cân thì nặng nhẹ như nhau, loại cỏ khác thì không như vậy", vua hỏi: "việc này có thật không?", đáp là vua sẽ tự nghiệm biết, vua nói: "vậy thì tốt". Đến trời sáng, Kiện-đà-la ở trước vua lấy cỏ lau đã bị đập giập và loại không bị đập giập đem cân thì đúng như lời đã nói, vua hỏi nguyên do, đáp: "vì khi đập có gió lồng vào", vua im lặng. Đêm khác, đến cuối đêm vua lại đến hỏi ai là người báo thức, đáp thần là Kiện-đà-la, vua lại hỏi: "ngươi suy nghĩ gì?", đáp là nghĩ về việc thế gian, vua lại hỏi là nghĩ về việc gì, đáp: "thế gian có loại chuột Kiết linh, đuôi và thân bằng nhau", vua hỏi: "việc này có thật không?", đáp là vua sẽ tự nghiệm biết, vua nói: "vậy thì tốt". Đến trời sáng, Kiện-đà-la ở trước vua đem chuột Kiết linh ra đo thì đúng như lời đã nói, vua hỏi nguyên do, đáp: "vào mùa xuân, thần thấy nó dưới gốc cây, đuôi và thân bằng nhau", vua im lặng. Đêm khác, đến cuối đêm vua lại đến hỏi ai là người báo thức, đáp thần là Kiện-đà-la, vua lại hỏi: "ngươi suy nghĩ gì?", đáp là nghĩ về việc thế gian, vua lại hỏi là nghĩ về việc gì, đáp: "thế gian có loài chim Trĩ trên thân loang lỗ nhiều màu cho đến từng sợi lông, chỉ trừ đuôi", vua hỏi: "việc này có thật không?", đáp là vua sẽ tự nghiệm biết, vua nói: "vậy thì tốt". Đến trời sáng, Kiện-đà-la ở trước vua đem chim Trĩ ra cho vua xem thì đúng như lời anh đã nói, vua hỏi nguyên do, đáp: "vì thần đã đếm biết trước", vua khen: "ngươi có diệu trí", đáp là nhờ vua nên được như vậy, vua im lặng. Đêm khác, đến cuối đêm vua lại đến hỏi ai là người báo thức, đáp thần là Kiện-đà-la, vua lại hỏi: "ngươi suy nghĩ gì?", đáp là nghĩ về việc thế gian, vua lại hỏi là nghĩ về việc gì, đáp: "đại vương, nếu cái bồn đã đựng đầy cát, dù cho nước vào đầy, nước vẫn không tràn, cát và nước cùng một chỗ nhưng cả hai vẫn không trở ngại nhau", vua hỏi: "việc này có thật không?", đáp là vua sẽ tự nghiệm biết, vua nói: "vậy thì tốt". Đến trời sáng, Kiện-đà-la ở trước vua lấy bồn đựng đầy cát rồi đổ nước vào cho đầy thì đúng như lời đã nói, vua im lặng. Đêm khác, đến cuối đêm vua lại đến hỏi ai là người báo thức, đáp thần là Kiện-đà-la, vua lại hỏi: "ngươi suy nghĩ gì?", đáp là nghĩ về việc thế gian, vua lại hỏi là nghĩ về việc gì, đáp: "đại vương, nếu dùng một thăng muối hòa với một thăng nước, nước vẫn không tăng", vua hỏi: "việc này có thật không?", đáp là vua sẽ tự nghiệm biết, vua nói: "vậy thì tốt". Đến trời sáng, Kiện-đà-la ở trước vua lấy một thăng muối hòa với một thăng nước thì đúng như lời anh đã nói, vua hỏi nguyên do, đáp: "vì muối lấy từ nước ra nên bỏ vào nước thì như cũ", vua im lặng. Đêm khác, đến cuối đêm vua lại đến hỏi ai là người báo thức, đáp thần là Kiện-đà-la, vua lại hỏi: "ngươi suy nghĩ gì?", đáp là nghĩ về việc thế gian, vua lại hỏi là nghĩ về việc gì, đáp: "đại vương, nếu dùng một thăng nước hòa với một thăng miến khô thì nước không kết dính", vua hỏi: "việc này có thật không?", đáp là vua sẽ tự nghiệm biết, vua nói: "vậy thì tốt", vua hỏi nguyên do, đáp: "vì người trong nước tôi phần đông đều ăn miến khô nên tôi thường thấy", vua khen: "ngươi khéo nhớ sự việc", đáp là nhờ vua nên được như vậy, vua im lặng. Đêm khác… như trên cho đến câu Kiện-đà-la đáp: "thần thấy người đời ngày đêm dệt ra vải lụa mà không biết rốt cuộc chúng đi về đâu", vua nói: "ta cũng không biết chúng đi về đâu", Kiện-đà-la đáp: "chúng cuối cùng cũng trở về đất", vua nói: "đúng như ngươi nói, chúng rốt cuộc cũng trở về đất". Đêm khác… như trên cho đến câu Kiện-đà-la đáp: "thần thấy người thợ gốm ngày đêm làm ra các loại đồ gốm mà không biết rốt cuộc chúng đi về đâu", vua nói: "ta cũng không biết chúng đi về đâu", Kiện-đà-la đáp: "chúng cuối cùng cũng trở thành đất bùn", vua nói: "đúng như ngươi nói, chúng rốt cuộc cũng trở thành đất bùn".

Nhiếp tụng nội dung:

Mãnh quang tự hỏi mẹ,
Biết từ Bò cạp sanh,
Cho năm trăm tiền vàng,
Rồi đuổi ra khỏi nước.

Lúc đó vua thấy Kiện-đà-la thông minh giỏi ứng đối nên hỏi: "ngươi có diệu trí, hiểu biết nhiều việc thế gian, vậy ngươi có biết vì sao ta không ngủ được?", đáp: "nếu đại vương tha tôi, ban cho vô úy thì thần mới dám nói", vua nói: "ta ban cho vô úy, người hãy tùy ý nói", đáp: "vua từ bò cạp sanh", vua nói: "ngươi đang mắng ta", đáp: "vua bảo thần nói thật thì thần nào dám mắng đại vương, nếu vua không tin sáng mai sẽ tự nghiệm biết", vua nói tốt. Đến trời sáng, Kiện-đà-la đào một cái hố rồi đổ đầy phân bò, dùng tấm đệm phủ lên rồi bảo vua nằm lên, vua liền ngủ được. Tuy vua tự nghiệm biết hư thực nhưng vẫn còn nghi, liền vào cung hỏi mẹ: "con có một việc muốn hỏi cho biết, mẹ nên nói thật con từ đâu sanh?", bà mẹ nói: "nếu đại vương ban cho vô úy thì mẹ sẽ nói thật", vua nói: "con ban cho mẹ vô úy", bà mẹ nói: "xưa kia, phụ vương của con có nhiều thể nữ, lúc đó vua đi sang nước khác trải qua nhiều năm, mẹ sanh dục tâm bỗng thấy con bò cạp nên suy nghĩ: "nếu đây là nam tử cùng ta hành dục thì há không khoái lạc hay sao", vừa nghĩ xong liền thấy bò cạp biến thành nam tử cùng mẹ giao hợp, nhân đó có thai sanh ra con", vua nghe rồi suy nghĩ: "Kiện-đà-la có trí huệ, biết rõ ta từ bò cạp sanh. Ta đã ban cho vô úy thì không thể giết, ta nên trọng thưởng rồi đuổi ra khỏi nước, chớ để mọi người biết được việc này", nghĩ rồi vua liền ban thưởng cho Kiện-đà-la năm trăm tiền vàng và đuổi ra khỏi nước.

QUYỂN 21

Nhiếp tụng nội dung:

Mãnh quang, Thị phược ca,
Kim quang, Y bát la,
Na-thích-đà đắc quả,
Diệu phát, bát đựng dầu.

Lúc đó vua Mãnh quang suy nghĩ: "ta mắc bịnh mất ngủ này ngày càng nặng thêm, ta nên triệu tập tất cả thầy thuốc trong nước đến tìm phương cách gì trị bịnh cho ta", nghĩ rồi liền triệu tập tất cả thầy thuốc trong nước đến nói rằng: "ta mắc bịnh không ngủ được, các khanh hãy cùng tìm cách trị hết bịnh cho ta", các thầy thuốc tâu: "bịnh này không tầm thường, chúng tôi không thể trị hết bịnh được cho vua, nhưng vua Tần-tỳ-sa-la ở thành Vương xá có vương tử là Thị phược ca, vốn là đại y vương mọi người đều biết tiếng, vị này mới có đủ trí huệ trị hết bịnh cho vua", vua nghe rồi liền sai sứ mang thư đến cho vua Tần-tỳ-sa-la, trong thư viết: "bạch vua Ảnh Thắng, xin vua cho đại y vương Thị phược ca tạm qua nước tôi, tôi muốn được trị bịnh, mong vua đừng trái lời. Nếu đại y vương không đến thì vua nên dự trữ lương thảo và quân binh để nghinh đón tôi". Vua Tần-tỳ-sa-la xem thư xong, ngồi chống cằm với dáng vẻ lo buồn suy nghĩ: "nếu cho vương tử đi, thuận theo lời yêu cầu thì sợ bị lệ thuộc, nếu không cho đi thì sợ họ đem binh lực hùng cường sang gây rối", Thị phược ca thấy vua ưu tư liền hỏi rõ nguyên do, vua nói: "vì khanh có nhiều tài, lại giỏi y thuật nên khiến ta ưu tư", nói rồi liền nói rõ ý tứ trong thư, Thị phược ca nghe rồi liền tâu: "xin vua ra sắc chỉ, thần sẽ phụng chỉ lên đường", vua nói: "vua Mãnh quang hung bạo, bất luận có trị hết bịnh hay không, chỉ cần vua nổi giận thì sẽ sát hại ngay, sợ vua kia vô đạo giết chết khanh oan uổng", Thị phược ca tâu: "nếu không cứu được thân mình thì sao gọi là đại y vương, xin đại vương chớ ưu sầu, thần sẽ đi như lời giao hẹn", vua nói: "khanh tùy ý đi nhưng khéo phòng hộ, đừng để ta và quốc dân, nội cung phải lo buồn", Thị phược ca nói: "xin đại vương chớ lo âu, sẽ không có việc ấy đâu. Con xem bịnh tình rồi sẽ trị cho thuyên giảm khiến vua kia không nổi giận", vua im lặng. Thị phược ca hỏi sứ giả: "vua Mãnh quang mắc bịnh gì, hiện ăn được gì và không ăn được gì?", sứ giả nói rõ bịnh tình của vua, Thị phược ca nghe rồi liền dùng Tô điều chế thành loại thuốc cao có sắc hương vị như sắc hương vị của rượu, sau đó chọn giờ tốt làm lễ cầu an rồi từ giã thân thuộc theo sứ giả lên đường. Trên đường đi đến nước Ôn thệ ni, ngang qua thành Khúc nữ, có một thầy thuốc trẻ ở trong thành này nghe tin đại y vương sắp đến nước Ôn thệ ni, liền đem trái Ha lê lặc dâng cho Y vương. Sau khi cùng nói chuyện, Y vương cảm thấy ý hợp nên hỏi thầy thuốc trẻ: "vua Mãnh quang bị bịnh như vậy, vì sao các vị không trị liệu?", đáp: "bịnh mất ngủ của vua vốn nên dùng Tô để trị nhưng vua lại ghét Tô thích rượu, lại ra lịnh ai ở trước vua nói đến tên Tô thì bị chặt đầu. Do vua bạo ác nên các thầy thuốc đều cao chạy xa bay, không dám điều trị cho vua", Y vương nói: "pháp đệ nên biết, ta đã dùng Tô điều chế thành thuốc cao có sắc hương vị như rượu, đệ nên cùng ta đến chỗ vua, khi nào ta hiện tướng chỉ trao thì đệ liệu lượng đưa thuốc cho vua uống. Đệ sẽ ở lại đó cho vua uống thuốc, còn ta sẽ trở về nước; khi nào vua hết bịnh, ta sẽ thưởng cho đệ, cũng khiến cho vua trọng thưởng đệ", thầy thuốc trẻ bằng lòng cùng đi đến chỗ vua. Lúc đó vua nghe tin Y vương đến liền suy nghĩ: "Thị phược ca là vương tử lại là Y vương, ta nên dùng nghi lễ long trong nghinh đón", nghĩ rồi liền ra lịnh trang hoàng đường sá… rồi cùng Thái tử quần thần ra nghinh đón, Y vương đi vào thành giữa trăm ngàn người vây quanh. Sau đó vua nói với Y vương: "tôi mắc bịnh mất ngủ ngày càng nặng, xin Y vương chữa trị cho", Y vương nói: "tôi sẽ chữa trị nhưng cần dược liệu, những dược liệu này có ở nhiều nơi chỉ riêng tôi biết, người khác không biết, hoặc người khác biết mà tôi không biết, hoặc cùng biết, hoặc gần hoặc xa. Vì thế xin vua cho phép tôi được cỡi voi Hiền thiện tùy ý đi tìm", vua nói lành thay rồi ra lịnh cho Quản tượng: "nếu Y vương cần voi Hiền thiện nên để vị ấy tùy ý cỡi, không nên cản trở", lại bảo người giữ cửa cung: "Y vương có thể sớm đi trưa về hoặc trưa đi tối về, được tùy ý cỡi voi Hiền thiện ra vào, không nên ngăn cản". Được vua cho phép, lúc đó Y vương hoặc ban ngày hoặc nửa đêm không nhất định, tùy ý cỡi voi đi đi về về nên mọi người không để ý nữa. Sau đó Y vương bảo vua tắm rửa, tắm xong bảo vua ăn no, đợi vua ăn xong mới tâu: "ta có đem rượu thượng hạng của nước Ma-kiệt-đà đến, vua hãy uống thử", vua nghe đến rượu ngon, vui mừng bảo mang đến, Y vương liền hiện tướng bảo thầy thuốc trẻ mang thuốc cao đến, vua uống xong liền ngủ say. Y vương biết vua đã ngủ say liền cỡi voi Hiền thiện bỏ chạy, đến nửa đếm vua tỉnh dậy, thở ra nghe thấy có mùi Tô liền nổi giận ra lịnh tả hữu bắt Thị phược ca đem ra chặt đầu. Tả hữu đến bắt mới biết Y vương đã bỏ chạy liền trở về báo lại, vua nghe rồi càng tức giận ra lịnh sứ giả Phi ô: "khanh hãy cỡi voi Vi sơn đuổi theo bắt Y vương, trói đem về đây chặt đầu. Nhớ khi gặp chớ có nhận vật gì, vì Y vương rất giỏi huyễn thuật". Phi ô tuân lịnh vua cỡi voi Vi sơn noi theo dấu chân voi đuổi theo, đến vườn cây Yêm la thì bắt kịp Y vương liền kêu gọi: "vua gọi Y vương, mau quay trở lại", Y vương nói: "ông sao vội vậy, hãy dừng lại ở đây ăn trái Yêm la", Phi ô nói: "vua nói ông giỏi huyễn thuật nên không được nhận vật gì từ ông", Y vương nói:

"ông không phải sợ, hiện đang đói khát hãy cùng tôi ăn chung một trái, mỗi người một nửa", Phi ô nghĩ ăn chung một trái thì không hại gì nên bằng lòng, Y vương ăn trước nửa trái rồi bấm móng tay có chứa thuốc vào nửa trái còn lại đưa cho Phi ô ăn, Phi ô vừa ăn xong, thuốc trong nửa trái này công phát bịnh Lại mà Phi ô đã mắc phải trước đó, nên liền tiêu chảy không sao cầm được. Y vương vào thôn nói với người trong thôn: "đây là voi lớn bậc nhất và voi mẹ Hiền thiện cùng sứ giả Phi ô của vua Mãnh quang, các người nên chăm sóc cho kỹ chớ để cho tổn thất, nếu không sẽ bị vua trị tội nặng", người trong thôn theo như lời đã dặn chăm sóc Phi ô cho đến khi hết bịnh, Y vương liền trở về nước. Sau đó thầy thuốc trẻ cũng theo lời Y vương dặn trị cho vua hết bịnh, khi thấy Phi ô trở về, vua hỏi Y vương đấu, Phi ô hỏi: "nếu bắt được Y vương thì vua sẽ làm gì?", vua nói là sẽ đem chặt đầu, Phi ô nói: "nay vua đã hết bịnh, bịnh Lại của thần cũng đã trừ, phải cùng nhau trọng thưởng cớ sao lại đem chặt đầu?", vua nghe rồi liền nói: "lành thay, nên trọng thưởng để báo đại ân". Phi ô liền đưa sắc thư báo cho Y vương biết: "vương tử là Y vương đáng được trọng thưởng, vì sao lại bỏ chạy trốn. Nhận dược thư này xin hãy trở lại để nhận sự ban thưởng của vua", Y vương liền gởi thư phúc đáp: "tôi nhờ ân vua nên tài sản không thiếu, nếu vua sanh hoan hỉ đối với tôi thì xin cho tôi hồi chuyển những vật mà vua ban thưởng cho thầy thuốc trẻ". Sau đó vua y lời ban thưởng nhiều tài vật cho thầy thuốc trẻ rồi sai sứ mang một xấp vải bằng giạ thượng hạng trị giá trăm ngàn lượng vàng đưa đến thưởng ban cho Y vương, Y vương suy nghĩ: "Thế tôn là bậc đại sư vô thượng, là đấng cha lành của ta, ta nên đem tấm Giạ này dâng cúng cho Phật", nghĩ rồi liền đem tấm Giạ đến dâng cúng Phật. Phật thọ rồi đưa cho A-nan may thành y. A-nan cắt rọc may thành ba y cho Phật xong vẫn còn dư, bạch Phật, Phật nói: "thầy và La hỗ la tùy ý thọ dụng", A-nan may xong hai y thượng hạ cho mình xong, đưa phần còn lại cho La hỗ la may y Tăng khước kỳ.

Nói về nhân duyên của Long vương Y la bát: Thuở xưa trên cõi trời Đổ-sử-đa, trong cung điện có ghi lại bài vấn tụng của Phật nói như sau:

"Vua nơi đâu là lớn,
Đối với Nhiễm nhiễm đắm,
Không nhiễm mà bị nhiễm,
Hạng nào là kẻ ngu?
Kẻ ngu nơi đâu buồn?
Bậc trí nơi đâu vui?
Ai biệt ly hòa hợp,
Gọi đó là an lạc?".

Nếu Phật không ra đời thì không có ai thọ trì và hiểu được ý nghĩa của bài vấn tụng này, nhưng nếu có Phật ra đời thì sẽ có người thọ trì và hiểu nghĩa. Lúc đó Bắc thiên vương dược xoa Đa văn có việc lên đến cõi trời Đổ-sử-đa, nhìn thấy bài vấn tụng này, sanh tâm hi hữu liền ghi nhớ nhưng không hiểu được nghĩa, sau khi trở về cung trời của mình liền chép lại trên bảng. Tại nước Đắc xoa thi ca có một Long vương cựu trụ tên là Y la bát, ngày đêm mong mỏi lúc nào đó được gặp Phật ra đời. Long vương này có một Dược xoa thân hữu tên là Kim quang, Dược xoa này nhân đến trong cung của thiên vương Đa văn, nhìn thấy bài vấn tụng này liền nhớ thuộc lòng nhưng vẫn không hiểu nghĩa. Sau đó đến nói với Long vương Y bát la: "này bạn, đây là lời Phật dạy, ý nghĩa sâu xa không ai hiểu được. Bạn hãy ghi nhớ bài pháp tụng này, sau đó mang một rương đựng đầy vàng đến khắp trong các thành ấp xướng lên rằng: "nếu ai giải nghĩa được bài vấn tụng này thì tôi sẽ dâng cúng một rương vàng". Nếu nơi nào không có ai đáp được thì bạn nên nói: "nơi này không có người thì không gọi là thành ấp", nói xong mới đi đến nước khác", Long vương nghe rồi cung kính thọ trì rồi hóa thành một Ma-nạp-bà mang rương vàng đi khắp nơi xướng lên như trên, vẫn không có ai giải đáp được, dần dần đến thành Bà-la-nê-tư. Nơi ngã tư đường xướng lên như trên, lúc đó có vô lượng trăm ngàn người tụ tập lại như mây. Trong số đó có người thông minh bác học, tâm ý kiêu ngạo sau khi nghe bài vấn tụng này rồi tâm sanh hi hữu và kinh ngạc nhưng vẫn không giải nghĩa được, Hóa long vương liền nói: "thành Bà-la-nêtư không có bậc trí thì không gọi là thành ấp", các cư sĩ, Bà-la-môn nghe lời này liền nói: "xin chớ nói lời này, trong thành này có bậc thượng trí trụ nơi A-lan-nhã, xin hãy chờ vị ấy đến để giải nghĩa", Hóa long vương hỏi tên, đáp là Na-thíchđà. Lúc đó Na-thích-đà ở trong rừng vắng nghe tin liền đi đến, Hóa long vương đến trước mặt nói: "nếu đại tiên giải nghĩa được bài vấn tụng này thì tôi sẽ dâng cúng rương vàng", nói rồi liền nói ra bài vấn tụng, Na-thích-đà nghe rồi liền ghi nhớ và nói: "tôi sẽ giải thích cho ông", hỏi là lúc nào, đáp là mười hai năm, Hóa long vương nói lâu quá, Nathích-đà lại hẹn sáu năm, nói vẫn lâu, lại hẹn ba năm, một năm, sáu tháng, một tháng... cho đến bảy ngày, Hóa long vương nói: "đại tiên, tôi sẽ đợi bảy ngày". Trước kia Na-thích-đà vốn quen thân với năm Bí-sô nên đến chỗ họ và đem việc trên kể lại rồi nói: "bài vấn tụng ấy chữ ít nghĩa nhiều, lại sâu xa khó hiểu thì phải làm sao?", Bí-sô bảo đến hỏi Phật, Na-thích-đà hỏi: "Phật đã ra đời rồi sao?", đáp là đã ra đời, liền hỏi hiện đang ở đâu, đáp: "hiện đang ở vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư". Na-thích-đà vui mừng vội đến chỗ Phật, thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời, sắc tướng thù diệu, thân như núi báu… Na-thích-đà tận mặt thấy rồi sanh tâm hoan hỉ như người không con bỗng nhiên có con, như người nghèo được của báu, như Thái tử được kế vị vua, như hữu tình tích chứa thiện căn đã lâu mới được gặp Phật; thân tâm của Na-thích-đà hoan hỉ cũng như vậy, liền đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật quán biết căn tánh tùy miên của Na-thích-đà, nói pháp Tứ đế khiến cho được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả liền chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, xin cho con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh", Phật nói: "trước đây ông đã hứa giải nghĩa bài vấn tụng cho Ma-nạp-bà, ông nên đến đó thực hiện lời đã hứa rồi mới xuất gia", đáp: "tuy con đã được Kiến đế nhưng đối với nghĩa của bài vấn tụng vẫn chưa hiểu rõ, đã không hiểu thì có đến đó cũng không ích gì", Phật nói: "ông hãy đến đó nói rằng: người hãy nói ra bài vấn tụng cho tôi nghe. Sau khi nghe xong nên đáp:

"Vua thứ sáu là lớn,
Nơi chỗ nhiễm đắm nhiễm,
Không nhiễm mà khởi nhiễm,
Là ngu phu tham ái,
Kẻ ngu vì vậy buồn,
Còn người trí vẫn vui.
Xa lìa được tham ái,
Đây gọi là an lạc".

Nếu người kia nói không hiểu thì nên nói kệ:

"Người nào nghe diệu ngữ,
Hiểu rồi tu thắng định,
Ai nghe không hiểu nghĩa,
Người ấy do phóng dật".

Nếu người kia nghe kệ xong lại nói rằng:

"Ông nói ra lời Phật,
Nhưng tôi chưa rõ nghĩa,
Ý còn mê chưa hiểu,
Xin giải nghi giùm tôi".

Lúc đó ông nên dùng tay xé lá trước mặt người ấy, nếu hỏi Phật đã ra đời rồi sao thì nên đáp đã ra đời, nếu hỏi hiện đang ở đâu thì nên đáp đang ở trong vườn Thi lộc". Na-thích-đà thọ trì lời Phật dạy rồi liền đến gặp Ma-nạp-bà nói y như lời Phật đã dạy, hỏi đáp giống như trên... cho đến câu Phật đang ở trong vườn Thi lộc. Lúc đó Hóa long vương suy nghĩ: "nếu trước mặt Na-thích-đà mà ta hiện thân rồng thì ông ta sẽ khinh ta, nếu mang thân Bà-la-môn đến gặp Phật thì các Bà-la-môn thông hiểu Tứ minh trong thành Bà-la-nê-tư sẽ chê trách ta là Bà-la-môn vốn thuộc dòng tộc cao quý vì sao lại tự hạ mình đến gặp Kiều-đáp-ma. Nếu ta mang thân rồng đến gặp Phật thì rồng có nhiều oán ghét, sợ gặp chướng ngại; ta nên hóa thành Chuyển luân thánh vương đến gặp Phật", nghĩ rồi liền hóa thành Chuyển luân thánh vương có bảy báu dẫn đầu, cùng chín mươi chín Câu đê binh kỳ theo sau; với ngàn người con vây quanh theo hình bán nguyệt, thân trang nghiêm bằng các loại vật báu; lại có vô lượng ngoại đạo, Sa môn, Phạm chí và trăm ngàn tùy tùng cầm lọng trăm nan che trên đầu của vua, oai quang rực rỡ như vầng nhật nguyệt, để đi đến chỗ Phật. Lúc đó Phật đang thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn người, đại chúng từ xa nhìn thấy vị Luân vương này rồi liền sanh tâm hi hữu, nói với nhau: "Luân vương này từ đâu đến, sao chưa từng thấy trên đời hay là Phạm thiên vương…", người có tâm ái lạc ngắm nhìn thân vua đều sanh tham đắm. Hóa long vương này đến đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, Phật nói: "ngươi là người ngu si, trong thời Phật Ca-diếp-ba tuy thọ cấm giới của Phật nhưng lại không hộ trì, lại hủy báng giới nên bị quá báo làm thân rồng hạ liệt. Cớ sao ngươi lại sanh tâm hư dối để gạt đồ chúng của ta, ngươi hay mau hiện trở lại thân rồng", Hóa long vương nói: "con mang thân rông có nhiều oán ghét nên sợ có chúng sanh làm hại", Phật bảo Kim cang thủ bảo hộ Long vương đừng để bị hại, Kim cang thủ vâng lời Phật dạy đi theo sau Long vương để bảo hộ. Lúc đó Hóa long vương đứng dậy đi đến một nơi khác hiện trở lại thân rồng có bảy đầu, thân dài lớn vô cùng: đầu gác trên thành Bà-la-nê-tư, đuôi nằm ở nước Xoa thi ca ( cách nhau hai trăm trạm ngựa ). Do nghiệp đời trước nên trên mỗi đầu rồng đều có cây Y la, khi bị gió lay động trên đầu chảy máu làm dơ thân rồng bốc mùi hôi hám, lại bị giòi nhặng bu đến rúc rỉa ngày đêm khiến mọi người không muốn nhìn. Lúc đó Long vương đến đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, đại chúng nhìn thấy thân rồng ghê sợ như vậy, những người đã ly dục còn kinh sợ huống chi là người chưa ly dục. Khi họ nhìn thấy thân rồng với vi vẩy thô rít bị tét nứt, máu mủ chảy ra có đủ màu sắc kỳ lạ, thân dài lớn với nhiều chỗ cao thấp không bằng phẳng, liền hỏi Phật là vật gì. Phật nói: "đây là thân Chuyển luân thánh vương đã đến lúc nảy, các vị sanh tâm tham ái đối với thân vinh hoa sanh tử của nó. Thân trước là biến hóa, đây mới là thân thật, do nghiệp ác đời trước nên phải chịu khổ báo này", đại chúng nghe Phật nói rồi đều ưu sầu im lặng. Long vương hỏi Phật: "xin Thế tôn thọ ký cho con biết đến lúc nào con mới bỏ được thân rồng này?", Phật nói: "đời vị lai lúc con người thọ đến tám vạn tuổi, có Phật Từ thị ra đời đủ mười hiệu sẽ thọ ký cho ngươi thoát được thân rồng", Long vương nghe rồi đau buồn, mắt ở trên các đầu rồng liền ở trước mặt Phật đồng thời rơi lệ, nước mắt chảy thành mười bốn dòng sông. Phật nói: "ngươi hãy ngừng khóc, nước mắt chảy thành sông sẽ làm cho quốc độ tiêu vong", Long vương nói: "bản tâm con không làm hại đến mạng nhỏ huống chi là làm cho quốc độ tiêu vong", nói rồi đảnh lễ Phật và biến mất. Lúc đó đại chúng đều có nghi thỉnh hỏi Phật: "đời trước Long vương này đã tạo nghiệp gì mà lại mang thân rồng với cây Y la mọc trên đầu... như thế?", Phật nói: "nghiệp mà Long vương đã tạo đời trước, tự chịu quả báo không ai thay thế được, như bài kệ:

"Dù trải qua trăm kiếp,
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên hội họp,
Tự thọ lấy quả báo".

Các thầy lắng nghe: Quá khứ Hiền kiếp, lúc con người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca-diếp-ba ra đời đầy đủ mười hiệu, trụ trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Lúc đó Long vương ở trong giáo pháp của vị Phật ấy xuất gia, thông suốt ba tạng, tu thiền định ở nơi yên tĩnh dưới cây Y la. Khi đang kinh hành, lá cấy Y la rơi xuống trúng vào trán, tuy đau nhưng vị này vẫn chịu đựng; sau đó vì quá chú tâm nên mệt mỏi, lại bị lá cây y la rơi xuống trúng vào trán rất đau, vị này liền nổi giận dùng hai tay xé lá cây Y la ném xuống đất và nói: "Phật Ca-diếp-ba ở trên vật vô tình, thấy có lỗi gì mà chế học xứ làm cho ta phải chịu khổ này". Do sân giận nên hủy báng giới, do hủy báng giới nên sau khi qua đời bị đọa vào loài rồng chịu quả báo như thế. Này các Bí-sô, Bí-sô thông suốt ba tạng thuở xưa chính là Long vương ngày nay. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập nghiệp trắng".

Lúc đó Na-thích-đà đến đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên bạch Phật: "Thế tôn, điều con hứa trước đây nay đã làm xong, cúi xin Thế tôn cho con xuất gia trong thiện pháp luật của Như lai", Phật nói: "thiện lai Bí-sô, hãy xuất gia tu phạm hạnh", Phật vừa nói xong, râu tóc của Na-thích-đà tự rụng, ca sa hiện trên thân trở thành Bí-sô, giống như người đã được xuất gia bảy ngày, oai nghi nghiêm túc giống như Bí-sô trăm tuổi hạ. Phật nói kệ:

"Thế tôn gọi "Thiện lai",
Tóc rụng, đủ y bát,
Các căn đều tịch tĩnh,
Thành tựu theo ý niệm".

Các Bí-sô thấy Na-thích-đà xuất gia rồi, những vị đồng phạm hạnh không biết nên gọi tên như thế nào, bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô này mang họ Cađa-diễn-na, nên dùng họ này gọi thành tên". Lúc đó Phật bảo Ca-đa-diễn-na: "thế gian có hai chỗ y cứ là Hữu kiến và Vô kiến (chấp có và chấp không), do phiền não buộc ràng nên sanh cố chấp vào hai kiến này, phiền não không trừ thì ông lòng ngã mạn, cùng với khổ có Sanh, theo khổ nên có Diệt. Này Ca-đa-diễn-na, do không còn nghi hoặc nên trí huệ tự phát sanh, chánh kiến hiện tiền như tri kiến Phật, vì sao, vì với chánh trí thấy được pháp Sanh ở thế gian nên không còn chấp không; với chánh trí thầy rõ pháp Diệt ở thế gian nên không còn chấp có. Này Ca-đa-diễn-na, đối với cái thấy hai bên (có và không) không nên chấp trước, Như lai thường nương theo lý trung đạo mà thuyết pháp. Đó là:

Hễ cái này có thì cái kia sanh nên Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục xứ, Lục xứ duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão tử, ưu bi khổ não.

Hễ cái này diệt thì cái kia diệt nên Vô minh diệt thì Hành diệt, Hành diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh sắc diệt, Danh sắc diệt thì Lục xứ diệt, Lục xứ diệt thì Xúc diệt, Xúc diệt thì Thọ diệt, Thọ diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thủ diệt, Thủ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thỉ Sanh diệt, Sanh diệt thì Lão tử, ưu bi khổ não đều diệt.

Ca-đa-diễn-na vừa nghe xong liền ngay nơi chỗ ngồi quán thấy năm đường luân hồi sanh tử hữu vi là khổ không, vô thường, vô ngã, tâm ý khai ngộ, đoạn trừ các phiền não, chứng A-la-hán, ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát, được như thật tri: sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc nên làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Tâm không chướng ngại như tay nắm hư không, như dao cắt mùi thơm, yêu ghét không khởi, xem vàng và đất như nhau không khác, tất cả danh lợi đều xả bỏ, Thích Phạm chư thiên thảy đều cung kính. Do Phật đặt tên là Ca-đa-diễn-na nên từ đó về sau tôn giả được gọi là Đại Ca-đa-diễn-na.

Lúc đó ở nước Ôn thệ ni, dân chúng mắc bịnh dịch chết rất nhiều, xe tang nối nhau, thây chết đầy đồng nên vua và dân đều buồn khổ. Quần thần tâu vua nên tu phước nghiệp; có người tâu nên cúng dường Sa môn, Bà-la-môn; có người tâu nên làm chú thuật trị bịnh dịch. Vua nghe xong những lời luận bàn này rồi liền làm đủ việc cầu thỉnh trừ tai, muốn cho bá tánh được an ổn và bảo người giữa cửa thành: " nếu các khanh thấy có Sa môn, Bà-la-môn nào đến thành này mà có thể trừ được bịnh dịch thì báo ngay cho ta biết". Lúc đó Phật cũng nghe biết dân chúng nước ấy gặp bịnh dịch chết nhiều vô số nên muốn cứu hộ. Thường pháp của chư Phật là khởi tâm đại từ bi cứu giúp chúng sanh, trụ trong chánh quán, không nói hai lời, dựa trên định huệ hiển phát ba minh, thành tựu ba học, điểu phục hoàn toàn ba nghiệp, vượt qua bốn Bộc lưu, an trụ nơi bốn Thần túc, thường tu bốn nhiếp hạnh, xả trừ năm triền cái, đầy đủ năm chi, năm lực, viên mãn sáu độ, bố thí khắp tất cả bằng bảy Thánh tài, nở hoa bảy giác ngộ, chỉ bày tám chi Thánh đạo, xa lìa tám nạn, đoạn dứt hẳn chín kết, phương tiện thiện xảo tùy ý nhập Cửu định, đủ mười Lực, danh vang khắp mười phương, tự tại vô úy, hàng phục ma oán, cất tiếng sấm lớn, rống lên tiếng rống của sư tử, ngày đêm ba thời thường dùng Phật nhãn quán sát chúng sanh: trí huệ tùy chuyển của ai tăng, của ai giảm; ai gặp khổ nạn, ai bức bách, ai bị bức bách; ai xuống nẻo ác, ai lên đường lành, ai một bề thú hướng, ai còn mang gánh nặng. Nên dùng phương tiện gì để cứu độ chúng sanh ra khỏi đường ác, vào cõi trời người và được giải thoát; người chưa tu thiện căn khiến tu tập thiện căn, người đã tu thiện căn chưa thành thục khiến cho được thành thục, đã thành thục rồi khiến được giải thoát hướng tới Niết-bàn. Như bài kệ:

Cho dù hải triều lớn,
Cũng có khi trễ hạn,
Đối với người đáng độ,
Phật liền độ, không bỏ.
Như mẹ có con một,
Luôn giữ gìn mạng nó.
Đối với người đáng độ,
Phật thương hơn cả mẹ.
Đối với các hữu tình,
Phật từ bi thương tưởng,
Nghĩ cứu họ thoát khổ,
Như bò mẹ theo con.

Lúc đó Phật khởi niệm: "ai có thể điều phục vua Mãnh quang cùng cung phi thể nữ và dân chúng nước Ôn thệ ni", liền quán biết Đại Ca-đadiễn-na có thể điều phục được họ nên bảo Đại Cađa-diễn-na: "thầy nên quán vua Mãnh quang… và khiến cho họ được an lạc", tôn giả vâng lời Phật dạy. Sáng hôm sau tôn giả đắp y mang bát vào thành khất thực, sau khi thọ thực xong cùng năm trăm Bí-sô đi đến nước ôn thệ ni, trên đường đi ngang qua nước Kiến noa cúc xã. Trong thành này có một Bà-la-môn là bạn cũ của tôn giả, ông ta có một người con gái dung nghi đoan chánh với mái tóc sáng mượt không ai sánh bằng, nên có tên là Diệu phát. Một nhạc công từ phương Nam đến thấy cô có mái tóc tuyệt đẹp nên đến yêu cấu Bà-la-môn bán tóc của cô con gái với giá ngàn tiền vàng, Bà-la-môn nói: "pháp của Bà-la-môn là không được bán tóc, vì sao ông lại nói lời phi pháp này?", người kia nghe rồi im lặng bỏ đi. Thời gian sau người cha qua đời, người mẹ nghe tin tôn giả Ca-đa-diễn-na cùng năm trăm Bí-sô ghé lại trong thành này, ở cách đây không xa liền ngồi chống cằm suy tư. Diệu phát thấy mẹ suy tư liền hỏi rõ nguyên do, người mẹ nói: "tôn giả Đại Ca-đadiễn-na vốn là bạn cũ của cha con, nay đã đến đây nhưng cha con đã qua đời, nhà ta lại nghèo không thể lo liệu một bữa ăn thịnh soạn cúng dường nên mẹ lo buồn", Diệu phát nói: "nếu vậy hãy bán tóc của con cho người nhạc công với giá ngàn vàng để lo việc cùng dường. Thời gian sau tóc con sẽ mọc ra lại, mẹ chớ lo buồn", người mẹ nghe rồi biết con có tín tâm liền mang tóc đến nói với nhạc công: "trước đây nhân giả hỏi mua tóc của con gái tôi với giá ngàn vàng, nay mang tới đây xin ông trả theo giá trước", nhạc công nói: "lúc đó tôi cần có tóc này nhưng nay thì không cần nữa, nếu bà đã cắt mang đến thì tôi trả cho nửa giá", người mẹ bằng lòng bán với nửa giá, đưa tóc rồi nhận tiền mang về. Sau đó bà đi đến chỗ tôn giả Đại Ca-đadiễn-na đảnh lễ rồi bạch rằng: "Thánh giả đi đường có an ổn không, chồng con lúc sanh tiền là bạn của Thánh giả, xin thỉnh Thánh giả trưa mai đến nhà con thọ thực", tôn giả nói: "chúng tôi rất đông người làm sao bà dâng cúng cho đủ?", hỏi có bao nhiêu vị, đáp là năm trăm, bà nói được, tôn giả im lặng nhận lời. Bà mẹ biết tôn giả đã nhận lời, đảnh lễ rồi trở về lo liệu đủ các món ăn ngon cúng dường, sáng hôm sau trải tòa ngồi và để nước sạch xong, bà đến bạch thời đáo (đã đến giờ thọ thực). Tôn giả đắp y mang bát cùng năm trăm Bí-sô đến nhà bà và ngồi vào chỗ ngồi, bà tự tay dâng cúng các món ăn ngon, đợi đại chúng thọ thực xong, bà lấy chiếc ghế nhỏ ngồi trước tôn giả muốn nghe thuyết pháp. Tôn giả thuyết pháp xong rồi hỏi: "Diệu phát con bà đang ở đâu?", đáp: "vì dung nghi không tề chỉnh nên không dám đến", bậc A-la-hán nếu không quán sát thì không thể biết được, tôn giả liền nhiếp niệm quán biết tâm Diệu phát thuần thiện nên nói với bà mẹ: "con gái bà có tâm thiện, hãy gọi đến đây". Diệu phát ra khỏi phòng đến chỗ tôn giả đảnh lễ rồi ngồi một bên, bà mẹ bạch: "đây là Diệu phát, tuy biết mạo phạm nhưng xin thỉnh tôn giả cho làm con gái", lại nói: "đã hệ thuộc nhau, nay có việc nhân duyên xin thỉnh hỏi tôn giả: đứa con gái nên gả cho nhà nào?", tôn giả nói: "tôi là người xuất gia không nên đem việc thế tục ra hỏi, nhưng cô gái này sẽ được vật trang sức và chuỗi anh lạc trong ngoài số lượng đều bằng năm trăm tiền vàng, lại được phong ấp bằng năm tụ lạc", bà mẹ nói: "là con của nhà nghèo, ai lại ban cho thắng sự như vậy", tôn giả nói: "bà chớ nói lời này, cô gái này có phước đức do tâm ân trọng cúng dường thắng phước điền nên đáng được hưởng quả báo thù thắng này, xin chớ lo buồn", bà mẹ im lặng. Sau khi thuyết diệu pháp khiến cho hai mẹ con được lợi hỉ, tôn giả đứng dậy từ giã, tiếp tục lên đường đến nước Ôn thệ ni, khi cúng tăng vừa vào thành thì phân nửa tai họa đã có đều dứt trừ. Người giữ cửa đến tâu vua: "đại vương biết không, có năm trăm người với dung nghi thù đặc, vừa vào trong thành thì phân nửa tai họa đã có đều dứt trừ", vua nói: "đây là việc tốt, ta nên đích thân cúng dường", các Bà-la-môn đến tâu vua: "chúng tôi cực khổ ngày đêm làm việc trừ tai chướng, nhờ oai lực của chúng tôi nên phân nửa tai chướng được tiêu trừ, không bao lâu nữa sẽ trừ hết, không phải do ai khác, sao nay lại nói là do các Sa môn kia", vua bảo đại thần: "ta nghe người giữ cửa thành nói có năm trăm người với dung nghi thù đắc, vừa mới vào thành thì phân nữa tai họa đã có đều dứt trừ. Ta không biết do công sức của ai, vậy các khanh hãy đưa các Bí-sô và Bà-lamôn đến trong chuồng voi, ở chỗ không sạch dâng bánh gạo thô có tẩm nước dấm cho họ ăn, đợi họ ăn xong rồi hỏi: các vị hôm nay thọ thức ăn của vua cúng dường như thế nào?". Đại thần làm theo lời vua dặn bảo, đợi họ ăn xong liền hỏi các Bà-la-môn trước, Bà-la-môn tức giận cao giọng nói lớn rằng: "cúng dường như vậy là phi pháp, vua đem bánh gạo thô có tẩm nước dấm cúng dường thì làm sao có phước", kế hỏi các Bí-sô, Bí-sô đáp:

"thức ăn mà thí chủ cúng, người thọ nên ăn để nuôi thân trọn ngày đêm". Đại thần đem việc trên tâu lại vua, vua nghe rồi nói: "hôm nay ở nơi sạch trong chuồng voi, dâng cúng các món ăn ngon rồi hỏi như trước", đại thần làm theo lời vua dặn bảo, đợi họ ăn xong liền hỏi các Bà-la-môn trước, Bà-la-môn nói: "vua dòng Sát-đế-lỵ quán đảnh cúng dường thức ăn ngon như thế được phước vô lượng", đại thần nói: "nhà bếp của vương cung làm việc không chuẩn mực, hôm nay họ may mắn không bị chê trách", Bà-la-môn im lặng; kế hỏi các Bí-sô, Bí-sô cũng đáp như trước. Đại thần đem việc trên tâu lại vua, vua nghe rồi lại bảo đem thức ăn thô dở và thức ăn ngon cho họ ăn trong chồng ngựa, như trong chuồng voi rồi hỏi như trên, họ cũng đáp giống như trên. Vua nghe rồi suy nghĩ: "chúng Bí-sô mới là ruộng phước, không phải là Bà-la-môn", nghĩ rồi sanh tín tâm đến chỗ tôn giả Đại Ca-đa-diễn-na, đảnh lễ rồi ngồi một bên, tôn giả vì nói diệu pháp khiến được lợi hỉ rồi im lặng, vua đứng dậy đảnh lễ rồi bạch: "xin thỉnh tôn giả cùng các Thánh chúng ngày mai đến trong vương cung thọ thực", tôn giả im lặng nhận lời, vua từ giả trở về cung. Ngay trong đêm ấy, vua cho lo liệu đầy đủ các món ăn ngon, sáng hôm sau trải tòa ngồi để nước sạch rồi sai sứ đến bạch thời đáo, tôn giả đắp y mang bát cùng các Bí-sô đến trong cung ngồi vào chỗ ngồi. Lúc đó, vua ra lịnh cho nhạc công trỗi nhạc, các vũ công ca múa; tôn giả cùng chúng tăng ngồi nghiêm trang thu nhiếp các căn, vua hỏi tôn giả: "tôn giả nghe nhạc và nhìn thấy ca múa như thế nào?", tôn giả nói: "đại vương, người có nghe thấy mới biết hay dỡ", vua nói: "các căn đóng kín có thể cho là không biết, nhưng tâm theo ngoại cảnh sao nói là không thấy nghe?", tôn giả muốn dùng phương tiện khiến cho vua hiểu rõ việc này nên hỏi vua: "hiện nay có người nào sắp bị xử tội chết hay không?", vua hỏi để làm gì, đáp: "vua có thể để một bát đựng đầy dầu vào trong tay họ rồi sai người cầm dao đi sau, tuy làm cho họ kinh sợ nhưng không nên làm tổn hại, kế bảo họ đi một vòng ở trước chỗ các kỹ nữ tấu nhạc và nói với họ rằng: nếu để cho một giọt dầu văng ra đất thì sẽ bị chặt đầu. Khi họ đi xong một vòng, vua hỏi họ có thấy kỹ nữ đẹp và có nghe tấu nhạc hay không. Vua nghe họ nói rồi sẽ tin lời tôi nói là thật". Vua liền cho làm theo lời tôn giả nói, khi được hỏi người cầm bát dầu đáp: "ai có thấy nghe mới biết hay dỡ", vua nói: "ngươi có mắt tai vì sao nói là không nghe thấy?", người ấy đáp: "đại vương, nếu tôi làm văng ra một giọt dầu thì người cầm dao theo sau sẽ chặt đầu tôi. Tôi vừa sợ bát dầu nghiêng đổ, vừa sợ bị đầu rơi nên nhất tâm cầm bát dầu cẩn trọng từng bước chân đi, rảnh đâu mà nhìn nghe để biết kỹ nữ có đẹp và âm nhạc có hay hay không", vua nghe rồi im lặng. Tôn giả nói: "đại vương, người này chỉ vì sanh mạng của một đời này, sợ bị khổ lớn mà còn cẩn trọng như vậy không dám buông lung để hộ tự thân; huống chi Bí-sô chúng tôi đã từ bỏ việc xem nghe ca múa âm nhạc. Biết đây chính là nhân sanh ra thống khổ, lẽ nào chúng tôi lại muốn thấy nghe nữa", vua nghe rồi càng thêm kính phục tôn giả. Lúc đó Thái tử và các thể nữ, nội cung cùng dân chúng đều tùy hỉ dâng các món ăn thượng diệu đến cúng dường các Bí-sô. Đợi chúng tăng thọ thực xong, vua ngồi trên ghế thấp ở trước tôn giả hỏi: "có nơi nào dâng cúng thức ăn thượng diệu cho năm trăm Thánh chúng như tôi hay không?", tôn giả nói: "vua là quốc chủ cai trị trăm thành, mọi việc đều theo ý vua, dùng thức ăn thượng diệu dâng cúng năm trăm vị Tăng chưa phải là hiếm có. Trước khi tôi đến đây, ở trong tụ lạc kia, có một cô gái nhà nghèo đã tự cắt tóc mình đem bán được năm trăm tiền vàng để thiết thực cúng dường cho chúng tôi, tâm thành như vậy mới là hiếm có", vua nghe rồi suy nghĩ: "tóc của cô gái ấy trị giá năm trăm tiền vàng, các thể nữ trong cung khó thể so được, ta nên tìm kiếm xem là người nào rồi sẽ hỏi cưới, tôn giả là bậc cao đức ta không nên hỏi", nghĩ rồi liền bảo sứ giả: "ngươi hãy đến những nơi tôn giả đã đi đến, tìm kiếm xem cô gái cắt tóc bán được năm trăm tiền vàng để thiết thực cúng dường cho tôn giả Đại Ca-đa-diễn-na ở đâu, đó là người ta muốn gặp". Sứ giả biết tâm ý của vua liền đi dò hỏi, cuối cùng cũng tìm được nhà của Bà-la-môn, bà mẹ bước ra hỏi: "sứ giả đến đây có việc gì?", đáp: "tôi muốn tính việc hôn nhân cho Diệu phát, con gái bà", bà mẹ hỏi với ai, đáp: "để sung vào ngôi hoàng hậu cho vua Mãnh quang", bà mẹ nói: "rất tốt nhưng sính lễ không ít: đồ trang sức và chuỗi anh lạc trong ngoài đều phải đủ số năm trăm, lại được phong ấp bằng năm trăm tụ lạc thì tôi mới gả con gái", sứ giả nghe rồi liền trở về tâu lại vua, vua nghe rồi nói: "họ đòi sính lễ bao nhiêu thảy đều cung cấp đủ", sứ giả tuân theo lịnh vua đưa sính lễ đến nhà cô gái, chọn ngày tốt với nghi lễ đầy đủ, quân lính trước sau trang nghiêm với cờ trống rước cô dâu về. Ngay trong ngày cô dâu vào thành Ôn-thệ-ni, tất cả tai dịch đều tiêu trừ, đất nước bình yên, nhân dân an lạc; nhờ điềm lành này nên mọi người gọi Diệu Phát là phu nhân An lạc.

QUYỂN 22

Nhiếp tụng nội dung:

Trên lầu, gặp Tăng trưởng,
Dâm nữ, đêm xem sao,
Do làm tiếng ngựa hí,
Thương nhân, ôm xương khô.

Trong thành Ôn thệ ni, nơi vua Mãnh quang cai trị, có một trưởng giả cưới vợ chưa bao lâu liền để vợ ở nhà, sang xứ khác kinh doanh mua bán. Người chồng đi rồi, người vợ ở nhà tự do ăn mặc, do tâm dục hừng thạnh nên hằng ngày lên lầu nhìn ngắm nam tử. Một hôm người nữ này nhìn thấy vua Mãnh quang cỡi voi lớn đi ngang, khởi dục tâm nên ném vòng hoa xuống rơi trúng trên vai của vua. Vua nhìn lên thấy người nữ này dung mạo tuyệt trần, biết nàng ta có ý dục liền nói: "nếu nàng có ý yêu vì sao không xuống đây", đáp: "thiếp là phụ nữ không được vô cớ ra ngoài, nếu vua nghĩ đến thì thật hân hạnh cho thiếp", vua bị mê hoặc nên xuống voi đi vào nhà cùng người nữ trên lầu hoan lạc, kết quả nàng ta có thai. Người nữ trí huệ biết được năm điều: một là biết người nam có tâm dục hay không, hai là biết thời tiết, ba là biết thời gian thọ thai và là thai của ai, bốn và năm là biết thai nhi là nam hay nữ. Lúc đó người nữ này tâu vua: "đại vương biết không, thiếp đã có thai", vua trao cho nàng chiếc vòng anh lạc quý rồi nói: "nếu nàng sanh con gái thì tùy tình thọ dụng, nếu là sanh trai thì gởi chiếc vòng này đến cho ta", nói rồi vua từ giã. Thời gian sau bầu thai lộ rõ ra, lúc đó người chồng cũ lại đưa thư về báo: "nàng hãy sống an vui, không bao lâu nữa ta sẽ trở về", người nữ này đọc thư xong rất lo âu liền sai người đưa tin báo cho vua biết, vua cũng đưa tin nói rằng: "nàng chớ lo lắng, ta có cách làm cho chồng nàng không trở về", vua lại đưa tin bảo người chồng rằng: "ta đang cần vật như vậy, khanh hãy đến xứ xa ấy tìm cho được rồi mang về đây", người chồng tuân lịnh vua lặn lội đến xứ xa tìm kiếm nên phải mất nhiều năm. Người vợ kia ở nhà đủ ngày tháng sanh ra một bé trai, dung mạo đoan nghiêm hiếm có trong đời; trời sắp sáng, nàng mớm mật ngon vào đầy miệng của đứa bé rồi đặt nó vào trong chiếc rương có lót lụa mềm, dùng tấm nỉ trắng đắp lên mình nó, bên trên để chiếc vòng anh lạc của vua ban rồi đóng rương lại, cột lại bằng dây đỏ rồi bảo tỳ nữ mang chiếc rương này đến trước cửa cung vua, lau sạch một hộp đàn hương để cây đèn đốt sáng rồi đứng một bên, chờ khi có người nào đi đến mới trở về. Người nữ tỳ vâng làm theo lời chủ dặn, lúc đó có bầy bò đi trên đường, khi đến chỗ chiếc rương thì vây quanh không đi nữa. Vua Mãnh quang cùng phu nhân An lạc đứng trên lầu cao thấy bầy bò đứng vây quanh không đi, ngạc nhiên sai người ra xem thử, người hầu ra xem rồi trở vào tâu lại, vua liền bảo mang chiếc rương vào cho vua xem, phu nhân tâu vua:

"xin vua ban cho thiếp vật trong rương", vua nói tùy ý. Người hầu mang rương vào, khi mở rương ra thấy chiếc vòng anh lạc và đứa bé; vua nhìn chiếc vòng anh lạc biết đứa bé này là con của mình liền trao đứa bé cho phu nhân nói rằng: "đấy là con của nàng". Phu nhân nhận lấy rồi chú nguyện cho đứa bé được trường thọ và hỏi vua nên đặt tên cho đứa bé là gì, vua nói: "đứa bé có phúc được bầy bò hộ vệ nên đặt tên là Ngưu hộ, lại do phu nhân An lạc đích thân nuôi dưỡng nên đổi hiệu mẹ là Ngưu hộ mẫu".

Lúc đó ở phương Bắc tại nước Đắc xoa thi ca có vua Viên thắng trị nước được phồn vinh, dân chúng được an cư lạc nghiệp…, trong các vườn cây thường có hoa trái, mưa gió thuận hòa nên khất thực dễ được. Một hôm, vua cùng các quan ở trên lầu cao yến ẩm vui vẻ, vua hỏi: "có nước nào phồn thịnh như nước của ta không?", đại thần tâu: "có nước Ôn thệ ni, vua hiệu là Mãnh quang trị nước cũng được phồn vinh không khác nước ta, hiện có các thương nhân của nước đó đến nước ta mua bán", vua liền cho gọi các thương nhân đó đến hỏi. Khi biết được nước kia cũng phồn thịnh như nước mình, vua sanh tâm đố kị liền ra lịnh tập họp bốn binh để sang chinh phạt nước đó, đến nơi vua ra lịnh chém giết vô độ, phi lý tàn hại khiến bá tánh điêu linh. Vua Mãnh quang đem binh ra chống cự nhưng không địch nổi, quân binh tan rã, vua đơn thân độc mã bỏ chạy. Khi chạy đến bên ngoài đồng hoang, vua gặp một nông phu tên là Tăng trưởng đang tự cày ruộng. Vua thấy dung mạo khác với người thường nên hỏi: "ông là người dõng mãnh, có nghe biết việc vua Viên thắng cùng vua Mãnh quang đánh nhau và vua Mãnh quang đại bại hay không?", đáp: "tôi có nghe nhưng không biết rõ thật hư", vua nói: "việc đó là thật", nông phu này không biết người này là vua Mãnh quang nên nói: "vua kia là khách, vua Mãnh quang ở trong nước mình bị vua kia đến xâm lấn phải bỏ chạy, vậy thì mưu thần tướng mạnh dùng vào việc gì. Nếu trước đó vua dùng tôi làm người phò tá thì tôi đã dùng dây cột cổ vua Viên thắng lôi vào trong thành rồi". Nói chuyện chưa xong thì người vợ đưa thức ăn đến, vật đựng được kết bằng lá, người chồng rửa tay muốn ăn, nhìn sang vua thấy bộ dạng có vẻ đói nên nói: "tôi là kẻ nghèo hèn, chỉ có thức ăn thô dỡ này, nếu không chê thì hãy cùng ăn", vua suy nghĩ: "nếu ta không ăn thì sẽ chết đói", nghĩ rồi liền xuống ngựa lấy vật lót ngồi, rửa tay rồi cùng ngồi ăn. Lúc đó người vợ rót rượu trong chén mẻ cho uống, vua suy nghĩ: "tuy biết chén mẻ nhưng ta sẽ chỗ không bị mẻ", vua vốn có trí sách lược biết tùy thời ứng xử nên nghĩ lại: "nếu ta uống chỗ không bị mẻ thì người kia sẽ cho là ta khinh khi họ, ta nên uống chỗ bị mẻ để họ có cảm tình sâu đậm với ta". Lúc đó nông phu uống ngay chỗ bị mẻ để tránh độc rồi rót rượu vào chén đưa cho vua, vua nhận lấy rồi uống ngay chỗ bị mẻ, nông phu thấy rồi liền suy nghĩ: "người này là bậc trượng phu, ý không phân biệt mới cùng uống chung chén rượu với ta ở chỗ bị mẻ, ta nên kính trọng và kết giao hảo", nghĩ rồi liền nói với vợ: "bậc đại trượng phu này là người bạn thân thiện đắc ý của ta, nàng hãy đưa vị này về nhà mình, đưa dầu thoa thân và nước nóng để tắm rồi dọn thức ăn cho ăn; cũng lo cỏ nước đầy đủ cho con ngựa", người vợ làm y theo lời người chồng dặn cung cấp cho vua đầy đủ.

Lúc đó có một nước nhỏ tên là Kiệt sa lén đến cướp phá, lấy cá của dân ở trong nước của vua Viên thắng, đại thần đưa tin tâu rõ mọi việc để vua khéo xử trí, cuối thư có viết kệ:

Vua đang ở nước khác,
Khổ nhọc chinh phục người,
Ngay tại đất nước mình,
Cũng phải cần bảo vệ.

Vua Viên thắng đọc thư xong suy nghĩ: "nếu ta dẫn binh trở về, mọi người sẽ cho là ta bị thua nên trở về, vậy ta nên kết giao hảo với vua nước này rồi hãy rút binh trở về", nghĩ rồi liền đưa tin đến nói với vua Mãnh quang: "việc đã qua không nên nhắc lại, vua hãy tạm ra ngoài cùng tôi gặp mặt, việc thắng bại không luận tới nữa, từ nay hai nước kết giao hảo, không chống đối nhau, đồng hòa bình như xưa, tôi sẽ rút binh trở về nước mình". Các đại thần xem thư xong cùng luận bàn: "nếu chúng ta nói là không có vua thì vua kia tất sẽ khinh thường, chúng ta hãy phương tiện ứng phó", bàn xong liền đưa tin nói rằng: "đại vương, tôi xem thư xong tuy biết sự việc thật như vậy nhưng vẫn còn do dự, nếu hai bên gặp mặt nhau ắt có hồ nghi nên không thể cùng tiếp kiến. Tôi cho con ruột của tôi là Thái tử Ngưu hộ ra gặp đại vương, nếu vua hoan hỉ thì tùy ý đi hay ở lại", Ngưu hộ liền ra thành gặp vua Viên thắng kết giao hảo, hai bên hoan hỉ, vua Viên thắng rút binh trở về nước. Lúc đó quần thần nói với nhau: "việc oán địch nay như mưa đã tạnh, chúng ta hãy mau tìm kiếm quốc vương", nói rồi liền cho sứ giả đi khắp bốn phương tìm kiếm vua Mãnh quang. Lúc đó vua Mãnh quang nghe tin vua Viên thắng đã rút binh về nước liền nói với nông phu: "nay tôi đã hết sợ, xin từ giã trở về, nếu bạn có vào thành thì hãy ghé đến nhà tôi", nông phu nói: "bậc đại trương phu tên gì, nhà ở đâu tôi còn chưa biết thì làm sao hỏi thăm để đến nhà?", vua nói: "trong thành ai lại không biết nhà tôi, khi bạn vào thành cứ hỏi nhà người có nhiều ngựa ở đâu, thì sẽ có người dẫn tới", nói xong vua lên ngựa trở về. Khi đến cửa thành, vua bảo người giữ cửa thành rằng: "các ngươi nên biết, nếu có người nào hỏi thăm nhà người có nhiều ngựa ở đâu thì hãy dẫn đến gặp ta", nói rồi vua trở vào cung. Thời gian sau, nước Ôn thệ ni có lễ hội lớn nên dân chúng gần xa đều tụ tập về thành, vợ nông phu nói với chồng: "hôm nay trong thành có lễ hội lớn, chúng ta đến dự hội, nhân dịp đó hỏi thăm nhà của người có nhiều ngựa", nông phu nói: "lời của những kẻ hào sĩ lẽ nào lại thật, có thể gặp được họ trong ba trường hợp: một là bị người khác đánh phá, hai là bị người khác khinh khi, ba là bậc quốc chủ tan nhà mất nước. Ngoài ba trường hợp này ra không làm sao gặp được họ", người vợ nói: "tuy biết khó gặp nhưng vẫn nên hỏi thử", nói rồi hai vợ chồng cùng vào thành và hỏi thử người giữ cửa thành nhà của người có nhiều ngựa ở đâu, người giữ cửa thành theo như lời vua đã dặn liền dẫn hai người đến chỗ vua. Vua từ xa trông thấy vừa kinh ngạc vừa vui mừng chào hỏi thiện lai, lúc đó nông phu Tăng trưởng thấy vua ngồi trên tòa sư tử với các quan vây quanh, vì chưa nhận biết vua nên trong lòng thầm nghĩ không biết phạm tội gì mà bị bắt đến đây. Vua biết họ nghi sợ, muốn làm cho họ nhớ lại nên bước xuống tòa, giở thiên quan xuống để lộ cái trán rộng ra. Tăng trưởng vừa thấy liền nhớ biết vua chính là người đã gặp trước kia, hai vợ chồng vội quỳ xuống trước vua, vua với nghi thức long trọng đưa họ vào trong hậu cung tắm rửa bằng nước thơm và cho mặc y phục đẹp, ở trong nhà khách thọ trăm món thức ăn thượng diệu và cho họ nghỉ ngơi trong cung, trên giường nệm với màn trướng thơm ngát. Vua bảo hậu cung: "đây là cha mẹ ta, thức ăn y phục, đồ nằm và người hầu, nếu họ cần gì đều phải cung cấp đầy đủ", thấy vua kính trọng họ nên từ vương tử, đại thần cho đến thứ dân cũng đều kính trong họ. Tăng trưởng thấy mình được kính trọng như vậy cũng cảm thấy ngượng ngùng nên sau bảy ngày đến gặp vua xin từ giã, vua nói: "khanh hãy ở lại cùng ta trị nước", đáp: "tôi là nông phu làm sao biết được việc nước", vua nói: "chẳng phải trước kia khanh có nói rằng nếu được vua trọng dụng thì sẽ dùng dây trói cổ vua Viên thắng lôi vào trong thành hay sao. Sao bây giờ lại nói là không biết được việc nước, hãy tạm ở lại chớ nghĩ đến việc trở về nhà", Tăng trưởng im lặng. Sau đó vua cố lập chức đại tướng và phong làm tễ phụ nhưng cung cấp thức ăn còn sơ sài, thời gian sau hỏi thăm sống có tốt không, đáp: "ăn sáng chưa no làm sao sống tốt được", vua nghe rồi liền bảo đại thần cung cấp đầy đủ cho Tăng trưởng về thức ăn áo mặc, do đây được có tên là Tăng dưỡng. Thời gian sau, vua lại hỏi thăm có sống tốt không, đáp: "tuy ăn mặc đầy đủ nhưng bị các quan đại thần khinh khi làm sao sống tốt được", vua nói: "khi nào các quan đang bàn luận, khanh hãy đến trong đó thì họ sẽ không dám coi thường", đáp: "tôi là nông phu làm sao dám đến chỗ các bậc quyền quý trong triều đang bàn luận", vua nói: "khanh cứ đến dự, ta sẽ làm cho họ quý trọng khanh", sau đó khi triều đình hội họp, vua muốn các đại thần quý trọng Tăng dưỡng nên phương tiện hỏi: "hiện nay trong nước có các việc bất an như vậy, các khanh làm thế nào để chấm dứt?", khi các quan lần lượt trình bày ý kiến của mình, vua đều nói không được nhưng khi hỏi ý kiến của Tăng dưỡng, nghe Tăng dưỡng trình bài vua liền chấp nhận cho là đúng lý; các quan thấy việc này rồi đều suy nghĩ: "lời Tăng dưỡng nói vua đều tin dùng, vậy không nên coi thường người này". Thời gian sau, vua lại hỏi thăm sống có tốt không, đáp: "chỗ ở chưa rộng làm sao sống tốt được", vua liền bảo đại thần cung cấp nhà rộng cho Tăng dưỡng, đáp: "có đại thần __________ vừa qua đời, thê thiếp hiện còn đang ở trong nhà", vua nói: "hãy ban nhà này cùng thê thiếp và các tài vật cho Tăng dưỡng". Thời gian sau, vua lại hỏi tham sống có tốt không, đáp: "những người trong nhà cho tôi là nông phu nên đều khinh mạn", vua nói: "nếu như vậy khi khanh đang tắm, ta sai sứ đến gọi, khanh nói là đợi ta tắm xong sẽ đến gặp vua", đáp: "làm sao tôi dám trái lại lịnh của đại vương", vua nói: "việc này do ta sắp đặt, khanh không có lỗi; lại nữa, khi khanh đang ăn, ta sai sứ đến gọi, khanh nói là đợi ta ăn xong sẽ đến gặp vua; hoặc là ta sẽ đến nhà cùng ăn chung mâm với khanh", đáp: "tôi làm sao dám ăn chung với đại vương", vua nói: "ta cho phép, khanh không có lỗi". Sau đó khi Tăng dưỡng đang tắm, vua sai sứ đến gọi, Tăng dưỡng nói đợi tôi tắm xong sẽ đến, sứ ra về, người trong nhà nghe rồi liền nói với nhau: "chủ nhà này dám trái lịnh vua, ai khinh mạn ắt rước lấy họa; nhưng vốn không phải là người sang trọng, khi được chút thế lực liền sanh cao ngạo. Người trèo cao ắt sẽ té nặng, hôm nay người này chắc sẽ bị vua giết, việc này sẽ thấy ngay thôi". Sau đó khi Tăng dưỡng đang ăn, vua sai sứ đến gọi, Tăng dưỡng nói đợi tôi ăn xong sẽ đến, sứ ra về, vua nghe sứ báo rồi liền cỡi voi đến nhà, Tăng dưỡng mời vua dùng. Người trong nhà thấy vua không nổi giận, cùng chủ nhà nói chuyện bình thường nên ngạc nhiên trương mắt ra nhìn; khi thấy vua rửa tay ngồi vào bàn ăn chung với chủ nhà, người trong nhà đều sợ hãi nói với nhau: "vua cùng ăn chung với người nông phu này, từ nay về sau, chúng ta chớ có khinh thường, nếu không ắt bị tai họa". Thời gian sau, vua lại hỏi thăm sống có tốt không, đáp: "có một đại thần là thân tộc của vua thường khinh mắng tôi, làm sao sống tốt được", vua nói: "nếu ta nói ra thì có trở ngại, khi cần xử sự, khanh tự biết tiến thối", đáp: "xin vua đừng trách hành động của tôi", vua nói sẽ không trách. Sau đó, khi Tăng dưỡng đang đi trên đường thấy hai đồng tử nghèo, không thân thuộc đang cầm ná và đạn đứng chơi bên đường. Lúc đó có một nô tỳ đội một vò nước đi ngang qua, một đồng tử nói: "tôi sẽ dùng đạn khô bắn lủng vò nước", đồng tử kia nói: "dùng đạn khô bắn lủng thì không có gì là lạ, tôi sẽ dùng đạn ướt bắn lấp lỗ thủng đó mới thật là việc lạ", nói xong một người dùng đạn khô bắn lủng vò nước, một người dùng đạn ướt lấp lại lỗ thủng. Tăng dưỡng thấy rồi liền suy nghĩ: "hai đồng tử này có thể giúp ta hàng phục vị vương thân kia, đồng thời trừ được nỗi oán hận bị khinh mắng", nghĩ rồi liền hỏi hai đồng tử là con nhà ai, đáp: "chúng cháu không thân thích, tự kiếm sống qua ngày", Tăng dưỡng nói: "nếu vậy hãy về sống với ta". Sau khi về sống với Tăng dưỡng, chúng hỏi: "chúng cháu nên làm việc gì?", đáp: "hai cháu chỉ cần tập bắn đạn, sau này khi thấy có ai cạnh tranh với ta thì cháu nên bắn viên đạn bùn, bất tịnh vào miệng người đó là được". Sau đó khi Tăng dưỡng đang cùng vị vương thân kia tranh cãi, đồng tử này từ xa bắn đạn bùn bẩn vào miệng của người ấy, người ấy mửa ra rồi ôm miệng bỏ chạy, từ đó về sau không còn đến khinh mắng nữa. Thời gian sau, vua lại thăm hỏi sống có tốt không, đáp: "nội cung của vua cho tôi là nông phu nên đều khinh thường", vua nói: "nếu vậy khi ta ở trong cung, khanh ở ngoài cửa hỏi vua đang ở đâu, nếu nói là ở trong cung, khanh nên nói là việc nước ngổn ngang, nếu ở mãi trong hậu cung thì làm sao giải quyết được. Lại nữa khi ta ở trong cung thì khanh lên giường bên cung điện của ta nằm duỗi chân ngủ, ta sẽ ra đỡ chân khanh lên", đáp: "đại vương, chẳng lẽ tôi có hai đầu hay sao mà khiến vua đỡ chân. Vua tôi có sai biệt, cao thấp khác nhau đâu thể làm trái ngược", vua nói: "đó là sự yêu mến của ta, khanh có lỗi gì". Sau đó Tăng dưỡng làm y theo lời vua đã dặn, khi thấy vua đỡ chân của Tăng dưỡng, nội cung đều không nhịn nổi muốn tới làm nhục Tăng dưỡng, vua nói: "các khanh chớ hành động, đây là sự yêu mến của ta, người này có lỗi gì", họ nghe rồi liền nói với nhau: "người này được vua yêu mến, nếu chúng ta còn khinh mạn, vua ắt sẽ trị tội chúng ta", thời gian sau vua hỏi thăm sống có tốt không, đáp là tốt.

Vua Mãnh quang tánh ưa nữ sắc, một hôm cùng các thiếu niên lên lầu cao luận bàn thế sự liền hỏi: "các người có biết ở đô thành nào có gái đẹp không?", một người nói là ở thành Khúc nữ, một người nói là ở thành Xuất xà cái, một người nói: "các thành ở nước khác chưa đáng kể, trong thành này có một dâm nữ tên là Thiện hiền, nhan sắc tuyệt trần hiếm có trong đời như thiên nữ trên cung trời Đế thích, như mặt trăng che hết muôn sao", vua nghe rồi vui mừng, ý muốn được gặp nên ngay trong đêm ấy cởi bỏ ngự bào, mặc y phục thường dân mang theo năm trăm tiền vàng đến nhà dâm nữ. Thiện hiền thấy vui mừng chào đón rồi bảo nữ tỳ phục vụ cho vị trượng phu này tắm, nữ tỳ tuân lời tắm rửa cho vua; lúc đó bỗng có người đem đến năm trăm tiền vàng, muốn cùng qua đêm. Dâm nữ này có quy tắc là nếu có người đến sau thì giết người đến trước để cùng người đến sau hoan lạc, nữ tỳ thấy vua dung mạo đoan chánh không giống như người thường nên rơi lệ suy nghĩ: "phải chăng người này là thuộc dòng Sát-đế-lỵ, vì dung mạo rất đoan chánh hiếm có trên đời. Vì sao dâm nữ lại ác tâm phi lý giết chết". Lúc đó nước mắt rơi trên người vua, vua ngước lên hỏi vì sao, đáp là không có gì cả, vua nghi ngờ nên gạn hỏi, nữ tỳ này liền nói rõ nguyên do, vua hỏi: "nay ta đã thất thế, có cách gì chạy thoát khỏi nơi đây không?", đáp: "bốn phía nhà đều có người cầm dao phòng vệ, không thể chạy thoát được; tuy có chỗ ra nhưng rất dơ bẩn", vua nói: "bất luận dơ bẩn như thế nào, hãy chỉ cho ta, ta cần phải sống", đáp: "nơi đó là ống cống của nhà xí được đóng bằng cọc sắt, nếu nhổ ra được thì đó là đường thoát", vua nói: "hãy chỉ chỗ, ta sẽ nhổ thử xem", nữ tỳ liền chỉ chỗ. Lúc đó vua đưa người xuống ống cống để nhổ cọc sắt, tuy ráng hết sức vẫn không thể nhổ được; bên ngoài tường cách chỗ ấy không xa có một Bà-la-môn giỏi xem thiên văn, ban đêm ra ngoài ngước nhìn sao, người vợ bưng nước theo sau.

Bà-la-môn nói: "ta xem sao thấy vua đang gặp nạn khổ lớn", người vợ nói: "việc cơ mật quốc gia đâu nên nói ra, nếu người khác nghe được ắt sẽ bị hình phạt", Bà-la-môn nói: "ta được che chở, trên hết là nhờ vua, vua nay gặp nạn ta làm sao an ổn", nói rồi liền quỳ xuống giữa sân hướng về ngôi sao tai ách cầu nguyện. Trong ống cống vua nghe được lời cầu nguyện đó nên tận lực nhổ được cọc sắt, liền theo hướng đó thoát ra ngoài, mình dính đầy chất bất tịnh, vua vừa thoát ra ngoài thì sao tai ách cũng biến đổi; Bà-la-môn thấy sao biến đổi liền nói với vợ: "vua tuy mắc nạn nhưng nay đã được thoát rồi, tánh mạng vẫn còn, thật là may mắn". Lúc đó vua vội chạy lén vào trong thành đến chỗ phu nhân An lạc, phu nhân vừa nhìn thấy liền nói: "đại vương vì sao lại ra nông nỗi như thế này", vua kể lại việc trên. Phu nhân nghe rồi rơi lệ, dùng lược tre chãi sạch chất bất tịnh rồi dùng đất thơm tẩy sạch, sau đó dùng các loại hương bột và nước thơm tắm cho vua, thoa dầu thơm rồi đưa y phục thượng diệu cho vua mặc. Sáng hôm sau vua thượng triều bảo đại thần: "hãy gọi tất cả các tướng sư biết xem thiên văn đến đây", đại thần liền cho gọi đến, vua hỏi: "đêm qua có thấy việc gì lạ đối với ta hay không?", đáp là không có thấy gì lạ, vua liền bảo đại thần: "hãy đến chỗ __________ cho gọi Bà-la-môn giỏi xem thiên văn đến đây", sứ giả liền đến gọi, Bà-la-môn mặc áo định đi, người vợ nói: "ta đã nói việc cơ mật quốc gia đâu cần nói ra, ông không chịu nghe nên nay bị gọi đến hỏi", Bà-la-môn liền quan sát ánh mặt trời buổi sáng, biết là không có việc xấu nên nói với vợ: "bà không nên sợ, đây là điềm tốt lành". Vua từ xa trông thấy liền chào hỏi và gọi đến gần vua, Bà-la-môn chúc vua được trường thọ, vua mời ngồi rồi hỏi: "ông biết xem thiên văn phải không?", đáp là biết chút ít, lại hỏi: "đêm qua ông thấy có việc gì đối với ta?", đáp: "thần thấy vua gặp nạn khổ, may nhờ phước lực của vua nên vẫn được toàn mạng sống", vua nghe rồi liền bảo các quan: "đúng như lời đại sư đã nói, đêm qua mạng ta gặp nguy, các tướng sư kia không thông thiên văn, từ nay về sau tước bỏ bổng lộc. Hãy bắt dâm nữ Thiện hiền đem cột tóc dưới chân ngựa cho nó đạp chết, nhà nó đang ở cho lừa đến cày xới lên, người nữ tỳ ở trong nhà đó tắm cho ta đưa vào trong hậu cung", đại thần làm theo lịnh vua ban ra. Lúc đó vua bảo Bà-la-môn: "khanh đã cầu nguyện cho ta nên ta còn sống, nay muốn báo ân, vậy khanh muốn gì?", Bà-la-môn đáp: "xin cho thần hỏi lại người trong nhà rồi sẽ đến tâu vua", vua nói tùy ý. Bà-la-môn trở về hỏi người trong nhà: "vua ban cho ta điều nguyện, vậy các người muốn gì?", người vợ hỏi: "vậy ông muốn gì?", đáp là muốn được phong ấp bằng năm tụ lạc lớn; người vợ nói muốn được một trăm con bò mẹ để lấy sữa; con trai nói muốn được xe ngựa báu để cỡi đi; con gái nói muốn được đồ trang sức bằng chuỗi anh lạc thượng diệu, người hầu nói muốn được cục đá nghiền hương dùng để làm thức ăn. Bà-la-môn nghe rồi liền suy nghĩ: "muốn nhiều điều như vậy thì không nên nói thẳng ra, ta nên làm bài kệ", sau đó đến chỗ vua tâu rằng: "những điều mà người trong nhà của thần mong muốn, xin vua tha tội thần mới dám nói", nói rồi liền trình lên vua bài kệ:

"Thần muốn năm ấp phong, Vợ xin trăm con bò,

Trai muốn xe ngựa báu, Gái thích chuỗi anh lạc, Người giúp việc trong nhà, Cần đá để nghiền hương, Những mong cầu như thế, Xin vua thương ban cho".

Vua liền nói kệ đáp:
"Cho ông năm ấp phong,
Một trăm bò cho vợ,
Xe ngựa báu cho trai,
Chuỗi anh lạc cho gái,
Người giúp việc trong nhà,
Cho đá quý nghiền hương.
Những mong cầu như vậy,
Ta đều cho mãn nguyện".

Sau khi ban cho tất cả theo yêu cầu, vua bảo Bà-la-môn: "khanh hãy ở lại giúp ta trị nước, cùng luận bàn chính sự", đáp: "thần là Bà-la-môn vốn không nên biết việc nước", vua vẫn cố nài ép đưa Bà-la-môn lên làm đại thần.

Lúc đó có nước lân cận tên Kiệt sa phản nghịch, vua sai Tăng dưỡng đem binh đánh dẹp; Tăng dưỡng dẹp xong phản nghịch, thu được nhiều tài vật, đóng binh ở bên ngoài. Vua nghe họ sắp vào thành nên đích thân ra thành đón, thấy một thiếu nữ của nước Kiệt sa trên thân có nhiều ghẻ lở liền hỏi Tăng dưỡng: "có trượng phu nào lại ngủ với cô gái này hay không?", đáp: "không những đồng chăn gối mà còn có thể cỡi trên lưng chồng bắt làm tiếng ngựa hí", vua nói: "há có việc như thế hay sao?", đáp: "vua sẽ tự nghiệm biết". Lúc đó Tăng dưỡng đưa cô gái này đến chỗ thầy thuốc bảo rằng: "thầy hãy khéo chữa trị cho cô gái này, tốn bao nhiêu ta cũng không tiếc", thầy thuốc theo như lời dặn trị lành bịnh cho cô gái, Tăng dưỡng lại cung cấp đầy đủ y thực nên không bao lâu sau cô gái xinh đẹp hơn trước bội phần. Tăng dưỡng đưa về nhận làm con gái đặt tên là Tinh quang, sau đó nói với Tinh quang: "khi ta thỉnh vua về nhà thọ thực, con hãy trang điểm cho thật đẹp với các chuỗi anh lạc nghiêm thân rối xuất hiện trước vua". Váo thời khác, Tăng dưỡng thỉnh vua ngày mai đến nhà thọ thực, vua nói lành thay, Tăng dưỡng liền trở về cho lo liệu đủ các món ăn thịnh soạn, khi vua đến tắm cho vua bằng nước thơm và dâng cho vua y phục vô giá. Ăn sắp xong, còn đang nói chuyện thì Tinh quang từ trong màn ném trái cầu nhỏ ra, kế vén màn nói với Tăng dưỡng: "cha đưa trái cầu cho con". Vua nhìn thấy Tinh quang nhan sắc tuyệt đẹp liền sanh tâm luyến ái, hỏi Tăng dưỡng: "người này là gì của khanh?", đáp là con gái, vua hỏi đã gả chưa, đáp là chưa, vua nói: "sao khanh không dâng cho ta", đáp: "nếu vua không chê thì tùy ý dẫn đi", vua liền dùng nghi lễ đón Tinh quang vào cung. Thường tình là được mới nới cũ, từ khi có Tinh quang vua say mê nên không đến các cung khác nữa, cũng bỏ bê các việc khác. Lúc đó Tăng dưỡng suy nghĩ: "đã đến lúc cho vua nghiệm biết việc đã nói trước kia", nghĩ rồi liền hỏi Tinh quang: "con có thể cỡi trên lưng vua và bắt vua làm tiếng ngựa hí hay không?", đáp: "để con suy nghĩ, chưa biết có thể được hay không?". Người nữ có trí huệ, không học cũng tự biết, lúc đó cô mặc y phục dơ, nằm trên giường hư; khi vua đến thấy liền hỏi nguyên do, cô đáp là bị thiên thần giận trách phạt, vua lại hỏi đã từng cầu nguyện việc gì, đáp: "khi vua sai cha thiếp đi đánh dẹp nước Kiệt sa, thiếp đã cầu nguyện: nếu cha thiếp đánh dẹp được nước kia bình an trở về, khi nào thiếp xuất giá sẽ cỡi trên lưng chồng và bảo chồng làm tiếng ngựa hí. Nay vua tuy cưới thiếp nhưng đã có đầy đủ nội cung, ai lại có thể vì thiếp đáp trả lại nguyện xưa". Khi bị ái dục lôi cuốn thì việc gì cũng chịu làm cả, lúc đó vua nói: "điều mà nàng nguyện cầu, thật là vì ta nguyện không bịnh hoạn, ta sẽ làm theo lời cầu nguyện của nàng", Tinh quang im lặng, vua hỏi vì sao im lặng hay là còn cầu việc gì khác nữa, đáp: "không có nguyện khác, chỉ là thiếp muốn có Bà-la-môn đại thần chú nguyện và một nhạc sĩ đánh đàn tỳ bà", vua nói: "Bà-la-môn đại thần là người của ta, còn người đánh đàn tỳ bà cũng có thể tìm được", đáp: "xin đại vương tìm cho".

Lúc đó trong nước Kiền-đà-la có một thương nhân mang hàng hóa đến trong thành Ôn thệ ni buôn bán, vì say mê dâm nữ nên không bao lâu sau tiền tài đều tiêu sạch hết, tùy tùng thảy đều bỏ đi hết. Dâm nữ thấy người này trở nên nghèo cùng liền nói rằng: "tôi không có ruộng đất để cày, cũng không có cửa hàng buôn bán, chỉ lấy việc bán sắc để kiếm sống. Ai có tiền thì đến, ai không có thì đi chỗ khác để tôi tiếp người đến sau", người này đáp: "tôi nay trở nên nghèo cùng, không còn gì cả nhưng tôi rất yêu mến nàng, xin nàng hãy dung thọ tôi chớ có đuổi đi, cho tôi ở trong nhà mới gọi là biết thương nhau", dâm nữ nói: "nếu có thể làm theo lời tôi thì tôi cho ở lại", đáp là sẽ làm tất cả. Dâm nữ muốn đuổi đi nên sau khi đại tiện xong, cắm một khúc cây trên bãi phân rồi bảo người này dùng miệng cắn lấy khúc cây lên, người kia nghe lời làm theo, dâm nữ thấy rồi liền dùng chân đạp vào hông và nói: "vật bần tiện, việc dơ bẩn như vậy mà ngươi cũng làm, ngươi là kẻ không sạch sẽ, hay rời khỏi nơi đây", người này bị dâm nữ đuổi đi đành phải trở lại nghề đánh đàn tỳ bà để kiếm sống. Lúc đó vua bảo Tăng dưỡng: "con gái khanh có cầu nguyện thiên thần, khanh nên tìm một người biết đánh đàn tỳ bà cho ta", đáp: "có một người nước Kiền-đà-la sống bằng nghề đánh đàn tỳ bà, nên dùng khăn bịt mặt rồi dẫn vào trong cung", vua chấp thuận. Sau đó vua cùng đại thần lên lầu cao ở tầng thứ bảy, Tăng dưỡng dùng khăn bịt mắt người đánh đàn dẫn lên để đánh đàn, Bà-la-môn đại thần chú nguyện, Tinh quang mặc y phục trắng sạch cỡi trên lưng vua bắt vua làm tiếng ngựa hí. Người đánh đàn này nghe tiếng ngựa hí liền suy nghĩ: "ở trên tầng lầu thứ bảy sao lại có tiếng ngựa hí, chắc là chúng ta đã bị phụ nữ khinh lộng", nghĩ rồi trong lòng cảm khái liền cất tiếng ca:

"Việc này giống hệt nhau,
Việc này người cùng biết,
Tiền tài tiêu tán hết,
Khúc cây dơ răng mình".

Vua nghe rồi liền hỏi: "câu hát lạ thường là có ý nghĩa gì?", người đánh đàn liền đem việc của mình kể lại cho vua nghe, vua nghe rồi suy nghĩ: "người này đã biết ta, không nên giữ ở lại đây", nghĩ rồi liền ban cho năm trăm tiền vàng rồi đuổi ra khỏi nước. Lúc đó đại thần can gián vua: "bậc làm vua không nên để phụ nữ đem ra làm trò đùa", vua nghe rồi xấu hổ im lặng, sau đó vua hỏi Tăng dưỡng: "Bà-la-môn đại thần chê trách ta, khanh có thể làm cho vợ của hắn cạo đầu hắn hay không?, đáp: "để thần thử xem sao". Tăng dưỡng trở về nhà hỏi vợ: "Bà-la-môn ngay trước mặt vua chê trách, bà có cách gì làm cho vợ hắn cạo đầu hắn hay không?", đáp: "không nên nói trước, đợi cạo xong rồi xem", Tăng dưỡng nói: "nếu làm được thì tốt, chồng giỏi tất có vợ tài ba". Người vợ liền tìm cách giao hảo với vợ đại thần, sau khi hợp ý nhau, vợ Tăng dưỡng nói với vợ đại thần: "phu nhân, chồng tôi rất thương yêu tôi, tôi yêu cầu gì chàng cũng đáp ứng", vợ đại thần nói: "tuy chị nói chồng chị yêu thương chị như vậy, nhưng cũng không hơn được tôi; đối với chồng tôi thường được tự tại", vợ Tăng dưỡng nói: "nếu đối với chồng phu nhân được tự tại, vậy thì thử cạo đầu ông ấy xem, tôi chắc chị không thể làm được", vợ đại thần nói: "hãy đợi cắt rồi mới biết là có thể hay không". Sau đó vợ đại thần liền mặc y phục dơ nằm trên giường hư rên rỉ, đại thần hỏi nguyên do, đáp là bị thiên thần giận trách, đại thần nói: "chẳng lẽ nhà ta nghèo không đáp đủ lễ nên thiên thần giận trách nàng hay sao, nàng đã cầu nguyện gì, ta sẽ đáp trả để thiên thần hoan hỉ", đáp: "khi chàng chưa ra làm quan, được vua triệu lần đầu, thiếp đã cầu nguyện sao cho chàng được vua gọi đi; nếu được toại ý mong cầu, chàng bình an trở về, thiếp sẽ cạo đầu tạ lễ. Từ đó đến nay gia đình hưng thạnh, tiền tài dư dã, thiếp tham hưởng sung sướng nên quên đáp tạ. Do tâm ngạo mạn này nên thiên thần giận trách, chắc là thiếp sẽ chết, không thể nào sống được", đại thần nói: "điều mà nàng cầu nguyện thật là vì ta, để ta tâu vua rồi sẽ đáp trả cho nàng". Vợ đại thần nghe rồi liền đưa tin cho vợ Tăng dưỡng: "chồng tôi đã hứa, chắc sẽ làm theo", vợ Tăng dưỡng liền đưa tin báo cho Tăng dưỡng biết, Tăng dưỡng liền vào tâu lại cho vua biết. Sau đó, đại thần đến gặp vua tâu rằng: "đại vương, thần có lời nguyện phải đáp tạ thiên thần nên không thể ra khỏi cửa trong sáu tháng, xin đại vương ban ân cho được toại nguyện", vua nói lành thay. Đại thần trở về nhà cạo tóc xong cảm thấy xấu hổ nên không ra ngoài, người vợ sai sứ báo cho vợ Tăng dưỡng biết, vợ Tăng dưỡng báo cho Tăng dưỡng biết, Tăng dưỡng tâu lại cho vua biết, vua nghe rồi vui mừng liền sai sứ gọi đại thần đến. Đại thần nghe vua triệu kiến vội đội mão vào cung, vua bảo ngồi một bên; lúc đó hai đồng tử theo như lời Tăng dưỡng đã dạy bảo liền ca bài ca:

"Nếu gái nhà lành lại xinh đẹp,
Có thể khiến chồng theo ý mình,
Trên lầu tầng bảy làm ngựa hí,
Và xem đại thần đã cạo tóc".

Ca xong tiến tới sát bên đại thần cởi bỏ mão ra, bá quan trong triều thấy đã cạo tóc đều vỗ tay cười lớn; đại thần xấu hổ ngượng ngùng trước mọi người nên rụt vai cúi đầu im lặng rồi bỏ đi ra cửa. Sau đó Tăng dưỡng tự mãn cao giọng nói với mọi người: "ai bị phụ nữ khinh lộng như vậy thì làm sao làm được việc lớn cho đất nước", vua nghe rồi liền ở chỗ khuất hỏi đại thần: "khanh có cách gì làm cho Tăng dưỡng bị sĩ nhục không?", đáp: "để thần thử xem xét, không biết có được hay không". Sau đó đại thần hỏi con trai của em gái mình là người giỏi huyễn thuật: "khi lâm triều, Tăng dưỡng đã khinh lộng ta, con có thể làm cho hắn bị sĩ nhục, tức là trừ được mối sĩ nhục lớn cho ta?", đáp: "cậu cho cháu suy nghĩ xem nên làm như thế nào". Sau khi suy tính xong, người này nói là làm được, liền dùng huyễn thuật hóa làm một đoàn thương nhân, nơi đống phân lớn hóa làm phòng thất, dùng bộ xương khô hóa làm vợ thương chủ xinh đẹp tuyệt trần. Theo quốc pháp hễ có đoàn thương nhân đến thì vua phải đích thân thu thuế hoặc sai Tăng dưỡng, lúc đó vua sai Tăng dưỡng đi thu thuế. Tăng dưỡng đến chỗ thương nhân hỏi thương chủ ở đâu, họ chỉ chỗ, Tăng dưỡng đến nơi thấy vợ thương chủ quá xinh đẹp liền đắm nhiễm nói rằng: "nếu nàng chịu cùng ta hoan lạc, ta sẽ không thu thuế", đáp: "tùy ý, nhưng không nên vào ban ngày, nên đợi đến đêm". Huyễn sư liền dùng huyễn thuật che ngày thành đêm, Tăng dưỡng liền cùng huyễn nữ làm việc phi pháp rồi ôm cổ ngủ say. Lúc đó huyễn sư giải pháp thuật, Tăng dưỡng đang nằm ôm bộ xương khô trên đống phân. Đại thần đến tâu vua: "xin vua ngự giá đến xem Tăng dưỡng", vua liền xuất thành đến xem, đến nơi nhịp tay đánh thức Tăng dưỡng dậy rồi nói: "này Tăng dưỡng, ngươi đã giao hợp với người nữ nơi đồng vắng, lại còn ăn cả thịt nữa hay sao?". Lúc đó Tăng dưỡng mới biết là việc này do vua sắp bày nên trong lòng hổ thẹn, suy nghĩ: "làm sao ta sống được nữa, thà chết còn hơn, nhưng bỏ thân mạng rất khó, ta nên đến chỗ tôn giả Đại Cađa-diễn-na xin xuất gia", nghĩ rồi liền đến chỗ tôn giả xin xuất gia, tôn giả liền cho xuất gia và lần lượt cho thọ Cận viên, sau khi giáo giới xong bảo học kinh A Cấp ma. Lúc đó vua Mãnh quang không có Tăng dưỡng bên canh nên tâm ý bất an, vua liền bắt Tăng dưỡng hoàn tục và cho trở lại chức vụ cũ.

QUYỂN 23

Nhiếp tụng nội dung:

Ngưu hộ, thợ săn chết,
Thả cho ra khỏi cung,
Vương nữ Thiên thọ đi,
Mãnh quang đến Đắc xoa,
Giết người, tiếng, tám mộng.

Một hôm sau khi thức dậy, vua Mãnh quang suy nghĩ: "sau khi ta qua đời, Thái tử Ngưu hộ có đủ trí lực để kế thừa vương vị hay không, ta nên thử trí mưu của nó", nghĩ xong vua liền cho gọi Ngưu hộ đến nói rằng: "trong nội cung có ít việc, ta cần giải quyết trong vòng bảy ngày, trong bảy ngày này con thay ta trị nước". Thái tử vâng lịnh trị nước và thưởng phạt thích đáng việc lợi hại, lúc đó quan giải tới hai kẻ thông dâm cho Thái tử xử, Thái tử hỏi họ có yêu nhau không, đáp là yêu nhau, Thái tử nghe rồi liền nói: "nếu đã yêu nhau sao lại không cho họ tùy tình, từ nay không cấm việc thông dâm", mọi người nghe rồi liền tùy tình tạo lỗi. Sau bảy ngày vua xuất cung hỏi Tăng dưỡng: "sau khi ta qua đời, Thái tử có thể kế vị được không?", đáp: "có thể được, tuy Thái tử trị nước nghiêm túc, nhưng đối với việc thông dâm lại cho tùy tình tạo lỗi", nói rồi liền kể lại việc trên, vua nghe rồi suy nghĩ: "không có đố kỵ với phụ nữ của người, nhưng đối với thê thiếp của mình há lại không đố kỵ hay sao, ta hãy thử xem". Lúc đó có người ở nước Kiền-đà-la từ phương Bắc đến trú trong thành này, vua nghe nói người này có trí liền cho gọi đến hỏi: "ngươi có thể làm việc phi pháp với đại phi của Thái tử Ngưu hộ không?", người này nghe rồi liền bịt tai nói: "nếu làm việc phi pháp này thì thần hết còn đường sống", vua nói: "vua muốn làm như vậy nên không có lỗi, nếu không làm tức là trái lịnh vua", đáp: "thần sẽ tuân lịnh nhưng việc này không thể gấp được, phải từ từ mới có thể thi hành", vua nói: "tuần tự làm như thế nào là tùy ý ngươi", đáp: "xin vua cấp cho thần chi phí xây cất một cửa hàng lớn gần cung của Thái tử để tìm cách thân cận", vua liền cấp tiền bạc cho người này, người này liền dựng lên một cửa hàng mua bán hương liệu. Sau đó có tỳ nữ của mẹ vợ Thái tử đến mua hương liệu, chủ cửa hàng hỏi là mua cho ai, đáp là mua cho mẹ vợ của Thái tử, liền hỏi bà ấy tên gì, đáp: "tên họ là----, vì bà ấy cùng họ với mẹ tôi nên tôi xem như mẹ", chủ cửa hàng nghe rồi liền lấy ít tiền nhưng lại đưa nhiều hương liệu. Tỳ nữ mang về, bà mẹ thấy nhiều hương liệu hơn trước kia nên hỏi nguyên do, tỳ nữ đem việc trên kể lại, bà mẹ nói: "tốt, người ấy như con ta", ba lần đến mua như vậy đều được nhiều hương liệu nên bà mẹ rất vui mừng. Thời gian sau, chủ cửa hàng hỏi tỳ nữ: "cô hãy thưa với mẹ là tôi muốn đến viếng thăm", tỳ nữ về bạch lại, bà mẹ nói hãy đến, tỳ nữ sang báo lại, chủ cửa hàng liền đem nhiều hương liệu đến. Vừa gặp nhau, chủ cửa hàng liền ôm chầm bà mẹ này mà khóc, bà hỏi nguyên do, liền đáp: "vì mẹ giống hệt mẹ con nên con xúc động", bà mẹ nói: "từ nay ta là mẹ con, đừng khóc nữa". Chủ cửa hàng khéo làm cho tình cảm hai bên thêm sâu đậm, lúc đó vợ Ngưu hộ đứng bên cạnh, bà mẹ bảo: "con hãy đến đây, đây là anh con, hãy ôm lấy chân ân cần cung kính", vợ Ngưu hộ làm theo lời mẹ dạy, chủ cửa hàng hỏi tên, đáp tên là---, chủ cửa hàng liền nói: "chị dâu của tôi ở nhà cũng đồng tên, dáng vóc cũng giống, từ nay chị là chị dâu của tôi", bà mẹ nói lành thay. Sau đó chủ cửa hàng giả bịnh, khi thấy tỳ nữ đến mua hương thoa liền nói với tỳ nữ: "tôi bịnh rất nặng, sao mẹ không đến thăm", tỳ nữ nói: "bà không biết, để tôi về báo", khi nghe tỳ nữ báo bà mẹ liền đến thăm và hỏi bịnh như thế nào, đáp là bịnh rất nặng, bà mẹ nói: "nên hỏi thầy thuốc, tùy bịnh uống thuốc", đáp: "thuốc không trị bịnh này được, con mắc bịnh này chắc phải chết", bà mẹ nói: "con chớ ưu sầu, chắc cũng có cách gì trị hết bịnh chứ?", đáp: "tuy có thuốc trị bịnh nhưng không sao tìm được", bà mẹ nói: "chỉ cần có, ta sẽ lo liệu cho con", đáp: "nếu con được cùng đại phi tư thông thì sẽ hết bịnh", bà mẹ nghe rồi liền tức giận nói: "ngươi là kẻ bần hàn muốn được vương phi làm sao toàn mạng", nói xong liền giũ áo ra về. Sau đó chủ cửa hàng lập kế làm di chúc, trong đó ghi là nếu sau khi tôi chết, nhà cửa tài sản đã có đều giao cho vợ Thái tử. Viết di chúc xong gởi cho bà mẹ, bà mẹ xem di chúc xong liền hết giận, suy nghĩ: "ta tức giận bỏ đi mà nó lại đối với ta ân nặng, tình nghĩa không giảm. Người như thế khó được, nhưng việc này ta nên hỏi ý con gái, đừng để vì việc này mà nó phải chết", nghĩ rồi liền bảo con gái: "chủ cửa hàng lâu nay có ân tình, đã xem như em chồng, nay nó bị bịnh sao con không đến thăm?", đáp: "sao không mời thầy thuốc chữa trị?", bà mẹ nói: "bịnh ấy khó trị chắc phải chết, nhưng mẹ nghe nói nếu được cùng tư thông với chị dâu thì hết bịnh", đại phi nghe rồi liền tức giận nói: "hắn là kẻ bần hàn, muốn cùng đại phi làm việc phi pháp há không bị mất mạng hay sao?", bà mẹ nói: "sang hèn khó định, hiện tại làm sao con biết được, chúa công vốn từ ai mà được sanh ra, con có biết không?", đáp là không biết, bà mẹ nói: "là từ bồ cạp mà được sanh ra, nay được làm vua có nhiều quyền lực; chồng con cũng từ vợ trưởng giả sanh ra, sau này cũng sẽ làm vua. Nếu con cùng anh ta tư thông mà có con, con của con cũng sẽ làm vua, đâu có hại gì", đại phi nghe bà mẹ nói rồi liền bằng lòng cùng tư thông, bà mẹ liền đưa tin cho chủ cửa hàng: "thấy ngươi tha thiết nên con ta bằng lòng, người hãy biết thời đến để gặp nhau", chủ cửa hàng liền báo tin cho vua biết: "việc sắp thành, xin vua khiến cho Thái tử tạm rời khỏi nhà". Lúc đó vua suy nghĩ: "sau khi ta qua đời, Ngưu hộ sẽ làm vua, con của Ngưu hộ cũng sẽ kế vị; nếu Kiền-đà-la cùng vương phi tư thông có con, con nó lên làm vua thì tuyệt dòng dõi của ta. Ta nên cho nó uống thuốc để không sanh con", nghĩ rồi vua liền đưa thuốc cho Kiền-đà-la và nói rằng: "trước khi ngươi cùng đại phi làm việc phi pháp, hãy uống thuốc này", sau đó bảo Ngưu hộ tạm vắng nhà, Ngưu hộ vâng lời vua không về nhà. Lúc đó Kiền-đà-la sau khi uống thuốc xong cùng đại phi tư thông, ngủ chung trên giường, vua nghĩ việc ắt đã xong nên bảo Ngưu hộ trở về nhà. Ngưu hộ về đến nhà, thấy hai người họ nằm chung trên giường, buông thõng tay xuống giường; Thái tử liền đỡ tay họ lên rồi lấy chăn đắp cho cả hai. Hai người ngủ chung đến sáng nghĩ là không ai nhìn thấy, Kiền-đà-la trở về cửa hàng. Hôm sau vua nói với Thái tử: "đêm qua ta nằm mộng thấy vợ con tư thông với người ngoài", Thái tử đáp: "đại vương thấy trong mộng, còn con chính mắt nhìn thấy", vua hỏi thấy như thế nào, Thái tử kể lại việc đã thấy hôm qua, vua hỏi: "con không ghen sao?", đáp là không ghen, vua hỏi vì sao, đáp: "từ khi sanh ra đến nay con biết được túc mệnh, đời trước con là vợ một thương chủ, khi chồng con đi đến phương xa buôn bán, con đòi đi theo; chồng con nói đường đi xa khó nhọc, không có ai săn sóc nên không cho con đi theo. Thấy con khóc, các thương nhân khác nói với chồng con là cứ cho đi theo, nếu cần gì chúng tôi sẽ cung cấp; vì thế con được đi theo. Khi đi đến đường hiểm gặp phải năm trăm tên cướp giết người cướp của, giết chết chồng con rồi làm việc phi pháp với con. Thời gian sau bọn cướp này đánh cướp một đoạn thương buôn khác và bắt được một người nữ, con thấy người nữ kia được họ yêu thương nên khởi tâm ghen tức và sai người ném xuống giếng cho chết. Đại vương, con nghĩ thuở xưa con đã làm việc dâm dục với năm trăm tên cướp còn chưa vừa ý, huống chi là với một người. Do nhớ được việc thuở xưa nên con đối với phụ nữ không có tâm ghen tức, người ngu trên đời phần đông đem phụ nữ vào trong cung để hộ vệ, thật ra đàn ông phải đề phòng đàn bà, không phải đàn bà đề phòng đàn ông", vua nói: "đúng như lời con nói, bỏ được tâm ghen tức là việc khó trong đời; tuy lý này đúng nhưng ta chưa làm được".

Lúc đó trong thành Ôn thệ ni có một thợ săn, vì vợ anh rất đẹp và anh rất yêu thương nên khi muốn đi săn bắn, anh sợ để vợ ở nhà sẽ cùng kẻ khác làm việc phi pháp; nhưng nếu không đi săn thì không thể sinh sống được, cho nên anh đưa vợ cùng đi vào rừng, ở trong một chòi lá, săn bắn được cầm thú đem bán để đổi lấy lương thực. Một hôm, vua Mãnh quang vào rừng săn bắn, ngựa chạy đến chỗ thợ săn, thợ săn nhớ biết nên lên tiếng chào đón, vua bèn xuống ngựa ngồi nghỉ dưới gốc cây. Lúc đó thợ săn suy nghĩ: "ta không nên đem thịt cũ cách đêm dâng cho vua quán đảnh, ta nên săn bắt thịt mới để dâng vua", nghĩ rồi liền mang cung tên vào rừng. Vua lúc đó đưa mắt nhìn khắp nơi, bỗng thấy vợ thợ săn có thân hình khả ai nên khởi dục tâm, cùng vợ thợ săn làm việc phi pháp. Khi thợ săn trở về với con vật mới săn bắt được, thấy vua cùng vợ mình làm việc phi pháp liền nổi giận muốn giết chết vua, nhưng lại suy nghĩ: "lẽ nào vì một người nữ mà ta lại giết vua". Lúc anh khởi tâm từ không nở giết vua thì có sư tử vồ tới giết anh chết, thợ săn sau khi mạng chung thác sanh lên cõi trời Tứ thiên vương. Vua thấy thợ săn chết liền suy nghĩ: "người nữ này đã cùng ta tư thông, ta không nên ruồng bỏ", nghĩ rồi liền an ủi vợ thợ săn. Lúc đó đại thần của vua tìm kiếm vua, đến nơi thấy có người nữ bên cạnh liền hỏi, vua bảo đưa về cung. Khi trở về cung nhìn thấy nội cung đông, vua suy nghĩ: "thợ săn kia đưa vợ vào trong rừng mà còn không thể giữ được, huống chi nội cung của ta đông, làm sao ta giữ được", nghĩ rồi vua liền cho đánh trống thông báo cho dân chúng trong thành, ngoài thành hoặc từ phương xa đến được biết: "từ nay ta cho tất cả nội cung được tự do ra khỏi cung, tùy ý gặp gỡ tư thông với người mà mình ưa thích, ta không cho là lỗi", vua lại bảo nội cung: "ta cho các khanh được tự do ban đêm ra khỏi cung tùy ý tìm hoan lạc, nhưng khi nghe tiếng trống thì phải trở về, ai trái lịnh sẽ giết chết". Phụ nữ vốn thích nam tử, huống chi họ là những người từ lâu đã bị giam giữ trong thâm cung; cho nên các cung nữ ban đêm đều ra khỏi cung tìm hoan lạc, chỉ riêng có phu nhân An lạc là mẹ của Ngưu hộ và Tinh quang vì giữ tình với vua nên không đi. Vua bảo phu nhân An lạc nên đi, phu nhân đáp là không thể; vua lại bảo Tinh quang nên đi, Tinh quang vốn còn trẻ lại xinh đẹp nên ý cũng muốn ra ngoài, khi nghe vua nói lời này liền im lặng. Đêm đó, cô vào chợ nhìn thấy đồng tử bán hương có dung mạo đoan chánh liền ngỏ lời, đồng tử đáp: "hãy cầm đèn cho tôi tính toán sổ sách rồi sẽ tùy tình", do đồng tử buôn bán đắc nên tính toán mãi cho đến trời sáng, Tinh quang nghe tiếng trống liền vứt đèn xuống để trở về cung, đồng tử nói: "xin hãy đợi thêm một chút", đáp: "tôi không thể vì vua có lịnh nếu khi nghe tiếng trống mà không trở về cung thì sẽ giết chết, tôi không có hai đầu nên không dám ở lại", nói rồi liền bỏ đi. Trở về trong cung, vua gặp liền hỏi có được vui vẻ không, đáp là không rảnh, vua hỏi vì sao, liền kể lại việc trên. Tiếng đồn vua Mãnh quang thả cho các cung nhân được ra khỏi cung tùy ý tìm hoan lạc, lan sang các nước khác; lúc đó vua Xuất quang nước Kiều-thiểm-tỳ nghe biết tin này liền hỏi đại thần Du-kiện-na: "ta muốn đến nước đó hưởng lạc một chút", đáp: "vua Mãnh quang đối với vua có điều không vừa ý, nếu nghe vua đến ắt sẽ làm điều bất lợi cho vua", vua nói: "trượng phu hành sự dù tốt hay xấu đều phải cương quyết, khanh ở lại đây, chỉ một mình ta đi đến đó", đáp: "vua đã quyết ý, thần đâu dám ngăn giữ, chỉ mong vua lên đường nên cẩn thận". Vua Xuất quang vốn thích nữ sắc nên không nghe đại thần can ngăn, một mình đi đến nước Ôn thệ ni, đêm đó vua gặp Tinh quang. Sau khi biết rõ lai lịch Tinh quang vua nói: "này cô gái đẹp Tinh quang dòng Sát-đế-lỵ hãy đến đây cùng ta hoan lạc", Tinh quang yêu cầu vua trải thảm, vua lại bảo Tinh quang trải, cả hai vì kiêu ngạo nên không ai chịu trải, mãi như thế cho đến sáng, Tinh quang nghe tiếng trống liền muốn trở về cung, vua bảo hãy ở lại, Tinh quang nói: "vua có lịnh nếu nghe tiếng tống mà không trở về cung thì sẽ giết chết nên tôi không dám ở lại", nói rồi liền rút chiếc nhẫn trên tay vua mang về cung, vua Xuất quang cũng trở về nước mình.

Về đến trong cung gặp vua, vua hỏi có vui vẻ không, Tinh quang liền kể lại việc trên rồi đưa chiếc nhẫn cho vua xem, vua nhìn thấy dấu trên nhẫn biết là của vua Xuất quang liền bảo Tăng dưỡng: "vua Xuất quang đem cả đại binh vào trong thành mà không ai hay biết, lại còn muốn hoan lạc cùng cung nhân của ta, làm sao lại để cho hắn thoát đi như thế", Tăng dưỡng tâu: "đại vương, lần này là lén đến nên thần không tính trước, nếu lần sau trở lại, thần nhất định sẽ không để cho vua ấy chạy thoát". Vua Xuất quang sau đó tuy nghe biết tin này vẫn nói với đại thần Du-kiệnna như trước, đại thần nói: "lần trước do vua lén đến, họ không hay biết nên vua mới trở về an ổn. Nay vua ấy đã phòng bị nghiêm mật, nếu vua đến nữa ắt sẽ không bình an trở về, vua không nên đi là hơn". Tuy Du-kiện-na hết sức ngăn cản nhưng vua Xuất quang vẫn không nghe, Du-kiện-na đành phải đi theo hộ vệ, khi vào trong thành Ôn thệ ni, họ trú trong một ngôi nhà. Không ngờ Tăng dưỡng cũng biết, cho binh lính đến bao vây và ra lịnh: "trong nhà này nếu là phụ nữ thì cho ra, nếu là đàn ông thì giữ lại", Du-kiện-na nghe biết điều này liền suy nghĩ: "thấy vua gặp nạn, ta không nên âm thầm bỏ đi, phải làm cách gì để cho vua chạy thoát", nghĩ rồi liền bảo vua mặc y phục nô tỳ đội bình nước đi ra rồi sai người đứng ở sau cầm cây xua đi và nói rằng: "hãy mau đi lấy nước đem về cho vua tắm", những người canh giữ cho là nô tỳ nên không ngăn lại, vua Xuất quang đi đến bờ ao vứt bình rồi chạy trốn. Sau đó Tăng dưỡng vào nhà tìm không thấy vua, chỉ thấy Du-kiện-na nên bắt dẫn đến chỗ vua tâu rằng: "vì người này nên để vua Xuất quang chạy thoát", Du-kiện-na nói với vua Mãnh quang: "tôi nhờ vua mà nuôi sống thân mạng, nay tôi giúp vua của tôi chạy thoát là đúng đạo nghĩa. Những vị quan này hưởng bỗng lộc của đại vương mà lại để cho vua của tôi chạy thoát thì có đúng đạo lý hay không?", vua nghe rồi liền trách Tăng dưỡng: "vua của nước địch đến đây mà các khanh lại để cho chạy thoát, có cách gì bắt được hắn thì tốt, nếu không thì các khanh phải chịu cực hình", Tăng dưỡng nghe rồi kinh hoàng vội suy nghĩ tìm cách. Lúc đó có người thợ giỏi về máy móc từ phương Nam đến, Tăng dưỡng hỏi: "ngươi có trí lực làm được máy móc như vậy phải không?", đáp: "tôi có học làm và mong được thành tựu". Tăng dưỡng nghe rồi liền giấu voi Vi sơn của vua và thông báo khắp trong thành biết là voi Vi sơn đã chạy mất, không biết ở đâu; sau khi gần xa đều nghe biết tin này, Tăng dưỡng bảo người thợ: "ngươi nên theo hình dạng cũ mà làm thành con voi Vi sơn máy", người thợ tuân lịnh làm thành voi máy. Trong con voi máy này có thể chứa được năm mươi người với nhiều phân voi và nước, Tăng dưỡng bảo người thợ: "các người điều khiển voi máy này đi gần đến nước Kiều-thiểm-tỳ rồi dừng ở đó, nếu vua kia cùng bốn binh đến xem thì cho voi chạy trở về, nếu một mình vua kia đến xem thì hãy bắt nhốt vào bên trong rồi cho voi chạy mau trở về nước", người thợ tuân lịnh liền cho voi đi đến thành Kiều-thiểm-tỳ rồi đứng ở một chỗ cách đó không xa. Lúc đó những người chăn bò, chăn dê… thấy có voi kỳ lạ nên đến xem, có người nói voi từ núi rừng đến, có người nói là voi lớn của vua Mãnh quang chạy lạc đến. Quần thần nghe biết liền tâu vua: "do phước lực của vua nên voi lớn vi sơn của vua Mãnh quang chạy đến đây, nay đã có ngàn ức người khắp gần xa kéo đến xem", vua nghe rồi vui mừng bảo Du-kiện-na đánh trông thông báo khắp trong thành rồi thống lĩnh bốn binh cầm nhiều lưới dây ra khỏi thành bắt voi. Quan và dân từ trong thành kéo ra như mây tụ tập ngoài đồng để xem bắt voi, lúc đó những người ở bên trong voi máy thấy quân binh của vua đến liền điều khiển cho voi chạy xa. Đại thần tâu vua: "vua vốn điều khiển voi rất thiện nghệ, làm cách nào dẫn dụ để đến gần nó?", vua liền bảo bốn binh lui lại, một mình vua cầm đàn tỳ bà khảy lên âm thanh vi diệu đi đến gần voi. Người bên trong voi máy thấy một mình vua đến liền cho voi đứng lại, vua vừa đến gần bên voi, những người bên trong voi liền ào ra bắt vua đưa vào trong bụng voi rồi vội điều khiển voi chạy nhanh trở về nước. Thấy vua Xuất quang bị bắt, đại thần gia tăng binh lính đuổi rượt theo tới biên giới nước kia liền nói: "đã đến biên giới nước họ, không thể rượt theo được nữa, đành phải trở về suy nghĩ tìm cách cứu vua". Lúc đó Tăng dưỡng dẫn vua Xuất quang đến gặp vua Mãnh quang, vua thấy rất vui mừng liền ra lịnh đánh trống thông báo dân trong thành tụ đến xem rồi bảo Tăng dưỡng đem vua Xuất quang ra giết. Tăng dưỡng tâu: "vua Xuất quang giỏi thuật huấn luyện voi, nếu đem giết thì thuật này bị mất. Nên cho người đến học diệu thuật này với vua ấy, học xong rồi đem giết cũng không muộn", vua nói: "vậy khanh hãy theo học đi", đáp: "nếu vậy thì vua ấy là thầy dạy học của thần, thần làm sao giết được, nếu giết là trái đạo lý", vua hỏi: "vậy ai có thể theo học được", đáp: "vương nữ Thiên thọ thông minh, siêng năng ai cũng biết, nếu bảo vương nữ theo học ắt sẽ học được diệu thuật này". Sau đó, vua bảo vương nữ Thiên thọ: "có một người nam đủ mười tám tướng xấu nhưng hắn rát giỏi thuật huấn luyện voi, con hãy đến học diệu thuật của hắn ở sau bức màn ngăn. Sau này cha sẽ học lại nơi con, nhưng con không được nhìn mặt kẻ xấu tướng ấy, nếu ai nhìn thấy chắc chắn sẽ chết", vương nữ vâng lời cha đến học diệu thuật điều luyện voi ở sau bức màn. Lúc đó tại nước Kiều-thiểm-tỳ, Du-kiện-na suy nghĩ: "ta phải nghe ngóng tin tức của vua, nếu còn sống thì tìm cách cứu ra, nếu đã chết thì tìm người kế vị", nghĩ rồi liền bảo em gái tên Kim lan là người thông minh trí huệ hơn anh gấp bội: "em hãy đến trong thành Ôn thệ ni hỏi thăm tin tức của vua, nếu vua còn sống thì chúng ta tìm cách cứu ra, nếu đã chết thì tìm người kế vị". Kim lan nghe rồi liền lặng lẽ suy tính, cô thay đổi y phục giả làm một nữ ngoại đạo với y phục dơ bẩn đi dần đến thành Ôn thệ ni. Đến nơi, cô hỏi thăm người giữ cửa thành: "vua Xuất quang còn sống không?", người giữ cửa hỏi: "vua ấy cùng cô có oán thù gì?", đáp: "thù giết chồng con và thu đoạt tài sản", người giữ cửa nói: "vua ấy chưa chết, hiện đang dạy diệu thuật điều luyện voi cho vương nữ". Kim man lần lượt đi đến bốn cửa thành hỏi và họ đều đáp giống như thế, cô tìm cách đúc lót để đến được chỗ giam vua. Sau khi nhìn ngó khắp bốn phía, cô nhỏ giọng hỏi: "đại vương vẫn còn sống phải không?", vua kinh hoàng nhìn ngó bốn phía rồi đáp là còn sống. Cô bèn tìm cách thân cận Thiên thọ rồi hỏi: "vương nữ học thuật điều luyện voi với ai vậy?", đáp: "tôi học với một người nam có đủ mười tám tướng xấu ở sau bức màn", Kim man nói: "làm gì có người nam nào lại có đủ mười tám tướng xấu, người đó chính là vua Xuất quang oai nghiêm đoan chánh với đầy đủ tướng tốt, hiếm có trên đời. Nếu vương nữ không tin thì hãy giở màn lên nhìn xem", vương nữ nghe rồi liền giở màn lên nhìn thử, vừa nhìn thấy vua liền sanh lòng yêu mến nên nói với Kim man: "đúng như lời cô nói, có cách gì làm cho vua tư thông với tôi không?", Kim man nói: "tuy đó là viễn vông vì khó gặp được trường hợp này, nhưng nếu vương nữ đem lòng yêu mến thì thật là đúng lúc. Đây chính là vua dòng Sát-đế-lỵ quán đảnh thọ vương vị, tôi sẽ tìm cách làm cho vương nữ toại ý". Sau khi biết được cả hai đều hợp ý, vương nữ Thiên thọ cùng vua rất yêu mến nhau, Kim man liền báo tin này cho anh biết. Du-kiện-na biết được tin này rồi liền giấu trong người năm loại anh lạc, bên ngoài mặc áo cỏ xưng là Xuân hoa, giả dạng điên cuồng đi đến thành Ôn thệ ni, nằm ngồi ngoài đường nói ra những lời điên cuồng như:

"Mùa xuân hãy dạo chơi,
Mùa xuân hãy hưởng lạc,
Ta tên là Xuân hoa,
Cùng dạo chơi thưởng ngoạn".

Nếu có ai nhận ra, nói chính là Du-kiện-na thì ông liền ngầm đưa vàng ngọc cho họ; nếu không có ai nhận biết, nói là kẻ điên thì ông cũng không đáp lại. Khi đi đến những nơi giàu có được cho y thực, ông đều đem cho kẻ nghèo đói, dần dần lén đến chỗ giam giữ vua. Một hôm, vương nữ Thiên thọ nói với vua Xuất quang: "nếu cha thiếp biết được chắc sẽ giết chết, chúng ta nên tìm cách chạy trốn là thượng sách", vua nói: "nếu như vậy thì nàng nên tâu với vua cha rằng: con học thuật điều luyện voi chỉ trên sách vở, chưa đích thân thực hành. Xin cha cho con voi mẹ Hiền thiện để con tùy ý cỡi, thực hành điều đã học", vương nữ liền làm theo lời vua Xuất quang nói. Lúc đó vua Mãnh quang nghe vương nữ nói rồi liền bảo Quản tượng đưa voi mẹ Hiền thiện cho vương nữ thực tập, vương nữ lúc thì cỡi voi sáng đi trưa về, lúc thì xế đi chiều về khiến cho mọi người không để ý. Dukiện-na sau khi bày kế chạy trốn cho vua liền gánh mang phân voi ra cửa thành, người giữ cửa hỏi thì đáp là vua bày tiệc trong vườn Hoan hỉ, người giữ cửa cho là lời điên khùng nên không để ý. Dukiện-na đem phân này trộn với cỏ treo trên cành cây ở hai bên đường đi đến nước Kiều-thiểm-tỳ. Sau đó ông lại xách bình đựng đầy nước tiểu voi ra cửa thành, người giữ cửa hỏi thì đáp là vua bày tiệc dùng làm nước uống, người giữ cửa cũng không để ý như lần trước, ông đem treo bình nước tiểu voi này lên nhánh cây trên đường mà vua định chạy trốn. Sau đó đúng thời gian đã hẹn ước nhau, vua Xuất quang với cây đàn tỳ bà cùng Thiên thọ cỡi voi mẹ Hiền thiện đi đến chỗ đã ước hẹn với Du-kiện-na và Kim man để cùng chạy trốn. Lúc đó vua đánh đàn, đại thần ca như sau:

"Cùng cỡi voi Hiền thiện, Và đàn khúc Diệu âm, Thiên thọ cùng chúng tôi, Vẫy tay để từ giã, Vua chính là thương chủ, Trở về Kiều-thiểmtỳ, Nguyện của tôi đã mãn, Ca hát thật vui vẻ".

Lúc đó vua Mãnh quang không thấy vương nữ Thiên thọ vào cung liền hỏi Tăng dưỡng, Tăng dưỡng tìm kiếm mới biết là vua Xuất quang cùng Thiên thọ đã cỡi voi Hiền thiện chạy trốn, liền báo cho vua biết, vua nghe rồi liền nổi giận bảo Tăng dưỡng cỡi voi Vi sơn đuổi theo bắt lại. Tăng dưỡng vội cỡi voi lớn đuổi rượt theo, thấy voi lớn sắp đuổi kịp, Du-kiện-na liền lấy phân voi treo sẵn trên nhánh cây vất ra đất rồi chạy. Voi lớn chạy tới gặp phải vật bất tịnh nên không chịu tiến tới, voi mẹ Hiền thiện nhờ thế chạy được xa. Trải qua nhiều dặm voi lớn lại đuổi kịp, Du-kiện-na lại lấy bình nước tiểu voi treo sẵn trên cành cây vất ra đất, voi lớn chạy tới gặp phải vật bất tịnh nên không chịu tiến tới, nhờ vậy họ chạy được tới biên giới của nước mình. Tăng dưỡng đuổi theo tới biên giới liền suy nghĩ: "đã tới biên giới ta nên quay trở về, nếu không voi lớn cũng sẽ bị bắt", nghĩ rồi liền quay về báo cho vua biết, vua nghe rồi ngồi chống cằm với dáng vẻ ưu sầu. Vua Xuất quang sau khi chạy thoát được trở về nước mình, vui mừng mở đại hội bố thí, thỉnh mời các Sa môn, Bà-la-môn… cho đến kẻ nghèo hèn xa gần tụ về chỗ vua dự hội. Một hôm cùng phu nhân Thiên thọ lên lầu, vua nói: "ta dùng thuật dối gạt mà đưa được nàng về đây", phu nhân nói: "cha thiếp cũng dùng thuật dối gạt mới bắt giữ được vua", vua nói: "nếu không đưa được cha nàng về thành Kiềuthiểm-tỳ này làm thợ dệt thì ta không xứng gọi là vua Xuất quang", phu nhân nghe rồi trong lòng tức giận nhưng im lặng. Sau đó vua Xuất quang hỏi Du-kiện-na: "khanh có cách nào làm cho ta hết ưu sầu chăng?", Du-kiện-na hỏi: "vua muốn làm gì?", vua nói: "ta muốn dùng dây cột cổ vua Mãnh quang kéo về đây bắt làm thợ dệt", Du-kiện-na nói: "hóa ra đem được voi Hiền thiện và Thiên thọ về đây, vua vẫn không hết ưu sầu. Để thần nghĩ cách, không biết có được không", suy tinh xong liền báo cho vua biết là được. Sau đó ông liền thu mua hàng hóa rồi tìm một thương chủ giỏi và một mỹ nhân cho giả làm vợ thương chủ với nhiều món trang sức trang nghiêm thân, sắp xếp xong xuôi, ông cùng đoàn thương buôn lên đường đi đến nước Ôn thệ ni. Lúc đó vua Mãnh quang nghe có đoàn thương buôn lớn đến nước mình liền đích thân đến thu thuế, đến nơi, vua hỏi thương chủ ở đâu, họ chỉ chỗ, khi vua bước vào trong thì thấy vợ thương chủ xinh đẹp tuyệt trần nên sanh tâm đắm nhiễm, yêu cầu cùng giao hoan, vợ thương chủ nói: "đây là giường nệm, vua cứ tùy ý". Khi bị ái dục trói buộc thì không có việc gì mà không dám làm, lúc đó vua liền lên giường cùng vợ thương chủ giao hoan. Trong lúc vua đang mờ mịt trong hoan lạc thì thương chủ dùng vải phủ kín rồi sai bốn người khiên cả giường đi ra khỏi thành Ôn thệ ni bằng cửa sau, đoàn tùy tùng theo sau ca rằng:

"Ở nhân gian muỗi ăn được Trăng,
Vua Tỳ sa môn bị đòi nợ,
Mặt đất, cây cối bay lên trời,
Dâm nữ bắt vua Mãnh quang đi".

Lúc đó mọi người trong thành Ôn thệ ni không biết vua đi đâu, Tăng dưỡng kinh hãi cho người đi khắp nơi tìm kiếm. Khi đưa được vua Mãnh quang về nước Kiều-thiểm-tỳ, các quan mừng rỡ tâu vua: "đại vương, đất nước được hưng thịnh, các nguyện đều như ý", vua Xuất quang nói: "hãy gông cùm hắn lại và bắt làm thợ dệt, không ai được báo cho Thiên thọ biết". Sau đó, nhân lúc cùng Thiên thọ lên lầu ngắm cảnh, vua Xuất quang từ trên lầu cao thấy vua Mãnh quang từ trong nhà thợ dệt đi ra liền hỏi Thiên thọ: "nàng có nhận biết người kia không?", vua Mãnh quang vốn có cái trán rộng, Thiên thọ nhìn kỹ liền nhận ra ngay, rơi nước mắt ướt áo suy nghĩ: "ác vương này bắt giam cha ta đến ở chỗ khổ sở như thế, nếu ta không giết được ác vương này thì ta không xứng gọi là Thiên thọ nữa. Tuy ta ra tay giết nhưng làm cho ác vương không thể biết được". Với bản tánh thông minh, vua Xuất quang nhận biết trong lòng Thiên thọ oán hận nên bảo đại thần: "đối với vua Mãnh quang, ta đã báo oán xong, khanh hãy cho tắm rửa thân hắn sạch sẽ, cho ăn các món ăn ngon, làm cho thân trang nghiêm rồi thả về nước, đại thần làm theo lời vua bảo rồi thả cho vua Mãnh quang về nước. Lúc đó Thiên thọ suy nghĩ: "nếu ta tìm cách giết ngay, ác vương sẽ sanh nghi. Ta hãy chờ đợi một thời gian nữa", nghĩ rồi liền gượng cười nói để xua tan nỗi ưu sầu. Thời gian sau, Thiên thọ mặc y phục dơ nằm trên giường hư cũ, vua hỏi nguyên do, đáp là vì thiên thần giận, vua hỏi: "nàng đã cầu nguyện gì mà không tạ lễ?", đáp: "điều mà thiếp đã hứa trước đây nay không thể làm được", vua hỏi: "nàng đã hứa điều gì?", đáp: "trước kia khi cha thiếp giam giữ đại vương, thiếp cầu khẩn thiên thần rằng nếu thiếp cùng vua trở về nước Kiều-thiểm-tỳ được an toàn thì thiếp sẽ cùng vua nhịn ăn uống trong bảy ngày đêm, mãn bảy ngày sẽ dùng dây hoa đẹp quấn từ ngón chân lên đầu rồi kiệu lên đầu thành, lúc đó thiếp sẽ vì vua mở hội đại thí, thỉnh cúng dường một ngàn vị Sa môn, Bà-la-môn. Nay trong cung vua có nhiều cung phi, chắc là không còn ưu ái thiếp nữa, thiếp chắc sẽ chết không sai", vua nói: "nàng đã vì ta mà cầu khẩn thiên thần, nàng không nên buồn nữa, ta sẽ làm theo điều nguyện của nàng". Bắt đầu từ hôm đó, Thiên thọ làm phương tiện giết vua, nuôi hai con chó cột dưới chân thành, hằng ngày cho ăn thịt ngon nên chúng to lớn đến nỗi ăn một lượng thịt bằng thân người. Lúc đó Thiên thọ cùng vua nhịn ăn uống trong bảy ngày, nhưng ban đêm lại lén ăn uống no nê; vua vì quyết tâm nhịn ăn uống nên thân thể suy nhược, không thể đi đứng được. Mãn bảy ngày, Thiên thọ bảo người hết vòng hoa: "hãy dùng dây thô làm dây hoa thơm rồi mau đem đến", lại bảo Du-kiện-na: "hôm nay đại vương đã mãn giới kỳ, khanh hãy cho trang trí hoàng thành để mở hội đại thí, cúng dường một ngàn vị Sa môn, Bà-la-môn. Các khanh hãy làm cho nhanh, không để cho họ biết được việc kín trong cung". Du-kiện-na nghe rồi liền cho người quét dọn sạch sẽ đường sá, rưới nước thơm, đốt hương thơm, rãi hoa thơm… trang hoàng đẹp đẽ như trong vườn Hoan hỉ. Lúc đó trong thành khắp nơi đều huyên náo bởi tiếng trống nhạc với các vũ công lượn múa, Thiên thọ liền đưa vua lên thành, cho vua nằm trên đất rồi dùng dây hoa quấn vua từ chân lên đầu, không một chỗ nào hở kín rồi đẩy vua xuống chân thành cho hai con chó tranh nhau ăn thịt, chừa lại xương trắng để cho diều hâu, kên kên bay đến rỉa xương. Lúc đó dân chúng trong thành thấy việc này rồi kinh hoàng lớn tiếng kêu khóc, không mấy chốc tin tức lan truyền, cả kinh thành chấn động. Các đại thần tụ họp bàn tán: "vì sao đại vương lại tự lên thành, vì sao dưới chân thành lại có chó ăn thịt vua?", sau khi kiểm tra phát hiện ra dây hoa, họ mới biết chính là do Thiên thọ đã tính kế ác để giết vua. Họ tức giận làm nhà bằng đồng đỏ rồi nhốt Thiên thọ trong đó, dùng lửa thiêu đốt cho Thiên thọ chịu đau khổ đến chết. Thế nên biết oán thù tương báo ngày nào mới dứt.

Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: "Thế tôn, vua Xuất quang đời trước đã tạo nghiệp gì mà nay phải chịu quả báo bị chó ăn thịt?", Phật nói: "nghiệp mà vua Xuất quang đã tạo, nhân duyên hội họp nên phải chịu quả báo, đã tạo nghiệp rồi, theo thời gian nghiệp ấy tăng trưởng thuần thục, duyên biến hiện tiền như bộc lưu (thác nước) không thể chảy ngược lại, quyết định phải chiêu lấy quả báo không ai có thể thọ thay. Này các Bí-sô, nếu người nào đã tạo nghiệp thiện ác, không phải địa thủy hỏa phong ở ngoài giới mới khiến người đó thọ báo, mà đều ở trong uẩn xứ giới của tự thân chiêu cảm quả dị thục. Như bài kệ:

"Dù trải qua trăm kiếp,
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên hội họp,
Tự thọ lấy quả báo".

Các thầy lắng nghe:

Quá khứ trong một đô thành kia có một đại thần Bà-la-môn nuôi một bầy chó để đi săn. Vào thời đó không có Phật, chỉ có Phật Bích chi ra đời thường thương xót người nghèo khổ, thích trụ nơi yên tĩnh, là phước điền duy nhất ở thế gian. Vị Độc giác này du hành đến trong thành này, dừng ở qua đêm trong khu rừng vắng, sáng hôm sau đắp y mang bát vào thành khất thực. Đúng lúc đó Bà-la-môn dẫn bầy cho ra khỏi thành đi săn liền gặp vị Độc giác, vị Độc giác này không có lỗi lại có tương của bậc đại nhân, nhưng Bà-la-môn cho là điềm xấu nên thả chó chạy đến ăn thịt vị Độc giác. Này các Bí-sô, đại thần Bà-la-môn thuở xưa chính là vua Xuất quang ngày nay, do thả chó đến ăn thịt bậc Thánh nhân nên trong năm trăm đời chịu quả báo thường bị chó ăn thịt. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập nghiệp trắng". Sau khi vua Xuất quang nước Kiều-thiểm-tỳ qua đời, vua Mãnh quang nước Ôn thệ ni không còn oán thù nên sống an lạc. Một hôm, vua ở trên lầu cao cùng các đại thần nói chuyện phi pháp, vua hỏi: "trong thành ấp nào có dâm nữ đẹp?", có người nói: "trong thành Đắc xoa thi la của vua Viên thắng cai trị có một kỹ nữ, dung nhan thù diệu, giỏi sáu mươi bốn kỹ năng, nam tử trong thế gian này gặp nàng rồi không ai là không say đắm", vua nghe rồi sanh tâm yêu thích muốn gặp, liền nói với Tăng dưỡng: "cho dù phải đi đến nơi xa để tìm gặp một cô gái như thế là khó, ta cũng muốn đến đó gặp", Tăng dưỡng nói: "vua Viên thắng từ lâu đã có oán thù với vua, nếu vua một mình đi đến Đác xoa thi la, vua đó biết được thì không tốt", vua nói: "ta đã quyết ý, khanh hãy ở lại đây còn ta đi một mình", Tăng dưỡng nói: "vua đã quyết ý thì tùy ý ra đi nhưng phải cẩn thận". Vua cỡi voi Vi sơn đến thành kia rồi để voi ở trong núi Thạch chử, một mình vào thành để đến gặp dâm nữ kia và trao cho dâm nữ chiếc vòng ngọc trị giá ngàn vạn để được cùng giao hoan. Lúc đó trong nước Ôn thệ ni, các đại thần Bà-la-môn ngạc nhiên vì không thấy vua, không biết vua đi đâu nên nói với nhau: "vua không phải người tầm thường, nếu đi ắt có người biết", một người nói: "vua đã có đủ nội cung, còn đi đâu nữa", một người nói: "chúng ta nên đến hỏi Tăng dưỡng", nói rồi cùng đến gặp và hỏi vua hiện đang ở đâu, Tăng dưỡng nói: "các vị vội gì mà muốn gặp vua, xin hãy chờ, không bao lâu sẽ gặp", lại hỏi bao giờ, đáp là hai năm, mọi người tức giận nói: "ông đã giết vua để tự lập nên nói ra lời bất nghĩa như thế, nếu nội trong bảy ngày, gặp được vua thì tốt, nếu không gặp thì chúng tôi sẽ lập vua khác và giết chết ông", Tăng dưỡng nghe rồi trong lòng ưu sầu. Lúc đó phu nhân An lạc thấy Tăng dưỡng ưu sầu nên hỏi nguyên do, Tăng dưỡng kể lại việc trên, phu nhân nghe rồi liền nói: "khanh hãy dùng mật hòa với Tô rồi trộn vào trong cám gạo, đựng trong mâm vàng mang đến trong chuồng ngựa quỳ nói rằng: ai có thể nội trong ngày nay đi đến nước Đắc xoa thi la thì hãy ăn cám gạo trộn bơ và mật trong mâm vàng này", Tăng dưỡng làm theo lời, sau khi nói lời trên thì không thấy có con ngựa nào đến ăn cả. Lúc đó có một con ngựa già yếu, đứng một bên rũ tai, ông liền bưng mâm vàng đến trước ngựa này nói như trước, ngựa này nghe xong liền đến bên mâm ăn hết, ông vội đi báo cho phu nhân biết. Phu nhân nói: "hãy đi gắn yên cương, nếu thấy có hiện tượng lạ thì khanh không nên sợ. Hãy đối trước nó biểu lộ dũng khí oai hùng, người có dũng khí thì vật không xem thường", Tăng dưỡng nghe theo lời đến chỗ con ngựa kia, vừa đặt yên cương lên lưng thì con ngựa bỗng biến đổi hình dạng lớn lên, nói với Tăng dưỡng: "này trượng phu, ông có từng thấy con ngựa như thế này chưa?", Tăng dưỡng rút dao ra nói: "này Trí mã Dược xoa, ngươi có từng thấy kỵ mã như thế này chưa?", đáp là chưa thấy, Tăng dưỡng nói: "này Trí mã Dược xoa, nếu biến đổi lại hình dạng cũ và chạy đi thì tốt, nếu không thì ta sẽ chặt rơi đầu", ngựa nói: "trượng phu hãy giao ước là sẽ không đưa tôi trở lại nơi này thì tôi sẽ chạy đi", Tăng dưỡng nói: "nếu đồng ý cùng đi thì ta hứa sẽ không phụ lòng ngươi", ngựa bằng lòng cùng đi, Tăng dưỡng liền lên ngựa đi đến thành Đắc xoa thi la.

QUYỂN 24

Tiếp theo phần nhiếp tụng trên:

Lúc đó vua Mãnh quang đang ở trong nhà dâm nữ tại thành Đắc xoa thi la, bỗng thấy Tăng dưỡng đến liền hỏi: "khanh tới đây làm gì?", Tăng dưỡng kể lại việc trên, vua nghe rồi nói: "đợi ta hưởng lạc hết bảy ngày rồi sẽ cùng về". Qua bảy ngày, vua đến trong núi Thạch chử cỡi voi đi thì voi rống to tiếng lên, cách đó không xa có người nghe biết tiếng voi rống liền nói với vua: "tôi nghe tiếng voi hiểu được ý nó, khi đi được trăm trạm phải cho nó trở lại biển Nam để uống nước cho no". Khi vua cùng Tăng dưỡng cỡi voi đi đến gần chỗ làm đồ gốm, voi liền đạp bể các đồ gốm đang trưng bày; thấy thợ gốm ưu sầu, Tăng dưỡng nói: "những người sống nhờ vào đất nên mới như vậy", vua nghe rồi có ý nghi, im lặng đi suy nghĩ: "Tăng dưỡng nói lời này rõ ràng là chê trách ta, vì chỉ có mình ta là người thọ dụng đất nước này, lời nói này sau này ta sẽ nhớ lại". Lát sau, voi lại đạp bể trứng của chim Chìa vôi đẻ trên đường, chim mẹ thấy liền kêu bi thương, Tăng dưỡng nói: "không nên làm việc đưa đến lo buồn", vua nghe rồi liền suy nghĩ: "lời nói này cũng có ý chê trách ta là ta đến nhà dâm nữ là việc không nên làm, lời nói này sau này ta sẽ nhớ lại". Lát sau, khi cỡi voi đi qua dưới một tàng cây, từ trên cành cây có một con rắn đen buông mình xuống muốn mổ cắn vua, Tăng dưỡng liền rút dao chém rắn đứt từng khúc rơi xuống đất rồi nói: "việc không nên làm mà lại cố làm", vua nghe rồi liền suy nghĩ: "lời nói này cũng là có ý chê trách ta, đã ba lần chê trách sau này ta sẽ nhớ lại". Khi sắp đến thành, voi bỗng đi thật nhanh không chịu đi chậm, Tăng dưỡng tâu vua: "trước đây có thầy tướng nói voi đi được trăm trạm phải cho nó trở lại biển Nam để uống nước cho no, xem nó chạy nhanh chắc là không chịu ở lại, nên ôm lấy cành cây để xuống", vua và Tăng dưỡng cùng ôm cành cây để xuống rồi vào trong một khu vườn dừng nghỉ để voi được tùy ý đi, vua bảo Tăng dưỡng: "khanh hãy đi ngầm báo với phu nhân An lạc là ta đang ở trong vườn thơm", Tăng dưỡng theo lời vua đi báo, phu nhân nghe rồi rất vui mừng. Lúc đó vua vì xấu hổ nên không vào cung bằng cửa lớn mà đi vào bằng cửa nhỏ, bỗng nghe hai người nữ nói với nhau: "tôi nghe vua đã về đến", người kia nói: "theo như tôi suy đoán thì vua ắt sẽ đi vào cung bằng cửa nhỏ", vua nghe rồi liền suy nghĩ: "ta bảo Tăng dưỡng đi ngầm báo với phu nhân, hắn lại đi loan báo khắp thành". Vào ngày khác, vua không nhịn được nữa liền nói với Tăng dưỡng: "đối với ta khanh đã từng nói ra những lời chê trách như: chẳng phải ta là người thọ dụng cả đất nước này hay sao mà chở chỗ---, khanh đã nói là những người này nhờ đất để tự sống; lại ở chỗ----, khanh nói là không nên làm việc đưa đến lo buồn, tức là ta không nên đến nhà dâm nữ; lại ở chỗ, khanh nói là việc không nên làm mà cố làm, tức là nói việc ta đến nhà dâm nữ là không nên làm; lại nữa ở trong vườn thơm, ta sai khanh đến ngầm báo cho phu nhân biết đang đã về và đang ở trong vườn ấy, vậy mà khanh lại báo cho khắp cả thành hay, chính là làm việc bất lợi cho ta", Tăng dưỡng kinh sợ tâu: "xin linh kỳ làm chứng soi xét lòng thần, thật sự thần không dám chê trách vua. Trước đây tại nhà thợ gốm, thần thấy voi đạp bể đồ gốm của họ làm họ ưu sầu nên nói người sống nhờ vào đất mới như thế. Lần sau thấy chim mẹ đẻ trứng trên đường đi bị voi giẫm đạp, chim mẹ kêu bi thương nên thần mới nói việc không nên làm mà lại làm, tức là không nên đẻ trứng trên đường đi. Sau đó thấy rắn buông mình từ trên cành cây xuống muốn cắn vua, thần chặt đứt thành từng khúc rồi nói đối với người không nên làm hại mà lại cố làm. Đó đều là thần nói thẳng sự việc, không phải chê trách vua; lại nữa khi vua sai thần ngầm báo cho phu nhân biết, thần không có loan báo khắp thành, không dám làm việc bất lợi cho vua", vua nói: "tuy khanh phân giải cho là mình không lỗi, nhưng tại cửa nhỏ chính tai ta nghe hai người nữ nói với nhau là vua về sẽ đi vào cung bằng cửa nhỏ, nếu không có ai nói thì làm sao họ biết?", đáp: "họ là yêu nữ phi hành, ẩn thân lén nghe lời vua nói, thật không phải thần làm việc bất lợi cho vua", vua nói: "nếu khanh không có lỗi thì cứ an tâm, không cần lo sợ. Lại nữa, trong lúc ta đi có Bà-la-môn nào nói là nếu ta không trở lại thì sẽ lập vua khác, nay đã đến lúc nên giết hết chúng", Tăng dưỡng nói: "nên tạm để Bà-la-môn lại mà giết yêu nữ phi hành trước", vua hỏi giết như thế nào, đáp: "phải lập kế mới giết được", vua nói: "nếu giết được là việc tốt". Sau đó Tăng dưỡng tìm đến chỗ con của đại thần là người giỏi pháp thuật hỏi rằng: "yêu nữ phi hành tàn hại sanh linh phải lập kế gì để trừ diệt hết?", đáp là có thể, liền chặt tay người chết hoa thành hoa sen xanh đưa cho người đem đi bán và dặn rằng: "hãy đem hoa này ra chợ bán, nhưng không được bán cho người mua bằng tiền, nếu thấy họ mỉm cười thì hỏi tên và ghi nhớ hình dạng", người ấy làm theo lời và ghi được tên năm trăm người mỉm cười. Vua nghe biết rồi liền hỏi Tăng dưỡng: "nhiều người như vậy làm sao giết hết?", đáp là có cách, vua nói tùy ý làm. Sau đó Tăng dưỡng chọn một chỗ gần bên thành, cho quét dọn sạch sẽ rồi mời các cô gái có tên đến, nói rằng: "vua muốn mở hội cầu nguyện chư thần, các chị em nên đến dự", họ được mời liền đến, lại có người không được mời cũng đến, tổng cộng có hơn năm trăm người. Lúc đó người con của đại thần dùng chú thuật trói họ lại, Tăng dưỡng sai người cầm đao giết hết. Sau đó vua nói với Tăng dưỡng: "yêu nữ đã giết hết nhưng còn các Bà-lamôn", nói rồi liền cho người thông báo đến các Bà-la-môn khắp nơi rằng: "vua đã gây vô số nghiệp bất thiện lại giết năm trăm yêu nữ phi hành, để cứu giúp vua mong các vị hằng ngày đến một nơi cho vua cúng dường", vua lại ra lịnh dân trong thành nên làm thức ăn ngon cúng dường các Bà-la-môn. Các Bà-la-môn nghe rồi đều đến thọ cúng dường, khi họ ăn xong sắp ra về, môn nhân đếm tổng số có hơn tám vạn người liền tâu cho vua biết, vua nghe rồi suy nghĩ: "số người đông như vậy làm cách gì có thể giết cùng một lúc", nghĩ rồi liền ra lịnh cho một đao phủ đứng sau một Bà-la-môn đang ngồi ăn, đợi khi họ ăn xong nghe vua lên tiếng bảo lấy Lạc thì chặt đầu họ cùng một lúc. Sau khi khi ra lịnh giết hết các Bà-la-môn ấy rồi, ngay trong đêm đó vua nằm mộng thấy đất rung chuyển phát ra sáu tiếng, đó là: sáu, vô, ta, bỉ, tâm, nếu; thấy hư không cũng phát ra sáu tiếng, đó là: những, ai, bằng, nay, kia, ta; lại thấy có tám điềm mộng khác:

Thấy khắp thân được thoa bằng bột thơm chiên đàn trắng.

Thấy thân được rưới bằng nước thơm chiên đàn đỏ.

Thấy lửa cháy trên đầu.

Thấy dưới nách thò ra hai con rắn độc lớn.

Thấy hai con cá lý ngư liếm hai chân của mình.

Thấy hai con ngỗng từ trên không bay xuống.

Thấy núi đen lớn hiện ở trước mặt.

Thấy chim bạch âu phóng uế trên đầu.

Vua tỉnh mộng rồi rất sợ hãi, toàn thân nổi ốc suy nghĩ: "phải chăng mộng này báo điềm vương vị bị sụp đổ và thân mạng có tổn", sáng hôm sau vua liền triệu các Bà-la-môn đến giải mộng, các Bà-la-môn nói với nhau: "đây là mộng tốt lành nhưng chúng ta sẽ nói là mộng xấu, nếu nói tốt thì ông ta sẽ thêm cao ngạo, tăng thêm ác kiến và sẽ giết thêm nhiều Bà-la-môn khác nữa", bàn xong họ liền tâu: "đại vương, đây không phải là mộng lành", vua hỏi: "hãy nói xem mộng báo điềm gì?", đáp: "mộng báo điềm vương vị sẽ sụp đổ và vua sẽ qua đời", vua nghe rồi rất ưu sâu suy nghĩ: "có cách gì khiến thân ta an ổn và vương vị vẫn bền hay không. Ta nên đến hỏi tôn giả Đại Ca-đa-diễn-na việc lành dữ như thế nào", nghĩ rồi liền đến chỗ tôn giả đảnh lễ rồi ngồi một bên kể lại giấc mộng trên. Tôn giả nghe rồi hỏi vua: "vua đã hỏi ai khác về điềm mộng này chưa?", đáp là đã có hỏi các Bà-la-môn, nói rồi liền thuật lại lời họ nói, tôn giả nói: "họ thích hưởng dục lạc, chỉ cầu sanh thiên nên không thể biết việc khác. Đại vương, đây là mộng lành, vua không nên sợ hãi, mộng này không phải báo điềm mất vương vị và bỏ mạng. Vua hãy lắng nghe: vua mộng thấy đất rung chuyển phát ra sáu tiếng, đều là những tiếng khuyên nhắc vua hãy bỏ ác làm lành. Ngày xưa có sau vị vua dùng phi pháp trị nước, sau khi qua đời bị đọa vào địa ngục. Vua thứ nhất ở trong địa ngục chịu đau khổ nói kệ có chữ Sáu đứng đầu, đó là:

"Sáu vạn sáu ngàn năm,
Đốt nấu trong địa ngục,
Đang chịu khổ cùng cực,
Không biết khi nào hết".

Vua thứ hai nói kệ có chữ Vô đứng đầu, đó là:

"Vô lượng khổ không bờ,
Không biết ngày nào hết,
Chúng ta cùng bị đốt,
Do nghiệp ác đã tạo".

Vua thứ ba nói kệ có chữ Ta đứng đầu, đó là:

"Ta có được y thực,
Hợp lý hay phi lý,
Người khác hưởng thọ lạc,
Riêng ta chịu khổ đau".

Vua thứ tư nói kệ có chữ Bỉ, tức là thô bỉ đứng đầu:

"Thô bỉ thay thân ta,
Có vật không thể bỏ,
Ăn uống không cho người,
Khiến thân không lợi ích".

Vua thứ năm nói kệ có chữ Tâm đứng đầu, đó là:

"Tâm thường dối gạt ta,
Trấn áp, ngu si kéo,
Chịu khổ nơi địa ngục,
Không ai thay thế được".

Vua thứ sáu nói kệ có chữ Nếu đứng đầu, đó là:

"Nếu ta sanh làm người,
Thường tu tập việc thiện,
Do sức của phước nghiệp,
Sẽ được sanh cõi trời".

Vua nên biết sáu tiếng ấy đều nói rõ nghiệp đã làm trước kia của họ. Lại nữa này đại vương, trong hư không phát ra sáu tiếng: một là trong cung vua có cây tre lớn, nhiều trùng nhỏ sống trong đó đã ăn hết phần mềm, chỉ còn phần vỏ cứng. Các trùng này không vui, sợ không sống được nên cùng nhau nói kệ để báo cho chủ nhà biết, kệ này có chữ Những đứng đầu:

"Những phần mềm ăn hết,
Chỉ còn phần vỏ cứng,
Mong vua biết không vui,
Nên thay cho cây khác".

Vì vậy vua nên thay cây tre cũ bằng cây tre mới để các trùng này được sống. Hai là trong cung vua có người giữ ngựa tên là Cận thân đã mù một mắt, người này hằng ngày đập phá trứng trong tổ Quạ, Quạ mẹ thấy con chết nên oán hận cùng nói ra kệ có chữ Ai đứng đầu, đó là:

"Ai có thể giúp nhau
Đâm kẻ kia mù mắt,
Để không giết con tôi,
Để tôi không đau buồn".

Vì thế vua nên cấm ngăn kẻ kia đừng làm như thế nữa. Ba là trong vườn của vua có một cái ao, nước dâng đầy tràn nên nhiều loài cá, ba ba, tôm, ếch sống trong đó. Có một con cò thường bay đến bắt cá ăn hết, nay nước trong ao khô cạn, chim thấy việc này nên nói kệ than thở có chữ Bằng, tức là đất bằng:

"Đất bằng ngang với nước,
Trong nước có cá rùa,
Bị cò ăn nuôi thân,
Nay nước lại khô cạn".

Vì thế vua nên cho thêm nước vào và đuổi cò đi nơi khác. Bốn là trong nước của vua có một ngọn núi lớn tên là Khả uý, trên núi có hai vợ chồng voi đều bị mù, nhờ có voi con nuôi dưỡng. Voi con này thường ra ngoài tìm thức ăn về nuôi cha mẹ, bỗng gặp một voi cái dụ dỗ đi theo nên bị bắt trói trong vườn, nó nhớ cha mẹ nên không ăn cỏ nước, đau khổ nói kệ có chữ nay đứng đầu:

"Nay cha mẹ cô độc,
Mù không ai dẫn dắt,
Sống ở trong rừng sâu,
Ai săn sóc cho ăn".

Vì thế vua nên thả voi ấy cho về với cha mẹ nó. Năm là trong cung vua có con Nai bị bắt nhốt phải xa bầy cũ, nó buồn khổ nên nói kệ có chữ Kia đứng đầu, đó là:

"Bầy kia đều vui sướng,
Cỏ nước, mặc tình đi,
Riêng ta bị bắt nhốt,
Ngày đêm luôn ưu sầu".

Vì thế vua nên thả cho Nai kia trở lại rừng. Sáu là trong cung vua có một con Thiên nga bị nhốt, nó nhìn lên bầu trời thấy bầy Nga bay ngang qua nên đau buồn nói kệ có chữ Ta đứng đầu, đó là:

"Bạn ta đã bay rồi,
Ăn uống tùy ý thích,
Ta có tội nghiệp gì,
Bị trói không muốn sống".

Vì thế vua nên khởi tâm Từ thả cho nó được tự do. Lại nữa, vua thấy tám cảnh mộng là điềm báo trước việc gì?:

Vua thấy khắp thân được thoa nước thơm chiên đàn trắng, đây là điềm báo trước vương quốc Thắng phương sẽ đem xấp vải trắng bằng Giạ quý đến dâng cho vua, hiện đang đi trên đường, bảy ngày sau sẽ đến.

Vua thấy thân được rưới nước thơm chiên đàn đỏ, đây là điềm báo trước vương quốc Kiềnđà-la sẽ đem xấp vải đỏ bằng Giạ quý đến dâng cho vua, hiện đang đi trên đường, bảy ngày sau sẽ đến.

Vua thấy lửa cháy trên đầu là điềm báo trước vương quốc bàn na sẽ đem vòng hoa bằng vàng đến dâng cho vua, hiện đang đi trên đường, bảy ngày sau sẽ đến.

Vua dưới nách ló ra hai con rắn độc là điềm báo trước vương quốc Chi na sẽ đem hai bảo kiếm đến dâng cho vua, hiện đang đi trên đường, bảy ngày sau sẽ đến.

Vua thấy hai con Lý ngư liếm hai chân là điềm báo trước vương quốc đảo Sư tử sẽ đem một đôi giày báu đến dâng cho vua, hiện đang đi trên đường, bảy ngày sau sẽ đến.

Vua thấy hai con ngỗng trắng từ không trung bay đến là điềm báo trước vương quốc Thổ hỏa la sẽ đem hai con tuấn mã đến dâng cho vua, hiện đang đi trên đường, bảy ngày sau sẽ đến.

Vua thấy núi đen hiện tới trước mặt là điềm báo trước vương quốc Yết-lăng-già sẽ đem voi chúa hai đầu đến dâng cho vua, hiện đang đi trên đường, bảy ngày sau sẽ đến.

Vua thấy chim bạch âu phóng uế trên đầu là điềm báo trước về đại phu nhân An lạc mà tự vua sẽ biết. Tất cả đều là khuyên vua không nên khởi tâm ác với Bà-la-môn nữa". Vua Mãnh quang nghe rồi rất vui như sắp chết được cứu sống lại, càng thêm tín kính liền đảnh lễ tôn giả rồi trở về cung. Sau đó vua theo như lời tôn giả chỉ dạy thay cây tre lớn, cấm ngăn người giữ ngựa, đổ nước vào ao cho đầy, thả voi cùng nai và thiên nga được tự do; bảy ngày sau quả như lời tôn giả nói, các nước đều đưa cống vật đến. Vua thấy sự việc này rồi càng thêm kính trọng tôn giả, suy nghĩ: "những điều may mắn vừa xảy ra đều là nhờ phước lực của tôn giả, ta nên đem tấm vải trắng bằng giạ quý cúng dường rồi sau đó đem vương vị nhường lại cho tôn giả", nghĩ rồi liền sai sứ đem tấm giã quý đến cúng cho tôn giả Đại Ca-đa-diễn-na, Sau đó vua bảo phu nhân An lạc, Tinh quang, Ngưu hộ, Tăng dưỡng và đại thần: "các khanh nên biết, các nước đem cống vật đến, các khanh thích thứ gì thì tùy ý lấy dùng", phu nhân An lạc lấy vòng hoa bằng vàng, Tinh quang lấy tấm Giạ quý đỏ, Ngưu hộ lấy hai con tuấn mã, Tăng dưỡng lấy hai bảo kiếm, đại thần lấy đôi giày báu, riêng voi quý thuộc của vua. Sau đó vua đến chỗ tôn giả Ca-đadiễn-na đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch rằng: "việc làm xuất phát từ tâm Từ thật rộng sâu, khó thể nói hết, con xin đem vương vị nhường lại cho tôn giả, xin tôn giả thương xót thọ nhận", tôn giả nói: "đại vương, Thế tôn có chế ngăn các Bí-sô thọ nhận vương vị", vua nói: "nếu vậy xin tôn giả nhận lấy nửa nước", đáp cũng không được, vua nói: "nếu làm vua là điều Phật chế ngăn, vậy thì thọ hưởng năm dục đúng lý là không có tổn", tôn giả nói: "Thế tôn cũng chế ngăn thọ năm dục", vua nói: "nếu vậy xin tôn giả thọ những vật dụng và thượng thọ dụng để tùy ý thọ dụng", tôn giả nói: "để tôi bạch Phật", vua nói tùy ý tôn giả. Lúc đó Thế tôn tuy đang ở tại rừng Thệ đa, thành Thất-la-phiệt nhưng vẫn biết hết mọi việc nên suy nghĩ: "cho dù Ca-đa-diễn-na không cần những vật thọ dụng và thượng thọ dụng này, nhưng vì các Bí-sô vị lai cũng nên thọ nhận", suy nghĩ rồi liền vận tâm thế tục. Thường pháp của chư Phật là hễ khởi tâm thế tục thì ngay đến loài kiến cũng hiểu được ý Phật, nếu khởi tâm xuất thế thì ngay đến bậc Thanh văn, Độc giác cũng không thể hiểu. Khi Phật vận tâm thế tục, tôn giả Ca-đa-diễn-na dùng thiên nhãn thiên nhĩ có thể nghe biết được ý Phật, lúc đó tôn giả bạch Phật: "Thế tôn, Bí-sô có được thọ thí chủ cúng những vật thọ dụng và thượng thọ dụng hay không?", Phật nói: "vì thương tưởng các Bí-sô đời vị lai và muốn cho thí chủ được phước báu tăng trưởng, ta khai cho Bí-sô vì Tứ phương tăng được thọ những vật thọ dụng và thượng thọ dụng, không được vì cá nhân. Trong đây vật thọ dụng là ruộng vườn…, thượng thọ dụng là trâu bò dê…". Sau khi thỉnh ý Phật xong tôn giả liền nói cho vua Mãnh quang biết, vua nghe rồi liền cho xây cất chùa lớn, cúng dường tứ sự đầy đủ cho tôn giả và cúng dường ruộng vườn…, bò dê… cho Tứ phương tăng. Lúc đó Phật bảo các Bí-sô: "lần đầu tiên ta khai cho Ô-ba-sách-ca cúng dường những vật thọ dụng cho Tứ phương tăng Thanh văn, vua Mãnh quang ở nước Ôn thệ ni là người cúng đầu tiên.

Lần đầu tiên ta khai cho Ô-ba-sách-ca cúng dường bánh cho Tứ phương tăng Thanh văn, vua Ảnh Thắng ở nước Ma-kiệt-đà là người cúng đầu tiên. Lần đầu tiên ta khai cho Ô-ba-sách-ca cúng dường ngọa cụ phòng xá cho Tứ phương tăng Thanh văn, trưởng giả Cấp-cô-độc ở thành Thất-la-phiệt là người cúng đầu tiên. Lần đầu tiên ta khai cho Ôba-sách-ca cúng dường Tỳ-ha-la cho Tư phương tăng Thanh văn, trưởng giả Thiện hiền ở thành Bà-la-nê-tư là người cúng đầu tiên".

Nhiếp tụng nội dung đoạn trên:

Mãnh quang cúng tất cả,
Vua Ảnh Thắng cúng bánh,
Cấp cô cúng ngọa cụ,
Thiện hiền lập chùa Tăng.

Sau đó vào một đêm, vua cùng Phu nhân An lạc đang ngồi ăn, vì vua thích Tô nên phu nhân đem một chén Tô đến trước vua. Lúc đó Tinh quang khoác tấm Giạ quý lông đỏ đi qua trước hiên, ánh sáng của tấm Giạ này chiếu vào phòng như làn chớp và chiếu vào người của vua cùng phu nhân, phu nhân kinh ngạc nói: "cái gì chiếu sáng, là ánh chớp hay ánh đèn?", vua nói: "không phải ánh chớp, cũng không phải ánh đèn, mà là ánh sáng chiếu ra từ Tấm Giạ quý lông đỏ mà Tinh quang đang mặc. Tấm Giạ quý như vậy mà nàng lại không lấy, lại lấy vòng hoa bằng vàng, chẳng lẽ trong cung của ta lại không có vòng hoa bằng vàng hay sao. Ai nói là phụ nữ phương ngoài có thể phân biệt được tốt xấu", phu nhân nói: "nàng ấy làm sao có trí huệ như thế, há chẳng phải đại vương đã bảo nàng ấy lấy tấm Giạ quý hay sao?", vua nói: "nàng ấy tự lây, không phải do ta bảo". Vua và phu nhân chỉ vì việc này mà giận nhau, phu nhân ném chén Tô vào đầu vua, vua đưa tay xoa trán thấy bị thương chảy máu liền kêu lên: "đầu ta bị vỡ, máu não chảy ra, chắc là chết không sống được, trước khi chưa chết hãy giết nàng ấy cho ta", nói rồi ra lịnh Tăng dưỡng đem giết phu nhân, Tăng dưỡng nghe rồi liền suy nghĩ: "vua rất yêu mến phu nhân, nay chỉ vì quá tức giận nên mới nói lời này, ta không nên vội đem giết ngay, chờ vua hết giận xem ý tứ vua thế nào rồi đem giết cũng không muộn. Hãy đem phu nhân giấu nơi kín đáo, không để cho vua biết", nghĩ rồi liền đáp: "thần sẽ đem giết ngay", đáp rồi liền đem phu nhân giấu nơi kín đáo. Sau đó vua hết giận liền hỏi Tăng dưỡng phu nhân đâu, đáp: "đại vương ra lịnh giết, thần đã đem giết chết rồi", vua nói: "khanh nên giết luôn ta cùng Tinh quang và Thái tử rồi tự lên ngôi quán đảnh. Tuy nàng ấy có hành động khinh thường ta, nhưng răn dạy trước rồi sau mới phán đoán, lẽ nào lại đem giết ngay", Tăng dưỡng nói: "thần xin nói ví dụ, người có trí nghe ví dụ liền hiểu được sự việc".

Tổng nhiếp tụng nội dung:

Chim Cưu chết, trần trụi,
Ba hạng, khó, không nên,
Xem không chán, không ngủ,
Nhiếp trong bảy bài tụng.

1. Nhiếp tụng nội dung thứ nhất:

Chim Cưu chết trong rừng,
Con khỉ chết dưới cây,
Trong đời này, đời khác,
Bốn tối tăm nên biết.

Tăng dưỡng nói: "đại vương lắng nghe: Thuở xưa, tại một danh sơn có suối chảy trong mát và cây trái xum xuê, trên một đại thọ có đôi chim Cưu làm tổ, chúng hái trái ngon chất đầy trong tổ, chim trống bảo chim mái: "chúng ta không nên ăn những trái này, nên để dành phòng khi gió mưa tìm không được thức ăn, chúng ta nên tìm thức ăn khác", chim mái đồng ý. Sau đó do trời nắng nóng, những trái để dành trong tổ bị khô nên thấy thiếu ít lại, chim trống trách chim mái: "ta đã nói với nàng là không nên ăn những trái này, nên để dành phòng khi có gió mưa mới ăn, vì sao nàng lại lấy ăn", đáp là không có ăn, chim trống nói: "trái cây được chất đầy tổ, nay sao thấy thiếu ít lại, nếu không ăn thì nó đi đâu?", chim mái nói: "em cũng không biết vì sao lại thiếu ít như thế". Lúc đó chỉ vì việc này mà hai con chim tranh cãi nhau loạn xạ, đến nỗi chim trống mổ mạnh vào đầu chim mái, nhân đó chim mái chết. Sau đó trời bỗng mưa, trái cây gặp mưa nở ra đầy trong tổ như trước, chim trống thấy việc này rồi suy nghĩ: "trái cây nay đầy trong tổ như trước, rõ ràng không phải nàng ấy ăn", nghĩ rồi liền đến chỗ chim mái nói lời sám tạ:

"Cưu mái khả ái mau sống lại,
Không phải nàng ăn trái trong tổ,
Vì thấy chỗ thiếu đầy như cũ,
Xin nàng hãy tha thứ cho ta".

Lúc đó trên hư không, chư thiên thấy việc này rồi liền nói kệ:

"Ngươi cùng chim xinh đẹp,
Vui sống nơi núi rừng,
Vì ngu si vô trí,
Giết rồi mới biết hối".

Tăng dưỡng nói hai bài kệ:

"Như chim Cưu ngu kia,
Vô cớ giết đồng loại,
Đâu biết bạn chết rồi,
Phải hối hận buồn khổ.
Đại vương cũng như vậy,
Vô cớ giận người yêu,
Đã ra lịnh hành hình,
Rồi tự sanh ưu não".

"Đại vương lắng nghe ví dụ khác:

Thuở xưa có một trưởng giả vào mùa thu mang hạt giống đậu nành ra ruộng để gieo trồng, đến nơi để dưới một gốc cây rồi trở về lấy mang ra tiếp. Lúc đó trên cây có con khỉ leo xuống trộm lấy một nắm đậu; khi leo trở lên cây, chuyền từ cành này sang cành khác, nó làm rơi một hạt liền vất cả nắm đậu trong tay để trở xuống đất tìm hạt bị rơi. Trưởng giả trở lại nhìn thấy liền dùng cây đánh chết con khỉ, thần cây thấy việc này rồi liền nói kệ:

"Như con khỉ ngu kia,
Bỏ cả nắm tìm một,
Nên mới bị người đánh,
Đau đớn mà bỏ mạng".

Tăng dưỡng nói: "vua trước đã sai thần giết phu nhân, vì chút giận nhỏ mà quên mất lợi lớn. Nay muốn gặp lại, làm sao gặp được", vua nói: "vì sao chỉ vì một lời nói mà khanh lại giết chết phu nhân", đáp: "lẽ nào vua không nghe:

"Đại sư không có hai,
Nói ra chỉ một lời,
Quyết định không sai chạy,
Lời của vua cũng vậy".

Vua nói: "lúc đó lòng ta mê mờ rối loạn nên mới ra lịnh giết, khanh lại làm theo thì có đúng lý hay không?", đáp: "vua há không nghe trên đời có hai loại tối hay sao, liền nói kệ:

"Đại vương nay nên biết,
Đời có hai loại tối,
Một là mắt bị mù,
Hai là không biết pháp.
Đời này và đời sau,
Lại có hai loại tối,
Một là tội ác kiến,
Hai là phá tịnh giới".

2. Nhiếp tụng nội dung thứ hai:

Thân trần trụi, không dùng, Cối giã không phải một, Họa hại, khởi tâm nghi, Khinh thường, việc từ từ.

Vua nói với Tăng dưỡng: "khanh đã giết phu nhân An lạc, ta nay như trần trụi", đáp: "hà vua không nghe trên đời có trường hợp trần trụi, không phải là tướng tốt, đó là:

"Sông không nước, trần trụi,
Nước không vua cũng vậy,
Đàn bà có chồng chết,
Không biết hướng về đâu".

Vua nói: "khanh đã giết phu nhân khiến cho trong cung thấy như rỗng không", đáp: "há vua không nghe trên đời có điều rỗng không, đó là:

"Ngựa dở đi đường chậm,
Thức ăn không gia vị,
Trong nhà có dâm nữ,
Là ba điều rỗng không".

Vua nói: "phu nhân xinh đẹp chưa hưởng hết năm dục đã bị ngươi giết rồi", đáp: "há vua không nghe trên đời có việc không được thọ dụng, đó là:

"Kẻ bán than có áo
đẹp, Người giặt y có
giày dép, Cung nữ ở
trong cung vua, Không được
thọ dụng nên biết".

Đại vương, chẳng phải chỉ có ba việc này, còn có ba loại không được dùng, đó là:

"Khe sâu hoa xuân nở,
Thiếu nữ giữ trinh tiết,
Chồng viễn chinh nơi xa,
Trọn ngày đêm không dùng".

Vua nói: "khanh quá vội vàng đã giết chết phu nhân, tội đáng bỏ vào cối giã", đáp: "vua há không nghe có ba hạng người đáng bỏ vào cối giã, đó là:

"Thợ mộc không xét kỹ,
Thợ may dùng chỉ dài,
Người lái không nhìn xe,
Cả ba đáng bị giã".

Đại vương, chẳng phải chỉ có ba hạng người này, còn có ba hạng người khác, đáng cho vào cối giã, đó là:

"Sứ lại sai sứ khác,
Bảo làm lại sai chuyền,
Nữ mà thích làm càn
Cả ba đáng bị giã".

Đại vương, lại còn có ba hạng khác, đó là:

"Chăn trâu ở trong ruộng,
Cạo tóc ở trong rừng,
Thường ở nhà phụ nữ,
Cả ba đáng bị giã".

Vua nói: "ta chỉ nói một lời, khanh liền giết phu nhân, ta thật đau khổ", đáp: "vua há không nghe trên đời có ba hạng người chỉ nói một lời chắc chắn, đó là:

"Vua chỉ nói một lời,
Gái xuất giá một lần,
Thánh giả một lần hiện,
Ba hạng, một lần thôi".

Vua nói: "khanh tự làm điều họa hại, chỉ nghe một lời của ta liền giết chết phu nhân", đáp: "vua há không nghe trên đời có ba hạng tự chiêu họa hại, đó là:

"Kẻ yếu lại mặc giáp,
Không bạn, có nhiều tiền,
Già suy lấy thiếu nữ,
Ba hạng này tự hại".

Vua nói: "ta nghi khanh có ý đồ, vì sao chỉ vì một lời nói mà liền giết phu nhân", đáp: "vua há không nghe trên đời có ba hạng người, khi gặp đều khiến người khác nghi, đó là:

"Thấy kẻ ít trí tu hạnh cao,
Thấy người dũng mãnh không có sẹo,
Thấy gái già suy nói còn trinh,
Ba hạng này khiến người khác nghi".

Vua nói: "khanh thật khinh thường ta nên mới vội giết phu nhân", đáp: "vua há không nghe trên đời có ba hạng người bị người khác khinh, đó là:

"Người rảnh rỗi nói nhiều,
Người mặc y cũ dơ,
Người không mời mà đến,
Ba hạng này bị khinh".

Vua nói: "khanh muốn từ từ trở thành oan gia của ta hay sao, đã giết phu nhân yêu quý của ta rồi thì ta còn gì nữa", đáp: "vua há không nghe có việc phải từ từ, đó là:

"Ăn cá phải từ từ,
Leo núi cũng như vậy,
Đại sự không thành ngay,
Ba việc này tiến dần".

3. Nhiếp tụng nội dung thứ ba:

Ba hạng người ngu si,
Chia cách có ba việc,
Hạ lưu, xe cán chết,
Việc gian trá nên biết.

Vua nói: "khanh là người ngu si, vì sao đem giết phu nhân yêu dấu của ta", đáp: "vua há không nghe thế gian có ba hạng người ngu si, đó là:

"Gửi cho người không biết,
Phục vụ người nóng tính,
Vội làm rồi bỏ ngay,
Là ba hạng ngu si".

Vua nói: "khanh muốn chia cách người thân của ta nên mới giết phu nhân", đáp: "vua há không nghe có ba hạng bị chia cách, đó là:

"Biết bạn nhưng không thân,
Hoặc thân mật thái quá,
Cầu xin không đúng lúc,
Ba hạng đáng chia cách".

Vua nói: "ngươi là kẻ hạ lưu vì đã giết phu nhân của ta", đáp: "vua há không nghe có ba kẻ hạ lưu, đó là:

"Tham muốn vật của người,
Yêu tiếc vật của mình,
Vui khi thấy người khổ,
Là ba kẻ hạ lưu".

Vua nói: "ngươi đáng bị xe cán chết vì đã giết phu nhân của ta", đáp: "vua há không nghe có ba hạng người đáng bị xe cán chết, đó là:

"Vụng mà làm máy móc,
Vẽ mà không biết màu,
Trẻ mà không nghề khéo,
Ba hạng đáng xe cán".

Vua nói: "ngươi rất gian trá nên mới giết phu nhân của ta", đáp: "vua há không nghe có ba hạng gian trá, đó là:

"Gái lấy chồng ba lần,
Xuất gia lại hoàn tục,
Chim bị bẫy bay thoát,
Ba hạng này gian trá".

4. Nhiếp tụng nội dung thứ tư:

Khó được, vì người khác,
Cô độc, việc nhiều hư,
Trái nghịch, đáng đánh nặng,
Đi mất, làm, vô ích.

Vua nói: "phu nhân là người khó có được nay đã bị ngươi giết chết rồi", đáp: "vua há không nghe thế gian có bốn việc khó được, đó là:

"Đầu thỏ khó có sừng,
Lưng rùa khó có lông,
Dâm nữ khó một chồng,
Kẻ xảo khó nói thật".

Vua nói: "người vì người khác nên giết chết phu nhân của ta", đáp: "vua há không nghe có bốn hạng người vì người khác, đó là:

"Vì người nhận vật gửi,
Bảo hộ và làm chứng,
Đi đường không lương thực,
Kẻ ngu làm việc này".

Vua nói: "người giết chết phu nhân khiến cho ta cô độc", đáp: "vua há không nghe có việc cô độc, đó là:

"Khi sanh một mình đến,
Khi chết một mình đi,
Gặp khổ một mình chịu,
Luân hồi đi một mình".

Vua nói: "ngươi làm việc hư nhiều thật ít nên mới giết phu nhân của ta", đáp: "há vua không nghe có bốn việc hư nhiều thật ít, đó là:

"Nghèo khổ đến người xin,
Trứng cá và hoa táo,
Mùa thu nổi nhiều mây,
Hư nhiều mà thật ít".

Vua nói: "ngươi hành động trái nghịch nên giết chết phu nhân của ta", đáp: "há vua không nghe có việc thường trái nghịch nhau, đó là:

"Bóng sáng với sáng tối,
Ngày đêm với thiện ác,
Bốn việc này trên đời,
Thường là trái nghịch nhau".

Vua nói: "ngươi đáng bị đánh nặng vì đã giết phu nhân của ta", đáp: "há vua không nghe có bốn việc đáng đánh, đó là:

"Vải bị đập thêm láng,
Lừa bị đánh mới đi,
Vợ bị đánh nghe chồng,
Trống bị đánh mới kêu".

Vua nói: "người đã giết phu nhân của ta, hãy đi mất đi", đáp: "há vua không nghe có bốn việc mất đi, đó là:

"Gió thổi bụi bay mất,
Tiếng ồn mất giọng ca,
Phục vụ người vô dụng,
Trái nghịch bậc có đức".

Vua nói: "người đã làm việc không đúng là đã giết phu nhân của ta", đáp: "há vua không nghe có bốn việc làm không đúng, đó là:

"Làm vua mà nói dối,
Thầy thuốc mà lăng xăng,
Sa môn mà nổi giận,
Người trí làm việc ngu".

Vua nói: "ngươi đã làm việc vô ích là đã giết phu nhân của ta", đáp: "há vua không nghe có bốn việc vô ích, đó là:

"Thắp đèn dưới mặt trời,
Mưa rơi xuống biển lớn,
Đã no lại ăn thêm,
Phục vụ người rảnh rỗi".

5. Nhiếp tụng nội dung thứ năm:

Việc không nên, không xem,
Bất thiện, đáng đuổi đi,
Sợ, không vui, bỏ đi,
Mong nhớ, khó nghĩ, buồn.

Vua nói: "người đã làm việc không nên làm là đã giết phu nhân của ta", đáp: "há vua không nghe có bốn việc không nên làm, đó là:

"Không thỉnh mà cố dạy,
Thuyết pháp cho người ngủ,
Không xin được, cố xin,
Đấu sức với kẻ mạnh".

Vua nói: "ngươi không xem xét kỹ liền giết chết phu nhân của ta", đáp: "tuy thần không xem xét kỹ nhưng có bốn việc nên xem, đó là:

"Dũng sĩ đánh nên xem,
Chú trừ độc nên xem,
Tiệc thân tộc nên xem,
Giảng nghĩa được nên xem".

Vua nói: "ngươi giết phu nhân là việc làm bất thiện", đáp: "há vua không nghe có bốn việc bất thiện, đó là:

"Tại gia không siêng làm,
Xuất gia có tham dục,
Vua không biết trù lượng,
Đại đức lại nổi sân".

Vua nói: "ngươi giết phu nhân của ta, tội đáng bị đuổi đi", đáp: "há vua không nghe có bốn việc đáng bị đuổi đi, đó là:

"Lái xe làm xe ngả,
Không lường biết sức bò,
Bò cái nhiều sữa cặn,
Gái ở lâu nhà mẹ".

Vua nói: "ngươi giết phu nhân của ta, ta thấy ngươi thật đáng sợ", đáp: "há vua không nghe có bốn việc không nên sợ mà sợ, đó là:

"Chim Ri và Chìa vôi,
Cò trắng và nhạn xanh,
Cả bốn loại chim này,
Thường có tâm sợ hãi".

Vua nói: "nếu ta không có phu nhân, lòng ta không vui, tại sao ngươi lại giết?", đáp: "há vua không nghe có bốn việc không vui, đó là:

"Vượn không thích xóm làng,
Cá không thích núi đá,
Trộm không thích thiền thất,
Cuồng phu chán vợ mình".

Vua nói: "ngươi giết phu nhân của ta, ngươi thật đáng bỏ đi", đáp: "há vua không nghe có bốn việc đáng bỏ, đó là:

"Vì nhà bỏ một người,
Vì làng bỏ một nhà,
Vì nước bỏ một làng,
Vì thân bỏ cả nước".

Vua nói: "ngươi giết phu nhân khiến ta mong nhớ không biết đến bao giờ", đáp: "vua há không nghe có bốn việc không có ngày hết, đó là:

"Cỏ không đủ lửa đốt,
Và dâm vợ của người,
Khát chỉ uống một ngụm,
Và uống rượu của người".

Vua nói: "ngươi giết phu nhân là việc khó suy lường", đáp: "vua há không nghe có bốn việc khó lường, đó là:

"Vua chúa giận khó lường,
Giữa đường bỗng gặp giặc,
Nữ đánh nhau trong nhà,
Khó lường vật thí đến".

Vua nói: "ngươi giết phu nhân, thật đáng buồn thương", đáp: "vua há không nghe có bốn việc đáng buồn thương, đó là:

"Già suy khởi dâm dục,
Ác phụ bị chồng đuổi,
Dâm nữ tuổi già suy,
Xuất gia có sân hận,
Có bốn việc như vậy,
Thảy đều đáng buồn thương".

6. Nhiếp tụng nội dung thứ sáu:

Không chán, việc đáng yêu,
Không cùng chơi, đoạt tài,
Không cạnh tranh, tâm ác,
Không nương, bạn, không tin.

Vua nói: "ta nhìn ngắm phu nhân không chán mà ngươi lại giết đi", đáp: "vua há không nghe có năm việc không chán, đó là:

"Vua chúa và voi chúa,
Danh sơn và biển lớn,
Tướng hảo của Thế tôn,
Nhìn mãi không biết chán".

Vua nói: "phu nhân thật đáng yêu mà ngươi lại giết đi", đáp: há vua không nghe có năm việc đáng yêu, đó là:

"Tướng đẹp, nhà danh giá,
Nhu hòa, không làm ác,
Phụ nữ có đức hạnh,
Người ấy thật đáng yêu".

Vua nói: "ta không nên cùng ngươi vui chơi nữa vì ngươi đã giết phu nhân", đáp: "há vua không nghe có năm việc không nên cùng vui chơi, đó là:

"Trẻ con và rắn độc,
Kẻ bị thiến, người điên,
Kẻ tùy tiện vô trí,
Không nên chơi với họ".

Vua nói: "ngươi giết phu nhân tức là đoạt tài của ta", đáp: "há vua không nghe có năm việc đoạt tài của người, đó là:

"Ca múa và uống rượu,
Kẻ trộm và cai ngục,
Vương gia thường tới lui,
Năm loại đoạt tài người".

Vua nói: "ngươi đã giết phu nhân, nay không thể tranh cãi gì được nữa", đáp: "há vua không nghe có sáu việc không nên cùng cạnh tranh, đó là:

"Đại phú và quá nghèo,
Hạ tiện, cực cao quý,
Quá xa và quá gần,
Sáu việc không nên tranh".

Vua nói: "ngươi có ác tâm nên giết chết phu nhân", đáp: "há vua không nghe có sáu hạng người có ác tâm, đó là:

"Tuy gặp nhưng không nhìn,
Chống trái không thân cận,
Ưa nói lỗi của người,
Cho rồi mong báo đáp,
Thí rồi tính chuyện đòi,
Là tướng trạng tâm ác".

Vua nói: "ngươi giết phu nhân khiến ta không còn chỗ nương cậy", đáp: "há vua không nghe có bảy việc không nên nương cậy, đó là:

"Tăng già bịnh, vua ác,
Gia trưởng ác, ác khẩu,
Không hiểu rõ pháp luật,
Bịnh nặng không thầy thuốc,
Không nghe lời tôn trưởng,
Bảy việc không nên nương".

Vua nói: "ngươi đã giết phu nhân, không xứng là bạn nữa", đáp: "há vua không nghe có bảy hạng người không xứng là bạn, đó là:

"Tên hề và nhạc nhi,
Kẻ cờ bạc, dâm nữ,
Mê rượu, giặc, huỳnh môn,
Bảy hạng không là bạn".

Vua nói: "ngươi đã giết phu nhân, ta không còn tin tưởng nữa", đáp: "há vua không nghe có bảy hạng khó tin, đó là:

"Nước sâu ngang đến cổ,
Khỉ vượn và voi ngựa,
Rắn đen, trẻ để chỏm,
Mặt gầy, ít râu tóc,
Đối với bảy hạng này,
Không nên tin tưởng lắm".

7. Nhiếp tụng nội dung thứ bảy:

Không ngủ, không ưa thích,
Chín não, không tâm bi,
Mười ác, mười trái nghịch,
Mười lực, phu nhân hiện.

Vua nói: "ngươi giết phu nhân rồi khiến ta không ngủ được", đáp: "há vua không nghe trên đời có tám việc khiến người không ngủ được, đó là:

"Bịnh sốt, bịnh gầy và ho hen,
Bịnh nghèo, suy nghĩ và quá giận,
Tâm đang kinh sợ, bị giặc bắt,
Gặp tám việc này không ngủ được".

Vua nói: "ngươi đã giết phu nhân, ta không ưa thích ngươi nữa", đáp: "há vua không nghe trên đời có tám việc khiến người không ưa thích, đó là:

"Bịnh, già, chết, đói, nghèo,
Ái biệt ly, oán gặp,
Mưa đá làm hại nước,
Tám việc người không thích".

Vua nói: "ngươi đã giết phu nhân làm cho ta ưu não", đáp: "há vua không nghe trên đời có chín việc làm cho ưu não, ngay trong hiện tại phải chấp nhận, đó là:

"Ai yêu kẻ thù ta,
Ghét bạn tốt của ta,
Và ghét bản thân ta,
Đã và đang, sẽ làm,
Nếu có chín việc này,
Cần phải khai giải ngay,
Không nên sanh thù hận,
Tự khổ, làm khổ người".

Vua nói: "ngươi không có tâm bi mới giết chết phu nhân", đáp: "há vua không nghe trên đời có mười hạng không có tâm bi, đó là:

"Đồ tể giết heo, bò, dê, gà,
Bắt chim, lưới cá, săn cầm thú,
Bẫy thỏ, ăn cướp, tên đao phủ,
Làm mười ác này, không tâm bi".

Vua nói: "ngươi là kẻ hung ác nên mới giết chết phu nhân", đáp: "há vua không nghe con người có mười điều ác, đó là:

"Tiếng ác, miệng ác, không xấu hổ,
Bội thân, vong ân, không từ bi,
Giặc cướp, trộm cắp, ăn một mình,
Nói lời tà kiến là mười việc".

Vua nói: "ngươi đã làm việc trái nghịch, không đáng tin vì đã giết chết phu nhân", đáp: "há vua không nghe có mười việc trái nghịch nhau, đó là:

"Mặt trời, trăng, lửa, nước,
Đồng nữ và phụ nữ,
Bí-sô, Bà-la-môn,
Kẻ lõa hình, phân người".

Mặt trời trái nghịch nhau là mùa đông mặt trời xuống thấp nhưng lại không nóng, mùa xuân mặt trời lên cao thì lại rất nóng. Mặt trăng trái nghịch nhau là ngày đầu tháng trăng khuyết, mọi người đều kính lễ; đến khi trăng tròn đầy thì không ai lễ nữa. Tướng lửa trái nghịch nhau là khi bịnh nhiệt thì phải hơ lửa, khi bị mụt nóng cũng cần hơ lửa.

Tướng nước trái nghịch nhau là vào mùa đông nước ao hồ lạnh thì không ai múc uống, nước giếng ấm nên ai cũng uống; vào mùa xuân nước ao hồ ấm nên ai cũng uống, nước giếng mát lạnh thì người lại không thích uống. Đồng nữ trái nghịch nhau là khi chồng chưa cưới thì thường nghĩ đến nhà chồng, đến khi cưới rồi thì lại thường khóc nhớ nhà mình. Phụ nữ trái nghịch nhau là khi còn trẻ tuổi xinh đẹp, mọi người thích nhìn thì khi ra đường che phủ kín mặt; đến khi tuổi già không còn xinh đẹp, mọi người không còn thích nhìn thì lại lộ đầu mặt khi ra đường. Bí-sô trái nghịch nhau là khi còn trẻ khỏe ăn nhiều biết ngon, ăn rồi liền tiêu hóa ngay nhưng lại không được cúng dường nhiều; đến khi tuổi già suy, ăn ít không biết ngon, ăn rồi khó tiêu thì lại được cúng dường nhiều. Bà-la-môn trái nghịch nhau là trẻ con lên bảy chưa phát dục lại bắt chúng thọ giới năm năm chuyên tu phạm hạnh; đến tuổi thanh niên, dục tình mạnh mẽ thì lại không ngăn cấm nên buông lung làm việc phi pháp. Ngoại đạo lõa hình trái nghịch nhau là khi ở trong phòng lại mặc y phục, còn khi ra đường thì lại lõa hình. Phân người trái nghịch nhau là khi còn ướt thì nổi trên mặt nước, đến khi khô cứng thì lại chìm dưới nước". Vua nói: "này Tăng dưỡng, hãy bỏ qua việc ấy không nên nói nữa, ta hỏi lại ngươi phải nói thật, ngươi dựa vào thế lực gì mà đem giết phu nhân?", đáp: "đại vương, thần dựa vào thế lực gì để giết phu nhân, đại vương nên biết, thầy của tôn giả Ca-đa-diễnna là Phật có đủ mười hiệu Như lai, Bạc-già-phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn có trí lực tự tại, là vua chánh pháp thành tựu mười trí lực thù thắng, trí huệ viên mãn, chuyển đại pháp luân, cất tiếng rống của sư tử, như thế mới gọi là bậc có đại thế lực. Mười lực là:

Trí lực thù thắng biết rõ xứ và phi xứ nên mới có thể ở trong bốn chúng cất tiếng rống sư tử, chuyển đại pháp luân.

Trí lực biết rõ như thật về nghiệp báo ba đời của các chúng sanh và nhân duyên dị thục của xứ hay sự việc.

Trí lực biết rõ như thật về các tĩnh lự, giải thoát, Tam-ma-địa, tam ma bát đề, phiền não và thanh tịnh.

Trí lực biết rõ như thật về căn tánh sai khác của chúng sanh.

Trí lực biết rõ như thật về thắng giải đã có của chúng sanh.

Trí lực biết rõ như thật về các thế giới.

Trí lực biết rõ như thật về biến hành của tất cả xứ.

Đối với các sanh xứ của đời trước thảy đều nhớ biết từ một đời, hai đời… cho đến trăm ngàn đời; kiếp thành, kiếp hoại cho đến vô lượng kiếp thành hoại thảy đều nhớ biết có chủng loại như vậy, có chúng sanh như vậy…; cho đến nhớ biết ta ở tại __________ có tên __________ thuộc dòng họ __________ đã sinh hoạt như vậy, có khổ vui như vậy…, thọ sanh như vậy, tuổi thọ dài hay ngắn, chết đây sanh kia, những nơi đã thọ sanh thảy đều nhớ biết.

Được thiên nhãn thanh tịnh thấy biết rõ các hữu tình hoặc sống hoặc chết, đẹp xấu, giàu nghèo, làm nghiệp thiện hay làm nghiệp ác…. Những chúng sanh làm nghiệp ác nơi thân khẩu ý như phỉ báng Thánh hiền, chấp chặt tà kiến, tạo nghiệp tà kiến; do làm nghiệp này nên sau khi chết bị đọa trong ba đường ác. Những chúng sanh làm nghiệp thiện nơi ba nghiệp thân khẩu ý như cung kính Thánh hiền, thực hành chánh kiến; do làm nghiệp này nên sau khi mạng chung được sanh vào đường lành. trí lực biết như thật các lậu tâm đã hết, tâm được giải thoát, tự giác ngộ và chứng được pháp viên mãn, hiểu rõ sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau. Đại vương, Thế tôn có đại thế lực không ai hơn được nên mới gọi là bậc có đại thế lực". Lúc đó vua nghe Tăng dưỡng nói các yếu nghĩa xong liền im lặng, Tăng dưỡng suy nghĩ: "vua đã im lặng thì ta không nên đùa cợt nữa, ta nên đưa phu nhân ra", nghĩ rồi liền đưa phu nhân ra, nước mắt đoanh tròng cung kính lạy dưới chân rồi nói kệ tạ lỗi:

"Vua nhờ việc này hiểu vô thường,
Lần lượt truyền nhau theo gia pháp,
Thấy vương pháp ác, không thi hành.
Phu nhân An lạc mong được tha,
Lời hay trên đời vua vừa nghe,
Thần nhân hỏi đáp để trình bày,
Sức vua điều phục được voi dữ,
Huống chi vợ mình làm việc trái,
Biết tôn trọng chồng và đủ đức,
Thủy chung đoàn tụ chỉ lần này.
Thần thấy đại vương còn trầm ngâm,
Phu nhân đang mong vua tha thứ".

Vua nhìn thấy phu nhân hết sức vui mừng liền nói kệ:

"Khanh nói lời hay đẹp như vậy,
Đều vì lòng thương đối với ta,
Nay ban cho khanh thành Khúc nữ,
Ta tha thứ tội cho phu nhân".

QUYỂN 25

3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ sáu:

Dũng kiện và đồ báu,
Diệu quang, trong Lan nhã,
Nếu trị (bịnh) được cho trị,
Không độ người tổn chúng.

Phật ở trong giảng đường Cao các, bên ao Di hầu, thành Quảng nghiêm. Lúc đó có nhiều Bà-lamôn, trưởng giả tụ tập ở một nơi bàn tán rằng: "Sa môn Kiều-đáp-ma tham dục và các Thanh văn cũng rất tham", trưởng giả Dũng kiện đang ngồi trong chúng nghe lời nói này rồi liền lên tiếng: "việc ấy chưa biết hư thật, tôi mong các vị tự chứng nghiệm để biết Thế tôn là thiểu dục hay đa dục và các Thanh văn cũng như vậy". Sau khi về đến nhà trưởng giả liền xem lại hết những vật dụng làm bằng vàng bạc… đã có rồi đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho trưởng giả được lợi hỉ rồi im lặng. Trưởng giả rời khỏi tòa chắp tay thỉnh Phật và Tăng vào ngày mai đến nhà thọ thực, Phật im lặng nhận lời, trưởng giả biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Sau đó đến thỉnh các ngoại đạo cũng vào ngày mai đến nhà thọ thực; lại đến mời các Bà-la-môn, cư sĩ trong thành cũng vào ngày mai đến nhà cùng tùy hỉ cúng dường Phật và Tăng. Trưởng giả về đến nhà ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn thơm ngon, sáng sớm trải tòa, để nước sạch và tăm rồi sai sứ đến bạch Phật: "đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời". Lúc đó Phật cùng Thánh chúng đắp y mang bát đến nhà trưởng giả ngồi vào chỗ ngồi, trưởng giả cùng các Bà-la-môn, cư sĩ đem những vật đựng như mâm chén… bằng vàng bạc… để dọn thức ăn dâng cúng Phật và Tăng. Phật bảo A-nan: "thầy hãy đến thông báo các Bí-sô: do trưởng giả muốn thử nghiệm nên dùng các vật đựng bằng vàng bạc vật quý để dọn thức ăn, các thầy không nên thọ", tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy đi thông báo nên các Bí-sô không ai thọ dụng các loại vật dụng quý đó. Trưởng giả thấy vậy bèn dùng vật dụng bằng cỏ trắng để dọn thức ăn dâng cúng cho tất cả đều được no đủ. Đợi Phật và Tăng thọ thực xong, trưởng giả lấy cái ghế thấp ngồi trước Phật, Phật thuyết pháp rồi nói kệ bố thí chú nguyện cho trưởng giả rồi đứng dậy cùng chúng tăng ra về. Lúc đó các ngoại đạo được thỉnh đến thọ thực lại không giữ oai nghi, vào chỗ ngồi ngồi lộn xộn không theo thứ lớp. Trưởng giả dặn người giữ cửa: "nếu thấy các ngoại đạo cầm các vật dụng bằng vàng bạc... ra cửa thì nên lấy lại. Nếu họ nói trưởng giả cho ta thì nên nói với họ rằng: chỉ dọn đưa trong khi ăn chứ không phải cho luôn. Nếu họ không đưa trả lại thì nên đoạt lấy lại". Khi trưởng giả dùng các vật dụng như vàng bạc... dọn đưa thức ăn cho các ngoại đạo, họ lớn tiếng đòi như nói: đưa cho ta mâm vàng, hoặc nói đưa cho ta mâm bạc... đến nỗi giành với nhau và đánh chửi nhau. Trưởng giả phải biểu hiện tướng tức giận khiến cho họ lắng yên rồi mới dọn thức ăn lên dâng cúng. Sau khi ăn xong, họ mang các vật dụng đó ra cửa và bị người giữ cửa đoạt lấy lại như trưởng giả đã nói ở trên nên gây huyên náo vang ra ngoài, dân chúng trong thành nghe tiếng huyên náo này cùng kéo đến nhà trưởng giả xem, trưởng giả nói với mọi người: "các vị có thấy sự khác nhau giữa Phật và Tăng với các ngoại đạo không?", đáp là đã thấy, trưởng giả nói: "Phật và Thánh chúng thiểu dục tri túc, còn ngoại đạo lại dùng pháp luật xấu ác để dụ dỗ nhau". Do việc này nên mọi người đối với Phật và Tăng càng thêm tín kính, người nào trước đó không tín kính hay nửa tin nửa ngờ nay cũng phát sanh tín tâm.

Sau khi trở về trú xứ rửa chân xong, Phật ngồi trước đại chúng bảo các Bí-sô: "hạnh thiểu dục có lợi ích lớn như thế, vì vậy các Bí-sô không nên thọ thức ăn trong các vật đựng bằng vàng bạc.... Nếu ai thọ thì phạm tội Việt pháp, nếu là bậc lìa dục thì được tùy ý thọ theo ý của thí chủ". Lúc đó các Bí-sô phàm phu khi lên cõi trời hay xuống long cung, do phước nghiệp lực của họ nên các vật dụng đựng thức ăn toàn bằng bảy báu, các Bí-sô này sợ phạm giới nên không dám thọ, bạch Phật, Phật nói: "nếu những nơi ấy không có vật dụng nào khác để đựng thức ăn thì được thọ, không nên nghi sợ".

Phật tại thành Thất-la-phiệt, trong thành có một trưởng giả giàu có, thọ dung đầy đủ như Tỳ sa môn thiên vương, ông cưới vợ chưa bao lâu thì vợ có thai. Từ khi có thai, thân tướng của người vợ sáng đẹp khác hơn trước, đủ ngày tháng sanh được một bé gái, dung mạo đoan chánh ai cũng thích nhìn, có đủ các tướng tốt. Khi vừa sanh ra ánh sáng chiếu sáng rực như ánh mặt trời, tin này không bao lâu lan truyền khắp nơi nên mỗi ngày có đến ngàn vạn người đến nhà trưởng giả xem việc lạ này. Lúc đó ở phương khác có một tướng sư giỏi cũng nghe biết việc lạ này nên tìm đến, sau khi nhìn thấy bé gái này, ông liền nói với mọi người: "bé gái này có đủ các tướng tốt, hiếm có trên đời nhưng chuẩn theo sách tường thì sau này nó sẽ tư thông cùng với năm trăm đàn ông", mọi người nghe rồi nói rằng: "có tướng mạo như thế, tư thông với năm trăm đàn ông cũng không phải là kỳ lạ". Do tướng sư tiên đoán như thế nên tin đồn lan xa, mọi người tranh nhau đến xem đứa bé gái làm huyên náo cả đường phố. Đủ hai mươi mốt ngày, trưởng giả mở tiệc ăn mừng và đặt tên cho bé, do vừa mới sanh ánh sáng chiếu sáng rực như ánh mặt trời nên đặt tên là Diệu quang. Trưởng giả giao con gái cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng, đến tuổi trưởng thành Diệu quang càng diễm lệ, không ai sánh bằng. Diệu quang học thông các loại kỹ nhạc và với vóc dáng xinh đẹp của mình qua y phục lụa là thơm ngát, cô giống như thiên nữ trong vườn Diệu hoa. Cho dù là tiên nhân ẩn cư lìa dục, nếu nhìn thấy cô vẫn khởi tâm dâm dục huống chi là những chàng trai trẻ, tâm dục hừng thạnh, không ai là không bị cô mê hoặc. Do nguyên nhân này nên trưởng giả cùng các gia nhân ngày đêm giữ gìn nghiêm mật, không để cho cô ra ngoài. Lúc đó Thái tử, đại thần của vua Thắng quang nước Kiều-tát-la và vương tử các nước khác đều muốn đến cầu hôn Diệu quang, nhưng khi nghe biết được lời tiên đoán của tướng sư, ai nấy đều xấu hổ không vui và rút lui. Tuy như vậy nhưng bên ngoài cửa nhà của trưởng giả luôn luôn có nhiều người ngắm nghé Diệu quang, trưởng giả tuy có cho người canh giữ nhưng vẫn sợ khó cấm ngăn được họ làm bậy, gây họa cho cả nhà nên trong lòng không yên. Trưởng giả suy nghĩ: "con gái ta đã lớn, dù gặp người không tương xứng đến dạm hỏi, ta cũng gả cho rồi", vì ai cũng sợ lời tiên đoán của tướng sư nên không ai dám đến hỏi cưới, trưởng giả do vậy buồn bã mà sanh bịnh. Trong thành cũng có một trưởng giả giàu có, kết hôn chưa bao lâu thì vợ chết, lần lượt cưới thêm vợ khác cho đến người vợ thứ bảy cũng chết, nên người đương thời gọi ông là trưởng giả giết vợ. Do không thể sống cô độc nên ông tìm đến những nhà có con gái để cầu hôn, cha mẹ của cô gái đều nói: "chẳng lẽ chúng tôi muốn giết con gái của mình hay sao?", sau đó ông lại tìm đến các quả phụ để cầu hôn, họ đều nói: "chẳng lẽ chúng tôi lại muốn tự sát hay sao?". Do tìm vợ thêm không được nên ông dứt tâm mong cầu, muốn đến sống chung với các Sa môn ngoại đạo tu phạm hạnh. Sau đó lại suy nghĩ: "cha ta trước đây là Ô-ba-sách-ca của Phật, ta nay cần gì phải theo ngoại đạo, ta nên đến ở chung với các đệ tử của Phật, ban đầu thân cận cúng dường sau đó sẽ xuất gia", một người bạn cũ thấy ông thường lui tới trong rừng Thệ đa liền hỏi: "có phải bạn muốn cầu xuất gia hay không?", đáp: "nay tôi ở một mình cũng như là xuất gia, cần gì phải cầu nữa", người bạn hỏi rõ nguyên do rồi nói: "sao bạn không đến cầu hôn mỹ nữ Diệu quang", đáp: "tướng sư tiên đoán cô ấy sẽ tư thông với năm trăm đàn ông, nếu cưới cô ấy về nhà thì nhà tôi sẽ trở thành nhà dâm nữ hay sao", người bạn nói: "bạn có tín tâm, ai lại tự tiện vào nhà, ngoại trừ Bí-sô.

Bạn nên đến dạm hỏi", đáp: "sợ họ không chịu gả", người bạn nói: "họ cũng đang lo buồn, nếu bạn đến hỏi, nhất định họ sẽ gả". Trưởng giả nghe rồi liền đến nhà Diệu quang, người cha thấy đến vui vẻ chào hỏi: "thiện lai, ông đến có việc gì?", đáp: "có ước nguyện trong lòng, chưa dám nói ra", người cha nói cứ nói, đáp là muốn hỏi cưới Diệu quang, người cha vui mừng chấp thuận. Trưởng giả liền làm lễ cưới long trọng rước dâu về nhà, sau đó giao chìa khóa trong nhà cho vợ rồi nói: "hiền thủ, trước đây nhà ta quy y Tam bảo, xem đó là phước điền nên không tín ngưỡng phái khác, nàng cũng nên tùy thuận cúng dường", đáp lành thay. Sau đó trưởng giả hằng ngày thỉnh các Bí-sô về nhà thọ thực, Diệu quang tự tay cúng dường, thấy Bí-sô nào có tướng mạo đoan nghiêm thì ghi nhớ trong lòng. Một hôm trưởng giả có việc phải vắng nhà nên dặn vợ: "ta có việc phải vắng nhà ít hôm, nàng ở nhà nên hằng ngày cúng dường phước điền, chớ có gián đoạn", Diệu quang vâng lời; sau đó trưởng giả lại đến chỗ các Bí-sô bạch rằng: "con tuy có việc vắng nhà ít hôm, nhưng hằng ngày các Thánh giả vẫn đến nhà con thọ thực như thường lệ", đáp là sẽ đến và chúc trưởng giả đi đường bình an. Hôm sau khi các Bí-sô đến nhà thọ thực, Diệu quang liền biểu hiện thái độ lẳng lơ, các Bí-sô thọ thực xong trở về chùa nói với nhau: "tướng tội lỗi hôm nay hiện ra, vậy chúng ta phải làm sao?", một người nói: "ngày mai chúng ta sẽ không đến thọ thực nữa", một người nói: "chúng ta sẽ đi khất thực", mọi người đều nói lành thay và nhất trí ngày mai không đến nhà Diệu quang thọ thực nữa. Sau khi làm xong công việc trưởng giả trở về nhà hỏi vợ: "các thánh giả có đến thọ thực hay không?", đáp: "chỉ đến có một ngày, sau đó không đến nữa", trưởng giả nghe rồi suy nghĩ: "chắc là cô ấy hiện tướng dâm nhiễm khiến các Thánh giả sợ phạm tội nên mới không đến nữa", nghĩ rồi liền đến ân cần thỉnh lại, các Bí-sô nói: "chúng tôi hành theo pháp khất thực như trước kia", trưởng giả nói: "con đã hiểu nguyên do, con sẽ không để sanh lỗi lầm như trước nữa", các Bí-sô nhận lời, trưởng giả đảnh lễ rồi ra về. Hôm sau các Bí-sô đến nhà thọ thực, trưởng giả đưa Diệu quang vào phòng rồi đóng cửa lại, Diệu quang ở trong phòng sanh vọng tưởng phân biệt nhớ nghĩ đến hình dáng của các Bí-sô, do vọng tưởng nên sanh luyến ái khiến cho lửa dục hừng thạnh, từ trong bốc ra thiêu đốt thân khiến cho toàn thân xuất mồ hôi, sinh khí thoát ra hết nên qua đời. Lúc đó các Bí-sô thọ thực xong, nói kệ chú nguyện rồi ra về, trưởng giả mới mở cửa phòng kêu Diệu quang ra cùng ăn cơm, không nghe Diệu quang lên tiếng, trưởng giả vào phòng thấy Diệu quang nằm trên đất, cho là ngủ nên lay gọi dậy, mới biết là Diệu quang đã chết. Trưởng giả đau buồn cho người đến báo cho bên ngoại thân biết tin, bên ngoại thân hay tin liền đến, thấy Diệu quang đã chết liền đau buồn kêu khóc và mắng chửi trưởng giả, như thế cho đến chiều tối mới dùng vải ngũ sắc liệm thi thể rồi đặt trên xe tang đưa đến trong rừng thây chết. Lúc đó cách rừng thây chết không xa có năm trăm tên cướp từ nơi khác đến, một người đi đường nhìn thấy bọn cướp rồi liền suy nghĩ: "mỹ nữ Diệu quang vừa chết, thân tộc đã đưa đến trong rừng thây chết, nếu gặp bọn cướp ắt sẽ bị hại, ta nên đến báo cho họ biết", nghĩ rồi liền đến báo, thân tộc nghe xong liền bảo người ở lại coi giữ rồi gạt lệ cùng trở về. Khi thấy bọn giặc kéo đến, người coi giữ thi cũng bỏ trốn, bọn giặc đến thấy người nữ này tuy đã chết nhưng dung nghi vẫn tươi sáng như sống, liền nói với nhau: "cô gái này xinh đẹp hiếm có, khó tìm được ở đâu một người đẹp như thế", do sanh tâm nhiễm ô nên họ cùng nhau làm việc phi pháp với người chết, sau đó cùng nhau góp được năm trăm tiền vàng, liền để lại bên cạnh tử thi rồi bỏ đi. Sáng hôm sau, khắp nơi trong ngoài thành đều nghe biết Diệu quang tuy chết mà thân vẫn cùng năm trăm tên cướp tư thông và được năm trăm tiền vàng.

Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: "Thế tôn, Diệu quang đời trước đã tạo nghiệp gì mà nay có thân tướng xinh đẹp, vừa sanh ra đã có ánh sáng chiếu rực như ánh mặt trời. Nay tuy đã chết mà thân vẫn cùng năm trăm người tư thông và được năm trăm tiền vàng?", Phật nói: "nghiệp mà Diệu quang đã tạo, nay quả báo thuần thục, không ai chịu thay được… Các thầy lắng nghe nhân duyên này:

Quá khứ Hiền kiếp, lúc con người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca-diếp-ba ra đời đầy đủ mười hiệu ở trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Trong thành đó có vua Ngật lật chỉ là đại pháp vương, dùng pháp trị nước khiến cho dân chúng được an cư lạc nghiệp… Sau khi nhân duyên giáo hóa đã mãn, Phật ấy nhập Niết-bàn vô dư như củi hết lửa tắt. Vua liền thu lấy xá lợi Phật rồi cho xây bảo tháp rộng một du thiện na, cao nửa du thiện na để cúng dường. Lúc đó có một cư sĩ nữ thấy bảo tháp uy nghi nên sanh tín tâm, đem tấm gương soi treo vào tượng pháp luân trên tháp rồi phát nguyện: "nguyện cho con ở đời vị lai dù sanh ra nơi nào, thân cũng phát ra ánh sáng rực rỡ như ánh mặt trời".

Này các Bí-sô, cư sĩ nữ thuở xưa chính là Diệu quang ngày nay, do nguyện lực đã phát thuở xưa nên nay được quả báo thân quang chiếu sáng như ánh mặt trời. Các thầy hãy lắng nghe nhân duyên Diệu quang tuy đã chết mà thân vẫn tư thông cùng năm trăm người và được năm trăm tiền vàng:

Thuở xưa ở thành Bà-la-nê-tư, có vua tên Phạm thọ là đại pháp vương…, trong thành có một dâm nữ tên là Hiền thiện rất xinh đẹp, trước đây có tư thông với em vợ vua. Lúc đó có năm trăm đồng tử cùng vui chơi ở trong vườn thơm, chúng nói với nhau: "chúng ta đã chơi đủ các trò chơi, chỉ có chưa cùng thiếu nữ giao hội", nói rồi đều nhất trí mời Hiền thiện đến trong vườn để cùng hoan lạc, Hiền thiện nói: "nếu có một ngàn tiền vàng thì tôi mới đến, nếu không có thì thôi", họ nói: "hãy lấy trước năm trăm, sau khi hoan lạc xong sẽ đưa thêm năm trăm nữa", Hiền thiện đồng ý rồi nhận lấy năm trăm tiền vàng và nói đợi trang điểm, thay đổi y phục xong sẽ đến. Sau khi họ đi rồi cô suy nghĩ: "nếu ta cùng năm trăm người này giao hoan chắc là không sống nổi, nhưng họ đã đưa năm trăm tiền vàng trước rồi, ta biết tính sao đây. Em vợ vua từng có giao tình với ta, nếu nhờ giúp đỡ chắc là sẽ giúp", nghĩ rồi liền sai tỳ nữ đưa thư đến cho em vợ vua, trong thư viết: "em vô ý nhận năm trăm tiền vàng để hoan lạc với năm trăm người, nếu như vậy thì chắc là em không sống nổi, nếu không chịu đi thì em sẽ bồi thường gấp bội tiền vàng đã nhận, nếu đại nhân nghĩ tình trước đây thì xin nghĩ cách gì cứu giúp", em vợ vua dựa vào thế lực vua giúp cho Hiền thiện khỏi phải đi, cũng không phải bồi thường tiền. Vào thời đó không có Phật, chỉ có Phật Bích chi ra đời thường thương xót người nghèo khổ, là ruộng phước bậc nhất trên thế gian. Khi vị này du hành đến thành Bà-la-nê-tư, đang tìm nơi tịch tĩnh để đừng nghỉ thì thấy năm trăm đồng tử này tụ tập một chỗ. Họ thấy vị Độc giác các căn tịch tĩnh khác hẳn người thường nên phát tâm cúng dường để gieo trồng nhân lành cho đời sau. Họ đem các món ăn thơm ngon sẵn có sớt vào đầy bát, chí thành cúng dường, vị Độc giác muốn cho họ phát thiện tâm nên ở trên hư không hiện các thần biến: trên thân phóng lửa, dưới thân phun nước… rồi hạ xuống đất. Thường tình hễ phàm phu nhìn thấy thần biến này liền như cây đại thọ sụp đổ, họ sụp xuống đảnh lễ vị Độc giác rồi phát nguyện: "chúng con nguyện đem thiện căn cúng dường bậc chơn thật phước điền này để được cùng giao hoan với dâm nữ Hiền thiện, dù là tử thi cũng sẽ trả năm trăm tiền".

Này các Bí-sô, Hiền thiện thuở xưa nay chính là Diệu quang, năm trăm đồng tử thuở xưa nay chính là năm trăm tên cướp, do sức phát nguyện ngày xưa nên tuy lưu chuyển sanh tử trong năm trăm đời, nay Diệu quang tuy đã chết nhưng họ vẫn cùng tử thi làm việc phi pháp rồi đưa năm trăm tiền vàng. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập nghiệp trắng, chớ có buông lung", nghe Phật dạy rồi, các Bí-sô đều hoan hỉ tín thọ phụng hành. Lúc đó Phật suy nghĩ: "do các Bí-sô đến nhà thọ thực nên mới có tai họa này", nghĩ rồi liền bảo các Bí-sô: "do Diệu quang khởi vọng tưởng phân biệt đối với các Bí-sô nên mới bỏ mạng, vì thế các thầy không nên đến những nhà như vậy để thọ cúng dường, đến nỗi sanh lầm lỗi. Nếu ai đến nhà như thế thì phạm tội Việt pháp".

Phật tại thành Vương xá, lúc đó có một Bí-sô thường đến trong A-lan-nhã tu tập thiền định, có một ma nữ khởi tâm nhiễm muốn cùng Bí-sô làm việc phi pháp, Bí-sô không chịu, Ma nữ nói: "nếu thầy không chịu thì tôi sẽ làm việc bất lợi cho thầy", đáp: "tôi là người trì giới thì làm sao gây bất lợi cho tôi được". Từ đó Ma nữ thường theo rình tìm dịp thuận tiện, một hôm thấy Bí-sô ngồi quấn y thiền định rồi ngủ quên, Ma nữ liền vác Bí-sô tới chỗ vua Thắng quang ở trên lầu rồi ném Bí-sô lên người của vua lúc vua đang ngủ. Vua giật mình tỉnh thức liền hỏi là ai, đáp là Sa môn Thích tử, lại hỏi vì sao đến đây, Bí-sô kể lại việc trên, vua nghe rồi nói: "vì sao lại đến ở nơi có nạn khủng bố như thế, nếu tôi không phải là Phật tử thì thánh giả đã không toàn mạng sống, lại còn làm cho Thánh giáo bị hoại", Bí-sô nghe rồi im lặng. Sau đó trở về kể lại việc trên cho các Bí-sô nghe, các Bí-sô đem việc này bạch Phật, Phật bảo: "vua Thắng quang nói đúng, do Bí-sô ở nơi có nạn khủng bố nên có lỗi này, từ nay Bí-sô không được ở nơi có nạn khủng bố như thế, nếu ai ở thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô bị ung nhọt, thầy thuốc đến mổ ung nhọt rồi nhưng vì có việc gấp nên chưa đắp thuốc liền bỏ đi, Bí-sô này đau nhức kêu la nên các Bí-sô nói với nhau: "có ai biết cách đắp thuốc hãy làm cho vị ấy bớt đau nhức", có một Bí-sô trẻ biết cách liền đến đắp thuốc cho Bí-sô kia. Lúc đó thầy thuốc chợt nhớ là chưa đắp thuốc cho Bí-sô liền quay trở lại thấy đã đắp thuốc liền hỏi là ai làm, đáp là Bí-sô trẻ tuổi, thầy thuốc xem lại thấy là làm rất tốt liền nói: "hôm sau nêu không có tôi đến thì nên làm như thế", Bí-sô trẻ nói: "tôi tuy tùy nghi làm nhưng Thế tôn chưa khai cho", thầy thuốc nói: "Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho làm", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu có người biết về thuốc thì cho người đó được điều trị, nhưng nên ở chỗ khuất chớ cho người tục thấy, nếu ở chỗ hiển lộ thì phạm tội Việt pháp".

Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có các Bà-la-môn, cư sĩ đến hỏi các Bí-sô: "con có bịnh như thế nên uống thuốc gì và nên ăn những gì?", trong các Bí-sô, người không biết về thuốc thì không đáp được, còn người biết thì sợ phạm tôi nên cũng không nói khiến cho họ buồn bã trở về.

Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu Bí-sô nào biết về thuốc thì nên chỉ cho họ, không phạm".

Duyên xứ như trên, sau khi Phật hiện thần biến hàng phục ngoại đạo làm cho trời người vui mừng nên các Bí-sô ở các nơi khác và các phi nhân ở ngoài thành đều tụ về thành Thất-la-phiệt. Tại đây Thế tôn và đại chúng được các chúng trời người như vua Thắng quang, phu nhân Thắng man, phu nhân Hành vũ… Tỳ-xá-khư... cúng dường y thực đầy đủ, nên các phi nhân này sanh tâm tham đắm không muốn trở về chỗ cũ. Phi nhân nào có tâm dục thì hóa thành hình dáng của người chồng để hành dục với vợ họ, khiến cho người vợ sau khi sánh ra hoặc trai hay gái đều có đầu mặt của phi nhân, khác với người thường, như mắt đỏ đầu to hoặc tóc xanh, tóc vàng. Người mẹ thấy rồi kinh hoàng nên đem con bỏ ở chỗ hiểm vắng, người cha phi nhân thấy rồi liền truyền tinh khí cho đứa con được sống. Lại có trường hợp khi mới sanh ra thì hình người nhưng khi lớn lên lại hiện tướng phi nhân và cũng bị người mẹ vất bỏ như trên, phi nhân cha thấy liền nuôi dưỡng chúng đến trưởng thành. Lúc đó Lục chúng Bí-sô nói với nhau: "bọn hắc bát thường dụ dẫn môn đồ của chúng ta, chúng ta nên thu nhận môn đồ có tướng khác thường thì bọn Hắc bát mới không dụ dẫn đi", sáng hôm sau Ô-ba-nan-đà đắp y mang bát vào thành khất thực, gặp một người tóc vàng liền hỏi là con nhà ai, đáp là cô độc một mình không có nhà, lại hỏi vì sao không xuất tục, đáp: "tôi tóc vàng khác người, ai lại chịu làm thầy cho tôi xuất gia", Ô-ba-nan-đà nói: "giáo pháp của Đại sư lấy từ bi làm trên, nếu người chịu xuất tục thì ta sẽ làm thầy cho ngươi xuất gia", người kia vui mừng liền theo về chùa, Ô-ba-nan-đà cho xuất gia và cho thọ Cận viên. Sau vài ngày dạy cho biết pháp tắc liền bảo tân Bí-sô: "nai không nuôi nai, thành Thất-la-phiệt này rộng lớn, con nên vào thành khất thực tự sống", tân Bí-sô vâng lời sáng hôm sau đắp y mang bát vào thành khất thực, một phụ nữ khi mang thức ăn ra cúng dường, vừa nhìn thấy tân Bí-sô này liền đấm ngực la lên: "ai lại cho người tóc vàng như thế xuất gia chứ", đáp: "tôn giả Ô-ba-nan-đà là Thân giáo sư của tôi", người nữ nghe rồi liền nói: "trừ vị ấy ra, có ai lại làm hạnh xấu như thế", lúc đó những người bất tín nghe biết liền cùng nhau chê trách: "Sa môn Thích tử làm việc phi pháp, độ cho hạng người tóc vàng xuất gia". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "do Bí-sô độ hạng người như vậy nên có lỗi này, từ nay Bí-sô không được độ hạng người tóc vàng cho xuất gia, phá pháp tắc của mọi người. Ai làm thế thì phạm tội Việt pháp". Lúc đó Bí-sô không biết như thế nào là phá pháp tắc của mọi người, Phật nói: "có hai loại nếu độ cho xuất gia là phá pháp tắc của mọi người, đó là chủng tộc và hình tướng. Chủng tộc là thuộc dòng họ hạ tiện, nghèo hèn ăn mặc không đủ như Chiên-đà-la, người làm thuê mướn, hoặc nấu rượu, hoặc thợ săn… Hình tướng là người có tóc vàng, xanh hay đỏ, hoặc không tóc, hoặc đầu to, đầu tai lừa, đầu heo… hoặc không tai; hoặc mắt quá to, quá nhỏ… hoặc thân quá lớn, quá gầy... hoặc tay chân không đủ… người có các bịnh như thế thì không nên độ cho xuất gia thọ Cận viên". Phật nói kệ:

"Người trong pháp tối thắng,
Đầy đủ thọ Thi la,
Chí tâm thường phụng trì,
Khó được thân không chướng,
Thân đoan nghiêm xuất gia,
Thanh tịnh thọ Cận viên,
Nói ra lời chân thật,
Đấng chánh giác đều biết".

Lúc đó Ô-ba-nan-đà đem số tóc vàng đã cạo được đem bán cho tên hề, Phật nói: "ai bán tóc thì phạm Tốt-thổ-la-để".

4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ sáu:

Đà sách… ba đồng thọ,
Quên xuất xứ… đều hỏi,
Đại thần thông, Đại dược,
Phật từ thiên cung xuống.

Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó cụ thọ Ưu-ba-ly có hai Cầu tịch là Đà sách ca và Ba lạc ca, cả hai đều rất thân thiết hòa thuận với nhau. Người này bảo người kia: "bạn thọ Cận viên đi, tôi sẽ phục vụ cho Thân giáo sư và bạn không để thiếu thốn", người kia nghe rồi cũng nói lại như vậy, cả hai đều nhường qua nhường lại nên không ai chịu thọ Cận viên trước cả. Ưu-ba-ly bạch Phật: "Thế tôn, một Thân giáo sư, một Yết ma sư, một Giáo thọ sư có được cho hai đệ tử cùng thọ Cận viên một lần hay không?", Phật nói được, lại hỏi: "hai người này ai lớn hơn?", Phật nói bằng nhau, lại hỏi: "có được cho ba người cùng thọ một lần hay không?", Phật nói được, lại hỏi: "có được cho bốn người cùng thọ một lần hay không?", Phật nói: "không được, vì sao, vì không phải chúng mà làm yết ma cho chúng thì trên lý là trái nhau. Nếu ai làm như vậy thì phạm tội Việt pháp", lại hỏi: "nếu đồng thời thọ giới không có lớn nhỏ thì làm sao kính lễ, làm tri sự và thọ lợi dưỡng?", Phật nói: "nếu đồng thời thọ giới thì không nên kính lễ nhau, nếu làm tri sư hay thọ lợi dưỡng thì tùy theo Tăng sai". Duyên xứ như trên, lúc đó Ưu-ba-ly bạch Phật: "nếu đời vị lai, con người dễ quên, niệm lực ít nên không biết rõ Thế tôn thuyết kinh gì, chế học xứ gì, ở tại đâu thì phải làm sao?", Phật nói: "tại sáu thành lớn, Như lai trú lâu nhất ở trong đại Chế để, nói ra những nơi ấy thì không phạm", lại hỏi: "nếu quên hiệu của các vua thì phải như thế nào?", Phật nói: "nếu là vua thì nói vua Thắng quang, nếu là trưởng giả thì nói trưởng giả Cấpcô-độc, nếu là Ô-ba-tư-ca thì nói Tỳ-xá-khư... nên biết như vậy. Đối với nơi khác thì tùy theo vua hay trưởng giả ở nơi đó mà nói", lại hỏi: "nếu nói về nhân duyên sự việc đời trước thì phải như thế nào?", Phật nói: "tùy thời mà nói, như nói thành Bà-la-nê-tư thì có vua hiệu Phạm thọ, có trưởng giả tên Tương tục, có Ô-ba-tư-ca tên Trưởng tịnh", lại hỏi: "đối với kinh điển không thể ghi nhớ hết thì làm sao thọ trì?", Phật nói: "nên ghi chép trên lá, trên giấy để đọc tụng thọ trì".

QUYỂN 26

4. Nhiếp tụng thứ tư (Tiếp Theo)-Phật hiện đại thần thông:

Phật tại thành Vương xá, trong Trúc lâm bên bờ ao Yết lan đạc ca. Lúc đó quốc vương, vương tử, đại thần, Bà-la-môn, các cư sĩ và dân chúng trong các thành ấp đều cung kính tôn trọng Phật và Tăng nên cúng dường tứ sự và những vật cần dùng không có thiếu thốn; nhưng các ngoại đạo thì lại không được như thế. Lúc đó Ma vương Ba tuần suy nghĩ: "từ lâu ta đối với Sa môn Kiều-đáp-ma không tìm được dịp thuận tiện nào để làm hại, nay ta nên dựa vào các ngoại đạo để gây não loạn", nghĩ rồi liền hóa thành ngoại đạo Bộ thích noa, một trong Lục sư ngoại đạo, vì Lục sư tuy không phải là bậc Nhất-thiết-trí nhưng lại kiêu mạn tự xưng là Nhất-thiết-trí, cũng đang ở trong thành Vương xá. Hóa Bộ thích noa này lần lượt đến chỗ Mạt yết lị cù xá lê tử… năm vị sư ngoại đạo kia, hiện thần thông như thân phóng ra nước, lửa, nổi mưa làm sấm chớp… năm vị sư kia thấy rồi đều hỏi: "này Bộ thích noa, ông đã thành tựu được công đức thù thắng như vậy sao?", đáp là đã chứng đắc. Sau đó ma Ba tuần lại hóa thành Mạt yết lị cù xá lê tử lần lượt đi đến chỗ năm vị sư ngoại đạo kia và cũng hiện các thần biến như trên, năm vị sư kia thấy rồi đều hỏi và đáp như trên. Sau đó ma Ba tuần lại hóa thành San thệ di bệ thích tri tử lần lượt đi đến chỗ năm vị sư ngoại đạo kia và cũng hiện các thần biến như trên, năm vị sư kia thấy rồi đều hỏi và đáp cũng như trên. Sau đó ma Ba tuần lại hóa thành A thị đa kê xá cam bạt la lần lượt đi đến chỗ năm vị sư ngoại đạo kia và cũng hiện các thần biến như trên, năm vị sư kia thấy rồi đều hỏi và đáp như trên. Sau đó ma Ba tuần lại hóa thành Khước câu đà Ca-đa-diễn-na lần lượt đi đến chỗ năm vị sư ngoại đạo kia… như trên. Sau đó ma Ba tuần lại hóa thành Ni yết lan đà thân nhã đê tử cũng lần lượt đi đến chỗ năm vị sư ngoại đạo kia… như trên. Làm như thế khiến cho mỗi người trong nhóm Lục sư đều nghĩ rằng: "những vị kia đều có đại oai thần lực, chỉ riêng mình ta là không có". Vào một thời khác, Lục sư ngoại đạo đều tụ tập tại Xướng tụng đường bàn luận cùng nhau, họ nói: "trước kia chúng ta đều được quốc vương, đại thần… cung kính tôn trọng nên được nhiều lợi dưỡng, tứ sự cúng dường đầy đủ nhưng nay thì không được như vậy nữa, trong khi đó Sa môn Kiều-đáp-ma lại được. Chúng ta phải thách đấu với Sa môn Kiều-đáp-ma về thần thông đạo lực, nếu Sa môn Kiều-đáp-ma hiện một thần thông thì chúng ta sẽ hiện hai, nếu hiện hai thì chúng ta sẽ hiện bốn, nếu hiện bốn thì chúng ta sẽ hiện tám…, nói chung là chúng ta sẽ hiện gấp ba bốn lần so với Sa môn Kiều-đáp-ma", bàn xong, họ cùng đến chỗ vua Ảnh Thắng, chú nguyện cho vua rồi tâu rằng: "đại vương nên biết, chúng tôi có đủ đại thần thông lực, có đại trí huệ; Sa môn Kiều-đáp-ma cũng tự xưng là có đại thần thông lực, có đại trí huệ. Xin đại vương chấp thuận cho chúng tôi thách đấu với Sa môn Kiều-đáp-ma về thần thông lực, nếu Sa môn ấy hiện một thần thông thì chúng tôi sẽ hiện gấp hai, ba lần như thế; nếu Sa môn ấy đi đến giữa đường, chúng tôi cũng đi theo đến giữa đường để cùng đấu thần thông", vua Ảnh Thắng nói: "này lục sư, các vị tuy sống mà không khác gì thây chết, vì sao có thể thách đấu với Như lai về thần thông được", họ nghe vua nói rồi liền từ giã ra về. Sau đó khi vua ra khỏi thành để đến kính lễ Phật, Lục sư gặp vua ở giữa đường cũng tâu giống như lần trước, vua nói: "đã hai lần đến nói nhưng ta đều bỏ qua, nếu còn đến nói nữa thì ta sẽ đuổi ra khỏi nước", họ nghe rồi im lặng bỏ đi. Về đến trú xứ, họ nói với nhau: "vua ấy đối với Sa môn Kiều-đáp-ma rất tín kính, không thể trông mong vào vị vua này được. Nghe nói vua Thắng quang nước Kiều-thiểm-tỳ, tánh trung dung không thiên lệch; nếu Sa môn Kiều-đáp-ma đi đến thành kia, chúng ta sẽ xin vua cho thách đấu với Kiều-đápma". Thời gian sau, do tùy duyên hóa độ nên Phật rời khỏi thành Vương xá đi đến thành Thất-laphiệt, trú trong vườn Cấp-cô-độc. Lục sư cũng đi theo sau, sau đó đến chỗ vua Thắng quang, chú nguyện cho vua rồi tâu cũng giống như đã tâu với vua Ảnh Thắng ở trên, vua Thắng quang nói: "các vị chờ tôi bạch Phật", nói rồi liền đi đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi ngồi một bên chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, Lục sư ngoại đạo muốn thách đấu với Thế tôn về thần thông lực, xin Thế tôn chấp thuận đấu với họ, từ bi hàng phục họ để trời người được vui mừng, khiến cho người có tín tâm được hoan hỉ, người chưa có tín tâm diệt được gốc tội ác", Phật nói: "đại vương nên biết, ta chế ngăn các đệ tử Thanh văn không được qua lại ở chỗ các Sa môn, Bà-la-môn, trưởng giả, cư sĩ mà hiện pháp thần thông; ta cũng khuyên nhắc các đệ tử nếu có thiện pháp thì nên che giấu, nếu có tội lỗi thì nên phát lồ". Lúc đó vua ba lần cầu thỉnh, Thế tôn đều đáp như vậy, lại nói: "đại vương, Phật có năm việc nên làm, đó là:

Đối với hữu tình chưa phát tâm sẽ làm cho họ phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Thọ ký cho Thái tử quán đảnh đã gieo trồng thiện căn từ lâu nơi đấng pháp vương.

Làm cho cha mẹ được Kiến đế.

Hiện đại thần thông nơi thành Thất-la-phiệt.

Hóa độ cho chúng sanh hữu duyên đều được giải thoát." Lúc đó Phật suy nghĩ: "chư Phật quá khứ hiện đại thần thông ở đâu", liền quán biết là ở tại thành Thất-la-phiệt, lại quán biết bảy ngày sau đại chúng sẽ vân tập. Quán biết rồi Phật liền nói với vua Thắng quang: "đại vương hãy về đi, đúng thời ta sẽ hiện đại thần thông", vua hỏi lúc nào, đáp là bảy ngày sau, vua liền đảnh lễ Phật rồi ra về. Sau đó vua đến chỗ Lục sư ngoại đạo nói: "các vị nên biết sau bảy ngày nữa, Như lai sẽ hiển đại thần thông, các vị cần làm gì thì cứ tùy ý", Lục sư nghe rồi nói với nhau: "có thể Sa môn Kiều-đápma chạy trốn hoặc tìm đồng bạn, chúng ta cũng nên tìm đồng bạn". Lúc đó trong thành Câu-thi-na có một ngoại đạo tên Thiện hiền đã được một trăm hai mươi tuổi, các lực sĩ trong thành này đều cung kính tôn trọng cúng dường và cho là bậc A-la-hán. Lục sư liền đến nói với Thiện hiền: "Thánh giả là người đồng phạm hạnh với chúng ta, nay chúng ta thách đấu với Sa môn Kiều-đáp-ma về thần thông lực, xin Thánh giả hãy đến tương trợ", đáp: "các vị không nên thách đấu với Sa môn ấy, vì sao, vì vị ấy có đại oai đức, đại thế lực", hỏi làm sao biết được, đáp: "lúc đại Sa môn ấy chưa ra đời, ta trú ở bên bờ hồ Mạn đà chỉ nhĩ để tĩnh tọa. Sáng sớm sau khi khất thực xong, ta đến bên bờ ao Vô nhiệt lặng lẽ thọ thực, thiên thần trụ ở trong ao này lúc đó đích thân mang nước đến cho ta uống. Sau khi đại Sa môn ấy ra đời, đệ tử bậc nhất của vị ấy là Xá-lợi-phất, đệ tử của vị tôn giả này là Cầu tịch Chuẩn đà mang y phấn tảo đến giặt ở trong ao Vô nhiệt. Thiên thần trụ trong ao này lấy y đem giặt rồi đưa lại cho Cầu tịch này, sau đó lấy nước giặt y này rưới lên mình. Ta thấy việc này rồi suy nghĩ ta không bằng đệ tử của đệ tử của đại Sa môn ấy. Nay các vị muốn thách đấu với đại sư của họ về thần thông thì không phải là việc tốt", lục sư nghe rồi liền nói với nhau: "vị này là bè đảng của Sa môn ấy, chúng ta nên tìm đến vị khác", nói rồi giả bộ cung kính từ giã ra về. Đến một chỗ vắng vẻ liền nói với nhau: "chúng ta đi đâu tìm?", một người nói: "trong thành kia có một vị đã chứng năm thông, hãy đến đó cầu tương trợ", một người nói: "người ấy không đủ sức, nhưng ở chỗ tịch tĩnh trong núi Tuyết có năm trăm tiên nhân, phần đông đều đã chứng năm thông, chúng ta nên đến đó cầu tương trợ", nói rồi cùng đi đến chỗ năm trăm tiên nhân chào hỏi rồi yêu cầu tương trợ, họ nói: "đây là việc tốt, chúng tôi bằng lòng tương trợ, nếu khi thi đấu nên hiện tướng lạ, chúng tôi sẽ đến", Lục sư nghe rồi từ giã ra về.

Lúc đó vương tử Ca la là em khác mẹ với vua Thắng quang, mặc y phục chỉnh tề với tràng hoa thơm, chuỗi anh lạc trang nghiêm thân đi ngang qua cung vua. Lúc đó trên lầu cao, nội nhân của vua thấy vương tử đi qua, do khởi tâm yêu mến nên ném vòng hoa xuống dính trên người của vương tử. Có người oán ghét vương tử thấy việc này rồi liền mách với đại thần, đại thần tâu lên vua là vương từ Ca la có tư tình với nội nhân của vua. Vua nghe rồi không xét kỹ liền ra lịnh chặt tay chân vương tử, đại thần tuân lịnh vua đưa vương tử ra giữa chợ bảo đao phủ chặt tay chân. Thân tộc của vương tử và dân chúng trong thành vây quanh thương khóc, thấy có ngoại đạo đi ngang qua, họ nói: "vua giận ra lịnh chặt tay chân vương tử, Thánh giả có thể dùng năng lực của lời nói thật làm cho vương tử được bình phục như cũ hay không?", ngoại đạo nghe rồi im lặng. Lúc đó thân tộc của vương tử lại thấy tôn giả A-nan khất thực ngang qua liền nói như đã nói với ngoại đạo, tôn giả đáp: "hãy đợi tôi về bạch Phật rồi sẽ trở lại nói cho biết", thân tộc nghe rồi rất vui mừng. Tôn giả vội trở về trong rừng Thệ đa đem việc trên bạch Phật, Phật nói: "thầy hãy trở lại chỗ đó bảo thân tộc sắp xếp tay chân của vương tử lại như cũ rồi mới dùng lời nói thật để chú nguyện như sau: "trong các chúng sanh, loài không chân, hai chân, nhiều chân, loài có sắc hay không sắc, có tưởng hay không tưởng, loài phi tưởng hay phi phi tưởng thì Như lai là tối thượng. Trong các pháp hữu vi hay vô vi thì pháp không dục nhiễm là tối thượng.

Trong các tập thể đại chúng thì chúng đệ tử Thanh văn của Phật là tối thượng. Trong các giới cấm tinh cần tu tập khổ hạnh thì Thánh giới thanh tịnh là tối thượng. Nếu lời này là chân thật không hư dối thì nguyện cho tay chân của vương tử Ca la đã bị chặt đứt được bình phục như cũ". Tôn giả A-nan vâng theo lời Phật dạy đến chỗ vương tử Ca la, sau khi bảo thân tộc sắp xếp tay chân của vương tử lại như cũ rồi dùng lời nói thật để chú nguyện như Phật đã dạy, sau khi tôn giả nói xong, tay chân dã bị chặt đứt của vương tử được bình phục như cũ. Mọi người thấy việc này rồi đều vui mừng reo vang dậy, khen là việc chưa từng có và nói là tôn giả đã thắng ngoại đạo. Tôn giả đưa vương tử Ca la đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi đứng một bên bạch Phật: "Thế tôn, đây là vương tử Ca la", vương tử đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, Phật thuận theo căn tánh và ý thích của vương tử mà nói pháp yếu, vương tử nghe pháp xong liền chứng quả Bất hoàn và được thần thông. Lúc đó vua Thắng quang nghe biết vương tử nhờ tôn giả A-nan dùng lời nói thật chú nguyện khiến cho tay chân được bình phục như cũ, liền đến xin lỗi vương tử: "khanh hãy tha thứ cho ta", vương tử đáp là đã tha thứ, vua bảo Ca la trở về nhà, Ca la nói: "đại vương, tôi nay đã lìa dục, xin được ở lại đây thừa sự Như lai, không muốn về nữa", vua nói: "lành thay, hãy làm theo ý của khanh", sau đó vua cho làm nơi kinh hành trong rừng cho vương tử ở, vì các chi phần của vương tử được nối lại từng phần nên rừng này được gọi là rừng Từng phần. Lúc đó vua Thắng quang bạch Phật: "Thế tôn, nếu Phật chấp thuận, con sẽ cho làm nhà hiện thần thông từ cửa thành đến rừng Thệ đa", Phật nói tùy ý, vua liền cho làm nhà hiện thần thông với năm trăm cây lọng thù diệu, cho rưới nước thơm chiên đàn, rải hoa quý; treo cờ phướn đẹp, gió thổi bay phất phới rất đáng yêu với linh báu kêu vang; lại cho đốt hương Hải ngạn, khói tỏa thành lọng, quang cảnh giống như vườn Hoan hỉ trên cõi trời Đao lợi; lại cho làm một bảo tòa sư tử thắng diệu cho Phật bằng bảy báu. Các đệ tử của Lục sư ngoại đạo cũng tùy sức mình làm sáu tòa ngồi cho thầy mình, khi Lục sư đi đến nhà hiện thần thông, các ngoại đạo đều theo sau hộ vệ, Lục sư đến tòa ngồi rồi sai sứ đến tâu vua: "đại vương, chúng tôi đã đến, xin vua cho gọi Sa môn Kiều-đáp-ma đến". Vua nghe báo rồi liền cùng nội cung, đại thần và tất cả dân chúng trong thành đều đi đến nhà hiện thần thông; lại sai sứ giả Ma-nạp-bà: "khanh đến đảnh lễ Phật và đem lời của ta thăm hỏi Phật có được khỏe mạnh, khinh an hay không và bạch Phật rằng các ngoại đạo đã đến đông đủ, xin Phật biết thời", sứ giả tuân lịnh đến đảnh lễ Phật và nói lại những lời vua đã nói, Phật nghe rồi liền bảo sứ giả trở về. Lúc đó Phật dùng thần thông lực gia bị cho sứ giả như Nhạn vương xòe hai cánh, bay lên hư không đi đến nhà hiện thần thông, mọi người có mặt nơi đó thấy sứ giả từ trên hư không đến đều vui mừng khen là hi hữu. Vua càng thêm tín kính liền bảo Lục sư ngoại đạo: "Như lai đã hiện thần thông, các vị hãy tuần tự hiện thần biến", Lục sư đáp: "đại vương, có vô biên đại chúng vân tập, nếu hiện thần thông thì không biết thần thông hiện là của ai". Lúc đó vương tử Ca la dùng thần lực đi đến núi Hương túy lấy các loại cây rừng với hoa trái kỳ lạ và có chim đẹp lạ bay theo, mang về trang trí ở phía bắc của nhà hiện thần thông. Vua thấy rồi càng thêm tín kính liền bảo Lục sư ngoại đạo: "Như lai đã hiện thần thông, các vị hãy tuần tự hiện thần biến", Lục sư đáp: "đại vương, như trước đã nói có vô biên đại chúng vân tập, nếu hiện thần thông thì không biết thần thông hiện là của ai". Kế đó, trưởng giả Tu đạt đa (Cấp-cô-độc) cũng dùng thần thông lực lên cõi trời Tam thập tam lấy cây Như ý mang về trang trí ở phía bắc của nhà hiện thần thông. Vua càng thêm hoan hỉ liền bảo Lục sư ngoại đạo: "Như lai đã hiện thần thông, các vị hãy tuần tự hiện thần biến", Lục sư đáp: "đại vương, có vô biên đại chúng vân tập, nếu hiện thần thông thì không biết thần thông hiện là của ai". Lúc đó có trăm ngàn dân chúng các nước xa gần đều đã đến, trên hư không cũng có trăm ngàn ức chư thiên hiện đến để xem thần thông. Phật lúc đó tạm ra khỏi phòng rửa tay chân rồi trở vào trong phòng, ngồi kiết gia nhập định Hỏa quang, từ lỗ khóa của phòng Thế tôn, lửa phun ra ụp xuống nhà hiện thần thông, các ngoại đạo thấy liền nói: "Sa môn hiện thần thông làm cho nhà bị cháy, hay mau gọi Sa môn ấy dập tắt lửa", vua im lặng tỏ vẻ buồn bã; phu nhân Thắng man, phu nhân Hành vũ… thấy việc này rồi đều rất kinh ngạc; Lục sư ngoại đạo và các đệ tử thì vui mừng. Lúc đó ngọn lửa từ định Hỏa quang này sau khi đốt hết các trần cấu làm cho được thanh tịnh xong liền tắt mà không làm tổn hại gì cả. Vua vui mừng liền bảo Lục sư ngoại đạo: "Như lai đã hiện thần thông, các vị hãy tuần tự hiện thần biến", Lục sư cúi đầu im lặng. Lúc đó Phật tác ý đạp chân phải lên hương điện, đại địa liền chấn động sáu cách: rung nhẹ, rung vừa, rung cực mạnh; động nhẹ, động vừa và động cực mạnh. Phương Đông nổi lên, phương Tây chìm xuống; phương Tây nổi lên, phương Đông chìm xuống; phương Nam nổi lên, phương Bắc chìm xuống; phương Bắc nổi lên, phương Nam chìm xuống; ở giữa nổi lên, hai bên chìm xuống; hai bên nổi lên, ở giữa chìm xuống. Lúc đó ở núi Tuyết, năm trăm tiên nhân thấy hiện tượng này rồi liền nói với nhau: "các vị đồng phạm hạnh ấy đã hiện tướng lạ này, chúng ta nên đến đó", nói rồi liền lên đường. Phật muốn giáo hóa họ nên phóng ánh sáng màu hoàng kim chiếu đến, trong ánh sáng này các tiên nhân thấy thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời. Thấy rồi tâm các tiên nhân này trở nên thanh tịnh như tu thiền định đã lâu, như người không con được con, như người nghèo được của báu, như Thái tử được quán đảnh lên ngôi vua, như người đã gieo trồng thiện căn nhiều đời lần đầu tiên được gặp Phật. Các tiên nhân này liền đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật quán biết căn tánh tùy miên của họ nói pháp tứ đế khiến cho họ được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả, họ chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, xin cho con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh", thiện lai các Bí-sô, hãy xuất gia tu phạm hạnh", Phật nói: "thiện lai Bí-sô, hãy tu tập phạm hạnh", Phật vừa nói xong, râu tóc của các tiên nhân này đều tự rụng, ca sa hiện trên thân trở thành Bí-sô, giống như người đã được xuất gia bảy ngày, đầy đủ oai nghi giống như Bí-sô trăm tuổi hạ. Các Bí-sô này chuyên tâm tu tập đoạn trừ các phiền não, chứng A-la-hán, ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát, được như thật tri: sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc nên làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Tâm không chướng ngại như tay nắm hư không, như dao cắt mùi thơm, yêu ghét không khởi, xem vàng và đất như nhau không khác, tất cả danh lợi đều xả bỏ, Thích Phạm chư thiên thảy đều cung kính. Lúc đó Phật cùng năm trăm tân Bí-sô tiên nhân này và các Bí-sô khác trước sau vây quanh đi đến nhà hiện thần thông, Phật lên tòa sư tử ngồi trước đại chúng. Lúc đó có một Ô-ba-sáchca tên là Thần tiên mẫu đến trước Phật bạch rằng: "Thế tôn, xin cho con được cùng các ngoại đạo kia đấu thần thông hiển bày pháp thượng nhân để hàng phục họ, làm cho trời người vui mừng, khiến người có tín tâm được tăng trưởng, người chưa tin được kết nhân duyên", Phật nói: "tuy ông có khả năng thi triển thần thông để hàng phục ngoại đạo, nhưng họ sẽ nói rằng: Sa môn Kiều-đáp-ma không có khả năng hiện thần thông, hiển pháp thượng nhân, chỉ nhờ đệ tử Thanh văn hiển hiện. Vì vậy ông nên trở lại chỗ ngồi". Kế đó, trưởng giả Cấpcô-độc, Cầu tịch Chuẩn đà, Cầu tịch nữ Tổng kế, Bí-sô ni Liên hoa sắc… cho đến tôn giả Đại Mụckiền-liên đều lần lượt đến trước Phật bạch giống như Thần tiên mẫu đã bạch và Phật cũng đáp giống như vậy. Lúc đó Phật hỏi vua Thắng quang: "ai sẽ thỉnh Như lai cùng Lục sư ngoại đạo đấu thần thông?", vua liền đứng dậy chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, nay con xin thỉnh Phật cùng Lục sư ngoại đạo đấu thần thông, hiển bày pháp thượng nhân để hàng phục họ, làm cho trời người vui mừng, khiến người có tín tâm được tăng trưởng, người chưa tin được kết nhân duyên; khiến cho Sa môn, Bà-la-môn trong đời vị lai được lợi ích và an lạc mãi mãi", Phật im lặng nhận lời, vua biết Phật đã nhận lời liền trở lại chỗ ngồi. Ngay lúc đó Phật liền nhập Tam-ma-địa Như thị thắng, từ trên tòa ngồi bỗng nhiên ẩn mất rồi hiện ra ở phương đông đi đứng nằm ngồi trên hư không. Lại nhập định Hỏa quang, thân phóng ra các ánh sáng xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng; hoặc hiện thần biến như trên thân tuôn ra nước, dưới thân tuôn ra lửa, hoặc trên thân tuôn ra lửa, dưới thân tuôn ra nước. Phương Đông đã như vậy, các phương Nam, Tây, Bắc cũng hiện như vậy. Hiện các thần biến xong, Phật thu nhiếp thần thông hiện trở lại trên bảo tòa rồi bảo vua: "thần thông này Phật và chúng Thanh văn đều có được. Đại vương, ai sẽ thỉnh Như lai hiện vô lượng đại thần thông của Phật?", vua lại đứng dậy thỉnh Phật giống như lần trước, Phật im lặng nhận lời rồi dưa bàn tay thí vô úy có luân tướng thượng diệu với màn lưới kiết tường có chữ vạn, do vô lượng phước trang nghiêm để chạm xoa trên mặt đất và khởi tâm thế tục: "nếu Long vương mang hoa sen đẹp lớn như bánh xe có đủ ngàn cánh, vật báu làm đài, kim cương làm nhụy đến đây thì tốt". Thường pháp của chư Phật là hễ khởi tâm thế tục thì ngay đến loài kiến cũng hiểu được ý Phật, nếu khởi tâm xuất thế thì ngay đến bậc Thanh văn, Độc giác cũng không thể hiểu. Do Phật khởi tâm thế tục nên Long vương biết Phật muốn hiện thần biến cần có loại hoa sen này, Long vương liền mang hoa sen này hiện đến ở trước Phật, Phật liền lên ngồi trên hoa sen này. Ngay lúc đó, ở hai bên và sau lưng Phật đều có vô lượng hoa sen báu giống như hoa sen này đồng thời hiện ra, trên mỗi hoa sen đó đều có vị Hóa phật ngồi ở trên. Hai bên và sau lưng của mỗi Hóa Phật lại có vô lượng hoa sen báu giống như thế đồng thời hiện ra và đều có vị Hóa phật ngồi ở trên, như thế hiện ra trùng trùng lớp lớp hoa sen nối nhau lên tới tận cõi trời Cứu cánh. Thân của các Hóa Phật ấy đều xuất hỏa quang hoặc tuôn mưa, hoặc phóng ánh sáng, hoặc thọ ký hoặc hỏi đáp hoặc hiện bốn oai nghi… Nhờ thần lực của Phật nên ngay cả trẻ con cũng nhìn thấy được quang cảnh này. Lúc đó vua Thắng quang cùng nội cung, vương tử, đại thần cùng vô lượng trăm ngàn người trong và ngoài thành đều chăm chú nhìn đại thần thông này; vô lương trăm ngàn chư thiên trên hư không cũng chăm chú nhìn đại thần thông này không nhàm chán. Khắp nơi đều vang lên tiếng trống nhạc, tiếng tù và… cho đến loài cầm thú cũng vui mừng phát ra tiếng như ngựa hí, voi rống, bò kêu, chim hót…; chư thiên tấu thiên nhạc, rải thiên hoa, hương hoa và thiên y thượng diệu… Phật hiện đại thần thông rồi, vì muốn điều phục giáo hóa các hữu tình nên nói kệ:

"Người nên cầu xuất ly,
Siêng tu lời Phật dạy,
Hàng phục quân sanh tử,
Như voi xô nhà cỏ,
Ở trong pháp luật này,
Nên tu không phóng dật,
Khô được biển phiền não,
Dứt hết bờ mé khổ".

Các Hóa Phật cũng đồng thanh nói kệ:

"Khi mặt trời chưa mọc,
Ánh đuốc sáng lập lòe,
Mặt trời mọc trên không,
Làm mất ánh sáng đuốc,
Ánh sáng Phật chưa chiếu,
Lời ngoại đạo còn lạ,
Phật quang chiếu khắp nơi,
Hàng phục thầy trò họ".

Lúc đó Phật bảo các Bí-sô: "các thầy hãy ghi nhớ thần biến này, đại thần thông sắp biến mất", Phật vừa nói xong, thần biến liền tan biến mất. Vua Thắng quang lại bảo Lục sự hiện thần biến, Bộ thích noa im lặng đưa cùi chỏ thúc vào người của Mạt yết lị cù xá lê tử, lần lượt người này lại thúc người kia, cả Lục sư đều im lặng cúi đầu như đang nhập thiền định. Dược xoa Kim cang thủ suy nghĩ: "nhóm Lục sư ngu si này đã xúc não Thế tôn, ta nên làm cho họ sửa đổi lỗi lỗi trước để họ không dám tái phạm nữa và đều phải bỏ đi", nghĩ rồi liền phóng ra mưa to gió lớn làm sập ngã chỗ ngoại đạo đang ở trong nhà hiện thần thông, khiến họ kinh sợ bỏ chạy tứ tán hoặc chạy vào bụi cây, hoặc miếu thờ trời để ẩn nấp; còn chỗ của Phật và tăng chúng ở thì không sao cả. Lúc đó Thế tôn nói kệ:

"Mọi người bị sợ bức,
Thường quy y thần núi,
Vườn cây, gốc đại thọ,
Đền miếu, rừng hoang vu.
Quy y này không thắng,
Quy y này không tôn.
Không nhờ quy y này,
Mà thoát khỏi các khổ.
Ai quy y Phật đà,
Chánh pháp và Tăng già,
Thường dùng tuệ quán sát,
Ở trong bốn Thánh đế,
Biết Khổ, biết Khổ tập,
Biết Diệt đế thoát khổ,
Biết tám chi Thánh đạo,
Đến Niết-bàn an ổn.
Quy y này tối thắng,
Quy y này tối tôn,
Nhờ pháp quy y này,
Giải thoát hết các khổ".

Lúc đó, Phật quán biết tâm niệm sai khác của mọi người liền ứng cơ thuyết pháp khiến cho họ sau khi nghe pháp, có người được Noãn pháp, hoặc được Đảnh pháp, hoặc được Nhẫn pháp; có người được vơi bớt ba độc, lìa tham dục, có người được Thế đệ nhất pháp, có người đắc quả Tu đà hoàn, hoặc quả Tư-đà-hàm, hoặc quả A-na-hàm, có người gieo trồng nhân duyên với Thanh văn thừa, có người gieo trồng nhân duyên với Bích chi Phật thừa, có người gieo trồng nhân duyên với Phật thừa. Sau khi thuyết pháp làm cho họ được lợi hỉ, Phật rời khỏi tòa ra về.

Lúc đó các đệ tử của Bộ thích noa… cùng thầy ngồi chung một chỗ liền hỏi thầy: "cái gì là thật", Bộ thích noa… Lục sư đều khởi tâm khi dối đệ tử, nói thế gian thường còn là thật, hoặc nói vô thường là thật, hoặc nói vừa thường vừa vô thường là thật, hoặc nói không phải thường cũng không phải vô thường là thật; hoặc nói hữu biên, hoặc nói vô biên, hoặc nói vừa hữu biên vừa vô biên, hoặc nói không phải hữu biên cũng không phải vô biên; hoặc nói mạng trong thân là thật, hoặc nói mạng ngoài thân là thật, hoặc nói sau khi chết có ngã là thật, hoặc nói sau khi chết không có ngã là thật, hoặc nói sau khi chết vừa có ngã vừa không có ngã, hoặc nói không phải có ngã cũng không phải không có ngã là thật, ngoài ra đều là hư vọng. Tuy họ đáp như vậy nhưng trong lòng lại xấu hổ, cúi đầu buồn bã, do lửa sầu não đốt cháy trong tâm nên Bộ thích noa muốn tìm ao nước để uống nước. Trên đường đi, một huỳnh môn gặp liền nói kệ hỏi:

"Ông đi một mình muốn đến đâu,
Dáng vẻ như bò thua gãy sừng,
Không biết diệu pháp Phật Thích ca,
Thì như bò rừng chạy đi mãi".

Bộ thích noa nghe rồi liền nói kệ:

"Thần chết thường đi trước mắt ta,
Thân ta lê bước không còn sức,
Luân hồi các cõi thọ khổ vui,
Ta nay giải thoát cầu chỗ an.
Ánh nắng mặt trời chiếu nóng bức,
Thân tâm của ta đều mệt mỏi,
Ngươi hãy thật lòng chỉ cho ta,
Nơi nào có ao nước trong mát?"

Huỳnh môn nói kệ đáp:

"Gần đây có ao nước trong mát,
Vịt trời, hoa thơm mọc khắp nơi.
Ông vì quá ác nên mù tối,
Không thấy ao thơm nên hỏi ta".

Bộ thích noa nói kệ:

"Hỡi này kẻ phi nam phi nữ,
Sao không chỉ đường đến ao nước,
Ta đang muốn đến ao nước mát,
Uống cho thân tâm hết nóng bức".

Huỳnh môn liền chỉ đường, Bộ thích noa đến bên ao nước, dùng cái vò đựng cát rồi cột vào cổ trầm mình xuống ao nước mà qua đời. Lúc đó các đệ tử của Bộ thích noa hỏi nhau: "các vị có thấy Ô-ba-đà-da của tôi không?", đáp là không thấy, họ lại hỏi nhau: "các vị đã nghe Ô-ba-đà-da nói những gì?", có người đáp: "thầy nói thế gian thường còn là thật, ngoài ra đều là hư vọng", người khác nói: "thầy nói thế gian vô thường là thật…", như đoạn văn trên. Các đệ tử nghe rồi liền nói với nhau: "các thuyết này đều không giống nhau, chúng ta nên tìm Thân giáo sư để hỏi cho rõ cái gì là thật", nói rồi cùng đi tìm, trên đường đi gặp một đồng nữ liền nói kệ hỏi:

"Hiền thủ, cô có gặp,
Đại sư Bộ thích noa,
Thân không mặc y phục,
Đứng trên đất, ăn bốc".

Đồng nữ nói kệ đáp:

"Ổng là người địa ngục,
Giang tay theo người xin,
Tay chân đều trắng bệt,
Thấy đàng chìm trong nước".

Đệ tử nói kệ:

"Cô đừng nói như vậy,
Đó là lời bất thiện,
Dùng pháp làm y phục,
Mâu ni trụ pháp này".

Đồng nữ nói kệ:

"Lõa hình đi khắp nơi,
Sao lại cho là trí,
Mọi người đều nhìn thấy,
Mà không biết xấu hổ,
Trơ mặt, lộ hình thể,
Lại cho đó là pháp,
Vua Tỳ sa môn thấy,
Dùng đao chém không tha".

Các đệ tử nghe rồi đều im lặng bỏ đi, khi đến ao nước thấy thầy mình dùng cái vò đựng cát cột vào cổ trầm mình xuống ao đã chết. Trong các đệ tử, người ưa thích giới nói: "đây chính là sự thật, ngoài ra đều là hư vọng", nói rồi cùng dùng cái vò đựng cát cột vào cổ trầm mình xuống ao nước chết giống như thầy; các ngoại đạo khác tứ tán khắp nơi, ra ở chốn biên phương.

Khi Phật hiện đại thần thông hàng phục các ngoại đạo như vậy, đại chúng trời người thảy đều hoan hỉ.

QUYỂN 27

4. Nhiếp tụng thứ tư (tt) Nói về Đại dược:

Khi thấy Phật hiện đại thần thông hàng phục các ngoại đạo khiến cho họ phải bỏ đi tứ tán, đến ở nơi biên phương; các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: "Thế tôn dùng thần thông lực, đốt đuốc chánh pháp, phá cờ vọng kiến, hàng phục tà đạo thật là hi hữu. Lành thay bậc Đại thánh đã làm một việc khó nghĩ bàn, có thể làm lợi ích lớn như vậy", Phật nói: "các thầy nên biết, nay ta đã lìa ba độc, đầy đủ Nhất-thiết-trí, được đại oai lực, đến bờ giải thoát, chứng quả Vô thượng, điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, nên hàng phục được họ không phải là điều hi hữu. Vì sao, vì ta nhớ lại đời quá khứ, lúc đó ta chưa lìa dục nhiễm, sân hận và ngu si, sanh lão bịnh tử và ưu bi khổ não, đầy đủ triền phược mà ta còn có thể hàng phục được Lục sư và các quyến thuộc, đó mới là điều hi hữu. Các thầy lắng nghe:

Quá khứ tại nước Tỳ-đề-ê có vua hiệu là Thiện sanh dùng chánh pháp trị nước…, phu nhân của vua dung mạo rất đoan nghiêm nên được vua sủng ái. Phu nhân sanh được một hoàng tử, nhờ phước lực của hoàng tử này mà trong nước được mưa thuận gió hòa, ngủ cốc được mùa nên thức ăn uống dễ được. Sau hai mươi mốt ngày, vua mở tiệc ăn mừng để đặt tên cho hoàng tử, vua suy nghĩ: "khi con ta sanh ra, trong nước được mùa, thức ăn uống dễ được, nên đặt tên cho con là Túc ẩm thực", sau đó vua giao hoàng tử cho tám bà nhũ mâu nuôi dưỡng. Đến tuổi trưởng thành, hoàng tử học thông các kỹ nghệ, dũng kiện trung lương không ai hơn. Lúc đó đại phu nhân ỷ vào tài nghệ của con nên sanh kiêu ngạo, thường không tuân theo lịnh vua nên vua thường có sắc buồn. Đại thần thấy vua không vui, hỏi rõ nguyên nhân rồi tâu: "nếu đã như vậy sao vua không cưới thêm một người nhu hòa đức hạnh, để đại phu nhân dần dần hòa thuận theo", vua hỏi cưới ai, đáp: "cưới vương nữ bên nước lân cận", vua nói: "họ vốn có hiềm khích với nước ta thì làm sao hỏi cưới được?", đại thần tâu: "xin vua yên tâm, để thần tìm cách làm thân với họ". Sau đó đại thần đến gặp vua nước lân cận xin cầu hôn cho vua nước mình, vua nước kia nói: "nếu muốn tính việc hôn nhân thì phải giao ước trước: nếu con gái ta sanh con trai thì phải lập làm tự quân (nối ngôi vua) thì ta mới gả", đại thần liền đáp: "sẽ làm theo ý vua", vua nước kia nói: "khanh hãy trở về nước báo cho vua của khanh biết, nếu vua ấy chấp thuận lời giao ước này thì khanh hãy trở lại", đại thân tâu: "việc lập Thái tử, thần đã hứa thì không dám hai lời". Sau khi hỏi cưới rước được vương nữ về, vua với vương nữ rất tương đắc, một hôm vua hỏi: "nàng rất nhu hòa hiền thục, nàng cầu điều gì, ta sẽ ban cho", đáp: "nếu thiếp sanh con trai thì xin vua lập làm tự quân", vua nghe rồi ưu sầu không đáp ứng ngay, vua suy nghĩ: "nếu ta chấp thuận lời cầu xin này thì ta phải phế vương tử Túc ẩm thực, nhưng vương tử là người tài nghệ dũng kiện trung lương không ai hơn, làm sao phế được. Ta thật khó xử". Lúc đó đại thần thấy vua có sắc buồn, hỏi rõ nguyên do rồi tâu: "trước đây khi thần qua nước đó cầu hôn cũng đã giao ước với vua nước đó về việc lập tự quân. Nay vua nên tạm thuận theo ý của nhị phu nhân, chưa biết nhị phu nhân có phải là thạch nữ hay không, cho dù có sanh con cũng chưa biết sẽ sanh trai hay gái, vua cứ tạm thuận theo", vua nghe rồi liền nói với nhị phu nhân: "ta chìu theo ý nàng". Sau đó không lâu, nhi phu nhân có thai, đủ ngày tháng sanh được một trai khôi ngô tuấn tú, sau hai mươi mốt ngày vua mở tiệc ăn mừng và đặt tên cho đứa bé. Vua nói: "đứa bé này chưa sanh ra đã cầu vương vị nên đặt tên là Cầu vương", sau đó vua giao hoàng tử cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng, nhưng khi đến tuổi trưởng thành, vua vẫn chưa sách lập làm tự quân. Phụ vương của nhị phu nhân sợ vua bội tín nên sai sứ đến nhắc lại lời giao ước trước kia, nếu vua không giữ lời thì sẽ cất binh sang hỏi tội. Vua nghe rồi kinh sợ không biết tính sao nên ưu sầu, đại thần tâu: "đại vương, không còn cách nào khác, nên sách lập Cần vương và phế bỏ vương tử Túc thực", vua nói: "không nên nói việc phi pháp này, ta từng nghe con giết cha chứ chưa nghe cha giết con, việc bất nhân này ta không làm được", đại thần tâu: "nếu không giết thì làm hại", vua nói: "làm hại đâu có khác gì giết", đại thần tâu: "nếu không như thế thì đuổi ra khỏi nước", vua nói: "vương tử vô tội làm sao đuổi được", đại thần tâu: "khi đại vương lập Cần vương làm tự quân thì vương tử Túc thực tự biết xử trí như thế nào". Vua nghe rồi liền chọn ngày tốt sách lập Cần vương làm tự quân, vương tử Túc thực nghe biết rồi liền suy nghĩ: "phụ vương đã phế bỏ ta, nếu ta còn ở đây sẽ bị giết chết", nghĩ rồi liền đến nói với mẹ: "con muốn đến nước Bán-già-la để bảo tồn tính mạng", người mẹ nghe rồi đau lòng ôm con khóc rồi nói kệ:

"Con thường nằm ngồi giường nệm cao,
Y phục đã mặc đều đẹp đẽ,
Sao lại một mình qua nước khác,
Nằm đất, áo thô làm sao sống?
Trong cung ngủ thức thường an ổn,
Ngoài điện con thường du ngoạn khắp,
Làm sao chịu được khổ nóng lạnh,
Linh đinh đói khát ở ngoài đồng?
Ở vương cung thường cỡi voi ngựa,
Cao lương mỹ vị tùy thời ăn,
Y phục thượng diệu ngăn nóng lạnh,
Sao lại vất bỏ đến nước khác?
Trong cung kỹ nhạc luôn hòa tấu,
Làm cho người nghe tâm thần vui,
Mọi người kính ngưỡng theo hầu hạ,
Nay con buồn, con muốn đi đâu?"

Vương tử nói kệ đáp:

"Ai hưởng an lạc mãi,
Ai chịu gian khổ mãi,
Ách nạn ai cũng có,
Thế thua phải tùy thuận.
Hết khổ sẽ được vui,
Như sao trên trời chuyển,
Hội họp sanh ưu khổ,
Thế pháp đều như thế".

Vương tử nói kệ xong liền từ biệt mẹ đi đến nước Bán-già-la, gần tới nước ấy vì đói khát nên vương tử dừng lại nghỉ ngơi dưới một gốc cây bên đường, nhìn bốn phía không biết tính sao, một lát sau liền ngủ quên. Lúc đó đại thần của nước Bángià-la có việc đi ngang qua chỗ này, nhìn thấy tướng mạo của vương tử khác hơn người thường nên đứng nhìn hồi lâu, sau đó gọi dậy rồi hỏi là ai, đáp: "tôi tên Túc ẩm thực, vương tử nước Tỳ-đềê", lại hỏi vì sao lại đến nơi đây, vương tử kể lại việc trên, đại thần nghe rồi liền đưa đến gặp vua tâu rằng: "đại vương, đây là vương tử của vua Thiện sanh tên là Túc ẩm thực, do cha lập con thứ bỏ con trưởng nên vương tử chạy đến đây", vua nghe rồi liền hỏi rõ mọi việc, trong lòng buồn vui lẫn lộn, an ủi vương tử rồi ban cho đất đai và gả con gái cho vương tử. Không bao lâu sau, họ sanh được một trai dung mạo khả ái, từ ngày được sanh ra, trong nước được mùa, thức ăn uống dễ được nên ai cũng khen ngợi. Sau hai mươi mốt ngày họ mở tiệc ăn mừng và đặt tên cho bé, thân tộc nói: "đứa bé này là dòng dõi của vương tử Túc thực, vừa sanh ra trong nước được mùa, thức ăn uống dễ được nên đặt tên cho bé là Đa túc thực", vương tử giao bé cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng, đến tuổi trưởng thành tài nghệ song toàn. Sau đó vương tử Túc thực không may qua đời, người vợ thương nhớ nên đau buồn, vua thấy con gái đau buồn nên suy nghĩ: "bản tánh người nữ thường nghĩ đến chồng, nay ta nên cho vương nữ cải giá, gả cho đại thần và cho cháu đi theo". vương nữ sau khi cải giá, được gả cho đại thần thì không còn đau buồn nữa. Gần nhà đại thần có một con gà ngủ trên cây, tướng sư thấy liền nói: "ai ăn thịt con gà này sẽ được làm vua", đại thần nghe rồi liền bắt gà đem giết rồi bảo vợ: "nàng hãy làm thức ăn, đợi ta vào triều trở về sẽ ăn". Khi vương nữ làm thức ăn với thịt gà này còn để trên bếp thì Đa túc thực từ trường trở về không thấy mẹ, vì đói bụng nên giở xem trong nồi đang nấu món gì, thấy có con gà liền chặt lấy cái đầu gà ăn đỡ đói; sau đó gặp mẹ mới nói là đã ăn cái đầu gà, vương nữ cho ăn thêm rồi bảo con đến trường. Sau đó đại thần từ trong triều trở về bảo dọn thức ăn lên, thấy con gà không có đầu liền hỏi nguyên do, vương nữ đáp là con đã ăn, đại thần suy nghĩ: "ăn hết thịt gà thì được làm vua hay là ăn một phần cũng được làm vua", nghĩ rồi trong lòng sanh nghi nên tìm đến chỗ tướng sư hỏi cho rõ, tướng sư nói: "không cần ăn hết, chỉ ăn cái đầu thì được làm vua; nếu có người đã ăn cái đầu gà thì giết người ấy lấy đầu ăn cũng được làm vua", đại thần nghe rồi suy nghĩ: "ta nên giết thằng bé để lấy đầu ăn, nhưng mẹ nó không biết thì thật khó làm. Ta nên hỏi ý mẹ nó trước", nghĩ rồi liền nhân lúc cùng nói chuyện hỏi vợ: "giữa chồng và con, nàng muốn ai làm vua?", vương nữ nghe rồi sanh nghi nên suy nghĩ: "nếu ta nói muốn con làm vua thì hắn sẽ bỏ ta, ta nên nói thuận theo hắn", nghĩ rồi liền nói: "tất nhiên muốn chồng làm vua". Vương nữ thông minh tài trí nên suy đoán: "đại thần vì cái đầu gà mà muốn giết con mình, ta phải đề phòng và tính kế trước chớ để con gặp nguy hiểm", sau đó ở chỗ khuất bảo con rằng: "vì con ăn cái đầu gà nên đại thần muốn giết con, con hãy bỏ đi đến nước Tỳ-đề-ê, đó là quê hương tổ tông của con, quyến thuộc đều còn ở đó, nếu con đến đó, họ nhận ra con thì con sẽ được an lạc", người con nghe rồi miễn cưỡng từ giã mẹ ra đi, khi sắp đến nước Tỳ-đề-ê, vì đói nên nằm dưới một gốc cây ngủ. Lúc đó vua Cần vương bịnh nặng nên qua đời, theo quốc pháp nếu chưa lập vua mới thì không được đưa xe tang của vua đi. Vì vua không có con nên quần thần không biết lập ai, có người nói thấy một người tướng mạo khác thường nằm ngủ dưới một gốc cây, mặt trời tuy chếch bóng nhưng bóng cây không nghiêng để che mát cho người này, hẳn là bậc phi phàm đáng tôn làm vua. Quần thần nghe nói rồi liền đến chỗ thanh niên lay gọi thức dậy, thanh niên bị đánh thức liền hỏi vì sao, đáp là muốn tôn làm vua, thanh niên nói: "pháp tắc gọi vua dậy không phải như thế", hỏi phải gọi như thế nào, đáp: "phải tấu âm nhạc từ từ làm cho thức dậy", quần thần nghe rồi liền suy nghĩ: "người này không phải con nhà nghèo, hẳn là xuất thân từ nhà cao sang", nghĩ rồi liền hỏi từ đâu đến là con của ai. Thanh niên này tuy tuổi vừa hai mươi nhưng thân tráng kiện như sư tử vương, giọng nói sang sảng, liền nói tổ tông của mình cho mọi người biết: "tiên vương của tôi là Thiện sanh, con của tiên vương hiệu là Túc ẩm thực, tôi là con của người", quần thần nghe rồi vui mừng nói: "chúng ta gặp lại vua cũ". Họ liền tổ chức nghi lễ với âm nhạc đầy đủ, người xe đông đảo đón rước vương tử vào thành làm lễ quán đảnh lên ngôi vua. Trước kia vương tử tên Đa túc thực, nay đổi lại là Toại ẩn, do tông tộc được hưng thạnh trở lại nên lấy hiệu là Trùng hưng, vì vua còn nhỏ tuổi nên các đại thần xem thường ít khi nghe theo lịnh vua. Những lúc rỗi rảnh vua ra khỏi thành du ngoạn, hỏi thăm dân chúng những phong ấp này thuộc quyền của ai, họ đều đáp là của đại thần. Vua suy nghĩ: "tất cả thành ấp đều thuộc sở hữu của các đại thần, ta tuy là vua cũng chỉ có cung điện và thức ăn uống hằng ngày, ngoài ra không có gì cả. Nếu họ làm trái quốc pháp thì ta biết tính sao đây", lúc đó có một thiên thần ở trên hư không biết tâm niệm của vua nên nói: "vua không nên buồn, trong nước này có một thành tên là Mãn tài, trong thành có một người tên là Viên mãn, vợ của người này sẽ sanh con trai tên là Đại dược, sau khi Đại dược trưởng thành được lập làm đại thần sẽ giúp vua lo liệu mọi việc, tùy cơ chế đoán không ai là không phục, vua hãy an tâm". Vua nghe rồi liền sai sứ đến thành Mãn tài tìm hiểu xem có ai tên Viên mãn hay không, nếu có thì vợ của người này có thai hay không. Sư giả tuân lịnh vua đến thành kia tìm hiểu rồi trở về báo lại là thật có như thế, vua nghe rồi liền cho gọi Viên mãn đến, khéo dùng lời phủ dụ rồi ban cho thành Mãn tài làm phong ấp và nói: "vợ khanh có thai, hãy chăm sóc bảo hộ chớ để bị tổn thương". Đủ ngày tháng, vợ của Viên mãn hạ sanh một bé trai, dung mạo đoan nghiêm không ai sánh được. Sau hai mươi mốt ngày họ mở tiệc ăn mừng và đặt tên cho bé, người mẹ nói: "tôi vốn bị bịnh sởi, tuy thầy thuốc đã cho uống nhiều loại thuốc nhưng vẫn không hết. Khi mang thai đứa con này, bịnh ấy bỗng không còn nữa nên đặt tên cho con là Đại dược", liền nói kệ:

"Ở trong các bịnh khổ, Đại dược là tối thắng, Đây là thuốc hay nhất, Nên đặt tên Đại dược". Thời gian sau, khi người cha cõng Đại dược đến ao để tắm, trên đường thấy xương cá cho là bảo châu nên dùng chân khều lên, Đại dược nói kệ:

"Thấy xương cá dưới đất,
Tưởng bảo châu khều lên,
Việc mình không chịu làm,
Ráng tìm báu đánh rơi,
Xương cá của người vất,
Không phải là bảo châu,
Há có Tỳ sa môn,
Vất bảo châu ngoài đường?".

Khi đến ao, người cha để Đại dược ở trên bờ, cởi y phục xuống nước, thấy có một con cò trắng đậu trên lá sen, muốn bắt cò nên tới gần, chim liền bay lên cao, Đại dược nói kệ:

"Cò đậu trên lá sen,
Thấy cha liền bay cao,
Cha không nên đến gần,
Để bắt sinh mạng nó".

Hôm khác, người cha cõng Đại dược đến sông Căng già để tắm, người cha để con ở trên bờ, cởi y phục xuống nước, thấy có cái bát bằng đồng từ phương Đông trôi xuống, con chim Bạch nga đậu ở trên. Người cha cho là điều quái lạ nên nhìn lên hỏi con, Đại dược nói kệ:

"Căng già chảy từ Đông,
Bát đồng trôi theo dòng,
Bạch nga đậu ở trên,
Đâu phải vật gì lạ".

Hôm khác cũng như trên, người cha lại thấy có bình rửa lớn và cỏ nổi trôi theo dòng nước, cũng có chim đậu ở trên, Đại dược cũng nói kệ như trên. Khi Đại dược vừa ở tuổi thiếu niên cùng các đồng tử du ngoạn, chúng đồng lòng tôn Đại dược làm vua, Đại dược chọn người làm phụ tá cho mình, từ đó về sau, nhóm đồng tử này càng đông thêm. Lúc đó có một Bà-la-môn vừa cưới được một cô vợ trẻ, trên đường đi ngang qua một thôn, ông ghé vào một rừng thưa để tiểu tiện thì có một thanh niên đến chỗ người vợ hỏi: "ông ấy là cha hay là ông của cô?", đáp: "không phải cha hay ông, mà là chồng tôi", thanh niên nói: "cô không biết xâu hổ với bạn bè hay sao, trên đời có rất nhiều người nam tuấn tú, vì sao lại đi theo Bà-lamôn già ấy? Cô còn trẻ xinh đẹp, hãy bỏ lão ấy để làm vợ tôi, nếu lão ấy đến giành lại thì ở giữa đại chúng, cô nói tôi là chồng", người vợ này chấp thuận đi theo thanh niên. Lúc đó Bà-la-môn trở lại tìm vợ không thấy nên lên chỗ cao nhìn khắp nơi, liền thấy hai người đang dắt tay nhau đi. Ông vội chạy theo, bắt kịp họ liền nắm lấy tay người vợ kéo lại, thanh niên kia cũng nắm tay kia giữ lại, Bà-la-môn nói: "người cướp vợ ta", thanh niên nói: "tôi thề đây chính là vợ tôi, không phải vợ ông", hai bên vừa lôi kéo vừa cãi cọ nhau, thanh niên khỏe hơn nên kéo được cô gái về phía mình, Bà-la-môn sợ mất vợ nên la to: "giặc cướp vợ tôi". Đại dược cùng các đồng tử đang vui chơi ngoài đồng, các đồng tử nghe tiếng kêu la này liền nói với Đại dược: "anh đã xưng vương, nghe tiếng kêu la ắt là có việc phi lý, sao anh không cứu họ?", Đại dược bảo đồng tử phụ tá kêu ba người đó đến hỏi tranh cãi về việc gì, Bà-la-môn nói: "người này cướp vợ tôi", thanh niên nói: "người này nói dối, đây chính là vợ tôi", Đại dược hỏi cô gái: "ai là chồng chị?", cô gái chỉ thanh niên nói là chồng. Đại dược thấy Bà-la-môn đấm ngực lộ vẻ đau buồn nên muốn kiểm tra hư thật, liền hỏi thanh niên: "anh dẫn vợ từ đâu đến đây?", đáp là từ nhà vợ đến, lại hỏi đã ăn những gì, đáp là ăn cơm canh thịt và uống rượu, Đại dược nói: "nếu vậy hãy cho tôi xem hư thật thế nào", nói rồi liền đưa tay vào miệng thanh niên làm cho ói ra, chỉ thấy toàn nước miếng không thấy thức ăn. Đại dược lại hỏi Bà-lamôn giống như trên đến câu đáp là ăn sữa chua, bánh và rau cải; Đại dược lại bảo làm cho ói ra thì thấy đúng như lời đã nói, liền biết thanh niên nói dối liền cho đánh nhiều gậy rồi đào đất chôn đến tận cổ, lấy mực viết trên trán là cướp vợ; như thế lần lượt có đến năm trăm tên trộm bò dê cũng bị xử như thế.

Lúc đó vua Trùng hưng suy nghĩ: "các thành ấp trong nước đều thuộc của sáu đại thần, ta đang thế yếu phải làm sao đây", bỗng nhớ tới Đại dược liền không nói cho quần thần biết, tự dẫn quân đi đến thành Mãn tài để gặp Đại dược. Khi đi ngang qua đồng trống nghe có tiếng kêu, nhìn khắp nơi không thấy có người, vua cho tả hữu đi tìm chung quanh mới thấy có năm trăm người bị chôn sống, trên trán có ghi là giặc. Vua hỏi ai đã làm việc này, họ đáp: "chính là Đại dược làm đúng pháp, không phạt kẻ vô tội", vua khen là tốt nhưng sanh tâm từ bi nên tha cho họ. Lúc đó dân chúng trong thành Mãn tài nghe vua sắp đến liền sắp bày những vật tốt lành, mang bình vàng đựng nước và cờ lọng tràng phang ra nghinh đón. Sau khi thăm hỏi xong vua bảo: "con của Viên mãn tên là Đại dược mau đến đây", người cha tâu: "đồng tử hãy còn nhỏ", vua bảo cứ gọi đến, người cha liền dẫn đến. Vua thấy đồng tử tướng mạo uy nghiêm, tuy có tài dũng lược nhưng tuổi còn nhỏ không thể giao phó việc nước được, nên giao lại cho người cha rồi kéo quân trở về cung. Sau đó vua suy nghĩ: "ta nên thử nghiệm tài trí mưu lược của Đại dược", nghĩ rồi liền sai sứ đến bảo Viên mãn: "hãy dùng cát vàng bện thành sợi dây dài một trăm khuỷu tay rồi mang đến cho vua", Viên mãn nghe lịnh vua rồi vừa lo buồn vừa sợ hãi, suy nghĩ: "từ xưa đến nay ta chưa từng nghe việc bện cát thành dây như vậy", Đại dược thấy cha lo buồn liền hỏi nguyên do rồi nói: "sứ giả ở đâu, cho con gặp để gửi lời về tâu lại vua", người cha bảo sứ giả đến, Đại dược bảo sứ giả: "xin đại nhân tâu giúp tôi với vua rằng: tiểu thần quê mùa, ít thấy nghe lại không có trí mưu có thể đoán được ý trời, không biết vua cần loại dây màu gì. Ở đế đô có nhiều người tài giỏi, xin ban cho một đoạn làm mẫu rồi sẽ làm theo, không phải chỉ đoạn ngắn một trăm khuỷu tay mà dài đến ngàn tầm cũng sẽ làm xong". Sứ giả trở về tâu lại vua, vua hỏi là lời của con hay của cha, đáp là của Đại dược, vua nghe rồi thán phục liền nhớ lại lời thiên thần nói, nếu lời này là sự thật thì có ngày Đại dược sẽ giúp ta làm bá vương. Sau đó vua lại sai sứ đến bảo Viên mãn nấu cơm đem đến với điều kiện là gạo không được giã trong cối, không được làm bể một hạt, không được nấu trong nhà hay ngoài trời, khi nấu không được nấu bằng lửa hay khác lửa; khi đem cơm đến không được đi trên đường hay lề đường, không đi bộ cũng không đi ngựa, không thấy được mặt trời cũng không phải chỗ râm mát; người mang cơm đến không phải là nam hay nữ. Viên mãn nghe rồi vừa lo buồn vừa sợ hãi, Đại dược hỏi rõ nguyên do rồi nói: "cha không phải lo, con sẽ làm chu toàn". Đại dược bảo đem lúa ra rồi tập họp nhiều người lại dùng tay bóc vỏ trấu nên không làm gạo bị bể; khi có gạo rồi liền tìm chỗ nấu là ngay dưới hiên bên ngoài cửa, dùng ánh nắng gắt ở trên, bên cạnh đốt lửa để nấu cơm; sau khi cơm chín bảo người mang cơm khi đi một chân ở trên đường, một chân ở trên lề; đội bồn cơm trên đầu, ở trên phủ bằng một tấm vải thưa nên không thấy mặt trời cũng không phải chỗ râm mát; một chân đi giày, một chân đi rần tức là không đi bộ cũng không đi ngựa; người mang cơm là người đã bị thiến nên không phải nam cũng không phải nữ. Vua thấy cơm được mang đến liền hỏi là do ai làm, đáp là Đại dược, vua kinh ngạc nói: "Đại dược quả có trí mưu, trí huệ lớn, hiểu thông pháp thức, thật là người có tài giúp vua". Sau đó vua lại sai sứ giả đến bảo Viên mãn: "vua cần một khu vườn có đủ loại cây hoa trái và ao, hãy mau đem đến", Viên mãn nghe rồi vừa lo buồn vừa sợ hãi vì khu vườn làm sao di chuyển, đem đến cho vua được, Đại dược hỏi rõ nguyên do rồi nói: "cha không phải lo, để cho con lo liệu", nói rồi liền bảo sứ giả: "lịnh vua ban ra nào dám không làm theo, nhưng vì xứ này vườn ao mang tính thôn dã, nếu mang đến kinh thành sợ có xúc chạm. Xin vua ban cho một khu vườn nhỏ để làm theo cách thức thì việc mới thành", sứ giả về triều tâu lại, vua hỏi là lời của ai, đáp là của Đại dược, vua nghe rồi vừa kinh ngạc vừa bội phục cho là kỳ lạ. Sau đó vua lại sai sứ đưa đến năm trăm con bò đực giao cho Viên mãn nuôi để cung cấp sữa lạc lại cho vua, viên mãn nghe rồi vừa lo buồn vừa sợ hãi vì bò đực làm sao có thể cung cấp sữa lạc được. Đại dược hỏi rõ nguyên do rồi nói: "xin cha chớ lo, con sẽ nghĩ cách khiến vua không đòi lấy sữa lạc nữa", Đại dược liền bảo hai cha con của đồng tử phụ tá đến nói rằng: "hai cha con anh đi đến kinh thành rình chờ khi vua ra ngoài rồi ở một chỗ cách đó không xa, lấy một bát gỗ lớn độn vào bụng của cha, kéo quần lên cao che phủ lại. Cha anh nằm lăn lộn trên đất rên rỉ, còn anh thì lấy hương hoa cầu khẩn chư thiên gia hộ cho cha anh sanh được an ổn". Hai cha con đồng tử liền đi đến kinh thành làm y theo lời Đại dược đã dặn, lúc đó vua cho gọi hai cha con lại hỏi rõ sự việc, người con nói: "cha tôi sắp sanh nhưng sanh không được nên kêu la, tôi cầu khẩn chư thiên gia hộ", vua nghe rồi bật cười nói: "ta chưa từng nghe đàn ông sanh con", người con nói: "đúng như lời vua nói đàn ông không thể sanh con, vì sao vua lại giao năm trăm bò đực cho Viên mãn nuôi để cung cấp sữa lạc, bò đực không thể sanh con thì làm sao có sữa lạc", vua hỏi: "ai đã bày kế này?", đáp là của Đại dược, vua nghe rồi rất thán phục trí mưu. Sau đó vua bảo sứ giả: "Đại dược nhiều trí ít người sánh bằng, nên dùng việc khác để thử nghiệm. Hãy đưa đến một con la cho Viên mãn nuôi giữ nhưng không được cột, không nhốt trong chuồng mà thả cho nó tự do, cũng không để nó bị đói", Viên mãn nghe rồi vừa lo buồn vừa sợ hãi... như trên cho đến câu Đại dược nói cha đừng lo. Ban ngày Đại dược thả con la ra ngoài đồng cho nó tự do ăn cỏ, ban đêm lùa vào sân nhà, không cột dây rồi bảo hai mươi người luân phiên coi giữ, mỗi phiên năm người luân phiên cỡi la để giữ. Sứ giả theo lịnh vua âm thầm theo dõi sự việc rồi về tâu lại, vua nghe rồi nói: "nếu như vậy thì con la không thể chạy thoát thì làm sao bắt tội", đại thần nói: "nên ra lịnh cho người cỡi la vào đêm khuya, lúc mọi người đang ngủ cỡi la bỏ đi", sứ giả làm theo lịnh vua. Sáng hôm sau những người coi giữ báo cho Viên mãn biết con la đã đi mất, Viên mãn nghe rồi hết sức sợ hãi, Đại dược suy nghĩ: "việc chậm rãi thì mới nghĩ ra kế, còn gấp quá thì trong lòng cũng sợ hãi", nghĩ rồi liền nói với cha: "con có một kế nhưng hơi khó làm, nếu cha chịu đựng được hổ nhục thì hy vọng thoát được tội", người cha nói: "nếu được thoát chết thì cha sẽ chịu đựng". Đại dược liền cạo đầu người cha thành bảy đường rồi lấy màu sắc xanh vàng đỏ trắng bôi lên rồi cùng cha cỡi trên một con lừa đi đến kinh thành. Đến nơi rao to lên rằng: "Đại dược đang cùng cha di đến, cạo tóc người cha rồi trang sức thật kỳ dị", đại thần nghe được việc này liền tâu vua, vua nói: "Đại dược từ xa đến là tốt, nhưng làm nhục cha mình thì phạm vương pháp", vua cùng mọi người ra ngoài thành xem hư thật thế nào, mới thấy việc đó là thật. Lúc đó đại thần tâu vua: "vua khen ngợi Đại dược thông minh mưu trí hơn người, nhưng xem việc này thì thật là đê tiện", vua hỏi Đại dược: "vì sao người lại làm việc hủy nhục cha mình", đáp: "đại vương, thần cho là vinh mà không cho là nhục, thần có nhiều trí huệ nên lấy việc này dâng cha", vua hỏi: "trí của người và của cha, ai hơn?", đáp là thần hơn, vua nói: "ta chưa nghe con hơn cha, con do cha sanh ra, nuôi dưỡng khó nhọc nên nói là cha hơn con", Đại dược tâu: "xin đại vương xét kỹ, cha với con thì ai hiền hơn?", vua và đại thần đều nói là cha hơn, Đại dược liền quỳ trước vua tâu: "trước đây vua sai coi giữ con la, không may nó đã chạy mất. Con lừa này là cha của con la, theo lý thì nó hơn con la, xin vua nhận lấy con lừa này và đừng trách phạt cha thần", vua và đại thần nghe rồi đều thán phục là mưu kế hiếm có. Vua rất vui mừng liền phong Đại dược làm đại thần, tất cả việc nước đều giao cho Đại dược quyết đoán, xét rõ được nhiều việc nên xa gần đều tin tưởng, tiếng tăm ngày càng vang xa.

Có một Bà-la-môn thông suốt luận thư, vì cưới vợ nên chi dùng rất nhiều tiền, sau đó ông suy nghĩ: "ta vì cưới vợ chi phí quá nhiều nên tiền tài trong nhà không còn, sắp bị nghèo túng, phải làm sao đây", nghĩ rồi liền đi đến phương khác làm nghề huyễn thuật, kiếm được năm trăm tiền vàng mang về. Khi về gần tới làng liền suy nghĩ: "vợ ta xinh đẹp lại xa nhau đã lâu, trong nhà không có ta thì mặc tình muốn làm gì thì làm, không biết tâm nó có đáng tin hay không, vì vậy ta không nên mang số vàng này về nhà", nghĩ rồi ông liền đợi đến hoàng hôn, vào trong rừng đến bên gốc cây đa căn đào lỗ chôn cất vàng rồi mới về nhà. Trong thời gian ông vắng nhà, người vợ đã cùng người ngoài tên là Thiện thính tư thông; đêm đó sau khi họ cùng ăn tối xong vừa định đi ngủ thì nghe tiếng gõ cửa, người vợ hỏi là ai, Bà-la-môn đáp xong, người vợ vội bảo Thiện thính trốn dưới gầm giường rồi ra mở cửa, giả bộ vui mừng hỏi thăm rồi dọn lên thức ăn còn dư cho Bà-la-môn ăn. Bà-la-môn vừa ăn vừa suy nghĩ: "người vợ này há đã cùng người ngoài tư thông hay sao mà ban đêm lại có sẵn thức ăn ngon như thế này", nghĩ rồi liền hỏi vợ: "hiền thủ, hôm nay không phải ngày tốt cũng không phải lễ hội, vì sao lại có các món ăn ngon như thế này?", đáp: "đêm qua nằm mộng thấy thiên thần mách bảo là chàng sắp về, nên thiếp làm sẵn các món ăn đợi chàng", người chồng nói: "ta thật có phúc, sắp về đến nhà liền có thiên thần mách bảo". Sau khi ăn uống xong, khi cùng lên giường nằm, người vợ liền hỏi: "chàng bỏ em đi xa nhiều năm như vậy có kiếm được tiền hay không?, đáp là cũng được chút ít, người vợ liền dùng ám ngữ báo cho Thiện thính ở dưới gầm giường nên lắng nghe kỹ rồi hỏi chồng: "chàng kiếm được bao nhiêu?", đáp là được năm trăm tiền vàng, lại hỏi đã để ở đâu, đáp: "hãy yên tâm sáng mai sẽ đem về", người vợ nói: "thiếp và chàng đã là một thể, vì sao còn giấu không nói cho biết", đáp là để ở ngoài thành, người vợ lại dùng ám ngữ bảo Thiện thính lắng nghe chỗ giấu vàng rồi hỏi chồng: "chàng cất ở đâu?", đáp là ở trong rừng dưới gốc cây đa căn, người vợ nói: "chàng đi đường đã mệt nhọc, hãy ngủ đi". Sau khi biết chồng đã ngủ say, người vợ bảo Thiện thính: "chàng đã nghe biết chỗ cất vàng, vậy thì hãy làm cho mau", Thiện thính liền chui ra khỏi gầm giường đi đến trong rừng dưới gốc cây đa căn đào lấy hết vàng mang về nhà mình. Sáng hôm sau, Bà-la-môn đến chỗ cất giấu vàng thì thấy vàng không cánh mà bay đâu mất, ông liền đấm ngực khóc lớn rồi thiểu não trở về. Thân thuộc và người quen thấy vậy liền hỏi rõ nguyên do rồi nói: "uẩn khúc này người khác khó biết được, ông nên đến hỏi Đại dược, vị ấy có trí huệ hơn người có thể giúp ông tìm lại số vàng đã mất. Ngoài cách này ra không còn cách nào khác", Bà-la-môn liền đến chỗ Đại dược, chào hỏi rồi đem việc trên kể lại, Đại dược hỏi: "việc cất giấu vàng ông có nói cho ai biết không?", Bà-la-môn kể lại việc đêm qua, Đại dược nghe rồi biết chắc người vợ đã tư thông với người ngoài rồi làm việc trái đạo này, liền an ủi Bà-la-môn: "ông hãy tạm nhẫn nại, đừng lo buồn, tôi sẽ giúp ông tìm lại vật đã mất", lại hỏi: "nhà ông có nuôi chó không?", đáp là có, Đại dược nói: "ông hãy về bảo vợ: trước kia tôi có nguyện trước tượng Đại tự tại thiên là nếu bình an trở về thì sẽ thỉnh tám Bà-la-môn về nhà cúng dường. Nàng hãy thỉnh giúp tôi bốn vị, còn tôi thỉnh bốn. Khi tám người ấy đến nhà, ông để cho sứ giả của tôi đứng ở cửa xem xét những người này", Đại dược lại bảo sứ giả: "ngươi hãy xem xét kỹ tám Bà-la-môn đến nhà, người nào bị chó sủa, người nào không bị mà còn được con chó vẩy đuôi chạy tới thì hãy ghi nhớ kỹ người này. Khi người vợ tự tay dọn đưa thức ăn lên, ngươi hãy xem xét đến chỗ người nào thì cô ta liếc mắt mỉm cười". Bà-lamôn và sứ giả làm y như lời Đại dược đã dặn, khi tám người được thỉnh vào nhà thì bảy người đều bị chó sủa, chỉ có một người là Thiện thính thì chó không sủa mà còn vẩy đuôi chạy tới; khi người vợ dọn đưa thức ăn đến chỗ Thiện thính thì liếc mắt mỉm cười, khác với những người khác. Khi sứ giả trở về thuật lại việc trên, Đại dược liền búng tay nói: "chính người ấy là kẻ trộm vàng rồi", nói rồi liền bảo sứ giả gọi Thiện thính đến trách rằng: "lẽ nào Bà-la-môn có pháp trộm vật của người lấy làm của mình hay sao, ngươi nên trả lại cho họ", Thiện thính nói: "tôi xin thề là không có lấy vật của người khác", Đại dược liền bảo sứ giả: "đây là kẻ ác, hãy đem nhốt vào trong ngục, theo vương pháp dùng hình phạt trị cho nó thật đau khổ". Thiện thính nghe rồi sợ hãi liền nói: "xin đại thần cứu hộ, tôi sẽ trả lại", nói rồi liền chỉ chỗ đã cất giấu vàng, số vàng vẫn còn nguyên. Bà-la-môn sau khi lấy lại được số vàng liền suy nghĩ: "ta nay đã già, vàng đã mất nay bỗng được lại đều là nhờ sức của Đại dược, ta nên báo ân", nghĩ rồi liền đưa một nửa số vàng cho Đại dược để báo ân, Đại dược nhận rồi đưa trở lại nói rằng: "tôi làm việc giúp người không phải vì cầu lợi riêng cho mình". Lúc đó tiếng tốt lan xa, vua và quần thần cùng dân chúng đều nghe biết, nói rằng: "chúng ta có phước được người tài giỏi này bảo hộ nên không bị xâm phạm oan uổng".

Có một người đi đến nước khác, sau đó trở về nước mình, khi đến bờ hồ ở ngoài thành dừng lại nghỉ ngơi, lấy lương khô trong túi ra ăn, đứng dậy đi tiểu mà quên cột miệng túi lại. Lúc đó có con rắn độc bò vào nằm khoanh trong túi, khi quay trở lại không nhìn kỹ liền cột miệng túi rồi xách đi.

Khi tới cửa thành gặp một tướng sư, tướng sư nhìn anh ta rồi nói: "xem sắc diện của anh thì sắp chết đến nơi", người này tuy nghe nhưng không để ý, đi được một đoạn liền hối hận là không hỏi kỹ, anh suy nghĩ: "ta nên đến hỏi Đại dược rồi hãy về nhà, ông ấy có trí huệ sẽ giải thích cho ta", nghĩ rồi liền đi đến chỗ Đại dược thuật lại lời tướng sư nói. Đại dược nghe rồi suy nghĩ: "hay là trong túi có rắn độc nên tướng sư mới nói như thế", nghĩ rồi liền bảo để cái túi xuống đất, Đại dược ở trước mọi người dùng cây gậy khều miệng túi ra, con rắn độc từ trong túi bò ra phồng mang phun độc rồi phóng mình đi mất, mọi người thấy việc này rồi đều khen ngợi là kỳ lạ.

QUYỂN 28

4. Nhiếp tụng thứ tư-việc của Đại dược (tiếp theo):

Lúc bấy giờ Đại dược đã trông coi việc nước nên thống lĩnh bốn binh đi xem xét khắp nơi trong nước, mỗi khi đến thành ấp nào đều hỏi nơi này thuộc sở hữu của ai, dân chúng đều đáp là của đại thần. Lúc đó Đại dược mới biết tất cả thành ấp trong nước đều thuộc về của sáu vị đại thần, vua chỉ có cung điện và thức ăn uống hằng ngày mà thôi. Sau khi trở về cung, Đại dược tâu vua: "thành ấp nào ở trong nước là thuộc của vua?", vua nói: "trước nay ta đều bất lực, biết làm sao đây. May mắn là có chư thiên báo cho ta biết trong thành Mãn tài có người tên là Viên mãn sẽ có con trai tên là Đại dược, đến tuổi trưởng thành lập làm đại thần sẽ giúp ta lo liệu việc nước. Do nhân duyên này nên từ khi khanh còn trong thai, ta đã chu cấp mọi việc, nay khanh đã thành nhân nên thân cận ta, chức vị đại thần nay khanh đã được, hãy thuận theo thiên mệnh rộng dùng trí mưu giúp ta liệu lý việc nước để ta được tự tại làm vua", Đại dược nghe rồi sụp xuống lạy và cung kính tâu vua: "xin đại vương chớ lo, thần sẽ giúp cho vua được an lạc". Sau đó Đại dược sai sứ đến các thành ấp trong nước bảo dân chúng các nơi ấy rằng: "mọi người nên biết, xét thấy các đại thần không tuân pháp nước đã thu thuế lại bắt dân lao dịch cực khổ. Bằng lời chân thật ta khuyên mọi người, nếu thuận theo thì được an lạc mãi mãi, chỉ đóng thuế theo khả năng của mình, không bị lao dịch nữa. Mọi người hãy tự cố thủ trong thành, nếu như có lịnh vua và sáu đại thần đến bảo mở cửa thành cũng chớ nghe theo, dù đích thân đến cũng chớ có mở mà nên nói rằng: nếu đại thần Đại dược đến thì chúng tôi sẽ mở", dân chúng trong các thành nghe rồi đều làm theo như lời Đại dược đã dặn. Lúc đó sáu vị đại thần nghe biết việc này rồi liền tâu vua: "dân trong các thành muốn tạo phản phải làm sao đây?", vua nói: "các khanh thống lĩnh bốn binh đến hỏi tội", các đại thần thống lĩnh binh đến họ cũng không nghe theo nên trở về tâu vua: "chúng thần bất lực, xin vua đích thân đến", vua liền đích thân đến họ cũng không tuân phục, uổng công hai bên đánh nhau kéo dài nhiều ngày. Cuối cùng dân chúng tâu vua: "chúng thần không có ý phản nghịch lại vua, chỉ là không muốn thuận theo sáu vị đại thần bạo ngược. Nếu đại thần Đại dược đến thì chúng thần sẽ tuân phục", vua liền sai sứ gọi Đại dược đến, Đại dược nghe sắc lịnh vội đến gặp vua. Thấy Đại dược đến, dân chúng trong các thành đều mở cửa phục tùng, Đại dược hộ giá vua đi đến các thành, thay vua bãi bỏ chính sách bạo ngược, chế định lại pháp luật nhẹ hơn và hợp lý khiến cho không còn ai oán trách nữa. Mọi người đều ca ngợi sự thay đổi này, vui mừng như được sống lại, lúc đó Đại dược chu cấp cho người nghèo khổ cô quả, cũng như cha mẹ thương yêu tất cả. Tiếng tốt vang xa, các nước xa gần đều khen ngợi, vua gả con gái cho Đại dược, tuy được vua xem trọng nhưng Đại dược không có kiêu căng.

Thời gian sau, có một người nghèo ở phương khác đến xin được phụng sự cho vua để mong cầu bỗng lộc, vua không chấp nhận nên người này đến cầu nơi Đại dược, Đại dược thương xót nên thu nhận và chu cấp y thực đầy đủ. Lại có một Bà-lamôn thường đến xin lúa gạo, Đại dược bảo người giữ kho cho nhưng người này lơ là lần lữa không chịu đưa cho ngay. Một hôm vua cùng quần thần hội họp, vua hỏi: "việc bí mật của mình nên nói cho ai biết?", có người đáp nên nói cho thân hữu, có người đáp nên nói cho cha mẹ hoặc vợ con, chỉ riêng Đại dược im lặng không nói, vua hỏi vì sao, đáp: "đâu nên nói dễ như thế, theo thần thì hễ là việc bí mật thì không nên nói cho bất cứ ai, dù là nam hay nữ", vua nói: "lẽ nào lại như vậy hay sao", đáp: "đúng hay sai vua sẽ tự nghiệm biết". Sau đó vua mất chim Khổng tước, Đại dược bắt được đem giấu một nơi rồi đem một con khác đến trước mặt vợ hỏi: "nàng có nghe vua mất chim Khổng tước không?", đáp là có nghe, Đại dược nói: "chính là chim này, nàng hãy đem làm thịt, ta muốn ăn nhưng nàng không nên nói việc này cho ai biết", người vợ nghe rồi suy nghĩ: "phụ vương tin tưởng như vậy, vì sao lại giết chim của vua để ăn, thật là xấu xa, không sợ vương pháp gì cả". Sau đó Đại dược lại dẫn một cô gái đẹp vào nhà nói với vợ: "người này là cung nữ của vua, ta yêu mến nên đưa về, nàng đừng nói việc này cho ai biết", người vợ nghe rồi càng phẫn nộ suy nghĩ: "vì sao phụ vương lại không xét kỹ, tin dùng một kẻ vô lại phản phúc không có tông tộc như hắn, còn phong làm đại thần giao phó việc nước. Cung nữ của vua cũng đem về nhà mình, bắt chim của vua làm thịt ăn, thu nhận khách phương khác và cung cấp y thực nuôi làm nghĩa sĩ", nghĩ rồi liền đem hết sự việc này tâu cho vua biết rồi nói: "phụ vương hãy bãi chức và cho trở về vườn". Vua nghe rồi liền thay đổi tâm ý đối với Đại dược liền ra lịnh đao phủ bắt Đại dược đem đi hành hình; khi ra khỏi thành, Bà-la-môn trước đó đến nhà Đại dược xin lúa gạo liền níu lấy vạt áo Đại dược đòi lúa gạo. Lúc đó đao phủ dùng hoa đỏ cột vào cổ, đánh trống đi trước thông báo và cầm dao đi sau đưa Đại dược đến trong Thi lâm để xử chém, nhưng khi đến giờ xử chém thì không ai chịu chém cả, người đi theo xem đều khóc sụt sùi cầu khẩn Phật trời. Lúc đó người khác phương khác được Đại dược thu nhận trước đó liền bước ra nói: "tôi có thể giết người này"; Đại dược liền nói kệ:

"Không nên thân với vua, Khó gần gũi kẻ ác,

Nếu là việc bí mật, Không cho người nữ biết. Ta không ăn chim Công, Cũng không dụ cung nữ, Không có tâm khi dối, Và nợ gạo của người".

Lúc đó sứ giả nghe kệ rồi liền hỏi Đại dược: "người có trí huệ hơn người sao lại nói ra lời vô nghĩa?", đáp: "đây không phải là lời vô nghĩa, ngươi không hiểu được đâu, hãy đem lời ta vừa nói nói lại cho vua nghe", sứ giả liền đến nói lại cho vua nghe, vua không hiểu liền bảo sứ giả cho gọi Đại dược đến để hỏi nghĩa bài kệ, Đại dược nói: "nghĩa lý của nó rất sâu", vua hỏi sâu như thế nào, đáp: "xin vua lắng nghe: Nói không nên thân với vua là trước đây tất cả thành ấp trong nước đều không thuộc về vua, thần đã dùng mưu trí làm cho vua được quyền lực, trong nước được an ninh thịnh vượng, dân chúng hoan ca đều là nhờ sức của thần, nhưng nay vua lại ra lịnh giết thần để báo đáp ân ấy. Nói khó gần gũi kẻ ác là trước đây có người khách phương khác đến tìm cách thân cận vua để mong được bỗng lộc, vua không thu nhận nên mới đến cầu nơi thần. Thần thương xót thu nhận cung cấp y thực đầy đủ, không những không nhớ ân mà nay lại đứng ra nhận việc giết thần. Nói việc bí mật không nên cho người nữ biết là trước đây nhân lúc hội hộp vua hỏi việc bí mật nên nói cho ai, có người đáp nên nói cho cha mẹ hoặc vợ con; nhưng thần lại nói không nên nói, vua sẽ tự nghiệm biết. Thần không ăn chim Công của vua, cũng không dẫn cung nữ của vua, chỉ là tạm mượn chuỗi anh lạc của cung nhân đưa cho một người nữ đem giả làm cung nhân đang ở trong nhà thần. Nếu vua không tin hãy gọi đến hỏi. Nói không nợ gạo của người là khi vua sai đao phủ đưa thần tới Thi lâm xử chém thì có một Bà-la-môn đến níu áo thần đòi gạo mà không có ý tưởng thương xót, không biết cơ nghi", vua hiểu rõ nghĩa rồi liền cho người tra xét sự việc, sau khi biết Đại dược vô tội liền tha và làm nghi lễ long trọng bái làm trọng thần. Lúc đó Đại dược tâu vua: "công chua của vua ban cho thật vô dụng đối với thần, xin Đại vương thu nhận lại, thần xin được tự mình tìm kiếm cô gái nào chân thật đức hạnh, lại thông minh trí huệ và có dòng họ tương xứng để cưới làm vợ", tâu xong liền từ giã vua ra đi với hình thức một Bà-la-môn, tay cầm tịnh bình với dây kiết tường, mặc áo da nai, vẽ ba vạch trên mặt rồi trở về thành cũ để tìm vợ. Trên đường đi có một Bà-la-môn gặp Đại dược liền hỏi từ đâu đến, đáp là từ nước Tỳ-đề-ê đến, lại hỉ muốn đi đâu, đáp là về thành Mãn tài, lại hỏi có quen ai để đứng nghỉ qua đêm không, đáp là không có. Bà-la-môn liền dẫn Đại dược về nhà ngủ đêm, Đại dược thấy vợ của Bà-la-môn là người không trinh bạch nên sáng hôm sau liền từ giã, Bà-la-môn nói: "nhà tôi cũng là nhà của bạn, sau này tùy ý đến nghỉ qua đêm, không phải ngại gì cả", Đại dược nhận lời, nắm tay từ biệt rồi theo đường phía trước mà đi, bỗng thấy trong ruộng lúa mạch có một thiếu nữ dung mạo đoan nghiêm, dáng vẻ là con nhà lương thiện, có ý yêu mến nên hỏi tên họ, cô gái đáp tên là Tỳxá-khư, lại hỏi con nhà ai, đáp là con của thôn trưởng, Đại dược suy nghĩ: "người này tuy xinh đẹp nhưng không biết trí huệ thế nào, ta nên xét thử", nghĩ rồi liền đi xuống ruộng, đưa cao hai tay rồi dùng chân đạp lúa, Tỳ-xá-khư nói: "đã biết giữ tay thì chân cũng vậy", Đại dược biết là người có trí liền nói với cô gái: "vòng tai của nàng thật đẹp, sắc sáng lạ thường", Tỳ-xá-khư nói: "chỉ để che thân xấu, đâu có đẹp gì", Đại dược nói: "nàng rất xinh đẹp", Tỳ-xá-khư nói: "do cha mẹ sanh, không liên quan tới trang sức bên ngoài", lại hỏi về người cha, đáp: "cha tôi một thân làm hai việc", hỏi là nghĩa gì, đáp: "vừa đi lấy gai chận đường cũ, lại làm thông đường mới", lại hỏi về người mẹ, đáp: "mẹ tôi về nhà lấy giống để gieo ruộng trễ mùa", lại hỏi: "nàng có bằng lòng làm vợ ta không?", đáp: "việc này do cha mẹ, tôi không quyết đoán được", lại hỏi: "đi về thành Mãn tài có đường nào bằng phẳng không gai góc, xin hãy chỉ cho tôi đi được an ổn", Tỳ-xá-khư liền chỉ con đường cong, tự đi trước đến bên bờ ao, thay đổi áo rồi ngồi đó, nheo một mắt để xem Đại dược có nhận ra mình hay không. Một lát sau Đại dược đi đến, vừa nhìn liền nhận ra Tỳ-xá-khư nên nói kệ:

"Thân mặc áo không dệt bằng tơ,
Cũng không phải may bằng chỉ len,
Cô nheo mắt hãy chỉ cho ta,
Đường nào đi đến thành Diệu hoa"

Tỳ-xá-khư nói kệ đáp:

"Đường trơn nên tiến bước,
Chớ đi đường gồ ghề,
Xa thấy khu rừng lớn,
Gần bên nên đi qua,
Lại thấy đất trồng lúa,
Có cây nở hoa đỏ,
Bỏ trái đi qua phải,
Theo đường ấy mà tới".

Đại dược theo lời chỉ dẫn đi đến thành Diệu hoa, cách thành không xa là nhà của Tỳ-xá-khư, nhưng không gặp cha mẹ Tỳ-xá-khư, Đại dược liền nói với thành chủ: "nếu được các vị gả Tỳ-xákhư cho tôi, tôi rất mang ân", thành chủ nghe rồi tức giận nói: "người cầu xin người thật không biết xấu hổ, vì sao lại vội vàng cầu hôn Tỳ-xá-khư, một cô gái xinh đẹp như tiên như vậy. Ngươi hãy ra khỏi thành ngay, nếu trở lại ta sẽ cho chó ăn thịt ngươi". Đại dược thất vọng trở lại chỗ Tỳ-xá-khư, thấy Đại dược trở lại cô liền hỏi, Đại dược kể lại việc trên và nói suýt bị đánh, Tỳ-xá-khư nói: "anh làm vậy là không có mưu trí, việc cầu thân không phải làm như vậy", Đại dược hỏi phải làm thế nào, liền đáp: "trước phải làm quen rồi thân cận, sau đó làm tiệc mời ăn các món thơm ngon, lúc đó mới nói đến việc cầu thân". Đại dược làm theo lời chỉ dẫn, sau khi mời ăn uống xong mới nói đến việc cầu thân thì mọi người liền nói: "sẽ làm theo ý ông", vừa lúc đó cha mẹ của Tỳ-xá-khư đến, mọi người nói giúp cho Đại dược về việc cầu thân, cha mẹ Tỳ-xá-khư nói: "hãy thư thả để tôi suy nghĩ", mọi người liền nói: "còn suy nghĩ gì nữa, Bà-lamôn này trẻ tuổi thông minh, hiểu rộng kinh thư, luận tứ minh cũng đều thông đạt, không nên kéo dài năm tháng", cha mẹ Tỳ-xá-khư thấy mọi người nồng nhiệt với Đại dược như vậy liền chấp thuận gả con gái. Đại dược liền dâng y phục thượng hạng cho cha mẹ vợ và để lại lễ vật tặng cho Tỳ-xá-khư rồi trở về nước Tỳ-đề-ê. Trên đường trở về gặp hội thí, Đại dược được một thăng lúa mạch liền gói lại mang đi đến nhà Bà-la-môn mà trước đó đã ngủ nhờ một đêm. Khi Đại dược gõ cửa, người vợ ra hỏi là ai, đáp là bạn của chồng bà, người vợ kia nói: "chồng tôi không có ở nhà nên tôi không thể tiếp ông, ông hãy đến nhà khác ngủ nhờ", Đại dược nghe rồi suy nghĩ: "chắc là có việc riêng tư gì nên mới không cho ta ở lại ngủ nhờ", vừa đi được một đoạn liền thấy có một người khác bước vào nhà ấy, Đại dược liền suy nghĩ: "vì có người ngoài nên mới không cho ta ở lại", trong lúc còn đang tần ngần thì người chồng về đến, kéo Đại dược tới nhà và gõ cửa. Người vợ nghe tiếng chồng gọi thất kinh vội bảo người kia trốn vào trong bồ lúa, Đại dược theo người chồng cùng bước vào nhà rồi hỏi: "thăng lúa mạch này nên ở ở đâu?", người vợ bảo để dưới đất, Đại dược nói sợ chuột ăn, nói rồi nhìn khắp trong nhà, thấy dưới gầm giường không có liền nghi là trốn ở trong bồ lúa liền nói: "nên để trong bồ lúa", người vợ liền nói: "tài vật của tôi đều để trong đó nên không thể để lúa mạch được", người chồng nói: "bà này sao không lấy tài vật ra rồi để thăng lúa mạch vào trong đó", người vợ biết chồng đã quyết ý không thể ngăn cản được liền nói: "trong bồ lúa ẩm ướt sợ làm hư lúa mạch", Đại dược nói: "chị không phải lo, tôi sẽ không để cho nó hư", nói rồi liền lấy củi và phân bò khô đặt bốn phía bồ lúa rồi muốn lấy lửa đốt. Người vợ kia sợ người tình trong bồ lúa bị đốt cháy nên lén sai người đến báo cho người cha biết con ông đang gặp nạn mau đến cứu. Người cha nghe báo vội chạy đến, biết con mình đang trốn trong bồ lúa liền nói với Đại dược: "tôi cần mua cái bồ, ông muốn bao nhiêu?", đáp là năm trăm tiền vàng, đang lúc trao đổi thì thấy lửa bốc cháy, người cha sợ người con chết nên vội đưa tiền và chở bồ lúa đi. Sáng hôm sau Đại dược đưa cho chủ nhà một trăm tiền vàng, kể hết mọi việc đã thấy biết hôm qua rồi nói: "vợ bạn có hạnh xấu, phải tự biết ngăn ngừa", nói rồi liền viết thư nhờ chủ nhà đưa thư với bốn trăm tiền vàng đến thành Diệu hoa đưa cho Tỳ-xá-khư và báo cho chủ thành biết: vị khách đến cầu thân không phải là Bà-lamôn mà là đại thần của vua, nên khéo đối xứ với Tỳ-xá-khư, dặn rồi liền trở về nước Tỳ-đề-ê. Chủ nhà cầm thư và tiền đến giao cho Tỳ-xá-khư nhưng chỉ có ba trăn tiền vàng, Tỳ-xá-khư mở thư thấy viết:

"Bốn mảnh mới thành áo,
Thiếu một không thể may,
Nếu thiếu đi một mảnh,
Cầm chân thu lại được".

Tỳ-xá-khư đọc thư xong đếm lại tiền thấy chỉ có ba trăm liền tìm cái cùm, chủ nhà kia hỏi tìm cái gì, đáp là tìm cái cùm, tìm được rồi liền nói: "tôi không biết sử dụng như thế nào, ông hãy đưa chân cho tôi làm thử", chủ nhà tình thật liền đưa chân ra, Tỳ-xá-khư đóng cùm mà không mở ra lại, chủ nhà liền hỏi, Tỳ-xá-khư nói: "trong thư anh ấy nói gởi bốn trăm nhưng ông đã lấy bớt một trăm", chủ nhà nghe rồi suy nghĩ: "thật kỳ lạ, cả hai đều có trí, không thể dối gạt họ được", nghĩ rồi liền trả lại một trăm tiền. Sau đó Tỳ-xá-khư đưa tiền cho cha mẹ và nói: "người trước đây cầu hôn con không phải là Bà-la-môn nghèo, mà là đại thần của vua nước Tỳ-đề-ê tên là Đại dược", cha mẹ và thân thuộc nghe biết rồi đều rất vui mừng nói rằng: "chúng ta có phước nên được người rễ là đệ nhất đại thần. Làm cho gia tộc thịnh vượng ắt phải nhờ nơi người này". Từ đó trở đi họ chăm sóc cho Tỳxá-khư mọi thứ nên Tỳ-xá-khư càng trở nên xinh đẹp hơn trước. Lúc đó vua và quần thần nghe Đại dược trở về đều vui mừng, khi Đại dược vào chầu, vua hỏi có tìm được vợ không, đáp là đã tìm được, vua hỏi như thế nào, đáp: "nàng xinh đẹp như hoa, thông minh nhiều trí, tài giỏi hơn người, thật xứng làm vợ thần, xin vua cho thần được đem nàng về", vua nói: "khanh là đại thần nên không có lỗi, nên làm nghi lễ trọng hậu đón rước cho mọi người vui mừng". Đại dược được vua cho phép liền làm nghi lễ trọng hậu, dẫn binh sang thành Diệu hoa đón rước Tỳ-xá-khư về nước Tỳ-đề-ê cùng sống an lạc bên nhau.

Thời gian sau có năm trăm thương nhân ở phương bắc đến nước Tỳ-đề-ê, trong thành có năm trăm dâm nữ rất xinh đẹp, ca múa yểu điệu để mê hoặc các thương khách, khiến cho họ tiêu tán hết tiền bạc. Khi năm trăm dâm nữ này gặp năm trăm thương nhân, các thương nhân đều bị mê hoặc, chỉ riêng có thương chủ là không bị. Dâm nữ đứng đầu liền tìm mọi cách thân cận để mê hoặc nhưng vị thương chủ này vẫn kiên tâm không bị lay chuyển, ông nói với dâm nữ: "ta không có tà niệm, cô tìm cách thân cận uổng công", dâm nữ nói: "nếu em làm cho nhân giả đổi ý thì sẽ thưởng cho em vật gì?", thương chủ nói: "ta sẽ cho năm con ngựa thượng hạng, nếu ta không lầm lỗi thì nàng phải đưa lại cho ta năm trăm tiền vàng", dâm nữ chấp thuận và tìm đủ mọi cách khêu gợi vẫn không làm cho thương chủ chuyển ý, những thương nhân khác thấy vậy liền nói: "cô ấy là người đẹp nhất trong thành này, thương chủ không nên phụ lòng", thương chủ nói: "trong đêm ta nằm mộng thấy cùng nàng ấy giao hội thì không cần nàng ấy đến nữa". Dâm nữ nghe các thương nhân nói lại liền dẫn theo năm trăm người cầm dao đến đòi thương chủ đưa năm con ngựa thượng hạng như đã cùng giao ước, thương chủ nói: "nàng thật không biết xấu hổ, đã vu oan cho ta", dâm nữ kiện tới quan phân xử. Đại dược xử tới chiều vẫn không giải quyết được nên hẹn đến sáng mai xử lại, do nguyên nhân này nên về nhà muộn, Tỳ-xá-khư hỏi nguyên do, Đại dược kể lại việc trên rồi nói vẫn chưa xử xong, hẹn đến sáng mai xử lại, Tỳ-xá-khư nói: "chàng thông hiểu đạo lý mà sao không xử được việc này", Đại dược hỏi: "vậy nàng có thể xử được không?", Tỳ-xá-khư nói: "em sẽ thử xử đoán cho chàng nghe: trước hết chàng tâu vua triệu các quan đến và dẫn theo năm con ngựa cùng đến bên ao nước. Sau đó triệu dâm nữ đến chỉ bóng ngựa trong ao nói rằng: "thương chủ cùng cô làm việc phi pháp ở trong mộng thì phải giao ngựa cho cô như trong mộng. Vậy cô hãy dẫn bóng năm con ngựa này về đi". Nếu lúc đó dâm nữ nói bóng ngựa không thật không thể dẫn đi thì chàng nên nói việc hành dục trong mông cũng giống như vậy", Đại dược nghe rồi rất thán phục nên sáng hôm sau làm theo như lời Tỳ-xá-khư nói. Sau khi xử xong vua và các quan đều thán phục, vua hỏi: "nếu chiều qua khanh xử như vậy thì đâu cần sáng nay phải xử lại, trí mưu này chắc không phải của khanh, vậy là của ai?", đáp là của Tỳ-xá-khư, nhân việc này tiếng tăm của Tỳ-xá-khư vang xa.

Sau đó ở phương Bắc đem đến hai con thảo mã, một con là mẹ, một con là con nhưng lại giống hệt nhau về hình dáng, kích cỡ và màu lông nên khó thể phân biệt được, Tỳ-xá-khư nghe biết rồi liền nói: "con có lông cứng là mẹ, con có lông mềm là con". Thời khác, có người giỏi dùng chú thuật rắn, mang đến hai con rắn giống hệt nhau, không thể phân biệt được con nào là đực, con nào là cái. Tỳ-xá-khư nghe biết rồi mỉm cười nói: "dùng một vật mềm mại cột vào đầu cây gậy chạm nhẹ trên xương sống của rắn, con nào cong lại cử động là con đực, con nào nằm im là con cái". Lại có một thương nhân từ phương Nam đến dâng cho vua một khúc cây chiên đàn có hai đầu giống nhau, không phân biệt được gốc ngọn, Tỳ-xá-khư nghe biết rồi mỉm cười nói: "bỏ cây ấy vào trong nước, đầu nào chìm xuống là gốc, đầu nào nổi lên là ngọn". Lúc đó vua suy nghĩ: "ta thử xét xem trong các đại thần ai là người có trí nhất", nghĩ rồi liền cho dựng một cây phướn cao trên lầu, trên đầu cây phướn có đặt hạt ngọc quý chiếu sáng rực, khi ánh mặt trời phản chiếu, bóng của viên ngọc quý này hiện xuống trong hồ nước như thật. Sau đó vua bảo quần thần: "ai xuống hồ lấy được hạt châu, ta sẽ ban thưởng", mọi người xuống hồ tìm nhưng không tìm thấy, Tỳ-xá-khư nghe biết rồi mỉm cười nói với Đại dược: "hãy nhìn ngược lên sẽ tìm được hạt châu thật", Đại dược làm theo lời vợ nên lấy được ngọc quý, vua hỏi là trí của ai, đáp là của Tỳ-xá-khư, vua liền tặng ngọc và khen ngợi. Thấy Tỳ-xá-khư xinh đẹp tài trí nên các đại thần đều luyến ái, đem tăng nhiều châu báu để mong được qua lại tư thông, nhưng Tỳ-xá-khư không thay đồi tâm ý. Thấy họ mong cầu mãi, Tỳxá-khư nói với Đại dược: "trong nước của chàng có một việc hễ thấy vợ của người xinh đẹp liền muốn cùng tư thông, thật là xấu xa", Đại dược nói: "đó là tập quán của thế gian, nhưng nếu là người vợ kiên trinh thì không thuận theo", Tỳ-xá-khư nói: "thiếp muốn làm nhục họ, xin chàng đừng trách", liền đáp tùy ý, Tỳ-xá-khư nói: "chàng cáo bịnh, mọi việc để thiếp lo". Đại dược liền cáo bịnh, các đại thân nhân đó sai sứ đến hỏi Tỳ-xá-khư, liền đáp: "chồng bịnh, tôi không trái", nói rồi liền sai thợ làm hình nhân bằng gỗ giống như Đại dược đặt trên giường, phủ một tấm vải mỏng lên rồi nói với các đại thần: "chồng tôi bịnh nặng, mạng sống không còn bao lâu, các vị nếu thân thiết với tôi cũng chớ để người ngoài nhìn thấy". Sau đó liền sai làm sáu cái rương lớn để trong sáu phòng, đại thần nào đến cũng bảo núp vào rương, khi vào trong rương rồi liền khóa lại. Sau khi nhốt đủ sáu đại thần vào sáu cái rương rồi, Tỳ-xá-khư nói với mọi người là Đại dược đã chết, vua và các quan khác nghe tin liền suy nghĩ: "người tài giỏi nhất triều như vậy mà lại chết", nghĩ rồi liền buồn khóc. Lúc đó Tỳ-xá-khư sai người mang sáu cái rương này đến chỗ vua tâu rằng: "đại vương, Đại dược đã qua đời, tài sản đã có đều ở trong sáu cái rương này, xin đại vương thu nhận" rồi nói hai bài kệ, vua đau buồn nói: "Đại dược đã chết mà còn đem tài sản đến". Lúc đó Đại dược từ bên cửa hông với chuỗi anh lạc trang nghiêm đi vào trong cung gặp vua nói: "đại vương thương yêu thần, vậy mà vừa mới chết, vua đã thu hết tài sản", vua nói: "không phải ta tịch thu mà là do Tỳ-xá-khư đích thân mang đến và nói kệ:

"Đại vương nay nên biết,
Đại dược đã qua đời,
Châu báu này của chàng,
Xin vua đích thân xem,
Chồng thiếp không còn nữa,
Thiếp cô quả bơ vơ,
Sợ bị người ngoài gạt,
Mất vật này của vua".

Đại dược nói: "nếu vậy đại vương nên mở rương ra xem thử", sau khi mở rương, sáu vị đại thần từ rương bước ra, vua hỏi nguyên do, sáu người đáp:

"Chúng thần vì tình dục,
Nên bị nữ nhân gạt,
Xin đại vương ban ân,
Không dám như thế nữa".

Vua nói: "thế gian luân hồi đều do sắc dục, đã bị nhục này lại bị lỗi nặng, các khanh về sau hãy tự xét mình", vua nghĩ: "người nữ có tiết tháo, trinh bạch lại có mưu kế như thế, xưa nay chưa từng có, có thể làm cho đại thần phụ tướng bị nhục đến như vậy", nhân việc này vua cấm chế việc đam mê dâm dục rồi ban thưởng thêm tước lộc cho Tỳ-xá-khư, tiếng tăm vang xa đến tận nước khác. Lúc đó vua lại nghĩ: "Đại dược có phúc lớn nên mới gặp người vợ tài trí như vậy", nghĩ rồi liền bảo Đại dược: "khanh hãy tìm giúp cho ta một phu nhân có đủ tài trí có thể làm cho chính trị trong và ngoài nước đều được an ninh, để ta được ngồi khoanh tay hưởng an lạc", Đại dược hỏi tìm ở đâu, vua nói: "ta nghe nước Bán-già-la có vương nữ tên là Diệu dược là tuyệt thế giai nhân, ý chí thanh cao, nếu đến cầu hôn chắc được", Đại dược nói: "nước đó hay gây oán thù, nếu muốn cầu hôn phải làm phương tiện trước". Vua sai phụ tướng đến nước đó cầu hôn, vua quan nước kia thấy sứ giả đến liền cùng bàn luận: "vua nước Tỳ-đề-ê có nhiều binh lực, muốn cùng ta kết thông gia là muốn kết thân tình. Nay họ tự đến, việc lành hay dữ ta tùy ý mà làm", bàn luận xong, vua nước kia chấp thuận lời cầu hôn và ước hẹn ngày giờ đem sính lễ qua làm hôn lễ, sứ giả trở về tâu lại. Đến ngày, vua nước Bán-già-la mở tiệc thịnh soạn nhưng lại cho thuốc độc vào trong thức ăn rồi sai sứ sang báo là tiệc đã chuẩn bị xong. Vua nghe rồi định đi, Đại dược tâu: "vua không nên vội vì nước lân cận kia thường gây chiến tranh, thần có con chim Anh vũ tên Cụ tướng có trí huệ, hiểu rõ nhân tình. Thần sai nó đến nước kia thám thính về báo lại như thế nào rồi vua hãy đi", vua bằng lòng. Chim anh vũ sau khi nghe chủ dặn bảo xong liền bay đến nước kia đậu trên ngọn cây, quan sát bốn hướng xem có thể hỏi được thông tin từ ai, nhưng không tìm thấy có chim nào, liền vào trong rừng tre. Thấy có tổ chim Xá lợi liền bay đến chào hỏi, chim Xá lợi hỏi từ đâu đến, đáp: "tôi từ chỗ vua

Thất lị ở phương bắc đến đây, tôi vốn là sứ trông coi vườn tược, có cưới chim Xá lợi làm vợ. Nàng ấy trẻ đẹp lại siêng năng có trí huệ và hiểu rõ ngôn ngữ, nhưng khi nàng bay ra ngoài chẳng may bị diều hâu bắt. Tôi đau buồn như tên bắn vào tim nên bay khắp nơi tìm kiếm, lần hồi bay đến đây. Tôi không có bạn nay muốn lấy nàng làm vợ", đáp: "tôi chưa từng nghe cũng chưa từng thấy chim anh vũ lấy chim Xá lợi làm vợ, chỉ nghe lấy chim anh vũ làm vợ thôi", Cụ tướng liền nói kệ khuyến dụ:

"Ta bên vua phương bắc,
Giữ vườn thành Thất lị,
Vợ ta chim Xá lợi,
Có trí, giỏi ngôn ngữ,
Khi ra ngoài vui chơi,
Bị diều hâu bắt đi,
Ta vì tìm nàng ấy,
Phiêu bạt đến nơi đây".

Chim Xá lợi nói:

"Xá lợi vợ Anh vũ,
Chưa từng nghe việc này,
Anh vũ tìm anh vũ,
Người trí đều biết thế".

Sau khi nói chuyện cùng nhau thấy hợp ý nhau nên chim Xá lợi chịu làm vợ Anh vũ, giao tình thân thiết khó thể chia lìa. Lúc đó Cụ tướng thấy vua mở tiệc thịnh soạn với các món ăn ngon liền nói với Xá lợi: "vì sao trong cung lại mở tiệc thịnh soạn như vậy, chúng ta có thể nếm thử được không?", đáp: "tuy thịnh soạn thơm ngon như vậy nhưng trong đó đều có thuốc độc", lại hỏi vì sao, đáp: "vì vua nước Tỳ-đề-ê sắp đến cầu hôn, muốn ngầm hại vua tôi họ nên mới làm các món ăn này", Cụ tướng hỏi biết rõ rồi nói kệ:

"Nghe nói vương nữ này,
Gả cho vua nước kia,
Lời đồn đãi như thế,
Không biết thật hay hư?".

Xá lợi nói:

"Vua không gả vương nữ,
Kẻ ngu không tự lượng,
Mới dùng phương pháp này,
Để hại vua nước kia".

Cụ tướng biết rõ sự việc rồi vui mừng như đại thương chủ tìm được trân bảo kỳ lạ, liền nói với Xá lợi:

"Ta bay về phương bắc,
Báo vua nước Thất lị,
Được vợ đẹp thông minh,
Như biết nói được tiếng".

Xá lợi nói:

"Thánh tử, chàng hãy bay,
Về thăm vua Thất lị,
Bảy hôm mau trở lại,
Không nên ở lâu ngày".

Cụ tướng bay về kể lại mọi việc đã nghe biết được cho Đại dược nghe, Đại dược tâu lại vua và khuyên đừng đi. Vua nước kia thấy vua nước này không đến liền kéo binh sáng vây bốn phía thành, vua hỏi Đại dược nên tính kế gì, Đại dược tâu: "không nên giao chiến, nên làm kế ly gián". Đại dược liền đưa sáng đúc lót cho năm trăm đại thần của vua nước kia rất nhiều châu báu để họ không muốn chiến đấu nữa. Sau đó Đại dược sai sứ đến bào cho vua kia biết: "chẳng phải chúng tôi không thể cùng vua giao chiến, mà vì vua là cha vợ rất thân thiết. Vua hãy suy nghĩ giữ thân cho kỹ, nếu bị đưa đến chỗ chúng tôi thì không được tự do nữa. Nếu không tin vua hãy kiểm tra, chúng tôi đã đút lót cho năm trăm đại thần của vua rất nhiều châu báu, họ không còn muốn chiến đấu nữa", vua nghe rồi liền cho kiểm tra, mới biết nội bộ đã chia rẽ nên vào nửa đêm liền ra lịnh rút quân về. Về đến trong cung liền ra lịnh giết chết năm trăm đại thần và đưa con của họ lên thay. Lúc đó Đại dược tâu vua: "sự việc đã như vậy thì cầu hôn không còn khó nữa, thần sẽ đến đó cầu hôn nhưng được hay không vẫn còn chưa biết, phải đợi xem ý của họ thế nào", vua nói tùy ý, Đại dược liền dẫn binh đi đến nước Bán-già-la rồi tạm trú trong vườn hoa, vua nước ấy liền cho gọi vào thành, đáp: "tôi không vào thành, tạm thời xin ở nhà của đại thần", vua nói tùy ý. Lúc đó các con của các đại thần nói với nhau: "cha chúng ta bị giết đều là do Đại dược, chúng ta không nên để kẻ thù này được thoát", nói rồi liền tâu vua: "Vua nước Tỳ-đề-ê vốn không có sách lược gì cả, vương nghiệp được hưng thịnh đều nhờ công của Đại dược nên chúng ta mới không xâm lấn nước họ được. Nay phải lưu giữ ông ta ở lại đây, thần sẽ mang binh sang nước đó phá thành", vua khen hay rồi thống lĩnh bốn binh sang nước Tỳ-đề-ê vây thành. Đại dược biết vua đã dẫn binh sang nước Tỳ-đề-ê, cũng đoán biết nơi cất chứa châu báu của vua lại là chỗ ở của vương nữ Diệu dược, liền đột nhập vào mang hết châu báu và Diệu dược đi theo đường khác để trở về nước mình. Lúc đó người nước Bán-già-la đến báo tin này cho vua biết, vua nghe rồi liền vội rút quân về, vua nước này liền tổ chức hôn lễ và phong Diệu dược làm đại phu nhân. Vua nước Bán già sai sứ đưa thư cho Diệu dược, trong thư viết: "ta rất ưu sầu con không biết hay sao, con hãy giúp cha tìm hiểu ai đã thông báo cho vua ấy biết việc hạ độc vào thức ăn để hại vua tôi nước ấy", Diệu dược tìm hiểu liền biết là do chim anh vũ, sai sứ báo cho vua cha biết, vua cha lại sai sứ bí mật báo tin: "do chim anh vũ này nên sự việc mới đến nỗi này, con hãy bắt nó đưa đến đây", Diệu dược tìm cách bắt chim anh vũ nhốt vào lồng rồi gửi sang cho vua cha, vua thấy anh vũ tức giận nói: "hãy giết nó ngay", Anh vũ tâu vua: "xin vua cho tôi được chết theo pháp tổ tiên, tôi sẽ không oán hận", vua hỏi pháp chết ấy như thế nào, đáp: "cột dây gai có nhúng dầu mở vào đuôi của tôi rồi đốt, để mặc cho tôi chết", vua chấp thuận cho chết theo cách ấy. Lúc đó chim anh vũ bay lên hư không giũ lông cánh làm cho đuôi lửa rớt xuống đốt cháy vương cung, sau đó lặn xuống ao làm cho sạch rồi bay trở về chỗ Đại dược kể lại mọi việc, Đại dược nghe rồi rất vui mừng. Vua nước Bán già càng thêm tức giận gửi thư cho Diệu dược, nói rõ sự việc rồi bảo bắt anh vũ đưa sang. Khi thấy anh vũ, vua liền sai nhổ sạch lông để nấu; lúc đó có chim diều hâu bay xuống cắp anh vũ mang đi. Thấy diều hâu muốn ăn thịt mình, anh vũ nói: "ông ăn thịt tôi chỉ được một ngày, nếu tha cho tôi, hằng ngày tôi sẽ dâng thịt ngon cho ông được no đủ", diều hâu nói: "ai lại tin ngươi", đáp: "tôi xin thề, lại nữa tôi không còn lông cánh không thể nào bay được, ông hãy đưa tôi đến bên miếu Thiên vương, thả nhẹ tôi xuống rồi trong một hai ngày nữa ông sẽ thấy là tôi nói thật", Diều hâu làm theo lời thả chim xuống trong miếu, chim ẩn vào trong lỗ nhỏ sau lưng tượng thần. Khi người giữ miếu đem hương hoa đến cúng dường tượng thần, chim anh vũ lên tiếng: "ngươi hãy đi báo với vua là do vua có hành động ác làm cho chư thần nổi giận nên ta sẽ giáng họa cho vua. Nếu vua không cúng dường thì sẽ gặp tai họa không ngừng, nếu hằng ngày cúng nhiều thịt tươi, mè và đậu nành đến thì ta sẽ ban ân, không giáng họa", người giữ miếu liền đến báo cho vua biết, vua nói: "hãy làm theo như lời thần nói". Qua nhiều ngày tháng, diều hâu ăn thịt, anh vũ ăn mè nên lông cánh mọc trở lại có thể bay được, liền nói với người giữ miếu: "ngươi hãy tâu vua rằng: lâu nay cúng dường cho ta, ta sẽ ban ân không giáng họa nữa nhưng vua và nội cung, các quan đều phải cắt tóc rồi đến đây làm lễ", người giữ miếu báo xong, vua liền cắt tóc rồi cùng quần thần đi đến trong miếu lễ tạ thiên thần. Lúc đó chim anh vũ bay lên không rồi nói kệ:

"Những việc gì đã làm,
Thảy đều có quả báo,
Ngươi nhổ lông của ta,
Nay ta cạo đầu ngươi".

Bay về đến chỗ Đại dược, Đại dược nói: "ta lấy làm lạ vì sao ngươi lại ở lâu bên đó như thế", anh vũ kể lại mọi việc, Đại dược vui mừng tâu lại cho vua biết, vua nói: "khanh thật có phúc nên được quyến thuộc đều thông minh, Tỳ-xá-khư trí huệ hơn người, chim anh vũ trong đời khó có".

Sau đó vua muốn biết trong các quan ai có trí huệ nhất nên giao cho mỗi đại thần một con chó nuôi trong một thời gian và dạy làm sao cho nó nói được tiếng người. Các quan đem chó về nuôi và ra sức dạy nhưng vẫn không làm cho nó nói được tiếng người. Lúc đó Đại dược đem chó về cột gần chỗ ngồi ăn, hằng ngày ở trước mặt chó ăn những thức ăn thơm ngon mà không cho chó ăn một miếng nào, chỉ cho ăn thức ăn dở đủ để sống mà thôi nên chó gầy ốm, chỉ còn da bọc xương. Đến hết thời hạn, tất cả đại thần mang chó đến chỗ vua, các con chó của các quan khác đều mập mạp và đều không nói được. Vua thấy chó của Đại dược quá gầy ốm nên hỏi nguyên do, đáp: "vì thần cho nó ăn thức ăn như của thần", con chó nghe rồi liền nói ra tiếng: "người này nói dối, tôi thường bị đói, đói muốn chết", Đại dược liền nói: "vua đã nghe thấy chó nói được tiếng người", vua vui mừng khen ngợi. Thời gian sau, vua lại giao cho các đại thần dê bảo nuôi sao cho mấp mà trong thịt không có mỡ, Đại dược đem dê về hằng ngày cho ăn uống đầy đủ nên rất mập mạp, nhưng lại đưa con sói bằng gỗ thường xuyên đến khủng bố dê làm cho nó sợ hãi, nên tuy nó mập mạp nhưng trong thịt không sinh ra mỡ. Sau khi đem dê giết lấy thịt quả là không có mỡ, vua hỏi nguyên do, Đại dược kể rõ mọi việc, vua khen là kỳ trí.

Thời gian sau, năm trăm người con của năm trăm đại thần cùng ở trong vườn hoa vui chơi, sau đó chúng nói với nhau: "trong nhà ai có vật gì lạ kỳ hoặc thấy ở đâu thì hãy nói ra cho tất cả cùng biết", tất cả đều lần lượt nói ra, tới con của Đại dược nói: "nhà tôi có cục đá nhờ sức thần chú hộ trì nên khi thả xuống nước thì nổi chứ không chìm", tất cả đều nói: "chúng tôi chưa từng thấy đá nổi trên mặt nước, nếu thật có đá ấy thì chúng tôi đưa cho anh năm trăm tiền vàng, ngược lại nếu không có thì anh phải đưa cho chúng tôi năm trăm tiền vàng", người con liền trở về nhà kể lại việc trên cho cha nghe, Đại dược nói: "không nên đưa đá ấy ra, hãy đưa cho chúng năm trăm tiền vàng". Trong nhà Đại dược có dạy cho một con khỉ giỏi về âm nhạc, Đại dược bảo con: "khi nào các con tụ tập vui chơi như lần trước thì con nên hỏi ai thấy có việc kỳ lạ, đợi chúng nói xong hết con mới nói rằng: nhà tôi có một con khỉ rất giỏi âm nhạc, thông thạo ca múa và đàn sáo. Người con làm theo như lời cha dặn, lúc đó tất cả người con của các đại thần đều nói: "lần trước vì không có đá nổi nên bị phạt mất năm trăm tiền vàng, lần này nếu nói không thật nữa thì sẽ bị phạt một ngàn tiền vàng, nếu là nói thật thì chúng tôi sẽ đưa cho anh một ngàn tiền vàng", con của Đại dược liền dẫn con khỉ đến và bảo nó biểu diễn. Sự việc đúng như lời đã nói nên tất cả người con kia đều phải đưa tiền ra đủ một ngàn cho con của Đại dược. Vua nghe biết liền ban thưởng thêm và khen trí của Đại dược là bậc nhất.

Trong thành có một Bà-la-môn thông minh trí huệ, thông suốt bốn bộ Minh luận, cưới vợ chưa bao lâu thì sanh được một con gái rất xinh đẹp tên là Ô đàm, Bà-la-môn có lời thề rằng: "nếu có chàng trai nào đến học với ta và giỏi bằng ta thì ta sẽ gả đưa con gái xinh đẹp này cho người ấy". Trong thành cũng có một Bà-la-môn, vợ sanh được một trai nhưng dung mạo rất xấu xí, đủ mười tám tướng xấu. Cha mẹ thấy vậy không vui nên đặt tên là Ác tướng (tướng xấu), vì đứa con có tướng xấu làm cha mẹ xấu hổ nên tuy tuổi vừa lớn cũng không được học hành gì. Đến tuổi trưởng thành, Ác tướng tìm thầy cầu học, đến chỗ Bà-lamôn thông tuệ kia làm lễ rồi bạch rằng: "con vì cầu lợi ích, xin thầy thương xót", Bà-la-môn kia liền thu nhận. Không bao lâu sau Ác tướng học thông hết luận thư của thầy, Bà-la-môn liền suy nghĩ: "trước kia ta có lời thề, nay Ác tướng đã học thông hết luận thư của ta, tuy tướng mạo xấu xí nhưng ta không nên trái lời thề, vì ai phụ tâm mình thì không được sanh thiên. Dù bị mọi người cười chê, ta cũng không nên trái lời thề", nghĩ rồi liền đem con gái gả cho Ác tướng. Ác tướng thấy Ô đàm tuy xinh đẹp nhưng oai nghiêm nên không dám đến gần, liền suy nghĩ: "nay ta là khách nên trong lòng e dè, nếu dẫn về nhà thì ta có thể tùy tình"; lúc đó Ô đàm thấy Ác tướng xấu xí nên trong lòng không vui, suy nghĩ: "ta có đủ tướng đẹp còn người chồng này lại đủ các tướng xấu, bị mọi người chê cười ta làm sao sống được". Khi Ác tướng đưa vợ về quê nhà mình, trên đường đi hết lương thực nên bị đói, đến bên hồ nước thấy có người lấy lương khô ra ăn, Ô đàm liền theo xin, được cho một phần lại bị Ác tướng lấy mang đến chỗ khác ngồi ăn một mình, Ô đàm bảo chia phần thì Ác tướng nói: "bậc Cổ tiên có quy chế phụ nữ không được ăn lương khô". Sau đó, đi đến một đồng hoang gặp được thịt dư, Ác tướng cũng ăn một mình không chia cho Ô đàm và nói như trên, Ô đàm suy nghĩ: "ta thật không có phúc nên bị cha mẹ đem gả cho kẻ xấu xa này, thật đáng hối hận". Sau đó đi đến cây Ô đàm bạc la, Ác tướng leo lên cây hái trái chín ăn, quăng trái xanh xuống cho Ô đàm, Ô đàm bảo quăng trái chín, Ác tướng nói: "muốn ăn trái chín thì tự leo lên hái", Ô đàm vì quá đói nên tự leo lên cấy hái trái ăn. Ác tướng thấy vậy liền suy nghĩ: "ta không có tướng mạo đẹp lại gặp phải người vợ thô tháo như vậy, tự leo lên cấy hái trái ăn. Tự ta còn chưa nuôi nổi thân, sao lại nuôi thêm người vợ vô dụng này", nghĩ rồi sanh khinh ghét liền leo xuống lấy cây gai chất chung quanh dưới gốc cây rồi bỏ đi. Lúc đó vua Trung hưng nhân ra ngoài săn bắn, khi đến gần khu rừng cây ấy nghe có tiếng kêu khóc, liền hỏi: "đây là khu rừng vắng, ai đang kêu khóc vậy?", vua lần theo tiếng kêu khóc tìm đến, thấy Ô đàm xinh đẹp như tiên nữ giáng phàm, cho là thần tiên nên hỏi: "vì sao thần tiên lại đến nơi này?", Ô đàm nói kệ:

"Xin đại vương biết cho,
Thiếp không phải thiên nữ,
Cũng không phải thần tiên,
Không chồng nên chịu khổ".

Vua sai ngươi đỡ xuống, Ô đàm vui mừng liền lên xe ngồi chung với vua vào trong cung. Lúc đó Ác tướng đang đi trên đường bỗng hối hận nghĩ: "ta sai rồi, vì sao lại vất bỏ người vợ nhỏ nơi rừng vắng như thế, hãy quay lại đưa nàng ấy về nhà", nghĩ rồi liền quay trở lại, đến bên gốc cây thì không thấy Ô đàm đâu, có người nói cho biết Ô đàm ngồi chung xe với vua vào trong cung rồi. Ác tướng nghe rồi buồn bã đi đến trước cửa cung vua nhưng không thể vào được, sau đó đi theo người chở bình vào trong cung mới vào được bên trong. Ác tướng thấy vợ đang ngồi cùng vua vui vẻ, biết không thể cùng vợ nói chuyện nên mượn việc khác nói kệ:

"Nàng ngồi trên ghế vàng,
Mặt hoa tự trang nghiêm,
Không cùng ta vui vẻ,
Người thợ giỏi cầm búa".

Ô đàm nghe rồi liền nói kệ:

"Đói khát đến bờ ao,
Theo chồng xin lương khô,
Bảo cổ tiên không cho,
Rất hận đáng gióng trống.
Khi đi qua đồng hoang,
Được thịt không chia phần,
Nghĩ ăn đến khô thân,
Khi múa nên theo nhịp.
Tự lên cây Ô đàm,
Ăn trái chín không cho,
Nghĩ đến thân tâm buồn,
Chồng bỏ đi phía trước".

Ác tướng nói kệ:

"Nàng không nghĩ đến ta,
Học rộng nhiều tài trí,
Vì ta phạm lỗi nhỏ,
Mà bỏ ta biệt ly,
Ta lên núi nhảy xuống,
Hoặc uống thuốc độc chết,
Tội chết nàng phải mang,
Thợ khéo cầm chặt búa".

Ô đàm nói kệ:

"Mặc ý chết đầu núi,
Tùy tình uống thuốc độc,
Ta đáng yêu, ông khinh,
Làm sao mà đánh trống".

Lúc đó vua nghe hai người nói kệ đối đáp nhau liền hỏi: "lời phu nhân nói có nghĩa gì, ta không hiểu, hãy nói lại cho ta nghe", Ô đàm tâu: "người này là chồng thiếp do cha mẹ gả cho, có nhiều trí huệ, thông suốt bốn bộ Minh luận, nay vì mong cầu thiếp nên đến", vua nói: "nàng hãy im lặng, không cần nói nữa, ta muốn biết ý nàng như thế nào, có còn tình cảm với người chồng cũ nữa không?", đáp: "làm gì có việc ấy, thiếp đã nói rõ ý của thiếp cho người ấy biết rồi, nhưng Bà-la-môn này biết nhiều chú thuật, không nên vội làm khổ y". Vua đem việc này nói với Đại dược, Đại dược nói: "xin vua đừng lo, Bà-la-môn ấy tướng mạo xấu xí, phu nhân lại xinh đẹp tuyệt trần, hắn sẽ không dám thân cận", Đại dược liền hỏi Bà-lamôn: "ông vào trong cung để cầu việc gì?", đáp là tìm vợ, lại hỏi: "ông có nhận ra vợ không?", đáp là nhận ra, Đại dược nói: "nếu vậy tôi gọi hết năm trăm cung nữ đến đi qua trước mặt ông, ai là vợ thì ông được dẫn đi, nếu ông nhận lầm thì sẽ bị chém đầu", Bà-la-môn bằng lòng. Vua liền ra lịnh các cung nhân trang điểm rồi đến chỗ vua, họ trang điểm xong, tất cả đều như thiên nữ trong cung Đế thích lần lượt đi đến chỗ vua. Ác tướng thấy họ xinh đẹp rực rỡ liền như rồng rắn bị cấm chú, mắt như bị ánh mặt trời chiếu vào không mở ra được, vọng nhìn theo các cung nữ cho đến khi họ đi qua hết, còn lại một người đi sau cùng với dung mạo xấu xí như ngạ quỷ, Ác tướng liền nắm tay cô này nói là vợ tôi, Đại dược nói: "nếu là vợ ông thì tùy ý dẫn đi", Ác tướng dẫn đi rồi nói kệ:

"Bậc thượng yêu bậc thượng,
Bậc trung yêu bậc trung,
Ta xấu như ngạ quỷ,
Nên yêu người như ta.
Rời bỏ thiên cung này,
Đưa nhau về nhà quỷ,
Hình sắc phải tương xứng,
Muốn khác cũng không được".

Sau đó Đại dược có lỗi nhỏ, vua không vừa ý nên không cùng nói chuyện. Lúc đó vua cùng các cung nhân vào trong vườn uyển vui chơi, phu nhân cởi chuỗi anh lạc trị giá trăm ngàn lạng vàng mắc trên cành cây rồi quên không lấy xuống, đến khi trở về cung vào phòng ngủ mới nhớ ra. Lúc đó có con khỉ ở trên cây lấy chuỗi anh lạc này rồi leo lên trên cao nên khi sứ giả đến tìm thì không tìm thấy, chợt thấy có người ăn xin ở trong vườn lượm thức ăn thừa đi ra, liền giữ lại bảo phải trả chuỗi ngọc, đáp: "tôi là người ăn xin, không có lấy chuỗi ngọc", sứ giả đánh khảo rồi đưa đến quan giam giữ, người ăn xin liền suy nghĩ: "ta nên tìm cách, nếu ở đây lâu ta sẽ chét đói", nghĩ rồi liền nói với sứ giả: "tôi lấy chuỗi ngọc đưa cho con của trưởng giả __________", sứ giả liền bắt con của trưởng giả giam chung một cùm với người ăn xin. Người nhà đi thăm đem thức ăn ngon đến cho ăn, người ăn xin theo xin, con của trưởng giả nói: "ngươi làm việc này lại kéo luôn ta vào trong này nên ta không cho ngươi ăn". Sau đó con của trưởng giả muốn đi tiểu, người ăn xin không chịu đi, con của trưởng giả năn nỉ, người ăn xin nói: "hãy giao ước với tôi là cho tôi một phần cơm thì tôi sẽ cùng đi", con của trưởng giả bằng lòng và bảo người nhà bắt đầu từ ngày mai mang đến hai phần cơm. Người ăn xin được thức ăn ngon liền suy nghĩ: "trước đây ta đi xin khắp trong thành cũng không có đủ thức ăn dở để nuôi thân, nay lại không thiếu một món ăn ngon nào cả. Ta nên khai thêm kỹ nữ bậc nhất trong thành vào đây cho vui", nghĩ rồi liền khai kỹ nữ cũng có chia phần, kỹ nữ liền bị bắt giam chung, người ăn xin sau đó cùng kỹ nữ này tư thông rồi suy nghĩ: "dù cho bị nhốt đến mười hai năm, ta cũng không cầu thoát ra". Đối với năm dục vẫn chưa thỏa mãn nên sau đó anh lại khai thêm nhạc công cũng có chia phần, nhạc công cũng bị bắt và người ăn xin mặc tịnh thọ hưởng âm nhạc. Trải qua nhiều tháng mọi người chịu cực khổ đều năn nỉ người ăn xin tha cho họ, người ăn xin suy nghĩ: "nếu họ ra hết thì ai lo cho ta, nếu ta không nhờ đến trí huệ sáng suốt của Đại dược cứu xét việc này thì không làm sao thoát ra khỏi chỗ này", nghĩ rồi liền khai con của Đại dược cũng có chia phần, con của Đại dược cũng bị bắt. Đại dược suy nghĩ: "con ta bị bắt giam, ta làm sao ở yên được", nghĩ rồi liền đến tâu vua: "thần tuy có tội nhưng con thần vô tội, vì sao lại bắt giam?", vua nói: "chuỗi ngọc trị giá trăm ngàn lượng vàng bị người ăn xin lấy, sau đó đem ra ngoài chia cho nhau", Đại dược sau khi hiểu rõ nguyên do liền nói: "theo thần thì chuỗi ngọc quý ấy không có ai lấy đi cả, để thần nghĩ kế ắt sẽ lấy lại được, nhưng xin hãy thả hết những người kia ra", vua liền cho thả hết ra. Đại dược vào trong vườn hoa, đến chỗ bị mất ngọc, nhìn lên trên cao thấy có con khỉ liền biết là do con khỉ lấy, nhưng muốn lấy lại phải nghĩ cách, liền đến tâu vua: "xin vua cho các cung nhân trang sức chuỗi ngọc vào trong vườn như lần trước". Lúc đó con khỉ thấy các cung nhân đeo chuỗi ngọc ở cổ cũng đeo chuỗi ngọc vào cổ; Đại dược bảo các cung nhân múa, con khỉ cũng múa theo; Đại dược bảo khom người cúi đầu, con khỉ cũng khom người cúi đầu, chuỗi ngọc liền rơi xuống đất. Vua thấy việc này rồi khen ngợi tài trí và ban thêm bỗng lộc cho Đại dược.

Lúc đó sáu đại thần nhân lúc tụ họp lại một nơi liền nói với nhau: "trước đây chúng ta được vua quý trọng, ban cho lãnh thổ làm phong ấp nên chúng ta sống rất an nhàn. Nay bị tiếp thu, chúng ta trở nên nghèo, lộc vị cũng bị tước mất, phải làm sao đây", một người nói: "chúng ta hãy cùng tuyên thệ là không phản bội lời giao ước, đồng tâm báo thù Đại dược. Nếu vua không còn giận chúng ta thì chúng ta sẽ được phục hồi lộc vị như trước". Sáng hôm sau họ cùng vào trong vườn hoa mở tiệc cùng giao ước, Đại dược liền cho chim anh vũ bay đến nghe xem họ hói những gì. Lúc đó sáu đại thần đem con trai con gái của mình đính ước với nhau rồi nói: "nay chúng ta đã trở thành thân thuộc, không nên nghi ngờ nhau nữa, mà hãy nói thật với nhau", trong khi cùng ăn uống vui vẻ, một người nói: "trước đây tôi đã ăn thịt chim công của vua", một người nói: "tôi đã cùng cung nhân của vua tư thông"… Chim anh vũ nghe rồi về thuật lại đầy đủ cho Đại dược nghe, Đại dược tâu lại cho vua biết, vua điều tra sự việc rồi đuổi tất cả bọn họ ra khỏi nước.

Phật bảo các Bí-sô: "Đại dược thuở xưa chính là thân ta ngày nay, vua Trung hưng chính là Xálợi-phất, sáu đại thần chính là Lục sư. Thuở xưa ta cũng đã đuổi bọn họ ra khỏi nước nay cũng vậy, hiện đại thần thông đuổi Lục sư ngoại đạo ra nơi biên phương. Các Bí-sô nên thân cận thiện tri thức, nhờ thân cận thiện tri thức nên thông đạt tất cả nội ngoại điển, có thể thành tựu thạnh đức như thế, các thầy nên tu học như vậy".

QUYỂN 29

4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ sáu (tiếp theo)-Việc Phật từ cung trời xuống:

Phật tại thành Thất-la-phiệt hiện đại thần thông hàng phục ngoại đạo làm cho chúng sanh được lợi ích nên họ đều quy y theo Phật. Tất cả trời người đều hoan hỉ nên có nhiều Bà-la-môn và thợ giỏi từ các thành ấp gần xa đều tụ đến trong thành Thấtla-phiệt để xuất gia theo Phật, quyến thuộc của họ cũng đến để thăm và cũng bỏ tục xuất gia theo. Các Bà-la-môn thấy việc này rồi liền cơ hiềm:

"những người thợ này bỏ tục xuất gia, nếu ta có việc cần làm thì ai sẽ làm đây", các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "do các thợ giỏi sau khi xuất gia rồi vẫn còn cất giữ đồ nghề trước kia của mình nên mới có lời cơ hiềm này, từ nay các Bí-sô không được cất chứa đồ nghề trước kia của mình, ai cất chứa thì phạm tội Ác tác". Sau đó có một thầy thuốc sau khi xuất gia du hành đến thành Thất-la-phiệt, lúc đó có cựu trụ Bí-sô bị bịnh nặng yêu cầu vị này trị bịnh, Bí-sô thầy thuốc này nói: "Phật đã chế sau khi xuất gia không được cất chứa đồ nghề trước kia, tôi lấy gì để trị bịnh cho thầy", các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "từ nay các Bí-sô nào trước đây là thầy thuốc thì được cất giữ y cụ để trị bịnh, nếu là Thư lại thì được cất giữ bút mực, nếu là thợ cạo tóc thì được cất giữ dao cạo…".

Duyên xứ như trên, do Phật hiển đại thần thông khiến trời người đều hoan hỉ nên Phật và Tăng được nhiều lợi dưỡng. Để đoạn trừ lỗi về lợi dưỡng nên Phật lên cõi trời Tam thập tam an cư ba tháng và thuyết pháp cho mẹ cùng chư thiên khác trong điện Ngọc thạch, gần cây Viên sanh. Lúc đó tôn giả Đại Mục-kiền-liên đang ở trong rừng Thệ đa, bốn chúng không thấy Thế tôn liền đến chỗ tôn giả đảnh lễ rồi ngồi một bên, tôn giả tùy cơ thuyết pháp khiến cho họ được lợi hỉ rồi im lặng. Bốn chúng chắp tay cung kính bạch rằng: "Đại đức có biết đại sư đang an cư ở đâu không?", đáp: "Phật đã lên cõi trời Tam thập tam an cư ba tháng và thuyết pháp cho mẹ cùng chư thiên khác trong điện Ngọc thạch, gần cây Viên sanh", sau khi nghe pháp xong và biết được Thế tôn đang an cư ở đâu, bốn chúng hoan hỉ đảnh lễ tôn giả rồi ra về. Sau mùa an cư, bốn chúng lại đến chỗ tôn giả rồi ngồi một bên, sau khi nghe thuyết pháp xong, họ chắp tay bạch tôn giả: "Đại đức, chúng con đã lâu không được gặp Phật nên rất khao khát muốn gặp. Lành thay xin Đại đức không từ khó nhọc vì chúng con đến gặp Thế tôn, cho chúng con gởi lời thăm hỏi Thế tôn trong ba tháng an cư có được khinh an không, chúng con trong châu Thiệm bộ mong muốn được gặp Thế tôn vì xa cách đã lâu. Chúng con không có thần thông, không thể lên cõi trời Tam thập tam để thân cận cúng dường Thế tôn, nhưng chư thiên cõi ấy có thể đến được cõi này, xin Thế tôn thương xót chúng con", tôn giả im lặng nhận lời, bốn chúng biết tôn giả đã nhận lời liền đảnh lễ rồi ra về. Sau khi bốn chúng đã đi khỏi, tôn giả liền nhập Thắng định, nhanh như tráng sĩ co duỗi cánh tay, tôn giả ẩn thân nơi cõi này và hiện thân trên cõi trời Tam thập tam. Trông thấy Thế tôn đang thuyết diệu pháp cho vô lương chư thiên vây quanh trong điện Ngọc thạch, tôn giả bất giác mỉm cười suy nghĩ: "Thế tôn lên đây, chư thiên vây quanh cũng giống như đại chúng ở châu Thiệm bộ". Lúc đó Thế tôn biết tâm niệm của tôn giả liền nói: "này Mục liên, đại chúng ở đây không phải tự đến mà là do oai lực của ta nên mới đến", tôn giả đến đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, quán sát khắp đại chúng rồi bạch Phật: "Thế tôn, con nghĩ đại chúng này rất đặc biệt, họ tập họp nơi đây đều là do đời trước đối với Tam bảo và Thánh giới thanh tịnh đã thành tựu lòng tin kiên cố bất hoại, ở cõi kia sau khi chết sanh lên cõi này", Phật nói: "đúng vậy, đại chúng này do đời trước đối với Tam bảo và Thánh giới thanh tịnh đã thành tựu lòng tin kiên cố bất hoại, ở cõi kia sau khi chết sanh lên cõi này". Vua trời Đế thích nghe Phật và tôn giả nói như thế rồi liền ở trước Phật nói với Mục liên: "quả thật như vậy, đại chúng này do đời trước đối với Tam bảo và Thánh giới thanh tịnh đã thành tựu lòng tin kiên cố bất hoại, ở cõi kia sau khi chết sanh lên cõi này", các thiên tử cũng lần lượt đứng dậy trịch bày vai hữu chắp tay cung kính bạch Phật: "Thế tôn, do đời trước con đối với Tam bảo và Thánh giới thanh tịnh đã thành tựu lòng tin kiên cố bất hoại, ở cõi kia sau khi chết sanh lên cõi này", vô lượng chư thiên này ở trước Phật tự thân chứng quả Dự lưu đảnh lễ Phật rồi biến mất. Lúc đó tôn giả Đại Mục-kiền-liên đứng dậy trích bày vai hữu chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, bốn chúng ở châu Thiệm bộ đến chỗ con chí thành bạch rằng: "Đại đức, chúng con đã lâu không được gặp Phật nên rất khao khát muốn gặp. Lành thay xin Đại đức không từ khó nhọc vì chúng con đến gặp Thế tôn, cho chúng con gởi lời thăm hỏi Thế tôn trong ba tháng an cư có được khinh an không, chúng con trong châu Thiệm bộ mong muốn được gặp Thế tôn vì xa cách đã lâu. Chúng con không có thần thông, không thể lên cõi trời Tam thập tam để thân cận cúng dường Thế tôn, nhưng chư thiên cõi ấy có thể đến được cõi này, xin Thế tôn thương xót chúng con trở xuống châu Thiệm bộ" Phật nói: "thầy hãy trở về châu Thiệm bộ nói với bốn chúng sau bảy ngày Phật sẽ từ cõi trời trở xuống châu Thiệm bộ, tại thành Tăng yết xa trong đồng hoang thanh tịnh bên cây Ô đàm bạt la", tôn giả nghe Phật dạy rồi đảnh lễ Phật, nhập định, nhanh như tráng sĩ co duỗi cánh tay ẩn thân nơi cõi trời, hiện thân nơi châu Thiệm bộ nói cho bốn chúng biết tin trên. Bốn chúng nghe biết rồi liền đem hương hoa đến thành Tăng yết xa, dân chúng trong thành này nghe biết tin cũng lo quét dọn sạch sẽ các đường phố, rưới nước thơm, treo cờ phướn… và đặt một tòa cao ở nơi tốt nhất để chờ đón Như lai. Lúc đó trên cõi trời, Phật tùy cơ thuyết pháp cho chư thiên ở cõi trời Tam thập tam được lợi hỉ rồi liền biến mất nơi đó, hiện thân đến cõi trời Dạ ma thuyết pháp cho chư thiên ở đó rồi lại biến mất, sáu đó hiện thân đến cõi trời Đổ-sử-đa thuyết pháp cho chư thiên ở đó… lần lượt đến khắp các cõi trời như vậy cho đến cõi trời Sắc cứu cánh thuyết pháp khiến cho họ được lợi hỉ xong rồi quay trở lại cho đến cõi trời Tam thập tam. Lúc đó vua trời Đế thích bạch Phật: "Thế tôn muốn đến châu Thiệm bộ phải không?", đáp là muốn đến, lại hỏi: "Thế tôn dùng thân thông hay đi bộ?", đáp là đi bộ. Vua trời Đế thích liền ra lịnh cho thợ giỏi trên trời làm ba loại cầu thang bằng vàng ròng, lưu ly và pha lê; khi làm xong Phật đi cầu thang bằng lưu ly ở giữa; Đại phạm thiên vương, chủ cõi Ta bà đi cầu thang bằng vàng bên phải, tay cầm phất trắng vi diệu trị giá trăm ngàn lượng vàng, cùng chư thiên cõi Sắc làm tùy tùng theo tiễn đưa Phật; vua trời Đế thích đi cầu thang bằng pha lê bên trái, tay cầm lọng báu trị giá trăm ngàn lượng vàng che phía trên Phật, cùng chư thiên cõi Dục làm tùy tùng theo tiễn đưa Phật. Lúc đó Phật suy nghĩ: "nếu ta chỉ đi bộ thì sợ ngoại đạo sẽ chê bai là Sa môn Kiều-đáp-ma dùng thân thông lên cõi trời Tam thập tam, do thấy cảnh sắc vi diệu sanh tâm tham ái nên mất hết thần thông phải đi bộ trở về; nếu dùng thần thông chỉ uổng công thợ trời đã nhọc mệt làm cầu thang. Ta nên vừa dùng thần thông vừa đi bộ trở về châu Thiệm bộ", khi Phật từ trên cầu thang đi xuống khoảng chừng mười hai Du thiện na thì hơi người xông lên hôi thối như tử thi khiến chư thiên không thể ngửi nổi. Phật biết điều này nên hoa ra rừng Ngưu đầu chiên đàn tỏa hương thơm ngát khiến cho chư thiên đều hoan hỉ, Phật lại suy nghĩ: "nếu người nam ở châu Thiệm bộ thấy thiên nữ hay người nữ ở châu Thiệm bộ thấy thiên nam ắt sẽ sanh ái nhiễm, do tâm dục hừng thạnh họ có thể hộc máu mà chết. Ta nên dùng thần lực làm cho người nam chỉ thấy thiên nam, người nữ chỉ thấy thiên nữ để tâm họ không bị ái nhiễm quấy nhiễu". Lúc đó cụ thọ Tu-bồ-đề nhập định dưới gốc cây biết Phật cùng chư thiên đang từ cõi trời Tam thập tam trở xuống cõi này, liền suy nghĩ: "chư thiên kia theo tiễn đưa rồi cũng sẽ từ giã để trở lại thiên giới, đại chúng cõi này trong một trăm năm cũng sẽ qua đời hết, Phật sau khi hóa duyên đã mãn cũng sẽ nhập Niết-bàn, những uy nghiêm như thế cũng sẽ bị tiêu diệt. Ở bất cứ nơi đâu Phật cũng đều dạy rằng: chư hành vô thường, thể hằng biến đổi, pháp sanh diệt này thật đáng nhàm lìa. Ta nên sanh nhàm lìa quán năm ấm là vô thường khổ không và vô ngã", sau khi quán chiếu như vậy, ngay nơi chỗ ngồi tôn giả chứng được quả Dự lưu, được lòng tin bất hoại. Tôn giả liền xuất định cung kính hướng về phía Thế tôn đảnh lễ. Lúc đó Bí-sô ni Ôn-bát-la (Liên hoa sắc) suy nghĩ: "Phật từ cõi trời trở xuống châu Thiệm bộ, ta phải làm thế nào để là người lễ bái Phật đầu tiên. Nay đại chúng đã vân tập đông đảo không còn chỗ chen chân, nếu ta đến với hình dáng Bí-sô ni thì họ sẽ xem thường, ta nên đại thần thông", nghĩ rồi liền hóa thân làm Chuyển luân thánh vương có bảy báu dẫn đầu, cùng chín mươi chín Câu đê binh kỳ theo sau; với ngàn người con vây quanh theo hình bán nguyệt, thân trang nghiêm bằng các loại vật báu; lại có vô lượng ngoại đạo, Sa môn, Phạm chí và trăm ngàn tùy tùng cầm lọng trăm nan che trên đầu của vua, oai quang rực rỡ như vầng nhật nguyệt, để đi đến chỗ Phật. Đại chúng thấy rồi đều thán phục chiêm ngưỡng không chán và suy nghĩ: "ở đâu có vua và binh lính khả ái như vậy, hay là Luân vương đế chủ từ nơi khác đến. Ta làm thế nào để được thọ phước lạc như thế", nghĩ rồi liền cùng mở đường cho họ tiến vào chỗ Phật.

Lúc đó Bí-sô Ô-đà-di đang ở trong chúng hội liền nói với đại chúng: "đây không phải là Chuyển luân thánh vương mà là Bí-sô ni Liên hoa sắc hiện thần thông đến lễ bái Phật", đại chúng hỏi làm sao biết được, đáp: "hoa Ôn-bát-la có mùi thơm phảng phất, sắc hoa cũng vượt trên các loài hoa khác, cho nên tôi nhận biết là do vị ấy hiện thần biến". Khi đến chỗ Phật, Bí-sô ni này thu thần biến đảnh lễ Phật rồi đứng một bên. Phật ngồi trên tòa xong liền bảo Liên hoa sắc: "đối trước đại sư, Bí-sô ni hiện thần thông là việc không hợp lý", Phật lại nghĩ: "Bí-sô ni ở trước Phật hiện thần thông có lỗi như thế, ta nên chế ngăn không cho Bí-sô ni hiện thần thông trước đại sư", nghĩ rồi liền bảo các Bí-sô: "từ nay Bí-sô ni không được hiện thần thông ở trước đại sư, nếu ai làm như thế thì phạm tội Việt pháp". Lúc đó đại chúng có người thấy Chuyển luân thánh vương có oai lực lớn liền khởi tâm muốn sanh vào cõi người, có người thấy chư thiên oai quang khả ái liền khởi tâm muốn sanh lên cõi trời. Phật quán biết tâm mọi người, muốn ngăn chận ý nguyện sanh vào cõi trời người của họ nên tùy cơ thuyết pháp khiến cho họ sau khi nghe pháp, có người được Noãn pháp, hoặc được Đảnh pháp, hoặc được Nhẫn pháp; có người được vơi bớt ba độc, lìa tham dục, có người được Thế đệ nhất pháp, có người đắc quả Tu đà hoàn, hoặc quả Tư-đà-hàm, hoặc quả A-na-hàm, có người gieo trồng nhân duyên với Thanh văn thừa, có người gieo trồng nhân duyên với Bích chi Phật thừa, có người gieo trồng nhân duyên với Phật thừa. Do nhân duyên này, Thế tôn liền nói kệ:

"Dù làm vua Chuyển luân,
Hay sanh lên cõi trời,
Tuy đắc được Thắng định,
Không bằng quả Dự lưu".

Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: "Thế tôn, vì sao cụ thọ Ô-đà-di nghe mùi hương Ôn-bát-la liền biết ngay chính là vị ni ấy?", Phật nói: "không phải chỉ ngày nay vừa nghe mùi hương liền biết ngay, mà thời quá khứ cũng vậy. Các thầy lắng nghe:

Quá khứ tại thành Bà-la-nê-tư có một thương chủ cưới vợ chưa bao lâu thì vợ có thai, lúc đó thương chủ muốn vào biển lớn tìm châu báu nên bảo vợ ở nhà hãy khéo dụng tâm, người vợ đòi đi theo, thương chủ nói: "ai sẽ săn sóc cho nàng?", người vợ khóc lóc đòi theo, các thương nhân thấy vậy hỏi rõ nguyên do rồi nói: "cứ cho cô ấy đi theo, chúng tôi sẽ chăm sóc cho". Khi thuyền ra biển lớn bị cá Ma kiệt làm vỡ thuyền, thương chủ và mọi người đều chết, người vợ bám vào mảnh ván trôi nổi, gặp gió đưa tạt vào bờ. Có vua Kim súy điểu ở đó thấy liền đưa cô về làm vợ, không bao lâu sau bào thai trước đó đủ ngày tháng, cô sanh ra một bé trai dung mạo đoan nghiêm; sau đó cô lại sanh thêm một con Kim súy điểu con, khi chim cha qua đời, bầy chim lập chim con này lên ngôi vua, người mẹ liền bảo con: "con nay đã thừa kế tộc họ cha mà lên ngôi, đây là anh con, con hãy đưa về thành Bà-la-nê-tư lập làm vua giữa mọi người", người con vâng lời. Lúc đó ở thành Bà-lanê-tư, vua Phạm thọ dùng chánh pháp trị nước…, lúc vua đang lâm triều, vua Kim súy điểu bay đến dùng hai chân cắp lấy hai cánh tay của vua mang ra biển ném xuống. Sau đó đem các chuỗi anh lạc trang sức cho anh mình rồi đưa vào trong cung, đặt ngồi trên ngai rồi bảo với mọi người: "đây là vua của các ngươi, các ngươi hãy khéo ém nhẹm việc này, nếu không ta sẽ nem vào trong biển lớn". Quần thần sợ hãi không dám tiết lộ việc này ra ngoài nên nhân dân đều cho đó là vua Phạm thọ, lúc đó vua bảo Kim súy điểu: "em hãy thường xuyên đến thăm anh nhé", đáp là sẽ đến. Thời gian sau trong cung có một voi mẹ mang thai, đủ tháng sanh voi con nhưng chỉ ra được phần đầu, phần chân không ra được. Vua nghe tâu liền nói: "hãy bảo các cung nhân phát lời thệ bằng lời nói thật chú nguyện cho voi sanh được con ra. Nên nói rằng: ngoài vua ra, tôi không quan hệ với người nam nào khác. Nếu là lời nói thật thì voi sẽ sanh con ra an ổn". Khi các cung nhân phát lời thệ này xong, không những voi con không ra được mà voi mẹ càng khổ sở hơn khiến mọi người không biết phải làm sao. Lúc đó có người nữ chăn bò ở gần đó nghe biết việc này liền nói với mọi người: "tôi sẽ phát thệ làm cho voi sanh ra được an ổn", mọi người nghe rồi liền báo cho đại thần, đại thần tâu vua, vua cho gọi vào cung. Mục nữ liền ở trước voi mẹ nói lời chân thật chú nguyện rằng: "từ khi sanh ra đến nay, trừ chồng tôi ra, tôi không quan hệ với người nam nào khác. Nếu là lời chân thật thì voi con sanh ra được an ổn", vừa nói xong voi con liền sanh ra được an ổn nhưng vẫn con dính lại phần đuôi, mục nữ mỉm cười nói: "còn có chút lỗi mà vần không ra hết", nội nhân hỏi lỗi gì, đáp: "trước đây tôi bồng con trai của người khác, nó tiểu ra chảy xuống chỗ kín của tôi, tôi liền cảm thấy thọ lạc. Do chút lỗi này nên phân đuôi không chịu ra", khi mục nữ nói thật ra, phần đuôi liền ra hết. Quan đem việc này tâu vua, vua nghe rồi than thở: "cung nhân của ta đều không trinh lương, chỉ riêng có mục nữ là thanh bạch. Hãy gọi mục nữ vào đây", vua liền hỏi mục nữ: "bà dùng lời nói thật làm cho voi sanh ra được phải không?", đáp phải, vua suy nghĩ: "nếu mẹ đã hiền thiện thì con chắc cũng thế", nghĩ rồi liền hỏi: "bà có con gái không?", đáp là có, lại hỏi tên gì, đáp là Diệu dung, lại hỏi đã gả chưa, đáp là chưa, vua nói: "nếu vậy mẹ hãy gả cho con", người mẹ chấp thuận, vua liền dùng nghi lễ đón rước Diệu dung vào cung. Lúc đó vua lại suy nghĩ: "cung nhân không trinh thuận, nếu để nàng này ở đây ắt cũng sẽ làm điều phi pháp", sau đó khi vua Kim súy điểu đến, vua kể lại việc trên rồi nói: "ban ngày em đem vợ anh để ở ờ biển, ban đêm đưa đến đây", vua Kim súy điểu làm theo lời anh đưa Diệu dung đến bên bờ biển, ở nơi đây có cây hoa tên là Khứ y, hằng ngày Diệu dung kết vòng hoa này để tặng cho vua. Lúc đó trong thành Bà-la-nê-tư có một Bà-la-môn vào trong núi lượm củi khô gặp thần nữ Khẩn-na-la, thần nữ này bắt đưa vào trong động đá cùng giao hợp, khi ra ngoài hái hoa quả thì dùng tảng đá lớn lấp cửa động lại, sức người không thể dời đi được. Thời gian sau thần nữ này sanh được một trai, đứa con trai này có thân hình nhẹ đi nhanh nên được đặt tên là Tốc tật (nhanh chóng), người cha thường nói với con là thành Bà-la-nê-tư rất đẹp là quê hương của cha, người con hỏi vì sao không về, người cha nói: "mẹ con mỗi khi ra ngoài đều dùng tảng đá lấp kín cửa động, sức người không thể dời đi được", người con nói là sẽ dời giúp người cha. Sau đó người con thường tập di chuyển đá cho đến khi đủ sức dời được tảng đá lớn rồi bảo người cha cùng chạy trốn, người cha nói: "mẹ con vừa đi hái trái, lát nữa sẽ về ngay, nếu trên đường gặp nhau ắt sẽ hại ta", người con nói: "con sẽ làm phương tiện khiến mẹ về chậm". Sau đó khi người mẹ mang trái về, người con cắn rồi lại nhả ra, người mẹ hỏi vì sao, đáp: "mẹ lười đi xa, chỉ hái trái đắng ở gần, con không ăn được nên phải nhả ra", người mẹ nói: "nếu vậy mai mẹ sẽ đi xa hái trái ngon về". Sáng hôm sau người mẹ đi xa để hái trái ngon, hai cha con liền dời tảng đá và bỏ chạy trốn về thành Bà-la-nê-tư; khi người mẹ trở về thấy hang động trống trơn liền đấm ngực kêu khóc, láng giềng hỏi rõ nguyên do rồi nói: "họ là loài người ắt là chạy về nhân gian, có gì phải buồn khổ", người mẹ nói: "tôi không buồn vì biệt ly này mà hận là chưa dạy cho nó nghề kiếm sống", láng giềng nói: "tôi cũng thường đi đến thành Bà-la-nê-tư, bà muốn đưa vật gì cho nó kiếm sống thì hãy đưa cho tôi, khi gặp con bà tôi sẽ trao cho nó", người mẹ liền đưa cây đàn Không hầu và nói rằng: "xin hãy đưa vật này tận tay con tôi và bảo nó có thể đàn cây đàn này để kiếm sống nhưng không được đàn sợi dây thứ nhất, nếu chạm đến nó ắt sẽ bị tổn hại", láng giềng nhận đàn rồi đi. Lúc đó Bà-la-môn kia đưa người con là Tốc tật đến chỗ thầy dạy học để học, những lúc rảnh rỗi nó vào rừng lượm củi và gặp vị láng giềng kia, sau khi thăm hỏi xong vị láng giềng nói: "mẹ con thương nhớ thường buồn khóc, vì sao con không trở về?", đáp: "mẹ là Dược xoa làm sao chung sống được", vị láng giềng nói: "nếu con không trở về thì ta đưa cho con cây đàn này để kiếm sống, con không được đưa cho người khác", khi đưa cây đàn vị láng giềng nói: "khi đàn con không được đàn sợi dây thứ nhất, nếu chạm vào sẽ bị tổn hại". Tốc tật vâng lời rồi ôm đàn về chỗ đang học, các bạn thấy ôm đàn liền hỏi có đàn được không, đáp là được, nói rồi liền đàn nhưng không đàn sợi dây thứ nhất, các bạn hỏi, đáp: "nếu chạm vào sẽ bị tổn hại", các bạn nói: "chỉ chạm vào thì có hại gì", Tốc tật liền chạm vào dây thứ nhất, các bạn liền không tự chủ cùng nhau nhảy múa cho đến chiều. Sau đó đến thầy dạy học bảo Tốc tật đàn… giống như trên cho đến câu vừa chạm vào dây thứ nhất thì thầy và vợ thầy đều không tự chủ cùng nhảy múa khiến cho đồ vật trong nhà đổ ngã, thầy dạy học tức giận đuổi đi, Tốc tất bị đuổi lang thang kiếm sống với cái đàn Không hầu. Thời gian sau có năm trăm thương nhân sắp ra biển nói với nhau: "tất cả đã chuẩn bị đầy đủ, chỉ thiếu có âm nhạc, khi ra biển rồi làm sao giải buồn", một người nói: "có con của Bà-lamôn tên Tốc tất rất giỏi đánh đàn Không hầu, hãy đưa anh ta đi theo". Khi ra biển mọi người bảo Tốc tật đàn… giống như trên cho đến câu vừa chạm vào dây thứ nhất thì chiếc thuyền nghiêng ngã chìm xuống biển, mọi người đều chết hết, Tốc tật bám vào mảnh ván trôi giạt vào bờ. Tại đây Tốc tật gặp Diệu dung, sau đó cùng Diệu dung tư thông, ban ngày gần gũi, ban đêm chia tay, Tốc tật hỏi ban đêm đi đâu, Diệu dung kể lại mọi việc cho Tốc tật nghe, Tốc tật nói: "hãy đưa tôi cùng về thành Bà-la-nê-tư", đáp: "cùng đi cũng tốt". Sau đó Diệu dung tìm cách mang theo đá nhỏ, dần dần mang đá bằng trọng lượng của người, thấy chở được mới bảo Tốc tật cùng cỡi Kim súy điểu bay về thành Bà-la-nê-tư. Trên đường đi Diệu dung bảo nhắm mắt lại, khi sắp tới thành, Tốc tất nghe tiếng người nói liền mở mắt ra xem thử, vừa mở ra liền bị mù vì gió thổi quá mạnh, Diệu dung phải để Tốc tật ở trong vườn còn mình đến chỗ vua. Đến mùa xuân trăm hoa đua nở, vua cùng Diệu dung và các cung nhân vào vườn du ngoạn, Tốc tật nghe mùi hương của hoa Khứ y liền nói kệ:

"Gió thoảng mùi Y hoa,
Hương thơm thật đáng yêu,
Như lúc trên bờ biển,
Cùng sống với Diệu dung".

Vua nghe rồi liền bảo nội nhân tìm người đã nói ra kệ ấy, nội nhân đưa người mù đến, vua bảo nói lại bài kệ trên rồi hỏi: "bờ biển ấy cách đây bao xa?", đáp:

"Nơi Diệu dung cư trú,
Cách đây khoảng trăm dặm,
Vượt qua khỏi biển lớn,
Có bờ biển thật đẹp".

Vua nói kệ:

"Ngươi đã từng nghe thấy,
Người mà ta yêu thương,
Nếu thật là Diệu dung,
Người hãy nói hình tướng".

Người mù nói kệ:

"Giữa eo có chữ vạn,
Trên ngực có lông xoắn,
Thường kết vòng Y hoa,
Để tặng cho Nhân chủ".

Vua nghe rồi suy nghĩ: "nàng ta có hạnh xấu, tuy để ở hải đảo vẫn cùng người ngoài tư thông, đã là vô dụng thì hãy gả cho người mù này", nghĩ rồi nói kệ:

"Cho Diệu dung chuỗi ngọc,
Rồi gả cho người mù,
Cho cùng cỡi lừa đi,
Đuổi ra khỏi thành ấp".

Bị vua đuổi ra khỏi thành, người mù dẫn vợ đi lang thang khắp nơi mãi đến chiều mới tới một tụ lạc, tạm dừng ở trong một miếu hoang thờ trời. Đêm đó có bọn cướp vào tụ lạc đánh cướp, người trong tụ lạc đã phòng bị trước nên trừ diệt được bọn cướp, tên chúa giặc bỏ chạy vào trong miếu hoang đóng cửa lại. Mọi người chạy đuổi theo đến miếu kêu cửa, người mù ở bên trong đáp: "tôi là khách trú không liên can gì đến tên cướp", mọi người nói: "nếu có tên cướp trong đó thì hãy đuổi ra". Lúc đó chúa giặc nói với Diệu dung: "nàng cần gì kẻ mù này, hãy đẩy hắn ra ngoài rồi cùng sống với ta", Diệu dung bằng lòng liền đẩy người mù ra cửa, mọi người cho là chúa giặc nên chặt đầu người mù. Sáng hôm sau chúa giặc dẫn Diệu dung ra đi, khi đến bờ sông vì không có thuyền bè nên không qua sông được, chúa giặc nói: "nước sông dâng cao không thể cùng qua được, nàng hãy ở trong nước tắm rửa, ta mang chuỗi ngọc quý của nàng qua bên bờ kia trước, sau đó trở qua đưa nàng sang", Diệu dung liền cởi chuỗi ngọc quý đưa cho chúa giặc rồi ở trong nước tắm, sau đó lại suy nghĩ: "hay là hắn mang chuỗi ngọc của ta bỏ đi mất", nghĩ rồi liền nói kệ:

"Nước sông đang dâng cao,
Chàng mang chuỗi ngọc đi,
Em liền có ý nghĩ,
Chàng sẽ mang đi luôn".

Chúa giặc nói kệ:

"Nàng hại chết người chồng vô tội,
Ai tin nàng thật tâm với ta,
Chuỗi ngọc quý này ta mang đi,
Sợ nàng được dịp sẽ hại ta".

Nói rồi chúa giặc mang chuỗi ngọc đi, bỏ Diệu dung ở lại bên bờ này, Diệu dung lộ hình ra khỏi nước vào trong bụi rậm ẩn nấp. Cách đó không xa có một con dã can già đang ngậm miếng thịt hôi đi dọc theo bờ sông, bỗng thấy một con cá từ dưới sông vọt lên khỏi nước nằm trên bờ, dã can liền nhả miếng thịt ra để chụp con cá, con cá lại nhảy trở xuống nước, miếng thịt lại bị con chim cắt tha mất. Bị mất cả hai miếng mồi, con dã can cụp tai buồn rầu, Diệu dung ở trong bụi rậm thấy rồi liền nói kệ:

"Thịt bị chim Cắt tha,
Cá lại nhảy xuống sông,
Hai miếng mồi đều mất,
Buồn khổ nào ích chi".

Dã can nghe tiếng nhìn khắp nơi không thấy ai liền nói kệ:

"Ta không làm trò cười,
Cũng không diễn ca múa,
Kẻ nào trong bụi cây,
Nói kệ trêu chọc ta".

Diệu dung từ trong bụi rậm đáp: "ta là Diệu dung", dã can liền nói kệ:

"Ngươi đã giết chồng cũ,
Chồng mới lấy của đi,
Ngươi không biết đi đâu,
Núp trong bụi buồn than".

Diệu dung nói kệ:

"Ta trở về nhà cũ,
Kiên trinh thờ một chồng,
Sợ tổn hại thân tộc,
Không làm việc dại nữa".

Dã can nói kệ:

"Nếu sông Hằng chảy ngược,
Lông con quạ màu trắng,
Tượng gỗ sanh Đa-la,
Ngươi có thể chính chuyên.
Nếu quạ và chim cú,
Cùng sống trên một cây,
Cả hai hòa thuận nhau,
Ngươi có thể chính chuyên.
Nếu như rắn và chuột,
Cùng sống trong một hang,
Có thể yêu mến nhau,
Ngươi có thể chính chuyên.
Nếu như dùng lông rùa,
Dệt thành áo thượng diệu,
Để mặc ấm khi lạnh,
Ngươi có thể chính chuyên.
Nếu như dùng chân muỗi,
Xây dựng thành lâu đài,
Kiên cố không lay chuyển,
Ngươi có thể chính chuyên.
Nếu như dùng cọng sen,
Làm cầu cho người đi,
Voi lớn cũng qua được,
Ngươi có thể chính chuyên.
Nếu như giữa biển lớn,
Trong nước lửa cháy to,
Mọi người đều nhìn sững,
Ngươi có thể chính chuyên".

Dã can nói tiếp: "ta chỉ nói đùa như vậy thôi, ta cũng có thể giúp ngươi trở lại vị trí cũ là làm phu nhân của vua, ngươi sẽ đền đáp ta như thế nào?", Diệu dung nói: "nếu được như thế thì ta sẽ cung cấp thịt tươi hằng ngày cho ngươi không để thiếu thốn", dã can nói: "nếu được như vậy thì ngươi hãy nghe lời ta, trở xuống sông Hằng đến chỗ nước vừa đến cổ, chắp tay hướng về mặt trời cầu nguyện chư thiên, ta sẽ đi báo cho vua biết". Dã can liền đi đến chỗ mà vua có thể nghe được, nói to lên rằng: "Diệu dung đang ngâm mình trong sông Hăng để tẩy tâm tu luyện, hãy mau gọi trở về hậu cung", vua nghe được tiếng dã can liền bảo đại thần: "khanh hãy đi đến bờ sông Hằng, ta nghe nói Diệu dung đang ở đó cần khổ tu tâm, hãy mau đưa về đây cho ta gặp", đại thần đến nơi thấy Diệu dung rồi liền đem y phục và chuỗi anh lạc trang sức cho Diệu dung rồi đưa về cung, vua gặp lại rất vui mừng liền phong cho làm phu nhân như cũ. Hằng ngày cô đem thức ăn ngon cung cấp cho dã can, được một thời gian thì ngưng, dã can liền đi đến gần hậu cung nói to lên: "này Diệu dung, nếu ngươi không tiếp tục cung cấp thịt ngon cho ta, ta sẽ làm cho vua đánh ngươi nhừ tử không khác gì ngày trước", Diệu dung nghe rồi rất sợ hãi liền cung cấp thịt cho dã can như cũ.

Phật bảo các Bí-sô: "Diệu dung thuở xưa nay chính là Bí-sô ni Ôn-bát-la, Tốc tật chính là Bí-sô Ô-đà-di, thuở xưa nghe mùi hương của hoa Khứ y liền biết là Diệu dung, nay nghe mùi hương Ônbát-la liền biết là Bí-sô ni ấy. Tất cả sự việc đều do tập nghiệp liên kết làm nhân duyên cho nhau". Đại chúng nghe Phật nói rồi hoan hỉ phụng hành.

5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thứ sáu:

Tám kỉnh pháp độ ni,
Ni muốn theo thứ bậc,
Việc hai bộ khác nhau,
Không độ ni hoàn tục.

Phật tại thành Kiếp-tỷ-la trong vườn cây đa căn, lúc đó Đại thế chủ và năm trăm Thích nữ đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho tất cả được lợi hỉ rồi liền im lặng. Đại thế chủ liền đứng dậy chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, nếu có người nữ xuất gia trong Phật pháp, thọ Cận viên thành tựu tánh Bí-sô ni, kiên trì phạm hạnh thì có được chứng quả Sa môn thứ tư hay không?", Phật nói: "này Đại thế chủ, bà nên sống tại gia mặc y phục trắng, tu phạm hạnh thuần nhất viên mãn, thanh tịnh vô nhiễm. Như thế cũng được thường an lạc lợi hỉ", Đại thế chủ thưa thỉnh ba lần, Phật đều không chấp thuận nên đảnh lễ Phật rồi đi ra. Sau đó Phật đắp y mang bát từ thành Kiếp-tỷ-la đi đến làng Phiến vi, Đại thế chủ và năm trăm Thích nữ tự cạo tóc, mặc y Tăng già chi màu đỏ sẫm đi theo sau Phật chỉ cách có một đêm. Sau đó Phật đến trụ trong rừng Tương tư, Đại thế chủ lội bộ mệt nhọc, toàn thân đầy bụi bậm đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho bà được lợi hỉ rồi liền im lặng. Đại thế chủ đứng dậy chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, nếu có người nữ xuất gia trong Phật pháp, thọ Cận viên thành tựu tánh Bí-sô ni, kiên trì phạm hạnh thì có được chứng quả Sa môn thứ tư hay không?", Phật nói: "này Đại thế chủ, bà chỉ cần cạo tóc, đắp y man điều cho đến trọn đời, kiên trì tu phạm hạnh thuần nhất viên mãn, thanh tịnh vô nhiễm. Như thế cũng được thường an lạc lợi hỉ", Đại thế chủ thưa thỉnh ba lần, Phật đều không chấp thuận nên bà ra đứng ngoài cửa khóc. Cụ thọ A-nan thấy liền hỏi rõ nguyên do rồi nói: "này Cù đàm di, bà hãy đứng ở đây đợi tôi bạch Phật", A-nan liến đến chỗ Phật đảnh lễ rồi bạch Phật: "Thế tôn, nếu có người nữ xuất gia trong Phật pháp, thọ Cận viên thành tựu tánh Bí-sô ni, kiên trì phạm hạnh thì có được chứng quả Sa môn thứ tư hay không?", Phật nói được, A-nan liền nói: "nếu vậy xin Thế tôn cho người nữ được xuất gia", Phật nói: "này A-nan, thầy không nên xin cho người nữ được xuất gia trong pháp luật thiện thuyết của ta, thọ Cận viên, thành tựu tánh Bí-sô ni. Vì sao, vì nếu cho người nữ xuất gia thì chánh pháp sẽ không trụ lâu, ví như nhà nào có ít con trai, nhiều con gái thì nhà ấy sẽ bị kẻ ác phá hoại. Lại nữa, ví như nhà làm ruộng, ruộng lúa vừa chín liền bị gió sương, mưa đá làm hư hại; ví như ruộng mía đúng lúc thu hoạch thì lóng mía mắc phải bịnh đỏ nên bị hư hại; cũng như vậy, nếu cho người nữ xuất gia, chánh pháp sẽ mau diệt tận, không được trụ lâu", A-nan bạch Phật: "Đại thế chủ có ân lớn đối với Thế tôn, khi Phật mẫu qua đời, bà đã nuôi dưỡng Thế tôn đến lớn, lẽ nào Thế tôn không từ bi nhiếp thọ hay sao?", Phật nói: "di mẫu đối với ta có ân nhưng ta cũng đã báo ân rồi. Nhờ ta nên di mẫu biết đến Tam bảo, quy y Phật pháp tăng và thọ trì năm học xứ, đối với bốn Thánh đế không còn nghi hoặc, chứng được quả Dự lưu, sẽ không còn khổ nữa và sẽ chứng Vô sanh. Ân như thế mới khó báo đến, không thể đem y thực so sánh được. Nếu thầy xin cho người nữ xuất gia thành Bí-sô ni thì ta sẽ chế định tám kỉnh pháp phải trọn đời thọ trì không được trái. Tám pháp này ví như người làm ruộng vào cuối mùa hạ đầu mùa thu, ở ngay bờ sông đắp đê chắc chắn không cho nước chảy tràn, để tưới ruộng lúa cho tùy chỗ được sung túc. Tám kỉnh pháp gồm có:

Bí-sô ni phải theo Bí-sô cầu xuất gia thọ Cận viên, thành tựu tánh Bí-sô ni. Bí-sô ni phải trọn đời thọ trì kỉnh pháp này không được trái.

Bí-sô ni phải mỗi nửa tháng theo Bí-sô cầu giáo thọ. Bí-sô ni phải trọn đời thọ trì kỉnh pháp này không được trái.

Bí-sô ni không được an cư ở chỗ không có Bí-sô. Bí-sô ni phải trọn đời thọ trì kỉnh pháp này không được trái.

Bí-sô ni không được cật vấn và cho Bí-sô ức niệm về những lỗi lầm đã có như hủy giới, kiến, oai nghi và chánh mạng. Nếu Bí-sô ni thấy Bí-sô có chỗ hủy phạm về giới, kiến, oai nghi và chánh mạng thì không được cật vấn, chê trách; nhưng Bí-sô thấy Bí-sô ni có chỗ hủy phạm thì được cật vấn, chê trách. Bí-sô ni phải trọn đời thọ trì kỉnh pháp này không được trái.

Bí-sô ni không được tức giận chê trách, chửi mắng Bí-sô, nhưng Bí-sô được tức giận chê trách Bí-sô ni. Bí-sô ni phải trọn đời thọ trì kỉnh pháp này không được trái.

Bí-sô ni tuy đã thọ Cận viên được một trăm tuổi hạ, nếu thấy Bí-sô mới thọ Cận viên cũng phải tôn trọng chắp tay nghinh đón cung kính làm lễ. Bí-sô ni phải trọn đời thọ trì kỉnh pháp này không được trái.

Bí-sô ni nào phạm pháp Chúng giáo (Tăng tàn) thì phải ở trong hai bộ chúng hành pháp Ma-na-đỏa trong nửa tháng. Bí-sô ni phải trọn đời thọ trì kỉnh pháp này không được trái.

Bí-sô ni sau ba tháng hạ an cư phải ở trong hai bộ chúng nói ba việc thấy nghe nghi để tác pháp Tùy ý. Bí-sô ni phải trọn đời thọ trì kỉnh pháp này không được trái.

QUYỂN 30

Nhiếp tụng nội dung:

Cận viên theo Bí-sô,
Nửa tháng thỉnh giáo thọ,
Nương Bí-sô an cư,
Thấy lỗi không nên nói,
Không giận trách, thiếu lễ,
Trong hai chúng Ý hỉ (hành Ma-na-đỏa)
Đối Bí-sô Tùy ý (tác pháp Tự tứ)
Đây là tám Kỉnh pháp.

Phật bảo A-nan: "tám kỉnh pháp đã chế này, Bí-sô ni không được trái vượt. Nếu Đại thế chủ có thể thọ trì tám kỉnh pháp này thì được xuất gia, thọ Cận viên, thành tựu tánh Bí-sô ni", tôn giả A-nan nghe rồi liền đảnh lễ Phật, trở ra ngoài gặp Đại thế chủ nói rằng: "Đại thế chủ nên biết, Thế tôn đã chấp thuận cho người nữ được xuất gia trong pháp luật thiện thuyết của Phật, thọ Cận viên, thành tựu tánh Bí-sô ni; nhưng Phật chế định tám kỉnh pháp cho Bí-sô ni trọn đời thọ trì không được trái vượt, bà hãy lắng nghe và ghi nhớ kỹ", Đại thế chủ nói: "tôn giả cứ nói, tôi đang nhất tâm lắng nghe", tôn giả liền nói lại tám kỉnh pháp cho Đại thế chủ nghe, Đại thế chủ nghe rồi thâm tâm hoan hỉ phụng trì rồi nói với tôn giả A-nan: "Đại đức, ví như cô gái thuộc dòng quý tộc của bốn giai cấp, sau khi tắm rửa sạch sẽ, thoa dầu thơm, chải tóc, làm móng tay và mặc y phục mới đẹp, có người dùng hoa Ưu bát la… kết thành vòng hoa trao cho cô ấy, cô ấy hoan hỉ nhận rồi đặt trên đầu. Tôi cũng như vậy, dùng cả thân khẩu ý thọ trì tám kỉnh pháp này trên đầu", Đại thế chủ sau khi thọ tám kỉnh pháp liền cùng với năm trăm Thích nữ được xuất gia, thọ Cận viên, thành tựu tánh Bí-sô ni.

Lúc đó tôn giả Ưu-ba-ly bạch Phật: "như Phật đã dạy, Đại thế chủ thọ trì tám kỉnh pháp này chính là xuất gia, viên mãn giới cụ túc, thành tựu tánh Bí-sô ni. Không biết đối với những người nữ khác thì phải như thế nào?", Phật nói: "những người nữ khác phải như pháp theo thứ lớp cho xuất gia và thọ Cận viên". Lúc đó những người nữ khác không biết phải như pháp theo thứ lớp như thế nào liền bạch Phật, Phật nói: "Đại thế chủ dẫn đầu cùng năm trăm Thích nữ thọ tám kỉnh pháp chính là xuất gia, thọ Cận viên, thành tựu tánh Bí-sô ni; nhưng những người nữ khác muốn thọ Cận viên phải theo trình tự như sau: người nữ nào muốn cầu xuất gia phải đến gặp Bí-sô ni, đảnh lễ cầu xin, Bí-sô ni ấy nên hỏi các chướng nạn, nếu thấy không có chướng nạn mới được nhiếp thọ, cho thọ tam quy và năm học xứ theo nghi thức như sau: Trước lễ tôn tượng sau lễ thầy, dạy chắp tay thưa thỉnh:

Thân giáo sư nhớ nghĩ, con tên là __________ kể từ hôm nay cho đến trọn đời xin quy y Phật đà Lưỡng túc trung tôn, quy y Đạt ma Ly dục trung tôn, quy y Tăng già chư chúng trung tôn. Thầy nên nói tốt, đáp lại là thiện. Kế truyền năm học xứ: Thân giáo sư nhớ nghĩ, như các vị Thánh giả A-la-hán trọn đời không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối và không uống rượu. Con tên __________ kể từ hôm nay cho đến trọn đời cũng không sát sanh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối và không uống rượu. Năm học xứ này con nguyện trọn đời tùy học, tùy hành và tùy thọ trì (ba lần), thầy nói tốt, đáp lại là thiện.

Duyên xứ tại thành Thất-la-phiệt, sau khi Phật cho Đại thế chủ dẫn đầu cùng năm trăm Thích nữ thọ tám kỉnh pháp chính là xuất gia, thọ Cận viên, thành tựu tánh Bí-sô ni; từ đó về sau chư ni tiếp tục cho các người nữ khác xuất gia, thọ Cận viên làm cho ni chúng được hưng thạnh. Thời gian sau, các Thượng tòa Bí-sô ni đến chỗ Đại thế chủ bạch rằng: "lành thay Thánh giả, Bí-sô ni chúng con xuất gia thọ Cận viên đã lâu, còn các Bí-sô trẻ khác xuất gia thọ Cận viên chưa bao lâu, nên khiến họ cung kính lẫn nhau theo thứ bậc lớn nhỏ", Đại thế chủ nói: "các em hãy đợi tôi đến hỏi tôn giả A-nan việc này", nói rồi liền đến hỏi tôn giả A-nan, tôn giả nói: "Đại thế chủ xin hãy đợi tôi bạch Phật", nói rồi liền đến chỗ Phật, đảnh lễ rồi bạch Phật việc trên, Phật nói: "thầy không nên mở miệng hỏi việc này có được hay không, vì sao, vì nếu người nữ không xuất gia trong pháp luật thiện thuyết thì các trưởng giả, Bà-la-môn có tín tâm sẽ mang thức ăn ngon cúng dường cho các Bí-sô; lại có các trưởng giả, Bà-la-môn tín tâm dùng thảm mới trắng sạch trải trên đường thỉnh các Bí-sô đi trên thảm này để cho họ được lợi ích lâu dài và thường được an lạc; lại có các trưởng giả, Bà-lamôn trải tóc trên đất thỉnh các Bí-sô đi trên tóc để cho họ được lợi ích lâu dài. Nếu người nữ không xuất gia trong pháp luật thiện thuyết thì dù là ánh sáng của mặt trời mặt trăng cũng không che khuất được oai lực của các Bí-sô, huống chi lá các ngoại đạo như thây chết khác. Lại nữa nếu người nữ không xuất gia thì giáo pháp của ta sẽ được thanh tịnh, hoàn toàn không nhiễm ô đủ một ngàn năm; do người nữ xuất gia nên chánh pháp giảm còn năm trăm năm. Vì thế nên Bí-sô ni dù thọ Cận viên đã một trăm tuổi hạ vẫn phải cung kính tôn trọng làm lễ Bí-sô mới thọ Cận viên".

Duyên xứ như trên, lúc đó trong Ni chúng phát sanh những tăng sự về chúng bốn người, chúng năm người, chúng hai mươi người nên họ tập họp cả hai bộ tăng lại; do sự vụ thêm nhiều nên làm trở ngại việc giáo thọ, đọc tụng, thiền quán của các Bí-sô. Các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "việc của hai chúng khác nhau, chỉ trừ xuất tội, thọ Cận viên và các pháp sự trong mỗi nửa tháng cần phải làm chung, các việc khác đều phải làm riêng".

Trong thành Thất-la-phiệt có một trưởng giả cưới vợ chưa bao lâu thì người vợ có thai, đủ tháng sanh ra một bé gái thì người cha qua đời, người mẹ nuôi con đến tuổi vừa lớn khôn thì cũng qua đời. Sau đó ni Thổ-la-nan-đà nhân đi khất thực đến nhà đó thấy cô gái liền hỏi thuộc về ai, đáp: "con một thân không nơi nương tựa, không thuộc về ai", lại hỏi: "vì sao không xuất gia?", đáp: "ai cho con xuất gia", ni nói: "ta sẽ cho, con hãy đi theo ta", nói rồi liền dẫn về trong trú xứ cho xuất gia. Thời gian sau vì bị phiền não lôi kéo nên cô này hoàn tục, sau đó Thổ-la-nan-đà gặp lại liền hỏi: "hiện nay con sống ra sao?", đáp: "con hiện nay sống rất khổ sở", lại hỏi: "vì sao không xuất gia lại?", đáp: "con đã hoàn tục, ai cho con xuất gia trở lại", ni nói: "ta cho", nói rồi liền dẫn về cho xuất gia lại. Khi cô này đi khất thực, các trưởng giả Bà-la-môn thấy liền chê trách: "các Thích nữ khéo làm việc thiện, lúc thì xuất gia tu phạm hạnh; lúc thì bỏ đạo, nhiễm bụi trần, hành động theo tình ý, há không phải là việc thiện hay sao?", các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch các Bí-sô, các Bí-sô bạch Phật, Phật bảo: "do ni đã hoàn tục nên mới có lỗi này, từ nay ni đã hoàn tục không cho xuất gia trở lại, nếu cho xuất gia trở lại thì bổn sư phạm tội Việt pháp"

6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ sáu:

Nhân độ Cù-đáp-di,
Xuất gia có năm lợi,
Không được trong năm chúng,
Việc trách mắng nên biết.

Duyên xứ như trên, lúc đó trong thành Bà-lanê-tư có một trưởng giả tên Cù-đáp-ma rất giàu có, cưới vợ chưa lâu liền mang hàng hóa đi đến thành Đắc xoa để buôn bán, ghé vào một nhà xin ở lại đêm, trưởng giả chủ nhà tên là Danh xưng niềm nở đón tiếp, nhân đó hai người trở nên thân thiết, Cù-đáp-ma bán hết hàng hóa mua lại hàng khác rồi trở về xứ mình. Thời gian sau, trưởng giả Danh xưng đến thành Bà-la-nê-tư buôn bán, ghé vào nhà của Cù-đáp-ma nghỉ lại đêm, Cù-đáp-ma cũng niềm nở đón tiếp, trưởng giả thành Đắc xoa nói: "làm cách gì để sau khi chúng ta qua đời, con cháu của chúng ta vẫn thân thiết không xa lìa?", Cù-đáp-ma nói: "lành thay, từ nay chúng ta chỉ bụng kết thân, hai nhà chúng ta nếu sanh nam nữ thì kết thông gia với nhau", Đắc xoa nói: "ý tôi cũng như vậy", Đắc xoa bán hết hàng của mình mua lại hàng hóa khác rồi trở về xứ mình. Thời gian sau vợ ông có thai, đủ ngày tháng sanh được một trai, đủ hai mươi mốt ngày mở tiệc ăn mừng và đặt tên cho con là Du phương. Cù-đáp-ma nghe biết tin này vui mừng suy nghĩ: "nhà trưởng giả Đắc xoa sanh con trai thì nhà ta nên sanh con gái, cậu bé kia là rễ, ta nên gởi y phục và chuỗi anh lạc", nghĩ rồi liền gửi y vật và thư sang chúc mừng. Không bao lâu sau, vợ của Cù-đáp-ma có thai, đủ ngày tháng sanh được một gái, tuy xinh đẹp nhưng rất ốm gầy nên sau hai mươi mốt ngày mở tiệc ăn mừng, đặt tên cho con gái là Cù-đáp-ma gầy. Đắc xoa nghe tin này liền suy nghĩ: "nhà Cù-đáp-ma sanh con gái, cô bé ấy sẽ là con dâu, ta nên gửi y phục và anh lạc để chúc mừng", nghĩ rồi liền gửi y vật và thư sang chúc mừng, Cù-đáp-ma hồi âm nói: "trước đây đã hứa kết thân, nay được toại nguyện, đợi khi chúng nên người sẽ tính chuyện hôn nhân". Thời gian sau, khi con gái vừa đến tuổi cập kê, Cù-đáp-ma liền cho con đi học, Đắc xoa cũng cho con trai học thông các kỹ nghệ. Do trước kia trưởng giả có qua lại với một dâm nữ nên gửi con đến chỗ dâm nữ để học âm thư. Học được một thời gian, Du phương muốn trở về nhà, dâm nữ nói: "con hãy học cho giỏi đã, chớ vội về nhà", đáp là đã học giỏi nay nhớ nhà muốn về, dâm nữ lén gói bột đá đỏ ướt trong bọc vải rồi nói: "Nếu con nhất quyết về thì ta sẽ tự đập bể đầu chết", Du phương nghe vậy nên ở lại, dâm nữ nói: "đứa con ngu si, con nói là đã học giỏi âm thư sao lại không biết, lẽ nào ta tự đập bể đầu chết vì con của người khác hay sao. Ta đã gói bột đá đỏ ướt trong bọc vải định để trên đầu đè cho chảy nước đỏ ra, người thấy cho đó là máu chảy. Con thật vô trí, chưa thể nói về nhà được". Không bao lâu sau, Du phương lại muốn về nhà, dâm nữ nói: "nếu con nhất quyết đi thì ta sẽ nhảy xuống giếng chết", Du phương nghe vậy nên ở lại, dâm nữ nói: "đưa con ngu si, con nói là đã học giỏi âm thư sao lại không biết, lẽ nào ta lại nhảy xuống giếng chết vì con của người khác hay sao. Ta đã đặt dưới đáy giếng một tấm nệm cỏ dày, khi nhảy xuống người thấy cho là chết. Con thật vô trí chưa thể nói về nhà được". Thời gian sau, Du phương lại muốn về nhà, dâm nữ nói: "con đã ba phen đòi về, vậy hãy đợi ta nấu cháo sữa, ăn xong rồi về", khi cháo nấu chín, bà đổ cháo ra mâm đồng, thêm nhiều bơ mật rồi ngồi ăn hết, sau đó ói trở ra mâm đồng rồi bảo Du phương ăn, đáp: "thức ăn đã ói làm sao ăn được", dâm nữ liền khóc lớn, hàng xóm nghe tiếng khóc chạy đến hỏi rõ nguyên do rồi hỏi Du phương vì sao không chịu ăn cháo, đáp như trên, dâm nữ đấm ngực khóc nói: "có ai lại bảo người khác ăn thức ăn đã ói ra không chứ?", mọi người nghe nói vậy liền bắt ép Du phương ăn, bị bức bách Du phương định ăn, dâm nữ liền kéo tay ra rồi tát vào mặt mắng rằng: "đứa con ngu si, tự nói là đã học giỏi âm thư, tại sao chính mắt thấy ói thức ăn ra mà còn ăn hả?", nói rồi liền đuổi đi không ép ở lại nữa. Du phương trở về nhà làm thương chủ cùng năm trăm thương nhân khác mang nhiều hàng hóa từ miền nam đến miền trung của đất nước, dần dần đến thành Bà-la-nê-tư. Thường tình thì các thương nhân khi qua lại mua bán đều cùng dâm nữ tư thông, nhưng đoàn thương nhân này do thường nghe thương chủ nói việc nhàm lìa nữ sắc nên không vào nhà dâm nữ, các dâm nữ nói với nhau: "trước đây các thương nhân phần nhiều đều ghé chỗ chúng ta, nhưng nay lại ly dục không thèm đến", một người nói: "tôi nghe nói thương chủ giỏi âm thư nên nhàm lìa nữ sắc, khiến các thương nhân khác cũng không đến chỗ chúng ta", một dâm nữ lớn tuổi nghe rồi liền hỏi: "hắn có phải là đàn ông không?", đáp là phải, dâm nữ này nói: "nếu con gái ta dụ hoặc được hắn thì các cô phải bầu con ta làm trưởng", các dâm nữ nói: "nếu dụ được thì chúng tôi sẽ lập làm trưởng, nếu không được thì sao?", dâm nữ này nói: "ta sẽ đưa cho các cô năm trăm tiền vàng", các dâm nữ chấp thuận. Bà ta liền hỏi thuê nhà bên cạnh nhà của thương chủ chứa hàng hóa, cũng cất chứa nhiều hàng hóa giống như thương chủ. Khi gia nhân của thương chủ đến kho hàng, bà liền hỏi thăm, đáp là gia nhân của thương chủ, bà nói: "con ta cũng là thương chủ đã mang hàng hóa đến phương khác bán rồi, nếu không như vậy thì đã cầu cạnh thương chủ của anh rồi. Từ nay anh cần gì cứ đến nhà ta tùy ý lấy", từ đó trở đi gia nhân này thường đến nhà bà lấy vật lạ mang về, thương chủ thấy liền hỏi lấy từ đâu, liền đem việc trên kể lại, thương chủ nghe rồi liền có cảm tình với bà ta nên nói với gia nhân: "bà ấy đã cúng cấp những vật là như thế cho ta thì ta cũng coi như là mẹ ta", gia nhân nghe rồi sau đó đến nói lại, bà ta nghe rồi liền nói: "chừng nào tôi có thể gặp được thương chủ?", đáp: "đợi tôi báo lại", thương chủ nghe rồi liền vui vẻ đi đến kho hàng của bà ta để gặp mặt, bà niềm nở đón tiếp hỏi tên rồi nói: "con ta cũng đồng tên với thương chủ, vậy thương chủ khác gì là con ta, từ nay cứ lui tới nhà ta đừng ngại", nói rồi liền bảo con gái ra chào hỏi anh trai. Thương chủ vừa nhìn thấy cô gái có dung mạo hiếm có trên đời liền sanh tâm luyến ái, ngất ngây không biết phải làm gì, giây lâu mới tỉnh rồi hỏi bà mẹ: "cô ấy đã thuộc về ai chưa?", đáp là chưa, liền nói: "nếu vậy, xin mẹ gả cho con", bà mẹ nói: "nếu ta muốn nó phục vụ cho con thì sẽ không gả cho người khác, nhưng ta chỉ sợ con ưa thích nhất thời, chán rồi sẽ vất bỏ", đáp: "nếu mẹ gả cho con thì con quyết sẽ không vất bỏ", bà mẹ nói: "nếu vậy tài vật mà con đã có hãy đưa sang nhà mẹ, mẹ mới tin con không thay đổi". Thương chủ chấp thuận liền chuyển tài vật đã có sáng nhà bà mẹ, bà liền đưa ra cửa sau chuyển đi hết, sau khi chuyển xong liền nói với bà mẹ chọn ngày tốt thành thân, bà liền báo cho các dâm nữ biết ngày đến dự đám cưới. Đến ngày cưới, thương chủ thấy lạ vì sao chỉ toàn khách đàn bà không có đàn ông, bà mẹ nói khách nam chưa đến, lúc đó có một cô nói nhỏ vào tai thương chủ: "anh không biết chúng tôi đều la dâm nữ hay sao?", thương chủ nghe rồi liền biết là bị dâm nữ gạt. Sau nhiều ngày ở chung với nhau, dâm nữ bảo thương chủ đưa tiền, thương chủ nói: "tài vật mà ta đã có đều đưa hết qua nhà em rồi, lấy đâu nữa mà đưa", dâm nữ im lặng. Sau đó đợi khi thương chủ say rượu ngủ mê liền lấy dây trói bó lại quăng ra ngoài đường. Sáng hôm sau tỉnh rượu nhìn thấy thân mình như vậy liền hối hận rơi nước mắt, sau đó vì đói nên tìm chỗ cần người xin làm thuê. Lúc đó trưởng giả Cù-đáp-ma xây nhà mới cần nhiều người làm thuê nên đi tìm người, khi gọi đến Du phương, trưởng giả nhìn thấy tướng người yếu ớt nên nói: "ta xem tướng người này chưa từng làm việc, hãy tìm người khác", Du phương vậy liền rơi nước mắt nhìn chăm chăm trưởng giả, trưởng giả ngạc nhiên hỏi: "cậu là con nhà ai, từ đâu đến đây, tên họ là gì?", đáp: "cha ơi, con là người phương Bắc ở thành Đắc xoa tên là Du phương. Con vì duyên trời nên đến đây, nhưng không biết đường đi, lại gặp phải khổ nạn này", trưởng giả nghe rồi liền hỏi: "cậu ở thành Đắc xoa, vậy có nghe biết trưởng giả Danh xưng hay không?", đáp: "cha ơi, vị ấy chính là cha ruột của con", trưởng giả nghe rồi liền biết là cựu thân nên đồng lòng thương xót nói: "con đừng buồn rầu, hãy ở đây làm con rễ của ta". Du phương nghe rồi không còn buồn rầu nữa, trưởng giả liền cung cấp cho y phục, vật trang sức, thức ăn uống và phòng ở với tất cả vật cần dùng không thiếu thứ gì. Sau đó trưởng giả bảo vợ lo liệu mọi thứ cho con gái và chon ngày tốt để chuẩn bị làm hôn lễ, Du phương nói: "thưa cha, con chưa thể thành thân được, xin đợi con tìm lại tài vật và hàng hóa đã bị mất", trưởng giả nói: "tài vật đã có trong nhà ta, con cứ tùy ý thọ dụng, cần gì phải tìm lại?", đáp: "con muốn lo liệu đây đủ nghi lễ để cưới vợ, không thể như kẻ phàm tục tùy nghi cưới vợ", trưởng giả giả nghe rồi im lặng. Du phương muốn báo thù dâm nữ kia trước khi cưới vợ nên nói như thế, khi ra ngoài thành du ngoạn bỗng thấy trong con sông lớn có tử thi trôi theo dòng nước, trên bờ có con quạ muốn ăn thịt tử thi nhưng đưa mỏ không tới, nó liền dùng chân kẹp chiếc đũa chà xát trên mỏ làm cho mỏ dài ra để mổ ăn thịt tử thi, ăn xong nó lại đưa đũa lên mỏ chà xát làm cho mỏ ngắn lại như cũ, Du phương thấy việc này rồi liền nhặt lấy chiếc đũa mang về. Sau đó anh mang năm trăm tiền vàng đến chỗ dâm nữ nói: "trước đây ta hết tiền nên bị quăng ra đường, nay đã có tiền nàng hãy cùng ta vui thú", dâm nữ thấy có tiền liền chấp thuận, Du phương được dịp thuận tiện liền đưa chiếc đũa cọ xát vào mũi của dâm nữ làm cho nó dài ra khoảng mười tầm. Dâm nữ kinh sợ mời hết các thầy thuốc đến chữa trị nhưng không ai có thể làm cho mũi của cô trở lại như cũ. Dâm nữ kinh sợ cầu khẩn Du phương: "xin chàng từ bi tha thứ lỗi cũ, đừng nghĩ việc trả thù, xin hãy chữa trị cho em", Du phương nói: "phải giao ước trả lại hết tài vật đã lấy của ta trước đây rồi ta mới chữa trị", dâm nữ nói: "nếu em không làm đúng như lời giao ước thì em sẽ đền gấp bội, trước mặt mọi người em không dám dối trá", Du phương liền đưa chiếc đũa cọ vào mũi dâm nữ khiến cho nó trở lại như cũ, dâm nữ liền đem trả lại hết tài vật đã đoạt lấy trước đây. Du phương nhận lại tài vật mang về rồi tổ chức hôn lễ thật lớn, Cù-đáp-ma cho hai vợ chồng Du phương căn nhà ngoài thành và những thôn thuộc nơi ấy. Không bao lâu sau người vợ có thai, khi gần ngày sanh cô nói với chồng: "em muốn trở về nhà để nhờ mẹ chăm sóc khi sanh", người chồng chấp thuận, sau đó cô sanh được một trai, không bao lâu sau lại có thai và cũng như lần trước muốn trở về nhà mẹ để sanh con. Lần này cô đi cùng chồng và con, giữa đường người chồng xuống xe đến bên gốc cây nằm ngủ, không may bị rắn độc rắn mà qua đời. Người vợ ở trong xe lại sanh một bé trai, sanh xong xuống xe đến bên gốc cây nói cho chồng biết, nhưng gọi mãi không thấy nói gì, mới biết là chồng đã chết, cô gào khóc thảm thiết. Lúc đó có kẻ trộm thừa dịp trộm lấy con bò để lại chiếc xe, cô nhìn quanh không thấy ai, trong lòng đau buồn bồng hai con trở về quê cũ. Tới bên bờ sông, lúc đó trời mưa nước sông dâng cao không thể lội qua bờ kia được, cô suy nghĩ: "nếu mang cả hai con cùng lội qua thì sợ ba mẹ con không an toàn", nghĩ rồi cô liền để đứa lớn lại, bồng đứa nhỏ qua để bên bờ kia; trong khi cô đang lội trở qua để bồng đứa lớn thì nghe tiếng đứa nhỏ khóc, quay lại nhìn thì thấy một con sói đi tới cắn lấy đứa nhỏ, cô la lớn lên. Đứa lớn bên bờ này tưởng mẹ kêu lội qua nên bước xuống sông và bị nước lớn cuốn trôi mất. Khi người mẹ trở lên bờ chạy theo con sói giành lại được đứa con nhỏ thì nó đã qua đời, người mẹ đau buồn khóc lớn rồi thả con xuống sông thì thấy xác đứa con lớn trôi đến, cho là còn sống nên vớt lên nhưng nó cũng đã chết. Người mẹ đau buồn vừa đi vừa gào khóc trở về quê nhà. Lúc đó cha mẹ quyến thuộc ở quê nhà lại bị sét đánh chết, chỉ còn có một nô tỳ sống sót, khi nhìn thấy Cù-đáp-di gầy về đến, nô tỳ này liền chạy nhanh đến báo tin, Cù-đáp-di nghe rồi đau khổ không tự kiềm chế được nên gào khóc nói kệ:

"Ta ở trong đời trước,
Đã tạo nghiệp ác gì,
Mà chồng con, cha mẹ,
Quyến thuộc đồng thời chết.
Ta là kẻ bạc phước,
Lang thang đi một mình,
Thân tộc đều tan nát,
Không còn muốn sống nữa.
Thà ở trong rừng núi,
Nơi đồng trống không người,
Ngày đêm càng ưu sầu".

Cù-đáp-di lang thang đi mãi, cuối cùng đến trước nha trong một thôn, thấy có một bà già đang ngồi se sợi Kiếp bối liền xin ở tạm, bà già chấp thuận, Cù-đáp-di đến ngồi se sợi giúp bà già. Có một thợ dệt trẻ thường mua sợi của bà già, hôm đó thấy bà mang sợi mịn đến liền hỏi: "vì sao hôm nay sợi mịn như thế?", đáp là không phải ta làm, lại hỏi ai làm, bà già kể lại việc trên, thợ dệt nghe rồi nói: "mẹ ơi con chỉ có một mình, mẹ cho cô ấy sang đây, con sẽ cung cấp y thực đầy đủ", đáp: "để ta hỏi ý cô ấy như thế nào rồi sẽ báo lại", thợ dệt liền trả giá cao và đưa thêm hương hoa cho bà mang về. Cù-đáp-di thấy vậy liền hỏi nguyên do, bà già kể lại việc trên và nói: "thợ dệt ấy chưa có vợ, nếu con bằng lòng sống chung thì y thực sẽ không lo thiếu thốn", đáp: "xin mẹ đừng nói nữa, chuyện chồng con con đã chán ngán rồi, chỉ mong sống qua ngày, không mong gì hơn", bà già nói: "người nữ không nơi nương tựa thì khó được giúp đỡ, con hãy tìm nơi an thân". Sau đó bà già nói đủ cách, cuối cùng thuyết phục được Cù-đáp-di cải giá, thợ dệt liền đem lễ vật đến rước về nhà mình, nhưng thợ dệt này tánh tình nóng nảy hung bạo nên cô thường bị đánh khổ sở. Khi gặp lại bà già cô than trách: "vì sao lại gả tôi cho một Dược xoa như vậy khiến tôi phải khổ sở, tôi biết làm sao đây", đáp: "con chớ lo buồn, nếu con có con trai, con sẽ được yêu mến và tài sản sẽ thuộc về con". Không bao lâu sau cô có thai và người chồng không hành hạ nữa, cô nhân đó sanh kiêu mạn khiến cho người chồng tức giận trong lòng. Sau đó, người chồng đi dự tiệc uống rượu say trở về nhà gõ cửa, người vợ đang lúc sắp sanh không thể ra mở cửa được, người chồng đứng ở ngoài càng thêm tức giận trong lòng. Sau khi sanh con xong, người vợ mới ra mở cửa và báo cho chồng biết, người chồng nghe rồi suy nghĩ: "khi đang có thai đã sanh kiêu mạn, nay đã sanh con trai lại càng kiêu mạn thêm, nếu ta không giết thì sau ắt sẽ thành kẻ thù", nghĩ rồi liền bảo vợ bắc chảo dầu lên bếp, khi chảo dầu sôi liền bảo người vợ bỏ đứa con vào chảo, người vợ kinh sợ van xin, người chồng tức giận đánh đập, người vợ mới sanh nên không thể chịu nổi sự đánh đập này nên đành phải bỏ con vào chảo dầu sôi. Khi đứa con bị nấu chín rồi, người chồng lại bảo vợ ăn thịt con, người vợ nói: "làm sao tôi có thể ăn thịt con mình?", người chồng lại đánh đập, người vợ chịu không nổi nên phải ăn thịt con mình. Như Phật đã dạy:

"Nhiễm dục là lỗi nhỏ,
Người ngu cũng trừ được,
Sân si là họa lớn,
Người trí nên xa lìa".

Sau đó hết giận, người chồng hối hận đứng ngồi không yên, trong lòng như lửa đốt, do buồn phiền mệt mỏi nên ngủ quên. Người vợ nhân dịp này liền chạy trốn ra ngoài thành, xin tháp tùng theo đoàn thương nhân để trở về lại quê mình. Thương chủ thấy cô xinh đẹp nên sanh yêu mến hỏi: "nàng thuộc về ai và định đi đâu?", cô kể lại việc của mình rồi nói: "bây giờ tôi không nơi nương tựa, chưa biết về đâu", thương chủ nghe rồi liền thu nhận làm vợ, không may trên đường đi gặp bọn cướp giết chết thương chủ và đoạt hết tài vật, chúa giặc thấy cô xinh đẹp nên lấy làm vợ. Sau đó, vua phương Bắc đem quân thảo trừ giặc cướp, thấy cô xinh đẹp nên đưa về làm đại phu nhân. Không bao lâu sau vua băng hà, theo quốc pháp nếu vua chết, phi hậu đều phải bị chôn theo trong một lăng. Trộm phá lăng để lấy báu vật, Cùđáp-di ở trong lăng bị bụi đất rơi xuống đầu mặt nên nhảy mũi, trộm nghe tiếng nhảy mũi cho là quỷ nên sợ hãi bỏ chạy tứ tán. Cù-đáp-di noi theo lỗ đào của kẻ trộm mà ra ngoài, sau khi ra khỏi lăng hoang mang nhìn khắp nơi, không biết phải đi đâu, đau buồn chồng chất lại thêm đói khát nên cô trở nên điên dại, lộ hình lang thang đi mãi dần dần đến rừng Thệ đa ở thành Thất-la-phiệt. Như Phật đã dạy: "nghiệp báo của chúng sanh là bất khả tư nghì, nghiệp đã tạo phải tự chịu quả báo, quả báo ác chịu hết rồi thì quá báo thiện mới sanh". Lúc đó Phật đang thuyết diệu pháp cho đại chúng, Cù-đáp-di từ xa thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời. Do nhìn thấy Phật nên cô được trở lại bản tâm, nhìn lại thân mình liền cảm thấy xấu hổ ngồi bẹp xuống đất. Thường pháp của chư Phật là khởi tâm đại từ bi làm lợi ích chúng sanh, trụ trong chánh quán, không nói hai lời, dựa trên định huệ hiển phát ba minh, thành tựu ba học, điểu phục hoàn toàn ba nghiệp, vượt qua bốn Bộc lưu, an trụ nơi bốn Thần túc, thường tu bốn nhiếp hạnh, xả trừ năm triền cái, đầy đủ năm chi, năm lực, viên mãn sáu độ, bố thí khắp tất cả bằng bảy Thánh tài, nở hoa bảy giác ngộ, chỉ bày tám chi Thánh đạo, xa lìa tám nạn, đoạn dứt hẳn chín kết, phương tiện thiện xảo tùy ý nhập Cửu định, đủ mười Lực, danh vang khắp mười phương, tự tại vô úy, hàng phục ma oán, cất tiếng sấm lớn, rống lên tiếng rống của sư tử, ngày đêm ba thời thường dùng Phật nhãn quán sát chúng sanh: trí huệ tùy chuyển của ai tăng, của ai giảm; ai gặp khổ nạn, ai bức bách, ai bị bức bách; ai xuống nẻo ác, ai lên đường lành, ai một bề thú hướng, ai còn mang gánh nặng. Nên dùng phương tiện gì để cứu độ chúng sanh ra khỏi đường ác, vào cõi trời người và được giải thoát; người chưa tu thiện căn khiến tu tập thiện căn, người đã tu thiện căn chưa thành thục khiến cho được thành thục, đã thành thục rồi khiến được giải thoát. Như kệ tụng:

"Cho dù hải triều lớn,
Cũng có khi trễ hạn,
Đối với người đáng độ,
Phật liền độ, không bỏ.
Đối với các hữu tình,
Phật từ bi thương tưởng,
Nghĩ cứu họ thoát khổ,
Như bò mẹ theo con".

Lúc đó Phật bảo A-nan lấy thượng y đem ra đưa cho Cù-đáp-di rồi dẫn vào cho nghe pháp, A-nan làm theo lời Phật dạy rồi đưa Cù-đáp-di đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật quán biết căn tánh tùy miên của Cù-đáp-di, nói pháp Tứ đế khiến cho được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả, cô đứng dậy chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, xin cho con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô ni, tu tập phạm hạnh", Phật chấp thuận và bảo Đại thế chủ cho Cù-đáp-di xuất gia, thọ Cận viên. Cô được như pháp giáo giới, chuyên tâm học tập Tỳ-nại-da, quán biết năm đường luân hồi không ngừng, các hành vô thường rồi sẽ hoại diệt, đoạn trừ các phiền não, chứng A-la-hán, ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát, được như thật tri: sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc nên làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Tâm không chướng ngại như tay nắm hư không, như dao cắt mùi thơm, yêu ghét không khởi, xem vàng và đất như nhau không khác, tất cả danh lợi đều xả bỏ, Thích Phạm chư thiên thảy đều cung kính. Lúc đó Phật bảo các Bí-sô: "trong các Bí-sô ni Thanh văn, Cù-đáp-di gầy là bậc trì luật đệ nhất", các ni khác ở trong chúng nghe Phật thọ ký như vậy liền đến nghe Cù-đáp-di thuyết pháp, cô giảng thuyết về nhân duyên nghiệp báo của chính mình, các ni này nghe rồi nói lại cho các Bí-sô biết. Một hôm Cùđáp-di đến đảnh lễ Phật, các Bí-sô rĩ tai nói cho nhau biết về nghiệp duyên của Cù-đáp-di; sau khi Cù-đáp-di ra về, Phật tuy biết nhưng vẫn hỏi A-nan: "các Bí-sô rĩ tai nói những gì?", A-nan bạch Phật, Phật nói: "nghiệp báo của chúng sanh là bất tư nghì, thế gian đều do nghiệp lực mà thọ lấy quả báo, do nghiệp lực mà sanh, do nghiệp lực mà trụ; tất cả chúng sanh đều tùy theo nghiệp thiện ác mà thọ lấy quả báo", lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: "Thế tôn, Cù-đáp-di gầy đời trước đã tạo nghiệp gì mà nay chồng bị rắn cắn chết, một đứa con bị sói hại chết, một đứa bị chết trôi, cha mẹ thân thuộc đều bị sét đánh chết, bản thân lại ăn thịt con mình, loạn tâm điên đảo lang thang đi khắp nơi. Lại do tạo nghiệp gì mà được gặp Phật cho xuất gia, thọ Cận viên, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán, được Phật thọ ký là bậc trì luật đệ nhất trong Ni chúng?", Phật nói: "Này các Bí-sô, nếu người nào đã tạo nghiệp thiện ác, không phải địa thủy hỏa phong ở ngoài giới mới khiến người kia thọ báo, mà đều ở trong uẩn xứ giới của tự thân chiêu cảm quả dị thục... Các thầy lắng nghe:

Thuở xưa, tại tụ lạc nọ có một trưởng giả rất giàu có, tuy cưới vợ đã lâu nhưng không có con, ông lo buồn suy nghĩ: "ta có nhiều tài sản nhưng không có người thừa kế, sau khi qua đời ắt sẽ bị quan tịch thu hết", người vợ thấy chồng buồn hỏi rõ nguyên do rồi suy nghĩ: "không biết do chồng ta nghiệp mỏng hay là do ta vô phước nên không có con. Há chẳng phải chồng ta thay lòng muốn tìm vợ khác nên mới có dáng vẻ buồn rầu ở trước ta như thế. Ta nên tự nói trước thì hơn", nghĩ rồi liền nói với chồng: "chắc là do em tạo nghiệp bất thiện nên mới không có con, anh nên cưới thêm vợ hai để sanh con cho anh", người chồng nói: "há em không nghe nhà nào có hai vợ thì muốn kiếm nước để uống cũng khó, trong nhà lại hay có tranh cãi hay sao?", người vợ nói: "anh cứ cưới thêm vợ hai, nếu bằng tuổi em thì em sẽ xem như em gái, nếu nhỏ tuổi hơn em nhiều thì em sẽ xem như con gái", người chồng nghe nói vậy liền tìm thêm vợ hai. Trong tụ lạc cũng có một trưởng giả, người vợ sanh được một gái hai trai, khi cô con gái trưởng thành thì cha mẹ đều qua đời. Trưởng giả này nghe biết liền đến gặp hai người em hỏi cưới cô chị, hai người em chấp thuận, ông liền đưa sính lễ đến đón rước người chị về nhà. Thường tình hễ có mới thì nới cũ, người chồng có vợ hai liền quên người vợ chánh; người vợ chánh trước đó có bịnh nên không thể sanh con, nay do sanh tâm đố kỵ nên hết bịnh và có thai, bà liền báo cho chồng biết, người chồng nói: "nếu em sanh rai thì sau khi ta qua đời, nó sẽ thừa kế sản nghiệp của ta", vợ chánh nói: "nếu người vợ hai không bỏ độc làm cho em sảy thai thì anh hãy nhớ làm theo lời đã nói", người chồng nói: "trước đây ta có nói với nàng, nhà nào có hai vợ ắt sẽ tranh cãi nhau không ngừng, nay chưa gì mà em đã nói ra lời ấy", vợ chánh im lặng. Đủ ngày tháng bà sanh trai liền suy nghĩ: "đứa bé này nhờ trời mà được sanh ra, sợ bị người vợ hai làm hại. Ta nên đưa nó cho cô ta nuôi", nghĩ rồi liền nói với người vợ hai: "chị đưa đứa con này cho em nuôi, nó là con chung của hai chúng ta", người vợ hai nhận lời nuôi dưỡng. Thời gian sau, người vợ hai bỗng sanh ý ác suy nghĩ: "nó không phải con ruột của ta, khi nó trưởng thành, mẹ nó là đại phu nhân, nó là gia trưởng thì ta sẽ là nô bộc. Ta cần gì nuôi dưỡng, nên giết nó chết trước thì hơn", nghĩ rồi liền dùng dầm tre dâm vào cổ họng của đứa bé. Nó đau đớn nên khóc to lên, người mẹ ruột hỏi vì sao nó khóc thì đáp là không biết. Người mẹ ruột vỗ về nó lại càng khóc to hơn, bà vạch miệng nó ra thì thấy có dầm tre liền đưa tay vào cổ họng nó để móc ra, đứa bé đau đớn không chịu nổi nên qua đời, người mẹ ruột đấm ngực kêu khóc thảm thiết. Quyến thuộc kéo đến hỏi nguyên do, bà nói: "con tôi bị người mẹ hai ganh ghét đã dùng dầm tre dâm vào cổ họng của nó, nó đau đớn chịu không nổi nên qua đời", quyến thuộc gạn hỏi người mẹ hai: "trẻ con vô tội, vì sao lai nở giết hại như vậy?", người vợ hai liền thề thốt: "nếu tôi có tâm đố kỵ mà giết đứa trẻ này thì đời sau chồng tôi bị rắn cắn chết, một đứa con bị sói hại chết, một đứa bị chết trôi, cha mẹ thân thuộc đều bị sét đánh chết, bản thân tôi lại ăn thịt con mình, loạn tâm điên đảo lang thang đi khắp nơi".

Phật bảo các Bí-sô: "người vợ hai của trưởng giả thuở xưa nay chính là Cù-đáp-di gầy, do trong quá khứ thề độc nên nay phải chịu quả báo này. Lại nữa này các Bí-sô, vào thời Phật Ca-diếp-ba, ni Cù-đáp-di này xuất gia trong giáo pháp của đức Phật ấy, tu phạm hạnh trọn đời mà không được chứng quả. Thân giáo sư của ni này được đức Phật ấy thọ ký là người trì luật bậc nhất nên khi lâm chung ni Cù-đáp-di này phát nguyện: nguyện ở đời vị lai lúc con người thọ một trăm tuổi, có Phật Thích ca mâu ni ra đời đầy đủ mười hiệu hiệu, con sẽ được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán và giống như Thân giáo sư của con, cũng được đức Phật ấy thọ ký là bậc trì luật đệ nhất.

Này các Bí-sô, do nguyện lực xưa kia nên nay ni Cù-đáp-di được quả báo này". Lúc đó các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: "cha mẹ của ni Cù-đápdi đời trước đã tạo nghiệp gì mà nay lại bị sét đánh chết, người chồng tạo nghiệp gì mà bị rắn cắn chết, hai đứa con đã tạo nghiệp gì mà lại bị sói hại và bị nước cuốn trôi?", Phật nói: "do nghiệp mà họ đã tạo nay đã thành thục nên phải chịu quả báo này. Các thầy lắng nghe:

Quá khứ Hiền kiếp, lúc con người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca-diếp-ba ra đời đầy đủ mười hiệu, trụ trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Trong thành này có một trưởng giả rất giàu có, ông làm một trú xứ bên bờ sông gần thành cho Tứ phương tăng đến ở. Lúc đó trưởng giả đưa tài vật cho một người trong thôn kinh doanh mua bán, người này nhận tài vật đến ba lần nhưng lần nào cũng làm cho tài vật tiêu tán hết. Trưởng giả liền quở trách: "người thật là vô trí, vì sao ba lần đưa tài vật đều làm cho tiêu tán hết, nếu ngươi không trả lại thì ta sẽ không cho người về", đáp: "xin trưởng giả hoan hỉ đưa tài vật thêm một lần nữa, nếu lần này không thể trả lại hết thì vợ chồng và cả hai con tôi đều sẽ làm nô tỳ để đáp trả", trưởng giả nghe rồi liền đưa tài vật thêm lần nữa, không ngờ lần này cũng làm cho tiêu tán. Như lời đã giao ước, trưởng giả đưa cả gia đình bốn người vào làm tịnh nhơn cho chùa nhưng họ vẫn ở trong thành, hằng ngày họ qua sông đến trong chùa lo việc cơm nước cho Tăng. Một hôm gặp trời mưa lớn, nước sông dâng cao nên gia đình họ không qua sông được, vị Tri sự trong Tăng là một A-la-hán thấy họ không đến chùa nên sau đó qua sông đến gặp họ trách rằng: "vì sao hôm nay lại không đến chùa lo việc cơm nước, khiến cho chúng Tăng trễ mất bữa ăn", cha mẹ họ nghe trách liền tức giận nói: "trời mưa nước sông dâng cao, ông không thấy hay sao mà còn sang đây trách cứ, sao sét không đánh ông chết cho rồi", người chồng cũng tức giận nói: "sao ông không bị rắn cắn chết cho rồi", một đứa con nói: "sao ông không bị chết trôi cho rồi", đứa con kia nói: "sao ông không bị chó sói hại cho rồi".

Phật bảo các Bí-sô: "gia đình tịnh nhơn thuở xưa chính là gia đình của Cù-đáp-di ngày nay. Do trong quá khứ họ nói lời thô ác với tâm độc hại đối với vị A-la-hán nên nay mắc quả báo này. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập nghiệp trắng, chớ có buông lung", nghe Phật dạy rồi, các Bí-sô đều hoan hỉ tín thọ phụng hành.

Duyên xứ như trên, lúc đó các Thích tử vô tội bị kẻ ngu si Ác sanh tàn sát, các Thích nữ đau buồn vì thân thuộc đã bị tàn sát nên đều xuất gia trong pháp luật thiện thuyết của Phật. Sau khi xuất gia, nỗi đau buồn của họ cũng giảm dần nhưng sau đó lại bị lửa dục phiền não bức bách. Như Phật đã nói rắn độc có năm lỗi là nhiều tức giận, kết hận, oán thù, vô ân và ác độc; người nữ cũng có năm lỗi như vậy, người nữ ác độc chính là có tâm dục nhiễm. Các Thích nữ này liền đến chỗ ni Thổ-lA-nan-đà đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch rằng: "Thánh giả, tâm dục nhiễm thật khó ngăn chận, thường xúc não chúng tôi, không biết phải làm sao?", đáp: "các cô còn trẻ đẹp, hãy xả học xứ tìm một thương nhân trẻ tuổi nào đó có tài sản, sau khi cùng họ hoan lạc thì tâm dục nhiễm sẽ không còn. Nếu tôi còn trẻ, tôi sẽ cùng đi với các cô", họ nghe rồi liền từ giã trở về và nói với nhau: "ni Thổ-la-nan-đà nói như vậy thì chúng ta phải làm thế nào", một người nói: "ni Thổ-la-nan-đà nói cũng đúng", một người nói: "người nữ được xuất gia trong thiện pháp luật của Phật là khó, chúng ta nên đến hỏi ý thánh giả Cù-đáp-di", nói rồi cùng đi đến chỗ Cùđáp-di gầy, đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch rằng: "Thánh giả, tâm dục nhiễm thật khó ngăn chận, thường xúc não chúng tôi, không biết phải làm sao?", đáp: "các cô chớ nói đến dục nhiễm, vì sao, vì vị ngọt của nó thì ít mà nguy hiểm thì nhiều. Như Phật đã day, người trí biết năm lỗi của dục nhiễm thì không nên làm, đó là:

Quán sát vị ngọt của dục thì ít mà lỗi thì nhiều, thương có các khổ.

Khi hành dục thường bị trói buộc.

Người làm việc dâm dục không biết nhàm chán.

Người làm việc dâm dục không việc ác nào mà không làm.

Đối với các cảnh dục, Phật và các Hiền thánh Thanh văn đều dùng vô số phương tiện nói về lỗi lầm của dục, vì thế người trí không làm việc dâm dục.

Lại nữa, người trí thấy năm điều lợi nên cầu xuất gia trong thiện pháp luật: một là ta được tự lợi, người khác không có; hai là tự biết mình thuộc giai cấp hạ tiện bị người sai khiến, sau khi xuất gia trở lại được họ cung kính tán thán, lễ bái cúng dường; ba là sẽ chứng được Niết-bàn vô thượng; bốn là sau khi qua đời sẽ được sanh lên cõi trời; năm là thường được chư Phật, chúng Thanh văn và các bậc thắng nhân khen ngợi. Các cô nên quán năm lợi ích thù thắng này mà quyết tâm cắt bỏ lưới tục để cầu công đức lớn. Các cô muốn nghe những tội lỗi đời trước của tôi hay là phiền não của đời này khi tôi sống theo dục nhiễm?", đáp: "xin nói về việc hiện tại", ni Cù-đáp-di liền tự thuật lại đời mình, các ni này nghe rồi liền dựng cả tóc gáy. Lúc đó Cù-đáp-di quán biết căn tánh tùy miên của họ nói pháp Tứ đế khiến cho họ được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả, họ bạch rằng: "Thánh giả, suýt chút nữa, chúng tôi bị ni Thổ-la-nan-đà đẩy xuống bùn dục, trầm luân mãi trong sanh tử", nói rồi liền kể lại việc trên, Cùđáp-di nghe rồi liền nói: "vị ấy là người ác hạnh làm tổn hoại Phật pháp, biết làm thế nào". Các Bí-sô ni thiểu dục tri túc nghe biết việc này liền chê trách: "tại sao Bí-sô ni lại xúi bảo người khác xả học xứ để hoan lạc với người tục?", liền đem việc này bạch các Bí-sô, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô ni không được xúi bảo người khác xả học xứ, khuyên họ hoàn tục. Nếu ai làm thế thì phạm Tốt-thổ-la để".

Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bí-sô ni trách mắng Bí-sô, Bí-sô xấu hổ nên im lặng, các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô ni không được trách mắng Bí-sô, nếu ai làm trái thì phạm tội Việt pháp. Bí-sô ni cũng không được trách mắng Bí-sô ni, Chánh học nữ, Cầu tịch và Cầu tịch nữ. Ba chúng dưới phải cúi đầu nghe, không được trách mắng năm chúng, nếu làm trái thì phạm tội Việt pháp".

QUYỂN 31

7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ sáu:

Ni không được đi trước, Thấy Tăng đứng dậy chào, Bạch tăng ngồi bán già, Hoàn tục, không gạn hỏi.

Duyên xứ như trên, lúc đó tại trú xứ Đông lâm của Lộc tử mẫu, tôn giả Đại Ca-diếp sáng sớm đắp y mang bát vào thành khất thực, ni Thổ-la-nan-đà cũng vào thành khất thực vừa thấy tôn giả Đại Cadiếp liền suy nghĩ: "ta nên trị kẻ ngu này", nghĩ rồi hễ thấy tôn giả đến nhà nào liền đi đến nhà ấy trước, đứng sau cánh cửa ngõ đợi tôn giả đến liền nói: "Thánh giả xin hãy đi qua vì nhà này chưa có thức ăn nấu chín", tôn giả nghe rồi liền đi qua. Cứ như thế lần lượt trải qua nhiều nhà đều nghe nói như vậy nên tôn giả lấy làm ngạc nhiên. Dù là bậc A-la-hán nhưng nếu không quán sát thì không biết được, tôn giả liền nhập định quán sát, liền biết là ni Thổ-la-nan-đà xúc não mình nên nói với ni rằng: "cô không có lỗi, lỗi là do nơi cụ thọ A-nan đã gắng gượng xin Thế tôn cho hạng phụ nữ ác hạnh như cô xuất gia và cho thọ Cận viên". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "do Bí-sô ni đi trước Bí-sô khất thực nên có lỗi này, từ nay Bí-sô ni không được đi trước Bí-sô khất thực". Sau đó các Bí-sô ni không dám đi trước nên khất thực khó được, bạch Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu gặp Bí-sô khất thực thì Bí-sô ni đi tránh qua chỗ khác".

Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô ni Thổ-lA-nan-đà đang thuyết pháp cho đại chúng, bỗng thấy tôn giả Đại Ca-diếp đi đến, đại chúng đều đứng lên chỉ có ni Thổ-la-nan-đà vẫn ngồi yên. Đại chúng nói: "tôn giả Đại Ca-diếp là bậc mà trời người đều cung kính, thấy tôn giả đến chúng tôi đều đứng dậy, chỉ riêng Thánh giả vẫn ngồi yên là không tốt", đáp: "thầy ấy vốn là môn đồ của ngoại đạo rất ngu độn đến đây xuất gia, ta là Thích nữ xuất gia theo Phật, thông suốt ba tạng, thuyết pháp hay, khế hợp cân lý, hỏi đáp lưu loát, vì sao thấy thầy ấy đến ta phải đứng dậy", đại chúng nghe rồi đều chê trách. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "các trưởng giả Bà-la-môn chê trách đúng, từ nay Bí-sô ni thấy Bí-sô đến phải đứng dậy, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp". Sau đó Bí-sô ni Liên hoa sắc đang thuyết pháp cho đại chúng, tôn giả A-nan nhân đi khất thực ghe qua trú xứ của ni, Liên hoa sắc thấy tôn giả đến liền đứng dậy chào, A-nan đến tòa ngồi rồi hỏi đang thuyết pháp gì, đáp là đang thuyết kinh---, tôn giả liền nói nghĩa lý của kinh ấy cho đại chúng nghe, Liên hoa sắc đứng một bên nhất tâm lắng nghe. Vì mãi mê thuyết pháp nên tôn giả không bảo Bí-sô ni ngồi, Liên hoa sắc vì đứng lâu mỏi mệt lại thêm bị nắng chiếu vào người nên ngất ngã xuống đất. Người không có tín tâm thấy vậy liền chê trách: "tôi nghe Bí-sô ni Liên hoa sắc không còn dục nhiễm, vậy mà nay thấy tôn giả tướng mạo đoan nghiêm nên sanh niệm khác, bị lửa dục đốt tâm nên mới ngất ngã xuống đất", các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "các trưởng giả Bà-la-môn chê trách đúng, từ nay khi Bí-sô đến chỗ Bí-sô ni thuyết pháp nên bảo họ ngồi. Nếu Bí-sô thuyết pháp mà quên bảo ngồi thì Bí-sô ni nên bạch rồi tùy chỗ mà ngồi".

Duyên xứ như trên, lúc đó Phật bảo các Bí-sô: "nay ta nói thí dụ, nhờ thí dụ này các thầy có thể hiểu nghĩa, hãy lắng nghe: nói mặt trời mọc là ý nói Như lai ra đời như mặt trời mọc chiếu ra ánh sáng rực rỡ; nói chim chóc hót vang là ý nói người thuyết pháp phải cân nhắc nghĩa lý; nói nông phu canh tác là ý nói đàn na tín thí gieo trồng thiện căn trên ruộng phước trí của các đệ tử ta; nói giặc đều tứ tán là ý nói ma quân và ngoại đạo đều chạy trốn. Như vậy này các Bí-sô, Như lai đại sư đối với các đệ tử Thanh văn điều gì nên làm thì bảo nên làm, đều là phát xuất từ tâm từ bi thương xót muốn làm cho được lợi ích. Việc nên làm ta đã làm xong, điều mà các thầy nên làm là hãy tự hành trì, nên xa lìa nơi ồn náo, ở nơi yên tĩnh hoặc ở dưới gốc cây trong rừng, hoặc trong phòng, hoặc trên sườn núi hoặc trong hang động, hoặc trong bãi tha ma, trong rừng thây chết, tùy nghi dùng ngọa cụ lót thân để chuyên tu thiền quán, chớ có buông lung mà sau này hối hận. Đây là lời giáo giới của ta", các Bí-sô vâng lời Phật dạy đến những nơi ấy để nhất tâm thiền quán. Lúc đó các Bí-sô ni cũng đến trong rừng cây, tùy nghi dùng ngọa cụ lót thân rồi kiết già thiền định tư duy, bị trùng chui vào trong đường tiểu tiện làm cho đau đớn, bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô ni không nên ngồi kiết già, chỉ nên ngồi bán già".

Duyên xứ như trên, lúc đó cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: "Thế tôn, nếu Bí-sô ni xả giới hoàn tục rồi cầu xuất gia lại thì có được xuất gia và thọ Cận viên không?", Phật nói: "Bí-sô ni đã xả giới hoàn tục thì không được xuất gia lại".

Duyên xứ như trên, cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: "Thế tôn trước đây đã chế ngăn Bí-sô ni không được gạn hỏi lỗi lầm của Bí-sô về phá giới, phá kiến, phá oai nghi và phá chánh mạng. Có trường hợp nào Bí-sô ni được gạn hỏi như thế hay không?", Phật nói: "không có trường hợp nào Bí-sô ni được gạn hỏi lỗi lầm của Bí-sô".

8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ sáu:

Được cho thức ăn dư,
Và được cho lẫn nhau,
Không được hỏi việc kín,
Ni thọ giới được ngồi.

Duyên xứ như trên, lúc đó có một trưởng giả rất giàu có, cưới vợ đã lâu nhưng không có con, về sai tài sản bị tiêu tán hết nên ông nói với vợ: "nay ta đã già không thể kiếm ra tiền, ta muốn đến trong rừng Thệ đa cầu xuất gia", vợ nói: "nếu ông xuất gia thì tôi cũng xuất gia", người chồng liền cùng vợ đi đến chỗ Đại thế chủ, đảnh lễ rồi bạch rằng: "Thánh giả, đây là vợ con muốn được xuất gia trong pháp luật thiện thuyết, xin Thánh giả thương xót nhiếp thọ. Con cũng đến trong rừng Thệ đa cầu xuất gia", đáp: "vợ chồng ông nếu có thể phát được tâm thắng diệu này mà cùng xuất gia thì như Phật nói xuất gia có năm lợi thù thắng… Hãy đến đây ta sẽ cho xuất gia", nói rồi liền cho người vợ kia xuất gia, người chồng cũng đi đến trong rừng Thệ đa cầu xuất gia. Lúc đó trong thành nghe biết việc này rồi liền nói với nhau: "trưởng giả có phước nên nay đã xuất gia", nói rồi đem nhiều tài vật đến cúng dường. Sau đó Bí-sô này khi vào thành khất thực gặp lại người vợ cũ nay là Bí-sô ni cũng đang khất thực, liền hỏi thăm nếp sống như thế nào, đáp: "hiện nay thời thế mất mùa đói kém nên khất thực khó được, rất khổ cực", Bí-sô nói: "tôi được cúng dường nhiều thức ăn uống, nếu Phật khai cho thì tôi sẽ chia cho Bí-sô ni một nửa", Bí-sô ni trở về trú xứ đem việc này bạch lại Ni chúng, Ni chúng bạch các Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu Bí-sô thấy Bí-sô ni trong thời buổi mất mùa đói kém khất thực khó được như vậy thì nên chia sớt cho họ". Sau đó Bí-sô kia thường sớt bớt nửa phần ăn cho Bí-sô ni và Bí-sô ni ấy thường đến nhận, một hôm do khất thực được thức ăn nên không đến, Bí-sô thấy không đến nên hôm sau không sớt để dành cho, Bí-sô ni đến nhận thì không có thức ăn, Bí-sô nói: "hôm qua cô không đến lấy nên nay tôi không sớt để dành, tuy cũng có thức ăn nhưng đã là thức ăn cách đêm ác xúc, không thể thọ dụng được". Phật nói: "thức ăn cách đêm của Bí-sô, Bí-sô ni được thọ dụng; thức ăn cách đêm của Bí-sô ni, Bí-sô cũng được thọ dụng".

Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô ở trong Tăng hỏi Bí-sô ni về việc kín thuộc giới không đồng với Tăng, ni xấu hổ cúi đầu. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô không nên hỏi Bí-sô ni về việc kín, Bí-sô ni được hỏi Bí-sô ni. Bí-sô nào làm trái thì phạm tội Việt pháp". sau đó lại có Bí-sô hỏi về việc kín thuộc đồng giới với Tăng, ni cũng xấu hổ cúi đầu. Phật nói: "nên bảo ni khác hỏi ni này, sau khi ni này phát lồ rồi, ni kia sẽ bạch lại Bí-sô, do không đối diện nói nên ít bị xấu hổ".

Duyên xứ như trên, lúc đó cụ thọ Xá-lợi-phất sau khi truyền thọ Cận viên cho Bí-sô ni rồi nói kệ:

"Người trong pháp tối thắng,
Đầy đủ thọ Thi la,
Chí tâm thường phụng trì,
Khó được thân không chướng,
Thân đoan nghiêm xuất gia,
Thanh tịnh thọ Cận viên,
Nói ra lời chân thật,
Đấng chánh giác đều biết".

Nói xong liền bảo Bí-sô ni đi ra, lúc đó do ngồi lâu nên nguyệt kỳ xuất ra, ni này xấu hổ không dám đứng dậy. Tôn giả quán biết việc này rồi liền đứng dậy bỏ đi. Ni khác trách ni này: "vì sao cô vừa thọ Cận viên, chưa rời khỏi đàn tràng đã xúc não Thân giáo sư, bảo đi ra lại không tuân theo vậy?", đáp: "vị ấy là bậc đại nhân đã quán biết việc xấu của em, vì em ngồi xổm quá lâu nên nguyệt kỳ xuất ra, vì thế em không dám đứng dậy". Phật nói: "từ nay, khi truyền thọ Cận viên cho ni chớ để họ ngồi xổm, nên bảo ngồi trên nệm nhỏ hay trên tòa cỏ vì thân ni yếu đuối".

9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ sáu:

Bí-sô dư ngọa cụ,
Nên cho Bí-sô ni,
Ni không đạp cầu ván,
Không dùng vật bó thân.

Duyên xứ như trên, lúc đó Đại thế chủ cùng năm trăm ni du hóa trong nhân gian, khi đến rừng Thệ đa thì trời sụp tối, Đại thế chủ nói: "trời đã sụp tối không thể vào thành kịp, chúng ta nên tùy nghi nghỉ đêm, chờ đến sáng mới vào thành", nói rồi cùng ngủ ngoài đất trống nên y phục đều bị dơ. Sáng hôm sau, họ suy nghĩ: "nếu bây giờ không đến đảnh lễ đại sư thì vào thành rồi cũng phải trở lại", nghĩ rồi nên đến đảnh lễ Phật, Phật thấy y phục của họ đều bị dơ, tuy biết nhưng vẫn hỏi Đại thế chủ nguyên do, Đại thế chủ đem việc trên bạch Phật, Phật bảo A-nan: "ngọa cụ dư của Bí-sô có đưa cho chư ni không?", đáp là không đưa, Phật nói: "từ nay ngọa cụ dư mà Bí-sô đã thọ dụng rồi nên đưa cho Bí-sô ni". Sau đó các Bí-sô đưa cho ni ngọa cụ tốt, giữ lại ngọa cụ xấu; Phật nói: "nên giữ lại ngọa cụ tốt, đưa cho Bí-sô ni ngọa cụ thô xấu; nếu cần thức ăn cũng nên đưa cho".

Duyên xứ như trên, lúc đó cụ thọ Đại Ca-diếp đắp y mang bát vào thành khất thực, ni Thổ-lA-nan-đà trên đường trở về trú xứ, thấy tôn giả đang đi trên cầu ván để qua sông, cô liền suy nghĩ: "hãy trị kẻ ngu này", nghĩ rồi liền bước lên cầu dùng sức đạp ván khiến cho rớt xuống sông, tôn giả rơi xuống sông ướt hết y phục, bát và tích trượng bị nước cuốn trôi. Tôn giả nói: "cô không có lỗi, lỗi là do nơi cụ thọ A-nan đã gắng gượng xin Thế tôn cho hạng phụ nữ ác hạnh như cô xuất gia và cho thọ Cận viên", các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "do Bí-sô ni nên có lỗi này, từ nay Bí-sô ni không được đi chung trên cầu với Bí-sô, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp". Sau đó các Bí-sô ni gặp cầu lớn vững chắc cũng không dám đi chung, Phật nói: "nếu cầu lớn vững chắc thì đi chung không phạm".

Duyên xứ như trên, lúc đó ni Thổ la-nan-đà sáng sớm đắp y mang bát vào thành khất thực, theo thứ lớp đến chỗ phu nhân Thắng man, phu nhân chào hỏi thiện lai rồi mời ngồi. Thổ la-nanđà hỏi: "phu nhân làm thế nào mà mông to eo nhỏ?", đáp: "Thánh giả cần gì hỏi việc này, tôi chỉ dùng vật bó eo lại nên mông to ra, muốn cho vui lòng vua", Thổ la-nan-đà nói: "vì vậy nên vua mới yêu mến", Thắng man im lặng. Thổ la-nan-đà trở về trú xứ cũng dùng vật bó eo, các ni thấy liền nói: "ni đâu nên dùng vật phi pháp này", bạch Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "vật phi pháp này ai dùng thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, ni Thổ la-nan-đà thấy ngực phu nhân tròn đầy nên hỏi như trước, phu nhân nói: "nhờ mặc áo nịt ngực", Thổ la-nan-đà trở về trú xứ cũng dùng vật này, Phật nói: "không được dùng, ai dùng thì phạm tội Việt pháp".

10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ sáu:

Không làm văng nước dơ,
Không đem bỏ thai chết,
Không nuốt tinh bất tịnh,
Được tiếp xúc con mình.

Duyên xứ như trên, lúc đó ni Thổ-la-nan-đà vào thành khất thực thấy tôn giả Đại Ca-diếp cũng khất thực và đang đi bên cạnh vũng nước, cô liền cầm cục đá lớn ném vào vũng nước làm cho nước dơ văng lên dính y của tôn giả. Tôn giả nói: "cô không có lỗi, lỗi là do nơi cụ thọ A-nan đã gắng gượng xin Thế tôn cho hạng phụ nữ ác hạnh như cô xuất gia và cho thọ Cận viên", các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô ni không được làm văng nước dơ làm dơ y Bí-sô, ai làm thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó có một trưởng giả giàu có, cưới vợ chưa bao lâu liền mang hàng hóa đến phương khác mua bán, người vợ ở nhà do tâm dục hừng thạnh nên tư thông với người ngoài có thai, thai được vài tháng cô liền suy nghĩ: "ta nên phá thai, nếu không phá thì ngày trở về chồng sẽ giết ta", nghĩ rồi liền uống thuốc trục thai, sau đó không biết đem bỏ ở đâu nên buồn rầu lo lắng.

Vừa lúc đó ni Thổ-la-nan-đà đến nhà khất thực, người vợ ở trong nhà nói: "Thánh giả hãy đi đi, tôi đang buồn khổ nên không thể đưa thức ăn cho cô được", ni này liền hỏi rõ nguyên do rồi nói: "nếu ta đem bỏ giúp cho cô thì cô có thể thường xuyên cúng thức ăn cho ta không?", đáp là sẽ cúng, lại hỏi: "có cúng luôn cho thị giả và tri sự của ta không?", đáp là sẽ cúng hết. Ni này đựng thai chết trong cái bát lớn rồi đem đến chỗ vắng để vất bỏ, không ngờ nơi đó lại có nhóm thanh niên đang tụ tập, trông thấy liền hỏi muốn làm gì, ni đáp: "là do đàn ông vô lại các người tư thông với vợ của người nên có tội lỗi này rồi nhờ ta vất bỏ", nhóm thanh niên này nghe vậy liền trách mắng rồi bỏ đi, trên đường gặp các ni khác liền nói: "ni Thổ-la-nanđà đang làm nghiệp ác là vất bỏ thai nhi", các ni im lặng rồi đem việc này bạch Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "do ni dùng bát lớn nên có lỗi này, ni Thổ-la-nan-đà đã làm trái hạnh Sa môn, từ nay Bí-sô ni không được làm việc phi pháp như thế và không được dùng bát lớn. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp ". Lúc đó các ni không biết nên dùng bát cỡ nào, Phật nói: "bát nhỏ của Bí-sô là bát lớn của Bí-sô ni".

Duyên xứ như trên, lúc đó ni Cấp đa sau khi nuốt tinh bất tịnh vào miệng và để vào hạ căn, do nghiệp báo của chúng sanh bất tư nghì nên cô có thai và sanh ra đồng tử Ca nhiếp ba. Sanh xong cô không dám bồng bế nên đứa trẻ khóc lớn, mọi người hỏi nguyên do, ni khác nói: "Phật chế không được tiếp xúc với nam giới nên cô ấy không dám ẵm bồng", mọi người nói: "Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho ẵm bồng, nếu mẹ không ẵm bồng thì nó làm sao sống", ni bạch Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "được ẵm bồng con mình để nuôi dưỡng thì không có lỗi". Sau đó các ni chuyền tay nhau ẵm bồng đứa bé khiến cho nó gầy ốm, Phật nói: "Bí-sô ni không được ẵm bồng con nhỏ của người khác, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

VII. TỔNG NHIẾP TỤNG BIỆT MÔN THỨ BẢY:

Ni Cấp đa, không ở,
Tăng khước kỳ, nhị hình,
Âm đạo nhỏ, yết ma,
Bán rượu, ni chuyển căn,
Ngoài chùa, không dùng xương,
Tụng thứ bảy nên biết.

1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ bảy:

Cấp đa ngủ với con,
Dược xoa thành Vương xá,
Cho trẻ, vải quàng cổ,
Kêu tên và cho ăn.

Duyên xứ như trên, do Phật chế ni không được ngủ cùng phòng với người nam nên ban đêm ni Cấp đa đưa con ra ngủ ở bên ngoài khiến nó khóc lớn. Mọi người hỏi rõ nguyên do rồi nói: "Thế tôn đại bi ắt sẽ khai cho ngủ với con nhỏ, nếu nó không ngủ chung với mẹ thì sẽ bịnh", bạch Phật, Phật nói: "ni Cấp đa nên theo Ni tăng xin yết ma được ngủ đêm cùng phòng với con. Tác pháp xin như sau: trải tòa, đánh kiền chùy, sau khi Ni chúng tập họp, ni Cấp đa chắp tay quỳ trước Thượng tòa ni bạch:

Đại đức ni tăng lắng nghe, con là Bí-sô ni Cấp đa sanh con trai, muốn ngủ đêm cùng phòng với con. Nay theo Ni tăng xin yết ma được ngủ đêm cùng phòng với con, cúi xin Ni tăng cho con được ngủ đêm cùng phòng với con. Xin thương xót (ba lần).

Ni tăng bảo Cấp đa đến chỗ chỉ thấy không nghe rồi sai một Bí-sô ni tác bạch nhị yết ma cho như sau: Đại đức ni tăng lắng nghe, Bí-sô ni Cấp đa này sanh con trai, nay theo Ni tăng xin yết ma được ngủ đêm cùng phòng với con. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, nay Tăng tác yết ma cho Cấp đa được ngủ đêm cùng phòng với con. Bạch như vậy.

Đại đức ni tăng lắng nghe, Bí-sô ni Cấp đa này sanh con trai, nay theo Ni tăng xin yết ma được ngủ đêm cùng phòng với con. Nay Tăng tác yết ma cho Cấp đa được ngủ đêm cùng phòng với con, vị nào chấp thuận cho Cấp đa được ngủ đêm cùng phòng với con thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói. Tăng đã chấp thuận cho Cấp đa được ngủ đêm cùng phòng với con xong rồi. Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy.

Sau khi được Tăng yết ma cho rồi thì được ngủ đêm cùng phòng với con không phạm". Lúc đó bạn của Cấp đa cũng ngủ chung phòng, Phật nói: "Ni có con được ngủ với con mình, ni khác thì không được, nếu ngủ thì phạm tội Việt pháp". Thời gian sau con đã lớn, Cấp đa vẫn ngủ chung phòng, các ni bạch Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nếu con đã lớn thì không được ngủ chung phòng".

Phật tại Trúc lâm thành Vương xá, lúc đó có thần Dược xoa tên Sa đa ở bên sườn núi trong thành này, nhờ vị thần này ủng hộ nên từ vua cho đến dân trong nước đều được an lạc, mưa thuận gió hòa, ruộng lúa được mùa, thức ăn dễ được; do nhân duyên này nên các Sa môn, Bà-la-môn… từ các nơi khác đều đến nước này. Lúc đó tại nước Kiện-đà-la ở phương Bắc cũng có một Dược xoa tên là Bán-già-la thưởng ủng hộ nước này làm cho được an lạc và thịnh vượng, không khác gì nước Ma-kiệt-đà. Dược xoa Bán-già-la lấy vợ đồng loại, Dược xoa Sa đa cũng lấy vợ thuộc đồng loại, nhân dự đại hội do Dược xoa phương khác tổ chức, hai Dược xoa này gặp nhau, do mến mộ nhau nên kết làm bạn thân. Khi từ biệt nhau để trở về trú xứ, Dược xoa Sa đa gửi biếu Dược xoa Bángià-la hoa quả thơm ngon ở nước Ma-kiệt-đà; Dược xoa Bán-già-la cũng gửi biếu lại hoa quả thơm ngon ở phương Bắc. Nhiều lần như vậy nên thân tình ngày càng tốt đẹp hơn, một hôm sau khi gặp lại nhau, Dược xoa Sa đa nói: "làm cách gì để sau khi chúng ta qua đời, con cháu của chúng ta vẫn thân thiết không xa lìa?", Bán-già-la nói:

"lành thay, từ nay chúng ta chỉ bụng kết thân, hai nhà chúng ta nếu sanh nam nữ thì kết thông gia với nhau", Sa đa nói: "ý tôi cũng như vậy". Không bao lâu sau vợ của Sa đa có thai, đủ tháng sanh một gái rất xinh đẹp, quyến thuộc đều vui mừng nên đặt tên cho con là Hoan hỉ. Bán-già-la nghe tin vui mừng suy nghĩ: "vợ Sa đa đã sanh con gái thì vợ ta nên sanh trai, ta nên gửi y phục và chuỗi ngọc cho con dâu của ta", nghĩ rồi liền y phục và chuỗi ngọc cùng thư sang chúc mừng. Không bao lâu sau đó, vợ của Bán-già-la cũng mang thai, đủ tháng sanh một trai đặt tên là Bán chi ca. Sa đa nghe tin suy nghĩ: "vợ của bạn ta đã sanh trai, ta nên gửi y phục và chuỗi ngọc cho con rễ ta", nghĩ rồi liền gửi y phục và chuỗi ngọc cùng thư sang chúc mừng. Bán-già-la hồi âm viết: "trước đây đã hứa kết thân, nay đã toại nguyện, đợi khi chúng lớn khôn sẽ tính chuyện hôn nhân". Sau đó vợ của Sa Đa-lại có thai, lúc đó các núi phát ra tiếng vang như voi rống, đến khi đủ tháng sanh ra, núi cũng phát ra tiếng vang nên được đặt tên là Sa đa sơn. Đến khi hai chị em trưởng thành thì Sa đa qua đời, người em trai lên làm gia chủ, người chị nói: "chị muốn đến trong thành Vương xá bắt trẻ con mới sanh ăn thịt", người em nói: "cha chúng ta khi còn sống đã thường ủng hộ cho người trong nước này được an lạc, không có buồn khổ, nay chúng ta nên nối tiếp hộ trì, nếu có kẻ khác đến làm hại, chúng ta còn phải ngăn cản họ, sao chị lại sanh niệm ác này, hãy bỏ niệm ác này đi". Do lực của lời nguyền ác đời trước nên không bao lâu sau đó người chị lại nói với em như lần trước. Người em biết ý chị đã quyết nên suy nghĩ: "sức ta không thể ngăn được niệm ác này của chị, nhưng cha khi còn sống đã hứa gả chị, ta nên thực hiện lời hứa này", nghĩ rồi liền gửi thư cho Dược xoa Bán-già-la nhắc lại việc kết thân. Dược xoa Bán-già-la liền đưa nhiều lễ vật đến để rước dâu, về sống với chồng được một thời gian, Hoan hỉ liền nói với chồng: "em muốn đến trong thành Vương xá bắt trẻ con mới sanh ăn thịt", người chồng nói: "đó là trú xứ mà gia tộc em hộ trì, nếu kẻ khác đến làm hại còn phải ngăn cản, sao em lại muốn làm việc tàn bạo này, đừng nói như thế nữa", người vợ trong lòng không vui nhưng im lặng. Thời gian sau Hoan hỉ lần lượt sanh năm trăm con trai, đứa út tên là Yêu thương, Hoan hỉ lại khởi niệm ác như trước, người chồng khuyên can không được, biết vợ đã quyết ý nên không nói nữa. Hoan hỉ liền vào trong thành Vương xá lần lượt bắt các trẻ mới sanh ăn thịt, dân trong thành mất con liền đem việc này tâu vua, vua ra lịnh quân binh canh gác hộ vệ khắp nơi trong thành, sáng ra quân binh cũng bị bắt mất vài người, cho đến phụ nữ có thai cũng bị bắt, không biết đi đâu, nỗi kinh hoàng lan khắp trong thành Vương xá. Quần thần đem việc này tâu vua, vua kinh sợ triệu bốc sư đến hỏi, đáp: "nạn khủng bố này là do Dược xoa gây ra, nên lo liệu đầy đủ thức ăn thơm ngon cúng tế", vua nghe theo lời bốc sư, ra lịnh dân trong thành thành tâm cúng tế; tuy đã cúng tế như vậy nhưng tai họa vẫn không hết, họ lo buồn khổ não không biết phải làm sao. Lúc đó thiên thần thủ hộ thành Vương xá báo mộng cho họ biết là do nữ Dược xoa Hoan hỉ gây ra họa này, chỉ có Thế tôn mới có thể trừ diệt được. Mọi người nói: "nữ Dược xoa này ăn thịt con cháu chúng ta phải gọi là ác tặc, sao lại gọi là Hoan hỉ", nhân đó họ gọi là nữ Dược xoa Ha lị để. Sau đó họ đến chỗ Phật đảnh lễ rồi chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, nữ Dược xoa Ha lị để đã làm việc bất lợi cho dân chúng trong thành Vương xá, tất cả trẻ con mới sanh đều bị nó bắt ăn thịt. Trước đây chúng con không có niệm ác với nó, nhưng nó lại có tâm độc hại với chúng con, cúi xin Thế tôn thương xót điều phục nữ Dược xoa này", Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời, họ đảnh lễ Phật rồi ra về.

Sáng hôm sau, Phật đắp y mang bát vào thành khất thực, sau khi thọ thực xong Phật đi đến chỗ ở của nữ Dược xoa, Ha lị để đi vắng, Phật liền dùng cái bát úp lên đứa con út tên Yêu thương, do thần lực của Phật nên em thấy anh mà anh không thấy được em. Khi về đến nhà, Ha lị để tìm không thấy Yêu thương đâu, hỏi các con thì chúng đều đáp là không thấy. Nữ Dược xoa này đau khổ, mê loạn chạy khắp nơi trong thành Vương xá tìm kiếm vẫn không tìm được; liền chạy khắp bốn phương trong châu Thiệm bộ cũng không thấy; chạy đến các cõi Tây Câu da ni, Đông Tỳ đề ha, Bắc Cu lô châu cũng không tìm thấy; chạy xuống các địa ngục như Đẳng hoạt, Hắc thằng… cũng tìm không thấy; chạy lên các cõi trời như cõi trời Tứ thiên vương, cõi trời Đao lợi… muốn vào trong cung Tối thắng của vua trời Đế thích liền bị thần Kim cương và vô lượng Dược xoa ở đó đuổi ra. Cuối cùng bà đến chỗ thiên vương Đa văn gào khóc, thiên vương nói: "chị không nên đau khổ gào khóc như vậy, chị hãy xem lại gần chỗ chị, ai thường qua lại chỗ ấy?", đáp: "thấy có Sa môn Kiều-đáp-ma thường náu lại nơi đó", thiên vương nói: "nếu vậy, chị nên đến quy y Thế tôn thì có thể gặp lại con của chị". Dược xoa nghe rồi vui mừng trở về trú xứ, đi đến chỗ Phật, từ xa thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời, tâm liền sanh kính ngưỡng không còn buồn khổ nữa. Bà đến đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên bạch Phật: "con biệt ly với bé Yêu thương đã lâu, cúi xin Thế tôn cho con được gặp", Phật hỏi: "ngươi có bao nhiêu đứa con?", đáp là năm trăm, Phật nói: "ngươi có năm trăm con, mất đi một đứa thì có gì là khổ", Ha lị để nói: "Thế tôn, nếu hôm nay con gặp bé Yêu thương thì con sẽ hộc máu mà chết", Phật nói: "có đến năm trăm con, không thấy một đứa mà khổ đến như vậy, huống chi dân chúng trong thành này, họ chỉ có một đứa con, ngươi bắt ăn thịt thì họ còn khổ đến mức nào", Ha lị để nói: "họ còn khổ hơn con gấp bội", Phật nói: "ngươi đã biết nỗi khổ ái biệt ly, sao lại ăn thịt con mới sanh của họ. Nếu người chịu thọ Phật giới, từ nay đem lại an ổn cho dân chúng thành Vương xá thì ngay nơi chỗ ngồi, ngươi sẽ gặp lại bé Yêu thương", Ha lị để nói: "con xin tuân theo lời Phật dạy, từ nay sẽ đem lại an ổn cho dân chúng trong thành Vương xá", Phật nghe rồi liền làm cho Ha lị để được gặp lại con. Sau khi Ha lị để quy y thọ Phật giới, dân chúng trong thành Vương xá được an ổn không còn lo buồn nữa, Ha lị để bạch Phật: "thọ Tam quy ngũ giới rồi từ nay con và các con ăn gì?", Phật nói: "ngươi không phải lo, các đệ tử Thanh văn trong châu Thiệm bộ mỗi khi ăn đều có thí thực cho chúng sanh. Ở cuối chỗ thọ thực có để một mâm thức ăn, các đệ tử ta sẽ gọi tên ngươi và các con khiến cho được no đủ, không bị khổ về đói khát; không những vậy, các đệ tử ta còn vận tâm đến các chúng sanh khác và các quỷ thần ở sông núi biển trong hiện tại đều được no đủ. Lại nữa, này Ha lị để, từ nay cho đến khi nào giáo pháp của ta chưa diệt hết thì ngươi và các con phải thường ủng hộ trú xứ của Tăng ni khắp trong châu Thiệm bộ, khiến cho không bị tổn hai và được an lạc", Ha lị để nghe Phật dạy rồi cùng các con và chúng Dược xoa có mặt đều hoan hỉ phụng hành. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: "Ha lị để đời trước đã tạo nghiệp gì mà sanh năm trăm con, lại hút tinh khí của người và ăn thịt trẻ con mới sanh trong thành Vương xá?", Phật nói: "nghiệp mà nữ Dược xoa này và dân chúng trong thành Vương xá đã tạo nay phải chịu quả báo. Các thầy lắng nghe:

Quá khứ trong thành Vương xá, có người chăn bò cưới vợ chưa bao lâu thì vợ có thai. Thuở đó không có Phật, chỉ có Phật Bích chi ra đời thích nơi tịch tĩnh, thọ dụng ngọa cụ tùy nghi, thường thương xót người nghèo khổ, là phước điền bậc nhất. Khi vị này du hành đến trong thành Vương xá, lúc đó có năm trăm người tụ họp trong vườn hoa mở tiệc vui chơi, họ thấy vợ của người chăn bò đang bưng bình sữa lạc liền kêu gọi: "cô hãy đến cùng vui chơi nhảy múa với chúng tôi", vợ của người chăn bò sanh tâm tham muốn liền đến cùng vui chơi nhảy múa với họ và đổi sữa lạc lấy trái câu thơm ngon. Sau đó do quá mệt nhọc nên bị sẩy thai nên ngồi buồn rầu, bỗng thấy vị Độc giác từ xa đi đến với oai nghi tịch tĩnh, liền sanh tâm kính ngưỡng, đảnh lễ và dâng cúng trái cây thơm ngon. Thường pháp của vị Độc giác là dùng thân giáo hóa chứ không thuyết pháp, lúc đó vì muốn làm lợi ích nên vị Độc giác như con thiên nga bay lên hư không, ở trên hư không hiện các thần biến: trên thân phóng lửa, dưới thân phun nước… rồi hạ xuống đất. Thường tình hễ phàm phu nhìn thấy thần biến này liền như cây đại thọ sụp đổ, vợ người chăn bò liền quỳ mọp xuống và phát nguyện: "nguyện đem công đức cúng dường bậc chân thật phước điền này, ở đời vị lai con sẽ sanh trong thành Vương xá và sẽ ăn thịt các trẻ mới sanh trong thành này".

Này các Bí-sô, vợ người chăn bò thuở xưa chính là Ha lị để ngày nay, do lực phát nguyện ác ngày xưa nên nay có quả báo này. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập chớ có buông lung", nghe Phật dạy rồi, các Bí-sô đều hoan hỉ tín thọ phụng hành.

Duyên xứ như trên, Ha lị để sau khi thọ Tam quy ngũ giới thì thường bị các Dược xoa khác làm hại, vì thế bà đem các con thí cho Tăng. Khi các Bí-sô đi khất thực, chúng hóa ra trẻ con đi theo sau, các phụ nữ trong thành thấy chúng sanh yêu mến muốn đến bồng bế thì chúng liền biến mất, liền hỏi Bí-sô chúng là ai, đáp là con của Ha lị để, họ nói: "là con của oan gia Dược xoa ác độc hay sao?, Bí-sô nói: "bà ấy đã bỏ tâm ác, do thường bị các Dược xoa khác làm hại nên đem các con thí cho Tăng". Các phụ nữ này nghe rồi liền suy nghĩ: "nữ Dược xoa đã bỏ tâm ác còn đưa con mình thí cho Tăng, ta cũng nên đem con thí cho Tăng", nghĩ rồi liền đem con đến thí cho Tăng, các Bí-sô không thọ, họ nói: "con của nữ Dược xoa ác độc, các thầy còn thọ nhận, vì sao lại không thọ nhận con của chúng con?", bạch Phật, Phật nói nên thọ. Sau đó không coi giữ được để chúng tự do rong chơi khắp nơi, bạch Phật, Phật nói: "nếu đem đến cho một bé rai, Bí-sô nhận rồi nên dùng một miếng ca sa cũ quàng vào cổ để coi giữ; nếu đem đến nhiều thì thượng trung hạ tòa trong Tăng tùy ý nhận và làm như trên để coi giữ". Sau đó cha mẹ chúng đem tài vật đến để chuộc chúng về, Bí-sô không nhận, Phật nói nên nhận; thời gian sau, chúng có tâm mến mộ đem y vật đến cúng để báo ân, Bí-sô không nhận, Phật nói nên nhận. Lúc đó Lục chúng Bí-sô nghe Phật cho nhận tài vật chuộc lại con, liền theo cha mẹ chúng đòi trả cho đủ, Phật nói: "không được ra giá để đòi, nên tùy ý họ đưa bao nhiêu, biết đủ nhận lấy bấy nhiêu".

Duyên xứ như trên, sau khi nữ Dược xoa Ha lị để đem con cho Tăng, ban đêm chúng đói nên khóc đến sáng, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "sáng sớm nên đem thức ăn uống đến kêu tên cúng tế cho chúng", lúc đó có đứa đòi ăn vào giờ thọ trai, Phật nói nên cho; lại có đứa đòi ăn vào phi thời, Phật nói nên cho; lại có đứa đòi ăn thức ăn dư trong bát của Bí-sô, Phật nói nên cho; lại có đứa đòi ăn thức ăn bất tịnh, Phật nói nên cho.

QUYỂN 32

2. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn thứ bảy:

Ni không ở Lan nhã,
Không ở chùa ngoài thành,
Không đứng ngóng trước cửa,
Không nhìn qua cửa sổ.

Phật tại Trúc lâm, thành Vương xá, lúc đó trong thành có một dâm nữ tên là Liên hoa sắc hành nghề bán sắc, có một Bà-la-môn đến muốn cùng cô hoan lạc, cô hỏi có tiền không, đáp là không có, cô nói: "hãy đi kiếm tiền, có tiền rồi hãy đến", đáp là sẽ đi kiếm tiền. Bà-la-môn này sau một thời gian đến phương Nam kiếm được năm trăm tiền vàng, liền trở lại tìm Liên hoa sắc. Lúc này Liên hoa sắc nhờ bậc thiện tri thức là tôn giả Đại Mục-kiền-liên khai ngộ nên đã xuất gia thọ Cận viên và được chứng quả A-la-hán. Hôm đó cô rời thành Vương xá đi đến thành Thất-la-phiệt, lúc đó Phật chưa chế ngăn Bí-sô ni trú nơi A-lan-nhã nên Liên hoa sắc đến trong rừng tối để thiền định, thọ giải thoát lạc. Khi Bà-la-môn đến trong thành Vương xá tìm Liên hoa sắc thì được biết cô đã xuất gia trong Phật pháp và đã đi đến thành Thất-laphiệt, anh liền đến trong rừng Thệ đa hỏi, Bí-sô nói: "cô ấy đã từ bỏ việc phi pháp, đã xuất gia hiện đang thiền định trong rừng tối". Bà-la-môn này liền đến trong rừng tối, gặp Liên hoa sắc liền nhắc lại lời giao ước trước đây, Liên hoa sắc nói: "này Bà-la-môn, nay tôi đã vất bỏ nghiệp ác, ông hãy đi đi", đáp: "tuy nàng bỏ ta nhưng ta không bỏ nàng, hãy đến đây với ta", Liên hoa sắc hỏi: "ông yêu mến chỗ nào trên thân thể tôi?", đáp là yêu đôi mắt, Liên hoa sắc liền dùng thần lực móc tròng mắt ra đưa cho Bà-la-môn, Bà-la-môn suy nghĩ: "nữ Sa môn trọc đầu này có thể làm yêu thuật", nghĩ rồi liền cú vào đầu Liên hoa sắc rồi bỏ đi. Liên hoa sắc trở về trú xứ kể lại việc trên cho Ni chúng nghe, Ni chúng bạch Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "do Bí-sô ni trú trong A-lan-nhã nên có lỗi này, từ nay Bí-sô ni không được thiền quán trong rừng tối và ngoài đồng hoang vắng. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, sau đó các Bí-sô ni ngồi nơi ngã tư đường thiền quán cũng bị lỗi như trên, Phật nói: "ni nên thiền quán ở trong chùa". Sau đó có người tục tín tâm xây cất chùa ngoài thành cho chư ni ở, lại bị giặc và kẻ ác đến quấy nhiễu, Phật nói: "không nên làm chùa ni ở ngoài thành, nên làm ở trong thành".

Duyên xứ như trên, lúc đó ni Thổ-la-nan-đà đứng trước cửa chùa ngóng trông để trêu chọc người qua lại, bị chê trách, Phật nói: "ni đứng trước cửa chùa nên có lỗi này, từ nay Bí-sô ni không được đứng trước cửa chùa, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, sau khi Phật chế ngăn không được đứng trước cửa chùa, ni kia liền đứng bên trong cửa sổ nhìn ra trêu chọc, bị chê trách như trước, Phật nói: "cũng như trước, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ bảy:

Cho mặc Tăng khước kỳ,
Không tắm chỗ nam tắm,
Không qua ngã tư đường,
Phải đi một bên lề.

Duyên xứ như trên, lúc đó ở trong chùa, khi các ni chấp tác mặc cả năm y nên thấy nóng bức và mệt nhọc, bạch Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "ở trong chùa, khi chấp tác, Bí-sô ni được mặc Tăng khước kỳ". Lúc đó có người tục đến chùa nhìn thấy ni chỉ mặc Tăng khước kỳ nên sanh niệm dục, người có tín tâm chê trách, Phật nói: "từ nay khi chấp tác, ở trước các trưởng giả, Bà-la-môn, Bí-sô ni không được mặc Tăng khước kỳ. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp. Nếu ở trước người tục chấp tác thì Bí-sô ni nên mặc Tăng khước kỳ phủ kín hai vai và tay, mặc y năm điều bên ngoài rồi mới chấp tác".

Duyên xứ như trên, lúc đó ni Thổ-la-nan-đà đến tắm chỗ người nam tắm, những người nam đang tắm thấy cô xuống nước liền nói với nhau: "hãy nhìn xem nữ Sa môn trọc đầu kia, thân hình như trâu hoang", bạch Phật, Phật nói: "từ nay, Bí-sô ni không được đến tắm chỗ người nam tắm, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó ni Thổ-la-nan-đà đứng ở ngã tư đường trêu chọc người tục qua lại, bị chê trách, Phật nói: "từ nay Bí-sô ni không được đi qua ngã tư đường, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ bảy:

Nếu là nữ nhị hình,
Hoặc hai đường hiệp một,
Hoặc người thường chảy máu,
Và người không kinh nguyệt.

Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô ni cho người nữ hai hình xuất gia, người này khi thấy ni khác đến liền hiện tướng khác, chư ni hỏi là người gì, đáp là người hai hình (huỳnh môn), bạch Phật, Phật nói: "đây là hạng người phi nam phi nữ, không nên cho xuất gia, dù có thọ Cận viên cũng không phát luật nghi hộ, hãy đuổi đi. Từ nay nếu có người đến cầu xuất gia, nên hỏi họ trước rằng: cô có phải là người hai hình không. Nếu không hỏi mà cho xuất gia thì Bổn sư phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lại có Bí-sô ni cho người nữ có hai đường hiệp một xuất gia, khi tiểu tiện, đại tiện liền ra theo nên làm nhơ nhớp chỗ ấy, ni khác thấy liền hỏi là ai đã làm dơ, ni này nói rõ nguyên do, bạch Phật, Phật nói: "đây là hạng người phi nam phi nữ, không nên cho xuất gia, dù có thọ Cận viên cũng không phát luật nghi hộ, hãy đuổi đi. Từ nay nếu có người đến cầu xuất gia, nên hỏi họ trước rằng: cô có phải là người có hai đường hiệp một hay không. Nếu không hỏi mà cho xuất gia thì bổn sư phạm tội Việt pháp". Lại có Bí-sô ni cho người nữ có bịnh thường chảy máu xuất gia, do thường chảy máu nên nội y dính dơ, ruồi bay đến bu, các ni hỏi rõ nguyên do, bạch Phật, Phật nói cũng như người trược, không nên ở chung. Lại có Bí-sô ni cho người nữ không có kinh nguyệt xuất gia, người này thấy các ni khác mỗi tháng có kinh nguyệt liền cơ hiềm, nói rằng: "do các cô có niệm xấu, không thể ly dục nên thường có nguyệt kỳ", đáp: "đây là việc bình thường của phụ nữ, vì sao cô lại cơ hiềm, bộ cô không có hay sao?", đáp là không có, bạch Phật, Phật nói: "đây là hạng người phi nam phi nữ, không nên cho xuất gia, dù có thọ Cận viên cũng không phát luật nghi hộ, hãy đuổi đi. Từ nay nếu có người đến cầu xuất gia, nên hỏi họ trước rằng: cô có phải là người không có kinh nguyệt phải không. Nếu không hỏi mà cho xuất gia thì bổn sư phạm tội Việt pháp".

5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thứ bảy:

Âm đạo nhỏ, nội y,
Bên Bí-sô không nhổ,
Tăng ni không đối thú,
Đối thú chúng bên mình.

Duyên xứ như trên, lại có Bí-sô ni cho người nữ có âm đạo nhỏ xuất gia, mỗi khi đi tiểu thường đi rất lâu, các ni hỏi rõ nguyên do rồi bạch Phật, Phật nói: "đây cũng là hạng huỳnh môn nữ, nên đuổi đi".

Duyên xứ như trên, lúc đó có ni bị nguyệt kỳ làm thấm ướt y, ruồi bay đến bu, tuy đã giặt kỹ nhưng vẫn còn vết ố, Phật nói: "nếu như thế thì nên mặc nội y (quần lót)". Sau đó ni Thổ-la-nanđà mặc nội y, khi vào thành khất thực, y này tuột xuống nên bị chê trách. Phật nói: "Bí-sô ni mặc nội y nên cột dây lưng, nếu ai không cột dây lưng thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó tôn giả Đại Ca-diếp vào buổi sáng đắp y vào thành khất thực, ni Thổla-nan-đà thấy liền đi đến bên cạnh nhổ nước bọt xuống đất. Tôn giả nói: "cô không có lỗi, lỗi là do nơi cụ thọ A-nan đã gắng gượng xin Thế tôn cho hạng phụ nữ ác hạnh như cô xuất gia và cho thọ Cận viên", các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "ni Thổ-la-nan-đà đã làm điều trái với hạnh Sa môn, từ nay Bí-sô ni không được nhổ nước miếng bên Bí-sô, ai làm thế thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô phạm lỗi, thấy Bí-sô ni đến liền mời ngồi, ni hỏi muốn làm gì, đáp là muốn phát lồ sám hối, nói rồi liền đối trước ni phát lồ: "Thánh giả nhớ nghĩ, tôi là Bí-sô __________ phạm tội

----, nay đối trước Thánh giả phát lồ không có che giấu, nhờ phát lồ nên được an lạc", ni hỏi: "Thánh giả cũng phạm tội ấy hay sao, đây không phải là việc thiện", Bí-sô xấu hổ im lặng. Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "Bí-sô không được đối trước ni phát lồ sám hối, nên đối trước Bí-sô thanh tịnh đồng kiến. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lại có Bí-sô ni phạm lỗi, thấy Bí-sô đến liền cung kính mời ngồi, hỏi muốn làm gì, đáp là muốn phát lồ sám hối, nói rồi liền đối trước Bí-sô phát lồ: "Thánh giả nhớ nghĩ, tôi là Bí-sô ni __________ phạm tội----, nay đối trước Thánh giả phát lồ không có che giấu, nhờ phát lồ nên được an lạc", Phật nói: "Bí-sô ni không được đối trước Bí-sô phát lồ sám hối, nên đối trước Bí-sô ni thanh tịnh đồng kiến. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ bảy:

Bí-sô tác yết ma,
Ni dụng tâm lắng nghe,
Trải tòa mời người ngồi.
Tòa ni nên phân biệt.

Duyên xứ như trên, như Phật đã dạy việc yết ma của Bí-sô và Bí-sô ni khác nhau, trừ việc cùng yết ma. Như trường hợp hai bộ chúng truyền giới cho ni, khi ở trong Tăng, ni tác yết ma không thể bình tĩnh nên tác pháp không thành, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô nên tác yết ma, ni nên lắng nghe". Lúc đó ni không biết lắng nghe như thế nào, Phật nói: "nên chí tâm lắng nghe và nhớ kỹ những lời như: đây là yết ma lần thứ nhất, đây là yết ma lần thứ hai, lần thứ ba".

Duyên xứ như trên, như Phật dạy nên tụng kinh, các Bí-sô không trải tòa ngồi, Phật nói nên trải. Sau đó chư ni đến nghe pháp, Bí-sô trải chỗ ngồi tốt, có một ni bị xuất nguyệt kỳ làm dơ chỗ ngồi, sau khi họ ra về, vị tri sự thu xếp ngọa cụ thấy ruồi bu nên đem việc này bạch Phật, Phật nói: "ni đến nghe pháp, không nên trải tòa ngồi tốt".

Sau đó, hễ thấy ni đến nghe pháp, Bí-sô đều trải tòa xấu; hôm đó Đại thế chủ đến nghe pháp thấy tòa ngồi xấu liền nói: "khi còn tại gia, tôi cũng chưa từng ngồi tòa như thế này", Bí-sô nói: "Đại thế chủ, đây là Thế tôn dạy không trải tòa ngồi tốt cho ni đến nghe pháp", Đại thế chủ nói: "trước đây do ni kia không chánh niệm tạo lỗi, tôi làm sao có thể tạo lỗi như thế", Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "từ nay Bí-sô ni nào chánh niệm đến nghe pháp thì nên trải tòa ngồi tốt".

7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ bảy:

Bán rượu, nhà dâm nữ,
Giữa đường không đánh ni,
Tùy duyên khai nội y,
Không được ca hát múa.

Duyên xứ như trên, lúc đó ni Thổ-la-nan-đà vào sáng sớm đắp y mang bát theo thứ lớp khất thực, gặp một cô gái mặc y phục với chuỗi anh lạc trang nghiêm thân liền hỏi từ đâu có được như vậy, đáp là nhờ bán rượu mới được như thế, ni nghe rồi cho là phương tiện tốt. Vừa đi vừa nghĩ về việc này thì gặp một cô gái khác gầy yếu, mặc y phục cũ dơ liền hỏi ở đâu thuộc về ai, đáp: "con không có thân thuộc, chỉ cần ai cho con y thực là con thuộc về người ấy", lại hỏi: "nếu vậy sao cô không bán rượu?", đáp: "con làm sao có thể bán rượu được, nhà bán rượu phải rộng lớn với đầy đủ bàn ghế, chỗ ngồi, chén muỗng, mâm tô, tiền vốn nhiều, phục vụ đúng pháp thì khách mới đến đông và mới có lợi nhuận", ni nói: "những vật dụng đó ta sẽ lo liệu đầy đủ, nhưng khi được lợi nhuận, cô phải đưa cho ta", đáp là sẽ đưa. Thổ-la-nan-đà liền ở gần chùa ni mở một quán rượu lớn với đầy đủ vật dụng và đưa nhiều tiền vốn cho cô kia bán rượu, do nhiều người đến trong quán rượu này nên Thổ-la-nan-đà thu được nhiều tài lợi, các quán rượu khác thấy vậy đều sanh tật đố. Sau đó vua mở đại hội nên kêu đến các quán rượu cung cấp rượu, các quán kia nói với sứ giả: "gần chùa của ni Thổ-la-nan-đà có quán rượu lớn với đủ loại rượu ngon, vì sao không gọi đến họ lại làm khổ chúng tôi", sứ giả nghe rồi liền đến quán rượu bắt giữ cô gái, cô la to lên: "Thánh giả Thổ-la-nan-đà, có quan của vua đến bắt con, Thánh giả hãy mau ra đây", Thổ-la-nan-đà nghe liền chạy đến mắng sứ giả: "đồ hung ác, vì sao lại bắt cô gái của ta", sứ giả nói: "Thánh giả cũng mở quán rượu hay sao?", đáp: "ta đạp lên đầu kẻ oan gia, việc mở quán rượu liên can gì tới ngươi", sứ giả nói: "Thánh giả cũng có oan gia nữa sao?", đáp: "ngươi chính là oan gia, vì đã bắt cô gái của ta". Nhân việc này nên hai bên tranh cãi nhau, các trưởng giả, Bà-la-môn hỏi rõ nguyên do rồi chê trách: "các Thích nữ trạo cử, làm việc phi pháp, không giữ tịnh hạnh mà còn bán rượu". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "do ni Thổla-nan-đà làm việc phi pháp, từ nay Bí-sô ni không được bán rượu, ai bán thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó ni Thổ-la-nan-đà vào sáng sớm đắp y mang bát theo thứ lớp khất thực, gặp một cô gái mặc y phục với chuỗi anh lạc trang nghiêm thân liền hỏi từ đâu có được như vậy, đáp là nhờ bán sắc mới được như thế, ni nghe rồi cho là phương tiện tốt. Vừa đi vừa nghĩ về việc này thì gặp một cô gái khác gầy yếu, mặc y phục cũ dơ nhưng xinh đẹp, liền hỏi ở đâu thuộc về ai, đáp: "con không có thân thuộc, chỉ cần ai cho con y thực là con thuộc về người ấy", lại hỏi: "nếu vậy sao cô không làm nghề bán sắc?", cô gái nghe rồi bịt tai nói: "Thánh giả, gia tộc của con chưa từng làm việc xấu xa này", ni nói: "phần nhiều cô gái đều làm nghề ấy, cô không phải là vương nữ, cũng không phải được sanh ra từ nhà trưởng giả quý tộc, Bà-la-môn; vả lại người nữ đều thích người nam, nếu ta không xuất gia, ta cũng làm nghề ấy", cô gái nói: "Thánh giả, làm nghề bán sắc há có thể làm ngay được hay sao, phải đủ các duyên mới làm được, như phải có nhà rộng lớn, y phục và đồ trang sức phải sang và đẹp để ai nhìn thấy cũng yêu thích; khi có người nam đến mới tùy theo sự sang hèn của họ mà phục vụ...", ni nói: "những vật dụng ta sẽ lo liệu đầy đủ và cung cấp y thực đầy đủ cho cô, nhưng khi thu được tài vật phải đưa cho ta", đáp là sẽ đưa. Thổ-la-nan-đà liền ở gần chùa làm một nhà dâm nữ rộng lớn với đầy đủ vật dụng, cung cấp y thực cho cô gái đầy đủ nên cô gái trở nên xinh đẹp nhất so với các dâm nữ khác, nên nhiều người chen chúc nhau đến trong nhà dâm nữ này, Thổ-la-nan-đà thu được nhiều tài lợi nên các dâm nữ khác đều tật đố. Sau đó do vua mở đại hội cần nhiều hương thoa nên sứ giả tập họp các dâm nữ bảo cung cấp hương thoa, họ nói: "gần chùa của ni Thổ-la-nan-đà cũng có dâm nữ, nên kêu đến". Sứ giả nghe rồi liền đến nhà dâm gọi cô gái ra, cô la to lên: "Thánh giả Thổ-la-nan-đà, có quan của vua đến bắt con, Thánh giả hãy mau ra đây",

Thổ-la-nan-đà nghe liền chạy đến mắng sứ giả: "đồ hung ác, vì sao lại bắt cô gái của ta", sứ giả nói: "Thánh giả cũng mở nhà dâm hay sao?", đáp: "ta đạp lên đầu kẻ oan gia, việc mở nhà dâm liên can gì tới ngươi", sự việc diễn tiến giống như trên cho đến câu Phật nói: "từ nay Bí-sô ni không được làm nhà nuôi dâm nữ, ai làm thì phạm Tốt-thổ-la để".

Duyên xứ như trên, Thổ-la-nan-đà lại đem một cô gái đến chỗ vắng vẻ gần đại lộ để làm nghề bán sắc kiếm tiền… sự việc diễn tiến cũng giống như trên cho đến câu Phật chế ai làm thì phạm Tốt-thổla để.

Duyên khởi tại thành Vương xá, lúc đó Lục chúng Bí-sô thường ở chỗ hát xướng biểu diễn, họ nói với nhau: "chúng ta bị các nhạc công bắt chúng ta biểu diễn đều là do nhóm thập nhị Bí-sô ni. Nếu họ không lén đưa y bát… cho các đào kép hát để xúc não chúng ta thì chúng làm sao bắt chúng ta biểu diễn được. Chúng ta nên trị mấy ni đó", Ôba-nan-đà nói nên đánh. Sau đó, khi Lục chúng Bí-sô đi đến chỗ kia thì gặp Thổ-la-nan-đà liền nói với nhau: "đây là cô ni đứng đầu trong nhóm, hãy trừng trị ni ấy", nói rồi cùng nhau tới gần, một người giữ chặt, một người đánh lên đầu, người đá vào chân, người đánh vào hông… khiến cho thân thể của cô ni này bầm tím. Cô trở về trú xứ thoa dầu rồi nằm mẹp trên giường không thể đi lại được, các ni hỏi nguyên do, đáp là bị đánh, lại hỏi bị ai đánh, đáp là Lục chúng Bí-sô, lại hỏi đã làm lỗi gì, đáp: "họ là pháp huynh, tôi là pháp muội, răn dạy nhau là việc thường tình, nếu so với người khác thì cần gì hỏi lỗi", các ni nghe rồi liền chê trách: "vì sao Bí-sô lại đánh Ni chúng?", họ đem việc này bạch Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "khi Bí-sô đánh Bí-sô ni liền có sự xúc chạm thân thể, từ nay Bí-sô không được đánh Ni, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó tuy Phật cho ni mặc nội y nhưng máu vẫn thấm ra ngoài làm dơ ngọa cụ, ruồi bu đến nên họ sanh nhờm gớm, bạch Phật, Phật nói: "từ nay Bí-sô ni nên mặc thêm quần lót bên trong nội y". Sau đó tuy có mặc thêm quần lót, máu vẫn thấm dơ, Phật nói: "nên thường giặt cho sạch, khi nằm ngủ nên chánh niệm, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên khởi tại thành Vương xá, lúc đó ni Bản thắng qua đời, thi thể đưa vào Thi lâm để hỏa táng, nhóm thập nhị Bí-sô ni đến bên tử thi ca múa, các ni đem việc này bạch Phật, Phật nói: "pháp của ni là không được ca múa, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ bảy:

Nếu Tăng ni chuyển căn,
Đến ba lần thì đuổi,
Rộng nói duyên Pháp dữ,
Liên hoa sắc làm sứ.

Duyên xứ như trên, lúc đó cụ thọ Ưu-ba-ly bạch Phật: "Thế tôn, nếu ni chuyển căn thì phải như thế nào?", Phật nói: "đồng Cận viên và y theo hạ lạp cũ rồi đưa qua chùa Tăng", lại hỏi: "nếu Tăng chuyển căn thì có được theo hạ lạp cũ rồi đưa qua chùa Ni hay không?", Phật nói cũng đưa qua chùa Ni, lại hỏi: "nếu cả hai khi đưa qua chùa kia liền chuyển căn trở lại thì phải như thế nào?", Phật nói: "cũng như trước đưa trả về chỗ cũ", lại hỏi: "nếu họ chuyển căn đến lần thứ ba thì phải như thế nào?", Phật nói: "nếu chuyển căn đến lần thứ ba thì họ không phải là Tăng ni, phải cho họ hoàn tục".

Duyên xứ như trên, lúc đó có một trưởng giả tên là Thiên dữ rất giàu có, lại có một trưởng giả tên là Lộc tử cũng rất giàu có, cả hai đều đã cưới vợ và trở thành bạn thân, có vật gì lạ đều gửi biếu cho nhau. Sau đó có việc, mọi người trong thành tụ họp trong công viên để bàn luận, hai trưởng giả này gặp nhau, sau khi họp xong mọi người ra về, cả hai ở lại, lúc đó Thiên dữ nói: "làm cách gì để sau khi chúng ta qua đời, con cháu của chúng ta vẫn thân thiết không xa lìa?", Lộc tử nói: "lành thay, từ nay chúng ta chỉ bụng kết thân, hai nhà chúng ta nếu sanh nam nữ thì kết thông gia với nhau", Thiên dữ nói: "ý tôi cũng như vậy". Sau đó vợ của Thiên dữ sanh một bé gái xinh đẹp tuyệt trần nhưng tính hay khóc, mỗi khi có Bí-sô đến nhà thuyết pháp cho cha mẹ thì bé không khóc mà còn lắng tai nghe. Sau hai mươi mốt ngày, do bé thích pháp nên lắng tai nghe, lại là con của Thiên dữ nên được đặt tên là Pháp dữ, người cha giao cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng, bé dần dần lớn lên như hoa sen vượt lên khỏi mặt nước. Lúc đó trưởng giả Lộc tử suy nghĩ: "vợ bạn ta sanh con gái, ta nên gửi y phục và chuỗi ngọc cho con dâu của ta", nghĩ rồi liền gửi y phục, chuỗi ngọc và thư sang chúc mừng. Không bao lâu sau vợ của Lộc tử có thai, đủ tháng sanh một trai, sau hai mươi mốt ngày, do bé sanh vào ngày sao Tỳ-xá-khư nên được đặt tên là Tỳ-xá-khư, người cha cũng giao con cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng. Trưởng giả Thiên dữ nghe tin liền suy nghĩ: "vợ của bạn ta sanh con trai, ta nên gửi y phục và chuỗi ngọc cho con rễ của ta", nghĩ rồi liền gửi y phục, chuỗi ngọc và thư sang chúc mừng. Lộc tử hồi âm nói rằng: "trước kia đã hứa kết thân, nay được toại nguyện, chờ khi chúng trưởng thành sẽ tính chuyện hôn nhân". Thời gian sau, Pháp dữ đã khôn lớn nhưng lại một lòng muốn xuất gia, đem tâm ý này bạch với cha nhưng người cha nói: "trước kia cha đã hứa gả con cho Tỳ-xá-khư, con của trưởng giả Lộc tử, việc này không thể làm khác đi được". Sau đó, khi có bổn sư là Bí-sô ni Liên hoa sắc đến nhà, Pháp dữ bạch rằng: "Thánh giả, con muốn được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô ni, tu tập phạm hạnh. Xin Thánh giả đến đây bí mật cho con xuất gia, vì cha con ngăn cấm nên con không sao đi được", Liên hoa sắc nói: "lành thay, con có thể phát tâm ưa thích cầu xuất gia như vậy. Đối với các dục, vị ngọt của nó thì ít mà nguy hiểm thì nhiều. Như Phật đã day, người trí biết năm lỗi của dục nhiễm thì không nên làm, đó là:

Quán sát vị ngọt của dục thì ít mà lỗi thì nhiều, thương có các khổ.

Khi hành dục thường bị trói buộc.

Người làm việc dâm dục không biết nhàm chán.

Người làm việc dâm dục không việc ác nào mà không làm.

Đối với các cảnh dục, Phật và các Hiền thánh Thanh văn đều dùng vô số phương tiện nói về lỗi lầm của dục, vì thế người trí không làm việc dâm dục.

Lại nữa người trí biết xuất gia có năm lợi ích thù thắng, như Phật đã dạy người trí thấy năm điều nên cầu xuất gia trong thiện pháp luật: một là ta được tự lợi, người khác không có; hai là tự biết mình thuộc giai cấp hạ tiện bị người sai khiến, sau khi xuất gia trở lại được họ cung kính tán thán, lễ bái cúng dường; ba là sẽ chứng được Niết-bàn vô thượng; bốn là sau khi qua đời sẽ được sanh lên cõi trời; năm là thường được chư Phật, chúng Thanh văn và các bậc thắng nhân khen ngợi. Con hãy quán năm lợi ích này chí tâm xả lưới tục, cầu công đức lớn. Ta hứa sẽ độ con xuất gia, hãy chờ ở đây, đợi ta bạch Phật việc này", Sau đó Liên hoa sắc đến chỗ Phật đảnh lễ rồi đứng một bên chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, Pháp dữ là con gái của trưởng giả Thiên dữ, ưa thích xuất gia, thọ Cận viên, thành tựu tánh Bí-sô ni trong thiện pháp luật của Phật. Nhưng người cha trước đây đã hứa gả cho Tỳ-xá-khư, con trai của trưởng giả Lộc tử nên ngăn cản không cho Pháp dữ xuất gia", Phật bảo A-nan: "thầy hãy đến thông báo Ni chúng, Pháp dữ là con gái của trưởng giả Thiên dữ muốn xuất gia, Ni chúng hãy tác pháp sai Liên hoa sắc đến chỗ ở của Pháp dữ nói là vâng theo lời Phật dạy, cho Pháp dữ Tam quy ngũ giới, kế cho cạo tóc và thọ mười giới ngay trong nhà", tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy đến thông báo, Ni chúng nhất nhất làm theo lời Phật dạy. Sau khi truyền giới xong, Liên hoa sắc nói với Pháp dữ: "nay con đã xuất gia, hãy chuyên tâm tu học, hộ trì pháp như lời Phật đã dạy", Liên hoa sắc lại quán biết căn tánh tùy miên của Pháp dữ, nói pháp Tứ đế khiến cho Pháp dữ được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau đó trở về bạch Phật: "vâng lời Phật dạy, con đã làm xong", Phật lại bảo A-nan: "thầy hãy đến thông báo Ni chúng tác pháp sai Liên hoa sắc đến nhà truyền sáu học pháp và các tùy pháp cho Pháp dữ, trong hai năm làm Thức xoa ma na", A-nan vâng lời Phật dạy đến thông báo, Ni chúng nhất nhất vâng theo lời Phật dạy. Sau khi truyền giới xong, Liên hoa sắc nói với Pháp dữ: "nay con đã là Chánh học nữ, nên tu tập học pháp trong hai năm, hộ trì pháp như lời Phật đã dạy", Liên hoa sắc lại tùy cơ thuyết pháp, Pháp dữ nghe pháp xong liền chứng quả Nhất lai. Sau hai năm học sáu pháp và các tùy pháp, Pháp dữ đã trưởng thành càng xinh đẹp hơn trước, lúc đó trưởng giả Lộc tử sai sứ đến nói với trưởng giả Thiên dữ: "hai trẻ đã trưởng thành, xin hãy chọn ngày lành tính chuyện thành thân", Thiên dữ nói lành thay rồi mời thầy chọn ngày tốt, sau đó thông báo cho quyến thuộc gần xa biết; trưởng giả Lộc tử cũng báo cho quyến thuộc gần xa biết, tất cả đều kéo nhau đến đầy chật thành Thất-la-phiệt. Vua Thắng quang nước Kiềutát-la cùng các quan dân trong thành đều nghe biết tin này, vua bảo các đại thần đến trợ giúp, các đại thần cho người đưa đến những vật kỳ lạ để trang trí trong ngày cưới. Lúc đó khắp nơi trong thành đều được quét dọn sạch sẽ, rưới hương thơm… cảnh trí đẹp đẽ như trong vườn Hoan hỉ. Từ xa thấy sự việc quái lạ này, Pháp dữ liền hỏi gia nhân: "có phải trong thành phi thời mở hội bạch hoa phải không?", gia nhân nói: "nhờ phước báo của cô nên trong thành mở hội bạch hoa trái thời để làm lễ cưới cho cô", Pháp dữ nghe rồi ưu sầu liền đến nói với cha: "đối với năm dục, lòng con không còn ưa thích, xin cha cho con đến ở trong già lam Vương viên của Bí-sô ni", người cha nói: "khi chưa sanh con, cha đã hứa gả con cho con trai của trưởng giả Lộc tử rồi. Vả lại, vua Thắng quang cùng quan dân trong nước đều đã nghe biết tin này, làm sao có thể cho con đến trong chùa Vương viên. Con muốn cha và thân tộc bị nhốt vào nhà lao hay sao, ngày mai là đám cưới, con chớ có khinh suất", quyến thuộc cùng đến khuyên: "con không nên hấp tấp làm việc gì, con đang tuổi sung mãn khó thể tu phạm hạnh", Pháp dữ nghe rồi càng tinh tấn để cầu chứng Thánh đạo nhưng vẫn không đạt được quả ly dục.

Thường pháp của chư Phật là khởi tâm đại từ bi cứu giúp chúng sanh, trụ trong chánh quán, không nói hai lời, dựa trên định huệ hiển phát ba minh, thành tựu ba học, điểu phục hoàn toàn ba nghiệp, vượt qua bốn Bộc lưu, an trụ nơi bốn Thần túc, thường tu bốn nhiếp hạnh, xả trừ năm triền cái, đầy đủ năm chi, năm lực, viên mãn sáu độ, bố thí khắp tất cả bằng bảy Thánh tài, nở hoa bảy giác ngộ, chỉ bày tám chi Thánh đạo, xa lìa tám nạn, đoạn dứt hẳn chín kết, phương tiện thiện xảo tùy ý nhập Cửu định, đủ mười Lực, danh vang khắp mười phương, tự tại vô úy, hàng phục ma oán, cất tiếng sấm lớn, rống lên tiếng rống của sư tử, ngày đêm ba thời thường dùng Phật nhãn quán sát chúng sanh: trí huệ tùy chuyển của ai tăng, của ai giảm; ai gặp khổ nạn, ai bức bách, ai bị bức bách; ai xuống nẻo ác, ai lên đường lành, ai một bề thú hướng, ai còn mang gánh nặng. Nên dùng phương tiện gì để cứu độ chúng sanh ra khỏi đường ác, vào cõi trời người và được giải thoát; người chưa tu thiện căn khiến tu tập thiện căn, người đã tu thiện căn chưa thành thục khiến cho được thành thục, đã thành thục rồi khiến được giải thoát. Như bài kệ:

Cho dù hải triều lớn, Cũng có khi trễ hạn, Đối với người đáng độ, Phật liền độ, không bỏ. Đối với các hữu tình, Phật từ bi thương tưởng, Nghĩ cứu họ thoát khổ, Như bò mẹ theo con.

Lúc đó Phật trong khi đang đi kinh hành, Phật mỉm cười, từ trong miệng phóng ra hào quang năm sắc chiếu xuống hay chiếu lên, nếu chiếu xuống thì chiếu đến ngục Vô gián và các ngục khác khiến cho chúng sanh trong đây đang bị đốt nóng liền được mát mẻ, đang bị lạnh cóng liền được ấm áp. Họ cảm thấy an lạc liền suy nghĩ: "ta và mọi người từ cảnh khổ địa ngục chết đi, được sanh vào cõi khác chăng?". Thế Tôn sau khi làm cho các hữu tình kia sanh tín tâm liền hiện nhiều tướng khác nữa, thấy những tướng này họ liền suy nghĩ: "chúng ta không phải chết ở đây sanh về cõi kia, mà là do sức oai thần của Đại thánh đã khiến thân tâm chúng ta hiện được an lạc". Đã sanh tín kính thì có thể diệt các khổ, ở cõi nhơn thiên được thọ thân thắng diệu, thành chơn pháp khí thấy được lý chơn đế. Nếu hào quang chiếu lên thì đến cõi trời Sắc cứu cánh, trong hào quang diễn nói các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã… và nói kệ:

"Người phải nghe Phật dạy
Dốc cầu đạo xuất ly
Phá được quân sanh tử
Như voi phá nhà tranh.
Ở trong pháp luật Phật
Dũng tiến thường tu học
Xa lìa đường sanh tử
Bờ mé khổ không còn".

Hào quang này sau khi chiếu khắp ba ngàn Đại thiên thế giới liền trở về chỗ Phật, nếu Thế Tôn nói việc quá khứ thì hào quang trở vào phía sau lưng, nếu nói việc vị lai thì hào quang trở vào phía trước ngực, nếu nói việc địa ngục thì hào quang trở vào phía dưới chân, nếu nói việc bàng sanh thì hào quang trở vào phía gót chân, nếu nói việc ngạ quỷ thì hào quang trở vào phía ngón chân, nếu nói việc loài người thì hào quang trở vào đầu gối, nếu việc của Lực luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay trái, nếu nói việc của Chuyển luân vương thì hào quang trở vào lòng bàn tay phải, nếu nói việc cõi trời thì hào quang trở vào rốn, nếu nói việc của Thanh văn thì hào quang trở vào miệng, nếu nói việc của Độc giác thì hào quang trở vào phía giữa hai chân mày, nếu nói việc của đạo quả Chánh đẳng chánh giác thì hào quang trở vào phía trên đảnh đầu. Lúc đó hào quang nhiễu Phật ba vòng rồi vào miệng của Phật, cụ thọ A-nan Đà bạch Phật: "Thế Tôn Như Lai Ứng chánh đẳng giác vui vẻ mỉm cười chẳng phải là không có nhơn duyên", liền nói kệ thỉnh Phật:

"Từ miệng Phật phóng hào quang vi diệu,
Chiếu khắp Đại thiên không phải một tướng,
Chiếu khắp cả mười phương các quốc độ,
Như mặt trời chiếu sáng khắp hư không.
Phật là nhân tối thắng của chúng sanh,
Có thể trừ kiêu mạn và lo buồn.
Không nhân duyên, kim khẩu không mở lời,
Miệng mỉm cười ắt nói việc kỳ lạ.
Con lặng lẽ quan sát đấng Mâu Ni,
Ai muốn nghe, Phật nói cho nghe,
Như sư tử vương rống tiếng vi diệu,
Cúi xin Phật quyết nghi cho chúng con,
Phật như Diệu sơn vương trong biển cả,
Nếu không nhân duyên, Phật không dao động,
Tự tại từ bi, miệng Phật hiện mỉm cười,
Nói nhân duyên cho người đang khao khát".

Thế Tôn bảo A-nan Đà: "Đúng vậy A-nan Đà, không phải không có nhân duyên mà Như Lai Ứng chánh đẳng giác miệng hiện mỉm cười. Thầy còn nhớ Pháp dữ mà trước đây ta bảo thầy đến trong Ni chúng thông báo cho Ni chúng sai Liên hoa sắc đến nhà tuần tự truyền Tam quy ngũ giới, mười giới và sáu học pháp làm Thức xoa ma na trong hai năm hay không. Ngày mai cô ấy sẽ lấy chồng, quyến thuộc đều đã tập họp", đáp là còn nhớ, Phật nói: "này A-nan, không thể để cho cô ấy ở tại gia ăn thức ăn dư cách đêm, vì không bao lâu nữa, cô ấy sẽ chứng quả Bất hoàn và A-la-hán. Thầy nên đến thông báo Ni chúng, Pháp dữ đã học xong sáu pháp trong hai năm, nay ni chúng nên tác pháp sai Liên hoa sắc đến nhà truyền cho cô ấy Bổn pháp phạm hạnh", Ni chúng nhất nhất vâng lời Phật dạy. Sau khi truyền Bổn pháp xong, Liên hoa sắc nói với Pháp dữ: "không bao lâu nữa con sẽ thọ Cận viên", nói rồi tùy cơ thuyết pháp khiến cho Pháp dữ chứng được quả Bất hoàn và phát sanh thần thông lực. Sau đó trở về bạch Phật, Phật bảo A-nan đi thông báo cho hai chúng Tăng ni truyền thọ Cận viên cho Pháp dữ qua sứ giả là ni Liên hoa sắc. Sau đó Liên hoa sắc đến nhà truyền lời lại cho Pháp dữ rồi nói rằng: "hai bộ tăng già đã truyền thọ Cận viên cho con, con hãy khéo phụng hành", nói rồi tùy cơ thuyết pháp, Pháp dữ sau khi nghe pháp sánh tâm nhàm lìa thế tục, quán năm ngũ uẩn là vô thường khổ không vô ngã. Bí-sô ni này chuyên tâm tu tập đoạn trừ các phiền não, chứng A-la-hán, ba minh, sáu thông, đủ tám giải thoát, được như thật tri: sanh tử đã hết, phạm hạnh đã lập, việc nên làm đã làm xong, không còn thọ thân sau. Tâm không chướng ngại như tay nắm hư không, như dao cắt mùi thơm, yêu ghét không khởi, xem vàng và đất như nhau không khác, tất cả danh lợi đều xả bỏ, Thích Phạm chư thiên thảy đều cung kính. Không thể có trường hợp một A-la-hán đã hết lậu hoặc mà lại ở trong nhà bạch y, ăn thức ăn dư cách đêm và thọ hành pháp thế tục. Lúc đó Pháp dữ bạch với cha mẹ: "cha mẹ biết cho con đã chứng quả A-la-hán, nay muốn đến trong chùa ni Vương viên", cha mẹ nói: "nếu con đi như vậy thì pháp vua sẽ bắt tội cha, hãy tính kế cho con cùng đi theo Phật", đáp: "lành thay, nhờ cha làm phương tiện". Lúc đó trưởng giả Thiên dữ liền thỉnh Phật và Tăng đến nhà thọ thực, đồng thời sai sứ đến nói với trưởng giả Lộc tử: "Pháp dữ con tôi không thích thế tục, quyết định xuất gia, xin hãy mau đến cưỡng ép làm lễ cưới", trưởng giả nghe rồi liền tâu vua: "trước đây thần và Thiên dữ có chỉ bụng kết thân, nhưng nay con gái ông ấy muốn bỏ tục xuất gia, thần muốn cùng thân quyến đến cưỡng ép làm lễ cưới", vua nói tùy ý. Lúc đó Thiên dữ lo liệu đầy đủ các món ăn ngon xong rồi liền sai sứ đến bạch Phật đã đến giờ thọ thực. Phật đắp y mang bát cùng các Bí-sô đi đến nhà trưởng giả rồi ngồi vào chỗ ngồi, trưởng giả tự tay dâng cúng các món ăn. Phật và tăng thọ thực xong, trưởng giả lấy một cái ghế nhỏ ngồi trước Phật muốn nghe pháp, Phật thuyết diệu pháp làm cho họ được lợi hỉ rồi đứng dậy ra về. Vừa lúc đó, trưởng giả Lộc tử cùng thân thuộc và quan dân trong thành đưa Tỳ-xá-khư đến trước cửa ngõ với đầy đủ nghi lễ để rước dâu. Pháp dữ đi theo Thế tôn ra đến trước cổng, Tỳ-xá-khư thấy Pháp dữ liền đến nắm lấy tay Pháp dữ. Giữa trăm ngàn đại chúng đang nhìn, Pháp dữ như con thiên nga bay lên hư không hiện các thần biến; vương tử đại thần và tất cả quyến thuộc của trưởng giả Lộc tử thấy thần thông lực này rồi đều như cây đại thọ đổ ngã, họ sụp xuống lạy xin sám hối và nói lớn: "Thánh nữ đã chứng ngộ thắng đức thù diệu như thế mà muốn cho Thánh nữ ở tại gia thọ hưởng dục lạc và ăn thức ăn dư cách đêm là không có lý đó". Pháp dữ hiện trở xuống đất rồi ứng cơ thuyết pháp cho đại chúng, sau khi nghe pháp, có vô lượng trăm ngàn người được kiến giải thù thắng, có người đắc quả Tu đà hoàn, hoặc quả Tư-đà-hàm, hoặc quả A-nahàm, có người gieo trồng nhân duyên với Thanh văn thừa, có người gieo trồng nhân duyên với Bích chi Phật thừa, có người gieo trồng nhân duyên với Phật thừa, cầu xuất ly sanh tử. Thuyết pháp xong, Pháp dữ đảnh lễ Phật rồi đi, lúc đó Phật bảo các Bí-sô: "chúng Thanh văn ni trong pháp luật của ta thì Bí-sô ni Pháp dữ là người thuyết pháp bậc nhất". Sau đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: "ni Pháp dữ đời trước đã tạo nghiệp gì mà nay được xuất gia ngay tại nhà của mình, lại được đắc giới nhờ Phật khai cho sai sứ đến truyền giới, Pháp dữ ngay tai chỗ chứng được quả A-la-hán và được Phật thọ ký là người thuyết pháp bậc nhất trong Ni chúng?", Phật bảo các Bí-sô: "nghiệp mà Pháp dữ đã tạo đời trước, nay quả báo thành thục nên được thọ hưởng, như bài kệ:

"Dù trải qua trăm kiếp,
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên hội họp,
Tự thọ lấy quả báo".

Các thầy lắng nghe: Quá khứ Hiền kiếp, lúc con người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca-diếp-ba ra đời đầy đủ mười hiệu, ở trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Lúc đó trong thành có một trưởng giả rất giàu có, cưới vợ chưa bao lâu thì vơ có thai, đủ tháng sanh ra một bé gái. Đến tuổi trưởng thành cô gái này muốn xuất gia nhưng cha mẹ không cho, cô liền bạch với vị bổn sư là một lão ni: "Thánh giả có thể giúp con được xuất gia, thọ Cận viên, thành tựu tánh Bí-sô ni ở ngay tại nơi đây không?", đáp: "con hãy an tâm đợi ta bạch Phật". Phật nghe lão ni bạch rồi liền sai lão ni này đến truyền thọ pháp Tam quy ngũ giới, cho xuất gia, kế cho thọ pháp chánh học, cuối cùng được hai bộ tăng sai sứ ni đến truyền thọ Cận viên. Vị lão ni quán căn tánh, tùy cơ thuyết pháp khiến cho cô gái ngay nơi chỗ ngồi chứng quả A-la-hán; sau đó lại được Phật thọ ký là người thuyết pháp bậc nhất trong chúng Ni. Vị lão ni này suy nghĩ: "cô gái này được xuất gia, thọ Cận viên, sau khi nghe pháp tỏ ngộ chứng quả A-la-hán đều là nhờ nơi ta mà được lợi ích thù thắng này", do suy nghĩ như vậy nên vị lão ni này phát nguyện: "con trọn đời tu phạm hạnh trong giáo pháp của Phật Ca-diếp-ba, nguyện xin đem công đức thiện căn tu tập này, ở đời vị lai lúc con người thọ trăm tuổi, có Phật Thích ca mâu ni ra đời đầy đủ mười hiệu, con sẽ như cô gái này, ngay tại nhà mình được thọ các học xứ, nghe pháp liền tỏ ngộ, được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, đoạn trừ phiền não, chứng quả A-la-hán và cũng được Phật thọ ký là người thuyết pháp bậc nhất trong chúng Ni".

Này các Bí-sô, lão ni thuở xưa chính là Pháp dữ ngày nay, do lực của lời phát nguyện ngày xưa mà nay được quả báo này. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập nghiệp trắng", nghe Phật dạy rồi, các Bí-sô đều hoan hỉ tín thọ phụng hành, đảnh lễ Phật rồi đi ra.

QUYỂN 33

9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ bảy:

Ngoài chùa không được sám,
Không nhờ nam cạo tóc,
Không cho thuê chùa Ni,
Không dùng đá kỳ cọ.

Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bí-sô ni theo học với Bí-sô, do có lỗi nên bị quở trách, cô trở về chùa nằm buồn bã. Thân giáo sư hỏi rõ nguyên do rồi bảo ni đến chỗ vị ấy sám hối, ni này đến phòng tìm không thấy, sau đó thấy vị kia đang kinh hành ngoài chùa, liền đến đảnh lễ xin sám hối, vị này không thọ sám liền bỏ đi. Người tục thấy việc này rồi, cho ni này bị dục nhiễm trói tâm nên nói: "tôi biết Thánh giả muốn sám hối nhưng vị ấy không thọ, hay là đến với chúng tôi, cần gì chúng tôi sẽ đáp ứng cho", ni này nghe rồi xấu hổ im lăng trở về trong chùa, bạch Phật, Phật nói: "do Bí-sô không thọ sám nên khiến người tục tham dục hôn mê khởi phân biệt xấu xa này. Từ nay Bí-sô ni ở bên ngoài chùa không được đến bên Bí-sô xin sám hối, Bí-sô nên thọ sám, không nên bỏ đi. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó có Bí-sô ni nhờ thợ cạo cạo tóc cho mình, thấy người này trẻ trung, ni liền sanh tâm ái, bạch Phật, Phật nói: "các Bí-sô ni tâm thường loạn động, nếu không chế phục tâm ý thì sẽ bị phiền não dối gạt. Lại nữa tánh người nữ, tâm dục rất mạnh, từ nay Bí-sô ni không được một mình nhờ người nam cạo tóc. Nếu muốn nhờ cạo tóc nên kêu một ni khác ngồi cạnh, nếu thấy người nam cạo tóc kia sanh tâm dục nhiễm, hiện tướng khác lạ thì ni kia nên nói: "hiền thủ nên biết, thân người nữ do xương thịt giả hợp tạo thành, hư vọng không thật, chớ sanh tà niệm với Bí-sô ni mà chịu khổ nơi địa ngục". Nếu Bí-sô ni sanh tà niệm, ni kia nên nói: "cô đã bỏ tục xuất gia, hãy nhớ lai khi ở trong hai bộ chúng thọ Cận viên cô đã thệ nguyện gì. Như Phật đã dạy đối với các dục vị ngọt thì ít mà nguy hiểm thì nhiều, cô hãy bỏ tà niệm, giữ tâm xuất gia". Nói như vậy thì tốt, nếu không nói thì ni kia phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó ni Thổ-la-nan-đà khuyên một trưởng giả làm chùa ni rồi cùng với nhiều ni ở chung trong đó. Thời gian sau có năm trăm thương nhân từ phương nam đến thành Thấtla-phiệt, muốn tìm nơi nghỉ đêm nhưng không có nên phải dừng nghỉ ở bên đường. Thấy chiều tối trời sắp mưa, họ ưu sầu không biết tính sao, ni Thổ-la-nan-đà thấy vậy liền nói: "trời sắp mưa vì sao không thu dọn hàng hóa tìm nơi dừng nghĩ?", đáp: "Thánh giả, chúng tôi đã tìm hỏi khắp nơi trong thành nhưng không thuê được phòng, biết phải làm sao", ni nói: "ban đêm trời sẽ mưa, vì sao không trả giá cao, hàng hóa gặp mưa sẽ bị hư tổn, ai chịu mua nữa", đáp: "chúng tôi đã trả giá cao nhưng vẫn không tìm được chỗ thuê. Đây là nghiệp của tôi, đành phải đợi đến sáng mai", ni nói: "nếu các vi cho giá gấp bội thì có thể vào trong chùa trú", đáp: "lành thay như lời Thánh giả nói". trong khi họ vận chuyển hàng hóa vào chùa, ni Thổ-la-nan-đà vào trong chùa đuổi hết các ni ra ngoài để cho các thương nhân thuê. Các ni phải chạy sang chùa khác trong đêm lại bị mưa làm cho y phục ướt và dính bùn dơ. Các ni ở chùa khác thấy vậy liền hỏi rõ nguyên do rồi chê trách: "tại sao Bí-sô ni lại đuổi các ni ra ngoài chùa để cho người tục thuê?", các ni đem việc này bạch Phật, Phật nói: "không được đem chùa cho người tục thuê, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó ni Thổ-la-nan-đà đến chỗ người nam tắm để tắm rồi lấy gạch đá kỳ cọ thân, những người nam thấy vậy liền sanh tâm dục nói với nhau: "hay xem cô ni kia học cách tắm rửa của chúng ta", do bị chê trách nên bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô ni không được đến chỗ của những người ngu ám loạn tâm dâm dục để tắm, cũng không được dùng gạch đá kỳ cọ thân, nếu làm thế thì phạm tội Việt pháp".

10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ bảy:

Không dùng xương và đá,
Gỗ, sừng... để kỳ cọ,
Chỉ dùng tay kỳ cọ,
Vật khác đều không cho.

Duyên xứ như trên, do Phật chế không dùng gạch kỳ cọ, ni kia liền dùng các vật khác bằng xương, sừng… để kỳ cọ lúc tắm, bị chê trách như trước nên Phật chế chỉ dùng tay kỳ cọ, tất cả vật khác đều không cho, nếu dùng thì phạm tội Việt pháp.

VIII. TỔNG NHIẾP TỤNG BIỆT MÔN THỨ TÁM:

Phá tháp, sám, trước cửa,
Được sai, không nên chứa,
Không cùng nữ, do vợ,
Thuốc tả, ba y, rắn.

1. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tám:

Phá tháp, hại Ba ly,
Tăng chế không nên trái,
Ni không nạn cho vào,
Tùy thời mà giáo giới.

Duyên xứ như trên, lúc đó Bí-sô ni Bản thắng qua đời, sau khi hỏa thiêu xong, nhóm thập nhi Bí-sô ni thu lấy hài cốt xây tháp ở nơi rộng rãi, treo phướn lọng đẹp đẻ, đặt vòng hoa trên tháp và rưới hương chiên đàn để cúng dường. Lại sai hai ni biết tán tụng hằng ngày đem bột rửa và nước sạch đến, hễ thấy có Bí-sô khách đến thì đưa bột rửa để rửa tay chân, đưa hương hoa rồi xướng kệ tụng dẫn họ đi nhiễu tháp. Hôm đó có một khách Bí-sô A-lahán tên là Kiếp tỳ đức cùng năm trăm môn đồ du hành trong nhân gian, trên đường đến thành Thấtla-phiệt đi ngang qua tháp này. Bậc A-la-hán nếu không quán sát thì sẽ không biết được việc phía trước, thấy tháp liền suy nghĩ: "ai mới xây tháp thờ tóc và móng tay của Phật ở đây, ta nên đến làm lễ", nghĩ rồi liền đến tháp. Hai ni kia đưa bột rửa và nước để rửa tay chân rồi dẫn năm trăm người đi nhiễu tháp, nhiễu tháp xong rồi đi. Cách tháp đó không xa, tôn giả Ưu-ba-ly đang ngồi tịnh dưới gốc cây nói với tới: "cụ thọ Kiếp tỳ đức hãy quán sát xem đã lễ bái tháp của ai", Bí-sô A-la-hán nghe rồi liền suy nghĩ: "vì sao cụ thọ Ưu-ba-ly lại nói thế", nghĩ rồi liền quán sát mới biết trong tháp an trí xương cốt của Bí-sô ni Bản thắng. Do còn tập khí sân nên vị này tức giận nói: "cụ thọ Ưu-ba-ly, ở đây có mụt ghẻ sanh trong Phật pháp mà sao không để ý đến", Ưu-ba-ly không đáp, Bí-sô A-lahán bảo các môn đồ: "nếu các vị kính thọ giáo pháp của bậc đại sư thì hãy cùng nhau đến đống gạch kia, mỗi người cầm một viên phá hủy tháp ấy cho ta", môn đồ vâng lời làm theo, trong chốc lát cái tháp bị phá hủy. Hai ni kia thấy việc này rồi kêu khóc rồi chạy đi báo, nhóm thập nhị Bí-sô ni và các ni chưa ly dục nghe rồi liền khóc to, Thổla-nan-đà hỏi hai ni kia: "vừa rồi ai đã nói cho Bí-sô kia biết?", đáp là tôn giả Ưu-ba-ly, Thổ-la-nanđà nói: "ta vừa nghe nói liền biết ngay là thợ cạo tóc trước kia, tuy đã xuất tục nhưng tánh không thay đổi, hãy cùng đến trị nó. Như Thế tôn nói có kẻ phá hoại đồ chúng thì đồ chúng không để yên, chúng ta lẽ nào lại bỏ qua", nói rồi liền cầm dao gậy, dẫn chúng ni đi đến chỗ tôn giả Ưu-ba-ly để giết. Tôn giả thấy liền suy nghĩ: "xem bộ dạng các ni này vội vã, ắt có ý muốn hại ta", nghĩ rồi liền quán biết họ đang tức giận muốn đến hại mình, vội nhiếp tâm nhập Diệt tận định nhưng quên dùng thần lực hộ đại y. Các ni đến dùng dao gậy dập chém thân tôn giả, do định lực nên tôn giả ngừng hơi thở, người như thây chết, các ni tưởng đã giết xong nên bỏ về chùa. Sau khi xuất định thấy đại y đã rách nát, tôn giả trở về trú xứ nói với các Bí-sô: "các Bí-sô ni suýt giết chết tôi", các Bí-sô hỏi rõ nguyên do rồi nói: "các Bí-sô ni dù có sân hận cũng chỉ nên không lễ kính, không chào hỏi; sao lại có thể dùng dao gậy đến để giết cụ thọ suýt chết?", nói rồi cùng nhau lập chế không cho ni vào rừng Thệ đa, sau khi Tăng lập chế rồi, các ni đều không vào cũng không sanh cung kính. Lúc đó Đại thế chủ đến để lễ kính Thế tôn, các Bí-sô không cho vào, ni nói: "không lẽ tôi lại giống như các ni lầm lỗi kia hay sao?", Bí-sô nói: "Tăng đã lập chế, tôi biết làm sao", ni nghe rồi quay về. Lúc đó Phật tuy biết nguyên do nhưng vẫn hỏi A-nan: "có phải Đại thế chủ bịnh không, vì sao không thấy đến?", A-nan đem việc trên bạch Phật, Phật nói: "các Bí-sô lập chế này tuy đúng nhưng các Bí-sô ni tùy thuộc theo các Bí-sô, nếu không cho vào chùa thì không sanh cung kính. Từ nay các Bí-sô ni muốn vào chùa cần phải bạch với Bí-sô rồi mới được vào, cũng không nên giáo giới ni". Lúc đó các ni không biết phải bạch như thế nào, Phật nói: "khi ni muốn vào chùa Tăng bạch với Bí-sô là muốn vào chùa, Bí-sô nói nếu không cầm dao gậy với ý làm chướng nạn thì được vào. Nếu không bạch trước mà liền vào thì phạm tội Việt pháp, Bí-sô thấy ni vào chùa mà không nói như trên cũng phạm tội Việt pháp". Phật đã dạy Bí-sô không nên giáo giới ni nhưng Lục chúng Bí-sô vẫn không ngừng giáo giới, Phật nói: "nếu Bí-sô ni có lỗi, Tăng chưa hoan hỉ thứ lỗi cho họ, Bí-sô nào liền giáo giới thì phạm tội Việt pháp; pháp Trưởng tịnh và Tùy y đều chuẩn theo đây mà biết".

2. Nhiếp tụng thứ hai trong Biệt môn thứ tám:

Ni sám không nên khinh,
Tùy ý (Tự tứ) khỏi Trưởng tịnh (bố tát)
Nên lẫn nhau thọ sám,
Ni chúng ngồi nên biết.

Duyên xứ như trên, lúc đó có một Bí-sô ni theo học với Bí-sô, phạm lỗi nên bị Bí-sô quở trách… giống như trên, cho đến câu khi ni này đến cầu sám tạ thì Bí-sô này đạp chân trên đầu rồi bỏ đi. Khi trở về chùa, các ni hỏi đã sam tạ chưa thì đáp: "không nên gặp lại vị thầy như vậy nữa", các ni hỏi rõ nguyên do rồi nói: "sao lại có thái độ khinh miệt như thế, đến xin sám tạ không thọ thì thôi, lại còn đạp chân trên đầu rồi bỏ đi", bạch Phật, Phật nói: "ni trách như vậy là đúng, từ nay khi ni đến sám tạ, Bí-sô không được đạp chân trân đầu rồi bỏ đi, ai làm thế thì phạm tội Việt pháp. Ni khi bị quở trách cũng không nên vội đến sám tạ, nên tuần tự cầu sám tạ". Lúc đó các ni không biết phải tuần tự như thế nào, Phật nói: "trước hết nên nhờ một Bí-sô hay Bí-sô ni, Cận sự nam hay nữ đến gặp vị kia khéo dùng phương tiện khiến cho hoan hỉ rồi mới đến sám tạ".

Duyên xứ như trên, như Phật đã dạy nên tác pháp tùy ý về ba việc thấy nghe nghi, lúc đó Bí-sô an cư xong liền tác pháp Tùy ý rồi lại làm Trưởng tịnh. Một Bí-sô nói: "tôi thấy Trưởng tịnh và Tùy ý đều là làm cho thanh tịnh, nên biết Trưởng tịnh tức là Tùy ý", một người nói: "Trưởng tịnh và Tùy ý hai việc khác nhau", bạch Phật, Phật nói: "tuy hai việc khác nhau nhưng đều là làm cho thanh tịnh, nên biết Tùy ý rồi thì không cần làm Trưởng tịnh nữa".

Duyên xứ như trên, lúc đó các Bí-sô trước đã có hiềm khích nhau nên hay tìm lỗi của nhau, khi ở trong chúng tác pháp Tùy ý, họ bèn đem lỗi của nhau ra để gạn trách về ba việc thấy nghe nghi, khiến cho các thân hữu cho đến hai thầy và các bạn đồng học đều vì nhóm phái của mình mà cùng tranh cãi nhau, thành việc phá tăng với ý kiến bất đồng nhau. Những vị trung lập khuyên can: "các cụ thọ chớ nên tranh cãi nhau, hãy trụ tâm xuất gia của mình. Như Phật đã dạy: nơi nào có Bí-sô tranh cãi nhau, tức giận đối chọi nhau thì ta không muốn nghe nói đến nơi ấy, huống chi là muốn đến, khi nào dứt tranh thì ta mới đến. Nếu Bí-sô nào dứt bỏ ba thiện căn là không tham, không sân, không si mà tạo ba pháp bất thiện căn là tham sân si thì Bí-sô ấy sẽ tức giận tranh cãi, đối chọi nhau và ôm lòng hận thù. Ngược lại nếu Bí-sô nào dứt bỏ ba pháp bất thiện tham sân si thì Bí-sô ấy sẽ không tức giận tranh cãi, không ôm lòng hận thù. Thế nên các thầy nên dứt bỏ pháp ác, tu tập pháp thiện". Nhưng các Bí-sô này không chịu dừng tranh cãi, người tục thấy vậy liền chê trách: "các Sa môn trọc đầu này khi tác pháp Tùy ý, không giữ tâm xuất gia, tranh cãi với nhau", bạch Phật, Phật nói: "họ chê trách như vậy là đúng, từ nay Bí-sô nào biết có Bí-sô khác hiềm khích thì không nên cùng một chỗ tác pháp Tùy ý, phải sám tạ trước rồi mới cùng tác pháp". Sau đó, các Bí-sô sám tạ nhau trong ngày Tùy ý khiến tăng thêm tức giận và lại tranh cãi nhau, tâm không thể xả. Phật nói: "không nên sám tạ ngay trong ngày Tùy ý, nên sám tạ trước khoảng tám chín ngày". Sau đó, các Bí-sô theo lời Phật dạy cùng nhau sám tạ trước, Phật nói: "không phải tất cả Bí-sô đều sám tạ, chỉ những người có hiềm khích nhau mới sám tạ để cùng hoan hỉ cho nhau".

Duyên xứ như trên, như Phật đã dạy cách năm năm nên làm đại hội đảnh kế, lúc đó các trưởng giả, Bà-la-môn cùng tranh hơn thua nên làm đại hội Vô già, thỉnh hai bộ tăng đến dự. Như Phật đã dạy nên ngồi theo thứ lớp tuổi hạ, khi các ni y theo thứ lớp tuổi hạ để ngồi thì gây ồn náo, Phật nói: "người nữ tánh tham, trong đại hội thì hai ba bốn người đi trước theo ngồi theo thứ lớp tuổi hạ, số còn lại cứ tùy ý ngồi gần người mà mình quen biết".

3. Nhiếp tụng thứ ba trong Biệt môn thứ tám:

Trước cửa không Trưởng tịnh (bố tát)
Cần phải sai hai ni,
Khi đến giờ Trưởng tịnh,
Sai người đợi Ni bạch.

Duyên xứ như trên, như Phật đã dạy trừ pháp sự phải yết ma chung, các pháp sự khác Bí-sô và Bí-sô ni phải tác pháp riêng. Lúc đó vào ngày Trưởng tịnh, các Bí-sô ni tụ đến rừng Thệ đa để cùng trưởng tịnh, Bí-sô liền ở ngay trước cửa cổng cùng Ni làm trưởng tịnh. Các trưởng giả thấy tụ đông đi đến xem thì họ liền đứng yên, Phật bảo các Bí-sô không được cùng Ni làm trưởng tịnh ngay trước cổng. Sau đó, các Bí-sô cùng Ni làm trưởng tịnh trong chùa thì lại có nhiều lời bàn tán, Phật bảo các Bí-sô không được cùng Ni làm trưởng tịnh trong chùa. Lúc đó các ni không biết có nên trở về chùa mình hay không, Phật nói: "ni đi đến giữa đường, các Bí-sô sẽ đến đó cùng làm trưởng tịnh". Khi đang ở giữa đường cùng làm trưởng tịnh; các trưởng giả, Bà-la-môn thấy liền nói với nhau: "các Sa môn nam nữ trọc đầu này đang bàn nói việc gì", một người nói: "còn bàn việc gì nữa, khi chúng ta nói chuyện, ni im lặng nghe, đến đây nói lại cho Bí-sô nghe, Bí-sô sau đó đến nói lại cho vương gia nghe, vua trị phạt chúng ta đều do đám Sa môn này thêu dệt mà ra". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "không nên làm trưởng tịnh ở giữa đường, vào ngày trưởng tịnh mỗi nửa tháng, Ni chúng nên sai hai ni đến trong Tăng bạch thanh tịnh và thỉnh giáo thọ". Sau đó Ni chúng sai người không có năng lực, khi vào trong Tăng không thể tự bạch thanh tịnh, Phật bảo nên sai người có năng lực.

Sau đó khó sai được hai người có năng lực, Phật nói một người cũng được; người này khi đến trong Tăng, nhìn thấy uy nghiêm của Phật và Tăng, không biết phải hướng đến ai để bạch thanh tịnh nên quay trở về, vì thế Ni chúng không làm trưởng tịnh. Phật nói: "Ni chúng sai một ni đến bạch, trong Tăng nên sai một Bí-sô ra đứng ở cửa chờ Ni đến bạch, Bí-sô thọ lời bạch này rồi đến trong Tăng bạch, lúc đó Tăng tác bạch nhị yết ma sai người giáo thọ ni".

4. Nhiếp tụng thứ tư trong Biệt môn thứ tám:

Được sai không bỏ đi,
Phải hỏi tên Giáo thọ,
Đội khăn, làm đãy bát,
Ni không được kết hoa.

Duyên xứ như trên, lúc đó Tăng sai Bí-sô đứng ở cửa chờ Ni đến bạch thanh tịnh, khi Ni đến gần bạch thì Bí-sô này nói: "chớ đến gần tôi, chớ đụng vào tôi", nói rồi bỏ đi. Ni đành phải trở về chùa và Ni chúng không làm trưởng tịnh, Phật nói: "Bí-sô được sai không nên bỏ đi, phải thọ lời bạch của họ, nên nói rằng: cô hãy ngồi bạch, chớ đến gần cũng chớ xúc chạm tôi. Nếu không thọ lời bạch mà bỏ đi thì phạm tội Việt pháp". Lại có trường hợp Bí-sô được sai đến cửa trễ, ni đến bạch không thấy ai, chỉ thấy một người trùm khăn lông đứng xem bức vẽ bánh xe sanh tử ở cửa, vội đến chỗ người này để bạch thanh tịnh: "Thánh giả nhớ nghĩ, Ni chúng chùa Vương viên sai con đến đảnh lễ Thánh chúng trong rừng Thệ đa và thăm hỏi có được ít bịnh, ít não, sở hành có được an lạc không và bạch: vào ngày Bao-sái-đà, Ni chúng đều thanh tịnh", người kia im lăng không biết nói gì, ni nói: "Thánh giả hãy nói khả nhĩ", người kia nghe nhưng không hiểu gì nên cúi đầu bỏ đi, ni cũng trở về chùa; sau đó, Bí-sô kia đến cửa chờ lâu không thấy ai nên trở về phòng mình. Đến lúc bố tát, vị thọ sự đơn bạch xong hỏi: "vị nào đem lời bạch thanh tịnh của Ni chúng đến", không có ai đáp, vị thọ sự suy nghĩ: "không lẽ Ni chúng không sai người đến bạch thanh tịnh", nghĩ vậy nên sau đó không sai Bí-sô ra cửa chờ Ni đến bạch nữa. Lần thuyết giới sau, Ni đến bạch thanh tịnh chờ mãi không thấy ai nên quay trở về và Ni chúng không làm trưởng tịnh. Sáng hôm sau các ni đến hỏi các Bí-sô nguyên do, các Bí-sô nói: "lần trưởng tịnh trước, Ni chúng đâu có sai ai đến bạch thanh tịnh, cho nên lần này...", ni được sai đến bạch lần trước liền nói là có đến rồi kể lại việc lần trước, các Bí-sô nghe rồi liền biết đó là ngoại đạo lõa hình nên nói với nhau: "ni nay bạch thanh tịnh với ngoại đạo lõa hình", bạch Phật, Phật nói: "vì Ni đến bạch thanh tịnh mà không hỏi tên vị giáo thọ nên có lỗi này, ni kia không phạm, từ nay Bí-sô ni đến bạch thanh tịnh nên hỏi tên vị giáo thọ, nếu không hỏi tên mà liền bạch thanh tịnh thì phạm tội Việt pháp". Sau đó, khi Ni đến bạch thanh tình, dù đã quen biết vị Bí-sô cũng vẫn hỏi tên, Phật nói: "nếu đã quen biết thì không cần hỏi tên".

Duyên xứ như trên, lúc đó Đại thế chủ bịnh, ni chúng đến thăm hỏi bịnh gì, đáp bịnh----, lại hỏi trước kia dùng cách gì để trị bịnh, đáp: "khi còn tại gia, ta thường bịt khăn trên đầu để trị bịnh này", lại hỏi vì sao không làm như thế, đáp: "nay ta đã xuất gia, Phật chưa khai cho nên ta không dám", bạch Phật, Phật nói: "từ nay ở trong chùa ni nên đội khăn".

Duyên khởi tại thành Vương xá, lúc đó có một Bà-la-môn đến từng nhà khất thực, đến trước một nhà xin thì chủ nhà nói: "không có, hãy đi đi". Vừa đi ra liền thấy Đại thế chủ vào nhà ấy khất thực, người này liền suy nghĩ: "họ cũng không cho người này hay chỉ không cho ta", nghĩ rồi liền đứng lại nhìn xem. Lúc đó chủ nhà nói: "may mắn thay được Phật mẫu đến nhà", nói rồi niềm nở mời ngồi, đón lấy bát sớt đầy thức ăn thơm ngon rồi dâng cho Đại thế chủ. Khi Đại thế chủ trở ra, Bà-la-môn với tâm ganh ghét đến trước nói: "xin cho tôi xem thức ăn trong bát", vừa giở bát ra, Bà-lamôn này liền nhổ nước miếng vào, Đại thế chủ nói: "sao ngươi lại làm bẩn thức ăn trong bát của ta, nếu ngươi muốn xin thì cứ nói, ta sẽ cho ngay", Bà-la-môn im lặng. Bạch Phật, Phật nói: "người nữ ít có oai đức nên mới khiến kẻ ngu kia tạo ác nghiệp phải chịu nhiều khổ báo. Từ nay khi đi khất thực, ni nên đãy đựng bát phủ kín ở trên", lúc đó ni không biết làm đãy đựng bát như thế nào, Phật nói: "nên làm một túi vải vuông một thước, để bát ở trong, trên làm dây để xách mang đi".

Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, người phương Đông thường thích vườn hoa, lúc đó người trong thành mở đại hội vui chơi nên họ đem đủ các món ăn ngon cùng âm nhạc đến trong vườn hoa. Lúc đó có người sai sứ về nhà bảo vợ kết vòng hoa mang đến gấp, vì trong nhà người này có vườn hoa đẹp. Người vợ nghe rồi vào trong vườn hái hoa nhưng lại không biết kết vòng hoa nên mời người kết vòng hoa đến nhà để kết, người ấy đang bận kết vòng hoa cho người khác nên không thể đến ngay được, người vợ buồn bã không biết phải làm sao. Vừa lúc ấy có ni Thổ-la-nan-đà đến nhà khất thực, người vợ này nói: "cô hãy đi đi, tôi đang buồn rầu, không thể cho cô thức ăn", ni liền hỏi rõ nguyên do rồi hỏi: "vì sao cô không tự kết?", đáp: "tôi không biết kết, Thánh giả có biết không?", đáp: "nay ta đã già, nhưng hồi còn trẻ thì việc gì ta cũng biết", người vợ liền nói: "xin Thánh giả thương xót giúp tôi", đáp: "nếu cô cho ta đủ các món ăn ngon thì ta sẽ giúp cô", người vợ bằng lòng. Ni liền ngồi xuống duỗi chân kết vòng hoa, người vợ này nhìn thấy vòng hoa liền khen đẹp, vui mừng sớt thức ăn đầy bát đưa cho Thổla-nan-đà. Sau đó người kết vòng hoa đến nhà, người vợ này nói: "ngươi đã đến trễ rồi, vòng hoa đã được kết xong và đã đưa tới trong vườn hoa rồi", liền hỏi là ai đã kết, đáp là Thánh giả Thổ-lA-nan-đà, người kia nghe rồi liền chê trách: "nữ Sa môn đã làm việc phi pháp, vì sao lại đoạt nghề kiếm sống của tôi". Bạch Phật, Phật nói: "việc làm này là phi pháp, bị chê trách là đúng, từ nay Bí-sô ni không được kết vòng hoa, ai làm thì phạm tội Việt pháp". Sau đó, trong đại hội đảnh kế và trong những hội năm năm, sáu năm của Phật; vua Thắng quang… cho đến các Cận sự nam nữ đều cầu thắng thượng nên tranh dâng vòng hoa. Hoa đẹp rất nhiều nhưng người kết vòng hoa thì ít, người tín tâm nói với các ni: "chúng con kết vòng hoa để cúng dường đại sư, xin các ni kết vòng hoa giúp con", ni nói: "Phật đã chế ngăn không cho ni kết vòng hoa, chúng tôi làm sao giúp được", bạch Phật, Phật nói: "nếu vì Tam bảo thì ni được kết vòng hoa". Lúc đó các ni hoặc ngồi ở ngay cổng, hoặc ngồi dưới hành lang duỗi chân để kết vòng hoa, người tục nhìn thấy liền nói đùa: "chắc các Thánh giả đều là các cô gái kết vòng hoa xuất gia", các ni nghe rồi xấu hổ im lặng. Bạch Phật, Phật nói: "người tục chê trách như vậy là đúng, từ nay ni không nên ngồi kết vòng hoa ngay cổng hay dưới hiên, nên ngồi ở chỗ khuất kín không để cho người tục nhìn thấy. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

5. Nhiếp tụng thứ năm trong Biệt môn thú tám:

Không nên chứa bát đồng,
Làm cho rượu ngon lại,
Cho thuê nhà, cửa hàng,
Dối gạt làm thầy bói.

Duyên xứ như trên, ni Thổ-la-nan-đà đến nhà thợ làm đồng hỏi: "hiền thủ, có thể làm bát bằng đồng được không?", đáp: "đây là nghề của con, có gì không làm được. Thánh giả muốn làm bát lớn hay bát nhỏ?", đáp là làm lớn cỡ----, lại hỏi: "Thánh giả làm bát lớn như thế để làm gì?", đáp: "người ngu si này, chẳng lẽ ông làm không, không lấy tiền hay sao mà hỏi", người thợ làm đồng suy nghĩ: "làm lớn theo ý của khách đối với ta có hại gì", nghĩ rồi liền làm bát lớn. Làm xong, Thổ-lA-nan-đà lại bảo làm thêm một bát nữa đặt lọt vào trong bát này, thứ lớp như thế đến cái bát thứ bảy. Sau khi làm xong liền bảo đệ tử đánh bóng rồi dùng chỉ ngũ sắc đan lưới để đựng cả bảy cái bát đó và bảo Cầu tịch nữ đội trên đầu mà đi đến chỗ thọ thỉnh. Sau khi vào nhà thí chủ, ngồi vào chỗ ngồi rồi liền mở lấy bảy cái bát ra để ở trước mặt; các cư sĩ thấy rồi liền nói: "chẳng lẽ Thánh giả mở cửa hàng bán đồ đồng hay sao?", đáp: "các người không biết gì cả, bảy cái bát này: bát thứ nhất đựng cơm; bát thứ hai đựng canh rau, những bát còn lại đựng các nón ăn khác", cư sĩ nói: "nếu vậy cần thêm một vật đựng nữa để đựng thức ăn uống nhiều hơn", Bí-sô ni nghe rồi liền im lặng. Ni bạch Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật bảo: "do Bí-sô ni chứa bát đồng nên có lỗi này, từ nay Bí-sô ni không được chứa bát đồng. Ai làm trái thì phạm tội Việt pháp, nhưng cất chứa muỗng đồng, mâm đồng đựng muối, chung nước bằng đồng thì không phạm".

Duyên xứ như trên, lúc đó có một trưởng giả, vợ sanh một gái có con mắt phải thông ngươi (không có con ngươi, chỉ có tròng trắng), bị cho là tướng ác nên không ai đến hỏi cưới làm vợ. Trong thành cũng có một trưởng giả giàu có, kết hôn chưa bao lâu thì vợ chết, lần lượt cưới thêm vợ khác cho đến người vợ thứ bảy cũng chết, nên người đương thời gọi ông là trưởng giả giết vợ. Do không thể sống cô độc nên ông tìm đến những nhà có con gái để cầu hôn, cha mẹ của cô gái đều nói: "chẳng lẽ chúng tôi muốn giết con gái của mình hay sao?", sau đó ông lại tìm đến các quả phụ để cầu hôn, họ đều nói: "chẳng lẽ chúng tôi lại muốn tự sát hay sao?". Do tìm vợ thêm không được nên ông phải tự quản lý việc nhà, một người bạn đến thăm thấy vậy hỏi rõ nguyên do rồi nói: "sao ông không hỏi cưới cô gái có mắt phải thông ngươi", đáp là sợ họ không chịu gả, người bạn nói: "tôi biết nhà ấy rất mong gả được con gái, ông cứ đến hỏi đi". Trưởng giả nghe lời bạn liền đến nhà kia hỏi cưới, người cha của cô gái liền chấp thuận lời cầu hôn này và nói: "nên vào ngày __________ tổ chức hôn lễ". Lúc đó rượu trong nhà vì nóng nên bị hư, người nhà phải đặt mua rượu ở bên ngoài, các nhà làm rượu đều nhận làm rượu cho họ. Khi ni Thổ-la-nan-đà đến nhà này khất thực, gia nhân nói: "tôi đang lo về rượu bị hư nên không thể cho thức ăn được", ni nói: "vì sao không làm cho ngon lại?", đáp: " tôi không biết làm, Thánh giả có biết không?", đáp: "nay ta đã già, nhưng hồi còn trẻ thì việc gì ta cũng biết", gia nhân liền nói: "xin Thánh giả thương xót giúp tôi", đáp: "nếu có cho ta đủ các món ăn ngon thì ta sẽ giúp làm cho rượu ngon lại", gia nhân bằng lòng, liền bảo đem nồi rượu ra xem thử. Sau khi xem xét trên dưới của nồi rượu vì sao mà rượu bị hư, liền biết là do nóng, ni liền mở nắp, mở cửa sổ rồi bảo đạt nồi rượu trên cát ướt, kế dùng rêu xanh quấn bọc nồi lại rồi quạt cho hơi nóng bay ra, do có khí mát lạnh nên rượu ngon lại. Sau đó thân tộc đều tập họp đến, các nhà làm rượu chờ mãi không thấy ai đến lấy rượu liền sai người đến hỏi, họ đáp: "rượu đã được làm cho ngon lại nên không cần lấy rượu nữa", lại hỏi: "rượu đã hư còn có thể làm cho ngon lại hay sao, là ai đã làm?", đáp là Thánh giả Thổ-la-nan-đà, người kia nghe rồi liền chê trách: "nữ Sa môn đã làm việc phi pháp, vì sao lại đoạt nghề kiếm sống của tôi". Bạch Phật, Phật nói: "đây không phải là pháp của Sa môn Thích tử, bị chê trách là đúng, từ nay Bí-sô ni không được chỉ dạy làm cho rượu ngon lại, ai làm thế thì phạm Tốt-thổ-la để".

Duyên xứ như trên, lúc đó có một trưởng giả thích bố thí, bỗng bịnh nặng ngày càng nguy kịch, biết mình sống chẳng được bao lâu nên đem tài vật cấp thí cho Sa môn, Bà-la-môn và những người nghèo khổ cô độc, chỉ còn lại mỗi căn nhà trống không. Lúc đó ni Thổ-la-nan-đà đến nói với trưởng giả: "thông thường người nữ được lợi dưỡng rất ít, ông hãy hỷ xả ban cho ít nhiều", trưởng giả nói: "Thánh giả đã đến chậm một bước rồi, tài vật đã có tôi đều đã cho hết, chỉ còn căn nhà trống không này", ni nói: "tôi vốn hy vong nên vác mặt đến đây, không ngờ phải trở về tay không", trưởng giả nói: "căn nhà này nếu Thánh giả muốn lấy thì tôi cũng không tiếc", ni nói: "nếu vậy thì tôi xin nhận, nguyện cầu ông hết bịnh khổ". Sau khi trưởng giả qua đời, thân tộc tụ đến đưa thi thể đến trong Thi lâm để hỏa thiêu, ni Thổla-nan-đà liền đến nhà niêm phong lại rồi đứng một bên. Sau khi hỏa thiêu xong trở về thấy nhà bị niêm phong liền hỏi là ai đã làm, Thổ-la-nan-đà nói: "người thọ thí tự đến niêm phong", hỏi là đã cho ai, đáp là cho ta, có người nói: "nếu vậy hãy cho tôi thuê, sau sẽ trả tiền", hỏi có thật không, đáp là thật, ni liền mở cửa cho người ấy thuê nhà. Các trưởng giả, Bà-la-môn nghe biết việc này đều chê trách: "Sa môn nữ làm việc phi pháp, sao lại đem nhà của người khác cho thuê", bạch Phật, Phật nói: "đó không phải là pháp Sa môn, bị chê trách là đúng, từ nay Bí-sô ni không được cho người tục thuê nhà, ai làm thế thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ giống như trên, chỉ khác là cửa hàng, cho đến câu Phật nói: "ai cho thuê cửa hàng thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó ni Thổ-la-nan-đà vào thành khất thực, thấy có một bà thầy bói lắc linh đi đến các nhà bói việc lành dữ, được nhiều tài vật đủ để nuôi thân, liền nghĩ đây là phương pháp tốt. Nghĩ vậy rồi sau khi có linh, sáng sớm liền vào thành đi đến từng nhà lắc linh hoặc làm việc tắm gội thân thể cho con trai con gái của người, hoặc dối nói việc lành dữ và những điềm sắp đến… khiến người trong thành đều nghe biết tiếng. Do ai có điều thỉnh cầu đều tìm đến ni nên không hỏi tới bà thầy bói kia nữa, khi bà thầy bói kia đến hỏi mọi người có cần xem tướng không thì họ đều nói: "không cần nữa, chúng tôi đã có thánh sư thông hiểu mọi việc…", lại hỏi là ai, đáp là

Thánh giả Thổ-la-nan-đà, người kia nghe rồi liền chê trách: "nữ Sa môn đã làm việc phi pháp, vì sao lại đoạt nghề kiếm sống của tôi". Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "do Bí-sô ni làm thầy bói nên có lỗi này, từ nay Bí-sô ni không được làm thầy bói, ai làm thì phạm tội Việt pháp".

QUYỂN 34

6. Nhiếp tụng thứ sáu trong Biệt môn thứ tám:

Không tắm với người nữ,
Cũng không tắm ngược dòng,
Đế bát nên chắc chắn,
Không chứa chén lưu ly.

Duyên xứ như trên, lúc đó có một cô gái sau khi xuống sông tắm xong liền lên bờ ngồi chải tóc, ni Thổ-la-nan-đà mang bột tắm đến sông tắm thấy vậy liền tật đố suy nghĩ: "người nữ ngu si này muốn chọc tức ta nên ngồi đây chải tóc, cho là trước đây ta không có tóc hay sao", nghĩ rồi liền lặng lẽ cầm bột tắm bỏ lên đầu tóc của cô gái, cô gái nói: "tôi có lỗi gì mà Thánh giả bỏ bột tắm lên đầu tóc mà tôi vừa mới gội xong?", ni nói: "ngươi cho là trước đây ta không có tóc hay sao mà ngồi đây chải tóc, nay đầu tóc đã dơ rồi hãy gội lại đi", cô gái liền chê trách. Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "ni làm việc phi pháp bị chê trách là đúng, từ nay Bí-sô ni không được bỏ bột tắm lên đầu tóc sạch của người khác, ai làm thế thì phạm tội Việt pháp". Duyên xứ như trên, lúc đó ni Thổ-la-nan-đà cùng các ni đến tắm trong sông, một mình cô đứng ở chỗ ngược dòng nước chảy mạnh để thọ xúc lạc, các ni hỏi rõ nguyên do rồi nói: "đây không phải là tịnh pháp, cô không nên đứng ở chỗ ngược dòng nước chảy mạnh để thọ xúc lạc như thế", đáp: "đây là pháp rất tịnh, có gì là trái lý, nếu là bất tịnh thì đâu có học xứ nào ngăn cấm". Bạch Phật, Phật nói: "các ni chê trách như vậy là đúng, từ nay Bí-sô ni không được đứng ở chỗ ngược dòng nước chảy mạnh để thọ xúc lạc, ai làm thế thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó các ni có bát sắt bạ đâu để đây nên bị rỉ sét, do đem đập gõ nên bát bị hư, bạch Phật, Phật nói: "các ni không được có bát sắt bạ đâu để đấy, nên dùng miếng thiếc mỏng làm đế lót bát". Các ni liền dùng thiếc bọc hết bát, người tục thấy hỏi là vật gì, đáp là Phật cho dùng thiếc lót bát, người tục nói: "lẽ nào Phật bảo bọc thiếc hết bát hay sao, các vị nói dối, đây không phải việc mà Sa môn nữ nên làm", ni xấu hổ im lặng. Bạch Phật, Phật nói: "người tục chê trách đúng, từ nay Bí-sô ni không được dùng thiếc bọc hết bát, chỉ dùng miếng nhỏ đủ để làm đế bát". Sau đó, các ni lại làm đế bát có hình dáng kỳ lạ, Phật nói: "không được làm thế, hình dạng đế bát có hai: một là như lá cây bồ đề hay lá cây đa căn, hai là như lòng bàn tay".

Duyên xứ như trên, lúc đó ni Thổ-la-nan-đà có chén lưu ly, một người nữ gần chùa đến hỏi mượn ni chén lưu ly để cho khách dùng, không ngờ khi đem về dùng lại lở tay làm rơi xuống đất bị bể. Sau đó Thâu-la-nan đà không thấy đem trả lại nên đến đòi, ni đó nói: "tôi đã lở tay làm rơi bể, tôi mua cái khác đền trả lại", Thâu-la-nan đà đòi phải trả cái cũ, cố ý làm xúc não nhau nên Bí-sô ni đem việc này bạch các Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật bảo: "do Ni có chén lưu ly nên có lỗi này, từ nay Ni không được cất chứa chén lưu ly để ăn hay uống, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

7. Nhiếp tụng thứ bảy trong Biệt môn thứ tám:

Do vợ, chứa tích trượng,
Khi nhảy múa chiêu tội,
Bánh ướt, thọ thỉnh thực,
Bạn thuyết pháp đi (nên) bạch.

Duyên xứ như trên, lúc đó có một trưởng giả rất giàu có, do vợ sanh trai nên mở tiệc ăn mừng, đêm đó hai vợ chồng ngủ trong phòng đến sáng vẫn chưa thức dậy. Có một Bí-sô khất thực vào nhà, do nhà có nhiều cửa nên đi lạc vào phòng của trưởng giả, trưởng giả vừa thức dậy thấy Bí-sô đi qua chỗ người vợ đang nằm ngủ, cho là đã cùng vợ làm việc phi pháp nên đánh Bí-sô vỡ đầu chảy máu và bể bát, người vợ thức dậy nói Bí-sô không có lỗi nên cho Bí-sô đi. Về đến trong rừng Thệ đa, các Bí-sô thấy hình dạng của Bí-sô này liền hỏi rõ nguyên do rồi bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô khất thực không nên vội vào nhà có nhiều cửa, nên dùng bánh bột làm dấu trước cửa rồi mới vào". Sau đó có Bí-sô lặng lẽ vào nhà gặp người nữ đang lõa hình nên bỏ chạy ra, bị người tục chê trách, Phật nói: "khi sắp vào nhà nên lên tiếng cho họ biết". Sau đó Bí-sô trước khi vào nhà cất tiếng kêu ha ha, chủ nhà nói: "Thánh giả đâu phải là trẻ con mà cất tiếng kêu ha ha khi vào nhà tôi", đáp: "Phật chế trước khi vào nhà nên lên tiếng nên tôi mới kêu ha ha", họ nói: "không có cách gì lên tiếng hay sao mà lại kêu ha ha".

Bạch Phật, Phật nói: "từ nay không nên kêu ha ha", Bí-sô lại dùng tay đập cửa, chủ nhà hỏi: "vì sao lại đập cửa nhà tôi?", Phật nói: "từ nay không nên đập cửa, nên làm tích trượng", Bí-sô không biết làm tích trượng như thế nào, Phật nói: "trên đầu cây tích trượng có gắn một vòng tròn lớn như miệng chén, lại kết thêm nhiều vòng tròn nhỏ vào vòng tròn lớn này để khi rung có thể phát ra tiếng". Sau đó khi Bí-sô rung cây tích trượng báo cho chủ nhà biết thì bị chó sủa, Bí-sô liền dùng tích trượng đánh chó, Phật nói: "không nên dùng tích trượng đánh chó, chỉ đưa lên dọa làm cho nó sợ"; gặp phải chó dữ, khi dọa như thế nó càng hung dữ hơn, Phật nói: "nên ném miếng bánh xuống đất cho nó". Sau đó, có Bí-sô khất thực đến trước nhà người không có tín tâm, rung mãi cây tích trượng mà không có ai ra nên mỏi mệt, Phật nói: "không nên rung hoài, chỉ chừng hai ba lượt, nếu không có ai ra thì nên bỏ đi".

Duyên xứ như trên, lúc đó có trưởng giả thỉnh Phật và Tăng đến nhà thọ thực, các Bí-sô đều đi, Phật ở lại chùa bảo thị giả mang thức ăn về. Có năm nhân duyên Phật ở lại chùa và bảo người nhận lấy phần thức ăn mang về: một là muốn yên tĩnh, xa lìa ồn ào; hai là muốn thuyết pháp yếu cho chư thiên; ba là muốn thăm nom người bịnh; bốn là muốn xem xét ngọa cụ; năm là muốn chế học xứ cho các đệ tử. Trường hợp này là Phật muốn chế học xứ, lúc đó ở trong nhà trưởng giả, vì vào mùa mưa lạnh nên trưởng giả dâng cúng món cháo nóng trước, kế là bánh khô, bánh nướng và rau củ. Khi ăn cháo, các Bí-sô húp cháo kêu rồn rột; khi ăn bánh, cắn kêu tách tách… hòa lẫn tiếng mưa rơi trên mái nhà kêu tí tách, tạo thành âm hưởng. Có một Bí-sô trước kia biết ca múa khi nghe âm hưởng này, không đè nén được thói quen cũ nên đứng dậy vừa múa máy tay chân vừa búng tay nhịp theo các âm hưởng ấy. Trong chúng vị nào không trụ tâm thì cất tiếng cười, vị nào có dụng tâm thì kinh ngạc, những người dọn đưa thức ăn nhìn thấy cảnh này đều cười rộ lên, trưởng giả không vui liền chê trách. Khi Bí-sô nhận lấy phần thức ăn mang về cho Phật, Phật hỏi: "chúng tăng thọ thực có được no đủ không?", đáp: "Thế tôn, thọ thức ăn ngon và đều được no đủ nhưng thí chủ không vui chê trách", nói rồi liền kể lại việc trên. Phật thọ thực xong, ra ngoài rửa tay chân rồi trở vào phòng thiền tọa cho đến xế chiều. Sau đó đến trong chúng hỏi Bí-sô đã nhảy múa: "ở trong nhà thí chủ thầy dùng tâm gì mà đứng dậy nhảy múa?", đáp: "con do tâm trạo cử và với ý chê trách nên đứng dậy nhảy múa", Phật nói: "nếu Bí-sô nhảy múa với tâm trạo cử thì phạm tội Việt pháp, nếu với ý chê trách thì không phạm. Này các Bí-sô, do ăn phát ra tiếng nên có lỗi này, từ nay Bí-sô không nên ăn phát ra tiếng, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp". Sau đó có người tục tín tâm đem bánh khô, củ, mía đến cúng cho Tăng, Bí-sô không thọ nên các cư sĩ nói: "khi Phật chưa ra đời, chúng tôi xem ngoại đạo là chỗ tu phước; nay Phật ra đời, chúng tôi xem các vị là đại phước điền. Vì sao các vị không thọ vật của chúng tôi cúng, há không phải khiến chúng tôi bỏ tư lương tốt thú hướng cho đời sau hay sao. Lại nữa Phật có dạy bố thí nên đúng lúc, đây là lương thực mới và trái cây vừa chín nên chúng tôi đem cúng các vị có giới đức dùng trước rồi sau mới tự dùng, cốt là mong được phước, xin hãy thương xót thọ vật cúng này", bạch Phật, Phật nói: "nên nhận, bánh khô thì trộn với canh cơm cùng ăn, củ mía thì chẻ nhỏ ra ăn để không phát ra tiếng".

Duyên xứ như trên, lúc đó có trưởng giả thỉnh Phật và Tăng đến nhà thọ thực, các Bí-sô không đến cùng một lúc, do mỗi người đi riêng với bạn nên người đến trước phải chờ người đến sau, chờ lâu họ bảo chủ nhà dọn thức ăn để ăn trước... do dọn ăn nhiều lượt như vậy nên chủ nhà mệt nhọc chê trách. Bạch Phật, Phật nói: "không nên như thế, ai đến trước thì đứng ở cửa chờ rồi mới cùng vào nhà thí chủ một lượt, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp". Sau đó có Bí-sô bịnh, do đợi người khán bịnh thọ thỉnh thực xong mới mang thức ăn về đến, nên bịnh nặng thêm. Bạch Phật, Phật nói: "có năm trường hợp được ăn trước và ăn trong phòng: một là khách mới đến, hai là người sắp đi xa, ba là người bịnh, bốn là người khán bịnh, năm là vị trị sự đang bận rộn".

Duyên xứ như trên, lúc đó có trưởng giả thỉnh Phật và Tăng đến nhà thọ thực, Phật ở lại chùa bảo thị giả nhận phần thức ăn mang về... như trên cho đến câu trường hợp này là vì muốn chế học xứ. Lúc đó ở nhà thí chủ, các Bí-sô sau khi thọ thực xong liền đứng dậy ra về, bổn ý thì chủ muốn được nghe pháp nhưng không ai thuyết nên chê trách. Bạch Phật, Phật nói: "thí chủ chê trách đúng, từ nay Bí-sô thọ thực xong không nên bỏ về ngay, nên thuyết pháp cho họ rồi mới về. Ai bỏ về ngay thì phạm tội Việt pháp", Bí-sô không biết ai nên thuyết pháp cho thí chủ, Phật nói: "Thượng tòa nên thuyết, nếu vị thứ nhất không thuyết được thì vị thứ hai nên thuyết... theo thứ lớp như thế, hoặc thỉnh trước người có khả năng".

Duyên xứ như trên, lúc đó có một trưởng giả tín tâm thường lui tới trong rừng Thệ đa nghe pháp, hôm đó thỉnh Phật và Tăng đến nhà thọ thực, Phật ở lại chùa vì năm nhân duyên... như trên cho đến câu trường hợp này là vì muốn chế học xứ. Lúc đó ở nhà thí chủ, các Bí-sô sau khi thọ thực xong đều ra về hết, chỉ để một người được sai ở lại thuyết pháp cho thí chủ. Thí chủ cùng quyến thuộc cùng tụ lại một chỗ có oai lực lớn và rất oai nghiêm nên vị thuyết pháp sanh tâm sợ sệt, không thể thuyết diệu pháp được. Trưởng giả thấy vậy liền suy nghĩ: "do quyến thuộc của ta quá đông nên làm cho Bí-sô e sợ, không thể thuyết diệu pháp; vậy ta nên thuyết", nghĩ rồi liền nói với Bí-sô: "Thánh giả, như Phật đã dạy:

Bố thí được giàu có,
Trì giới được sanh thiên,
Chuyên tu đoạn phiền não,
Đây là pháp nên theo".

Bí-sô nghe rồi không biết đáp lại như thế nào nên trở về chùa, đem việc trên kể lại cho các Bí-sô, Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "từ nay không nên sai một người thuyết pháp, nên sai thêm bốn người làm bạn". Sau đó, khi Tăng sai thêm bốn người làm bạn với Bí-sô thuyết pháp, các Bí-sô làm bạn này do có duyên sự ra ngoài không báo nên Bí-sô thuyết pháp chỉ có một mình lại như trước không thể thuyết pháp được. Bạch Phật, Phật nói: "nếu Bí-sô được sai làm bạn với người thuyết pháp thì khi đi đâu nên bạch rồi mới đi, ai không bạch thì phạm tội Việt pháp".

8. Nhiếp tụng thứ tám trong Biệt môn thứ tám:

Thuốc tả, răng có độc,
Cây nạo lưỡi nên rửa,
Do tội nghiệp đã dứt,
Chứng quả A-la-hán.

Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có một Bà-la-môn cưới vợ chưa bao lâu thì vợ sanh được một trai, người con trai này đến tuổi trưởng thành liền xuất gia trong Phật pháp. Một hôm mắc bịnh, Bí-sô này đến yêu cầu thầy thuốc chữa trị, thầy thuốc nói: "Thánh giả nên uống thuốc tả sẽ hết bịnh", sau khi uống thuốc tả xong, Bí-sô đi kiết lỵ, tẩy tịnh bằng nước lạnh nên thuốc không tác dụng. Sau đó thầy thuốc đến thăm bịnh hỏi: "Thánh giả uống thuốc tả rồi thấy có khỏe hơn không?", đáp là không thấy có tác dụng, thầy thuốc hỏi: "có phải Thánh giả tẩy tịnh bằng nước lạnh không?", đáp là phải, thầy thuốc nói: "tẩy tịnh bằng nước lạnh thì làm sao thuốc có tác dụng, thầy nên uống thuốc tả như trước nhưng không tẩy tịnh, hết bịnh rồi mới tẩy tịnh", đáp là Phật chưa cho làm thế, thầy thuốc nói: "cách dùng thuốc trị bịnh là phải như thế, không làm khác được". Bạch Phật, Phật nói: "nếu như vậy thì sau khi đi kiết lỵ nên lau cho sạch", Bí-sô không biết dùng vật gì lau, Phật nói: "nên dùng đất, lá cây, vải cũ hay giấy cũ để lau, khi bịnh hết mới dùng nước nóng tẩy tịnh". Duyên xứ như trên, lúc đó trong một khu rừng có con rắn độc nên các mục đồng phóng lửa đốt rừng, lửa cháy bốn phía, rắn kinh hoàng bò trên lửa chạy ra ngoài nằm cuộn mình bên gốc đại thọ. Khi tôn giả Xá-lợi-phất du hành trong nhân gian, đi đến gốc cây này thấy rắn độc này bị lửa đốt cháy, thân lở lói đang chịu khổ não. Tôn giả liền quán nhân duyên đời trước của nó có thiện căn hay không, liền biết là có thiện căn; lại quán nó có duyên với ai, liền biết là có duyên với mình, liền dùng nước rưới lên mình nó và nói ba câu pháp: "Hiền thủ nên biết, các hành vô thường, các pháp vô ngã, Niết-bàn tịch diệt. Hãy sanh thiện tâm thanh tịnh với ta để bỏ thân bàng sanh được sanh vào cõi lành", nói xong bỏ đi. Lúc đó có chim cắt bay đến bắt rắn ăn thịt, răn nhờ khởi thiện tâm với tôn giả nên sau khi qua đời liền thác sanh vào nhà một Bà-la-môn giỏi về sáu việc tại thành Thất-laphiệt. Giỏi về sáu việc: một là biết tổ chức lễ hội, hai là dạy người tổ chức, ba là giỏi đọc tụng, bốn là biết pháp xả thí, năm là biết pháp thọ vật, sáu là biết tịnh xúc. Thời gian sau, tôn giả quán xem rắn độc sau khi chết thọ sanh về đâu, liền biết nó thọ sanh vào nhà Bà-la-môn này, để hóa độ nó, tôn giả thường hay lui tới nhà này và truyền Tam quy ngũ giới cho cả hai vợ chồng. Một hôm, tôn giả một mình đi đến nhà Bà-la-môn, Bà-la-môn hỏi vì sao lại đi một mình không có thị giả, tôn giả đáp: "thị giả của tôi không ở trong thảo am mà ở chỗ Bà-lamôn", Bà-la-môn liền nói: "vợ con đang có thai, sau này nếu sanh con trai sẽ cho làm thị giả của tôn giả", tôn giả nghe rồi liền chú nguyện cho đứa bé được khỏe mạnh rồi ra về. Thời gian sau đủ ngày tháng, vợ trưởng giả hạ sanh một bé trai, khi nó bú sữa, răng nó cắn làm vú mẹ sưng to; đến khi lớn lên cùng các đồng tử khác chơi giỡn, khi nó tức giận dùng răng cắn hay móng tay cào đều gây ra vết thương rất lâu lành. Khi quan biết thời điểm xuất gia của đồng tử đã đến, tôn giả liền đến nhà thuyết pháp cho hai vợ chồng Bà-la-môn, thấy đồng tử đến gần, tôn giả suy nghĩ: "đây chắc là thị giả của ta". Lúc đó người cha bảo con: "khi con chưa sanh ra, cha đã hứa cho con làm thị giả của tôn giả, nay con nên theo tôn giả, chớ có lưu luyến", đồng tử đứng nghiêm trang nhìn tôn giả một hồi lâu rồi mới đi theo, về đến chùa, tôn giả cho đồng tử xuất gia, thọ Cận viên và dạy cho giáo pháp. Một hôm sau khi đánh răng và nạo lưỡi xong, Bí-sô này liền vất bỏ cái nạo lưỡi; lúc đó có một Bí-sô khác thấy ruồi bay đến đậu trên cái nạo lưỡi này liền chết, rắn mối đến ăn ruồi cũng bị chết, mèo vàng đến ăn rắn mối cũng bị chết, chó đến cắn mèo cũng bị chết, kiến bu đến cũng bị chết, tất cả đều cùng chết chung một chỗ. Sáng hôm sau, các Bí-sô đến đánh răng thấy cảnh tượng này liền hỏi nhau vì sao, Bí-sô thấy sự việc hôm qua liền kể lại, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "các Bí-sô nên biết tuy thọ sanh trong loài người nhưng vẫn còn mang nọc rắn, từ nay sau khi đánh răng nạo lưỡi xong, rửa sạch cái nạo lưỡi rồi mới vất bỏ, nếu ai làm tái thì phạm tội Việt pháp". Sau đó gặp lúc thiếu nước, các Bí-sô không biết làm sao, bạch Phật, Phật nói nên dùng tro đất chà sạch rồi vất bỏ. Một hôm, Bí-sô có nọc rắn nhuộm y rồi đem phơi, Ô-ba-nan-đà đến nói muốn giúp đỡ, đáp là tùy ý, Ô-ba-nan-đà tánh thích làm việc xấu nên khi giúp phơi y liền phơi y mới trên y cũ và chuyển đổi y ướt lên trên y khô, Bí-sô này nói đừng làm thế đến ba lần nhưng Ô-ba-nan-đà vẫn không chịu ngừng. Bí-sô này nổi giận muốn bắt giữ lại, Ô-bA-nan-đà bỏ chạy, Bí-sô này rượt theo; tôn giả Xálợi-phất đi đến thấy họ đang rượt đuổi nhau liền hỏi muốn làm gì, lúc đó Ô-ba-nan-đà bẻ cành cây dọa đánh, Bí-sô này vẫn rượt theo, tôn giả Xá-lợiphất phải dịu dàng an ủi để Bí-sô này không rượt theo nữa, bạch Phật, Phật nói: "đối với người như vậy thì không nên xúc não làm cho nổi giận". Sau đó, khi Ô-ba-nan-đà đến phiên làm tri sự đến bảo Bí-sô có nọc rắn làm việc này, việc kia thì Bí-sô này lại tức giận, bạch Phật, Phật nói: "đối với người trước đây có oán hận với mình thì không nên tự đến bảo họ làm việc này việc kia, nên nhờ người khác đến nói thì họ sẽ làm". Bí-sô có nọc rắn ở trong Phật pháp tinh tấn tu tập đoạn trừ phiền não, không bao lâu sau chứng quả A-la-hán, các Bí-sô nói với tôn giả Xá-lợi-phất: "người sân độc như vậy mà có thể chứng quả A-la-hán, thật là hi hữu", lúc đó tôn giả liền kể rõ việc trước đây liên quan tới Bí-sô có nọc rắn cho các Bí-sô nghe. Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: "Thế tôn, Bí-sô ấy đời trước đã tạo nghiệp gì mà nay bỏ được thân rắn sanh vào cõi người?", Phật nói: "nghiệp mà vị ấy đã tạo, nay quả báo thành thục nên tự thọ, như bài kệ:

"Dù trải qua trăm kiếp,
Nghiệp đã tạo không mất,
Khi nhân duyên hội họp,
Tự thọ lấy quả báo".

Các thầy lắng nghe:

Quá khứ Hiền kiếp, lúc con người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca-diếp-ba ra đời đầy đủ mười hiệu, trụ trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Lúc đó Bí-sô có nọc rắn này xuất gia trong giáo pháp của đức Phật ấy, thường tu pháp quán từ bi nên các Bí-sô thường gọi đùa là Từ quán, Bí-sô này nói đừng gọi như thế, đến ba lần mà các Bí-sô vẫn không ngừng gọi nên tức giận nói với các Bí-sô: "tôi là Từ quán còn các thầy là rắn độc trong loài người".

Này các Bí-sô, Bí-sô tu quán từ bi thuở xưa nay chính là Bí-sô có nọc rắn, do thuở xưa tức giận nói lời ác với đệ tử Thanh văn của Phật nên trong năm trăm đời thường sanh làm rắn độc đến đời này là thân rắn sau cùng. Lại do khi ở trong giáo pháp của Phật xuất gia thường tinh tấn đọc tụng, tu tập giới phẩm, thông hiểu các pháp về uẩn, xứ, giới, nhân duyên, xứ và phi xứ nên nhờ thiện căn này mà sau khi bỏ thân rắn được sanh vào cõi người, được xuất gia trong giáo pháp của ta, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán. Này các Bí-sô, hễ tạo nghiệp thuần đen thì cảm quả báo dị thục thuần đen; tạo nghiệp thuần trắng thì cảm quả báo dị thục thuần trắng; tạo nghiệp xen tạp thì được quả báo xen tạp, các thầy nên bỏ nghiệp thuần đen và nghiệp xen tạp, phải siêng tu tập nghiệp trắng, chớ có buông lung", nghe Phật dạy rồi, các Bí-sô đều hoan hỉ tín thọ phụng hành.

9. Nhiếp tụng thứ chín trong Biệt môn thứ tám:

Tùy việc mặc bay,
Pháp Lan nhã nên biết,
Tắm giữ cửa, Diệu hoa,
Không nên trụ Phi xứ.

Duyên xứ như trên, lúc đó các Bí-sô khi làm các công việc ở trong chùa như quét dọn, trát nền chùa, nhuộm y, giặt giũ cho đến vào nhà xí đại tiểu tiện đều mặc y Tăng-già-lê, giống như y bảy điều và y năm điều. Một Bí-sô nói: "y này nếu tùy tiện mặc dùng như hai y kia là không hợp lý, vì như Phật dạy: Tăng-già-lê là đại y, lẽ nào lại mặc khi làm các việc như thế". Bạch Phật, Phật nói: "Bí-sô này nói đúng, Tăng-già-lê là chủ trong các y, không nên mặc tùy tiện làm các việc như thế. Này các Bí-sô, khi vào tụ lạc khất thực, khi thọ thực, khi vào trong chúng thọ thực, lễ tháp, nghe pháp, lễ hai thầy và vị đồng phạm hạnh... đều nên mặc đại y; y Uất Đa-la tăng mặc khi ở những nơi sạch sẽ như trong phòng, hoặc như khi ăn uống...; y Anđà-hội được tùy ý mặc bất cứ ở chỗ nào và làm các việc đều không phạm".

Duyên xứ như trên, giống như đoạn trên khi Phật nói các ví dụ như mặc trời mọc, chim hót, nông phu canh tác... để khuyên các Bí-sô xa lìa nơi ồn náo, ở nơi tịch tĩnh để chuyên tu thiền quán. Lúc đó có một Bí-sô ít học ít hiểu biết liền đến nơi A-lan-nhã, ở trong một am cỏ chuyên tu, trừ khi khất thực, cho đến kẻ chăn bò cũng biết rõ điều này. Sau đó có bọn giặc bị người khác làm hại đều bị thương và đói khát, không biết phải dừng nghỉ ở đâu, một người trong bọn nói: "trong chỗ A-lan-nhã có Sa môn Thích tử ở, tất cà Sa môn tánh ưa cất chứa lại thêm có lòng từ bi, không biết sợ hãi, chúng ta tới đó có thể nhờ giúp đỡ", nói rồi cùng kéo nhau đến chỗ A-lan-nhã. Bí-sô thấy họ liền chào hỏi thiện lai, bọn giặc ngồi một lát liền nói với Bí-sô: "chúng tôi lạnh cần lửa", đáp là không có lửa, lại nói: "chúng tôi khát cần nước", cũng đáp là không có, lại nói: "chúng tôi cần ít bột thuốc để đắp vết thương", cũng đáp không có, lại nói: "chúng tôi cần dầu để thoa vết thương", cũng đáp là không có, lại nói: "chúng tôi đói cần thức ăn", cũng nói là không có. Giặc lại hỏi: "hôm nay là ngày gì tháng gì, thời tiết gì?", đáp: "tôi ở A-lan-nhã nên không biết rõ việc đó". Một người trong bọn có biết Phật pháp nên hỏi: "Thánh giả có chứng được các quả A-la-hán, quả Bất hoàn... quả Dự lưu không?", Bí-sô chỉ đáp là tôi sống nơi A-lan-nhã, lại hỏi: "Thánh giả có chứng được các tĩnh lự Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Vô sở hữu xứ, Thức xứ và Không xứ không?", Bí-sô cũng đáp như trên, lại hỏi: "Thánh giả có phải là người trì ba tạng kinh luật luận hay không?", Bí-sô cũng đáp như trên, lại hỏi tên gì, cũng đáp như trên, lại hỏi nơi đây thuộc phương nào, cũng đáp như trên. Bọn giặc nghe rồi tức giận nói: "chúng tôi tuy là giặc nhưng Bí-sô mới là đại tặc, vì sao, vì ngay cả tên mình cũng không biết, lại dối hiện oai nghi lừa gạt người đời", nói rồi cùng đánh Bí-sô mang đầy thương tích rồi bỏ đi. Sáng hôm sau, Bí-sô gắng gượng trở về rừng Thệ đa, các Bí-sô thấy liền hỏi nguyên do, Bí-sô kể lại việc hôm qua, các Bí-sô bạch Phật, Phật nói: "nay ta chế hành pháp cho Bí-sô ở nơi A-lan-nhã, Bí-sô ở A-lan-nhã nên cất chứa nước, lửa, dầu, tô, bột thuốc, vải cũ và để dành một ít thức ăn; cũng nên biết ngày giờ, thời tiết, phương hướng, thông hiểu ba tạng và biết tên mình. Ai ở A-lan-nhã mà không tuân theo hành pháp này thì phạm tội Việt pháp".

Duyên xứ như trên, lúc đó có một ngoại đạo bịnh nặng đến yêu cầu thầy thuốc chữa trị, thầy thuốc nói: "nên làm phòng tắm tắm rửa sạch sẽ thân thể thì hết bịnh", đáp: "tôi có thể làm phòng tắm ở đâu, vì tôi chỉ tùy thời khất thực mà sống", thầy thuốc nói: "Sa môn Thích tử mỗi nửa tháng tắm rửa ở phòng tắm, thầy có thể đến đó tắm". Nhân khi các Bí-sô tắm, ngoại đạo liền mặc áo đỏ vào bên trong để tắm, mọi người tưởng là Bí-sô nên không ai ngăn cản, tắm xong liền ra ngoài phơi nắng. Lúc đó có một Cầu tịch đến thấy ngoại đạo này ngồi ở ngoài nên rũ vào trong tắm, ngoại đạo lắc đầu ý không muốn tắm lại, Cầu tịch liền nắm tay kéo đi, ngoại đạo kêu lớn: "Sa môn Thích tử không sạch sẽ, sao lại dùng tay bất tịnh chạm vào thân thể đã tắm sạch", Cầu tịch liền hỏi: "tôi là Sa môn, còn ông là người gì?", đáp là ngoại đạo, Cầu tịch liền nói to lên: "ai lại cho ngoại đạo này vào bên trong tắm vậy?". Các Bí-sô nghe biết việc này liền bạch Phật, Phật bảo: "từ nay khi tắm rửa nên cho người giữ cửa, thấy Bí-sô vào nên hỏi tên họ", sau đó người giữ cửa gặp người quen biết cũng hỏi tên, Phật nói không nên như vậy.

Phật tại nước Kiều-tát-la du hành đến tụ lạc tên Dục lê rồi dừng ở trong một vườn cây, trong tụ lạc này có một Bà-la-môn tên Diệu hoa được vua phong ấp nhiều đất đai, thọ dụng không thiếu, cũng được vua thường cúng dường. Lúc đó Diệu hoa nghe nói có sa môn Kiều-đáp-ma thuộc dòng họ Thích ca từ bỏ vương vị xuất gia tu chứng đạo quả Vô thượng Chánh đẳng bồ đề, đầy đủ mười hiệu, danh tiếng vang khắp các nước, được trời người cung kính, tự mình giác ngộ không nhờ thầy dạy, hiểu rõ "sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau". Với tri kiến như thật nói pháp yếu ban đầu, khoảng giữa và sau cùng đều thiện, văn nghĩa xảo diệu, thuần nhất không tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh trong sạch; Phật ở trong nước Kiều-tát-la giáo hóa, nay đã đến nơi đây hiện đang ở trong một vườn cây. Bà-lamôn suy nghĩ: "ta đọc sách cổ thấy nói ai có tướng mạo trang nghiêm, đầy đủ ba mươi hai tướng của bậc đại nhân thì người đó nếu ở tại gia sẽ làm Chuyển luân thánh vương, dùng pháp giáo hóa cai trị bốn châu thiên hạ; có đủ bảy báu: bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, nữ báu, thần coi giữ phục tàng báu, thần chỉ huy quân đội báu và ngọc ma ni báu; có đủ ngàn người con đại oai đức, dũng mãnh vô song đi đến đâu, mọi người đều quy phục, khắp nơi đều được cảm hóa, không có oán địch... Nếu xuất gia thì sẽ chứng đại bồ đề", nghĩ rồi liền bảo đệ tử Thọ sanh: "con biết không ta nghe nói có sa môn Kiều-đáp-ma thuộc dòng họ Thích ca từ bỏ vương vị xuất gia tu chứng đạo quả Vô thượng Chánh đẳng bồ đề... như trên cho đến câu nếu xuất gia thì chứng đại bồ đề. Con hãy đến xem thử các tướng hảo ấy là thật hay hư?", Thọ sanh vâng lời thầy cùng các bậc kỳ túc Bà-la-môn đi đến chỗ Phật. Đến nơi Thọ sanh đứng một bên, các Bà-lamôn thăm hỏi Phật rồi ngồi trước Phật, Phật thuyết diệu pháp khiến họ được hoan hỉ. Khi Phật đang thuyết, Thọ sanh mang giày da đi qua lại trước Phật, lâu lâu đứng lại nghe rồi hỏi ngắt ngang, hỏi rồi lại đi, thái độ rất cao ngạo, lòng không kính sợ đối nghịch lại, cho mình là thắng thế. Phật trách: "ngươi thông hiểu Minh luận sao lại có thái độ ngạo mạn như vậy?", liền nói: "này Kiều-đáp-ma, tôi có lỗi gì?", Phật nói: "khi ta cùng các bậc kỳ túc có học thức bàn luận, ngươi mang giày da đi qua đi lại, không biết lớn nhỏ, không có tâm kính thuận, loạn hỏi đối nghịch lại", đáp: "theo pháp Bà-la-môn của tôi là vừa đi vừa nói chuyện với người, đứng nằm ngồi đều có thể cùng nói chuyện đều không có lỗi. Sa môn trọc đầu các vị bị phiền não trói buộc, không sanh con trai con gái, tôi hỏi ngắt ngang để cùng bàn luận thì có lỗi gì", Phật nói: "ngươi có việc nên mới đến gặp ta, nhưng ngươi chưa được bậc tôn trưởng chỉ dạy phải như thế nào". Thọ sanh nghe rồi tức giận liền nói: "này Kiều-đáp-ma, những người thuộc dòng họ Thích ca như voi hoang dã, đối với Bà-la-môn không biết cung kính tôn trọng cúng dường", Phật hỏi: "các Thích ca tử có lỗi gì mà ngươi nói lời này?", đáp: "trước đây vì việc của thầy và việc riêng nên tôi đến thành Kiều-tát-la, các nam nữ họ Thích đứng trên lầu cao thấy tôi vào thành đang đi trên đường, họ chỉ trỏ nói với nhau mà không có tâm cung kính, nói: "đây là Ma-nạp-bà Thọ sanh, đệ tử của Bà-la-môn Diệu hoa", Phật nói: "ví như chim sáo hót được nhiều tiếng, ở trong tổ mình mặc sức hót vang, các Thích ca tử ở trong chỗ của mình nên tùy ý đàm luận thì có lỗi gì", đáp: "trong thế gian có bốn giai cấp là Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà-la; họ đều cung kính tôn trọng cúng dường các Bà-la-môn, chỉ riêng có dòng họ Thích ca thì không". Lúc đó Phật suy nghĩ: "Ma-nạp-bà này ví dòng họ Thích như voi hoang dã là hủy nhục thái quá, ta nên nói về nhân duyên nguồn gốc chủng tộc trong quá khứ để hắn không còn ngạo mạn", nghĩ rồi liền quán biết tổ tiên của Ma-nạp-bà là do nô tỳ của dòng họ Thích ca sanh ra, Thích ca tử là Tào chủ của Ma-nạp-bà nên Phật hỏi: "ngươi họ gì?", đáp là họ Tiễn đạo, Phật nói: "ta quán thấy tổ phụ đời trước của ngươi là do nô tỳ của dòng họ Thích ca sanh ra, các Thích ca tử hiện nay là Tào chủ của ngươi". Các Bà-la-môn kỳ túc nói: "này Kiều-đáp-ma, chớ nói tội tiên của Thọ sanh là do nô tỳ sanh ra, vì sao, vì Thọ sanh là người đa văn thông tuệ, biện luận lưu loát có thể cùng Kiều-đápma y theo chánh pháp luận nghị hỏi đáp", Phật nói: "nếu nói Thọ sanh đa văn trí huệ thì các vị hãy im lặng để Thọ sanh cùng ta đàm luận, nếu nói không được thì các vị sẽ trả lời", các Bà-la-môn nói: "vậy thì chúng tôi im lặng để Thọ sanh nhiều trí huệ đàm luận cùng Kiều-đáp-ma". Lúc đó Phật bảo Thọ sanh: "thuở xưa có vua Cam giá sanh được bốn con trai là Cự khẩu, Lư nhĩ, Tượng kiên và Túc xuyên. Do có lỗi nên cả bốn người con này đều bị đuổi khỏi nước, họ dẫn em gái đi theo, khi đến bên bờ sông cạnh núi Tuyết là nơi trú ngụ của tiên nhân Kiếp-tỷ-la, họ làm nhà cách đó không xa để ở, sau đó, họ lấy em gái khác mẹ làm vợ và sanh con. Thời gian sau, vua Cam giá nhớ các con nên hỏi đại thần chúng hiện đang ở đâu, đại thần kể lại mọi việc cho đến câu họ lấy em gái khác mẹ làm vợ và đã sanh con, vua nghe rồi liền nói: con ta có năng lực như vậy sao, đại thần đáp là thật vậy, vua liền giơ tay phải lên khen ngợi: con ta có năng lực làm được việc như vậy. Do đây chủng tộc đó có hiệu là Thích ca (dịch là Năng), này Manạp-bà, ngươi có từng nghe chủng tộc Thích ca có việc như thế hay không?", đáp là có nghe, Phật nói: "vua Cam giá có một nô tỳ tên là Tri phương rất xinh đẹp, cô lấy một tiên nhân sanh ra một trai, khi vừa sanh ra nó liền kêu lên: đừng lau thân tôi, hãy tắm tôi cho sạch. Do việc này nên người đương thời gọi đứa bé này là Quỷ tiễn đạo, ngươi có từng nghe có chủng tộc này không?", Thọ sanh im lặng, Phật hỏi ba lần Thọ sanh vẫn im lặng. Lúc đó thần Kim cang thủ cầm chày kim cang ở trên đầu Thọ sanh, phóng ra ánh sáng như lửa, nói rằng: "Phật hỏi đến ba lần mà ngươi không chịu đáp thì ta sẽ cầm chày kim cang này đập đầu ngươi ra làm bảy phần", do oai lực của Phật nên Thọ sanh thấy được thần Kim cang, trong lòng kinh sợ đến nỗi lông tóc dựng đứng, liền đáp: "tôi có nghe tên chủng tộc này". Các Bà-la-môn kỳ túc nói: "đúng như lời Kiều-đáp-ma nói, chúng tôi đều tin chúng tộc đầu tiên của Thọ sanh là con của nô tỳ", Thọ sanh nghe rồi buồn bã cúi đầu im lặng, Phật suy nghĩ: "ta nên an ủi", nghĩ rồi liền nói về nhân duyên với nhiều ví dụ khiến Thọ sanh dứt tâm kiêu mạn và không còn ưu sầu nữa rồi nói: "này Manạp-bà, ngươi đến đây với mục đích gì?", Thọ sanh nghe rồi liền quán sát ba mươi hai tướng trên thân Phật, chỉ thấy có ba mươi tướng, còn hai tướng âm tàng và tướng lưỡi vì không thấy được nên phân vân nói kệ:

"Xưa nghe Đại Mâu ni,
Đủ ba mươi hai tướng,
Nhưng con quán sát thấy,
Thiếu hai tướng trên thân.
Nhân trung tôn, chưa thấy
Tướng âm tàng trong thân,
Và tướng lưỡi rộng dài,
Trong miệng không ai biết.
Cúi xin Phật hiện tướng,
Cho con hết nghi ngờ,
Chánh giác đại danh văn,
Người đời khó thấy được".

QUYỂN 35

9. Nhiếp tụng thứ chín-Bà-la-môn Diệu hoa (tt):

Lúc đó Phật suy nghĩ: "Thọ sanh đến đây là muốn xem ba hai tướng của ta, nay đã thấy ba mươi tướng còn hai tướng chưa thấy nên nghi, ta nên phương tiện hiện tướng cho thấy", nghĩ rồi liền le lưỡi ra dài đến tận chân tóc và rộng phủ cả mặt, Thọ sanh thấy rồi sanh tâm hoan hỉ đảnh lễ Phật rồi ra về. Lúc đó Bà-la-môn Diệu hoa ngồi trong vườn nói chuyện với các bậc kỳ túc để chờ Thọ sanh về, Thọ sanh về đến nơi liền đảnh lễ thầy và các vị kỳ túc rồi ngồi một bên, Diệu hoa hỏi: "tiếng đồn Kiều-đáp-ma có đủ ba mươi hai tướng tốt là thật hay hư?", đáp là thật, lại hỏi có cùng đàm luận hay không, đáp là có, liền bảo thuật lại đầy đủ, Thọ sanh vâng lời thuật lại đầy đủ, Diệu hoa nghe xong liền tức giận đưa chân đạp lên đầu Thọ sanh nói: "Hay thay sứ giả đã làm việc như thế, khiến ta bị chìm trong đường ác, khi ngươi đàm luận với vị ấy, ngươi đã có sai trái, ta cũng có sai trái trong đó. Bây giờ trời đã xế chiều, không thể đến đó cung kính thăm hỏi, đợi sáng mai ta sẽ đích thân đến đó". Ngay trong đêm đó, Diệu hoa lo liệu đầy đủ các món ăn ngon, sáng sớm cho xe chở đến chỗ Phật, chào hỏi rồi ngồi một bên bạch Phật: "tôi đã làm các món ăn thanh tịnh này mang đến cúng dường Kiều-đáp-ma, xin thương tưởng nạp thọ", Phật bảo A-nan:" thầy đi thông báo tất cả Bí-sô trong tụ lạc đều đến tụ họp trong nhà ăn", A-nan vâng lời Phật đi thông báo. Khi các Bí-sô đều đã tụ họp xong, A-nan đến bạch Phật biết thời, Phật đến chỗ ngồi ngồi xong, Bà-la-môn Diệu hoa tự tay dâng các món ăn cúng dường Phật và Tăng, Phật và Tăng thọ thực xong, Bà-la-môn lấy chiếc ghế thấp ngồi trước Phật muốn nghe pháp, Phật nói kệ bố thí:

"Tế tự, lửa hơn hết,
Tụng đầu, nhất trong luận,
Vua đứng đầu muôn dân,
Biển lớn nhất các dòng,
Các sao, trăng sáng nhất,
Ánh mặt trời sáng nhất,
Trong phàm thánh mười phương,
Đức Phật là tối thượng.
Người đã làm bố thí,
Chắc chắn được nghĩa lợi.
Nếu vì vui nên thí,
Sau sẽ được an lạc".

Khi Phật đang nói kệ này thì trong chúng có một Bí-sô già tuy đã ăn no vẫn còn cắn bánh nướng phát ra tiếng, Bà-la-môn nghe rồi liền hỏi Phật: "Đệ tử Thanh văn của Kiều-đáp-ma có vâng theo lời dạy hay không?", Phật nói có người vâng theo, có người không vâng theo; lại hỏi: "ở trong đây có người ưa pháp, có người tham ăn. Thọ sanh, đệ tử của tôi có đến gặp Phật và cùng đàm luận hay không?", đáp là có đàm luận sơ, Bà-lamôn nói: "xin Kiều-đáp-ma kể lại cho tôi nghe", Phật kể lại đầy đủ, Bà-la-môn nghe rồi liền nói: "thưa Kiều-đáp-ma, Thọ sanh hiểu biết nông cạn nên tâm kiêu mạn, không biết kính sợ đã xúc phạm tôn nhan, xin Kiều-đáp-ma từ bi tha thứ", Phật nói là đã tha thứ, Bà-la-môn Diệu hoa bạch Phật: "thưa Kiều-đáp-ma, khi tôi đang đi xe mà nắm giữ cương ngựa lại hoặc giơ roi gọi lớn thì ngay lúc đó xin Phật biết là Bà-la-môn Diệu hoa đảnh lễ Phật và thăm hỏi sức khỏe của Phật. Khi tôi đang đi bộ mà tháo giày ra hoặc đi tránh qua bên đường hoặc giơ tay chào thì ngay lúc đó xin Phật biết là Bà-la-môn Diệu hoa đảnh lễ Phật và thăm hỏi sức khỏe của Phật. Khi thấy tôi đang bàn luận với mọi người mà rời khỏi chỗ ngồi hoặc cởi thượng y hoặc lấy mũ ra khỏi đầu thì ngay lúc đó xin Phật biết là Bà-la-môn Diệu hoa đảnh lễ Phật và thăm hỏi sức khỏe của Phật. Vì sao thưa Kiều-đáp-ma, vì pháp của Bà-la-môn chúng tôi chỉ cầu danh tiếng, tất cả y thực và những vật cần dùng đều nhờ danh tiếng mà có được, cũng nhờ danh tiếng mà tôi giữ được đồ chúng". Lúc đó Phật suy nghĩ: "Bà-la-môn này rất kiêu mạn, ta nên thuyết pháp điều phục tâm kiêu mạn này", nghĩ rồi phật liền tuyên dương giáo pháp khiến cho Bà-la-môn được lợi hỉ, Thường pháp của chư Phật là trước tiên nói về pháp bố thí, trì giới là nhân sanh lên cõi trời; kế nói về tội lỗi của năm dục, vị ngọt thì ít mà tội lỗi thì nhiều đưa đến trầm luân trong sanh tử, nên cầu xuất ly để chứng Niết-bàn thanh tịnh. Khi biết tâm Bà-la-môn hoan hỉ, phát tâm thanh tịnh có thể làm bậc pháp khí thọ lãnh thắng pháp, Phật liền nói về pháp xuất thế, đó là bốn Thánh đế: khổ tập diệt đạo. Giống như giặt áo, trước phải tẩy sạch hết chất dơ, khi áo đã sạch mới dễ nhuộm màu; tâm Bà-la-môn này cũng vậy, nghe xong bốn Thánh đế này liền chứng được quả dự lưu. Chứng quả rồi liền đứng dậy đảnh lễ, quỳ gối chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, hôm nay con được xuất ly, từ nay xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng làm Ô-basách-ca thọ trì năm học xứ với đầy đủ niệm thanh tịnh", bạch xong đảnh lễ Phật rồi ra về. Lúc đó Phật suy nghĩ: "Bà-la-môn chê cười đúng, vì trong khi ta đang nói kệ bố thí mà Bí-sô kia vẫn tiếp tục ăn", nghĩ rồi liền bảo các Bí-sô: "trong khi ta đang nói kệ bố thí mà Bí-sô kia vẫn tiếp tục ăn nên mới bị Bà-la-môn chê cười, từ nay trong khi Bí-sô đang nói kệ bố thì thì không được ăn, ai tiếp tục ăn thì phạm tội Việt pháp". Sau đó, trong khi đang nói kệ bố thí vì Bí-sô không dám ăn nên những người ngồi cuối hàng cũng không ăn cho đến qua giờ ăn, Phật nói: "khi đang nói kệ bố thí, người nào không nghe tiếng, không hiểu nghĩa, được ăn không phạm; nếu nghe tiếng mà không hiểu nghĩa cũng được ăn không phạm; nếu nghe tiếng mà hiểu nghĩa, ăn thì phạm tội Việt pháp". Sau đó, tại một trú xứ có nhiều Tăng, khi thí chủ dọn đưa thức ăn lại đi ngược từ dưới lên trên, người ngồi trên nghe nói kệ bố thí không dám ăn cho đến qua giờ ăn, Phật nói: "tuy nghe tiếng mà hiểu nghĩa thì đều không được ăn, nhưng chờ nói hai ba câu rồi mới ăn thì không phạm".

Phật ở trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Sáng hôm đó Phật đắp y mang bát vào thành khất thực, nhiều Bí-sô cũng đi khất thực, khi đi ngang một khu vườn, có một Bí-sô nhìn thấy người nữ liền khởi tầm tư ác, khởi niệm tà dục. Phật quán thấy Bí-sô này có tà niệm tương ưng bất thiện liền đến gần bên nói rằng: "này Bí-sô, ngay trong thân thầy đang trồng hạt giống khổ, chảy ra phẩn hôi thối mà ruồi trùng không ăn là không có lý đó", Bí-sô nghe rồi liền suy nghĩ: "Phật đã biết tâm tà của ta", trong lòng kinh sợ, lông tóc đều dựng đứng liền vội bỏ đi.

Phật suy nghĩ: "Bí-sô đứng nơi phi xứ nên có lỗi này", sau khi khất thực xong trở về trú xứ, thọ thực xong, thu xếp y bát rửa chân rồi vào phòng thiền tọa cho đến xế chiều. Sáu đó đến trong chúng bảo các Bí-sô: "sáng nay ta vào thành khất thực, nhiều Bí-sô cũng đi khất thực, khi đi ngang một khu vườn, có một Bí-sô nhìn thấy người nữ liền khởi tầm tư ác, khởi niệm tà dục. Ta quán thấy Bí-sô này có tà niệm tương ưng bất thiện liền đến gần bên nói rằng: "này Bí-sô, ngay trong thân thầy đang trồng hạt giống khổ, chảy ra phẩn hôi thối mà ruồi trùng không ăn là không có lý đó", Bí-sô nghe rồi liền suy nghĩ: "Phật đã biết tâm tà của ta", trong lòng kinh sợ, lông tóc đều dựng đứng liền vội bỏ đi. Từ nay Bí-sô không nên đứng lại nơi phi xứ, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp". Bí-sô kia nghe Phật nói rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, trong Thánh giáo những gì là hạt giống khổ, sao gọi là phẩn hôi thối chảy ra, ruồi trùng đều ăn?", Phật nói: "này Bí-sô, hạt giống khổ là ba pháp tội ác bất thiện tà tư lương, đó là tầm tư ác dục, tầm tư sân hận, tầm tư sát hại. Phẩn hôi thối là năm dục sắc thanh hương vị xúc; chảy ra là dục trói buộc tâm nên sáu căn chạy theo sáu cảnh lưu động không ngừng. Ruồi trùng là thế gian đối với sáu xúc xứ không có tâm chế ngăn nên khởi ra tham sân... ưu bi khổ não, tạo các nghiệp ác", liền nói kệ:

"Không nhiếp hộ mắt, tai...
Bị ái dục kéo lôi,
Trồng giống khổ trong thân,
Hôi thối thường chảy ra.
Ai sống trong tụ lạc,
Hay nơi A-lan-nhã,
Thường ở trong ngày đêm,
Không tư duy chánh pháp,
Do nương theo niệm ác,
Khởi tầm tư bất thiện,
Rời xa duyên lạc trú,
Sẽ thọ lấy khổ báo.
Người nào tu tịch định,
Siêng tu tập thắng huệ,
Thường được ngủ an ồn,
Không bị khổ ruồi trùng.
Thân cận thiện tri thức,
Vâng lời bậc hiền trí,
Ai học được như vậy,
Sẽ không tái sanh nữa".

Lúc đó Bí-sô không biết những nơi nào là phi xứ, Phật nói: "phi xứ có năm, đó là nhà ca hát, nhà dâm nữ, nhà bán rượu, nhà vua chúa và nhà Chiênđà-la. Năm nơi này Bí-sô đều không nên đến".

10. Nhiếp tụng thứ 10 trong Biệt môn thứ tám:

Do rắn xem ngọa cụ,
Một y không làm lễ,
Khi mới đến trong chùa,
Lễ bốn vị kỳ túc.

Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có Bí-sô muốn du hành nên đem ngọa cụ của một Bí-sô bạn gửi để lại chỗ cũ mà không thọ dụng, có một con rắn độc tìm chỗ liền bò đến cuộn mình nằm dưới tấm nệm. Lúc đó có một Bí-sô khách đến, sau khi lễ tháp và các Bí-sô khác xong mới trở về phòng thì trời đã chiều tối, Bí-sô cựu trú nói: "đây là nước, bột tẩy, đèn, dầu... cụ thọ nên trải ngọa cụ trước". Do đi đường mệt nhọc nên sau khi rửa chân xong, Bí-sô liền nằm xuống giường nệm ngủ, do nghiệp lực đời trước nên không xem xét ngọa cụ, con rắn đang nằm dưới nệm bị đè nên ló đầu ra mổ Bí-sô, Bí-sô bị cắn đau nên lăn lộn trên mình rắn, một lúc sau cả hai đều chết. Sáng hôm sau, Bí-sô cựu trụ đến cửa phòng kêu thức dậy nhưng Bí-sô đã chết, không thể đáp được; Bí-sô cựu trụ cho là khách vì đi đường mệt nhọc nên ngủ say, sau khi ngủ đã giấc sẽ tự thức dậy. Đến giờ ăn trưa, Bí-sô cựu trụ lại đến gọi, cũng không nghe đáp lại liền mở cửa vào phòng mới biết Bí-sô đã chết, kéo tấm nệm ra lại thấy có con rắn độc cũng đã chết. Bạch Phật, Phật suy nghĩ: "do không xem xét ngọa cụ nên Bí-sô kia mới bị chết như vậy", nghĩ rồi liền bảo các Bí-sô: "Bí-sô nhận ngọa cụ của người gửi nên giao lại cho vị tri sự hoặc tùy thời đem phơi nắng hoặc để trên giá cao, cột chặt đừng cho rớt xuống. Từ nay ai muốn dùng ngọa cụ để nằm ngủ nên xem xét kỹ". Sau đó các Bí-sô dùng đèn rọi để xem xét, Phật bảo: "không nên làm thế, nên xem xét trước vào ban ngày", lúc đó các Bí-sô không luận ngoại cụ cũ hay mới thảy đều xem xét, Phật nói: "nên lật xem cái cũ, không cần xem cái mới, vải trải nệm nên thường đập giũ, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó có hai Bí-sô ở chung một phòng, một Bí-sô vừa độ một đệ tử trẻ tuổi, người đệ tử này ngủ nhiều thức ít nên thường bị thầy quở trách. Một hôm, đệ tử bỗng dậy sớm, trên người chỉ mặc Tăng khước kỳ vội đi đến lễ thầy, vị thầy đứng dậy muốn mặc hạ y, đệ tử đến gần bên thầy đảnh lễ, vừa đứng lên thì cái đầu mới cạo tóc vướng vào hạ y của thầy làm cho đệ tử này ngã lăn ra đất, cả hai thầy trò đều lộ hình, Bí-sô ở chung phòng nói: "hôm nay tôi mới biết các vị đều là trượng phu có đủ nam căn", hai thầy trò nghe rồi xấu hổ bỏ đi, sau đó đệ tử bị thầy quở trách, các Bí-sô hỏi nguyên do, người đệ tử kể lại việc trên, các Bí-sô nói: "thầy có lỗi bị quở trách là đúng", người đệ tử im lặng. Bạch Phật, Phật nói: "vị thầy chê trách là đúng, từ nay Bí-sô không được mặc một y làm lễ người khác, ai làm trái thì phạm tội Việt pháp".

Duyên khởi tại thành Vương xá, như Phật đã dạy nếu Bí-sô khách đến nơi nào mà không đến làm lễ bậc tôn túc thì sẽ không được dọn chỗ cho nghỉ ngơi. Lúc đó có nhiều Bí-sô từ nơi khác đến lễ tháp xong, do không được dọn chỗ cho nghỉ như bị tẫn xuất nên họ bạ đâu nghỉ đó, hoặc ở trước hiên, hoặc ở bên cửa hoặc dưới gốc cây. Các cư sĩ có tín tâm đến thấy vậy liền hỏi: "các thầy bị đuổi hay sao mà bạ đâu nghỉ đó như vậy?", đáp: "chúng tôi là khách mới đến, không phải bị đuổi", lại hỏi: "nếu là khách vì sao không ở trong phòng?", đáp: "ở đây tôi không có ai quen, chúng tôi đến lễ tháp Phật, chỉ tạm nghỉ rồi sẽ đi", các cư sĩ nghe rồi liền chê trách: "tôi nghe nói Sa môn Thích tử bình đẳng, nay mới thấy là không có bình đẳng gì cả, thấy khách đồng phạm hạnh đến mà lại không cho ở", bạch Phật, Phật nói: "từ nay khách tăng đến trong chùa nên làm lễ bậc kỳ túc trước, nên lễ bốn vị, vị tri sự nên theo pháp sắp xếp chỗ ở cho họ". Sau đó, có một Bí-sô khách du hành trong nhân gian đến thành Vương xá thì trời đã chiều tối, muốn làm lễ bốn vị kỳ túc trước nên hỏi các Bí-sô chỗ ở của tôn giả Kiều trần như, đáp là đang ở trong Trúc lâm; sau khi đến đảnh lễ xong lại hỏi chỗ ở của tôn giả Đại Ca-diếp, đáp là đang ở trong hang Tất bát la; sau khi đến đảnh lễ rồi lại hỏi chỗ ở của tôn giả Chuẩn đà, đáp là đang ở trên núi Thứu; sau khi đến đảnh lễ rồi lại hỏi chỗ ở của tôn giả Thập lực Ca-diếp, đáp là đang ở trong hang Tế nhĩ ca; sau khi đến đảnh lễ xong, tôn giả bảo ở lại nghỉ ngơi thì khách Bí-sô đáp: "trời đã sáng rồi phải đi khất thực, không thể nghỉ ngơi. Như Phật đã dạy khách tăng đến nơi nào phải đảnh lễ bốn vị kỳ túc trước, đấy chính là phương tiện trị phạt khách tăng không cho an ổn". Bạch Phật, Phật nói: "trước đây ta đâu có bảo khách Bí-sô phải đảnh lễ hết các bậc kỳ túc trên mặt đất này, chỉ là bảo nên đảnh lễ bốn vị kỳ túc tại chỗ mình đến".

Nhiếp tụng nội dung:

Thế tôn vì Cao thắng,
Rộng nói hạnh đệ tử.
Hành vũ hỏi Đại sư,
Vì nói bảy, sáu pháp.

Duyên khởi tại thành Thất-la-phiệt, lúc đó vào xế chiều, cụ thọ Cao thắng sau khi xuất thiền đi đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch Phật: "cúi xin Thế tôn nói về hành pháp của đệ tử phụng sự thầy", Phật nói: "thầy lắng nghe hành pháp của một đệ tử phụng sự thầy là đệ tử đối với thầy phải có tâm cung kính và tâm sợ sệt, không vì cầu danh văn lợi dưỡng. Nên dậy sớm rồi đến thăm hỏi sức khỏe của thầy: tứ đại có an ổn không, đi đứng có khinh an không; kế nên đổ bỏ bô tiểu tiện và xoa bóp cho thầy. Nếu thầy nói có bịnh nên hỏi bịnh trạng rồi đến thầy thuốc yêu cầu điều trị và làm theo như lời thầy thuốc dặn bảo. Nếu thầy có sẵn thốc thì tốt, nếu không có thì nên hỏi người thân quen, nếu thầy có nhiều quyến thuộc thì nên hỏi thầy đến ai xin giúp đỡ và làm theo lời thầy dặn bảo. Nếu thầy không có quyến thuộc thì tự mình tìm người khác giúp đỡ, nếu cũng không có thì tùy sức mình cung cấp cho đến khi thầy hết bịnh. Khi thầy muốn đi đánh răng nên đến đó quét dọn sạch sẽ trước và để sẵn nước, cây đánh răng, cây nạo lưỡi; thầy đánh răng xong nên thu dọn. Nếu thầy đau mắt nên đưa thuốc nhỏ mắt cho thầy, thầy muốn lễ tháp nên trao y cho thầy và xếp cất y khác không để lẫn lộn; sau đó quét dọn sạch sẽ phòng thầy, mỗi nửa tháng nên xem xét ngọa cụ và đem phơi. Mỗi ngày đệ tử nên đến lễ bái vấn an thầy ba lần, đối với các bậc tôn trưởng và các bậc đồng phạm hạnh khác cũng nên kính lễ, tự mình cũng phải siêng năng tọa thiền đọc tụng. Khi theo thầy đi khất thực, mình ôm bát nặng để thầy mang bát nhẹ, nếu khất thực được những món như bún bánh, nước ép chua thì để vào bát mình, nếu được những món ngon như sữa tạc, cơm bánh, đường, thạch mật... thì để vào bát thầy; khất thực xong trở về, nên dọn sạch hai chỗ ngồi ăn rồi cùng thầy thọ thực. Nếu khất thực một mình được những món ăn gì nên đưa cho thầy, thầy muốn ăn thì nên biết lấy vừa đủ. Nếu ở trong chùa, đệ tử nên đến nhà bếp hỏi hôm nay có những món ăn gì, sau đó nói lại cho thầy biết và hỏi thầy có muốn lấy phần ăn không và làm theo lời thầy dặn bảo. Thầy muốn tắm nên đến trong nhà tắm quét dọn trước và để sẵn bồn nước, bột tắm... và chú ý nước lạnh nóng, nếu thầy cần kỳ cọ thì nên kỳ cọ cho thầy. Nếu thầy muốn đến chỗ khác tọa thiền thì nên mang tọa cụ đến chỗ đó quét dọn sạch sẽ và để sẵn; nếu đệ tử muốn học kinh, thầy nên dạy học kinh, nếu đệ tử muốn học thiền, thầy nên dạy tác ý. Khi thầy muốn ngủ nếu trời lạnh, mình đắp mền mỏng để thầy đắp mền dày; nếu trời nóng thì quạt mát; thầy cũng nên biết thời để bảo đệ tử lo tu tập phẩm thiện, chớ để thời giờ luống trôi qua.

Này Cao thắng, nếu là môn nhân đệ tử cũng phải phụng sự hai thầy xem như cha mẹ, hai thầy cũng nên xem họ như con, nếu có bịnh nên chăm sóc lần nhau cho đến khi lành hoặc đến lúc chết. Ta đã nói sơ lược về hành pháp của đệ tử phụng sự thầy rồi, thầy nên như pháp mà làm theo, nếu ai không làm theo hành pháp này thì phạm tội Việt pháp. Nếu đệ tử phụng sự thầy với tâm kính thuận như vậy thì sẽ làm cho thiện pháp không ngừng tăng trưởng, như hoa sen trong nước ngày đêm tăng trưởng. Các thầy nên tu học như thế", lúc đó Cao thắng và các Bí-sô nghe Phật dạy rồi hoan hỉ phụng hành.

Phật tại núi Thứu, thành Vương xá, lúc đó vua Vị sanh oán nước Ma-kiệt-đà muốn đánh nước Phật lật thị, vua nói: "nước Phật lật thị trái nghịch, ta muốn hưng binh thảo phạt tiêu diệt nước đó". Sau đó vua bảo đại thần Hành vũ: "khanh hãy đến chỗ Phật thay ta đảnh lễ và thăm hỏi Thế tôn có được ít bịnh, ít não, khí lực có an ổn không; sau đó bạch Phật: nước Phật lật thị trái nghịch, vua Vị sanh oán muốn hưng binh thảo phạt, Thế tôn thấy thế nào. Khanh hãy ghi nhớ lời Phật dạy rồi về tâu lại cho ta nghe, vì sao, vì Phật là Như lai Ứng cúng chánh biến tri không nói lời hư vọng", Hành vũ tuân lịnh vua di xe ngựa trắng, tay cầm gậy vàng, bình vàng đi đến núi Thứu, xuống xe đi bộ tới chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên đem lời của vua bạch Phật, Phật nói: "ta không có ở lâu trong nước Phật lật thị, chỉ có an cư ba tháng. Lúc đó ta có thuyết giảng về bảy pháp bất thối chuyển cho dân chúng nước ấy, nếu dân chúng nước ấy hành theo bảy pháp bất thối thì đất nước ngày càng thịnh vượng và thiện pháp không có suy tổn", Hành vũ nói: "con chưa hiểu được nghĩa yếu diệu, cúi xin Thế tôn từ bi nói rõ cho con được hiểu". Lúc đó tôn giả A-nan đang đứng quạt hầu cho Phật, Phật hỏi A-nan: "này A-nan, thầy có nghe dân chúng nước Phật lật thị thường tụ họp bàn luận về pháp nghĩa hay không?", đáp là có nghe, Phật bảo Hành vũ: "nếu nước ấy, dân chúng thường tụ họp bàn luận pháp nghĩa thì đất nước ngày càng thịnh vượng và thiện pháp không có suy tổn", Phật lại hỏi A-nan: "thầy có nghe dân chúng nước Phật lật thị hòa hợp cùng đứng, cùng ngồi để bàn luận quốc sự hay không?", đáp là có nghe, Phật lại bảo Hành vũ: "nếu nước ấy, dân chúng hòa hợp... thì đất nước ngày càng thịnh vượng và thiện pháp không có suy tổn", Phật lại hỏi A-nan: "thầy có nghe dân chúng nước Phật lật thị không mong cầu những việc không nên mong cầu và không dứt bỏ những việc nên làm, thường vui vẻ tuân hành giáo lịnh trong nước hay không?", đáp là có nghe, Phật lại bảo Hành vũ: "nếu nước ấy, dân chúng không mong cầu... thì đất nước ngày càng thịnh vượng và thiện pháp không có suy tổn", Phật lại hỏi A-nan: "thầy có nghe những phụ nữ và thiếu nữ trong nước ấy là thê thiếp của người khác hay đã trao hoa chấp thuận làm vợ của người, đang thuộc sự bảo hộ của cha, mẹ, anh chị em hoặc của cha mẹ chồng, chồng và thân tộc nếu có lỗi bị trị tội thì những người nam sẽ không cùng họ làm việc phi pháp hay không?", đáp là có nghe, Phật lại bảo Hành vũ: "nếu những phụ nữ và thiếu nữ trong nước ấy... thì đất nước ngày càng thịnh vượng và thiện pháp không có suy tổn", Phật lại hỏi A-nan: "thầy có nghe dân chúng nước ấy đối với cha mẹ, sư trưởng thường cung kính cúng dường và thuận theo lời dạy bảo, tình không trái nghịch xúc não hay không?", đáp là có nghe, Phật lại bảo Hành vũ: "nếu dân chúng nước ấy đối với cha mẹ, sư trưởng... thì đất nước ngày càng thịnh vượng và thiện pháp không có suy tổn", Phật lại hỏi A-nan: "thầy có nghe dân chúng nước ấy thường cúng dường tháp và không dứt bỏ những pháp thức cung kính đã có từ xưa hay không?", đáp là có nghe, Phật lại bảo Hành vũ: "nếu dân chúng nước ấy thường cúng dường tháp... thì đất nước ngày càng thịnh vượng và thiện pháp không có suy tổn", Phật lại hỏi A-nan: "thầy có nghe dân chúng nước ấy thường cung kính tôn trọng và sanh chánh niệm đối với các bậc A-la-hán: vị nào chưa đến thì mong cầu nên đến, vị nào đã đến thì cung cấp đầy đủ y thực... và các vật cần dùng để họ được an lạc trụ, thì đất nước ấy ngày càng thịnh vượng và thiện pháp không có suy tổn", hành vũ bạch Phật: "Thế tôn, nếu dân chúng nước ấy chỉ thực hành được một trong bảy pháp trên thì vua Vị sanh oán cũng không thể thảo phạt được, huống chi là họ thực hành đủ cả bảy pháp. Thế tôn, con còn nhiều việc xin được cáo từ", Phật nói tùy ý. Sau đó Phật bảo A-nan: "thầy hãy đi thông báo cho các Bí-sô ở trên núi Thứu này đến tập họp tại Cung thị đường", A-nan vâng lời Phật đi thông báo, đợi các Bí-sô đến tập họp đông đủ rồi đến bạch Phật biết thời. Phật đến ngồi rồi bảo các Bí-sô: "các thầy lắng nghe, ta sẽ nói về bảy pháp bất thối:

Nếu các Bí-sô thường tập họp để bàn luận pháp nghĩa thì phước đức của Bí-sô càng tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn.

Nếu các Bí-sô thường hòa hợp cùng ngồi cùng đứng cùng làm các pháp sự thì phước đức của Bí-sô càng tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn.

Nếu các Bí-sô không khổ cầu những việc không nên cầu, không làm cho mất đi những thiện pháp đã được, thường hoan hỉ phụng hành chánh giáo thì phước đức của Bí-sô càng tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn.

Nếu các Bí-sô diệt trừ được những khát ái cùng tham câu sanh, ưa thích nguyện đời sau khiến các hữu tương tục phải luân hồi thì sẽ được an lạc trụ và phước đức của Bí-sô càng tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn.

Nếu các Bí-sô đối với các vị xuất gia đã lâu, tinh tu phạm hạnh đủ mười hai hạ được các bậc trưởng lão kỳ túc khen ngợi và các bậc đồng phạm hạnh đều nghe biết, đại chúng đều cung kính tôn trọng cúng dường mà hoan hỉ nghe theo lời của họ dạy bảo thì phước đức của Bí-sô càng tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn.

Nếu các Bí-sô ở nơi A-lan-nhã thọ ngọa cụ xấu mà sanh tâm hoan hỉ biết đủ thì phước đức của Bí-sô càng tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn.

Nếu các Bí-sô đối với các vị đồng phạm hạnh dụng tâm ân trọng thường sanh chánh niệm: các vị ấy chưa đến thì mong đến, đã đến thì không nhàm chán cung cấp đầy đủ y thực... và các vật cần dùng để các vị ấy được an lạc trụ, thì phước đức của Bí-sô càng tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn. Này các Bí-sô, nếu thường thực hành bảy pháp bất thối này thì phước đức của Bí-sô càng tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn. Lại có bảy pháp không suy tổn:

1. Nếu các Bí-sô đối với bậc đại sư cung kính cúng dường, tôn trọng tán thán thì sẽ được an lạc trụ và làm cho chúng Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn.

2-7 Nếu các Bí-sô đối với Pháp, Giới, việc giáo thọ, việc không phóng dật, việc ngọa cụ, việc tu thiền định sanh tâm an trọng cung kính thì sẽ được an lạc trụ và làm cho chúng Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn.

Lại có bảy pháp không suy tổn, đó là nếu các Bí-sô không ưa thích làm việc thế tục, không ưa nói nhiều, không ưa ngủ nghỉ, không ưa tu tập, không ưa thân cận bạn xấu, khôn tham danh lợi, thường đến tham vấn người khác, thường tu thiền định, không sanh hỉ túc đối với sự chứng pháp tăng thượng, không có tâm thối lui, tinh tấn không gián đoạn cho đến khi chứng đắc chân thật tế, thì sẽ được an lạc trụ và làm cho chúng Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn.

Lại có bảy pháp không suy tổn, đó là nếu các Bí-sô có tín tâm thanh tịnh, có tàm, có quý, tinh tấn, niệm, định và huệ, thì sẽ được an lạc trụ và làm cho chúng Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn.

Lại có bảy pháp không suy tổn, đó là nếu các Bí-sô biết pháp, biết nghĩa, biết thời, biết lượng, biết tự thân, biết môn đồ, biết hạnh của người khác, thì sẽ được an lạc trụ và làm cho chúng Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn.

Lại có bảy pháp không suy tổn, đó là khi các Bí-sô quán về Niệm giác phần, trạch pháp, tinh cần, hỷ, khinh an, định và xả giác phần, nương ở nơi tịch tĩnh, y chỉ ly dục, y chỉ tịch diệt, xa lìa tai nạn, thì sẽ được an lạc trụ và làm cho chúng Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn. Này các Bí-sô, trên đây là bảy pháp không suy tổn phải thường tu tập; nếu các thầy nhất tâm ân cần hộ trì, thì sẽ được an lạc trụ và làm cho chúng Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn.

Này các Bí-sô, lại có sáu pháp làm cho người khác hoan hỷ, đó là:

Ta nay nên đem thân nghiệp hành từ, tức là đối với bậc đại sư và các Hiền thánh đồng phạm hạnh khởi tâm từ thiện dùng thân lễ kính, quét dọn sạch sẽ nền chùa, rãi hoa đốt hương cúng dường, xoa bóp tay chân...; nếu thấy bịnh khổ thì tùy thời cung cấp làm cho họ hoan hỉ, thương yêu kính trọng nhau, thân cận nhiếp thọ không tranh cãi, nhất tâm hòa hợp như nước hòa với sữa.

Ta nay nên đem khẩu nghiệp hành từ, tức là đối với bậc đại sư và các Hiền thánh đồng phạm hạnh khởi tâm từ thiện dùng lời nói khen ngợi, hiển bày thật đức, làm cho người chưa nghe được nghe; ngày đêm tinh tấn đọc tụng kinh pháp làm cho họ hoan hỉ, thương yêu kính trọng nhau, thân cận nhiếp thọ không tranh cãi, nhất tâm hòa hợp như nước hòa với sữa.

Ta nay nên đem ý nghiệp hành từ, tức là đối với bậc đại sư và các Hiền thánh đồng phạm hạnh khởi tâm từ thiện, không khởi tưởng hại, xan tham tật đố. Đối với thân ngữ nghiệp đã có hành từ gì, thường hệ niệm tư duy không cho dứt mất, dù ở trong nguy nàn cũng không tạm dừng chánh niệm huống chi là lúc bình thường. Đối với các loài hàm thức khởi tâm từ mẫn không giết, không hại, không làm cho chúng đau khổ, xa lìa phiền não, đến chỗ giải thoát để làm cho họ hoan hỉ, thương yêu kính trọng nhau, thân cận nhiếp thọ không tranh cãi, nhất tâm hòa hợp như nước hòa với sữa.

Đối với lợi dưỡng như pháp có được, cho đến một ít thức ăn trong bát, ta đều hoan hỉ cùng thọ dụng với vị khác, không ăn riêng; đối với các vị đồng phạm hạnh không có phân biệt kia đây để làm cho họ hoan hỉ, thương yêu kính trọng nhau, thân cận nhiếp thọ không tranh cãi, nhất tâm hòa hợp như nước hòa với sữa.

Đối với giới đã thọ không phá hủy, không khuyết tổn, không tạp, không cấu uế mà tịnh trì từ đầu đến cuối, được các bậc trí khen ngợi, không bị các vị đồng phạm hạnh khinh rẽ; cùng trì tịnh giới, pháp thực đều đồng thọ dụng để làm cho họ hoan hỉ, thương yêu kính trọng nhau, thân cận nhiếp thọ không tranh cãi, nhất tâm hòa hợp như nước hòa với sữa.

Hay sanh chánh kiến không có nghi hoặc, Thánh pháp xuất ly không thể phá hoại thì sẽ mau dứt hết mé khổ; cùng đồng tri kiến này với các vị đồng phạm hạnh thì sẽ làm cho họ hoan hỉ, thương yêu kính trọng nhau, thân cận nhiếp thọ không tranh cãi, nhất tâm hòa hợp như nước hòa với sữa. Này các Bí-sô, trên đây là sáu pháp hoan hỷ phải thường tu tập, ân trọng hộ trì, thì sẽ được an lạc trụ và làm cho chúng Bí-sô tăng trưởng, thiện pháp không suy tổn".

Các Bí-sô nghe Phật dạy rồi đều hoan hỉ tín thọ phụng hành.

QUYỂN 36

10. Nhiếp tụng thứ 10 (tiếp theo):

Nhiếp tụng nội dung:

Chúng tập kính Đại sư,
Nghe pháp sanh chánh tín.
Tự nói tuổi già suy,
Nói nhân duyên Hành vũ.

Lúc đó Phật bảo cụ thọ A-nan: "ta muốn đi đến ấp Ba-thát-li", nói rồi Phật cùng các Bí-sô từ nước Ma-kiệt-đà tuần tự du hành đến ấp Ba-thát-li, trụ bên một ngôi tháp. Dân chúng nghe tin Phật đến đều tụ đến tháp, đảnh lễ Phật rồi ngồi một bên, Phật bảo đại chúng: "các vị lắng nghe phóng dật có năm lỗi, đó là:

Nếu phóng dật thì tài bảo và vật dụng đã có thảy đều sẽ tiêu tán mất.

Nếu phóng dật thì khi đến trong chúng hội sẽ cảm thấy hổ thẹn và khiếp sợ.

Nếu phóng dật thì tiếng xấu sẽ đồn khắp bốn phương.

Nếu phóng dật thì khi lâm chung sẽ hối hận.

Nếu phóng dật thì sau khi qua đời sẽ đọa trong ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.

Ngược lại, không nghe phóng dật có năm lợi, đó là:

Nếu không phóng dật thì tài bảo và vật dụng đã có sẽ không bi tiêu tán mất.

Nếu không phóng dật thì khi đến trong chúng hội sẽ không cảm thấy hổ thẹn và khiếp sợ.

Nếu không phóng dật thì tiếng khen sẽ đồn khắp bốn phương.

Nếu không phóng dật thì khi lâm chung sẽ không hối hận.

Nếu không phóng dật thì sau khi qua đời sẽ được sanh lên cõi trời thọ lạc lâu dài.

Phật nói pháp khiến cho dân chúng trong ấp Ba-thát-li được lợi hỉ rồi im lặng, lúc đó các Bà-la-môn... từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay bạch Phật: "cúi xin Phật từ bi đến ở trong phóng xá yên tịnh của chúng con", Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời, họ đảnh lễ Phật rồi ra về. Sau đó Phật và các Bí-sô đến ở trong trú xứ yên tịnh của họ, sau khi rửa chân xong, Phật vào trong phòng thiền tọa. Lúc đó ở bên ngoài, đại thần Hành vũ đang đo đạc đất đai ở bốn phía của ấp Ba-thát-li, muốn xây dựng lại thành ấp kiên cố nên các thiên thần có đại uy đức đều muốn tìm trú xứ để ở nơi đây. Phật ngay nơi chỗ ngồi với thiên nhãn thanh tịnh quán thấy các thiên thần đều muốn tìm trú xứ để ở nơi đây; đến xế chiều sau khi xuất thiền, Phật đi đến một chỗ mát mẻ ngồi rồi hỏi A-nan: "thầy có nghe biết việc đo đạc đất đai trong ấp này không?", đáp là có nghe biết, Phật nói: "đại thần Hành vũ có đại trí huệ muốn xây dựng thành ấp kiến cố như cõi trời Tam thập tam tại trú xứ này. Ta với thiên nhãn thanh tịnh quán thấy các thiên thần đều muốn tìm trú xứ để ở nơi đây; do chư thiên có đại uy đức muốn ở đây nên các đại nhân có phước đức cũng muốn tìm trú xưa để ở nơi đây; do chư thiên bậc trung muốn ở nơi đây nên hạng người bậc trung và các loài khác cũng đều muốn ở nơi đây. Trong thành ấp này có bậc thù thắng ở nên có ngôn luận của bậc thù thắng và có các thương nhân thù thắng đến để cùng giao dịch mua bán qua lại không ngớt. Đây là sự thịnh vượng của ấp ba-thát-li, nhưng ấp này sẽ bị tổn hoại bởi ba tai là nước lửa và nội phản". Lúc đó đại thần Hành vũ nghe biết Phật đã đến nơi đây liền đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho Hành vũ được lợi hỉ rồi liền im lặng. Hành vũ từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay thỉnh Phật và Tăng vào ngày mai đến nhà ông thọ thực, Phật im lặng nhận lời, biết Phật đã nhận lời Hành vũ liền đảnh lễ Phật rồi ra về. Về đến nhà ngay trong đêm đó Hành vũ cho sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa để nước sạch rồi sai sứ đến bạch Phật: "đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời". Phật đắp y mang bát cùng chúng Tăng đến nhà Hành vũ, ngồi vào chỗ ngồi rồi Hành vũ tự tay dâng cúng các món ăn ngon cho Phật và Tăng. Khi Phật và Tăng thọ thực xong, Hành vũ cầm bình vàng rót nước cho Phật rồi phát nguyện: "con xin nguyện cho nghiệp đẳng lưu thắng thiện do sự cúng dường này sẽ được quả báo an lạc và xin đem phước lực này hồi hướng cho các thiên thần cựu trú trong thành này thường được lợi lạc thù thắng", Phật vì tùy hỉ nên nói kệ:

"Nếu người nào có tâm tịnh tín,
Cung kính cúng dường Phật và Tăng,
Nương theo chân thật ngữ của Phật,
Thì thường được chư Phật khen ngợi.
Nếu người nào thông minh trí huệ,
Đến trụ ở nơi thắng diệu này,
Cúng dường bậc trì giới tịnh hạnh,
Người ấy được nói kệ chú nguyện.
Nếu ai đáng cung kính bố thí,
Tâm nên ân trọng tu cúng dường.
Do đây chư thiên khởi tâm từ,
Cũng như cha mẹ thương con đỏ,
Đã được chư thiên thường thủ hộ,
Sẽ được an ổn thọ thắng lạc,
Đời đời thường gặp bậc hiền thiện,
Rốt ráo chứng được quả vô vi".

Phật nói diệu pháp làm cho Hành vũ được lợi hỉ rồi đứng dậy ra về, Hành vũ biết pháp thế gian sẽ trở về chỗ tan hoại nên sửa soạn lại y phục rồi theo sau Phật, nghĩ rằng: "nếu Thế tôn từ thành đi ra đường nào thì ngay nơi đó ta sẽ cho xây cổng lầu lớn, nếu qua sông Căng già thì ta sẽ cho xây bến đò", Phật biết tâm nhiễm của Hành vũ nên từ thành đi ra theo con đường phía Tây lên hướng bắc, đến bờ sông Căng già và muốn qua sông. Lúc đó có rất nhiều người hoặc dùng bè gỗ hoặc phao nổi để qua sông, ở trên sông qua lại không ngớt; Phật thấy vậy liền suy nghĩ: "ta nên dùng thần lực đặt chân lướt trên mặt nước để qua đến bờ kia", nghĩ rồi liền nhập thắng định, theo như ý niệm Phật và các Bí-sô biến mất ở bờ này và hiện ra ở bờ bên kia, một Bí-sô nói kệ:

"Nhiều người muốn qua sông,
Qua lại mãi không ngớt,
Dùng phao nổi, bè gỗ,
Để vượt qua sông Hằng,
Thế tôn dùng thần lực,
Cùng tất cả chúng tăng,
Bờ này sang bờ kia,
Không một chút mệt nhọc.
Đất bằng nước dâng tràn,
Đào giếng để làm gì?
Tâm phiền não không còn,
Đâu cần cầu vật khác".

Sau đó, ngay chỗ Phật ra khỏi thành, đại thần Hành vũ cho xây cổng lầu lớn, đặt tên là cổng Kiều-đáp-ma; con đường đi đến bến sông đặt tên là đường Kiều-đáp-ma. Lúc đó khi đến bờ sông phía Bắc, Phật bảo A-nan: "ta muốn đến thôn Tiểu xa phía bắc rừng Thăng nhiếp ba", đến nơi, Phật bảo các Bí-sô: "đây là Thi la, đây là Tam-ma-địa, đây là Bát nhã, do sức trì giới làm cho định được kiên cố không thối chuyển; do tu định nên phát sanh trí huệ, do sức trí huệ nên tâm giải thoát khỏi tham sân si. Như vậy này các Bí-sô, tâm khéo giải thoát sẽ được sự hiểu biết chơn chánh, hiểu rõ: sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau". Sau đó Phật và các Bí-sô đi đến tụ lạc Phiến vi bên ngoài rừng, đến nơi thấy dân chúng trong thôn bị bịnh dịch chết rất nhiều, các Ô-ba-sách-ca tịnh tín như Hiền thiện, Danh xưng... đều qua đời. Sáng hôm sau, các Bí-sô đắp y mang bát vào thôn khất thực đều nghe biết việc này, sau khi trở về trú xứ thọ thực xong liền đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên bạch Phật: "Thế tôn, khi vào thôn khất thực, chúng con nghe biết có nhiều Ô-ba-sách-ca qua đời, không biết họ sanh về đâu?", Phật nói: "trong thôn ấy có hai trăm năm mươi Ô-ba-sách-ca qua đời đã đoạn năm hạ phần kết, được thân hóa sanh, chứng quả Bất hoàn không trở lại cõi này nữa và được bất thối chuyển đối với Niết-bàn. Lại có hơn ba trăm Ô-ba-sách-ca qua đời đã làm cạn mỏng tham sân si, chứng quả Nhất lai, còn trở lại nhân gian một lần nữa mới dứt hết mé khổ. Lại có năm trăm Ôba-sách-ca qua đời đã đoạn ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, còn qua lại cõi trời người bảy lần nữa mới dứt hết mé khổ. Này các Bí-sô, cần gì phải hỏi như vậy để xúc não ta, thường tình hễ có sanh ắt có tử dù Phật có ra đời hay không, Như lai biết rõ pháp sanh tử nên đã giảng thuyết phân biệt cho các hữu tình, chỉ bày pháp môn Thập nhị nhân duyên, đó là:

Hễ cái này có thì cái kia sanh nên Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục xứ, Lục xứ duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão tử, ưu bi khổ não.

Hễ cái này diệt thì cái kia diệt nên Vô minh diệt thì Hành diệt, Hành diệt thì Thức diệt, Thức diệt thì Danh sắc diệt, Danh sắc diệt thì Lục xứ diệt, Lục xứ diệt thì Xúc diệt, Xúc diệt thì Thọ diệt, Thọ diệt thì Ái diệt, Ái diệt thì Thủ diệt, Thủ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thỉ Sanh diệt, Sanh diệt thì Lão tử, ưu bi khổ não đều diệt. Như thế Khổ uẩn rộng lớn thảy đều trừ diệt.

Ta nay nói thêm kinh Pháp cảnh, các thầy hãy lắng nghe, sao gọi là Pháp cảnh, tức là đối với Phật pháp tăng và Thánh giới thanh tịnh, các thầy nên cung kính tôn trọng cúng dường, khen ngợi lễ bái, thường trụ chánh tín, chánh niệm", các Bí-sô nghe Phật dạy rồi đều y giáo phụng hành. Sau đó Phật và các Bí-sô đi đến thành Quảng nghiêm, trụ trong vườn Am-một-la. Trong thành này có một người nữ tên Am-một-la là chủ vườn này, dung mạo đoan chánh, mọi người đều nghe biết tiếng. Cô nghe tin Phật đang ở trong vườn mình liền mặc y phục trang nghiêm với các chuỗi anh lạc cùng với các tỳ nữ tùy tùng đi xe báu đến gặp Phật. Đến nơi, cô xuống xe đi bộ vào trong vườn, lúc đó Phật đang thuyết pháp cho các Bí-sô, từ xa thấy cô sắp đến, Phật liền bảo các Bí-sô: "người nữ kia sắp đến, các thầy hãy hệ niệm tư duy, chớ khởi niệm khác. Hệ niệm tư duy như thế nào?, tức là nếu Bí-sô khởi niệm tà ác bất thiện thì hãy từ bỏ ngay, nên phát sanh chánh tín, tinh cần, nhiếp tâm trụ chánh niệm, không tán loạn, làm cho thiện pháp sanh khởi, niệm ác dứt trừ, chánh trí huân tập viên mãn tăng trưởng. Khi qua lại chỗ nào nên khéo quán sát các hành động co duỗi cúi ngửa, đắp y, mang bát, đi đứng nằm ngồi, nói nín, ngủ thức đều phái làm pháp đối trị để trụ nơi chánh niệm. Trụ nơi chánh niệm như thế nào?, tức là quán sát nội thân, ngoại thân, nội ngoại thân; nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ; nội tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm; nội pháp, ngoại pháp, nội ngoại pháp nên sách tấn chánh cần, khéo điều phục, biết rõ các pháp thế gian là ưu khổ. Các thầy nên hệ niệm tư duy như thế". Lúc đó Am-một-la đến chỗ Phật đảnh lễ rồi ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho cô được lợi hỉ rồi liền im lặng. Cô từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, con xin thỉnh Phật và các Bí-sô ngày mai đến nhà con thọ thực", Phật im lặng nhận lời, cô biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ rồi ra về. Lúc đó các Lật cô tỳ tử ở trong thành Quảng nghiêm nghe tin Phật đang ở trong vườn Am-một-la liền cùng cỡi các loại xe báu tứ mã tới gặp Phật. Đoàn người cỡi xe ngựa màu xanh với càng xe xanh, thùng xe xanh, dây cương xanh, roi xanh thì đội mão xanh, che lọng xanh, mang đao xanh, cầm phất xanh, mặc y phục xanh, chuỗi ngọc và hương hoa đều xanh cùng với đoàn tùy tùng đều mặc y phục xanh. Những đoàn người khác hoặc vàng hoặc đỏ hoặc trắng trước sau từng đoàn đều có thổi loa, đánh trống rần rộ đi đến trong vườn Am-một-la để gặp Phật. Khi họ sắp tới nơi, Phật bảo các Bí-sô: "người nào chưa thấy chư thiên ở cõi trời Tam thập tam du ngoạn trong vườn hoa thì hãy nhìn các Lật cô tỳ tử ở thành Quảng nghiêm này.

Với oai lực và phục sức trang nghiêm của họ không khác chư thiên ở cõi trời Tam thập tam du ngoạn trong vườn hoa", đến nơi, các Lật cô tỳ tử xuống xe đi bộ đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho họ được lợi hỉ rồi liền im lặng. Lúc đó trong chúng có một Bà-la-môn là Ma-nạp-bà tên Hoàng phát từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay bạch Phật: "cúi xin Thế tôn cho con tùy hỉ tán thán", Phật nói tùy ý, Ma-nạp-bà liền nói kệ:

"Thân đại vương trang nghiêm giáp báu,
Bậc quốc chủ nay được thiện lợi,
Vì có Phật xuất hiện nơi này,
Danh tiếng vang xa như Tu di,
Như hoa sen trắng ở trong ao,
Đêm nở tỏa hương thơm ngào ngạt.
Như ánh mặt trời chiếu trên không,
Ánh sáng tràn ngập khắp thế gian.
Hãy xem lực trí huệ của Phật,
Như ánh đuốc sáng phá tối tăm,
Thường làm mắt trí cho trời người,
Ai gặp được rồi đều điều phục".

Các Lật cô tỳ tử nghe kệ rồi liền khen là nói kệ hay, mỗi người đều cởi thượng y tặng cho Manạp-bà, Phật lại thuyết pháp cho họ được lợi hỉ, các Lật cô tỳ chắp tay bạch Phật: "cúi xin Thế tôn và các Bí-sô ngày mai thọ chúng con thỉnh thực", Phật nói: "ta và các Bí-sô đã thọ cô Am-một-la thỉnh thực vào ngày mai rồi", các Lật cô tỳ tử nói: "chúng con đã thua cô gái kia rồi, cô ấy có trí huệ đã thỉnh Thế tôn trước, chúng con đã không kịp kính lễ và thỉnh Thế tôn, để lần sau chúng con sẽ cúng dường", Phật khen lành thay, các Lật cô tỳ tử hoan hỉ đảnh lễ Phật rồi ra về. Lúc đó Ma-nạpbà Hoàng phát chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, các Lật cô tỳ tử nghe con nói kệ tán thán Phật, khen hay nên mỗi người cởi thượng y tặng cho con, con xin đem các thượng y này dâng cúng, cúi xin Thế tôn thương xót nạp thọ", Phật nhận rồi nói: "này Ma-nạp-bà, khi Như lai Ứng chánh đẳng giác xuất hiện trong thế gian, có năm việc hi hữu xuất hiện, đó là:

Như lai, Bạc-già-phạm, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở thế gian, nói ra pháp yếu ban đầu, khoảng giữa và sau cùng đều thiện, văn nghĩa xảo diệu, thuần nhất không tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh trong sạch. Đây là việc hi hữu thứ nhất.

Người nào nghe được diệu pháp này, người ấy có thể khéo tác ý nhất tâm ghi nhớ, thu nhiếp các căn tư duy quán sát. Đây là điều hi hữu thứ hai.

Sau khi nghe được diệu pháp, người ấy sanh tâm hoan hỉ được đại thiện lợi, nhàm lìa việc thế tục. Đây là việc hi hữu thứ ba.

Nếu người nào triển chuyển nghe diệu pháp ấy cũng tuần tự y giáo phụng hành. Đây là việc hi hữu thứ tư.

Sau khi nghe diệu pháp, những người ấy hệ niệm tư duy liền có thể thông đạt và được trí huệ sâu xa. Đây là việc hi hữu thứ năm.

Lại nữa, này Ma-nạp-bà, người biết ân và báo ân là bậc đại nhân, chút ân nhỏ còn không quên huống chi là ân lớn. Ngươi nên chuyên cần tu học như vậy", Ma-nạp-bà nghe Phật dạy rồi hoan hỉ tín thọ, đảnh lễ Phật rồi đi.

Lúc đó ngay trong đêm, Am-một-la lo liệu đầy đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa ngồi, để nước sạch rồi sai sứ đến bạch Phật đã đến giờ thọ thực. Phật và các Bí-sô đắp y mang bát đến nhà Am-một-la rồi ngồi vào chỗ ngồi, Am-một-la tự tay dâng cúng các món ăn ngon, đợi Phật và Tăng thọ thực xong, cô lấy chiếc ghế nhỏ ngồi trước Phật nghe pháp, Phật liền nói kệ:

"Người không keo kiệt hay bố thí,
Ai thấy cũng kính mến thân cận,
Vào trong chúng hội không sợ hãi,
Được lợi ích lớn và danh tiếng,
Thế nên người trí thường bố thí,
Làm cho phước báo tăng trưởng mãi,
Trừ dần phiền não, dứt xan tham,
Thọ lạc cõi trời Tam thập tam,
Tu các nghiệp thiện được công đức,
Sau khi qua đời được sanh thiên,
Dạo vườn Hoan hỉ cùng thiên nữ,
Làm đệ tử Phật thường an lạc".

Phật lại tùy căn cơ thuyết pháp làm cho Ammột-la được lợi hỉ rồi ra về. Sau đó Phật và các Bí-sô đi đến Trúc lâm phía bắc rừng Thăng nhiếp ba, lúc đó thời thế mất mùa đói kém nên khất thực khó được, Phật bảo các Bí-sô: "trong thời buổi đói kém này, các thầy nên tìm nơi quen biết trong các tụ lạc trong thành Bích-xá-ly này mà tùy tiện an cư. Ta và A-nan sẽ ở trú xứ này an cư, nếu không như thế thì việc khất thực rất khó được", các Bí-sô vâng lời Phật dạy đều đến các thân hữu tùy chỗ an cư, Phật và A-nan ở tại trú xứ này an cư dưới gốc cây. Trong hạ an cư, thân Phật mang bịnh khổ suýt mạng chung, Phật suy nghĩ: "không bao lâu nữa thân ta sẽ diệt, nhưng các Bí-sô đang ở khắp nơi, ta không nên lìa đại chúng mà nhập Niết-bàn, ta nên dùng tam muội Vô tướng quán sát tự thân để làm cho bịnh khổ này ngừng dứt", nghĩ rồi Phật liền nhập thắng định, các thống khổ đều tùy ý niệm mà được dứt trừ. Đến xế chiều, A-nan xuất thiền rồi đến đảnh lễ Phật bạch rằng: "Thế tôn, vừa rồi thân tâm con mê muội không còn biết phân biệt, cũng không trì tụng được pháp đã được nghe, vì nhìn thấy Thế tôn chịu thống khổ vì bịnh, sợ Thế tôn sẽ tịch diệt, nay thấy Phật chưa nhập Niết-bàn, con mới tỉnh táo lại, con nghĩ là Phật sẽ nói pháp hi hữu", Phật nói: "thầy tác ý cho là ta chưa nhập Niết-bàn vì còn phải dạy bảo các Bí-sô là không có lý đó, vì sao, vì lẽ nào đến nay ta mới chỉ dạy pháp hi hữu cho các Bí-sô hay sao. Này A-nan, điều cần nói ta đã nói hết rồi, tất cả đều là muốn các thầy hiểu rõ các nội ngoại pháp, đó là Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát chánh đạo. Này A-nan, chư Phật Thế tôn thường thuyết giảng các pháp này rõ ràng, không có tâm xẻn tiếc che giấu. Nhưng này A-nan, khi thân bị bịnh khổ suýt nhập Niết-bàn, ta suy nghĩ: "không bao lâu nữa thân ta sẽ diệt, nhưng các Bí-sô đang ở khắp nơi, ta không nên lìa đại chúng mà nhập Niết-bàn, ta nên dùng tam muội Vô tướng quán sát tự thân để làm cho bịnh khổ này ngừng dứt", nghĩ rồi ta liền nhập thắng định, các thống khổ đều tùy ý niệm mà được dứt trừ. Này A-nan, nay thân ta đã già suy, đã tám mươi tuổi mà còn tồn tại là do hai việc, như chiếc xe hư cũ được tồn tại là do hai việc, vì vậy thầy chớ ưu sầu, các pháp hữu vi ở thế gian từ nhân duyên sanh mà muốn thường trụ không bị tiêu diệt là điều không thể có. Trước đây ta đã thường giảng: tất cả dục lạc vinh hoa, ái niệm vừa ý trong thế gian đều sẽ tan rã, ân ái biệt ly sẽ không tồn tại mãi. Cho nên dù ta còn tại thế hay sau khi nhập diệt, các thầy hãy tự mình làm hòn đảo cho mình, tự mình làm chỗ nương cho mình; lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm chỗ nương, không có hòn đảo hay chỗ nương nào khác. Vì sao, vì ai nương vào pháp, ưa thích trì giới, người ấy sẽ là đệ tử bậc nhất trong các Thanh văn. Như thế nào gọi là tự mình làm hòm đảo cho mình, tự mình làm chỗ nương cho mình?, tức là Bí-sô hãy hệ niệm tư duy quán sát nội thân, ngoại thân, nội ngoại thân; nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ; nội tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm; nội pháp, ngoại pháp, nội ngoại pháp nên sách tấn chánh cần, khéo điều phục tham sân si, biết rõ các pháp thế gian là ưu khổ. Các thầy nên hệ niệm tư duy như thế".

Nhiếp tụng nội dung: Hành vũ trong Trúc lâm, Xây dựng ấp Ba tra, Qua sông đến thôn nhỏ, Dần đến nhập Niết-bàn.

Lúc đó Phật bảo A-nan là muốn đi đến thành Quảng nghiêm, A-nan theo Phật đến Trùng các đường trong thành Quảng nghiêm. Sáng hôm sau, A-nan theo sau Phật vào thành khất thực, sau đó trở về trú xứ, thọ thực rồi Phật đến ngồi dưới gốc cây bên tháp Thủ cung, Phật bảo A-nan: "thành Quảng nghiêm này vật sản hoa lệ, vườn cây hoa trái xum xuê, tháp miếu và ao mát đều là quang cảnh đẹp, là nơi kỳ đặc nhất trong châu Thiệm bộ này. Này A-nan, người nào tu tập nhiều về bốn thần túc, muốn trụ lại thế gian này một kiếp hay hơn một kiếp đều như ý muốn. Như lai tu tập nhiều về bốn thần túc, muốn trụ lại thế gian này một kiếp hay hơn một kiếp đều tự tại như ý muốn", A-nan tuy nghe nhưng im lặng, Phật nói ba lần A-nan đều im lặng, Phật suy nghĩ: "A-nan đang bị Ma vương mê hoặc nên thân tâm mê loạn, ta đã nói ba lần mà vẫn im lặng không thỉnh trụ thế thì chắc là bị Ma vương mê hoặc", nghĩ rồi liền bảo A-nan đến ngồi dưới gốc cây khác, không nên ngồi chúng một chỗ với Phật, A-nan nghe lời Phật đến dưới gốc cây khác ngồi yên lặng. Lúc đó Ma vương Bà tỳ hiện đến đảnh lễ Phật rồi bạch Phật: "Thế tôn, đã đến lúc nhập Niết-bàn, xin Thiện thệ hãy nhập Niết-bàn", Phật hỏi: "vì sao ngươi lại nói là đã đến lúc nhập Niết-bàn và thỉnh ta nhập Niết-bàn?", Ma vương nói: "trước đây khi Phật thành đạo dưới cội cây Bồ đề bên sông Ni liên thiền, tôi có đến thỉnh Phật nhập Niết-bàn, Phật nói: nếu Thánh chúng đệ tử Thanh văn của ta chưa có trí huệ thông đạt, chưa đầy đủ biện tài, chưa dùng chánh pháp hàng phục các tà luận để hiển dương Thánh giáo làm cho lưu thông; nếu các Bí-sô, Bí-sô ni, Ô-ba-sách-ca, Ôba-tư-ca chưa được giới phẩm kiên cố, làm cho phạm hạnh được truyền bá khắp nơi và làm cho trời người được lợi ích thì ta chưa nhập Niết-bàn. Thế tôn, nay Thánh chúng đệ tử Thanh văn của Phật đã có trí huệ thông đạt, đã đầy đủ biện tài, đã dùng chánh pháp hàng phục các tà luận để hiển dương Thánh giáo làm cho lưu thông; các Bí-sô, Bí-sô ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca cũng đã được giới phẩm kiên cố, làm cho phạm hạnh được truyền bá khắp nơi và làm cho trời người được lợi ích. Vì thế nên tôi mới nói là đã đến lúc nhập Niết-bàn, xin Thiện thệ hãy nhập Niết-bàn", Phật nói: "ngươi hãy chờ thêm một thời gian ngắn nữa, sẽ không bao lâu khoảng ba tháng sau, Như lai sẽ nhập Niết-bàn vô dư", Ma vương suy nghĩ: "Sa môn Kiều-đáp-ma không nói hai lời, chắc chắn sẽ nhập Niết-bàn", nghĩ rồi rất vui mừng liền biến mất. Lúc đó Phật suy nghĩ: "ta nên nhập định như vậy, theo định lực chỉ giữ lại mạng sống mà xả bỏ tuổi thọ", nghĩ rồi Phật liền nhập định, theo định lực chỉ giữ lại mạng sống mà xả bỏ tuổi thọ. Lúc đó trời đất chấn động, trên không trung sao xẹt, bốn phương đều rực sáng, trống trời tự nhiên vang động khắp hư không. Phật xuất định liền nói kệ:

"Hữu hạn hay vô hạn,
Như lai đều từ bỏ,
Do được nội chứng định,
Như chim thoát khỏi trứng".

A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, do nhân duyên gì trời đất chấn động?", Phật nói: "có tám nhân duyên làm cho mặt đất chấn động:

Mặt đất dựa vào nước, nước dựa vào gió, gió dựa vào không khí. Này A-nan, khi gió lớn nổi lên trong hư không làm cho mặt nước dao động, nước dao động thì mặt đất chấn động. Đây là nhân duyên thứ nhất.

Nếu Bí-sô có đại oai đức, đầy đủ đại công dụng dùng thần thông lực quán tưởng đại địa này nhỏ như hạt bụi, tưởng vào nước vô biên thì sẽ làm cho mặt đất chấn động. Nếu Bí-sô ni và chư thiên nào có đại oai đức khởi pháp quán tưởng này cũng sẽ làm cho mặt đất chấn động. Đây là nhân duyên thứ hai.

Khi đại Bồ-tát từ cõi trời Đổ-sử-đa giáng thần vào thai mẹ đại địa liền chấn động và khắp thế giới đều được chiếu soi, cho đến nhưng nơi mà ánh sáng mặt trời mặt trăng không chiếu tới, cũng đều được chiếu soi đến khiến cho các hữu tình ở những nơi này đều được thấy nhau và nói rằng: "không phải chỉ có một mình ta mà còn có nhiều chúng sanh khác nữa". Đây là nhân duyên thứ ba.

Khi đại Bồ-tát đản sanh, đại địa liền chấn động... như trên. Đây là nhân duyên thứ tư.

Khi đại Bồ-tát thành đạo quả Đẳng chánh giác thì đại địa chấn động... như trên.

Khi Như lai ba lần chuyển pháp luân thì đại địa chấn động... như trên.

Khi Như lai xả bỏ tuổi thọ chỉ lưu lại mạng sống thì trời đất chấn động, bốn phương đều rực sáng, tinh quang rơi rụng, trống trời tự nhiên vang động khắp hư không. Đây là nhân duyên thứ bảy.

Không bao lâu nữa khoảng ba tháng sau Như lai sẽ nhập Niết-bàn vô dư, lúc đó trời đất chấn động, bốn phương đều rực sáng, tinh quang rơi rụng, trống trời tự nhiên vang động khắp hư không. Đây là nhân duyên thứ tám". A-nan nói:

"theo như lời Thế tôn vừa nói thì do Phật xả bỏ tuổi thọ chỉ giữ lại mạng sống nên trời đất chấn động", Phật nói đúng vậy, A-nan nói: "con có nghe Phật nói: người nào tu tập nhiều về bốn thần túc, muốn trụ lại thế gian này một kiếp hay hơn một kiếp đều như ý muốn. Phật đã tu tập nhiều về bốn thần túc, muốn trụ lại thế gian này một kiếp hay hơn một kiếp đều như ý muốn, cúi xin Phật trụ thế một kiếp hay hơn một kiếp", Phật nói: "đây là lỗi của thầy, lúc nãy ta đã nói rõ điều này với thầy ba lần nhưng thầy vẫn không hiểu ý vì thầy đã bị Ma vương mê hoặc. Thầy nghĩ sao, Như lai có nói hai lời hay không?", đáp là không, Phật nói: "lành thay A-nan, không có việc Như lai đại sư nói hai lời. Vừa rồi ta đã nhận lời thỉnh của Ma vương thì thầy không nên thỉnh lại nữa, thầy hãy đi thông báo cho các Bí-sô ở chung quang tháp Thủ cung tập họp tại nhà ăn", A-nan vâng lời Phật đi thông báo, khi các Bí-sô đều đã tập họp ở trong nhà ăn, A-nan liền bạch Phật biết thời. Phật đến trong nhà ăn ngồi trước các Bí-sô nói rằng: "các thầy nên quán các hành là vô thường, là pháp biến đổi, không thể thương nhân tưởng, nên nhàm lìa để cầu giải thoát. Các thầy nên biết có pháp thắng diệu, có thể ngay đời này và trong đời sau được an lạc trụ. Các thầy nên thọ trì đọc tụng, hiểu kỹ nghĩa lý và cẩn thận phụng hành theo giáo pháp này, có thể làm cho phạm hạnh trụ lâu không diệt. Pháp như thế nên hoàng truyền rộng rãi để làm lợi ích cho các hữu tình, làm cho trời người được an lạc. Pháp thắng diệu đó là Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát chánh đạo". Phật lại bảo A-nan là muốn đến thôn Trùng hoạn ở phía Tây bắc của thành Quảng nghiêm, lúc đó Phật như voi chúa quay người về bên phải để nhìn lại thành Quảng nghiêm, A-nan hỏi Phật: "Thế tôn quay lại nhìn thành Quảng nghiêm không phải là không có nhân duyên", Phật nói: "đúng vậy A-nan, ta quay lại nhìn thành Quảng nghiêm không phải là không có nhân duyên, vì đây là lần cuối cùng Như lai Ứng chánh đẳng giác nhìn lại thành Quảng nghiêm, ta sắp đi đến chỗ Ta la song thọ trong trú xứ Lực sĩ để nhập Niết-bàn, không còn trở lại nơi này nữa nên ta mới quay lại nhìn". Có Bí-sô nghe Phật nói lời này liền nói kệ:

"Nhìn lại thành Quảng nghiêm lần cuối,
Vì bậc Chánh giác không trở lại nữa.
Phật sắp đến Ta la song thọ,
Trú xứ Lực sĩ, chứng Vô dư".

Khi đến thôn Trùng hoạn, Phật bảo các Bí-sô: "đây là Thi la, đây là Tam-ma-địa, đây là Bát-nhã, do sức trì giới làm cho định được kiên cố không thối chuyển; do tu định nên phát sanh trí huệ, do sức trí huệ nên tâm giải thoát khỏi tham sân si. Như vậy này các Bí-sô, tâm khéo giải thoát sẽ được sự hiểu biết chơn chánh, hiểu rõ: sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau". Sau đó Phật tuần tự đi trải qua hơn mười tụ lạc tùy căn cơ thuyết pháp cho chúng sanh, khi đến trụ trong rừng phía bắc của thành Thọ dụng thì trời đất chấn động, trên không trung sao xẹt, bốn phương đều rực sáng, trống trời tự nhiên vang động khắp hư không. A-nan chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, do nhân duyên gì trời đất chấn động?", Phật nói: "có ba nhân duyên làm cho mặt đất chấn động:

Mặt đất dựa vào nước, nước dựa vào gió, gió dựa vào không khí. Này A-nan, khi gió lớn nổi lên trong hư không làm cho mặt nước dao động, nước dao động thì mặt đất chấn động. Đây là nhân duyên thứ nhất.

Nếu Bí-sô có đại oai đức, đầy đủ đại công dụng dùng thần thông lực quán tưởng đại địa này nhỏ như hạt bụi, tưởng vào nước vô biên thì sẽ làm cho mặt đất chấn động. Nếu Bí-sô ni và chư thiên nào có đại oai đức khởi pháp quán tưởng này cũng sẽ làm cho mặt đất chấn động. Đây là nhân duyên thứ hai.

Nếu Như lai sắp nhập Niết-bàn thì mặt đất chấn động, đây là nhân duyên thứ ba", A-nan nói:

"thật hi hữu thay Thế tôn đã thành tựu việc không thể nghĩ bàn, Như lai Ứng chánh đẳng giác sắp nhập Niết-bàn nên mặt đất hiện tướng hi hữu như thế", Phật nói: "đúng thế, Như lai Ứng chánh đẳng giác đã thành tựu việc hi hữu như vậy. Này A-nan, quá khứ ta đã từng ở trong vô lượng trăm ngàn chúng Sát-đế-lỵ, Sa môn, Bà-la-môn... cho đến cõi trời Sắc cứu cánh, ta mang hình dáng và nói ngôn ngữ đồng như họ; nếu họ không hiểu điều gì, ta có thể nói cho họ hiểu, dùng pháp thắng thượng chỉ bày làm cho họ được lợi hỉ và được khai ngộ, rồi ta ẩn mất. Lúc đó họ nói với nhau: vị ấy đã đi đâu rồi, là trời hay là người mà không ở trong cảnh giới của ta. Ta có thể thành tựu vô lượng pháp hi hữu như vậy".

QUYỂN 37

10. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tám (tt)

-Nói bốn pháp đen, bốn pháp trắng, bốn hạng Sa môn và sắp chứng nhập Niết-bàn:

Lúc đó Phật bảo A-nan: "A-nan nên biết giáo pháp có thật giả, từ nay thầy nên nương theo kinh giáo không nên nương theo người. Sao gọi là nương theo kinh giáo, không nương theo người?:

Nếu có Bí-sô đến nói: "này cụ thọ, chính tôi được nghe lời này từ Phật, tôi ghi nhớ và thọ trì, đây chính là kinh điển, là luật giáo, chân thật là lời Phật dạy", khi nghe Bí-sô kia nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy nghe và ghi nhớ từng câu rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong kinh văn và luật giáo. Nếu lời Bí-sô kia trái với kinh luật thì Bí-sô này nên nói với vị ấy rằng: "này cụ thọ, lời thầy nói không phải là lời Phật dạy, đây là do thầy chấp thủ sai, không nương theo kinh luật, thầy nên từ bỏ".

Nếu có Bí-sô đến nói: "này cụ thọ, tôi thấy đại chúng tại trú xứ __________ toàn là bậc kỳ túc thông hiểu tạng luật, tại nơi đó chính tôi được nghe lời này, tôi ghi nhớ và thọ trì, đây chính là kinh điển, là luật giáo, chân thật là lời Phật dạy", khi nghe Bí-sô kia nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy nghe và ghi nhớ từng câu rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong kinh văn và luật giáo. Nếu lời Bí-sô kia trái với kinh luật thì Bí-sô này nên nói với vị ấy rằng: "này cụ thọ, lời thầy nói không phải là lời Phật dạy, đây là do thầy chấp thủ sai, không nương theo kinh luật, thầy nên từ bỏ".

Nếu có Bí-sô đến nói: "này cụ thọ, tôi thấy tại trú xứ __________ có nhiều Bí-sô đều là bậc trì kinh luật luận, tại nơi đó chính tôi được nghe lời này, tôi ghi nhớ và thọ trì, đây chính là kinh điển, là luật giáo, chân thật là lời Phật dạy", khi nghe Bí-sô kia nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy nghe và ghi nhớ từng câu rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong kinh văn và luật giáo. Nếu lời Bí-sô kia trái với kinh luật thì Bí-sô này nên nói với vị ấy rằng: "này cụ thọ, lời thầy nói không phải là lời Phật dạy, đây là do thầy chấp thủ sai, không nương theo kinh luật, thầy nên từ bỏ".

Nếu có Bí-sô đến nói: "này cụ thọ, tôi thấy tại trú xứ kia có một Bí-sô tên __________ là bậc tôn túc có trí huệ, chính tôi được nghe lời này từ vị ấy, tôi ghi nhớ và thọ trì, đây chính là kinh điển, là luật giáo, chân thật là lời Phật dạy", khi nghe Bí-sô kia nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy nghe và ghi nhớ từng câu rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong kinh văn và luật giáo. Nếu lời Bí-sô kia trái với kinh luật thì Bí-sô này nên nói với vị ấy rằng: "này cụ thọ, lời thầy nói không phải là lời Phật dạy, đây là do thầy chấp thủ sai, không nương theo kinh luật, thầy nên từ bỏ".

-Trên đây là bốn pháp đen, dưới đây là bốn pháp trắng:

Nếu có Bí-sô đến nói: "này cụ thọ, chính tôi được nghe lời này từ Phật, tôi ghi nhớ và thọ trì, đây chính là kinh điển, là luật giáo, chân thật là lời Phật dạy", khi nghe Bí-sô kia nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy nghe và ghi nhớ từng câu rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong kinh văn và luật giáo. Nếu lời Bí-sô kia đúng với kinh luật thì Bí-sô này nên nói với vị ấy rằng: "này cụ thọ, lời thầy nói chân thật là lời Phật dạy, thầy đã chấp thủ đúng, nương theo kinh luật, thầy nên thọ trì".

Nếu có Bí-sô đến nói: "này cụ thọ, tôi thấy có đại chúng tại trú xứ __________ đều là bậc kỳ túc thông hiểu tạng luật, tại nơi đó chính tôi được nghe lời này, tôi ghi nhớ và thọ trì, đây chính là kinh điển, là luật giáo, chân thật là lời Phật dạy", khi nghe Bí-sô kia nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy nghe và ghi nhớ từng câu rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong kinh văn và luật giáo. Nếu lời Bí-sô kia đúng với kinh luật thì Bí-sô này nên nói với vị ấy rằng: "này cụ thọ, lời thầy nói chân thật là lời Phật dạy, thầy đã chấp thủ đúng, nương theo kinh luật, thầy nên thọ trì".

Nếu có Bí-sô đến nói: "này cụ thọ, tôi thấy tại trú xứ __________ có nhiều Bí-sô đều là bậc trì kinh luật luật, tại nơi đó chính tôi được nghe lời này, tôi ghi nhớ và thọ trì, đây chính là kinh điển, là luật giáo, chân thật là lời Phật dạy", khi nghe Bí-sô kia nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy nghe và ghi nhớ từng câu rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong kinh văn và luật giáo. Nếu lời Bí-sô kia đúng với kinh luật thì Bí-sô này nên nói với vị ấy rằng: "này cụ thọ, lời thầy nói chân thật là lời Phật dạy, thầy đã chấp thủ đúng, nương theo kinh luật, thầy nên thọ trì".

Nếu có Bí-sô đến nói: "này cụ thọ, tôi thấy tại trú xứ __________ có một Bí-sô là bậc tôn túc có trí huệ, tại nơi đó chính tôi được nghe lời này từ vị ấy, tôi ghi nhớ và thọ trì, đây chính là kinh điển, là luật giáo, chân thật là lời Phật dạy", khi nghe Bí-sô kia nói, Bí-sô này không nên tán thán cũng chớ hủy báng, hãy nghe và ghi nhớ từng câu rồi trở về trú xứ kiểm tra lại trong kinh văn và luật giáo. Nếu lời Bí-sô kia đúng với kinh luật thì Bí-sô này nên nói với vị ấy rằng: "này cụ thọ, lời thầy nói chân thật là lời Phật dạy, thầy đã chấp thủ đúng, nương theo kinh luật, thầy nên thọ trì".

Này A-nan, đối với bốn pháp đen, các Bí-sô nên khéo tư duy quán sát để nhận biết rõ ràng là lời nói sai, không nương theo kinh luật, không phải là lời Phật dạy, cần phải từ bỏ. Ngược lại đối với bốn pháp trắng, các Bí-sô nên khéo tư duy quán sát để nhận biết là lời nói đúng, nương theo kinh luật, chân thật là lời Phật dạy, cần phải thọ trì. Đây gọi là Bí-sô nên nương theo kinh giáo, không nương theo người, Bí-sô nên học như thế, nếu khác với điều này thì không phải là lời ta dạy".

Sau đó Phật muốn đến tụ lạc Ba ba, đến nơi Phật trụ trong rừng Triết lộc ca, dân chúng trong ấp này nghe tin Phật đến liền cùng đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho họ được lợi hỉ rồi im lặng. Mọi người nghe pháp xong đảnh lễ Phật rồi ra về, lúc đó trong chúng này có một người con của thợ rèn tên là Chuẩn đà chắp tay thỉnh Phật và Tăng vào ngày mai đến nhà thọ thực, Phật im lặng nhận lời, Chuẩn đà biết Phật đã nhận lời liền đảnh lễ Phật hữu nhiễu rồi ra về. Về đến nhà ngay trong đêm đó lo sửa soạn đủ các món ăn ngon, sáng sớm trải tòa, để nước sạch... rồi sai sứ đến bạch Phật: "đã đến giờ thọ thực, xin Phật tự biết thời". Phật đắp y mang bát cùng các Bí-sô đến nhà Chuẩn đà rồi ngồi vào chỗ ngồi, Chuẩn đà tự tay dâng cúng các món ăn ngon cho Phật và Tăng. Sau khi thọ thực xong, có một Bí-sô tánh xấu lén lấy cái chén đồng giấu dưới nách, Phật dùng thần lực làm cho mọi người không thấy việc phi pháp này, trừ Phật và Chuẩn đà. Chuẩn đà lấy chiếc ghế thấp ngồi trước Phật, nói kệ thỉnh hỏi Phật:

"Con nghe Mâu ni Nhất-thiết-trí,
Đã qua bờ kia, hết các hoặc,
Đạo sư tối thắng, bậc Điều ngự,
Trên đời có mất hạng Sa môn?"

Phật nói kệ đáp:

"Bốn hạng Sa môn, không có năm,
Ta theo thứ lớp nói cho ông,
Đó là Thắng đạo và thị đạo,
Tịnh đạo nuôi sống và Ô đạo".

Lại hỏi:

"Thế tôn, thế nào là Thắng đạo,
Người như thế nào là Thị đạo,
Sao gọi là Tịnh đạo nuôi sống,
Xin nói rõ về người Ô đạo?".

Phật đáp:

"Chặt đứt tên nghi hết các hoặc,
Chỉ cầu viên tịch không gì khác,
Là bậc đạo sư của trời người,
Phật gọi hàng này là Thắng đạo.
Hiểu rõ ý nghĩa pháp tối thắng,
Phương tiện thuyết giảng pháp vi diệu,
Đấng Mâu ni hay phá lưới nghi,
Đây là thầy Thị đạo thứ hai.
Ai khéo tuyên thuyết được câu pháp,
Y theo giáo pháp sống thiểu dục,
Tu tập trọn vẹn pháp và luật,
Là hạng sống chánh đạo thứ ba.
Mặc y giải thoát của Sa môn,
Làm nhơ nhà người không hổ thẹn,
Dối trá không nói lời chân thật,
Là hạng người Ô đạo thứ tư.
Đối với chúng Thanh văn chân pháp,
Những người tại gia nên xét kỹ,
Đệ tử của ta không như nhau,
Vì thế cần phải có chánh tín.
Vì sao vô tội sống cùng tội,
Tịnh và bất tịnh lại ở chung?
Do kẻ ngu kia làm hạnh xấu,
Làm cho người thiện bị nghi ngờ,
Chớ theo sắc tướng mà tin người,
Sống chung thời gian sẽ hiển lộ,
Kẻ nhiều hiểm ác giả hiền thiện,
Thường sống dối trá trong thế gian,
Như dùng chút vàng mạ bông tai,
Thể tuy là đồng, không giá trị,
Trong giả nhưng ngoài giống như thật,
Nhận nhiều môn đồ loạn người thiện".

Phật lại vì Chuẩn đà nói kệ bố thí:

"Bố thí phước tăng trưởng,
Oán thù đều chấm dứt,
Do khéo trừ các ác,
Hết hoặc chứng Niết-bàn".

Phật lại thuyết pháp khiến cho gia chủ được lợi hỉ rồi đứng dậy ra về. Nhiếp tụng nội dung:

Phật ra phía tây thành,
Quay lại nhìn Quảng nghiêm,
Đi qua mười tụ lạc,
Cuối cùng đến ba ba.

Lúc đó Phật bảo A-nan là muốn đến thành Câu-thi-na, trên đường đi chưa đến sông Kim, Phật muốn tạm dừng nghỉ nên bảo A-nan: "ta đau lưng, thầy hãy xếp y Uất Đa-la tăng làm bốn lớp cho ta nằm nghỉ", A-nan làm theo lời rồi bạch Phật biết thời, Phật xếp y Tăng-già-lê để gối đầu, nằm nghiêng bên phải, hai gót chân chồng lên nhau, tưởng ánh quang minh, trụ trong chánh niệm, tác ý sẽ thức dậy rồi bảo A-nan: "thầy hãy đến sông Khước câu đa múc một bát nước đầy, ta muốn uống nước và lau thân". Khi A-nan mang bát đến bên sông thì có năm trăm chiếc xe vừa chạy ngang qua làm cho nước sông bị đục, A-nan múc nước mang về rồi bạch Phật: "Thế tôn, vừa có năm trăm chiếc xe chạy ngang qua làm cho nước sông bị đục, xin Thế tôn dùng nước này rửa tay chân, chớ nên uống, đợi đến sông Kim có nước trong sạch", Phật dùng nước rửa tay chân và lau mặt rồi ngồi dậy kiết già, chánh niệm tĩnh giác. Lúc đó có đại thần tên Viêm mãn đi ngang qua thấy Phật ngồi kiết già dưới gốc cây với oai nghi ngời sáng, thân tâm tịch tĩnh như lá phướn vàng liền đến đảnh lễ rồi ngồi một bên, Phật hỏi: "ông ưa thích pháp thanh tịnh của Sa môn hay của Bà-la-môn?", đáp: "Thế tôn, con ưa thích pháp thanh tịnh của Ca-lama", Phật hỏi vì sao, đáp: "Thế tôn, một hôm đang đi con thấy Thánh giả Ca-la-ma ngồi dưới gốc cây bên đường, lúc đó có năm trăm chiếc xe đi ngang qua. Con hỏi: Thánh giả có thấy năm trăm chiếc xe vừa đi ngang qua không, vị ấy đáp là không thấy, con lại hỏi có nghe tiếng không, đáp là không nghe, con lại hỏi:

Thánh giả đang ngủ phải không, đáp là không ngủ, con lại hỏi: nếu không ngủ vì sao lại nói là không thấy không nghe, vị ấy đáp: tôi không ngủ, tâm tuy tĩnh thức nhưng nhờ định lực nên tôi không thấy nghe. Con nghe rồi suy nghĩ: bậc thượng nhân chú tâm tịch tĩnh như vậy thật hiếm có; lại nữa khi năm trăm chiếc xe ấy chạy ngang qua, bụi bay mù mịt phủ đầy trên y phục mà vị ấy vẫn không hay biết. Cho nên con ưa thích pháp thanh tịnh của vị ấy", Phật hỏi: "ông nghĩ sao, tiếng động do năm trăm chiếc xe chạy so với tiếng sấm sét trên không trung thì tiếng nào lớn hơn?", đáp là tiếng sấm sét lớn hơn, Phật nói: "trước đây trong Trùng các đường tại thôn này, vào sáng sớm ta đắp y mang bát vào thôn khất thực, trở về trú xứ thọ thực xong, ta thiền định trong Trùng các đường. Lúc đó trời bỗng nổi sấm sét, có hai nông phu với bốn con bò và hai anh em con của một trưởng giả nghe tiếng sấm sét này vì quá sợ hãi nên mạng chung, dân chúng trong thôn thấy việc này rồi đều kêu la vang dậy. Sau khi ta xuất thiền ra ngoài kinh hành, có một người đến chỗ ta và kinh hành theo sau ta, ta hỏi: vì sao trong thôn có tiếng kêu la vang dậy như vậy, vị ấy kể lại việc trên rồi hỏi ta: Thế tôn không nghe tiếng sấm sét hay sao, ta đáp là không nghe, vị ấy lại hỏi: Thế tôn đang ngủ phải không, ta đáp: ta không ngủ, tâm ta tĩnh giác nhưng vì thiền định nên không nghe thấy", đại thần Viên mãn nghe rồi liền suy nghĩ: "Như lai Ứng chánh đẳng giác an trụ tịch tĩnh, tiếng sấm sét như thế mà vẫn không nghe thấy, khiến ta khởi tâm tịnh tín", nghĩ rồi liền bạch Phật: "Thế tôn, nay con đã khởi tâm tịnh tín với Phật", nói rồi liền bảo sứ giả: "ngươi hãy mang xấp vải thượng hạng màu hoàng kim đến để ta dâng cúng Thế tôn", sứ giả mang đến, Viên mãn bạch Phật: "con xin dâng cúng xấp vải thượng hạng này, cúi xin Thế tôn thương xót nạp thọ", Phật muốn cho ông ta được lợi ích nên thọ, Viên mãn lại nói: "con cũng muốn dâng cúng Phật và Tăng, cúi xin Phật nạp thọ", Phật nói: "đây là việc làm tốt", thấy Phật nhận lời, Viên mãn vui mừng đảnh lễ Phật rồi đi. Phật bảo A-nan cắt rọc xấp vải này thành y cho Phật đắp, khi Phật đắp y này lên ánh sáng trên thân Phật chiếu sáng che khuất cả màu vàng kim của vải, A-nan bạch Phật: "con theo hầu Phật đã hơn hai mươi năm, chưa bao giờ thấy dung nhan Phật ngời sáng như hôm nay, vì sao hôm nay lại có thắng tướng này?", Phật nói: "có hai nhân duyên dung nhan Phật ngời sáng hơn thường ngày, đó là vào đêm Bồ-tát chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác và vào đêm Như lai nhập Niết-bàn vô dư". Phật lại bảo A-nan là muốn đến sông Kim, đến nơi Phật mặc y tắm xuống sông tắm, sau đó bảo A-nan: "chắc Chuẩn đà sẽ hối hận, sau này thầy hãy an ủi ông ấy rằng: ông đã được đại lợi ích vì đã cúng dường đại sư lần cuối cùng, vì sau lần cúng dường này Phật nhập Niết-bàn vô dư. Tôi nghe Phật dạy rằng: có hai trường hợp thọ cúng thí làm cho người thí được phước vô cùng: một là khi Bồ-tát thọ cúng thí xong sẽ chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác; hai là Như lai thọ cúng thí xong sẽ nhập Niết-bàn vô dư. Này A-nan, Chuẩn đà sẽ được hai thiện nghiệp: một là sống lâu, giàu có; hai là được sanh thiên, quyến thuộc thù thắng". Lúc đó A-nan bạch Phật: "Thế tôn, Bí-sô Xiển đà tánh ác, hay sân, nóng nảy thường không tùy thuận các Bí-sô mà con nói lời thô ác. Sau khi Phật diệt độ, các Bí-sô nên cọng trú với vị ấy như thế nào?", Phật nói: "nên trị phạt bằng cách mặc tẫn, nếu biết hối cãi thì chúng tăng nên hoan hỉ giải tẫn, cùng nói chuyện lại như trước", Phật lại bảo A-nan là muốn đến trú xứ Lực sĩ, thành Câu-thi-na. Sau khi qua sông Kim còn cách thành không xa, Phật muốn tạm dừng nghỉ nên bảo A-nan: "ta đau lưng, thầy hãy xếp y Uất-Đa-la tăng làm bốn lớp cho ta nằm nghỉ", A-nan làm theo lời rồi bạch Phật biết thời, Phật xếp y Tăng-già-lê để gối đầu, nằm nghiêng bên phải, hai gót chân chồng lên nhau, tưởng ánh quang minh, trụ trong chánh niệm, tác ý sẽ thức dậy rồi bảo A-nan: "thầy hãy nói về pháp giác phần", A-nan nói: "Thế tôn đã tự chứng tự giác pháp giác phần này và dạy cho con rằng: nương nơi tịch tĩnh, ly dục, tịch diệt mà đoạn dứt các ngoại duyên, chuyên cần tu tập bảy pháp giác phần là niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định và xả", Phật nói: "nếu người nào tinh tấn tu tập nhiều bảy pháp giác phần này sẽ chứng đắc Vô thượng Bồ đề", Phật nói rồi liền ngồi dậy ngay thẳng chánh niệm tư duy, một Bí-sô nói kệ:

"Thế tôn tự khuyến dụ,
Bảo nói pháp vi diệu,
Hãy vì những người bịnh,
Nói bảy Bồ đề phần.
Thân đại sư có bịnh,
Và vì Bí-sô bịnh,
Nên nói pháp Giác phần,
Khiến cho được khai ngộ.
Lành thay A-nan đà,
Pháp trắng đều viên mãn,
Thông minh đại trí huệ,
Giỏi thuyết pháp của Phật,
Về chánh niệm, trạch pháp,
Tinh tấn, hỷ giác phần,
Khinh an, định và xả,
Khéo hay phân biệt thuyết.
Vô thượng Điều ngự sư,
Thích nghe pháp giác phần,
Tuy thân có bịnh khổ,
Vẫn nghe hết từng câu.
Phật là đấng pháp vương,
Đủ khả năng hướng dẫn,
Mà còn tôn trọng pháp,
Huống chi những người khác.
Lại có những Hiền thánh,
Trong giáo pháp mười lực,
Nếu thân gặp bịnh khổ,
Vẫn tinh tấn lắng nghe.
Hạng người giỏi trì kinh,
Và thông suốt luật luận,
Còn thích nghe chánh pháp,
Người khác sao không nghe.
Pháp ly nhiễm của Phật,
Nghe rồi như pháp hành,
Tinh cần hệ niệm pháp,
Sẽ được giác phần Hỷ,
Do tâm có được Hỷ,
Nên thân này khinh an,
Do an nên sanh lạc,
Từ lạc sanh ra định,
Do có diệu định, xả,
Hiểu các hành vô thường,
Lìa sanh trong ba cõi,
Không khởi tâm nhiễm đắm,
Lìa hết khổ ba cõi.
Không thích cõi trời người,
Chứng Niết-bàn vô thượng,
Như củi hết lửa tắt,
Đại lợi ích như vậy,
Đều từ nghe pháp sanh.
Nên khuyên người lâm chung,
Lắng nghe diệu pháp này".

Phật lại bảo A-nan tiếp tục đi đến trong rừng Sa la, trú xứ Lực sĩ, thành Câu-thi-na. Đến nơi Phật bảo A-nan: "thầy hãy sắp xếp giường nằm ở giữa hai cây Sa la (Sa la song thọ), ta sẽ nằm day đầu về hướng Bắc, vào nửa đêm nay sẽ nhập Niết-bàn", A-nan làm theo như lời Phật dạy, Phật tới nằm nghiêng bên phải, hai gót chân chồng lên nhau, tưởng ánh quang minh, chánh niệm tĩnh giác, tác ý nhập Niết-bàn. Lúc đó A-nan đứng tựa phía sau chỗ Phật nằm, sụt sùi khóc ra tiếng và than rằng: "khổ thay, vì sao Như lai lại mau nhập Niết-bàn như vậy, vì sao Thiện thệ lại mau nhập Niết-bàn như vậy, vì sao mắt của thế gian lại diệt mau như vậy! Trước đây mỗi khi các Bí-sô từ các nơi đến gặp Phật nghe Phật nói pháp yếu, ban đầu, khoảng giữa và sau cùng đều thiện, văn nghĩa xảo diệu, thuần nhất không tạp, đầy đủ tướng phạm hạnh trong sạch. Ta nhân đó được nghe diệu pháp, nay Phật sắp nhập Niết-bàn, vì sao không thấy ai đến, làm cho diệu pháp thù thắng như vậy phải ẩn mất khỏi thế gian", Phật hỏi các Bí-sô là A-nan đang ở đâu, đáp là A-nan đang đứng phía sau chỗ Phật nằm, khóc sụt sùi và than... như trên. Phật bảo A-nan: "thầy chớ áo não buồn khóc như thế, vì sao, vì thầy đã theo hầu Như lai tạo thân nghiệp Từ nên được đại lợi ích và được phước vô biên; tạo khẩu ý nghiệp Từ cũng được đại lợi ích và phước vô biên như thế. Này A-nan, chư Phật trong quá khứ đều có thị giả, giống như thầy đã chuyên tâm làm thị giả cho ta; chư Phật vị lai cũng đều có thị giả giống như thầy không khác. Này A-nan, tướng thế gian vô thường, cuối cùng cũng tan hoại; vì vậy thầy không nên đau buồn than khóc. Ta không thấy có một pháp nào trên thế gian từ nhân duyên sanh mà lại thường còn không hoại diệt. Ta đã từng dạy pháp yếu cho thầy là việc gì yêu thích vừa ý đều vô thường, sẽ phải biệt ly", Phật khởi đại bi nói pháp làm cho A-nan hoan hỉ rồi bảo các Bí-sô: "Chuyển luân thánh vương thành tự bốn việc hi hữu, đó là khi đến gặp vua, các chúng Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, trưởng giả, Sa môn đều rất hoan hỉ, sau khi nghe diệu pháp lại càng hoan hỉ. A-nan cũng có bốn việc hi hữu như vậy, đó là các Bí-sô, Bí-sô ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-batư-ca từ bốn phương đến gặp thầy đều hoan hỉ, sau khi nghe diệu pháp lại càng hoan hỉ. A-nan lại còn có bốn việc hi hữu, đó là khi thuyết pháp cho các chúng Bí-sô, Bí-sô ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, A-nan có thể làm cho họ hiểu rõ, không còn nghi hoặc nữa. Họ nói: lành thay A-nan, hãy tuyên thuyết diệu pháp, chớ nên im lặng, chớ từ mệt nhọc vì người nghe pháp không thấy chán". Lúc đó A-nan nghe Phật nói rồi hoan hỉ bạch Phật: "Thế tôn, có tất cả sáu thành lớn là thành Thất-laphiệt, Bà kê đa, thành Chiêm ba, thành Bà-la-nêtư, thành Quảng nghiêm và thành Vương xá. Vì sao Thế tôn lại bỏ các phước địa với địa hình thù thắng như thế để đến nơi biên địa hẻo lánh, hoang vu và cằn cỗi này để nhập Niết-bàn?", Phật nói: "A-nan đừng nói lời này, đừng cho thành Câu-thi-na này là nơi biên địa hẻo lánh hoang vu, không đáng ưa thích, vì sao, vì thuở xưa ngay nơi thành Câu-thi-na này là đô thành tên Câu xa phạt để của bậc Thánh vương rất sung túc thịnh vương, dân chúng ấm no. Thành dài mười hai Du thiện na, rộng bảy Du thiện na, có bảy lớp tường viện bằng bốn báu là vàng bạc lưu ly và thủy tinh vây bọc.

Cửa thành cũng bằng bốn báu, mỗi cửa đều có bốn cột trụ lớn chạm trổ hoa văn cũng bằng bốn báu, cao bằng bảy người đứng chồng lên. Hào thành bên ngoài sâu bằng ba người rưỡi, bờ hào được xây bằng gạch báu. Trong bảy lớp tường viện đều có trồng cây Sa la thành hàng cũng bằng bốn báu: cây Sa la bằng vàng có cành lá hoa quả bằng bạc, cây bằng bạc thì có cành lá hoa quả bằng vàng, cây bằng thủy tinh thì có cành lá hoa quả bằng lưu ly, cây bằng lưu ly thì có cành lá hoa quả bằng thủy tinh. Khi gió thổi lay động các hàng cây này phát ra âm thanh vi diệu làm vui lòng người. Giữa những hàng cây này có ao tắm, bậc cấp đi xuống đều làm bằng bốn báu, lan can bốn bên cũng bằng bốn báu; trong ao có đủ các loại hoa như hoa Ưu bát la, hoa Ba đầu ma, hoa Phân đà lợi..., bên bờ ao lại có hoa Chiêm bát la, hoa Ma lị ca, hoa Mỹ ý... nở theo mùa. Trong rừng cây có nhiều cô gái trang sức chuỗi anh lạc được tùy ý du ngoạn và thọ dục lạc; lại còn có đủ các loại nhạc khí như trống sáo... đều phát ra âm thanh vi diệu, khuyên tu phước nghiệp và trì trai giới. Trong thành có vua hiệu là Đại Thiện kiến, có đủ bảy báu: bánh xe báu, voi báu, ngựa báu, nữ báu, thần coi giữ phục tàng báu, thần chỉ huy quân đội báu và ngọc ma ni báu. Vua lại có bốn việc hi hữu: một là sống lâu, ban đầu làm vương tử, kế lên làm Thái tử, rồi lên ngôi vua, cuối cùng là tu phạm hạnh. Mỗi giai đoạn này kéo dài tám vạn bốn ngàn năm. Hai là nghi dung đoan chánh trong thế gian không ai sánh bằng; ba là ít bịnh, ít não, ăn uống đều thích hợp theo thời; bốn là dân chúng đều trung hiếu với vua tưởng như cha mẹ mình, vua cũng thương dân như con đỏ. Khi vua cỡi xe ra ngoài thành, bảo người đánh xe nên cho xe đi từ từ để dân chúng được nhìn thấy vua; lúc đó dân chúng mang các loại báu đến dâng cho vua, vua nói: những vật báu này ta đã có nhiều nên không thọ nữa; họ cầu khẩn đến ba lần vua vẫn không nhận nên họ để đại trước vua rồi đi. Vua suy nghĩ: những vật báu này là như pháp được, không phải phi pháp, ta nên dùng để xây cất pháp đường. Khi vua sắp làm pháp đường thì có tám vạn bốn ngàn tiểu vương đến xin được xây cất cho vua, vua nói là đã có đủ tài vật để làm nên không chấp thuận. Họ tâu đến ba lần vua vẫn không chấp thuận, họ cùng đến nắm chân vua hoặc vạt áo và xin vua cho họ làm, vua thấy họ ân cần như vậy nên im lặng nhận lời. Các tiểu vương mỗi người đều mang vật báu đến rồi tâu vua: không biết đại vương định xây cất nơi nào và lớn nhỏ ra sao, vua nói: chọn một khu đất phía Đông thành, ngang dọc một Du thiện na để xây cất. Các tiểu vương liền đến nơi đó xây cất theo như lời vua nói, tất cả kèo cột, cầu thang, lan can... đều làm bằng bôn báu, những vật dụng như giường tòa... cũng làm bằng vật báu. Dưới thềm có hàng cây bằng bảy báu như trên, khi gió thổi lay động phát ra âm thanh hòa nhã như nhạc trời, nền nhà trải bằng cát vàng và được rưới bằng nước thơm Chiên đàn... Xây cất pháp đường này xong, các tiểu vương lại xây một ao tắm vuông vức bốn mươi dặm bên cạnh, bờ ao làm bằng bốn báu, trong ao có bốn loại hoa... như trên. Tất cả xong xui liền thỉnh vua ngự đến, vua suy nghĩ: ta không nên thọ pháp đường thắng diệu này trước, nên thỉnh các Sa môn, Bà-la-môn có đức hạnh đến trong pháp đường như pháp cúng dường. Vua mở hội thí và cúng dường xong liền suy nghĩ: ta không nên ở trong pháp đường này buông lung thọ lạc, nghĩ rồi liền giữ lại một người hầu cận, vua vào trong pháp đường tu phạm hạnh. Vua ngồi tòa bạc trên lầu vàng chánh niệm tư duy, lìa các ác bất thiện pháp thuộc Dục giới, đoạn Tầm tư liền chứng được Sơ thiền. Sau đó ngồi tòa vàng trên lầu bạc, ngồi tòa lưu ly trên lầu thủy tinh, ngồi tòa thủy tinh trên lầu lưu ly... vua tuần tự chứng được các thiền và đoạn trừ nghiệp chướng. Lúc đó có tám vạn bốn ngàn thể nữ cùng đến chỗ Nữ báu tâu: đại phu nhân, chúng tôi đều thọ ân vua nhưng đã lâu không được hầu hạ nên trong lòng khát ngưỡng muốn được gặp, xin đại phu nhân giúp cho. Đại phu nhân bảo chủ binh thần: hậu cung chúng tôi đã lâu không được gặp đại vương, trong lòng khát ngưỡng muốn gặp, xin hãy giúp cho. Chủ binh thần tâu: nếu vậy xin phu nhân hãy ra lịnh tùy tùng trang nghiêm các loại xe, chúng tôi sẽ kêu gọi các tiểu vương tập họp bốn binh. Lúc đó các tiểu vương liền chỉnh đốn bốn binh: binh voi với tám mươi ngàn xe voi, tượng vương Trưởng tịnh dẫn đầu; mã binh với mã vương Đằng vân dẫn đầu, xa binh với đại xa Hỷ minh dẫn đầu đều có tám mươi ngàn chiếc và đều được trang nghiêm bằng vật báu thù diệu bậc nhất. Đại phu nhân và các thể nữ đi xe, đoàn tùy tùng cỡi ngựa với oai nghi nghiêm túc, cờ trống đi trước rần rộ đến pháp đường gặp vua. Lúc đó vua nghe tiếng xe ngựa rộn rịp nên hỏi nguyên do, người hầu cận tâu rõ sự việc, vua nghe rồi liền bảo sắp xếp tòa ngồi bên ngoài pháp đường, vua sẽ ra xem. Khi vua đi xuống đến nửa thềm, từ xa đã trông thấy người ngựa thật trang nghiêm khả ái, thấy vua ngồi xong, đại phu nhân đến trước làm lễ rồi tâu: "đại vương, xin dâng tám vạn bốn ngàn thể nữ báu nghiêm sức mỹ lệ này, xin vua thương thu nhận"; các tiểu vương cũng tâu: "đại vương, xin dâng các loại binh này cùng với tám vạn bốn ngàn thành ấp, trong đó thành Câu xa bạt để là bậc nhất, lại có tám vạn bốn ngàn lâu đài nghiêm sức thù diệu, xin vua thương xót thu nhận". Vua nói với đại phu nhân: "này các chị em, trước đây ta với các người rất thân thiết, vì sao hôm nay lại trở thành oán thù đem việc phi pháp khuyến dụ ta?", đại phu nhân và các thể nữ nghe lời này rồi đều rơi nước mắt tâu: "xem ý của đại vương như đã bỏ chúng tôi, vì sao đại vương lại nói hôm nay chúng tôi trở thành oán thù?", vua nói: "các vị nên biết mạng người ngắn ngủi, có sanh ắt có tử, ta cùng các vị rồi cũng sẽ hoại diệt, cho dù có vô số trăm ngàn thể nữ thì cũng như oán thù, vì thương yêu thân thiết sẽ làm hại ta, dù có thương yêu rồi cũng sẽ biệt ly, cho đến xe ngựa lâu đài dù vô số rốt cuộc cũng không thể trụ lâu. Vì thế người trí mau viễn ly chúng để siêng tu phạm hạnh, chớ sanh đắm nhiễm". Vua nói rồi trở vào lầu vàng ngồi kiết già trên tòa bạc, khởi tâm Từ đến khắp các hữu tình trong mười phương cho đến vô biên; kế khởi tâm Bi, Hỷ, Xả đến các hữu tình cũng như vậy. Khi vua tu tập mỗi mỗi trong bốn phạm trù này thì các dục đều đoạn, đến khi hết tuổi thọ, sau khi qua đời vua thọ sanh lên cõi trời Phạm thiên. Này A-nan, từ thành Câu-thi-na đến bờ sông Kim, rừng Sa la, tháp Hệ quang, trú xứ Lực sĩ có chu vi là mười hai Du thiện na, Như lai đã ở nơi đây làm Chuyển luân thánh vương và qua đời tất cả là sáu lần, nay nhập Niết-bàn ở đây là lần thứ bảy. Như lai Ứng chánh đẳng giác sẽ không còn có lần thứ tám xả thân trong mười phương thế giới này nữa, vì sao, vì đối với Như lai sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau". Lúc đó cụ thọ Ô-ba-ma-na đang đứng trước mặt, Phật liền bảo: "thầy không nên đứng ngay trước mặt Như lai", Bí-sô này nghe rồi liền đứng tránh qua một bên, A-nan bạch Phật: "con theo hầu Phật đã hơn hai mươi năm, chưa từng nghe Phật quở trách Bí-sô Ô-ba-ma-na", Phật nói: "này A-nan, hiện đang có vô lượng chư thiên Trường thọ chê trách rằng: "Như lai ra đời khó được gặp, lâu xa mới hiện một lần như hoa Ô đàm bạt, trong đêm nay Phật sẽ nhập Niết-bàn vô dư nhưng do oai đức của Bí-sô đang đứng trước mặt Phật, chúng ta không thể nhìn thấy Thế tôn để cung kính cúng dường"", A-nan hỏi có bao nhiêu chư thiên đến, Phật nói: "phương Nam từ sông Kim đến rừng Sa la... trong chu vi mười hai Du thiện na này đều có chư thiên đại oai đức chen vai nhau, không có chỗ để dựng tích trượng". Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: "cụ thọ Ô-ba-ma-na đời trước đã tạo nghiệp gì mà nay lại có oai đức lớn?", Phật nói: "các thầy lắng nghe:

Quá khứ Hiền kiếp, lúc con người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca-diếp-ba ra đời đầy đủ mười hiệu, trụ trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Thuở đó Ô-ba-ma-na xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, khi các Bí-sô đắp y mang bát vào thành khất thực, vị này đến phiên ở lại giữ chùa thấy ngoài trời mưa to gió lớn liền suy nghĩ: "các vị đồng phạm hạnh đang bị khổ vì mưa gió, y phục chắc bị ướt hết, ta nên chuẩn bị mọi vật dụng đợi họ trở về", nghĩ rồi, vị này liền vào trong nhà tắm đốt lửa nấu nước nóng, để chỗ ngồi, gác cây làm giá phơi y trước hiên rồi ra trước chùa tông ngóng các Bí-sô. Khi các Bí-sô về đến chùa, vị ấy lại âm thầm đem y phục ướt của họ giặt sạch rồi phơi trên giá, các Bí-sô sau khi tắm nước nóng, thân thể ấm lại nên rất hoan hỉ. Bí-sô giữ chùa liền chắp tay phát nguyện: "nguyện đem thiện căn làm cho các vị đồng phạm hạnh được hết khổ vì lạnh hôm này, ở đời vị lai lúc con người thọ trăm tuổi, có Phật Thích ca mâu ni ra đời đầy đủ mười hiệu, con sẽ được xuất gia trong giáo pháp của vị Phật ấy, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán và nhờ công đức đốt lửa nấu nước này khiến cho thân con ngời sáng, chư thiên không thể đến gần".

Này các Bí-sô, Bí-sô giữ chùa thuở xưa nay chính là Bí-sô Ô-ba-ma-na, do nguyện lực xưa nên nay có đại oai đức khiến chư thiên không thể đến gần". Lúc đó cụ thọ A-nan bạch Phật: "sau khi Thế tôn nhập Niết-bàn, con nên cúng dường pháp thân Phật như thế nào?", Phật nói: "việc thầy đang hỏi sẽ có các Bà-la-môn, trưởng giả tín tâm đứng ra làm", lại hỏi: "các vị ấy nên làm như thế nào?", Phật nói: "nên làm như pháp táng vị Chuyển luân thánh vương", lại hỏi: "pháp táng vị Chuyển luân thánh vương như thế nào?", Phật nói: "sau khi Chuyển luân thánh vương qua đời được quấn khắp thân bằng năm trăm tấm bạch điệp thượng diệu và nghiêm sức bằng năm trăm tấm y đẹp, được đặt trong kim quan, trong đó đổ đầy dầu thơm và được hỏa thiêu bằng gỗ thơm. Hỏa thiêu xong, tắt lửa bằng sữa thơm rồi thu lấy hài cốt đựng trong bình vàng, xây tháp thờ nơi ngã tư đường, dựng tràng phan, lọng, hương hoa và thiết đại trai hội để cúng dường. Sau khi ta nhập diệt, trời người hãy theo pháp ấy mà cung kính cúng dường, gấp bội sự cung kính cúng dường vị Chuyển luân thánh vương. Này A-nan, hãy đến trong thành Câu-thi-na nói các lực sĩ rằng: "Như lai đại sư trong đêm nay sẽ nhập Niết-bàn vô dư, các vị nên làm những gì cần làm để sau khỏi phải hối hận và nói là Như lai nhập Niết-bàn trong thành ấp này mà chúng ta lại không biết cúng dường". Tôn giả A-nan vâng lời Phật dạy đến nói với các lực sĩ như thế, các lực sĩ nghe rồi liền dẫn các quyến thuộc đi đến Sa la song thọ, đến chỗ Phật đảnh lễ ngồi một bên nghe Phật nói pháp, Thế tôn tùy thuận nói pháp chỉ dạy cho họ được lợi hỉ rồi liền im lặng. Họ từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay bạch Phật: "Thế tôn, chúng con thuộc tộc Lực sĩ tôn quý ở thành Câu-thi-na nguyện trọn đời quy y Phật đà, quy y Đạt ma, quy y Tăng già và thọ trì năm học xứ", tôn giả A-nan suy nghĩ: "nếu để từng người thọ trì học xứ từ Thế tôn thì sẽ kéo dài thời gian làm trở ngại sự viên tịch, ta nên thỉnh Phật cho họ thọ trì học xứ đồng một loạt", nghĩ rồi liền bạch Phật: "các lực sĩ cùng các quyến thuộc có tên họ khác nhau đều muốn quy y Tam bảo, nếu thọ từng người sợ kéo dài thời gian làm trở ngại sự viên tịch, xin Phật đại bi cho họ thọ trì học xứ đồng một loạt", A-nan liền ở trước Phật nói tên của họ để họ được thọ trì học xứ đồng một loạt, các lực sĩ nghe pháp và thọ học xứ rồi hoan hỉ đảnh lễ Phật rồi ra về. Khi Bồ-tát còn ở trên cõi trời Đổ-sử-đa quán năm việc ở thế gian cho đến khi Bồ-tát hiện tướng voi trắng nhập thai, vua trời Đế thích bảo Càn thát bà vương là Thiện ái cùng đến bảo hộ Bồ-tát thì Thiện ái nói: "đại thiên hãy đi trước, tôi còn đang tấu âm nhạc". Khi Bồ-tát xuất thai, vua trời Đế thích lại bảo Thiện ái như trên và Thiện ái cũng đáp như trên; khi Bồ-tát vào trong rừng tu khổ hạnh, sau đó từ bỏ khổ hạnh thọ cháo sữa và ăn uống trở lại..., vua trời Đế thích lại bảo Thiện ái như trên và Thiện ái cũng đáp như trên. Khi Bồtát hàng phục ma quân chứng Vô thượng Bồ đề, Phạm thiên vương thỉnh Phật chuyển pháp luân... cho đến khi sắp nhập Niết-bàn ở thành Câu-thi-na, vua trời Đế thích lại bảo Thiện ái: "Thế tôn đang ở thành Câu-thi-na sắp sửa nhập Niết-bàn, chúng ta nên đến cúng dường lần sau cùng", Thiện ái cũng đáp như trên. Lúc đó Phật suy nghĩ: "ngoại đạo Thiện Hiền có thể đến gặp ta mà được điều phục, nhưng thần âm nhạc lại không chịu đến. Người mà các Thanh văn có thể hóa độ thì Như lai cũng hóa độ được, nhưng người mà Phật độ thì không ai có thể độ được. Ta nên dùng phương tiện thiện xảo thắng thượng để hóa độ thần âm nhạc", nghĩ rồi Phật liền nhập định, do định lực nên ngay nơi chỗ nằm hóa ra thân khác và hóa ra một cây đàn Không hầu bằng lưu ly có ngàn dây. Hóa thân Phật này cầm đàn Không hầu lên cõi trời Tam thập tam đi đến cung của Càn thát bà vương bảo người giữ cửa: "ngươi hãy vào báo vua Thiện ái là ngoài cửa có Càn thát bà vương muốn gặp", người giữ cửa liền vào báo, Càn thát bà vương nói: "ngoài ta ra còn có Càn thát bà vương khác nữa sao?", đáp là hiện ở ngoài cửa, Thiện ái vội ra xem thử là ai và hỏi: "ngươi là Càn thát bà vương hay sao?", đáp: "chính ta là Càn thát bà vương, nếu ngươi có khả năng thì hãy tấu âm nhạc với ta", Thiện ái nhận lời. Khi cùng nhạc thần tấu đàn Không hầu, hóa thân Phật bứt đứt một dây, nhạc thần cũng bứt đứt một dây, nhưng âm thanh của cả hai bên vẫn ngang nhau; hóa thân Phật lại bứt đứt hai dây, ba dây cho đến chỉ còn một dây, nhạc thần cũng vậy nhưng âm thanh của cả hai bên vẫn ngang nhau. Cuối cùng hóa thân Phật bứt đứt dây còn lại, nhạc thần cũng vậy, hóa thân Phật lại đưa tay tấu trong hư không phát ra âm điệu lại hay hơn gấp bội, nhạc thần làm không được như vậy nên rất thán phục, không còn kiêu ngạo như trước nữa. Lúc đó hóa thân Phật hiện trở lại thân Phật, nhạc thần thấy Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân, ánh sáng bao quanh trên đảnh rộng một tầm sáng rỡ như trăm ngàn mặt trời, liền khởi tâm kính ngưỡng đảnh lễ cầu nghe giáo pháp. Phật quán biết căn tánh tùy miên của nhạc thần, nói pháp Tứ đế khiến được khai ngộ và chứng quả Dự lưu. Sau khi chứng quả, nhạc thần bạch Phật: "Thế tôn, nhờ Phật khai ngộ khiến con ở trong các nạn mà được giải thoát, điều này không phải do cha mẹ... cho đến sa môn, Bà-la-môn có thể làm được. Thế tôn là bậc đại thiện tri thức đã cứu vớt con ra khỏi ba cõi, đặt để con vào cõi trời người, hết khổ sanh tử, được đạo Niết-bàn, làm cạn biển máu, vượt khỏi núi xương, núi thân kiến từ vô thỉ đến nay đều bị phá tan bằng chày trí Kim cang, chứng được Sơ quả. Nay con xin quy y Tam bảo, từ hôm nay cho đến trọn đời thọ trì năm học xứ, cúi xin Thế tôn chứng biết con là Ô-ba-sách-ca", sau khi thuyết pháp chỉ dạy làm cho nhạc thần được lợi hỉ, Phật nhập định ẩn mất ở thiên cung và trở về nơi chỗ nằm cuối cùng ở Song lâm.

QUYỂN 38

10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ tám (tiếp theo)-Phật bát Niết-bàn:

Lúc đó trong thành Câu-thi-na có một ngoại đạo xuất gia tên là Thiện hiền (Phạm ngữ gọi là Tô-bạt-đà-la) đã 120 tuổi rất già yếu. Tộc họ Lực sĩ ở trong thành này rất tôn trọng cung kính cúng dường vị này và xem như là bậc A-la-hán. Gần chỗ Thiện hiền ở có một cái ao hoa lớn tên Mạn đà chỉ nỉ, trên bờ ao có cây Ô đàm bạc. Khi Bồ-tát còn ở trên cõi trời Đổ-sử-đa hiện tướng voi trắng vào thai mẹ thì mầm cây này mới nhú ra; khi Phật đản sanh, cây này phát ra ánh sáng; khi Bồ-tát trở thành đồng tử thì hoa của cây này mọc ra; khi Bồtát xuất gia thì hoa này lớn dần như mỏ con chim Thứu; khi Bồ-tát tu khổ hạnh thì hoa của cây này tươi tốt dần... cho đến khi Phật thành đạo chuyển pháp luân thì hoa có ánh sáng và tỏa hương thơm ngào ngạt khắp nơi. Khi Phật độ hết các chúng sanh hữu duyên hết rồi và sắp nhập Niết-bàn ở thành Câu-thi-na thì cây hoa liền khô héo, ai thấy cũng đều kinh ngạc than thở. Thiện hiền thấy cây thay đổi như vậy liền suy nghĩ: "thành Câu-thi-na chắc có tai họa", lúc đó thiên thần hộ quốc báo cho mọi người biết trong đêm nay Phật sẽ nhập Niết-bàn vô dư, Thiện hiền nghe lời này rồi suy nghĩ: "khổ thay, Sa môn Kiều-đáp-ma sắp nhập Niết-bàn trong đêm nay, ta thường hoài nghi về pháp mà mình đã chứng được, mong gặp được vị ấy để thưa hỏi giải nghi cho ta, nhưng tiếc thay pháp nhãn không bao lâu nữa sẽ diệt. Ngay bây giờ ta phải đến đó thưa hỏi, nếu đại sư thương xót giải nghi cho ta thì tốt", nghĩ rồi liền đi đến Song lâm. Lúc đó tôn giả A-nan thấy mặt trời Phật sắp lặn, trong lòng đau buồn nên ở ngoài bìa rừng kinh hành, Thiện hiền đến hỏi A-nan: "Thánh giả A-nan, tôi nghe Sa môn Kiều-đáp-ma là bậc Nhấtthiết-trí, bình đẳng tế độ tất cả, đối với pháp mà mình đã chứng được tội thường có hoài nghi, mong gặp để thưa hỏi nhưng vẫn chưa toại nguyện. Nay nghe chư thiên báo trong đêm nay Như lai sẽ nhập Niết-bàn nên tôi vội đến đây, xin tôn giả cho tôi được gặp Phật để thưa hỏi giải nghi", tôn giả nói: "ông không nên nói lời này để xúc não Thế tôn, hiện giờ đại sư của tôi không được khỏe", Thiện hiền thưa thỉnh ba lần, A-nan vẫn không chấp thuận, Thiện hiền lại nói: "trước đây tôi có nghe cổ tiên nói rằng Phật ra đời như hoa Ưu đàm, trăm ngàn vạn kiếp mới xuất hiện một lần. Trong đêm nay Phật sẽ nhập Niết-bàn mà tôi vẫn còn mê muội nên rất muốn gặp để thưa hỏi giải nghi, xin tôn giả cho tôi được gặp Phật thì thật là may mắn cho tôi", Thiện hiền tha thiết cầu xin đến ba lần, A-nan vẫn không chấp thuận. Lúc đó Phật với thiên nhĩ thanh tịnh nghe rõ những lời đối đáp này nên bảo A-nan: "thầy chớ ngăn cản Thiện hiền, hãy cho ông ấy đến gặp ta tùy ý thưa hỏi, vì sao, vì Thiện hiền này là ngoại đạo cuối cùng được nghe ta thuyết pháp khởi tâm chánh tín và được ta gọi Thiện lai làm đệ tử của ta", Thiện hiền nghe Phật cho phép rất đổi vui mừng liền đến gặp Phật, chào hỏi rồi ngồi một bên bạch Phật: "thưa Kiềuđáp-ma, tôi muốn thưa hỏi, xin hãy giải đáp cho tôi", Phật nói tùy ý, Thiện hiền hỏi: "thưa Kiềuđáp-ma, tôi quán sát pháp của các phái ngoại đạo, mỗi phái đều lập tông riêng, Lục sư ngoại đạo là Bộ thích noa, Ma già lê câu xa tử, San xà da tỳ la đồ tử, Ni kiền đà nhã đề tử, Ca cầu đà ca chiên diên, A kỳ đà súy xá Khâm bà la, mỗi người đều lập tông khác nhau, tôi không biết là tông nào đúng?", Phật nói kệ đáp:

"Ta năm hai chín tuổi,
Xuất gia cầu thiện pháp,
Trong hơn năm mươi năm,
Chuyên hành giới định huệ,
Nhất tâm không tán loạn,
Cốt tìm cầu chân lý,
Ngoài chánh pháp này ra,
Không có Sa môn khác".

Nói kệ xong Phật lại bảo: "Có tám chi thánh đạo do chư Phật thuyết giảng rất là hi hữu, rất khó gặp, ngoài Thánh đạo này để cầu một, hai, ba, bốn đạo quả Sa môn là điều không thể có; phải ngay nơi tám Thánh đạo trong pháp luật thiện thuyết này mới có thể cầu được bốn đạo quả Sa môn. Lị nữa này Thiện hiền, vì xa rời tám Thánh đạo này nên các Sa môn, Bà-la-môn ngoại đạo đều chấp vào tri kiến của mình, cho là ba đời không có nhân quả, những phước thiện đã tu đều là không, là vô ích. Thế nên ở trong chúng Sa môn, Bà-la-môn, ta đã cất tiếng sư tử rống rằng: hễ có tu hành đều sẽ được đạo quả", Thiện hiền nghe Phật nói xong, ngay nơi chỗ ngồi xa lìa mọi cấu uế được pháp nhãn thanh tịnh, được tâm bất hoại đối với pháp chân thật, vượt qua sông ái, phá tan lưới nghi thông đạt diệu pháp liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai hữu chắp tay bạch Phật: "thật khó được thưa hỏi bậc đại sư tôn trọng, con nay nhờ Thế tôn nên được thiện lợi này, con may mắn được gặp đấng pháp vương vô thượng, là bậc quán đảnh tối thượng trong các bậc thầy, con nay nhờ sức của thầy mà được thiện chứng. Thế tôn, xin cho con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh", tôn giả A-nan bạch Phật: "Thế tôn, Thiện hiền nghe pháp được tỏ ngộ, nay muốn xuất gia... tu tập phạm hạnh, xin Thế tôn tế độ cho", Phật nói: "thiên lai Bí-sô, tu tập phạm hạnh", Phật vừa dứt lời, Thiện hiền liền có đủ oai nghi, được xuất gia thọ Cận viên, thành tánh Bí-sô, nhất tâm dõng mãnh không phóng dật, suy nghĩ: "vì sao các thiện nam lại cạo bỏ râu tóc, mặc pháp y, chánh tín xuất gia, tu tập phạm hạnh trong đạo pháp vô thượng, ngay trong hiện pháp được tự chứng ngộ, hiểu rõ: sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau", nghĩ rồi tâm liền thấu triệt và chứng quả A-la-hán, tâm được giải thoát. Thiện hiền suy nghĩ: "na ta không nỡ nhìn Phật nhập Niết-bàn, ta nên nhập diệt trước", nghĩ rồi liền đảnh lễ Phật và bạch rằng: "Thế tôn, con xin nhập Niết-bàn trước", Phật hỏi: "nay thầy muốn nhập Niết-bàn sao?", đáp là phải, Phật hỏi đến ba lần rồi nói: "tất cả các hành là vô thường, điều mà thầy muốn làm, thầy đã tự biết thời, ta còn nói gì nữa". Khi sắp nhập Niết-bàn, Thiện hiền suy nghĩ: "ta nên làm năm pháp gia trì rồi mới diệt độ: một là khi mọi người đến xem đều thấy thân ta cạo bỏ râu tóc, mặc y Tăng-già-lê, chớ để họ thấy ta với hình thức ngoại đạo. Hai là khi ngoại đạo đến khiên, ta sẽ khiến cho thân không di động, chỉ có các đồng phạm hạnh mới khiên đi được. Ba là khi đưa thân ta vào ao nước tắm rửa, chân của các ngoại đạo sẽ không đụng được tới đáy, chỉ có các đồng phạm hạnh mới tắm được thân ta. Bốn là khi các ngoại đạo vào trong nước sẽ bị cá rùa quấy nhiễu không an, còn các đồng phạm hạnh thì không bị xúc não. Năm là các ngoại đạo không thể đốt lửa hỏa thiêu di thân của ta, chỉ có các đồng phạm hạnh mới làm cho lửa cháy", tác ý về năm pháp gia trì này xong, Thiện hiền liền nhập Niết-bàn. Lúc đó các ngoại đạo nghe tin phạm chí Thiện hiền đã nhập Niết-bàn liền đem đủ các loại âm nhạc, cờ phướn phang lọng đến thành Câu-thi-na, nơi ngã tư đường nói với mọi người:

"các vị nên biết, đại Sa môn Kiều-đáp-ma thường nói: chỉ ở trong giáo pháp của ta mới có tám chi Thánh đạo với bốn quả Sa môn, trong ngoại đạo không có...; nhưng vị đồng phạm hạnh của chúng tôi là đại sư Thiện hiền cũng đã được Niết-bàn không khác họ", các Bí-sô nói: "nếu các vị nói vị ấy là đồng phạm hạnh của mình thì hãy tự ý khiên đi", các ngoại đạo cùng nhau đến khiên nhưng vẫn không thể di chuyển được, huống chi là khiên đi; các Bí-sô nói: "nếu các vị làm không được thì hãy để cho chúng tôi", đáp là tùy ý, thấy các Bí-sô khiên đi được, họ im lặng. Sau đó các Bí-sô bảo họ tắm rửa di thân, họ bước xuống nước thì chân không đụng được đến đáy, lại còn bị cá rùa quấy nhiễu còn các Bí-sô thì không như vậy. Sau đó các Bí-sô bảo họ đốt lửa hỏa thiêu nhưng khi họ đốt lửa không cháy, thấy vậy mọi người đều chê trách, họ xấu hổ bỏ đi. Lúc đó các lực sĩ thành Câu-thi-na thấy việc hi hữu này rồi càng thêm kính ngưỡng, khởi tâm tịnh tín luyến mộ đối với Phật, họ nói: "Đại bi Thế tôn hiện thân có bịnh, nằm lần cuối cùng sắp nhập Niết-bàn mà còn có thể thuyết pháp cho ngoại đạo Thiện hiền được chứng quả A-la-hán và làm cho các lực sĩ thành Câu-thi-na được đại thiện lợi". Lúc đó các Bí-sô đều có nghi thỉnh hỏi Phật: "Thế tôn, vì sao Thế tôn hiện thân có bịnh, thân thể không an mà còn làm cho phạm chí Thiện hiền thoát khỏi sanh tử, chứng quả A-la-hán được cứu cánh Niết-bàn dứt hết mé khổ?", Phật nói: "các thầy nên biết việc này chưa hi hữu, vì hiện nay ta đã đoạn hết ba độc, thoát khỏi sanh già bịnh chết, ưu bi khổ não, đủ Nhất-thiết-trí tự tại trong tất cả cảnh giới nên làm cho Thiện hiền thoát khỏi sanh tử... chưa phải là hiếm có. Quá khứ khi ta còn trong sanh tử đầy đủ tham sân si, chưa thoát khỏi sanh già bịnh chết, không có trí huệ, còn mang thân bàng sanh mà đã có thể vì Thiện hiền và các lực sĩ xả bỏ thân mạng. Các thầy lắng nghe:

Quá khứ tại một núi rừng có con Nai chúa nhiều trí huệ có thể đoán biết trước cơ nghi, sống cùng bầy nai ngàn con ở trong rừng. Lúc đó có thợ săn thấy bầy nai liền báo cho vua biết, vua cho binh lính tới bao vây săn bắt, nai chúa suy nghĩ: "nếu ta không cứu bầy nai thì chắc chắn sẽ bị hại", nghĩ rồi liền nhìn khắp bốn phương tìm cách cứu bầy nai, nai chúa bỗng thấy dưới núi sâu có thác nước chảy ra ngoài, nhưng vì sức yếu bầy nai không thể vượt qua thác nước này để ra ngoài. Nai chúa bước xuống đứng giữa dòng nước làm cầu cho bầy nai đi qua, bị móng chân của bầy nai đạp lên nên da thịt tét nứt lộ bày xương sống ra, tuy đau đớn nhưng Nai chúa vẫn ráng chịu đựng, lại còn đoái lại nhìn xem còn có con nào chưa qua. Lúc đó còn một nai con không thể qua được, nai chúa không nghĩ đến thân mình, tới chỗ nai con để nó lên lưng rồi lội qua bờ kia thì sức cũng đã kiệt, lúc sắp qua đời nai chúa phát nguyện: "con nay cứu bầy nai và nai con thoát khỏi tai ách, không tiếc thân mạng, nguyện ở đời vị lai khi chứng quả Chánh đẳng giác, con sẽ độ cho họ thoát khỏi sanh tử, đến chỗ cứu cánh Niết-bàn".

Này các Bí-sô, Nai chúa thuở xưa chính là thân ta ngày nay, bầy nai chính là các lực sĩ và nai con chính là Thiện hiền. Lại nữa, khi ta còn mang thân bàng sanh vô trí, lúc hơi thở không ổn định, chịu khốn khổ về thân xác mà vẫn có thể cứu Thiện hiền đưa đến chỗ an ổn.

Các thầy lắng nghe:

Thuở xưa tại thành Bà-la-nê-tư có vua Phạm thọ dùng pháp trị nước, vua có con Trí mã dự biết trước sự việc nên các nước lân bang đều đến triều cống. Khi Trí mã qua đời, vua các nước này liền sai sứ đến nói với vua rằng: "vua hãy chia thuế thu được cho chúng ta, nếu không thì không được ra khỏi thành, nếu trái lời thì sẽ đem binh đến tiêu diệt", vua bảo sứ giả: "ta không chia thuế và sẽ ra thành du ngoạn". Sau đó vua cho người tìm kiếm được một Trí mã khác, vào đầu xuân, trong vườn hoa nở rộ, chim hót vang, vua cỡi Trí mã cùng các thể nữa ra thành đến vườn hoa thưởng ngoạn. Vua các nước kia nghe tin liền kéo binh đến vây thành, quần thần báo tin, vua liền thống lãnh bốn binh cỡi Trí mã ra phá giặc, Trí mã bị trúng giáo của giặc, đau đớn không chịu nổi nhưng Trí mã suy nghĩ: "nay vua đang nguy khốn, nếu không cứu thì trái đạo, ta nên nhịn đau cứu vua thoát khỏi vòng vây vào thành an ổn". Lúc đó giặc bao vây khắp nơi, không có đường nào vào thành, ngoài thành có hào nước tên là Diệu phạm trồng đủ loại hoa sen xanh vàng đỏ trắng, nếu băng qua được hào nước này thì có thề vào được trong thành. Trí mã không nghĩ đến thân mạng, chạy xuống ao phóng mình trên các lá sen đưa vua thoát khỏi vòng vây vào trong thành an ổn, vua vừa bước xuống thì Trí mã qua đời. Sau khi thoát nạn, vua Phạm thọ hỏi quần thần: "ai cứu được tính mạng của vua Sát-đế-lỵ quán đảnh thì nên báo ân như thế nào?", đáp là nên chia nửa nước, vua nói: "Trí mã đã cứu ta nhưng nay đã chết, ta nên báo ân như thế nào?", đáp: "nên mở hội Bạch liên hoa bất thường để tu phước nghiệp, trợ giúp Trí mã đầu thai", vua liền ra lịnh ở khắp các ngã tư đường treo cờ phướn hương hoa và cho đánh trống thông báo khắp trong nước biết ngày mai mở hội bạch hiên hoa bất thường tại các ngã tư đường để tu phước nghiệp bố thí, trợ giúp linh hồn Trí mã đầu thai.

Này các Bí-sô, Trí mã thuở xưa chính là thân ta ngày nay, vua Phạm thọ chính là Thiện hiền". Lúc đó các Bí-sô lại có nghi thỉnh hỏi Phật: "Thế tôn, cụ thọ Thiện hiền đời trước đã tạo nghiệp gì mà nay được làm đệ tử cuối cùng của đại sư?", Phật nói: "các thầy lắng nghe:

Quá khứ Hiền kiếp, lúc con người thọ hai vạn tuổi có Phật Ca-diếp-ba ra đời đầy đủ mười hiệu, ở trong vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư. Vị Phật ấy có người cháu ngoại tên là Vô ưu xuất gia, vì cho là quả giải thoát có thể tự nhiên chứng đắc nên không chuyên cần tu tập tám Thánh đạo, tuy xuất gia đã lâu nhưng không chứng được gì nên vị này du hành trong nhân gian tùy chỗ nhập hạ. Sau đó Như lai độ những người hữu duyên đã xong, việc làm đã hoàn mãn như củi hết lửa tắt nên trong đêm ấy sắp nhập Niết-bàn. Lúc đó Bí-sô Vô ưu đang đứng dưới một gốc cây, thần cây nghe tin Phật Ca-diếp-ba sắp nhập Niết-bàn nên buồn khóc, nước mắt rơi xuống thân Bí-sô Vô ưu. Bí-sô hỏi rõ nguyên do rồi cũng đau buồn như tên bắn vào tim liền gào khóc, thần cây hỏi nguyên do, Bí-sô đáp: "Phật Ca-diếp-ba là cậu ruột của tôi, tuy nương theo Phật xuất gia nhưng tôi lại không chuyên cần tu tập, ở đây cách nơi ấy rất xa không thể đến kính lễ được. Tôi là phàm phu không có năng lực nhanh chóng đến đó nên tôi buồn khóc", thần cây nói: "tôi có năng lực đưa Thánh giả đến đó mau chóng, nhưng đến gặp Phật rồi thì có ích lợi gì", đáp: "nếu gặp được Phật, tôi quyết sẽ tinh tấn dõng mãnh theo lời Phật dạy mà chứng quả". Thần cây liền dùng thần lực đưa Bí-sô đến chỗ Phật, Phật tùy thuận căn tánh thuyết diệu pháp khiến cho vị ấy được chứng quả A-lahán, vị này không nỡ nhìn Phật nhập Niết-bàn nên nhập diệt trước. Lúc đó thần cây thấy Phật và Bí-sô đều nhập diệt nên sanh tâm luyến mộ, suy nghĩ: "Bí-sô này chứng quả được là nhờ ta, con nguyện đem công đức này ở đời vị lai lúc con người thọ trăm tuổi, có Phật Thích ca mâu ni ra đời đầy đủ mười hiệu, khi Phật ấy nhập Niết-bàn, con sẽ được xuất gia, được chứng quả vị Vô học Thanh văn và diệt độ trước Phật".

Này các Bí-sô, thần cây thuở đó chính là Thiện hiền ngày nay. Do ý nghĩa này nên các thầy ở bất cứ nơi đâu cũng phái lánh xa bạn ác, gần gũi bạn lành, các thầy nên học như thế". Lúc đó tôn giả A-nan bạch Phật: "Thế tôn, con ở nơi yên tĩnh suy nghĩ: thiện tri thức là nửa phần phạm hạnh, vì nhờ sức của thiện hữu mà người tu hành được thành tựu, được bạn lành thì nên xa lìa bạn ác, do nghĩa này nên con biết thiện hữu là nửa phần phạm hạnh", Phật nói: "này A-nan, chớ nói thiện tri thức là nửa phần phạm hạnh, vì sao, vì thiện tri thức là toàn phần phạm hạnh, nhờ có thiện tri thức nên xa lìa được ác tri thức, không làm điều ác, thường tu thiện pháp thuần nhất thanh bạch, đầy đủ tướng phạm hạnh. Do nhân duyên này, ai được gặp và ở chung được với bạn lành thì tất cả mọi việc cho đến cứu cánh Niết-bàn đều sẽ được thành tựu, nên gọi là toàn phần phạm hạnh. Này A-nan, ta cũng nhờ có thiện tri thức nên mới có thể làm cho tất cả hữu tình đều được thoát khỏi sanh già bịnh chết ưu bi khổ não, nếu lìa thiện tri thức thì không có việc ấy. Này A-nan, nên tu học như vậy", Phật lại bảo các Bí-sô: "do nghĩa này, từ nay các thầy không nên vội vàng độ ngoại đạo cho xuất gia thọ Cận viên, nếu hỏi không có các chướng pháp thì nên độ. Đối với ngoại đạo thờ lửa thì không cần phải cọng trụ mà nên cho xuất gia thọ Cận viên ngay, vì họ chủ trương có nghiệp dụng, có nhân duyên quả báo của sự tinh cần. Đối với các ngoại đạo khác đến cầu xuất gia thì Tăng nên cho họ cọng trụ trong bốn tháng, Thân giáo sư nên cung cấp y thực cho họ và quan sát tánh hạnh của họ nếu thấy điều nhu, có thể tế độ được thì mới cho xuất gia thọ Cận viên. Các thầy nên biết như thế.

Lại nữa này các Bí-sô, pháp nào ngay trong hiện tại và vị lai có thể sanh trưởng lợi lạc thì các thầy nên thọ trì đọc tụng và giảng thuyết cho người khác, chớ để quên mất, như thế sẽ làm cho phạm hạnh được trụ lâu ở đời và làm cho trời người được an lạc, làm lợi ích cho chúng sanh. Pháp ấy gồm có mười hai phần giáo, đó là: khế kinh, ứng tụng, ký biệt, phúng tụng, tự thuyết, nhân duyên, bản sanh, bản sự, phương quảng, hy hữu, thí dụ và luận nghị. Này các Bí-sô, sau khi ta nhập Niết-bàn, Bí-sô nào suy nghĩ là nay ta không còn đại sư nữa thì hãy bỏ nhận thức này đi, vì sao, vì ta đã chế mỗi nửa tháng các thầy nên thuyết Ba-la-đề-mộc-xoa, đây chính là đại sư của các thầy, là chỗ nương tựa của các thầy không khác gì ta còn tại thế. Lại nữa, từ nay Bí-sô hạ tòa đối với các vị kỳ túc trưởng lão không được gọi bằng tên họ, nên gọi là Đại đức hay cụ thọ. Bí-sô trưởng lão gọi Bí-sô nhỏ là cụ thọ, nên thương yêu che chở họ với tâm từ ái, nên cung cấp y thực không để cho họ thiếu thốn và nên dạy bảo họ đọc tụng, thiền quán để họ được lợi ích. Có như thế thì giáo pháp của ta mới ngày càng tăng trưởng, ngược với trên thì giáo pháp sẽ mau hoại diệt. Lại nữa, trên đại địa này có bốn nơi nếu người nam người nữ nào có tín tâm thanh tịnh thì trọn đời nên nhớ giữ và sanh tâm tôn kính. Bốn chỗ đó là: nơi Phật đản sanh, nơi Phật thành đạo, nơi Phật chuyển pháp luân và nơi Phật nhập Niết-bàn. Nếu người nào đến bốn nơi này kính lễ với tâm chí thành thì sau khi qua đời nhất định sẽ sanh lên cõi trời. Này các Bí-sô, đối với Phật pháp tăng bảo hay là đối với bốn Thánh đế Khổ tập diệt đạo, các thầy còn có nghi ngờ gì thì hãy thưa hỏi, ta sẽ giải nghi cho". (Một đời của Như lai từ khi xuất gia cho đến nhập Niết-bàn suốt hơn năm mươi năm có tám nơi trụ lâu, đó là nơi đản sanh, nơi thành đạo, nơi chuyển pháp luân, núi Linh thứu, thành Quảng nghiêm, nơi từ cõi trời xuống, vườn Kỳ thọ và Song lâm, nơi nhập Niết-bàn. Tám nơi này thì bôn nơi là định xứ, còn lại đều là bất định xứ. Nhiếp tụng:

Sanh, thành, pháp, Thứu, Quảng, hạ, kỳ, lâm. Kiền thành nhất tưởng, Phước thắng thiên kim.).

Lúc đó cụ thọ A-nan bạch Phật: "Thế tôn, như con hiểu lời Phật dạy là các Bí-sô nếu còn nghi ngờ gì thì nên hỏi, nhưng trong chúng này không có ai còn nghi ngờ đối với Phật pháp tăng và bốn Thánh đế, cần phải hỏi lại nữa", Phật nói: "lành thay A-nan, ta dùng trí huệ quán sát trong chúng này, thấy không có ai còn nghi ngờ gì về Tam bảo và Tứ đế nữa". Lúc đó với tâm từ bi, lần cuối cùng Phật ở trước đại chúng vén thượng y hiển bày thân tướng rồi bảo các Bí-sô: "các thầy hãy nhìn thân Như lai lần cuối, vì sao, vì Như lai Ứng chánh giác khó được gặp như hoa Ưu đàm bát la", các Bí-sô im lặng, Phật nói: "các pháp đều như vậy, các hành là vô thường, đây là lời giáo huấn cuối cùng của ta". Nói xong Phật liền chánh niệm nhập định thứ nhất, xuất định thứ nhất rồi nhập định thứ hai, xuất định thứ hai rồi nhập định thứ ba, xuất định thứ ba rồi nhập định thứ tư, xuất định thứ tư rồi nhập định Không xứ, xuất định Không xứ rồi nhập định Thức xứ, xuất định Thức xứ rồi nhập định Vô sở hữu xứ, xuất định Vô sở hữu xứ rồi nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, xuất định Phi tưởng phi phi tưởng xứ rồi nhập Diệt thọ tưởng định. Lúc đó tôn giả A-nan hỏi tôn giả A-ni-lư-đà: "đại sư đã nhập Niết-bàn hay chưa?", đáp là chưa, hiện đang nhập Diệt thọ tưởng định, A-nan nói: "tôi nghe Phật nói: nếu Phật Thế tôn nhập định cuối cùng, tịch nhiên bất động thì ngay sau đó mắt thế gian khép lại, chắc chắn nhập Niết-bàn". Lúc đó Phật xuất định Diệt thọ tưởng, lần lượt nhập ngược trở lại, như thế cho đến định thứ nhất rồi mới nhập Niết-bàn vô dư. Ngay lúc đó trời đất chấn động, trên không trung sao xẹt, bốn phương đều rực sáng, trống trời tự nhiên vang động khắp hư không.

Lúc đó cụ thọ Đại Ca-diếp ở trong Trúc lâm, bền ao Yết lan đạc ca, thành Vương xá thấy mặt đất chấn động liền nhiếp niệm quán sát, quán biết Như lai đã nhập Niết-bàn liền suy nghĩ: "nay ta không còn đại sư nữa, chỉ còn nương vào pháp, các hành là như vậy, biết làm sao. Nhưng vua Vị sanh oán vừa phát tín tâm, nếu nghe Phật đã nhập Niết-bàn ắt sẽ thổ huyết mà chết, ta nên làm phương tiện trước", nghĩ rồi liền đến nói với đại thần Hành vũ: "ông nên biết, Phật đã nhập Niết-bàn, vua Vị sanh oán vừa phát tín tâm nếu nghe tin này ắt sẽ thổ huyết mà chết, ta muốn làm phương tiện thuận theo thứ lớp cho vua hiểu được. Ông hãy đến trong vườn, ở trong sảnh đường cho người vẽ nhân duyên bản sanh của Phật, từ khi Bồtát ở trên cõi trời Đổ-sử-đa..., kế hiện tướng voi trăng vào thai mẹ, kế đản sanh rồi xuất gia, tu khổ hạnh, cuối cùng thành đạo quả dưới cội Bồ đề. Sau đó đến thành Bà-la-nê-tư ba lần chuyển pháp luân mười hai hành tướng, kế đến thành Thất-la-phiệt hiện đại thần thông, kế lên cõi trời Tam thập tam thuyết pháp cho thân mẫu và chư thiên, kế trở cuống châu Thiệm bộ tại thành Tăng yết xa giáo hóa quần sanh, cuối cùng đến thành Câu-thi-na ở giữa hai cây Sa la (Sa la song thọ), nằm day đầu về hướng Bắc mà nhập Niết-bàn. Vẽ xong nên làm tám cái hòm to bằng người đặt bên ngoài sảnh đường, bảy hòm đầu đựng đầy sanh tô, hòm thứ tám đựng nước Ngưu đầu chiên đàn. Khi thấy vua đi ra nên thỉnh vua đến trong vườn xem tranh vẽ và giải thích theo thứ lớp cho vua hiểu, khi vua biết Phật đã nhập Niết-bàn, vua sẽ ngã bất tĩnh, lúc đó nên đặt vua vào trong hòm thứ nhất, lần lượt như thế đến hòm thứ tám thì vua sẽ tỉnh lại", dặn dò xong, tôn giả đi đến thành Câu-thi-na. Lúc đó hành làm theo như lời tôn giả đã dặn, khi thấy vua ngã bất tĩnh, các quan vội đặt vua vào hòm thứ nhất, thứ lớp như thế đến hòm thứ tám thì vua dần dần tĩnh lại.

Khi Như lai nhập Niết-bàn, hoa thơm Sa la tự rơi rụng phủ lên kim thân, một Bí-sô nói kệ:

"Khi Thế tôn Niết-bàn,
Rừng Sa la tối thắng,
Rũ cành che phủ kín,
Và rụng xuống hoa thơm".

Vua trời Đế thích nói kệ:

"Các hành vô thường,
Là pháp sanh diệt,
Sanh diệt diệt rồi,
Tịch diệt là vui".

Phạm thiên vương nói kệ:

"Tất cả pháp thế gian,
Đã sanh đều phải tử,
Lực vô thường lớn nhất,
Phá tan hết các hành,
Đại sư mắt thế gian,
Đấng thập lực vô thượng,
Hóa duyên đã viên mãn,
Tịch diệt tại Song lâm".

Tôn giả A nê lư đà nói kệ:

"Phật không thở ra vào,
Tâm Phật cũng tịch nhiên,
Mắt thế gian đã nhắm,
Vào tịch diệt bất động.
Thế tôn đủ mười lực,
Hóa độ xong nhập diệt.
Chúng sanh nào thấy nghe,
Sợ hãi lông dựng đứng,
Tâm người chớ mê loạn,
Cũng chớ nên đau buồn,
Phật chứng thân Mộc xoa,
Cũng như ngọn đèn tắt".

Lúc đó các Bí-sô đều bi cảm, có người mê loạn ngã lăn ra đất kêu khóc, có người tư duy pháp lý nói: "chúng ta nên chịu đựng, như Thế tôn đã dạy là tất cả vinh hoa đáng ưa thích rốt cuộc cũng trở về nơi hoại diệt", tôn giả A-ni-lư-đà bảo A-nan: "cụ thọ nên khuyên nhũ đại chúng hãy tự kìm chế, chớ để trái oai nghi, chớ nên buồn khóc quá đáng, vì sao, vì hiện nay có chư thiên Trường thọ đang chê trách: "vì sao các Bí-sô xuất gia trong pháp luật thiện thuyết của Thế tôn lại không thể quán vô thường, đến nỗi buồn khổ như vậy", A-nan hỏi có bao nhiêu chư thiên đến, đáp: "phương Nam từ sông Kim đến rừng Sa la... trong chu vi mười hai Du thiện na này đều có chư thiên đại oai đức chen vai nhau, không có chỗ để dựng tích trượng". Sau đó tôn giả lại bảo A-nan: Này A-nan, thầy hãy đến trong thành Câu-thi-na nói các lực sĩ rằng: "Như lai đại sư trong đêm nay đã nhập Niết-bàn vô dư, các vị nên làm những gì cần làm để sau khỏi phải hối hận và nói là Như lai đã nhập Niết-bàn trong thành ấp này mà chúng ta lại không biết cúng dường để báo từ ân của Phật". Tôn giả A-nan nghe rồi liền đến nói với các lực sĩ như thế, các lực sĩ nghe rồi có người bất tĩnh ngã ra đất, có người đấm ngực gào khóc, thân thể run rẩy không thể tự kìm chế; có người nói: như Phật đã dạy thế gian vô thường ắt phải biệt ly. Họ nói với nhau: "chúng ta hãy mau đem hương hoa, hương bột, hương đốt, dầu thơm cùng các loại nhạc khí đến rừng Sa la để cúng dường", nói rồi họ cùng các quyến thuộc ra khỏi thành Câu-thi-na đi đến rừng Sa la, đến chỗ Phật nhập Niết-bàn rãi hương hoa, treo cờ phướn phang lọng và tấu âm nhạc để cúng dường. Sau đó họ hỏi tôn giả A-nan việc tẩm liệm đấng Pháp vương vô thượng nên làm như thế nào, A-nan nói:

"trước đây tôi có hỏi Phật, pháp tẩm liệm nên làm như pháp táng vị Chuyển luân thánh vương", lại hỏi: "pháp táng vị Chuyển luân thánh vương như thế nào?", đáp: "sau khi Chuyển luân thánh vương qua đời được quấn khắp thân bằng năm trăm tấm bạch điệp thượng diệu và nghiêm sức bằng năm trăm tấm y đẹp, được đặt trong kim quan, trong đó đổ đầy dầu thơm và được hỏa thiêu bằng gỗ thơm. Hỏa thiêu xong, tắt lửa bằng sữa thơm rồi thu lấy hài cốt đựng trong bình vàng, xây tháp thờ nơi ngã tư đường, dựng tràng phan, lọng, hương hoa, tấu các loại âm nhạc và thiết đại trai hội để cúng dường. Sau khi Phật nhập diệt, trời người hãy theo pháp ấy mà cung kính cúng dường, gấp bội sự cung kính cúng dường vị Chuyển luân thánh vương", các lực sĩ nói: "chúng con sẽ làm như lời tôn giả nói, nhưng một, hai ba ngày không làm sao hoàn tất được, phải đến bảy ngày mới có thể làm xong", A-nan đáp là được. Lúc đó trong phạm vi mười hai Du thiện na từ thành Câu-thi-na đến tháp Hệ quang, vô lượng chúng sanh vân tập đến với đủ loại hương hoa và kỹ nhạc để cúng dường. Một vị kỳ túc trong tộc họ lực sĩ bảo mọi người rằng: "những người có mặt trong đây, người nữ cầm tràng phan, người nam khiên kim quan, tất cả cùng rãi hương hoa, hương bột và tấu âm nhạc đưa kim quan đi vào cửa Tây thành Câu-thi-na rồi ra cửa Đông, qua sông Kim đến tháp Hệ quang rồi đặt kim quan ở nơi tốt nhất để làm lễ hỏa thiêu", mọi người nghe rồi cùng nhau đến khiên kim quan, tuy dùng hết sức lực vẫn không thể nâng kim quan lên được, cụ thọ A-nan hỏi tôn giả A-ni-lư-đà nguyên do, tôn giả nói: "vì chư thiên có ý nghĩ sẽ cùng những người có mặt trong đây, người nữ cầm tràng phan, người nam khiên kim quan, tất cả cùng rãi hương hoa, hương bột và tấu âm nhạc đưa kim quan đi vào cửa Tây thành Câu-thi-na rồi ra cửa Đông, qua sông Kim đến tháp Hệ quang rồi đặt kim quan ở nơi tốt nhất để làm lễ hỏa thiêu. Do nhân duyên này nên các lực sĩ không thể khiên kim quan được", A-nan nói: "nếu vậy hãy thuận theo ý của chư thiên". Sau khi thuận theo ý của chư thiên, họ khiên kim quan trên vai một cách nhẹ nhàng, lúc đó trên không trung trời mưa hoa sen xanh, vàng đỏ trắng, bột thơm trầm thủy, chiên đàn..., trăm ngàn nhạc trời đồng tấu, lọng hoa của chư thiên che như mây với vô số thiên y. Các nam nữ trong tộc họ lực sĩ cũng rãi hương hoa và tấu âm nhạc đưa kim quan tuần tự đi đến tháp Hệ quang, hoa rãi nhiều đến nỗi ngập ngang đầu gối.

Lúc đó tôn giả Đại Ca-diếp cùng năm trăm đệ tử với oai nghi nghiêm túc đang trên đường đi đến Song lâm, thấy một ngoại đạo cầm vài cành hoa đi ngược lại, liền hỏi: "ông lấy hoa này từ đâu và định đi đâu?", đáp: "tôi lấy hoa này từ thành Câuthi-na và định đi về ấp Ba ba, đại sư của các vị đã nhập Niết-bàn được bảy ngày rồi, trời người đang cúng dường di thân", lúc đó có một Bí-sô già ngu si nghe ngoại đạo nói lời này liền phát ra lời thô ác: "vui sướng thay, từ nay sẽ không còn ai bảo chúng ta điều này nên làm, điều này không nên làm, từ nay chúng ta muốn làm gì thì làm tùy ý", chư thiên trên không trung nghe lời phi pháp này liền dùng thần lực làm mất âm thanh không cho ai nghe, chỉ trừ tôn giả Đại Ca-diếp. Tôn giả dừng lại bên đường giáo giới Bí-sô già kia rồi bảo đại chúng: "này các cụ thọ, các hành trong thế gian đều vô thường, không có lâu dài, không đáng tin tưởng rốt cuộc cũng sẽ hoại diệt. Các thầy nên sanh tâm nhàm lìa, chớ có tham luyến, giờ chúng ta hãy mau đi đến gặp Phật lần cuối".

Lúc đó các lực sĩ thành Câu-thi-na và bốn chúng đốt gỗ thơm để hỏa thiêu nhưng lửa không cháy, tôn giả A-ni-lư-đà nói với A-nan: "họ muốn đốt, lửa cũng không cháy được", hỏi vì sao, đáp: "vì chư thiên không cho lửa cháy", lại hỏi vì sao, đáp: "vì tôn giả Đại Ca-diếp cùng năm trăm đệ tử đang trên đường sắp đến đây, muốn thấy thân kim sắc của Phật lần cuối và đích thân hỏa thiêu, vì đợi vị ấy đến nên chư thiên không cho lửa cháy", A-nan liền nói cho mọi người biết để đợi. Một lát sau tôn giả Đại Ca-diếp đến, dân chúng thành Câu-thi-na đến đảnh lễ tôn giả rồi theo tôn giả đến chỗ kim quan để chiêm ngưỡng kim thân Phật lần cuối. Tôn giả dùng một ngàn tấm bạch điệp quấn bên ngoài kim thân Phật, đậy nắp kim quan, chất gỗ thơm để thiêu rồi đứng qua một bên. Do uy lực của Phật và lực của chư thiên nên lửa tự nhiên từ trong gỗ thơm bốc cháy, A-nan hữu nhiễu giàn hỏa và nói kệ:

"Tướng hảo Như lai đã viên tịch,
Lửa tự nhiên cháy thiêu kim thân,
Ngàn lớp vải ngoài đều cháy hết,
Chỉ còn xá lợi ở bên trong".

Lúc đó các lực sĩ thành Câu-thi-na định dùng sữa thơm để tắt lửa thì ngay trong lửa bỗng mọc lên bốn cây: cây sữa màu hoàng kim, cây sữa màu đỏ, cây Bồ đề và cây Ô đàm bạt; sữa từ bốn cây này chảy ra làm cho lửa tắt. Họ thu lấy xá lợi để trong bình vàng đặt trên xe báu rồi đem hương hoa, hương chiên đàn trầm thủy... và tấu âm nhạc để cúng dường rồi đẩy xe vào thành, đặt bình vàng xá lợi này ở giữa sảnh đường và tiếp tục cúng dường như trước. Các lực sĩ ở ấp Ba ba sau khi nghe biết tin này liền tập họp bốn binh kéo đến thành Câu-thi-na, muốn được chia xá lợi nên nói với các lực sĩ trong thành: "Thế tôn là từ phụ của chúng sanh, chúng tôi đã được Phật dạy bảo chánh pháp, nay Phật đã diệt đo xin chia cho chúng tôi xá lợi để đem về ấp Ba ba xây tháp cúng dường", các lực sĩ trong thành đáp: "Thế tôn đại sư đã nhập Niết-bàn trong xứ của chúng tôi, vì vậy toàn bộ xá lợi Phật phải để ở đây cúng dường, không chia cho người ngoài", người ấp Ba ba nói: "nếu chia thì tốt, nếu không chia thì chúng tôi đem binh đoạt lấy". Sau đó lần lượt người của các ấp Già lạc ca, ấp Đô lỗ ca, ấp A la ma, ấp Phệ suất nô, các Thích tử thành Kiếp-tỷ-la, các Lật cô tỳ thành Phệ xá ly đều kéo đến thành Câu-thi-na. Lúc đó vua Vị sanh oán nước Ma-kiệt-đà sau khi nghe biết Thế tôn đã nhập Niết-bàn trong lòng buồn khổ bảo đại thần Hành vũ: "ta nghe các nơi đang kéo đến thành Câu-thi-na để đòi chia xá lợi, ta cũng nên đến đó xin một phần, khanh nên chỉnh đốn bốn binh", khi vua vừa lên lưng voi trắng, tâm lại nhớ đến ân sâu của Phật nên ngã xuống đất bất tĩnh; lát sau tĩnh lại liền lên lưng ngựa, cũng như trước ngã xuống bất tĩnh, lát sau tĩnh dậy, vua bảo Hành vũ: "ta không thể đích thân tới đó được, khanh nên thống lĩnh bốn binh đến thành Câu-thi-na truyền lời của ta thăm hỏi các lực sĩ trong thành được ít bịnh, ít não... và nói rằng: Thế tôn là đại sư của chúng tôi, nay Phật đã nhập Niết-bàn tại trú xứ của các vị, xin hãy cho chúng tôi một phần xá lợi để đem về thành Vương xá xây tháp cúng dường", Hành vũ tuân lịnh vua đi đến thành Câu-thi-na nói lại lời của vua, các lực sĩ thành Câu-thi-na nói: "Phật đã nhập Niết-bàn tại trú xứ của chúng tôi, tuy có xá lợi nhưng vua các vị muốn được chia phần thì thật khó được", Hành vũ nói: "nếu chia thì tốt, nếu không chia thì chúng tôi đem binh đoạt lấy", đáp là tùy ý, nói rồi các lực sĩ trong thành Câu-thi-na tập họp bốn binh định quyết chiến với bốn binh của bảy thành ấp kia.

QUYỂN 39

10. Nhiếp tụng thứ mười trong Biệt môn thứ tám (tiếp theo)-Nói việc Phật nhập Niết-bàn và việc 500 vị kiết tập:

Lúc đó có một Bà-la-môn tên là Đột-lộ-noa ở trong hội chúng thấy mọi người vì muốn được chia phần xá lợi mà có thể quyết chiến với nhau, sợ có tổn thương và trái nghịch lời Phật dạy, nên ông cầm tràng phan dài giơ cao lên rồi nói với các lực sĩ thành Câu-thi-na: "xin các vị hãy tạm ngừng cho tôi được trình bày lợi hại. Tôi từng nghe đại Sa môn Kiều-đáp-ma rãi lòng từ đến khắp các hữu tình, ở trong vô lượng kiếp dõng mãnh tinh tấn chịu đựng các oán hại, chịu khổ lâu xa như thế mà vẫn tán thán hạnh nhẫn nhục nên nay mới thành Vô thượng giác, tâm hạnh bình đẳng như hư không, tế độ khắp tất cả. Vì chúng sanh hết phước nên Phật nhập Niết-bàn mới có bảy ngày mà đã hưng binh quyết chiến với nhau, thật là trái nghịch. Xin các vị chớ đánh nhau, tôi sẽ làm cho các vị được hoan hỉ, tôi sẽ chia đều Xá lợi Phật làm tám phần cho tám nước để các vị mang về xây tháp cúng dường. Bình vàng đựng xá lợi xin cho tôi được mang về xứ mình xây tháp cúng dường", các lực sĩ thành Câu-thi-na nghe rồi liền nói: "nhân giả nói đúng, Thế tôn tu hạnh nhẫn, chúng ta không nên làm việc sát hại... Vậy nhân giả hãy thuận theo pháp mà chia đều xá lợi cho chúng tôi. Đây là việc làm tốt". Lúc đó Bà-la-môn liền chia xá lợi làm tám phần cho tám nước như sau: phần thứ nhất trao cho các lực sĩ thành Câu-thi-na, phần thứ hai trao cho các lực sĩ ấp Ba ba, phần thứ ba trao cho ấp Giả la bác, phần thứ tư trao cho xứ A-la-ma, phần thứ năm trao cho các Thích tử thành Kiếp-tỷ-la, phần thứ bảy trao cho các Lật cô tỳ thành Phệ xá ly, phần thứ tám trao cho đại thần Hành vũ nước Ma-kiệt-đà. Sau khi được chia xá lợi xong, ai nầy đều mang về nước mình xây tháp cúng dường; Bà-la-môn Đột-lộ-noa mang bình vàng đựng xá lợi về xứ mình xây tháp cúng dường. Lúc đó trong đại chúng có Ma-nạp-bà tên Tất bát la nói với mọi người: "xứ tôi không được chia phần xá lợi, xin cho tôi mang tro tàn của Phật về xứ Tất bát la xây tháp cúng dường". Lúc đó tại châu Thiệm bộ có tất cả tám tháp thờ xá lợi Phật, tháp thứ chín thờ bình đựng xá lợi, tháp thứ mười thờ tro. Xá lợi Phật gồm có một thạc sáu đấu được chia ra làm tám phần, bảy phần thờ tại châu Thiệm bộ, một phần của xứ A la ma đem thờ ở trong cung của Hải long vương. Lại có bốn răng xá lợi Phật: một cái thờ ở trên cung trời vua Đế thích, một cái thờ ở nước Kiện-đà-la, một cái thờ ở nước Yếtlăng-già và một cái thờ ở trong cung của Hải long vương xứ A la ma. Về sau này, vua Vô ưu của ấp Ba tra ly, khai quật bảy tháp lấy xá lợi ra rồi cho xây lại thành tám vạn bốn ngàn tháp để cúng dường khắp trong châu Thiệm bộ. Do oai đức của tháp làm trang nghiêm thế gian nên trời người... thảy đều cung kính tôn trọng cúng dường, làm cho chánh pháp được quang hiển, không bị mau diệt, ai có mong cầu gì cũng được toại ý.

Việc năm trăm A-la-hán kiết tập pháp tạng: Thích ca Như lai sanh trưởng trong dòng họ Thích ca, thành Đảng chánh giác tại nước Makiệt-đà, chuyển diệu pháp luân tại thành Bà-la-nêtư, nhập Niết-bàn tại trú xứ lực sĩ thành Câu-thi-na. Trước đó tôn giả Xá-lợi-phất cùng tám vạn Bí-sô đã đồng nhập Niết-bàn, tôn giả Đại Mục-kiềnliên cùng bảy vạn Bí-sô cũng đồng nhập Niết-bàn; khi Thế tôn nhập Niết-bàn cũng có một vạn tám ngàn Bí-sô đồng nhập Niết-bàn. Chư thiên cõi trời Trường thọ thấy việc này rồi liền chê trách: "kinh luật luật pháp tạng chơn chánh mà Phật đã nói ra chưa được kiết tập, lẽ nào lại để cho chánh giáo thành tro tàn hay sao?". Lúc đó tôn giả Đại Cadiếp biết ý của chư thiên nên bảo các Bí-sô: "các thầy nên biết trước đó tôn giả Xá-lợi-phất cùng tám vạn Bí-sô đã đồng nhập Niết-bàn, tôn giả Đại Mục-kiền-liên cùng bảy vạn Bí-sô cũng đồng nhập Niết-bàn; nay Thế tôn nhập Niết-bàn cũng có một vạn tám ngàn Bí-sô đồng nhập Niết-bàn. Chư thiên cõi trời Trường thọ thấy việc này rồi liền chê trách: "kinh luật luật pháp tạng chơn chánh mà Phật đã nói ra chưa được kiết tập, lẽ nào lại để cho chánh giáo thành tro tàn hay sao?". Vì vậy chúng ta nên thông báo cho Bí-sô các phương đến nhóm để cùng kiết tập pháp tạng, đây là đại sự", đại chúng đồng thanh đáp là nên làm, tôn giả Đại Cadiếp hỏi trong đại chúng: "trong đây ai nhỏ nhất?", đáp là cụ thọ Viên mãn, tôn giả bảo Viên mãn: "thầy nên đánh kiền chùy kêu gọi Tăng già nhóm họp", Viên mãn nghe rồi liền đến nơi yên tĩnh nhập Tứ thiền rồi theo định lực của mình, hệ niệm quán sát, quán sát xong xuất định đánh kiền chùy. Lúc đó có 499 vị đại A-la-hán từ các phương đến vân tập và ngồi vào chỗ ngồi, tôn giả Đại Ca-diếp nói: "Bí-sô tăng già đã đến nhóm họp đủ hết chưa, hãy xem xét kỹ còn ai chưa đến?", các Bí-sô nhìn xem khắp trong chúng rồi nói: "Bí-sô các phương đều đã đến nhóm, chỉ thiếu có cụ thọ Ngưu chủ". Lúc đó Bí-sô Ngưu chủ đang ở yên tĩnh trong cung Thi lợi sa, tôn giả Đại Ca-diếp bảo Viên mãn: "thầy hãy đến chỗ ở của cụ thọ Ngưu chủ nói với vị ấy rằng: Bí-sô tăng già với tôn giả Đại Ca-diếp là thượng thủ có lời thăm hỏi sức khỏe của tôn giả, nay Tăng già có việc, thầy hãy mau đến", Viên Mãn nghe rồi liền nhập định, nương theo định lực ẩn mất tại thành Câu-thi-na và hiện ra ở trước Bí-sô Ngưu chủ trong cung Thi lợi sa, Viên mãn đảnh lễ rồi đem lời của tôn giả Đại Ca-diếp nói lại cho tôn giả Ngưu chủ nghe, tôn giả tuy đã thoát ly các dục nhưng tập khí luyến ái vẫn còn nên hỏi Viên mãn: "thiện lai cụ thọ, có phải Như lai đại sư hóa duyên ở thế giới khác hay là Tăng già xảy ra tranh chấp; hay là pháp luân vô thượng mà Như lai đã chuyển lại bị các ngoại đạo phỉ báng; hay là ngoại đạo kết bè đảng làm trở ngại cho các đệ tử Thanh văn của Như lai; hay là các đệ tử của Như lai do phiền não sanh khởi nên khinh rẽ lẫn nhau; hay là có Sa môn, Bà-la-môn trái nghịch lời Phật dạy; hay là có kẻ ngu si phá tăng; hay là có kẻ ác kiến đem pháp tương tợ với văn cú đã có làm hoặc loạn chánh pháp của Như lai; hay là có nhiều đồng phạm hạnh bỏ thắng nghiệp tụng kinh thiền quán mà ưa thích bàn luận việc thế tục vô ích; hay là có tâm nghi hoặc do dự hai dường, phi pháp nói là pháp, pháp nói là phi pháp, phi Tỳ ni nói là Tỳ ni, Tỳ ni nói là phi Tỳ ni; hay là có Bí-sô bị tâm xan tham cấu uế nhiễu loạn nên bỏ sáu pháp hòa kính, thấy có khách và đồng phạm hạnh đến lại không quý mến nhau; hay là có Bí-sô tánh ác làm cho các trưởng giả, Bà-la-môn tín tâm quay lưng với chánh pháp mà theo về với ngoại đạo; hay là có Bí-sô tà mạng làm các việc như cày ruộng, mua bán, dua nịnh vua quan, xem tướng họa phước, ra sức tích chứa tài vật bất tịnh; hay là có Bí-sô đối với chánh hạnh đầu đà, thọ ngọa cụ xấu liền sanh tâm khinh chê, thật không phải là Sa môn mà tự xưng là Sa môn, não loạn các đồng phạm hạnh?. Nhưng mà thầy Viên mãn từ xa đến đây, đáng lẽ nên nói Thế tôn an ổn vô sự, sao lại nói là Tăng già với tôn giả Đại Ca-diếp là thương thủ?. Há không phải Thế tôn đã xả hàm thức vĩnh viễn nhập Niết-bàn vô dư; hay là thế gian đã mất đi vị thuyền sư nên sanh kinh sợ; hay là Thập lực vô úy đã bị Vô thường nuốt mất; hay là đấng có thể làm cho các hữu tình thức tĩnh được lợi ích đã ngủ mãi không thức dậy nữa; hay là mặt trời Phật đã lặn; hay là mặt trăng Như lai tròn sáng đã bị A-tu-la che mất; hay là đại thọ Thắng như ý tối tôn đại sư ở trong ba ngàn đại thiên thế giới, được trang nghiêm bằng hoa Bồ đề phần, trái là bốn quả Thanh văn với hương thơm khả ái đã bị voi điên Vô thường xô ngã; hay là đèn trí huệ Như lai đã bị gió vô minh thổi tắt rồi phải không?", cụ thọ Viên mãn nói kệ đáp:

"Chúng Thanh văn đã nhóm,
Trí huệ đều sáng suốt,
Muốn chánh pháp trụ lậu,
Chỉ còn chờ tôn giả.
Thuyền Phật pháp đã chìm,
Núi trí huệ cũng sụp,
Chúng thù thắng của Phật,
Đều muốn về viên tịch,
Thầy hãy mau đến gặp,
Cùng kiết tập pháp tạng,
Việc này rất trọng đại,
Tăng sai con đến báo".

Tôn giả Ngưu chủ bảo Viên mãn đừng nói nữa rồi nói kệ:

"Đèn sáng vô thượng còn ở đời,
Tôi sẽ đến đảnh lễ tôn nhan,
Nay Phật hết duyên nhập Niết-bàn,
Có người trí nào lại đến đó,
Thầy hãy mang y bát của tôi,
Đưa cho đại chúng Ứng cúng ấy,
Tôi vào viên tịch không tái sanh,
Xin Thánh chúng từ bi tha thứ".

Nói kệ xong, tôn giả liền vọt lên không trung hiện mười tám thần biến, phóng ra các ánh sáng và hóa ra lửa để tự thiêu thân mà diệt độ, từ thân tôn giả chảy ra bốn dòng nước. Dòng nước thứ nhất nói kệ:

"Chúng sanh chúng ta đã hết phước,
Nên nay bỗng nhiên bị bỏ rơi,
Mặt trời trí huệ Phật đã lặn,
Tất cả quần mê không ai cứu".

Dòng nước thứ hai nói kệ:

"Các hành bị diệt từng sát na,
Từ sanh đến diệt đều khổ não,
Chỉ do phàm phu chấp hư vọng,
Người cho người nhận đều là không".

Dòng nước thứ ba nói kệ:

"Người trí tâm thường không phóng dật,
Siêng tu thiện pháp mau thành tựu,
Tuổi trẻ tươi đẹp cũng sẽ chết,
Bị quỷ Vô thường nuốt tất cả".

Dòng nước thứ tư nói kệ:

"Tôi xin đảnh lễ đệ tử Phật,
Việc cần nên làm được thành tựu,
Tôi kính thuận Phật vào viên tịch,
Như bò chúa đi, bò nghé theo".

Lúc đó Bí-sô Viên mãn cúng dường di thân của tôn giả Ngưu chủ xong liền mang y bát của vị ấy, nhập định ẩn mất ở trong cung Thi lợi sa, hiện thân trở lại trong thành Câu-thi-na ở trước đại chúng Bí-sô. Viên mãn đảnh lễ Tăng rồi để y bát của tôn giả Ngưu chủ ở trước mặt Thượng tòa rồi nói kệ:

"Tôn giả nghe Phật đã viên tịch,
Tất cả phước nghiệp đều đi theo,
Đây là y bát con mang về,
Tôn giả xin Tăng già tha thứ".

Tôn giả Đại Ca-diếp bảo các Bí-sô: "các vị đồng phạm hạnh lắng nghe kệ:

Vị ấy theo Phật nên nhập diệt,
Nhiều Ứng cúng khác đã Niết-bàn,
Nay Tăng nên đồng tâm hòa hợp,
Khắp vì trời người mà kiết tập.
Các vị hãy kiến cố chí nguyện.
Chớ có nhập Niết-bàn:
Các vị chớ bắt chước Ngưu chủ,
Viên tịch trong cung Thi lợi sa,
Chớ nên vội vã nhập Niết bàn,
Hãy làm lợi ích cho quần sanh".

Lúc đó tôn giả Đại Ca-diếp cùng năm trăm Bí-sô lập chế: "các thầy lắng nghe, mặt trời Phật đã lặn, sợ pháp cũng mất theo nên muốn cùng các thầy tập họp lại kết tập pháp tạng. Mới táng đại sư xong, mọi người đều đau buồn, nếu kết tập tại đây thì Tăng bốn phương tụ đến sẽ làm ồn náo quấy nhiễu, tâm không an thì việc khó thành. Thế tôn đã thành Đẳng chánh giác dưới gốc cây Bồ đề tại nước Ma-kiệt-đà, nay pháp thân đã mất, chúng ta nên đến nơi đó để kết tập", đại chúng đều nhất trí đến đó kết tập, tôn giả Đại Ca-diếp nói: "vua Vị sanh oán con của vua Thắng thân nước Ma-kiệtđà, vừa phát tín tâm có thể cúng dường tứ sự đầy đủ cho chúng tăng yên tâm kết tập". Lúc đó trong đại chúng có người nói: "tất cả chúng ta đều đã chứng A-la-hán, chỉ riêng có cụ thọ A-nan là còn ở vị Hữu học. Khi Phật còn tại thế, thầy ấy đã làm thị giả cho Phật và đã thọ trì hết pháp tạng của Phật, nhưng quả vị chưa viên mãn thì phải làm sao", Tôn giả Đại Ca-diếp nói: "nếu vậy hãy tác pháp tuyển chọn vì sợ các Hữu học khác sanh tâm bất nhẫn, nên làm phương tiện sai A-nan làm người rót đưa nước, còn các vị khác đều ra ngoài", đại chúng tán đồng, tôn giả Đại Ca-diếp hỏi A-nan: "thầy có thể làm người rót đưa nước cho đại chúng không?", đáp là được, tôn giả Đại Ca-diếp liền bạch nhị yết ma sai như sau:

Đại đức tăng lắng nghe, cụ thọ A-nan đã làm thị giả cho Phật và đã thọ trì hết pháp tạng. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay sai cụ thọ A-nan làm người rót đưa nước cho Tăng. Bạch như vậy.

Đại đức tăng lắng nghe, cụ thọ A-nan đã làm thị giả cho Phật và đã thọ trì hết pháp tạng. Tăng nay sai làm người rót đưa nước cho Tăng, nếu cụ thọ nào chấp thuận cụ thọ A-nan làm người rót đưa nước cho Tăng thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói. Tăng sai cụ thọ A-nan làm người rót đưa nước cho Tăng xong rồi, Tăng chấp thuận vì im lặng, việc này xin nhớ giữ như vậy.

Tôn giả lại bảo A-nan: "thầy hãy cùng đại chúng du hành trong nhân gian dần dần đến nước Ma-kiệt-đà, còn tôi thì đi thẳng đến đó trước", nói rồi tôn giả đi đến nước đó trước. Vua Vị sanh oán đối với Phật tin sâu nên khi đang cỡi voi lớn mà thấy Phật từ xa liền nhảy ngay xuống đất, nhờ oai thần của Phật nên vua không bị thương tổn. Lúc đó vua thấy tôn giả Đại Ca-diếp liền nhớ tới Phật nên vội nhảy từ lưng voi xuống, tôn giả dùng thần lực đỡ vua rồi nói: "đại vương nên biết, Như lai đại sư tâm thường chánh định, còn các đệ tử Thanh văn thì không được như vậy. Nếu không nghiệp niệm quán sát thì không thể biết được việc trước mắt, vì thế từ nay tôi cùng vua lập chế: nếu vua đang cỡi voi hay ngựa mà thấy đệ tử Thanh văn của Như lai thì không nên vội nhảy xuống đất, vua nên bảo trọng thân thể", vua nói: "xin vâng theo lời tôn giả, nhưng khi Phật còn tại thế thì con đích thân cúng dường, nay Phật đã Niết-bàn thì con bày tỏ lòng cung kính nơi đâu, tôn giả chính là nơi để con tôn kính Thế tôn, vì sao, vì giáo pháp Như lai đều ủy thác cho tôn giả", nói rồi vua bảo đại thần cúng dường tứ sự cho tôn giả chớ để thiếu thốn, tôn giả nói: "đại vương nên biết, Phật chứng đại Bồ đề, thành tựu pháp thân tại nước này, nên tôi và chúng tăng muốn ngay tại nước của vua kết tập pháp tạng, dựng ngọn cờ chánh pháp, chúng tăng đang trên đường đến đây", vua nói: "lành thay, con xin cúng dường tứ sự cho Thánh chúng đầy đủ". Sau đó các Thánh chúng đều đến thành Vương xá, vua nghe tin liền ra lịnh đại thần thông báo dân chúng quét dọn sạch sẽ đường sá, vua cùng phi hậu, Thái tử, đại thần mang hương hoa, phướn lọng với các kỹ nhạc ra thành nghinh đón Thánh chúng. Sau khi vào thành, vua liền ở trước Thượng tòa cung kính chắp tay bạch rằng: "kính bạch tôn giả Đại Ca-diếp, hôm nay Thánh chúng đến đây làm lợi ích cho chúng sanh, con xin cúng dường tứ sự đầy đủ, nhưng con không biết nên ở đâu kết tập pháp tạng?", tôn giả Đại Ca-diếp nói: "nếu kết tập tại Trúc lâm trong thành này thì sợ Tăng bốn phương tụ đến làm ồn náo khiến bị gián đoạn; nếu kết tập trên núi Thứu thì cũng không yên tĩnh, nếu kết tập ở trong hang Tất bát la thì được nhưng lại không có ngọa cụ", vua nói: "nếu tôn giả quyết định chọn chỗ ấy để kết tập thì con xin cúng dường đầy đủ ngọa cụ và các vật cần dùng", tôn giả nói với đại chúng: "vua đã phát tâm cúng dường đầy đủ ngọa cụ và các vật cần dùng cho các Thánh chúng ở trong hang Tất bát la kết tập pháp tạng, vậy chúng ta hãy đi đến đó", lúc đó vua nói với tôn giả Đại Ca-diếp: "khi Thế tôn nhập Niết-bàn, con không được báo trước, con thỉnh tôn giả hãy trụ lâu ở thế gian, khi nào sắp viên tịch xin hãy báo cho con biết trước", tôn giả im lặng nhận lời và suy nghĩ: "trong tiền an cư nên sửa sang phòng xá rồi hậu an cư kết tập". Khi đến trong hang Tất bát la, tôn giả quán tâm của cụ thọ A-nan rồi hỏi cụ thọ A-ni-lư-đà: "trong đại chúng, thầy là người được Thế tôn tán thán, vậy thầy hãy quán xem trong chúng này ai còn ở vị hữu học, còn tham sân si với đủ ái thủ, việc nên làm chưa làm xong?", cụ thọ liền nhập định thứ tư quán trong đại chúng, quán thấy chỉ có A-nan còn ở vị Hữu học, còn bị phiền não trói buộc, việc nên làm chưa làm xong liền bạch cho tôn giả Đại Ca-diếp biết điều mà mình quán thấy. Tôn giả liền quán đối với A-nan nên an ủi hiểu dụ để điều phục hay là nên quở trách để điều phục, liền quán biết nên quở trách mới được điều phục, tôn giả liền ở trong đại chúng lớn tiếng bảo A-nan: "thầy hãy ra ngoài, thầy không thể cùng kết tập với đại chúng thù thắng này được", A-nan nghe lời này rồi như bị tên bắn vào tim, toàn thân run rẩy và sợ hãi liền nói với tôn giả Đại Ca-diếp: "xin hãy dung thứ cho tôi, tôi không phá giới, phá kiến, phá oai nghi, phá chánh mạng, ở trong Tăng cũng không có trái phạm, vì sao thầy bỗng đuổi tôi ra ngoài?", tôn giả nói: "thầy làm thị giả cho Phật thì làm sao phá giới phá kiến..., việc ấy đâu có hi hữu, nhưng nói ở trong Tăng không có trái phạm thì thầy hãy đem thẻ ra đây, tôi sẽ nêu lỗi của thầy cho thầy tự biết". Cụ thọ A-nan liền đứng dậy đi lấy thẻ, lúc đó ba ngàn đại thiên thế giới liền chấn động ba cách: nhẹ vừa và mạnh; chư thiên trên không trung nói với nhau: "than ôi, tôn giả Đại Ca-diếp có thể nói ra lời chân thật như thế, vì cụ thọ A-nan thân gần hầu hạ Phật nên mới nói lời khe khắt như thế để quở trách nhau". Lúc đó tôn giả Đại Ca-diếp nói với A-nan: "thầy nói ở trong Tăng không có trái phạm, nhưng làm sao lại không có trái phạm được chứ. Thầy biết Thế tôn không chấp thuận cho người nữ có tánh kiêu mạn xuất gia, như Phật nói: "này A-nan, thầy đừng xin cho người nữ xuất gia thọ Cận viên, vì sao, vì người nữ xuất gia trong giáo pháp của ta thì chánh pháp sẽ không trụ lâu, như ruộng lúa tốt bị sương muối, mưa đá thì sẽ bị hư hoại. Cũng vậy nếu cho người nữ xuất gia thì chánh pháp không trụ lâu". Vậy mà thầy lại cố nài cho người nữ xuất gia, đó chẳng phải là lỗi hay sao?", A-nan nói: "xin hãy dung thứ cho tôi, tôi không có ý khác khi xin chó người nữ xuất gia, chỉ vì Đại thế chủ là di mẫu của Phật, khi sanh Phật ra được bảy ngày thì Thánh mẫu Ma da qua đời, di mẫu dưỡng dục bú mớm Phật cho đến trưởng thành, có ân sâu như vậy làm sao không báo đáp. Lại nữa chư Phật quá khứ đều có bốn chúng nên tôi muốn Thế tôn cũng giống như thế, một là báo ân sâu của di mẫu, hai là nghĩ đến tình thân tộc nên mới xin Phật cho người nữ xuất gia", tôn giả nói: "này A-nan, việc ấy không phải là báo ân mà chính là làm hoại chánh pháp thân, là ở trên ruộng Phật cho sương muối, mưa đá rơi xuống. Đáng lẽ chánh pháp trụ thế đủ một ngàn năm, do thầy nên bị giảm ít lại. Lại nữa, thầy nói nghĩ đến tình thân tộc cũng là phi lý, vì người xuất gia vĩnh viễn từ bỏ ân ái. y lại nói chư Phật quá khứ đều có bốn chúng muốn Thế tôn cũng đồng như vậy, nhưng thời xưa con người sống thiểu dục, tham sân si phiền não đều cạn mỏng nên mới được xuất gia; người thời nay thì không như thế nên Thế tôn mới không chấp thuận, vầy mà thầy cứ cố nài cho Phật chấp thuận. Đây là lỗi thứ nhất, thầy hãy bỏ xuống một thẻ. Lại nữa, khi Phật nói nếu người nào tu tập nhiều về bốn thần túc thì muốn trụ thế một kiếp hay hơn một kiếp đều được tự tại, tại sao thầy lại không vì chúng sanh mà thỉnh Phật trụ thế một kiếp?", A-nan nói: "tôi thật không có ý khác, chỉ vì lúc đó tôi bị ma che chướng", tôn giả nói: "đây là lỗi lớn, làm sao tha thứ được. Thầy thân gần hầu hạ Thế tôn, tập khí trần lao đều hết sao lại để cho ma che chướng. Đây là lỗi thứ hai, thầy hãy bỏ xuống một thẻ nữa. Lại nữa, khi Thế tôn còn tại thế nói mật dụ, thầy lại ở trước Phật nói rõ việc ấy ra. Đây là lỗi thứ ba, thầy hãy bỏ xuống một thẻ nữa. Lại nữa, khi Thế tôn đưa y màu hoàng kim cho thầy giặt, thầy đã dùng chân đạp lên y để vắt, há không phải là lỗi hay sao?", A-nan nói: "vì lúc đó không có ai khác nên tôi phải dùng chân đạp y để vắt, thật không có ý khinh mạn", Tôn giả nói: "nếu không có người sao thầy không ném lên hư không để chư thiên giúp thầy. Đây là lỗi thứ tư, thầy hãy bỏ xuống một thẻ nữa. Lại nữa, khi Thế tôn sắp đến Song lâm nhập Niết-bàn, khát nước bảo thầy đi lấy nước, thầy đã lấy nước đục dâng, há không phải là lỗi hay sao?", A-nan nói: "khi tôi đến sông Cầu đà lấy nước thì có năm trăm chiếc xe chạy qua làm cho nước sông đục, không thể có được nước trong không phải là lỗi của tôi", tôn giả nói: "sao lúc đó thầy không đưa bát lên hư không để chư thiên rót nước tám công đức vào bát. Đây là lỗi thứ năm, thầy hãy bỏ xuống một thẻ nữa. Lại nữa, như Phật đã dạy các Bí-sô mỗi nửa tháng thuyết kinh Biệt giải thoát, trong đó có những giới nhỏ thuộc tiểu tùy, khi sắp nhập Niết-bàn, Phật muốn bỏ để các Bí-sô được an lạc trụ, tại sao thầy lại không hỏi Phật trong đó giới nào là giới nhỏ thuộc tiểu tùy, nay Phật không còn để hỏi, biết làm sao đây. Nay nếu thuyết bốn pháp Ba la thị ca, mười ba pháp Tăng già bà thi sa, hai pháp Bất định, ba mươi pháp Ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, chín mươi pháp Ba-dật-đề, bốn pháp Ba la đề đề xá ni và các pháp chúng học thì các giới khác là giới nhỏ thuộc tiểu tùy. Nếu thuyết từ pháp Tha thắng đến bốn pháp Đối thuyết thì các giới khác là giới nhỏ thuộc tiểu tùy. Nếu thuyết từ bốn pháp Tha thắng đến chín mươi pháp Đọa thì các giới khác là giới nhỏ thuộc tiểu tùy. Nếu thuyết từ bốn pháp Tha thắng đến ba mươi pháp Xả đọa thì các giới khác là giới nhỏ thuộc tiểu tùy. Nếu thuyết từ bốn pháp Tha thắng đến mười ba pháp Tăng tàn thì các giới khác là giới nhỏ thuộc tiểu tùy. Nếu thuyết từ bốn pháp Tha thắng đến hai pháp bất định thì các giới khác là giới nhỏ thuộc tiểu tùy. Nếu chỉ thuyết bốn pháp Tha thắng thì các giới khác là giới nhỏ thuộc tiểu tùy, cho nên các Bí-sô không biết giới nào là giới nhỏ thuộc tiểu tùy. Nếu ngoại đạo nghe biết sẽ được dịp phỉ báng nói rằng: "Sa môn Kiều-đáp-ma chế định nghiêm ngặt, khi còn sống thì các đệ tử Thanh văn hành trì hết tất cả, nhưng sau khi qua đời thì giáo pháp ấy cũng diệt theo. Đối với những giới đã chế, ai thích thì giữ, ai không thích thì bỏ, phần đông là không phụng hạnh theo. Tại sao thầy lại không vì chúng sanh đời sau mà thưa hỏi Thế tôn, thầy đáng tội truy hối", A-nan nói: "tôi không có ý khác, chỉ là vì lúc đó sắp biệt ly Như lai nên tôi rất buồn khổ", tôn giả nói: "dù vậy thầy vẫn có lỗi, thầy thân cận Phật đã lâu, tại sao lại không biết các hành là vô thường để đến nỗi buồn khổ như thế. Đây là lỗi thứ sáu, thầy hãy bỏ xuống một thẻ nữa. Lại nữa, sau khi Phật đã nhập diệt, thầy lại ở trong chúng thế tục, ở trước các người nữ hiện bày tướng âm tàng của Phật", A-nan nói: "tôi không có ý khác, chỉ vì người nữ dục nhiễm hừng thạnh, phiền não trói buộc nếu thấy được âm tàng của Phật thì dục nhiễm liền dứt", tôn giả nói: "thầy không có tuệ nhãn và tha tâm thì làm sao biết được các người nữ sau khi thấy âm tàng của Phật thì sẽ dứt dục nhiễm. Đây là lỗi thứ bảy, thầy hãy bỏ xuống một thẻ nữa. Lại nữa, thầy còn hiện bày thân kim sắc của Phật cho các người nữ thấy, họ nhìn thấy rồi khóc lóc, nước mắt của họ làm ướt bẩn tôn nghi của Phật", A-nan nói: "chỉ vì lúc đó tôi cho là chúng sanh nào thấy được thân kim sắc của Phật thì sẽ phát nguyện được thân tướng như Phật", tôn giả nói: "thầy không có tuệ nhãn và tha tâm thì làm sao biết được chúng sanh sẽ phát nguyện như vậy. Đây là lỗi thứ tám, thầy hãy bỏ xuống một thẻ nữa. Lại nữa, thầy chưa ly dục mà ở trong chúng đã ly dục thì không được, thầy hãy đi ra, Thánh chúng thù thắng không thể kết tập pháp tạng cùng với thầy được". Sau khi bị kết tám tội Ác tác, cụ thọ A-nan nhìn khắp trong chúng rồi buồn khổ than thở: "khổ thay, sao ta lại đến nông nỗi này, mới lìa xa Thế tôn thì đã không còn nơi nương tựa, không còn ai giúp đỡ, ta biết nói với ai đây", lúc đó chư thiên trên không trung đều tán thán tôn giả Đại Cadiếp, nói với nhau rằng: "các đại tiên nên biết, thiên chúng tăng thạnh, A-tu-la suy giảm, chánh pháp của Thế tôn sẽ trụ lâu vì đạo lực của đại Thanh văn này gần bằng Phật nên mới có thể đem tám việc kia ra kết tội A-nan. Đức độ của đại Thanh văn ấy chỉ dưới Phật nên tôi biết Phật pháp sẽ bất diệt", lúc đó cụ thọ A-nan nói với tôn giả Đại Ca-diếp: "Đại đức hoan hỉ dung thứ, tôi sẽ như pháp sám tám tội ấy không dám tái phạm. Khi Phật sắp nhập Niết-bàn có dạy tôi rằng: "thầy chớ có buồn khổ, sau khi ta nhập diệt, thầy nên nương theo Đại Ca-diếp tu tập. Nay tôi phạm chút lỗi, lẽ nào thầy lại không dung nạp, xin thầy hãy vâng theo lời dạy của Như lai", tôn giả nói: "thầy chớ buồn khổ, thiện pháp do nơi thầy mà được tăng trưởng không bị hoại diệt, nhưng Thánh chúng không thể kết tập pháp tạng cùng với thầy được, thầy hãy rời khỏi nơi đây", tôn giả A-ni-lư-đà nói: "nếu không có cụ thọ A-nan thì chúng ta làm sao kết tập pháp tạng?, tôn giả Đại Ca-diếp nói: "tuy cụ thọ A-nan có đủ các đức nhưng chưa thoát ly dục nhiễm sân si, còn ở vị Hữu học, việc nên làm chưa làm xong nên không thể cùng kết tập pháp tạng", tôn giả lại bảo A-nan: "thầy hãy mau ra ngoài và hãy nổ lực làm xong việc cần nên làm, khi nào chứng được quả A-la-hán rồi, lúc ấy Thánh chúng sẽ cùng thầy kết tập pháp tạng". Lúc đó A-nan trong lòng buồn khổ vì vừa xa lìa Như lai lại bị kết tội đuổi ra nên càng thêm áo não, đi đến trong tụ lạc Tăng thắng kết hạ an cư và thuyết giảng diệu pháp cho bốn chúng, chọn một đồng tử trong hạ an cư làm thị giả. Đồng tử này suy nghĩ: "Ô-ba-đà-da của ta là bậc hữu học ly dục hay là bậc vô học ly dục, ta nên nhập định tương ưng để quán sát", nghĩ rồi liền nhập định quán sát và quán biết A-nan là bậc hữu học ly dục, đồng tử xuất định rồi đến chỗ A-nan, đứng một bên nói kệ:

"Nên ngồi yên tịnh dưới gốc cây,
Nhất tâm chánh niệm Niết-bàn cung,
Cẩn thận chuyên tu tập thiền quán,
Không bao lâu nữa được viên tịch".

A-nan nghe đồng tử nói yếu nghĩa rồi liền chuyên tâm thiền quán đào luyện tâm ngay cả lúc đi hay ngồi. Lúc đó vào đầu đêm, A-nan dù đi hay ngồi đều nhất tâm trừ các chướng pháp; giữa đêm rửa chân vào phòng nằm nghỉ, vừa nằm nghiêng bên phải, hai gót chân chồng lên nhau, khởi tưởng ánh quang minh, tác ý thức dậy, đầu chưa chạm gối liền trừ hết các lậu tâm, được tâm giải thoát, chứng quả A-la-hán thọ giải thoát lạc. Tôn giả A-nan liền đi đến chỗ Thánh chúng kết tập ở thành Vương xá, Thánh chúng sau khi biết A-nan đã chứng quả đều tán thán là bậc đại trượng phu. Lúc đó tôn giả Đại Ca-diếp nói với đại chúng: "các vị nên biết, vị lai sẽ có những Bí-sô độn căn, tâm tán loạn nếu không có nhiếp tụng thì đối với kinh luật luận sẽ không thể đọc tụng thọ trì. Thế nên, chúng ta nên kết tập trước kệ tụng tóm lược tương ưng với sự việc, sau đó mới kết tập kinh luật luận", các Bí-sô đều nhất trí kết tập nhiếp tụng trước, sau khi kết tập nhiếp tụng xong lại hỏi tôn giả Đại Ca-diếp trong ba tạng nên kết tập tạng nào trước, đáp là kết tập kinh tạng trước. Lúc đó Thánh chúng thỉnh tôn giả Đại Ca-diếp lên ngồi tòa sư tử, tôn giả ngồi rồi hỏi tôn giả A-nan: "cụ thọ có thể làm người kết tập những kinh mà Như lai đã thuyết hay không?", đáp là có thể, tôn giả liền tác pháp yết ma sai như sau:

Đại đức tăng lắng nghe, cụ thọ A-nan này có thể kết tập những kinh mà Như lai đã thuyết. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay sai cụ thọ A-nan làm người kết tập những kinh mà Như lai đã thuyết. Bạch như vậy.

Đại đức tăng lắng nghe, cụ thọ A-nan này có thể kết tập những kinh mà Như lai đã thuyết, Tăng nay sai cụ thọ A-nan làm người kết tập những kinh mà Như lai đã thuyết, cụ thọ nào chấp thuận cụ thọ A-nan làm người kết tập những kinh mà Như lai đã thuyết thì im lặng, ai không chấp thuận thì nói. Tăng đã chấp thuận sai cụ thọ A-nan làm người kết tập những kinh mà Như lai đã thuyết xong rồi, Tăng chấp thuận vì im lạng, việc này xin nhớ giữ như vậy.

Khi tôn giả A-nan sắp kết tập kinh, năm trăm A-la-hán đều lấy Tăng-già-lê trải lên tòa cao, A-nan nhìn khắp bốn phía, khởi tâm từ bi đến các hữu tình, khởi tâm tôn trọng chánh pháp và tâm cung kính đối với các vị đồng phạm hạnh, hữu nhiễu tòa cao rồi đảnh lễ, kế y pháp kính lễ Thượng tòa rồi bước lên tòa ngồi ngay thẳng quán tâm của Thánh chúng như biển lớn sâu thẳm yên tĩnh, suy nghĩ: "những kinh mà chính ta được nghe từ Phật nói hoặc nghe nói lại hoặc ở cung rồng hoặc ở trên cõi trời, ta đều thọ trì không quên, ta nên kết tập lại". Lúc đó chư thiên trên không trung nói với nhau: "các vị nên biết tôn giả A-nan sắp kết tập những kinh mà Phật đã thuyết, chúng ta nên nhất tâm lắng nghe", có thiên tử nói kệ:

"Ai kiến lập diệu pháp,
Lợi ích ba ngàn cõi,
Đối Thánh pháp không sợ,
Cũng như Sư tử rống.
Các vị hãy chí thành,
Nghe thuyết pháp vi diệu,
Người nào muốn an lạc,
Biết nghĩa chân thật này".

Tôn giả Đại Ca-diếp nói kệ bảo A-nan:

"Cụ thọ hãy tuyên thuyết lời Phật,
Pháp tối thượng trong tất cả pháp,
Tất cả pháp Đại sư đã nói,
Để làm lợi ích cho quần sanh".

Lúc đó tôn giả A-nan nghe nói đến Đại sư liền sanh tâm luyến mộ, quay đầu về phía Phật nhập Niết-bàn rồi chắp tay nói với giọng thật rõ ràng rằng:

Tôi nghe như vầy: một thời Bạc-già-phạm tại vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư bảo năm vị Bí-sô rằng: đây là Khổ thánh đế, đối với pháp đã nghe này mà như lý tác ý thì có thể sanh nhãn trí minh giác... nói đầy đủ như trong kinh Tam chuyển pháp luân.

Tôn giả Kiều trần như nghe rồi liền nói với tôn giả Đại Ca-diếp: "diệu pháp này chính tôi được nghe từ Phật, Phật đã từ bi thuyết giảng cho tôi. Do năng lực của kinh này đã làm cho tôi khô cạn biển máu lệ, vượt qua núi xương, đóng bít cửa của đường ác Vô gián, khéo mở đường thiên cung giải thoát. Lúc đó tôi được xa lìa trần cấu, chứng được pháp nhãn thanh tịnh cùng tám vạn chư thiên đều được lợi ích", chư thiên trên không trung và các Bí-sô chưa ly dục nghe lời nói này đều rất đau buồn, như bị ngàn mũi tên bắn vào tim, đồng thanh kêu khóc nói khổ thay rồi nói kệ:

"Họa thay thế gian này,
Vô thường không phân biệt,
Phá hoại kho tàng báu,
Làm khô biển công đức.
Chính tôi ở chỗ Phật,
Nghe pháp giải thoát này,
Nay lại ở nơi đây,
Nghe lại lời Như lai".

Nói kệ rồi lại than thở: "họa thay sức mạnh của vô thường đã hoại con mắt của thế gian", lúc đó tôn giả Kiều trần như rời khỏi tòa ngồi quỳ lên, các A-la-hán thấy vậy cũng rời khỏi tòa quỳ lên cùng than thở: "họa thay sức mạnh của vô thường, vì sao chính chúng ta nghe Phật thuyết kinh này, nay chỉ còn nghe nói lại", liền nói kệ:

"Bậc tôn của Bát bộ đã mất,
Sao chúng ta lại không nhập diệt,
Không còn Phật, thế gian trống rỗng,
Ai sẽ làm đời này thăng hoa?"

Lúc đó các A-la-hán đều nhập đệ tứ thiền, dùng nguyện lực quán sát thế gian rồi xuất định hỏi tôn giả A-nan: "thầy vì pháp mà đến?", A-nan nói: "tôi vì pháp mà đến, các thầy cũng đến vì pháp", đáp là phải. Tôn giả Đại Ca-diếp suy nghĩ: "ta đã kết tập kinh mà Phật đã thuyết đầu tiên, không bị các vị đồng phạm hạnh chống đối, cũng không bị chê trách, như vậy liền biết kinh này thật là lời Phật dạy", tôn giả lại hỏi A-nan: "Thế tôn thuyết kinh thứ hai ở đâu?", đáp: "Thế tôn cũng thuyết tại thành Bà-la-nê-tư", lại hỏi thuyết cho ai, đáp là thuyết cho năm Bí-sô, lại hỏi là thuyết như thế nào, đáp: "Thế tôn thuyết như vầy: này các Bí-sô, nên biết có Tứ thánh đế, đó là khổ, tập, diệt đạo thánh đế. Khổ thánh đế gồm có sanh khổ, bịnh khổ, lão khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ; nếu nói tóm lược thì khổ chính là khổ về năm thủ uẩn. Khổ Tập thánh đế chính là hỉ ái cùng hiện hành tùy chỗ sanh nhiễm; Khổ Diệt thánh đế chính là đối với hỉ ái cùng hiện hành tùy chỗ sanh nhiễm để thọ thân sau thảy đều trừ diệt hết, nhiễm ái đều đứt liền chứng Niết-bàn. Khổ diệt đạo thánh đế chính là bát chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Đây là con đường đưa đến Diệt thánh đế. Tôn giả Kiều trần như vừa nghe xong pháp này, tâm liền giải thoát khỏi các lậu hoặc, còn bốn Bí-sô kia được xa lìa trần cấu, chứng pháp nhãn thanh tịnh", lúc đó tôn giả Kiều trần như nói với tôn giả Đại Ca-diếp: "chính tôi được nghe pháp này từ Phật, vừa nghe xong tâm tôi liền giải thoát khỏi các lậu hoặc, còn bốn Bí-sô kia được xa lìa trần cấu, chứng pháp nhãn thanh tịnh". Tôn giả Đại Ca-diếp suy nghĩ: "ta đã kết tập kinh thứ hai mà Phật đã thuyết, không bị các vị đồng phạm hạnh chống đối, cũng không bị chê trách, như vậy liền biết kinh này thật là lời Phật dạy", tôn giả lại hỏi A-nan: "Thế tôn thuyết kinh thứ ba ở đâu?", đáp: "Thế tôn cũng thuyết tại thành Bà-la-nê-tư", lại hỏi thuyết cho ai, đáp là thuyết cho năm Bí-sô, lại hỏi là thuyết như thế nào, đáp: "tôi nghe như vầy: một thời Bạc-già-phạm tại vườn Thi lộc, chỗ Tiên nhơn đọa xứ thuộc thành Bà-la-nê-tư, Thế tôn bảo năm Bí-sô: "các Bí-sô nên biết, sắc không phải là ngã, nếu sắc là ngã thì sắc sẽ không bị bịnh và chịu các khổ não; ta muốn sắc như vầy, ta không muốn sắc như vầy, nhưng sắc lại không theo ý muốn của ta. Thế nên biết sắc không phải ngã; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy". Phật lại hỏi năm Bí-sô: "Ý các thầy nghĩ sao, sắc là thường hay vô thường?", đáp là vô thường, Phật lại hỏi: "nếu sắc là vô thường thì đó là khổ hay không khổ?", đáp là khổ, Phật lại hỏi: "nếu sắc là vô thường, khổ tức là biến hoại thì người đệ tử đa văn có chấp sắc là ngã, ngã có các sắc, sắc thuộc ngã và ngã ở trong sắc hay không?", đáp là không. Phật lại hỏi: "Ý các thầy nghĩ sao, thọ tưởng hành thức là thường hay vô thường?", đáp là vô thường, Phật lại hỏi: "nếu thọ tưởng hành thức là vô thường thì đó là khổ hay không khổ?", đáp là khổ, Phật lại hỏi: "nếu thọ tưởng hành thức là vô thường, khổ tức là biến hoại thì người đệ tử đa văn có chấp thọ... thức là ngã, ngã có thọ... thức, thọ... thức thuộc ngã và ngã ở trong thọ... thức hay không?", đáp là không, Phật nói: "vì thế nên biết, các loại sắc quá khứ hay vị lai hay hiện tại hoặc ở trong, ở ngoài, hoặc thô hay tế, hoặc thù thắng hay hạ liệt, hoặc gần hay xa... đều không phải là ngã, ngã sở hữu, sắc không thuộc ngã và ngã không ở trong sắc. Này các Bí-sô, nên quán sát kỹ sắc, thọ, tưởng, hành, thức ấy bằng chánh trí; nếu đệ tử Thanh văn của ta quán năm thủ uẩn này là vô ngã, không có ngã sở hữu, liền biết là không có năng sở để chấp thủ, cũng không bị chuyển biến theo mà được tự giác ngộ, chứng Niết-bàn, hiểu rõ: sanh tử đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ thân sau. Khi Phật thuyết xong kinh này, cả năm Bí-sô đều được giải thoát các lậu hoặc". Tôn giả Đại Ca-diếp suy nghĩ: "ta đã kết tập kinh thứ ba mà Phật đã thuyết, không bị các vị đồng phạm hạnh chống đối, cũng không bị chê trách, như vậy liền biết kinh này thật là lời Phật dạy". Sau đó tôn giả A-nan tuần tự nói lại hết các kinh pháp mà Phật đã thuyết hoặc ở tại vương cung, hoặc tại tụ lạc, thành ấp... Các A-la-hán cùng kết tập nhưng kinh tương ưng với năm uẩn thì xếp vào phẩm Uẩn; những kinh tương ưng với sáu xứ, mười tám giới thì xếp vào phẩm Xứ giới; những kinh tương ưng với duyên khởi thánh đế thì xếp vào phẩm Duyên khởi; những kinh do Thanh văn nói thì xếp vào phẩm Thanh văn; những kinh do Phật nói thì xếp vào phẩm Phật; những kinh tương ưng với niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn, lực, giác, đạo thì xếp vào phẩm Thánh đạo; kinh tương ưng với kệ tụng thì gọi là kinh Tương ưng A Cấp ma ( Tương ưng xưa dịch là Tạp ); kinh dài, nói dài thì gọi là kinh Trường A Cấp ma; kinh vừa, nói vừa thì gọi là kinh Trung A Cấp ma; kinh nói một vấn đề, hai vấn đề cho đến mười vấn đề thì gọi là kinh Tăng nhất A Cấp ma. Lúc đó tôn giả Đại Ca-diếp nói với tôn giả A-nan: "kinh tạng ngoài những kinh A Cấp ma ra thì không còn có kinh nào khác", nói rồi liền bước xuống tòa nói với đại chúng: "các vị nên biết, đã cùng kết tập xong những kinh mà Phật đã thuyết, kế tiếp là kết tập Tỳ-nại-da". Lúc đó trong chúng chỉ có tôn giả Ưu-ba-ly là người thông suốt duyên khởi của Tỳnại-da, tôn giả Đại Ca-diếp lên tòa bạch chúng: "các vị nên biết, cụ thọ Ưu-ba-ly thông suốt Tỳnại-da, được Phật thọ ký là bậc trì luật đệ nhất, nay tôi thỉnh vị ấy làm người kết tập Tỳ-nại-da", nói rồi liền hỏi Ưu-ba-ly: "cụ thọ có thể làm người kết tập Tỳ-nại-da mà Như lai đã chế định hay không?", đáp là có thể, tôn giả liền bạch nhị yết ma sai như sau:

Đại đức tăng lắng nghe, cụ thọ Ưu-ba-ly này có thể kết tập Tỳ-nại-da mà Như lai đã chế định. Nếu tăng già đúng thời đến nghe, Tăng già nên chấp thuận, Tăng nay sai cụ thọ Ưu-ba-ly làm người kết tập Tỳ-nại-da mà Như lai đã chế định. Bạch như vậy.

Văn yết ma chuẩn theo văn tác bạch, yết ma xong tôn giả Đại Ca-diếp xuống tòa để cho tôn giả Ưu-ba-ly bước lên tòa sư tử kết tập Tỳ-nại-da.

QUYỂN 40

10. Nhiếp tụng trong Biệt môn thứ tám (tiếp theo) việc Ngũ bách kiết tập và Thất bách kiết tập:

Lúc đó, tôn giả Đại Ca-diếp hỏi Ưu-ba-ly:

"Thế tôn chế học xứ thứ nhất ở đâu?", tôn giả Ưu-ba-ly đáp với giọng rõ ràng: "Thế tôn chế tại thành Bà-la-nê-tư", lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì năm Bí-sô mà chế, lại hỏi là chế như thế nào, đáp: "chế như vầy: mặc nội y tề chỉnh, không quá cao cũng không quá thấp, cần nên học", các A-la-hán nghe xong đều nhập đệ tứ thiền, dùng nguyện lực quán sát thế gian rồi xuất định. Tôn giả Đại Ca-diếp suy nghĩ: "ta đã kết tập học xứ mà Phật đã chế đầu tiên, không bị các vị đồng phạm hạnh chống đối, cũng không bị chê trách, như vậy liền biết học xứ này thật là lời Phật dạy", tôn giả lại hỏi Ưu-ba-ly: "Thế tôn chế học xứ thứ hai ở đâu?", đáp: "Thế tôn cũng chế tại thành Bà-la-nê-tư", lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì năm Bí-sô mà chế, lại hỏi là chế như thế nào, đáp: "chế như vầy: mặc ba y tề chỉnh, cần nên học", các A-la-hán nghe rồi đều nhập đệ tứ thiền, dùng nguyện lực quán sát thế gian rồi xuất định, tôn giả Đại Ca-diếp suy nghĩ: "ta đã kết tập học xứ thứ hai... như trên", tôn giả lại hỏi Ưu-ba-ly: "Thế tôn chế học xứ thứ ba ở đâu?", đáp: "Thế tôn chế tại Yết lan đạc ca", lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì Bí-sô Tô trận na, con của Yết lan đạc ca, lại hỏi là chế như thế nào, đáp: "chế như vầy: Bí-sô nào đã thọ cấm giới đối với Bí-sô khác cho đến cùng với loài súc sanh hành dâm thì phạm Ba la thị ca, không được ở chung", các A-la-hán nghe xong đều nhập đệ tứ thiền, dùng nguyện lực quán sát thế gian rồi xuất định; tôn giả Đại Ca-diếp cũng suy nghĩ như trên. Sau đó tôn giả Ưu-ba-ly tuần tự nói lại hết các học xứ mà Phật đã chế cho các Bí-sô hoặc ở tại vương cung, hoặc tại tụ lạc thành ấp... Các A-la-hán cùng kết tập gọi đây là pháp Ba la thị ca, đây là pháp Tăng già bà thi sa, đây là hai pháp Bất định, đây là ba mươi pháp Xả đạo, chín mươi pháp Ba-dật-đề, bốn pháp Ba la đề đề xá ni, Chúng học pháp, bảy pháp diệt tránh; đây là chế đầu tiên, đây là tùy chế, đây là định chế, đây là tùy khai; pháp xuất gia như vậy, pháp thọ Cận viên như vậy, các pháp đơn bạch yết ma, bạch nhị yết ma, bạch tứ yết ma như vậy; nên độ như vậy, không nên độ như vậy; tác pháp Bao-sái-đà như vậy, tác pháp an cư như vậy, tác pháp Tùy ý như vậy... cho đến tạp sự. Sau khi kết tập xong Tỳ-nạida, tôn giả Ưu-ba-ly xuống tòa, tôn giả Đại Cadiếp suy nghĩ: "người đời sau trí kém căn độn, theo văn để hiểu thì không thể hiểu được nghĩa sâu xa, ta nên tự nói Ma thất lị ca để làm rõ nghĩa của kinh luật", nghĩ rồi tôn giả liền bạch Tăng, sau khi Tăng đã chấp thuận, tôn giả lên tòa bạch rằng: "tôi xin tự nói về Ma thất lý ca (luận), đối với nghĩa đã hiểu muốn hiển bày cho rõ, đó là Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát chánh đạo phần, Tứ vô úy, Tứ vô ngại giải, Tứ quả Sa môn, Tứ pháp cú, Vô tránh nguyện trí, Định biên tế, không, vô tướng, vô nguyện, tạp tu các định, chánh nhập hiện quán, thế tục trí, Chiêm ma tha, Tỳ bát xá na, pháp Tập, pháp Uẩn... gọi chung là Ma thất lý ca", các A-lahán nghe xong đều nhập đệ tứ thiền, dùng nguyện lực quán sát thế gian rồi xuất định... giống như đoạn văn trên. Như vậy, đây là Tô đát la (kinh), đây là Tỳ-nại-da (luật), đây là A tỳ đạt ma (luận) đều là chân thật lời Phật dạy đã được kết tập xong. Lúc đó Địa hành Dược xoa xướng rằng: "các vị nên biết, chư Thánh chúng gồm năm trăm vị A-la-hán, Thánh giả Đại Ca-diếp làm thượng thủ đã kết tập xong tam tạng Thánh giáo của Như lai; do đây chư thiên tăng thạnh, A-tu-la giảm ít", Không hành Dược xoa lại thông báo lên cõi trời Tứ thiên vương, triển chuyển thông báo như thế lên tới cõi trời sắc cứu cánh. Lần kết tập này gồm có năm trăm vị A-la-hán nên được gọi là Ngũ bách kết tập, tôn giả Đại Ca-diếp nói kệ:

"Thánh chúng kết tập giáo Pháp vương,
Đều vì thương xót các chúng sanh,
Lời Phật đã dạy nhiều vô lượng,
Nay đều kết tập không bỏ sót,
Thế gian phàm ngu không hiểu biết,
Vì làm đèn sáng trừ tối tăm".

Tôn giả lại suy nghĩ: "kết tập xong ba tạng Thánh giáo, ta nay dùng định lực quán sát thì quán thấy giáo pháp mà Thế tôn đã thuyết được trụ lâu trong thế gian. Việc nên làm ta đều đã làm xong theo lời Như lai dạy, ta cũng đã phụng hành đúng theo chánh đạo của Thế tôn, như vậy là đã báo đáp được một phần nhỏ từ ân của Phật. Ai có thể báo đáp hết ân đức của Phật được chứ, giáo pháp của Thế tôn đại sư để lại là làm lợi ích quần sanh nay đã kết tập xong. Ta cách xa Đại sư đã lâu, không còn nơi nương tựa, ta mang thân năm uẩn hôi hám này cũng đã mệt mỏi, thời Niết-bàn đã đến, ta không nên lưu lại lâu", nghĩ rồi lại nói kệ:

"Ta đã kết tập giáo pháp Phật,
Muốn cho chánh pháp được tăng trưởng,
Trụ lâu làm lợi ích thế gian,
Giúp chúng sanh thoát ly các hoặc,
Người không hổ thẹn đã điều phục,
Người biết hổ thẹn được nhiếp thọ,
Việc làm lợi ích được viên mãn,
Nay ta nên hướng tới viên tịch".

Tôn giả Đại Ca-diếp bảo tôn giả A-nan: "thầy có biết không, Thế tôn đem giáo pháp phó chúc cho ta rồi nhập Niết-bàn; nay ta sắp nhập Niết-bàn nên chuyển giao đại pháp này lại cho thầy, thầy nên khéo hộ trì. Sau khi ta diệt độ, tại thành Vương xá có vợ thương chủ sanh được một bé trai, khi mới sanh ra đã được bao bọc trong tấm vải Xanạch-ca, nên được đặt tên là Xa-nạch-ca (tên một loại cây bố gai có thể dệt thành vải, xưa dịch là Thương na hòa tu). Thời gian sau, người con trai này ra biển tìm trân bảo được bình an trở về, sau khi thiết hội cúng dường trong đại hội Phật đà năm năm liền ở trong Phật giáo xuất gia, thầy nên chuyển giao giáo pháp lại cho người ấy", nói xong tôn giả lại nghĩ: "Thế tôn đại bi tu khổ hạnh là chân thiện hữu, được trang nghiêm bằng vô lượng công đức, tùy chỗ nào có di thân xá lợi của Phật, ta đều nên đến đó cung kính cúng dường rồi nhập Niết-bàn", nghĩ rồi liền dùng thần thông lực đi đến bốn tháp lớn thờ Phật ở bốn nơi là nơi đản sanh, nơi thành đạo, nơi chuyển pháp luân và nơi nhập Niết-bàn; tôn giả cũng đến các tháp thờ xá lợi Phật khác, lại đến trong cung rồng cúng dường Phật nha và cuối cùng lên cõi trời Tam thập tam muốn lễ kính Phật nha, vua trời Đế thích hỏi tôn giả nguyên do, tôn giả nói: "tôi muốn lên cúng dường Phật nha lần cuối cùng", chư thiên nghe lời nói này rồi thảy đầu buồn bã, vua trời Đế thích đưa Phật nha cho tôn giả, tôn giả để trong lòng bàn tay, mắt nhìn không nháy rồi để trên đầu, sau đó rãi hoa Mạn đà la... lên Phật nha để cúng dường. Sau khi thuyết pháp cho vua trời Đế thích và chư thiên xong, tôn giả ẩn mất khỏi núi Tu di và hiện trở lại trong thành Vương xá. Lúc đó tôn giả chợt nhớ đến lời hứa với vua Vị sanh oán nên đi đến vương cung nói với người giữ cửa: "ngươi hãy vào thông báo với vua là có tôn giả Đại Ca-diếp đang ở ngoài cửa muốn gặp", người giữ cửa vào báo thì thấy vua đang ngủ say nên trở ra nói với tôn giả là vua đang ngủ, tôn giả bảo hãy vào đánh thức vua dậy, người giữ cửa nói: "tánh vua bạo ác khó thể xúc phạm, nếu tôi gọi sợ vua nổi giận sẽ ra lịnh giết tôi", tôn giả nói: "nếu vậy thì đợi khi vua thức dậy nên báo lại với vua là có tôn giả Đại Ca-diếp sắp nhập Niết-bàn nên đến từ biệt vua". Nói rồi tôn giả đi vào núi Kê túc, trải cỏ ngồi giữa ba ngọn núi nghĩ rằng: "ta nên đắp y phấn tảo của Thế tôn ban cho, dùng định lực bảo trì thân xác đợi đến khi Bồ-tát Từ thị hạ sanh. Vị Phật này sẽ chỉ bày thân ta cho các đệ tử thấy để họ sanh tâm nhàm lìa", nghĩ rồi liền nhập định, ba ngọn núi chụm lại như mật thất làm cho thân không hư hoại. Tôn giả lại tác ý: "nếu vua Vị sanh oán đến đây thì núi sẽ mở ra cho vua nhìn thấy, vì nếu vua không được nhìn thấy thân ta, vua sẽ hộc máu mà chết", tác ý rồi liền nhập định xả thọ mạng, lúc đó trời đất chấn động, sao xẹt trên không trung, bốn phương đều rực sáng, trống trời tự nhiên vang động khắp hư không. Tôn giả vọt thân lên không trung hiện các thần biến hoặc phun nước hoặc nổi lửa, nổi mây, tuôn mưa lớn... rồi hiện trở xuống vào trong thất đá nằm nghiêng bên phải, chồng hai gót chân lên nhau và nhập Niết-bàn vô dư. Lúc đó Thích Phạm chư thiên nghe thấy trời đất chấn động liền quán biết tôn giả Đại Ca-diếp đã nhập Niết-bàn nên cùng các quyến thuộc chư thiên mang hương hoa trời đến rãi trên thân tôn giả để cúng dường, chư thiên cúng dường xong thì ba ngọn núi chụm lại che kín, chư thiên sầu não nói với nhau: "Phật vừa nhập Niết-bàn, chúng ta chưa hết đau buồn, nay lại đau buồn thêm. Chư thiên cựu trụ ở hang Tất bát la chỉ còn cái tên rỗng mà thôi vì thắng pháp đã đi theo tôn giả hết rồi, nước Ma-kiệt-đà không còn quang huy nữa, chúng sanh bị nghèo cùng vì ruộng phước không còn, tất cả thiện pháp đều mất hết vì vị giác ngộ thứ hai đã nhập Niết-bàn. Không lẽ núi pháp sẽ sụp đổ, thuyền pháp sẽ bị lật chìm, đại thọ pháp bị ngã, biển pháp sẽ khô cạn, chúng ma sẽ hoan hỉ, chánh pháp giáo hóa chúng sanh đã có và những việc làm lợi ích sẽ ẩn mất", nói rồi cùng biến mất. Lúc đó vua Vị sanh oán nằm mộng thấy kèo cột trong cung điện đều gãy đổ nên giật mình thức dậy, người giữ cửa thấy vua đã thức liền tâu lại lời của tôn giả Đại Ca-diếp nói, vua nghe rồi liền ngất ngã ra đất, cận thần rưới nước cho vua tỉnh lại. Sau đó vua đến trong Trúc lâm gặp tôn giả A-nan, đảnh lễ rồi khóc lớn nói: "con nghe tôn giả Đại Ca-diếp đã nhập Niết-bàn", tôn giả A-nan cùng vua đi đến núi Kê túc chỉ chỗ tôn giả Đại Cadiếp nhập Niết-bàn, thần đại Dược xoa mở ba ngọn núi ra cho vua nhìn thấy di thể với hương hoa của chư thiên cúng dường, vua thấy rồi liền khóc lớn và ngất ngã ra đất như đại thọ bị đứt gốc. Lát sau tỉnh lại vua muốn đi tìm củi, tôn giả A-nan hỏi vua nhặt củi làm gì, đáp là muốn hỏa thiêu, tôn giả A-nan nói: "vua chớ nói lời này, di thân này là do định lực của tôn giả bảo trì để đợi đến khi Bồtát Từ thị hạ sanh. Phật ấy sẽ cùng chín mươi sáu câu chi Thanh văn tùy tùng đến đây, chỉ bày di thể tôn giả cho các đệ tử Thanh văn và nói rằng: "đây là Đại Ca-diếp, đệ tử thượng thủ của Phật Thích ca Mâu ni, là bậc thiểu dục tri túc hành hạnh đầu đà đệ nhất. Những pháp do Phật Thích ca Mâu ni nói ra đều được vị này kết tập để kiến lập pháp nhãn". Phật ấy lại chỉ y Tăng-già-lê của tôn giả và nói rằng: "đây là y Tăng-già-lê mà Phật Thích ca Mâu ni Ứng chánh đẳng giác đã từng mặc", các Thanh văn nghe rồi liền tinh tấn tu hạnh thiểu dục tri túc, hành hạnh đầu đà và đều chứng quả A-lahán. Thế nên vua không thể hỏa thiêu, chỉ có thể xây tháp lên trên". Sau khi vua rời khỏi, ba ngọn núi chụm lại như cũ, sau đó vua cho xây tháp lên trên và bạch tôn giả A-nan: "con không được nhìn thấy Phật nhập Niết-bàn, cũng không được nhìn thấy tôn giả Đại Ca-diếp nhập Niết-bàn, khi nào tôn giả nhập Niết-bàn xin cho con được thấy", tôn giả nhận lời. Lúc đó Xa-nạch-ca từ biển lớn bình an trở về, sau khi sắp xếp hàng hóa xong liền đến trong Trúc lâm, thấy tôn giả A-nan đang kinh hành trước cửa hương đài, ông liền đến đảnh lễ và bạch rằng: "con từ biển lớn bình an trở về là nhờ năng lực của Tam bảo, con nay muốn ở trong đại hội Phật đà năm năm cúng dường Phật và tăng, Thế tôn hiện đang ở đâu?", đáp là Phật đã nhập Niết-bàn, Xa-nạch-ca nghe rồi liền ngất ngã ra đất, sau khi được rưới nước tỉnh lại liền hỏi: "tôn giả Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên và Đại Ca-diếp hiện đang ở đâu?", đáp là đều đã nhập Niết-bàn, Xa-nạch-ca nghe rồi rất đau buồn. Sau khi cùng dường đại hội xong, tôn giả A-nan nói với Xanạch-ca: "ở trong bốn nhiếp pháp, con đã hành xong tài nhiếp, nay con nên hành pháp nhiếp", Xanạch-ca hỏi: "con phải làm thế nào?", đáp là nên xuất gia trong Phật pháp, Xa-nạch-ca bằng lòng xuất gia, tôn giả A-nan cho xuất gia và thọ Cận viên. Bí-sô Xa-nạch-ca rất thông minh, vừa nghe qua một lần liền lãnh thọ được hết, không bao lâu sau thọ trì hết tám vạn pháp uẩn mà tôn giả A-nan đã thọ trì từ Phật. Khi tôn giả A-nan cùng các Bí-sô ở trong Trúc lâm bỗng nghe một Bí-sô đọc kệ:

"Người nào sống trăm năm,
Không thấy thủy bạch hạc,
Không bằng sống một ngày,
Được thấy thủy bạch hạc".

Tôn giả liền nói với Bí-sô ấy rằng: "thầy đọc kệ này không phải là lời của đại sư nói, Thế tôn đã nói như vầy:

"Người nào sống trăm năm, Không hiểu pháp sanh diệt, Không bằng sống một ngày, Hiểu được pháp sanh diệt".

Thầy nên biết trên đời có hai hạng người thường phỉ báng Thánh giáo:

"Tánh bất tin, nhiều sân,
Tin nhưng hiểu điên đảo,
Vọng chấp nơi nghĩa kinh,
Như voi lún bùn sâu.
Kẻ ấy tự hại mình,
Vì không có trí huệ,
Nghe hiểu sai, vô ích,
Nên biết như thuốc độc.
Vì thế những người trí,
Nghe rồi hành trì đúng,
Trừ dần phiền não hoặc,
Chứng được quả Ly hệ".

Bí-sô này nghe rồi liền nói lại với thầy, vị thầy nói:

"A-nan già lú lẫn,
Không còn nhớ như xưa,
Lời nói ra sai nhiều,
Không cần phải tin theo,
Cứ đọc tụng như cũ".

Sau đó tôn giả A-nan vẫn nghe Bí-sô ấy đọc sai bài kệ liền nói:

"ta đã bảo thầy Thế tôn không có nói kệ như vậy, vì sao thầy vẫn còn đọc như cũ", Bí-sô đem lời của thầy mình nói lại cho tôn giả nghe, tôn giả nghe rồi suy nghĩ: "Bí-sô này được chính ta dạy bảo mà vẫn không nghe theo, biết làm sao đây. Cho dù có tôn giả Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiềnliên, Đại Ca-diếp ở đây thì cũng vậy mà thôi, cầu mong nhờ căn lực từ thiện của Như lai sẽ làm cho pháp nhãn trụ thế ngàn năm", tôn giả cảm thán liền nói kệ:

"Các tôn túc đã mất,
Người trẻ không sánh bằng,
Còn mình ta lẻ loi,
Như chim nằm trong trứng,
Thân thuộc xưa không còn,
Pháp lữ cũng mất theo.
Trong các hàng tri thức,
Niệm định là hơn hết,
Ngọn đèn trong thế gian,
Chiếu sáng trừ tối tăm,
Phá trừ ngu si hoặc,
Bậc ấy đã không còn.
Kẻ cần dạy quá nhiều,
Người dạy chỉ có một,
Như ngọn tháp lẻ loi,
Rừng tàn còn một cây".

Lúc đó tôn giả A-nan bảo Bí-sô Xa-nạch-ca: "tôn giả Đại Ca-diếp chuyển giao giáo pháp của Thế tôn cho ta rồi nhập Niết-bàn, nay ta chuyển giao lại cho con rồi diệt độ, con nên thủ hộ và nên đến nước Mạt độ la tại núi Mâu luận đồ xây dựng trú xứ. Trong nước này có con của một trưởng giả được Thế tôn thọ ký là sẽ làm chủ chùa, lại có người bán hương tên là Cấp đa, con trai của người này tên là Ô-ba-cấp-đa, con hãy độ cho xuất gia vì Thế tôn thọ ký cho Ô-ba-cấp-đa-là Phật không có tướng hảo, sau khi ta Niết-bàn khoảng một trăm năm, người này sẽ làm nên Phật sự lớn", Bí-sô Xanạch-ca đáp: "xin vâng lời Thân giáo sư dạy", tôn giả nói: "con hãy báo cho vua biết là ta nhập Niết-bàn", tôn giả lại suy nghĩ: "nếu ta nhập Niết-bàn tại đây, vua Vị sanh oán bất hòa với thành Quảng nghiêm thì sẽ không được chia xá lợi; nếu ta nhập Niết-bàn trong thành Quảng nghiêm thì vua Vị sanh oán cũng không được chia xá lợi, vậy ta nên diệt độ giữa sông Hằng", nghĩ rồi tôn giả liền đi đến sông Hằng. Lúc đó vua Vị sanh oán nằm mộng thấy cái lọng lớn bị gãy nên giật mình thức dậy, Bí-sô Xa-nạch-ca đến nói lại lời của tôn giả A-nan, vua nghe rồi liền ngất ngã ra đất, sau khi được rưới nước tỉnh lại, vua hỏi Xa-nạch-ca: "tôn giả A-nan nhập Niết-bàn ở đâu?", Xa-nạch-ca nói kệ đáp:

"Vị tôn giả này từ Phật sanh,
Theo Phật thọ trì hết pháp tạng,
Muốn nhập Niết-bàn đoạn sanh tử,
Cho nên đã đến thành Quảng nghiêm".

Vua nghe rồi liền dẫn bốn binh đến bờ sông Hằng, lúc đó chư thiện cựu trụ ở thành Quảng nghiêm từ trên không trung nói kệ bảo mọi người trong thành:

"Tôn giả Khánh hỉ, đèn thế gian, Vô cùng thương xót các quần sanh, Trong lòng bi cảm sắp viên tịch,

Cho nên đã đến thành Quảng nghiêm".

Các Lật cô tỳ trong thành Quảng nghiêm nghe rồi liền dẫn bốn binh đến bờ sông Hằng. Vua Vị sanh oán từ xa thấy tôn giả A-nan liền chắp tay nói kệ:

"Mắt Phật đẹp như hoa sen xanh, Duyên hết nhập diệt tại nơi này, Tôn giả lại muốn cầu viên tịch, Xin để di thân lại nơi đây".

Dân chúng thành Quảng nghiêm cũng lễ bái vọng về tôn giả xin để di thân lại cho họ, tôn giả liền nói kệ:

"Nếu ta thuận theo Vị sanh oán,
Người Lật cô tỳ sẽ oán hận.
Nếu để xá lợi ở Quảng nghiêm,
Dân chúng thành Vương ắt buồn khổ.
Ta để nửa thân cho Vương xá,
Nửa thân lưu lại thành Quảng nghiêm,
Hai nước hòa giải không đánh nhau,
Được tùy ý mình mà cúng dường".

Khi tôn giả sắp nhập Niết-bàn, mặt đất chấn động sáu cách, lúc đó có một đại tiên dẫn theo năm trăm môn đồ cỡi mây đến chỗ tôn giả chắp tay bạch rằng: "tôn giả, xin cho con được ở trong thiện pháp luật xuất gia thọ giới cụ túc, thành tánh Bí-sô, tu tập phạm hạnh", tôn giả suy nghĩ: "ta nên dùng thần lực ngăn mọi người đến đây để truyền giới cho các đệ tử", nghĩ rồi tôn giả liền biến ra một hòn đảo để truyền thọ Cận viên cho năm trăm người này, nghe tác bạch xong đại tiên này liền chứng quả Bất hoàn, nghe đến yết ma lần thứ ba thì đoạn hết phiền não chứng quả A-la-hán. Do đại tiên này xuất gia thọ Cận viên vào giữa ngày và ở giữa sông nên người đương thời gọi là Mạt điền địa na, Mạt điền là giữa, Địa na là ngày; hoặc gọi là Mạt điền đạc ca, Mạt điền là giữa, đạc ca là nước. Sau khi chứng quả, Bí-sô này đảnh lễ tôn giả A-nan và bạch rằng: "vào giờ phút sau cùng Thế tôn đã độ Thiện hiền và vị ấy đã viên tịch trước, nay con cũng vậy, xin được Niết-bàn trước, vì không muốn thấy Thân giáo sư nhập Niết-bàn", tôn giả A-nan nói: "Thế tôn đem giáo pháp phó chúc cho tôn giả Đại Ca-diếp, tôn giả chuyển giao lại cho ta, nay ta chuyển giao lại cho con, con hãy khéo hộ trì. Thế tôn có thọ ký tại nước Ca thấp di la dễ có được ngọa cụ và các vật cần dụng, là nơi tốt nhất cho việc tu thiền; Phật cũng thọ ký: sau khi ta Niết-bàn khoảng một trăm năm, có một Bí-sô tên Mạt điền địa sẽ làm cho giáo pháp của ta lưu hành tại nước này. Vì thế con nên đến nước ấy truyền bá Thánh giáo", Bí-sô Mạt điền địa vâng lời thầy dạy. Lúc đó tôn giả A-nan hiện thần biến rồi nhập Niết-bàn cũng như nước làm tắt lửa, chia nửa thân xá lợi cho vua Vị sanh oán và nửa thân xá lợi cho dân chúng thành Quảng nghiêm, đại chúng nói kệ:

"Dùng trí kim cương bén,
Tự phân chia xá lợi,
Nửa cho vua Vương xá,
Nửa cho dân Quảng nghiêm".

Dân Quảng nghiêm xây tháp thờ xá lợi này để cúng dường, vua Vị sanh oán cũng xây tháp thờ xá lợi ở Ba tra ly.

Lúc đó tôn giả Mạt điền địa đi đến nước Ca thấp di la ngồi kiết già gần chỗ rồng ở, tôn giả nhập định làm cho mặt đất chấn động sáu cách. Rồng thấy mặt đất chấn động liền nổi sấm chớp mưa lớn để khủng bố tôn giả, tôn giả liền nhập định từ bi nên uy vũ của rồng không làm lay động chéo y, rồng lại mưa đá xuống, tôn giả liền biến chúng thành hoa trời rơi xuống, rồng lại phóng dao kiếm các loại binh khí xuống, tôn giả biến chúng thành hoa sen rơi xuống. Chư thiên trên không trung nói kệ:

"Trên không mưa đá xuống, Hóa thành hoa sen đẹp, Cho dù phóng gươm giáo, Cũng biến thành anh lạc.

Rồng càng thêm giận dữ, Làm núi cũng ngã nghiêng, Tôn giả như núi Tuyết, Sáng sạch không lay động".

Rồng thấy không làm hại được nên sanh tâm hi hữu hỏi tôn giả cần gì, đáp là cần một chỗ ở, rồng nói là khó làm, tôn giả nói: "Thế tôn thọ ký cho ta đến nước này, lại nói tại đây dễ có được ngọa cụ và các vật cần dùng, là nơi tốt nhất cho việc tu thiền", rồng hỏi: "Thế tôn thọ ký như vậy phải không?", đáp là phải, lại hỏi cần bao nhiêu đất, đáp là bằng chỗ ngồi kiết già, rồng bằng lòng, tôn giả liền ngồi kiết già che kín chín hang núi. Rồng lại hỏi có bao nhiêu môn đồ, tôn giả nhập định quán rồi cho rồng biết là sẽ có năm trăm A-la-hán đến đây, rồng nói: "nếu thiếu một người tôi sẽ lấy đất lại", tôn giả nói: "được nhưng hễ có người thọ thì phải có thí chủ, ta muốn mọi người tụ tập đến đây", rồng nói tùy ý. Sau đó mọi người từ bốn phương tụ tập đến, tôn giả phân chia ranh giới cho họ ở, họ hỏi tôn giả: "chỗ ở đã ổn nhưng sẽ phải sinh sống như thế nào?", tôn giả dùng thần lực đưa họ đến núi Hương túy bảo nhổ cây Uất kim hương. Rồng cựu trụ trong núi này thấy họ nhổ cây liền tức giận phóng sấm sét và mưa đá xuống, tôn giả điều phục các rồng này cũng giống như rồng trên. Các rồng được điều phục rồi liền hỏi tôn giả: "giáo pháp của Như lai sẽ trụ thế bao lâu?", đáp là một ngàn năm, các rồng nói: "xin tôn giả giao ước là cho đến khi nào giáo pháp của Như lai còn trụ thế thì được thọ dụng cây này tùy ý", tôn giả nhận lời rồi bảo mọi người mang cây về trồng khắp nơi trong nước Ca thấp di la, cho đến khi nào Phật pháp chưa diệt thì cây sẽ không mất, nhờ đó mọi người được sống ổn định, thí chủ và các vị đồng phạm hạnh đều hoan hỷ. Hóa duyên đã mãn như củi hết lửa tắt, tôn giả nhập Niết-bàn vô dư, mọi người dùng gỗ thơm Ngưu đầu chiên đàn hỏa thiêu rồi xây tháp thờ tại chỗ.

Nói về tôn giả Xa-nạch-ca sau khi độ Ô-bacấp-đa và làm cho Phật pháp được truyền bá rộng khắp liền bảo Ô-ba-cấp-đa rằng: "con nên biết, Như lai đại sư đem giáo pháp phó chúc cho tôn giả Đại Ca-diếp, tôn giả chuyển giao giáo pháp này lại cho Thân giáo sư của ta, Thân giáo sư lại chuyển giao cho ta, nay ta chuyển giao lại cho con, con hãy khéo hộ trì Thánh giáo đừng để diệt mất, những điều Phật đã chế, con đều phải phụng hành", sau khi phương tiện thuyết pháp làm cho thí chủ và các vị đồng phạm hạnh hoan hỉ, tôn giả hiện thần biến rồi nhập Niết-bàn vô dư. Tôn giả Ô-ba-cấp-đa lại chuyển giao giáo pháp lại cho tôn giả Địa-để-ca (Hữu quý), vị này lại chuyển giao phó chúc cho tôn giả Ngật lý sắc noa (Hắc sắc), thứ lớp truyền trao đến tôn giả Tô-diệt-lý-xá-na ( Thiện kiến ). Các bậc đại long tượng tuần tự truyền trao cho nhau như vậy đã trải qua 110 năm, từ sau khi Thế tôn nhập Niết-bàn. Trong khoảng thời gian này, các Bí-sô ở thành Quảng nghiêm đặt ra mười việc không thanh tịnh, trái với điều giới mà Phật đã chế, không y cứ theo kinh luật; nhưng các Bí-sô này lại cho là thanh tịnh nên cùng tuân hành, mười việc đó là:

Khi các Bí-sô làm yết ma phi pháp bất hòa, yết ma phi pháp hòa và yết ma pháp bất hòa, đại chúng nghe yết ma xong đều lớn tiếng nói chấp thuận. Đây gọi là Tịnh pháp lớn tiếng nói chấp thuận. Việc này trái với lời Phật dạy, trái với chánh lý, không y cứ theo kinh luật nhưng các Bí-sô thành Quảng nghiêm lại cho là thanh tịnh, khen ngợi và cùng tuân hành.

Khi các Bí-sô làm yết ma phi pháp bất hòa, yết ma phi pháp hòa và yết ma pháp bất hòa, đại chúng thấy làm yết ma đều tùy hỉ. Đây gọi là Tịnh pháp tùy hỉ... như trên cho đến cùng tuân hành.

Các Bí-sô tự tay đào đất hay bảo người khác đào đất. Đây gọi là Tịnh pháp việc xưa... cùng tuân hành.

Các Bí-sô đựng muối trong ống, tự cất giữ và lấy thọ dụng, hòa với thời dược được tùy ý ăn. Đây gọi là Tịnh pháp dùng muối... cùng tuân hành.

Các Bí-sô đi đường chưa cách xa nhau hơn một trạm rưỡi thì được ăn riêng chúng. Đây gọi là Tịnh pháp đi đường... như trên cho đến câu cùng tuân hành.

Các Bí-sô không tác pháp dư thực, quá ngọ hai ngón tay được ăn. Đây gọi là Tịnh pháp hai ngón tay được ăn... như trên cho đến câu cùng tuân hành.

Các Bí-sô hòa rượu với nước uống, đây gọi là Tịnh pháp trị bịnh... như trên cho đến câu cùng tuân hành.

Các Bí-sô dùng một thăng sữa lạc khuấy với nước để uống phi thời. Đây gọi là Tịnh pháp lạc tương... như trên cho đến câu cùng tuân hành.

Các Bí-sô làm tọa cụ mới, không dùng miếng vải cũ bằng một gang tay của Phật để may chồng lên mà tự thọ dụng. Đây gọi là Tịnh pháp tọa cụ... cùng tuân hành.

Các Bí-sô tự lau chùi bát cho sạch đẹp rồi sai Cầu tịch mang bát này đi đến từng nhà nói với mọi người rằng: "những người đang sống trong thành Quảng nghiêm và các thương khách từ bốn phương đến đây nếu bố thí vàng bạc hay bối xỉ ( tiền bạc ) vào trong bát này thì sẽ được lợi ích lớn, giàu có và an lạc", sau khi được nhiều vàng bạc vật báu, họ cùng phân chia. Đây gọi là Tịnh pháp vàng bạc vật báu, việc này trái với điều giới mà Phật đã chế, không y cứ theo kinh luật; nhưng các Bí-sô này lại cho là thanh tịnh khen ngợi và cùng tuân hành.

Tôn giả A-nan khi còn ở thành Quảng nghiêm có một đệ tử tên là Tát bà ca la (Lạc dục) đã chứng A-la-hán đủ tám giải thoát, thiểu dục tri túc và vô sự. Vị này lại có một đệ tử tên là Da xá (Danh xưng) ở tại tụ lạc Bà táp bà cũng đã chứng A-lahán, đủ tám giải thoát. Lúc đó tôn giả Danh xưng cùng năm trăm đệ tử du hành trong nhân gian, khi đến thành Quảng nghiêm gặp lúc các Bí-sô sắp chia lợi vật nên vị Tri sự đến nói với tôn giả Danh xưng: "Tăng già được lợi vật sắp cùng chia, xin hãy đến lấy phần", tôn giả nghe rồi liền hỏi: "lợi vật ấy phát sanh từ đâu, do ai cúng dường?", vị này liền nói rõ việc thu hoạch lợi vật gọi là Tịnh pháp vàng bạc vật báu. Tôn giả Danh xưng nghe rồi liền suy nghĩ: "mụt nhọt độc đã phát sanh, chỉ có một việc này hay còn việc khác nữa", nghĩ rồi liền nhập định quán sát, quán biết do họ khinh mạn giới đã làm các hạnh xấu có tất cả là mười việc phi pháp. Tôn giả vì muốn chánh pháp được tồn tại lâu dài nên đến gặp thầy là tôn giả Lạc dục, đảnh lễ rồi bạch rằng: "bạch tôn giả, Bí-sô có được làm Tịnh pháp lớn tiếng nói chấp thuận hay không?", tôn giả Lạc dục hỏi: "như thế nào là Tịnh pháp lớn tiếng nói chấp thuận?", đáp: "khi các Bí-sô ở thành Quảng nghiêm làm yết ma phi pháp bất hòa, yết ma phi pháp hòa và yết ma pháp bất hòa, đại chúng nghe yết ma xong đều lớn tiếng nói chấp thuận. Đây gọi là Tịnh pháp lớn tiếng nói chấp thuận, việc này có được làm không?", tôn giả nói: "không được làm như vậy", lại hỏi: "Như lai chế ngăn không cho làm như vậy ở đâu?", đáp là tại thành Chiêm ba, lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì Lục chúng Bí-sô, lại hỏi phạm tội gì, đáp là tội Ác tác, tôn giả Danh xưng nói: "đây là việc thứ nhất, trái với điều giới mà Phật đã chế, không y cứ theo kinh luật; nhưng các Bí-sô đó lại cho là thanh tịnh, khen ngợi và cùng tuân hành. Tôn giả không nên bỏ qua việc phi pháp này", tôn giả nghe rồi im lặng hồi lâu rồi nói việc này đã biết. Tôn giả Danh xưng lại hỏi: "Bí-sô có được làm Tịnh pháp tùy hỉ không?", tôn giả hỏi lại: "như thế nào là Tịnh pháp tùy hỉ?", đáp: "khi các Bí-sô làm yết ma phi pháp bất hòa, yết ma phi pháp hòa và yết ma pháp bất hòa, đại chúng thấy làm yết ma đều tùy hỉ. Đây gọi là Tịnh pháp tùy hỉ, việc này có được làm không?", tôn giả nói: "không được làm như vậy", lại hỏi: "Như lai chế ngăn không cho làm như vậy ở đâu?", đáp là tại thành Chiêm ba, lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì Lục chúng Bí-sô, lại hỏi phạm tội gì, đáp là tội Ác tác, tôn giả Danh xưng nói: "đây là việc thứ hai, trái với điều giới... như trên cho đến câu tôn giả không nên bỏ qua việc phi pháp này", tôn giả nghe rồi im lặng hồi lâu rồi nói việc này đã biết. Tôn giả Danh xưng lại hỏi: "Bí-sô có được làm Tịnh pháp việc xưa không?", tôn giả hỏi lại: "như thế nào là Tịnh pháp việc xưa?", đáp: "các Bí-sô tự tay đào đất hay bảo người khác đào đất. Đây gọi là Tịnh pháp việc xưa, việc này có được làm không?", tôn giả nói: "không được làm như vậy", lại hỏi: "Như lai chế ngăn không cho làm như vậy ở đâu?", đáp là tại thành Thất-la-phiệt, lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì Lục chúng Bí-sô, lại hỏi phạm tội gì, đáp là tội Đọa, tôn giả Danh xưng nói: "đây là việc thứ ba, trái với điều giới... như trên cho đến câu tôn giả không nên bỏ qua việc phi pháp này", tôn giả nghe rồi im lặng hồi lâu rồi nói việc này đã biết. Tôn giả Danh xưng lại hỏi: "Bí-sô có được làm Tịnh pháp dùng muối không?", tôn giả hỏi lại: "như thế nào là Tịnh pháp dùng muối?", đáp: "các Bí-sô đựng muối trong ống, tự cất giữ và lấy thọ dụng, hòa với thời dược được tùy ý ăn. Đây gọi là Tịnh pháp dùng muối, việc này có được làm không?", tôn giả nói: "không được làm như vậy", lại hỏi: "Như lai chế ngăn không cho làm như vậy ở đâu?", đáp là tại thành Vương xá, lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì tôn giả Xá-lợi-phất, lại hỏi phạm tội gì, đáp là tội Ba-dật-đề, tôn giả Danh xưng nói: "đây là việc thứ tư, trái với điều giới... như trên cho đến câu tôn giả không nên bỏ qua việc phi pháp này", tôn giả nghe rồi im lặng hồi lâu rồi nói việc này đã biết. Tôn giả Danh xưng lại hỏi: "Bí-sô có được làm Tịnh pháp đi đường không?", tôn giả hỏi lại: "như thế nào là Tịnh pháp đi đường?", đáp: "các Bí-sô đi đường chưa cách xa nhau hơn một trạm rưỡi thì được ăn riêng chúng. Đây gọi là Tịnh pháp đi đường, việc này có được làm không?", tôn giả nói: "không được làm như vậy", lại hỏi: "Như lai chế ngăn không cho làm như vậy ở đâu?", đáp là tại thành Vương xá, lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì Thiên thọ, lại hỏi phạm tội gì, đáp là tội Ba-dật-đề, tôn giả Danh xưng nói: "đây là việc thứ năm, trái với điều giới... như trên cho đến câu tôn giả không nên bỏ qua việc phi pháp này", tôn giả nghe rồi im lặng hồi lâu rồi nói việc này đã biết. Tôn giả Danh xưng lại hòi: "Bí-sô có được làm Tịnh pháp hai ngón tay được ăn hay không?", tôn giả hỏi lại: "như thế nào là Tinh pháp hai ngón tay được ăn?", đáp: "các Bí-sô không tác pháp dư thực, quá ngọ hai ngón tay được ăn. Đây gọi là Tịnh pháp hai ngón tay được ăn, việc này có được làm không?", tôn giả nói: "không được làm như vậy", lại hỏi: "Như lai chế ngăn không cho làm như vậy ở đâu?", đáp là tại thành Thất-laphiệt, lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì Thiện lai, lại hỏi phạm tội gì, đáp là tội Ba-dật-đề, tôn giả Danh xưng nói: "đây là việc thứ sáu, trái với điều giới... như trên cho đến câu tôn giả không nên bỏ qua việc phi pháp này", tôn giả nghe rồi im lặng hồi lâu rồi nói việc này đã biết. Tôn giả Danh xưng lại hỏi: "Bí-sô có được làm Tịnh pháp trị bịnh không?", tôn giả hỏi lại: "như thế nào là Tịnh pháp trị bịnh?", đáp: "các Bí-sô dùng nước hòa với rượu được uống, đây gọi là Tịnh pháp trị bịnh, việc này có được làm không?", tôn giả nói:

"không được làm như vậy", lại hỏi: "Như lai chế ngăn không cho làm như vậy ở đâu?", đáp là tại thành Thất-la-phiệt, lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì Thiện lai, lại hỏi phạm tội gì, đáp là tội Ba-dật-đề, tôn giả Danh xưng nói: "đây là việc thứ bảy, trái với điều giới... như trên cho đến câu tôn giả không nên bỏ qua việc phi pháp này", tôn giả nghe rồi im lặng hồi lâu rồi nói việc này đã biết. Tôn giả Danh xưng lại hỏi: "Bí-sô có được làm Tịnh pháp lạc tương không?", tôn giả hỏi lại: "như thế nào là Tịnh pháp lạc tương?", đáp: "các Bí-sô dùng một thăng sữa lạc khuấy với nước để uống phi thời. Đây gọi là Tịnh pháp lạc tương, việc này có được làm không?", tôn giả nói: "không được làm như vậy", lại hỏi: "Như lai chế ngăn không cho làm như vậy ở đâu?", đáp là tại thành Thất-laphiệt, lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì Thất thập chúng Bí-sô, lại hỏi phạm tội gì, đáp là tội Ba-dật-đề, tôn giả Danh xưng nói: "đây là việc thứ tám, trái với điều giới... như trên cho đến câu tôn giả không nên bỏ qua việc phi pháp này", tôn giả nghe rồi im lặng hồi lâu rồi nói việc này đã biết. Tôn giả Danh xưng lại hỏi: "Bí-sô có được làm Tịnh pháp tọa cụ không?", tôn giả hỏi lại: "như thế nào là Tịnh pháp tọa cụ?", đáp: "các Bí-sô làm tọa cụ mới, không dùng miếng vải cũ bằng một gang tay của Phật để may chồng lên mà tự thọ dụng. Đây gọi là Tịnh pháp tọa cụ, việc này có được làm không?", tôn giả nói: "không được làm như vậy", lại hỏi: "Như lai chế ngăn không cho làm như vậy ở đâu?", đáp là tại thành Thất-la-phiệt, lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì Lục chúng Bí-sô, lại hỏi phạm tội gì, đáp là tội Ba-dật-đề, tôn giả Danh xưng nói: "đây là việc thứ chín, trái với điều giới... như trên cho đến câu tôn giả không nên bỏ qua việc phi pháp này", tôn giả nghe rồi im lặng hồi lâu rồi nói việc này đã biết. Tôn giả Danh xưng lại hỏi: "Bí-sô có được làm Tịnh pháp vàng bạc vật báu hay không?", tôn giả hỏi lại: "như thế nào là Tịnh pháp vàng bạc vật báu?", đáp: "các Bí-sô tự lau chùi bát cho sạch đẹp rồi sai Cầu tịch mang bát này đi đến từng nhà nói với mọi người rằng: "những người đang sống trong thành Quảng nghiêm và các thương khách từ bốn phương đến đây nếu bố thí vàng bạc hay bối xỉ (tiền bạc) vào trong bát này thì sẽ được lợi ích lớn, giàu có và an lạc", sau khi được nhiều vàng bạc vật báu, họ cùng phân chia. Đây gọi là Tịnh pháp vàng bạc vật báu, việc này có được làm không?", tôn giả nói: "không được làm như vậy", lại hỏi: "Như lai chế ngăn không cho làm như vậy ở đâu?", đáp là tại thành Tỳ da ly, lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì Lục chúng Bí-sô, lại hỏi phạm tội gì, đáp là tội Xả đọa. Tôn giả Danh xưng nói: "đây là việc thứ mười, ở trong các kinh như kinh Bảo đảnh, phẩm Phật ngữ trong kinh Tương ưng A Cấp ma, phẩm Giới uẩn trong kinh Trường A Cấp ma, kinh Yết-sỉ-na ở phẩm Tương ưng trong kinh Trung A Cấp ma, trong phẩm bốn và năm của kinh Tăng nhất A Cấp ma thì mười việc này đều trái với lời Phật dạy", tôn giả Lạc dục nói: "nếu vậy thầy nên đến nơi khác tìm đồng bạn tốt, ta sẽ làm bạn pháp với các thầy", tôn giả Danh xưng nghe rồi liền nhập định biên tế thứ tư, sau đó đến các nơi tìm bạn pháp trợ giúp. Tại tụ lạc An trú có Bí-sô tên Xa sá cũng là đệ tử của tôn giả A-nan, đã chứng A-la-hán, đủ tám giải thoát; tôn giả Danh xưng đến gặp đảnh lễ rồi bạch rằng: "tôn giả, Bí-sô có được làm Tịnh pháp lớn tiếng nói chấp thuận không?", tôn giả Xa sá hỏi lại: "như thế nào là Tịnh pháp lớn tiếng nói chấp thuận?", hỏi và đáp giống như trên cho đến hết việc thứ mười, tôn giả Xa sá nói: "nếu vậy hiền giả hãy đến nơi khác tìm đồng bạn tốt, ta sẽ làm bạn pháp với các vị". Tôn giả Danh xưng từ giã rồi đi đến thành Tăng yết thế gặp tôn giả Bà sai cũng là đệ tử của tôn giả A-nan, đã chứng A-lahán, đủ tám giải thoát, hỏi và đáp cũng như trên cho đến việc thứ mười. Tôn giả Danh xưng từ giã rồi đi đến thành Ba thát ly tử gặp tôn giả Khúc an, nhưng vị này đang nhập Diệt tận định nên tôn giả đến chỗ tôn giả Thiên ý, hỏi và đáp cũng như trước cho đến việc thứ mười. Sau đó đến thành Lưu chuyển gặp tôn giả Nan thắng, rồi đến thành Đại huệ gặp tôn giả Thiện kiến, rồi đi đến thành Câu sanh gặp tôn giả Diệu tinh đều hỏi và đáp giống như trên cho đến việc thứ mười. Lúc đó tôn giả Diệu tinh suy nghĩ: "trước khi đến gặp ta, cụ thọ này có đến các nơi khác không", liền quán biết đã đến các nơi khác nên nói với Danh xưng: "cụ thọ đi đường xa đã mỏi mệt, hãy tạm nghỉ lại đây, tôi sẽ đi tìm thêm đồng bạn tốt cho", Danh xưng ở lại và Diệu tinh lên đường.

Lúc đó các Bí-sô tại thành Quảng nghiêm đến gặp các đệ tử của tôn giả Danh xưng hỏi: "Thân giáo sư của các thầy đâu?", đáp là đi tìm đồng bạn tốt, hỏi tìm để làm gì, đáp là để tẫn xuất các thầy, lại hỏi: "chúng tôi phạm lỗi gì mà tẫn xuất?", các đệ tử của tôn giả liền nói rõ sự việc, các Bí-sô này nghe rồi nói: "Thân giáo sư của các thầy đã làm việc bất thiện, Phật đã nhập Niết-bàn vì sao ở trong giáo pháp để lại, vị ấy lại muốn xúc não chúng tôi, chúng tôi chỉ tùy duyên nuôi sống mà thôi", trong chúng có một Bí-sô nói: "lời vị ấy là chân thật không hư dối, việc mà các cụ thọ làm là sai trái, không thuận với hạnh Thanh văn. Trước đây chúng ta đều nghe nói chánh pháp của Phật sẽ tồn tại ngàn năm, nay chưa đến ngàn năm mà chánh pháp đã ẩn mất rồi. Vị ấy tìm đồng bạn tốt là muốn hộ trì chánh pháp, đây là việc làm tốt, mục đích là để cho kẻ ác không khinh mạn giới và mụt nhọt độc không sanh nữa", các Bí-sô này nghe rồi sợ hãi im lặng đứng một bên rồi nói với nhau: "tôn giả Danh xưng đi tìm đồng bạn tốt để khu tẫn chúng ta, vì sao chúng ta lại im lặng không làm gì?", đáp: "chúng ta phải làm gì đây?", lại nói: "chúng ta cũng nên tìm đồng bạn trợ giúp, làm sao để cho họ khu tẫn chúng ta được", lại đáp: "nếu vậy sẽ phát sanh đấu tranh, chúng ta nên mau bỏ đi nơi khác", lại nói: "đi đâu cũng có lỗi này, nay chúng ta nên cầu họ hoan hỉ", lại đáp: "nhất định họ sẽ không hoan hỉ, chúng ta cứ tạm ở lại đây, trong thời gian này chúng ta nên đem lợi vật như y bát, dây lưng... biếu tặng cho các đệ tử của tôn giả Danh xưng để họ nói giúp các vị ấy hoan hỉ cho chúng ta", các Bí-sô này bàn tính xong liền nhất trí đem y bát và các vật cần dùng đưa biếu cho các đệ tử của tôn giả Danh xưng. Sau đó, khi tôn giả Danh xưng trở về lại trú xứ ở thành Quảng nghiêm, các đệ tử đảnh lễ rồi hỏi: "Thân giáo sư có tìm được đồng bạn tốt không?", đáp: "được, không bao lâu nữa các vị ấy sẽ đến tương trợ", các đệ tử nói: "việc ấy cũng đã qua rồi xin Thân giáo sư nghĩ lại, Phật đã nhập Niết-bàn, giáo pháp cũng đi theo, họ cũng chỉ là tùy duyên nuôi sống, xúc não họ làm chi?", tôn giả nghe rồi liền suy nghĩ: "nghe lời này và xem bộ dạng của các đệ tử, chắc là đã nhận lời yêu cầu của họ", nghĩ rồi liền nói: "nghe qua lời này và xen bộ dạng của các thầy, có phải các thầy đã nhận lời yêu cầu của họ rồi phải không?", các đệ tử im lặng, tôn giả Danh xưng liền sai sứ đến báo tin cho các đồng bạn tốt: "phe ác đã tăng dần, các vị hãy đến mau, đại sự Phật pháp không nên chậm trễ.

Nên nhanh lại chậm, Nên chậm lại nhanh, Việc trái chánh lý, Do kẻ ngu làm, Phải mang tiếng xấu, Do lìa bạn lành, Làm việc suy tổn, Như trăng tối dần.

Nên chậm thì chậm, Nên nhanh thì nhanh, Việc thuận chánh lý, Người trí nên biết, Sẽ được ngợi khen, Thân cận bạn lành, Việc thiện tăng trưởng, Như trăng sáng dần".

Lúc đó tôn giả Danh xưng đánh kiền chùy, có 699 vị A-la-hán đều là đệ tử của tôn giả A-nan đồng thời vân tập, tôn giả Khúc an đang nhập Diệt tận định nên không nghe thấy tiếng kiền chùy, tôn giả Danh xưng thấy các A-la-hán đã vân tập liền suy nghĩ: "nếu ta bạch Tăng bây giờ ắt sẽ phát sanh đấu tranh, ta nên chờ hòa hợp đông đủ rồi hãy bạch", nghĩ rồi ngồi im lặng chờ đợi. Lúc đó tôn giả Khúc an vừa xuất định, chư thiên liền báo: "tôn giả vì sao lại an nhiên như vậy, hiện nay đã có 699 vị A-la-hán đồng học vân tập đến thành Quảng nghiêm, muốn kết tập làm cho chánh pháp được tồn tại lâu dài, tôn giả hãy mau đến đó", tôn giả nghe rồi liền dùng thần thông lực ẩn mất tại thành Ba thát ly tử và hiện thân tại chỗ các A-la-hán vân tập tại thành Quảng nghiêm rồi gõ cửa, các A-lahán bên trong hỏi là ai, tôn giả liền nói kệ đáp:

"Ở tại thành Ba thát ly tử,
Sa môn trì luật, bậc đa văn,
Từ nơi ấy đã đến nơi đây,
Đứng trước cửa với căn thanh tịnh".

Các A-la-hán bên trong nói vọng ra: "ngoài chúng này còn có người với căn thanh tịnh hay sao, xin hãy nói tên ra", tôn giả liền nói kệ đáp:

"Ở tại thành Ba thát ly tử,
Sa môn trì luật, bậc đa văn,
Từ nơi ấy đã đến nơi đây,
Đứng trước cửa đã đoạn các nghi".

Các A-la-hán bên trong nói vọng ra: "ngoài chúng này còn có người đã đoạn nghi hay sao, xin hãy nói tên ra", tôn giả liền nói kệ đáp:

"Ở tại thành Ba thát ly tử,
Sa môn trì luật, bậc đa văn,
Từ nơi ấy đã đến nơi đây,
Đứng trước cửa tên là Khúc an".

Các A-la-hán nghe rồi liền nói lành thay và mở cửa mời vào, khi tôn giả này vào, các A-la-hán này đều đứng dậy nghinh đón đảnh lễ rồi trở về chỗ ngồi của mình. Lúc đó tôn giả Danh xưng đem mười việc phi pháp ra hỏi: "bạch các tôn giả, Bí-sô có được làm Tịnh pháp lớn tiếng nói chấp thuận không?", tôn giả Khúc an hỏi lại: "như thế nào là Tịnh pháp lớn tiếng nói chấp thuận?", đáp: "khi các Bí-sô làm yết ma phi pháp bất hòa, yết ma phi pháp hòa và yết ma pháp bất hòa, đại chúng nghe yết ma xong đều lớn tiếng nói chấp thuận. Đây gọi là Tịnh pháp lớn tiếng nói chấp thuận, việc này có được làm không?", tôn giả nói: "không được làm như vậy", lại hỏi: "Như lai chế ngăn không cho làm như vậy ở đâu?", đáp là tại thành Chiêm ba, lại hỏi vì ai mà chế, đáp là vì Lục chúng Bí-sô, lại hỏi phạm tội gì, đáp là tội Ác tác. Tôn giả Danh xưng nói: "đây là việc thứ nhất... như trên cho đến câu đây là việc thứ mười", sau khi kết tập, tất cả đều nhất trí như thế rồi tôn giả Danh xưng lại đánh kiền chùy, tất cả Bí-sô trong thành Quảng nghiêm đều vân tập đến theo thứ lớp ngồi rồi, tôn giả Danh xưng lại lần lượt nêu ra mười việc phi pháp và hỏi đáp giống như trên. Sau khi bàn luận đúng sai xong, tất cả đều nhất trí mười việc phi pháp này nên bỏ, do lần kết tập này có bảy trăm vị A-la-hán nên được gọi là Thất bách kết tập.

Nhiếp tụng nội dung:

Lớn tiếng và tùy hỉ,
Đào đất, rượu, chứa muối,
Nửa trạm, hai ngón tay,
Sữa lạc, tọa cụ, báu.
Từ thành Quảng nghiêm đến An trú,
Đi khắp thiên hạ đến Yết xa,
Thành Ba thát ly, thành Lưu chuyển,
Đại huệ, Câu sanh cọng bảy thành.
Tôn giả Lạc dục và Danh xưng,
Tôn giả Xa tha bà, Táp bà,
Thiện ý, Khúc an và Nan thắng,
Thiện kiến, Diệu tinh cọng chín vị.


[Đầu trang][Mục lục luật tạng][Mục lục tổng quát]